<經 id="n1970">LONG THƯ TĂNG QUÃNG TỊNH ĐỘ VĂN ( <卷>QUYỂN 1 12 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LONG THƯ TĂNG QUÃNG TỊNH ĐỘ VĂN Quốc học tiến só Vương Nhật Hưu soạn <卷>QUYỂN 1 LỜI TỰA Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín tâm là đầu mối của đạo, là mẹ của công đức, có thể nuôi lớn các thiện căn.” Vì vậy người ta nói: “Kẻ tu Tịnh độ cần phải có tín tâm.” Tịnh độ là thế giới Cực lạc ở phương Tây. Những sự trang nghiêm siêu việt ở thế giới ấy được mô tả tường tận trong kinh A-di-đà. Như Lai A-di-đà là Đức Phật ở thế giới ấy. Lúc chưa thành Phật, Ngài có phát bốn mươi tám nguyện, lời nguyện nào cũng để cứu độ chúng sinh, nên chúng sinh nào muốn sinh về cõi ấy thì chỉ cần xưng danh hiệu Phật A-di-đà một lần là được toại nguyện. Người đời sau dạy kẻ sắp qua đời xưng niệm mười tiếng, gọi là thập niệm. Làm như thế có lợi ích gì không? Dó nhiên là có! Bởi lẽ, những người ngày thường không làm những điều ác, tu tập những điều lành; niệm niệm đều nghó nhớ đến Tây phương, đều mong thấy Phật A-di-đà, đến lúc lâm chung vẫn không quên thì sẽ được vãng sinh về Thượng phẩm và không đọa lại nơi cõi đời ác uế trược nữa. Chỉ vì bọn Xiển-đề đã không tin Tịnh độ, lại bị ác nghiệp làm đui mù; chúng đã không tu tập lại còn ngăn cản kẻ khác. Những bọn ấy sẽ bị sa vào địa ngục nhanh như tên bắn. Thật đáng xót xa thay! Như những người ở vùng biên viễn, cách cư xử và ăn mặc của họ như loài cầm thú, thì không thể biết được sự phú quý xa hoa ở kinh thành. Một sớm, nếu có người nói với họ về tình hình ấy thì họ đều cho là bịa đặt. Nếu trong số họ dù chỉ có một người nghe và tin, đồng thời luôn nghó nhớ, ưa thích chốn đô thành và vô cùng chán ghét nơi mình đang ở, những mong được chết đi để sinh vào chốn phồn hoa đô hội ấy. Lẽ nào những kẻ sinh vào kinh thành ngày hôm nay lại không có những người trong số họ? Và lẽ nào lại không có những vùng biên viễn trên trái đất này? Đã có châu Nam Thiệm-bộ này tất nhiên phải có Tịnh độ. Vậy, bỏ đây để sinh nơi khác là lẽ thường, tại sao lại không tin? Chư Phật không bao giờ nói lời giả dối và phỉnh gạt chúng sinh. Những bậc Tiên hiền, Đạt só cho đến chư vị Tông sư ở cửa Thiền phần nhiều đều tu Tịnh độ. Song, chỉ có Vương cư só là tin sâu và chuyên tâm tu tập mà thôi. Vả lại, do chánh niệm hiện tiền, phúc lâm chung được minh bạch, nên việc sinh về Tịnh độ của cư só thật đáng tin. Ông thực hành việc tự lợi lợi tha và trước tác Tịnh độ Văn gồm mười ba quyển. Trong tác phẩm ấy, ông trích dẫn kinh sách của ba giáo thuyết là Phật, Nho và Lão làm bằng chứng. Sự hoằng hóa và khai đạo cho người sau của ông có thể nói là “Một niệm mà gồm cả ngàn năm”. Trải bao năm tháng, tác phẩm ấy bị lu mờ nên không thể đọc được. Cháu tôi là Tốn Trai Lữ Nguyên Ích, hiệu là Khang Lư ẩn khách, là con trai tiên huynh tôi. Do đã từng gieo trồng thiện căn nên nay cháu sinh vào gia đình tôi. Sự sửa mình lập thân của cháu đều do Đạo, luôn có lòng yêu kẻ cơ hàn, bệnh tật. Những kinh sách của Lão và Phật đều in ấn để cúng dường và làm công ích. Việc tu tập Tịnh độ thì tự cháu biết lấy. Quả thật tôi vô cùng sung sướng khi thấy có người như cháu mình đang chùi rửa cái chén rượu xưa trong thau chén, bát, đóa… Vì vậy, tôi gọi cháu là thiện nhân, quân tử. Tôi phát tâm khắc lại bản gỗ vì muốn tác phẩm của Vương cư só được phổ biến lâu dài, và mong tất cả mọi người đều quy hướng cõi Cực lạc. Lúc khắc đến bản thứ chín, thứ mười của quyển thứ tư, thì bút sắc bỗng dừng và có ba viên xá-lợi hiện ra trong lằn gỗ. Màu sắc của xá-lợi rực rỡ khiến ai cũng kinh ngạc! Sở dó có hiện tượng ấy là do sự hiện Bi Trí của Phật A-di-đà, nguyện lực của cư só Long Thư và tín tâm kiên cố của cháu tôi. Chúng ta có thể nói Phật pháp không linh nghiệm và Tây phương không có chăng? Bản cũ đã khắc lại, duyên lành đã đủ, nên ngưỡng nguyện chư nhân giả không nên nhầm lẫn hai mặt Bối và Hướng của bản giấy. Tuy là bản tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ, nhưng đã là người thì phải có lòng tự trọng! Ôi! Dẫu kiến thức của bậc trí khác với người nhân, nhưng hạng người trung bình trở lên là đã nói được. Viết vào năm thứ ba niên hiệu Diên Hựu. Ngày trung thu năm Bính Thìn, Tín só đồng tu Tịnh độ ở các nơi luôn làm như Đại phu, Tài phú đô, Tổng phủ, phó tổng quản, Cổ Thọ, Lữ sư v.v…, cùng làm sách tại Tín đường Ngụ xá ở Tầm dương. ------------------------------- <詞>LỜI TỰA VỀ TỊNH ĐỘ VĂN Phật A-di-đà thường đem nguyện lực lớn để nhiếp thọ quần sinh, nên hành giả tu tập thì dễ mà chứng quả lại rất nhanh. Có người nghi ngờ hai vấn đề đó, nên tôi thường nói với họ rằng: “Phật A-di-đà là tánh của ông. Cõi Cực lạc là tâm của ông. Vì chúng sinh bỏ tánh giác hợp với trần lao, bị trôi chìm trong bảy nẻo, nên mới cách xa ngút ngàn với Phật. Vì lý do đó mà Đức Phật mới dùng lòng từ bi hiện ra vô số Tam-muội như huyễn để khai thị và làm cho chúng sinh được ngộ nhập, tạo đủ loại hoa quý để trang nghiêm cõi nước của mình, rồi lại dùng trí biện tài thuyết pháp khiến chúng sinh hoan hỷ, yêu thích. Nếu trong mỗi ngày chúng ta phát khởi được một niệm, nghó nhớ đến Phật A-di- đà, muốn sinh về Cực lạc thì tâm niệm ấy là tâm niệm thanh tịnh kiên cố, quay lại với bản tánh vốn có, không khác với Phật. Vì vậy, ngay lúc đang niệm, dẫu hành giả không rời chỗ ngồi mà Phật A-di-đà và cõi Cực lạc vẫn hiển hiện. Tu tập như thế đến lúc thuần thục thì dẫu thân này tan rã nhưng bản tánh ấy vẫn không hư hoại. Sen vàng, đài hoa… đều sinh ra từ chủng tánh. Chúng sinh vãng sinh trong bản tánh ấy, như trở về túp lều của mình; chư Phật và Bồ-tát là quyến thuộc của ta, bởi cùng Thể tánh nên đều là thân hữu”. Bạn tôi là Long Thư Vương Hư Trung. Bản tánh ông thanh cao điềm đạm, bác thông kinh sử, lại có viết để dạy và truyền về Lục Kinh. Một hôm, Vương bỏ hết và nói rằng: “Chúng đều là thế pháp chứ không phải là chân lý. Tôi nay chỉ lấy cõi Cực lạc Tây phương làm nơi nương tựa cuối cùng”. Từ đó, ông chuyên cần niệm Phật. Năm sáu mươi tuổi, ông mặc áo vải, ăn chay và đem Tịnh độ đi khắp mọi nơi để giáo hóa mọi người; dẫu gió mưa nóng lạnh gì vẫn không sờn lòng nhụt chí. Ngày thường, ông lễ Phật một ngàn lạy, đến khuya mới ngủ, Thần thái rất rạng rỡ ai nhìn cũng tin là người có tu hành. Niên hiệu Thiệu Hưng, vào mùa thu năm Tân Tî khi tôi đến nhà ông ở Tuyên thành và lưu lại đó hai tháng mới đọc được bản Tịnh độ Văn này. Trong tác phẩm ấy có đủ những chương pháp môn tu tập, cảm nghiệm v.v… Vì ông sắp nhờ tín hữu khắc bản để truyền bá, nên nhờ tôi viết lời tựa. Tôi viết đầu tác phẩm ấy rằng Hư Trung tên Nhật Hưu. Sáng tháng mười Trạng nguyên Lịch dương - Trương Hiếu Tường viết lời tựa. --------------------------------- <詞>LỜI TỰA VỀ TỊNH ĐỘ VĂN CỦA LONG THƠ Tịnh độ là con đường nhanh tắt vượt thoát luân hồi. Cư só Long Thơ đã viết thành sách và lưu hành rộng rãi để khuyến khích mọi người thực hành thì ắt sẽ được vãng sinh. Duy tâm của ông thâït chân thành và sâu xa. Muốn xem đọc thì cần phải hiểu rõ ý vị lời lẽ và suy nghó kỹ về nghóa của sách. Nếu chỉ xem qua loa thì chỉ uổng công, đắm đuối theo việc khác. Hoặc hơi cảm thấy lười nhác, chỉ xem chốc lát rồi sau xem tiếp thì chẳng còn chút ý niệm gì trong long, ý nghóa sách không còn liền lạc, không phát khởi được niềm tin, thì lời văn trở thành vô dụng. Mong mọi người chớ bỏ xó bản này ở nơi lầu cao, mật thất v.v… mà cô phụ tấm lòng Cư só Long Thơ, mà kẻ hèn này siêng năng khắc bản cũng không uổng công. (Lữ Nguyên Ích ghi). --------------------------------------- <詞>LỜI TỰA TỊNH ĐỘ VĂN ĐƯỢC TÁI BẢN Giáo pháp do Đức Phật nói ra vốn không giống nhau: một điều đối xứng, hiển mật, thiên, viên, ba thừa năm hành, tùy mình tùy người, đủ thứ sai biệt; trong những công phu để tu tiến thì niệm Phật đứng đầu. Kẻ phàm phu còn đầy lậu hoặc tu tam quan thì trí hiển bày bản tánh là Phật. Tổ Pháp Trí nói: Tâm cảnh đều không thì nhiễm ô đều trở thành thanh tịnh. Không bị duyên sinh ngăn ngại thì tưởng thành tướng khởi. Vì duy sắc duy tâm nên ngay đây thấy rõ chánh quyết của Tam-muội quán Phật, kẻ có mắt đều có thể thấy. Tất cả những việc tán tụng, lễ bái, trì giới đều là chánh nhân của Tịnh nghiệp, hạnh trợ phụ của chánh quán. Tuy đài sen có vàng, có bạc, phẩm có cao thấp, nhưng địa vị Vô sinh pháp nhẫn và Bất thoái chuyển thì chỉ có một. Bản Tịnh độ văn và phần phụ lục của Long Thơ, Vương Hưng Trung đời Tống tổng cộng có mười ba quyển, năm Gia Hòa, tăng Cẩn Điểm (?) hiệu đính lại thành mười hai quyển. Lậu Trạch tăng tụng niệm và in ấn, lưu hành. Suốt ngày niệm tâm, suốt ngày niệm Phật, bên trong có tâm thì đầy đủ cả tam thiên. Tâm tưởng cảnh ấy, lại hiểu rõ tâm này, niệm tâm là Phật, toàn Phật là tâm. Về sau đức Bát-nhã hiển bày, đức giải thoát sáng rỡ, đức pháp thân trọn vẹn, pháp giới viên dung, thể bất tư nghì tức là luận này chứ không phải công của vua Vũ (?) Năm Tân Sửu niên hiệu Thành Hóa thứ mười bảy, ngày Phật thành đạo. Ngân huyện, Giang nam, Khê Thu Nguyệt viết tựa. Thừa tướng Chu Ích Công có bài tán rằng: “Rạng rỡ mà không cầu, Kính cẩn mà không lo âu, Thương đời sắp đọa, Quy tụ nhiều người để cùng tu. Dẫn dắt người thì lấy nhân nghóa làm đầu, Giáo hóa người thì lấy tịch diệt làm vui, Mọi người chỉ thấy ông tạo tác, Mà nào hay: Ông vẫn vô vi. Bởi vậy, Trung đạo vốn bao la bát ngát, Khai thị cho người thì đem Chân giác mà bày.” Bài tán của Tấn Hiên Lý cư só: “Tâm thì không thiếu mảy trần, Ứng tích lại xen cùng tục, Bàng cư só tu hành không nhà cao cửa lớn, Hà Tử Quý tinh tấn bỏ luôn mùi cá thịt. Thiền tông lập ngôn thấu suốt những nghi ngờ, Sùng phạm hạnh của Liên Trì, Cùng Thần cơ của Phật, Tổ. Gương mặt rắn rỏi, Áo quần đơn sơ, Trạm nhiên nhất tánh chừ, Tây phương là nơi chốn quay về”. ---------------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 1 (PHÁT KHỞI TÍN TÂM VỚI TỊNH ĐỘ) Giáo thuyết Tịnh độ đa phần được thấy ở sự dụng công trong ngày thường, công còn lại của nó được thấy ở thân sau. Song, những người không biết lại cho nó chỉ thuần là việc của thân sau. Họ hoàn toàn không biết sự lợi ích của Tịnh độ đối với lúc còn sống. Vì sao? Vì những điều Phật dạy con người không ngoài việc thiện, và nó cùng với những điều dạy người của Nho giáo không khác nhau, khác chăng là ở danh từ. Bởi thế, những người lấy Tịnh độ làm tâm thì chắc chắn được thấy ở sự dụng công hàng ngày. Nghóa là, tất cả sự nghó nhớ của ý, lời nói của miệng, và hành động của thân đều thiện. Thiện là quân tử, là đại hiền. Hiện tại họ được mọi người kính trọng, Thần linh phù hộ, phước lộc dồi dào, mạng sống lâu dài. Do vậy, tôi nói rằng những ai tin lời Phật, lấy Tịnh độ làm tâm, thì kẻ nào có thể cho rằng không lợi ích khi còn sống? Kế đến, có kẻ bị nghiệp duyên chi phối nên không thể chuyên tâm với Tịnh độ, nhưng chỉ có chí hướng thôi thì ác duyên có thể bớt dần; thiện duyên cũng từ đó mà nhân lên. Do ác duyên giảm mãi, nên cuối cùng điều ác dứt sạch; do thiện duyên tăng mãi nên cuối cùng điều thiện được tinh thuần. Một khi điều ác đã hết, điều thiện đã thuần, thì nếu không gọi họ là quân tử, là đại hiền thì phải gọi họ là gì? Vì thế, tôi nói rằng kẻ nào theo lời Phật lấy Tịnh độ làm tâm thì không ai có thể nói là không ích lợi lúc sinh tiền. Lại nữa, ngay đến kẻ không biết lễ nghóa, không sợ hình phạt, chỉ chuộng sức mạnh của khí lực và thân thế nhưng nếu biết lấy Tịnh độ làm tâm thì cũng biết xét mình và tự thẹn. Đó gọi là, tuy họ không có thể phù hợp với lễ nghóa, nhưng cuối cùng cũng gần với lễ nghóa; tuy không thể thoát khỏi mọi hình phạt, nhưng cũng xa dần được chúng. Dần dần họ sẽ thoát được thân phận tiểu nhân để cuối cùng có được tác phong quân tử. Ngay những người tầm thường dầu chỉ biết sơ sài về Phật lý, thì người đời cũng đã gọi họ là thiện nhân. Đó không phải là hiệu quả hiện thời ư? Bởi vậy, tôi nói rằng những kẻ vâng lời Phật, lấy Tịnh độ làm tâm, thì ai có thể bảo là vô ích lúc còn sống? Có người hỏi: Cứ theo lời Khổng Tử lấy Nho giáo làm tâm thì cũng có lợi ích lúc còn sống, cần gì phải tu tập Tịnh độ? Đáp: Nho giáo là pháp thế gian chứ không phải là chân lý. Đã là thế gian thì không thể ra khỏi luân hồi. Pháp xuất thế gian thì vượt khỏi luân hồi. Tịnh độ là pháp lúc sinh tiền, lại có lợi ích đối với thân sau. Bởi vì, nó là pháp có lợi ích ở thế gian và cả xuất thế gian. <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 2 Giáo Lý Tịnh độ có Lý và tích. Luận về lý thì thấy ở công dụng hằng ngày và không khi nào hành giả rời khỏi nó. Đó là những gì tôi đã nói ở thiên trước. Bàn về Tích thì nó được thấy trong khoảng thời gian của buổi trà sớm mà chẳng câu nệ vào cả ngày, đó là pháp Mười niệm. Bởi rằng, pháp môn tu trì gồm có chín phẩm, nên ai cũng có thể thực hành. Tuy kẻ ác nhưng Phật vẫn không từ bỏ, chỉ cần hồi tâm hướng thiện là thành người thiện rồi. Bởi thế, pháp môn mười niệm này mọi người đều có thể tu trì. Như căn phòng tối tăm từ lâu, nhưng lúc có ngọn đèn thì nó được sáng lên. Cho nên, dẫu là kẻ giết bò mổ trâu nếu buông dao thì có thể tu tập. Bởi việc tu tập ấy không khó và cũng không trở ngại những việc đời, nên kẻ làm quan không bê trễ đối với chức nghiệp, kẻ só không bê trễ đối với việc cày cấy, người ở công đường không sơ sót đối với việc thờ bề trên, nó cũng không ngăn vướng đối với việc tham thiền của Tăng só. Nói chung, pháp môn này không ngăn vướng đối với mọi công việc. Vì vậy, tôi nói rằng pháp Mười niệm có thể làm tư lương trải qua trăm ngàn kiếp mà vẫn không hư hoại. Nay có người đổi một tiền vàng được lời hai tiền, liền vui mừng cho là lãi nhiều; kẻ trong một ngày đi được một quãng đường của hai ngày thì cũng hớn hở vì cho rằng mình đi được nhiều. Vậy là, đối với vật ngoài thân, dầu chỉ được chút ít nhưng lại biết vui mừng. Giả sử họ đổi hai tiền mà chỉ thu được một, đi hai ngày mà chỉ bằng lộ trình của một ngày, thì lập tức họ sẽ buồn khổ vì cho rằng mình bị lỗ và phí. Vậy là, đối với vật ngoài thân dầu chỉ mất chút ít mà lại biết buồn bực. Thế tại sao đời ta cứ trôi nổi một cách vô bổ trong lúc thời gian có hạn, sự tổn thất lớn lao ấy ta lại không biết buồn đau? Đối với nhân duyên của Tịnh độ, may mắn lắm ta mới được biết, cái được ấy rất to tát, tại sao ta không sung sướng? Than ôi! Những kẻ thấy được chút ít, mất chút ít mà biết buồn khổ; đến như được nhiều, mất nhiều thì lại hoàn toàn vô cảm! Huống gì thời gian dụng sức của pháp này tuy ít nhưng kết quả lại vô cùng nhiều, tại sao mọi người không chịu tu tập? Quả thật, nếu đời này mà không tu hành thì that đáng xót xa! ----------------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 3 Kẻ vừa nghe nói về cảnh Tịnh độ đa phần không tin, điều ấy chẳng có gì lạ! Bởi vì ngay cả những sự vật trước mắt mà họ còn bảo là không thấy thay, huống gì cảnh giới Cực lạc? Như có kẻ ở nơi chật chội, dơ bẩn thì làm sao biết được chỗ sạch sẽ, thoáng đãng? Kẻ ăn rau cỏ trong chén bát nhỏ làm sao biết có phòng ăn rộng lớn? Kẻ nuôi một vài con vật trong cái chuồng xấu nhỏ thì làm sao biết có chỗ khoảng khoát của thiên phủ? Vì vậy, chúng sinh ở cõi Ta-bà đầy dẫy ác trược, tất nhiên không thể tin có cõi Phật thanh tịnh; người sinh ra từ bào thai tất không biết ở Cực lạc có sự hóa sinh nơi hoa sen; kẻ sống không đến trăm tuổi nào hay có thọ mạng vô hạn; kẻ phải làm nhà, may áo tất không biết có áo mặc, thức ăn tự nhiên; kẻ có niềm vui trộn với nỗi buồn tất không biết được trạng thái an lạc thuần túy. Bởi thế, chúng ta không nên lấy sự không thấy trước mắt để không tin những lời của Phật. Đức Phật đã đem giới vọng ngữ để răn dạy thì tất nhiên Ngài không nói lời giả dối để phỉnh gạt mọi người. Người đời dùng vọng ngữ nếu không vì điều lợi thì cũng là để tránh điều hại. Đức Phật không mong cầu chuyện thế gian, thì làm gì có việc vì điều lợi? Ngài xem sự sống chết như dao chém hư không, thì làm gì có chuyện tránh điều hại? Vì thế nên Đức Phật không bao giờ dùng đến vọng ngữ. Bậc trung nhân trở lên còn không nói dối để làm tổn thất đạo hạnh của mình huống gì Đức Phật. Vì vậy lời nói của Phật là đáng tin vô cùng. Tiên hiền nói: “Lời Phật mà không tin thì còn lời nào đáng để tin?” Thuở xưa, có kẻ vu khống một vị trung Thần là gian đảng rồi khắc tên ông vào bia đá, nhưng bia ấy bị thiên lôi đánh vỡ. Nay chư vị vua, quan, Cổ đức dùng lụa vàng quý chạm trổ, vẽ họa luân tàng để cất giữ lời của Phật, dùng hương hoa để cúng dường, nghiêm sức có Long Thần. Nếu những lời ấy là hư vọng dữ hơn tấm bia gian đảng kia, tại sao trải hơn một ngàn năm mà thiên lôi không đánh? Bởi vì lời của Phật là chân thật. Lời thành thật mà không tin thì còn trông đợi lời nào? Vì vậy không thể hoài nghi giáo thuyết Tịnh độ được! Huống gì sự cảm ứng của những người tu pháp môn này lại rất nhiều nên chúng ta không thể nghi ngờ. ---------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 4 Các Nho só thường vì những môn đồ không giới hạnh của Phật mà khinh rẻ giáo lý rồi không tin luôn Tịnh độ. Thái độ ấy quả thật rất sai lầm! Lẽ nào vì sự chểnh mảng của Đạo só mà khinh thị Lão Tử? Lẽ nào vì sự buông tuồng của Nho só mà xem nhẹ Khổng Tử? Bậc trí còn không vì người mà bỏ lời, huống gì có thể vì môn đồ mà bài báng giáo lý của họ. Giáo lý của Phật có pháp Thế gian và xuất thế gian. Điểm tương đồng giữa pháp thế gian của Phật và Nho thì không thể nêu hết được. Ở đây, tôi chỉ trích dẫn những điểm chính mà thôi. Sở dó Đức Phật dạy người cũng không ngoài việc ngăn ngừa điều ác và khuyên làm điều thiện, lẽ nào Nho giáo lại không khuyên thiện răn ác ư? Tôi xin đem chuyện trước mắt mà nói: Đức Phật lấy sát sinh, trộm cắp, tà dâm làm ba nghiệp của thân. Khổng Tử nói: “Thắng tàn khử sát”. Kinh thi nói: “Đức của Văn Vương lan tỏa đến tậm chim, thú và côn trùng”. Đó là giới sát. Khổng Tử nói: “Ta chưa từng thấy người nào quý đức như mê sắc”. Kinh Thi nói: Ghét kẻ mê dâm sắc đẹp mà không quý chuộng đức hạnh. Đó là giới dâm. Đức Phật lấy vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu làm bốn nghiệp của miệng. Khổng Tử nói: “Làm người mà không có chữ tín thì ta không biết họ sẽ làm được gì.” Đó là vọng ngữ. Khổng Tử nói: “Những kẻ nói lời văn hoa tỉa tót, mặt mày hồ hởi thì lòng nhân rất kém.” Đó là giới ỷ ngữ. Lại nói: Người không tỏ ra mặt nhưng sau lại nói là giới lưỡng thiệt. Ác ngữ là âm thanh của lời nói dữ dằn, phẫn nộ, nhưng ác ngữ chưa phải là uế ngữ. Tuân Tử nói: “Lời nói làm tổn thương lòng người hơn cả gươm giáo”. Đó là lời răn đe kẻ có cái miệng độc ác và hung hãn. Đức Phật lại lấy tham, sân, si làm ba nghiệp của ý. Khổng Tử nói: “Lúc thấy của tiền thì phải suy nghó đến điều nghóa.” Đó là giới tham. Khổng Tử nói: “Bá Di, Thúc Tề không nhớ những việc ác ngày trước.” Đó là giới sân. Khổng Tử nói: “Khốn khổ mà không học tập thì đó là hạng thấp hèn.” Đó là giới si. Căn cứ vào những lời trích dẫn đó, tôi nói rằng giáo lý của Phật và Nho chưa từng có sự sai khác. Điểm khác nhau là Nho giáo dừng ở thế gian trong lúc Phật giáo lại có pháp xuất thế gian. Vì Nho giáo dừng ở pháp thế gian nên chỉ luận bàn trong phạm vi một đời rồi quy nạp về Trời. Phật có pháp xuất thế gian nên biết đời đời nối nhau và thấy được gốc ngọn nghiệp duyên của chúng sinh. Muốn biết sở trường của nhà Phật thì cần phải đọc kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già, Viên Giác, kinh Vô Cái Chướng Bồ-tát Sở Vấn và hiểu được nội dung của kinh Kim Cương. Nếu ai chưa đọc mà vội bài bác thì đó là người mà Khổng Tử gọi là “Không biết nhưng vẫn làm càn.” Lẽ nào quý vị không cẩn thận tự răn đe mình? Nếu đúng như vậy thì Phật giáo là rất đáng tin cậy, vậy tại sao các vị không tin giáo lý Tịnh độ? Vì thế mà có người nói: “Tịnh độ là con đường quan yếu trong pháp xuất thế gian.” Chúng ta nên nỗ lực tu trì. --------------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 5 Có những vị tham thiền nói: “Đã duy tâm Tịnh độ sao lại có thêm Tịnh độ? Đã tự tánh Di-đà thì cần gì phải thấy Phật Di-đà?” Lời nói ấy như rất hợp lý nhưng hoàn toàn sai trái! Vì sao? Vì Tịnh độ Tây phương có đủ Lý và tích. Luận về Lý thì có khả năng làm cho tâm thanh tịnh nên tất cả đều thanh tịnh. Đó mới thật sự là duy tâm Tịnh độ. Luận về tích thì quả that có thế giới Cực lạc Đức Phật đã căn dặn cũng như đã thuyết minh tường tận về vấn đề ấy. Nói rằng, ai cũng thành Phật nghóa là nói tuy tự tánh Di-đà là chân thật nhưng chúng ta chưa đạt đến mức độ ấy. Như khúc gỗ tốt có thể khắc chạm thành pho tượng Phật; muốn pho tượng đó đạt đến vẻ tinh vi thì phải thêm công đẽo gọt chứ không thể nói khúc gỗ tốt là tượng Phật đẹp được. Cho nên những kẻ nói “Duy tâm Tịnh độ thì không cần có cõi Tịnh độ; đã có tự tánh Di-đà thì không cần thấy Phật Di-đà, là hoàn toàn lầm lạc!”. Lại có người tuy tin Tịnh độ, nhưng lại bị vướng vào giáo lý Duy tâm hời hợt cho nên nói rằng không cần sinh Tây phương! Lại nói rằng tham thiền để ngộ bản tánh, để vượt cả Phật và Tổ, cần gì phải thấy Phật! Cả hai loại nhận thức trên đều điên đảo cả! Vì sao? Vì những lời ấy quá cao siêu nhưng không dễ gì đạt được! Cõi Tịnh độ Tây phương không có tham, sân và si, nhưng thử hỏi lòng ta không có tham, sân và si chăng? Chúng sinh ở Cực lạc nghó đến áo là có áo, nghó đến ăn là có thức ăn, nghó đến sự an tónh liền được an tónh, muốn đi là đi được ngay. Trái lại, chúng ta nghó đến áo nhưng không có áo nên cái lạnh làm tâm tư rét buốt; nghó đến ăn nhưng thức ăn không có nên cái đói dày vò bụng dạ; muốn an tónh nhưng không được an tónh được nên bị sự loạn náo rỉa rói Thần kinh; muốn đi nhưng không đi được nên bị dây hệ lụy dằn xé tâm tưởng. Như thế, nói Duy tâm Tịnh độ thì quả là những lời sáo rỗng! Lại nữa, phước đức của Phật A-di-đà nặng như non biển; sức mạnh của Ngài nâng được cả Trời đất và biến địa ngục thành hoa sen như trở bàn tay. Ngài nhìn thấy thế giới nhiều vô số như nhìn vật trước mắt. Còn chúng ta? Phước lực không đủ để tự cứu mình, luôn sợ túc nghiệp sâu dày kéo đầu xuống địa ngục thì nói gì đến chuyện biến địa ngục thành hoa sen! Sự việc chỉ cách bức tường ta còn mù mịt thì nói gì đến chuyện nhìn thấy vô số thế giới! Như vậy, nói rằng “Tự tánh Di- đà” chỉ là những lời mộng mị! Thật ra tuy tâm của ta có thể tạo ra cảnh Tịnh độ nhưng vẫn chưa tạo ra được; tuy tánh của ta là Di-đà song vẫn chưa làm được Phật Di-đà. Vậy tại sao chúng ta lại không muốn sinh về Tịnh độ, không muốn thấy Phật Di-đà? Nếu chúng ta khao khát về Tây phương, ao ước thấy Phật thì rất dễ chứng đạo. Còn nếu chúng ta cứ ở cõi Ta-bà này để tham thiền, để ngộ tánh, để vượt cả Phật và Tổ thì khó khăn vô hạn! Huống gì việc tu Tịnh độ vốn không làm cản trở chuyện tu thiền, sao thiền giả lại xem thường và không tu Tịnh độ? Kinh Di-đà Đại Bản nói: “Có vô lượng Bồ-tát ở khắp mười phương vãng sinh quốc độ của Đức Phật A-di-đà.” Than ôi! Những vị Bồ-tát còn muốn sinh Cực lạc, vậy chúng ta là hạng loại nào mà lại chối từ? Tất nhiên, quả vị của chúng ta còn cách xa với chư vị Bồ-tát vô cùng. Vì vậy, những kẻ nói “Duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di-đà” nghe thì rất hay, rất êm tai, nhưng không có nền móng; rất ư là cao siêu nhưng quá đỗi mộng du! Chính những kẻ tu tập chưa đến nơi đến chốn đó làm cho không biết bao nhiêu người lạc lối, chùn chân! Nói đúng ra, họ không bằng người chuyên tâm trì tụng Phật hiệu, được sinh về Tịnh độ và nhanh chóng ra khỏi luân hồi! Nếu đem những vị thiền khách ấy mà so với những người này thì sự cách nhau quả là một Trời một vực! ---------------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 6 Phật nhãn nhìn thấy được những sự việc trong vô lượng kiếp, nên từ xưa đến nay không có điều gì mà Đức Phật không biết. Lại nữa, Đức Phật đã đem giới vọng ngữ để răn dạy người thì tất nhiên Ngài không thể nói dối để phỉnh gạt người. Lại nữa, Đức Phật đã nghiêm cấm con người về bản ngã, lẽ đương nhiên Ngài không thể đem bản ngã mà khoe khoang với mọi người! Vì vậy, lời của Phật là vô cùng đáng tin và là mô phạm cho tất cả chúng sinh. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Có mười loại Tiên, sống ngàn vạn tuổi. Số hết thì lại vào nẻo luân hồi. Bởi họ chưa từng chứng đắc chân tánh, cùng với chúng sinh trong sáu nẻo đường gọi chung là thất thú (bảy chỗ hướng đến)”. Đều là những kẻ trong vòng luân hồi có đến ngàn vạn người tu tiên nhưng không một ai đắc đạo. Nhưng, nếu có đắc đạo chăng nữa thì vẫn không thoát khỏi luân hồi, và bị mắc kẹt nơi hình Thần nên không thể nào rứt ra được! Vả lại, hình Thần là vọng tưởng hiện ra từ chân tánh nên không chân thật. Nên thơ của Hàn Sơn Thiền sư nói: “Dẫu ông tu được thành Tiên, Cầm bằng ôm phải thân tàn quỷ thôi. Không như nhà Phật thỏng tay Tựa như sinh tử chẳng lay động lòng.” Khoảng một trăm năm trở lại đây, kẻ đắc tiên thuật chỉ có Chung Ly và Lữ Động Tân, nhưng số người theo học với hai vị ấy thì nhiều vô số. Những người mà tôi biết không phải là ít, rốt cuộc họ đều chết và đều vùi thân dưới ba thước đất! Thật là uổng phí biết bao nhiêu công sức lúc còn sống. Muốn được sống lâu thì không có con đường nào hơn Tịnh độ; bởi lẽ mạng sống của người sinh về đó là vô cùng, nên Tịnh độ là nơi có cuộc sống vónh hằng nhất. Người không tu Tịnh độ mà học Tiên thuật tức là bỏ ngọc quý mà đi tìm loại chưa chắc đã có là vũ phu. Nếu không gán cho họ hai chữ u mê thì phải phong bằng từ gì nữa? Có kẻ nói: “Tịnh độ là việc sau khi đã nhắm mắt xuôi tay, nào có gì làm bằng chứng?” Đáp: Trong truyện về Tịnh độ có chép rất nhiều và đầy đủ về sự cảm ứng. Đó là những bằng chứng xác thực. Huống gì kẻ tu tiên nếu có sở đắc đi nữa thì lại rất bí mật và không công truyền, vì họ cho rằng tiết lộ thiên cơ là có tội! Trái lại, đối với pháp của Phật, chỉ sợ không truyền bá được rộng khắp để cứu độ tất cả chúng sinh mà thôi. Vì vậy, chúng ta không thể so sánh tấm lòng từ bi vô thượng với tâm địa hẹp hòi của Thần tiên được! <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 7 Có người vì không tin nhân quả nên không tin luôn Tịnh độ. Tại sao họ lại không tin nhân quả? Kinh nói: “Muốn biết nhân đời trước, xem thọ nhận đời này. Muốn biết quả đời sau, xem hành vi hiện tại.” Những người không tin lời giáo huấn trên, sao không đem chuyện trước mắt mà chiêm nghiệm? Ở đời, có kẻ giàu người nghèo, có kẻ sang người hèn, có kẻ khổ người vui, có kẻ lam lũ người nhàn nhã, có kẻ sống lâu người chết yểu, có kẻ vinh người nhục, và vô số phước họa khác nhau. Nếu ta cho đó là mệnh Trời, thì lẽ nào Trời lại bất công với con người đến thế? Thật ra, tất cả đều do hành vi đời trước khác nhau nên đời này con người mới thọ quả báo khác nhau, mà Trời chỉ là đấng cai quản mà thôi. Do đó, thân này gọi là Báo thân. Báo thân là kết quả của những việc đời trước của ta chứ không phải là sự đặt để của Trời. Như người có công hay tội thì sẽ nhận chịu sự thưởng phạt của quan phủ chứ không bao giờ có tư ý. Quan phủ chủ yếu xem việc thưởng phạt cho người có công hoặc tội, không thưởng hoặc phạt một cách vô cớ. Quan phủ còn không thưởng phạt vô cớ huống gì tạo hóa lại đem phước họa gán vào người mà không một lý do nào cả ư? Vậy mới biết, do việc làm thiện hay ác ở đời trước mà hôm nay có sự báo ứng. Vì việc làm của ta không thuần thiên, tất không thể thọ nhận thuần phước; cho nên có kẻ tuy giàu sang nhưng lại khổ đau và chết yểu, có kẻ được vinh hoa sủng ái nhưng lại phiền não và nhục nhã. Nói tóm lại, mỗi quả báo đều tùy thuộc vào việc đã làm; nó như ảnh tùy ở hình, tiếng dội đáp lại âm thanh mà hoàn toàn không có sự sai lệch. Nói rằng: “Gieo hạt đào thì lên cây đào, gieo hạt lý thì mọc cây lý, chứ chưa bao giờ có việc gieo hạt mè mà lên cây đậu, gieo hạt lê mà mọc ra cây lúa nếp”. Duy có điều, lúc gieo thì ít nhưng khi gặt hái lại nhiều, lúc làm thiện và ác thì ít nhưng khi thọ phước họa lại nhiều. Người đời nói: “Mùa Xuân gieo một hạt thóc, đến mùa thu gặt được ngàn vạn hạt”. Lúc sinh tiền ta tạo nghiệp thiện hay ác thì quả báo hoàn lại cũng như trên; vì đó là lý tự nhiên của tạo hóa. Nếu người đã tin lý ấy thì cũng tin giáo lý Tịnh độ. Vì sao? Vì cả hai lý ấy đều là lời của Thế Tôn. Đức Phật đã nói lời chân thật về nhân quả thì tất nhiên Ngài không thể nói lời hư dối về Tịnh độ. Ngưỡng mong những ai vì không tin nhân quả rồi không tin luôn Tịnh độ nên đem những lời trên để phá trừ sự mê tối của mình! <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 8 Có người vì thấy thiện ác trước mắt chưa trổ quả nên không tin nhân quả, và từ đó không tin luôn Tịnh độ. Họ không hay rằng, thiện ác chưa có quả chứ không phải không có quả. Vấn đề là quả báo đến chậm hoặc nhanh mà thôi. Đức Phật nói với Ngài A-nan rằng: “Này A- nan! Có người hiện đời làm việc thiện nhưng nhưng lúc chết lại sa vào địa ngục; có kẻ hiện đời làm điều ác nhưng khi mất lại sinh lên Trời”. A-nan bạch hỏi lý do. Đức Phật nói: “Này A-nan! Người làm việc thiện nhưng lúc chết sa vào địa ngục là vì việc thiện họ làm ở đời này chưa chín, trong khi ấy việc ác ở kiếp trước thì đã kết trái; người làm ác nhưng khi mất lại sinh lên Trời, là bởi việc ác họ làm ở đời này chưa chín mà điều thiện ở kiếp trước thì đã trổ quả”. Tả Thị nói: “Loan Vũ Tử có đức nên có thể phù hộ cho con; tuy Yểm làm ác mà vẫn thoát được họa. Con của Yểm là Doanh tuy làm điều thiện nhưng do việc ác của Yểm liên lụy nên dẫu Doanh làm điều thiện nhưng vẫn bị mắc nạn”. Chỉ nêu những chuyện thế gian thôi mà quả báo thiện ác đã như vậy huống gì quả báo thuộc phạm vi đời khác? Kinh Thư nói: “Đạo Trời ban phước cho người thiện, trút họa xuống kẻ ác.” Lão Tử nói: “Tuy lưới Trời lồng lộng nhưng không gì lọt qua được.” Như vậy, cả ba giáo lý đều nói về luật nhân quả. Vấn đề là nhanh hoặc chậm. Lẽ nào vì chưa thấy quả báo mà ta không tin nhân quả, để rồi không tin luôn cả Tịnh độ? ------------------------------ <詞>TỊNH ĐỘ KHỞI TÍN 9 Hoặc có kẻ nghó rằng: “Làm sao người ở đây niệm Phật mà trong hồ thất bảo sinh được một đóa sen?” Tôi đáp: Điều này rất dễ hiểu. Như tấm kính lớn và sáng, lúc vật gì đến thì hiện hình ngay, tấm kính ấy không cố ý nhưng chỉ do ánh sáng tự nhiên của nó. Vì trong cõi nước của Đức Phật A-di-đà vốn thanh tịnh nên nó soi thấy thế giới khắp mười phương như tấm kính sáng hiện hình của vật. Do vậy, sự kiện người ở đây niệm Phật trong hồ thất bảo sinh một đóa sen thì không có gì đáng để nghi ngờ cả. Hoặc có người nghi rằng: “Người tụng niệm chân ngôn vãng sinh thì luôn có Đức Phật A-di-đà đứng trên đỉnh đầu để hộ vệ. Nếu có vô lượng chúng sinh trong vô lượng thế giới tụng niệm chân ngôn thì làm sao Ngài có thể đứng khắp trên đỉnh đầu của họ được?” Đáp: “Điều này cũng rất tự nhiên. Như chỉ có một vầng trăng nhưng nó lại hiện bóng khắp sông nước, ta có thể nói hiện tượng ấy là không tự nhiên ư? Hoặc có kẻ nghi rằng: “Lúc hành giả lâm chung sẽ có Đức Phật A-di-đà và chư Bồ-tát đến đón. Nếu có vô lượng chúng sinh trong các thế giới khắp mười phương tinh tiến tu hành thì làm sao Đức Phật A-di-đà có thể biết khắp thời hạn của họ để đến đón?” Điều này cũng rất dễ hiểu. Như chỉ có một mặt Trời nhưng nó lại chiếu sáng vô số cảnh giới. Huống gì uy Thần của Phật đâu chỉ như mặt trăng mặt Trời? Vậy, sự việc Ngài đứng khắp đỉnh đầu, và biết tất cả thời hạn của chúng sinh là lẽ tất nhiên. Thoát văn của kinh A-di-đà. Bản kinh A-di-đà khắc bằng đá ở thành Tương dương chính là của Trần Nhân Lăng đời Tùy đã viết ra. Nét chữ rõ ràng mềm mại, được nhiều người ưa thích từ “Nhất tâm bất loạn” trở đi, dùng pháp môn xưng danh để chuyên trì danh hiệu, nhờ đó các tội được tiêu trừ, đó chính là “nhiều thiện căn, phước đức nhân duyên”. Bản truyền lại đời nay đã mất hai mươi mốt chữ này. Hơn nữa, bản kinh này trong tạng kinh còn gọi là kinh Chư Phật Nhiếp Thọ. Mười phương chư Phật nằm trong chữ “Dưỡng” mà gọi. Bản ngày nay mất bốn phương chư Phật. “Ngày tất có đêm, mới đủ là đêm. Nóng tất có lạnh, mới tròn nghóa lạnh. Ở tất có đi, mới vẹn nghóa đi. Sao là đêm đủ, đèn đuốc đệm chăn. Sao là lạnh tròn, chăn mền than củi. Sao là đi vẹn, Tịnh độ tuệ phuớc?” Tiếng Phạm “A”, Hán dịch là Vô, tiếng Phạm “Di-đà”, Hán dịch là Lượng, nếu gọi tắt nên gọi là “A-di”, không được gọi là “Di- đà”. Nếu gọi là “Di-đà” có nghóa là lượng sẽ phản nghóa với ý “Vô lượng”. Nếu gọi là “A-di” thì đủ ý “Vô lượng” này. LONG THƯ TĂNG QUẢNG TỊNH ĐỘ VĂN <卷>QUYỂN 2 Trong Đại Tạng có kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, kinh A-di-đà Quá Độ Nhân Đạo, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm. Bốn bản này vốn là một, nhưng do dịch khác nhau nên có bốn cái tên như vậy. Sự sai khác của chúng là rất nhiều. Tôi đã hiệu đính từ lâu và cũng đã khắc bản để lưu hành. Nay tôi nghiên cứu kinh này và các truyện ký khác để viết Tịnh độ tổng yếu (những điểm căn bản chung của Tịnh độ). <詞>TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU 1 Nói tổng quát về Đại Tạng, thì kinh Tịnh độ không chỉ có mười cuốn. Tất cả kinh ấy đều nói về những sự việc của Tịnh độ Tây phương ở phạm vi đại lược là: Cõi nước ấy dùng bảy loại trân bảo để trang nghiêm; không có địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, cho đến không có các loài bò, bay, máy, cựa. Cõi nước ấy thường thanh tịnh tự nhiên, không có uế tạp. Người ở đó sinh ra từ hoa sen và được sống lâu; áo quần, thức ăn, món uống, nhà cửa đều tùy ý nguyện mà có. Cảnh vật ở cõi ấy như mùa Xuân bất tận, không lạnh và nóng. Nhân dân ở đó luôn thọ nhận niềm vui và không có những nỗi khổ. Vì vậy Đức Phật gọi là thế giới Cực lạc. Đức Phật cõi Cực lạc tên là A-di-đà. A-di-đà là tiếng Phạm, Trung Quốc dịch là Vô lượng. Vì ánh sáng của Ngài soi thấu khắp các thế giới trong mười phương và do những chúng sinh niệm Phật A-di-đà và nhân dân ở cõi ấy đều vô lượng vô biên, chúng sinh niệm Phật đều biết điều đó nên gọi là Phật Vô Lượng Quang. Tuổi thọ của Phật và chúng sinh cõi nước Ngài đều có tuổi thọ vô hạn lượng, tuy sống lâu hằng hà sa kiếp vẫn không chết nên gọi Phật là Vô lượng thọ. Đức Phật A-di-đà có thệ nguyện lớn là cứu độ tất cả chúng sinh, uy Thần của Ngài không thể nghó bàn, nên người nào chí thành tin tưởng niệm danh hiệu của Ngài thì hiện đời được tiêu trừ tai nạn, oán quỷ lánh xa, tinh Thần và thể xác được an tónh, phước thọ tăng và đồng thời trong hồ thất bảo sinh ra một đóa sen để sau này hành giả thác sinh vào đó mà thoát vòng sinh tử luân hồi. Những sự việc ấy đều có sự tích chứ không phải là những lời hoang đường và hư dối. Giáo lý Tịnh độ rất dễ thực hành. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn thì Tịnh độ là pháp môn quan trọng và nhanh nhất. Vậy mà, đau xót thay người ta lại không tin! Xót xa hơn nữa là có kẻ tin nhưng lại không tu tập. ------------------------------------ <詞>TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU 2 Kinh A-di-đà Đại bản nói: “Một sáng, dung mạo của Phật Thích- ca hiện vẻ khác thường. Thị giả A-nan ngạc nhiên bạch hỏi nguyên cớ. Đức Phật nói: “Lành thay câu hỏi của ông! Câu hỏi đó giá trị hơn sự cúng dường cho bậc Thanh văn, Duyên giác một thiên hạ, cho đến sự bố thí cho chư thiên, nhân dân, đến tận loài bò, bay, máy, cựa và trong trăm, ngàn, vạn kiếp! Vì sao? Vì tất cả chư thiên, đế vương, nhân dân đến các loài bò, bay, máy, cựa đều nhờ câu hỏi của ông mà có được một con đường giải thoát”. Qua những đoạn kinh đó ta biết rằng, trước khi Thế Tôn muốn nói đến Đức Phật A-di-đà thì vấn đề đó đã hiện hữu trong tâm của Ngài, rồi hiện ra nơi mặt, nên Thần sắc của Ngài khác với ngày thường. Như vậy, sự tác động của Đức Phật A-di-đà đối với chư Phật đã khác thường rồi, huống gì đối với tất cả chúng sinh? Đến đoạn A-nan thỉnh vấn, và Thế Tôn đáp rõ rằng “Chư Thiên, Đế vương, nhân dân, đến các loài bò, bày, máy, cựa đều nhờ câu hỏi của ông mà có được con đường giải thoát”. Nghóa là, vì trên từ Chư thiên, dưới đến Nhuyễn, Động đều nằm trong ba cõi, không thoát khỏi cảnh luân hồi; nhưng nhờ đại nguyện lực của Phật A-di-đà độ thoát tất cả, nên chúng sinh nào chưa được độ đều sẽ được cứu vớt. Theo dõi kệ phát nguyện thứ nhất của Ngài ta thấy: “Đến lúc tôi thành Phật, tên tôi vang mười phương, Trời người thích được nghe, đều sinh về Cực lạc. Địa ngục, quỷ súc sinh, đều sinh về nước tôi.” Qua đó ta hiểu rằng, bất cứ chúng sinh nào ở trong ba đường, sáu nẻo hoặc trong vòng luân hồi cũng đều được độ thoát. Vì vậy, kinh A-di-đà đại bản nói: “Đức Phật A-di-đà đang ở tại Cực lạc, lại đang ở các thế giới khắp mười phương và đang hóa độ vô số Trời người đến các loài bò, bay, máy, cựa.” Bò, bay là loài côn trùng bay cực nhỏ; máy, cựa là loài giòi bọ cực nhỏ. Những loài ấy Đức Phật còn tế độ, huống gì loài người chúng ta? Bởi Đức Phật A-di-đà cứu độ chúng sinh nhiều vô số, nên ai một lòng quy y Ngài thì sẽ được sinh vào cõi nước của Ngài là điều tất nhiên. ----------------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU 3 Kinh nói: “Vô lượng kiếp về trước, có Đức Phật tên là Thế Tự Tại Vương giáo hóa độ sinh. Lúc ấy, có vị đại quốc vương nghe thuyết pháp được giác ngộ liền bỏ ngôi vị, xuất gia tu hành với pháp danh Tỳ-kheo Pháp Tạng, tức là Đức Phật A-di-đà sau này. Tỳ-kheo Pháp Tạng đối trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương phát bốn mươi tám nguyện; nguyện nào cũng vì mục đích tế độ chúng sinh. Phát nguyện rồi, Ngài tinh tiến liễu sinh tử, tiếp theo là nhập Bồ-tát địa. (Liễu sinh tử tức là sinh tử tự như). Nhập Bồ-tát địa nghóa là bên trong tu tuệ, bên ngoài tu phước. Tu tuệ là làm cho trí tuệ ngày một rộng lớn, đến lúc thành Phật, tuệ tánh bao hàm cả hư không thế giới, biết và thấy tất cả. Tu phước là thác sinh trong tất cả chúng sinh, giống hình thể và thông hiểu ngôn ngữ của chúng để thi triển việc giáo hóa. Vì vậy, trên đến thiên đế, dưới đến kiến trùng tế vi, Ngài đều sinh vào vào giáo hóa chúng sinh như vậy đến vô lượng vô số kiếp. Tất cả sự giáo hóa đều có phước đức. Do có phước đức nhưng không thọ dụng nên phước ấy càng lúc càng nhiều, lâu ngày đầy khắp hư không thế giới. Phước lớn thì uy Thần lớn, như chức quan càng lớn thì thế lực càng mạnh. Do bởi uy Thần làm được mọi việc nên mới có thể hoàn thành lời nguyện để bước vào Phật vị. Do lúc mới phát nguyện đến khi thành Phật, Ngài đều vì chúng sinh, nên nếu mọi người chí tâm tin tưởng và trì niệm danh hiệu của Ngài thì hiện đời sẽ được che chở, thân sau sẽ được sinh về Cực lạc. Nếu có người chuyên tâm tưởng đến hình tướng của Ngài thì hiện đời sẽ thấy được chân thân của Ngài. Vì uy linh của Phật hiện hữu khắp nơi, nên nếu tâm niệm của người với Phật được đồng nhất thì tự nhiên có sự giao thông và tự nhiên Đức Phật xuất hiện. Vấn đề này xin độc giả đọc ở quyển thứ năm. ---------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU 4 Kinh nói: “Đức Phật A-di-đà thực thi hạnh Bồ-tát trải qua vô số kiếp. Ngài đạt được sức nhẫn và những sự khổ thì không tính đếm được. Ngài luôn đem lòng yêu thương, nét mặt nhu hòa để làm lợi cho chúng sinh. Ngài khéo giữ gìn khẩu nghiệp, không chỉ trích những sai lầm của người khác; khéo giữ gìn thân nghiệp, không làm mất luật nghi; khéo giữ gìn ý nghiệp, không bị ô nhiễm và luôn thanh tịnh. Trong lòng tay của Ngài luôn hiện ra áo quần, món ăn, thức uống, tràng phan, bảo cái, âm nhạc và những vật dụng cần thiết tốt đẹp nhất. Ngài đem những thứ đó ban phát cho chúng sinh khiến họ sinh tâm hoan hỷ.” Vì thi hành việc giáo hóa nên Ngài phát tâm Bồ-đề tối thượng đến vô lượng chúng sinh. Những thiện hạnh như vậy là nhiều vô cùng, không thể nói hết được. Trải qua vô số kiếp, lúc công đức đã trọn vẹn, khi uy lực đã đủ đầy, Ngài mới hoàn thành những lời nguyện và bước vào Phật vị. Bởi thế, vô số chư thiên, nhân dân, đến các loài bò, bay, máy, cựa ở các thế giới khắp mười phương đều được Ngài độ thoát. Cũng bởi thế, nếu chúng sinh một lòng quy y Ngài thì sẽ được sinh vào cõi nước Cực lạc, được hóa sinh trong hồ thất bảo, tự nhiên lớn lên, ăn thức ăn thuần tự nhiên mà không dùng sữa mẹ; dung mạo và thân thể đoan nghiêm, sáng sủa, sạch sẽ và tươi đẹp. Những tính chất này người và Trời không so sánh được, vì ở cõi này đều thọ nhận cái thân thanh linh, tuổi thọ vô số. Khắp cõi Cực lạc đều là những thượng thiện nhân, không có con gái, ai cũng trường thọ và cũng đều có sự thấy nghe thấu suốt; nghóa là tuy xa cách nhưng họ vẫn nhìn thấy nhau và nghe được tiếng nói của nhau. Ai cũng tìm cầu con đường thiện và không có những loại người khác. Dẫu trải qua ngàn vạn kiếp họ đều biết rõ nguồn cội của mình. Họ lại biết những việc ở hiện tại, vị lai của thế giới khắp mười phương, lại biết được những lời miệng muốn nói, những ý tưởng lòng ấp ủ của vô số nhân dân trên Trời, dưới Trời và của các loài bò, bay, máy, cựa. Nhờ có trí tuệ thông suốt, nên họ lại biết những loài chúng sinh ấy sẽ được độ thoát, được làm người, được vãng sinh Cực lạc vào năm nào, kiếp nào. ------------------------------- <詞>TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU 5 Truyện Tịnh độ viết: “Đức Phật A-di-đà cùng hai Bồ-tát là Quán Âm và Thế Chí lái con thuyền đại nguyện băng qua biển khổ sống chết, đến thế giới Ta-bà kêu gọi và dẫn dắt chúng sinh bước lên con thuyền đại nguyện rồi đưa về Tây phương. Nếu chúng sinh chấp nhận thì ai cũng được sinh.” Đọc đoạn đó, ta hiểu rằng vì Đức Phật và Bồ-tát xót thương nghó đến chúng sinh trầm luân trong biển khổ nhưng không cách gì thoát khỏi nên đem thệ nguyện và uy lực của mình để chiêu dụ hữu tình sinh về Tịnh độ; như người lái đò mời gọi khách lên thuyền để đưa sang bờ kia. Chỉ sợ chúng sinh không tin, còn nếu tin tưởng và ao ước được sinh, thì dẫu là kẻ có tội ác vẫn được sinh về. Tuy nhiên, chúng ta không thể so sánh Đức Phật với người phàm. Người phàm nếu không vì thế lực, quyền lợi thì không giao hảo với kẻ khác. Bậc hiền nhân, quân tử đã không làm vậy huống gì Đức Phật. Bởi vì, nếu không từ bi thì không phải là một vị Phật; nếu không tế độ chúng sinh, không có đại uy lực thì không phải là một vị Phật. Vì có từ bi, nên thấy chúng sinh trầm luân Ngài liền muốn cứu vớt. Vì có đủ đại uy lực; nên Ngài có khả năng làm tròn tâm nguyện và hoàn thành công cuộc tế độ của mình. Kinh nói: “Bậc Đại y vương có thể chữa trị tất cả bệnh tật nhưng không chữa được người mà mạng sống đã hết. Đức Phật có khả năng độ tất cả chúng sinh nhưng không thể nào độ những người không có niềm tin.” Kinh so sánh sự bất tín với mạng đã hết là vô cùng chí lý. Bởi vì tín tức là một lòng. Như lúc người còn sống, tâm muốn đi thì thân đi ngay, tâm muốn đứng thì thân đứng ngay. Đó là trường hợp thân tùy thuộc tâm. Song, cũng có lúc tâm muốn đi mà thân bị trói buộc, lúc thân hư hoại thì chỉ còn tâm mà thôi; tâm đã đến nơi thì không nơi nào mà thân không đến. Vì vậy, tâm tại Tịnh độ thì chắc hành giả sẽ sinh vào Tịnh độ, huống gì có Phật và Bồ-tát gọi mời, dắt dẫn ư? ------------------------------------ <詞>TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU 6 Đức Phật A-di-đà có lời nguyện rằng: “Một khi đã sinh về nước tôi, ai muốn sinh về các phương khác đều được toại nguyện. Họ vónh viễn không bị đọa vào lại ba đường ác.” Vì sao? Vì người sinh vào Tịnh độ sẽ chứng được Vô sinh pháp nhẫn. Vô sinh pháp nhẫn tức là thoát khỏi sống chết. Kẻ đã thoát vòng sống chết thì tuy vào nơi sống chết nhưng tâm tánh không bị mê tối; tâm tánh không bị mê tối thì do đâu mà làm ác. Luận về lý thì không có sự sa đọa, huống gì nương vào Phật lực nữa, vì vậy nên không có sự sa đọa. Cho nên, người sinh về Tịnh độ không những sống mãi không già mà còn thoát được sống chết. Vì muốn thi thiết giáo lý để hóa độ tất cả chúng sinh, nên vào cảnh giới sống chết của tất cả chúng sinh mà chân tánh vẫn luôn sáng suốt, rạng rỡ, không bị mê hoặc bởi ngoại vật, không bị trói buộc nơi nghiệp duyên. Tuy ở cảnh luân hồi nhưng không bị luân hồi. Đó gọi là xuất thế gian; nghóa là tuy ta đang ở trong thế gian nhưng vẫn ra ngoài thế gian. Bởi vậy, người sinh vào Tịnh độ thì sinh tử tự như. Nghóa là muốn sinh lên Trời cũng được, muốn sinh vào loài người cũng được, muốn sinh vào gia đình đại giàu sang cũng được, muốn trường sinh bất tử cũng được, muốn diệt rồi sinh lại cũng được. Nói tóm lại, đó là luôn tự do tự tại theo ý muốn của mình. Người đời không nhận thức chân lý đó nên luôn bị khổ bởi sống chết; thay vì muốn sinh vào nơi an lạc lại bị sa vào chốn sầu não; muốn sinh vào con đường lành lại đi vào nẻo ác dữ. Nói tóm lại, là bị đủ loại ngoại vật làm cho tâm tư mê tối bị nghiệp duyên dẫn dắt, không được tự tại. Vì vậy, từ vô thỉ đến nay họ vẫn luân hồi trong sáu đường mà không thể nào ra khỏi. Ngưỡng mong tất cả mọi người nên nghó nhớ đến bao nổi buồn đau ấy mà lưu tâm đến Tịnh độ thì có thể nhận biết được lý do vì sao gọi là thế giới Cực lạc. ------------------------------------ <詞>TỊNH ĐỘ TỔNG YẾU 7 Vô Vi, Dương Kiệt Thứ Công, thuở nhỏ đỗ đạt cao và thông hiểu tông chỉ của Thiền. Ông nói: “Căn tánh chúng sinh có nhanh chậm khác nhau, chỉ có Tịnh độ Tây phương là gần mà dễ biết, giản đơn mà dễ thực hành, chỉ cần hành giả một lòng quán niệm và nương vào nguyện lực của Phật thì sẽ được sinh về an dưỡng.” Ông viết lời tựa cho tác phẩm “Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi” của Vương Mẫn Trọng rằng: “Ánh sáng của Đức Phật A-di-đà như vầng trăng lớn và tròn, chiếu khắp mười phương. Nếu như nước trong và lặng thì toàn thể mặt trăng hiện ra, nhưng không phải mặt trăng theo nước mà đến; mặt trăng không nguyên vẹn ánh sáng khi nước bị bẩn và động, nhưng không phải mặt trăng bỏ nước mà đi. Nước thì có sạch và bẩn, động và lặng; mặt trăng thì không có sự giữ và bỏ, đến hay đi.” Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm nói về con của trưởng giả Giải Thoát có đoạn: “Biết tất cả Phật như ảnh tượng. Tự tâm như nước, chư Như Lai không đến nơi này. Nếu ta muốn thấy Phật Di-đà nơi Cực lạc, thì liền thấy, theo ý mình.” Như vậy, chúng ta biết rằng, nếu chúng sinh chí tâm nghó nhớ thì chắc chắn được thấy Phật A-di-đà, nếu được sinh về Cực lạc thì sẽ không có những nỗi đau khổ. Kinh Ban-chu Tam-muội nói: “Bồ-tát Bạt-đà-hòa hỏi Phật Thích- ca rằng: “Làm sao chúng sinh đời vị lai có thể thấy được chư Phật?” Phật dạy: “Nếu chúng sinh niệm Phật A-di-đà thì sẽ được thấy chư Phật khắp mười phương.” Lại nữa, kinh Đại Bảo Tích nói: “Nếu những chúng sinh ở phương khác nghe danh hiệu của Như Lai Vô Lượng Thọ cho đến phát được một niệm của lòng tin trong sạch cũng như hoan hỷ và yêu thích, tất cả thiện căn có được đều đem hồi hướng để nguyện sinh vào cõi Cực lạc, thì sẽ vãng sinh tùy theo ước nguyện ấy và đạt được quả vị không thoái chuyển”. “Tất cả những đoạn kinh ấy đều là lời Phật. Nếu chúng ta không tin lời Phật thì có lời nào đáng để tin? Nếu chúng ta không sinh về Tịnh độ thì có cõi nào đáng để sinh về?”. Ông Tô Đông Pha nói: “Những năm cuối đời, Thứ Công làm Giám ty Thái thú; ông vẽ tượng Đức Phật A-di-đà cao một trượng sáu và luôn đem theo để cúng dường, quán niệm. Lúc lâm chung, cảm được Phật đến đón nên ông ngồi đoan nghiêm mà đi.” <卷>QUYỂN 3 Mạnh Tử nói: “Ai cũng có thể làm được vua Nghiêu, vua Thuấn.” Tuân Tử nói: “Người trên đường đều có thể làm được vua Vũ.” Bồ-tát Thường Bất Khinh nói: “Tôi không dám khinh các ông. Các ông đều có thể thành Phật.” Như vậy, có nghóa là mọi người đều có thể làm Thánh Hiền, ai ai cũng có thể thành Phật, Tịnh độ Tây phương là cánh cửa quan yếu và nhanh mà ai cũng có thể tu tập được. Vì vậy, tôi viết “Phổ Khuyến Tu Trì” (khuyên mọi người tu tập). <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 1 Có người hỏi Khổng Tử rằng: “Người ta có thể quên vợ mình vì việc đổi nhà không?” Khổng Tử đáp: “Có kẻ còn tệ hơn nữa! Như Kiệt và Trụ thì quên luôn cả bản thân mình!” Nếu đem đạo nhãn mà quan sát, thì đời nay ai ai cũng quên bản thân mình cả! Vì sao? Vì tứ lúc mở mắt vào buổi sáng và nhắm mắt vào ban đêm, không phút nào người ta không bị cuốn theo cơn lốc của trần lao và chưa bao giờ có được chút thời giờ để suy gẫm về bản thân mình! Vả lại, đối với thân người; nếu lấy phạm vi ngày mà nói thì không gì quan trọng hơn đói khát, tất phải có thức ăn món uống; nếu lấy phạm vi năm mà nói thì không gì bằng lạnh nóng, tất phải có đủ áo len, áo vải; nếu lấy phạm vi trọn đời mà nói thì không gì lớn bằng việc sinh tử; nếu không đem sự đầy đủ và Tịnh độ mà kiện toàn thì phải làm thế nào? Vả lại, nếu người ta có một trăm cân vàng đi nữa, thì khi cái chết ập đến ta cũng không thể nào mang nó đi theo, nghóa là phải vứt bỏ nó lại. Nếu ai ôm chặt số vàng ấy để chết thì dó nhiên người đời sẽ gọi là phường dốt nát! Thật ra, họ đều biết thân này quý hơn trăm cân vàng, nhưng ngày thường vẫn khư khư lao vào vòng danh lợi; dẫu vật không đáng gì cũng không thể vứt đi, trong lúc cái thân mình thì lại không biết tiếc thương. Nếu ta trách cứ hoặc rầy la họ bằng từ trộm cướp hay cầm thú, thì họ lập tức nổi giận; có kẻ thù oán suốt đời, có người ẩu đã đến nỗi sinh ra kiện tụng và bị vào lao ngục! Những chữ trộm cướp, cầm thú vốn không tổn hại gì với thân thể họ mà họ lại thù ghét, tại sao những kẻ ấy biết đau cho cái “danh” của thân mà lại không biết tiếc cho cái “thật” của thân? Vả lại, cái thật của thân cũng không khác gì hơn, gượng nói là: Chết! Nhưng trên sự thật thì lại chưa từng có cái chết. Người ta chỉ nhận thấy mình từ bỏ cái thân hư hoại này đi mà liền gọi hiện tượng ấy là chết mà không hay rằng nếu bỏ thân ở đây thì sẽ sinh vào cái thân ở nơi khác. Vì vậy, ta nên dự bị cho mình một nơi để sinh về. Bởi thế, nói thật chân thành là không thể nào phế bỏ giáo lý Tịnh độ! -------------------------------- <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 2 Con người ta, lúc còn sống, nào là cha mẹ vợ con, ruộng vườn nhà cửa, bò, dê, ngựa, xe đến những vật như bàn ghế, chén bát, y phục, dây đai… Không luận là lớn hay nhỏ đều là hoặc do tổ phụ truyền lại, hoặc tự mình làm ra, hoặc do con cháu tích lũy. Tất cả đều là của ta. Một tờ giấy mỏng bị xé là mình đã nổi giận; một cây kim không đáng là bao nhưng nếu bị lấy là mình đã tiếc nuối; tuy kho lẫm đã đầy mà ta vẫn thấy thiếu thốn; tuy vàng bạc gấm vóc đã lắm mà ta vẫn hùng hục làm lụng. Mở mắt, động chân ta đều bị mê đắm! Ngủ một đêm nơi khác là ta đã nhớ nhà; một đứa ở chưa về là ta đã lo mất. Nói chung, ta mang vác tất cả các chuyện ở trong lòng! Nhưng, một sáng cái chết xộc đến là ta phải vứt sạch chúng mà đi. Bởi cái thân còn vô nghóa thì nói gì những thứ ngoài thân ấy? Nếu tónh tâm mà suy gẫm ta mới thấy điều đó là mịt mù như cơn mộng lớn. Vì vậy, Trang Tử nói: “Phải có sự giác ngộ lớn, sau đó mới biết cơn mộng lớn ấy.” Cổ nhân nói: kệ: Một sáng vô thường về Mới hay người trong mộng Ngàn thứ chẳng mang đi Tùy thân chỉ có nghiệp. Kỳ diệu thay những lời ấy! Tôi lấy hai câu kệ cuối rồi thêm hai câu để làm thành một bài Vạn thứ chẳng mang đi Tùy thân chỉ có nghiệp Duy niệm A-di-đà Quyết định sinh Cực lạc. Bởi vì, nghiệp là nghiệp ác và nghiệp thiện. Hai loại nghiệp ấy ta đều mang đi được. Vậy lẽ nào ta không lấy Tịnh độ làm nghiệp cho mình? Có vị Trưởng lão tên Liễu Minh, lúc thuyết pháp, sư chỉ vào cái thân này mà nói: “Đây là vật chết. Trong vật chết này có cái tươi tốt, đó là vật sống. Không nên tạo phương kế sống trên vật chết mà nên tạo cách sống trên vật sống!” Tôi hâm mộ câu nói của trưởng lão vô cùng nên thường nói với mọi người rằng: “Những kẻ tham đắm đủ món bên ngoài để phụng thờ thân xác đều là những kẻ tạo cách sống trên vật chết. Người đời tuy chưa thoát khỏi vòng quay ấy, nhưng trong khi đang kinh doanh để nuôi dưỡng thân thể nên bỏ ra dăm ba phút để lưu tâm đến Tịnh độ; đó là tạo cách sống trên vật sống. Vả lại, nếu cứ hùng hục làm lụng để kiếm sống thì tuy giàu có như Thạch Sùng, rất sang trọng như hàng nhất phẩm rồi cũng lụi tàn. Thảm trạng ấy hoàn toàn khác với sự hằng cửu của Tịnh độ. --------------------------------------- <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 3 Đầu tiên, con người chưa từng có sự chết, sở dó có chữ chết là từ trên thân thể này. Vì sao? Vì do Thần thức thác vào nên thân thể mới sinh ra và gọi là sinh. Do Thần thức rời đi nên thân hình hư hoại và gọi là tử. Thần tức là ngã và hình thể là căn nhà của ngã. Vì ngã có đến có đi nên hình thể có thành có hoại. Thật ra, sinh không phải là sinh nhưng do Thần đến nên có hình hài; tử không phải là tử nhưng vì Thần đi nên hình thể hư rã. Người đời không biết Thần mà chỉ lấy hình thể nên họ vui với sự sinh mà ác cảm với sự tử. Quả là thái độ đáng buồn! Vả lại, Thần từ đâu đến? Từ nghiệp duyên mà đến. Thần từ đâu đi? Cũng từ nghiệp duyên mà đi. Nghiệp duyên là gì? Nếu nghiệp được làm ở nhân gian thì Thần sẽ tùy nghiệp đó mà sinh vào nhân gian; nếu nghiệp được làm thuộc Trời thì Thần sẽ tùy nghiệp đó mà sinh vào cõi Trời; nếu ng- hiệp đã làm là A tu la thì Thần sẽ thuận với nghiệp đó mà sinh vào loài A-tu-la; nếu tạo nên ba đường ác thì Thần sẽ theo nghiệp đó mà sinh vào ba đường ác. Đó là tình trạng luân hồi trong sáu nẻo không có lúc thoát ly của Thần. Thế mà từ vô thỉ đến nay, Thần ấy luôn vào thai, ở trứng v.v… nghóa là nó không bao giờ ở lâu một nơi nào; lúc nghiệp hết thì hình thể hoại, hình thể hoại thì Thần không có nơi cư ngụ nên Thần lại theo nghiệp ta làm hôm nay để thác sinh. Như người làm ra nhà cửa thì sẽ ở trong đó, kẻ làm ra thức ăn món uống thì sẽ thọ hưởng mùi vị của nó. Vì vậy, nếu ta tạo nghiệp thế nào thì ta sẽ thọ nhận quả báo như vậy; đó là lẽ tự nhiên của chân lý. Cũng vì thế, chúng ta không nên bất cẩn với những việc làm của mình ở đời này. Nếu chúng ta muốn thoát ly luân hồi và dứt hẳn sự khổ đau thì phải chấp nhận con đường Tịnh độ Cực lạc; nghóa là, chúng ta nên chuyên tâm thực hành phép trì niệm danh hiệu Phật. ----------------------------------- <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 4 Đời sống của con người trong cõi này không khác gì bọt nước, sinh diệt không ngừng. Có người chỉ sống một năm, có người hai năm, có người mười năm, có kẻ hai mươi năm, may mắn lắm mới sống đến bốn năm mươi năm; cũng có kẻ sống đến bảy mươi năm, nhưng trường hợp này rất hiếm! Đa phần con người chỉ thấy cái già trước mắt mà không hay rằng có lắm kẻ qua đời lúc niên thiếu. Huống gì thế gian vốn là khổ. Sở dó ta không thấy là bởi ta không suy tư, khắc khoải thôi. Cố nhiên, những lúc không vừa ý là khổ, nhưng những cơ hội vừa lòng thì lại đếm đầu ngón tay! Nào là cha mẹ vợ con, thông gia quyến thuộc hoặc do bệnh tật chết chóc, hoặc do sát thương ly tán, hoặc cái chết bỗng ập đến. Những tội ác mà lúc còn sống chắc gì ta không làm? Tôi xin đem chuyện trước mắt ra mà nói: Lúc ta nảy sinh ra một ý nghó sai, nói một lời sai, nhìn một nhan sắc bất chính, nghe một âm thanh bất hảo, hoặc làm một việc xấu ác; nói chung không điều gì là không sai lầm, tội lỗi! Huống gì thức ăn của ta là thịt của chúng sinh, áo ta mặc cũng từ chúng sinh; nói gì đến những điều ác không nằm ở phạm vi ăn và mặc khác? Nếu chúng ta không suy nghó thì thôi, nhưng nếu đặt vấn đề thì thật là vô cùng đáng sợ! Những tội ác ta dồn chứa từ trẻ đến già, từ khi sinh ra đến lúc qua đời đã quá nhiều và kiên cố nhưng không cách nào giải trừ được. Sau khi nhắm mắt, chắc chắn ta sẽ tùy nghiệp mà đi trong mịt mờ vô định. Hoặc là ta bị đọa địa ngục để chịu sự khổ đau cùng cực, hoặc là ta bị làm súc sinh để chịu sự mổ giết của con người, hoặc là ta sinh vào loài ngạ quỷ để cho lửa, đói thiêu đốt, hoặc là ta rơi vào loài A-tu-la để lòng sân hận bức bách. Tuy ta có nghiệp lành để được sinh lên Trời người, nhưng lúc hết phước vẫn bị luân hồi lại vì nghiệp cũ, nghóa là ta cứ trầm luân không lúc nào thoát khỏi. Chỉ có Tịnh độ Tây phương là con đường tắt và nhanh để giải thoát. Bởi thân người khó được nên chúng ta hãy nhân lúc khỏe mạnh để giải quyết việc lớn đó. Chúng ta nên thường xuyên nghó rằng mình đã từng luân hồi khắp sáu nẻo từ vô thỉ đến nay mà chưa từng biết pháp môn Tịnh độ nên vẫn không được giải thoát. Ngày nay, ta đã biết pháp môn này, lẽ nào không lập tức hành trì? Cố nhiên, những người tuổi đã cao thì phải cố gắng; nhưng những người trẻ trung cũng không nên biếng trễ. Được thế thì lúc mất, ta được sinh về Cực lạc. Nhìn lại những lúc chết bị vào âm phủ, thấy Diêm vương và chịu những nỗi sợ hãi trước đây, thì không thể nào so sánh với bây giờ được. <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 5 Như người đi vào thành lớn, trước tiên phải tìm nơi trú chân, tiếp theo là đi liên hệ công tác, khi đêm xuống sẽ có chổ để an nghỉ. “Trước tiên, phải tìm nơi trú chân” tức là tu Tịnh độ. “Khi đêm xuống” tức là cái chết đến. “Có chỗ để an nghỉ” tức là sinh trong hoa sen, không bị đọa vào nẻo ác. Lại nữa, như người đi xa vào mùa Xuân, trước tiên phải mang đồ đi mưa, lúc mưa rào ập đến thì sẽ không bị ướt và khốn đốn. “Trước tiên, phải mang đồ đi mưa” tức là tu Tịnh độ. “Mưa rào ập đến” tức là mạng sống sắp chấm dứt. “Không bị ướt và khốn đốn” tức là không bị trầm luân trong đường ác, chịu những sự khổ đau. Vả lại, “Trước tiên phải tìm nơi trú chân”, thì không làm hại công việc. “Trước tiên phải mang đủ đồ đi mưa” thì không làm hỏng việc đi đường xa. Như vậy, việc tu Tịnh độ vốn không làm trở ngại đối với những việc thế gian, tại sao mọi người lại không tu tập? Tôi có một người quen, bình sinh ông sát hại rất nhiều cá nên cuối đời bị bệnh như trúng phong. Tôi thương tình cảnh tội ác, tật khổ ấy, nên đến thăm và khuyên ông niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Ông ta không chịu niệm mà chỉ nói đủ thứ chuyện. Đó thật là do ác nghiệp ngăn cản và bệnh tật làm cho tâm tư mê tối. Một khi còn sống mà không chịu niệm thì sau khi nhắm mắt sẽ vớt vát được gì? Vì vậy, người tu Tịnh độ nên sớm tỉnh ngộ để bắt tay tu tập. Ở đời, có ngày tất phải có đêm, có lạnh dó nhiên phải có nóng; điều đó ai cũng biết và cũng không thể che dấu. Nhưng nếu nói có sống tất có chết thì ai cũng kiêng kî, không thừa nhận! Tệ bạc đến thế là cùng! Người ta không biết rằng, đầu tiên, cái ngã không từng có sự chết mà chỉ do nghiệp duyên tan rã nên nó ra đi. Chúng ta cần phải tu tập Tịnh độ để cầu sinh trong hoa sen mà thọ nhận cái thân thanh linh, thọ mạng vô lượng và thoát tất cả sự sống chết, khổ não. -------------------------------------- <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 6 Hạ phẩm hạ sinh là lúc lâm chung hình tướng địa ngục xuất hiện, mà người đó chí thành niệm mười tiếng Nam-mô A-di-đà Phật thì hình tướng địa ngục sẽ biến thành hoa sen và người đó được sinh về Tịnh độ. Đó là nhờ lòng từ bi sâu nặng và uy lực của Phật quá lớn. Nói mười niệm nghóa là tự mình niệm mười tiếng A-di-đà Phật lúc còn sống, chứ không phải việc thỉnh người niệm sau khi đã qua đời. Tự niệm lúc còn sống thì phút lâm chung được Phật và Bồ-tát đến đón nên quyết định được sinh về Cực lạc; thỉnh người niệm sau khi mình mất thì chưa chắc có Phật và Bồ-tát đến đón hay không. Kinh nói: “Sau khi mình qua đời mà người ta làm công đức cho thì mình chỉ nhận được một phần bảy; tự làm lúc còn sống thì quả báo gặt được là cả trăm ngàn lần”. Khổ thay cho con người! Lúc còn sống không chịu thực hành phương pháp Thập niệm trong mỗi ngày, đợi đến khi mất mới rước người tu thế! Kinh lại nói: “Ví như sắt và đá tuy nặng, nhưng nếu nương vào sức của ghe thuyền thì có thể qua sông; cây kim tuy nhẹ nhưng nếu không nhờ ghe thuyền thì vẫn bị chìm mất.” Ý kinh nói rằng, dẫu người có tội nặng nhưng nếu nương vào Phật lực thì có thể sinh về Tịnh độ; kẻ dẫu ít tội nhưng nếu không nhờ Phật lực thì cũng không được vãng sinh. Cũng như có người bình sinh làm ác nhưng nếu được chiêu an thì sẽ trở lại người dân lành. Người nương vào Phật lực để tiêu diệt tội ác cũng giống với hai trường hợp vừa nói. Lại nữa, như con sâu đo dẫu chết đi sống lại cả ngàn lần cũng chỉ bò đi được chừng một dặm; nếu nó bám vào thân người thì có thể đi xa cả ngàn dặm trong một ngày. Người nương vào Phật lực để vãng sinh cũng như trường hợp trên. Vì vậy, chúng ta không nên nghi rằng vì mình có tội ác nên dẫu có niệm Phật đi nữa cũng không thể vãng sinh; chỉ cần chúng ta khởi tâm mong được thấy Phật, được thành Phật và cứu độ tất cả kẻ oán người thân thì ai ai cũng được vãng sinh. Hoặc có người nói: “Có kẻ lúc còn sống làm những việc ác, hại chúng sinh, bức áp nhân dân, đến lúc chết nhờ niệm Phật nên cũng được vãng sinh. Vậy, những chúng sinh, những người dân bị kẻ ấy giết và hiếp đáp mang lòng oan ức, thì đến bao giờ mới giải được?” Đáp: Sau khi người đó sinh về Tịnh độ, được thành Phật họ sẽ độ thoát cho kẻ oán, người thân. Như thế vẫn hơn tình trạng oan oan tương báo, cả kẻ tạo tội và người chịu tội đều không có lúc giải thoát. ------------------------------------ <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 7 Tôi vì giáo lý Tịnh độ nên muốn khuyên những người thấy nghe làm cho tâm mình rộng lớn ra, nên lấy tâm nguyện của Phật làm tâm nguyện của mình khiến ai ai cũng biết để cùng nhau sinh về Tịnh độ. Chúng ta nên nghó rằng: Nếu người khác biết được pháp môn này thì cũng như ta biết, thật sung sướng làm sao! Nếu người khác không biết thì cũng như ta không biết, quả là vô cùng đau xót! Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc tự tu thì nào khác gì hàng Thanh văn, gọi là Tiểu thừa. Họ chỉ có khả năng tự độ, như sức vận chuyển của chiếc xe nhỏ. Đó là lý do Đức Phật gọi “Đoạn hạt giống Phật”. Người có khả năng giáo hóa mọi người gọi là Bồ-tát Đại thừa; cả mình và người đều được giải thoát, như sức chuyên chở của chiếc xe lớn. Lý do những vị này gặt được vô lượng phước báo là bởi họ có năng lực đi đến Phật địa. Chư Phật nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương đều khen ngợi công đức không thể nghó bàn của Đức Phật A-di-đà; nghóa là chúng ta không thể đem tâm để suy nghó, dùng ngôn từ để luận bàn. Công đức của Ngài quả là siêu việt. Như vậy, có việc gì mà Ngài không làm được! Cho nên, nếu ta khuyên được một người tu tập Tịnh độ rồi đem duyên lành ấy mà tiêu trừ tội ác cũng được, hay truy tiến cho vong linh cũng được. Chỉ cần ta chí thành chú nguyện thì đều gặt hái được kết quả. Đọc truyện Phòng Chữ quý vị sẽ biết sơ về vấn đề trên. Huống gì chúng ta khuyên được một người đến năm, mười người. Lại nữa, huống gì ta khuyên dạy người khác; cứ tiếp tục mãi như vậy thì giáo lý Tịnh độ Tây phương sẽ được truyền bá khắp nơi và chúng sinh trong biển khổ có thể sinh về Cực lạc cả. Khuyên người đi theo con đường thiện gọi là Pháp thí. Tịnh độ là loại pháp thí siêu việt nhất, vì nó làm cho chúng sinh ra khỏi luân hồi, cho nên không có pháp nào so sánh với nó được. Vì vậy, phước báo của việc khuyên dạy ấy cũng vô lượng, nên bài kệ khuyến tu của Bồ-tát Đại Từ viết: “Khuyên được ba người, thì phước đức giống như sự tinh tiến của mình. Khuyên mười người trở lên, phước đức đã vô cùng. Nếu khuyên trăm, muôn người, đó gọi là chân thật Bồ-tát. Nếu vượt quá ngàn người, là A-di-đà Phật”. Qua những đoạn kệ trên ta biết rằng, một khi đã theo giáo lý Tịnh độ thì ta cần phải làm cho tâm mình rộng lớn ra, để khiến cho ai ai cũng biết con đường này ngõ hầu tích tập vô lượng phước đức. <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 8 Vả lại, nếu người ta khổ vì đói thì mình cho họ một bữa ăn; nếu người ta khổ vì lạnh thì mình cho họ một tấm áo. Ân huệ ấy cũng lớn lắm rồi. Huống gì họ đang trầm luân trong sáu nẻo không lúc nào ra khỏi, mà ta lại đem pháp môn này để khai thị khiến họ được thoát khỏi luân hồi mà thọ nhận mạng sống và niềm vui vô hạn? Ân đức ấy quả là cao sâu. Kinh Kim Cang nói: “Nếu người đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng để bố thí; sự bố thí ấy dầu trải qua vô lượng trăm, ngàn, vạn, ức kiếp cũng không bằng có người nghe kinh này mà tin tưởng, không chống trái, thì phước đức sẽ hơn hẳn người kia.” Bởi lẽ, người đem thân mạng để bố thí thì vẫn không thoát khỏi sự thọ nhận phước báo thế gian, nhưng phước báo rồi cũng có lúc hết. Còn người tin kinh Kim Cang thì dần dần sẽ ngộ được chân tánh và phước đức ấy mới là vónh cửu, vì tự thân của nó siêu việt hơn loại phước đức kia. Theo quan điểm của tôi, không những chỉ có người tin kinh mới được như vậy, nếu chúng ta đem Tịnh độ để khuyên dạy mọi người thì phước báo cũng ngang với người tin kinh Kim Cang. Vì sao? Vì người được sinh về Cực lạc thì không bị luân hồi lại, vì đã chứng bất thoái chuyển và vì được tiến thẳng đến quả vị Phật. Người sinh về Tịnh độ dẫu chưa thành Phật nhưng đó là điều kiện để thành Phật. Vì vậy, nếu chúng ta khuyên một người thành Phật tức là ta đã tựu thành một chúng sinh làm Phật. Thông thường, làm Phật tức là độ vô lượng chúng sinh. Những chúng sinh được độ ấy khởi đầu từ ta. Như thế, phước báo của ta hơn hẳn người đem số lượng thân mạng nhiều như cát sông Hằng để bố thí trải qua vô lượng trăm, ngàn, vạn, ức kiếp. ------------------------------------- <詞>PHỔ KHUYẾN TU TRÌ 9 Thông thường, lúc thọ nhận sự dạy bảo của thầy bạn thì ta nên nêu cao ân huệ; gặp sự đãi ngộ bằng lễ trong giao du thì chúng ta nên đem Tịnh độ để báo đền. Cho đến tất cả ai cho ta một bữa ăn, một chén trà, hoặc tiếp ta bằng một lời nói, một chỗ ngồi, thậm chí đến công lao của kẻ nô bộc, nói chung, tất cả công đức đã thọ dụng được ta nên đem Tịnh độ để giới thiệu với họ, khiến họ được thoát ly biển khổ. Không những chỉ như thế, mà ngay cả những người quen hoặc không quen ta cũng nên đem Tịnh độ để giáo hóa khiến họ cùng sinh về Tịnh độ với mình. Lại không chỉ như thế, lúc Phật còn ở đời, có một nước rất khó giáo hóa, Ngài nói nước đó có duyên với Mục-kiền-liên, nên sai tôn giả Mục-kiền-liên đến hóa độ, khiến dân nước ấy đều tin thuận. Có một đệ tử hỏi lý do. Đức Phật nói: “Trong những kiếp trước, Mục Liên làm người đốn củi, vì ông làm kinh động bầy ong nên bèn phát nguyện lành rằng: “Sau khi đắc đạo, tôi sẽ độ những con ong này”. Ngày nay, những người trong nước ấy là bầy ong thuở trước. Vì Mục-liên phát thiện nguyện ấy nên có duyên lành với họ”. Qua câu chuyện này ta thấy rằng, không những chúng ta chỉ khuyên dạy Tịnh độ đối với loài người mà đối với những loài chim bay, thú chạy cho đến loài bò, bay, máy, cựa; nếu có hình tướng thì ta nên nhân lúc thấy mà niệm vài tiếng Nam-mô A-di-đà Phật và phát lời lành rằng: “Nguyện các người đều sinh về cõi Cực lạc. Sau khi đắc đạo, tôi sẽ độ tất cả.” Không những ta làm thế đối với loài có hình tướng mà đối với những chúng sinh không có hình tướng ta cũng phát nguyện lành như vậy. Niệm lành của ta càng lúc càng thuần thục, lại có duyên lành với tất cả chúng sinh thì chắc chắn ta sẽ sinh về Thượng phẩm thượng sinh. Đến lúc khác, ai ai cũng tin thuận với sự hóa độ của ta.  <卷>QUYỂN 4 Pháp môn Tịnh độ đa phần được thấy ở kinh A-di-đà Đại bản cùng kinh Thập Lục Quán. Pháp môn này có cạn và sâu. Cạn tức là công tu niệm ít, thuộc loại thấp trong chín phẩm. Sâu tức là công hành trì nhiều. Thuộc loại cao trong chín phẩm. Dẫu cạn hay sâu gì cũng đều được thoát vòng sinh tử và sống mãi không già nua. Trước tiên, tôi xin lược qua phần cạn. Tiếp theo, tôi sẽ bàn đến phần sâu. Bởi lẽ tùy chỗ tu tập của hành giả có sâu và cạn khác nhau. <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 1 Trong số bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật A-di-đà, có lời nguyện “Lúc tôi thành Phật, nếu chúng sinh khắp mười phương chí thành tin tưởng, yêu thích, muốn sinh về nước tôi, niệm danh hiệu của tôi mười tiếng mà không được sinh, thì tôi sẽ không thành Phật”. Như thế nghóa là Đức Phật có lời thệ nguyện cứu độ chúng sinh và Ngài chỉ mượn mười niệm của chúng sinh để biểu lộ cho tấm lòng quy hướng thiết tha đối với Ngài mà thôi. Mỗi buổi sáng, hành giả chấp hai tay, mặt hướng về phía Tây đảnh lễ kế niệm lớn mười tiếng Nam-mô A-di- đà Phật rồi đảnh lễ mà niệm một biến bài kệ phát nguyện của Bồ-tát Đại Từ rằng: “Nguyện cùng người niệm Phật, sinh về nước Cực lạc, thấy Phật thoát sinh tử, như Phật độ tất cả.” Lại đảnh lễ mà lui ra. Nếu hành giả chí thành như thế thì sẽ được vãng sinh; nhưng e rằng không ở phẩm vị cao trong chín phẩm. Nếu ta dạy người không biết chữ tụng niệm bài kệ này thì sẽ có phước đức rất lớn. ------------------------------------ <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 2 Mỗi buổi sáng, hành giả chấp hai tay, mặt quay về hướng Tây mà đảnh lễ và niệm “Nam-mô A-di-đà Phật, Nam-mô Quán Thế Âm Bồ- tát, Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát, Nam-mô Nhất Thiết Bồ-tát, Thanh văn, Chư thượng thiện nhân”; mỗi danh hiệu mười tiếng. Lại đảnh lễ mà tụng niệm toàn bộ bài kệ tán Phật, sám tội, hồi hướng và phát nguyện của Bồ-tát Đại Từ một biến rằng: “Mười phương ba đời Phật, đệ nhất A-di-đà, chín phẩm độ chúng sinh, uy đức không cùng tận. Con nay quyết quy y, sám hối tội ba nghiệp, những việc thiện làm được, một lòng đem hồi hướng. Nguyện cùng người niệm Phật, cảm ứng hiện tùy thời, lâm chung cảnh Tây phương, hiện rõ ràng trước mặt. Thấy nghe đều tinh tiến, cùng sinh nước Cực lạc, thấy Phật thoát sống chết, như Phật độ tất cả”. Lại đảnh lễ mà lui ra. Bài kệ này có uy lực rất lớn, nó có thể tiêu diệt tất cả tội lỗi và làm lớn tất cả phước đức cho hành giả. Lúc đảnh lễ, nếu đốt hương, vái lạy được thì càng tốt. Ngày nào, hành giả cũng tu niệm như thế thì sẽ sinh vào Trung phẩm. Nếu ta đem bài kệ này để dạy người khác phước đức của mình rất lớn. --------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 3 Hành giả luôn luôn tụng niệm như phần hai. Lúc niệm Phật, hành giả nên tưởng tượng thân mình đang ở cõi Tịnh độ, đang chấp tay trước Phật và cung kính niệm Phật. Lúc niệm danh hiệu Bồ-tát, hành giả cũng tưởng như trên. Lúc nghó nhớ đến tất cả Bồ-tát, Thanh văn, và chư thượng thiện nhân, hành giả cũng tưởng thân mình ở tại Tịnh độ; tiếng tụng niệm của mình vang dội trước mặt tất cả Bồ-tát, Thanh văn và chư thượng thiện nhân. Lúc lễ lạy, hành giả cũng tưởng tượng thân mình đang lễ lạy tại Tịnh độ. Lúc niệm bài kệ, hành giả cũng tưởng tượng thân mình ở tại Tịnh độ mà chắp tay cung kính trước Phật để niệm tụng. Duy những lúc có tượng Phật và Bồ-tát thì không cần thực hiện như thế, nhưng hành giả nên tưởng tượng những tượng ấy như Phật và Bồ-tát đang hiện thân ở đây để nhận sự lễ lạy và nghe tiếng tụng niệm của mình. Nếu chuyên tâm như thế thì chắc chắn hành giả sẽ đạt được phẩm vị cao. <詞>PHÁP MÔN TU HÀNH VÀ TU TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI BỒ-TÁT 4 Vào sáng sớm, trước tiên, hành giả hướng mặt về phía Tây, đốt hương và chú niệm rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả chúng sinh tận hư không giới, đốt hương kính lễ tất cả chư Phật, tất cả chánh pháp, tất cả Thánh chúng là chư đại Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn trong tận hư không giới. Đệ tử kính lạy Phật quá khứ Nhiên Đăng, Bổn sư Thích- ca Mâu-ni Phật, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Phổ Hiền; tất cả Thánh chúng gồm Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn trong pháp hội của Phật Thích-ca. Đệ tử kính lạy Như Lai Thế Tự Tại Vương ở quá khứ, ba mươi sáu vạn ức, mười một vạn chín ngàn năm trăm Đức Phật cùng danh hiệu là A-di-đà đang hiện hữu ở thế giới Cực lạc, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, cùng tất cả chư vị Thánh chúng Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác trong cõi nước của Đức Phật A-di-đà (có thể tăng thêm danh hiệu Phật tùy ý của mình, nếu không tăng cũng được). Và kính lễ cùng khắp: Trên từ chư Thiên, thiên đế, Thiên nhân, Nhật Nguyệt Tinh tú, Nam đẩu, Bắc đẩu, ty trung, ty mạng, phong sư, vũ sư, là tất cả tạo hóa chủ linh Thần; dưới đến địa tỳ, đại nhạc, minh hải, quần sơn, chúng thủy, là tất cả chủ tạo hóa linh Thần; ở giữa là tất cả linh Thần cầm giữ họa phước ở nhân gian v.v… xin chư vị thành tựu tất cả nguyện lành để tế độ vô lượng vô biên chúng sinh. Trước tiên, nguyện cho tôi hiện đời không bị tật bệnh, tai nạn (khấn theo ý mình). Lúc lâm chung, trong khoảng một tháng tôi biết được ngày giờ mình ra đi, có hóa Phật đến đón. Nguyện cho cảnh giới Tây phương hiện rõ giữa bầu Trời và lâu mất để mọi người đều được thấy. Nguyện tôi như người vào thiền định, ra đi thanh thản, liền được thấy Phật A-di-đà, chứng Vô sinh pháp nhẫn và có đủ sáu thứ Thần thông; tuy không ra khỏi nơi đây trong một năm mà tôi đã lập tức quay trở lại nơi này để giáo hóa chúng sinh. Tôi dần dần biến đổi Nam Diêm-phù-đề này, tất cả cõi Ta-bà này, cho đến vô lượng thế giới khắp mười phương thành cõi Cực lạc thanh tịnh. Lễ bái. Lại khấn nguyện rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả chúng sinh trong tận hư không giới. Đệ tử kính lễ tam thế chư Phật trong tận hư không giới. Ngưỡng nguyện Như Lai đại Từ, đại Bi thương xót, nghó đến chúng sinh đang trầm luân trong biển khổ mà không có lúc thoát ra; nếu Như Lai đang ở Niết-bàn thì xin Ngài ra khỏi Niết-bàn để cứu độ chúng sinh không cùng tận và không dứt; nếu Như Lai đang ở thế gian thì xin Ngài chuyển Pháp luân để khai đạo cho quần mê vô cùng và không dứt; nếu Như Lai đang ở vị lai thì xin Ngài nhập trong muôn loài để gieo trồng hạt giống thiện căn không cùng không dứt. Ngưỡng nguyện Như Lai hóa độ hết chúng sinh sau đó mới dừng. Ngưỡng nguyện chư