<經 id="n1955">HIỂN MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM YẾU TẬP (QUYỂN THƯỢNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LỜI TỰA HIỂN MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM YẾU TẬP Xưa, Đức Như Lai là bậc tôn quý xuất thế trong đời, đem đạo pháp giáo hoá mọi người; mở rộng pháp Đại thừa, dắt dẫn quần mê, mở bày muôn pháp, phương pháp tuy nhiều, tuỳ lúc mà nói, nhưng mục đích vẫn là làm thế nào để vào được biển tròn đầy, cho nên chỗ trở về chỉ là Nhất thừa (Phật thừa). Song, Hiển Giáo Mật tông đều gồm thâu cả tánh tướng. Nghóa lý Hiển giáo chia làm năm thời, tóm lại gọi là Tô- đát-làm (kinh). Mật bộ bao gồm ba tạng, gọi riêng là Đà-Ra-Ni (thần chú). Người học Hiển giáo cho là: không Hữu, Thiền luật trái nhau, mà không xét tận đến viên lý rốt ráo, còn người học Mật bộ, lấy đàn, Ấn chữ, Tiếng làm phép tắc, nhưng chưa biết chỗ thần tông sâu kín, vội cho Hiển giáo Mật tông mâu thuẫn nhau, Tánh tông tướng tông lỗ tròn cán vuông khó ăn khớp nhau, vì thế sinh tâm chống trái, chê bai, huỷ báng. Tóm lại chỉ chấp nghiêng một khía cạnh nào đó, mờ mịt tánh viên thông. Nếu không phải là bậc chí trí, làm sao dung hội được các đầu mối khác nhau, sự nghiệp có thành tựu, người mới mở mang được đạo. Nay vì pháp sư Hiển Mật viên Thông, trong thời bấy giờ, người đời suy tôn Ngài là bậc anh ngộ, thiên tính của ngài quá thông minh. Khi còn nhỏ tuổi. Ngài lễ lạy các bậc danh sư cầu học. Trải qua mười lăm năm học hỏi rất tinh tường, nào là tham thiền hỏi đạo, học rộng nghe nhiều, về mặt nội điển Ngài tinh thông các tông trong năm giáo. Về ngoại điển, Ngài thấu suốt các vấn đề sâu kín của trăm họ, ái ố không xen lẫn, lợi danh chẳng màng đến. Đã thế Ngài còn nhàm chán chốn đô thành, lánh mình nơi hang núi. Trải qua năm, tháng khổ hạnh tận tụy đem hết chí lục nghiên cùng chỗ thâm huyền của Đại tạng, thâu nắm các yếu lý tinh ba thuộc lòng trong tâm ý. Giải phẩu tất cả nghóa lý rất rõ ràng như chỉ tay trong lòng bàn tay. Ngài xem khắp giáo lý Đại Tiểu thừa không ngoài hai đường: Hiển và mật, cũng cùng một mục đích là chứng Thánh vị, nhập vào được Diệu đạo chân như. Xét văn thể thì có khác, nhưng đó cũng chỉ là sự vuông tròn hơn kém của mâm bát, còn chỗ trở về chánh lý thì đồng nhau. Như các đồ đạc để trong nhà đều gồm thâu cả không hữu. Thế mà người học lại vọng sinh khác nhau, mờ mịt không biết chỗ dung thông. Do đó thâu góp thành tập sách tâm yếu này, văn thành một quyển, lý tận muôn đường. Hội bốn giáo đều quy về viên tông, thâu Năm mật bộ gồm thành một bộ. Hoà bơ sữa thành đề hồ. Thâu góp tinh ba, mây ráng thành cam lộ vị. Thật là chỗ hội yếu của Chư Phật, đáng là kim chỉ nam cho người đời sau. Khiến ai xem vào đây như gặp được hạt ngọc Như ý, điều mong cầu đều toại nguyện. Mong mỏi các người nương theo đây mà thực hành như ăn trái thiện kiến, chẳng có bệnh gì không lành. Giác cái học này nghó hổ thẹn sự học hỏi còn sơ sài, lời văn không hoa lệ. Nhân một ngày rảnh rang, tôi được đến thăm thầy tôi, đích thân được nghe lời dạy dỗ, thoạt nhiên tôi mở mang được kiến thức hẹp hòi. Thầy dặn dò tôi: nên truyền lại cho người đời. Tôi vội soạn ra quyển văn này, vẫn hổ thẹn với khả năng diễn đạt lý mầu, nhưng cũng lấy làm lời nói đầu. --------------------------------------- HIỂN MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM YẾU TẬP Đạo Chân ở chùa Kim Hà núi Ngũ Đài soạn. <卷>QUYỂN THƯỢNG Một đời giáo hoá của Đức Như Lai, lời văn rộng rãi, giáo lý sâu xa, Hiển Mật đều gồm thâu tất cả. Hiển: là các thừa kinh, luật, luận. Mật: là các bộ Đà-Ra-Ni (Thần chú). Từ khi ngài Ma-đằng truyền đạo vào đời Hán, ba tạng lần lần lan khắp xứ Trung Hoa. Ngài Vô Uý truyền đạo vào đời Đường, Ngũ Mật ở Trung Hoa mới bắt đầu hưng thịnh, chín phái đồng quy ngưỡng, bảy chúng đều vâng hành; lời nói pháp không thị phi, con người phân chia đường tu chứng, trải qua nhiều năm bị phai mờ sự hiểu lầm không phải ít. Hoặc có người học tập Hiển giáo, khinh chê Mật bộ, hoặc có kẻ chuyên Mật ngôn, mờ mịt lý thú của Hiển giáo, hoặc chăm học danh tướng, chưa biết được ngõ vào đạo; hoặc học chữ, tiếng ít biết quy tắc trì minh, giúp cho quán sâu xa, biến thành danh ngôn. Hiển Mật thần tông trở thành âm vận. Nay tôi không so chút tài mọn, quyết nương vào hai tông: Hiển và Mật để lược bày tâm yếu thành Phật. Ngõ hầu hy vọng tương lai mọi người được viên thông, nên nương vào giáo lý lược bày bốn môn: Hiển Giáo Tâm yếu. Mật Giáo Tâm yếu. Hiển Mật Song Biện. May mắn gặp gỡ pháp môn vô giá này, hết lòng vui mừng. (Trong bốn đoạn dưới đây, vì tránh văn nghóa phiền phức, hoặc ám dụng Thánh giáo, hoặc dẫn nghóa văn kinh, người xem nên biết) Đầu tiên nói về Hiển Giáo tâm yếu, ngài Hiền Thủ, ngài Thanh Lương đều chia sự giáo hoá một đời của Đức Phật ra làm năm thời: <詞>HIỂN GIÁO TÂM YẾU: Tiểu thừa giáo A-hàm v.v… gồm có sáu trăm quyển kinh, Bà-sa v.v… hơn sáu trăm quyển luận. Nói tất cả các pháp từ nhân duyên sinh, chỉ rõ ba cõi không an cũng như nhà lửa, thấu rõ chân lý nhân không, tu hành tự lợi, sung sướng được chứng quả Tiểu thừa. Đại thừa Thỉ giáo: có hai. Pháp Tướng Tông: gồm có kinh Thâm Mật, kinh Phật Địa, v.v… có đến cả mười bộ kinh. Du-già, Duy Thức, v.v… có đến hàng trăm quyển luận, nói tất cả các pháp đều Duy thức, hiểu rõ chân lý Nhị Không; tu sáu độ muôn hạnh thẳng đến Phật quả đại thừa. Trong đó, phần nhiều nói về Pháp Tướng mà thôi. Vô Tướng Tông: gồm có Bát-nhã v.v… hơn một ngàn quyển kinh. Trung Luận, Bách Môn Luận, v.v… các bổn luận văn đó nói tất cả các pháp xưa nay là không. Vô thỉ mê tình vọng nhận là có. Muốn chứng đạo Bồ-đề lấy đó làm sở đắc, để tu tập muôn hạnh. Trong đây phần nhiều nói nghóa Không, Vô tướng, hai tông này đều là sơ môn của Đại thừa, nên gọi là Thỉ, nghóa là ban đầu. Nhất thừa Chung giáo: Pháp Hoa, Niết-bàn, v.v… hơn bốn mươi bộ kinh. Bảo Tánh, Phật Tánh, v.v… hơn mười bộ luận nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Từ xưa đến nay sáng suốt không mờ, tỏ rõ thường biết, nhưng vì vô thỉ mê vọng, điên đảo, không tự giác ngộ. Muốn chứng quả Phật, trước phải tỏ ngộ Phật tánh của chính mình sẵn có, sau mới đem tánh ấy tu tập: vốn có vô Lượng Diệu hạnh. Ở đây hoàn toàn nói về Pháp tánh, là tận lý của giáo pháp. Đại thừa, nên gọi là Chung, chung nghóa là hết. Nhất thừa Đốn giáo: Gồm có kinh Lăng-già, Tư-ích, Ngài Đạt- ma đã truyền Thiền tông, nói tất cả vọng tưởng vốn không, chân tâm vốn tịnh, vốn không có phiền não, vốn là Bồ-đề, chỉ nói chân tánh, không nương cấp bực mà thành Phật, nên gọi là Đốn. Bất Tư Nghì thừa Viên giáo: Chỉ có kinh Hoa Nghiêm, Luận Thập Địa, hoàn toàn nói: Pháp Giới Tỳ-lô, biển hạnh Phổ Hiền. Trong đó đều có hoặc Sự, hoặc Lý, hoặc Nhân, hoặc Quả. Một mà đầy đủ tất cả, lớp lớp vô tận. Bao gồm các pháp, không một pháp nào không thu nhiếp. Xứng tánh tự tại, không chướng không ngại, xa hẳn các thuyết nghiêng lệch, nên gọi là Viên. Năm thời giáo này, trước là hẹp hòi, là quyền dụ, sau cùng là sâu mầu, là chân thật. Nếu dùng Viên giáo mà so sánh, bốn thời giáo trước đều tạm quyền mà nói ra. (Nay nói theo lý tương đối, thì bốn thời trước là Quyền, Viên giáo là Thật. Nếu định chấp Viên giáo là thật, thì sẽ thiếu khuyết bốn thời trước, như thế không phải là người thông suốt Viên giáo đầy đủ. Nếu năm thời giáo đều truyền bá, thì Thiên Viên cùng khen ngợi, hiệp được mọi căn cơ mới đầy đủ. Như trong Viên giáo dưới đây, đều bao gồm đầy đủ các giáo lý pháp môn trước, cho nên không tách riêng ra mà nói). Nay nương theo Viên giáo tu hành, lược chia làm hai phần: Ban đầu ngộ pháp giới Tỳ-lô, sau tu biển hạnh Phổ Hiền. Ban đầu ngộ pháp giới Tỳ- lô nghóa là trong kinh Hoa Nghiêm nói: Nhất chân vô chướng ngại pháp giới, hoặc là nhất tâm ở trong đó đầy đủ ba thế gian: Khí Thế Gian: là nói tất cả cõi nước. Chúng sinh Thế Gian: nói tất cả hữu tình. Trí Chánh Giác Thế Gian: nói tất cả bậc Thánh. Bốn pháp giới: Sự Pháp giới Lý Pháp giới Sự Lý Vô Ngại Pháp giới Sự Sự Vô Ngại Pháp giới Tất cả các pháp nhiễm tịnh, không có một pháp nào nằm ngoài pháp giới này. Đây là chân tâm căn bản của tất cả phàm phu, cũng là chân tâm căn bản của bậc thánh. Nói rộng Chân tâm có hai: Đồng giáo chân tâm. Biệt giáo chân tâm. Đồng Giáo lại có hai: Chung Giáo chân tâm. Đốn Giáo chân tâm. Trước hết về Chung giáo chân tâm: Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: “Phải biết hư không sinh ra trong tâm ông, cũng như một đám mây điểm giữa bầu trời xanh, huống chi là các thế giới ở trong hư không ư ?” (Chân tâm của ta, cũng như bầu trời trong xanh, hư không mười phương cũng như một đám mây, thì biết chan tâm rất rộng lớn, hư không rất nhỏ. Hư không so với chân tâm cũng còn rất nhỏ, huống chi các thế giới ở trong hư không). Lại nói rằng: “Hư không sinh ra đại giác, cũng như bọt nước sinh trong biển lớn, vi trần cõi nước hữu lậu, đều nương hư không mà sinh”. Đại giác là tên khác của chân tâm, chân tâm rất rộng lớn, cũng như biển lớn. Hư không rất nhỏ in tuồng một hòn bọt nước. Huống chi các cõi nước, đều nương hư không mà sinh. Nếu so với chân tâm, tức là nhỏ trong cái nhỏ. Lại nữa, chân tâm cùng khắp và tròn đầy, bao gồm cả mười phương. Quán sát tại thân cha mẹ sinh ra, giống như trong hư không mười phương kia mà thổi một hạt bụi, thoạt còn thoạt mất. Lại nói: (Không biết sắc thân cho đến núi sông đất đai, hư không đều là vật ở trong chân tâm Diệu minh). Lại nói: “Tất cả các vật có trong thế gian đều là chân tâm Bồ-đề Diệu minh” (Đã nói: Tức là chân tâm Bồ-đề Diệu minh, thì không phải các pháp thế gian ở trong chân tâm có tự thể riêng. Tức biết tất cả pháp giới, hư không, mặt đất, hữu tình, vô tình, toàn là một vị chân tâm Diệu minh, vắng lặng thanh tịnh, không thêm, không bớt. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến giờ, mê mất chân tâm; vọng nhận bốn đại làm thân, duyên tự làm tâm. Thí như trăm nghìn biển lớn trong lặng không nhận, chỉ nhận một hòn bọt nhỏ. Nếu rõ thân bốn đại, tâm duyên lự, duyên sinh vô tánh, toàn là nước biển. Gần đây có kẻ Nho sinh ít xem kinh Phật, nghe nói chân tâm rất rộng lớn, mờ mịt chưa tin. Tôi xin nói thêm rằng: Đây chính là Đức Như Lai dạy: Chỉ có tự tâm mê muội, điên đảo không thấy, đâu thể tin là không có. Như sách Trang Tử ở thế tục còn nói rằng: Ở biển Bắc có con cá, tên là Côn, cá Côn lớn không biết bao nhiêu nghìn dặm; hoá thành con chim gọi là chim Bàng, lưng loại chim này dài không biết bao nhiêu nghìn dặm. Lúc giận, nó bay lên và dang cánh che phủ như mây trời. Bay đến biển Nam, bèn đập nước tung lên ba nghìn dặm, nổi sóng gió động đến chín ngàn dặm. Liệt Tử nói rằng: Đời đâu biết có con vật như thế đó? Ông Đại Võ đi đường nhìn thấy, ông Bá Ích biết mà đặt tên, ông Di Kiên để ý. Không nên mắt mình không thấy vật đó, rồi không tin là có. Sách thế tục còn nói: Có tướng vật kỳ lạ, huống chi Đức Như Lai đã nói Vô tướng chân tâm ư ? Luận Bảo Tánh chép: Người ở trong vỏ trứng làm sao thấy suốt được vũ trụ bao la? Câu nói đó thật đúng! Sau đây là nói về Đốn Giáo chân tâm, nghóa là tâm dứt bặt đối đãi đầy đủ thanh tịnh, trong đó không dung nạp một cái gì khác, tất cả vọng tưởng xưa nay là không, chân tâm dứt bặt đối đãi, xưa nay thanh tịnh. Kinh Hoa nghiêm chép: “Pháp tánh vốn vắng lặng, không chấp cũng không kiến; tánh không tức là Phật, không thể nghó lường được”. Luận Khởi Tín chép: “Tất cả các pháp từ vô thỉ đến nay, lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng; không có thay đổi, không thể phá hoại; chỉ là nhất tâm nên gọi là chân như”. Về phần Chung giáo ở trước, tuỳ theo mê muội của chúng sinh, nói có sắc thân, núi sông, hư không mặt đất, các pháp thế gian, khiến các chúng sinh đổi vọng về chân. Rõ thấu sắc thân, núi sông hư không, đất đai các pháp thế gian, toàn là một vị chân tâm Diệu minh. Nay trong Đốn giáo, vốn không có sắc thân, núi sông, hư không, các pháp thế gian như mặt đất, v.v… Vốn là một vị chân tâm dứt bặt đối đãi. Cho nên Ngài Thanh Lương nói: “Tóm lại, không nói pháp tướng, chỉ nói rõ chân tánh, tức biết rõ trùm khắp pháp giới, vốn là một vị dứt bặt đối đãi chân tâm, vắng lặng thanh tịnh, không sinh diệt, thêm bớt”. Muốn hiểu rõ sự trùm khắp của pháp giới, thí dụ nó giống như một viên ngọc tròn sáng, tỏ rõ, thanh tịnh, không hình không ảnh, không trong không ngoài. Ngài Thanh Lương nói: “Thể tịch chiếu diệu độc lập, vật ngã như một”. Ngài Đạt-ma nói: “Pháp của ta lấy tâm truyền tâm, không lập văn tự!” tức là truyền tâm này. Ngài Tào Khê nói: “Gương sáng vốn thanh tịnh, cần gì phải lau chùi bụi trần?” cũng là tâm này. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, không rõ tâm này, vọng thấy các tướng cũng như mắt bị nhặm, thoạt thấy hoa đốm giữa hư không. Kinh Viên Giác chép: “Vọng nhận bốn đại làm tự thân tướng. Bóng dáng của sáu trần làm tự tâm tướng”. Cũng như con mắt bệnh kia thấy hoa đốm giữa hư không. “Nếu rõ chân tâm, vốn không có các tướng, như trong hư không vốn không có các hoa đốm. Kinh Viên Giác chép: “Như Lai nhân địa tu Viên giác. Biết được không có hoa đốm thì không còn trôi lăn, cũng không có thân tâm chịu sinh tử, không tạo tác cho nên là không, vì bản tánh là không” Nay trong Đốn giáo dụ như không có hoa đốm rất là thiết yếu. Ngày nay, người xuất gia học Thiền rất rộng, nhưng đến khi nghe khai thị tâm này, phần nhiều không nhập thần được. như ông Diệp ưa thích loài rồng, nhưng lúc có con rồng thật hiện trước mặt, ông ta ngạc nhiên không đoái hoài đến. Nếu chưa ngộ tâm này, không gọi là bậc chân thiền định. Như vậy muốn tu hạnh tham thiền, thì trước phải tỏ ngộ nhất tâm này. Biệt giáo chân tâm: Nhất chân vô chướng ngại đại pháp giới tâm, bao hàm ba thế gian, đầy đủ bốn pháp giới, bao gồm cả đây, cả kia, không có chướng ngại. Tức biết pháp giới bao la, trùm chưa mười phương, toàn là nhất chân đại pháp giới tâm. Ở trong nhất chân đại pháp giới này đã có: Phàm, Thánh, hoặc lý, hoặc sự. Tuỳ theo đó nêu một pháp, cũng toàn là đại pháp giới tâm. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Thế giới Hoa Tạng đã có trần; trong mỗi trần thấy pháp giới, lại một trần đã là một pháp giới tâm, trong một trần đại pháp giới này, lại nêu một trần cũng toàn là đại pháp giới tâm. Hoặc thời gian, hoặc không gian, lớp lớp nêu lên, lớp lớp đều là đại pháp giới tâm”. Cho nên Ngài Thanh Lương trong Hoa Nghiêm Thập địa phẩm sớ đã nói: “Đế Võng vô tận nhất tâm”. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay mê vọng, không biết vô tận pháp giới là tự thân tâm. Ở trong đó vốn đầy đủ sắc tâm công đức vô tận, tức cùng với Tỳ-lô-giá-na, thân tâm bình đẳng, bỏ mất thân tâm Phật, vô chướng, vô ngại của chính mình, điên đảo chấp làm chúng sinh tạp nhiễm. Thí như Kim Luân Thánh Vương cai trị cả bốn thiên hạ, thân trí đầy đủ, giàu vui không ai sánh bằng. Thoạt nhiên ngủ mê, mộng thấy làm con kiến, ở trong mộng chỉ cho mình là kiến, không biết mình là Luân Vương. (Pháp giới Vô tận của Phật, đời khó thấu được, nay chỉ dụ nghóa: Mê chân, chấp vọng, người trí phải biết). Vậy muốn cầu thành tựu quả Phật rốt ráo cần phải ngộ pháp giới Tỳ-lô, nếu chưa ngộ pháp giới này, dù trải qua nhiều kiếp tu tập muôn hạnh, cũng uổng công nhọc xác, không được gọi là Bồ-tát chân thật, cũng không thể sinh trong nhà của Đức Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Không rõ được tự tâm, làm sao biết Thánh đạo, trí huệ bị điên đảo, do đó thêm lớn tất cả việc ác. Ngài Thanh Lương nói: “Không nương sự ngộ này, việc làm không chân chánh, sự tu hành của mình sẽ ràng buộc thành nghiệp”. Vô tận pháp giới nhất tâm này, người ít hay biết, biết cũng ít tin, tin cũng ít hiểu, hiểu cũng khó đạt đến cảnh giới đó. Cho nên Bồ-tát nhiều kiếp không tin, không hiểu. Thượng thủ Thanh văn như đui, đui điếc. Nếu là người có túc căn viên mãn nên chú ý ở đây, ai dốc lòng tri ngộ, đương nhiên ngày nay sẽ sinh vào nhà Phật. Sợ người khó tin, tôi xin kể câu chuyện trong Pháp Uyển Châu Lâm: “Có nhà ảo thuật, đi đường thấy người gánh một gánh, trên có cái lồng có thể chứa được con người, bèn bảo người gánh rằng: Tôi đi bộ mệt quá, muốn chun vô lồng của ông để nghỉ chân, mong ông vui lòng cho tôi được chui vào. Người gánh bèn nghó cho đó là kẻ khùng, bèn hỏi: Ông thử vào xem. Người kia bèn nhảy vô lồng một cách nhẹ nhàng, tuy lồng chẳng lớn mấy mà nhà ảo thuật cũng không phải nhỏ. Người gánh đi mãi, vẫn không nặng nhọc. Đi được vài mươi dặm đường, ông ta đặt gánh bên gốc cây mà ăn uống, bèn mời người ảo thuật cùng ăn. Người ảo thuật nói rằng: “Tôi cũng có đầy đủ thức ăn. Người gánh nhìn vào lồng thấy các vật dụng chứa đầy đồ ăn uống, bèn mời nhà ảo thuật cùng ăn. Nhà ảo thuật bảo người gánh rằng: Tôi muốn ăn chung với vợ tôi. Nói xong y hả miệng nhả ra một người con gái dung mạo đẹp đẽ và hai người cùng nhau ăn uống. Ăn xong, người chồng ngủ, còn cô vợ bảo người gánh rằng: Tôi có một người tình muốn đến dùng bữa với tôi. Khi chồng tôi thức dậy, ông chớ nên nói lại việc này. Cô gái liền há miệng nhả ra một người tình rồi cùng nhau ăn uống. Cả ba người đều ở trong lồng vẫn không thấy chật hẹp. Lát sau, nhà ảo thuật cựa mình sắp thức dậy, anh người tình bảo người gánh: chào ông tôi đi! Cô gái liền bỏ người tình vào miệng và đồ ăn uống cũng cất hết vào mồm. Rồi lúc nhà ảo thuật thức giấc cũng đêm vợ bỏ vào miệng!” Đó là truyện tiểu thuyết của thế gian, lớp lớp dung nhau như thế, mà không bị chướng ngại, huống chi là cảnh giới Tỳ-lô là pháp giới vô chướng ngại ư ? Vậy phải suy xét cho chín chắn mà tin, suy nghó để thấu hiểu. Chớ nên cao suy cảnh Thánh, luống dối một đời không lợi ích. Tu biển Hạnh Phổ Hiền: Đã ngộ được pháp giới vô chướng ngại vốn tự tâm ta, trong đó vốn đầy đủ mười thế giới Hoa Tạng vi trần số tướng tốt, Đế võng, vô tận thần thông công đức. Cùng Chư Phật mười phương không khác nhau; ngặt vì vô thỉ, vọng tình chấp chặt, tập dó tánh thành, cuối cùng khó cắt đứt. Để khiến cho thần thông công đức của chính mình không thể thọ dụng một cách tự tại. Cho nên phải xứng với pháp giới Tỳ-lô của chính mình, tu tập biển Hạnh Phổ Hiền sẵn có, làm cho vô tận công dụng mau được hiện tiền. