<經 id="n1969">LẠC BANG VĂN LOẠI & LẠC BANG DI CẢO (QUYỂN 1 5) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LẠC BANG VĂN LOẠI LỜI TỰA 1 Thuở xưa, Đấng Thiện Thệ thương xót chúng sinh phải ở trong các cõi khổ, nên chỉ bày Lạc bang để trở về. Các bậc Thánh ngầm khen, các bậc kỳ túc được vãng sinh nhiều không phải một, đều chép trong các sách vở, sáng rỡ như sao. Về sau càng xa tông, dần dần bèn tìm ở thanh sắc, chẳng biết tìm ở tâm. Cho nên ngài Đại Giám chỉ bày Duy tâm, khiến cho biết rằng muốn được cõi Tịnh thì phải tịnh tâm mình. Cho nên đấng Thiện Thệ, nói quán Phật để chỉ ra ý chỉ tâm ấy là Phật. Ấy là có đủ ba tâm, mười tâm để làm pháp vãng sinh. Ấy là nhân hạnh, ngài Pháp Tạng phát nguyện cao siêu tâm ngài vắng lặng, chí không đắm trước. Về sau càng xa Tông bèn coi thường chín phẩm nên phàm phu bị trói buộc thì vẫn là trói buộc, cho nên các Đức Phật đâu cần phải ra đời độ sinh, chúng sinh phải bị trôi giạt không ngừng, chẳng cầu ở nơi tâm thì càng cầu càng xa. Quán ba vị Thánh đều là theo đuổi tướng bên ngoài. Bậc Thánh tùy bệnh cho thuốc, còn chúng sinh do thuốc mà bị bệnh, đáng thương thay! Thế nên Lạc bang do đó mà làm cho lý rõ ràng, nếu tu chứng thì cứu giúp kẻ trôi giạt biển khổ. Nói duy tâm do đó làm cho quán hạnh là vốn là Pháp thân mà được giải thoát, thấy ba Thánh là chân thường. Đấng Thiện Thệ chỉ cho người kho báu, còn ngài Đại Giám chỉ cho người khóa vàng. Ngài Đại Giám chỉ người bằng nhân hoa, Đấng Thiện Thệ tiếp người bằng quả địa. Vạch hoa mà sót quả thì giống như không có hoa, có kho mà không mở cũng như không kho. Lạc bang ở ngoài duy tâm chăng? Xưa nay tâm ra vẫn thế, suốt đến ba đời không có bờ mé, cõi trong tâm ta là vô biên không cùng. Tịnh thì thành bốn Thánh, nhiễm thì hóa sáu phàm. bốn Thánh sáu phàm chỉ là tâm ta. Nên không nói đem tâm ta mà cầu Lạc bang. Thật biết duy tâm chẳng thể không thờ Lạc bang. Các loài chúng sinh từ vô thỉ đối với vô sinh mà vọng sinh, đối với vô ngã mà chấp ngã, ba phược mười sử tập nhiễm đã lâu. Nếu không nhờ thuyền nguyện cứu độ lên ở cõi Linh Thánh thì Bồ-tát vẫn còn mê cách ấm, Thanh văn còn muội khi ra thai, còn những kẻ thấp kém chúng ta sao tránh khỏi không lui sụt? Ngài Văn-thù là thầy dẫn đường của bảy Đức Phật, Vô sinh nhẫn không phải không chứng mà thọ ký vãng sinh, ngài Thiện Tài một đời được quả của nhiều kiếp. Nghóa bậc nhất đều nghe mà phát nguyện trở về, không theo Lạc bang thì lấy gì mà tu để biết hết cái diệu của duy tâm. Trong tâm ta là nhân địa trang nghiêm của Phật A-di-đà, trong tâm ta có cõi cao quý Lạc bang mà vốn xưa mình cùng Di-đà không hai không khác. Vì ta mê nên phải trôi giạt, làm chúng sinh ở trong tâm Phật. Còn Phật nhờ giác nên tu chứng mà làm Phật ở trong tâm chúng sinh. Tâm ta tức tâm Phật, ta chẳng thật có, tâm Phật tức là tâm ta, Phật cũng không thật có. Vì không thật có nên Phật niệm niệm độ sinh không đứt quãng đối với ta, còn chúng sinh chấp cái ngã huyễn không thật có. Ta thì bỏ giác hợp trần, nên luôn điên đảo trong ba cõi, thật đáng thương. Cho nên phải gắng tu Lạc bang, do đó mà gắng tu tâm ta. Tu tâm ta nên lìa được các điên đảo và chứng, ta đồng với Phật A-di-đà. Các Đức Phật không có chỗ chứng nào khác là Bản Tánh của chúng sinh. Hễ những gì Phật A-di-đà có đủ thì ta cũng có đủ, không lìa tâm ta, cho nên Lạc bang phi tướng, tức là tâm ta cho nên chẳng phải không. Vô tướng tức Tướng mà chẳng phải tướng cho nên tức tướng chẳng phải tướng, thì y chánh đều chân, chúng sinh và Phật đồng thể. Y chánh đều chân chúng sinh và Phật đồng thể thì Tôn Âm Vương Như Lai lạc bang ở quá khứ chưa từng nhập diệt, Công Đức Sơn Vương Như Lai ở vị lai thành Phật đã lâu, A-di-đà Như Lai hiện tại ở ngoài mười muôn ức cõi Phật mà chẳng cách xa. Tám mươi bốn ngàn tướng đẹp hễ niệm liền thấy. Tâm ta không cần đến đó, Phật ấy không cần lại đây, như đèn trong gương, như trăng trong nước. Gương không nắm đèn mà đèn tự hiện, trăng không vào nước mà nước chứa trăng. Nơi nơi là vậy, pháp pháp là vậy nên sợi lông trắng thường quán mà chẳng phải quán. Đài báu không sinh mà vãng sinh. Nếu như thế thì gọi là Duy tâm hay gọi là Lạc bang, ta cũng không biết được. Lộc Đình Thượng nhân và Tử Tống Hiểu Sư tập họp các văn viết về Lạc bang xin tôi vài lời nói về quyển ấy. Tôi bèn cúi đầu lễ Phật lễ Tổ, mà nêu sự thấy biết nhỏ hẹp của mình ra. Tứ Tiến Só, xuất thân là Lại bộ Thượng thơ, Võ Anh điện Đại Học Só Hải Ngu Nghiêm kính soạn. <詞>LỜI TỰA 2 Từ nhà Chu xưa có cả trăm nhà đều dùng thuyết mình tranh nhau với đời. Lâu ngày dần dần mất hết chỉ còn ba giáo Nho, Thích, Lão cùng truyền bá. Đại để ba giáo đều chủ trương việc khuyến Thiện, cấm Ác, dù lời chẳng đồng mà cùng về một chỗ. Song, đạo Phật so với đạo Lão thì thạnh hơn nhiều. Tôi không hề đọc sách Phật. Lúc đầu tôi không biết gì về Phật giáo nhưng vẫn dứt các điều ác không làm, các điều lành đều làm, luôn giữ trong lòng phút giây không bỏ. Bổn ý tôi chưa biết có Phật ra đời. Có người tu tập các giáo Tây phương Tịnh độ bảo rằng: Chúng sinh ở trong cõi đời có năm thứ vẫn đục lưới nghiệp giăng đầy, sinh tử không thể ra khỏi, biển khổ không dừng. Đấng Đại Hùng bất đắc dó chỉ riêng một phương cách khiến người buộc tâm chuyên chú, nhờ đó mà được chỗ không bờ bến. Tuy nhiên nếu không được cửa ấy mà vào thì rất uổng phí. Từng không biết pháp này là Nhất tâm. Nhất tâm chú ý vào sẽ thấy điều tốt. Phật dạy tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biến chánh biến tri của các Đức Phật từ tâm tưởng sinh ra. Thế nên phải nhất tâm giữ niệm. Nhân đó mà luận thì quả giác Di-đà tức là tánh ta, Cực lạc phương xa tức là tâm ta. Một niệm đến nơi, dụng công không thiếu sót thì đâu có cao thấp xa gần. Tỳ-kheo Tông Hiểu lưu tâm góp nhặt các giáo điển làm thành sách này gồm cả Đại tạng kinh luận, các sách của Nho, Thích xưa nay đều nói về giáo môn Tịnh độ, hoặc giảng rộng nghóa sâu để nhắc nhở người chưa hiểu, hoặc làm sáng tỏ để dạy người mới đến. Toàn văn xuôi kệ ngắn, một chữ một câu đều giúp ích thân tâm đầy đủ. Một hôm, ngài mang sách đến tôi bảo rằng: “Tôi lưu tâm sách này, vài năm nữa sẽ khắc in, hóa một thành nhiều, rộng chỉ bày cho người mới học hiểu được một lời trong sách này mà khỏi lòng tin tưởng và tu hành thì công khổ nhọc biên soạn của tôi không uổng phí.” Tôi đọc qua sách này thấy các bài của nhiều vị rất sâu sắc chỉ rõ ý lớn vãng sinh, mở rộng tâm lành cho mọi người, từ từ lại nghiên cứu lý ấy, bởi bản tánh của mỗi người vốn tự sáng suốt từ vô thỉ do bệnh mê vọng tham dục mà sinh ra các khổ. Vì khiến lìa khổ não được an ổn nên do đó mà phải đối trị. Ví như Thần y dùng thuốc thì gốc bệnh liền hết, bổn thể như xưa. Lại như gương sáng bị đóng bụi, nếu cố gắng chùi sạch thì gương sáng như cũ. Như thế thì sách này thật là phục tánh hoàn nguyên (khiến tánh trở về nguồn xưa) há bỏ đi ư? Than ôi, đạo ở rất gần đây chẳng cần tìm kiếm ở đâu cho xa xôi, rất dễ dàng không cần tìm cầu khó khăn. Xưa, ngài Vô Trước lễ núi Ngũ đài thấy ngài Văn-thù nói kệ có câu rằng: Tháp báu rốt ráo hóa thành bụi, một niệm tịnh tâm thành Chánh giác. Phật Pháp vô lượng, lời này bao trùm các cõi Phật. Đã lấy tâm làm gốc để cốt về Tây phương thì cần phải khéo tịnh tâm mình mà thôi, không còn cách nào khác. Ngày rằm tháng 7, năm Canh Thân, niên hiệu Khánh Nguyên, phu văn các học só, Tuyên Phụng đại phu trí só Uông Đại Du kính lời tựa. ---------------------------------- LẠC BANG VĂN LOẠI Sa-môn Thạch Chi Tông Hiểu, ở đất Tứ minh biên soạn. <卷>QUYỂN 1 LỜI TỰA Trong niên hiệu Càn Đạo, Đức Thọ Cung Thân Lệ Thần Hào viết lớn hai chữ Liên Xã ban cho phòng Ngự Sứ Triết Tây Lộ tổng quản Trương Luân như rồng bay phụng múa tám Pháp đều bày, là điềm lành ít có trên đời ở Hà lạc. Trộm nghó Hoàng Đế Cao Tông dùng Pháp đường, ngu mà trị yên thiên hạ, khi công thành chẳng ở, cởi giày về ở ẩn, chuyên xem nội điển lại muốn theo núi Lô (Tuệ Viễn) mà niệm Phật nên nêu việc này. Lược khảo từ xưa các vua hưng thạnh thì đều phát triển Thích giáo hoặc xây dựng Tháp miếu hoặc kinh luận, hoặc rộng độ Tăng, Ni mà không hề nghe bày việc phát huy Tịnh Bang, giúp mọi người ra khỏi cõi đời có năm thứ vẫn đục như Vua ta. Đến nay, ở trong và ngoài nước các Tông xưa đều lập xã niệm Phật, tiếng vang rền cả tai. Mới biết bậc chí đức như gió, dân đen như cỏ, không mong mà được như thế. Xin thử luận về Phật ta, đấng Năng nhân sinh ra ở thành Ca-duy, chẳng mến tiếc ngôi báu vào thẳng núi Tuyết mà ngồi yên, lúc thành đạo rồi vì tùy cơ giáo hóa, nên khiến có giáo pháp Đại Tiểu, Thiên Viên khác nhau, cuối cùng là một hội Pháp Hoa cao tột, một đạo không thiên lệch mở quyền Thừa đều quy về chân thật. Thế nên bản hoài ra đời của Phật đến đây mới xong. Lại nghó người đời sau căn cơ ám độn, khó có thể tự tìm cách ra khỏi, nên Phật A-di-đà có bản nguyện lấy cõi Cực lạc làm nơi đường tắt ra khỏi sông ái, sinh lên đất Phật. Cho nên các kinh Đại thừa ân cần khuyên cầu sinh rất nhiều. Bởi Như Lai dùng phương tiện khéo léo khác lạ chẩn bệnh “Trầm luân”, “Cha bỏ đi mà để thuốc lại” là ý này. Song khi đại giáo truyền đến Đông độ thì mọi người chưa biết mà Pháp sư Tuệ Viễn đời Đông Tấn đã thần cơ tú phát, mở lối đầu tiên dẫn nước trồng sen kết duyên Tịnh xã. Lúc đó có một trăm hai mươi ba vị, mười tám vị Đại hiền như Lưu Di Dân, ngài Tuệ Viễn là thượng thủ. Từ đó, đạo Tam-muội niệm Phật truyền bá đến nay đã hơn tám trăm năm mà vết xưa vẫn còn sáng chói. Cho nên Trương Luân tu hành nối gót Tuệ Viễn. Song người học thì phải cầu thầy, muốn tiến nghiệp thì phải nhờ Pháp, cho nên lập xã đều lấy Di-đà làm tông chủ, các kinh làm chỉ nam. Từ đời Tấn, Đường đến nay, các vị cao tăng, cự Nho đều có soạn các tác phẩm khen ngợi việc này. Tuy thuyết nghóa có cạn sâu, lời văn có khéo vụng, nhưng ví như muôn dòng chảy về Đông cùng ra biển cả, khiến người uống nước biết được nhất vị. Tông Hiểu tôi nay vì tuổi đã già, biết đời chẳng bền chắc, xét kỹ Hoàng Đế Cao Tông đạo thông trời đất, đức sánh Hy Hiên còn tuyên dương chí giáo, mở bày khắp chúng sinh, huống là kẻ tăng hèn mọn nào dám biếng lười việc tư tu. Do đó mà góp nhặt các kinh tìm khắp các bài văn, đọc lại ý chỉ dẫn dạy, dẫu lời kín, nghóa sâu, chưa dễ thấy biết nhưng nhiều năm nghiên cứu cũng hiểu qua đại ý tóm tắt. Lại nghó Tùy châu Hòa bích là vật báu trong thiên hạ lại dấu vào rương cất đi thì có ai được cùng hưởng? Nhân rỗi rảnh mà biên tập trước từ, kinh chú, sau đến thi từ, gồm mười bốn môn, có hai trăm hai mươi bài, chia làm năm quyển, đề tên là “Lạc bang văn loại”. Bắt chước theo quyển Tây hán văn loại của nhà Nho Liễu Tông Trực mà soạn, nếu bài nào chưa chép hết thì có các đồng chí của tôi sẽ tiếp nối ghi thêm vào. Kính ghi lời tựa. --------------------------------------- <詞>MỤC LỤC Mục lục kinh luận chuyên nói về Tịnh độ trong Đại Tạng Kinh Pháp Hoa: Khởi đầu của việc hóa duyên trong sự tích Phật A-di-đà. Kinh Bi Hoa: Nhân nguyện, Thọ ký. Danh hiệu của ba vị Thánh. Kinh Xuất Sinh Bồ-tát: Nhân Hạnh của Phật Di-đà thành tựu chúng sinh. Kinh Vô Lượng Thọ: Bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện trang nghiêm cõi mầu. Kinh Di-đà theo lối kệ: Tướng nhiếp lấy cõi nước của Bản nguyện Di-đà. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Bồ-tát Đại Thế Chí được Niệm Phật Viên Thông. Kinh Cổ Âm Vương: Nói về cõi nước, cha mẹ, thân thuộc của Phật Di-đà. Kinh A-di-đà: Cực lạc ở cách cõi này mười muôn ức cõi Phật. Kinh A-di-đà: Bảy ngày không loạn thì cảm ứng được Phật mà vãng sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Thực hành ba thứ nghiệp được vãng sinh Tây phương. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Trước tiên tu quán mặt trời đưa tư tưởng về Tây phương. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Y cứ vào tâm mà quán Phật thuộc pháp quán tượng thứ tám. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Đủ ba thứ tâm liền được vãng sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Công phu mười niệm thành tựu thì Hạ phẩm hạ sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Bà Vi-đề-hy và các gái hầu đều được vãng sinh. Kinh A-di-đà: Do tâm nghi ngờ sẽ sinh ở biên giới của Tây phương. Kinh Vô Lượng Thọ: Chẳng hiểu trí Phật sinh vào Thai Cung. Kinh Bồ-tát Xử Thai: Có tâm đắm nhiễm sinh vào nước Giải mạn. quả. Kinh Bình Đẳng Giác: Thanh văn ở Tịnh độ tu hành chứng Kinh Vô Lượng Thọ: Gây năm tội nghịch, chê bai Chánh pháp không được vãng sinh. Kinh Vô Lượng Thọ: Tướng tu nhân vãng sinh của ba bậc. Kinh Vô Lượng Thọ: So sánh sự tu thiện khác nhau giữa hai cõi. Kinh Vô Lượng Thọ: Nhiều chúng Bồ-tát vãng sinh Tịnh độ. Kinh Vô Lượng Thọ: Khi Pháp diệt, lưu lại kinh này một trăm năm để độ người. Kinh Vô Lượng Thọ: Khuyên mọi người tinh tấn gắng sức cầu sinh. khắp. Kinh Vô Lượng Thọ: Phật Vô Lượng Thọ ánh sáng chiếu Kinh Vô Lượng Thọ: Bát báu ăn uống tự nhiên đầy đủ. Kinh Hoa Nghiêm: So sánh hai cõi ngày đêm dài ngắn. Kinh Văn-thù Thuyết Bát-nhã: Tu Nhất hạnh Tam-muội, chuyên xưng danh hiệu Phật. Kinh Ban-chu: Tu Tam-muội Phật lập, chuyên niệm Di-đà. Kinh Phương Đẳng Đại Tập: Tu Tam-muội Phật lập, pháp quán Trung đạo. Kinh Hoa Nghiêm: Trưởng giả giải thoát được pháp môn Duy tâm niệm Phật. Kinh Hoa Nghiêm: Nương vào nguyện Phổ Hiền được sinh Cực lạc. Kinh Pháp Hoa: Nghe kinh tu hành liền được vãng sinh. Kinh Đại Bảo Tích: Phát mười thứ tâm được sinh Cực lạc. Kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh: Ta-bà vẩn đục, riêng khen Tây phương. Kinh Đại Tập Nhật Tạng: Niệm Phật tùy tâm thấy lớn thấy nhỏ. Kinh Mục-liên Sở Vấn: Cõi nước Vô Lượng Thọ dễ đến, dễ nhiếp lấy. Kinh Thập Vãng Sinh: Người niệm Phật được Bồ-tát che chở, giữ gìn. Kinh Quán Phật Tam-muội: Phật thọ ký ngài Văn-thù vãng sinh Cực lạc. Kinh Văn-thù Phát Nguyện: Ngài Văn-thù phát nguyện cầu sinh Cực lạc. Kinh Nhập Lăng-già: Phật thọ ký cho ngài Long Thọ vãng sinh Cực lạc. Kinh Thiện Tín Ma Thân: Thiện tín nhàm chán thân nữ, cầu sinh Tây phương. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Xét tình tưởng nhiều ít mà luận về quả báo cao thấp. Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ: Thiện ác chiêu cảm quả báo hơn kém khi qua đời. <詞>Mười Đạo Thần Chú Vô Lượng Thọ tu quán hạnh cúng dường nghi quỹ (Trong nghi quỹ này trích ra ba bài chú sau): Vô Lượng Thọ Như Lai Quyền Ấn Chân Ngôn. Vô Lượng Thọ Như Lai Căn Bản Ấn Chân Ngôn. Vô Lượng Thọ Như Lai Tâm Chân Ngôn. Kinh Ô-sắt-nị-sa Tối Thắng Tổng Trì (trong kinh này trích ra một chú sau:) Vô Lượng Thọ Như Lai Tổng Trì Pháp Môn. Kinh Bất Không Quyển Sách Thần Biến Chân ngôn (trong kinh này trích ra ba chú sau) Nhất Tự Chân Ngôn. Bạt Biến Giải Thoát Tâm Chân Ngôn. Bất Không Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn. Di-đà Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện. Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn bản đắc sinh. Tịnh. <詞>Sáu mục về luận Luận Vô Lượng Thọ: Kệ vãng sinh và pháp tu năm môn. Luận Tỳ-bà-sa: Niệm Phật là đạo dễ làm. Luận Đại Trí Độ: Chứa nhóm nhiều công đức cầu sinh cõi Luận Đại Trí Độ: Thích-ca, Di-đà mỗi vị đều có cõi nước tịnh và uế. Luận Đại thừa Khởi Tín: Ta-bà chẳng gặp Phật, khuyên chuyên niệm Phật. Tư Duy Yếu Lược Pháp: Hai căn Lợi Độn quán tướng tốt của Phật. Tôn hiệu Phật A-di-đà. Mục lục các kinh luận trong Đại Tạng chuyên nói về Tịnh độ. Tôi biên tập các văn này là trước nêu các kinh luận để người muốn tu Tịnh nghiệp lấy đó làm gốc. Vì các kinh luận này đều ở rải rác trong Đại Tạng, nay ghi tên kinh và tên hòm để dễ xem xét. Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác: Một bộ hai quyển. Hòm chữ Nãi. Ngài Tam tạng nước Nguyệt Chi, tên là Chi-lâu-ca-sấm, đời Hậu Hán dịch. Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng giác là tên khác của Phật Vô Lượng Thọ. Bốn chữ Thanh Tịnh Bình Đẳng là ý chữ Thọ, còn Giác là tiếng Hán dịch chữ Phật. Kinh Phật Thuyết A-di-đà: Một bộ hai quyển, hòm chữ Nãi. Ngài Tam tạng nước Nguyệt Chi, tên Chi Khiêm, đời Ngô dịch. Kinh này cũng gọi là kinh A-di-đà Tam-da-tam-Phật-tát-lâu-Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo. Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ: Một bộ hai quyển, hòm chữ Nãi. Ngài Tam tạng Khương Tăng Khải, đời Tào Ngụy dịch. Kinh này còn có bản do ngài Trúc Pháp Hộ, đời Tấn dịch vào niên hiệu Vónh Gia ở trong Bản tạng, nay đã mất. Trong Quán kinh sớ ngài Thiên Thai gọi là Đại Bản tức là bản ngài Pháp Hộ dịch. Kinh Đại Bảo Tích, Vô Lượng Thọ Như Lai Hội. Quyển thứ mười bảy, mười tám hòm chữ Sư. Do ngài Bồ-đề-lưu- chi, đời Đại Đường dịch. Kinh Bảo Tích gồm các kinh Đại thừa Phương Đẳng. Gồm bốn mươi chín hội, hội thứ bảy tức Hội Vô Lượng Thọ. Kinh Phật Thuyết Đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm: Một bộ ba quyển, hòm chữ Binh, do Tam tạng Pháp Hiền, người Tây thiên, đời vua Đại Tông thuộc Đại Tống vâng chiếu dịch. Năm quyển kinh trên, Bình Đẳng giác và A-di-đà đều dịch Tỳ- kheo Pháp Tạng có hai mươi bốn nguyện, còn Vô Lượng Thọ và Đại Bảo Tích Hội thì dịch có bốn mươi tám nguyện. Ở đời có một bản riêng gọi là kinh Bốn Mươi Tám nguyện, một quyển. Nhưng chính là từ kinh Vô Lượng Thọ chép ra chứ không phải là bản kinh riêng. Lại kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm dịch có ba mươi mốt nguyện. Phụ Hành nói: Số nguyện khác nhau vì bộ khác thì thấy khác, không cần hòa hội. Nhưng đọc kỹ năm kinh thì đại khái hầu hết đều giống. Hình như cùng bản chữ Phạm mà người dịch thấy khác nên tùy nghi rộng, tóm. Ngài Kinh Khê gọi là khác bộ thấy khác là giảng lời Phật nói thì đồng mà tùy cơ thấy có khác. Còn việc kiết tập mà phiên dịch đều không giống nhau. Vậy thì nói giống hay khác chưa dám quyết định, xem rồi sẽ thấy rõ. Trong năm bản, dịch lời văn trong sáng là bản Tào Ngụy, nên văn các tổ sư phần nhiều đều trích dẫn từ bản này. Kinh Phật Thuyết A-di-đà: Một quyển, hòm chữ Dưỡng, ngài Tam tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập, đời Diêu Tần dịch. Trong Thiên Thai Quán kinh sớ gọi kinh này là Tiểu bản, trước đó kinh Vô Lượng Thọ gọi là Đại bản. Còn bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh, vì ở giữa hai quyển kia nên gọi là Trung Bản. Kinh Xưng Tán Tịnh độ Phật Nhiếp Thọ: Một quyển, hòm chữ Dưỡng. Ngài Tam tạng Pháp Sư Huyền Trang, đời Đại Đường dịch. Hai kinh trên ( 6- 7) cùng bản Phạm mà khác tên người dịch. Bản đời Tần nêu các Đức Phật sáu phương khen gợi, còn bản đời Đường thì nói đủ các Đức Phật mười phương khen ngợi. Đây cũng là do người dịch tùy thời mà rộng, hẹp khác nhau. Văn Long Thư Tịnh độ nói: Bản dịch đời Tần lược bỏ bốn phương chẳng hiểu bộ phiên dịch có khác chăng? Kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật, một quyển, hòm chữ Dưỡng, do ngài Cương-lương-da-xá dịch vào niên hiệu Nguyên Gia đời Tống. Kinh này là một bản riêng trong Tạng không có dịch trùng, cũng gọi là kinh Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sinh Chư Phật Tiền. Kinh Hậu xuất A-di-đà Phật Kệ, một quyển, hòm chữ Dưỡng, dịch vào đời Hậu Hán, mất tên người dịch. Kinh này chỉ có năm mươi sáu câu kệ tụng, văn thể đơn giản. Xưa nay không có ai bình. Kinh A-di-đà Cổ Âm Thinh Vương Đà-la-ni, một quyển, hòm chữ cao, mất tên người dịch. Hai kinh, có người không hiểu cho là “Thất dịch” là không dịch sách Phạm. Kinh Ban-chu Tam-muội, một bộ ba quyển, hòm chữ Tội. Tam tạng nước Nguyệt Chi là Chi-lâu-ca-sấm, đời Hậu Hán dịch. Trong tạng có kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, kinh Bạt Pha và kinh Ban-chu là cùng bản Phạm mà khác tên người dịch. Là kinh chuyên nói về hiện tại Phật đang lập Tam-muội, trong chín mươi ngày quán tưởng xưng tụng Di-đà, Ma-ha chỉ quán, thường hành Tam- muội. Kinh Phật Thuyết Như Lai Ô-sắc-ni-sa Tối Thắng Tổng Trì. Một quyển, hòm chữ cao. Tam tạng Pháp Thiên, người Tây thiên thời vua Thái tông đời Đại Tống vâng chiếu dịch. Kinh này Phật Vô Lượng Thọ nói thần chú giúp chúng sinh sống lâu, khi qua đời liền được vãng sinh Cực lạc. Vô Lượng Thọ Như Lai Tu Quán Hạnh Cúng Dường Nghi Quỹ, một quyển, hòm chữ Hành. Ngài Tam tạng Bất Không, chùa Đại Hưng Thiện vâng chiếu dịch. Nghi quỹ này kết đàn tụng chú, chuyên cầu vãng sinh. Vô Lượng Thọ Luận Ưu-ba-đề-xá, một quyển, hòm chữ Đường. Bồ-tát Bà-tẩu-lũ-đậu (Thiên Thân) soạn ra, vào đời đầu nhà Ngụy, Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, người Thiên trúc dịch. Bà-tẩu-lũ-đậu, Hán dịch là Thiên Thân, trong Luận Thập Nghi của ngài Thiên Thai gọi đó là luận Vãng sinh. Luận này nói chung về các kinh Tịnh độ, nói về pháp quán tưởng giúp người tu Tịnh Nghiệp. A-di-đà kinh Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện, hòm chữ Dưỡng. Truyện này mất tên người soạn. Truyện này và Tiểu Bản kinh Di-đà đều có thần chú vãng sinh. Tập Chư kinh Lễ Sám Nghi hai quyển, hòm chữ Quần. Ở quyển thượng thì Sa-môn Trí Thăng đời Đường tập hợp nửa quyển trước về Lễ chung các Đức Phật, nửa quyển sau thì nêu riêng các kệ tụng lễ tán Tây phương và các văn sám hối, phát nguyện… Ở quyển Hạ thì Tỳ-kheo Thiện Đạo chọn ghi các yếu nghóa tu Tây phương và ghi chép sáu thời lễ tán kệ tụng Tịnh độ… của các Tổ. Các kinh, luận, truyện trên gồm mười sáu thứ, đều chuyên nói về Tịnh độ. Cho nên Luận Thập Nghi nói. Trong tạng có hơn mười bộ Kinh Luận ân cần dạy khuyên vãng sinh Tây phương. Các bậc Tiên Hiền nói Tịnh độ chỉ có bảy kinh là chưa xét kỹ. 1.Kinh Pháp Hoa: Khởi đầu của việc hóa duyên trong sự tích Phật A-di-đà. Trong Phẩm Hóa Thành Dụ nói: Thuở quá khứ có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng. Phật này khi chưa xuất gia có mười sáu con đều là trẻ con xuất gia làm Sa-di. Khi Phật nói kinh xong liền vào tịnh thất suốt tám mươi bốn ngàn kiếp. Lúc ấy mười sáu Bồ-tát biết Phật vào tịnh thất bèn lên tòa vì nói rộng giải thích kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho bốn chúng nghe, mỗi Bồ-tát đều độ sáu trăm tám mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa chúng sinh, các chúng sinh do mười sáu vị này hóa độ đều đời đời cùng sinh với Bồ-tát. Mười sáu vị Sa-di ấy hiện đang nói Pháp ở khắp mười phương. Cho đến nói rằng ở Tây phương có hai vị Phật cùng một tên A-di-đà, vị thứ mười sáu là Phật Thích-ca Mâu-ni ta. Các chúng sinh được hóa độ lúc ấy là Tỳ-kheo các thầy, sau khi ta diệt độ ở trong đời vị lai chính là các đệ tử Thanh văn. Khi Như Lai tự biết mình sắp Niết-bàn bèn nhóm họp các chúng Bồ-tát và Thanh văn mà nói kinh ấy. Tông Thiên Thai nói rõ về Bổn Tích của Pháp Hoa. Trong Tích thì tôn Đức Phật Đại Thông Trí Thắng làm đầu. Văn này có ba ý: Từ thuở xưa đã kết duyên với nhau (lúc đó mười sáu Bồ-tát…) Ở khoảng giữa gặp nhau (mười sáu Bồ-tát ấy…) Ngày nay lại nói kinh Pháp Hoa (Các Đức Như Lai…) Ba việc này bao gồm trong Tích, hẹn độ hết chúng sinh. Đức Thích-ca như thế, Đức Di-đà cũng thế. Bởi mười sáu vị Vương tử thời Phật Đại thông Trí Thắng đã được kết duyên. Các Vương tử mỗi vị đều được thành Phật, vị thành Phật ở Tây phương hiệu là A-di-đà. Lấy quả nghiệm nhân thì Di-đà lúc ấy là Vương tử thứ chín, giảng nói cho chúng sanh nghe nên biết Phật Di-đà kết duyên với mọi người rất sớm. Cho nên Diệu Huyền thứ sáu có nói: Phật Đại Thông là người đầu tiên kết duyên Đại thừa, Phật ấy nói kinh trong tám ngàn kiếp, mười sáu vị Vương tử giảng lại trong tám mươi tư ngàn kiếp. Bấy giờ, thính chúng hoặc ngay chỗ ngồi liền ngộ hoặc trong khi nghe được vào, hoặc gần gũi hóa độ đây mới được, tức là ý ấy. Như thế mà cân nhắc, không phải chỉ hiển bày việc các Phật hóa độ đều đồng một Đạo mà cũng biết xưa nay các người vãng sinh Tịnh độ chính là số chúng sinh đã kết duyên từ xưa với Vương tử thứ chín rồi vậy. Kinh Bi Hoa: Nhân nguyện, thọ ký, danh hiệu của ba vị Thánh. Thuở xưa, cách nay hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp, có thế giới tên là San-đề-lam, kiếp tên Thiện trì, có vị vua Chuyển luân tên là Vô Tránh Niệm, làm chủ bốn thiên hạ. Có một vị Đại Thần tên là Bảo Hải, thuộc giòng Phạm chí. Lúc đó sinh người con có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thường có ánh sáng chiếu xa một tầm. Khi sinh có trăm ngàn các vị trời đến cúng dường. Nhân đó đặt tên là Bảo tạng. Sau cạo bỏ râu tóc xuất gia thành Đạo Bồ-đề hiệu là Bảo Tạng Như Lai, vì Thánh vương nói rộng Chánh pháp. Vua thỉnh Như Lai và Thánh chúng cúng dường ba tháng. Vua có một ngàn người con. Vua và các con cúng dường Như Lai suốt hai trăm năm mươi năm. Ai nấy đều hướng về Phật và các Tỳ-kheo tăng mà sám hối các tội. Khi ấy, Như Lai bèn vào Tam-muội (Định), phát ra ánh sáng rực rỡ, hiện ra các thế giới ở mười phương. Hoặc có thế giới đầy năm thứ vẩn đục, hoặc có thế giới thanh tịnh nhiệm mầu… Vua bạch Phật rằng: “Các Bồ-tát nhờ nghiệp gì mà được thế giới thanh Tịnh, do nghiệp gì mà chịu thế giới bất tịnh?” Phật nói: “Bồ-tát do có nguyện lực nên được cõi thanh tịnh lìa bỏ năm thứ vẩn đục, lại có Bồ-tát do có nguyện lực mà cầu cõi có năm thứ vẩn đục.” Vua thưa: Nay con thành thật muốn được quả Bồ- đề, nhưng không nhận lấy cõi Phật bất tịnh. Con trong mười năm trước đây luôn ngồi thẳng suy tư, trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh, nay con phát nguyện khi thành Đạo rồi thì trong thế giới của con không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chúng sinh trong nước con đều có màu vàng ròng; trời, người không khác nhau, không có người nữ, cùng một loại hóa sinh, tuổi thọ vô lượng. Thế giới thanh tịnh, không có nhơ bẩn hôi hám, có các thứ cung điện trang nghiêm như ở tầng trời thứ sáu. Các thế giới Phật khác nếu có chúng sinh nghe danh hiệu tôi mà tu các gốc lành, muốn sinh về cõi tôi thì khi chết liền được sinh về. Chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch, chê bai bậc Thánh, phá hoại chánh pháp (An dưỡng ký nói: Kinh Bi Hoa có hai mươi tư nguyện, nhưng văn lược bỏ), khi Luân vương phát nguyện lớn xong, Đức Phật liền bảo rằng: Đại vương! Ông hãy nhìn về phương Tây cách trăm ngàn muôn ức cõi Phật có Tôn Âm Vương Như Lai, có thế giới Thanh tịnh trang nghiêm, đều như lời nguyện của Đại vương. Như thế có bốn Đức Phật ra đời rồi nhập diệt, qua một hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp. Vào hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, lúc đó thế giới ấy đổi tên là An lạc, lúc đó ông sẽ được thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai. Khi ấy, Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho Thái tử thứ nhất là Bất Thuấn rằng: Ông xem thấy trời người trong ba đường ác, tất cả chúng sinh mà sinh tâm đại Bi, muốn dứt hết các khổ não cho chúng sinh, muốn giúp cho chúng sinh trụ vào An lạc, nên nay ông sẽ làm Quán Thế Âm. Khi Phật Vô Lượng Thọ nhập Niết-bàn rồi thì cõi nước ấy đổi tên là Nhất thiết trân bảo sở thành tựu thế giới, có các thứ trang nghiêm, mà thế giới An lạc không bằng được. Ông thành Đạo Bồ-đề hiệu là Biến Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, Phật lại bảo thái tử thứ hai là Ni-ma rằng: Nay ông nguyện nhận lấy đại thế giới đúng như nguyện, ông sẽ thành Đạo Bồ-đề hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai. Do ông lấy Đại thế giới như điều nguyện, do đó mà ông được làm đại Thế chí. (Các thứ nhân nguyện, thọ ký, tên kiếp, tên nước… của ba vị Thánh đến lần hai lần ba chỉ ghi lược). Kinh Nhất Hướng Xuất Sinh Bồ-tát: Nhân hạnh của Phật Di-đà, thành tựu chúng sinh: Phật nói ta nhớ thuở quá khứ cách vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật hiệu là Bảo Công Đức Oai Túc Kiếp Vương. Khi Phật ấy sắp vào Niết-bàn, đã vì chúng sinh nói rộng Pháp bổn Đà-la-ni. Lúc đó, có Luân vương tên là Trì Hỏa. Vua có Thái tử tên là Bất Tư Nghị Thắng Công Đức, mới mười sáu tuổi đã nghe Pháp bổn với Như Lai đến bảy muôn năm, rất siêng năng tu tập, không hề ngủ nghỉ, cũng chẳng nghiêng ngã, ngồi thẳng một chỗ. Chẳng tham của báu và ngôi vua, không ưa thích thân mình. Đã từng gặp chín mươi ức trăm ngàn na-do- tha vị Phật và Pháp giải thoát của các Đức Phật đã được nghe hết và đặc biệt tu tập, nhàm chán gia đình, xuất gia làm Sa-môn. Lại ở trong chín muôn năm tu tập Đà-la-ni này. Lại giảng nói phân biệt cho chúng sinh nghe, trong một đời gắng sức chuyên tinh giáo hóa, khiến tám mươi ức trăm ngàn na-do-tha chúng sinh được phát Đạo tâm, chứa nhóm công đức trụ vào địa vị không lui sụt. Tỳ-kheo Bất Tư Nghì Thắng Công Đức lúc ấy không phải ai khác, chính là A-di-đà Như Lai đây vậy. (Kinh Đại Tạng hòm chữ Tri). Kinh Vô Lượng Thọ: Tỳ-kheo Pháp Tạng phát nguyện trang nghiêm cõi mầu. Trong thời quá khứ lâu xa, Đức Phật Đỉnh Quang ra đời, như thế thứ lớp đến Phật thứ năm mươi ba tên là Thế Tự Tại Vương. Trong đời Phật ấy có một vua nghe Phật nói pháp tâm rất vui mừng, bỏ nước bỏ ngôi làm Sa-môn, hiệu là Pháp Tạng, là người tài giỏi sáng suốt hơn đời. Đức Phật ấy nói pháp như biển lớn, người suy lường nhiều kiếp không thể đến đáy mà lấy được của báu. Có người dốc lòng tinh tấn cầu đạo không ngừng thì nguyện nào mà chẳng được. Phật nhân đó nói rộng hai trăm mười ức cõi Phật, trời, người thiện ác, cõi nước thô diệu, Tỳ-kheo Pháp Tạng nghe Phật nói đều thấy rõ. Bèn phát thắng nguyện, tâm rất yên vắng, chí không mê đắm. Lại bạch Phật rằng: Cúi mong Phật nghe xét, như điều con nguyện sẽ nói đầy đủ: Nếu con thành Phật mà trong nước con có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì con không thành Chánh giác… Tỳ-kheo Pháp Tạng nói bốn mươi tám lời nguyện xong thì mặt đất rung chuyển, trời rãi hoa đẹp như mưa. Tỳ-kheo Pháp Tạng chắc thật không luống dối, vượt ngoài thế gian, chuyên chí một mực trang nghiêm cõi mầu, giáo hóa an lập vô số chúng sinh, đều khiến an trụ trong Vô thượng chánh chân. Nay đã thành Phật hiện đang ở thế giới An lạc Tây phương. Cõi nước ấy ấy bảy báu kỳ lạ, đẹp đẽ vượt hơn các cõi nước trong mười phương. Cõi nước ấy không có núi Tu-di, mặt trời, mặt trăng, biển rộng khe lớn, hang giếng… không có bốn đường ác, không có Xuân, Hạ, Thu, Đông, không nóng không lạnh, luôn điều hòa thích ứng với các chúng sinh. Đó là do công đức, Thiện lực đức và sức hạnh nghiệp lành mà được như thế. Kinh Di-đà theo lối kệ: Tướng nhiếp lấy cõi nước của bản nguyện Di-đà. Nhớ Tỳ-kheo, Pháp Tạng nhiều đời đều làm vua, phát nguyện cùng các Phật, phát hai mươi bốn lời nguyện. Đời đời gặp các Phật, trải qua vô số kiếp. Chẳng bỏ hạnh Túc mạng. Công đức đủ bèn thành, thế giới tên Thanh tịnh. Phật có tên Vô Lượng, cõi nước đẹp bằng yên, có nhiều bậc Thượng thiện. Phật tuổi thọ vô lượng, ánh sáng cũng vô biên. Bồ-tát và đệ tử đông không thể tính đếm. Nếu muốn thấy Phật ấy, chớ nghi cũng chớ lo, ai nghi ở trong thai, năm trăm năm chẳng thấy, không nghi thì liền sinh. Khoanh tay hầu trước Phật. Xin nguyện khắp mười phương. Phút chốc liền cùng về. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Bồ-tát Đại Thế Chí được niệm Phật Viên Thông Pháp Vương tử Đại Thế Chí và năm mươi hai vị Bồ-tát cùng tu một pháp môn đồng đứng dậy đảnh lễ Phật và bạch rằng: Con nhớ hằng hà sa kiếp xưa có Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang. Mười hai Đức Như Lai kế tiếp nhau ra đời trong một kiếp. Vị Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Phật ấy dạy con niệm Phật Tam-muội. Ví như có một người lúc nào cũng nhớ, một người lúc nào cũng quên. Như thế hai người gặp nhau cũng như không gặp, thấy nhau cũng như không thấy. Nếu có hai người cùng nghó nhớ nhau, nhớ nghó sâu sắc cho đến đời này đến đời khác cũng như hình với bóng không trái nhau. Các Đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn chạy dầu mẹ nhớ có làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì dầu trải qua nhiều đời cũng không xa cách. Không nhờ phương tiện mà tự được tâm khai. Như người dính dầu thơm thì thân có mùi thơm. Đây gọi là hương Quang trang nghiêm. Nhân địa gốc của con là dùng tâm niệm Phật mà vào Vô sinh nhẫn, nay ở cõi này dẫn dắt người niệm Phật về Tịnh độ. Phật hỏi Viên Thông con không chọn lựa, nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm nối nhau, được Tam-ma-đề đây là bậc nhất. Trường Thủy sớ chép: Vô Lượng Thọ cũng gọi là Vô Lượng Quang. Một người lúc nào cũng nhớ là Phật, một người lúc nào cũng quên là người không niệm Phật. Chúng sinh như thế chắc chắn không thấy Phật. Cho nên nói: Nếu gặp cũng như không gặp. Phật và chúng sinh nhớ nghó khớp nhau cho đến như hình với bóng. Tâm niệm Phật lúc đầu tức dùng tâm sinh diệt mà duyên với tướng tốt của Phật chuyên chú một cảnh, tâm không gián đoạn, thấy tướng tốt của Phật như ảnh trong gương. Lại quán việc niệm Phật đều là luống dối, vốn không tự tánh. Từ niệm tưởng hiện cho nên tâm năng niệm đã khởi hay chưa khởi từ đâu mà chẳng thấy có một pháp, rốt ráo vắng lặng, xưa nay lìa niệm. Lìa tướng niệm giống như hư không, không có riêng một tướng pháp giới nào, tức là Pháp thân Như Lai bình đẳng nên nói là vào Vô sinh nhẫn. Ta đã được độ, chúng sinh không khác với ta. Tánh không khác quan hệ với nhau. Cho nên người niệm Phật ta đều dẫn dắt. Niệm thuộc về ý căn. Ý là chỗ nương của các căn, cho nên nói nhiếp cả, Niệm tức vô niệm, cho nên nói Tịnh niệm, không có khoảng cách giữa các niệm nên nói nối nhau. Tập giải nói do chứng nghiệm mà tu, tâm niệm Phật không thể chỉ nói về sự mà hiểu, niệm giữ ba thứ quán, Phật đủ ba thứ thân, tâm phá được ba hoặc, địa vị Vô sinh nhẫn mới được vào. Kinh Cổ Âm Vương: Cõi nước, Cha mẹ và thân thuộc của Phật Di-đà. Khi Phật ở tại Pháp Hội trong Đại thành Chiêm-ba thuyết giảng về thế giới Cực lạc ở Tây phương của Phật A-di-đà có nói rằng người nào trì niệm danh hiệu Phật ấy thì khi sắp qua đời, Phật và đại chúng sẽ đến chỗ người ấy khiến cho thấy, thấy rồi thì vui vẻ được sinh, lìa hẳn bào thai, thân hình uế dục, tự nhiên hóa sinh trong hoa sen báu. Cõi nước ấy tên là Thanh Thái Thánh vương, thành rộng mỗi bề mười ngàn do-tuần. Trong đó tràn đầy người thuộc dòng Sát-lợi. Cha của Phật A- di-đà là Chuyển luân Thánh vương Nguyệt Thượng, mẹ ngài tên là Thù Thắng Diệu Nhan, con tên là Nguyệt Minh. Đệ tử ngài là Vô Cấu Xứng, đệ tử trí tuệ tên là Lãm Quang, thần túc, tinh tấn, tên là Đại Hóa, Ma vương tên là Vô Thắng, có Đề-bà-đạt-đa tên là Tịch Tónh. Nếu ai tụng Cổ Âm Thanh Vương Đại Đà-la-ni trong mười ngày mười đêm, suốt sáu thời chuyên niệm, kính lễ Phật ấy, chánh niệm bền chắc, thảy đều trừ bỏ tâm loạn. Niệm niệm không ngớt, thì trong mười ngày sẽ thấy Đức Phật ấy và thấy các Đức Như Lai mười phương cùng chỗ ở của các ngài. Chỉ trừ người có chướng nặng và độn căn thì không thấy được (Thần chú dài nên ở đây không chép vào). Ngoài ra Lô Sơn Di-đà sớ có nói kinh Cổ Âm Vương nói: Có người nữ và kẻ ác nghịch há chẳng phải Di-đà hiện ra cõi uế ư? Thiên Trúc quyết nghi nói: Luận Thiên Thân nói người nữ và người căn thiếu không được sinh. Còn kinh Cổ Âm Vương thì cho rằng Phật mẫu khi Phật mới giáng sinh đã thành chánh giác, thì cõi nước ấy thanh tịnh theo, hẳn không có người nữ, hoặc Phật mẫu đã đổi thành người nam giống như Long Nữ ở cõi này. Hoặc lại chết như mẹ của Tất-đạt-đa. Thuyết của hai nhà nói thì lấy Thiên trúc làm chánh, vì kinh đã nói xa lìa bào thai uế dục. Vì Phật khuyên người cầu vãng sinh nên chỉ đối cơ khác nhau, có sai khác chút ít với các kinh. Kinh A-di-đà: Cực lạc ở cách cõi này mười muôn ức cõi Phật: Từ đây về phương Tây cách mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực lạc. Cõi ấy có Đức Phật hiệu là A-di-đà hiện đang nói pháp. Tháp Xuyên Tân sớ nói: Cõi Cực lạc có bốn cõi khác nhau, đó là Đồng cư, Phương tiện, Thật báo và Tịch quang. Ba cõi trước có khổ có vui. Chỉ riêng cõi Tịch quang là vui rốt ráo. Trong Đồng cư có hai: Đồng cư uế và Đồng cư tịnh. Nay kinh này nói là Đồng cư tịnh, vì ý Phật khiến người tu đến thẳng cái vui của Tịch quang, nhưng vì người ấy chưa thể nên khiến lấy Đồng cư tịnh. Đã đến được cái Tịnh ấy thì có thể đến được cái vui rốt ráo của Tịch quang. Lớn lao thay việc khéo quyền biến của bậc Thánh nhân. Trong luận Thập Nghi có hỏi: Tây phương cách đây mười muôn ức cõi Phật, kẻ phàm phu yếu kém làm sao đến được? Đáp rằng: Vì đối với phàm phu mắt thịt có tâm lượng sinh tử nên nói thế. Chứ Tây phương cách đây mười muôn ức cõi, chỉ cần chúng sinh khi nghiệp Tịnh độ thành thì lúc sắp qua đời, tâm ở trong định tức là tâm thọ sinh Tịnh độ khi động niệm liền sinh Tịnh độ, Thế nên kinh Quán nói: Nước Phật cách đây không xa. Lại nghiệp lực không thể suy nghó bàn luận chỉ một niệm liền sinh không phải lo xa. Lại như người nằm mộng thân tuy ở trên giường mà tâm ý thức đến khắp phương khác. Sinh Tịnh độ cũng thế, chẳng nên nghi ngờ. Tự Tín Lục nói: Cực lạc cách đây mười muôn ức cõi. Kẻ phàm phu chết rồi thì khoảnh khắc liền đến là do tâm mình vốn nhiệm mầu mà thôi. Như kinh Lăng Nghiêm nói: Ông cũng chưa biết rõ tất cả phù trần các tướng huyễn hóa, ngay chỗ sinh ra thì ngay đó diệt mất, do nhân duyên luống dối hòa hợp gọi là có sinh, do nhân duyên luống dối chia lìa gọi là có diệt. Thật chẳng biết sinh diệt xưa nay vốn là Như Lai tạng thường trú diệu minh. Trong tánh Chân thường mà tìm kiếm cái tới lui mê-ngộ sinh-tử thì không thật có. Lấy đây mà suy thì khi sắp qua đời do duyên lìa các nhiễm vẫn đục mà Ta-bà huyễn mất và duyên họp các thanh tịnh mà Cực lạc huyễn sinh, đây diệt kia sinh không cách nhau một sợi tóc thì sao có khoảnh khắc mà luận. Hoặc thấy cả ngày lấy bỏ mà không hề lấy bỏ vậy. Kinh A-di-đà: Bảy ngày không loạn thì cảm ứng được Phật mà vãng sinh. Không thể với nhân duyên phước đức gốc lành ít ỏi mà được sinh về cõi nước ấy. Nếu ai nghe nói Phật A-di-đà mà chấp trì danh hiệu Phật ấy từ một ngày cho đến bảy ngày mà nhất tâm bất loạn thì khi người ấy qua đời, Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng sẽ hiện ra trước mắt, khi chết người ấy tâm không điên đảo liền được vãng sinh. Trong Lô Sơn sớ nói: Không thể với chút ít gốc lành mà được sinh, tức nói phải có nhiều gốc lành mới được sinh. Chút ít gốc lành nghóa là phát nguyện cho có, xưng danh tán loạn. Còn nhiều tức là chấp trì danh hiệu định kỳ nhất định. Chấp nghóa là vâng lãnh, trì nghóa là làm theo. Do tín nên vãng sinh trong lòng, vì niệm lực nên giữ mãi không quên. Trong Tráp Xuyên Sớ chép: Phước đức dù nhiều nhưng đại khái như trong kinh Quán nói ba thứ Tịnh nghiệp. Ngài Thiên Thai nói ba thứ Tịnh nghiệp làm tán tâm, chỉ mười sáu Diệu Quán mới gọi là chánh thọ, lấy đây mà nêu kia. Phước đức nhân duyên tức là tán tâm, nhất tâm bất loạn là chánh thọ. Ngài Lô Sơn nói kinh này là tán thiện, còn kinh Quán thuộc định thiện. Tôi không theo thuyết ấy. Vả lại Phổ môn phẩm Sớ giải thích nhất tâm xưng danh có sự có lý. Nếu chú tâm luôn niệm không gián đoạn là sự nhất tâm, nếu hiểu rõ tâm này bốn tánh không sinh, cùng không tuệ tương ứng nhau thì gọi là lý nhất tâm. Dùng kia nghiệm đây thì Nhất tâm cũng thế. Song trong Phẩm Phổ Môn không có hai chữ bất loạn. Ngài Trí Giả còn đem không tuệ để giải thích, ở đây nói nhất tâm bất loạn sao lại chê là tán thiện. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Thực hành ba thứ nghiệp được vãng sinh Tây phương. Người muốn sinh về cõi nước ấy phải tu ba thứ phước: Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ kính thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp lành. Thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tung kinh điển Đại thừa, khuyến khích, sách tấn hành giả. Ba thứ nghiệp này là chánh nhân tịnh nghiệp của các Đức Phật ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Thiên Thai Quán kinh sớ nói rằng: Nghiệp thứ nhất của phàm phu, nghiệp thứ hai của hàng Nhị thừa, nghiệp thứ ba là của Đại thừa, có pháp chẳng chung (Bất cộng): Kính trên nhường dưới, từ tâm tu mười điều lành đó, là chỉ hạnh thân trừ ba tà, miệng lìa bốn lỗi, ý dứt ba ác. Giới tại gia cũng tức mười giới, các giới đầy đủ tức người xuất gia, tại gia thọ đủ các giới vi tế, không phạm oai nghi có ba ngàn oai nghi đều chẳng thiếu phạm. Phát tâm Bồ-đề. Phát khởi ý thú gọi là phát tâm, Phật quả viên thông gọi là Bồ-đề. Đọc tụng kinh điển Đại thừa là nói về tu giải, còn Hạnh vận thông gọi đó là Thừa. Ngài Diệu Tông nói ba thứ nghiệp này, nếu ai được nghiệp trước thì chưa được nghiệp sau, còn ai được nghiệp sau thì sẽ gồm được nghiệp trước. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Trước tu quán mặt Trời tưởng về Tây phương. Phật dạy bà Vi-đề-hy rằng: Bà và chúng sinh nên khởi niệm quán tưởng ngồi xây mặt về hướng Tây mà quán nhất định mặt trời lặn, khiến tâm bền chắc, chuyên tưởng không dời đổi, thấy mặt trời sắp lặn như chiếc trống treo. Quán kinh Sớ nói: Mặt trời sắp lặn như chiếc trống treo là cách đưa tư tưởng về Tây phương. Ngài Diệu Tông nói phép cột tâm là quán mặt trời lặn, tức muốn cho tư tưởng luôn nhất định hướng về Tây phương, là nơi ở của Phật A-di-đà thì lấy mặt trời lặn làm cảnh mà tưởng. Nay khởi quán thấy mặt trời tròn thì biết tâm năng tưởng vốn sẵn có tất cả y chánh. Ở đây lấy tâm vốn có mặt trời mà duyên với mặt trời tức tâm, khiến mặt trời tánh hiện ở trước, ở đây là lấy tâm pháp giới duyên với cảnh Pháp giới mà khởi lên mặt trời Pháp giới thì đều là Pháp giới, há chẳng phải tức không, giả, trung trụ chắc vào tâm này ư? Khi đã rõ ràng rồi thì việc quán mặt trời đã thành tựu. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Y cứ vào tâm mà quán Phật thuộc pháp quán tượng thứ tám. Kế đến tưởng Phật, vì sao? Vì các Đức Phật Như Lai là thân pháp giới mà nhập vào tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Thế nên khi tâm các ông tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biển Chánh biến tri của các Đức Phật từ tâm tưởng sinh ra. Thế nên phải nhất tâm giữ niệm quán kiên trì Đức Phật ấy. Quán kinh sớ nói: “Từ các Đức Phật Như Lai” trở đi là nói chung về các Phật. Thế nên từ “phải nên” trở đi là quán riêng Di-đà. Thân Pháp giới tức là thân Pháp tánh của Báo Phật. Chúng sinh tâm Tịnh là Pháp Thân tự tại, nên nói là vào. Như mặt trời sáng giữa trời. Ảnh hiện trăm sông là nói thân Phật tự tại tùy vật mà hiện ra. Lại thân Pháp giới là thân Phật, không đâu chẳng khắp, lấy Pháp giới làm thể. Được Tam-muội Quán Phật này mà giải nhập tương ưng, cho nên nói là nhập vào tâm tưởng. Tâm ấy làm Phật, Phật vốn là không, vì tâm tịnh cho nên có. Tâm ấy là Phật, vừa rồi hỏi Phật vốn là không vì tâm tịnh cho nên có, bèn cho rằng như thế cho nên nói “tức là”, mới học thì gọi là làm, cuối cùng thành tựu thì gọi “Là”. Ngài Diệu Tông giải thích rằng: Muốn tưởng thân Phật thì phải biết quán thể. Thể là bổn giác khởi thành, năng quán, bổn giác chính là thân pháp giới của các Đức Phật. Vì các Đức Phật không có chỗ chứng nào riêng khác mà hoàn toàn là chứng bản tánh của chúng sinh. Nếu thỉ giác có công phu thì bổn giác liền hiển bày, nên nói là Pháp thân từ tâm tưởng sinh ra. Hơn nữa, Đức Phật Di-đà cùng tất cả các Đức Phật là một thân một trí, ứng dụng cũng thế. Tướng Di-đà hiển hiện tức là thân của các Đức Phật. Thân các Đức Phật sáng rõ tức là thể của Di-đà. Thế nên nói chung các Đức Phật để làm quán thể Di-đà. Từ “Thân Pháp giới” trở đi là nói về đạo cảm ứng giao nhau mà giải thích. Từ “Lại thân Pháp giới” trở đi là giải nhập tương ứng mà giải thích. Dung Tâm giải thích rằng: Nếu không có giải thích đầu thì quán không phải là quán Phật. Nếu không có giải thích sau thì chúng sinh và Phật thể khác nhau. Hai giải thích thành tựu cho nhau. Pháp quán này tâm ấy làm Phật, là nói tức tâm biến toàn tánh thành tu. Tâm ấy là Phật là ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm. Tâm đã hoàn toàn là tâm ấy. Tâm há thấy tâm. Như ngón tay không chạm dao thì không bị thương. Ban-chu gọi là Ngã Sở niệm tức thấy tâm làm Phật. Chẳng biết chỉ quán của tâm y cứ theo đây mà lập trung quán. Ban-chu và văn này đồng nhau. Như Lai sợ người chấp tướng quán Phật cho nên ở trước chân tượng bày việc quán thể. Khiến y theo Pháp này mà quán thân Phật. Diệu Tông lại nói: Nay quán tâm, không phải ở ngay nơi ấm mà quán Bổn tánh Phật, phải nhờ Phật khác mà hiển bày Bổn tánh, cho nên trước nói ứng Phật nhập vào tâm tưởng ta, kế nói thân Phật hoàn toàn là Bổn giác, cho nên ứng Phật hiển rõ thì biết Bản tánh sáng, nghóa nhờ bên ngoài mà thành thì quán Duy tâm được lập. Nếu luận “Làm” và “Là” tức là ba quán không thể nghó bàn. Nếu hoặc phá hoặc lập gọi là “Làm” thì tức là hai quán không và giả. Còn chẳng phá, chẳng lập gọi là “Là”, đó là quán Trung đạo. Toàn “là” mà “làm” thì ba đế đều phá, đều lập. Toàn “làm” mà “là” thì cả ba đế đều không phải phá, lập, tức là không giả của Trung. Gọi làm thì phá được ba hoặc thành được ba pháp, cho nên cảm ba thân viên ứng của Phật khác mà có thể thành tâm ta. Ba thân của hiện quả tức là Trung của không, giả. Gọi “là” thì toàn hoặc tức là trí, toàn chướng tức là đức, cho nên tâm là Ứng Phật, tâm là quả Phật, cho nên biết “làm” là một tâm. Tu ba quán này thì đó là tổng thể của mười sáu pháp quán. Diệu tông của một kinh thì văn trích từ đây, nghóa trùm khắp trước sau. Thế nên người tu phải thực hành ý này. Người tu nhân Tịnh độ chẳng thể không biết. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Đủ ba thứ tâm liền được vãng sinh. Nếu có chúng sinh nguyện sinh về nước ấy, thì phát ba tâm liền được vãng sinh. Ba tâm ấy là gì? Tâm chí thành. Tâm sâu xa. Tâm phát nguyện hồi hướng. Người có ba tâm này quyết định vãng sinh nước ấy. Quán kinh sớ nói: Tâm chí thành, tức là nói chúng sinh thật hành. “Chí” là chuyên, “Thành” là thật. “Sâu xa” là quả Phật cao sâu, lấy tâm mà cầu, nên nói là tâm sâu xa. Cũng từ lý sâu mà sinh, cũng từ gốc lành vui sâu dày mà sinh. Nên kinh Thập địa có nói vào tâm sâu rộng. Kinh Niết-bàn nói: Gốc sâu khó nhổ, nên nói là tâm sâu xa. Ngài Thiện Đạo giải thích rằng: Thân lễ bái Đức Phật ấy, miệng khen ngợi Đức Phật ấy, ý quán sát Đức Phật ấy. Vì ba nghiệp chân thật nên gọi là tâm chí thành. Vì tín tâm chân thật tin biết tự thân mình đầy dẫy phiền não, phải trôi giạt trong ba cõi. Tin biết bổn nguyện Di-đà, xưng danh dù chỉ mười câu cho đến một niệm không có tâm nghi ngờ, nên gọi là tâm sâu xa. Phàm tu được tất cả gốc lành thảy đều hồi hướng nguyện cầu vãng sinh, nên gọi là tâm phát nguyện hồi hướng. Đủ ba tâm này chắc chắn được vãng sinh. Nếu thiếu một tâm thì chẳng được sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Công phu mười niệm thành tựu thì hạ phẩm hạ sinh Về Hạ phẩm hạ sinh, gây ra nghiệp ác, như năm tội nghịch, mười điều ác, vì nghiệp ác thì phải đọa vào đường ác. Người ngu này khi sắp qua đời gặp được Thiện tri thức nói cho nghe pháp mầu, dạy niệm Phật. Người này bị khổ bức bách nên chẳng tỉnh táo mà niệm Phật. Có bạn lành bảo rằng: Nếu ông chẳng niệm được thì nên xưng danh Phật Vô Lượng Thọ. Như thế mà dốc lòng khiến cho từng tiếng không dứt, đầy đủ mười niệm, xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Vì xưng niệm danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Khi qua đời thấy hoa sen vàng liền được vãng sinh. Quán Kinh Sớ nói: Tâm lành nối nhau đến mười niệm hoặc một niệm thành tựu liền được vãng sinh. Vì niệm Phật diệt trừ tội chướng, nên lấy niệm Phật làm duyên tốt. Hỏi: Vì sao chỉ với tâm lực trong một thời gian ngắn mà có thể thắng được việc tạo ác của cả cuộc đời ư? Đáp: Đại luận có nói tâm này tuy thời gian ít mà tâm lực rất mạnh mẽ nhanh chóng, tâm chắc chắn quyết đoán hơn cả nguyện lực trăm năm. Tâm ấy gọi là Đại tâm, vì bỏ thân là việc gấp, như người vào trận chẳng tiếc thân mạng gọi là người mạnh mẽ. Diệu Tông nói: Người này tuy gây ra nghiệp ác nhưng đã có tu quán, nên khiến cho khi sắp qua đời khuyên niệm với định tâm thì sẽ thành, cũng là người thừa gấp giới chậm. Dẫu hiện đời không tu Tam-muội thì cũng là hạt giống đời trước nay đã chín. Cho nên trong luận Thập Nghi nói rằng: Khi sắp qua đời gặp được Thiện tri thức mà niệm được mười niệm thì đều do nghiệp lành đời trước rất mạnh mẽ nên mới gặp được tri thức. Giải thích như thế này thì mới hợp với nghóa định thiện. Nếu người trước kia vốn chẳng tu Tam-muội thì thuộc tiền hối, có nghóa khinh trọng. Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Bà Vi-đề-hy và thị nữ đều được vãng sinh Phật nói xong lời ấy, bà Vi-đề-hy và năm trăm cô gái hầu nghe lời Phật nói liền thấy Cực lạc thế giới, tâm rất vui mừng, được Vô sinh nhẫn. Đức Thế Tôn thọ ký cho đều được vãng sinh. Quán kinh sớ hỏi: Luận nói người nữ và căn thiếu không sinh còn kinh này nói bà Vi-đề-hy và năm trăm cô gái hầu đều được vãng sinh là sao? Đáp rằng: Luận nói người nữ và căn thiếu không sinh, là nói người sinh về nước ấy thì Tịnh căn lìa dục không có thân nữ, các căn đều tinh vi, nên không có căn thiếu. Kinh nói mới sinh cho nên có tâm lành tất cả đều được vãng sinh. Luận Thập Nghi nói: Ở đó không có người nữ và không có người mù, điếc, câm, ngọng. Nhưng ở cõi này thì tất cả người nữ và những kẻ điếc, đui, câm, ngọng mà tâm niệm Di-đà thì đều được sinh về nước ấy. Kinh A-di-đà: Do tâm nghi ngờ sẽ sinh ở biên giới của Tây phương. Đức Phật nói người bậc trung tuy không bỏ nhà lìa tục nhưng thọ trì kinh giới, lập đàn bố thí, thường tin lời Phật, muốn sinh về nước Phật ấy, người này khi chết sẽ thấy Phật A-di-đà, sẽ được sinh về cõi nước Phật ấy mà có được trí tuệ mạnh mẽ. Nếu người giữa chừng có tâm ăn năn hoặc nghi ngờ không tin, chỉ lập đàn bố thí, làm các điều lành được phước mà không tin vãng sinh về nước Phật Di-đà. Người này niệm nối nhau không dứt nhưng lúc tin lúc không, chẳng chuyên chú nhất định. Nhưng căn cứ vào các nguyện lành làm gốc cho nên cũng được vãng sinh. Nhưng người này chết rồi không được đến chỗ Phật A-di-đà. Tiện đường thấy biên giới nước Phật A-di-đà trong thành toàn bảy báu nên tâm rất vui mừng bèn ngừng ở đây. Hóa sinh nơi hoa sen trong ao hoa bảy báu. Thành rộng mỗi bề hai ngàn dặm, vui sướng như cung trời Đao lợi nhưng không thấy Phật, chỉ thấy ánh sáng, tâm rất ăn năn, người này ở trong thành ấy năm trăm năm rồi mới được sinh đến chỗ Phật A-di-đà mà nghe pháp được ngộ. Kinh Vô Lượng Thọ: Không hiểu trí Phật sẽ thọ sinh trong Thai cung. Phật bảo ngài Từ Thị rằng: Người dân nước ấy (Cực lạc) có thai sinh, ông có thấy chăng? Thưa: Con đã thấy ở trong thai sinh ấy như ở trong cung điện rộng một trăm do-tuần hoặc năm trăm do-tuần, đều ở trong ấy mà thọ hưởng sự vui sướng như cung trời Đao lợi. Ngài Từ Thị bạch Phật rằng: Do đâu mà người cõi nước ấy hóa sinh thai sinh? Phật bảo: Nếu có chúng sinh tâm nghi ngờ, tu các công đức nguyện sinh về nước ấy mà không hiểu trí Phật, trí Bất tư nghì, trí Bất khả xưng, trí Đại thừa rộng lớn, Thắng trí Vô đẳng vô luân tối thượng… Đối với các trí ấy mà mê hoặc không tin. Song còn tin tội phước mà tu tập gốc lành, cầu sinh về nước ấy. Các chúng sinh này sinh vào cung điện ấy sống năm trăm năm, thường không thấy Phật, không nghe Pháp, không thấy Tăng. Thế nên gọi là thai sinh. Nếu có chúng sinh tin rõ trí Phật cho đến trí thù thắng, làm các công đức, tín tâm hồi hướng thì các chúng sinh này sẽ hóa sinh trong hoa sen bảy báu, ngồi kiết già, phút chốc thân tướng sáng suốt, trí tuệ công đức thành tựu đầy đủ như các Bồ-tát. Này Di-lặc, phải biết người hóa sinh ấy vì trí tuệ cao quý nên Phật nói người ấy, sau khi làm việc đó nếu trong tâm có ăn năn nghi ngờ, không tin làm lành đời sau được phước, không tin việc vãng sinh nước Phật, người này dù thế vẫn được vãng sinh. Người này khi qua đời, Phật A- di-đà liền khiến người ấy nằm mộng thấy nước Phật A-di-đà, tâm rất vui mừng tự nghó rằng ta ăn năn, không biết lợi ích làm các điều lành nay được vãng sinh. Người này chỉ nghó, miệng không nói được, liền tự hối lỗi, nghi ngờ giảm ít, ăn năn vô cùng. Người này khi chết liền sinh về nước Phật A-di-đà nhưng không đến trước, tiện đường thấy thành bảy báu rộng hai ngàn dặm, tâm rất vui mừng bèn nghỉ lại ở đấy. Ở trong ao bảy báu mà hóa sinh vào hoa sen, như cung trời Đao lợi thứ hai, sống trong thành ấy năm trăm năm, về sau được ra mới đến chỗ Phật A-di-đà. Người này nghe kinh nhưng tâm không hiểu, trí tuệ không sáng. Nhà cửa trên đất, không thể tùy ý khiến nhà cửa cao rộng ở trên hư không. Lại cách Phật A-di-đà rất xa không thể gần được, cũng như hạng người nghi ngờ thứ hai. Người này lâu sau trí tuệ cũng được khai giải, hiểu kinh mạnh mẽ như hạng người thứ nhất. Vì sao? Vì đời trước khi cầu Đạo giữa chừng thì ăn năn, hồ nghi, chợt tin chợt không, không tin làm lành được phước đức, đều tự nhiên được như thế. Phải biết người sinh nghi ngờ bị mất lợi lớn. Thế nên phải sáng suốt tin tưởng vào trí tuệ vô thượng của các Đức Phật. Quán kinh sớ có giải thích rằng: Trong pháp quán mặt trời dạy khiến chánh quán để trừ tâm nghi. Đại Bản nói với tâm nghi ngờ mà tu các công đức thì sẽ lạc vào biên địa (biên giới) lại chịu thai sinh, cho nên thực hành quán này để khiến dứt bỏ nghi ngờ. Diệu Tông nói: Kinh nói không hiểu trí Phật liền sinh nghi ngờ. Sớ nói: Cho nên thực hành pháp quán này khiến dứt bỏ nghi ngờ, nếu pháp quán này hiển sáng thì liền hiểu trí Phật. Nếu không dùng ba quán mà quán mặt trời lặn thì mê trí Phật. Quán mặt trời như thế mà các phép quán khác cũng như vậy. Cho nên biết Đại sư y vào trí Phật mà lập ra pháp quán này. Nếu phàm làm ít điều lành đến khi sắp qua đời mà hồi hướng trí Phật lại làm các điều ác, thì phải nương trí Phật mà cầu diệt hết các tội chướng. Đã có thừa chủng thì khi sinh về nước ấy sẽ nhanh mau được thấy Tam bảo, không sinh vào biên địa và thai cung. Kinh Bồ-tát Xử Thai: Có tâm đắm nhiễm thì sinh vào nước Giải mạn. Phật nói ở phương Tây cách cõi này mười hai ức na-do-tha, có cõi nước Giải mạn, vui sướng an ổn. Người muốn vãng sinh về nước Phật A-di-đà, thì phải qua nước này. Người nhiều đắm nhiễm liền nguyện sinh về nước ấy thì không được đến cõi Phật Di-đà. Nếu người thấy đây mà không tham, không đắm thì được vượt qua mà đến nước An lạc. Di-đà kinh sao nói: Nước Giải mạn này tức kinh Vô Lượng Thọ gọi là Nghi thành. Phật sợ chúng sinh niệm Phật sinh nghi ngờ nên hiện ra nước này. Hỏi: Đã nói là giải mạn sao lại vui sướng được? Đáp: Đối với Cực lạc tức là giải mạn, còn đối với Ta-bà thì là vui sướng. Kinh Bình Đẳng Giác: Thanh văn ở Tịnh độ tu hành chứng quả. Cõi Phật vô lượng thanh tịnh. Các Bồ-tát, A-la-hán đều ở trong ấy mà hành đạo. Có người ở trên đất giảng kinh, tụng kinh, ngồi thiền, có người ở trên hư không mà giảng kinh, đi kinh hành. Trong đó ai chưa chứng quả Tu-đã-hoàn thì chứng quả Tu-đà-hoàn, ai chưa chứng quả Tư-đà-hàm thì chứng quả Tư-đà-hàm, ai chưa chứng quả A-na-hàm thì chứng quả A-na-hàm, ai chưa chứng quả A-la-hán thì chứng quả A-la- hán, ai chưa được A-duy-việt trí thì được A-duy-việt trí không lui sụt. Ai nấy tự hành đạo đều rất vui mừng. Lại kinh A-di-đà nói đệ tử Đức Phật ấy đều là A-la-hán đông không xiết kể. Lại trong kinh Quán nói: Người trong ba bậc vãng sinh về nước ấy nghe pháp đều chứng quả A-la-hán. Trong luận Thập Nghi chép: Cõi nước ấy không có người có tâm nhị thừa, thuần nhất là bạn lành Đại thừa thanh tịnh. Quán kinh sớ hỏi: Theo luận Vãng Sinh thì hàng Nhị thừa không sinh, còn trong kinh Quán thì nói hàng Tiểu thừa được sinh là sao? Đáp: Đúng ra thì hạnh Tiểu thừa không sinh, bởi do muốn phát triển hạt giống Đại thừa nên mới được sinh! Vì trước kia thường học Tiểu thừa đến đó nghe Khổ, Không, Vô thường mà phát sinh sự hiểu trước đây đã chứng Tiểu quả. Chứng Tiểu quả rồi thì không trụ ở Tiểu bèn vào Đại thừa. Diệu Tông chép: Do hồi tâm mà được sinh, do thói quen mà chứng Tiểu. Biết Đại thì chứng Tiểu sẽ cũng không chấp thiên chân, nên sau đó không lâu sẽ chứng Đại thừa. Kinh Vô Lượng Thọ: Gây năm tội nghịch và chê bai chánh pháp thì không được vãng sinh. Trong bốn mươi tám nguyện thì nguyện thứ mười tám nói: Nếu tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin ưa muốn sinh về nước tôi, dù cho chỉ niệm mười niệm, nếu không sinh thì tôi không thành Chánh giác, chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch và chê bai Chánh pháp. Lại quyển sau có nói: Những ai nghe danh hiệu Phật tin chắc vui mừng dù chỉ một niệm hồi hướng nguyện sinh thì liền được vãng sinh, chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch và hủy báng Chánh pháp. Quán kinh sớ nói: Đại Bản nói: Năm tội nghịch và chê bai chánh pháp không được sinh. Còn kinh Quán này thì nói năm tội nghịch được sinh. Giải thích có hai nghóa, nói về người tạo tội có thượng căn, hạ căn: Như thượng căn, ở đời theo phép Vua, phạm năm tội nghịch thì bị tội nặng, nếu có hối lỗi thì tội tiêu mỏng nên cho được sinh. Còn Hạ căn tạo tội phần nhiều không hối lỗi, nên không được sinh; hai là nói về hạnh, thì hạnh có định và tán. Quán Phật Tam-muội gọi là định. Tu các nghiệp lành khác gọi là tán. Sức tán thiện yếu không trừ được năm tội nghịch nên không được sinh. Đại Bản theo đây nên nói không sinh. Còn kinh này nói về quán nên được sinh. Kinh Vô Lượng Thọ: Tướng tu nhân Vãng Sinh của ba bậc. Phật nói chúng sinh trong mười phương nguyện sinh về nước ấy gồm có ba bậc: Bậc Thượng, là bỏ nhà, lìa dục làm Sa-môn, phát tâm Bồ-đề, một bề chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức và nguyện sinh về nước ấy. Người ấy khi chết thì Phật Vô Lượng Thọ cùng các đại chúng hiện ra trước mặt, người ấy liền theo Đức Phật kia mà sinh vào trong hoa bảy báu, an trụ không lui sụt, trí tuệ mạnh mẽ, thần thông tự tại. Bậc Trung: Dốc lòng nguyện sinh về nước ấy, tuy chẳng làm Sa-môn nhưng tu công đức lớn, phát tâm Bồ-đề Vô thượng, lúc nào cũng chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu điều lành nhiều ít, vâng giữ trai giới, xây tạo tháp tượng, cúng dường Sa-môn… Các thứ ấy đều hồi hướng nguyện sinh nước ấy. Người này khi sắp qua đời, Phật Vô Lượng Thọ sẽ hóa hiện thân cùng các đại chúng hiện ra trước mặt. Người ấy liền theo Hóa Phật vãng sinh về nước ấy, an trụ vị không lui sụt, công đức trí tuệ đứng sau bậc Thượng. Bậc Hạ: Dốc lòng muốn sinh về nước ấy. Giả sử không làm các công đức nhưng phải phát tâm Bồ-đề Vô thượng, chuyên ý một mực cho đến chỉ mười niệm. Nếu nghe pháp sâu vui mừng tin ưa, không sinh nghi ngờ cho đến một niệm luôn nghó về Đức Phật ấy, người này khi sắp qua đời mộng thấy Đức Phật ấy, cũng được vãng sinh. Công đức trí tuệ kế sau bậc Trung. Quán kinh sớ nói rằng: Chín phẩm của kinh Quán là khiến cho biết giai vị thượng, trung, hạ, tức là ba bậc của Đại Bản, Lô Sơn San Chánh Ký chép: Ba bậc của Đại Bản chỉ bằng sáu phẩm của kinh Quán. Vì ba bậc ấy thuần nói về hạnh lành không có người ác. Ngài Linh Chi bảo ba phẩm của Đại Bản đều có phát tâm có thể so với bậc Thượng của kinh Quán, còn hai bậc Trung và Hạ thì không so sánh được. Huống là việc tạo nhân sau đây hoàn toàn khác. Phụ Chánh giải rằng: Ngài Thiên Thai dùng chín Phẩm của kinh này xem đồng với ba bậc của Đại Bản. Bèn y cứ vào đại vị cao, thấp, kia, đây, đồng nhau mà hiểu, chứ không y cứ theo tướng của hạnh nhân phát tâm để hiểu ba phẩm. Kinh Vô Lượng Thọ: So sánh sự tu thiện khác nhau giữa hai cõi. Phật nói: Người đời sau gặp được lời Phật, kinh Phật nói nên suy nghó chín chắn. Ở trong đó mà giữ tâm hạnh ngay thẳng, chủ trương làm lành và hóa độ kẻ thấp kém khiến ai nấy tự giữ gìn, gieo trồng gốc đức, thi ân bố đức, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, chánh tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh, một ngày một đêm hơn ở cõi Phật Vô Lượng Thọ làm lành trăm năm. Vì sao? Vì cõi Phật ấy vô vi tự nhiên, đều làm các điều lành, không có mảy may điều ác. Ở cõi này mà tu điều lành mười ngày mười đêm thì hơn ở cõi nước khác của các Đức Phật làm lành một ngàn năm. Vì cõi nước của các Đức Phật ở phương khác người làm lành thì nhiều, kẻ làm ác thì ít. Cho nên chỉ ở cõi này nhiều người ác mà không có tự nhiên, thân tâm khốn nhọc, ăn khổ uống độc. Ta thương xót các ông nên hết lòng khuyên dạy, các ông nên gắng sức tu điều lành. Kinh Vô Lượng Thọ: Nhiều chúng Bồ-tát Vãng sinh Tịnh độ Bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng: Ở thế giới này có bao nhiêu Bồ-tát không lui sụt vãng sinh Cực lạc? Phật bảo ngài Di-lặc rằng: Ở thế giới này có sáu mươi bảy ức Bồ-tát không lui sụt vãng sinh cõi nước ấy. Mỗi Bồ-tát đã từng cúng dường vô số các Đức Phật thứ tự như Di-lặc. Các Bồ-tát tiểu hạnh và những người tu tập ít công đức sinh về đó thì đông không kể hết. Lại chẳng phải chỉ các Bồ-tát ở cõi ta vãng sinh mà ở các cõi Phật phương khác như cõi Phật Viễn Chiếu có một trăm tám mươi ức Bồ-tát đã vãng sinh cho đến không chỉ mười bốn cõi Phật có các Bồ- tát vãng sinh, mà ở thế giới mười phương có vô lượng cõi Phật, người vãng sinh đông vô số. Nếu kể đủ một kiếp cũng không hết được. Nay chỉ nói sơ lược. Kinh Vô Lượng Thọ: Khi Pháp diệt, lưu lại kinh này một trăm năm để độ người. Nếu có người nghe kinh này thì đối với Đạo Vô thượng sẽ không lui sụt. Thế nên phải chuyên tâm nói và làm. Ta nói kinh pháp này khiến thấy Phật Vô Lượng Thọ và cõi nước của ngài. Nếu ai có thắc mắc gì nên thưa hỏi, không được, sau khi ta diệt độ rồi lại sinh nghi ngờ. Ở đời vị lai khi các kinh sách đã diệt hết rồi thì ta thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này trong một trăm năm, để có chúng sinh nào gặp kinh này thì tùy ý cầu nguyện sẽ đều được độ. Trong đó nếu có người không tin việc đọc tụng, xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà lại chê bai, hủy báng thì trong năm kiếp bị đọa địa ngục chịu đủ các khổ. Kinh Vô Lượng Thọ: Khuyên mọi người tinh tấn gắng sức cầu sinh. Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: Các trời, người ở cõi nước Phật Vô Lượng Thọ rất vi diệu, an vui thanh tịnh. Người ở cõi này sao không cố gắng làm lành, niệm đạo tự nhiên, không đắm trước trên dưới, thông đạt không bờ mé. Ai nấy đều nên tinh tấn gắng sức tự cầu thì sẽ được vượt lên mà vãng sinh nước An lạc, dứt hết năm đường ác, nẻo ác tự nhiên đóng bít. Đạo rất dễ đến mà không có người. Nước ấy chẳng có trái nghịch, đến được tự nhiên. Sao không bỏ việc đời mà siêng năng cầu Đạo đức; có thể được thì sống rất lâu, vui vẻ vô cùng cực. khắp Kinh Vô Lượng Thọ: Phật Vô lượng Thọ ánh sáng chiếu Phật bảo A-nan: Phật Vô Lượng Thọ có ánh sáng oai thần cao quý bậc nhất. Ánh sáng của các Đức Phật khác đều không sánh bằng. Có Phật ánh sáng chiếu trăm cõi Phật, hoặc chiếu ngàn thế giới Phật. Nói tóm lại là chiếu về phương Đông hằng hà sa cõi Phật. Các phương Nam, Tây, Bắc và bốn góc, trên, dưới, cũng giống như thế. Hoặc có ánh sáng Phật chiếu xa bảy thước, hoặc chiếu xa một do-tuần, hoặc gấp bội như thế cho đến chiếu xa cả một cõi Phật. Thế nên, Phật Vô Lượng Thọ còn gọi là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang… Nếu chúng sinh nào gặp được ánh sáng này thì ba cấu tiêu trừ, thân ý nhu hòa vui vẻ, thiện tâm sinh lớn. Nếu ở trong ba đường dữ mà thấy ánh sáng này thì không bị các khổ não, chết rồi đều được giải thoát. Kinh Vô Lượng Thọ: Bát báu ăn uống tự nhiên đầy đủ. Ở cõi nước Phật ấy, những người vãng sinh nơi ở, cung điện, y phục, đồ dùng quý báu đều tự nhiên hiện ra, như các bát vàng, bạc, lưu ly… tùy ý hiện ra, đủ cả trăm vị ăn uống tự nhiên đầy đủ. Tuy có ăn mà như không ăn, chỉ thấy sắc nghe hương, ý cho là ăn, tự nhiên no đủ. Thân tâm nhu hòa không hề mê đắm. Việc ăn uống xong liền biến mất đến giờ khắc thì hiện ra. Kinh Bình Đẳng Giác và kinh Đại A-di-đà đều nói Phật A-di-đà, Bồ-tát, A-la-hán đều tự nhiên có bát bảy báu, trong bát đủ cả trăm vị, thức ăn ở thế gian hoặc trên trời và cả tám phương trên, dưới, thức ăn tinh vi, hương vị không gì sánh được, tự nhiên hóa sinh. Muốn ăn liền có không nhiều không ít, cũng chẳng nói ngon dở, ăn xong liền biến mất, sạch sẽ thanh tịnh, không đắm nhiễm việc ăn uống, vì chỉ dùng làm khí lực mà thôi. Luận Vãng Sinh nói: Ưa thích vị Phật pháp, Thiền Tam-muội làm thức ăn. An dưỡng Ký chép: Trước nói thật không có ăn uống. kế hai kinh cho là dùng làm khí lực nên ăn. Y cứ theo cõi Dục thì chưa bỏ cách ăn từng phần (đoàn thực), nên cần phải ăn. Theo ngài Mãn Nguyện tử thành Phật có thức ăn bằng Pháp hỷ, Thiền duyệt thì không tưởng thức ăn khác, vậy ở Tịnh độ cũng không thật có ăn. Nên biết ở cõi ấy trăm vị và bốn thứ vi diệu đều tùy ý mà có đủ, ăn và không ăn cũng là một, cách nói của hai kinh tùy lúc mà hiểu. Kinh Hoa Nghiêm: So sánh sự dài ngắn của ngày đêm ở hai cõi Trong phẩm Thọ Lượng, Bồ-tát Tâm Vương nói: Một kiếp ở cõi Phật Thích-ca thuộc thế giới Ta-bà này bằng một ngày một đêm ở Cực lạc Thế giới cõi Phật A-di-đà. Một kiếp ở thế giới Cực lạc bằng một ngày một đêm ở cõi Phật Kim Cang Kiên thuộc thế giới Ca-sa Tràng. Lần lượt như thế qua trăm muôn A-tăng-kỳ thế giới thì một kiếp ở thế giới sau cũng bằng một ngày một đêm ở thế giới Thắng liên hoa thuộc cõi Phật Hiền Thắng. Lại kinh A-di-đà nói cõi Phật ấy sáu thời trong một ngày đêm. Trong Di-đà Thông Tán, ngài Từ Ân nói: Tịnh độ ngày đêm đều có sáu thời. Hỏi: Người ở Tịnh độ dứt bặt vô minh, cõi nước ấy không có sáng tối, sao lại nói có ngày đêm? Đáp: Hoa nở ao vàng hóa sinh là trời sáng. Chim ngủ rừng ngọc, Bồ-tát khởi tưởng là đêm. Tráp Xuyên tân sớ chép: Phải biết sáu thời là ngày ba, đêm ba. Chúng sinh nước ấy thân có ánh sáng, không có núi Tu-di nên không có mặt trời mọc lặn mà chia ngày đêm. Như Thích Thiêm nói các vị trời lấy hoa nở hoa khép mà biểu thị ngày đêm, thì thuyết của Từ Ân có lẽ đúng. Kinh này mượn giờ khắc ở cõi này mà chia thời gian. Như việc kinh Hoa Nghiêm nói Tây phương có sáu thời thì không thể dùng thời gian giờ Dần, giờ Mẹo mà tính thời gian dài ngắn. Có chỗ chẳng theo thuyết của ngài Từ Ân vì không có chứng cứ. Nên tôi xem kinh Bi Hoa nói về thế giới của Tôn Phật Liên Hoa rằng: Phật ấy thường có ánh sáng, lấy hoa khép chim đậu Bồ-tát vào định thì biết là đêm. Nếu gió thổi, hoa bay, chim hót Bồ-tát xuất định thì biết là ngày. Kinh Văn-thù Thuyết Bát-nhã: Tu Nhất hạnh Tam-muội chuyên xưng danh hiệu Phật. Ngài Văn-thù nói: Vì sao gọi là Nhất hạnh Tam-muội? Phật nói Pháp giới nhất tướng hệ duyên với Pháp giới đó gọi là Nhất hạnh Tam- muội. Muốn vào Nhất hạnh Tam-muội phải ở chỗ vắng vẻ bỏ các loạn ý, chẳng chấp hình tướng nào, giữ tâm vào một Đức Phật, chuyên xưng niệm danh hiệu. Tùy theo chỗ Phật mà ngồi thẳng hướng về, niệm niệm nối nhau. Tức là trong một niệm thấy đủ các Đức Phật quá khứ, hiện tại. Vì sao? Vì công đức niệm một Đức Phật cũng bằng công đức niệm các Đức Phật, không khác nhau, đều thành Nhứt như, thành tối Chánh giác. Thiên Thai Chỉ Quán nói: Thường tọa Tam-muội xuất xứ từ kinh Văn-thù Thuyết Văn-thù Vấn, gọi là Nhất hạnh Tam-muội lấy chín mươi ngày làm một hạn kỳ, ngồi kiết già hướng về một Phật trong thời gian nối nhau. Nếu ngồi lâu mỏi mệt hoặc bị bệnh tật gây khốn, hoặc buồn ngủ, nội ngoại chướng xâm phạm… thì phải chuyên niệm một danh hiệu Phật mà hổ thẹn, sám hối, thân mạng tự quy với công đức chánh đẳng của danh hiệu các Đức Phật mười phương. Phụ hành thích rằng: Tùy theo chỗ một Đức Phật là theo phương hướng của Phật ấy là hướng Tây. Nếu chỉ rõ Phương hướng của Đức Phật ấy, thì tùy kinh không hạn cục, nhưng khiến hướng Tây mà chuyên xưng niệm một danh hiệu Phật vì các phần Giáo nhiều đều khen Phật A-di-đà, nên lấy phương Tây làm chuẩn, cùng các Đức Phật mười phương mà giải nghi, e có người nghi vì sao chỉ khen niệm Phật Di-đà, cho nên giải thích là vì công đức đồng nhau. Kinh Ban-chu: Tu Tam-muội Phật lập chuyên niệm Di-đà Phật nói: Vì sao các Đức Phật hiện tại đều trước hết lập ra Tam- muội? Vì có bốn chúng giữ giới cùng ở riêng một chỗ chú tâm niệm Phật A-di-đà Tây phương. Hiện cách đây ngàn ức muôn cõi Phật, nước ấy tên là Tu-ma-đề, ở giữa chúng Bồ-tát mà nói kinh tất cả thường niệm Đức Phật ấy. Ví như trong mộng thấy thân thuộc Kim Bảo cùng vui đùa, thức dậy liền nói: Nếu ai niệm Phật ấy một ngày đêm hoặc qua bảy ngày đêm thì Phật A-di-đà khi thức không thấy chỉ thấy trong mộng. Khi tâm niệm Phật thì cõi nước của các Đức Phật, chỗ núi Tu-di to lớn sâu kín tối tăm đều mở toang ra. Không cần thần túc mà vẫn đến được cõi Phật ở nay, ngồi thấy Phật ấy, nghe kinh Đức Phật ấy nói. Ví như nước Xá-vệ có ba dâm nữ. Lúc ấy, ở nước La-duyệt có ba người nam, vốn không hề nghe thấy việc dâm, ý liền vọng động mộng thấy cùng ba nàng đến lầu ngủ đêm mà giao tình. Rõ ràng là do niệm, nên thấy Phật, sinh thường niệm thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, đoan chánh không ai sánh được. Nhờ niệm Phật mà được Không Tam-muội: Lại như trong mộng thấy ăn thức ăn ngon, thức dậy thì bụng đói. Tự nghó tất cả đều là mộng. Phật ở trong Tam-muội có lập ba việc là giữ gìn năng lực oai thần của Phật, giữ gìn năng lực Tam-muội của Phật, giữ gìn năng lực của bổn công đức. Vì giữ gìn ba thứ này nên được thấy Phật, nghó rằng Phật từ đâu đến rồi đi về đâu? Tự nghó Phật không đến đây ta cũng không đến đó. Ta niệm Phật tức là thấy tâm làm Phật, Tâm tự thấy tâm là tâm Phật, là Hằng-tát-a-kiệt, tâm là thân ta, tâm thấy tâm Phật chẳng biết tâm, tâm không tự thấy tâm. Tâm có tưởng là si, tâm vô tưởng là Nê-hoàn, là pháp không đáng ưa thích, đều nhớ việc đã làm, dù cho niệm là trống không. Lại có bốn việc mau được Tam-muội. Một là không được có tư tưởng thế gian, như cái búng móng tay trong ba tháng, hai là không được nằm ngoài ba tháng, như cái búng ngón tay, ba là đi kinh hành không được ngưng nghỉ, không được ngồi ba tháng, trừ khi ăn uống trước sau, bốn là nói kinh cho người nghe không được trông mong y phục ăn uống. Năng lực oai thần của Phật trong Tam-muội mà lập ra, nhìn về hướng Đông có trăm ngàn Phật, trăm muôn Phật, trăm ức Phật. Như thế mười phương đều thấy các Đức Phật. Chỉ Quán nói: Tam-muội thường hành xuất xứ từ kinh Ban-chu. Ban-chu dịch là Phật lập. Phật lập có ba nghóa (như kinh). Nếu Tam- muội này thành thì có thể ở trong Định mà thấy các Đức Phật hiện ra trước mắt. Tam-muội này có ba: Một là thân khai già. Thân khai thì thường hành tránh ác tri thức, thường ở riêng một chỗ, thường đi khất thực, không nhận lời thỉnh riêng, luôn trang hoàng đạo tràng. Tắm rửa thân thể, thay đổi y phục. Chỉ trong vòng chín mươi ngày làm hạn định. Cần thệ nguyện dẫu gân xương khô mục thì việc học Tam-muội này vẫn không ngưng nghỉ, hai là miệng nói nín: Trong chín mươi ngày miệng thường xướng danh hiệu Phật A-di-đà không ngưng nghỉ. Chín mươi ngày tâm thường niệm Phật A-di-đà không ngưng nghỉ, hoặc trước xướng sau niệm nối nhau mãi không ngưng nghỉ. Lúc đó, nếu xướng danh hiệu Phật A-di-đà tức là xướng danh hiệu Các Đức Phật mười phương, công đức đều bằng nhau. Nếu chỉ chuyên niệm Di-đà làm Pháp môn thì nói vắn tắt là từng bước, từng tiếng, từng niệm chỉ là Phật A-di- đà. Ba là Ý chỉ quán. Trong ba tháng thường niệm Phật A-di-đà, tưởng ba mươi hai tướng tốt, từ tướng bánh xe ngàn căm dưới lòng bàn chân tưởng ngược lên cho đến tướng Vô kiến đảnh, rồi từ đảnh quán tưởng ngược xuống lòng bàn chân khiến cho tưởng rành các tướng ấy. Lại nghó ta từ tâm mà được Phật, từ thân mà được Phật. Phật chẳng dùng tâm mà được, cũng chẳng dùng thân mà được. Chẳng dùng tâm mà được sắc Phật, chẳng dùng sắc mà được tâm Phật. Bậc trí giả hiểu rõ vốn không bị hư hoại, vốn tuyệt bặt ngọn ngành (không). Như trong mộng thấy bảy báu, thức rồi thì không biết nó ở đâu. Cũng như dâm nữ đêm nằm mộng thấy hành dâm thức rồi thì nhớ lại không đến không đi, việc vui rõ ràng. Lại như nằm mộng thấy ăn thức ngon, thức rồi thì bụng đói. Tự nghó tất cả các pháp đều như mộng, gọi đó là như tướng niệm (giả). Tự nghó Phật không từ đâu đến, ta cũng không đến đâu. Ta niệm tức thấy tâm làm Phật. Tâm tự thấy Tâm, tâm thấy Phật tâm là tâm Phật, tâm ta thấy Phật, tâm chẳng tự biết tâm, tâm chẳng tự thấy tâm. Tâm có tưởng là si tâm, không tưởng là Nê-hoàn, là pháp không thể chỉ bày, đều do niệm làm ra. Nếu có niệm cũng rõ ràng không thật có (Trung). Nếu người muốn được trí tuệ, như biển lớn, ngồi ở đó mà không vận thần thông đều thấy các Đức Phật đang tu Tam-muội ấy. Tam-muội ấy là bậc nhất trong các công đức. Tam-muội này là cha mẹ của Đức Phật. Tất cả Như Lai đều từ pháp ấy sinh ra. Phụ Hành giải thích rằng: Ý trong Chỉ Quán, trước tưởng ba mươi hai tướng tốt làm cảnh để quán. Lại nghó nay ta trong cảnh sáng rõ mà tu ba quán. Trong các câu ta niệm, chữ Phật thì một là tụ tâm Tam-muội được thấy Phật, hai là Tây phương từ nhân cảm quả. Phật nay có hai nghóa, cùng thuộc một cảnh là thuận lý. Từ nghóa đầu mà giải thích, Tam-muội đã thành thì hễ niệm liền thấy. Thấy tâm tánh ấy gọi là tâm làm Phật. Phật đã do tâm làm, cho nên khi thấy Phật thì gọi là thấy tự tâm. Nếu thấy tự tâm tức liền thấy tâm Phật. Vì tâm Phật ấy là tâm ta. Cho nên ý trong đây chỉ quán tự tâm và việc thấy Phật không ngoài pháp tánh. Cho nên thấy tâm Phật tức là thấy tâm mình. Tâm mình, tâm Phật tức là Trung đạo. Tứ Minh Dung Tâm giải thích rằng: Chỉ Quán phán văn Ban-chu rằng tâm và Phật không thể đều là Không. Việc mộng rõ ràng là giả, tâm chẳng thấy Tâm là Trung. Nói thì ba trướng rõ ràng, tu thì một niệm đầy đủ. Kinh Phương Đẳng Đại Tập: Tu Tam-muội Phật Lập, Pháp quán Trung Đạo. Phật bảo ngài Hiền Hộ: Nếu muốn thành tựu Tam-muội của các Đức Phật hiện tiền thì hễ lúc nào niệm liền thấy Như Lai. Như lấy dầu trong, nước sạch, thủy tinh, gương sáng, dùng bốn vật này mà quán hình tượng, thiện, ác, tốt, xấu ảnh hiện rõ ràng, mà các hình tượng ấy không từ bốn vật ra, cũng không phải chỗ khác đến, chẳng phải tự nhiên có, chẳng phải do người làm. Nên biết hình tượng ấy không từ đâu đến, không đi về đâu, không sinh không diệt, không có chỗ ở. Bồ-tát cũng giống như thế. Liền lại suy nghó nay Phật này từ đâu đến còn thân ta thì từ đâu ra. Xem Như Lai kia rốt không có chỗ đến, không có chỗ đi. Thân ta cũng giống như thế, vốn không có chỗ đi há có chỗ về. Lại suy nghó như thế, nay đây ba cõi chỉ do tâm mà có, vì sao? Vì tùy theo tâm niệm lại tự thấy tâm. Nay ta từ tâm thấy Phật, tâm ta là Phật, tâm ta làm Phật, tâm ta là Như Lai, Tâm ta là thân ta, tâm ta thấy Phật, tâm không biết tâm, tâm không thấy tâm. Tâm có tưởng niệm thì thành tâm sinh tử, tâm vô tưởng niệm liền là Niết-bàn. Chỗ suy nghó đã mất, năng tưởng cũng không. Nên biết Bồ-tát nhờ Tam-muội này mà chứng Đại Bồ-đề. Kinh này và kinh Ban-chu ở trước cùng bản Phạm nhưng khác tên người dịch. Trong đây nói về pháp quán trung đạo văn rất sáng rõ nên ở đây chép lại. Kinh Hoa Nghiêm: Trưởng giả Giải Thoát được pháp môn Duy tâm niệm Phật. Ông Trưởng giả nói: Này người thiện nam! Nếu ta muốn thấy thế giới An lạc của Như Lai Vô Lượng Thọ thì tùy ý liền thấy. Cũng như thế ở mười phương tất cả các thế giới nào có Như Lai, nếu ta muốn thấy thì tùy ý liền thấy. Ta có thể thấy rõ tất cả cõi nước của các Như Lai trang nghiêm thần thông… Các việc không từ đâu lại cũng không đi về đâu, không đi không ở. Vậy các Như Lai ấy không lại đây mà ta cũng không đến đó. Nên biết tất cả Phật và tâm ta đều như mộng. Cho nên biết việc thấy trong mộng từ phân biệt mà sinh ra thấy, tất cả Phật đều từ tâm khởi lên. Lại biết tâm mình như nước ở trong bình, ngộ giải các pháp như bóng in đáy nước. Lại biết tâm mình cũng như ảo thuật. Biết tất cả Phật như ảo thuật tạo ra. Lại biết tâm mình cùng các Đức Phật, Bồ-tát đều như âm thanh vang. Ví như hang trống tùy tiếng mà có tiếng vang, mà hiểu rõ tâm mình tùy niệm thấy Phật. Ta như thế mà biết, mà nghó nhớ, thấy các Đức Phật đều do tâm mình. Trong Trinh Nguyên sớ, ngài Thanh Lương nói: Không từ đâu đến… là luận về Duy tâm, tức tâm, vô tâm liền vào Chân như, hiểu rõ tướng luống dối chỉ do tâm hiện. Vì ta tức là duy tâm vắng lặng, mà đã rõ nó tức là diệu dụng của thể, năng niệm, sở niệm đâu có tương can với động tịnh, đã rõ duy tâm, rõ tâm là Phật nên hễ niệm đều là Phật. Huống là chí chẳng bị quấy nhiễu, chuyên tinh tu tập, Phật sẽ ắt thành. Sao không thấy sau đây nêu bốn dụ, hiển bày chung về duy tâm. Dụ cho không tới lui dụ riêng gồm nói chẳng ra vào, bốn dụ đều có bốn quán: Chính là duy tâm. Vì duy tâm nên không. Vì duy tâm nên giả. Vì duy tâm nên trung. Dung nhau mà không ngại tức là ý của kinh Hoa Nghiêm: Mộng dụ cho chẳng tới chẳng lui, ảnh (hình bóng) dụ cho chẳng ra chẳng vào, Huyễn dụ cho chẳng phải có chẳng phải không. Tiếng vang dụ cho chẳng phải hợp chẳng phải tan, ba quán cùng xua đuổi, lấy tánh dung tướng thì nhập vào lớp lớp, cảnh giới niệm Phật đẽ thấy được Đức Vân. Kinh Hoa Nghiêm: Nương vào Nguyện Phổ Hiền được sinh Cực lạc Trong phẩm Hạnh Nguyện, Bồ-tát Phổ Hiền ở cuối hội tại rừng Thệ-đa phát mười đại nguyện vương. Trong mỗi nguyện đều nói: Cõi hư không hết, cõi chúng sinh hết, mà đại nguyện này của tôi không cùng tận. Người ấy khi sắp qua đời, ở sát-na sau cùng, tất cả các căn đều không còn tác dụng, tất cả oai thế đều tan mất, các quan lớn, đại thần, cung điện trong ngoài, voi ngựa xe cộ, kho tàng châu báu không đem theo được. Chỉ có nguyện vương này thì không lìa xa, trong mọi lúc đều dẫn trước, trong một sát-na liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc. Đến rồi liền thấy Phật A-di-đà. Người này tự thấy sinh trong hoa sen được Phật thọ ký. Được thọ ký rồi, trải qua vô số kiếp ở số thế giới khắp mười phương nhiều không thể nói, dùng năng lực trí tuệ tùy tâm chúng sinh mà làm lợi ích. Cho đến ở trong biển lớn phiền não mà cứu giúp chúng sinh, đưa họ ra khỏi đó mà đều được vãng sinh thế giới Cực lạc. Lại kệ dưới có nói: Nguyện con khi sắp qua đời diệt trừ hết cả các chướng ngại, được thấy Phật A-di-đà liền được vãng sinh cõi An lạc. Khi con đã sinh nước ấy rồi, hiện tiền thành tựu nguyện lớn này, tất cả dứt hết không còn sót, lợi lạc tất cả các chúng sinh. Trinh Nguyên sớ hỏi: Chẳng cầu sinh Hoa Tạng lại cầu sinh Cực lạc là sao? Đáp: Có bốn ý: Người có duyên. Muốn khiến chúng sinh cùng về một chỗ. Vì chẳng lìa Hoa Tạng. Vì Bổn sư. Hạnh Nguyện Sao nói: Về người có duyên, vì Phật Di-đà có nguyện riêng dắt người ở cõi Ta-bà. Cùng về một chỗ, vì nếu nghe mười phương đều nhiệm mầu, kia đây cùng dung thông thì người mới phát tâm thấy mênh mông, không biết nương vào đâu, nên phương tiện nêu ra. Không lìa Hoa Tạng, vì Cực lạc cách đây chỉ mười muôn ức cõi Phật. Trong Hoa Tạng có bao nhiêu cõi Phật đều là số bụi nhỏ nên không lìa Hoa Tạng. Tức là Bổn sư. Như kinh thứ ba mươi chín nói: Hoặc thấy Phật Vô Lượng Thọ, Quán Tự Tại… cùng vây quanh. Sớ phán rằng: Khen đức của Bổn tôn Giá-na. Sớ lại nói cõi nước Hoa Tạng nhiều như số giọt nước biển đều là cảnh Giá-na. Vô Lượng Thọ Phật, cách đây mười muôn ức cõi cũng chưa ra khỏi sát chủng, há chẳng phải là Bổn sư tùy tên mà giáo hóa khác. Pháp sư Đạo Thuần nói: Hỏi Phổ Hiền Hạnh Nguyện là phần lưu thông Hoa Nghiêm vì sao ở trong biển thế giới lại riêng chỉ thế giới Cực lạc. Đã tin hiểu Viên tông thì các cõi Phật mười phương đều có thể vãng sinh, kết hẹn về Tây phương ắt có ý sâu? Đáp: Ngài Phổ Hiền vì Thiện Tài hải chúng mà nói nguyện vương xong đã kết quy Tây phương. Bởi người tin hiểu Viên tông, vào trí Văn- thù mà tu hạnh Phổ Hiền, thì phước, tuệ, sự, lý đều xứng với pháp giới. Người có đại tâm này tuy diệu ngộ Bổn minh, đốn đồng với các Thánh, nhưng còn lực dụng chưa đầy đủ, chưa bằng Như Lai khi xuất hiện khắp lợi ích chúng sinh. Do đó mà phải tạm nương Tịnh độ, gần gũi Di-đà hải chúng, thẳng đến thành Phật. Nên kinh nói: Đích thân thấy Như Lai Vô Lượng Quang, hiện tiền thọ ký con quả Bồ-đề. Được Như Lai thọ ký rồi liền hóa ra vô số thân hằng trăm câu-chi, trí lực rộng lớn khắp mười phương, lội lạc khắp tất cả cõi chúng sinh. Tức là ý này vậy. Kinh Pháp Hoa: Nghe kinh tu hành liền vãng sinh thế giới An lạc. Phật nói nếu có người nữ nghe kinh điển này đúng như lời nói mà tu hành, thì khi qua đời liền sinh về thế giới An lạc. Phật A-di-đà và các Đại Bồ-tát vây quanh, người ấy được sinh trong hoa sen ngồi trên tòa báu, không còn bị tham dục quấy nhiễu, cũng không bị tức giận ngu si, kiêu mạn, ganh ghét và các cấu làm phiền não nữa. Được thần thông Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Trong Pháp Hoa ký, ngài Kinh Khê nói: Nếu có người nữ… Trong đây chỉ nói: nghe kinh điển ấy, đúng lời nói tu hành tức là nhân Tịnh độ, không cần nêu kinh Quán… nữa. Hỏi: Tu hành như thế nào? Đáp: Đã nói đúng theo lời nói mà tu hành tức là y kinh mà lập hạnh, đầy đủ như trong phẩm Phân Biệt Công Đức mà quán thẳng bốn cõi này đầy đủ. Cho nên thân Phật đây tức là cả ba thân, đại chúng này là tất cả đại chúng. Vì hoặc chưa dứt hết cho nên An lạc hạnh là khí phần của hạnh Đồng cư Tịnh độ, không lìa Đồng cư uế mà vẫn thấy Đồng cư tịnh. Hỏi: Đồng cư có nhiều loại sao chỉ nói Cực lạc? Đáp: Do giáo thuyết nhiều, do trình độ của người, vì nhiếp sinh, vì khiến chuyên chú, vì duyên trước sâu dày… nên có nhiều phần. Kinh Đại Bảo Tích: Phát mười thứ tâm được sinh Cực lạc Ngài Di-lặc bạch Phật rằng: Như Phật đã nói về Phật A-di-đà ở Thế giới Cực lạc có công đức lợi ích… Nếu có chúng sinh nào phát mười thứ tâm, tùy theo từng tâm một mà chuyên hướng về Phật thì người ấy khi qua đời sẽ được vãng sinh. Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là mười thứ tâm. Phật bảo ngài Di-lặc rằng: Mười tâm ấy, hàng phàm ngu bất thiện, hạng trượng phu còn nhiều phiền não không thể phát được. Mười tâm ấy là: Đối với các chúng sinh khởi tâm đại Từ, không làm tổn hại. Đối với chúng sinh khởi tâm đại Bi, không có khổ não. Tâm đối với Chánh pháp của Phật không tiếc thân mạng, có tâm ưa thích giữ gìn. Đối với tất cả các pháp khởi tâm thắng nhẫn không chấp đắm. Tâm không ham lợi dưỡng luôn cung kính tôn trọng và ưa thích sự thanh tịnh. Cầu hạt giống trí của Phật trong mọi lúc không quên mất. Đối với các chúng sinh luôn khởi tâm cung kính tôn trọng không coi thường. Không ham luận đời, đối với Bồ-đề sinh tâm quyết định. Khởi tâm thanh tịnh trồng các gốc lành không có tạp nhiễm. Khởi tâm tùy niệm, đối với các Như Lai lìa bỏ các tướng, khởi niệm tùy thuận. Đó gọi là Bồ-tát phát mười thứ tâm. Nhờ các tâm ấy mà được vãng sinh. Nếu người nào đối với các tâm này mà có bất cứ một tâm nào, ưa thích vãng sinh về thế giới Phật ấy nếu chẳng được sinh thì không có lý ấy. Kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh: Ta-bà vẩn đục, riêng khen Tây phương. Bồ-tát Phổ Quảng bạch Phật rằng: Vì sao trong kinh chỉ khen ngợi cõi Phật A-di-đà lầu các, cung điện, cây rừng đều toàn bảy báu. Các người nguyện sinh đều tùy ý muốn theo niệm mà sinh về. Phật bảo Phổ Quảng rằng: Ông không hiểu ý ta. Người ở cõi Ta-bà có nhiều tham đắm. Kẻ tin tưởng hướng về thì ít mà kẻ quen muốn thói tà thì nhiều, không tin Chánh pháp, chẳng thể chuyên nhất. Khiến các chúng sinh chuyên tâm vào đó, nên chỉ khen ngợi cõi nước Phật ấy. Các người vãng sinh đều tùy nguyện của họ mà đều chứng quả. Kinh Đại Tập Nhật Tạng: Niệm Phật tùy tâm thấy có lớn nhỏ Phật nói: Muốn sinh cõi Phật thanh tịnh không có chướng ngại thì chúng sinh này phải tắm gội sạch sẽ, áo quần sạch sẽ, ăn chay trường không ăn đồ tanh nồng, ở chỗ yên tịnh vắng lặng ngồi kiết già, hoặc đi kinh hành nghó nhớ thân tướng Phật, không có các duyên khác. Hoặc một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, dốc lòng niệm Phật, cho đến thấy Phật. Niệm nhỏ thấy nhỏ, niệm lớn thấy lớn, cho đến vô lượng niệm thì thấy Sắc thân Phật vô lượng, vô biên. Thân Phật có ba mươi hai tướng, mỗi tướng vừa niệm vừa quán đều cho rõ ràng. Tùy theo tướng trông thấy mà thấy ánh sáng xanh. Ở trong tướng sáng ấy chuyên tinh buộc ý, tâm không loạn động. Ánh sáng ấy phát ra, vào đảnh của người tu. Lúc ấy, an tâm chớ sợ sệt. Nghó ánh sáng xanh này ở trong thân ta đi khắp các nơi, thấy thân cháy sáng rực lên cho đến thành tro, gió thổi biến mất. Khi niệm như thế không có một tướng nào, mười phương đều trống không. Như thế người tu có thể trong một khoảnh khắc liền đến cõi Phật và vô số cõi khác. Kinh này nói niệm Phật tuy không nhất định chỉ cho Tây phương, nhưng trộm thấy trong phương pháp niệm Phật, ngài Từ Vân sám chủ có dẫn chứng về ý nghóa niệm Phật lớn nhỏ, nên chép vào đây để nhiều người cùng xem mà biết đầu cuối của kinh. Kinh Mục-liên Sở Vấn: Cõi nước Vô lượng thọ dễ đến, dễ nhiếp lấy. Phật bảo ngài Mục-liên: Ví như trên sông dài muôn dặm có đám cỏ khô trôi nổi, trước chẳng thấy sau, sau chẳng thấy trước, đều chảy ra biển cả. Thế gian cũng thế. Tuy có kẻ giàu sang vui sướng tự tại nhưng đều không tránh khỏi sinh, già, bệnh, chết. chỉ do không tin kinh Phật đời sau làm người rất khốn khổ, chẳng thể được sinh về cõi nước của ngàn Phật. Thế nên ta nói nước cõi Vô lượng thọ dễ sinh, dễ nhiếp lấy, mà người chẳng thể tu hành vãng sinh, lại thờ chín mươi sáu phái tà đạo. Ta bảo người ấy là người không mắt không tai. Kinh Thập Vãng Sinh: Người niệm Phật được Bồ-tát che chở, giữ gìn. Phật nói: Nếu có chúng sinh niệm Phật A-di-đà nguyện vãng sinh thì Đức Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ-tát che chở giữ gìn người tu, hoặc đi đứng nằm ngồi, hoặc ngày hay đêm, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào đều chẳng để ác quỷ ác thần có dịp làm hại. Kinh Quán Phật Tam-muội: Phật thọ ký ngài Văn-thù sẽ vãng sinh Cực lạc Ngài Văn-thù bạch Phật rằng: con nhớ thuở quá khứ thời Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, có vị Trưởng giả tên là Nhất thiết trí. Trưởng giả có người con tên là Giới Hộ. Khi ở trong thai mẹ vì kính tín nên dự bị vì con mà thọ ba quy y. Khi đứa bé sinh ra mới tám tuổi đã được gặp Phật và đảnh lễ. Vì một lần thấy Phật trừ được tội trong trăm ngàn muôn ức kiếp sinh tử. Từ đó về sau thường sinh Tịnh độ được trăm ngàn ức pháp môn Tam-muội niệm Phật. Cho nên, nay Đức Thế Tôn lại thọ ký rằng: Văn-thù-sư-lợi! Ông sẽ vãng sinh về thế giới Cực lạc, chứng nhập vào Sơ địa. Kinh Văn-thù Phát Nguyện: Văn-thù phát nguyện cầu sinh Cực lạc. Nguyện khi tôi qua đời Diệt hết các chướng ngại Được thấy A-di-đà Vãng sinh nước An lạc Sinh nước Phật ấy rồi Tròn đủ các nguyện lớn A-di-đà Như Lai Hiện tiền thọ ký con Nghiêm Tịnh Hạnh Phổ Hiền Đầy đủ nguyện Văn-thù Đến hết kiếp vị lai Rốt ráo hạnh Bồ-tát. Kinh Nhập Lăng-già: Phật thọ ký cho ngài Long Thọ vãng sinh Cực lạc. Đại Tuệ ông nên biết! Khi Phật Niết-bàn rồi Đời vị lai sẽ có Người trì pháp của ta. Ở nước Nam Thiên trúc Tỳ-kheo Đại Danh Đức Có hiệu là Long Thọ Phá được tông Hữu, Vô Ở thế gian hiển bày Pháp Đại thừa Vô thượng Được Sơ Địa hoan hỷ Vãng sinh nước An lạc. Kinh Lăng-già có ba bản, bài kệ này xuất xứ từ quyển bảy, do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch, ở hòm chữ Tứ. Kinh Thiện Tín Ma Thân: Thiện Tín nhàm chán thân nữ cầu sinh Tịnh độ. Khi Phật ở nước Xá-vệ có cô con gái trưởng giả tên là Thiện Tín, trí tuệ rộng sáng, thường có nguyện lớn, không thích đời tục. Tự nghó muôn vật vô thường rồi đều sẽ chết, trời đất cũng hư hoại, huống là thân người. Nghó cha mẹ anh em ta không biết tội phước, không thỏa mãn tham dục. Tuổi ta mười lăm đã hứa gả cho người khác anh em nhà ta đã nhận quà biếu vải lụa. Thân ta rồi sẽ gặp các khổ nạn, chẳng bằng ngày nay thanh tịnh, nên phát nguyện cao thượng tìm thấy nơi an ổn vui vẻ mãi để tự vui thú. Bèn nhất tâm đem thân mạng ra thề. Lúc đó, Thiên Đế hiện ra trên hư không bảo Thiện Tín rằng: Nếu muốn sinh về cõi thanh tịnh Tây phương an ổn, thì trước phải hướng về mười phương lễ bái, từ tâm kính ý thì sẽ đạt được như ý. Cô gái rất vui mừng bèn tắm rửa đốt hương hướng về mười phương lễ bái. Trời lại bảo rằng: Ngươi nên đọc bài kệ khen ngợi Phật A-di-đà. Thiện Tín liền y theo lời dạy. Thiên Đế bèn hóa thành một người nam tay cầm vàng ròng nói kệ trêu ghẹo, Thiện Tín đáp bằng bài kệ quở trách lỗi nam nữ. Thiên Đế bèn vòng tay hỏi muốn cầu việc gì mà trong đời không ai bằng, có công đức mênh mông không thể đếm kể như thế? Thiện Tín vui mừng, mặt đất rung chuyển, liền nói kệ quy Phật. Phật liền cùng Đại chúng bay đến nhà ấy. Thiện Tín lễ Phật. Phật liền phát ra ánh sáng mỉm cười trao cho hai mươi bốn giới. Thiện Tín nghe xong liền được Thất Trụ. Rồi ở trước Phật mà hóa thành người nam. Cha mẹ anh em nàng sau đó đều thọ năm giới. Kinh Thủ-lăng-nghiêm: Xem tình tưởng nhiều ít, mà luận về quả báo cao thấp. Phật bảo A-nan rằng: Tất cả thế gian sinh tử nối nhau. Sinh từ thuận tập, tử từ biến lưu. Khi qua đời chưa bỏ hơi ấm thì cả thiện, ác trong một đời đều hiện ra. Nếu lúc đó thuần tưởng thì liền sinh lên cõi trời. Nếu tâm lúc ấy có phước gồm cả tuệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm mở sáng sẽ thấy các Đức Phật mười phương, tất cả Tịnh độ đều tùy nguyện vãng sinh. Nếu tình ít tưởng nhiều thì nhẹ nhàng bay đi xa, tức là loài tiên biết bay; tình tưởng bằng nhau thì không bay không rơi, bèn sinh làm người, Tưởng sáng thì thông minh. Tình tối thì đần độn. Nếu tình nhiều tưởng ít thì vào chỗ bàng sinh, nặng thì làm thú, nhẹ thì làm chim. Nếu bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống đáy nước, sinh vào vòng lửa chịu thân nóng dữ, làm ngạ quỷ luôn bị thiêu đốt, mà nước luôn hại mình, không ăn không uống, trải suốt trăm nghìn kiếp. Nếu chín tình một tưởng thì rơi vào vòng lửa, nhẹ thì đọa ngục Hữu gián, nặng thì đọa ngục Vô gián. Nếu thuần là tình thì đọa vào ngục A- tỳ. Nếu trong tâm hủy báng Đại thừa, trái phạm giới Phật, lừa dối nói pháp, ham hố lạm dụng của tín thí, khinh khi mọi người, gây ra năm tội nghịch, mười điều ác thì liền đọa vào ngục A-tỳ ở khắp mười phương. Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ: Thiện, ác chiêu cảm quả báo hơn kém khi qua đời. Phật nói nếu người lúc qua đời dự biết trước mà chánh niệm rõ ràng, tắm gội, thay áo mới nằm kiết tường mà chết. Ánh sáng chiếu thân, thấy tướng tốt của Phật, các điều lành đều hiện thì chắc chắn biết người này vãng sinh Tịnh độ. Nếu người niệm Phật giữ giới không tinh tấn, khi qua đời không có tướng lành, tướng dữ hiện ra, địa phủ không thâu, An dưỡng không nhiếp, như đang ngủ mê. Vì người này tâm Nghi chưa dứt, nên sinh vào Nghi thành suốt năm trăm năm hưởng vui, lại tu Tín Nguyện thì mới về Tịnh độ. Nếu người khởi tâm thương xót Chánh niệm hiện tiền, tâm đối với tiền của, vợ con không mến tiếc, mắt nhìn sắc thanh tịnh, ngước mặt mỉm cười, nghó cung trời sẽ đón ta, tai nghe nhạc trời, mắt thấy Thiên đồng, bỏ báo thân này chắc chắn sinh lên cõi trời. Nếu người sống ở đời hòa ái, khởi tâm phước đức, thân không bệnh khổ, nhớ nghó cha mẹ vợ con nhưng tâm đối với Thiện, ác không lầm lẫn. Tâm luôn ngay thẳng di chúc gia tài từ biệt ra đi thì chắc chắn sinh vào cõi người. Nếu người đối với vợ chồng con cái mà nhìn bằng ánh mắt dữ dằn, tay quờ quạng, tiểu tiện không biết, thân luôn hôi hám, hai mắt đỏ chạch, ngồi ngây mặt hoặc nằm co quắp bên trái khắp người đau nhức. Hoặc thấy tướng dữ, miệng không nói được chỉ ú ớ, nợ oan hiện ra, tâm thức tán loạn, mê cuồng điên đảo. Khắp mình lạnh giá, tay nắm chặt cứng, thân cứng như đá. Người này qua đời chắc chắn đọa vào điïa ngục, Nếu người ưa liếm mép, thân nóng như lửa luôn lo sợ đói khát, thích nói chuyện ăn uống, miệng không khép kín, ham tiếc tiền của, mạng chết khó khăn, nhìn trừng trừng mà mất. Người này chắc chắn đọa vào ngạ quỷ. Nếu bị bệnh nặng như ở giữa mù sương, tâm thần hôn tán, sợ nghe danh hiệu Phật, thích ăn uống cá thịt, không nghe lời khuyên bảo, mến tiếc vợ con, tay chân co quắp, khắp mình mồ hôi rít rắm, tiếng nói phều phào. Tướng ấy hiện ra thì người này chắc chắn đọa vào súc sinh. <詞>Nói Về Các Thần Chú Vô Lượng Thọ tu Quán hạnh cúng dường nghi quỹ. (Xuất xứ từ Đại tạng, hòm chữ Hành). Bấy giờ Bồ-tát Kim Cang Thủ ở trong Đại Tập Hội Tỳ-lô-giá-na bạch Phật rằng: Con sẽ vì chúng sinh đời sau ở trong thế giới tạp nhiễm, ác thú mà nói Vô Lượng Thọ Đà-la-ni, tu pháp môn Tam Mật, chứng Tam-muội niệm Phật mà được sinh Tịnh độ, vào giai vị Bồ-tát. Không thể lấy phương tiện chút ít phước đức, vô tuệ mà được sinh về nước ấy. Y theo giáo pháp này thì chắc chắn được sinh Thượng phẩm Sơ địa. Trước hết phải vào Mạn-trà-la được Quán đảnh, rồi sau đó mới theo thầy mà thọ nghi quỹ này. Phải ở chỗ đất cao tốt, quét dọn sạch sẽ tịnh thất, lập đàn vuông, phía trên treo lọng báu chung quanh treo phướn. Trên đàn phân bố tám Mạn-trà-la, mài hương bạch đàn thoa lên chỗ Phật. Ở phía Tây đàn bày tượng Phật Vô Lượng Thọ. Người trì tụng đứng ở phương Đông, quay mặt về hướng Tây, ngồi trước tượng. Người tu mỗi ngày tắm gội sạch sẽ lên đàn ba lần rải các thứ hoa, đặt hai chén báu đựng đầy nước thơm ở trên đàn. Bốn góc đàn chưng bốn bình hoa, hương hoa và thức ăn uống tùy sức, mỗi thứ gia trì đều ân cần cúng dường. Người tu quan sát tất cả hữu tình có bổn tánh thanh tịnh nhưng bị các khách trần che lấp nên chẳng ngộ chân lý. Thế nên nói Tam Mật gia trì này có công năng giúp mình người đều thanh tịnh. Quyển Nghi Phạm trên do Tam tạng Bất Không dịch. Từ văn này lại nêu Tịnh ba nghiệp và lễ khắp pháp giới, lập tòa quán tưởng và kiết ấn tụng chú, gồm hai mươi bốn chương, đều rất khẩn thiết nguyện y pháp vân làm. Nay trong đây ghi chép những điều đơn giản có thể thực hành được, gồm ba chương giúp nhiều về Tịnh nghiệp. Vô Lượng Thọ Như Lai quyền ấn chân ngôn. Kế là kiết ấn Như Lai Quyền, bốn ngón tay trái nắm lại thành quyền duỗi ngón cái ra. Lấy tay phải làm nắm Kim cương nắm ngón tay trái lại, liền thành ấn này. Dùng quyền ấn này đọc chân ngôn gia trì bảy biến, biến ra thế giới ấy Như Lai quyền chân ngôn như sau: Án Bộ Khiêm. Do kiết ấn này mà oai lực của chân ngôn biến đại thiên thế giới này thành cõi Cực lạc, bảy báu làm đất, nước, chim, cây rừng đều giảng nói Pháp âm, vô lượng trang nghiêm như kinh đã nói. Người tu do tập nhiều định này nên mỗi khi ở trong định đều thấy thế giới Cực lạc của Phật Vô Lượng Thọ, ở trong chúng hội nghe nói Khế kinh. Khi qua đời tâm không tán loạn, Tam-muội hiện tiền, trong chốc lát liền hóa sinh vào hoa sen báu, chứng giai vị Bồ-tát. Vô Lượng Thọ Như Lai Căn Bản Ấn Chân Ngôn Kế là kiết ấn Vô Lượng Thọ Như Lai Căn Bản, hai tay nắm lại chìa bốn ngón giữa như cánh hoa sen - Kết ấn này tụng Vô Lượng Thọ chân ngôn bảy biến. Đặt ấn này trên đỉnh đầu tụng Đà-la-ni rằng: Nẳng-mô la đát nẳng dạ da na mô a rị dã nhị tri bà da đạt tha nghiệt tri dạ ra hát đế tam miệu tam một đà da đát nể dã tha án a mật lật đế a mật lật đố nạp bà phệ a mật lật đa tam bà phệ a mật lật nghiệt bệ a mật lật đa tất để a mật lật đa đế tế a mật lật đa vó ngật lân đế a mật lật đa nga nga nẳng kiết để ca a mật lật đa nộn nổ tỳ ba phược tát phược ra tha bà đà ninh tát phược ma ngật lễ xá khất lệ dựng ca ta-phược-hạ. Chân ngôn này vừa tụng một biến thì mười điều ác, bốn tội trọng, năm tội Vô gián, tất cả nghiệp chướng nơi thân đều tiêu tan. Nếu các Bí-sô, Bí-sô-ni phạm tội căn bản tụng bảy biến thì tức thời được thanh tịnh. Tụng đủ một muôn biến thì được không quên mất tâm Bồ-đề Tam- muội, tâm Bồ-tát hiển bày, trong thân sạch sẽ sáng suốt như vầng trăng sáng. Khi qua đời sẽ thấy Phật Vô Lượng Thọ cùng đại chúng đến đón rước khuyến tấn, liền sinh về Cực lạc Thượng phẩm thượng sinh. Vô Lượng Thọ Như Lai Tâm Chân Ngôn. Chú ấy như sau: Án a mật lật đa đế tế hạ ra hồng, chân ngôn này nếu tụng đủ mười muôn biến thì được thấy A-di-đà Như Lai. Khi qua đời chắc chắn quyết định được vãng sinh Cực lạc. Kinh Ô-sắt-nị-sa Tối Thắng Tổng Trì. (Xuất xứ từ ở Đại tạng, hòm chữ Cao). Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ngự trong Đại Thiện Pháp đường ở cõi nước Cực lạc. Lúc bấy giờ Đức Như Lai Vô Lượng Thọ bảo ngài Quán Tự Tại rằng: tất cả chúng sinh đều bệnh tật đời sống ngắn ngủi. Có “Nhất thiết Như Lai Ô-sắt-nị-sa tối thắng tổng trì pháp môn”, nếu người nào thọ trì đọc tụng thì mau được không bệnh tật, sống lâu, an vui. Khi ấy Quán Tự Tại thỉnh Phật tuyên nói (chú dài ở đây không chép). Nếu ai viết chép chú này để trong tháp, rộng lớn cúng dường, đi nhiễu quanh ngàn vòng, cung kính lễ bái thì được trí tuệ, nếu tuổi thọ bảy ngày thì kéo dài đến bảy năm, nếu tuổi thọ bảy năm thì kéo dài đến bảy mươi năm, được sống lâu an vui, không có các bệnh tật, được Túc mạng thông. Vô Lượng Thọ Như Lai Tổng Trì Pháp Môn. Lúc bấy giờ Vô Lượng Thọ Như Lai nhập vào Tam-ma-địa phổ chiếu kiết tường. Khi xuất định, ngài liền nói nhất thiết Như Lai Vô Lượng Thọ tổng trì pháp môn rằng: Án a mật rị đế a mật rị đế a mật rị đổ nại bà phệ a mật rị đa vó ngật lan đế a mật rị đa nga di nể a mật rị đa rị na nhó nga nga nẳng kế rị đế yết rị tát rị phược kiết lê xá xoa diễn yết rị duệ Ta-phược-ha. Nếu người dùng pháp môn này mà gia trì, xây tháp Tịnh độ, lại viết tổng trì này mà đặt vào tháp và hương hoa cúng dường thì tuổi thọ kéo dài và tăng trí tuệ. Nếu người ở trước tháp này mà cúng dường lớn hơn, ngày ngày tụng trì đủ tám trăm biến, phát tâm bình đẳng tự lợi lợi tha. Y pháp thực hành như thế thì tiêu trừ tám nạn. Người này khi qua đời sẽ không đọa vào địa ngục, súc sinh, cõi Diệm-ma-la, như rắn lột da liền sinh Cực lạc, được quả báo lớn, hưởng vui thắng diệu. Bất Không Quyên sách Thần Biến Chân Ngôn kinh Nhất Tự Chân Ngôn Bồ-tát Quán Thế Âm nói chân ngôn Nhất Tự rằng: Án, chân ngôn như thế là đại Bi Tâm Quán Quán Thế Âm đúng pháp thọ trì. Người khéo tu hành thì có công năng dứt trừ các tội nặng ở quá khứ và hiện tại, tất cả cấu chướng đều tiêu mất. Sẽ được tất cả các Đức Phật, Bồ-tát, trời, tiên, rồng thần đều vui mừng. Khi qua đời sẽ sinh về cõi nước Cực lạc ở Tây phương, trụ ở Cực hỷ Địa, hóa sinh vào hoa sen. Bạc Biến Giải Thoát Tâm chân ngôn. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Quán Thế Âm ở trước Phật xem kỹ tất cả, nói Bạc Biến Giải Thoát Tâm chân ngôn rằng… bài chú này gồm hai trăm mười hai câu, vì nhiều nên không chép (Ba chú sau đây ở trong kinh có đủ các việc Kết đàn, bắt ấn, lập tượng… gồm một quyển). Lại, Bạc Biến Giải Thoát Tâm chân ngôn rằng: Úm một ra kha ma phế lệ đà ra đà ra đà ra địa rị địa rị độ lỗ độ lỗ sai mạn đan nhập phược ra mẫu khư sa phược ha. Lại, Bạc Biến Giải Thoát Tâm Nhất Tự chân ngôn rằng: Án ác sa phược hạ. Nếu ai sáu thời càng thêm tinh tấn, đúng pháp trang nghiêm thân mình, y theo pháp trì tụng đủ một Lạc-xoa thì nghiệp ấy thuần thục. Bồ- tát Quán Thế Âm sẽ hiện thân mầu vàng ròng mà diệt tất cả tội căn bản từ vô thỉ. Nếu Bồ-tát không hiện ra thì cần phải càng cố gắng tinh tấn tụng hết hai hoặc ba lạc xoa thì nghiệp ấy thuần thục, Bồ-tát Quán Thế Âm chắc chắn sẽ hiện thân, cầm tay chỉ bày Tây phương Tịnh độ, Phật A-di-đà ngồi trên tòa sư tử trong hoa sen báu, lại được Phật A-di-đà xoa đầu bảo rằng: đồng phước mạng công đức với tất cả Bồ-tát ở cõi ấy. Sau khi bỏ thân mạng này thì sinh về cõi nước An lạc ở Tây phương, hoa sen thượng phẩm, đủ các tướng tốt, có trí Túc mạng, được không lui sụt. Bất không Đại Quán Đảnh Quang chân ngôn. (Xuất xứ từ kinh ở Bất Không Quyên Sách Thần Biến thứ hai mươi tám, ở hòm chữ Khiết). Khi ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai duỗi tay xoa đầu Minh Vương Thanh Tịnh Liên Hoa. Lúc đó, cả đại thiên thế giới rung chuyển sáu cách, ở các phương cõi nước quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả Như Lai, Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng một lúc đều hiện ra và đồng trao cho Minh Vương Thanh Tịnh Liên Hoa Tam-muội-da quán đảnh. Bấy giờ, tất cả Như Lai, Tỳ-lô-giá-na Như Lai trong ba đời ở khắp mười phương đều duỗi tay xoa đầu Minh Vương Thanh Tịnh Liên Hoa, đồng nói Bất Không Đại Quán Đảnh Quang chân ngôn rằng: Úm chiên mô già phế lổ giả na ma ha mẫu nại ra ma ni bát đầu ma nhập phược ra ba ra mậu đan dã cáp. Nếu có người ở quá khứ gây ra các tội như mười điều ác, bốn tội nghịch, bốn tội trọng mà được nghe Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn này hai mươi mốt biến thì được trừ hết tất cả tội chướng. Nếu các chúng sinh gây ra đủ các tội như mười điều ác, năm tội nghịch, bốn tội trọng… nhiều như bụi nhỏ đầy khắp thế giới này khi chết rồi phải đọa vào các đường dữ. Nếu lấy cát mà gia trì chân ngôn này một trăm lẻ tám biến rồi đem cát này vào rừng rải trên thây chết, hoặc hài cốt, hoặc trên mộ, trên tháp thì người chết này nếu đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, Tu-la, súc sinh thì nhờ năng lực gia trì của chân ngôn Nhất Thiết Bất Không Như Lai Tỳ-lô-giá-na Như Lai mà tức thời liền được ánh sáng chiếu đến thân, trừ hết các tội báo, lìa hết các khổ, sẽ sinh về thế giới Cực lạc Tây phương, hóa sinh trong hoa sen, cho đến chứng quả Bồ-đề không còn đọa lạc. Ông Thích Trí Viên, trụ Viện Phổ Chiếu ở Hải giám, thuộc Tú Châu mẹ bị chết, lấy di cốt để trong cái quách nhỏ, hằng ngày tụng chú Tỳ-lô Quán Đảnh, gia trì rải cát lấp hài cốt khoảng một thước. Một hôm, xương đảnh đầu bỗng nhô lên khỏi mặt đất, lúc đầu cho là chẳng có gì bèn lấp lại như cũ. Sáng hôm sau lại như thế, mọi người đều kinh hãi. Lúc đó Võ Di Công Quyền làm ký nói rõ việc ấy. Luật Sư Đại Trí soạn làm bài tán khen ngợi, vẫn còn ghi trong Chi Viên tập. Chú bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ. (Trích trong Di-đà Bất Tư Nghị Thần Lực truyện, hòm chữ Dưỡng). Thần chú Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sinh Tịnh độ, vào niên hiệu Nguyên Gia, đời Tống, ngài Cầu-na-bạt-đà vâng lệnh vua dịch ra, gồm có năm mươi chín chữ mười lăm câu. Nếu người nào, tụng chú này thì Phật A-di-đà thường ở trên đỉnh đầu ngày đêm che chỡ người ấy, không bị kẻ thù trả thù, hiện đời luôn được an ổn, khi chết liền được vãng sinh. Bồ-tát Long Thọ nguyện sinh An dưỡng, khi nằm mộng cảm được chú này. Tam tạng Na-xá tụng chú này ở chùa Thiên bình, Pháp sư Tú được Na-xá truyền miệng cho chú này bảo rằng: Kinh Bản ở nước ngoài (Ấn-độ) không truyền đến, nếu muốn thọ trì phải tước cành dương xỉa răng cho sạch, lấy nước đậu súc miệng, đốt hương trước tượng Phật, quỳ gối chấp tay thọ trì sáu thời, mỗi lần tụng hai mươi mốt biến. Nếu có các tội như bốn tội trọng, năm tội nghịch, mười điều ác, chê bai kinh Đại thừa… thì đều diệt hết. Hiện đời có mong cầu gì đều được, chẳng bị các thần quỷ dữ quấy phá. Nếu tụng đủ hai mươi muôn biến thì liền cảm được mầm Bồ-đề phát sinh. Tụng đến ba mươi muôn biến liền được thấy Phật A-di-đà. Nam-mô a di đa bà dạ đa tha dà đa dạ đa địa dạ tha a di rị đô bà tì a di rị đa tất đam ba tỳ a di rị đa tỳ ca lan đế a di rị đa tỳ ca lan đa dà di nị dà dà na chỉ đa ca lệ ta bà ha. Chú này có sáu chữ “Đa”, trong tạng kinh vốn chú âm “Đa hát thiết (Đát)” đây là chánh gọi. Văn Long Thư sợ người đọc không đúng âm này bèn đổi chữ “Thiện” thành “Xuyết”, đổi văn chú này, người đời chẳng chịu. Có hai chữ “Tha” đều là “Thấu qua thiết”, chữ “Đa” đều “Đô Ngạ Thiết”, chữ “Địa” là “Trừng mãi thiết”, chữ “Rị” là thượng thanh, cùng “Lý” đồng âm, “Chỉ” đọc là “Chỉ”. Người tu tụng trì chú này nếu không khớp với mười lăm câu trên thì không đúng bản chánh. Muốn hiệu nghiệm nên đọc theo câu trên. <詞>Nói về các luận Luận Vô Lượng Thọ: Kệ vãng sinh và Pháp tu năm môn. Thế Tôn, con nhất tâm Quy mạng khắp mười phương Vô Lượng Quang Như Lai Nguyện sinh nước An dưỡng Thấy tướng thế giới ấy Vượt hơn cả ba cõi Rốt ráo, như hư không Rộng lớn không bờ mé Đức Chánh Giác Di-đà Pháp vương khéo trụ trì Các tịnh hoa Như Lai Hóa sinh hoa Chánh giác Ưa thích vị Phật pháp Tam-muội là thức ăn Lìa hẳn não thân tâm Được vui thường vô gián Gốc lành cõi Đại thừa Bình đẳng không ghét ganh Người nữ và căn thiếu Giống Nhị thừa chẳng sinh Điều chúng sinh ưa thích Thảy đều được thỏa mãn Nên con nguyện vãng sinh Cõi nước Phật Di-đà Ta soạn luận nói kệ Nguyện thấy Phật Di-đà Khắp cùng các chúng sinh Đều sinh nước An lạc. Nếu người tu hành năm niệm môn này thành tựu thì cuối cùng sẽ được sinh về nước An lạc được thấy Phật A-di-đà. Lễ bái môn: Thân nghiệp lễ bái Phật A-di-đà là chủ ý muốn sinh nước ấy. Tán thán môn: khẩu nghiệp khen ngợi ánh sáng trí tướng Phật ấy, là muốn như thật tu hành tương ưng. Tác nguyện môn: Tâm thường phát nguyện nhất tâm chuyên niệm rốt ráo vãng sinh, muốn như thật tu hành Xa-ma-tha. Quan sát môn: Là dùng trí tuệ mà quán sát, muốn như thật tu hành Tỳ-bà-xá-na. Quán sát cõi nước ấy trang nghiêm. Quán sát Đức Phật ấy trang nghiêm. Quán sát các Bồ-tát ấy trang nghiêm. Hồi hướng môn, có bao nhiêu công đức gốc lành, dùng phương tiện mà hồi hướng che chở chúng sinh, không bỏ tất cả thế gian. Lại, quán sát môn ba thứ trang nghiêm lược nói vào một câu Pháp gọi là câu thanh tịnh, chân thật trí tuệ vô vi pháp thân. Cho nên Bồ-tát như thế mà tu năm môn, tự lợi lợi tha mau được thành tựu Bồ-đề. 2. Luận Tỳ-bà-sa. Niệm Phật là phương pháp dễ thực hành (của Bồ-tát Long Thọ). Phần thứ tư nói: Phật Pháp có vô lượng pháp môn. Như đường đi ở thế gian có dễ có khó. Đường đất đi bộ thì khổ, đường thủy ngồi thuyền thì khỏe. Đạo Bồ-tát cũng thế. Khó đi thì lâu mới đến, hoặc có người siêng năng tinh tấn lấy tín làm phương tiện. Dễ đi thì mau đến, nên phải niệm Phật, xưng danh hiệu, Phật A-di-đà có bổn nguyện như thế. Nếu người nào xưng niệm danh hiệu ta mong trở về với ta thì chắc chắn được A-nậu Bồ-đề. Thế nên thường phải nhớ niệm, kệ rằng: Nếu người nguyện thành Phật Tâm luôn niệm Di-đà Tức thời liền hiện thân Thế nên con quy mạng Nếu người muốn mau đến Địa vị không lui sụt Nên dùng tâm cung kính Chấp trì, xưng danh hiệu Phật ấy có bản nguyện Các Bồ-tát mười phương Đến cúng dường nghe pháp Thế nên con đảnh lễ. Các Bồ-tát cõi ấy Đầy đủ các tướng tốt Cùng tự trang nghiêm thân Nay con quy mạng lễ Các Đại Bồ-tát ấy Hằng ngày đều ba thời Cúng dường Phật mười phương Thế nên con kính lễ Nếu người gieo thiện căn Nghi thì hoa không nở Người Tín tâm thanh tịnh Hoa nở liền thấy Phật Phật hiện tại mười phương Dùng các thứ nhân duyên Khen công đức Phật ấy Nay con quy mạng lễ Nước ấy đủ trang nghiêm Khác xa các cung trời Công đức rất sâu dày Thế nên con lễ Phật. Nếu người sinh nước ấy Không hề đọa ba đường Cùng với A-tu-la Con nay quy mạng lễ. Luận Thập Nghi chép: Đạo khó hành là ở giữa cõi đời có năm thứ vẫn đục mà cầu A-bệ-bạt trí (Không lui sụt) thì rất khó được. Nói lược có năm: Các ngoại đạo khéo phá rối pháp lành của Bồ-tát. Những người vô lại xấu ác phá đức tốt của người khác. Quả lành điên đảo làm phá hoại phạm hạnh. Thanh văn tự lợi làm chướng ngại đại từ. Chỉ có tự lực (sức một mình) ví như người có tật ở chân đi bộ một ngày chẳng được mấy dặm. Còn đạo dễ thực hành thì tin lời Phật dạy Tam-muội niệm Phật, nương vào năng lực thệ nguyện của Phật Di- đà thì chắc chắn vãng sinh. Như người đi đường sông ngồi thuyền chỉ chốc lát mà vượt ngàn dặm. Cũng như kẻ yếu kém nương năng lực vua Chuyển Luân mà một ngày một đêm đi khắp bốn thiên hạ, không phải năng lực của mình mà do năng lực của Luân vương vậy. 3. Luận Đại Trí Độ. Người ưa chứa nhóm công đức cầu sinh Tịnh độ. Luận quyển bốn mươi ba hỏi: Pháp Bồ-tát là phải độ sinh, vì sao lại đến cõi Phật Thanh Tịnh Vô Lượng Thọ? Đáp: Bồ-tát có hai loại, Người có tâm từ bi, thường vì chúng sinh. 2. là Bồ-tát ưa chứa nhóm nhiều công đức của các Đức Phật. Người ưa chứa nhóm nhiều công đức thì thích đến cõi nước Nhất thừa thanh tịnh Vô lượng thọ. Người thích thường vì chúng sinh, luôn đến các chỗ không có Phật pháp mà khen ngợi Tam bảo. Lại Luận bốn mươi lăm nói: Bồ-tát có hai loại, một loại trước tự thành tựu công đức mình rồi sau mới độ chúng sinh, loại thứ hai trước thành tựu chúng sinh rồi sau mới thành tựu công đức mình. Diệu Tông Sao hỏi: Thượng phẩm của kinh Quán là ra khỏi vị, giả hợp với cõi uế mà lợi ích hữu tình, vì sao lại cầu sinh Tịnh độ? Đáp: Nay Bồ-tát Thập Hướng cầu sinh Tịnh độ chính là loại Bồ- tát trước tự thành tựu công đức cho người mà Đại Luận đã nói. Cho nên Luận Thập Nghi nói người chưa được Vô sinh nhẫn thì cần phải thường không lìa Phật mà cầu sinh về nước ấy. Luận Đại Trí Độ. Phật Thích-ca, Phật Di-đà mỗi vị đều có cõi nước uế và tịnh. Luận ba mươi sáu nói: Nên biết Phật Thích-ca Văn cũng có cõi thanh tịnh như nước Phật A-di-đà, còn Phật A-di-đà cũng có cõi nước không trang nghiêm thanh tịnh như cõi nước của Phật Thích-ca Văn. Lại quyển ba mươi tám nói: Cõi Diêm-phù vẫn đục nên Phật Thích-ca tuổi thọ ngắn, còn cõi nước kia tốt đẹp nên Phật Di-đà sống lâu. Lại kinh Niết-bàn quyển hai mươi hai nói: Tây phương cách đây ba mươi hai hằng hà sa cho đến có cõi Vô thắng tất cả trang nghiêm như thế giới An lạc, ta ở nước ấy xuất hiện ra đời. Quán kinh sớ nói: Ứng Phật đều có hai thứ tùy duyên theo vật, dài ngắn khác nhau. Diệu Tông giải thích: Các Phật đều có ba thân viên chứng, Ứng thân độ sinh, tuổi thọ chúng sinh dài ngắn, vì thuận theo mà bày hai thứ. Cho nên Phật Di-đà hiện tuổi thọ dài thì cũng hiện tuổi thọ ngắn, còn Phật Thích-ca hiện thứ xấu thì cũng hiện tuổi thọ dài. Luận Khởi Tín. Ta-bà chẳng gặp Phật nên chuyên khuyên niệm Phật (của Bồ-tát Mã Minh) Lại nữa, chúng sinh mới học pháp ấy muốn cầu Chánh tín, nhưng tâm tánh yếu đuối vì ở cõi Ta-bà này sợ chẳng thể thường gặp Phật mà hầu hạ cúng dường, sợ tín tâm khó thành tựu, ý muốn lui sụt. Nên biết Như Lai có phương tiện hay khéo giữ gìn tín tâm. Dạy rằng do nhân duyên chuyên niệm Phật mà tùy nguyện được vãng sinh về các cõi nước Phật phương khác, được thường thấy Phật mà cầu lìa đường ác. Như kinh nói: Nếu người chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc, Tây phương, tu các gốc lành đều hồi hướng phát nguyện cầu sinh về thế giới ấy thì liền được vãng sinh, thường được thấy Phật, nên không bao giờ lui sụt. Nếu quán chân như pháp thân của Phật ấy, thường siêng năng tu tập thì rốt ráo được sinh, trụ vào Chánh định. Hiền Thủ Khởi Tín Sớ chép: Vãng sinh có ba bậc. Như hoa sen chưa nở, tín hạnh chưa đủ, chưa gọi là không lui sụt. Chỉ ở chỗ duyên không lui sụt nên gọi là không lui sụt. Tín vị đầy đủ rồi, hoa nở thấy Phật, bước lên giai vị Thập trụ, được phần ít pháp thân, trụ bậc Chánh định. Địa vị Tam hiền đã mãn, lên bậc Sơ địa, chứng biến mãn Pháp thân, sinh vô biên cõi Phật, như Phật đã thọ ký cho ngài Long Thọ… sinh Tịnh độ, trụ bậc Sơ địa… Trong đây rốt ráo đều là hai bậc sau. Tứ Minh Dung Tâm giải thích rằng: Cõi này vẫn đục nặng nề, bậc Thập tín mới thoát vòng khổ, còn cõi kia là thắng cảnh nên cả chín phẩm đều không lui sụt. Nay nương cảnh thù thắng kia mà tu quán, dẫu lý chưa hiện, kiến ái vẫn còn đủ, nhưng bỏ báo thân này thì liền sinh về nơi không lui sụt. Luận Khởi Tín dạy quán Chân như pháp thân của Đức Phật ấy, vậy nếu không phải dùng một tâm ba quán thì lấy gì mà quán. Nay tôi dùng ba quán giải thích kinh và ý của ngài Mã Minh là không có chút gì khác nhau. Cho nên Thập Nghi Luận dạy quán tưởng Phật Di- đà có Pháp thân, Báo thân sáng suốt tướng tốt. Cho nên biết hạnh của vãng sinh chính là ba quán, tưởng ba thân ấy, bỏ cõi này cầu cõi kia, sơ tâm không lui sụt, nghóa ấy đều thành. Pháp Tư Duy Yếu Lược: Hai căn lợi, độn, quán tướng tốt của Phật. Quán Phật Vô Lượng Thọ có hai; về người độn căn thì trước tự quán sát cách trán một tấc, trừ bỏ da thịt chỉ thấy xương đỏ. Buộc niệm ở duyên chẳng nghó các niệm khác, nếu tâm duyên theo vật khác thì nhiếp khiến trở về. Kế quán kỹ một tấc xương đỏ khiến trắng như ngọc kha. Lại tưởng cả thân hình thành bộ xương trắng không có da thịt. Lại tưởng bộ xương ấy trong suốt như lưu ly có ánh sáng trong suốt thanh tịnh. Lại tưởng từ bộ xương lưu ly ấy phát ra ánh sáng trắng, phát xa thu gần rồi khắp cõi Diêm-phù-đề chỉ thấy ánh sáng không thấy các vật. Lại tưởng ánh sáng ấy chui vào thân. Khi vào rồi thì từ ánh sáng mà quán thấy Phật Vô Lượng Thọ ngồi kiết già, dung nhan vòi vọi như núi vàng ròng chói lọi. Rồi giữ tâm ở Phật, không nghó các duyên khác, luôn như ngồi đối diện trước Phật. Còn người lợi căn, thì trước nên quán tưởng ánh sáng trong suốt sáng sạch. Rồi trong ánh sáng tưởng thấy Phật thì sẽ thấy. Người tu nếu muốn sinh về nước ấy nên thực hành pháp quán này. Kế quán các pháp đều là vắng lặng. Đối với chúng sinh luôn sinh khởi tâm đại bi. Có bao nhiêu gốc lành đều hồi hướng hết cả, nguyện sinh nước ấy thì liền được vãng sinh. Pháp trên thấy trong Đại tạng hòm chữ Đồ. Xét rõ văn ấy không phải Phật nói, lại chẳng ghi chép Bồ-tát nào viết ra, đây là bài dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, chắc cũng là loại giáo điển ở Tây Trúc. Nay chép lại để giúp việc tư tu. Tôn hiệu của Phật A-di-đà Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới tam thập lục vạn ức nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bá đồng danh đồng hiệu A-di-đà Phật. Thuở xưa Phật Thích-ca Mâu-ni ở đời đi hành hóa đến một ngôi nhà nọ, thấy hai ông bà đem một đấu gạo để ghi số niệm Phật A-di-đà mà nguyện sinh Tịnh độ. Phật bảo: Ta có cách khác khiến các ngươi trong một tiếng mà niệm được nhiều gạo. Bèn dạy niệm danh hiệu Phật. Nói về danh hiệu Phật trên, các kinh Tịnh độ chẳng thấy nói. Đầu tiên nhân Thiền sư Phi Tích, đời Đường trong Luận Bảo Vương, lấy hiệu Phật này làm pháp môn Nhất niệm đa Phật. Kế đó, quan thị lang họ Vương xưa trong Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập cũng dùng theo. Sau cùng trong Văn Long Thơ Tịnh độ rộng khuyên người thọ trì danh hiệu ấy, bảo rằng: Có lần đem các thứ lúa so sánh thì một hợp có một ngàn tám trăm hạt. Nếu một lần xưng niệm danh hiệu ấy thì có gấp hai ngàn lần số hạt thóc. Từ đó dạy người niệm danh hiệu ấy thì công đức không thể suy nghó bàn luận. Xét luận Bảo Vương không ghi trích ở kinh luận nào. Nay nghó rằng người tụng niệm muốn biết nên chép ra đây.  LẠC BANG VĂN LOẠI <卷>QUYỂN 2 Tự và Bạt (gồm ba mươi hai bài). Bài tựa bằng thơ về Tam-muội niệm Phật của Pháp sư Viên Ngộ Tuệ Viễn. Bài tựa Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh Sớ của Thiền sư Trí Giả. Cơ. Bài tựa A-di-đà kinh Thông Tán Sớ của Từ Pháp sư Ân Khuy Bài tựa A-di-đà kinh Sớ của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên Bài tựa A-di-đà kinh Tân Sớ của Pháp sư Tịnh Giác Nhân Nhạc. Bài tựa Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh của Thiền sư Từ Giác Tông Tránh. Bài tựa A-di-đà kinh Khuyến Trì của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Bài tựa vãng sinh Tây phương lược truyện của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Bài tựa vãng sinh Tịnh độ Sám Nguyện Nghi của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Bài tựa vãng sinh Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Lời tựa Tịnh độ Vãng Sinh Truyện của Thiền sư Phi Sơn Giới Châu. Lời tựa niệm Phật Tám Muội Bảo Vương Luận của Pháp sư Thảo Đường Phi Tích. Lời tựa Hoa Nghiêm Tam-muội niệm Phật Vô Tận Đăng của Pháp sư Viên Trường Nghóa Hòa. Lời bạt Vô Tận Đặng của Tham Chánh Phạm Thành Đại. Lời tựa tịnh Chúng Lễ Sám Nghi của Luật Sư Đạo Trí Nguyên Chiếu. Lời bạt kinh Quán Cửu Phẩm Đồ Hậu của Luật Sư Đạo Trí Nguyên Chiếu. Lời tựa Tịnh độ Nghi Luận Thập của Đề Hình Dương Kiệt. Lời bạt Tịnh độ Nghi Luận Thập của Thị Chế Trần Quán. Lời tựa trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập của Đề Hình Dương Kiệt. Lời tựa Long Thơ Tịnh độ Văn của Trạng Nguyên Trương Hiếu Tường. Lời bạt Long Thơ Tịnh độ Văn Bạt của Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo. Lời tựa Tịnh độ Bảo Châu Tập của Thị Lang Vương Cổ. Lời bạt Tứ Thập Bát Nguyện Hậu của Pháp sư Tuệ Giác Tề Ngọc. Lời tựa Tịnh độ Cảnh Sách của Pháp sư Ngô Hưng Nguyên Dónh. Lời tựa Tịnh độ Tín Lục của Vô Công Tẩu Vương Điền. Lời bạt tu Hành Tịnh độ Pháp Môn của Thị Lang Mạc Trọng Khuê. Lời bạt Minh Sư Thắng Địa Luận Bạt của Cư só Độc Tinh Lâm Cao. Duệ. Lời tựa Bảo Thành Dị Ký Lục của Thị Chế Trần Quán. Lời tựa Viễn Pháp Sư Trai Kî Lễ Văn của Chánh Ngôn Trầm Lời tựa Xưng Tán Tịnh độ Hải chúng Thi của Phủ Phán Phương. Lời tựa Tây Quy Liên xã của Pháp Sư Nguyệt Đường Tuệ Tuân. Lời tựa in Vãng Sinh Hạnh Nguyện Lược Truyện của Cư Só Khải Am Ngô Khắc Kỷ. Tấn. <詞>Về văn có mười ba bài Lô sơn Bạch Liên xã Thệ Văn của Dật Só Lưu Di Dân đời Đông Hải Nhã của Liễu Tử Hậu thuộc bộ Lễ đời Đường. Lời bạt Đông Hải Nhã của Văn Trung Công Tô Thức. Lời bạt Đông Hải Nhã của Thiền sư Quất Châu Bảo Đàm. Điếu Võ Thị Ngự Họa Phật Văn của Văn công Hàn Dũ đời Đường. Kết Xã Pháp tập của Tăng Lục Thông Tuệ Tán Ninh. Liên Hoa Thắng Hội Lục Văn của Thiền sư Tuệ Giác Tông Trách. Niệm Phật Phòng Thoái Phương Tiện của Thiền sư Tuệ Giác Tông Trách. Văn Niệm Phật Hồi Hướng Phát Nguyện của Thiền sư Tuệ Giác Tông Trách. Văn Niệm Phật Sám Hối Phát Nguyện của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Văn Kết Liên xã Phổ Khuyến của Tổng Quản Trương Luân. Văn Tây Tư Xã Đồng Thệ của Chứng Thông Pháp sư Sư Hữu. Văn Vãng sinh Tịnh độ Thập Nguyện của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh. Về Tán (gồm 17 bài). Kim Ngân Nhi Họa Tịnh độ Biến Tướng Tán của Hàn Lâm Lý Bạch, đời Đường. Tú Tây phương Tịnh độ Tranh tán của Thị Lang Bạch Cư Dị đời Đường. Tú A-di-đà Phật Tán của Thị Lang Bạch Cư Dị đời Đường. Tây phương Tịnh độ Tán của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên. Vô lượng Thọ Phật Tán của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Họa A-di-đà Tượng Tán của Văn Trung Công Tô Thức. Lý Bá Thời Họa Di-đà Tán của Thiền sư Tịch Âm Tuệ Hồng. An lạc quốc tám tam thập chương của Đề Hình Dương Kiệt. Thiện Đạo Di-đà Đạo Tràng Tán của Đề Hình Dương Kiệt. Bạch Liên Hàm Giáo Chủ Chân Tán của Đề Hình Dương Kiệt. Hiệu Thiền Nguyệt Tác Viễn Công Vịnh của Thái Sử Huỳnh Đình Kiên. Viễn Pháp Sư Tán của Cấp Sự Trình Câu. Lưu Di Dân Tán của Cấp Sự Trình Câu. Đào Tinh Tiết Tán của Cấp Sự Trình Câu. Tạ Khang Lạc Tán của Cấp Sự Trình Câu. Lục Đạo Só Tán của Cấp Sự Trình Câu. Lâm Hạnh Tự Tiễn của Pháp Sư Tra Am Tuệ Viễn. Tựa và Bạt (gồm ba mươi hai bài). Bài tựa tam muội niệm Phật thi: Pháp sư Lô sơn Tuệ Viễn. Bài tựa nói: Tam-muội niệm Phật là gì? Nghóa là tư tưởng hoàn toàn vắng lặng. Tư chuyên nhất thì chí không tạp nhiễm. Tưởng vắng lặng thì khí hư mà thần sáng, khí hư thì trí tuệ chiếu soi, Thần sáng thì không pháp nào mà không thấu triệt sâu xa. Hai nghóa này là sự phù hợp huyền diệu một cách tự nhiên, hội lại thành một dụng. Cho nên sự tinh chuyên ngày đêm nhàn du khắp trong thiên hạ mà cảm vật thông linh, chế ngự được tâm chánh đạo, nhất cử nhất động thể nhập vào lý nhiệm mầu. Ở đây nếu tu đến chỗ ngưng thần, chứa nhóm để đổi tánh thì cũng giống như thế. Huống chi quên hết sự vật, đạt sâu đến chỗ chí cực, trí rơi vào trong vũ trụ mà thầm qua lại các phương? Xin nói lại từ đầu, Bồ-tát mới chứng đạo vị, thấu triệt lý huyền môn, thể tịch vô vi mà không chỗ nào không đến. Và đạt đến chỗ thần biến thì khiến cho điều chỉnh lại các pháp thường độ. Lớn nhỏ đều trái nhau, tam quang xoay lại cảnh để cùng tỏ chiếu, trời đất lo gì không thể hội. Lại các Tam-muội, tên gọi thì rất nhiều; nhưng công cao dễ tiến thì chỉ có niệm Phật là trên hết. Đạt đến chỗ huyền diệu cực vắng lặng, thần thể đều hợp biến, ứng với mọi phương hướng. Cho nên nay nhập vào định này, phải quên hết trí, tức là dùng sở duyên mà thành sự soi sáng. Đã được soi sáng thì bên trong chiếu soi xuyên suốt sắc của chúng sinh, tai mắt chẳng thể thấy nghe hành trì. chỗ thấy ấy sâu xa, thể cảnh vắng tịch, thì tướng giác ngộ sâu xa rõ ràng tự nhiên. Quán sát chỗ nghi vấn huyền âm, tâm nghe thì trần lụy đều tiêu hết, nghi tình đều dung hóa tỏ sáng. Nếu chẳng phải là bậc chí diệu ở trong trời đất, thì ai có thể đạt đến chỗ này? Xét theo đây, một khi cảm nhận được, bèn phát ra lý sâu tu tập lâu dài, ra khỏi sự hôn mê trần tục. Nếu làm mất đi sở duyên của các định, thì không thể gọi là hơn kém, điều này có sự nhận biết. Cho nên phụng trì thành ý của các bậc hiền, đều là đạo lý khế hợp, cảm được sự thay đổi suy tàn của ngày tháng, sợ không báo đáp được. Cho nên trước pháp đường sám hối tự tâm, y áo ngay ngắn thanh tịnh hướng về, đêm quên cả ngủ nghỉ, trọn ngày cần mẫn siêng năng, dụng công chú mục, chí thông ba thừa, cứu giúp chúng sinh đến bờ giác, đồng trụ trong chín cõi. Mong đưa người vượt ra bể khổ, cứu vớt sinh linh. Phụ dẫn ra đây để cảnh tỉnh người sau, viết ra mấy lời này, đâu phải chỉ là văn thơ suông mà thôi? Bài tựa quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ: Thiền sư Trí Giả. Nước vui và cõi khổ, vàng báu và đất bùn, địa ngục và ao hoa, quỳnh thọ và gai góc, đều do tâm phân ra có cấu tịnh, nên thấy sự lên xuống ở hai cõi. Mở ra sự thiện ác, nên thấy có sự thô diệu ở hai nơi. Cũng như hình ngay thì bóng thẳng, nguồn đục thì dòng đen tối. Cho nên biết muốn sinh về cõi Cực lạc, thì phải tu mười sáu pháp quán. Nguyện thấy Đức Thế Tôn Di-đà, phải hành trì ba nghiệp thanh tịnh. Nhưng việc hóa nhân phải dần dần, giáo hóa phải nhờ duyên mới có, như A-xà-thế giết vua soán nghịch, hoàng hậu Vi-đề ai bi cầu thỉnh, Đại Thánh rủ lòng Từ, tùy cơ nói pháp. Tuy rộng khai thị nhiễu cõi báu, mà tông quy về An dưỡng, khiến cho chúng sinh có duyên trong thời mạt pháp vâng theo diệu quán này. Mặt trời sắp lặn như chiếc trống treo, dùng đó mà suy tưởng. Nước lớn kết thành băng, thật là biểu hiện cho mặt đất lưu ly. Gió thổi cây báu, cùng nhạc trời đồng trổi lên. Sóng động ao báu, đem khế kinh mà hợp âm hưởng, quán nhục kế mà chiêm ngưỡng, nhớ nghó lông trắng để thấy Đức Như Lai. Đến ngày qua đời, bước lên đài ngọc được vãng sinh. Văn thành thì ấn hoại, ngồi sen vàng mà hóa sinh, nương ba bậc mà được thoát ra ba cõi chiều ngang, vượt khỏi năm khổ, đúng gọi là vi hành diệu quán, thật là yếu thuật của chí đạo. Kinh này lấy tâm quán làm tông, lấy thật tướng làm thể, nói Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật, Phật là thắng cảnh sở quán, nêu chánh báo để gồm thâu y quả, nói hóa chủ để gồm thâu đồ chúng. Quán tuy có mười sáu pháp, mà lời của Phật đều trùm khắp, Cho nên nói Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh. Kinh là huấn pháp huấn thường, do miệng vàng của bậc Thánh nói ra. Bài tựa A Di Đà kinh thông tán sớ: Từ Ân Pháp Sư - Khuy Cơ. Lý bặt hết các giải thích, há ba thừa có thể nhiếp. Trí đầy đủ cả muôn đức chẳng phải Thập địa dùng năng quán. Rải mây từ che chở cả bốn loài. Mưa pháp tưới nhuần để cứu vớt chúng sinh trong chín cõi. Do đó Bồ-tát giáng thần từ cung trời Đâu-suất, đản sinh vào nước Xá-vệ. Chán cảnh dục lạc ở cung vua, đạt được chân thường dưới cội Giác. Bởi chúng sinh nghiệp hoặc, bè đảng Ma tăng mạnh; vượt biển khổ, tránh ba đường, chìm mất thuyền từ mà nuốt cả muôn điều lành. Cho nên, Phật giăng cao lưới pháp, chỉ thẳng về cõi tịnh, đó là huyền môn nhập Thánh, siêu xuất huyền diệu. mười lớp Tịnh độ, y cứ theo địa vị thì có khác nhau, chín phẩm đài sen, do căn khí khế hợp mà lần lượt bước lên. Thật vó đại thay! Phật là bậc đã giác ngộ viên mãn. Nói là tâm từ nói pháp. A-di-đà nghóa là Vô Lượng Thọ. Kinh là thường pháp nhiếp quán. Thường thì trăm vua không dễ làm, pháp thì ngàn đời đồng noi theo nhiếp thì bao gồm cả ngôn từ, quán thì thông suốt lý mầu. Cho nên nói: “Phật thuyết A-di-đà kinh”. Bài tựa A Di Đà kinh sớ: Pháp sư Lô Sơn Trí Viên Tâm tánh là thể, sáng suốt ư? Vắng lặng ư? Chỉ có một mà thôi. Không có phàm Thánh, không có y chánh, không có dài ngắn, không có tịnh uế. Còn như sự cảm vật là do duyên mà biến hiện, là sáu phàm, là ba Thánh, là y chánh. Y chánh đã tạo thì tuổi thọ có dài ngắn, cõi nước có tịnh uế. Đức Phật là bực Đại Thánh trong loài người, đã đạt đến chỗ minh tónh như một, là mượn đạo ở tâm từ, gá nương ở tâm bi, là muốn cứu vớt quần mê giúp cho trở lại với chân tướng của mình. Thế là ở trong chỗ vô thân mà thị hiện thân, không cõi nước mà thị hiện cõi nước. Tuổi thọ vô lượng, cõi nước thanh tịnh an vui, thật đáng cầu sinh. Trái lại, cõi này thì tuổi thọ ngắn ngủi, cõi nước đáng chán, không nên ở mãi. Đã có sự ưa chán, thì dần dần khuyến hóa sách tấn hành trì. Cho nên, Đức Thích-ca Mâu-ni thị hiện tuổi thọ có hạn lượng mà giữ lấy cõi uế. Chẳng phải muốn cho chúng sinh nhàm chán hay sao? Di-đà thị hiện ra tuổi thọ vô lượng, giữ lấy cõi Tịnh, chẳng phải muốn cho chúng sinh cầu vui hay sao? Do đây là chiết phục, từ kia mà nhiếp nhập, khiến cho quay về bổn tâm mà tỏ được tánh. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: “Tùy theo chúng sinh được điều phục, mà giữ lấy cõi Phật.” Dù lầu báu đất vàng làm cho vui mắt, nhưng không bị sắc làm cho mê hoặc, thì có thể đạt đến chỗ duy tâm vô cảnh. Tuy tiếng chim, gió cây có làm cho êm tai nhưng không bị âm thanh chế ngự, nhờ đó mới có thể nhớ nghó về Tam bảo. Được như thế thì thể minh tịnh rõ ràng như chỉ tay trong lòng bàn tay. trí.” Trong kinh nói: “Chúng sinh sinh về đó, đều là bậc A-bệ-bạt Cao cả thay! Sự khéo léo của bậc Thánh là như thế, cho nên trong các kinh luận đều tán dương về cõi Tịnh độ, đều là có yếu chỉ. Vậy kinh Phật Thuyết A-di-đà nghóa là thiên tán ư? Tôi thì thích từ đơn giản mà lý rõ ràng, văn dón gọn mà sự đầy đủ. Đủ lấy đó để dẫn dụ cho kẻ ngu mông trí cạn. Y cứ theo Tông môn ngài của Long Thọ, chuẩn theo thuyết của ngài Trí Giả, y theo kinh mà biện lý, lấy đó làm nghóa sớ. Nếu nghiên cứu một cách sâu xa thì chúng ta hầu như dám hỗ trợ cho chân phong? Vì muốn lợi ích cho người sau. Bài tựa A Di Đà kinh tân sớ: Tịnh Giác Pháp Sư-Nhân Nhạc. Hoặc cho là hư không, không có bờ bến, thế giới là vô lượng, trong đó có phàm có Thánh, có tịnh có uế, vì sao lại như thế? Đáp: Do vọng niệm mà như thế. Chân thì không như thế. Chư Phật chứng chân, thế giới hư không tan hết. Còn nói về việc ứng hóa thân và cõi nước, cũng tùy vọng niệm chúng sinh mà cảm ra, vì muốn cho chúng sinh bỏ phàm thành Thánh, xả uế về tịnh, sau đó dần dần được chứng quả giống như các Đức Phật vậy. Ôi! Vọng tưởng của chúng sinh sâu dày, cho nên Đức Phật Thích- ca khởi lên tâm từ bi vô duyên, xuất hiện ở thế giới Kham nhẫn này, dùng biết bao nhiêu phương tiện, khai thị các pháp môn như năm thời thiết giáo, ba thừa thọ đạo. Tuy là đốn tiệm khác nhau nhưng đều quy về lý, lại có những vị Phật chưa độ mình mà đã độ tha ở cõi Phật khác thì gọi là Bổ xứ như Từ Thị Di-lặc, có Phật Di-đà ở Cực lạc, cho đến các cõi Phật thanh tịnh ở mười phương bày ra như ảnh tượng, trong gương, dẫn dắt như cầu bến, tùy theo sở ứng mà làm lợi ích chúng sinh. Nhưng bổ xứ tuy gần, mười phương thì xa, các kinh Đại thừa đều xưng tán cõi Cực lạc là trên hết, Di-đà là cao quý. Y-chánh đã khác mà tuổi thọ cũng dài lâu, chúng sinh tín niệm và nguyện sinh về cũng nhiều, lưu lại dấu tích thần hóa, sáng lập từ nơi chúng sinh. Phật dạy: “Đời vị lai khi chánh pháp diệt, chỉ còn lại kinh Vô Lượng Thọ ở đời thêm một trăm năm.” Ngài Thiên Thai nói: “Nên biết là Đức Phật Di-đà, đối với cõi đời có năm thứ trược ác rất có nhân duyên.” Bộ kinh này, đầu tiên do Pháp sư Từ Ân có giải thích, lại bản có sớ, cũng ghi tên ngài Khuy Cơ. Tương truyền rằng: đây là do một vị tăng Vô Danh mượn để thực hành, so với ý chỉ của văn thì đại thể là đồng mà chi tiết thì khác. Đến Lô Sơn Trung Dung tử chương cú về sau lại hiển xuất ra lưu truyền hưng thạnh ở đời. Do đó nên từ ngữ thì giản dị mà nghóa tóm lược, dùng lời phu huấn giống như chưa nói hết nghóa ở nơi phương đẳng! Do phương hướng chưa rõ ràng nên tôi tham giáo các vị trí giả. Lại vì tuổi cao nên muốn lấy pháp yếu một nhà cùng các thuyết Tịnh độ để nói lại văn này. Vì sợ nhiều người ganh ghét, nên chưa được như ý muốn. Khi tuổi cao sức yếu bèn lui về quê cũ, lại nhớ đến sự báo ân ngọc tuyền, lưu ở khuê phong nghó việc báo hiếu, tháng bảy hiến cúng Vu lan bồn chỉ giữ sự thanh nhàn mà dứt hết cấu nhiễm. Khi sách đã viết xong, chia làm thượng hạ, viết lời tân sớ mục, để phân biệt với cựu chương. Lời nói không văn, tôi đâu dám sánh với người trước, hoặc nói lý càng thêm thô thiển, cũng có chỗ không bằng. Bài tựa quán Vô Lượng Thọ Phật kinh: Thiền sư Từ Giác, Tông Gi. Biển Chánh biến tri từ tâm tưởng sinh ra, thế giới các Đức Phật tùy tâm Tịnh độ. Thế nhưng Phật Di-đà là bậc chí Thánh, không cách xa hạ phàm, Cực lạc tuy xa, cũng đâu lìa cõi này! Cho nên, niệm Phật thì được thấy Phật. Cầu sinh thì liền được vãng sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ là dùng tâm pháp giới mà chiếu cảnh thật tướng, dùng ba thứ tịnh nghiệp mà nói rõ pháp hạnh chánh nhân, dùng mười sáu diệu quán làm phương tiện tịch chiếu. Pháp thân và hóa thân đều tùy lượng; y báo, chánh báo cùng quán. Cho nên hoàng hậu Vi-đề-hy thoát nhiên đại ngộ, thọ ký được vãng sinh. Đức Thế Tôn đích thân khuyên thọ trì, nói rộng lời này. Kinh truyền ở cõi này, ít có người lưu thông, không có đầy đủ căn cơ, thì ai nêu bày pháp thí? Các vị Tỳ-kheo như Quỳnh An ở Thường sơn… vì thương xót chúng sinh trong cuộc sống hằng ngày không ra khỏi trần lao, khen ngợi sự vô biên của diệu cảnh, nguyện làm vị hướng đạo, đồng tâm in ấn chạm khắc, rộng khắp thọ trì. Nếu chẳng phải là những vị đồng tu một pháp môn với ngài Thế chí cũng là cựu xả của ngài Tuệ Viễn. Nay tạm ghi ra lời tựa dẫn, phổ cáo những điều chưa nghe. Bài tựa A Di Đà kinh khuyến trì: Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Kinh này văn cú tuy đơn giản, nhưng ý không khác với đại bổn, các bậc thượng Thánh vì phó duyên nên rộng lược có ít nhiều sai khác. Y chánh, chủ bạn ở cõi này đều có đủ, phương quy nguyện hành thì có nói thêm. Từ giản đơn mà nghóa thì rộng, phúng tụng dễ mà công lực thì nhiều, thật là một điều tốt đẹp ở cõi này. Đầu tiên thì rộng khen ngợi các pháp y báo chánh báo, dẫn đến sự ưa thích mong cầu. Kế đến thì sáu phương đều dẫn lời chư Phật, khuyên sinh lòng tín. Sau cùng thì nêu ra việc khó dễ, khiến cho người nghe biết quy hướng. Rộng khen ngợi y chánh, có hai phần: Khen ngợi. Khuyến tu nguyện hành: Từ “Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất…” trở xuống… là lập đối tượng được khen. Từ “Nước kia vì sao tên là Cực lạc…” trở xuống… trước khen ngợi quả y, tức là lưới châu che khắp trời, quỳnh lâm đầy mặt đất. Nước trong ao có tám công đức, sen phát ra ánh sáng bốn mầu nhạc trời tấu đủ sáu thời, hoa rải khắp hằng hà sa ức cõi nước. Các loài chim giảng nói đạo phẩm, gió thổi vào cây truyền thụ pháp âm. Từ “Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào…” trở xuống… là khen ngợi về chánh báo, trước khen ngợi hóa chủ, có tám vạn tướng tốt, ánh sáng trùm khắp. Công đức dụ cho cát, nói tuổi thọ là tổng quát, thành Phật đã mười kiếp, giản lược qua chưa giải thích hết nghi. Lại từ Xá-lợi-phất trở xuống, là lời khen ngợi quyến thuộc. Chúng Thanh văn tuy đông, nhưng đều đã phát tâm rộng lớn. Bồ-tát thì nhiều cũng đều đã Nhất sinh bổ xứ. Khi vãng sinh về đó đều quy về Định tụ, quy hướng về tức đã dự vào hàng bất thoái. Kế đến từ “Chúng sinh nghe…” trở xuống… là khuyến tu nguyện hành, trước tiên phải lập nguyện. Không thể với chút ít gốc lành trở xuống… là nói sự tu hành, “một ngày”… chính là chỗ dụng tâm dày mỏng, không dựa vào thời gian lâu mau, nên vâng theo nhất tâm bất loạn. Từ “Khi người ấy sắp qua đời…” trở xuống… là nói về đắc quả. Từ “Ta thấy có lợi ích ấy” là tổng kết khuyến khích. Kế đến là từ “Như ta ngày nay…” trở xuống sáu phương đều dẫn đồng, khuyến hóa chúng sinh tín niệm, trước là dẫn đồng. Kế đến là “ý ông” trở xuống, là lời khuyến tín, cũng là khuyến trì. Từ “Như ta ngày nay…” trở xuống lần thứ ba là nêu khó để so sánh với dễ ở cõi. Đời có năm thứ ác trược đắc đạo thật khó, ở Tịnh độ tu hành thì dễ. Đều như văn mà khuyến thỉnh, trước chia ra từng chương đoạn, sau mới là văn tụng. Đây là khởi tận chúng hữu luân, công đức không luống uổng. Hoặc như sáng yên tối lặng, người xem nghe đều thấy rõ đầu mối, miệng tụng tâm an, tinh thần sáng tỏ ở nơi u cực, tịnh cảnh chẳng mê. Lưỡi rộng dài khuyên người tu trì, há không như thế sao? 8. Bài tựa vãng sanh tây phương lược truyện: Chỉ ở cõi Tây phương Tịnh độ, lưới báo quỳnh lâm, vượt xa ngọc hào ở các phương khác, tốt đẹp hơn ngàn lần ở nơi trần sa thế giới. Các Đức Phật đồng khen ngợi, các bậc hiền đều tôn trọng, ngài Mạn Thù nguyện sinh về nước kia, ngài Thiên Thân, Di-lặc, đều thệ vãng sinh. Các vị Thánh hiền còn như thế, huống chi hàng phàm tình? Còn như người định nghiệp tán nhân, ít thiện nhiều phước, cắt đức năm đường mà cầu vãng sinh, chín phẩm cao thăng, thẳng đến quả Phật, không còn lui sụt. Cho nên Phật kia có bổn nguyện rằng: “Nếu ta thành Phật, chúng sinh mười phương đều dốc lòng tin ưa, muốn sinh về nước ta, dù chỉ mười niệm, nếu không được sinh về thì ta không thành Chánh giác, chỉ trừ kẻ phạm năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp.” Nay ta đã may mắn không phạm năm tội nghịch, không hủy báng Đại thừa, chẳng lẽ nguyện cầu mà không được toại chí hay sao? Huống chi trong mười sáu pháp quán, nói trong hạ phẩm hạ sinh, có đủ bốn tội trọng, năm tội nghịch, hủy báng Phương Đẳng, khi sắp qua đời lửa địa ngục hiện ra, xưng mười câu hiệu Phật thì lửa dữ địa ngục hóa thành luồng gió mát, liền được sinh về nước kia. Đây là nói cho hạng người phạm tội nghịch chỉ nhờ mười niệm mà được vãng sinh, huống chi đây là đối với người không có tội? Nói theo đây, thì mỗi người nên tự có niềm tin, hễ có nguyện sinh về, thì không ai không được toại ý. Cho nên ngài Thiên Thai Trí Giả khi sắp qua đời có nói bài tán rằng: “Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm cõi Tịnh, ao sen cây báu không người sinh về, xe lửa cùng hiện ra, một niệm sửa đổi liền được vãng sinh, huống chi người có giới định huân tu, đạo lực tịnh hạnh thật không luống uổng.” Lại trong bổn nguyện có nói: “Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu ta, hướng niệm về nước ta, hồi hướng vãng sinh, nếu không được như ý thì ta nguyện không thành Phật.” Lại nên so sánh nghiệp hạnh lâu dài: Mười niệm tín ưa còn sinh về nước kia, huống gì một ngày tín ưa, cho đến một tháng, một năm, một đời đều tín ưa? Lại nên so sánh về diệt tội nặng nhẹ: Một niệm diệt trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Một niệm xưng hiệu Phật diệt tội còn như thế, huống chi mười niệm, cho đến một ngày, một tháng, một năm, một đời niệm Phật lại được diệt tội là bao nhiêu? Tội trọng còn diệt, huống gì là tội khinh? Lại nên so sánh công đức niệm Phật và tướng hơn kém của các gốc lành khác! Kinh nói: Nếu ngươi đem bốn việc và các vật thực thật tốt cúng dường khắp các vị A-la-hán, Bích-chi… đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, thì được phước đức không bằng có người chắp tay xưng một câu Nam-mô Phật-đà. Người như thế được phước đức vô lượng, dù Thánh phước khắp đại thiên cho trăm phần, ngàn phần cũng không thí dụ hết được. Một niệm xưng danh hiệu Phật công đức còn như thế, huống chi niệm mười câu, cho đến một ngày, một tháng, một năm, một đời niệm Phật A-di-đà thì được biết bao nhiêu công đức. Lại nữa! Nên biết, người niệm Phật, hiện đời được an ổn, các vị Thánh đều che chở, lìa hết mọi tai ách. Lại so sánh các phong tục trong thời nay, các việc cúng tế quỷ thần, cầu được phước lộc, cầu được an ổn. Rồi tin tà sát mạng, tạo tội kết oán, đều chẳng có lợi cho người, nên không được phước đức, chiêu vời tội báo địa ngục đời sau. Trong kinh Dịch có nói: “Nhà làm các điều bất thiện, chắc chắn sẽ có tai ương.” Sát sinh hại mạng, để cúng tế quỷ thần, không phải một ngày, một buổi, đó chẳng phải là chứa nhóm những điều bất thiện hay sao? Tội lỗi tai ương như thế vì sao còn nghi ngờ? Nếu nói sát sinh chẳng phải là bất thiện thì xưa nay các bậc Đế vương, vì sao có lòng nhân từ hóa thế, thắng hung tàn, dứt bỏ nghiệp sát. Loài cầm ngư theo tánh, khiến cho lên cõi thọ, đều xứng với thiện? Nhưng pháp cúng tế, ở bên Thiên trúc có hộ pháp Vi-đà ở Trung quốc tế điển chưa thoát được thế luận, thật là quyền phương theo thế tục. Chu Công tuy xưng là thờ thần, mà không hiểu đạo gần xa Trọng Ni thờ quỷ thần? Bởi mê theo cội nguồn sáu đường, họ Lão bị đắm chìm trong chín cõi, Trang Tử chưa dời được trăm họ, chỉ có đạo Thích tôn là thấu suốt chân lý. Trời ngụ ở cõi trên, kế đến là người, Tu-la ở giữa, quỷ súc ở dưới. Nay đem người thờ quỷ, cũng giống như cúi đầu xuống chân, bắt vua phụng sự dân rất trái nghịch thay! Lại quỷ có năng lực tà vạy, việc đó đã lâu, các phương loại vật đãng, chết đọa vào trong đó. Vậy mà đời còn mê sao? Vả lại, đấng Đại sư trong ba cõi, đấng Từ phụ muôn đức, trở về với người, thì được diệt tội, còn được phước sinh. Điều này trong kinh có nói đủ. Nếu quy y Tam bảo thọ trì một danh hiệu Phật, hiện đời này sẽ được mười điều tốt đẹp. Ngày đêm thường được các vị trời, các vị thần tướng có sức mạnh, dẫn hằng hà sa các quyến thuộc ẩn hình đến giữ gìn che chở. Thường được hai mươi lăm vị đại Bồ-tát, như Quán Âm, Thế Chí… thường theo hộ niệm. Thường được các Đức Phật ngày đêm hộ niệm, Phật A-di-đà thường phát ra ánh sáng nhiếp thọ người này. Tất cả các ác quỷ như Dạ-xoa, La-sát đều không thể làm hại. Tất cả loài rắn độc xà, rồng dữ, thuốc độc, đều không bị trúng. Tất cả nạn lửa cháy, nước lụt, kẻ thù oán tặc, đao tên, lao ngục, chết ngang trái, chết uổng đều không vướng phải. Những tội đã gây ra đều tiêu trừ. Nếu có giết oan mạng đều được giải thoát, không còn chấp đối. Ngày đêm chánh trực, hoặc trong mộng thấy Phật A-di-đà sắc tượng đẹp đẽ. Tâm thường vui vẽ, vẻ mặt sáng sủa, khí lực sung mãn, mọi việc làm đều được lợi ích. Thường được nhân dân trong các cõi thế gian cung kính cúng dường, vui mừng lễ bái, cũng như kính Phật. Khi qua đời, tâm không lo sợ, chánh niệm an nhiên, hiện tiền được thấy Phật Di-đà và các Thánh chúng tay cầm đài hoa sen, tiếp dẫn được vãng sinh về Tịnh độ, cho đến tận đời vị lai đều được thọ hưởng niềm vui nhiệm mầu. Những người có trí mời quán niệm Phật, được công đức phước lợi trong hiện đời, há đồng với các pháp cúng tế của người đời, hiện tại không có lợi ích, đời vị lai phải chịu quả khổ? Lại nên tin tất cả kinh điển Đại thừa, đều khen ngợi cõi Tịnh độ trang nghiêm ở Tây phương, khuyên nên cầu vãng sinh, như các bộ kinh Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bát-nhã, Pháp Hoa, Niết-bàn đều khai thị hành tướng và khen ngợi công đức. Lại các Bồ-tát, Thiên Thân, Long Thọ, đều có soạn luận để khen ngợi cõi Tịnh độ. Các vị Pháp sư, Thiền sư Trung Quốc, đều soạn luận, soạn sớ, khen ngợi Tây phương, Pháp sư Đạo An soạn Luận vãng sinh, sáu quyển. Pháp sư Tuệ Viễn soạn Quán kinh sớ, một quyển, ngài Thiên Thai Trí giả soạn “Luận Thập Nghi”, “Quán kinh sớ”, “Di-đà kinh sớ” mỗi bộ một quyển. Thiền sư Đạo Xước soạn “An lạc Tập” ba quyển. Hòa thượng Thiện Đạo lập ra ngũ hội giáo, khuyên người niệm Phật, soạn “Quán kinh sớ” một quyển, “Nhị thập tứ tán”, “Lục thời lễ văn” mỗi bộ một quyển. Pháp sư Hoài Cảm đắc Tam-muội niệm Phật soạn “Luận quyết nghi” bảy quyển. Tam tạng Từ Mẫn soạn “Tịnh độ từ bi tập”, ba quyển. Pháp sư Từ Ân soạn “Di-đà kinh sớ” hai quyển. Sa-môn Trừng Quán soạn “Quán kinh sớ”, một quyển. Nếu có người nghe các Thánh chúng xưng tán khuyến hóa vãng sinh ai mà không tín ưa, trừ những người bất tiếu, si ám vô trí mà thôi. Ở đây lại dẫn ra ba mươi ba việc chứng nghiệm rõ ràng về sự vãng sinh của các vị Đạo, tục ở các cõi Tây thiên, Đông hạ, khai thị đầy đủ các vị hiền đạt ở vị lai, nguyện cùng vãng sinh. Vãng sanh tịnh độ sám nguyện nghi tự của Từ Vân Sám Chủ -Tuân Thức: Các Đức Phật thương xót chúng sinh bị mê mờ lầm lạc, mới lập ra các phương tiện để dẫn dắt hóa độ. Nhưng chỉ có cõi An dưỡng tịnh nghiệp là con đường nhanh chóng nên tu trì. Các bộ kinh Đại thừa đều khai sáng yếu nghóa này, các Đức Phật mười phương đều khen ngợi. Nếu có các Tỳ-kheo bốn chúng và thiện nam, tín nữ, các căn thiếu đủ, muốn vónh viễn mau phá trừ hết vô minh hắc ám, những kẻ mắc năm tội nghịch, mười điều ác và các lỗi nhẹ khác nếu muốn vónh viễn tiêu trừ, thì nên tu pháp này. Muốn được thọ trì các giới luật lớn nhỏ thanh tịnh trở lại, hiện tiền được Tam-muội niệm Phật và có đầy đủ các Bồ-tát tu pháp môn Ba-là-mật đều nên học pháp này. Muốn khi qua đời lìa hết sự sợ hãi, thân tâm đều được an ổn như được trở về, ánh sáng tỏa rực khắp nhà, các thứ âm nhạc, mùi thơm lạ, Phật Di-đà, Quán Âm, Thế Chí hiện ra trước mặt, đưa tay tiếp dẫn lên đài vàng tía. Từ đây xa lìa chín cõi, cắt đứt năm đường, trừ hết nóng bức, được an ổn mát mẻ. Bắt đầu là lìa hết trần lao, cho đến chứng quả không lui sụt, không cần phải trải qua nhiều kiếp đã chứng quả vô sinh, nên học pháp này. Nếu người muốn tu ít pháp mà cảm được quả báo, mầu nhiệm, các Đức Phật trong mười phương đồng thời khen ngợi, hiện tiền được thọ ký, trong một niệm đi cúng dường vô số các Đức Phật, trong khoảnh khắc liền được trở về bổn quốc, cùng tọa thực bên Đức Phật Di-đà, nghị luận với Quán Âm, hành bộ với Thế Chí. Tai mắt đều nghe thấy thấu triệt, thân lượng đến vô cùng, bay lên hư không tự tại, túc mạng rõ ràng, thấy khắp năm đường như soi mặt vào gương. Niệm niệm chứng nhập vào vô tận Tam-muội, xưng tán không thể cùng tận, nên biết là nhờ tu tập thắng pháp này. Như sở thuyết này, đều thật không luống dối các Đức Phật mười phương đều xuất ra tướng lưỡi rộng dài; khen ngợi việc tốt đẹp này, để nói lên không phải luống dối. Vậy tại sao chúng ta lại không tin Phật? Nay lấy các kinh Tịnh độ lập ra hành pháp này. Nếu muốn biết rõ, tìm xem rộng các kinh. Vãng sanh quyết nghi hạnh nguyện nhị môn tự của Từ Vân Sám Chủ - Tuân Thức: Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Cõi báu An dưỡng các bậc Đại giác đều khen ngợi, ba bậc cao thăng. Chiều gá vào hoa vàng, mà túc mạng còn tạm ở nơi biển trích, sớm dạo ao ngọc, ngọn đèn chiếu thế còn dụ ở cát sông sáng. Bởi do mười phương chưa đến, tứ sinh đã qua. Tuy chiếu ánh hào quang để khai thị, cuối cùng cúi đầu mà riêng cầu. Cho nên các xứ Hoàng châu, Trúc quốc, từ nay quán xét lại xưa. Cõi kia thì chư Hiền chí Thánh đều dùng văn chương để làm minh cõi này thì các bậc giác đức, hồng nho đều đưa ngọn bút mà viết lời thệ. Từ đây hồi hướng lâu dài, cùng hòa xướng sưu tầm thành ra thông suốt đạo dức, thẳng đến con đường an vui mãi mãi. Chỉ bởi người đời phần nhiều gây ra hoặc nghiệp, chưa nhận thức được phương hướng, hoặc chỉ lạm suy, cho pháp này là Tiểu giáo, hoặc cười chê là quyền thừa. Nói những lời này là đã trái với kinh, người mê hoặc thường điển. Kinh Dịch chẳng nói là: “Ở trong nhà, ra ngoài nói những điều bất thiện thì trái ngoài ngàn dặm, huống chi là cách xa.” Do đó liền soạn Vãng sinh Tịnh độ quyết nghi hạnh nguyện nhị môn, thẹn không văn từ, lý vẫn còn mê hoặc, chặt hết cây xú uế trong rừng y lan, trồng thêm hương chiên đàn. Tín giải, hạnh nguyện, từ trước đến sau, dù nói muôn lời cũng không thể đủ. Đây thật là nhị môn. Tịnh độ Vãng Sinh Truyện Tự của Phi Sơn Thiền sư - Giới Châu. BÀI TỰA TỊNH ĐỘ VÃNG SINH TRUYỆN Thiền sư Phi Sơn Giới Châu. Trong vườn Cấp cô độc, các Thánh hiền nhóm họp đầy đủ, lúc ấy thính chúng không một lời kính thỉnh, Đức Như Lai chợt bảo rằng: “Từ cõi này đi về phương Tây mười muôn ức cõi Phật có Tịnh độ, cõi nước đó rộng lớn, do một trăm báu hợp thành.” Lại nói: “Chúng sinh tư duy nhớ niệm, cầu vãng sinh, đều được như nguyện.” Thuyết là nói mười hai phần giáo, đây là một phần trong Vô vấn tự thuyết. Còn nghóa thì thế nào? Ví như mẹ bồng bế con thơ không đợi nhắc, chỉ muốn trông nom tay chân, khi cho bú no khi ẵm bồng gìn giữ. Nhưng Đức Như Lai từ cung trời Đâu-suất giáng sinh vào nước Ca-tỳ-la. Phật thuyết giáo trong năm mươi năm, để lại bao lời từ bi thương xót, tùy cơ truyền trao. Trong vô lượng kiếp, ngài giáng sinh làm Trời, Rồng, Thích, Phạm, Thanh văn, Duyên giác, Đại Bồ-tát, xả bỏ hết đầu mắt, tay chân, tủy não. Ngoài thì bỏ cả quốc thành, châu báu, ân cần cầu thỉnh ba lần, Như Lai hoặc từ chối, hoặc im lặng. Nhưng rồi ngài lại tự nói ra kinh này, là vì thương xót chúng sinh luân hồi trong nhiều kiếp, hễ nhàm chán cõi đời ác trược, cầu sinh về Tịnh độ, thì phải ở nơi sự chuyên niệm. Niệm có chí thiết, thì mới buộc tư tưởng vào trong mười sáu pháp quán. Trong kinh khen ngợi biển chánh biến tri của chư Phật từ nơi biển tâm tưởng sinh ra. Vì sao? Nói về sự khởi đầu thì nêu ra dần dần. Hành bắt đầu ở nơi có tu, trí bắt đầu nơi có tập, Vô thượng cực quả bắt đầu từ thâm tâm. Thâm tâm đó rất vững chắc không thể đánh bạt. Cho nên một niệm có thể chuyển được khổ ba đường, mười niệm thì bước lên chín phẩm hoa sen. Điều này trong các kinh Đại thừa phương đẳng đều cùng trình bày, cùng phát huy, chẳng phải chỉ một bộ kinh nói ra. Từ thời Hán Ngụy đến nay, chí thành hướng về Tây có người thật dùng đại pháp, ban đầu chưa lưu hành văn kinh chưa đầy đủ. Thời Tây Tấn, Khấu Đãng, Lưu Diệu ở kinh lạc, vị Tăng tên Hiển Tịch ở đất Giang đông, bắt đầu do ba điều nhân nguyện, cảm được nhiều điềm lạ, từ đó khư khư giữ lấy chí nguyện, gặp thời loạn lạc nên dời đổi thắng nghiệp, nhiều người hầu như không nghe biết. Cuối thời Đông Tấn, có ngài Tuệ Viễn ở tại Lô sơn, có pháp sư Thích Đạo Bính đồng lòng mở hội và các vị như Trúc Đạo Sinh, Phật- đà-da-xá, cùng các vị tài giỏi ở tại gia như Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tục… gồm một trăm hai mươi ba vị đồng kết du ở bên ngoài cùng nhóm hợp lại. Ngài Tuệ Viễn cho rằng thân này ở trong huyễn mộng không thể lâu dài, do đó hướng về cõi nước Vô lượng thọ, làm chốn nhàn du tu tập. Lại nói rằng ở cõi thanh tịnh đó không có ba đường, không có sáu thú, chúng sinh nương về đó chẳng phải là ít. Khi được vãng sinh về đó, có cờ báu dẫn đường đi trước, thác sinh vào hoa sen vàng. Thế là cùng nhau mở hội Liên xã. Từ đó các hội Liên xã bắt đầu ra đời. Hoặc có khi gọi là Tịnh xã, ý nghóa cũng giống như vậy. Từ thời ngài Tuệ Viễn về sau, pháp môn tu Tịnh độ càng được chấn hưng phát triển. Cho đến đời Tống thì có Đàm Hoằng; đời Tề có Tuệ Tiến; đời Lương có Đạo trân. Khoảng cuối đời Đường, xuất hiện các vị dónh ngộ thông thức như Đạo Xước, Thiện Đạo. Chúng ta sinh vào đời Tượng pháp, gặp được di pháp của Phật, hướng về Tịnh nghiệp, cũng đã được một năm. Mỗi khi đọc qua sự tích của các vị tiền hiền, tản mát trong các truyện ký, trải qua nhiều thời đại không thể nêu ra hết, điều này có thể khảo sát. Lại khảo xét từ đời Lương, đời Tùy về sau có Tuệ Kiểu, Đạo Tuyên soạn ra các truyện ký, gồm có mười hai nhà. Lại đến đời Tống có Tân truyện của Đại sư Thông Tuệ, được hiển đạt có bảy mươi lăm vị. Những tập truyện sáng tác đó về lý thì có chỗ còn mờ mịt, từ ngữ còn nhiều lủng củng, về nhân thì do sự tu chân chánh mà phát minh ra. Bên ngoài thì có Hồng Nghiệp, Tuệ Minh, gồm có sáu mươi hai vị, lúc còn sống thì ghi nhớ, đến khi qua đời không hề được chiêm ngưỡng thắng tướng, không đáng để khởi lòng tin sâu. Các vị minh triết về sau hoặc do những chỗ không đủ thêm vào cho đủ, tôi cũng có bổ khuyết thêm vào. Niệm Phật Tam-muội Bảo Vương Luận tự của Thảo Đường Pháp Sư - Phi Tích. BÀI TỰA TAM-MUỘI NIỆM PHẬT BẢO VƯƠNG LUẬN Pháp sư Thảo Đường Phi Tích. Khách có vị cao tín, đến nơi thiền tọa của tôi, làm lễ xong rồi thưa hỏi, lời lẽ thật thanh tao. Hỏi: Người tu tâm, con đường thành đạo ngắn nhất: Như Tam- muội Pháp Hoa, hành trì không dễ, Tam-muội niệm Phật, Tông môn Ban-chu, tất cả đều là thiền môn vô thượng thâm diệu, xin nghe vài lời chí thành. Đáp: Tôi ẩn mình trong chín ngọn núi cách xa cuộc đời, sách vở không đọc đến. Từ chùa Thảo đường núi Tử các, khiến cho kinh điển ngàn phước, Pháp Hoa thắng tràng, mới đây mà đã ba mươi năm rồi. Ở nơi yên tịnh chẳng có gì để ông hỏi. Nay ông muốn bước đến bến rồng vô sinh, nâng cánh chim bằng về Nam, tôi không được linh mẫn cũng thử luận bàn. Ở đây chỉ xin lược khai ra hai mươi môn để nói rõ yếu chỉ này. Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội Vô Tận Đăng của Pháp sư Viên Trừng, Nghóa Hòa. BÀI TỰA HOA NGHIÊM TAM-MUỘI NIỆM PHẬT VÔ TẬN ĐĂNG. Pháp sư Nghóa Hòa Viên Trừng. Sáu đường phàm phu, ba Thừa Hiền Thánh, căn bản đều là linh minh thanh tịnh, cùng một tâm pháp giới, tánh giác bảo quang soi sáng, mỗi mỗi đều viên mãn, vốn không có tên gọi chư Phật, cũng không có tên gọi chúng sinh. Nhưng tâm này linh diệu tự tại, không giữ tự tánh, tùy duyên mê ngộ, tác nghiệp chịu khổ, gọi là chúng sinh. Nếu tu đạo chứng chân, thì gọi là chư Phật. Phật thương xót chúng sinh bị điên đảo vọng tưởng chấp trước nên không chứng được. Cho nên Phật xứng tánh pháp giới mà nói kinh Hoa Nghiêm, muốn giúp cho chúng sinh biết rõ tất cả pháp tức là tự tánh của tâm, thành tựu được Tuệ thân, không do người khác mà ngộ. Còn như đồng tử Thiện tài chứng nhập pháp giới, tham học với Thiện tri thức các nơi. Đầu tiên thọ học với Tỳ-kheo Kiết Tường Vân môn Vô ngại trí tuệ niệm Phật. Lại đến trưởng giả Giải Thoát học “Duy tâm niệm Phật môn”, lại đến Phổ Biến Kiết Tịnh Quang Dạ thần dạy cho quán đức tướng niệm Phật môn. Sau hội Hoa Nghiêm, các Tổ chuyên về niệm Phật, đều không được yếu chỉ. Các Thiện tri thức ở trong cửa giải thoát lại lập bày ra các pháp môn, ý muốn chúng sinh cùng thấu triệt như chư Phật. Cõi Tịnh và cõi uế dung thông, pháp pháp kia đây đều gồm thâu, trần trần đều bao quát, trùm khắp pháp giới. Tương tức tương nhập, vô ngại viên dung. Nếu đắc được pháp môn ấy thì khế hợp với chư Phật. Không được yếu chỉ thì tu nhân trong muôn kiếp cũng không bằng, như cùng một loại thuốc trị nứt nẻ mà có kẻ suốt đời bị vằn vện, có kẻ da thịt nhẵn thin… Bởi dụng có khéo vụng, mà lợi thì có lớn nhỏ, đó là pháp môn niệm Phật. Nếu có sự trải qua lâu dài, gắng sức cũng nhiều, mà mất đi yếu chỉ quy hướng lúc bình thường, nên bị cảnh khác khởi dậy mạnh mẽ, tước đoạt thân tâm, dù có siêu ngộ chút ít thì trong đời này cũng không thể vượt qua được. Trong kinh Hoa Nghiêm, quán hạnh viên mãn cho đến đạt được công lực chỉ trong khoảnh khắc, thấy cảnh Phật chỉ trong mảy bụi. Chúng sinh ở trong tâm chư Phật, mỗi chúng sinh đều có khả năng thành Phật, chư Phật ở trong tâm chúng sinh, niệm niệm đều chứng chân, thật là đơn giản dễ hiểu. Tuy nhiên, tâm chư Phật nhổ gốc khổ và ban vui chỉ có một, năng lực không thể nghó bàn cũng là một. Chỉ có Đức Phật Di-đà, thì nguyện lực thiên trọng tiếp dẫn chúng sinh ở cõi Ta-bà. Cho nên Đức Bổn Sư trong phần lưu thông của bộ kinh, hạnh nguyện của Phổ Hiền là chỉ riêng Đức Phật A-di-đà, thật là chí thiết. Nghóa Hòa này về già thoái tịch về Bình Giang Năng nhân, chuyên sưu tầm ghi chép về sách Tịnh độ và các bộ luận tán, nhưng không hề có bộ pháp môn niệm Phật Hoa Nghiêm viên dung, nên không đáng nói. Than ôi! Pháp môn bất tư nghì đã bị thất lạc, trong phần Đại kinh và Sớ ký đã không còn nghe ở đời, lìa đây mà tìm cầu, chẳng khác nào muốn đi về hướng Nam mà dong xe lên hướng Bắc. Cho nên tôi sao lục lại các sách đầy đủ, soạn thành một tập, đủ cho người thấy nghe hiểu rõ mà quy hướng Tịnh độ, đâu cần đợi đến thứ bậc tu hành? Chẳng phải tư lương mà chứng được Di-đà, há còn có ngôn niệm? chư Phật bỏ trần theo giác cho nên tỏ sáng. Chúng sinh thì bỏ giác theo trần cho nên mê mờ. Muốn cho người mê được tỏ ngộ, sự tỏ sáng đó cuối cùng vô tận. Nhờ mắt mà thấy khắp, cho nên nói là vô tận đăng. Vô Tận Đăng Hậu Bạt của Tham Chánh Phạm - Thành Đại LỜI BẠT VÔ TẬN ĐĂNG Thạm Chánh - Phạm Thành Đại. Tam-muội niệm Phật rất sâu xa nhiệm mầu, ở thế gian chỉ dùng âm thanh làm Phật sự. Sách này đã xuất bản nên người biết được bến bờ. Mùng bảy, cuối Hạ, năm Đinh hợi, niên hiệu Càn Đạo. Phạm Thành Đại ở quận Ngô kính ghi. Tịnh Nghiệp Lễ Sám Nghi Tự của Đạo Trí Luật Sư - Nguyên Chiếu. BÀI TỰA TỊNH NGHIỆP LỄ SÁM NGHI Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Nguyên Chiếu từ khi hạ đàn đến nay mới biết học luật. Nhưng bản tánh vốn vụng về nên hành trì không ra gì. Sau đó, nhờ gặp được Pháp sư Thiên Thai Thần Ngộ hết lời dạy bảo, nên biết sửa đổi. Từ đó mới hết lòng tham cầu lời dạy của Tổ, nghiên cứu rộng Phật thừa; đối với lời vi ngôn của Phật tổ, có lãnh hội đôi chút, liền trộm nghó: “Sơ tâm học muộn, là do không có gốc lành đời trước chăng? Cũng bởi không gặp được bậc thầy giỏi, cho nên làm ác không biết xấu hổ, luống uổng một đời, chịu khổ nhiều kiếp.” Thế rồi bèn phát thệ nguyện rộng lớn, thường sinh vào cõi Ta- bà có năm thứ ác trược, thông đạt được Phật lý, làm đại đạo sư, để khuyến hóa chúng sinh, khiến cho tất cả đều thể nhập vào Phật đạo. Lại thấy trong Cao Tăng truyện, Pháp sư Tuệ Bố có nói: “Cõi này tuy tịnh, nhưng chẳng phải sở nguyện của ta. Nếu như mười hai kiếp ở trong hoa sen thọ hưởng sự vui sướng, đâu bằng ở trong ba đường cực khổ này cứu độ chúng sinh.” Do đó mà giữ vững thấy biết của mình, trải qua nhiều năm, đối với pháp môn Tịnh độ không hề quy hướng. Thấy người tu tịnh nghiệp lại còn phỉ báng, xem thường. Sau gặp cơn bệnh nặng, sắc lực hao mòn yếu ớt, thần trí mê mờ, không biết quy hướng về đâu? Khi bệnh đã bớt, chợt nhớ lại tội lỗi trước kia, lòng cảm thương rơi lệ, thầm tự trách mình. Chí tuy to lớn, mà năng lực chưa thể kham nổi, nhờ xem luận Thập Nghi của ngài Thiên Thai, nói Bồ-tát sơ tâm chưa chứng Vô sinh nhẫn, thì không được xa lìa Phật. Lại trong luận Trí Độ có nói: “Hàng phàm phu còn bị trói buộc có tâm đại Bi, nguyện sinh vào cõi đời có năm thứ ác trược, cứu khổ chúng sinh, thật không phải chỗ. Ví như đứa bé không được rời cha mẹ, cũng như loài chim non bé nhỏ phải tập chuyền cành.” Thế là tội bỏ hết những sở học từ trước tới giờ, chuyên tâm tu pháp môn Tịnh độ, trong hơn hai mươi năm không hề tạm bỏ. Nghiên cứu tỏ tường lý giáo, bao gồm cả xưa nay, chợt tan biến các thắc mắc, càng thêm tin sâu. Lại thấy Hòa thượng Thiện Đạo nói về hai pháp tạp và chuyên. Nếu chuyên tu thì trăm người tu, trăm người được vãng sinh. Nếu tạp tu thì muôn người tu chỉ đắc đạo một hai người. Tâm thức bị tán loạn, quán hạnh lại khó thành, cần phải nhất chí chuyên trì danh hiệu bốn chữ. Cả đời lầm lạc, nay mới biết chỗ quay về, do đó lấy chỗ sở tu, lần hồi hóa đạo cho đến tận đời vị lai. Phương tiện có nhiều cửa, để cho người tin được nhập vào. Như Bồ-tát Đại Thế Chí, dùng tâm niệm Phật, ngộ được viên thông, nhập Tam-ma-địa. Lại tự suy nghó đến vô lượng tội nghiệp đã gây ra từ trước, không tin Tịnh độ, hủy pháp báng người. Nay nghiệp nhân đã thành, quả khổ chắc chắn khó tránh khỏi. Dù cho trăm ngàn kiếp, việc đã làm không mất, nghiệp tánh tuy là không, nhưng quả báo không mất. Trong lòng cảm thấy hổ thẹn, sớm tối bàng hoàng lo sợ. Thế rồi, thân liền đối trước Thánh tượng thố lộ tâm can, năm thể gieo sát đất, hết lòng sám hối. Bèn phát đại nguyện, độ khắp chúng sinh, đồng tu niệm Phật, đều sinh về Tịnh độ. Muốn thường tu tập, phải lập ra nghi quỹ, cho nên gom tập các sách soạn thành tập sách này, từ đầu đến cuối có chia ra mười môn, đều y cứ theo lời Thánh, vâng theo nghi thức của người xưa, sự cũng lược đơn giản, pháp ở chỗ tinh chuyên, chỉ quý ở chỗ đầy đủ cho sự tu trì, đâu dám vượt qua các bậc tiên đạt? Các vị hậu bối có xem qua, xin hiểu cho ý chí của tôi. Kinh Quán Cửu Phẩm Đồ Hậu Tự của Đạo Trí Luật Sư - Nguyên Chiếu. LỜI BẠT KINH QUÁN CỬU PHẨM ĐỒ Người học Phật ở đời, mới đầu ai cũng cho là vì việc lớn sinh tử. Lại bảo rằng bị tiếng tăm danh lợi làm động, bị duyên đời cuốn theo, thì việc lớn sinh tử chẳng cần nói đến. Hoặc bị người níu kéo thì sự từ chối không thể tự quyết định, hoặc nói đây không cần hỏi, hoặc nói không cần phải biết, hoặc nếu phù hợp thì vâng làm theo, chẳng cần suy lường tính toán. Hoặc nói tùy chỗ thọ sinh, ra vào tự tại. Hoặc nói sinh vào nhà không cao không thấp, lại là thân người nam. Hoặc nói tinh thần yên định, hiện các tướng thiện ác, không được tùy tiện bỏ, hoặc khiến cho biết trước thời gian, hoặc dạy khi sắp qua đời thì đoạt ấm, hoặc nói trăm xương cốt phân tán, một vật linh thiêng mãi. Hoặc nói hình tán khí tiêu, trở về chỗ vắng lặng. Các loại thức ức lường rối loạn như thế, đều không ra khỏi phàm phu, giống như hai kiến chấp thường, đoạn của ngoại đạo. Đến khi bốn đại phân giải, bệnh khổ ép ngặt, thần thức vô chủ, theo nghiệp luân hồi, điều này không còn nghi ngờ gì nữa. Dù cho định được thời khắc ngồi yên thoát hóa, thì thuật thế gian có thể làm được, chẳng đáng là kỳ diệu. Ở đây nếu không thấy “kinh Thập Lục Quán”, không biết được tướng sinh chín phẩm, không tin nguyện lực Di-đà, mà cố chấp giữ sự thấy biết, tự cam chịu khổ sở, há không đáng thương xót sao! Cô Tô Dật Thượng nhân, trải qua chốn tòng lâm đã lâu, không dính mắc thiên kiến, chú ý vào “kinh Quán” cũng cả năm rồi. Vì sợ hàng Đạo tục chưa xem qua kinh bổn, bèn mời thợ vẽ lại tướng chín phẩm, dẫn đầy đủ như trong văn kinh, khai thị mấy lời, xếp vào phía sau bộ kinh, dùng làm kệ tụng để khuyến đạo, lại cũng giúp cho người biết được việc lớn sinh tử. Thấy rõ con đường chân chánh mà không bị đắm mê trong dị kiến, uổng chịu luân hồi. Như nhân tướng đã nêu, do theo văn mà cảm hoài, thì sẽ có niềm tin. Hiểu thì là tu hành, còn nghi ngờ là hủy báng. Không chỗ nào mà không là gieo giống vãng sinh. Văn này ở đời há lại không có chút bổ ích hay sao? Tịnh độ Nghi Luận Thập Tự của Đề Hình Dương Kiệt: BÀI TỰA THIÊN THAI TỊNH ĐỘ NGHI LUẬN TẬP Đề Hình Dương Kiệt. “Ái không nặng, không sinh vào cõi Ta-bà, niệm không chuyên nhất thì không sinh về Cực lạc.” Ta-bà là cõi uế, Cực lạc là cõi Tịnh. Tuổi thọ ở Ta-bà có hạn lượng, tuổi thọ ở Cực lạc thì không có hạn lượng. Ta-bà có đủ sự khổ, cõi kia thì An dưỡng không còn khổ não. Ta-bà theo nghiệp luân hồi trong sinh tử. Cực lạc hễ đã vãng sinh thì mãi mãi chứng Vô sinh pháp nhẫn. Nếu nguyện độ sinh thì nhậm ý tự tại, không bị nghiệp xoay chuyển. Như vậy thì tịnh uế, thọ lượng, khổ vui, sinh tử, đều có khác nhau, mà chúng sinh vì mê mờ nên không tỏ biết, thật đáng thương biết bao! Đức Phật A-di-đà là chủ nhiếp thọ cõi Tịnh độ. Đức Thích-ca Như Lai là thầy chỉ đường về cõi Tịnh độ. Quán Âm, Thế Chí, giúp Phật giáo hóa quần mê. Cho nên giáo điển một đời của Đức Như Lai, chỗ nào cũng đều khuyến người cầu vãng sinh Tịnh độ. Phật Di-đà cùng Quán Âm, Thế Chí, nương thuyền đại nguyện vào biển sinh tử, mà không đắm trước bờ này, không lưu bờ bên kia, không dừng lại ở giữa dòng, chỉ lấy việc cứu giúp chúng sinh làm Phật sự. Cho nên trong kinh A-di-đà nói: “Nếu có người thiện nam, thiện nữ nào nghe nói về Đức Phật A-di-đà, chấp trì danh hiệu, từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì người đó khi sắp qua đời, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về nước Cực lạc.” Lại trong kinh Vô Lượng Thọ nói: “Chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu ta, nhớ nghó đến nước ta, trồng cội công đức, dốc lòng hồi hướng, muốn sinh về nước ta, nếu không toại ý thì ta không thành Chánh giác.” Cho nên tại viện Vô thường trong tịnh xá Kỳ-hoàn, Phật bảo người bệnh xoay mặt về hướng Tây, tưởng quán vãng sinh Tịnh độ. Bởi Đức Di-đà phát ra ánh sáng chiếu khắp pháp giới, nhiếp thủ các chúng sinh niệm Phật không lìa bỏ. Thánh phàm một thể, cơ cảm tương ưng. Chúng sinh trong tâm chư Phật, mỗi hạt bụi đều là Cực lạc, Tịnh độ trong tâm chúng sinh, niệm niệm đều là Di-đà. Tôi cho rằng pháp quán đó, người có trí tuệ rất dễ sinh, vì dứt được nghi ngờ. Người tu thiền định dễ sinh, vì không bị tán loạn. Người giữ giới dễ sinh vì không nhiễm trần lụy. Người Bố thí dễ sinh vì không còn ngã hữu. Người nhẫn nhục dễ sinh vì không còn sân nhuế. Người tinh tấn dễ sinh vì không còn lui sụt. Người không làm điều lành, không gây điều ác dễ sinh vì niệm thuần nhất. Các việc ác đã gây, nghiệp báo đã hiện dễ sinh vì thật sự biết sợ hãi sám hối. Tuy có làm nhiều việc lành nhưng nếu không có tâm thành tín, không có tâm sâu xa, không có tâm hồi hướng phát nguyện, thì không thể vãng sinh bậc thượng thượng. Ôi! Niệm Di-đà thật dễ trì, Tịnh độ thật dễ vãng sinh, mà chúng sinh lại không thể trì, không thể vãng sinh, là vì sao? Chúng sinh gây ra nghiệp ác, sa vào đường khổ, niệm Di-đà sinh về Cực lạc, cả hai điều này đều do Phật nói ra. Người đời sợ đoạ địa ngục, mà nghi ngờ việc vãng sinh, cũng không phải là mê lầm hay sao? Pháp sư Tuệ Viễn đời Tấn, là người hiểu thông giáo thừa, là bậc xuất thần túc đức, thường cùng Tôn-giả Da-xá và Lưu Di Dân cùng các bậc tài giỏi, lập ra Bạch Liên xã ở Lô sơn, cũng bởi lòng tinh thành ở đây. Sau đó bảy trăm năm, các triều đại Lương, Chu, Tùy, Đường các hàng tăng tục tu tịnh nghiệp được sự cảm ứng chẳng phải một, các việc này có chép trong “Tịnh độ Truyện Ký”, chẳng lẽ giả dối hay sao? Nhưng lời tán phụ Di-đà giáo quán, đều rút các tích từ trong sách ra. Nhưng “Luận Tịnh độ Thập Nghi” của Đại sư Trí Giả là quan trọng nhất. Trích dẫn lời Thánh, để mở bày khai sáng nghi ngờ của mọi người. Muôn năm ở trong nhà tối, khi ánh mặt trời sáng tỏ thì tăm tối không còn. Ngàn dặm bơi trong nước, gặp thuyền thì không còn nhọc tự lực. Sau các tạng giáo phi pháp thì thân không thể đến được. Tôi ở kinh đô, từng đọc qua văn này. Đọc qua rồi hiểu biết, không ai không sinh lòng tin. Từ lúc bị hình phạt tàn khốc, sự cảm ngộ càng sâu, nguyện đem truyền bá rộng. Nhân lấy đây dẫn làm bài tựa. Giữa mùa thu niên hiệu Hy Ninh thứ 9, kính ghi. Tịnh độ Thập Nghi Luận Tự Của Thị Chế Trần Quán BÀI TỰA SAU CỦA TỊNH ĐỘ THẬP NGHI LUẬN Tâm người vô thường, pháp cũng vô định. Tâm pháp đều khác nhau, nhưng căn bản vẫn tại đây. Tín đây thì tin khắp, đó là Thập tín trong kinh Hoa Nghiêm. Nghi đây là nghi khắp, ngài Trí Giả gọi đó là Thập nghi. Bỏ nghi nhập vào tín, một nhập thì tất cả đều nhập, không lìa ở đây, mà được chỗ rốt ráo. Tịnh độ là nơi rốt ráo. Ở cõi này có vị đứng đầu nói pháp tên hiệu là Vô Lượng Thọ. Đức Phật nói pháp ở đây không hề đứt quãng. Nghi chướng ở tai thì tai điếc không nghe, Nghi chướng ở nơi tâm thì mê muội không hiểu. Không nghe không biết, an trụ vào ác tập, khen ngợi bất niệm, tùy hỷ thô tâm, vọng nói gá sinh hoa sen là điều luống dối. Cuối cùng không tự niệm thì thân bị phần đoạn, từ đâu mà đắc được, từ đâu mà đến? Thai ngục uế vẫn đục, chân thân an trụ ở đâu? Tín dựa vào nghiệp thức, tự làm ngăn chướng chân tâm. Đối với nhất huyễn cảnh chẳng chấp kia đây, sinh sinh bất linh, mãi mãi xa lìa đường Thánh. Vì vậy mà Đức Thích-ca khởi tâm từ bi thương xót, ở trong cõi uế trược này, ngài phát ra âm thanh lớn, hết lời ca ngợi sự vui sướng thượng diệu ở Tịnh độ. Ở trong sinh tử, Phật là Đại thuyền sư, đem thuyền pháp chở chúng sinh qua đến bờ bên kia, ngày đêm Phật lo độ sinh không hề ngừng nghỉ. Nhưng bến bờ của Phật Di-đà, vốn không có kia đây. Thuyền của Phật Thích-ca thật chẳng phải đến đi. Ví như một ngọn đèn, phân chiếu trong tám gương. Gương có đông tây, bóng sáng không hai. Di-đà nói pháp, chiếu khắp trong cảnh giới, mà phương tiện của Phật Thích-ca, riêng chỉ gương ở Tây. Cho nên người đã đến bờ bên kia, thì có thể quên kia đây. Người chưa nhập vào pháp giới làm sao thấu triệt hết đông tây? Đối với pháp này nếu chưa đạt rốt ráo, thì chớ dính mắc vào phương hướng, chớ phân ra kia đây, chỉ nên chánh niệm tín tâm mà thôi. Ý của hai vị Thánh này, mà ngài Trí Giả gọi đó là tín. Tín: là mẹ sinh ra muôn pháp lành, nghi là cội gốc của muôn điều ác. Nếu thuận theo mẹ, thì nhổ hết cội rễ, cái gọi là chúng sinh chướng duyên, kẻ bị điếc sẽ được nghe, mê muội lại được biểu biết, chưa ra khỏi sinh tử sẽ được ra khỏi, chưa sinh về Tịnh độ sẽ được sinh về Tịnh độ. Chúng sinh thuận theo lời dạy của Đức Phật Thích-ca thì vãng sinh tận mặt thấy Phật Di-đà, theo nguyện của Phật Di-đà đến giúp Đức Thích-ca. Ở cõi này mà trùm khắp mười phương, tức là từ hướng Tây đi khắp các cảnh giới. Từ khi nhị Thánh (Thích-ca, Di-đà) kiến lập đến nay, người được sinh về đó nhiều như số các sông Hằng. Thế nào là bất tín? Thế nào là nghi? Nếu tự tin mình, lại bày ra các phương tiện, giúp cho người chưa tin thì sinh khởi lòng tin. Đây chính là lòng Từ bi của người trí. Đại sư Minh Trí (Trung Lập), học đạo của ngài Trí giả, không thuận theo văn, mà thuận theo lòng từ bi, do đó lại ấn hành luận này, nhờ tôi viết cho lời tựa này, thêm cho phần truyện ký. Ngày 11 tháng 07 niên hiệu Nguyên Hựu thứ 8. Kiệt Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập Tự của Đề Hình Dương BÀI TỰA TRỰC CHỈ TỊNH ĐỘ QUYẾT NGHI TẬP Đề Hình Dương Kiệt. Bậc Thánh vì đại nguyện nên từ Tịnh độ đến đây. Đến mà thật ra là không đến. Hàng phàm phu thâm tâm đi về cõi Tịnh độ, đi mà thật không đi. Kia không có đến đi. Đây không qua lại, mà Thánh phàm lại gặp nhau, cả hai cùng dung hợp. Vì sao? Vì Đức Di-đà phát ra ánh sáng như vầng trăng tròn chiếu khắp mười phương. Nước trong mà yên tónh, thì mặt trăng hiện ra toàn thể. Mặt trăng không phải theo nước mà đến. Nước đục mà lại xao động, thì mặt trăng không thể chiếu sáng. Mặt trăng chẳng phải bỏ nước mà đi. Tại nước thì có trong đục, động tịnh. Ở mặt trăng thì không có lấy bỏ, đến đi. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm, Trưởng giả Giải Thoát có nói: “Biết tất cả chư Phật giống như ảnh tượng, tự tâm như nước, chư Phật Như Lai không đến đây, ta cũng không đến kia. Ta muốn thấy cõi Phật A-di-đà, thì tùy ý liền thấy.” Cho đến biết chúng sinh chú niệm, chắc chắn thấy Phật Di-đà. Phật Di-đà đến đón rước, cõi Cực lạc không xa. Là lời thật xứng tánh, chẳng phải quyền giáo. Cõi Tịnh độ không có dục, nên chẳng phải cõi Dục, là cõi địa cư chẳng phải là cõi Sắc, chúng sinh nơi ấy có hình tướng nên chẳng phải cõi Vô sắc. Tất cả chúng sinh, chưa ngộ được chánh giác, ở trong cơn đại mộng, lên xuống trong sáu đường, không hề dừng nghỉ. Cảnh giới các vị trời tuy là vui sướng, nhưng quả phước báo hết thì hiện ra tướng suy. Cõi Tu-la đầy sân hận, cùng các trời tranh đấu thắng bại, loài bàng sinh bay chạy, ăn thịt tàn sát lẫn nhau. Quỷ thần ở chốn u minh, bị đói khát ép ngặt. Đêm dài ở cảnh địa ngục, đâu khổ kêu gào. Được sinh vào cõi người thật là may mắn! Nhưng rồi khó tránh được sự ràng buộc của sinh già bệnh chết. Chỉ có cõi Tịnh độ, hoàn toàn không còn các điều khổ, gá sinh vào đài sen, không còn khổ sinh, nóng lạnh không thay đổi, không có khổ già, thân chẳng còn phần đoạn, không còn khổ bệnh. Tuổi thọ vô lượng, không còn khổ chết. Không có cha mẹ vợ con, nên không có khổ ái biệt ly. Các bậc thượng thiện cùng nhóm họp, không còn khổ oán tắng hội. Ăn bằng hương hoa, thọ dụng châu báu, không còn khổ mong cầu không được, không có nỗi cùng khốn. Quán chiếu vắng lặng, không có khổ uẩn . Dùng lòng Từ bi thương xót chúng hữu tình, muốn sinh thì sinh, không trụ vào vắng lặng, không có Nhị thừa. Trí chiếu sinh tử, được không lui sụt, chẳng phải là phàm phu. Ba cõi mênh mông, ví như bốn bể, gò cao hầm hố, các thứ uế trược mục nát chứa nhóm lại. Sông ngòi ngăn cách, lấy ai làm cầu đò. Do đó mới có kẻ cuồng nhân mê vọng nơi này, loài ác thú dữ ly mị não hại trong cảnh tạp cư. Nạn chiến tranh, nước lụt lửa cháy có lúc nổi lên làm thương hại sinh linh. Gió sương, mưa gió bất thường, lại thêm sấm chớp ghê trời đáng sợ, không biết thành trì nhà cửa có đủ để che chở hay không. Ăn uống, y phục không đầy đủ, cam chịu ở trong cảnh đau khổ, mà không chịu cầu sinh Tịnh độ an vui. Có Đức Phật Thích-ca, là đấng Đại đạo sư, chỉ cho chúng sinh biết cõi Tịnh độ thanh tịnh, là nước an vui Phật Vô Lượng Thọ là thầy cõi Tịnh độ. Như vậy chúng sinh chỉ cần phát thành tâm, niệm danh hiệu Di-đà, liền được vãng sinh. Nếu sinh về cõi nước kia thì không còn khổ não. Người không nghe biết thật đáng thương xót. Cũng có bậc thiện só phát nguyện ba thứ tâm bất tín, không cầu vãng sinh cũng đáng thương xót. Ba thứ tâm bất tín đó là: Ta nên vượt hơn cả Phật Tổ, Tịnh độ không đáng để sinh về. Nơi nào cũng đều là Tịnh độ, Tây phương không cần phải sinh về. về. Cõi Thánh Cực lạc, hàng phàm phu chúng ta không thể sinh Biển nguyện thật vô tận, Bồ-tát Phổ Hiền còn nguyện thấy Di-đà, cõi Phật tuy là không, ngài Duy-ma thường tu cầu Tịnh độ. Các Đức Như Lai mười phương có xưng tán tướng lưỡi rộng dài. Bồ-tát mười phương có tâm đồng vãng. Thử ngẫm nghó suy lường, ai có thể bằng với các bậc Thánh? Nói không đáng sinh, vì sao lại tự xem thường như vậy! Ví như Tổ sư Long Mãnh, trong kinh Lăng-già có bài văn dự ký. Ngài Thiên Thân là bực giáo tôn, trong “Vô lượng luận” có bài kệ cầu sinh. Ngài thông tán của ngài Từ Ân, đầu tiên xưng tụng mười điều thù thắng. Ngài Trí Giả có bài “Triết lý”, nói về mười điều nghi. Những vị ấy đều là bậc thượng triết, đều tinh tấn tu cầu vãng sinh. Nói không cần phải sinh thật là quá khinh mạn, xe lửa có thể diệt, thuyền đá không thể chìm. Hiện ra hoa báo, chẳng có khả năng đối với mười niệm mà vượt lên. Đọa vào địa ngục, không ai mau hơn Hùng Tuấn sống lại mà chứng diệu nhân. Người đời tội lỗi, chưa hẳn như thế. Cho là không thể sinh, vì sao lại tự bỏ? Trong kinh Ban-chu Tam-muội nói: “Bồ-tát Bạt-đà-hòa, hỏi Phật Thích-ca: Chúng sinh ở đời vị lai làm sao thấy được chư Phật mười phương? Phật dạy niệm A-di-đà Phật thì thấy tất cả chư Phật mười phương.” Lại trong kinh Đại Bảo Tích nói: “Nếu chúng sinh ở phương khác nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, cho đến phát một niệm tịnh tín, vui mừng ưa thích, đem hết gốc lành hồi hướng nguyện sinh về nước Vô Lượng Thọ, tùy nguyện đều được vãng sinh, không lui suit.” Đây đều là lời Phật nói, không tin lời Phật, sao lại nói đáng tin? Không sinh Tịnh độ, thì cõi nước nào đáng có thể sinh? Tự khinh tự mạn là tự bỏ tánh linh của mình, trôi vào luân hồi, thì lấy gì để cứu? Bốn mươi tám lời nguyện của Phật, đều vì độ sinh, mười sáu pháp quán, đồng quy về buộc niệm. Một niệm đã tin, là đã trồng nhân nơi ao báu. Các pháp lành cùng giúp sức, chắc chắn sẽ được hóa sinh nơi đất báu, chúng sinh không hối đọa ngay, ngộ nhận nghi thành. Tức thời hoa sen nở, được đạo giải thoát. Duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di-đà, ở trong ánh sáng rực rỡ không còn việc ma. Tập văn “Trực chỉ Tịnh độ quyết nghi” này do một người bạn tên Vương Cổ Mẫn Trung biên tập. Ông là người thông hiểu giáo điển, bao gồm cả xưa nay, cởi bỏ mọi nghi tình, vượt tắt lên tín, địa chép lại yếu chỉ của Thánh hiền, trong các sách ở cõi Diêm-phù này thật rõ ràng thiết yếu, bởi đây là bực hướng đạo ở cõi An dưỡng. Nếu đến bời bên kia, thuyền còn phải quên, sao còn hỏi bến, lời này không nên xem thường. Ngày mười tháng chín niên hiệu Nguyên Phong thứ bảy, kính ghi lời tựa. Phụ chú: Bài tựa của Thứ Công đây ý nghóa thật rõ ràng. Ở đây nói luận về ba thứ không cầu sinh. Thật là một lời răn nhắc tốt lành. Nhưng cho Tịnh độ chẳng phải là ba cõi và nói thân chẳng phải phần đoạn, thì trái với kinh luận. Đây chỉ dẫn có hai văn, để sửa chữa lại sự sai lầm, “Thích Thiêm” có nói: “Như trong Đại luận, nói Cõi An dưỡng chẳng phải là ba cõi, chỉ là không phải ba cõi Ta-bà này thôi, nếu vậy thì cõi kia có đủ ba cõi.” Kinh Vô Lượng Thọ chép: “A-nan bạch Phật: Cõi An dưỡng kia không có núi Tu-di, chư Thiên Đao lợi y vào đâu mà trụ? Phật lại hỏi: Cõi trời Dạ-ma cho đến Sắc giới y vào đâu mà trụ? A-nan mặc nhiên lãnh hội.” Ý hỏi lại đó là nói về cõi Dạ-ma và các tầng trời đã nương vào hư không, thì đâu làm phương hại đến cõi kia? Đã rõ được tướng của cõi đó, lại có nhiều thứ chung riêng khác nhau, như thế giới Vô động. Tuy là Tịnh độ, vẫn còn có nam nữ và núi Tu-di… Đồng cư Tịnh độ này đã là khác nhau. Đồng cư uế độ cũng khác nhau. Thích luận nói: “Ngoài ba cõi còn có Tịnh độ, Thanh văn, Bích- chi-Phật… thọ thân pháp tánh, chẳng phải phần đoạn sinh.” Long Thơ Tịnh độ Văn Tự của Trạng Nguyên Trương Hiếu Tường. BÀI TỰA LONG THƠ TỊNH ĐỘ VĂN Trạng nguyên Trương Hiếu Tường. Đức A-di-đà Như Lai dùng nguyện lực để nhiếp thọ chúng sinh. Sự buộc niệm tu tập thật đơn giản, việc chứng quả thật nhanh chóng. Nếu có người nghi ngờ, tôi cũng thường nói cho họ nghe: Phật Di-đà tức là tánh của ông, nước Cực lạc là tâm của ông. Chúng sinh do bỏ giác theo trần cho nên luân hồi trong bảy đường, lập ra ngã, cách xa Phật một trời một vực. Vì vậy mà Phật khởi tâm từ bi, lập ra phương tiện khai thị cho chúng sinh được ngộ nhập, hiện ra vô lượng như huyễn Tam-muội trang nghiêm cõi nước, đầy đủ hoa báu cực đẹp. Lại dùng biện trí để giảng nói, khiến cho chúng sinh khởi tâm vui mừng tin ưa, ở trong cuộc sống hằng ngày có thể phát sinh nhất niệm, nghó nhớ Đức Phật Di-đà và muốn cầu sinh về đó. Tức là niệm này thanh tịnh bền chắc, trở lại bản tánh thanh tịnh ban đầu, không khác với Phật. Đương lúc niệm đó không khởi thì ở trên tòa, cõi nước Cực lạc của Đức Phật Di-đà liền hiện tiền. Tu tập như thế cho đến thuần thục, đến khi huyễn thân này hoại diệt thì tánh này sẽ trở nên bất hoại. Đài hoa sen vàng do tánh chủng sinh, vãng sinh trong đó. Như trở về nhà mình chư Phật, Bồ-tát đều là quyến thuộc của ta, tánh không hề thay đổi, tự thân ái với nhau. Bạn hữu là Long Thư Vương Hư Trung, bẩm tánh thanh tịnh đơn giản, thông suốt các kinh sách, truyền tụng sáu kinh của các nhà Hiền triết số đến mấy mươi muôn lời. Một hôm ông đem vứt bỏ hết và nói: “Đó đều là nghiệp tập, chẳng phải là pháp rốt ráo, nay ta trở về quy hướng niệm Phật, cầu sinh Tây phương.” Từ đó ông càng tinh tấn tu niệm Phật. Đến năm sáu mươi tuổi chuyên ăn rau, mặc vải bố. Đi bộ cả một ngàn dặm để giáo hóa người, dù mưa gió nóng lạnh cũng không quản ngại khi rảnh thì hằng ngày lễ Phật cả ngàn lạy, đến nửa đêm mới ngủ. Da mặt ông rất hồng hào, đôi mắt sáng, người ngoài nhìn vào đều tin đây là một kẻ só có đạo. Mùa Thu, năm Tân Tî, niên hiệu Thiệu Hưng. Tôi có ghé nhà ông ở Tuyên thành, ở lại hai tháng, mới thấy được tập văn Tịnh độ của ông. Trong đó viết đầy đủ từ đầu đến cuối các pháp môn tu tập cùng sự cảm nghiệm từng chương từng câu. Mong cầu các tín hữu khắc bản lưu hành và ông có nhờ tôi viết lời tựa, nên viết đầu đề rằng: Hư Trung tên Nhật Hựu. Tháng 10, dương lịch Trương Hiếu Tường kính ghi lời tựa. Cảo Long Thơ Tịnh độ Văn Bạt của Đại Tuệ Thiền sư - Tông LỜI BẠT LONG THƯ TỊNH ĐỘ VĂN Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo. Long Thư Vương Hư Trung Nhật Hựu là người thông cả ngoại điển, lại lưu tâm theo Phật thừa, lấy việc lợi người làm tâm nguyện của mình, thật là ngọn hoa sen trong lửa. Phật dạy: “Tự mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là Bồ-tát phát tâm. Tự mình đã giác ngộ viên mãn, có thể giác ngộ cho người, đó là Như Lai ứng thế.” Tôi cảm phục chí khí của ông, nên ghi vài lời bạt đặt ở sau sách. Nếu thấy được tự tánh Di-đà, thì rõ được Duy tâm Tịnh độ. Nếu chưa được như thế thì công lao của tập văn này của Hư Trung thành ra luống uổng. Ngày 20 tháng 08 năm Canh Thìn. Tịnh độ Bảo Châu Tập Tự của Thị Lang Vương Cổ BÀI TỰA TỊNH ĐỘ BẢO CHÂU TẬP Thị Lang Vương Cổ. Tâm chúng sinh thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Pháp tánh vô sinh, mà không có chỗ nào không sinh. Có Đức Phật hiện nay đang nói pháp tại nước Cực lạc, hiệu là A-di-đà. Cõi Phật này có nhân duyên cao quý, tuổi thọ lâu dài, lòng Từ bi sâu xa, nguyện lực lại rộng lớn. Phật phát ra ánh sáng đến tận vô biên cõi nước, nhiếp thọ các chúng sinh. Cõi nước ấy bất tư nghì, vắng lặng trang nghiêm, lưới châu giăng khắp hư không, rừng vàng đất báu, ao sen đầy đủ nước tám công đức. Hoa phát ra bốn ánh sáng bốn mầu, trổi âm nhạc cả sáu thời, tán hoa cả ngàn ức cõi. Chư Phật cùng khen ngợi, mười phương đều quy hướng về. chúng sinh ở trong tâm Phật Di-đà, thời thời đều nhiếp hóa. Cõi Tịnh độ ở trong tâm chúng sinh, niệm niệm đều vãng sinh. Thần thức gá sinh vào sen báu, không lìa đương xứ, thần thức vượt qua các cõi nước, đâu ra ngoài tự tâm? Như gương bao trùm cả muôn vật tượng mà không có đến đi, tựa như mặt trăng soi bóng cả ngàn sông mà vẫn không lên xuống. Căn cơ viên đốn ở cõi nước ấy đều là những vị Nhất sinh bổ xứ. Bày rõ môn phương tiện, thì có chín phẩm khác nhau. Niệm Vô lượng quang của bổn tánh, xưa nay vốn không niệm. Sinh về nước An dưỡng là duy tâm, là chân thật vô sinh. Giải thoát ra khỏi khổ nạn luân hồi, mười niệm cũng sinh về đất báu. Hội quy về thật tế, Nhị thừa cuối cùng cũng chứng được Bồ-đề. Như thuyền lớn chở đá mà khỏi bị đắm chìm. Nếu giương buồm thuận gió, thì không bao giờ gặp nạn. Nếu ngộ được thì thật gần gũi không xa, còn mê lầm thì càng xa muôn dặm. Than ôi! Người học ít mà chướng đạo thì nhiều, nghi sâu mà quán niệm lại cạn, chê bai cho là quyền tiểu. Cho ngài Mã Minh, Long Thọ, là chưa được thế; ngài Thiên Thai, Trí Giả là chưa đạt, không tin sẽ được thọ ký đạo Bồ-đề, không chịu sinh về nhà Như Lai thì lồng chim ao cá khó mà tránh khỏi, luống thọ một báo thân, uổng sinh vào đường khổ. Đâu biết đấng Đại hùng khen ngợi khuyến hóa, miệng vàng căn dặn hay sao? Được làm bạn với Thánh hiền trong khoảnh khắc, đầy đủ tướng tốt, thọ vui trong giây lát thì bỏ hẳn cõi đời năm trược. Lòng từ bi tăng trưởng thì hồi hướng cứu vớt ba đường. Chúng sinh ở đay lại không biết, thật đáng thương xót. Từ thời Ngụy Tấn, Đại kinh bắt đầu xuất hiện. Khi ấy có ngài Tuệ Viễn và các bậc hiền nối nhau truyền lưu đạo hóa, mọi việc đều có nêu trong sách, sự chứng nghiệm đều rõ ràng đầy đủ. Phước Đường Thích Giới Châu truyện ký ghi rõ mười hai nhà, được bảy mươi lăm người, sưu tập bổ sung vào, làm cho ngày càng dồi dào. Tính thêm các vị sưu tập bổ sung thì được một trăm lẽ chín vị, ẩn hiện đầy đủ, tăng tục đều nêu ra, hội cả trăm sông về biển cả. Nêu ra đây để chứng nghiệm đạo cả bao la, mãi mãi làm ngọn đền soi sáng cho hậu lai. Ghi vào ngày mười lăm tháng tám niên hiệu Nguyên Phong thứ bảy. Tứ Thập Bát Nguyện Hậu Tự của Tuệ Giác Pháp Sư - Tề Ngọc. LỜI BẠT TỰA BỐN MƯƠI TÁM NGUYỆN Pháp sư Tuệ Giác Tề Ngọc. Có người cho rằng: Tịnh độ là quyền biến phương tiện của bậc Thánh, cho nên chỉ tiếp dẫn người độn căn, hóa giáo hàng phàm khí. Nếu một lần vượt lên thì vào thẳng cảnh địa Như Lai, thì cần gì phải nhờ vào tha lực? Đáp: Khi Phật còn tại thế thì có, Bồ-tát Văn-thù Phổ Hiền. Sau khi Phật diệt độ thì có Mã Minh, Long Thọ, ở Trung Quốc thì có ngài Trí Giả, Trí Giác đều nguyện sinh về Tịnh độ. Các vị này nào phải là hạng độn căn? Phật Thích-ca khuyến hóa vua cha Tịnh Phạn cùng sáu muôn người dòng họ Thích, đều nguyện sinh về Tịnh độ, đâu phải chỉ là hàng phàm khí? Các vị Thánh hiền này không bằng với hàng lợi căn thắng khí bây giờ hay sao? Nếu cho đây là quyền giáo thì lấy gì làm thật? Phê phán quyền, chẳng phải chỉ một đường. Nếu không nhìn xa thì lấy gì để soi sáng? Nếu có sự hiểu biết thì nên tin lời Phật nói, chiêu vời quả báo chẳng phải nhẹ, vậy xin chớ xem thường. Xưa có lão học só Tôn Tân, ban đầu cũng có mối nghi này, nhờ gặp được Dương Thứ Công, cùng có vị khách là Vương Mẫn Trung Thị Lang luận đạo rất khế hợp, bèn cởi mở được sự nghi lầm này. Do đó mà Tân lão nói: Ở bốn phương nói về thiền chỉ có ngài Hoàng Bá, Tuệ Lâm là hưng thịnh nhất. Sau Lâm tế thì có Từ Minh. Từ Minh truyền đạo cho Hoàng Bá ở Giang Tây. Sau Vân môn chỉ có Tuyết Đậu, Tuyết Đậu truyền cho Nghóa Hoài, Nghóa Hoài truyền cho Bổn. Bổn Công ở vào thời Tuệ Lâm. Mẫn Trung sớm đắc được pháp yếu. Thứ Công, Mẫn Trung đều là nhà Nho học thiền, được sự khuyến hóa nên quy hướng về Tịnh độ. Vậy đủ biết Tịnh độ chẳng phải là quyền thiết của Thánh nhân, mà thật là nơi an trụ của các vị tu thiền. Nếu có thể tức tâm là Tịnh độ, bổn tánh là Di-đà. Sinh thì niệm vãng sinh, đến thì thật không chỗ đến. Tuy cũng có kia đây khác nhau,không có tướng ngang dọc, đúng sai trong đó. Xét lời của Tân lão, tin thật bậc Thiện tri thức không trái với lời dạy của Phật, không tự khinh thường bản tâm, sự lý đều viên dung, thật đáng tôn ngưỡng. Nguyện các nhân giả nên lấy việc lớn sinh tử làm tâm, không để cho nhân tình lấy bỏ làm ngăn ngại. Nguyện lực được như thế, lại niệm Phật Di-đà, phát khởi niềm tin quyết định, muốn thoát ra khỏi lộ trình hiểm ác ở cõi Ta-bà, làm khách vân thủy nơi Tịnh độ, bước vào ao sen có nước tám công đức, cầm tích trượng đi bảy bước dưới gốc cây chốn tòng lâm, nhập vào trong hải chúng thanh tịnh, tham học Thiện tri thức Di-đà, quán thắng cảnh mà được không lui sụt, nghe pháp mầu mà dễ ngộ vô sinh, bên lầu bảy báu, bên bờ ao hoa bốn mầu ưu phiền tan hết, vui vẻ tột cùng. Nếu có được nguyện này làm bằng cứ, lộ trình phía trước chắc chắn sẽ không bị ngăn trở. Nếu có người nói không phải như thế, thì tôi cũng không biết phải làm thế nào! Dónh Tịnh độ Cảnh Sách Tự của Ngô Hưng Pháp Sư - Nguyên TỰA TỊNH ĐỘ CẢNH SÁCH Pháp sư Ngô Hưng Nguyên Dónh. Tất cả chư Phật đều trải qua muôn kiếp tu hành mới thành tựu được cõi nước, an lập cho chúng sinh. Bởi chúng sinh cứ mãi trôi lăn trong cõi sinh tử, chưa gặp được bậc Thiện tri thức, chưa được nghe pháp yếu, nên không thể thoát khổ. Chúng sinh vì mãi gặp những khổ nạn ép ngặt, cho nên bậc Thánh khởi tâm đại bi cứu vớt tất cả. Chúng sinh nào nên dùng những điều vui dẫn dụ, thì bậc Thánh khởi tâm đại bi nhiếp thọ. Nhiếp thọ thì tạo ra các cảnh giới trang nghiêm tốt đẹp, lầu các quý báu. Được tướng đại trượng phu, muôn sự đều an ổn. Triết phục thì có bốn sinh chín hữu, trăm ưu nghìn não, tướng năm khổ tám khổ. Nhưng với tâm bậc Thánh, thì đâu có sai khác? Vả lại Đức Thích-ca Mâu-ni người cũng có cõi nước thanh tịnh như Cực lạc Tây phương. Phật A-di- đà cũng có thế giới năm thứ trược ác kham nhẫn như Ta-bà. Cho nên nhất kỳ hóa vật mà có kia có đây, có tịnh có uế. Do sự kết duyên của chư Phật có khác, do chúng sinh thệ nguyện có khác. Nếu đạt đến bờ bên kia, bước lên quả vị, thì vững chắc. Bậc Thế trí hạ phàm không gọi là phân biệt, mà có thể giác biết sao? Không gọi là thủ xả, mà có thể tạo mượn sao? Trong các kinh điển có những lời răn nhắc, đều là khen ngợi cõi Tịnh độ Tây phương của Phật Di-đà. Nay sưu tập lại, bổ sung vào để giáo hóa khuyến đạo cho hàng đạo tục ở cõi này. Than ôi! Việc sinh tử thật lớn lao, há không đau xót sao? Mà người đời hoặc bị chìm trong biển khổ, cam chịu cả đời; hoặc đắm mê nơi giàu sang, tự cho là sở đắc, mà không biết sinh tử, tử sinh, biến đổi nhanh chóng. Cho đến có gọi là tâm tịnh thì cõi nước tịnh, không thân tức là pháp thân, chợt tới lúc qua đời không có chỗ an lập. Ngay lúc ấy cùng với người giữ chí thuần nhất, chấp tướng tu hành, thì ức kiếp vẫn không bằng. Cho nên xem qua kinh này, quý vị có phát tâm hay chưa! Tịnh độ Tự Tín Lục Tự của Vô Công Tẩu Vương Điền: TỰA TỊNH ĐỘ TỰ TÍN LỤC Vô Tông Tẩu Vương Điền. Bậc Đại Thánh thuở xưa, lập ngôn khuyến giáo. Trùm khắp trăm đời, mà chí còn chưa đề xướng hết, vẫn còn mờ mịt chưa rõ ràng. Vì vậy nên Đức Phật mới nói về cõi Tịnh độ ở Tây phương. Tôi xem khắp các kinh, thâm cầu được yếu chỉ, hiểu rõ công đức vãng sinh, một lời giúp cho phàm phu được không lui sụt. Sự tu hành ở cõi này, đều là sơ tín của Viên giáo, là sơ quả của Tiểu thừa, tà kiến và tà ba độc mãi mãi không còn sinh khởi. Đây là do dứt hoặc mà phát ngộ, nhập vào dòng Thánh, vượt qua sinh, không mê muội sở chứng. Vượt lên bốn đường, mà không mất cõi trời, người. Còn như trong phàm phu, tuy nhờ hàng phục các hoặc mà phát ngộ. Bồ-tát một lần trải qua bị sinh tử vô thường biến đổi, thì quên mất sở chứng, sở tu của mình. Do đó mà gặp duyên liền lui sụt, dễ bị sa vào đường khổ. Nhưng nếu phàm Thánh đồng cư Tịnh độ, như nước Cực lạc, tuy cũng có đủ ba cõi, nhưng chỉ là trời người, cho nên tất cả loài hàm thức đều được sinh về, xa lìa bốn đường, lại được trợ duyên lớn, tuổi thọ vô lượng dù cho là kẻ độn căn, một đời huân tu, thì không ai mà không chứng quả Thánh, vì sao lại có sự lui sụt? Bổn ý xưng tán Đức Như Lai, chẳng qua là như thế. Vả lại thể đạo viên cơ là tịnh nghiệp trên hết. Nếu có thêm nguyện đạo thì được dự vào phẩm ưu. Nếu là hàng phàm ngu, chỉ có thể phát nguyện xưng danh hiệu Phật, cũng được vãng sinh. Than ôi! Quán pháp môn Tịnh độ, thì biết là bậc Thánh cũng không thể bỏ chúng sinh. Chúng sinh do si ám, nên vô ngại vô tu, khởi tâm chướng đạo, bặt hết con đường học Phật, lại lớn tiếng nói: “Tịnh độ là việc ngọn nghành, đâu đáng nói.” Thật đáng thương thay! Tu Hành Tịnh độ Pháp Môn Hậu Tự của Thị Lang Mạc Trọng Khuê. LỜI BẠT TU HÀNH TỊNH ĐỘ PHÁP MÔN Thị Lang Mạc Trọng Khuê. Ta-bà là cảnh khổ, muốn thoát hết các khổ thì phải cầu sinh về Tây phương. Tây phương là nước An lạc. Muốn sinh về Cực lạc, thì phải tin lời Phật nói. Nếu có người đi vào chốn hoang vắng, đêm hôm tăm tối, có bọn giặc cướp đuổi cầm vũ khí bén theo sau lưng rất gấp. Người kia nhìn bốn phía bàng hoàng, không còn nơi để trốn chạy, kêu trời khóc đất biết ai đến cứu? Chợt gặp một ông lão bảo rằng: “Cách đây không xa có nhà một vị trưởng giả, có uy lực phước đức, giặc cướp không thể xâm phạm. Nơi ấy lầu gác chân thật, tự tại vui sướng, không còn gì chướng ngại, ngươi nên quyết định, ta không lừa dối.” Người kia nghe nói, lòng rất vui mừng, nhanh chân chạy về phía nhà Trưởng giả không hề quay lại, lại nhất tâm chú mục, không nghó tưởng điều khác. Chỉ trong khoảnh khắc đã đến nhà vị trưởng giả, đám giặc khổ não, tìm mãi không thấy. Đức Di-đà nhiếp thọ chúng sinh chính là nơi ở của trưởng giả, an ổn mà sao không ở? Đức Thích-ca là bực thầy dẫn đường cho chúng sinh mê mờ là lời ông lão nói, vì sao không tin? Đối với Người thế gian khi nói về Tây phương, họ thật không thể biết, so ra cũng giống như thế. Biết mà không tin, tin mà không tu, tu mà không có năng lực thì mười người cũng hết tám, chín người. Nay tôi nói lại những lời ví dụ này để cho những người không biết có thể lãnh hội và những người không tin, không tu, không cố gắng thì hãy cố gắng lên. Minh Sư Thắng Địa Luận Bạt của Độc Tinh Cư Só Lâm Cảo LỜI BẠT MINH SƯ THẮNG ĐỊA LUẬN Cư só Độc Tinh Lâm Cảo. Tôi có đọc qua “Chí đức kinh” của Trung Hư, mà hiểu được ngôn từ của lâm loại. Cho rằng chết ở đây sao biết không sinh về kia? Tuy biết là tử và sinh là một lần đến một lần đi, nhưng chỉ cầu lý thuyết mà chưa được ngộ. Ý cho rằng việc chết đó, chẳng qua là xả bỏ báo thân mà thôi. Sinh ở nơi kia, thì rốt cuộc sẽ rơi vào nơi nào? Ở đây, sở dó cầu ở nơi lời nói nên chưa thể được. Nay xem qua “Luận Minh Sư Thắng Địa” của Thiền sư Phước Thanh, mới biết ở ngoài thế gian còn có nội viện Đâu-suất, Tây phương Tịnh độ là nơi nương gá của mọi người. Nếu không nhớ nghó chứa nhóm thì không thể đạt đến. Tôi nhân đó nói lại ba lần, cuối cùng ở trong chỗ bản tánh vắng lặng, chẳng có tướng đoạn diệt. Ở đây khi sinh báo hết, lại sinh về cõi khác. Nếu còn có nguyện lực vững chắc, thành tựu được gốc lành, thì không còn lo bị đắm chìm trong đường ác, chắc chắn sẽ được siêu thăng lên cõi thắng báo. Từ nay về sau, mới biết ở cung trời Đâu-suất và Tây phương không hề ngăn cách. Cõi này thường hiện ra trước mặt, chỉ cần tâm bền chắc thì sẽ thấy được Phật. Như Diệu Hỷ nói: “Thấy tự tánh Di-đà, rõ được tâm Tịnh độ.” Đây thật là một lời nói bao trùm cả luận này. Sư là con cháu của Diệu Hỷ, đối với minh sư được nơi nương gá. Cho nên có thể dùng ba chỗ chánh luận để làm lợi ích chúng hữu tình. Tham chánh đại tư Chu Công Quỳ được lời tựa cho là lời của thầy, tin là có chứng cớ. Lại yêu thích tông thông thuyết thông, đối với thật tướng giáo tướng không trái. Tâm từ bi tha thiết mới dặn dò kỹ lưỡng như thế. Các nhân giả hãy nhân nơi bài tựa của Chu Công mà cầu tâm của lão sư, thì Đâu-suất, Tây phương không phải lao nhọc hiểu tìm, mà cứ thẳng đường bước tới. Cư só Độc Tónh Lâm Cảo kính ghi lời tựa. Trong Càn Đạo, ở Lan khê đất Vụ, Thích Quang Đạo hiệu là Vân Thủy, thuở nhỏ học theo giáo pháp Thiên Thai, sau đến phương Nam tham phỏng, đắc pháp nơi Tuệ Cảo, cuối đời sống ở Phước thanh, Bồ điền, trước tác ba quyển Y thác Minh sư Thắng địa luận, được lưu hành ở đời. Trong đó đại khái nói đến sự cao xa vi diệu của Phật pháp, như thắng duyên tăng thượng thì chỉ có Minh sư Thắng Địa mới xứng đáng làm chỗ nương tựa. Bởi vì phàm kẻ học đạo quý nhất là ở kiến tánh. Kẻ kiến tánh quý ở tu tập. Kiến tánh chưa tỏ thì cần phải cầu thầy. Tu tập chưa thành tựu thì phải nhờ vào cơ địa. Được thầy dạy thì học được điều chính đáng. Được cơ địa thì dấu vết của tâm được an. Nơi trung tâm đất nước, nơi các Thánh hiền cư trú. Trời Đâu-suất-đà nơi Di-lặc thuyết pháp. Tịnh độ Tây phương nơi Di-đà hoằng dương giáo hóa. Ba nơi này đều là nơi chốn thù thắng (Thắng địa). Nếu được nương tựa tu hành, đến hai quyển giữa và sau, thì chuyên nói rõ pháp môn Tây phương, khuyên người tu tập. Lời văn dài dòng không thể viết hết, chỉ viết lời bait cho họ Lâm, thuật lại ý chí lớn của luận. Bảo Thành Dị Ký Lục Tự Của Thị Chế Trần Quán: BÀI TỰA BẢO THÀNH DỊ KÝ LỤC Đãi Chế Trần Quán. An dưỡng không ở tại kia, phù vân cũng chẳng phải ở ta. Nay Tốc Vónh Công gọi đó là An dưỡng độ. Tự đã đắc tội ở Thai châu, từ tháng tám năm Nhâm Thìn, có gom góp các kinh sách, không còn vì văn, tận tâm sửa đổi, chuyên chú ở cõi này. Con đường còn dài, thân lại già yếu, chỉ tiếc là phát tâm quá muộn. Ở đây xem lại “Đạo viện tập luận” của Nguyên Công luận về không, bất không Tam-muội, do buộc ở nơi từ ngữ nên nói: Cái gọi là “Từ” đó, là do quán tâm để dễ ghi chép, “từ” ấy có bốn câu kệ. Văn của Nguyên Công thâm nhập biển Phật, ngôn từ không rườm rà. Cho đến dùng từ quán tâm thì cũng chưa quên, mà lại muốn dễ ghi. Công cho là dễ ghi đâu phải chỉ chú ý vào từ ngữ ghi chép mà thôi? Tôi nghó hễ là từ quán tâm là muốn vì mình mà chưa thể vì mình, hạ bút xuống đây tạm đặt tên là “Bảo thành dị ký lục”. Liễu Trai nương nơi pháp sư Minh Trí Diên Khánh mà được sự uyên nguyên của giáo pháp Thiên Thai. Cuối đời một lòng hướng về Tây phương, thành tâm lấy đó làm chỗ đến. Đầu mối của pháp thực hành theo là dựa theo Quán tâm dị lý của Triều công. Ngài nói: Tôi từ ngày nay quyết định hàng ngày theo pháp này, trước tiên vào Không Tam-muội, diệt tất cả vọng niệm, như hoa đốm, như tiếng vang trong hang, vẫn tháy nghe mà không bị chướng ngại. Lại vào Bất không Tam-muội, an trụ trong Nhất chân pháp giới như châu trên trán, như báu trong búi tóc, thường ưa mang theo mà không rơi mất. Pháp này giúp nhau mà không có thời khác, chặt chẽ dài lâu, không pháp nào bằng. Quán tâm dị ký, buộc niệm vào đây thì tâm rỗng rang như hư không, mênh mông không thể chạm. Trong Nhất chân pháp giới linh chiếu thường an trú. Duệ: Viễn Pháp Sư Trai Kî Lễ Văn Tự của Chánh Ngôn Trầm LỜI TỰA VIỄN PHÁP SƯ TRAI KÎ LỄ VĂN Đức Phật Thích-ca xuất hiện ở đời, nói pháp độ sinh. Trong các pháp môn, pháp môn thẳng tắt nhất không gì dễ bằng niệm Phật cầu sinh nước An dưỡng ở Tây phương. Than ôi! Nếu không có bốn mươi tám lời nguyện của Phật Di-đà thì cảnh Tây phương không dễ gì khai phát. Không có sự nói pháp của Đức Phật Thích-ca, thì nguyện lực của Phật Di-đà sẽ không được lưu truyền nơi dương thế. Phật trước phát nguyện trước, Phật sau nói kinh ở sau. Đạo lý này có nói rõ ràng, rất đáng tin chớ có nghi ngờ. Nhưng pháp môn có rất nhiều, hoặc chọn ra mà không tinh, người tinh tường, hoặc truyền bá mà chưa tu tập. Ghi chép những văn từ đơn giản, có lựa chọn mà tinh truyền, truyền lưu mà tu tập, vì để khai ngộ đời sau, ân này bố thí này, cùng với chế ra thì mới ở nơi tâm, chép ra thì mới thành sách, như vậy thì sách dày mỏng phải như thế nào? Chỉ có sự tu hành này mới là An dưỡng, là do Phật Di-đà chế định, Đức Thích-ca thật sự ghi chép, chọn lựa, truyền bá tu tập, di giáo lại cho người sau Tuệ Viễn đời Đông Tấn. Lý Tế Tú só ở Tây hồ, là bạn hữu đồng niên của tôi. Lạc Thanh lệnh doãn là Lý Công Tố, con của Tố gặp lúc gia đình bị nạn, tuổi nhỏ không nơi nương dựa, cha mẹ mất sớm. Trong cảnh cô khổ, bèn tiến tu đạo pháp. Xưa từ chứng thông chủ nhân thầy bạn, lập ra Tây tư xả, bởi có ý di pháp của Tuệ Viễn. Ba năm trở lại đây, người nhóm về tu tập ngày một đông. Nếu tham dự hội này tinh tấn không biếng nhác, thì sẽ gặp nhiều điềm tốt đẹp, đắc được quả mầu cao quý, như kinh có nói. Ngày nay Lý Quân chỉ niệm như thế, tuy trước Phật sau Phật có khai mở pháp môn, rộng lớn mà đức của Tuệ Viễn, làm sao có thể quên được? Trở lại khảo cứu các sách truyện ký, viết lễ văn để khai thị cho các vị đồng tu, tôi cho là cần hiểu biết trước sau. Do đó mà nói: các đạo của đời Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Chu, đều do Trọng Nøi mà sau được rõ ràng hơn, được lưu truyền rộng ra và thâm nhập đạo từ một số bậc Thánh, mà Người đời sau kế tục thì có Mạnh Kha. Xem qua giáo pháp Tây phương, thì Tuệ Viễn cũng giống như Mạnh Tử. Vì sao ông lại tị hiềm? Tuy nhiên, văn của Lý Quân, tôn lên nói là của Tuệ Viễn để mọi người theo học, như nhà Nho đối với Mạnh Tử. Nếu bái tụng mà không quán xét, thì chẳng phải là điều mong mỏi của Lý Công đối với đồng xã vậy. Thứ Xưng Tán Tịnh độ Hải Chúng Thi Tự Của Phủ Phán Phương LỜI TỰA XƯNG TÁN TỊNH ĐỘ HẢI CHÚNG THI Phủ Phán Phương Thứ. Tịnh độ và Ta-bà là pháp đối trị giữa phàm và Thánh. Nói theo sự khổ vui thì Tịnh độ là vui mà Ta-bà là khổ. Nói theo trong đục thì Tịnh độ là trong mà Ta-bà là đục. Nói về sự sinh tử thọ yểu thì Tịnh độ là thọ nên thường sinh; Ta-bà yểu nên chắc chắn sẽ chết. Nhưng chúng sinh phần nhiều đắm mê đối với cảnh Ta-bà, nên ít có biết con đường vãng sinh Tịnh độ là được an vui, cũng do nghiệp báo che lấp. Đấng Pháp vương Thích-ca, là Đấng Đạo Sư giáo hóa ở cõi này. Đức Di-đà Thế Tôn là từ phụ tiếp dẫn ở Tây phương. Mà các vị Thánh, các bậc Hiền lại phát minh ra đại nguyện của Đức Thích-ca; và cả Đức Di-đà, chỉ bày cho chúng sinh, khiến họ tu tịnh nghiệp mà ra khỏi luân hồi. Như thế thì Ta-bà là nơi ràng buộc phiền não, Tịnh độ là cảnh giới trang nghiêm, Như Lai khai dụ chỉ bày ra rất rõ ràng, các bậc thượng thiện mở mang càng đầy đủ. Nay Lý Tử Tế y theo đó mà làm thơ xưng tán và vịnh sử, gồm một số thiên, mỗi lần giở tập thơ ra thì Di-đà hải chúng, thắng cảnh Tịnh độ như hiện ra trước mặt, giúp cho người tâm khai ý ngộ, liền nguyện vãng sinh. Như vậy thì công của Tử Tế há là nhỏ sao? Tử Tế là hàng Nho gia, bốn đời đều đăng khoa, có tiếng tăm trong quan trường, nhưng đời sống thanh bạch, thông hiểu Phật lý. Ông để tâm vào giáo điển Tây phương, như đói thì ăn, khát thì uống, mùa hạ thì áo đơn, mùa đông thì áo kép, có hay không là do tự mình. Bởi đất có thể động, vàng có thể biến đổi, nhưng tín tâm của Tử Tế rất kiên cố rõ ràng không lay động. Như vậy thì sự hóa sinh ở đời khác, chắc chắn sẽ làm người trong chín phẩm. Tôi kính xem qua bèn tùy hỷ viết lời tựa Tây Quy Liên xã Tự Của Nguyệt Đường Pháp Sư - Huệ Tuân BÀI TỰA TÂY QUY LIÊN XÃ Pháp sư Nguyệt Đường Huệ Tuân. Xưa, Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn, cùng ngài Tuệ Trì, Đàm Thuận liên kết với Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tục… gồm mười tám vị và các vị cùng chí hướng một trăm hai mươi ba người tu tịnh nghiệp, lấy Tây quy làm minh thệ, lập ra Bạch Liên xã. Từ đây cùng chán cảnh Ta-bà, ưa thích tịnh lạc, nối nhau tu tập. Cho nên từ đời Tấn, Tống đến Tùy, Đường, các bậc cao tăng hiền só, đời đời đều hành trì theo. Do đó mà đến lúc qua đời thấy đài vàng tía hiện ra, có cả đài bạc sen vàng, có ánh sáng dịu mát điềm lành. Có âm thanh khen ngợi ở trên hư không, có nghe mùi thơm lạ đầy thất, cho đến mắt thấy Di-đà qua lại đón rước, sự cảm ứng chẳng phải ít, rõ như trong bổn truyện. Cho nên các vị cao nhân thời hoàng triều của ta đều là bực hiền triết, ưa thích tịnh tu ngày càng hưng thạnh. Huống chi tiểu am này, suối reo bên nhà cỏ, thông xanh đầy cửa môn, ao tịnh sen hồng, nước soi bóng trăng, cảnh yên lắng u huyền, là chốn ngựa xe không qua lại. Như vậy mới sách tấn việc tu hành, là nơi để thân này gá sinh vào hoa sen chín phẩm, chỉ vâng theo quy tắc xưa, mộ được một trăm mười tám vị cùng tu Tam-muội niệm Phật quy hướng về Liên xã, giữ tâm bền chắc trọn đời không thay đổi. Trụ trì chùa Diên Khánh - Nguyệt Đường Huệ Tuân khuyến lục thư. Khan Vãng Sinh Hạnh Nguyện Lược Truyện Tự của Khải Am Cư Só Ngô Khắc Kỷ. BÀI TỰA KHẮC IN VÃNG SINH HẠNH NGUYỆN LƯỢC TRUYỆN Cư só Khải Am Ngô Khắc Kỷ. Tôi có khảo sát các vị đại só phu đời trước học pháp xuất thế, mới biết Đức Như Lai bổn ý thuyết giáo, không bị vướng mắc vào Không và Có. Vào đời Tấn thì có Lưu Trung Tư, đời nhà Đường có Liễu Tử Hậu, vào triều đại ta thì có Dương Thứ công. Trung Tư gia nhập vào Liên xã của Tuệ Viễn, khi sắp qua đời duy chỉ thỉnh chư tăng tụng kinh Vô Lượng Thọ và kinh Pháp Hoa. Tử Hậu soạn “Vô tánh Hòa thượng bia”, khen ông chỉ tụng “kinh Pháp Hoa”. Đồng thời chỉ ra cõi nước Cực lạc là con đường để chúng sinh quy về. Thứ Công soạn “Thiên thai Vô tướng viện bia” cũng khen ngợi Trí Giả là bực Đại só xây dựng, giáo hóa Thiên thai, lấy Tam-muội Pháp Hoa làm cực trí, lấy cõi An dưỡng làm nơi trở về. Bởi không tụng Pháp Hoa thì không thể rõ được tâm ta vốn đầy đủ diệu pháp. Không sinh An dưỡng thì không chứng được tâm ta vốn sẵn có diệu pháp . Đức Như Lai ân cần chỉ dạy, ngài Trí Giả tha thiết trì kinh, mới biết Phật tổ rủ lòng Từ bi như lúc đầu không khác. Nay hàng só phu lưu tâm đến Phật thừa, cố gắng cầu xuất ly, chắc chắn không phải là ít. Nhưng người bị dị kiến xâm đoạt còn chưa tránh khỏi. Pháp sư Ấn Quang, khuyên hàng tín só phát tâm quyên tiền vàng để truyền bá “Từ vân Sám chủ Tịnh độ Hạnh Nguyện pháp môn và Lược truyện”, đâu phải chỉ cầu những điều này hay sao? Tôi nghe lòng vui mừng đến không ngủ được, bèn nêu ra ba thứ ngôn hành của quân tử để chứng minh, ngõ hầu các vị thật tâm hiền đạt biết có Phật pháp chánh tông mà cùng nhau tu tập, để sớm ra khỏi luân hồi. Còn muốn làm loài trùng trong thân sư tử, tự ăn thịt sư tử, thì dù Nam Dương quốc sư có tái sinh, cũng không thể làm gì được, huống chi mấy lời tôi nói ra đây. <詞>Về văn có mười ba bài. Lô sơn Bạch Liên xã Thệ Văn Của Dật Só Lưu Di Dân Thời Đông Tấn: BÀI VĂN THỆ NGUYỆN CỦA BẠCH LIÊN XÃ Ở LÔ SƠN (Dật só đời Đông Tấn là Lưu Di Dân.) Kẻ só đương triều là Tạ Linh Vận, cao nhân Lưu Di Dân cùng một trăm hai mươi ba vị lập ra Liên xã, đề cử Di Dân viết bài phát nguyện. Bài phát nguyện nói rằng: Từ tháng bảy năm Bính thìn cho đến ngày hai mươi tám tháng giêng năm Ất mùi ở tại Nhiếp đề cách, Pháp sư Thích Tuệ Viễn, chân cảm được đạo lý sâu mầu, lòng ôm ấp phát nguyện, cùng với các vị só phu đồng tu có tâm tịnh tín gồm một trăm hai mươi ba vị nhóm hợp tại vùng Lô sơn. Nơi tịnh xá đài Bát-nhã, phía trước tượng Di-đà. Đều dùng hương hoa kính hiến mà lập thệ nguyện, chỉ có chúng trong hội này lý duyên hóa đã rõ ràng, thì truyền tụng cả ba đời. Sự cảm ứng đã phù hợp thì quả báo thiện ác phải có. Sự đắm chìm trong biển khổ, ngộ Vô thường trong khoảnh khắc, xét ba thứ báo luôn thúc dục, biết hiểm nguy khó tránh khỏi. Vậy khuyên các vị hiền só đồng chí hướng ngày đêm nên siêng năng tu tập, mong cầu tế độ bởi vì có thể cảm đến thần nhưng không thể mong cầu, ắt cảm đến vật thì đường tối cận kề. Nếu không cầu vãng sinh thì mênh mang nơi bến bờ nào? Nay chúng ta may mắn mà không chịu phát tâm cầu về Tây phương, lễ bái khai tín tâm, lương tình đều phát khởi, thì cơ tượng sẽ thông ở trong mộng, vui mừng hơn trăm lần khi ta dến. Khi ấy, linh đồ biểu huy, cảnh tượng do thần tạo, công do lý hài hòa, sự chẳng phải là người chuyển vận. Đây thật là do trời sáng khởi mà thành, minh vận cuối cùng sẽ đến! Lẽ nào không khắc tâm khắc niệm, lại tinh tường suy nghó, để dừng hết lo âu? Nhưng cảnh tục có nhiều sai khác, công đức phước báo chẳng phải một. Tuy sớm cầu thì nói là đồng, mà tối quy thì lại có ngăn trở. Tức quyến thuộc của thầy bạn ta, thật đáng thương xót. Vì thương xót nên ta chỉnh y áo ngay ngắn lên pháp đường, đẳng thí nhất tâm, mong cầu chốn u cực, thệ nguyện với đồng nhân ở đây, đều đi về nơi tuyệt cực. Trước tiến và sau thắng, cố gắng tinh chuyên đạo vị. Sau thì đại nghóa của diệu quán khải tâm trong sạch tỏ chiếu, thần thức giác ngộ, hình do đây mà thay đổi. Nương phù dung ở nơi trung lưu, ẩn quỳnh kha để làm ngôn vịnh, nổi có mây ở nơi bát cực, thổi gió hương đến cùng năm, thể vọng an càng hòa mục, tâm siêu lạc để tự vui, đến ba đường mà từ tạ, dạo cõi trời mà từ giả hẳn. Nối tiếp các linh, noi theo thái tức, để làm khóa kỳ nghiên cứu đạo này há không lớn sao? Bỏ hết trần lao, nếu lời di huấn cầu sinh Tây phương, cuối cùng cảm Phật đến tiếp dẫn. Đông Hải Nhược của Đường Lễ bộ Liễu Tử Hậu ĐÔNG HẢI NHƯỢC (Lễ bộ Liễu Tử Hậu). Đông Hải Nhược đi chơi trên đất liền, bước đến một gò lớn, được hai cái bầu cắt riêng ra để vui chơi, một cái dùng để đựng nước biển và các thứ bùn đất tạp uế và các phẩm vật, mùi hôi thối bay ra không thể tả. Dùng đá lấp kín, lại bèn giở ra ném hết xuống biển. Tôi có lúc qua đó chơi nói: “Ta là biển lớn”, Đông Hải Nhược cười nói: Lạ thật! Nay nói biển lớn đó, kỳ thực đông không ra đông, tây không ra tây, bắc không ra bắc, nam không ra nam. Sáng thì tắm mặt trời mà xuất hiện ra, tối thì tràn ngập các vì sao, trùm chứa cả thái âm, lửa dương âm đem ánh sáng báu mà tỏ soi, làm cho bầu trời đầy tạp nhiễm u ám, hẳn ghé lại nơi bến sông phía Tây. Vì thế cho là lớn lao, là sâu xa, là trong sáng, là tỏ soi, đó chính là vô ngã nhược này. Nay ông đem bỏ những giọt nước biển đồng thể với phẩn hoại, ô nhiễm cùng gặp, giun dế cùng ở, thật hẹp hòi chật chội. Lại u ám như thế mà biển vẫn đồng, cũng không hề biết xấu hổ, thật đáng thương xót! Nếu ông muốn, tôi sẽ đem đá phá tan cái bầu của ông, bày các thứ nhơ uế nơi đảo hoang lớn, rồi cùng ông trình bày những điều vừa rồi được chăng? Phân nước lạnh lùng không vui nói: “Tôi cố nhiên là đồng ý, ông vì sao lại mong cầu như thế đối với Nhược? Tánh của ông cũng giống như Nhược mà thôi. Nhơ uế thì tự nó đã nhơ uế, không đủ sức để làm hại sự trong sạch của ông. Hẹp thì tự nó cũng hẹp, cũng không thể hại được chỗ rộng của ông. U huyền thì có u huyền, không đủ để hại tánh sáng của ta. Ô uế cũng là biển, tăm tối chật hẹp cũng là biển. Bỗng nhiên đến, rồi cũng tự nhiên đi, lại chấp không phải là biển sao? Ông đi đi, chớ làm loạn ta!” Kia nghe Nhược nói, liền kêu lên: Ông phẫn nộ là quá đáng! Tôi cho đó là điều cố nhiên, không thể khác được. Nay ông bảo ta biển là rộng lớn, lại cho rằng ta nhìn biển chỉ là đồ phẩn uế, ta càng thêm nóng ruột. Bọt nước của ông có dậy sóng cũng không đủ lấp kín được. Đem hết cả bọt sóng của ông, cũng không đủ để đổ đầy cái bầu của ta, có khả năng làm như thế quanh năm suốt tháng, mong ông mà thương xót tôi! Đông Hải Nhược bèn dùng đá đập vỡ bầu, ném xuống đất, rửa hết chỗ nhơ uế ngoài đảo hoang, mà nước lại trở vào biển, trình bày hết những việc vừa rồi, mà một khi đã hướng về, cuối cùng chỗ xú uế nào mà không biến mất. Nay có hai người học Phật, đều xuất xứ ở nơi biển Tỳ-lô-giá-na, mà đắm chìm nơi năm trược nhơ uế, rơi vào bầu ba cõi tăm tối, mà lấp đá vô minh, ở trong mười hai chỗ giun dế bẩn thỉu, có người hỏi thì một ngườu nói: “Đức Phật là Đấng Tỳ-lô-giá-na, năm trược ba hữu, vô minh mười hai loại đều là không. Tất cả đều là vô thiện vô ác, vô nhân vô quả, vô tu vô chứng, không Phật, không chúng sinh, tất cả đều là vô, ta làm sao mà cầu.” Người hỏi nói rằng: “Chỗ ông nói đó là tánh, là hữu sự. Tánh và sự, một mà hai, hai mà một. Ông giữ một mà định, thì tai họa lớn sẽ đến.” Kia nói: “Ông đi đi, chớ làm loạn ta.” Người khác nói: Than ôi! Ông chứa độc đã lâu, ta gắng sức mà không thể phá trừ được vô minh của ông. Phơi bày trí tuệ của ông không đủ để vượt lên ba hữu, lìa năm trược, vượt qua mười hai chủng loại. Nếu vậy thì nhiều đại kiếp tiểu kiếp, cũng không thể biết được. Người hỏi bèn trình bày những việc ở Tây phương, khiến tu Tam- muội niệm Phật mà nói pháp Không-Có. Thế là bậc Thánh thương xót tiếp dẫn về cõi Cực lạc Tây phương, xa lìa các việc ác, tu tập muôn hạnh, ở nơi đất Thánh, đồng với tri kiến Phật. Một người khi hướng về đó, cuối cùng cùng với mười hai loại, không biến đổi. Hai người trái nghịch, thì không như nước trong hai cái bầu sao? Nay không biết bỏ một mà lấy một, là rất dở. Đông Hải Nhược Hậu Bạt Của Văn Trung Công Tô Thức Và Quất Châu Thiền sư Bảo Đàm. LỜI BẠT Ở SAU ĐÔNG HẢI NHƯỢC Hai người Đông Pha, Quất Châu. Thức này (Đông Pha) từ lâu muốn có tập thư về “Đông Hải Nhược” do Liễu Tử Hậu sáng tác, đem in ấn để đặt vào trong nhà thờ Phật Vô Lượng Thọ ở viện Tịnh trụ. Ngày chín tháng hai niên hiệu Nguyên Hựu thứ 6, cùng Tào Phụ ở Hải lục, Khai Phong Lưu Quý Tôn, Vónh Gia Hầu Lâm nhóm họp ở Phật đường, rồi đem sách do vị tăng gởi cho đem in ấn: Mi Sơn Tô thức kính ghi. Yếu chỉ của Tịnh độ, không thiện ác, không lấy bỏ, không tónh loạn, không nam nữ. Một niệm chân chánh, thì chắc chắn được vãng sinh. Hoặc giả nghi ngờ vào lúc đó, Phật truớc há không thể sao? Tập “Đông Hải Nhược” của Liễu Tử Hậu, cũng dùng từ tương tự như trong bài của Trang Tử nói về chuyện mất dê, ông nên kính tin chớ có nghi ngờ, lo gì không sinh về Tịnh độ? Đem sách này phổ biến khắp để khuyến khích người hậu lai. Ngày rằm tháng 3 niên hiệu Thiệu Hy thứ 5. Quất Châu lão nạp Bảo Đàm kính ghi. Dũ. Điếu Võ Thị Ngự Họa Phật Văn Của Đường Văn Công Hàn BÀI ĐIẾU VÕ THỊ NGỰ HỌA PHẬT Văn công Hàn Dũ. Võ Thị Ngự Vũ, năm trước vợ mất, an táng xong thì gom hết tư trang, y phục, lược, trâm cho vào rương, cứ đến ngày rằm thì lấy ra xem một lần rồi ôm con thơ mà khóc, có thầy pháp đến làm lễ cầu phúc cho họ Vũ mới khuyên rằng: Khóc như vậy đâu có ích gì? Thầy ta dạy là: “Người chết thì thành quỷ, quỷ trở lại làm người, tùy việc thiện ác đã làm mà chịu báo, xoay chuyển không ngừng. Ở bên Tây phương có Phật Di-đà, cõi nước ấy rất an vui, hàng thân thích nên họa tượng lễ Phật, cầu nguyện cho người mất được vãng sinh, chắc chắn sẽ được như ý.” Họ Vũ khước từ nói: “Tôi là nhà Nho, đâu thể làm như vậy.” Thế là cứ đến ngày rằm, lại đem di vật của vợ trong rương bày ra rồi ôm con khóc, cuối cùng thì hối hận nói: “Thật chẳng có ích gì. Ta không thể không tin Phật, thì làm sao biết là không có như vậy?” Thế rồi đem bỏ tất cả y phục, lược trâm cùng các thứ đồ vật, thỉnh Pháp sư tụng kinh Phật cầu nguyện. Hàn Dũ nghe chuyện này liền làm bài điếu nói: Rõ ràng hề mắt thấy Dặn dò hề tai nghe Chợt không thấy, hề không nghe Ai biết rõ hề cội nguồn Họa cảnh Tây phương hề đạo ta Do vọng ngăn trở lòng bi hề an ủi hồn người mới mất Than ôi! Vì sao hề làm lời điếu này. Kết Xã Pháp Tập Của Thông Tuệ Tăng Lục Tán Ninh: VĂN KẾT XÃ PHÁP TẬP Thông Tuệ tăng lục Tán Ninh. Vào đời Tống, đời Tấn có Pháp sư Tuệ Viễn, hành hóa ở đất Tầm Dương. Các vị cao só ẩn dật đều nhóm hợp ở Đông lâm, cùng kết nguyện hương hỏa. Bấy giờ, có Lôi Thứ Tông, Tông Bính, Trương Thuyên, Lưu Di Dân, Chu Tục… cùng kết Bạch liên hoa xã, lập tượng Di-đà, cầu nguyện vãng sinh về nước An dưỡng, gọi là Liên xã. Từ đó bắt đầu có tên Liên xã. Tề Cảnh Lục, Văn Tuyên Vương khuyến mộ tăng tục thực hành pháp Tịnh trụ, cũng gọi là tịnh trụ xã. Ngài Tăng Hựu đời Lương có lập pháp xã, soạn văn công đức ấp hội. Trải qua nhiều thời đại cho đến nay, ở các chùa tăng đều có làm pháp hội xã. Pháp của xã, cho rằng các điều khinh thành một điều trọng, giúp việc được thành công, chớ gần ở Liên xã. Nay đem việc cung ứng cúng dường cho Liên xã, cùng làm ruộng phước, tu hành nghiêm minh, còn hơn công pháp. Hành nhân sách tấn nhau, khuyên nhau tu tập, thì Liên xã có công sinh dưỡng rất lớn. Gần đây nghe ở đất Chu Trịnh, kết rất nhiều ấp xã. Hội xã vào năm Canh Thân có tập minh não bạt, ca tán xướng Phật. Mọi người niệm Phật hành đạo, suốt đêm không ngủ, để tránh Tam Bành tấu với Thượng đế khỏi bị trị tội. Nhưng đây thật ra là pháp của đạo Lão, vẫn thường có những người Phật tử không hiểu nên gia nhập vào, mưu cầu lợi nhỏ, nên không rõ được căn bản, lầm thực hành theo pháp tà, thật đáng thương! Văn Liên Hoa Thắng Hội Lục của Thiền Sư Từ Giác Tông Trách: Cho niệm là niệm, cho sinh là sinh là lỗi chấp thường, lại cho vô niệm là vô niệm, vô sinh là vô sinh là bị tà kiến mê hoặc. còn niệm mà vô niệm, sinh mà vô sinh là đế nghóa bậc nhất. Ấy là vì về lý thật tế thì không chấp mảy bụi, trên không có Phật để niệm, dưới không có cõi để sinh. Trong cửa Phật sự không bỏ một Pháp thì nhiếp hết các căn. Bởi có Tam-muội niệm Phật là yếu thuật về nguồn mở ra pháp môn Vãng sinh. Do đó cả ngày niệm Phật mà không trái với vô niệm, rõ ràng vãng sinh mà chẳng trái với vô sinh… Cho nên phàm Thánh đều ở vị trí mình mà đường cảm ứng giao nhau, Đông Tây không cần qua lại mà thần chuyển về cõi tịnh. Đều này chẳng thể gạn hỏi được. Cho nên kinh nói: Nếu ai nghe nói Phật A-di-đà mà chấp trì danh hiệu cho đến người ấy khi qua đời mà tâm không điên đảo thì liền được vãng sinh về cõi nước Cực lạc của Phật A-di-đà. Xét Như Lai Thế Tôn tuy lập ra Chiết môn và Nhiếp môn, hiện ở hai cõi Uế, Tịnh. Song ý của Bổn Thánh há vì cõi nước Ta-bà đồi núi hầm hố, năm nẻo ở chung các núi đất đá uế ác dẫy đầy mà chán bỏ. Còn thế giới Cực lạc đất bằng vàng ròng, cây vượt trời xanh lầu đài bảy báu, hoa khoe bốn mầu mà ham thích ư? Bởi vì kẻ sơ tâm vào Đạo, sức nhẫn chưa thuần phải nhờ tịnh duyên để làm tăng thượng. Vì sao? Vì cõi nước Ta-bà Phật Thích-ca đã diệt độ, Phật Di-lặc chưa sinh, còn Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc đang nói pháp. Ở cõi nước Ta-bà thì chỉ xướng nghe danh hai vị Quán Âm, Thế Chí, nhưng ở thế giới Cực lạc thì hai vị ấy lại là bạn thân. Ở cõi nước Ta-bà các ma tranh nhau phá rối người tu, còn ở thế giới Cực lạc trong ánh sáng rực rỡ quyết không có việc ma. Ở cõi nước Ta-bà tiếng tà hỗn tạp, sắc gái đẹp dâm, còn Thế giới Cực lạc thì nước chim, cây rừng đều nói Pháp mầu, Chánh báo thanh tịnh, không có người nữ, cho nên sự tu hành duyên đủ, không như người cạn tin Tây phương sinh nghi báng một cách ngang trái. Người ở phương này đều nhàm chán cảnh ồn ào của thế tục ham thích cảnh Lan Nhã yên tịnh. Cho nên có kẻ bỏ nhà xuất gia thì ân cần khen ngợi. Nhưng các khổ ở Ta-bà đâu chỉ là nhà tục ồn ào, còn Cực lạc ưu du đâu chỉ có sự yên tịnh của Lan nhã. Biết xuất gia là tốt mà chẳng nguyện vãng sinh là việc sai lầm thứ nhất. Người muôn dặm khổ nhọc xa tìm tri thức, bởi muốn phát sáng việc lớn dứt bỏ sinh tử, mà Di-đà Thế Tôn nghiệp Sắc Tâm thù thắng, nguyện lực rộng sâu, giảng nói bằng một âm thanh nhưng tất cả đều hiểu rõ, Nguyện tham vấn tri thức mà chẳng muốn thấy Di-đà là sự sai lầm thứ hai. Tòng lâm chúng đông đều thích đến ở, Đạo tràng ít chúng chẳng thích nương nhờ, mà Thế giới Cực lạc Nhất sinh bổ xứ số ấy rất đông, các bậc Thượng Thiện đều cùng ở một chỗ, đã muốn gần gũi Tòng lâm, mà chẳng mến thích thanh tịnh hải chúng là sự sai lầm thứ ba - Người ở cõi nước này sống lâu lắm chẳng hơn trăm tuổi, mà trẻ dại già lẫn, bệnh tật liên miên, tối tâm ngủ nghỉ.. thường chiếm hơn một nữa. Bồ- tát còn bị hôn mê khi cách ấm, Thanh văn còn bị ám muội lúc ra thai thì vách thước bóng tấc mười phần mất hết chín mà chưa lên bậc Bất thoái, thật là đáng sợ. Còn người ở Tây phương thọ mạng vô lượng gá sinh trong hoa sen mà không có khổ về chết. Nối nhau không đứt quãng, thẳng đến Bồ-đề, do đó mà được A-duy-việt trí (Bất thoái địa) thì thềm Phật quyết định có lúc bước lên. Còn trôi lăn trong cõi Ta-bà cảnh ngắn ngủi mà quên đi cảnh dài lâu ở Tịnh độ là sự sai lầm thứ tư. Nếu ở địa vị không lui sụt, quả chứng Vô sinh, ở cảnh dục trần mà không đắm nhiễm, khởi lòng Từ vô duyên, vận đồng thể bi mà trở vào lại cõi trần, hòa ánh sáng với cõi đời có năm vẩn đục. Còn như học ít tuệ cạn hoặc chỉ có chút ít điều lành rồi cho rằng mình đã thoát hẳn bốn dòng, vượt lên bậc Thập địa, chê bai Tịnh độ, mê thích Ta-bà nhắm mắt quay về không thì rõ ràng trôi giạt, sánh vai cùng trâu ngựa, giao tiếp với Nê-lê (Địa ngục). Chẳng biết mình là ai mà dám sánh với Bồ-tát đại quyền, là sự sai lầm thứ năm. Cho nên kinh nói: Phải phát nguyện nguyện sinh về nước ấy, vậy chẳng tin lời Phật nói thật mà không cầu sinh Tịnh độ há là chẳng mê lầm lắm ư? Nếu tin lời Phật nói mà cầu sinh Tịnh độ thì nghiệp nhiều đời không thểtrói buộc. Sóng kiếp chẳng thể hại. lìa tám khổ của nhân gian, không có năm suy của trời, còn không có danh từ đường ác huống là có thật. Chỉ hiển bày pháp Nhất thừa, quyết định không có ba thừa. Quy y nhất thể Tam bảo, kính thờ các Đức Như Lai trong mười phương. Ánh sáng Phật chiếu thân, muôn hoặc tiêu trừ, pháp vị thấm thần, sáu thông đầy đủ. Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo tùy niệm viên thành, ba mươi hai tướng đẹp theo thân biến khắp các cõi nhiều như bụi nhỏ, quanh quẩn trong năm đường, trùm khắp các căn, nhất tâm bất động, hành khắp Tam-muội. Rải nước định ở tam thiên, dẫn chúng sinh rồi nhà lửa. Tự lợi lợi tha thảy đều đầy đủ. Song, duy tâm Tịnh độ tự tánh Di-đà. Bởi yếu môn giải thoát, là đường tắt tu hành. Ấy vì liễu nghóa Đại thừa đều chỉ quy về Tịnh độ. Các bậc Tiền hiền, Hậu Thánh mình, người đều nguyện vãng sinh. Hễ muốn độ người trước phải tự độ. Than ôi, người không lo xa ắt có buồn gần, một khi mất thân người thì muôn kiếp khó tìm lại. Mong hải chúng đều niệm Phật A-di-đà trăm câu ngàn câu cho đến muôn câu, mà hồi hướng kẻ đồng duyên nguyện sinh về nước ấy, cùng lên thắng hội Liên trì, đất vàng pháp sáng, cùng nhờ giúp nhau, chắc chắn hài hòa nguyện ấy. Như thuyền xuôi nước lại thêm chèo chống, thì mười muôn đường xa không nhọc mà đến. Mùa Đông niên hiệu Nguyên Hựu thứ 4, Tông Trách mộng thấy có một người nam đầu chích khăn đen, mặc áo trắng, khoảng ba mươi tuổi, phong mạo thanh tú, cử chỉ nhàn nhã, vái chào hỏi Tông Trách rằng muốn xin vào hội Di-đà của ngài xin ghi cho một tên. Tông Trách bèn giở sổ Thắng Hội Liên Hoa cầm bút hỏi tên gì. Người ấy thưa tên Phổ Tuệ. Viết xong người ấy hỏi có lệnh huynh cũng muốn ghi tên vào hội. Trách hỏi tên gì, người ấy thưa là Phổ Hiền, rồi biến mất. Khi thức dậy, Tông Trách thưa hỏi các bậc kỳ lão thì đều bảo trong phẩm ly Thế Gian kinh Hoa Nghiêm có tên hai Đại só Bồ-tát này. Tông Trách cho rằng hễ Phật tử làm Phật sự giúp Phật mở mang thì sẽ được Hiền Thánh ngầm yểm trợ. Song người tham dự hội này há vì duyên nhỏ mà ngài Phổ Hiền thay tên đổi hiệu chẳng biết là ai. Nay đặt tên hai vị Đại Bồ- tát ở đầu hội. Niệm Phật phòng thối phương tiện của Từ Giác Thiền sư - Tông Trách: Niệm Phật là phương tiện đề phòng lui sụt của Tông Trách. Khuyên khắp các bạn Đạo rằng: Niệm Phật A-di-đà hoặc trăm câu ngàn câu, cho đến muôn câu mà nguyện sinh Tịnh độ Tây phương. Ai nấy hằng ngày cứ mười chữ ghi nhớ. Khi niệm Phật thì nhất tâm chuyên chú, chẳng được theo duyên khác. Luôn nghó cõi Ta-bà nhiều khổ, năm thứ vẫn đục nấu đốt. Huống là một khi mất thân người thì biết khi nào được lại. May mắn gặp các bạn đạo trước sau chuyên cần thì trong hoa sen báu chắc chắn thấy Phật. Niệm Phật Hồi Hướng Phát Nguyện Văn của Từ Giác Thiền sư Tông Trách: Văn Niệm Phật Hồi Hướng Phát Nguyện của Tông Trách. Nguyện đệ tử tên là… khắp vì bốn ân ba cõi chúng sinh pháp giới từ nay trở đi mà an trú vào Đệ nhất nghóa đế, tu hành Tịnh nghiệp, hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, kính thờ thầy tổ, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp lành, thọ trì ba quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, tụng đọc kinh điển Đại thừa, khuyên người tu cố gắng. Niệm Phật, Pháp, Tăng hiểu rõ Đệ nhất nghóa đế cho đến thành tâm xưng niệm danh hiệu Phật, quán y báo chánh báo của Phật, mười sáu diệu cảnh. Niệm Phật vốn khởi bốn mươi tám nguyện bao gồm ba bậc, vào sâu năm niệm môn, thuận theo ba pháp môn Bồ- đề, tin nhận lời dạy của các Đức Phật mười phương. Dùng tán tâm, định tâm mà tu định thiện, tán thiện. Y kinh mà khởi hạnh lấy chết làm kỳ hẹn. Cúi mong Phật A-di-đà pháp lực ngầm che chở, thần thông hiển bày lợi ích, khiến chúng con ngưng thần nẻo giác, ngầm dẫn đạp đất đại phương, tới lui oai nghi không lìa thấy Phật, như cầm gương sáng tự thấy mặt mình, ở trong mộng được thấy cõi ấy, các việc vui mầu nhiệm an ủi tâm con, khiến càng tinh tấn. Nhờ oai thần Phật xa lìa việc ma. Từ bao nhiêu kiếp nay nghiệp hoặc trần lao đều là phạm hạnh. Gốc lành công đức đồng vào biển tánh, chứa nhóm các duyên đều hồi hướng. Khi qua đời không có các chướng nạn, trước đó bảy ngày đã tự biết trước ngày chết. Thân không đau đớn, tâm chẳng điên đảo, thân tâm an vui như vào Thiền định. Gặp Thiện tri thức dạy xưng niệm mười câu A-di-đà Phật, cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt, phát ra ánh sáng rực rỡ trao tay dắt dẫn. Tự thấy thân mình ngồi đài Kim cương theo sau Phật, chỉ trong phút chốc liền sinh về nước ấy. Sinh về nước ấy rồi thì thấy sắc thân Phật, các tướng đầy đủ. Rừng báu ánh sáng giảng nói Pháp mầu, nghe rồi liền ngộ Vô sinh pháp nhẫn. Trụ vào nhóm chánh định không bao giờ còn lui sụt, rốt ráo đến Nhất sinh bổ xứ, hóa thân tự tại cùng khắp mười phương, trong Vô lượng cõi nước, thành Đẳng chánh giác. Trong chỗ rất khổ sở nặng nề luôn biến hóa dạo chơi. Trong các niệm khiến chúng sinh phát tâm Bồ-đề không thể nói không thể nói , trong mỗi niệm khiến vô số chúng sinh trụ vào hạnh Phổ Hiền, Phước tuệ tư lương đều được viên mãn, đồng thành vô thượng Bồ-đề, mỗi mỗi đều trang nghiêm Tịnh độ, các thứ đều nhiếp hóa chúng sinh, như Đức Thế Tôn ta không khác. Tất cả thế giới trong hư khôngcó cùng tận, chúng sinh và nghiệp phiền nãocó cùng tận, tất cả như thế không có cùng tận, nguyện tôi rốt ráo thường không cùng tận. Niệm Phật Sám Hối Phát Nguyện Văn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Văn: Niệm Phật sám hối, phát nguyện của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Nay con xưng niệm Phật A-di-đà công đức chân thật danh hiệu Phật, cúi mong Từ bi thương nhiếp thọ, chứng biết con sám hối phát nguyện, xưa con đã gây các nghiệp ác, đều do tham sân si vô thi, từ thân miệng ý mà sinh ra, tất cả nay con xin sám hối, nguyện con sắp đến lúc qua đời, diệt trừ hết cả các chướng ngại, tận mặt thấy Phật A-di-đà, liền được vãng sinh nước An lạc, Phật ấy, chúng hội đều thanh tịnh, khi con sinh trong hoa sen báu, liền thấy Như Lai Vô Lượng Quang, hiện tiền thọ ký con Bồ-đề được đức Như Lai thọ ký xong, hoá thân vô số trăm câu chi, Trí lực rộng lớn khắp mười phương, lợi ích khắp cõi trước chúng sinh. (Từ “Con xưa đã gây…” trở đi là trích trong phẩm Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm). Kết Liên xã Phổ Khuyến Văn của Tổng Quản Trương Luân: Văn: Kết Liên xã khuyên khắp của Tổng Quản Trương Luân. Tôi nghe như vầy ở Tây phương có Phật hiệu A-di-đà, tên khác là Vô Lượng Quang, tên khác là Vô Lượng Thọ. Lại có hai vị Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí giúp Phật giáo hóa, đều dùng năng lực nguyện lớn cứu độ các chúng sinh. Nước ấy dùng bảy báu trang nghiêm thanh tịnh tự nhiên không có các tạp uế, nên gọi là Tịnh độ. Người ở cõi ấy đều hóa sinh trong hoa sen, tuổi thọ vô lượng, y phục thức ăn thọ dùng tùy ý hiện ra. Lại không có các khổ, cũng không bị luân hồi, nên gọi là thế giới Cực lạc. Lấy đây mà quán xét lại mình, chúng ta thấy thân đang mang này và thế giới chúng ta đang ở so với cõi nước ấy thì tịnh uế, tuổi thọ, khổ vui, sinh tử đâu chỉ cách nhau như trời với đất. Nhưng mê muội không biết, hoặc biết mà chẳng tin, tự làm các chướng ngại điên đảo chấp mê, chẳng suy nghó đến giải thoát, bỏ đây sinh kia, há chẳng đáng buồn thương ư? Cho nên hôm nay tôi xin khuyên các vị có duyên nên kết Liên xã này. Như việc khó biết khó làm, còn phải hết sức cố gắng siêng làm, huống là danh hiệu Phật rất dễ trì, Tịnh độ rất dễ sinh về, trong tám muôn bốn ngàn pháp môn, không có con đường nào thẳng tắt bằng. Chỉ cần chút rảnh rang sớm chiều kính niệm mà làm tư lương cho nhiều kiếp chẳng hư hoại. Ấy thì dụng công rất nhỏ mà kết quả vô cùng. Chúng sinh có khổ gì sao mình lại bỏ mà chẳng làm? Ôi, mộng huyễn chẳng thật, thọ yểu khó giữ, chỉ trong hơi thở đã qua đời sau. Một khi mất thân người thì muôn kiếp khó được lại. Lúc này không ngộ thì Phật như chúng sinh, sao không nghó sâu về vô thường, chớ sống luống uổng mà sau sẽ ăn năn. Cư só Tịnh Lạc Trương Luân kính khuyên. Hữu: Tây Tư Xã Đồng Thệ Văn của Chứng Thông Pháp Sư Sư Văn: Tây Tư Xã cùng thề nguyện. Ngày tám tháng tư Năm Quý Mùi thuộc niên liệu Long Hưng thứ nhất Thích Sư Hữu tôi hội họp đại chúng quy mạng thế giới Cực lạc A- di-đà Phật, Bồ-tát, hải chúng xin rũ lòngTừ khắp xét chí nguyện. Chúng con trộm nghó do phước đời trước sâu dày mà được sinh ở nơi đô hội, được thấy Đại Tạng bảy kinh, thuần bàn y, chánh trang nghiêm Tịnh độ, công đức cao quý. Xem lại cõi này thì ba ác tám nạn, ít có nhóm thiện, sinh, già, bệnh, chết, tuổi thọ ngắn ngủi, mau chóng. Sức mình tu hành khó tiến dễ lùi. Bậc Tiên Thánh thương xót chúng con nên lập ra Pháp môn niệm Phật này dễ tu, dễ đến, khuyến khích cầu sinh. Thánh hiền xưa nay mở rộng pháp môn này, các sách viết ra lấp được biển sâu, chất cao như núi đều sùng kính pháp môn này, đời không thiếu người, chúng sinh mười phương vãng sinh về nước ấy nhiều như mưa rào. Do đó chúng con với lòng trong sáng, không ước hẹn mà đồng chí hướng phát nguyện sinh về Tây cảnh. Niệm niệm không quên, khi hết báo thân này quyết được vãng sinh, chúng con còn lo thói quen khác nhau, việc đời còn chộn rộn. Miệng nói Cực lạc mà ý mến Ta-bà, lý sự không sáng, hạnh nguyện còn thiếu, sáng nguyện đồng nhau mà chiều cách biệt. Do dó chọn ngày lành tháng tốt, hội họp đầu thành kính lễ Phạm dung mà lập lời thề lớn cúi mong Đấng Từ Tôn rũ tay vàng xoa đầu chúng con mở lưỡi sen hồng ngầm thọ ký cho chúng con. Từ nay trở đi chúng con nguyện. Các điều ác chấm dứt, các điều lành vâng làm, không theo tà sư, không mất chánh niệm. Khi qua đời không bệnh không khổ, thân tâm an vui, theo sau Như Lai cùng về An dưỡng hoa sen sớm nở, ngộ Vô sinh nhẫn. Đến khắp các cõi mười phương, kính thờ các Đức Phật, cứu khổ chúng sinh đồng thành đạo Vô thượng. Hư không có cùng tận nguyện con vô cùng. Nếu ai thấy nghe cũng được lợi lạc. (Trầm Đại Khanh ở Hồ Châu hội họp hơn một trăm vị lập ra Pháp hội này từ năm Canh thân thuộc niên hiệu Khánh Nguyên đến nay suốt ba mươi năm không hề bỏ phế…) Vãng sinh Tịnh độ Thập Nguyện Văn của Đồng Giang Pháp sư Trạch Anh. Văn: Mười Nguyện Vãng Sinh Tịnh độ của Pháp Sư Đồng Giang Trạch Anh. Nguyện con lìa hẳn, ba đường ác. Nguyện con mau dứt tham, sân, si. Nguyện con thường nghe Phật Pháp Tăng. Nguyện con siêng tu giới định tuệ. Nguyện con luôn học theo các Phật. Nguyện con không thoát tâm Bồ-đề. Nguyện con mau thấy Phật Di-đà. Nguyện con chắc chắn sinh An dưỡng. Nguyện con phân thân khắp bụi cõi. Nguyện con rộng độ các chúng sinh. Về Tán (gồm mười bảy bài): Khen về: Mài vàng bạc vẽ biến tướng Tịnh độ của Hàn Lâm Lý Bạch. Tôi nghe về phương Tây nơi mặt trời lặn cách Trung Hoa mười muôn ức cõi Phật có thế giới Cực lạc. Phật ở cõi ấy cao sáu mươi muôn ức hằng sa do-tuần. Giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng xoay về bên phải như năm núi Tu-di, mắt trong sáng như nước bốn biển lớn, ngồi thẳng nói Pháp, vắng lặng thường còn. Ao sáng cát vàng, bờ bày cây báu. Lan can bao quanh, lưới giăng khắp chốn. Xa cừ lưu ly trang hoàng cung điện, pha lê mã não lát sáng thềm đường. Lời Phật chân thực không hề nói dối. Dùng vàng, bạc, vẽ Tịnh độ biến tướng, Phùng Dực quận Thái phu nhân vì người chồng đã chết làm quan Thứ sử Hồ châu là Vi công mà làm ra. Phu nhân trong ngần như băng tuyết, theo lời Thánh dạy, vì nghóa lớn vợ chồng mong cứu độ nơi U đồ, vì ân sâu cha con nên sửa sang lại cảnh phước, thề bỏ của báu tìm người thợ giỏi, tô vàng thếp bạc mà vẽ tranh họa tượng, nước tám công đức sóng động ao hoa sen hương hoa bảy báu chiếu sáng đất vàng ròng. Gió mát phất phơ như sinh năm âm thanh, trăm ngàn nhạc hay cùng ngưng động tác. Những ai đã phát nguyện và chưa phát nguyện, đã vãng sinh và chưa vãng sinh. Chuyên niệm bảy ngày sẽ sinh về nước ấy, công đức rất lớn không gì sánh được. Khen rằng: Chỗ trời lặn hướng Tây Xa trông dáng đại bi Mắt trong như nước biển Thân sáng như núi vàng Siêng niệm sẽ vãng sinh Thế nên gọi Cực lạc Lưới châu, cây chân báo Hoa trời rơi thơm ngát Vẽ tranh mắt thấy rõ Nguyện nhờ đạo tràng ấy Mà đem công đức này Làm cầu bến cứu độ Tội tám mươi ức kiếp Như gió thổi sương tan Luôn quán Vô Lượng Thọ Phát ánh sáng lông trắng. Dị. Tú Tây phương Tịnh độ tán của Đường Thị Lang Bạch Cư Dị. Khen bức thêu mầu Tịnh độ Tây phương của Thị lang Bạch Cư Phật Di-đà ở Tây phương cùng cõi Diêm-phù-đề có Nguyện, chúng sinh ở cõi này có duyên với Đức Phật kia. Nên ai bị các khổ trước hãy niệm danh hiệu ta, ai cầu tất cả phước nên vẽ nhiều tượng ta. Còn như do chí thành mà có cảm ứng, tùy nguyện mà vãng sinh, nhanh chóng biến thông, không trái với các Đức Phật ba đời ở khắp mười phương. Phật đâu chỉ nguyện chừng ấy mà thôi. Có người nữ đệ tử ở quận Hoằng nông họ Dương, hiệu là Liên Hoa Tánh, phát nguyện lớn bỏ tịnh tài thêu tranh Phật A-di-đà năm mầu cùng cõi nước Tây phương và các quyến thuộc, để cầu nguyện cho chị cả Lý Thị là Dương phu nhân diệt hết tội nghiệp đời trước. Tranh thiếp bằng vàng, bạc không công phu tinh xảo bằng thêu chỉ năm mầu. Tưởng hình, niệm danh hiệu không gần gũi bằng thấy tướng tốt. Người tạo ra chí thành thì không thể không cảm ứng, cảm ứng thì không thể không thông. Nên tội phải chịu kia không thể không hết, phước không thể không sinh, Khi ấy Liên Hoa Tánh Khắp hương, chắp tay quỳ xuống đọc lời tán rằng: Cõi Tây phương Thân màu vàng Nhờ sức Thánh Phước u hồn Người tạo tranh Hoằng nông quận Người nhận phước Dương phu nhân. Tú A-di-đà Phật Tán của Đường Thị lang Bạch Cư Dị. Khen: Tranh thêu Phật A-di-đà của Thị lang Bạch Cư Dị Bức tranh thêu Phật A-di-đà Tây phương. Có Nữ đệ tử là Đỗ Thị ở kinh Triệu vì mẹ đã chết ở Dương huyện là Thái quân Lô phu nhân, làm nhân ngày giỗ 11 tháng 8. Con kính dâng bức tranh thêu năm mầu này để trang nghiêm, một lòng cung kính nguyện cầu vong linh mẹ hết tội được phước, để báo đền bốn ân. Khen rằng: Khéo niệm một niệm Ngàn niệm nối nhau Mới thêu một sợi Muôn sợi nối nhau Công đức thành tựu Tưởng tốt đầy đủ Thân vàng búi tóc Lông trắng mắt xanh Báo ân sâu nặng Được phước vô lượng. Tây phương Tịnh độ Tán của Lô Sơn Pháp sư Trí Viên. Khen: Tây phương Tịnh độ của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên Nói rằng lý trời vắng lặng, sao có tịnh có uế, có dài có ngắn, có kia có đây mà suy lường bàn luận ư? Nhưng ngộ thì là Thánh, là chân là tu đức, là hợp giác, là về nguồn, là Niết-bàn. Còn mê thì là Phàm, là vọng, là tánh đức, là hợp trần là theo dòng là sinh tử việc lớn. bậc Thánh là người giác trước, thương kẻ chưa giác, do đó mà hiện cõi thanh tịnh tuổi thọ vô lượng. Quay về Đông với mắt từ nhìn khắp khiến cho chúng sinh chín uế ưa tịnh, nhàm bỏ cõi Ta-bà này mà thích nước An dưỡng kia. Rồi lên cõi báu nhìn thấy Pháp vương, mắt thần biến, tai nghe giỏi, thì tánh vắng lặng không bao lâu sẽ được thấu suốt mười phương hư không đều là tâm ta hiện ra, huống chi nương cõi lực không đâu có gì khó. Ôi như người chứng ngộ , nếu không do tâm chán uế ưa tịnh, ghét ngắn ưa dài, bỏ đây lấy kia thì là gì ư? Huống lại thấu suốt chán ham mà không chán ham hiểu rõ ghét ưa mà không ghét ưa, biết lấy bỏ mà không lấy bỏ ư? Thế nên, Đức Thích-ca hiện cõi uế để cho chán, Đức Di-đà hiệu cõi tịnh để cho ưa, ắt là ý ấy. Mẹ Từ bi họ Mã của ta sống thì chán cảnh uế, chết thì ham cảnh tịnh, thọ bảy mươi mốt tuổi mà cuối cùng bị bệnh nằm hoài. Bèn tạo tượng Tịnh độ Vô Lượng Thọ dặn dò chúng tôi cúng dường suốt mười năm như thế. Than ôi đức của mẹ chỉ tránh cho con rơi vào vòng nước lửa mà thôi, mẹ ta mới có thể bỏ ta, làm đệ tử Phật, kế giúp ta học pháp, sau cùng lại hẹn ta việc vãng sinh khuyên dạy ta về đạo, lời than Lục Nga, tâm bi Phong Thọ, năm tháng đã xa, tâm ta không bỏ phế việc thiết trai, đốt hương, đánh khánh mà làm bài Tịnh độ Tán (Khen Tịnh độ) mong mẹ ta chứng quả Thánh. Biển giác lắng trong, rộng lớn vô biên, không thêm không bớt. Chúng sinh mất Đạo, tự cướp gia bảo, sinh tử mênh mông. Đại Giác Từ bi, ở cõi nước tịnh, khiến ta nghó nhớ. Bước lên đài vàng, thấy hình tượng Phật, ngộ tánh màu ta. Tượng do thấy tướng, khen để được Đạo mẹ ta được Phước. Vô lượng Thọ Phật Tán của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu: Khen Phật Vô Lượng Thọ của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Tám mươi bốn ngàn Diệu tướng chẳng phải Di-đà Bản Tánh mười muôn ức cõi phương xa, đích thị là Duy tâm Tịnh độ. Tịnh uế tuy khác nhau nhưng đâu vượt khỏi tâm mình! Chúng sinh và Phật dẫu cách biệt há trái với tánh mình. Tâm thể vắng lặng chẳng ngại tới lui. Tánh vốn bao dung đâu lo lấy bỏ. Cho nên khởi niệm liền lên cõi báu trở về đất tổ quê xưa, chỉ khoảnh khắc liền đối trước Từ dung, thật gặp cha con Thiên chân, cơ sinh trái đức, luống chịu đắm chìm. Ngày nay chí thành sẽ được cứu độ, ba tâm phát đủ một chí quyết về Tây. Hết cả đời vị lai luôn vâng làm, khắp cõi trần mà khen ngợi. Họa A-di-đà Tượng Tán của Văn Trung Công Tô Thức: Bài khen ngợi vẽ tượng A-di-đà của Văn Trung Công Tô Thức. Vợ của Tô Thức là Vương Thị tên Nhuận Chi, tự là Quý Chương, bốn mươi sáu tuổi. ngày mồng một tháng tám niên hiệu Nguyên Hựu thứ tám mất tại kinh đô. Vào đêm qua đời bà dặn dò bỏ tiền của bảo con vẽ hình Phật A-di-đà. Ngày chín tháng sáu niên hiệu Chiêu Thánh thứ nhất thì tượng vẽ xong, được thờ tại chùa Thanh Lương ở Kim Lăng. Khen rằng: Phật tử còn sống trăm phiền não Ra đi một niệm biết về đâu Miệng niệm Nam-mô A-di-đà Mặt trời lên, muôn nơi sáng tỏ Huống gì tự bỏ phần xài dùng Vẽ hình Thiên nhật tròn đầy này. Thấy nghe vui theo đều thành Phật Bất luận trời người hay chim, thú Chỉ nên thường quán tưởng bình đẳng Vốn không buồn vui và thọ yểu Toàn thân trượng sáu đâu phải lớn Ngàn Phật tấc vuông đâu là nhỏ Tâm này bình đẳng là Tây phương Nhắm mắt liền đến không ma nhiễu. Lý Bá Thời Họa Di-đà Tán của Tịch Âm Thiền sư Huệ Hồng: Khen Lý Bá Thời vẽ tượng Di-đà của Thiền sư Tịch Âm Huệ Hồng. Ngày rằm tháng 5, niên hiệu Chánh Hòa thứ 8, Nghi Xuân Huỳnh Tiên Chi mang tượng Phật A-di-đà do Lý Bá Thời vẽ đến Đông Sơn mà bày ra. Tôi xem Bá Thời vẽ rất nhiều lần. Đại khái vẽ ý mà không phải vẽ hình thái, nên không bày năm màu, chỉ Bá Thời biết mà thôi. Hỏi được từ ai thì đáp được từ Lý Trọng Nguyên. Trọng Nguyên được Viên pháp quan dạy nghề ấy rất giỏi do trước đó đã do khổ công mà được. Tôi nhìn kỹ nét nét vẽ của Bá Thời thì người đời nay khó vẽ được. Bèn cúi đầu khen rằng: Lấy Từ làm nhà Lấy Nhẫn làm áo Pháp Không làm tòa Bày đồng thể bi, Bốn mươi tám nguyện Để đời theo về Như mặt trời lặn Chim xếp cánh bay Lớn thay cam lộ Diệu Pháp Tổng trì Khiến quán môn ta Mở rộng bằng phẳng Quán kỹ tâm mình Dứt bặt nghó suy Là chỗ nương về Thật không nghó bàn, Giữ ngựa ý lại Không để ruổi rong Ánh sáng hiện ra Thấy ao sen trắng Không nhờ trung ấm Co duỗi tức thì. Vui vẻ hóa sinh Như trẻ tám tuổi Sao đến được đây Xin nghó kỹ xét Do ta tinh tấn Gắng sức chuyên trì Kính lễ Diệu trạm Bất động vòi vọi Khiến tất cả chúng, Dứt nghi si ám Có người cùng nguyện Chỉ thấy Đạo sư Thoát nhiên lột xác Ra khỏi năm trược. Kiệt: An lạc Quốc Tám tán tam thập thất chương của Đề Hình Dương Khen An dưỡng quốc ba mươi chương. mỗi chương bốn câu của Đề Hình Dương Kiệt Tịnh độ Châu Sa giới Như phải riêng chỉ Tây Chỉ từ một mà vào Nơi nơi là Bồ-đề. Có niệm đồng vô niệm. Vô sinh tức là sinh. Chẳng nhọc dời một bước Thấy suốt thành Giác vương. Chán phiền cầu Tịnh độ Chẳng phải không Từ bi Muốn trị bệnh người khác Trước phải trị bệnh mình. Di-đà nguyện lực nặng Ánh sáng chiếu cõi trần Nếu một niệm tương ưng Liền sinh nhà Như Lai. Cõi trời nhiều năm dục Cực lạc dứt ba đường Sinh liền không lui sụt Như Lai đâu dối ta. Người kém theo Thánh vương Ngày đi bốn thế giới Sức Thánh không nghó bàn Ví dụ sẽ được hiểu. Chớ nghi nghiệp trước nặng Công đức mười niệm nhẹ Nhà tối suốt muôn năm Mặt trời soi liền sáng. Tuy biết các cõi Phật Và chúng sinh đều không Dạy người tụ Tịnh độ Ma-kiệt có phi dong. Ái luyến phải quyết dứt Như trời lên băng tan Người chưa chứng Tam-muội Phải nên quán như thế. Nước bùn nhơ năm đục Chẳng dính hoa sen trắng Vì sao kẻ lang thang Tuổi già chưa về nhà. Giáo quán A-di-đà Đời trược có duyên sâu Đời mạt tiêu trừ hết Kinh này lưu trăm năm. Chớ bảo mười muôn ức Đường xa mà chán mỏi Như cảnh ở ngàn dặm Mộng chốc lát đi khắp. Chớ cho tội nhiều kiếp Một niệm không tiêu được Ví như củi cả rừng Đóm lửa nhỏ đốt tan. Chim non không lìa cành Trẻ con không xa mẹ Niệm niệm A-di-đà Quyết định sinh Tịnh độ Các Như Lai mười phương Một âm, lưỡi rộng dài Phát nguyện liền được sinh Nói lời thành thật khen Nước chim và tiếng gió Pháp âm không đứt quãng Bồ-tát là bạn thân Chắc chắn không lui suit. Tội ác sẽ phải đọa Như bỏ đá xuống nước Nguyện lực như thuyền to Chở người được an ổn. Có niệm chẳng Vô lậu Vô tâm chưa là tinh Cất nhà trên hư không Biết ngày nào thành công. An dưỡng hưởng các vui Sa-bà đủ các khổ Phải phát tâm Vô thượng Nguyện được sinh Tịnh độ. Lan can và lưới giăng Cây báu đều bảy lớp Trang nghiêm không gì sánh Nhạc trời hương gió thơm Ao nước tám công đức Đáy toàn bằng cát vàng Trên có lầu các báu Hoa to như bánh xe Trời rãi hoa Mạn-đà Đựng đầy trong giỏ hoa Cúng dường Phật mười phương Đúng giờ ăn về nước Tâm tịnh thì cõi tịnh Lời Đại só đâu sai Cõi cõi thấy Như Lai, Na-già luôn trong định Đã chứng Vô sinh nhẫn Lại ngồi thuyền Bát-nhã Dạo chơi biển sinh tử Cứu vô biên kẻ chìm Lý sinh không thật có Tức là chân Vô sinh Mình, người, Phàm và Thánh Đều gắng gượng gọi tên Tức cõi Ta-bà này Phàm Thánh ở xen nhau Bụi bụi toàn thể hiện Vọng động liền sai khác Phật nói nước Di-đà Cách đây thật chẳng xa Bảo khắp người tu hành Chớ sinh kiến chấp khác Khi Bồ-tát Pháp Tạng Phát bốn tám lời nguyện Nguyện nguyện độ chúng sinh Dắt dẫn không hạn lượng Nếu có các chúng sinh Niệm một câu hiệu ta Nếu không sinh cõi Tịnh Ta quyết không thành Phật. Cha thường nghó nhớ con Con luôn nghó nhớ cha Nếu niệm niệm tương ưng Liền về nhà mà ở. Thiện Đạo Hòa thượng Di-đà Đạo Tràng Tán của Đề Hình Dương Kiệt: Khen: Đạo tràng A-di-đà của Hòa thượng Thiện Đạo của Đề Hình Dương Kiệt. Đàn tràng cao vút ngọn núi Đông Mười câu Phật kia tin chẳng ngoa. Thiện Đạo sau y thiện trước Phật Di-đà nay là Phật xưa Nhất tâm chánh niệm vượt ba cõi Một ánh trăng côi chiếu muôn sóng Cỡi thuyền Bát-nhã về Tịnh độ Muốn độ sinh trở lại Ta-bà. Kiệt: Kiệt Bạch Liên Hàm Giáo Chủ Chân Tán của Đề Hình Dương Khen hình tượng Bạch Liên Hàm giáo chủ của Đề hình Dương Ở Núi Đông Dịch thuộc Thai Châu, có Pháp sư Hàm thuộc giáo phái Thiên Thai ở tại Đạo tràng Bạch Liên, vào ngày 11 tháng 7 niên hiệu Nguyên Hựu thứ bảy đã họp đại Chúng mà chia y bát, bảo rằng ngày hai mươi ba sẽ về Tịnh độ. Đến ngày hẹn, Sư ngồi thiền ngoài cửa phương trượng mà viên tịch. Trước đó sáu ngày sư có để thư lại cho Tịnh nhân Nghiêm Diệu Quán, rồi về kinh đô từ giã tôi và để lại bài chân tán gởi cho các đồ chúng trong núi rằng: Ba quán thông suốt, niệm niệm tròn, Tổ sư thắp hương chỉ tâm truyền, thư gởi dán rồi ngồi kiết già. Chẳng ở Bạch Liên sinh bạch liên. Hiệu Thiền Nguyệt Tác Viễn công vịnh của Thái sử Huỳnh Đình Kiên: Bắt chước Thiền Nguyệt làm bài vịnh Viễn công (và lời tựa) của quan Thái sử Huỳnh Đình Kiên. Pháp Sư Tuệ Viễn ở Lô sơn giữ luật rất tinh khổ, quá ngọ không uống nước đường mà làm thơ đổi rượu uống với Đào Bành Trạch. Đưa khách không phân biệt sang hèn đều không qua khỏi Hổ Khê. Vậy mà cùng Lục Đạo só đi qua Hổ Khê một trăm bước cười lớn mà giã biệt. Nên Thiền Nguyệt làm thơ rằng: Thương Đào Trưởng Quan say ngất ngất. Đưa Lục Đạo só đi thong thả, mua rượu qua khe đều phá giới, người ấy là ai Sư là ai? Nên bắt chước đề thơ rằng: Đón Đào Uyên Minh cầm chén rượu Đưa Lục Tu Tónh quá Hổ Khê Mấy lượt Cửu Lưu trong như kiếng Nhân gian muôn việc say như bùn. Viễn Pháp Sư Tán của Cấp Sự Trình Câu: 1. Khen Pháp Sư Tuệ Viễn của Cấp Sự Trình Câu (có bốn bài): Pháp sư Hoằng Đạo Nói toàn Thật Tướng Tượng nổi bến sông Thần vận già lam Giới châu nghóa biển Tột thế kính nhìn Mở lớn Tịnh Nghiệp Liên xã các Hiền. 13. Lưu Di Dân Tán của Cấp Sự Trình Câu: 2. Khen Lưu Di Dân: Trọng Tư hiểu rộng Lãnh tụ hai nơi Đại Hóa hiện tiền Không quên chánh thọ. 14. Đào Tinh Tiết Tán của Cấp Sự Trình Câu: 3. Khen Đào Tónh Tiết: Uyên Minh cao bước Tánh hợp với đạo Bậc thế, xuất thế Chớ nên thân sơ. 15. Tạ Khang Lạc Tán của Cấp Sự Trình Câu. 4. Khen Tạ Khang Lạc: Khang Lạc cao quý Hào khí không bỏ Tuệ nghiệp thì có Chẳng phải tịch diệt. 16. Lục Đạo Só Tán của Cấp Sự Trình Câu: 5. Khen lục Đạo Só: Ông Lục Huyền Hư Thấu triệt tịch diệt Quên tướng giang hồ Cười lớn chẳng trái. 17. Lâm Hạnh Tự Tiễn của Tra Am Pháp Sư - Hữu Nghiêm: Lâm hạnh tự tiễn của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm: Ta nghe Tây phương có bậc Vô thượng Chánh biến tri, tuổi thọ vô lượng A-tăng- kỳ kiếp. Ánh sáng chiếu khắp vô biên cõi. Từ bi che khắp chúng sinh không hạn kỳ. Ai nghe danh xưng niệm đều không lui sụt ai quy mạng phát nguyện các khổ đều lìa. Đất vàng hoặc lưu ly làm đất. Ngày đêm sáu thời trời rải hoa bay bay như mưa. Lầu gác cờ phướn ngàn muôn khắp hư không. Rừng báu lưới châu âm nhạc gió nhẹ thổi, trang nghiêm tuyệt diệu không thể suy nghó bàn luận. Cả nước không mặt trăng, mặt trời mà luôn sáng rực, thế nên người giữ niệm thì thần hồn về Tây. Nước mẹ cha thường nghó về. Tánh không cõi khổ, này thuận tánh mà bỏ Tánh ấy. Có Lạc bang nay thuận tánh mà nhiếp lấy. Cách hơn mười muôn ức cõi Phật không phải là xa. Trong nhờ nguyện lực, ngoài nhờ oai Phật, chỉ một sát na liền đến ao hoa sen bảy báu. Cụ Tra Am lúc bình sinh học Phật giữ giới luật sạch như băng tuyết, thích văn chương luận bàn như ngọc bích. Diễn giảng nhiều mà giữ niệm cũng không gián đoạn, tịnh nghiệp đã thành. Một hôm, thấy trên ao vàng có mấy người như muốn trổi nhạc để đón rước, mấy hôm sau thì mất. Trước đó có làm một bài tự tiễn mình, cho nên biết quyết định về Tây. Người nghe đều khen ngợi, cho là mình không bằng. Than ôi, Duy Tâm bổn tánh người người đều đủ. Sao cá tươi nhiều mà chẳng kết lưới bắt được ư? Tử Vân bảo: Con tò vò khấn rằng: Loại chúng ta lâu ngày thì giống, đâu có người chẳng tu mà chứng được ư? Đây là ý tự tiễn chắc chắn đủ để người ra đi khuyên bảo người đến học. Năm Nguyên Hựu đem văn cho tôi xem, nhân đó tôi làm lời Bạt ở sau. Tra Am kính đề. <篇> LẠC BANG VĂN LOẠI <卷>QUYỂN 3 LOẠI BI KÝ (có mười chín bài) Bài Ký về Viện Tu Tịnh độ chùa Hưng long của Lễ Bộ Liễu Tử Hậu. Bài Bia về Hòa thượng Vô Tánh ở Nhạc châu của Lễ Bộ Liễu Tử Hậu. Bài Ký về vẽ tranh Tịnh độ Tây phương của Hàn Lâm Bạch Cư Dị. Bài Bia về người đứng đầu Bạch Liên xã ở Tiên đường của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên. Bài Ký về tượng Di-đà bảy ở Tịnh từ của Đề Hình Dương Kiệt. Bài Ký về xây giác báu Di-đà của Đề Hình Dương Kiệt. Bài Ký về Viện Tịnh độ chùa Diên khánh của Đãi Chế Trần Quán. Bài Ký về sửa sang lại viện tu Tịnh độ ở chùa Diên khánh của Thủ Tọa Phác Am Thanh Triết. Bài Ký về xây dựng tượng ba vị Thánh ở chùa Khai nguyên của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Bài Ký về tạo tượng Di-đà ở viện Vô Lượng của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Bài Ký về am An dưỡng ở Linh sơn của Cấp Sự Trình Câu. Bài Ký Hoàng Đế Cao Tông viết tặng Liên xã của Tổng Quản Trương Luân. Bài Ký về tháp Di-đà ở núi Nam nhạc của Thiền sư Mục Am Pháp Trung. Bài Ký về đạo tràng Tịnh độ ở Trừng giang của Thiền sư Pháp Chân Thủ Nhất. Bài Ký về tranh vẽ ở trên vách của Liên xã ở Viện Bảo Tích của Ty Phong Chung Ly Tòng. Bài Ký về Kinh Vương Việt Quốc phu nhân vãng sinh của Thân Các Huỳnh Sách. Bài Ký về Mã Thị Lang vãng sinh của Thân Các Huỳnh Sách Bài Ký về Quảng Bình phu nhân vãng sinh của Đãi Chế Vương Dó Ninh. Bài Ký về tháp xá-lợi của chim Anh Võ ở Hà đông của Duẫn Vi Cao ở Thành đô. Loại Truyện (Mười bốn bài). Truyện về Bồ-tát Ngũ Thông ở Thiên trúc thỉnh Phật. Truyện về Pháp sư Tuệ Viễn là Thỉ Tổ Liên xã đời Đông Tấn. Truyện về năm vị Tổ Pháp sư nối nhau nhiều đời của Liên xã. Truyện về ngài Pháp Duyệt Tăng Chủ ở kinh đô thời Lương. Truyện về Pháp sư Bích Cốc Thần Loan Hậu Ngụy. Truyện về Thiền sư Lô sơn Đạo Trân đời Lương. Truyện về Pháp sư Thiên Thai Pháp Trí đời Tùy. Truyện về Thiền sư Vónh Minh Trí Giác đời Đại Tống. Truyện về Trinh Tiết Xử Só Dũ Tiên đời Lương. Truyện về Vô Vi Tử Dương Đề Hình đời Đại Tống. Truyện về Vương Ty Só ở Quang châu đời Đại Tống. Truyện về Hồ Tuyên Nghóa ở Tiền đường đời Đại Tống. Truyện về cư só Long Thơ Vương Hư Trung đời Đại Tống. Truyện về Chu Thị Như Nhất đời Đại Tống ở Minh Châu của Thiền sư Quất Châu bảo Đàm. Hậu: Bài Ký ở Viện Tu Tịnh độ chùa Long hưng của Lễ Bộ Liễu Tử Về phía Tây Trung Châu mấy muôn dặm có nước tên Thân Độc, là nơi thị hiện của Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai. Đức Phật ấy nói về phương Tây cách mười muôn ức cõi Phật có Thế giới tên là Cực lạc, Phật hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai. Nước ấy không có ba độc tám nạn, có các báu để trang sức. Người ở nước ấy không có mười triền, chín não. Các Thánh đều là bạn lành. Là cõi nước nên thành tâm Đại Nguyện quy tâm. Nếu niệm lực đầy đủ thì liền vãng sinh về nước ấy, sau sẽ ra khỏi ba cõi, đối với Phật đạo không còn lui sụt. Lời ấy không luống dối. Pháp sư Lô sơn Tuệ Viễn đời Tấn có làm thơ vịnh niệm Phật Tam-muội khuyên khắp thời ấy. Về sau có Đại sư Thiên Thai Trí Khải soạn luận thích, Tịnh độ thập nghi, mở rộng giáo pháp, rất sâu kín nhiệm mầu, người mê đều nhờ cậy. Bởi kẻ lưu lại dấu lạ mà đi thì rất đông. Chùa Long Hưng ở Vónh châu trước do Thứ sử Lý Thừa Xi và Tăng Pháp Lâm lập Tịnh độ Đường ở phía Đông chùa, kính thờ đến nay đã hơn hai mươi năm, góc rèm hư nát, cốt tượng ngã nghiêng. Bèn chọn thượng nhân đến ở để sửa sang coi sóc. Thượng nhân tu tối Thượng thừa, hiểu rõ nghóa bậc nhất. Vô thể tích không, dấu sắc mà tạo, chân nguyên thông giả có mượn tên không mà vào. Đối với thật tướng thì cảnh hợp với trí, sự khớp với lý. Cho nên tuy là nhân Vãng sinh mà tướng dụng không bỏ. Nên sửa sang lại ngôi nhà này để dắt dẫn kẻ hậu học. Có tín só vẽ hình tượng Phật, pháp tướng rất đầy đủ. Nay Thứ sử Phùng Công lập cửa lớn để biểu thị địa vị! Tôi đưa bốn a hoàn để mở rộng hai nhà thờ tượng hai Đại só, vẽ cờ phướn lọng báu để thành tựu. Than ôi, nếu có người hay cầu cái sinh của vô sinh, biết sự có mặt của thuyền bè, bèn soạn luận Thập Nghi của Thiên Thai lên vách khiến người xem mà khởi lòng tin. Bài Bia về Hòa thượng Vô Tánh ở Nhạc Châu của Lễ Bộ Liễu Tử Hậu: Ngày ấy tháng ấy tại Nhạc Châu có Đại Hòa thượng ở chùa Thánh An làm Tăng bao nhiêu năm có tên mà không họ. Đời không biết quê quán họ hàng và đời sống của ngài. Có người hỏi thì bảo tánh ta là họ, gốc không đầu mà trụ không cuối. Nương họ Đạo sư Thích mà hệ Đạo ta vốn không họ. Pháp Kiếm là tên ta. Thật lại không có tên mà ghét ta có tên. Tánh hải là quê ta, pháp giới là nhà ta, giới làm tường rào, tuệ làm cửa ngõ để bảo hộ thì chắc chắn là chỗ ở yên. Cửa làng chẳng đủ, độ môn, đạo phẩm số ấy vô cực, Bồ-tát Đại só nhiều vô số, ta thân thích với họ không khác gì ta. Dòng họ ta chẳng lớn ư? Đạo ấy đáng nghe. Như thế mà chỉ đọc tụng kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Bát-nhã số hơn ngàn muôn. Có kẻ chê là hữu vi bảo rằng: Ta không hề làm. Than ôi, Phật đạo càng xa, các mối lạ tranh nhau nổi dậy. Chỉ có Đại sư Thiên Thai là được thuyết ấy. Hòa thượng là người được thừa kế gốc ấy, vì thuận theo trung đạo. Phàm người thọ giáo không muốn mất gốc, sinh vật lưu động, thú hướng lẫn lộn thì chỉ có đường chánh Cực lạc là được chỗ về ấy. Hòa thượng bèn cần cầu quyết thành chí nguyện. Phàm người tin nghe chẳng lầm đạo ấy. Nếu có kẻ chê là có dấu vết thì bảo là ta không hề làm. Lúc đầu, Hòa thượng ở chùa Long hưng ở Phòng châu rồi dời về châu này lập đạo tràng ở ngọn Bắc Lăng-già, năm mươi năm không ra khỏi cổng… Hòa thượng kính thờ các bậc cao đức ở đời. Người đầu tiên ngài nương tựa xuất gia là sư Trác Nhiên ở Nam dương an táng bên núi Nhạc châu. Người đến thọ giới là sư Đạo Dónh ở Kinh châu. Đệ tử đứng đầu là sư Hoài Viễn trụ chùa An quốc ở Trường sa. Khi đến Nam Nhạc truyền giới thì sư mất bèn chọn ngày an táng ở phía Đông tháp ngài Trác Nhiên cách đó mấy bước. Có lời minh rằng: Đạo vốn ở một Lìa là môn khác Lấy tánh làm họ. Bèn trở về gốc Không tên làm tên Sư giáo làm tôn. Giả chỉ chỉ người Chẳng phải ta còn Quê lớn chẳng ở Họ lớn chẳng gần Ý sâu trong sáng Trong rỗng ngoài nhân Thánh có Di ngôn Là rốt là siêng Chỉ siêng chỉ im Chết như mây nổi Giáo lâu lợi nhiều Đời ít người dạy Bèn có trí lớn Xuất từ chân môn Gần để hiển bày Giúp dân đổi mới Tình động sinh biến Vật bị đắm chìm Bèn trao Lạc quốc Mến nơi nguồn hóa Sư bèn dạy dắt Khiến dân chẳng mê Dụng đạo bất tác Lời thần không dấu Sáng tối đều như Sinh tử đều vắng Pháp trao hậu học Bày ra không dấu An táng ở bên thầy Không quên nhà thật Viết bài minh này Khắc ở đá đeo. Dị: Bài ký về vẽ tranh Tây phương Tịnh độ của Hàn Lâm Bạch Cư Thầy ta là Thích-ca Như Lai nói từ đây đi về phương Tây qua mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực lạc. Vì không có tám khổ bốn đường ác cho nên nước ấy gọi là Tịnh độ. Vì không có ba độc năm nghiệp vẩn dục. Phật ở cõi ấy hiệu là A-di-đà vì sống lâu vô lượng, vì nguyện vô lượng, vì công đức, tướng tốt, ánh sáng vô lượng. Xét kỹ cõi Ta-bà này có nhiều chúng sinh như bụi nhỏ không kể hiền ngu, sang hèn, già trẻ, nếu ai khởi ý quy y Phật, trước hết đều chắp tay hướng về phương Tây. Nếu ai bị tai ách khổ não thì trước hết đều niệm A-di-đà Phật. Lại đúc khuôn nặn đất khắc đá dệt thêu cho đến vạch nước, nhóm cát, trẻ thơ chơi đùa… đều coi Phật A-di-đà là Thượng thủ. Không biết vì sao như thế. Như thế mà xét thì Đức Như Lai ấy có nguyện lớn với chúng sinh cõi này, chúng sinh cõi này có nhân duyên lớn với cõi nước ấy. Nếu không phải thế thì các Phương đông, Nam, Bắc, chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai rất nhiều sao chỉ riêng phương Tây như thế ư? Sao chỉ riêng phương Tây như thế? Đời Đường, Đại Phu Thái Tử Thiếu Truyện thượng trụ quốc huyện Phùng dực, Khai quốc hầu được vua ban đãy cá vàng tía (Bạch Cư Dị) rất đau buồn vì bị bệnh phong tê. Bèn bỏ bổng lộc ba ngàn lượng nhờ nhà thơ giỏi là Đỗ Tông Kỉnh xét hai kinh A-di-đà và Vô Lượng Thọ mà vẽ một bộ hình thế giới Tây phương cao chín thước rộng một trượng ba. Phật A-di-đà ngồi giữa, hai Đại só Quán Âm và Thế Chí đứng hầu hai bên, Trời người chiêm ngưỡng, quyến thuộc vây quanh. Lầu đài kỹ nhạc, cây, nước, hoa chim, bảy báu trang sức, năm màu phô bày lộng lẩy rực rỡ, công đức thành tựu. Con là đệ tử Cư Dị đốt hương cúi đầu quỳ trước Phật, khởi tâm từ bi phát thệ nguyện lớn. Nguyện đem công đức này hồi hướng bố thí cho tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh những ai già như con, bệnh như con, nguyện đều lìa khổ được vui, bỏ việc ác tu việc lành, chẳng vượt khởi Nam Thiệm bộ mà thấy được Tây phương, sợi lông trắng sáng rực, tùy niệm liền cảm ứng. Sen xanh thượng phẩm theo nguyện vãng sinh. Từ thân hiện tại đến cùng tận đời vị lai thường gần gũi Phật để cúng dường. Muốn nhắc lại nguyện trên bèn có kệ khen rằng: Thế giới Cực lạc là cõi thanh tịnh. Không có đường ác và các khổ, Nguyện ai thân già bệnh như tôi. Đồng sinh nước Phật Vô Lượng Thọ. Bài Bia về người đứng đầu Bạch Liên xã ở Tiền đường của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên: Ngày 12 tháng giêng mùa Xuân niên hiệu Thiên Hi đời Tống, người đứng đầu Bạch Liên xã là Đại sư Viên Tịnh Thường Công, viên tịch tại thượng phương thảo đường chùa Chiêu Khánh ở Tây hồ thuộc Tiền đường, tho ïsáu mươi hai tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp. Đến ngày 3 tháng 2, nhóm đệ tử Hiệu Yết đem toàn thân an táng ở núi Linh Ẩn bên mộ của Thiền sư Ô Sào, bên trên xây tháp để ghi chép. Mùa Đông năm ấy môn nhân thượng thủ là Hư Bạch nối tiếp đạo của sư, muốn biết hành tung của thầy bèn đến am tôi xin vài lời khắc bia đá lại nói đó là di chỉ của người xưa. Tôi từ chối chẳng được, bèn viết lời tựa, cho giáo pháp Phật thanh tịnh vô vi, nhân từ không giết hại, lại lời kín, ý rộng bèn chỉ rõ đầy đủ, khiến những người được hóa độ, kẻ được nhỏ, gần thì làm lành lánh dữ, kẻ được lớn xa thì trở về nguồn phục hồi chân tánh. Ôi, Tuệ Viễn ở Lô sơn là người được lớn xa vậy. Khảo sát kỷ, lời lẽ hay hiểu biết thật đủ để biểu trưng hạnh, đủ để làm khuôn phép. Cho nên kẻ hiền thời ấy ngưỡng mộ sự cao minh của người mà từ đó có việc kết xã. Đến nay người khen ngợi mà không thể nối pháp được. Duy công lý hạnh nghiêm cẩn tu tâm trong trắng, nghe phong độ của Lô sơn mà mừng vui. Lại bảo mong làm ngựa ký hoặc cỡi ngựa ký. Ta tuy chẳng giống như thế nhưng chẳng dám quên việc làm sao cho được bằng người. Do đó mà trang sức thân, mổ xẻ tâm mà thề kết xã. Phàm noi theo đạo thì phải nương vào đất, tôn trọng thần thì phải nhờ tượng, muốn hành hóa thì phải bằng lời. Nói xem chốn Tây hồ là cảnh đẹp dạo chơi của thiên hạ, thích u nhàn mà bày ra tốt xấu. Phật Vô Lượng Thọ là đấng kính ngưỡng của chúng sinh, bèn khắc gỗ chiên đàn làm tượng. Phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm nói “Vì cơ yếu của việc thành Phật nên mới chích máu để viết các chương cú kia”, sao đất đã được, tượng đã thành, lời đa õhành, triều hiền cao. Lại nghe phong độ của ông mà vui mừng. Hoặc tìm chỗ vắng mà hỏi đạo, hoặc thấy tướng mà biết chân, hoặc khảo xét kinh mà được ý, hơn ba mươi năm, không trái nghịch. Người dự vào Bạch Liên xã gồm một trăm hai mươi ba vị được độ thành. Như thế có thấy Xã Tây Hồ mới biết việc nối nghiệp Lô sơn không tủi thẹn. Có lần, thử luận với ngài Tuệ Viễn là Thánh bậc thượng địa, còn ông là Hiền sơ tâm, địa vị khác nhau, tên hiệu có khác. Song Tuệ Viễn thì sinh ra từ thời Tấn suy, còn ông sinh ra ở Thánh triều này (Đường?). Nên Tuệ Viễn chiêu dụ các bậc Hiền ở ẩn còn người đến với ông là những bậc hiển đạt, toàn những vị giỏi xưa nay đều ngang nhau. Không thể bảo thạnh và tốt cùng theo nhau. Ông thường bảo các học trò rằng: Từ lúc bắt đầu lập nước đến nay. Tiến thân tiên sinh nói theo xưa làm văn đại khái bắt chước Thối Chi mà bài bác Phật giáo. Cho nên tôi mượn dấu Tuệ Viễn mà kết xã vãng sinh. Kẻ theo sự dạy dỗ của ta sẽ soạn nhiều bia lắm tụng mà khen ngợi Đạo pháp, kết lời quy hướng, đạp đổ đường gai góc khác để bước đi trên giáo pháp ta, Đời chẳng biết ta hoặc lấy ta làm điều khen lạ, ta không phải hạng người ấy. Quân Tử nói: Xưa Dược Sơn Duy Nghiễm rút lại tâm bay cao, giúp biết Phật mà Tăng truyện khéo viết. Nay các Hiền nhờ thật tướng kính phục Đại giác. Hồi tông nơi biển tánh, không có sức của ông thì cùng ai có công hộ pháp thay kẻ không ngang bằng? Ông húy là Tỉnh Thường, tự là Tạo Vi, họ Nhan là người ở Tiền Đường. Bảy tuổi chán tục xuất gia, mười bảy tuổi thọ giới cụ túc. Khi sinh ông có điềm lành. Học với sư Bảo Truyền, tu thiền rất giỏi, dồi mài danh tiết thì có xã khách và các bậc Hiền. Bia Tự thì có học trò ghi rõ hành trạng của ông, ở đây không nhắc lại. Nay nói về đạo của xã ấy, văn rằng: Sự lớn lao của Phật ở Tây phương chỉ có Tuệ Viễn là biết được, chổ cao của Lô sơn chỉ có ông là vui thích. Tây hồ xã đều các bậc Hiền kính mến, có đầu, có cuối, chẳng mài chẳng sâu. Duyên ta đã trọn, ta mất ở đây. Thần ta dạo nơi không dấu vết, tên nên khi tán dương bậc Thánh, muốn biết đạo ta thì xem phong bia này. Bài Ký về tượng Di-đà bảy báu ở Đạo Tràng Tịnh Tư của Đề Hình Dương Kiệt: Đạo Tràng Tịnh Từ ở Nam Sơn thuộc Hàng Châu có Tỳ-kheo Pháp Chân, Đại sư Thủ Nhất kết đồng chí, cùng Đàn-việt dùng vàng bạc, trân châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não… tạo tượng Phật A-di-đà. Thánh tướng đẹp lạ, cảm ứng rất nhiều. Vô Vi tử nay chiêm ngưỡng ngợi khen, nghiền bảy báu thành bụi, nhóm bụi báu làm thân Phật. Thấy bụi báu tức là thấy Phật. Phật không gì chẳng phải báu. Thấy thân Phật tức là thấy báu, báu không gì chẳng phải Phật. Bảy báu là báu thế gian, chúng sinh tham lấy chẳng thỏa mãn, chẳng được liền sân si, chẳng biết đây là nhân của đường dữ. Bảy báu đã làm thành tôn tượng thì không phải vật dụng của thế gian mà là báu xuất thế. Người gặp tượng báu nên sinh tâm cung kính, giữ nghiêm giới cấm, thuần chắc định lực, thấu suốt trí tuệ, đây là nhân Tịnh độ. Thân Phật lớn bằng cả hư không, nên không lập năm tạng, không lấy tâm chúng sinh làm tâm. Cho nên, người trong hội mỗi người viết một nguyện Di-đà, bốn mươi tám người thì nguyện Di-đà trọn đủ. Tất cả đều đem chứa trong thân tượng để nói lên nguyện nguyện không quên chúng sinh. Búi tóc có một ngàn hai trăm sợi, mỗi sợi thật là nguyện lực vững chắc của xá-lợi. Ngày tượng hoàn thành thì dùng tám thứ nước thơm mà tắm rửa Như Lai biểu thị cho nước tám công đức. Mọi người tùy ý lấy uống đều là vị cam lồ. Một thân thanh tịnh thì tất cả thân thanh tịnh, một niệm thanh tịnh thì tất cả niệm thanh tịnh. Nhưng chẳng lìa Ta-bà mà liền vượt lên Cực lạc. Một khi thấy tượng báu thì thành tựu duyên há có thể suy nghó bàn luận được ư? Bèn làm kệ rằng: Hòa nhóm bảy báu Thành thân Như Lai Báu tức là Phật Ngoài Phật không báu Phật tức là báu Ngoài báu không Phật Không phải hai cảnh Hiện các Tịnh độ Đi quanh khen ngợi Niệm niệm Di-đà Cùng với hữu tình Đồng sinh Cực lạc. Bài Ký về xây gác báu Di-đà của Đề Hình Dương Kiệt: Ai không nguyện sinh Tịnh độ thì thôi, đã nguyện sinh Tịnh độ thì ai cũng được sinh, một khi đã sinh thì không bao giờ lui sụt. Đức Thế Tôn gọi là A-bệ-bạt trí, hay A-duy-việt trí, phàm phu hữu lậu còn bị trói buộc dựa vào tín niệm mà được sinh về nước ấy. Nhưng ba độc tà kiến không thể mất liền, làm sao biết không lui sụt? Bởi vì nguyện lực của Phật Di-đà luôn nhiếp giữ, ánh sáng rực rỡ luôn chiếu soi, các bậc Thượng thiện thường nhóm họp, tuổi thọ dài lâu suốt kiếp. Cây, rừng, chim, nước, tiếng gió reo nhạc luôn giảng nói diệu pháp. Người nghe tâm liền niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nghe mãi không dứt. Chúng sinh bệnh, Phật là vua thầy thuốc, Pháp là thuốc hay, Tăng là người nuôi bệnh, ba thứ có đủ bệnh liền tiêu tan. Thế nên nói một khi sinh về Tịnh độ do đâu mà có lui sụt. Tăng giám Pháp bảo Tiền Đường là Đại sư Tùng Nhã, lúc bình sinh tu giáo quán Di-đà, tham cứu tông phong, vui với kệ tụng và được chỉ thú. Lại giỏi y thuật thường cho thuốc cứu người. Có ai đem của tiền đáp tạ thì bảo không phải do tôi mà do công đức Tam bảo. Bèn chuyển của thí sang Tam bảo mà xây gác báu và tạo tượng lớn Di-đà. Lại lập chín phẩm Bồ-tát, Hải Tạng kinh điển chứa ở sau, có ao sen thanh tịnh ở trước, có thất định, quán ở hai bên. Nguyện đón rước người đi đường, cấp dưỡng người sám hối để kết duyên Tịnh độ. Đâu phải chỉ có một mình Tỳ-kheo mến việc trị bệnh cho thuốc như Phật mà còn vận dụng lòng Từ bố thí trị liệu. Chỉ nghó tâm niệm Tam bảo mà gọi là chẳng dám để gián đoạn. Người vào đạo tràng ấy phải quán tất cả tướng là chẳng phải tướng thì mới thấy được toàn thể Di-đà. Quán tất cả pháp là pháp như huyễn thì mới vào được chân cảnh Tịnh độ. Quán thân mình là vô ngã thì mới có chánh kiến của Tỳ-kheo. Cho nên từ một Như Lai mà thấy vô lượng Như Lai, một Tịnh độ mà thấu khắp cùng vô lượng Tịnh độ, ngộ một Pháp thân mà dung được cả vô lượng Pháp thân. Không niệm mà niệm, không chứng mà chứng, không tu mà tu, biển quả Tịnh độ há dễ suy lường ư? Tăng giám Pháp Bảo xây dựng gác báu Đạo tràng Tịnh độ, dẫn dắt các bạn đồng tu tịnh nghiệp, hẹn khi báo duyên đã hết thì sinh An dưỡng được tròn sở nguyện. Ngày rằm thượng nguyên niên hiệu Nguyện Hựu thứ nhứt, Tả triều Tán lang Thượng thư chủ, khách là Viên ngoại lang khinh xa Đô úy được vua ban cho đãy cá vàng tía là Vô Vi Dương Kiệt - kính thuật. Bài Ký về viện Tịnh độ chùa Diên khánh của Đãi Chế Trần Quán: Tại chùa Diên khánh ở Minh châu, Tỳ-kheo trụ trì Thế Hữu diễn giảng dùng Thiên Thai quán hạnh làm Tông. Từ Đại sư Pháp Trí tri lễ, hạnh học đều cao, người nghe pháp đều hướng tâm, được người nối nghiệp khá đông, đến nay hơn trăm năm. Trong thời gian ấy có người khổ hạnh tinh tu, đến nương Đạo tràng. Trong niên hiệu Nguyên Phong, Tỳ-kheo Giới Nhiên tu pháp Tây phương Tịnh độ, chỉ ngồi không nằm, kỳ hạn ba năm. Hết kỳ hạn bảo các Tỳ-kheo cùng tu là Huệ Quán, Trọng Chương, Tông Duyệt rằng chúng ta ở chung một thất để tu duyên tốt này. Người đến sau càng đông nhưng nhà cửa không thêm. Nay ở góc Tây Diên Khánh còn đất trống nếu được tiền hơn hai ngàn muôn mà xây sáu mươi gian nhà, trong đó lập (gác báu) thờ Phật Di-đà trượng sáu và Quán Âm, Thế Chí. Có mười sáu thất, mỗi thất có hai gian, ngoài bày tượng ba vị Thánh, trong là nơi thiền quán. Điện ở bên ao, trong ao có sen đẹp. Trong không lìa trần nhiễm, ngoài mở rộng cảnh đời, chỗ niệm đều vắng, không có duyên khác. Dùng định tâm kiên quyết để hiển bày cõi An lạc. Nhân đó thuận lòng Từ của Phật lại báo ân đất nước, đâu phải chỉ riêng tôi mà cả bốn chúng ta đều như thế, với lòng mong mỏi như thế chắc chắn sẽ thành tựu. Các vị Huệ Quán… cùng đáp rằng: lấy tâm nhậm vận vô tác mà làm việc lợi ích hữu vi. Ở Tứ Minh có nhiều tín thí lo gì chẳng thành. Từ đó, tháng ngày chứa nhóm được bảy năm thì việc liệu toan của Giới Nhiên đều như ý. Lúc đầu Giới Nhiên đốt hai lóng tay để cầu việc thành. Đến tháng ba niên hiệu Nguyên Phù thứ hai thì làm lễ lạc thành. Bày ngàn Phật mà cúng dường. Lại đốt thêm ba lóng tay nữa để cầu thành việc khó thành, lại bỏ việc khó bỏ mà vốn chỗ dụng tâm không vị kỷ. Do đó người nghe kẻ thấy đều vui theo, các vị tu Tịnh độ đều vui mừng. Cả mười sáu thất đều đông chật người tu. Kẻ xong hẹn ra đi thì người phát tâm liền đến. Người nương cảnh tốt mà được lợi lành thì đông vô số kể. Giáo pháp Tịnh độ, Phật xưa đã nói, chỉ người thành tâm tin chắc không nghi. Như Lai xếp chín phẩm thì lấy tâm chí thành là trên hết. Ngài Trí Giả soạn Thập luận phá tâm nghi bị trói buộc. Mở trói thì quên tình, thức tan tthì trí hiện, Di-đà tịnh cảnh đâu cần tìm ở nơi khác. Như soi gương thì thấy mặt mũi, hình ảnh, người được không do thức nhận, kẻ mê chẳng phải do tình hiểu. Vượt thức tâm mà chẳng lầm, suy tình trần mà tạo riêng, ấy chỉ là thành, nên gọi là thành. Vừa tự thành tựu, vừa thành tựu cho người thì chỉ có đây mà thôi. Cũng như vầng trăng tròn sáng, hiện bóng khắp trên các mặt nước, bóng trăng vô số nhưng trăng chỉ là một. Nhiếp phân bố các nơi cùng về, gặp ở mười phương mà chỉ có một. Cũng như có mười chiếc gương vây quanh một ngọn đèn thì ánh sáng giao chiếu nhau, đông tây khó biết. Nhưng phương có vị trí nhất định thì chẳng phải không có gương tây, tên tùy tướng mà lập, Tây chẳng phải tự nó là Tây. Trí và lý dung nhau thì cảnh lấy gì mà chấp. Sao có thể lấy cái phương chấp chặt mà suy lường cái cảnh vô ngại của Như Lai. Ngài Từ Ân nói: Kẻ phàm phu nghiệp nặng chỗ nào cũng sinh tham đắm, nếu không chỉ một phương nhất định thì lấy gì để cột tâm chuyên chú. Đây là Thiện tri thức tùy phương trợ giáo, chuyên giữ gìn tướng tông. Nhưng luận về An dưỡng thì biết đủ hơn kém chỉ khuyên vãng sinh là hơn hết. Từ đó ta biết người thông suốt thì không mến tiếc. Mến tiếc thì nhiều riêng tư. Cảnh mạnh mà thói quen nặng là do quán tưởng cạn, tâm thô phù; dễ đến mà không người là bởi nghi sâu, chướng nặng. Nếu muốn trừ hết cấu chướng thì phải dùng tâm quyết định. Đống củi như núi chỉ đốm lửa có thể đốt tan, nhà tối ngàn năm mặt trời soi thì liền sáng. Đức Thích-ca Văn phương tiện rất sâu, Phật Vô Lượng Thọ nói Pháp không gián đoạn. Quán Thế Âm như mẹ nhớ con, Đại Thế Chí như con nhớ mẹ. Dấu xe Thánh xưa sao lại chẳng tuân theo, huyễn cảnh trống không vì sao chẳng bỏ. Trưởng giả Giải Thoát nói chẳng đến cõi An lạc, Phổ Hiền đích thân thấy Vô Lượng Quang. Đích thân thấy là vốn không dời động, “Chẳng đến” là như thế mà đến. Khắp dung vô ngại, sau đó mới không, giả đều trung. Phân biệt chưa quên há tránh khỏi quyền, thật. Tranh nhau như thế thì làm sao có ngày tâm an, được nhẫn, ngày nào mới biết niệm niệm hiện tiền, sau đó quyết chẳng lui sụt. Nên nói nếu không chắc chắn thành Đẳng Chánh giác, ta thề chẳng chứng Bồ- đề. Đối với tâm Bồ-đề có lui sụt, ta thề không thành Chánh giác. Đây chính là bổn nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng mà các bậc Thượng thiện đều theo học. Phát tâm như thế, thực hành hạnh như thế, khởi nguyện như thế, chứng quả như thế mà chẳng trái thệ lớn của Pháp Tạng thì ai nương thân ở cõi này, gởi tâm ở nhà này đều là bậc A-bệ-bạt trí. Lợi ích cao quý đó đâu thể cùng tận. Tỳ-kheo Giới Nhiên khởi lên một niệm lành, tất cả tín só ở Tứ Minh đều hưởng ứng, do đó mà lợi ích một phương rộng khắp. Như thế mà không ghi việc ấy ư? Nay thầy trụ trì chùa Diên khánh là Đại sư Minh Trí (Trung Lập) là cháu chắt của Pháp Trí, hạnh nghiệp hoàn toàn chắc thật được người tin phục, dùng tâm thành mà tu quán Tịnh độ, đối với Giới Nhiên có giúp đỡ rất nhiều, nên nay cũng ghi vào đây, ngày mồng một tháng tám niên hiệu Đại Quán thứ nhất. Diên Bình Trần Quán ghi. Thảo Am Lục chép: Trần Oánh Trung soạn Tịnh độ viện ký là một bài sâu sắc về Phật tổ. Nay nói Tịnh độ nếu được Phật thì mất Tổ, hoặc được lý thì mất sự, được đây thì mất kia, mà Liễu ông chứa chẳng mấy trăm chữ lại nói được toàn thể Tịnh độ, há chẳng phải là có Thiên tư cao ư? Song bài ký này cao là do người khen. Còn như Triều Công (Thuyết Chi) soạn bài bia thờ Pháp sư Minh Trí thì đầy dãy văn chương của Thai tông, cứng cõi thịnh hành ở đời, suy ra ký của ngài và Liễu Ông ngang nhau. Ký ấy có nói: Sư thường dùng Pháp môn Tịnh độ khuyên dạy người học, muốn mọi người biết Thích-ca có Tịnh độ, Di-đà có uế độ. Lúc khác chí ở nơi tâm, một ngày nào đó ắt quán kỹ, bèn y theo kinh Thập Lục Quán mà hiện ra tượng lớn Di-đà ở bên ao. Dùng mười sáu quán mà thấy chim le bơi trong ao sen, phụng trời bay múa. Người quán tưởng ngồi trên cao, dứt hết tiếng đời, người hợp với cảnh ấy thì đạo tâm thêm nhiều, sao luận tin hay không tin? Cho nên nghi thân ấy chẳng phải Thánh chẳng phải phàm. Phí tổn vạn vạn dựng xây nhà cửa càng thêm. Đến ở bên sông nhiều năm rồi lạc thành chẳng đầy một năm, có vị tăng cùng làm việc bảo rằng Giới Nhiên chẳng nhọc chẳng lo, như không hề có việc ấy. Bởi cảnh ấy xưa chưa có mà nay chẳng biết vì sao mà có. Cả hai vùng Triết giang không có thì thiên hạ cũng không có. Pháp Hoa đạo tràng ở núi Chi Hình do Tuân Công tạo ra thì có thể hơn đây. Bài Ký ghi việc sửa sang lại viện Tịnh độ chùa Diên Khánh của thủ tọa Phác Am Thanh Triết: Tịch Quang chân thường, xưa nay sáng soi mầu nhiệm, bỗng niệm khởi lên, phải chịu trôi giạt, Đấng Đại Giác Thánh nhân muốn cho bỏ vọng về gốc nên khéo léo khuyên dạy. Thế nên Phật Thích-ca hiện cõi uế khiến nhàm chán, Phật Di-đà hiện Tịnh độ khiến ưa thích. Nếu ưa thích mà tu tịnh hạnh thì sẽ sinh nước ấy. Cảnh giới tốt đẹp đều giúp phát triển chân thường. Thế nên, nghe gió thổi cành cây mà chánh niệm thành, lên lầu báu mà Tam-muội bày. Chẳng nhờ phương tiện tự nhiên được Đạo. Vì vậy, pháp môn Tịnh độ cũng là đường tắt trở về nguồn. Song người phát triển rộng pháp môn Tịnh độ chỉ có Tuệ Viễn ở Lô sơn cùng các bậc Hiền kết Liên xã ở dưới núi Lô, tu Tam-muội niệm Phật hẹn vãng sinh về cõi Tịnh, do đó mà đời sau đều quý chuộng. Thiền sư Nam Nhạc lúc đầu ở núi Đại Tô truyền tông Nhất Tánh của ngài Long Thọ, lập riêng thiền thất dạy người tu chứng. Cho nên ngài Thiên Thai Trí Giả lúc đầu đến núi này trao cho Đạo Tràng Phổ Hiền, tu Tam-muội Pháp Hoa, nhân đó mà phát đại Tổng trì, vào cảnh giới Phật. Từ đó bốn phương đều lấy đây làm nguyên tắc, có như vậy là do thấy người xưa dạy tuy khác nhau mà đồng quy về một. Giữa năm Nguyên Phù đời Tống, có Tỳ-kheo Giới Nhiên nối phép xưa lập việc Phật hóa ở góc phía Tây chùa Diên Khánh nơi vắng vẻ u nhàn, lập nên gác bái lớn gồm mười sáu thất, gọi tên theo Thập Lục Quán. Hoa cỏ che mát, ao ngọc lắng trong giống cảnh Lạc bang thanh tịnh, khắc tượng chiên-đàn, trong ao trồng sen theo cách của Lô sơn Liên xã. Sám thất tinh nghiêm, thiền đường thâm tịch theo phép của đạo tràng Đại Tô. Chỉ chứa người giữ chí thờ đạo, sớm tối hương nên, Phật sự vô sinh lắng thần xét chiếu, bỗng nhiên rất nhiều người ngộ được tâm mình ở cảnh Tịch Quang cho nên là đất cao quý ở Tứ Minh. Nhưng năm tháng dần xa nhà cửa nghiêng xiêu, người tu Tam-muội không thể yên tâm. Năm Đinh Sửu thuộc niên hiệu Thiệu Hưng có Tỳ-kheo Thanh Nhuận buồn thấy thắng cảnh điêu tàn bèn nghó việc sửa sang, phục hưng. Nhưng thấy sức yếu khó vận động người, nên bạch việc thầy trụ trì Pháp sư Giác Vân. Sư nói: Việc quý ở chỗ chân thành. Chân thành một khi phát ra còn có thể cảm được các Đức Phật thì đàn tín sao không động được. Huống ông đã sáng lập thất Diệu Xúc Tuyên Minh, giúp cho người đều ngộ nhận được bổn nhân thành Phật, ông trụ ở đây chẳng chí thành được ư? Thanh Nhuận khi nghe lời ấy thì chăm chăm để bụng, khi nêu ra với đàn tín thì tất cả đều theo, mà đưa các gỗ quý đến làm kèo cột. Nếu nghiêng đổ thì chống đỡ, mối mọt thì làm mới, sửa sang xây tường lợp ngói, dột trên ngập dưới, bốn bề sửa chữa, cửa lớn cửa nhỏ, tường rào thềm bậc đều đủ. Gác báu sừng sững bên hồ, tường cao khiến người trong thất quản lý không biết có sự ồn ào của chợ búa, hồng trần. Tất cả đều mới mẻ rực rỡ giống ngày lạc thành thuở xưa, đủ để vén rèm trăng, đốt hương bách. Kẻ ở thì tu tập không ngừng, người cúng thì gieo trồng ruộng phước vô tận. Ngõ hầu phong cách Đông Lâm, đạo Nam Nhạc chẳng xa mà lại thịnh là công do đây vậy. Xây cất suốt bốn năm thì việc xong. Bèn dùng ba ngàn quan tiền khắc hai ngàn tên, giúp cho người phương này liền thấy mười muôn ức cõi ngoài. Gió ngâm lá báu, sóng động bờ vàng, trong suốt như giếng ngọc mùa thu: Mới biết đã về nước cũ, nhanh chóng quên hết khách trần, sao những trốn chạy hư không, kịp nghe tiếng chân há chẳng vui sướng sao? Khiến tất cả mọi người nhận đây mà quán An dưỡng, Y, Chánh đều do cảnh này dẫn phát, hăng hái mạnh mẽ, so với công đức tăng tu thì chẳng lớn bằng. Bây giờ là niên hiệu Càn Đạo thứ năm, ngày Nam Chí. Tỳ-kheo Thanh Triết kính ghi. Bài Ký về xây dựng tượng ba vị Thánh đứng ở chùa Khai nguyên của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu: Tượng ba vị Thánh đứng, thấy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Đức Thế Tôn Thích-ca vô duyên đại từ thương xót người chưa được độ ở cõi Ta-bà, bèn mở rộng pháp môn Tịnh độ, chỉ bày Tam- muội niệm Phật, khiến gởi thần thức về cõi Tịnh. Cho nên dạy quán tưởng duyên Thánh, mười sáu diệu quán do đó mà lập ra. Việc mặt trời lặn như chiếc trống treo để chỉ phương hướng, tưởng nước ngưng thành băng để giống đất báu. Kế quán rừng, suối, lầu gác đều dùng trăm báu trang nghiêm trên đời khó gì sánh bằng. Ánh sáng rực rỡ chẳng thể tả xiết. Rồi nói quán thân Phật ấy tướng tốt chói sáng, chúng hội đầy đủ. Bỗng ba vị Thánh hiện trên hư không, khiến Vi-đề-hy nhìn làm nguyên do phát thỉnh. Kinh rằng: Phật bảo Vi-đề-hy rằng ta sẽ phân biệt giải nói pháp trừ hết khổ não cho bà nghe. Khi nói lời ấy thì Phật Vô Lượng Thọ hiện ra trên hư không, có Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng hầu hai bên. Bà Vi-đề-hy bạch Phật rằng: Con nhờ năng lực Phật nên thấy được Đức Phật ấy và hai vị Bồ-tát. Chúng sinh đời vị lai sẽ quán thế nào mà thấy được? Phật dạy: Trước quán đài hoa, kế quán hình tượng, sau quán thân Phật, người hầu hai bên, chín phẩm đồ chúng, Tam-muội niệm Phật do đây mà đầy đủ. Từ Lô sơn, Tuệ Viễn đến nay thì các tăng phường trong nước kết hệ niệm Tịnh Xã, lập tượng Di-đà tam Thánh đều xuất phát từ văn kinh này. Lan nhã Phước Nguyện ở nơi núi Linh quy, Từ Khê thuộc Tứ Minh có Thích tử Giới Thâm, từ khi vào đạo luôn trì kinh ấy, dốc chí Tinh nghiệp được mấy năm bảo rằng: Tu một mình không bằng khuyên bảo người khác cùng tu, thực hành một lúc không bằng lâu dài. Do đó mà kêu gọi mọi người tin tưởng cùng đến Tiền Đường, sai thợ giỏi điêu khắc tượng ba vị Thánh đứng. Núi sông ngàn dặm luôn tới lui xây cất, ròng rã suốt mấy năm mới được thành tựu, tốn phí mấy ngàn. Lập Sám đường thuộc Viện kinh Tạng chùa Khai nguyên tại phía Nam thành, bốn chúng đều chiêm bái khen ngợi chưa từng có. Một hôm ông ngồi thuyền vượt sông đến Lan nhã Chi Viên, cởi đãy kiết hạ niệm hương, cúi đầu mời tôi viết cho bài văn ghi việc ấy. Tôi hiểu ý lời nói này nên vui lòng viết ngay. Có kẻ hỏi: Kinh nói các Đức Phật Như Lai là thân pháp giới, nhập vào tâm tưởng tất cả chúng sinh. Nay khắc gỗ làm tượng là vật thế gian mà đem làm Phật chẳng biết có được chăng? Đáp rằng: Thân Phật không tướng cũng không lìa tướng vì là vô tướng nên thế gian, xuất thế gian không có một pháp nào là Phật, tám vạn bốn ngàn ba mươi hai tướng tốt cũng tức là không tướng, huống là vật khác ư? Cho nên lìa tất cả tướng tức gọi là chư Phật. Vì lìa tướng cho nên thế, xuất thế gian không có một pháp nào chẳng phải là Phật, huống lại là tướng hảo ư? Thế nên nói: Phải biết tất cả các pháp đều là Phật Pháp. Nếu hiểu tướng này là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng tức là tướng thì tất cả núi sông, cõi nước, cây cỏ, bụi nhỏ bốn loài, sáu đường bò bay máy cựa đều là thể Pháp thân của các Đức Phật cả, huống lại đúc vàng nặn đất, khắc gỗ, vẽ thêu… trang nghiêm tướng tốt mà không phải Phật ư? Những người trí quán tượng này do gỗ đá, tro đất, sơn keo, kim loại, mầu vẽ… nhờ các duyên hòa hợp mà thành tìm thấy các duyên thì đều là vật thế gian, đều có tên và thể chất, vậy cái gì là Phật ư? Song, duyên không có tướng nhất định, vật không có tên nhất định, mà đã gọi là Phật thì tất cả chúng duyên không gì chẳng phải là thể Phật, đâu thể bỏ đây mà riêng tìm Phật ư? Kinh Hoa Nghiêm nói sắc tướng không phải là Phật, âm thanh giống như thế. Nhưng cũng chẳng lìa sắc thinh mà nhìn thấy năng lực thần thông của Phật. Nếu quán đây mà không chấp ở tướng, cũng chẳng lìa tướng, lý sự như một, Chân tục không hai thì đối tượng mới là thật thấy Phật. Kinh nói: Nếu Phật diệt độ rồi mà ai tạo hình tượng để cúng dường thì đời sau sẽ được Tam-muội niệm Phật thanh Tịnh. Thế nên biết đời mạt pháp mà giữ gìn hình tượng là hơn hết, các căn thượng, trung, hạ đều được lợi ích. Do vậy, Tử Đàn khắc tượng vua Ưu-điền là người mở đầu ở Tây càn, lông trắng dệt vẽ Ca Trúc là kẻ bày đầu ở Đông Hạ. Phép truyền đã rộng, điềm lành càng nhiều. Sinh linh thấy tướng mới biết quy về, Phật hóa nương vào phong tục mà tồn tại lâu dài, có người thành tâm thấu gốc mà gieo tạo hạt giống Thượng Thừa. Cho đến ai giở tay, cúi đầu thì đều trọn thành tựu hạt giống nhân duyên, hay như luận về sự cứu giúp đâu thể nào nói hết. Nên phàm khi đến Đạo tràng phải rất cẩn trọng. Bài Ký về tạo tượng Di-đà ở viện Vô Lượng của Luật Sư Đại Trí Nguyên Chiếu: Giáo Quán Di-đà chép trong Đại Tạng rất nhiều. Song Phật hóa truyền sang Đông Độ mấy trăm năm nay người thế gian hầu như không ai biết. Pháp sư Tuệ Viễn đời Tấn trụ ở chùa Đông Lâm ở Lô sơn, thần cơ vì thiên hạ chủ trương việc đào ao trồng sen, xây chùa lập thệ, tôn sùng tịnh nghiệp, gọi là Bạch Liên xã. Các bậc danh Tăng cự Nho đương thời không hẹn mà tự đến. Tuệ Trì, Đạo Sinh là người tài của Thích môn, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông là bậc tài giỏi của làng văn só đều phục giáo mà dự vào Liên xã. Thế nên, đời sau nói Tịnh Xã thì đều lấy Đông Lâm làm trước. Sau đó Thiện Đạo, Hoài Cảm mở rộng ở Trường An, Trí Giác, Từ Vân phát thạnh ở Triết Hữu. Đời sau vì cuồng vọng nên chánh đạo bị mất. Hoặc bị trói cột ở danh tướng, hoặc chìm sâu ở chấp không. Cho nên có người chê niệm Phật là thô hạnh. Bỗng Tịnh nghiệp trở thành con đường nhỏ, tự chấp chặt mà mắt lấp tai ngơ. Nếu nghe cũng không tin, có tin cũng chẳng tu, có tu cũng chẳng siêng. Do đó mà giáo môn Tịnh độ hầu như dứt mất. Than ôi, biết rõ giáo quán ai bằng Trí Giả khi qua đời thì đọc kinh Quán, khen Tịnh độ mà hóa. Thấu suốt pháp giới ai bằng Đỗ Thuận, khuyên bốn chúng niệm Phật, cảm tướng đẹp mà về Tây. Tham Thiền thấy tánh ai bằng Cao Ngọc Trí Giác, đều kết xã niệm Phật mà cùng chứng Thượng phẩm. Nghiệp nho có tài ai bằng Lưu, Lôi, Liễu Tử Hậu, Bạch Lạc Thiên, song đều cầm bút viết lời thành thật mà nguyện sinh về cõi ấy. Xem đó thì biết nếu chẳng phải là hạng cao kiến cứng rắn, hiểu thấu số biến hóa của sinh tử thì ai tin được điều này. Đời gần đây tông sư công tâm không bè đảng, đem pháp này dạy dỗ học trò. Do đó mà ở đây xây điện đúc tượng, kết xã lập hội không phân biệt sang hèn, già trẻ đều chí thành quy về Tịnh độ, hoặc quán tưởng, hoặc trì danh, hoặc lễ tụng, hoặc trai giới. Cho đến có người thấy hoa sáng, thấy tướng tốt, thân sống lưu xá-lợi, người khi qua đời cảm tướng lành thì rất đông không thể đếm biết. Tịnh nghiệp thạnh hành từ xưa không gì hơn, người thời nay chẳng biết được. May sao đến huyện Lâm An là ấp lớn của đất Hàng. Núi Cữu Tiên là cảnh đẹp của ấp. Viện Vô Lượng lại là cảnh tinh xá đẹp nhất. Ở phía Đông nam viện có xây Quán Âm đường. Ở sau đường có lập điện Di- đà. Học trò là Dụng Uyên quyên mộ được ba trăm lượng của một ngàn nữ só để khắc tướng Phật Di-đà cao tám tấc. Ngày Thượng ngươn niên hiệu Nguyên Hựu thứ tám họp chúng chiêm lễ, Uyên chí thành làm kệ phát thệ nguyện rộng lớn đặt trong bụng tượng. Ngày đó cúng dường năm trăm La-hán, cúng trai chư tăng làm lễ lạc thành. Ngày tám tháng bốn sang năm sau thì trang nghiêm đầy đủ, nghi tướng rất đẹp, lộng lẫy rực rỡ. Do đây người một cõi cùng quy hướng, trong trăm đời được truyền bá. Có ai lễ bái, chiêm ngưỡng, xưng danh quán tưởng thì dứt hết nghiệp căn nơi biển khổ mà sinh về hoa sen ao báu. Bởi hễ vạch đất nhóm cát thì đều thành Phật Đạo, do cúi đầu, giở tay thì đều cùng về Nhất thừa. Huống gì hết sức xây dựng, chí thành giữ Niệm thì lợi ích nào có thể lường được. Nghe xong Uyên mời tôi theo ý đạo ghi văn. Tôi bèn vâng mạng viết ngay. Bài Ký về am An Dưỡng ở Linh Sơn của Cấp Sự Trình Câu: Trong hà sa cõi có một thế giới gọi là nước An Dưỡng có Phật hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cảnh giới nước ấy đều dùng bảy báu trang sức, thành tựu rộng khắp trang nghiêm. Chúng sinh nước ấy do đời trước đầy đủ phước đức trí tuệ nên hóa sinh vào hoa sen mà trụ ở địa vị không lui sụt. Nước ấy tuổi thọ không hạn lượng, một ngày một đêm cõi ấy bằng một kiếp ở cõi này. Nước ấy sáu thời trong một ngày đêm đều có nhạc trời, tiếng nghe tuyệt diệu và có tán rãi hoa đẹp như mưa để cùng đùa vui. Nước ấy hoa cỏ đều là hoa sen to như bánh xe, có hàng cây báu lồng chiếu ánh sáng cùng khắp. Nước ấy các chim đều do Như Lai hóa ra, mọi lúc đều giảng nói vô lượng nghóa giáo. Vì các thứ ít có như thế nên gọi là An Dưỡng. Ở phía Đông cõi An dưỡng cách mười muôn ức cõi nước có thế giới tên là Ta-bà. Trong vô số già-lam trong nước có một già lam tên là Linh Sơn, lại có tinh xá tên là am An dưỡng. Trong đó có người mặc áo hoại sắc, có chúng khất só cạo bỏ râu tóc, gọi là Tu Ý. Am ấy không có hóa sinh trong hoa sen, chỉ có thai, noãn, thấp, hóa, các loài hữu tình là chúng sinh. Am ấy không có tuổi thọ vô biên, chỉ có tuổi thọ năm mươi bảy mươi cho đến một trăm tuổi, am ấy trong sáu thời không trọn, rải hoa đẹp như mưa và các nhạc trời, chỉ có ngày đêm ăn cơm ăn cháo khua chuông gõ trống. Am ấy chung quanh không có cây báu và hoa sen to, chỉ thấy trong núi có cỏ cây hoa lá xinh tươi. Am ấy không có biến hóa các chim giảng nói nghóa vô lượng, chỉ nghe tiếng chim và côn trùng tự kêu hót. Vì có các thứ hiện tiền ấy cũng gọi là An Dưỡng. Khất só ấy đến các cõi nước, gần gũi các Thiện tri thức, được pháp tạng rồi thọ dùng tự tại, trở về núi này kết am ở yên. Lúc đó ở Bắc sơn, có một cư só thăm viếng già lam vừa đến am An dưỡng gọi đại chúng bảo rằng: Các thứ hiện tiền như trên vừa nói cùng thế giới An dưỡng ở tất cả mọi nơi không phải là nước An dưỡng. Nếu theo đoạn kiến thì Phật Thích-ca việt nam kia há nói lời luống dối. Nếu lấy pháp tướng thì các ông cô phụ Phật Vô Lượng Thọ. Ôi này các thiện sinh, nên y chỗ mà ngồi trong đại đạo tràng. Nếu không tin xin mời đến thành Tỳ- gia-ly mà đợi Loa kế Phạm vương giảng nói cho các ông. Ngày Giáp tý tháng tám, niên hiệu Ninh thứ năm Bắc Sơn Trình Câu kính ghi. Kinh Duy-ma cật chép: Muốn được Tịnh độ thì phải tịnh tâm mình, hễ tâm mình tịnh thì cõi Phật tịnh. Ngài Xá-lợi-phất nghó rằng: Thế Tôn ta há ý chẳng tịnh mà Phật độ ấy chẳng tịnh ư? Lúc đó Loa Kế Phạm Vương nói. Tôi thấy cõi nước Phật Thích-ca thanh tịnh như cung trời Tự Tại. Ngài Xá-lợi-phất nói: Tôi thấy cõi này uế ác đầy dẫy . Phạm Vương nói: tâm Nhân giả có cao thấp không nương Phật tuệ nên thấy chẳng sạch. Phật liền ấn ngón chân xuống đất thì lúc đó cả cõi Đại thiên châu báo trang nghiêm. Phật nói: Cõi nước ta luôn thanh tịnh như đây, vì độ các căn cơ yếu kém nên hiện bày các điều ác. Ví như các vị trời cùng dùng chén báu ăn cơm, tùy phước đức mỗi vị mà mầu cơm có khác. Nếu người tâm thanh tịnh liền thấy cõi này trang nghiêm. Ngài Thiên Thai trong Duy-ma sớ có giải thích rằng: Phạm Vương thấy nó giống cõi trời Tự Tại là thuộc tầng Trời cõi Dục, là cõi Đồng Cư Tịnh trang nghiêm đẹp lạ, còn Tịnh độ Tây phương cũng là Đồng Cư Tịnh, mà kinh ấy cũng nêu giống như tầng Trời thứ sáu. Phạm vương thấy cõi uế là tịnh. Còn Xá-lợi-phất ở trong sinh tử Niết-bàn có cấu tịnh cách nhau vì không nương Phật tuệ nên chỉ thấy cấu. Chén báu là ví dụ cho Tịch Quang, còn cơm khác mầu là dụ cho ba cõi kia, đối với Tịch Quang mà thấy khác nhau. Bài Ký về Hoàng đế Cao Tông viết tặng Liên xã của Tổng quản Trương Luân: Thần có đọc sách Thiên trúc biết xuất thế gian có cõi nước Cực lạc. Cõi nước ấy có Đức Phật hiệu A-di-đà là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô lượng. Vì tuổi thọ và ánh sáng các Đức Phật ấy vô lượng, nên còn gọi là Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Quang. Khi xưa, Phật bỏ ngôi vua, siêu vượt Độc Giác, ngộ tâm chứng Thánh, dùng năng lực đại nguyện mà độ khắp tất cả. Cõi nước ấy dùng các báu vật quý nhất mà trang sức vô cùng đẹp đẽ. Đất đều bằng vàng ròng, không có núi sông, gò hầm, các thứ hiểm trở. Thời tiết luôn là mùa Xuân, không có mặt trăng, mặt trời, nóng lạnh biến đổi. Không có các khổ đói lạnh sinh, già, bệnh, chết, không có sự vẩn đục của năm đường cùng ở chung. Các thứ thần thông phương tiện, hiện ra các việc ít có để dẫn dắt chúng sinh ưa thích tin tưởng. Hằng ngày ai phát một niệm niệm danh hiệu Đức Phật ấy, thì từ một niệm ấy liền thanh tịnh thuần thục viên mãn, hiểu rõ chân như đồng một pháp tánh. Khi huyễn thân này hết nhưng tánh này không mất. Trong một sát-na cõi Phật hiện tiền, như cầu vật mà chỉ cho người. Thần kính nghe thuyết ấy mà cố gắng siêng năng không gián đoạn chỉ luôn niệm Phật được hơn một năm. Cả nhà lớn nhỏ đều theo. Bèn cất lều tranh, phía Đông lều thì đào ao trồng sen, là bắt chước di ý kết xã của ngài Tuệ Viễn. Hằng ngày bảo vợ con lễ Phật muôn câu. Tuổi đã già nên chọn ngày lành tháng tốt cùng những người tin đạo ở Tinh xá Phổ Tónh thấy nghe cùng đến niệm Phật, tiếng như sóng nhảy bờ. Phàm ngài Tuệ Viễn lập Xã này cách nay đã mấy trăm năm, trong thời gian ấy các đạo tục mến mộ phong cách của ngài, nối chí cao của ngài rất đông, về sau họ dần dần mất đi không ai biết, rã mục cùng cỏ cây. Riêng thần nay may được thái thượng Quang Nghiêu Thọ Thánh hoàng đế rửa bút viết hai chữ Liên xã thật lớn để ban thưởng. Sao Khuê từ trời cao chiếu xuống ánh sáng rực rỡ, muôn người vui mừng việc chưa từng có. Thần kính lạy tạ ân bệ hạ được thêm ba kỷ, thương cõi Nam Bắc, Nhân khắp cỏ cây, Đức thấm côn trùng, như Phật mà độ khắp tất cả. Rực sáng như ánh mặt trời chiếu khắp giống như ánh sáng của Phật, vô lượng công thành, dạy khuyên tự yên. Đức Thánh quân Đại Bảo, giống như Phật siêu nhiên Độc giác ngộ tâm chứng Thánh. Còn như Xuân Đài cõi Thọ, tám dây mà không có thần cổ vũ, dân chúng do đó không biết. Bởi cùng cõi nước Cực lạc không hề gián cách. Do đó nhìn rõ tâm Thánh tâm Phật chỉ một không hai, há Phật Di-đà có tâm khác. Đạo nhãn rỗng suốt vô ngại, biết trong Viêm Tộ chẳng có lỗi thương chúng sinh sao lại hiện thân Đế vương để ứng vận cứu đời. Không phải thế sao khế hợp được với Phật như thế. Thế nên, Phật thọ vô lượng thì Thánh thọ cũng vô lượng, như thế mà biết. Thần rất quý kính vật vua ban, là vật phi thường chẳng truyền riêng cho ai. Rừng mây có dời ngàn muôn thuở một gặp. Giúp cho thiên hạ đời sau hễ có chiêm ngưỡng liền được Tam-muội niệm Phật, rốt ráo thành tựu Vô Thượng Bồ-đề thì lợi ích lớn đâu thể nào lường được. Cung kính khắc đá vàng, khắp bày rộng truyền đến trọn đời. Ngày lành tháng tốt niên hiệu Càn Đạo thứ hai. Quân châu, Phòng ngự sử Lưỡng Triết, Tây lộ phó đô tổng quản. Tú Châu Chú đáp, thần là Trương Luân kính ghi. Bài Ký về Tháp Di-đà ở Núi Nam Nhạc của Thiền sư Mục Am Pháp Trung. Các khổ của sinh linh không gì khổ hơn giết hại. Từ vài năm trở lại đây trộm cướp bốn bề nổi lên, binh lửa giao tranh, chết chóc phi lý, đầu rơi máu đổ nhiều vô kể ở khắp nơi. Lại thêm dịch bệnh hành hạ khiến dân càng khổ. Có Tín só Trịnh Tử Long đã đeo mang hạt giống lành, lòng Từ bi đặc biệt phát sinh thấy cảnh khổ ly loạn mà biết oán nghiệp này, chỉ lấy oán báo oán mà thôi. Muốn dứt bỏ nó thì phải có năng lực Phật cứu giúp. Bèn tinh thành vận động người đồng tu hơn muôn vị cùng niệm danh hiệu Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc Tây phương được tám muôn bốn ngàn tạng đã tròn đủ. Lại khuyên đàn việt xuất tiền của nhờ thợ giỏi chẻ đá, xây tháp bảy tầng cao ba trượng hai ở phía Nam động La hán, bên phải đài Diệu Cao, chứa tên người niệm Phật trong tháp, đem lợi ích cao quý này cầu quốc thái dân an, phẩm vật cúng dường. Phàm kẻ chết trận và dịch bệnh đều thoát khỏi đường khổ tối tăm cùng sinh về cõi Tịnh. Lớn lao thay! Đạo của đấng Giác Hoàng, có hai môn: Chiết môn và Nhiếp môn, tùy cơ cứu vật. Cho nên Đức Thích-ca hiện cõi uế, dùng Chiết môn khiến cho khởi niệm Chán khổ. Đức Di-đà hiện Tịnh độ dùng Nhiếp môn khiến khởi chí “ưa vui”. Cõi uế thì gò nổng, hầm hố cao thấp, đao binh đói bệnh khổ não. Cõi tịnh thì ao báu đất vàng trang nghiêm, pháp hỷ, thiền duyệt an vui. Nên ngài Thiên Thai nói: Lạc bang và cõi khổ, vàng báu với sình bùn, Thai ngục so với ao hoa như rừng gai sánh với cây ngọc. Thật do tâm chia ra cấu tịnh mà thấy có hai cõi xuống lên, mà thấy có hai phương thiện ác thô diệu. Nhân đây mà luận thì biết tịnh uế ở đây mà không ở kia. Thể nhập chánh quán mà thấy thì các khổ: Đao binh, dịch bệnh v.v… kia là mỗi mỗi nghịch hóa. Song ở cõi khổ này mà kẻ phàm tình mê mộng còn cho khổ là vui, lắm điên đảo, thật rất đáng thương. Có người nói: Ưa tịnh chán uế, lấy bỏ chưa quên, há bậc Thánh dùng Đạo thấy có hai mà dạy người ư? Đáp rằng: Kinh chẳng nói. tuy biết cõi nước của các Đức Phật và chúng sinh đều rỗng không mà luôn tu Tịnh độ để giáo hóa chúng sinh hay sao? Bởi rõ ràng ưa chán mà không thấy có tư tưởng ưa chán. Đây là chỗ được vậy. Tháp xây xong vào năm Quý Sửu, ngày Trọng Hạ thuộc niên hiệu Thiệu Hưng. Bí-sô Mục Am Pháp Trung ghi việc. Bèn cúi đầu khen rằng: Kiếp thạch tiêu hết Chỉ có Tháp này Không xiêu không đổ. Cùng núi Nhạc này Trời đất dài lâu Chẳng mòn chẳng hoại Kẻ chết binh, dịch Đều thoát vòng khổ Siêu thăng Tịnh độ Chỉ người Xã này Các loài sinh linh Cùng với Vựng chinh Lành thay Phật tử Làm việc tốt này Khen làm sao cùng. Bài Ký về đạo tràng Tịnh độ ở Trừng Giang của Thiền sư Pháp chân Thủ Nhất. Ngài Thiên Thai Phụng Sư học giáo truyền với ngài Trí Giả, truyền ở Trừng Giang, người đã thuận hóa, bèn nghó các độ môn ở đời này môn khéo léo, ngắn gọn, cốt yếu nhất thì chỉ có pháp môn Tịnh độ là được mà thôi. Do đó giúp họ ưa thích bố thí, tạo lập tôn tượng, xây dựng đạo tràng, dạy người tu hành Tam-muội niệm Phật, cùng chúng cầu nguyện cúng tế. Giao cho tôi viết lời Ký. Tôi nói thuyết Tịnh độ trong kinh luận đều còn, các Sư luận nói cũng đã rất rõ. Các chứng ng- hiệm hiện ra không hề dối gạt ta. Vậy mà đời còn nhiều người nghi ngờ. Ấy là vì vô minh che lấp, lý sự không hiểu. Xét trong kinh Pháp Hoa có nói: “Dầu người tâm tán loạn mà vào tháp miếu, xưng niệm một câu Nam-mô Phật thì đều đã thành Phật đạo”, huống là nhất tâm bất loạn mà cầu sinh, sao riêng mình chẳng như thế. Vả lại thấy điều lành không rõ, dụng tâm bất nhất, thì ở thế gian có muôn pháp, nào có đến được mà chẳng nghi, nào có tu hành mà đến được. Lời Phật nói rất thiết yếu chỉ nên tin chắc mà thôi không nên nghi ngờ có hay không. Song Tịnh độ bảo quả là có ư? Không phải bảo là không ư? Cũng không phải. Bảo là chẳng phải có chẳng phải không ư? Cũng không phải. Thế thì Tịnh độ quả vẫn tồn tại, lìa các thấy trên thì gọi là Tịnh độ, liền thấy Như Lai. Nếu ai nghe lời ấy mà không kinh ngạc sợ hãi thì phải biết người ấy chắc chắn được vãng sinh, không sinh mà sinh vì lấy không trang nghiêm mà trang nghiêm. Tín tâm thanh tịnh một niệm hoa nở. Toàn thể hiện tiền, các tướng đầy đủ. Tâm ấy là Phật tức Bổ xứ nào nghi. Đã vượt khỏi sinh diệt được sống lâu vô lượng. Nếu đối việc này chưa thể tin hiểu thì các phương tiện khác trong chín phẩm có đủ, ngang sức mà tu thì cũng không uổng phí. Bài Ký về tranh vẽ trên vách của Liên xã ở viện Bảo Tích của Ty Phong Chung Ly Tòng. Đầu niên hiệu Tuyên Hòa, Thiền sư Từ Thọ ở chùa Tuệ Lâm luôn hết lời dạy người rằng: đường tắt tu hành không gì hơn Tịnh độ. Lúc đó, có Ngụy cư só xoay vần hóa đạo quên lo, Giang Dân Bi Củ làm chức Tả ty công muốn làm thơ Tam-muội niệm Phật rộng khuyên dạy đời. Khi tôi chưa đầy hai mươi đã thọ nghiệp ở trường trên, sớm tham dự vào Liên xã. Lại do Tăng huynh là thủ tòa Mộc Nột khẩn thiết khuyên răn sách tấn, biết có tự tánh là Di-đà, chính tâm này là An dưỡng, đến năm nay đã bảy mươi, tuy chiến tranh phiêu linh mà sớm chiều chẳng lười nhác, vì chỗ đắc lực không ít, huống chi tôi lại từng có các kinh nghiệm khác, châu báu tràn đầy, nhưng Thượng thư Vương Mẫn Trung (cổ), đại phu Cát Trung Thẩm (Phồn), đề hình Mã Trung Ngọc (can) đều là những người thân cận tốt đẹp, sự tích sáng rỡ mọi người đều nghe, thì có lẽ nhà tôi còn có Tịnh duyên này. Mùa hè năm Canh Dần niên hiệu Càn Đạo, tôi thọ ơn phụng thờ, ngụ tại Tô Đài, không hẹn mà gặp giảng sư thật ở Bảo Tích, mãi nghó đến ngọn gió mát Liên xã, đuổi theo dấu chân cao của cả Đông Lâm, gặp các bậc danh đức Lý Hầu… ở Đông Bình, mọi người đều quyết tâm tu tập, trải qua nhiều năm chẳng nghịch với lòng, cùng lập xã, đồng thanh niệm Phật, cùng lập thệ nguyện, trải qua nhiều năm viết thành một tập, đủ biết đời này không trái với tự tánh vốn có, báo thân đã tận quyết có chỗ về chân chính, vậy chẳng tốt đẹp ư! Một hôm bạn trong xã họ Ngô than rằng: Muốn phát tâm Bồ-đề thì phải đủ hai hạnh bi, trí. Muốn cầu sinh đất Thánh thì cần phải khai dẫn quần mê. Phải viết về mười cõi chín phẩm để muôn người chiêm ngưỡng, kính trọng và biết tỉnh giác để làm lợi ích rộng lớn vô cùng. Nói chưa hết câu, mọi người đều cùng khen hay, do đó mọi người trong xã đều quyên tiền để làm, người nghe thấy đều tùy hỷ trợ giúp, tuyển thợ làm, huyễn tạo hai bức tranh nơi hai dãy nhà hai bên, lại nhặt nhạnh giáo tạng, phát minh chỉ thú, một là để chỉ bày muôn pháp duy tâm, một là để chỉ đường tắt Tây phương, so với các công đức khác thì trong trăm ngàn muôn ức phần không bằng một phần. Oâi! Tấc bóng như điện chớp, nhân quả như bóng theo hình, chớ ỷ khỏe mạnh mà luống qua ngày, chớ buông lung mà tạo tội. Nhìn pháp môn giản dị này mà có thể tức thời soi xét lại lòng mình thì không lìa nơi đây mà vượt khỏi vòng khổ, cảnh giới chư Phật đều hiện ra trước. Họ Ngô tên là Khắc Kỷ, tự là Phục Chi, một kẻ só tốt của Đông dương. Thuở nhỏ thông minh kiệt xuất, thông suốt cổ kim, đặc biệt hiểu biết sâu xa kinh Dịch, nội điển tường tận, từng luận bàn về nhân duyên lớn ra đời của Đức Phật, đã hưng khởi việc đó lại xem xét kỹ càng. Việc vẽ hình đã xong, qua lại sửa đổi xem xét, lại ghi tên các bạn lữ đàn-việt để không quên mất. Tôi nhân viết lời Tựa tóm tắt rằng: Ngày mồng 1 tháng 9 năm Quý Tî thứ 4, tả mười đại phu chủ quản Thai châu trước đây là Chung Ly (Tòng) vốn tôn sùng đạo quán viết Tiên quân ti phong trong khoảnh khắc thờ phụng người họ Ngô, niệm Liên xã có thể quy tâm nên đã tập họp làm lại. Hội có mấy trăm người, có nhiều phong cách của Lô ấp, vẽ hai bức tranh trên vách và chép lại việc này, lập ra Tinh xá Bảo Tích bằng đá, trải qua mười một năm, tiên quân không bệnh mà mất, hưởng thọ tám mươi sáu tuổi, cách nay đã mười lăm năm rồi. Hiểu kỹ các bài văn về Lạc bang rồi thì tạo Tông môn để học theo. Tôi mừng cho chí hướng của ông, vì muốn bản văn nam này không bị hư mất bèn đem ra mà truyền bá. Chung Ly kính can ghi. Ký về việc vãng sinh của phu nhân Kinh vương nước Việt - Trực Các Hoàng Sách. Tôi thấy chúng sinh đều vọng tưởng điên đảo, đam mê năm dục không cầu ra khỏi, chưa có ai có thể phát tâm quyết định nguyện sinh về thế giới Cực lạc Tây phương. Đến khi gặp sự oán ghét phải gặp nhau, ái ân chia lìa, tướng già, bệnh, chết bức bách một cách nguy hiểm, đảo điên ngập chìm trong các độc đau đớn không thể chịu đựng nổi, rồi sau khóc lóc thở than, quy y Phật bảo để hy vọng thoát chết. Do đó phàm là tâm niệm miệng nói thì quy mạng Từ tôn, nguyện tiếp dẫn sinh về Tịnh quốc. Chỉ có phu nhân họ Vương nước Việt thì không thế. Phu nhân là vợ của Kinh Vương lẽ ra phải đắm mê năm dục không cầu ra khỏi, trái lại dốc lòng hẹn quy y Phật Vô Lượng Thọ, nguyện cùng chồng được sinh Tây phương. Những kẻ thấy các khổ hiện tiền không thể chịu nổi mới cầu xuất ly, đâu thể cùng ngày mà nói. Người đời cho rằng phu nhân đời trước gieo trồng phước đức được Phật thọ ký, trở lại nhân gian mà thay Phật giảng đạo, thuyết giáo dẫn dắt kẻ giàu sang cùng tu Tịnh quán, đồng về cõi Phật, lý ấy có thể đúng như thế. Phu nhân thờ Tây phương tinh thành nghiêm khiết, ngày đêm không bỏ mọi người trong nhà đều một lòng, chỉ có một nàng hầu luôn rong ruỗi, chỉ lười biếng không siêng, phu nhân khuyên rằng cả nhà ta đều siêng chỉ có người biếng nhác không theo. Người cho là huyễn hoặc ở trong hội e làm mất đạo tâm, người không phải là người hầu của ta nữa. Người thiếp nghe quở, sợ hãi hối lỗi, và tinh tấn tư duy tịnh niệm nối nhau. Lâu sau người thiếp nói với bạn bảo: “Ta sắp đi.” Một tối mùi hương lạ đầy nhà không bệnh mà mất. Sáng hôm sau, người bạn thưa cùng phu nhân rằng hôm qua mình mộng thấy người thiếp đã hóa sinh về cõi tịnh, nhờ phu nhân quở trách mà người ấy siêng tu Tây phương nay được vãng sinh, cảm đức vô lượng. Phu nhân bảo báo mộng cho ta thấy ta mới tin. Đêm ấy phu nhân nằm mộng thấy người thiếp đến tạ ân như trước. Phu nhân hỏi “Tây phương có đến được chăng? Người thiếp bảo xin hãy theo tôi. Phu nhân đi theo thì thấy ao bên đường có hoa sen trắng lớn nhỏ xen nhau, hoặc héo hoặc tươi, các thứ khác nhau. Phu nhân hỏi vì sao như thế? Người thiếp nói đây đều là cảnh của người thế gian tu niệm Tây phương. Vừa phát một niệm thiện căn thì liền mọc ra một hoa, do siêng năng, lười biếng không đồng nên héo tươi khác nhau. Bởi siêng năng thì tươi, biếng lười gián đoạn thì khô héo. Nếu cố gắng niệm mãi, định quán hoàn thành thì khi qua đời đều hóa sinh vào hoa sen ấy. Trong đó có một đóa hoa, cánh hoa bỗng rụng, lại có một người mặc triều phục ngồi, áo phất phơ theo gió, đội mũ quan đeo chuỗi anh lạc để trang ng- hiêm thân. Phu nhân hỏi đây là ai? Người thiếp nói đấy là Dương Kiệt. Lại có một hoa nở có người mặc triều phục ngồi, nhưng hoa ấy héo chỉ còn lá. Phu nhân lại hỏi, người thiếp đáp: đây là Mã Can. Phu nhân hỏi còn ta sinh ở đâu. Người thiếp dắt phu nhân đi khoảng mấy dặm, Thiếp chỉ phu nhân nhìn xa thì thấy một cái đàn, vàng ngọc sáng chói rực rỡ. Thiếp nói phu nhân hóa sinh ở đấy, đàn vàng là Thượng phẩm thượng sinh. Khi thức dậy, phu nhân buồn vui vời vời. Bèn hỏi thăm thì Dương Kiệt đã mất Mã Can vẫn còn. Nhân ngày mừng thọ, phu nhân cầm lò hương đứng bên Quan Âm. Các lúc đó con cháu đông vầy vây quanh, chúc Thọ xong thì đứng mà hóa. Than ôi kỳ lạ thay! Kẻ giàu sang đối với Phật sự có rảnh rang mà không rảnh, đối việc không đáng tin mà lại tin. Lại sợ không thể dứt nghi ngờ. Còn như kẻ khốn khổ phát tâm phần nhiều đều có lỗi chậm trễ. Cho nên biết nghe chánh tín, phát chánh niệm, tu duyên lành há là việc dễ ư? Dương Kiệt Thứ công thấu suốt tông thuyết mà người không biết, ông ngầm tu Tịnh Quán, khi qua đời có bài kệ đâm lao theo lao. Tôi nghe câu chuyện của phu nhân nay xin nhắc lại để giúp người tin nhận vãng sinh, kẻ chưa tin sẽ chiêu cảm, phát ra văn này mà cùng quy hướng về Tịnh quán cõi Phật. Tiết quý Đông (tháng 12) Niên hiệu Truyền Hòa thứ năm - Tùy Duyên Cư Só Huỳnh Sách Tử Hư soạn lời Ký. (Kinh Vương (chồng của phu nhân) tức là chú của Hoàng đế Triết Tông). Bài Ký về Mã Thị lang vãng sinh của Ty Phong Chung Ly Tòng: Mùa Đông niên hiệu Tuyên Hòa thứ năm tôi biết được việc Việt Quốc phu nhân vãng sinh Tịnh độ bèn soạn lời ký này. Niên hiệu thứ sáu, Ngô Tư Đạo hỏi Mã Can ở phía Nam sông Hoài đã khảo thật biết nhiều lời Ký trước. Bởi họ Mã, từ khi Thiếu Sư Trung Túc Công trấn thủ Hàng Châu, một hôm, ngài Từ Vân Tuân Thức Sám chủ trao cho Phật sự ở An dưỡng. Từ đó cả họ đều phụng hành tiếp nối không trái. Đại Phu Công húy là Can, tự Đông Ngọc, là cháu ông. Ông từ nhỏ đã dốc chí tu Phật. Vào niên hiệu Nguyên Phong, có vị tăng tên Quảng Sơ đem luận Thập Nghi của Thiên Thai Trí Giả trao cho. Ông rất vui mừng bảo tôi đã có chỗ nương cậy, lại được Pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Từ Vân mà làm theo, suốt hai mươi lăm năm không chút mỏi mệt. Thượng Thư Công Vương Cổ chỉ ông Liên xã Đồ, Quyết nghi tập, Vãng sinh truyện. Do đó ông tụng niệm càng tinh tiến, lại phóng sinh làm Phật sự, khuyên dẫn mọi người tin tưởng rất đông. Khi ông làm Phó Đương Đồ ở Truy châu thì dân chúng ở Tân Định đều được ông dạy dỗ. Bình thường ông không hề tức giận mà đánh đập một người nào. Luật sư Chiếu ở Tiền Đường khuyên ông giữ niệm, làm quan thì vẫn xem Giáo tạng, tụng kinh chú, đều có phép tắc. Niên hiệu Sùng Ninh năm đầu ông bị bệnh, trải suốt mùa hạ ông rửa tay chải đầu niệm Phật, rồi thay áo chít khăn ngồi thẳng mà hóa. Có hơi nước hình dạng như cái lọng xanh ở trước ngõ rồi bay lên không. Người nhà lớn nhỏ, sang hèn đều mộng thấy ông vãng sinh Thượng phẩm, mười mấy ngày sau đều đúng y, lúc đó, ánh sáng hiện ở chiếu ngồi. Vào tháng tám có người hầu gái bệnh cũng niệm Phật mà mất, ông Giáo thọ húy là Vónh Dật, tự là Cương Dữu, là con của ông hành trì theo Thiên Trúc Thập Niệm, tu tập mười sáu pháp Quán hơn ba mươi năm. Tụng Quán Âm thường thấy tướng ngài. Tháng tư năm nay bị bệnh, sai người lo việc chôn cất, bèn thấy Phật Di-đà Quán Âm Thế Chí hiện ra tiếp dẫn, bèn kết ấn mà mất. Đầu nóng, có mùi hương lạ, có xá lợi như ngọc châu. Người em mộng thấy ông nói mình đã sinh Tịnh độ, mười ngày hoa sẽ nở. Trên áo quan ông có hoa sắc vàng năm mầu. Từ đó các điềm lành càng nhiều. Phu nhân họ Vương cũng hành trì pháp mười niệm và tụng kệ phá địa ngục, niệm Phật A-di-đà, có lần mộng thấy chủ địa ngục cảm ơn đã vì chúng ở địa ngục đọc kệ. Sau bà bị bệnh, tu trì không ngớt, niệm Phật mà hóa. Tất cả thân thích, kẻ hầu cũng mộng thấy Vương thị sinh về Cực lạc. Phu nhân cùng chị dâu là Phương Thị có tên trong Báo Ứng Vãng sinh truyện. Tôi nhân việc Việt Quốc phu nhân mà biết Mã Công sinh Tịnh độ. Do Mã Công mà biết vợ con ông cũng sinh Cực lạc. Cho nên lại kể cho mọi người tin tưởng, cũng là kết nhân vị lai. Tùy Duyên Cư Só Huỳnh Sách Tử Hư kính ghi. Bài ký về Quảng Bình phu nhân vãng sinh của Đãi Chế Vương Dó Ninh: Tôi có nghe đạo với Thiền sư Chánh Giác. Sư mời tôi đọc Luận Khởi Tín. Lúc đó khắp nơi lộn xộn, trong khi bôn tẩu trận mạc chưa rãnh để tỉnh xét. Đến khi bị đày làm quan ở Thiên Thai mới được Bộ luận Khởi Tín của vị tăng gần bên dịch ra, xem qua ba lượt bỗng có nghi. Ngờ rằng đây là sách dạy người Đại thừa thực hành pháp phá Đãn Không, một pháp chẳng lưu giữ mà ở chương cuối lại giữ niệm Di-đà cầu sinh Tịnh độ vậy ý chỉ ấy là sao? Khi về già tôi qua Tuyết Phong hỏi Thiền sư Thanh Liễu. Sư nói: Về mặt Thật tế chẳng chấp một mảy may, nhưng trong cửa muôn hạnh chẳng bỏ một pháp. Ông muốn phá tướng thế gian mà bỏ Có đắm Không, sau mới chứng Bồ-đề ư? Tôi nói: “Thà là có”. Liễu nói: “Như thế thì tu Tịnh độ đối với đạo nào có hại gì”? Tôi mới được yên tâm. Từ đó, làm phước tu hành. Nghe các tri thức gần xa nói việc của Phùng phu nhân rất phù hợp với lời của Thiền sư Liễu, có thể tin là không luống dối. Phu nhân tên Pháp Tín, là con gái của Chánh Hòa môn Ty Tặng Thiếu Sư húy Tuân. Được mười sáu tuổi thì gã cho Trấn Đào Quân Thừa Tuyên Sứ, nay là vợ của Cư só Diệu Minh Trần Tư Cung. Phu nhân vốn thể chất gầy ốm bệnh hoạn. Khi về với họ Trần thì bệnh càng trở nặng, gọi thầy hốt thuốc, nhưng có ý đợi vô sinh. Thầy thuốc từ tạ rằng thuốc tôi không thể trị bệnh phu nhân được. Lúc đó, Thiền sư Từ Thọ Thâm là Pháp thí chủ ở vương thành. Phu nhân đến thất ngài cầu hết bệnh. Ngài Từ Thọ thương xót dạy cho trì trai niệm Phật nguyện cầu. Phu nhân liền tin tưởng không nghi ngờ. Trai giới chưa được một tháng bỗng bảo người thân rằng: Sáng ăn chay, chiều ăn mặn sẽ tạp loạn ý người. Từ đó bỏ ăn mặn, bỏ cả phấn sáp. Mặc áo quét tháp, chuyên lấy Tịnh quán Tây phương làm Phật sự. Đi cũng Tây phương, ngồi cũng Tây phương, nghỉ ngơi ăn uống cũng Tây phương, nói im động tịnh cũng Tây phương, rót nước dâng hoa cũng Tây phương, xem kinh hành đạo cũng Tây phương. Một niệm sát-na, làm được mảy may điều lành cũng đều hồi hướng Tây phương. Từ năm Nhâm Dần đến Nhâm Tý suốt mười năm quên cả bệnh tật, quên cả buồn lo mà tâm an thân mạnh, thần khí hớn hở, người trong vương thành đều kính trọng. Một hôm, bỗng lấy bút đề mấy chữ rất lạ như nhàm chán cuộc đời, muốn lên tiên, rằng (thơ, dịch đại ý): “Tùy duyên học nghiệp trải nhiều năm Uổng làm trâu già mà cày ruộng. Thu xếp thân tâm sớm giải thoát Để lỗ mũi khỏi bị người lôi.” Mọi người đều quái lạ. Phu nhân nói: Trong cõi Thanh tịnh vì mất chánh niệm mà đến đây, cõi Chi-na duyên hết hạnh dứt thì về Tây hợp với nguyện của tôi nào có lạ gì. Tháng chín năm Nhâm Tý, phu nhân bị bệnh, lâu sau mới dứt hơi. Một chiều tháng mười hai năm Nhâm Dần thì tỉnh dậy bảo người hầu rằng: Thần thức ta đã về Tịnh độ, lạy Đức Từ Tôn, Quán Âm bên trái, Thế Chí bên phải, có cả trăm ngàn muôn ức Phật tử thanh tịnh cúi đầu mừng tôi vãng sinh về nước ấy. Tất cả cung điện, ao rừng, ánh sáng, thần thông Phật nói pháp v.v… y như trong kinh Thập Lục Quán đã mô tả không khác, chỉ chứng mới biết. Người hầu gấp báo, Diệu Minh bèn cùng chắp tay khuyến khích giữ niệm chớ quên. Sáng hôm sau, là ngày Giáp Thìn, phu nhân bèn ngồi yên và nằm theo thế cát tường mà mất. Ba ngày sau khi liệm, người nhà luôn nghe có mùi hương lạ thơm nức. Khi trà-tỳ thì thân thể như còn sống, tươi tắn không biến đổi. Phu nhân thọ được ba mươi sáu tuổi, được phong làm Quảng Bình quận phu nhân. Diệu Minh nói với tôi rằng Tư Cung lúc đầu chưa biết đạo, phu nhân đã thật sự khuyến phát. Lại nhờ bị bệnh lâu gần một kỷ (mười hai năm) nên gần gũi người thân dạy dỗ con cháu mỗi mỗi đều có ẩn ý. Đến ngày chết người khóc thất thinh và đốt liều trên đầu, đốt cánh tay… để cầu phước âm phủ, nếu phu nhân không được lòng người thì đâu được như thế. Tư cung rất nghèo, ông từng đẩy xe măng một mình đi xa hai ngàn dặm để xin lúa của anh mình là Chiêu Tuyên Quân Đức Dụ. Lúc đó ở đất Mân trộm cướp tung hoành, phu nhân sai mọi người qua lại ứng biến phương kế như kẻ nam nhi mạnh khỏe ở đời. Phu nhân ý chí cứng rắn khó thể lay chuyển, liệu toan về đạo rất mạnh mẽ quyết được thành tựu cũng thế, đó là việc tốt. Tôi đã già lại bệnh, đối với cõi nước Vô Lượng Thọ mà hỏi đường. Nghe việc của phu nhân rất vui mà viết ký này, không uổng tin lời của hai Thiền sư Giác, Liễu. Cũng xem là lời khuyên huân tu ở tương lai. Niên hiệu Thiệu Hưng thứ ba, ngày hai mươi mốt tháng hai, A-di-đà, đệ tử Phật ở am Chánh Tín là Vương Dó Ninh Đãi Chế kính ghi. Bài Ký về tháp Xá-lợi của Anh Vũ ở Hà Đông của Duẫn Vi Cao ở thành đô: Nguyên Tinh trao năm khí cho muôn loài cá tôm, chim thú ắt có cảm. Kẻ Thanh anh thuần túy hoặc sáng chói nhờ lửa, hoặc vốn nhờ Thương Tinh đều ứng hợp với nhân văn để tùy thời sửa trị mà có thay đổi. Loài cầm thú kia tập quen thì biết nói, hiểu rõ tướng không ở một niệm mà để lại chân cốt khi đã chết, sợ không phải Nguyên Thánh thị hiện, cảm tâm người đồng là duyên khác phải dùng nhất chân mà hóa độ. Năm trước có người đem cho con chim anh vũ bảo rằng: chim này dáng vẻ đẹp, biết nói. Tại Hoa Hạ, Hà Đông có Bùi Thị ưa thích Đạo Kim Tiên (Phật) nghe Tây phương có các loài chim quý giảng nói tiếng pháp. Tên loài chim này có ghi trong kinh Phạm, khôn hơn các loài chim khác. Do Phật hóa ra thường gần gũi mà đáng kính. Lúc đầu đem khuyên cấm Lục Trai, kế nói không ăn phi thời, không nhìn kẻ chọc ghẹo, dạy chưởi rủa. Có vị Tăng trang nghiêm dạy kết niệm danh hiệu Phật, bảo rằng từ có niệm cho đến không niệm thì nghểnh đầu đập cánh như lắng nghe. Sau có người bảo niệm thì làm thinh không đáp. Có kẻ bảo không biết niệm Phật thì liền nói A-di-đà thử mãi vẫn thế không đổi khác. Tôi hỏi: lấy “có” niệm làm duyên sinh hay lấy “không” niệm làm chân tế duyên sinh thì không đáp, có lẽ do duyên khởi. Chân tế tuy nói năng mà nói năng vốn không. Khi nhà vắng hoặc sáng sớm thì thường phát tiếng hót dịu dàng như tiếng sáo hòa cùng tiếng trống trời cao thấp, niệm niệm nối nhau. Người nghe đều vui vẻ làm lành. Tháng bảy năm nay chim yếu mệt không vui, người nuôi biết là chim sắp chết bèn đánh khánh bảo rằng người sắp về Tây phương chăng? Ta vì ngươi đánh khánh, mỗi tiếng khánh niệm một câu A-di-đà Phật, mười tiếng khánh thì mười câu. Chim xếp cánh co chân, không run không ngã, rồi sau đó im lặng mà chết. Xét trong kinh, mười niệm thành thì vãng sinh Tây phương. Lại nói được Phật tuệ thì khi chết sẽ có xá-lợi. Biết thuyết ấy chẳng phân biệt là khác loại bèn đem hỏa thiêu, sau đó nhặt được mười hạt xá-lợi óng ánh như ngọc. Kẻ thấy người nghe đều kinh dị, đều bảo gương này dạy người mê lợi ích cho đời, chẳng phải là Bồ-tát hóa thân ư? Lúc đó, có vị Cao Tăng là tuệ Quán đến núi Ngũ đài lễ Thánh tích. Nghe nói chim này bèn khóc lóc thỉnh xá-lợi về Linh sơn, dùng bình sành xây tháp mà thờ để nêu việc lạ. Tôi nói chim này sống thì làm đạo, chết thì có linh nghiệm. Do đó, mà xưa chung cho cả Thánh Hiền, đều làm việc chí hóa, như Nữ Oa thân rắn nối dòng vua, Trung Diễn thân chim nối họ Hầu, đâu có sách vở nào nói là quái lạ. Huống chim này có hoằng đạo và chứng quả rõ ràng, há im lặng hổ thẹn mà chẳng viết kể ra ư? Ngày mười bốn tháng tám niên hiệu Trinh Nguyên thứ 19, kính ghi. Bài ký trên đây xuất xứ từ Đường Văn Túy. Tôi xem các sách lại thấy ở trong Dị Loại, Tiến Tu Tây phương Hoạch Cảm Nghiệm. Gồm có ba chuyện như văn Long Thơ nói: Ở Đàm châu có người nuôi một con két, gọi là Bát Bát Nhi, thấy chư Tăng niệm Phật A-di-đà bèn bắt chước niệm theo không dứt, người ta bèn đem cho vị Tăng. Sau chim chết bèn làm quan mà chôn, thì trong miệng chim mọc ra một cành hoa sen. Có bài tụng rằng: Có một con chim tên Bát nhi Bắt chước theo Tăng niệm A-di, Chết chôn dưới đất hoa sen mọc Chúng ta loài người chẳng biết ư? Giới Sát Tụng có nói: hai người đánh cá là Lưu Thành và Lý Huy, mùa Xuân niên hiệu Thiên Bảo chở cá đến Đơn Dương ghé thuyền vào bến, Lý đi công việc, Lưu một mình ở lại thì thấy trong thuyền có con cá lớn vẩy râu nghếch đầu niệm A-di-đà Phật. Lưu kinh hãi chạy lên bờ thì nghe có ngàn vạn cá khác đều quẩy đuôi niệm Phật tiếng vang trời đất. Lưu sợ quá đùa hết cá xuống sông. Lý trở về không tin. Lưu đem của riêng ra đền. Hôm sau, Lưu thấy trong đám lau sậy có số tiền một muôn năm ngàn đồng, đề là “Trả ông tiền cá”. Tự Tín Lục nói: Chùa Chánh Đẳng ở Huỳnh Nham có Quán Sư nuôi một con Cù dục (con Yểng) biết nói. Vừa nghe niệm Phật liền bắt chước theo, sau chỉ nghe niệm A-di-đà Phật. Một hôm nó đứng mà chết. Người ta bèn đào đất chôn. Không bao lâu ở lưỡi nó mọc lên cành hoa sen tía. Sư Linh Chi có làm bài tán có câu rằng: “Đứng chết trong lồng quên mọi việc, hóa hoa sen tía thật lạ thay.” Lớn lao thay! Ôi loài vật còn lạ lùng như thế. Tôi nghe kinh Đại Di-đà nói: Phật A-di-đà hiện ở các thế giới mười phương giáo hóa vô số trời người, dưới đến loài bò bay máy cựa đều được độ. Thế mới biết Phật hóa độ không phân biệt phẩm loại. Hễ ai có tâm lành thì đều được độ. Còn con người là linh vật của muôn loài làm sao kẻ nghe thấy mà chẳng cảnh tỉnh. Bởi kẻ kính mến cũng nhiều. Nay loài cầm thú bắt chước mà còn hiệu nghiệm há loài người mà không bằng ư? <詞>- VỀ LOẠI TRUYỆN: Sự tích các bậc Tiên hiền vãng sinh Tịnh độ được soạn truyện gồm có mấy nhà. Số người được ghi chép cũng khoảng năm trăm vị. Thường thường xưa nay là người xuất gia hoặc tại gia, thấp nhất là kẻ tôi tớ, nếu ai biết bổn nguyên nhiếp sinh của Phật ta mà ngầm tu thì khi qua đời kẻ được chiêu cảm rất đông không biết bao nhiêu mà kể. Hơn nữa, làm sao có thể ghi chép hết được kẻ vào môn ta ư? Nay chỉ nêu khoảng mười truyện về số người đã được nói đến hoặc chưa được nói đến. Bởi muốn người sau biết ngọn ngành phép tắc không phải là phát khởi tín tâm mà thôi. Truyện về Bồ-tát Ngũ Thông ở Thiên Trúc thỉnh Phật: Trong Lịch Đại Tam bảo Cảnh Thông Lục của luật sư Nam Sơn Đời Đường có nói: Xưa, chùa Kê đầu ma ở Thiên Trúc có Bồ-tát Ngũ Thông đến thế giới An lạc thỉnh Phật A-di -đà rằng: Chúng sinh cõi Ta- bà nguyện sinh Tịnh độ, nhưng không có hình tượng Phật xin Phật thùy từ giáng hứa. Phật bảo: Ông nên về trước ta và các Bồ-tát sẽ hiện ra. Khi hiện ra thì có một Phật và năm mươi Bồ-tát đều ngồi tòa sen dưới cội cây. Bồ-tát Ngũ Thông bèn lấy lá cây vẽ ra mà truyền bá khắp nơi. Từ khi Hán Minh Đế mộng thấy Người vàng liền sai người cầu pháp thì được Ca-Diếp, Ma-đằng… đến Lạc Dương. Sau con của chị Ma-đằng làm Sa-môn, đem pho tượng này truyền bá đến cõi này, không bao lâu thì mang tượng về Tây trúc, cõi này tượng vẽ không truyền khắp Nam, Bắc cho nên nhiều kinh tượng bị mất sợ không còn thấy được nữa. Khi Tùy Văn Đế khai giáo thì có Sa-môn Minh Hiến từ Pháp sư Đạo Trưởng đời Cao Tề được một bản, nói về nhân ý phù hợp với ở trên do đó mà lại truyền bá ở đời. Lúc đó, gặp người thợ vẽ đời Bắc Tề là Tào Trọng Đạt vẽ rất khéo, nhiều tượng Phật truyền khắp kinh ấp hay các chùa am ở Chánh dương còn lưu lại di bút của ông. Trong Pháp Uyển Châu Lâm cũng ghi như thế. Lại Đường Tục Cao Tăng truyện có ghi rằng: Tại chùa An lạc ở Giang độ có vị tăng Tuệ Hải chỉ chuyên tu nghiệp Tịnh độ. Bỗng cảm được Tăng Đạo Thuyên ở Tề châu mang tượng Phật Vô Lượng Thọ để tặng lại. Đây cũng là tượng do Bồ-tát ngũ thông ở Thiên Trúc bay lên không trung thỉnh tôn dung Phật đã ngầm giúp. Ông ở trước tượng luôn ân cần lễ sám, tượng ấy bỗng phát ra ánh sáng rực rỡ, nên đã khẩn thiết nguyện sinh, lấy cái chết làm kỳ hẹn. Một đêm, bỗng trổi dậy xoay mặt về hướng Tây đảnh lễ rồi ngồi kiết già mà tịch vào năm Đại Nghiệp thứ năm đời Tùy. Gần đây, vào khoảng niên hiệu Càn Đạo, Tây hồ cư só Lý Tử Tế xin vị tăng Chí Hiệp vẽ lại tượng này trên lá bối truyền bá ở đất Ngô, ngài Tông Hiểu có nhân duyên được tặng, tưởng tượng như Phật sống. Khi nhàn nhã kể rõ đầu đuôi mà mãi phát tín tâm. Truyện về Pháp sư Lô Sơn Tuệ Viễn: Thời giáo là do Phật nói nhưng người truyền rộng Thời giáo thì Thiên Thai là Thỉ tổ. Luật tạng tuy do Phật dạy nhưng người mở rộng Luật tạng thì Nam Sơn là thỉ tổ. Thiền Tông vốn là tâm Phật nhưng người truyền tâm Phật thì Đạt-ma là thủy tổ. Khuyên sinh Tịnh độ tuy do đấng Đại giác Từ tôn chỉ dạy nhưng khiến người cõi này biết có Tam-muôi niệm Phật thì Pháp sư Tuệ Viễn là thỉ tổ. Pháp sư húy là Tuệ Viễn, họ Cổ, người ở Nhạn môn. Từ nhỏ đã đi học các nơi thông thạo kinh sử Lão Trang. Hơn hai mươi tuổi hỏi đạo nơi Pháp sư Đạo An, nhờ nghe giảng kinh Bát-nhã mà hoát nhiên khai ngộ, bèn bảo rằng cả nghị luận của Cửu lưu đều là trấu cám. Nhân đó bèn cạo tóc xuất gia. Đến năm hai mươi bốn tuổi thì hiểu rõ kinh luận, các nghi ngờ đều tan biến. Trong niên hiệu Kiến Nguyên đời Ngụy Tần, ở Tương dương có giặc loạn, nhân chịu khuất ở Tầm dương, thấy núi Lô cao đẹp rất vừa ý. Thứ sử Hằng Y liền lập chùa Đông Lâm để sư ở. Từ đó suốt ba mươi năm không hề xuống núi bước vào nhà tục. Mỗi khi tiễn khách chỉ đến Hổ Khê mà thôi. Hoàn Huyền Chấn Chủ rất oai vệ gặp sư liền chí kính. Vua An Đế đời Tấn từ Giang lăng trở về kinh đô có người khuyên sư ra chào nhưng ngài cáo bệnh không đến, vua phải sai sứ đến viếng. Lúc đó, có Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Tông Bính… một trăm mười tám vị cao tăng đều bỏ tục nương theo Sư. Sư lập một trăm hai mươi ba vị vào Liên xã, bảo Di Dân soạn lời thệ ở trước tượng Di-đà, chí thành lập thệ nguyện sinh An dưỡng. Tạ Linh Vận một kẻ ỷ tài kiêu ngạo khi gặp Sư liền tâm phục. Ông đào hai ao dẫn nước trồng sen trắng xin vào Liên xã, nhưng vì tâm tạp nên ngài ngăn không cho. Đào Uyên Minh, Phạm Ninh nhiều lần vời vào Xã nhưng không được. Nên Tề Kỷ có thơ rằng: “Nguyên Lương say nhiều khó vào Xã, Tạ Công tâm loạn vào ngại gì?” Tuệ Viễn đối với Tịnh độ rất chuyên cần. Trong mười một năm đầu lắng tâm hệ tưởng ba lần thấy Phật mà Sư vẫn im lặng không nói với ai. Mười chín năm sau đến ngày tối trời tháng bảy, ngài ở bên Đài Bát-nhã xuất Định thì thấy thân Phật đầy khắp hư không, trong ánh sáng có các Hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy dòng nước chảy có ánh sáng chia làm mười bốn nhánh từ trên chảy xuống, từ dưới chảy lên giảng nói khổ, không. Phật bảo Tuệ Viễn rằng: ta dùng năng lực Bổn nguyện đến khuyên khích ông, bảy ngày nữa ông sẽ sinh về nước ta. Lại thấy Phật-đà-da-Xá, Tuệ Trì, Đàm Thuận đứng bên Phật, đến trước chào Viễn thưa rằng: Chí sự trước chúng tôi sao lại đến trễ thế rồi biến mất. Sư bảo đồ chúng rằng: Ta từ trước nay ở Tịnh độ ba lần thấy Phật, nay lại thấy nữa, vậy chắc chắn ta vãng sinh. Ngày hôm sau sư bị bệnh, hẹn bảy ngày thì hóa, khuyên các đồ chúng nên cố gắng không để buồn thương vướng lụy. Đến ngày hẹn thì quả sư hóa, thọ tám mươi ba tuổi, vào ngày mồng 6 tháng 8 niên hiệu Nghóa Hy thứ 12.Sư di chúc nên để lộ thi hài sư dưới rừng thông. Nhưng các đệ tử an táng sư ở ngọn núi phía Tây. Tạ Linh Vận làm lời minh, Trương Dã làm lời tựa, năm Đại Trung thứ hai đời Đường, có hiệu là Biện Giác Đại sư. Năm Thăng Nguyên thứ ba, đổi hiệu là Chánh Giác. Đại Tống năm Hưng Quốc thứ ba, tuy hiệu là Viên Ngộ đại sư, xây tháp Ngưng Tịch. Sư có tạp văn hai mươi quyển, tên là Lô sơn tập. Luật sư Nguyên Chiếu Linh Chi viết tựa, khắc bản in để trong phủ Thiếu Hưng. Kẻ thức giả rất kính. Truyện về năm vị Tổ pháp sư nối nhau nhiều đời của Liên xã: Lập Liên xã Tuệ Viễn Công là thỉ tổ. Từ khi sư quy tịch đến nay là năm kỷ niên hiệu Khánh Nguyên thứ năm đời Đại Tống đã được tám trăm lẻ chín năm. Trong khoảng đó người nối đạo có năm là ngài Thiện Đạo, ngài Pháp Chiếu, ngài Thiếu Khang, ngài Tỉnh Thường và ngài Tông Sân, đều kính lễ Phật từ, mở rộng Độ môn. Khác đời đồng dấu đều là bậc dẫn dắt giỏi, truyện ký có ghi chép đủ không thể giấu cho nên ghi lại. Sư Thiện Đạo: Chẳng biết sư là người ở đâu. Vào niên hiệu Trinh Quán đời Đường gặp Thiền sư Đạo Xước tại Cửu Phẩm Đạo Tràng ở Tây Hà giảng tụng kinh Quán. Sư rất mừng bảo rằng: Đây mới thật là nẻo tu thuyết yếu tu vào Phật, các môn khác đi vòng khó thành, chỉ có quán môn này mau thoát khỏi sinh tử. Do đó mà dốc chí, tinh chuyên cần khổ như cứu lửa cháy đầu. Sau Sư đến kinh đô kích phát bốn chúng vào Phật thất quỳ thẳng niệm Phật, nếu chưa kiệt sức thì chưa thôi. Dầu trời rất lạnh cũng phải đợi ra mồ hôi. Nói pháp Tịnh độ cho người nghe suốt ba mươi năm thề không ngủ nghỉ. Hành Đạo Ban-chu, lễ Phật Phương Đẳng. Có người cúng thí bao nhiêu đều dành dụm viết kinh Di-đà hơn một trăm ngàn quyển, vẽ biến tướng Tịnh độ hơn ba trăm bức. Đạo, Tục ở Kinh Hoa chịu sự giáo hóa của sư đông không kể hết. Có người hỏi sư rằng: Niệm Phật có sinh Tịnh độ chăng? Sư đáp: Ông hãy niệm thì sẽ toại nguyện. Rồi sư tự niệm một tiếng Phật thì có một luồng ánh sáng từ miệng phát ra. Niệm mười câu trăm câu ngàn câu thì cũng có trăm ngàn tia sáng như thế. Sau sư bảo người: Thân này đáng chán, các khổ biến đổi. Rồi sư leo lên câu liễu xoay về hướng Tây nguyện rằng: Nguyện Phật dắt dẫn con, Bồ-tát giúp con không mất chánh niệm, không bị lui sụt. Nói xong thì gieo mình xuống đất mà hóa. Vua Cao Tông biết miệng sư phát ra ánh sáng tinh anh như thế, bèn tặng tấm biển ngạch đề là Quang Minh. Thiên trúc vãng sinh lược truyện chép Phật A-di-đà hóa thân tự đến Trường An, nghe có tiếng nước róc rách Hòa thượng bèn bảo: “Có thể dạy niệm Phật”. Bèn đi khuyến hóa rộng khắp. Ba năm sau thì khắp thành Trường An đầy tiếng niệm Phật. Sau có Đại sư Pháp Chiếu tức là hậu thân của ngài Thiện Đạo. Sư Pháp Chiếu: Niên hiệu Đại Lịch thứ tư thời vua Đại Tông đời Đường, tại chùa Hồ Đông ở Hành châu, sư mở Đạo tràng ngũ hội niệm Phật, cảm được mây lành năm sắc che trên mái chùa. Trong mây có lầu các, thấy Phật A-di-đà và hai Bồ-tát thân cao lớn đầy khắp hư không. Lại ở ngoài đạo tràng gặp một ông lão chỉ cho thấy Đức Văn-thù. Sư bèn đến núi Ngũ đài, Đại Thánh hiện ra chùa Trúc lâm. Sư vào giảng đường thì thấy Đức Văn-thù ở phía Tây, Phổ Hiền ở phía Đông, nói pháp cho chúng nghe, bèn đảnh lễ hỏi rằng: Chúng sinh phàm phu đời mạt sự hiểu biết yếu kém, Phật tánh tâm địa không do đâu mà hiển bày, chẳng biết tu pháp môn nào là cần thiết nhất. Văn-thù nói: Lời ông hỏi rất là đúng lúc, các môn tu khác không bằng niệm Phật. Ta ở quá khứ nhân niệm Phật mà được Nhất-thiết-chủng-trí . Sư lại hỏi: Niệm như thế nào. Đức Văn-thù đáp: Về phương Tây thế giới này có Phật A-di-đà, nguyện lực khó suy nghó bàn luận, ông nên giữ niệm không để gián đoạn thì khi qua đời chắc chắn vãng sinh. Nói xong liền xoa đầu Sư rồi biến mất. Sư tiếp đến Tinh Châu lập hội dạy người niệm Phật. Vua Đức Tông ở trong cung Trường An thường nghe hướng Đông Bắc có tiếng niệm Phật. Liền sai sứ đi tìm. Khi đến Thái Khang thì quả thấy sư Pháp Chiếu đang khuyến hóa rất thạnh hành. Vua bèn ban sắc đón vào cung dạy cho người trong cung niệm Phật, cũng đủ năm hội, xét bia của Nam Nhạc Di-đà Hòa thượng có nói: Đời vua Đường Đại Tông có sư Pháp Chiếu là Quốc sư. Trước ở Lô sơn, trong chánh định đến nước An lạc thấy người áo xấu hầu Phật, Phật bảo đây là người thừa kế Tuệ Viễn ở Hành sơn. Xuất định sư liền tìm đến gặp người giống y, bèn theo học mà truyền giáo trong thiên hạ. Sư theo pháp của Tuệ Viễn. Sư Thiếu Khang: Sư là người ở Tiên đô thuộc Tấn Vân. Đầu niên hiệu Trinh Nguyên, sư đến chùa Bạch Mã ở Lạc dương thấy kinh sách trong điện phát ra ánh sáng. Bèn đưa tay lấy bất cứ một quyển nào thì gặp văn Tây phương hóa đạo của ngài Thiện Đạo. Sư nói: nếu tôi có duyên với Tịnh độ thì xin cho bài văn này lại phát sáng nói chưa dứt lời thì quyển sách lại phát sáng. Sư nói kiếp đá có thể mòn chứ nguyện tôi không đổi. Sư bèn đến Ảnh đường thờ ngài Thiện Đạo ở Trường an trình bày hết nguyện vọng thì ảnh tượng ngài Thiện Đạo bay lên hư không bảo rằng: Ngươi nên theo việc ta mà lợi lạc hữu tình, thì công đức của ngươi sẽ được sinh An dưỡng. Lại giữa đường, Sư gặp một vị Tăng bảo nếu muốn độ người thì hãy đến Tân Định, nói xong thì biến mất. Tân Định nay là Nghiêm châu. Khi Sư đến thì người ở đấy chưa biết gì cả… Sư bèn xin tiền dụ trẻ con bảo: Phật A-di-đà là Bổn sư các con, nếu ai niệm một câu Phật thì ta cho một tiền. Trẻ con ham tiền bèn theo Sư niệm Phật. Sau một tháng rất nhiều trẻ đợi được tiền. Sư bèn bảo niệm mười câu thì cho một tiền. Được một năm thì già trẻ, sang hèn đều niệm Phật đầy đường. Sư bèn đến núi Ô Long lập đạo tràng Tịnh nghiệp. Xây đàn có ba bậc, nhóm hợp mọi người sau giờ Ngọ hành đạo. Sư niệm lớn một tiếng A-di-đà Phật thì cả chúng cùng hòa theo. Sư niệm một câu, Phật thì mọi người thấy từ miệng sư bay ra một vị Phật. Niệm mười câu thì có mười vị Phật bay ra nối nhau như xâu chuỗi. Sư bảo ai thấy Phật thì chắc chắn được vãng sinh, chúng đông cả mấy ngàn, cũng có người không thấy. Sau sư di chúc cho đạo tục đối với An dưỡng nên phát tâm tăng tấn, đối với Diêm-phù-đề nên sinh tâm chán lìa. Nói xong thì phát ra mấy luồng ánh sáng rồi an nhiên mà hóa. Tháp thờ sư ở đài Tử Nham. Ngài Thiên Thai có sửa sang lại tháp sư. Đời cho sư là hậu thân ngài Thiện Đạo. Sư Tỉnh Thường: Vào niên hiệu Thuần Hóa đời Đại Tống, sư trụ ở Tiền đường phía Nam viện Chiêu Khánh, chuyên tu Tịnh nghiệp, kết xã Tịnh Hạnh. Vương Văn Chánh Công Đán là Xã thủ (người đứng đầu Liên xã), Hàn Lâm Thừa Chỉ Tông Bạch soạn văn bia, Hàn Lâm Học Só Tô Dị Giản soạn bài tựa Tịnh độ Phẩm, Trạng nguyên Tôn Hà đề Xã Khách, ở mặt sau bia cũng có soạn lời ký. Só phu dự hội đều gọi là Tịnh Hạnh xã Đệ tử. Xã hữu có tám mươi vị Tỳ-kheo, một ngàn đại chúng. Lô Sơn Trí Viên làm ký về hạnh nghiệp của sư và bia của Liên xã, trong đó Bi ký dẫn lời tựa của họ Tô rằng: Tôi từng trải tóc để lót chân ngài, cắt thịt để thưa hỏi Pháp, ngài cũng không tức giận huống là lời lẽ quê mùa học cạn mà tiếc ư? Trong Tống Bia có nói: Sư mến việc Tuệ Viễn mở Liên xã ở Lô sơn bèn đổi chữ Liên hoa thành Tịnh Hạnh. Tuệ Viễn ở thời suy yếu cuối đời nên kết nạp các só phu phân nửa là ẩn cư, còn sư đây thuộc thời thanh bình nên phần nhiều người theo đều có địa vị cao hiền. Phương trước thì danh só lại đông, dạy nhiều thì bến cầu nào dứt. Nhận lời của hai ông nghó sự hưng thạnh đương thời cũng có thể thấy rõ khái quát. Sư Tông Trách: Sư được vua ban hiệu là Từ Giác. Vào niên hiệu Nguyên Hựu, sư trụ chùa Trường Lô tại Chân châu. Sư thuyết đều thông dốc lòng khuyến hóa mọi người. Có Vi Giang Tập lưu hành ở đời, trong đó nêu các thứ Phật Sự, đều vận dụng từ niệm. Bởi Sư đều làm lợi ích, cho mình và người sức nguyện rộng sâu, cho nên xa nối tiếp Phật hóa. Người như thế kẻ không biết trở lại ganh tị. Buồn thay, khi sư ở Trường Lô, hải chúng nhóm hợp như mây. Bèn nghó vô thường như lửa cháy bốn phía, đâu thể ngồi yên mà đợi chết. Bèn theo phép Lô sơn lập ra thắng hội Liên hoa khuyên khắp tu hành Tam-muội niệm Phật pháp. Đó là ngày niệm Phật trăm câu ngàn câu cho đến muôn câu mà hồi hướng nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ Tây phương. Mỗi ngày ít nhất cũng mười hơi ghi nhớ, liền cảm được hai vị Đại Bồ-tát Phổ Hiền, Phổ Tuệ dự hội chứng minh việc cao quý. Nếu không phải chỗ vì tu khế hợp thì sao bậc Thánh hiện đến. Ngài Linh Chi khen sư là Đại thừa sư trong các Đại thừa sư ở đời cận đại. Như trên là năm vị nối thạnh hạnh nghiệp Đại Pháp như thế mà nối nghiệp tổ Tuệ Viễn, ai bảo là không phải? Truyện về ngài Pháp Duyệt Tăng Chủ ở kinh đô đời Lương: Ngài Pháp Duyệt ở kinh đô đời Lương, trụ chùa Chánh giác làm Tăng chủ cuối đời Tề. Rất tinh tu phước nghiệp, bốn bộ chúng đều kính nương. Sư có nghe Tống Minh Đế tạo tượng vàng cao trượng tám, bốn lần đúc không thành. Do đó sửa thành một trượng tư. Sư bèn cùng sư Trí Thanh ở chùa Bạch mã cùng sửa lại làm tượng Phật Vô Lượng Thọ cao trượng tám để nói lên chí mình. Bèn tập hợp vàng, đồng từ cuối đời Tề loạn ly đến đầu đời Lương mới đem việc tâu lên vua. Vua bèn ban sắc cho làm và thợ khéo tùy ý mà dùng. Vào ngày ba tháng năm niên hiệu Thiên Giám thứ tám tại chùa Tiểu Trang Nghiêm đúc thân Phật bốn mươi ngàn cân đồng chảy, nhưng chỉ mới đến ngực. Bá tánh bèn ném vàng vào lò nhưng đổ vẫn không đầy. Vua lại nghe tâu, bèn sai đem ba ngàn cân đồng đến, khi đến thì lò đúc đã nghỉ vì thấy truyền chiếu chở đồng đến bèn nấu thêm một canh nữa. Mọi người ở trong Đài khi đồng đến mới biết. Trước đó đã có linh cảm mà ra. Đến khi khai mạc đo tính lại tượng cao một trượng chín mà quang tướng không sai khác. Có hai đồng tiền lớn ở trên áo thật thần dị khó lường. Lúc đầu, khi tượng mới đúc thành có sư Đạo Chiêu giữa đêm lễ sám bỗng thấy có ánh sáng rực rỡ. Sau khi đúc ba ngày có vị Tăng tên Đạo Độ giúp tiền để khai mạc, xa trông thấy có hai vị tăng mở búi tóc của tượng rồi biến mất. Khi dời tượng thì ánh sáng đầy nhà. Đã lâu không mưa lại đầy bụi bậm, bỗng đêm có mưa nhẹ thấm ướt sư Tăng Hựu đi kinh hành chỗ tượng, bỗng thấy bên tượng có ánh sáng trên dưới như đèn đuốc. Đêm ấy ở Hoài Trung những người đi buôn đều nghe trên cầu có tiếng hò reo như tiếng của mấy trăm người. Từ khi Phật pháp truyền về phía Đông thì tượng vàng linh cảm không đâu hơn tượng này. Truyện về Pháp sư Bích Cốc Thần Loan đời Hậu Ngụy: Thích Đàm Loan, người ở Nhạn môn. Thuở nhỏ dạo chơi núi Ngũ đài nhân cảm điều linh dị bèn xuất gia, ba thừa đốn tiệm, Lý Văn đều thông suốt. Tánh sư thích Phương thuật. Nghe ở Giang nam có Đào Ẩn Cư có pháp sống lâu bèn muôn dặm tìm cầu. Đào bèn trao cho mười quyển kinh Tiên đã học. Sư vui mừng tự đắc cho rằng thần tiên sẽ có thể đến được. Sau sư trở về Lạc hạ gặp Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi, bèn hỏi Chi rằng: Đạo Phật có pháp sống lâu có thể xua đuổi được già chết chăng? Chi cười đáp: Sống lâu không chết là đạo của Phật ta, đạo gia làm gì có. Bèn lấy kinh Thập Lục Quán trao cho, bảo rằng: Ông tụng kinh này thì không còn sinh ba cõi, sáu đường không còn đến, phiền não vắng lặng. Họa phúc thành bại không còn đến. Về sống lâu thì có kiếp thạch, có hà sa. Nhưng số hà sa còn có hạn lượng chớ sự sống lâu kia thì vô cùng. Vì đây là sự sống lâu của Phật ta. Loan nghe nói bỗng khởi tâm tin sâu bèn đốt hết sách tiên đã học mà chuyên tu nghiệp ba thứ phước, quán tưởng chín phẩm sen. Dẫu nóng lạnh cũng không dời đổi, bệnh tật cũng không lười mỏi. Ngụy chúa mến chí sư bèn ban hiệu là Thần Loan. Một đêm, đang lúc trì tụng bỗng thấy một Phạm Tăng (Tăng Ấn độ) chợt vào thất bảo rằng: Ta là Long Thọ ở Tịnh độ. Vị ông có tâm Tịnh độ nên đến thăm ông. Loan thưa: Có điều gì khuyên dạy? Thọ nói: “Đã qua không thể kịp. Chưa đến không thể theo. Hiện tại nay ở đâu. Ngựa câu khó cùng về.” Nói xong thì biến mất. Loan cho việc thấy là rất lạ, biết là chết đã đến kỳ hẹn. Bèn nhóm chúng trình bày mọi việc và khuyên dạy rốt ráo. Rồi bảo lớn tiếng niệm A-di-đà Phật, bèn xoay mặt về Tây, nhắm mắt mà hóa. Cả chúng cùng nghe có tiếng đờn sáo ở trên hư không từ phía Tây vọng đến, rất lâu mới im bặt. Ngụy chúa cảm kích, sắc an táng ở Phần Tây và theo hạnh nghiệp của sư mà lập bia. Văn Long Thơ Tịnh độ nói: Xét kinh Lăng Nghiêm nói có mười thứ tiên đều sống ngàn tuổi. Số hết thì trở lại luân hồi, không hề rõ được chân tánh, cho nên cùng chúng sinh sáu đường đồng gọi là bảy đường, đều là loài còn trong luân hồi. Người đời học tu tiên muôn người không được một. Dẫu được thì cũng chẳng khỏi luân hồi vì đắm nhiễm ở hình thần chẳng thể bỏ được. Vả lại hình thần là do vọng trưởng trong chân tánh hiện ra không phải thật. Nên thơ Hàn Sơn nói: Dẫu ngươi được thành tiên, giống như quỷ giữ thây, không phải như nhà Phật, sinh tử tự như như, không có gì ràng buộc. Từ xưa người được Tiên chỉ có Chung Ly, Lữ Công, mà kẻ học hai ông đâu phải chỉ ngàn muôn. Chính tôi thấy nghe số cũng chẳng ít, nhưng cuối cùng thì đều chết chôn dưới đất. Bởi bình sinh uổng phí tâm lực không hề được ích lợi gì. Muốn cầu trường thọ không gì bằng Tịnh độ. Người sinh về Tịnh độ thì sống lâu vô lượng, đó là sống lâu vậy. Chẳng tu pháp này mà học phép tiên là bỏ ngọc thật trước mắt mà tìm kiếm thứ ngọc giả (đá giả ngọc) chẳng thể được, há chẳng lầm ư? Truyện Thiền sư Lô sơn Đạo Trân đời Lương: Thích Đạo Trân, đời Lương, vào niên hiệu Thiên Giám, sư đến ở Lô sơn. Nghe thuở xưa ngài Tuệ Viễn kết Xã Tịnh Phương thì tâm rất kính mến, nhưng sự thực hành tâm còn dụ dự. Lúc khác, bỗng mộng thấy mấy mươi người ngồi thuyền trên biển đi về phía trước. Trân hỏi thì bảo về nước Di-đà. Trân hỏi: Cho theo được chăng? Thì đáp: Không dám từ chối ý ông, chỉ vì ở cõi này công tu trong một ngày thì vượt vónh kiếp mà ông chưa tụng một kinh Di-đà, lại chưa từng làm nhà tắm cho chúng Tăng thì làm sao đi được. Trân thức giấc hổ thẹn buồn lo. Bèn chuyên trì kinh và lập nhà tắm lớn. Hai năm sau, một hôm bỗng nhà vắng cửa mở toang, có người bưng đài bạc đến nói: Pháp Hoa báo hết nên bước lên đài này. Lại bảo: Công hạnh của Sư đáng ngồi Đài Vàng nhưng vì tâm ban đầu còn do dự nên ngồi đài bạc này. Trân tạ ân bảo: Chỉ cần vượt năm khổ, ra khỏi ba cõi thì Trân được thấy Phật, cần gì đài vàng. Trân ít nói năng, dẫu thấy việc này vẫn không bảo ai, chỉ viết ra giấy dấu trong rương kinh. Đêm sư tịch thì ở bên sườn núi có cả trăm ngàn ngọn đuốc chiếu sáng rực một vùng. Dân làng trông thấy rất kinh dị. Sáng hôm sau hỏi ra mới biết Trân mất, đó là điềm vãng sinh. Một hôm mở rương ra thì được lời ghi ấy bèn viết thành truyện. Truyện Pháp sư Thiên Thai Pháp Trí đời Tùy: Sư Pháp Trí đến học ở Đông Việt, kẻ thông suốt kinh nghóa Đại, Tiểu thừa thì Trí đáng bậc thầy. Vì học rộng nghe nhiều nên ít người làm bạn. Tuổi về già Sư thấy pháp môn nhanh chóng thẳng tắt không gì bằng niệm Phật. Sáng làm chiều nghỉ giữ niệm không dứt suốt bảy năm rồi luận rằng: Phạm một tội kiết-la là chịu tội suốt một trung kiếp, đây thật đáng tin, lấy cớ đó mà làm. Niệm một câu A-di-đà Phật mà diệt hết trong tội trọng ức kiếp thì tôi thiệt có nghi. Có người bảo Trí đừng nghi, bèn dạy Trí niệm Phật: “Lâu thì có công, có công thì có hóa, hóa thì Tam-muội hiện tiền. Nay ông nghi là nghi Phật vậy. Phàm lời Phật nói đâu thể nghi ngờ. Đức Thích Tôn phát ra tướng lưỡi rộng dài, các Đức Phật mười phương cùng khen ngợi Tịnh độ, chính là vì chúng sinh Tín căn khó lập cho nên khuyên phát ra. Pháp Trí dứt nghi, bèn ở chùa Quốc thanh mà dứt hết các duyên, một lòng niệm Phật, Tưởng niệm đã rốt bèn cảm được Quán Âm, Thế Chí hiện thân. Ngày nọ lại cảm được Bình báu trên thiên quan ánh sáng chiếu thân. Pháp Trí bảo đạo, tục rằng: Tôi sẽ sinh Tịnh độ, ai có thể nấu thức ăn ngon tiễn tôi? Chúng nghe đều cười bảo rằng: Chỉ sợ Đạo nhân không thể làm được việc ấy mà thôi, chúng tôi không từ nan. Rồi hẹn ba ngày sau họp lại làm yến tiệc. Tiệc xong thấy Trí không có gì khác, chúng đều nghi ngờ bèn bảo nhau đêm đến cùng rình xem. Chưa đến nửa đêm thì Trí ngồi trên giường dây niệm Phật mà hóa. Đêm ấy có ánh sáng vàng từ hướng Tây chiếu đến khắp mấy trăm dặm. Ngư dân trên sông tưởng trời sáng gọi nhau cùng dậy, trông thấy đều kinh sợ. Truyện về Thiền sư Vónh Minh Trí Giác đời Đại Tống: Sư húy là Diên Thọ, vốn người ở Đơn dương. Sau dời về Dư Hàng. Tuổi còn để chỏm tụng kinh Pháp Hoa chỉ sáu tuần là sư thuộc làu. Sư có làm thuế vụ Bắc Quách Chuyên Tri quan, gặp cá tôm liền bỏ tiền ra mua phóng sinh. Sau thâm lạm của công vì mua vật phóng sinh mà bị tội chết giữa chợ. Tiền chủ (Tùy Dạng Đế) sai người rình xem nếu sư có vẻ buồn sợ thì chém, còn không thì thả. Thấy sư tự nhiên không đổi sắc mặt nên ra lệnh thả. Nhân đó vào chùa Thúy nham ở Minh châu xuất gia. Kế đó tham vấn Thiều Quốc sư mà phát sáng tâm chính yếu. Lúc đầu, đến chỗ ngài Thiên Thai Trí Giả tập định chín tuần, có chim yến làm tổ trên vạt áo của sư. Ở chùa Quốc thanh khi hành trì Pháp Hoa sám, thì đêm thấy vị thần cầm kích đi vào, sư quở sao dám tự tiện vào ngang, thì đáp: Tích lũy Tịnh nghiệp đã lâu nên đến đây. Nửa đêm sư đi nhiễu đến trước tượng Phổ Hiền cúng dường thì bỗng thấy trên tay mình có hoa sen. Vì nghó trước có hai nguyện: Nguyện trọn đời thường tụng Pháp Hoa và nguyện trọn đời rộng độ chúng sinh. Nhớ hai nguyện này lại ưa thích Thiền định vắng lặng, rồi tấn thối lưỡng nan không thể tự quyết. Bèn lên Thiền Viện Trí Giả làm hai lá thăm. Một là nhất tâm thiền định, hai là tụng kinh, làm muôn điều lành Trang nghiêm Tịnh độ. Rồi tự hẹn hai đường chọn một, công hạnh sẽ thành. Quyết bắt thăm bảy lần để làm chứng. Bèn tinh thành cầu Phật Tổ mà đưa tay lấy, thì cả bảy lần đều được lá thăm Tụng kinh, làm muôn điều lành vãng sinh Tịnh độ. Do đó một lòng chuyên tu Tịnh nghiệp. Bèn chống gậy Kim Hoa lên ngọn Thiên Trụ tụng kinh suốt ba năm. Trong khi thiền quán thì thấy Quán Âm rót cam lộ vào miệng. Từ đó phát Quán Âm biện tài. Trước sư ở núi Tuyết bảo. Về già, vua ban chiếu về trụ chùa Vónh minh đồ chúng đến hai ngàn người, nhật khóa hằng ngày làm một trăm lẽ tám việc. Người học đến thưa hỏi thì sư chỉ: Tâm làm tông, lấy ngộ làm quyết. Sư sáng tối đến ngọn núi riêng hành đạo niệm Phật. Người chung quanh nghe trong núi có tiếng nhạc trời bằng loa ốc. Trung Ý Vương khen rằng từ xưa nay người cầu Tây phương chưa ai chí thiết bằng sư. Bèn xây dựng cho sư điện Tây phương Hương Nghiêm để sư trọn thành chí nguyện. Ngày hai mươi sáu tháng hai niên hiệu Khai Bảo đời Đại Tống, buổi sáng dậy sư đốt hương, cáo biệt chúng rồi ngồi kiết già mà hóa. Truyện về Trinh Tiết Xử Só Dữu Tiên đời Lương: Dữu Tiên tự là Ngạn Bảo, người ở Tân Dã. Thuở nhỏ thông suốt kinh sử, hiểu rõ triết lý của trăm nhà hiền triết. Còn như bói toán cơ xảo đều nổi tiếng một thời. Mà tánh sư thì giản dị, thích cảnh suối rừng. Vườn nhà mười mẫu ở bên ao, ăn rau dưa mặc áo xấu chẳng chú trọng sản nghiệp. Có lúc ngồi thuyền theo sông Thư về có chở một trăm năm mươi thạch gạo, có người gởi thêm ba mươi thạch. Về đến nhà, người gởi nói của ông ba mươi thạch, của tôi một trăm năm mươi thạch. Tiên vẫn làm thinh không nói, để anh ta lấy đủ số. Phàm xử sự đều như thế cả. Thuở nhỏ, Võ Đế chơi rất thân với Tiên. Đến khi khởi binh thì phong cho Tiên làm Bình Tây Phủ Ký Thất. Đến niên hiệu Phổ Thông thì vua ban chiếu cho tiên làm Huỳnh Môn Thị Lang. Ông đều thoái thác vì bệnh từ chối không nhận. Về già rất trọng Thích giáo, trong nhà có lập đạo tràng sáu thời lễ sám. Tụng kinh Pháp Hoa một ngày trọn một bộ. Bỗng đêm sau, thấy một Đạo Nhân xưng là Nguyện Công, dung nghi kỳ lạ gọi Tiên là Thượng Hạnh tiên sinh, trao hương rồi bỏ đi. Đến niên hiệu Đại Thông thứ tư trong lúc ngủ bỗng mộng thấy Nguyện Công lại đến bảo chẳng thể sống lâu, nói xong thì ông mất. Ông thọ bảy mươi tám tuổi. Cả nhà đều nghe trên hư không có tiếng gọi lớn: Tiên sinh Thượng hạnh đã sinh cõi Tịnh Di-đà. Võ Đế nghe tin rất kính phục bèn ban Thụy hiệu là Trinh Tiết Xử Só nói lên sự mạnh mẻ cao vời (xuất xứ từ Nam Sử). Truyện về Vô Vi Tử Dương Đề Hình đời Đại Tống: Ông húy là Kiệt, tự Thứ Công, người ở quận Vô vi, đạo hiệu là Vô Vi Tử. Văn tài cao nhã, tuổi trẻ thi đậu làm quan đến chức Thượng Thư Chủ Khách Lang, coi về hình ngục ở Lưỡng Triết. Nhưng ông rất tôn kính Phật Pháp, thấu ngộ Thiền tông những vị gánh được sự đánh, hét của Lâm Tế ở Giang tây ông còn gọi họ là hạng tầm thường. Ông lại mở rộng giáo quán Di-đà, dắt dẫn kẻ mới đến, bao gồm chỗ luận bàn, ông Bảo rằng căn cơ chúng sinh có lợi độn, gần mà dễ biết dễ làm thì chỉ có Tây phương Tịnh độ vậy. Chỉ cần nhất tâm quán niệm, gồm nhiếp tán tâm thì nhờ nguyện lực Di-đà mà sinh thẳng về An dưỡng, không có cõi nào khác, quyết chắc thành công. Ngài Long Thọ gọi đó là Đạo dễ làm vì nương vào năng lực người khác. Ông soạn lời tựa luận Thập Nghi của Thiên Thai, tựa Trực chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập của Vương Cổ. Ông soạn Pháp Bảo Tăng Giám, Di-đà Bảo Các Ký, An lạc Quốc Tam Thập Tán, Bị Trần Tây phương Yếu Tân, Thành Vi Vạn Thế Vãng Sinh Quy Giám. Ông có soạn Phụ Đạo tập, Chuyên Kỷ Phật Thừa, Tô Đông Pha soạn lời tựa lược nói rằng: Vô Vi Tử vốn xưa là Linh Cơ tham học khắp các tri thức, phàm kẻ gọi là có mắt Thước-Ca- la thì Thứ Công mục kích mà Đạo còn. Tuổi về già ông làm Giám Ti quận thú, bèn vẽ Tượng Di-đà trượng sáu để khi đi đường quán niệm, đến lúc qua đời cảm được Phật đến rước ngồi thẳng mà hóa. Có bài tụng rằng: Sinh cũng không đáng ham, Tử cũng không đáng bỏ, trong khoảng hư không rộng lớn, đâm lao theo lao Cực lạc Tây phương. Niên hiệu Tuyên Hòa, thần Kinh Vương phu nhân thức đến Tịnh độ thấy ông ngồi trên hoa sen thì chắc chắn được vãng sinh vậy. Song ở Triều Tống ta kẻ só đại-phu rộng khen Tịnh Phương vào nhóm chánh định thì chỉ có hai người là ông và Vương Mẫn Trọng Thị Lang mà thôi. Há không phải là trời muốn đạo tồn tại lâu dài trên thế gian mà sinh ra người ấy ư? Truyện về ở Vương Ty Só Quang Châu đời Đại Tống: Đời Đại Tống, Ty Só Tham Quân Vương Trọng Hồi là người ở quận Vô vi. Vì ở quận Trần bổn đắp đê ngăn nước làm thủy lợi, Đại Ty Nông khảo biết được sự thật bèn mời về triều đình. Sau gia ân cho làm việc ấy. Tánh ông rất trung tín, không hề xét việc hay dở của người. Ông lại thông suốt toán số (bói toán) đến già tay vẫn không rời sách. Thiền sư Thiên Y Nghóa Hoài lúc đó ở Đạo Thiết Phật tràng cũng thường thưa hỏi ông mà xem ông là người tốt trong làng đáng nương cậy. Vào những năm cuối niên hiệu Hy Ninh, tôi đem thi hài mẹ là Trường Thọ Thái Quân về an táng ở quê nhà, nhân rãnh rỗi mà xem Đại Tạng giáo điển. Bèn lấy duyên Tịnh độ vi diệu chỉ bày cho các cụ già. Lúc đó Ty Só rất thành tín kính mến, nhưng chưa sâu chắc lắm. Đến đầu niên hiệu Nguyên Hựu, tôi tự là Tỉnh Vi xin làm thú ở Đơn Dương, đợi trên khe Cẩm Tú. Ty Só lúc đó thấy người học hỏi không hề chống cự. Hỏi rằng kinh điển phần nhiều dạy niệm Phật sinh Tịnh độ, còn Tổ sư thì nói Tâm tức là Tịnh độ, không cần phải cầu sinh Tây phương, hai lời dạy không giống nhau là sao? Đáp: Thật tế lý địa không có Phật, không có chúng sinh, không vui không khổ, không thọ không yểu thì sao lại có tịnh, uế, há lại lấy sinh và chẳng sinh làm tâm ư? Đây là dùng Lý đoạt Sự. Nhưng ở cõi này thì là chúng sinh hay là Phật. Nếu là cảnh Phật thì chẳng phải chúng sinh Lại đâu có khổ vui, sống lâu, chết yểu, tịnh, uế, thử tự suy nghó, hoặc là hoàn cảnh chúng sinh chưa ra khỏi sinh tử thì đâu thể chẳng tin giáo điển dốc lòng niệm Phật mà cầu sinh Tịnh độ ư? Tịnh thì không uế, vui thì không khổ, thọ thì không yểu. Ở trong vô niệm mà khởi niệm, ở trong vô sinh mà cầu sinh. Đây là dùng sự mà đoạt lý. Cho nên kinh Duy-ma nói tuy biết các cõi Phật và chúng sinh là không mà thường tu Tịnh độ, giáo hóa chúng sinh, là nói điều này vậy. Hỏi: Làm sao biết được niệm không gián đoạn? Đáp: một khi tin rồi sau đó không còn nghi ngờ nữa, tức là chẳng gián đoạn. Ty Só vui vẻ ra đi. Đến đêm tháng 12 năm thứ 2 thì tôi làm Thú ở Đơn Dương bỗng mộng thấy Ty Só nói: Được ông chỉ cho Tịnh độ nay đã được sinh nên xin đến tạ từ. Bèn lạy rồi lui ra. Sáng hôm sau, mời Đơn Đồ Lệnh Trần An Chỉ đến kể lại giấc mộng. Bởi Trần Lệnh rất tin sâu Tịnh độ. Sau đó được con của Ty Só đưa cáo phó đến mới biết Ty Só đã mất trước đó bảy ngày, biết trước ngày mất nên từ biệt các người quen cũ. Em tôi là Tác cũng ở đó nghe lời từ biệt, cho nên biết ông chắc chắn sinh Tịnh độ. Ngày 8 tháng 4 niên hiệu Nguyên Hựu thứ 4. Vô Vi Tử kính ghi. Truyện này của Thứ Công thật chẳng thể bỏ. Chỉ việc luận sự lý đoạt nhau thì chẳng như Thai Tông gọi là “Viên quán sự lý một niệm đầy đủ câu nói một khi tin rồi sau đó không còn nghi ngờ nữa tức là không gián đoạn, là Ty Só chuyển thân chỉ nói một lời này. Xưa, ngài Thiện Đạo hóa độ người có nói: Nếu người muốn mau được vãng sinh nên Khởi tu không gián đoạn, đó là cung kính, lễ bái, xưng danh khen ngợi, nhớ kỹ, quán sát, hồi hướng, phát nguyện, tâm tâm nối nhau không để các nghiệp khác làm đứt quãng. Cho nên nói là tu không gián đoạn. Lại nếu tham, sân, si đến cách ngăn thì hễ lúc nào phạm thì liền sám hối. Không khiến cách niệm, cách ngày, cách giờ. Luôn khiến thanh tịnh cũng gọi là tu không gián đoạn. Nếu đến chết thề không bỏ nửa chừng thì chắc chắn vãng sinh. Bài văn này xuất xứ trong Đại tạng, Tập Chư kinh Lễ Sám Nghi ở hòm chữ Quần, Thứ Công xem tạng, lấy duyên Tịnh độ mà chỉ bày cho Ty Só không phải thế sao? Truyện về Hồ Tuyên Nghóa Tiền Đường ở đời Đại Tống: Tuyên Nghóa húy là Nhân, tự là Đạt Phu, con của Hồ Thị Lang. Tánh rất thông minh, tâm địa sáng suốt. Chuyên sử sách, thích ngâm vịnh. Về già cai quản Tây hồ, ngày ngày thường dạo vui chơi thú. Tánh bình dị đơn giản. Phật thừa tuy đã tin nhưng không hề chuyên tu. Một hôm, con ông đến mời Luật sư Thanh Chiếu rằng: Cha con bệnh nặng xin thỉnh sư khuyên dạy. Sư đến gặp bảo: Tuệ Hanh tôi quen với Đạt Phu rất thân nhưng không hề nói, Nay việc lớn ở cuối đời há chẳng biết chỗ an thân lập mạng ư? Đạt Phu nói: Tâm tịnh thì cõi tịnh. Sư nói: Tuyên Nghóa trong lúc này có tạp niệm nhiễm ô chăng? Đáp đã ở thế gian sao khỏi tạp niệm. Sư nói: nếu như thế thì đâu thể tâm tịnh cõi tịnh được. Đạt Phu liền hỏi: một câu xưng niệm A-di-đà Phật có công năng diệt hết trọng tội tám mươi ức kiếp sinh tử là sao? Sư nói: Phật A-di-đà kinh Pháp Hoa nói thì ngài đã trải qua trần kiếp tu hành, kinh Lăng nghiêm nói: Ta nhớ thuở xưa hằng sa kiếp số có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang. Phật A-di-đà đã trải qua thời gian như thế sẽ thành tựu thân, thành tựu nước, y, chánh trang nghiêm có đại oai đức, có thệ nguyện lớn, ánh sáng thần lực chẳng thể suy nghó, bàn luận. Do đó một câu xưng niệm hồng danh muôn đức thì chúng sinh từ vô thỉ có trọng tội tám mươi ức kiếp sinh tử cũng tiêu trừ như mặt trời sáng rực rỡ làm tiêu tan sương mù. Đạt Phu bèn tỉnh ngộ, mới biết nguyện lực Di-đà công đức lớn như thế… Bèn nhất tâm niệm Phật. Lại nhiều ngày thỉnh tăng trợ niệm. Luật sư Tuyên Bạch gọi Hồ Công Tuyên Nghóa, Đạt Phu liền nói: Phải xưng danh Hồ Nhân. Ngày hôm sau lại thỉnh các học trò đến trước, Luật sư đến sau. Đạt Phu hỏi: Sao đến muộn, đã làm phiền Quán Âm, Thế Chí giáng lâm từ lâu. Sư cùng đại chúng liền rất trịnh trọng niệm Phật. Hồ Công an nhiên mà hóa, thọ tám mươi bốn tuổi. Ngày thường không hề tu tập, một hôm bệnh khổ ép ngặt thì không chỗ nương nhờ. Vừa nghe Di-đà Pháp lợi liền dứt nhanh nghi tình mà siêu sinh Lạc quốc. Đó gọi là một niệm hồi quang lập tức đổi tà thành chánh, tức là người này vậy. Mới biết đạo này nối vết xe trước, ngõ hầu không cô phụ đời này. Truyện về cư só Long Thư Vương Hư Trung đời Đại Tống: Quốc học tiến só Vương Nhật Hưu tự là Hư Trung. Có trí tự hành, có bi dạy người, đã thấy trong bài tựa của Trương Vu Hồ, ở đây không kể lại. Ông là người ở Long Thư (Thơ) có soạn văn Tịnh độ, nhân đó lấy làm hiệu, văn của ông thịnh hành trên đời, thiên hạ tu Tịnh nghiệp đều đọc sách này. Vào niên hiệu Càn Đạo, Lý Ngạn Bật ở Lô Lăng bị bệnh thời khí đã liệm vào quan tài. Bỗng mộng thấy một người dáng vẻ thanh tao dùng, tay xoa khắp thân thể. Bật kinh hãi hỏi thì đáp là cư só Long Thơ. Bật hỏi về bệnh của mình thì ông bảo ăn cháo trắng sẽ hết. Lại nói: Ông có nhớ Trọng Nhã đã dạy ông đường tắt chăng? Bật nói mỗi ngày tôi niệm Phật không ngớt. Bật tỉnh dậy bèn đòi cháo trắng, ăn xong thì bệnh lành. Sau đó thấy tượng vẽ ông giống y trong mộng. Bật kính trọng ông gọi là sinh tử cốt nhục. Bèn sai con cháu từ xa đến học với ông. Một hôm, con cháu Bật trở về bảo rằng đêm ấy cư só giảng sách xong, như thường lệ lễ niệm, đến canh ba bỗng lớn tiếng niệm A-di-đà Phật mấy câu, rồi bảo Phật đến rước ta, và đứng sững mà hóa. Người trong nước đêm ấy có người nằm mộng thấy có hai người áo xanh dẫn ông đi về hướng Tây. Lại trước đó ba ngày ông từ biệt khắp các đạo hữu, khuyên cố gắng tu Tịnh nghiệp, có lời giã biệt sẽ không còn thấy nhau nữa. Ôi nếu chẳng phải hiểu đạo bổn tánh duy tâm, thấu suốt sự biến hóa của sinh tử thì không thể được như thế. Có kẻ nghi Bật nằm mộng là do tưởng mà thành. Bật nói: Việc chỉ ăn cháo trắng mà lành bệnh thì sao dối được. Lúc đó, Thừa tướng Ích Quốc Châu công là Tất Đại thấy việc lạ của ông bèn làm bài tán rằng: “Rực rỡ nhưng không cầu, kinh dị cũng không lo. Thương suy đồi sắp đến, nắm các thiện cùng hòa. Dắt dẫn nguồn nhân nghóa, Dạy dỗ lấy vắng lặng làm vui. Đời biết ông có làm nhưng không biết vô vi ấy, trung đạo an nhiên, chỉ bày cho người chân giác.” Ông Bật rất kính trọng không gì để báo ân bèn vẽ hình ông (Cư só Long Thơ) mà thờ cúng và truyền khắp. Từ đó, xứ Lô Lăng nhà nhà đều thờ cúng ông. Chín năm sau, Hu Di Quân có Tín só Nhiếp Duẫn Địch Khâm Công, cảnh hạnh siêu trác vượt hơn mọi người, muốn mãi mãi không hư hoại bèn khắc đá ở điện Di-đà để báo ân. Đến niên hiệu Khánh Nguyên thứ tư ở đất Việt có Chí Chánh Liễm Phán Tăng Công Tấn biết đời là hư huyễn, bèn ở nơi thanh tịnh kính mến chí của Long Thơ, Nguyện sinh về Tây. Có người anh ra làm quan nhặt được miếng đá này. Lại muốn mọi người tiến bộ, nhân đó lại khắc gỗ mà truyền khắp Giang Triết. Lòng dạy dỗ hướng thiện thật hợp cả trong ngoài với Vương quân. một hôm Tông Hiểu gõ cửa nhà ông mong được chỉ bày. Nhân đó góp nhặt đầu đuôi để truyền bá không để mất. Truyện về Chu Như Nhất đời Đại Tống ở Minh châu của Thiền sư Quất Châu Bảo Đàm. Trước đây tôi có qua nơi gọi là Đạo tràng La-hầu-la, đến Khởi Tín Đường thì có vị Tỳ-kheo bảo tôi rằng: Chùa có việc vui ông biết chăng? Tôi ngoái nhìn bốn gốc cây dưới nhà đáp: được năm không lạnh mặt mũi mình chẳng hề gì phải không? Tỳ-kheo nói không phải. Rồi dẫn tôi lên nhà sám hối đưa hộp kinh Diệu Liên Hoa bảy quyển thêu bằng chỉ màu. Tôi chắp tay khen ngợi chưa từng có. Vị Tỳ-kheo nói: Do vợ của Tiết Quân là đạo nhân Chu Thị pháp danh Như Nhất làm ra. Chu thị tức là cháu hai đời của hoàng hậu Khâm Thành trong cung Uyên Thánh. Từ khi về ở với họ Tiết thì bà xem đời như bùn sình. Nên hơn hai mươi tuổi liền bảo với chồng là thích chốn thanh tịnh, ăn chay mặc áo đạo. Có lần bà dùng lụa vàng sai kinh Sinh viết kinh ấy rồi thêu chỉ xanh, đường chỉ khít mượt bóng như nét vẽ mới khô mực trải qua mười năm mới xong, sau lại có bức thêu Di-đà, Quán Âm không khác tranh vẽ. Từ tên kinh kính lạy đến tám mươi bốn ngàn lạy, một câu một chữ phàm xướng lễ đều lễ ba lạy. Văn kinh Pháp Hoa có mấy muôn chữ, chỉ trong ba tháng là lạy xong. Xem kinh Hoa Nghiêm, Bát-nhã, Lăng Nghiêm, Viên Giác cũng có hơn mấy ngàn bài kệ. Từng khắc gỗ thành tranh khuyên người tụng kinh A-di-đà đục lỗ làm dấu hơn mười muôn câu mới hết số. Hơn hai mươi muôn người được giáo hóa. Đạo nhân mỗi sáng tụng kinh, đêm đêm lạy Phật không chút mỏi mệt, ý rất vui mừng. Cất nhà bên mộ, một gian thờ Phật, một gian để ngồi thiền, một gian để viết kinh. Có một tỳ nữ dâng cơm chay cùng chịu khổ nhọc mà sức đàn ông có người không làm nổi. Mùa xuân năm nay đổi hết hộp cũ (bán nữ trang) đủ cho ba ngày hội hội kẻ đạo người tục mấy muôn người, cúng dường cả ngàn bí-sô, làm cờ báu, chứa kinh Pháp Hoa và tên tuổi người đồng niệm Phật đưa về chùa. Trong ngoài thành đều rúng động, các vợ đại só phu đều kinh sợ. Tháng 12 bị bệnh, thầy thuốc đem đơn sa dâng, đạo nhân không dậy. Trong lúc nằm nhắm mắt bỗng trổi dậy ngồi kiết già. Tiết Quân bảo: Nhà ta không có cách ấy bèn mời nằm xuống. Việc chôn cất theo nghi thức, đạo nhân nằm nghiêng hông phải mà mất, thọ ba mươi bảy tuổi vào ngày 11 tháng 12 niên hiệu Chiêu Hy thứ 4.Tôi nghe vị Tỳ-kheo nói mà bùi ngùi. Tôi biết việc này vì đời sau khuyến kính nên viết lời tán rằng. Đạo nhân mặt như trăng rằm, ý chỉ sau cùng của Linh sơn, tâm hồi hướng Tịnh độ tha thiết tôi biết sẽ không trở lại thế gian. Lão Bàng Uẩn nói chẳng phải Thánh hiền rõ việc phàm phu. Lời nói này có ý tứ thay!  <卷>QUYỂN 4 Loại Tạp Văn (Ba mươi ba bài). Duy-ma sớ: Chỉ rõ bốn thứ cõi Phật do Thiên Thai Trí Giả Đại sư giảng. Quán kinh sớ: Nói Tông chỉ của bốn cõi Tịnh Độ. Vạn Thiện Đồng Quy Tập: Chọn bày Tây phương của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ. Di-đà Thông Tán: Riêng khen Tây phương của Pháp sư Từ Ân Khuy Cơ. Tịch Chiếu Tập: Chọn ra yếu nghóa Tây phương, xuất xứ từ Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi tập. Tây Tư Sa. Chọn bày riêng khen ngợi Tây phương của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên. Thư thỉnh Pháp sư Tứ Minh trụ lại thế gian của Văn Công Dương Ức. Trả lời thư thỉnh trụ lại thế gian của Dương Văn Công của Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ. Đáp lời hỏi của Dương Văn Công của Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ. Sớ Diên Khánh khuyên mọi người niệm Phật của Pháp sư Tứ Minh Trí Lễ. Vãng sinh Tịnh độ Quyết Nghi môn của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Nghóa Học Biên Luận Tịch Giải Phấn của Pháp sư Tịnh Giác Nhân Nhạc. Giải đáp về tu nhân Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Ng- hiêm. Giải đáp về ma và Phật của Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm. Nói về duy tâm Tịnh độ của Pháp sư Viên Biện Đạo Sâm. Bài duy tâm Tịnh độ của Thiền sư Cô Tô Thủ Nột. Nói về khuyên tu Tây phương của Pháp sư Giải Không Khả Quán. Tịnh độ Lược Nhân của Đãi Chế Triều Thuyết Chi. Các thuyết khác về Tịnh độ của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân. Tịnh độ Tự Tín Lục Ký của Vô Công Tẩu Vương Điền. Nói về chuyên tu và tạp tu Tịnh nghiệp của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô. Luận rõ về Hoành xuất và Thụ xuất của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh. Phép mười niệm buổi sáng của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức. Phương pháp niệm Phật của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức So sánh công đức niệm Phật của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức. Pháp quán Thiền vãng sinh của Thiên Trúc Sám Chủ Tuân Thức. Thuật niệm Phật tu tâm của Pháp sư Sơn Đường Ngạn Luân. Luận Bảo Vương: Chọn bày nghóa vãng sinh của Thiền sư Thảo Đường Phi Tích. Niệm Phật phương tiện văn của Tư Gián Giang Công Vọng. An tượng Phật A-di-đà ở viện Vô Thường, xuất xứ Vô Tân Đăng. Lâm Chung Chánh Niệm Quyết của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô. Khi sắp qua đời thỉnh tăng niệm Phật được cảm ứng xuất xứ trong Bảo Châu Tập. Nhập Quán khi ngủ, phát nguyện thấy Phật, xuất xứ trong Đại Tạng Tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi. Khánh sáu lễ Phật hội sớ của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân. Duy-ma kinh Sớ chỉ rõ bốn thứ cõi Phật do đại sư Thiên Thai Trí Giả Giảng: Tướng các cõi Phật khác nhau vô lượng vô biên, ở đây nói sơ lược có bốn: Cõi nhiễm tịnh, Phàm Thánh ở chung. Cõi khác, người phương tiện ở. Cõi quả báo, thuần là pháp thân ở. Thường tịch quang, nơi bậc Diệu giác ở. Hai thứ cõi trước thuộc về ứng là nơi ứng Phật ở, cõi thứ ba thuộc về ứng, vừa thuộc về báo, là nơi báo thân Phật ở. Cõi thứ tư chỉ thuộc về chân tịnh, chẳng thuộc ứng thân, chẳng thuộc báo thân, là nơi Pháp thân Phật ở. Cõi nhiễm tịnh: Có hai: Đồng cư uế và Phàm Thánh đồng cư. Phàm Thánh đồng cư lại có hai loại: Phàm cư: Bốn đường, tức chúng sinh ác ở và cõi trời người tức chúng sinh thiện ở. Thánh cư: Bậc Thánh thật sự tức bốn quả Thanh văn, Bích-chi- Phật, Thông giáo cho là lục địa, Biệt giáo cho là Thập trụ, Viên giáo cho là sau Thập tín. Thông giáo cho là ở đây kiết hoặc đã hết nhưng báo thân vẫn còn. Quyền Thánh: Nơi Pháp thân Bồ-tát và Diệu giác Phật vì lợi ích kẻ có duyên mà ứng sinh Đồng cư, đều là quyền. Đây là các Phương tiện độ, Thật báo độ và Tịch quang độ. Vì cùng kẻ phàm ở chung nên gọi là Phàm Thánh đồng cư. Cùng ở với bốn đường chúng sinh nên gọi là cõi uế. Cõi Đồng cư Tịnh độ là nước Vô Lượng Thọ, tuy có quả báo thù thắng khó thể ví dụ nhưng vẫn là cõi Phàm, Thánh, nhiễm tịnh đồng ở. Vì sao? Tuy có bốn đường chúng sinh nhưng có trời ngươi, vì kẻ sinh về đó chưa hẳn hoàn toàn là kẻ đắc đạo, kinh nói: Kẻ phạm trọng tội, khi lâm chung biết sám hối, niệm Phật thì nghiệp chướng chuyển đổi liền được vãng sinh. Nếu chỉ là nơi bậc Thánh sống thì kẻ phàm phu nguyện sinh về được. Nên biết, tuy đủ các thứ mê hoặc, nhiễm trước nhưng cũng được ở chung. Cõi các bậc Thánh quyền thật cũng vậy. Chỉ cần không có bốn đường ác thì gọi là tịnh. Hỏi cõi uế chiêu cảm mười điều ác, bốn đường y, chánh lại chợt khác biệt. Đáp: Hai nơi tu nhân thiện tên gọi tuy đồng nhưng vì Tịnh độ tu nhân thiện tinh vi hơn nên y, chánh của Phàm Thánh khác hơn cõi uế. Cõi khác: Là nơi hàng Nhị thừa và ba loại Bồ-tát chứng đạo phương tiện ở. Vì sao? Nếu tu hai quán dứt hết các hoặc chung, hằng sa hoặc riêng vô minh chưa dứt hết, bỏ thân phần đoạn mà sinh cõi ngoài (ngoài ba cõi) nhận thân pháp tánh liền có chỗ ở của biến dịch thì gọi là cõi Hữu dư, cũng gọi là cõi Phương tiện, vì người hành phương tiện ở đấy. Cho nên luận Nhiếp Đại thừa nói bảy thứ sinh tử. Đây là phương tiện sinh tử thứ tư. Cõi Quả báo, tức là Hoa Tạng thuần Pháp thân các Bồ-tát ở đấy. Phá vô minh, hiển pháp tánh, được quả báo chân thật, mà vô minh chưa dứt, thấm nghiệp vô lậu nhận pháp tánh, Báo thân nên gọi là cõi Quả báo. Vì quán thật tướng phát chân vô lậu mà được quả báo nên gọi là thật, tu nhân vô định, sắc tâm vô ngại, cũng gọi là cõi Thật báo vô chướng ngại. Kinh Hoa Nghiêm nói thế giới Nhân-đà-la Võng là đó. Cõi Thường tịnh quang là bậc Diệu Giác trí tột cùng chiếu ra lý Như như Pháp giới gọi là cõi nước, cũng gọi là cõi Pháp tánh, đều là Chân như Phật tánh. Không phải thân không phải cõi mà nói thân, cõi, lìa thân không có cõi, lìa cõi không có thân. Gọi cõi ấy là một pháp mà hai nghóa. Ngài Phổ Hiền quán Tỳ-lô-giá-na trụ xứ gọi là Thường Tịch Quang. Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói mười thứ cõi Phật thì bốn thứ này có bao gồm hết chăng? Đáp: Đâu chỉ nhiếp đủ mười, cho đến có người nói kinh viết hai mươi bảy thứ cõi Phật. Cõi Vô Lượng Thọ (Cực lạc) chỉ là cõi thứ sáu. Hiện bốn thứ nói trong văn này đều nhiếp hết tất cả. Hỏi: Sao không y theo mười cõi và hai mươi bảy cõi? Đáp: Có một văn xưa muốn mượn ý để đối với bốn giáo nên ý khó thấy. Quán kinh sớ: Nói về tông chí của bốn cõi. Kinh này lấy tâm quán tịnh thì cõi Phật tịnh làm tông chí. Bốn thứ cõi Phật là Phàm Thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo vô chướng ngại độ và Thường tịch quang độ. Mỗi thứ đều có tịnh uế, năm trược khinh, trọng. Đồng cư uế, tịnh phân tích về thể có khéo, vụng: Hữu Dư tịnh, uế thứ lớp đốn nhập. Thật Báo tịnh, uế có phần chứng rốt ráo. Tịch Quang tịnh, uế cõi Ta-bà, tạp ác gai gốc, ngói đá, bất tịnh dẫy đầy là đồng cư uế; cõi An dưỡng thanh tịnh, ao nước tám đức, cây bày bảy báu, kế sau Nê-hoàn đều là nhóm chánh định, là cõi Phàm Thánh đồng cư thượng phẩm Tịnh độ vậy. Cõi Phương tiện hữu dư là nơi ở của người tu đạo Phương tiện, vì dứt bỏ bốn trụ hoặc nên gọi là Phương tiện. Vì vô minh chưa hết nên gọi là Hữu dư. Thích Luận có nói: Ra ngoài ba cõi thì có Tịnh độ. Thanh văn, Bích-chi-Phật sinh về đó, được thân pháp tánh, không phải phần đoạn sinh. Trong đó lại có lợi, độn, cõi trên là tịnh, cõi dưới là uế. Cõi Thật báo vô chướng ngại là thực hành pháp chân thật mà cảm được quả báo tốt, sắc tâm không ngại nhau, nên nói là vô chướng ngại, toàn là các Bồ-tát ở đấy, không có Nhị thừa. Kinh Nhân Vương nói: Tam Hiền mười Thánh ở quả Báo tức là nghóa này. Kinh Hoa Nghiêm nói “Vô lượng hương vân đài” tức là năm trần diệu tịnh ở cõi ấy. Lại luận thứ lớp có đốn ngộ, thượng hạ uế tịnh… Cõi Thường tịch quang: Thường tức là pháp thân, Tịch tức là giải thoát, Quang tức Bát-nhã, ba điểm này ngang dọc không khác nhau, đều gọi là Bí mật tạng, là chỗ ở của Đức Phật Như Lai là cõi tịnh, chân thường rốt ráo cực vị. Phần đắc, rốt ráo, trên dưới, uế tịnh… Cho nên tu tâm diệu quán thì cảm được Tịnh độ là tông chỉ của kinh. Tứ Minh Diệu Tông giải thích rằng: Pháp Đại thừa là cốt yếu ở tâm. Tâm đầy đủ thì dễ biết, sắc đầy đủ thì khó hiểu, cho nên quán mình quán người đều tu tâm quán. Nay quán Tịnh độ phải cầu ở tâm. Vì tâm hay đầy đủ nên tâm có khả năng tạo tác, cho nên tâm cấu thì độ cấu, tâm tịnh thì độ tịnh. Đây cũng chỉ chung, chưa phải là đích luận ở một tâm đốn tu ba quán. Quán này là quán y chánh ở An dưỡng, rốt ráo thanh tịnh gọi là Tâm quán tịnh. Quán này có công năng khiến bốn cõi Phật thanh tịnh như thế mới là tông chí của kinh này. Năm thứ trược đầu nhẹ thuộc về đồng cư tịnh. Tịnh này rất chung cần biết ý riêng, như giới giữ tốt thì bốn giáo phàm vị đều có thể khiến năm trược nhẹ mỏng, cảm Đồng cư tịnh, Viên quán trược nhẹ cảm Đồng cư tịnh, y chánh rất thanh tịnh như kinh này nói: Quán đất trở đi, mỗi mỗi tướng trạng so với các kinh khác tu các hạnh lành cảm được cõi An dưỡng, tướng nó rất khác. Kinh này vốn do Vi-đề-hy chán cõi Đồng cư uế mà cầu Đồng cư tịnh. Cho nên nói là diệu quán quán y chánh kia, nếu ba quán thành thì thô cấu hết trước, không phải hữu dư tịnh thì còn sinh nơi nào? Nên biết chính là sinh Đồng cư tịnh. Cho nên nói ba quán bởi do quán diệu dứt bỏ được ba hoặc, chẳng phải chỉ cảm được cõi Đồng cư tịnh. Mà tùy theo sự dứt hoặc sâu cạn tự nhiên cảm được ba thứ hữu dư v.v.. Như bệnh cần uống thuốc vốn để thân yên, nay cầu được thuốc tiên cần phải uống vào, không chỉ thân an mà được cả khinh cốt. Thân an thì dụ cho sinh Đồng cư tịnh, còn khinh cốt thì dụ cho cảm được ba cõi trên. Chỉ là thuốc hay công hiệu như thế, thì một diệu quán thanh tịnh được cả bốn cõi. Vạn Thiện Đồng Quy Tập: Chọn bày Tây phương (Sáu lớp vấn đáp) của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ. Hỏi: Duy tâm Tịnh độ trùn khắp cả mười phương sao lại gá chất đài sen, gởi thân An dưỡng mà khởi niệm lấy, bỏ. Há thấu suốt pháp môn Vô sinh, tâm còn sinh ham, chán thì làm sao thành bình đẳng? Đáp: Duy tâm Phật độ là hiểu rõ tâm mới sinh. Kinh cảnh giới không thể suy nghó bàn luận của Như Lai nói tất cả Đức Phật ba đời đều không thật có, chỉ y vào tâm mình, nếu Bồ-tát hiểu rõ được các Đức Phật và tất cả pháp đều do tâm lượng, được tùy thuận nhẫn, hoặc vào Sơ địa, bỏ thân liền sinh về cõi Phật Cực lạc. Cho nên biết rõ tâm mới sinh duy tâm Tịnh độ. Còn đắm cảnh chỉ rơi vào cảnh sở duyên. Đã biết rõ nhân quả không sai, thì biết ngoài tâm không pháp. Lại pháp môn bình đẳng, ý chỉ vô sinh, tuy liền ngưỡng giáo sinh tín, năng lực chưa đủ mà quán cạn, tâm phù động, cảnh mạnh, thói quen nặng thì phải sinh về cõi Phật để nhờ duyên tốt, nhẫn lực dễ thành, mau hành đạo Bồ-tát. Luận Khởi Tín nói: Chúng sinh mới học Pháp ấy muốn cầu chánh tín mà tâm khiếp nhược, vì ở cõi Ta-bà không thường gặp Phật, nên tín tâm khó thành, ý muốn lui sụt. Phải biết Như Lai có phương tiện hay, giữ gìn được tín tâm, đó là chuyên ý niệm Phật nhân duyên, tùy nguyện được sinh cõi Phật, thường được thấy Phật, xa lìa hẳn đường ác. Nếu người chuyên niệm Phật A-di-đà Tây phương thì liền được vãng sinh, thường được thấy Phật, cho nên không bao giờ lui sụt. Luận Vãng sinh nói người dạo chơi cửa địa ngục sinh lên cõi nước ấy được Vô sinh nhẫn, rồi trở lại cõi sinh tử mà giáo hóa cứu khổ chúng sinh trong địa ngục, do duyên cớ này mà cầu sinh Tịnh độ. Luận Thập Nghi nói: người trí hăng hái cầu sinh Tịnh độ, thấu rõ thể của sinh không thật có thì liền là chân vô sinh. Đây gọi là tâm tịnh nên cõi Phật tịnh. Còn người ngu bị sinh ràng buộc nên khi nghe sinh liền cho là có sinh, nghe không sinh liền cho là không sinh, mà chẳng biết sinh tức là không sinh, không sinh tức là sinh. Chẳng hiểu rõ lý này nên bị vướng phải thị phi, phải quấy. Đây là người tà kiến chê bai pháp vậy. Hỏi: Cả một đời thói quen tội ác chất đầy, làm sao khi sắp qua đời mười niệm liền sinh ngay được? Đáp: Kinh Na-tiên nói: Quốc vương hỏi Sa-môn Na-tiên rằng: Người ở thế gian làm ác đến trăm tuổi, khi qua đời niệm Phật thì được sinh về cõi nước Phật, ta không tin điều ấy. Na-tiên thưa: như đem tảng đá nặng để trên sông, nhờ có thuyền nên không chìm. Còn người tuy có gốc ác nhưng lúc niệm Phật thì chẳng vào địa ngục. Viên đá nhỏ mà chìm thì cũng như người làm ác mà không biết niệm Phật thì liền phải vào địa ngục. Lại, Trí Luận có hỏi rằng: Khi sắp chết, tâm trong một thời gian quá ngắn làm sao thắng được việc làm ác trọn đời? Đáp: Tâm này tuy trong một thời gian ngắn nhưng rất mạnh mẽ quyết liệt như lửa, thuốc độc tuy ít nhỏ mà làm ra việc lớn. Tâm khi sắp chết quyết là dũng mãnh cho nên hơn cả gắng sức làm suốt trăm năm. Hậu tâm ấy gọi là đại tâm và các căn trong lúc gấp, như người vào trận chẳng tiếc thân mạng nên gọi là mạnh mẽ. Cho nên biết thiện ác không định, thể của nhân duyên là không, dấu vết có lên xuống, việc phân ra hơn kém. Như vàng ròng một lượng thì hơn cả trăm lượng bông khô, một đốm lửa nhỏ đốt cháy tan cả đám cỏ muôn nhận. Hỏi: Ngoài tâm không có pháp, Phật chẳng tới lui sao có việc thấy Phật đến rước? Đáp: Duy tâm niệm Phật. Dùng duy tâm mà quán khắp cả muôn pháp. Đã hiểu rõ cảnh chỉ là tâm, hiểu rõ tâm tức là Phật, cho nên hễ tâm niệm chỗ nào thì đều là Phật cả. Kinh Ban-chu nói: Như người nằm mộng thấy bảy báu, bà con vui vẻ. Khi thức dậy rồi thì tìm nhớ chẳng biết là ở đâu. Niệm Phật cũng thế, đây là dụ chỉ do tâm làm tức có mà không, cho nên không có tới lui. Lại như huyễn không thật thì tâm và Phật cả hai đều mất. Đều là huyễn tướng thì không hư hoại tâm và Phật, và hữu không vô ngại, thì không tới lui, chẳng ngại thấy khắp. Thấy tức không thấy, thường hợp với trung đạo. Do đó Phật thật chẳng đến, tâm cũng chẳng đi, đường cảm ứng giao nhau chỉ tâm tự thấy. Như chúng sinh gây ra tội thì chiêu cảm ra tướng địa ngục. Luận Duy Thức nói: Tất cả như ở địa ngục cùng thấy có ngục tốt… các việc hành hạ khổ đau, đều là tâm nghiệp ác của người tội hiện ra. Không phải ngoài tâm mà thật có chó đồng, rắn sắt v.v… Ở thế gian tất cả các việc cũng giống như thế. Tất cả đều có đủ cõi Phật Giá-na, không hạn cục ở Đông, Tây. Nếu hiểu đúng đắn rõ ràng như thế thì các thói quen nhiều đời đều hết, lý lượng cùng thân. Hỏi: Bàng Cư só nói: Về mặt sự thì nói cõi nước Phật cách đây mười muôn dặm, biển lớn mênh mông vô biên hễ động thì nổi gió, người đi tuy ngàn muôn nhưng kẻ đến chẳng được một, hai. Bỗng gặp người xưa nay chẳng ở nhân duyên làm sao thông hiểu mà chứng vãng sinh? Đáp: Nếu nêu tông khảo thì còn không nói có Phật có cõi, há nói là đến hay không đến. Cho nên thiên chân sẵn có, không nhờ nhân duyên, chẳng động mảy lông, thường ngầm thấy được chân thể. Nếu nói về sự thì chẳng phải có một thứ chín phẩm vãng sinh, trên dưới đều đến (đạt). hoặc du hóa ở các cõi nước mà thấy Ứng thân Phật, hoặc sinh Báo độ mà thấy chân thể Phật, hoặc chỉ một tối mà lên Thượng địa, hoặc trải qua nhiều kiếp mới chứng Tiểu thừa, hoặc độn căn, lợi căn, hoặc định ý, tán ý, hoặc ngộ mau chậm, căn cơ khác nhau hoặc hoa nở sớm muộn, thời hạn có khác, xưa nay có ghi chép đủ. Phàm Thánh đều sinh, hạnh tướng rõ ràng, chứng nghiệm thấy Phật, tiếng Phạm âm chẳng dối gạt người, kinh khen ngợi Tịnh độ nói: “Hằng hà sa số các Đức Phật ở mười phương phát ra tướng lưỡi rộng dài che khắp cả đại thiên” chứng nghiệm có vãng sinh đâu phải là nói dối. Hỏi: Kinh Duy-ma-cật nói: Đầy đủ tám pháp, ở thế giới này hành không sai sót sẽ sinh Tịnh độ, những gì là tám? Một là làm lợi ích chúng sinh mà không mong báo đền, thay thế tất cả chúng sinh chịu các khổ não. Làm các công đức đều đem cho hết. Bình đẳng tâm đối với chúng sinh, khiêm tốn vô ngại. Đối với các Bồ-tát đều xem như Phật, các kinh chưa nghe đều nghe không nghi ngờ, không trái với Thanh văn, cũng không ganh ghét về lợi dưỡng. Ở trong đó điều phục tâm mình, luôn xét lỗi mình, không nói lỗi người khác. Luôn một lòng cầu các công đức. Hỏi: Vì sao người hành kém, thiện ít mà được vãng sinh? Đáp: Theo lý thì cần phải đầy đủ. Đây thuộc hàng đại căn, tám pháp không sai sót, thành tựu bậc Thượng phẩm, còn bậc Trung hạ chỉ có đầy đủ một pháp, quyết chí không dời đổi cũng được Hạ phẩm. Hỏi: Kinh Quán nói mười sáu pháp quán đều là nhiếp tâm tu định, quán tướng tốt của Phật, hiểu chắc đế lý mới sinh cõi Tịnh, thì làm sao tán tâm mà được vãng sinh? Đáp: Văn kinh nói chín phẩm có lên xuống, trên dưới thâu gồm không ngoài hai tâm: Định tâm như tu định, tu quán thì vãng sinh Thượng phẩm. Chuyên tâm chỉ niệm danh hiệu, huân tập các điều lành đều hồi hướng phát nguyện thì được thành phẩm cuối. Nếu cả một đời đến chết quy mạng tinh tu, trong lúc ngồi nằm đều xây mặt về hướng Tây, hành đạo kính lễ. Khi niệm Phật phát nguyện thì chí thành khẩn thiết không có các niệm khác. Như đang lúc bị hành hình, bị giam trong tù ngục, bị giặc cướp đuổi gấp, bị nước lửa ép ngặt… mà một lòng cầu cứu nguyện thoát vòng khổ, được mau chứng Vô sinh, rộng độ chúng sinh, nối thạnh Tam bảo, thề báo đáp bốn ân. Như thế mà chí thành thì sẽ không luống uổng. Nếu như lời nói việc làm không ăn khớp, tín lực yếu kém không niệm niệm nối nhau, luôn có ý bỏ, đặc biệt biếng lười. thì khi qua đời mong sinh, ắt bị nghiệp chướng ngăn cản, sợ khó gặp được bạn lành, bị gió lửa bức bách, chánh niệm không thành. Vì sao thế, vì như nay là nhân, khi lâm chung là quả. Nếu tu nhân thật thì quả mới không dối. Tiếng hòa thì vang thuận, hình ngay thì bóng thẳng. Chủ yếu khi qua đời đầy đủ mười niệm, phải lo trước bến cầu, chứa góp công đức. Bây giờ niệm niệm không thiếu thì chẳng còn lo lắng gì. Phàm thiện, ác hai dòng, khổ, vui hai báo đều do ba nghiệp làm ra, bốn duyên tạo thành, sáu nhân gây nên, năm quả nhiếp nhau. Nếu một niệm tâm tức giận, tà dâm thì tức là nghiệp địa ngục; nếu san tham không thật tức là nghiệp ngạ quỷ, nếu ngu si tối tăm tức là nghiệp súc sinh. Ngã mạn cống cao tức là nghiệp Tu-la. Giữ vững năm giới tức là nghiệp người. Tinh tu mười điều lành tức là nghiệp trời. Chứng ngộ nhân không tức là nghiệp Thanh văn. Biết duyên tánh lìa tức là nghiệp Duyên giác. Sáu độ đều tu tức là nghiệp Bồ-tát. Chân từ bình đẳng tức là nghiệp Phật. Nếu tâm tịnh thì đài hương, cây báu cõi Tịnh hóa sinh. Nếu tâm cấu thì gò, đồi, ham, hố uế độ thác chất. Đều là quả Đẳng luân, chiêu cảm được duyên tăng thượng. Ấy là lìa nguồn tự tâm thì chẳng có tự thể riêng. Kinh Duy- ma nói: Muốn được cõi Tịnh độ thì phải tịnh tâm mình, hễ tâm mình tịnh thì cõi Phật liền tịnh. Lại kinh nói: Tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh nên chúng sinh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ví như báu tâm vương, tùy tâm mà thấy chúng sinh, vì tâm chúng sinh tịnh nên được thấy cõi thanh tịnh. Kinh Đại Tập chép muốn tịnh cõi ông chỉ nên tịnh tâm ông. Cho nên biết tất cả trở về tâm, muôn pháp do ngã, muốn được quả tịnh chỉ nên gây nhân tịnh. Như tánh nước chảy xuống, tánh lửa bốc lên. Thế số như thế còn có nghi gì. 4.Di-đà Thông Tán: Chỉ bày yếu nghóa Tây phương của Pháp sư Từ Ân Khuy Cơ. Hỏi: Cõi Phật khắp mười phương vui sướng đều đồng nhau, sao chỉ riêng Tây phương khuyên người sinh lên đó? Đáp: Bởi vì phàm phu nghiệp nặng nơi nơi sinh tham đắm. Nếu không chỉ riêng một phương thì sẽ không buộc tâm chuyên chú. Do đó, kinh Pháp Hoa nói: Chúng sinh nơi nơi đều mê đắm nên dẫn dắt khiến thoát ra. Lại giáo chủ Tịnh độ Tây phương thù thắng, có nguyện rộng lớn mạnh mẽ, khuyên khắp vãng sinh, mau thành quả Thánh nên phải chỉ riêng một phương. Hỏi: Tầng trời của Từ Thị vui sướng không ít, bạn lành lại đông thì cần gì khuyên cầu sinh Tây phương? Đáp: Nếu luận về Đâu-suất thì hơn cõi nhân gian nhưng so với Tây phương thì rất thua kém. Nên khuyên sinh Tây phương là bỏ kém tìm hơn. Về hơn kém thì Tịnh độ có mười hơn, cõi trời có mười kém. Mười hơn của Tịnh độ là: Nơi Hóa chủ ở. Người được hóa sinh sống lâu hơn. Cõi nước không bị ba cõi ràng buộc. Cõi tịnh không có dục. Không có người nữ. Tu hành không lui sụt. Cõi tịnh không uế. Cõi nước trang nghiêm. Niệm Phật nhiếp căn. Mười niệm vãng sinh. Mười kém của cõi trời là: Cõi nước chỗ ở kém. Người được hóa sinh mạng sống ngắn. Cõi nước phải lệ thuộc ba cõi. Cõi ấy có dục. Nam nữ ở chung. Tu hành có lui sụt. Cõi uế không tịnh. Cõi nước không trang nghiêm. Niệm thiện nhiếp tình. 10, Tu hành cực khổ. Vì có mười hơn, mười kém nên khuyên sinh Lạc quốc. Hỏi: Chúng sinh cõi nước ấy không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui. Vì sao không có các khổ? Đáp: Chúng sinh cõi nước ấy hóa sinh trong hoa sen nên không có khổ sinh. Bốn mùa không đổi nên không có khổ chết. Không còn bị thân phần đoạn nên không có khổ bệnh. Tuổi thọ không hết nên không có khổ chết. Không có cha, mẹ, thân, sơ nên không có khổ ghét mà gặp nhau. Muốn gì đều được như ý nên không có khổ cầu không được. Dung mạo xinh đẹp nên không có khổ các căn bị thiếu. Bốn mùa như một nên không có khổ lạnh, nóng. Thế giới Ta-bà có hình xác hữu lậu, bốn rắn đuổi thân, ba rồng hại mạng, gây bao khổ não. Báo hết thì chết đến, có thương ắt lìa, không oán thì chẳng gặp. Nếu mê lý này thì phải chịu các ấm trói buộc. Nay thương cứu mọi người khỏi hẳn không bị các thứ này cho nên nói không có các khổ, đâu phải chỉ gần chết mới lìa các khổ, trong khi quả mầu lại chẳng còn xa. Hỏi: Khi sắp chết làm điều lành liền được vãng sinh, đâu cần tu trước các nghiệp lành? Đáp: Người đời thọ yểu khó lường, hoặc bị bệnh liền hôn mê, hoặc chết tốt không đúng lúc. Đã thiếu các điều lành thuở sinh tiền thì khó tránh các nạn đời sau, làm trước các duyên lành để đề phòng lỗi này. Hỏi: Mười niệm Di-đà liền sinh Tịnh độ, căn cứ vào lời nói này thì quả nhiều, nhân ít. Sao kinh Di-đà lại nói không thể với chút ít nhân duyên phước đức gốc lành mà được sinh về cõi ấy? Đáp: Mười niệm được sinh là để dắt dẫn chúng sinh biếng lười từ kiếp trước có nhiều nhân duyên lành và đã tinh cần, có khi nói rộng, có khi nói tóm lược, lý chẳng trái nhau. Hỏi: Người vãng sinh có thân trung hữu không? Đáp: Trong luận Quần Nghi có hai thuyết: Cực thiện cực ác thì không có thân trung hữu. Không cần thiện hay ác chỉ bỏ báo thân mà thọ sinh thì đều có thân trung hữu. Vì truyền thức cho nên chỉ trừ biến thân hiện đời không có trung hữu, ở đây nói có là đúng. Tịch Chiếu Tập: Chọn ra yếu nghóa Tây phương. (Văn này không biết của sư nào soạn, chỉ thấy xuất xứ từ Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập). Hỏi: Ngài Từ Ân soạn Di-lặc Thượng Sinh kinh sớ rất khen nội viện Đâu-suất, bảo rằng: cõi trời có mười điều dễ sinh, Tịnh độ có bảy điều khó sinh. Thánh sư nói ra ắt không hề gạt người, chẳng hay phải hiểu thế nào? Đáp: Ông chỉ biết Từ Ân soạn Thượng Sinh sớ khuyên nên sinh cõi trời mà không biết Di-đà Thông Tán nói Tịnh độ có mười việc hơn, việc Thánh sư soạn ra có trái nhau chăng? Bởi diễn giáo tùy cơ mà bày phương tiện. Ở đây cùng với Như Lai nói trong kinh Di-đà và Vô Lượng Thọ v.v… đều khuyên sinh Tây phương. Lại nói kinh Di-lặc Thượng Sinh khuyên sinh nội viện thì ý thú phải đồng nhất, còn cơ duyên chúng sinh mỗi người đều khác nhau nên cõi Phật nhiếp thọ cũng thế. Ví như có người sinh ở phía Nam nơi có nhiều thuyền bè, muốn đi Ngô Việt bèn chuẩn bị đồ đạc hỏi đường… Người biết đường thì đáp lời hỏi, há lại khen việc đi đường bộ tiện lợi, khen ngợi sự hưng thạnh hành ở Tần, Thục ư? Như thế thì chỉ thêm rối loạn, lợi ích không thành. Kẻ thông suốt thì tùy nguyện mà biết về, người thấy cạn sẽ nghi ngờ mà cưỡng sinh Hồ, Việt. Hỏi: Ở cõi trời sống lâu đủ để tu hành, trong cõi người chứa góp nhiều điều lành thì cũng tự siêu việt, còn như ba đường ác A-tu-la, rồng, quỷ chính nên cứu khổ lợi sinh, sao lại chỉ biết có Cực lạc? Đáp: Các tầng trời cõi Dục đam mê diệu lạc, say đắm tửu dục, phước hết liền đọa như tên bắn. Các tầng trời cõi Sắc tuy đi một mình không giao tiếp nhưng chưa hết các khổ của thân. Trời Vô Sắc cũng không ra khỏi luân hồi, trong kinh xếp vào loại nạn. Truyền Đại só cho rằng sống đến tám mươi kiếp cuối cùng rồi cũng rơi vào không. Lại có một loại thần tiên sống đến ngàn muôn tuổi. Kinh Lăng-nghiêm gọi là tinh nghiên bảy thú, đều là hôn trầm các tướng hữu vi, vọng tưởng thọ sinh, trải qua vô lượng kiếp chẳng được chân tịnh. Tu-la giận dữ, cõi rồng sợ sệt, loài quỷ tối tăm, ba đường khổ não khó thể nói hết. Nghó xa trên cõi trời có năm suy, gần thấy nhân gian có bốn tướng, ai có trí mà thích vào biển khổ? Nếu cầu mau thoát khỏi luân hồi, thì không gì hơn cầu sinh Tịnh độ. Người sinh Tịnh độ tự nhiên thân quang sáng rực, đủ sáu thần thông, làm bạn với Thánh chúng. Trong một sát-na vượt khỏi ba cõi mà thường vui. Nên Phật nói cõi nước Vô Lượng Thọ vui sướng vô cực, hòa hợp lâu dài cùng đạo đức, dứt bặt cội gốc sinh tử. Hỏi: Thấy tánh ngộ đạo liền thoát khỏi sinh tử, đâu cần phải niệm Phật cầu sinh? Đáp: Thông suốt và mê muội tâm người Thánh, phàm sao lường được, trừ phi biết khắp, được thọ ký rất khó. Người chân tu hành nên tự xét. Này nhân giả, ông nên tự xét mình có thấy tánh ngộ đạo được vào địa vị bậc thầy bằng Mã Minh, Long Thọ chăng? Được đại Tam-muội có bằng Nam Nhạc Trí Giả chăng? Tông Thuyết đều thông có bằng Thọ Thiền sư, Trung Quốc sư chăng? Các sư trên đều là các bậc sáng suốt, ngôn giáo sâu xa nhưng đều khuyên cầu sinh về Tây phương, há lại lừa dối người ư? Huống chi từ kim khẩu của Phật khen ngợi rành rành. Các bậc Hiền xưa đều kính trọng vâng theo lời Phật dạy chắc chắn không sai lầm. Lại tự so sức mình khi qua đời có tự tại chăng, các nghiệp ác từ vô thỉ chẳng hiện ra chăng? Khi bỏ báo thân này có chắc chắn thoát luân hồi chăng? Ba đường hiểm nạn có được ra vào tự do chăng? Trên trời, nhân gian, thế giới mười phương có thác sinh vô ngại chăng? Nếu được như thế thì may mắn thay. Nếu chưa được như thế chớ nên cống cao mà chẳng tu Tịnh độ. Hỏi: Lục Tổ Đàn kinh chép: Phàm ngu chẳng hiểu tự tánh chẳng biết Tây phương ở trong thân lại cầu đây, kia. Người giác ngộ cùng ở một chỗ. Ngài Chí Công nói: Người trí biết tâm là Phật, kẻ ngu thích đến Tây phương, nếu đạo này quả là chân chánh thì cớ gì hai vị Đại só lại bài bác, khiển trách? Đáp: Phật nói pháp có ẩn, hiển, giáo có quyền, thật, căn cơ người có lợi, độn, Tông sư có hạ thấp, đề cao. Ví như bệnh khác nhau thì thuốc thang phải khác. Nay có người bệnh khác phát da vàng sinh điên loạn. Có người giỏi thuốc sẽ lấy thuốc hàn mà trị, đâu thể không khen nhũ thạch, quế phụ có công năng trừ hàn mà phế bỏ công năng của nó? Có kẻ thiên kiến nghe thuốc hàn có công trị nhiệt, bèn nói nhũ thạch, quế phụ vónh viễn không thể dùng, há chẳng lầm ư? Đức Đạt-ma riêng truyền tâm ấn, ngài Chí Công ngầm giúp Đại thừa. Người đương thời còn chưa tin, đâu thể lại bỏ dạy người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, kẻ viên cơ đạt só cố nhiên tự không nghi. Kẻ cầu pháp sơ tâm chắc chắn sinh do dự. Chỉ nên được ý mà quên lời, dung thông hiểu rõ thì không còn mâu thuẫn nữa. Tây Tư Sao: Chọn bày riêng khen ngợi Tây phương của Pháp sư Lô Sơn Trí Viên. Cầu sinh Tịnh độ là nhờ tha lực. Đức Di-đà nguyện nhiếp, Đức Thích-ca khuyên khen, các Đức Phật che chở, ba thứ ấy đầy đủ, nếu người có tín tâm thì vãng sinh rất dễ, cũng như qua biển lớn mà có thuyền to, có người dẫn đường giỏi, lại thêm thuận gió thì sẽ nhanh chóng đến bờ kia. Nếu chẳng chịu lên thuyền mà ở mãi nơi nước dữ thì lỗi về ai? Trong mười phương đều có Tịnh độ, Đức Thích-ca trong các kinh cũng ngợi khen mà người tu hành đời mạt pháp cũng ưa thích cầu sinh nước Cực lạc, nguyện về cung trời Tri Túc. Há không phải Di-đà và Thích-ca hóa đạo có liên quan nhau, Di-lặc là Bổ xứ của Thích-ca. Do đó, chúng sinh nguyện thích rất đông, người ít hoặc lậu khá nhiều. Người đời sau biết cạn, không thể gia thêm công hạnh, chỉ luống cùng nhau bài bác người ưa thích Tịnh độ. Hoặc người khinh tri túc, tôn sùng nội viện thì chê bai Tây phương kia, đâu biết Hấp môn và Dẫn môn cùng về một nẻo. Xin khuyên kẻ hậu học phải tự suy nghó. Có kẻ hỏi: Trí giả và Từ Ân đều là Thánh sư mà đều chỉ khen một phương, sa ông không chịu? Đáp: Thánh sư chỉ khen một phương, ý dẫn khắp thích khiến cho tâm quyết định mà thôi. Cho nên người được lợi ích rất đông. Nhưng đời biến, người bạc đến nỗi riêng khen thành tệ. Cho nên tôi lại dung hòa để dứt tranh cãi mà được lợi ích, sở thích của mình mà cầu sinh thì hoặc ở đời sau lại cho dung hòa là một điều tệ hại. Lại mong các bậc Hiền điều khiển thế gian chỉ khen mà cứu cho. Tùy bệnh cho thuốc, cốt làm lợi ích chúng sinh mà thôi. Từ lúc bé tôi đã tụng kinh này tuy tưởng khắp mười phương mà cuối cùng hẹn tâm ở Tịnh độ. Bèn biết Di-đà rất có duyên với người đời. Có người nói pháp giới trọn đồng nhau, ai chia kia đây, Duy tâm nhất quán đâu cần lui tới. Nay bảo người đời có người hiểu như thế thì phải chọn chúng tốt mà nương, danh sư mà thân, mặc áo đẹp, ăn cơm ngon. Nếu bốn thứ ấy không ngại thì pháp giới vốn đồng, duy tâm nhất quán thì ngại gì dắt dẫn tịnh chúng ở Cực lạc, gần gũi danh sư Di-đà, mặc thiên y diệu thượng, ăn thức ngon Thuần-đà, há chẳng hơn ở cõi này ư? Lại có người nghe nói cách mười muôn ức cõi Phật thì nhìn đường mà sợ xa người vãng sinh phần nhiều là Bổ sứ thì sợ mình không kịp. Đâu biết hư không giới mười phương đều là tâm mình. Tâm tịnh thì mười muôn ức chẳng xa, tâm cấu thì chớp mắt cũng xa. Chỉ cần tâm tịnh lo gì đường xa. Sao chẳng nghó trong mộng chỉ thời gian ngắn là đi xa ngàn dặm, đâu thể đem thời gian thường ngày mà so sánh! Lại há chẳng nghe kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: hư không mười phương sinh trong tâm ông cũng như áng mây trên bầu trời cao, huống là các thế giới ở trong hư không ư? Nay nếu sợ đường xa là sợ tâm mình chứ chẳng sợ đường. Lại nếu bảo ta là kẻ hạ phàm mà ở đó có nhiều Bổ xứ, chỉ tự tâm mình tức Phật, nhân quả lý đồng, nhưng ở đây là cõi uế ác, có mạng sống ngắn ngủi mà chỉ một đời thì vượt lên mười Địa, còn ở cõi ấy thì thanh tịnh lại sống lâu vô lượng. Đã cảnh đẹp, thời gian lâu dài thì lo gì chẳng đến Bổ xứ. Rất mong người trí lắng lòng suy nghó để khỏi phụ ân Phật Tổ, không coi thường mình. Hãy cố gắng, cố gắng! Thơ Thỉnh Pháp Sư Tứ Minh trụ lại thế gian của Văn Công Dương Ức. Tôi xin thưa, gần đây nghe Đại sư có hẹn kết xã với mười vị Tăng vào sám lễ trong ba năm, sau đó sẽ quyết nhận lấy Tịnh độ mà vãng sinh. Thân thấy đốn không, nguyện lực thật rộng lớn mạnh mẽ. Lên tuyệt chín phẩm hoa, sau nghe pháp âm cây báu. Việc này không phải luống không, Phật trước đã chứng biết. Nhưng con niệm liên tục tha thiết có nguyện tâm thành kính thưa: Đại sư vốn thông suốt chỉ quy ba quán, được bốn chúng kính ngưỡng. Hãy là người nối tiếp tuệ mạng của Thiên Thai mở rộng độ môn nhiệm mầu. Dùng mười điều lành dạy người, cuối cùng chỉ còn bạch nghiệp, một âm thanh giúp giáo, giảng rộng lời vàng (lời Phật) bóng Từ che khắp, đạo phong thấm hòa. Nhưng cõi Cực lạc là do đấng Giác Hoàng phương tiện quyền bày, mà thân đại hoạn thì người trí không ưa thích. Nhưng nếu còn ham chán thì sẽ khởi yêu ghét, đã có tâm lấy bỏ thì liền sinh cái chấp có sở năng. Rất mong Sư thông ngộ đã rốt ráo chân thường hãy thương kẻ sơ cơ mà khuyên gắng về tịnh hạnh. Lại mong theo ân chiếu mà mở rộng ruộng phước, kéo dài tuổi thọ, khôi phục lại hóa duyên. Vẫn mong sám kỳ đã xong thì sẽ nương theo dấu pháp, ngỏ hầu bắt chước Thuần-đà kính dâng lần sau cuối, nguyện cùng mừng rỡ tâm cởi bỏ cấu trần. Mong ngài chớ sớm tịch diệt, xin hãy thương xót nhận lời. Kính xin đáp lời, con nguyện lắng lòng nghe kỹ. Trả lời thư của Dương Văn Công thỉnh trụ lại thế gian của Pháp sư Tứ Minh Tri Lễ. Tôi trân trọng theo Sám Giảng của Bổn Tông giáo quán mà kính đáp Bí-giám Đại Đàn-việt. Tri Lễ tôi đội ân lời thật khuyên tôi sám lễ xong sẽ ở lại diễn giảng, vâng hành theo tôn ý mà sửa lại nguyện xưa. Nhưng vì chuyên thành môn này đã lâu, chí hèn thật khó thể đổi dời. Huống là dịp may khó gặp, việc tốt dễ qua cho nên muốn gác lại tâm xưa thì quả chẳng thể vâng theo nghiêm mạng. Vì như việc truyền Pháp công đức lợi người là việc lợi ích của thân này nên chọn Tịnh độ là nơi giáo hóa. Ngài nói Tri Lễ tôi thông suốt chỉ quy ba quán là lời nói quá. Lại bảo Cực lạc là do bày quyền, người tu đạo phải quên bỏ ưa chán, thành thật thay lời nói ấy. Nay Tri Lễ tôi ưa thích Tịnh độ, chán ghét thân bệnh hoạn cũng có lý do sẽ trình bày sau. Dẫu một tâm ba quán không thấu suốt nào dám chẳng tựa nương? Tri Lễ tôi hơn bốn mươi năm tìm học khi thần căn đã độn thì không do đâu mà chứng nhập, ở chỗ then cửa làm ra thời gian trôi qua cũng khá lâu, cũng nói sơ qua để biết rõ. Nay mong được hồi âm nên khó im tiếng, bày tỏ ngọn ngành mong xét cho. Nói về ba quán là một niệm tức không, tức giả, tức trung. Mở bày sửa mình ở diệu ngộ Như Lai. Gần đây do ngài Trí Giả chỉ ra. Toàn cho tánh phát, thật chẳng phải tu thành. Cho nên ở một tâm rõ ràng có ba dụng. Nói không là tất cả đều không, tức ba quán đều bày cái dụng phá tướng. Nói giả là tất cả đều giả, tức ba quán đều nói cái công lập pháp. Nói trung thì tất cả đều trung, tức ba quán đều là thể dứt bặt đối đãi. Ấy thì cả ngày phá tướng mà các pháp đều thành, cả ngày lập pháp mà mảy may đều dứt, cả ngày dứt bặt mà hai đế rõ ràng. Thế nên, Bát-nhã nói không mà tám mươi pháp môn hiển rõ, Duy-ma lập Pháp mà kiến ái ba cõi đều tiêu. Pháp Hoa nêu tướng Nhất thừa thế gian thường trụ là đều do ba quán tương tức mà khiến các pháp không trái nhau. Cho nên ba tức chẳng phải ba, mà một tức chẳng phải một. Chẳng phải thứ lớp mà vào, chẳng phải cùng khác mà quán, chẳng thể lấy có không mà tìm, chẳng thể lấy giữa bên mà nhận. Cho nên nói chẳng cùng chẳng khác chẳng dọc chẳng ngang. Bởi ba-một đều viên dung, tu và tánh ngầm mất. Há thức tâm có thể tìm, lời nào có thể nói. Cho nên gượng nói là diệu quán không thể suy nghó nói năng. Nói tức chẳng nói, không nói mà nói. Có thể biết đây đối với tất cả cảnh lấy đây mà quán chiếu rõ ràng, lập tất cả hạnh thì lấy quán này để dắt dẫn đạt đến. Làm tất cả việc thì lấy quán này mà thành tựu. Bày tất cả giáo thì lấy quán này mà xiển dương. Người tu quán này thì năng sở đều quên, lấy, bỏ đều mất. Cho nên chân như vô niệm thì tâm dứt, cả ngày nói bày mà chẳng khác không nói. Bỏ đây thì đồng với các ma, lìa đây thì chưa vượt các ngoại đạo. Cho nên Long Thọ nói trừ thật tướng các pháp, các thứ khác đều là việc ma. Ngài Ca-diếp nói: Trước khi nghe Đại Niết- bàn đều là tà kiến. Lớn lao thay diệu tông một tâm ba quán. Cho nên Tri Lễ tôi cầu về An dưỡng mà sinh, chỗ muốn đốt cháy hết mà chết, nương ba quán này để dứt trăm lỗi. Nói cõi Cực lạc là đấng Giác hoàng bày quyền, là kinh luận đã lấy giáo Tịnh độ làm phương tiện tốt, Nghiệm biết là Như Lai khéo dùng quyền. Nhưng danh từ quyền không hạn cục, thật lý cũng thông điều này, cần phân biệt. Mới biết lấy bỏ cái quyền ngoài thể thì phải phá, phương tiện trong thể cần phải tu, lý lìa sự thì thô, thật tức quyền mới diệu. Cho nên Tiểu thừa không nói Phật khác, Đại giáo thì có nói về biển cõi. Bởi tâm tánh cùng khắp mà không ngoài pháp giới. Lý tột cùng nên khiến sự rộng, hoa lớn nên mở rộng ao sâu viếng cõi, như mành lưới trời Đế Thích xuất hiện, lớp lớp vô tận mới hiển bày lý tịch quang, thân loại, tiệc trời chiêu cảm quả báo các thứ khác nhau là biểu thị tánh Giá-na. lẽ nào nên Cực lạc chẳng liên quan. Duy tâm, nên trong Như Lai tạng Niết- bàn đầy đủ, tùy duyên mà phát hiện. Nên lường xét mà biết. Đã bày được địa ngục, cõi trời há chẳng tạo uế bang, tịnh quốc. Bổn tánh tuy đầy đủ do tâm phát sáng. Di-đà dùng Vô duyên từ nhận lấy cõi Cực lạc. Thích-ca bày lạc thuyết mà chỉ môn vãng sinh. Đây đều là quyền phương khéo léo nhiếp độ kẻ đắm chìm. Nay kẻ sợ lui sụt sẽ không lui sụt khiến người không giỏi quán thì quán được. Tịnh độ, quyền tướng khá nhiều nay chỉ lược nói sơ lược, ở đây có hai. Luận Khởi tín nói kẻ mới học Đại thừa chánh tín, ở cõi này chẳng thường gặp, Phật sợ bảo tín tâm thiếu duyên mà lui sụt. Phải biết Như Lai có phương tiện hay khiến không lui sụt, chỉ cần chuyên niệm Phật A-di-đà thế giới Cực lạc chân như Pháp thân thì sẽ sinh về nước ấy mà trụ vào chánh Định. Người chuyên niệm pháp thân chân như đâu khác gì Đại thừa chánh tín, vì nương Phật ấy làm cảnh cho nên khiến sinh về cõi Tịnh. Đây là Như Lai quyền xảo vậy. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: Phàm phu tâm tưởng yếu kém, chưa được thiên nhãn chưa thể quán xa. Các Đức Phật Như Lai có phương tiện lạ giúp họ được thấy. Đây là do thần lực của Đức Thích-ca và nguyện tâm của Phật A-di-đà. Nếu có người quán thì sẽ quán thấy. Đây cũng là phương tiện khéo của đấng Giác hoàng. Phương tiện quyền xảo này là nói theo viên giáo, tức không hai không khác với phương tiện vi diệu của Pháp Hoa. Các Trời, người, cùng Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát Đại só tiệm tu, đầy khắp thế gian số nhiều như hằng sa, nghó suy so lường cũng không biết hết được. Chỉ có Phật và Phật mới có thể tin hiểu đầy đủ, mới có thể tu tạo mà thôi. Tri Lễ tôi dẫu là độn căn nhưng cũng thấm đượm Viên giáo, không lìa đương niệm, nguyện được sinh về cõi nước ấy. Ngõ hầu là phàm phu thấp kém mà lên vị Bất thoái. Lại nghe Phật Đại Thông cùng mọi người kết duyên ở đời trải các trần kiếp đến nay trụ ở bậc Thanh văn đều do lui sụt Đại thừa mà phải trải nhiều thời gian. Ngài Thân tử còn sáu tâm lui sụt xuống năm đường huống là kẻ học Phật sơ sài. Bởi do cõi này gặp nhiều duyên lui sụt. Cho nên nói Bồ-tát Ngư Tử Am-la-hoa khi mới phát tâm ba việc, trong nhân thì nhiều mà kết quả thì ít. Còn nếu cầu sinh An dưỡng thì dầu bát địa cũng gặp duyên tốt vừa được vãng sinh thì liền không bao giờ lui sụt. Nghe lợi ích này thì đâu được chẳng mong cầu. Phải dùng một tâm ba quán làm thuyền bè, lại lấy sáu thời, năm hối làm chèo chống cầu đến Duy tâm Tịnh độ, mong thấy bổn tánh Di-đà, sau rồi sẽ vận dụng đồng thể đại bi mà độ sinh trong pháp giới thuận với quyền xảo của Phật mà cầu sinh Lạc bang, ý tóm tắt như thế. Nay nói tôi còn ưa thích chán bỏ thì liền khởi yêu ghét, sinh tâm lấy bỏ, sinh cái chấp sở năng là tướng gây lỗi. Thật như lời ông nói, cái duyên lập đức ấy nay xin nói sơ lược. Đem ưa chán, lấy bỏ khéo khởi lỗi, thành công, nên ngài Mã Minh lập làm nền thỉ giác, ngài Trí Giả gọi là tiệm Tịnh độ, ngài Duy-ma xem kiến ái là thị giả, ngài Văn-thù lấy tham nhuế làm công năng. Đây đều là cách dùng cho người mà thực hành theo đó có phương pháp. Vả lại, chúng sinh nhiều kiếp ở cõi Ta-bà này tham sắc, thanh thô tệ, đắm nơi y, chánh thấp kém, đã không có niệm chán lìa mà chỉ tăng thêm duyên trói buộc thì dẫu có huân tu cũng ít được toại nguyện. Vì ở cõi này pháp bị nhiều chướng ngại khiến đạo hạnh khó thành. Nên kinh Niết-bàn nói: Được thân người như đất dính ở đầu móng tay, mất thân người như đất đại địa. Cho nên các Đức Phật thương xót các chúng sinh này dùng công đức hạnh nguyện nhiếp lấy cõi thanh tịnh, khiến chúng sinh khởi tâm ưa thích để làm nhân thọ sinh, dùng lời lẽ thiết yếu nói về tướng cấu uế để khiến chán ghét mà muốn ra khỏi. Nếu không có tâm này thì không thành thỉ hạnh. Cho nên nếu chẳng nhàm chán lìa bỏ cõi này thì không có nguyên do khởi tâm ưa thích mong cầu mà được sinh về cõi ấy. Bởi pháp thọ sinh là lấy ái làm duyên. Trước tiên từ sơ tâm, cuối cùng đến Đẳng giác. Thân biến dịch chưa hết thì ưa chán làm sao quên, huống gì là thỉ hạnh. Nay cầu Tịnh độ không vì thân hưởng các vui, tâm đắm nhiễm các diệu trần, mà muốn nhờ tịnh duyên kia để mau tăng trưởng thắng đạo. Vì tuổi thọ ở cõi ấy vô tận, y báo tự nhiên, không có người nữ và căn thiếu. Tuy Thánh phàm cùng ở nhưng không có danh từ đường ác, tuy Thanh văn nhiều vô biên nhưng lại lìa kiến chấp về chân. Di-đà là thầy dẫn đường giỏi, Quán Âm là bạn tốt. Một khi sinh làm Bổ xứ thì rất nhiều vị Thập địa, bậc Thánh vô số, gió lay cây báu, sóng động hoa vàng đều phát ra tiếng mầu nhiệm, nói toàn diệu lý. Đã không trái thuận, dứt hẳn tham sân. Phàm có thấy nghe thì đều nhờ tịch chiếu, đều đến chánh định, do công phu ở đây khiến nên. Chứng viên còn cầu sinh cõi báo mình há chẳng nguyện sinh? Chỉ biết Tịnh độ dạy tâm, uế bang tức tánh. Ngay nơi chán mà không chán, ưa mà không ưa, cho nên chánh trợ cùng tu, giải hạnh gồm đủ, là thuận theo chánh giáo của Phật, không phải tình vọng của riêng mình. Huống là kinh Quán có nói: nhân sinh Thượng phẩm cần phải hiểu rõ Đại thừa, tu thêm sáu độ gồm khuyên chúng sinh. Nên Tri Lễ tôi nay dùng ba quán để công tâm, năm hối để giúp đạo, vẫn còn sợ tịnh nhân chưa đủ. Nên lấy cái chết để nương duyên mạnh sau cùng mà làm định nghiệp vãng sinh. Lại nếu chẳng thiêu thân, đốt tay thì không phải là Bồ-tát xuất gia mà kinh Phạm Võng đã dạy rõ. Bỏ thân mạng tài sản là chân pháp cúng dường như Pháp Hoa đã nói. Kinh Lăng-nghiêm nói đốt một nén hương, nợ xưa đều trả đủ. Luân Vương khoét thân đốt ngàn ngọn đèn mà quả mầu liền được. Cho nên biết sơ tâm hậu vị trên Thánh dưới phàm đều có thể vâng tu và hiển bày chí giáo. Chỉ cần chánh giải tự tránh tà tu, nên biết tánh lửa chân không thì đâu có tướng năng thiêu, thì sở thiêu sẽ tự mất. Lại biết thể Phật viên diệu đâu còn người sở cúng, năng cúng cũng tự tiêu. Cả hai lớp năng sở đã mất thì tất cả công đức đều thành. Đây gọi là pháp môn khổ hạnh. Bảo rằng ánh sáng chánh thọ, tịnh cảnh bốn cõi liền hiện tâm này. Các đạo tràng Phật đều chỉ bày, tùy theo sở nguyện sẽ được vãng sinh. Nên ngài Trí Giả nói: Khi qua đời tâm ở trong định tức là Tịnh độ, động niệm tức là giờ khắc vãng sinh Tịnh độ. Như đây bỏ thân uế thì các cấu uế đều hết lý nào chẳng bày. Như đây nhận lấy Tịnh độ là chỗ Vi-đề-hy ưa thích, nghiệp báo thanh tịnh, liền chứng vô sinh. Tát-đỏa bỏ thân đầy bệnh hoạn bảo là cầu thường vui. Ở đây lấy bỏ và chẳng lấy bỏ thể không hai thứ, dụng cũng đồng thời được gọi là ba thứ pháp môn, tức là: Pháp môn lấy, pháp môn bỏ, Pháp môn không lấy không bỏ, cũng gọi là Pháp môn ba Độc, đủ tất cả pháp. Cho nên, kinh Vô Hành nói: Tham dục tức là đạo, sân si cũng giống như thế. Như thế, trong ba pháp ấy đầy đủ tất cả công đức, ngài Văn-thù nói: Ta là tham dục Thi-lợi, ta là sân nhuế Thi-lợi, ta là ngu si Thi-lợi. Hiểu sâu ý này tức là một tâm ba quán, dẫn dắt tất cả hạnh, làm tất cả việc. Vì tất cả pháp là không nên bỏ uế sẽ hết, vì tất cả pháp là giả cho nên nhiếp lấy tịnh không sót. Vì tất cả trung nên không lấy không bỏ, ba pháp này tất cả Như Lai đều chứng, tất cả Bồ-tát đều tu. Cho nên Tri Lễ tôi nay bỏ uế thân, ưa cầu Tịnh độ đâu dám không bắt chước. Song tu tâm muôn hạnh, vào đạo có nhiều cửa. Tùy ưa, tùy nghi, tùy tu, tùy ngộ, nào dám đem cái thấy cục bộ mà nhìn thái hư. Chỉ vì Tri Lễ tôi từ bé đã có chí này. Nay đã già yếu, Trải nhiều sự duyên, tâm này luôn hiện tiền đối cảnh càng thêm tinh tấn. Tin do nguyện xưa đâu dám chẳng đáp trả… Năm rồi tôi xây dựng đạo tràng, chúng tin cùng gầy dựng, cúng dường vật liệu ba năm, các duyên tạm đầy đủ. Số Tăng có hạnh nguyện ngẫu nhiên mà đồng đầy. Nay gặp Bí Giám rõ biết tánh danh, trước sau dám mời, cúi mong vì đàn việt vận chuyển bánh xe sức mạnh khiến các điều lành mau thành, giúp tịnh nguyện sớm toại, sau đó giúp tông giáo tôi truyền bá rộng, giúp người chưa nghe được nghe khiến kẻ chưa ngộ được ngộ. Lại mong giúp cho sau khi công thành, báo thân đã mãn thì tùy nguyện cầu sinh thế giới Cực lạc mong được cùng ở một nơi, cùng họp nhân xưa cùng hóa độ chúng sinh, cùng lên đại giác. Tri Lễ tôi vốn không văn học, nguyên là vị Tăng quê mùa, nói năng ngây ngô trình bày thiếu vụng. Bởi đọc thư trước bảo là tinh tu sám pháp, đạt đến gốc tịnh, kế viết rằng Tịnh độ không phải dối vì các Phật trước đã chứng. Mong Bí-lãm thấu rõ ngọn nguồn khổ hạnh, lại biết Tịnh bang xưa nay tức lý. Bởi muốn Tri Lễ tôi rộng đem thành giáo dạy kẻ chưa nghe. Cho nên dám đem Bổn tông mà trình bày chút ít ngu kiến, gây phiền chán cho người, sợ sệt không xiết kể. Lễ: Đáp lời hỏi của Dương Văn Công của Pháp sư Tứ Minh Trí Theo sư có nói: Tây phương Tịnh độ gió lay lá báu, sóng động sen vàng, đây là cảnh giới của ai vậy? Đáp: Thấy nghe ở đâu đều không có lý lẽ. Đã nêu giáo nghóa đâu dám không trình bày. Phàm y chánh Tịnh độ đều giảng nói Pháp mầu hợp với người nghe căn trần đều bặt dấu, vật ngã như một, huống là chấp có người đối với cảnh giới khác. Trong đây, người tu hạnh Viên đốn, căn đối với trần mà khởi thức liền hiểu. Còn lấy Pháp giới đối pháp giới mà khởi pháp giới thì thật chẳng phải là cảnh ở ngoài tâm, tâm ở ngoài cảnh thì tâm tự biết tâm, cảnh tự thấy cảnh cảnh đâu thấy cảnh tâm há biết tâm? Sự (thấy biết) đã quên thì nói năng cũng dứt. Cho nên gượng gọi là cảnh quan không thể suy nghó ngói năng. Phàm vị tu thì chuộng đây, còn Thánh vị thì chứng kia. Lại nếu gượng luận cảnh phải lìa thì tướng khác nhau, thô trong thô. Là cảnh giới phàm phu,còn Tế trong tế là cảnh giới Phật, đó là do giáo và đạo phân biệt. Như nay Viên luận không lìa mà lìa, kẻ sơ tâm là năng ly, Phật là sở ly. Vì một tâm ba quán tức trí Phật cho nên thư trước nói: đối tất cả cảnh lấy đây quán chiếu mà hiểu rõ là nói việc này vậy. Sớ Diên Khánh khuyên mọi người niệm Phật của Pháp sư Tứ Minh Tri Lễ. Phàm một niệm vốn dung thông các pháp vô ngại gặp huân đã khác, cảm báo thành sai. Do đó thuận tánh mà tu thì hiển bày Tịnh độ của các Đức Phật. Làm theo tình thì phải đi vào vòng khổ năm đường. Do đó đối với Ta-bà ra khỏi rất khó mà đọa lạc thì rất nhiều. Cho nên kinh nói: Được thân người như đất dính trong móng tay, mất thân người như đất đại địa. Đợi ba Thừa thực hành đủ thì mới tránh được sự thọ sinh bốn đường. Bởi cảnh giới thô xấu, phiền não mạnh mẽ phải tự lực cầu thoát khỏi rất khó. Nếu như sinh An dưỡng thì cõi nước trang nghiêm, thân tâm thanh tịnh thẳng đến thành Phật chẳng đọa ba đường. Kinh nói còn không có danh từ đường ác huống là thật có. Lại nói chúng sinh ở đó đều là bậc A-bệ-bạt trí. Nếu muốn sinh về cõi ấy phải xưng niệm danh hiệu Đức Phật ấy, tu theo tâm Từ bi của Đức Phật ấy thì được bổn nguyện của Đức Phật ấy nhiếp giữ. Bỏ báo thân này chắc chắn sinh về cõi nước ấy, đủ như kinh nói, thật chẳng phải nói càn (đoán mò). Nay kết muôn người làm thành một xã, tâm tâm giữ niệm, ngày ngày ước hẹn. Mỗi năm vào tiết giữa Xuân (tháng hai) đồng nhóm hợp tại một nơi đồng tu cúng dường, đồng nghe pháp âm. Hội lấy muôn lòng là một chí, giúp thành định nghiệp thề được vãng sinh. Huống là báo được ánh sáng, giống như đuốc trước gió một hơi thở chẳng vào thì ba đường hiện tiền, sao được dần dà, chẳng nghó quả báo đời sau, phải y theo lời Phật, chẳng thuận tình người, mau dứt các duyên, chỉ siêng niệm Phật. Vãng sinh Tịnh độ Quyết nghi môn của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Phải giải bỏ nghi ngờ. Vì nghi ngờ làm chướng ngại niềm tin. Việc lành nhỏ ở thế gian còn chẳng thành huống gì là đạo lớn Bồ-đề. Xưa nay, các Sư quy tâm cõi Tịnh, hoặc soạn sớ giải kinh, hoặc nương kinh soạn luận, hoặc tùy việc giải thích, hoặc Già-đà khen bày, tuy khác nẻo nhưng cùng quy về một chỗ, mà cùng trình bày chỗ thấy, soạn bài biên sách, sưu tầm nghiên cứu rất khó. Nay gồm nhiếp trăm nhà ấy, dùng ba điều thắc mắc thâu tóm tất cả: Nghi thầy. Nghi pháp. Nghi mình. Nghi Thầy: Có hai loại: 1.Các tà sư ngoại đạo, điên đảo mê lầm dạy người, không nên theo. 2. Thầy chánh pháp, Lại có nhân quả phàm, Thánh và nhân vị chưa hoàn toàn rõ biết giống như Thanh Biện cho rằng Di-lặc chưa phải là biết khắp, đợi đạo Long Hoa sau mới hỏi luật. Tức là việc ấy. Nay hiển bày Tây phương khiến hồi hướng thì chỉ có quả Phật, Thánh sư Thích-ca Như Lai và các Đức Phật mười phương phát ra tướng lưỡi rộng dài nói lời thành thật khuyến khích khen ngợi vãng sinh thì còn mê hoặc gì? Nghi pháp: Phật pháp có hai: 1.Tiểu thừa, pháp Bất liễu nghóa. Đại thừa, Pháp liễu nghóa. Trong Đại thừa lại có Liễu và Bất liễu nghóa. Nay nói Tịnh độ là chỉ cho Đại thừa, là pháp liễu nghóa trong liễu nghóa. Vả lại, kinh bộ Tiểu thừa thì gồm hết các sách, không hề có một chữ khuyến khích khen ngợi vãng sinh Tịnh độ phương khác. Nên trong luận Thiên Thân có nói: Người nữ và căn thiếu, Nhị thừa đều không sinh. Đây là chứng cứ rõ ràng. Hỏi: Kinh Tiểu Di-đà… đều nói: Nước ấy có đệ tử là Thanh văn và kinh Cổ Âm Vương nói: Phật Mẫu tên Thù Thắng Diệu Nhan cũng là người nữ. Đáp: Phật Mẫu là chỉ lúc xưa khi Thái tử giáng sinh, khi Thái tử thành Chánh giác thì cõi nước cũng tịnh, nên không có người nữ. Mẹ ngài chuyển thành thân nam như Long nữ ở cõi này. Hoặc lại qua đời như mẹ của thái tử Tất-đạt (Ma-da). Có người chú luận dẫn văn kinh này mà bảo rằng: cõi ấy cũng có người nữ là không đúng. Còn Thanh văn như Quán kinh sớ và luận Thập Nghi cùng giống nhau. Nay nói Đại thừa, lại có ba thứ: Ba thừa Thông giáo; pháp môn này tuy chung cho Đại thừa, mà khá gần Nhị thừa. Lại đương giáo Bồ-tát tuy lại độ người, tịnh cõi nước Phật mà Độ xong thì trở về đồng với Nhị thừa . Lý sâu Tịnh độ họ không biết được, vì không phải liễu nghóa. Đại thừa Biệt giáo. Ở đây nói Đại thừa riêng cho pháp Bồ-tát tuy nói thật lý sau mới chứng đạo, mà nhân quả không dung nhau, Tịnh độ thì ngoài lý tu thành, muôn pháp vì thế chẳng có đủ mười tâm. Tuy trải qua nhiều kiếp tu đạo, đến nhiều các cõi Phật chỉ cho nhân quả của Tịnh độ ấy chỉ là phương tiện ngoài thể, đây cũng chưa rốt ráo. Phật thừa Viên giáo. Giáo này giải thích ý chỉ viên dung nhân quả đầy đủ, là chỗ nhiệm mầu của Phật pháp. Đây là vì xưa không biết chỗ biểu thị. Kinh nói rằng: Mười phương tìm khắp nhưng không có thừa nào khác, chỉ một Phật thừa là nói đây vậy. Vậy thì Đại thừa của Đại thừa, liễu nghóa của liễu nghóa. Mười phương tịnh uế hoại mất đồng một sát-na, một niệm sắc tâm bày khắp trong pháp giới. Đồng thời thiên chân sẵn có không phải duyên khởi mới thành. Một niệm đã thế thì một trần cũng vậy. Cho nên hay ở trong mỗi hạt bụi mà có tất cả cõi, ở trong mỗi tâm mà có tất cả tâm. Mỗi tâm và bụi lại cùng khắp, lớp lớp vô tận không chướng ngại, cùng một lúc hiện ngay không có ẩn hiển, tất cả viên thành không có hơn kém. Như loại Thần châu, bao hàm các báu, cũng như mành lưới của trời Đế Thích giao chiếu ngàn tia sáng. Tâm ta đã thế thì Phật và chúng sinh thể đồng. Như thế thì mới hiểu rõ hồi thần nhớ cõi nước, thật sinh trong tâm mình gá vào chín phẩm sen há tránh khỏi chỉ trong mé sát-na. Còn nếu sự lý cách xa thì, tịnh uế ngại nhau, làm sao khiến cho phàm phu gây tạo năm tội nghịch mà mười niệm liền sinh về cõi báu? Hàng Nhị thừa hồi tâm liền được ở ao vàng? Tin vào Viên đàm đây thì sự nào chẳng đạt, mê lý tột này thì gặp việc đều mê. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Tâm như người thợ vẽ, tạo ra các thứ năm ấm, tất cả thế gian đều do tâm tạo. Phật cũng như tâm, chúng sinh cũng như Phật. Tâm, Phật và chúng sinh, ba thứ không khác nhau. Lại luận Khởi Tín chép: Nói về pháp, nghóa là tâm chúng sinh, tâm này tức nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, y vào tâm này mà hiển bày nghóa Ma-ha-diễn. Thập Lục Quán nói các Đức Phật Như Lai là thân Pháp giới nhập vào tâm tưởng tất cả chúng sinh, cho đến tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Lại kinh Ban-chu Tam-muội nói rằng: Phật là tâm ta, tâm ta thấy Phật, tâm ta làm Phật… Nói về ý chỉ này trong kinh Đại thừa có nêu rõ ràng. Còn trong kinh Pháp Hoa nói Như Lai đích thân thọ ký vãng sinh. Kinh Hoa Nghiêm thì nói ngài Phổ Hiền trình bày hồi hướng. Đó cho nên biết nhân địa A-di-đà, quán lý này mà đại thệ khắp thâu, Đức Thích-ca thành tựu đạo quả khen ngợi lý này, mà việc bày tướng lưỡi rộng dài khen ngợi thì các Đức Phật ba đời ở khắp mười phương đều như thế. Hỏi: Như trên đã nói lý mầu viên cực, người đều phải quán hạnh đầy đủ thì mới sinh ư? Đáp: Không phải thế. Nay chỉ cởi mở nghi tình khiến cho biết Tịnh độ trăm báu trang nghiêm, nhân quả chín phẩm đều ở trong tâm hiện hiền của chúng sinh, lý tánh đầy đủ mới có thể được, ngày nay việc tu hành vãng sinh tùy nguyện tự nhiên, cho nên khắp mười phương chẳng lìa đương niệm, tới lui pháp giới chánh hợp với duy tâm, chớ tin theo thói thường chấp đây kia, không phải tướng hạnh nguyện ấy chính ở tại phần sau không phải điều hỏi ở đây. Huống là tướng sinh chín phẩm đều có hạnh loại khác nhau. Ba phẩm bậc thượng phải có giải (hiểu) có hành (làm). Nên văn nói rằng: Ông thực hành Đại thừa hiểu nghóa bậc nhất, tức là người này vậy. Nay học giả thấy người hiền mà nghó cố gắng làm sao mình phải bằng họ, mong được lên cao thì chỉ phải nhờ diệu quán. Nếu sinh nhân ở sáu phẩm dưới là giữ giới cấm, thực hành hạnh nhân từ ở thế gian. Cho đến phẩm sinh thấp nhất là chúng sinh ác nghịch mà khi qua đời chí thành mười niệm thì liền sinh về nước ấy, chỉ cần biết có Tịnh độ rồi hồi tâm nương về. Nếu không phải thế thì đâu thể tự vào chín phẩm khác nhau. 3. Nghi mình, hỏi rằng: Mình là phàm phu bạc địa, duyên đời trói cột, làm sao thân này được sinh về các Tịnh độ của Phật, vào được biển Thánh hiền, đồng ở trong nhóm chánh định ư? Giải thích rằng nếu hiểu rõ pháp tánh thông suốt như hư không ở trên và tin chắc bổn nguyện Di-đà dắt dẫn thì, chỉ khuyên làm công đức đâu đợi phải hỏi. Huống người mười niệm được sinh chỉ trừ người gây ra năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp. Lại người định tâm mười niệm mà gây tội nghịch và hủy báng thì cũng được sinh. Nay may mắn mình không phải kẻ ác lại chánh nguyện mong cầu thì còn nghi ngờ gì nữa? Nghóa Học Biên Luận Tịch Giải Phấn của Pháp sư Tịnh Giác Nhân Nhạc. Không Danh Cư só, tức là Pháp sư Vô Kỷ nói: Trong các truyện ký có ghi: Đầu tiên từ đời Tấn có Lô sơn Tuệ Viễn cùng các Tín só kết xã hương lửa nguyện sinh Tây phương. Bèn thỉnh người trong Xã là Lưu Di Dân soạn lời thề. Có kẻ hỏi đây là phương tiện của Giáo môn quyền tiệm. Nếu quán xét rốt ráo căn ấy thì chỉ thấu đạt nguồn gốc của tâm là chánh tu hành. Đời Đường ở Ung châu có Giám điền Thích Pháp Hỷ chuyên tu thiền nghiệp, biết trước lúc chết. Đại chúng bỗng nghe ở khu rừng phía Bắc có tiếng âm nhạc bèn báo với Hỷ. Hỷ nói: Quả báo ở thế gian lâu ngày cũng hết vì sao phải sinh vào chỗ vui. Bèn im lặng nhập định, phút chốc tiếng nhạc liền ngưng, Hỷ cũng ngồi thẳng mà hóa. Lại đời Đường, ở kinh đô có Thích Đàm Luân khi qua đời có người hỏi vãng sinh về đâu thì đáp: “Vô tận thế giới”, rồi im lặng mà hóa. Nay nêu rõ hai Sư chết tốt như trên chính là cảnh cao siêu Nê-hoàn. Sao những người một đời cầu sinh Tịnh độ lấy kia so đây, sao còn thô sơ dùng dằng ở hai điều mà chưa ngộ. Pháp sư nói: Tôi vừa đọc sách của Dương Công nói Cực lạc là quyền bày. Thật là thuyết ưa chán, lấy bỏ. Không đợi hỏi lại muốn trích dẫn mà trình bày. Nay được hỏi như cung gặp tên đâu được chẳng nói: Cực lạc là quyền, quyền thì đối lại với thật, xin thử trình bày thì Tiểu thừa là quyền, Đại thừa là thật. Vì “Pháp có là quyền, pháp không” là thật. Như nói Tiểu thừa là quyền, vì trong kinh Thanh văn không có một chữ nào khuyến khích khen ngợi vãng sinh Tịnh độ mười phương. Nên ngài Ca-diếp nói: Chỉ niệm Không, Vô tướng, Vô tác. Đối với pháp du hý thần thông tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh của Bồ-tát tâm không vui mừng. Nếu bảo có pháp là quyền thì sao chỉ có Cực lạc là quyền, còn như Niết-bàn thì cũng là quyền. Cho nên ngài Tu-bồ-đề nói: Nếu có pháp nào hơn Niết-bàn thì ta cũng nói là như huyễn, như mộng. Do đây mà nói thì ưa thích Niết-bàn mà nhàn chán Cực lạc thì cũng như trốn núi cao mà chạy vào vực sâu thì đâu cũng chết. Lại nói không lấy Cực lạc cũng không lấy Nê-hoàn, trống không chẳng dấu vết chẳng thể nghó bàn. Như thế thì chết rồi không sinh, khác gì ngoại đạo có kiến chấp diệt tận. Lại có thuyết ta diệt độ rồi thì các thế giới ở mười phương đều là thân ta thì sao chắc chắn phải sinh Tây phương Cực lạc làm gì? Nếu thế thì lại đồng với bậc Thánh hiện khắp hình sắc. Chưa chứng nói chứng là tội nói dối nghiêm trọng thì ai dám làm. Ngài Thiên Thai Trí Giả nói: người thường nghe sinh liền cho là sinh, nghe không sinh liền cho là không sinh, chẳng biết sinh tức là vô sinh, vô sinh mà sinh. Ngang bướng phải quấy, trợn mắt cầu sinh Tịnh độ thật lầm lạc biết bao nhiêu! Nên biết Pháp Hỷ chẳng cầu chỗ vui. Đàm Luân trở về vô tận, đây là những lời khiến tình lìa mê đắm, không phải là chết rồi thì diệt mất như hư không. Phàm phu thì thọ sinh theo nghiệp, bậc Thánh cũng tùy cơ mà làm lợi ích. Huống Pháp Hỷ chết rồi giáng thần vào đệ tử bảo rằng: Ta muốn để lộ thi hài ta ngoài trời để chim thú, côn trùng ăn… Há chẳng phải thân này tuy thức bỏ đi rồi vẫn còn sống ư? Mà chỉ là cảnh cao siêu Nê-hoàn, lấy gì mà nghiệm. Lại Nê-hoàn, Hán dịch là diệt độ, gồm hết các giáo cũng chỉ hai chữ này. Nếu Nê-hoàn Thanh văn thì dứt được phiền não kiến tư, vượt khỏi phần đoạn sinh tử, chứng lý thiên không. Lý đã thiên (lệch) thì “Không” không thể có. Cho nên thân và cõi đều mất. Đây là nói phương tiện. Nếu các Đức Phật Nê-hoàn thì dứt vô minh phiền não, vượt khỏi biến dịch sinh tử, chứng lý trung đạo. Lý đã trung thì chẳng phải không, chẳng phải có, nên ứng hóa vô cùng. Đây là nói về liễu nghóa. Nay chưa xét kỹ hai Sư Luân, Hỷ ở Niết-bàn nào. Nếu là thiên không thì chưa khỏi thô sơ, còn trung đạo thì sao gọi là cảnh cao siêu. Nay người học ai chẳng bảo ngay nơi tâm là Phật, chạm mắt đều chân, sao cực nhọc mà chuyển vật đồng như, mình vượt hơn Tỳ, Thích và căn tự sát hạch, trở về trống rỗng, mịt mờ như đi đêm. Thật còn đủ tham, sân thì sao ưa, chán mà chẳng khởi? Xem cõi giàu sang như cốt nhục, nhìn nghèo hèn như ghẻ bướu. Đối với ta thì thiện là muốn lên bậc cao, ác là hận chẳng giết hết người trong chợ. Phàm những loại người này hổ thẹn mà tu Tịnh độ tự bảo là người ưa chán chẳng biết có làm được không. Trong Tăng truyện ở thiên Tập thiền có rất nhiều người khổ hạnh trọn đời, cẩn trọng tu hạnh An dưỡng, hoặc ưa cầu tri túc. Như Tuệ Chân tuyệt thực mà hành sám Tịnh độ, đốt thân làm đèn, Tăng Hiển hiện đời cảm được Di- đà, Trí Hy thấy rõ cõi Đâu-suất. Không ai bảo đây là hạng người tập tục thô sơ. Lô sơn Tuệ Viễn là tăng bảo ở đời ít có. Phạm chúng ở Tây Vực đều khen đất Hán có Đạo só Đại thừa. Mỗi khi thắp hương đều hướng về phía Đông mà cúi đầu lễ bái, há quên giáo viên đốn, chuyên do pháp môn quyền tiệm. Các vị Lưu Di Dân Lôi Thứ Tông đều là bậc tài giỏi đời Tấn sao dám quỷ quyệt dối trá chạy theo mà chẳng biết. Tiệm tu thường mê muội về vãng sinh, kẻ đốn giáo lại luôn khen Tịnh độ. Phật nói: Ai thường đọc tụng kinh điển Đại thừa hiểu rõ nghóa thú bậc nhất sẽ không kinh động với nghiệp vãng sinh Thượng phẩm này. Lại, ngài Thiên Thân nói: Hàng Nhị thừa không sinh Cực lạc. Kinh Hoa Nghiêm có nói khuyên sinh. Kinh Pháp Hoa có lời thọ ký vãng sinh. các Đức Như Lai mười phương phát ra tướng lưỡi rộng dài, đều khen ngợi vãng sinh về nước ấy. Ngài Di-lặc hỏi Phật rằng: Ở thế giới này có bao nhiêu Bồ-tát sinh nước ấy? Phật bảo: Có sáu mươi bảy ức Bồ-tát không lui sụt, mỗi Bồ-tát đã từng cúng dường vô số các Đức Phật như Di-lặc kế đây vậy. Phật lại nói: Đời mạt pháp diệt rồi, chỉ lưu lại kinh Vô Lượng Thọ trong một trăm năm để dắt dẫn chúng sinh. Lấy đây làm chứng. Vì sao lại xem thường người vãng sinh, vì sao ngăn lấp đường Cực lạc. Gây thiệt hại rất lớn, há không cẩn thận ư? Lại bài tựa sau có nói: Lại có người dẫn truyền đăng là Hòa thượng Đại Châu nói: Bỏ cấu lấy tịnh là nghiệp sinh tử. Cư só Bàng Long Uẩn nói: Bỏ phiền não vào Bồ-đề chẳng biết phương nào có Phật địa. Vì câu kệ này mà khinh thường Tịnh độ. Chắc chắn không thể được. Lại nói chẳng cấu chẳng tịnh là nghóa tức tâm tức Phật. Phàm theo Thích giáo thì ai chẳng biết, sao lấy lời Chân như bình đẳng mà phí bỏ pháp nhân duyên tu chứng. Lục trụ Đại só còn sinh phần đoạn, bốn quả chân nhân cũng còn có tử biến dịch, đâu gọi là chết hẳn tức là Nê-hoàn. Phải biết Bồ-tát chưa chứng Diệu giác trở lại thường lấy tâm không để khắp tu muôn hạnh. Cả ngày quán Phật mà không có Phật để quán, trải nhiều kiếp độ sinh mà không có chúng sinh để độ. Tạm ở vào Tịnh độ, như hóa đốm trong hư không, quyền nương vào huyễn hóa Di-đà. Phá trần trong mộng hôm qua mà vào địa vị thành Càn-thát-bà, cho đến thành Phật. Tuy tự hành vắng lặng mà lợi tha rõ ràng. Cho nên dụ thì lấy thân làm gương sáng, hiện thì lấy ảnh tùy loại. Người đời không hỏi đại nghóa chỉ ưa thích đốn ngộ, vào thẳng Vô sinh mà chẳng nghó ngài Vónh Gia Nhất Túc Giác bảo rằng: nếu thật vô sinh, vô bất sinh. Đã thoát ngộ mà chấp không, sợ mênh mông mà vời họa. Loại này ở Việt Trung tập bắn tên mà chẳng vượt qua mấy bước, du mục ở Lũng Tây lại chìm trong sóng nước. Như đây mà tri thức chưa thể tham tìm. Trả lời về tu nhân Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm. Có người hỏi: Sinh lên các tầng trời cõi Dục thì mười điều lành là nhân, sinh lên cõi trời Sắc thì thiền định là nhân, giỏi thiền chẳng tu mà mong sinh lên các tầng trời cõi Sắc cõi Dục thì không hề có. Hễ người sinh Tịnh độ thì phải tu Vô sinh diệu quán mới có thể được. Nếu diệu quán mà không hẹn tương ứng thì lý sinh Tịnh độ phải dứt. Nay người học đều mịt mờ giáo chỉ, cho rằng sinh lên cõi trời là khó mà sinh Tịnh độ là dễ. Cho điều lành có tướng mà ngẩng cổ hướng về Tây, theo gió phát nguyện. lại đợi chân bước lên sen báu, đích thân gặp Thánh chúng là lầm. Nếu cho rằng sinh lên cõi trời là khó thì giống như còn đủ bốn chân để chạy thì càng rất khó. Nếu bảo Tịnh độ là dễ thì cũng giống như không có hai cánh mà liệng trên không, dễ thì ai tin? Đáp: Tịnh độ không phải khó dễ, khó dễ là do người. Khó là bởi nghi tình, gang tấc trở thành muôn dặm. Dễ là nhờ tín tâm thì muôn dặm cũng thành gang tấc. Nói tu Vô sinh diệu quán được sinh, thành thật thay lời nói ấy. Nhưng chính ý là muốn chỉ bậc thượng căn mới được sinh mà thôi. Song, không thể mở một pháp môn mà lấp nhiều pháp môn. An lạc tập nói: Người sinh Tịnh độ có hai loại, một là tâm có tướng nghóa là chấp tướng ưa vui; hai là tâm không tướng, nghóa là lý quán tương ưng. Như nay trong đời kẻ trung, hạ độn căn, ngu mê chướng nặng, đợi khi lý, quán tương ưng mới được sinh thì chỉ được một số ít ỏi, Phật Từ bi độ vật phương tiện nhiều môn, có định thiện, và tán thiện, có năng lực Phật pháp; có việc phước và nhờ nguyện lực mà hồi hướng; có người lúc qua đời quá sợ nên nhờ vả cầu cứu, các loại như thế có số trăm ngàn muôn, có một trong những điều đó thì sẽ được vãng sinh. Định thiện là tu tâm Diệu quán, định Thủ-lăng-nghiêm… Còn Tán thiện như kinh Bốn Mươi Tám Nguyện nói người tu thập niệm đều nhiếp cả sáu căn, chỉ tiếng tiếng nối nhau mà thôi. Vì chưa gồm lý định nên gọi là tán. Về năng lực Phật, như Luận Thập Nghi nói: Phật A-di-đà có đại Bi nguyện lực che chở chúng sinh niệm Phật liền có thể phát tâm Bồ-đề, thực hành Tam-muội niệm Phật… nhờ nguyện lực liền được vãng sinh. Như kẻ yếu kém nương theo Chuyển luân vương mà một ngày một đêm đi khắp bốn thiên hạ, không phải là năng lực của mình mà do năng lực của Luân Vương. Về năng lực của pháp, như Phật bảo Bồ-tát Liên Hoa Minh Vương tụng Quán đảnh thần chú gia trì vào cát đất để rải vào thây người chết hoặc rải trên mộ. Nếu bị đọa địa ngục, ngạ, quỷ, súc sinh thì nhờ chân ngôn này mà sinh về Cực lạc. Làm phước nhớ hồi hướng, là từ tâm cứu vật, giữ đủ các giới, giỏi thọ trì bí chú, tụng đọc kinh điển Đại thừa, các thứ phước lành mà hồi hướng trang nghiêm thành nhân Tịnh độ, như tiếng thổi vào sừng thì xa lãng nghe được, sinh Cực lạc cũng vậy. Lúc qua đời cầu cứu là khi qua đời, tướng xe lửa hiện ra, nhờ năng lực xưng niệm danh hiệu Phật nên lửa dữ biến thành gió mát. Như Tăng nhân Hùng Tuấn khi vào vạc dầu sôi và người có nghề giết trâu ở Phần châu khi qua đời thấy bầy trâu húc vào thân rất đau đớn, Trương Chung Húc giết gà, khi chết thấy vị thần xua bầy gà mổ hai mắt chảy máu đầy giường, niệm Phật lúc ấy đều sinh Tịnh độ là vậy, kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh nói: Nếu đem y phục châu báu của người chết và nhà cửa ruộng vườn mà cúng thí Tam bảo thì phước rất nhiều, có thể cứu được khổ địa ngục mà vãng sinh Tịnh độ. Lại, kinh Vô Lượng Thọ nói: Bồ-tát Tiểu Hạnh và người tu công đức nhỏ đông không kể hết, đều được vãng sinh. Lại kinh Phạm Võng dạy thỉnh Pháp sư giảng giới Bồ-tát, phước giúp người chết thấy được các Đức Phật Ví như đất nước kén chọn người tài, bèn bày hai khoa thi văn, võ mà chọn người, không phải một khoa. Ngoài ra lại có tấu ấm, dùng dụ cho năng lực Phật, học tập là dụ cho hạnh nguyện. Kia có nhiều quan nhân văn chức thì đây có muôn hạnh thành Thánh. Phật nói dễ đến. Khổng tử nói khó sinh. Có thể nói thuận giáo nói dễ đến mà mở cửa giải thoát cho người, Chẳng cần phải chấp mê nói khó sinh mà lấp đường Bồ-đề. Khổng Tử nói người học rộng có nghi phải cẩn thận lời nói, thì các trường hợp khác ít lỗi. Trả lời về Phật và Ma của Tịnh độ của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm. Hỏi: Thấy có nhiều người đời phát nguyện khi qua đời được Phật dắt dẫn sinh về Tịnh độ. Nếu Phật dắt dẫn đâu chẳng phải là ma ư? Tôi cho rằng người đời phát nguyện ngông cuồng. Đáp: Ma chẳng phải không có. Nếu bảo phát nguyện cầu sinh Tịnh độ được Phật dắt dẫn là Ma thì là Phật gạt người sinh vào cung ma. Ngài Phổ Hiền dạy người phát nguyện rằng: Nguyện con khi qua đời được thấy Phật A-di-đà. Bồ-tát Long Thọ, Thánh hiền nhiều đời đều có soạn các tác phẩm… chẳng lẽ đều khiến người phát nguyện ngông cuồng nguyện sinh vào cung ma ư? Ông nói thế là làm hư mất giống Phật. Ông không phải Ma thì là ai? Nay xin nói sơ lược cho ông nghe về tướng Ma và cách hàng Ma. Ma có bốn thứ; phiền não, ấm, tử và thiên ma. Nếu muốn hàng phục thì như kinh Đại Tập nói: Dứt bỏ Tập đế là hàng phục phiền não Ma, biết Khổ đế là hàng phục Ấm Ma, tu Đạo đế là hàng phục Thiên ma, chứng Diệt đế là hàng phục tử Ma. Lại Trí luận có nói được đạo Bồ-tát nên phá phiền não Ma, được thân pháp tánh nên phá ấm Ma, được pháp tánh lại phá tử Ma. Thường nhất tâm tất cả chỗ (xứ) tâm không mê đắm mà vào Tam-muội bất động, nên phá được thiên Ma, thiên ma rất là khó biết, vì chúng hay biến hiện thành Phật và Bồ-tát. Lại kinh Niết-bàn nói: Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm thì ma đạo dần hưng thạnh, Ma làm Tỳ-kheo phá rối Phật pháp. Lại Thiền môn nói: Ma quỷ vào tâm phá chánh giới, phá chánh kiến, phá oai nghi, phá tịnh mạng, chẳng kính cha mẹ, thầy Tổ, Tam bảo hoặc hủy hoại kinh sách, hình tượng, chùa tháp, gây ra các tội nghịch, dứt bỏ gốc lành, hiện tướng bình đẳng, phá hủy người khác tu điều lành, bảo là không phải chánh đạo. Hoặc nói không nhân không quả. Tà thuyết như thế phá hoại chánh pháp, như chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Trong kinh có phân biệt từng tướng ác ma, mà có ai biết. Lại ngài Trí Giả trong Thiền môn dạy người phân biệt ma có ba cách: một là, hiểu rõ thấy nghe hay biết đều không thật có, chẳng nhận lấy, chẳng mê đắm, cũng chẳng lo rầu, cũng chẳng phân biệt, nếu là ma thì nó tự mất. Hai là, quán ngược lại tâm thấy nghe hay biết chẳng thấy chỗ nó sinh , như thế mà quán thì Ma liền diệt mất. Ba là, nếu thực hành quán ấy mà Ma chẳng mất thì chỉ nên chánh niệm, chớ nên sợ sệt. Chánh niệm chẳng động biết cõi ma như cõi Phật, như một, như vô, Đối với ma không xả bỏ, đối với Phật không nhận lấy. Phật pháp hiện tiền, Ma tự tháo lui. Phân biệt rõ sự chân ngụy, giữa Phật và ma. người học giáo có giáo nhãn thì biết rõ. Nếu những người lơ là hoặc khi qua đời, gió đao cắt xẻ thân thể, tinh thần hoảng loạn kinh hãi thì nhờ đâu mà phân biệt rõ Ma và Phật chân hay ngụy ư? Lửa thì nóng khô, nước chảy thì ẩm ướt. Hoặc có người một đời dụng tâm thuần tịnh, bền vững tin chắc, chí thành lễ tụng, sám hối phát nguyện. Tôi biết người này hoặc thân hoặc tâm sẽ giao tiếp với khí loại Di-đà - Trí Luận chép: Như gió thổi cây nghiêng về Tây khi ngã thì sẽ ngả về Tây. Làm lành được sinh cũng thế. Như có người nguyện lực đã mỏng mà tội chướng lại nặng. Khi qua đời tướng ác hiện, niệm Phật được Phật đến cứu là do năng lực Phật, Ma không làm được. Nếu người được sinh An dưỡng Tịnh độ mà bị ma bắt thì là sức Phật không bằng sức ma ư? Cho nên Đại Phẩm Bát-nhã nói: Nếu người chép kinh Bát-nhã ba-la-mật cho đến tu hành là do năng lực Phật, ma không thể làm hại. Lại trong các kinh Đại thừa nói Bồ-tát Thiên Tiên, Kim cương, Lực só đều có thệ nguyện giúp người tu hành, ma không có dịp làm hại. Cho nên ngài Nam Sơn nói: Di-đà tướng quân ủng hộ rất nhiều. Nếu thấy đám Ma phá rối Tỳ-kheo thì liền đến đúng lúc dẹp trừ. Nay người sinh Tịnh độ nếu bị ma phá, các Đức Phật, Bồ-tát, Hộ pháp thần tướng há chẳng cứu ư? Nguyên khi qua đời thấy Phật, Phật từ tâm hiện Tịnh độ rộng lớn cũng hiện từ tâm. Ông mê chỉ quy mà vọng bài bác, ta e ông sẽ bị cắt lưỡi đau đớn không tránh khỏi. Nếu như có người chết sinh cung ma thì do khi tu hành nhiều ma nghiệp. Ma nghiệp là nương nhờ Phật Pháp mà ham hố danh lợi, ngoài hiện tướng trong sạch mà bên trong hôi hám rã mục, dối gạt lừa đảo. Luôn tự cao, cắt cái hay ngàn thước của người còn nửa phân mà khoe cái ít một câu của mình là muôn hộc. Người này khí phần ắt giao tiếp với ma. Nên khi qua đời nếu không đọa ác thì sẽ sinh cung ma. Nếu khỏi đọa ba đường ác mà sinh ma cung thì đây cũng là may lắm. Huống cõi trời Đại Tự Tại vốn là đại quyền, nên kinh Tịnh Danh chép: Kẻ làm ma vương đều là Bồ-tát trụ vào Bất tư nghì giải thoát, dùng phương tiện mà giáo hóa chúng sinh. Cho nên trong kinh nói Ma Vương đem mười hai ngàn thiên nữ đến mê hoặc Bồ-tát trì thế, ngài Duy-ma-cật vì nói pháp cho nghe thì các ma nữ đều chứng Tam-muội Vô tận đăng. Nói may mắn là đây vậy. Rất mong người tu hành từ nay về sau hãy nên tự xét tâm tu Tịnh độ là tâm thuần tịnh hay là nghiệp ma. Muôn pháp duy tâm, tâm tịnh thì Phật rước, tâm cấu thì ma dẫn. Đối lý rất dễ hiểu có gì phải nghi? Lại một hạng người giáo nhãn bị mù, tham lam, mạn chật bụng, thị phi đầy hông, lúc bình an thì trong bốn ma hết ba thứ chẳng biết. Khi qua đời sợ sinh vào cung ma, miệng nói hàng phục thiên ma mà trong tâm còn pháp ngồi chết nguyện sinh vào nhà giàu sang, thật là một điều đáng cười. Nói về Duy tâm Tịnh độ. Của Pháp sư Viên Biện Đạo Châu. Có người hỏi: Duy tâm Tịnh độ bổn tánh Di-đà là sẽ vãng sinh hay là tức Tâm? Nếu vãng sinh sao bảo là duy tâm? Nếu Tức tâm vì sao kinh nói cách mười muôn ức cõi Phật? Đáp: Sự và lý có khác. Nói theo sự thì sẽ vãng sinh còn dựa theo lý thì tức tâm. Nay bàn Viên gia sự lý một thể không khác, đâu thể chống đối, nhân, chia mà thông nghóa này. Phải biết mười giới bốn cõi, hoặc Tịnh hoặc Cấu chẳng lìa tâm ta. Tâm này hoàn toàn là vọng niệm vì sẵn có. Cho nên đầy đủ trăm giới ngàn như. Các pháp y, chánh ở đây cũng đầy đủ mà thôi. Nếu đạt được toàn đủ là khắp. Khắp chúng sinh, Phật, các chúng sinh và Phật cùng khắp cũng giống như thế. Nêu một pháp thì cả pháp giới rộng lớn đều cùng đủ, riêng đủ, dung nhau, nhiếp nhau. Tham mà chẳng tạp, lìa mà không chia; một, nhiều tự tại, không lưu ngại nhau. Phàm như thế thì sao có Ta-bà của Thích-ca, Lạc bang của Di-đà mà lìa tâm ta ư? Cho nên Phù Hành có nói: lại người học dẫu biết nội tâm có đủ ba ngàn pháp mà không biết tâm ta khắp ba ngàn kia, mỗi mỗi ba ngàn cũng khắp như thế. Nếu thuận theo phàm tình mà sinh ra cái thấy trong ngoài, thì nên chiếu xét lý thể vốn không có bốn tánh, ba thứ tâm Phật và chúng sinh không khác nhau. Người biết rõ đây mà nương tựa thức tâm. Y theo đây thì biết ba ngàn vốn là pháp dung diệu, nhậm vận nhiếp đủ y, chánh sắc tâm, cõi nước tịnh, uế. Đã nói ba pháp không khác nhau thì duy tâm bổn tánh không còn đến nỗi phải nghi. Nay lại thí dụ để làm sáng tỏ. Như trong điện Đế Thích trên có mành lưới báu đính ngàn hạt châu, hình bóng của các hạt châu cùng chiếu vào một hạt châu, một châu có đầy đủ các hạt châu kia, khắp ngàn hạt châu đều cùng chiếu soi nhau. Cũng giống như thế, một tâm tức là một hạt châu trong ngàn hạt châu, cõi Phật Di-đà kia cũng là một hạt châu trong ngàn châu. Có bao nhiêu chúng sinh trong mười cõi đều sinh đến một cõi, thì một cõi đều là một hạt châu trong ngàn hạt châu. Tâm ta đã là một hạt châu có công năng chiếu khắp các hạt châu. Trong tâm ta không có các hạt châu thì lìa ngoài tâm ta không có riêng Tịnh độ, vì sao? Vì Đức Thích-ca cũng là một hạt châu, Đức Di-đà cũng là một hạt châu. Nêu một mà gồm thâu tất cả, há ngoài tâm lại có Pháp. Cho nên nói duy tâm Tịnh độ, bổn tánh Di-đà. Song nói duy tâm là đủ, sao còn nói cách mười muôn ức cõi Phật ư? Phải biết ý chỉ của kính là dùng lý chọn tình mà nói. Vì sao? vì tình sinh thì mười muôn là xa xôi, còn duy tâm thì chỉ trong một niệm. Lý như thế thì chỉ Duy tâm mà thôi, sao nói Tịnh độ? Nên biết Thể nó không nhân quả, một niệm duy tâm mê ngộ đã khác, nhân quả rõ ràng như thế. Di-đà là quả ngộ, chúng ta là nhân mê. Sinh tâm ưa thích nhàm chán, thuận theo lời Phật khuyên cầu sinh. Nên nói Duy tâm lại nói Tịnh độ vậy. Song đã có lấy bỏ, ưa chán thì không thành giả dối chăng? Thưa rằng: Nên biết người tu Viên giáo hễ bỏ thì bỏ uế, hết cả ba või chín cõi đều bỏ. Hễ lấy thì lấy Tịnh cùng nguồn lấy thẳng Thượng phẩm tịch quang. Cho nên Diệu Tông chép: Nếu lấy bỏ cùng cực thì cùng với chẳng lấy bỏ cũng chẳng phải khác vết xe. Bởi vì tịch quang không lìa ba cõi, mười cõi chỉ là bốn cõi mà thôi. Nếu bốn nhãn hai trí mà quán thì muôn tượng sum la ba độ chín giới đều bỏ, nếu lấy Phật nhãn chủng trí mà quán thì chân không vắng bặt, không phải lìa ba cõi chín cõi mà có tịch quang riêng. Không phải ngoài tịch quang mà có Ta-bà riêng. Như người xưa nói chỉ duyên tức tâm là Phật, nhưng phải cần nhờ tu hành, là ý này vậy. Biết rõ duy tâm thì chẳng ngại mười muôn đường xa. Lấy lý chọn tình ý đó sâu lắm vậy. Lại còn phải biết đây là nói theo thuận thì rõ tánh là hạnh, nếu nói theo nghịch thì bỏ tánh thành mê, cũng có thể bàn về duy tâm địa ngục, địa ngục này cũng là một trong ngàn hạt châu. Cũng là Toàn Đủ biến khắp. Ngoài địa ngục vì không có pháp khác. Tất cả thú hướng địa ngục, thú hướng này không ngoài sáu thứ, tức ba ngàn đều là địa ngục, như thế thì giường sắt chẳng khổ, biến dịch không đổi dời. Tất cả đều là Tánh đức sẵn có tánh ác, pháp môn do đó mà biết. Hoặc thuận hoặc nghịch, nhân quả, mê ngộ, sự lý, tu tánh. Nếu rõ Duy tâm bổn tánh chỉ là một, ba ngàn pháp dung diệu, mười muôn đường xa đều chẳng ngại. Vì sao, vì chân cụ, vì dung nhiếp, cho nên được như thế. Như trên là lược nêu vài nét, nếu muốn chứng sâu lý này thì phải dẹp bỏ tình tưởng. Duy tâm Tịnh độ của Thiền sư Cô Tô - Thủ một. Thiền sư Cô Tô con của họ Trịnh, dòng họ này hiển quan sớm. Thuở nhỏ nương Thiền sư Viên Chiếu, được đại triệt ngộ, xướng đạo ở Tuyên thành, đạo tục đều khâm kính. Từ khi ở chỗ Thiền sư Thiên Y Nghóa Hoài đến nay chuyên dùng pháp Tịnh độ gặp ai truyền trao đều được vãng sinh, đều có những chứng nghiệm rõ ràng, có chép đủ trong Bảo Châu tập. Sư có văn Duy tâm Tịnh độ, nay chép ở đây. Phật nói Tịnh độ Cực lạc khắp khuyên chúng sinh cõi Ta-bà phải nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy. Song người học đốn thì bỏ đi coi là quyền thuyết, người không thông lý tánh thì câu nệ vào sự tướng. Ta có học Duy Thức chỉ ngăn ngoại cảnh, thức biểu thị cho tự tâm. Ngoài tâm không cảnh, cảnh toàn là tâm. Tâm pháp cùng khắp, Tịnh độ đâu lìa đương niệm, chúng sinh và Phật đồng thể. Di-đà toàn là ở tự tâm mà nhiếp hết hữu tình, thật không có Phàm Thánh khác nhau, dung thông pháp giới đâu có phân chia ranh giới xa gần. Kinh Thủ-lăng-nghiêm nói tâm còn ngầm hiện cõi Phật cảnh Thánh, chỉ có Xiển-đề không có tín căn thì mười muôn ức cõi Phật xa cách ngoài phương khác. Thiền sư Thiên Y Nghóa Hoài một đời hồi hướng Tịnh độ. Hỏi người học rằng: Nếu nói bỏ uế lấy tịnh, chán đây ham kia thì tình lấy bỏ trở thành vọng tưởng của chúng sinh. Nếu nói không có Tịnh độ thì trái lời Phật nói. Vậy người tu Tịnh độ phải tu như thế nào. Lại tự đáp rằng: Sinh thì chắc chắn sinh còn đi thì thật chẳng đi. Nếu hiểu rõ ý này thì Duy tâm Tịnh độ hiển rõ vô ngại. Luận nói: Trí tu Duy Thức thông, như thế mà chọn Tịnh độ, nguyện các đồng tu quyết định cầu sinh. Năm Quý Tî, niên hiệu Chánh Hòa thứ ba, Tỳ-kheo Thủ Nạp kính ghi lời tựa. Trong luận Kim Cang Bát-nhã, ngài Thiên Thân có kệ rằng: Trí tu duy thức thông, như thế chọn Tịnh độ, không phải hình, thể bậc nhất, chẳng trang nghiêm trang nghiêm. Luận tự giải thích rằng: “Trí tu duy thức thông”, đây là nói cõi chân, các Đức Phật không có việc trang ng- hiêm cõi nước. Các Đức Phật chỉ có trí tuệ chân thật, tu tập thức thông đạt, là tu tập trí không phân biệt, thông suốt tánh Duy thức chân thật. Như thế chọn Tịnh độ, là tu trí này, hàng Bồ-tát tu Duy Thức thông là lấy được quả Tịnh độ, không phải hình, thể là bậc nhất, câu này nói thể Tịnh độ không tư sinh diệt, là hình Tịnh độ do lý chân thật Đệ nhất nghóa, là thể của Tịnh độ. Chẳng trang nghiêm trang nghiêm: Hình tướng độ: Tức nước chim cây rừng… các việc trang nghiêm. Pháp tánh độ: Tức là chánh trí, chứng khế hợp chân như vô lậu công đức không có hình tướng là trang nghiêm. Thuyết khuyên tu Tây phương của Pháp sư Giải Không Khả Quán. Đức Phật Thích-ca xuất hiện ở cõi Tà-bà, hóa độ cả cõi Đại thiên, ứng Tích ở Trung Thiên, tám tướng thành Đạo, rủ lòng từ với vật, ở trong các Đại giáo hoặc do nhân mà đến như kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Hoặc chuyên vì một duyên như kinh Thập Lục Quán, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Xưng Tán Tịnh độ, do La-thập dịch, tức kinh Tiểu Bổn Di-đà và kinh Cổ Âm Vương, khắp khen Tây phương, khuyên tu niệm Phật. Tất cả Đại giáo chánh tông đều giải thích về các đường lối tu hành. Nếu muốn y lời kinh nói mà thực hành. Nếu không phải bậc Đại căn đại trí, duyên đời trước thuần thục thì khó đến mà được mau phát ngộ ra khỏi sinh tử. Lại sợ sinh tử đâu hẹn, không thể trước an sau thuận. Thế nên Phật A-di-đà dùng năng lực bổn nguyện mà thị hiện thế giới Cực lạc Tây phương y chánh trang nghiêm, hoa sen thanh tịnh, ba bậc chín phẩm. Muốn dẫn dắt người niệm Phật, nhất tâm bất loạn, duyên niệm Đức Phật ấy, thời đến duyên đủ thì an nhiên qua đời, thấy ánh sáng Phật không lạc vào cảnh ma, quyết định vượt cao, không vào vòng khổ, đây là một việc. Nếu không có Đức Thích-ca xuất hiện ra đời thì do đâu mà được. Cho nên chắc chắn không phải duyên nhỏ. Nên biết chỉ khen ngợi Tây phương là pháp cấp cứu, sao để giữa dòng mất thuyền ngàn vàng. Chính như Phật nói kinh A-di-đà không đợi thời cơ phát khởi liền nói kinh, là ý ở đây vậy. Đời Đông Tấn tại Hổ Khê thuộc Lô sơn, Pháp sư Tuệ Viễn kết xã Bạch Liên, Hiền Só Đại phu và các Tôn giả một trăm mười tám vị đồng tu Tây phương, niệm Phật Tam-muội, lúc qua đời thấy Phật, liền được vãng sinh. Tuy Tạ Linh Vận tạp tâm đã ngưng nhưng không cho vào xã. Từ đây truyền mãi đời sau luôn kính ngưỡng dấu vết ngài không thôi. Tất cả đều tin theo rất thịnh ở đời truyền bá Lục Tổ Đàn kinh. Người tu thiền gặp Lục Tổ nhân đó hỏi. Có pháp tu Tây phương, nó như thế nào? Lục Tổ đáp: Vì tự Tâm có Tây phương tức là chân Tây phương. Tâm tự có Tây phương còn tìm Tây phương ở đâu. Người phương Đông tạo tội gây nghiệp cầu sinh phương Tây. Nếu người phương Tây tạo tội gây nghiệp thì cầu sinh ở đâu? Chỉ ngộ được tánh thì việc gì chẳng được. Ôi như thế thì quê kệch đáng cười. Trộm gọi Tổ sư chẳng thể hành dụng. Có người nói đã ngộ tánh đây cũng có lý. Lý ấy thiên lệch đều là bệnh thiền. Tương truyền Cao ly đốt bỏ sách này. Bậc thầy người Liêu đông, hơi có mắt, xưa khen ngợi Minh giáo cao vọt, sao lại không giữ lời, lão này gốc giới bền chắc, khiến nêu lên để viết hành trạng. Lúc bình thường còn nhỏ, tiếng nói như chuông. Thân sau khi thiêu thì sáu việc không hư, có thể nói là Tăng bảo đời sau khó sánh kịp, không thể cầu đủ, cũng thấy việc này. Phải biết Tây phương niệm Phật Tam-muội rất dễ tu hành, chỉ cần hằng ngày nhất tâm bất loạn giữ niệm Phật ấy. Nguyện lực Phật ấy, tự niệm Phật lực, nhậm vận tương ưng. Dầu có lấy bỏ cũng chẳng lấy bỏ, không hề có dấu vết khác. Vì sao? vì niệm niệm lìa tướng, hoàn toàn không thật có. Như hạt châu để trong mâm lăn tròn tự tại vô ngại. Thân tâm thanh tịnh cũng như hoa sen, đạt duy tâm hiểu bổn tánh ở ta mà thôi, cách đây không xa. Nói sơ lược nhân Tịnh độ của Đãi Chế Triều Thuyết Chi. Triệu Tử Hòa Nhân Dục ở Lâm Truy, gửi thư cho Vó Thượng Lão Pháp Hoa rằng: Tôi vốn người Đông châu do đọc văn của ngài mới biết có Tịnh độ Tây phương có thể tu, nó phát nguồn từ Thiên Thai giáo. Ông nên ở Viên Diệu Đại giáo này chuyên nói một việc chân tu này mà làm lợi ích cho những người vô tình hữu tánh như chúng tôi. Bộc Xạ Chi nói: Những người phàm phu còn bị sự trói buôc cùng tôi đồng ở trong ba tai tám nạn nào dám đảm đương việc này. Tuy nhiên người bệnh chưa hẳn không biết đến thuốc. Trộm nghe có sinh ắt có tử, mà Phàm Thánh thì khác với vừa phàm vừa Thánh, mà thân cõi có khác với có thân thì có cõi, có cõi thì có thân, cái gì uế cái gì tịnh đâu chẳng phân biệt được ư? Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật A-di-đà thương xót chúng sinh này nên đồng một nguyện lực ở ngoài vô lượng vô biên pháp môn mà lập ra một pháp môn này. Đức Thích-ca là khách, Đức Di-đà là chủ. Đức Thích-ca là sinh, Di-đà là nhà. Đức Thích-ca theo bệnh mà cho thuốc, Đức Di-đà khiến trọn đời không bệnh. Cõi của Thích-ca là ở tạm, cõi của Di-đà là quê cũ. Từ Tây trúc nhìn sang An lạc cũng như ở Chấn đán ta nhìn về An lạc là một. Thế nên các ngài Văn-thù, Phổ Hiền, Di-lặc, Long Thọ, Hiền Hộ, Vô Trước, Thiên Thân… đều nguyện vãng sinh. Mà Quán Âm, Thế Chí vừa ở chỗ Thích-ca vừa ở bên Di-đà. Cõi nước chúng ta bắt đầu từ Bạch Liên xã do ngài Tuệ Viễn cùng Tạ Linh Vận, Lưu Di Dân… đề xướng. Nối sau có Đàm Loan, Đạo Trân, Hoài Cảm, Hoài Ngọc, Đạo Xước, Thiện Đạo… hạnh nguyện rất nổi tiếng lại có thể khảo cứu. Đại sư Thiên Thai Trí giả của ta đã nối tiếp Thánh hiền, đã mở mang Pháp Hoa, giáo bắt đầu rất đầy đủ mà thực hành càng xa, trước Pháp Hoa có kinh Duy-ma-cật đứng đầu khởi giáo Tịnh độ. Sau Pháp Hoa có luận Khởi Tín đều trọn chứng về Tịnh độ. Xét đề mục có mười thứ Phật độ, có hai mươi bảy phẩm cõi Phật. Nó hợp thành bốn cõi. Sau, từ ngài Trí Giả thì bắt đầu có tên gọi bốn cõi rải rác trong các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy-ma, Nhân Vương, Phổ Hiền Hạnh Nguyện và luận Đại Trí độ. Chỉ ngài Trí Giả ta hợp lại mà sắp xếp thứ tự. Như trong kinh Duy-ma thì gọi là không thất, trong kinh Pháp Hoa thì gọi là tháp báu ở không trung, đó là cõi Thường Tịch Quang. Chúng sinh ở Duy-ma, chúng Bảo Liên Hoa ở Pháp Hoa đều là Bồ-tát ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Ở Duy-ma, Pháp Hoa thì Thanh văn, Bồ-tát cùng làm Tăng, tức là cõi Phương tiện hữu dư. Thấy nước Diệu Hỷ ở Duy-ma, ba lần biến mặt đất ở Pháp Hoa tức là Tịnh độ Đồng Cư. Duy- ma có Bồ-tát Hương Tích, Pháp Hoa đầu tiên phát ra ánh sáng rực rỡ là uế độ đồng cư. Phật bảo Trưởng giả Bảo Tích rằng: Bồ-tát tùy chúng sinh được hóa độ mà chọn lấy cõi Phật, tức là cõi Đồng cư. Tùy sự điều phục chúng sinh mà chọn lấy cõi Phật, là cõi Phương tiện hữu dư. Tùy chúng sinh dùng cõi nước nào để vào trí tuệ Phật mà chọn lấy cõi Phật tức là cõi Thật báo trang nghiêm. Tùy chúng sinh lấy nước nào để khởi căn Bồ-tát mà chọn lấy cõi Phật, tức là cõi Thường tịch quang. Văn ấy tuy ẩn kín mà nghóa sáng tỏ. Tên tuy nhiều nhưng lý lại hợp. Nếu không phải do ngài Trí Giả nêu ra thì không biết làm sao. Xét ngài Tuệ Viễn, ở vào thời giáo Điển chưa đầy đủ, lúc căn cơ chưa thuần thục. Trí giả dẫn dắt các bậc Hiền mà sáng lập đạo, đạp sóng gió mà lắng sâu, mở ẩn bí mà làm bật sáng, trọn thành giáo này tặng lại người sau. Há chẳng đến từ Tịnh độ mà muốn cõi uế này thanh tịnh ư? Kinh Pháp Hoa trong phẩm Dược Vương chỉ bày thế giới An lạc, sinh trong hoa sen, còn ở phẩm Phổ Hiền thì bày cung trời Đâu-suất sinh về chỗ Di-lặc. Ngài Trí giả bỏ hạnh Phổ Hiền mà chuyên ý với sự chứng đắc quả Dược Vương. Sau đó, có pháp sư Từ Ân lại bỏ Dược Vương mà chuyên ý Phổ Hiền thì lại biết rõ là bốn cõi có phân biệt. Chỉ biết bốn cõi thì mười sáu quán gồm hết, ba thân, bốn giáo, muôn pháp đều không sót. Tuy nhiên có hai bệnh: Nghi chẳng tin. Nếu họ nghi chẳng tự tin thì tin trong ta nào có bổ ích gì. Trí giả bị bệnh nên soạn luận Thập Nghi. Đời Đường, ở Vónh châu, Tốn Thượng nhân đặc biệt soạn luận ấy lên vách chùa Long Hưng mà cảm được rất sâu. Tin mà cuồng điên ngu si, chẳng biết ngộ tâm nhập quán, nói nhân để chứng quả. Chỉ nói ta giữ tâm được tịnh còn ai cũng chẳng phải Tịnh độ, giống như hay nói lời Duy-ma thật mình là dân Thiên ma, há chẳng cẩn trọng ư? Đáng tiếc thay. Ở đời nay phát triển mạnh giáo này. Bởi có người, như Pháp sư Từ Vân về giáo hạnh, Pháp sư Tứ Minh về quán trí. Người gần đây như Luật sư Linh Chi về biện luận vì sao được chuộng, Vó Thượng lão Pháp Hoa xưa từ Pháp sư Minh Trí mà sinh tín. Sau rất thong dong ở Linh Chi. Các thuyết về Tịnh độ của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân. Kinh chép: Di-đà là thân pháp giới. Thân cao sáu mươi muôn ức na-do-tha do-tuần, có thứ trượng sáu, có thứ trượng tám, có thành rộng mười ngàn do-tuần. Có ao tắm rộng tám mươi bốn ngàn dặm. Có nghi thành, có biên địa, có thai cung, có cơm ăn, có hoa lá hai trăm năm mươi do-tuần. Có thứ lớn như bánh xe. Có cha mẹ, có ma vương. Có cõi không trang nghiêm như của Đức Thích-ca, nhưng các kinh luận thường có sự khác nhau, há là một thời quyền biến phó cơ ư? Đáp rằng đâu thể gọi là quyền? Hơn nữa, Đức Thích-ca đứng đầu tam thiên đại thiên thế giới thì một tứ thiên hạ này quả báo còn có sai khác, há các nước đều đồng nhau? Ứng thân Đồng cư còn như thế, huống chi ba thân bốn cõi. Huống gì Di-đà dắt dẫn chúng sinh niệm Phật mười phương cao thấp, cạn sâu cũng chẳng đồng. Sợ chẳng những đại thiên thế giới mà thôi, há chỉ dừng lại ở mười ngàn do-tuần ư? Huống ba thân bốn cõi do đó mà biết thuyết chẳng đồng nên nói như thế. Song các kinh luận chẳng nói rõ. Đã muốn hành giả chuyên chú vào một cảnh, do đó không cần phải nhiều, huống là như vừa kể, là có nhiều tướng như thế. Song ở đây chỉ có ngài Tứ Minh thông đạt sâu xa, giải thích năm trược nặng nhẹ, đồng cư tịnh uế, bảo rằng tịnh này rất chung, phải biết ý riêng. Như ở bốn giáo, sơ tâm và giới thiện đều có thể năm trược mỏng nhẹ thì chiêu cảm đồng cư tịnh. Nay Viên quán khinh trược, y, chánh rất Tịnh so các kinh khác mà tu các hạnh lành thì tướng nó rất khác xa. Người khác nghe lời nói này bảo Tứ Minh là nghóa gì. Phàm loài chim cánh vàng nuốt rồng ở chín vực, quán suốt bảy lầu vàng, dừng nghỉ trên núi thiết vi. Ếch ở giếng mà tin ư. Ghi chép về tự tin Tịnh độ của Vô Công Tẩu Vương Điền. Tôi thấy giáo truyền về phía Đông của Như Lai, nếu nói thuyết chỉ thắng bổn tâm khiến người rốt lý, có người hiểu biết nên đã tin theo, còn những người hiểu biết thấp kém cũng không dám bàn đến. Chỉ bày việc vãng sinh của luận Tịnh độ thì mọi người đều hoài nghi. Lại chúng sinh tâm vốn có bốn thứ Tịnh độ là Phàm Thánh đồng cư, Phương tiện hữu dư, Thật báo vô chướng ngại và Thường tịch quang Phàm Thánh đồng cư thì hàng phàm phu còn bị trói buộc có thể nương ở. Còn ba cõi kia, thì dứt hoặc bậc Thánh mới được chứng nhập. Pháp môn vãng sinh có hai tịnh nghiệp là: Chánh quán ngầm xét bổn tâm và trợ hạnh tu đủ muôn hạnh lành. Chánh quán và trợ hạnh đều tiến thì đạt đến bốn Tịnh, chỉ có nguyện làm các điều lành, gần thì sinh Phàm Thánh đồng cư, xa thì làm nhân sinh ba cõi trên. Theo luận này thì Tịnh độ chính là cảnh giới mà Bồ-tát rốt lý chứng được, bao gồm tất cả chúng sinh mênh mông hồi hướng tiệm tu. Họ tin lời Như Lai chỉ thẳng bổn tâm khiến người rốt lý mà nghi việc bày Tịnh độ vãng sinh là sao? Đại để là bổn tâm chúng sinh, thể không có một pháp có hình dụng, không một tướng nào chẳng đủ mà họ không biết, cho rằng thẳng như hư không vắng lặng, không còn y, chánh trang nghiêm. Lại trợ hạnh lấy chánh quán làm chính, chánh quán lấy trợ hạnh làm phụ. Hai là đối nhau mà lập, dường như trái nhau mà lại phù hợp, mà họ không biết, gọi là rốt lý quên duyên thì đâu cần phải thêm nguyện, thêm nguyện vãng sinh thì có ngại cho rốt lý, huống là Tịnh độ có đủ cả bốn phẩm. Người vãng sinh trên đến rốt lý Bồ-tát, dưới gồm tiệm tu chúng sinh thì loại nào chẳng thu, cơ nào chẳng nhiếp mà họ không biết. Nghe Thánh sư cao tăng vãng sinh thì tự cam mình không có phần. Thấy đàn bà trẻ con niệm Phật thì thẹn thùng mà làm theo. Ôi, Như Lai khen ngợi Tịnh độ có ý bảo rằng Tịnh độ mình người, Phàm Thánh, nhân quả tức tự tâm chúng sinh mà thôi. Vãng sinh Tịnh độ là dễ, tự tin tâm mình là khó. Đương thời các Đức Phật mười phương biết là nói Pháp tất cả thế gian khó tin, do đó mà bày tướng lưỡi khuyên tin. Rồi Như Lai lại dụ khiến nên tin nhận. Ý chỉ Từ bi của Đấng Đại Giác có thể thấy ở đây mà chúng sinh chẳng hề tin, thật đáng trách. Một hôm, có người hỏi, tôi dùng giáo Tịnh độ, tùy chỗ vặn hỏi mà luận bày, khi rảnh tôi bèn biên lại thành sách được mười câu vấn đáp đặt tên là Tịnh độ Tự Tín Lục những ai hoặc thấy hoặc nghe hoặc y hoặc trái, chẳng rời Ta-bà đã về Cực lạc. Đây là chí của tôi. Tứ Minh Vô Công Tẩu Vương Điền kính ghi. đô. Tịnh độ chuyên tu và tạp tu của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh Hỏi: Vì sao chẳng dạy quán tưởng mà dạy xưng niệm danh hiệu là có ý gì? Đáp: Chúng sinh chướng nặng, cảnh tế, tâm thô, thức tán, thần động thì quán khó thành tựu. Ấy vì đại Thánh Từ bi thương xót khuyên thẳng chuyên xưng danh hiệu chính là do xưng danh thì dễ, nối nhau mãi liền sinh, nếu như trên mà niệm niệm nối nhau lấy cái chết làm kỳ hẹn, thì mười người tu mười người sinh, trăm người tu trăm người sinh. Vì sao? vì không ngoài tạp duyên mà được chánh niệm, vì tương ưng với bổn nguyện của Phật, vì không trái với giáo, vì thuận theo lời Phật nói. Nếu bỏ chuyên niệm mà tu tạp nghiệp, thì trong một trăm người chỉ hy vọng được một, hai, trong ngàn người chỉ mong ba, bốn. Vì sao? vì do tạp duyên loạn động, vì mất chánh niệm, nên không tương ưng với bổn nguyện Phật, trái với giáo, không thuận theo lời Phật, vì giữ niệm không nối nhau nên tâm không liên tục nghó báo ân Phật, vì thế tuy thực hành hạnh nghiệp mà thường tương ưng với danh lợi nên thích gần tạp duyên, chướng mình chướng người. Vì chánh hạnh vãng sinh, so với đạo tục các phương khác thấy giải hạnh khác nhau, chuyên tạp có khác. Nếu chuyên ý thực hành thì mười người tu mười người sinh. Còn tu tạp chẳng dốc lòng thì ngàn người không được một. Ngưỡng mong tất cả người vãng sinh nên khéo tự suy lường mình nay thân này nguyện sinh về nước ấy, đi đứng nằm ngồi thân tâm hết sức cố gắng, ngày đêm không phế bỏ, đến chết mới thôi. Chỉ ở thân hình, dường như có chút khổ, niệm trước dứt rồi, niệm sau liền vãng sinh. Trong nhiều kiếp lâu dài luôn được pháp Vô vi cho đến thành Phật, không trở lui vào sinh tử, há chẳng vui sao? Luận về hoành xuất và thụ xuất của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh. Thụ Xuất là Thanh văn tu Bốn đế, Duyên giác tu mười hai nhân duyên, Bồ-tát tu sáu độ muôn hạnh. Các hạnh tu này bước lên giai vị như lên bậc thang, tự phải có tài học. Lại như ra làm quan cần phải có công lao. Hoành xuất là niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, ví như được phúc ấm, công do sức của ông cha và người khác, bất luận có tài học hay không. Lại như do vua ban ân chuyển khắp, công do quốc vương, bất luận trải qua các việc cạn sâu. Ở Hoành xuất có Định thiện và Tán thiện, nên Hòa thượng Thiện Đạo lập chuyên tu và tạp tu. Tạp tu nghóa là tản mạn tu các nghiệp lành mà hồi hướng trang nghiêm. Còn chuyên tu là chuyên lễ Phật A-di-đà mà không xen các lễ các Đức Phật khác, miệng chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà mà không niệm các danh hiệu khác, chẳng tụng các kinh chú khác, ý chỉ chuyên tưởng Phật A-di- đà không tu các quán khác. Nếu chuyên tu thì mười người tu mười người sinh, trăm người tu trăm người sinh. Còn tạp tu thì trăm người chỉ được một, hai người sinh, ngàn người chỉ được năm, ba người sinh. Nay thấy người đời có khi một ngày lễ Phật A-di-đà ba ngàn lạy, ngày niệm Phật A-di-đà mười muôn câu. Có người ngày đêm tập ngồi chuyên tưởng Phật A-di-đà và các cảm ứng, rất có linh nghiệm. Pháp mười niệm buổi sáng của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức. Người tu Tịnh nghiệp mỗi ngày vào lúc sáng sớm phải rửa mặt chải tóc, mặc áo sạch, xoay mặt về hướng Tây đứng chắp tay xưng niệm nối nhau danh hiệu A-di-đà Phật hết một hơi là một niệm. Như thế mười hơi gọi là mười niệm, chỉ tùy theo hơi dài ngắn không hạn chế câu Phật nhiều ít. Chỉ cần dài lâu hơi rốt làm mức. Niệm câu Phật không cao không thấp, không chậm không mau, điều hòa vừa chừng. Mười hơi như thế liền nhau không dứt ở ý, luôn khiến tâm không tán loạn, chuyên tinh thành công phu gọi là mười niệm, là chỉ rõ việc nhờ hơi cột tâm. Hết một đời này chẳng được một ngày bỏ phế, chỉ lấy không bỏ phế tự cần yếu ở tâm thì chắc chắn được sinh nước ấy. Niệm như thế xong, kế phát nguyện rằng: Con đệ tử là… một lòng quy mạng Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc. Xin chiếu ánh sáng thanh tịnh vào thân con, dùng thệ nguyện từ bi che chở con. Nay con chánh niệm xưng danh Như Lai, trong khoảng mười niệm, vì đạo Bồ-đề cầu sinh Tịnh độ. Phật xưa vốn thệ nếu có chúng sinh nào muốn sinh về nước ta, dốc lòng tin ưa, dù chỉ mười niệm mà chẳng sinh, thì ta không thành Chánh giác, chỉ trừ người gây năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp. Nay con tự nhớ đời này, đời sau chẳng tạo tội nghịch, chẳng chê Đại thừa. Nguyện mười niệm này được vào biển thệ lớn của Như Lai, nhờ Từ lực Phật, các tội tiêu diệt, nhân lành thêm lớn. Nếu khi sắp qua đời thì được biết trước. Thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý chẳng điên đảo, như vào thiền định. Phật và Thánh chúng, tay bưng đài vàng, đến đón rước con. Trong khoảng một niệm, liền sinh Cực lạc. Hoa nở thấy Phật, liền nghe Phật thừa, mở nhanh Phật tuệ, rộng độ chúng sinh, tròn nguyện Bồ-đề. Phương pháp niệm Phật của Thiên Trúc sám chủ Tuân Thức. - Phàm đấng Đại giác Thế Tôn dùng bốn pháp độ các chúng sinh: Thị hiện tướng đẹp đẽ, khiến người quán sát phát tâm Bồ-đề. Thị hiện nói pháp khiến người được nghe khai ngộ vào đạo. Thị hiện hóa độ khiến người thấy nghe được các pháp lợi. Danh hiệu truyền khắp mười phương khiến người nghe chấp trì giữ niệm thì tội diệt, thiện sinh, mà được độ thoát. Ở đây nói niệm Phật thì hoặc chỉ duyên với ba mươi hai tướng tốt mà giữ tâm được định, mở mắt, nhắm mắt đều thường thấy Phật, hoặc chỉ xưng niệm danh hiệu chấp trì không tán loạn, cũng ở hiện đời này được thấy Phật. Ở cõi này hiện thấy phần nhiều xưng niệm danh hiệu Phật là trên hết. Như Pháp sư Hoài Cảm chỉ một mạch xưng niệm danh hiệu A-di-đà Phật mà được Tam-muội, hiện tiền thấy Phật. Cho nên nay khắp bày pháp xưng niệm danh hiệu Phật, cần phải định tâm khiến không tán loạn, niệm niệm nối nhau, duyên với danh hiệu. Trong miệng từng tiếng thường đọc A-di-đà Phật, lấy tâm duyên theo từng chữ rõ ràng, khiến tâm và miệng cột nhau. Hoặc trăm câu, ngàn câu, muôn câu, hoặc một ngày, hai ngày hoặc bảy ngày. Chỉ khi niệm danh hiệu thì không quản nhiều ít, chỉ cần một lòng một ý, miệng và tâm nối nhau. Như ở cõi này một niệm diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Nếu không được thế thì diệt tội rất khó. Nếu sợ tâm tán loạn thì đọc lớn nhanh thì tâm dễ định, Tam-muội dễ thành. Cho nên Pháp sư Hoài Cảm trong luận Quyết Nghi có dẫn kinh Đại Tập Nhật Tạng kinh nói niệm nhỏ thấy Phật nhỏ, niệm lớn thấy Phật lớn. Luận giải thích rằng: Niệm lớn là lớn tiếng niệm Phật. Niệm nhỏ là nhỏ tiếng niệm Phật. Đây là lời Thánh dạy đâu có lầm lẫn, khuyên các người học chỉ cần cố gắng lên tiếng niệm Phật , Tam-muội dễ thành. Nếu nhỏ tiếng niệm Phật thì bị nhiều tán loạn. Đây chỉ người thực hành mới biết, người ngoài không hiểu được việc này, Đại sư Thiên Thai Trí giả trong khi giải thích kinh Quán có nói rằng: Khi người tội sắp qua đời xưng Phật hiệu mười niệm thì dập tắt được lửa địa ngục mà được sinh Tịnh độ, ý ấy rõ ràng. Như nói tâm ấy tuy thời gian ít ỏi nhưng năng lực rất mạnh, tâm quyết đoán chắc chắn thì năng lực hơn cả nguyện lực trăm năm. Tâm ấy gọi là đại tâm, chẳng tiếc thân mạng, gọi là người có sức mạnh. Đó nói niệm lớn thì đây gọi Tâm lớn. Đó nói gắng niệm hết sức thì đây nói mạnh mẽ không tiếc thân mạng. Đó nói niệm nhỏ thường bị tán loạn thì đây nói hơn cả nguyện lực trăm năm. Há không phải là đều khiến mạnh mẽ lớn tiếng niệm Phật, tuy ít mà công hiệu nhiều? Nếu nhỏ tiếng niệm Phật tuy nhiều mà công hiệu ít. Cho nên nói mười niệm hơn cả trăm năm. Thời nay phần nhiều thấy người đời niệm Phật đều không tinh chuyên, tán tâm, niệm chậm khiến cho hiện đời thành công rất ít, khi qua đời việc cảm ứng rất ít. Cho nên nay đặc biệt chỉ bày pháp này khẩn thiết khuyên khi niệm Phật thì phải nhất tâm bất loạn, lớn tiếng niệm Phật, từng tiếng nối nhau, không bao lâu sẽ được thành công. So sánh công đức niệm Phật của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Giả sử trong suốt một tháng thường cúng dường y phục, thức ăn cho tất cả chúng sinh thì không bằng một phần mười sáu công đức của người niệm một câu Phật. Giả sử rèn vàng làm người dùng xe ngựa chở chuyên cho đến dùng trăm thứ báu mà bố thí mọi người thì không bằng công đức hướng trước Phật bước đến một bước. Giả sử có người đem voi xe lớn chở hết các báu vật chuỗi ngọc trong nước Đại Tần, số nhiều trăm muôn dùng để bố thí thì cũng không bằng phát tâm hướng trước Phật bước đến một bước. Nếu cúng dường bốn thứ cho tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới thì cũng không bằng phát tâm hướng trước Phật bước đến một bước, vì công đức này vô lượng vô biên.” Vậy khuyên khắp các nam nữ tín tâm tại gia mỗi buổi sáng nên mặc áo sạch, tịnh tâm đảnh lễ tượng Phật xem như Phật thật không khác. Đừng để một ngày bỏ phế. Nếu công việc bận rộn gấp gáp thì cũng phải chú tâm vào Phật đường, đốt hương trước Phật lạy một lạy. Nếu được rảnh rang thì sớm chiều chớ bỏ. Chẳng nệ sớm tối, xin đem một niệm niệm Phật và bước đến chỗ Phật một bước công đức rất cao quý. Huống là từng bước, từng niệm, đi nhiễu niệm Phật thì diệt tội chướng và được công đức chẳng thể suy nghó nói năng được. Pháp ngồi thiền quán tưởng vãng sinh của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức. Muốn tu quán vãng sinh thì phải ở một nơi, ngồi trên giường dây, xoay mặt về hướng Tây thì dễ quán tưởng, vì biểu thị đúng hướng. Cho nên ngồi kiết già thẳng cổ và xương sống thẳng hàng chẳng ưỡn chẳng khom, hơi thở điều hòa, tâm yên định. Nhưng môn tu quán trong kinh luận có nói rất nhiều. Kẻ sơ tâm phàm phu đâu thể tu tập khắp hết. Nay vì để dễ tưởng nên nêu hai thứ mà tùy nghi, không cần cả hai thứ. Nếu có quán tưởng khác đã thuần thục thì mặc tình thuận tiện, chỉ không lìa pháp môn Tịnh độ thì đều nên tu tập. Nói hai thứ: Giúp ý quán khắp, ngồi xong thì tự tưởng, tức thời công phu đã tu hợp với vãng sinh thế giới Cực lạc. Khi đó khởi tưởng sinh về cõi nước ấy ngồi kiết già trong hoa sen, hoa sen khép lại, tưởng hoa sen nở ra. Khi hoa nở ra thì tưởng có ánh sáng năm trăm sắc (mầu) chiếu đến thân mình. Tưởng mắt mở ra, tưởng thấy Phật, Bồ-tát và cõi nước, tưởng ở trước Phật ngồi nghe Pháp mầu. Tất cả tiếng đều nói những pháp mà mình thích nghe, đều rất hợp với mười hai bộ kinh. Lúc đó phải giữ cho tâm bền chắc không loạn, tâm tưởng rõ ràng như thấy trước mắt, rất lâu mới đứng dậy. Tưởng thẳng Phật A-di-đà thân vàng trượng sáu ngồi trên hoa, rồi chú tưởng vào giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng dài một trượng rưỡi, chu vi năm tấc, ngoài có tám cạnh (góc), bên trong rỗng, xoắn về bên phải ở giữa hai đầu chân mày rất trong suốt sáng sạch, không diễn tả hết được, ánh sáng của nó soi rõ mặt Phật rõ ràng. Khi thực hành tưởng này thì dừng tâm chú tưởng bền chắc không dời, sau khi thực hành quán tưởng này thì nghó việc thấy Phật hoặc chưa thấy đều là nhân duyên không thực, các tướng hiện ra đều là không, như mặt mày trong gương, như trăng trong nước, như mộng như huyễn, tuy không nhưng cũng thấy được, đều do tâm tánh hiện ra. Tất cả đều do tự tâm mà tâm không tự biết tâm, tâm không tự thấy tâm. Tâm có tưởng là si, không tưởng là Niết-bàn. Tâm có Tâm không đều gọi là có tưởng, đều gọi là si, không thấy pháp tánh. Pháp do nhân duyên sinh tức không, giả, trung, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải ngang, chẳng phải dọc, chẳng thể suy nghó bàn luận. Tâm tưởng vắng lặng thì sẽ thành tựu niệm Phật Tam-muội , lâu rồi mới đứng dậy. Thuật niệm Phật tu tâm của Pháp sư Sơn Đường Ngạn Luân. Các kinh Đại thừa khuyên sinh Tịnh độ nhân chung cho hai thứ định và tán. Định là tức Tâm quán Phật, tưởng y chánh, chủ bạn của cõi Tây phương kia, chỉ tâm vốn đủ, vì tâm ta không nên Như Lai vốn không, vì tâm ta là giả nên Như Lai rõ ràng cũng thế, vì tâm ta trung nên Như Lai dứt đối đãi. Hoặc tưởng hoa sen nở ra khép vào ta ở trong ấy. Khép là biểu thị cho không, nở là biểu thị cho giả, bốn vi đồng thể biểu thị cho trung đạo. Nên kinh nói các Đức Phật Như Lai là thân pháp giới nhập vào tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Nên khi tâm ta tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm ấy làm Phật, Tâm ấy là Phật. Đây chính là Như Lai đích thân chỉ bày duy tâm Tam-muội viên thường quán thể, hiểu rõ y chánh sắc tâm của Tịnh độ ấy đều từ tâm ta, tánh sẵn có công đức, tức cảnh là quán. Ngoài tâm không Phật, ngoài tánh không có cõi, quán mãi không thôi, chứng vô sinh nhẫn, hai là tán thiện, dùng tâm thuần thành chân thật tin có Tây phương, nhất tâm bất loạn, niệm Phật Di-đà một ngày đến bảy ngày từng tiếng không dứt, từng niệm không xen. Kinh nói chấp trì danh hiệu một ngày đến bảy ngày nhất tâm bất loạn. Khi người này qua đời thì Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mắt. Song việc tưởng nước ấy không có ba pháp quán nên gọi là tán thiện mà thôi. Cho nên ba thứ tịnh nghiệp (thân, khẩu, ý) hồi hướng nguyện sinh đều chứng Cực lạc. Ngài Trí giả nói: Căn có lợi độn, hạnh có định, tán. Tam-muội quán Phật gọi là định tu các nghiệp lành khác gọi là tán. Năng lực của tán thiện yếu kém không thể diệt trừ được năm tội nghịch. Kinh này nói quán được vãng sinh là biết hoặc định hoặc tán, hoặc độn hoặc lợi đều là nhân Tịnh độ, đều đến vô sinh, không bao giờ lui sụt. Luận Bảo Vương chọn bày nghóa vãng sinh của Thiền sư Thảo Đường Phi Tích. Hỏi: Người học đạo Phật mà tâm tán loạn khó kềm thúc, nay muốn được xuyên suốt, chuyên niệm Đức Phật Tây phương, bước lên giai vị không lui sụt, bỏ tâm hữu lậu, nương thuyền nhỏ mà về ao vàng, lễ Phật A-di-đà ở điện Bạch ngọc để thông ba cõi, suốt chín phẩm có được chăng? Đáp: Luận Thập Trụ Bà-sa ngài Long Thọ nói: Đạo Bồ-tát có hạnh khó làm như đất bằng mà đi thuyền. Có hạnh dễ làm như đường nước mà đi thuyền. Năng lực bổn nguyện của Phật A-di-đà nếu có người nghe danh hiệu xưng niệm mà cầu sinh về nước ấy thì như thuyền gặp nước, lại gặp gió thuận, một khi ra đi thì ngàn dặm cũng dễ thì vua cha và sáu vạn người họ Thích quyến thuộc của Như Lai đều sinh cõi Cực lạc. Bởi Phật và chúng sinh ở thế giới này có duyên sâu, cho nên chuyên chú một cảnh cũng chẳng tốt sao? Hỏi: Người đời phần nhiều lấy ngọc báu, thủy tinh, kim cang Bồ- đề gỗ đá làm chuỗi, tôi thì lấy hơi thở làm chuỗi. Xưng niệm danh hiệu Phật mà theo hơi thở là có chỗ nương cậy vững chắc, đâu sợ một hơi không trở lại thì thuộc đời sau. Tôi đi đứng nằm ngồi đều dùng chuỗi này, khiến khi ngủ ngậm Phật mà ngủ, khi thức dậy liền tiếp tục, thì ở trong mộng được thấy Phật. Phật như cái dùi lửa, khói bay lên trước lửa, mộng thấy không thôi thì Tam-muội sẽ thành, thấy được sợi lông trắng, được Phật thọ ký thì muôn người không sót một. Hỏi: Một niệm, mười niệm vãng sinh Tịnh độ thì pháp nào là chánh? Đáp: Chỉ cần một niệm vãng sinh trụ giai vị không lui sụt là chánh. Như Phật đã nói kẻ chê bai Phật, hủy kinh, đánh Tăng, chửi bậc Tôn trưởng, năm tội nghịch, bốn tội trọng đều một niệm nghiệp ác mà thành thì đọa địa ngục Vô gián cũng như tên bắn. Nay niệm Phật mà sinh Tịnh độ cũng một niệm nghiệp lành mà thành liền sinh về Cực lạc, cũng như thời gian co duỗi cánh tay một niệm trước năm ấm diệt, một niệm sau năm ấm sinh. Như ấn bằng sáp in vào bùn, giơ ấn lên thì chữ thành, còn chẳng cần hai niệm, há đến mười niệm. Lại một niệm thì như kinh nói: Sa-di thích tô lạc sinh một niệm yêu thích thì sau liền thành sâu trong tô lạc. Đây chỉ một niệm không phải mười niệm. Lại kinh Đại Vô Lượng Thọ nói một niệm niệm Phật đều được vãng sinh. Mười niệm của kinh Quán cũng do đây. Bởi bị bệnh gầy ốm sức yếu tâm kém cho nên phải mười niệm xưng danh Di-đà để giúp sức niệm ấy. Nếu tâm mạnh mẽ không mê thì một niệm liền sinh. Cũng như vừa gieo trồng chút ít hạt giống mà phát triển thành vườn tược gấp trăm lần. Hỏi: Trong kinh Phương Đẳng nói tu thiền định vô thượng sâu mầu để dứt bỏ vọng tưởng, quán tưởng sợi lông trắng gồm xưng niệm danh hiệu Phật để cầu thắng định. Từ sau khi khế hợp thì hai thứ tâm, Phật đều quên, tin điều đó là có. Chỉ thầm niệm suối trong tức Tam- muội tự đến. Cần gì phải tiếng tăm ồn ào làng xóm, chấn động núi rừng, sau đó mới là đạo? Đáp: Thật như lời hỏi, tiếng cũng không cần câu nệ lắm. Vì sao? vì cốt yếu của tán là còn ở tiếng, tiếng không cố gắng hết sức thì tâm hời hợt lông bông không định. Tiếng mà cố gắng hết sức thì nhổ cả gốc rễ cỏ tranh, thúc dục ở sau, khi qua đời thì bỏ hết trăm lo là nghóa thứ nhất. Gần thì lấy chỗ âm thanh và ánh sáng đến được mà muôn họa tiêu tan, công đức nhóm hợp như ngàn núi xinh tươi là nghóa thứ hai. Xa mà nói thì kim dung rực rỡ, tung rải hoa báu mưa tí tách trên không như chỉ tay trong lòng bàn tay đều là tiếng gây nên cả, là nghóa thứ ba. Như kéo gỗ đá nặng mà không tiến lên, khi hồng âm lên tiếng thì nâng nhẹ như bông là nghóa thứ tư. Đánh nhau với ma quân, cờ, trống inh ỏi, dùng tiếng làm khí giới để định yên phá cường địch là nghóa thứ năm. Đủ các nghóa này còn sợ sệt gì. Nếu chưa yên tónh cả hai toàn chỉ quán cùng hợp mà chẳng được ý Phật đó sao? Định tuệ nếu bằng nhau thì quên cả tâm và Phật, thật như điều hỏi. Cho nên ngài Lô sơn Tuệ Viễn trong bài tựa niệm Phật Tam-muội có nói: Công cao dễ tiến thì Niệm Phật đứng đầu. Xét tiếng huyền đánh lên, tâm nghe thì trần lụy liền tiêu, trệ tình được sáng suốt, nếu không phải chỗ chí diệu trong thiên hạ thì ai có thể sánh với đây ư? Nói kẻ minh chứng chưa bằng như kệ Hoa Nghiêm nói thà chịu vô lượng khổ mà được nghe thanh âm của Phật, chứ không chịu hưởng tất cả điều vui mà không nghe danh hiệu Phật, song tiếng Phật chấn động xa khai mở mầm mống lành, cũng như tiếng sấm mùa xuân chấn động cả muôn loài thảo mộc. Đâu được khinh thường? Niệm Phật phương tiện của quan Ty Gián Giang Công Vọng. Ông là người ở Nghiêm Châu, trí thức cao sáng, tuổi nhỏ thi đậu, vào niên hiệu Sùng Ninh nổi tiếng là dùng lời thẳng can gián. Đương thời rực rỡ tông môn, tham học Thiện tri thức, ăn rau dưa mặc áo vải, dồi mài tiết hạnh. Tuổi già chuyên tu Tịnh nghiệp ngộ nhập Tam-muội niệm Phật, có văn niệm Phật phương tiện khắc đá, lưu truyền chỉ dẫn chúng sinh. Cuối niên hiệu Tuyên Hòa ông coi Quảng Tế quân. Một hôm, chẳng bệnh ngồi kiết già mà hóa. Biết là ông đã về Tịnh độ vậy. Văn ông viết: Pháp thế gian xuất thế gian muốn được thành tựu, ít tốn sức thì không gì bằng giữ tâm vào một duyên, chỉ xưng niệm danh hiệu A-di- đà Phật. Nếu niệm ra tiếng lâu ngày không chỉ hao tổn tạng khí, răng lưỡi gõ khua, tâm niệm náo động, tai bèn phân biệt thức sinh, tánh nghe bị dao động, hễ ra rồi thì không trở lại, ba thứ ấy chứa nhóm lâu ngày thành nhọc; hoặc biếng lười, chỉ tâm niệm, không niệm ra tiếng, tâm có lóng lặng nhưng chưa được tuệ chiếu, đâu được phản văn. Ngoài căn chẳng kéo trong đối chẳng sinh, chìm trong mê tối, dễ thành quên mất. Có phương tiện khéo không cần động môi miệng, chẳng phát âm thanh. Lấy lưỡi gõ vào răng cửa, tâm niệm tùy ứng, tùy tâm định lượng, theo nghiệp phát hiện, lưỡi và ý căn, trong niệm niệm đều có bốn chữ A- di-đà Phật, âm thanh rõ ràng, có thể bày tiếng mà chẳng vượt tai nghe. Trong tánh chứa tâm, ứng với cơ lưỡi, cơ kéo niệm căn, tâm khiếu ở lưỡi, gõ động lỗ tai, cơ cơ lại niệm, gởi ở trong tai. Từ nghe vào dòng là nghe trở lại tịnh nguyên, vắng lặng mà nghe tánh không, ba thứ ấy dung hội nhau thì niệm niệm viên thông. Trái tim hiện bổn tánh Di-đà, thân năm trược dạo chơi cõi tịnh duy tâm. Lâu ngày bèn thành tựu duy tâm thức quán, hạng người lợi căn như thế thì niệm niệm không sinh, tâm tâm không có chỗ, sáu căn yên vắng, các thức tiêu tan. Pháp pháp toàn chân, môn môn bặt đối đãi. Nháy mắt liền thành chân như thật quán. Kẻ sơ cơ hậu học chỉ trừ khi có khách hỏi chuyện hàn ôn và lúc đại tiểu tiện thì có thể tạm dừng niệm. Nếu chưa khỏi việc ăn uống ngủ nghỉ, chưa đến khi ngủ mê cho đến làm các công việc nhà thì không phải bỏ việc, cũng chẳng ngại gì tâm miệng từng niệm từng tiếng xưng tụng Thánh hiệu. Lại nếu có những ý nghó xấu ác phát ra ở tâm thì tự nhiên thuần nhất không xen tạp. Nếu nhiếp cả sáu căn, Tịnh niệm nối nhau thì không quá một tuần trăng liền thành Tam-muội. Đó gọi là tâm ấy làm Phật, tâm ấy thấy Phật, tâm ấy là Phật. Bậc thượng căn dại khí một niệm liền siêu, kẻ bình thường thì phải khéo quán phương tiện. Điếu Đài Giang Công Vọng trình bày. Phương pháp niệm Phật như Từ Vân Sám chủ và luận Bảo Vương chỉ bày, còn trước thuật của Giang Công Vọng cũng có thể nhiếp một cơ riêng. Bởi tất đàn độ khắp đều được. An tượng Phật A-di-đà trong nhà Vô Thường, xuất xứ trong Vô Tận Đăng. Phẩm Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm chép: Lại phát ánh sáng gọi là thấy Phật. Ánh sáng này giác ngộ kẻ sắp chết khiến nhớ nghó thấy Như Lai, khi qua đời được sinh cõi tịnh. Thấy khi có người sắp qua đời thì khuyên niệm Phật. Lại bày tôn tượng khiến kính lễ, dạy quy kính Phật, thế nên thành tựu được ánh sáng này. Khiến thấy Phật thì một là không sợ chết, hai là không sợ đường ác. Lại khi qua đời khuyên niệm Phật thì như luận Trí Độ 28 chép: Thời gian ít ỏi khi sắp qua đời mà hơn cả năng lực tu hành trọn đời vì nó rất mạnh mẽ nhanh chóng, ví như lửa, như chất độc. Y theo pháp ở Tây vực thì ở góc Tây bắc của Kỳ viên hướng mặt trời lặn là nhà Vô Thường. Nếu có người bệnh thì đặt trong viện ấy. Hễ người tham nhiễm nếu an trí họ trong phòng, nhìn thấy y bát và các đồ dùng liền sinh đắm trước mà không chán bỏ. Cho nên dạy để chỗ riêng gọi là nhà Vô thường. Người đi rất đông trở về chỉ một, hai, ngay nơi sự mà cầu pháp chuyên tâm niệm. Theo trong viện ấy đặt một tượng Phật đứng sơn thếp vàng ròng mặt hướng về Tây, tay phải tượng buông xuôi, trong tay cầm một cái phướng năm mầøu, rủ xuống đến đất. Để người bệnh ở sau tượng, tay trái cầm lá phướng, với ý nghóa là vãng sinh theo Phật. Người nuôi bệnh đốt hương, rải hoa, đánh khánh, niệm Phật để giúp trang nghiêm người bệnh. Nếu người bệnh có tiêu, tiểu, ói mửa thì liền dẹp đi, người ấy cũng không có tội. Huống Phật không hề yêu, ghét, hễ có người nào nương về thì đều cứu độ. Lại vì người bệnh tùy cơ nói pháp, khi chết để yên bên Phật không được dời đi. Đợi thần thức dạo cảnh tịnh thì để hay dời không ngại. Cố gắng làm theo như đây. đô. Lâm chung chánh niệm quyết của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh Tri Quy Tử đến hỏi Hòa thượng Tịnh Nghiệp rằng: Việc lớn ở đời không gì bằng sinh tử, một hơi thở không trở lại thì thuộc đời sau, nếu một niệm sai lầm thì đọa vào luân hồi. Tiểu Tử tôi rất mong ngài chỉ dạy cho pháp niệm Phật vãng sinh. Lý ấy tuy rất rõ ràng nhưng sợ người bệnh khi chết đến thì tâm thức tán loạn, lại lo người nhà làm mê loạn chánh niệm mà quên mất Tịnh nhân. Lại mong ngài chỉ cho đường tắt giúp mau thoát khổ đắm chìm. Sư nói: Lạ thay lời hỏi. Hễ người sắp chết muốn được vãng sinh Tịnh độ thì trước phải chuẩn bị không được sợ chết ham sống. Luôn nghó rằng thân ta hiện tại bị rất nhiều các khổ, nghiệp ác, bất tịnh… các thứ cùng trói cột. Nếu bỏ được uế thân này mà vãng sinh Tịnh độ thì được vô lượng điều vui sướng, thấy Phật nghe pháp, lìa khổ giải thoát là việc rất vừa ý, như bỏ áo cũ rách, hôi hám mà đươc mặc áo quý đẹp. Bỏ hết thân tâm không còn tham đắm. Khi mới bị bệnh bất luận nặng nhẹ liền nghó vô thường, một lòng đợi chết. Cần dặn dò người nhà, người nuôi bệnh và người đến thăm viếng rằng: Hễ đến trước tôi chỉ nên niệm Phật giúp tôi, không được nói nhiều chuyện lặt vặt trong nhà, hay dở tốt xấu. Cũng không nên nhỏ nhẹ an ủi ta, chúc ta an vui. Những lời này đều là lời luống dối không thực, sẽ gây tai họa. Khi bệnh nặng sắp chết thì người nhà thân thuộc không được đến trước ta mà khóc lóc, lên tiếng than thở buồn thương, làm rối loạn tâm thần mà mất chánh niệm. Chỉ cần ghi nhớ lấy câu A-di-đà Phật cùng lúc lớn tiếng niệm Phật giúp tôi cho đến lúc tôi dứt hơi. Đợi dứt rất lâu rồi mới được khóc lóc. Nếu có người hiểu rõ Tịnh độ đến khuyên gắng là tốt nhất. Nếu làm được như thế thì ngàn muôn vãng sinh ắt chẳng nghi ngờ lo lắng gì. Điều này rất thiết yếu phải tin tưởng làm theo. Hỏi: Cầu thầy trị bệnh cho thuốc chẳng cần ư? Đáp: Đây là luận về dụng tâm. Còn việc thầy thuốc trị liệu không ngại gì cả. Nhưng thuốc chỉ cứu được bệnh mà không cứu được mạng. Nếu mạng hết thì thuốc có làm gì được. Hỏi: Cầu nguyện thần linh, họa, phước thì như thế nào? Đáp: Mạng người thọ yểu sinh ra đã định, sao lại nhờ quỷ thần kéo dài thêm được? Người đời mê lầm trở lại cầu tà giết hại chúng sinh cúng tế quỷ thần, chỉ thêm tội nghiệp, lại kết thêm oán thù mà còn tổn thọ. Nếu mạng số hết thì quỷ nhỏ cũng chẳng làm gì được. Càng luống sợ sệt mà chẳng cứu giúp được. Hãy rất cẩn thận. Đem bài văn này dán trong nhà ở chỗ ăn uống hoặc nơi nhiều người thường qua lại khiến luôn đọc thấy mà ghi nhớ vào lòng, để phòng khi gặp nguy mà quên mất. Hỏi: Lúc bình thường chưa hề niệm Phật khi sắp chết niệm Phật có hiệu nghiệm chăng? Đáp: Pháp lành này người xuất gia, người tại gia và người chẳng niệm Phật thực hành đều được vãng sinh, quyết không nghi ngại. Tôi thấy phần nhiều người đời lúc bình thường thì niệm Phật lễ bái, phát nguyện vãng sinh. Đến lúc bệnh hoạn sắp chết thì lại sợ chết, không thấy nói đến việc vãng sinh nữa. Đợi đến lúc hơi thở đã dứt, thần thức xuống âm phủ rồi mới niệm mười niệm, cũng như giặc cướp đã tràn qua cửa ải thì có làm gì được nữa. Huống chi chết là việc lớn, cần phải chuẩn bị trước. Một niệm dần dà thì muôn kiếp chịu khổ, có ai chịu thay ta. Hãy suy nghó kỹ, suy nghó kỹ. Khi sắp qua đời thỉnh tăng niệm Phật có cảm ứng, xuất xứ từ Bảo Châu Tập. Thời gần đây, Trưởng lão Ngộ Công ở Cô Tô lui về ở Dương châu mà dứt duyên đời, thường ngày niệm Phật rất siêng năng. Có người hỏi vì sao tin tưởng quá thế. Ngộ công vui vẻ bảo rằng: Khi tôi trụ chùa Vạn thọ gặp Tập Duy-na bị bệnh không lành, bèn hai lần thỉnh tăng chúng niệm Phật. Sau khi chết thì chúng trong liêu có người chê ông là ngạo mạn, vào nhà trên sắp ngủ, bỗng nghe trên rường nhà có tiếng bảo: “Tập đã sinh Tịnh độ”. Bèn nghi ngờ rằng ông không tu tịnh nghiệp thì làm sao được vãng sinh. Thì lại có tiếng bảo: Khi ông ấy sắp chết đã hai lần thỉnh chúng niệm Phật, khen ngợi hồi lâu, tự đó đầu thành. Tôi nghe Ngộ nói xong, nhân nhớ lại Pháp sư Đạo Nhân bảo Đường Minh Hoàng rằng: “Sức Phật, sức pháp, ba hiền mười Thánh cũng không thể lường biết được”, thì biết người trần thế khó lấy tình thức mà đoán biết. Nên chỉ tin chắc mà thực hành theo. Một hạt hoàn đơn mà chỉ sắt thành vàng, một lời chân lý đổi phàm thành Thánh. Di-đà giáo quán thật là thuốc hay, điểm sắt thành vàng ròng. Phật ấy từ vô số kiếp đến nay tu hành thành tựu thân, thành tựu nước, phát bốn mươi tám lời nguyện, cuối cùng chứng quả oai đức, ánh sáng chẳng thể suy nghó bàn luận. Kinh Quán nói nghe một câu danh hiệu Phật thì diệt trừ được tội nặng tám mươi ức kiếp sinh tử. Còn như người gây năm tội nghịch, mười điều ác, lúc sắp chết gặp Thiện tri thức dạy xưng niệm mười câu Phật liền được vãng sinh. Thế mới biết thỉnh chúng niệm Phật liền có cảm ứng. Vì sao người đời chẳng biết niệm Phật là thuốc điểm sắt thành vàng mà cầu vãng sinh. Tuy có người biết mà không khởi lòng tin sâu chắc, nhân do dự biếng lười cam tâm chịu năm trược, trôi giạt trong sinh tử chịu các khổ, thật đáng thương xót! Nhân lúc người còn khỏe mạnh mà thỉnh chúng tăng niệm Phật, sám tội giải oan thực hành pháp quyết định vãng sinh. Huống gì khi bệnh nặng, lúc sợ sệt sinh tử mà có thể mạnh mẽ phát tâm, thỉnh người tu Tịnh nghiệp đã lâu làm Phật sự lớn để giúp vãng sinh Tây phương, đây là việc quan trọng. Xem việc tập Duy-na lúc qua đời niệm Phật thật là gương sáng cho người đời noi theo. Lúc ngủ nhập quán, phát nguyện thấy Phật, xuất xứ từ Đại tạng tập Chư Kinh Lễ Sám Nghi. Người tu Tịnh nghiệp hễ lúc ngủ và nhập quán thì trước phải đứng chắp tay một lòng hướng về phía Tây niệm mười câu A-Di-đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải chúng, sau đó đối trước Phật mà phát nguyện rằng: “Đệ tử… hiện là phàm phu sinh tử, tội chướng sâu nặng, luân hồi sáu đường khổ chẳng thể nói hết. Nay gặp Thiện tri thức, được nghe danh hiệu, bổn nguyện Di-đà, một lòng xưng niệm cầu nguyện vãng sinh. Nguyện Phật thương xót, đưa tay dắt dẫn. Đệ tử chẳng biết Di-đà Thế Tôn thân tướng sáng rỡ, nguyện Phật, Bồ-tát thị hiện thân tướng, và thế giới kia trang nghiêm…”. Nói xong, nhất tâm chánh niệm rồi nhập quán và ngủ. Hoặc có người ngay khi phát nguyện thì thấy các tướng đẹp. Hoặc ở trong quán được thấy, hoăc lúc ngủ mộng thấy. Nguyện này đến nay rất có hiệu nghiệm không thể kể xiết. Rất mong gắng chí cố làm mới tin là không luống dối. Sớ hội mừng sám lễ Phật của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân. Kính vì: Di-đà nương tâm chúng sinh mà phát hiện, chúng sinh nương nguyện trí của Di-đà mà thoát khỏi buộc ràng. Ngoài ứng vô cơ, tức chư Phật ở trong tâm chúng sinh. Ngoài cơ vô ứng tức chúng sinh ở trong tâm các Đức Phật. Chúng sinh và Phật như một, cảm ứng đồng giao. Trăm lỗi đều dứt, bốn vận cùng đẩy. Như thế thì từng niệm chẳng sinh nghi, từng tiếng đều giải thoát. May gặp được việc tốt, nguyện kết nhân lành, chứa nhóm tư lương, rộng hẹn đạo tâm của đại chúng xuất gia, tại gia cùng phát, thắng tập mười năm chợt viên, trong ngoài vui mừng rạp mình sám hối. Cúi mong Di-đà cha lành, Thích-ca thầy tốt. một Chiết một Nhiếp mà cùng thành thục cơ duyên. Không bè phái không thiên lệch mà đồng thành nghiệp tốt. Mong xa gần tình hết, tịnh uế đều quên. Chẳng đợi Di-lặc hạ sinh, mau chứng thượng phẩm ở Tịch Quang. Móc sắt móc voi dạo chơi khắp Liên xã. Ấn sáp ấn bùn liền dự vào ao hoa báu, gieo mình đến chết, khắc cốt ghi tâm. Trên mong hồng ân từ bi chứng giám. Cung kính dâng sớ. <卷>QUYỂN 5 Loại Phú và Minh: Bài phú: Thần Thê An dưỡng của Thiền sư Trí Giác Diên Thọ. Tấn An dưỡng Phú, phụng chế văn của Ngô Việt Tiền Vương Thục. Bài Minh: Nhật Quán (Quán mặt Trời) của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Loại kệ (6 bài). Kệ vẽ tượng Phật A-di-đà của Cư só Đông Pha Tô Thức. Kệ khen ngợi của ngài Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm khen Phật của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Kệ vãng sinh y kinh mà lập của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Kệ phát nguyện viết kinh Di-Đà Ấn Thí của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Kệ Diêu Hạnh Bà quán mặt trời thấy Phật. Kệ Tán Dụ Di Tôn của Triêu Nghị Đại Phu Đinh Tánh. Loại Tụng (20 bài): Thập Lục Quán Tụng, hai mươi ba bài, của Từ Vân Sám Chủ Tuân Thức. Thập Lục Quán Tụng, mười sáu bài, của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm. Thập Lục Quán Tụng, hai mươi bốn bài, của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Tụng khuyến hóa đường tắt tu hành của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở Kinh đô. Tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Giác Tông Trách. Tụng Tây phương Tịnh độ, mười ba bài, của Thiền sư Từ Giác Tông Trách. Tụng Quán Phật Tam-muội của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm. Tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm. Tụng chỉ bày Hạnh Bà, hai bài, của Từ Biện Pháp sư Tùng Giám. Tụng khuyên tu Tịnh Nghiệp, hai bài, của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Tụng Hóa Đạo Niệm Phật, ba bài, của Luật sư Thanh Chiếu Tuệ Hanh. Tụng Niệm Phật Tâm Yếu của Pháp sư Thảo Am Đạo Nhân. Tụng khắc tượng thơm Di-đà của Pháp sư Giải Không Khả Quán. Tụng Tịnh độ và Từ biệt đời của Pháp sư Pháp Cảnh Nhược Ngu. Bưu. Tụng khen ngợi Tây phương của Cư só Huyễn Trụ Nhâm Tụng khuyên tu Tịnh độ của Pháp sư Đồng Giang Trạch Anh. Tụng Bạch Liên Tịnh Xã của quan Hữu Nhai Giám Nghóa Tùng Chánh. Tụng Tịnh Nghiệp Phật Ma của Pháp sư Thọ An Lương Bật. Tụng khuyên tu Tịnh Nghiệp của Xương Quốc Tể Vương Tồn Chi. Tụng khuyên đời niệm Phật (mất tên người soạn). Loại Thơ (22 bài): Vịnh Tịnh độ của Tấn Khang Lạc Tạ Linh Vận. Thơ Niệm Phật Tam-muội bốn bài của Tấn Lang Da Vương Kiều Chi. Thơ Niệm Phật Tam-muội bốn bài của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Thư giả biệt Lý Bí ở chùa Thỉ hưng của Cư só Thảo Đường Đỗ Tử Mỹ. Ngồi bên bờ nước chùa Đông lâm của Cư só Hương Sơn Bạch Cư Dị. Đại Sư Điếu Thiên Trúc Bảo Nguyệt của Cư só Đông Pha Tô Thức. Trừ Dạ và ba, bốn câu của Cư só Hậu Sơn Trần Vô Dó. Tiền Đường Thắng Sự Ký mã Thị Lang của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Thụy Trúc Ngộ Lão trồng sen của Thứ Công Dương Kiệt. Lô sơn Bạch Liên xã của Ngự Khê Thích Hoài Ngộ. Tặng Di-đà Đạo giả của Trực Tác Hoàng Cáo. Thơ Cận Thể về mười sáu pháp quán (mười sáu bài) của Sa- môn Xung Mặc. Lô sơn Liên xã (hai bài) của Giám Bạc Du Lương Năng. Thứ Vận Liên xã của Thích Hạt Thuần Tẩu. Mười tám vị hiền ở Lô sơn của Đông Khê Thích Tổ Khả. Thơ nhớ quê cũ An dưỡng (bốn bài) của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm. Thơ nhớ Tây phương, hai bài ngũ ngôn, của vị Tăng giảng kinh tên Khả Mân ở Bắc sơn. Gác Giác Hải Di-đà ở Hồ châu của Từ Bộ Trương Cảnh Tu. Thơ Tây Quy Hiên (mười bài) của Thiền sư La Nguyệt Đàm Oánh. Thơ bên hiên Nhớ Phật (mười bài) của Thủ tọa Tuyết Khê Hy Nhan. Đọc Vãng Sinh Truyện có xúc cảm của Pháp sư Vân Am Liễu Hồng. Tịnh độ Vịnh Sử (hai mươi lăm bài) của Cư só Tây Hồ Lý Tế. Loại từ (7 bài) Họa Uyên minh Quy khứ lai hề của quan Cấp sự phùng tập. Nghó Uyên minh Quy khứ lai hề của Huyễn Trụ Nhâm Bưu. Truy Họa Uyên Minh Quy khứ lai của Luật sư Thuyết Am Giới Độ. Tán Tây phương Ngư Gia Ngạo (hai mươi bài) của vị Tăng giảng kinh tên Khả Mân ở Bắc sơn. Tám Tây phương Ngư Gia Ngạo của Thiền sư Tây Dư Pháp Đoan. Ta-bà khổ vọng Giang Nam (sáu bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên. Tây Quy Hảo Vọng Giang Nam (sáu bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên. ------------------------------- Thọ. Bài Phú: Thần nương An dưỡng của Thiền sư Trí Giác Diên Di-đà cõi báu, An dưỡng tên hay. Ở báo độ mà rất vui, ở mười phương mà rất tịnh. mười sáu pháp quán tu định ý mà ngầm đến, bốn mươi đại nguyện, vận tán tâm mà hóa sinh. Đây bèn trọn đời thọ trì, suốt kiếp quy mạng tiên nhân. Cỡi mây mà nghe pháp, cõi không tán tụng mà khen ngợi, thân bước lên đài vàng tím nên bổn nguyện không dối. Thần hóa trong sợi lông ngọc trắng mà nhất tâm tự mừng. Lành thay tướng lưỡi rộng dài mười cõi đồng khen nói. Chỉ nêu tâm khế hợp cả, không phải ý dối truyền luống. Cái trục trên mặt đất quay, hoa trời tung rải ở trước, một niệm hoa nở, thấy Phật mà đều lên quả mầu. Ngàn trùng chiếu sáng, chứng pháp mà hết cấu bẩn. Các bậc tiên hiền khảo xưa suy nay vãng sinh chẳng phải một. Vận đến mà thiên nhạc đầy trời, thời đến mà hương lạ đầy thất. Trong một chân cảnh hiện tướng mà nhờ uy Phật, trong ao bảy báu thấy cảnh đều từ tâm sinh ra. Cho nên biết Thánh chỉ khó lường, cảm ứng vẫn thường biến phàm thành Thánh. Mà khoảnh khắc tức mê là ngộ mà chiếu bày. Xuất phát từ sách tiên mà thật là thụât sống lâu chỉ quy về cõi Tịnh, ở mãi quê hương bất tử, lại có bậc cao nhân ra đời, đại só ở giữa trần thế, đốt thân và tay để phát hạnh, treo ruột mổ tim mà lập phép. Nhạc tiên đến rước mà từ chối, thiên đồng đến thỉnh mà chẳng vui. Hoặc lửa bày đỉnh núi, trong cảnh sáng suốt mất hẳn tên đường ác. Bỏ luôn sự dơ bầu của thai ngục, mắt mỡ lưỡi chắc mà lập nghiệm. Trâu húc gà mổ mà bỗng ngưng ở thành sắt, chống lại lệnh vua. Phải chết theo lòng son ngồi đài sen mà nhờ ân Phật, khó bỏ chỗ chí lý. Hoặc kẻ chê bai Tam bảo, phá hoại luật nghi. Trong lúc gió cắt xẻ thân bén như dao, gương nghiệp soi sáng thi thể mà gặp Thiện tri thức hiện ra thật chẳng thể suy nghó bàn luận, rừng dao biến thành bảy lớp cây báu, xe lửa hóa ra ao sen nước tám đức. Địa ngục biến mất mà tâm sợ hãi tiêu tan, hoa trời bay phấp phới. Bỗng nhiên Hóa Phật đến đón mời. Tuệ nhãn sáng lòng, lò hương tay cầm. Ứng lời sấm mà hoa sen chẳng héo. Được thọ ký mà rừng báu chẳng lâu. Lạ thay năng lực Phật khó nay nghó bàn luận, xưa nay chưa từng có. Thiền sư một chí Tây phương hết lời ngợi khen. Như đây đến cả muôn đều lành cùng trở về, cũng cố sức khuyên tu trì. Mới biết kẻ thông suốt, chẳng tiếc tuệ lợi, nhiều cách khảo xét, mà lìa xa sự đắm chìm vắng lặng. Phú này sư có chú thích nhiều đây không chép ra. Nhìn chung đều là văn kinh lời mầu. Và các linh tích trong truyện vãng sinh. Kẻ học rộng chuộng đạo xem đây sẽ nắm được chỗ cốt yếu. Lời vua gởi về người viết An dưỡng Phú của vua nước Ngô Việt là Tiên Thục. Có nghe ở nước An dưỡng Phật Di-đà đem Tịnh độ hóa độ muôn loài, một niệm chẳng mê liền gá vào thai Thánh dễ như trở bàn tay. Tin và không tin đều là chân như. Ta luôn bình yên vui vẻ sáng suốt, sư dắt dẫn bốn chúng quyết chí Nhất thừa, khuyên ta bằng nhân trăng sáng, gi- úp ta bằng quả sen xanh. Bạn lành của trời người chẳng phải sư thì còn ai nữa. Ta luôn nhớ khanh, sớm tối để lòng. Nên ban lời khen thưởng để khiến biết rõ lòng ta. Thư chẳng hết ý. Lời Minh và lời tựa về am Nhật Quán của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Ngày 13 tháng 2 mùa Xuân Canh Thân, thuộc niên hiệu Thiên Hy thứ 4, ở phía Nam ngọn kỳ xà Phi Lai chùa cổ Thiên trúc, Sa-môn Tuân Thức ở ngọn phía Đông chùa, bên động Hương Lâm xây cất Am Nhật Quán đã thành, nay khắc đá viết bài minh Nhật Quán: (Xuất xứ từ kinh Thập Lục Quán). Ta đối Diệu Linh Tâm luôn quỳ khuynh Nước về hơn trượng Sáu rồng ngưng làm Như chiếc trống treo Như ngọc tinh anh Trừng mắt nhìn thẳng Niệm mãi chú thành Hình tròn đỏ chói Hoảng hốt trung sinh Đạp sương vững đến Còn phần sáng tỏ Dắt tưởng phương Tây Giữ thần đi xa Ở ngay tại nhà. Trước mắt còn mãi. LOẠI KỆ Kệ vẽ tượng Phật A-di-đà (và lời tựa) của Cư só Đông Pha Tô Thức. Luật sư Nguyên Chiếu ở Tiền Đường khuyên khắp người tại gia, xuất gia chí thành nương về Thế giới Cực lạc Tây phương. Ở Mi Sơn, Tô Thức vâng lời người mẹ đã mất là Thục quận Thái quân họ Trình ở Thục quận, đem kỷ vật là cây trâm báu đổi tiền nhờ thợ khéo là Hồ Tích vẽ tượng Phật A-di-đà để tiến vong linh cầu phước. Có kệ tụng rằng: Phật có đại Viên giác Tràn khắp mười phương cõi Con vì tưởng điên đảo Ra vào biển sinh tử Vì sao chỉ một niệm Được vãng sinh Tịnh độ Ta tạo nghiệp vô thỉ Một niệm lại có dư Đã từ một niệm sinh Liền theo một niệm diệt Chỗ sinh diệt diệt hết Thì ta với Phật đồng Như rót nước vào biển Như trong gió đánh trống Tuy có trí Đại Thánh Cũng không thể phân biệt Nguyện cha mẹ đời trước Cùng tất cả chúng sinh Chỗ sinh đều Tây phương Nơi gặp đều Cực lạc Người người Vô Lượng Thọ Không đến cũng không đi. Giải thích bài kệ khen ngợi Phật của ngài Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Lại ánh sáng gọi là thấy Phật Sáng này giác ngộ người sắp chết Khiến tùy ngộ niệm thấy Như Lai Chết rồi được sinh về Tịnh độ Thấy người sắp chết khuyên niệm Phật Và bày tôn tượng khiến kính lạy. Khiến ở trước Phật rất quy kính Như thế thì thành ánh sáng này. Hai bài kệ này bốn câu trước khen Phật phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy tên là thấy Phật, có công năng khiến cho người sắp chết thấy Phật vãng sinh. Bốn câu sau khen Phật tu nhân ánh sáng này. Nhân ấy chỉ là khuyên người sắp chết niệm Phật và bày tượng Phật, nên khi thành Phật thì có được ánh sáng này. Nay rộng thí kệ này là khuyên người tin sâu chắc. Hễ gặp bà con và tất cả mọi người khi sắp chết thì trước giường bày tượng Phật để cho người ấy thấy Phật và khuyên niệm Phật. Nếu người bị đau đớn ép ngặt hoặc từ trước không có tâm tin tưởng không chịu niệm Phật, thì phải dùng các phương tiện dạy họ xưng niệm ít nhất là mười câu thì diệt hết các tội nặng mà vãng sinh Tịnh độ. Đây là một lợi ích chẳng thể suy nghó bàn luận. Nếu khuyên một người được sinh Tịnh độ thì nếu mình không tu hành cũng được cùng sinh về cõi Phật. Huống gì đều đương lai khi thành Phật thì sẽ phát ra ánh sáng này chiếu khắp tất cả chúng sinh khi qua đời sẽ được thấy Phật. Phần nhiều thấy người đời vì ân ái mà dụm đầu khóc lóc, chẳng lo việc cứu độ. Thật khổ thay, khổ thay! Gọi đó là bạn ác. Ân ái trói cột sẽ bị đọa vào đường dữ không có ngày ra. Ở đời có năm hạng người chẳng chịu niệm Phật. Trước không có tín tâm. Luyến tiếc tiền của. Không bỏ vợ con. Tự tiếc thân mạng mình. Tội nghiệp ngăn che. Chết rồi phải bị đọa địa ngục, xin sớm giác ngộ. 3.Kệ y theo kinh mà lập chánh tín Vãng sinh của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Đảnh lễ cõi An lạc Tây phương Di-đà Thế Chủ đấng Đại Từ Tôn Nay con y theo Tu-đa-la Thành tựu lòng tin chắc vãng sinh Người trụ Đại thừa tâm thanh tịnh Mười niệm niệm Phật Vô Lượng Thọ Lâm chung mộng Phật chắc vãng sinh Kinh Đại Bảo Tích dạy như thế. Năm nghịch các lửa địa ngục hiện Gặp Thiện tri thức phát tâm mạnh Mười niệm niệm Phật liền vãng sinh Kinh Thập Lục Quán dạy như thế Nếu người vui vẻ tâm ưa thích Ít nhất mười niệm liền vãng sinh Nếu không như thế không thành Phật Bốn mươi tám nguyện dạy như thế. Những ai nghe tên mà dốc lòng Một niệm hồi hướng liền vãng sinh Chỉ trừ năm nghịch, chê chánh pháp Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế Khi chết không thể quán và niệm Chỉ lo buôn bán biết có Phật Người này dứt hơi liền vãng sinh Kinh Đại Pháp Cổ dạy như thế Một ngày một đêm treo lọng lụa Chuyên niệm vãng sinh tâm không dứt Ngủ mộng thấy Phật liền vãng sinh Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế Suốt ngày đêm niệm danh hiệu Phật Siêng năng tinh tấn không đứt quãng Lần lượt khuyên nhau cùng vãng sinh Trong kinh Đại Bi dạy như thế. Một ngày, hai ngày hoặc bảy ngày Chấp trì danh hiệu tâm không loạn Phật hiện trước mắt liền vãng sinh Kinh A-di-đà dạy như thế. Nếu người nghe A-di-đà kia Một ngày, hai ngày hoặc hơn nữa Giữ niệm hiện tiền liền vãng sinh Trong kinh Ban-chu dạy như thế Mười ngày mười đêm trong sáu thời Năm vóc lạy Phật, niệm không dứt Hiện thấy Phật ấy liền vãng sinh Kinh Cổ Âm Vương dạy như thế. Mười ngày mười đêm giữ trai giới Treo phướn lọng lụa, đốt hương đèn Giữ niệm không dứt được vãng sinh Kinh Vô Lượng Thọ dạy như thế Nếu người chuyên niệm Phật một phương Hoặc đi hoặc ngồi bốn mươi chín ngày Hiện thân thấy Phật liền vãng sinh Trong kinh Đại Tập dạy như thế Nếu ai tự thệ đi kinh hành Trong chín mươi ngày chẳng ngồi nằm Ở trong Tam-muội thấy Di-đà Trong kinh Phật lập dạy như thế Nếu người ngồi thẳng xoay hướng Tây Trong chín mươi ngày luôn niệm Phật Thành tựu Tam-muội sinh trước Phật Văn-thù Bát-nhã nói như thế Tôi đối các kinh trích làm vài tụng Như thế mà nói mãi vô cùng Nguyện ai cùng nghe sinh chánh tín Lời Phật chắc thật không dối gạt. Có người nghi hỏi: - Thấy bài kệ này nói có mười niệm, cho đến chỉ một niệm sinh tin ưa, cho đến chỉ lo làm ăn nhưng biết có Phật thì cũng sinh về nước ấy. Lại có người bốn mươi chín ngày hay chín mươi ngày niệm Phật thì mới được vãng sinh. Há chẳng phải Tịnh độ là một sao nhân tu lại có khác? Giải thích: Tịnh độ tuy một nhưng người sinh tự khác. Kinh Vô Lượng Thọ tự chia có ba bậc. Kinh Thập Lục Quán thì chia làm chín bậc. Nếu chia kỹ thì cũng vô lượng. Lại có người nghi hỏi: Bậc hạ phẩm (bậc thấp nhất) do nhân tu cạn nên cũng có lui sụt phải không? Giải thích: Không phải như thế. Chỉ chín phẩm hoa nở là có nhanh chậm, cách Phật có xa gần, được đạo có nhanh chậm mà người sinh nước ấy thì đều là bậc không lui sụt. Kinh nói: người sinh về đó đều trụ vào chánh định. Lại nói: Chúng sinh sinh về đó đều là A-bệ-bạt trí, nghóa là không lui sụt. Luận Thập Nghi nói có năm nhân duyên không lui sụt. Phật A-di-đà có nguyện lực đại Bi giữ gìn nên không lui sụt. Ánh sáng Phật luôn soi chiếu, nên tâm Bồ-đề luôn tinh tấn không lui sụt. Nước chim, cây rừng, tiếng gió, giọng nhạc nói khổ không, người nghe thường khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng nên không lui sụt. Nước ấy thuần là các Bồ-tát làm bạn lành không có duyên ác, cảnh ngoại không có quỷ thần tà ma, trong không có ba độc, phiền não rốt ráo chẳng khởi cho nên không lui sụt. Người sinh về nước ấy tuổi thọ lâu dài bằng với Phật Bồ-tát cho nên không lui sụt. Huống ở đời ác này chẳng những không có năm duyên ấy, mà còn bị ác tri thức, thanh sắc làm say loạn, ma quỷ mạnh mẽ, tuổi thọ ngắn gấp. năm thứ đều xấu ác phá hại tu đạo, uổng phí nhiều kiếp. Xin nghó kỹ, nghó kỹ! Có người hỏi: Tất cả các Pháp vốn không sinh không diệt, bình đẳng vắng lặng sao phải gắng gượng khuyên bỏ đây cầu kia? Giải thích: Nếu bảo cầu sinh Tây phương là lấy bỏ, trái với, lý bình đẳng thì anh lại bỏ kia chấp đây, há chẳng trái lý ư? Nếu cho rằng ta chẳng cầu sinh ở đó cũng chẳng cầu sinh đây thì đó là sinh “Kiến chấp đoạn diệt”. Kinh Kim cang Bát-nhã nói: Há chẳng bàn về không, Phật răn Tu-bồ-đề rằng: Ông chớ nghó rằng người phát tâm Bồ-đề đối với Pháp chẳng nói tướng đoạn diệt. Kẻ thật hiểu không là đối với pháp nhân duyên hiểu rõ tánh sinh mà không sinh, tánh diệt mà không diệt. Không phải gọi là đoạn, vô vi chẳng sinh diệt vậy. Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là Không, Không nói Diệt, Không nói sau Không. Kinh Duy-ma nói: Biết các cõi Phật và chúng sinh không mà luôn tu Tịnh độ giáo hóa các chúng sinh. Có người hỏi: Tịnh độ ở tâm đâu cần phải tìm ở bên ngoài. Hễ Tâm tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Há lại xa xôi cầu sinh Tịnh độ phương khác ư? Giải thích: Ông lại chẳng hiểu rõ nghóa của Tâm cõi. Tâm ông bị hạn cục ở nơi chốn nên mới thấy Tây phương là cõi ngoài cõi này. Sao lại nói tâm tịnh thì cõi Phật tịnh ư? Kinh Hoa Nghiêm nói: ba thứ Tâm, Phật và chúng sinh không khác nhau. Phật pháp đã khắp thì tâm pháp cũng khắp. Nếu đều có phương hướng thì đâu gọi là không khác. Lại nói tâm đi khắp pháp giới như hư không với hư không, đâu thể phân cách. Nếu rõ được một niệm tâm khắp, một trần cũng khắp, mười muôn ức cõi chỉ khoảng một bước, đâu ở ngoài tâm. Người đời nếu nói lý không liền bác bỏ nhân quả, nếu nói tự tâm thì chẳng tin có các pháp bên ngoài. Há chỉ chê pháp mà chê cả tâm mình, tội đáng đọa lạc muôn kiếp, thật đáng thương thay. Vọng nói phải trái mà ngăn người khác tu Tịnh độ, thật là ác tri thức. Kinh Vô Lượng Thọ có nói Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng công đức trí tuệ của trời, người và các Thanh văn, Bồ-tát ở nước Vô Lượng Thọ không thể nói hết. Lại nước ấy nhiệm mầu an vui thanh tịnh. Như thế vì sao chẳng cố gắng làm lành, niệm đạo tự nhiên, phải đều tinh tấn gắn sức tự cầu sẽ được vượt lên, vãng sinh về nước An lạc. Dứt ngang năm đường ác, đường tự nhiên đóng, tiến đạo vô cùng. Rất dễ đến mà không có người đi. Nước ấy không có trái nghịch tự nhiên, sao chẳng bỏ việc đời mà siêng năng cầu đạo đức, sẽ được sống lâu, an vui vô cùng cực. Kệ viết kinh Di-đà Chánh Tín Phát Nguyện của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. Kính lạy Phật mười phương Di-đà Thánh trong Thánh. Phương đẳng Tu-đa-la Tất cả kho pháp báu Quán Âm và Thế Chí Vô số Bồ-tát Tăng Con đem tâm tín thành Khắc in và ấn tống, Quyển kinh A-di-đà Và cả kệ chánh tín Đều đủ cả một muôn Thí bốn chúng thọ trì Kệ để phát tín tâm Kinh để giúp đọc tụng Nếu ai trong mỗi ngày Tụng ít nhất ba quyển Năm tụng ngàn tám mươi mười năm muôn tám trăm Huống lại tụng nhiều hơn Và trải nhiều năm tháng Như thế chứa công đức Tự nhiên sinh trước Phật Nay tôi muôn quyển kinh Hễ nơi nào truyền đến Được ít nhất một người Tụng trì sinh Tịnh độ Tôi nguyện nhờ sức này Chắc chắn sinh nước ấy Huống lại có nhiều người Người mất kinh vẫn còn Xoay vần truyền cho nhau Gọi là đèn vô tận Các ngọn chiếu sáng nhau, Phá đêm dài sinh tử Hiển sáng Phật Bồ-đề Rốt ráo đều cùng sinh Tịnh độ Thường Tịch Quang Đem phước thanh tịnh này Hồi hướng vua, cha mẹ Thánh đế vua nước tôi Cùng hoàng hậu Thánh vị Tuổi thọ đều muôn năm Che chở khắp chúng sinh Cha mẹ bà con tôi Oán thân, chẳng oán thân Đều nhờ gốc lành này Đồng sinh nước An dưỡng. Kệ Diêu Hạnh Bà trong vầng mặt trời thấy Phật (và lời tựa) của Pháp sư Diệu Hạnh Pháp Di. Phật A-di-đà ở Tây phương có bốn mươi tám nguyện trong đó có một nguyện nói rằng: Khi tôi thành Phật, chúng sinh mười phương muốn sinh về nước tôi, niệm danh hiệu tôi mười câu mà chẳng sinh thì tôi thề không thành Phật. Nếu ai mỗi ngày buổi sáng chắp tay xoay mặt về hướng Tây niệm danh hiệu Phật mười hơi thì hiện đời tiêu tai được sống lâu, tương lai chắc chắn được vãng sinh. Thấy Dụ Di-đà ở Tiền đường, vẽ tượng Di-đà mà Diêu Hạnh Bà thấy được trong mặt trời có hình Phật A-di-đà. Người nào dụng tâm chuyên chú thì cũng cảm ứng như thế. Tỳ-kheo Diệu Hạnh Pháp Di dùng kệ khen rằng: Thế giới Cực lạc có nơi chốn Chỉ ở nơi mặt trời thường lặn Do đó Phật dạy Vi-đề-hy Quán kỹ trời lặn như trống treo Hay thay một bà lão họ Diêu, Đã dùng tâm ấy cầu Tịnh độ Sáng quán chiều tưởng không tháng năm Ngồi niệm hành trì quên lạnh nóng Di-đà bỗng từ tâm tưởng sinh Trong lúc hoảng hốt lại thấy rõ Lúc ấy, giữa trời không áng mây Nằm yên hòa trên ngọn tang du Chú. Mặt trời Phật chiếu sáng rực rỡ Mắt xanh lông trắng tướng đẹp lạ Mắt tâm kinh hãi mừng lại lo Chạy bảo Đạo sư Di-đà Dụ Thuật đủ các việc rất ít có Nguyện vẽ kim dung gá lông trắng Tôi nghe việc lạ khen ít có Bèn viết lời kệ mở chưa ngộ Nên biết cách Phật không hề xa Xiển đề đâu được nói như thế. Tuy qua mười ức cõi Phật Một niệm vượt qua trong tích tắc Như có người quên hỏi đường đi Vì sao hướng đạo không chỉ thẳng. Kệ khen Dụ Di-đà (và lời tựa) của Tả Triều Nghị đại phu Đinh Tịnh Sư bỏ vợ con làm đồ đệ Như Lai, nhóm muôn người kết hội Tịnh độ. Người trong làng là Đinh Chú làm kệ khen rằng: Tâm tịnh, cõi Phật tịnh Pháp vương chẳng nói dối Đem thân khỏi trần cấu Bèn thấy sen trong lò Một niệm khởi chẳng dứt Cực lạc liền hiện tiền Đại thiên đồng cảnh này Há chỉ duyên muôn người. Bài tụng về kinh Thập lục Quán của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức. <詞>Phần tựa: Vi-đề thành kính thỉnh Năng nhân Nguyện nói nhân cõi tịnh Tây phương. Mười sáu quán gồm ba tịnh nghiệp Tu lành sẽ được thân vãng sinh. Quán mặt trời: Một, ngồi hướng Tây tưởng mặt trời Thấy mặt trời lặn như trống treo Thấy xong nhắm mắt và mở mắt Đều hiện rõ ràng ở trong tâm. Quán nước: Hai, quán tưởng nước thấy Tây phương Tất cả đều là nước Tịnh độ Đã thấy nước rồi tưởng thành băng Sáng lòa trong suốt đất lưu ly. Quán đất: Ba, chánh quán đất báu lưu ly Quán kỹ rõ ràng nước Cực lạc Tám thứ gió mát khua tiếng nhạc Khúc “Khổ, không, vô ngã, vô thường”. Quán cây: Bốn quán cây báu bảy hàng lớp Hoa báu trưng bày cung điện báu Cờ phướn, lọng báu hình lớp lớp Cõi Phật mười phương hiện trong đó. Quán ao: Năm, tưởng ao bảy báu Tịnh độ Trong ao có nước tám công đức Tuôn chảy niệm rõ Phật, Pháp, Tăng Hoa sen đẹp báu ngàn muôn ức. Quán chung: Sáu, quán cõi báu, lầu gác báu Cây báu lại gồm cả ao báu Đây là quán chung nếu được thành Là thấy Cực lạc về phần thô. Quán tòa hoa: Bảy tưởng đài tòa hoa sen đẹp Nguyện lực, Di-đà rộng lớn thành Khi khởi quán này tâm không loạn Tưởng chắc Cực lạc sẽ được sinh. Quán tượng: Tám, quán giới Phật Như Lai pháp giới thân Khắp vào tất cả tưởng chúng sinh Người trí phải quán tâm tưởng này Tâm ấy tức tượng Phật, Bồ-tát. Quán Vô Lượng Thọ: Phật Vô Lượng Thọ thân màu vàng Sáng suốt chiếu khắp các chúng sinh Người trí siêng tu giữ tâm quán Các Phật hiện tiền đồng thọ ký. Quán Quán Thế Âm: Bồ-tát Quán Âm thân sắc vàng Hào tướng giữa mày màu bảy báu Phát ra ánh sáng khắp mười phương Trong có vô số ức Hóa Phật. Quán Đại Thế Chí: Kế quán thân Bồ-tát Thế Chí Bằng với Quán Âm không gì khác Chỉ ở nhục kế trong bình báu Có đầy ánh sáng hiện Phật sự. Quán vãng sinh khắp: Ngồi tưởng thân sinh cõi Cực lạc Hoa sen khép mở, mình ngồi trong Hoa nở thấy Phật đầy hư không Nước chim, cây rừng nói kệ pháp. Quán Tạp vãng sinh: Lại tưởng Di-đà hai Bồ-tát Thần thông biến hiện việc như trước Quán tạp mà thành vô lượng phước Chắc sinh An dưỡng hầu Phật-đà. Quán Thượng phẩm thượng sinh: Tâm từ không giết, giữ các giới Đọc tụng kinh Đại thừa Phương đẳng Tu hành sáu niệm nguyện hồi hướng Khi chết Hóa Phật đều đến rước. Thượng phẩm trung sinh: Người không thọ trì kinh Phương Đẳng Hiểu Đệ nhất nghóa, rõ nhân quả Đài vàng tía hiện lúc qua đời, Tự thấy thân mình ngồi trên đài. Thượng phẩm hạ sinh: Tin sâu nhân quả, tu Đại thừa Chỉ phát tâm Vô thượng Bồ-đề Hồi hướng công đức nguyện vãng sinh Sinh rồi sẽ trụ Hoan hỷ địa. Trung phẩm thượng sinh: Thọ trì năm giới, tán giới trai Tu hành các giới nguyện hồi hướng Chết rồi vãng sinh nghe pháp âm Ngay đó liền chứng A-la-hán. Trung phẩm trung sinh: Nếu người dốc lòng một ngày đêm Giữ giới trì trai không thiếu sót Hồi hướng công đức nguyện vãng sinh Bảy ngày hoa nở được thọ ký. Trung phẩm hạ sinh: Hiếu dưỡng cha mẹ, hành nhân nghóa Khi chết lại gặp tri thức tốt Nói rộng nhân nguyện lớn Di-đà Trong khoảng duỗi tay sinh nước ấy. Hạ phẩm thượng sinh: Nếu người tuy chẳng chê tôn kinh Gây các nghiệp ác không hổ thẹn Sắp chết được khuyên niệm Di-đà, Vãng sinh mười kiếp chứng Sơ địa. Hạ phẩm trung sinh: Nếu có chúng sinh phạm các giới Trộm cắp các vật của Tam bảo Sắp chết được khuyên niệm Di-đà Chỉ trong một niệm sinh nước ấy. Hạ phẩm hạ sinh: Gây năm tội nghịch, mười điều ác Đáng đọa địa ngục, chịu các khổ. Sắp chết được khuyên niệm Di-đà. Chắc chắn siêu sinh về nước ấy. Bài tụng về mười sáu pháp quán của Pháp Sư Tra Am Hữu Nghiêm Quán mặt trời. Mặt trời lặn hình chiếc trống treo Ngồi kiết già xoay mặt hướng Tây Thân tuy chưa đến trong ao hoa, Trước đã đưa tâm về Cực lạc. Quán nước. Tưởng nước thành băng suốt đáy trong Tiêu biểu lưu ly cột báu nâng Sáng suốt rực rỡ trăm mặt trời Đây gọi “nước tâm thiền” quán thành. Quán đất. Đất báu trong nghiêm khi mưa hoa Cờ phướn lầu gác thích suy tư Đất bằng huống là tâm ngàn pháp Gá cảnh sáng tâm chẳng thể dời Quán cây. Cây báu lớp lớp tướng dựa cao Trang nghiêm lưới châu giăng mấy lớp Nếu hiểu rõ được cảnh do tâm Tuy ở Tây phương đường chẳng xa. Quán ao. Tám đức lắng trong gọi ao đức Đáy bằng cát vàng chiếu sáng trưng Nước chảy lại nói kệ vô sinh Nghe rồi đều quán tâm. Giữ niệm Quán chung. Cõi nước nghiêm báu bảy báu thành Ở trong lầu gác nhạc trời trổi Cây ngọc ao hoa gọi quán chung Quán rõ diệt tội việc không nhỏ. Quán tòa hoa. Hoa sen tám mươi bốn ngàn cánh Các mầu trang nghiêm vô số quang Lấy hoa sen này làm tòa báu Mở bày ngồi đợi pháp trung vương. Quán Phật, Bồ-tát. Quán chân thân Phật, tuệ chưa khai Trước dạy quán tượng ngồi đài hoa Phật, Bồ-tát thân đầy nước ấy Phải rõ tượng kia từ đâu lại. Quán Vô Lượng Thọ. Phật kia vòi vọi thân cao quý Sáng suốt chiếu khắp số như bụi Chúng sinh được chiếu tâm quy Phật Liền là người Tịnh độ Tây phương. Quán Quán Thế Âm. Bồ-tát tên là Quán Thế Âm Tâm đại Bi trùm khắp mười phương Ánh sáng vàng tím , sức oai thần Biển thệ sâu, dắt dẫn chúng sinh. Quán Đại Thế Chí. Sức vô thượng gọi Đại Thế Chí Sạch đẹp sáng gọi vô biên quang Nếu người quán niệm Bồ-tát này Chẳng ở bào thai đầy hôi hám. Quán vãng sinh khắp. Khi khắp quán thành liền có công Tưởng thân về Tây rừng hoa đẹp Hoa sen khép mở thấy rõ ràng Bồ-tát, Như Lai đầy hư không. Quán tạp tưởng. Phật hiện oai quang thân lớn nhỏ Quán Âm, Thế Chí ở hai bên Nếu tu tạp quán được thành tựu Đây lại gọi là nhân thanh tịnh. Quán ba bậc thượng. Bậc thượng có đưa ra ba phẩm, Khi chết, các Phật phát ánh sáng Đài hoa đón nước sinh An dưỡng Biết là Viên tông thập tín tâm. Quán ba bậc trung. Bậc Trung chia làm năm hạng người Ngoài tu giới phẩm trong tu chân Chết rồi năm đường liền ra khỏi Liền được thân vô lậu Tây phương. Quán ba bậc hạ. Phàm phu tuy gây rất nhiều nghiệp Trời lặn bên ao luôn quán tưởng Được gọi là người sinh Tịnh độ Phải biết không dễ cũng chẳng khó. 9.Các bài tụng về mười sáu pháp quán của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Linh Sơn chúng hội Núi Kỳ-xà mất Cung vua hiện ra Việc xong trở về A-nan kể lại. Vi-đề hỏi pháp: Nhốt ở cung sâu, Phát khởi việc lớn Chúng sinh ác trược Đều khiến được ban Quán mặt trời. Trời lặn trống treo Thoát đường sinh tử Trong mười hai thời Giữ niệm một chỗ. Quán nước. Nước lớn lắng trong Đóng lại thành băng Làm đất lưu ly Trong ngoài trong suốt. Quán đất. Quán cây. Quán ao. Trên đất lưu ly Các tướng trang nghiêm Thấy rất rõ ràng Trừ nghi phá chướng. Bảy lớp hàng cây Lưới châu cung hoa Giăng mắc rợp trời Đẹp đẽ vô cùng. Nước ao tám đức Sắc đẹp bảy báu Sen nở chim hót Rửa sạch phiền não. Quán chung. Nhạc trời trong lầu Khen Phật Pháp Tăng, Cây, đất, ao báu Một niệm viên thành. Quán tòa ngồi. Tòa hoa sen lớn Trang sức trăm báu Đẹp đẽ khó lường Nguyện lực Pháp tạng. Quán tượng. Mượn tượng ngưng chân Thấy chân quên tượng Ba Thánh sáng rõ Vẫn gọi tưởng thô. Quán Phật. Quán Phật tướng tốt Tông yếu một kinh Tam-muội hiện tiền Mới biết sâu mầu. Quán Quán Âm. Sáng đến năm đường Mão có Phật đứng Nghe tên được phước Huống là quán kỹ. Quán Thế Chí. Sáng chung các Phật Cứu giúp các khổ Bình đầu đầy sáng Hiện khắp cõi Phật. Quán khắp. Kiết già trong sen Hoa sen khép mở Y, chánh trang nghiêm Tất cả đều nhiếp. Quán tạp. Chót vót trên ao Tượng một trượng sáu Biến hiện lớn nhỏ Rõ tướng vô định. Thượng phẩm thượng sinh. Ba tâm phát đủ, Đế lý sáng sâu Đài vàng theo về Liền chứng vô sinh. Thượng phẩm trung sinh. Rõ các pháp không Chẳng hề kinh động Có nguyện liền sinh Chẳng cần đọc tụng. Thượng phẩm hạ sinh. Chỉ phát tâm đạo Chưa cùng lý mầu, Đến đó mở sáng Được ký Bồ-đề. Trung phẩm thượng sinh. Giữ lâu các giới Vãng sinh như nguyện Nghe nói khổ không Chứng A-la-hán. Trung phẩm trung sinh. Một ngày một đêm Giữ giới nguyện cầu Hoa nở thấy Phật Liền vào dòng Thánh. Trung phẩm hạ sinh. Hiếu nghóa nhân từ Tri thức khai ngộ Gặp hai Bồ-tát Nghe Pháp được độ. Hạ phẩm thượng sinh. Bình thường làm ác Chết gặp thầy lành Xưng một câu Phật Sinh ao hoa sen. Hạ phẩm trung sinh. Phá giới nghiệp sâu Lửa địa ngục hiện Nghe pháp hồi tâm Các Thánh rước đi. Hạ phẩm hạ sinh. Mười ác, năm nghịch Khi chết khổ bức Dạy xưng mười niệm Hoa nở màu vàng. Tụng: Khuyến hóa đường tắt tu hành của Tỳ-kheo Thiện Đạo ở kinh đô: Dần dà da mồi tóc bạc Lần hồi từng bước run run Dẫu cho vàng ngọc đầy nhà Ai khỏi suy tàn già bệnh Mặc tình muôn ngàn vui sướng Vô thường rốt sẽ đến nơi Chỉ có đường tắt tu hành Chỉ niệm A-di-đà Phật. Bài tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Giác Tông Trách: Ba cõi nóng phừng như đống lửa Chẳng phải chỗ an thân đạo nhân Hoa sen bạn lành đợi đã lâu Hãy thu xếp thân tâm trở về. Mắt tưởng tâm luôn giữ hình Thánh Cần phải niệm niệm chớ sinh nghi Năm nào Tịnh độ hoa sen nở Nhớ mãi lúc niệm Phật Ta-bà. Cực lạc chẳng lìa chân pháp giới Di-đà tức là vua tâm mình Lông trắng giữa mày không nơi chốn Cột lồng đèn cũng phát sáng. Gấp tu trai giới chớ dần dà Ngàn Thánh đồng mở pháp niệm Phật Một mai công thành về Tịnh độ Trong sáng lông trắng hầu Từ Tôn. Bài tụng nói về Tịnh độ Tây phương của Thiền sư Từ Giác Tông Trách: Tây phương nhiều việc vui Nhiều kiếp khó nói hết Tuổi thọ thật vô tận Ánh sáng không bờ mé Gió đạo thổi tuệ duyên Nước định mọc sen hồng. Hải hội cùng hội họp Hoa trời rơi chỗ ngồi Hải chúng đều thanh tịnh Đạo Bồ-đề dễ thành Tâm tâm đều chánh niệm Vật vật hợp Chân thừa Đất tánh ngọc lưu ly Viên âm các chim hót Cần phải lên bờ Giác Chớ để theo nghi thành Chân đạp đất Vô ưu Thân ở không chỗ nơi Sáu thời chầu Thánh chưa Buổi sáng đến phương khác Điện báu tùy thân đi Hoa trời khắp cõi thơm Trở về lại nơi ở Thiền duyệt vị nào hơn Chớ nói Tây phương xa Tây phương trước mắt ta Nhưng cách hơn mười muôn Không hề lìa ba ngàn Vừa mở miệng niệm Phật Ao sen hoa đã mọc Tín tâm luôn không lùi Quyết định lễ Phật-đà Ao lắng nước công đức Gió động tiếng đờn sáo Lưới báu khắp khoảng không Lầu đài sáng rừng báu Sáu căn thường hợp đạo Muôn cảnh chỉ do tâm Không phải người khó đến Do tín tâm chưa sâu Hạnh nghiệp chia ba bậc Hoa sen cùng một ao Rõ ràng lên Cực lạc Quyết định được La-hán Chướng hết, mặt trời sáng Khi tâm mở thấy Phật Trong đó vui vô hạn Chỉ đồng đạo mới biết Cực lạc lý chân như Di-đà trí tuệ quang Khi mê chìm cõi này Lúc ngộ về Tây phương Rỗng sáng luân hồi dứt Mênh mông tuổi thọ dài Tín căn vừa một niệm Tâm địa đã mát trong Tin sâu rồi sẽ đến Nghi nhiều không thể biết Tâm tịnh nương một niệm Công hạnh vượt tăng-kỳ Liền vào vị A-duy Lại ngang hàng Bổ xứ Tiến tu thật mạnh mẽ Chẳng cần đợi tu lâu Người hỏi người tu thiền Tông môn muôn việc quên Thì siêu sinh Cực lạc, Cần gì đến Tây phương Chẳng nghe nhà Thiền nói Tây phương là quê xưa Mã Minh đã dạy kỹ Long Thọ cũng ngợi khen Chớ nói Ta-bà khổ Khổ Ta-bà giết người Tham, sân, si loạn ý Da thịt máu thành thân Hang oán tắng la-sát Làng ấm nhập vô minh Hãy mau sinh Cực lạc Nẻo về chớ dần dà Chớ nói Ta-bà khổ Ta-bà khổ rất sâu Tà ma luôn là bạn Tật bệnh thường xâm hại Thanh sắc đất yêu dâm Tâm Thiền-na lạnh nhạt Hãy mau sinh Cực lạc Nẽo về chớ trầm ngâm Chớ nói Ta-bà khổ Khiến người khóc sụt sùi Xoay vần trong ba tai Bị lửa năm thống đốt Cây hạc sáng bị che Hội Long Hoa còn xa Hãy mau sinh Cực lạc Nẽo về chớ từ nan Chớ nói Ta-bà khổ Vi-đề bạch Thế Tôn Gặp kiếp phiền não trược Con gọi Vi Sinh Oán Tâm Điều-đạt nào nghịch Hận Bình-sa chớ bàn Hãy mau sinh Cực lạc Ác này không hề nghe. Bài tụng nói về Tam-muội Quán Phật của Pháp sư Tra Am Hữu Nghiêm: Nếu người nguyện được sinh An dưỡng Bậc trí khiến nên tu quán tưởng Chân thân Di-đà thật khó quán Người sơ tâm quán tượng vẽ khắc Tưởng thành tướng khởi mắt tâm mở Thân mầu vàng ròng như chỉ tay Một niệm dứt ngang năm đường ác Ai bảo không người khiến dễ đến? Bài tụng khuyên niệm Phật của Thiền sư Từ Thọ Hoài Thâm. Muôn người cùng chí niệm Di-đà Các lực thành nhau nguyện lực nhiều Hoa sen nở đích thân thấy Phật Mới biết Tịnh độ hơn Ta-bà. Cây rừng chim nước đều nói pháp Lưới báu đài vàng đều đạo tràng Hiểu được tiếng chuông và tiếng trống Chỗ nào Di-đà cũng phóng quang. Râu tóc dần dần điểm tuyết sương Tâm vượn ý ngựa còn điên cuồng Một ngày nhắm mắt trở về không Mới biết Nê-lê tháng năm dài. Nghiệp báo khác nhau việc bất đồng Mệt nhọc cả đời không thoát lồng Muốn biết tự tánh Di-đà Phật Sớm chiều một niệm trong tâm ông. Chúng sinh biển khổ nghiệp chìm sâu Chẳng tin nhân duyên chìm đắm lâu Nghe được âm thanh bèn niệm Phật Mới hay vợ con tâm lão bà. Chẳng phải sơn tăng nói đúng sai Tu hành việc ma cần biết rõ Ngay đây vứt hẳn đôi giày cỏ Vượt thoát ao năm dục Ta-bà. Bài tụng chỉ bày Hạnh Bà (và lời tựa) của Pháp sư Từ Biện Tùng Gián. Hạnh Bà gặp sư, sư hỏi tu hành được bao lâu? Bà thưa tu hành đã nhiều năm. Sư hỏi từng thấy A-nan chưa? Bà thưa đã gặp nhiều Thiện tri thức. Sư hỏi, họ chỉ bày như thế nào? Bà thưa: Cắt đứt cội gốc, cũng chẳng xem kinh, cũng chẳng niệm Phật. Sư nói: Lầm rồi! Nhân đó nói Pháp. Bà tin phục, Bèn nói hai bài tụng rằng: Cắt đứt cội gốc chẳng cần tu Đến nay các lời ít nguyên do, Phải nên nắm gốc thoát sinh tử Niệm niệm Di-đà chớ cầu ngoài. Niệm Phật xem kinh là đường đi Phải tin từ xưa nước là băng Chỉ hướng cội nguồn nghiên cứu sâu Từng tiếng đề khởi cho rõ ràng. Bài tụng khuyên tu Tịnh nghiệp của Luật sư Đại Trí Nguyên Chiếu. Nghe nói Tây phương rất dễ cầu Muôn duyên từ đây buông bỏ hết. Luân châu lớp lớp đều đầy đủ Chỉ trước Di-đà xin cúi đầu. Nghe giáo tham thiền tìm bên ngoài Không hề quay đầu suy nghó lại. Khi sắp qua đời, đường trước tối Mới hay bình sinh dụng tâm lầm. Bài tụng hóa đạo niệm Phật của Luật sư Thanh Chiếu Huệ Hanh: Thích-ca như thật khen Tây phương Y, chánh vượt xa ý đã bày Tín nguyện trì danh không tưởng khác Từng tiếng tâm trụ ánh sáng lông trắng. Nhiều kiếp huân thành thân công đức Vô biên quang, thọ lập tên tốt Do đây các Phật đều khen ngợi Vì sao chúng con chẳng cất tiếng. Hồng danh bốn chữ miệng vàng nói Công thành chỉ ở tâm ta bền Pháp thần giản dị thật ít có, Thoát rồi vui thay sen báu khắp nơi. Bài tụng niệm Phật tâm yếu (và lời tựa) của Pháp sư Hoa Âm Đạo Nhân: Đức Thích-ca Như Lai nói Phật A-di-đà là thân pháp giới. Ngài Thiên Thai Trí Giả lại nói: Thật tướng là thể. Dựa vào hai cách nói này xem là tâm yếu, thì mười muôn ức cõi như ở trong gương sáng. Nay làm bài tụng vụng về để ấn tâm. Kẻ tri âm nào đó có vui theo chăng? Vô biên là biển cùng hư không Biển, không toàn là cung hoa sen Cung sen cùng khắp đầy biển, không Biển, không riêng bày Phật Di-đà. A-di-đà Phật chẳng sinh diệt Khó tìm khó vớt trăng trong nước. Dứt phi lìa cú thân như thế Cảm thông như thế, nói như thế. Ta và Di-đà vốn chẳng hai Vọng giác ngầm sinh chợt thành khác Từ nay quét sạch không có bụi Cha con tự nhiên lại gặp nhau Thệ tu ba phước hành sáu niệm Nghiệp thân, miệng, ý không tỳ vết Nay tôi do đó niệm Di-đà Không thấy Di-đà không thỏa mãn. Bài tụng khắc tượng thơm A-di-đà (và lời tựa) của Pháp sư Giải Không Khả Quan: Ở Hồ tây thuộc Tứ Minh có Sùng giáo theo học với Phạm Cần Hành nhân. Vì nguyện xưa mà vào quán đường Diên Khánh hành trì sám Phổ Hiền, tụng kinh Pháp Hoa, trong mộng được xoa đầu mà không hay biết. Do đó hồi hướng Tây phương, thêm vững Tam-muội niệm Phật. Khắc gỗ Tử Đàn Hương làm tượng Phật A-di-đà như trăng trong nước, không bao giờ được. Bèn cầu Lão Trúc Am chứng minh cho, không lấy ra được cái gì, chỉ có cái đó. Lông bạch ngọc trắng do tâm ta Tướng sáng vàng tím là tánh ta. Tướng sáng thảy đều không thật có Ngay đó đều là định diệu thắng. Bài tụng nói về Tịnh độ và bài Tụng nói về tạ thế của Pháp Cảnh giảng chủ Nhược Ngu: Trong không ngàn hoa giăng lưới Trong mộng bảy báu ao hoa Yên ổn đạp lên đất Tây phương Liền không một chút nghi ngờ. Vốn không có nhà biết về đâu Bên mây một nẻo có ai hay Trăng non Tây sắp lặn nơi khen sáng Chính là lúc mộng đầu tiên dứt. Khen ngợi Tây phương của Cư só Huyễn Trụ Nhậm Bưu: Ao sen bảy báu nước công đức Sáu thời chim cùng nói Pháp âm Ánh Từ xen chiếu không ma não Tự tại bay đi chẳng tử sinh. Anh: Lầu gác trang nghiêm, đường bằng vàng Hoa sen thơm sạch ánh sáng báu Tràng hoa chuỗi ngọc cùng gặp gỡ Đều nói do nhân niệm Phật sinh. Bài tụng khuyên tu Tịnh độ của Pháp sư Đồng Giang Trạch Khổ thay, khổ thay, thật khổ thay Rốt cuộc lồng vòng chẳng chịu về Nhà trên cha lành luôn buồn nhớ Muốn giao gia nghiệp đợi con về. Bài tụng nói về Bạch Liên Tịnh Xã của quan Hữu Nhai Giám Nghóa Tùng Chánh: Về đi thôi, hãy về đi thôi Tây phương Tịnh độ sen trắng nở Từng đợt gió thơm thổi chẳng động Tiêu dao vui sướng đài vàng tím. Bài kệ nói về Phật và ma khi tu tịnh nghiệp của Pháp sư Thọ An Lương Bật: Di-đà lễ Di-đà Bước bước dứt Ta-bà Phật còn chẳng được Phật Ma chỗ nào là ma. Kệ khuyên tu Tịnh nghiệp của Xương Quốc Tể Vương Tồn Chi: Việc đời như giấc mộng Người đời ai trăm năm Niệm niệm Di-đà Phật Sen báu mọc trong ao. Bài tụng khuyên người đời niệm Phật (mất tên tác giả). Kiếp người phù sinh việc ra sao? Như én mùa xuân làm tổ cao Lăng xăng sóng động lo sinh sống Chẳng bằng an phận niệm Di-đà. Văn chương luận giỏi đậu khoa cao Cửa tía lầu son ý khí cao Quan cao ai khỏi vô thường đến Không bằng phương tiện niệm Di-đà. Múa giáo bắn cung khó ai qua Ngựa giỏi phóng nhanh mau như thoi Sức địch muôn người cũng già bệnh Chi bằng luyện giỏi niệm Di-đà. Giàu sang tiền của chẳng thoả mãn Sáng tối tính đếm sợ lầm lẫn Ưu phiền bất giác đầu bạc trắng Chẳng bằng biết đủ niệm Di-đà. Âm thanh trong trẻo tiếng ngâm ca Một bài ca mới nhạc dịu hòa Bỗng cất cao giọng Hành Vân trụy Chi bằng tịnh khẩu niệm Di-đà. Mày liễu mắt sáng tợ hằng nga Vóc ngọc lại trang điểm lụa là Đẹp đẽ chỉ khi còn trẻ tuổi Không bằng mau sớm niệm Di-đà. Lắm khoe địch quốc lắm trí mưu Nhiều bận tranh hơn lắm cam go Thì giờ một nửa đành bỏ mất Chẳng bằng ngồi thẳng niệm Di-đà. Buôn bán bươn chải lắm bôn ba Đất khách xa xôi đâu chẳng qua Sông hồ sóng gió đầy nguy hiểm Chẳng bằng trở về niệm Di-đà. Quen việc công tổn hại người khác Khéo bày lời lẽ đám lâu la Gia tài dần phá bị người oán Không bằng dẹp việc niệm Di-đà. Nghiệp giết thù hận chứa càng nhiều Ăn nói sao đây gặp Diêm-la Dạy anh một pháp siêu sinh nhé Hãy nên sám hối niệm Di-đà. Loại Thơ Ca vịnh Tịnh độ. (Trích trong luận Bảo Vương) của Tấn Khang Lạc Tạ Linh Vận: Pháp Tạng trong cung vua Mang đạo ra khỏi thành Phát ra bốn mươi tám nguyện Thệ lớn cứu chúng sinh Tịnh độ cõi diệu nào Đến đó đều anh hào Lời suy đâu thể gởi Nương hóa ắt sớm đi. Thơ niệm Phật Tam-muội của Tấn Lang Da Vương Kiều Chi: Diệu dụng tại đây Có thấy hay không Thần do muội suốt Thức bởi chiếu thô Chứa vi tự dẫn Vì công vốn dối Mất ba quán kia Quên lông trắng đây Yên lặng gì đầu Bước trên huyền vi Chứa quên thích hợp Thông suốt linh sáng Tâm đến cõi xa Được cơ chẳng hành Dùng đó làm xung Biết là rất hiếm Thần đọng trời ngưng Viên chiếu mây sáng Cùng hóa mà gồm Cùng các vật này Chẳng nên dùng phương Người nhận phân biệt Nháy mắt gương vực Vàng nước bụi phấn, Đã từ một sinh Có tuệ thức xưa Nương người sâu kín Nhờ có sức ngầm Nghó chuyển hào công Sâu xa chẳng lường Còn khởi niệm này Chú tâm Tây phương. (Trích ở Lô sơn Tập). Thơ niệm Phật Tam-muội (và lời tựa) của Từ Vân Sám chủ Tuân Thức: Tựa rằng: Tam-muội niệm Phật là đạo mầu của bậc Thánh. Phàm khích lê dòng pháp đâu gì hơn đây. Sư tuệ Viễn Đời Tấn, hóa đạo ở Tầm dương, nhóm họp các bậc hiền người thừa hành đúng quy tắc nhất có Lang điện da Vương Kiều Chi, đến khi các bậc Hiền đều làm thơ về niệm Phật Tam-muội thì Tuệ viễn soạn lời tựa. Hoàng Tông Bính Thân, Sa-môn Tuân Thức hội các khách cao thượng ở Tứ minh hơn một trăm vị hai tháng giữa Đông, giữa Xuân thì một ngày một đêm hợp ở giảng đường Bảo Vân quán tưởng Vô lượng giác hạnh. Thời Hán ngụy suốt năm Nhâm Dần đã bị phá bỏ ở. Đông Sơn Bỗng nghó thành tựu việc cũ. Sự tích không kể ở đây. Bèn định các bậc Hiền đời Tấn làm thơ gởi đề khắc đá truyền lại đời sau. Muôn cảm ngoài hình hài Nghiễm nhiên nhà trống vắng Lông trắng sáng nhiều mầu Thần tối nhờ nối sáng. Tượng đẹp chẳng vốn dự Xem tục há thấy tốt Chặt bỏ hội nhập vi Dạo chơi tâm không vui Đá vàng muội thấy chân Chánh nghe ngu tám tiếng Huyền không chẳng nương giá Can thiệp đâu có gắng Sum la hiểu đều vắng Hư không tiêu khí độc Lành thay đạt quán này, Cục só còn nói gì. Bao dung mà khúc chiếu Đẹp như bóng trong gương Xem kỹ không khiển tâm Luống cầu không trệ tưởng Theo mộng quên thỉ chung Thông kín rõ như đến Nhờ đây gặp dáng Thần Tiêu dao hẹn đến Tây Soi hết huyền tưởng cô Động tịnh như là khu Đại tượng nào hình nghi Đại phương gì rèm góc Chánh thưởng chẳng ngầm gồm Bước diệu không vòng vo Tâm lắng biết khắp biển Gạo tốt thân vàng ròng. Từ biệt Lý bí thư ở chùa Thỉ hưng của Cư só Thảo Đường Đỗ Tử Mỹ: Chẳng thấy bí thư tâm như mất Thấy bí thư rồi liền mất tâm Sao vì động chủ lý tin rõ, Ta là độc giác thần sung thật Lại nghe kinh Quán nói Tây phương Thân già chùa cũ gió vi vu Vợ con đợi gạo lại ra đi Ngày nọ gậy lê đến nghe pháp. Ngồi bên bờ nước ở chùa Đông lâm của Cư só Hương Sơn Bạch Cư Dị: Xưa là khách trong thành Đông dịch Nay làm người ở xã Tây phương. Tay nhành dương chi ngồi bên nước Nhớ nghó việc qua như thân trước. Điếu Đại Sư Thiên Trúc Bảo Nguyệt của Cư Só Đông Pha Tô Thức: Sinh tử cũng như duỗi cánh tay Tình chung ta nhắp một chua cay Lạc thiên chẳng phải Bồng Lai khách Nương nhờ Tây phương làm chủ nhân. Đêm trừ tịch (2) của Cư só Hậu Sơn Trần Vô Dó: Bảy mươi đã hơn nữa Việc làm được bao nhiêu Mới hay tối gấp đến Liền biết nhiều đời sau Lánh đời nhiều phiền lụy Nhiều năm phải làm ma Về Tây nên dấn bước Chẳng sống mãi Ta-bà. Cư só Hậu Sơn lại có ba bài thơ cũng có chí Tây phương. Nay tóm tắt một vài câu. Như bài gởi Tham Liêu thì nói: Bình sinh nguyện Tây phương, duyên với việc lấy bỏ, chỉ theo người ngoài đời, từ đâu mà quên năm. Bài gởi Lý học só: “Vừa tìm đến cõi Đông, luận việc này có nhờ, Tây phương làm xe sau”: Bài giả biệt Thiền sư Viên Chứng nói: Bình sinh theo Tây phương, đến già còn mê nhân gian là có ý gì? Năm nào Phật gặp Đầu-đà biết đó là Lão cư só năm ấy. Cư só Hậu sơn là người làm thơ cận đại nổi tiếng nhất chuyên chú với Lạc bang. Như thế thì những kẻ phong tao đâu thể chỉ vì một chữ mà kéo hết mấy cộng râu mép ư? Việc tốt ở Tiền Đường, gởi người đứng đầu Giang Ninh Mã Thị Lang của Thiên Trúc Sám chủ Tuân Thức: Vãng tuế Tiền Đường việc tốt thay Trong đó An dưỡng rất chí thành Ao tâm sen nở như còn mãi Nên hành Tây phương Phật ở trên. Cáo: Đoan Trúc Ngộ Lão trồng sen của Vô Vi Tử Dương Kiệt: Nghe nói Đông Lâm rừng suối đẹp Hội xã xinh tươi nối trăm năm Lệnh vật gì bằng trúc họ Thôi Ao vuông trồng mới sen Tuệ Viễn Hoa nghiêm mau tịnh tam thiên giới, Non Lô lại cảm mười tám hiền Đáng cười Đào Tiềm lại trở về Bạch Vân chim hót bạn về vườn. Lô sơn Bạch Liên xã của Sa-môn Ngự Khê Hoài Ngộ: Nhà Tấn lăng trì vua chép bày Người tài dấu cũ bóng khuông sơn Lâu phiền Đại Só còn sáng mãi Mười bảy cao hiền chọn ghế ngồi Tài cao ai bảo rồng trong chữ Phản sử người kia nghó Tạ Công Khói bay sương giọt ao ngọc vắng Bóng sen nay tuyết gió thu lay. Tặng Di-đà Đạo giả (tức Dụ Di-đà) của Trực Bí Các Hoàng Tịnh Công ngày nọ gọi lương y Nhất ngộ chân không liền hết nghi Hiếu hạnh không nên quên cha mẹ Tín tâm không còn nhớ vợ con Lộc môn so Bàng Cư só Liên xã may gặp Pháp sư Viễn. Lại thành quán Tây phương thanh tịnh Bạch hào luôn hiện năm Tu-di. Thơ cận thể về mười sáu pháp quán của Sa-môn Xung Mặc: Quán mặt trời. Năm nay hương lửa tấc lòng sáng Định vượt đường xa xôi mười muôn Thường hướng về nơi mặt trời lặn Ngưng tâm quán tưởng công phu thành Linh đơn đâu riêng trị các khổ Xương huyễn hãy nên hẹn năm thanh Núi non trước mắt nào nước cũ Trở về An dưỡng là thần kinh. Quán nước. Nước lớn ngưng băng không bến bờ Sáng trưng trong suốt khắp sông hồ Trên không chẳng biết trời đất lớn Ngoài tâm vốn không có mây mù Tự hận đời này vào đạo muộn Nhân vì các vọng lạc không tà Giữa rừng chẳng bỏ quán cây chuối Chỉ đợi thuyền sen mau đến nhà. Quán đất. Chỗ dung tâm hết chẳng đất đai Đường nhỏ làm sao có đất to Nhạc trời đầy không vang kinh Phạm Phướn vàng rủ đất ánh lưu ly Không hề mắc mưu thần rỗng sáng Chẳng sợ trôi nổi gấp bóng dời Thử xem núi biển luôn còn mãi Đâu bằng phút chốc về Liên Trì. Quán cây. Chớ dùng danh ngôn tìm ở ngoài Biết cảnh giới trời rất cao sâu Lớp lớp châu báu không vật khác Mỗi tia sáng châu từ tâm ra Vượt thoát chưa thành do thiếu tụng Chứa công chẳng hề chán xỏ kim Bạn vô sinh xã nên mời gọi Cùng ta đồng tham ngộ tức thì. Quán ao. Nước chảy tám đức lạnh ngưng thần Sen phát các sáng khiến lóa mắt Trong hoa gương sóng truyền tuyệt âm Chim bên bờ báu bóng theo hình Nhiều năm dấu sóng quên việc về Ngày nay nhớ lại định ở ao Nghỉ chút giường kia như mộng tưởng Giác rồi tâm địa riêng hân hoan. Quán chung. Trời dục giàu vui mấy từng cao So cát sông Hằng chẳng là nhiều Các tiên ẩn khuất vui lầu các Tuyên dương Tam bảo thổi sinh tiêu Chẳng có cảnh nào chẳng phàm tưởng Trong ánh giải thoát chưa tự tại Nhìn chung ân cần sư tử rống Dã can sợ hãi phá tà yêu. Tòa hoa. Khắp biết nguyện xưa nhiều gò đồi Đất bằng mọc sen hợp tự nhiên Tòa báu vòi vọi khó sánh ví, Cờ báu vượt cao vừa tròn vuông Tưởng thành pháp pháp không dấu vết Tận mắt trần trần vốn hư không Kî nhất mảy may lạc lưới ma Ngay đây dứt hết việc đời này. Quán tượng. Chân cảnh rất cao mắt phàm tối Trước bày tượng quán nêu thường dung Phải biết tướng tốt từ đâu khởi Chỉ thẳng nguồn tâm có nẻo đường Tướng vàng sáng rực như trời lên Ánh sáng lông trắng mềm như nhung Lại chúng sinh, Phật trong gang tấc Bỗng phá bụi tối nghìn muôn lớp. Chân thân. Tám muôn tôn sùng toàn thể hiện Ánh sáng luôn chiếu cõi như bụi Sinh tử nhiều kiếp khó gặp gỡ Thức ngủ chí thành vẫn không quên Thề nguyện đục núi làm thắng nghiệp Làm đồng hồ nước theo ánh dương Phong lưu Liên xã nay ngàn năm Cũng còn tiếng tăm thơm rất thơm. Quán Âm. Ba mươi sáu lớp đầy cảm ứng Vớt hết chúng sinh thoát nổi trôi Mũ trời hóa Phật lưu dấu vết Sa giới tùy cơ nói tiếng mầu Anh lạc đầy thân trăng lấp lánh Cành dương trong tay bày vàng ròng Đời ta nhiều bệnh thường quy ngưỡng Chuột uống nước biển chẳng biết sâu. Thế Chí. Mão có bình vàng hoa trăm ức Ni-mi báu lạ ánh xa cừ Trong ánh có cõi nghiêm thân tướng Gió động vạt áo ngọc leng keng Niệm Phật viên thông công trước có Nhiếp sinh phương tiện nghiệp trước bỏ Chân Từ sáng sạch không bờ mé, Cả ngày thần quang che lều tranh. Quán khắp. Quán Thánh vừa dung vọng hoặc nhẹ Trong khoảng chớp mắt đến bờ hoa Chín đài sen ẩn vượt phàm thế Trăm tia sáng báu chiếu huyễn thân Chim hót cây khua vang nhạc trời, Ao vàng sóng động hợp lời kinh Biết bao nhiêu kiếp linh đinh khổ Rửa tai sáng nay thử lắng nghe. Tạp quán. Sáu mươi muôn ức cao vòi vọi Dằng dặc phàm phu thấy gì đâu Ao báu thường tưởng là thô tướng Trần sát hình kia dáng lạ lùng Lời Thánh nêu bày khó bàn luận Thân Phật hơn kém nên biết trước Tư lương ngày ngày tưởng Tây phương Dè dặt chớ sinh tâm nghi lớn. Ba phẩm Thượng. Thoát được rừng gai chứng thượng phẩm , Hoa Phân-đà-lợi nở trong lửa Thiền kia vắng lặng đã không sóng Gương tâm vốn sáng chẳng bụi trần Bỏ đây liền thành vô thượng nhẫn Khả: Mới dạo tranh nhau vượt quần tài Các Thánh đầy không hoa sen nở, Đặc biệt là đài mầu Kim cương. Ba phẩm Trung. Tiểu giáo đâu thể tu Tịnh nghiệp Hồi tâm về đại mới nên biết Do kính các giới không tỳ vết Quả chứng tam minh dứt vọng si Tai nghe Pháp xuất gia lìa khổ Tâm giữ vô ngã là nền chắc Co duỗi cánh tay ra ba cõi Một đóa sen kia mọc ao báu. Ba phẩm Hạ. Bọn ngu làm ác đã thành quen. Từ xưa nào biết dấu trắng đen Đến khi sắp chết nghiệp ác hiện Mới hay rắn dữ bốn con tranh Nếu không sức thiện từ xưa có Đâu có công phu xưng danh mạnh Bỗng biết gió mát thổi lửa nghiệp Trong ánh lông trắng có mặt Phật Lô sơn Liên xã của Giám bạ Dụ Lương Năng Tuệ Viễn kết xã chuyên thanh tu Sáng mãi sấm tông cùng tuấn du Ngàn xưa không khác tên tuổi cũ Sen trắng rơi rụng chẳng hơn thu Đời trước ta là thân Tỳ-kheo Nơi nơi núi mây có nhân xưa Ngày nào trần duyên đều sạch hẳn Vì người trong xã lo lửa hương. Thứ vận Liên xã của Thích Hạt Lưu Thuần Tẩu: Mua rượu để khích Đào Uyên đến Đóng cửa chẳng thả Tạ công ra Phong lưu xưa nay không người hiểu Nhàn ngắm sen kia mấy độ thu. Mười tám bậc Hiền của Lô sơn, của Đông Khê Thích Tổ Chẳng thể phò nhà Tấn đảo điện Bèn làm người Liên xã Tây phương Há ý một thời việc ít có Lại khiến Nguyên Lượng giữa hai mày. Thơ nhớ An dưỡng quê xưa của Pháp Sư Tra Am Hữu Nghiêm: Tôi xem An dưỡng là cố hương bởi ngay nơi tâm này là Tịnh độ, tuy nghó về đã lâu nhưng dời bước thật đáng buồn thay. Nhân làm thơ này, xin người đọc chớ nên chê trách là lấy bỏ. Người rõ thân tâm chẳng gần xa Tuy rằng bốn biển đều là nhà Sao bằng quê cũ dạo cây ngọc Huống được thông thương với xe báu Tính ra nhiều năm chẳng trở về Luận việc phàm tình không bến bờ Không phiền cha mẹ tựa cửa đợi Đợi gá thai vào chín phẩm sen. Mấy năm vạt áo lấm bụi trần Chí khí cao xa khó tự bày Nam nhạn mấy tiếng mộng quê dứt Chiều đông gió thu lệ đầm đìa Đây lại nếu chẳng nhớ trở về Sau này cùng ai kết bạn lành Xin xem bên đường chôn xương mục Trong ấy phần nhiều người chưa về. Tây phương chân tịnh vốn nhà ta Nay nhớ đường về mười muôn xa. Nẻo khách linh đinh đều đã khốn Phong trần cô khổ rất thở than Bảy lớp hàng cây ngàn muôn nhạc Nước ao tám đức bốn màu hoa Chớ lạ gần đây mộng quê cũ Làm sao vinh nhục việc không bờ. Vô ý mà nay tóc như tuyết Nhớ nhung mang nặng ánh trăng Tây Trong mơ bỗng nghó chim về tổ Gian ngoài bỗng sợ lá thu bay Một thỏi hương trầm một tiếng khánh Trông xa bỗng lệ vội vàng rơi. Pháp sư Tra Am chuyên tu Tịnh nghiệp, tâm tha thiết kính mến thấy rõ ở thơ, há ý: “Mà nay tóc như tuyết, nhớ nhung mang nặng ánh trăng Tây.” Nếu chẳng phải là người biết sự nhiệm mầu thì đâu thấy được như thế. Song thơ này rất nhiều ở đây không chép hết. Riêng Bảo Phước Tuân Sư có. Đoản Cảnh chỉ than rằng: Cá ít nước mà đường dài, sợ voi không có móc. Lại khiến người nói cho sướng miệng mà Thảo Am Lục đã ghi lầm. Thơ nhớ Tây phương của Pháp sư Bắc Sơn Khả Mân: Góc trời nhà hướng mặt trời lặn Ở giữa hàng cây cách khói mây Tuy đến được chỉ trong chốc lát Nhưng ba tăng-kỳ vẫn chẳng đến Lưới châu bảy báu sáng mấy lớp Hoa sen bốn mầu sắc xinh tươi Lúc về bạn lành đều ra đón Han hỏi cách xa đã mấy năm. Chỉ luôn ưa chán mãi hành trì Bổn tánh duy tâm há chẳng hay Ba cõi rối bời tình nhiễm nặng Bốn loài trôi dạt sức gầy mòn Lồng lộng trăng kia vừa mới mọc Vàng võ mặt trời khi sắp lặn Mặt vàng lão thân luôn nhờ cậy Mau sửa soạn xe mà trở về. Đã biết từ xưa có lỗi gì Đóng chặt cửa sài nhìn trời lặn Ngọn trúc nhẹ lay trăng mới mọc Rèm tre cuốn nửa mây xưa về Núi rừng khí vị đầy hoài bão Khói hương tòng bách thấm áo gai Bồ đoàn trên đá luôn tónh tọa Tấc lòng luôn gởi ráng chiều bay. Tây chỉ hướng Tây lại hướng Tây Hướng Tây về Tây có chiêu đề Hoa sen tươi nở sáng không đêm Đất trải lưu ly ngọc sạch bùn Gió động Pháp âm rao tám vịnh Ao tuôn nước đức hơn song khê Qua đời sẽ được siêu sinh nhé Chín phẩm sen vàng bước thẳng lên. Lại hai bài thơ năm chữ: 1.Ta-bà cõi kham nhẫn Trẻ nhỏ thích dạo chơi Gởi tưởng về trời lặn Thương tâm đã bạc đầu Sen xinh tươi ngàn đóa Vằng vặc một vầng trăng Chưa biết ngày nào đến Khoảnh khắc ở lầu quỳnh, Rễ cành đều dứt đoạn Ngàn hoa ai sánh bằng Nở bày dưới chân Phật Kỳ diệu vào kinh đề Lá non trên nước vàng Rễ linh ngọc dưới đáy Thề hẹn ngày hết duyên, Bước bước đi về Tây. Gác Giác Hải Di-đà ở Hồ châu của Từ Bộ Trương Cảnh Tu: Đầm tiên bể giác đường hưng thiện Tượng bày ngọc quý từ xưa nay Cột điện nghiêng sách sấm rền lửa Vượt cầu kia tượng gỗ Quán Âm Trước song bóng trúc lay chim vàng Gió thổi hương sen chìm đáy nước Huống có gác Di-đà mới lập Động tâm người vãng sinh vô hạn. Tây Quy Hiên của Thiền sư La Nguyệt Đàm Oánh: Anh nói lạc quốc là nhà ta Tự cười khách phiêu linh đường xa Một điểm quy tâm mặt trời treo Trăm năm việc huyễn gởi hoa đốm Trống kia chẳng đánh kinh rèm cuốn Mũi kia luôn thông, triện bị tà Tướng chánh niệm thành không vật ngoài Trước song hàng cây càng thêm xanh. Thơ nhớ Phật làm bên mái hiên (và lời tựa) của Thủ tọa Tuyết Khê Hy Nhan: Từ xưa có câu: đời người trăm năm được bảy mươi tuổi là ít có. Tôi mười sáu tuổi xuất gia làm Tăng đến nay được bảy mươi tuổi ở đời chưa phải lâu. Sớm chiều luôn tụng kinh niệm Phật chỉ hận là chưa thật chuyên chú. Bèn mở kinh Thủ-lăng-nghiêm ở chương Thế Chí có câu: “Nếu người nhớ Phật, niệm Phật, thì hiện tiền tương lai chắc chắn thấy P, sai viết bài “Nhớ Phật” dán ở mái hiên nhỏ, ngõ hầu lâm chung thấy hình dáng của Phật mà thôi. Lại làm bài kệ để một bên. Kệ rằng: Nhiều năm trốn chạy tóc như tơ Nhớ Phật khó quên mười hai thời Ủ dột tự than là đãng tử Mấy phen hoa nở cành bên đường. Tự thương nhớ Phật ngày càng sâu Trừ Phật không ai hiểu lòng ta Đường nào muôn kim mà làm khách Chẳng bằng cơm rau ở nhà ta. Lặn hụp theo sóng nhanh vun vút Chỉ chốc lát đã bảy mươi năm Há chẳng hướng về mà nhớ Phật Sắp già đi rồi thêm gắng công Quét sạch ý địa cho vắng lặng Rồi đốt tâm hoa rực sáng người Quyết định thân này như đã thấy Sạch bụi, lột xác cười ha ha. Có bạn tuổi già lại đến tìm Chỉ là chăm chăm nhớ tâm Phật Mấy nén hương xuân giờ đã lạnh Một khám đèn đêm chiếu qua song Khoảnh ruộng mưa thưa hương thấm đượm Gió luồn khe sâu phát tiếng mầu Tự hận không về đành tự bỏ Đã về đâu cần hơn người ngâm. Kèo cột đã cũ chịu an bần Chỗ tốt không bằng nhớ Phật chân Muôn việc rõ biết còn rơi nồi Trăm năm chỉ đây mà nghỉ ngơi Sườn núi đêm lặng trải bồ-đoàn Dưới thông một mình bưng chén xuân Đóng cửa chẳng quên thường nhớ Phật Nguyện thường như thế bóng theo hình. Ngày thường rừng thông thấy Tổ sư Lại như nhớ Phật vào lúc này Chỉ hay ở yên trong hang sâu Bụng chẳng đeo theo mãy may nào Đường tắt hoa rơi nổi khe nước Song cửa nắng xế dưới cành thông Vắng yên chân cảnh nào ai biết Chỉ Phật thường hay vào mộng tưởng. Sớm tìm Hán sử học làm văn Tự nhủ còn sóng luôn học rộng Bỏ mất thời gian theo nước chảy Suy tư rốt lại chỉ mây trôi Trong nhàn tự biết sống ẩn thân Chỗ tốt ai hay siêng nhớ Phật Ngầm bỏ uống ăn nay ở đây Cỏ xanh ba thước chỉ mồ hoang. Tôi muốn đời này thấy Phật đến Phật nay đối tôi đâu luống dối Chỉ giữ nhất niệm tâm không mỏi Chẳng chờ tam kỳ mà mắt mở Yến tía oanh vàng hót ý mầu Khe xanh đá trắng bày đài báu Nên biết hiện ra đường về nhà Đường nào không người vì xoay lại. Danh lợi dây lông cắt oán cừu Vườn sơn tự so với loài sên Phù sinh rốt lại chỗ vô song Nhớ Phật phải biết liêu lạc nhất Mẹ con có thể ở cùng nhà Gió bụi đâu cần đến phương xa Đường trước chớ hỏi, nay bắt đầu Trang giấy, trải bồ đoàn ngồi yên. Đọc truyện vãng sinh có xúc cảm của Pháp sư Vân Am Liễu Hồng: Sách ghi Phi Sơn Phương Kim ở Tây Hiền xưa trở về Sao chẳng nghó bằng Tóc bạc dễ già Lữ khách không nhà Ý chí trở về Nương đây chỉ mê. Thơ vịnh sử Tịnh độ của Cư só Tây Hồ Lý Tế: Cư só đạo hiệu là Tây Quy tử, vốn là người ở Vũ Lâm, cư ngụ ở Đài Khê. Tiên tổ bốn đời thi đỗ, ăn ở thanh bạch. Hiểu rõ giáo pháp Tịnh độ. Thường làm các bài vịnh về sử và thơ khen ngợi các bậc thượng thiện Tịnh độ có hơn năm trăm bài. Bởi người ở Tịnh độ đúng lý mà tu thì đều nối hạnh nghiệp. Nêu sự tích ở bài dù thiện nhỏ cũng không bỏ sót, gọi là người vui đạo. Văn lưu truyền ở đời, này tóm tắt ghi lại, về Thánh sư có hai mươi lăm bài để giúp người thấy nghe. Nối Phật hóa duyên. Như Lai hiện uế cõi Ta-bà Chiết nhiếp cang cường, phương tiện nhiều Cắt ngang sông ái không pháp khác Chỉ dạy chuyên chí niệm Di-đà Vô biên cõi nước đều thanh Tịnh Chỉ Phật Di-đà biển nguyện sâu Mười niệm công thành được dắt dẫn Chính như điểm sắt hóa vàng ròng. Thuật nói tác ý. Xưa qua nay lại đã nhiều kiếp Hai vầng nhật, nguyệt gấp như thoi Tuần hoàn sáu đường không ngơi nghỉ Chẳng biết Tây quy thì thế nào Xưa nay anh hùng chỉ một huyệt Hiền xưa còn có tâm phải quấy Nay ta kính đọc truyện vãng sinh Bắt chước Chu Đàm làm sử thi. Bồ-tát Văn-thù. Cúi lạy Mạn-thù Đại Thánh sư Bàn sâu niệm Phật dắt các cơ Bèn khiến pháp chiếu truyền giáo này Năm hội trong cung đạo càng sáng. Bồ-tát Phổ Hiền. Khắp dạy mọi người mười nguyện vương Chỉ quy An dưỡng lý sáng trưng Xưa nay từ giác Liên Hoa xã Thường dùng hồng danh khuyên mọi người. Bồ-tát Phổ Tuệ. Trong hội Vi Giang hộp các hiền Đại só anh em đều tham dự Cốt để tuyên dương chân Phật hóa, Chỉ ứng bi nguyện rộng vô biên. Bồ-tát Thiên Thân. Duy Thức Luận sư có nói kệ Di-đà lạc quốc nguyện vãng sinh Chỉ do quả báo không các khổ Các Thánh về tông hành hóa đạo. Bồ-tát Mã Minh. Soạn luận thông tông trăm lạc-xoa Dẹp tà bày chánh nhiếp các ma Dạy người chẳng lui có thuật lạ Chỉ dạy chuyên tâm niệm Phật-đà. Bồ-tát Long Thọ. Khuông phò tượng vận làm huân dung Nói kệ Bà-sa trong Đại luận Nguyện cùng chúng sinh sinh nước ấy Khắp khiến phàm phu thoát buộc ràng. Bồ-tát Ngũ Thông. Người Ta-bà chưa biết Di-đà Lên thẳng Tây phương mà thỉnh cầu Phật và Bồ-tát đồng thời hiện Bèn đem lá báu khắp vẽ hình. Pháp sư Lô sơn Tuệ Viễn. Liên xã bày ra dẫn người sau Hợp với đạo tục cùng quy ngưỡng Mười năm ba lần thấy Phật hiện Chắc chắn đài vàng sinh thượng thượng. Đại Thiền sư Nam Nhạc Tuệ Tư Mộng thấy Di-đà nói pháp nghe, Không trung tượng báu hiển thần linh Thiên đồng hầu hạ bình thường đầy Bỏ thức thân được Thánh chúng rước. Đại sư Thiên Thai Trí Giả. Xưa cùng Nam Nhạc thấy ánh sáng, Vừa tụng Pháp Hoa ngộ Dược Vương Luận giải mười nghi truyền vạn đại Đọc kinh huống lại bày Tây phương. Pháp sư Bích Cốc Thần Loan Lưu-chi chỉ thẳng Phật sống lâu Đốt bỏ đào tiên mười quyển kinh Long Thọ hiện hình căn dặn kỹ Khi mất đều nghe tiếng đờn sáo. Hòa thượng Thiện Đạo ở kinh đô. Vẽ ba trăm bích hoạ Tịnh độ Viết mười vạn quyển kinh Di-đà Sang hèn chẳng luận đều khuyên dạy Lại lên cây liễu mà cầu sinh. Pháp sư Tân Định Thiếu Khang Sách Lạc Dương nhiều lần phóng quang Hành hóa Tân Định ở phương xa Mở miệng niệm Phật, Phật bay ra Lại được trẻ con ủng hộ theo. Thiền sư Ngũ Đài Pháp Chiếu. Thường thấy ba Thánh hiện hư không Tạ ân Văn-thù chỉ bày công Cảm được thần tăng đến dự báo Ba năm ông sẽ sinh hoa báu. Thiền sư Vónh Minh Trí giác. Bảy lần rút nhằm thăm Tịnh độ Suốt đời chẳng bỏ việc tinh tu Thần nương An dưỡng nhân thành phú Lại được từ dung treo địa ngục. 8. Pháp sư Lô Sơn Trung Dung Thông kinh mười sớ luận nghiêng sông Tuyệt bút Di-đà tịnh nghiệp thành Hủ gốm trong mộ thân huyễn chất Chiếu sáng rực rỡ quyết sinh Tây. Pháp sư Tứ Minh Pháp Trí Mười tăng cùng hẹn sám ba năm Sám xong thiêu thân nguyện vãng sinh Tuy rằng, Từ Vân thỉnh trụ thế, Rốt tu Tam-muội để về Tây. Thiên Trúc Từ Vân sám chủ. Ban-chu Tam-muội chín tuần tu Đại, tiểu Di-đà sám để lại Sao rụng hương tan chợt về Tây Khoảng không ngàn năm trọng đạo tốt. Thiền sư Trường Lô Từ giác. Phát minh năm hoặc soạn cao văn Cần khiến người mê biết tịnh nhân Cảm được Phổ Hiền và Phổ Tuệ Hoa sen bạn tốt về Tây nhanh. Luật sư Linh Chi Đại Trí. Đạo nối Nam Sơn mở Luật tông Chí lớn lạc độ quyết về Tây Lâm chung kiết già nói kệ, hóa Trên hồ đều nghe tiếng nhạc trời. Pháp sư Nam Chiêu Khánh Thường. Khách Xã Tây Hồ ngàn người họp Sáng cả Lô sơn ai sánh tày Phải biết việc đặc biệt năm ấy Xin xem bia khắc đều bậc Hiền. Họa bài Quy khứ lai hề của Đào Uyên Minh, của quan Cấp sự Phùng Cơ. Quan Cấp sự ở đất Thục, người Ninh phủ, đạo hiệu là Bất Động cư só. Thuở nhỏ đã nổi tiếng, đỗ đầu đại học, soạn các bài văn trường ốc. Phần nhiều dùng lời trong kinh Viên Giác, minh ngộ lý tánh, các só luận khâm phục. Lại tham vấn khắp các thiền lâm, thấu suốt tông phái năm nhà. Về già dốc Tu-di-đà giáo, sớm tối chẳng ngủ, chuyên ý Tịnh nghiệp. Ông có làm lễ Tây phương ba quyển, Di-đà Sám một tập. Ở Hương quận có lập hội Tịnh độ, cảm được Xá-lợi trong lò hương ứng hiện hào quang khắp trời từng lấy bổng lộc giúp tạo Đại Tạng kinh và bốn Đại bộ Tạng mỗi thứ đều có bốn mươi tám phần để cúng thí các chùa biểu thị cho thệ nguyện Phật. Một hôm, cảm hoài bèn họa bài Quy Khứ Lai của Uyên Minh để nói về pháp môn Tịnh độ. Lời từ rằng: Về đi thôi! Liên xã đã mở, sao không về. Nhớ ta năm nào đã già yếu, huống là thế thái rất đáng buồn! Buồn nghó di tích Đông Lâm, nhớ các Tiên Hiền. Hướng về đời này mà sám hối. Sáu mươi năm trước chẳng như đàn mới rửa, giặt mũ mặc áo mới, rửa sạch trần cấu để được thanh tịnh, tạo đạo mầu để thoát ly. Ngắm kỹ đường trước mà quy tâm. Hãy mau vào nhà từ bi, lên cửa giải thoát. Muôn cảnh đều vắng, nhất chân riêng còn. Lò hương đầy rót đầy chén nước sạch. Hướng về Tây phương tu quán, cầu mong mau thấy từ nhan, vào Tam-muội niệm Phật, biết thân tâm nhẹ nhàng. Sinh về phẩm thượng của chín sen, mở cửa tối, vượt sáu đường. Hội tinh thần ở chánh thọ, đóng tai mắt không nhìn bất chánh. Đợi báo thân này mất chỉ Cực lạc mà về nhanh, quanh cây báu mà kinh hành, dạo vườn hoa mà trở về. Về đi thôi, chỉ Tịnh độ mới nên đến, nghó Diêm-phù vẩn đục. Bỏ cõi này mà cầu chi. Mừng được sống lâu vô lượng, không hề khổ vì bào thai. Cùng các bậc thượng thiện gặp gỡ, cùng Bổ xứ làm bạn thân. Ao kia đủ bảy báu, vàng ròng làm thuyền. Đất lưu ly bằng phẳng, không gò hầm cao thấp. Âm nhạc gió lay cây, tiếng Phật dòng nước chảy. Người nghe vui cảm, niệm Phật Pháp Tăng, trần duyên tự dứt hết. Ôi đời người như mộng, nào có bao lâu. Sao vì bả danh lợi mà lưu lại báo này. Hãy xem hết phù thế đều là huyễn cảnh. Còn cõi Cực lạc kia mới thật đẹp. Sen trồng trong ao, luôn niệm Phật để nuôi lớn. Mong khi qua đời được Phật rước, giã biệt để lại thơ. Từ đây địa địa tăng tiến, quyết chứng Bồ-đề, còn có nghi gì? Làm theo bài Quy Khứ Lai của Uyên Minh của Cư só Huyễn Trụ Nhậm Bưu. Về đi thôi! Tịnh độ Tây phương thệ nương về. Đã thoát khõi cõi năm trược sinh tử, cũng nương nhờ ba Thánh Từ bi. Than ôi, đời người là huyễn hóa, qua nhanh khó theo. Biết duyên đời như giấc mộng đêm qua, thương việc đã qua đều luống dối. Đến già mới học đạo, khác nào lúc lạnh lắm mới may áo ấm. Hồi lúc thanh xuân nhiều buông lung, lầm nghiệp trắng mà kém thiếu. Mê mãi dãi dầu trong ba đường khổ thì ức kiếp mê, làm sao được giải thoát. Có đại pháp môn mà nghi thì ắt xa. Người tin đây thì còn tin gì ở ai. Đức Di-đà Thế Tôn bày sợi lông trắng mầu ngọc, hiện dung nhan vàng ròng che khắp đại chúng đến nương, hiển sáng núi vàng ấy là giới thì phải bền giữ ba nhóm, trai thì siêng tu tám quan. Lại thêm niệm Phật để tinh tiến, lạy nhiều mà quán kỹ, may mắn được thân người mà không được thế, cũng giống như đến đảo châu báu mà về tay không. Dẫu Thánh phàm có siêu tuyệt cũng dụ như trăng nước có khó gì. Về đi thôi. Tịnh độ Tây phương nhiều cảnh đẹp. Hàng cây lưới báu phát tiếng mầu, cơm thuần-đà áo trời chẳng cần cầu, chỉ hưởng các điều vui, dứt hẳn các điều khổ. Di-đà Thế Tôn phát bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh, trăm ngàn Tam-muội mau huân tu. Ở biển thệ lớn nương thuyền đại nguyện, không bị ma Ba-tuần oán hại. Chỉ có Thanh văn Tỳ-kheo nghe các chim biến hóa nói tiếng pháp mà truyền bá. Quán Âm, Thế Chí sức bền bỉ dắt dẫn người tu không ngơi nghỉ. Than ôi, chúng sinh mạt pháp nhiều tệ ác, cảnh giới khổ nào kia há ở lâu. Hãy về đi thôi! Đâu-suất còn bị đọa, Long Hoa chưa hẹn ngày. Chỉ có cõi nước Cực lạc công đức trang nghiêm như thế, hoa sen mầu sáng nở chín phẩm, thanh tịnh hải chúng đợi từ lâu. Chỉ cần tín tâm không lui sụt thì chắc chắn vãng sinh, không có gì đáng nghi. Truy họa theo bài Quy khứ lai từ của Uyên Minh (và lời tựa) của Chuyết Am Tông sư Giới Độ. Chuyết Am Dã Phu bị bệnh trong rừng. Một hôm, đọc bài từ Quy Khứ Lai Hề của Đào Uyên Minh bỗng ném sách mà than dài. Bởi ta có thể ôm nỗi lòng qua đời khác. Uyên Minh là một kẻ tục bị nghèo hèn ép bức mà còn chê năm đấu gạo chẳng chịu mọp lưng. Nơi quê nhà sống với lũ trẻ con mà từ bỏ chức tước, làm Lạc Phú để quay về. Huống bọn ta là con nhà Phật vì giải thoát mà cầu xuất gia lại rong ruổi trong cõi trần mà chẳng biết ngừng bỏ. Thật hổ thẹn với Uyên Minh. Tôi một lòng lấy An dưỡng làm quê cũ, muốn viết nên hoài bão thấp hèn để tự khuyên gắng. Bèn họa theo, người xem chớ cười là kẻ bắt chước nhăn mày thấy giống, cũng để nói lên chí mình. Ngày rằm, tháng cuối thu, năm Đinh Dậu. Viết lời từ rằng: Về đi thôi! Quay đầu quê cũ ngày nào về. Biết lạnh đến thì nóng đi, nhọc mộng mơ mà ngầm buồn tiếc, bỗng tình cờ gặp mà từ biệt, nay hối hận là chẳng nhớ gì. Nhìn bạn lành ở ao sen thật thẹn mà chẳng biết ai. Than ôi, mấy đời phiêu bạc mất hạt châu cài vạt áo. Lại nghó sâu mà tỉnh ngộ mạnh mẽ, sao tiết tháo quá yếu hèn, muốn về liền về, một chí về Tây, sống mải không chết là cửa các điều nhiệm mầu. Chỉ tâm vốn đủ, chân tánh thường còn. Bỏ quên Chu Đỉnh, lại nhận chung rượu, không chịu tước ban. Ở nhà đẹp bỗng rơi lệ, đối từ thân cảm thấy các khổ ép ngặt sẽ bỏ chỗ nguy hiểm mà đến chỗ yên vui. Tuy không đến mà chẳng biết làm sao. Khách lỡ đường nương vào mười sáu cảnh mầu, vào Chánh Thọ quán xa, bỗng toàn tâm phát hiện, mừng châu về hiệp phố, trộn uế tịnh ở cõi bụi, tùy bước mà bàng hoàng. Về đi thôi, dứt hết các duyên ngoài, lại nép mình mà hoại phục (mặc áo nhà tu). Chí cầu giải thoát, sao chỉ bo bo theo vật, điềm nhiên mà chẳng lo mất của báu trong nhà. Vất bỏ ruộng vườn của Tổ phụ mà chịu đói khát, muốn cứu vớt kẻ chìm thuyền phải lội vào dòng tục. Nếu như thế thì bảo dẫu Tỳ-kheo nghe nghóa mà chẳng dời. Bởi tìm nguồn mà chặn dòng. Xét muôn duyên vắng lặng thì sáu dụng nghỉ ngơi. Than ôi, đời người biến hóa theo bốn mùa. Chân trời, nhật nguyệt chẳng dừng lâu, từ đó mà tính việc yên thân. Có sinh phải có tử, trăm năm có ai hẹn. Ruộng đất phải cày bừa, cỏ Ái phải nhổ sạch, kết Tịnh Xã ở Lô sơn, ngâm thơ mới của Tra Am. Hướng tâm tưởng về nơi mặt trời lặn, vỗ cánh hóa thân, không còn nghi ngờ gì. Khen Tịnh độ Ngư Gia Ngạo (và lời tựa) của Pháp sư Khả Mân ở Bắc Sơn. Ngư phụ nhà tôi luôn chẳng rời thân một trượng sáu có ba mươi hai trướng đẹp nói là thông minh. Khổng Tử Trọng Ni đâu dám sánh vai luận đạo đức. Lý Bá Dương phải rúc đầu dứt thiên võ lược mà một mình đánh tan tám vạn bốn ngàn ma là bậc tài ba, luận thắng cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo đem thân thề ngồi bên nước, đoạn ái hà, khoác áo nhẫn nhục ngăn mưa khói vô minh, treo buồm Từ bi, thổi gió phương tiện, chống đỡ thuyền Bát-nhã, đạo thuyền trong biển khổ sinh tử, thề núi trăng sáng, biển giác gió thanh mà câu vớt chúng sinh chìm sâu, cho ở trong lồng Niết-bàn. Chỉ thú như thế tức là bình sinh tạm dứt cần câu. Bèn để thơ rằng: Nhà cửa thường vắng vốn ưu du Đến đầu biển khổ cầm cần câu Đợi khi chúng sinh vào tay hết Bấy giờ mới bỏ hẳn cần câu Từng giảng Di-đà mười lượt Lô Sơn sớ sao ra nhiều quyển Nghóa lý viên dung văn nghóa sáng Phương tiên nhiều Đáo đầu chỉ khuyên sinh hoa sen Bổn tánh Di-đà tùy thể hiện Duy tâm Tịnh độ nào có xa Mười vạn đường xa từ sự thấy, Thôi phân biệt Qua đời chỉ tự chuyển đổi mình. Giữa sen bốn mùa xen màu lục Mỗi hoa sen một Phật Di-đà Chớ nghi Tịnh độ đường đi xa Ngày ngày đời người nhiều mưa rơi Phật ta hoa sen tùy bước đến Vàng ròng tướng đẹp búi tóc xanh Nhân địa có phát thệ nguyện lớn Bốn mươi tám nguyện Chúng sinh độ hết thành Bồ-đề Cung điện hợp bóng cùng hương hoa Thềm báu ba đường lưu ly rộng Nước chim cây rừng đều niệm pháp Tiếng rầm rì Không trung hoa trời rơi như mưa. Hàng cây rợp bóng bày bảy lớp Hoa báu lưới châu ngọc leng keng Trăm ngàn thứ nhạc cùng trổi lên Trời mưa Mạn-đà khắp hư không Cõi ấy vì sao tên Cực lạc Hoa sen chín phẩm không ba ác Tuy có Tần-già và hạc trắng, Chẳng sáng bày Như Lai biến hóa để tuyên lưu Chín phẩm một đời lìa năm trược Tự nhiên thân đeo chuỗi ngọc báu Lông trắng mền mại ở trên trán Chiếu sáng rực Trăm ngàn nghiệp chướng đều tiêu tan. Các Phật sáu phương đều khen ngợi Tướng lưỡi tam thiên rộng khen bày Trên ao thác sinh sen chín phẩm Chưa biết sinh về ở cành nào Phật khen Tây phương kinh hiện tại Rộng dài tướng lưỡi cõi tam thiên Cốt yếu chúng sinh sinh tín hiểu Lâm chung xa Chẳng tu Tịnh nghiệp còn đợi gì Ao bằng bảy báu sóng lăn tăn Hoa sen từng đóa như bánh xe Trong hoa thác sinh chân tự tại Chia ba bậc A-bệ-bạt trí không lui sụt. Chỉ được trong hoa mà hóa sinh Theo giáo trải kiếp hoa chưa nở Trong hoa vui sướng như Đao lợi Chẳng so thai mẹ ở nhân gian Anh võ, Tần-già biết mấy con Âm thanh hoa nhã hót sớm chiều Giảng nói năm căn và năm lực Khiến người nhớ Tâm bay hận thân không mọc cánh Từ đó Tây phương mười muôn ức Nước xa núi cao ai hay biết Chỉ là quán môn thẳng đường về Thật dứt hết Ngồi lắng kiếp nước ngọc lưu ly. Ngồi sửng mới tu quán nước thành Gió nhẹ chẳng động sóng xanh yên Cảnh giới kín sâu ai người thấy Một mảnh lưu ly chiếu sáng mắt Lạc bang thanh tịnh quê cũ ta Ta-bà trôi dạt do tham ái Dần dà nghó về sương thấm tóc, Hận sai lầm, Tắc Hồng không hiểu tin truyền âm Mặt trời lặn rồi cát ẩn ẩn Hướng Tây trông vời nên về gần Lúc đó nhạc trời liền dắt dẫn, Phải tinh tấn, trên đài vàng tím ai vô phần. Lạc Bang thanh tịnh vốn nhà ta Đã có hẹn về há lo xa Định hội tu cần nên cố gắng An nhiên không nghó ngợi mé trời xa Lý tánh xưa nay luôn tự tại Linh thông soi chiếu sáng vô ngại Vì bị gió vô minh não hại Biển chân như Hiu hiu thổi động sóng ngàn sâu Năm uẩn đầu non mây mù mịt Ngăn trăng trong tâm chẳng chiếu sáng Sáu giặc hội nhau biết sửa đổi, Trừ tham ái, Sát-na thoát khỏi cõi Ta-bà. Đông vầy Phàm Thánh đi cùng đường Một điểm linh minh thể như một Chỉ vì vọng tình chuyển theo vật Đến nay điên đảo chưa trở về Vì chán Ta-bà cầu Tịnh độ Theo tình đón tưởng suốt sớm chiều Ai tin chẳng nhọc dời một bước Về Tây phương Lâu đài ẩn hiện trong mây xa Lưới châu mưa rơi các hoa sáng Cát vàng trải đất không bụi đất Chợt chẳng dạy người nghó đường về Tâm chuyên chú Ngồi quán trời lặn như trống treo. Gió mát vì ta khởi vắng lặng Chẳng chịu mây tàn che góc nhà Sống thiền sâu che chắn không người Ngồi xem vầng mặt trời đang lặn Bốn tướng tranh nhau sinh bệnh chết Ma chết không hẹn khó giữ được Tranh nhau sớm tối trì Phật hiệu Tây phương đẹp Cây rừng chim nước niệm Tam bảo Mài mòn các thứ râu tóc bạc Lạc bang nên về sớm lo toan Muôn ức cõi nước đường không xa Dứt phiền não Chỉ một khoảnh khắc liền đến nơi. Kinh khen Di-đà nguyện lực mạnh Dụ như người kém theo Chuyển luân Một ngày đi khắp bốn thiên hạ Về Tây đường xá chẳng hề xa Người đời tội oán biết bao nhiêu Đường trước chẳng phải không minh phủ Tranh nhau mà đốt một nén hương Không đi đứng Từng câu xưng niệm cha Di-đà Tội nghiệp tiêu hết có chỗ sinh Di-đà nguyện lực đáng nương nhờ Mười niệm nhất tâm luôn sáng tối Đường Tây phương Công thành chân bước đến sen hồng. Ai biết ngồi thẳng mà lại đi Khoảnh khắc tâm bay đến lầu ngọc Bóng trúc ánh trăng dời đến ngõ Liền ngỡ hàng cây ở đầu rèm Muôn việc rốt lại đều vô ích Nghó sâu chỉ phải nên tu hành Nếu đưa tâm này dạo đất báu Rất dễ dàng Ngồi quán mặt trời lặn hướng Tây Muôn tia sáng hồng thu vào mắt Mở mắt nhắm mắt thấy rõ ràng Quán này khi thành biết pháp vị Tâm vui mừng, khi chết chắc chắn sinh trong sen. Chín phẩm hoa sen thứ lớp bày Sen kia lá xanh cùng chen chúc Chẳng biết ngày nào sinh cõi sen Ngại gì ngày đêm luôn đeo mang Lạc bang trời Tây mây ngăn cách Một vầng trăng trong chiếu sáng ngời Ý muốn vãng sinh luôn khuyên gắng Nhọc hồn phách Di-đà một niệm tiếng trăm ngàn Điện vàng lầu ngọc là nhà cửa Bảy lớp hàng cây hơn tòng bách Gá sinh trong hoa không mạch máu Rất cao xa Nhạc trời chẳng phải khách bồng lai. Khắp xem trục ngọc và hộp ngọc Nhọc lời khuyên gắng thoát phàm trần Tịnh độ khéo tu lại chẳng chịu Trong kinh nói nhiều về cõi Tịnh Xích châu mã não để trang sức Chúng sinh cõi ấy đang hiển sắc Nâng vạt áo Hoa đẹp cúng dường Phật phương khác Trẻ con ham dạo chơi ngụp lặn Ta-bà là khổ sao không răn Ưa chán từ lâu mới có sức Theo sớm tối, lặng đốt nén hương khói ngưng đọng. Đã có thân tâm cầu Tịnh độ Hãy bỏ đường lối đến Ta-bà Tu hành cũng chỉ không nhiều kẻ Mười niệm công thành một sát-na Văn chương thi phú không chỗ dùng Và xem danh lợi chỉ như mộng Một xâu chuỗi kia thường trong tay Dẹp ngàn thứ Chỉ nghe niệm Phật tâm mạnh mẽ Dìu dặt trên không nhạc gió đưa Dịch tiêu sáo trúc gió vẳng đưa Dắt dẫn phàm phu lên các chúng Mây hương dâng Nam nhi ngày này mới kính trọng. Xem khắp kinh văn và luật nghi Khắp nơi chỉ khuyên niệm Di-đà Một câu tiêu hết nghiệp ngàn đời Huống là nối nhau luôn trì tụng Dứt hẳn tâm vượn và ý ngựa Nắm chặt đầu dây luôn giữ niệm Nói phá mười nghi do Trí Giả Chép mà truyền Lô sơn lại kết Xã Liên Hoa Mười tám Đại hiền cùng nhóm họp Công thành mây năm màu về Tây Các bậc Thượng thiện đều ở đó Cùng đón chào Dụm đầu chỉ nói chuyện vô sinh. Bên ao hàng cây không che khuất Cong cong cầu vàng lộ nửa bên Chợt thấy hóa sinh làm con Phật Ở trong sen hồng ngồi kiết già Ba mươi sáu thứ gồm một đãy Túi nhỏ hôi hám đầy tham ái Khác nào bọ hung đẩy hòn phân Không dừng đợi Sớm sớm ở trần luôn cố gắng Lại phải bền tâm mà sám hối Sao bắt ác nghịch và đao phủ Một niệm tiêu trừ tội ngàn kiếp Sinh trong hoa Đầy thân chuỗi ngọc kêu leng keng. Lăng xăng tình đời như hoa đốm Ngoài giảng giải, không còn gì nữa Một xâu chuỗi kia luôn lần hạt Phật A-di-đà là kẻ thù Một điểm thần hồn mới gá phách Trong hoa sen xanh nhà lưu ly Hào tướng pháp âm không đứt quãng Tuy sáng rỡ Đáo đầu chẳng giống khách đài vàng Chín phẩm cao thấp tùy báo được Hoặc trải mấy kiếp hoa mới nở Nếu ta sinh tâm tánh chật hẹp Phải gấp bỏ Hoa sen chưa nở hãy mở ra. Đọt cúc gừng non một bữa cơm Ngoài ra nào dám phí công phu Từ nay mười ngón không rảnh rỗi Hết cả cuộc đời mà lần chuỗi Tịnh độ quê xưa bỗng từ biệt Góc trời trôi giạt mãi đến nay Tuổi già mày râu cũng nhuốm bạc Nghó trở về Nghe tiếng nguyện gởi trăng trời xa Luôn luôn nghó lo tu tịnh nghiệp Khi chết chắc chắn Phật đến rước Có thệ tiêu biểu lời nói thật Lưỡi rộng dài Tam thiên che khắp lá sen hồng. Chỉ tụng, đốt hương làm việc thường Đêm đêm đọc tụng một hai canh Chiếc bóng tự thương ngoài trần thế Dưới trăng gió nhẹ đi kinh hành Thiện Đạo thở than nay đã qua Dạy cho già trẻ đều về nhà Niệm Phật một câu cho một tiền Tiếng mới vang Một câu một Phật trên hư không Tám mươi bốn ngàn tướng nhiệm màu Ánh sáng, tuổi thọ đều vô lượng Rũ tay màu vàng ngàn muôn trượng Tay ngỗng chúa Thệ đến đón trước về An dưỡng. Sáng gà chiều trống luôn thúc giục Rụt rè dung mạo biến suy đồi Chớ bảo tóc bạc là rảnh việc Rốt lại vô thường đưa tin mời Cõi Tây dệt thành cõi Đông hoại Sao bay một điểm ngàn cõi đẹp Chớ ngờ thần hồn sinh quái lạ Không ngăn ngại Lạc bang chỉ ở trong Đồng cư Ao tám đức sâu, hoa lại lớn Ngồi kiết già thẳng trên hoa sen Tai nghe tiếng pháp tâm giải ngộ Cúi đầu lạy Từ nay thoát hẳn ngoài bào thai. Khen Tây phương ngư gia ngạo của Thiền sư Tây Dư Pháp Đoan: Trong ao bảy báu mà thả câu Nước tám công đức khói sóng xa Đáy ao cát vàng trải khắp chốn Đi nhiễu quanh Vàng ròng lót đất làm đường đi Hạc trắng, chim công, anh võ hót Di-đà tiếp dẫn lời khuyên Chẳng phải tu hành sao đến được Một loại tốt Tây phương Tịnh độ không phiền não. Bài hát theo điệu vọng Giang nam (12 bài) của Pháp sư Bạch Vân Tịnh Viên. <詞>Ta-bà khổ: Ta-bà khổ, nhiều kiếp chịu luân hồi Chẳng dứt nhân khổ lìa nhà lửa Chỉ theo nghiệp báo vào bào thai Bội bạc Đài linh này Sáng lại chiều, lạnh nóng thôi thúc Một thân huyễn này được mấy ngày Trăm mối khéo léo áo đầy bụi Đâu được xuất đầu ra! Ta-bà khổ, thân thế một cánh bèo Trong mắt muỗi ong tranh lợi nhỏ Trên sừng ốc sên nghó hư danh Một điểm khí khó bằng Ngày đầy nhân ngã đêm dài vô minh Địa ngục tranh nhau nhào đầu vào Tây phương không ai chịu tu hành Chết uổng lại sống uổng. Ta-bà khổ, tình niệm chợt như gió Sáu giặc trong làng chẳng tạm yên Bốn rắn trong tháp tranh nhau mổ Ai là người chủ nhà Không có tuệ lực, lưới ái đổi thành lồng Một hướng bốn góc thấp dưới đất Chẳng nghó hai chân muốn tiêu không Đường trước càng phải gấp! Ta-bà khổ, sinh già bệnh vô thường Chín lỗ tanh hôi chảy nước dơ Một bao máu mũ là đãy da Tranh yếu lại tranh mạnh Theo vọng tưởng, đắm dục lại hoang đường Niệm Phật xem kinh bảo chấp tướng Hủy giới phá trai không đề phòng Chỉ sợ có Diêm vương. Ta-bà khổ, suốt ngày theo trần hoàn Chẳng biết ngày tháng theo nước trôi Sao kham tóc bạc đổi má hồng Sáu đường thường trôi lăn Xưa và nay ai chịu chết trước nhàn Lợi danh nguy ách vừa vào tay Hư hoa tài sắc liền vinh theo Vinh nhục mảnh thời gian. Ta-bà khổ, thời gian như nước trôi Vinh nhục buồn sợ ngày nào dứt Phải quấy nhân ngã lúc nào thôi Đường sinh tử mênh mông Mặt nước ba cõi nổi một bọt Giả sử anh hùng công trùm đời Chỉ để xương trắng trên gò hoang Sao bằng sớm quay đầu. <詞>Tây phương vui: Tây phương vui, tùy niệm liền vượt lên Một điểm linh quang theo mặt trời lặn Muôn mối việc đời giao mây nổi Người đời tự lăng xăng Chỗ ngưng trông, quyết định nương thần Đất vàng kinh hành bước trong sáng Lầu ngọc ngồi yên thân trong định Mới ham được thiên chân. Tây phương vui, cây ngọc vượt lên cao Che khắp bảy lớp lưới châu báu Trang nghiêm trăm ức cung hoa đẹp Trong cung các thiên đồng Đất vàng lan can rào lớp lớp Hoa mưa phơi phới hương tản mạn Âm nhạc dìu dặt trống xa đưa Người nghe vui vô cùng. Tây phương vui, bảy báu chạm trổ ao Hoa sen bốn màu cùng khoe sắc Nước tám công đức sóng lăn tăn Hết khát lại hết đói Trên bờ ao lầu điện cao chất ngất Rào khắc bích ngọc trám mã não Cột cao vàng rồng điểm pha-lê Chỗ nào cũng sáng rực. Tây phương vui, đàn chim hót tiếng hay Dưới hoa cùng hót bài lục độ Trong sáng hòa nhã khen tam thừa Người nghe ngộ vô sinh Ba đường ác còn chẳng có tên Đều là Phật Từ bi hóa hiện Muốn nói lời pháp nhắc mê tình Tâm địa mau sáng tỏ. Tây phương vui, buổi sáng cúng rất tốt Xa tít mây tiên theo gậy báu Nhẹ nhàng vạc áo đầy hoa trời Mười muôn đi chẳng xa Các cõi Phật tùy niệm biến hà sa Tay sen vỗ đầu thân thọ ký Tiếng sóng trong veo vang tần-già Đến giờ liền trở về. Tây phương vui, Phật ta đại Từ bi Chỉ đủ ba tâm tròn mười niệm Liền lên chín phẩm vượt ba kỳ Thần lực chẳng nghó bàn Khi chết tiếp dẫn quyết không nghi Nguyện khắp chúng sinh cùng giữ niệm Đài vàng nhạc trời sẽ đón rước Phút chốc đến ao sen. ----------------------------------- <詞>BÀI TỰA SAU Người tu Tịnh độ, phần nhiều được môn ấy mà đi đường tắt thì không có mấy người. Còn luận về Tịnh độ nhiều người được pháp yếu mà chỉ thẳng thì rất ít. Không hề nghe ai đem cái ngăn, cái che của mình mà nói ra. Vì cái tự ngăn không gì bằng ái, cái tự che không gì bằng nghi. Chỉ cần dứt hẳn hai thứ ái và nghi, không còn chướng ngại thì pháp môn Tịnh độ không hề gián cách. Di-đà nguyện lớn thường tự nhiếp giữ đó là lý tất nhiên như thế. Xưa, Vô Vi tử soạn lời tựa cho Luận Thập Nghi của ngài Thiên Thai có nói: Ái không nặng thì không sinh Ta-bà, niệm bất nhất thì không sinh Cực lạc. Lời nói này có thể gọi là biết từ gốc rễ vậy. Xin thử lấy một việc mà đính ước. Như Pháp sư Tuệ Viễn đời Tấn vang tiếng Tây phương, có kết Liên xã ở Lô sơn mời Uyên Minh xem là quý vì các vị đã dứt bỏ được ái, còn Tạ Linh Vận thì ngăn không cho vào xã vì ông còn tạp tâm mà niệm không chuyên. Há chẳng phải đây là bờ bến Tịnh độ. Tôi do đó được thuyết Tịnh độ, khác với xưa như thế mà thôi. Bởi có nói người mến mộ tu tịnh nghiệp như Đào Uyên Minh thì được, tuy mời nhưng không đến. Nếu nguyện thì sẽ đạt. Cần yếu là ở trong ngực rốt không có một vật. Cầu niệm còn chẳng được, làm sao đoạn được ái. Cho nên không cầu thì thôi, cầu thì lấy chống ngăn nào để đè nén. Tôi có nghó khen ngợi Tịnh độ rằng: Chỉ trừ mình tự chướng ngại, nếu cầu sinh thì liền sinh. Lại nói nếu không kéo dây neo chỉ uổng sức đẩy thuyền. Bởi cũng có lời khích rằng: Tông ta, giảng sư Tông Hiểu đã lấy Tịnh nghiệp làm sức mình lại suy ra các vật khác, biên tập văn Lạc bang từ kinh luận trở đi mà cùng với xưa nay nổi tiếng, còn văn của Phật ta hễ những gì có quan hệ đến Tịnh độ thì đều phát huy mà ghi chép vào làm sách, để khuyên rộng người tin rất rõ ràng. Còn việc chỉ rõ tu trì thì không phải một mối mà rốt được dụng tâm. Có thể nói là vừa siêng lại đẹp. Tuy nhiên ta sợ nhiều cách quá sẽ làm mê hoặc ý chí mà không nhất niệm, không dứt ái, để tự ngăn che mình rồi than thở đau buồn. Cho nên đặc biệt nêu ra thuyết ấy để được thông suốt. Nguyện các bạn đồng tu một là chuyên niệm mà dứt ái là gốc, hai là thêm nguyện lành thì pháp môn Tịnh độ đoán chắc sẽ đến. Văn này há luống uổng ư? Ngày lành tháng tốt năm Canh Thân, niên hiệu Khánh Nguyên Bách Đình ở Nam Hồ, Thiện Nguyệt kính ghi lời tựa.  Sa-môn Thạch Chi Tông Hiểu, đất Tứ minh soạn. <卷>QUYỂN THƯỢNG LỜI TỰA Kẻ ngu này quyết chí với Tịnh nghiệp, thề muốn độ hết tất cả hữu tình cùng về cõi báu, nên biên tập văn Lạc bang để truyền bá trên đời. Ngoại trừ bài văn có nghóa riêng, còn lại tùy chỗ thấy nghe mà được lợi ích. Giúp người tu Tịnh nghiệp nên nói tiếp và ghi lại thành Lạc bang Di Cảo. Bởi tôi bắt chước nhà Nho góp nhặt ghi chép các bài trong các sách vỡ, hoặc các lời nói có liên hệ thì nêu sơ lược cương yếu. Tuy nói là chưa đủ nhưng cũng giúp được người xem ít nhiều. Mùa Xuân năm Giáp Tý khởi soạn, kính ghi lời tựa. Ngài Tông Hiểu biên soạn Lạc Bang Di Cảo trước sau hai quyển, tùy việc mà nêu tựa đề. Lắng lòng mà xét thì sách này chuyên dẫn dắt chúng sinh về Tịnh độ, cũng có thể gọi là Lạc Bang Quy Chí. Nhưng mọi người vốn có duy tâm Lạc quốc thì đâu cần phải chịu khó nhọc tu chứng. Than ôi, luống vào các đường lâu nên quên, người xưa mời xem mộ bên đường chôn xương rã mục trong đó có nhiều người chưa về là ý này. Nay may mắn được Phật Tổ mở mang bến bờ vượt tắt ra khỏi sinh tử, nên góp nhặt lại mà giúp người phát lòng tin, khiến mạnh mẽ trên đường tu, nhờ đó hiểu rõ đường về, chẳng vướng chân vào đường rẽ sinh tử. Thật là yếu đạo. Lại quy chí là do đây vậy. Người xem quả không phụ rảy việc trở về quê xưa, mới tin rằng bạn lành hoa sen chờ đợi đã lâu. Hãy chắp tay mà đem thân tâm cùng trở về. Cố gắng, cố gắng lên. <詞>VUA TỊNH PHẠN VÀ BẢY MUÔN NGƯỜI HỌ THÍCH ĐỀU VÃNG SANH TỊNH ĐỘ: Kinh Đại Bảo Tích bảy mươi sáu chép: Phật bảo vua cha Tịnh Phạn rằng: Phụ vương nên đối với Phật pháp mà tinh tấn siêng tu, chớ nên buông lung. Này Đại Vương! Tất cả các Pháp đều là Phật pháp. Vua nói: Nếu tất cả các Pháp đều là Phật pháp thì tất cả chúng sinh cũng phải đều là Phật. Đức Phật nói: Nếu không buông lung và thấy điên đảo thì chúng sinh tức là Phật. Này Đại vương, tất cả các Pháp đều không sinh, không động, không lay chuyển, không lấy, không bỏ, không có tướng mạo, không có tự tánh. Nay Đại vương hãy đối với Pháp này mà an Tâm mình, chớ tin các thứ khác. Khi Phật nói Pháp này thì vua và bảy muôn người họ Thích đều được Vô sinh nhẫn! Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn mỉm cười, Tỳ-kheo Mã Thắng dùng kệ hỏi Phật, Phật đáp rằng: Ta hiện cười vắng lặng Mã Thắng hãy lắng nghe Nay ta nói như thật Các thứ trí quyết định Các Pháp không thật có Họ Thích đều biết được Cho nên đối Phật pháp Quyết định tâm an trụ Làm người khi chết rồi Được sinh nước An lạc Gặp Phật Vô Lượng Thọ Vô úy thành Bồ-đề. <詞>TÔN HIỆU CỦA TẬP NHỊ QUANG NHƯ LAI Trong kinh Vô Lượng Thọ Đại Bổn chép: Phật bảo ngài A-nan rằng: Đức Phật Vô Lượng Thọ có ánh sáng tôn quý bậc nhất. Tất cả các Đức Phật có ánh sáng không bằng ánh sáng của Đức Phật ấy, chiếu sáng trăm thế giới Phật, chiếu sáng ngàn thế giới Phật, nói tắt là có thể chiếu khắp hàng hà sa số các cõi Phật. Cho nên, Phật Vô Lượng Thọ còn gọi là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đối Quang, Phật Diệm Vương Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Trí Tuệ Quang, Phật Bất Đoạn Quang, Phật Nan Tư Quang, Phật Vô Xưng Quang, Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang. Nếu có chúng sinh nào gặp được ánh sáng này, thì ba cấu tiêu trừ, thân tâm nhẹ nhàng. Nước Phật A Di Đà nói pháp ba thừa Luận Đại Trí Độ chép: Phật ra đời ở cõi ác năm trược, đối với đạo Nhất thừa mà chia làm Ba thừa. Nếu vậy, Phật A-di-đà không thọ sinh trong cõi đời ác có năm thứ vẩn đục thì sao lại lập ra Ba thừa? Đáp: Các Đức Phật khi mới phát tâm, thấy chư Phật dùng Ba thừa độ sinh, nên tự phát nguyện rằng: Nay tôi cũng dùng Pháp Ba thừa mà độ sinh. <詞>Ở TỊNH ĐỘ NƯỚC CHIM CÂY RỪNG ĐỀU NÓI PHÁP Luận Đại Trí Độ lại nói: Ở Tịnh độ gió thổi cây bảy báu phát ra tiếng, là muốn khiến chúng sinh dễ dàng nghe Pháp. Nên hỏi rằng: Các Đức Phật có vô lượng thần thông sao không biến hóa ra, cần gì phải dùng tiếng cây rừng? Đáp: Chúng sinh rất nhiều, nếu nơi nơi Phật đều hiện thân thì chúng sinh không tin cho là huyễn hóa (ảo thuật), tâm không kính trọng. Có chúng sinh nghe Pháp với người thì không ngộ, mà nghe Pháp với súc sinh thì tin nhận cho là ít có. Lại tâm súc sinh thì ngay thẳng không dối trá, nên có người bảo súc sinh là vật hữu tình nên có dối lừa, còn cây rừng là vô tâm mà có tiếng thì đều tin nhận (Luận Văn quyển chín mươi ba). - Tăng hỏi vị Chủ tọa giảng kinh Di-đà. Trong Truyền Đăng Lục có ghi vị tăng hỏi Chủ tọa giảng kinh Di- đà rằng: Nước, chim, cây, rừng vì sao đều niệm Phật, niệm Pháp niệm Tăng? Chủ tọa đáp: Pháp sư Cơ nói bạn thật chẳng đợi giảng, như mẹ đối với con thơ. Tăng hỏi: Thế nào là bạn thật chẳng đợi giảng. Pháp Nhãn nói thay rằng: Đó là lời của Pháp sư Cơ. <詞>KỆ SÁM HỐI KHEN NGỢI PHẬT TRONG KINH ĐẠI BẢN DI ĐÀ. Trong luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa do Bồ-tát Long Thọ soạn ở quyển bốn nêu Pháp Hoa sám là lễ danh hiệu mười phương Phật đều có kệ khen. Kệ sám tán Phật trong Đại Bản Di-đà trích ra từ đây. Ngài Từ Vân bèn nhặt lấy đổi lời văn, cho rằng Phật đạo đều giống nhau, nên để khen Phật Di-đà mà thôi. Kệ ấy nói rằng: “Sắc tướng như núi vàng”, đây là khen Phật Thiện Đức ở Phương đông. Câu: “Mặt như trăng tròn đầy” là khen Phật Chiên Đàn Đức ở Phương Nam. Câu: “Thân quang trí tuệ sáng Chiếu khắp vô biên cõi Phá dẹp các ma oán Khéo độ các trời người.” Bốn câu này là khen Phật Vô Lượng Minh ở phương Tây. Bốn câu: “Nương thuyền Bát Chánh đạo Qua được biển khó qua Nghe tên được không lui Thế nên cúi đầu lạy.” Bốn câu này là khen Phật Tướng Đức ở phương Bắc, luận này ở hòm chữ Tư. - Kệ sám hối khen ngợi Phật trong kinh Di-đà Tiểu Bản. Kinh Thắng-man nói: Vua Ba-tư-nặc ở nước Xá-vệ. Con gái của Phu Nhân Mạt-lợi tên là Thắng-man là vợ của vua A-du-xà. Phu nhân Mạt-lợi nói con gái ta thông minh lanh lợi, nếu gặp Phật sẽ mau hiểu Pháp. Liền sai sứ đem thư, Thắng-man được thư liền nói kệ rằng: Ngưỡng mong Phật Thế Tôn Khắp vì thế gian hiện Cũng nên rủ lòng thương, Khiến cho con được thấy. Nói kệ xong thì Đức Phật Thích-ca hiện ra lên hư không. Thắng- man lại nói kệ khen rằng: Như Lai sắc thân mầu Thế gian không ai bằng Không so sánh nghó bàn Thế nên con kính lễ Sắc Như Lai vô tận Trí tuệ cũng như thế Tất cả Pháp thường trụ Nên con kính quy y. Thắng-man nói kệ bày tỏ ý nguyện mình, nên Phật liền thọ ký cho hiện là Phổ Quang Như Lai… Ở Thiên trúc, Tiểu Bản Tứ Thánh Sám dùng kệ này để khen Phật. Từ “Đại trí đại nguyện lực” trở đi là phần sám chủ Từ Vân soạn ra. <詞>VUA BA TƯ NẶC QUÁN THẬT TƯỚNG PHẬT. Trong kinh Nhân Vương, Phật hỏi vua Ba-tư-nặc rằng: Ông dùng tướng nào quán Như Lai? Vua thưa: Con quán thật tướng của thân, quán Phật cũng thế. Không có khoảng trước, không có khoảng sau cũng không có khoảng giữa, chẳng có ba khoảng, mà cũng chẳng lìa ba khoảng. Không ở năm uẩn cũng không lìa năm uẩn, không ở bốn đại cũng chẳng lìa bốn đại, chẳng ở sáu xứ cũng chẳng lìa sáu xứ, chẳng ở ba cõi cũng chẳng lìa ba cõi. Cho đến không có thấy nghe hay biết, chỗ tâm hành diệt, đường ngôn ngữ bặt, đồng với mé chân, ngang với Pháp tánh, con dùng tướng đó mà quán thân Như Lai. Phật bảo: Nên quán như thế, nếu quán khác thì gọi là tà quán. <詞>NĂM PHÁP MÔN PHƯƠNG TIỆN NIỆM PHẬT CỦA ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ Đại sư Thiên Thai Trí Giả dạy người niệm Phật có năm pháp môn phương tiện lễ này, hễ người quán tưởng Tây phương mà cầu sinh thì chẳng thể chẳng tu trị. Cho nên văn nói: Phàm trụ tâm một cảnh thì gọi là Ngưng tâm thiền, nghóa là hành giả khi niệm Phật phải quán kỹ sợi lông trắng tướng mầu của Như Lai ngưng đọng, yên tịnh, trong veo, rỗng suốt. Trước tuy đã ngưng tâm nhưng các thói quen bất giác nổi lên tán loạn. Nay chế phục nó trở lại duyên chắc với tướng sắc vàng của thân Phật, gọi là Chế tâm thiền. Kế chế phục tâm được định, không phải lý quán, đều thuộc về sự tu. Thể này vốn không thì ai ngưng, ai chế phục. Không Phật, không niệm gọi là Thể chân thiền. Trước tuy là thể chân nhưng vẫn còn dính mắc ở sự vắng lặng, có vô lượng danh tướng, mịt mờ không biết. Nay dùng “không thật có” làm phương tiện, từ không mà vào giả thì muôn tướng đều rỗng sáng, chẳng bị không trần làm mê loạn, nên gọi là Phương tiện thiền. Trước tuy thể chân và dùng phương tiện tùy duyên đều căn cứ vào Không và Có chẳng lìa hai bên. Nay quán chắc Tịnh và Loạn vốn không tướng mạo, nên nói đường ngôn ngữ tư tưởng cũng bặt, nên gọi là Tức nhị biên phân biệt thiền. Năm môn này từ cạn đến sâu. Nếu hiểu rõ thể tánh viên giác vốn không cạn sâu mà cạn sâu rõ ràng. <詞>NIỆM PHẬT THIỀN MÔN BỐN GIÁO LÌA NIỆM PHẬT CỦA ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ. Như trên, tuy dùng năm pháp môn Phương tiện mà quán chân thể Phật. Lại cần hiểu rõ lìa niệm của bốn giáo mà chỉ bày ý từ thiên mà lấy Viên. Cho nên văn nói: Tâm sinh không riêng lẻ mà nhờ các duyên khởi. Khi hành giả niệm Phật thì ý căn là nhân, ánh sáng từ sợi lông trắng của Như Lai là duyên. Niệm khởi lên tức là pháp sinh ra. Quán ba thứ này dời động, niệm niệm không dừng, phân tách thấy không, tức là Tiểu thừa Tạng giáo niệm Phật, tức quán tâm khởi niệm Phật. Năng sinh, sở sinh đều tức không mà vọng gọi là tâm khởi, thể nó tức không, tướng Phật được quán như ảnh trong gương. Không Phật, không niệm, tức là niệm Phật của Thông giáo Đại thừa, tức quán niệm Phật tâm khởi, tức là giả danh. Tâm giả gọi kia rỗng soi vô lượng danh tướng. Hiểu rõ tâm này từ Như Lai tạng, trải qua nhiều kiếp đoạn chứng, lìa biên, hiển trung, vô Phật vô niệm, là niệm Phật của Biệt giáo Đại thừa vậy, tức quán niệm Phật tâm khởi, tức không tức giả, tức trung. Hoặc căn hoặc trần đều là pháp giới trần sát của các Đức Phật một niệm chiếu sáng, chúng sinh sáu nẻo trong một sát-na ứng khắp, sơ tâm tức là đó, nay mới giác biết. Như kẻ có phước lớn cầm đá liền thành báu, tâm không bỏ niệm, riêng cầu lìa niệm, tức biên mà Trung, không Phật không niệm, đây là niệm Phật của Đại thừa Viên giáo. Kinh Anh Lạc nói đốn ngộ Như Lai là đây vậy. <詞>8. QUÁN BA MƯƠI HAI TƯỚNG CỦA DI ĐÀ SÁU TRƯỢNG . Phần Quán tượng thứ tám trong Quán kinh có chép: Thế nên hành giả khi tâm tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp. Cho đến bảo rằng: Tưởng Phật ấy trước phải tưởng tượng, nhắm mắt mở mắt đều thấy một tượng báu. Quán tám vạn bốn ngàn tướng tốt của Phật Di-đà. Phần quán chân pháp thân thứ chín trong Quán kinh có chép: Thân Phật Vô Lượng Thọ như trăm ngàn muôn ức thân trời Dạ-ma. Thân Phật sắc vàng Diêm-phù-đàn cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Cho đến nói rằng: Phật Vô Lượng Thọ có tám mươi tư ngàn tướng, mỗi tướng đều có tám mươi tư ngàn vẻ đẹp… Tứ Minh Diệu Tông Sao giải thích rằng: Phép quán tượng thứ tám ở trước thì giống như thân Phật, nay đối trước tướng ấy thì gọi là chân. Song sắc tướng này là thân thật báo ứng với cõi Đồng cư cũng gọi là Tôn đặc, cũng gọi là Thắng ứng mà nói là Pháp thân, lấy báo tu và ứng hai tu thì toàn là Tánh cụ. Cho nên ở văn sau lại nói: Di-đà tám muôn tướng tốt là Như Lai ấy hiện thân kỳ đặc để thêm lớn vị sâu của Tam- muội niệm Phật, tâm lực phàm phu không thể hiểu được. Lại nói hành giả nên biết từ quán mặt trời ba quán sở tu cùng với sự thiền hàng phục ba cõi, dùng diệu quán mà quán tượng, phá tư thì liền lên giai vị Thất Tín. Được vị này rồi thì mới có thể quán chân pháp thân của Phật được, tám muôn tướng tốt hiển bày, gọi là Tam-muội niệm Phật. Như đây mà viên quán tướng được quán mới gọi là kỳ đặc. Không phải là tướng thân Phật sống mà phàm phu Tiểu thừa thường thấy. <詞>QUÁN TƯỢNG DI ĐÀ TRƯỢNG SÁU ĐỨNG TRÊN AO Phần quán Tạp tướng thứ mười ba trong Quán kinh có chép: nếu người muốn dốc lòng sinh Tây phương thì trước phải quán thân trượng sáu ở trên ao, như trước đã nói. Chiều cao thân Phật Vô Lượng Thọ là vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể biết được (như trước đã nói là quán ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp của Phật A-di-đà…). Diệu Tông Sao chép: Dùng quán Tạp tưởng mà quán thân Phật lược có hai ý: Trước quán tám muôn tướng đẹp không thành thì nay bỏ thân lớn mà quán thân trượng sáu. Trước quán tám muôn thắng tướng đã thành thì nay lại quán nữa, hóa dụng hơn kém sẽ trùm khắp các cõi mười phương, phẩm vị càng thêm tăng tiến. Các Đức Phật nhân tu sáu độ muôn hạnh, quả chứng vốn có một thể, ba thân, Di-đà trượng sáu là Ứng thân. Còn sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần là Báo thân vậy. Không phải Báo không phải ứng biến khắp mọi nơi là Pháp thân vậy. Song Báo thân của Phật Di-đà đã cao lớn như thế, mà tâm kẻ hạ phàm thấp kém thì không thể theo đây mà quán Phật được. Khi Phật còn tại thế, người lợi căn như bà Vi-đề-hy được Phật chỉ dạy mười sáu cảnh quán thì theo lời nói mà tiến tu. Đến quán tượng thứ tám thì chứng vào thất tín mới được quán khắp. Như nay đời Mạt pháp độn căn theo lý không thể quán được thắng tướng (tướng cao quý) thì trước phải quán thân trượng sáu. Thế nên Kinh nói: Người dốc lòng muốn sinh Tây phương thì trước phải quán tượng trượng sáu ở trên ao. Chiều cao thân Phật Vô Lượng Thọ là vô biên, tâm lực kẻ phàm phu không thể biết được. Đây là Phật Thích-ca có phương tiện hay, dạy chỉ khiến cơ duyên từ nhỏ mà quán lớn. Cho nên có người nói nếu không như thế lại đối với Báo thân Phật mà tu tập thì không tránh khỏi việc hoang đường. Ngày nay, người xuất gia tại gia phần nhiều chẳng hiểu rõ ý này. Hễ lễ tán, xưng tưởng thì lời đầu tiên đều nói tám mươi tư ngàn tướng đẹp. Lời của Phật tổ trên đây mà bàn thì há chẳng vượt bực mà mất ý chỉ ư? Kẻ ngu này chắc chắn chẳng dám ức đoán. May gặp Thánh giáo đầy đủ mà khảo xét từ nay về sau chớ nên bỏ lời Phật dạy, xin hãy theo giáo lý mà mở bày. Nếu niệm một Đức Phật thì các Đức Phật tự hiện. Luận Bảo Vương có dẫn Luận Khởi Tín chép. Theo phương hướng nên mê mà phương hướng thật ra chẳng đổi dời. Như thế thì người ngộ, ngộ ở một phương thì các phương khác tự đúng. Người niệm niệm một Đức Phật thì các Phật khác hiện tiền. Cái gọi là nước chẳng chảy đi lên, trăng không đi xuống mà do nhân duyên hư không quang tạnh nên trăng sáng trên hư không liền hiện ở nước trong. Phật kia chẳng lại, thân ta chẳng đi, do nhân duyên niệm Phật mà trăng sáng Như Lai hiện ở nước tâm trong. Cho nên bài tụng nói: Bồ-tát như trăng sáng Dạo trong rốt ráo Không Nước tâm chúng sinh lắng Ảnh Bồ-đề hiện vào. NIỆM DANH HIỆU PHẬT SẼ THÀNH TỰU TAM MUỘI Luận Bảo Vương nói rằng: Tắm ở biển cả là đã dùng nước trăm sông. Niệm danh hiệu Phật sẽ thành tựu Tam-muội. Cũng giống như hạt châu sáng bỏ vào nước đục, nước đục chẳng thể nào chẳng trong. Tưởng Phật gieo vào tâm loạn, loạn tâm chẳng thể nào chẳng thành Phật. Sau khi khế hợp thì tâm và Phật đều mất. Tâm, Phật đã mất thì muôn duyên muôn cảnh đều là Tam-muội. Bài tựa Tịnh Hạnh Pháp Môn của Pháp sư Văn. Đạt được hữu tâm của vô tâm, biết được vô niệm của hữu niệm. Hữu vô đều không trụ, năng sở đâu còn. Cho nên niệm niệm tròn sáng, tâm tâm vắng lặng. Nếu mê muội ý chỉ này thì các pháp đều thành lạ. Khế với Tông thì các môn đều thông diệu, nay có thể không trái thật tế mà chỉ bày viên tu, khiến kẻ được thì dứt trôi giạt, người ở bến mê được lên bờ giác người trước không tu Tây phương Tịnh nghiệp niệm Phật Quán môn. Cho nên kinh Tịnh Danh chép tuy biết các cõi Phật và chúng sinh là không mà thường tu Tịnh độ, giáo hóa các chúng sinh, là nói đây vậy. Tôi vẫn luôn vì các nam nữ tại gia rộng góp nhặt đại cương các kinh luận mà soạn thành Tây phương Tịnh Hạnh Pháp môn, để chỉ bày việc tu hành mà được ý thú. Nếu có người xem văn này mà không thể khởi tín nguyện tu hành thì là loại cuồng nhiệt nhảy xuống hố xí, chỉ chừa một sợi tóc muốn cứu vớt, thì biết làm sao đây! <詞>PHÁT TÂM BỒ ĐỀ CẦU SANH TỊNH ĐỘ. Trong Tịnh hạnh pháp môn chép: Phàm người tu Tịnh độ phải khéo phát tâm. Như tự mình chán ghét năm thứ vẫn đục, ưa thích chín phẩm là trái với tâm Bồ-đề, là hạnh Thanh văn không nên phát. Nếu vì chúng sinh mà khởi tâm đại bi cầu sinh về nước ấy, mong mau thành tựu đạo lực, thần thông, đến khắp mười phương cứu độ tất cả khiến cùng thành Phật đạo thì thuận theo tâm Bồ-đề. Đó là hạnh Bồ-tát nên phát. Người niệm Phật như gặp được Minh quân. Trong Tịnh hạnh pháp môn chép: Sám hối như siêng mài gương xưa, làm sạch các bụi tối nhiều đời, niệm Phật như gặp được Minh quân, một ngày nọ sẽ được mời làm quan cao. Trong các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, lúc đi đứng ngồi nằm đều siêng nghó việc trang nghiêm Tịnh độ, đều nhớ Phật A-di-đà. Như thế thì Tam-muội niệm Phật sẽ hiện tiền. <詞>DƯƠNG VÔ VI ĐỀ LỜI CHO TỊNH ĐỘ SÁM PHÁP Luật sư Pháp Tuệ Bảo Các Chiếu ở Tiền Đường vì năm chúng xu- ất gia mà tu Tịnh độ sám pháp, ông Vô Vi tử thấy vậy bèn đề lời ở phía sau rằng: Cõi Cực lạc thanh tịnh nếu không nhờ nguyện lực thì chẳng thể sinh. Đời vẩn đục tội nhiều, nếu không có sám hối thì tội chẳng hết như gạch đá ném xuống nước thì chìm, còn nguyện lực làm ghe chở thì cứu được mà vượt bờ kia, niệm niệm Bồ-đề, oai thần Tam bảo thì các điều ác đều tiêu mất. Như thế mà quán là Hạ phẩm sám hối. Tội như băng tuyết chứa nơi rất tối. Mặt trời lên dung hòa, băng tuyết tan chảy. Một khối ngưng đọng thay đổi mà thấm nhuần làm muôn vật nảy mầm. Như thế mà quán là Trung phẩm sám hối. Như Hư không rộng lớn trong suốt trống vắng, bụi không thể bám, nước không thể rửa. Đi, đứng, ngồi, nằm ai không phải Di-đà, sống chết tới lui cái gì chẳng phải Tịnh độ. Như thế mà quán là Thượng phẩm sám hối. Nếu ngộ đây thì tâm diệt tội mất. Nếu chưa viên thành thì trước hết sám pháp chỉ bày cho năm chúng phải vâng lời chỉ dạy này (của sám pháp). Trần Liễu Ông nói về Duy tâm Tịnh độ. Liễu Ông húy là Quán Thư cùng Pháp sư Minh Trí luận về ba ngàn pháp của tông Thiên Thai, chỉ bày nghóa của Duy tâm Tịnh độ rằng: một niệm tâm khởi ba ngàn tánh tướng cùng lúc đều khởi, một niệm tâm diệt ba ngàn tánh tướng cùng lúc đều diệt. Ngoài niệm không có một chút pháp nào có thể được, ngoài pháp không có mảy may niệm nào thật có. Đây chính là pháp của bổn tánh không dời, là thể của trung lý viên minh. Thể này lấy như lý làm mạng sống, sống lâu vô lượng, không phải báo mà được mạng căn, cũng không duy trì, vốn không có danh tự mà không chống lại các danh tự. Tên cõi ấy là nước Cực lạc, gọi thân ấy là A-di-đà, thân và cõi giao nhau, dung hợp thành một diệu, cho nên nói được pháp âm mà chẳng lìa cõi ấy. Tướng lưỡi rộng dài đầy đủ trùm khắp. Sự đầy đủ như thế là thể đầy đủ, hay Phật đầy đủ hay chúng sinh đầy đủ. Nếu có người biết được cái vui đầy đủ mà không nguyện vãng sinh thì ở trong thật tế cần ở chỗ không đến mà đến, ở trong phương tiện thì có ngại gì đi về còn khi căn cơ chín muồi cảm sâu thì đủ để thành việc. <詞>NĂNG LỰC NIỆM PHẬT DIỆT ĐƯỢC CÁC CHƯỚNG. Thiền sư Đạo Xước đời Đường có soạn An lạc Tập ba quyển khen ngợi Tây phương. Trong đó có hỏi rằng do nhân duyên gì năng lực niệm Phật có thể dứt hết tất cả các chướng? Đáp: Như kinh nói ví như có người dùng gân sư tử làm dây đờn, một khi khảy lên thì tất cả các dây đờn khác đều đứt. Như người ở trong tâm Bồ-đề mà thực hành Tam-muội niệm Phật thì tất cả các phiền não chướng đều dứt trừ. Cũng như có người đổ các thứ sữa trâu, dê, lừa, ngựa vào trong một cái bình, nếu nhỏ vào đó một giọt sữa sư tử thì tất cả các sữa kia đều hóa thành nước. Nếu người ở trong tâm Bồ-đề thực hành Tam-muội niệm Phật thì tất cả các ma chướng đều qua đi không khó. Người niệm Phật khi qua đời chắc chắn không có việc ma. Trong Niệm Phật Chánh Tín Quyết của Pháp sư Văn có người hỏi: Có người bảo khi qua đời thấy Phật, Bồ-tát phát ra ánh sáng, bưng đài vàng đến rước vãng sinh thì đều là việc ma. Lời nói này như thế nào? Đáp: Có người y theo kinh Thủ-lăng-nghiêm tu tập Tam-muội mà bị phát động Ấm ma, có người nương theo luận Ma-ha Diễn tu tập Tam-muội mà bị phát động Ngoại ma, có người nương chỉ quán tu tập Tam-muội mà bị phát động các quỷ mị, thì những người này đều y cứ vào tự lực của mình mà tu thiền, nên trước đó có các thứ ma phá định phát ra. Nếu sáng suốt hiểu rõ đối trị thì sẽ thành tựu được Thánh pháp. Nếu người không hiểu rõ mà tọa si thiền thì bị chướng ngại. Nay việc tu Tam-muội niệm Phật là nhờ năng lực Phật, như người gần vua thì ai dám xâm phạm? Bởi Phật Di-đà có năng lực Từ bi thệ nguyện, oai thần Tam-muội… có sức mạnh phá tà, có sức mạnh hàng phục các ma. Có thiên nhãn thấy xa, có thiên nhó nghe xa, biết được tâm người khác. Sáng suốt rỗng soi chiếu khắp giữ gìn tất cả chúng sinh. Có các năng lực công đức như thế há chẳng có khả năng che chở người niệm Phật giúp cho khi qua đời không bị chướng ngại ư? Nếu Phật không che chở thì các sức từ bi làm sao có, cho nên kinh nói: Phật A-di-đà có tám mươi bốn ngàn tướng tốt, tia sáng, mỗi tia sáng chiếu khắp thế giới mười phương, nhiếp giữ gìn chẳng lìa bỏ chúng sinh niệm Phật. Nếu người không tin Phật có những năng lực như thế thì người này đối với biển công đức của Phật đều chê bai hủy báng. Hơn nữa, việc bưng đài vàng đến rước đều xuất phát từ kinh Quán chính do miệng vàng Phật nói ra, sao dám cho là cảnh ma được? Nay tôi vì họ quyết phá tà nghi, giúp cho sinh chánh tín. <詞>LUẬN VỀ NGƯỜI ĐỜI ĐIỀU LÀNH NHẸ, ĐIỀU ÁC NẶNG Trong Di-đà Tây Tư Sao của Pháp sư Cô Sơn có chép: Xem người đời làm lành thì tâm hời hợt xem nhẹ, còn làm việc ác thì tâm chú trọng xem nặng, vì thế làm sao được sinh Tịnh độ. Xin lấy việc hiện tại mà nghiệm ra. Như đối với tượng Phật thì không kính trọng bằng tiếp khách quý. Như học kinh pháp thì không siêng năng bằng cầu tiền bạc danh vọng. Chê người khác thì hơi sức mạnh mẽ, nói năng lưu loát, còn khen họ thì chậm rãi tiếc từng lời lẽ. Đối với người ta ghét thì che thiện bày ác, đối với người ta thích thì giấu dở khen giỏi. Hoặc mình làm ác thì giận người chỉ ra, còn làm việc lành nhỏ lại hận người chẳng biết đến. Làm việc ác thì ngầm bỏ ngàn vàng mà vẫn im tiếng, làm việc lành thì dẫu cho người một bữa ăn cũng lớn tiếng khoe công. Hễ dụng tâm như thế thì chắc chắn đọa vào đường ác, với chút ít đều lành mà cầu sinh Tịnh độ thì khó lắm vậy. <詞>LỜI ĐỀ TRÊN VÁCH TẠI ẢNH ĐƯỜNG THỜ PHÁP SƯ TUỆ VIỄN CỦA ĐẠI SƯ MINH GIÁO KHẾ TUNG Sự tích ngài Tuệ Viễn kẻ học tuy thấy nhưng ít người biết tường tận, khiến cho người đời không thấy rõ đức của bậc Tiên hiền và lỗi của kẻ hậu học. Tôi đọc Cao Tăng truyện, Liên Xã ký và Cửu Giang Tân Cựu Lục thì rất mến Tuệ Viễn có sáu việc có thể khuyên đời. Nay dẫn ra trên vách ở ảnh đường để chỉ bảo cho người đến thăm: Lục Tu Tónh là học giả của tôn giáo khác mà đưa tiễn vượt quá Hổ Khê, đấy là không vì người mà bỏ lời. Đào Uyên Minh mê uống rượu mà vẫn giao du, đây là bỏ tiểu tiết mà lấy người thấu đạt. Cao tăng Bạt-đà đã nêu điều lạ bị tội tẩn (đuổi) nhưng vẫn đón về và khen ngợi, bởi trọng người có trí thức mà bị ganh ghét. Tạ Linh Vận vì tâm tạp mà không nhận vào xã bởi biết người tài mà cẩn thận sau này. Lô Tuần muốn làm phản mà vẫn cầm tay bạn cũ, bởi tự tin vào đạo. Hoàn công uy vũ mà vẫn đối kháng không khuất phục, là vì có khí tiết lớn. Nói chung, xưa nay tình người đều sợ uy vũ, hoặc quên nghóa vì tránh hiềm nghi, háo danh vì mê muội sự thật thật, ham đời mà chịu đựng đơn côi, giữ tiết hạnh mà sợ phiền lụy, tự khoe chê cười. Ai có đạo tôn quý một đời là thầy bậc Hiền, lại chịu dùng một lời nói theo người ấy? Ai có bẩm tánh đức hạnh cao quý sáng sạch mà lại chịu giao du với kẻ say sưa vì trọng cái đạt của người ấy? Ai có sự tôn quý khuất phục thầy người đối với người bị đuổi lại khen là hiền? Ai chống lại với kẻ có danh tiếng mà không cho nhập giáo vì muốn bảo toàn sau này? Ai có nghóa chẳng tránh họa? Ai dốc một niềm hòa mục, bạn cũ vì tin đạo? Ai gặp oai tướng soái trong cõi sát phạt bạo ngược, giữ đạo chẳng bị quấy nhiễu mà giữ tròn tiết hạnh? Đó là Tuệ Viễn, người có hiểu biết rộng lớn có một xưa nay. Nếu người gánh vác chí giáo, mở rộng Thánh đạo, dạy dỗ, dắt dẫn trời người không phải là người, ấy thì còn Thánh hiền nào cao tột vó đại hơn? Ôi, năm khí hợp gió mát là danh tiếng của ngài Tuệ Viễn vậy, Non thần sừng sững trong bốn biển sắc thu là sự thanh cao của Tuệ Viễn. Người rồng Tăng phụng cùng nhóm họp là do phong cách khuôn phép của Tuệ Viễn. Mây trắng, núi đỏ, cây ngọc, rèm châu là nơi ở của Tuệ Viễn. Được sinh sau Tuệ Viễn, tuy kính mến mà rất hận. Trước di tượng ngài con kính cẩn đảnh lễ nguyện đem lời văn thô kệch của mình mà đề lên vách. <詞>LỜI ĐỀ CỦA ĐẠI SƯ TỀ DÓ TẠI ẢNH ĐƯỜNG THỜ NGÀI TUỆ VIỄN Tôi nhớ trong Liên xã thỉ tổ Viễn Pháp sư Truyện có câu “Tề Dó, Đào Lệnh vì say nhiều nên không mời được, tiếc thay chẳng được chu toàn”. Kẻ học sau là Hiền Lương Trần Thuấn đã vượt núi Lô mà ghi lại rằng. Bên ao sen trắng, ảnh đường cũ Lưu, Lôi cốt cách hết Long Chương Cùng khinh Thiên Tử các chư hầu Đồng thương thầy ta một pháp trường Đào lệnh say nhiều mời chẳng được Tạ công tâm loạn vào chẳng hại Những ai đến đây nghó vết cao Gió động vết rêu, bụi đầy tường. <詞>ĐẠI SƯ VĂN THÔNG ĐỀ BÚT Ở ĐÔNG LÂM . Trong Lô sơn Chí có ghi “Vị tăng tên Khuông Bạch đề lời Đông Lâm” rất thích câu ấy đẹp mà có chí kính mến Tây phương nên chép ra đây: Đông Lâm cảnh đẹp thật rộng dài Lan Tuệ mọc nhiều đất cũng thơm Khá trách người đời đến chẳng được Lại theo mây, cây, già ngại gì Cửa ngỏ nương trời tạnh xanh tốt Miệng hang nước chảy đêm quanh thềm Đến đây chỉ mong được kết xã Ngoài ra bỏ hết đều chẳng màng. <詞>PHÁP SƯ TUỆ TRÌ CẮT ÁI: Trong Lô Sơn Thập Bát Hiền Truyện chép: Sư Tuệ Trì là em ngài Tuệ Viễn, sâu sắc nghó xa, thần sáng tài giỏi. Một hôm, từ giã anh đi về đất Thục. Tuệ Viễn giữ lại không được, bèn than rằng: Người đời thích sum họp, chỉ có ông thích chia lìa. Trì đáp: Nếu người vướng tình ái mà nhóm họp thì không nên xuất gia. Nay đã cắt ái cầu đạo chính vì hẹn Tây phương mà thôi. Rồi bùi ngùi từ biệt. <詞>NGÀI TĂNG HIỂN RẤT VUI MỪNG ĐƯỢC KINH THẬP LỤC QUÁN Xưa, có vị tăng tên Tăng Hiển được kinh Thập Lục Quán mới được dịch ra chữ Hán nêu ba nhân Tịnh độ, nguyện vãng sinh chín phẩm rất mừng bảo rằng: Tôi thân ở trong cõi đời có năm thứ vẫn đục, các khổ trói cột. Nay được kinh này như vượt khỏi cảnh lầm than cơ cực, bay liệng giữa hư không. Từ nay trở đi đã có chỗ về. Do đó quyết chí tu tập suốt chín tháng. Một hôm, bỗng thấy Phật A-di-đà phát ra ánh sáng dắt dẫn, thân lên ngồi trên đài Kim cương mà hóa. <詞>LƯU DI DÂN NHÀM CHÁN CHỨC QUAN Vãng sinh Truyện ghi: Lưu Di Dân đời Đông Tấn, lúc mới đến Lô sơn tới chào ngài Tuệ Viễn. Tuệ Viễn nói: quan lộc vòi vọi, muốn điều gì mà chẳng chịu làm quan? Lưu thưa: Vua tôi nghi nhau, cười nhau vô dụng. Nhà Tấn không phải là tảng đá lớn chắc chắn, vật tình ắt có cái nguy của trứng chất nhiều lớp, tôi biết làm sao? Tuệ Viễn nghe lời cho là người cao quý bèn mời vào Bạch Liên xã. - Ghi việc các Pháp sư đều sinh Tây phương. A-di-đà kinh Bất Tư Nghi Thần Lực Truyện chép: Xưa ở Trường An, các vị Pháp sư Tăng Duệ Tuệ, Sùng, Tăng Hiển, Tuệ Thông. Gần đây đời Hậu Chu thì có Thật Thiền sư, Loan Pháp sư ở Tây Hà… hơn trăm vị đều sinh Tây phương. Thiền sư Đạo Xước ở Tây Hà nhân thấy Thần Loan được sinh Tịnh độ đều dẫn dắt người có duyên chuyên tu Tịnh nghiệp. Đạo Xước lại soạn bộ Tây Phương Ký Nghiệm, gọi là An lạc tập mà truyền bá ở đời. <詞>DANH NGHÓA TỊNH ĐỘ Pháp Uyển Châu Lâm chép: Thế giới sáng sạch gọi là Tịnh, nơi tịnh mà ở thì gọi là cõi. Nhiếp luận nói: nơi ở không có năm thứ vẫn đục gọi là cõi Thanh tịnh. Danh nghóa của Liên xã. Thích Thị Yếu Lãm chép: Pháp sư Tuệ Viễn đời Đông Tấn người Nhạn Môn, ở Hổ Khê thuộc Lô sơn, nhóm hợp mười tám bậc Hiền tu Tây phương Tịnh nghiệp. Đào ao trồng sen trắng. Lại ở cõi nước Phật Di-đà dùng hoa sen chia làm chín phẩm thứ lớp tiếp độ người nên gọi là Liên xã. Có người nói: Các người trong xã này không bị bùn nhơ danh lợi dính vào, dụ như hoa sen cho nên lấy đó đặt tên. Lại có người nói: Ngài Tuệ Viễn có đệ tử tên là Pháp Yếu khắc gỗ làm mười hai hoa sen để ở trong nước, rồi chế tạo máy khiến nở ra một cánh là một giờ. Thời khắc không sai với đồng hồ, khiến lễ niệm không sai giờ giấc nhân đây mà đặt tên xã là Liên xã. <詞>TÂY VỰC VÀ TỊNH ĐỘ TÂY PHƯƠNG KHÁC NHAU. Ở Trung Quốc các sách Nho phần nhiều đều có nói về Tây phương như Chu Thư Dị Ký nói Tô Do tâu với Chu Chiêu Vương rằng: Có bậc đại Thánh sinh ở Tây phương. Lại trong Liệt Tử, Thương Thái Tể hỏi Khổng Tử, Khổng Tử đáp rằng: Tây phương có bậc Thánh. Văn Trung Tử nói: Phật pháp là tôn giáo ở Tây phương, các sách Nho ở đây xem Phật giáo là Tây phương. Đây là cõi Tây năm nước Thiên Trúc không phải để gọi Tịnh độ Tây phương. Lại, một cõi tam thiên đại thiên thế giới tức phạm vi hóa độ của Phật Thích-ca, đối với năm nước Thiên trúc ở trong cõi Diêm-phù thì Thần châu ở về phía Đông nam, cõi này mà nhìn thì gọi năm nước Thiên Trúc là Tây phương. Còn Tịnh độ Tây phương của Phật A-di-đà ở ngoài đại thiên Thế giới lại cách mười muôn ức cõi Phật (một cõi Phật đựơc định là một Tam Thiên đại thiên Thế giới). Tức biết cùng với năm nước Thiên Trúc ở cõi Diêm-phù-đề thuộc phía Nam này thì khác như trời với đất, không được lẫn lộn. Ghi chép về Lô sơn Liên xã Bạch Liên xã Đồ do Long Miên Lý Lân Bách niên hiệu Hy Ninh làm ra. Dùng mây thông suối đá làm đạo tràng mà không có nhà cửa làm che mắt. Kẻ mang kinh cỡi ngựa đi vào là Tạ Khang Lạc Linh Vận. Người xách giỏ rượu đi ra là Đào Tiềm Uyên Minh. Còn người vòng tay chào hỏi cười nói ấy là Pháp sư Tuệ Viễn cùng với Giản Tịch Tiên Sinh Lục Tu Tónh. Ngồi trên đá đối đáp, nhau là người nước Kế Tân Tôn giả Phật Đà-da-xá và Tôn giả Phật-đà-bạt-đà-la, bày tượng vàng sư tử mà khen ngợi Phật sự là Đạo Tổ Chu Tục Chi, ở Nhạn Môn, cùng với Pháp sư Đàm Thường Đạo Ngang, người ngồi vây quanh đài đá mà lật xem kinh là Lưu Di Dân Trọng Tư ở Bành Thành, Nam Dương Trương Thuyên Tú Thạc, Tây Lâm Thích Giác Tịch Đại sư Tuệ Vónh cùng Pháp sư Tuệ Trì, Tuệ Duệ. Người nhìn giòng thác mà rửa chân là Nam Dương Trương Dã Lai Dân. Người ngồi dựa ghế là Đông Lâm Phổ Tế Đại sư Trúc Đạo Sinh. Người ngồi trên mảnh da thú mà cầm chiếc lông trắng là Dự Chương Lôi Thứ Tông Trọng Luân. Người trải pháp cụ mà ngồi là Pháp sư Đàm Tiên và Đạo Kỉnh. Người chống gậy đi tắt lên núi là Pháp sư Đàm Thuận, Nam Dương Tông Bính Thiếu Văn. Bởi Lôi Trọng Luân, Lưu Trọng Tư, Chu Đạo Tổ, Tông Thiếu Văn, Trương Lai Dân, Trương Tú Thạc… đều mến mộ danh đức của Viễn Sư mà theo vào xã. Như Thích Tuệ Vónh Đạo Sinh, Tôn giả Da-xá, Tôn giả Bạt-đà-la, Tuệ Duệ… đều có đạo đức khế hợp với với Viễn Sư. Tuệ Trì là em ruột ngài Tuệ Viễn. Còn Đàm Thuận, Đàm Thường, Đạo Bính, Đạo Kỉnh, Đàm Tiên… đều là đệ tử của Tuệ Viễn. Đó là mười tám vị Hiền. Còn như Lục Tu Tónh thì Tuệ Viễn mỗi khi giao du thường đưa qua khỏi Hổ Khê. Còn Đào Uyên minh thì Tuệ viễn đặt rượu mời mà không chịu vào Xã. Tạ Linh vận thì thường trồng sen nguyện vào xã nhưng Tuệ Viễn ngăn không cho. Ở phía phải có ba người cố gắng cầm kinh cùng kẻ tục và trẻ hầu tất cả mười bảy người cùng phụ vào tranh vẽ. Từ Tuệ Viễn trở đi mười tám vị hiền thì Trần Thuấn Thâu Lệnh có nêu trong Lô sơn Ký, từ khi có Truyện Long Miên Lý Đức Tố soạn sách thì lược bỏ. Ngày 5 tháng 12 năm Tân Hợi, niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu kính ghi. <詞>LỜI BẠT NIỆM PHẬT TAM MUỘI LUẬN BẢO VƯƠNG Phu tử nói: Đứng thì thấy nó ở trước, ngồi xe thì thấy nó dựa vào đòn ngang. Về sau, Hán Thư nói ngồi thì thấy Nghiêu ở trên tường, ăn thì thấy Nghiêu ở trong canh, nói không hết được, phút chốc thì lìa như thế, tuy nhiên ở trong cõi đặc biệt này, kinh Lăng Nghiêm chép: Nếu các chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật thì hiền tiền, tương lai chắc chắn được thấy Phật, không nhờ phương tiện mà tự được tâm khai. Tôi bảo tu Tam-muội niệm Phật cũng phải tham dự xe trước cùng nghóa thấy Nghiêu. Đi đứng nằm ngồi đều phải nhớ niệm thì lo gì chẳng thấy Phật. Đây là bến yếu thành đạo chân xuất thế. Đâu chỉ thấy Nghiêu trên tường và ở canh, chỉ là tưởng luống dối. Ngày ba tháng mười một niên hiệu Chánh Hòa thứ bảy tại Cảnh Phù Ly, tôi ở trong thuyền nhân xem luận Niệm Phật Tam-muội Bảo Vương của ngài Phi Tích, bèn nghó về Phu tử ta cùng lời trong Hán sử và Phật rất phù hợp. Bèn ghi vào đây mong khi xem sẽ tự sách tấn mình. Hễ ai thấy nghe cũng nên cố gắng. Huỳnh Bá Tư Trưởng Nho Phụ kính ghi. Phát tâm quyết định chắc chắn được sinh. Thiền sư Trí Giác Thọ trong Thần Thê An dưỡng Phú có chú văn rằng: chỉ người phát tâm chắc chắn thì sẽ được sinh. Chỉ lo lòng tin không bền chắc, trước sau đứt quãng. Lời nói này của Thiền sư rất thành thật mong người đọc hãy khắc sâu vào tâm. <詞>TỊNH ĐỘ CÓ BA MƯƠI THỨ LỢI ÍCH Trong luận Quần Nghi có nói: Tịnh độ Tây phương gồm có ba mươi thứ lợi ích: Thọ dụng cõi Phật thanh tịnh. Được đại pháp lạc. Gần gụi thân Phật. Đến khắp mười phương cúng dường các Đức Phật. Được các Đức Phật thọ ký trước. Phước tuệ đầy đủ. Mau chứng Bồ-đề. Trời, người cùng nhóm họp. Luôn không thoái chuyển. 