vị Duyên giác, Thanh văn cũng thực hiện những điều như vậy. Lễ bái. Lại khấn nguyện rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả thiện nhân trong tận hư không giới mà tụng bảy biến bài kệ Trường thọ. Nguyện cho số tuổi thọ của chư vị thiện nhân ấy được tăng thêm để hóa độ tất cả chúng sinh, làm cho chúng sinh đều được ra khỏi biển khổ. Ngưỡng nguyện chư Long vương trên Trời và ở thế gian hãy lấy từ tâm của tôi để diệt trừ chất độc sân hận, tôi nguyện đem khối trí tuệ này để tiêu chất độc ấy. Dù là độc có vị hay không có vị, tôi nguyện phá hủy và cho chúng vào trong đất. Lễ bái! Đức Phật nói: “Vào sáng sớm, hành giả niệm bài kệ này bảy biến thì sẽ được trường thọ”. Nay hành giả vì tất cả thiện nhân trong tận hư không giới mà tụng niệm thì công đức vô cùng to lớn. Lại khấn nguyện rằng: “Đệ tử là… chí tâm kính lễ Thế Tôn Nhật Nguyệt Quang Minh, Như Lai Hỏa Quang, Bồ-tát Quán Thế Âm; xin chư vị hộ niệm sự tụng trì mỗi lần một trăm lẻ tám Thánh hiệu Như Lai, Bồ-tát trong mỗi ngày của con. Ngưỡng nguyện Đại từ đại bi, mỗi vị đem nguyện lực gia bị cho đệ tử sớm ngộ được chân tánh, tăng trưởng phước lực và không có tất cả tật bệnh, tai nạn. Nguyện chư vị đem ba điều trên để cứu vớt chúng sinh”. Lễ bái. Lại khấn rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả chúng sinh không phân biệt lớn nhỏ của Nam Diêm-phù-đề này mà kính lễ chư Thiên, Thiên đế, Thiên nhân, Nhật Nguyệt, Tinh tú, Nam đẩu, Bắc đẩu, ty trung, ty mạng, phong sư, vũ sư, tất cả chủ tạo hóa linh Thần; các linh kỳ của đất đai, đại nhạc, minh hải, quần sơn, chúng thủy, tất cả tạo hóa linh Thần; tất cả linh Thần nắm phước họa ở nhân gian. Đệ tử kính lễ cùng khắp, vì tất cả chúng sinh mà tạ ân mang chở chiếu soi, sinh thành, dưỡng dục và hộ vệ. Đệ tử kính vì các chúng sinh ấy mà niệm một trăm lẻ tám biến Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật để gieo trồng thiện căn vô thượng, niệm một trăm lẻ tám biến Nam-mô A-di-đà Phật để kết thiện duyên vô thượng. Ngưỡng nguyện những chúng sinh được thấm gội hồng ân, đều hoan hỷ hướng về nhau mà không tương tàn tương sát, không ăn nuốt và lăng nhục nhau. Ngưỡng nguyện những chúng sinh ấy tu tập Phật pháp để thoát ly biển khổ và biến Nam Diêm-phù-đề thành thế giới Cực lạc. Lễ bái. Lại khấn nguyện rằng: “Đệ tử là… xin cảm tạ sự mang chở của Trời đất; sự chiếu soi của mặt trăng, mặt Trời và tinh tú; sự sinh thành của tạo hóa, sự hộ vệ của linh Thần, công dưỡng dục của mẹ cha, sự cứu giữ của vua quan, sự răn dạy của thầy bạn, sự giúp đỡ của ân đức và nguồn gốc của áo mặc thức ăn cùng chỗ thọ dụng, nơi ban lệnh và chỗ đi, đứng, nằm, ngồi cùng tất cả ân lực đối với bản thân, đệ tử xin cảm tạ. Đệ tử kính vì những phước đức ấy mà niệm một trăm lẻ tám biến Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật để trồng thiện căn vô thượng, niệm một trăm lẻ tám biến Nam-mô A-di-đà Phật để kết duyên lành vô thượng. Ngưỡng nguyện tất cả hữu tình ở bên trên sớm chứng đắc Chánh giác; ở dưới đều được sinh Cực lạc. Lễ bái! Hành giả thực hành xong sáu nghi thức trên, sau đó mới quay về hướng Tây mà tu tập Tịnh độ. ------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ TỊNH ĐỘ CỦA ĐẠI BỒ-TÁT 5 Vào sáng sớm, hành giả quay mặt về hướng Tây, đốt hương rồi lễ bái mà khấn rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả chúng sinh trong tận hư không giới mà kính lễ Thánh chúng Tây phương và xưng niệm mười lần Thánh hiệu. Ngưỡng nguyện Thánh chúng đại Từ đại Bi khai mở uy Thần để tế độ chúng sinh trong số những chúng sinh đang niệm Phật, khiến họ đều được sinh về cõi Cực lạc. Hành giả niệm bốn Thánh hiệu, mỗi Thánh hiệu mười tiếng. Lễ bái! Lại khấn rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả chúng sinh trong tận hư không giới mà khen ngợi Đức Phật A-di-đà, sám hối tội lỗi, hồi hướng, phát nguyện và kính lễ. Ngưỡng nguyện Như Lai đại từ đại bi khai mở uy Thần để gia hộ cho mỗi chúng sinh trong số những chúng sinh đang khen ngợi Phật, đang sám hối tội lỗi, đang hồi hướng, đang phát nguyện và đang kính lễ. Ngưỡng nguyện Như Lai cứu vớt tất cả để họ được sinh về thế giới Cực lạc. Hành giả niệm một biến Đại Từ Bồ-tát toàn kệ ở đoạn thứ hai đầu quyển. Lễ bái! Lại khấn rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả chúng sinh trong tận hư không giới mà kính lễ Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí và tất cả Bồ-tát, Thanh văn cùng chư vị Thượng thiện nhân…; ngưỡng nguyện đấng đại Từ, đại Bi xót thương và nghó nhớ đến chúng sinh đang trầm luân trong biển khổ nhưng không có lúc thoát khỏi mà khai mở uy Thần để cùng nhau lần lượt giáo hóa họ. Ngưỡng nguyện chư vị phân thân vào nước Trung Hoa này để giúp đỡ cho khanh tướng, quần Thần, và phù trợ vua của tôi để dạy dỗ và cai trị muôn dân, khiến họ không tranh chấp lẫn nhau, giết hại lẫn nhau, không dày xéo, ăn nuốt nhau; sao cho cuộc đời được thuần hòa để cùng nhau bước lên vùng đất nhân và thọ. Ngưỡng nguyện chư vị làm quốc vương, đại Thần, bách quan thứ doãn đến các vị quan có chức quyền tại Nam Diêm-phù-đề này, đến tận cõi Ta-bà, cho đến những thế giới bẩn ác khắp mười phương mà giáo hóa chúng sinh, khiến họ cùng nhau tu tập Phật đạo để ra khỏi biển khổ. Nguyện chư vị biến đất nước tôi cho đến các thế giới bẩn ác khắp mười phương thành cõi Cực lạc thanh tịnh. Lễ bái! (Bản cũ viết: “Ngày mười bốn tháng tư năm Ất Mão, niên hiệu Diên Hựu, lệnh cho công nhân khắc bản gỗ. Đến đêm mồng một tháng mười lúc khắc đến bản này thì có một viên xá-lợi. Ngày mồng lúc khắc đến phía trên chữ “Pháp” lại có một viên xá-lợi. Ngày Hạ nguyên, lúc khắc đến phía trên chữ “Thánh” lại có thêm một viên xá-lợi. Ba viên xá lợi ấy hiện vẫn giữ trong bản gỗ để tín hữu cúng dường”. Ngưỡng mong người đọc bản văn này, thấy được sự linh nghiệm mà sinh tâm tin tưởng sâu bền để tu tập, chắc chắn được sinh về Tịnh độ. Đó là điều mà cư só Long Thư đã nói: “Từ xưa đến nay, những người tu trì rất nhiều, lẽ nào lại không có sự chứng nghiệm?” Quả thật là lời đáng tin cậy!). Nếu hành giả không dùng thịt cá thì rất tốt. Nhưng nếu vì bệnh tật mà phải ăn theo phép “Tam tịnh nhục” thì nên khấn nguyện thế này: “Đệ tử là… vì thân đang ở trong lưới đời, vì túc nghiệp sâu nặng, và vì thân thể đang đau ốm nên không thoát được việc ăn theo phép Tam tịnh nhục… Đệ tử kính vì những chúng sinh mà mình đã ăn ngày hôm qua mà tụng niệm Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới ba mươi sáu vạn ức, mười một vạn chín ngàn năm trăm vị cùng danh hiệu là A-di- đà Phật ở cõi Cực lạc bốn mươi chin biến; ngưỡng nguyện Như Lai đại từ đại bi khai mở uy Thần để gia hộ cho mỗi chúng sinh bỏ thân mạng cùng những người đang tụng niệm, xin vì họ mà truy tiến và quyết định cứu độ họ sinh về thế giới Cực lạc. Đệ tử nguyện cho những chúng sinh bị ăn nuốt để bồi bổ khí lực cho bản thân, những nghiệp lành mà đệ tử đã làm sẽ chia sẻ cùng với những chúng sinh ấy. Nguyện cho họ được sinh về Cực lạc trước, đợi lúc đệ tử sinh về Cực lạc, được thấy Phật, được nghe pháp và chứng đắc sáu thứ Thần thông, rồi trở lại Nam Diêm-phù-đề mà giáo hóa chúng sinh, thì những chúng sinh ấy đều theo đệ tử trở lại Ta-bà để cùng nhau hóa độ chúng sinh và cùng thành bậc giác ngộ. Lễ bái! (Nếu hành giả không ăn thịt cá thì nên vì những con tằm dùng làm tơ lụa may áo quần, đến những con tằm dùng tơ lụa để may áo quần của những người giao du với ta mà tụng niệm như trước). Lại khấn nguyện rằng: “Đệ tử là… kính vì tất cả chúng sinh bị giết, bị ăn ngày hôm nay ở Nam Diêm-phù-đề mà tụng niệm một trăm hai mươi biến Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới ba mươi sáu vạn ức, mười một vạn chín ngàn năm trăm vị cùng danh hiệu A-di-đà Phật; ngưỡng nguyện Như Lai đại từ đại bi đem danh hiệu do đệ tử tụng niệm, cứ mỗi tiếng là một Như Lai để độ tất cả chúng sinh và làm như thế cho đến hết số lượng danh hiệu được niệm tụng. (Bản cũ, ở chỗ này lại hiện xá-lợi). Cũng như vậy, ngưỡng nguyện Như Lai độ tất cả họ sinh về Cực lạc. -------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 6 (Đức Phật Thích-ca đem Thánh hiệu này dạy hai ông bà lão. Nếu ai chí thành trì niệm nó, cho đến tụng trì chân ngôn Vãng sinh thì giải trừ được oán kết, tuổi thọ tăng trưởng, có phước báo lớn, chứng Vô sinh nhẫn và ở vào vị trí bất thoái. Kết quả thật vô cùng vó đại! Lữ Nguyên Ích khuyến tu). Thuở Đức Phật còn tại thế (bản cũ, xá-lợi xuất hiện ở đây), có hai ông bà lão dùng một đấu hạt để ghi số mà niệm A-di-đà Phật, cầu sinh Tịnh độ. Đức Phật dạy: “Ta có phương pháp đặc biệt khiến các ngươi niệm một danh hiệu mà được số lượng của nhiều đấu. Nói xong, Đức Phật liền dạy họ niệm Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới ba mươi sáu vạn ức, mười một vạn chín ngàn năm trăm vị Phật cùng danh hiệu A-di-đà Phật. Nên dùng vỏ cây mà tính, mỗi tiếng hợp với một ngàn tám trăm hạt, tính ra con số là hai trăm đấu.” Do Đức Phật tự đem cách này dạy hai ông bà lão nên ta biết chắc rằng công đức của nó quả thật là vô cùng. Nếu người không thể niệm được như vậy thì chỉ niệm theo cách giản đơn. Nếu hành giả dạy người khác tụng niệm toàn bộ thì công đức phước báo rất lớn. Hoặc hành giả trì tụng thêm kinh A-di-đà Tiểu bản, hoặc kinh A-di-đà Đại bản, hay các kinh khác… tùy số lần tụng nhiều hay ít mà đem hồi hướng để nguyện sinh Tây phương cũng đều được. “Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản vãng sinh Tịnh độ chân ngôn: Nam-mô A di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa địa dạ tha. A di lị đô bà tỳ. A di lị da tất đam bà tỳ. A dị li da. Tỳ ca lan đế. A di lị da. Tỳ ca lan đa. Dà di nị. Già dà na. chỉ đa ca lệ. Ta-bà ha.” Chữ của chân ngôn vốn không phải là chữ của Ấn Độ, mà do dịch giả sử dụng. Đa phần mọi người cho rằng chữ đó khó nhận biết. Lúc Đức Phật mới thuyết bài chú thì chỉ có âm thanh, ngày nay người ta giữ lại âm thanh của Phật rồi dùng ngôn ngữ dễ nhận biết để thay thế, nhưng vẫn không đánh mất ý của Phật, vì vậy chúng ta không nên hoài nghi. Lại nữa, do người đời chấm câu bị sai rất nhiều, nên nay tôi dùng tư liệu trong tạng kinh của hai xứ để chấm câu lại cho tương ứng với nhau, mong người trì tụng không nên nghi ngờ. Ai tụng bài chú này thì luôn luôn có Đức Phật A-di-đà đứng trên đỉnh đầu không cho kẻ oán làm hại, hiện đời được an ổn và khi mất sẽ được vãng sinh theo ước nguyện của mình. Nếu hành giả tụng đến hai trăm ngàn biến thì mầm Bồ-đề sẽ sinh, tụng đến ba trăm ngàn biến thì được nhanh chóng diện kiến Đức Phật A-di-đà. Vào đời Tấn, Pháp sư Tuệ Viễn tụng bài chú này nên có vị Thần tay cầm đài bạch ngân từ phương Tây đi đến mà nói rằng: “Thọ mạng của pháp sư đã hết, hãy nương đài Bạch Ngân này mà vãng sinh Cực lạc.” Khi ấy mọi người đều nghe trong không gian có tiếng nhạc trỗi lên và mùi hương lạ trải mấy ngày mới tản. -------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 7 Đức Phật hỏi A-nan: “Ông muốn thấy người ở địa ngục không?”. A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Con muốn thấy”. Đức Phật nói: “Thân làm ác, miệng nói ác, ý nghó về điều ác. Đó là người địa ngục”. Bởi lẽ, thiện ác ở đời không ngoài ba nghiệp là thân, miệng và ý. Nay cả ba nghiệp đều ác tức là toàn nghiệp đen, vì thế mà phải vào địa ngục. Nếu ba nghiệp đều thiện tức là toàn nghiệp trắng, nên được sinh lên Trời. Nếu trong ba nghiệp có một nghiệp thiện gọi là tạp nghiệp thì cũng không bị rơi vào địa ngục. Vì vậy, tuy thân và ý ác nhưng nhờ miệng tụng niệm danh hiệu Phật nên cũng có một nghiệp thiện và do vậy mà vẫn hơn cả ba nghiệp đều ác. Huống gì miệng tụng niệm danh hiệu Phật, tâm lại tưởng nhớ đến tượng Phật tức là ý nghiệp thiện. Hành giả luôn thiện hóa ba nghiệp để tu tập Tịnh độ thì chắc chắn được sinh về Thượng phẩm. Tôi có nghe kể chuyện người bán tôm ở Trấn Giang, và suy gẩm rằng người ấy chỉ kêu một tiếng tôm mà có đủ ba nghiệp ác là: Ý muốn bán tôm tức là ý nghiệp ác. Thân gánh tôm tức là thân nghiệp ác. Miệng rao bán tức là khẩu nghiệp ác. Đó là người mà Đức Phật gọi là người địa ngục. Nếu xét thêm câu chuyện đó thì người địa ngục quả là rất nhiều, chúng không sợ sao? Quả thật, cũng vì ngu si mà chúng ta không biết gì về luật nhân quả, do vậy mà bị hãm vào vòng tội ác. Thật đáng thương xót thay! Những người biết pháp môn Tịnh độ nên khai thị cho những người khác. Đó là pháp thí. Pháp thí là việc làm lớn nhất trong hạnh bố thí. Vì vậy, phước báo của nó không thể nào đo lường được. Có người nói: “Kẻ cứ một mực xung tụng danh hiệu Phật thì không khác gì cứ gọi mãi tên một người, người bị gọi sẽ vô cùng phẫn nộ. Vì vậy, việc cứ một mực xưng tụng tên một vị Phật chưa hẳn là việc làm tốt!”. Đáp: Không đúng! Chúng sinh tích chứa khẩu nghiệp từ vô thỉ đến nay như núi biển, họ tụng danh hiệu Phật vô cùng nhiều những mong quét sạch nghiệp ấy mà còn sợ chưa đủ! Sao ông lại đem chuyện “Gọi tên người” để so sánh, vặn vẹo? Lại nữa, chính Đức Phật khai thị pháp môn này để dẫn dụ chúng sinh khiến họ thiện hóa khẩu nghiệp, rồi dần dần thiện hóa thân và ý nghiệp. Bởi vậy, nói rằng “Cứ một mực xưng tụng một danh hiệu Phật chưa hẳn đã là việc làm tốt” là câu nói của người phàm tục, không phải là lời nói của bậc luôn yêu thương, nâng đỡ và dẫn dụ chúng sinh. Và cố nhiên, những lời đó không xứng đáng để nghe và suy nghó! ------------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 8 Nếu hành giả trường trai, lễ Phật, niệm Phật, đọc tụng kinh điển Đại thừa, giải đệ nhất nghóa, rồi đem những công hạnh ấy mà hồi hướng và nguyện sinh Tây phương thì chắc chắn sinh lên Thượng phẩm thượng sinh. Trai là gì? Tức là không ăn thịt, không uống rượu, không dâm dục, không ăn năm loại rau cay. Giới là gì? Tức sát sinh, trộm cắp và tà dâm là ba nghiệp của thân; vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu là bốn nghiệp của miệng; tham dục, sân hận và tà kiến là ba nghiệp của ý. Tất cả là mười giới. Người giữ trọn mười giới thì gọi là thập thiện, nếu phạm thì gọi là thập ác. Người giữ trọn mười giới thì được sinh lên Trời; giữ bốn giới trước và giới tửu thì không bị mất thân người. Người tu Tịnh độ thì không hạn chế như vậy. Nếu hành giả giữ cả mười giới, cộng thêm công đức tu tập Tịnh độ được nói ở trên thì chắc chắn sinh lên Thượng phẩm thượng sinh. Nếu hành giả chỉ giữ năm giới, nhưng tu Tịnh độ thì cũng được sinh về Trung phẩm thượng sinh hoặc Thượng phẩm hạ sinh. Nếu hành giả không giữ được năm giới thì cũng cố gắng giữ giới Bất sát. Sát sinh là giới đầu tiên trong năm giới, cũng là giới đầu tiên trong mười giới và cũng là giới đầu tiên trong hai trăm năm mươi giới của Tỳ-kheo. Như vậy, người không sát sinh là người thiện, người sát sinh là người ác. Bởi thế, tôi nói rằng kẻ nào không muốn sát sinh thì nên suy xét mình. Nghóa là, mình không thể tự giết mình được, và mạng sống của mình cùng con vật bị giết không có gì khác nhau. Người không sát sinh thì được sống lâu, kẻ sát sinh thì đoản mạng. Mình muốn sống lâu trong lúc loài vật cũng không muốn chết yểu; bởi vậy, ta không có bất cứ lý do gì để giết mạng sống của loài vật chỉ vì muốn tăng trưởng mạng sống của mình. Vì lẽ đó, hành giả nên giữ giới sát sinh một cách cẩn mật! Kẻ sát sinh để bồi bổ cho miệng và bụng thì sự ham muốn của miệng và bụng không bao giờ dừng. Sau khi người ta đã buông đũa, lúc vị ngon đã hết mà nghiệp sát vẫn còn nguyên. Nếu ngày thường ta không sát sinh nhưng vì phải đãi khách mà sát sinh thì còn tạm được. Huống gì tội sát sinh đó chỉ có một mình mình chịu. Kinh nói: “Đến thì một mình đến, đi lại một mình đi, luân hồi mình tự chịu, quả báo mình tự mang.” Đọc đoạn kinh đó lẽ nào ta lại vẫn cứ sát sinh? Nếu ta sát sinh để cúng tế tổ tiên thì chắc gì tổ tiên không thọ dụng rau cỏ đạm bạc? Khổng Tử nói: “Dẫu cúng tế bằng rau trái đi nữa cũng phải trai giới”. Như vậy, ai dám nói rằng tiên tổ không dùng rau dưa? Nếu chúng ta đốt hương, tụng kinh, nương vào Phật lực để truy tiến thì chắc chắn hương linh sẽ được siêu sinh. Vì vậy, sự siêu sinh của hương linh không nằm ở việc sát sinh. Nếu hành giả chỉ giữ một giới bất sát để tu Tịnh độ thì cũng không bị sinh về hạ phẩm! ----------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 9 Hành giả trai giới, tắm gội sạch sẽ, thanh tâm tónh lự, hướng về Tây mà an tọa; nhắm mắt và im lặng để quán tưởng thân sắc vàng của Đức Phật A-di-đà đang ngồi trên đài sen trong ao thất bảo tại Tây phương, thân Phật cao một trượng sáu. Khoảng giữa hai lông mày một dải bạch hào, có năm luồng ánh sáng xoay về phía phải trong tám rãnh trống. Ánh sáng chiếu soi khuôn mặt và thân màu vàng. Tiếp theo, hành giả trụ tâm ở bạch hào, không có một niệm nào khác dầu rất vi tế. Hành giả làm thế nào để khi nhắm hoặc mở mắt đều nhìn thấy Bạch hào ấy thì không bao giờ quên được. Tu tập như vậy lâu ngày thì tâm hành giả được thuần thục và tự nhiên sẽ được thấy toàn thân của Phật. Phép tu này siêu việt nhất. Kinh nói: “Lúc tâm đang tưởng đến Phật thì tâm đó chính là Phật.” Nó hơn hẳn cách khẩu niệm; thân sau của hành giả chắc chắn được sinh lên Thượng phẩm thượng sinh. Đời Đường, có hai vị tăng tên là Khải Phương và Viên Quả chỉ tu tập pháp này trong năm tháng mà thấy thân mình đi đến Tịnh độ, được thấy Phật và được nghe pháp. Ý nói rằng kinh Thập Lục Quán thuyết minh rất tường tận về phép quán tưởng. Truyện này nằm ở cuốn thứ năm. ----------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 10 Hành giả tưởng thân Phật cao đến Trời, hoa sen Ngài ngồi cũng cao như vậy. Hành giả quán tưởng Bạch hào giữa lông mày như được nói ở trước. Phương pháp này siêu việt nhất, vì lúc tâm tưởng đến Phật thì tâm ấy tức là Phật. Do hành giả tưởng thân Phật cực lớn nên thiện niệm của hành giả cũng vô cùng lớn. Nếu hành giả chưa đạt được như vậy thì nên quán tưởng hình tượng nhỏ, nhưng phải chuyên tinh, không được tán loạn. Quán kinh nói: “Quán tưởng thân tướng, quang minh của Phật A-di-đà như trăm, ngàn, vạn, ức sắc vàng Diêm-phù-đàn. Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Bạch hào giữa hai lông mày như năm ngọn núi Tu-di. Mắt Phật như nước bốn biển, màu trắng, xanh rõ ràng. Phật dùng Vô duyên từ để nhiếp thủ chúng sinh!” Vàng Diêm-phù-đàn là loại vàng quý và đẹp. Na-do-tha tức là vạn ức. Do-tuần là mười sáu dặm. Căn cứ vào kinh ta biết rằng thân Phật là vô cùng tận. Độ lớn của một hằng sa do-tuần mà đã không thể nói, huống gì độ lớn của cả sáu mươi vạn ức hằng sa do-tuần. --------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 11 Hành giả quán tưởng Bồ-tát Quán Thế Âm; thân Ngài cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần, màu tử kim; lòng bàn tay có năm trăm ức hoa sen nhiều màu, có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng của hoa sen mềm mại. Ngài dùng bàn tay báu ấy để tiếp dẫn chúng sinh. Tiếp theo, hành giả quán tưởng Bồ-tát Đại Thế Chí; thân Ngài cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần, màu tử kim. Những chúng sinh có duyên đều được thấy. Tiếp theo, hành giả tưởng tự thân sinh trong thế giới Cực lạc, ngồi kết già trong hoa sen. Hành giả tưởng hoa sen mở và đóng, thấy Phật và Bồ-tát đầy khắp hư không. ------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 12 Hành giả phát tâm cứu độ chúng sinh, tâm chí thành, tâm kiên cố, tâm sâu dày cộng thêm lễ bái, niệm Phật. Như thế, hiện đời hành giả được gia hộ, thân sau được sinh lên Thượng phẩm thượng sinh. Tâm cứu độ chúng sinh là nguyện sinh về Tịnh độ, sau khi được thấy Phật, được nghe pháp rồi, sẽ cứu độ chúng sinh trong biển khổ chứ không phải độ riêng thân mình. Tâm chí thành là chí thành quy hướng, không có sự cẩu thả. Tâm kiên cố là tu tập kiên cố không thối lui. Tâm sâu dày là dụng tâm đến chỗ cực sâu, hướng thẳng đến Tịnh độ như tìm ngọc dưới đáy biển. Ba đời chư Phật cùng chúng sinh trong pháp giới đều từ tâm tạo ra, tâm ta đã như vậy sao không được Thượng phẩm thượng sinh. --------------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 13 Hành giả thực hành việc trai tăng cúng Phật, đốt hương, dâng hoa, treo phan, xây tháp, niệm Phật và lễ sám. Nói tóm là làm tất cả những việc sùng phụng Tam bảo. Đem những công đức ấy mà hồi hướng nguyện vãng sinh Tây phương cũng được. Hoặc hành giả làm đủ loại công việc lợi ích và phương tiện thiện xảo thuộc thế gian. Nghóa là, làm con thì hiếu dưỡng với cha mẹ, làm anh thì yêu thương em út, làm em thì vâng thuận anh, tất cả việc trong nhà đều tươm tất. Đối với tông tộc thì hòa đồng, lấy lễ mà giao tiếp; với bà con làng nước, với thông gia quyến thuộc thì lấy ân đức mà ban phát. Thờ vua thì hết dạ trung thành; làm bậc trưởng thượng thì đem điều thiện mà an dân; làm kẻ dưới thì đem lòng cần mẫn mà phụng sự người trên. Hoặc dạy dỗ người ngu tối, hoặc nâng đỡ người yếu đuối cô độc, hoặc cứu giúp người bị nạn, hoặc bố thí cho người bần cùng, hoặc sửa cầu đào giếng, hoặc phát thuốc cho cơm, hoặc bớt phụng sự bản thân để làm lợi ích cho người khác, hoặc lúc cầm tài sản để làm lợi ích cho mọi người thì nên tự xét mình, hoặc đem điều thiện để dạy người, hoặc xua điều ác ngợi khen điều thiện. Hành giả làm tất cả điều thiện thuộc thế gian tùy sức mình rồi đem những công đức đó để hồi hướng nguyện sinh Tây phương cũng được. Hoặc hành giả làm tất cả việc lợi ích thuộc thế gian không phân biệt lớn nhỏ. Ví dụ như dầu chỉ đem một đồng tiền mà cho người, hoặc cho người một ly nước, thậm chí một việc thiện rất nhỏ hành giả cũng nên khởi niệm rằng: “Tôi dùng những duyên lành này để hồi hướng nguyện sinh Tây phương.” Hành giả luôn trì tâm niệm ấy, niệm nào cũng nguyện sinh Cực lạc thì chắc chắn được sinh về Thượng phẩm. ------------------------------------- <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 14 Đức Phật nói: “Muốn sinh Tịnh độ thì nên tu tập ba loại phước: Hiếu dưỡng với cha mẹ, phụng sự sư trưởng, có lòng nhân từ không giết hại, tu mười nghiệp lành. Thọ trì Tam quy, có đủ các giới và không phạm uy nghi. Phát tâm Bồ-đề, tin tưởng nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy người khác tu tập.” Đó là nhân tịnh nghiệp chân chính của chư Phật trong cả ba đời. Tam quy là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. <詞>PHÁP MÔN TU TRÌ 15 Tôi đọc tất cả kinh tạng nhưng không thấy nói đến việc “gửi vào kho âm phủ”, nên mong mọi người hãy đem những vật phẩm gửi vào kho mà thỉnh tăng làm lễ cúng dường Tây phương. Nếu quý vị một lòng nghó nhớ đến Tây phương thì sẽ được vãng sinh. Còn nếu quý vị không làm như trên mà lại đem của gửi vào kho âm phủ thì hoàn toàn sai lạc. Bởi vì, một khi tâm chí của ta đã quanh quẩn tại âm phủ thì mất tất phải vào âm phủ. Như nếu có người không tu sửa mình theo đức hạnh của bậc quân tử để kết giao với hiền nhân mà lại đem tiền gửi vào viện tư lý, nơi người coi ngục đợi lúc mình vào tù thì lấy số tiền ấy mà chuộc tội! Đó là một việc làm quá sức lầm lạc! Thuyết ăn thịt. Kinh Lăng-già nói: Có vô số lý do để không nên ăn thịt. Thịt chúng sinh vốn chẳng phải là vật để ăn, do tai nghe mắt thấy đã quen nên không biết đó là sai. Nếu có thể dứt bỏ thì nên bỏ ngay. Nếu không thể bỏ thì chỉ ăn ba thứ tịnh nhục để giảm thiểu việc ăn thịt. Đó là không thấy giết, không nghe giết, không nghi vì mình mà giết. Nếu thức ăn nhiều mon thì nên bỏ bớt món thịt. Nếu hai bữa ăn đều là thịt thì nên ăn chay một bữa. Được vậy thì lộc của một người là vô số có thể giải oan, diệt tội. Như lời vua Diêm-la nói với Trịnh Lân thì nếu chí thành niệm Đức Phật A-di-đà ắt sẽ được vãng sinh. Thuyết về tướng ngồi của Quán Âm. Theo Tạng kinh, tay chân và sáu căn của chư Phật, Bồ-tát thường đoan chánh nên gọi là tám thứ đoan chánh. Bồ-tát Quán Âm vốn ngồi kiết già, Thần thông của Ngài biến hóa tự tại nên gọi là Quán Tự Tại. Người đời nay vẽ, đắp tượng giơ chân, gác tay ngồi rồi gọi là Quán Âm Tự Tại đó là sai bậy vậy.  <卷>QUYỂN 5 Pháp sư Tuệ Viễn người thời Đông Tấn, là vị đầu tiên khởi xướng pháp môn Tịnh độ. Từ Thị Lang – Vương Mẫn Trọng là quan bản triều, đến Tiền Đường Lục cư só ghi chép và tập hợp hơn hai trăm câu chuyện về vãng sinh rồi khắc thành bản để lưu truyền. Nay tôi không ghi lại tất cả mà chỉ chọn lấy “Người tu có giữ trai giới”, “Người tu thuộc bậc trung”, “Người tu thuộc kẻ có tội ác”, cho đến “Người tu trong lúc bị bệnh khổ”; cộng tất cả là ba mươi truyện. Những truyện này không ngoài mục đích khởi phát tín tâm cho hành giả. Pháp sư Tuệ Viễn, thời Đông Tấn. Tăng Tuệ Viễn người xứ Nhạn Môn. Ngài trụ ở Lô sơn, cùng Lưu Di Dân và tăng tục gồm một trăm hai mươi ba người kết thành Liên xã để tu tập Tịnh độ; và bảo rằng, mong ngày sau được thác sinh trong hoa sen. Ngài chuyên trừng tâm quán tưởng. Mười một năm đầu Ngài được thấy Thánh tượng ba lần nhưng vẫn im lặng. Sau mười chín năm, một buổi chiều tháng bảy, Ngài thấy thân của Đức Phật A-di-đà đầy cả hư không; trong ánh sáng hình tròn có các vị hóa Phật, hai Bồ-tát là Quán Âm và Thế Chí đứng hầu hai bên. Ngài lại thấy ánh sáng như dòng nước phân làm mười bốn nhánh; mỗi nhánh chảy theo hai hướng là trên và dưới; chúng tự thuyết giảng pháp vi diệu là Khổ, Không, Vô thường và Vô ngã. Những cảnh tượng đó giống như cảnh tượng mà kinh Thập Lục Quán đã mô tả. Đức Phật A-di-đà nói với sư Huệ Viễn rằng: “Ta đem sức mạnh của bản nguyện đến để an ủi ông. Bảy ngày sau, ông sẽ sinh vào cõi nước của ta.” Ngài thấy tăng Phật-đà Da-xá, Tuệ Trì và Đàm Thuận đứng bên cạnh Đức Phật. Những vị ấy vái chào Ngài và nói: “Sao sư đến chậm vậy? Trong lúc sư lại lập nguyện ước trước chúng tôi cơ mà!” Ngài Tuệ Viễn trò chuyện với họ và nói rằng: “Đầu tiên tôi ở Lô sơn và trong mười một năm được thấy Thánh tượng đến ba lần. Hôm nay lại được thấy, chắc chắn tôi được vãng sinh rồi.” Hôm sau Ngài nằm dưỡng bệnh đến bảy ngày thì viên tịch. Thuở nhỏ, Ngài đọc tất cả kinh sử và rất tinh thông về Lão, Trang. Nhân lúc đến núi Thái hành, được nghe pháp sư Đạo An giảng kinh Bát-nhã nên Ngài đắc độ và liền nói: “Những nghị luận của Cửu Lưu Chỉ là bã và trấu.” Vì vậy, Ngài liền xuống tóc và thờ pháp sư Đạo An làm thầy. Sau đó, Ngài đến Lô sơn và không ra khỏi núi ấy suốt ba mươi năm. Ngài thị tịch năm tám mươi hai tuổi. Lưu Di Dân, thời Đông Tấn. Trình Chi tên tự là Trọng Ân, hiệu là Di Dân, ông theo Pháp sư Tuệ Viễn để tu tập Tịnh độ. Cư só chuyên tọa thiền, quán tưởng và đã được thấy ánh sáng của Đức Phật chiếu rực rỡ, mặt đất đều hiện màu vàng chói, lúc ông đang nhập định. Ông cư ngụ tại núi Lô sơn mười lăm năm, năm cuối cùng lúc đang vào định, ông nhìn thấy Đức Phật A-di-đà; thân Ngài có màu tử kim, hào quang chiếu khắp nơi và Ngài duổi tay đến thất của ông. Xúc động vì cơ duyên hiếm có đó, nên ông rơi nước mắt và tự bày tỏ rằng: “Con biết phải làm cách nào để Như Lai xoa đỉnh đầu, cầm cà sa đến đắp lên thân mình?” Đức Phật liền xoa đầu, cầm cà-sa mà đắp lên người ông. Ngày khác, trong lúc đang tưởng niệm đến Đức Phật, ông lại thấy mình đi vào hồ thất bảo; trong hồ có hoa sen xanh và trắng xen lẫn nhau, nước trong vắt. Bên trong hồ có một người mà trên đỉnh đầu có ánh sáng hình tròn, giữa ngực có chữ vạn; người ấy chỉ vào nước trong hồ mà nói: “Đó là nước có tám công đức. Ngươi nên uống nước ấy!”. Ông liền uống nước và nghe ngọt lịm cả miệng, đến lúc quay về mà mùi hương lạ vẫn còn phát ra từ những lỗ chân lông trên thân thể. Ông liền nói với đại chúng: “Đây là duyên vãng sinh của tôi đã đến”. Chư tăng ở Lô sơn đều quy tụ để trợ niệm cho ông. Ông đứng trước tượng Phật, đốt hương, lay hai lạy mà khấn rằng: “Nhờ Di giáo của Bổn sư mà hôm nay con biết được từ phụ A-di-đà. Nén hương này, trước tiên con xin cúng dường lên Đức Phật Thích-ca, cúng dường đức A-di-đà; sau cùng xin cúng dường chúng Bồ-tát trong Pháp hội, đến chư vị Phật và Bồ-tát ở khắp mười phương; nguyện chư vị cứu độ cho tất cả hữu tình đều được sinh về Tịnh độ”. Khấn nguyện xong, ông liền nói lời từ biệt với đại chúng rồi ngồi ngay ngắn, mặt quay về hướng Tây mà đi. Ông mất năm năm mươi chín tuổi. Khuyết Công Tắc, thời Đông Tấn. Công Tắc là thành viên trong Liên xã của Ngài Tuệ Viễn. Sau khi mất, người bạn làm giỗ cho ông tại chùa Bạch mã ở Đông kinh. Lúc đó, toàn bộ rừng cây, điện vũ v.v… đều biến thành màu vàng, trong không trung có tiếng nói rằng: “Tôi là Khuyết Công Tắc. Ước nguyện được sinh về Cực lạc của tôi đã hoàn mãn, nên tôi đến để báo cho đại chúng hay.” Nói xong, ông liền biến mất. Hàn lâm học só Trương Khán, thời Thạch Tấn. Bình sinh, học só luôn làm điều thiện, tin và học Phật, nguyện trì tụng Đại bi tâm Đà-la-ni mười vạn biến và cầu sinh Tây phương. Lúc nguyện trì tụng Đại bi hoàn thành là khi ông tròn sáu mươi tuổi; ông nằm dưỡng bệnh và chuyên tâm niệm Phật A-di-đà. Ông nói với người nhà rằng: “Tây phương Tịnh độ nguyên ở tại phòng phía Tây trong nhà, Đức Phật A-di-đà ngồi trên đài sen. Ông Nhi đang đứng trên đất cát vàng ở hồ mà lễ Phật và đùa giỡn.” Nói xong, ông niệm Phật hồi lâu rồi ra đi. Ông Nhi là cháu của học só, mất lúc hai, ba tuổi. Tăng Đàm Giám ở Giang lăng, thời Nam Tống. Tăng Đàm Giám là người rất cẩn trọng đối với việc thực hành những trách nhiệm của mình, Sư thường ước nguyện được sinh về Cực lạc, được diện kiến Đức Phật A-di-đà. Vì vậy, dẫu làm được một việc thiện nhỏ sư cũng dùng hồi hướng cho Tịnh độ. Một hôm, trong lúc nhập định, sư thấy Đức Phật A-di-đà; Ngài lấy nước rưới vào mặt nhà sư mà nói: “Ta chùi sạch trần cấu cho ông! Ta rửa sạch tâm của ông! Thân và miệng của ông rất nghiêm tịnh!”. Ngài lại lấy một cành sen trong bình ban cho sư. Sau khi xuất định, sư liền từ biệt chư tăng trong chùa. Đêm dần khuya, sư đi một mình dưới mái hiên mà niệm Phật. Gần đến canh năm thì tiếng niệm của sư càng to thêm. Đến sáng, đệ tử vào vấn an như thường lệ thì thấy sư ngồi bất động trong tư thế kiết già, lúc nhìn kỹ mới hay sư đã viên tịch. Tăng Tuệ Tiến thời Nam Tề ở Dương đô. Năm ngoài bốn mươi tuổi, sư Tuệ Tiến phát nguyện tụng kinh Pháp Hoa; lúc bắt tay tụng thì bị bệnh, nên sư nguyện khắc in một trăm bản Pháp Hoa để sám hối nghiệp chướng. Lúc quyên tiền và khắc in xong thì bệnh cũng giảm dần. Sư nguyện đem công đức đó để hồi hướng cầu sinh Tịnh độ. Một hôm, bỗng nhiên giữa bầu Trời có tiếng nói rằng: “Công việc của ông đã xong. Ước nguyện của ông đã mãn. Kẻ được vãng sinh nếu không là ông thì là ai?” Sư nghe vậy liền nói: “Tiến con không dám lên Thượng phẩm, chỉ cần sinh về bậc thấp nhất của Hạ phẩm là cũng được bất thoái chuyển”. Năm thứ ba, niên hiệu Vónh Minh, Sư hưởng thọ tám mươi tuổi và không bệnh mà viên tịch. Tăng Bích Cốc Đàm Loan, đời Hậu Ngụy. Đầu tiên, sư Đàm Loan ẩn cư tại Đào và có được mười cuốn kinh của đạo Tiên; sư sung sướng tự đắc vì cho rằng đã đắc đạo Thần tiên. Sau đó, gặp vị tăng tên Bồ-đề Lưu-chi. Sư hỏi: “Đạo Phật có phép để sống lâu không chết chăng?”. Bồ-đề Lưu-chi nói: “Sống lâu không chết là con đường của Phật giáo.” Nói xong, Ngài liền trao cho sư cuốn kinh Thập Lục Quán và nói: “Nếu ngươi trì tụng kinh này thì không bị sinh hại trong ba cõi, không đến lại trong sáu đường, không màng chuyện đầy vơi, và không bận việc thành bại. Đó là sự sống lâu. Có kiếp thạch, có hà sa; số của thạch và sa cũng có hạn lượng nhưng thọ mạng thì vô lượng. Đó là phép sống lâu của Phật giáo!”. Sư thâm tín lời của Ngài Lưu-chi nên liền đốt kinh của đạo Tiên để chuyên tu tập Quán kinh. Dẫu lạnh nóng, tật bệnh gì sư vẫn luôn tinh tiến. Vua Ngụy thương chí nguyện cao vời của sư, lại hoan hỷ với sự tu trì, công cuộc giáo hóa người khác cùng việc lưu truyền, phổ biến giáo pháp Tịnh độ của sư nên phong cho sư hiệu là Thần Loan. Một hôm, sư nói với các đệ tử rằng: “Các con nên sợ hãi những nỗi khổ ở địa ngục, và siêng năng tu tập chín phẩm Tịnh độ.” Nhân đó, sư dạy học trò niệm lớn tiếng A-di-đà Phật, còn mình thì quay mặt về hướng Tây, nhắm mắt lạy Phật mà viên tịch. Lúc đó, tất cả tăng tục đều nghe tiếng sáo, tiếng tơ v.v… từ phương Tây vẳng đến. Một hồi lâu những âm thanh ấy mới dứt. Tăng Đạo Dụ, chùa Khai giác, đời Tùy. Sư Đạo Dụ chuyên niệm danh hiệu A-di-đà Phật và làm một bức tượng bằng gỗ chiên-đàn cao ba thốn. Sau đó, bỗng nhiên sư chết và bảy ngày sau thì sống lại và nói: “Tôi được thấy Đức Phật A-di-đà. Ngài hỏi: “Tại sao ông tạc tượng ta nhỏ vậy?” Tôi đáp: “Bạch Từ phụ, tâm lớn thì tượng lớn. Tâm nhỏ ắt tượng nhỏ!” Tôi vừa nói xong thì bức tượng ấy lập tức lớn bằng hư không. Ngài lại nói: “Ông hãy trở về bổn quốc lo tắm gội sạch sẽ. Lúc sao Mai mọc ta sẽ đến đón!” Đúng giờ quả liền có hóa Phật đến đón. Ánh sáng chiếu khắp phòng, mọi người đều thấy và nghe. Sư liền viên tịch ngay khi ấy. Đó là năm thứ tám niên hiệu Khai Hoàng. Tăng Thiện Đạo ở Kinh sư, đời Đường. Niên hiệu Trinh Quán, sư Thiện Đạo thấy Tịnh độ cửu phẩm đạo tràng của Thiền sư Đạo Xước ở Tây Hà, nhân đó sư càng tinh tiến tu tập, cần khổ trì niệm hơn nữa, như cứu dầu đang cháy. Mỗi lúc vào chánh điện, sư thường chấp tay, quỳ và một lòng niệm Phật đến lúc kiệt sức mới nghỉ. Dẫu gặp những ngày Trời lạnh đóng băng, sư vẫn hành trì đến toát cả mồ hôi để biểu thị tấm lòng chí thành của mình. Lúc không tu trì thì sư lại giảng pháp môn Tịnh độ cho đại chúng, không bao giờ sư tạm dứt những việc làm lợi ích cho quần sinh. Sau ba mươi năm, không lúc nào sư tạm ngủ nghỉ; lúc thì tập phép Ban-chu, lúc lại lễ Phật và tụng kinh Phương Đẳng. Sư luôn làm tròn trách nhiệm của mình; hộ trì tịnh giới, không phạm một lỗi dù cực nhỏ, chưa bao giờ nhìn nữ nhân, tuyệt ý đối với danh lợi và tránh xa nơi vui đùa. Ở chỗ tu hành thì sư luôn gìn giữ thân thể sạch sẽ để cúng dường Phật. Những thức ăn, món uống hoặc áo quần có dư sư đem phân phát hết. Có thức ăn ngon thì sư giao nhà bếp để cúng dường cho đại chúng còn mình thì ăn những món ăn dở dang. Sư không bao giờ uống sữa, lạc và đề hồ. Có tiền của do tín đồ bố thí thì sư dùng để sao chép kinh A-di-đà đến cả mười vạn cuốn, vẽ hơn ba trăm bức Tịnh độ biến tướng. Thấy chùa tháp hư hoại, sư đều sửa sang. Sư thường đốt đèn sáng rực cả năm Trời. Không bao giờ sư giao tam y và bình bát cho người khác giặt rửa và không đi cùng chúng vì sợ nói chuyện thế sự sẽ làm trở ngại việc tu tập. Sư đã giáo hóa vô số người tu tập Tịnh độ. Có người hỏi sư rằng: “Điều thiện của việc niệm Phật có thể giúp người vãng sinh không?” Đáp: “Được! Ông sẽ được toại nguyện.” Nói xong, sư liền niệm một tiếng A-di-đà Phật, lập tức có một luồng ánh sáng phóng ra từ miệng; sư niệm từ mười đến một trăm tiếng, thì ánh sáng cũng tuôn ra như số tiếng niệm. Sư có viết bài kệ để khuyến tu rằng: “Dần dà da nhăn tóc trắng, bước đi ngày một lòm khòm, giả như đầy phòng vàng bạc, khó thoát già bệnh suy tàn. Dẫu bày ngàn trò khoái lạc, vô thường rồi cũng ập về, chỉ có đường tắt tu hành, là trì A-di-đà Phật”. Sau này, sư nói với đại chúng rằng: “Thân này quả là vật đáng chán! Tôi sắp về Tây đây.” Sư leo lên cây liễu trước cửa chùa để tự sát. Cao Tông hoàng đế nghe thấy sư niệm Phật mà miệng tuôn ánh sáng, lúc xả thân lại tinh thành và kỳ dị nên liền ban tên chùa là Quang Minh. Người cùng thời là Từ Vân Thức sám chủ viết sơ lược về sư như thế này: “Đức Phật A-di-đà hóa thân đến Trường an, nghe tiếng sản thủy liền nói: Có thể giảng dạy pháp môn niệm Phật.” Sau này khắp Trường an đều niệm Phật, có đại sư Pháp Chiếu tức là hậu thân của Thiện Đạo.” Tăng Hoài Ngọc, người Đài châu, đời Đường. Tăng Hoài Ngọc tu Tịnh độ gần bốn mươi năm. Vào khoảng Thiên Bảo nguyên niên, lúc đang niệm Phật, sư bỗng thấy vô số Thánh chúng Tây phương. Trong số ấy có một vị tay cầm đài bằng bạc đến báo với sư. Sư nói: “Ước nguyện của tôi là đài bằng vàng, sao bây giờ lại là đài bằng bạc?” Sư vừa nói xong thì cả đài và người đều biến mất. Hôm sau, người bưng đài ấy lại xuất hiện và nói: “Nhờ tinh cần tu niệm nên Pháp sư được lên Thượng phẩm.” Người ấy nói thêm: “Người sinh Thượng phẩm thì trước tiên là được thấy Phật. Ông nên ngồi kiết già để đợi Đức Phật”. Người ấy chưa kịp trở gót thì ánh sáng lạ đã chiếu trong phòng. Ba ngày sau, ánh sáng ấy lại xuất hiện. Sư Hoài Ngọc nói với đại chúng: “Nếu các ông ngửi thấy mùi hương lạ tức là báo thân của tôi chấm dứt”. Hôm sau, sư viết bài kệ rằng: “Thanh tịnh sạch sáng không bụi bẩn, hoa sen hóa sinh là cha mẹ, tôi đã tu tập trải mười kiếp, thoát cõi Diêm-phù chán sự khổ. Một đời tinh khổ vượt mười kiếp, lìa hẳn Ta- bà sinh Tịnh độ”. Sư vừa viết xong thì mùi hương lạ đến từ bốn phía. Có đệ tử thấy Đức Phật và hai vị Bồ-tát cùng ngồi trên đài vàng; bên cạnh đó có đến trăm ngàn vị hóa Phật, tất cả đều từ phương Tây đến để đón sư. Sư cung kính, chấp hai tay rồi mỉm cười rồi đi luôn. Tăng Khải Phương và Viên Quả ở Phần châu, đời Đường. Hai Pháp sư Khải Phương và Viên Quả chuyên tâm quán tưởng Tịnh độ. Sau năm tháng, trong lúc đang quán tưởng cả hai sư đều thấy mình đang đi vào ao thất bảo; trong ao có đại bảo tràng và đích thân hai vị vào trong đó. Hai sư thấy Bồ-tát Quán Âm và Thế Chí ngồi trên hai hoa sen báu lớn, bên dưới có ngàn vạn đóa sen. Phật A-di-đà từ phương Tây lại; Ngài ngồi trên đóa sen lớn, phóng ánh sáng chiếu soi lẫn nhau. Hai sư lễ Phật và bạch: “Bạch từ phụ! Nếu chúng sinh ở Diêm-phù y cứ vào kinh để niệm Phật thì được vãng sinh không?” Đức Phật đáp: “Nếu chúng sinh nào niệm danh hiệu của ta thì sẽ được sinh vào cõi nước của ta. Không có trường hợp niệm mà không sinh!” Hai sư lại thấy mặt đất của Cực lạc bằng phẳng như lòng bàn tay; bảo tràng, lưới ngọc xen lẫn nhau cả trên và dưới. Hai sư lại thấy một vị tăng cỡi bảo xa đến nói rằng: “Ta là Pháp Tạng! Do nguyện lực thuở xưa nên nay ta đến đón các ngươi”. Hai sư nương xe mà đi và lại thấy thân mình ngồi trên tòa sen báu. Lại nghe Đức Phật Thích-ca và Bồ-tát Văn-thù khen ngợi Tịnh độ. Phía trước lại có ngôi điện lớn. Điện có ba đường bậc cấp; đường thứ nhất toàn cư só, đường thứ hai gồm cả tăng và tục, đường thứ ba thuần Tăng só. Đức Phật chỉ vào ba nhóm ấy mà nói với hai sư: “Họ đều là những người niệm Phật ở Diêm-phù-đề. Hai ông hãy nên cố gắng!” Sau khi tỉnh giấc, hai sư liền kể cho đệ tử nghe. Sau năm tháng, hai sư không bệnh mà tự nghe tiếng chuông trong lúc những người khác không nghe! Hai sư nói: “Tiếng chuông là việc của chúng ta!” Giây lát sau, cả hai sư cùng viên tịch. Tăng Tự Giác, người Chân châu, đời Đường. Sư Tự Giác phát nguyện rằng: “Nguyện nhờ Bồ-tát Quán Âm tiếp dẫn con được tiếp kiến Đức Phật A-di-đà”. Vì vậy, sư quyên tiền bạc đúc thành một pho tượng Bồ-tát cao bốn mươi chín xích, đồng thời dựng chùa để tu tập. Lúc hoàn tất, sư chú nguyện vào tượng thì đúng canh ba, có hai luồng ánh sáng màu vàng xuất hiện. Đức Phật A-di-đà cỡi mây từ trong ánh sáng ấy đi xuống, có hai Bồ-tát là Quán Âm và Thế Chí theo hai bên. Đức Phật duỗi cánh tay vàng đè lên đỉnh đầu của sư mà nói: “Ngươi nên giữ lấy lời nguyện và nhớ lấy việc làm lợi cho người làm chính. Nếu được thế thì ai cũng sẽ sinh trong bảo trì cả!”