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Tu pháp này ít nhọc công lực, mau chứng Bồ-đề. Tuy biển Hạnh Phổ Hiền rộng lớn bao la không bờ bến”. (Tất cả hạnh môn trong Tạng giáo đã nói đều là hạnh Phổ Hiền trong Hoa Nghiêm, chỉ ứng căn cơ thấp kém mà quyền chỉ, nên nêu ra đây một ít mà thôi) Nay nói Pháp Quán Hạnh, lược có năm môn: Quán các Pháp như mộng huyễn. Quán chân như bặt tướng. Quán Sự, Lý vô ngại. Quán Đế Võng vô tận. Quán pháp giới vô chướng ngại. Trước hết: Quán các pháp như mộng huyễn: (Tức đương sự pháp giới quán) nghóa là thường quán các pháp nhiễm, tất cả đều không thật, đều như mộng huyễn, kinh Hoa Nghiêm chép: “Cũng như trong chiêm bao, thấy các hình tướng khác nhau; thế gian cũng như vậy, như mộng không khác”. Lại nói “Độ thoát tất cả chúng sinh phải biết các pháp đều như huyễn; chúng sinh không khác huyễn, hết huyễn không còn chúng sinh”. Và kinh Kim Cương có dạy: “Tất cả các pháp hữu vi như chiêm bao, bọt nổi, như sương mù, điện chớp, thường quán xét như vậy”. Ngài Tăng Triệu nói: “là hư, là vọng, ba cõi không thật; là mộng, là huyễn, sáu đường không có vật”. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, chấp tất cả pháp cho là có thật, khiến khởi hoặc tạo nghiệp, tuần hoàn trong sáu đường. Toàn thể không thật, đều như mộng huyễn, thì ái ố tự nhiên tiêu diệt, lòng bi, trí tự nhiên thêm sáng suốt. Quán mộng huyễn, trong Viên Giác Sớ gọi là: “Khởi huyễn tiêu trần quán”. Trong Thiên Thai gọi là Giả quán, cũng còn gọi là: “Phương tiện tuỳ duyên chỉ”. Rõ ràng soi chiếu, gọi là Quán, vắng lặng không loạn động gọi là Chỉ. Tức là trong quán có chỉ, trong chỉ có quán mới là chỉ quán song vận, các phép chỉ quán khác nương theo đây mà nói. Hoặc có người tuy tin hiểu Viên giáo mà phiền não nặng nề, không thể tu tập quán mộng huyễn được, nên tu quán bất tịnh. Nghóa là quán sát thân này có năm thứ không sạch. Hạt giống không sinh: Nghóa là tinh cha, huyết mẹ, hai chất trắng đỏ hoà hợp mà thành. Luận Trí Độ chép: “Thân là hạt giống không sạch, không phải các vật nhiệm mầu, quý báu, không do chất trong sạch sinh ra, mà sinh ra từ nơi dơ uế”. Chỗ ở không sạch: Là ở trong bụng mẹ, dưới sinh tạng, trên thục tạng chảy ra chất không sạch, ô uế đầy dẫy, mà lại ở ngay trong đó. Lại như Hải Sơn nói: Đồ không sạch mà đem làm áo trang sức, còn thứ ô uế thì lấy làm vật ăn uống”. Tự thể không sạch: Gồm có ba mươi sáu vật hoà hợp với nhau không sạch. Nói ba mươi sáu là, bên ngoài có mười hai phần: Tóc lông móng răng, mồ hôi, đại tiểu, ghèn, mũi, đàm, dãi, nước miếng. Lại có mười hai phần: Da, da ngoài, huyết, nhục, mỡ, đầu, óc, màng mỏng, xương, tuỷ, gân, mạch. Bên trong có mười hai: Tim, gan, mật, phổi, lá lách, thận, ruột, dạ dày, sinh tạng, tục tạng, đàm đỏ, đàm trắng, tức là từ đầu đến chân đều không sạch. Ngài Vónh Gia dạy: “Cái đãy đầy phân dơ là chỗ chứa tụ máu mủ; chảy ra những chất không sạch, là chỗ ở của vi trùng, giòi giun, quán cá ươn, hầm tiêu cũng không dơ bằng”. Tự tướng không sạch: Là chín lỗ thường chảy ra các chất dơ nhớp. Chín lỗ: là hai lỗ tai xuất ra chất dơ; hai mắt chảy ghèn và nước; hai lỗ mũi chảy ra nước mũi, miệng chảy ra đàm dãi; đường đại tiện ra phân dơ; tiểu tiện chảy ra nước khai. Luận Trí Độ chép: “Các vật không sạch chứa đầy trong thân, thường chảy ra các thứ không sạch như cái đãy rách đựng vật dơ”. c) Cứu cánh không sạch: Nghóa là khi thân chết đi, sình to, hôi thối, máu mủ nứt rã, không ai dám đến gần. Ngài Thiên Thai nói rằng: “Từ chân đến đầu, từ đầu đến chân, tuần tự quán sát, chỉ thấy sình lớn, nứt rã, trong đường đại, tiểu tiện giòi trùng theo máu mủ bò ra, thúi hơn con chó chết”. Kinh Tâm Địa Quán dạy: “Nên quán sát tự thân mình hôi thúi, không trong sạch cũng như chó chết”. Kinh Kim Quang Minh chép: “Ta từ lâu hầu hạ thân hôi thúi này, máu mủ chảy ra không thể yêu mến được. tuy thường cung cấp nuôi dưỡng, nó vẫn ôm lòng oán hại. Cuối cùng bỏ ta, chẳng hề biết ơn. Quán sát tự thân mình xong, lại quán sát thân kẻ khác, hoặc nam hay nữ, đã có thân thì có đủ năm món bất tịnh”. Cho nên luận Khởi Tín chép: “Nên quán tất cả các thân có trong thế gian đều là bất tịnh”. Các món dơ uế không có một thứ gì đáng thương. Đã quán sát đều là bất tịnh, tâm tham ái tự nhiên không khởi. Kinh A-hàm nói rằng: “Xưa có một vị Quốc vương đắm mê sắc dục không nhàm chán, có vị Tỳ-kheo dùng một bài kệ can ngăn rằng: Mắt là một cái hang chứa ghèn lệ. Mũi là cái đãy dơ chứa mũi, dãi. Miệng là đồ đựng đàm dãi. Bụng là kho chứa phẩn tiểu”. Chỉ có vua không có mắt tuệ, bị sắc dục làm mờ mịt, bần đạo thấy gớm, cho nên xuất gia tu đạo tràng”. Ngài Thiên Thai dạy rằng: “Tuy quán sát bất tịnh mà thành tựu đại sự. Như thây chết trên mặt biển, nương nơi đó mà vào bờ. Hoặc quán bộ xương trắng: Trước hết quán tưởng thân mình da thịt nát rã, chỉ thấy xương trắng lần lần từ hẹp đến rộng. Tưởng cái đầu da thịt rã rời, chỉ thấy xương trắng cho đến toàn thân đều là bộ xương trắng. Đã quán thân mình là bộ xương trắng rõ ràng hiển hiện, rồi lại quán người khác rã rời cũng như vậy. Lần lượt quán đến một cái phòng, một ngôi chùa, một thành luỹ, một quốc gia. Cho đến khắp đất đai, lấy biển làm biên giới, sẽ thấy đầy những bộ xương trắng. Muốn cho quán tâm thêm lớn, lại quán lần lượt từ rộng đến hẹp. Quán một quốc gia là một bộ xương, lần lần sẽ thấy một thành, một chùa, một phòng, một bộ xương đầy đủ. Rồi quán bộ xương đó cho tới lúc chỉ thấy một chút xương trắng ở giữa hai đầu chân mày. Thấy giữa hai đầu chân mày rồi chuyên chú một chỗ vắng lặng mà an trụ, như vậy tu tập cho đến khi đắc định. Quán này thành tựu thì tất cả tham ái tự nhiên tiêu mất. Hoặc quán Sở tức: Nên từ cạn đến sâu, lần lượt tiến tu, trước hết phải tự mình đều hoà hơi thở, không rít, không nghẹt. Nhất tâm chuyên chú đếm hơi thở ra vào. Trước hết đếm hơi hít vào, sau đếm hơi thở ra, từ một đến mười, xong rồi đếm lại như thế mãi, tâm tưởng đặt ở nơi đếm, đừng cho tán loạn. Nếu thấy, không cần cố sức mà đếm dễ dàng từ một đến mười trong hơi thở, lúc đó lại nhất tâm theo hơi thở ra vào. Khi hít vào, tâm cũng theo hơi mà vào, từ mũi đến cổ họng, từ cổ họng đến tim, đến rún, đến đơn điền, bắp dế, ống chân, cho đến bàn chân, ngón chân, khi hơi thở ra, tâm cũng theo hơi thở ra. Hơi thở ra xa ngoài thân cho đến một gang, một tầm. Nhất tâm theo dõi hơi thở ra vào; nếu thấy tâm và hơi thở nương nhau dễ dàng, bây giờ nên buộc niệm, đình chỉ ở giữa hai đầu chân mày, hoặc ở chót mũi, dừng tâm tại đó, quán hơi thở an trụ nơi thân, như sợi chỉ xỏ hạt châu, hoặc lạnh hoặc ấm, hoặc thêm hoặc bớt. Nếu thấy thân vắng lặng, vui sướng, an ổn, rồi lại quán sát hơi thở nhẹ nhàng, nhỏ nhiệm. Lại quán tâm thức sát-na không trụ, tu tập như vậy, cảm giác biết hơi thở ra vào khắp lỗ chân lông. Mắt tâm mở sáng, thấy sáng suốt trong thân ba mươi sáu vật và các giòi bọ, lúc bấy giờ đã đắc định; rồi lại chăm tu các hạnh môn khác. Ở đây, vì sợ phiền phức nên tạm chấm dứt. Như trong kinh nói: Quán hơi thở ra vào là bước đầu vào đạo của Chư Phật ba đời. Hoặc quán ngã không: Nên phải để ý suy tìm, thân này xưa nay vốn không có ta (vô ngã). Chỉ là sắc tâm, hai pháp hoà hợp mà thành. Sắc có bốn loại: đất nước, gió, lửa. Nghóa là cấu sắc, lông, tóc, móng, răng, da, thịt, gân, cốt, tuỷ, não, đều là đất; Mũi, đàm dãi, máu mủ, nước miếng, nước bọt, tinh khí, đại tiểu tiện đều là nước; Hơi nóng là lửa; Sự động chuyển “hô hấp” là gió. Tâm có bốn loại: thọ, tưởng, hành, thức. Thọ nghóa là lãnh nạp; giữ lấy hình tượng, bóng dáng, đó là Tưởng; tạo tác là Hành, rõ biết, phân biệt là Thức. Trong tám loại này, cái nào là Ta? Nếu đều là ta thì có tám cái ta. Hơn nữa, trong thân thể đã có ba trăm sáu mươi đoạn xương, mỗi đoạn đều riêng. Da, lông, gân, thịt, gan, tim, phổi, thận, mỗi thứ không giống nhau. Thấy không phải là nghe, vui không phải là giận, đã có nhiều vật như thế, không biết nhất định lấy cái nào để làm ta. Nếu đều là ta cả, thì có cả trăm ngàn cái ta. Trong một thân sinh nhiều phần đoạn. Xa lìa nó, sẽ không có pháp riêng, tìm tòi kỹ lưỡng cái ta, cũng không thấy đâu cả. Đã biết thân này là do các duyên giả hợp với nhau. Xưa nay không có Ta. Hành giả ngày đêm thường tu pháp quán rất nhiệm mầu này. Vì tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chấp thân này là ta; do đó mà quý trọng nó, tham cầu danh lợi, muốn đem vinh quang lợi ích cái Ta. Tức giận cảnh nghịch vì sợ nó xâm phạm đến ta. Tâm tình ngu si, đã so sánh một cách trái lý. Nay đã thường quán thân này: xưa nay không thật có Ta, tức ba độc tự dứt, ba độc dứt rồi, thì ba cõi tự xa lìa. Hoặc Quán Pháp không: Phải quán xét hai pháp sắc tâm của thân này. Sắc có đất, nước, lửa, gió. Tâm có: Thọ, tưởng, hành, thức. Đối với tám pháp này, quán mỗi pháp đều do duyên sinh, không có tự tánh. Thể của tám pháp là không, Sơ tâm của hành giả nên tu quán môn này. Tuỳ theo tâm ta ưa thích hoặc một, hoặc hai cho đến năm pháp quán đều được tu tập. Tâm quán pháp môn chỉ quý ở sự tu luyện, luyện mới có giá trị, nói suông chẳng lợi ích chi. Chân Như bặt Tướng quán: (Tức đương lý pháp giới quán) trong an tâm lại có ba môn: Thường quán toàn thể pháp giới, chỉ là một vị thanh tịnh chân như. Vốn không có sự tướng khác nhau. Trí năng quán này cũng là một vị chân như. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Tất cả các pháp Vô sinh, tất cả các pháp vô diệt. Nếu hiểu như vậy, các Phật thường hiện tiền”. Thất Tổ Thiền Sư lại nói rằng: “Niệm vô niệm, tức là niệm chân như”. Lục Tổ giải thích vô niệm rằng: “Không, là không có các tướng, niệm là niệm chân như”, đây mới tưởng niệm các pháp toàn là chân như. Nhưng tưởng niệm vốn là tướng của vô tưởng niệm; cho nên Luận Khởi Tín chép: “Tuy niệm nhưng không có cái năng niệm để niệm”. (Sở tưởng chân như ở đây tức là chân tâm bặt đãi trong Đốn giáo đã nói ở trước. Hạnh môn này thường tưởng tất cả các pháp, chỉ là một vị thanh tịnh chân như, vốn không sinh diệt. Đó gọi là tam muội chân như, cũng gọi là Tam-muội Nhất hạnh, hay là Tam-muội Vô sinh). Nếu khi niệm khởi chỉ khởi tâm giác, cho nên Thất Tổ nói rằng: “Khi niệm khởi liền biết, biết thì liền không; tu hạnh diệu môn chỉ có ở đây; tức là tâm giác này, gọi là quán. Ở đây tuy cũng khởi tâm giác, nhưng vốn không có tướng khởi giác”. (Hạnh môn này, trong tất cả thời, nếu khởi tâm niệm, chỉ khởi tâm giác. Đây chính là tu hạnh yếu môn nhiệm mầu). Xét tâm là sai, động niệm liền trái, chỉ để tâm mà không gửi gắm vào, lý huyền diệu này sẽ tự lãnh hội. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Pháp tánh vốn vắng lặng, không chấp cũng không kiến. Tánh không tức là Phật, chẳng thể suy lường được”. Người xưa nói rằng: “Thật tướng xa lìa nói là suy nghó; chân như vượt lên thấy và nghe. Đây là chỗ an tâm; học sự khác sẽ uổng công, v.v…” Ở đây y cứ theo bổn tánh tự chiếu, chứ không khởi sinh tuệ giải mới mẻ nào. Cho nên kinh Viên Giác chép: “Chỉ cần các Bồ-tát và chúng sinh mạt thế bất cứ lúc nào cũng không vọng niệm; đối với các vọng tâm cũng không dứt bỏ. An trụ trong cảnh vọng tưởng, không thêm rõ biết. Đối với không liễu tri, không phân biệt chân thật”. Ngài Hiền Thủ lại dạy rằng: “Nếu khởi tâm làm phàm, làm Thánh không phải là chân hạnh; không làm tất cả hạnh, hạnh tâm không nương gá vào đâu cả, đó gọi là Đại hạnh”. Môn này lấy bổn tánh tự chiếu, gọi là quán “Hạnh, môn này trong tất cả thời, tâm vô sở ký đó gọi là chân tu. Tuy tu đủ muôn hạnh, đối với muôn hạnh, tâm vô sở ký, v.v…” Thiền tông ở Trung Hoa bảy đời Tổ Sư, tâm yếu được truyền có ba môn; mà nhiếp hết tất cả, không để sót gì. Môn Kiến Tánh: Trước phải liễu ngộ chân tâm dứt bặt đối đãi. Tất cả vọng tưởng vốn không, Chân tâm vốn tịnh; tức tâm là Phật. Không nhờ ngoại cầu, tức là Đốn giáo Nhất tâm nói ở trên. Môn An Tâm: Như ba môn tưởng niệm chân như đã nói ở trên. Môn Phát Hạnh: phải tu sáu độ muôn hạnh của Bồ-tát, đủ ba môn tức là chánh thiền; thiếu đi một môn sẽ trở thành thiên kiến. Ngài Đạt-ma nói rằng: “Pháp của ta, dùng tâm truyền tâm, không lập văn tự. Tâm này là bổn giác thanh tịnh của tất cả chúng sinh, cũng gọi là Phật tánh. Muốn cầu Phật đạo thì phải ngộ tâm này, tức là Môn Kiến Tánh”. Lại nói rằng: “Do đó an tâm, gọi là quán vách, khiến cho đạo nhân tu tập, tâm an trụ chân lý. Vắng lặng vô vi, ví như tường vách, không khởi phân biệt tức là môn an tâm”. Lại nói rằng: “Như vậy phát hạnh, có bốn hạnh”. Hạnh Báo Oán: Nghóa là người tu hành lúc gặp sự khổ sở phải tự nghó rằng: Ta từ xưa, trải qua bao số kiếp, bỏ gốc theo ngọn, trôi nổi trong các đường, khởi lên nhiều oán ghét, gây ra nhiều điều sai lầm, nguy hại. Nay tuy không phạm, nhưng vì nghiệp ác, túc oán đã chín muồi, chẳng phải trời hay người đem lại, cam tâm chịu đựng mà không oán trách. Kinh dạy rằng: “Gặp khổ không buồn. Vì sao ? Vì đã hiểu thấu!” Hạnh Tuỳ Duyên: Nghóa là đạo nhân tu hành nếu được các việc quả báo cao quý vinh dự, phải tự nghó rằng: Tất cả pháp đều từ duyên sinh. Vì quá khứ ta tu nhân đã cảm vời nay mới được. Duyên hết rồi, lại hoàn không; có gì phải vui mừng. Được mất tuỳ duyên, tâm không thêm bớt, gió vui không động; gió giận không sinh. Hạnh Vô Sở Cầu: Đời người mê dại, chỗ nào cũng tham đắm gọi là tìm cầu. Người trí khi ngộ chân lý, thấy ba cõi, chín cõi cũng như nhà lửa. Có thân đều phải khổ, đâu được an vui, ở trong ba cõi, không còn chỗ mong vui. Kinh dạy rằng: “Có cầu đều khổ, không cầu mới vui”. Hạnh Xứng Pháp: Nghóa là tánh tịnh chân lý gọi là Pháp, mà tánh này vốn không bỏn sẻn, cùng tất cả muôn điều ác khác. Nên xứng với lý tánh mà tu bố thí, v.v… Tất cả muôn điều thiện, riêng bốn hạnh này tức là môn phát hạnh. Thiền sư Thảo Đường, trong Viên Giác kinh Sớ cũng có ba môn, đều giống như vậy. Trước hết phải ngộ tánh Viên giác: Nghóa là nhất vị thanh tịnh chân tâm. Phát tâm Bồ-đề: Nghóa là đại bi, đại trí, đại nguyện. Sau rồi tu hạnh Bồ-tát: Nghóa là sáu độ muôn hạnh các pháp. Ba môn này rất thiết yếu cho người học Thiền, nếu không viên tu ba môn, thì không do đâu để xa lìa các tà kiến. Từ xưa đến nay Ngữ Lục của các nhà Thiền tông, đa số chỉ ứng theo thời, theo căn cơ. Hoặc chỉ nói thấy tánh, hoặc chỉ nói an tâm, hay chỉ nói phát hạnh. Lại như trong chỗ an tâm, phát hạnh, lại mỗi thức có nhiều đường lối, hoặc chỉ rõ một đường lối, v.v… Nay các môn này, nếu tâm thông đạt; thì sau đó hậu xem đến Thiền giáo khác mới biết được quy chỉ. 3.Quán Sự Lý Vô Ngại: (Tức là đương sự vô ngại pháp giới quán). Nghóa là thường quán tất cả các pháp nhiễm tịnh duyên sinh vô tánh, toàn là chân lý. Chân lý là tất cả các pháp nhiễm tịnh. Như quán sóng, toàn là tánh ướt, tánh ướt toàn là sóng. Cho nên Luận Khởi Tín chép: Tuy nghó các pháp tự tánh vô sinh, nhưng lại nghó đến nhân duyên hoà hợp. Các nghiệp, thiện ác, quả báo, khổ vui, không mất, không hoại (Lý bất ngại sự, như tánh ướt tuy có một, nhưng không chướng ngại cho việc sinh ra nhiều sóng). Tuy nhớ nghó nhân duyên thiện ác, nghiệp báo mà cũng liền nghó đến tánh của nó không có. (Sự bất ngại Lý, như sóng mòi tuy nhiều, nhưng không ngại toàn thể là tánh ướt). Nếu tu tập: Ba pháp quán giả, không, Trung. Nghóa là tưởng tất cả các pháp duyên sinh không có tự tánh, thể của nó là không, tức là không quán. Như quán các hình tượng trong gương, hoàn toàn không có thật thể. Nếu tưởng tất cả các pháp, tuy có mà không thật, đều như chiêm bao huyễn hoá, tức là Giả quán. Như quán những hình bóng trong gương, có mà không thật. Nếu tưởng tất cả các pháp, hoàn toàn là một vi chân tâm diệu minh, như trước Chung giáo đã nói rõ. Chân tâm rộng lớn ấy, tức là Trung quán. Như quán gương sáng. Ba phép quán này, hoặc là riêng tu một môn, hay là tiệm thứ đều tu, hoặc là một thời đồng tu, tuỳ ý lấy hay bỏ như đồ dùng. Quán Đế Võng Vô tận: (Tức là sự sự vô ngại quán). Trong đây lược bày có năm môn: Môn lễ kính. Môn cúng dường. Môn sám hối. Môn phát nguyện. Môn trì tụng. Môn lễ kính: Nghóa là tưởng hư không cùng khắp pháp giới: Trần trần sát sát trước đế võng vô tận Tam Bảo, có mỗi Đế võng vô tận tự thân mình. Mỗi thân mình đều lễ lạy Đế võng. Tam bảo vô tận. Trước mỗi ngôi Tam Bảo có Đế võng Tam Bảo tự thân lễ bái. Lại tưởng một môn này, tận đời vị lai, không thôi nghỉ, niệm niệm nối nhau, không xen hở, thân ngữ, ý nghiệp không có nhàm mỏi (Hoặc trong lúc ngồi quán tưởng; hoặc sớm chiều lễ Phật, khi tu tập nhiếp niệm. Nhập quán môn này công đức vô tận). (Ngài Thanh Lương nói rằng: không nhập pháp quán này, tự mình mệt nhọc uổng công. Hoặc thuần nhập được môn này, thì tưởng khắp pháp giới toàn là Tỳ-lô Phật, hoặc Chuẩn-đề, v.v… trước mỗi tôn tượng, tưởng một thân mình lễ Phật, tu tập cho đến thuần thục, lần lần thêm lớn cho đến một trăm, một nghìn tôn vị Phật cho đến vô tận. Mấy pháp cũng y theo môn này mà tu tập). Môn cúng dường: Tưởng tận hư không khắp pháp giới trần sát Đế võng trước vô tận Tam Bảo, có mỗi Đế võng có vô tận thân mình. Mỗi một thân sinh ra Đế võng vô tận đồ cúng dường đầy đủ, các sự cúng dường Đế võng vô tận Tam Bảo. Trước một ngôi Tam bảo, có Đế võng vô tận thân cúng dường. Lại tưởng một môn này khắp hết đời vị lai không ngơi nghỉ. Niệm niệm nối nhau, không xen hở. Thân, ngữ, ý, nghiệp không nhàm mỏi. (Hoặc trong khi ngồi tưởng cúng dường trước Phật, hoặc đốt hương dâng hoa, luyện tập nhập pháp quán này. Nếu không có hương hoa, chỉ chắp tay nhập quán môn này, công đức cũng phát sinh vô tận). Môn Sám Hối: Tưởng tận hư không khắp pháp giới, trần trần sát Đế võng vô tận trước Tam Bảo, có Đế võng vô tận thân. Mỗi mỗi thân đều đêm hết lòng chí thành sám hối Đế võng vô tận tội chướng. Nghóa là từ hồi nào đến thân ngày nay, đã gây năm tội nghịch, mười điều ác, các phiền não sở tri chướng. Mỗi thân, sám hối Đế võng vô tận tội chướng. Mỗi tội chướng, có Đế võng vô tận thân sám hối. Tưởng chung một môn này tất cả đời vị lai không bao giờ ngơi nghỉ. Mỗi niệm nối nhau không nhàm xen hở. Thân, ngữ, ý nghiệp nối nhau không nhàm mỏi (Hoặc trong khi ngồi tưởng sám hối, trước Phật sám hối, nên tu tập quán môn này). Môn phát nguyện: Tưởng tận hư không khắp pháp giới, trần trần sát sát Đế võng vô tận, trước Tam Bảo có Đế võng vô tận thân. Mỗi thân phát Đế võng vô tận nguyện. Nghóa là: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thề nguyện dứt, Phật pháp vô biên thề nguyện học, vô biên phước trí thệ nguyện tập, vô thượng bồ-đề thệ nguyện thành. Đem tất cả tự tâm đã an vui với thệ nguyện mà phát chung. Tưởng chung mỗi môn này tận đời vị lai tế không ngơi nghỉ. Mỗi niệm nối nhau không xen hở. Thân, ngữ ý nghiệp không nhàm mỏi. (Trong lúc ngồi niệm luyện trước Phật, thì phát nguyện tu tập pháp quán tưởng này). Môn trì tụng: Tưởng tận hư không khắp pháp giới, trần trần sát sát Đế võng vô tận trước Tam Bảo, có các Đế võng vô tận thân. Mỗi thân trì các Đế võng vô tận chân ngôn