<經 id="n1960">THÍCH TỊNH ĐỘ QUẦN NGHI LUẬN (QUYỂN 1 7Ï) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN THÍCH TỊNH ĐỘ QUẦN NGHI LUẬN Đồn Điền Viên Ngoại Lang Bình Xương Mạnh Tiễn Soạn. <詞>LỜI TỰA Hư không chẳng có bờ mé, trời đất sinh, vũ trụ hình thành, phẩm loại phồn vinh. Nơi đó chúng sinh đua nhau sinh trưởng, các loài tình thức bôn ba, nổi chìm trong sông ái dục, đuổi nhau theo dấu chân sinh tử, nhân quả báo ứng chằng chịt, không thể phân biệt được, duyên theo tuần hoàn, chồng chất như bụi trần, đâu tính đếm được? Báo thân, Hóa thân của chư Phật trước sau, đều lại theo mê, mà chúng sinh lại buông tay chìm đắm mất. Đức Phật mở rộng ba minh, để cứu vớt thế tục, vào tám khổ để ban bố từ bi. Vó đại thay! Đức Phật Di-đà! Ngài lập cõi nước thanh tịnh, phát thệ nguyện rộng lớn, hiển bày ánh sáng rực rỡ, chỉ bày pháp môn phương tiện và mở ra con đường cảm thông. Nếu chúng sinh nào thành tựu mười niệm, thì trong một sát-na sẽ được dẫn đến đất vàng, chín bậc vãng sinh, liền được dạo chơi trong nước bạc, lý nổi trôi từ kiếp xa, còn sự thì hiệu nghiệm vô cùng. Chỗ cao sâu này được ngài Đạo An cổ xúy từ đời Trần, ngài Tuệ Viễn bắt đầu lưu thông vào cuối đời Tấn. Từ đó trở đi đều khen ngợi người trước. Trong đó có phân nhiệm nối tiếp làm hưng thạnh, nhận lấy phó chúc từ xa, nghó đến việc thành tựu vãng sinh, kéo dài cho đến nay, áo chỉ của sớ giải như xâu hoa, nhẹ nhàng khen ngợi kinh điển. Người duy nhất làm được việc đó là Pháp sư Hoài Cảm, Pháp sư liễu ngộ pháp xưa không mà ngày nay có, đã có sinh thì phải có tử. Pháp sư có sức tin chân chánh, giới phẩm nghiêm sạch, con đường văn chương, đã mở mang mà còn khen ngợi, nức tiếng về trình bày tôn chỉ Tỳ-ni. Tuy có nói nhưng không cùng, lại e sẽ lụy cho lời nói. Sư tư duy luyện thần để ngăn dứt bờ mé, nương vào định lâu ngày nên phát tuệ sáng, bỏ nghóa học và di tích, thành thật tìm cầu và chọn lấy chứng đắc. Sương đông lại phát ra, băng mỏng cô khởi. Công do lý mà hài hòa, cơ hiệp với thần, thu thần đến chỗ vắng lặng, gần với miền An dưỡng. Pháp sư là bậc khuôn mẫu quy chân, tức là bạn của bậc Thánh A-bệ-bạt trí, tuy niệm còn có tướng, nhưng thể của tình thức thì không dính mắc, cho nên ai cũng biết tiếng của Pháp sư, thế tục đều kính mến quy y sư. Bức trướng đẹp tuy được dựng lên, nhưng thành lũy của ma lại cao hơn, tức lúc còn sống giảng nói thường lý, cho năm chúng nghe. Tín là con đường nhàn rỗi của vãng sinh, là quán trọ của cõi Tịnh. Soạn thứ lớp cho người chưa tu, thành một môn giáo hóa, góp nhặt biên chép thêm rất nhiều. Việc làm này có Pháp sư Hoài Uẩn. Hoài Uẩn và Pháp sư Hoài Cảm đều là đệ tử tài giỏi của ngài Thiện Đạo, tứ thiền đều vắng lặng, mười thắng đều cao, chỗ khế ngộ rất sâu. Há chỉ cùng dạo chơi trong bảy tịnh? Duyên nhiều lớp học tập, đâu chẳng cùng đi đến cõi Nhất thừa? Năm tháng trôi qua, Pháp sư Hoài Cảm tuổi cao thị tịch trước, từ đấy cửa thiền vắng bóng sư, bảy chúng đều buồn. Pháp sư Hoài Uẩn đem bản thảo chưa xong của người bạn đồng môn, hoàn thành bộ “Luận Thích Tịnh độ Quần Nghi”, Hoài Uẩn vì người xưa mà mạnh dạn làm việc này. Bình Xương Mạnh Tiễn là người sớm tu Tịnh nghiệp viết lời tựa, giúp truyền bá, trong thời khóa tạp nhạp, sư phất ngọn cờ tinh, gom lời quý báu thành một bộ bảy quyển. --------------------------------- THÍCH TỊNH ĐỘ QUẦN NGHI LUẬN Chùa Thiên phúc, Tây đô, Đại đức Hoài Cảm soạn <卷>QUYỂN 1 Hỏi: Phật có mấy thân? Tịnh độ có mấy loại? Đáp: Phật có ba thân: Thân Pháp tánh. Thân Thọ dụng. Thân Biến hóa. Tịnh độ có ba cõi: Cõi Pháp tánh. Cõi Thọ dụng. Cõi Biến hóa. Thân Pháp tánh ở cõi Pháp tánh; thân Thọ dụng ở cõi Thọ dụng; thân Biến hóa ở cõi Biến hóa. Thân Pháp tánh nói trên đều lấy chân như thanh tịnh pháp giới làm thể tánh. Như kinh Bát-nhã nói: “Diệu thể của Đức Như Lai tức là pháp thân, pháp thể chư Phật không thể thấy”, như kinh Pháp Giới Thể Tánh nói: “Văn-thù-sư-lợi lễ và nói: Không sắc không hình tướng, không căn, không trụ xứ, không sinh không diệt, kính lễ bậc vô sở quán.” Kinh Duy-ma-cật nói: “Nếu tự quán thật tướng của thân như thế nào thì quán Phật cũng giống như vậy.” Cõi Pháp Tánh như kinh Bát-nhã nói: “Trang nghiêm cõi Phật, tức chẳng phải trang nghiêm.” Còn kinh Duy-ma-cật cho rằng: “Các cõi Phật và chúng sinh đều không.” Lại nói: “Các cõi nước của chư Phật cũng đều không”, Còn tiếp: “Mười phương cõi Phật đều như hư không.” Tuy biết thân cõi hoàn toàn là chân như (Như là không hai không khác). Nhưng nói thân Pháp tánh ở cõi Pháp tánh là nói theo nghóa tánh giác chiếu gọi là thân, thể chân lý của pháp gọi là cõi. Ở đây là thiết lập Đế môn. Thân Thọ dụng có hai: Thân độ Tự thọ dụng và Thân độ Tha thọ dụng. Tự thọ dụng thân độ: Dùng hạnh Bồ-tát để thực hành tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật, tụ tập viên mãn hằng sa quả đức, tự lợi, lợi tha, bốn trí tròn đủ, năm uẩn thanh tịnh, là thể của thân tự thọ dụng, tức dùng bốn trần thanh tịnh, vi tế, rộng lớn trùm khắp hiện ra trong bốn trí. Việc này chỉ có Phật và Phật mới có thể thấy biết được. Nơi thân Tự thọ dụng nương tựa là thể của cõi Thọ dụng. Thân độ Tha thọ dụng: Các Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, dùng Bình đẳng tánh trí kích động công đức lợi tha của cảnh trí, theo đó mà ứng hiện một phần tướng tế, là thể tánh của thân độ Tha thọ dụng. Thân độ Biến hóa: Bồ-tát chưa vào Thập địa, Nhị thừa và phàm phu dùng Thành sở tác trí kích động công đức lợi tha của Cảnh trí (Đại viên cảnh trí), theo đó mà ứng hiện một phần tướng thô, là thể tánh của thân độ Biến hóa. Thể tánh của Thọ dụng và Biến hóa này có ba: Thể nhiếp sự quy chân. Thể nhiếp tướng quy tâm. Thể bản mạt biệt minh. Thể Nhiếp sự quy chân: Tất cả các pháp đều lấy chân như làm thể. Do đó Báo độ và Hóa độ cũng lấy chân như làm thể. Thể Nhiếp tướng quy tâm: Báo thân và hóa thân đều do tâm thanh tịnh của Như Lai… hiện ra, nên kinh Duy-ma-cật nói rằng: “Tùy theo tâm mình tịnh, mà cõi Phật tịnh.” Luận Duy Thức và luận Nhiếp Đại thừa ghi: “Tất cả muôn pháp đều không rời tâm mình.” Thể Bản mạt biệt minh: Hai Tịnh độ này đều lấy các thứ báu trang nghiêm làm thể. Hỏi: Trong ba cõi, thế giới Cực lạc ở Tây phương xếp vào cõi nào? Đáp: Ở đây có ba cách giải thích: Cõi Tha thọ dụng: Vì cõi này thân Phật cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần, trong đó phần nhiều là bậc Nhất sinh bổ xứ, không có các thứ khổ, chỉ hưởng các điều vui. Do đó những điều kiện này chỉ có ở cõi Tha thọ dụng. Cõi Biến hóa: Thánh giáo nào nói: Phật cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần tức chúng ở cõi Tha thọ dụng nào ngại thân Tịnh độ biến hóa cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do- tuần. Kinh Quán nói: “Chúng sinh phàm phu vãng sinh Tịnh độ” cho nên biết đó là cõi Biến hóa. Cõi Tha thọ dụng và cõi Biến hóa (chung cả hai): Địa tiền thấy cõi Biến hóa; Địa thượng thấy cõi Tha thọ dụng, cùng một lúc, mỗi cõi tùy theo tâm người thấy mà khác nhau, nên nói chung hai cõi. Do đó mà kinh nói: Phật A-di-đà chẳng phải là cảnh của phàm phu, nên phải quán thân Phật cao một trượng sáu. Hỏi: Câu giải thích thứ nhất: là cõi Tha thọ dụng, vì sao phàm phu ở Địa tiền sinh? Còn nếu là cõi Biến hóa thì tại sao bậc Thánh địa thượng sinh? Đáp: Tính ra thì Bồ-tát, Thanh văn, phàm phu ở Địa tiền chưa hoàn toàn chứng chân như, chưa dứt được chấp người và chấp pháp . Thức tâm còn kém yếu, nên biến Tịnh độ không thể đồng với trí tâm sâu kín của các Bồ-tát Địa thượng, biến ra Thọ dụng Tịnh độ vi diệu. Nhưng chờ bản nguyện thù thắng của Đức Phật A-di-đà làm năng lực tăng thượng duyên, giúp cho các Bồ-tát tiểu hạnh ở Địa tiền dù thức tâm còn yếu kém, nhưng nhờ nương gá sức bản nguyện của Như Lai mà vẫn có thể thấy đồng với Bồ-tát Địa thượng biến ra Tịnh độ nhiệm mầu rộng lớn, thanh tịnh trang nghiêm, nên gọi là vãng sinh cõi Tha thọ dụng. Luận Phật Địa nói: “Từ Sơ địa trở lên được vãng sinh cõi Tha thọ dụng, Bồ-tát Địa tiền vãng sinh cõi Biến hóa. Đây là căn cứ theo tự lực để phân chia Địa tiền, Địa thượng ở hai cõi khác nhau, chứ không căn cứ vào thắng duyên tha lực của nguyện khác.” Về nhục nhãn, luận rằng: “Chỉ thấy chướng nội sắc, chỉ thấy cõi Dục, không thấy cõi Sắc, chỉ là trong lìa mới thấy không phải trong sự hòa hợp mà thấy. Nhưng kinh Pháp Hoa nói: “Cha mẹ sinh nhục nhãn thanh tịnh, thấy trong ngoài núi Di-lâu, cho đến tầng trời A-ca-ni-tra thuộc cõi Sắc”, há chẳng phải nhục nhãn có thể thấy các sắc bên ngoài ngăn che và thấy sắc của chư thiên cõi sắc ư? Còn kinh Giải Thâm Mật và luận Nhiếp Đại thừa nói: “Như người soi gương thấy mặt mình, vì trong gương không có hình tượng này, nên chỉ thấy mặt mình đen trắng.” Phù trần căn cùng nhãn căn hợp lại mà thấy sắc trần phù căn kia, đây không phải trong hòa hợp mà thấy sao? Nếu nói thấy cõi sắc bên ngoài sự ngăn che và tự phù căn sắc trần, thì trái với văn luận; nếu không thấy, thì trái với với văn kinh. Nên biết Luận sư Luận Phật Địa căn cứ phần lớn là nói theo nhân, không nói theo sức duyên thù thắng, định tự tại sinh sắc, chẳng phải sắc trần, không phải là cái mắt thấy. Nếu được định Đại oai đức, chỗ biến định tự tại sinh sắc, có thể khiến cho mắt của phàm phu thấy. Nay đây cũng vậy, vì năng lực bản nguyện khiến Bồ-tát Địa tiền sinh cõi Thọ dụng, không thể một bề phán cho là bất sinh. Lại như pháp quán thứ mười lăm của kinh Quán nói rằng: “Phật A-di-đà thân màu vàng ròng, cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần, tám vạn bốn ngàn tướng tốt” chỉ là thân Phật tha Thọ dụng, Bồ-tát Địa tiền chẳng thể quán thấy. Văn dưới nói: “Nhưng nguyện lực nhiều đời của Như Lai có sự tưởng tượng mới được thành tựu.” Nên biết nương vào năng lực túc nguyện quán thấy Thân thọ dụng, cũng nương vào năng lực túc nguyện mà vãng sinh cõi Thọ dụng. Trong luận Phật Địa cũng có hỏi câu này. Ở trước nói Tịnh độ rất tự tại, tịnh thức là tướng, vì sao trong hội có Thanh văn… mà không trái nhau? Có gì trái nhau? Các Thanh văn đồng thấy như Bồ-tát, vì đồng thấy như Bồ-tát, nên nghe được pháp mầu. Một luận sư nói: Hoặc được thần lực của Như Lai che chở, khiến tạm được nghe, thấy nói pháp mầu, đây là năng lực của Như Lai không thể suy nghó, bàn luận, không thể cho rằng khó có thể căn địa độ. Ý của vị này rõ ràng, khi nói kinh Phật Địa, tại cõi Tha thọ dụng, các Thanh văn thấy Tịnh độ kia, nghe “Kinh Phật Địa”, đây là do thần lực không thể suy nghó bàn luận của Như Lai, đó là nhất thời hóa duyên, khiến cho tạm được thấy. Nay đây là năng lực bản nguyện không thể suy nghó bàn luận, khiến cũng được vãng sinh, điều này có lỗi gì? Hỏi: Nếu như thế thì ở đây cũng có lỗi, Địa tiền không được vãng sinh cõi Tha thọ dụng, phải nương bản nguyện mới được sinh Địa thượng không được sinh cõi Tự thọ dụng, phải nương bản nguyện mới được sinh? Đáp: Cõi Tự thọ dụng gọi là tự, không thể nương nguyện khiến tha dụng. Cõi Tha thọ dụng đã là tha, nương thắng duyên kia cũng được vãng sinh. Còn cõi Tự thọ dụng rất nhiệm mầu, không thể nương nguyện mà được sinh; cõi Tha thọ dụng, vì tha hiện từ hữu vi diệu khiến thấy cõi dưới. Lại cõi Tha thọ dụng có bản nguyện, nương bản nguyện này, phàm phu được vãng sinh; Cõi Tự thọ dụng không có bản nguyện, vì thế không cho Bồ-tát thấy. Hỏi: Nếu cõi Tự thọ dụng gọi là Tự, thì Tha cũng như được sinh, Tự nghóa là không thành. Cõi Tự thọ dụng Phật đồng thấy, Phật khác cũng không thấy, không có tự nghóa. Đáp: Phật là thân rốt ráo giải thoát, viên chứng nhất như ứng vớiTha, Tự, Bồ-tát hoặc chướng chưa dứt hết, không thể vãng sinh trong Tự độ của Phật. Nhiều câu hỏi đáp như thế, không thể nhất nhất đều nói đủ. Các bậc cao trí theo nghóa nên suy nghó. Còn dẫu cho Bồ-tát Địa tiền tự biết tướng phần, thấy thô tướng Tịnh độ, không thấy được cõi nước vi diệu thanh tịnh, đồng với cái thấy vi diệu thanh tịnh bảo độ của Bồ-tát, nhưng vì các Bồ-tát thọ dụng pháp lạc, không có những buồn khổ của thân tâm, chỉ có vô lượng thanh tịnh hỷ lạc, không có khủng bố, hoặc hỉ lạc, hoặc sinh nhàm chán xa lìa, hoặc dứt nghi, nên cũng được gọi là sinh cõi Tha thọ dụng. Còn luận Khởi Tín nói rằng: “Từ sơ phát ý đến Bồ-tát Cứu cánh địa, tâm được thấy là Báo thân.” Luận này, đã thông với Địa tiền, được thấy thân Tha thọ dụng. Nếu được thấy thân Tha thọ dụng, thì có trở ngại gì với việc sinh cõi Tha thọ dụng không? Đây là lấy một nghóa chung, một vị luận sư luận Phật Địa đã giải, hoặc văn của luận Đại thừa Khởi Tín. Căn cứ vào Sơ địa trở lên, chứng phát tâm, nói thấy Phật, nói Bồ- tát Địa thượng vãng sinh Biến hóa độ, ở đây có hiện một thân, lý chung cho cả Báo thân, Hóa thân. Tùy nghi thấy, phàm Thánh đều có trở ngại nàokhác? Dưới không được vãng sinh về cõi Thọ dụng, trở xuống không thể thấy được độ thắng diệu. Còn nghiệp kém yếu không được vãng sinh, trên có thể thấy dưới là muốn tiếp dẫn phàm phu, Địa tiền, sinh cõi Biến hóa có gì trở ngại không? Bồ-tát địa thượng sinh cõi Biến hóa, đều là hóa thân, cũng không có lỗi. Hỏi: Thế giới Cực lạc đã cho phàm phu được sinh, chẳng biết là cõi hữu lậu hay cõi vô lậu? Thích: Cõi do Như Lai biến ra, cõi vô lậu của tâm Phật, vẫn là vô lậu, tâm của phàm phu chưa được vô lậu, nương vào cõi vô lậu của Như Lai kia, tự tâm biến hiện thành cõi hữu lậu mà sinh trong đó. Nếu nói theo bổn độ của Như Lai, thì cũng được gọi là sinh cõi vô lậu; nếu đứng về tự tâm của độ được biến ra mà thọ dụng, thì cũng được nói sinh cõi hữu lậu. Tuy hữu lậu nhưng gá vào cõi vô lậu của Như Lai mà biến hiện, rất giống vô lậu của Phật, cũng không có quá hoạn xấu ác. Hỏi: Nếu là cõi hữu lậu, thì trong ba cõi thuộc về cõi nào? Thích: Câu hỏi này có hai cách giải thích: Tịnh độ hữu lậu là thuộc về cõi Dục, cõi Sắc. Vì tâm hữu lậu không lìa ba cõi, ba cõi tức hữu lậu, hữu lậu tức ba cõi, đã nói hữu lậu, tức là thuộc về ba cõi. Nếu chưa lìa cõi Dục, thì lấy cõi Dục sinh thiện hoặc phương tiện thiện, đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng, tu ba thứ phước hạnh. Còn mười sáu pháp quán, dùng gốc lành này sinh về Tịnh độ, do tâm này biến ra tức thuộc về cõi Dục. Nếu đã là dục, được tâm cõi sắc, tu mười sáu pháp quán, sinh về Tịnh độ, tức thuộc về cõi sắc, nên Tịnh độ đó chung cho cả cõi Dục và cõi sắc. Chúng sinh cõi vô sắc không có sắc thân thật để sinh Tịnh độ, vì Tịnh độ bằng các thứ báu trang nghiêm, thật chẳng thuộc về cõi Vô sắc, thị hiện định tâm, lý của nó có thể đúng. Trên đất báu của Tịnh độ kia, là ở cõi Dục; trong hư không là trời cõi Dục, cõi Sắc, nên kinh Vô Lượng Thọ chép: A-nan bạch Phật: Cõi nước Phật nếu không có núi Tu-di, thì Tứ Thiên vương và trời Đao lợi trụ ở đâu? Phật bảo A-nan: Tầng thứ ba của cõi này từ trời Diệm-ma đến trời sắc Cứu cánh nương nơi đâu mà trụ? A-nan bạch Phật: Hành ngiệp quả báo không thể suy nghó bàn luận. Phật bảo A-nan: Hành nghiệp quả báo không thể suy nghó bàn luận, thế giới chư Phật cũng không thể suy nghó bàn luận, sức lành công đức của chúng sinh trụ ở nơi hành nghiệp, nên có thể như vậy thôi. Quyển hạ nói: “Bấy giờ, Phật bảo A-nan! Ông thấy cõi nước Phật kia từ đất trở lên đến trời Tịnh cư, trong đó có nhiều thứ rất xinh đẹp, trang nghiêm, thanh tịnh tự nhiên, ông có thấy hết không?” Y cứ theo đây thì biết Tịnh độ hữu lậu kia do tâm biến, tức thuộc về cõi Dục và cõi Sắc. Tuy là Tịnh độ do hữu lậu biến ra nhưng không được gọi là thuộc về ba cõi. Hỏi: Đã là cái do thức tâm hữu lậu biến ra, tâm hữu lậu tức thuộc về ba cõi, không có tâm hữu lậu thì không thuộc về ba cõi, tâm đã thuộc ba cõi, thì hiện Tịnh độ đâu chẳng thuộc ba cõi ư? Đáp: Tuy biết thể tánh hữu lậu không ngoài ba cõi, nhưng vì nghóa riêng, nên chỉ được gọi hữu lậu, không được gọi là ba cõi. Cho nên ba cõi là tên hạn cục, hữu lậu là tên rộng rãi. Cũng như phàm phu được sinh Tây phương, chẳng phải thuộc về năm đường, nên kinh Vô Lượng Thọ nói: “Cắt đứt năm đường, cửa đường ác tự nhiên đóng.” Còn kinh A-di-đà nói: “Cõi nước của Đức Phật kia không có ba đường ác.” Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Cõi nước kia chẳng phải người, chẳng phải trời, vì thuận theo các phương, nên có hiệu là trời, người.” Nên biết cõi kia không có năm đường, đã cho chúng sinh là phàm phu, mà chẳng phải thuộc về năm đường, vì sao cõi không cho gọi là hữu lậu mà chẳng phải thuộc về ba cõi? Hỏi: Phàm phu ở cõi đó là người, là trời, nghóa ấy sao lại bỏ? Văn kinh chỉ nói không có ba đường ác, vì sao lại không có đường trời, người. Mà kinh nói chẳng phải trời, chẳng phải người. Đây là nói Đại Bồ-tát chẳng phải người trời, thuận theo phương khác, nên có tên trời người. Chẳng phải căn cứ phàm phu được vãng sinh, phàm phu sinh về kia hoặc là đường người, hoặc là đường trời, đối với lý không trở ngại. Đáp: Nếu là phàm phu được vãng sinh Tịnh độ, là đường trời, hoặc là đường người. Đường người có bốn: Người Nam Diêm-phù-đề, Đông châu, Tây châu và Bắc Uất-đơn-việt ư? Nếu đường trời là trời Tứ Thiên vương cho đến trời A-ca-Ni-tra thuộc cõi Sắc ư? Nếu là đường người tứ thiên hạ, Bắc Uất-đơn-việt phải là một trong tám nạn, nạn Uất- đơn-việt. Nếu là cõi Sắc thì phải là nạn trời Trường thọ. Đây là nạn xứ, vì sao gọi là Tịnh độ, và khuyên chúng sinh vãng sinh ư? Nếu là đường người, mà không được gọi là người Tứ thiên hạ, cũng được gọi là đường trời, mà chẳng phải là trời Tứ Thiên vương. Nếu đúng thế thì ngoài Tứ thiên hạ ra, có riêng đường người ư? Ngoài cõi trời Tứ Thiên vương lại riêng có đường trời ư? Nếu nói có, vì sao ngay chúng sinh là trời người Tịnh độ, chẳng phải trời người của Tứ thiên hạ ư? Cũng có Tịnh độ hữu lậu, chẳng phải ba cõi hữu lậu, chẳng phải ba cõi hữu lậu, nghóa đó có gì trở ngại? Nếu nói ngoài đường người của Tứ thiên hạ, không có đường người khác, ngoài Tứ Thiên vương, không có đường trời khác, phàm phu ở Tịnh độ cũng được gọi là phàm phu, không được gọi là đường người, đường trời, làm sao không cho Tịnh độ cũng được gọi là hữu lậu, không được gọi là ba cõi? Vì năm đường kia mà nêu ra ba cõi này, nghóa của nó hiển nhiên, không thể mê chấp. Hơn nữa trong các pháp tướng, có rộng có hẹp, chỉ như thế gian gọi là rộng, hữu lậu gọi là hẹp, hữu lậu gọi là rộng, ba cõi gọi là hẹp. Ba cõi gọi là rộng, bốn sinh gọi là hẹp, bốn sinh gọi là rộng, năm đường gọi là hẹp. Vì sao? Chỉ như cõi nước dơ bẩn do Như Lai biến ra tuy dường như ba cõi, nhưng chẳng phải ba cõi, tuy là vô lậu mà gọi là thế gian, thế thì thế gian gọi là rộng, hữu lậu gọi là hẹp, hữu lậu gọi là rộng, ba cõi gọi là hẹp, tức là phàm phu hữu lậu thức tâm hiện Tịnh độ, cũng được gọi là hữu lậu, không được gọi ba cõi. Nên luận Đại Trí Độ nói: “Tịnh độ chẳng phải ba cõi: Vì không có dục, nên chẳng phải cõi Dục, vì địa cư, nên chẳng phải cõi Sắc; vì hữu hình, nên chẳng phải cõi Vô sắc.” Ý nghóa của luận này, chẳng phải là Tịnh độ do thức tâm vô lậu hiện ra, gọi là ra khỏi ba cõi, nhưng thức tâm hữu lậu biến ra tướng Tịnh độ khí thế gian, bố trí pháp dụng, an lập hữu tình, lợi lạc… không đồng với tướng của ba cõi này, gọi là chẳng phải ba cõi. Ba cõi gọi là rộng, bốn sinh gọi là hẹp, bốn sinh chỉ chọn lấy năm uẩn dị thục hữu tình thế gian, ba cõi có cả ba tánh và khí thế gian, nên ba cõi gọi là rộng, bốn sinh gọi là hẹp. Bốn sinh gọi là rộng, năm đường gọi là hạn cuộc, trong có hóa sinh này mà chẳng phải là năm đường, các chúng sinh Tịnh độ là hóa sinh chẳng phải đường. Như vậy các danh từ rộng hẹp, thể tánh khác nhau, các kinh luận khác nhau chỗ này, không thể nói Tịnh độ do thức tâm hữu lậu biến ra, thì đâu cho xếp vào ba cõi này? Còn thức thứ tám có ba tên: A-lại-da, A-đà-na và Dị thục. Nếu đắc quả A-la-hán, quả Bích-chi-Phật và các Bồ-tát vào Bát địa, tất cả thức thứ tám chỉ gọi A-đà-na và dị thục, không được gọi là A-lại-da. Đâu được không có tên A-lại-da, liền nói A-la-hán không có thức thứ tám giữ gìn hạt giống các pháp, vì không có tên ba cõi, mà dạy chúng sinh phàm phu vãng sinh ở Tịnh độ, thức tâm hữu lậu không biến hóa cõi nước thanh tịnh Phật, thọ dụng các thứ pháp lạc Đại thừa? Còn gá vào Tịnh độ vô lậu của Như Lai, tuy dùng tâm hữu lậu hiện Tịnh độ của mình, mà Tịnh độ này từ bản tánh tướng độ, độ cũng chẳng phải duyên ràng buộc, tương ứng với các sự ràng buộc, không thêm phiền não, như tâm hữu lậu duyên với diệt đạo đế, phiền não không thêm, giống như nhìn mặt trời, làm tổn giảm con mắt. Nên chẳng phải ba cõi, chẳng phải tam giới hệ, phiền não tăng. Hỏi: Nếu không cho thuộc về cõi Dục, cõi Sắc thì nguyên nhân nào mà kinh Vô Lượng thọ nói: “Cho đến các tầng trời Tịnh cư”? Đáp: Đây là thi thiết làm cõi trời, chứ không thật là trời có chia thành cõi Dục, cõi Sắc. Nếu thật là trời do tịnh tâm của Như Lai biến ra, đâu phải thuộc về cõi Dục, cõi Sắc? Còn nói như là cõi Sắc thì, trở xuống các tầng trời cõi Dục là hơn hay kém? Nếu kém, thì như thế nào là cõi Sắc lại kém hơn cõi Dục? Nếu hơn, thì cõi Dục và Sắc ở Ta-bà hơn kém khác nhau, hữu tình cõi Dục, cõi Sắc hơn kém khác nhau, Tịnh độ kia cũng vậy. Sinh về cõi Sắc, hơn sinh về cõi Dục, nguyên nhân nào mà bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớn nói trời, người trong nước hình sắc khác nhau, có xấu tốt, thì không thành Chánh giác? Thân hình ở cõi Sắc hơn thân hình ở cõi Dục, vì sao nói đồng nhau? Nên biết, giả đặt ra là các tầng trời Tịnh cư, chẳng phải thật tức là cõi Dục, cõi Sắc. Hai cách giải thích trước, thì câu giải thích ban đầu là đúng, thể của thức Dị thục là thật hữu tình, sinh vào chúng sinh kia, các Bồ-tát chưa diệt dị thục, sao được nói đó chẳng phải thật trời người? Hỏi: Nếu Tịnh độ do phàm phu biến ra là hữu lậu, chẳng phải do hoặc của ba cõi chiêu cảm sinh về đó, khác với trời, người tạo ác chịu quả khổ, mà nói chẳng phải trời người, như kinh Thắng Man nói Biến dịch sinh tử chẳng thuộc về ba cõi, chẳng phải thật báo sinh tử của họ, mà là hóa sinh, chẳng phải đường trời, người, chẳng biết phàm phu hóa sinh Tịnh độ không phải là ba cõi, kinh Anh Lạc nói ngoài ba cõi có chúng sinh, đó là nghóa bài kệ An đa của vua Bình Sa vương chẳng phải Phật nói, thân ba cõi này há chẳng phải là thân ba cõi sao? đâu được nương vào lý này mà nói sinh Tịnh độ chẳng phải thân ba cõi. Y theo lời giải thích ở sau mà có câu hỏi này. Đáp: Đây không hiểu ở chỗ nào mà hỏi câu này? Tịnh độ khí thế gian tuy do thức tâm hữu lậu biến ra, nhưng không được gọi là ba cõi, tức hữu lậu nghóa rộng, ba cõi nghóa hẹp. Phàm phu ở Tịnh độ chỉ gọi là hữu tình hóa sinh, không được nói là đường trời người, đây tức là bốn sinh theo nghóa rộng, năm đường theo nghóa hẹp. Nay ở đây cũng giống như vậy, tuy là thân hữu lậu phàm phu, nhưng không được gọi là thân ba cõi. Hỏi: Nghóa này càng khó, nếu như vậy thì, Ứng thân chẳng phải là thân ba cõi, nghiệp chẳng phải nghiệp ba cõi. nếu nghiệp chẳng phải là nghiệp ba cõi thì phải ở Ta-bà hiếu dưỡng cha mẹ, thực hành ba thứ phước, tu mười sáu pháp quán niệm Phật… các nghiệp này khi đương khởi, chưa được tâm cõi Sắc, tức là sinh cõi Dục được tâm văn tuệ, tư tuệ khéo léo. Nếu được định cõi Sắc, tức là tâm tu tuệ của cõi Sắc. Sinh vào cõi Sắc rồi, nguyện sinh Tây phương, tức là sinh cõi Sắc được tâm văn tuệ, tu tuệ khéo léo. Tâm vô lậu không chiêu cảm quả báo, nghiệp đã thuộc về ba cõi thì nghiệp chiêu cảm quả báo, vẫn phải chịu Nhân quả ba cõi, đâu được trái với lý này mà nói sinh Tịnh độ chẳng phải là thân của ba cõi. Đáp: Câu hỏi trước là hữu lậu, chẳng phải là ba cõi, đã rộng thành lập, ở đây chỉ mất tên, mà không mất thể, như thế đâu có lỗi gì mà phải lập lại? Dù biết khi tạo nghiệp, nghiệp này ở cõi Dục và cõi Sắc, thiện tâm hữu lậu chiêu cảm quả báo, tức là thân hình của Tịnh độ, không gọi là nghiệp cõi Dục, cõi Sắc. Mà nghiệp báo này lấy quả nhiếp nhân, không được gọi là thuộc về cõi Dục, cõi Sắc, nhưng được gọi là nghiệp Tịnh độ. Nếu nói là thân cõi Dục, cõi Sắc, khởi tâm cõi Dục, cõi Sắc mà tạo nghiệp, thì đâu cho là không phải nghiệp của cõi Dục, cõi Sắc sao? Nghiệp của cõi Dục chiêu cảm sự thọ báo của trời, người, rất dài chẳng hơn một vạn sáu ngàn tuổi; nếu cảm Tịnh độ, liền được thọ mạng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ-kiếp. Há nghiệp cõi Dục có thể cảm được mạng dài vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp ư? Đây cũng nương theo nguyện lực hoằng thệ không thể suy nghó bàn luận của Đức Phật A-di- đà, khiến cho nghiệp lực của họ chiêu cảm quả báo rất lâu dài, chẳng phải là điều mà phàm phu suy lường được. Văn kinh rõ ràng, không thể không tin. Đạo lý của Đại thừa, ý thú khó hiểu, cảnh giới chư Phật, chẳng phải phàm phu có thể suy lường được, nhưng chỉ biết tín ngưỡng, chuyên thành tu học, không thể nhất nhất y theo các pháp tướng mà quyết định đúng sai, luận là ba cõi, chẳng phải ba cõi. Hỏi: Chúng sinh phàm phu sinh Tịnh độ, phàm phu chưa được tâm vô lậu thanh tịnh, tùy tâm biến, ra cõi vẫn hữu lậu, cõi của hữu lậu gọi là cõi uế, vì sao cũng nói là sinh Tịnh độ? Đáp: Tịnh có nhiều loại: Có chân thật tịnh, có tương tự tịnh, có rốt ráo tịnh, có không rốt ráo tịnh. Chân thật tịnh, nghóa là thiện tâm vô lậu; tương tự tịnh nghóa là thiện tâm hữu lậu, rốt ráo tịnh là chư Phật, Thế Tôn; không rốt ráo tịnh là từ Thập địa trở xuống cho đến phàm phu. Có thể tịnh, tướng uế; có thể uế, tướng tịnh; có thể, tướng câu tịnh; có thể, tướng câu uế. Thể tịnh, tướng uế: Nghóa là tâm Phật vô lậu thanh tịnh, nên cõi hóa hiện cũng thanh tịnh, nhưng cõi hiện ở tướng dơ bẩn gọi là Thể tịnh tướng uế, nên kinh Duy-ma nói: vì muốn độ những người thấp kém này cho nên thị hiện cõi bất tịnh dơ bẩn. Thể uế, tướng tịnh: như Thập địa trở xuống bản thức và thức thứ sáu, thứ bảy hữu lậu thì Tịnh độ do tất cả tâm hữu lậu của phàm phu và Địa tiền hiện ra đều là hữu lậu, cho nên gọi là thể uế, vì y theo cõi Phật thanh tịnh của Như Lai từ thức biết biến ra tợ Tịnh độ tướng hiện, nên gọi là tướng tịnh. Thể tướng đều tịnh: Như Phật và Thập địa trở lên trong tâm vô lậu hiện Tịnh độ, gọi là thể tướng đều tịnh. Thể tướng đều dơ bẩn: như tâm hữu lậu hiện các cõi dơ bẩn. Nay đây được sinh Tây phương tuy là phàm phu, nhưng hai câu trước thể uế tướng tịnh. Hỏi: Như kinh Duy-ma nói: “Nếu Bồ-tát muốn được sinh Tịnh độ, phải thanh tịnh tâm mình, tùy tâm mình tịnh, thì cõi Phật tịnh.” Văn kinh tâm tịnh này, là người đứng về Bồ-tát Thập địa, mới gọi là tâm tịnh, như thế nào gọi là phàm phu muốn sinh Tịnh độ? Nếu nói được sinh Tịnh độ, nên nói đã tịnh tâm mình, vả lại phàm phu còn bị trói buộc, các hoặc kiến tư phiền phức đua nhau khởi, không một chút nào tạm dừng, nay đã không thanh tịnh tâm mình thì làm sao được sinh Tịnh độ? Đáp: Tịnh độ có nhiều loại, chẳng phải một đường, có rốt ráo tịnh tâm, có chưa rốt ráo tịnh tâm; có hữu lậu tịnh tâm, có vô lậu tịnh tâm, có hữu tướng tịnh tâm, vô tướng tịnh tâm; có phục hiện hành tịnh tâm, có đoạn chủng tử tịnh tâm; có tự lực tịnh tâm, có tha lực tịnh tâm. Nghóa của nó chẳng phải một, không thể làm khó chư Phật Như Lai tùy cơ nói pháp, hoặc y cứ vào rốt ráo tác ngữ, hoặc y cứ vào chưa cứu cánh mà nói, các thuyết như thế nghóa của nó bất định, không thể chỉ y theo kinh Duy-ma nói cứu cánh tâm thanh tịnh. Giai vị Thập địa, văn nói tâm Tịnh thì cõi Tịnh, không tin kinh Quán hàng phục hiện hành, nương nhờ tha lực được sinh Tây phương, nói tâm không thanh tịnh không sinh Tịnh độ, thí như người được thần thông mới có thể bay lên hư không đâu có ngại gì, còn người chưa được thần thông thi nương người đã có thần thông cũng có thể bay lên hư không. Còn kia nói Tịnh, nghóa là tâm rốt ráo thanh tịnh, có khả năng vì hữu tình khác hiện Tịnh độ vô lậu. Nay vãng sinh Tịnh độ, nghóa là y theo tướng Phật thanh tịnh mà hiện Tịnh độ của mình, gốc kia, ngọn đây, y tha, tha y, thầy trò khác đường, liền thành hơn kém. Kia căn cứ vào thuyết hơn, ở đây là y cứ theo ở dưới mà luận, không trở ngại nhau. Hỏi: Chỗ Tịnh độ Tây phương kia, có cõi uế hay không? Nếu có, thì sao gọi là Tịnh độ? Nếu không thì cũng như ngàn cánh hoa sen của Phật Lô-xá-na, trên mỗi cánh có trăm ức cõi nước, mỗi cõi nước đều là cõi uế, làm sao Phật Lô-xá-na ở thế giới Liên Hoa tạng ngồi trên toà hoa vương, trên lá thanh tịnh mà có cõi uế? Còn Thân tử thấy uế, Phạm vương thấy tịnh, đây luôn cả Tịnh độ và uế độ đồng một chỗ mà hiện, vì sao Cực lạc chỉ có Tịnh độ mà không có uế độ ư? Đáp: Câu hỏi này có hai cách giải thích: 1.Thế giới Cực lạc chỉ có Tịnh độ, ở nơi đó không có tướng uế độ, vì Tịnh độ này rất thanh tịnh nhiệm mầu. Nếu có thì sẽ có lỗi vừa có tịnh vừa có uế. Lại sắc pháp chất ngại, hông thể đồng một chỗ mà hai tướng uế tịnh đều hiện hành cùng một lúc, không tương dung, vì có lỗi tạp loạn, văn của kinh Quán… không có nói, bốn mươi tám nguyện không có nguyện này, nếu có thì chúng sinh vãng sinh nên cũng vãng sinh, cũng nên được thấy, vì không sinh không thấy, nên biết là không. Có thuyết cũng nói uế độ đồng chỗ đồng thời, không chướng ngại nhau, nói hai sắc pháp không dung thọ nhau, đây là giáo lý bất liễu nghóa của Tiểu thừa. Tịnh độ và uế độ đều trùm khắp mười phương không có giới hạn, có uế độ như thế thì có Tịnh độ, có toà hoa vương thanh tịnh của Lô-xá-na thì có tướng của ngàn trăm ức uế độ, thảy đều là chỗ thanh tịnh có uế, chỗ uế có thanh tịnh, không xen tạp lẫn nhau, không chướng ngại nhau, mỗi người tùy cái thấy của mình mà có tịnh uế khác nhau, mỗi người đều tùy theo chỗ sinh về Tịnh độ uế độ. Cái khó như trước, đều là Tiểu thừa, chẳng phải Đại thừa nói như thế. Rộng như: Luận Nhiếp Đại thừa, các kinh Đại thừa đã nói, không phiền trình bày rộng. Tuy biết đồng một chỗ tịnh uế có thể thành, nhưng Tây phương kia chỉ có tịnh chẳng có uế, tâm chúng sinh uế không sinh về đó, kinh chỉ nói tướng tịnh không nói tướng uế, khiến cho chúng sinh ở các phương muốn sinh về đó. Hỏi: Như luận Tịnh độ của An Pháp sư nói: “Tịnh độ và uế độ là một chất mà dị kiến, là dị chất mà dị kiến, là vô chất mà kiến.” Câu đó được giải thích rằng: “Một chất không thành, nên tịnh uế vơi đầy; dị chất không thành, nên tìm tòi lẽ huyền tức tối tăm; vô chất không thành, nên duyên khởi muôn hình.” Tuy có lời giải thích này, nhưng văn nghóa sâu kín, xin khai thị, bày rộng huyền chỉ cho. Đáp: An Pháp sư trí tuệ tỏ ngộ khai minh, tinh thần sáng suốt, soạn ra luận này, tông chỉ nhiệm mầu vô cùng, thời đó văn nghóa kinh luận Đại thừa chưa đủ khắp, nên có thể làm việc suy tầm này, thật là ấn thủ Bồ-tát, có thể nói là đục thủng con đường hoang sơ để khai thông, nêu huyền chỉ ở tánh không. Nhưng văn nghóa sâu xa, độc giả ít biết chỉ thú của nó, nay phải nói rộng nghóa đó cho ông nghe. Tịnh độ và uế độ do nghiệp tịnh và uế, khiến từ tâm biến hiện thành tướng uế và tịnh, tướng tịnh uế này là do tâm tịnh uế hiện, tâm tịnh thì cõi tịnh, tâm uế thì cõi uế, đều do tự tâm. Tâm đã có khác, thì cõi đâu gọi là một? Nên nói “một chất không thành” nên tịnh uế vơi đầy: Phật chưa dùng ngón chân ấn xuống đất, thì uế đầy mà tịnh vơi; Phật đã dùng ngón chân tiếp xúc đất, thì Tịnh đầy mà uế vơi, như kinh Duy-ma-cật nói: Nên biết hai tâm của Thân tử, Phạm vương, đều khác nhau nên cõi tịnh uế hiện ra có khác nhau, không được nói là một. Cho nên nói: Một chất không thành, vì thế Tịnh uế vơi đầy. Tuy hai tâm tịnh và uế hiện hai cõi Tịnh và uế, tâm có hai thể, cõi thành hai tướng, nhưng đồng chỗ đồng thời không chướng ngại nhau, không thể nói có chỗ tịnh mà không có chỗ uế, có chỗ uế mà không có tịnh, chỗ khác hiện mà có chướng ngại, vì đồng chỗ đồng thời mà hiện tịnh uế, nên nói “Dị chất không thành, vì thế sưu huyền tức minh. Sưu là sưu cầu. Huyền là u huyền. Nghóa là tìm tòi chỉ thú u huyền của nó, hai tướng Tịnh và uế tối tăm đồng ở một chỗ, không được chia thành hai nơi. Rõ điều này nên nói Dị chất tuy thành, sưu huyền tức minh. Pháp sư này hoàn toàn chưa hiểu nghóa Duy thức, nên lấy đồng một chỗ nói Dị chất bất thành. Cũng có thể nói Tịnh uế khác nhau, thể của nó không hai, tìm tòi thật thể của mình, chỉ là nhất như, nên nói sưu huyền tức minh. Vô chất bất thành, nên duyên khởi muôn hình: Cõi Tịnh, uế này tuy đồng chỗ hiện, mà cả hai khác nhau, đều do hai nghiệp uế và tịnh nhân duyên khác nhau biến hiện ra các thứ: rừng gai, cây quỳnh, đá vụn, ngọc châu, từ duyên mà sinh ra tính y tha khởi, mới thành tướng cõi, khác với hoa đốm trong hư không, lông rùa, sừng thỏ, tính biến kế sở chấp, tình có mà thể không, không có thể hình chất, nên nói không chất không thành, vì vậy duyên “Khởi muôn hình”. Hỏi: Nếu Tịnh độ và uế độ đồng một chỗ, thì hai cõi này tuy châu ngọc, gạch ngói, tịnh uế có khác, nhưng đều là bốn trần (sắc, hương, vị, xúc) bốn đại (đất, nước, lửa, gió), tám vi hợp thành, chất ngại làm tánh, làm sao đồng chỗ đồng thời mà các vi không chướng ngại nhau, sắc tánh, không chất ngại kia? Đã là pháp trái nhau, nghóa khó giải thích chung, xin dứt trừ những ngăn trệ này, để hiển bày vi ngôn. Đáp: Chỉ chấp cực vi có tánh chất ngại, đây là chấp dị kế của Tát-bà-đa tông bộ, há là diệu chỉ tướng chung của Đại thừa? Chỉ như Đại thừa thời tiết dài ngắn, thế giới lớn nhỏ, thảy đều bất định, khi đó kéo dài bảy ngày thành một kiếp, rút ngắn ngàn năm thành một giây lát; lượng thì nhét núi Tu-di vào trong một hạt cải, biển lớn vào một lỗ chân lông. Há giới hạn dài ngắn, lớn nhỏ đó sao? Chất ngại cũng giống như thế, ngại không nhất định ngại, ngại đó tức gỗ ngại gỗ, đá ngại đá. Không ngại là người gặp nước, quỷ gặp lửa, trời gặp châu, cá gặp nhà, vốn đồng một chỗ, làm sao có khác phương? Nhân đây mà so sánh kia, nghóa có thể biết. Nên Thân tử thấy có gò hầm, vốn không chỗ khác; Phạm vương thấy cõi tịnh, đâu chỉ có phương khác? Bởi do muôn cảnh muôn tâm, tùy theo tâm tịnh uế, diệu chỉ của duy thức, há hạn cuộc ở chất ngại đó sao? Hỏi: Tâm hữu lậu, thể đã là uế, tâm uế đã hiện các khí thế gian, chỉ có thể hiện tướng uế độ, làm sao có thể hiện tướng Tịnh độ? Nếu tâm thanh tịnh hiện vô lậu kia, vượt ra khỏi tướng Tịnh độ của ba cõi ư? Nếu tâm uế kia có thể hiện tướng tịnh thì vì sao Duy-ma-cật nói: “Vì tội của chúng sinh, không thấy cõi Phật Như Lai trang nghiêm thanh tịnh?” Đáp: Thể đã là tịnh, được hiện tướng uế, đâu ngại gì thể là uế của nó, mà được hiện tướng tịnh của nó? Nên về nhất tâm có các tướng tịnh uế. Tâm có nhiều công năng, có thể hiện nhiều tướng. Lại do bản nguyện với chúng sinh, nên khiến hiện Tịnh độ. Chúng sinh đối với Phật có sinh đại nguyện, rất nhàm chán tâm uế, tu hạnh thanh tịnh, gá vào tướng Tịnh độ của Như Lai kia tuy là hữu lậu, mà có thể hiện cõi Phật thanh tịnh, vẫn như Thế Tôn hiện cõi Phật vô lậu thanh tịnh. Đây là do tha lực làm duyên tăng thượng khiến tâm hữu lậu này hiện tướng Tịnh độ đó. Hơn nữa Phật có thần lực rộng lớn, có thể khiến cho người thấy uế không thấy tịnh, như chín trăm muôn Bồ-tát ở thế giới Chúng Hướng đến cõi Ta-bà này, chỉ thấy cõi uế, khônh thấy Tịnh độ; hoặc có thể khiến người dưới thấy tịnh không thấy uế, như ấn ngón chân xuống đất, khiến cho Xá-lợi-phất thấy tam thiên thế giới toàn là châu báu trang nghiêm; hoặc khiến đều thấy cả Tịnh uế. Như trong lọng báu, hiện Tịnh độ trong mười phương và cõi uế này. Nay đây được sinh Tịnh độ, là nhờ năng lực của chư Phật, không thể dùng trí phàm để so lường được Đại Thánh, sự nghi nan này, chỉ phải y theo giáo mà tu hành. Hỏi: Như kinh Đại Phẩm v.v… nói: “Nội không, ngoại không, nội ngoại không, nay Tịnh độ tức ngoại không, chúng sinh tức là nội không. Đã như vậy thì có chúng sinh nào năng sinh? Có Tịnh độ nào là sở sinh? Còn kinh Duy-ma nói: “Cõi nước chư Phật đều là không.” Lại hỏi: Vì sao là không? Đáp: “Vì không không”. Lại nói: “Bồ-tát vì sao lại quán chúng sinh?”. Duy-ma-cật nói: “Các pháp như đại thứ năm, ấm thứ sáu, tình thứ bảy, nhập thứ mười ba, giới thứ mười chín.” Kinh Pháp Hoa nói: “Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng.” Kinh Bát-nhã nói: “Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật, tức chẳng phải trang nghiêm.” Lại nói: “Thật không có chúng sinh được diệt độ.” Như thế là giáo của các kinh Đại thừa rốt ráo, đều nói các pháp vắng lặng, nhân duyên nào ngày nay nói có Tịnh độ Tây phương là cõi sở sinh? Chúng sinh là người năng sinh? Khuyên người chấp tướng khởi hạnh, y theo kinh bất liễu nghóa, đây là không được nghóa sâu của chư Phật, chấp chặt có tướng, không gọi là tập học pháp Đại thừa. Đáp: Như vừa rồi nói giáo rốt ráo nghóa không của Đại thừa, rất sinh lòng kính tin, không dám phỉ báng, rốt ráo xa lìa hai thứ sinh tử, dứt chấp người pháp, chứng đại Niết-bàn chỉ có một pháp môn này, lại không có hai đường. Bồ-tát tiểu hạnh, nhị thừa phàm phu tu hạnh Bồ- tát, muốn cầu quả Phật, chưa chứng Vô sinh pháp nhẫn, không tránh khỏi lui sụt luân hồi, chẳng phải không có các pháp môn cú nghóa, y theo đó tu học, thú cầu xuất thế, làm thế nào dẫn các kinh Đại thừa nói rốt ráo không, phá tướng nhân pháp? Chỉ có các giáo pháp này là thật sự do Phật nói. Nay kinh Quán nói cõi Phật thanh tịnh ở phương Tây, khuyên các chúng sinh vãng sinh về cõi nước đó, đây cũng là ngôn giáo thật do Phật nói. Đã đều là do Phật nói, đều là thật ngữ, vì sao lại đem lý không của kinh để vấn nạn giáo lý Tịnh độ này? Tin chỗ kia, chê chỗ này, đâu có lý ấy? Nhưng Phật nói pháp không lìa hai đế: Tục đế và Đệ nhất nghóa đế. Tục đế là pháp do nhân duyên sinh, tánh y tha khởi, chẳng phải có mà dường như có; Đệ nhất nghóa đế là chân pháp vô tướng, tánh viên thành thật, các Thánh nội chứng, diệu hữu chân hữu. Nhưng cái nhị đế đó phi nhất phi dị, dùng chân để thống nhất tục, không tục thì không chân, tức tất cả các pháp đều trở về vắng lặng, nếu không dùng chân nhiếp tục, tức tất cả pháp duyên hội hợp thì có, duyên ly tán thì không, muôn pháp rõ ràng không thể nói là không. Phật hoặc phá tướng chúng sinh, khiến trở về vô tướng, muốn trừ chấp người, chấp pháp , kiến hoặc, tu hoặc. Nghiêng rõ về Đệ nhất ng- hóa đế, nói tất cả đều không; muốn giúp cho chúng sinh bỏ phàm thành Thánh, dứt ác tu thiện, muốn cầu Tịnh độ, nhàm chán xa lìa cõi uế, nói đầy đủ các pháp giới nhân quả khác nhau, hai địa vị phàm và Thánh, Tịnh độ và Uế độ. Nay khiến cho bỏ uế về tịnh, đổi phàm thành Thánh, tức ở trong môn này nói các thứ pháp, đều là thành tựu Phật pháp, lợi ích chúng sinh, giáo hóa giảng nói phương tiện, khéo léo hợp cơ, lý giảng nói như thế, nên giáo có hai môn. Không thể đọc kinh Đệ nhất nghóa đế, lý rốt ráo vô tướng, tức nói các giáo pháp nhân quả Tịnh độ, chẳng phải chân ngôn của Phật, chẳng phải thuyết cứu cánh nên bài báng không tin. Không đọc các ngôn giáo nói nhân quả đủ loại sai biệt, không tin thuyết tất cả không tịch, huyền tông vô tướng vắng lặng sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên huỷ bỏ mà không hành trì. Đây chính là Thánh giáo ba tạng kinh Đại thừa có khen, có chê vừa nghi vừa tín, cũng tu pháp lành, cũng gây các tội nặng, tin không đầy đủ, gọi là Nhất Xiển-đề, như kinh Thập Luận, nói đầy đủ về tội lỗi, nên đều phải sinh kính tin, khéo hội chỉ thú hai tông. Nên kinh Duy-ma- cật nói: “Có thể khéo phân biệt các pháp tướng, đối với Đệ nhất nghóa bất động.” Có thể khéo phân biệt các pháp tướng, đây là nói theo môn thế đế; đối với Đệ nhất nghóa mà bất động, đây là nói theo môn đệ Nhất nghóa đế. Còn nói: “Các pháp không phải có, cũng không phải không, do nhân duyên nên các pháp sinh.” Không phải có, không phải không là Đệ nhất nghóa đế, lìa bốn câu: là lìa có lìa không. Các pháp sinh là thế đế, từ nhân duyên… các thứ pháp thế gian, xuất thế gian sinh ra. Còn nói: “Tuy quán các cõi Phật hoàn toàn vắng lặng đều không, mà rốt ráo Không rơi vào vắng lặng, là hạnh Bồ-tát. Tuy thành tựu tất cả pháp, nhưng lìa tướng các pháp.” Thành tựu tất cả các pháp, là thế đế pháp. Nhưng lìa tướng tất cả pháp là Đệ nhất nghóa đế vô tướng. Còn nói: “Tuy biết các cõi Phật và chúng sinh đều không, mà thường tu Tịnh độ, giáo hóa chúng sinh.” Hai câu trên là Đệ nhất nghóa đế, hai câu dưới là Thế đế. Kinh Đại Phẩm v.v… nói: Trong ngoài không… là Đệ nhất nghóa đế; nhưng nói thanh tịnh cõi nước Phật, giáo hóa chúng sinh là thế đế. Nhiều thứ ngôn giáo Đại thừa như thế đều nói pháp môn rốt ráo vắng lặng, tức nói thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sinh. Ông phải đọc hết văn kinh, trên dưới lẫn lộn, tự tướng hòa hợp, dứt trừ tâm kính tin hay huỷ báng, giảng nói cho người nghe, đừng có lời khen chê, đây tức là tự lợi tự tha, đều được lìa khổ giải thoát, mở tìm Thánh giáo, văn nghóa khác nhau, tự tin không đủ, chê bai vùi lấp thân mình, khiến bọn khác nghe thành nghiệp Xiển-đề, tự tổn tổn tha. Kinh Giải thâm mật, kinh Lăng-già, luận Du-già, luận Nhiếp Đại thừa, luận Duy Thức v.v… nói nghóa ba tánh tam vô tánh: Tánh Viên thành thật. Tánh Y tha khởi. Tánh Biến kế sở chấp. Tánh Viên thành thật, lìa tướng chân thật; tánh Y tha khởi chẳng phải có mà dường như có. Tánh Biến kế sở chấp, tình có lý không, các vật giống như lông rùa, sừng thỏ. Mà ông đã dẫn kinh Đại Phẩm v.v… đều đứng về tánh Viên thành thật, lý rốt ráo không, Phật nói là không, nhưng thật chẳng phải không; hoặc đứng về Biến kế sở chấp, giống như hoa đốm trong hư không, Phật nói vô pháp. Nay nói Tịnh độ… là giáo dựa vào tánh Y tha khởi, từ nhân duyên sinh pháp, chẳng có mà dường như có, nghóa nhân quả rõ ràng nơi muôn pháp mà ông chỉ thấy nói giáo vô tướng tánh viên thành thật, văn phá biến kế sở chấp rốt ráo không. Không có liền không tin nói tánh y tha khởi là giáo pháp nhân duyên, tức là người không tin nhân quả, nói tướng các pháp đoạn diệt. Cho nên văn kinh nói: “Thà khởi ngã kiến như núi Tu-di, chứ không khởi không kiến như hạt cải, câu nói này thật đáng răn dè. Còn nói Không và Có là đều theo căn cơ thế tục, Đệ nhất nghóa đế chẳng phải không chẳng phải có, nên nói cõi Phật Tịnh độ không, đều tùy theo căn cơ thế tục, khiến họ vào pháp, sao là đúng, sao là sai?” Hỏi: Cõi nước Phật Thanh Tịnh , lìa các uế ác, một khi được vãng sinh, thì siêu vượt sinh tử, lìa hẳn ba đường ác, không còn bị năm thứ khổ thiêu đốt, đều là chánh định tụ, tất cả đều là A-Bệ-bạt trí. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Kế đạo Nê-hoàn, nếu như vậy, không thể chấp tướng, phàm phu đủ các thứ tội nghiệp, tâm có sở đắc mà được vãng sinh, nên phải nương theo văn kinh của Đại thừa và Trung luận, Bách luận v.v… học rộng không chỗ đắc pháp, mới có thể vãng sinh Tịnh độ. Nay mới khuyên người y theo kinh Quán, thực hành làm mười sáu pháp quán: Cây báu, ao báu, và sắc thân tướng tốt của chư Phật, Bồ-tát, hoặc xưng danh hiệu, tồn tâm trụ tướng, há chẳng phải là có tâm sở đắc trụ trước các tướng, thành bệnh hay sao? Đã là có bệnh, thì không tránh khỏi luân hồi, làm sao được sinh về Tịnh độ Tây phương của Phật? Đáp: Nếu có thể quán tất cả pháp rốt ráo vắng lặng, không năng quán sở quán, lìa các phân biệt và không phân biệt, thực hành quán sát này, được sinh Tây phương, đều là thượng bối vãng sinh. Như trong kinh Quán nói: Thượng phẩm sinh, là đối với Đệ nhất nghóa, tâm không kinh động, người này khi qua đời, Phật A-di-đà cùng các Thánh chung đến đón rước người tu hành, khen rằng: “Này Pháp tử! Do ông hiểu Đệ nhất nghóa đế, ta đến đón ông”, liền vãng sinh về cõi vô lượng thọ ở Tây phương. Nhưng người phàm ngu, ở thế tục nhiều âu lo, không thể học rộng các kinh Đại thừa, quán Đệ nhất nghóa đế, thực hành pháp quán vô sở đắc, hoặc thanh tịnh trì giới cấm, hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ, hoặc tu hành mười điều lành, chuyên xưng niệm Phật, tuy có sở đắc, đều là công đức thù thắng không thể suy nghó bàn luận, đều được vãng sinh Tịnh độ Tây phương, như kinh có nói. Nhưng hành môn vãng sinh Tịnh độ chẳng phải một, người vãng sinh chín phẩm sai biệt, há chỉ nói pháp không sở đắc mà được vãng sinh, trong khi không tin ba thứ phước, mười sáu pháp quán vãng sinh Tịnh độ? Lại có tâm sở đắc thông cả ba tánh, nghiệp thiện và bất thiện đều có thể chiêu cảm quả báo, nay ba phước tất cả đều là thiện nghiệp, kinh nói là “nghiệp lành chánh nhân của chư Phật ba đời”. Đã là nghiệp lành đâu không chiêu cảm quả báo Tịnh độ? Nay ông nói rằng vì sao chỉ nhờ vô sở đắc mà được vãng sinh? Có tâm sở đắc không được vãng sinh, xuất xứ ở kinh giáo nào? Đã không có Thánh điển, làm sao là bằng cứ sở y? Nay kinh Quán nói đủ ba phước, mười sáu pháp quán, thực hành các nghiệp tướng này, mới được vãng sinh, văn nghóa hiển nhiên, không thể phỉ báng, nếu không y theo Thánh giáo thì tự mình ra khỏi phàm tình? Nếu có tâm sở đắc không được sinh Tịnh độ, vì có tâm sở đắc là thiện tánh, có phước thù thắng, có thể diệt tội nặng ở Ta-bà, được sinh Tịnh độ Tây phương, như pháp quán đất… nói: “Thực hành pháp quán này, trừ tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, xả thân đời khác, chắc chắn sinh về Tịnh độ, tâm được vô ngại.” Đây há chẳng phải thực hành hữu tướng quán… được sinh Tây phương? Nếu không tin những ngôn giáo như thế, thì là không tin nhận ngữ luân của Phật, thành tựu mười ác luân tội. Còn nói: “Xưng danh hiệu Phật, trong mỗi niệm diệt được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử, được sinh về thế giới Cực lạc Tây phương.” Như các văn kinh này, thật chứng rất nhiều, không được phế bỏ. Có nhiều Thánh giáo nói không được vãng sinh, chỉ nói học không sở đắc mà được vãng sinh. Do chúng sinh vãng sinh có phàm, Thánh, thông cả Đại, Tiểu thừa, có tướng, vô tướng, định tâm hay tán loạn, căn lợi độn, thời gian dài ngắn, tu tập ít, nhiều, đều được vãng sinh, nhưng có ba hạng chín phẩm khác nhau, hoa nở sớm muộn có khác, ngộ đạo nhanh chậm không đồng, nên biết sự vãng sinh đã có phẩm loại khác nhau, tu nhân cũng có cạn, sâu khác biệt. Không thể chỉ nói, chỉ tu không có sở đắc mà được vãng sinh, có tâm sở đắc không được vãng sinh. Do người vãng sinh chẳng phải chỉ có bậc Thánh, phàm phu cũng được vãng sinh. Tịnh độ Phật có lý có sự, có báo có hóa, nên tu nhân ấy có nhiều thứ khác nhau: Sinh lý Tịnh độ, tu nhân vô tướng; sinh sự Tịnh độ, tu nhân hữu tướng. Sinh báo Tịnh độ, tu nhân vô lậu; vãng sinh hóa Tịnh độ, tu nhân hữu lậu. Độ đã có gốc ngọn, nhân cũng có hơn kém, nên chẳng phải một nhân vô tướng mà được sinh tất cả Tịnh độ.  THÍCH TỊNH ĐỘ QUẦN NGHI LUẬN <卷>QUYỂN 2 Hỏi: Vãng sinh Tây phương là do tâm quá khứ sinh, tâm hiện tại sinh hay tâm vị lai sinh? Nếu nói tâm quá khứ sinh thì tâm quá khứ đã mất không thể nói là sinh? Nếu nói tâm vị lai sinh thì tâm vị lai chưa đến, làm sao nói là sinh? Nếu tâm hiện tại sinh thì tâm hiện tại không trụ, làm sao nói là sinh? Dùng ba đời này để cầu sinh đều không được, vì sao nay lại khuyên sinh Tây phương? Thích: Đem ba đời để suy, quá khứ đã diệt, tương lai chưa đến, và hiện tại không trụ, không có cái sinh nào đúng lý, giống như bấc đèn, chẳng phải bấc đã cháy trong quá khứ, vì đã tắt; chẳng phải bấc cháy ở vị lai, vì nó chưa sinh; chẳng phải bấc cháy trong hiện tại vì nó không trụ. Chảng phải không đốt bấc đèn, xóa bóng tối, phát ánh sáng. Niệm niệm tiếp nối nhau, cái cũ này diệt cái mới khác sinh, nối tiếp nhau như dòng nước chảy, trong một thời có bốn công dụng. Xóa bóng tối phát ánh sáng dụng cụ nóng đốt bấc cháy lên, ở đây cũng như vậy. Do nghiệp cảm Tịnh độ sinh khi thuần thục, Thánh chúng đến đón rước về Tịnh độ, xả bỏ chất dơ bẩn Ta-bà, thành thân thanh tịnh ở Cực lạc, duyên sinh ba đời, không thường, không đoạn, tuy trở về các pháp vắng lặng, nhưng nghiệp báo y nhiên, các pháp vô sinh, sinh tử nối nhau, không bị hư hoại, thế đế, kiến lập Đệ nhất nghóa đế, tức là nghóa ấy. Nên kinh Duy-ma nói: “Đại só Tịnh Danh gạn hỏi ngài Thân Tử rằng: - Pháp mà Ngài đã được có tướng mất sinh không? Xá-lợi-phất đáp: Không có mất sinh. Duy-ma-cật hỏi: Nếu các pháp không có tướng mất sinh, thì tại sao hỏi: “Ông từ chỗ nào sinh đến đây?” Đây là nói rõ về Đệ nhất nghóa đế, các pháp vắng lặng, không đi, không đến, nên nói là không có mất sinh. Kinh nói: “Có thế giới tên là Diệu Hỷ, Phật hiệu Vô Động, Duy- ma-cật ở nước Diệu Hỷ mất đi mà sinh đến đây.” Duy-ma-cật nói: “Không” là tướng bại hoại pháp, luống dối, “sinh” là tướng nối nhau của pháp luống dối. Đây là nói Thế đế giả danh, chẳng phải tướng sinh diệt thật. Nay khuyên xả bỏ cõi dơ bẩn này, sinh về Tịnh độ kia, nhưng trong Đệ nhất nghóa đế, ba đời suy ra điều đó, hoàn toàn không có nghóa vãng sinh. Thế đế là nhân duyên, sinh diệt là giả danh, hoàn toàn không xả bỏ Ta-bà này để vãng sinh cõi Phật. Thân tử đâu được biện luận lý Đệ nhất nghóa đế để phá hỏng tác dụng của các thứ nhân quả thế đế? Chỗ này cũng có nói trong môn Nhân quả thế đế, khuyên vãng sinh Tịnh độ. Hỏi: Kinh Kim cang Bát-nhã có câu kệ: Nếu dùng sắc thấy ta Dùng âm thanh tìm ta Người này hành tà đạo Không thể thấy Như Lai. Lại nói: “Lìa tất cả tướng, tức gọi chư Phật.” Vậy tại sao nay lại quán Phật hữu tướng, hành tà đạo, mà nguyện cầu vãng sinh? Đây thật là khó hiểu! Đáp: Bát-nhã, kinh Quán đều là Thánh giáo, quán tướng, vô tướng, đều là lời phi phàm, nói xen lẫn là tà, rất có chỉ thú, không thể dựa theo Bát-nhã mà chê bai kinh Quán, vì sao chỉ mang ý niệm tin hay chê lẫn nhau, tự thành tội nặng, cũng chính là đối với Thánh giáo của Phật chưa hiểu dung thông. Vì sao? Hai bộ kinh này, từ con người, việc học, cho đến chỗ hiểu đều khác nhau, thành ra thuyết này. Do người: Người có căn cơ cạn cợt, chưa thể quán lý, thì dạy họ quán sắc, quán báo thân, hóa thân; Người có căn cơ sâu, có thể quán được thật tướng, thì dạy họ quán vô tướng, quán pháp thân. Người cạn học sâu thì pháp sâu chẳng phải là thuốc, cam lộ yểu mạng, kinh có nói thật; người căn sâu học cạn, thì không tiến đạo được, gọi là thoái nghiệp, làm sao có thể tiến tu? Nên Phật đối với hai căn cơ đó mà nói hai giáo này. Do học: Người mới học, bắt đầu vào đạo, quán hạnh vẫn chưa hiểu, chưa thể học sâu nên không thể dạy cho họ quán Thật tướng, phải dạy họ quán sắc, điều luyện tâm của họ, sau đó học mới thành, tiến lên tu vô tướng. Ví như xuống biển, từ cạn xuống sâu, người học lâu, mới có thể học tiến lên được. Quán vô tướng kia là ngăn chận sắc tướng của người mới học kia, được bước lên hạnh đó, chê cái trước là tà, chẳng phải nói đây thuộc về tà kiến. Như người bỏn sẻn học bố thí, cái chướng bỏn sẻn đã tiêu trừ, trệ vào việc tu lần đầu, Phật muốn khuyên họ tiến lên học giới, nếu không dẹp cái trước thì do đâu mà học tập cái sau, nên chê bố thí, khen ngợi hạnh trì giới. Đây là Đại Thánh khéo thích hợp vật cơ, người ngu không biết, chấp văn mê nghóa. Nay nói tà đạo, lý cũng giống như ở đây. Do hiểu: Như biết sắc tức không, thì quán sắc chẳng phải tà; nếu mê sắc bất không thì quán sắc là tà; nếu biết không tức sắc, thì quán không chẳng phải tà; nếu biết không khác sắc, thì quán không là tà. Đây là hiểu lầm đường khác, tự chia ra xấu đẹp, quan hệ thế nào từ hai cảnh sắc không để phân biệt tà chánh? Nếu ông hiểu được tông đồ này, thì thường quán sắc mà luôn chánh, nếu mê chỉ thú này, thì dù quán không, vẫn là tà. Là nh thay diệu chỉ, xin hiểu rõ tận cùng của nó. Hỏi: Kinh Kim cang Bát-nhã nói: “Như Lai không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.” Kinh Duy-ma nói: “Ta quán Như Lai, mé trước không đến, mé sau không đi, nay là không trụ.” Văn-thù-sư-lợi nói: “Không trụ cũng không đi, không lấy cũng không bỏ, xa lìa sáu nhập, kính lễ vô sở quán.” Y cứ theo đây, các bậc Thánh Đại thừa dạy: “Phật vốn không đến cũng không đi”, vì sao kinh Quán nói: “Có Hóa Phật đến đón, theo hóa Phật mà vãng sinh?” Có đến có đi là trái với kinh rồi? Thích: Thật tướng sâu xa, diệu lý bình đẳng; pháp thân Như Lai, vốn không sinh diệt. Vì bản nguyện Phật, vô hạn đại bi, tiếp dẫn chúng sinh, từ chân thật khởi ra biến hóa. Như Lai trong các thế giới ở mười phương tiếp dẫn, ba bậc chín phẩm, vì biến hóa tức là chân thật, không đến, không đi, nhưng tùy cơ ứng vật, nên có đi có đến. Trước kinh căn cứ hóa thân có Thật, nên nói không đến, không đi. Kinh Quán căn cứ từ thật trở về hóa, nên hiện ra có đi có đến. Hơn nữa, Tây phương có giải thích rằng: “Sự thật không có Phật từ Tây phương đến đây, đưa tay đón rước, cũng không có Phật dẫn chúng sinh kia vãng sinh Tịnh độ, nhưng do công đức bản nguyện từ bi của Như Lai làm năng lực tăng thượng duyên, nên khiến chúng sinh có duyên với Phật, niệm Phật, tu ba thứ phước, mười sáu pháp quán, các công đức… làm nhân duyên, từ trong tâm hiện ra Đức Phật A-di-đà đến đón rước, hành giả theo Phật vãng sinh. Nói Đức Phật kia, đến, nhưng không phải thật đến, mà là hạt giống công đức cùng với chỗ hóa sinh hợp đúng thời cơ, khiến thấy có Hóa Phật đến đón, nên nói đến, chứ thật sự không có đến. Công đức và bi nguyện của Đức Phật A-di-đà vắng lặng thường tịch, không đi không đến, thức tâm của chúng sinh gá vào thắng lực công đức bản nguyện của Phật, từ trong tâm biến hiện có đi có đến, đón rước hành giả, thấy có qua lại, là tướng phần của tự tâm, chẳng có liên quan gì đến Phật cả. Nên trên đây kinh nói không đến không đi, là nói theo công đức của Phật, còn kinh Quán nói có đến có đi là nói theo tâm tướng chúng sinh. Lại còn giải thích rằng: Như Lai ứng cơ, cũng hiện các hóa thân trong mười phương đến đón rước chúng sinh vãng sinh, chư Hóa Phật kia từ kính trí đại Bi của Phật hóa hiện ra nên nói các Đức Phật kia sai hóa Phật đến đón. Nhưng sai hóa Phật đến đón như trống trời Ma-ni, không nghó mà thành việc. Nhưng thân hóa hiện có đi có đến, mà nói không đi, không đến, có lẽ là nói theo thật, ở trước đã giải thích rồi. Hoặc đứng về mặt sinh diệt, niệm niệm không dừng, sinh rồi liền diệt, không thể di động, ngay nơi đó sinh, ngay nơi đó diệt, chỗ khác sinh, chỗ khác diệt, dường như nối tiếp nhau, giả nói đến, đi, như cái vòng lửa, chẳng phải tướng vòng tròn, giả nói có đến, đi. Thật ra thì không có đến đi. Nên trong luận Vật Bất Thiên, Triệu Pháp sư nói: Gió bay núi tuyết mà thường tónh, Nước sông đổ gấp mà chẳng trôi, Bụi trời lăng xăng mà chẳng động Trăng qua bầu trời mà chẳng đi. Vì sự sinh diệt này mau chóng, nên không thể dời động được. Hỏi: Kinh Niết-bàn nói: “Bỏ sắc vô thường, giữ lấy sắc thường. Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như vậy.” Lại nói: “Chư Phật là thầy nói pháp. Vì pháp thường, nên chư Phật cũng thường.” Đây tức là ba thân bất động không dời đổi, nay mới nói sinh diệt không dừng, nghóa này thế nào? Thích: Sự tranh luận này không phải mới có hôm nay. Một số Đại đức, học giả Niết-bàn nói: “Ba thân ngang nhau, thường bất sinh bất diệt, dẫn rộng các kinh Niết-bàn và kinh Bồ-tát Bổn Nghiệp Anh Lạc chứng ba thân đều thường, chỗ này phần nhiều là y theo giáo. Cũng có một số Đại đức y theo luận Nhiếp Đại thừa giải thích Phật có ba thân, thường có ba thứ: Ngưng nhiên thường là Pháp thân của Phật. Bất đoạn thường là thân Thọ dụng của Phật. Tương tục thường là Biến hóa thân của Phật Tuy gọi là thường nhưng nghóa khác nhau, hai thân sau (thân Thọ dụng và thân Biến hóa) từ sinh nhân sinh ra. Luận Bát-nhã nói: Báo thân, Hóa thân, từ sinh nhân sinh ra, các tạo tác đều vô thường. Nếu là bất động thì phải đồng pháp thân, chứng liễu nhân thì phải phi ấm, cũng không có duyên lự, ngôn thuyết, động tác, dùng các nghóa lý này để suy thì chẳng phải bất động thường. Như luận Duy Thức rộng thành lập. Còn đứng về “Biến Kế Sở Chấp” thì chúng sinh vọng chấp Phật có đến, đi. Vì phá vọng chấp ngoài tâm có Phật, có qua có lại, để phá vọng tình, nên kinh nói: “Không đến, không đi”. Kinh Duy-ma-cật nói: “Lành thay! Văn-thù-sư-lợi, không hề đến mà đến, không hề thấy mà thấy.” Nay kinh Quán nói: “Có qua lại, không trái với các kinh Đại thừa.” Mỗi kinh căn cứ một nghóa, đều là khéo nói. Hỏi: Kinh Pháp Cú nói: “Phật dạy Bồ-tát Bảo Minh rằng: “Này thiện nam! Ông hãy quán danh tự chư Phật này, là có hay không? Là thật hay không? Này thiện nam! Nếu danh tự là có, thì nói cho người ăn phải được no đủ. Nếu ăn no đủ rồi thì tất cả sự ăn uống không còn tác dụng. Vì sao? Vì khi ăn no rồi thì không cần ăn nữa.” Xét nghóa kinh này, muốn nói danh tự tánh không, thì không thể giải thích các pháp. Nay đã dạy người chuyên xưng danh hiệu Phật, tiêu trừ trọng chướng, vãng sinh Tây phương, vì sao có thuyết khác nói ăn mà bụng no, nói uống mà hết khát? Thích: Theo các kinh điển nhiệm mầu của Đại thừa, đều nói danh từ là hư giả, không có thật. Nên kinh nói: “Tính của văn tự là xa lìa, không có văn tự”. Lại nói danh nghóa làm khách lẫn nhau, Bồ-tát nên tầm tứ. Nhưng im lặng không nói, lặng lẽ ngồi yên, nếu muốn nắm bắt bên cạnh thì không đắc đạo, ngài Tu-bạt-ma chứng quả, tuy có thể nói khác, nhưng không thể nói ăn mà được no. Tên chung có giải thích rõ ràng và nhờ lời nói mà hiểu được lý. Nhờ lời nói mà hiểu lý, dụ như dùng ngón tay chỉ mặt trăng, danh tự tánh không, nên phải bỏ thuyền. Phật vì người ngu chấp trước, duyên theo danh mà sinh mê hoặc, hoặc thương, hoặc giận, tạo đủ tội lỗi, mắng ta, khen ta, khởi sinh, khởi sát, tạo đủ mọi nghiệp ác, điên đảo rơi vào ba đường, nên vì phá hoặc tình kia mà nói văn tự hư giả. Dù có khen chê, đâu có vinh nhục gì cho thân ông? Nếu nói nhờ khen ngợi mà thân ông được vinh hoa, vì chê bai mà hình chất của ông bị tổn hại thì cũng phải nói ăn được no, nói lửa đốt thân, dù suốt ngày miệng nói mùi vị thơm ngon, nhưng không tránh khỏi khốn khổ đói khát; cả đêm nói đốt lửa lớn, không thấy cái hoạ của đốt thân. Nên biết rằng thể của danh tự trống rỗng, vốn không chân thật, phàm phu không hiểu, luống khởi ghét thương, tranh danh đoạt lợi, đắm chìm đường ác. Nếu nói danh từ vô dụng thì không thể giải thích thể của các pháp, cũng nên gọi nước lửa đến, sai nam nữ đến. Họ nhất nhất mời gọi, không có sai lệch. Nên biết nơm chẳng phải không, cá thỏ đều ở đây mà được. Nên khiến Phạm vương khải thỉnh xoay bánh xe chánh pháp, Đại Thánh ứng cơ, nói rộng diệu chỉ. Áo chỉ của ba tạng xán lạn ở Long cung, mười hai bộ kinh rực rỡ ở Linh Thứu, trời người Phàm Thánh đều lãnh thọ, năm đường, bốn sinh đều vâng lời di huấn, nghe đọc tụng, lợi ích sâu rộng, xưng niệm danh Phật, vãng sinh Tịnh độ, cũng không được chỉ nói danh tự là hư giả, không có giải thích. Hỏi: Luận Du-già sư địa nói: “Bồ-tát Tam địa mới sinh Tịnh độ” Nay khuyên phàm phu, Thanh văn Địa tiền vãng sinh là có ý gì? Thích: Các văn kinh luận nói vãng sinh Tịnh độ, mỗi chỗ đều căn cứ một nghóa, lấy bỏ khác nhau, hoặc trên hoặc dưới, người luận khác nhau. Tịnh độ có thô diệu, hơn kém, các thứ thù dị khác nhau, được vãng sinh cũng có các thứ bậc thượng hạ, cũng như kinh Nhân Vương nói: Duy một mình Phật ở Tịnh độ, Tam hiền Thập Thánh ở quả báo độ, đây tức nói từ Thập địa trở xuống không được sinh Tịnh độ, do Tịnh độ hiện ra trong Đại viên kính trí của Phật là vô lậu nên gọi là tịnh. Các Tịnh độ vi diệu do bản thức của từ Thập địa trở xuống biến ra là hữu lậu nên không gọi là tịnh. Do thức thứ tám là thức quả báo nên cõi biến ra gọi là quả báo độ. Nếu dựa theo việc tu hành thí, giới, xa lìa định chướng vô lậu, hay lấy định lực mà thọ sinh tự tại nơi mọi Tịnh độ, tức là Bồ-tát tam địa được định tự tại. Cho nên luận Du-già nói: Bồ-tát tam địa mới sinh Tịnh độ. Nếu dùng trí vô phân biệt đã chứng đắc mà đoạn trừ hai chấp nhân, pháp và phiền não kiến đạo, chứng đắc biến mãn pháp giới, ngộ được bách pháp minh môn, được sinh Tịnh độ Phật, thì từ Sơ địa trở lên được sinh Tịnh độ. Nếu dùng bản nguyện đại Bi dẫn dắt tất cả chúng sinh phàm phu ngu muội cho đến hạng ngũ nghịch thập ác hạ phẩm hạ sinh phát tâm Bồ-đề thì tất sẽ được vãng sinh như trong kinh đã nói. Không thể chỉ dựa vào luận Du-già nói Tam địa được sinh, tức nói Sơ địa và Nhị địa Bồ-tát không được sinh Tịnh độ. Đức Phật thọ ký Bồ-tát Long Thọ đăng sơ địa được sinh thế giới Cực lạc Tây phương, há lại nói chưa đến Tam địa không được sinh Tịnh độ thì trái với kinh này. Lại nữa, Bồ-tát sơ địa, theo kinh Nhân vương nói được bách pháp minh môn, thấy trăm Tịnh độ Phật vì sao nói không được sinh Tịnh độ? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phàm phu sơ phát tâm, Bồ-tát nguyện sinh Tịnh độ, liền được vãng sinh.” Nên biết luận Du-già văn riêng y cứ nhất tướng, được định tự tại, lìa tướng mà nói. Hỏi: Luận Nhiếp Đại thừa, luận Đối pháp, các đại luận sư như Vô Trước, Thiên Thân giải thích các kinh luận, các thứ văn nghóa có bốn ý thú, bốn bí mật, nói chỉ do phát nguyện mà được vãng sinh Tây phương, đây là biệt thời ý, nay khuyên người tu nghiệp Tây phương liền được vãng sinh, đâu có lẽ đó? Từ Nhiếp luận đến nay, có hơn một trăm năm, các Đại đức đều thấy luận văn này, không tu Tây phương Tịnh nghiệp, nay nói được vãng sinh, há chẳng phải trái với kinh này sao? Thích: Nhiếp luận nói: “Chỉ do phát nguyện mà được vãng sinh, đây là biệt thời y.ù” Nhưng xưa nay các Đại đức đều dùng văn này để chứng minh đây là ý của biệt thời này nói chưa được sinh ngay. Nay xét văn này, chứng tức được vãng sinh, hiển rõ ý của luận chủ. Vì sao? Vì luận nói: Chỉ do phát nguyện, là nghóa chọn lựa hành trì, chọn hạnh niệm Phật, giữ lấy chỉ phát nguyện rỗng không lại không hành trì, ít có nguyện này. Cho nên nói “chỉ do phát nguyện”. Nếu chỉ phát nguyện mà được vãng sinh, đây tức là biệt thời ý. Chẳng phải khi phát nguyện, cuối cùng liền được sinh Tịnh độ. Cho nên nói là biệt thời. Thời nay, người chí tâm niệm Phật, tức là hạnh ý nghiệp thiện; xưng danh hiệu Phật, tức hạnh ngữ nghiệp thiện; chắp tay lễ bái, tức hạnh thân nghiệp thiện . Do hạnh ba nghiệp thiện này, có công năng diệt tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, hạnh và nguyện giúp nhau, liền được vãng sinh, đây há chỉ là nguyện sao? Thuyết này của luận chủ, nói chỉ do phát nguyện, ý hiển lộ gồm cả hạnh, chẳng phải ý của biệt thời, hoặc không tìm kỹ văn nghóa, mơ hồ nói chung là biệt thời. Nếu dùng tâm niệm Phật thì hạnh cũng là biệt thời, văn luận nguyên nhân nào không nói niệm A-di-đà Phật được sinh Tây phương, đây là biệt thời ư? Đã không nói lấy niệm Phật, tu mười sáu pháp quán hành, ba thứ phước thiện làm giáo của biệt thời, nên biết niệm Phật vãng sinh Tây phương, chẳng phải là biệt thời ý. Có người giải thích rằng: Niệm Phật, tu mười sáu phép quán, tức là phát nguyện? Lại có người khác giải thích: Luận sư tuy nêu nguyện rằng: Ý vừa giữ lấy niệm Phật, vừa là biệt thời ý. Nay có một giải thích nữa rằng: Hiển rõ lợi ích? Là giải rõ nghóa? Nếu làm rõ lợi ích, mà giải thích văn này, càng làm cho vô lượng chúng sinh trôi lăn trong cõi uế, trôi lăn trong ba đường, không được vãng sinh Tịnh độ, ra khỏi sinh tử. Nếu người giải nghóa, xem kỹ câu văn chọn nghóa, còn e không hợp với tông đồ, giải thích văn luận một cách mơ hồ, trái lại đem đến sự sai lầm đối với chỉ thú? Như luận Câu-xá nói: Các bộ đua nhau giải nghóa, dẫn Thánh giáo Phật, đặt ra chỉ quy, lấy bỏ một chữ, hai chữ, để thành các bộ được mất, huống chi các giáo như kinh Quán… trình bày đầy đủ các hạnh môn, hoặc nói về ba thứ phước tán thiện là chánh nhân của Tịnh độ, hoặc nói mười sáu diệu quán là chánh nghiệp của Tịnh độ Tây phương, vì sao lại đem góp chung làm văn phát nguyện? Còn sở dó được biết các Luận sư không cho niệm Phật là biệt thời ý, chỗ này có tám nghóa: Luận sư giải thích kinh, vốn cho rằng kinh khó hiểu là giáo lý rất sâu xa, phàm phu đọc không thể hiểu nổi, nên mới soạn luận để giải thích lời Phật dạy, để giúp cho kẻ trí, người ngu đều biết, như kinh Quán, kinh Vô Lượng Thọ và kinh A-di-đà đã nói, niệm Phật A-di-đà được sinh Tây phương, văn nghóa rõ ràng, trí ngu đều hiểu, đâu cần dụng chỗ không rõ phải luận thích ư? Tỳ-kheo Pháp Tạng phát bốn mươi tám lời thệ nguyện tiếp dẫn chúng sinh, muốn cho họ sinh về Tịnh độ của Phật, đâu có đem biệt thời ý mà phát nguyện rộng lớn tiếp dẫn chúng sinh? Trong nguyện đó nói: “Nếu người niệm Phật không được vãng sinh, thì ta không thành Chánh giác, không nói chỉ có người phát nguyện không được vãng sinh, không thành Chánh giác. Nên biết hạnh niệm Phật… chắc chắn được vãng sinh, nhập vào bốn mươi tám nguyện, chẳng phải biệt thời. Chỉ do phát nguyện, không vãng sinh, không ở trong bốn mươi tám nguyện, nên là biệt thời ý. Kinh xưng tán Tịnh độ, hằng sa chư Phật mười phương biểu lộ tướng lưỡi rộng dài, chứng đắc vãng sinh, đâu có chứng biệt thời ý. Chư Phật duỗi lưỡi vốn vì những chúng sinh khó tin, nghi ngờ công đức niệm Phật ít, khi qua đời liền được vãng sinh Tịnh độ sinh nghi báng, nên chư Phật hiện tướng lưỡi không luống dối, phát ra lời nói thành thật, khiến chúng sinh đều thấy tướng nghe nói, bỏ được nghi mà sinh lòng tin. Mới nói giáo biệt thời, chưa được sinh Tây phương này, sau khi đến Sơ địa mới được sinh, chúng sinh có nghi ngờ, cần phải có tướng lưỡi của Phật dài ra, để chứng minh vãng sinh Tây phương ư? Kinh A-di-đà trước khuyên chúng sinh phải nên phát nguyện sinh về nước kia, sau dạy xưng niệm danh hiệu Phật một ngày cho đến bảy ngày, tức nói Thánh chúng đến đón rước người qua đời, hành giả được sinh. Nếu nói niệm Phật tức là nguyện, ý nói trước đã khuyên khiến người đó phát nguyện, sau làm sao phải lạy khiến họ niệm Phật? Nên biết văn trước là nguyện, văn sau là hạnh, hạnh nguyện giúp nhau, được sinh Tịnh độ, đâu cho niệm Phật mà là nguyện ư? Luận Tịnh độ và Nhiếp luận đều do Bồ-tát Thế Thân soạn, nhưng cho Thế Thân soạn luận Tịnh độ tức nói niệm Phật được sinh Tây phương, chẳng phải biệt thời ý, Nhiếp luận mới nói niệm Phật bằng với biệt thời ý này, chẳng phải liền được vãng sinh ư? Hai vị soạn luận như thế, cho phép hai sư ý biệt, cần gì Nhiếp luận được chỉ thú kinh, luận Tịnh độ mê Thánh ngôn đó? Huống chi hai bộ luận đều doThế Thân soạn, cho nên văn nghóa chẳng mâu thuẫn, vì luận cầu ở ý người, nên biết nguyện là biệt thời. Luận Tịnh độ nói có năm môn: Môn thân nghiệp lễ bái. Môn khẩu nghiệp niệm Phật. Môn ý nghiệp quán sát. Môn phát nguyện. Môn hồi hướng. Nếu tu hành tức là phát nguyện, ba nghiệp hành trước và môn phát nguyện thứ tư, có gì khác nhau? Nếu là một thì phải không có năm môn; nếu là khác thì nên biết trước là hành môn. Luận Khởi Tín do Mã Minh soạn, nói người niệm Phật được sinh Tây phương, chính là hành môn, chẳng phải biệt thời ý. Nên biết ý của luận do Thiên Thân soạn cũng giống, nhưng không lấy các môn như niệm Phật… làm biệt thời ý. Như Bồ-tát Mã Minh soạn luận Khởi Tín, dạy Bồ-tát Sơ Học rằng: “Có tám nhân duyên mà soạn luận này, đến duyên thứ bảy, là chỉ dạy phương tiện chuyên niệm, sinh ở trước Phật, chắc chắn không lui sụt tín tâm. Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này, muốn cầu chánh tín, tâm họ yếu hèn thấp kém, vì trụ ở thế giới Ta- bà này, sợ không thể thường gặp chư Phật, đích thân thờ phụng cúng dường, lo sợ nghóa tín tâm khó thể thành tựu, ý muốn lui sụt. Nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng, nhiếp hộ tín tâm, nghóa là dùng nhân duyên chuyên niệm Phật, tùy nguyện được sinh, cõi Phật ở phương khác, thường được thấy Phật, xa lìa hẳn đường ác. Như Tu-đa-la nói, nếu người chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc Tây phương, tu các gốc lành, hồi hướng nguyện cầu sinh về thế giới kia, liền được vãng sinh, thường thấy Phật, không bao giờ lui sụt. Nếu quán thấy pháp thân chân như của Đức Phật kia, thường khuyên tu tập, cuối cùng được vãng sinh, trụ trong chánh định.” Nếu cho niệm Phật chẳng phải là hạnh, thì ba phước, mười sáu pháp quán, là hạnh hay chẳng phải hạnh? Nếu là hạnh thì như trong pháp quán đất nói thực hành quán này, trừ tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử, xả thân vào đời khác, được sinh về nước Phật thanh tịnh, tâm không nghi ngờ. Niệm Phật A-di-đà cũng ở trong mỗi niệm diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, được sinh Tây phương. Vì sao diệt tội thì đồng, mà hạnh kia thì đúng còn hạnh này thì sai? Kia được sinh, đây không được sinh ư? Nếu đều là phi hạnh thì phu nhân Vi-đề-hy và năm trăm thị nữ, được Phật thọ ký vãng sinh là nhờ tu các pháp quán này mà được vãng sinh. Nếu do các pháp quán này được vãng sinh, ở đây đã không hành, thì làm sao được sinh? Nếu khởi quán được sinh, thì vì sao phu nhân phải thỉnh nói pháp bất sinh, Như Lai nói pháp bất sinh ư? Còn nếu đều là nguyện môn, thì lẽ ra đời chỉ là một trong số đó, đâu cần phân biệt thành mười sáu pháp quán ư? Lại vì hiểu như thế, chẳng phải hiểu văn kinh, cũng là phá hủy chánh kiến, tự làm tổn hại mình mà còn làm tổn hại người khác, đối với người, đối với pháp, hoàn toàn vô ích. Hỏi: Nếu chỉ phát nguyện là biệt thời ý. Thì như thế nào là biệt thời ý? Đáp: Phật vì chúng sinh phiền não lẫy lừng, trôi lăn sinh tử, đắm chìm trong biển khổ, không hẹn ngày ra khỏi, thế nên xưng tán thế giới Cực lạc Tây phương, y báo chánh báo, bốn thứ trang nghiêm, khuyên các chúng sinh, sinh về Tịnh độ. Các loài chúng sinh tuy nghe Phật pháp nhưng chướng có nặng nhẹ, ngộ có cạn sâu, nên khiến cho y theo giáo pháp có hơn kém sai biệt. Có một loại chúng sinh, tuy nghe Tịnh giáo, nhưng hủy báng chê bai, chẳng những không sinh Tây phương mà còn bị đắm chìm trong đường ác, đây cùng với Tây phương hoàn toàn xa cách. Có một loại chúng sinh, tuy nghe Tịnh giáo, tin sâu không hủy báng, năm dục ràng buộc tâm, vui sống với cõi uế, vừa không phát nguyện, lại chẳng tu hành, người này tu thiện, hoặc sinh trời người, hoặc trở lại tạo ác, chìm đắm trong đường ác, người này vọng sinh Tây phương cũng là xa vời. Vì hoàn toàn không có tâm cầu đến, hoặc còn phỉ báng chê bai. Kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói: “Nếu có chúng sinh nghe nói giáo pháp Tịnh độ, nghe như không nghe, trở lại sinh phỉ báng, ta nói người này chưa được giải thoát, mới từ trong đường ác đến, không có tín hướng, cũng hoàn toàn không có hạnh nguyện, nên không được giải thoát.” Có một loại chúng sinh, có túc duyên thuần thục với Phật Di-đà, nghe nói giáo môn Tịnh độ, tâm thanh tịnh kính tin, phát thệ nguyện rộng lớn, nguyện vãng sinh Tịnh độ Tây phương, càng không mong cầu quả báo trời, người. Dù có nguyện này, nhưng người này hoặc vì nhân duyên phiền não, đắm nhiễm năm dục, hoặc lại biếng nhác buông lung, không thể tu đạo, vì gặp ác tri thức, gây ra mười nghiệp ác, hoặc khi sắp qua đời không gặp Thiện tri thức, hoậc vì thân bị bệnh nặng, cuồng loạn mất tâm, hoặc bị thất ý lâu ngày, không hiểu lời nói của người, nên không phát nguyện, chưa từng tu tịnh hạnh, tuy không vãng sinh Tịnh độ, nhưng nguyện này là sinh nhân xa, hoặc do thắng lực phát nguyện, về sau chắc chắn có thể tu hành, hoặc người khởi hạnh, chắc chắn có ý tu hành, người đó tuy chưa thể khởi hạnh, nhưng sẽ có công phu khởi hạnh. Hai hạng người trước tức có nghóa vãng sinh xa, nên kinh khen ngợi người này được vãng sinh Tây phương. Người ngu sẽ cho rằng liền được, không nhờ riêng tu tịnh nhân. Luận sư giải thích văn kinh này, đây là biệt thời ý, chẳng những chỉ do phát nguyện liền được vãng sinh Tây phương, mà người sau đọc luận không hiểu liền nói thực hành không được vãng sinh, đây rất là sai lầm. Còn có một loại chúng sinh, gốc lành rất sâu dày, phiền não mỏng nhẹ, gặp được thắng duyên, nghe được Tịnh giáo, sinh lòng tin thanh tịnh, phát nguyện tu hành, khi qua đời được vãng sinh, đầy đủ như kinh nói. Đây là hành nguyện đầy đủ, liền được vãng sinh, khác với nguyện rổng không (suông) của người kia, nên chẳng phải giáo lý biệt thời. Phật đối với hai hạng người chưa được vãng sinh ở trước, thọ ký cho người phát nguyện thì được vãng sinh; Luận sư sợ người đồng hạnh nguyện đầy đủ liền được vãng sinh, cho nên chia riêng người chỉ có nguyện là biệt thời ý. Nên nguyện dụ ban đầu là một đồng tiền vàng, niệm Phật tu hành là chín trăm chín mươi tám đồng tiền vàng, khoảng giữa của vãng sinh Tịnh độ là một ngàn đồng tiền vàng. Nên Nhiếp luận nói: “Như dùng một đồng tiền vàng để đổi, được một ngàn đồng tiền vàng.” Còn như niệm Phật Đa Bảo, chưa hẳn đến địa vị Bất thoái. Vị Bất thoái ở thập trụ sơ tâm, khi người này đang niệm Phật Đa Bảo, hoặc là tâm trước thập tín, hoặc là sơ tâm thập tín… chưa thể niệm Phật Đa Bảo liền vượt qua thập tín mười ngàn kiếp, tức đến sơ tâm thập trụ, vì khoảng giữa cần phải tu tám vạn bốn ngàn hạnh Ba-la-mật mới đến sơ tâm. Mà niệm Phật Đa Bảo cùng với hạnh bất thoái là duyên xa, nên gọi là biệt thời ý. Trên đây đã dùng nhiều nghóa để hiển rõ biệt thời ý, từ cửa ải phát nguyện, chẳng phải là người khởi hành, đó là Luận sư Nhiếp luận nói về ý biệt thời. Còn văn biệt thời ý của Nhiếp luận là báo Tịnh độ chỉ nguyện niệm Phật, lý chưa sinh ngay, nếu hóa Tịnh độ chỉ nguyện niệm Phật, thì chắc chắn được sinh ngay, như kinh Hoa Nghiêm, nói không nên nghi ngờ. Hỏi: Chúng sinh vãng sinh Tịnh độ, chỉ có cõi người này mới được tu tịnh nghiệp, và được vãng sinh, có chung cho các đường khác, cũng được vãng sinh, và cuối cùng là ở trong đường u minh cũng được vãng sinh hay không? Đáp: Trong năm đường tất cả đều có thể tu Tịnh nghiệp Tây phương, được sinh Cực lạc, xét các vị trời đã có thể đến nghe kinh Quán. văn sau kinh Quán có nói: “Vô lượng các vị trời, rồng, Dạ-xoa nghe Phật nói đều rất vui mừng.” Kinh Xưng Tán Tịnh Độ ví dụ trong chúng nói: “Vô lượng các vị trời v.v… vì nghe pháp, nên đều đến nghe pháp.” Nên biết tất cả muốn nguyện sinh Tịnh độ, đều có thể tu tập tịnh nghiệp, được sinh Tây phương. Lại xét: Kinh Bồ-tát Xử Thai quyển bốn nói: “Rồng hóa sinh trì giới Bát quan trai, chim cánh vàng muốn ăn không được, bèn hỏi về pháp tu đó, rồng nói pháp Bát quan trai cho chim. Chim cánh vàng theo rồng xuống cung Hải long vương, bấy giờ rồng con lại nói bài kệ cho chim cánh vàng. Bầy giờ long tử, long nữ tâm ý khai mở, sau khi chết đều được vãng sinh về cõi nước của Phật A-di-đà.” Lại xét: Kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh nói: “Nếu vì người mất, mà đem những vật trang nghiêm thân, nhà cửa vườn rừng, ao tắm để cúng thí Tam bảo, thì phước này rất nhiều, năng lực công đức rất mạnh, có thể bứng được cái tai họa của địa ngục kia. Do nhân này liền hết buồn khổ, được giải thoát lâu dài, vãng sinh về các cõi Phật ở mười phương.” Lấy đây làm chuẩn để biết, chúng sinh trong năm đường đều được vãng sinh về cõi Cực lạc. Hỏi: Thọ sinh cõi uế trong ba cõi, chỉ có hình sắc, đều thọ thân trung ấm, chết chỗ này, sinh chỗ kia, qua lại truyền thức, có bốn hữu: Trung hữu, sinh hữu, bản hữu, và tử hữu, chẳng biết từ đây sinh Tịnh độ, có trung hữu không? Đáp: Ở đây có hai cách giải thích: Nói không có trung hữu, vì những người này qua đời liền ngồi trong hoa sen, nên biết là thuộc về sinh ấm, vì vào trong hoa sen, giống như bào thai. Nay giải thích nghóa này, chưa hẳn là như thế, vả lại như pháp thọ sinh của cõi uế, phải đến chỗ sinh kia mới thọ sinh ấm, như chết ở cõi Dục sinh ở cõi Sắc, phải từ cõi Dục chết rồi thọ thân trung hữu trong cõi Sắc, đến cõi Sắc kia mới thọ sinh ấm, không có ở cõi dục thọ thân sinh hữu ở cõi Sắc. Nay sinh ở Tịnh độ ý nghóa cũng như thế, không thể chết ở cõi uế, từ ở cõi uế thọ thân sinh hữu ở Tịnh độ, phải đến trong ao báu ở Tịnh độ kia, mới thành sinh hữu thân. Lại cõi vô sắc, vô sắc có thể không có trung ấm truyền thức thọ sinh, Tịnh độ hữu sắc, xứ sở đã khác, làm sao không có ở trung ấm truyền thức, đến chỗ kia thọ sinh ấm? Hỏi: Nếu có trung ấm, thì phải sinh chỗ kia đến trong ao báu, mới vào trong hoa ngồi, sau đó hoa mới nở, làm sao bấy giờ vào trong hoa, cũng có khác gì với sinh ấm kia đâu? Đáp: Chẳng lẽ cho trung ấm vào trong hoa kia, là khiến thuộc về sinh ấm kia? Sinh về Tịnh độ kia, năng lực phước đức thù thắng, tuy là trung ấm, nhưng nương hoa vãng sinh, khác với cõi uế trung ấm không có hoa. Tuy trung ấm, sinh ấm đồng ở trong hoa, nhưng hơn kém khác nhau, minh hối có khác, nên chia ra trung ấm, và sinh ấm khác nhau, cũng vì cõi đến sinh nghóa khác nhau, nên chia trung ấm, sinh ấm khác nhau. Bất kể có hoa hay không hoa, đều chia ra trung ấm, và sinh ấm riêng biệt. Nếu nói đồng ở trong hoa khó có thể khác nhau, tức khiến không có trung ấm đó cũng được. Trong cõi uế, trung ấm, sinh ấm đều không có hoa, phải nói trung ấm, và sinh ấm không khác nhau. Nếu nói trung ấm, và sinh ấm tuy đều không hoa tức có thọ thai khác nhau là noãn sinh, thai sinh, thấp sinh. Hóa sinh và sinh ấm làm sao khác được? Vì thế mà biết có trung ấm. Còn như trung ấm ở địa ngục đã bị lửa thiêu, há không khác với sinh ấm? Ngược lại thiện nghiệp Tịnh độ giống nhau, trung sinh tương tự. Nhưng ở đây đã nói trung ấm, nhưng chưa thấy kinh luận nói Tịnh độ bỏ thân trung ấm này, chẳng phải là trung ấm, văn không thể quyết phán có hay không. Tuy không có văn kinh nhưng chọn nghóa có là hơn, không như vậy thì bỏ thân nói là gì? Hỏi: Nếu có trung ấm, thì không biết trung ấm ở Tịnh độ này có mặc y phục hay không? Đáp: Không có văn kinh luận, nhưng chuẩn định, thì phải mặc y phục, vì luận Câu-xá nói: “Trung ấm trong cõi Dục, trừ Tỳ-kheo-ni Tiên Bạch ra, tất cả trung ấm đều không có y phục, vì trong cõi Dục có hổ thẹn hay không?” Bao nhiêu trung ấm trong tất cả cõi Sắc đều có y phục, vì có hổ thẹn; y cứ theo đây mà biết, Tịnh độ đẹp hơn cõi Sắc, nhưng thân trung ấm Tịnh độ có mặc y phục, còn trung ấm cõi Sắc vì sao không có y phục? Hỏi: Trung ấm ở Tịnh độ có hành tướng như thế nào? Đáp: Cũng y cứ theo nghóa mà biết, thân trung ấm ở cõi uế sinh về cõi trời, thì chân hướng xuống dưới, đầu hướng lên trên, trung ấm địa ngục, thì đầu hướng xuống dưới, chân ngược lên trên, người quỷ bàng sinh giống như chim bay, thân bay ngang. Nay sinh về Tịnh độ, chân hướng xuống dưới, đầu ngẩng lên trên, tức là kinh văn nói ngồi trong hoa sen, là giống nhau ở chỗ đó. Còn giải thích khác thì nói trung ấm sinh thiên, chân hướng xuống dưới, đầu ngẩng lên trên, đứng thẳng mà thọ sinh trong các đường, trung ấm Tịnh độ thì ngồi mà thọ sinh vào các đường. Hỏi: Trung ấm Tịnh độ chưa đến thế giới Cực lạc, ở khoảng giữa cách mười muôn ức cõi Phật, ăn thức ăn gì? Thích: Trung ấm cõi Dục, duyên sinh chưa hiệp, trong thời gian dài thọ thân trung ấm kia, nên cần phải ăn mùi hương, vì sinh ở cõi hữu. Trung ấm ở Tịnh độ, trong khoảng thời gian búng ngón tay, liền được vãng sinh. Thời gian không lâu, không cần nhọc công ăn uống. Lại phải trải qua khoảng cách mười muôn ức cõi Phật, liền ở trong hư không ăn mùi cơm thơm của các cõi Phật, để giúp ấm thân đi đến chỗ thọ sinh, trong đó vô lượng nghóa, không thể nói hết. Hỏi: Như Lai nói kinh đều là thích hợp căn cơ hóa vật, đều vì người tín hướng mà nói, không vì kẻ nghi ngờ mà nói, nên kinh Dược Sư nói: “Phật vì người tin mà thí, không vì người nghi mà nói.” Vì sao trong kinh nói có tướng lưỡi thè ra, khuyến chúng sinh tin, có khi không thè lưỡi, nhưng nói lý mầu? Lại nói pháp sâu xa, phàm phu khó hiểu, hoài nghi sinh chê bai, như nói kinh Pháp Hoa, hội hai quy một, hàng Nhị thừa không sinh tín tâm, nên Đức Phật Đa Bảo có tháp báu để chứng thật, Phật thè lưỡi, biểu hiện sự không dối gạt, tức lời nói chân thật. Ba lần Phật trình bày cho chúng sinh tin, rồi mới nói sự thật chắc chắn. Nay kinh A-di-đà chỉ nói sự trang nghiêm của Tịnh độ, y báo và chánh báo của Tây phương, khuyên chúng sinh vãng sinh, dễ sinh chánh tín, đâu cần chư Phật trong sáu phương hay mười phương đồng thè tướng lưỡi, khuyên chúng sinh sinh tin ư? Thích: Xét kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật tự nói hằng sa chư Phật trong mười phương thấy Phật Thích-ca Mâu-ni nói kinh Xưng Tán Tịnh Độ xong, đều ở cõi nước mình, khác miệng đồng lời cùng lúc khen ngợi rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có khả năng ở thế giới Ta-bà là cõi đời có năm thứ trược ác mà chứng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- bồ-đề, nói ra pháp mà tất cả thế gian rất khó tin này cho các chúng sinh nghe.” Phật Thích-ca Mâu-ni đã được chư Phật đồng thanh khen ngợi, Ngài bảo Xá-lợi-phất: “Ta ở trong cõi đời có năm thứ trược ác mà chứng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nói ra pháp mà tất cả thế gian rất khó tin này cho chúng sinh nghe, đó là việc rất khó.” Như Lai tuy nói trăm ngàn bộ kinh, nhưng không nói “Khó nói”, chỉ có kinh Xưng Tán Tịnh Độ gồm chín trang giấy, hằng sa chư Phật và Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni, đều nói kinh này là khó tin, khó nói. Bởi vì Phật nói mười hai bộ kinh, tất cả ngoại đạo đều sinh tâm phỉ báng, còn đệ tử Phật, đều phát tín tâm. Nay nói: Kinh A-di-đà, ý nói chúng sinh có gốc tội năm nghịch, mười ác, chỉ cần niệm Phật, cũng sinh về Tịnh độ. Tuy đệ tử Phật tín hướng điều đó, cũng sinh nghi ngờ, không tin lời này. Hiện thấy thời nay bốn bộ chúng đều có chánh tín, còn nghi niệm Phật không được vãng sinh, nên biết kinh này, rất khó sinh tín, bậc Nhất- thiết-chủng-trí biết trước, vị lai có chúng sinh này, sinh nhiều hoài nghi, nên đồng thè tướng lưỡi, tiêu biểu pháp rất thật, khuyên nên tu học. Lại vãng sinh Tịnh độ, bậc Bồ-tát Tam hiền giải hạnh trở lên, hoặc Long Thọ… được sinh Tây phương, phàm phu cực ác cũng sinh chánh tín, thấy người phước nhiều tội ít, được sinh Tịnh độ, có gì đáng làm lạ? Phàm phu năm nghịch mười ác, từ một niệm đến mười niệm chí thành triệt để, nhờ bản nguyện của Phật, cũng được sinh Tây phương, hàng Bồ-tát Tam hiền Thập địa cũng tin việc này, không khởi tâm nghi, chỉ nói hạ phẩm hạ sinh, năm nghịch mười ác, như người ngu này, không điều ác nào không làm, gặp Thiện tri thức, dạy xưng danh hiệu Phật, đủ mười niệm, liền sinh Tịnh độ. Chúng sinh mười ác này, không tin niệm Phật được sinh Tịnh vực, chúng ta đã là phàm phu tội ác, từ vô thỉ đến nay lỗi này đều phạm, niệm Phật mười niệm có công đức gì, mà khiến tội nặng chúng ta được trừ diệt, vãng sinh thế giới Cực lạc Tây phương? Đây chỉ là lời Phật tiếp dẫn, hoặc là nói xa thành nói gần, hoặc là pháp ở giai đoạn thứ hai, hoặc nói biệt thời ý, nhiều cách hiểu khác nhau không tin vãng sinh ngay, lừa dối huỷ báng rất nhiều, tin thuận rất ít, cho nên lời dạy này người tin rất ít, chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp cõi Tam thiên để chứng minh pháp không sai lầm, chắc chắn được sinh, hộ niệm người tu hành, được sinh Tịnh độ Hỏi: Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư Phật bình đẳng, đều đầy đủ tất cả hạnh, tất cả nguyện, mới thành Chánh giác, hiệu là Lưỡng Túc Tôn.” Nay kinh Dược Sư chỉ nói Phật Dược Sư Lưu Ly Quang khi còn hành đạo Bồ-tát, phát mười hai đại nguyện, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Bi Hoa nói Phật A-di-đà khi phát tâm Bồ-đề và hành hạnh Bồ-tát phát bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớn, khác với văn kinh Hoa Nghiêm là có ý gì? Đáp: Ý của hai kinh này, đều căn cứ một nghóa, cũng không trái nhau. Căn cứ thật mà luận, thì tất cả chư Phật đều có đủ tất cả diệu nguyện thù thắng, không có thêm bớt, nếu có một nguyện không tròn, một hạnh không đủ, thì không đắc