1. Hạnh nguyện thêm nhiều. Chim linh nói pháp. Gió cây âm nhạc. Nước nói khổ không. Tiếng nhạc hay ho. Dứt hẳn ba đường. Thân màu vàng ròng. Thân không xấu xí. Đầy đủ năm thông. Thường ở trong Chánh định. Không có các điều bất thiện. Tuổi thọ dài lâu. Cơm áo tự nhiên có. Chỉ hưởng các điều vui. Có ba mươi hai tướng tốt. Không có người nữ. Không có Tiểu thừa. Lìa dứt tám nạn. Được ba pháp nhẫn. Thân luôn có ánh sáng. Được thân Na-la-diên. Quyết định cầu sinh phải khởi tâm ưa thích, nhàm chán. Trong Thập Nghi luận của Thiên Thai có nói: Nay muốn quyết định cầu sinh không biết phải thực hành hạnh nghiệp nào. Lại người thế tục đều có vợ con, chẳng dứt dâm dục thì được sinh cõi ấy chăng? Đáp: Nếu quyết muốn sinh thì phải có hai hạnh: Hạnh nhàm chán xa lìa. Luôn xem thân này máu mủ phẩn tiểu nước dơ hôi hám. Một là quán thân dâm dục do tham ái sinh ra tức là các hạt giống bất tịnh. Hai quán cha mẹ giao hội tinh huyết hòa hợp tức là thọ sinh bất tịnh. Ba là trong thai mẹ tức là chỗ ở bất tịnh. Bốn là ở trong thai mẹ, chỉ ăn nuốt máu mẹ tức là ăn nuốt bất tịnh. Năm là khi đủ tháng thì từ sản môn chui ra tức là nơi sinh bất tịnh. Sáu là trong thân có máu mủ tức là cả thân thể bất tịnh. Bảy là chết rồi sình chương rã nát tức là rốt ráo bất tịnh. Quán mình đã như thế, quán người mình thương yêu cũng như thế. Như thế mà quán thì việc phòng the dù không dứt ngang được cũng dần dần giảm bớt. Hạnh nguyện ưa thích. Sở dó cầu sinh là vì muốn cứu khổ cho tất cả chúng sinh sau mới khởi tâm duyên tưởng tướng đẹp mầu vàng của Phật A-di-đà. Lại quán cõi ấy bảy báu trang nghiêm đầy vui sướng. Đây gọi là Hân nguyện môn. <詞>BÀI TỰA LUẬN TỊNH ĐỘ THẬP NGHI CỦA PHI SƠN GIỚI CHÂU Việc khó thấy thì có nghi, nhiều nghi thì thành cảm. Không chỉ ở mọi người mà như ngài Xá-lợi-phất ở Tiểu thừa nhàm chán mà theo Đại thừa rồi cũng lại nghi. Ở cõi tịnh uế thì nổi nghi hỗn tạp cuồn cuộn. Có những điều ẩn kín không thể biện biệt thì nghi và có những việc dường như giống nhau không thể giải quyết được. Bởi Thu Tử là người có trí tuệ cao nhất mà không thể quyết nghi được lý hỗn tạp ấy, há có việc chưa nghó xét kỹ ư? Vì Phật pháp rất khó suy xét những chỗ chưa đến được. Cho nên nói: Sự sáng suốt của bốn quả không thể biết được chỗ sâu kín của Như Lai, các Thánh ở Thập địa cũng không thể được cái mầu của quả cùng cực. Huống là kẻ phàm phu không có mắt tuệ lại bị giam nhốt trong ba cõi thì có nhân gì. Vọng chỉ Tịnh độ nhầm lẫn, cái nghi khó chuyển mà nghi. Đối với thân biết năm uẩn chưa diệt mà nghi, đối với tâm biết có muôn hoặc lậu chưa dứt được mà nghi. Đối với hạnh có sáu độ biết chưa làm xong, do hạnh trôi dạt chưa cứu giúp những người mong cứu giúp, chính ở đây còn lầm lẫn huống là người khác. Tình vật này khó tin nên người xuất gia tại gia cùng nghi. Đại sư Trí Giả đời Tùy, tâm thầm mong với chúng sinh, trí cùng hội, với thần nhân, lúc giúp giáo có dấu lạ rất nổi tiếng, nêu nhân chỗ khác lạ, khảo cứu chỗ chứng, không biết, ngài là Tam hiền hay Thập Thánh mà việc làm của ngài ngang bậc Chánh đẳng giác, thần hóa rất khó lường, bởi dẫu nghó lường cũng không biết được. Chỉ có Đại sư niệm Định tổng trì sáng tỏ. Hạnh nghiệp cầu sinh Tịnh độ rất kiên định. Tìm thấy Đại sư còn văn luận Thập Nghi. Văn ấy xa thì lấy các kinh, gần thì lấy các luận, về ý thì lấy ở các truyện. Không lìa kinh mà đủ việc, không trau chuốt lời mà văn hay. Thấu lời đạt ý, đến cực chín phẩm mới thấy dụng tâm của ngài. Người thấy dụng tâm ngài đối với Tịnh độ mà còn nghi ư? Đó gọi là giữa khoảng trời cao không mây các sao đều hiện, cách lý mầu khác nhau, mối manh cũng khác, không phải một mà rất ẩn kín. Tôi được văn ấy chép lại, nghó Đức Năng Nhân khen Tịnh độ rất nhiều, các Đức Phật chứng mà thành. Hoặc tướng lưỡi rộng dài che khắp đại thiên, hoặc triều âm mà Phạm thuyết, tôi và Đại sư nhiều năm xa cách, không được một lúc cùng soi sáng cho nhau, sao ngày nay còn không nói? Cho nên ở đầu luận xin lược nêu vài việc để mừng hoài bão của Đại sư. Dẫu lời thô ý cạn không đủ nêu hết cái chỗ giáo hóa của ngài, nhưng trước đối nghóa Phật chứng thành mà có chỗ về. Lời bạt về khắc bản Luận Tịnh độ Thập Nghi. Huỳnh Công Tiên ở Ngô Hưng từng khắc in luận Thập Nghi của Thiên Thai, đề ở phía sau rằng: Người xưa do tâm sợ thúc bách bắn tên vào đá, khí giận dữ dội làm núi non suối rừng thành một. Do đây mà vật vô tình còn cảm được, huống gì trừ lưới nghi, ngưng kết tín căn, Tam- muội niệm Phật tinh tấn không dời đổi thì Tịnh độ dẫu xa vẫn chắc chắn được sinh. Nhưng người đời nghi, phân vân thì phải dùng vấn đáp của ngài Trí Giả có tựa dẫn của Vô Vi mà in ra thí khắp để truyền bá rộng, mong giúp các bạn lành tín tâm bền chặt vậy. <詞>KỆ KHUYÊN NIỆM CÁC ĐỨC PHẬT BA ĐỜI CỦA THIÊN TRÚC SÁM CHỦ. Các Như Lai quá khứ An trú kho bí mật, Phật mười phương hiện tại Thành đạo xoay pháp luân Các Thế Tôn vị lai Trong Ba thừa sáu đường Do chấp đắm vọng tưởng Triền kết cái phiền não Mê thành thân sáu nẽo Luống chịu khổ ba cõi Chỉ niệm Phật quá khứ Chẳng kính Phật vị lai Kết oán thù với Phật Hoặc giết hại, chưng nấu Chẳng hiểu tướng chúng sinh Toàn là thân pháp tánh Xưa, có Thường Bất Khinh, Hay lễ bái mọi người Nói ta chẳng khinh ngài Các ngài sẽ thành Phật Nếu nghó rằng mình, người Đều là Phật vị lai Hiện tại tăng phúc thọ Đời đời sinh nước Phật. <詞>KỆ NÓI TƯ TUỆ PHẠM HẠNH PHÁP MÔN CỦA LUẬT SƯ ĐẠI TRÍ. Rượu, thịt và dâm dục Ba thứ không lìa nhau Người ăn thịt, uống rượu Sắc lực sẽ sung mãn Liền nghó đến dâm dục Nếu người luôn dâm dục Khí huyết sẽ khô khao Sẽ nghó đến rượu thịt Nếu người bỏ rượu thịt Tự nhiên lìa dâm dục Nếu người lìa dâm dục Tự nhiên quên rượu thịt Trừ được ba việc ấy Tất cả giới đầy đủ Nếu chẳng dứt ba việc Ở mãi ngục ba cõi Bàn thiền và nói giáo Đều là hủy Phật pháp Thiền sư Trí Giác nói Nếu chẳng cấm ăn thịt Dứt hẳn giống Từ bi Nếu chẳng bỏ uống rượu Đoạn hẳn giống Trí Tuệ Nếu chẳng cấm dâm dục Dứt hẳn giống thanh tịnh Cấm thịt hiển gốc bi Cấm rượu phát vốn tuệ Cấm dâm sinh gốc tịnh Gốc tịnh tức Pháp thân Gốc tuệ là Bát-nhã Gốc từ là giải thoát Ba thân và ba đức Đều do ba việc sinh Thế nên pháp môn này Tên Từ Tuệ Phạm hạnh Đều y giáo Đại thừa Đều là lời các Phật Nguyện khắp làm đúng lời Cùng sinh nước Cực lạc. Dâm dục, giết hại giúp nhau phát sinh. Long Thơ Tịnh độ chép: Dục vọng lớn là ăn uống và quan hệ nam nữ phải nên tiết chế. Nếu không có các việc này thì là bậc Thánh, giảm bớt không buông lung các việc này thì là bậc Hiền, còn buông lung không tiết chế là kẻ hạ ngu. Bởi hai việc này giúp nhau tạo nghiệp. Vì uống rượu ăn thịt nhiều thì huyết khí đầy mạnh, khiến dâm dục nhiều. Nếu dâm dục càng nhiều thì hao tổn huyết khí, lại phải nhờ ăn uống mà tẩm bổ. Nếu giảm bớt cả hai việc này thì là đạo an thân và sống lâu. Sư Từ Giác nói: Việc ăn uống đối với người dài theo ngày tháng, tinh thô tùy phần là để ngặn bệnh đói gầy. Vừa nuốt qua khỏi cổ thì là vật gì? Sao tâm không so lường suy xét kỹ mà cốt lấy việc thật. Dã Phu có nói: Da bao xương thịt và phẩn tiểu, gượng làm đẹp đẽ để gạt người. Ngàn xưa anh hùng đều do đây. Trăm năm rốt chỉ một nắm đất. Nếu ngăn được hai việc này thì ở đời đâu có bệnh tật, chết yểu. Chết rồi đâu có địa ngục, quỷ, súc sinh. Nếu quyết muốn cầu sinh Tịnh độ thì phải cẩn thận gìn giữ việc này. <詞>BA VỊ ẨN SÓ Ở CHÙA QUỐC THANH Vào niên hiệu Trinh Quán đời Đường có Hàn Sơn, Thập Đắc và Phong can là ba vị ẩn só chùa Quốc thanh ở Thiên Thai. Đầu tiên là Chánh Gián đại phu Lư Khưu Dẫn ra làm Thứ sử ở Thai châu. Khi chưa lên đường thì bị bệnh nặng lâu ngày không dậy được. Bỗng thấy một vị tăng bảo: “Tôi là Phong Can ở Thiên Thai thấy ông bệnh bèn đến thăm”, phun nước vào mặt dẫn thì liền tỉnh lại, nhân được sống lại ông xin rằng: Thiên Thai thuộc ấp tôi có bậc Hiền nào nên gần gũi chăng? Phong Can nói: Được gần mà chẳng thể thấy là Hàn Sơn, được thấy mà không thể nương bám là Thập Đắc, đó là hai Đại só Văn-thù và Phổ Hiền vậy. Khi dẫn đến quận năm ngày liền hỏi, vị tăng tên Đạo Kiều đáp rằng “Viện Phong Can ở sau kinh tàng (Kho kinh) nay đã không có người. Hàn và Thập thấy ở nhà bếp đang đốt”. Lại hỏi “Phong Can làm hạnh nghiệp gì?” Thì đáp: Chỉ thờ cúng, đêm thì ca hát làm vui, có lúc cỡi hổ qua lại dưới rừng thông. Ông đến nhà bếp gặp liền làm lễ thì hai ông mắng chửi rằng: Phong Can lắm lưỡi, người ấy là Di-đà mà không biết, lại lạy ta làm gì? Đồ chúng thấy vậy kinh sợ thì hai vị liền biến mất. Người xưa có nói Thánh hiền hiện thân ở chung mà người đời không biết, phải là người này chăng? Ba vị ẩn só trên có thơ cảnh tỉnh người đời rất nhiều, thấy đủ ở Bản tập. Bình luận các bài tụng của Thiền sư Long Nha. Truyền Đăng Lục có ghi bài tụng của Độn Thiền sư Long Nha rằng: Niệm Phật nhiều người thành Phật ít Niệm hoài ngày tháng sẽ thành ma Anh nay muốn được tự thành Phật Tâm kia không niệm không hiệu quả. Phần nhiều thấy người tu thiền dùng tụng này để ngăn người niệm Phật, bởi họ chuyên lấy vắng lặng làm tông (gốc), bèn cho người niệm Phật là chấp tướng, rất không biết kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã có nói: Dùng vô sở niệm mà tu niệm Phật há bị bệnh chấp tướng ư? Xin họa một bài tụng để phá lầm rằng: Niệm Phật nhiều người thành Phật nhiều Ai nói niệm lâu sẽ thành ma Châu trong nước đục đã dụ rõ Gọi chẳng quay đầu, tranh nổi gì? <詞>PHÁP SƯ VIÊN TRẠCH BÁO DUYÊN SANH TỬ. Kẻ só Lý Nguyên và vị tăng Viên Trạch về đạo rất khế hợp nhau. Nên một hôm cùng hẹn dạo chơi Tây Thục. Lý thì muốn đi đường từ Kinh châu, còn Trạch thì muốn đi đường từ Trường an. Trạch bất đắc dó phải theo ý của Lý. Thuyền đến Nam Phố thuộc Kinh châu, bỗng thấy có người phụ nữ mặc quần gấm gánh nước Trạch thấy bèn khóc rằng: Tôi chẳng muốn đi là vì việc này, đây là Vương thị, tôi phải làm con ở trong thai ba năm, tôi đã đến thì không trốn được. Quá ba ngày tắm con, ông đến thì tôi sẽ cười một cái để làm tin, mười hai năm sau đêm Trung Thu, hãy gặp nhau ở ngoài chùa Thiên trúc tại Hàng châu. Nói xong thì ngồi mà chết. Người phụ nữ sau khi sinh xong ba ngày thì Nguyên đến xin gặp thì quả nhiên đứa bé cười một tiếng. Mười hai năm sau, đến kỳ hẹn Nguyên tới Tây hồ bên bờ sông Cát hồng. Bỗng nghe mục đồng gõ sừng ca rằng: Ba sinh trên đá tỉnh hồn xưa Thưởng gió ngâm trăng chẳng luận bàn Hổ thẹn tình người xa hỏi nhau Thân này tuy khác tánh mãi còn. Nhân đó Nguyên hỏi rằng: Ông Trạch có khỏe chăng? Cậu bé đáp: Ông Lý thật là người đáng tin, nhưng vì tục duyên chưa hết, xin chớ gần nhau. Chỉ xin siêng tu không biếng lười rồi lại gặp nhau. Nói xong lại ca rằng: Thân trước thân sau việc mênh mông Muốn nói nhân duyên sợ đứt ruột Ngô Việt giang sơn nay đã khắp Đường về khói đóng mái chèo xưa. Hát xong bỏ đi. Tôi thấy ông Trạch ra vào sinh tử không mê muội, lại là người thấu đạt. Tuy nhiên cũng vì sinh tử chưa hết, do đó phải bị khổ trong thai ngục, từng nghe bậc Thánh sơ quả của Tiểu giáo còn bị dục mê hoặc lôi kéo bảy lần trở về làm trời người lần lượt bị sinh tử. Cho nên trong Đại luận có nói Sơ quả còn sinh làm con nhà hàng thịt. Đến Nhị quả thì còn một lần sinh về cõi Dục. Nay chẳng biết Trạch sư là người thuộc thượng vị Đại thừa mà quyền hiện sinh tử như thế hay là căn tánh Tiểu thừa thật sự lần lượt chịu sinh tử. Nếu thật là người Sơ quả Tiểu thừa tuy chưa ra khỏi ba cõi thì cũng mặc tình ra khỏi ba cõi, tuy chưa vào Đại thừa thì ở trong cõi phương tiện cũng mặc tình vào Đại thừa, chắc chắn không lo lắng gì. Nếu chẳng thế thì trôi lăn trong năm đường không bờ bến song ở trong sinh tử thì khó ra, được như người này thì giống với việc tu theo đường tắt của Tịnh độ. Hãy cố gắng! * Pháp sư Bố nói Tịnh độ không phải là sở nguyện của tôi. Theo Tục Cao Tăng Truyện thì Pháp sư Tuệ Bố người ở Quảng Lăng, họ Hác, thuộc giòng tướng soái. Thuở nhỏ, sư đã có chí theo đạo. Bèn theo thầy xuống tóc đối với đạo nghiên cứu sâu xa. Lúc đó có hiệu là Tuệ Bố. Các Vua đời Trần từng có đến thọ giới với sư. Sư có nói: Tịnh độ Tây phương tuy tịnh nhưng không phải là nguyện của tôi. Dầu mười hai đại kiếp ở trong hoa sen không được thấy Phật chỉ hưởng các vui thì không bằng ở trong ba đường mà cứu khổ chúng sinh. Khi sư mất, thì suốt bảy ngày mặt đất rung chuyển, sư ngồi mà hóa, co ba ngón tay, Thái sử tấu vua rằng người đắc đạo thì sao rụng. Bố công ở đây nói chắc chắn phát từ tâm trí tuệ. Song đây là người đã được vị Vô sinh, và thô cấu trước đã hết thì mới được như thế. Dưới bậc này và bạc địa thì tự cứu còn chẳng được huống gì cứu người khác. Cũng như không có thuyền không biết lội thì cả hai cùng chết chìm. Nay thấy Tuệ Bố qua đời mà co ba ngón tay thì dẫu chưa phải là ứng sinh Bồ-tát thì cũng nguyện sinh ở quả vị vô ngại. Nếu chưa được địa vị này thì phải luôn không được lìa Phật pháp. Đợi khi đạo lực đã thành rồi trở thì lại cõi năm trược mà cứu độ chúng sinh mới được. Nếu không như thế thì Đại Luận nói hạng phàm phu còn bị trói buộc có tâm đại Bi nguyện sinh trở lại đời ác để cứu khổ, thì không có việc này há chẳng cẩn thận ư? <詞>THỪA TƯỚNG TỪ LĂNG PHÁT NĂM THỆ NGUYỆN Trong Quốc Thanh Bách Lục ghi: Tể tướng nhà Trần phát nguyện rằng: Đệ tử là Lăng Hòa Nam nghó muốn thoát khỏi lồng phên không do cánh mà được đã yếu kém thiện căn thì mong nguyện lực được trang nghiêm. Nay nguyện: Khi qua đời được chánh niệm thành tựu. Nguyện không đọa vào địa ngục ba đường. Nguyện thác sinh vào nhân gian chỗ không cao không thấp. Nguyện được đồng tâm xuất gia giữ giới đúng pháp. Nguyện không rơi vào hàng Tăng lưu tục. Tâm nguyện này để sách tấn việc tu Tây phương. Lòng son đã nguyện xin được chứng minh. Bàn về người thế tục nguyện đời sau được xuất gia. Trong Quán kinh nghóa sớ, Luật sư Linh Chi Đại Trí có nói rằng: Có người phát nguyện, nguyện khi chưa được Đạo, thì sinh ở chỗ nào cũng gặp Phật nghe Pháp, xuất gia từ bé. Nay nói nếu sinh Tịnh độ thì mặc tình gặp Phật xuất gia làm tăng. Đó là do không biết Tịnh độ có nguyện này. Cũng như Từ Lăng nguyện rằng: Nguyện kiếp sau được thác sinh vào nhân gian chỗ không cao không thấp, được xuất gia từ bé. Đây vì họ là nhà Nho nên không đáng trách. Còn các bậc Tông sư giảng Thiền nhiều người lại có cách nghó như vậy. Tôi từng nói rằng: Ông nay đã được làm nam tử xuất gia rất hợp với việc cầu thoát ly sao lại còn cầu làm nam tử xuất gia lại, bỏ đi dịp may thẳng tiến. Ngài Linh Chi bình luận Thừa tướng Từ Lăng không đáng trách mà thật ra lại trách cứ sâu xa. Tuy nhiên Từ là hạng nhà Nho phi thường, bởi từng theo học với tổ Thiên Thai ta, ông rất am tường giáo quán. Với năm lời nguyện trình lên bậc trí, nên thấy ghi trong Bách Lục. Bởi ông có chí vì chúng sinh rất rộng lớn nên như thế. Đợi khi đổi báo thì được quả như nguyện xưa làm tăng học đạo, nối ngài Chương An làm Tổ thứ sáu của Thiên Thai, gọi là Tôn giả Pháp Hoa Trí Oai. Cho nên sư Trí Thuần người Cao ly khen rằng: Thân gặp bậc trí trình nguyện tốt, quả làm Tông sư như nguyện xưa. Linh Chi sớ ký như thế là muốn cứu mối tệ chứ nào phải ngọc, đá chẳng phân. <詞>BÌNH VỀ VIỆC TRIỀU THÁI PHÓ CHO TỊNH ĐỘ LÀ TIỂU THỪA. Trong Mạo Trí Di Thư Triều Thái Phó có nói: Thực hành Pháp quán Tịnh độ là quyền thuật của Tiểu thừa. Có năng có sở, có lấy có bỏ đều là sinh tử luân hồi, người thấy Đại thừa phải tự hiểu biết. Triều công làm quan ở triều Nhân Miếu, nhiều năm rảnh rang, rộng xem sách vở trong ngoài tìm rõ lý vị, rất mến việc siêu xuất trần thế. Ông có soạn Đạo Viện Tập và Pháp tạng Toái Kim. Độc giả ai chưa từng cảm thấy lý thú, chỉ lấy nhất chân hư tịnh làm chỗ đến. Về già có soạn sách Mạo Trí, trong đó có nói Tịnh độ là Tiểu thừa quyền thuật. Đây là lời nói mất ý chỉ. Triều Công cao minh trác thức mà chẳng hiểu Phật giáo Đại, Tiểu thừa, khi nói lời này thì ngựa hay chẳng đuổi kịp. Tôi vốn không nhanh nhẹn chỉ vì muốn cùng ông kết duyên Tịnh độ nên gắng gượng mà luận bàn thôi: Giáo lý Tiểu thừa là giáo vụng về thiên lệch chỉ nói về nhất chân không. Nếu hoặc kiến, tư phá rồi thì thân nhập vào thái hư, cũng không có cõi nước nào để sinh về, đâu được nói là Tiểu thừa quyền quán Tịnh độ. Phải biết Đại thừa mới nói lý mầu trung đạo, thân và cõi giao nhau cho nên có nói trần trần Phật sát (cõi Phật nhiều như bụi). Nếu luận về thọ sinh thì sinh tức Vô sinh, Vô sinh tức sinh. Cho nên Dương Vô Vi nói: Có niệm đồng không niệm, Vô sinh tức là sinh, chẳng nhọc dời một bước, thấu triệt thành Hoàng giác, là thế. Nói rộng nghóa này thì như bộ Thiên Trúc Hạnh Nguyện Quyết Nghi và Thư đáp Dương Văn Công của ngài Tứ Minh, các vị quân tử cảm thấy lý thú thì thử xem xét rõ. <詞>ĐỘ Ở ĐỜI CÓ SÁU HẠNG NGƯỜI TỰ CHƯỚNG VỚI TỊNH Quán kinh Nghóa Sớ chép: Nói sơ lược có sáu loại người tự chướng với Tịnh độ: Bảo rằng Tịnh độ khó sinh, mình không có sức, không dám quá trông mong, chỉ đừng mất thân người là đủ. Bảo rằng tôi phá giới hủy trai, nghiệp ác sâu nặng, Tịnh độ làm sao sinh được. Cho rằng Phật nói Tây phương là để quyền dụ chúng sinh, lại khiến làm lành đều không thật, thấy người tu Tịnh nghiệp lại sinh chê cười. Cho rằng mình là bậc thông minh lợi trí, thẳng ngộ tâm mình, các việc mình làm đều hợp đạo, há lại cùng kẻ dưới mà niệm Phật ư? Nói rằng phàm phu huyết khí nhóm họp, giả gọi là thân, đến khi chết thì trăm xương về không, đâu có Tịnh độ mà về. Bảo rằng khi sắp qua đời quán tưởng cướp lấy thai ấm, chỉ sát- na là đổi báo, chẳng trải qua bào thai. Than ôi! Phật ta đại Từ bi chỉ dẫn pháp môn Tịnh độ, ân cần khuyên cầu sinh, mà lại tự cam chịu chìm đắm. Như Lai bảo đây là hạng người đáng thương. Pháp sư Từ Ân nói: Chỉ có An dưỡng Tịnh nghiệp là nhanh tắt đáng tu. Ai muốn khi qua đời lìa các sợ hãi, Thánh chúng hiện tiền trao tay dắt dẫn… thì phải học pháp này. Lời pháp của các bậc hiền xưa mà không theo ư? BÁC NGƯỜI CHO RẰNG TU TỊNH ĐỘ LÀ CHẤP TƯỚNG Quán kinh Nghóa Sớ nói: Có người cho rằng cầu sinh Tịnh độ, niệm Phật, tu quán đều là chấp tướng, rất không phải là pháp siêu việt. Nay cho rằng Phật nói không chấp tướng là đừng chấp trước ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, chẳng trụ vào pháp tướng sở tu, dứt sạch chấp nhân và chấp pháp. Tức đạt hai thứ Nhân, Pháp đều không, nào từng cho buộc niệm tiến tu mà là chấp tướng ư? Nay cho rằng nếu tu Tam-muội niệm Phật chắc chắn là không phải chấp tướng, vì thân Phật vô tướng thì có gì để chấp. Bát-nhã chân không vốn để người tu sáu độ không trụ tướng, sáu độ chẳng tu thì Bát-nhã sao dùng kẻ chân học đạo, thì đạt được tu mà không tu, hiểu niệm mà không niệm. Cả ngày tu mà không hề tu, cả ngày niệm mà không hề niệm. Nên kinh Kim Cang nói không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Tu tất cả pháp thiện thì được A-nậu Bồ-đề. Cho nên biết người liễu đạt thì đâu từng chẳng tu điều thiện. <詞>NÓI VỀ DÙNG SẮC, THANH MÀ CẦU PHẬT THÌ ĐÓ LÀ TÀ ĐẠO Quán kinh Nghóa Sớ hỏi rằng kinh nói: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người đó hành tà đạo, chẳng thấy được Như Lai”. Nay quán Phật, niệm Phật há chẳng phải dùng sắc thấy dùng tiếng cầu ư? Đáp: Ba mươi hai tướng cũng như vầng trăng sáng hiện vào trăm sông, như bốn biện ở tám tiếng, như tiếng vang phát ra ở hang sâu. Nếu có người xuống đầm mò trăng, vào hang tìm tiếng thì chẳng hiểu tánh không nên chẳng được thấy Phật. Người đạt ngộ thì không như thế, hiểu sắc không phải sắc thì có ngại gì. Quán tưởng hình Phật, thấu suốt tiếng chẳng phải tiếng thì ngại gì suy lường mà nghe Pháp mầu. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói sắc tướng không phải là Phật, âm thành cũng giảng như thế, cũng chẳng lìa sắc thinh mà thấy được năng lực thần thông của Phật, đối với lời nhiệm mầu này. Sao còn sinh nghi chướng ư? <詞>Ở ĐỜI CÓ MƯỜI HẠNG NGƯỜI KHI SẮP QUA ĐỜI KHÔNG NIỆM PHẬT ĐƯỢC Luận Quần Nghi chép: Tôi thấy trong thế gian này có mười hạng người khi sắp qua đời không niệm Phật được. Bạn lành chưa ắt gặp được nên không khuyên niệm Phật được. Nghiệp khổ trói chặt thân không rảnh niệm Phật. Bị trúng phong líu lưỡi không niệm Phật được. Điên cuồng mất tâm, chú ý khó thành. Gặp nạn nước trôi lửa cháy chẳng rảnh chí mà niệm. Gặp sài lang thú dữ không có bạn lành. Khi sắp qua đời bị các bạn ác phá hoại tín tâm. Ăn uống quá độ hôn mê đến chết. Vào trận đánh nhau mà chết. Té từ trên cao xuống mà chết. Đây là mười chúng sinh khi qua đời không niệm Phật vãng sinh được. Vậy nên dự bị tu Tịnh nghiệp trước, để khi vừa gặp nạn duyên thì sẽ được Di-đà dắt dẫn vãng sinh. <詞>TRẢ LỜI CÂU HỎI CHO RẰNG TỊNH ĐỘ LÀ PHÁP QUYỀN NÓI CHO HÀNG ĐỘN CĂN Vào niên hiệu Long Hưng, Tông Thiên Thai có Tư Phạm giảng chủ ở lâu tại núi Lâm Bình Sơn, hạnh giải rất cao sáng, tạo ra một tông giáo quán sâu xa. Thường giao du với các só đại phu, tùy chỗ hỏi đáp mà giải thích rõ ràng (thấy đủ trong hội tông tập). Một hôm, có Thông phán Trịnh Công hỏi: Trong kinh giáo nói niệm Phật Di-đà cầu sinh Tịnh độ phải chăng là vì kẻ độn căn mà phương tiên quyền nói. Thượng căn một khi siêu vượt Phật địa thì há lại nhờ năng lực Phật khác ư? Sư đáp rằng: Những bậc tiên đạt của tông ta quở trách lời nói ấy rằng khi Phật còn tại thế thì có Văn-thù, Phổ Hiền. Khi Phật mất rồi thì có Mã Minh, Long Thọ, ở Trung Quốc thì có Trí Giả, Trí Giác đều nguyện vãng sinh, đó đều là độn căn ư? Đức Thích-ca khuyên vua cha Tịnh Phạn và sáu muôn người họ Thích vãng sinh, đó đều là người tầm thường cả ư? Nếu cho đây là quyền thì cái gì là thật? Xưa, Tôn Tân Lão cũng nghi ngờ việc này. Khi gặp Dương Thứ Công, Vương Mẫn Trọng biện luận mới dứt mối nghi này, bèn bảo: Ắt biết Tịnh độ không phải là quyền thiết của bậc Thánh mà là nơi nương tựa của chân Thiền lữ. Phải biết Triều ta kẻ hiểu sâu về Tịnh độ thì chỉ có hai bậc Hiền họ Dương và họ Vương trên. Dương soạn tựa cho Quyết Nghi tập có dẫn kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Biết tất cả pháp cũng như ảnh tượng, tâm mình như nước, Phật không đến ta, mà ta cũng không về đó. Nếu ta muốn thấy Phật A-di-đà thì tùy tâm liền thấy. Thế mới biết người chú niệm thì chắc chắn thấy. Đây gọi là nói thật tánh mà không phải quyền giáo. <詞>NIỆM PHẬT THÀNH TỰU BA NĂNG LỰC THÌ DỂ VÃNG SANH Hội Tông chép: Thường thấy người thế gian trước thì niệm Phật nhưng đến khi bệnh khổ sợ sệt nói chết, chỉ niệm Quán Âm mà cầu cứu. Tôi cho rằng người này rất điên đảo. Nay xin nói ba năng lực để dứt nghi tình giúp cho niệm Phật có ý vị. Năng lực chúng sinh vốn sẵn có Phật tánh. Tâm chúng sinh vốn sẵn có Phật tánh, không khác với Phật A-di-đà. Như kinh Như Lai Tạng chép: Phật thấy trong tâm phiền não của tất cả chúng sinh đều có thân Như Lai ngồi kiết già, nghiễm nhiên bất động, đức tướng đầy đủ, tức là nghóa này vậy. Năng lực Di-đà Từ Quang Nhiếp Thủ. Kinh nói: Tâm của Phật là đại từ bi, tức dùng Vô duyên từ mà nhiếp các chúng sinh. Lại Phật có tám mươi bốn ngàn ánh sáng nhiếp giữ chúng sinh niệm Phật tâm không buông bỏ. Ấy là nghóa này. Năng lực công huân do tín tâm niệm Phật. Người tín tâm niệm Phật như con gọi mẹ, mẹ sẽ bảo hộ. Kinh nói: Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền và tương lai chắc chắn thấy Phật Năng lực này như ba mối dây xe lại thành sợi dây lớn có thể kéo vật nặng đến nơi khác. Lại như gương, nước, lửa. Nếu gương đối trước mặt trời, dùng bùi nhùi mà dẫn thì được lửa, gương đối với mặt trăng thì được nước cũng giống như thế. Nay thể của gương có đủ tánh nước, lửa nên có thể dụ cho năng lực chúng sinh có đủ Phật Tánh, cần nhờ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu đến thì dụ cho sức từ quang của A- di-đà nhiếp giữ chúng sinh. Vì gương và bùi nhùi hay dẫn nước và lửa nên dụ cho năng lực công huân do tín tâm niệm Phật. Cả ba vật này hòa hợp lại thì nước lửa mới sinh, dụ cho ba năng lực giúp nhau thì dễ sinh Tịnh độ. <詞>LUẬN VỀ BAN CHU NÓI NIỆM PHẬT MÀ CÓ TƯỞNG THÌ SI Hội Tông hỏi rằng: Trong kinh Ban-chu dạy niệm niệm tưởng Phật A-di-đà. Đó là tâm có tưởng vậy, mà sau đó kinh lại nói: Tâm có tưởng thì si, không tưởng tức Niết-bàn. Trước sau trái nhau là sao? Đáp: Kinh trước nói quán tưởng Di-đà thì chẳng thể không niệm. Sau nói về Tam-muội công thành thấy các Đức Phật mười phương đứng trên hư không. Lúc này phải hiểu tâm ta và tâm Phật đồng một chân tánh không thể nghó bàn. Cho nên nói có tưởng thì si, không tưởng tức Niết-bàn. Không phải nói từ đầu không được quán tưởng. Lại, trí vô niệm Vô sinh thì Phật địa mới thành, người thời nay chưa vào môn quán hạnh đã nói Vô sinh vô niệm, đâu biết Mã Minh đã dạy từ niệm đến vô niệm, từ nói đến không nói. Kinh Văn-thù Bát-nhã chép: Như người học bắn tên tập lâu liền khéo, sau không cần để ý, tên bắn đều trúng. Nếu người muốn vào Tam-muội nhất hạnh chuyên xưng niệm danh hiệu, niệm niệm nối nhau thì sẽ ở trong niệm mà thấy các Đức Phật mười phương. Thế mới biết lấy niệm dừng niệm, lấy lời khiển lời, đều là đường chánh tu hành của Phật Tổ cả. <詞>LUẬN VỀ CHÍ CÔNG NÓI NGƯỜI NGU THÍCH VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG. Hội Tông chép rằng: Kinh giáo có nói người trí rõ ràng cầu sinh Tịnh độ. Trong Thiền Tập thì nói Chí Công bảo rằng người trí biết tâm là Phật, người ngu thích vãng sinh Tây phương, thế thì người tu Tịnh độ là ngu chăng? Đáp: Đây có lẽ là do người sau nói ra. Dẫu là lời Chí Công nói ra thì bởi ý lấy duy tâm tức Phật chứ không lấy việc quán niệm Di-đà. Đây gọi là lấy lý đoạt sự. Như các bậc Tiên đức nói: Nếu dùng lý đoạt sự thì không có tịnh, uế, lấy, bỏ khác nhau. Nếu dùng sự đoạt lý thì có bỏ khổ, được vui khác nhau. Nên lại hỏi rằng nếu sự lý như một thể, không đoạt nhau thì sinh về đâu? Đáp rằng: Cũng biết chỉ sở trên sông thu, trăng sáng hoa lau biết đâu tìm. Ba vị Bồ-tát nguyện sinh về tầng trời Đâu-suất. Luận Thập Nghi chép: Tầng trời Đâu-suất là chỗ ở của ngài Di- lặc, lại có người nữ và các trời ái trước, chẳng bằng cõi Tịnh độ của Di- đà… Xưa, ở cõi Tây có ba vị Bồ-tát Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác kết hẹn đồng sinh cõi Đâu-suất. Nếu ai đi trước gặp ngài Di-lặc thì thề trở về báo cho nhau biết. Sư Tử Giác qua đời trước, mấy năm chẳng thấy trở lại. Sau, Thế Thân mất đã ba năm mới trở lại. Ngài Vô Trước hỏi vì sao lâu thế? Ngài Thế Thân nói: Tôi đến đó ngồi nghe ngài Di- lặc nói Pháp, đi nhiễu quanh một lúc rồi về liền, bởi ngày ở đó rất dài cho nên bằng ở đây ba năm. Còn Sư Tử Giác sinh về đó, ở bên ngoài cung trời, đắm mê năm dục không được thấy Di-lặc, thế nên chẳng trở lại. Các Tiểu Bồ-tát sinh lên đó còn đắm mê năm dục huống là phàm phu. Vì thế khuyên sinh Tây phương chẳng khuyên sinh Đâu-suất. <詞>LUẬN VỀ TÂM TỊNH THÌ CÕI NƯỚC TỊNH Ở đời có Tịch Thất Tịnh độ văn là quyển sách nhỏ, xem lời lẽ biết rõ ràng là văn của Vương Long Thơ. Tôi đọc thì rất thích lời bình của ông về người tu Thiền tông không chịu tu Tịnh nghiệp rằng: người dạo tâm thiền định ngộ tánh tông khi được người chỉ bày Tịnh độ sẽ nói: Tịnh độ duy tâm, tâm ta đã tịnh thì cõi nước tịnh cần gì phải cầu sinh cõi khác. Nay lại hỏi: Như kinh Tịnh Danh nói: Như Lai lấy chân ấn xuống đất thì thấy cõi Ta-bà đều trang nghiêm thanh tịnh, mà chúng hội không thấy, chỉ có Loa Kế Phạm vương thấy được. Nay người tu thiền có bằng Phạm vương mà thấy được cõi thanh tịnh chăng? Huống là chỗ các ông ở là nhà cửa thấp xấu thì mong nhà cao cửa lớn, ăn rau dưa thì mong thức ăn ngon quý, áo quần xấu rách thì mong lụa là xinh đẹp. Nếu nói tâm tịnh cõi tịnh thì không giống như sự phân biệt trên. Huống lại bị khổ già bệnh chết, tình trái thế gian thì lúc đó vẻ mặt sẽ giống với kẻ chưa ngộ, miệng nói Tịnh độ mà thân thì bị khổ não của cõi uế buộc ràng. Ấy là tự dối mình lắm vậy. Nếu thế thì phải tin theo giáo lý Tịnh độ chọn điều lành mà tu. <詞>DỂ CẦU SANH TỊNH ĐỘ NƯƠNG NGUYỆN LỰC PHẬT THÌ Tịch Thất chép: Chúng sinh tu nhiều nghiệp lành chỉ nương tự lực nên khó thành tựu, còn Tịnh độ y theo nguyện lực của Phật thì dễ lập thành, tự lực khó thành là vì tâm chí chúng sinh yếu kém, mà nghiệp ác lại sâu nặng. Vì tâm yếu kém mà nghiệp nặng sâu nên khó thắng. Huống gì bên ngoài lại bị bạn xấu ngoại ma kích bác, hoặc bị tửu sắc, tiền của nhận chìm, việc tu pháp thiện đâu dễ được thành. Còn nương nguyện lực Phật thì dễ lập là bởi nguyện lực của Phật Di-đà độ sinh ít nhất là mười niệm công thành thì liền vãng sinh, nương nhờ Phật lực là nguyện nên tu pháp thiện liền dễ lập nên. Ví như hai người muốn vượt biển khơi đến núi báu để lấy ngọc, một người trồng cây, đợi lớn, làm thuyền mà đi. Nhưng không lo việc cây kia bị sương tuyết mưa bão, người vật phá hại, cuối cùng không thành gỗ được. Nếu có thành gỗ thì năm tháng rất dài lâu. Làm sao liền có thuyền được. Tự lực tu hành cũng giống như thế rất là khó. Còn người kia không tạo được thuyền đứng đợi trên bờ bỗng gặp người lái buôn ngồi trên thuyền lớn. Người này liền gọi theo mãi. Người chủ thương tình bèn dắt tay mời lên thuyền, kéo buồm hứng gió đi nhanh thoáng chốc đã đến núi báu, nương nguyện lực Phật được vãng sinh Tây phương cũng giống như thế. Người lái buôn là dụ cho Như Lai dắt dẫn chúng sinh. Chiếc thuyền lớn là đại nguyện của Phật độ khắp tất cả. Vượt biển là vượt biển khổ sinh tử. Núi báu là cõi nước Cực lạc Trong luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa ngài Long Thọ khen Phật rằng: Ngồi thuyền Bát Chánh đạo, vượt qua biển khó vượt, là ý này vậy. Lớn lao thay, Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát, ngồi thuyền nguyện lớn nổi trên biển sinh tử đến quê hương khổ não Ta-bà này kêu gọi dẫn dắt tất cả chúng sinh lên thuyền đại nguyện vượt biển sinh tử đến bờ Tây phương Niết-bàn. Nên tin chớ thắc mắc. ĐẠO MÔN THÀNH TIÊN KHÔNG RA KHỎI LUÂN HỒI Thọ Thiền sư An dưỡng Phú Chú Văn chép: nói Cõi Phật ở Tây phương, vua báu mười cõi, lưỡi dài khen ngợi, khác với sách của Đạo môn đều nói chim xanh, núi đá băng lở, đã không có người nói được, cũng không có chỗ nói được. Đủ biết là dối trá gạt gẫm chẳng đáng nương nhờ. Nếu được bay lên làm Tiên thì cũng không ra khỏi ba cõi luân hồi.  <卷>QUYỂN HẠ Giải thích không thể chỉ với chút ít thiện căn mà được sinh về cõi nước ấy. Trong Di-đà Thông Tán sao ngài Từ Ân có nói: Kinh nói không thể chỉ với chút ít nhân duyên phước đức thiện căn mà được sinh về nước ấy. Là vì sợ chúng sinh nghe Phật nói khi sắp qua đời chỉ niệm mười câu Phật liền được vãng sinh, rồi cho rằng nay ta mạng trời chưa hết rồi buông lung chơi bời. Để ngăn việc này nên nói như thế. Nói mạng trời ta chưa hết là cái thấy của người ngu, bởi mạng số vô thường như đổi đuốc nào có được lâu. Như khi Phật còn tại thế, các Tỳ-kheo quán tưởng vô thường, Phật hỏi thì các Tỳ-kheo đáp như hơi thở ra không bảo đảm sẽ thở vào lại. Phật nói đó đúng là tướng vô thường. Thiền sư Hải Tuệ chỉ bày tâm tịnh thì cõi tịnh. Truyền Đăng Lục chép: Thiền sư Hải Tuệ một hôm có người học đến hỏi: Việc nguyện sinh Tịnh độ không biết là thật có Tịnh độ chăng? Thiền sư đáp: Muốn được Tịnh độ thì phải tịnh tâm mình, hễ tâm mình tịnh thì cõi Phật liền tịnh. Nếu tâm thanh tịnh thì chỗ nào cũng là Tịnh độ. Ví như sinh vào nhà hoàng tộc thì chắc chắn sẽ nối ngôi vua. Phát tâm hướng về Phật đạo thì sẽ sinh cõi tịnh của Phật. Nếu tâm kia không tịnh thì chỗ sinh nào cũng là cõi uế cả. Tịnh, uế là ở tâm chớ không phải ở cõi. Luật sư Đại Trí chỉ dạy sự lý không hai. Sư có soạn bài tựa Tịnh độ Tập cho Pháp sư Từ Tuệ Văn ở Sơn âm, lược nói rằng: Xưa nay nhiều người học Phật mê lầm sự lý. Cho rằng lý thì mảy may cũng không lập, còn sự thì dẫy đầy muôn việc. Lắng tâm ở chỗ trống lặng là quán lý, động dụng tạo tu là hành sự. Bèn dẫn lời người xưa nói: Về mặt thật tế chẳng chấp mảy may, còn trong cửa Phật sự thì không bỏ một pháp. Đây chính là lý sự đối lập, không hữu cùng theo. Tôi từng đổi lời ấy rằng: Thật tế lý địa chẳng thiếu một trần, trong Phật sự môn không lập một pháp. Sao do thật tế lý đủ tất cả pháp mà thiếu một mảy ư? Còn do cửa Phật sự lìa tất cả tướng, há còn một pháp ư? Như thế thì mới thấy lý sự như một, không-có, chẳng hai vậy. 3.Cô gái ngồi mất, xương mọc hoa sen. Trong Tạp Thuyết có nói: Ở Ôn châu, trong dân gian có một cô gái bỗng ngồi chết. Sau trong bình tro xương của cô mọc lên một hoa sen xanh. Người nhà rất lấy làm lạ: Lúc đó Thiền sư Trí Giác Thọ nghe việc ấy có làm kệ khen rằng: Trong cửa tâm tánh Ngàn Thánh đồng hàng Thần về Tịnh độ Sen mọc bình tro. Pháp sư Viên Biện nói về duy tâm Tịnh độ. Pháp sư Viên Biện ở Diên Khánh có bài nói về duy tâm Tịnh độ được khắc in ở sáu lục trước. Nay trong Bảo Châu Tập lại có chỗ cốt yếu: Duy tâm Tịnh độ chỉ một mà thôi. Bởi do Di-đà biết cõi báu ở trong tâm ta. Tâm ta có đủ Lạc bang của A-di-đà. Tuy xa mà gần, vì không lìa một niệm. Tuy gần mà xa vì cách mười muôn ức cõi. Ví như trăng sáng giữa trời xanh in bóng xuống các mặt nước. Nước chẳng lên mà trăng cũng không xuống. Nước, trăng cùng ở một nơi mà tự nhiên chiếu sáng nhau. Pháp sư Giải Không khen tôn tượng Di-đà. Tại đạo tràng Bảo Vân ở Tứ Minh có vị tăng Nghóa Học Tư Giác nhờ thợ vẽ một bức tượng Phật A-di-đà tiếp dẫn hóa độ để mong tăng trưởng Tam-muội niệm Phật. Ông mang đến gặp ngài Diên Khánh Trúc Am Khả Quán, ngài cúi đầu nói kệ khen rằng: Vàng ròng chiếu sáng Ánh sáng lông trắng Duy tâm bổn tánh Cảnh giới chẳng cao Ba bậc chín phẩm Tám đức bốn sáng Một niệm thanh tịnh Liền thấy Tây phương. Phụ thêm Tịnh độ lễ văn Pháp bảo tán. Tại núi Bạch Vân ở Thiên Thai có Pháp sư Tịnh Viên truyền Thiên Thai giáo quán, có làm Tây phương lễ văn, Luật sư Linh Chi Đại Trí soạn lời tựa mà truyền bá, ngài bảo với Tạo Thiên Thành rằng sánh ngang hàng với Sám Bản của Thiên Trúc, song trong đó chỉ nêu bốn Thánh mà thiếu chương khen pháp. Cư só pháp Xuyên Lý Tập chí tu Tịnh nghiệp bèn bổ túc rằng: Dốc lòng quy mạng lễ, cõi An lạc Tây phương, tất cả pháp môn mầu nhiệm, viên thừa thanh tịnh pháp tạng. Phật giảng viên thừa nay mười kiếp Pháp môn vô tận như hư không Gió reo lá báu hợp chân kinh Sóng lay khe vàng nói diệu điển Biến hóa lại nghe tiếng anh vũ Tuyên bày lại có giọng Tần-già Bảy kinh chuyên khen nghóa rộng sâu Pháp tánh như không, chẳng ngôn thuyết. Thiền sư Hoài Ngọc ngồi đài vàng vãng sinh. Đại Tống Cao Tăng Truyện chép: Ở Thai châu có Thiền sư Hoài Ngọc giữ nghiêm luật pháp, danh tiết cao tột. Chỉ mặc áo vải, ngày ăn một bữa ngồi hoài chẳng nằm. Mỗi ngày niệm Phật A-di-đà năm muôn câu, tụng kinh Di-đà đến ba mươi muôn quyển. Một hôm, bỗng thấy Thánh chúng Tây phương số đông như cát sông Hằng. Có một người bưng đài bạc từ cửa sở đi vào. Ngọc nói: Tôi muốn được đài vàng mà vãng sinh. Người ấy liền ẩn mất. Ngọc càng cố gắng tinh tấn hơn. Sau đó nghe có tiếng trên hư không bảo rằng: Sư trên đầu đã có ánh sáng, xin ngồi kiết già bắt ấn. Lúc đó, ánh sáng Phật đầy nhà. Sư bảo ta đi. Đệ tử hỏi thầy đi về đâu? Sư nói kệ rằng: Thanh tịnh sáng sạch không trần cấu. Hóa sinh hoa sen là mẹ cha, Ta tu đến nay đã mười kiếp Chỉ thoát Diêm-phù chán các khổ Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp Lìa hẳn Ta-bà về Tịnh độ. Nói xong mỉm cười mà hóa. Thái Thú Đoan Hoài Nhiên thấy lạ bèn làm kệ khen rằng: Thầy ta một niệm lên Sơ địa Cõi Phật sênh ca đến hai lần Chỉ có cây hòe xưa trước cửa Cành tróu nặng vì mang đài vàng. Pháp sư Hiến Chương thề lấy đài vàng vãng sinh. Trong niên hiệu Chánh Hòa có sư Hiến Chương Trọng Mân, người ở Tam Cù, theo học với Quận Chi ở chùa Tường Phù. Thuở nhỏ mang cặp đến thất Pháp sư Vónh Gia Trung. Lâu sau băng lạnh làm nghẽn lối. Bèn đến Tiền Đường học đến tốt nghiệp với Nam Bình Văn Công. Chúng rất phục tài nghị luận của sư bèn gọi là Hổ tử. Sau, Sư trở về quê ở Đổng Phù Thạch Sơn, ngoài cửa đầy dấu giày (nhiều người đến học). Sư nói lớn, rằng: Dưới tòa ta nếu không đủ năm trăm chúng thì không giảng bốn bộ. Sau khi nói lời ấy thì một đời Sư chỉ giảng tiểu bộ mà thôi. Khi sư sắp mất bèn gấp trở về chùa Bổn nghiệp, nhóm họp đại chúng lên pháp đường, sư lên tòa sư tử vừa soạt chân ngồi bỗng thấy đài bạc ở Tây phương đến, bèn hét lên một tiếng bảo rằng: Bình sinh ta hiểu nghóa bậc nhất thề lấy đài vàng vãng sinh vì sao chẳng được thế, rồi nhắm mắt mà hóa. Kẻ nghe thấy đều kinh sợ, cho rằng tòa sư tử chạm trỗ bằng gỗ mà thành cao hơn một trượng, bên trên đặt tòa hoa sen, chùa ấy có nhiều các bậc cao đức đều lên ngồi. Khi sư lên ngồi tòa sư tử ấy rồi thì không ai lên ngồi tiếp. Nay chùa đổi tu Thiền nên tòa ấy bỏ ở một góc điện. Có Sư Chí Chiêu thuộc tông ta đến chùa gặp được một bậc kỳ túc mà biết chuyện này. Sinh tử vốn không, tùy nghiệp mà có. Trong Nhàn Cư Biên ngài Cô Sơn có nói: Cây có rễ, nước có nguồn, sinh thật là cội nguồn của tử. Đã có sống lẽ nào không có chết. Nên Đại kinh nói: “Công đức hắc ám, chị em theo nhau, người trí làm chủ, cả hai không nhận” đây là chẳng nhận cái sinh nên không có cái tử. Nếu xét lý trời vắng lặng không hề có sinh diệt, chỉ do vọng tình khuấy động nên liền thấy có dấu vết tới lui. Ví như mắt sáng (thanh tịnh) nhìn trời sáng trong không dấu vết, còn mắt bệnh trừng mắt nhìn lâu thì đầy hoa lăng xăng. Hoa đã có sinh thì cũng có diệt. Kẻ ngu thì thích hoa nở lại ghét hoa tàn, mà chẳng biết hoa vốn tự không cho nên kinh Lăng Nghiêm chép: Tất cả chúng sinh đều chẳng biết thường trụ vào chân tâm thì tánh tịnh thể sáng. Còn theo các vọng tưởng thì tưởng này không chân nên bị trôi lăn. Vua Đường Túc Tông hỏi đạo Nam Dương Quốc sư. Trực Chỉ Tịnh độ Quyết Nghi Tập chép: Một hôm, vua Đường Túc Tông mời Nam Dương Trung quốc sư đến hỏi rằng: Bỏ ấm thân này thì sinh về đâu? Sư đáp: Một tánh chân mầu tròn đồng với Thái hư, vốn không sinh diệt. Nếu tùy vật mà ứng hiện thì cũng tùy chúng sinh khởi niệm tới lui mà thôi. Nếu vậy niệm hợp với chân tánh thái hư, sau khi bỏ thân này thì tùy ý vãng sinh cõi Phật mười phương. Như người xưa nói mỗi người đều tự gắng sức sẽ gặp nhau ở hội Long Hoa. Xưa, có ba vị Bồ-tát như Vô Trước… cùng tùy nguyện mà vãng sinh cung trời của ngài Từ Thị. Nếu người thấy tánh, bỏ uế thân này thì trở về trong hội của các Đức Phật. Hỏi ý rất thân mà đáp cũng rất thông suốt. Lại câu tùy ý vãng sinh và trở về trong hội của các Đức Phật thì nếu không chuyên tu hạnh cõi Phật thì do đâu mà gá thức ở phương khác. Tôi thích bài tụng của Dương Vô Vi rằng: Tịnh độ khắp sa giới Sao chỉ hướng về Tây Chỉ cần từ một vào Chỗ nào cũng Bồ-đề. Đây là chỉ bày chung mà không ngại tu riêng. Người đời chẳng kính mến Tây phương mà nhất chí tu ư? - Thượng Thư Ôn Tạo đời Đường hỏi đạo Thiền sư Khuê Phong Truyền Đăng Lục ghi: Thượng thư Ôn Tạo hỏi ngài Khuê Phong Tông Mật rằng: người ngộ lý dứt vọng, chẳng kết nghiệp, khi hết báo thân này thì linh tánh sẽ nương về đâu? Sư đáp: Tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh linh minh không khác với Phật. Chỉ vì từ vô thỉ không hề liễu tánh mà vọng chấp ngã tướng. Cho nên sinh ra các phiền não ái ố, rồi theo phiền não mà tạo nghiệp nên bị ở mãi trong luân hồi. Song trong thân giác tánh không hề bị sinh tử. Nếu ngộ sáng tánh này tức là Pháp thân, vốn tự không sinh, đâu có nương gá. Chỉ do sinh nhiều tập tánh mừng giận, buồn vui, nhỏ nhiệm các thứ sinh ra, dứt khó trừ hết. Cần phải luôn xét biết đâu thể chỉ tu một đời mà lực dụng bằng các Đức Phật. Chỉ nên lấy vắng lặng làm thể chớ chấp sắc thân, lấy linh tri làm tâm chớ chấp vọng niệm. Nếu vọng niệm khởi đều chẳng nên theo, thì khi mệnh chung tự nhiên nghiệp không ràng buộc được. Tuy có trung ấm nhưng đi lại tự do, trên trời cõi người tùy ý nương gá. Nếu các niệm ái ố đã mất thì không còn chịu thân phần đoạn. Chỉ là đại trí viên giác sáng suốt tồn tại, gọi đó là Phật. Nếu nói trên trời cõi người tùy ý nương gá thì chỗ tu chưa vượt ba cõi, đã chưa vượt ba cõi thì còn đọa trong luân hồi. Người xưa nói lửa đồng cháy khó tắt, gió xuân đến lại sinh. Nếu nói chẳng chịu thân phần đoạn, rốt ráo người này gá sinh vào đâu? Nếu nói đại trí sáng suốt tồn tại gọi đó là Phật. Thì cuối cùng bốn giáo của Phật này sẽ thành thân Phật nào. Cho nên biết nếu bất thiện. Thì Tông Thiên thai ta dùng kinh luận về năm trụ, hai tử, ba thân, bốn độ chưa thể nói đạo tu hành chứng quả. Xưa, ở Diệu Khê Luận tịch có phân giải rõ ràng nghóa này, lược nói rằng Đại só lục trụ còn sinh thân phần đoạn, chân nhân bốn quả còn cái chết biến dịch. Nếu hiểu rõ lời nói này thì siêu thoát bờ kia, tự sẽ có đường tắt, thật khó lầm lẫn mà tu thứ khác. Thiền sư Chân Hiết dạy chúng. Thiền sư Chân Hiết Liễu dạy chúng rằng: Ngộ được việc dưới áo giấy thì chỉ đi thế nào. Sáng được một việc ngoài sắc vẫn chưa từng hiểu ý tiên sư. Ngoài ra thì ẩn phong nghiêng ngã, quán khê bước về, không có nghiệp hỏi người theo sau. Đại Điện nói vô thinh Tam-muội. Hoặc nghe chuột rút mà liền thoát, hoặc vì ngu si mà trở lại, hoặc dựng đứng ngón tay mà ngưng, hoặc lật thuyền mà đến. Mỗi mỗi ngồi chết, đứng hóa, người người đều trình hiện thần thông, hiển bày thì thấy rõ chánh dung, hỗn độn thì mất hết dấu vết, dụng được thuần thục, chỉ bày tự do, đầy đường sinh ánh sáng mãi không nương đắm. Đây chính là tăng bình thường chuyển thân cũng chưa đáng lấy làm lạ. Nếu cái thấy chưa sáng thì khi qua đời sẽ như rùa sống lột mai, như khúc gỗ vuông nương tròn bị hình xác ngăn trệ, bị gió lửa bức bách. Bởi một đời niệm niệm tán loạn, tâm thức lăng xăng. Khi chết tạm muốn lắng lòng không lo nghó, nhắm mắt khép mi, ý chẳng bị huyễn vọng mài mòn thì há dễ được ư? Cần phải cứng rắn vùng vẫy, đứng trên vách cao ngàn nhẫn, một niệm làm sao triệt để dứt hết, hơi thở đều không, chẳng còn bên nào đi thẳng như đường chim bay, như ngồi trên hư không, không tưởng cũng không. Cái điểm linh minh xa vời siêu tột không hề biến đổi. Chỉ như ngày nay, lại còn có kẻ khi chết không mê muội sinh tử chăng? Hồi lâu nói rằng: Thân năm ấm nguyên vẹn còn không biết, trăm xương sau khi tan rồi thì biết tìm ở đâu? Văn Vương Triêu Tán khuyên tu Tây phương. Bảo Châu Tập chép: Gia Hòa Vương Trung ở Tây hồ thuộc Tiền Đường, vào niên hiệu Chánh Hòa sống đời ẩn dật, được triều đình ban thưởng là xử só. Ông có kết Liên xã, soạn văn khuyên dụ rằng: kẻ ngu có tham học với Thiền sư Tiểu Bản, sư đều nghiêm trang chống cự. Chỉ có trung ba lần cho tiến một bước. Song trong lúc tự tỉnh xét cũng chưa rõ ràng tại chùa Sùng Ninh Ở Tú Châu, buổi sáng bỗng nghe tăng chúng tụng kinh Di-đà tâm bỗng có chỗ cảm rằng: Ta ở Thiền môn dụng tâm cả năm, tự hận không có chỗ dừng chân. Nay nghe Phật A-di- đà ở Tây phương khiến ta tín nguyện cầu sinh, há chẳng phải là chỗ rốt ráo ư? Do đó phát tâm mà tu đã mười chin năm, không hề một ngày bỏ sót. Bởi ở tâm có được cảnh ngộ như chỗ liễu đạt ở thiền tông. Đã có điều này rồi lại nghó việc lợi tha. Xưa, có vị tăng tên Pháp Trì chuyên tu Tịnh nghiệp, khi sắp qua đời nghe có nhạc trời và mùi hương lạ rất lâu, sống lại bảo rằng: Tôi lúc bình thường tu Tịnh nghiệp mà chẳng có lợi tha nên rất ân hận. Tôi chết rồi xin để lộ thấy tôi ở dưới rừng tùng để thí cho chim thú và sâu kiến ăn máu thịt tôi đều sinh Tịnh độ. Nói xong thì nhắm mắt. Tăng trong chùa thấy có mấy bức phướn thần từ mặt trời đi về phương Tây. Phướn chiếu ra ánh sáng lạ mà đốt thất ông. Thế mới biết tự lợi phải lợi người. Nay Trung tôi ở đây kết Xã Bạch Liên mời đón người cùng tu. Ai muốn vào đều được, không hạn chế sang hèn, lớn nhỏ, dân thường, tăng ni, chỉ phát tâm nguyện về Tây thì xin mời vào xã. Tả triều tán Đại phu Xử Só Vương Trung kính khuyên. Xử Só lập chỗ tu này trải một năm, ra công hạnh nguyện. Sau quả nhiên không bệnh xoay mặt về hướng Tây mà hóa. Kinh giáo Tịnh độ thật không phụ người, chỉ sợ người đời chẳng chịu làm theo kinh giáo mà thôi. Luận về duy tâm Tịnh độ có lý có tích. Cư só Long Thơ nói: Đời có người chuyên tham thiền bảo rằng duy tâm Tịnh độ há lại có Tịnh độ. Tự tánh Di-đà thì không cần phải thấy Di-đà. Lời nói này dường như phải mà không phải, ấy là vì sao? Vì Tịnh độ Tây phương có lý có tích. Luận về lý thì hễ tịnh tâm mình thì tất cả đều tịnh. Thật là duy tâm Tịnh độ vậy. Luận về tích thì thật có thế giới Cực lạc, Phật có nói rõ há là nói dối ư? Mọi người đều có khả năng thành Phật nên gọi là tự tánh Di-đà, chắc chắn không dối. Song cuối cùng chưa thể đến được. Ví như có gỗ tốt rồi có thể chạm trổ thành hình Phật, nhưng phải thêm công sức thì sau mới thành. Chẳng thể chỉ có gỗ tốt mà gọi là vật tượng đẹp đẽ. Nói duy tâm Tịnh độ mà không cần có Tịnh độ, nói tự tánh Di-đà mà chẳng cần thấy Đức Di-đà là sai. Lại hoạc tin có Tịnh độ nhưng câu nệ thuyết duy tâm, bèn nói Tây phương không đáng sinh. Bảo tham thiền ngộ tánh thì vượt Phật vượt tổ, A-di-đà chẳng đáng thấy đều là lầm lỗi. Bởi lời nói này rất cao, nhưng sự chẳng dễ dàng mà đến được. Cho nên tu Tây phương thấy Phật được Đạo thì dễ. Nếu ở tại thế giới này mà muốn tham thiền vượt Phật vượt tổ là rất khó. Huống gì tu Tịnh độ không ngại tham thiền, sao tham thiền lại tệ bạc với Tịnh độ? Khuyên người tham thiền chẳng ngại tu Tây phương. Cư só Long Thơ nói: Tham thiền đại ngộ được thoát khỏi luân hồi sinh tử chắc chắn là cao quý. Nhưng người đạt đến trình độ này rất ít, nếu tu Tây phương thì cắt đứt luân hồi, muôn người không sót một. Cho nên nay khuyên người tham thiền mỗi ngày để chút khoảnh khắc rảnh rang mà tu Tây phương. Nếu được đại ngộ, thoát khỏi luân hồi nhưng cách Phật địa còn xa. Nếu vãng sinh thấy Phật A-di-đà mà lễ bái cung kính thì có gì chẳng được. Nếu chưa được đại triệt ngộ mà tuổi thọ bỗng hết thì đi tắt về Tây phương, thấy Phật nghe Pháp, thì lo gì chẳng đại ngộ. Nếu chẳng tu Tây phương thì sẽ theo nghiệp mà chịu quả báo khác. Tu Tây phương giống như hiện nhận chức quan. Cư só Long Thơ nói: Tham thiền để đại ngộ mà chẳng chịu tu Tây phương thì như người có một phẩm quan mà chẳng nhận, ắt là muốn tu học để đỗ đầu, chí ấy rất tốt. Song đỗ đầu chẳng thể dễ được không bằng như nhận một chức quan rồi một mặt cứ tu học, nếu được đỗ đầu thì áo gấm thêu hoa, còn nếu chẳng được thì chẳng mất chức quan. Người tu Tây phương gọi là người đang làm quan vậy; một mặt tu học tức gồm cả tham thiền. Không được đổ đầu là nói tham thiền chưa ngộ. Chẳng mất chức quan là nói thoát hẳn luân hồi, đã sinh Tây phương thì chẳng đại ngộ ư? Pháp sư Hoằng Giác là sư Đàm Đế. Lương Cao Tăng Truyện có ghi: Vị Tăng tên Đàm Đế, người ở Ngô Hưng. Cha là Đồng, làm Biệt giá ở Ký châu, mẹ là Huỳnh Thị, ban ngày nằm mộng thấy có một vị Tăng gọi Huỳnh là mẹ lại gởi một phất trần và hai cái đe sách bằng sắt. Thức dậy thì thấy hai vật vẫn còn, nhân đó mang thai Đế. Đế năm tuổi thì mẹ trao cho hai vật. Đế bảo rằng: Thân đời trước con Tần Vương giảng kinh Pháp Hoa nên ông ấy đã tặng con. Đến mười tuổi thì Đế xuất gia theo cha đến gặp vị Tăng Đạo Khế ở Quang Trung. Bỗng gọi tên Khế. Khế bảo trẻ con sao dám gọi tên người lớn. Đế bảo: “Hòa thượng là Sa-di của Đế, vì hái thuốc cho chúng Tăng mà bị heo rừng cắn bị thương.” Rồi bất giác ngẹn ngào. Khế tỉnh ngộ khóc rằng đây là Pháp sư Hoằng Giác thầy trước của tôi. Nhân đó hỏi ra ngày Hoằng Giác tịch cũng chính là ngày gởi hai vật ấy. Thiền sư Thừa làm con của thứ sử Tiết. Tục Cao Tăng Truyện chép: Vào thời Nguyên Ngụy, Thiền sư Thừa chuyên trì kinh Pháp Hoa. Khi chết thác sinh vào nhà họ Tiết ở Hà Đông. Sinh ra liền nói được việc đời trước, chẳng thích ở tục, lại mà nguyện làm Tăng. Cha làm quan thú ở Tứ Châu. Ông theo cha đến nhận chức quan, tiện đường đến chùa Thất Đế ở trong núi. Bỗng nhiên nhớ lại chỗ xưa. Nhân đó tìm đệ tử lúc ấy mà bảo rằng ông có nhớ khi theo ta lấy nước ở Lạng sơn chăng? Thiền sư Thừa lúc đó chính là ta vậy. Đệ Tử cho là phải. Cha mẹ sợ ông đi xuất gia bèn cưới vợ cho ông. Từ đó bèn quên việc đời trước. Thân đời trước của Tề Quân Tá là vị tăng giảng kinh. Đại Tống Cao Tăng Truyện ghi: Người học trò tên là Tề Quân Tá ở Ngô Quận rất siêng học, làm thơ, thường nhàn du ở đất Ngô, Sở. Vào niên hiệu Nguyên Hòa ông đến Tiền Đường có ý đến xin ăn ở Thiên Trúc. Khi đến Cô Sơn thì bị đói không đi được nữa. Nhân đó khóc nức nở. Bỗng có vị Phạm tăng đi trước ngoái lại cười hỏi: Pháp sư tú tài dạo chơi mùi vị đã đủ chưa? Tá thưa: Mùi vị đã đủ rồi, Pháp sư gọi có việc chi? Vị Tăng nói ông chẳng nhớ việc giảng kinh Pháp Hoa ở chùa Đồng Đức ư? Tá thưa không nhớ. Vị Tăng bèn lấy trong đãy ra một trái táo đưa cho ăn thì Tá bỗng nhớ lại việc giảng kinh ở đời trước. Tăng nói lúc đó năm người chỉ có mình ta là được độ, còn ông là kẻ đói lạnh. Tá nói: hơn bốn mươi lăm ngày chỉ ăn một bữa, thân mặc một áo, phước đức chẳng có. Tăng nói do ông ở trên tòa Sư tử nói nhiều những việc dị đoan, khiến kẻ hậu học sinh nghi ngờ, giữ giới không bền chắc nên bị báo ứng như thế. Vị Tăng nói xong thì biến mất, Tá liền đến chùa Linh Ẩn xin xuất gia làm Tăng tên là Giám Không. Sau cũng lập hạnh cao khiết mà mất. Thân sau của Thiền sư Vónh là Phòng Thái Úy. Đường Minh Hoàng Tạp Lục chép: Phòng Quán, tự là Thứ Luật, vào niên hiệu Khai Nguyên, làm quan đứng đầu ấp Đồng Lô, cùng Hình chân nhân là Hòa Phác cùng dắt tay nhau nhàn du, đến làng Hạ Khẩu thì vào một ngôi chùa Phật bị hoang phế. Phác ngồi dưới gốc tòng lấy gậy gõ đất, sai người hầu đào sâu xuống mấy thước thì được một bình sành, trong đó đều là sách hình vẽ của Lâu Sư Đức và Thiền sư Vónh. Phác hỏi ông có nhớ cái này chăng? Quán bỗng nhớ lại đời trước là Thiền sư Vónh. Vị Tăng Trọng Thù làm thơ rằng. Hèn thay Phòng Thứ Luật Dần dà rơi vào tục. Ấy là cười phòng mất chí. Thân sau của Trưởng lão Di Tốn là Lý Thị Lang. Di Kiên Chí nói: Lý Thị Lang tên là Di Tốn, tự là Tự Chi, làm Thái thú ở Lâm xuyên. Một hôm, giỗ cha bèn đến Sơ sơn cúng cơm Tăng, cùng đường đầu là trưởng lão Hạnh Mãn ăn cơm mừng thọ hơn tám mươi tuổi. Bỗng nhìn chăm chăm Lý, hỏi rằng: Ông có phải là Tốn lão chăng? Lý bảo không phải. Mãn lại nói Tốn lão là sư huynh đồng môn của tôi, chữ trên, dưới đều giống như ông, từ khi ông trấn thủ đất này tôi đã nghi rồi. Nay xét thấy ông đi đứng nói cười đều giống y không khác, ắt ông là thân sau của ông ấy. Lý lên lạy vong Tốn thì thấy ngày chết là tháng giêng năm Mậu Thìn, niên hiệu Nguyên Hựu chính là ngày sinh của mình. Lý vốn hiệu Di Viễn, đêm nằm mộng thấy có người bảo đổi là Tốn, về sau đi thi sẽ đỗ, Lý tin bèn trở về nhà, làm bài thơ tên là Tiểu Vân Đường Phú, thấy ý nói: Ông già vì sao một niệm sai Mà chịu cạo tóc đổi ca-sa Đồng tham còn có Mãn huynh đó Khác đời vẫn khoe tên Tốn lão Kiết tập chưa quên nên hay múa Nhân duyên sao được thấy niêm hoa Liền đem Tịnh nghiệp làm đường về Đạm bạc sao bằng cư só ta. Vị ni tụng kinh Pháp Hoa bị đọa làm kỹ nữ. Độn Trai Nhàn Lãm có ghi; Âu Dương Văn Trung Công coi sóc Dónh Châu, một hôm có quan nô là một cô gái rất đẹp lại rất ít nói cười, trong miệng thường có mùi hương hoa sen tỏa ra, mọi người ai nấy đều lấy làm lạ không biết vì sao. Bỗng có vị tăng đến từ đất Thục biết việc đời trước của người. Ông bèn hỏi việc ấy. Vị Tăng nói: “Cô gái này thân đời trước là ni cô tụng kinh Pháp Hoa suốt ba mươi năm, vì một niệm lầm lỗi nên bị đọa đến thế. Ông không tin bèn hỏi: Cô có từng đọc kinh Pháp Hoa chăng? Cô đáp: mất thân ở đây không rảnh rang. Ông bèn sai người đưa kinh cho thì chỉ đọc qua một lần liền thuộc làu, nhưng với kinh khác thì không thuộc. Việc vị Tăng nói thật đáng tin. Thân sau của Thanh Thảo Đường là Tăng Lỗ Công. Long Thơ Tịnh độ chép: Ở triều ta có hai vị Thanh Thảo Đường. Người trước tuổi hơn chín mươi. Có phụ nữ nhà họ Tăng thường trai tăng và bố thí y vật. Thảo Đường cảm ơn ấy bèn bảo rằng: Lão Tăng chết rồi sẽ làm con của phu nhân. Một hôm, người phụ nữ sinh con liền sai người đến xem thì Thảo Đường đã ngồi mà mất. Đứa trẻ ấy tức là Tăng Lỗ Công. Vì đời trước làm tăng tu phước tuệ nên tuổi trẻ đã đậu cao, sau làm tể tướng. Đây cũng là lầm lỗi, vì không ra khỏi sinh tử mà còn ở trong thế giới luân hồi, vì khư khư ân huệ mà làm con người, chẳng thoát được tham ái rất là sai lầm. Thân sau của Thiền sư Triết là người rất giàu sang. Long Thơ Tịnh độ chép: Có Thiền sư Chân Như Triết, danh hạnh rất cao quý, trụ một ngôi chùa lớn ở kinh đô suốt bốn mươi năm, ngồi thiền không ngủ. Sau khi quy tịch thì cũng sinh xá-lợi nhưng còn mến thích ba mươi ngàn báu. Nếu Thiền sư tu Tây phương thì sẽ là Bồ-tát không lui sụt. Nhưng Thiền sư không tu nên chết rồi thì sinh vào gia đình rất giàu sang một đời sầu khổ, rất đáng thương. Ngài Vónh Gia nói: Hiễu rồi nghiệp chướng xưa nay không, chưa hiễu thì phải trả nợ xưa, chẳng hiễu việc lớn sinh tử thì sinh vào nhà rất giàu sang, thỏa mãn được nguyện lúc còn sống, nhưng tâm bị nhiều sầu khổ là phải trả cái nợ ở trăm đời ngàn kiếp. Thân sau của Trưởng lão Tuệ Cổ sinh vào nhà tể tướng. Long Thơ Tịnh độ chép: Có trưởng lão Tuệ Cổ nói rằng trước mình ở Thái bình thuộc Thơ châu, sau dời về một ngôi chùa lớn ở Triết Đông, đạo đức danh tiếng đạo tục đều theo về. Sau khi chết liền thác sinh vào nhà Tể Tướng. Vì đời trước tu nhiều phước tuệ nên đời này đỗ cao, rất vinh dự trên đời. Nếu như Cổ Lão tu Tây phương thì thoát khỏi luân hồi, đâu phải đọa lạc như ngày nay. Kinh Lăng-già nói: Ở đời người tu hành như lắng đục. Nước lắng tuy trong nhưng chưa bỏ cặn đục thì khuấy lên sẽ đục, là nói Cổ Lão vậy. Nếu người sinh Tây phương thấy Phật được đạo lại trở về cõi này thì như đã bỏ cặn đục, khuấy lên không còn đục nữa. Tề Quân Phòng gặp Phạm tăng biết được thân đời trước. Toản Dị Ký chép: Tề Quân Phòng, người ở Quận Ngô. Từ nhỏ cố sức học nhưng ít tài nên bị nghèo khổ, đến yết kiến công hầu cũng chẳng đoái hoài. Vào niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường ông đến Tiền Đường có ý muốn xin ăn ở Thiên Trúc. Khi đến Cô Sơn thì đói quá không đi được nữa, bèn khóc lóc nức nở. Bỗng thấy một vị Phạm tăng gọi bảo Pháp sư Tú Tài: Đi xa mùi vị đã đủ chưa? Tề đáp: Mùi vị đi xa đã đủ rồi. Pháp sư gọi tôi có việc chi? Vị Tăng đáp: Ông chẳng nhớ việc giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Đồng đức ở Lạc Trung ư? Tề nói: Tôi bình thường đến Ngô, Sở chưa từng đến Kinh Giang, sao lại nói Lạc Trung? Tăng nói: “Vì bị lửa đói áp bức nên chẳng nhớ đời trước.” Vị Tăng bèn lấy trong túi ra một trái táo, bảo: “Đây là sản vật của nước tôi ăn đi thì biết việc quá khứ vị lai.” Tề ăn xong vốc nước suối mà uống, gối đá mà ngủ. Bỗng nhớ thân đời trước như việc mới hôm qua. Nhân lễ vị Tăng hỏi Hòa thượng Chấn có an vui chăng? Thì đáp: Chuyên tịnh chưa đến nên lại làm vị tăng nước Thục, nay chắc đã dứt hết các duyên. Thần thượng nhân ở đâu, thì đáp nguyện trước chưa xong, nghe đã làm Pháp sư. Còn Pháp sư Ngộ ở đâu? Thì đáp: Há chẳng nhớ tại chùa Hương sơn ở trước tượng đá mà phát lời nguyện lớn nếu chẳng chứng Bồ-đề thì nguyện làm bậc sang quý trong triều, mới nghe đã làm Võ Tướng. Lúc đó năm vị Tăng chỉ có mình ta là được giải thoát, còn ông là kẻ đói lạnh. Tề nói: Tôi hơn bốn mươi năm nay chỉ ăn một bữa, thân mặc chiếc áo vải thô vì tôi chẳng tu phước đầy đủ, nên mới thế. Vị Tăng nói: Vì xưa kia ông ở trên tòa Sư tử nói nhiều việc dị đoan khiến cho người học sinh nghi ngờ mà giới hạnh có thiếu sót, không chịu tu thiền, hình vẹo thì ảnh cong nên báo ứng như thế. Tề nói giờ biết làm sao? Tăng bảo việc ngày nay thôi không tính nữa, việc đời khác ông nên cảnh giác. Rồi lấy ra một cái gương hai mặt đều trong suốt bảo ông muốn biết các việc quý tiện hay dở, Phật pháp hưng suy thì xem gương này. Tề cầm gương coi xong rồi bảo các việc đã xem xét xong. Vị Tăng lấy gương lại rồi bỏ đi mất. Tề đến chùa Linh Ẩn cạo tóc làm Tăng, đổi tên là Kính Không. Năm đầu niên hiệu Đại Hòa, Lý Mai tu nghiệp ở Thiên trúc thuộc Long môn. Kính Không chẳng ngại đem việc trên nói lại với Lý Mai bảo rằng tôi năm mươi bảy tuổi, còn chín năm ở đời, sau khi chết rồi thì Phật Pháp suy đồi. Mai nghe xong chẳng đáp. Bèn lấy bút viết ở Tường Bắc của kho chứa kinh rằng: Không phải lấy đi một hạt cát mà cát sông Hằng bị suy kém, dùng bẫy thỏ mà bẫy chó, trâu hổ giao đấu mất sừng nanh, bảo đàn không bao giờ mất hoa. Lời sấm này nghiệm với việc Đường Võ Đế phá bỏ đạo Phật về sau rất đúng. Cố Huống mất con buồn thương liền sống lại. Bắc Mộng Tỏa chép: Cố Huống tự là Thối Ông, có một con trai tên là Phi Hùng, về già bỗng người con bị bệnh nặng mà chết. Huống quá buồn thương không ngăn được than rằng: Lão già mất con yêu Sáng tối ngàn hàng lệ Lão già tuổi bảy mươi Không bao lâu sẽ mất. Phi Hùng ở âm phủ nghe than bèn bảo minh quan. Minh quan thương xót liền cho sống lại. Sống lại ba năm mới nói được, rằng ở âm phủ nghe cha than khổ. Sau ra thi đậu ngôi cao, là người có tiếng tăm lừng lẫy. Thân đời trước của Vi Cao là Gia Cát Võ Hầu. Đường Minh Hoàng Tạp Lục chép: Ở Thành đô, Duẫn Vi Cao mới sinh được một tháng thì có vị Phạm tăng đến gặp bảo rằng: Biệt ly nhau đã lâu nay có bình an chăng? Đứa bé như có vẻ mừng rỡ. Mọi người hỏi nguyên do, vị Tăng nói: Đứa bé này là thân sau của Gia Cát Võ Hầu. Ta ngày xưa cùng ông ấy giao du nay lại gặp nhau. Phạm tăng nguyện làm con của Vương Thị Trung. Minh Tường Ký chép Đời Nam Tống, Thị Trung Vương Mân Thời cùng một vị Phạm tăng là bạn phương xa. Tăng thấy phong thái của Mân bất thường bèn bảo các bạn đồng tu rằng: Đời sau ta được làm con của người này cũng đủ nguyện rồi. Mân ngầm nghe. Một hôm, ông ấy nói đùa rằng Pháp sư tài cao hạnh tốt, ngày nào đó sẽ làm con của ai? Vị Tăng im lặng không đáp. Hôm sau bỗng bị bệnh mà mất. Hơn năm, vợ Mân sinh một đứa con trai, mới biết nói đã hiểu tiếng nước ngoài, còn như các vật lạ trong nước đều biết. Mân nhớ việc thân đời trước, bèn đặt tiểu tự là A-luyện. Sau trở nên người có danh tiếng. Vị Tăng tên Huyền Cao thác sinh vào nhà họ Triệu. Pháp Uyển Châu Lâm chép: Vào những năm cuối niên hiệu Trinh Quán đời Đường, ở chùa Trí Lực, huyện Phủ dương, thuộc Tương châu, có vị Tăng tên Huyền Cao, họ Mã. Ngày qua đời bảo mẹ rằng con với nhà họ Triệu có túc duyên, con sẽ đến đó làm con. Mẹ không tin bèn lấy mực điểm vào cánh tay trái, khi chết rồi thì vợ Triệu bỗng mộng thấy vị tăng này đến bảo tôi có nhân duyên với bà. Nhân đó cấn thai, khi sinh ra quả thật cánh tay trái có điểm mực. Đến ba tuổi không có ai dắt mà tự đến nhà họ Mã bảo: Đây là nhà cũ của tôi. Thân đời trước của Vương Ngạc là cậu bé chùa Bá Đường. Thái Bình Quảng Ký chép: Đời Đường, Thượng thư Vương Ngạc là em của Tấn. Tây kinh xảy ra loạn lạc, Tấn dắt gia đình chạy vào đất Thục theo sông Gia Lăng đến trước chùa Bá Đường ở Lợi Châu, Ngạc lúc đó bảy tuổi bảo rằng tôi có một quyển kinh để trong khám đá ở chùa này. Cha mẹ lấy làm lạ, do đó nhờ người theo hỏi tìm quả nhiên có thật, ngay cả cây cau thường dùng vẫn còn. Các vị Tăng trong chùa bảo đây là cậu bé của tôi. Hỏi năm chết thì đúng là ngày tháng năm sinh của Ngạc. Năm sinh Ngạc, cha mẹ đời trước vẫn còn sống, sau làm quan đến Lệnh lục? Tướng quốc Bùi Hưu là con vua nước Vu-điền. Bắc Mộng Tỏa chép: Thừa tướng Bùi Hưu ở đời Đường lưu tâm nhiều về Phật pháp, tinh thông Thiền giáo, phàm các tác phẩm của Khuê Phong Tông Mật thì Bùi đều viết lời tựa. Ông thường mặc áo nạp vào nhà chứa cầm bát khất thực. Tự nói không bị tục tình vấy nhiễm, có thể nói Pháp độ người. Thường phát nguyện đời đời làm quốc vương che chở giúp đỡ Phật pháp… Sau, vua nước Vu-điền sinh một thái tử, vân tay có hai chữ Bùi Hưu, tiếng đồn vang đến triều đình, con của Bùi nghe tin liền viết thư muốn mời về, nhưng không chịu, bèn thôi. Nạp tăng nguyện làm con của họ Thôi. Ngọc Đường Nhàn Thoại chép: Xưa, có một vị tăng thường giao du với gia đình Thôi Thận. Thôi đem việc không con ra nói. Tăng bảo xin phu nhân đến các chùa viện lớn ở Trường An xin các lão tăng nếu không được đoái hoài thì đi chỗ khác, nếu được chú ý nhìn thì phải kết duyên thật dày khiến cho động tâm thì thân đời sau sẽ mặc tình làm con của ông. Thôi cùng vợ tin lời đến hai, ba chỗ đều không ngó ngàng. Sau đến một ngôi chùa thấy một vị Tăng-già, tuổi gần sáu mươi tiếp đãi ân cần. Thôi bèn cúng thí trọng hậu. Từ đó cung cấp không ngớt. Lão Tăng cảm ân tự xét không có gì báo đáp bèn phát nguyện đời sau làm con. Không mấy năm thì nghe vị Tăng mất, vợ thôi sinh ra một đứa con trai trên tay có hai chữ Nạp tăng, nhân đó đặt tiểu tự là Nạp Tăng, cũng gọi là Truy Lang. Kỳ Vương được vị Tăng chùa Ái kính làm con. Quảng Dị Chí chép: Vào niên hiệu Khai Nguyên đời Đường, Kỳ Vương Phạm vì không có con trai nên cầu Đạo só Khí Tịnh Năng tâu lên, Thiên Tào đáp rằng: Phần của Phạm không có con. Tịnh Năng lại soạn điệp gởi Thiên Tào. Thiên Tào không từ chối được bèn khiến hai sứ giả bắt vị Tăng ở chùa Ái kính làm con. Hai sứ giả đến lộn chùa Thánh Thiện bắt một vị đại đức. Vị này nói tôi bình thường tu nghiệp Đâu-suất sẽ không làm con của loài người, hai sứ giả bèn bỏ đi. Khi đến chùa Ái Kính thì ngày đó có vị Tăng vừa mất. Năm sau, Kỳ Vương sinh được một con trai. Lúc sáu, bảy tuổi thường xin đến chùa Ái kính dạo chơi. Vương đi theo thấy mỗi khi thấy tăng thì cậu bé như thấy người cũ, bất luận lớn nhỏ, lại thích bắn tên. Đây cũng là theo vật thì ý dời. Đỗ Hồng Tiệm phát nguyện làm Tăng. Tương Sơn Dã Lục chép: Tể tướng nhà Đường là Đỗ Hồng Tiệm ban đầu chấn giữ đất Ba Thục, bèn đến Ích Châu thưa hỏi Thiền sư Vô Trụ ở núi Bạch vân được đại ý Phật pháp, từ đó nương tâm thiền duyệt. Có bài thơ rằng: Mãi nguyện nương thiền lý Đâu thể tiếp nguồn hóa. Tuổi già được làm tướng Vì bệnh mà từ chối. Lúc qua đời nhìn các con bảo rằng: Hãy tắm rửa rồi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa cho ta, lại hỏa thiêu thân này là hợp nguyện ta, không nên trái. Thạch Diên Niên đọa làm quỷ Tiên. Tương Sơn Dã Lục chép: Tể tướng Thạch Diên Niên tự là Mạn Khanh, tánh nóng nảy, thích ngâm thơ, uống rượu. Vào niên hiệu Minh Đạo ông bị bệnh mà mất. Lúc còn sống làm bạn với Trương Sinh. Mới mến nhau được mấy ngày thì Trương nằm mộng thấy Mạn Khanh cỡi một con ngựa xanh đến nhà bảo rằng ta đã làm quỷ Tiên đến đây mời ông cùng đi. Trương lấy cớ mẹ già cố từ chối. Mạn Khanh giận bỏ đi, bèn bảo rằng: Sẽ gọi Bổ Chi cùng đi. Không đầy một ngày thì Bổ Chi liền chết. Bổ Chi tức là Phạm Phúng Tự. Việc này thấy khắc trên đá ở Nghi Hưng. Đạo só Duẫn làm con của Lý Tông Cố. Giá bộ viên ngoại lang Lý Tông Cố làm quan thú ở Hán Châu. Lúc đó, có Đạo só Duẫn Khả Nguyên vẽ rất giỏi, vì để lửa cháy nên bị tội chết. Lý hoãn giam ngục, gặp đại xá nên được thả. Khả Nguyên lúc đó tám mươi mốt tuổi tự nguyện đời sau sẽ làm con của Lý Công để báo ân đức. Khi Khả Nguyên chết, trải qua hơn mười hai năm, thì con dâu họ Lý nằm mộng thấy Khả Nguyên vào phòng, quả nhiên sau sinh ra đứa bé đặt tên là Thục Tôn. Nhỏ mà vẽ rất khéo, lại thích đọc Lão Trang, vẫn lại làm Đạo só tên là Diệu Ứng, thờ mẹ rất hiếu. Sự tả chân của ông rất hay. Có lúc Tô Đông Pha đã viết một bài rất dài về việc này, lược nói rằng: Ngàn năm Tî tổ giữ quan môn Một niệm trở thành cháu họ Lý Hương lửa duyên xưa ngày nào hết Tập vẽ đan thanh nay vẫn còn. Thái Nguyên Độ biết thân đời trước Chu Hoặc Khả Đàm chép: Ông Thái Nguyên Độ biết được thân đời trước làm con của Dương Vương Gia ở Đơn Dương thuộc Nhuận Châu, tìm hỏi thì quả nhiên vợ con còn sống. Đến hỏi thăm kể rõ chuyện xưa thì đúng y. Tám, chín năm sau dần dần quen cảnh mới, quên việc cũ. Con gái của Lý Thị biết đời trước mình là người nam. Khả Đàm chép: Ung Binh Lý Tam Lễ có con gái tên là Tiểu Sư. Mới mấy tuổi bèn bảo thân đời trước tôi là con trai của Huỳnh Pha Điển. Lại Lôi Trạch tên là Đình Phủ, mới mười bảy tuổi do bệnh ghẻ ở chân mà chết. Lúc đó, Ủng Binh làm nghề buôn bán trâu thường ở tại Huỳnh pha tìm hỏi ra thì việc rất phù hợp. Ngày nọ, Lôi Trạch đến thăm Tiểu Sư, mới thấy liền gọi cha. Niên hiệu Chánh Hòa thứ tám, Tiểu Sư đến Huỳnh Pha ôm mẹ cũ mà khóc mãi không thôi. Lại thường kể chuyện xưa cho người trong ấp nghe đều đúng cả. Thân đời trước của Nhạc Dương Vương là Hứa Huyền Độ. Truyền Đăng Chú Văn nói ở Việt châu có Sa-môn Đàm Ngạn cùng Đàn-việt Hứa Tuân, tự là Huyền Độ cùng xây hai ngôi tháp. Ngạn có thần dị, trời giáng tướng luân, tháp chưa xây xong thi Huyện Độ chết. Ngạn sống hơn một trăm hai mươi tuổi, đợi Huyền Độ sinh lại. Lúc đó Nhạc Dương Vương đến trấn giữ Việt Châu. Ngạn dự báo Hứa Huyền Độ sẽ đến. Đệ tử gọi Lão sư bảo rằng Nhạc Dương Vương từng được Chí Công ngầm bày, vừa đến liền vào chùa tìm hỏi Ngạn. Ngạn ở xa thấy liền gọi Hứa Huyền Độ đến, thì Nhạc Dương Vương nói: đệ tử là Tiêu Đăng sao ông gọi thế? Ngạn nói: Không biết Túc mạng (mạng đời trước) ư? Biết thế, Ngạn liền dùng năng lực Tam-muội gia bị cho Vương, thì Vương chợt nhớ thân đời trước đã cùng Ngạn xây hai ngôi tháp. Do đó việc xây tháp lại được xây dựng. Thiền sư Hải Ấn thác sinh vào nhà Chu Phòng Ngự. Vũ Khố chép: Hòa thượng Hải Ấn Tín nối nghiệp Lang Da, người ở Quế phủ, trụ chùa Định tuệ, ở Tô châu, tuổi hơn tám mươi. Hằng ngày, sư nhận sự cúng dường của nhà Chu Phòng Ngự, nhiều phen đến nhà. Một hôm, Chu hỏi: Hòa thượng đời sau thác sinh vào nhà tôi được chăng? Sư móm cười nhận lời. Trở về chùa cách mấy hôm thì mất. Ngày Sư hóa thì vợ Chu sinh một đứa con gái, bà hết sức buồn rầu. Lúc đó, Thiền sư Viên Chiếu Bổn ở Đoan Quang nghe việc bèn tìm đến hỏi thăm. Khi vừa ẵm ra mới thấy liền cười. Viên Chiếu gọi lớn: Hải Ấn, ông lầm rồi! Bé gái khóc lên mấy tiếng rồi chết. con. Thiền sư Tuyên viết thư cho Quách Tường Chánh xin làm Vũ Khố chép: Thiền sư Quy Tông Tuyên, người ở Hán châu, nối pháp ngài Lang Da Quảng Chiếu, giao du rất thân với Quách Công Phủ. Bỗng một hôm, quan thú ở Nam Khang có việc đến, Tuyên sai người đưa thư cho Quách Công Phủ, lại đưa chúc thư dặn rằng chớ để cho Huyện quân thấy… Lúc đó, Công Phủ trấn nhậm Nam Xương. Thư nói: Tôi còn sáu năm, duyên đời chưa dứt, ngày nay không chịu được bức ép muốn thác sinh vào nhà ông, xin ông xét cho, nói xong rồi hóa. Công Phủ được thư vừa mừng vừa sợ. Đến nửa đêm thì vợ nằm mộng mơ màng thấy Tuyên vào phòng, liền la lên rằng đây không phải chỗ Hòa thượng đến, Công Phủ liền hỏi cớ sự, vợ liền kể việc thấy trong mộng. Công phủ gọi đốt đèn lên rồi đưa thư Tuyên nói. Quả nhiên bà có thai. Khi sinh ra bèn đặt tên là Tuyên Lão. Vừa đủ một tuổi liền nhớ hỏi thì đúng như xưa. Ba năm sau, Hòa thượng Bạch Vân Đoan đến nhà, Công Phủ gọi cậu bé ra gặp, vừa thấy liền gọi sư điệt. Đoan hỏi: Giã biệt Hòa thượng đã mấy năm? Cậu bé (Tuyên) đưa bốn ngón tay ý nói bốn năm. Đoan hỏi: Biệt nhau ở đâu? Tuyên nói ở làng Bạch Liên. Đoan hỏi: Lấy gì làm bằng? Tuyên nói: Cha mẹ, sáng mai thỉnh Hòa thượng đến thọ trai. Bỗng ngoài cửa có xe đẩy qua. Đoan hỏi: Ngoài cửa có tiếng gì thế? Tuyên giả tướng đẩy xe. Đoan hỏi: Sau này thế nào? Tuyên nói: Hai cái hào trên đất bằng. Tuyên sáu tuổi không bệnh mà mất. Bút. Thân đời trước của Trần Khang Bá là am chủ Dương Mao Xưa, ở đất Mân có Trương Thánh Giả, lúc nhỏ từng chăn trâu ở trong rừng tre chợt thấy hai Đạo só đánh cờ, Trương đến xem thì tàn cuộc. Đạo nhân thương Trương đói khát đã lâu bèn hái đưa cho một mụt măng đắng. Trương ăn vào, lúc đầu thấy ngọt, sau đắng, bèn vất bỏ và trở về nhà thì đã có con cháu bốn đời. Từ đó Trương không ăn các vật nướng đốt mà hay làm bài tụng những việc sinh tử, họa phúc… của con người. Do đó mọi người gọi là Trương Thánh giả. Sau ông làm Tăng du phương đến quận Hưng hóa. Lúc đó Trần Khang Bá chưa thi đậu đến xin bài tụng thì chỉ viết ba chữ Dương Mao Bút. Khang Bá không hiểu ý gì. Kế trung thu chọn tướng qua tỉnh, lại đến xin bài tụng thì vẫn viết ba chữ ấy. Từ đó hễ làm việc gì đều thành danh. Lúc đầu, làm quan úy ở một huyện, sau đến Chương Phủ ở Chương Châu. Để nghiệm việc, Bá dẫn theo các quan nhỏ ngày hôm sau, vào lúc ăn cơm buổi sáng đến am Dương Mao Bút, Khang Bá hỏi am chủ Dương Mao Bút ở đâu, viên quan nói: Xưa, có một đạo nhân ở đây rất cao hạnh, giỏi làm bút lông dê (dương mao) mỗi ngày chỉ bán hai mươi cây, được sáu trăm tiền để nuôi đạo chúng, về sau ngồi mà chết, mọi người kính trọng bèn lấy sơn mà sơn thi thể đến nay vẫn còn, do đây mà được gọi là Dương Mao Bút am. Khang Bá đến lạy và hỏi ngày chết của đạo nhân thì đúng là ngày sinh của Khang Bá, nhân đó mới biết thân đời trước của mình là am chủ Dương Mao Bút. Việc Trương Thánh Giả viết ba chữ không sai. Khang Bá bèn khắc đá ghi việc ấy. Rồi cấp ruộng vườn cho am để tiếp đón các khách đến ở, đến nay vẫn còn. Vào niên hiệu Thuần Hy, Khang Bá làm quan đến chức Tả thừa tướng. Vương Chánh Ngôn hỏi Tân Lão việc đoạt thai mà sinh. Vũ Khố chép: Vương Chánh Ngôn làm Tào ở Giang tây đến gặp trưởng lão Vân Nghiêm Tân hỏi rằng: Hai duyên hòa hợp mà thành thân người, lại nghe tức sinh tức tử vì sao lại có việc đoạt thai. Tân nói: Việc này như Chánh Ngôn làm Tào, hễ đến chỗ nào thì ở vào ngôi vị ấy. Chánh Ngôn ngay nơi lời nói liền hiểu. Ngụy Thừa Tướng phát nguyện làm vị Tăng thanh tịnh. Hiếu Miếu Triều Đại thừa tướng Đoan Minh Ngụy Văn Tiết Công khởi về già rước tổ tiên về ở Tiểu Khê thuộc Tứ Minh. Ông là vị quan một đời lập nhiều kỳ công, ngôn hạnh cao tiết. Khi ở trong Triều hay ngoài dân dã, bình thường dốc tin Phật pháp. Thường phát nguyện đời sau làm một vị tăng thanh tịnh. Một hôm, sai thợ vẽ hình ông làm Tăng mà treo lên, ở nhà trên thường ngồi quán tưởng hình tượng này. Lúc đó, Thiền sư Dục Vương Phật Chiếu Quang đến thăm, nhân đó, khen rằng: Thân từ quả vị đến, địa vị hơn cả trăm quan, chỉ do chỗ cũ khó quên, cho nên hiện tướng Tỳ-kheo, ngàn năm hiếm lạ nêu gương xưa nay. Vụng về đặc biệt chứng minh cho để lại cho nhân gian cúng dường. Khi ông mất dặn con cháu rằng ta mất rồi phải cạo tóc mặc áo Ca-sa cho ta theo tướng tăng mà liệm. Các con vâng lời bèn ba y và một bát để trong quan tài. Mân Sư làm con gái của Đổng Ty Hộ. Di Kiên Chí chép: Vị tăng tên Thiện Mân người ở Trường Sa, trụ trì viện Quán Âm ở Hồng châu, rồi lui về Tây đường ở Quang hiếu. Mùa thu niên hiệu Thiệu Hưng thứ hai mươi ba sư bị bệnh. Bá Dương Đổng Thuật làm Ty Hộ mới nhận chức Kiến úy ở bên cạnh chùa, thương sư bệnh bèn cơm cháo thuốc men cúng dường. Mân ăn dùng ba lần cảm tạ. Quang Hiếu Chủ Tăng là Tổ Tuyền bảo rằng: Ông là người phương ngoài mà nhận người tục cúng dường sẽ quyến luyến có ý muốn báo đền. Tôi xem ra ngày nọ ông sẽ làm con của họ Đổng. Mân tuy cảm lời nói ấy nhưng cuối cùng không tránh khỏi. Lúc đó, vợ Đổng là Chú Thị mới có thai, Mân bệnh càng nặng vào giờ Tî ngày mùng một tháng mười thì mất. Trong chùa đánh chuông niệm Phật. Có người ngoài vào bảo bà vợ của Ty Hộ đã sinh được một cháu gái đúng vào giờ mất của Mân. Mọi người rất tin. Ghi chung về thân đời trước và quả báo đời sau của các vị… Lý Xương Linh có soạn Lạc Thiện Tập rất chuẩn mực. Trong đó có nói Phương Triều thỉnh trong năm đầu niên hiệu Chánh Hòa làm quan Huyện Hấp. Một hôm, ông bệnh nặng, thấy một Đạo só nói: Ông là người thời Võ Hậu. Lúc đó, ở Hà Bắc có nạn dịch bệnh lớn, người chết như rừng, ông đem phương thuốc bí truyền mà đem treo ở ngã tư đường, người uống vào đều khỏi bệnh. Thượng đế mừng ông có công cứu người, nên cho ông làm Thượng Thanh Tiên Bá, sau ông cùng thị nữ của Tống Đạo Hoa khởi niệm vợ chồng ở nhân gian nên bị đày xuống trần. Triều Hướng Thái Truyền đời trước là Tịnh Cư Thiên Chủ, Vương Đãi Chế trước vốn là Ngọc Kinh Huỳnh Khuyết. Tây môn thị Lang Dương Văn Công nhớ thân đời trước là Võ Di Quân. Trần Khang Túc Công Nghiêu Tư đời trước là am chủ là Nam Am. Trương Văn Công Phương Bình thân đời trước là vị tăng tri tạng ở viện Sơn Tạng, Tăng tướng quốc đời trước là Hòa thượng Thanh Thảo Đường. Tô Văn Trung Công Thức tự nói mẹ mình khi mới có thai mộng thấy một vị Tăng đến ngủ nhờ, nhớ rõ là mù một mắt, đó là Thiền sư Thiểm Hữu Giới. Khấu Lai Công Chuẩn tự nói: Lúc mới sinh có hai trái tai dài đến vai, đều có hai vòng thịt, bảy tuổi mới liền lại. Vương Văn Chánh Công lại tự nhớ thân đời trước mình là vị tăng cùng tương tự như chuyện của Phòng Quán. Văn Chánh làm tể tướng Thái Bình trong hai mươi năm, khi chết mới nói nguyện đời đời làm chân tăng thanh tịnh. Tự vui mùi Đạo, không dám vào nhà giàu sang. Lại dặn dò con cháu hãy cạo tóc, mặc áo ca-sa cho mình khi liệm. Thân đời trước của Trương Văn Định Công là vị tăng viết kinh Lăng-già. Bài tựa kinh Lăng-già nói: Tưởng Chi Kỳ qua Nam Đô yết kiến Trương Công, nghe Trương công nói nhân duyên kinh Lăng-già. Đầu tiên Trương Công từ chức Tam Ty Sứ Hàn Lâm Học Só ra trấn thủ ở đất Trừ. Một hôm, vào Tăng xá Lang Da thấy một hộp kinh lấy ra xem thì là kinh Lăng-già. Bỗng nhiên nhớ biết đây rõ ràng là nét chữ đời trước của mình, nét bút rất rõ ràng thần kỳ sáng lạ. Nghe con của Dương Thúc mới năm tuổi bảo nhũ mẫu (người vú nuôi) lấy đồ chơi bằng vòng vàng. Vú nói: Đồ chơi của con không có vật ấy. Hựu bèn tự đến nhà hàng xóm họ Lý bên, từ trong bộng cây dâu ở vách tường phía Đông mà lấy về. Chủ nhà kinh sợ bảo rằng đây là vật mất của con ta đã chết, sao lại lấy đi. Nhũ mẫu kể chuyện mới biết thân đời trước của Hựu là con họ Lý. Bạch Lạc Thiên hồi mới sinh bảy ngày mẹ chỉ hai chữ “Chi vô” dẫu thử hằng trăm lần vẫn không biết. Năm chín tuổi tự ngầm biết luật làm thi, với tài văn chương này, Lạc Thiên tự cho là đã rèn luyện từ đời trước. Người đời sống chết tới lui trong khoảng trời đất thì cây cối không tính đếm được. Nhưng do chìm trong sinh tử, thần thức bị mỏi mệt nên không nhớ được. Chỉ có người sáng suốt không mê muội như Trương Công ra vào triều đình hơn bốn mươi năm, sự nghiệp lẫy lừng mọi người đều biết thì thân đời trước từng là Thiện tri thức không đáng nghi ngờ. Vương Văn Chánh Công nguyện đời sau làm Tăng. Tương Sơn Dã Lục chép: Vương Văn Chánh Công là vị tướng giỏi của Tống Chân Miếu. Bình thường rất cần kiệm, phần nhiều mace quần áo vải thô, áo cổn vá víu. Ông rất thông nội điển. Một hôm, nhân đọc Cao Tăng Truyện nói bỏ đời dứt tục. Ông bèn dâng biểu tâu vua rằng: Xưa, người có đạo dù công nghiệp lớn còn chẳng thể làm lụy chí mình, huống là danh tiếng của thân sau. Như Lượng Sư trốn tránh ở Tây Sơn, Thường Công lập am ở Đại Mai, Quy Tông mất dấu tích, Pháp Chánh không nói tên họ, những cụ già ấy đều làm đúng những điều nghe thấy. Lại tự nghó đắm chìm trong quan trường, hận rằng chẳng sớm làm con Phật. Bỗng ông bị bệnh nặng liền mời Nội hàn Dương Đại Niên vào dặn việc hậu sự rằng: Tôi rất chán trần tục, chí mộ sách Phật, nguyện đời vị lai sẽ được làm Tỳ-kheo ngồi yên trong rừng quán tâm làm vui. Trong lúc sắp chết các ông hãy cạo tóc, mặc áo hoại sắc cho ta, chớ để các vật gấm vóc vàng bạc trong áo quan. Rồi dùng phép trà-tỳ, cất xương ở ngôi tháp tròn xây trước mộ để đáp nguyện xưa, ta đã rất răn cấm cháu con, sợ nó theo tục, nên ủy thác rõ ràng cho ông. Đại Niên nói: Các việc khác không dám trái ý ông, còn việc cạo tóc mặc ba y, thì khó vâng theo. Ông đã làm chức Tam công, nếu chết rồi thì xe loan ắt đầy đủ, liệm thêm áo cổn chứ đâu thể thêm tăng phục. Đến ngày ông chết thì Đại Niên cùng các người con cùng bàn bạc chỉ dùng ba y để vào quan mà không để vật báu. Thân đời trước của Tô Đông Pha là Thiền sư Ngũ Tổ Giới. Long Thơ Tịnh độ chép: Thiền sư ngũ Tổ Giới Diễn chính là thân đời trước của Tô Đông Pha, ứng nghiệm không phải một. Vì đời trước tu hành nên đời này thông minh hơn người. Nhưng vì thói quen chưa dứt hết nên đời này bị nhiều duyên thơ ngữ ngoài ý mà bị chỉ trích trong cõi đời chịu nhiều khổ sầu như thế. Nghe Tô Đông Pha khi bị đày về Nam có mang theo bên mình một tượng Phật A-di-đà. Người hỏi duyên cớ thì đáp đây là công cứ để sinh Tây phương của tôi. Nếu quả đúng thế thì Tô Đông Pha đời này có chước hay. Thân đời trước của Huỳnh Sơn Cốc là người phụ nữ tụng kinh Pháp Hoa. Long Thơ Tịnh độ chép: Nghe nói Lỗ Trực đời trước là người phụ nữ tụng kinh Pháp Hoa. Vì công đức tụng kinh nên đời này thông minh có quan chức. Đây là tùy nghiệp tùy duyên mà đến. Nếu sinh Tây phương thì đâu phải chỉ như thế mà thôi ư? Thân đời trước của Vương Trạng nguyên là Thủ tọa Vạn Niên Nghiêm Vónh Gia Vương Thập Bằng Trạng nguyên có thân đời trước là Thủ Tọa Nghiêm ở núi Muôn niên. Chính tay Nghiêm viết lời bia ở Thạch Kiều hiện vẫn còn. Trạng nguyên một hôm đi dạo núi, kế đến am Thạch Kiều lạy Phương Quảng vị tăng trong am là Ứng Chân, đêm ấy, mộng thấy Thủ tọa Nghiêm đến núi. Khi tỉnh mộng ông nghó rằng Nghiêm Công viên tịch đã lâu, duyên gì lại đến đây? Sáng ra thì Trạng Nguyên Vương Công đến. Vị tăng kể giấc mộng, Vương cũng nói bình thường nằm mộng cũng thấy đến đây nhiều lần. Tin biết không lầm, nhân đó làm hai bài thơ phú để tỏ ý rằng: Tiên phàm cách nẻo nhưng ý thông Thạch Kiều dung ta chiếc cầu vồng Thần dạo lâu Phương Quảng bên cầu, Không cần gậy dép mà leo núi Thạch Kiều chưa đến trước đã đến Mới ngủ liền như vào mộng ngay, Tăng gọi ta là Thủ tọa Nghiêm Thân đời trước ta từng viết bia này. Duẫn Xá nhân ngồi dựa ghế mà hóa. Bách Gia Thi Tuyển chép: Duẫn Thù tự là Sư Lỗ, người ở Lạc Dương. Vào niên hiệu Thiên Thánh thi đậu ra làm quan đến chức Khởi cư xá nhân. Trực Long Đồ Các Công một hôm cùng Nhất Phật Giả chuyện trò tự bảo: lấy yên tónh lui về làm vui. Người kia nói: Đó cũng còn có quan hệ, không bằng tiến lùi đều quên. Ông bỗng như tỉnh ngộ. Ngày ông lánh đời, Phạm Văn Chánh Công đến thăm thì ông ngồi tựa ghế nói rằng: Tôi từ biệt ông đâu cần phải đến, sinh tử là lẽ thường, mong lời nói chẳng quá cao xa. Rồi vái chào mà hóa. Trong khoảng khắc ông ngẩng đầu nói: Cũng không có quỷ thần, cũng không sợ sệt. Nói xong thì hóa. Hàm dưỡng của ông đến như thế có thể nói là có hiệu quả. Lữ Trung Thư bệnh biết đường phía trước còn ít tư lương. Bách Gia Thi Tuyển chép: Lữ Bổn Trung tự là Cư Nhân. Vào niên hiệu Tónh Khang ông thi đỗ làm quan đến chức Trung thư xá nhân. Từ chức để về nuôi cha. Bình thường ông rất mê thơ lại thích Thiền đến bị bệnh, rất gầy ốm đến không mặc nổi áo nên cả nhà buồn bã. Ông chỉ nghó về tư lương cho kiếp sau của mình. Nhân đó làm thi phú gửi Lưu Khí Chi rằng: “Bệnh biết kiếp sau ít tư lương Già biết lúc sống sự nghiệp không Vô số núi xanh ngăn sông biển Cùng ai cùng đến lại cùng về.” Đến ngày mùng 6 mùa Hạ năm Bính Dần niên hiệu Thiệu Hưng, ông không bệnh ngồi kiết già mà hóa. Xét về việc tu của ông biết chắc chắn là bị buộc ràng (quyến luyến) mà đi. Riêng tôi cho rằng cuối cùng không biết đi về đâu! Tần Thái sư đề lời cho chùa Linh phong ở Nhạn đãng. Thái sư Tần Công Triều Cao Miếu, Cối Thái phu nhân ngày chưa sinh ra ông bỗng mộng thấy một vị tăng, dáng vẻ đạo mạo trang nghiêm vào nhà hóa duyên. Phu nhân hỏi ông ở đâu đến? Tăng đáp ta từ núi Nhạn ở Ôn châu đến, biết nhà này có duyên nên xin tá túc một đêm. Phu nhân vui vẻ nhận lời kế mang thai ông. Phu nhân nuôi dưỡng ông đến lớn thi đậu làm một quan nhỏ. Bỗng mộng thấy vào một hang đá ngồi thiền, lòng rất lạ lùng. Sau trên đường làm quan ông đến Thai ôn, ở Linh Phong dạo chơi động năm trăm La-hán. Ngó quanh thì hang núi sâu kín, vách cao chất ngất, bỗng thấy như vật cũ. Nghó việc thái phu nhân nằm mộng lúc mới sinh bèn làm thơ tuyệt cú trên vách rằng: “Hang đá trong mơ vẫn như cũ Dạo quan nay đã hai mươi năm Muốn dứt duyên đời ngày nào dứt Trong lòng chí giáo vẫn chăm chăm.” Đến khi ông qua đời, có một Tài nhân dâng sớ tiếp ông có câu. “Biển Thương ngăn trăm trận khó, khởi định Tam-muội trong hang đá” là việc ấy. Việc này thấy trong Bá Phương Tập. Ngài Tông Hiểu là người xem nhiều sách, thấy xa hiểu rộng, tinh tu bạch nghiệp, muốn trốn bỏ sinh tử, thật có người ấy. Song sinh tử khó trốn mà cuối cùng số người không thể siêu việt cũng không phải ít. Do đó chép việc từ Đàm Đế trở đi hơn hai mươi vị, chỉ vì đời trước hạnh tu có khác nên khi sinh lại thì có giòng giống khác nhau. Lại ở địa vị cao, hưởng lộc lớn, nói theo pháp thế gian thì rất vinh, nhưng nói theo pháp xuất thế gian thì chưa thoát khổ trôi dạt sinh tử. Nếu đời trước biết có đường tắt Tây phương mà chú ý tiến công thì một niệm thác sinh về nước ấy, liền được không lui sụt. So với loại vào bào thai há chẳng cách nhau xa lắm ư? Chỉ trừ vì bi nguyện độ sinh thì sinh tử không làm lụy được. Nếu người chưa thoát khỏi sinh tử trở lại hưởng giàu sang mà không bị năm dục khuấy động thì có mấy người. Dẫu lại phát nguyện làm vị tăng thanh tịnh thì cũng chưa hẳn là được đúng nguyện. Trong đó dầu có ngồi mà hóa, đứng mà tịch cũng chưa hẳn đã được thác sinh vào nơi cao quý. Đâu không phải muốn thoát sinh tử mà lại trở vào sinh tử ư? Biển sinh tử rất sâu mà sóng to nguy cấp, phàm người tu tạo phải mau chóng tinh tấn. Nếu không thế thì hãy xem các hiền ra vào sinh tử há chẳng xem xét mà bước vào dấu cũ ư? Người tu Tịnh nghiệp như có chỗ ở yên. Long Thơ chép: Ví như có người đi vào thành thì trước phải tìm chỗ ở yên rồi ra làm việc, để đêm hôm tối đen thì có chỗ nghỉ đêm. Trước tìm chỗ ở yên là nói tu Tịnh độ, đêm tối là nói đại hạn đến. Có nơi nghỉ đêm là nói sinh trong hoa sen không rơi vào đường ác. Lại như tháng xuân đi xa trước phải lo đồ đi mưa, lỡ mưa rào đến thì không bị ướt át. Lo đồ đi mưa là nói việc tu Tịnh độ. Mưa rào đến là nói chết đến, không bị ướt át là nói khỏi bị chìm đắm trong đường ác chịu khổ. Lại trước lo chỗ ở yên là chẳng hại công việc, trước lo đồ đi mưa, thì chẳng hại việc đi xa, tức là tu Tịnh độ thì không hại gì đến tất cả việc đời. Vì sao người đời chẳng chịu tu? Tu tất cả pháp thiện đều hồi hướng Tây phương. Long Thơ chép: Cúng Phật trai tăng, xây tháp cất chùa, tụng niệm lễ sám, hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ, thuận thảo anh em, kính nhường giòng họ, hòa mục với bà con hàng xóm, ân lễ giúp nhau. Làm vua thì hết lòng vì nước. Làm quan thì nhân từ làm lợi dân, làm người trên thì dùng điều tốt để giữ yên chúng, làm kẻ dưới thì siêng năng kính thờ bậc trên trước. Hoặc dạy dỗ kẻ ngu mê, hoặc giúp đỡ người cô độc yếu đuối, hoặc cứu người nạn gấp, hoặc bố thí kẻ nghèo nàn, hoặc đào giếng đắp đường. Hoặc cho cơm chia thuốc. Hoặc giảm bớt nuôi mình để lợi người, hoặc cho tiền người để thức tỉnh họ. Hoặc dạy người làm lành, hoặc giúp lành ngăn ác, bất cứ chỗ nào cũng làm tất cả việc lành thế gian và xuất thế gian mà không câu nệ việc lớn nhỏ nhiều ít, như cho người một tiền, giúp người một chén nước, dẫu một mảy may chút ít điều lành cũng đều khởi niệm rằng nguyện hồi hướng duyên lành này về Tây phương, niệm tâm không xen hở sẽ sinh lên Thượng phẩm. Nhất niệm với Tịnh độ chắc chắn được vãng sinh. Long Thơ chép: Vua thầy thuốc trị được tất cả bệnh nhưng không trị được người hết số. Phật có khả năng cứu độ tất cả chúng sinh nhưng không thể độ người chẳng tin. Vì không tin thì như mạng đã hết, số đã cùng cực rồi vậy. Bởi tin tức là nhất niệm vậy. Như lúc sống tâm niệm muốn đi thì thân đi, tâm niệm muốn đứng thì thân đứng. Ấy là vì thân phải theo niệm (ý nghó). Cũng có niệm muốn đi mà thân bị cột trói, kéo dắt. Đến khi người chết thì chỉ còn một niệm mà thôi. Ấy vì một niệm ở Tịnh độ thì chắc chắn sẽ thác sinh vào hoa sen, huống gì Phật, Bồ-tát có thệ nguyện lớn dắt dẫn? Người niệm Phật sinh vào hoa sen trong ao bảy báu. Long Thơ chép: Có người thắc mắc hỏi rằng ở cõi này niệm Phật thì làm sao trong ao bảy báu ở Tây phương lại mọc ra một hoa sen được? Tôi bảo rằng: Điều ấy chẳng khó biết. Ví như có tấm gương sáng lớn, phàm có vật gì thì ảnh đều hiện rõ trong gương, gương không hề có tâm muốn, chỉ vì nó sáng mà tự nhiên có mà thôi. Cõi Phật Di-đà thanh tịnh sáng sạch, chiếu khắp các thế giới mười phương cũng như gương sáng thì nhìn thấy hình ảnh mặt mày trong đó. Cho nên ở cõi này mà niệm Phật thì tự nhiên trong ao bảy báu mọc một hoa sen mà đợi khi thác sinh lên, không nên nghi ngờ. Khuyên cha mẹ niệm Phật là hiếu xuất thế gian. Long Thơ chép: Thiền sư Trường Lô Tông Trách làm văn khuyên hiếu một trăm hai mươi bài. Một trăm bài trước nói về phụng dưỡng ngon ngọt là hiếu thế gian, hai mươi bài sau nói khuyên cha mẹ tu Tịnh độ là hiếu xuất thế gian. Bởi hiếu thế gian thì chỉ một đời rồi ngưng, còn hiếu xuất thế gian thì không lúc nào hết, giúp cho cha mẹ sinh về Tịnh độ thì không có hiếu nào lớn hơn. Cha mẹ con sống mà không khuyên cố gắng, ngày nọ thì thương tâm lắm cũng luống làm lễ chôn cất thật trọng hậu cũng hoài công vô ích mà thôi nào có lợi gì? Quán kinh trước sau nói hai lần rằng hiếu dưỡng cha mẹ là Tịnh nghiệp tức ý này vậy. Hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ chỉ là trợ giúp vãng sinh lúc qua đời. Khuyến Hiếu Văn chép: Khi cha mẹ tin biết niệm Phật là lúc trồng hoa sen. Khi cha mẹ nhất tâm niệm Phật là khi hoa sen mọc lên khỏi nước. Khi công phu niệm Phật thành tựu là lúc hoa nở thấy Phật. Người con hiếu xét đến lúc vãng sinh mà dự bị trước một sớ ghi chép việc cha mẹ lúc bình thường làm các việc lành lâu lâu đem ra đọc lên khen ngợi khiến cha mẹ vui lòng. Lại xin cha mẹ ngồi nằm luôn hướng mặt về Tây không quên Tịnh độ. Bày một tượng Phật A-di-đà luôn đốt hương đánh khánh niệm Phật không ngớt. Khi cha mẹ bỏ báo thân này phải quyết lòng không than khóc vì e làm cho cha mẹ mất chánh niệm. Cha mẹ được sinh Tịnh độ hưởng các thú vui há chẳng tốt sao? Bình thường hiếu thảo dưỡng nuôi chính là lúc này. Xin nhắn lời đến các con cháu hiếu thuận không nên quên việc này. Người tu Tịnh nghiệp không được mượn cớ bận công việc mà chậm trễ. Tịch Thất chép: Người tu Tịnh nghiệp không được nói tôi quá bận rộn phải đợi lúc rảnh rang. Nay tôi còn nghèo thiếu hãy đợi lúc khá giả, nay tôi còn trẻ tuổi hãy đợi lúc già. Nếu đã phân định lúc bận rộn, nghèo khó, chết yểu thì đối với Tịnh độ không có duyên tu tập rèn luyện. Bỗng cái chết đến thì có ăn năn cũng không kịp. Xin khuyên mọi người hiện đang mạnh khỏe hãy gắng sức tu hành. Người đời chỉ lo nuôi thân này mà không lo báo đời sau. Tịch thất chép: Người đời chỉ biết lúc sống lo nuôi dưỡng thân, cung phụng cho nó mà không lo lúc bỏ thân này, thần thức không chết - nếu không có nhân lành thì bị đọa lạc vào đường khổ thì làm sao? Lúc sống thương tiếc thân này thì khi thân này chết rồi tâm cũng thế, sao các ông không lo cứu độ nó. Lại người đời chuyên vì vợ, con, trai, gái, bà con, tôi tớ mà lo lắng cơm áo không biết mỏi mệt mà không nghó khi chết rồi thì con trai con gái dẫu thương tiếc thấu xương cũng không thể nào cứu nhau mà chỉ một mình mình ra đi. Nay khuyên người đời không vì lo sống mà quên việc chết. Không nên vì người khác mà quên việc của mình. Tu tịnh hạnh này công ở thuần thục. Long Thơ chép: Mạnh tử nói: Phàm lòng nhân cũng ở trong sự thuần thục mà thôi. Cho nên người quân tử ngay cả khi ăn cũng không trái nhân. Lúc gấp rút cũng thế mà lúc hoạn nạn cũng phải thế. Muốn thuần thục thì ở đâu cũng làm nhân. Người tu Tịnh độ cũng thế - Cho nên đi đứng, ăn uống, thấy nghe, động tịnh đều ở Tịnh độ thì thân ở trong cảnh năm trược này mà tâm đã về cõi ấy. - Thơ và lời tựa về Long Môn Liên xã. Ở Long Môn thuộc Phú Dương có Cư só Tôn Công Như Khuê, có hai người con tên là Ứng Thần và Ứng Tường đều theo nghiệp Nho, đều quyết được sự nghiệp hiển hách để làm rạng rỡ cha mẹ, lại noi chí cha mà tu cả Tịnh nghiệp, thật được đạo hạnh mà không trái lý. Lại thẹn chỉ riêng mình làm lành, bèn cùng các bạn đồng bối hơn ba mươi vị cùng nhau làm lời khuyến phát. Trong đó có câu “Ba cõi không yên như nhà lửa, chín sen siêu vãng tự có pháp môn”. Lại nói: “Chẳng đợi già đến mới học đạo, ngay khi bận rộn vẫn có nhàn.” Tôi mới thấy qua rất vui mừng bèn xin nêu bài thơ có phong cách xưa để khen tốt. Vào thời gian thay đổi niên hiệu Khai Hỷ Ngày Trùng Ngọ - Đông Dương Ngô Khắc Kỷ kính ghi. Tột thay Tây Thánh Thích-ca Văn Miệng vàng nói Pháp truyền muôn đời Mở bày nhất hóa không che dấu Lại bàn Lạc độ vớt kẻ chìm. Mã Minh, Long Thọ đều khen kể Trước truyền Chấn Đán được Di Dân Từ đó Nho quan thường kính mến Đâu chỉ xuất gia được nhờ ân. Cư só Hà Đông có đủ chánh kiến Phát huy đạo này rất rỡ ràng. Cảnh vu từng thấy cùng soi chiếu Có văn sáng rỡ gọi lược nhân Dẫu theo tông khác cũng kéo lại Dương Công, Trần Công là bạn Luôn chỉ bày các việc chớ làm Mênh mông có ai nối bụi thơm Long môn bỗng gặp người họ Tôn Chịu hẹn chung nhóm làm bạn nhân Sớ ngắn đọc qua khởi tưởng xa Như thấy được người ở Lô sơn Bèn biết Nho giỏi rất dễ hiểu Dẹp trừ bèn chuyển vào Đạo gia Lại đem nhất thừa giúp chí trẻ Vượt qua chín muôn ai thuần phục. Trong Phó Pháp Tạng truyện Mã Minh, Long Thọ là tổ thứ mười hai và mười bốn đều có soạn luận khen ngợi Tịnh độ. Trong mười tám vị Hiền Lô Sơn thì Lưu Di Dân là Thượng thủ. Cư só Hà Đông tức là Liễu Tử Hậu có làm lời bia Vô Tánh Hòa thượng, Long Hưng Tịnh độ Viện Ký, Đông Hải Nhược Văn. Cảnh Vu Nãi Triều Đãi Chế từng thấy Pháp sư Diên Khánh Lập, Luật sư Linh Chi Chiếu soạn Tịnh độ Lược Nhân. Dương Vô Vi và Trần Liễu Ông về già đều lưu tâm Tịnh độ. Dương có soạn tựa Luận Thập Nghi, Tựa Trực Chỉ Tịnh độ quyết Nghi Tập, còn Trần thì soạn Diên Khánh Tịnh độ Viện Ký, đều thấy ghi ở trong Lạc bang văn loại.