giáo pháp danh hiệu Chư Phật, Bồ-tát. Mỗi chân ngôn giáo pháp, danh hiệu Chư Phật, Bồ-tát có Đế võng vô tận thân trì tụng. Tưởng chung một môn này, tận đời vị lai không ngơi nghỉ. Mỗi niệm nối nhau không xen hở. Thân ngữ, ý nghiệp không nhàm mỏi (Hoặc khi trì tụng kinh v.v… trước quán tưởng pháp môn này rồi, sau đó trì tụng rất nhiệm mầu. Năm pháp môn đã thực hành rồi, còn các hạnh khác, y theo đây mà tu tập). Nếu tu tập Tương túc quán, có bốn câu: Một tức là một: Nghóa là quán một sợi lông có một cái tai. Một cái tai, đồng thời là một sợi lông. Tất cả tức là một. Một là tất cả: Hai câu này nên hợp lại mà quán. Nghóa là khi quán tất cả trần, tức là một Đức Phật. Một Đức Phật đồng thời tức là tất cả trần. Tất cả tức là tất cả: Nghóa là khi quán tất cả người, tức là tất cả Phật, tất cả Phật đồng thời tức là tất cả người, trong mỗi câu tất cả các pháp lệ theo đây mà quán. Nếu tu tập Tương nhập quán cũng có bốn câu: Một nhiếp một, đem nhập một: Nghóa là quán một người, nhiếp một Đức Phật, đem nhập vào một vị Bồ-tát. Như cái gương phía Đông nhiếp cái gương phía Nam, đem nhập vào cái gương phía Tây. Một nhiếp tất cả, đem nhập một: Nghóa là quán một cái hoa nhiếp tất cả sông, đem nhập vào một hòn núi. Tất cả nhiếp một, đem nhập tất cả: Nghóa là quán tất cả trần nhiếp một Đức Phật, đem nhập vào một sợi lông. Tất cả nhiếp tất cả, đem nhập vào tất cả: Nghóa là quán tất cả cây nhiếp tất cả thần, đem nhập vào trong tất cả biển. Trong mỗi câu, tất cả các pháp lệ theo đây mà quán tưởng. Hai phép quán: Tương tức, tương nhập này, tuỳ theo mỗi câu mà quán tưởng, lại có quán chung, quán riêng, nhiều pháp môn. Sợ rườm rà nên không trình bày hết, chỉ chuyên tâm tu luyện, tự nhiên hiểu thấu. Cho nên ngài Bùi Công ở trong bài tựa Pháp Giới quán có nói rằng: “Chỉ khiến cho người học không rõ cảnh trong tự tâm, tâm tuệ đã sáng tỏ rồi, tự thấy nghóa vô tận. Đừng đem giáo nghóa Viên Thông chia chẻ vụn vặt từng đoạn. Nếu đồng thời tu tập đầy đủ tương ưng quán, nghóa là hễ quán bất cứ một pháp nào, đồng thời đầy đủ các pháp trong pháp giới. Các huyền môn kia lệ theo đây mà hiểu. Nếu muốn tu tập Viên tông ba chỉ quán, chính như thân một người rõ ba đế: Nhân thân giả tướng mà có, đó gọi là Tục đế. Nhân thân duyên sinh vô tánh, sắc thể của nó hoàn toàn không gọi là Chân đế. Nhân thân giả tướng không có tự tánh riêng, thể của nó hoàn toàn tịch chiếu chân lý, gọi là Trung đạo đế. Nhưng ba đế này thể dụng vô ngại, không hữu dung nhau. Ngay nơi một là ba, tức ba là một. Pháp vốn như thị, y như ba đế này hành giả quán sát thành Ba quán ba chỉ. Nghóa là tâm hành giả quán thân người là giả tướng, lìa được chấp thật có gọi là: Phương tiện tuỳ duyên chỉ. Lại quán thân người sắc thể hoàn toàn không, gọi là không quán. Tức quán tâm nghi này rõ được sắc không, lìa được các chấp sắc thể thật có, gọi là: Thể chân chỉ. Lại quán thân người này hoàn toàn là Trung đạo thật tánh, gọi là Trung đạo quán. Tức là quán tâm này xa lìa được chấp có tướng, và lìa được chấp thể không, gọi là: Viễn ly nhị biên phân biệt chỉ. Quán tâm như vậy, trong một niệm thấy cả ba đế, nghóa là lập ba quán, xa lìa được ba món chấp, nghóa là lập ba chỉ. Ba quán ba chỉ là nhất tâm. Tức một thường là sáu, tức sáu thường là một. Đem nhất tâm này khế đồng sở quán ba đế, cảnh vô ngại của thể và dụng, của không và hữu. Tâm cảnh thường dung, lại thường rõ ràng. Đã quán một thân người mà thành ba quán ba chỉ: quán tất cả đều như vậy. Hỏi rằng: Nói về đại hạnh tóm lại chỉ là vô niệm; vì sao lấy Đế võng tương tức quán, v.v… khiến cho người khởi lên tưởng niệm vô tận, há không mệt mỏi thân tâm ư ? xin trả lời: Nếu thấy đây là một ly niệm để ngoại cầu vô niệm, là còn chưa được chân vô niệm. Chân vô niệm là niệm vốn không, làm thế nào để được cái niệm và vô niệm không chướng ngại nhau? Nếu được toàn thể viên hạnh trong vô tận hạnh? Lời hỏi này là ý phát xuất ra trong Hoa Nghiêm Kinh Đại Sớ. Nếu không tu tập các quán Đế võng tương tức, thì không thể chứng trọn được Phật quả vô ngại. Nay có người tiểu căn nghe pháp môn này liền thêm phiền loạn, hoàn toàn không thèm để ý. Người xưa nói rằng: Con ếch ngồi đáy giếng không thể biết biển lớn, núi Thái không thể đựng trong đãy được. Quán Vô Chướng Ngại Pháp Giới. (Tức tương tức pháp giới sở y tổng pháp giới quán). Nghóa là thường quán sát tất cả các pháp nhiễm tịnh. Thể của nó hoàn toàn vô chướng ngại pháp giới tâm. Trí năng quán này cũng tưởng toàn là pháp giới tâm. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Biết tất cả các pháp, là tâm tự tánh. Thành tựu tuệ thân, không do tha ngộ”. Lại Ngài Thanh Lương nói rằng: “Nếu biết súc vật đều là tâm, mới rõ được tâm tánh. Nay trong pháp giới vô chướng ngại này, vốn đủ ba thế gian, bốn pháp giới. Tất cả các pháp nhiễm tịnh, không có một pháp giới nào ra ngoài pháp này, mà pháp giới này đầy đủ cái này, cái kia, xen nhau vô chướng ngại. Thời biết căn căn, trần trần hoàn toàn là pháp giới vô chướng ngại. Nếu trong bốn oai nghi, thường quán căn căn, trần trần đều là pháp giới lớp lớp vô tận, thì tu được cảnh giới Phổ Nhãn. Quán này là căn bản của tất cả phép quán Tam-muội. Nếu thường tu tập tất cả Tam-muội thì quán môn tự nhiên hiện tiền”. Như đã nói nhiều quán môn, hoặc ưa thích tổng tu, hoặc tu một, hai phép, tuỳ tâm đều được, chỉ chuyên cần tu luyện, một đời chưa được, ba đời chắc chắn hoàn thành. Lại nữa, hành giả phải khởi lên tư tưởng, tưởng được hiện tiền, thường hiện không ẩn mới là Hoa Nghiêm Viên giáo chân Hạnh; Thanh Lương Sớ Chú: Sự sự vô ngại trong mười huyền môn gồm có sáu câu. Năm câu trước là khởi tưởng tu luyện, luyện được hiện tiền rồi, lại không tưởng luyện, tuy không tưởng luyện mà thường hiện không ẩn, mới thành đệ lục hành cứu, pháp Giới Quán chép: “Suy tư thật sâu xa, khiến nó hiện ra trước mắt, tròn sáng hiển hiện, xứng hạnh cảnh giới”. Thiền sư Khê Sơn giải thích rằng: “Suy tư khiến nó hiện ra chân giải. Đã hiện ra liền dừng suy tưởng. Tuy không suy tưởng mà cũng thường hiện ra, không giấu kín mới là thật hạnh”. Thiền Sư Nhất Hạnh nói rằng: “Trước phải khởi tưởng, tưởng được hiện tiền, sau đó dùng Bát-nhã không mà trừ sạch nó. Tức thành đại dụng không nghó bàn; liền đốn nhập quả Phật. Nếu trong khởi tâm quán đó, lầm lãnh hội ý Bát-nhã, dẫu cho có nhập không cũng mất đạo lý viên đốn, đối với Viên tông hành giả tu luyện tha thiết thì tự nhiên lời nói biến mất, dứt bặt suy nghó, phân minh rõ ràng mới là hạnh chân hạnh. Nếu được như vậy trong bốn oai nghi thường thấy những cảnh giới không thể nghó bàn. Người muốn tu đạo, nên lưu tâm việc này, xưa nay như vậy, chỉ vì mê muội không thấy đó thôi”. Người tu tâm hoặc có cảnh mộng thiện ác, hoặc gặp các thứ ma chướng hiện ra các cảnh giới khác: Trái thuận, hay nghe các thứ tiếng thiện ác, hoặc các loài trùng kiến bò chạy trên thân, hoặc thân tâm không an, thường lo lắng. Hoặc khi nhập quán tưởng có các thứ tướng hiện, không đồng với bổn quán tương ưng, v.v… Điều cần phải quán đó như chiêm bao, mộng huyễn, tất cả đều không có thật. Hoặc quán tất cả là tự chân tâm của mình. Luận Khởi Tín dạy rằng: “Nên chớ nghó duy tâm, cảnh giới liền diệt, không thể làm hại mình được”. Từ trên đến đây đã nói xong phần Hiển Giáo Tâm Yếu. <詞>KẾ ĐẾN NÓI MẬT GIÁO TÂM YẾU: Gồm có các bộ như: Thần Biến Sớ Sao, Mạn-trà-la Sớ Sao, đều do Đà-ra-ni giáo là Mật Viên. Hiển giáo Viên tông về phần trước, nói sự tu hành cốt yếu trước phải ngộ pháp giới Tỳ-lô. Sau đó y ngộ, tu biển Hạnh Phổ Hiền, lìa được sinh tử, chứng được mười thân Phật quả vô ngại. Như người bệnh được thuốc tốt, cần phải biết phân lượng, phép tắc bào chế, trộn chung mà uống, mới được lành bệnh, thân an. Nay thần chú Mật Viên, tất cả chúng sinh cho đến nhân vị Bồ-tát, tuy không hiểu được, chỉ tụng cũng được Pháp giới Tỳ-lô, biển Hạnh Phổ Hiền. Được lìa sinh tử, thành tựu mười thân Phật quả vô ngại, như người bệnh gặp được món thuốc hay, tuy không biết phân lượng phép tắc hoà hợp; chỉ cần uống thuốc thì tự nhiên trừ bệnh thân an. Cho nên kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: “Mật chú của Chư Phật là phép bí mật, chỉ có Phật và Phật tự biết mà thôi; các vị Thánh không thể không đạt. Chỉ tụng trì là diệt được lỗi lớn, mau lên Thánh vị”. Lại nói rằng: “Thần chú là Mật ấn của Chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác không thể thấu hiểu”. Bát-nhã sớ của Hiền Thủ chép: “Chú là pháp bí mật của Chư Phật, người không thể hiểu được”. Chỉ tụng trì không cần phải gượng giải thích. Còn Niết Bàn sớ của Tuệ Viễn chép: “Chân ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên-trúc. Phiên dịch lại không hiểu, vì vậy nên không phiên dịch giải thích!”. Trong Thiên Thai Chỉ Quán chép: “Bậc Thượng Thánh mới nói được cả hai pháp Hiển Mật, người phàm chỉ truyền bá Hiển giáo, không thể truyền bá Mật giáo. Các Sư từ xưa đều nói: “Đà-Ra-Ni, nhân vị Thánh Hiền, không thể hiểu giải, chỉ nên kính tin mà thọ trì, diệt được tội chướng, thành tựu phước đức”. Hỏi: Vì sao Mật chú của Chư Phật không thể giải thích cho người khác hiểu? Đáp: Thần chú là Viên mãn, không phải phiến diện, giải thích sẽ làm cho chú mất; bởi vậy nên không giải thích cho người khác rõ được. Mật nghóa nằm trong đó, cần phải suy nghó. Trong Pháp Hoa Sao chép: “Về bí pháp của Chư Phật, không hiểu nghóa ấy được, cho nên nói là Mật ngôn”. Kinh Bát-nhã chép: “Tổng trì như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời trị lành các bệnh sai lầm, uống vào thì thường an vui”. Lại trong kinh Lý Thú, đức Như Lai có nói năm tạng: Kinh tạng: Như sữa bò. Luật tạng: Như váng sữa. Luận tạng: Như sữa sống. Bát-nhã tạng: Như sữa chín. Đà-Ra-Ni tạng: Như đề hồ. (Đề hồ là vị đã lọc, nó ngon nhất trong các món ăn từ sữa, trị được các bệnh, khiến các hữu tình thân tâm an vui. Ở Tây Thiên-trúc thường dùng đề hồ để trị các bệnh). Đà-Ra-Ni trong các kinh, luật là tối thắng bậc nhất, trừ được các tội giúp cho các chúng sinh giải thoát sinh tử, mau chứng Niết-bàn, pháp thân an vui. Lý Thú Kinh Sớ chép: (Tánh Đức Lực Đại, mật chú công cường, giải hạnh tuy kém, giải thoát thì mau). Các Đại Sư như: Hiền Thủ, v.v… chỉ cho kinh Hoa Nghiêm là Viên, các giáo đều không phải. Nay lại cho Đà-Ra-Ni là Viên giáo, vậy không trái với Hiền Thủ và các Đại Sư khác hay sao? Đáp: Viên tông có hai: Hiển Viên. Mật Viên. Hiền Thủ chỉ y cứ Hiển giáo xếp Hoa Nghiêm vào Viên. Nay có Thần Biến Sớ Sao, Mạn-trà-la Sớ Sao, cho rằng giống như các thứ Hiển Viên, Mật giáo cũng là Viên tông. Hiển Mật đã khác mà các sự không trái. Y theo Mật viên tu luyện cũng chia làm hai: Nghi quỹ trì tụng. Nghiệm thành hành tướng Trước hết nói về Nghi Quỹ Trì Tụng: Chân ngôn hành giả, mỗi ngày muốn y pháp trì tụng, trước phải ngồi Kim Cương chính toạ: (gác chân bên phải lên chân bên trái, hoặc tuỳ ý ngồi sao cũng được). Tay kiết ấn Đại Tam-muội (ngửa hai tay ra, tay phải để lên tay trái, hai đầu ngón cái giáp lại nhau để ngang dưới rún, ấn này diệt trừ tất cả cuồng loạn vọng niệm, tư duy tạp nhiễm). Thân tâm lắng tịnh, nhập định Tam-muội pháp giới. Tưởng: tự thân trên đỉnh đầu ta có một chữ Phạm Lam. Chữ này biến ra ánh sáng rực rỡ, như hạt ngọc sáng, như trăng rằm tròn sáng. Tưởng chữ này xong, lại dùng tay trái kiến ấn: Kim Cương Quyền ấn: (để ngón tay trong lòng bàn tay bẫm vào đốt vô danh, chỉ giáp lòng bàn tay, rồi nắm chặt như cầm cú, ấn này trừ chướng nhiễm trong ngoài, thành tựu tất cả công đức). Tay mặt cầm chuỗi ghi số, miệng tụng: Tịnh pháp giới chân ngôn: Hai mươi mốt, hoặc một trăm lẻ tám biến chân ngôn: Án lam; hoặc chỉ trì Lam hay Lãm, chữ Phạm là: Án: (?) Lam: (?) Chữ Lam tịnh pháp này, hoặc tưởng, hoặc tụng, thường khiến cho ba nghiệp đều được thanh tịnh; tất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Lại thành tựu tất cả việc cao quý; ở chỗ nào cũng được thanh tịnh. Y phục bất tịnh khiến thành tịnh y. Thân không tắm gội vẫn được sạch sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là chân tịnh. Nếu dùng chữ Lam tịnh pháp giới này để tịnh, thì gọi là bình rốt ráo thanh tịnh. Như một hạt linh đơn điểm vào sắt thành vàng ròng. Một chữ chân ngôn biến nhiễm thành tịnh kệ rằng: Chữ ra mầu trắng tươi, chấm không để trang nghiêm. Chữ Phạm Ra: I, điểm vào chỗ không trên, tức thành chữ Lam tự I. Như hạt ngọc quý trên nhục kế, đặt ở đỉnh đầu; Chân ngôn đồng pháp giới; vô lượng các tội trừ. Tất cả chỗ xúc uế, nên gia trì chữ này. Nếu thật duyên ngoài không đầy đủ, không có nước để tắm gội, thiếu y mới sạch, thì chỉ dùng chữ Lam để làm sạch. Nếu người có duyên ngoài đầy đủ, thì trước dùng nước xong, mặc y mới thanh tịnh, lại dùng chữ Lam tịnh nữa, tức là trong ngoài đều thanh tịnh. (Như các Chân ngôn Nghi quỹ nói). Rồi tiếp tục tụng chú: Hộ thân chân ngôn hai mươi mốt hay một trăm lẻ tám biến. Chân ngôn, chữ Phạm Án Xỉ Lâm; Nếu tụng chú này, diệt được năm tội nghịch, mười điều ác, tất cả tội nghiệp, có công năng dứt trừ tất cả bệnh, tai chướng, ác mộng tà mị, quỷ thần và các việc không tốt. Thành tựu các việc cao quý, khiến tất cả mọi sự mong cầu đều được viên mãn. Chú này là tâm của Chư Phật, nếu người duyên tâm tụng một biến thì che chở được đồng bạn. Tụng ba biến thường che chở được mọi người trong thành. Cho đến bảy biến thì che chở được người trong bốn thiên hạ. (Rộng như kinh Văn-thù Căn Bản Nhất Tự Chú nói). Kế đến tụng một trăm lẻ tám biến Lục Tự Đại Minh chân ngôn: Án Ma Ni Bát Di Hồng. Án Ma NI Bát Minh Hồng hay Án Ma Ni Bát Nạp Minh Hồng, tiếng Phạm là: Án (?) Ma (?) Ni (?) Bát (?) Di (?) Hồng (?) Nếu tụng chú này ngay chỗ ở có vô lượng Chư Phật, Bồ-tát, tám bộ trời rồng nhóm hội, đầy đủ vô lượng pháp môn Tam-muội. Ai tụng trì, thì bảy đời dòng họ đều được giải thoát, các sán lãi trong bụng, sẽ được Bồ-tát vị. Người đó hằng ngày được đầy đủ công đức của sáu pháp Ba-la-mật. Được biện tài trí tuệ thanh tịnh vô tận. Hơi ra trong miệng chạm đến người nào, người đó nhờ sự tiếp xúc mà xa lìa các sân độc, sẽ được Bồ-tát vị. Nếu như: Người trong bốn thiên hạ, đều được địa vị Bồ- tát Thất Địa. Các Bồ-tát đó có bao nhiêu công đức, sánh với công đức tụng một biến chú Lục tự, cả hai đều bình đẳng không khác nhau. Chú này là sự vi diệu của bổn tâm của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nếu có người chép lại sáu chữ Đại Minh này, sánh với sự viết, chép tám muôn bốn ngàn pháp tạng, cũng bằng công đức đó, không khác. Nếu dùng vàng báu tạo tượng Như Lai, số như bụi cát, không bằng công đức viết một trong sáu chữ này. Nếu người nào đã được sáu chữ Đại Minh này, thì họ không còn bị đắm nhiễm tham, sân, si. Nếu đeo thần chú này trong mình cũng hết nhiễm tham, sân, si. Người trì tụng mang sáu chữ này, tất cả loài hữu tình được chân tay người đó chạm đến, mắt người đó ngó đến, đều mau đắc Bồ-tát vị, không còn chịu các khổ sinh tử nữa. Khi nói xong Lục Tự Đại Minh này, có bảy mươi Thất-Cu-Chi Phật đồng thời xuất hiện và đồng thanh nói: “Chú Chuẩn-Đề”. Cho nên biết Lục Tự Đại Minh và chân ngôn Chuẩn-Đề nương lẫn nhau (Rộng như kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương nói). Sau đó kiết ấn Chuẩn-đề ở tim. Chân ngôn Chuẩn-đề và nhất tự luân chú, một thời đồng tụng một trăm lẻ tám biến xong rồi, xả ấn lên trên đỉnh đầu. (Hoặc không muốn tụng Đại Luân Chú, chỉ trì chân ngôn Chuẩn-đề cũng được). Cách bắt ấn Chuẩn-đề: Dùng ngón áp út và ngón tay út bên mặt và bên trái xỏ lộn với nhau cùng trong lòng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn ngón tay cái thì đè lên lóng giữa ngón tay áp út bên mặt, để ngang ngực, dốc lòng tụng chú Chuẩn-đề và Đại Luân Nhất Tự, nếu muốn triệu thỉnh, đưa qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ. Khi kiết ấn, tụng chú, muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà đếm. Hoặc trên tay của tượng Bồ-tát Chuẩn-đề, hoặc quán tâm ghi số, hoặc mười niệm ghi số. Hoặc kiết ấn tụng được một nghìn tám chục biến thì rất tốt ( 1. 