đạo, và thành Chánh giác, gọi là bậc Nhất thiết trí. Công đức chư Phật có lỗi không bình đẳng, kinh Duy-ma nói: “Chư Phật Như Lai công đức thảy đều bình đẳng.” Nhưng kinh Dược Sư nói mười hai nguyện, kinh Vô Lượng Thọ nói bốn mươi tám nguyện, đây là nói theo căn cơ giáo hóa. Chư Phật giáo hóa chúng sinh đều y cứ vào chúng sinh có duyên tiếp dẫn, có duyên với Phật, phải y theo bổn nguyện của Như Lai, Như Lai giáo hóa dắt dẫn các phẩm đều mang theo nguyện vọng lớn là giáo hóa chúng sinh, chư Phật vốn phát tâm Bồ-đề, tức trụ ở tâm rộng lớn, có bao nhiêu cõi chúng sinh, ta đều giúp họ diệt độ bằng cách nhập vào Niết-bàn vô dư nhưng thế giới chúng sinh có vô biên vô số, Bồ-tát mới phát tâm, cuối cùng thành Phật, A-tăng-kỳ kiếp có sơ có mạt, ở trong hành hạnh Bồ-tát, thành Đẳng Chánh giác, không thể trùm khắp tất cả, chúng sinh đều thấy Bồ-tát tu hành cúng dường, Bồ-tát không thể giáo hóa làm lợi ích khắp thế giới chúng sinh, thế giới chúng sinh chưa cùng tận, Bồ-tát đã thành Phật, tâm tuy rộng lớn nhưng sự tức khó chu toàn. Nhưng ở nhân địa chúng sinh đối với mười hai nguyện mà Phật Dược Sư Lưu Ly Quang đã phát, chí thành ân trọng, nguyện đó nay đã thuần thục; Phật A-di-đà vốn phát bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớn, chí thành ân trọng, nguyện đó cũng thuần thục. Tuy hai Phật kia và đây đều có trần sa các nguyện, nhưng đối với căn cơ giáo hóa, thì nghiêng về biệt nguyện, chúng sinh đối với mười hai đại nguyện của Dược Sư Phật vốn đã thuần thục, Phật Dược Sư tuy có bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớùn, nhưng căn cơ chúng sinh chưa thuần thục, nên Phật nêu riêng mười hai nguyện. Bốn mươi tám nguyện của Phật A-di-đà, ngài nghiêng về căn cơ thuần thục, tuy có mười hai nguyện, Phật cũng không nói. Thí như thuốc trong kho của y vương, tuy đủ loại cỏ thuốc, nhưng đối với người bệnh nóng, lạnh, thổ tả, khác nhau, thì cho toa cũng khác nhau. Trong tủ thuốc thầy thuốc chỉ chọn ngay gốc bệnh, lấy năm ba vị xây nát trộn lại, hoặc tán, hoặc viên, cho người bệnh uống, không được dùng thiếu số thuốc, không theo lời thầy thuốc, dù thuốc trong kho đủ loại nhưng không thể đem hết cho một bệnh, huống chi hòa hợp các thuốc thang, dùng đủ tất cả các thứ thuốc lạnh, nóng. Phật cũng giống như thế, như kinh Hoa Nghiêm thật có đủ các nguyện, tất cả đều bình đẳng, giống như thuốc trong kho của thầy thuốc, hoặc nói mười hai nguyện của Đức Phật kia, hoặc nói bốn mươi tám nguyện của Đức Phật này, như đối với người bệnh cho toa thuốc, cho nên hai kinh này không trái nhau. Hỏi: Chúng sinh vãng sinh tu tịnh nghiệp, có tướng mạo biết mình được vãng sinh Tây phương, có Thánh giáo nào chứng biết tướng này không? Thích: Có ba Thánh giáo, chứng minh được sinh, dùng giáo để xét nghiệm người, tức là chứng. Như kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói rằng: “Đối với thế giới tạp nhiễm kham nhẫn có năm thứ trược ác này, nếu có người nam, người nữ có lòng tin thanh tịnh, nghe nói pháp tất cả thế gian khó tin như thế, mà tin hiểu, thọ trì, giảng nói, đúng như lời dạy tu hành, thì phải biết người này làm được việc ít có, đã từng gieo trồng gốc lành với vô lượng Đức Phật, khi qua đời chắc chắn họ sẽ vãng sinh về thế giới Cực lạc.” Như kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói: “Nếu người nghe nói giáo môn Tịnh độ, khắp mình nổi ốc, ta nói người này chắc chắn sẽ được giải thoát.” Như kinh Hiền Hộ quyển một nói: Chúng sinh học được Tam- muội của chư Phật hiện tiền, nghe lời dạy của A-di-đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác mà buộc tâm, tư duy nối nhau, thứ lớp không rối loạn, nhìn kỹ Đức Phật A-di-đà kia, Bồ-tát này tư duy, thành tựu đầy đủ Tam-muội hiện tiền của chư Phật, nhờ Tam-muội này mà được thấy Phật, liền bạch hỏi Phật A-di-đà rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Các Bồ-tát thành tựu pháp nào, mà được sinh về cõi Phật này? Bấy giờ, Đức Phật nói rằng: Nếu người phát tâm sâu xa sẽ sinh về cõi này, thường phải buộc tâm, chánh niệm nối nhau, liền được vãng sinh về cõi Phật A-di-đà. Hành giả tự xem ba bộ kinh này, hễ có bất cứ kinh nào tương ưng với mình, thì biết được sinh Tịnh độ. Hỏi: Như các vị trời cõi Sắc ở cõi uế này không có buồn khổ, chỉ có an vui, vậy có hơn kém thế nào với cõi Tịnh độ kia, mà nguyện sinh Tịnh độ, không thích sinh các tầng trời cõi Sắc? Đáp: Các tầng trời cõi Sắc tuy không có buồn khổ, chỉ có an vui, nhưng chẳng phải Cực lạc, cuối cùng cũng có thọ khổ, nên người tu hành không muốn sinh về, tóm lại, dùng tám nghóa để hiểu rõ chẳng phải Cực lạc: Trên không có vui vắng lặng. Dưới rơi vào vòng khổ. Không có bậc Thánh để quy y. Không nghe chánh pháp. Có các vị định. Hoặc tà kiến tăng thêm. Ba tai phá hoại. Tám nạn thành thân. Trên không có vui vắng lặng: Cái vui vắng lặng của đại Niết- bàn, chúng sinh phàm phu kia không thể khắc chứng. Dưới rơi vào vòng khổ: Sinh cõi Sắc, Vô sắc, thọ báo hết rồi, nghiệp cõi dục đã thuần thục, trở lại sinh xuống phương dưới. Không có bậc Thánh để quy y: Cõi Sắc tuy có năm tầng trời Tịnh cư nhưng đâu thể so với Tây phương, có nhiều bậc Bổ xứ?! Không nghe chánh pháp: Các tầng trời cõi Sắc kia đâu có chư Phật, Bồ-tát, nước, chim, cây, rừng, ngày đêm sáu thời thường nói pháp mầu. Có các vị định: Trong chúng sắc kia tuy có tịnh định, nhưng phần nhiều các là các vị định, vì nó xen tạp, tăng thêm phiền não, Tịnh độ thì không như thế. Hoặc tà kiến tăng thêm: Sinh cõi sắc, thông với các ngoại đạo, có sinh tà kiến, lại thọ vô tưởng báo, sẽ sinh tận tâm, sinh phỉ báng Niết-bàn, rơi vào địa ngục. Cảnh ba tai phá hoại: Tam thiền trở xuống, thì Sơ thiền lần lượt bị một là nước, hai là lửa, ba là gió làm hư hoại, Tịnh độ thì không có. Tám nạn thành thân: Cõi Sắc, Vô sắc, tuy không có buồn khổ, nhưng trong tám nạn, thuộc về nạn trời Trường thọ. Đủ tám nghóa này, tuy có an vui, nhưng cuối cùng vẫn chìm trong biển khổ, nên vui chẳng phải là Cực lạc, cùng với Tịnh độ kia hơn kém khác nhau, nên người vãng sinh không nguyện sinh về cõi sắc. Một khi đã sinh về Tịnh độ thì cuối cùng không lui sụt. Hỏi: Nguyện sinh Tịnh độ, các người tu hành, hoặc trì trai giới một ngày một đêm, hoặc lại hiếu dưỡng cha mẹ, nếu không dùng nghiệp này nguyện vãng sinh thì sẽ chiêu cảm quả báo trời, người. Tuổi thọ ở cõi Diêm-phù không quá trăm năm, cõi trời tức trời lục dục, tuổi thọ cao nhất là một vạn sáu ngàn tuổi. Nếu nay hồi hướng giới hạnh này nguyện sinh Tịnh độ, do thiện nhân này có thọ mạng là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp. Nhân giới không khác nhau, hơn kém không khác nhau, thọ báo vì sao dài ngắn khác biệt? Đáp: Nghóa này rất sâu khó thể giải thích. Kinh nói nghiệp lực không thể nghó bàn, chỉ biết tín ngưỡng thì khó thể được độ. Nay đáp thẳng rằng: Tuy vẫn một ngày một đêm trai giới, không có khác nhau, nhưng do tâm thọ giới có chỗ hơn kém, do tâm có trên dưới, nên giới thành ra sai biệt. Nếu dùng tâm nguyện cầu sinh Tịnh độ, tâm cầu thắng quả, thì giới thành diệu nhân, cảm được tuổi thọ lâu dài của Tây phương kia; nếu nguyện sinh trời, người thì tâm chẳng phải thù thắng, thuận dòng sinh tử, thêm lớn nghiệp hữu lậu, nên chiêu cảm quả báo mạng sống không dài lâu. Nên giới tuy đồng, nhưng do duyên phát giới khác nhau nên thành nghiệp cảm có hơn kém, cảm thọ quả báo có dài ngắn khác nhau. Lại giới nhân tuy bình đẳng, nhưng niệm nguyện có khác, duyên thắng trợ giúp nhân bèn sinh Tịnh độ. Và như phần đoạn, báo nghiệp biến dịch tuy đồng, nhưng ái nguyện thấm nhuần khác nhau, nên quả thành hơn kém. Ở đây cũng giống như thế, sao lại lao nhọc mà sinh ra hoặc? Hỏi: Nếu mong tâm nguyện sinh Tịnh độ, thì tâm thành thượng phẩm, giới thành thắng nhân, có thể chiêu cảm tuổi thọ lâu dài. Nếu tâm mong cầu sinh lên cõi trời mà thọ giới, cho đến suốt ngày, nguyện sinh Tây phương, thì công đức thọ giới vô tác trước kia chiêu cảm quả báo Tịnh độ, làm sao có thể chiêu cảm mạng căn trong A-tăng-kỳ được? Đáp: Các nghiệp bất định, hoặc chuyển nặng thành nhẹ, hoặc dài thâu thành ngắn, đủ như kinh nói, không thể nói đủ. Hành giả tuy thọ giới vốn nguyện sinh lên cõi trời, sau gặp thắng duyên, quay về cầu sinh Tịnh độ, hành tuy yếu kém, về sau nguyện mạnh, giúp cho giới phẩm trước chuyển tăng thêm thù thắng, hợp với nguyện Phật, thọ mạng lâu dài A-tăng-kỳ kiếp. Nếu xả phước hạnh, thực hành mạng hạnh, dù có tiền của dồi dào nhưng nhiều bệnh mạng ngắn, xả vật nhập định, bỏ nghiệp y bát, kéo mạng căn kia tăng thêm lâu dài. Phật lực, pháp lực, nguyện lực, nghiệp lực, không thể suy nghó bàn luận, phàm phu chẳng thể đo lường được. Hỏi: Niệm Phật A-di-đà sinh về cõi nước Phật A-di-đà, đang tương ưng với nguyện Phật, vãng sinh có thể được, vì sao nhờ nghe danh hiệu Phật Dược Sư mới sinh Tây phương? Đáp: Theo kinh Dược Sư nói: “Nếu hàng bốn chúng đệ tử thường tu lục trai, hoặc ngày đêm tinh cần, nhất tâm khổ hạnh, nguyện sinh về cõi nước Phật A-di-đà ở Tây phương, nhớ nghó ngày đêm từ một ngày đến bảy ngày, hoặc lại hối hận trung gian, nghe ta nói công đức bản nguyện của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang, hết đời mình, muốn ngày qua đời, có tám vị Bồ-tát đón rước tinh thần người đó được sinh Tịnh độ.” Vì người này ban đầu nguyện sinh về Tây phương, sau hối hận tu hạnh trước, vì có cái chướng hối hận, nên không được vãng sinh, nghe danh hiệu Phật Dược Sư chướng ngại do hối hận tiêu diệt, sai tám bị Bồ-tát đến đón người đó sinh về thế giới Cực lạc. Điều này nêu rõ Phật Lưu Ly Quang đã giúp diệt các chướng thành tựu Tây nghiệp, thương xót chúng sinh mà khiến cho được sinh và cũng do lực công đức có được do trước đây trì giới tinh cần, tu nghiệp Tây phương, không trái với nghóa sinh về Tây phương. Nếu không được nghe danh hiệu Phật Dược Sư, có tâm hối hận thì không vãng sinh Tịnh độ. Nếu không hối hận thì người đó suốt ngày tự phải niệm danh hiệu Phật Di-đà, đâu cần bỏ hiệu Phật Tây phương mà không xưng danh, mượn danh hiệu Phật Đông phương cầu sinh An dưỡng? Hỏi: Theo kinh Pháp Hoa, kinh Duy-ma-cật, thì phương này đã có Tịnh độ, sao phải cầu Tây phương xa xôi làm gì? Thích: Tuy có Thánh giáo nói ở cõi này đã có Tịnh độ, đồng xứ đồng thời không chướng ngại nhau, nhưng Duy-ma chân ấn xuống đất, tuy hiện Tịnh độ, trong kinh Pháp Hoa tuy nói thường ở núi Linh thứu và các trụ xứ khác, mà hai kinh này đến phẩm cuối cùng hoàn toàn không thấy chỗ nào khuyên vãng sinh về cõi nước đó, đâu được cho rằng có lời nói về cõi Tịnh, liền nói rằng tôi sinh về nước đó ư? Xét kỹ nghóa đó, e lý không đúng. Hỏi: Tịnh độ sở hiện là khuyên vãng sinh; không khuyên sinh, thì đâu cần phải hiện? Đáp: Ở đây hiện Tịnh độ, tự vì lợi ích riêng, lợi ích riêng là gì? Như Tịnh độ mà Duy-ma-cật đã hiện, là trừ nghi cho Xá-lợi-phất “Tâm tịnh tức cõi Phật tịnh”, khiến người đó thấy cõi Tịnh làm sáng tỏ Thánh giáo. Lại vì Bảo Tích… nhân thấy Tịnh độ, được Vô sinh nhẫn; còn kinh Pháp Hoa hiển nhất thừa là diệu, Nhị thừa là Thô. Trước uế sau tịnh, tự vì thị hiện sự lợi ích này, chẳng quan hệ đến khuyên chúng sinh vãng sinh, hiện ở Tịnh độ. Do công đức trong ngoài của Tịnh độ Cực lạc thù thắng hơn các phương khác, nên chúng sinh sinh về hạ phẩm cũng không lui sụt, huống gì các phẩm thù thắng khác. Chư Phật Tịnh độ khác không nói việc này, nên khuyên vãng sinh, không phải nói phương này hoàn toàn không có Tịnh độ. THÍCH TỊNH ĐỘ QUẦN NGHI LUẬN <卷>QUYỂN 3 Hỏi: Nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện của kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Nếu khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương dốc lòng vui mừng tin sâu, muốn sinh về cõi nước tôi, niệm danh hiệu tôi dù chỉ mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng thành Chánh Giác, chỉ trừ những kẻ gây ra năm tội nghịch, phỉ báng chánh pháp.” Kinh Quán nói: “Hạ phẩm hạ sinh hoặc có chúng sinh, gây ra năm tội nghịch, mười điều ác, không điều ác nào không làm, trải qua địa ngục, chịu khổ vô cùng. Khi sắp qua đời gặp Thiện tri thức, dạy xưng danh hiệu Phật, như thế dốc lòng niệm không dứt, đủ mười niệm, được sinh Tây phương.” Vì sao ý của hai kinh đều nói người gây ra năm tội nghịch và có mười niệm, được sinh Tịnh độ, nhưng hai văn lại có lấy, có bỏ khác nhau, có ý nghóa gì? Thích: Từ trước đến nay đã có mười lăm nhà giải thích hai bộ kinh này, như sau: Kinh Quán: Lấy: người sám hối. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người không sám hối. Kinh Quán: Lấy: người tâm xem nhẹ nhàng ra năm tội nghịch. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người tâm nặng nề gây ra năm tội nghịch. Kinh Quán: Lấy: người gây ra năm tội nghịch. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người gây ra năm tội nghịch và chê bai giáo pháp. Kinh Quán: Lấy: loại gây ra năm tội nghịch. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người gây ra năm tội nghịch. Kinh Quán: Lấy: người phát tâm Bồ-đề. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người không phát tâm Bồ-đề. Kinh Quán: Lấy: người chí thành niệm Phật A-di-đà. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người không chí thành niệm Phật. Kinh Quán: Lấy: Bồ-tát Thập tín. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: không phải Bồ-tát Thập tín. Kinh Quán: Lấy: chẳng phải người Xiển-đề Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người Xiển-đề. Kinh Quán: Lấy: đối với người đã gây ra năm tội nghịch. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: đối với người chưa gây ra năm tội nghịch. Kinh Quán: Lấy: môn khai. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: Môn giá. Kinh Quán: Lấy: nói nghiệp ngũ nghịch là nghiệp định không thể chuyển đổi. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: nói nghiệp ngũ nghịch là nghiệp bất định, có thể chuyển đổi. Kinh Quán: Lấy: người ở giai vị Noãn, Đảnh. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người không ở giai vị Noản, Đảnh. Kinh Quán: Lấy: người có hạt giống giải thoát phần thiện căn. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người không có hạt giống giải thoát phần thiện căn. Kinh Quán: Lấy: người ở giai đoạn hai. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: người ở giai đoạn ba. Kinh Quán: Thủ chỉ là người đầy đủ mười niệm. Kinh Vô Lượng Thọ: Bỏ: chung cho người đủ mười niệm và người không đủ mười niệm. Hỏi: Từ xưa đến nay các Đại đức đã giải thích mười lăm cách nói trên, là đúng hết hay cũng có sai? Thích: Mỗi nhà giải thích một cách, khó phân được hơn kém. Cách giải thích thứ nhất: Lấy: người sám; bỏ: người chẳng sám. Nêu ra để giải thích, không biết niệm Phật có diệt được tội không? Nếu không diệt được tội thì vì sao kinh nói: “Trong mỗi niệm diệt được tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử?” Nếu niệm Phật diệt tội, thì tại sao người không sám hối thì bị trừ bỏ? (loại trừ) Lại kinh Quán, chọn lấy người phạm năm tội nghịch, chỗ nào nói có sám hối? Từ đây trở xuống các thuyết mỗi thuyết đều đưa ra cật vấn (hỏi vặn). Nhưng không hoàn toàn hiểu được ý kinh. Ý kinh là sao? kinh Quán nói “chọn lấy người tội” nghịch, kinh nói “Đầy đủ mười niệm”, vì đủ mười niệm thì được vãng sinh. Kinh Vô Lượng Thọ nói loại trừ người tội nghịch. Kinh nói: “Dù chỉ mười niệm” cho đến mười niệm không được vãng sinh. Kinh đã có nói: “Cho đến đầy đủ mười niệm” cho đến đủ mười niệm, đâu được do các nghóa. Hơn nữa, cũng như Hạ phẩm Thượng sinh, Hạ phẩm Trung sinh, xưng Phật niệm Phật, không nói đầy đủ mười niệm, một niệm trở lên, tất cả đều được vãng sinh, vì tội ít, không cần đủ mười niệm. Hạ phẩm Hạ sinh vì có tội nghịch, kinh liền nói: “Đầy đủ mười niệm, được sinh Tịnh độ.” Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Tổng hợp ba phẩm này để nói “Dù chỉ mười niệm, được sinh Tịnh độ”. Ý kinh nói rằng: “Nếu người không gây tội nghịch, bất luận niệm nhiều hay ít, một niệm, mười niệm đều sinh Tịnh độ, nếu người đó gây tội nghịch, thì phải đủ mười, thiếu một cũng không được vãng sinh, nên nói là “loại trừ”. Đây là người không gây ra tội nghịch, không giới hạn mười niệm, hoặc ít hoặc nhiều, đều vãng sinh Tịnh độ, còn những người gây tội nghịch, thì không được như vậy, niệm đủ mười niệm thì được vãng sinh, thiếu thì không được vãng sinh, như vậy nên do đây mà nói loại trừ, không liên quan các nghóa. Xưa các Đại đức tuy đã giải thích, nay cũng lấy chỗ này nhưng nói khác đi. Hỏi: Các Đại đức khác thì có thể nói các vị ấy hiểu lầm văn kinh, nhưng Thiền sư Tín Hạnh nói thì đó là y của Bồ-tát tứ ý, đâu thể cũng hiểu lầm Thánh giáo? Thích: Thiền sư Tín Hạnh giải thích việc loại trừ, chọn lấy của hai kinh này, do hai, ba cấp độ khác nhau để chọn lấy, nên làm mất đi tôn chỉ của kinh. Nếu theo giải thích này có hai lỗi: lấy thái quá, bỏ thấy quá. Lỗi lấy thái quá: Người ở giai đoạn hai cũng gây ra năm tội nghịch, tên gọi là đồng chọn lấy, nhưng lẽ ra là đồng loại trừ. Lỗi bỏ thái quá: Người ở giai đoạn ba không gây ra năm tội nghịch, không có văn nói loại trừ, lẽ ra đều chọn lấy. Kinh nói: “Chỉ trừ năm tội nghịch, phỉ báng chánh pháp” đây bèn loại trừ người mà có hai lỗi lấy, bỏ thái quá. Đáng lẽ kinh đó phải nói: “Chỉ trừ hạng chúng sinh ở giai đoạn ba”, thì lìa hai lỗi. Đây là hoằng nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng. Trừ người có lỗi “Quá, giảm”, vì Thánh trí không đủ mà nói không chu tất ư? Như Pháp Tạng nói không có lỗi thì Thiền sư có lỗi hiểu lầm, tiên thoái hai đường. Đâu tránh khỏi chê trách? Vì vậy phải là lỗi của phàm phu, chẳng phải sai lầm của bậc Thánh. Đối với người ở giai đoạn ba, có sư đã chống chế rằng: Chỉ trừ năm tội nghịch… tức là trừ tất cả người ở giai đoạn ba. Vì người ở giai đoạn ba hoàn toàn tà không chánh, hoàn toàn ác không thiện, từ vô thỉ đến nay có phạm tội lỗi, đều không được sự cứu độ của tất cả chư Phật mười phương Tịnh độ đều buông bỏ, nên ngài Pháp Tạng nói trừ năm tội nghịch tức là trừ chung hết tất cả chúng sinh ở giai đoạn ba. Hỏi: Chỗ này dường như giải thích lỗi bỏ thái quá mà hoàn toàn chưa giải thích nạn thái quá. Nếu cho rằng kinh Quán nói người Hạ phẩm Hạ sinh tức là giải thích câu hỏi lấy thái quá, thì chống chế này không đúng. Vì sao? Vì Phật A-di-đà đã trình bày lời thệ nguyện rộng lớn trước khi phát tâm sơ trụ, còn Phật Thích-ca nói Kinh Thập lục quán sau khi thành đạo Diệu Giác, khoảng giữa thời gian đó cách nhau vô lượng A-tăng-kỳ, làm sao chiêu cảm nạn trong trong số kiếp không thể tính đếm được, mà bị uổng qua ở ngày Hạ phẩm Hạ sinh. Như nước xa không cứu được lửa gần? Tức là trước khi Vi-đề-hy chưa thỉnh, kinh Quán chưa trình bày, trong nguyện nếu gặp nạn này thì Bồ-tát lấy gì để phân giải? Chống chế này chẳng phải là lỗi trừ thái quá. Còn tất cả người ở giai đoạn ba đều gọi là người gây ra tội nghịch, nếu quá khứ thân đã chịu khổ nê-lê, nghiệp cho quả đã hết, thì chẳng phải là người gây ra tội nghịch. Nếu đến đời nay chưa tỉnh ngộ, vẫn tạo tội vô gián, thì đâu thể chấp nhận người ở giai đoạn ba, có người gây năm tội nghịch này? Nếu nói đều là người gây ra năm tội nghịch, thì tức đều là tà định tụ, đều nghiệp của sinh báo, cuối cùng chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục A-tỳ, cũng không sinh vào đường ác khác, không được vào Phật pháp xuất gia, vì luật nghi đầy đủ, không có người bất định tụ và có nghiệp bất định, tức là kinh Niết-bàn nói: Tất cả chúng sinh bất định nghiệp thì nhiều, quyết định nghiệp thì ít, lời này là sai. Chống chế này cũng chưa thành lỗi trừ bỏ thái quá. Thiền sư chống chế rằng: Nay nói tất cả là người gây ra tội nghịch, chưa hẳn hiện làm hại cha mẹ, làm thân Phật chảy ra máu, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, hiện gây các tội nghịch, mới gọi là nghịch. Nhưng người này căn cơ cực ác, tà chánh đều tà, thiện ác đều ác, bảy ghét, bảy thương, chưa lìa sáu tình năm thứ vui thì đâu bỏ ba nghiệp? Đã đủ mười hai thứ điên đảo, năm thứ không cứu thì tuy chẳng phải gây tạo tội nghịch, nhưng căn cơ tội nghịch như thế, là vì dùng tên tội nghịch kia, đều trừ chung những người ở giai đoạn ba. Bắt bẻ rằng: Ở đây tuy dường như chống chế cho lỗi trừ bỏ thái quá, cũng hoàn toàn không chống chế lỗi lấy thái quá, nhưng câu giải thích này lại vời lấy bảy nạn. Vì có khả năng gây ra tội nghịch, nên gọi là căn cơ tạo nghịch, tức là người ở giai đoạn hai cũng có thể gây ra tội nghịch, đã gây ra tội nghịch thì đồng nhau, do đó hai giai đoạn này đâu có khác nhau? Đây là bắt bẻ thứ nhất. Lại Thiền sư đã gọi người ở giai đoạn ba tức là người gây năm tội nghịch, có mười ba giá nạn, làm sao thành Đại Tỳ-kheo? Chỉ là người vô giới, không được nói là người phá giới. Nếu nói có căn cơ mà hiện chưa gây tội nghịch, thì được thành người thọ giới cụ túc, người đó chỉ trừ năm tội nghịch, cũng là người chưa gây ra năm tội nghịch, như vậy tại sao nói trừ người ở giai đoạn ba, tức là người gây ra năm tội nghịch? Đây là bắt bẻ thứ hai. Còn người ở giai đoạn ba chưa gây ra năm tội nghịch, thì gọi là người gây năm tội nghịch, như vậy là tà định tụ hay bất định tụ? Nếu là tà định tụ thì người chưa gây tội nghịch, làm sao là tà định tụ? Nếu là bất định tụ, thì vì sao nói trừ năm tội nghịch, tức là tất cả chúng sinh ở giai đoạn ba? Đây là bắt bẻ thứ ba. Còn người chưa gây tội nghịch là căn cơ tạo nghịch, thì gọi là người ngũ nghịch, cũng được làm người đủ tịnh giới, có thể đắc quả Thánh, tuy chưa chứng đạo, nhưng cũng được gọi là bậc Thánh. Nếu nói ta là bậc Thánh, liền thành chánh định tụ, phải xả tánh dị sinh, còn người phạm tội Ba-la-di, vì sao gọi là người trì giới? Đây là bắt bẻ thứ tư. Còn kinh Quán nói: Chọn lấy ngũ nghịch, tức là người đã gây năm tội nghịch, trong lời nguyện trừ người gây năm tội nghịch, đâu có nói theo căn cơ? So hai kinh này với nhau, thì lẽ ra chẳng phải căn cơ kia. Đây là bắt bẻ thứ năm. Còn người ở giai đoạn ba tuy chưa gây ra năm tội nghịch, vì là căn cơ, nên gọi là người ngũ nghịch cũng được. Người ở giai đoạn hai dù cho gây năm tội nghịch, vì chẳng phải căn cơ ngũ nghịch, nên chẳng phải là người gây năm tội nghịch sao? Đây là bắt bẻ thứ sáu. Nếu nói người ở giai đoạn hai, cũng đứng về căn cơ là người gây ra tội nghịch, thì phải là ba người ở , hạ phẩm đồng thành lỗi nhất phẩm, vì đều không tạo tội, đều là căn cơ ngũ nghịch. Còn phải khác nhau về hoa nở không sớm muộn. Diệt tội có khác nhau nhiều ít, đây là bắt bẻ thứ bảy. Lại có giải thích trừ năm tội nghịch kia, kinh nói: “Người ở giai đoạn ba không gây năm tội nghịch, chẳng phải không được vãng sinh Tịnh độ thì phải tu đủ hết các pháp, chắc chắn được vãng sinh. Nếu tạo ngũ nghịch dù hành khắp các pháp mà không trụ, nên pháp tạng hoằng nguyện, chỉ trừ người tạo ngũ nghịch ở giai đoạn ba. Nếu chúng sinh tạo ngũ nghịch ở giai đoạn ba đó dù tu hành khắp các pháp cũng không được sinh Tịnh độ. Nếu không tạo ngũ nghịch, tu hành khắp các pháp thì nhất định được vãng sinh. Thế nên Thiền sư trí tuệ rộng lớn, từ bi sâu dày, vì người ở giai đoạn ba thọ sinh cõi uế đắm chìm, nên khai mở pháp môn chân chánh thông dụng, tiếp dẫn hạng hoàn toàn tà ác, giúp đương căn học Phật pháp, đều được sinh Tây phương. Đây chính là chỗ không thể luận bàn của Pháp Tạng, là điều không thể nói của Đức Thích-ca. Thiền sư chỉ khai giáo này, cứu độ người ở giai đoạn ba, nên nói kinh chư Phật không nói, độ người chư Phật không độ, chúng tôi thích nghe nên tập hợp ghi chép lại, để trên đảnh thọ trì, lại không đọc tụng các kinh, đem tìm sửa qua ngày tháng. Thương thay! Các ông cố chấp cái sai ở trước, trở lại đọc tụng các kinh, tạo tội địa ngục, nên biết Thiện Tinh thọ trì pháp tạng nhiều kiếp đắm chìm, không khinh chỉ tu hành pháp thông thường, thanh thoát bước lên bờ kia. Đây là do học không học, đương căn Phật pháp, tổn hại, lợi ích lơ lững này, ông không thể soi xét đây là đúng hay sai, chỉ biết chuyên thực hành pháp khác, đi từ lầm này đến lầm khác, vãng sinh thì không do đâu mà sinh. Nay làm lời giải thích này, có thể sẽ dứt được cái mê hoặc kia. Trách rằng: “Tuy đó chỉ là trình bày lại lời giải thích này, nhưng có mối nghi sâu, lại đưa thêm những lời bắt bẻ, mong bậc cao minh phê phán.” Bắt bẻ rằng: Ở đây tuy giải thích tương tự lỗi bỏ thái quá, cũng hoàn toàn chưa giải được nạn lấy thái quá, chưa biết cââu: “Dù chỉ mười niệm, đó là pháp phổ thông hay pháp đặc biệt? Nếu là pháp phổ thông thì mười niệm này chỉ là mười niệm Phật A-di-đà, đây là niệm Đức Phật khác, thì phổ đó là sao?” (Bắt bẻ 1) Còn nếu phổ là pháp của giai đoạn ba, thì sao lại xếp kinh này vào giáo của người ở giai đoạn hai. (Bắt bẻ 2). Còn nếu phổ và kinh Quán nói Hạ phẩm Hạ sinh đầy đủ mười niệm xưng Phật A-di-đà có gì khác nhau? Nhưng kinh Quán nói mười niệm là biệt pháp, còn trong nguyện mười niệm là pháp phổ thông, cùng là một lời, nhưng nghóa khác nhau (bắt bẻ 3). Còn pháp phổ thông có thể cứu người ở giai đoạn ba, là chỉ cho cứu người không gây ra năm tội nghịch, vì sao biệt pháp có thể cứu người ở giai đoạn hai, cũng cứu được người gây ra năm tội nghịch ư? Vì người ở giai đoạn ba gây ra năm tội nghịch thì hoàn toàn không tiêu diệt, mà cũng không được vãng sinh? Hay là tội của người này cũng được diệt trừ, chỉ biết người gây tội nghịch đó không được sinh về Tịnh độ? Xin mở bày cho. (Bắt bẻ 4). Nếu mười niệm này là biệt pháp, người ở giai đoạn ba phạm năm thứ tội nghịch và người không phạm năm tội nghịch, tu hành biệt pháp, tất cả không được vãng sinh, ở đây dùng biệt pháp trừ người, trừ người vẫn vời lấy lỗi thái giảm. Vì sao trừ người có lỗi thái giảm, cũng chẳng thủ người có lỗi đến bao nhiêu, tiến lùi hai đường, khó tránh khỏi lời trách nặng nề này. (Bắt bẻ 1) Nguyện: “Nếu khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin ưa, muốn sinh về cõi nước tôi, tu hành pháp phổ thông, nếu không sinh, thì tôi nguyện không thành Chánh giác. Chỉ trừ người ở giai đoạn ba gây năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp.” Đây tức là trình bày phổ giáo, văn nghóa rõ ràng, tức hai thứ trừ và thủ, người ở giai đoạn ba và chọn người ở giai đoạn hai gây ra năm tội nghịch, rõ ràng không có mê hoặc, nhưng Bồ-tát trình bày môn nguyện này là chìa khóa rất sâu xa của thủ xả, muốn dạy cho người học ở đời vị lai, đối với định này bỏ và lưu. Như cũng môn này nói phổ pháp, thì nghóa thủ xã liền đầy đủ. Như cũng ở trong môn này nói biệt pháp, tức là người đã bỏ và lưu bất tận. Nếu ở hai cửa tiến lùi này, không thấy trình bày ở pháp phổ thông thì dẫu cho chỗ khác có nói, cũng làm sao cứu được lỗi của văn này. Nếu nói có ý thú khác thì ở đây không được nói phổ, xin trình bày diệu thuật, vì muốn hiểu rõ chỗ quan trọng của đạo. (Bắt bẻ 2). Còn Tỳ-kheo Pháp Tạng như kinh đã khen ngợi là bậc Thánh Đại Bồ-tát Thập địa, chẳng phải là đại só Tam hiền Địa tiền, vị Bồ-tát này bi trí đầy đủ, rộng nhiếp chúng sinh, vì sao phát đại nguyện tiếp dẫn chúng sinh có duyên cực ác, giúp họ sinh Tịnh độ, mới chỉ dùng biệt pháp phát nguyện cứu độ người ở giai đoạn hai này, không lập thệ phổ pháp, liền trừ người ở giai đoạn ba? (Bắt bẻ 3). Vì người ở giai đoạn ba hoàn toàn không có phần vãng sinh, Pháp Tạng vì đồng với bại chủng mà nguyện không nhiếp họ ư? (Bắt bẻ 4). Đó là cũng là việc khó được vãng sinh, mà Pháp Tạng không thể mở ra phổ giáo, để cứu người ở giai đoạn ba, nên trừ mà không thủ họ sao? (Bắt bẻ 5). Lại vì hiểu mà không nói, tiếc pháp không dạy chúng sinh, lòng từ bi không đến với người này, không nhiếp họ sinh Tịnh độ? (Bắt bẻ 6). Tuy có Từ bi và trí tuệ, nhưng vì gặp hạng khó giáo hóa này, nay ta không thể độ họ, mới giao cho thiền sư Tín hạnh? (Bắt bẻ 7). Vì người ở giai đoạn ba này, không có duyên với Bồà-tát, chỉ có duyên với Thiền sư Hoằng Hối, có khả năng cứu độ cùng khắp, vả lại giáo của Thiền sư Nội Phùng đời Đường, có thể được sinh Tây phương, Đông Thắng, Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu, các nước ở năm xứ Thiên trúc, cõi nước tam thiên, trăm ức bốn thiên hạ, chúng sinh ở giai đoạn ba, không có giáo của Thiền sư Vô Phùng, lấy gì để sinh Tịnh độ? (Bắt bẻ 8). Thế thì chỗ hiểu và chỗ thực hành của Pháp Tạng chưa đầy đủ, cho phéùp nhiếp sinh bất tận, Đức Thích-ca đã thành Chánh giác, vì sao không độ người này? Bốn thệ nguyện rộng không đủ, nghóa bốn ân không tận, bỏ lại người con bệnh nặng, sao gọi là thương xót hết được ư? Không nói người đáng độä đều độ xong, người chưa độ đều cũng đã tạo nhân duyên được độ, lời nói này đã thuật sai, mà ông chỉ muốn khen ngợi Thiền sư ở trên bậc Thượng Thánh và Thế Tôn ở dưới hạ phàm, không biết rằng nói như thế rất là tội lỗi. Đức Phật nói các giáo pháp trong kinh Quán cho những chúng sinh ở giai đoạn hai, những người này trong tam thiên thế giới y theo các môn giáo này mà tu hành, thì cả đều được sinh Tịnh độ, Phật không nói một quyển Phổ kinh nào riêng cho chúng sinh ở giai đoạn hai cả, chư Phật đồng duỗi lưỡi chứng minh cho Đại só Pháp Tạng, lại không phát phổ nguyện nào khác, vì người ở giai đoạn ba này, trong trăm ức tứ thiên hạ đã có mặt họ, không gặp “Tam Giai Tập Lục” đều không được sinh Tịnh độ, dù đọc tụng các kinh, không phải Bồ-tát Tứ Y thì khó hiểu, nhặt nhạnh khắp các giáo, đều lang thang khắp Ta-bà. Nên biết Phật có thể vì chúng sinh ở giai đoạn ba mà nói riêng một quyển phổ kinh, khiến cho các chúng sinh của Thiền sư Tín Hạnh không có chỗ sinh về Tây phương, Đức Thế Tôn không nói kinh này, rất là lỗi lớn. Còn kinh Vô Lượng Thọ là đối với Biệt giáo, Phật vì lòng Từ bi, thương kinh đạo diệt hết, nên đặc biệt lưu lại ở đời một trăm năm, vì sao phổ giáo sẽ mạt vận, không lưu phổ pháp để giáo hóa chúng sinh, biệt giáo dạy chẳng phải thời ác, lưu biệt kinh tổn hại chúng sinh. Đấng Giáo Chủ Đại Bi cứu khổ, há nên hợp cơ như thế sao? (Bắt bẻ 9. ) Vì sao Đức Thích-ca Như Lai không giải cứu người ở giai đoạn ba, cũng là hằng sa chư Phật mười phương thè lưỡi, chứng biệt pháp đó, chỉ cứu người ở giai đoạn hai, không thè lưỡi để chứng phổ pháp cứu vớt người ở giai đoạn ba? Đâu cho Đại Thánh Thế Tôn mười phương chủng giác, đủ Nhất-thiết-trí, Nhất-thiết-chủng-trí, ban ân bình đẳng, thương xót chúng sinh đồng như con, đều cùng giấu phổ pháp này, không cứu người đó sao? Huống chi dạy tìm khắp Tam thiên giáo hóa trăm ức dòng, bốn mươi tám nguyện khắp mười phương, bắt đầu ở Luân vương phát tâm, trước đây hằng sa A-tăng-kỳ kiếp, cuối cùng ở Quán Âm Bổ xứ, là hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, phát hoằng thệ đại nguyện này, chư Phật mười phương đã chứng, đọc khắp ba cõi, ngang cả bốn sinh, mà không bằng chúng sinh ở giai đoạn ba, liền trừ mà không thủ. Chư Phật, Bồ-tát dùng Thánh trí quán sát, biết họ không được vãng sinh, không có pháp để tế độ, nên bỏ chánh pháp, dạy dùng tay kéo họ ra khỏi bùn nhơ, nhưng Thiền sư Tín Hạnh lại có thể buông phương tiện khéo léo, trình bày phổ chân Phật pháp, cứu được người ở giai đoạn ba, tức từ bi hơn Đức Thích-ca, trí tuệ hơn Vô Lượng Thọ, tức ở Vô Thượng Điều Ngự đổi thành Hữu Thượng Thế Tôn, Vô Đẳúng Đẳng liền thành Quá Đẳng Chánh Giác, tức Thiền sư Tín Hạnh chính là Ứng Thắng Phật. Lại bắt bẻ rằng: Nếu nói do tội nghịch có hai, ba giai đoạn khác nhau, đã chia ra bỏ và lấy chẳng do niệm có ít nhiều để làm sáng tỏ bỏ, lấy. Vì sao từ chỗ trừ năm tội nghịch lại nói: “Dù chỉ mười niệm”, lấy chỗ năm tội nghịch lại nói: “Đầy đủ mười niệm”. Vì sao không ở chỗ bỏ năm tội nghịch mà gọi là “Người ở giai đoạn ba”. Vì sao ở chỗ lấy năm tội nghịch mà nói là ở giai đoạn hai? Đại sư vì sao không cần từ ngữ, gượng đặt “Dù chỉ mười niệm”, phải nói câu “Hoàn toàn không có chữ giai đoạn hai, ba.” Thiền sư chống chế rằng chín phẩm của kinh Quán biệt thuyết rất rộng, nghóa là biệt thuyết thiện ác của người sinh về chín phẩm, nên đối với người ác bậc thấp nhất không nói pháp một niệm, biệt thuyết pháp cho người ác vãng sinh nên đặc biệt nói đầy đủ mười niệm. Hai đoạn trong kinh Vô Lượng Thọ, nói chung rất sơ lược, nghóa là người sinh hai phẩm Hạ, thiện ác nói chung, bao gồm pháp nhiều ít, và người thiện ác. Cho nên trong và ở trước có pháp một niệm cho người thiện ở trong và ở sau, cũng có pháp mười niệm cho người ác. Thiện ác, nhiều ít, đều nêu chung, nên nói là chung. Nêu lời cho đến không nêu từ ngữ đầu, nên nói là rất lược. Tức câu dù chỉ mười niệm ở trước là từ ngữ từ một đến mười. Từ chung nói mười, tức là bắt đầu từ một, bỏ qua chín niệm, nên trong văn này phải nói đủ “Pháp một niệm của người thiện”. Câu dù chỉ một niệm ở sau là từ ngữ: “Từ mười đến một.” Từ cuối cùng nói một tức là bắt đầu từ mười, bỏ qua chín niệm, nên trong văn này phải đủ “Pháp mười niệm của người ác”. Nên kẻ hèn này cho là trong “Dù chỉ” ở trong phải có mười niệm, pháp mười niệm nêu ra cho người ác, trong vị trí người ác thì tà chánh lẫn lộn. Thế nên lược nói “Trừ nghịch báng”, đâu có liên quan đến một niệm ít, trừ nghịch báng? Bắt bẻ rằng: Lại có người phạm năm tội nghịch hay không phạm năm tội nghịch là hai hạng người thiện và ác, người ở giai đoạn hai, giai đoạn ba thì chia ra hai phẩm tà và chánh, không phải trong hai phẩm tà và chánh đều có hai hạng người thiện và ác sao? Trong vị của người ác thì tà chánh lẫn lộn. Sao không nói “Trừ người chẳng phải nghịch báng” thì mới cho hạng người không tà ác đồng với người tà ác, bằng với mười niệm bậc hạ, đều nói là trừ bỏ. Lại nói một niệm và mười niệm rất sơ lược, trong pháp người thiện thủ người chánh thiện, không trừ người tà thiện, nguyên do nào trong pháp người ác lại chọn lấy người chánh ác mà trừ bỏ người tà ác? Lại trong pháp người ác chọn lấy chánh ác, trừ tà ác và tà thiện kia, cũng có thể trong pháp người thiện chọn lấy chánh thiện, trừ tà thiện và tà ác kia. Còn trong pháp người thiện chỉ nói về lấy hợp với trừ, tà thiện không nói trừ, vì sao trong pháp người ác cũng nói lấy thì trừ, tà ác tức nói lấy hợp với trừ, tà ác thì nói trừ? Còn tà ác phải ở chỗ ác trừ, kinh thì không ở chỗ thiện trừ, tà thiện phải ở chỗ thiện trừ, vì sao lại ở chỗ ác trừ? Còn ở trong pháp thiện, người tà thiện mới được gọi là loại tà ác, vì sao trong pháp người không ác, loại tà ác cũng gọi là người tà thiện? Còn trong pháp của người ác lại có tà chánh, kinh thủ chánh, trừ người tà, sao không cho trong pháp người chánh có thiện ác, kinh chọn lấy người thiện trừ người ác? Còn mười niệm của kinh Vô Lượng Thọ chọn lấy chánh ác, là nói trừ người tà ác, vì sao mười niệm của kinh Quán chọn lấy chánh ác, không nói trừ? Tà ác là gì? Hai kinh đều nói mười niệm, kinh Quán Vô Lượng Thọ nói lấy cũng nói trừ, tại sao hai kinh đều không trình bày chẳng phải mười niệm? Kinh Vô Lượng Thọ nói lấy cũng nói trừ, các Thiền sư muốn gượng chống chế, thiền sư Tín Hạnh giải thích hai kinh này là giải thích hay, đã ngăn ngừa nạn rối rắm, các điều nghi đua nhau nêu lên, đây chẳng phải là giải thích hay, xin học giả biết điều đó. Thiền sư lại bắt bẻ rằng: - Nếu một niệm pháp ít, nói là trừ nghịch, đã có pháp mười niệm nhiều, vì sao nói trừ? Đáp: Đây chẳng phải khó. Ý Phật muốn nói người khi qua đời nếu xưng một câu Phật, hai câu cho đến có thể niệm chín câu, mười câu, tất cả đều được vãng sinh về thế giới Cực lạc, chỉ trừ người phạm năm tội nghịch, hủy báng chánh pháp. Ý của kinh này muốn hiển rõ người qua đời, nếu có thể niệm một câu Phật, mạng người đó đã hết, hoặc niệm đến mười, mạng người đó đã chấm dứt, đều có thể được sinh Tịnh độ. Vì ý Phật muốn nói người không phạm năm tội nghịch, thì niệm nhiều ít đều được sinh; còn người phạm năm tội nghịch, ít thì không được vãng sinh, phải đủ mười niệm mới được vãng sinh. Chọn người không phạm năm tội nghịch kia, có thể niệm nhiều ít đều được vãng sinh, nên nói “Trừ năm tội nghịch và hủy báng chánh pháp”. Có quan hệ gì với tà nghịch? Nếu tất cả chúng sinh đến ngày qua đời mới gặp thiện hữu, dạy bảo niệm Phật, đủ mười câu, có thể trách người kia, cho phéùp không đủ mười niệm, mạng người đó đã hết, đâu khiến người phạm tội nghịch mà không nói trừ? Hỏi: Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng có nói: Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm thứ nhất, các đệ tử của ta học Tuệ được vững chắc, năm trăm năm thứ hai, học Định được vững chắc, năm trăm năm thứ ba, các đệ tử ta học Tuệ đa văn được vững chắc, năm trăm năm thứ tư, xây dựng chùa tháp được vững chắc năm trăm năm thứ năm, bạch pháp ẩn mất, nhiều tranh luận, ít có thiện pháp được vững chắc. Nay khuyên tu mười sáu pháp quán và niệm Phật Tam-muội, đó đều là pháp định tuệ, chỉ nên trong một ngàn năm đầu tu học pháp này, vì sao hôm nay khuyên tu học ư? Nay người học ở giai đoạn ba phần nhiều dẫn các văn kinh này chứng minh vì sao một ngàn năm trăm năm sau không cho học định, lại khuyên người đời nay học tu mười sáu pháp quán và niệm Phật Tam- muội? Đáp: Mười sáu pháp quán và niệm Phật Tam-muội có cạn có sâu, sâu tức ở bốn tónh lự, vị chí trung gian thiền, đối với Tu tuệ thực hành mười sáu pháp quán và niệm Phật Tam-muội. Cạn thì nương Văn, Tư tuệ của cõi Dục, tâm nhiếp niệm tác ý cũng được tu mười sáu pháp diệu quán, niệm Phật Tam-muội. Cho nên kinh Quán nói: “Tưởng như thế, gọi là thấy cõi nước Cực lạc về phần thô, nếu được Tam-muội thì thấy được cõi nước kia rõ ràng, không thể nói hết.” Nên biết tưởng thành thấy thô, là tâm Văn Tư của cõi Dục, được Tam-muội thấy là tâm Tu tuệ của cõi Sắc. Một ngàn năm đầu, là giải thoát thiềân định kiên cố, đây là căn cứ tâm tu định tuệ cõi Sắc. Nếu tâm tưởng văn tư tưởng thành thì chung cả năm trăm năm thứ hai và năm trăm năm thứ ba. Không vậy thì nguyên nhân gì kinh Hiền Hộ quyển ba, nói: “Hiền Hộ! Sau khi ta diệt độ, kinh Tam-muội này ở Diêm-phù-đề bốn mươi năm lưu hành rộng rãi nhưng một trăm năm của năm trăm năm cuối, khi chánh pháp diệt, khi trì giới tổn giảm, phá giới mạnh mẽ, khi các nước chinh phạt nhau, các thời như thế, các kinh điển Tam-muội này sẽ truyền bá ở Diêm-phù-đề, chính nhờ cái gọi là oai thần Phật, khiến họ sau khi ta diệt độ, nghe kinh này rồi, vui mừng biên chép, đọc tụng, thọ trì, suy nghó nghóa kinh, rồi giải thích cho người khác, đúng như lời dạy mà tu hành.” Còn kinh Hiền Hộ quyển hai nói: “Này Hiền Hộ! Các người thiện nam, thiện nữ này, ngày xưa đã ở trước các Như Lai nghe Tam-muội này, đọc tụng thọ trì, do nghóa này, sau khi Như Lai diệt độ, khi pháp sắp hoại, vẫn nghe Tam-muội như thế. Nghe liền sinh tín, không hề sinh nghi, không lui sụt, được thông suốt, sinh tâm rất vui mừng, đầy khắp thân tâm, đọc tụng thọ trì, tư duy nghóa kinh, giảng nói cho người khác nghe, dù chỉ một ngày một đêm, thực hành Tam-muội này. Nên biết ở đây nói sau cùng tức là năm trăm năm thứ, thực hành Tam-muội này. Vì sao nói sau năm trăm năm thứ hai, chẳng phải là lúc học Tam-muội này? Nhưng Thiền sư Tín Hạnh trong “Tam Giai Tập Lục” phí công trình bày sự hưng phế, nói ngàn năm về sau chỉ thích hợp thực hành phổ, không thích hợp thực hành biệt, liền cho Tam-muội, là không đương căn cơ Phật pháp, nghóa sẽ phế giáo, chẳng phải là lúc học, điều đó chẳng sai lầm sao? Hỏi: Đại Tập Nguyệt Tạng Phần quyển mười nói: “Chắc chắn ở thế giới Ta-bà phỉ báng chánh pháp, chê bai Hiền Thánh, tất cả cõi Phật thanh tịnh ở mười phương đều đuổi họ đi hết.” Nên biết kinh này đã đuổi chúng sinh, tức là người ở giai đoạn ba, không được sinh Tịnh độ. Vì sao ngày nay lại khiến người ác ở giai đoạn ba kia đồng với người ở giai đoạn hai, đều được sinh Tịnh độ? Thích: Nếu người ở giai đoạn ba, Thiền sư bắt bẻ như thế thì chưa biết người ở giai đoạn hai của thế giới Ta-bà cho phỉ báng chánh pháp, chê bai Hiền Thánh không? Nếu có thì có bị đuổi đi không? Nếu bị đuổi thì có được sinh Tịnh độ không? Nếu không thì sao Thiền sư đem văn kinh này riêng chứng minh cho người ở giai đoạn ba là không được vãng sinh? Nếu được vãng sinh thì người này đã phỉ báng chánh pháp, chê bai Thánh hiền, tức sẽ bị đuổi đi, tại sao lại được sinh Tịnh độ. Nếu nói người ở giai đoạn hai không hủy báng chánh pháp, chê bai Hiền Thánh, thì không bị đuổi đi, nên được vãng sinh. Vì sao được gây tội xiển-đề mà không được phỉ báng chánh pháp? Nếu nói được hủy báng chánh pháp, chê bai Hiền Thánh mà Tịnh độ không đuổi đi nên được vãng sinh, thì xin chỉ cho thấy đoạn văn trong Thánh giáo đã nói? Nếu nói tuy hủy báng chánh pháp, chê bai Hiền Thánh, bị Tịnh độ đuổi đi. Nhưng căn có lỗi nhẹ nên được vãng sinh, tại sao kinh kia nói đuổi, kinh này nói thủ? Còn tất cả người giai đoạn ba ở thế giới Ta-bà, đều hủy báng, thì những đứa bé trong thai mới sinh ra, đâu thể hủy báng chánh pháp, chê bai Hiền Thánh? Nếu cho cũng có người ở giai đoạn ba không chê bai hủy báng chánh pháp, Hiền Thánh, đây là không nằm trong giới hạn bị đuổi đi, vì sao cũng nói không sinh Tịnh độ, mà dẫn kinh này chứng minh cho điều đó? Nếu nói đời nay tuy chưa hủy báng, nhưng quá khứ đã từng hủy báng, thì làm sao biết người ở giai đoạn hai không hề hủy báng? Nếu nói ý kinh này muốn nói lên người ở giai đoạn ba hoàn toàn là tà không chánh, chê bai và không chê bai đều đuổi, không được vãng sinh, người ở giai đoạn hai vừa tà vừa chánh, hủy báng hay không hủy báng đều được vãng sinh Tịnh độ, thì Thánh giáo này trở lại có hai lỗi là lấy hta1i quá và bỏ thái quá. Lỗi lấy thái quá lãng phí duổi người hủy báng ở giai đoạn hai; lỗi bỏ thái quá là sai lầm không đuổi người ở giai đoạn ba không báng. Tông đồ của Thiền sư, dẫn văn giải nghóa hoàn toàn trái với Thánh giáo, hạ ngu không dám thấy chỗ ấy. Hỏi: Theo kinh Phật Tạng và các luật… nói: Tỳ-kheo phá giới, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng tay ngăn lại. Ông chẳng phải đệ tử ta, ta chẳng phải là thầy ông, ông không được phép đặt chân lên đất già lam, như cây Đa-la đã bị chặt không thể sống lại, lại như phiến đá đã bị vỡ không thể liền lại được. Biển cả Phật pháp không nhận thây chết phá giới, ở tất cả pháp sự, hoàn toàn không được xếp vào cho đủ tăng số, nơi thanh tịnh của Bồ-tát không được dự, thức ăn của mười phương tăng, Phật không cho ăn dùng vật tín thí. Tất cả đều thành tội nặng, nước trong đất nước của quốc vương cho đến một giọt Phật cũng không cho người đó uống. Ở đây trong chúng xuất gia, trong Tăng già lam, Phật còn không cho dung thân, gọi là giặc đi giặc đứng, huống chi các Tịnh độ Phật thuần là bậc Thánh, người ác này cùng với bậc Nhất sinh bổ xứ đều tụ hội một chỗ, lo sợ nghóa này, chắc chắn không được vãng sinh. Thích: Theo các kinh luật, đều có hai môn khai, giá, đại giáo và tiểu giáo, thuyết trước thuyết sau, cho và đoạt khác nhau, không thể tin ngay, môn quở trách trước hết dạy ngăn, không tin kinh Quán Đại thừa diệt tội, các kinh luật trước, là giá môn, hoặc là Tiểu thừa kinh, hoặc là lời quở trách, hoặc đối với người chưa sinh tâm hổ thẹn sám hối tội lỗi, hoặc là chưa phát tâm Bồ-đề, ưa cầu sinh tử năm dục, hoặc là thích ở cõi dơ bẩn nhiều ô nhiễm, trôi lăn trong ba cõi thọ thân, hoặc Như Lai nếu trước không nói tội môn, chúng sinh không có tâm sợ tội, thường gây ra các việc ác, nên trước hết phải nói tội nặng, khuyên không tạo tội phá giới, hoặc y cứ tội đã diệt cũng có thể tránh khỏi đọa địa ngục. Giới căn đã hoại, không thể ăn dùng vật của chúng tăng, nay giáo pháp Tịnh độ là phát tâm Bồ-đề, sinh tâm hổ thẹn, sám hối tội quá khứ, sửa đổi thành thiện, thích lìa ba cõi, vui sinh Tịnh độ, nương bản nguyện Phật, tội diệt phước sinh, rất kinh sợ khổ báo đường ác ở tương lai, tùy thuận Phật giáo, dứt ác tu thiện, ở trong Phật pháp là người có sức mạnh thứ hai, làm rồi biết sám hối, được chư Phật khen ngợi. Tuy ở trong biển trì giới thanh tịnh của Phật Thích-ca Mâu-ni mà thành tử thi phá giới, nhưng ở Tịnh độ Phật Di-đà được sinh vào hạ phẩm, thành A-bệ-bạt trí. Nên Đức Phật này quở trách người phá giới, Đức Phật kia khen ngợi tội diệt, Đức Phật này không nhiếp thọ, Đức Phật kia liền đến đón, giống như cha mẹ dạy bảo con cái, một là quở trách lỗi lầm, hoặc hiện sân đánh, hai là nói lời nhỏ nhẹ, khiến người đó sửa đổi. Chư Phật cũng giống như vậy, hoặc bỏ, hoặc lấy, tất cả đều muốn thành tựu lợi ích chúng sinh, nên mới nói lời thô và lời nhu, đều quy về một nghóa. Cũng như Tỳ-kheo phạm tội nặng, trong luật quở trách đuổi đi, kinh Đà-la-ni thì nói tụng thần chú, tội diệt giới sinh, khuyên tụng chú, khai giá bất đồng, quở trách khen ngợi có khác, kinh Niết-bàn nói: Chưa vào trong pháp ta, gọi là quyết định nghiệp, đã vào pháp ta gọi là bất định nghiệp. Ở đây cũng giống như thế, nên nương vào lấy bỏ. Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: Vào đời mạt pháp, kinh đạo diệt hết, ta vì từ bi thương xót đặc biệt lưu lại giáo pháp này trong một trăm năm, chẳng hay lúc nào là thời kỳ kinh đạo diệt hết? Đáp: Như Thiền sư Tam Giai… đều lấy Thiền sư Tín Hạnh làm Bồ-tát tứ y, trong các kinh điển Đại thừa soạn “Tam Giai Tập Lục” nói: Nay một ngàn năm sau, chúng sinh ở giai đoạn ba này chỉ cho tu hành phổ pháp chân chánh, được sinh về các cõi Phật ở mười phương, nếu tu hành biệt pháp chân chánh và đọc tụng kinh điển Đại thừa, tức là pháp không hợp cơ, sẽ đọa vào địa ngục mười phương. Nay “Kinh Vô Lượng Thọ” tức là biệt chân biệt, chính là giai đoạn Phật pháp thư hai, một ngàn năm về trước thích hợp tu hành pháp này, ngàn năm về sau không còn căn cơ này, giáo này liền phế, dù khiến cho trụ thế một trăm năm, chỉ thích hợp một ngàn một trăm năm, nên giải thích là kinh đạo diệt hết, đặc biệt lưu lại kinh này chỉ trụ một trăm năm, là chánh pháp sau một trăm năm của (ngàn năm). Vì sao biết được điều đó? Như Bồ-tát Thường Bất Khinh ra đời trong bốn chúng Tăng thượng mạn ở thời tượng pháp, không chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ thực hành lễ bái, nên biết sau khi chánh pháp diệt thì tăng thượng mạn thịnh hành, không được đọc riêng, tụng riêng, chỉ riêng được học phổ, chính là văn này. Vì học phổ nên được sáu căn thanh tịnh, còn tăng thêm tuổi thọ, đây là học lợi ích đương căn phổ pháp. Thiện Tinh là người ở giai đoạn ba, vì đọc tụng mười hai bộ kinh, đọa vào địa ngục, đây là tổn hại lớn, có hành giả ở giai đoạn ba, đều vì giải thích điều này, mà tìm kỹ nghóa đó, lý nhất định không đúng. Vì sao? Vì nếu vì ngàn năm về sau người chân chánh diệt hết, chỉ còn người tà ác giai đoạn ba, chỉ hợp hành phổ chân, phổ chánh Phật pháp, không hợp hành biệt chân biệt chánh Phật pháp, và đọc tụng kinh Đại thừa, nếu họ thực hành đọc tụng, thì rơi vào địa ngục A-tỳ ở mười phương, đây tức là Như Lai ác tâm, ganh ghét người giai đoạn ba, lưu lại biệt chân biệt chánh Phật pháp của họ, khiến học đọc lầm, khiến rơi vào địa ngục A-tỳ, làm sao liên quan đến từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này trụ thế một trăm năm? Nếu cho rằng phổ pháp chân chánh là đương cơ, sau Phật nói phổ pháp vì sao không nói từ bi thương xót đặc biệt lưu lại ở thế gian một trăm năm ư? Nếu nói phổ pháp chẳng phải do Phật nói, cho nên Thiền sư nói kinh mà chư Phật không nói, độ những chúng sinh mà chư Phật không độ, Thiền sư chẳng phải Phật, làm sao có thể nói kinh ư? Lại vì sao nói y theo các kinh Đại thừa mà soạn ra “Tam Giai Tập Lục”? nếu các kinh Đại thừa có phổ giáo, biệt giáo, phổ giáo không nói đặc biệt lưu lại, chính là Phật pháp ngày nay, biệt giáo kinh nói chỉ trụ, nhưng học không hợp cơ, trái với lòng Từ bi của Phật, trái với sự dẫn dắt của Như Lai. Đã không có Thánh giáo, ai sẽ phân biệt chánh tà, nếu dẫn Thường Bất Khinh không đọc tụng kinh, tức chứng minh tăng thượng mạn trong đời tượng pháp, người không được đọc tụng kinh điển, sao Bồ-tát Thường Bất Khinh khi qua đời, trước hết nghe Phật Oai Âm Vương nói kinh Pháp Hoa, hai mươi ngàn muôn ức bài kệ tụng đều có thể thọ trì, được sáu căn thanh tịnh, lại tăng thêm tuổi thọ hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi, nói rộng kinh Pháp Hoa cho người nghe. Nếu người ở giai đoạn ba không được nghe kinh Đại thừa, vì sao Tỳ-kheo Bất Khinh nói kinh Pháp Hoa cho người tăng thượng mạn nghe, khiến họ nghe nhận gây nhân đọa ngục A-tỳ trong mười phương? Lại Bồ-táùt Dược Vương nguyện sau khi Phật diệt độ, phải phụng trì đọc tụng nói kinh điển này, chúng sinh đời ác sau này gốc lành ít, tăng thượng mạn nhiều, tham lợi cúng dường, tăng trưởng gốc bất thiện, xa lìa giải thoát, tuy khó hóa giải, nhưng chúng ta phải hết sức nhẫn nại, đọc tụng kinh này, thọ trì giảng nói, biên chép v.v… vì sao Bồ-tát Dược Vương thường nói kinh Pháp Hoa cho người tăng thượng mạn nghe? Lại, năm trăm năm sau kinh Bát-nhã có thể trì, lại nói: “Thời mạt pháp về sau người thọ trì kinh này được công đức.” Còn kinh Hiền Hộ nói năm trăm năm cuối cùng đọc tụng kinh này, đâu cho sau một ngàn năm biệt pháp phế bỏ, không cho đọc tụng kinh điển Đại thừa? Khuyên các người học xét kỹ Thánh chỉ, chớ tự mình sai lầm, lại làm người khác sai lầm, khiến các kinh điển Đại thừa nhiệm mầu, dứt sự lưu hành ở đời, sẽ là thuốc độc, là nhân địa ngục, diệt mắt chánh pháp, sự điên đảo đó rất đáng thương. Đáp: Kinh đạo diệt hết, theo kinh Đại Bi, Chánh pháp một ngàn năm, Tượng pháp một ngàn năm, Mạt pháp một vạn năm, kinh đạo diệt hết, đặc biệt còn lại kinh giáo này, lại trụ một trăm năm. Khi kiếp đao binh, con người phần nhiều tạo ác, tay cầm ngọn cỏ cũng thành đao kiếm, sát hại lẫn nhau, sân độc mạnh mẽ, con người chỉ còn mười tuổi, thân cao hai khuỷu tay, vào thời này lại càng không thể tu giới định tuệ, học sâu xa, chỉ có thể niệm Phật, nhàm chán cõi Ta-bà này nơi có ba tai, năm trược vô cùng khổ não, nguyện sinh thế giới an lạc Tây phương, Phật biết chúng sinh thời này khổ nặng, có thể sinh chán lìa, nên dùng lòng từ bi, đặc biệt lưu lại kinh này sau các kinh, chỉ trụ một trăm năm, ở kiếp binh đao, làm lợi ích hữu tình. Còn có người giải thích rằng: “Như Tôn giả Khánh Hữu nói: Theo phápTrụ Ký, Phật pháp sau kiếp binh đao này, lòng người nhàm chán làm ác, nên khởi Từ tâm, không giết hại nhau, yêu thương lẫn nhau như cha như con, tuổi thọ tạm tăng thêm kéo dài đến một trăm năm, mười sáu vị Đại A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, thông thạo mười hai bộ kinh, thọ trì, phó chúc, trụ trì chánh pháp, lợi ích chúng sinh, không nhập Niết-bàn, đồng thời cả quyến thuộc Đại La-hán, hơn muôn đồ chúng vẫn lưu hành Ba tạng giáo pháp Như Lai ở đời, dẫn dắt chúng sinh, xây chùa độ tăng, tu giới định tuệ, Phật pháp hưng thịnh. Đến khi tuổi thọ con người tăng lên sáu vạn tuổi cuối, bảy vạn tuổi đầu, các A-la-hán thu nhặt tất cả xá-lợi Phật, cùng xây tháp báu, mười sáu vị la-hán cùng các quyến thuộc nhiễu tháp cúng dường, rải các hoa thơm, lễ bái chiêm ngưỡng rồi đều bay lên hư không, nói như thế này: - Kính lễ Thế Tôn Thích-ca Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, con vâng theo giáo sắc, thọ trì chánh pháp và cùng trời, người làm các việc lợi ích, pháp tạng đã mất, hữu duyên đã xong, nay từ giã diệt độ. Nói lời này rồi, cùng lúc nhập vào Niết-bàn Vô dư, xá lợi các Ngài đều rớt xuống đất, đến mé kim luân mới dừng lại. Ba tạng giáo đã diệt mất trước xá-lợi, trong suốt một trăm năm, chỉ có tịnh pháp này cùng tháp xá-lợi và các vị La-hán cùng lúc diệt mất. Bây giờ, chánh pháp vô thượng của Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu- ni ở Tam Thiên đại thiên thế giới diệt mất không xuất hiện nữa. Từ đó không gián đoạn, trong Tịnh độ Phật này, có bảy vạn câu-chi Độc giác đồng thời xuất hiện. Cho đến khi ï con người tăng lên tám muôn tuổi thọ, Thánh chúng Độc giác đều diệt độ. Sau đó Di-lặc xuất hiện thế gian, vẫn vì chúng sinh nói giáo pháp Tịnh độ, khiến vô lượng chúng sinh được sinh Tịnh độ. Như thế lần lượt, một ngàn vị Phật ở kiếp Hiền và chư Phật sau đó ra đời hưng thịnh ở thế gian đều nói tịnh pháp, khuyên sinh Tây phương, cho đến mười phương cũng lại như thế, Đức Phật A- di-đà thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp chưa diệt độ thì chư Phật ở các thế giới trong mười phương xuất hiện, đều nói tịnh pháp cho các chúng sinh có duyên đối với Phật A-di-đà kia nghe, khuyên sinh Tịnh độ, nên kinh đạo này diệt hết, đặc biệt lưu lại kinh này một trăm năm, chính là lúc ấy. Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Vào đời vị lai, kinh đạo diệt hết, ta vì lòng từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này, chỉ trụ một trăm năm. Nhưng tất cả kinh giáo đều giáo hóa muôn vật, lợi ích chúng sinh, đọc tụng thọ trì, giảm đi tội nặng, nhờ nghe chánh pháp, đều được lìa khổ, vì sao kinh Đại thừa khác thảy đều ẩn mất, chỉ lưu lại kinh này trụ một trăm năm? Thích: Đức Đại Thánh Thế Tôn xuất hiện hưng thịnh ở đời, một âm nói pháp, các loài đều hiểu, nghe pháp ngộ đạo, nhiều như trần sa, hoặc được bốn đạo quả, hoặc được Vô sinh pháp nhẫn, hoặc lìa ba đường ác, hoặc sinh Tịnh độ trời người, hoặc lợi ích nhất thời, hoặc thấm nhuần trong thời đại lâu xa, chúng sinh quá khứ có gốc lành nghe pháp, gặp chân giáo của Phật, thọ trì đọc tụng, đều được lợi ích, chúng sinh phước mỏng, duyên cảm hóa đã hết, các Thánh giáo đều ẩn dưới Long cung, tất cả pháp y không nhuộm hoại sắc, các pháp Bố-tát, Yết- ma thuyết giới, thọ giới đều bất thành. Đại thừa sâu xa, chân như thật tướng, bình đẳng diệu lý, chẳng phải họ đều biết, nên đã ẩn mất trước, không lưu hành trên thế gian, chỉ có niệm Phật, dễ tu, dễ học phàm phu hiểu biết cạn cợt, cũng có thể tu tập cứu vớt khổ nạn, lợi ích sâu rộng, còn có cơ này, có khả năng thực hành pháp này, Đức đại Thánh thương xót đặc biệt lưu lại một trăm năm. Theo văn kinh biết được, Phật pháp tạm diệt, chúng sinh phước mỏng, chỉ có tịnh giáo này, đặc biệt lợi ích vào thời này, cho nên dùng pháp thí nghiệm, thật là Phật pháp đương cơ. Nên kinh Quán có nhiều chỗ đều nói: Vì tất cả chúng sinh vị lai nói giáo pháp này. Xin các đạo tục tìm Thánh giáo này, chiêm nghiệm đương cơ của họ, không được tin lời người, mà không y theo lời Phật. Hỏi: Kinh Thập luân nói: “Tạo tội mười ác luân, tất cả chư Phật đều không cứu được.” Đãõ nói không cứu, vì sao niệm Phật cũng diệt tội, được sinh Tây phương? Nếu được sinh thì tức là cứu, vì sao nói tất cả chư Phật không cứu? Đáp: Ở đây không cứu, ý nói làm kinh sợ những người tạo tội, mật ý Như Lai, muốn khiến cho người sợ tội, không dám làm quấy, vì tạo lỗi này sẽ mãi mãi chìm trong biển khổ. Phật đã không cứu, thì không làm quấy, nên nói không cứu? Đối với người tạo những tội nặng này, tạo rồi không hổ thẹn sám hối, Phật muốn dạy họ sám hối. Nói không cứu, vì thật không sám hối thì tội không diệt, nếu tạo lỗi này, chư Phật không cứu. Còn nếu chưa biết tội này, thì người ở giai đoạn hai cũng được tạo mười ác luân tội chăng? Nếu nói không được thì vì sao người ở giai đoa- ïn hai có thể tạo ngũ nghịch mà không thể tạo mười ác luân tội. Nếu tạo mà không cứu, thì ở đây nêu rõ người ở giai đoạn hai cũng không được sinh Tịnh độ. Do nhân gì chỉ riêng dùng điều này để chứng minh người ở giai đoạn ba không được sinh Tịnh độ? Nếu tạo tội mà cũng cứu, văn kinh chỉ nói “Người tạo tội này, chư Phật không cứu” đâu được người ở giai đoạn hai tạo các tội luân mà mong Phật cứu ư? Thiền sư lấy lý gì để nói mười ác luân tội, giai đoạn hai cứu, giai đoạn ba không cứu, giai đoạn hai được vãng sinh, giai đoạn ba không được vãng sinh? Văn kinh không lựa chọn, đã cho phép thì giai đoạn nào cũng đều được, cớ sao lại nói chỉ cứu người ở giai đoạn hai? Đây chính là người hiểu lời Phật nói, chẳng phải Đại Thánh giáo, thêm ý giải thích kinh, không đúng Thánh chỉ. Nhất tâm niệm Phật, tội nặng đều trừ, năm tội nghịch mười luân, thảy đều tiêu diệt, ngũ nghịch theo kinh nói là định nghiệp, đây là định tội đã diệt trừ, thập luân nói Phật không cứu, sao bỏ Đức Di-đà đón rước? Nếu Thiền sư chấp văn mà nghóa, lý chưa thông, xin tìm tông chỉ, để loại bỏ nghi ngờ. Hỏi: Như kinh Phật Tạng quyển ba nói rằng: “Có Phật hiệu Đại Trang Nghiêm, sau khi diệt độ trong một trăm năm các đệ tử chia làm năm bộ.” Phổ sự. Khổ ngạn. Tát-hòa-đa. Tương khứ. Bạt-nan-đà. Là năm vị Tỳ-kheo làm thầy đại chúng. Phổ sự là người biết pháp Phật đã nói nghóa chân không vô sở đắc, bốn vị Tỳ-kheo còn lại đều rơi vào tà đạo, thường nói có người, Tỳ-kheo Phổ Sự nói pháp không, có sáu mươi tám ức na-do-tha vị đã vào Niết-bàn. Bốn người ác này phần nhiều khiến cho người tại gia, xuất gia trụ ở tà kinh, xả bỏ Đệ nhất nghóa vô sở hữu rốt ráo pháp không, tham ưa luận của ngoại đạo Ni-kiền-tử. Là bốn người ác có đệ tử thường đi theo, cho đến pháp mất hết. Lúc bấy giờ đệ tử tại gia, xuất gia phần nhiều rơi vào đường ác, không đến con đường thiện, làm diệt mất chánh pháp Phật. Lại, người ác sau khi qua đời, đọa vào địa ngục A-tỳ, nằm ngữa, nằm úp, nằm bên hông trái, nằm bên hông phải, mỗi người chín trăm muôn ức năm ở trên sắt nóng, thiêu đốt nấu rang, chết rồi sinh vào địa ngục tro, địa ngục tro lớn… địa ngục Hoạt, vẫn thường chịu khổ trong số năm như trên, địa ngục Hắc thằng, sinh lại trong đại địa ngục A-tỳ. “Nếu tại gia, xuất gia gần gũi những người này và các đàn việt, gồm có sáu trăm bốn muôn ức người, cùng sống cùng chết với bốn thầy, ở các đại địa ngục chịu các thiêu nấu, bốn người ác này và sáu trăm bốn muôn ức người từ địa ngục A-tỳ chuyển sinh đến phương khác, ở đại địa ngục vô số trăm ngàn ức na-do-tha năm, chịu khổ não dữ dội, khi thế giới sinh trở lại, thì lại đọa vào đại địa ngục này rất lâu, tuy thoát khỏi khổ não địa ngục, được sinh lên làm người, trong năm trăm đời, khi sinh ra đã bị mù. Sau được gặp Phật Nhất Thiết Minh, người này xuất gia trong pháp Phật Nhất Thiết Minh, mười muôn ức năm siêng năng tu hành, như lửa đốt đầu, còn chưa được Thuận nhẫn, huống chi được đạo quả. Sau khi qua đời, sinh trở lại đại địa ngục A-tỳ, trước đã khởi duyên nghiệp bất thiện, về sau được gặp chín mươi ức Phật, ở trong pháp chư Phật không được Thuận nhẫn. Vì sao? Vì Phật nói kinh sâu xa, người này không tin, phá hoại trái nghịch, hủy báng Hiền Thánh, Tỳ-kheo trì giới, nói ra lỗi ác của họ, khởi nghiệp nhân duyên phá pháp, pháp phải đáng như thế.” Kinh kia đã nói bất tịnh nói pháp, mười muôn ức năm tinh tấn, như lửa cháy đầu, không được tội diệt, sau khi qua đời, sinh trở lại trong đại địa ngục A-tỳ, làm thế nào niệm Phật công đức một câu, mười câu liền được tội diệt, vãng sinh Tây phương? Đáp: Nhờ năm thắng, tuy tạm thời niệm danh hiệu Phật, diệt tội sinh tử, qua mười muôn ức năm, như cứu lửa cháy đầu, tu đạo diệt tội. Năm thắng là: Phát tâm thắng. Cầu sinh thắng. Bản nguyện thắng. Công đức thắng. Oai lực thắng. Phát tâm thắng: Đây là người hạ phẩm, là người có căn tánh Đại thừa, phát tâm Đại thừa, kia là người Tiểu thừa. Nay vì phát tâm Đại thừa, một niệm vượt qua tâm Nhị thừa vô lượng trăm ngàn ức kiếp, nên diệt tội nặng nhanh chóng. Cầu sinh thắng: Nay người này nhất niệm niệm Phật, nguyện sinh Tịnh độ, người kia tuy tu đạo như cứu lửa cháy đầu, đó là tâm Tiểu thừa, không tin có Tịnh độ chư Phật trong mười phương, vì không cầu thắng sinh, nên tội không diệt, đây là cầu thắng sinh, nên tội diệt nhanh chóng. Bản nguyện thắng: Vì Đức Phật A-di-đà vốn phát đại nguyện cao quý, dẫn tất cả chúng sinh tội nặng niệm danh hiệu Ngài, tội đều tiêu diệt. Chúng sinh ngày nay tuy gây ra tội nặng, cùng với quá khứ lâu xa từ vô lượng kiếp đến nay đã phát nguyện nương theo bản nguyện của Đức Phật A-di-đà, quá khứ lâu xa do gốc lành thuần thục, nên có thể một niệm liền được tội diệt. Công đức thắng: Hạnh Tiểu thừa trước chỉ quán bốn niệm xứ, không thể diệt vô lượng tội, nay nương một câu niệm Phật có công năng trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, công đức vô lượng, như kinh có nói. Nên công đức một câu niệm Phật hơn người kia trong mười muôn ức năm như cứu lửa cháy đầu, tu năm pháp Quán đình tâm, bốn pháp quán Niệm xứ. Oai lực thắng: Kinh Đồng Tánh nói: “Phật có mười địa, A-di-đà Phật là Phật sơ địa, công đức oai lực hơi khác bình thường, nên oai lực gia trì người niệm Phật tu hành, chắc chắn được vãng sinh, không giống loài khác”.  LUẬN THÍCH TỊNH ĐỘ QUẦN NGHI <卷>QUYỂN 4 Hỏi: Kinh Pháp Hoa nói: “Người chê bai kinh này, thường sinh vào chỗ nạn, không bao giờ thấy Phật, là bậc Tôn quý trong các Thánh.” Vì sao người chê bai pháp này, được sinh về Tây phương, thấy Phật nghe pháp, xa rời hẳn các thứ khổ? Như vậy sao thường sinh chỗ nạn? Thích: Kinh Quán nói: “Như người ngu này, không việc ác nào họ chẳng làm, trải qua các địa ngục, chịu khổ vô cùng.” Phần sau nói: “Niệm Phật mười tiếng, được sinh Tịnh độ.” Nếu nói thường sinh chỗ nạn, chịu khổ vô cùng, thì đâu được vãng sinh Cực lạc? Nên biết khổ báo vô cùng, nhưng tội diệt thì khổ báo dứt ngay; thường sinh chỗ nạn, tội ác đã hết thì đâu trở ngại thấy Phật? Còn Thiền sư dẫn ý của kinh giáo là muốn chứng minh người ở giai đoạn ba có tội không thể diệt trừ, không tội lỗi không sinh Tịnh độ. Dẫn rộng rất nhiều Thánh giáo, muốn chứng minh người tà không vãng sinh, chẳng biết người ở giai đoạn hai có chê bai kinh Pháp Hoa không, chê bai có thường sinh chỗ nạn không, niệm Phật có được sinh Tịnh độ không, nếu cho rằng được vãng sinh, thì không thể dẫn kinh ở trước làm chứng; nếu không được vãng sinh, thì đó là chúng sinh báng pháp ở giai đoạn hai, người đó cũng không được vãng sinh Tịnh độ, vì sao chỉ chứng minh người ở giai đoạn ba không đự ợc vãng sinh? Hỏi: Kinh Duy-ma nói: “Bồ-tát thành tựu tám pháp, đối với thế giới này thực hành không làm ung nhọt, thì sinh Tịnh độ.” Thiền sư Tín Hạnh nói: “Tám pháp này là pháp vãng sinh của chúng sinh ở giai đoạn ba, kinh Quán cho là pháp vãng sinh của người ở giai đoạn hai. Nay phần nhiều là chúng sinh ở giai đoạn ba, vì sao người học ở giai đoạn hai lại cầu sinh Tịnh độ? Thích: Xét ý nghóa lập giáo của Thiền sư, lấy Phật pháp đương cơ làm tông, muốn được chỉ quy của Thánh giáo, mà hạ thấp người học xưa nay, nhưng Thiền sư lấy ba nghóa: Y thời, ước xứ, và chuẩn nhân xuất xứ từ trong kinh giáo mà biết đó là đương cơ pháp môn. Thiền sư Tường lập ba môn này rồi tìm ý nghóa trong các kinh giáo, có thể nói hay thì thật là hay, tài năng thì thật tài năng, nhưng xưa nay, bậc thạnh đứùc đã dò xét lẽ u vi, tông môn học nội và ngoại điển, nghóa gồm bán tự và mãn tự, tận cùng sào huyệt của pháp môn, nghiên cứu bí tạng của chân thừa, chưa thấy có ai như Thiền sư làm việc này để phán tông chỉ. Nhưng Thiền sư tự lập nghóa trái với tông chỉ của kinh. Vì sao? Vì kinh Quán nói: “Nay Như Lai nói nghiệp thanh tịnh cho Vi-đề-hy và tất cả phàm phu đời vị lai, bị giặc phiền não làm hại nghe.” Luôn cả đời vị lai, là đời ác trược; người bị giặc phiền não làm hại là người ác; pháp này để giáo hóa cõi uế, chỗ xấu ác. Nhưng kinh này có đủ ba nghóa này, được xem là đương Phật cơ pháp, Thiền sư Tín Hành nói không đương cơ, ý đó thế nào? Kinh Duy-ma nói tám pháp không gọi là đời vị lai, chẳng phải thời ác; Bồ-tát thành tựu tám pháp, chẳng phải người ác, mà chỉ nóiù giáo hóa cõi nhơ bẩn này là cõi ác thôi, kinh chỉ có một nghóa này nhưng thiếu hai môn kia, mà nói đương cơ, là nghóa gì? Hỏi: Kinh Bồ-tát Xử Thai quyển ba nói: “Tây phương cách cõi Diêm-phù-đề này mười hai ức na-do-tha, có nước Giải mạn, nước này vui sướng, ca nhạc hát xướng, áo mền phục sức đều kết hoa thơm, cửa giường nằm giăng bảy báu, ngước mắt nhìn về phương Đông, giường báu chuyển theo, nhìn phương Bắc, phương Tây, phương Nam thì nó cũng chuyển theo như vậy. Trước sau, chúng sinh phát tâm muốn sinh về cõi nước Phật A-di-đà, nhưng họ say đắm cõi nước Giải mạn, nên không thể tiến lên được, do đó mà người sinh về cõi nước Phật A-di-đà, trong ức ngàn muôn người, chỉ có một người mà thôi.” Lấy kinh này làm chuẩn, thì thấy khó có thể được sinh, vì sao ở đây lại khuyên sinh về cõi Phật kia? Thích: Chỉ có kinh Bồ-tát Xử Thai mới có lời dạy như thế, nên Thiền sư Thiện Đạo mới khuyên bốn chúng chuyên tu nghiệp Tịnh độ Tây phương, bốn cách tu không rơi đọa, ba nghiệp không xen tạp, buông bỏ tất cả hạnh nguyện khác, chỉ nguyện tu một hạnh Tây phương. Người tu nhiều môn thì muôn người tu không có một người vãng sinh, người chuyên tu thì ngàn người tu ngàn người vãng sinh không sót một, kinh nói tiếp: Vì sao? Vì đều do biếng nhác, kiêu mạn, giữ tâm không vững chắc. Do đó mà biết người tu nhiều môn là người giữ tâm không vững chắc, nên sinh vào nước Giải mạn, là tương đương với kinh Xử Thai. Nếu không tạp tu, chỉ chuyên tu nghiệp này, tức giữ tâm vững chắc, nhất định vãng sinh về nước Cực lạc. Điều này rất phù hợp với tôn chỉ của kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh. Kinh nói: “Người ở thế giới Ta-bà tham lam thì nhiều, chánh tín thì ít, quen theo thói tà, không tin chánh pháp không thể chuyên nhất, tâm loạn không có chí hướng, thật ra Tịnh độ trong mười phương không khác nhau, vì muốn cho chúng sinh chuyên tâm một chỗ, nên khen ngợi cõi nước Phật A-di-đà. Những người vãng sinh đều tùy theo nguyện mà được quả.” Nên biết nếu tu xen tạp nhiều hạnh thì sẽ rơi vào nước Giải mạn, chuyên tu một hạnh thì sinh về cõi nước An lạc. Chỗ này mới hiển rõ pháp môn Tịnh độ chuyên thực hành mà được vãng sinh, há chẳng phải nước Cực lạc khó đến mà không cố gắng sao? Người học không thể không chuyên tu. Còn người sinh báo Tịnh độ thì rất ít, mà sinh hóa Tịnh độ cũng không nhiều, nên kinh nói riêng, thật ra không có gì trái nhau. Hỏi: Như kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói: “Năm trăm Thích tử đời quá khứ là anh em, học tập ngoại điển, không tin Phật pháp, người cha sinh lòng thương xót, nói cho họ nghe mười hai nhân duyên Phật pháp sâu xa, nhưng họ hủy báng, chê bai. Khi qua đời, họ chịu các thứ khổ, người cha thương xót sợ họ đọa địa ngục A-tỳ, nên dạy họ niệm Phật. Khi sắp chết, đứa con mới khởi lòng kính cha, nghe lời cha dạy, niệm Nam-mô Phật-đà, người cha lại dạy niệm Nam-mô Đạt-ma, Nam- mô Tăng-già, đứa con qua đời, nhờ phước niệm Phật, được sinh lên cõi trời, hưởng thú vui ở đó. Khi quả báo cõi trời đã hết, thì tội cũ hủy báng pháp vẫn còn, nên người con lại bị đọa vào địa ngục A-tỳ, chịu khổ dữ dội. Nếu y theo kinh này, thì người sắp qua đời niệm Phật tuy đươc sinh lên cõi trời, nhưng tội không mất vẫn rơi vào địa ngục, vì sao chúng sinh bậc hạ chỉ niệm một câu Phật liền diệt hết các tội, được sinh Tây phương, dứt hết đắm chìm, không đọa đường ác, thường hưởng an vui, cho đến Bồ-đề, Vì sao cùng niệm danh hiệu Phật, mà có lên xuống khác nhau như thế? Thích: Tuy người đó niệm Phật được sinh lên cõi trời, nhưng hưởng thú vui cõi trời, đam mê năm dục, lại không tu thiện. Khi phước niệm Phật hết, vẫn rơi vào ba đường. Như mũi tên bắn lên hư không, sức hết liền rớt xuống. Cũng thế, nếu không nương bản nguyện, cũng rơi vào đường ác. Nay vãng sinh Cực lạc, hoa sen nở ra thấy Phật nghe pháp, dần dần tiến tu các pháp đạo phẩm, sáu pháp Ba-la-mật, niệm niệm luôn hành trì, tội lỗi từ vô thỉ đều tiêu diệt, hạnh nguyện cao quý, niệm niệm tăng trưởng, trăm ngàn Tam-muội đều hiện tiền. Quán nhân không và pháp không, cho đến vô sở đắc. Đâu thể sánh nam nữ ở cõi trời ham vui năm dục, buông lung sáu tình, tạo mười tội ác với hữu tình vãng sinh Tịnh độ ư? Còn người niệm Phật không phát tâm Vô thượng Bồ-đề cầu sinh Tịnh độ, ân cần hổ thẹn. Lại Bản nguyện nói rằng: Còn trải qua ba đường ác, con nguyện không thành Chánh giác. Lại không dốc lòng, chỉ nghe cha dạy, nên tội không diệt, tạm được sinh lên cõi trời, nhưng tội còn nặng hủy báng chánh pháp, theo kinh Quán bậc hạ phẩm hạ sinh phải đủ mười niệm tội mới diệt trừ. Nếu không chí tâm, lại chỉ một niệm nên tội không diệt, sinh thiên hết phước lại đọa xuống, ví như mang nợ bị kẻ mạnh lôi kéo trước. Phước niệm Phật mạnh nên tạm sinh cõi trời, tội báng pháp nặng nên vẫn phải rơi vào đường ác. Hai kinh nói trên khác nhau là ở chỗ này. Hỏi: Kinh nói: “Trong có ba độc tà, ngoài chiêu cảm thần quỷ ma.” Nay nói: “Niệm Phật Tam-muội được thấy Phật A-di-đà, và khi qua đời, Phật và Thánh chúng mang hoa đến đón rước.” Đã là phàm phu, có ba độc tà, như thế chẳng phải là thần quỷ ma sao? Thích: Vì có ba độc tà, y kinh tu hành Tam-muội, được thấy Phật A-di-đà, và khi qua đời, Thánh chúng đến đón rước, tất cả là thần quỷ ma, nên tất cả phàm phu đều có ba độc tà, dù không đạt được niệm Phật Tam-muội và tu nghiệp Tây phương, cũng nên bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu thường thấy Phật, thì khi qua đời sẽ thấy Phật A-di-đà mang hoa đến đón rước, nếu nói không thấy Phật đón rước, là người không có ba độc tà, còn dốc lòng xưng niệm Phật A-di-đà, tu Tịnh nghiệp Tây phương, giữ gìn trai giới, có phải nhân của ba độc tà hay không? Nếu do niệm Phật tu thiện mà khởi ba độc tà thì lẽ ra Đức Thế Tôn không khuyên chúng sinh niệm Phật… còn tu thiện niệm Phật là vời lấy thần quỷ và ma, phạm trai phá giới, là không có các tướng ma quỷ… Nếu chẳng phải là nhân của ba độc tà, thì đây là pháp có thể diệt ba độc tà, chúng ta tu pháp có thể diệt, dừng cái thấy của thần ma quỷ, ông vốn không tu nhân diệt, thì làm sao thấy Phật? Nếu dùng văn này để chứng minh, phán định là ma thì phải là người không có ba độc tà, không bị các ma làm nhiễu hại. Nếu đúng thì tại sao tâm A-nan sinh mê hoặc, không thỉnh Như Lai trụ thế; Ưu-ba-cúc-đa đang ở trong định bị ma đội tràng hoa lên đầu? Nên biết rằng chưa hẳn tất cả ba độc tà đều chiêu cảm thần ma quỷ, tất cả những người không mê hoặc đều không bị ma quấy nhiễu, há lúc qua đời thấy Phật đều là thần ma quỷ sao? Nếu có ba độc tà cảm thần ma quỷ, thì cần gì phải biến thân Phật, mới chiêu cảm tướng ma. Kinh Niết-bàn nói: “Trong đời vị lai, ma biến ra thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và thân Phật để mê hoặc người tu hành. Phật dạy đệ tử Ngài phân biệt được điều đó là Phật nói hay ma nói, nên họ biết được. Chúng sinh rơi vào cảnh giới ma, bị nhiều duyên ngôn giáo mê hoặc, đâu phải chỉ có hình tướng lầm loạn? Nên kinh Quán nói: “Tu mười sáu pháp quán, được thấy cảnh thanh tịnh, không phân biệt tà chánh, nếu đang trong cảnh quán mà nghe nói pháp mầu thì Phật khiến cho xuất định nhớ mãi không quên, giúp cho hành giả khế hợp với Tu-đa-la, để phân biệt tà chánh.” Nếu ông đã hiểu, thì bốn chúng mà ông thấy đều phải là ma vì thân ông có tà độc. Lại thấy thân Phật dù là ma, nhưng do ngã pháp chân chánh, có thể ra khỏi cảnh ma, hiện thân Phật đến làm hoặc loạn ư? Là do ngã pháp chẳng phải chân Phật pháp, thêm lớn pháp tà độc, cảm ma hiện đến ư? Nếu do pháp chân chánh, có thể ra khỏi cảnh ma, ma hiện thân đến, cho dù là ma, tâm ông càng phải siêng niệm Phật hơn, vì đó là pháp chân chánh ra khỏi cảnh ma. Nếu pháp không chân chánh, có thể thêm lớn ba độc, chiêu cảm ma đến hiện hình Phật, người hàng thịt, chiên-đà-la, đều thêm lớn ba độc, nên nói khi qua đời thường thấy chư Phật trong mười phương, thân tâm an vui, thấy chư Phật mang hoa đến đón rước. Nếu như vậy thì như kinh Quán đã nói: “Chín phẩm vãng sinh, Thánh chúng đến rước.” Đây là ba độc tà, các Thánh chúng này đều là ma, thì kinh này không phải kinh Phật, pháp này là pháp ma. Lại có ba độc tà có thể chiêu cảm ma quỷ, thì cần gì phải thấy Phật mới là ma đến, nguyện sinh Tây phương mới chiêu cảm quỷ thần? Chỉ có bốn mươi tám nguyện của Đức Phật Di-đà mới tiếp dẫn chúng sinh tội ác vãng sinh. Thánh giáo đã nói rõ. Từ xưa đến nay có các Truyện Ký, đều nói về những đều tốt lành, âm nhạc thanh thoát, mùi thơm kỳ diệu, những tướng lành trong sáng đó, đâu phải là chuyện hư cấu ư? Ông nghe pháp mầu này, thấy các tướng thiện, lẽ ra phải phát tâm Bồ-đề, chuyên tâm tu học, mà lại không tìm Thánh giáo, không tin kinh Phật, thấy người tu hành, thì lại sinh tâm phỉ báng. Đây là ba độc tà của ông chiêu cảm thần ma quỷ, khiến cho tâm ông rối loạn điên đảo, hủy báng giáo pháp chư Phật, làm mất đi chánh tín của mình, phá hoại thâm tâm người khác. Phải biết đó là việc ma, chánh tín niệm Phật Tam-muội, đó là ma đến mê hoặc, phá hại tâm lành của ông. Đâu cần gì phải hiện ra hình tướng chư Phật, mới gọi là thần quỷ mê do ba độc chiêu cảm? Lúc Phật sắp nhập Niết-bàn có bảo A-nan rằng: “Ta tu bốn thần túc, có khả năng trụ thế một kiếp.” A-nan im lặng, không thỉnh Phật trụ thế. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Ca-diếp kết tập, dùng sáu lỗi Đột-cát-la quở trách A-nan: “Nguyên nhân nào ông không thỉnh Phật trụ lâu ở đời?” A-nan thưa: “Vì bị ma mê hoặc nên tôi quên thỉnh Phật trụ thế. Sau khi Phật diệt độ, ác ma rời tâm, tôi mới phát hiện, xin hổ thẹn hối lỗi.” Nên biết ma đến mê hoặc, không hẳn nó hiện hình, chỉ cần tâm ông tà vạy, là bị ma lợi dụng. Ma hiện hình đến mê hoặc, dễ biết dễ trừ, còn loại ma tiềm ẩn mê hoặc, khó biết khó trừ. Như A-nan ở cách Ta-la song thọ mười hai do-tuần, bị sáu vạn ma mê hoặc mà không biết, Phật sai Văn-thù-sư-lợi đem thần chú đến cứu. Cho đến khi Phật sắp diệt độ, ma che lấp tâm ông, đến khi Phật diệt độ rồi, ông mới sinh hối hận. Đây chẳng phải ma hiện dễ biết, ma ẩn khó biết ư? Ông chỉ hủy báng người niệm Phật, nói thấy Phật đều là ma quỷ, ông đâu biết rằng người không tin Thánh giáo là đã bị ma mê hoặc ư? Bồ-tát Tát-đà-ba-luân đến học Bát-nhã ba-la- mật với Bồ-tát Đàm-vô-kiệt, thích ứng với kiến giải “Không”, Bồ-tát liền đem thân ra chợ bán. Ác ma biết tâm Bồ-tát sinh tâm quyết định không thể mê hoặc được, liền bịt tai mọi người không cho nghe tiếng Bồ-tát bán thân. Có cô con gái của trưởng giả, đứng trên lầu cao, đời trước có nhân lành, ma không thể che được, liền nghe tiếng Bồ-tát rao bán như vậy v.v… kinh nói đầy đủ nên y theo đó để biết, người không nghe tiếng, là bị ma che nhó căn; còn người nghe tiếng là ma không thể che ngăn được. Ta cũng như thế, nghe nói giáo pháp Tịnh độ Tây phương, bốn mươi tám nguyện của Đức Phật A-di-đà, tiếp dẫn chúng sinh Ta- bà, hằng sa chư Phật trong mười phương xuất ra tướng lưỡi rộng dài, chứng minh và khuyên họ vãng sinh, người tin hướng về chuyên tu tịnh nghiệp, nguyện sinh Tịnh độ, đây là đã ra khỏi cảnh giới ma, ma cũng không thể nào mê hoặc. Như cô gái con ông Trương giả ở trên lầu cao, có nhân thắng thiện, nên ma không thể che được, được nghe tiếng của Bồ-tát rao bán thân. Ta cũng như thế, nên kinh Xưng Tán Tịnh độ nói: “Ở đây là thế giới Ta-bà tạp nhiễm, đầy năm thứ ô trược, nếu các người thiện nam, thiện nữ, được nghe danh hiệu Đức Phật Di-đà, công đức không thể suy nghó bàn luận, thế giới Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm, nghe rồi sinh tin. Nên biết người này đã từng gieo trồng vô số gốc lành với vô lượng Phật, đúng như lời dạy mà tu hành, thì người này chắc chắn sẽ sinh về cõi nước Vô Lượng Thọ.” Nên biết tu nghiệp Tây phương là người đã từng trồng vô số gốc lành ở vô lượng Phật, ác ma không thể che tâm người đó được, nên họ có khả năng tin hiểu sâu xa. Ông thấy được Thánh ngôn mà không có tâm tín hướng thì tâm của ông đã bị ma che, trở lại sinh phỉ báng, đâu biết rằng mình đãbị ma mê hoặc, lại cười ta bị ma mê hoặc, xin các ông suy nghó thật kỹ, sớm phát hiện, không nên chính mình sai lầm, mà còn làm cho người khác sai lầm. Lại theo văn kinh, tinh tấn trì giới, tu ba thứ phước, thực hành mười pháp quán, là đúng hay sai, chánh hay tà, là pháp ma hay pháp Phật. Nếu là pháp Phật, là chân chánh, thì thấy Phật hay ma, pháp này vẫn chánh, Dù cho thấy ma, cho ma là Phật, chỉ khiến y theo giáo tu hành, đây có gì là khổ? Nếu pháp này là pháp ma, không chân chánh, thì dù cho thấy Phật thật, cho Phật làø ma, rồi thực hành phi pháp Phật, tu như thế có ích lợi gì? Như ngoại đạo, khi Phật còn tại thế họ cũng thấy Phật nay nói ba phước, mười pháp quán trong kinh Quán là chánh hay tà? Nếu ông cho là chánh, thì y theo đó tu hành, chắc chắn sẽ thấy Phật không sai, sao ông hủy báng? Nếu ông cho là tà thì ông là Xiển-đề, vì hủy báng chánh pháp, nên bị ma chinh phục, thật đáng thương xót. Còn kinh Duy-ma nói: Thiên ma Ba-tuần dẫn theo một muôn hai ngàn thiên nữ, giống như Đế Thích mê hoặc Bồ-tát Trì Thế, Đại só Duy- ma theo ma đòi các thiên nữ, dạy họ phát tâm. Ma theo ngài Tịnh Danh đòi các thiên nữ, Duy-ma trả lại, các Thiên nữ liền bạch rằng: “Vì sao chúng tôi ở trong cung ma?” Duy-ma-cật nói: “Có pháp môn gọi là Vô tận đăng, các ngươi nên học.” Các ma nữ được pháp, theo ma trở về cung, đến cung trời kia, giáo hóa bọn ma đều bỏ hết nghiệp ma, phát tâm Bồ-đề. Nên biết được chánh pháp chân thật, dù ở trong cung ma, biết ma là ma, thì pháp cũng thường chân chánh. Nghóa này cũng giống như vậy, chỉ dạy niệm Phật Tam-muội là pháp chân chánh, dù cho ma biến thành Phật đến, tưởng lầm là thật, nên tâm quy hướng, thì nghóa của Bồ-đề cũng không thay đổi, như vậy đâu có gì đáng sợ? Ưu-ba-cúc- đa bảo ma biến thành Phật, rất giống như thật, ngài tưởng lầm là Phật nên sụp lạy, đây há là lầm giả khiến cho đồng với tà giải của các ông, chỗ thấy đều là ma, cho ma là Phật, là tổn chánh kiến ư? Kinh Duy-ma nói: “Làm ma vương trong các thế giới ở mười phương, đều trụ trong giải thoát không thể suy nghó bàn luận, Bồ-tát dùng năng lực phương tiện để giáo hóa chúng sinh, nên hiện làm ma vương.” Dù làm ma vẫn là Bồ-tát, có gì đáng sợ? Mà gượng phỉ báng ư? Chỉ như Thiền sư Tín Hạnh, khởi sinh manh quán, không phân biệt được cảnh trước mắt là Thánh hay phàm, chính là Thánh giải, cần phải hết sức cung kính, dù ông không phân biệt được là Phật hay ma, cũng cần phải cung kính hết, và tưởng đó là Phật thật. Còn ma làm nghiệp, chẳng phải ma; chẳng phải ma làm nghiệp ma, ma làm nghiệp ma, chẳng phải ma làm nghiệp chẳng phải ma. Ma làm nghiệp chẳng phải ma: Như khi Di-lặc hạ sinh, vào nửa đêm ma đánh thức chúng sinh, khiến họ bỏ ngủ nghỉ, siêng tu đạo xuất thế. Chẳng phải ma làm nghiệp ma: Như chúng sinh ngày nay, tuy chẳng phải là ma, xúi giục người làm ác, tức là nghiệp ma. Ma làm nghiệp ma: Như có loài ma thường mê hoặc người tu hành, khiến họ lui sụt tâm Bồ-đề, ham mê năm dục. Chẳng phải ma làm nghiệp chẳng phải ma: Như chư Phật, Bồ- tát và các Thiện tri thức, khuyên người phát tâm Bồ-đề, tu các phẩm thiện. Cần gì ông nói không nên chẳng phải ma làm nghiệp ma, ma làm nghiệp ma ư? Kinh nói: “Như người biết giặc, giặc không thể làm hại được.” Còn như Bồ-tát Tát-đà-ba-luân, tinh thành mạnh mẽ, tâm siêng hành đạo, chỉ nhớ lúc Bồ-tát Đàm-vô-kiệt xuất định, nói Bát-nhã ba-la- mật cho nghe. Lúc đó ác ma mưa đất cát, gạch ngói, xương khô, cành cây làm mê hoặc Bồ-tát. Lúc đó, Bồ-tát càng thêm mạnh mẽ, chích máu rưới xuống đất, trang nghiêm đạo tràng. Dù ma não loạn, tâm Bồ-tát vẫn tinh tấn thêm. Nay chúng ta niệm Phật, được thấy Phật, dù là ma ta vẫn tưởng là Phật, càng mạnh mẽ thêm, có gì đáng sợ? Trên đây trích dẫn rộng các Thánh giáo để khai ngộ tâm ông, chớ sinh phỉ báng. Như vậy kinh giáođược dẫn, phải làm sao hội thông? Đáp: Có ba độc tà không thể phát hiện được, gây ra các nghiệp thô ác về thân miệng ý, hủy hoại chánh kiến, thờ ma thờ thần, đây gọi là bên trong có ba độc tà, ngoài chiêu cảm quỷ thần ma. Tuy có ba độc tà, vẫn có thể gần gũi Thiện tri thức, y theo các kinh giáo liễu nghóa trong Ba tạng Thánh giáo, phát tâm Bồ-đề, tu các phẩm thiện, chánh tín chánh kiến, thì không có thần quỷ ma. Dù cho có ma, cũng không bị nó lợi dụng. Chư Phật hộ niệm nhiều thắng duyên hơn cho người đó, tự tâm họ là cháùnh nhân, thì làm sao ma đến mê hoặc được? Hỏi: Tịnh độ Tây phương so với cung trời Đâu-suất có gì hơn kém? Thích: Chỗ hơn kém này rất rõ, người có hiểu biết đều rõ, đâu cần gì hỏi? Nhưng bậc tiên đức đã nói về Tịnh độ đã bàn đầy đủ về sự hơn kém, nên không cần giải thích ở đây. Nhưng trong đó còn thiếu thí dụ. Nay phân biệt sơ lược để rõ thêm chỗ hơn kém, bằng mười hai nghóa như sau: Chủ. Xứ. Quyến thuộc. Thọ mạng. Nội ngoại. Sắc thân. Tướng tốt. Năm thông. Bất thiện. Diệt tội. Thọ lạc. Thọ sinh. Chủ: Thiên chủ Đâu-suất tích hiện phàm phu, tuy gọi là Bổ xứ, nhưng chưa thành Diệu giác, dù đang thành đạo, chỉ hiện hóa thân. Phật A-di-đà đã thành Chánh giác, ở nơi Tịnh độ, thường hiện thân thọ dụng, nói theo sự thật thì không có hơn kém, giáng tích hóa vật, thầy trò khác đường, sẽ thành hay đang thành, hóa Phật hay báo Phật, giác đủ hay chưa đủ, hiện thô hay hiện diệu, hơn kém khác nhau. Đây là nghóa thứ nhất. Xứ: Đâu-suất là cõi uế của Ta-bà, cõi trời thấp nhất của cõi Dục. Cực lạc là thắng phương của Tịnh độ, vượt hơn các cõi đẹp. Nói chỗ hơn kém của nó không có cách nào so sánh, đẹp xấu rõ ràng. Đây là nghóa thứ hai. Quyến thuộc: Cung trời Đâu-suất có nhiều nam nữ, cõi tịnh Cực lạc thì hoàn toàn không có người nữ. Lấy hình tướng này tự chia ra tốt xấu, hơn thua khác biệt. Đây là nghóa thứ ba. Thọ mạng: Tuổi thọ của người ở cõi trời Đâu-suất, lấy bốn trăm năm ở nhân gian làm một ngày đêm của cõi này, tức ba mươi ngày đêm là một tháng, mười tháng là một năm, thọ mạng bốn ngàn tuổi, nhưng có chết non khoảng giữa, không sống hết tuổi thọ của trời, làm sao so được với thọ mạng vô lượng A-tăng-kỳ kiếp của người ở Tây phương? Vì tướng nghiệp không sánh bằng tướng thọ, dài ngắn khác nhau. Đây là nghóa thứ tư. Nội ngoại: Cung trời Đâu-suất có nội viện, ngoại viện. Nội viện tức gần với Bổ xứ, không bao giờ lui sụt. Ngoại viện tức đam mê năm dục, không tránh khỏi luân hồi. Giác sư tử đạo gần với ngài Thế Thân, còn sinh ở ngoại viện, Bà-tẩu-bàn-đậu đức gần với Vô Trước mới sinh trong nội viện. Nên biết nội viện khó sinh, phần nhiều sinh ở ngoại viện, vẫn gây ra mười tội ác, lui sụt chìm đắm trong ba đường, không bằng sinh Tây phương, dù chỉ hạ phẩm, hoa sen nở, được gặp Quán Âm, nghe nói thật tướng các pháp sâu xa, trừ diệt các tội, thoát khỏi hẳn tuần hoàn, lấy hình tướng có thể so sánh được sao? Đây là nghóa thứ năm. Sắc thân: Thân sắc của người ở cõi trời Đâu-suất là thân các vị trời, thanh tịnh nhiệm mầu, thật là đặc biệt, nhưng khi chung cục thì năm tướng suy hiện, hoặc hai nách ra mồ hôi, hoặc ánh sáng mất, làm sao sánh bằng Tây phương toàn sắc vàng, ánh sáng chiếu rực rỡ trăm ngàn do-tuần? Nên kinh Vô Lượng Thọ so sánh các vua Túc Tán với người ăn xin nghèo nàn cho đến các vị trời ở sáu tầng trời cõi Dục mới vãng sinh ở Tịnh độ thì dung nhan, tướng mạo, uy quang tự tại, giống như đống mực, huống chi núi vàng, xấu đẹp khác nhau. Đây là nghóa thứ sáu. Tướng tốt: Các vị trời thân tướng dù có xinh đẹp, nhưng đâu có bốn mươi tám dáng dấp thù thắng khác, không có xấu đẹp. Tịnh độ Tây phương, nương bản nguyện của Phật, tất cả đều có ba mươi hai tướng trượng phu, không có xấu đẹp, hơn kém như ở cõi này. Đây là nghóa thứ bảy. Năm thông: Như bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớn: “Nếu như tôi thành Phật, chúng sinh trong nước chứng được năm thần thông, hoặc thấy hoặc nghe, dưới đến trăm ngàn muôn ức cõi nước chư Phật.” Các vị trời ở Đâu-suất dù có thần thông bay lên cao, qua lại, cũng đâu thể vuợt ra ba cõi? Dù sinh trong nội viện, cũng chưa chứng quả Thánh, không có kinh nào nói người đó trải qua mười phương, lấy đó mà so lường. Đây là nghóa thứ tám. Bất thiện: Những người vãng sinh về cung trời Di-lặc đã là phàm phu, sinh ở cõi Dục, dù gặp Bổ xứ, đích thân nghe Đại thừa, phàm phu còn các hoặc, càng không có nguyện để nhiếp giữ, vẫn khởi các hoặc của tâm bất thiện, chúng sinh ở Tịnh độ không có cảnh ác này, cho nên nương vào các nguyện, mà bất thiện hoàn toàn mất. Đây là nghóa thứ chín. Diệt tội: Kinh Di-lặc Thượng Sinh nói: Nếu trong một khoảng một niệm xưng danh hiệu Di-lặc, người này tiêu trừ tội trong một ngàn hai trăm kiếp sinh tử, chỉ nghe danh hiệu Di-lặc mà hợp chưởng cung kính thì người này trừ được tội trong năm mươi kiếp sinh tử. Nếu kính lễ Di-lặc thì trừ được tội trong trăm kiếp sinh tử, đâu sánh bằng một câu xưng niệm danh hiệu Phật Di-đà liền diệt được tội trọng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, được sinh về Tây phương? Đây là nghóa thứ mười. Thọ lạc: Là một trong năm thọ của Đâu-suất, sinh Cực lạc không có buồn khổ. Đây là nghóa thứ mười một. Thọ sinh: Thọ sinh ở Đâu-suất, hoăc sinh trên đầu gối của nam nữ, thọ sinh Tịnh độ thì chỉ có ở trong hoa hoặc trong điện báu. Đây là nghóa thứ mười hai. Đây là lược lấy mười hai nghóa để hiển rõ sự hơn kém giữa hai nơi, còn rộng thì vô biên không thể nào nói hết được. Tuy có hai chỗ hơn kém, ý nghóa như thế, nhưng vãng sinh hai chỗ này đều được kinh Phật khuyến khích và khen ngợi. Tùy theo sở nguyện của người, y theo giáo tu hành, đều được vãng sinh, đều được lợi ích. Người chí nguyện cầu sinh Đâu-suất đừng chê hủy người tu hành Tây phương, người nguyện sinh Tây phương, đừng chê bai nghiệp Đâu-suất. Mỗi người tùy theo tánh ưa thích của mình, mặc tình tu học, chớ thị phi nhau, tức là Phật pháp, bài bác lẫn nhau, thì đó là nghiệp ma, chẳng những không sinh về chỗ tốt đẹp mà còn luân hồi trong ba đường, người tu học phải suy nghó và cố gắng. Hỏi: Những người hữu học đều biết Tây phương hơn cung trời Đâu-suất gấp trăm ngàn vạn lần, nhưng sợ rằng Tịnh độ là cõi đặc biệt, những người nguyện sinh sợ khó dược vãng sinh, thế nên xưa nay các bậc thạnh đức, thạc học cao tăng, đều cho rằng khó sinh mà tu nghiệp Đâu-suất. Nay khuyên tu hạnh Tịnh độ, nghóa như thế nào? Chỗ nghi này rất sâu, xin hãy dứt trừ mê hoặc đó. Thích: Đây là điều nghi thật sâu! Xưa nay các bậc thạnh đức, thông suốt huyền chỉ tham cứu nội ngoại điển, tinh chuyên đại, tiểu, đối với nghóa này còn do dự, huống chi kẻ hạ ngu hèn kém, không phân biệt phải trái, đâu thể giải thích chỗ u trệ, phân biệt khó dễ này. Nhưng tìm trong các Thánh điển, thì có thể nói được chỉ thú của nó, vả lại như kinh Di-lặc thượng sinh, nói hạnh sinh Đâu-suất, so với kinh Quán, Vô Lượng Thọ kinh, xưng tán Tịnh độ kinh… nói rõ nghiệp tu Tây phương hiển bày chỗ đồng dị của nó nghóa đó có thể biết. Nhưng hạnh tu Đâu-suất và Tây phương, có mười lăm thứ đồng, tám thứ khác nhau. Mười lăm thứ đồng nhau: Quán hạnh. Trì giới. Thập thiện. Sám hối. Tạo lập hình tượng công đức hữu vi. Các Thánh đón rước. Xưng niệm. Lễ bái. Hồi hướng phát nguyện. Đọc tụng kinh điển. Vãng sinh. Thấy Thánh. Quy kính. Nghe pháp. l 5. Không lui sụt. Tám thứ khác nhau: Bản nguyện. Ánh sáng. Che chở. Xuất ra tướng lưỡi. Các Thánh. Diệt tội. Trọng ác. Giáo thuyết. Quán hạnh đồng: Người nguyện sinh về Đâu-suất, kinh Di-lặc Thượng Sinh nói: “Mỗi mỗi suy nghó trên cung trời Đâu-suất-đà rất vui.” Người tu pháp quán đó gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán. Người nguyện sinh Tây phương, kinh Quán nói: “Đất báu, cây báu, ao báu, chư Phật và Bồ-tát các pháp, mỗi mỗi đều quán sát, cũng nói: Tu pháp quán này, gọi là chánh quán, nếu quán pháp khác, gọi là tà quán.” Tức là tùy theo sở nguyện, quán nơi sinh ở cung trời, hay quán y báo, chánh báo trang nghiêm ở Tịnh độ. Chỗ này là giống nhau. Trì giới đồng: Kinh Thượng sinh nói: “Phải trì giới cấm của Phật.” kinh Quán nói: “Thọ trì tam quy, giới cụ túc, không phạm oai nghi.” Chỗ này là giống nhau. Thập thiện đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Tư duy thập thiện, hành thập thiện đạo”, kinh Quán nói: “Tâm từ bất sát, tu hành thập thiện”. Chỗ này là giống nhau. Sám hối đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Nghe tên Bồ-tát đại bi này, năm vóc sát đất, thành tâm sám hối thì các nghiệp ác nhanh chóng thanh tịnh,” kinh Cổ Âm Thanh Vương nói: “Sáu thời chuyên niệm, năm vóc sát đất. Chỗ này là giống nhau. Tạo lập hình tượng hữu vi công đức đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Tạo lập hình tượng, hương hoa, lọng báu, cờ phan, y phục.” Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Thường tu thiện, phụng trì trai giới, xây dựng tháp tượng, cúng dường Sa-môn, treo lụa đốt đèn, rải hoa đốt hương.” Chỗ này là giống nhau. Thánh nghênh đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Bồ-tát Di-Lặc phát ra ánh sáng từ sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, cùng các thiên tử rải hoa mạn-đà-la như mưa, đến rước người này.” Kinh Quán nói: “Phật A-di-đà phát ra ánh sáng rực rỡ, chiếu vào thân hành giả, cùng các Bồ-tát đưa tay đón rước.” Chỗ này là giống nhau. Xưng niệm đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Nếu trong một niệm xưng danh hiệu Di-lặc.” kinh Quán nói: “Nếu trong khoảng một niệm xưng danh hiệu Di-đà, chắp tay niệm Nam-mô A-di-đà Phật.” Chỗ này là giống nhau. Lễ bái đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Lễ bái là niệm.” Luận Tịnh độ nói: “Thân nghiệp cung kính môn, lễ bái Phật Di-đà.” Chỗ này là giống nhau. Hồi hướng nguyện sinh đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Hồi hướng công đức này nguyện sinh trước Di-lặc.” kinh Quán nói: “Hồi hướng công đức này nguyện cầu sinh về cõi nước Cực lạc.” Chỗ này là giống nhau. Đọc tụng kinh điển đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Đọc tụng kinh điển.” kinh Quán nói: “Đọc tụng kinh điển Đại thừa phương đẳng.” Chỗ này là giống nhau. Vãng sinh đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Nhanh như thời gian người tráng só duỗi cánh tay, liền được vãng sinh về cõi trời Đâu-suất.” kinh Quán nói: “Như búng ngón tay” hoặc nói “Như khoảng một niệm” hay là “Thí như người tráng só duỗi cánh tay, liền sinh về thế giới Cực lạc ở phương Tây”. Chỗ này là giống nhau. Kiến Thánh đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Gặp ngay Di-lặc”, Kinh Quán nói: “Thấy sắc thân Phật, các tướng đầy đủ”. Chỗ này là giống nhau. Quy kính đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Đầu mặt làm lễ”. Kinh Quán nói: “Ngay dưới đài vàng, chắp tay lễ Phật”. Chỗ này là giống nhau. Nghe pháp đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Chưa kịp ngẩng đầu lên, đã được nghe pháp.” Kinh Quán nói: “Ánh sáng, rừng báu giảng nói đạo pháp”. Chỗ này là giống nhau. Bất thoái đồng: Kinh Thượng Sinh nói: “Đối với Vô thượng đạo được không lui sụt.” Kinh A-di-đà nói: “Chúng sinh vãng sinh về đó, đều là bậc A-bệ-bạt trí”, chỗ này là giống nhau. Nói tám thứ khác nhau là: Bản nguyện: Về vãng sinh Đâu-suất thì Di-lặc vốn không có bản nguyện. Về vãng sinh Tây phương, thì Tỳ-kheo Pháp Tạng có bốn mươi tám nguyện, không nguyện như tự mình lội qua sông, có nguyện như ngồi trên thuyền dạo chơi. Đây là chỗ khác nhau thứ nhất. Ánh sáng: Tu nghiệp Đâu-suất, thần quang của Từ Thị không đến nhiếp thọ. Tu nghiệp Tây phương thì sợi lông trắng, lỗ chân lông, áng sáng, tướng tốt rực rỡ, tất cả các thần quang của Đức Phật A-di-đà, đều soi chiếu các chúng sinh niệm Phật, nhiếp giữ không rời. Ánh sáng chiếu như đi vào ban ngày, không ánh sáng giống như qua lại trong bóng tối. Đây là chỗ khác nhau thứ hai. Thủ hộ: Tu nghiệp Đâu-suất, Bồ-tát Từ Thị không đến che chở. Tu nghiệp Tây phương, kinh Quán nói: “Phật Vô lượng thọ, hóa thân vô số, cùng với Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, thường đến chỗ người tu hành này.” Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Được chư Phật Thế Tôn trụ trong mười Căng-già sa ở mười phương nhiếp thọ.” Kinh Thập Vãng Sinh chép: “Phật sai hai mươi lăm vị Bồ-tát thường che chở người tu hành.” Có sự che chở như nhiều người cùng dạo chơi, không sợ giặc cướp áp bức; không được che chở như kẻ đi một mình qua đường hiểm, thì sẽ bị kẻ hung bạo xâm phạm. Đây là chỗ khác nhau thứ ba. Thư thiệt: Sinh lên Đâu-suất, không có chư Phật trong mười phương thè lưỡi chứng minh. Khuyên sinh Cực lạc Tây phương có chư Phật thè lưỡi chứng thành. Như Đâu-suất đễ đến, Tịnh độ khó sinh, chư Phật trong mười phương cần gì phải chứng khuyên? Đây là chỗ khác nhau thứ tư. Chúng Thánh: Nghiệp Đâu-suất không có các Thánh che chở, phát nguyện nguyện sinh Tây phương thì có Bồ-tát Hoa Tụ, Bồ-tát Sơn Hải Tuệ, phát thệ nguyện rộng lớn: “Nếu còn chúng sinh nào, chưa vãng sinh Tây phương mà tôi đi trước, thì tôi nguyện không thành Chánh giác.” Đây là chỗ khác nhau thứ năm. Diệt tội: Kinh Thượng Sinh nói: “Xưng niệm Di-lặc chỉ trừ tội trong một ngàn hai trăm kiếp.” kinh Quán nói “Xưng niệm Phật A-di- đà, trong mỗi niệm, trừ diệt tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp.” Đây là chỗ khác nhau thứ sáu. Trọng ác: Kinh Thượng Sinh nói: “Nếu thiện nam, tín nữ nào phạm giới cấm, gây ra các nghiệp ác.” kinh Quán nói: “Hoặc có chúng sinh, gây ra nghiệp bất thiện, năm tội nghịch, mười điều ác, đủ các thứ bất thiện.” Đây tức là gây ra năm tội nghịch, không sinh cung trời Đâu- suất, nhưng được vãng sinh Tịnh độ Tây phương. Đây là chỗ khác nhau thứ bảy. Giáo thuyết: Nói Đâu-suất dễ sinh, Tây phương khó đến, đây là hàng phàm phu suy tính kinh Phật. Xét cùng các kinh điển, hoàn toàn không có chỗ nào nói. Dù cho chứng bốn đạo quả, thức ăn ngon, áo ngọc; giai vị Thập địa, còn hoặc vô minh. Huống chi phàm phu học lữ, tập khí chưa mất, kiến hoặc, tu hoặc có lúc nào tạm rời? Dù có tìm Thánh giáo, giống các người mù rờ voi, há được y theo thứ bậc nhất định làm lời chỉ nam ư? Nhưng kinh Vô Lượng Thọ có lời dạy thành thật rằng: “Cắt ngang năm đường ác đường ác tự nhiên đóng, bước lên con đường cùng cực, dễ đến nhưng không có người.” Đó là chỗ rõ ràng của Phật giáo. Đây là chỗ khác nhau thứ tám. Trên đây văn đồng có mười lăm chỗ, còn không thể nói khó sinh, huống chi có tám môn khác, mà nói khó đến? Xin người học tìm cả lý lẫn giáo, xét hai môn dễ và khó của nó, có thể dứt hẳn cái hoặc của nó. Lý cùng Thánh giáo, đối với một pháp môn hoặc khen hoặc chê, đều là phương tiện khuyên nhập đạo, xả bỏ ngu hoặc của kiến chấp. Nay vì ý này, xin xét rõ điều đó. Hỏi: Theo luận Đối pháp, chín thứ mạng chung thọ sinh là chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Dục, chết ở cõi Dục sinh ởû cõi Sắc, chết ở cõi Dục sinh ở cõi Vô sắc, cứ như thế đến tử vị, muốn thọ sinh ở cõi kia, liền khởi phiền não nhuận sinh cõi kia. Nay sinh Tây phương, khởi phiền não gì để nhuận sinh? Đáp: Ở đây có hai cách giải thích: Nếu người chưa rời cõi Dục mà muốn sinh Tây phương, khởi ái của cõi Dục, nhuận Tịnh độ sinh. Nếu đã rời cõi Dục muốn được định cõi Sắc, khởi ái của cõi Sắc, nhuận sinh Tịnh độ. Nếu đã lìa cõi Sắc, muốn được định cõi Vô sắc thì thối tánh đó, thối khởi phiền não cõi Dục, cõi Sắc, sinh về Tây phương. Nếu không thối, thì sẽ không sinh Tịnh độ. Người kia nói Tịnh độ thuộc về cõi Dục cõi Sắc, có thuyết nói tuy chẳng thuộc hai cõi Dục và Sắc, nhưng là cõi Sắc tướng cho nên không thể lìa phiền não cõi Sắc để được định cõi Vô sắc, mà sinh sắc tướng Tịnh độ. Có lời giải thích rằng: Sinh về Tịnh độ, khi qua đời, Phật đến đón rước, từ bi thêm phước lành, khiến tâm không điên đảo, liền qua đời. Nếu khởi phiền não, thì gọi là điên đảo. Nhưng pháp thọ sinh ắt phải phiền não, đây là dùng hạt giống phiền não để nhuận chi hữu, khiến cho nó sinh nối nhau, cũng không có lỗi. Hỏi: Bậc Thánh hữu học có thể dùng hạt giống nhuận sinh, đã là phàm phu, chỉ dùng phiền não hiện hành, đâu được nói hạt giống nhuận sinh? Đáp: Luận ý cứ vào cõi uế thọ sinh, phàm phu chỉ dùng phiền não hiện hành, vì phàm phu phiền não mạnh mẽ, khi qua đời tất cả đều điên đảo. Vãng sinh Tịnh độ, nhờ Phật che chở, tâm không điên đảo, phiền não không khởi, không thể xếp đồng với pháp sinh cõi uế. Tuy không Thánh giáo, nhưng nghóa y cứ theo đây có thể biết, nếu không có tử tâm, thì lẽ nhất định là như thế, hoặc khởi hiện hành, nghóa cũng không lỗi. Hỏi: Người sinh Tịnh độ có mười hai chi hữu, thuộc về ba cõi, chẳng biết Tịnh độ phần vị duyên sinh, thuộc về chỗ nào? Thích: Ở đây có hai cách giải thích: Giải thích Tịnh độ là thuộc về ba cõi, chưa lìa được hoặc cõi Dục, vãng sinh Tịnh độ, chi vô minh, chi hành, tức là cõi Dục, sáu xứ thức, danh sắc, năm quả xúc, thọ, hạt giống vẫn là cõi Dục, chi ái, thủ, hữu đã là cõi Dục, quả sinh, già, chết đâu chẳng phải cõi Dục? Nếu đã lìa cõi Dục, muốn được tâm cõi Sắc, mười hai chi hữu là thuộc cõi Sắc, pháp tướng đạo lý, nghóa của nó phải như vậy. Có thuyết cho Tịnh độ chẳng thuộc về ba cõi, trước đã rộng thành lập, mười hai chi hữu này là nói theo ba cõi, nên trong Tịnh độ không phân biệt. Còn mười hai chi hữu này từ trong cõi uế cũng thuộc về pháp bất tận, như chỉ thọ định nghiệp riêng, được quả báo riêng, đâu được nói thuộc về mười hai chi, cho nên biết rằng phần vị duyên sinh, thuộc về pháp bất tận. Hỏi: Nếu sinh về Tịnh độ không khởi các việc ác, là cũng không khởi các phiền não ư? Vả lại như Bồ-tát Sơ địa còn có cấu phá giới sâu kín, Bồ-tát Tam địa còn khởi ngã chấp, Thất địa trở xuống còn có chướng ái Phật, ái Bồ-đề, vì sao cũng sinh về cõi kia, hiện là phàm phu tức không khởi các ác phiền não? Thích: Sinh vào phàm phu kia tuy có phiền não, do liên quan đến cảnh ác, không khởi trở ngại nào. Như chúng sinh địa ngục, trong mười nghiệp đạo bất thiện chỉ khởi năm nghiệp đạo: Tham, sân, tà kiến, ác khẩu và ỷ ngữ. Địa ngục tuy là đường ác, nhưng còn thiếu năm nghiệp ác, huống chi ở Tịnh độ không thiếu ác không vãng sinh sao? Hỏi: Chẳng lẽ Tịnh độ kia nhanh không khởi tất cả phiền não khác, là cũng được khởi các phiền não hữu phú vô ký sao? Thích: Mê lý phiền não câu sinh khởi, kia cũng được khởi, vì phàm phu này chưa tỏ ngộ sâu xa chân như thật tướng, không ngại được khởi. Về phân biệt khởi, kia không khởi hiện hành. Luận nói phân biệt ngã kiến, là duyên tà giáo mà khởi, nhưng ở đó không tà giáo, nên không hiện hành. Ngã kiến là gốc của các hoặc, gốc đã không khởi thì ngọn hoặc không sinh, phiền não nhậm vận không duyên giáo mà sinh, đã là phàm phu, khởi cũng không phế, nhưng phiền não này, theo luận Đối pháp, nếu nhậm vận khởi, có thể phát ra ác hạnh, cũng là bất thiện, ở kia đã khởi hoặc không khởi ác hạnh, nên chỉ thuộc về tánh hữu phú vô ký. Kinh ngăn bất thiện, không nói hữu phú, chỉ gọi tên là thiện, không ngại khởi phiền não. Ái Phật, ái Bồ-đề là pháp chấp phiền não. Hỏi: Kinh nói: “Sinh Tây phương kia đều là bậc A-bệ-bạt trí.” Hoặc nói: “Chỉ có chánh định tụ, không có tà định và bất định tụ.” Nhưng địa vị của A-bệ-bạt trí không phải tụ chánh định của hạ phàm, đạo chứng quả Thánh, nay đã là phàm phu vãng sinh Tịnh độ, họ là bậc Thánh sao? Đâu được vượt qua nhanh A-tăng-kỳ để thành Hoan hỷ địa? Nhưng phàm phu lui sụt sinh Tịnh độ, không thể đến ngay địa vị A-bệ- bạt trí. tà định, Bất định tụ liền lên Chánh định tụ. Không được, là trái với văn của kinh Quán, nếu được thì trái với nghóa của các kinh luận. Hai văn mâu thuẫn, xin giải thích cho. Thích: Văn hai kinh này thật trái nhau, nhưng Tịnh độ, uế độ hai khu vực khác nhau, sinh cõi này cõi kia căn cơ cũng khác, nên phán Chánh định tụ cao thấp khác nhau. A-bệ-bạt trí cạn sâu cũng khác. Nhưng Ta-bà là cõi nhơ bẩn, Thánh ít phàm nhiều, tin thì ít chê bai lại nhiều, người căn hạnh cạn, thấp thì thường gặp duyên lui sụt, ngọn gió tà thổi lên, thảy đều lui sụt. Theo các kinh luận, nói có bốn cách thoái: Tín thoái. Vị thoái. Chứng thoái. Hành thoái. Tín thoái: Trong địa vị Thập tín, năm tâm vị đầu còn có thoái sinh tà kiến, dứt thiện căn, năm vị sau không như vậy. Vị thoái: Trong địa vị Thập trụ, sáu tâm vị trước, còn thoái bại thành Nhị thừa, bốn vị sau không như vậy. Chứng thoái: Từ Thập địa trở xuống, các phàm phu vị, đối với sở chứng ở trước còn có lui sụt, Thập địa thì không như vậy. Hành thoái: Thất địa trở xuống, đối với chỗ nghe, hành còn yếu kém, không thể tu học, không thể trong từng niệm thường tu thắng hạnh, khoảng giữa nghe khởi các phiền não hữu lậu, các tâm nhân chấp, pháp chấp, gọi là niệm thoái. Bồ-tát Bát địa vào A-tăng-kỳ thứ ba, không có bốn loại thoái. Trong các hạnh tu đầy đủ các hạnh, trong tất cả thời niệm niệm nối nhau, thường khởi vô lậu nhân pháp không quán, không có một niệm khởi tâm hữu lậu, thiện ác vô ký, Bồ-tát Bát địa có đủ bốn bất thoái, nên gọi là Bồ-tát A-bệ-bạt trí. Bảy địa dưới, không có bốn bất thoái nên hoàn toàn không được gọi là A-bệ-bạt trí. Nếu theo một nghóa, Bồ-tát Sơ địa vào A-tăng-kỳ thứ hai, để dự vào dòng Thánh, đoạn kiến đạo, phân biệt hai chướng, chứng lậu mãn chân như, được Bách pháp minh môn, trụ vào Hoan hỷ địa, ở đây đã đầy đủ chứng bất thoái và hạnh bất thoái, cũng được gọi là A-bệ-Bạt- trí. Cho đến Thất địa trở xuống, còn có chướng ái Phật, ái Bồ-tát hiện hành, trung gian khởi các tâm hữu lậu, chưa được hạnh bất thoái, cũng gọi là phi A-bệ-bạt trí. Nhưng tùy theo phần ít, cũng gọi là Bồ-tát A- bệ-bạt trí. Theo các kinh như Bồ-tát Bổn Nghiệp Anh Lạc… nói Đệ lục trụ gọi là Chánh tâm trụ, đây là giai vị Bồ-tát còn có lui sụt tâm Bồ-đề, làm Nhị thừa, như Xá-lợi-phất… Thất trụ trở lên không có thối này, nên trong bốn Bất thoái, chỉ có ba thoái: Vị, chứng và hạnh, không có bất thoái ban đầu, tùy phần cũng gọi là A-bệ-bạt trí. Nếu theo luận Khởi Tín thì từ sơ phát tâm trụ, gọi chung là nhập vị Bất thoái. Thập trụ trở xuống gọi là ngoại phàm, cũng gọi là khinh mao phàm phu, thí như sợi lông nhẹ, theo gió thổi đông tây, nên còn lui sụt. Bồ-tát thập trụ chẳng phải khinh mao, vì gốc lành vững chắc, không bị gió tà lay động, vào trong phàm vị, không có thối vị, gọi là Bồ-tát A-bệ-bạt trí. Dựa theo cõi uế này, Bồ-tát Thập Tín bị gió tà làm lay động, thối tâm Bồ-đề, thối hạnh Bồ-tát, trôi lăn trong ba đường ác, chẳng phải A- bệ-bạt trí. Thanh tịnh cõi nước Phật, nếu vào năm tâm đầu của Thập Tín và tất cả chúng sinh chưa vào Thập Tín, mà nói về tín vị của họ, thì tuy chưa vững chắc, vẫn như khinh mao, nhưng không bị gió tà lay động, khiến họ lui sụt tâm Bồ-đề, gây ra các tội nặng, luân hồi đường ác, vì thiếu thối duyên, không có các thối cụ, chỉ có duyên tấn đạo cao quý, tuy chưa vào địa vị A-bệ-bạt trí, nhưng cũng được gọi là A-bệ-bạt trí. Nhưng thối pháp, tư pháp, hộ pháp, trụ pháp, kham đạt pháp học và vô học của bậc Thánh tuy là độn căn, nhưng đều gọi chung là thoái chuyển. Nếu trong đời người, gặp năm thoái cụ, đó là trường bệnh, viễn hành, hòa tránh, tăng sự và tập tụng, tuy được đạo Thánh, dứt trừ phiền não, nhưng gặp thối duyên này, lại bị lui sụt, khởi các phiền não. Nếu sinh lên cõi trời, không có năm duyên thoái, tuy chưa luyện căn đến tánh bất động, nhưng vì thiếu thối duyên, nên bất thoái khởi hoặc, vọng tánh tuy khác với bất động tánh nhưng bất thoái tư hoặc và chủng tánh Bất động thứ sáu kia không khác nhau, kia cũng như vậy, vì sinh Tịnh độ, không có các duyên thối, tuy là Thập tín, Bồ-tát giả danh, nhưng đều được gọi là A-bệ-bạt trí. Nếu trong cõi uế, Noãn, Đãnh của Tiểu thừa, Thập tín của Đại thừa, dùng căn Bất định, hoặc gặp duyên ác, lui sụt gây ra năm tội nghịch, nhập vào tà định tụ. Tà là quả của ba đường ác, định là nhân của năm nghịch nghiệp. Nếu người gây nhân năm tội nghịch, thì nhất định Vô gián, đọa vào ba đường ác, gọi là Tà định tụ. Nếu gặp thắng duyên tu đạo, được vào Bất thoái chuyển vị, gọi là Chánh định tụ. Chánh là Niết-bàn ly hệ, quả trạch diệt. Định là nhân không, pháp không, Thánh quả vô lậu. Tu được Thánh đạo, quyết định sẽ chứng được chánh quả Niết-bàn, ly hệ trạch diệt, gọi là Chánh định tụ, ngòai ra gọi là Bất định tụ, vì hoặc có thể tạo Tà định tụ, hoặc có thể tu chánh định tụ, ở hai bất định đó gọi là Bất định tụ. Ba loại này, chúng sinh số không phải một, nên gọi là Tụ. Nay sinh ở Tây phương, không có duyên ác, hoặc gây ra tội Vô gián, vào tà định tụ, vị hạnh tuy cạn, nhưng gặp duyên tốt thì từng niệm tiến tu Thánh giáo Đại thừa, quyết định không lui sụt, nên được gọi là chánh định tụ. Nhất nhất không được đồng với Ta-bà lui sụt, xếp A-bệ- bạt trí và Chánh định tụ vào địa vị cao thấp, tức khiến Tịnh độ không lui sụt đồng với cõi này, vì Tịnh độ và uế độ thoái hay không thoái, duyên có không khác nhau. Ở đây vị nó chẳng phải là A-bệ-bạt trí, chẳng phải vị chánh định tụ, sinh ở Tây phương kia, tất cả được gọi là A-bệ-bạt trí và chánh định tụ, vì sinh ở cõi kia không có duyên thối, và quyết định không tạo Tà định tụ. Hỏi: Như kinh Pháp Hoa nói: “Bị mê đắm vui si làm mù”, lại nói “Đam mê thú vui thế gian, không có trí tuệ”. Còn Thánh giáo nói: “Nếu không chán khổ, thì không lấy gì ưa cầu Niết-bàn, nếu không ưa cầu Niết-bàn, thì mê đắm sinh tử.” Nếu đúng như vậy thì sinh ở Tịnh độ kia trái với nghóa trên, liền thành tai họa chướng đạo: Đắùm trước cái vui thế gian, không có tâm xuất thế. Không nhàm chán khổ, hoàn toàn không cầu quả vắng lặng, đây rất tổn hại, đâu có nguyện sinh. Đáp: Nghóa này là khác. Lời bắt bẻ này không đúng, năm dục cõi uế, làm tăng trưởng tâm tham, gây ra mười nghiệp ác, luân hồi đường ác, nên kinh nói: “Bị mê đắm vui si làm mù.” Thanh tịnh cõi nước Phật tuy có các thứ vui, thuận với tâm xuất thế vô lậu, pháp lạc Đại thừa, định lạc Tam-muội, chẳng phải là cái vui đắm nhiễm. Cho nên, có thể dẫn dắt được phàm tình, khiến tăng thêm Thánh đạo, nên kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Trong cõi Phật thanh tịnh ở thế giới Cực lạc, ngày đêm sáu thời thường rải các hoa trời như mưa rất đẹp, ánh sáng đượm mùi hương thanh khiết, mềm mại nhiều mầu, tuy nhìn thấy thân tâm ưa thích, nhưng không tham đắm, thêm lớn công đức không thể suy nghó bàn luận của vô lượng vô số hữu tình.” Lại nói: “Pháp lạc Đại thừa thường không lui sụt, vô lượng hạnh nguyện niệm niệm tăng lên, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.” Hơn nữa, người nguyện vãng sinh về đó đều nhàm chán cõi uế này, ưa thích cầu Niết-bàn, mới thích đến Tây phương. Thực hành hạnh Bồ-tát, đây đã có ý ưa thích và nhàm chán, càng sinh phương vô thoái, đâu phải có cái khổ trói buộc thân, mới sinh cái suy nghó vắng lặng đâu? Lại ưa cầu Niết-bàn, chẳng phải chỉ chán khổ, hoặc nghe công đức chư Phật không thể suy nghó bàn luận, hoặc nghe sáu pháp Ba-la-mật, các pháp đạo phẩm, hoặc thấy các Đại Bồ-tát du hí thần thông, hoặc ngửi thấy mùi hương thơm, hoặc nếm thức ăn ngon, đều có thể tấn đạo, thú hướng Niết-bàn, nên quay lưng với sinh tử mà hướng về vắng lặng, chẳng phải chỉ có một con đường, chẳng thể chỉ nói không có khổ để nhàm chán, bèn không chấp nhận ưa thích cầu Niết-bàn. Hỏi: Như trong luận nói ở đời quá khứ đã gây ra tội nặng, dù tu thắng thiện, cho đến được quả Thánh, còn phải chịu nghiệp định báo ở quá khứ, như lìa vượt A-la-hán… Nay đã tạo đủ tội nặng, vãng sinh Tây phương, tuy sinh Tịnh độ, đã không có Thánh đạo, sinh ở nước kia rồi, có chịu khổ hay không? Nếu chịu khổ thì không nên nói “Không có các khổ, chỉ hưởng các điều vui” nếu không chịu khổ thì phàm phu sinh kia, chưa khởi một niệm vô lậu Thánh đạo, làm sao tạo các tội nặng kia, mà không bao giờ chịu khổ ư? Thích: Nghóa này bất định, không thể có tiêu chuẩn nhất định. Chịu các thứ khổ là sinh vào cõi uế, dù khiến cho được thân Thánh là thân khổ, nương thân khổ này, chịu quả khổ này; sinh ở Tịnh độ kia có cái hoặc của phàm phu, tuy không có Thánh đạo, không bằng bậc Thánh, nhưng là thân thanh tịnh cao quý của thế giới Cực lạc, thấy Phật nghe pháp, tu hạnh Đại thừa, vì bản nguyện của Phật, có thể vượt qua bậc Thánh này, không chịu khổ báo. Nhưng Thoái pháp chủng tánh không bằng Tư pháp chủng tánh, nhưng Tư pháp thắng chủng tánh sinh trong loài người, có năm duyên thoái, tuy thắng mà thoái; thoái pháp chủng tánh sinh trong cõi trời, thiếu năm duyên thoái, dù bất thoái yếu hơn. Không vì tánh yếu ở trên mà thoái, không vì tánh thắng ở dưới mà không thoái. Ở đây cũng giống như thế, tuy được Thánh đạo, nhưng vì sinh ở cõi uế, chịu quả báo khổ, vì sinh Tịnh độ, tuy là phàm phu mà không có ác báo, năng lực của thiện duyên tăng thêm, sẽ không có khổ báo, như vua A-xà-thế chắc chắn không chịu khổ. <篇> <卷>QUYỂN 5 Hỏi: Kinh Phật Tạng nói: “Thế nào là ác tri thức? Thế nào là Thiện tri thức?” Phật bảo Xá-lợi-phất rằng: “Nếu có Tỳ-kheo dạy Tỳ- kheo khác rằng: Ông phải niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, như thế chỉ quán Niết-bàn an ổn vắng lặng, chỉ có ái rốt ráo thanh tịnh, người dạy như thế là tà giáo, là ác tri thức, người này gọi là phỉ báng ta, tiếp tay cho ngoại đạo. Người ác như thế, ta không cho nhận một bát nước để tự cúng dường, là tu hành theo ma giáo.” Lại nói: “Thà phạm năm tội nghịch, chứ không thành tựu ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ kiến, mạng kiến, ấm nhập giới kiến.” Đây đềàu là có tâm sở đắc để niệm Phật. Đức Thế Tôn dùng nhiều lời quở trách. Văn kinh này lại nói: “Nghe pháp không vô sở đắc, thì tự mình tỉnh giác, các pháp trước kia ta thọ đều là tà kiến, đối với pháp không vô sở đắc này không nghi ngờ không hối hận, thâm nhập thông đạt, không y theo tất cả ngã kiến, nhân kiến, ta gọi người này là thanh tịnh phạm hạnh.” Nay đã khuyên người dùng tâm có sở đắc tu hữu tướng niệm Phật, như thế há không bị chư Phật quở trách sao? Thích: Chư Phật nói pháp đều thích hợp căn cơ, cơ thì có sâu cạn, đại tiểu khác nhau, hoặc thì có nhân pháp, kiến tu khác nhau, nên trình bày pháp yếu, giáo hóa vật cơ kia, hoặc quở Có, khen Không, hoặc chê Không khen Có, hoặc dạy bỏ Tiểu thừa học Đại thừa, hoặc dạy học Tiểu thừa trước, sau học Đại thừa. Nên cơ có muôn đường, pháp thành tám vạn, tùy duyên giáo hóa chúng sinh, khó thể suy nghó bàn luận, nhưng như kinh này đã nói, quở trách người có tâm sở đắc, thì thà gây ra năm tội nghịch còn hơn. Ngoài ra Thánh giáo còn nói: “Thà khởi ngã kiến như núi Tu-di, chứ chớ khởi Không kiến như hạt cải.” Còn kinh Pháp Hoa nói: “Không được gần gũi người học ba tạng Tiểu thừa.” Kinh Thập Luân nói: Không có sức uống nước sông, ao, làm sao nuốt được biển cả? Không học tập pháp Tiểu thừa, thì đâu thể học Đại thừa? Các kinh Đại thừa như thế quở Có trách Không. Khen Đại tán Tiểu, không có thuyết nhất định, đều là hợp cơ khác nhau. Ngay nơi Phật có chân thân, ứng thân, người học có thứ lớp trước sau khác nhau, nhưng pháp thân sâu mầu, lìa hữu vô, bốn câu, trăm phi đều tan mất, chỗ này người học sâu đối với Đệ nhất nghóa đế không kinh động, nhưng còn trụ ở các tướng, chưa quên tâm phân biệt. Kinh này quở trách có tâm sở đắc, khiến dứt bỏ được chấp nhân và pháp chấp, dạy quán pháp vô sở đắc, tu niệm Phật pháp thân, nên văn kinh này nói: Thấy vô sở hữu, gọi là niệm Phật. Nếu người mới học bỏ tà về chánh, phát tâm Bồ-đề, nguyện sinh Tịnh độ, đối với vô sở đắc chưa hiểu an tâm, hoặc lại quán không, nói nhân quả vắng lặng, tức không có tâm sợ tội, lại khởi triền cái, nếu không nói rộng nhân quả thiện ác, tịnh uế khác nhau, thân tướng chư Phật không thể suy nghó bàn luận, thì làm sao có thể phát tâm lành cho người đó, kinh sợ tội chướng này, nhàm chán cõi uế này, ưa thích cõi thanh tịnh kia, chăm chú quán tưởng sợi lông trắng, quán kỹ các tướng, diệt trừ tội lụy, thành cái nhân thù thắng kia được? Cho nên khuyên quán sắc thân, dạy người học cạn này. Nên kinh Hiền Hộ quyển một nói: “Này Hiền Hộ! Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thanh tịnh trì giới, giữ đủ các hạnh, tư duy như thế thì bất cứ ở chỗ nào, đều là Tây phương của Phật Di-đà? Tưởng niệm như thế, Phật chánh giác kia, hiện nay ở Tây phương, hệ niệm tư duy, quán sát không thôi, cho thật rõ ràng, cuối cùng được thấy Đức Phật A-di-đà.” Quán sắc thân như thế. Về sau lại có kinh nói: “Hiện tại, A-di-đà Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, sắc thân sáng như đống vàng ròng như thế, cho đến không niệm Đức Như Lai kia, cũng không được sắc thân Đức Như Lai kia, thứ lớp như thế được Không Tam-muội. Này thiện nam! Đó là Tam-muội hiện tiền của chư Phật. Còn kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói rằng: “Như Lai cũng có Pháp thân, mười Lực, bốn Vô úy, ba Giải thoát, các thần thông, những điều nhiệm mầu như thế, chẳng phải là cảnh giới sở học của ông, chỉ nên thâm tâm khởi tưởng tùy hỷ, khởi tưởng này rồi, lại buộc niệm, niệm công đức của Phật.” Cho nên biết rằng hàng Sơ học quán sắc thân Phật, lớp hậu học niệm Pháp thân, nên nói thứ lớp như thế, được không Tam-muội. Còn thích quán lý Phật thì chỉ bày dùng thân vô tướng, cầu niệm sự thân, nói lấy cái thể của tướng tốt, nên phải khéo hiểu ý kinh, đừng sinh tâm chê khen, cái hay của bậc Đại Thánh chính là khéo hợp căn cơ. Hỏi: Tịnh độ trong mười phương nhiều vô lượng vô biên, cũng khuyên tu vãng sinh về cõi nước chư Phật, vì sao ở đây chỉ khuyên vãng sinh về thế giới Cực lạc? Thích: Ở đây có ba cách giải thích: Có nói mà không khuyên. Có khuyên mà cơ thiếu. Văn khuyên không đủ. Có nói mà không khuyên: Như kinh Niết-bàn nói: “Ở ngoài cõi Tây phương này qua bốn mươi hai hằng hà sa thế giới, có Tịnh độ tên Vô Thắng, giống như thế giới Cực lạc ở Tây phương không khác, Như Lai bỏ cõi Tịnh độ kia mà sinh đến cõi Ta-bà này, giáo hóa chúng sinh.” Nếu là Tịnh độ thì có thể nguyện sinh, vì sao Đức Thích-ca Như Lai không khuyên sinh về Tịnh độ mình, mà chỉ khuyên vãng sinh thế giới Cực lạc cho đến các kinh Đại thừa tuy nói Tịnh độ mà không có văn khuyên sinh. Có khuyên mà cơ thiểu: Như Duy-ma-cật tiếp lấy thế giới Diệu Hỷ ở xa, đặt vào cõi này, chỉ cho đại chúng thấy, Phật khuyên đại chúng sinh về cõi đó, có mười bốn na-do-tha người phát tâm Bồ-đề, nguyện sinh về cõi nước đó, Phật thọ ký sẽ vãng sinh như sau: “Thế giới Diệu Hỷ ở cõi nước này đã đáp ứng lợi ích khắp nơi xong rồi, trở về chỗ cũ.” Nếu Tịnh độ này hợp với tất cả chúng sinh đều được vãng sinh, thì cớ gì Phật trừ người ở cách mười bốn na-do-tha? Như Lai không khuyên khắp chúng sinh xưa nay, sinh về nước Diệu Hỷ, mà nói lợi ích Diệu Hỷ xong rồi, nên biết không có cơ duyên cho nên không khuyên. Văn khuyên không đủ: Kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh và kinh Dược Sư tuy nêu các Tịnh độ phương khác, nhưng văn kinh này không chu tất. Thế nào là chu tất? Chỉ như trong kinh Quán… khuyên vãng sinh Tây phương: Nói về phàm phu. Nói vị lai. Nói rõ gây nghiệp. Có chư Phật mười phương xuất tướng lưỡi chứng thành. Có nhiều bản kinh văn đồng chứng, y theo đó tu học, không có nghi trệ, nên nghiệp Tịnh độ Tây phương dễ thực hành theo. Các kinh không có văn kiện trước, chỉ có chỗ một câu, hai câu khuyên vãng sinh, khó thể y cứ, vì sao bỏ câu văn rộng nhiều để chọn câu văn kinh nhỏ, ít? Còn văn kinh khuyên y theo kinh liễu nghóa, không y theo kinh bất liễu nghóa. Thì Tam tạng pháp sư giải thích kinh liễu hay bất liễu có bốn loại, trong kinh Quán có trình bày đủ nghóa đó. Nay giáo của Tịnh độ này có bốn nghóa, nên có thể y theo đó để tu tịnh hạnh; văn nghóa của các kinh khác tuy nói bốn nghóa Tịnh độ, không đủ là Bất liễu nghóa, nhưng có thể y theo đó để tu Tịnh nghiệp. Hỏi: Trong các luận nói mạng chung thọ sinh, chỉ trụ trong xả thọ. Vì sao kinh Quán nói: “Vui mừng hớn hở, tự thấy thân của mình ngồi trên đài kim cương?” Vui mừng đã mạnh, vì sao lại xả mạng? Đáp: Có một vị sư giải thích rằng: Thọ sinh cõi uế, không có Thánh đón rước, chỉ trụ trong tâm xả thọ mà qua đời. Thọ sinh Tịnh độ, có Thánh chúng đón rước, hành giả khi qua đời, nhờ Từ bi của Phật che chở, nên ở vị hỷ thọ cũng được qua đời. Các luận phần nhiều căn cứ thọ sinh cõi uế, nên nói thế, không nên lấy đó làm ví dụ. Có thuyết cho vãng sinh Tịnh độ cũng trụ trong tâm xả thọ mà qua đời, vì tánh của tâm xả thọ yếu kém, thuận theo đó qua đời. Tâm hỷ thọ mạnh, không thể xả mạng. Kinh nói: “Vui mừng hớn hở” đây là tâm sắp qua đời, chẳng phải là tâm đang qua đời. Kinh và luận mỗi thứ căn cứ một nghóa, không trở ngại nhau. Hỏi: Kinh Quán nói: “Khi qua đời một niệm, mười niệm cũng được vãng sinh.” Kinh A-di-đà nói: “Một ngày đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, mới vãng sinh Tịnh độ.” Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trọn đời một bề chuyên niệm Phật, mới được vãng sinh thế giới Cực lạc. Nếu trọn đời niệm Phật mới được vãng sinh tức là một ngày, bảy ngày, một niệm, mười niệm là nói suông; nếu một niệm, mười niệm cũng được vãng sinh, cần gì lại dạy bảy ngày trọn đời chuyên hành niệm Phật?” Đáp: Từ một niệm đến mười niệm, từ một ngày cho đến bảy ngày và cho đến trọn đời, đều được vãng sinh thế giới Cực lạc, đều chằng phải nói suông, tất cả đều nói thật. Đức Đại Thánh Thế Tôn nói lời đúng sự thật, đâu có giả dối mà nói sai ư? Nhưng chúng sinh niệm Phật nghe Tịnh độ dạy có sớm có muộn, khi phát tâm có chậm có nhanh, hoặc mạng có dài ngắn, cho nên kinh nói khác nhau. Nếu ngày qua đời mới gặp Thiện tri thức dạy phát tâm niệm Phật, cũng được vãng sinh, dù có tiến lên, cũng chỉ có bậc hạ. Có người mạng chưa hết, qua một ngày mới mất, hoặc một ngày, hai ngày cho đến nhiều ngày, có thể niệm danh hiệu Phật, tất cả bất loạn, thì tùy theo mạng của người đó, dạy khiến một ngày xưng niệm danh hiệu Phật. Nếu tuổi thọ của người đó lâu dài, nhiều ngày không chết, lại dạy trọn đời, khiến họ niệm danh hiệu Phật, không thể rút ngắn mạng tại đây, dạy họ niệm Phật lâu dài; không thể sống đến trăm tuổi, chỉ dạy một ngày xưng danh. Nên kinh văn ba bản đều khuyên niệm Phật, đều tùy một nghóa, dạy niệm Phật có khác nhau, nhưng kinh này và kinh kia không trở ngại nhau, nghóa không trái nhau. Nên kinh Quán đối với người qua đời, ít nhất một niệm, cho đến mười niệm cũng được vãng sinh; kinh A-di-đà đối với người chết đã trãi qua một ngày mà có thể niệm Phật cũng được vãng sinh Tịnh độ; kinh Vô Lượng Thọ đối với người sống lâu không chết, tu nhiều công đức nhiều nhất hoặc là nhiều giờ nhiều ngày tu niệm. Lại ba biệt này tức ba phẩm tu, phẩm thượng nói trọn đời, phẩm trung nói ngày, phẩm hạ nói giờ. Trong chín phẩm mỗi phẩm đều có nhiều thứ. Tuy đều vãng sinh, đều không khổ não. Nhưng hoa nở ngộ đạo, sớm chiều khác nhau, kinh nói có khác, là do ý này. Hỏi: Thế giới Ta-bà này có mười việc cao quý, ở các Tịnh độ khác không có, còn ở cõi này tu đạo một ngày một đêm hơn một trăm năm ở thế giới Cực lạc. Y cứ theo văn kinh này, ở cõi uế tu đạo hơn ở cõi Tịnh, vì sao lại khuyên vãng sinh Tây phương? Thích: Nếu như điều ông hỏi thì tất cả giáo môn Tịnh độ đều không nói được, như lợi ích mà các kinh dẫn trên đã nói thì Tịnh độ không có, các giáo Tịnh độ lại ân cần khuyên nguyện vãng sinh, là có ý gì? Nay hai kinh này đối cơ khuyên khen khác nhau, khen ngợi trụ ở đây, khiến cho các Bồ-tát tuy ở cõi uế, vẫn không mất hạnh của mình, có thể làm lợi ích cho chúng sinh khổ não, thực hành đại bi nhiều hơn, nên khen ngợi ở cõi uế. Từ trong cõi uế đó có Bồ-tát cư ngụ, gặp duyên ác, gây ra nhiều tội lỗi, thế nên Như Lai khuyên chúng sinh kia vãng sinh Tịnh độ, dứt hẳn duyên ác, thoát khỏi trôi lăn, Phật khuyên Bồ-tát nên vãng sinh Tịnh độ. Ý của hai bộ kinh này, căn tánh Bồ-tát, có hai thứ khác nhau, làm sao mới dẫn Duy-ma đã khen ngợi các Bồ-tát cư ngụ ở cõi uế, các văn nói làm lợi ích chúng sinh, là nói ta chỉ ở cõi uế này tu đạo, đâu cần phải sinh ở Tịnh độ kia? Tuy biết một ngày tu đạo ở đây bằng một trăm năm ở cõi đó, nhưng vì ít thấy Phật, gặp ác tri thức, nhiều duyên lui sụt, nên khuyên vãng sinh Tịnh độ. Như kinh Đại Tập quyển 28, phần Nhật mật nói: “Này thiện nam! Tất cả chúng sinh ở thế giới của Đức Phật kia, phiền não bền chặt, ràng buộc sâu dày, thân hình xấu xí, khởi nhiều kiêu mạn, ác khẩu, hai lưỡi, xa lìa lời nói thật, thật ra ngu si, mà hiện tướng trí tuệ, thường khởi san tham mà hiện tướng xả thí; nhiều khúc mắc mà hiện tướng ngay thẳng; tâm nhiều trược loạn mà hiện tướng thanh tịnh, thường ganh ghét mà hiện tướng mềm mỏng, thích chia rẽ người mà hiện tướng hòa hợp, khởi nhiều tà kiến mà hiện tướng chánh kiến, dứt mất gốc lành tăng thêm ba đướng ác. Này thiện nam! Nay ông có thể vì ta mà làm sứ giả đến nước kia không?” Cho đến: Bấy giờ, Bồ-tát Nhật Mật bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con có thể đến nơi đó để giảng nói chú này, nhưng khi con nghó đến cõi đó mà sinh kinh sợ. Vì sao? Vì lúc đó Như Lai bảo con giảng nói cho các chúng sinh ở cõi nước có nhiều tệ ác kia, giống như điếc, mù, câm, theo ý người nữ. Bạch Thế Tôn! Nếu thuận theo ý người nữ, nên bết người này sẽ mãi mãi dứt mất gốc lành.” Phật nói: “Này thiện nam! Nay ông không vì lợi ích hiện tại, lợi ích về sau, thì nên làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, hãy đến giảng nói, đừng sinh nghi ngờ. Này thiện nam! Ông chẳng phải là Duy-ma-cật của cõi kia sao? Vì sao mà sinh sợ sệt? Lại có vô lượng vô số Bồ-tát, tâm họ dao động, dốc lòng hệ niệm, muốn được gần gũi lễ bái Thích-ca Như Lai và đại chúng, luôn cả muốn nghe nhận kinh điển nhiệm mầu, như the áđại chúng đều đồng tâm muốn đến cõi kia, ta vì họ mà nói việc lớn. Vì sao? Vì đại chúng này, tâm họ chưa định, nếu đến cõi kia, có lẽ sẽ sinh điên đảo, gần ác tri thức. Đức Phật kia bảo rằng: Này thiện nam! Nay Ông không nên sinh tâm sợ sệt.” Bồ-tát Bất định tức là sơ vị thối hạnh Bồ-tát, gọi là Bất định. Vì bất định nên sợ đến cõi này gặp duyên ác, lui sụt sẽ làm ác, Bồ-tát ở cõi Tịnh độ kia tạm đến thế giới Ta-bà bà này, còn sinh sợ sệt, không dám đến. Người tu hành ngày nay, chưa phải là Bồ-tát Bất thoái, mà liền muốn đến thế giới Ta-bà tu đạo, không muốn đến thế giới Tây phương, thật là có lỗi. Luận Du-già dẫn kinh Thâm Mật: Văn-thù-sư-lợi thưa hỏi Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Trong các cõi uế, việc gì dễ được? Việc gì khó được? Phật bảo: Này thiện nam! Trong các cõi uế có tám việc dễ được, hai việc khó được. Tám việc dễ được gồm: Ngoại đạo. Chúng sinh có khổ. Chủng tánh gia thế, hưng suy khác nhau. Làm các việc ác. Hủy phạm Thi-la. Đường ác. Hạ thừa. Bồ-tát gia hạnh ý lạc thấp kém. Hai việc khó được là: Tăng thượng ý lạc gia hạnh Bồ-tát được du tập. Như Lai xuất hiện ở đời. Này thiện nam! Ở các Tịnh độ trái với những điều nói trên, nên biết tám việc rất khó được, hai việc dễ được. Cho nên phần nhiều khuyên chúng sinh vãng sinh Tịnh độ. Hỏi: Ở Tịnh độ không có ba đường ác, mà có chim hóa nói pháp, Tịnh độ không có người nữ thật, nhưng có nữ hóa nói pháp phải không? Thích: Có hai cách giải thích: Có chim hóa mà không có nữ hóa, vì sao? Vì kinh chỉ có chim hóa mà không nói có nữ hóa. Nếu có thì văn kinh cũng phải nói. Còn luận Tịnh độ nói: “Người nữ và người thiếu căn, hạt giống Nhị thừa không sinh. Bắt bẻ rằng: “Kinh nói Tịnh độ biến hóa trang nghiêm, đâu thể hết được?” Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Dù cho Đức Thế Tôn có trụ thế trăm ngàn kiếp, hóa vô số khổ, nói tướng trang nghiêm của Tịnh độ kia, cũng không thể hết được. Chẳng lẽ vì không nói mà không có sao? Cõi kia có nữ hóa, như kinh Quán Âm Thọ Ký nói: “Bồ-tát Quán Thế Âm hóa ra vô lượng người nữ, đây không phải là nữ hóa đó sao?” Kinh Cổ Âm Thinh Vương nói: “Phật A-di-đà có cha có mẹ” là hóa hạ vị để hiện thị có người nữ; hóa thượng vị, là nói không có người nữ, cũng không trái nhau. Hỏi: Kinh Di-lặc Phát Vấn nói: “Mười niệm không phải phàm ngu niệm, không xen niệm kết sử. Vì sao chúng sinh phàm ngu đầy đủ phiền não mà có thể làm được việc đó ư?” Đáp: Chẳng phải phàm ngu niệm, chẳng lẽ bậc Thánh nhân niệm ư? Không xen tạp kết sử niệm, chẳng lẽ là người đã dứt hết phiền não niệm ư? Đây là ý kinh. Nói chẳng phài phàm ngu niệm, không phải muốn nói bậc Thánh niệm. Không xen lẫn kết sử niệm, không phải là muốn nói người dứt hoặc mà niệm, chỉ muốn nói mười câu niệm Phật rằng có thể bỏ được nơi trôi lăn của cõi Ta-bà, thuận sinh về cõi nước xuất thế giải thoát. Chúng sinh phàm ngu phần nhiều thích sinh ở cõi uế của ba cõi, thọ sinh và thuận dòng sinh tử làm tăng trường các nghiệp kết sử phiền não, nay tu mười niệm, nguyện sinh Tịnh độ, quay lưng lại dòng sinh tử, bước lên đường Niết-bàn, hướng về pháp Hiền Thánh, thuận theo môn dứt hoặc, nên nói chẳng phải phàm ngu niệm, không xen lẫn kết sử niệm. Như giới của Đại Tỳ-kheo… gọi là giới mà bậc Thánh thọ, đâu phải phàm phu không được thọ ư? Ở đây cũng như thế, loại theo có thể biết. Hỏi: Nếu niệm Phật A-di-đà được sinh Tây phương, phải nhờ nhiều ngày nhiều năm sinh Tịnh độ, cũng phải siêng năng thành khẩn gắng sức, nhiều thời gian xưng niệm danh hiệu Phật, nếu người đó sắp chết mà chí thành niệm Phật cũng được vãng sinh Tịnh độ và người sống một trăm tuổi, vui ít buồn nhiều, biệt ly dễ, hội họp khó, giờ vui vẻ ngắn ngủi, chỉ biết dọc ngang năm dục, buông lung sáu tình, cầm đuốc đi chơi đêm, cả đêm tụ tập vui chơi, ngày qua đời niệm một câu Phật, liền được vãng sinh, thoát hẳn các thứ khổ, đâu cần phải khổ hạnh trong thời gian dài, siêng năng bốn tu không mỏi mệt, ba nghiệp đều không, đều được vượt khỏi Ta-bà, đâu nhọc gì phải khổ hạnh trong thời gian dài? Đáp: Câu hỏi này có nhiều ý, không thể dự nghe Tịnh giáo, bỏ mà không tu trì, đợi đến lúc qua đời, mới niệm Phật. Một là ông muốn nguyện vãng sinh Tịnh độ Tây phương suy ra là muốn tránh khổ não ở đây, mà sinh về Tây phương kia, không cầu Vô thượng Bồ-đề, không tu hạnh Bồ-tát, chỉ muốn mặc tình cây báu, mặc ý trân đài, không nguyện sớm ngộ vô sinh, đến lúc qua đời chỉ một niệm. Nếu vì chí hướng Phật quả, chứng Tam-bồ-đề, khẩn thỉnh hữu tình, mau thành Chánh giác, ở cõi uế này e sẽ thối Bồ-đề, đến cõi Tịnh độ kia mới tăng tu diệu hạnh, chứng vị Bất thoái, cứu chúng sinh khổ, mới muốn nhiều thời gian không gián đoạn tu đủ muôn hạnh, vì sao nay nghe pháp tịnh, không chịu tu hành, càng thờ ơ kiêu xa, làm nhiều việc buông lung, ngày qua đời mới, niệm Phật vãng ư? Nếu muốn chí cầu đại quả Vô thượng, phát tâm Bồ-đề, nguyện sinh Tịnh độ, hận mình lang thang trong sinh tử, vô thỉ đắm chìm, nghe nói giáo pháp Tịnh độ Tây phương, thì khắp mình đều nổi óc, buồn khóc nước mắt như mưa, tiếc rằng nghe được pháp này quá trễ, đời này ngày đêm phải siêng năng, đâu được nghe giáo pháp thanh tịnh của Phật, càng buông lung sáu căn, hệ lụy cả ngày đêm, gây ra mười tội ác, ngày qua đời mới niệm danh hiệu Phật, nói lời không hổ thẹn, đâu có thành đạo lý gì? Còn nếu khi qua đời niệm Phật, nhiều giờ xưng danh, công hạnh không sai, ngộ đạo không khác, có thể phải nhận lời ông suy đến ở sau. Nếu niệm ấy thêm nhiều, niệm niệm tăng đạo, công phu không luống uổng, tội nghiệp chuyển thành nhẹ, phước đức dần nhiều, thành bậc thượng của mình, chóng ngộ Vô sinh, lợi ích khác nhau, đâu được chỉ tu một niệm? Vả lại, áo thô áo đẹp, thức ăn uống ngon, một thứ che thân và trừ đói khát, bây giờ bỏ y phục xấu này, mặc áo lụa nõn nà, không ăn những thức ăn dở, muốn tìm những thứcù ăn ngon. Huống chi niệm Phật nhiều ít, công hạnh khác nhau, liền bỏ đi lối tu dài, chọn cách tu ngắn này, ưa thích cơm ngon áo đẹp, sẽ không nói lời này, nghe tu tịnh hạnh, bỏ dài chọn ngắn, đây là phiền não của ông, không nói lời hổ thẹn, lời ma tiếng quỷ làm hoại loạn Phật pháp, thật không có một niệm tâm nguyện sinh, thấy người khác trong thời gian dài chuyên thành khổ hạnh nên nói lời này phá hoại ý tịnh của người, tổn mình hại người, rất nên cảnh giác. Còn ông bây giờ nghe nói Tịnh pháp, trong không khổ não, ngoài đủ duyên lành, không chịu tu hành, đợi sắp chết mới niệm Phật. Khi sắp chết mới niệm Phật cũng được vãng sinh, nhưng hạng người này trong một vạn người không có được một người vãng sinh, hoặc bạn lành gặp gỡ, chưa hẳn đã gặp nhau; hoặc nhiều thứ khổ trói buộc thân, không kịp niệm Phật, hoặc trúng gió không nói được, không niệm được danh hiệu Phật, hoặc cuồng loạn thất tâm, đâu thể chú tưởng? Hoặc bỗng bị nước trôi lửa cháy, không rảnh chí thành; hoặc gặp cọp sói, do đó mà bị chết yểu; hoặc gặp bạn ác, phá hoại tín tâm của ông, hoặc uống rượu quá say, ngủ vùi cho đến chết; hoặc quân trận đánh nhau, trúng nhằm làm ông bị chết, hoặc rớt xuống núi cao, khó tu chánh hạnh, nhiều thứ chướng nạn, không thể kể ra hết, không thể một bề không tu, tham đắm năm dục này, chỉ nói ngày qua đời một niệm liền vãng sinh. Nên phải phát tâm tinh tấn, trừ ý nghó biếng nhác, cố gắng ba nghiệp này trong sáu thời kia, ngày đên siêng năng, tu cạnh tranh với thời gian, một khi sinh về Tịnh độ, thì xa lìa hẳn triền cái, cho đến Bồ-đề thường không lui sụt, lợi ích rộng lớn, nên phải dụng tâm. Hỏi: Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Sinh về nơi đó mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.” Đã nói ở cõi đó tu đạo một trăm năm bằng ở cói này tu một ngày, vì sao lại mau chứng Bồ-đề? Thích: Việc tu đạo một ngày trong cõi khổ này hơn ở cõi kia một trăm năm, nhưng gặp duyên ác, nhiều kiếp lui sụt, vẫn bị kéo lại. Ở cõi kia một trăm năm, bằng một ngày ở cõi này, chỉ tiến mà không có lùi, được gọi là mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Như người đi mau, nhiều giờ dừng lại, đến trước nhưng bị chậm lại, ở cõi này tu đạo một ngày hơn ở cõi kia tu một trăm năm, Phật không nói ở cõi này mau chứng Bồ-đề. Như người đi chậm, khoảng giữa không dừng nghỉ, mau đạt được chỗ trước, nên gọi là mau chứng Bồ-đề. Hỏi: Niệm Phật nói ít, học tập không khó, khi người sắp qua đời, thời gian rất nhanh chóng, lại thêm khổ não, không thể thường tu giới, định, tuệ, Phật pháp sâu xa, khi người chưa qua đời, trong thời gian dài không còn khổ vì bị tinh thần bức bách lo nghó, tại sao không quán Không, Vô tướng, vô nguyện, tu các đạo phẩm, học rộng tất cả các pháp môn sâu xa, mà thường chỉ khuyên chúng sinh niệm Phật, có ý nghóa gì ư? Thích: Hành giả một đời tu nghiệp Tịnh độ, chẳng phải chỉ ng- hiêng nặng về khuyên niệm Phật, nhưng người tu hành, căn cơ có lợi độn, học thì có cạn sâu, nên kinh mới chia hai môn định và tán, người thì chia thành chín phẩm khác nhau. Người lợi căn tâm thanh tịnh, dạy tu quán hữu tướng, vô tướng, pháp môn bình đẳng sâu xa, nếu hạng độn căn tán loạn, chỉ thực hành nghiệp ba phước ba bậc. Chẳng phải chỉ nghiêng nặng về khuyên niệm Phật, mà còn tu các thứ pháp môn, nếu người đó không thể thực hành rộng được, thì chuyên niệm Phật cũng được vãng sinh Tịnh độ. Còn pháp môn niệm Phật hoặc sâu hoặc cạn, thông định, thông tán, căn lớn hạnh nhỏ, đều được tu hành, định là bắt đầu ở phàm phu, cuối cùng ở Thập địa, thực hành niệm Phật Tam-muội, rất sâu xa nhiệm mầu, Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Văn-thù, Bát-nhã, Đại Tập Hiền Hộ, Quán Phật Tam-muội đều khen ngợi không thể suy nghó bàn luận. Như đồng tử Thiện Tài thưa hỏi cách tu hạnh Bồ-tát với Tỳ-kheo Công Đức Vân, Tỳ-kheo Công Đức Vân chỉ dạy pháp niệm Phật Tam-muội, là pháp rất sâu xa. Tán là tất cả chúng sinh hoặc đi hoặc ngồi, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu đều được niệm Phật, không trở ngại các việc, cho đến lúc qua đời, cũng thành hạnh đó. Còn tu các hạnh vãng sinhTây phương, tuy có Thánh ngôn, nhưng văn kinh nói ít, niệm Phật được vãng sinh, thì giáo đó rất nhiều, lược trình bày năm ba phần để người mê hiểu rõ. Như kinh A-di-đà chỉ nói niệm Phật A-di-đà được sinh Tây phương, hằng sa chư Phật sáu phương thè lưỡi đồng làm chứng cho hành giả niệm Phật đều được vãng sinh. Kinh Quán nói Hạ phẩm thượng sinh, Hạ phẩm trung sinh, và Hạ phẩm hạ sinh, ba phẩm này văn kinh đều nói chỉ niệm Phật A-di-đà vãng sinh Tịnh độ, lại nói nhiếp thủ các chúng sinh niệm Phật không rời. Kinh Vô Lượng Thọ còn nói hàng thượng, trung, hạ tu hành có cạn sâu, đều chỉ một bề chuyên niệm Phật A-di-đà, được sinh Cực lạc. Còn trong bốn mươi tám hoằng thệ nguyện, thì pháp môn niệm Phật riêng phát một nguyện rằng: “Dù chỉ mười niệm, nếu không được sinh, thì không thành Chánh giác.” Còn các kinh Ban Chu Tam-muội, Đại Tập, Hiền Hộ… dạy chúng sinh bảy ngày, bảy đêm nhất tâm chuyên niệm Phật A-di-đà, được thấy Phật rồi thưa hỏi Phật rằng: “Chúng sinh thực hành pháp nào được vãng sinh Tịnh độ?” Phật A-di-đà dạy rằng: “Muốn sinh về cõi nước ta, phải niệm danh hiệu ta, không dừng nghỉ, liền sinh về cõi nước ta.” Còn Kinh Cổ Âm Thanh Đà-la-ni cũng dạy chúng sinh trong mười ngày, mười đêm niệm Phật A-di-đà, được sinh về cõi nước Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Niệm Phật Tam-muội được thấy Phật, sau khi qua đời được sinh ở đời có Phật, thấy người ấy sắp qua đời khuyên niệm Phật, còn bày tôn tượng để cho người ấy cung kính chiêm ngưỡng.” Kinh Chiêm Sát nói: “Nếu muốn vãng sinh về cõi nước Phật trong mười phương, phải niệm danh hiệu Phật ở cõi nước đó, liền được vãng sinh.” Như thế, rất nhiều kinh văn Đại thừa phần nhiều nói niệm Phật được sinh Tịnh độ, nay khuyên niệm Phật, chẳng phải là ngăn tu các diệu hạnh khác, chỉ là người niệm Phật đó được nhiều kinh khuyên khen, hoặc đi, hoặc ngồi cho đến khi qua đời đều được thực hành niệm Phật này, có lẽ là phương tiện an ổn nhất cho nên khuyên thực hành. Hỏi: Sinh về Tịnh độ kia, chưa vào dòng Thánh, tức là phàm phu, đủ các phiền não, làm sao không khởi các nghiệp bất thiện? Nếu khởi thì trái với bản nguyện, nói: “Chúng sinh trong cõi nước ta không nghe danh từ bất thiện, được giải thích như thế nào?” Thích: Chúng sinh phàm phu kia, dù chưa được quả Thánh, nhưng tất cả bất thiện đều không hiện hành. Nhưng bất thiện không hiện hành là có nhiều ý, hoặc duyên Thánh đạođã khởi, dứt tùy miên kia, hoặc tu Thánh đạo phương tiện hàng phục hiện hành, hoặc duyên thiếu cảnh ác này, nên nó không sinh được, hoặc vì thường gặp duyên lành, thì không do đâu tạo tội; hoặc duyên các thắng tư, khiến cho lỗi không sinh, hoặc duyên vào bản nguyện của Phật, nên điều ác không khởi được. Dù có hạt giống của hoặc nhưng không hiện hành, nên kinh Xưng Tán Tịnh độ nói: “Các loại hoa thơm đẹp dù có thấy thân tâm ưa thích, mà không tăng trưởng tâm tham đắm.” Lại nói: “Nước tám công đức có công năng khiến cho người uống tăng thêm các gốc lành thù thắng.” Như cơm ở cõi Phật Hương Tích dùng làm Phật sự… vì các duyên này mà các điều ác không khởi. Hỏi: Kinh nói: Có bốn thứ nghiệp: Hiện báo nghiệp. Sinh báo nghiệp. Hậu báo nghiệp. Bất định nghiệp. Ba nghiệp trước là định nghiệp, vì nhất định chiêu cảm quả báo. Một nghiệp sau là nghiệp bất định, có khi chiêu cảm, không chiêu cảm quả báo. Lại có tám thứ nghiệp: Báo định, thời bất định. Thời định, báo bất định. Thời báo câu định. Thời báo câu bất định. 1 và 3 là định nghiệp. 2 và 4 là bất định nghiệp. Kinh nói năm tội nghịch là Sinh báo nghiệp, tức là thời định báo cũng định. Vì sao kinh Quán nói năm tội nghịch diệt, được vãng sinh Tây phương ư? Thích: Bốn thứ nghiệp và tám thứ nghiệp này, trong chín bộ giáo Bất liễu nghóa, vì các phàm phu không tin nghiệp quả mà Phật mật ý nói có quả báo nhất định, đối với các giáo liễu nghóa Đại thừa nói tất cả nghiệp đều là bất định, như kinh Niết-bàn quyển 19 nói: “Kỳ-bà vì A-xà-thế nói pháp sám hối, tội được diệt, lại thần nghe Phật nói tu một thiện tâm có thể phá trăm thứ ác, như chút ít thuốc độc có thể hại chúng sinh, chút ít điều lành cũng vậy, có thể phá đại ác. Lại ở phần 31 nói: Này thiện nam! Có các chúng sinh tâm xem thường không tin nghiệp duyên, để độ họ nên nói như vậy: Thiện nam tử, tất cả nghiệp tạo ra có khinh, có trọng, hai nghiệp này mỗi nghiệp lại có hai thứ là quyết định và không quyết định. Lại nói: Hoặc có nghiệp nặng có thể làm thành nhẹ, hoặc có nghiệp nhẹ có thể làm thành nặng. Kẻ có trí nhờ sức trí tuệ có thể chịu đựng nhẹ nhàng nghiệp cực trọng của địa ngục hợp ở đời này. Kẻ ngu si hiện đời lại chịu đựng nặng nề nghiệp nhẹ của địa ngục. Vua A-xà-thế sám hối tội xong không còn vào địa ngục, không đọa vào địa ngục, Ương-quật-đa-la được quả A-la-hán.” Luận Du-già nói: “Chưa được giải thoát, gọi là quyết định nghiệp; đã được giải thoát, gọi là bất định nghiệp.” Các kinh luận Đại thừa như thế nói năm tội nghịch đều là Bất định nghiệp, đều được tiêu diệt. Nay kinh Quán đã là kinh điển Đại thừa, nói niệm Phật A-di-đà, năm tội nghịch tiêu diệt, thì có gì nghi? Hỏi: Như trong các kinh luận đều dẫn khế kinh, nói có hắc hắc nghiệp, bạch bạch nghiệp, tạp nghiệp, phi hắc bạch vô dị thục nghiệp. Hắc hắc nghiệp: là nghiệp bất thiện của cõi Dục, Bạch bạch nghiệp là nghiệp thiện của cõi Sắc và cõi Vô sắc; Tạp nghiệp là nghiệp thiện của cõi Dục; Phi hắc bạch vô dị thục nghiệp là nghiệp vô lậu. Không biết ngày nay tạo nghiệp Tây phương, thì thuộc về nghiệp nào trong bốn nghiệp đó. Thích: Có thuyết nói là thuộc Bạch bạch nghiệp và Tạp nghiệp trong bốn nghiệp, vì Hắc hắc nghiệp là bất thiện, chiêu cảm ba đường, đâu thể vời được quả báo Tịnh độ? Nghiệp Vô lậu không thể cảm, báo thể dù có thanh tịnh, nhưng chẳng phải nhân Dị thục, chỉ trừ hai nghiệp chiêu cảm được quả báo Tịnh độ. Nếu chưa được định của cõi trên, dùng tâm cõi Dục tu nghiệp Tây phương, ở đây dùng Tạp nghiệp vãng sinh Tây phương; nếu đã hàng phục được hoặc của cõi Dục được tâm tịnh của cõi trên sinh Tây phương, đây là dùng bạch bạch nghiệp sinh Tịnh độ. Có thuyết cho rằng không phải như thế, ba nghiệp này đều đứng về cõi Dục và cõi Sắc của cõi uế, hai đường thiện và ác để phân chia nghiệp đó, chẳng phải đứng về Tây phương để nói về cái thiện của bạch bạch nghiệp. Vả lại, Tạp nghiệp là nghiệp trời, người của cõi Dục, có thể vời lấy tạp báo, dù có thọ quả vui cũng vời quả khổ, nên ở trong cõi Dục thọ quả khổ vui. Vãng sinh Tịnh độ không có các khổ, chỉ một bề an vui, đâu chấp nhận tạp nghiệp làm nhân Tịnh độ? Nếu chỉ có bạch bạch nghiệp là nhân Tịnh độ, nếu chưa sinh, mà được bốn định làm nhân thì nghiệp nào sinh về Tây phương? Nên biết rằng chánh nhân Tịnh độ chẳng phải thuộc về nghiệp trước, bốn nghiệp trước thuộc về pháp bất tận, đối với lý đâu có chướng ngại gì? Còn nghiệp của cõi Vô sắc có văn, nói chẳng thuộc về nghiệp thứ tư, y cứ theo đây thì biết, nghiệp thứ tư thuộc về nghiệp bất tận. Hỏi: Luận Đại thừa, Tiểu thừa dẫn khế kinh, nói có ba thứ nghiệp: Tội, phước và bất động nghiệp, chẳng biết trong ba nghiệp, dùng nghiệp nào để được vãng sinh cõi Cực lạc? Thích: Có thuyết nói trong ba nghiệp, dùng phước nghiệp và bất động nghiệp để vãng sinh Tây phương. Ba phước tức là phước nghiệp, mười sáu pháp quán nếu được tâm định ở cõi trên tức là Bất động nghiệp. Có thuyết nói chẳng thuộc về ba nghiệp, vì ba nghiệp đều nói theo nghiệp cõi uế, không nói theo Tịnh độ, nên nghiệp Tịnh độ chẳng phải ba nghiệp. Hỏi: Không biết được sinh Tây phương có mấy loại lợi ích cao quý để, khuyên các chúng sinh vãng sinh? Thích: Theo kinh Xưng Tán Tịnh Độ, kinh Quán và kinh Vô Lượng Thọ thì trong bốn mươi tám hoằng thệ nguyện có lược nêu ba mươi thứ lợi ích. Ba mươi thứ lợi ích ấy là: Thọ dụng chủng chủng công đức trang nghiêm thanh tịnh Phật độ ích. Đại thừa pháp lạc ích. Thân cận cúng dường Vô Lượng Thọ Phật ích. Du lịch Thập phương cúng dường chư Phật ích. Ư chư Phật sở văn pháp thọ ký ích. Phước tuệ tư lương tật viên mãn ích. Tốc chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ích. Chư Đại só đẳng đồng nhất tập hội ích. Thường vô thoái chuyển ích. Vô lượng hạnh nguyện niệm niệm tăng tiến ích. Anh võ Xá-lợi tuyên dương pháp âm ích. Thanh phong động thọ như thiên chúng nhạc ích. Ma-ni thủy lưu tuyên thuyết khổ không ích. Chư nhạc âm thinh tấu chư pháp âm ích. Trong bốn mươi tám hoằng thệ nguyện dứt bặt tam đồ ích. Chân kim sắc thân ích. Hình vô mỹ xú ích. Cụ túc ngũ thông ích. Trụ chánh định tụ ích. Vô chư bất thiện ích. Thọ mạng trường viễn ích. Y thực tự nhiên ích. Duy thọ chúng lạc ích. Tam thập nhị tướng ích. Vô hữu thật nữ nhân ích. Vô hữu Tiểu thừa ích. Ly chư bát nạn ích. Đắc tam pháp Nhẫn ích. Thân hữu quang minh trú dạ thường quang ích. Đắc Na-la-diên lực ích. Lược nêu ba mươi thứ lợi ích, rộng thì vô lượng vô biên, thế nên khuyên sinh Tây phương. Nếu ở Ta-bà, trôi mãi trong dòng sinh tử chỉ có ba mươi thứ tổn hại, đâu có được các lợi ích kia? Hỏi: Kinh Di-lặc Sở Vấn nói tu mười niệm mới được vãng sinh: Đối với tất cả chúng sinh thường khởi lòng từ. Đối với tát cả chúng sinh không hủy một hạnh nào, nếu có hủy thì qua đời không được vãng sinh. Đối với tất cả chúng sinh rất khởi bi tâm, không có tâm tàn hại. Phát tâm hộ pháp, không tiếc thân mạng. Đối với tất cả pháp không sinh phỉ báng. Đối với nhẫn nhục sinh tâm quyết định, thâm tâm, thanh tịnh không tham lợi dưỡng. Phát tâm Nhất-thiết-chủng-trí, ngày ngày thường niệm, không có dừng bỏ. Đối với tất cả chúng sinh khởi tâm tôn trọng, trừ tâm kiêu mạn, khiêm hạ lời nói. Đối với lời nói thế gian không sinh tâm tham đắm lời hay, gần với ý giác đạo, khởi sâu các thứ nhân duyên thiện căn. Không sinh tâm ồn ào náo loạn, chánh niệm quán Phật, trừ bỏ các tưởng. Y cứ theo văn kinh này, mười niệm tự nó khác biệt, làm sao xưng niệm mười câu A-di-đà Phật mà được vãng sinh, há không lầm sao? Thích: Pháp môn tu hành vãng sinh Tây phương, chẳng phải một, hoặc có ba thứ phước, hoặc có mười sáu pháp quán, hoặc chín phẩm vãng sinh, mỗi nghiệp khác nhau, đều được vãng sinh Tịnh độ thọ sinh. Kinh Di-lặc Sở Vấn tự trình bày mười pháp vãng sinh, mà cũng được sinh. Kinh Quán tự nói Hạ phẩm hạ sinh, khi qua đời, xưng mười câu niệm Phật mà được vãng sinh, đều là Thánh giáo nói về pháp môn vãng sinh Tịnh độ, đều thành Tịnh nghiệp, vì sao cho đó là phải, chê lời này là quấy? Chỉ tự mình không hiểu được ý kinh, cũng là mê hoặc người học, như vào dòng chín phẩm, ông quan nhỏ ở huyện úy, hoặc có thể thuộc lòng một bộ kinh, hoặc là học Tiến só, hoặc là lưu ngoại huân phẩm, hoặc là bảy sắc xuất thân, hoặc làm mười năm phẩm tử, đều được vào dòng, hết thảy là thừa úy, đâu có giới hạn ở một nghiệp làm văn lâm lang nghiệp? Vãng sinh cũng giống như thế, chẳng phải chỉ một hạnh sinh Tây phương kia, cho nên hai môn Định, Tán, có nói trong kinh Quán, ba lớp tu phước xuất xứ từ kinh Vô Lượng Thọ, chỉ niệm danh hiệu Phật, bởi vì kinh A-di-đà dạy, hoặc là trì kinh điển Đại thừa, hoặc lại hiếu thảo dưỡng nuôi cha mẹ, gốc lành thế gian và xuất thế gian, định nghiệp, bất định nghiệp, chỉ trì và tác trì, thân thiện khẩu thiện, đều sinh Tịnh độ, đâu có hạn cuộc ở một môn? Ông phải đọc nhiều kinh, khai sinh chánh tín, đâu được chỉ xem có một bộ kinh, liền làm luận chỉ nam, đem Thánh giáo khác hoàn toàn chẳng phải nhân vãng sinh, sao mê hoặc điều đó. Còn tu nhân thì có muôn lớp, đắc quả có nhiều bậc, không thể giới hạn bằng một nhân một quả. Hỏi: Bồ-tát tu hành lấy lợi vật làm bản hoài, đại từ bi niệm niệm thường khởi, lẽ ra phải đi trong đường ác, trải qua ba đường, thương xót kẻ đắm chìm kia, đều khiến cho họ hết khổ, nay xả bỏ cõi uế này, nguyện sinh Tịnh độ, tự tìm cái vui cho mình, không muốn làm lợi ích cho người, từ vô thỉ, cha mẹ, anh em, sáu thân quyến thuộc, bạn bè tới lui, đều bị giam cầm trong lao ngục ba cõi, bỏ mà không cứu, hoàn toàn không có lòng thương xót, đâu thành tâm của Đại só, mới là hạnh Bồ- tát. Nay nguyện sinh Tịnh độ, chẳng vì thiện tâm, không hiểu nguyên do, xin trình bày tôn chỉ này. Thích: Phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, cần phải phát đại Từ bi, thương xót hàm thức, mở rộng cứu vớt, nhổ gốc khổ đau, ban bố an vui. Nhưng thực hành có cạn sâu. Căn cơ có cao thấp, nếu Bồ-tát học sâu, đại Bi tăng thượng, đã được bất thoái, không sợ mình tổn hại, chỉ muốn lợi ích cho người, phần lớn đều ở cõi uế, thực hành lợi vật rộng khắp, ít sinh Tịnh độ, gần gũi Thánh tôn, hoặc Bồ-tát hạnh cạn, đại trí tăng thượng, còn có lui sụt, tuy có lòng thương xót chúng sinh khổ não, nhưng hễ gặp duyên ngu ác, thì lui sụt hạnh Bồ-đề, tạo các nghiệp ác, mất tâm Bồ-đề, như kinh Bồ-tát Bổn Nghiệp Anh Lạc nói vương tử Pháp tài… Đây tức là hai lợi đều mất, mình và người đều tổn, dùng nguyện sinh Tịnh độ này, lìa duyên ác kia, gần gũi Thánh tôn, thường nghe chánh pháp, cùng các Bồ-tát hội họp một chỗ, đi qua phương khác, rải hoa cúng dường, lại nghe pháp mầu chân tịnh Đại thừa, niệm niệm tăng thêm không có lui sụt, càng không có Nhị thừa, Xiển-đề, ngoại đạo làm hư hoại tâm người mới học đạo Vô thượng. Tuy có tâm cứu khổ niệm niệm không bỏ, hạnh tự lợi là gốc của hạnh lợi tha, gốc nếu không chắc, ngọn cũng không bền, thế nên trước phải nguyện sinh Tịnh độ, nuôi lớn mầm gốc của Bồ-đề, khiến cho nó bền chắc, dù gặp duyên ác, cũng không lui sụt, mới có thể lìa được Tịnh độ này, sinh trở lại Ta-bà, cứu độ cha mẹ có duyên đắm chìm từ vô thỉ, sáu thân quyến thuộc, bạn bè tri thức, hàm linh trong pháp giới. Nghóa này trong An Lạc Tập, của Thiền sư Đạo Xước đã dẫn rộng. Cha mẹ bị chìm, sắp trôi theo dòng nước, một đứa con theo sau, nhảy xuống sông cứu, cứu không được, lại bị chìm chết, một người con khác trở về nhà, sắm đủ ghe thuyền, đi thẳng xuống dòng sâu, cứu người thân nguy khốn. Nghóa này cũng giống như vậy, các bậc trí, y theo dụ này mà hiểu. Hỏi: Luận Tịnh độ có bài kệ: “Giới gốc lành Đại thừa, hoàn toàn không có từ ngữ ganh ghét, người nữ và kẻ thiếu căn, Nhị thừa không được sinh.” Cõi đó đâu có Thanh văn, mà trong kinh nói có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn dều là bậc A-la-hán? Thích: Ở đây có bốn cách giải thích: Về Nhị thừa không sinh, theo luận Du-già Sư Địa nói: “Có chúng sinh năm thừa, từ vô thỉ đến nay, pháp như thị đã thành tựu tánh năm thừa riêng biệt: Bồ-tát thừa. Duyên giác thừa. Thanh văn thừa. Nhân thiên thừa. Bất định thừa. Nói Nhị thừa không sinh là Duyên giác thừa và Nhân thiên thừa, vì Duyên giác thừa, chắc chắn thọ quả Duyên giác, thường sinh về thế giới không có Phật, không thể sinh ở Tịnh độ, vì Tịnh độ có Phật, lại không tin có Tịnh độ ở mười phương; Nhân thiên thừa chỉ là phàm phu trôi lăn trong sinh tử, không thể sinh Tịnh dộ, vì chúng sinh ở Tịnh độ đều phải được Vô thượng Bồ-đề. Nghóa trước không đúng, vì nếu Nhị thừa không sinh mà chọn lấy Duyên giác thừa, Nhân thiên thừa, thì tức Thanh văn thừa được sinh, vì sao nói “Giới gốc lành Đại thừa?” Lại nói chẳng những không có ba thứ thể mà cũng không có ba thứ tên; nay hạt giống Nhị thừa không sinh, bất luận Nhân thiên thừa, chỉ đối với ba thừa trừ Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, gọi là Nhị thừa bất sinh. Hỏi: Nếu Thanh văn, Duyên giác thừa bất sinh, thì tại sao cõi nước kia có Thanh văn? Đáp: Nói không có Nhị thừa là không có Nhị thừa định tánh, Nhị thừa ở cõi đó đều là Thanh văn Bất định tánh, đều có thể hồi tâm về Đại thừa. Bồ-tát Thiên Thân y theo luận Du-già Sư Địa, mà soạn luận, nên Nhiếp luận nói rằng: “Mở xem quyết định tạng, để giải thích nhiếp Đại thừa.” Quyết định tạng tức là phần Quyết trạch trong Du-già Sư Địa. Nay soạn luận Tịnh độ vẫn y theo tông của bộ luận đó, có nghóa của năm thừa tánh, nên nói hạt giống Nhị thừa bất sinh. Các Đại đức giải thích văn này nói: Thanh văn có hai loại: Ngu pháp Thanh văn, đời này chưa thể hồi tiểu hướng đại. Bất ngu pháp, nghóa là Thanh văn đã có thể hồi tiểu hướng đại. Trước gọi là Nhị thừa chủng, vì không hồi tâm hướng đại, không tin có Tịnh độ, không nguyện vãng sinh, sau gọi là phi Nhị thừa chủng, tuy tu tiểu hạnh, nhưng vì tin Đại thừa nên nguyện sinh Tịnh độ. Giải thích rằng: Họ vì hồi tâm hướng đại đã tu Thánh đạo dứt hoặc, đều là thú hướng Vô thượng Bồ-đề nên không gọi là Nhị thừa. Vì thành quả Phật nhất định phải dứt nhân chấp và pháp chấp, cả hai tập khí đó đều mất hết, chứng nhân không và pháp không, cuối cùng đầy đủ, mới được gọi là Phật. Vì trước họ là Tiểu thừa, nhàm chán nhân chấp phiền não nên dứt chấp này trước, chọn tứ quả kia, nên gọi là A- la-hán, cũng gọi là Thanh văn, nhưng chẳng phải Tiểu thừa. Tên A-la-hán chẳng phải chỉ là tiểu quả, vì Phật cũng được gọi là A-la-hán, như luật Tứ Phần nói: “Phật độ A-nhã Kiều-trần-như rồi, ý nói tam thiên đại thiên thế giới có hai A-la-hán là Phật vàA-nhã Kiều- trần-như.” Nên danh từ A-la-hán chẳng phải gọi Tiểu quả, tên Thanh văn cũng chung với Đại thừa, nên kinh Pháp Hoa nói: “Chúng ta ngày nay thật là Thanh văn, dùng âm thanh của Phật đạo khiến cho tất cả được nghe.” Đây là Bồ-tát Thanh văn. “Chúng ta hôm nay, thật là A-la-hán, đối với các thế gian, trời, người, ma phạm, khắp trong đó, nên nhận cúng dường.” Đây là Bồ-tát Đại thừa. Tên tuy đồng với Tiểu quả, nhưng nghóa có khác. Nay Thanh văn A-la-hán Tịnh độ, ở đều là người thú hướng cầu Vô thượng Bồ-đề, nên chẳng phải hạt giống Nhị thừa, cũng chẳng phải Nhị thừa danh, vì đã phát tâm Đại thừa, tuy gọi Thanh văn, nhưng chẳng phải tên Tiểu thừa. Như kinh Pháp Hoa nói: “A-la-hán kia đã hồi tâm hướng đại, Phật thọ ký cho hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, đến khi kết tập, lấy tên A-la-hán, đâu phải là thối tâm Đại thừa, thú cầu Tiểu quả?” Lại kinh Duy-ma-cật nói rằng: “Ca-diếp nói: Ta từ đây về sau, không còn khuyên người tu hành Thanh văn, Bích-chi-Phật.” Vì sao ngày kết tập, lại khuyên A-la-hán giữ lấy quả A-la-hán? Nên biết rằng A-la-hán chẳng phải là quả Tiểu thừa. Hạnh sở hành của A-nan sau khi Phật thọ ký, đều thú hướng Phật, nên biết tức là hạnh Bồ-tát Đại thừa. Nhưng người đến thẳng Tây phương trước phải dứt pháp chấp phiền não, tu đạo nhân chấp phiền não đến tâm Kim cương mới đốn trừ, liền được thành Phật. Từ xưa đến nay, Bồ-tát trực vãng trước tác ý muốn dứt trừ pháp chấp, nên lưu hoặc cho đến khi hoặc hết, có trí Nhất thiết của Phật, vì phiền não pháp chấp sâu kín khó trừ, chướng ngại đại quả Tam-bồ-đề, đối với Thanh văn là Bạch tịnh vô ký, đối với Bồ-tát là Hữu phú vô ký, Bồ-tát thiên về nhàm chán, nên Nhiếp luận nói: “Trí ngăn che cùng cực mờ tối, nghóa là chân tục riêng chấp.” Đó là thiên về trước đoạn. Phiền não nhân chấp làm chướng ngại Niết-bàn. Hàng Thanh văn rất nhàm chán sinh tử, chỉ cầu tự lợi, không thể tu học Nhất thiết trí của Phật, nên họ không có tâm dứt phiền não pháp chấp. Phiền não pháp chấp không chướng ngại Bát-niết-bàn, nên Thanh văn dứt hết nhân chấp, được Niết-bàn. Nay Thanh văn này đối với bảy phương tiện, hoặc là hàng tam phẩm ở giai vị trước bảy phương tiện, trước vì cầu Thanh văn, rất nhàm chán phiền não nhân chấp, nên tác ý dứt trừ hoặc này. Nay sinh Tây phương, tuy hồi tâm thú hướng cầu quả Phật, nhưng trước vì nhàm chán phiền não nhân chấp, nên vẫn y theo tập khí cũ, nói cho họ nghe pháp Tứ đế, giúp họ dứt hết phiền nhân chấp não kia, kiến hoặc, và tu hoặc, khi dứt hai hoặc này, tất nhiên phải thấy lý bốn Chân đế, dùng Thánh đạo vô lậu dứt phiền não này. Dứt kiến hoặc gọi là Dự lưu, chẳng phải trụ ở đạo đó mà gọi là Dự lưu. Dứt tu hoặc rồi, gọi là A-la-hán, như A-la-hán không có các hoặc, tuy có tên này, nhưng chỉ là hạnh Bồ-tát. Hai hạng tiệm và đốn đều thực hành hạnh Bồ-tát, đều thú hướng cầu quả Phật, tuy đều được gọi là Bồ- tát, nhưng người quanh co cũng được gọi là Thanh văn, vì nhờ âm thanh mà ngộ đạo, lại vốn là tiểu cơ, cũng được gọi là Bồ-tát, vì họ thú hướng cầu Đại Bồ-đề. Cho nên hàng Bồ-tát, vì muốn đến thẳng, nên chỉ gọi là Bồ-tát, không gọi là Thanh văn, vì vốn không phải nhờ âm thanh mà ngộ đạo, nên Phật dùng hai tên để chọn ra hai chúng đệ tử Tiệm, Đốn nên nói Vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn, đều là A-la-hán, chẳng phải là con số đã được biết, các Bồ-tát cũng giống như thế. Hỏi: Thế giới Chúng hương và thế giới Cực lạc đều là cõi Phật thanh tịnh của Đại thừa, vì sao thế giới Chúng Hương không có danh từ Thanh văn, Bích-chi-Phật, chỉ có chúng Đại Bồ-tát thanh tịnh, trong khi thế giới Cực lạc mới có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn, chúng Thanh văn này đâu phải là Tiểu thừa? Thích: Hai Tịnh độ này tuy đều là cõi Phật của Đại thừa, nhưng Thánh chúng ở đó có thông, có hạn cục, thế giới Chúng Hương là chỉ là người thú hướng Đại thừa, đối với tám pháp tu hành của thế giới Ta- bà này không có tì vết, sinh về cõi Tịnh độ kia, chỉ nghe Đại thừa đốn giáo, nên kinh nói ở đó chỉ có Đại Bồ-tát thanh tịnh, không có danh từ Nhị thừa. Thế giới Cực lạc có cả các vị đại Thanh văn hồi tiểu hướng đại sinh Tịnh độ kia, nghe chung hai thứ đốn tiệm Đại thừa, gom cả hai giáo về một, phát thú Đại tâm, hành hạnh Bồ-tát, dùng tập khí đời trước dứt hoặc nhân chấp, tuy hành đạo Bồ-tát, nhưng trước đã dứt phiền não chướng rồi, nên được gọi là Thanh văn A-la-hán. Tuy nói Thanh văn, nhưng dùng âm thanh Phật đạo khiến cho tất cả được nghe; tuy gọi là A- la-hán nhưng xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của các thế gian, nên đều là cõi Đại thừa, hai chúng đến thẳng và đi vòng khác nhau. Hỏi: Như trong thiện căn của phần tứ Quyết trạch trong Tiểu thừa thì noãn không thọ tà giáo, đảnh không dứt thiện căn, nhẫn không sinh đường ác, thế đệ nhất pháp chắc chắn vào Thánh đạo, đây tức là đến hạ phẩm nhẫn vị, mới được ác thú phi trạch diệt. Bồ-tát vì lợi sinh không bị biến dịch sinh tử, vẫn tự chưa được ba ác thú, phi trạch diệt, làm sao phàm phu cực ác một khi sinh Tịnh độ, một câu, mười câu xưng niệm danh hiệu Phật, liền được dứt hẳn ba đường ác mà không sinh trở lại? Thích: Người ở vị thiện căn Quyết trạch phần của Tiểu thừa, ở cõi uế lui sụt, hai thiện căn noãn và đảnh còn bị thối vị, nên đến nhẫn thiện căn mới được ác thú phi trạch diệt. Nhưng tông Tát-bà-đa cũng chấp nhận nghóa khác, trước nhẫn vị được ác thú, phi trạch diệt, nhưng không quyết định. Nay sinh Tây phương, vẫn ở chỗ thù thắng, thường thấy Thánh chúng, thường nghe pháp mầu, hạnh nguyện cao quý, niệm niệm tăng tiến, các nghiệp ác từ trước dần dần tiêu diệt, các thiện phẩm về sau, từng niệm tu thêm, thiếu duyên ác kia, nên được phi trạch diệt, được không lui sụt, nhờ nguyện lực nên đến các đường ác, cứu vớt chúng sinh đắm chìm, nguyện lực thọ sinh, không từ nghiệp mà đến, không rơi vào đường ác, nghóa nó không trở ngại.  <卷>QUYỂN 6 Hỏi: Tất cả các chúng sinh cầu sinh Tịnh độ, đều được vãng sinh hay cũng có người không được vãng sinh? Nếu đều được vãng sinh hết thì thế giới chúng sinh vô cùng do đâu, cõi nước Cực lạc có ngày chung tận, Phật A-di-đà có ngày Niết-bàn. Còn Bồ-tát Hoa Tụ và Bồ-tát Sơn Hải Tuệ không nên phát nguyện: “Nếu có chúng sinh nào chưa sinh hết về cõi nước của Phật A-di-đà, nếu tôi sinh trước, thì tôi sẽ không bao giờ thành Chánh giác.” Cũng không được nói: “Chúng sinh sinh hết, tôi sinh sau cùng.” Nếu có người không sinh, vì sao phạm các tội nặng như năm tội nghịch, mười điều ác, phỉ báng chánh pháp, mà được vãng sinh? Sao có người phạm tội còn hơn đây, lại không được sinh? Kinh nói: “Cũng khiến cho tất cả chúng sinh được sinh Tịnh độ. Người không được sinh, lẽ ra chẳng phải chúng sinh. Còn Đại Bi Thế Tôn, lòng Từ trùm khắp, vì sao chỉ cách một số mà không cho họ sinh? Đại bi vô hạn có lỗi không bình đẳng. Thích: Ở đây có hai giải thích: Tất cả chúng sinh đều được vãng sinh, vì Phật đại Bi, tâm không hạn lượng, khởi lòng Từ bình đẳng, đều cho lợi ích, thệ nguyện rộng lớn, không phân biệt oán thân, nên tất cả hữu tình đều được vãng sinh. Như vậy trước lập vấn nạn, lại vì sao đáp chung. Tuy đều khiến được sinh, nhưng chí nguyện của chúng sinh có nhiều thứ khác nhau, nên không tin chánh pháp, ưa thích Tiểu thừa, hoặc là ưa thích ở cõi uế, hoặc là lòng đại Bi cứu khổ, trụ ở cõi uế này, để cứu vớt chúng sinh, hoặc là thích vãng sinh về cõi nước Phật khác, tu hạnh cúng dường. Các tâm hạnh khác nhau như thế, không thể sinh Cực lạc. Tuy đều được sinh, nhưng không thể sinh hết, thí như tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, dù sẽ thành Phật, nhưng cũng chưa hẳn thành hết, nếu thành hết, thì thế giới chúng sinh cũng hết, ở đây cũng giống như thế, nghóa trước không trở ngại, vả lại quán một loại cơ duyên chúng sinh thích sinh Tây phương sơ lược đã hết, Bồ-tát phát nguyện, Như Lai diệt độ. Cũng có người không được vãng sinh Tây phương, như kinh nói: “Người phải độ đã độ xong.” Còn nói: “Hóa duyên đã hết, thu thần Niết-bàn.” Y theo đây mà biết, đứng về có duyên mà nói, không căn cứ vào tất cả chúng sinh mà nói chung. Tuy tâm Phật rộng lớn khắp các thế giới chúng sinh, nhưng Ngài chỉ độ những người có duyên, nên căn cơ vãng sinh có chung tận. Như Lai có ngày diệt độ, Bồ-tát đến cuối cùng, Quán Âm thành vị Bổ xứ, nên người vãng sinh chẳng phải là khắp tất cả. Hỏi: Đã nói Tịnh độ không có người nữ, vì sao kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà-la-ni nói: “Phật A-di-đà, cõi nước của ngài tên là Thanh Thái, tòa thành an trụ của bậc Thánh vương, rộng mỗi bề mười ngàn do-tuần, trong đó đầy khắp những vị giòng Sát-lợi, tên cha là Nguyệt Thượng Chuyển luân Thánh vương, mẹ tên là Thù Thắng Diệu Nhan, con tên là Nguyệt Minh, người đệ tử thị giả tên là Vô Cấu Xưng, đệ tử trí tuệ tên là Lãm Quang, đệ tử thần túc tinh cần tên là Đại Hóa, Ma vương tên là Vô Thắng, Đề-bà-đạt-đa tên là Tịch Ý.” Nếu không có người nữ, vì sao có mẹ ư? Thích: Ở đây có ba giải thích: 1. Phật có thân Thọ dụng, thân Biến hóa. Kinh Quán nói là thân Thọ dụng, còn kinh Cổ Âm Thanh Vương nói là thân Biến hóa. Lại trong thân Thọ dụng thì hóa ra các Bồ-tát phần đoạn sinh tử, hiện thân thai sinh, có cha mẹ… biến hóa ra dị vị, hiện thân hóa sinh, thì không có cha mẹ. Cha mẹ, thành ấp này, đều là pháp công đức, như kinh Duy-ma- cật nói: “Bồ-tát trí độ làm mẹ, phương tiện làm cha.” Cũng lấy các công đức làm tên của nhiều người, nói các thứ pháp, như Văn-thù-sư-lợi ở phía Đông Giác thành gặp đồng tử Thiện Tài, phía Đông Giác thành vẫn là tên Công đức. Ở đây cũng giống như thế, lấy các công đức đó làm tên cha mẹ. Nói cõi nước Thanh Thái, đây là hiển bày pháp giới thanh tịnh của Như Lai, tánh tịnh gọi là Thanh, thể rộng gọi là Thái, muôn đức y chỉ, nên nói là quốc. Thành đó rộng mỗi bề mười ngàn do-tuần, ở đây là hiển bày trí đại viên cảnh của Như Lai. Trí này bao gồm mười trí, có mười lực, do mười độ mà thành, nên gọi là mười ngàn do-tuần, trong đó đầy khắp những vị dòng họ Sát-lợi, dòng họ Sát-lợi là dòng họ vua. Trong cảnh trí ở Pháp vương có hằng sa công đức hạt giống các pháp, nên nói là đầy khắp các vị dòng họ Sát-lợi. Cha tên Nguyệt Thượng, đây là Kim cang Tam-muội. Mặt trăng phá bóng tối là năng, Tam-muội trừ hoặc là dụng. Chuyển luân Thánh vương: Kim Luân Vương, các vị Túc Tán, Kim cang dụ định, hơn các Tam-muội khác. Sắc đẹp thù thắng, xét trong thân, gương mặt là nhất, trong sáu độ, Bát-nhã là tôn quý, Bát-nhã thù thắng, là mẹ của Đại sư. Tên con là Nhật Minh, Phật dụ như mặt trời, ánh sáng bậc nhất, công đức Bồ-tát, được gọi là con, kế đó gọi là Nguyệt Minh. Đệ tử thị giả tên là Vô Cấu Xưng, đây là hiển rõ tánh trí bình đẳng của Như Lai. Thường quán cảnh trí gọi là phụng sự. Không đi chung với hoặc, hiệu là Vô Cấu Xưng. Đệ tử trí tuệ tên Lãm Quang, Đây là hiển rõ trí Diệu Quan Sát của Như Lai. Tất cả các pháp đều rõ ràng, nên tên là Lãm Quang. Đệ tử Thần túc tên Đại Hóa, đây là hiển rõ trí thành sở tác của Như Lai. Khởi các thứ biến hiện trên thân, ngữ, ý, nên tên là Thần Túc. Đây là trí thứ ba. Tên người em ở sau cảnh trí, từ cảnh trí mà sinh gọi là con. Ma vương tên Vô Thắng, đây là hiển rõ công đức đại Bi của Như Lai. Phật dùng đại Bi thương xót hàm thức, thường ở trong sinh tử, cứu khổ hữu tình, ma ưa thích sinh tử nên gọi là Ma vương. Đại bi này vượt hơn bi của Nhị thừa, nên gọi là Vô Thắng. Đề-bà-đạt-đa tên là Tịch Ý, phiền não xao động, não loạn người tu hành. Dụ như Điều-đạt. Như Lai quán các phiền não là Niết-bàn, nên Đề-bà-đạt-đa tên là Tịch. Đây là đứng về các công đức để gọi tên cha mẹ, chẳng phải trong Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà có thai sinh cha mẹ. Như kinh Bi Hoa nói: “Chư Phật thành đạo ở cõi tịnh và uế, chỗ hiện thành đạo có nhiều thứ khác nhau, hoặc có Bồ-tát sinh ở cõi kia, tu hạnh Bồ-tát, tức ở trong cõi nước đó thành Đẳng chánh giác, thế giới không thay đổi, danh hiệu và kiếp cũng không khác, hoặc có Bồ-tát sinh ở cõi nước kia, tức thành Đẳng chánh giác ở nước đó, danh hiệu và kiếp có tên gọi khác. Hoặc có Bồ-tát sinh ở cõi kia, tu hạnh Bồ-tát, thành Đẳng chánh giác ở nước đó, trong khi thành Phật, thế giới liền thay đổi, tốt đẹp hơn thế giới trước, danh hiệu và kiếp đều đổi khác.” Như trong kinh Quán Âm Thọ Ký có nói đầy đủ. Hoặc có Bồ-tát đã sinh trong thế giới này, đi qua thế giới khác thành Đẳng chánh giác, đầy đủ như trong kinh Bi Hoa Trong nhân của Bồ-tát này phát nguyện khác nhau nên có sự khác nhau như thế. Còn trong các kinh, hoặc có Bồ-tát đồng tử xuất gia, thành Đẳng chánh giác. Hoặc có Bồ-tát lấy vợ sinh con, xả bỏ năm dục, thành Đẳng chánh giác, hoặc có chúng sinh ở thế giới này thành đạo ở thế giới khác. Như kinh Pháp Hoa nói, như Long nữ sinh ở đường súc sinh của thế giới Ta-bà này, về sau trụ ở phương Nam của thế giới Vô cấu, bỏ thân người nữ kia, liền thành người nam, thành Đẳng chánh giác. Còn Hoa Quang Như Lai là ở trong thai sinh, ở trong Tịnh độ thành Đẳng chánh giác. Nên kinh nói: Khi Phật là vương tử, xả bỏ đất nước và vinh hoa ở đời, nơi thân sau cùng xuất gia thành Phật đạo. Từ đó mà biết Phật Hoa Quang thọ thai sinh ở thế giới khác, nơi Tịnh độ thành Đẳng chánh giác. Nếu chẳng phải thai sinh, thì đâu làm vương tử, bỏ nước bỏ đời vinh hoa ? Nay Phật A-di-đà cũng giống như vậy, ở trong cõi nước Thanh Thái thọ thai sinh, ở cõi nước Cực lạc thành Đẳng chánh giác. Hỏi: Như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên… được năm thần thông, không vượt ra khỏi tam thiên đại thiên thế giới, tại sao sinh ở phàm phu kia mà có khả năng dưới đến thấy nghe thần thông, vượt qua trăm ngàn muôn ức thế giới chư Phật? Y cứ theo đây mà biết vãng sinh Tịnh độ, đều là những bậc Bồ-tát đại căn đại hạnh, phàm phu chẳng thể vãng sinh được. Thích: Không thể cho cõi uế của bậc Thánh đã được năm thần thông hơn Tịnh độ của phàm phu, chỉ như định báo ngàn năm của Bắc Uất-đơn-việt, không trở ngại gì cho tuổi thọ tám muôn kiếp của cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, có người chết yểu ở khoảng giữa, đâu vì ng- hiệp báo của các vị trời lâu dài, không chấp nhận tuổi thọ có chết yểu giữa chừng. Tịnh độ cũng giống như vậy, tuy là phàm phu, vì nghiệp thọ sinh mạnh hơn, hoặc báo của Tịnh độ mạnh hơn, nương bản nguyện của Phật, hoặc nương oai linh của bậc Thánh, hoặc nhờ sinh duyên tốt, hoặc được diệu định Đại thừa, duyên đây được thần thông, bậc Thánh ở cõi này đâu có gì lạ? Còn trung ấm của năm đường sắp cầu thọ sinh, được nghiệp thần thông, siêu Nhị thừa tu được thần thông, đâu trở ngại gì việc chúng sinh Tịnh độ được thần thông hơn bậc Thánh ở cõi này? Nên kinh nói rằng: “Gốc lành vô lậu của Thanh văn, Độc giác, không bằng gốc lành hữu lậu của Bồ-tát sơ tâm mới học.” Hỏi: Chẳng hay chúng sinh vãng sinh Tây phương là Phần đoạn sinh tử hay Biến dịch sinh tử? Đáp: Bồ-tát ở cõi đó từ Bát địa trở lên, một bề là Biến dịch sinh tử; Thất địa trở xuống, Sơ quả trở lên, hoặc là Phần đoạn, hoặc là Biến dịch, đi thẳng lên Tam hiền và Thập tín, đều chỉ có Phần đoạn, nhưng tuổi thọ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, ba mươi hai tướng, thân màu vàng ròng, thân hư vô, thể vô cực, năm thần thông tự tại, vi diệu khó suy nghó bàn luận. Hỏi: Ở Tịnh độ, nói không có khổ, chẳng hay trong ba khổ, tám khổ không có khổ nào? Thích: Nếu theo Tiểu thừa nói Ta-bà kia, thân Phật còn có đủ ba thứ khổ, trong tám khổ, còn có năm khổ, đó là khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ năm thủ uẩn, chỉ không có ba thứ khổ là khổ ái biệt ly, khổ oán tắng hội, khổ cầu bất đắc, vì thân Như Lai mười lăm giới là hữu lậu, nghóa là năm căn, năm trần và năm thức, ba cõi có cả hữu lậu và vô lậu, nghóa là ý giới, pháp giới, ý thức giới, vì là thân hữu lậu, có năm thứ khổ như sinh… nhưng dứt các kết sử phiền não, như tham, sân, si… không có ba thứ khổ. Vì khổ ái biệt ly là ái kết, khổ oán tắng hội là sân kết, khổ cầu bất đắc là tham kết. Phật tuy thương xót các Thích tử bị vua Lưu Ly tru diệt, nhưng không có khổ ái biệt ly; Điều-đạt làm ra máu, Chiến-già độn bụng, hầm lửa cơm độc, các thứ khổ nhóm họp đến, chẳng có khổ oán tắng hội, vào xóm khất thực, bát không trở về, gặp đời đói khát, cầu xin không được, tuy thuộc việc này, nhưng chẳng có khổ cầu bất đắc. Trong Đại thừa, thì năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới của Phật Thế Tôn, đều là vô lậu. Kinh Niết-bàn có câu: “Điều chư Phật dạy gọi là Pháp, vì pháp thường nên chư Phật cũng thường.” Kinh lại chép: “Xả sắc vô thường được sắc thường; thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như vậy.” Duy-ma- cật nói: “Thân Phật vô lậu, các lậu đã dứt.” Như thế các kinh Đại thừa đều nói thân Phật chỉ là vô lậu, ba khổ, tám khổ chỉ là hữu lậu, nên thân chư Phật không có các khổ. Từ Thập địa trở xuống, phàm phu trở lên, có hai giải thích: Trong ba khổ có hành khổ và hoại khổ, trong tám khổ có một khổ, là khổ năm thủ uẩn, vì từ Thập địa trở xuống, do thọ các báo thân hữu lậu là Biến dịch, và phần đoạn, còn ở hành khổ thì có hữu lậu đổi dời, đó là hành khổ những niềm vui hữu lậu là những niềm vui khi sống, khi trụ thì lạc, khi hoại thì khổ, nên có hoại khổ. Điều đó không bức bách thân tâm buồn khổ, chỉ không có khổ khổ. Ban đầu thọ thân, tuy gọi là sinh, chẳng phải là chỗ nương của các khổ, lại không có thai tạng ép ngặt, nên không có khổ sinh. Mạng rất lâu dài, vô lượng vô biên A- tăng-kỳ kiếp, dù khiến cho phàm phu, còn vào trong Biến dịch sinh tử, nhưng cuối cùng thành Phật, không có khổ chết. Xả mạng kia, nguyện sinh cõi uế, để cứu độ chúng sinh khổ, tuy chết cũng không khổ, vì tâm vui vẻ, nguyện xả báo tu Từ bi. Đây là báo năm uẩn, từ hoặc sinh ra, thể là hữu lậu, tức là năm thủ uẩn. Cõi nước thanh tịnh của Phật, bốn đại an ổn, nên không có khổ bệnh, thân không suy tổn, nên không có khổ; già, bạn tốt thường nhóm hợïp, nên không có khổ ái biệt ly, người ác không sinh, nên không có khổ oán tắng hội; duyên giúp đỡ không thiếu, nên không có khổ cầu bất đắc. Thế giới Cực lạc tám khổ đồng như trước, trong ba khổ chỉ có hành khổ, do chịu phần đoạn, biến dịch, tuy có lạc thọ, nhưng chỉ có thanh tịnh, thường hằng nối nhau, không có đứt quãng, cuối cùng mãi chứng được cái vui tịch diệt, dù có một chút ngừng nghỉ, mà không có khổ sinh, chẳng có khổ hoại, nên Tịnh độ kia nói không có khổ là khổ khổ và hoại khổ. Hỏi: Tịnh độ kia tuy không có khổ khổ, mà còn có hành khổ, như thế làm sao được gọi là Cực