. Sau mười một năm, vào buổi chiều ngày 15 tháng 7, sư thấy một người chỉ hiện nửa thân trong mây; tướng mạo như Tỳ-sa-môn Thiên Vương. Người ấy nói với sư rằng: “Thời hạn về An dưỡng đã đến!”. Sư liền ngồi kiết già trước tượng Đại bi Quán Âm mà viên tịch. Tăng Thiếu Khang, người Mục châu, đời Đường. Đầu niên hiệu Trinh Nguyên, Sư Thiếu Khang đến chùa Bạch Mã ở Lạc Hạ thấy văn tự trong điện phóng ánh sáng mãi, sư liền tìm kiếm thì thấy đó là “Tây phương Hóa Đạo Văn” của Ngài Thiện Đạo. Sư nói: “Nếu con có duyên với Tịnh độ thì xin Đức Phật làm cho bản văn này phóng ánh sáng lại.” Sư chưa dứt lời ánh sáng liền chiếu rực lên. Sư liền đến phòng thờ tôn ảnh Ngài Thiện Đạo ở Trường An để lễ lạy, hiến cúng. Ngài Thiện Đạo đứng giữa Trời nói: “Ông nên làm những việc như ta để lợi lạc cho hữu tình. Được thế thì những công đức ấy sẽ cùng sinh về Tịnh độ với ông.” Sư lại gặp một vị tăng, vị ấy nói rằng: “Muốn giáo hóa mọi người thì ngươi nên đến Tân Định!”. Nói xong, vị tăng biến mất. Tân Định nay gọi là Nghiêm Châu. Lúc sư mới đến thì chưa ai biết. Sư quyên tiền để dẫn dụ những đứa bé và giao hẹn với chúng rằng: “Phật A-di-đà là bổn sư của các cháu. Nếu các cháu niệm một tiếng thì ta sẽ cho các cháu một tiền.” Những đứa bé ấy thích có tiền nên niệm ngay. Hơn một tháng sau, những bé niệm Phật để có tiền đông lên. Sư liền nói: “Nếu niệm mười tiếng thì ta sẽ cho các cháu mười đồng.” Bọn trẻ vâng lời. Sư làm như thế chừng một năm thì tất cả lớn, nhỏ, sang, hèn luôn niệm A-di-đà Phật mỗi lúc gặp sư. Do vậy mà trên đường đi có rất nhiều người niệm Phật. Sau này, lúc ở núi Ô long, sư dựng đạo tràng Tịnh độ và làm ba bậc cấp ở đàn tràng rồi hội họp mọi người lại để niệm Phật vào buổi trưa và tối. Sư lên tòa bảo mọi người quay về hướng Tây rồi xướng lớn A-di-đà Phật trước để mọi người noi theo, ai cũng đều thấy một vị Phật xuất hiện từ miệng, xướng mười tiếng thì có mười vị Phật như xâu chuỗi ngọc phóng ra. Sư hỏi: “Các ngươi thấy Phật không? Nếu có thấy thì chắc chắn sinh về Tịnh độ.” Nhưng trong số một ngàn người lễ Phật vẫn có kẻ không bao giờ thấy. Sau này, sư căn dặn mọi người rằng: “Quý vị nên tinh tiến tu tập Tịnh độ và sinh tâm chán bỏ cõi Diêm-phù-đề này!” Sư lại nói: “Những người được thấy Phật trước đây là những đệ tử chân chính của ta.” Nói xong, sư liền phóng mấy luồng ánh sáng lạ rồi viên tịch. Tăng Duy Ngạn, người Tinh châu, đời Đường. Sư Duy Ngạn chuyên tâm tu Thập lục quán nên được thấy hai vị Bồ-tát là Quán Âm và Thế Chí xuất hiện giữa bầu Trời rất lâu. Sư đảnh lễ, rơi nước mắt mà than rằng: “Con may mắn được thấy Thánh tướng! Chỉ tiếc rằng không biết làm thế nào để truyền cho đời sau!” Bỗng có hai người tự xưng là họa công; chỉ trong giây lát mà họ đã vẽ xong chân dung của hai vị Bồ-tát. Thế nhưng mọi người vẫn không được thấy. Đệ tử kinh ngạc hỏi lý do. Sư nói: “Đây không phải lỗi của họa công.” Sư lại nói: “Thời hạn đi Tây phương của ta đã đến. Ai trong số các con muốn theo ta thì nói rõ.” Có một chú điệu nói: “Con xin theo thầy.” Sư nói: “Được, vậy con nên về báo cho cha mẹ hay.” Cha mẹ điệu cười và mắng chú. Điệu quay về chùa tắm gội sạch sẽ và ngồi trước tượng A-di- đà mà vãng sinh. Mọi người báo với sư. Sư đến vỗ vào lưng điệu ấy mà nói: “Con thờ ta sao lại đi trước vậy?” Sư bảo lấy viết, đốt hương, hướng về chỗ trước đây vẽ tượng Bồ-tát mà viết kệ rằng: “Quán Âm và Thế Chí, phụ trợ để tiếp dẫn từ xa. Bình quý hiện trên mũ, hóa Phật sáng trước đầu, cùng đi mười phương cõi, cầm hoa đợi chúng sinh. Nguyện duỗi tay từ bi, dìu con về Cực lạc.” Viết xong, sư dạy đệ tử trợ niệm cho mình rồi nhìn về hướng Tây mà viên tịch. Ni sư Tịnh Chân, người Trường an, đời Đường. Ni sư Tịnh Chân trụ ở chùa Tích thiện tại Trường an. Sư chuyên mặc nạp, y và đi khất thực, suốt đời chưa một lần sân hận. Sư tụng kinh Kim Cang đến mười vạn lượt và chuyên tâm niệm Phật. Năm thứ năm niên hiệu Hiển Khánh nhiễm bệnh, sư nói với đệ tử rằng: “Trong tháng năm ta đã thấy Phật A-di-đà đến mười lần, thấy cõi Cực lạc đến hai lần; có những đồng tử nô giỡn trên bảo liên hoa. Ta đạt được Thượng phẩm.” Nói xong, sư ngồi kiết già mà viên tịch. Ánh sáng chiếu rực khắp chùa. Phòng Chữ, đời Đường. Phòng Chữ chết vì bệnh dữ. Lúc vào âm phủ, ông thấy vua Diêm- la, vua nói: “Căn cứ vào sổ sách, ta biết ông từng khuyến hóa một người già niệm Phật, nay người đó đã vãng sinh Tịnh độ. Nhờ phước đức ấy mà ông cũng sẽ được vãng sinh cùng người đó. Vì vậy cho gọi ông đến đây để gặp mặt.” Phòng Chữ nói: “Trước đây tôi có nguyện tụng kinh Kim Cang đến mười ngàn biến, và đến chiêm bái Ngũ Đài chứ chưa muốn vãng sinh”.Vua nói: “Tụnh kinh, lễ bái tất nhiên là tốt. Nhưng, không bằng sớm về Tịnh độ.” Vua biết không thay đổi tâm nguyện của ông nên đành để cho ông về. Qua chuyện đó ta biết rằng dạy người tu không chỉ được khuyên vãng sinh, mà còn cảm đến tận u minh. Lý Tri Dao, người Trường an, đời Đường. Cư só Tri Dao rất giỏi về giáo lý Tịnh độ. Ông là người mẫu mực cho đại chúng trong ngũ hội niệm Phật. Sau này bị bệnh nên ông nói: “Hòa thượng niệm Phật đến”. Nói xong, ông tắm gội, súc miệng, mặc áo, lấy hương đèn rồi ra khỏi phòng để đảnh lễ Hòa thượng. Ông nghe giữa Trời có một tiếng nói kệ rằng: “Ta báo cùng Tri Dao, công thành quả tự đến, dẫn ông về Tịnh độ, dắt ông lên cầu vàng.” Dao liền lên giường ngồi mà đi. Lúc ấy ai cũng ngửi thấy mùi hương lạ. Bà họ Đào, người Thượng đảng, đời Đường. Nhờ bà Phạm Hạnh khuyên dạy nên bà họ Đào niệm Phật A-di- đà. Lúc lâm chung, bà thấy Đức Phật và Bồ-tát đến đón. Bà liền nói với Đức Phật rằng: “Con chưa chia tay với bà Hạnh, xin Ngài đợi cho vài phút.” Đức Phật đứng giữa Trời đợi bà Hạnh đến. Sau khi từ biệt, bà liền đứng mà mất. Vợ Ôn Tónh Văn, người Tinh châu, đời Đường. Vợ của cư só Ôn Tónh Văn bị bệnh đã lâu, Tónh Văn dạy bà niệm Phật A-di-đà. Bà niệm suốt hai năm liền và được thấy Tịnh độ. Bà nói với Tónh Văn rằng: “Tôi đã được thấy Phật! Tháng sau tôi sẽ ra đi.” Bà lại đem món ăn dâng lên cha mẹ chồng và nói: “Con nay đã được vãng sinh. Mong cha mẹ và chồng con chuyên tâm niệm Phật. Lúc đến Cực lạc chúng ta sẽ gặp nhau!” Nói xong, bà liền ra đi. Ba ngày trước khi mất, mọi người đều thấy hoa sen lớn như vầng mặt Trời. Trương Chung Húc, đời Đường. Chung Húc làm nghề mổ gà. Một hôm ông thấy một người mặc áo đỏ xua bầy gà đến kêu chúng mổ khắp người và mắt, làm hai mắt ứa máu. Có vị tăng đến thiết tượng Phật, thắp hương và niệm A-di-đà Phật. Đồng thời, vị tăng ấy dạy ông một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật. Bỗng có mùi hương lạ tràn ngập cả căn phòng, ông ra đi rất an nhiên. Trương Thiện Hòa, đời Đường. Thiện Hòa làm nghề mổ trâu. Lúc sắp mất, ông thấy con trâu có nhiều đầu nói bằng tiếng người với ông rằng: “Ngươi giết ta!” Hòa sợ quá nên bảo vợ rằng: “Bà mau mau thỉnh tăng đến cứu tôi!” Vị tăng đến và nói với ông rằng: “Kinh Thập Lục Quán dạy rằng: “Nếu lúc người sắp mất, mà tướng địa ngục hiện, một lòng niệm mười tiếng Nam-mô A-di-đà Phật, thì được sinh Tịnh độ.” Hòa nói: “Bạch thầy! Con đang rơi vào địa ngục, không thể nào cầm lò hương được!” Ông dùng tay trái cầm mồi lửa, tay phải niêm hương, quay mặt về hướng Tây mà niệm Phật; chưa niệm hết mười tiếng ông đã nói: “Con thấy Đức Phật A-di- đà từ phương Tây đến. Ngài ban cho con bảo tòa”. Nói xong, ông liền ra đi. Tăng Chí Thông, người Phượng dương, đời Hậu Tấn. Tăng Chí Thông thấy bản văn Tịnh độ nghi thức của Đại sư Trí Giả nên hoan hỷ vô cùng. Sư không khạc nhổ và không ngồi quay lưng về hướng Tây và chuyên tâm niệm Phật. Sau này, sư thấy bạch hạc, khổng tước bay từng hàng từ phía Tây xuống. Sư lại thấy ánh sáng, hoa sen nở và khép trước mặt nên nói rằng: “Bạch hạc, khổng tước là cảnh Cực lạc. Hoa sen, ánh sáng là nơi thác sinh. Tịnh độ hiện rồi!” Sư liền đứng dậy lễ Phật và mất trước mặt Ngài. Lúc thiêu xác, có mây lành năm màu bao phủ phía trên ngọn lửa. Quốc Sơ, Vónh Minh Diên Thọ Thiền sư. Thiền sư tên Diên Thọ, gốc người Đan Dương sau chuyển đến Dư Hàng. Thuở nhỏ, Sư thường tụng kinh Pháp Hoa. Đầu tiên, khi chưa xuất gia làm Huyện nha hiệu và hay lấy tiền cửa quan; lúc khám xét, người ta chỉ thấy sư dùng tiền ấy để mua vật phóng sinh. Tội đáng chết nên nha môn giải sư đến thành thị, Tào Tiền vương sai người thăm dò; nếu nhan sắc thay đổi thì chém, nếu vẫn bình thản thì trình với ông. Lúc đem chém, Thần sắc sư vẫn bình thường. Tiền vương liền tha mạng và sư bèn đi tu. Lúc nhập định, sư thấy Bồ-tát Quán Âm rót cam lộ vào miệng. Từ đó, sư chứng được Quán Âm biện tài; mỗi lần hạ bút là ngôn từ tuôn đầy trang giấy. Những sách do sư trước tác gồm “Vạn Thiện Đồng Quy Tập”; “Tông Cảnh Lục” v.v… gồm cả mấy trăm cuốn. Sư trụ trì ở chùa Tuyết Đậu, Vónh Minh, mỗi ngày làm một trăm lẻ tám việc thiện và tinh tiến niệm Phật. Sau này, sư ngồi mà viên tịch. Người ta thiêu xác sư rồi gom tro lại để xây tháp. Có vị tăng mỗi ngày đều nhiễu tháp lễ lạy. Mọi người hỏi lý do. Vị tăng đáp: “Tôi là tăng ở Vũ châu, nhân bị bệnh nên tôi vào nơi âm phủ, nhưng vì mạng chưa hết nên tôi lại được trả về. Tôi thấy ở góc điện có ảnh vị tăng và vua Diêm-la thường đến đảnh lễ, tôi hỏi vị tăng ấy là người ở xứ nào. Chủ sứ đáp: “Đó là Diên Thọ Thiền sư ở chùa Vónh minh tỉnh Hàng châu. Thông thường, người chết đều đi qua đây. Chỉ có vị ấy là không. Ngài đã sinh lên Thượng phẩm Thượng sinh ở cõi Cực lạc. Vì vua kính trọng nên mới vẽ hình Ngài để cúng dường.” Tôi nghe vậy nên mới phát tâm đến đây để nhiễu tháp và đảnh lễ. Qua câu chuyện này ta biết rằng những ai chuyên tâm niệm Phật thì sẽ được âm phủ tôn kính. Tăng Khả Cửu, người Minh châu, đời Tống. Sư Khả Cửu thường tụng kinh Pháp Hoa, nên có hiệu là Cửu Pháp Hoa. Bình sinh, sư chuyên tâm tu tập Tịnh độ. Năm thứ tám niên hiệu Nguyên Hựu, sư tròn tám mươi mốt tuổi và viên tịch vào năm đó trong tư thế kiết già. Ba ngày sau, sư sống lại và nói về cảnh vật ở Tịnh độ y như kinh Thập Lục Quán đã mô tả. Sư thấy đài sen ghi tên họ của những người cùng vãng sinh. Một đài tử kim ghi: “Viện Quảng Giáo phủ thành đô nước Đại Tống sau khi huân tập Pháp Hoa sẽ sinh vào đây.” Lại thấy một đài vàng ghi rằng: “Tôn Thập Nhị Lang ở Minh châu sinh trong đây.” Lại một đài vàng ghi: “Cửu Pháp Hoa đài”. Lại có đài bạc ghi: “Đài của Từ Đạo Cô, người Minh châu”. Nói xong, sư thị tịch. Năm năm sau, Từ Đạo Cô mất; mùi hương lạ tràn ngập cả căn phòng. Mười hai năm sau, Tôn thập nhị mất, nhạc Trời trổi khắp không gian. Kim Đại Công, người Cối kê, đời Tống. Đại Công tên Thích, làm nghề chài lưới. Một hôm, ông đổi nghề và trì tụng mổi ngày mười ngàn danh hiệu A-di-đà Phật ăn chay, tu hành chưa từng tạm nghỉ. Sau đó, dầu không bệnh nhưng ông vẫn nói với người nhà rằng: “Ta thấy Đức Phật A-di-đà cùng Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí trước cửa. Nay là lúc ta về Tịnh độ!” Ngày sau ông lại nói: “Ta thấy sen vàng đến đón mình!” Ông sai người nhà thắp nhang, đốt đèn rồi ngồi yên, tay bắt ấn mà ra đi. Những người xa gần trong làng đều nghe tiếng nhạc, đều ngửi thấy mùi hương lạ suốt ngày. Đó là năm thứ sáu niên hiệu Chính Hòa. Hoàng Đả Thiết, người Đàm châu, đời Tống. Hoàng Đả Thiết trước là lính. Ông làm nghề thợ rèn. Mỗi lần đập sắt ông lại niệm lớn tiếng A-di-đà Phật không ngừng. Một hôm, dẫu không bệnh gì nhưng ông lại nhờ láng giềng ghi lại bài kệ với mục đích khuyên mọi người niệm Phật. Bài kệ ấy thế này: “Ngày đêm chan chát, luyện hoài thành cứng, thái bình sắp đến, tôi về Tây phương.” Viết xong, ông liền ra đi. Bài tụng này lưu hành rất rộng rãi ở Hồ Nam, nên có nhiều người niệm Phật. Nhân Hòa Ngô Oánh, người phủ Lâm an, đời Tống. Ngô Oánh trước là Tăng só, sau đó ông hoàn tục, lấy hai vợ và sinh được hai người con. Ông làm đủ nghề như đồ tể, bán rượu v.v… và lại thường nấu ăn thuê cho người khác. Mỗi lần giết gà vịt, ông xách con vật lên và gọi: “Con của Phật Di-đà, mau thoát cái thân này.” Nói xong, tay giết miệng liên tục niệm lớn A-di-đà Phật! Mỗi lần cắt thịt ông cũng liên tục niệm lớn A-di-đà Phật! Ông không bao giờ bê trễ việc niệm Phật và lại dạy mọi người trong thôn xóm tụng kinh, lễ sám cùng niệm A-di-đà Phật. Sau này, trên mắt ông sinh một bọc mủ máu lớn như gà con, nên ông buồn và sợ hãi vô cùng. Ông liền dựng một cái lều bằng tranh, từ giã vợ con để sớm hôm chuyên tâm niệm Phật và sám hối. Mùa thu năm thứ hai mươi ba niên hiệu Thiệu Hưng, ông nói với những người trong thôn rằng: “Ngày mai, vào giờ Tuất, tôi sẽ đi!” Mọi người đều cười. Ông đem chén bát, nồi niêu cho dân quanh nhà. Hôm sau, ông nói với đạo hữu là bà Hạnh rằng: “Tôi sắp đi đây. Mong các vị đến trợ niệm cho.” Ông đem bố sam đựng rượu để uống. Uống xong, ông liền viết bài tụng rằng: “Giống rượu nhưng không phải, hỏi kham nổi thiền tông, hôm nay trân trọng, ngày mai gió mát trăng trong!” Viết xong, ông ngồi ngay ngắn, chắp tay niệm Phật và nói lớn “Đức Phật đã đến!” rồi đi luôn. Phu Nhân Kinh Vương, đời Tống. Niên hiệu Nguyên Hựu, Kinh Vương phu nhân cùng những tỳ thiếp chuyên tu Tịnh độ. Trong số tỳ thiếp ấy có một người bê trễ nên bị phu nhân trách đuổi đi. Sau khi hối ngộ, tỳ thiếp ấy liền tinh tấn tu trì lại. Ít lâu sau, tỳ thiếp ấy nói với một tỳ thiếp khác rằng: “Đêm nay em sẽ vãng sinh!”. Đêm ấy có mùi hương lạ đầy phòng, tỳ thiếp ấy không đau mà mất. Sáng mai một tỳ thiếp cùng phòng nói với phu nhân: “Đêm qua em mộng thấy chị ấy thác vào giấc ngủ em mà nói: “Nhờ phu nhân dạy em tu tập Tịnh độ và khiển trách sự bê trễ của em nên em đã được vãng sinh. Em vô cùng biết ơn phu nhân.” Phu nhân nói: “Nếu nó cho ta thấy ta mới tin!” Đêm đó, phu nhân mộng thấy tỳ thiếp ấy đến nói tạ ân như trước. Phu nhân hỏi: “Ta có thể đến Tây phương được chăng?” Tỳ thiếp ấy đáp: “Được, nhưng phu nhân phải theo em.” Phu nhân đi theo tỳ thiếp ấy và bà thấy đường đê của hồ rất rộng; trong hồ có sen hồng, trắng, lớn nhỏ xen lẫn nhau, có đóa tươi đóa lại héo. Phu nhân hỏi lý do. Người thiếp ấy đáp: “Đó là những người thế gian phát tâm tu Tây phương. Họ vừa phát niệm thì trong ao liền sinh một đóa sen; nếu nguyện tâm của người tu tinh tiến thì càng lúc hoa càng nở tươi cho đến lớn bằng bánh xe; nếu nguyện tâm của người tu thối lui thì càng ngày hoa càng héo cho đến khi tàn rữa”. Sau đó phu nhân thấy một người ngồi trên hoa sen; áo bay phất phới, có mão báu, anh lạc trang sức trên thân. Phu nhân hỏi: “Đó là ai?” Người thiếp đáp: “Đó là Dương Kiệt”. Lại thấy một người ngồi trên hoa, người thiếp nói: “Đó là Mã Khôn”. Phu nhân hỏi: “Chỗ của ta ở đâu?”. Người thiếp ấy dẫn phu nhân đi vài dặm. Nhìn xa thấy một mô đất bằng vàng và bức vách cũng bằng vàng sáng rực. Người thiếp nói: “Đó là nơi phu nhân sẽ thác sinh, tức là Thượng phẩm Thượng sinh”. Sau khi thức giấc, phu nhân cho người đi hỏi chỗ ở của Mã Khôn và Dương Kiệt thì hay rằng Kiệt đã qua đời, còn Khôn vẫn sống. Qua câu chuyện này ta biết rằng, những người tinh tiến tu tập Tây phương tuy nhân còn ở Ta-bà nhưng Thần thức của họ đã về Cực lạc. Sau này, trong buổi lễ sinh nhật của mình; phu nhân đứng bưng lò trầm hương, đốt hương, mắt hướng lên gác Quán Âm; lúc con cháu vừa tiến hành những nghi lễ hiến thọ thì bà đã đứng mà ra đi rồi. Quán Âm Huyện Quân, đời Tống. Huyện Quân người họ Ngô. Chồng bà là Đô quan viên ngoại Lữ Hoàng. Ông cũng ngộ giáo lý nhà Phật nên cả hai vợ chồng đều trai giới, tịnh tu. Bà Ngô có hai cô hầu đều ăn chay và trợ giúp bà trong việc tu tập; một cô rất thích thiền lý nên dẫu bị bệnh mà vẫn vui vẻ, nói cười, khi mất tựa như ve thoát xác; một cô phụng trì giới luật khắc khổ, có lúc không ăn suốt cả tháng và mỗi ngày chỉ uống một chén nước Quán Âm tịnh thủy do bà Ngô chú nguyện. Một hôm, cô bỗng thấy ba đóa sen bằng vàng đở chân. Sau vài ngày lại thấy đầu gối, vài ngày sau thấy thân,vài ngày sau nữa thấy mặt mũi. Đó là Đức Phật A-di-đà, hai bên Ngài là Quán Âm và Thế Chí. Cô lại thấy phòng ốc, điện thờ, cõi nước hiện rõ như nhìn lòng bàn tay và biết đó là cõi Cực lạc. Có người hỏi chi li hơn thì cô đáp: “Nơi ấy đàn ông con trai thanh tịnh. Họ đi kinh hành và du hý, không có nữ nhân.” Mọi người hỏi: “Đức Phật ở đó thuyết pháp như thế nào?” Cô đáp: “Tôi chỉ được thiên nhãn chứ chưa đắc thiên nhó nên thấy biểu hiện của hỏi đáp là sự chỉ trỏ và gật đầu mà thôi, còn lời lẽ thì tôi không nghe được.” Hiện tượng ấy tồn tại liên tục trước mắt cô đến ba năm. Sau đó, bỗng nhiên cô bị bệnh, tự nói việc vãng sinh của mình rồi ra đi. Bà Ngô thờ Quán Âm rất có sự linh nghiệm. Trong thất của mình bà thường đặt mười cái bình, thẩu đựng đầy nước rồi cầm cành dương mà tụng chú. Mỗi lần trì tụng Thần chú bà đều thấy Bồ-tát Quán Âm phóng ánh sáng vào bình. Những người đau ốm uống nước ấy liền được thuyên giảm. Nước đã được chú nguyện ấy nếu có chứa đồ bẩn cũng không bị thối, gặp lúc Trời rất lạnh cũng không bị đóng băng. Người đời đều gọi bà là Quán Âm Huyện Quân. Phu nhân họ Bằng, đời Tống. Phu nhân tên Pháp Tín, con gái của Tặng thiếu sư Hứa Tuân. Chồng bà là Thừa tuyên sứ Trần Tư Cung.() Thuở nhỏ bà luôn bị bệnh, đến lúc lấy chồng thì bệnh càng nặng. Bác só nói là không thể chữa trị được. Bà đến hỏi phương cách điều trị với Thiền sư Từ Thọ Thâm. Thiền sư dạy bà ăn chay, niệm Phật. Phu nhân bỏ hết ngũ vị tân, cá thịt cùng những món trang sức; mặc áo quần tầm thường và chuyên tâm nghó nhớ đến Tây phương. Lúc đi, phu nhân cũng nghó nhớ đến Tây phương; lúc ngồi cũng nhớ đến Tây phương; lúc nói, nín, động tónh, châm nước, dâng hoa, tụng kinh, hành đạo cũng nhớ đến Tây phương. Dẫu làm một việc thiện nhỏ bà cũng đem nó làm cầu bến cho ước nguyện vãng sinh. Bà tu tập như thế suốt mười năm nhưng chưa bao giờ có tâm trạng mỏi mệt, tâm tư luôn an lạc, thân thể khỏe mạnh, Thần khí sung mãn nên ai cũng tôn kính và yêu mến bà. Một hôm, bà bỗng viết bài kệ rằng: “Tùy duyên mặc nghiệp đã bao năm, trâu già cày ruộng luống uổng oan, sách tấn thân tâm quay về sớm, thoát nạn người ta xỏ mủi càn.” Họ hàng phu nhân ai nấy đều kinh ngạc. Bà nói: “Nếu mất thì về Cực lạc. Có gì là kỳ quái đâu!”. Nói xong, bà nằm dưỡng bệnh; hơi thở đã mong manh và ngắt ngứ. Bỗng nhiên, phu nhân vùng dậy nói: “Thần thức tôi dạo khắp Tịnh độ, đích thân lễ bái Đức Phật A-di-đà. Quán Thế Âm bên trái, Thế Chí bên phải; có cả trăm, ngàn, vạn ức Phật tử thanh tịnh cúi lạy Đức Phật và mừng tôi được sinh về Cực lạc. Cung điện, rừng, hồ thì sáng láng, kỳ diệu khác gì cảnh tượng mà kinh Hoa Nghiêm và kinh Thập Lục Quán mô tả.” Sáng hôm sau, phu nhân ra đi một cách an nhiên. Người nhà nghe mùi hương kỳ diệu ngào ngạt; mùi hương ấy khác xa hương thơm thế gian. Ba ngày trà tỳ, thi thể của phu nhân vẫn như lúc còn sống.  <卷>QUYỂN 6 Hành giả Tịnh độ nên tùy theo vị thế của mình để làm việc thiện, nhằm hỗ trợ cho việc tu tập. Vì vậy, cuốn này có tên là “Đặc Vị Khuyến Dụ” (đặc biệt vì sự khuyến tu). Với những người không biết chữ thì mong các bậc từ nhân quân tử phát tâm Bồ-đề mà giảng nói cho họ; vì đó là công việc lớn nhất trong hạnh Bố thí. Thứ tự trước sau là từ gần đến xa, hoặc từ gấp gáp đến thư thả chứ không câu nệ là người cao kẻ thấp. Khuyên kẻ só. Ở đời, có kẻ só chưa đọc nhiều sách nhưng vẫn đỗ đạt cao, có người tuy đọc nhiều nhưng suốt đời vẫn thi hỏng, đó là do kiếp trước gieo trồng khác nhau, nên kiếp này có quả báo không giống nhau. Tuy nhiên, dẫu tuổi nhỏ mà đã đỗ cao, được thăng quan tiến chức, công nghiệp cứu đời được một thời đi nữa thì phước báo ấy cũng có lúc suy tàn. Tôi phụng khuyến các bậc hậu sinh nên cần mẫn đối với việc học hỏi, thành tâm với bằng hữu. Tôi lại nhớ đến những vị cao Tăng của tôi; vị nào cũng lưu tâm đến con đường khoa cử, nhờ năm tháng dài rộng và công sức tích lũy nhiều nên tự có niềm vui; đến lúc tuổi già, nhớ lại những sự việc đã qua chẳng khác gì giấc mộng! Than ôi! Ngày lại ngày nào có vị nào thoát được vòng mộng huyễn đó đâu! Vì vậy, nên chúng ta hãy sớm lưu tâm đến việc tu tập Tịnh độ. Không luận là già hay trẻ, nếu các bạn chuyên đem Tịnh độ để giáo hóa cho mọi người, lại khiến cho mọi người cùng khuyến hóa, thì hiện đời các bạn sẽ gặt hái được phước đức và thân sau sẽ được sinh lên Thượng phẩm. Khuyên quân tử ra làm quan. Ở đời, người làm quan là do kiếp trước đã gieo trồng phước đức. Như gieo hạt vào mùa Xuân thì mùa Thu gặt hái. Cũng vậy, nếu người không gieo trồng phước đức thì không thể có địa vị như ngày hôm nay. Song, quả báo ấy vẫn có khi hết. Trái lại nếu quý vị tiếp tục tạo phước, thực hành đủ loại phương tiện và những việc thương người, lợi vật rồi đem những công đức ấy mà hồi hướng Tây phương thì sẽ khỏi luân hồi, tuổi thọ và niềm vui sẽ vô cùng tận, mà phước báo thế gian không thể nào sánh được. Nếu các vị quá thương dân chúng không đành từ bỏ thì nên phát nguyện vãng sinh; sau khi được liễu thoát sinh tử lập tức trở lại cõi này, hiện thân Tể quan để làm lợi ích rộng lớn cho mọi người thì tấm lòng kia sẽ được thỏa mãn. Nếu có thể đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại khiến cho mọi người khuyến hóa nhau, thì ai cũng cho rằng lời nói của mình có trọng lượng mà hoan hỷ phụng trì. Căn cứ vào bài kệ của Bồ-tát Đại Từ thì hiện đời, chư vị có thể đem công đức ấy để tiêu trừ tai nạn, tăng trưởng phước đức và thân sau sẽ sinh lên Thượng phẩm. Khuyên những người ở Công môn. Người ở Công môn nên tự suy nghó thế này: “Những vị kia là quan, còn ta là tôi tớ. Những quan chức ấy là người tôn quý, còn ta là hạng thấp hèn. Những vị ấy là người nhàn nhã, còn ta là kẻ lao nhọc. Ta luôn luôn vui vẻ thờ phụng họ. Lúc được thương cũng không vui; trái lại, lúc gặp điều nghịch cùng những lời trách mắng ta cũng không buồn, bởi vì đó là do sự tu tập hời hợt của ta ở đời trước nên mới ra nông nổi thế này. Ta nên cẩn thận ở lời ăn, tiếng nói, cử chỉ để bảo toàn tính mạng.” Không luận là việc lớn hay nhỏ, quý vị nên tùy nghi để ứng xử. Nếu trước mắt nhìn mọi người với niềm hoan hỷ thì không có hoạn nạn về sau; và nếu quý vị luôn tích lũy điều thiện thì phước đức ấy để truyền đến con cháu. Nên nhớ rằng, những người phục dịch ở công đường nhưng con cháu họ vẫn vinh hiển là do tiên tổ của họ đã chứa dồn phước đức. Đạo Trời luôn chiếu sáng, nên chúng ta không thể hoài nghi quy luật ấy được. Nếu quý vị thường xuyên niệm A-di-đà Phật, nguyện sinh thế giới Cực lạc; lại đem giáo pháp Tịnh độ giáo hóa mọi người, khiến mọi người giáo hóa lẫn nhau thì hiện đời quý vị sẽ gặt được phước đức và thân sau sẽ sinh lên Trung, Thượng phẩm. Khuyên những người làm thầy thuốc. Những người làm thầy thuốc nên tự nghó thế này: “Những người khác khổ đau vì bệnh tật cũng như bản thân ta bị đau khổ nên có ai mời gấp, ta đi ngay không trì hoãn. Hoặc có ai đến xin thuốc, ta liền trao ngay và không quan tâm đến địa vị của họ là sang hay hèn, là giàu hay nghèo, chỉ nên lấy việc cứu người làm tâm niệm để kết duyên cùng họ, để dồn chứa phước đức cho mình. Và tất nhiên, trong chốn mịt mờ tự có người phù hộ cho mình. Nếu thừa lúc người ta cần kíp để chuyên tâm tìm cầu tiền bạc, dụng tâm đã bất nhân thì cố nhiên trong chỗ mịt mờ sẽ có họa hoạn cho mình.” Làng tôi có vị thầy thuốc trên Trương Ngạn Minh, ông ta trị bệnh rất giỏi. Dẫu người tìm đến chữa trị là Tăng só, đạo só, bần só, quân lính, quan chức hay nghèo khó ông đều không nhận tiền. Trái lại, ông còn giúp đỡ họ về tiền và gạo nữa. Những người đến mời dẫu nghèo hèn ông vẫn sốt sắng đi ngay; người giàu có đem tiền đến bốc thuốc thì ông không hỏi tiền nhiều hay ít mà chỉ trao nhiều thuốc cho và mong sao bệnh nhân được lành lặn chứ chưa từng có ý nghó là họ sẽ mang tiền đến bốc thuốc lại. Gặp nhiều bệnh nguy kịch và biết sẽ không cứu sống được, ông cũng bốc thuốc tốt cho để an ủi bệnh nhân mà không chịu nhận tiền. Tôi ở đây đã lâu nên biết rõ ông là người thầy thuốc mà suốt đời không nói đến tiền bạc nên có thể nói ông là con người tuyệt vời nhất. Một hôm trong thành có hỏa hoạn, lửa đốt cháy khắp nơi chỉ có nhà ông là nguyên vẹn. Đó là bằng chứng rõ ràng của vấn đề Thần minh phù trợ. Con ông đọc sách và sau này được dự vào khôi tiến. Ông có hai, ba đứa cháu thông minh đức độ, điều ấy cũng chứng tỏ cho niềm tin đối với vấn đề phước thiện của đạo Trời. Giả sử như ông ta chỉ chăm chú vào tiền bạc mà đánh mất cái số ấy đi thì cái được không đủ bù cho điều mất. Những người đồng môn nên lấy ông làm tấm gương cho mình. Nếu chư vị luôn giữ tâm đó để hồi hướng Tịnh độ thì chắc chắn sinh lên Thượng phẩm. Nếu nhân người bị bệnh khổ mà đem Tịnh độ để giáo hóa thì họ rất dễ sinh tín tâm. Lại khiến bệnh nhân phát đại nguyện để rộng truyền giáo pháp, để chuộc tội đời trước, để cầu cho bệnh được thuyên giảm tất sẽ như ý nguyện; còn nếu tuổi Trời đã hết thì cũng có thể nương nguyện lực ấy mà sinh về Tịnh độ. Nếu chư vị luôn giáo hóa mọi người như thế thì không những thân sau của chư vị được vãng sinh Thượng phẩm, mà hiện đời còn được mọi người tôn kính và phước báo vô cùng tận, cho đến con cháu đời sau còn được hưởng. Khuyên Tăng só. Là một Tăng só thì tự mình phải suy nghó thế này: “Ta là người xuất gia. Vậy, bổn phận chính của ta là phải liễu đạt sinh tử! Nếu không làm được điều ấy thì ta lại bị trôi nổi cùng trần tục và khi cái chết ập đến thì biết dựa dẫm vào đâu! Dẫu ngày thường ta có tạo được thiện nghiệp chăng nữa cũng không thể thoát khỏi luân hồi, nghóa là lúc quả báo của thiện nghiệp hết thì ta vẫn bị đọa lạc lại. Chi bằng sớm tu tập Tịnh độ để thoát luân hồi, để được diện kiến Đức Phật A-di-đà mới gọi là đã hoàn thành trách nhiệm của một kẻ xuất gia.” Như các Ngài Vónh Minh Diên Thọ thiền sư, Trường Lô Trách thiền sư, Vạn Niên Nhất thiền sư v.v…, đều tu Tịnh độ và lại đem giáo pháp đó để giáo hóa mọi người, khiến cho họ giáo hóa nhau. Lẽ nào chúng ta không làm theo các bậc ấy? Thông thường, nếu ta nhận sự cúng thí của người khác dầu chỉ một đồng tiền, một bát cơm thì nên giảng nói Tịnh độ để báo đền ân đức cho họ. Dẫu không tin ta cũng giảng giải cho họ biết, nhờ sự chín muồi của nhó căn nên lâu ngày họ cũng tin tưởng. Còn nếu lúc vừa nghe mà họ tin ngay thì đó quả là điều ân ích lớn lao. Nếu giáo hóa mọi người như vậy thì hiện đời ta được mọi người kính mến và thiện duyên ngày một thuần thục. Giả sử, ta thường chuyên tâm quán tưởng thì không bao lâu mình sẽ thấy được chân thân của Đức Phật; sau khi xả bỏ báo thân này ta sẽ sinh lên Thượng phẩm và là vị Bồ-tát thuộc Bất thoái chuyển địa. Cổ đức nói: “Thân này không chịu đời này độ. Thì hỏi đời nào mới độ thân.” Ngưỡng mong chư Tăng nên thường xuyên nuôi dưỡng và tưới tắm cho những ý tưởng ấy, không nên biếng nhác, chây lười! Khuyên kẻ tham thiền. Nếu người tham thiền được đại ngộ thì liền thoát được luân hồi sinh tử, bởi lẽ đó là pháp siêu việt nhất. Song, để đạt được kết quả ấy thì dẫu có cả trăm người tu cũng chưa có được dăm ba người. Nhưng nếu tu Tây phương, dẫu đến vạn người cũng đều trót lọt cả. Bởi vậy, tôi muốn khuyên những bậc thượng căn thượng trí trong hàng ngũ Tăng só điều này: Ngoài thời giam tham thiền, chư vị nên dành chút thời gian nhàn rỗi để tu Tây phương. Cho dù chư vị tham thiền được đại ngộ, được thoát luân hồi, tuy vẫn còn cách Phật địa rất xa nhưng lại có thể diện kiến Đức Phật A-di-đà để lễ lạy chí kính thì có gì là khó. Nếu chư vị chưa được đại ngộ mà mạng sống chấm dứt đột ngột thì vẫn được vãng sinh, được thấy Phật và nghe pháp, như vậy lo gì không được đại ngộ. Nếu chư vị không tu Tịnh độ thì không thể thoát được cái nạn luân hồi tùy theo nghiệp duyên, tuy được như các vị Thanh Thảo Đường, Giới Thiền Sư, Chân Như Triết đi nữa cũng đắm chìm trong luân hồi cả. Thật vô cùng đáng sợ! Muốn biết rõ vấn đề này xin chư vị đọc ở quyển bảy. Nếu chư vị không xem nhẹ Pháp môn này và chuyên tâm tu tập, lại đem giáo pháp này giáo hóa mọi người, làm cho họ khuyến hóa lẫn nhau; thì mọi người đều cho chư vị là danh Tăng nên họ hoan hỷ nghe theo lời quý vị. Như vậy sự ích lợi quả thật vô cùng mà chư vị cũng chắc chắn được sinh lên Thượng phẩm thượng sinh. Khuyên người giàu. Người giàu có nên tự nghó thế này: “ Ta nay sinh vào nhà giàu có là do đời trước ta có gieo trồng phước đức, như lúa gạo hôm nay là do ta trồng năm trước. Những tài lộc, quần áo, thức ăn của đời này đều có định số ở âm ty. Nếu ta làm lụng từ từ và hợp với số có thì tự nhiên của cải sẽ đến, của cải đến chậm thì mạng sống có thể kéo dài, như dòng nước cạn thì nước được tồn tại lâu; nếu ta tham tiền tài và làm ăn vội vã thì cũng ngang với số ấy, có được tài sản ngoài số thì tai họa sẽ sinh, làm cho chúng mất mát, như nước quá đầy thì bị tràn. Vì vậy, chúng ta nên tùy phận mà sống sao cho không bị đầy tràn. Lại nữa, chúng ta nên bỏ ra chút ít tài sản mà cứu tế cho mọi người, được thế thì không những hiện đời chúng ta được an lạc mà còn gieo trồng được phước đức cho đời sau.” Nhưng chúng ta nên nhớ rằng phước thế gian có lúc cũng hết, nếu chúng ta đem phước ấy để hồi hướng Tây phương thì nó sẽ nhiều lên vô cùng. Huống gì sự giàu đủ của thế gian không thể vừa ý mình được, chúng ta nên lưu tâm đến Cực lạc thì tự mình sẽ được niềm vui. Chúng ta nên ấn thí những văn bản nói về Tịnh độ Tây phương để khuyến hóa mọi người, khiến mọi người cùng khuyến hóa nhau, làm thế tức là chúng ta đang gieo trồng phước đức vô lượng. Hiện đời chúng ta có thể dùng phước đức ấy để tiêu trừ tai nạn, được quỷ Thần tôn kính và phù hộ. Thân sau chắc chắn chúng ta sẽ sinh lên Thượng phẩm. Khuyên người tham lam keo kiệt. Kẻ nhận của người khác ba ngàn đồng nhưng vẫn cho rằng ít gọi là tham. Tự phí mất của mình chỉ hai ngàn đồng mà đã cho là quá nhiều gọi là keo kiệt. Lỗi của tham lam, keo kiệt thì ai cũng như nhau nhưng ai tự biết! Người bỏ được hai bệnh ấy mới gọi là hiền, như vậy thì việc thiện nào cũng làm được, điều ác nào cũng ngăn cấm được. Vì sao? Vì ta không tiếc tiền lúc làm việc thiện, ta không tham tài sản mà làm điều ác. Nếu chúng ta làm thế để tu tập Tịnh độ thì chắc chắn không sinh vào Hạ phẩm. Chúng ta thường đem Tịnh độ để hoằng hóa mọi người, lại khiến cho những người được giáo hóa ấy giáo hóa kẻ khác; vì mọi người cho rằng ta không có lòng tham lam, keo kiệt nên càng tôn kính và hoan hỷ nghe theo lời giáo huấn của ta và như thế thì số người được giáo hóa sẽ đông lên. Và dó nhiên, chúng ta không cần nghi ngờ việc mình được sinh lên Thượng phẩm hay không? Đồng thời, chúng ta có thể đứng nhìn phước báo hiện đời! Vấn đề này quả thật tôi không thể diễn đạt trọn vẹn bằng lời lẽ được, mong hành giả tự cảm nhận vậy! Khuyên người con hiếu thảo. Thiền sư Trường Lô Trách viết: “Hiếu hữu văn” gồm một trăm hai mươi thiên. Một trăm thiên đầu nói về việc phụng dưỡng cha mẹ bằng của ngon vật lạ, đó là hiếu dưỡng thuộc thế gian; hai mươi thiên sau là nói về khuyên mẹ cha tu tập Tịnh độ, đó là hiếu sự thuộc xuất thế gian. Bởi lẽ, hiếu sự thuộc thế gian chỉ hạn cuộc ở một đời, nên vẫn là hiếu sự nhỏ; trong lúc hiếu sự thuộc xuất thế gian là không cùng tận, vì nếu cha mẹ chúng ta được sinh Tịnh độ thì phước đức và thọ mạng nhiều hơn hằng hà sa kiếp. Tóm lại, đó là hiếu sự vó đại nhất. Lúc cha mẹ còn sống mà ta không thể khuyến song thân tu tập Tịnh độ thì sự đau lòng ở ngày khác, sự bày vẽ nghi lễ thật đầy đủ của chúng ta nào có ích lợi gì đâu? Còn nếu chúng ta lại có thể đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, khiến cho người được giáo hóa ấy giáo hóa người khác, rồi đem công đức ấy mà hỗ trợ cho phước và thọ của cha mẹ, làm thiện quả của cha mẹ được dày dặn thêm. Do bởi Đức Phật không bao giờ ngăn trở ước nguyện của chúng sinh, nên ý tưởng ấy sẽ được toại nguyện. Trong Thượng phẩm thượng sinh, vấn đề được nói trước tiên là việc hiếu dưỡng đối với song thân. Nếu chúng ta đem tâm nguyện Tịnh độ mà làm việc hiếu sự, thì thứ đệ vãng sinh của mình ta có thể nhận biết ngay. Khuyên cốt nhục ân ái. Những người yêu thương nhau trong vòng cốt nhục nên suy nghó thế này: Bồ-tát Đại Từ có bài kệ rằng: “Cốt nhục ân tình thương mến nhau, khó được bên nhau đến bạc đầu, cường tráng ít nhiều chết chóc cả, tuổi thơ bỏ mạng phải ít đâu. Khuyên người người niệm tụng A-di- đà, được hóa sinh trong ao thất bảo, vónh viễn sum vầy không ly biệt, sống lâu muôn kiếp và khoái lạc.” Nếu không được như thế thì chỉ là việc đem áo đẹp để tô điểm xác thân, đem món ngon để lấp cửa miệng, một sớm cùng nhau ly biệt, thì không có nơi nào để bám víu, tựa nương! Vì vậy, lúc còn sống, chúng ta nên đem pháp môn niệm Phật mà khuyên dạy nhau. Nếu chúng ta có thể đem pháp môn ấy để giáo hóa người khác, khiến cho những người đó lại khuyến hóa người khác nữa, thì không những ta làm cho tình cốt nhục của ta được lâu bền, mà tình cốt nhục của những người khác cũng được vô tận thì phước báu cũng không cùng tận. Và dó nhiên, chúng ta sẽ được sinh lên Trung phẩm thượng sinh. Khuyên phụ nhân. Phụ nhân nên nghó thế này: Căn cứ vào lời của Phật thì những kẻ có tâm ái dục quá nặng sẽ thọ nhận cái thân phụ nữ. Đó vốn đã không phải là thiện nghiệp, nhưng nếu các vị không tự xét mà còn tăng thêm lòng ganh ghét, tham dục, làm cho nghiệp duyên càng sâu nặng thêm thì quả báo thật vô cùng đáng sợ! Nếu các vị luôn hồi tâm để sám hối, nguyện trừ bỏ những tâm niệm sai lầm đó, nguyện lấy nhân từ để đãi ngộ với tỳ thiếp, nguyện đem lòng ôn hòa để tiếp người trên kẻ dưới; thường niệm A-di-đà Phật và phát nguyện rằng: “Nguyện cho ác nghiệp của tôi được tiêu trừ, thiện nghiệp ngày càng sinh trưởng. Hiện thân được thanh tịnh và cả trong ngoài đều được khinh an. Sau đời này tôi không thọ thân nữ nữa”. Các vị nên làm cho những niệm tưởng ấy được liên tục thì chúng sẽ tự thuần thục, lẽ tất nhiên, quý vị sẽ được sinh về cõi Cực lạc. Nếu quý vị đem Tịnh độ giáo hóa gia đình cho đến những tỳ thiếp và họ hàng thân thích, thì phước đức của mình sẽ không cùng tận, chắc chắn sinh lên Thượng phẩm. Các vị đọc chuyện của kinh Vương Phu Nhân thì sẽ rõ những điều tôi nói. Khuyên hầu thiếp. Người làm tỳ thiếp nên tự nghó thế này: Do đời trước ta không tu tập phước thiện nên hôm nay mới nhận thân phần bần tiện này. Người ta thì nhàn nhã, còn mình thì lao nhọc; người ta hưởng của ngon vật lạ, còn mình thì cơm thừa cá cặn; người ta thì lụa là mềm mịn, còn mình thì quần áo xấu thô. Tất cả sự việc đó đều do nghiệp duyên đời trước. Cố nhiên, chuyện đã qua thì không thể hối hận được. Nhưng, từ đây trở về sau, quý