080), hay hơn một trăm lẻ tám biến. Hoặc chỉ tay bên trái kiết ấn Kim cương quyền, tay bên phải cầm chuỗi trì số cũng được, nếu sợ lộn, chỉ cần tán trì cũng có kết quả. Chân ngôn Thất-Cu-Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn-đề Đà-Ra-Ni như sau: Nam-mô tát đa nẫm, tam miệu tam Bồ-đề cu chi nẫm, đát thiệt tha. Án chiết lệ chủ Lệ Chuẩn-đề Ta Bà Ha, Bộ Lâm. Phạn tự: Nam (?) Mô (?) Tát (?) Đa: (?) Nẫm (?) Tam (?) Miệu (?) Tam: (?) Bồ (?) Đề (?) Cu (?) Chi: (?) Nẫm (?) Đát (?) Điệt (?) Tha: (?) Án (?) Chiết (?) Lệ (?) Chủ: (?) Lệ (?) Chuẩn (?) Đề (?) Ta bà: (?) Ha (?) Bộ Lâm (?) Phật dạy: Thần chú này có công năng diệt trừ mười điều ác, năm tội nghịch tất cả tội chướng, thành tựu tất cả trăm pháp công đức. Trì chú này dù ở tại gia hay xuất gia, bất luận kẻ tịnh người uế; chỉ dốc lòng trì tụng khiến cho chúng sinh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng, Ca-Ma-La-tật là bệnh nan y còn trị lành, huống chi các bệnh khác; nếu không tiêu diệt thì không có việc ấy. Nếu có ai tụng đủ bốn mươi chín ngày thì Bồ-tát Chuẩn-đề sẽ khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có tâm niệm thiện ác, mỗi việc đều báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người vô phước vô tướng cầu làm quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, bức ngặt; thường tụng chú này sẽ khiến hiện đời được phước báo như Luân Vương, cầu xin quan vị quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tông, Truyền Đăng Lục có dẫn tích người xưa) “Cu-Chi chỉ niệm Tam Hành Chú, mà được nổi tiếng hơn người”. Nếu cầu trí tuệ được đại trí tuệ; cầu con trai con gái lại được con trai con gái, hễ có mong cầu chi, đều được xứng lòng toại ý, giống như ngọc Như ý; tất cả tuỳ tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng chú này thường khiến cho các vua chúa, đại thần và bốn chúng đều sinh tâm kính yêu, thảy đều vui mừng. Người tụng chú này, xuống nước không chết chìm, nạn lửa không thể đốt, thuốc độc, kẻ thù, quân trận, cường tặc và ác thú, các loài quỷ mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh Phạm vương, Đế-thích, Tứ Thiên Vương, Diêm-la, Thiên Tử, v.v… Chỉ tụng chú này thỉnh quyết đến, không dám trước sau chậm trễ. Hoặc có sai khiến gì được như ý muốn. Thần chú này có thế lực lớn đối với Châu Thiện Bộ ở phía Nam. Dời núi Tu-di; khô nước biển lớn; chú vào cây khô sẽ phát sinh hoa quả. Huống chi là người năng y pháp trì tụng, sẽ chuyển được nhục thân, được đại thần túc, sinh về cõi trời Đâu-suất. Nếu cầu sống lâu và các thuốc tiên, chỉ y pháp tụng chú, sẽ được thấy Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Kim Cương Thủ trao cho thuốc hay thần tiên, lấy đó mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Được sống lâu bằng với mặt trời, mặt trăng, chứng Bồ-tát vị. Nếu y theo pháp tụng mãn một trăm vạn biến liền được đến Tịnh Độ mười phương, hầu hạ các vị Phật, nghe khắp pháp mầu, chứng được quả Bồ- đề. Nếu muốn thành tựa Đàn pháp: ở dây không đồng với các chân ngôn khác, cần phải rộng tu cúng dường, chỗ kiến lập đạo tràng phải cuốc đất hương nê: (Bột hương trộn đất nhão để thoa đắp đạo tràng). Ở đây chỉ dùng một cái kính tròn mới chưa dùng (làm kính đàn) để trước tượng Phật, tối ngày Rằm; mặt hướng về phương Đông, ngồi trước kính đàn tuỳ khả năng trang nghiêm; các món cúng dường đầy đủ. Xông hương an tức, nước tịnh thuỷ, sau đó kiết ấn để ngang ngực. Chú vào kính đàn một trăm lẻ tám biến Chuẩn-đề, xong lấy bao vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng đem theo để tuỳ thân. Mỗi khi muốn tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để trước mặt, kiết ấn tụng chú. Nếu không thể tụng niệm hằng ngày, chỉ cần vào mười ngày trai, đối kính trì tụng cũng được. Ngoài mười ngày trai, không trì tụng trước Kính đàn cũng được (Trong Mật tạng, Kính đàn này là yếu diệu, nhiếp chung tất cả các Đàn pháp. Nếu không có kính đàn, chỉ tưởng một kính đàn trước mặt mà trì tụng. Kinh Tịnh Chư Ác Thú và nhiều kinh khác, cũng phần nhiều có nói. Tưởng thành đàn pháp, trì tụng là hơn hết, hoặc không tưởng được Đàn pháp chỉ nên chuyên tâm trì chú. Vào mười ngày trai: Một, Tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hai mươi ba, hai mươi bốn, hai mươi tám, hai mươi chín và ba mươi). Chú Chuẩn-đề này các Đức Phật và Bồ-tát đều đồng nói. Độc Bộ Biệt Hành, nhiếp chung hai mươi lăm bộ Chân Ngôn Đàn Pháp. Chuẩn-đề bổn Phạm văn nói có mười bài kệ. Bồ-tát Long Thọ nói bài kệ khen ngợi rằng: “Chuẩn-đề Công đức nhóm” Tâm vắng lặng thường tụng Tất cả các nạn lớn Không thể xâm hại người Trên trời và cõi người Thọ phước ngang bằng Phật Gặp châu Như ý này Đắc định chứng Bồ-đề. (Rộng như trong kinh Chuẩn-đề và Trì Minh Tạng Long Thọ Nghi, chép: Chuẩn-đề cũng có chỗ gọi Chuẩn-Nê hay Tôn-Na, v.v… Chỉ là âm Phạm bất đồng mà thôi). Chú Đại Luân Nhất Tự: Tức là Bộ Lâm, cũng gọi là Nhất Tự Tâm Chú trong đời mạt pháp. Đối với thời mạt pháp, khi chánh pháp sắp diệt, chú này có thế lực lớn. Có công năng cứu giúp thế gian, làm lợi ích lớn, hộ trì pháp tạng của Như Lai, hàng phục tất cả tám bộ chúng, bẻ gãy tất cả các ác chú trong thế gian. Đây là đảnh của các Đức Phật, là tâm của Bồ-tát Văn-thù, ban thí vô uý cho tất cả chúng sinh và ban sự vui sướng cho họ. Hễ có tu trì thì sẽ tuỳ ý đắc quả, giống như ngọc Như Ý có công năng làm mãn nguyện tất cả. Nếu tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các quỷ thần ác cách xa năm trăm trạm đều chạy tản lạc. Các sao xấu và các Thiên ma không dám đến gần. Nếu trì tụng các chân ngôn khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này chung với chân ngôn khác đồng thời trì tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựu và hiệu nghiệm thì đầu của các vị thần hộ chú kia sẽ bị vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường giúp sức cho các chân ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng được. (Rộng như kinh Văn-thù Nghi; kinh Mạt Pháp Trung Nhất Tự Tâm chú nói). Từ trước đến giờ lần lượt trì tụng đến chú Chuẩn-đề, nếu không kiết được ấn Chuẩn-đề, thì lấy tay trái kiết ấn Kim Cương quyền, tay mặt cầm chuỗi mà trì tụng. Hoặc không theo sau, trước tụng chân ngôn tịnh pháp giới lần lượt thọ trì, chỉ trì thần chú Chuẩn-đề, hoặc căn độn không thể thọ trì đầy đủ chú ấy; chỉ từ chữ Án trở xuống mà trì, nên chữ án là lời quy kính. Từ chữ Án, v.v… là chánh thần chú. Mỗi khi trì tụng rồi, liền dùng tay mặt kiết ấn Kim Cương; miệng tụng Hồng Hồng Chân ngôn liên tiếp mà ấn vào năm chỗ: Ấn vào trán. Ấn vào vai trái. Ấn vào vai phải. Ấn ở ngực. Ấn vào cổ họng. Ấn xong, xả ấn trên đỉnh đầu. Trừ được tất cả ma chướng, thành tựu tất cả việc tốt. Hoặc trước khi trì tụng, kiết ấn trước năm chỗ rồi trì tụng. Lại nữa, tuỳ theo chỗ ở, muốn bài trừ Thần Quỷ, kiết Kim Cương giới, chỉ tụng chân ngôn Chuẩn-đề, gia trì chú vào nước thơm hai mươi mốt biến, rồi rải vào tám phương trên, dưới liền thành tịnh trừ kiết giới. Lại khi chánh trì tụng, y cứ theo kinh Cu-Chi Đà-Ra-Ni, kinh Kim Cương Đảnh, kinh Ngũ Tự Đà-Ra-Ni kinh, v.v… Trong các bản kinh đó có nói, theo căn cơ ưa muốn, cũng có nhiều thứ. Du-già Trì: Chỉ tưởng có chữ hiện trong tâm nguyệt luân. Nghóa là tưởng tự tâm mình như một mặt trăng tròn vắng lặng, thanh tịnh, trong ngoài rõ ràng, lấy Phạm như chữ Án: (?), Án trong tâm nguyệt luân; lấy Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Tự theo trước xoay về phía phải, lần lượt hiện khắp theo một vòng trong (đọc cao giọng xong rồi trở lại từ đầu). Xuất Nhập Tức Trì: Nghóa là trong hơi thở ra vào, tưởng có chân ngôn chữ Phạm. Hơi thở ra theo chữ ra, hơi hít vào theo chữ vào. Từng chữ sáng rõ như xâu chuỗi ngọc sáng không được xen hở (Hoặc khi thở hơi ra tưởng tượng trong tự tâm như mặt trăng tròn sáng. Chín chữ Phạm, xoay vần đều có ánh sáng năm mầu. Từ trong miệng mình lưu nhập vào miệng Bồ-tát Chuẩn-đề, xoay quanh bên phải, an bố trong tâm nguyệt luân của Bồ-tát Chuẩn-đề. Nếu khi hít vào tưởng chữ trong tâm nguyệt luân của Bồ-tát Chuẩn-đề. Từng chữ nối kết tròn liền nhau, chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm mầu, từ miệng của Bồ-tát Chuẩn-đề tuôn ra, lưu nhập vào miệng mình, xoay vần bên mặt, an bố trong tâm nguyệt luân. Xong rồi trở lại từ đầu, rất là nhiệm mầu). Kim Cương Trì: Môi, răng không động, lưỡi không đến nóc vọng, chỉ động đậy nhẹ trong miệng. Vi Thinh Trì: Chỉ khiến cho tai mình tự nghe, không chậm, không mau, từng chữ mà xưng niệm rõ ràng Cao Thinh Trì: Khiến kẻ khác nghe được diệt tội, lại có hai cách trì tụng: Vô số trì tụng: Nghóa là không trì chuỗi định số, thường trì luôn không xen hở. Hữu số trì tụng: Nghóa là lần chuỗi trì tụng mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu, không được thiếu sót. (Nếu lần chuỗi trì tụng, thì công đức đạt được, như các kinh rộng khen ngợi. Như kinh Sổ Châu Công Đức chép: Nếu có người tay cầm chuỗi, tuy không niệm Phật và Đà-ra-ni, người ấy cũng được phước vô lượng. Và trong kinh Kim Cương Niệm Châu có bài kệ rằng: “Nếu để trên đỉnh đầu thì diệt tội Vô gián, đeo trên cổ diệt được bốn trọng nghiệp, trì nắm trên tay sẽ trừ các tội, giúp cho hành giả mau thanh tịnh”. Lại Nhất Tự Đảnh Luân Nghi có nói: “Nếu dùng chân ngôn chữ Lam gia trì sổ châu bảy biến, khi hành trì một biến thành nghìn biến, nếu lần chuỗi đến hột mẫu châu, phải trở lại không được vượt qua mẫu châu). Mỗi ngày y pháp trì tụng, phải phân định thời hạn. Nếu một thời, thì buổi sớm mai. Hai thời thì thêm buổi hoàng hôn. Nếu trì ba thời thì thêm buổi chánh ngọ. (Nếu công việc bận rộn, không cần phải chia thời, lúc nào trì cũng được). Nếu hạng thượng căn trì tụng, thì phải Ba mật tương ưng. Thân mật: Kiết ấn. Ngữ mật: Tụng chú. Ý mật: Hoặc tưởng chân ngôn chữ Phạm, hoặc duyên nghe theo tiếng trì tụng. Hoặc tưởng tượng Bồ-tát Chuẩn-đề, hoặc tưởng trong tay Bồ-tát cầm các vật như chày, bình, hoa, quả, v.v… Cho nên Thần Biến Kinh sớ chép: nếu dùng Ba mật làm môn tu hành, thì không cần tu trải qua nhiều kiếp số tu đủ các hạnh, chỉ ở đời này đầy đủ các Ba-la-mật rồi. Lại nữa, khi đang trì tụng chưa đủ một trăm lẻ tám biến, không được nói chuyện với ai. Còn nếu muốn nói chuyện thì phải tưởng trên lưỡi mình có chữ Lam phạm: dù cho nói chuyện cũng không bị xen hở. Hỏi: Chỉ trì tụng Nhất đạo chân ngôn sẽ thành tựu hay phải rộng trì nhiều bổn chân ngôn mới được thành tựu công đức? Đáp: Có hai môn: Tuỳ căn cơ ưa muốn: Căn cơ có nhiều sự ưa muốn khác nhau. Hoặc ưa trì ba, năm, mười đạo cho đến một trăm đạo, v.v… Trong đó tuỳ căn cơ ưa muốn khác nhau, đều được trì tụng. Muốn mau chóng thành tựu: Muốn cầu tất cả công đức mau được thành tựu, nên chuyên trì tụng Nhất đạo chân ngôn cho thành thì tất cả chân ngôn công đức đều thành tựu. Cho nên kinh Văn-thù Nghi Quỹ chép: Nếu muốn tất cả công đức thành tựu, không được dùng chân ngôn mà khởi tư tưởng như trên, tuy có số đạo chân ngôn, nhưng đó là thứ lớp trì tụng với chân ngôn Chuẩn- đề. Hỏi: Đã chuyên tụng một thần chú mau được thành tựu, vì sao lại bày vẽ chân ngôn Chuẩn-đề cho người trì tụng? Đáp: 1- Vì chân ngôn Chuẩn-đề bao gồm tất cả các chân ngôn, và chứa đựng tất cả các Thần chú. Các chú không bao gồm được Chuẩn-đề như biển lớn chứa được nước trăm sông, chứ trăm sông không thể chứa hết được biển lớn. (Chuẩn-đề bao gồm các chú, sau đây sẽ rõ). 2- Vì Chuẩn-đề Đàn pháp người dễ làm thành tựu. Chỉ lấy một cái kính mới chưa từng dùng, ấy là Đàn pháp, không đồng như các chú, phải kiến lập Đàn pháp, cần phải lựa chọn nơi thanh tịnh, hương nê bôi trên đất, rộng tạo các tượng Phật, các món cúng dường đầy đủ mới thành tựu. (Người có tài vật, tạo nhiều các tượng Phật, các món cúng dường đầy đủ, ở trước tượng Phật, an trí kính đàn, đối trước trì tụng lại càng nhiệm mầu). Vì Chuẩn-đề không cần lựa tính cách nhiễm tịnh để trì tụng, bất luận tại gia, xuất gia đã lỡ uống rượu, ăn thịt, có vợ con, v.v… đều trì tụng được, không giống như các Thần chú khác cần yếu phải trì giới mới tụng tập được. (Nay vì những kẻ thế tục đeo mang vợ con, uống rượu, ăn thịt, ấy là thường nghiệp của họ. Tuy gặp vị tăng dạy bảo, nhưng tập tánh khó mà sửa đổi. Nếu không dùng Đại chú pháp bất tư nghì này cứu thoát, thì những kẻ như vậy biết ngày nào ra khỏi sinh tử. Còn những ai, trai giới thanh tịnh y pháp trì tụng, thì đó là thù thắng nhiệm mầu hơn hết. Trong kinh Chuẩn-đề nói huống chi là trai giới đầy đủ, y theo pháp đầy đủ để trì tụng, không chuyển, không thân, vãng đến Tứ thiền, sẽ được đại Thần túc ấy). Sở dó thế nên dạy nhiều về chân ngôn Chuẩn-đề, khiến người trì tụng. Nếu muốn trì các chân ngôn khác, tuỳ tâm đều được, đừng định chấp một bên nào. (Tuy nhiên tụng hai chú, trước hết phải khởi tâm viên tín: Ngũ bộ Thần chú, đều là pháp môn thành Phật. Nếu thiếu tin một bộ, thì trở thành huỷ báng Phật pháp). Lại nữa hành giả chân ngôn, mỗi ngày đối trước kính đàn, như ban đầu trì tụng; hoặc chỉ y như trước tiên, tưởng trên đầu mình có chữ phạm Lam, tròn sáng như hạt ngọc quý, sau đó mới trì khoá. Lại theo kinh Đại Thừa Quán Tưởng Mạn- Noa-La, kinh Trì Minh Tạng Thành Tựu Nghi Quỹ, kinh Tôn Thắng Phật Đảnh Tu Du-già pháp và nhiều kinh khác đến mấy mươi bộ, trong đó nói: Hoặc tưởng trên đỉnh đầu mình có chữ Lam biến thành vầng lửa hình tam giác; đốt hết thân hình từ đỉnh tới chân; khắp pháp giới chỉ thấy thanh tịnh, dù có năm tội vô gián mà dùng chữ này đốt thân, cũng đều trừ diệt hết. Tiếp đó, nên tưởng chữ Phạm A: sinh thành tự thân. (Chữ A tức là thể; tức là vô tướng pháp giới, từ vô tướng đó sinh thành thân hành giả). Lại tưởng chữ Ám; mang kết trong thập tự đảnh môn (Nghóa chữ Ám; tức là thể, nước ánh sáng của Chư Phật mười phương để rưới lên đỉnh đầu Phật tử. Đây là bí mật quán đảnh pháp môn, sau đó trì tụng. Hoặc tưởng tự tâm như mặt trăng tròn sáng, thanh tịnh, mặt trăng ấy có một chữ Phạn Án. (Trong nhân vị của Đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo Bồ-đề, sau tu tập pháp quán này, đầu hôm liền thành chánh giác. Chữ Án chứa đựng đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất chân ngôn. Tất cả các đức Như Lai, đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật). Hoặc trong tâm Nguyệt luân tưởng một chữ A: (Chữ A này là thân Phật Tỳ-lô, cũng là pháp giới, cũng là tâm Bồ-đề, nếu người tưởng niệm thì phát sinh được vô lượng công đức). Hoặc tưởng trong tâm Nguyệt luân một chữ Hồng: (Chữ Hồng nhiếp chung Kim cương bộ, tất cả chân ngôn, là chủ thân Kim cương bộ, cũng là ba môn giải thoát. Nếu thường tưởng niệm, thì diệt trừ tất cả tội chướng, thành tựu các công đức). Hoặc trên lưỡi tưởng chữ Lam: hay chữ Hồng, tưởng rồi sẽ tụng trì. Hoặc tưởng trên cổ mình hiện ra hoa sen lớn, trên hoa xuất hiện chữ A, lại tưởng chữ A biến thành mặt trăng tròn. Tưởng mặt trăng đó biến thành chữ Hồng: chữ Hồng biến ra năm chày Kim cương, lại tưởng cái chày này dời lên trên lưỡi, gọi là lưỡi Kim cương, sau đó trì tụng. (Kế đó, hai tay cũng tưởng chữ A; chữ A biến thành nguyệt luân, nguyệt luân biến thành chữ Hồng, Chữ Hồng biến thành mầu trắng năm chày Kim cương mới gọi là tay Kim cương, sau đó kiết tất cả ấn). Hoặc tưởng ra chín chữ Thánh Phạm Chuẩn-đề, mỗi chữ có các thứ ánh sáng An trong tự thân phần: nghóa là tưởng chữ, Án: an trên đỉnh đầu; chữ Chiết, an nơi hai mắt, chữ Lệ: an ở cổ, chữ Chủ: an nơi tâm, Chữ Lệ: an ở hai vai, chữ Chuẩn: an ở rún; chữ Đề: an ở hai bắp vế; chữ Ta-bà: an ở hai cổ chân và chữ Ha: an ở hai bàn chân. Tưởng An bố khắp nơi rồi, sau đó trì tụng (Kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ chép: Nếu người nào muốn thành tựu pháp Bồ-tát Chuẩn-đề, thì trước quán tự luân căn bổn vi diệu của Bồ-tát Chuẩn-đề, trên thân mình mỗi chữ ở vào một chỗ rõ rệt, thân đời trước người đó có tất cả tội nghiệp, thì cũng được trừ diệt. Hễ có mong cầu gì quyết định thành tựu, phép An bố chín chữ, trong kinh tạng có nhiều chỗ nói). Quán tưởng chữ Phạm đã có công đức rộng như trong các kinh Đà-Ra-Ni nói: “Trên đây về quán môn chữ Phạm, trong bốn oai nghi thường tư duy đến, rất đỗi nhiệm mầu”. Trong các kinh, tưởng chữ chân ngôn đều là thứ Phạm, chứ không phải chữ Hán. Cho nên Nhất Tự Đảnh Luân Vương Nghi Quỹ chép: “Cái gọi là quán các chữ, chính là chữ Phạm, không phải chữ ở các địa phương mà có năng lực đại thần dụng”. Hoặc có người không thể tưởng được chữ Phạn. Chỉ nên chuyên tâm trì tụng, cũng đủ tất cả Tam-muội. Cho nên, Đại Bi Tâm Kinh nói rằng: “Đà-Ra-Ni là Thiền định tạng; trăm nghìn Tam-muội thường hiện tiền”. Nếu người tha thiết trì tụng, hoặc gặp các thứ ma chướng, hoặc bổng nhiên sợ hãi, hoặc lưỡi khó trì tụng, hoặc thân không an, hoặc ngủ nhiều, giận nhiều, hoặc thấy các tướng lạ, hoặc nghi ngờ các thần chú không muốn trì tụng, v.v… Muốn đối trị các đều đó, thì nên quán tưởng chữ Phạm: Ra, hoặc quán chữ Lam: hay quán chữ A: v.v… Chỉ tuỳ theo đó quán tưởng một chữ, cảnh giới kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu tâm sinh ra nhiều phân biệt, nên quán chữ Phạm Sái: tức thánh vô phân biệt. Nếu có tâm mê đắm nhiều, nên quán tưởng chữ Hàm, tức pháp nhân duyên vốn không. (Trên đây là nói theo một mặt, nếu nói thật thì chỉ bất cứ một chữ nào đều có công dụng của nó, nghóa là một chữ thật đủ tất cả chữ, là công dụng của tất cả Chư Phật, Bồ-tát). Hỏi: Vì sao chữ Phạn đều có thần dụng không thể nghó bàn như vậy? Đáp: Nghóa là mỗi chữ tức thể là thân tâm của Chư Phật, Bồ-tát, tức thể là pháp giới lìa tướng. Lại tức thể là giáo, lý, hạnh và quả, cho nên có thần dụng không thể nghó bàn. Chữ Phạm: ở phương Tây vốn có sẵn trong pháp nhó. Khi thế giới mới thành, Phạm vương truyền nói, đồng như chữ ở xứ này, do Thương Hiệt chế ra). Hỏi: Nếu vậy, chữ Phạm ở phương Tây, đều có Thần dụng không thể nghó bàn, vì sao chỉ nói chữ trong chân ngôn? Đáp: Nghóa là chữ trong chân ngôn là pháp nhó của Chư Phật, được năng lực không thể nghó bàn che chở. Pháp tánh như vậy, có thần dụng riêng. Như ngôn ngữ ở đây chỉ là một, chỉ những câu như “cấp cấp như luật lịnh”, v.v… Chú hoả không thiêu được, chú thuỷ không làm chìm, cho nên ngữ chú có công dụng riêng, chẳng phải tất cả ngôn ngữ khác đều có công dụng như vậy. Chữ ở phương Tây cũng thế, v.v… chữ tuy là một mà là chữ trong chân ngôn, mới có thần dụng riêng. Chẳng phải tất cả chữ đều có thần dụng như vậy. Hỏi: Ở trên nói đối đàn, kiết ấn, tụng chú, v.v… đâu không phải hữu tướng ư ? Đáp: Pháp giới vô chướng ngại của Viên tông về mặt thể, vốn có vô tận pháp môn. Pháp môn vô tướng của Thiền tông chỉ là một trong vô tận môn. Nay Mật tông, Đàn pháp, thủ ấn, chân ngôn, tức thể lại là pháp giới vô chướng ngại. (Như Hoa Nghiêm kinh Sớ Sao, trong Thập huyền môn, nương sự hiển pháp môn, nói thế giới Kim sắc, tức là bổn tánh, là trí Bát-nhã vô phân biệt, v.v… Nay có người nói rằng: Trì chú, kiết ấn, đối đàn là trệ ngại tướng, đây chỉ nói theo Thiền tông tức là ly tướng bên ngoài, cầu vô tướng. Tổ sư chỉ vì ngoại đạo mà kiến giải, chứ không phải ý Phật giáo. Lại trong kinh Lăng-nghiêm Sớ chép: Trì tụng Thần chú trừ được các điều ác, nhóm tập các điều thiện. Kẻ ngu muội không biết ý chỉ này; thấy người trì chú thường sinh tâm huỷ báng, cho đó không phải là kẻ tu hành. Chưa có một Đức Phật nào, không do thần chú mà được thành đạo để độ chúng sinh, xin xét kỹ lại để sửa đổi lỗi này. Hỏi: Trên kia dẫn chứng các Đại sư, các Ngài đều nói rằng: “Chú là pháp bí mật của Chư Phật, người bình thường không thể hiểu được, vì trên kia lại giải chữ A, là thân Phật Tỳ-lô, chữ Hồng là Ba môn giải thoát, v.v… Đáp: Cứ theo Bát-nhã kinh sớ của Hiền Thủ, và Thần Biến sớ, các Mật Tạng Đà-Ra-Ni kinh Ý, thì có hai môn: Bát-nhã Thuyết Môn: Chú là mật pháp của Chư Phật, Chư Phật truyền nhau, người khác chẳng thông hiểu, chỉ nên trì tụng không cần gượng giải thích. Cưỡng Thuyết Môn: Như trong chân ngôn, hễ nêu bất cứ một chữ nào, hoặc tác nhân, hoặc tác pháp, bao trùm cả không gian và thời gian, tự tại giải thoát. Tóm lại, Vô tận pháp môn ở trong một chữ đều giải thích hết, mới là chữ nghóa của Đà-Ra-Ni. Đem lời nói này, dù cho các Đức Phật mười phương trải qua Hằng sa kiếp, cùng nhau nói nghóa một chữ trong chân ngôn cũng không thể hết được, người khác nói còn khó, huống chi là kham thọ. Cho nên đem một phần trong một chữ, hoặc tác nhân, hoặc tác pháp, mà giải thích, như trước chữ A, là thân Phật Tỳ-lô, chữ Hồng là ba môn giải thoát, v.v… Tức là gượng nói nghóa của một phần thôi. Còn các chỗ khác có giải thích chân ngôn, tự nghóa, cú nghóa, đều là gượng thuyết giải thích một phần nhỏ nghóa. (Nếu trong một chữ chân ngôn, hoặc chia ra ba nghóa, mười nghóa hay một trăm nghóa, v.v… để giải thích, gọi là nghóa một mặt). Trên nói: Chỉ có Phật mới biết, chứ không giải thích chung cho người khác. Đó là nói theo môn bất khả thuyết của Mật giáo bổn tôn. (Môn bất khả thuyết này tức là nói về quả ly ngôn của Hiển giáo viên tôn, cưỡng thuyết môn đây tức là nói đến nhân của Hiển giáo Viên tông). Hỏi rằng: Hoặc có chúng sinh, muốn dứt trừ các thứ tai chướng, hoặc muốn thêm lớn phước tuệ, hoặc muốn cầu quả Thánh, v.v… là chỉ y Nghi Quỹ như trước trì tụng hay có phương pháp nào khác chăng? Đáp rằng: Chỉ y theo Nghi Quỹ ở trước trì tụng, hễ có mong cầu gì thì nhất định thành tựu. Hoặc có muốn tuỳ việc mong cầu, mỗi pháp làm khác nhau. Nay lược bày pháp thức sau đây. Theo trong kinh Thiên Thủ Nhiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ-tát Tu Hành Nghi Quỹ, kinh Thất Cu-chi Đại Minh Đà-Ra-Ni, Thần Biến Sớ và các chân Ngôn Nghi Quỹ, v.v… thì có năm thứ Đàn pháp là: Pháp Tức Tai. Pháp Tăng Ích. Pháp Kinh Ái. Pháp Hàng Phục. Pháp Xuất Thế Gian. Pháp Tức Tai: (Vì để dứt trừ nghiệp ác, tội trọng phiền não chướng, v.v… Các món tai nạn, quan sự, khẩu thiệt, quỷ mị dựa nhập, sao xấu ép ngặt, v.v…), hành giả hướng về phương Bắc, tréo chân ngồi thẳng; tượng Chuẩn-đề xoay về hướng Nam, đối trước tượng Ngài mà an trí kính đàn (cái kiếng tròn), (Lại tưởng một Đàn tròn mầu trắng, trong cái đàn ấy tưởng khắp chữ Phạ: hoặc chữ Vãm Tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả điều tưởng ở trong đàn tròn; hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn tròn cũng được. Quán tưởng Bồ-tát Chuẩn- đề mầu trắng, hiến cũng hoa quả, ẩm thực và y phục trên thân đều là mầu trắng, đồ hương dùng bạch đàn, thiêu hương dùng trầm thuỷ, thắp đèn dầu Tô du; vì tương ưng từ tâm. Lúc đầu hôm ngày mồng một mỗi tháng bắt đầu khởi việc, đến ngày mồng tám là mãn, mỗi ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, đến ngày mãn hoặc đoạn thực (không ăn), hoặc ăn ba thứ bạch thực, nghóa là sữa, gạo hay cháo. Người không đủ sức cúng dường tôn tượng đầy đủ y phục chỉ vận tâm tưởng cũng được, sau này cứ y theo đây, mà biết). Nếu khi tụng niệm, lần lượt trì tụng như trước, đến Chuẩn Đề chú tụng một trăm lẻ tám biến, rồi sau chỉ từ chữ: Án mà tụng. Diệu chân ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, che chở cho người pháp danh… và trừ tai nạn Ta Bà Ha. Nếu tự cầu cho mình, trên chữ Ta Bà Ha xưng pháp danh mình và việc cầu xin. Nếu vì người khác, cũng xưng rõ tên, họ, sự, việc, v.v… Pháp Tăng Ích: Vì cầu thêm sự vinh quang, kéo dài tuổi thọ, cầu phước đức thông minh, quyến thuộc thế lực, tiền tài phong thạnh, lúa nếp thành thục, cầu phục tàng bảo chân, thuốc tiên, năm thần thông, v.v… Hành giả hướng về phương Đông ngồi kiết già, tượng hướng về phương Tây; trước tượng Chuẩn-đề an trí kính đàn, (Lại tưởng một hình đàn vuông, mầu vàng, trong đàn ấy có khắc chữ A, hoặc tưởng chữ Ám. Tôn tượng cúng dường đầy đủ. Tự thân hành giả đều tưởng ở trong cái đàn vuông, hoặc ở trước tượng vẽ một hình đàn vuông cũng được). Quán tưởng Bồ-tát Chuẩn-đề mầu vàng, hiến cúng hoa quả ẩm thực, và y phục tự thân, v.v… đều có mầu vàng. Đồ hương dụng, bạch đàn gia chút uất kim thiêu bạch đàn hương, thắp đèn ma du (dầu mè), dùng tâm vui mừng được tương ưng. Theo tháng ngày mồng chín, khi mặt trời mới mọc, khởi đầu hành trì cho đến ngày rằm là mãn. Mỗi ngày như trước, ba thời tắm gội thay áo. Đến ngày mãn cứ như trước đoạn thực và ba thứ bạch thực; niệm tụng như trước. Diệu Chân Ngôn: Án Chiết Lệ Chuẩn Lệ Chuẩn-đề, che chở cho người pháp danh… sở cầu như ý. Ta Bà Ha (Xưng tên và sự việc như bài trước đã nói). Pháp Kính Ái: (Vì cầu tất cả Thánh Hiền che chở, tám bộ trời rồng vui mừng, cầu biện tài nói pháp, tiếng nói hoà nhã, người nghe vui mừng, và cầu tất cả mọi người ái kính, bạn hữu trí thức gần gũi, kẻ thù hoà thuận, v.v…). Hành giả xoay mặt về phương Tây, ngồi theo cách Thiền toạ, tượng xoay mặt về hướng Đông, trước tượng Chuẩn-đề an trí kính đàn. (Lại tưởng một đàn hình bán nguyệt mầu đỏ, trong đàn hình bán nguyệt ấy, tưởng khắp chữ: Hạ hoặc chữ Hàm, tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả điều tưởng trong đàn hình bán nguyệt ấy. Hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn hình bán nguyệt cũng được). Quán tưởng Bồ-tát Chuẩn-đề mầu đỏ, thân mặc áo sa lụa, hiến cúng hoa quả, ẩm thực và tự thân y phục, thảy đều mầu đỏ. Đồ hương dụng uất-kim, thiêu hương dùng đinh hương. Hương Tô hạp hoà với mật để thiêu đốt. Thắp đèn dầu trái cây, đem thân tâm hỷ nộ tương ưng. Từ ngày mười sáu, gần sáng là khởi đầu; đến ngày hai mươi ba là mãn, mỗi ngày tắm gội, đoạn thực niệm tụng, thực hành như pháp trước. Diệu Chân Ngôn: Án Chiết Lệ Chuẩn Lệ Chuẩn Đề khiến tất cả mọi người yêu kính… pháp danh… Ta Bà Ha. (Xưng tên họ, tuỳ theo việc mong cầu, như trước đã trình bày). Pháp Hàng Phục: Để hàng phục tất cả ác độc, quỷ thần và rồng dữ tổn hại tất cả hữu tình, và đều phục tất cả người ác, không trung với đất nước, sinh tâm phản đạo, diệt Tam Bảo, huỷ chân ngôn, hoặc gây chướng ngại. Đối với tất cả người ác như vậy, người trì chú vận tâm đại từ bi, thực hành phép này. (Nếu vì ích kỷ mà cầu, hoặc có tâm oán cừu mà cầu, mà thực hành phép này, theo các kinh đã nói, quyết định phải vời lấy tai hoạ, suốt đời si mê, học giả nên biết!) Hành giả xoay mặt về phương Nam, dùng phép ngồi tôn cư (Ngồi chồm hổm, bàn chân trái áp qua bàn chân phải. Mặt tượng hướng về phương Bắc. Ở trước tượng Chuẩn-đề, an trí kinh đàn. (Lại tưởng một cái Đàn tam giác mầu xanh ở trong Đàn tam giác, tưởng khắp chữ Ra: hay chữ Lam, tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả, điều tưởng ở trong đàn tam giác, hoặc ở trước tượng chỉ vẽ một cái Đàn tam giác cũng được). Chuẩn-đề mầu xanh, hay mầu đen, mặc áo đen xanh tự thân y phục cũng đều mầu xanh. Hiến cúng hoa mầu xanh, hoa thối, hoa không thơm và hoa Mạn-đà-la, v.v… ẩm thực dùng thạch lựu làm nước nhựa nhuộm thành mầu đen, hay mầu xanh, hương xoa dùng cây bá. Át già dùng phân trâu. Lấy hoa mầu đen và giới tử Bá mộc làm hương xoa v.v… Mỗi thứ lấy một ít để vào nước Át-già; đốt hương an tức. Thắp đèn dầu hạt cải, dùng tâm phẫn nộ tương ưng. Từ ngày hai mươi bốn, vào lúc giờ ngọ hoặc nửa đêm bắt đầu hành pháp, cho đến ngày cuối tháng thì mãn, mỗi ngày tắm gội, đoạn thực, niệm tụng pháp, thực hành như trước. Diệu Chân Ngôn: Hồng, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn-đề, Hồng Phấn Tra (Phấn Tra viết chữ Phạn). (Nếu các người tâm ác không an, hoặc sắp chết, phải khuyên gấp người ấy phát thiện lành. Nếu người ấy biết hối lỗi, tự trách dứt hẳn tâm ác, thì nên vì họ làm phép Tức Tai, niệm tụng, người kia liền khỏi tai nạn. Trên đây là bốn pháp thành tựu. Nếu muốn được thành công trong bốn pháp này; thì phải dự tu trì chân ngôn Chuẩn-đề trước là năm mươi vạn, bảy mươi vạn, hay một trăm vạn biến. Đã thực hành rồi mới làm bốn pháp, thành tựu được, tuỳ sự ưa muốn, dù làm một pháp cũng sẽ thành. Thấy ở thời nay, hoặc Thích, hoặc Nho vì lợi, vì danh, mãn năm suốt ngày xu hướng tham lam, dụng hết thân tâm cũng chưa vừa bụng. Khi vô thường đến lại sinh vào chốn thấp hèn. Sao chép: vâng Thánh ngôn của Chư Phật, tụng Thần chú bí mật, trên đối với Pháp Tăng Ích lần lượt thực hành, việc sở cầu quyết định toại tâm, tất cả nghiệp chướng đều tiêu diệt, vô thường có đến thì được sinh về nơi tốt đẹp. Hiện tại, vị lai, đều được lợi lạc, há chẳng phải là điều tốt hay sao? Có được lợi lớn ấy, cho nên Phật mới dạy). Xuất Thế Gian Đàn Pháp: Vì muốn mau đủ hai món tư lương: Phước đức và trí tuệ. Đốn viên mười món Ba-la-mật, siêu việt ba vô số kiếp, khắc kỳ trong đời này quả Thánh hiện tiền. Hành giả ở tại núi non, hang cốc sâu thẳm vắng lặng, già-lam thanh tịnh. Đem hết tâm Đại Bi, thường ưa làm lợi lạc cho vô biên hữu tình, đồng với Bồ-tát Chuẩn-đề Vương. Nương nhờ nguyện lực Đại Bi giúp đỡ của các Phật, Bồ-tát. Hạn định bốn tháng bốn ngày trong một kỳ, dứt bặt không tiếp khách, dứt bặt nói năng. Tam Mật tương ưng tâm không xen hở; kẻ hành giả mặt hướng về phương Đông. (Các phương khác cũng được, nhưng hướng Đông là tốt hơn hết, hoặc ngồi toàn già, bán già, hay tuỳ ý ngồi đều được). Mặt tượng hướng về Tây, ở trước tượng Chuẩn-đề an trí kính đàn. (Trên đảnh hành giả tưởng chữ Lam: biến thành vòng lửa đỏ, đốt hết tự thân hữu lậu. Lại tưởng trên một hoa sen lớn có chữ A: sinh thành trí thân vô lậu, lại tưởng chữ Ám: quán đảnh rồi. Lại tưởng chữ Lam biến thành lửa lớn đốt cháy thế giới hữu vi này đồng như kiếp hoả, cháy sạch không còn gì, chỉ có vắng lặng. Lại tưởng tượng lập nên Đàn vô vi. Phía dưới phương dưới khắp tưởng chữ khiếm: nhiều mầu để làm không luân. Ở trên không luân tưởng chữ Hàm, mầu đen, biến thành phong luân. Trên Phong luân tưởng chữ Lam mầu đỏ, biến thành Hoả luân. Trên Hoả luân tưởng khắp chữ Vạm mầu trắng biến thành Thuỷ luân. Trên Thuỷ luân (nước) tưởng khắp chữ A mầu vàng, biến ra đất kim cương. Trên đất kim cương tưởng khắp có hoa sen lớn. Trên mỗi hoa sen đều có Bồ-tát Chuẩn-đề, vô lượng Thánh Chúng vi nhiễu (xoay quanh) trước mỗi đức Chuẩn-đề, đều có tự thân của hành giả (chính mình mỗi thân có hiện ra hoa quả, ẩm thực, cờ phướn, v.v… đầy đủ các món cúng dường, đều đối trước kính đàn Chuẩn-đề. Ba mật tương ưng. Nếu hành giả không có tượng Chuẩn-đề và hoa quả ẩm thực cúng dường đầy đủ, chỉ dùng quán tưởng này, cũng được thành tựu tốt đẹp) Nhất tâm quán tưởng Bồ-tát Chuẩn-đề, đầy đủ vô tận tướng tốt sáng chói, trong tâm nguyệt luân của Bồ-tát, tưởng có Cửu Thánh Phạm tự Đàn (chín chữ chú Chuẩn-đề). Hành giả tưởng trong tâm nguyệt luân của mình cũng có chín chữ Phạm đàn, còn ở tại thân mình, tưởng khắp chín chữ Thánh Phạm (Tâm Nguyệt luân và tự thân phần tưởng đủ các chữ, như trước đã nói). Các thứ hiến cúng hoa quả, ẩm thực, hương đèn, đuốc nến, v.v… Trong ba pháp: dứt tai ương, tăng ích, kính ái đã nói rõ sắc vật đều dùng được. Y phục của hành giả phải mới, sạch mới được vào Đàn pháp (tu). Tóm lại thì loại áo vàng là tốt nhất. Hành giả không cần phải lao hình, khổ nhọc sợ tâm thần tán loạn; đối với bốn oai nghi. Đi, đứng, nằm, ngồi đều được Ba mật tu tập, 1) Thân kiết ấn, 2) Miệng đọc chú, 3) Tâm duyên chữ Phạm). Chỗ thấy nghe, hay biết chỉ quán chữ A ở pháp giới nhất chân thanh tịnh, thường tu quán hạnh này. Lần lượt nghi quỹ trì tụng như đã nói trên, đến Chuẩn-đề chân ngôn. Từ đầu vô số, vô ký chuyên tinh niệm tụng. Phải sách tấn thân tâm, chớ nên biếng nhác, lúc sắp thành tựu, sẽ có khởi lên các thứ chướng ngại, nên làm phép: tức tai, hàng phục, v.v… Tuỳ theo căn tánh khác nhau của hành giả, khoảng thời gian này quyết chứng được Tam-muội hiện tiền. Tức ở trong định thấy có vô số Phật hội, nghe được pháp mầu nhiệm, chứng được địa vị Bồ-tát Thập Địa. (Một là pháp này, chỉ cầu xuất thế gian, nếu muốn thành tựu pháp này, trước hết phải trì tụng chân ngôn Chuẩn-đề được năm trăm vạn, bảy trăm vạn, hoặc một ngàn vạn biến, rồi mới thực hành pháp này, chắc chắc có linh nghiệm). <詞>CÁC HÀNH TƯỚNG THÀNH TỰU LINH NGHIỆM Kinh Chuẩn-Đề Đà-Ra-Ni, kinh Kim Cương Đảnh, kinh Tô-tất- địa, v.v… Cộng lại hơn mười bổn kinh đều nói chân ngôn, hành giả dụng công trì tụng. Hoặc mộng thấy Chư Phật, Bồ-tát, Thánh Tăng, Thiên Nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên hư không một cách tự tại; hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, hay lên lầu gác, hoặc bay lên cây cao, hoặc trèo lên núi trắng, hoặc cỡi sư tử, ngựa, voi trắng, hoặc thấy hoa quả tốt đẹp. Hoặc mộng thấy mặc áo vàng, áo trắng Sa-môn. Hoặc nuốt vật trắng nhả vật đen. Hoặc ngậm nuốt, mặt trời, mặt trăng, v.v… tức là tướng trạng tội lỗi từ vô thỉ tiêu diệt. Hoặc đang lúc trì tụng thấy các thứ ánh sáng; hoặc thấy khắp trong hư không có các hoa kỳ lạ, đặc biệt. Hoặc thấy các Đức Phật, Bồ-tát, Thánh Tăng, trời Tiên, v.v… Hoặc thấy Tịnh Độ của Chư Phật, hoặc thấy tự mình đến các cõi Phật và cúng dường. Hoặc tạm thời gian trải qua nhiều kiếp. Hoặc thấy đèn sáng cao một thước, hai thước, cho đến một trượng. Hoặc trong hư không chẳng có lửa mà tự nhiên có khói. Hoặc thấy tượng Phật, phướn lọng tự xao động; hoặc nghe các âm thanh hay ho của Chư Phật, Bồ-tát. Hoặc tự biết thân mình nguy nga, vòi vọi cao lớn. Hay răng rụng lại mọc, tóc trắng lại đen, hoặc thân thể trắng nhuận, không sinh rận rệp, hoặc tham, sân, si tự nhiên dứt mất. Hoặc tổng trì không quên, một chữ giảng nói nhiều nghóa. Hoặc trí tuệ đốn sinh, tự nhiên thông hiểu tất cả kinh, luật, luận. Hoặc tất cả pháp môn Tam-muội tự nhiên hiện tiền. Hoặc phước đức đốn cao, bốn chúng đều quy ngưỡng, v.v… (văn kinh trên đây đã nói: Nay có những vị Tăng, Nho só, mới tham học thiền lý, vừa thấy các tướng ấy cho là yêu dị. Đây chẳng những huỷ báng giáo tối thượng thừa, mà cũng là đắc tội tà kiến, xả tướng, thủ tánh, lại không biết tướng kia, xưa nay là tánh). Nếu gặp việc như trên, chỉ là phước tuệ thêm lớn, tướng trạng gần thành tựu, chớ sinh tâm nghi ngờ, chớ khởi niệm lấy bỏ. Nên quán những cảnh giới đã gặp, đều là chữ A hoặc chữ Lam v.v… Hoặc tưởng đều như mộng huyễn, hay đều là pháp giới nhất tâm, nếu được ứng nghiệm như vậy thì phải phát tu, sách tấn ba nghiệp, gia công trì tụng, không được khoe khoang nói những cảnh giới thấy trong Thần chú để dối gạt người. Chỉ có người đồng đạo, không vì danh lợi kính khen, thì mới được nói. Sự thành tựu có chín phẩm: Hạ Phẩm có ba: Hạ phẩm thành tựu: nhiếp phục tất cả bốn chúng, hễ có năng cầu, đều dùng được tâm, tất cả trời rồng thường đến thăm hỏi, lại hàng phục tất cả trùng thú và quỉ mị, v.v… Trung phẩm thành tựu: Có công năng sai sử tất cả tám bộ trời rồng, khai mở tất cả những kho báu giấu kín, hoặc cần vào cung Tu la, cung rồng liền được vào đó, đi ở tuỳ tâm. Thượng phẩm thành tựu: Liền được đạo Tiên, nương hư không bay đi bay lại. Trên trời xuống đất đều được tự tại. Thế gian, xuất thế gian chẳng việc gì mà không đạt đến. Trung phẩm có ba: Hạ phẩm thành tựu: được làm vua trong các Tiên Chú, thọ vô số tuổi, phước đức trí tuệ ba cõi không thể sánh bằng. Trung phẩm thành tựu: được thần thông qua lại các thế giới, làm vua Chuyển luân, sống lâu một kiếp. Thượng phẩm thành tựu: Hiện chứng từ Bồ-tát Sơ địa trở lên. Thượng phẩm có ba: Hạ phẩm thành tựu: Được đến địa vị Bồ-tát đệ Ngũ địa trở lên. Trung phẩm thành tựu: Được đến Bồ-tát đệ Bát địa trở lên. Thượng phẩm thành tựu: ba mật biến thành ba thân, ngay trong đời này được chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Đây là chín phẩm thành tựu của người trì chú. Nếu cầu thẳng đến thành Phật thì chẳng cần cầu thành tựu ba hạ phẩm. Còn theo Thần Biến Sớ thì có năm phẩm thành tựu: Đến Tín vị. Đến Sơ Địa. Đến Tứ Địa. Đến Bát Địa. Đến thành Phật. Đó là thuộc về kinh này, nay y theo các kinh cho nên nói chín phẩm, nghóa là Chân ngôn Chuẩn-đề, bao gồm tất cả các bộ Thần chú. Hỏi: Vì sao biết được Chuẩn-đề gồm các bộ Thần chú ? Đáp: Nghóa là trong một tạng kinh, Thần chú không ngoài hai mươi lăm bộ: Phật bộ: Là các chú của Phật. Liên Hoa bộ: Là các chú của Bồ-tát. Kim Cương bộ: Là các chú của Thần Kim cương. Bảo bộ: Là chú của các vị trời. Yết-ma bộ: Là chú của các Quỷ thần. Năm bộ này mỗi bộ gồm có năm bộ nhỏ, thành ra hai mươi lăm bộ. Nay Chuẩn-đề tổng nhiếp chung hai mươi lăm bộ, cho nên kinh Chuẩn-đề chép: Chỉ có một bộ mà nhiếp hai mươi lăm bộ. Lại nói rằng: Nếu muốn triệu thỉnh hai mươi lăm bộ như ma trời, v.v… chuyên tụng chú này, hễ thỉnh vị nào thì vị đó chắc chắn đến. Lại nói rằng: Ngũ bộ Kim Cương, Bốn vị Thiên Vương, đồng kết Tổng trì Tam-muội giới. Kinh Đại Giáo Vương có nói: Thất-Cu-Chi Như Lai, ba thân khen nói: Bồ-tát Chuẩn-đề chân ngôn năng độ tất cả Hiền Thánh. Nếu người trì tụng, tất cả điều mong cầu đều được thành tựu, không bao lâu chứng được đại quả Chuẩn-đề, cho nên biết chân ngôn Chuẩn-đề đứng đầu trong Mật tạng, là mẹ của các chân ngôn, là vua của các Thần chú. Chân ngôn Chuẩn-đề nhiếp hết hai mươi lăm bộ chân ngôn, hoặc dùng hình tượng ấn pháp chữ phạm, v.v… mỗi mỗi khác nhau. Nay Chuẩn-đề kính đàn nhiếp chung tất cả các Đàn pháp này. Cho nên kinh Chuẩn-đề nói rằng: Nhiếp chung hai mươi lăm bộ. Đại Mạn- trà-la: Tiếng Phạm Mạn-Trà-La nghóa là Đàn. Cho nên biết kính đàn rất tối tôn tối thượng, diệt được tất cả ma chướng, sinh ra tất cả công đức, mắt thấy, thân đeo đều được lợi lạc. Cho nên người xưa nói rằng: Đàn là sinh, sinh ra vô tận công đức. Đàn là tập, là chỗ vô biên Thánh Hiền nhóm hội. Như Ngọc Phương Chư hứng ánh sáng mặt trăng, liền có nước tướm ra. Đem kính (hội tụ) hứng ánh mặt trời, liền sinh ra lửa. Đá từ thạch dẫn hút kim loại. Hổ phách lượm hạt cải, các công dụng thật khó suy lường, huống chi là Đàn pháp không thể nghó bàn của Chư Phật! Nay có người ít nghe thấy, mê mờ không hiểu Mật giáo, thấy dùng kính đàn lại sinh huỷ báng. Nhưng các Đức Như Lai ba đời, không hề có vị Phật nào không theo Đàn pháp mà thành Phật đạo, để hoá độ chúng sinh. Mong những ai nghe thấy rộng rãi, hãy mau sửa đổi sự sai lầm đó. Mật Giáo Tâm Yếu đến đây là hết. Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu Quyển Thượng Hết.  