lạc? Thích: Trong ba khổ chỉ có một khổ, trong tám khổ đó cũng chỉ có một khổ. Trong ba không có hai, trong tám thiếu bảy, tuy có một thứ nhưng không gọi là có khổ, như kinh Niết-bàn nói: “Như sông ít nước cũng gọi là vô thủy; như thức ăn ít muối, cũng gọi là vô diêm.” Lại như Tỳ-đàm nói rằng: “Biển cả một giọt nước, Tu-di một hạt bụi, không thể nói có núi biển.” Ở đây cũng giống như vậy, dù có một ít khổ, cũng không trở ngại gọi là Cực lạc. Còn ép ngặt không an, ở thân ở tâm thì gọi là lo khổ; cõi đó đều không, gọi là Cực lạc. Hỏi: Kinh Quán nói: “Phân thân hóa Phật A-di-đà, hóa Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, tụ hội ở thế giới Cực lạc, độ chúng sinh khổ”, cõi đó đã gọi là Cực lạc, thì lẽ ra không có chúng sinh khổ, vì sao nói nhóm họp ở cõi nước Cực lạc độ chúng sinh khổ? Lại, ở đây nói độ chúng sinh khổ là độ chúng sinh khổ của tự độ hay độ chúng sinh khổ của tha độ? Thích: Độ cả chúng sinh khổ của tự độ và tha độ. Hỏi: Tự độ đã không có chúng sinh khổ, vì sao lại độ những chúng sinh khổ của tự độ? Tha độ tuy có chúng sinh khổ, lẽ ra phải đến họ độ khổ, vì sao phải nhóm họp ở Cực lạc, xa độ khổ ở phương khác? Đáp: Chúng sinh tự quốc tuy không khổ, nhưng có hai thứ sinh tử: Phần đoạn và Biến dịch, khổ hành khổ của hữu lậu hữu vi, Như Lai đồng nhóm họp nói pháp mầu cho nghe, khiến nhanh chóng xa lìa hai thứ khổ sinh tử, thành tựu pháp thân, nên gọi là độ khổ. Chúng sinh nước khác hoặc phải đích thân tự cứu khổ, nên phân thân Phật trùm khắp mười phương. Như chúng sinh cõi này Tịnh nghiệp đã thành, khi qua đời hóa Phật đến rước, hoặc phải trở về, xa làm lợi ích, nên phải nhóm họp nơi bản quốc, từ xa cứu vớt đắm chìm. Hoặc nói độ chúng sinh khổ, Hóa Phật nhóm họp trong tự độ, giáo hóa các Bồ-tát, giáo hóa các Bồ-tát, giúp họ khởi tâm đại bi, bỏ cõi an vui của mình, được sinh về phương khác, thực hành hạnh đại Bi, giáo hóa chúng sinh có duyên trong mười phương, nên nói nhóm họp các chúng sinh khổ ở cõi nước Cực lạc. Như kinh luận nói: Bồ-tát Bát địa vì phần nhiều tịch chứng lý chân như, không chịu xuất định giáo hóa chúng sinh, chư Phật xoa đảnh khuyên họ xuất định giáo hóa chúng sinh, chính là nghóa đó. Nên kinh Duy-ma nói: “Bồ-tát ở cõi này có tâm đại Bi vững chắc đối với chúng sinh.” Lại nói: “Người này mới có thể bỏ cõi Tịnh độ thanh tịnh mà thích đến chỗ nhiều oán hại.” Hỏi: Kinh A-di-đà nói: “Chúng sinh ở nước kia không có các thứ khổ, chỉ hưởng những điều vui.” Không biết trong tám thức có mấy thức tương ưng với lạc thọ? Thích: Trong tám thức, thức thứ bảy và thức thứ tám một bề nối nhau, cảnh duyên sâu kín, khó có thể hiểu biết. Dù ở trong chỗ rất đau khổ của địa ngục A-tỳ, dù sinh trong chỗ Cực lạc Tam thiền, nhưng hai thức này chỉ tương ưng với xả thọ, cho đến trí Đại viên Cảnh, trí Bình đẳng tánh của quả Phật tương ưng với tịnh thức, cũng chỉ thường tương ưng với xả thọ. Lấy đây làm chuẩn mà biết, thức thứ bảy, thứ tám ở thế giới Cực lạc thường tương ưng với xả thọ, ngoài ra sáu chuyển thức tương ưng với ba thọ, đó là hỷ, lạc, xả. Tại ý thì tương ưng với hỷ, lạc, thọ, tại năm thức thì tương ưng với lạc thọ, xả thọ thì tương ưng chung với tất cả. Vì kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Không có tất cả thân tâm buồn khổ, chỉ có vô lượng thanh tịnh hỷ lạc, thế nên gọi là thế giới Cực lạc.” Lấy đây làm chuẩn mà biết, trong sáu thức ở Tịnh độ, chỉ không có ưu khổ, không trở ngại có xả, vì sau các tâm hỷ lạc, cho đến giai vị tiết giảm, phần nhiều tương ưng với xả thọ kia. Lại xả thọ kia, thể của nó không ép ngặt, do thiện nghiệp chiêu cảm, nên được tương ưng với xả thọ. Còn chúng sinh kia khởi Vị chí định và Đệ tứ thiền tónh lự các định trở lên ở khoảng giữa, vì sao không cho tương ưng với xả thọ? Lấy đây làm chuẩn mà biết, tuy gọi là Cực lạc, nhưng cũng được tương ưng với xả thọ. Nếu nói không đúng, thì kia cũng không được tương ưng với hỷ, vì cõi kia tên là thế giới Cực lạc. Tuy cõi tên Cực lạc, nhưng được tương ưng với hỷ, đâu ngại gì tên Cực lạc thế giới cũng tương ưng với xả thọ? Hỏi: Về phần đoạn sinh tử, văn luận Đại Trí Độ… cũng nói thọ trùng thân, nhục thân. Kinh Đại Phẩm nói: “Trong thân của Bồ-tát A- bệ-bạt trí không có tám muôn hộ trùng.” Họ đã có phần đoạn sinh tử, thì phải có trùng trong thân. Nếu có, kinh A-di-đà nói: “Cõi nước Phật kia, không có ba đường ác.” Vì sao kia nói có tám muôn hộ trùng, tiến thoái trái nhau, giải thích như thế nào? Thích: Chúng sinh ở Tịnh độ tuy chịu phần đoạn, mà không có tám muôn hộ trùng, luận Đại Trí Độ và kinh Đại Phẩm nói thân trùng là nói theo cõi uế. Vả lại cõi uế, các vị trời cõi sắc tuy là phàm phu, trong thân còn không có tám muôn hộ trùng, và ba tai khởi, vào cuối kiếp hoại, trước hết hoại ba đường ác, bấy giờ sở thọ trong thân người vẫn tự không có tám muôn hộ trùng, vì ba đường ác trước đã hoại hết, huống chi sắc thân Tịnh độ thanh tịnh, tuy là phần đoạn, mà không có các thân trùng này. Hỏi: Vì sao kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Tây phương cách thế giới này trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa cõi Phật”, đây thật là xứ xa trong bốn chỗ xa. Kinh Quán nói: “Phật A-di-đà cách đây không xa.” Hai văn trái nhau, xin giải thích ý nghóa. Thích: Xét cõi Cực lạc cách thế giới này trăm ngàn câu-chi na- dữu-đa cõi Phật, thật là chỗ xa, ở đây nói không xa, tự có nghóa khác tạm đưa ra mười giải thích để hiểu văn này: Phật lực không xa. Phương tiện không xa. Ứng hiện không xa. Tự tâm không xa. Thủ hộ không xa. Hữu duyên không xa. Bản nguyện không xa. Lai nghênh không xa. Vãng sinh không xa. Không buông lung không xa. Phật lực, kinh nói: “Nhờ Phật lực, nên được thấy Tây phương kia.” Phương tiện, kinh nói: “Có phương tiện lạ, giúp ông được thấy.” Ứng hiện, kinh nói: “Phật A-di-đà đứng trong hư không.” Tự tâm, kinh nói: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật.” Thủ hộ, kinh nói: “Thường đến chỗ người tu hành.” Hữu duyên, kinh nói: “Chúng sinh nào có duyên đều được thấy.” Bản nguyện, kinh nói: “Vì nguyện lực đời trước, nên có nhớ tưởng ắt được thành tựu.” Lai nghênh, kinh nói: “Cùng các hóa Phật đến đón rước người tu hành.” Vãng sinh, kinh nói: “Như khoảng thời gian búng ngón tay, liền sinh về nước kia.” Không buông lung, như kinh Niết-bàn, quyển 30 nói: “Người buông lung, tuy được gần Phật và đệ tử Phật, vẫn gọi là xa.” Nay chỉ nên chuyên tâm, không nên buông lung, thì gọi là gần Phật, không gọi là xa. Vì đủ mười nghóa này, nên gọi là không xa. Hỏi: kinh Quán nói: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển Chánh biến tri của chư Phật từ tâm tưởng sinh.” Vì sao tâm này có thể làm Phật? Thích: Xét theo lý Duy thức, ngoài tâm ra không có pháp nào khác, muôn pháp, muôn tướng đều là tự tâm, nên luận Khởi Tín nói: “Tâm sinh các pháp sinh, tâm diệt các pháp diệt.” Kinh Duy-ma nói: “Hễ tâm người thanh tịnh, thì cõi Phật thanh tịnh.” Kinh nói tiếp: “Vì tâm uế nên chúng sinh uế, tâm thanh tịnh nên chúng sinh thanh tịnh.” Nên biết muôn pháp đều do tâm biến hiện. Trong lúc dùng tâm này quán Tịnh độ của Đức Phật kia, Phật A-di-đà là tướng của bản tánh, chúng sinh quán tâm duyên với Như Lai kia, không thể ngoài tâm thấy tướng thật của Phật, phải quán tâm biến thành tướng ảnh tượng, tướng của ảnh tượng này gọi là tướng phần, tâm năng quán là Kiến phần, kiến phần và tướng phần đều không rời tự chứng phần, năng lực của kiến phần có thể hiện tướng phần, nên gọi là tâm làm Phật, tướng phần này gọi là tâm tự chứng phần, không có tự thể khác, nên gọi tâm này là Phật. Muốn quán tất cả công đức của Như Lai, đều dùng tự tâm để biến ra ảnh tượng, nên nói biển Chánh biến tri của chư Phật từ tâm tưởng sinh ra, hoặc do tâm tưởng tu các hạnh, là nhân muôn đức gọi là biển Chánh biến tri từ tâm tưởng sinh ra nên kinh Hiền Hộ quyển hai nói: “Bồ-tát cũng giống như thế, nhất tâm khéo suy nghó thấy các Như Lai, thấy rồi liền trụ, trụ rồi hỏi nghóa, giải thích vui mừng, liền có thể tư duy: Nay Đức Phật này từ nơi nào đến? Còn thân này của ta từ đâu ra? Quán Đức Như Lai kia, hoàn toàn không có chỗ đến, cho đến chỗ đi. Thân ta cũng giống như vậy, vốn không có chỗ ra, há có chỗ chuyển hoàn?Họ lại phải suy nghó như thế. Nay ba cõi duy tâm này, tâm này có Phật. Vì sao? Vì tùy theo tâm niệm của người mà, trở lại tự thấy tâm mình. Nay ta từ tâm thấy Phật, tâm ta làm Phật, tâm ta thấy Phật. Tâm ta là Như Lai, tâm ta là thân ta, tâm ta thấy Phật, tâm không biết Phật, tâm không thấy tâm.” Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: Tâm như người họa só Họa các thứ năm ấm Trong tất cả thế gian Không pháp nào chẳng tạo Như tâm, Phật cũng thế, Phật cũng như chúng sinh Tâm, Phật và chúng sinh Ba thứ không khác nhau. Địa vị tâm có cấu, gọi là chúng sinh; khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, gọi là làm Phật, chính là nghóa đó. Hỏi: Kinh Quán nói: “Nếu thấy sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, thì tám muôn bốn ngàn tướng tự nhiên thấy” làm sao thấy được tướng vô kiến đảnh? Thích: Có chỗ giải thích rằng: “Tướng vô kiến đảnh này, đã gọi là vô kiến đảnh, thì thật không thể thấy, nhưng nói thấy tám muôn bốn ngàn tướng, sự thật chỗ này đã trừ vô kiến đảnh tướng, chỉ thấy khoảng tám muôn ba ngàn chín trăm chín mươi chín tướng, lấy ít theo nhiều, gọi chung là thấy, thật ra không thấy tướng này. Nếu không như vậy thì danh nghóa sẽ trái nhau, như núi Tu-di bị thiêu, chỉ còn lại một hạt bụi, biển cả sắp cạn, chỉ còn lại một giọt, không thể nói còn lại núi biển, ở đây cũng giống như thế, quán chung các tướng, thảy đều trùm khắp, chỉ có một tướng này không thể quán thấy, không thể nói không quán các tướng. Có chỗ giải thích rằng: Tướng này tuy không đồng với các tướng, nhưng phần nhiều không thấy, gọi là tướng vô kiến đảnh. Uy thần lực của Phật che chở chúng sinh, trong quán hạnh lại được thấy. Nhưng thân Tha thọ dụng, thân Biến hóa, từ đầu đến chân, đều là vật hiện, khiến được chiêm ngưỡng, lợi ích hữu tình. Cái không được thấy, thì không lợi ích, sao được gọi là thân Tha thọ dụng? Tức một tướng này chẳng phải tha thọ dụng, vì đã hiển tướng này cao quý bậc nhất, khiến cho vật tôn trọng phần nhiều không được thấy, nên gọi là tướng Vô kiến đảnh. Lại vì chúng sinh hiện các tướng này, khiến cho Tha thọ dụng tôn trọng tu, đâu ngại được thấy? Như Phật Thích-ca vì cạo tóc thấy đảnh, Đức Phật kia cũng như vậy, không thể chấp văn để chọn lấy nghóa, tức là khiến cho tất cả chúng sinh đều nhìn thấy tướng này. Hỏi: Như trong pháp quán thứ chín của kinh Quán, nói vốn muốn quán thân tưởng ánh sáng của Phật A-di-đà thì chỉ được quán thấy Phật A-di-đà, vì sao thấy Phật A-di-đà, mới được thấy chư Phật mười phương? Thích: Ở đây có ba nghóa được thấy chư Phật mười phương: l. Do công đức chư Phật thảyđều đồng đẳng, đều có tự lợi lợi tha, hóa ích bình đẳng, cho nên quán một Đức Phật thì thấy chư Phật mười phương, nên Văn-thù Bát-nhã nói Nhất hạnh Tam-muội: “Hay đối với một Đức Phật niệm niệm nối nhau, tức là trong một niệm có thể thấy chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì niệm một Đức Phật có công đức vô lượng vô biên, cũng bằng với vô lượng công đức chư Phật, không thể suy nghó bàn luận, Phật pháp bình đẳng không khác nhau, đều nương vào nhất như, thành Tối Chánh Giác, tất cả đều có công đức biện tài vô lượng.” Vì thấy một Đức Phật được niệm Phật Tam-muội, trừ chướng diệt tội, cho nên có thể thấy chung chư Phật mười phương. Phật A-di-đà ánh sáng chiếu khắp các thế giới ở mười phương, nhờ ánh sáng mà thấy chư Phật mười phương. Kinh Bát-Chu Tam-muội nói: Bồ-tát Bạt-đà-hòa thưa hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni rằng: “Chúng sinh đời vị lai làm sao thấy được chư Phật mười phương?” Phật dạy niệm Phật A-di-đà, liền thấy tất cả chư Phật mười phương, vì Đức Phật này đặc biệt có duyên với chúng sinh cõi Ta-bà, trước hết đối Đức Phật này chuyên tâm xưng niệm, Tam-muội dễ thành, trừ chướng diệt tội, ánh sáng chiếu khắp, thấy chư Phật mười phương. Hỏi: Kinh Quán nói: “Thực hành quán này, sinh trước chư Phật.” Vì sao quán Phật A-di-đà nguyện sinh Tây phương? Chỉ nên nói sinh trước Phật A-di-đà, là nói sinh trước chư Phật? Thích: Ở đây có bốn giải thích: Khi quán chân thân thứ chín này, chẳng phải gặp ngay Đức Phật A-di-đà, cũng thấy tất cả chư Phật mười phương, thế nên chẳng sinh ngay về cõi nước Cực lạc, mà cũng được tùy nguyện sinh về cõi nước của chư Phật, nên nói là sinh trước chư Phật. Tuy thấy chư Phật mười phương, nhưng tu pháp quán này, vốn mô phỏng theo vãng sinh Tây phương, vì sao sinh về cả các cõi nước của chư Phật? Nhưng nói trước chư Phật, là vì pháp quán này là thắng hạnh, khi hành giả được sinh Tây phương, chẳng phải gặp ngay Đức Phật A-di-đà, liền thấy tất cả chư Phật mười phương, nên nói sinh trước chư Phật. Đức Phật A-di-đà này tuy là một thân, nhưng trong nước hóa số Phật, nhiều vô lượng. Khi hành giả mới sinh, hóa Phật nhóm họp, đều đến xoa đảnh, nói pháp cho nghe, vì hóa Phật chẳng phải một, nên nói sinh trước chư Phật. Phật A-di-đà tuy hiện một thân, mà thân này nhiều Phật đồng biến, tướng tuy là một nhưng thể của nó thật nhiều, vì phần nhiều chư Phật đối với chúng sinh đều có duyên, đều cùng biến, Phật A-di-đà đồng ở một chỗ, giống như nhiều ngọn đèn, ánh sáng đều riêng, nhưng không chướng ngại nhau, dường như đồng một ánh sáng. Thân Phật cũng giống như vậy, mỗi Đức Phật đều biến một thân, tuy dường như một thân, mà thật ra nhiều thân, tuy sinh trước một Đức Phật, cũng gọi là sinh trước chư Phật. Hỏi: Kinh Pháp Hoa nói: “Dù cho đầy khắp trong thế gian, đều như Xá-lợi-phất, cùng nhau chung suy lường, cũng không thể lường được trí Phật. Đây tức là phàm phu, Nhị thừa không thể so được với trí Phật. Còn văn luận nói: Các tha tâm trí như địa độ, nhân độ, căn độ không được duyên với nhau, vì sao kinh Quán nói: “Nếu thấy thân Phật, tức thấy tâm Phật, tâm Phật là tâm từ Bi?” Có kinh nói: “Di hầu hiến mật, cũng biết tâm Phật.” Lại có kinh nói: “Đại Mục-kiền-liên dùng tha tâm trí quán tâm niệm của Phật, A-nan là thị giả, giống như mặt trời xuất hiện ở phương Đông, chiếu ở vách Tây”, ở trước kinh nói không thể lường được trí Phật, ở sau kinh lại nói có thể quán tâm Phật, hai kinh đã khác nhau, làm sao giải thích chung? Thích: Tát-bà-đa bộ giải thích nghóa này. Phật có hai thứ tâm: Từng được tâm và chưa từng được tâm. Nếu Phật chưa từng khởi được tâm thì Xá-lợi-phất… đều suy nghó đo lường không thể biết được; nếu khởi từng được tâm, cho đến Di hầu, cũng biết tâm Phật. Kinh Giải Thâm Mật Phật tự giải thích rằng: “Tâm kiến phần của Phật, Bồ-tát Thập địa không thể biết được, khởi tâm tướng phần, tất cả phàm phu thảy đều biết.” Nay nói cũng thấy tâm Phật, là thấy tâm của Kiến Tướng phần. Kinh nói: “Tâm Phật là đại Từ bi.” Nhưng Phật có duyên lý nội chứng trí tâm, có duyên sự ngoại quán chúng sinh tâm. Như duyên lý nội chứng trí tâm, là tâm tự chứng phần, Phật Phật mới biết nhau, Thập địa không thể suy lường; còn duyên sự ngoại quán chúng sinh tâm, là tâm kiến phần, cũng Phật Phật mới biết nhau, Thập địa không thể suy lường; Duyên lý và sự ngoại quán chúng sinh tâm tướng phần, được Như Lai che chở, cho đến Di hầu cũng biết tâm Phật. Hỏi: Người sinh chín phẩm y theo địa vị nào để chia ra chín phẩm? Thích: Thô chia ra chín phẩm là có ở hai nhà; tế chia ra chín phẩm thì có nhiều thuyết nói hai nhà: Chín phẩm này đều là Bồ-tát Thập tín, y cứ theo trụ, y cứ theo thối, mà tạo thiện, tạo ác, lên xuống khác nhau, chia thành chín phẩm: Người ở ba phẩm đầu là người Thập tín bất thoái trụ bản vị, thực hành có sâu cạn, thành ba phẩm trên, người ở ba phẩm trung thối tâm Đại thừa, phát ý Tiểu thừa, thoái hạnh Đại thừa, tu hạnh nghiệp Tiểu thừa, hạn có sâu cạn thành ba phẩm trung. Ba phẩm dưới, ngươi thoái tâm Đại thừa, khởi tâm sinh tử, thoái hạnh Đại thừa tạo tạo tội sinh tử, tạo tội có nặng nhẹ, thành ba phẩm dưới. Phát tâm Đại Bồ-đề, tu hành hạnh Bồ-tát, hạnh có cạn sâu thành ba phẩm trên. Phát tâm tiểu Bồ-đề, tu hành hạnh Thanh văn, hạnh có cạn sâu thành ra ba phẩm trung. Không phát tâm Nhị thừa Đại, Tiểu, không tu hạnh Đại và Tiểu thừa, chỉ khởi tâm sinh diệt, chỉ tạo tội sinh tử, tạo tội có nặng nhẹ thành ra ba phẩm dưới. Đây tức là thô phần chín phẩm. Tế phần chín phẩm: Ba hạng người ở ba phẩm trên, các sư đều chọn hay bỏ, có nhiều thứ đồng, dị. Sư nói: Thượng phẩm thượng sinh là Tứ, Ngũ, Lục địa Bồ-tát. Thượng phẩm trung sinh là Nhất, Nhị, Tam địa Bồ-tát; Thượng phẩm hạ sinh là ba mươi tâm địa tiền. Sư nói: Thượng phẩm thượng sinh, là Thập Hồi Hướng; Thượng phẩm trung sinh, là Thập hạnh; Thượng phẩm hạ sinh, là Thập trụ. Sư nói: Thượng phẩm thượng sinh, là ba mươi tâm Địa tiền; Thượng phẩm trung sinh, là Thập tín mạt tâm; Thượng phẩm hạ sinh, là Thập tín Sơ tâm. Sư nói: Thượng phẩm thượng sinh, là Thập hạnh, Thập hồi hướng; Thượng phẩm trung sinh, là Thập trụ; Thượng phẩm hạ sinh, là Thập tín. Sư nói: Thượng phẩm thượng sinh là Thập trụ sơ tâm; Thượng phẩm trung sinh, là Thập tín hậu vị; Thượng phẩm hạ sinh, là Thập tín sơ vị. Sư nói: Thượng phẩm thượng sinh, lấy Thập tín và trước Thập tín có thể phát ba tâm, có thể tu ba hạnh, đều gọi là Thượng phẩm thượng sinh, Thượng phẩm trung sinh, Thượng phẩm hạ sinh, chỉ chọn Thập tín trở xuống phát tâm Bồ-đề, phàm phu tu thiện, khởi hạnh cạn sâu, chia làm hai phẩm. Cho nên các sư đều phán ba phẩm này cao thấp khác nhau, vì Vô sinh pháp nhẫn, kinh luận phán lập hoặc hạ hoặc thượng. kinh Nhân Vương Bát-nhã nói: “Vô sinh pháp nhẫn ở địa thứ bảy, tám, chín.” Trong các luận nói Vô sinh pháp nhẫn ở Sơ địa, hoặc ở Nhẫn vị; kinh Bồ-tát Anh Lạc nói Vô sinh pháp nhẫn ở Thập trụ vị, kinh Hoa Nghiêm nói Vô sinh pháp nhẫn ở Thập tín vị. Kinh Chiêm Sát nói Vô sinh pháp nhẫn ở phàm phu vị trước Thập tín. Nên các sư mỗi vị đều căn cứ vào một vị được Vô sinh pháp nhẫn, mà chia làm ba phẩm thượng, cao thấp khác nhau. Trong ba phẩm Trung, một sư nói: Trung phẩm thượng sinh, là người trong ba quả, Trung phẩm trung sinh là người ở Thất phương tiện, trung phẩm hạ sinh là người giải thoát phần thiện căn. Một sư nói: Trung phẩm thượng sinh, là người ở Nhẫn vị, Trung phẩm trung sinh, là người Đảnh vị, Trung phẩm hạ sinh, là người Noãn vị. Một sư nói: Trung phẩm thượng sinh, là người Noãn, Đảnh, Nhẫn vị, Trung phẩm trung sinh, là người tiền Tam giải thoát phần thiện căn; Trung phẩm hạ sinh là người từng gieo trồng giải thoát phần thiện căn. Một sư nói: Người ở ba phẩm trung đều là người giải thoát phần thiện căn, chỉ y cứ giữ giới có sâu cạn, và người không trì giới, chỉ làm việc lành ở đời, mà chia làm ba phẩm, không đứng về vị thượng hạ để chia thành ba phẩm. Người ở ba phẩm hạ, chỉ y cứ vào gặp duyên tạo tội nhiều ít, nặng nhẹ khác nhau mà chia thành ba phẩm hạ, không có địa vị riêng. Vô sinh pháp nhẫn có sáu vị: Văn Tuệ trước Thập tín. Sinh giải thoát sau Thập tín. Tư Tuệ sau Thập trụ. Tu Tuệ sau Noãn. Chứng đắc ở Sơ địa. Tương tục ở Bát địa. Trong nhân này quả Phật viên mãn. Hỏi: Không biết vãng sinh đều được Bất thoái hay sao mà Thượng phẩm trung sinh nói: “Trải qua bảy ngày, ứng thời liền không còn lui sụt đối với A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?” Thích: Người ở Thượng phẩm trung sinh này, người ở năm tâm của Thập tín trở xuống, tâm Thập tín thứ sáu gọi là Bất thoái tâm, sinh trải qua bảy ngày, được tâm Bất thoái thứ sáu kia, nên gọi là Bồ-đề được không lui sụt. Khi mới vãng sinh liền gọi là Bất thoái, đây nói theo chỗ Bất thoái. Hai văn kinh này đều căn cứ một nghóa, không trái nhau. Hỏi: Vì sao chín phẩm vãng sinh đều được Đức Phật A-di-đà nương bản nguyện đến đón rước người tu hành, vãng sinh cõi nước Phật, chỉ có Trung phẩm hạ sinh, không nói Thánh chúng đến đón rước là có ý gì? Thích: Theo bốn mươi tám đại thệ nguyện, nếu không đến đón rước thì không thành Chánh giác. Lại sinh ở ba phẩm hạ, vẫn được Thánh đến rước, chuẩn trên chuẩn dưới, lẽ ra nên có Thánh đón rước. Nhưng không trình bày, có lẽ do người phiên dịch sơ sót, hoặc lược mà không nói. Có giải thích ba người ở phẩm trung, Phật dùng đại Từ đại Bi, khi người qua đời đến đón rước, chẳng phải là bản nguyện. Trung phẩm hạ sinh, Phật không đến rước, chẳng phải là văn kinh sơ sót, vì trong bốn mươi tám hoằng thệ nguyện nói: “Nếu ta được thành Phật, chúng sinh trong mười phương phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, muốn sinh nước ta, khi mạng chung mà ta không cùng đại chúng hiện ở trước người đó, thì ta không thành Chánh giác.” Trong nguyện này đã nói: Phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, không cùng đại chúng hiện trước mặt người đó thì không thành Chánh giác. Phát tâm Bồ-đề này, là phát tâm Vô thượng Đại Bồ-đề, người trong ba phẩm trung vẫn chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề, chỉ tu các công đức, nguyện muốn vãng sinh, tuy được vãng sinh, nhưng Phật không đến rước, không trái bản nguyện. Vì không phát tâm Bồ-đề, là không đúùng với đại thệ nguyện. Trong kinh Dược Sư nói tám vị Bồ-tát thị hiện ra con đường, khiến sinh Tây phương, đây tức là Phật không đến rước, nếu Phật đến rước thì Phật tự dẫn đi, được đi Tây phương, cần gì Phật Dược Sư Lưu Ly Quang sai tám vị Bồ-tát thị hiện ra con đường đó? Nên biết không có Phật, cho nên Phật không đến rước, cũng không trái với bản nguyện, vì người đó trước có tu đạo, vì chẳng phải chuyên tâm quyết định, không phải dốc lòng phát nguyện, muốn sinh về cõi nước kia. Trong kinh Dược Sư nói mà chưa định, nếu là dốc lòng phát nguyện, tức chẳng phải là người bất định. Còn hạnh của kinh kia đã nói, là người ở ba phẩm trung, chẳng phải bản nguyện. Còn kinh Bồ-tát Xử Thai nói, chúng sinh tu nghiệp Tây phương, phần nhiều không được sinh Tây phương, mà sinh ở nước Giải mạn, đây chẳng phải chuyên tu nghiệp Tây phương, người dốc lòng phát nguyện, vì hạnh nghiệp không chuyên, phát nguyện không đến, không đúng bản nguyện, nên không đến rước. Nếu Phật đến rước thì thành nghiệp Tịnh độ Tây phương, đâu Phật rước mà sinh nước Giải mạn? Kinh Vô Lượng Thọ nói người ở ba bậc đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đều được Phật rước, dù cho không thấy, vẫn ở trong mộng thấy mà được vãng sinh. Hỏi: Vì sao kinh Quán nói Hạ phẩm thượng sinh, dốc lòng xưng Phật, diệt tội nặng trong năm mươi ức kiếp sinh tử, Hạ phẩm trung sinh nghe công Đức Phật, Hạ phẩm hạ sinh xưng danh Đức Phật kia, đều diệt tội nặng tám mươi ức kiếp sinh tử? Vì sao đồng niệm một Đức Phật, công đức giống nhau, nhưng diệt tội lỗi kia thì công đức nhiều ít có khác? Đáp: Ở đây có hai ý: Niệm Phật công đức, đúng theo lý, lẽ ra diệt tội không khác nhau, nhưng vì người tội trong ba phẩm nghiệp ác có nhiều ít: Hạ phẩm thượng sinh tội ít, chỉ có tội trong năm mươi ức kiếp, chướng sinh Tây phương, người ở hai phẩm dưới tội dần dần nhiều, nên có tội trong tám mươi ức kiếp. Vì tội kia có tăng giảm, nên nói diệt nhiều ít khác nhau, chẳng phải niệm công đức khác, khiến cho diệt tội của họ cũng khác. Ví như tráng só có sức mạnh, có thể vác tám đấu gạo, có người chỉ vác có năm đấu, bỏ sự hành trì của tráng só kia, chẳng phải tráng só không thể giở lên nhiều, mà gạo chỉ vốn có năm đấu. Nghóa này cũng vậy. Hạ phẩm thượng sinh chỉ có tội trong năm mươi ức kiếp, Phật tùy tội của họ nhiều ít, nói diệt năm mươi ức kiếp; Hạ phẩm trung sinh tội nặng hơn phẩm trước, ba mươi ức kiếp tùy tội chướng của họ, mà nói diệt tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Nên tội của hạng Hạ phẩm hạ sinh là nặng nhất, nên nếu đầy đủ mười niệm xưng A-di-đà Phật, trong mỗi niệm diệt tội trong tám mươi ức kiếp ba phẩm này nói diệt tội khác nhau, chẳng phải là niệm Phật công đức khác nhau. Niệm danh hiệu Phật công đức tuy không khác, nhưng do tâm niệm Phật có chí thành khác nhau nên khiến diệt tội nhiều ít khác nhau. Hạ phẩm thượng sinh, tội nghiệp nhẹ mỏng, chết không có tướng ác, tâm sợ sệt không cùng cực, dù chí thành niệm Phật, chỉ có thể diệt tội trong năm mươi ức kiếp sinh tử; Hạ phẩm trung sinh, lửa mạnh của địa ngục cùng lúc đều đến, người tội quên sợ, chí thành niệm Phật, do tâm triệt để, nên diệt trừ tội nặng trong tám mươi ức kiếp. Hỏi: Nếu thế thì, Hạ phẩm hạ sinh quên sợ rất nặng, lẽ ra nói niệm Phật càng diệt nhiều ức hơn, vì sao đồng với tám mươi ức kiếp ở trước? Thích: Khi hành giả qua đời, khí lực của người đó hư kém, hết sức chí thành, nhưng chỉ đến đây, sức chỉ có giới hạn, đâu thể nhiều được? Vì tội đã nhiều thì chướng ngại sinh Tịnh độ, khiến đủ mười niệm, diệt tội mới đồng, mới được vãng sinh cõi Phật thanh tịnh. Ví như kiếm thần có thể chém được cây lớn, nếu người đó dùng nhiều sức, thì vào cây sâu; nếu không dùng nhiều sức thì chém cây cạn hơn. Chẳng phải kiếm có bén hay lụt, bởi sự mạnh yếu của sức người khác nhau. Ở đây cũng giống như thế, công đức của Phật tuy không khác nhau, nhưng lòng chí thành của người niệm khác nhau, khiến cho tội diệt nhiều ít khác nhau. Hỏi: Vì sao nghe tựa đề mười hai bộ kinh, chỉ diệt tội nặng trong một ngàn kiếp, niệm Phật một câu thì diệt tội nặng trong năm mươi ức kiếp? Kinh Bát-nhã nói: “Nghe kinh không trái nghịch, còn hơn cúng dường tám trăm bốn ngàn muôn ức na-do-tha các Đức Phật.” Thích: Kinh kia cúng dường Phật là tốt, nhưng cúng dường Phật là có tướng tâm nên công đức cúng dường ít, trì kinh là đời ác, khởi tâm vô tướng, nên công đức trì kinh nhiều. Nay đây nghe kinh, niệm Phật đều là đời ác, đều chỉ có tướng, nhưng cùng với Phật Di-đà có duyên cũ đã thuần thục, đời ác niệm Phật, sinh tin rất khó, Phật có thể hoằng kinh, thế nên niệm Phật diệt tội nhiều hơn người nghe kinh. Hỏi: Người Hạ phẩm hạ sinh tội tuy nhiều hơn người Hạ phẩm trung sinh, là năm tội nghịch, báng pháp, vì sao Hạ phẩm trung sinh chỉ nghe công đức Phật liền được vãng sinh, còn Hạ phẩm hạ sinh thì phải đủ mười niệm xưng Phật A-di-đà, mới được vãng sinh Tịnh độ? Thích: Có hai giải thích: Tính các tội như năm tội nghịch… chỉ hợp với sáu kiếp thọ tội, nhưng có trường hợp tội trong tám mươi hoặc chín mươi ức kiếp, vì người này tạo tội nặng này, nuôi lớn các nghiệp khác trong quá khứ, đều khiến cho có công năng chiêu cảm quả báo sinh tử trong chín mươi, tám mươi ức kiếp. Nếu một niệm sân tâm hiện tiền, có thể thiêu đốt tất cả pháp lành, có thể ngăn che trăm ngàn pháp môn. Ở đây cũng như thế, tạo tội nặng này, có thể tăng thêm nghiệp ác quá khứ, đều có thế lực có thể chiêu cảm ác báo chướng ngăn việc vãng sinh Tịnh độ. Năm tội nghịch này, chỉ chiêu cảm năm kiếp chịu khổ, nhưng tội hủy báng chánh pháp, kinh nói chịu khổ trong kiếp số lâu dài, như kinh Đại Phẩm và kinh Phật Tạng nói người báng pháp đọa vào địa ngục A-tỳ này, khi kiếp hoại lại sinh vào địa ngục ở phương khác, như thế lần lượt trải qua vô số kiếp, nên phải niệm Phật mười câu, diệt tội nặng trong tám mươi ức kiếp, được sinh Tịnh độ. Hỏi: Vì sao pháp môn vãng sinh chẳng phải chỉ có một pháp, ngày sắp qua đời chỉ dạy niệm Phật, không dạy việc lành khác, có nghóa gì? Thích: Người qua đời, chỉ dạy niệm Phật, dùng bảy nghóa này là hơn cả, không dạy pháp khác. Bảy nghóa đó là: Thắng, thiểu, dị, diệt, duyên, nghênh, sinh. Thắng: Tất cả Phàm Thánh, hoặc người, hoặc pháp, không hơn Phật, tối tôn, tối thắng, hai chướng đã dứt trừ, muôn đức châu viên. Tự giác, giác tha, giác hạnh đầy đủ, thương xót chúng sinh hơn con đẻ, là chỗ quy y lớn cho hữu tình, là châu, là bãi, là cứu, là quy, nên phải chí thành niệm Phật. Thiểu: Trong các pháp tu thiện, chỉ có pháp niệm Phật này là ngôn từ ít nhất, các pháp môn khác đều nhiều. Ngày qua đời, dạy niệm chỗ này, đâu thể lại tu nhiều pháp khác? Dị: Trong các pháp môn tu hành, chỉ có pháp niệm Phật này rất dễ tu tập. Sắp qua đời, trăm ngàn điều khổ ràng buộc thân, khí lực suy kém, muôn việc đều bỏ, khuyên niệm Phật còn e không thành, lại nói pháp môn khác, thì thật khó học tập, chọn lựa pháp dễ này để dạy họ tu. Diệt: Ở đây chuyên niệm Phật, ngôn ước dễ tu, một niệm chí thành, liền có thể diệt tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, dứt hẳn khổ báo ba đường của Ta-bà. Duyên: Phật A-di-đà nhiều kiếp lâu xa đến nay, kết duyên rất sâu nặng với chúng sinh, có cúng dường, thấy nghe tùy hỷ, các duyên đồng hành, nương túc nhân này, nhất tâm xưng niệm, nghe tiếng thì cứu, dứt hẳn năm thiêu. Nghênh: Vì niệm Phật, tội cấu diệt trừ, Phật A-di-đà, nương bổn thệ nguyện, cùng các Thánh chúng đích thân đến rước, pháp khác không được như vậy, nên phải niệm Phật. Sinh: Như nguyện ấy nói: “Dù chỉ mười niệm, nếu không sinh, không thành chánh giác.” Vì bảy nghóa này hơn hẳn các pháp môn, nên khuyên chúng sinh, khi qua đời niệm Phật. Hỏi: Một niệm, mười niệm Phật A-di-đà được sinh Tây phương, là chỉ pháp niệm Phật này mà được vãng sinh, nhờ pháp môn khác có được sinh không? Nếu chỉ giữ niệm này mà chưa hiểu niệm này, kinh tuy nói là đầy đủ công đức vô thượng, một niệm như thế nào mới thành công đức vô thượng? Thích: Công đức vô lượng, đâu cần phải tu nhiều trong thời gian dài, mới thành vô lượng, vì có khi tu nhiều trong thời gian dài mà có ít phước, có khi tu ít trong thời gian ngắn mà có nhiều phước. Nghóa này thế nào? Như kinh Kim cang Bát-nhã nói: Đầu ngày, giữa ngày, cuối ngày dùng thân mạng nhiều như số cát sông Hằng, bố thí thân trong vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp như thế, nếu có người nghe kinh điển này tín tâm không nghịch thì phước người đó hơn kia vì thời gian vô lượng trăm ngàn muôn ức dài xa, tu pháp thí xả thân nhiều như cát sông Hằng, mỗi mỗi đều hại nên nhiều mạng khổ. Tuy lại có ba nhiều, nhưng phước ít. Như lại có người, thân ít; nghe kinh điển này trong thời gian ngắn, tín tâm không nghịch, thực hành ít; nhưng được công đức nhiều hơn phước ở trước. Đây là bậc Thượng Thánh so lường, chẳng phải kẻ hạ phàm đo được, há không tin sao? Nay một niệm niệm Phật này, tức là đầy đủ công đức Vô thượng, cũng là lời nói thẳng của Đại sư, đâu được hoài nghi? Lại còn một niệm niệm Phật, tức hơn trăm ngàn muôn ức kiếp tu đạo, nên thành nhiều công đức. Như kinh Pháp Hoa nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu sáu mươi hai ức hằng sa Bồ-tát, lại trọn đời cúng dường thức ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc men, ý ông nghó sao? Công đức của người thiện nam, thiện nữ này có nhiều không?” Vô Tận Ý thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều!” Phật nói: “Nếu có người thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, dù cho chỉ lễ bái cúng dường, trong thời gian ngắn thì phước của hai người này, cũng bằng nhau không khác.” Nếu thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng sa Bồ-tát, lại tứ sự cúng dường, tính theo thời tiết, thì đã trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp mới tạm thời xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, cúng dường một thứ, công đức trong nhiều thời gian này đồng với phước trong một ít thời gian. Kinh Thập Luân nói: “Nếu người trong trăm đại kiếp dốc lòng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, không bằng niệm Bồ-tát Địa Tạng trong khoảng bữa ăn.” Nếu trăm đại kiếp niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, huống gì ở trước đã so lường, tức phải hơn trăm ngàn muôn ức không thể nói hằng hà sa danh hiệu Bồ-tát. Nếu trong nhiều kiếp niệm Bồ-tát Địa Tạng, không bằng một câu dốc lòng niệm Phật A-di-đà, công đức vô lượng vô biên. Như thế đem Phật so với Bồ-tát Địa Tạng, đem Bồ-tát Địa Tạng so với Bồ-tát Quán Thế Âm, đem Bồ-tát Quán Thế Âm so với sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-tát, tức ngay nơi một câu niệm Phật công đức, hơn tứ sự cúng dường hằng hà sa số danh hiệu Bồ-tát trong Vô lượng A-tăng-kỳ kiếp. Đây là một niệm niệm Phật tức hơn niệm các vị Bồ-tát, một A-tăng-kỳ, hai A-tăng-kỳ kiếp tu đạo, vì sao niệm Phật công đức ít? Nên phải dùng sự so lường này, để biết công đức là nhiều. Hỏi: Nếu lấy đây so lường, thật thành vô lượng công đức, rất hợp với kính tin, vui mừng xưng niệm, chắc chắn được vãng sinh, mà kinh Pháp Hoa nói: “Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp miếu, một xưng Nam-mô Phật, đều đã thành Phật đạo.” Nếu một câu niệm Phật liền vãng sinh Tây phương, cũng một câu niệm Phật, liền được thành Phật đạo. Nếu được thành, thì lẽ ra các thế giới trong mười phương không còn một phàm phu, tất cả có thể niệm Phật đều thành Phật. Nếu một câu chưa được thành Phật, thì chỉ là nhân xa thành Phật, càng phải dần dần dồn chứa công đức, đầy đủ tâm đại Bi, muôn hạnh châu viên, mãn ba A-tăng-kỳ kiếp, mới thành quả Phật, khi qua đời một niệm, mười niệm đâu hẳnn được vãng sinh ngay, cũng phải dần dần huân tu, đầy đủ các Ba-la-mật, mới được vãng sinh Tịnh độ. Đáp: Điều này không thành lệ, Phật không có chín phẩm khác nhau, đều phải có muôn đức đầy đủ, phải nhờ nhiều kiếp lâu xa, mới thành đạo chánh giác. Kinh Pháp Hoa là đối với hàng Thanh văn mà nói như thế, nhưng có thể phát tâm Bồ-đề Vô Thượng, cho đến tán loạn niệm Phật, cuối cùng là nhân của quả Phật, sau đó mới có thể rộng tu các độ, tức là được thành Đẳng chánh giác. Thanh văn dù phần nhiều tu đạo, nhưng không đi đến Vô thượng Bồ-đề, vì ở đây không thể thành quả Vô thượng. Kinh đó là đối Thanh văn hội hai quy về một, nên nói như thế, không nêu các nghóa vãng sinh của kinh Quán, công đức một câu, mười câu niệm Phật, tuy được vãng sinh Tịnh độ, vẫn là phàm phu. Chúng sinh vãng sinh, chín phẩm khác nhau, cho phép thực hành có nhiều ít, vẫn thuộc về phàm phu, đâu ngại gì một niệm liền sinh cõi Phật? Nếu không có chín phẩm khác nhau làm nhân, đều phải một thứ, ắt phải tu đủ muôn hạnh, mới thành thế hùng của mười phương, nên không thể làm ví dụ.  <卷>QUYỂN 7 Hỏi: Niệm Phật A-di-đà được công đức vô lượng vô biên, trên đây đã dẫn đầy đủ văn kinh và so sánh để hiển rõ hơn, đều theo như lời giải thích, tin nhận vâng làm. Nhưng không biết niệm danh hiệu Phật khác có được vô lượng công đức không? Thích: Ở đây có hai nghóa: Niệm tất cả Phật đều được công đức vô lượng, không có sai khác nhau, vì các Như Lai đều có vô biên công đức, đều dứt hết các chướng nhân pháp, công đức viên mãn, vì ở đây không có niệm hơn kém, công đức khác nhau. Như vậy vì sao trong các kinh Như Lai chỉ khen ngợi niệm Phật A-di-đà công đức vô lượng? Đáp: Thật ra công đức thảy đều một thứ, nhưng vì phàm phu thức cạn không thể niệm hết, thế nên Như Lai chỉ khen ngợi công đức của một vị Phật, dạy họ dốc lòng nhiếp niệm, sự dốc lòng của họ, công đức là nhiều, đây là phương tiện mật ý của Như Lai. Giống như thọ đại giới, ở trong tăng chúng đều thanh tịnh, xứng đáng làm giới sư, không có hơn kém, tùy theo tâm người thọ, hòa họp với tâm của một vị sư truyền giới thì phát duyên giới, tức là hơn người khác. Ở đây cũng giống như thế, chuyên tâm vào một Đức Phật công đức nhiều, do tâm chuyên chí. Lại có giải thích rằng: Chư Phật Như Lai công đức tuy đều bình đẳng, không có hơn kém, nhưng vì chúng sinh đối với Đức Phật đó từ lâu xa đến nay đã kết duyên khác nhau, như Nhiếp luận, Duy Thức, đều nói chúng sinh do năng lực của pháp mà thuộc về Phật khác nhau, hoặc nhiều thuộc một, hoặc một thuộc nhiều. Nếu thuộc về Đức Phật này, thì Đức Phật này mới có thể độ, không thuộc Đức Phật khác thì Đức Phật khác không thể độ, thuộc Đức Phật này thì dốc lòng xưng niệm, công đức nhiều, liền đến cứu độ, không thuộc Đức Phật đó, công đức niệm không nhiều, không đến cứu. Hỏi: Như kinh Vô Lượng Thọ nói: “Bồ-tát Tiểu hạnh và người tu tập ít phước đức, đều sẽ được sinh về thế giới Cực lạc.” Còn kinh A-di- đà nói không thể dùng chút ít nhân duyên phước đức gốc lành mà được sinh về nước kia, hai kinh trái nhau, làm sao hội thích? Thích: Mỗi kinh có một ý, chỗ căn cứ khác nhau, nhưng không trái nhau. Kinh Vô Lượng Thọ nói thiểu là nói số ít; kinh A-di-đà nói đa là dùng nhiều. Người kia chỉ niệm Phật A-di-đà, lại không tu sáu Ba-la-mật và các pháp đạo phẩm khác, nhiều thời nhiều kiếp khó hành khổ hạnh, chỉ có công đức niệm Phật, không có các phước tu đạo khác, nên gọi là thiểu. Đây là niệm một câu A-di-đà Phật trở lên, tức là vô lượng vô biên công đức thù thắng, nên gọi là đa. Nên kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ nói: “Hằng sa chư Phật Như Lai trong mười phương đều khen ngợi oai thần công đức của Phật Vô Lượng Thọ không thể suy nghó bàn luận. Chúng sinh hữu tình nghe danh hiệu Ngài, tín tâm vui mừng, dù chỉ một niệm, liền được vãng sinh, trụ Bất thoái chuyển.” Lại nói: “Họ có nghe được danh hiệu Đức Phật kia, vui mừng hớn hở, dù chỉ một niệm, phải biết người này được lợi ích lớn, tức là đầy đủ công đức vô thượng.” Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Được nghe Phật Vô Lượng Thọ như thế, danh hiệu vô lượng vô biên công đức không thể suy nghó bàn luận.” Dùng văn kinh này để chứng biết, tức là nhiều công đức. Nên đứng về số về dụng thì gọi là thiểu, là đa, nhưng không trái nhau. Như một viên ngọc Ma-ni, cũng gọi là thiểu, cũng gọi là đa. Nói thiểu, ngọc này chỉ có một, lượng của nó không nhiều, người ngu không phân biệt, cho là ít, khinh thường không chọn. Cũng gọi là đại, vì viên ngọc báu này giá của nó hơn Tam thiên đại thiên thế giới, người biết thì cho là trọng, nên gọi là nhiều. Niệm Phật cũng giống như thế, nói nhiều nói ít đều y cứ theo nghóa khác nhau. Hỏi: Như trên đã giải thích, niệm Phật A-di-đà, lấy các nghóa để so lường, hiển bày công đức thù thắng rất nhiều, sinh lòng kính tin sâu xa, không dám phỉ báng, nhưng công đức đã được rất nhiều, là do không có tâm sở đắc mà được thực hành vô tướng, niệm pháp thân chân thật của Phật A-di-đà, công đức có nhiều không? Là chỉ dùng tâm có sở đắc làm hữu tướng, niệm Báo thân và Hóa thân, công đức cũng nhiều ư? Thích: Tất cả đều nhiều. Pháp thân lìa tướng, muôn đức chân thể, có thể dùng tâm vô sở đắc, để thể nhận lý chân niệm Phật, nhưng công đức không thể suy nghó bàn luận. Như người học cạn, chưa thể thực hành niệm vô tướng kia, chỉ vì có tâm sở đắc, quán tướng tốt thù thắng của sắc thân thanh tịnh của Như Lai, hằng sa muôn đức, chí thành xưng niệm cũng được vô biên công đức cao quý. Như ba người bậc hạ, sống gây ra việc ác, lúc qua đời xưng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà kia, đâu thể thực hành niệm vô tướng kia? Tin biết tâm niệm hữu tướng, cũng được vô biên thắng phước. Lại muốn dứt hai chướng, phải tu niệm vô tướng. Nay gieo trồng nhân kia, cũng tu niệm Phật hữu tướng, còn chân Phật quyền Phật lý sự khác nhau, vô tướng hữu tướng tu nhân cũng khác, lý không trái nhau. Hỏi: Nếu thực hành quán tướng các pháp, có thể diệt được tội chướng nhỏ nhiệm, hơn người niệm Phật diệt thô nghiệp, khi người qua đời, sao không dạy quán thật tướng mà lại khyên niệm danh hiệu Phật? Thích: Đúng như đã trách, nhưng vì có bốn nghóa, nên không thể dạy người đó quán thật tướng: Người ác. Pháp sâu xa. Bị khổ bức ngặt. Thời gian quá ngắn. Người ác: Người này sinh ra không hề tu thiện, chỉ dạy niệm Phật còn sợ chưa xong, huống gì có thể hiểu được thật tướng các pháp. Pháp sâu xa: Hai không chân như, pháp tánh bình đẳng, lý trí sâu xa, rốt cuộc khó thành, nên không thể dạy. Bị khổ ép ngặt: Bình sinh người học thường tu pháp quán này, bị khổ não ép ngặt, còn làm không thành, huống chi người này sinh ra không hề tu tập, các khổ vây quanh, mới dạy họ tu, thật là vô lý. Thời gian quá ngắn: Lúc còn sống, vì người đó mà nói nhiều về các pháp thật tướng, nhiều năm tầm tứ, còn không thể hiểu, huống chi chỉ ít lời, mới bắt đầu tu tập thì nhất định không thành, luống uổng chỉ dạy. Khéo biết thời gian, sự việc, gọi là Đại pháp sư. Đại Thánh biết họ học không được, nên không dạy họ quán thật tướng, hiển sâu Phật trí, khéo hợp vật cơ. Do bốn duyên này, nên không dạy thật tướng. Hỏi: Nếu người trong một đời tu hành ba thứ phước và mười sáu pháp quán, khi qua đời gặp Thiện tri thức, dạy niệm danh hiệu Phật từ một câu cho đến mười câu, tội căn tiêu diệt, được vãng sinh, người này khi còn sống, phải qua nhiều ngày mới chết được, thì càng phải niệm Phật, mới sinh Tịnh độ? Hay không niệm Phật cũng vãng sinh? Thích: Được vãng sinh. Chỉ vì người đó hạnh nghiệp đã thành, tội cấu tiêu diệt, dù kéo dài nhiều ngày, cũng được vãng sinh. Nhưng có hai thứ: Sau khi tu phước, nhiều ngày chưa chết, người đó không gây tội nặng, khi khởi các tâm vô ký, tâm này không thể vời lấy quả báo thiện ác, nên nương vào niệm Phật trước liền được vãng sinh. Người đó sau khi nệm Phật, hoặc nhiều giờ không chết, càng khởi niệm ác, khởi nghiệp bất thiện, người này phần nhiều e không sinh Tịnh độ. Kinh nói: “Một niệm tâm sân, chướng ngại trăm ngàn pháp môn.” Lại nói: “Hại của giận dữ, phá các pháp lành, giặc cướp các công đức, không gì hơn giận dữ.” Người đó tuy có tu các pháp: quán hạnh, niệm Phật trước kia, nhưng đều bị sân hận làm tổn hại, không được vãng sinh. Huống chi các tội nghiệp khác, làm chướng các hạnh lành. Như kinh nói rằng: “Tạo nghiệp lúc cuối cùng, thì thọ báo trước nhất. Khi chết tâm nào nặng thọ trước, nặng nhẹ nếu bằng nhau, trước thì thọ trước, người này sau có tội nhiều, e không được vãng sinh.” Hỏi: Như kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói: “Phật bảo A-nan: Nếu có chúng sinh nào giết cha hại mẹ, mạ nhục sáu thân, làm tội như thế, khi qua đời, chó đồng há miệng, hóa thành mười tám xe, giống như xe vàng, trên có lọng báu, những ngọn lửa lớn hóa thành ngọc nữ, người tội từ xa nhìn thấy, sinh tâm vui mừng, nghó rằng ta muốn đến trong đó, khi gió lạnh như dao cắt, lạnh quá nên mất tiếng, thọ được lửa bèn ngồi trên xe, nghó rằng đốt lửa tự hơ.” Nghó như thế rồi liền qua đời, trong lúc hốt hỏang, đã ngồi lên xe vàng, quay lại nhìn bị ngọc nữ cầm búa sắt, chém đứt thân. Lại nói: Lại có những chúng sinh phạm bốn giới trọng, luống ăn của tín thí, phỉ báng tà kiến, không biết nhân quả, bỏ học Bát-nhã, hủy báng mười phương Phật, trộm vật của tăng-kỳ, dâm vật vô đạo, xâm phạm Tỳ-kheo-ni tịnh giới, chị em, thân thích, không biết hổ thẹn, hủy nhục người thân, gây ra các việc ác. Tội báo của người này, khi qua đời, gió lạnh như dao cắt thân, ngồi nằm không yên, như bị roi quất, tâm người đó hoảng loạn, phát tưởng cuồng si, thấy nam nữ lớn nhỏ trong nhà mình, tất cả đều là vật bất tịnh, phẩn sôi hôi thối chảy tràn ra ngòai. Bấy giờ, người tội liền nói thế này: “Vì sao nơi đây không có thành quách đẹp, núi rừng đẹp để cho ta dạo chơi, mà ở nơi bất tịnh như thế này?” Nghó đoạn, thì có ngục tốt la-sát dùng xoa sắt lớn nâng địa ngục A-tỳ và các rừng dao, hóa thành cây báu và ao nước trong mát, ngọn lửa lớn biến thành hoa sen cánh vàng, các loài trùng mỏ sắt hóa thành chim le, nhạn, tiếng kêu gào ở địa ngục như âm thanh ca vịnh, người tội nghe rồi nghó rằng như chỗ tốt đẹp này, ta phải dạo chơi trong đó nghó rồi tìm chỗ ngồi trên hoa sen lửa. Đâu biết rằng hôm nay hoa sen đến rước chẳng phải là hoa lửa này? Thích: Vì có bốn nghóa nên, biết chẳng phải xe lửa: Dó hành. Dó tướng. Dó ngữ. Dó Phật. Bốn nghóa này khác với hoa lửa. Dó hành: Kinh Quán Phật Tam-muội nói: “Người tội gây ra tội, phạm bốn giới trọng, cho đến hủy nhục người thân, không sinh hối hận, không gặp bạn lành dạy niệm Phật, nên hoa đã thấy là tướng địa ngục. Nay đây người ở ba phẩm hạ, dù lúc sống tạo tội, nhưng cuối cùng gặp Thiện tri thức, dốc lòng niệm Phật, nhờ niệm Phật mà diệt được tội nhiều kiếp, thành công đức cao quý, cảm được trong ao báu có hoa đến rước, đâu đồng với hoa trước? Tướng: Kinh đó nói: “Gió dao cắt thân, nằm ngồi không yên, như bị roi đánh, tâm người đó hoảng loạn, phát tưởng cuồng si, thấynam nữ lớn nhỏ trong nhà, tất cả đều là vật bất tịnh, phẩn sôi hôi thối chảy tràn ra ngòai.” Nay niệm Phật này thân tâm an ổn, ác tưởng đều diệt, chỉ thấy Thánh chúng, nghe có mùi thơm lạ, nên không giống với hoa lửa đã nói trên. Ngữ: Trong kinh kia nói: “Tiếng kêu la đau đớn nơi địa ngục như tiếng ca ngâm. Tội nhân nghe rồi nghó rằng như chỗ tốt đẹp này ta phải dạo chơi trong đó.” Bài tán trong kinh Quán nói: “Này thiện nam! Ông nhờ niệm danh hiệu Phật, nên các tội đều tiêu diệt, ta đến rước ông.” Đó là âm thanh ca vịnh, ở đây trình bày tiếng diệt tội, hai âm khác nhau, cho nên bất đồng. Phật: Kinh kia nói: “Tất cả lửa dữ hóa thành ngọc nữ, người tội từ xa nhìn thấy, tâm sinh vui mừng “Ta muốn đến đó”, ngồi trên xe vàng rồi, quay nhìn thấy ngọc nữ đều cầm búa sắt, chém đứt thân người đó.” kinh Quán khen ngợi rằng: “Bấy giờ Đức Phật kia liền sai hóa Phật, hóa Quán Thế Âm, hóa Đại Thế Chí, đến trước hành giả.” Vì bốn nghóa này nên biết, hoa sen đến rước, khác với kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói. Hỏi: Người vãng sinh chín phẩm, thực hành có hơn kém, các bậc Thánh đón rước có nhiều ít, hoa nở sớm muộn, đài vàng hoa báu, đều có khác nhau, vì sao Thượng phẩm hạ sinh cùng Hạ phẩm hạ sinh, một loại hoa vàng, không có hơn kém sao? Thích: Ở đây có ba nghóa: Đây chẳng phải là hoa của người vãng sinh, có lẽ là hoa mà Phật đến rước đã ngồi. Người đó chướng nặng không cảm thấy Phật, chỉ thấy tòa Phật còn không rõ ràng, giống như mặt trời sáng chói dường như là thấy. Người này chướng nặng, không cảm được Phật rước, chỉ được sen vàng dẫn dắt sinh về Tịnh độ, nên kinh Quán nói: đứng trước người đó, nếu là tòa hoa, sao kinh không nói ngồi hoa báu? Đây là tòa hoa, tuy đồng là hoa vàng, nhưng có lớn nhỏ, hơn kém, trang nghiêm, thô diệu, tự chia làm hai phẩm, sen khác đâu trở ngại cũng có khác nhau? Hỏi: Hạ phẩm trung sinh, sáu kiếp hoa nở, Hạ phẩm hạ sinh, mười hai kiếp hoa nở. Là lấy số năm tháng ngày của cõi này tính thành kiếp hay là lấy số năm tháng ngày giờ của Tịnh độ để tính thành kiếp? Thích: Các sư Tịnh độ cũng có giải thích rằng: Lấy năm tháng ngày của cõi này để tính thành kiếp. Làm sao biết được? Vì Đức Thích- ca Như Lai ở cõi này thành đạo nói kinh, vì hữu tình cõi Ta-bà này mà chỉ cho khi hoa kia nở, khiến chúng sinh này được hiểu, cho nên biết chỉ dùng kiếp này, để nói hoa kia nở. Nay giải thích không đúng, dùng năm tháng ngày giờ ở cõi này để tính thành kiếp, để nói lên thời tiết giới hạn khi hoa kia nở. Làm sao biết được? Đây do có ba nghóa: Lệ, giáo, lý, mà biết được. Lệ: Như tuổi thọ dài ngắn của các tầng trời Tứ Thiên vương và sáu tầng trời cõi Dục, đều nói theo tháng ngày của cõi trời. Như trời Tứ Thiên vương tuổi thọ năm trăm năm, ngày đêm của cõi trời kia cứ năm mươi năm ở cõi người này làm một ngày một đêm của cõi trời Tứ Thiên vương, cứ như thế ba mươi ngày ngày đêm làm một tháng, mười hai tháng làm một năm. Như thế tuổi thọ năm trăm năm ở cõi trời kia, nếu tính theo ngày tháng của cõi Diêm-phù-đề thì phải một vạn tám ngàn năm là một tháng, hai ức một vạn sáu ngàn năm là một năm. Như thế tuổi thọ năm trăm ở cõi trời kia, tính năm của cõi Diêm-phù-đề, số ấy rất nhiều. Tuổi thọ của năm tầng trời trên dần dần tăng, ngày dần dần dài, số năm đều hơn các tầng trời dưới gấp bội, nên biết tầng trời kia lấy niên mạng, vẫn dùng ngày đêm của tầng trời kia, lấy ngày tính tháng, lấy tháng tính năm, lấy năm tính mạng. Nên biết Tịnh độ lấy ngày tính tháng, lấy tháng tính năm, lấy năm tính kiếp, không dùng ngày tháng kiếp của cõi này. Giáo: Như thượng phẩm trung sinh: ý nói đài vàng tím, này như hoa báu lớn, qua một đêm hoa liền nở. Nên biết qua một đêm hoa nở, là dùng ngày đêm ở cõi này, hoa này ban đêm khép lại, ban ngày nở ra. Đây là nửa kiếp làm một ngày, là khi hoa nở, nửa kiếp làm một đêm, là khi hoa khép, hiển rõ thời phần hoa nở của người Thượng phẩm trung sinh, giữ lấy khi trải qua đêm hoa báu lớn nở ra. Thượng phẩm trung sinh, một đêm hoa báu lớn đã nở, Thượng phẩm hạ sinh, một ngày một đêm hoa sen mới nở, nên biết vẫn dùng ngày đêm của cõi kia. Nếu không như thế thì đâu thể hoa sen báu lớn ở Tịnh độ nở, lấy ngày đêm ở cõi này mà hoa nở? Nếu hoa sen báu lớn kia nở, tự lấy chọn lấy ngày đêm ở cõi kia. Thượng phẩm trung sinh hoa nở, đồng thời tiết kia, thượng phẩm hạ sinh, một ngày một đêm hoa nở, ngược lại mới đồng với tháng ngày ở cõi này. Thượng phẩm trung sinh hoa nở, muộn hơn Thượng phẩm hạ sinh, phần hoa nở mau hay chậm, nghóa mới trái nhau, lẽ tất nhiên không đúng, nên biết lấy tháng ngày ở cõi kia. Tháng ngày đã vậy, kiếp cũng nên biết giống như vậy. Lý: Nếu ngày tháng hoa nở dùng ngày tháng của cõi kia, nếu trải qua một kiếp hoa nở mới dùng kiếp số của cõi này, tức Trung phẩm trung sinh, bảy ngày hoa nở, nếu y theo cõi này, thì phải tính bảy kiếp. Hạ phẩm trung sinh, sáu kiếp mới nở, nếu y cứ vào cõi kia, thì phải tính sáu ngày, đâu thể ngày hoa nở của Trung phẩm chậm hơn hạ phẩm sáu kiếp hoa nở ư? Còn Hạ phẩm thượng sinh trải qua bốn mươi chín ngày hoa mới nở, cũng chậm hơn Hạ phẩm trung sinh sáu kiếp bốn mươi ba kiếp. Vì lý này tiến thối, suy vi, nên biết kiếp kia không dùng kiếp cõi này. Hỏi: Cõi kia trải qua kiếp hoa sen mới nở, do có tội chướng nên hoa nở chậm, hay do công đứ c nhiều hơn, nên nhiều kiếp ở trong hoa? Thích: Theo Hạ phẩm hạ sinh thì phải qua mười hai đại kiếp hoa sen mới nở, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng âm thanh Từ bi nói rộng các pháp thật tướng, trừ diệt tội lõi, lấy đây y cứ mà biết, họ cũng có tội chướng, do tội chướng này, nên trải qua một kiếp hoa mới nở là không đúng, vì sao hạnh nghiệp chín phẩm khác nhau, hoa nở sớm muộn đều có khác nhau. Hỏi: Nếu họ có tội chướng, hoa nở mau chậm, vì sao do nghiệp chướng này không chiêu cảm khổ báo? Thích: Tuy có tội chướng, nhưng vì đời trước của họ có phát tâm Bồ-đề, dốc lòng xưng niệm Phật A-di-đà, các tội tiêu diệt, dù có nghiệp nặng nhỏ nhiệm, cũng không thể bị nhân Dị thục lôi kéo sinh quả khổ, chỉ vì giống nghiệp rất yếu kém., nên biết công đức niệm Phật làm tổn thế dụng của mình. Lại do năng lực của công đức niệm Phật cảm được thân Tịnh độ tốt đẹp, trên thân kia quả khổ không do đâu hiện khởi được. Lại vì năng lực bản nguyện của Phật, nên không được hiện hành, chỉ có chướng khác, làm chướng hoa sen không được nở nhanh. Nên kinh Vô Lượng Thọ nói: “Vì nghi trí không thể suy nghó bàn luận của Đức Phật kia nên sinh vào thai cung kia, không có các khổ, chỉ ở trong thai cung bị che lấp suốt năm trăm năm.” Ở đây cũng giống như thế, làm chướng hoa nở. Tuy làm chướng hoa nở, nhưng ở trong hoa không khổ. Tội trọng này chỉ có sức làm chướng hoa nở, không có năng lực chiêu vời khổ báo, giống như nghiệp sát sinh. Trong quả Đẳng lưu có thể làm chướng quả báo sống lâu của trời, người. Hỏi: Kinh Quán nói: “Hạ phẩm hạ sinh, mười câu niệm Phật, trong mỗi niệm, diệt tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử.” Tội đã diệt trừ, vì sao khi hoa nở về sau, được Bồ-tát Quán Thế Âm nói cho nghe thật tướng, trừ diệt tội pháp? Nếu có tội để trừ, vì sao không làm chướng sinh Tịnh độ, mà được vãng sinh ư? Thích: Vì đây có chướng sâu kín chưa dứt, nên kinh nói trừ. Nhưng tội chướng kém yếu, niệm Phật thiện mạnh, nương oai thần Phật, không trở ngại vãng sinh Tịnh độ. Vì người tội kia đã gây ra các tội nặng, thế lực của tội nghiệp kia có thể chiêu cảm đường ác, chịu khổ vô cùng, nhưng do gốc lành công đức niệm Phật, tiêu được tai ương nặng nề kia, thế lực cảm quả, không thể lôi kéo thọ sinh vào đường ác. Nhưng hạnh niệm Phật, chướng nhỏ nhiệm và thô vẫn còn, nên sau khi hoa nở, gặp hai vị Bồ-tát đó nói cho nghe pháp thật tướng sâu xa, người đó mới có thể quán pháp thân Phật, cảnh trí vi tế mới có thể trừ bỏ công năng tội nặng của nghiệp chướng nhỏ nhiệm nên nói Phật tướng các pháp trừ diệt tội lỗi. Hỏi: Vì sao kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng có bốn mươi tám hoằng thệ nguyện: “Dù chỉ mười niệm, đều được vãng sinh, chỉ trừ năm tội nghịch.” Kinh Vô Lượng Thọ quyển hạ nói: “Dù chỉ một niệm đều được vãng sinh.” Vì sao đồng một kinh giáo mà văn trước nói một, văn sau nói mười, khác nhau như thế? Thích: Ở đây không có khác nhau. Văn tuy có khác, mà nghóa giống nhau. Trong nguyện cho đến mười niệm, đều lấy từ ít đến nhiều, dưới nói cho đến một niệm, đây là lấy từ nhiều đến ít, nêu so le lẫn nhau, vốn không có trở ngại. Tỳ-kheo Pháp Tạng lấy ít đến nhiều, mà phát nguyện rằng người qua đời được gặp thắng duyên, bèn khuyên niệm Phật, vãng sinh Tịnh độ, hoặc niệm Phật một câu, đã theo đời sau, hoặc niệm Phật được hai câu, liền qua đời, hoặc niệm được ba, bốn, năm, sáu cho đến bảy, tám và chín, mười tùy theo ít nhiều, đều sinh Tịnh độ. Nhưng người này sinh ra không gây năm tội nghịch, phỉ báng chánh pháp, tùy niệm nhiều ít, đều được vãng sinh, nếu gây năm tội nghịch, phỉ báng chánh pháp, bỗng gặp duyên tốt, dạy niệm Phật, phải niệm đủ mười câu, mới được vãng sinh, một câu, chín câu thì không vãng sinh, nên nói cho đến mười niệm. Trừ người nghịch báng, đây là đứng về con số mà nói trừ, chẳng phải là rốt ráo trừ. Đọc học lâu rồi, thì hiểu được lời của nguyện này, người mới học, không hiểu tông chỉ, không hiểu Tông đồ này, nên mới làm thêm giải thích khác. Đức Đại Thánh Thích-ca biết trước đời sau không hiểu Thánh điển này phải lãng phí kiếm tìm, nên nói dù chỉ một niệm mà hiểu được giáo này, nếu niệm được nhiều, có tội nặng cũng đều vãng sinh, dù chỉ một niệm cũng sinh, liền trừ được nghịch báng, trên dưới đắp đổi lẫn nhau, hiển giáo rõ ràng, muốn giúp cho đời vị lai đối với giáo này được khai ngộ. Hỏi: Không biết niệm Phật diệt được tội nặng trong tám mươi ức kiếp, được sinh Tây phương, là diệt hạt giống hay diệt trong tâm? Nếu diệt hạt giống, hạt giống diệt trừ, thì phải thấy Thánh đạo nhân pháp không, mới diệt được hạt giống. Công đức niệm Phật tuy vô biên, nhưng đây là các thiện tâm văn, tư, làm sao đồng với Thánh đạo có thể diệt được hạt giống tội nghiệp? Hoặc là diệt trong tâm, hai nghiệp tội phước không được đồng khởi, khi khởi tội nghiệp không được niệm Phật, khi chánh niệm không được gây ra tội, thiện ác không cùng lúc có hai trong tâm, làm sao niệm Phật có thể diệt được tội trong tâm? Đáp: Chẳng diệt hạt giống, chẳng diệt trong tâm, tội trong tâm trong sát-na tự diệt, không cần niệm Phật mới diệt trừ. Lại thiện ác không đồng lượt, khi niệm Phật tội đã diệt trước, hoặc khi chưa khởi, ngay khi đang tạo tội niệm Phật đã diệt hoặc chưa, niệm Phật không thể diệt tội trong tâm đó. Chỉ diệt hạt giống niệm niệm nối nhau, có thể cảm được công năng ác báo ba đường. Nếu không niệm Phật, hạt giống tội này có thế lực của nó, có thể cảm quả báo đến ngay trong đường ác. Nhờ năng lực niệm Phật, khiến cho công năng thế lực cảm quả của hạt giống bị suy kém, không thể vời lấy quả báo, nên gọi là diệt tội. Tuy có hạt giống ở trong bản thức nối nhau sinh khởi nhưng không chiêu cảm thế lực quả báo, giống như người bệnh gầy ốm, tuy thân ở trên giường, nhưng không cử động được. Tội cũng giống như thế, không có thế lực để chiêu cảm quả báo đường ác ở đương lai, nên gọi là diệt. Đây là diệt thế lực của hạt giống, chẳng phải là diệt cái thể của hạt giống, nên trong sáu thứ chuyển y, gọi là tổn lực càng có thể chuyển. Hỏi: Năng lực niệm Phật này có thể diệt trừ công năng cảm quả của hạt giống, chưa biết năng lực của hạt giống này có thể đã diệt, sau gặp duyên ác có thể khiến cho hạt giống này có thế lực mạnh hơn, có thể chiêu cảm quả báo đường ác hay không? Thích: Có cũng không bỏ. Như các Bồ-tát tu các pháp lành đè nén, đối trị hạt giống phiền não, thế lực suy kém, không thể hiện khởi, sau vẫn có năng lực sinh khởi hiện hành. Năng lực huân tập phiền não hiện hành, khiến cho hạt giống phiền não càng có thế lực, cũng như hai vô tâm định đè nén sáu thức, khiến không hiện hành, xuất định đó rồi, tâm vẫn có thể khởi. Nghiệp ác cũng giống như vậy, do năng lực niệm Phật, không cảm được công năng của hạt giống quả báo, sau thối không tu thiện, càng gây ra nghiệp ác, khiến cho nghiệp cũ càng sinh ra công năng cảm quả nối nhau. Nếu lại từ đây tăng trưởng gặp thắng duyên, pháp ác nhỏ dần, pháp lành dần thịnh, có thể nhập vào Thánh đạo, thể liền diệt mất. Hỏi: Hạt giống nghiệp ác đã do niệm Phật mà diệt trừ, hạt giống chiêu cảm công năng đường ác, khiến không thể vời lấy quả ba đường ác, không biết các điều lành như niệm Phật… có công năng chiêu cảm Tịnh độ cõi thiện, do gây ra tội nặng, cũng khiến cho hạt giống của nghiệp lành niệm Phật chiêu cảm quả Tịnh độ, công năng đó có diệt không? Thích: Lấy thiện đổi ác, nghóa lẽ ra cũng phải có. Như một niệm tâm sân, có thể chướng ngại trăm ngàn pháp môn. Như kinh Di Giáo nói: “Cái hại của tức giận, liền phá các pháp lành.” Còn nói: “Giặc cướp công đức không gì hơn tức giận.” Nên biết ác cũng có thể diệt thiện. Chẳng phải diệt hạt giống thiện, chỉ diệt công năng cảm quả của hạt giống thiện. Nên biết thiện ác trái nhau, lại diệt lẫn nhau, như cả đời tu thiện, có thể cảm được cõi lành, thừa lúc qua đời thất niệm, khởi các nghiệp ác, liền diệt tất cả thiện phẩm đời sau, nương cái ác sau này, liền rơi vào ba đường, nếu có các bất thiện đời sau như năm tội nghịch, mười điều ác, không tội nào không gây tạo, khi qua đời niệm Phật đủ mười câu, diệt các tội nặng, được sinh Tịnh độ, y cứ theo đây mà biết, quán các hạnh, đến ngày qua đời, cần phải dụng tâm, đừng khởi niệm ác, tan biến các thiện phẩm, chuyên tâm niệm Phật, vãng sinh Tịnh độ, kinh có thật giáo, có thể không tin sao? Hỏi: Nay người tu nghiệp Tịnh độ, đã tu niệm Phật Tam-muội, chưa biết pháp này quyết định có giáo nào? Nay đạo tục các nơi phần nhiều sinh nghi ngờ, đem vô Thánh giáo, ngụy hành Phật pháp, dụ dỗ phàm ngu, tăng thêm phỉ báng. Xin Đại sư trình bày giáo để xé lưới nghi. Thích: Các kinh Đại thừa nói Tam-muội này, văn ấy rất nhiều, như kinh Hoa Nghiêm. Nhiều chỗ đều nói niệm Phật Tam-muội, văn ấy rất rộng, kinh Niết-bàn, Quán Phật Tam-muội Hải, Hiền Hộ, Ban-chu Tam-muội, kinh Quán, Cổ Âm Thanh Vương, Đại Tập, Nguyệt Tạng Phần, kinh Địa Tạng Thập Luân, kinh Chiêm Sát, Văn-thù Bát-nhã, kinh Hoa Thủ, Đại Trí độ luận… nói, như kinh Hoa Thủ gọi là Nhất tướng Tam-muội, Văn-thù Bát-nhã gọi là Nhất hạnh Tam-muội, kinh Quán Phật Tam-muội Hải, gọi là Quán Phật Tam-muội, kinh Hiền Hộ gọi là Tư duy chư Phật hiện tiền Tam-muội. Kinh Hoa Thủ nói: “Bồ-tát ấy đối với tướng của Như Lai và tướng Pháp giới thường quán như thế, hành như thế, không rời khỏi duyên này, lúc đó tượng Phật liền hiện ở trước mà nói pháp.” Kinh Văn-thù Bát-nhã nói: “Hễ Phật ngự nơi nào thì ngay thân hướng về phía đó, không chấp tướng mạo, buộc tâm vào một Đức Phật, chuyên xưng danh tự, niệm niệm không ngừng, tức là trong niệm có thể thấy chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì sao? Vì niệm một Đức Phật, công đức vô lượng vô biên, tức không hai với công đức của vô lượng chư Phật, đó gọi là Nhất hạnh Tam-muội. ” Kinh Niết-bàn nói: “Nếu người dốc lòng thường tu niệm Phật Tam-muội, thì chư Phật mười phương luôn thấy người này như hiện trước mắt.” Kinh Quán Phật Tam-muội Hải và kinh Hiền Hộ nói rất rộng, về niệm Phật Tam-muội này, không thể nói hết, khuyên các hành giả tìm kiếm Thánh giáo tự sẽ được biết. Hỏi: Người tu học niệm Phật Tam-muội, là đối với hạnh Bồ-tát tu hành thứ lớp hay không thứ lớp? Thích: Đây chính là Bồ-tát tu hành thứ lớp. Làm sao mà biết như thế? Như kinh Hoa Nghiêm quyển 45 nói: “Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi như voi đầu đàn, quay lại nhìn đồng tử Thiện Tài, nói như thế này: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Ông hãy phát tâm A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề, cầu Thiện tri thức.” Các thứ khen ngợi như thế, nói pháp vắn tắt, rồi dạy Thiện Tài đến tìm Tỳ-kheo Công Đức Vân, xin học hạnh Bồ-tát, Tỳ-kheo Công Đức Vân liền dạy cho đồng tử Thiện Tài niệm Phật Tam-muội. Nên biết người Thiện tri thức thứ nhất là Văn-thù-sư-lợi, quán phát tâm Bồ-đề; người Thiện tri thức thứ hai là Tỳ-kheo Công Đức Vân, tức dạy niệm Phật Tam-muội. Như thế lần lượt trải qua một trăm mười ngôi thành cầu Thiện tri thức, mỗi vị Thiện tri thức đều dạy một pháp môn, nhờ một pháp môn đó, sau lại được một pháp môn, đều là thứ lớp tu học của Bồ-tát. Nên biết rằng phát tâm Bồ- đề đứng đầu muôn hạnh, học niệm Phật Tam-muội là thứ lớp của muôn hạnh. Lấy đây làm y cứ để biết, niệm Phật Tam-muội chính là thứ lớp tu học của Bồ-tát sơ phát tâm. Hỏi: Niệm Phật Tam-muội này, không biết phàm Thánh, trì giớiphá giới… là người nào được? Thích: Tam-muội này, chung cho cả Thánh, phàm, trì giới, phá giới đều được tu. Như kinh Hoa Nghiêm nói Tỳ-kheo Công Đức Vân, đây là Đại Bồ-tát bậc Thánh niệm Phật được Tam-muội. Kinh Hiền Hộ nói: “Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thanh tịnh trì giới, đầy đủ các hạnh.” Lấy đây y cứ mà biết, người trì giới chính là hợp với pháp tu niệm Phật Tam-muội, đây tức là giới căn thanh tịnh Tam-muội hiện tại. Người phá giới khó thành Tam-muội, theo kinh Quán Phật Tam- muội Hải nói: “Quán Phật Tam-muội này là thuốc của tất cả chúng sinh phạm tội, bảo hộ người phá giới.” Nếu người phá giới không được Tam- muội này, làm sao gọi là hộ? Lại kinh quyển hạ nói: “Nay Như Lai nói pháp trừ tội cho chúng sinh năm khổ ở đời vị lai, Tỳ-kheo phạm giới, bất thiện, người ác, năm nghịch, phỉ báng. A-nan bạch Phật rằng: Sau khi Phật diệt độ, những người ngu này, không có chỗ nương, không có chỗ quy y. Phật bảo A-nan: Sau khi Phật diệt độ, chúng sinh trong đời ác trược, muốn trừ tội lỗi thì phải siêng năng tu tập Quán Phật Tam-muội.” Cho nên biết những người ác như phá giới, phạm năm tội nghịch đều được học tập Tam-muội này. Hỏi: Trong ba thân Phật mà Niệm Phật Tam-muội được thấy là thấy thân nào? Thích: Nói chung về niệm Phật, ba thân đều niệm, thì được vô tướng niệm Phật Tam-muội, niệm pháp thân Phật được hữu tướng niệm Phật Tam-muội, niệm báo thân, hóa thân Phật, Nhưng theo kinh Hoa Nghiêm, Hiền Hộ, Bát-nhã, Quán Phật Tam-muội Hải, kinh Quán, Cổ Âm Thinh Vương, Văn-thù Bát-nhã, phần nhiều nói quán sắc thân Phật, gọi là niệm Phật Tam-muội. Còn theo kinh Hiền Hộ quyển một: “Niệm Phật A-di-đà, đã được thấy rồi, Phật A-di-đà là nói rộng thật tướng các pháp, nghóa là tất cả pháp xưa nay không hoại, cũng không hoại, vì không hoại sắc, cho đến không hoại thức… như thế cho đến không niệm Đức Như Lai kia, cũng không được Đức Như Lai kia. Người đó nghó rằng Như Lai đã như thế, thứ lớp được Không Tam-muội. Này thiện nam! Đây là gọi chánh niệm chư Phật hiện tiền Tam-muội.” Lấy đây y cứ mà biết, trước thấy sắc thân Phật A-di-đà, tức là quán Báo, Hóa sắc thân niệm Phật Tam-muội; sau được Không Tam- muội, tức là quán Pháp thân niệm Phật Tam-muội. Còn tức dùng nghóa này, những người tu quán, từ thô đến tế, trước tu sắc thân quán, sau tu pháp thân quán, tu học theo thứ lớp. Hỏi: Nhân nào được niệm Phật Tam-muội, cảnh giới đã được mỗi mỗi khác nhau, hoặc thấy Tịnh độ, không được thấy Phật, hoặc được thấy Phật mà không được thấy Tịnh độ, hoặc vừa thấy Tịnh độ vừa được thấy Phật, hoặc thấy Phật và độ, đồng thời thấy các thứ tướng nghiệp của chúng sinh, thiện ác đã gây một đời đến nay, ở trong niệm Phật Tam-muội, thảy đều được thấy, tướng được thấy này là chân hay ngụy? Lại thấy như thế nào? Xin trình bày giáo đó. Thích: Tất cả người hành đạo, không phân biệt đạo hay tục, đã tu hạnh nghiệp nếu không y theo Thánh giáo mà tu học, đều chẳng phải đệ tử Phật., là quyến thuộc của ma, vì sao chỉ lừa dối trăm họ, cũng là người tội của pháp vua. Trong đời hiện tại tức là cầu danh lợi, dối hành Phật pháp, dụ dỗ người ngu, sinh vào đời sau sẽ đọa vào địa ngục vô gián trong mười phương, tự tổn tổn tha, hủy diệt Phật pháp. Nếu có Thánh giáo, y theo đó tu học, đây tức là lợi mình lợi người, công đức cao quý, sinh nơi đây sinh nơi khác, mãi mãi được giải thoát. Theo kinh Hoa Nghiêm quyển 60, hoặc quyển 45, đồng tử Thiện Tài ở chỗ Văn-thù-sư-lợi được phát tâm Bồ-đề, Văn-thù-sư-lợi bảo Thiện Tài rằng: “Này thiện nam! Ở phương Nam này có một cõi nước tên là Khả Lạc, nước đó có ngọn núi tên là Hòa Hợp, ở trong núi đó có một Tỳ-kheo, hiệu là Công Đức Vân, ông hãy đến đó hỏi thế nào là hạnh Bồ-tát”. Đồng tử Thiện Tài đến nước Khả Lạc, lên núi Hòa Hợp, gặp Tỳ-kheo Công Đức Vân, hỏi về hạnh Bồ-tát, Tỳ-kheo Công Đức Vân nói pháp môn Niệm Phật Tam-muội, trình bày sơ lược hai mươi mốt thứ, nói được Tịnh tâm niệm Phật Tam-muội, tự tâm thấy rõ ràng tất cả Phật, được nghiêm tịnh cõi Phật, niệm Phật Tam-muội môn, khởi tất cả cõi Phật không hư hoại; được tịnh nghiệp niệm Phật Tam-muội môn, thấy tất cả các nghiệp, như hình ảnh trong gương; được viên mãn chiếu khắp niệm Phật Tam-muội môn, đều nhìn thấy tất cả chư Phật và quyến thuộc của các ngài nghiêm tịnh cõi Phật. Chúng sinh ngày nay tuy nói niệm Phật được Tam-muội, mà vì căn hạnh cạn chưa thể đầy đủ tất cả niệm Phật Tam-muội, có được một, có được hai, ba nên chỗ thấy cảnh giới rộng hẹp khác nhau. Có thấy các thứ nghiệp tướng, đây tức là niệm Phật Tam-muội. Đã có Thánh giáo tức hạnh không luống dối, nếu có chê bai, chính là người báng pháp, Xin tìm Thánh giáo để dứt trừ nghi ngờ. Hỏi: Cảnh giới mà Niệm Phật Tam-muội chứng được, hoặc thấy chư Phật Bồ-tát, vô biên Thánh chúng, hoặc thấy các thứ trang nghiêm của Tịnh độ chư Phật, đã có Thánh giáo rõ ràng, không còn dám sinh nghi hoặc. Nhưng thời nay đạo tục, hoặc nam hoặc nữ, từ khi sinh ra đến nay chưa từng nghe học, đối với các Thánh giáo, một câu cũng không biết; lại chưa học Phật pháp lâu dài, hoặc đồng nam, hoặc đồng nữ, trăm việc không biết, tạm vào đạo tràng, dốc lòng niệm Phật, liền nói được thấy Thánh giáo của chư Phật. Việc giống như vở kịch, Phật pháp không phải như thế, đâu cho niệm Phật Tam-muội, cao tăng thạc học, tinh cần tu tập, còn e không thành, lớp đồng ấu, kẻ tục không trí, đều có thể chứng được Tam-muội định ư? E rằng pháp này là luống dối. Thích: Ngày nay đạo tục đều sinh ra mối nghi này, nếu y theo giáo mà suy nghiệm thì có gì lạ? Vả lại, Thế Tôn còn tại thế, và sau khi Ngài diệt độ, Ưu-ba-cúc-đa độ đệ tử, đều được đạo quả vô lượng ức ngàn, hoặc ngồi nghe một bộ kinh, được pháp nhãn thanh tịnh; hoặc nhờ cạo tóc, Thánh đạo hiện tiền, hoặc được quét quên chổi, chứng quả A-la- hán; hoặc Sa-di bảy tuổi, là câu giải thoát; hoặc dùng quả cầu đánh lên đầu, chứng được quả Tứ hướng, hoặc là tránh đi khiến nghe, được quả Tu-Đà-hoàn. Việc giống như vở kịch, đã vượt ba cõi, dứt kiến hoặc, tư hoặc khó dứt kia, chứng được bốn quả sa-môn khó chứng kia, đâu thể không tin giáo pháp này? đều do hạt giống giải thoát phần thiện đời trước, quá khứ đã từng tu tập đạo này, đời này tạm nghe pháp tư duy, hễ gặp chút duyên, nào thì có thể đắc đạo. Theo đây, kinh Hiền Hộ nói: “Trong một trăm năm đầu ở năm trăm sau, Tam-muội này, do thần lực Phật, được truyền bá rộng, đều dạy đọc tụng, đúng như lời dạy mà tu hành.” Tu hành tức là được Vương Tam-muội. Vả lại vào Phật pháp, các thứ căn cơ, như tư duy giáo nghóa, nhờ việc hỏi đáp hiểu được huyền tông của tiệm đốn, diễn chân giáo bán mãn tức phải thông minh trí tuệ, từ biện ngang dọc, chẳng phải thượng nhân này thì khó hoằng diệu chỉ. Nếu cũng nhất tâm bất loạn, trực tâm trực hạnh, không nhiều tư lự, nhất tâm niệm Phật liền thấy Thế Tôn, không tiếc thân mạng, thiếu nữ hoặc trẻ con thế tục, nghe Thiện tri thức dạy niệm Phật, liền tin nhận, đúng như lời dạy chuyên niệm, không tư duy nhiều, tâm dễ được định; nếu lo nghó nhiều, Tam-muội khó thành. Nên vào đạo tràng danh tăng Đại đức, rộng xem kinh luận, Tam-muội không thành; ít hiểu văn kinh, chóng được định này. Từ xưa đến nay, các Đại đức tu thiền, muốn tu định này, đều bảo chớ nghe, vì bởi luống suy nghó nghóa, tâm thường tán loạn. Điều này đâu có lạ gì, đâu có mê hoặc gì, nhưng kiến thức của họ có chân có ngụy, phải khéo tư duy mới phù hợp Phật giáo. Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tịnh nghiệp niệm Phật Tam-muội môn, thấy nghiệp của tất cả chúng sinh, như hình ảnh trong gương.” Không biết nghiệp tướng đã thấy, hoặc người đó chết lâu, thọ sinh trong các đường, trong gương Tam-muội vẫn hiện tướng này, là thật hay là giả, việc thật khó hiểu, vì bản chất này đến hiện trong gương, là tự tâm mình giả biến hiện ư? Nghiệp là tư duy, làm sao được thấy? Nghóa nó sâu kín, xin trình bày tôn chỉ! Thích: Tướng của cảnh Tam-muội, thật khó hiểu được, chẳng phải chỉ có nghóa này, các pháp cũng như vậy, vả lại cảnh đời trước tùy theo niệm, duyên chung cả quá khứ, như năm uẩn ngay trong tâm hiện tiền, tướng như thế là tướng gì? Nên biết năm uẩn quá khứ là tướng bản tánh, theo niệm thông lực, duyên quá khứ kia tự hai tâm biến hiện tướng phần, năm uẩn chợt dường như tướng kia hiện ra ở trước, gọi là sở duyên duyên. Pháp này cũng vậy, hoặc là chết sinh thông lực, duyên cảnh vị lai, chết nơi này sinh chỗ kia, các tướng năm uẩn kia tướng phần của tự tâm, mượn chúng sinh kia mà tạo nghiệp khởi báo, nối nhau thứ tự hiện ra trước mặt, hoàn toàn không có sai lầm. Các chúng sinh này đã gây ra các nghiệp, là tướng của bảntánh kia hay tăng thượng duyên, sở duyên duyên, khiến chết sinh trí thấy chung tướng như thế. Ở đây cũng như vậy, tùy theo tư nghiệp của mình và người sẽ phát ra thân ngữ, nghiệp thiện ác đã gây quán tập công năng, trong Tam- muội hiện các ảnh tượng, mượn hạt giống nghiệp kia mà hiện ra tướng tội phước, hoặc là năng lực đại bi của Như Lai, trong Tam-muội hiện ra tướng này, dạy cho người đó tu đoạn, rất phải kính tin, không được nghi ngờ. Cảnh giới Tam-muội, cảnh giới chư Phật, cảnh giới nghiệp lực, đều không thể suy nghó bàn luận, phàm phu chẳng thể suy lường được. Hỏi: Có được niệm Phật Tam-muội, thấy được tướng cao quý của Tịnh độ Tây phương kia, tuy thân chưa chết, nhưng đã thấy thân mình ở Tịnh độ, họăc thấy vãng sinh, tướng hoa sen đón rước, chẳng hay cảnh này là thật hay giả? Thích: Đây chẳng phải giả dối như trong pháp quán, chung thứ mười hai phải khởi tâm mình sinh về Tây phương, ngồi kiết già trong hoa sen, khởi tưởng hoa sen khép lại, mở ra, như thế đâu có sai lầm ư? Trong Tam-muội này thấy vãng sinh cũng giống như thế. Còn trưởng giả Tu-đạt, trải vàng ròng, mua vườn Kỳ-đà, cúng dâng Như Lai lập tinh xá, cùng với Xá-lợi-phất giữ đầu mối sắp đặt già-lam, xây dựng đường vũ, sáu tầng trời cõi Dục trong hư không đồng thời hiện tướng. Khi Xá-lợi-phất chỉ thị Tu-đạt, Tu-đạt không hiểu hỏi Xá-lợi-phất, Thánh giả đáp: “Đây là công đức cúng dường của trưởng giả đã cảm được cung trời, nên sinh chỗ đó, trước hiện tướng, khiến cho trưởng giả biết.” Tu-đạt bạch rằng: “Ta chỉ có một thân, chết thọ một báo, sáu trời đều đến, ta biết sinh chỗ nào?” Xá-lợi-phất nói: “Trong ba cõi trời dưới, phước đức yếu kém, hai cõi trời trêïn vô cùng buông lung, chỉ có cõi trời Đâu-suất, tuy vui nhiều hơn, nhưng tâm sinh biết đủ, sinh trong Bổ xứ, Trưởng giả nên nguyện sinh tầng trời kia. “Lúc đó Tu-đạt liền y theo nguyện của mình, tướng của năm cung trời đồng thời biến mất, chỉ có cung trời Đâu-suất còn hiện rõ ràng. Nên tùy theo chỗ tạo nghiệp duyên thiện ác, phải sinh thuần thục trước, khi qua đời, nhiều tướng này hiện. Tin biết thực hành nhân chắc chắn có quả, tướng quả hiện tiền, đài hoa Tịnh độ tùy theo phẩm trước hiện. Loại này chắc chắn như thế, đâu có chỗ nào nghi? Nhân quả phù hợp nhau, phải tin tưởng điều đó. Hỏi: Người được pháp niệm Phật Tam-muội này, lấy gì để biết được pháp Tam-muội này, có Thánh giáo nào để chứng biết không? Thích: Kinh Quán có văn. Kinh nói: “Cần phải nhớ tưởng, khiến tâm mắt được thấy. Thấy được việc này, thì thấy tất cả chư Phật trong mười phương, vì thấy chư Phật nên gọi là niệm Phật Tam-muội.” Đây là chứng. Hành giả lúc bình thường, tuy tu đạo nhiều cách, mà nay vào đạo tràng học Tam-muội này, liền thấy được Phật. Nếu không được Tam- muội, thì đâu được thấy ư? Nay đã được thấy, thì biết Tam-muội này. Cho nên, kinh nói: “Vì thấy Phật nên gọi là Niệm Phật Tam-muội.” Như người bị đau mắt, không thấy các màu sắc, thầy thuốc giỏi có thể chữa lành mắt, bèn dùng nạo vàng móc bỏ màng mắt người đó, đưa tay cho xem, người đó nói không thấy, nên biết mắt đã lành, cái lòa chưa hết. Sau lại ấn nữa, lại chỉ cho người đó, người đó nói ngón tay châm, liền biết mắt người đó đã lành. Nếu không có mắt thì làm sao thấy ngón tay, vì ở đây thấy ngón tay nên nghiệm biết người đó đã chữa được bệnh đau mắt, nhãn căn thanh tịnh. Đây cũng như thế, nếu không được niệm Phật Tam-muội, thì làm sao thấy được Tịnh độ của chư Phật và các tướng sắc thân thanh tịnh của Phật? Y cứ theo đây mà biết là được niệm Phật Tam-muội. Người đó thường tu hạnh này, Tam-muội không mất, thường thấy chư Phật và Thánh chúng. Nếu lâu không tập, chạy tán theo năm trần, mất Tam- muội này thì không thấy chư Phật, Bồ-tát và Thánh chúng. Y cứ vào đây mà biết trước đã thấy đó là Tam-muội, phần nhiều là nghe nghó tương ưng với tên Tam-muội, chẳng phải tu tuệ. Hỏi: Tu niệm Phật Tam-muội có lợi ích gì? Được quả thù thắng quả gì? Xuất xứ từ Thánh giáo nào để khuyên nhủ người học, nêu ra lợi ích khuyên tu, khiến thành nghiệp thù thắng. Thích: Lợi ích này vô lượng vô biên, có nói trong kinh Hoa Nghiêm, kinh Hiền Hộ… trình bày rộng lợi ích của nó, há đây có thể thuật. Nhưng lược nêu năm, ba điều để chỉ bày cho nhau: Thấy Thánh chúng. Nghe chánh pháp. Diệt tội nặng. Sinh Tịnh độ. Các định căn bản. Sẽ thành Phật. Thấy Thánh chúng: Như kinh Hiền Hộ quyển một nói: “Người thiện nam, thiện nữ, ngồi ngay thẳng buộc niệm, chuyên tâm tưởng Đức Phật A-di-đà kia, tướng tốt như thế, oai nghi như thế, đại chúng như thế, nói pháp như thế, nếu nghe buộc niệm, mà nhất tâm nối nhau, thứ lớp không loạn, hoặc là trải qua một ngày, một đêm như thế, hoặc cho đến bảy ngày bảy đêm, phải nhìn thấy Như Lai A-di-đà, nếu ban ngày không thấy, thì hoặc trong giấc mộng nên thấy.” Nghe chánh pháp: Vì thấy Đức Phật A-di-đà Thế Tôn nói pháp mầu sâu xa, nghóa là tất cả pháp xưa nay không hư hoại, cũng không có người hư hoại, như không hoại sắc cho đến không hoại các ấm của thức… nghe các ngôn giáo Đại thừa như thế. Diệt tội nặng: Kinh Quán Phật Tam-muội Hải nói: “Tam-muội này là thuốc của tất cả chúng sinh phạm giới, hộ người phá giới, dẫn dắt người lạc đường, là cặp mắt của người mù, trí tuệ của người ngu, ngọn đèn nơi bóng tối, là vị tướng dũng mãnh trong kẻ giặc phiền não. Lại kinh nói: “Như Lai ngày nay đã vì các chúng sinh có năm thứ khổ trong đời vị lai, Tỳ-kheo phạm giới, kẻ ác bất thiện, ngũ nghịch, hủy báng, kẻ phạm mười sáu thứ ác luật nghi… mà nói pháp trừ tội. Sinh Tịnh độ: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Niệm Phật Tam-muội tất sẽ thấy Phật, sau khi mạng chung sinh ra trước Phật, thấy người đó lâm chung mà khuyên niệm Phật, lại cho xem tôn tượng để chiêm ngưỡng kính tin.” Lại kinh Quán nói: “Người tu Tam-muội này, thân đời này được thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai Đại só Quán Âm và Thế Chí là bạn tốt đang ngồi đạo tràng, sinh trong nhà chư Phật.” Các định căn bản: Chỗ các Tam-muội lớn này bắt đầu sinh ra. Sẽ thành Phật: Kinh Hiền Hộ nói: “Người kia ở đời vị lai chắc chắn sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Giác Như Lai.” Còn Bồ-tát Hiền Hộ dùng một trăm hai mươi câu hỏi, thưa hỏi Đức Thế Tôn: Bồ-tát thành tựu đầy đủ Tam-muội nào mà được nhóm công đức lớn kia?… Cho đến hỏi thế nào là hành trong trời gian một sát-na, tức có thể khắp đến trước tất cả chư Phật? Tức lại nói thế nào mới được trụ trong cõi Phật, thấy khắp tất cả chư Phật trong mười phương, nghe chánh pháp, cúng dường chúng Tăng, không chỉ chưa được sáu thông xuất thế, mà thật chưa được năm thông thế gian, cũng chưa xả được thân của thế giới này, cũng không sinh vào cõi nước chư Phật kia, chỉ trụ ở cõi này, thấy chư Phật, Thế Tôn ở thế giới khác, tất cả đều được nghe chư Phật giảng nói chánh pháp, tất cả nghe nhận, đúng như lời dạy tu hành? Thí như thời nay Thánh giả A-nan, ở trước Đức Thích Tôn đích thân nghe pháp rồi, thảy đều thọ trì. Phật bảo Hiền Hộ: “Có Tam-muội tên là Tư duy chư Phật hiện tiền Tam-muội, nếu có Bồ-tát nào tu tập đầy đủ Tam-muội như thế sẽ được thành tựu các công đức như câu hỏi ở trên. Hiền Hộ nên biết! Lại có vô lượng vô biên công đức cao quý, nói không thể hết.” Nên biết Tam-muội này đã được thắng lợi, khó trình bày cho hết. Hỏi: Nếu nói như thế, được Tam-muội này thì được lợi ích vô cùng. Người học thời nay được Tam-muội, có được những công đức như trước không? Thích: Tam-muội tuy đồng, nhưng sâu cạn là khác nhau ở chỗ này. Sâu thì được lợi ích Thánh quả cao nhất. Như kinh Hiền Hộ có một trăm hai mươi câu hỏi, đều được thắng lợi này, nên kinh nói: “Bồ-tát tu tập Tam-muội như thế, phải được thành tựu như nay đã hỏi: Nay các người học tu tập chưa được đầy đủ các Tam-muội như thế, cũng tùy phần được các đức tốt. Ví như loài rồng có thể nổi mây mưa, rồng lớn giáng mưa xuống, thấm ướt khắp đại thiên, rồng nhỏ thì nổi mây, không giáp vài dặm, đều tưới nhuận cây cỏ, đều thấm nhuần gốc rễ, rộng hẹp khác nhau, đều gọi là giáng trạch. Tam-muội cũng giống như vậy, hơn kém khác nhau, đều có thể thấy Phật, đều sinh trong nhà Phật.” Hỏi: Pháp niệm Phật Tam-muội này, tuy chưa thể tu tập, nhưng thấy người khác tu mà sinh tin tưởng tùy hỷ, thì được công đức gì? Không tin sinh hủy báng thì sẽ mắc tội báo gì? Xin trình bày tổn hại và lợi ích, để hiểu được những điều chưa nghe. Thích: Nay sẽ vì ông mà dẫn rộng Thánh giáo, trình bày đầy đủ kính tin và huỷ báng được tổn hại và lợi ích gì. Như kinh Hiền Hộ quyển năm phẩm Tùy Hỷ Công Đức nói: “Người tùy hỷ Tam-muội, thí như có người, chắc chắn thọ một trăm tuổi, thân nhẹ khí mạnh, đi nhanh như gió, người này mới sinh ra có thể đi khắp một thế giới, giáp vòng mười phương, cùng cực mé đất. Cho đến đầy năm, thường đi không ngừng. Nếu có người thiện nam, người thiện nữ khởi lòng kính tin, theo người trẻ tuổi ấy đi khắp thế giới, đựng đầy châu báu, đem cúng dường chư Phật trong mười phương, người đó được phước, tuy nói rất nhiều, nhưng không bằng tu một chút công đức Tam-muội này, vì sao? Này Hiền Hộ! Vì Bồ-tát ma-ha-tát kia đã tu Tam-muội này, đầy đủ bốn đại tùy hỷ như trên, hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, vì cầu đa văn thành Chánh giác. Hiền Hộ! Do nhân duyên đó, so sánh phước bố thí này với công đức tùy hỷ ở trước, trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn muôn phần không bằng một, cho đến tính số thí dụ cũng không thể hết.” Người đó sinh kính tin tùy hỷ, phước đức vô biên, không tin sinh phỉ báng, tội cũng vô lượng. Như kinh Đại Phẩm, kinh Pháp Hoa và kinh Phật Tạng đã nói rộng tội báng pháp. Hỏi: Chẳng hay người tu Tam-muội này, đều phải trang nghiêm đạo tràng, an trí tôn tượng, tắm gội thanh tịnh, đắp y mới giặt, ngày ăn một bữa, không màng đến thân mạng, chuyên tâm niệm Phật, nghóa này có thể đúng, vì sao ở trong chỗ tối, bít các khe sáng, khuyên lớn tiếng niệm, đây là dạy điều gì? So với kiến giải, mọi người đều sinh nghi lạ, xin trình bày việc này, có giáo nào không? Thích: Nghiên cứu các Thánh điển cũng không có giáo đó, nhưng người tu hành ở trong thất tối này, dứt các thấy nghe, tâm buông hết muôn duyên, cầu nguyện của người mới học, chú ý về tưởng này, dễ thành Tam-muội, nếu không như thế thì khó thành. Hễ muốn suy nghó việc khó của thế gian chưa được hiểu rõ, loạn tưởng khó thành, hoặc ở một mình trong am thất, hoặc nhắm mắt không nhìn thấy, nhân sự điềm nhiên này, suy nghó việc được thành. Ở đây cũng giống như thế, loạn tâm khó trụ, thì niệm Phật Tam-muội không do đâu hiện tiền, nên ở trong thất tối, thực hành Tam-muội này, bọn người không học, đối với việc này sinh nghi, người từng tu học, rất cho là cần thiết. Nếu ở trong nhà, khi đang niệm Phật, có một chút ánh sáng chiếu vào khe ở trong nhà tối này, tâm liền duyên theo đây, sinh khởi suy nghó cùng khắp, nếu dứt hết cái sáng này, nhất tâm bất loạn. Đây chính là điều người học đã biết, chẳng nên lãng phí thực hành pháp này. Như pháp điều phục chim ưng, may mắt lại cho ăn giạ, khiến nó không nhìn thấy gì, tổn hại sức khỏe, mới dứt bay nhảy, qua lại, khi điều phục, đem đi săn, mặc tình tùy người. Tam-muội cũng vậy, người mới học, tâm chạy theo năm dục, chuyền níu sáu trần, nếu không ở trong nhà tối, thì không do đâu thành Tam-muội, về sau học thành tựu, du hành ở chỗ nào cũng được, bất luận sáng tối, thường được thấy Phật, đâu nhọc nhằn thực hành niệm Phật trong thất tối? Nên kinh Quán nói: “Người này bị khổ bức bách, không rảnh niệm Phật, thiện hữu dạy nên niệm Phật A-di-đà, dốc lòng như thế khiến tiếng niệm không dứt. Đâu chẳng bị khổ não ép ngặt, niệm tưởng khó thành, khiến cho tiếng niệm không dứt, dốc lòng liền được.” Nay định lực do niệm Phật phát ra tiếng này chắc chắn cũng giống như thế, khiến cho tiếng niệm không dứt, liền được Tam-muội, thấy Phật và Thánh chúng rõ ràng thường ở trước mắt. Kinh Đại Tập Nhật Tạng Phần nói: “Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhỏ thấy Phật nhỏ.” Niệm lớn là lớn tiếng niệm Phật, niệm nhỏ là nhỏ tiếng niệm Phật, đây là Thánh giáo, có gì mê hoặc đâu? Hiện nay thấy các người tu học ngày nay, chỉ cần cố gắng lớn tiếng niệm Phật, Tam-muội dễ thành, nhỏ tiếng niệm Phật, liền bị nhiều phân tán, điều này người học đã biết, người ngòai chẳng hiểu được. Con nếu không tin, xin thử học làm, không thể không tu, chỉ sinh nghi ngờ. Hỏi: Kinh nói năm vóc sát đất, ai cầu sám hối, không biết những người sám hối đó, hoặc thường đánh tự, chẳng biết có Thánh giáo nào? Nếu gieo năm vóc sát đất tức là tự đánh, e sự giải thích này, lý nó không được đúng. Ở đây nói năm thể, đâu trở ngại chỉ là năm luân gieo sát đất, đầu mặt lễ Phật. Thích: Như kinh Quán Phật Tam-muội Hải quyển 3 nói: “Phật từ chỗ ngồi đứng dậy, khiến bốn chúng quán sắc thân Phật, trong chúng Thích tử, có năm trăm Thích tử thấy thân Phật như người tro; trong chúng Tỳ-kheo, có một ngàn vị, thấy sắc thân Phật như người bằng đất đỏ, trong chúng Ưu-bà-tắc, có mười sáu vị thấy sắc thân Phật như chân voi đen, trong chúng Ưu-bà-di, có hai mươi bốn Ưu-bà-di thấy sắc thân Phật như mực, trong chúng Tỳ-kheo-ni có một vị Tỳ-kheo-ni thấy sắc thân Phật như mầu bạc trắng. Bốn chúng như thế, quán sắc thân Phật, chỗ thấy khác nhau, không được thấy thân sắc vàng thật của Phật, phát lộ sám hối, sám hối các tội, như núi lớn sụp đổ, tự nắm đầu tóc, giở thân lên ném xuống đất, cong người tự đánh, trong mũi ra máu, sám tội tiêu diệt, tâm mắt được mở, thấy sắc thân Phật, trang nghiêm nhiệm mầu, như núi Tu-di, ánh sáng lộ rõ như biển cả.” Đây chẳng phải là pháp kinh văn sám hối tự đánh sao? Không dạy mà làm, thật như đã trách, kinh nói làm đúng, đâu có gì lạ?  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 171