vị nên nghó nhớ đến điều thiện và luôn thành tâm sám hối; luôn trung thực cần mẫn, phụng sự kẻ trên mình một cách chu đáo để bảo trọng tấm thân, để gieo trồng phước đức về sau. Các vị nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật và làm sao cho từng niệm từng niệm nối nhau mãi, lúc niệm tự thuần thục thì chắc chắn được sinh về Cực lạc. Các vị lại nên đem Tịnh độ để giáo hóa cho đồng loại của mình, khiến những người đó giáo hóa những người khác, thì phước báo của mình sẽ vô lượng và tất nhiên là sẽ được sinh lên Trung, Thượng phẩm. Khuyên nông dân. Người làm nông nên nghó thế này: Tuy nông nghiệp là công việc căn bản, song công việc xới đất cày ruộng làm chết rất nhiều côn trùng nhỏ bé. Tuy việc chẳng biết làm sao hơn, nhưng nếu các vị khéo léo để bảo toàn, sám hối những sai lầm trước đây, thường niệm A-di-đà Phật và phát nguyện rằng: “Nguyện sau khi được thấy Phật, được đắc đạo; trước tiên tôi sẽ độ tất cả chúng sinh nhỏ nhiệm bị giết hại từ khi tôi cày cấy đến nay; kế đến, tôi sẽ độ tất cả chúng sinh cả oán và thân.” Các vị nên thường xuyên nghó nhớ như vậy, và khiến cho niệm tưởng ấy được liên tục thì nó sẽ thuần thục và tất nhiên là các vị sẽ được vãng sinh thế giới Cực lạc. Nếu các vị đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, khuyến mọi người cùng khuyến hóa nhau, thì hiện đời mình sẽ gặt được phước báo, thân sau sẽ chắc chắn sinh lên Trung, Thượng phẩm. Khuyên người nuôi tằm. Người nuôi tằm nên tự nghó thế này: Tằm cho tơ để dệt vải may áo. Đó tuy là lẽ thường nhưng cũng là sự giết hại mạng sống loài vật. Người đời nói rằng, Bồ-tát Mã Minh nghiên cứu Tạng kinh thấy không có giáo thuyết ấy, chỉ nói rằng Đức Phật dạy đệ tử không được mặc gấm vóc, cho đến không được dùng da để làm giày dép. Vì muốn có những thứ ấy thì phải giết loài vật. Lẽ nào người sống bằng nghề nuôi tằm lại không hỗ thẹn! Các vị nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật và phát đại nguyện rằng: “Sau khi được thấy Phật, được thành đạo, tôi sẽ độ tất cả tằm mà tôi đã giết hại từ khi nuôi tằm đến nay.” Các vị cố giữ cho những niệm tưởng ấy được liên tục, thì chúng sẽ chín muồi và như thế, quý vị cũng được sinh về Cực lạc. Nếu quý vị đem giáo pháp Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại khiến cho mọi người cùng giáo hóa lẫn nhau, thì hiện đời quý vị sẽ gặt được phước báo, thân sau cũng được sinh lên Trung phẩm. Khuyên người buôn bán. Những người buôn bán nên tự nghó thế này: Bình sinh, việc trao đổi hàng hóa của ta tất có điều giả dối. Chúng ta không thể nói rằng mình vô tội khi mà ngay một đoạn gấm cũng từ mạng của tằm mới có. Một mai, khi mạng sống chấm dứt, chắc chắn chúng ta sẽ bị nghiệp duyên kéo đi. Cho nên, không gì hơn là hôm nay chúng ta nên sám hối, làm việc thiện và làm lụng kiếm sống tùy theo vị trí của mình. Nếu số của ta là có nhiều tiền của thì tự nhiên tiền của sẽ đến dần; nếu số của ta thiếu thốn về đường tiền của thì dẫu có nó rồi lại cũng bị mất mát. Huống gì cái số tiền bạc của đời người vốn dó có hạn; kẻ vội vã tìm cầu, tiền của đầy tràn thì lại mất sớm; kẻ tìm cầu thư thả mà tiền của đến chậm thì có thể bền lâu. Quý vị nên nuôi dưỡng những tư tưởng ấy trong tâm, thường niệm A-di-đà Phật và phát nguyện rằng: “Nguyện sau khi được thấy Phật, được thành đạo; trước tiên tôi sẽ độ tất cả chúng sinh từng buôn bán với tôi; kế đến, tôi sẽ độ tất cả kẻ oán người thân; sau hết, tôi sẽ độ tất cả chúng sinh có duyên hay vô duyên với tôi”. Quý vị nên giữ cho những niệm tưởng ấy được liên tục, thì tự chúng sẽ được chín muồi và chắc chắn quý vị sẽ được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu quý vị lại đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, khiến cho mọi người cùng giáo hóa lẫn nhau, thì hiện đời quý vị sẽ gặt hái được phước báo, thân sau sẽ sinh lên Trung, Thượng phẩm. Khuyên thợ mộc. Những người thợ mộc nên tự nghó thế này: Ta là thợ mộc, có khi làm nhà cho người khác, có lúc làm vật dụng cho người khác. Tuy nghề này là thiện, nhưng vì đời trước ta không tu tập và gieo trồng phước thiện, nên hôm nay mới nghèo nàn. Nhà ta làm thì người khác ở, vật dụng ta tạo thì kẻ khác dùng, nhưng nếu không vậy thì áo quần thức ăn của ta sẽ thiếu hụt. Chung quy, quý vị nên tùy phận mà làm điều thiện. Nghóa là, lúc làm cho người thì không nên quá tham vật liệu, phải tận tâm đối với công việc, vì những việc ấy cũng là cách gieo trồng phước đức. Quý vị nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật, lúc làm lụng cũng một lòng niệm A-di-đà Phật, sao cho từng niệm từng niệm được liên tục thì chắc chắn quý vị sẽ được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu quý vị đem giáo pháp Tịnh độ để giáo hóa cho mọi người, sao cho mọi người cùng giáo hóa lẫn nhau, thì hiện đời quý vị sẽ gặt hái được phước báo, thân sau chắc chắn sẽ sinh lên Trung, Thượng phẩm. Khuyên người đa truân. Những người đa truân không nên oán Trời trách người, bởi lẽ tất cả đều do nghiệp duyên của ta. Nếu lúc gặp người khác mà ta hoan hỷ thì sẽ có quả hoan hỷ, nếu ta não hại họ thì sẽ gặt quả báo bị não hại. Nếu ta thực hành phương tiện thì được quả báo vừa lòng, nếu ta ngăn trở người khác thì ta bị quả báo là răng cỏ không đều đặn. Nói chung, tất cả đều do những việc làm ở đời trước, nó như ảnh theo hình, âm vang theo tiếng. Sở dó đời này các vị có quá nhiều nổi truân chuyên là bởi đời trước không làm điều thiện, không tạo phước nghiệp. Cố nhiên, chuyện đã qua thì không thể níu kéo được. Nhưng, từ nay mong quý vị nên tinh cần sám hối, luôn niệm A-di-đà Phật; không những có thể tiêu trừ được chướng nạn đời trước, mà còn làm cho duyên lành được tăng trưởng, đời sau quý vị sẽ sinh về thế giới Cực lạc, không còn bao nỗi truân chuyên như vậy nữa. Mong rằng, các vị đừng cho rằng đời sau là chuyện xa vời, viễn vông. Chỉ cần ta nhắm mắt xuôi tay là thấy rõ mọi điều. Nếu các vị đem Tịnh độ để khuyên dạy mọi người, khiến cho mọi người cùng giáo hóa nhau, thì hiện đời quý vị sẽ gặt hái được phước báo, thân sau sẽ được sinh lên Trung, Thượng phẩm. Khuyên những người cốt nhục mà thù oán nhau. Những kẻ cốt nhục mà thù oán nhau nên tự nghó thế này: Do ác nghiệp đời trước nên đời này ta mới chiêu cảm quả báo này. Nghóa là, hoặc ta giết hại họ, hoặc là ta cướp nợ của họ, hoặc ta não hại họ. Bởi lẽ, nếu ta tạo duyên lành thì làm gì có tình trạng như thế này! Nếu quý vị luôn sám hối nghiệp của đời trước, tự trách cứ bản thân và không làm những việc ác nữa, hoặc thường xuyên niệm A-di-đà Phật, thì giải trừ được tâm phẫn nộ, tiêu diệt được ác duyên; và nếu quý vị nguyện sinh thế giới Cực lạc thì những người đoàn tụ với mình đều là thượng thiện nhân v.v… Tất nhiên, sẽ không còn những hoạn nạn như đã nói. Nếu quý vị đem giáo pháp Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại làm cho mọi người cùng khuyến hóa nhau, thì hiện đời sẽ gặt hái phước báo và sau khi mất, quý vị sẽ sinh lên Trung, Thượng phẩm. Khuyên người đánh cá. Những người làm nghề chài lưới nên nghó thế này: Cá sống trong nước và không làm hại ai cả, nhưng ta lại tìm đủ cách để đánh bắt chúng đem bán với mục đích nuôi sống thân mạng và gia đình. Cá trong nước cũng có quyến thuộc, trong bụng chúng có rất nhiều trứng; nếu ta giết hại chúng thì tội lỗi quả là vô lượng. Nếu đổi được nghề thì vô cùng quý, nhưng nếu quý vị vẫn làm thì không nên giết quá nhiều cá nhỏ và những con vật khó chết như ốc, sò, hến, trai v.v… (thông thường, những loài không vảy là rất khó chết). Nếu quý vị luôn niệm A-di-đà Phật, sám hối và phát nguyện rằng: “Nguyện sau khi được thấy Phật, được đắc đạo, tôi sẽ độ hết những loài mà tôi đã giết từ xưa đến nay, khiến tất cả chúng đều sinh về Tịnh độ” và nếu các vị nuôi dưỡng những niệm tưởng ấy mãi khiến cho chúng tự thuần thục, thì quý vị cũng được sinh về Cực lạc. Nếu quý vị đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại làm cho mọi người cùng khuyến hóa lẫn nhau, thì hiện đời quý vị sẽ tiêu trừ tai nạn, gặt hái phước báo và thân sau quý vị sẽ không bị sinh vào Hạ phẩm hạ sinh. Khuyên người bẫy chim. Người bẫy chim nên tự nghó thế này: Những con chim bay ở rừng, ở đồng nội và giữa bầu Trời vốn không làm hại con người. Vì thèm thịt nên chúng ta tìm đủ cách để bắt chúng. Ta yêu tánh mạng mình thì chúng cũng quý mạng sống của chúng; ta thương cốt nhục mình thì chúng cũng có con cái. Nếu ta đổi được nghề thì vô cùng quý, nhưng nếu quý vị vẫn làm nghề ấy thì cũng không nên giết nhiều loài nhỏ, loài sinh sản và bồng bế. Quý vị nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật, sám hối và phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi thấy được Phật, được giác ngộ, tôi sẽ độ tất cả vật mạng mà tôi đã giết từ xưa đến nay, khiến cho tất cả chúng đều sinh về Tịnh độ.” Quý vị nên nuôi dưỡng những ý tưởng ấy sao cho chúng được thuần thục thì sẽ được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu quý vị đem giáo lý Tịnh độ để giáo hóa mọi người, và lại khiến cho mọi người cùng giáo hóa lẫn nhau, thì hiện đời, quý vị có thể tiêu trừ tai nạn, diệt được tội lỗi, và thân sau sẽ không sinh vào Hạ phẩm hạ sinh. Khuyên đầu bếp. Người đầu bếp nên tự nghó thế này: Vì đời trước ta không tu phước tạo nghiệp thiện, nên đời này bị bần cùng khốn khó lại chiên xào, cắt xẻo chúng sinh. Tuy ta không trực tiếp giết nhưng tội vẫn nặng. Nếu các bạn đổi được nghề thì vô cùng quý báu, còn nếu không đổi được thì nên cẩn thận, tức là không nên tự tay mình giết loài vật. Quý vị nên thường xuyên niệm Phật, sám hối, làm việc thiện và phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi đắc đạo, tôi sẽ độ tất cả vật mạng bị mình giết hại, tất cả chúng sinh bị tôi cắt xẻo từ trước đến nay, khiến cho chúng sinh ấy đều sinh về Tịnh độ.” Nếu quý vị làm cho các niệm tưởng ấy liên tục và thuần thục thì mình sẽ được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu quý vị luôn đem giáo pháp Tịnh độ để khuyến tiến mọi người, và lại khiến họ khuyến hóa lẫn nhau, thì hiện đời quý vị sẽ tiêu trừ được tai nạn, tội lỗi; và lúc mất cũng không bị sinh vào Hạ phẩm hạ sinh. Khuyên người làm phước. Người làm đủ điều phước tất nhiên là tốt lành, nhưng quả báo của phước thế gian vốn có hạn, bởi vì nó không ra khỏi vòng luân hồi. Nếu quý vị đem phước ấy để hồi hướng Tây phương, thì sẽ được ra khỏi luân hồi và phước báo ấy sẽ vô cùng tận. Nhưng có hơn một nửa số người ở đời không biết được cái lý này, tôi mong rằng những người toàn nương vào việc phước, lấy tâm Bồ-tát làm tâm mình để giải nói cho những người ấy biết rõ; như chỗ tối tăm mà có được cây đèn, như người mê mà thấy được con đường. Quý vị nên đem pháp môn này để bố thí cho tất cả, khiến ai cũng biết, ai ai cũng được thoát khỏi luân hồi. Được thế thì phước báo của quý vị sẽ vô cùng tận, đồng thời quý vị sẽ được sinh lên Thượng phẩm ở thế giới Cực lạc. Và tất nhiên, phước báo thế gian không thể nào sánh được. Khuyên người tụng kinh. Người tụng kinh hoặc người trì trai giới cố nhiên là nghiệp lành và đời sau được thọ nhận phước báo, vấn đề ấy chẳng có gì để nghi ngờ cả. Song quả báo của chúng ta rồi sẽ hết và chẳng đưa ta thoát khỏi vòng luân hồi. Nếu chư vị tu tập Tây phương tức được thoát vòng luân hồi. Người ác tu tập pháp môn này còn được vãng sinh, huống gì những người trì trai, tụng kinh. Đương nhiên, họ chắc chắn được sinh lên Thượng phẩm. Tuy thế, nếu quý vị chỉ tu tập một mình công đức của quý vị sẽ rất nhỏ, còn nếu quý vị khuyên người khác tu hành thì công đức lớn vô cùng. Nếu quý vị đem giáo pháp này để khuyến hóa mọi người, và khiến những người ấy khuyến hóa những người khác; vì mọi người thấy quý vị trì trai, tụng kinh nên rất tin tưởng và xem trọng lời nói của mình. Do vậy, công đức của quý vị lại lớn hơn nữa. Hiện đời quý vị sẽ thọ được quả báo cung kính, quy y và phước đức của thân sau là vô cùng tận. Khuyên người sang. Người sang trọng nên tự nghó thế này: Tuy rằng ta có đủ điều vừa ý, đủ món khoái lạc, nhưng thời gian qua mau khó bảo toàn được tấm thân giả huyễn này. Những người vô cùng sang trọng xưa nay giờ còn được mấy kẻ! Chi bằng quý vị dành chút thời giờ rỗi trong mỗi buổi sáng để tu tập pháp môn Tây phương. Hiện đời quý vị sẽ được tiêu trừ được tai nạn và giảm bớt nghiệp, thân sau sẽ được thác sinh trong hoa sen; mãi mãi không có nẻo khổ và luôn luôn thọ nhận khoái lạc. Những kết quả ấy thật vô cùng siêu việt! Như ông Văn Lộ ở đời Tống cùng thiền sư Tịnh Nghiêm kết duyên Tịnh độ với mười vạn người. Các ông Dương Thứ, Vương Mẫn Trọng, Cát Trọng Trầm, Mã Đông Ngọc, Bằng Tế Xuyên v.v…, đều là những người sang trọng nhưng vẫn tu tập Tịnh độ. Lẽ nào quý vị không nghó đến những trường hợp đó? Nếu quý vị phát tâm đại Bồ-đề chuyên đem Tịnh độ để dạy mọi người, lại khiến mọi người cùng giáo hóa lẫn nhau. Mọi người cho quý vị là hạng sang trọng nên đều tin tưởng và tôn trọng lời nói của mình, do vậy mà giáo lý Tịnh độ có thể lưu hành rộng khắp. Được thế thì phước báo của quý vị là không thể suy lường và thân sau chắc chắn sinh lên Thượng phẩm. Nếu quý vị chỉ chìm trôi trong biển đời cho qua ngày đoạn tháng mà không biết gì đến việc tu tập đối với pháp môn này thì một ngày nào đó có hối hận cũng không còn kịp nữa! Khuyên những bậc đại thông minh. Những bậc đại thông minh, học rộng nhớ lâu, lời lẽ phát ra thành văn, hạ bút thành chương, đều là những bậc mà người đời tôn trọng và ngưỡng mộ. Song, những sự tôn trọng và kính ngưỡng ấy chẳng dính dáng gì đến ngã tánh bên trong cả. Trang Tử nói: “Nói thấy Không có nghóa là thấy đối tượng mà tự thấy mình. Nói nghe Không có nghóa là nghe đối tượng mà là tự nghe mình. Không tự thấy mà lại đi thấy đối tượng, không tự nghe mà lại đi nghe đối tượng, thì đó là được cái được của người khác chứ không phải là tự được cái được của mình; là thích cái thích của người khác chứ không phải tự thích cái thích của mình.” Một sáng vô thường ập đến mới hay những điều mình quan tâm lúc bình sinh là hoàn toàn vô ích. Tất nhiên, quý vị không thể bỏ sự nghiệp thông minh ấy, nhưng mỗi ngày cũng nên bỏ ra ít giây phút nhàn rỗi để tu tập Tịnh độ. Nếu chư vị hiểu suốt về lý của Tịnh độ thì ác duyên sẽ tự giảm và thiện duyên tự tăng trưởng, tất nhiên mình đã tự có niềm an lạc ngay lúc đang còn sống. Nếu quý vị đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại khiến cho mọi người cùng giáo hóa nhau, vì mọi người cho mình là bậc thông minh xuất chúng mà còn tin Tịnh độ nên họ càng tin tưởng pháp môn niệm Phật. Nhờ vậy mà giáo lý Tịnh độ có thể lưu truyền rộng khắp và lâu bền. Như vậy, quý vị cũng là những Bồ- tát phù trì cho giáo lý Tịnh độ, ngày sau chắc chắn sẽ sinh lên Thượng phẩm. Phước báo ấy quả không thể nào đo lường được. Khuyên người bán rượu. Người bán rượu nên nghó thế này: Ngũ cốc là để nuôi người, nay ta ngâm cho nát để nấu rượu làm cho người uống nó bị loạn động tâm tánh và đa phần đều làm việc ác. Lỗi ấy tại ai? Quý vị nên thường xuyên sám hối, luôn niệm A-di-đà Phật và phát đại nguyện rằng: “Nguyện tất cả tội lỗi vì làm tâm tánh mọi người bị loạn động và ngũ cốc bị hư hoại từ lúc tôi bán rượu đến nay đều được tiêu trừ. Nguyện sau khi được thấy Phật, được thành đạo, tôi sẽ độ thoát hết cây giống của ngũ cốc dùng cấy lại để nấu rượu, tất cả những chúng sinh cực nhỏ cùng sức mạnh tất cả chúng sinh và những người loạn tánh vì uống rượu khiến cho họ đều sinh về Tịnh độ.” Quý vị giữ sao cho những ý tưởng đó được liên tục, khiến chúng được chín muồi thì sẽ được sinh về Tịnh độ. Nếu quý vị luôn đem giáo lý ấy để giáo hóa mọi người, khiến họ lại giáo hóa những người khác, thì hiện đời mình sẽ diệt được tội và tăng trưởng phước đức, sau khi mất nhất định sinh lên Trung phẩm. Khuyên những người mở tiệm ăn. Những người mở tiệm ăn nên tự nghó thế này: “Ta cắt xẻo, chưng, nướng thịt chúng sinh vì mục đích kiếm lợi và nuôi sống mình. Ta có cốt nhục và lại muốn cốt nhục của mình được an ổn mà nghề của ta lại do giết hại chúng sinh mới có, thì quả là vô cùng tàn ác.” Nếu quý vị đổi được nghề thì vô cùng quý, nhưng nếu chưa đổi được thì cũng nên bớt giết những loại khó chết như: Nghêu, ốc, sò, hến v.v… cho đến những loài rất nhỏ có cưu mang nhiều mạng sống. Nếu không bỏ được như vậy nữa, thì cũng nên tùy theo phần mà sử dụng thịt, còn nếu không thể nữa thì nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật, như thế cũng hơn người không niệm rất nhiều. Tiếp theo nữa, quý vị nên sám hối và phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi được thấy Phật, được đắc đạo, tôi sẽ độ tất cả thịt chúng sinh mà tôi đã dùng, khiến cho tất cả đều sinh về Tịnh độ.” Quý vị nên nuôi dưỡng những niệm tưởng ấy sao cho được liên tục, thì chúng sẽ thuần thục và tất nhiên quý vị cũng được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu các vị luôn đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại khiến cho mọi người khuyến hóa người khác, thì hiện đời quý vị có thể tiêu trừ được tội lỗi và thân sau sẽ có được phước báo nhiều vô cùng tận. Khuyên người làm đồ tể. Người làm đồ tể nên nghó thế này: “Người ta vì tham thịt nên nuôi gia súc, còn ta vì tham lợi nên giết loài vật. Ta giết súc vật để nuôi thân và gia đình mình. Ta có quyến thuộc và muốn quyến thuộc của mình được an lạc, trong khi đó ta lại giết hại súc vật. Tội lỗi đó thật là vô lượng!” Nếu có thể từ bỏ nghề ấy thì vô cùng quý, nhưng nếu quý vị chưa từ bỏ được thì cũng nên giảm bớt sự giết hại. Nếu chưa có thể bỏ bớt sự giết hại, thì quý vị nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật, như thế vẫn tốt hơn không niệm rất nhiều. Thứ nữa, quý vị nên sám hối và phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi được thấy Phật, được đắc đạo, tôi sẽ độ tất cả chúng sinh bị tôi giết từ trước đến nay, khiến cho chúng sinh được sinh về Tịnh độ.” Quý vị nên dưỡng nuôi niệm tưởng ấy mãi sao cho chúng được thuần thục thì quý vị cũng được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu quý vị luôn đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại khiến mọi người giáo hóa lẫn nhau, thì hiện đời có thể tiêu trừ được ác nghiệp và thân sau quý vị cũng được gặt hái được phước báo nhiều vô cùng. Khuyên người phong trần. Chị em phong trần nên nghó thế này: Sinh làm thân con gái đã là ác nghiệp rồi, huống gì ta lại nổi trôi nơi gió bụi nữa. Nghiệp của ta quả là vô cùng bất thiện! Nếu chị em luôn luôn tỉnh ngộ để đoạn trừ nghiệp dâm thì phúc đức vô cùng, nhưng nếu chưa bỏ được thì nên cũng thường xuyên niệm A-di-đà Phật và phát đại nguyện rằng: “Nguyện ác nghiệp của tôi ngày một tiêu trừ, thiện nghiệp ngày càng tăng trưởng. Áo quần, thức ăn luôn đơn giản và biết đủ. Nguyện tôi sớm được rời ngưỡng cửa này! Nguyện sau khi được thấy Phật, được thành đạo, tôi sẽ độ tất cả những kẻ vì tôi mà sa vào vòng dâm dục, khiến tất cả họ đều sinh về Tịnh độ”. Nếu chị em giữ gìn những ý tưởng ấy liên tục thì chúng sẽ tự thuần thục và chắc chắn chị em sẽ được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu chị em luôn đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại khiến mọi người khuyến hóa lẫn nhau, thì hiện đời chị em sẽ tiêu trừ được tai nạn, tội lỗi; và thân sau cũng gặt được phước báo nhiều vô số. Khuyên người tạo tội ác. Những người tạo tội ác nên tự nghó thế này: Bình sinh ta đã tạo nhiều tội ác, một ngày nào đó, sau khi đã nhắm mắt xuôi tay thì biết làm thế nào đây? Quý vị nên hồi tâm sám hối gấp, nên niệm A-di-đà Phật và phát đại nguyện rằng: “Nguyện sau khi được thấy Phật, được đắc đạo, tôi sẽ độ tận tất cả những người bị tôi hãm hại từ trước đến nay, khiến cho họ đều sinh về Tịnh độ.” Quý vị nên giữ cho ý tưởng ấy được liên tục, thì tự nhiên chúng sẽ thuần thục. Được thế, dần dần các vị sẽ tiêu trừ được ác nghiệp, thiện duyên sẽ được tăng trưởng và chắc chắn quý vị sẽ được sinh về thế giới Cực lạc. Nếu quý vị luôn đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, lại khiến mọi người cùng giáo hóa nhau, thì không những hiện đời quý vị có thể tiêu trừ tội lỗi, mà thân sau cũng có được phước báo nhiều vô cùng. Khuyên người bệnh khổ. Kẻ giết hại chúng sinh thì sẽ bị quả báo đoản mạng, người tùy hỷ với kẻ sát hại ấy thì sẽ bị quả báo phiền não. Người bị khổ vì bệnh tật là dư báo của sự sát sinh. Quả báo của việc ăn thịt cũng là quả báo của sự não hại chúng sinh. Vấn đề thiện ác đối với con người như bóng đi theo hình, không thể nào chạy trốn được! Vì vậy, những người khổ vì bệnh nên tự trách mình thế này: Sở dó ta đau khổ như vậy là do ác nghiệp của mình! Các vị nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật và phát thệ nguyện rằng: “Nguyện tôi không làm điều ác nữa không sát sinh nữa, không não hại chúng sinh nữa. Nguyện sau khi thoát được nỗi khổ vì bệnh tật này, được thấy Phật và được giác ngộ, tôi sẽ độ tận tất cả chúng sinh mà tôi đã giết hại ở đời trước và đời này, cho đến độ thoát tất cả kẻ oán người thân khiến cho họ đều sinh về Tịnh độ.” Quý vị nên làm cho những niệm tưởng ấy được tồn tại mãi cho đến lúc chúng tự thuần thục thì chắc chắn quý vị được sinh về Cực lạc. Nếu quý vị luôn đem Tịnh độ để giáo hóa mọi người, và khiến cho mọi người giáo hóa lẫn nhau; một khi công lực đã mạnh thì quả báo lành sẽ tự đến. như thế bệnh khổ của quý vị tất sẽ giảm và thân sau sẽ gặt hái được phước đức nhiều vô cùng. Khuyên người ghét điều ác muốn làm vị Thần. Ở đời, có người ghét điều ác, họ nói: “Thế gian toàn là kẻ ác, sức ta không trị được, đến lúc chết ta sẽ làm vị Thần để trừng trị họ chứ không muốn sinh về Tây phương! Căn cứ vào lời của Phật thì trong sáu đường, Thần là chúng sinh đọa lạc, còn Tây phương thì vượt ngoài sáu nẻo luân hồi. Vì người tu Tây phương lấy Từ bi chánh trực làm gốc, nên tất cả việc làm đều từ bi; gặp kẻ có tội thì thương xót cho sự ngu tối của họ, gặp kẻ khốn khổ thì tế độ cho họ. Như vậy, đối với mình thì không bị liên lụy, mà đối với tất cả chúng sinh thì lại có duyên lành lớn. Người lấy sân hận chánh trực làm gốc, thì tất cả việc làm đều sân hận; trách phạt lỗi người thì đem bệnh tật mà gia thêm, trị tội người thì dùng vạc lửa. Như vậy, đối với người thì bị hại còn mình thì thọ nhận phước của Thần! Vì luôn lấy sân hận để tạo nghiệp, nên bị đọa vào địa ngục. Từ địa ngục ra lại bị làm thân rắn, rết, bọ cạp v.v… không có lúc siêu thoát. Thuở xưa, có hai vị Tăng cùng tu hành. Một vị làm việc phước nhưng lại nhiều sân nộ. Vị kia luôn khuyên vị Tăng ấy không nên sân hận, nhưng vị ấy lại không nghe. Sau đó, vị tăng nhiều sân nộ mất. Vị tăng giữ giới theo khách thuyền đến cái đình nằm trên đập của con sông, ở đó có cái miếu Thần rất linh, vị Thần ở đó thường nói chuyện với mọi người. Khách lên bờ tế Thần, vị Thần ấy nói: “Các ngươi gọi vị Tăng đi cùng thuyền đến gặp ta. Lúc vị tăng đến, vị Thần nói: “Tôi là bạn đồng tu với ông, vì sân hận mà đọa làm Thần ở đây.” Vị tăng muốn nhìn thấy hình dáng của Thần nhưng vị Thần ấy không đồng ý. Vì vị tăng đề nghị mãi nên Thần liền để lộ cái đuôi cụt của loài mãng xà. Vị Thần lại nói: “Có người cho tôi mười đoạn lụa, mong ông làm lễ truy tiến cho tôi. Hôm sau ông sẽ thấy tôi ở phía Tây của núi Hồng châu”. Vị tăng làm theo lời của Thần và thật sự thấy xác rắn nằm ở phía Tây núi; con rắn dài đến hai, ba dặm. Đó là quả báo của sân hận! Vả lại, con người có tâm hư minh, nó trong lặng như nước; nếu ta vừa khởi sân tâm thì như đem bùn đất mà ném vào nước làm cho nước bị vẩn đục; nếu ta vừa khởi tâm Từ bi thì như đem hương trầm và chiên đàn để làm cho nước càng trong trắng hơn. Tại sao chúng ta không khởi từ tâm để tu tập hạnh Tây phương mà lại sân hận để bị đọa làm Thần? Quả thật là đáng thương xót! Khuyên người trong quân đội. Các vị nên nghó rằng: Chúng ta nhận sự nuôi dưỡng của quốc gia; lương bổng, lụa là đều do sức lao khổ của dân mà có; cơm ăn, áo mặc của bọn ta và tiền bạc để phụng dưỡng song thân, nuôi dưỡng vợ con đều do quốc gia ban phát, dân chúng góp sức. Vì vậy, lúc vô sự bọn ta luôn tu chỉnh binh khí, luyện tập binh mã và cung tên; chấn chỉnh quân đội nơi đáng sợ, tiêu diệt giặc loạn lúc chúng chưa manh động, sao cho quốc gia được an bình và giàu có, dân lành được yên ổn. Mỗi ngày các bạn nên niệm thầm một ngàn tiếng A-di-đà Phật; nguyện trong cõi mịt mờ giúp thêm khí lực, làm mạnh quân đội, để lúc có nạn thì có sức mà chế ngự, dẫu mất mạng nhưng không hối tiếc. Lúc vô sự thì lấy sự yên tónh để trấn an, không phải vì tham công mà giết càn mà chỉ mong cầu cho đất nước được yên ổn, sinh dân luôn được thái bình. Đó chính là tâm của vị Bồ-tát phát làm hạnh tướng quân. Lại nữa, nếu các bạn đem Tịnh độ để dạy người, và lại khiến mọi người cùng giáo hóa lẫn nhau, nhờ vậy thiện niệm được chín muồi, phước lộc càng tăng và thân sau chắc chắn bạn sẽ được sinh về Trung thượng phẩm. Khuyên người ác khẩu. Thân, miệng và ý gọi là ba nghiệp, quả báo mà kinh tạng nói phần nhiều do khẩu nghiệp, bởi vì miệng dễ phát nên lời lẽ. Kinh nói: “Ngày xưa, có kẻ giận mẹ vì bới cơm đến trễ nên nói: Sinh trong bụng mẹ không bằng sinh trong bụng con hưu. Đời sau, kẻ đó thác sinh vào bụng con hươu.” Lại có kẻ đem thức ăn cho người khác, vì người nhận không vừa ý nên kẻ đó liền nói: “Cho người không bằng con chó. Sau đó kẻ đó bị làm thân chó.” Hai trường hợp đó là quả báo của miệng. Ác khẩu là miệng nói lời độc ác, sân nộ, ngôn ngữ không ôn hòa. Đời nay, người ta gọi ác khẩu là “lời dơ bẩn”. Quả báo của ác khẩu vốn đã không lành; còn quả báo của lời bẩn dơ lại là địa ngục và súc sinh. Đa phần người đời vì không biết quả báo như thế nên luôn luôn dùng miệng ác và lời bẩn để đối nhân xử thế. Tôi mong rằng ai ai cũng nên cố gắng ngăn giữ căn bệnh miệng ác, lời bẩn ấy, nên thường xuyên niệm A-di-đà Phật để gội rửa sự bẩn ác của khẩu nghiệp. Các vị cũng nên thường xuyên niệm danh hiệu A-di-đà Phật để chùi gội sự bẩn ác của nhó căn và nguyện đem thiện nghiệp của việc niệm Phật để kỳ cọ sự bẩn ác từ vô lượng kiếp đến nay. Làm như thế thì thiện nghiệp của quý vị ngày một chín muồi và ác nghiệp ngày càng tiêu giảm. Nếu các vị còn đem Tịnh độ để dạy người và lại khiến mọi người cùng giáo hóa lẫn nhau thì tai nạn có thể tiêu, phước lộc có thể lâu bền và thân sau sẽ được sinh vào Trung, Thượng phẩm. Khuyên đồng nam. Người ta lúc sinh con trai, mới bảy tuổi đã cho nhập học là vì muốn con được biết văn nghóa. Đến lúc con lớn khôn thì lập gia đình. Đó là tấm lòng của các bậc cha mẹ. Họ nào biết rằng, đời người thật khó bảo toàn được; hoặc gặp oan gia đến nỗi chết oan, hoặc là oan nghiệp đời trước nay thác sinh để não hại cha mẹ, để phá nát gia sản. Tôi phụng khuyến các bậc làm cha mẹ thế này: Lúc bé vừa biết nói, hằng ngày quý vị nên niệm bốn Thánh hiệu của Tây phương, mỗi Thánh hiệu mười tiếng cho nó nghe, và tụng một biến bài kệ của Bồ-tát Đại Từ cùng tụng bài chú Vãng sinh. Nếu một ngày quý vị tụng đủ năm trăm hoặc một ngàn biến, thì trong một đến hai năm, có thể đủ ba mươi vạn biến, vì bài chú này chỉ có năm mươi chín chữ và rất dễ trì tụng. Bắt đầu tụng từ lúc nó được sáu tuổi và đến bảy tuổi thì ngừng và không nên sợ việc học của nó sẽ bị trở ngại. Nếu đời này nó và quý vị không có oán kết gì thì đó cũng là thiện nghiệp lớn lao của nó, nghóa là tai nạn được tiêu trừ và phước đức được tăng trưởng; nếu đời này quý vị với nó có oán kết thì nhờ sự trì tụng ấy oan kết được cắt lìa. Quả là công việc hết sức tốt lành! Nếu chư vị không tin lời tôi thì đến lúc gặp sự cố có hối hận cũng không kịp. Khổng Tử nói: “Nếu người ta không nói: Tôi biết làm thế nào, tôi biết làm thế nào? Thì ta cũng không biết nên làm thế nào!” Khuyên thất nữ. Tôi thường thấy đa phần phụ nữ bị bệnh tật hoặc mất mạng là do sinh sản. Sở dó có nông nỗi đó là do đời trước bà mẹ có oán kết với đứa con. Trong Tạng kinh có nói: “Nếu ai trì tụng chân ngôn Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản Vãng sinh Tịnh độ, thì Đức Phật A-di-đà luôn đứng trên đỉnh đầu người ấy và không cho oan gia làm hại. Hiện đời, kẻ ấy được an ổn, sau khi mất sẽ được vãng sinh tùy theo ý nguyện của mình. Nếu kẻ ấy trì tụng đủ hai mươi vạn biến, thì mầm Bồ-đề sinh khởi, tụng đủ ba mươi vạn biến thì sẽ được diện kiến Đức Phật A-di- đà.” Tôi phụng khuyến những thiếu nữ lúc còn ở cạnh song thân, nên giảm bớt công việc, tắm gội sạch sẽ và mỗi ngày nên tụng niệm bốn Thánh hiệu, mỗi thánh hiệu mười tiếng. Ngoài một biến bài kệ của Bồ- tát Đại Từ ra mỗi ngày các cháu nên trì tụng năm trăm hoặc một ngàn biến bài Thần chú này thì không quá một đến hai năm, các cháu có thể tụng đủ ba mươi vạn biến. Thực hành như thế thì sau khi lập gia đình, các cháu sẽ tránh được những sự nguy hiểm do sinh sản. Nếu các bậc cha mẹ phá rối việc tu tập của con mình, hoặc không tin những lời nói này, thì một mai gặp phải oan trái làm con mình lâm vào tai nạn có hối hận cũng không kịp. Nếu đời này con gái của mình không có oán kết, lúc còn ở với cha mẹ nên tụng chân ngôn này trước đủ ba mươi vạn biến, để gieo đại thiện căn, thực hành đại thiện duyên ấy thì làm gì cũng được. Yêu thương nhau bằng cách ấy thì quả là vô cùng tốt lành và vô cùng lớn lao. Nguyện các cháu cố gắng tu trì! Miệng con bát bát nhi sinh hoa sen. Có một người nuôi một con vẹt tên tục là Bát Bát Nhi. Lúc gia chủ thấy nó bắt chước vị tăng để niệm Phật, thì ông ta liền cúng nó cho vị Tăng ấy. Vị Tăng này luôn dạy nó niệm A-di-đà Phật. Sau khi con Bát Bát Nhi chết, vị Tăng làm một áo quan nhỏ để chôn; sau này, trên mộ nó sinh ra một đóa sen. Vị Tăng ấy mở áo quan ra để xem thì thấy rễ của hoa sen mọc từ miệng của nó. Có người làm bài kệ tặng nó thế này: “Có một con chim tên Bát bát, Theo Tăng luôn miệng niệm A-di, Chết chôn đất bằng hoa sen nở, Bọn ta nhân loại có nên gì?” Bởi vì Đức Phật A-di-đà có nguyện rằng: “Nếu chúng sinh niệm danh hiệu của tôi thì chắc chắn được sinh về nước tôi”. Thông thường nói chúng sinh tức là trên từ Trời và người, dưới đến những loài trùng kiến cực nhỏ đều là chúng sinh cả. Như vậy chắc chắn con Bát bát nhi ấy được sinh về thế giới Cực lạc và thành bậc thượng thiện. Than ôi! Nếu được làm người mà không biết Tịnh độ và không tu tập thì quả thật là đau xót vô cùng! Chuyện này xảy ra ở bên ngoài thành Đàm châu, nhân đó dân chúng lấy tên của nó mà đặt cho thành.  <卷>QUYỂN 7 Người tham thiền phần lớn không tin Tịnh độ, bởi họ cho rằng Tịnh độ là chấp tướng. Họ chỉ muốn “Chỉ thẳng tâm người; thấy tánh thành Phật” mà thôi! Giáo thuyết ấy quả là siêu việt nhưng không dễ gì đạt được. Cũng vì vậy mà có rất nhiều người bị lầm lạc. Vì lý do đó tôi nói rõ về chỗ hỏng của việc tham thiền đồng thời dẫn sự tích làm bằng chứng để nói với những người tu tập nhưng không biết những điều quan trọng của nó. Cho nên, quyển này có tên là “Chỉ mê quy yếu” (Chỉ ra điều sai để quy về điều quan trọng). Tằng Lỗ Công là hậu thân của Thanh Thảo Đường. Đời Tống có hai vị Thanh Thảo Đường. Vị trước năm ngoài chín mươi tuổi, có người đàn bà họ Tằng thường cúng thức ăn và bố thí vật dụng cho Hòa thượng. Vì cảm ân đức đó nên Hòa thượng nói với bà: “Lão tăng sẽ làm con trai phu nhân.” Một hôm, trong khi sinh nở, bà sai gia nhân đến chùa xem thật hư thế nào. Người nhà đến chùa và về nói với bà rằng Hòa thượng Thảo Đường đã ngồi mà viên tịch. Đứa bé tức là Tằng Lỗ. Do đời trước thường tu tập phước và tuệ nên đời này ông đỗ đạt cao, sau này làm đến chức Tể tướng. Dưới nhãn quan của thế gian thì danh lợi như thế đã là cùng tột, nhưng dưới nhãn quan của nhà Phật thì quả là một sự mê lầm. Vì sao? Vì phú quý trần gian vốn chóng tàn, lúc hưởng hết thì vẫn hoàn toàn tay trắng phải tùy nghiệp mà đi và lại bị luân hồi không có ngày thoát khỏi. Như thế sao bằng sinh về Tây phương để được thấy Phật, được thoát vòng sinh tử rồi trở lại thế gian làm Tể tướng? Nhờ vậy mà dẫu thọ sinh trong bào thai nhưng không bị mê muội vì nhất tánh đã sáng suốt; dẫu ở tại luân hồi nhưng vẫn tự tại và đi hay ở đều tự biết. Nếu chúng sinh ta chưa thoát được sinh tử mà vẫn cố chấp ân nghóa thì không thể thoát vòng tham ái và sẽ ở mãi trong luân hồi. Tính toán sai lầm đến thế quả là hết mực! Tô Đông Pha là hậu thân của Thiền sư Ngũ tổ giới. Ngũ tổ giới thiền sư là tiền thân của Tô Đông Pha. Do đời trước tu tập nên đời này thông minh xuất chúng; nhưng do tập khí ngũ độc chưa trừ hết, nên đời này có duyên nặng với thi ca; và cũng vì “Ý tại ngôn ngoại” nên bị đày ải. Đó cũng là sự mê lầm lớn! Nếu đời trước, lúc làm Tăng ông ta vừa tham thiền vừa tu tập Tây phương thì chắc được sinh về Cực lạc để thành tựu đại phước tuệ, và tất nhiên là không bị sinh vào lại cõi này để chịu bao đau đớn. Tôi nghe nói, khi đi về phương Nam ông chỉ mang theo quyển A- di-đà. Mọi người hỏi lý do. Ông đáp: “Đây là sổ công cứ để sinh về Cực lạc.” Nếu thật thế thì bây giờ Đông Pha học só mới tìm ra phương sách. Âu đó cũng là nhờ thiện căn đời trước và sự thông minh xuất chúng nên nay mới ngộ được cái lý của Tịnh độ. Nghe nói, đời trước Lỗ Trực là phụ nữ chuyên tụng kinh Pháp Hoa; nhờ công đức ấy nên đời này thông minh và được làm quan. Đó là nghiệp duyên mà đến. Nếu sinh Tây phương thì phước báo đâu chỉ chừng ấy. Hậu thân của Triết lão nhiều sầu khổ. Triết Lão trụ ở ngôi chùa lớn tại Kinh đô. Bốn mươi năm sư không bao giờ ngủ. Do sự tọa thiền tinh khổ như vậy nên sau này khi viên tịch ngay cái áo giấy khi đốt cũng có xá-lợi. Trong số những người làm quan, có vị đem ba mươi hai ngàn tiền vàng để mua một cái, bởi nó có xá-lợi. Hiệu nghiệm tu tập của sư siêu việt đến thế, nếu tu Tây phương thì sẽ là Bồ-tát Bất thoái chuyển địa. Tức là bậc đã “Sinh tử tự như”. Nếu trở lại cõi này để tế độ chúng sinh thì có gì mà không làm được. Do sư không tu pháp môn này nên sinh vào gia đình quá sức giàu sang, mà suốt đời chỉ chịu nhiều buồn khổ. Thật đáng buồn thay! Bởi lẽ có đại giàu sang chăng nữa rồi cũng hết và cũng bị luân hồi như cũ. Có người biện bạch rằng: “Do Triết Lão tu hành quá cần khổ, nên đời này chịu lắm nỗi sầu đau. Ý Ngài thế nào?” Đáp: Đức Phật dạy: “Dẫu trải trăm ngàn kiếp, Nghiệp đã làm còn nguyên, Lúc đầy đủ nhân duyên, Tự mình mang quả báo”. Đại sư Vónh Gia cũng nói: “Thoát thì không cả nghiệp xưa và nay, Chưa thì phải bồi hoàn nợ trước”. Lý do Triết Lão chưa thoát được sinh tử, đời này sinh vào nơi đại phú quý là do tâm nguyện của đời trước. Sở dó đời này chịu trăm cay ngàn đắng là vì lúc đấy đủ nhân duyên thì phải trả nợ cả trăm ngàn đời trước. Nếu được sinh về Tây phương thì làm gì có thảm trạng như thế? Bởi vì sinh về Cực lạc thì được thoát vòng sống chết, nhờ vậy, dẫu vào trong thế giới sinh tử của tất cả chúng sinh để thực thi công cuộc tế độ rộng lớn, nhờ nhất tánh đã sáng suốt, nên vẫn siêu thoát ngoài ba cõi. Vả lại, sở dó Triết Lão tu hành tinh khổ như thế mà vẫn bị trôi lăn trong ba cõi là bởi bờ của ba cõi quá cao, biển khổ quá sâu và ba đào quá dữ dội. Người tu Tây phương được siêu thoát là nhờ nương tựa vào Phật lực. Đã có Phật lực mà không chịu cậy nương, nào khác kẻ bần cùng đói khát gặp người giàu sang nhưng không chịu nhờ vả! Thật đáng buồn thay! Hậu thân của Cổ lão say đắm cảnh giàu sang. Trước kia, trưởng lão Huệ Cổ trụ ở Thư châu tỉnh Thái Bình. Kế đến Sư lại trụ ở ngôi chùa lớn tại tỉnh Triết Đông. Sư còn có tên là Hành Tôn Túc. Sau khi mất, sư sinh vào gia đình tể tướng và đỗ đạt cao, người đời đều cho là vinh hoa phú quý. Nhưng dưới nhãn quan Phật giáo thì hiện trạng ấy quả là vô cùng thất sách. Vì sao? Vì đời trước thì trai giới nhưng đời này lại ăn thịt cá và lẽ tất nhiên sẽ cho thịt cá là ngon; đời trước thì thanh tu nhưng đời này lại cận kề với sắc dục và cố nhiên sẽ cho sắc dục là tuyệt vời nhất; đời trước điềm đạm thanh tịnh còn đời này lại hưởng thụ giàu sang và dó nhiên sẽ cho phú quý là chân lý! Ví như con voi to lớn đi vào đầm lầy, càng bước càng lún sâu mà không biết làm thế nào để thoát nạn. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Văn sở văn tận, Tận văn bất trụ; Giác sở giác không, Không giác cực viên”. (Nghe và điều được nghe chấm dứt; không trú ở nghe. Biết và cái được biết thành không; không giác là giác cực tròn đầy). Nghóa là, kinh nói điều được nghe đến sự nghe đều chấm dứt, cả sự chấm dứt và sự nghe đều không đình trụ. Vì vậy, sống giữa thế gian tuy được hưởng thụ dục lạc, nhưng dục lạc ấy không đình trụ. Cái gì không đình trụ thì cái ấy là quá khứ; đã quá khứ thì không bền lâu. Lại nữa, “Sự nhận biết và cái được nhận biết đều quy về không”. Không tức là giả. Nếu kẻ nào tri nhận được không ấy thì tánh của chân giác vô cùng tròn đầy và không bị đọa lạc nữa. Nếu Cổ lão ngộ được chân lý đó thì sẽ không sinh vào gia đình tể tướng. Trái lại, dẫu chưa giác ngộ được chân tánh, nhưng nếu có tu Tây phương thì Cổ lão có thể thoát khỏi luân hồi. Kinh Lăng-già nói: “Người tu hành giống như gạn nước đục, tuy đã gạn cho trong nhưng chưa vét hết bẩn ở đáy nên khi quậy lên thì nước lại vẫn đục như cũ.” Đó là trường hợp của Cổ lão thiền sư. Còn nếu được sinh Tây phương, được thấy Phật và được thành đạo, rồi sinh lại cõi này thì giống như nước đã được vét hết bẩn nên trong veo, dẫu khuấy nữa cũng không bị đục. Bởi vậy, dẫu Cổ lão có tên là Hành Tôn Túc đi nữa cũng phải tu tập Tịnh độ. Quả thật tấm gương của Cổ lão đủ cho chúng ta soi ngắm bản thân mình! Sinh về tây phương như việc nhận quan ở hiện đời. Như người có chức quan nhưng không nhận mà lại muốn học tập nữa để đạt đại khôi. Cố nhiên, chí hướng ấy thật vô cùng cao cả. Nhưng đại khôi đâu dễ dàng đạt được. Vì vậy không bằng người vừa nhận chức quan, vừa tiếp tục học tập. Nếu được đại khôi thì như vẽ thêm hoa trên gấm; nếu không được thì cũng còn có chức quan. “Người tu Tây phương” tức là nhận chức quan. “Vừa tiếp tục học tập” tức là kiêm cả việc tu thiền. “Không được đại khoa” tức là tham thiền chưa được khai ngộ. “Không mất chức quan” tức là thoát sự luân hồi và thọ nhận niềm an lạc lớn. Một khi đã sinh về Cực lạc, được thấy Phật, được nghe pháp, thì sao lại không được đại ngộ? Bởi vậy chúng ta không thể phế bỏ giáo lý Tịnh độ! Ba vị Bồ-tát tu Đâu-suất. Trong “Thập nghi luận”, Ngài Trí Giả nói rằng: “Có ba vị Bồ-tát tu Tịnh độ Đâu-suất. Vị thứ nhất tên Vô Trước, vị thứ hai tên Thế Thân và vị thứ ba tên Sư Tử Giác. Họ hẹn nhau rằng, ai sinh vào Đâu-suất trước và được thấy Ngài Di-lặc thì quay về báo cho nhau biết. Sư Tử Giác viên tịch trước, nhưng qua mấy năm sau mà vẫn không thấy trở về. Sau đó Bồ-tát Thế Thân viên tịch, mãi đến ba năm sau mới về báo rằng: “Ngày ở cõi Trời rất dài. Tôi vừa sinh vào Đâu-suất và lễ Đức Phật Di-lặc, nghe người thuyết pháp xong lập tức quay về đây mà đã ngót ba năm!” Vô Trước hỏi tình hình của Sư Tử Giác thì Thế Thân đáp: “Sư Tử Giác sinh vào Đâu-suất ngoại viện, vì ông ta luyến tiếc nhạc Trời nên chưa được thấy Đức Phật!”. Vì Bồ-tát ở Đâu-suất còn luyến tiếc nên không được thấy Phật. Bởi lẽ, luyến tiếc là gốc rễ của luân hồi. Qua đó, ta biết rằng Tịnh độ Đâu-suất rất khó, mà lại có sự đọa lạc, nên không thể nào so sánh với hoàn cảnh dễ tu và không có tình trạng đọa lạc của Tây phương được. Đại sư Trí Giả lại nói: “Có người được thấy Đức Phật Thích-ca nhưng vẫn không thành đạo, nhưng người tu Tây phương được thấy Phật A-di-đà thì ai cũng được thành Phật.” Như vậy, ai cũng nhận thấy rằng nguyện lực để gia bị cho hành giả của Phật Thích-ca và A-di-đà là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy kệ của Bồ-tát Đại Từ viết rằng: “Phật A-di-đà, Là tối thắng nhất, Trong tất cả Phật, Ba đời mười phương. Niệm danh hiệu Ngài, Trừ tất cả tội, Liền sinh Tịnh độ”. Chí lý thay là những lời kệ trên! Hậu thân của Ni sư Pháp Hoa làm cô hát ở nhà quan. Trong nhà của Âu Dương Vónh Thúc Tri người tỉnh Dónh Châu, có một cô đào hát ở cửa quan, miệng có mùi thơm của hoa sen. Có vị tăng biết đời trước nói rằng kiếp trước cô đào ấy là ni cô chuyên tụng kinh Pháp Hoa suốt ba mươi năm, nhưng chỉ vì sai lầm trong một niệm mà đời này lâm vào cảnh ngộ ấy. Hỏi cô đã từng đọc kinh Pháp Hoa chưa? Cô đáp: “Đã thất thân vào chỗ xướng ca thì làm gì có thời gian để tụng kinh!”. Người nhà mang kinh Pháp Hoa cho cô, cô liền đọc tụng như nước chảy, nhưng khi mang kinh khác ra thì cô không đọc được. Qua thử nghiệm ấy, người ta mới tin lời vị Tăng nói. Nếu ni cô biết pháp môn Tây phương thì đời trước đã được sinh lên Thượng phẩm thượng sinh rồi; nhưng vì không biết nên đọa vào làng ca kỷ. Quả là vô cùng đau xót! Cũng từ chuyện đó ta biết rằng, người luôn đem pháp môn Tây phương để giáo hóa cho mọi người, thì công đức cứu độ thật hết sức vó đại và phước báo của họ cũng không thể lường đo được.  LONG THƯ TĂNG QUẢNG TỊNH ĐỘ VĂN <卷>QUYỂN 8 Thế giới Cực lạc cách cõi Ta-bà này đến trăm, vạn thế giới độ. Luận ở sự thì khoảng cách đó là không thể nói được. Nhưng vì tuệ tánh của Đức Phật vốn hàm chứa cả hư không thế giới, cho nên những sự cất bước, động niệm của chúng sinh đều nằm trong tuệ tánh của Phật. Nếu mọi người tu đều chí thành đều khẩn thiết thì đều có sự ứng nghiệm. Vì vậy, ở quyển này tôi trần thuật những sự ứng nghiệm của người tu Tịnh độ. Thấy người sát sinh, nhờ niệm Phật nên được phước. Quán Âm Cảm Ứng Ký nói: “Tên Trịnh Lân chết ở âm phủ, nhưng do ngục tốt nhầm nên ông ta được phóng thích. Diêm Vương dặn ông: Khi về trần gian, ngươi nên cố gắng làm điều thiện; lúc thấy người khác sát sinh ngươi nên niệm A-di-đà Phật và Quán Thế Âm là đủ. Nếu chúng sinh bị giết ấy được thọ sinh thì ngươi cũng có phước.” Qua chuyện này ta biết rằng, nhờ niệm A-di-đà Phật mà có thể cầu siêu cho người mất, có thể tăng trưởng phước thọ, chứ không chỉ thân sau được vãng sinh mà thôi. Trần Xí niệm Phật đuổi được quỷ. Vọng Giang Trần Xí là người cùng quận với tôi. Ông ta từng giết lầm người khác. Sau này vì thấy quỷ, sợ quá ông ta mới vội niệm A-di- đà Phật, nhờ vậy quỷ không dám đến gần. Ông tiếp tục niệm nên quỷ liền biến mất và từ đó ông chuyên tâm niệm Phật. Lúc lâm chung, ông ngồi mà đi. Nửa năm sau, ông nhập vào người cháu gái tên là Diệu Quang mà nói: “Nhờ niệm A-di-đà Phật nên tôi được sinh về Cực lạc.” Mỗi lời nói, cử chỉ của ông đều như lúc còn sống. Những người quen biết thân thích đều đến xem. Đến hai ba ngày, người nhà nói: “Tiếc thay, lúc còn sống ông chưa từng truyền được hỷ Thần cúng dường.” Ông liền hiện hình, nghiêm trang như lúc còn sống, chỉ có mặt mày là có vẻ trẻ ra, bởi chúng sinh ở Tây phương được sống lâu không già. Đầu ông như nhục đỉnh của Phật, vì đó là dấu của sự thành Phật dần dần. Câu chuyện này do só nhân Chu Minh Thúc người Vọng giang kể cho tôi nghe. Trâu Tân Vương niệm Phật nên được tỉnh mộng. Tôi hay đem giáo lý Tây phương nói cho só nhân ở Trấn Giang là Trâu Tân Vương nghe. Tôi lại nói rằng: “Nếu bạn bận rộn lắm thì chỉ cần vào sáng sớm, chắp hai tay và quay mặt bề hướng Tây mà niệm mười tiếng Nam-mô A-di-đà Phật cũng được.” Tân Vương tin lời tôi mà tu tập. Đêm đến, Vương nằm mộng thấy mình cùng số só nhân phó pháp. Chính lúc đang sợ hãi, Vương liền niệm A-di-đà Phật, niệm đến mười tiếng thì tỉnh giấc. Đó là Đức Phật dùng phương tiện để làm cho tín tâm của Vương được kiên cố. Trương Kế Tổ niệm Phật để truy tiến cho người mất. Tôi thường đem chuyện Tây phương nói cùng só nhân ở Trấn giang là Trương Kế Tổ. Kế Tổ tin lời tôi. Lúc nhũ mẫu của anh mất, anh chỉ niệm A-di-đà Phật để cầu siêu cho bà. Một đêm, anh nằm mộng thấy nhũ mẫu mặc bối tử y đến cảm tạ Kế Tổ rồi ra đi. Đó là hiệu nghiệm của việc chỉ dùng danh hiệu Phật mà cầu siêu được cho kẻ khác. Lưu Tuệ Trọng niệm Phật được ngủ yên ổn. Bạn cũ của tôi là Lưu Tuệ Trọng, người Trường hưng thuộc tỉnh Tô châu. Vì những lần mộng ông ta luôn bị sợ hãi nên tôi khuyên niệm A-di-đà Phật. Tuệ trọng chí thành niệm một trăm lẻ tám biến, ngay đêm đó ông ngủ rất ngon. Đêm sau, Trọng vẫn tụng niệm như trước, và từ đó trở đi giấc ngủ nào cũng được an bình. Qua chuyện này ta thấy, Phật lực vô cùng rộng lớn, không việc gì mà Ngài không làm được. Đây là kinh nghiệm tôi dùng để viết bài tựa “An tónh hình Thần”. Cô con dâu họ Nguyễn nhờ niệm Phật nên mắt được sáng. Cô con dâu thứ ba tên Nguyễn Niệm là người ở Trang viên, Doanh điền, huyện Hòa ninh, quận Long thư. Vì hai mắt sắp mù nên cô luôn niệm A-di-đà Phật, nên liền được sáng. Tôi là người trực tiếp chứng kiến hiện tượng này. Vua Diêm-la khuyên bà lão họ Tưởng niệm Phật. Ở thôn Châu lâm, huyện Kim đàn, tỉnh Trấn giang, có bà lão mất năm bảy mươi tuổi. Lúc vào âm phủ, do mạng sống chưa hết nên bà sống lại. Vua Diêm-la hỏi: “Bà tụng kinh được không?” Bà đáp: “Thưa không.” Vua nói: “Nếu không thể tụng kinh thì chỉ niệm A-di-đà Phật cũng được.” Sau khi về trần, bà nói: “Vua Diêm-la dạy tôi niệm A-di- đà Phật” bà sống gần một trăm hai mươi tuổi mới mất. Như vậy, việc bà được vãng sinh là chuyện tất nhiên. Thêm nữa, chính nhờ niệm Phật nên tuổi thọ của bà được kéo dài. Câu chuyện này tôi nghe từ só nhân ở Kim đàn là Nhược Diên Chi kể. Thiệu An Phủ nhờ niệm Phật nên được thoát nạn. Giang Thiệu Mang tự là Hy Văn, người đời Tấn. Lúc còn là só nhân, ông mộng thấy mình đến quan phủ và mọi người đều gọi là An Phủ. Mang vui mừng nói “Điềm này báo trước ta sẽ làm đến chức An Phủ.” Mang đi tới trước và thấy một quan viên. Vị ấy hỏi: “Ông biết vì sao mình chưa thi đậu không?” Mang đáp: “Không biết!” Quan viên ấy liền sai người dẫn Mang đi tìm hiểu nguyên nhân. Ông thấy một cái vạc lớn đang nấu những con hàu, lúc thấy ông những con hàu liền nói tiếng người và gọi tên ông. Ông liền niệm A-di-đà Phật, vừa xướng một tiếng là có một con hàu biến thành chim sẻ màu vàng mà bay đi. Sau này, đúng như giấc mộng, ông được đỗ vào làm quan đến chức An phủ sứ. Vì thấy việc sát sinh làm cản trở con đường tiến thân, nên ông luôn tự ngăn cấm mình; lại được chứng kiến Phật lực rộng lớn nên ông vô cùng kính tín. Theo quan điểm của tôi thì chuyện quan chức vốn có định phân, chúng ta không nên tìm cầu một cách cẩu thả. Nhờ niệm Phật nên lành bệnh phong. Tôi sắp theo thuyền đến đập Trấn Giang nhưng vì nước cạn không đi được, nên liền ở Kim Sơn mượn bốn cuốn kinh A-di-đà v.v… để khảo sát lại; đồng thời khắc bản để truyền bá. Lúc vừa đặt bút thì bàn tay trái của tôi bị phong, những ngón tay run lên nên không viết được. Tôi liền vận động những ngón tay mà niệm dăm ba tiếng A-di-đà Phật và Quán Thế Âm, đồng thời khấn nguyện xin cho lành bệnh để hoàn thành việc chép kinh; vừa khấn nguyện xong thì những ngón tay hết run. Cho đến khi tôi chép xong toàn tập mà tay vẫn bình thường. Qua câu chuyện này, ta thấy rằng Phật và Bồ-tát chỉ ở trước mắt mình, chỉ vì niềm tin của chúng ta quá cạn mỏng! Nhờ niệm Phật nên thoát được sợ hãi trong giấc mơ. Mỗi lúc bị sợ hãi trong cơn mộng, tôi luôn niệm A-di-đà Phật và Quán Thế Âm Bồ-tát, nhờ vậy mà lúc nào tinh Thần cũng được an ổn và lập tức tỉnh giấc. Qua đó, ta thấy rằng uy Thần của Phật và Bồ-tát mạnh vô cùng, chỉ cần người tu có một niềm tin sâu bền thì sẽ có sự ứng nghiệm ngay. Nhờ niệm Phật nên không bị nhà đè chết. Có một bà lão bị mù cả cặp mắt nên thường nhờ cháu dẫn đi, bà chuyên niệm Đức Phật A-di-đà. Một hôm, hai bà cháu đứng nghỉ dưới một căn nhà cũ, bỗng nhiên căn nhà bị nghiêng đổ, đứa bé bỏ chạy chỉ còn bà vẫn đứng ở đó. Lập tức, có hai trụ gỗ gác với nhau che chắn phía trên, nên bà lão thoát chết. Đó là sự kỳ diệu của việc niệm Phật. Câu chuyện này tôi nghe Cư só Diệu Định kể. Nhờ niệm Phật nên bệnh tật giảm. Có vị quan tên Lý Tử Thanh ở trọ tại Tú châu. Ông ta thích giáo lý của Lão Tử và thường theo học với tôi. Năm trước, Thanh bị khốn khổ mãi vì bệnh tật. Tôi nói: “Chỉ sợ Tử Thanh không tin mà thôi, nếu tin thì bệnh sẽ lành ngay!” Tôi liền trao cho Tử Thanh một phương thuốc và nói lúc nào bệnh phát thì niệm A-di-đà Phật mà uống. Tử Thanh nghe lời tôi nên bệnh giảm ngay hôm đó đến tám phần. Ngày tiếp theo, Tử Thanh lại uống và niệm Phật như trước, nhờ thế mà bệnh lành hẳn. Từ đó, Tử Thanh càng tin sâu hơn nữa đối với giáo lý nhà Phật và thường để bản “Tịnh độ Văn” trong tay áo. Nhờ niệm Phật nên bệnh lâu ngày được lành. Cô con gái nhà họ Lương bị mù cả hai mắt. Cô ta niệm Phật A- di-đà liên tục trong ba năm, nên hai mắt được sáng. Lại nữa, phu nhân họ Bằng nhờ niệm Phật mà bệnh lâu ngày được lành. Xin bạn đọc đọc ở quyển 5. Thêu tượng Phật có xá-lợi. Phủ Cống châu, cung nhân của Liêm trung đại phu thêu tượng Phật A-di-đà cao một trượng sáu. Vừa thêu một nửa thì xá-lợi xuất hiện. Câu chuyện này do người thân thích của đại phu là Trịnh Phùng Nguyên kể cho tôi nghe. Tượng Phật thường có xá-lợi. Chung Ly Thiếu sư Trạch ở Chân châu bắt đầu tu Tây phương nhờ phu nhân họ Nhậm. Ông ta khắc một tượng A-di-đà dài bốn tấc tám phân, và trang hoàng rất trang nghiêm; lại thường đội tượng ấy trên đầu để hành trì. Tượng ấy luôn xuất hiện xá-lợi giữa hai lông mày. Xá-lợi lớn như hạt thóc, ánh sáng chiếu cả người ông. Chuyện này tôi rút ra từ Bảo Châu Tập. Mộng thấy Phật liền được thông minh biện tài. Tuệ Tư Thiền sư người đời Tùy, nhân nằm mộng thấy Đức Phật A-di-đà thuyết pháp, nên sau đó sư thành người thông minh và biện tài. Những điềm lành không chỉ xuất hiện một đôi lần. Chuyện này tôi rút ra từ Vãng sinh truyện. Niệm Phật chữa lành bệnh. Những năm gần đây, ở Tú châu có một vị tăng thường niệm A- di-đà Phật để trị bệnh cho người khác. Những người bệnh mời Sư đến thường được thuyên giảm. Đây là câu chuyện mà người ở Tú Châu thường kể. Nhờ niệm Phật nên cháu được thoát nạn. Trong thôn tôi có một lão già, mỗi lúc có sự cố gì ông ta liền chắp tay ngang trán mà niệm A-di-đà Phật. Cháu của ông mới hai, ba tuổi, đi cùng mẹ ra đồng ruộng nhưng bỗng nhiên bị lạc. Lão tìm hỏi nhưng không thấy. Vài ngày sau, có người nói với lão rằng nó đang ở ngoài khe. Y lời, ông tìm thấy nó và lại thấy dấu chân của nó in khắp khe. Khe ấy rất sâu, ông không hiểu vì sao nó lại qua được bờ bên kia lại không bị suy suyển gì, dầu trải qua mấy ngày. Mọi người đều bảo rằng, nhờ ông của nó chí thành niệm A-di-đà Phật nên mới chiêu cảm được phước lành ấy. <篇> <詞>LONG THƯ TĂNG QUẢNG TỊNH ĐỘ VĂN <卷>QUYỂN 9 Kinh Thập Lục Quán nói: “Nhân của Thượng phẩm thượng sinh là đọc tụng kinh điển Đại thừa, giải Đệ nhất nghóa.” Vì vậy, người tu Thượng phẩm phải biết rõ yếu chỉ sâu thẳm của Đức Phật. Nhưng hiện nay, đối với người tu, ngay cả ý cạn còn chưa biết nói gì ý sâu! Vì vậy, những điều thiết yếu từ cạn đến sâu trong sự dụng công hằng ngày đều được trình bày ở đây, nên tôi gọi là “Trợ Tu Thượng Phẩm”. Nói về chữ tập. Yếu chỉ mà Khổng Tử dùng để dạy ba ngàn đệ tử không nằm ngoài bộ Luận Ngữ. Nhưng chương đầu tiên lại lấy câu “Học nhi thời Tập chi. Như thế, câu đó là công việc đầu tiên và cấp thiết nhất. Bởi lẽ, “Học” nghóa là học làm quân tử, làm Thánh nhân thì không thể là việc của một sớm một chiều mà được, nên cần phải vận dụng thời gian để tu tập dần dần. Nếu muốn học được đức tính rộng lớn thì tập ở lúc hẹp hòi; học tín ôn hòa thì tập ở lúc phẫn nộ; học đức tính khiêm cung thì tập ở lúc ngạo mạn; học đức tính lương thiện thì tập ở lúc gian xảo; học đức tính khiêm nhượng thì tập ở lúc tranh thắng; và học đức tính cần mẫn thì tập ở lúc biếng nhác. Song, nói “Tập ở thời” nghóa là tập ngay những lúc mình đang có việc. Có như thế, việc tập ấy mới không phải là việc hư giả và tất nhiên việc tập của mình mới chắc chắn thành tựu. Việc tập mà thành thì hẳn nhiên là bản thân mình tự có niềm an lạc. Vì vậy mà Khổng Tử nói “Lẽ nào lại không có niềm vui”. Kẻ ngộ nhận được chân lý ấy thì có thể thực hành dễ dàng tất cả điều thiện được nói trong luận ngữ, và cũng do đó mà ta biết được thâm ý của Khổng Tử khi Ngài đem câu ấy mà đặt ở phần đầu của mỗi chương. Những người tu Tây phương để tiến đến chân lý thì lại càng biết quý chữ tập hơn nữa, cho nên cần phải nhận thức thật thấu đáo về chữ tập. Nói về việc làm lợi cho người của Thái Thú Cát. Niên hiệu Đại Quán, có một quan viên mua dép trong chợ ở Kinh đô. Ông thấy một đôi dép rất lớn. Quan viên ấy hỏi thì chủ tiệm nói: “Đôi dép đó là của một quan viên đến sửa. Ông ta dùng nó để tống táng.” Quan viên này hỏi bao giờ chủ nhân đến nhận và ông ta đợi. Y như lời, ông thấy cha mình xuống ngựa, trả tiền và mang đôi dép đi. Người con làm lễ nhưng người cha không đoái hoài đến rồi lên ngựa đi luôn. Người con đuổi theo hai, ba dặm liền nói lớn, vì sợ không theo kịp: “Chúng ta là cha con, sao cha không có một lời để khuyên bảo?” Người cha nói: “Những kẻ học với Cát này rất đông. Vậy người đang nói với Cát là ai?” Người con đáp: “Là người đời!”; rồi hỏi nơi ở. Lúc bấy giờ ông Cát đang làm thái thú ở Trấn Giang. Người con đến thăm. Sau khi trình bày lý do, vị quan viên hỏi: “Tại sao cha lại xem trọng chuyện bên kia thế giới vậy?” Người cha đáp: “Đầu tiên, một ngày ta làm một việc có lợi cho người khác. Tiếp đến là hai việc, sau nữa là ba hoặc bốn việc, hoặc mười việc. Ta làm như thế đến nay đã bốn mươi năm và cũng chưa bỏ dẫu chỉ trong một ngày.” Hỏi: “Làm việc gì để có lợi cho người khác?” Thái thú Cát chỉ vào cái ghế thấp ở dưới chân mà nói: “Con thấy chứ? Nếu cái ghế này không được đặt ngay ngắn thì nó sẽ kẹp chân người. Ta sửa lại nó ngay ngắn. Đó cũng là việc có ích lợi cho người khác! Lại nữa, nếu người ta khát nước, ta mang cho họ một ly, đó cũng là việc lợi người. Nói tóm lại, ta làm việc lợi người tùy theo vị trí của mình, nên trên từ khanh tướng, dưới đến kẻ ăn xin đều có thể làm được cả. Điều quan trọng là giữ cho bền bỉ.” Người con lạy cha rồi lui về. Sau này, do tuổi già nên Thái thú Cát ngồi mà mất. Qua câu chuyện đó ta thấy rằng, những việc làm nào có ích lợi cho mọi người ta nên cố gắng để làm, những chuyện nào có hại cho mọi người thì ta nên từ bỏ. Cổ nhân nói: “Thương người và làm lợi cho vật thì gọi là Nhân.” Thái thú Cát là người đã đạt được những lời cổ nhân nói. Ông ta lại chuyên tu Tịnh nghiệp và đem những việc làm đó để hồi hướng nguyện sinh Cực lạc. Sau này, có vị Tăng du Thần ở Tịnh độ và thấy ông Cát ở tại đó. Nói về quả báo của bố thí. Nhà Nho nói “Thí báo”. Nhà Phật nói “Bố thí quả báo”. Thật ra hai cách nói ấy không khác nhau. Đức Phật nói: “Muốn có thức ăn thì phải siêng năng trồng trọt. Muốn được trí tuệ thì phải siêng năng học hỏi. Muốn sống lâu thì phải tự ngăn cấm mình đối với việc sát hại. Muốn được giàu sang thì phải luôn bố thí.” Bố thí có bốn loại: Tài thí: Tức là đem tiền của để giúp đỡ cho người khác. Pháp thí: Tức là đem con đường thiện để giáo hóa mọi người. Vô úy thí: Tức là khi người và loài vật đang sợ hãi, ta an ủi kh- iến họ được yên ổn. Hoặc ta đem cách thoát ly sợ hãi dạy cho họ khiến họ không còn sợ hãi nữa. Tâm thí: Tức là tuy sức mình không thể cứu giúp vật nhưng luôn luôn nuôi dưỡng tâm cứu giúp vật. Đức Phật dạy: “Hiếu dưỡng với cha mẹ, đó cũng là bố thí”. Thông thường, đem những vật bên ngoài mình cho những người khác thì gọi là bố thí. Vì vậy, làm người dưới thì trung thành và năng nổ thờ phụng người trên; làm người trên thì đem nhân từ để làm cho chúng dân được an ổn; làm thầy thì cẩn thận ở cách giáo dục và dắt dẫn; làm bạn thì thành thật ở việc tu dưỡng. Nói chung là mỗi lời ăn tiếng nói đều cầu sự lợi ích, mỗi hành vi cử chỉ đều không làm thương tổn đối với người khác, và dùng đủ loại phương tiện mà làm lợi vật cũng như không làm cho người và vật bị tổn thương. Tất cả những điều ấy đều là Bố thí. Việc ta làm đều như thế, tâm ta cũng được nuôi dưỡng như thế, thì sao lại không gặt hái được quả báo phú quý ở đời sau? Lời xưa nói: “Người người đều biết có năm sau, Nên nhà nhà đều gieo hạt năm sau, Ai ai cũng biết có đời sau, Sao không gieo trồng phước đời tới?” Phước đức mà ta nhận được hôm nay là do sự tu tạo ở đời trước, cũng như lúa gạo ta ăn năm nay là do sự gieo trồng ở năm trước. Con người ta không thể gieo hạt vào buổi sáng mà có ăn vào buổi chiều được; cũng như không thể vừa tu phước mà lại thọ nhận ngay được. Vì vậy, gieo trồng lúa đậu thì phải nửa năm; gieo trồng phước đức thì phải đợi đến đời khác. Khổng Tử nói: “Của phi nghóa nên quẳng xuống đất, không nên giữ trong người. Lực bất chính không nên phát ra ở thân, không nhất thiết vì mình.” Lão Tử nói: “Vì người thì ta càng có. Cho người ta càng có nhiều”. Cả hai câu trên đều nói về việc bố thí. Tăng Tử nói: “Điều gì xuất phát từ nơi người thì nó cũng trở lại với người.” Lão Tử nói: “Đạo Trời quý ở sự trở lại.” Hai câu trên đều nói về quả báo. Như vậy, Nho giáo và Đạo giáo đều nói về thí báo. Nhưng hai giáo thuyết đó không nói về nhân quả thuộc phạm vi đời khác. Nghóa là họ chỉ nói rằng nếu ta thương người thì người luôn thương mình; nếu ta kính trọng người thì người luôn kính trọng mình; nếu ta gây tai họa cho người thì người sẽ gây tai họa cho ta. Nói chung, tất cả đều là thí báo thuộc phạm vi đời này. Biết những điều ấy để tu Tịnh độ thì thiện căn được vun bồi nhiều thêm. Nói về bậc chí nhân được sống lâu. Tôi thường nghe bậc chí nhân nói: “Thức ăn, áo mặc, tài lộc của con người đều có định số ở âm ty. Người biết kiệm ước không tham thì tuổi thọ được dài. Kẻ xa xỉ và mong cầu quá nhiều, lúc tuổi thọ hết thì những vật ấy cũng chấm dứt. Như người có ngàn đồng tiền vàng, nếu một ngày tiêu trăm đồng thì trong mười ngày sẽ tiêu hết ngàn đồng; nếu một ngày tiêu năm mươi đồng thì ngàn đồng ấy sẽ dùng được hai mươi ngày; còn nếu tiêu xài hoang phí, xa xỉ và không làm lụng, thì trong một ngày sẽ tiêu sạch ngàn đồng ấy.” Kinh Dịch nói: “Số của Trời đất là năm mươi lăm, nên thành sự biến hóa mà vận hành nơi quỷ Thần.” Đó là cái lớn của Trời đất, là sự huyền diệu của biến hóa. Sự sâu thẳm mịt mờ của quỷ Thần mà còn không mất đối với số, huống gì đối với con người? Có người hỏi: “Vì sao người có tính liêm sỉ và kiệm ước nhưng mạng sống lại ngắn, còn kẻ có tánh tham lam và hoang phí nhưng lại sống lâu?” Đáp: “Người có đức tính liêm sỉ và cần kiệm nhưng mạng sống ngắn ngủi là bởi số đời này của họ ít; nếu lại tham lam và hoang phí nữa thì mạng sống càng ngắn ngủi hơn. Kẻ có tính tham lam và hoang phí nhưng mạng sống lại dài là bởi số đời này của họ nhiều; nếu biết liêm sỉ và cần kiệm thì mạng sống sẽ dài lâu hơn nữa. Vả lại, Trời đất không thiên vị với con người thì không thể nói số ở hiện đời là nhiều hay ít, mà nhiều hay ít là do hành vi của đời trước cả. Vì vậy mới nói rằng: “Muốn biết nhân đời trước, Xem thọ nhận đời này”. Điều quan trọng nhất là nếu hiện đời ta làm được nhiều việc phước thiện, thì phước và thọ sẽ được tăng. Bởi vậy, kinh thư nói: “Thần đến nghe điều ấy. Làm lớn phước của ngươi.” Nếu hiện đời ta tạo lắm tội lỗi thì phước thọ sẽ suy giảm. Nên kinh thi nói: “Làm nhiều việc bất chính, tức là tự chôn mình.” Vả lại, hành giả tu Tịnh độ không hẳn chú trọng quá nhiều phước thọ, nhưng nếu làm những việc tổn phước thọ thì là mỏng đức. Há không tự răng mình ư? Những việc làm tăng thêm phước thọ tức là việc bồi bổ cho đức được sâu dày hơn, há chúng ta không nên cố gắng sao? Nói về việc ăn thịt. Đức Phật nói với Bồ-tát Đại Tuệ rằng: “Có vô số lý do không nên ăn thịt. Hôm nay Như Lai sẽ nói cho ông nghe. Nghóa là do sự xoay vần của nhân duyên mà từ xưa đến nay tất cả chúng sinh luôn làm thân quyến của nhau; vì tưởng đến mối thân quyến đó nên không nên ăn thịt. Vì thân thể do khí phận không trong sạch nuôi lớn, nên không nên ăn thịt. Vì nếu chúng sinh nghe mùi thì đều sợ hãi, vì thế các người không nên ăn thịt. Vì ăn thịt sẽ làm cho lòng từ của người tu không sinh, bởi thế không nên ăn thịt. Vì thịt mà hạng phàm phu mê đắm, là món hôi bẩn, là món bất thiện, bởi thế các ông không nên ăn thịt. Vì thịt làm cho chú thuật không có hiệu nghiệm, bởi thế các ông không nên ăn. Vì khi kẻ sát sinh thấy hình khởi thức đều đắm sâu mùi vị, bởi thế các ông không nên ăn thịt. Những người ăn thịt thì chư thiên không đoái hoài đến, bởi thế các ông không nên ăn thịt. Vì thịt làm cho miệng có mùi hôi, bởi thế các ông không nên ăn. Vì người ăn thịt lúc ngủ hay gặp ác mộng, bởi thế các người không nên ăn. Vì nếu người ăn thịt ở nơi vắng vẻ, rừng núi, thì hổ lang sẽ nghe mùi và tìm đến, bởi thế các ông không nên ăn. Vì ăn thịt sẽ khiến cho người ta mất điều độ đối với việc ăn uống, bởi thế các ông không nên ăn. Vì thịt làm cho người tu không sinh tâm yếm ly, bởi vậy các người không nên ăn. Vì ta thường nói rằng, khi muốn ăn thịt, các ông nên tưởng là đang ăn thịt con mình, nên tưởng là đang uống thuốc, bởi vậy các ông không nên ăn thịt. Không có chuyện Như Lai nói đến việc ăn thịt.” “Này Đại Tuệ! Những kẻ sát sinh vì tiền bạc mà giết để bán. Những người ngu ăn thịt chúng sinh kia đem tiền mà mua và đánh bắt các loài thịt. Những kẻ sát sinh ấy lấy tiền bạc, hoặc dùng cần câu và lưới để bắt những chúng sinh dưới nước, trên không và trên đất liền, chúng giết hại đủ loại chúng sinh để bán buôn và cầu lợi.” “Này Đại Tuệ! Việc ăn thịt ấy vốn do sự giáo hóa, sự tìm cầu và ức tưởng mà có. Vì lý do đó nên các ông không nên ăn thịt.” Đức Phật lại nói bài kệ giảng lược thế này: “Vì lợi mà giết chúng sinh Đem tiền mua đủ loại thịt Cả hai đều là nghiệp ác Chết đọa ngục Gọi kêu. Nếu không do giáo hóa Cùng tìm cầu ức tưởng Thì không có tam tịnh nhục Tất cả đều có nguyên nhân Vì thế, thịt không nên ăn. Rượu thịt và ngũ vị tân Chướng ngại con đường Thánh Ăn thịt thì không Từ bi Xa rời biểu tướng Thánh đạo Và con đường giải thoát Thịt vì vậy không nên ăn.” Vốn dó thịt chúng sinh không phải là vật dùng để ăn, nhưng do mắt thấy, tai nghe đã trở thành tập quán, nên không biết nó là vật không phải dùng để ăn. Người nào đoạn được việc ăn thịt thì vô cùng quý. Nếu người nào không bỏ được việc ăn thịt thì nên ăn theo phép Tam tịnh nhục, nhưng cũng nên giảm bớt thịt. Nếu ăn mà có cả mùi vị của ngũ vị tân thì nên bỏ bớt một loại. Nếu cả hai bữa ăn đều thịt thì nên ăn một bữa rau. Bởi lẽ tài lộc và khoa cử vốn có số, nên nếu ăn được như vậy sẽ được sống lâu. Người ăn rau buổi sáng thì có nhiều điều lợi: Nghiệp duyên sẽ giảm bớt. Thân tâm dễ được trong sạch. Điều thiện không bị cản trở. Không có tâm trạng chán món này thích món khác vào bữa ăn tối. Ăn uống như vậy thì sẽ được sống lâu. Nếu người nào ăn chay thấy khó khăn thì nên dùng chi phí cho thịt cá để ăn rau thì dễ thực hành và giữ cách ăn ấy được bền lâu. Còn nếu chúng ta ăn chỉ vì muốn thỏa mãn bụng và miệng thì không bao giờ biết chán đủ cả. Có người nói: “Muốn không có kiếp binh đao ở thế gian thì chúng sinh không nên ăn thịt.” Lời nói ấy quả là đáng sợ! Người ăn theo phép “Tam tịnh nhục” thì ngày tiếp sau nên vì thịt của chúng sinh mình đã ăn mà niệm bốn Thánh hiệu Tây phương, và chân ngôn để truy tiến vãng sinh, cũng có thể giải oán kết và diệt được tội lỗi. Căn cứ vào lời vua Diêm-la nói với Trịnh Lân thì niệm bốn Thánh hiệu để truy tiến cũng được vãng sinh. Chuyện này được ghi rõ ở quyển thứ tám. - Tam tịnh nhục là: Không thấy việc giết. Không nghe nói đến việc giết. Không hoài nghi rằng người ta giết vì mình. Cộng với thịt tự tử và thịt thừa của chim gọi là ngũ tịnh nhục. Nói về giới sát, đạo, dâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói: “Do tưởng ái nữ sắc, tâm cột vào đó không lúc nào rời ra nên có dâm dục. Vì thế, cha, mẹ, con, cháu ở thế gian nối tiếp nhau không dứt. Những kẻ đó lấy dục tham làm gốc. Do tham ái huyết vị, và tâm tham ấy không dừng lại, nên có việc ăn thịt. Vì thế các loài noãn, hóa, thấp, thai ở các cõi tùy sức mạnh của mình mà ăn nuốt lẫn nhau. Những chúng sinh đó lấy sát tham làm gốc. Vì người ăn thịt loài dê, nên dê chết làm người, và người chết lại làm dê. Sự ăn nuốt lẫn nhau của các chúng sinh khác cũng như vậy; nghóa là sự sống chết, chết sống thay nhau và ăn thịt lẫn nhau. Sự câu sinh của các nghiệp tiếp diễn như thế đến tận cùng vị lai. Như thế, sự ăn ấy lấy trộm và tham làm gốc. Người đoạt mạng ta, ta trả nợ người; do nhân duyên ấy mà chúng sinh ở mãi trong sinh tử trăm ngàn kiếp.” “Ngươi đắm say lòng ta, ta yêu chuộng sắc đẹp của ngươi; do nhân duyên đó mà ở mãi trong chốn buộc ràng trăm ngàn kiếp. Đó là ba giới căn bản sát, đạo, dâm. Vì nhân duyên của sát, đạo, dâm mà quả báo của ác nghiệp cứ nối nhau không dứt.” Còn Tịnh độ Tây phương thì nhờ thọ nhận thân thanh tịnh, nên không sinh ra từ dâm dục; nhờ ăn món ăn thanh tịnh nên không do sự sát hại mà có vật thực; nhờ kết bạn với những người thanh tịnh nên không nhân sự nhiễm trước mà có sự giao hảo. Tất cả đều thoát khỏi những điều mà kinh đã nói. Vì vậy, người tu Thượng phẩm cần phải biết rõ. Nói về vấn đề ăn uống và trai gái. Uống ăn và trai gái là hai điều ham muốn lớn nhất của con người! Bậc chế phục và xem nó như không có được gọi là Thánh nhân. Người tiết chế nó mà không phóng túng gọi là Hiền nhân. Kẻ phóng túng và không tiết chế được nó là phường hạ ngu. Bởi lẽ, hai loại ham muốn ấy là điều kiện để con người tạo tội. Kẻ sát sinh để nuôi miệng và bụng nếu không tạo tội thì làm gì? Huống gì hai loại ấy lại hỗ trợ nhau để phát khởi. Nghóa là do ăn uống béo bổ nên khí huyết đầy tràn, huyết khí đầy tràn thì dâm dục nhiều. Dâm dục nhiều thì huyết khí bị hao tổn, huyết khí bị hao tổn thì cần ăn uống để tẩm bổ. Nếu con người muốn giảm sự ham muốn của bụng và miệng, thì trước tiên phải tiết chế việc dâm dục. Nếu người tiết chế được dâm dục thì có thể giảm được sự ham muốn của bụng và miệng. Đó là con đường để được khỏe mạnh và sống lâu. Người nào tiết chế được và dứt hẳn hai vấn đề ấy, dẫu ăn uống đạm bạc, nhưng vẫn thấy ngon. Kẻ phóng túng với hai điều ấy, thì bởi số của thọ dụng của đời người vốn có hạn, lúc hết hạn thì mất sớm. Thiền sư Từ Giác nói: Uống ăn với người dài ngày tháng, Dở ngon tùy phận qua cơn đói, Vừa qua vài phân thành vật gì? Sao chẳng đem tâm mà suy nghó kỹ. Nếu luôn suy xét như vậy thì tự mình có thể giảm bớt được sự ham muốn của miệng và bụng. Vụ Thật Dã phu nói: “Túi da thịt xương cùng phẩn tiểu, Miễn cưỡng kiêu căng phỉnh gạt người, Anh hùng thiên cổ ngồi đây cả, Trăm năm rồi cũng nắm đất thôi”. Nếu luôn suy xét như thế thì tự mình có thể giảm được chuyện dâm dục. Quả thật, nếu chúng ta thoát được hai điều ấy, thì hiện đời làm gì có sự ốm đau cùng chết yểu và thân sau làm gì bị rơi vào địa ngục, súc sinh? Người tu Tịnh độ dẫu không thoát được hai điều đó, nhưng cũng thoát khỏi luân hồi. Nhưng với hai vấn đề ấy, người tu Tịnh độ nên tự cấm mình. Nói về lòng tham phá hư tiền đồ. Có hai vị quan viên cầu mộng trong miếu Nhị Tướng tại kinh đô để hỏi về tiền đồ. Đêm đó, một vị mộng thấy có người cầm cuốn sổ, ông ta mở bìa và nói: “Đây là tiền đồ của vị quan nhân cùng đi với ông.” Người đó nhìn vào sổ thấy bạn của mình được nâng lên từ Tiểu quan đến chức Tể tướng, nhưng lại có dấu xóa. Vị quan viên hỏi lý do. Người cầm sổ đáp: “Quan nhân này tham tài. Nếu ở trần gian mà lấy một vật gì đó thì ở đây sẽ xóa một điều. Nếu nhanh chóng sửa lỗi thì còn có thể làm đến chức Giám ty.” Người bạn nghe nói lại như vậy, nên không còn lấy tài sản người khác một cách bừa bãi nữa. Sau này ông ta làm đến chức Giám ty. Lại nữa, thuở Hà Tiên Cô còn sống, có một chủ bạ có Thiên thư giáng. Vì ông không biết chữ nên liền đến hỏi Tiên cô. Tiên cô bày hương án, lễ lạy rồi xem. Xem xong, Tiên cô mỉm cười. Chủ bạ hỏi: “Con đến hỏi vì sao Tiên cô lại cười?” Tiên cô nói: “Thiên thư nói Chủ bạ nhận mười lượng vàng nên bị mất tài lộc trong năm năm!” Qua hai câu chuyện trên ta thấy rằng, tiền của bất nghóa là vật đáng sợ. Nếu ta đem tâm biết kinh sợ đó nương nơi Tịnh độ thì thiện duyên sẽ chín muồi rất nhiều. Nói về phước, tuệ. Làm người thì cần phải tu tập phước, tuệ. Tu phước là làm những việc có lợi cho con người, luôn thực thi phương tiện, làm tất cả điều thiện và tự cấm đối với những điều ác. Tu tuệ là biết nhân quả và tội phước, đọc tụng kinh sách của Phật để biết rõ vấn đề lý tánh ở bên trong, đọc sách Nho để hiểu được đạo của thế gian ở bên ngoài. Tu phước thì được giàu sang. Tu tuệ thì được sáng suốt. Nếu chỉ tu tuệ nhưng không tu phước thì tuy sáng suốt nhưng lại khốn cùng. Nếu tu phước nhưng không tu tuệ thì tuy giàu sang nhưng lại ngu si. Còn nếu tu cả phước và tuệ thì đã giàu sang lại sáng suốt. Nếu không tu Phước và tuệ thì đã ngu si mà lại khốn cùng nữa. Đức Phật tu cả phước và tuệ nên được gọi là Lưỡng Túc Tôn. Nghóa là bậc có đủ cả phước và tuệ. Ngày xưa, có hai người cùng tu hành. Một người chuyên tu phước, một người chuyên tu tuệ. Sau mấy đời, người chuyên tu phước thì nhân thọ phước mà làm ác nên bị đọa vào loài voi; nhưng nhờ còn phước nên được người cỡi để chiến đấu, đồng thời do có công trạng nên quốc vương đem chuỗi anh lạc ban cho nó. Người chuyên tu tuệ thì đắc quả A-la-hán, nhưng không tu phước nên dẫu làm Tăng mà lúc đi khất thực phần lớn vẫn không có ăn. Vì vậy có bài kệ nói rằng: “Tu phước không tu tuệ, Làm voi đeo anh lạc, Tu tuệ không tu phước, Nên phước La-hán mỏng.” Đó là lý do mà hành giả cần phải tu cả phước và tuệ. Nếu không thể tu cả phước và tuệ thì nên tu tuệ chớ không nên chú trọng về phước. Vì nếu chú trọng về tuệ hơn thì ta biết được vấn đề tội và phước để cẩn trọng trong hành vi và luôn tự ngăn cấm mình, nhờ đó nên không bị sa đọa. Nếu xem nặng phước hơn thì vì thọ phước mà làm điều ác, và do đó mà ta sẽ bị đọa lạc. Kinh Lăng Già nói: “Thọ lạc hiện đời tức gieo khổ mai sau.” Kệ nói: “Tu cả phước tuệ, Cùng niệm Di-đà, Là bậc cao nhất Trong chín phẩm sen Hoài nghi gì nữa.” Nếu người trai giới và sáng suốt tu tập thì chắc chắn được Thượng phẩm thượng sinh. Kệ lại nói: “Tuy tu phước và tuệ, Nhưng không niệm Di-đà, Chưa chứng quả La-hán, Luân hồi chưa thoát ra.” Bởi lẽ, nếu tu hành ở cõi này thì ta phải đắc quả La-hán mới thoát được luân hồi. Nói về việc tu tập lòng Từ. Bồ-tát Quán Thế Âm nói: “Tất cả điều thiện đều sinh ra từ lòng Từ.” Lão Tử nói: “Tam bảo lấy Từ làm đầu.” Nho giáo nói: “Nhân là con đường đầu tiên của ngũ thường”. Như vậy, ý của ba giáo lý đều giống nhau. Sở dó người ta có quá nhiều sân nộ là bởi họ không suy gẫm về lòng từ. Chưa nói chuyện sân nộ làm hại chúng sinh và tạo nên nghiệp, mà trước hết sự sân nộ ấy làm hao khí và thương tổn đức tính hòa nhã của mình. Bao giờ người ta đạt đến cảnh giới của Từ và Nhân, lúc đó họ mới biết rằng sân nộ là tâm thái không tốt lành. Tất nhiên, lúc đang sân nộ thì ta không thể tự biết nỗi khổ do sân nộ gây ra. Cũng như ta đang lúc đi trong bụi gai, đến chỗ có phòng lớn để nghỉ ngơi, ta mới biết được sự sai lầm của tánh sân nộ trước đây như đang đi trong bụi gai vậy! Đến lúc ta đã tập được lòng nhân từ , thì giống như được vào nghỉ ngơi trong căn phòng rộng rãi. Điều này tôi không thể nào diễn đạt trọn vẹn bằng lời lẽ được. Nghóa là, ta chỉ nên tập trong lúc sân hận, lâu dần tự mình sẽ có được niềm an lạc. Giáo lý của Đức Phật và Lão Trang ngăn cấm sân tâm thì đã đành; nhưng ngay cả Nho gia cũng ngăn cấm đối với sân tâm. Hoàn Khôi hại Khổng Tử, nhưng Khổng Tử có sân hận chăng? Tạng Thương hủy báng Mạnh Tử nhưng Mạnh Tử có giận chăng? Hàn Tín không báo thù mối nhục “lòn trôn”. An Quốc không oán giận lời “chìm tro”. Những bậc ấy xứng đáng làm thầy cho thiên hạ. Huống gì kẻ tiếp đãi người nghèo hèn, chế ngự nô bộc, thê thiếp và những người chửi mắng, phản nghịch thì mình sẽ dễ sân hận hơn nữa. Thật ra, những kẻ ấy cũng là người, nhưng vì phước báo của họ kém mỏng nên mới hầu hạ ta, lẽ nào ta lại mặc tình để tự tạo ác nghiệp? Nói cho cùng, thì lòng Từ hòa sẽ mang lại sự tiện lợi cho chính bản thân mình. Kinh nói: “Đời này thấy mình, Mọi người hoan hỷ, Do kiếp trước ta, Hoan hỷ với người.” Bốn câu đó nói đến sự đạt lòng Từ hòa. Hành giả tu Tịnh độ nên lấy Từ hòa làm tâm. Nghóa là, nếu tất cả chúng sinh gây nên tội ác với ta đi nữa, ta cũng không nên sinh tâm sân hận để làm cho tâm thanh tịnh của ta bị dơ bẩn. Ta nên nghó rằng, những kẻ ấy vì ngu si mà hành động như vậy, nếu người có trí tuệ thì chắc chắn họ sẽ xử sự khác đi. Vì vậy chúng ta nên khởi tâm xót thương cho sự ngu si của họ. Cũng vì thế nên Tăng Tử nói: “Nếu đạt được ý nguyện thì nên lo buồn chứ đừng vui mừng”. Nếu hành giả giữ gìn tâm niệm đó để tu Tịnh độ thì thiện căn sẽ được tròn đầy và chín muồi rất nhiều. Nói về việc làm bậc quân tử. Là người ai cũng có thể làm quân tử nhưng lại không chịu làm, ai cũng không nên làm tiểu nhân vậy mà ai cũng làm. Hoặc là thành tín, hoặc là cung kính, hoặc ôn hòa phương chính, hoặc trọng người hiền và nêu cao điều thiện, hoặc tùy nghi để làm lợi cho chúng sinh; tất cả những phẩm chất đó đều là công việc của bậc quân tử. Tại sao không ai chịu làm những việc đó dẫu không có gì khó khăn? Hoặc là dối trá ngạo mạn, hoặc là thô bạo siểm khúc, hoặc nói lỗi người khác và đề cao điều ác, hoặc phóng túng và làm hại chúng sinh theo ý tưởng của mình; đó là những phẩm chất của phường tiểu nhân. Tại sao ai cũng cứ làm, dẫu biết chẳng lợi lộc gì cả? Làm quân tử thì mọi người đều vui mừng, được Thần linh gia hộ, hoạn nạn không sinh và phước lộc được bền lâu. Nói tóm là gặt hái được rất nhiều. Tuy làm những việc ấy có khi bị mất mạng nhưng không phải vì làm bậc quân tử nên bị mất mạng, bởi lẽ có những người không làm quân tử mà vẫn mất mạng như thường! Vì sao? Vì mạng sống vốn có định số. Làm tiểu nhân thì ai cũng oán trách, Thần linh nổi giận, họa hoạn sẽ sinh và phước thọ bị suy giảm. Nói tóm là mất mát rất nhiều. Tuy làm kẻ tiểu nhân vẫn có lúc bảo toàn được mạng sống, nhưng sự thể ấy không phải do làm tiểu nhân mà có được, bởi lẽ có những kẻ khác không làm tiểu nhân, nhưng vẫn bảo vệ được mạng sống! Vì sao? Vì mạng sống vốn đã có định số. Khổng Tử nói: “Không biết gì về mạng thì không thể làm bậc quân tử. Kẻ tiểu nhân vốn không biết gì mạng Trời cả!”