HIỂN MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM YẾU TẬP Sa-môn, Đạo Chân ở chùa Kim Hà núi Ngũ Đài biên tập <卷>QUYỂN HẠ III- HIỂN MẬT SONG BIỆN: (Giải thích hai pháp Hiển giáo và Mật giáo) Nếu nương theo hai tông Hiển, Mật tu tập, thì đó là bậc thượng thượng căn, nghóa là tâm tạo pháp giới, Đế võng các thứ quán, miệng tụng sáu chữ Chuẩn-đề, các Thần chú, ở đây có hai hạng người: Người đã tu lâu, Hiển Mật đều tu. Người mới tu tập, trước tu Hiển giáo Phổ Hiền quán, rồi mới Ba mật gia trì; hoặc dùng Ba mật rồi, sau mới tu quán, hai thứ đều được. Tôi dù tài mọn, tâm còn Hiển Mật song tu. Cho nên Nhân Vương Bát-nhã Đà-Ra-Ni Thích và Nhân Vương Nghi Quỹ đều cho rằng: “Nếu không tu môn Ba mật, không y theo hạnh nguyện Phổ Hiền mà được thành Phật là không có việc đó!” Lại, Hoa Nghiêm kinh Tự Luân Nghi Quỹ chép: “Muốn đốn nhập Nhất thừa, phải tu tập quán Pháp thân Tỳ- Lô-Giá-Na; trước phải phát khởi hạnh nguyện Phổ Hiền. Lại dùng ba mật gia trì thân tâm thì sẽ ngộ nhập được biển trí tuệ rộng lớn của Bồ- tát Văn-thù-sư-lợi; là biết Bậc thượng căn phải Hiển Mật song tu, Bậc trung căn tuỳ tâm ưa thích; hoặc Hiển hoặc Mật, chia tu một môn đều được. Nhưng Hiển viên Hoa Nghiêm, các Phật đều khen ngợi. Bồ-tát đều vâng hành. Tây Thiên, Đông Hạ, Thượng Trí, Thượng Hiền, đều quy tâm; là đại giáo rộng hành, nhiều người thấy nghe, chẳng nhờ sự tán dương. Mật Viên Thần chú là đảnh của Chư Phật, là tâm của Bồ- tát. Công năng rộng lớn, lợi lạc vô biên; vì thời lưu ít biết, nay lược nói cũng chia làm hai: Nói về Mật chú công đức sâu rộng. Hỏi đáp Mật chú, Pháp khí hơn kém, v.v… <詞>Trước Hết nói về Mật Chú Công Đức Sâu Rộng: Lược y theo Thánh giáo, có chia ra mười môn. Rộng lớn thì vô lượng. (Vì nhiều người không biết Mật giáo là cao quý sâu xa, cho nên dùng mười môn để khen ngợi, để cảnh tỉnh những ai chưa nghe; nếu thật một mặt bỏ Hiển, khen Mật, cũng chẳng phải người Thông hiểu; kinh Hoa Nghiêm nói: Thọ một pháp mà thôi thì bị ma ám ảnh; khuyên trì những người hậu học. Hoặc hiển, hoặc Mật, hoặc Tánh, hoặc Tướng. Thực hành thì giữ lấy một môn, tin thì phải viên thông vô ngại. Chớ đồng thì kẻ mù rờ voi, đệ tử rửa chân! Tôi có bài kệ rằng: Đại Thánh thân nói năm thời giáo. Ngàn môn muôn hộ nhập thiên chân. Quán khắp thọ một giáo mà thôi. Đều là kẻ chẳng ra gì thôi. Lại nữa, Chuẩn-đề thọ nhiếp hai mươi lăm bộ; tức biết mười môn sau đây đều nói về công đức của Đà-ra-ni Chuẩn-đề). Môn hộ trì quốc an lạc nhân dân Môn năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần Môn trừ thân tâm bệnh, tăng trưởng phước tuệ Môn phàm sở cầu sự giai bất tư nghì Môn lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh Môn Chư Phật Mẫu giáo hạnh bổn nguyện Môn tứ chúng dị tu Kim Cương thủ hộ Môn linh phàm đồng Phật Như Lai, quy mạng Môn cụ tự tha lực hiện hành Bồ-đề Môn Chư Phật Như Lai thượng nãi cầu học. 1) Đầu tiên là hộ trì Quốc vương, an vui người dân: Nghóa là kinh tạng bí Mật Đà-Ra-Ni đều nói rằng: “Đà-Ra-Ni có công năng hộ trì Quốc vương, làm nhân dân an lành”. Cho nên kinh Bảo Tạng Đà-Ra-Ni nói: “Trong tất cả cõi nước, nơi nào có Đà-Ra-Ni lưu hành khiến Nhân vương thường được ủng hộ sự chánh hoá của Quốc vương. Có những kẻ như vương tử, Phi hậu, Tể tướng, Phụ thần, các quan tướng đều được ủng hộ; khiến được an vui, trong nước có oán địch mưu kế trong ngoài, gian trá, bệnh dịch, đói khát, nắng hạn, lụt lội, thú dữ, ròng đọc, tất cả việc dồi dào như vậy, đều đoạn dứt hết. Lại khiến tiền tài, lúa thóc, dồi dào, kho lẫm đầy dẫy, hoa trái tốt tươi, người dân an vui”. Kinh Bảo Tạng Đà-Ra-Ni chép: Đà-Ra-Ni lưu hành chỗ nào thì sẽ ủng hộ các Quốc vương, Vương tử, Phi hậu, Công chúa, trăm quan, phụ tướng khiến cho các tai nạn tiêu diệt, sở nguyện viên thành, Thiên thần che chở, không để ma quỷ đến nhiễu não, và trong nước lại được mười quả báo tốt: Trong nước không có tha bệnh, oán tặc xâm nhiễu. Trong nước không có các sao biến quái mà xảy ra tai nạn. Trong nước không có ác quỷ thần gây ra các tật dịch, Thiện thần che chở, muôn dân an vui. Trong nước không có các gió lửa, sương muối mưa đá, các nạn. v.v… Trong nước không có kẻ thù rình tìm dịp làm hại. Người trong nước không bị ác ma bức bách. Người trong nước không bị chết ngang trái Trong nước năm món thóc lúa đầy đủ, trái ngon quả ngọt, Trong nước, rồng nhập làm cảnh, mưa gió thuận thời, không có nắng hạn, bão lụt. Trong nước người không bị các thú dữ như: cọp, beo, sói các thú dữ làm tổn hại. Lại kinh Thất Thần kinh chú chép: Đà-Ra-Ni, nếu nhựt nguyệt vận lành không đều, có thể khiến cho đi vận hành đúng quỹ đạo. Lúa gạo mất mùa, thì khiến được mùa. Đại thần mưu phản, ác tâm tự diệt. Tật dịch đao binh, thảy đều tiêu tán. Lại rằng: Các Nhân vương muốn được hiện đời an vui, lìa các hoạn nạn. Các vị quốc vương kia nên siêng năng đọc tụng Đà Ra Ni. Cũng phải khuyên Hậu phi, thể nữ và các Vương tử, v.v… siêng năng tu tập. Lại kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chư Đà- Ra-Ni chép: Vì sao chỉ nói hộ trì Quốc vương? Nghóa là quốc chủ an vui thì muôn dân mới an vui, vì vậy nên nói hộ trì quốc chủ. Kinh Diệp y Quán Tự Tại Bồ-tát chép: Đà-Ra-Ni vì tất cả hữu tình năng trừ, tai hoạ, tật bệnh, đói kém, giặc cướp binh đao, nắng hạn không đều, các sao thất độ, cũng hay thêm lớn phước đức, cõi nước giàu mạnh, người dân an vui, vua chúa, nam nữ đều được sống lâu. Trong kinh Tô-Bà-Hô Đồng tử chép: Lìa ngoài chân ngôn không có pháp nào ban vui cho chúng sinh được. Rộng như trong kinh Chư Đà-Ra-Ni chép: Xưa có Liêu quốc Thiên Hậu Hoàng Đế, chánh pháp truyền khắp, Phật tuệ lưu thông, kiên trì Mật chú đều được thần công, liền được lúa mùa, bắp nếp đầy kho, ngôi báu vững bền, người dân an vui lâu dài, chính là nhờ sự linh nghiệm của Đà-Ra-Ni. Diệt trừ tội chướng, xa lìa quỷ thần. Kinh Bồ-Đề Trường Trang Nghiêm Đà-Ra-Ni, kinh Tối Thắng Tổng Trì, kinh Lầu Các Đà-Ra-Ni, v.v… Hơn hai mươi bản kinh đều nói viết, chép Đà Ra Ni để trong tượng Phật, tháp, trong bản xử, hoặc viết trên cờ phướn, trên điện đường, viết trên giấy lụa, vải, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, vách tường, bảng mộc, có chúng sinh được xem thấy, hoặc tay rờ đến, hoặc bóng ngã qua, hoặc cát bụi trên chữ chân ngôn, gió thổi vào thân. Hoặc viết chép, đeo trên đầu, trên thân, trong áo, hoặc viết trên cờ phướn, nếu gió thổi động phướn kia chỉ chỗ chúng sinh. Hoặc chép trên chuông, trống, linh, mõ, loa, bạt, v.v… tiếng trên các vật ấy phát ra, nghe được tiếng ấy. Trên đây đã nói: Các chúng sinh dù bị năm tội Vô gián, là nghiệp mà Chư Phật cho rằng không sám hối được, cũng đều diệt hết. Đời sau sinh về các cõi nước Phật, huống chi thân tụng trì ư ? Cho nên người xưa nói “Năm tội Vô gián rất nặng, niệm chú liền tiêu vong. Mười nghiệp ác là rộng lớn, vừa nghe liền tiêu mất. Trong Tuỳ Cầu Tụng có nói kinh: “Dầu phạm Ba-la mười tội ác Giết A-la-hán và tôn thân Năm nghịch căn bổn, bảy vô già Ứng niệm tuỳ tiếng liền tiêu diệt Chân ngôn Thánh lực công vô lượng Nên con khen ngợi tán chẳng nghó bàn. Lại, tất cả các kinh Đà-Ra-Ni như Mạt Pháp Trung Nhất Tự chú đều nói: “Người Trì chú ở bốn phương hướng, trong vòng năm trăm dặm, các sao xấu, quỷ thần, thiên ma, v.v… tất cả chạy tản lạc mà đi. Vị nào có phát tâm lành thủ hộ thì không đi. Nếu kẻ nào cố ý làm chướng ngại mà ở lại phá, liền bị các Hộ Pháp đập bể đầu ra trăm miếng, thân tâm dập nát. Nhờ thế nên hành giả không bị các ma chướng và được đến Bồ-đề. Hỏi: Có người nói sự trì chú gây ra ma chướng, nay sao lại nói lìa được ma chướng? Đáp: Đây là lời bàn nói của xóm làng chứ Thánh giáo chẳng có văn này. Nay các kinh Mật bộ đều nói: Đà-Ra-Ni có công năng xa lìa ma chướng, ở đây chớ nên luận bàn. Như Hiển giáo trong kinh Pháp Hoa sợ có kẻ giảng tụng, tu tập kinh Pháp Hoa có khởi các ma chướng. Cho nên nói phẩm Đà Ra Ni khiến trừ ác ma. Kinh ấy chép: “Nếu chẳng thuận chú ta, Não loạn người nói pháp Đầu bị vỡ bảy phần, Như nhánh cây A-lê”. Lại Luận Thích-Ma-Ha-Diễn: “Dạy người ngồi thiền phải tụng chú để trừ ma”. Lại trong Chỉ Quán có nói: “Nếu các ma chướng làm não loạn sự ngồi thiền, hành giả nên tụng Đại thừa Phương Đẳng và các chú trị ma nói trong kinh giáo. Nếu khi xuất định, cũng nên tụng chú”. Trong kinh Kim Quang Minh chép: Bồ-tát Thập Địa còn dùng thần chú để hộ trì, huống chi là phàm phu? Cho nên kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: “Nếu không trì chú mà ngồi đạo tràng, khiến cho thân tâm kia xa lìa các việc ma, thì đó không bao giờ có việc đó”. Lại nói: “Chúng sinh đời mạt thế, muốn tu Tam-muội, sợ đồng với tà ma, nên khuyến khích trì Thần chú của ta (Phật). Nếu chưa năng tụng, chép ở thiền đường hay đeo trong mình, thì tất cả các ma chướng không dám động đến”. Các văn như vậy, Tạng giáo rất nhiều, hiện thấy người đời bị quỷ thần não hại. Kẻ trì chú còn trừ cho họ được, huống chi tự thân mình lẽ nào ma quỷ dám làm hại ư! Trừ bệnh thân tâm, thêm lớn phước tuệ: Kinh Thánh Lục Tự Đà-Ra-Ni, kinh Phổ Hiền Đà-Ra-Ni, kinh Văn Thù Nhất Tự Chú, v.v… hơn mười lăm bổn kinh, đều nói môn hạnh Đà-Ra-Ni, trừ được các thứ bệnh khổ của thân tâm. Nói thân bệnh nghóa là tất cả các thứ bệnh: bệnh nóng, bệnh nóng, bệnh lạnh, bệnh phong, bệnh sốt rét, bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh lưỡi, bệnh miệng, bệnh răng, bệnh môi, bệnh lưỡi, bệnh mặt, bệnh đầu, bệnh kinh, bệnh hung, bệnh hiếp, bệnh phúc, bệnh thủ, bệnh bối, bệnh yêu, bệnh tất, bệnh cước, bệnh tî, bệnh ly, bệnh đàm, bệnh khí, bệnh lâm, bệnh đinh, bệnh thủng, bệnh ban, bệnh giới, bệnh bào, bệnh lại, bệnh tiển, bệnh dượng, bệnh sang, bệnh cuồng, bệnh điên giản, bệnh quỷ mị, chỉ nêu ra các bệnh quan trọng yếu. Hoặc bốn đại làm các thứ bệnh, hoặc năm tạng làm các thứ bệnh, hoặc quỷ thần gây ra các bệnh, hoặc bệnh do túc nghiệp gây ra. Các bệnh như vậy, năng lực không thể nghó bàn của thần chú có thể trừ lành. Cho nên kinh Trì Cú Thần Chú, kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni đều nói rằng: Đà-Ra-Ni khiến cho cây khô trở lại sinh hoa trái, huống chi là các bệnh hữu tình mà không trừ được hay sao! Hỏi: Chân ngôn hành giả chấp nhận việc gia trì quỷ thần để trị lành bệnh kẻ khác phải không? Đáp: Kinh Diệu Tý Đồng Tử, kinh Tô-tất-địa, v.v… đều nói rằng: Nếu cầu thượng phẩm đại thành tựu, không được dùng chân ngôn gia trì quỷ thần cấm các trùng rắn để làm lành bệnh người khác. Làm việc đó thì ngăn ngại việc lớn, người học nên y theo lời Phật, coi chừng dè dặt. Nếu thật lòng đại bi sâu rộng, có tâm Bồ-tát thì không ngăn ngại việc đó. Cho nên kinh Quyên Sách chép: Trừ quỷ thần bệnh (bệnh tà) phải tu ba nghiệp thanh tịnh, có tâm từ bi, các vị Bồ-tát mới làm được việc đó. Lại tất cả bệnh tham, sân, si tự nhiên tiêu diệt, cho nên kinh Bạch Tán Cái Đà-Ra-Ni chép: “Nếu có túc tập tham tâm không được trừ diệt, thì phải một lòng tụng Thần chú của Ta (Phật), như nàng Ma-đăng-già đã cùng A-nan nhiều kiếp ân ái, đem chú lực của ta, làm cho tâm ái dứt hẳn, trở thành A-la-hán”. Còn cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi thần chú thấm vào cũng mau chứng bậc Vô học, huống chi bản tâm cầu đạo Bồ-đề ư! Lại kinh Đại Bi nói: “Dốc lòng xưng niệm Đà-Ra-Ni, lửa dâm dục tắt, tà tâm dứt trừ”. Lại như Ý Luân và tất cả các kinh Đà-Ra- Ni nói: “Hành nhân chân ngôn hiện làm cho thêm lớn tất cả phước tuệ, phàm lời đã nói ra, người đều tin nhận, chỗ dụng y vật, tài bảo, tất cả khởi ý tùy tâm. Trong vòng năm trăm do-tuần, người trời, quỷ thần đều đến quy ngưỡng. Lại tự nhiên thông hiểu tất cả: kinh, luật, luận và các sách vở của thế gian. Hoặc nhớ tất cả không quên điều gì, mỗi ngày nhớ đến hàng nghìn bài tụng”. Cho nên kinh Đại Phật Đảnh chép: “Nếu đọc hoặc tụng Đà-Ra-Ni ấy, dù các chúng sinh này, tự thân mình không làm phước nghiệp, mười phương Như Lai đã có công đức thì sẽ ban cho người này”. Lại nói: Nếu trì thần chú, không sinh nghi ngờ hối hận, mà người thiện nam đó, do các bậc cha mẹ sinh ra mà tâm không được thông, thì Chư Phật mười phương đều nói dối. Lại nói rằng: “Chưa tinh tấn, khiến được tinh tấn. Vô trí tuệ sẽ được trí tuệ, v.v… Như chất thuốc dược nhỉ ở thế gian còn hay khiến người trừ bỏ ngủ nghỉ tăng trưởng tinh thần, huống chi Thần chú lại không sinh trí tuệ! Lại kinh Bất Không Quyến Sách Thần Chú Tâm chép: Nếu có bốn chúng thọ trì trai giới. Chuyên tâm trì tụng thần chú bảy biến, chẳng xen tạp ngữ khác, phải biết người này hiện đời chắc chắn giữ được hai mươi món lợi tốt đẹp, hai mươi món lợi đó là: Thân không bị bệnh tật, được an ổn vui sướng. Do nghiệp lực đời trước, tuy có sinh bệnh, nhưng trị mau lành Thân thể mềm mại, da thịt sạch sẽ trắng đẹp, mặt mày sáng sủa. Được mọi người thương yêu kính trọng. Thầm hộ các căn. Được nhiều tiền của quý báu, tuỳ ý thọ dụng. Đã có tài bảo, thì vua, giặc, nước, lửa không thể xâm tổn. Sự nghiệp đã làm ra, đều thành tựu tốt. Đã có các món trồng tỉa, không sợ rồng dữ, sương muối, bão lụt tiêu huỷ. Nếu có lúa thóc tai hoạ xâm phạm, nên tụng thần chú che chở vào tro, hoặc nước bảy biến, rồi rưới xuống ruộng khắp tám phương đã kiết giới, trên dưới bấy giờ các tai họa liền được diệt trừ. Không bị những sự bạo ác của quỷ thần, La-sát đến hớp đoạt tinh khí. Tất cả hữu tình nghe thấy vui mừng, thường tôn trọng, không nhàm chán. Không hề sợ sệt tất cả oán cừu. Dù có oán cừu, cũng mau tiêu diệt Người và các kẻ phi nhân không thể xâm hại. Yếm mị, trù rủa, thuốc độc, yếm chú, chẳng dính vào thân. Phiền não, triền cấu không thể hiện hành. Đao độc nước lửa không thể làm thương hại. Các vị trời, thiện thần thường theo che chở. Đời đời không xa rời từ, bi, hỉ, xả, trong kinh Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Thần Chú có nói: Nếu có các tịnh tín, thiện nam, tín nữ thường trì tụng thần chú, hiện đời sẽ được mười lợi ích cao quý, mười lợi ích đó là: Thân thường vô bệnh. Thường được Chư Phật mười phương che chở. Tài bảo, y thực, thọ dụng vô tận. Hàng phục được kẻ oán địch mà không lo sợ. Khiến các bậc tôn quý cung kính, tin lời. Cổ độc, quỷ mị, không thể trúng thương Tất cả dao, gậy không thể làm tổn hoại. Nước không thể nhận chìm Lửa không đốt được. Không bị chết ngang trái. Tất cả việc mong cầu đều không thể nghó bàn: Kinh Quán Tự Tại Nghi Quỹ, kinh Văn-thù-sư-lợi Nghi Quỹ, cùng các kinh Nhất Tự Đảnh Luân, v.v… hơn mười bổn kinh đều nói chân ngôn hạnh nhân, khi cầu thành tựu thì dùng bốn vật: Cung, tên, rựa, búa, câu, luân (bánh xe pháp luân) xử cảnh (cái kính) hoặc xâu chuỗi, bình bát, ca sa, tất cả các vật dụng của chư tăng. Hùng hoàng, thư hoàng, cũng như các món thuốc khác. Lấy đất trên bờ sông hoà làm bùn dẻo rồi nắn hình sư tử, voi, ngựa, trâu tức là loài đi, chạy, hoặc gà, ngỗng, chim công, sí điểu v.v… là loài bay, cùng các hình thú khác. Hoặc đắp, vẽ, điêu khắc tất cả các hình tượng Phật Bồ-tát, Minh Vương; tuỳ tâm ưa muốn, chia ra làm một việc, y pháp thành rồi mà đem để trong Đàn; đúng như pháp tụng chú, khi thấy được ánh lửa xẹt ra; hoặc tay cầm, hoặc xoa thân, hoặc cỡi lên, cùng giúp bạn tri thức bay lên hư không. Hoặc có người thấy thành tựu, hay thấy các người khác được thành tựu; tất cả đều được bay trên hư không, dạo chơi khắp thế giới, cúng dường Chư Phật, Bồ-tát, đều sống lâu một kiếp, chứng được Sơ địa, trăm pháp minh môn. Nếu khi thấy xẹt khói ra, thì làm y như trước sẽ được làm vua cõi Tiên, sống lâu muôn tuổi. Nếu khí nóng phát ra thì được tất cả trời, người yêu kính; mong cầu việc gì đều như ý; đây là tướng thành tựu của ba phẩm: Thượng, trung, hạ. (Nếu có lửa sáng phát ra, đó là thượng phẩm; khói phát ra: là trung phẩm; hơi nóng phát ra là hạ phẩm). Lại nói rằng: Nếu vầng ánh sáng lửa hiện ra, thì được tất cả các Thần thường đến ủng hộ, các chúng tám Bộ thường cung kính. Dùng tất cả Thần chú đều được tối thắng, linh nghiệm. Nếu tướng khói hiện ra, đi, ở chỗ nào đều không chướng nạn, sở cầu toại tâm. Nếu khí nóng hiện ra. Được tất cả người và quỷ thần đồng tâm yêu kính). Phương Tây có một người được thành tựu thượng phẩm, dẫn năm trăm người bay lên hư không. Như ở xứ này (nước Tàu) có ông Hoài Nam Vương luyện chú nấu thuốc, gà, chó, đến liếm vạc đều bay lên hư không. Cho nên mọi người nói rằng: Hoài Nam thành đạo, chó sủa trong mây. Vương kiều đắc Tiên, kiếm bay trên trời. Năng của thuốc lực còn vậy, huống chi Thần chú của Phật không thể nghó bàn ư! Thần Biến Sớ chép: Người nay cầm Tiên phương, chưa từng hoà hiệp uống dùng; lại huỷ báng rằng: ban ngày bay lên hư không cho là luống dối, toàn là chuyện không tưởng, lại các kinh Đà-Ra-Ni như Đại Giáo Vương, v.v… chép: “Hoặc khiến tìm người Long Nữ làm vợ, hàng Dược-Xoa làm tôi tớ; cầm lụa vào cung Tu-la, chú vào thây chết khiến khai mở những của báu dưới đất. Hoặc nói thành nơi Thánh dược; hoặc nói tìm đến các tài bảo, v.v… trong Hiển giáo, việc này ít nghe. Cho nên Tiên đức nói: “Ngoài Ba thừa ra, có pháp trì minh riêng”. Hỏi rằng: Bổn ý của Chư Phật là khiến dứt tất cả tham, sân, vì sao khiến người khởi lòng tham cầu thế sự? Đáp: Chư Phật có phương tiện độ sinh không thể nghó bàn. Nghóa là cõ những chúng sinh không chịu cầu thẳng tới đạo Bồ-đề, vả lại, tuỳ tâm ưa muốn, khiến trì chú cầu. Do năng lực thần chú, không thể nghó bàn, việc mong cầu được toại lòng, tất cả tội nghiệp được tiêu diệt, tự nhiên vượt phàm lập thánh. Như đứa trẻ bị bệnh, không chịu uống thuốc, thầy thuốc có trí, thoa thuốc vào vú mẹ. Đứa trẻ kia nút vào vú không ngờ đã uống được thuốc hay, trừ được bệnh khổ. Cho nên kinh Quyến Tác Tâm Chú có nói: Nếu có chúng sinh dù đem dua mị để cầu giàu sang, danh lợi, nếu được nghe chú này thì các chúng sinh đó đời đời kiếp kiếp thành tựu, được hưởng phước tụ, trí tuệ. Thần Biến sớ nói cảnh giới chân ngôn, Bồ-tát Thập Địa còn cho chẳng phải cảnh giới của các Ngài, huống chi là người trong cõi sinh tử ư! (Có người nói rằng: Đà-Ra-Ni phần nhiều khiến người có sư mong cầu, ngược lại gây tổn hại cho chúng sinh; đây là lìa ngoại cầu, lấy vô cầu giống như đoạn kiến ngoại đạo. Nay Phật nói: Suốt ngày cầu đó mà không thấy tướng cầu, là chân vô cầu, chẳng đồng ở cây, đã hoàn toàn không còn mong cầu. Cho nên Quán Âm Sao chép: Tuy niệm niệm cầu, nhưng không có tướng năng cầu và sở cầu. Huống chi các Phật Đại từ, Đại bi đâu có cố ý làm tổn hại chúng sinh) Lợi lạc hữu tình cứu thoát u linh: Kinh Đại Bảo Lầu các, kinh Đại Bi Tâm và kinh Mâu-lê Chú v.v… hơn mười lăm bổn kinh đều nói: Nếu có chúng sinh được thấy thân người trì chú, hoặc nghe âm thanh lời nói, hoặc đi qua trong bóng của họ, thì được diệt hết tội mười điều ác, năm tội nghịch, đời sau được sinh về các cõi Phật. Lại người trì chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân họ chạm xúc, tất cả loài hữu tình cũng được diệt tất cả tội, đời sau sinh về các cõi Phật. Những người trì chú khi đi đường có gió thổi, hơi gió này chạm vào hành giả rồi cuốn đi, hoặc thân, tắm gội dưới sông, nước cuốn đi những gì kỳ cọ, hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên hư không tụng chú, những hạt nước mưa trên hư không cũng thấm nhuần linh lực, hoặc trên đỉnh núi tụng chú, chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện trên đầu ảnh hưởng đến các chúng sinh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu diệt, đời sau được sinh về cõi Tịnh của Chư Phật, hoá sinh trong hoa sen. Như thế gian chỗ nào có thuốc độc, đi qua dưới gió, khi gió chạm vào liền bị tổn thương, còn có công lực khó lường, huống chi thần chú không thể nghó bàn ư! Lại kinh Quyên Tác nói: “Nếu nghe Đà-Ra-Ni mà sinh huỷ báng, cũng vẫn được lợi ích. Như người có tâm ác đi vào trong rừng long não, chiên đàn rồi chặt, bẻ, giậm đạp, làm cho gãy ngã tất cả, chính thân thể kẻ phá hoại đó cũng dính được mùi thơm kia. Cho nên trong kinh Phật Đảnh có chép: “Thần thông thắng hoá, khó thể nghó bàn, môn Đà-Ra-Ni thật là bậc nhất”. Lại trong kinh Vô Cấu Tịnh Quang, kinh Bất Không Quyến Tác, kinh Phật Đảnh Tôn Thắng, kinh Tuỳ Cầu, v.v… nói: “Nếu vong nhân đã gây nhiều nghiệp ác, khi chết bị đoạ vào ba đường, hành giả chân ngôn liền xưng tên tuổi, dòng họ của vong linh rồi chuyên tâm tụng chú. Lúc bấy giờ vong ấy sẽ được lìa đường ác và sinh lên cõi trời. Lại lấy chân ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải trên mộ, trên thi hài của vong nhân, liền được sinh về các cõi Tịnh của Chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần cốt nhục của vong nhân mà được bóng người trì chú chói vào, cũng được sinh về các cõi nước Phật. Lại chép Đà-Ra-Ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhân, vong đó liền sinh lên cõi trời. Cho nên bậc Tiên Triết nói rằng: “Bụi rơi bóng chói, Thần dạo cõi trời, rải đất, rưới nước, thức lìa đường ác”. Hỏi: Vong nhân tạo nghiệp đã thành, bị đoạ vào ba đường vì sao hành giả chân ngôn hoặc xưng tên họ vong nhân, hoặc chú nguyện vào cát, đất để trên mộ, trên thi hài mà lại giúp cho vong nhân đó thoát khỏi đường ác khổ, còn được vui sướng ở cõi Phật ư! Chẳng những kẻ tục só có tâm nghi ngờ, mà chính các vị xuất gia cũng khó tin. Đáp: người trí nhờ thí dụ mà được hiểu. Nay xin nêu ra thí dụ này: “Như cấm chú của người đời; cấm lửa không cháy, cấm dao không đứt, cấm rắn không mổ, còn biến có độc thành ra hết độc, huống chi thần chú của đức Như Lai, không thể đổi khổ được vui hay sao”! Lại như sách Liệt Tử có nói: “Sư văn khéo khải đàn cầm, chính nhằm mùa Xuân mà gảy dây Thương để đàn khúc Nam, gió mát thổi đến cây cỏ thành trái. (Dây thương âm kim, thuộc mùa thu, khúc Nam là khúc tháng tám, nhờ đây mà được khí Thu, cỏ cây ra trái). Chánh mùa Thu mà gảy cây Giác, đánh khúc Giáp Chung, có gió mát trở lại, cây cỏ được sum suê. (Giác âm Mộc thuộc mùa xuân, khúc Giáp chung thuộc tháng hai, sinh ra được xuân khí, cây cỏ đơm hoa). Đương mùa hạ mà gảy dây Vũ để đánh khúc Hoàng Chung, sương tuyết rơi nhiều, sông suối đông lạnh, đóng cứng. (Vũ âm Thuỷ, thuộc về mùa Đông, khúc Hoàng Chung thuộc tháng mười một, nên băng tuyết đóng cứng). Mùa Đông mà gảy dây Chuỷ, đánh khúc Nhuy Tân mặt trời chiếu sáng rực rỡ, băng cứng tan chảy (Chuỷ âm Hoả thuộc mùa Hạ, khúc Duy Tân thuộc tháng năm nên được hạ khí, băng cứng bị tiêu tan). Đây là nghệ thuật gảy đàn của thế gian còn biến mùa Thu thành Xuân, mùa Đông thành Hạ, huống chi Thần chú của Đức Như Lai, không thể nghó bàn, và Thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại không biến đổi con đường ác khổ, để được an vui ở cõi Phật hay sao!!! Ngài Trang Tử nói: Ngoài Sáu hiệp, bậc Thánh xét đến nhưng không luận bàn. Kinh Hoa Nghiêm chép: Lượng trí công đức đầy đủ của Bồ-tát Thập Địa, thì Bồ-tát Cửu Địa không hay biết, huống chi đức Như Lai là vua trong các Thánh; tất cả tâm ấn bí mật, đâu có thể dùng vọng tình của phàm phu mà muốn so lường đó ư! Kia như con cá nằm đáy giếng làm sao biết sự sâu rộng ở biển Đông; chỉ nên tin chắc, kinh Quán Thế Âm Bồ-tát Bí Mật Tạng Thần Chú chép: Nếu có người trì chú, hễ làm việc gì cũng được thành tựu; chỉ cần phải tin sâu, không được sinh nghi. Người trì chú đã có công năng lợi lạc hữu tình, cứu thoát u linh. Như kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ-tát Đại Bi Tâm Đà- Ra-Ni nói: Người nào trì chú sẽ không bị mười lăm thứ chết đau đớn: Không làm cho người bị chết vì đói khát, khốn khổ. Không bị chết vì cột trói, đánh đập Không bị kẻ thù, cừu đối mà chết. Không bị quân trận đánh giết nhau mà chết Không bị chết vì cọp, beo làm hại Không bị chết vì rắn, rít độc cắn Không bị chết vì nước trôi lửa cháy Không bị chết vì trúng thuốc độc Không bị trùng độc hại chết Không bị cuồng loạn, thất niệm mà chết Không bị chết vì núi, cây bờ gộp sập đè Không bị người ác yếm đối mà chết Không chết vì tà thần, ác quỷ rình hại Không bị ác bệnh triền miên mà chết Không bị phi phần tự hại mà chết. Lại kinh Bất Không Quyên Tác Thần Chú Tâm chép: Người tụng chú lúc qua đời được tám thứ lợi ích cao quý: Khi sắp qua đời, thấy Bồ-tát Quán Tự Tại hiện ra tướng Tỳ kheo đến trước mặt an ủi. Qua đời được an ổn, không bị các việc đau khổ. Lúc sắp qua đời, mắt không trợn lớn, miệng không hả méo, tay buông thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không tiết ra phân dơ, nước tiểu, không bị trụt, rớt xuống đất. Lúc sắp qua đời, an trụ nhớ chánh niệm, ý không loạn tưởng. Lúc chết không úp mặt Khi sắp chết được biện tài vô tận Khi xả mạng rồi, tuỳ nguyện sinh về các cõi Tịnh của Chư Phật. Thường không xa rời bạn lành. Kinh Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Thần Chú chép: Người tụng chú được bốn công đức. Khi qua đời được thấy Chư Phật Qua đời không bị đoạ vào đường ác Không do hiểm nạn, tai ách mà chết Được sinh về thế giới Cực Lạc 6) Môn chư Phật Mẫu giáo hạnh bổn nguyện: Nghóa là tất cả Chư Phật đều từ Đà-Ra-Ni sinh ra. Kinh Lầu Các chép: Chân ngôn là mẹ của Chư Phật, thành hạt giống Phật, nếu không có chân ngôn thì không thành Chánh giác. Tất cả Ba Tạng giáo điển đều do Đà-Ra-Ni phát xuất. Cho nên trong kinh Tối Thượng Đại Thừa Bảo Vương nói có bốn thừa: Thừa thinh văn Thừa duyên Giác Đại thừa Phương Quảng. Thừa Tối Thượng Kim Cương, đó là Đà-Ra-Ni tạng. Tất cả pháp đều từ Kim Cương lưu xuất. Thần Biến Sao nói: Nghìn dòng, muôn phái khởi từ núi Tích Thạch, ở Côn Lôn. Mười hai phần kinh phát xuất từ Tạng Tổng trì bí mật, lại muôn hạnh cũng do Đà-Ra-Ni mà ra. Nghóa là trong chân ngôn, mỗi chữ toàn là pháp giới Vô tướng. Muôn hạnh đều từ pháp giới mà ra. Cho nên kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ chép: “Chữ Án, là từ pháp giới vô tướng mà ra”. Thần Biến Sớ chép: pháp giới Vô tướng toàn là chân ngôn, chân ngôn toàn là pháp giới vô tướng, vả lại chân ngôn cũng gọi là Tam tạng, có trì chú ấy đều là Tam tạng. Nghóa là trong chân ngôn mỗi chữ đều gồm cả Giới, Định, tuệ, đủ muôn hạnh không ngoài sáu độ. Sáu độ không lìa Ba học. Đã nói chân ngôn gọi là Ba tạng, tức biết chân ngôn bao gồm muôn hạnh. Chân ngôn là hạnh chung, các pháp môn khác là chi lưu của các hạnh môn. Hỏi: Trên dẫn kinh nói rằng: Đà-Ra-Ni là Thiền định tạng trăm nghìn Tam-muội thường hiện tiền. Nay nói lại: Chân ngôn bao gồm Ba tạng, tức biết chân ngôn gồm chứa đủ tất cả môn thiền định. Vì sao Thiền giả ngày nay không cho trì chú ư ? Đáp: Trong các truyện ký Thiên-trúc và Trung Hoa, xưa nay các Thiền đức đều vâng làm các điều lành, huống chi thần chú là Vô tướng định môn tâm ấn của Phật ư ! Trong Bạch Tán Cái Đà Ra Ni có bài tụng rằng: khai vô tướng môn viên tịch tông, tự tự quán chiếu kim cương định. Lại nói: “Du-già diệu chỉ truyền tâm ấn, Ma-ha-diễn hạnh tổng trì môn”. Như Bồ-tát Long Thọ, trong Truyền Đăng Lục, ở Tây Thiên Tổ thứ mười bốn Thiền tông, chép lược ra kinh Tạng Trì Minh, mở rộng thần chú Chuẩn-đề, thiền sư Nhất Hạnh là Thánh chân ở xứ Trung Hoa còn tán thuật thần biến chân ngôn, Thiền sư Trí Giả được Túc mạng thông, rộng bày nghi quỹ trì chú. Thiền sư Khế Phù có người hỏi pháp Tối Thượng thừa. Ngài liền dạy tụng Mật ngôn; xưa các Thiền sư đâu không cho trì chú ư ? Lại như Thiền tông có nói: Tất cả các pháp đều là chân như, trì tụng chân ngôn đâu không phải là chân như ? Nay có Thiền sư hoặc Giảng sư thấy truyền bá mật chú, sợ mất lợi mình, tâm sinh ganh ghét. Vậy xin quý vị hiện tại cũng như vị lai ngăn ngừa ác báo. Cho nên trong kinh Phật Đảnh Vô Cấu Quang Minh Đà-Ra-Ni có nói: Xưa có Bà-la- môn Vô Cấu nói thần chú bí mật cho người nghe. Có Trưởng giả Quang Minh, trước kia có nhiều người quy ngưỡng, sợ mất lợi mình mà sinh tâm ác, tâm ác hưng khởi, ông liền bị bệnh lác hủi, chịu khổ não dữ dội, cho đến khi chết đoạ vào địa ngục vô gián chịu khổ một kiếp, lại đoạ vào địa ngục chịu khổ một kiếp nữa, mới được sinh làm người, mà không có hai mắt. Vì nhờ duyên lực kiếp trước, trở lại gặp Bà-la-môn Vô Cấu đang làm vị Tỳ-kheo nói mật chú vừa nghe liền sinh vui mừng rồi nhờ năng lực chú kia, lúc chết sinh lên cõi trời, v.v… Như trên đã nói: Huỷ báng tuy có lợi ích nhưng sự lợi ích đó xa vời lắm, và huỷ báng đều có tội như ông Trưởng giả Quang Minh kia. Vì mật chú là tâm ấn của Chư Phật có vô lượng vị Minh vương, các trời, rồng, Thần đều đến che chở, nên khiến người huỷ báng hiện đời phần nhiều bị bệnh lác hủi, mong kẻ thời lưu phải dè dặt. Môn Bốn chúng dễ tu kim cương thủ hộ: Tất cả bốn chúng chỉ cần hiểu lời nói đi, đứng, nằm, ngồi trong bốn oai nghi, được dễ dàng tụng tập. Lại chỉ miệng tụng, được gọi là chân hạnh. Trừ được phiền não an vui pháp thân không nhờ thông suốt giáo điển, như người bệnh được uống thuốc, uống vào liền dứt bệnh, thân an không cần phải hiểu rộng sách thuốc. Cho nên kinh Bát-nhã nói: Tổng trì cũng như thuốc hay, cũng như cam lộ cõi trời, trị lành các bệnh hoặc, uống thuốc thường an vui. Phật Đảnh Đà-Ra-Ni Sớ nói: Trai giới không bẩm thọ mà được đầy đủ, quả chứng không xa mà có thể được. Tiêu hết nạn, đạt lợi ích. Tự tu hành lại hoá độ những người khác, bởi nhân của người, bởi quả của người, chẳng có việc gì không do điều này mà hiển rõ. Lại Mạn-trà-la Sớ nói: Ai niệm thần chú của Đức Như Lai; tâm tâm thầm hợp tâm của Như Lai; đọc Mật ngôn của Bồ-tát, mỗi nguyện phù hợp với nguyện của Bồ-tát, sinh tử nào không lánh xa. Niết bàn nào mà không chứng đắc. Nếu y các tông khác tu hành, thì phải biết rộng giáo lý của Phật, tỏ ngộ được chân tâm, sau mới tu hành, mới là chánh hạnh. Nếu chưa ngộ mà tu, thì không phải chánh hạnh. Như người bệnh ở đời, phải biết rộng sách thuốc, hiểu rõ dược tánh, mới trị được bệnh, tức khó được trong muôn một. Nên biết thần chú hạnh môn tóm lược công đức sâu xa, khắp dẫn dắt bảy chúng mau đến Bồ-đề, rất là quan trọng. Cho nên Tam Tạng Nghóa Tịnh nói rằng: “Lên trời cỡi rồng, sai sử trăm thần, phương pháp lợi sinh chỉ cần Thần chú giúp đỡ. Hỏi: Nếu theo Hiển giáo sinh lòng tin, nương theo lòng tin phát sinh sự hiểu biết, nương sự hiểu biết, phát khởi hạnh tu hành, tu hành đắc quả. Nay Mật tông thần chú không cần sinh hiểu biết, chỉ cần tụng liền được đạo quả. Đã vượt qua quy tắc thông thường, khó mà sinh lòng tin? Đáp rằng: Như người bệnh trong thế gian không hiểu phương thuốc, gặp được thuốc thần diệu mà uống, liền được thân tâm an ổn. Nếu đã không hiểu dược tánh, vì sao trừ bệnh thân an? Thuốc đời còn vậy, huống chi thần chú không thể nghó bàn của Đức Như Lai, và giáo pháp của Đức Như Lai không thể một lý mà suy. Đã nói Hiển, Mật có khác không thể giải theo một mặt. Khởi Tín Sao chép: Ép chặt trụ đàn mà lên dây, toàn là ngu, ôm cây đợi thỏ, chẳng phải người trí. Chỉ nên tin mà tu trì sẽ mau đắc quả. Nếu chẳng sinh lòng tin, thì luống uổng công chẳng ích gì. Kinh Đại Bi Tâm chép: Tụng trì thần chú thì tất cả mọi sự mong cầu đều được kết quả toại nguyện. Chỉ trừ đối với thần chú sinh lòng nghi. Lại nói rằng: Nếu có người sinh nghi không tin, đó là trong trăm muôn kiếp thường ở trong đường ác, không nghe được Tam Bảo. Lại các kinh nói: hành giả đối với chân ngôn trong bốn oai nghi, có vô lượng tám bộ chúng trời rồng, kim cương thiện thần thường theo che chở. Cho nên kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni nói tụng trì Đà-Ra-Ni là Vô uý tạng, trời rồng, thiện thần thường theo che chở, lại nói rằng: Nếu đúng như pháp tụng chú, thì có tất cả Thiện Thần, Long Vương Kim Cương mật tích thường theo che chở không xa lìa người trì chú, như giữ gìn hai tròng mắt, như giữ mạng mình. Lại người trì chú: Hoặc ở núi non, đồng vắng, ngủ riêng một mình, các thiện thần sẽ thay nhau ngủ nghỉ để bảo vệ trừ sạch tai chướng. Nếu ở rừng sâu, núi thẳm, quên mất đường đi, các thiện thần, long vương hoá thành thiện nhân chỉ đường về. Nếu gặp giặc đánh, bị cướp giựt, trốn qua nước khác, thì Thiện thần, Long Vương sẽ dắt dẫn về chỗ cũ. Nếu ở nơi núi rừng, đồng vắng nước, lửa ít có, Long Vương ủng hộ hoá ra nước, lửa. Cho nên kia có bài tụng rằng. “Trời rồng chúng Thánh đồng che chở, trăm nghìn Tam-muội đốn huân tu”. Lại trong kinh đại Phật Đảnh Đà-la-ni chép: Nếu có chúng sinh trong tâm tán loạn, miệng vẫn tụng thần chú, thường được tám muôn bốn ngàn na-do-tha, Hằng hà sa cu-chi Bồ-tát Kim Cương Tạng Vương chủng tộc, mỗi vị đều có các kim cương chúng làm quyến thuộc, ngày đêm thường theo che chở người này. Dù có ma vương rình tìm cách hại người kia, cũng không thể được. Các tiểu quỷ thần lánh xa kẻ thiện nhân này ngoài mười do tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn rình tìm đến xâm nhiễu thiện nhân, các chúng kim cương lấy chày đập nát đầu, nhỏ như hạt bụi. Hằng khiến người này làm việc đúng như nguyện. Cho nên lời tụng kia nói: Tám mươi bốn ngàn kim cương chúng: Đi, đứng, nằm, ngồi đều theo che chở (hành giả). Mật bộ các kinh nói rộng hộ trì cho người tụng chú; muốn biết rõ, xin xem trong Tạng giáo. Môn khiến cho phàm đồng với Phật, Như Lai quy mạng: Hành giả Chân ngôn, trì tụng thần chú, khi khoá số đã mãn ba nghiệp thân, miệng, ý ra làm các việc thiện ác, đều thành pháp môn công đức vô lậu. Cho nên Bạch Tán Cái Tụng chép: Tụng xong một muôn tám ngàn biến, biến biến nhập vào định vô tướng. Tên thành Kiên Cố Kim Cương Tràng, tự tại được gọi là Phật trong loài người. Dù cho mắng chửi, chẳng lấy làm lỗi, các vị trời vẫn nghe tiếng thành ra Phạm âm. Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni chép: Tụng trì Đà-Ra-Ni ấy, miệng nói ra lời gì hoặc thiện hay ác tất cả trời rồng nghe đều là pháp âm thanh tịnh. Lại có bài kệ rằng: Thí như thuốc linh đơn Điểm sắc thành vàng báu Tụng trì Đà-Ra-Ni Biến phàm thành Thánh Hiền. Lại Thần Biến Sớ chép: hành giả Chân ngôn khiến cho ba nghiệp giống như ba nghiệp của Bổn tôn. Lại hành giả trì chú, được quy mạng, cho nên được Chư Phật quy mạng. Cho nên Phật Đảnh Kệ rằng: thế giới mười phương các đức Như Lai hộ niệm, cho nên che chở. Môn đầy đủ tha lực, tự lực, hiện thành Bồ-đề: Trong Hiển giáo hai môn có tứ lực và tha lực, Luận Thập Trụ, Niệm Phật cảnh v.v… nói: Môn tự lực: Nghóa là tu sáu độ tất cả muôn hạnh gọi là hành đạo khó, như người đi bộ xa nghìn dặm thì phải đến chậm. Môn tha lực: Các pháp môn niệm Phật gọi là đạo dễ hành. Như người đi đường sông xuôi thuyền thuận gió thì được đến mau. Nay trong chân ngôn bí mật thần chú đầy đủ hai lực tự và tha. Trong kinh Đại Thừa Bảo Vương v.v… và các kinh nói: Hành giả Chân ngôn hằng ngày được đầy đủ Ba-la-mật, viên mãn công đức. Lại Phật Đảnh Tụng chép: không trì trai mà gọi là trì trai, không trì giới mà gọi là trì giới, Tăng phá hai trăm năm mươi giới, Tỳ-kheo-ni phạm tám Ba-la, khi nghe Phật đảnh Đà-Ra-Ni liền được đầy đủ giới Thanh văn. Và trong Phật Đảnh Sớ có nói: Hạnh môn Bồ-tát tuỳ hành thời đủ, nay không hành mà tự đủ, là nhờ năng lực của thần chú có đầy đủ muôn hạnh; lời nói này không sai. Trong Môn Chân Ngôn Tự Lực: Mỗi chữ đều là toàn thân của Chư Phật. Kinh Mạt Pháp Trung Nhất Tự Chú nói: sau khi diệt độ, ta biến thân thành chú này, v.v… tức là môn tha lực. Lại có các kinh nói: hành giả Chân ngôn hiện đời năng thành Vô thượng Bồ-đề. Cho nên kinh Lầu Các chép: Ta từ vô lượng cu chi trăm ngàn kiếp, tuy hành khổ hạnh mà không được Bồ-đề, nhờ vừa nghe Đà-Ra-Ni, thì tăng thêm hạnh tương ưng, liền thành Chánh Giác. Lại Ngũ Tự Đà-Ra-Ni tụng rằng: Chư Phật sức bổn thệ, hiện thành các việc Thánh. Nghóa là: Chỉ ngồi niệm một lần, liền thành tới Chánh Giác. Lại tựa Đà-Ra-Ni nói rằng: Nếu học chưa trong tâm, tức là ba nghiệp của phàm phu sẽ biến thành chỗ chứa công đức, chỉ trong đời này liền được Bồ-đề, không cần lao nhọc, tiến tu nhiều kiếp. Lại Thần Biến sớ chép: Xét Đà-Ra-Ni thành thừa không thể nghó bàn, thành Phật thần thông. Nghóa là nương các môn thành Phật, như cỡi dê ngựa, đi nghìn dặm đường qua thời gian rất lâu mới đến. Nương môn Đà-Ra-Ni thành Phật, như cỡi thần thông đi nghìn dặm đường, móng ý liền đến nơi. Chỗ đến tuy không khác, chỗ nương pháp có chậm, mau. Lại các môn thành Phật như mài vàng đá lấy ngọc Như ý, tu theo chân ngôn thành Phật như sức thần thông lấy ngọc Như ý. Lại còn nói rằng: Các vị Bồ-tát vì cầu Bồ-đề, tuy tu các khổ hạnh khó làm, như sự cứu lửa cháy đầu. Trải qua vô lượng kiếp còn không được thành tựu như vậy. Hành giả Chân ngôn nếu tu không thiếu pháp tắc thì chỉ trong đời này sẽ được thành công, chứng được Bồ-đề. Cho nên, Thần Biến Sao chép: Đốn siêu các địa vị, là ví dụ nhờ các thần thông, mau xa lìa phiền não ràng buộc, là vì nhờ chú thuật, và trong kinh Đại Giáo Vương nói: Nếu không y bí mật khoá tụng tu hành, thì sẽ không thành công trọn vẹn ở cõi vô thượng Bồ-đề. 10) Môn Chư Phật Như Lai còn cầu học: Như kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương chép: Các Phật cũng cầu Thần chú, huống chi phàm phu không trì tụng sao? Cho nên các kinh kia nói: Trong một lỗ chân lông của Bồ-tát Quán Thế Âm có vô lượng Chư Phật và Bồ-tát. Bồ-tát Phổ Hiền vào trong một lỗ chân lông của Quan Âm, trải qua mười hai năm mà chẳng biết chừng đỗi. Lại nói rằng: Bồ-tát Quán Thế Âm có sáu chữ Đại Minh Đà-Ra-Ni, tất cả Như Lai đều không biết chỗ sở đắc kia. Nhân vị Bồ-tát làm thế nào mà biết được, đến nỗi nói: Phật trên hoa sen đã thành Phật rồi, mới trải qua vâng thờ các Phật, để cầu sáu chữ Đại Minh này, v.v… Hỏi: Phật có tất cả trí, đâu không biết Đà-Ra-Ni ư ? Đáp: Có ba nghóa: Tiêu biểu Đà Ra Ni là cao quý sâu xa, khiến tôn trọng, như trên đã nói: Phật không biết mà tự cầu. Phật trong Quyền giáo: Như A-la-hán hay Bích-chi-phật, Phật trong Quyền giáo không thể biết được Viên tông mật chú. Như Tiểu thừa cực quả không biết được pháp sâu xa của Đại thừa. Mật tông Thần chú: Tức thể, lại là viên viên quả hải cho nên Phật không đắc được, Như Thích Đại Thừa Luận chép: Viên viên quả hải Phật cũng không đắc được. Nay Lục Tự Đại Minh và Thần chú Chuẩn-đề tức thể lại là Viên viên quả hải. (Nay mật bộ tất cả Thần chú là pháp sở thuyên trong Hiển giáo, thật mà luận thì chứa đủ năng thuyên trong Hiển giáo. Nay Lục Tự và Chuẩn-đề chính là quả hải trong Hiển giáo). Hỏi: kinh Bảo Vương chỉ nói Lục Tự Đại Minh, Phật không biết được, vì sao nay nói Chuẩn-đề mà Phật cũng không biết được? Đáp: Kinh Bảo Vương ấy chép: Lục Tự Đại Minh rồi, lại liền nói Chuẩn-đề, nên biết Chuẩn-đề đồng với quả hải. Lại Phật chỉ biết Phật nói chân ngôn trong Ngũ bộ: Phật bộ gồm thâu tất cả. Nay Chuẩn-đề ở riêng ngoài Ngũ bộ, nếu chẳng phải viên viên quả hải, đó là pháp gì ? Lại hỏi: Luận rằng chân ngôn chỉ là ngôn giáo năng thuyên tức lấy tiếng danh, câu văn làm thể, vì sao được là viên viên quả hỏi? Đáp: Nếu hỏi câu này tức là chưa biết tông chỉ của Mật giáo. Nay bí mật Thần chú trong Mật giáo là pháp sở thuyên. Như trên đã nói, tất cả lời nói, văn tự thuộc về lời năng thuyên, phần nhiều lấy thinh, danh, cú văn làm thể, hoặc lấy Duy thức làm