. Ngài lại nói: “Được hay mất đều do mạng số. Phải thường xuyên suy gẫm về chân lý đó.” Ý Khổng Tử nói rằng: “Bậc quân tử là người có khả năng để thực hành cái đạo lý đó, nên gọi là quân tử. Kẻ tiểu nhân thì lại bẻ cong cái đạo lý đó, nên gọi là tiểu nhân.” Dùng đạo lý đó mà tu tập Tịnh độ thì hành giả sẽ không bị sinh về Hạ phẩm. Nói về việc làm Thánh, làm Phật. Theo quan điểm của tôi, thì sở dó Khổng Tử là bậc Thánh bởi vì Ngài không rơi vào tư tưởng một chiều. Song, vấn đề quan yếu nhất của Ngài là thái độ “Chắc chắn rằng trong ba người cùng đi với nhau sẽ có người là thầy của ta”. Ngay kẻ ác cũng là thầy của ta. Vậy có ai không phải là thầy của ta? Kiến thức của Ngài như vậy quả xứng đáng là bậc Thánh! Lại nữa, theo quan điểm của tôi, thì sở dó đức Thích Ca được gọi là Phật là bởi Ngài không rơi vào tư tưởng một chiều. Nhưng điều cốt tủy nhất của Ngài là: Lúc Đức Phật còn tu hành trong núi, có một vị quốc vương đi săn bắn hỏi Ngài thú vật ấy ở đâu. Nếu Ngài nói thật thì mạng sống của thú vật sẽ bị giết, nhưng nếu nói dối thì sẽ bị phạm giới vọng ngữ. Đang lúc còn phân vân chưa đáp, thì Quốc vương nổi giận và chém đứt một cánh ta của Ngài! Quốc vương lại hỏi như trước và Ngài đang trầm ngâm chưa đáp thì quốc vương lại chém đứt một cánh tay nữa! Ngài liền phát nguyện rằng: “Nguyện lúc tôi thành Phật, trước tiên tôi sẽ độ quốc vương để mọi người không học theo ông mà làm ác!” Đức Thích Ca nuôi dưỡng tâm mình như vậy thì làm sao không xứng đáng là một vị Phật được. Sau khi Đức Thích-ca ra đời và thành Phật, Ngài độ Tôn giả Kiều- trần-như trước, vì Tôn giả chính là vị quốc vương thuở đó. Nếu chúng ta áp dụng hai tâm niệm của hai vị ấy trong lúc tu tập Tịnh độ, thì chắc chắn rằng mình sẽ đứng ngang hàng với chư vị Đại Bồ-tát. Nói về A-la-hán. Đức Phật nói rằng: “Tuy quả vị A-la-hán luôn được Trời và người cúng dường, nhưng phước lực để gia bị cho con người là rất yếu kém.” Giả sử, có một người cúng dường cho các vị A-la-hán khắp bốn thiên hạ suốt trăm năm cũng không bằng người phát tâm Bồ-đề để cúng dường cho Đức Phật trong một ngày. Bởi lẽ, từ vô lượng kiếp đến nay Ngài luôn luôn cứu độ chúng sinh, nên chúng sinh nào cũng có được phước đức của Phật, trong lúc phước đức để làm lợi cho loài người của Đức Phật lại vô cùng lớn. Vị A-la-hán sau khi được giải thoát sinh tử liền nhập Niết-bàn. Nghóa là Ngài chỉ lo hoàn thiện cho bản thân mình, vì vậy phước lực lan tỏa đến loài người của Ngài là rất yếu kém! Đức Phật lại nói: “Một người nào đó có phước báo là bởi nhờ họ đã từng cúng dường Phật.” Chúng ta không nên quan niệm rằng cúng dường là việc chuẩn bị cho thân sau. Năm gần đây, có vị tăng ở Tú châu chuyên niệm A-di-đà Phật để cầu đảo trị bệnh cho mọi người và bệnh liền thuyên giảm. Vậy ta có thể nói rằng, Đức Phật không làm lợi cho con người lúc họ đang còn sống chăng? Đã có thể cầu đảo để chữa bệnh, thì tất nhiên cũng có thể cầu phước, chỉ sợ rằng niềm tin của ta không được sâu dày mà thôi. Nếu người tu Tịnh độ luôn cầu nguyện trở lại cõi này để giáo hóa chúng sinh, thì sẽ có phước đức. Vì vậy hành giả niệm Phật cần phải biết rõ điều này. Kinh Lăng-già. Kinh Lăng-già thuyết minh về chân lý, sâu thẳm để hành giả diệt trừ tất cả vọng tưởng. Kinh này có ba bản dịch. Bản gồm mười quyển thì quá sức rối rắm. Bản gồm bốn cuốn tuy được Đạt-ma phát huy và Tô Đông Pha viết lời tựa, song sự phiên dịch lại vô cùng tăm tối, nên rất khó đọc và khó hiểu. Chỉ có bản gồm bảy cuốn là rõ ràng. Hành giả tu Tịnh độ muốn đạt được Thượng phẩm thượng sinh thì cần phải đọc tụng kinh điển Đại thừa, giải đệ nhất nghóa. Vì vậy, hành giả cần biết đến kinh này. Nói về hai người Trời. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một người sống có hai người Trời đi theo. Một người tên Đồng Sinh, và một người tên Đồng Danh. Người Trời luôn nhìn thấy người nhưng người thì không nhìn thấy người Trời”. Như vậy, hai người đó không phải là đồng bọn của hai bộ đồng tử là thiện và ác sao? Lẽ nào chúng ta không thấy hỗ thẹn khi nghó rằng sự động tâm, phát ngôn và cất bước của mình luôn luôn có hai người Trời đó nhìn thấy? Nếu người tu Tịnh độ biết áp dụng điều trên vào đời sống của mình thì chắc chắn sẽ sinh lên Thượng phẩm thượng sinh. Có kẻ nói: Cứ một người lại có hai người Trời, vậy thì người Trời ở đâu mà nhiều thế? Đáp: Nếu một vầng trăng mà hiện khắp tất cả dạng hình của nước, thì ta có thể nói rằng có nhiều vầng trăng chăng? Nói về nhân quả ở phạm vi nhỏ. Có người sửa cầu, lại có kẻ phá cầu, đó là cái nhân nhỏ của thiên đường và địa ngục. Có người ngồi kiệu, lại có kẻ khiêng kiệu, đó là quả nhỏ của thiên đường và địa ngục. Người tu nên căn cứ theo nguyên tắc đó để loại suy khi gặp những trường hợp khác thì có thể nhìn nhận được vấn đề. Nếu hành giả luôn giữ tâm mình trước hai trường hợp trên để tu Tịnh độ thì chắc chắn được sinh về Thượng phẩm. <篇> <卷>QUYỂN 10 Kẻ đạt đến độ tuyên áo của chân lý thì dẫu ở cõi đời dơ bẩn nhưng cũng như đang sống tại Tịnh độ. Vì vậy, cuốn sách này mới nói về phạm vi cực sâu của chân lý, và gọi là “Tịnh trược nhất như”. Dầu vậy, người đọc không nên ỷ lại vào lý sâu này mà phế bỏ sự tu tập Tịnh độ. Nếu ỷ lại thì tôi e rằng hành giả sẽ rất dễ sa chân lún bước đầm lầy “Không đàm”, hoặc dính bết vào tệ nạn của những người tham thiền! Nói về tình. Giận, vui, yêu, ghét, ham, muốn; tất cả trạng thái đó gọi là tình. Nuôi dưỡng tình là ác, phóng túng tình là giặc, và bẻ gãy tình là thiện, diệt trừ tình là Thánh. Ăn uống món béo bở, mặc áo quần sang trọng, ở chỗ cao rộng; những lối sinh hoạt ấy được gọi là dưỡng tình. Ăn uống bừa bãi, áo quần diêm dúa, cư xử không biết chán; những lối sống ấy được gọi là phóng túng tình. Người ta có lỗi nhưng mình không trả thù, người ta xúc phạm mà mình không oán trách, những đức tính đó gọi là bẻ gãy tình. Dẫu người khác có lỗi hay xúc phạm, hay làm mình bị thương tổn nhưng mình vẫn xem như không có, và lại sinh lòng xót thương những hành vi ngu si ấy; những đức tính ấy gọi là diệt tình. Nếu hành giả ngộ được chân lý diệt tình đó thì tâm địa của mình luôn luôn thanh tịnh như đang ở tại Tịnh độ. Nói về vấn đề “Tức thị không”. Đức Phật nói: Thọ chính là không. Thọ nghóa là sự thọ nhận trạng thái khổ và lạc, cho đến những sự thọ dụng khác. Như khi ta đang ăn có đủ món, nhưng lúc buông đũa là không cả; lúc đi ra thì có nhiều người đi theo, nhưng lúc đến nơi thì không còn ai cả; suốt ngày đi tham quan nhưng lúc trở về thì không còn ai cả. Lại như lúc làm việc thiện đã xong thì sự lao nhọc không còn, nhưng thiện nghiệp vẫn hiện hữu; việc làm ác đã xong và tâm trạng thỏa mãn không còn, nhưng ác nghiệp thì vẫn tồn tại. Nếu ai hiểu sâu lý ấy thì ăn uống đạm bạc để không tạo sự oán trách vì dùng quá nhiều và giết hại chúng sinh; lúc ra khỏi nhà có thể tùy phận để không tạo ra sự phiền toái, lao tâm và làm khổ người khác; bỏ đi sự ngoạn cảnh để không gây nên những lỗi lầm trầm trọng vì phóng đãng và bỏ bê công việc; có thể làm được điều thiện để không phạm phải sai lầm khác vì biếng nhác và bảo thủ; có thể tự ngăn cấm đối với việc ác để không bị mắc tội vì sự buông tuồng và kẻ khác thù oán. Tôi sung sướng vì tự thân đạt được những điều đó, nên rất muốn được xẻ chia cùng với mọi người… cho đến tất cả những thọ dụng khác… nghóa là thọ nhận trạng thái không khổ không lạc). Nói về lục căn. Trang điểm cho mình cả ngàn món cũng chỉ vì con mắt chừng nửa thốn của người khác; nghe cả trăm bản nhạc cũng vì lổ tai nhỏ bằng hạt đậu; xông ướp mình bằng trầm hương, chiên đàn hương, mã não, xạ hương cũng chỉ vì cái mũi có hai lỗ; ngồi ăn ở trước phương trượng cũng chỉ vì cái lưỡi dài ba thốn; giữ gìn cho được đẹp đẽ, tốt tươi cũng chỉ vì cái thân hôi hám và thối nát; đón đưa tùy thuận cũng chỉ vì cái ý tưởng buông tuồng. Nếu người có khả năng nhận thức và phá vỡ những điều trên tức là người không có phiền não và được an lạc. Đức Phật nói: “Từ vô thỉ đến nay chúng sinh luôn nhận giặc làm con để chúng cướp lấy gia bảo của mình.” Ý Đức Phật nói đến tên giặc làm cho lục căn bị mê tối và chân tánh bị chôn vùi. Mạnh Tử nói: “Chỉ có Thánh nhân mới đi trên hình thể.” Bởi vì Thánh nhân thì không bị mê hoặc bởi hình thể. Có một dâm nữ được đắc đạo, Văn-thù hỏi: “Làm thế nào để không sân?” Dâm nữ ấy đáp: “Thấy tất cả chúng sinh không sinh ra.” Văn-thù lại hỏi: “Làm thế nào để thấy Thập bát giới? ” Dâm nữ đáp: “Thấy như thấy kiếp hỏa đang thiêu cháy các thế giới! ” Kỳ diệu thay là câu trả lời ấy! Bởi vì ý dâm nữ đó muốn nói rằng, tất cả chúng sinh vốn dó không có mà chỉ sinh ra từ vọng tưởng. Đã là vọng tưởng thì làm gì có sân! “Thập bát giới” là lục căn, lục trần và lục thức. Vì hội đủ những pháp ấy nên mới sinh ra vô số sự việc, mới gây nên vô lượng điều ác, nên dâm nữ nói là “Như kiếp hỏa đang thiêu cháy các thế giới.” Nếu ai ngộ được chân lý này thì dẫu chưa sinh về Tịnh độ mà cũng như đã sinh về rồi. Nói về chân tánh. Kinh Kim Cang có hai mươi bảy đoạn, nhưng yếu chỉ của nó không nằm ngoài câu: “Chân tánh đều vô sở hữu, như hư không.” Hư không ở câu này là Ngoan không, mà ngoan không thì sự thật là không có. Chân tánh dẫu giống như hư không nhưng trong chân tánh thì lại có. Vì vậy, nên kinh nói rằng: “Chân không không phải là không.” Ngoan không thì có thể làm ra, có thể bị hủy hoại. Như đất này là vật có thật; nếu ta đào một thước đất thì có một thước không, nếu ta đào một trượng đất thì có một trượng không. Đó gọi là ngoan không được làm ra. Như cái bát này vốn trống không; nếu ta lấy đồ vật bỏ vào đó thì cái bát đầy; cái phòng này vốn trống không, nếu ta đem đồ vật đặt vào đó thì căn phòng sẽ đầy. Đó là ngoan không thể bị hủy hoại. Riêng cái không của chân tánh thì không thể làm ra được và cũng không thể bị hủy hoại. Bởi nó ngậm chứa cả hư không thế giới thì sao có thể bị làm ra được? Từ vô thỉ đến nay nó chưa từng biến động thì làm sao nó lại bị hủy hoại được? Trong chân tánh là hoàn toàn không có. Sự không có này không có gì so sánh được nên bất đắc dó mới lấy ngoan không để so sánh. Vì vậy Bát-nhã Tâm kinh nói: “Đó là tướng không của các pháp.” Nghóa là tướng của các pháp đều là không. Tức là chân tánh. Tiếp theo kinh đó lại nói: “Trong không có sắc” cho đến “không có trí, cũng không có đắc”. Nghóa là trong chân tánh đều vô sở hữu. Như trong Ngoan không đều không có một vật gì cả. Dẫu “Tất cả đều là vô sở hữu nhưng lại có tất cả chúng sinh”, nghóa là vọng duyên hiện ra từ chân tánh. Như hình ảnh thì có đến và đi, nhưng tấm gương thì vẫn như cũ; tuy chúng sinh có sinh và diệt, nhưng chân tánh thì vẫn không thay đổi. Lúc trừ được sinh và diệt thì chân tánh liền hiển lộ, bởi lẽ sinh và diệt là vọng mà chân tánh là chân. Vì vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: “Các vọng đã tiêu trừ Bất chân đợi làm gì.” Chân tánh này trên từ chư Phật dưới đến loài xuẩn động, hàm linh đều giống nhau. Nếu chân tánh mà khác nhau thì đó là Vọng. Nói về vấn đề “Tâm là vọng tưởng”. Quyển một của kinh Lăng Nghiêm tường thuật về việc Đức Phật và A-nan bảy lần đàm luận về tâm. Tóm lại là Đức Phật xếp tâm mà thế gian quan niệm là vọng tưởng, là không phải chân tâm. Vì chân tâm tức thể tánh. Kinh Viên Giác nói: “Chúng sinh nhận lầm cảnh tượng duyên với lục trần là tự tâm tướng.” Theo quan niệm thế gian thì tâm là ảnh tượng của sáu loại trần, tâm như thế là hoàn toàn không có thật, nhưng vì bên ngoài có sáu trần nên bên trong mới hiện ra ảnh tượng của tâm. Nghóa là, nếu bên ngoài có sắc thì bên trong sẽ khởi lên loại tâm yêu mến sắc; nếu bên ngoài có âm thanh thì bên trong sẽ sinh ra loại tâm yêu thích âm thanh; nếu bên ngoài có hương vị xúc và pháp thì bên trong xuất hiện loại tâm yêu mến những pháp ấy. Bởi lẽ chân tánh như tấm gương, sáu trần như hình và tâm được sinh ra như ảnh. Nếu bên ngoài không có sáu loài trần đó thì bên trong cũng không có tâm đó. Như vậy, tâm đó chính là ảnh tuợng của sáu loại trần duyên. Nghóa là, lúc hình đến thì ảnh hiện, lúc hình đi thì ảnh mất, nhưng chân tánh của tấm kính thì vẫn thường trụ. Bởi thế, kinh Kim Cang nói: “Tâm quá khứ không có. Tâm hiện tại không có. Tâm vị lai không có. ” Ba loại tâm ấy đều được gọi là vọng tưởng tâm và cũng do vọng tưởng tâm mà có quá khứ, hiện tại và vị lai. Còn chân tâm thì từ vô thỉ đến nay chưa từng biến động thì làm gì có quá khứ, hiện tại và vị lai. “Bất khả đắc”: tức là không có. Lúc đói thì ta nghó đến việc ăn, và chính lúc ta đang ăn thì tâm nghó đến ăn ấy đã là quá khứ; lúc ta đang ăn và đang tri nhận mùi vị của thức ăn thì tâm đang tri nhận ấy là hiện tại; lúc ta chưa nghó gì đến việc ăn uống tức là tâm nghó về đó chưa có nên gọi tâm đó là vị lai. Vì ba loại tâm ấy luôn bị hoại diệt tùy theo thời gian nên gọi chúng là Bất khả đắc. Nói về vấn đề “Năm uẩn đều là không”. Bát-nhã Tâm Kinh nói: “Bồ-tát Quán Tự Tại soi chiếu và thấy năm uẩn đều là không, nên Ngài vượt qua được tất cả khổ ách.” Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc tức sắc thân. Thọ tức là sự thọ dụng. Tưởng tức là tư tưởng. Hành là những việc được làm. Thức là sự tri nhận. Vì năm loại ấy luôn kết tụ và che lấp chân tánh nên gọi là uẩn. Nó còn được gọi là năm ấm. Ấm nghóa là làm mờ chân tánh. Sắc thân rốt cuộc quy về hoại diệt. Thọ dụng thì tùy thời gian mà diệt mất. Vì vậy sắc và thọ chính là không. Lại nữa, như lúc ta nhớ tưởng đến một vật gì đó, và lúc có nó rồi thì ta không tưởng đến nữa; vì thế, tưởng tức là không. Những việc đã làm, lúc ta quay đầu nhìn lại thì chúng đã như cơn huyễn mộng; vì vậy, hành tức là không. Dẫu biết ngàn muôn sự việc nhưng lúc tái sinh thì ta liền bị quên sạch; vì thế thức chính là không. Tất cả khổ ách đều sinh ra do năm loại ấy. Nếu ta có khả năng soi chiếu và thấy sắc thân là không thì ta không bị lún vào sắc thân để lo sợ về cái chết, như vậy là ta đã vượt qua được một loại khổ. Nếu chiếu soi và thấy sự thọ dụng là không, thì ta không bị sa vào thọ dụng để tham đắm sự phụng dưỡng, đó là ta lại vượt qua được một loại khổ nữa. Chiếu soi và nhìn thấy tư tưởng là không thì không bị chìm vào tư tưởng mà ý lại không có chỗ đắm trước, đó là ta lại vượt qua được một loại khổ ách. Chiếu soi và nhìn thấy những việc làm là không, thì ta không dính mắc vào những việc làm nên có thể đình chỉ được dấu vết của tâm, đó là ta lại vượt qua được một loại khổ ách nữa. Nếu chiếu soi và nhìn thấy sự tri nhận là không, thì ta không mắc vào sự nhận thức, nên có thể “Ngồi mà quên”, đó là ta lại vượt qua được một loại khổ ách nữa. Bởi vậy, nếu chiếu soi và nhìn thấy năm uẩn đều là không thì ta vượt qua được tất cả khổ ách. Năm uẩn ấy đều là không, chúng là Vọng duyên hiện lên trong Chân tánh. Những pháp như lục căn, lục trần, lục thức, Thập nhị duyên và Tứ đế cũng đều là không như ngũ uẩn. Nói về sự “Phế tâm dụng hình”. Liệt Tử nói: “Khổng Tử phế tâm mà dụng hình”. Nghóa là tâm đã không vướng mắc vào sự vật nên phế bỏ nó và chỉ dụng hình thể để ứng với vật. Quả thật, tôi thích câu nói của Liệt tử vô cùng. Bởi vậy, dẫu lao khổ, tiều tụy nhưng tôi vẫn thấy vừa lòng; tuy được vinh hoa phụng dưỡng nhưng tôi không cho đó là đắc chí. Bởi vì tâm tôi không dính mắc vào sự vật. Nhân đây tôi mới hiểu sở dó “Vị Bồ-tát đã thoát sống chết liền thác sinh vào trong tất cả chúng sinh để thi thiết việc giáo hóa” là vì tâm của Ngài không dính mắc vào sự vật. Ngài chỉ dùng hình thể để ứng với vật mà thôi. Như vậy, ở cõi này, đức Khổng Tử cũng là hàng Bồ-tát. Nói về việc sử dụng hình hài. Bài kệ nói về vị Trời lạy xương khô viết rằng: “Người là ta đời trước, Ta nay thiên nhãn mở, Áo quý tùy tâm đến, Thức ngon tự ý nay.” “Tạ ân xưa người khổ, Khiến nay ta sướng vui, Vừa rải hoa vừa múa, Người đời chớ khinh nghi.” Lại nữa, bài kệ nói về quỷ đói quất cái thây chết viết rằng: “Vì túi da hôi này, Bôn ba ngàn ức kiếp, Chỉ biết tham dục lạc, Mà chẳng tạm tu hành. Nghiệp mình quá ít ỏi, Suối vàng năm tháng dài, Dẫu đánh cho đau đớn, Nhưng hận này khó quên.” Nếu đem những lời đó để giáo hóa người phàm tục thì có thể được, nhưng nếu cho những lời ấy là chân lý thì hoàn toàn sai. Vì sao? Vì Thần nhân thác sinh vào hình hài nên việc sử dụng hình hài đều là Thần. Như người thợ mộc dùng rìu búa để làm việc thiện thì sẽ tạo ra khí giới lành; nếu ông ta dùng chúng để làm việc ác thì sẽ tạo nên những khí giới ác. Bởi vậy, sở dó hôm nay là Trời là do đời trước khéo sử dụng hình hài; sở dó đời này là quỷ đói vì đời trước không khéo sử dụng hình hài. Sự được hay mất và sự thọ báo đều ở hiện đời. Vậy lễ lạy hoặc đánh đập nào có lợi ích gì đâu! Nói về vấn đề “Giải quyết được sống chết”. Chúng ta hãy tưởng tượng ngón chân cái của bàn chân phải mình đang ung thối và chảy nước hôi hám. Nó rữa dần đến ống quyển, đến đầu gối, đến bắp vế, đến thắt lưng. Với chân trái chúng ta cũng tưởng tượng như vậy. Nó rữa dần đến thắt lưng, đến bụng, đến ngực, đến trán và đến đỉnh đầu. Tất cả đều rữa nát! Chỉ còn bộ xương Trắng. Tiếp theo, chúng ta lần lượt quan sát rõ ràng về xương trắng đó và nhận rõ từng bộ phận của nó. Tónh tâm để quan sát một hồi lâu rồi ta suy nghó xem người đang quan sát xương trắng đó là ai và xương trắng là ai? Nhờ vậy mà ta biết rằng thân thể và ngã luôn là hai vật. Lại rời bỏ dần xương trắng để quan sát; trước tiên, ta rời xa một khoảng đến năm trượng, cho đến một trăm, một ngàn trượng. Nhờ vậy, ta biết rằng xương trắng ấy với ngã hoàn toàn không liên quan nhau. Nếu chúng ta luôn thực hành cách quán tưởng đó thì sẽ thấy ngã và hình hài vốn là hai. Ngã chỉ tạm trú ở hình hài, vậy ta có thể nói hình hài còn mãi và không hư hoại để cho ngã thường trú trong đó không? Được như vậy là chúng ta đạt được vấn đề gọi là “Giải quyết được việc sống chết”. Huống gì chúng ta chuyên tu Tịnh độ, lúc xả báo thân ở cõi này ta sẽ thác sinh vào Cực lạc. Nếu chúng ta luôn thực hành phép quán tưởng ấy trong từng ngày, thì tự mình sẽ có sự tự đắc riêng; như người uống nước thì tự mình sẽ biết được nước đó lạnh hay nóng mà không cần phải mượn lời để phô diễn. Nói về ngã. Sự hiện hữu của chúng sinh tất phải có ngã. Bởi lẽ, nếu không có ngã thì chúng sinh sẽ bị rơi vào thảm trạng gọi là “Trục vật”. Sự tồn tại của chân lý thì phải không có ngã. Bởi lẽ nếu có ngã thì chân lý sẽ bị che mất. Khổng Tử thì “Vô ngã”. Bồ-tát thì “Vô ngã tướng”. Ai đạt đến trình độ này sẽ ngang bằng với hư không. Đã ngang với hư không thì sao lại có chuyện phân ra sạch và bẩn? Tuy nói thế nhưng tôi vẫn sợ rằng người tu khó mà đạt đến cảnh giới ấy! - Lời bạt của Cư só Duy Tâm, Kinh Khê Chu Kỳ. Học lực của Long Thư Vương Hư Trung đã đến độ sâu thẳm. Ông giải thích những lời của Lục Kinh, Mạnh Tử và Lão Trang mà không dẫm lại người xưa dầu một chữ, một câu; dụng tâm như thế quả là vô cùng cần mẫn. Một hôm, ông bỏ hết những sở học ấy để chuyên tu Tịnh độ và trước tác “Tịnh độ văn”. Tác phẩm ấy có đủ thứ lớp của tinh, thô, sâu, cạn. Ông đem khắc in nó để ấn tống cho những ai có duyên. Ông bôn ba khắp các quận thuộc tỉnh Triết Giang và đích thân đến Kiến An để khắc bản ở tiệm Dục Thư. Nói chung, bao giờ ông cũng sốt sắng như chưa có một ngày thư thả. Tôi đọc thấy kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu chúng sinh nghe tên của Đức Phật đó mà tin tưởng, hoan hỷ cho đến một lòng nguyện sinh về thế giới ấy, thì sẽ sinh về ngay và được trụ ở vị trí Bất thoái chuyển”. Bất thoái chuyển: Phạn ngữ là A-duy-việt-chí. Đó là Báo địa mà Bồ-tát Di-lặc đạt được trong kinh Pháp Hoa. Một niệm vãng sinh liền ngang hàng với Bồ-tát Di-lặc, đó là lời chân thật của Đức Phật mà chúng ta nên tin nhận. Ngày mồng bảy tháng tư (nhuận), năm Nhâm Ngọ. Niên hiệu Thiệu Hưng. Cư só Duy Tâm, Kinh Khê Chu Kỳ viết lời bạt. ----------------------------------- <詞>LỜI BẠT CỦA TRẠNG NGUYÊN LƯU ĐÃI CHẾ Ngày xưa, Lục Tổ nói về tướng trạng của Tây phương cùng sứ quân họ Vi với những lời lẽ giản dị mà ý chỉ lại rất rõ ràng. Bởi lẽ không phân biệt Đông Tây thì lý do nào lại nói đến tướng trạng được? Đến khi tôi đọc được tác phẩm “Tịnh độ văn” của Cư só Vương Hư Trung thì lại thấy những lời giáo huấn cấm ngăn của ông quá sức chân thành. Bởi vì tự thân của Pháp thì không có đốn hay tiệm, nhưng căn cứ thì lại có người sáng suốt kẻ tối tăm. Vì Lục tổ thuyết đệ nhất nghóa cho hàng thượng căn, nên Ngài dời Tây sang Đông chỉ trong sát-na, hành giả trực ngộ ngay dưới lời chứ không dung dưỡng sự nghó bàn. Cư só Hư Trung lại vì muốn khai ngộ cho các loại căn tánh bậc hạ nên trước tác luận thư này và lấy Tây phương làm nơi quy chiếu, nên ông vội vàng khắc in để lưu hành và chỉ sợ tác phẩm này không lưu hành rộng rãi mà thôi. Qua việc làm đó ta thấy được tấm lòng yêu thương mọi người của ông thật vô cùng ân cần và tha thiết! Nếu có người nhờ tác phẩm “Tịnh độ Văn” của ông mà được ngộ nhập thì đâu khác gì trường hợp “Nơm bẫy và cá thỏ”. Ngày mồng 6 tháng 6 năm Nhâm Ngọ. Niên hiệu Thiệu Hưng. Mộc Nạp Ông Lưu Chương viết. - Lời bạt của Diệu Hỷ lão nhân. Cư só Long Thư Vương Hư Trung, Nhật Hưu ngoài sự đọc rộng về các loại sách ra còn lưu tâm đến Phật giáo. Ông lấy việc lợi người làm trách nhiệm của mình. Quả thật là hoa sen trong lửa! Đức Phật nói: “Tự mình chưa được giải thoát nhưng độ người trước tiên là tâm của Bồ-tát. Tự giác đã tròn là luôn làm cho kẻ khác được giác ngộ, đó là Như Lai xuất hiện giữa đời?” Tôi hoan hỷ với chí nguyện của Cư só nên viết sau tác phẩm này. Nếu thấy được A-di-đà thuộc tự tánh tức là hiểu được Tịnh độ thuộc duy tâm. Nếu ai chưa đạt đến giai đoạn ấy thì công đức của tác phẩm này quả là không mất. Ngày hai mươi tháng tám năm Canh Thìn; viết tại Lưu Cảnh Văn lại khoa rằng: Song kính Diệu Hỷ Tông Cảo bạt. Long Thư Tăng Quảng Tịnh độ Văn, quyển 10 hết.  <卷>QUYỂN 11 PHẦN PHỤ LỤC THIỆN THAI TRÍ GIẢ KHUYÊN HÀNH GIẢ CHUYÊN TU TỊNH ĐỘ Nếu có người hỏi rằng: “Chư Phật và Bồ-tát lấy đại bi làm sự nghiệp. Nếu người tu muốn độ sinh thì chỉ nên nguyện sinh vào ba cõi, ở trong ngũ trược và tam đồ để cứu chúng sinh đau khổ. Tại sao chư vị lại cầu sinh Tịnh độ, lại chỉ an ổn bản thân bỏ rơi chúng sinh vậy? Nếu như thế hóa ra chư vị chỉ chuyên tâm vào việc tự lợi, đồng thời cũng làm cản trở con đường Bồ-đề?” Đại sư Trí Giả đáp: - Có hai hạng Bồ-tát: Thứ nhất, là hạng đã tu tập con đường Bồ- tát từ lâu và đã chứng đắc Vô sinh nhẫn. Nếu những vị này không sinh vào ba cõi v.v… thì lời trách cứ đó quả là xứng đáng! Thứ hai, là hạng chưa chứng đắc Vô sinh nhẫn trở lui, cho đến hạng phàm phu mới phát tâm. Hạng phàm phu Bồ-tát cần phải thường xuyên gặp Phật. Một khi họ thành tựu sức nhẫn thì mới có thể ở trong ba cõi, mới có thể cứu khổ cho chúng sinh trong đời bẩn ác. Vì vậy luận Đại Trí Độ nói: Không bao giờ có chuyện hàng cụ phược phàm phu mà có tâm nguyện đại bi để sinh vào đời ác mà cứu những chúng sinh khổ. Vì sao? Vì mức độ phiền não ở thế giới ác rất dữ dội. Nếu là hạng tự mình chưa có nhẫn lực thì tâm sẽ bị chuyển theo hoàn cảnh, bị sắc và thanh trói ngay. Tự mình bị đọa lạc trong tam đồ thì làm sao có thể cứu vớt chúng sinh được? Ngay cả hạng cụ phược phàm phu được sinh vào cõi người đi nữa thì cũng khó mà chứng đắc con đường Thánh. Có thể do trì giới, tu phước nên họ được sinh trong cõi người, được làm quốc vương, đại Thần rất giàu có và tự tại; nhưng nếu gặp bậc Thiện tri thức thì họ sẽ không tin tưởng. Họ chỉ đắm vào vũng tham lam, mê tối và phóng dật để rồi tạo nên bao nhiêu thứ tội nghiệp. Một khi rơi vào tam đồ, họ phải trải qua vô lượng kiếp. Lúc thoát khỏi địa ngục, họ lại phải nhận cái thân bần tiện, và nếu không gặp được Thiện tri thức thì họ vẫn bị sa vào địa ngục lại. Do vậy, họ bị luân hồi cho đến ngày hôm nay. Sự luân hồi của tất cả mọi người là như sự luân hồi ở trên. Vì vậy, tôi gọi con đường này là Nan, hành, đạo (con đường khó tu tập). Cũng vì lý do trên mà kinh Duy-ma nói: “Bệnh mình mình không thể cứu được mà lại đòi cứu những người bệnh khác!” Lại nữa, Trí Độ luận nói: “Ví như có hai người, mỗi người đều có thân nhân bị nước nhận chìm. Một người hốt hoảng nhảy ngay vào nước để cứu họ, nhưng vì thiếu sự hỗ trợ của phương tiện nên cả hai đều chìm ngỉm. Một người tức tốc chạy đi tìm thuyền bè để tiếp cứu, và nhờ có sự hỗ trợ của phương tiện, nên cả hai đều thoát nạn bị dòng nước nhận chìm. Cũng vậy, hạng Bồ-tát mới phát tâm chưa có nhẫn lực thì không thể cứu vớt chúng sinh được. Vì lý do đó nên họ cần phải gần Phật thường xuyên. Sau khi chứng đắc Vô sinh nhẫn rồi, họ mới có năng lực để cứu độ chúng sinh cũng như người có được thuyền bè vậy.” Lại nữa, luận nói: Ví như trẻ thơ không được rời xa mẹ. Nếu rời xa mẹ thì hoặc là nó sẽ chết vì bị rơi xuống hầm hố hoặc vì khát sữa. Lại nữa, như chim non vì chưa đủ cánh lông nên nó chỉ được bám vào cành nhánh chứ không được đi xa. Đến lúc lông cánh đã đủ đầy nó mới có thể bay lượn giữa bầu Trời một cách tự tại và không bị gì ngăn ngại. “Hạng phàm phu không có nhẫn lực thì chỉ được phép chuyên niệm A-di-đà Phật để cho Tam-muội thành tựu. Nhờ thành tựu được Tam-muội nên lúc sắp mất hành giả thâu niệm để vãng sinh. Đây là điều không đáng để nghi ngờ. Sau khi thấy được Đức Phật A-di-đà, được chứng Vô sinh pháp nhẫn rồi, hành giả sẽ sinh lại trong ba cõi, ngồi thuyền Vô sinh nhẫn để cứu độ chúng sinh, để làm Phật sự theo tâm nguyện của mình một cách tự do, tự tại.” Vì lý do đó luận nói rằng: “Du hý nơi địa ngục.” Nghóa là hành giả sinh về cõi Cực lạc, đắc vô sinh nhẫn rồi, lập tức sinh vào lại cõi, miền, sống, chết để giáo hóa chúng sinh trong địa ngục và cứu vớt những chúng sinh khổ? “Vì những lý do đó mà hành giả cầu sinh Tịnh độ. Ngưỡng nguyện người tu hành nên chuyên tâm với Tịnh độ. Cho nên, luận Tỳ-bà-sa gọi đó là Dị hành đạo (Con đường dễ tu tập).” Thiền sư Trường Lô Trách, người Chân châu, khuyên người tham Thiền tu Tịnh độ. Kẻ chấp trước “Niệm là niệm; sinh là sinh” tức là phạm vào lỗi thường kiến. Kẻ bám chặt vào “Vô niệm là vô niệm; vô sinh là vô sinh” tức là bị mê hoặc bởi tà kiến. “Niệm mà vô niệm; sinh mà vô sinh”, đó là Đệ nhất nghóa đế. Do vậy, ở phạm vi thật tế lý địa không dung một mảy bụi, thì trên không có chư Phật để có thể niệm và dưới không có Tịnh độ để có thể sinh; nhưng ở ngưỡng cửa Phật sự không bỏ một pháp nào thì lại thâu nhiếp tất cả căn tánh. Pháp niệm Phật Tam-muội là phương thuật cốt tủy để trở lại nguồn và mở bày cửa ngõ vãng sinh, nên dẫu hành giả niệm Phật suốt ngày nhưng chẳng trái với lý vô niệm; hăm hở vãng sinh nhưng chẳng nghịch với lý vô sinh. Vì vậy mà có sự kiện “cảm ứng đạo giao”, dẫu Thánh và phàm đều an trụ nơi vị trí của mình, Đông Tây không qua lại với nhau nhưng Thần thức đã dời sinh Tịnh độ. Không một ai có thể suy tư đến chỗ cùng tận của hiện tượng ấy được cả! Bởi thế kinh nói rằng: “Nếu ai nghe nói đến Phật Di-đà chấp trì danh hiệu”… cho đến… “Lúc họ sắp mất tâm không điên đảo liền được vãng sinh cõi nước Cực lạc của Phật Di-đà”. Tuy Thế Tôn phân ra hai cửa là chiết và nhiếp, hiện ở hai vùng đất là tịnh và uế, nhưng không phải Thế Tôn cho rằng hầm hố, gò đồi, năm nẻo chung lộn nhau, đất đá, núi non và đầy rẫy bẩn ác của cõi Ta-bà là hoàn toàn đáng chán; cũng không phải Thế Tôn cho rằng đất bằng vàng, hàng cây đụng Trời, lầu bằng bảy loại trân bảo, hoa phô bốn màu của Cực lạc là hoàn toàn đáng hâm mộ. Nhưng vì nhẫn lực của hàng Bồ-tát đang vào đạo chưa được thuần thục nên cần phải nương vào Tịnh độ để làm Tăng thượng duyên. Vì sao? Vì ở cõi Ta-bà thì Đức Phật Thích-ca đã nhập diệt mà Ngài Di-lặc lại chưa sinh; trong lúc đó ở cõi Cực lạc thì Đức Phật A-di-đà đang thuyết pháp. Ở Ta-bà, hành giả chỉ hân ngưỡng tên lành của Bồ-tát Quán Âm và Thế Chí, trong lúc đó ở thế giới Cực lạc thì hai vị thượng nhân ấy lại trực tiếp làm bạn tốt của hành giả. Ở cõi Ta-bà thì các loại ma tranh nhau làm hành giả bị não loạn, trong lúc ở Cực lạc thì trong ánh sáng vó đại quyết không có ma sự. Ở cõi Ta-bà thì những âm thanh tà ngụy làm tâm tưởng hành giả bị tạp loạn, có nữ sắc và yêu dâm; trong lúc đó ở thế giới Cực lạc thì tất cả chim, nước, cây, rừng đều tuyên giảng diệu pháp, chánh báo thì thanh tịnh và thật sự không có nữ nhân. Cho dẫu sự tu hành ở Ta-bà có hội đủ điều kiện chăng nữa cũng không bằng ở Tây phương. Vậy mà những kẻ có niềm tin cạn mỏng lại sinh tâm hoài nghi và phỉ báng một cách ngạo ngược. Tôi xin đem chuyện đời để luận bàn cùng quý vị. Ở cõi này, có ai là không chán cảnh ồn náo của tục gia, và có ai lại không thích cảnh vắng lặng của chùa chiền? Vì thế, lúc có kẻ bỏ nhà xuất gia thì ai cũng ân cần khen ngợi. Nhưng nỗi khổ của cõi Ta-bà đâu chỉ ở nơi cảnh ồn náo của tục gia và cảnh thanh nhàn của Cực lạc nào chỉ dừng ở vẻ vắng lặng của Lan nhã. Những kẻ nhận thức được việc xuất gia là tốt đẹp nhưng lại không nguyện vãng sinh là kẻ mang trong lòng căn bệnh ngu thứ nhất! Những người vượt ngàn dặm đường, trải qua vô vàn nỗi lao khổ để tìm cầu Thiện tri thức, mong được phát minh đại sự, để quyết trạch chuyện sống chết. Trong lúc Báo thân của Đức Phật A-di-đà đều siêu việt, nguyện lực của Ngài vô cùng rộng lớn; Ngài chỉ một lần khai diễn viên âm thì mọi người đều được khai ngộ. Những kẻ nguyện tham vấn Thiện tri thức nhưng lại không mong diện kiến Phật A-di-đà là những kẻ mang trong lòng căn bệnh ngu thứ hai! Nơi tùng lâm có chúng đông đảo nên ai cũng muốn nương nhờ tấm thân, còn chỗ đạo tràng ít chúng thì ai cũng không thèm gửi bóng! Thế mà số lượng những vị Nhất sinh bổ xứ ở cõi Cực lạc nhiều vô cùng và chư thượng thiện nhân cùng hội tụ một chốn. Những kẻ muốn nương thân ở chốn tùng lâm, nhưng lại chối từ hải chúng thanh tịnh là những kẻ mang trong lòng căn bệnh ngu thứ ba! Tuổi thọ của con người ở cõi này không quá một trăm, nhưng trẻ nít thì ngu, người già thì lẫn, đủ thứ bệnh tật; nói chung là hôn trầm, thụy miên hơn một nữa đời người. Ngay cả hàng Bồ-tát còn mịt mờ lúc cách ấm; Thanh văn vẫn còn tăm tối lúc xuất thai, thì hạng “Xích bích thốn âm” đã mười phần mất hết chín. Người chưa bước chân vào Bất thoái địa không thấy là đáng sợ làm sao? Trái lại, thọ mạng của chúng sinh ở Tây phương là vô cùng tận. Một khi đã thác sinh vào bào thai của hoa sen là vónh viễn chấm dứt nỗi khổ vì sống chết. Thọ mạng của họ cứ tiếp nối mãi cho đến lúc thành đạo; nhờ vậy mà được quả vị A-duy-việt chí và nắm tay trong niềm hy vọng thành Phật. Những kẻ lưu chuyển trong cảnh ngắn ngủi của Ta-bà mà không hay biết gì về sự kiện năm dài tháng rộng ở Tịnh độ là những kẻ mang trong lòng căn bệnh ngu thứ tư! Nếu hành giả đã ở địa vị Bất thoái, đã chứng đắc Vô sinh; ở nơi cõi dục mà không ham muốn, sống giữa đời mà không bị nhiễm bụi, mới có thể khởi lòng từ không điều kiện, vận động lòng bi cùng thể tánh mà quay vào nơi trần lao, hòa mình trong ánh sáng và bụi mù của ngũ trược. Có những kẻ kiến văn thì cạn nông, trí tuệ đơn bạc, hoặc có những kẻ gom góp được vài ba mớ công hạnh phù hợp với những điều thiện nhỏ nhít mà vội cho là mình đã mãi mãi ra khỏi bốn giòng chảy, đã vượt qua Thập địa. Đồng thời, họ luôn trách mắng và chê bai Tịnh độ, tham đắm Ta-bà, tự bịt mắt mà về không và trôi nỗi rập rềnh như rác rớm, làm thân trâu ngựa và chịu bao khổ đau nơi địa ngục. Họ không biết mình là loại người nào và tự nghó mình là ngang hàng với Bồ-tát quyền thừa. Đó là những kẻ mang trong mình bệnh ngu thứ năm! Vì vậy kinh nói: “Hãy nên phát nguyện, nguyện sinh nước ấy.” Bởi thế, những kẻ không tin lời thành thật của chư Phật, không nguyện sinh Tịnh độ, không phải là những người mê tối hay sao? Nếu người tin lời Phật mà sinh về Tịnh độ thì không bị cột bởi sợi dây thế giới hệ, không bị hại bởi sóng kiếp số. Họ sẽ xa lìa tám loại khổ của nhân gian và năm tướng suy tàn của cõi Trời: “Cái tên đường ác còn không có. Huống gì thật có nẻo đường ấy?” Họ chỉ làm sáng rỡ pháp nhất thừa, quyết không có ba thừa. Họ chỉ quy y nhất thể Tam bảo và phụng sự Như Lai khắp mười phương. Ánh sáng của Phật chiếu vào thân thể họ nên muôn ngàn mê hoặc âm thầm tiêu trừ. Mùi vị pháp bồi bổ Thần thức nên họ có đủ sáu loại Thần thông, ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp ứng với ý niệm của họ mà viên thành. Tùy chủng loại chúng sinh mà họ ứng hiện ba mươi hai thân đầy ắp không gian và thời gian. Họ đi quanh năm nẻo để hóa độ tất cả các căn tánh. Họ du hý khắp các loại Tam-muội mà không động nhất tâm. Họ rảy nước thiền định vào ba ngàn thế giới để đưa chúng sinh ra khỏi căn nhà lửa. Tự lợi và lợi tha họ đều thực hành viên mãn. Được như vậy mới gọi là “Tự tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ”. Bởi lẽ nó là ngưỡng cửa quan yếu của giải thoát, là con đường tắt và nhanh của việc tu hành. Vì vậy, tất cả các kinh liễu nghóa Đại thừa đều quy chiếu vào Tịnh độ; tiên Hiền hậu Thánh thuộc tự lực hoặc tha lực đều cầu nguyện vãng sinh. Bởi vì… muốn độ người, trước tiên mình phải tự độ đã!… Than ôi! “Làm người mà không biết lo xa thì chắc chắn nỗi buồn khổ sẽ ở cận kề.” Một phen đánh mất tấm thân này thì ta sẽ ân hận đến cả ngàn kiếp. Vì vậy, Lô Trách tôi đốc suất mỗi vị trong đại hải chúng niệm một trăm, một ngàn cho đến mười ngàn tiếng A-di-đà Phật, rồi đem công đức ấy để hồi hướng cho những người cùng duyên để nguyện sinh về cõi Cực lạc. Một khi hành giả đã gửi thân nơi Liên trì thắng hội, thì pháp kim địa được sáng tỏ. Nhờ thắng duyên hỗ trợ nên nguyện ước của hành giả được viên mãn. Nói theo cách thi vị, thì hành giả đã chèo thuyền thuận với con nước mà lại thêm công sức của mái chèo; như vậy, dẫu đường xa vạn dặm hành giả vẫn tới đích dù không nhọc sức hao hơi! Mùa đông năm thứ tư niên hiệu Nguyên Hựu, Tông Trách tôi mộng thấy một người con trai tuổi chừng ba mươi, mặc áo trắng, quấn khăn đen, phong mạo rạng rỡ và cử chỉ rất thanh nhã. Người ấy chào tôi rồi nói: “Tôi muốn gia nhập hội Di-đà của sư, nên báo để Sư ghi tên cho”. Tôi liền lấy cuốn Liên Hoa thắng hội, cầm bút và hỏi: “Ông tên gì?” Đáp: “Phổ Tuệ”. Tôi vừa viết xong thì người áo trắng lại nói: “Anh tôi cũng báo tên.” Tôi hỏi: “Anh của ông tên gì?” Đáp: “Phổ Hiền”. Nói xong, người ấy liền ẩn mất. Sau khi tỉnh giấc, tôi tham vấn với các vị trưởng lão về tên của hai vị trong giấc mơ. Các trưởng lão nói: “Trong phẩm Ly thế gian của kinh Hoa Nghiêm có tên của hai vị Bồ-tát ấy.” Tông Trách tôi nghó rằng đó là những Phật tử đang thi hành Phật sự để trợ giúp cho công cuộc hoằng hóa của Đức Phật. Như vậy, tất nhiên là Tịnh độ đã có sự khen ngợi thầm kín của Hiền thánh và dó nhiên, cái duyên của những người tham dự vào hội này không phải là nhỏ. Vì vậy mà hôm nay tôi đặt tên của hai vị Bồ-tát ấy trước trong hội Di-đà này! Tỉnh Hàng châu, Thiền sư Vónh Minh Diên Thọ ngăn cấm những kẻ không chứng ngộ không được khinh rẻ Tịnh độ. Nếu có người hỏi: “Chỉ cần hành giả thấy tánh, ngộ đạo là đã thoát được sinh tử, cần gì phải niệm Phật và cầu sinh về phương khác?” Đáp: Người tu chân thật thì nên tự quán sát thân tâm mình. Như người uống nước thì tự biết nóng lạnh. Nay tôi xin trích dẫn những lời dạy của Thánh hiền để phá kẻ có nhiều mê hoặc. Chư vị nhân giả nên tự xét hạnh giải của mình xem! Nói đến sự thấy tánh ngộ đạo, nhận lời thọ ký của Như Lai, và làm rạng rỡ vị trí của Tổ sư, thì chư vị được như Ngài Mã Minh, Long Thọ chăng? Nói đến việc chứng đắc vô ngại biện tài, chứng Pháp Hoa Tam-muội, thì chư vị có thể sánh với Thiên Thai Trí Giả chăng? Nói đến việc thông suốt cả Tông và giáo, kiêm tu cả hạnh và giải, thì chư vị có bằng Trung Quốc sư chăng? Vậy mà chư vị ấy đều để lại lời dạy là một mực khuyên người tu cầu vãng sinh. Bởi lẽ, bậc đã thực thi công cuộc tự lợi và lợi tha thì không bao giờ dối người và tự gạt mình cả. Huống gì pháp môn Tịnh độ này được đấng Đại hùng khen ngợi, được kim khẩu dặn dò. Nếu những người tu theo gót tiên hiền và tuân theo lời dạy của Đức Phật thì chắc chắn không bị lầm mê. Những sự hiển trước của các bậc cao só xưa nay được ghi lại trong Vãng sinh truyện là rất nhiều, người tu nên đọc để tự nhìn lại mình và cũng là để tự độ mình. Các vị có thể làm chủ mình trong lúc lâm chung chăng? Các vị có bảo đảm rằng những chướng sâu nghiệp nặng của mình không hiển hiện chăng? Các vị có chắc là báo thân này của mình không bị luân hồi chăng? Các vị có chắc rằng mình không bị khổ não, mình sẽ ra vào tự do khi đi trong những loài khác nhau ở tam đồ ác đạo chăng? Liệu qúy vị có thể thác sinh vào cõi Trời, cõi người và các thế giới khắp mười phương theo ý nguyện của mình mà không bị trở ngại chăng? Nếu quý vị tự tin rằng mình đã đạt đến trình độ ấy thì có gì bằng! Còn nếu chưa được thì các vị không nên ôm giữ căn bệnh cống cao nhất thời để đến nỗi phải trầm luân ngàn triệu kiếp. Một khi đã tự mình chôn mất điều thiện thì còn mong cứu vớt được ai nữa? Than ôi! Buồn bã thay! Lời thở than làm sao đến được! (Lời của Trách thiền sư xin đọc ở tập “Thiền Sư Khuyến Hóa”. Lời của Trí Giả đại sư và Thọ thiền sư xin đọc ở trong tập “Trực chỉ Tịnh độ quyết nghi” của Thị Lang Vương Mẫn Trọng, người đời Tống). Thị Lang tên là Cổ, khi đang làm quan các Thần tiên biết tiếng. Chung Ly Chân nhân từng làm thơ tặng Ngài rằng: Đèn bão, bọt sóng buồn lẫn nhau Ôm mãi hư vinh ích gì đâu? Dưới cằm chứa ngọc nên nắm lấy Trong thân có đạo còn cầu ai? Tài cao, tao nhã gọi tiên cốt Trí soi linh như rùa báu lớn Một nửa núi xanh không chỗ bán Hẹn anh dắt tay nói hi-di. Từ đây có thể thấy Thị Lang là người phi phàm thì càng biết rằng Tịnh độ Tây phương là chốn rất nên hướng về. ------------------------------- <詞>VĂN KHUYẾN TU TỊNH ĐỘ CỦA THỪA TƯỚNG TRỊNH THANH Mọi người đều cho rằng tu Tịnh độ không bằng Thiền, Giáo và Luật. Riêng tôi, tôi cho rằng pháp môn của Thiền và Giáo không bằng Tịnh độ. Tánh chân tịnh minh diệu, hư triệt linh thông này đều có đủ nơi người ngu và kẻ trí. Vì huyễn cảnh căn trần cùng nhau chìm đắm, vì sinh tử luân hồi không bao giờ dứt, nên Đức Phật Thích-ca đem Thiền, Giáo, Luật mà giả thi thiết phương tiện, khiến chúng sinh từ cửa mà vào và đều được giải thoát. Chỉ riêng Đức Phật Vô Lượng Thọ đưa ra một cửa gọi là tu hành Tịnh độ. Pháp môn này có tính chất giản yếu và cắt thẳng như một phương thuốc mà trị được trăm bệnh. Nếu hành giả chuyên tâm, nhất niệm thì liền được vãng sinh. Pháp môn này ai cũng tu tập được không luận là tăng hay tục. Mọi người chỉ biết rằng giáo lý này để giáo hóa hạng ngu phu thiển cận, nhưng thật ra đây là con đường tắt và nhanh để thành Phật. Những người tu học ngày nay không ngoài Thiền, Giáo và Lu- ật. Xét ở sự rốt ráo và viên đốn thì không pháp nào được như Thiền. Nhưng nếu không phải là bậc lợi căn thượng khí, Thần lãnh ý giải thì chưa thoát khỏi lỗi rơi vào ngoan không! Xét ở sự nghiên cứu về Tam thừa thì không pháp nào như Giáo. Nhưng nếu không phải là bậc đạt đến trình độ “Được cá quên nơm; nhân ngón tay để thấy mặt trăng” thì chưa thoát khỏi bệnh “Cạo giấy cũ”! Xét ở việc bảo vệ điều thiện, ngăn ngừa điều ác, thì không pháp nào bằng Luật. Nhưng nếu không phải là bậc thân tâm thanh tịnh, trong ngoài như một thì chưa thoát được nỗi khổ do mình tự trói buộc mình! Nhìn chung, luận vào chỗ của người tu thì là Thiền, Giáo và Luật; tìm nơi quay về của hành giả thì là Giới, Định và Tuệ. Nếu hành giả muốn có Giới, Định và Tuệ nhưng không do Thiền, Giáo và Luật thì chỉ một ngưỡng cửa là Tịnh độ mà thôi! Nghóa là, lúc hành giả vừa niệm Phật; miệng niệm tụng, tâm suy tư và không làm những điều ác, đó chính là Giới. Lúc hành giả buộc niệm vào tịnh cảnh thì huyễn trần bị diệt; đó là Định. Bản chất của niệm là vô niệm, tâm hoa trong suốt; đó là Tuệ. Nếu hành giả có thể trừ bỏ cả vạn mối nghó suy để chuyên tâm vào Tây phương thì chẳng cần bày trò múa gậy, la hét mà vẫn ngộ được viên đốn cơ; không đọc Đại tạng kinh mà vẫn có được con mắt chánh pháp; Không giữ mình trong bốn oai nghi mà vẫn được tự tại, được vẫn không bẩn dơ và không vẫn trong sạch, không bị trói buộc cũng như không có sự giải thoát… Chính lúc đó cái gì là Giới, Định và Tuệ; cái gì là Thiền, Giáo và Luật; tâm ta và tâm Phật là một không có sự sai khác. Đây là điểm tột cùng của pháp tu Tịnh độ. Đã vậy, tại sao hành giả lại hoài nghi chuyện “Nước có tám công đức và đài sen bằng vàng?” - Ghi lại giấc mộng của người họ Lý quận Lô lăng. Năm Quý Tî, niên hiệu Càn Đạo, toàn gia đình Ngạn Bật tôi bị nhiễm bệnh. Ngày mồng năm tháng tư bản thân tôi cũng bị bệnh đến nỗi không uống thuốc hay ăn cháo gì được. Sáng ngày mười chín, tôi mộng thấy một người mặc áo đỏ, Thần sắc rạng rỡ, ông ta lấy tay vỗ và xoa thân thể tôi rồi gọi: “Ngạn Bật! Mau ngồi dậy!” Tôi sợ hãi hỏi: “Ông là ai?” Ông ta đáp: “Tôi là Long Thư.” Nhân đó, tôi nói với ông về tình trạng bệnh tật của mình, dẫu muốn vịn vào ông nhưng không được. Phải làm thế nào để lành bệnh. Ông hỏi: “Ngươi có nhớ con đường tắt và nhanh mà Tónh Khuyết Trọng đã dạy cho không?” Tôi đáp: “Thưa có! Vì ngày nào tôi cũng tụng niệm danh hiệu A-di-đà Phật.” Ông nói: “Người ngồi dạy rồi dùng cháo trắng thì bệnh sẽ lành ngay!” Lúc tỉnh giấc tôi bảo người nhà mang cháo để ăn và quả thật bệnh được lành. Sau này, tôi được thấy tranh vẽ về Cư só Long Thư mà Thần thái hoàn toàn giống người tôi đã thấy trong giấc mộng! Ngạn Bật tôi nghe nói, Cư só tinh thông lục nghệ từ lâu, rất giỏi về kinh Dịch và dạy người không biết mệt mỏi. Chủ nhân của nơi mọi người đến học đem Tónh Dật Đường để tạ công cho ông. Ngoài cửa Tónh Dật Đường luôn đầy ắp giày dép. Ngày mười một tháng giêng, tôi sai đứa cháu đến thọ giáo với ông. Không bao lâu nó quay về nói rằng: “Lúc đêm xuống, sau khi Cư só giảng bài xong, Ngài trì tụng và lạy Phật như thường lệ. Vào canh ba, bỗng nhiên Ngài niệm rất lớn mấy tiếng A-di-đà Phật và nói: “Đức Phật đã đến đón ta!” Dứt lời Ngài đứng mà đi”. Ngay đêm đó, có người trong nước nằm mộng thấy hai người mặc áo xanh dẫn Cư só đi về phía Tây. Câu chuyện này thành sự kiện kỳ diệu nhất nên dẫu người biết hay không biết đến ông đều chiêm bái. Tôi hận là mình không được thờ ông làm Thầy nên càng nói lòng càng thêm đau xót. Trước lúc thị tịch ba ngày, Cư só đi viếng thăm và chúc mọi người cố gắng tu tập rồi nói “Từ đây về sau, chúng ta không còn gặp nhau nữa!” Ngày mồng mười, Cư só đến thăm Triệu Công Tónh Hàn, mượn tịnh thất của Triệu và nói: “Đạo nghiệp đã xong, giờ đi lại rất tốt.” Cư só lại viết số thời khóa tích lũy trong hàng ngày hơn chín trăm hai mươi lăm ngàn năm trăm biến và dán ở bức tường. Ôi! Nếu là người không có căn tánh thông minh, đạt đến chân lý của tử sinh thì chưa dễ gì thấu đến trình độ đó! Ngạn Bật tôi đau một trận đến nỗi sắp bỏ mạng. Quan quách, áo vải liệm đã bày biện trước mắt. May nhờ cư só từ bi tiếp vớt mới được lành lặn. Quả thật ông là bậc sinh tử cốt nhục . Có kẻ nói: “Mộng do tưởng tượng mà có!” Nhưng hiệu của việc ăn cháo trắng lẽ nào lại là chuyện hoang đường? Do đó ta biết rằng do bi nguyện của Cư só quá thẳm sâu nên công đức tế độ thấu đến con người. Tuy ở Thường tịch quang nhưng Cư só không quên nguyện lực của mình. Lẽ nào chúng ta không cố gắng tinh tiến đối với sự khuyến tu Tịnh độ để thành Phật của Cư só hay sao? Tôi kính cẩn tạc tượng của ông, đồng thời viết sự tích cảm ứng để truyền bá được rộng rãi chứ không dám thêu vẽ chữ lời làm tai mắt mê hoặc. Vì vậy, lời bạt này trực tiếp tường thuật và nói đủ những sự việc ấy để hỗ trợ cho lòng kính tín của người thấy và người nghe. Mong sao mọi người đều được thắm nhuần lợi ích. Ngưỡng nguyện Thần thức của Vương cư só chiếu soi để chứng thực cho những lời ở trên của tôi. Ông người họ Vương. Tên Nhật Hưu. Tự là Hư Trung. Hiệu là Cư só Long Thư. Vào cuối năm này, Lô Lăng Lý Ngạn Bật kính cẩn ghi lại. -------------------------------- <詞>LỜI BẠT CỦA HU GIANG - NIẾP DUẪN ĐỊCH. Ngày thường trước khi chưa vãng sinh, cư só luôn đem giáo lý Tịnh độ để khuyến hóa người khác một cách khẩn thiết và luôn đi khắp thôn làng. Lúc bấy giờ, tôi mới hơn hai mươi tuổi, gặp lúc dự định cùng nhau đi lên phía Đông. Vả lại, thuở ấy tôi chưa biết có Phật pháp, không biết mặt ông. Đến năm ba mươi tuổi, gặp tai nạn liên tục, tôi mới hiểu rằng con người trầm luân trong biển khổ, phiền não không bờ bến. Tôi liền một lòng sưu tập tất cả lời nói của cư só để làm kế siêu thoát. Được ba năm thì cư só vãng sinh ở Lô Lăng. Mọi người ở quận đều thêu tượng cư só để thờ phụng, ấy là tháng giêng năm Quý Tî, nhằm niên hiệu Càn Đạo. Sau năm năm vào năm Đinh Dậu, anh tôi là tri phủ Binh bộ đến nhậm chức ở Lô Lăng, được bản khắc mang về nhà. Tôi sợ văn bản này bị mai một, không lưu truyền dài lâu được nên liền khắc vào đá đặt ở điện A-di-đà thuộc chùa Báo Ân ở phía Bắc thành. Nay tôi nguyện ấn tống một vạn tập “Tịnh độ Văn” của Cư só. Lại đem chân dung của Cư só và bài tán thuật của Thừa tướng Chu Ích Công trở xuống mà phụ kèm ở đầu cuốn; tất cả đều tập trung vào bản khắc ở Lô Lăng. Mong sao người thấy, người nghe đều tăng trưởng tín tâm, cố gắng tinh tiến. Được vậy thì Tịnh độ Tây phương thật chẳng khó gì. Niên hiệu Gia Thái năm Quý Hợi, Văn Lâm lang, Tâm giám Hồ Quảng Tổng lãnh sở, Nhương Dương phủ, Hộ Bộ đại quân thương - Hu Giang Niếp Duẫn Địch kính viết lời bạt. Duẫn Địch thường thấy kẻ tham thiền sơ cơ chỉ biết quy kính Thiền tông, cho Tịnh độ Tây phương là chấp tướng rồi ra sức chê bai phản bác. Nào biết rằng Đức Thích-ca Như Lai vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời là vì muốn làm cho chúng sinh liễu ngộ sinh tử mà xa lìa đường khổ luân hồi. Pháp môn tham thiền vốn để liễu ngộ sinh tử. Tham thiền có tỉnh thì hiện đời liễu ngộ sinh tử. Được sinh về Tịnh độ thì được thấy Phật A-di-đà rồi sau sẽ liễu ngộ sinh tử, chứng Vô sinh pháp nhẫn lên địa vị Bất thoái, thẳng đến thành Phật. Người tham học sơ cơ sao lại khăng khăng chọn duy nhất một pháp môn Thiền vậy. Nay lược chọn hai, ba thuyết kèm theo sau Tịnh độ văn của Long Thơ để nói rõ. Lời bạt của người đoạn hạt giống Phật ở Tứ minh. Cư só Long Thơ viết Tịnh độ văn mười một quyển, trong đó phần đầu là khởi niềm tin đối với Tịnh độ, phần cuối nói về cái “Ngã”, có thể nói là sự phân bố có thứ tự. Cả sự và lý đều rõ ràng sáng tỏ, không còn lời gì để nói hơn. Lời văn mười quyển này chính do Cư só khi còn sống khắc bản, muốn nó lưu hành khắp thiên hạ để mọi người đều đồng niệm Phật mà sinh về An lạc. Dụng tâm của Ngài quả thật khó với tới được. Chỉ có quyển 12 thêm vào sau quyển thứ 11 là bị nghi rằng chẳng phải chí hướng của Cư só. Đây ắt là phần đầu của bản văn quyển bốn. Ban đầu muốn bỏ bản thảo đi, nghó lại người đời sau tôn sùng Cư só nên không đành mà gọi quyển 11 là phần thêm vào. Huống chi ý thú của pháp môn tu trì giống với quyển bốn, chỉ có điều văn ý nghiêm túc, văn vẻ hơn. Tôi thưởng thức có bản viết tay của Cư só, hợp với bản trên thì vừa khớp, như vật đã mất nay có lại. Nay tuy khắc bản đã xong, cũng chính là ý chí kiên quyết đã làm ra. Lại muốn đem bản phụ lục của các bậc thầy trước đây, những lời khuyến phát theo thứ tự mà chấn chỉnh đầy đủ để hoàn thành bộ sách không bị thiếu sót. Như người sau thấy có điều sai sót xin hãy thêm vào. Năm Quý Dậu, niên hiệu Hồng Vũ, trung hạ, kiết nhật.  <卷>QUYỂN 12 PHẦN PHỤ LỤC VĂN KHUYÊN TU TỊNH NGHIỆP CỦA SƯ TỬ PHONG NHƯ - NHƯ NHANG BÍNH Thân là gốc khổ, giác ngộ sớm tu. Sắc thân này có ai tin là gốc khổ, mãi đắm tham lạc thú thế gian mà chẳng biết nó là nguyên nhân của khổ. Kiếp phù sinh dễ trôi qua đâu có dừng mãi. Chất thân mong manh giả tạm đều sẽ bị tiêu mòn. Ngày chưa vào bào thai nào có hình nam nữ, chỉ do duyên với đất nước gió lửa giả hợp mà thành thì không tránh khỏi nỗi khổ tàn tạ của sinh, già, bệnh, chết. Trên không manh mối nắm níu, dưới không căn cội nảy sinh. Như bọt sóng chìm nổi còn mất trong khoảnh khắc, mong manh như hạt sương đầu ngọn cỏ có đó liền không. Kẻ sống lâu chẳng qua sáu, bảy mươi rồi mất, kẻ yểu mạng phần nhiều chỉ sống hai, ba mươi năm. Có kẻ biết ngày nay nào biết việc ngày sau, lại có kẻ lên giường vội biệt, một hơi thở ra xa cách muôn trùng. Ngài Tuyết Phong có bài tụng: Một ngọn đèn côi trên bàn đêm Lên giường để lại roi và giày Ba hồn bảy phách đi theo mộng Chưa rõ ngày mai đến hay không. Nói rằng thân này không có việc đó thì sao mọi người đều bị nó lừa gạt. Gân ràng rịt bảy thước xương đầu, một túi da đựng thịt, chin lỗ thường chảy nước bất tịnh, sáu căn buông thả theo vô minh, tóc lông móng răng đầy cáu bẩn, nước mắt nước mũi nhơ nhớp như nhà xí, bên trong chỉ toàn là loài trùng tụ hợp, bên ngoài bị muỗi mòng rận rệp cắn rúc, bất cứ bệnh tật tai nạn nào đều có thể chết người, lại lạnh quá nóng quá khiến người mau già, mắt bị sắc dẫn đến ngạ quỷ, tai đi theo tiếng vào A-tỳ, miệng khi còn sống ăn đủ món, chết rồi chỉ thêm mấy giọt dầu. Thơ của Trưởng Khôi có nói: Hồng hồng trắng trắng chớ lừa nhau Vô vị chân nhân thịt đỏ au Bại hoại chẳng bằng thân chó lợn Nên nay tu pháp quán tử thi. Thân này không có chỗ nào đáng ưa thích, tiếc nuối, mọi người nên nguyện thoát khỏi nó, sao còn u mê đắm đuối phong lưu, điên đảo lo đủ mọi sự, hoặc trên đầu lâu cài hoa, hoặc xông hương lên túi da hôi thối này, mặc y phục để che đậy máu mủ, khoác gấm vóc để che khuất thùng phân tiểu. Dùng trăm phương ngàn kế gian tà nói sống đời muôn năm, chẳng biết đau đầu hoa mắt là vua Diêm-la đã sai người đến; tóc bạc da mồi là quỷ vô thường đã gửi thư tìm. Mỗi mỗi tham tài mê sắc đều là con đường tắt để mất thân người. Ngày ngày uống rượu ăn thịt đều là trồng sâu nhân địa ngục, trước mắt mưu cầu vui sướng nhất thời, thân sau chịu cay đắng muôn kiếp. Văn Tịnh độ viết: Túi da máu thịt, gân cột xương, Phàm phu điên đảo cho là thân Đến chết mới hay chẳng phải ta Vàng ngọc trước đây giao cho người. Một khi mạng căn dứt tuyệt, bốn đại bị gió đao cắt, ngoài thì chân tay co rút, trong thì gan ruột nát tan, dù cho vợ con tiếc nuối cũng không cách nào giữ lại được. Giả như cốt nhục đứng đầy xung quanh cũng có ai thay cho ngươi được. Bài tụng xưa nói: Cha mẹ ơn sâu rồi cũng biệt Vợ chồng nghóa trọng cũng chia lìa Tình người như chim cùng chỗ trú Hạn lớn đến thời mỗi bay đi. Người sống chỉ dành đau đớn khóc than, kẻ chết không khỏi bị Thần thức bôn tẩu. Đường phía trước mù mịt, ngước mắt không bóng bạn bè, qua cầu Nại hà ngó lại không khỏi bị thương, vào quỷ môn quan có ai không thê thảm. Trần gian mới qua bảy ngày mà cõi âm đã bị áp giải gặp mười vua. Quan tào xử án không chút tình người, lính ngục cầm xoa không chút vui. Kẻ bình sinh làm thiện thì lên cõi Trời, làm tiên, làm người. Kẻ khi còn sống tạo ác thì giải vào nơi nước sôi, lửa cháy, dao cắt. Chảo nước sôi như núi lở, thế rừng kiếm như núi vọt lên. Đổ nước đồng vào miệng thì khắp người thịt nát, nuốt hòn sắt nóng đầy miệng bốc khói. Bị chém chặt thì máu thịt rơi lả tả, vào băng lạnh thì da đều nứt toác. Thân nát gió nghiệp thổi qua liền sống lại, mạng chung La-sát hét liền sống. Trải qua trăm ngàn trên cõi người, trong địa ngục mới chỉ một ngày đêm. Điện Quang tập nói: Vạc nước sôi, lò than hơi nóng tràn đầy chốn tối tăm Rừng kiếm, núi dao cao vót tận Trời xanh Chịu tội phải trải qua muôn kiếp Ngục tốt đầu trâu mới cho đi. Hồn phách tuy về nơi cõi quỷ mà thi thể còn nằm trong áo quan. Hoặc cách ba ngày năm ngày, hoặc đương sáu, bảy tháng, thây rữa ra thì sinh trùng, thành máu, hơi hôi xông khắp đất Trời, sình trương gớm ghiếc chẳng dám nhìn, mau mau hối thúc thảy vào nơi đống lửa hoặc chôn vùi nơi muôn dặm núi hoang. Thuở xưa hồng nhan im lìm đã trở thành lò tro lạnh, ngày nay xương trắng nơi hoang vu đã biến thành gò đất. Bài tụng của Ngài Hàn Sơn có nói: Mặt hoa, da phấn đẹp như mơ Ướp hoa, xông hương áo phất phơ Ngày nay phong lưu đâu chẳng thấy Liễu xanh, cỏ thơm, xương nằm trơ. Ân ái đến đây là hết rồi, anh hùng thuở xưa nay còn đâu, nước mắt như mưa chốn cô liêu, gió thảm thổi lạnh vèo vèo, đêm tàn quỷ còn gào khóc, lâu năm quạ mổ chim rỉa, bờ hoang, khắp chốn là bia đá, trong đám liễu xanh treo xuông vàng mã, đến chỗ này có ai không tỉnh ra. Ngài Hàn Sơn nói: Chim mổ quạ rỉa hết thịt da Gió thổi, nắng soi, đầu lâu khô Trước mắt thử hỏi kẻ bàng quan Nhìn kỹ hình hài mình thử xem. Kẻ có mắt thôi không còn đắm đuối, quay người chạy trốn khỏi bến mê, chớp mắt xé toạc lưới ái, tạo kế sống nơi hang quỷ nghỉ ngơi. Muốn biết trên cục thịt có chân nhân thì dù nam hay nữ cũng phải tu tập. Kẻ trí người ngu đều có phần. Chỉ xin soi chiếu lại mình liền biết bản thế vốn không. Nếu chưa thể họ đạo tham thiền thì nên siêng năng trì trai niệm Phật, bỏ ác làm thiện, bỏ cũ tu mới, biến lục tặc thành sáu Thần thông, lìa tám thứ khổ được tám thứ tự tại, bèn có thể bảo Trời, hành hóa không ngăn ngại, thay Phật độ người, được mọi người tuyên dương, giúp gia tộc được giải thoát, giúp nơi nơi đều được giác ngộ, dạy mọi người ra khỏi trầm luân, trên giúp chư Phật chuyển bánh xe pháp, dưới cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ, lời Phật nói không tin thì còn lời nào đáng tin. Ở cõi người không tu vậy ở cõi nào dễ tu? Chớ bảo một ngày thay đổi cả, dù có ngàn Phật khó cứu ngươi, như lửa cháy đầu không thể đợi, xin ngay đây nhận lấy, chớ để đời này luống qua. Ngài Hàn Sơn nói: Trăm xương tản mác lìa bùn đất Một vật mãi mãi là của ai Chi bằng ngay đây thông đường nẻo Đầu lâu đầy đất mấy ai hay. ------------------------------------ <詞>VẤN ĐỀ BA ĐIỀU NGHI LÚC LÂM CHUNG CỦA TÔNG CHỦ TỪ CHIẾU Trong “Tịnh độ thập môn”, Từ Chiếu tông chủ đã răn dạy rằng: Vì người niệm Phật có ba điều nghi lúc lâm chung nên không sinh Tịnh độ: Nghi rằng từ xưa đến nay mình đã tạo những nghiệp cực nặng mà thời gian tu tập lại quá ít nên sợ rằng sẽ không được sinh. Nghi rằng tuy mình niệm A-di-đà, nhưng do tâm nguyện chưa thành hoặc tham, sân, si chưa hết nên sợ rằng không được vãng sinh, Nghi rằng mình tuy niệm A-di-đà, nhưng sợ lúc lâm chung Đức Phật không đến tiếp dẫn. Vì nghi nên chướng ngại sinh khởi và đánh mất chánh niệm nên không được vãng sinh. Vì vậy, hành giả niệm Phật cần phải hết sức tin tưởng và ý chỉ thông sáng của kinh, không sinh tâm nghi ngờ. Kinh nói: “Niệm một tiếng A-di-đà Phật thì diệt trừ được tội nặng trong suốt tám mươi kiếp sinh tử.” Trên thì đạt đến nhất tâm, dưới thì thành tựu mười niệm là hành giả được tiếp đón để sinh về chín phẩm sen và xả ly được ngũ trược. Nếu hành giả đạt đến trình độ tâm tâm thông sáng, niệm niệm nhất hư, thì đoạn hẳn nghi tình và quyết định vãng sinh. Văn nói về chánh niệm vãng sinh lúc lâm chung của Hòa thượng Thiện Đạo. Tri Quy Tử hỏi: “Bạch Ngài! Việc lớn ở đời là sống chết. Một hơi thở không vào là thân tâm người ta đã thuộc đời sau rồi. Một niệm sai lầm là người ta đã đọa vào luân hồi. Con đã từng được Ngài khai thị pháp niệm Phật vãng sinh. Chân lý của Pháp này quả là vô cùng sáng tỏ. Song, con lại sợ lúc bệnh và cái chết ập đến thì tâm thức sẽ tán loạn, lại sợ bị người khác mê hoặc làm động loạn chánh niệm, khiến quên mất cái nhân của Tịnh độ. Ngưỡng mong Ngài từ bi khai thị cho con thêm một lần nữa về phương cách quay về lối tắt, khiến con được thoát nỗi khổ của trầm luân?” Sư nói: “Lành thay là câu hỏi ấy! Ngươi hãy lắng nghe!” “Thế này: Tất cả mọi người muốn sinh Tịnh độ lúc lâm chung thì cần phải không sợ cái chết. Tất cả nên luôn nghó rằng, thân này có lắm nỗi khổ, không sạch, và có đủ các loại ác nghiệp trói buộc nhau. Nếu chúng ta được từ bỏ cái thân dơ bẩn này để siêu sinh Tịnh độ, để thọ nhận Vô lượng niềm an lạc, để giải thoát nẻo khổ sinh tử, thì đó là việc phù hợp với ý nguyện của mình; cũng như người cởi bỏ chiếc áo rách và được khoát chiếc áo quý. Nghóa là, chúng ta nên buông bỏ thân tâm mà không nên sinh niềm luyến tiếc. Lúc bị bệnh, chúng ta nên lập tức nghó đến luật Vô thường và một lòng chờ chết, đồng thời nên dặn dò gia nhân, người khám bệnh, hoặc những người tới lui thăm viếng rằng: “Nếu các vị đang đứng trước tôi thì xin vì tôi mà niệm Phật, không nên nói những chuyện vô bổ, hay những việc tốt hoặc xấu trước mặt tôi. Cũng không nên đem những lời thương cảm mà an ủi, vỗ về hoặc mong cho tôi được an lạc; bởi lẽ, những điều đó là rỗng tuếch và vô ích!” Nếu lúc bệnh chuyển nặng và sắp mất, thì thân quyến không được khóc lóc hoặc phát ra những tiếng thở than áo não làm rối loạn tâm Thần, làm mất chánh niệm của người tu. Tất cả chỉ nên đồng thanh niệm Phật cho đến lúc người tu trút hơi thở cuối cùng mới có thể buồn khóc. Bởi vì nếu người bệnh chỉ vừa khởi lên một niệm luyến tiếc thế gian, thì niệm ấy liền trở thành chướng ngại và làm cho người tu không được giải thoát. Nếu lúc lâm chung mà có được người hiểu rõ về Tịnh độ đến sách tiến thì quả là một sự may mắn lớn lao. Nói chung, nếu người tu căn cứ vào những điều trên để thực thi thì chắc chắn được siêu sinh.” Lại hỏi: Có thể tìm thầy để cầu thuốc chăng? Đáp: Đầu tiên, việc tìm thầy để uống thuốc chẳng có gì trở ngại cả. Nhưng nên nhớ rằng, thuốc chỉ trị được bệnh mà không trị được mệnh. Nếu mạng sống đã hết thì thuốc có thể làm được gì? Nếu người tu giết mạng sống của loài vật để cầu sự an ổn cho bản thân mình thì không nên làm. Tôi thấy có nhiều người nhân bị bệnh mà trì trai; vừa thuyên giảm đôi chút thì họ lại bị thầy thuốc dùng rượu và thịt để hỗ trợ cho thuốc, nhân đó mà bệnh lại tái phát. Nếu người tu đã tin và biết rằng Phật lực có thể cứu mình thì việc dùng rượu thịt ấy nào có ích lợi gì đâu! Lại hỏi: Cầu Thần cầu phước được chăng? Đáp: Mạng sống của con người dài hay ngắn đã được định lúc còn sống, thì cần gì phải nhờ bàn tay của Thần kéo dài ra. Nếu do ngu si mà tin tưởng vào tà kiến rồi sát hại chúng sinh để cúng tế quỷ Thần, thì chỉ tăng thêm tội nghiệp và làm cho mạng sống bị hao tổn mà thôi. Nếu mạng sống đã hết thì phường tiểu quỷ sẽ làm được trò trống gì? Ngược lại, chỉ làm cho tâm thức áo não, chẳng cứu vớt được gì. Mong người tu nên cẩn thận với những tà niệm ấy. Chư vị nên dán bài văn này vào nơi mà mắt mình thường nhìn đến, và luôn luôn đọc nó để tránh sự sai lầm và quên mất lúc lâm chung. Lại hỏi: Người ngày thường chưa từng niệm Phật có sử dụng pháp ấy được không? Đáp: Với pháp này thì dẫu tăng hay tục, hay người chưa từng niệm Phật nếu áp dụng thì đều được vãng sinh. Tôi thấy có nhiều người ngày thường luôn niệm Phật, lễ Phật, tán thán Phật và phát nguyện vãng sinh hết sức ân cần. Nhưng đến phút lâm chung họ lại sợ chết nên không nói gì đến việc vãng sinh hoặc giải thoát cả. Đến lúc hơi tàn, mạng dứt, Thần thức đã vào nơi tăm tối, mới bắt đầu áp dụng phép mười niệm; việc làm ấy chẳng khác gì giặc đã đến cửa mới chuẩn bị chiến đấu thì còn cứu vãng được gì nữa! Sinh tử là việc lớn nên tự bản thân của người tu phải nỗ lực mới nên việc. Nếu sai lầm chỉ trong một niệm là sẽ chịu khổ muôn đời và ai có thể thay thế cho mình! Ngưỡng mong người tu suy đi nghó lại cho thấu đáo vấn đề. Lúc rảnh rỗi, quý vị nên tinh tiến tu trì pháp này, vì đó là việc lớn lao dành cho lúc lâm chung. - Phép mười niệm vào lúc sáng sớm của Từ Vân Sám chủ. Mười niệm là: Mỗi ngày, vào sáng sớm, sau khi mặc áo tràng, hành giả đứng quay mặt hướng Tây, chấp tay và niệm lớn danh hiệu A-di-đà. Hết một hơi là một niệm. Đủ mười hơi như vậy là mười niệm. Chỉ tùy hơi của hành giả dài hay ngắn chứ không giới hạn ở số lượng danh hiệu Phật. Điều quan trọng là duy trì công phu ấy cho dài lâu và lấy lúc hết hơi làm mốc. Tiếng niệm Phật của hành giả không cao thấp, không nhanh chậm. Mục đích của mười niệm là khiến cho tâm hành giả không tán loạn, lấy sự chuyên tinh làm công. Vì thế, gọi mười niệm tức là nói rõ việc mượn hơi để gom tâm. Khởi niệm đó xong phát nguyện hồi hướng rằng: “Đệ tử tên là… một lòng quy y Đức Phật A-di-đà. Nguyện Ngài dùng tịnh quang để chiếu soi con, dùng lời nguyện từ bi để nhiếp thọ con. Con nay xưng tụng danh hiệu Như Lai trong mười niệm, và vì đạo Bồ-đề mà cầu sinh Tịnh độ. Thuở xưa, Đức Phật có nguyện rằng: “Nếu có chúng sinh nào Muốn sinh về nước tôi Một lòng yêu và thích Dầu chỉ niệm mười niệm Nếu họ không được sinh Tôi không thành Chánh giác Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch Kẻ bài báng Chánh pháp.” Nay con tự nhớ từ xưa đến nay không tạo nên tội nghịch, không bài báng Đại thừa. Con nguyện dùng mười niệm này để được vào trong biển đại thệ nguyện của Như Lai. Nhờ nương vào nguyện lực của Phật nên những tội lỗi của con được tiêu trừ, tịnh nhân được tăng trưởng. Lúc sắp mất tự mình biết được ngày giờ, thân không có bệnh khổ, ý không tham luyến và tâm không điên đảo như người nhập định. Đức Phật và Thánh chúng cầm đài vàng đến đón tiếp con, chỉ trong một niệm mà con đã sinh về Cực lạc. Lúc hoa nở thì con được thấy Phật, được nghe giáo pháp của Phật thừa. Phật tuệ của con được hiển bày, độ tất cả chúng sinh và hoàn thành lời nguyện Bồ-đề. Bồ-đề nguyện. (Lúc phát nguyện xong, hành giả lạy hoặc không lạy cũng được. Điều quan trọng là hành giả không bỏ một buổi nào suốt cả cuộc đời. Còn như không phát nguyện, thì tùy theo tâm mình mà được sinh về cõi ấy). Kệ khen ngợi Đức Phật. (Cùng văn hồi hướng phát nguyện. Đến tận cùng của sự thì đạt lý. Đây đều là những phương pháp được chư Tổ soạn. Những vị tu Tịnh độ nên tùy ý để dùng chung). “Thân Phật Di-đà màu vàng chói, Tướng quý ánh sáng không ai bằng, Bạch hào uyển chuyển năm Tu-di, Mắt xanh trong suốt đường bốn biển. Vô số Hóa Phật trong ánh sáng, Hóa Bồ-tát cũng nhiều vô cùng, Bốn tám nguyện cứu độ chúng sinh, Chín phẩm đều làm cho giải thoát.” Ở đây niệm Phật một trăm, một ngàn cho đến mười ngàn tiếng, các danh hiệu Bồ-tát niệm mười tiếng hoặc một trăm tiếng; niệm xong, thì đọc bài hồi hướng phát nguyện: “Con nay xưng niệm A-di-đà, Công đức chân thật danh hiệu Phật, Ngưỡng nguyện từ bi thương nhiếp thọ, Chứng biết sám nguyện của lòng con. Bao nghiệp ác con làm kiếp trước, Đều do vô thỉ tham sân si, Được sinh ra từ thân khẩu ý, Nay con xin sám hối tất cả. Nguyện con trong giây phút lâm chung, Trừ sạch tất cả những chướng ngại, Diện kiến Đức Phật A-di-đà, Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.” “Nguyện đem công đức này, Để trang nghiêm Tịnh độ, Trên báo bốn ân nặng, Dưới cứu ba đường khổ. Nguyện những người thấy nghe, Đều phát Bồ-đề tâm, Lúc hết báo thân này, Cùng sinh nước Cực lạc.” Thập phương Tam thế nhất thiết chư Phật, chư Bồ-tát Ma-ha- tát… Lại nói: Tám mươi bốn ngàn tướng vi diệu đều là bản tánh Di-đà, cách đây mười muôn ức cõi nước đều là duy tâm Tịnh độ. Tịnh uế tuy khác xa nhưng không ngoài tự tâm. Chúng sinh và Phật tuy không đồng vào ngoài tự tánh. Tâm thể trống rỗng bao la không trở ngại đến đi, tánh vốn bao trùm nào cản trở lấy bỏ. Do vậy vừa khởi niệm liền lên cõi báu, trở lại quê nhà xưa. Búng tay liền đứng trước từ dung, nối lại tình cha con trong sáng. Bao đời trái đức chịu oan chìm nổi, ngày nay thành tâm lễ lạy cầu mong cứu giúp, ba tâm trọn phát, một lòng về Tây, tận đời vị lai vẫn nương về, trải vô lượng kiếp mà tán tụng. (Niệm danh hiệu Phật và Bồ-tát như trên). Con là Tỳ-kheo pháp danh là… vì cứu độ chúng sinh mà một lòng quy mạng đầu thành đảnh lễ, tán dương Đức Phật A-di-đà và Thánh chúng ba thừa. Nguyện ánh sáng trong sạch và thệ nguyện Từ bi nhiếp thâu con. Con nay vì để thoát quả báo khổ cõi Ta-bà cầu sinh Tịnh độ, viên mãn nguyện Bồ-đề mà phát tâm chân thành tu hành theo Tịnh nghiệp. Nguyện đem công đức lễ bái, nhớ nghó Thánh hiệu Như Lai và tụng đọc kinh chú gieo vào biển thệ nguyện của Như Lai, nương sức từ của Phật mà các tội tiêu diệt, nhân Tịnh độ tăng trưởng, chánh niệm trước mắt, khi sắp qua đời biết trước thời khắc, thân không có bệnh khổ, nghiệp khẩu trong sạch, tâm không tán loạn nghiêng ngã như vào thiền định, Đức Phật và Thánh chúng tay bưng đài vàng, hương lạ, nhạc Trời đến đón rước con, chỉ trong một niệm liền sinh về cõi Phật, hoa nở thấy Phật, liền nghe Phật thừa, mau khai mở trí tuệ Phật, lìa chứng Vô sinh, rộng độ hữu tình đều về Tịnh độ. Chỉ nguyện Như Lai đặc biệt cứu giúp. (Niệm danh hiệu…) Lại tụng: Quy mạng cha lành nơi Lạc bang A-di-đà dũng mãnh điều ngự Một âm diễn nói kinh sâu xa Bồ-tát Thanh văn, chúnh Thánh hiền Ánh sáng lành chiếu khắp thâu nhiếp con Thành tựu mười niệm, tam Bồ-đề Xa hẳn năm trược sạch các duyên Liền lên chin phẩm như Phật ở Trăng Phật hiện nơi nước lòng con Tâm con cũng hiện trong trăng Phật Nguyện lực hễ còn thệ về nương Nghe con khan cầu liền đến rước (Niệm danh hiệu…) Công đức niệm Phật, lễ sám, trì chú, tụng kinh trên một lòng đều quy mạng vì chúng sinh, hồi hướng thẳng đến biển nguyện của Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc, ngưỡng xin Thế Tôn dùng bánh xe nguyện lớn và thệ nguyện Từ bi nhiếp thọ cho ba nghiệp và thiện căn của con tăng tiến, nơi cõi ác này mau hết báo duyên, tất cả nhân sinh tử rốt ráo đoạn hết. Khi sắp mạng chung được chánh niệm vãng sinh, thấy Phật, ngộ tâm, trở lại độ tất cả chúng sinh. Các tội lỗi và nghiệp chướng con đều xin sám hối, nguyện được Phật tiếp dẫn, cùng về với Phật, giữ gìn tinh Thần Phật pháp, khắp với chúng sinh đều được lợi lạc mà khai triển oai linh, trong Tam-muội đồng được hộ về, nguyện Phật Từ bi thương xót nhiếp thọ. (Niệm danh hiệu…) Lại tụng: Kính lạy A-di-đà Đại Từ phụ cứu đời Chân pháp tạng sâu xa Hiền thánh tăng ba thừa Con với tâm thành thực Cầu xin cõi tịnh Phật Nguyện giữ thệ rộng xưa Vô duyên từ dùng khắp Ứng niệm theo cơ duyên Giống như trăng trong nước (Niệm danh hiệu như trước…) Với công đức tụng kinh niệm Phật trên, xin chúc Tăng chư Thiên hộ pháp, báo đáp bốn ơn ba cõi, lợi lạc chúng sinh trong pháp giới. Chúng con xin sám hối gốc tội, trang nghiêm cõi Tịnh. Nguyện khi thân báo này sắp hết nhờ thiện căn chắc chắn được sinh về thế giới Cực lạc, thấy Phật nghe pháp, mau chứng Bồ-đề, rộng độ chúng sinh, rộng làm Phật sự. (Niệm danh hiệu…) ------------------------------------ <詞>KHUYÊN TẤT CẢ MỌI NGƯỜI TU TRÌ Nam-mô A-di-đà Phật. “Nguyện cùng người niệm Phật, Sinh hết về Cực lạc, Thấy Phật thoát sống chết, Độ tận theo gương Ngài.” Đại Tạng kinh nói: “Người niệm Phật A-di-đà thì hiện đời tai nạn được tiêu trừ, tuổi thọ được trọn vẹn”. Đức Phật A-di-đà có lời nguyện rằng: “Lúc tôi thành Phật, nếu có chúng sinh khắp mười phương tin tưởng, yêu thích và muốn sinh về nước tôi, dầu họ chỉ niệm lớn danh hiệu tôi có mười tiếng, nhưng nếu không được sinh thì tôi thề không thành Phật”. Mỗi buổi sáng, hành giả chắp tay, mặt hướng về Tây chí thành niệm Phật mười tiếng cùng niệm bốn câu kệ trên một biến. Nếu ngày nào hành giả cũng tu trì như vậy thì tự nhiên trong ao thất bảo ở Tây phương sẽ sinh một đóa hoa sen và ngày khác hành giả sẽ thác sinh vào đó. Quần áo, thức ăn của hành giả được hóa hiện ra theo ý nguyện của mình và được sống lâu không già. Trong Long Thư Tịnh độ văn nói về sự cảm ứng rất nhiều, Vương Nhật Hưu khuyên tôi nên vẽ hai bức tranh Tây phương. Nguyện kẻ phát tâm Đại Bồ-tát viết, in thành khá nhiều bản. Bản nhỏ in mười bản, bản lớn in một bản, bản nhỏ cho người bất kỳ, bản lớn chọn người mà cho, bản nhỏ để khuyên kẻ tỳ thiếp, bản lớn để khuyên người làm quan. Nếu có thể in ấn toàn bộ và lưu hành rộng là phước đức không dễ lường. Nhân sự tụng đọc lại kèm việc in cho, nên biết đó là sự khuyên răn tốt lành nhất. Khuyên răn khẩu nghiệp: Miệng tụng danh hiệu Phật như nhả châu ngọc (được quả báo cõi Trời, cõi Phật); miệng thuyết pháp giáo hóa như phóng ánh sáng (phá vỡ sự mê ám của người); miệng nói lời vô ích như nhai gỗ nát (chẳng bằng im lặng dưỡng hơi); miệng ưa đùa cợt như mùa dao kiếm (sẽ làm tổn thương người); miệng nói lời nhơ bẩn như giòi bọ (quả báo súc sinh, địa ngục); miệng nói lời lành như phun hương trong lành (như việc khen ngợi sở trường của người); miệng nói lời thành thật như mở vải vóc ra (dùng để độ người); miệng nói lời lừa gạt như nay hố bay nguy hiểm (làm người mê lầm); miệng nói việc ác như phun hơi hôi thối (như nói chuyện kém của người). Đời người chẳng qua là ba nghiệp thân miệng ý; sát đạo dâm là ba nghiệp của thân; nói dối, hai lưỡi, thêu dệt, nói lời ác là bốn nghiệp của miệng; tham sân si là ba nghiệp của ý. Tổng cộng là mười nghiệp; nếu giữ gìn không phạm thì đó gọi là mười điều lành. Theo lời Phật dạy thì quả báo khẩu nghiệp nhiều hơn hai nghiệp thân ý. Do vì khởi ý niệm thì chưa hẳn thành hình ra bên ngoài, nhưng đã nói ra miệng thì liền thấy sự việc. Toàn thân làm ác còn có lúc bị khó khăn ngăn trở, còn miệng thì dễ phát ra lời. Chưa nói việc đời sau, chỉ nói việc đời nay, ví như có người khen kẻ khác một lời thì người ấy suốt đời được mang ơn, để phước cho cháu con. Nói một lời hại người, kẻ ấy suốt đời bịhại, liên lụy cháu con. Khẩu nghiệp quả thật nặng nề. Một lời nói ra sẽ trở lại với chính mình, cho nên nó thật đáng sợ. Kẻ oán Trời thì nghèo khốn, kẻ vô trí thì oán người, chỉ nên tự cẩn thận ngăn tránh. Thuật lại ý Hiền thánh ở đây là để khuyên ngăn. (Một thiên này, nếu ai có thể ấn tống thì người đó là bậc thiện nhân trong số những người thiện). Con đường siêu thoát luân hồi nhanh và tắt. Trong Đại tạng có hơn mười cuốn kinh nói về những sự việc của Tịnh độ Tây phương; mọi người đều được hóa sinh trong hoa sen, áo quần và thức ăn đều do hóa thành, mọi người được sống lâu không già. Nói về pháp môn tu hành của Tịnh độ gồm có chín phẩm. Nay tôi chọn ra một phương pháp mà mọi người đều có thể tu hành. Đó là, Đức Phật A-di-đà có thệ nguyện rằng: “Lúc tôi thành Phật, nếu chúng sinh tin tưởng, yêu thích và muốn sinh về cõi nước của tôi, dẫu họ niệm lớn danh hiệu của tôi có mười tiếng nhưng nếu không được sinh thì tôi thề không thành Phật.” Hiện đời, những chúng sinh ấy có thể tiêu trừ được tai nạn, giải được oán kết, tăng thêm phước và bảo toàn được tuổi thọ. Phương pháp ấy như thế nào? Hành giả mỗi sáng chấp hai tay, mặt hướng về phía Tây, đảnh lễ mà niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-tát. Nam-mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (mỗi danh hiệu mười biến). Lại đảnh lễ mà niệm một biến bài kệ “Đại Từ Bồ-tát tán Phật sám hối hồi hướng phát nguyện”: “Phật ba đời mười phương, Đệ nhất A-di-đà, Chín phẩm độ chúng sinh, Oai đức không cùng tận. Con nay quyết quy y, Sám hối tội ba nghiệp, Nếu có những phước lành, Một lòng đem hồi hướng. Nguyện cùng người niệm Phật, Tùy thời hiện cảm ứng, Lúc mất cảnh Tây phương, Hiện rõ ràng trước mắt. Thấy nghe đều tinh tấn, Cùng sinh nước Cực lạc, Thấy Phật thoát tử sinh, Độ chúng sinh như Phật”. (Lại đảnh lễ mà lui ra). Bài kệ này có uy lực rất lớn. Nó có thể diệt trừ tất cả tội và nuôi lớn tất cả phước. Dạy người niệm sẽ được phước báu lớn. Nếu hành giả chí thành tụng niệm như thế thì sẽ sinh vào Trung phẩm. Hành giả lại tinh tiến thêm nữa lại đem pháp môn niệm Phật này để giáo hóa tất cả mọi người, khiến cho họ cùng khuyến hóa lẫn nhau. Được như thế, hành giả chắc chắn sinh vào Thượng phẩm thượng sinh. Người tội ác tu tập cũng được sinh vào Hạ phẩm. Trong khi niệm Phật thì ao bảy báu ở phương Tây sinh ra một đóa sen, nêu tên họ người niệm, ngày sau sẽ thác sinh vào đó. Việc này so với việc nói âm phủ ghi họ tên đợi khi tuyệt mạng đến bắt hoàn toàn khác nhau. Nhân duyên niệm Phật báo ứng. Con gái nhà họ Lương hai mắt đã mù lại được sáng. Phu nhân họ Bằng bị bệnh lâu ngày được lành. Trần Trọng Cử đuổi quỷ oán đi. Lưu Tuệ Trọng đêm ngủ không còn bị kinh sợ. Những hiện tượng ấy là hiệu quả của việc niệm Phật lúc còn sống. Bà lão họ Đào thấy Phật xuất hiện giữa bầu Trời. Đàm Giám có được hoa sen trong chiếc bình. Hoài Ngọc được đài vàng đón về Cực lạc. Trí Thuấn thấy chim khổng tước bay và hót. Những hiện tượng đó là hiệu quả của sự vãng sinh lúc lâm chung. Chí Thông có mây lành năm màu xuất hiện. Ông họ Lý được ba căn không hư hoại. Bảo Tạng có đồng tử hiện trên đỉnh đầu. Công Tắc có màu vàng hiện trong thôn xóm. Những hiện tượng đó là hiệu quả của sự thị hiện thân đời sau. Người sinh Tịnh độ thì chỉ tiến thẳng đến quả vị Phật chứ không thối lui. Vì vậy, nếu ta khuyên một người tu Tịnh độ tức là ta đã thành tựu một chúng sinh làm Phật. Thông thường, làm một vị Phật tất sẽ độ vô số chúng sinh. Như vậy, những chúng sinh được độ đó đều bắt đầu từ nơi ta. Vì thế, phước đức của người khuyên dạy kẻ khác tu tập Tịnh độ là không có cùng tận. Kệ của Đại Từ Bồ-tát nói: “Khuyên được một người tu, Bằng tự mình tinh tiến, Khuyên được quá mười người, Phước đức là vô lượng. Nếu khuyên đến trăm, ngàn, Gọi là chân Bồ-tát, Nếu hơn cả mười ngàn, Là Di-đà từ phụ.” Kệ lại nói: “Ân tình cốt nhục thương nhau, Khó mong cầu được bạc đầu đoàn viên, Lắm người mất buổi tráng niên, Lại còn nhiều đứa trẻ con qua đời, Chuyên cần niệm Phật A-di, Trong ao thất bảo tức thì hóa sinh, Được an lạc được trường sinh, Vầy sum mãi mãi chẳng còn biệt ly.” Thơ người xưa nói: “Ngàn món chẳng được mang đi, Có mang chăng, chỉ nghiệp tùy tấm thân.” Những người có chí nguyện cứu đời không tự cảnh tỉnh và lo sợ hay sao?  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 172