thể. Trong Chung Giáo nói: Lấy vô tánh chân như làm thể. Trong Đốn giáo lấy chân như dứt bặt đối đãi làm thể, trong Viên giáo nói hoặc lấy Thập huyền làm thể, hoặc Tam- muội Hải ấn làm thể. Kia trong ngôn ngữ năng thuyên, trong Hiển giáo còn như vậy, tức là chân như dứt bặt đối đãi thập huyền môn, huống là Mật tông thần chú, chính là Nhất chân pháp giới trong hiển viên ư! Lại Thích Ma-ha-diễn Luận, y cứ giáo năng thuyên trong môn sinh diệt. Hội tướng quy tánh, lấy chân như làm thể, hoặc lấy Nhất tâm làm thể. Trong môn chân như, lấy chân như tuyệt đãi làm thể. Lại Luận Thập Thâm Huyền Lý, Luận Bất Động Bổn Nguyên, trong hai Bổn luận kia, lấy gì làm thể, lấy lý suy gạn, thì biết nó lấy bất nhị quả hải làm thể. Lời nói năng của nó còn như thế, tức cũng là biển quả không hai, huống chi Lục Tự Đại Minh, Thần chú Chuẩn-đề, nghóa pháp sở thuyên trong hai bổn luận kia ư! Lại từ xưa các Ngài đều cho rằng: Bí mật thần chú là Chư Phật tâm ấn, chỉ có Phật mới biết được chẳng phải nhân vị có thể hiểu. Lại nay, kinh Bảo Vương nói: Phật cũng không biết Thần chú, nếu chẳng phải Viên viên quả hải đó thì còn là gì nữa? Mong các người học rộng lòng mà thể nhận, chớ vọng tình tự chấp! Hỏi: Vì sao Chư Phật không được biển quả Viên viên? Đáp: Biển quả viên viên là pháp bổn tánh thành tựu, tiêu biểu chẳng phải Chư Phật tu nhân dứt chướng mà được, lại tiêu biểu ra ngoài nhân quả. Cho nên nói Chư Phật không được mà tự cầu. Cứ thật mà luận, các Phật đều biết được, cho nên ngài Hiền Thủ nói: Tánh đức biển quả, tức là cảnh giới thập Phật. Hỏi: Lục Tự Đại Minh và thần chú Chuẩn-đề đã là viên viên biển quả, tức là cảnh giới thập Phật vì sao phàm phu trì tụng được? Đáp: Nay trong Mật giáo nói: nhờ năng lực chân ngôn không thể nghó bàn khiến ba nghiệp phàm phu đồng ba nghiệp của Như Lai mà được trì tụng. Lại Thần chú Mật tông, nếu y cứ vào chỗ hiểu biết, tức chỉ là cảnh giới của Chư Phật, nay nhân vị phàm phu tuy chẳng hiểu biết, chỉ nên trì tụng tự nhiên diệt chướng thành đức, vượt phàm lên Thánh, riêng một nghóa này người tục nghe nói mà phát sợ. Lý vượt thường tình, người đã ít nghe, kẻ phàm phu lại khó tin. Những bậc bác học thương trí, xét kỹ nơi đây mà rõ. Ba nghóa trên đây tuỳ theo lấy hay bỏ. Mười môn từ trước đến đây bày Mật bộ, nương vào kinh điển, chẳng phải kẻ hạ ngu này biết được mật chỉ, cho nên Thần Biến Sớ Sao chép: Chỉ có tay Kim Cương mới sờ được chỗ kín đáo, mắt hoa sen mới nhìn suốt được nơi thâm sâu nhiệm mầu kia. <詞>Hỏi, Đáp Mật Chú Pháp Khí Hơn Kém: Hỏi: Mười môn như trên trình bày hết trong chân ngôn Viên giáo, là tất cả chân ngôn có hơn kém của Ngũ giáo, mỗi chân ngôn không đồng hay tất cả chân ngôn không hơn kém đều là Viên giáo? Đáp: Theo Thần Biến Sớ có hai môn: 1) Tuỳ tha ý môn: Tất cả chân ngôn có hơn kém, các bộ không đồng. Lại Ngài Thanh Lương Sớ Chú, ngoài ba tạng, kinh, luật, luận lập thêm một Tạp tạng bao gồm Đà-Ra-Ni làm thành bốn tạng. Một trong ba thừa đều có bốn tạng, làm thành mười hai tạng. Trong Ba thừa đều có Đà-Ra-Ni Ngũ giáo, sau đây mỗi mỗi cũng có Mật chú, như chú trong kinh A-hàm tức là Tiểu giáo. Các chú trong kinh Bát-nhã tức là Thỉ giáo. Chú trong kinh Kim Quang Minh tức là Chung Giáo, chú trong Lăng-già tức là Đốn giáo. Chân ngôn Lục Tự Đại minh và thần chú Chuẩn-đề trong kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tức là Viên giáo. (Trong mười môn trước đây đã dẫn chứng kinh Đà-ra-ni, phần nhiều là Viên giáo) Tiếng Phạm là Đà-ra-ni, Hán dịch Tổng Trì, là lấy bốn pháp Giáo, Lý, Hạnh, Quả làm thể. Trong ngũ giáo Đà-Ra-Ni, mỗi giáo gồm nhiếp các giáo, trong đó là Giáo, Lý, Hạnh, Quả. (Sự hơn kém của năm giáo, nay nêu lên thí dụ này giúp người mới học được biết). Tiểu giáo như sắt. Thỉ giáo như đồng. Chung giáo như bạc Đốn giáo như vàng Viên giáo như ngọc Như ý. 2) Môn tuỳ tự ý: Tất cả chân ngôn lại không hơn kém đều là Tỳ- lô-giá-na Đại Bất Tư Nghì Bí Mật Tâm Ấn. (Trong một đời giáo pháp, cho đến chân ngôn do quỷ thần nói đều là Như Lai Tỳ-lô-giá-na, muốn pháp môn có lợi ích khắp chúng sinh. Quý ngài đã biến ra các loại quỷ thần mà nói chân ngôn được, chứ không phải mười loại quỷ thần mà nói chân ngôn được, các loại khác cũng vậy). Lại Hiền Thủ, Thanh Lương dùng nghóa phán giáo trong mật kinh gồm có nhiều giáo. Tức là biết chân ngôn trong tất cả kinh đều là Viên giáo. Tất cả chân ngôn lại là Tổng Trì, năng gồm nhiếp vô tận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Thật mà nói: Dùng tất cả hai môn mơi phù hợp với tâm Phật nhiệm mầu. Cho nên Thần Biến Sớ chép: hành giả Chân ngôn có khả năng đối với sai biệt, giải nghóa vô sai biệt, đối với vô sai biệt giải nghóa sai biệt. Nên biết đó là, người khéo đạt tướng Chân ngôn. Hỏi: Trên nói Mật bộ là bao la rộng rãi, thâm sâu, khó suy, khó nghó, chẳng hay pháp này hợp với căn khí nào? Đáp: căn khí thích hợp có hai: Môn tuỳ tha ý: Chân ngôn đã có Năm giáo khác nhau, căn khí cũng có năm món khác nhau, Đà-ra-ni trong Năm giáo. Các giáo lý trong đó gồm có ba căn: Thượng, Trung, Hạ, trong kinh Mạn-trà-la Sớ cũng có nói, Đà-ra-ni thông suốt đầy đủ các căn hơn kém. Môn tuỳ tự ý: Tất cả Đà-Ra-Ni đều hợp với viên căn không thể nghó bàn. Cho nên Phật Đảnh Tụng chép: Thần thông thắng hoá không thể nghó bàn, Đà-Ra-Ni là môn bậc nhất, nay có người chưa hề khen ngợi Mật giáo, mà phần nhiều cho rằng tạng Đà-Ra-Ni chỉ hợp với hạ căn. Đây là lời nói rất sai lầm. Nhưng trong các kinh Đà-Ra-Ni hoặc gọi Tối Thượng Thừa, hoặc gọi Vô Thượng Thừa, hoặc gọi Kim Cương Thừa, hoặc gọi Bất Tư Nghì Thừa, đâu phải là chỉ hợp với hạ căn? Cho nên Ngài Thanh Lương nói rằng: Lấy cạn làm sâu có hợp lý không? Lấy sâu làm cạn có phải lỗi báng pháp không? Mong người học nên lưu tâm, không nên cố chấp cái nghe trước mà sinh ra khinh chê. Ngũ giáo ở Thiên-trúc (Ấn-độ) và Trung Hoa Hiển Mật cả hai đều rõ mới là người thông hiểu. Từ trước đến đây Hiển Mật đều giảng dạy xong. <詞>VUI MỪNG GẶP ĐƯỢC LỜI TRƯỚC THUẬT NÀY Một đời Thánh giáo của đức Như Lai không ngoài hai môn Hiển Mật. (Nhân Vương Kinh Sao chép: Tất cả giáo pháp của Đức Phật, không ngoài hai tông Hiển và Mật). Trong Hiển giáo, tuy Năm giáo khác nhau mà một kinh Hoa Nghiêm rất tối tôn, tối diệu, là tuỷ của Chư Phật, là tim của Bồ-tát, đầy đủ cả ba tạng, bao gồm cả Năm giáo (bổn Phạm có mười vạn bài kệ, ở đây đã dịch ra, tám mươi quyển, sáu mươi quyển hoặc bốn mươi quyển, v.v… Tùy căn nghóa rộng rãi bao la, trong đó rất cốt yếu, chỉ riêng một quyển văn kinh, phẩm phổ Hiền Hạnh Nguyện là then chốt của Hoa Nghiêm, bộ máy của việc tu hành, đáng khen ngợi và tôn sùng, các dòng đạo ở Ấn-độ đều y theo đây mà tu hành). Trong Mật bộ, tuy năm bộ có khác mà một chú Chuẩn-đề rất linh diệu và thù thắng, chú là mẹ của Chư Phật, là mạng của Bồ-tát, bao gồm đủ ba mật, bao gồm cả năm bộ (bản Phạm có mười bài kệ, xứ này đã phiên dịch có các bản của các Sư, tuy nghóa thức khác nhau chút ít, nhưng trong đó có phần rất cương yếu thì bản dịch của Tam Tạng Thiện Vô Uý đời Đường là lãnh tụ của các đàn, là thuốc bổ của bảy chúng, đáng để truyền thừa và tôn kính. Các bậc cao đức ở Tây Thiên, Đông Độ đều nương vào đây mà trì tụng). Nay hai tông này chỉ ghi ra đây những pháp linh diệu mà Ngài đã truyền nói. Sau thời kỳ Phật nhập diệt, người đời bây giờ không nghe không biết (không nghe Hiển viên, không biết Mật viên). Cách bảy trăm năm sau đến khi Ngài Long Thọ ra đời mở mang truyền bá cả hai tông Hiển Viên, và Mật viên, rồi đem lưu hành trong thế gian. Nay trong đời Mạt pháp, được gặp Quốc vương Thiên Hựu Hoàng Đế Bồ-tát, trong cả nước như được thuốc bổ lưu thông (tức là hai giáo Hiển Mật). Tôi là một vị tăng tài mọn, may mắn gặp được lòng cảm động vui mừng; ôm hoài bão trọn đời, cũng như người bệnh gặp được linh đơn, thuốc mầu, kẻ nấu bếp được gặp Bảo châu như ý, lòng rất vui mừng hớn hở, bèn sáng tác ra bài thơ ngâm ca tụng rằng: Bao năm hân hạnh, dứt quên sầu, Gặp hai Hiển Mật toại lòng mong. Thần công năm bộ đáng nên nhờ. Mười huyền diệu quán, quán không thôi. Âm cao giọng thấp Chân ngôn chuyển. Thân được đến đi chơi Hoa Tạng Chúng sinh pháp giới việc vui mừng Chỉ nghi vì bởi tại lòng ta. Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu Quyển Hạ. - Hết - <詞>CHUẨN ĐỀ SÁM PHÁP Kinh dạy: Trước khi vào Đạo tràng, nên lễ Phật, sám hối, tuỳ hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện. Nên thọ Giới Bồ-đề Tâm, năm pháp này là khuôn phép sáu thời hành đạo của các vị Bồ-tát. Đầu tiên vào Đạo tràng quỳ gối, chấp tay niệm chú dâng hương. Đọc Chân Ngôn Tịnh Pháp Giới: Ám Lam (7 biến). Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp. Tu Rị, Tu Rị, Ma Ha Tu Rị, Tu Tu Rị Ta Bà Ha (3 lần) Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn: Án Ta Phạ Bà Phạ Thuật Đà Ta Phạ Đạt Mạ Ta Phạ, Bà Phạ, Thuật Độ Hám. (3 lần). Án, Nga Nga Nẵng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hộc (3 lần) Đọc bài nguyện hương: Nguyện hương hoa vân này, Trùm khắp cõi mười phương. Mỗi mỗi cõi Chư Phật Vô lượng hương trang nghiêm Đầy đủ đạo Bồ-tát Thành tựu hương Như Lai. Chân ngôn Phổ lễ: Án Phạ Nhựt Ra Vật, (7 lần). Đảnh Lễ: Nhất tâm Đảnh Lễ Thế tôn A-súc. Nhất tâm Đảnh Lễ Thế tôn Bảo Sinh. Nhất tâm Đảnh Lễ Thế tôn Quán Tự Tại Vương. Nhất tâm Đảnh Lễ Thế tôn A-di-đà ở thế giới Cực Lạc. Nhất tâm Đảnh Lễ Chư Phật, Thế tôn trong Pháp Giới mười phương. Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Chuẩn Đề, Đà Ra Ni do Thất-Cu-Chi Phật Mẫu nói. Nhất tâm Đảnh Lễ Tu-đa-la Tạng Nhất thế Đà Ra Ni môn ở thế giới mười phương. Nhất tâm Đảnh Lễ Thất-Cu-Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ-tát trong cung điện Tỳ-lô-giá-na. Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Quán Tự Tại. Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Di-lặc. Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Hư Không Tạng Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Phổ Hiền Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Kim Cương Thủ Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Địa Tạng Vương Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Vô Năng Thắng Nhất tâm Đảnh Lễ Đại Bồ-tát Đại Thế Chí Nhất tâm Đảnh Lễ tất cả Đại Bồ-tát trong các thế giới ở mười phương. Nhất tâm Đảnh Lễ Ma-ha Ca-diếp Tôn Giả, các Đại Thanh Văn Tăng. Nhất tâm Đảnh Lễ tất cả Hiền Thánh Tăng Ba thừa trong các thế giới ở mười phương. Sám Hối: Ngã đệ tử… dốc lòng sám hối Đại Thánh Chuẩn Đề Tôn Tất cả Hiền Thánh chúng Kim thân như tiền thân Các nghiệp ác đã gây Các tội đều sám hối (ba lễ). Khuyến thỉnh: Ngã đệ tử… dốc lòng khuyến thỉnh Tất cả Phật mười phương Hiện tại thành đạo giả Ngã thỉnh xoay pháp luân An vui các chúng sinh Tất cả Phật mười phương Nếu muốn nhập Niết-bàn Nay con đều mặt lễ Khuyến thỉnh ở đời lâu (ba lần). Tùy hỷ: Ngã đệ tử… dốc lòng tùy hỷ Các Như Lai ba đời Bồ-tát Thanh Văn chúng Người tu tập ba thừa Cho đến loại phàm phu Tất cả các phước lành Phát nguyện: Hồi hướng: Thí, giới, thiền định, tuệ Nhẫn nhục và tinh tấn Nay con đều tùy hỷ (ba lễ). Ngã đệ tử… dốc lòng phát nguyện Nguyện các chúng sinh thảy Đều phát tâm Bồ-đề. Dứt hẳn các phiền não Sẽ chứng Nhất thế trí Lại nguyện nay con tu Hạnh bí mật Chuẩn-đề Các sở cầu Tất-địa, Tùy tâm mau thành tựu (ba lễ) Ngã đệ tử… dốc lòng hồi hướng Phước sở tu của tôi Cùng với hạnh chân ngôn Hồi hướng các hữu tình Cộng thành đạo vô thượng Lại dùng nay sở tu Lễ bái và sám hối. Khuyến thỉnh và tùy hỷ Phát nguyện hồi hướng thiện Đều thí cho chúng sinh Dứt hẳn khổ ba đường Đồng đến đạo Bồ-đề, Biển pháp giới chân như (ba lễ). Chân Ngôn Diệt Tội của bảy Đức Phật (ba lễ). Ly bà ly bà đế cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ ly nễ đế, ma ha già đế, chân lăng càn đế ta bà ha. <詞>VÀO ĐẠO TRÀNG TRÌ CHÚ CHUẨN-ĐỀ, CÁCH NGỒI KIM CƯƠNG TỌA (Nghóa là lấy gác bàn chân mặt lên trên vế chân trái, hoặc tùy ý ngồi cũng được). Hai Tay Kiết Ấn Tam-muội: (Nghóa là lấy bàn tay mặt duỗi ngay ra, để ngửa lên bàn tay trái, rồi hai ngón tay cái giáp móng với nhau). Để ngang dưới rún, thân cho ngay thẳng, tâm cho an tịnh. Rồi tưởng trên đỉnh đầu mình có một chữ Lam: rất tròn sáng như ngọc quý, hay như mặt trăng rằm. Khi tưởng như vậy rồi xả ấn Tam-muội lên trên Đảnh, tay trái kiết ấn Kim Cương quyền (Nghóa là lấy ngón tay cái bấm vào ngón áp út ở giáp bàn tay rồi bốn ngón tay kia nắm chặt lại hình như tay cầm), rồi tay mặt lần chuỗi mà tụng như sau đây. Chú Tịnh Pháp giới: Án lam (108 lần). Chú Hộ thân: Án Xỉ Lâm (108 lần). Chú Lục Tự Tại Minh: Án Ma Ni Bát Di Hồng (108 lần). Khi tụng xong chú nói trên, thì xả ấn Kim cương quyền trên đảnh, rồi quỳ xuống tụng bài kệ chú Chuẩn-đề: Chuẩn-đề công đức nhóm Tâm vắng lặng thường tụng Tất cả các đại nạn Không xâm hại người này Thiên thượng và nhân gian Thọ phước bằng như Phật Ngộ châu này như ý Được phước không ai bằng. Nam Mô Thất-Cu-Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn-đề Vương Đại Bồ-tát (ba lần rồi lạy). Lúc lạy xong, ngồi kiết già và kiết ấn Chuẩn-đề, lấy ngón áp út và ngón út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay, dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ vào, vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa, còn hai ngón tay cái thì đè trên lóng giữa của ngón tay áp út bên mặt, rồi để ấn ấy ngang ngực, dốc lòng tụng một trăm lẽ tám biến chú Chuẩn-đề và chú Đại Luân Nhất tự như vầy: Nam-mô Tát Đa Nẫm Tam Miệu Tam Bồ-Đề Đà Cu Chi Nẫm, Đát Thiệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm. (tụng 108 lần) muốn trì tụng nữa thì tùy lòng. Nên tụng từ chữ Án trở xuống “Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha Bộ Lâm”. Tụng ký số làm chừng như trên, hoặc trì nhiều hơn cũng tốt, khi niệm đủ rồi muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đảnh, kế dùng tay mặt kiết ấn Kim cương quyền mà ấn theo thứ lớp năm chỗ sau đây: Trên đảnh. Vai bên trái. Vai bên mặt. Ngang ngực. Cổ họng. Trong lúc tay ấn vào năm chỗ ấy, thì miệng đọc thần chú: “Hồng Hồng”, cho liên tục, chừng nào đủ năm chỗ rồi, thôi tụng xả ấn lên đảnh đầu, và tụng: Nay tôi trì tụng Đại Chuẩn-đề Liền phát nguyện Bồ-đề rộng lớn. Nguyện con định huệ mau tròn sáng Nguyện con công đức đều thành tựu Nguyện ngã phước tốt khắp trang nghiêm Nguyện cùng chúng sinh thành Phật đạo Các nghiệp ác xưa con đã gây Đều do tham, sân, si vô thỉ Tùng thân, ngữ, ý mà sinh ra Nay con đều sám hối tất cả Thân Phật A-di-đà sắc vàng Tướng tốt sáng rực chẳng ai bằng Lông trắng mềm mại năm Tu-di, Mắt xanh trong suốt bốn biển lớn, Trong ánh hóa Phật vô số ức Chúng hóa Bồ-tát cũng vô biên Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh Chín phẩm hàm linh lên bờ kia. Nam-mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Nam-mô A-Di-Đà Phật (108 lần) Nam-mô Quan Thế Âm Bồ-Tát (10 lần) Nam-mô Đại Thế Chí Bồ-Tát (10 lần) Nam-mô Chuẩn-đề Vương Bồ-Tát (10 lần) Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-Tát (10 lần) Nguyện khi con sắp sửa qua đời Trừ hết tất cả chướng ngại Tận mặt thấy Phật A-di-đà Liền được vãng sinh nước Cực Lạc Tự Quy Y Phật Xin nguyện chúng sinh Hiểu rõ đại đạo Phát tâm vô thượng Tự Quy Y Pháp Xin nguyện chúng sinh Vào sâu kinh tạng Trí tuệ như biển Tự Quy Y Tăng Xin nguyện chúng sinh Quản lý đại chúng Tất cả vô ngại Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả. Chúng con và chúng sinh Đều cộng thành Phật đạo. ---------------------------------------- <詞>CÁCH DÙNG KÍNH ĐÀN (Mua cái kính (kiến) tròn mới chưa dùng soi mặt, đường kính độ bảy phân tây). Đem kính tròn xông trầm. Đến 10 giờ đêm tối ngày rằm, trước tượng Chuẩn-đề, xoay mặt về hướng Đông, tượng ngó về hướng Tây. Hành giả ngó về hướng Đông, cúng dường hoa hương trang nghiêm, xông hương an tức và tịnh thủy. Kiết ấn Chuẩn-đề, trì chú một trăm lẻ tám biến vào kính đàn (tức là thanh tựu Đàn pháp). Mỗi khi tụng niệm, để kính trước mặt, tụng xong bỏ kính vào trong đãy vải cất, khi đi đâu đem theo để hộ thân. Phương pháp an bố chín chữ Thánh Phạm Chuẩn-đề: Hành giả trước khi trì chú, hoặc sau khi trì. An bố khắp thân phần, được vô lượng phước đức. Hoặc mỗi khi ngồi thiền, quán tưởng chín chữ an khắp thân thể, rất là nhiệm mầu: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Án: An ký trên đảnh, Ánh sáng như mặt trăng, Phóng ra vô lượng sáng Trừ diệt tất cả chướng Chiết: An ký nơi đôi mắt Mầu sáng như nhật nguyệt Chiếu phá mọi tối tăm Phát sinh trí tuệ minh. Lệ: An ký nơi cổ Màu sáng xanh lưu ly Hiển bày các sắc tướng Đầy đủ trí Như Lai Chủ: An ký ở tim Mầu trong trắng như tơ Khiến tâm được thanh tịnh Mau đến đạo Bồ-đề Lệ: An ký hai vai Mầu sáng như vàng ròng Người quán tưởng chữ này Thường mặc giáp tinh tấn Chuẩn: An ký ở tại rún Màu sắc vàng trắng đẹp Chóng lên diệu đạo tràng Không thối tâm Bồ-đề. Đề: An ở hai bắp vế Mầu sáng vàng hơi lợt Mau chứng đạo Bồ-đề Được ngồi tòa Kim Cương Ta Bà: An ở hai bắp chân Sắc mầu đỏ rực rỡ Nếu thường quán chữ này Mau xoay được Pháp Luân Ha: An ở hai bàn chân Ánh sáng như trăng tròn Hành giả quán chữ này Mau đến đạo viên tịch. ------------------------------------ <詞>VÀO NHÀ MỚI Khi cất nhà mới, đến ngày nhập trạch thì lấy một cái chén mới (Lâu nay chưa dùng) đựng nước trong, lấy giữa dòng nước trong lúc nửa đêm, rồi tay trái kiết ấn Bảo Thủ: (là lấy ngón giữa và ngón áp út, co lại bấm vào lòng bàn tay, mà giơ ngón cái, ngón trỏ và ngón út thẳng lên) rồi bưng chén nước, còn tay mặt thì kiết ấn cát tường. (Nghóa là lấy ngón tay cái co lại bấm vào đầu ngón áp út và giơ ngón trỏ, ngón giữa và ngón út lên rồi vẽ chữ Lam: vào chén nước, sau đó tụng hai mươi mốt biến Chuẩn-đề có nghi dưới đây), rồi đứng giữa nhà, lấy tay nhúng nước đó mà rải cả tám phương, trên, dưới. Sau lại dùng son viết chín chữ Phạm của Chú Chuẩn-đề như vầy vào giấy vàng. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Ba Ha: Rồi đem dán trên các cửa và dốc lòng cầu nguyện Phật để tụng chú ấy suốt ba đêm, thì nhà ở được yên ổn, không có quỷ quái nhiễu loạn mà lại được sự tốt đẹp. Nhà đương ở mà sinh yêu quái thì cũng làm như trên. Trị Quỷ Mị Làm đau ốm. Bị quỷ mị làm đau ốm, thì lấy cành dương liễu hay nhánh thạch lựu, mắt nhìn vào nhánh cây, miệng chăm tụng chú Chuẩn-đề một trăm lẻ tám biến rồi lấy nhành cây ấy mà đập, phủi trên mình người đau thì liền lành bệnh. Nếu người bệnh ở xa, cũng làm phương pháp ấy; gia trì trong nhánh cây một trăm lẻ tám biến, rồi đem về phủi trên mình người bệnh. Trẻ em bị bệnh hay khóc đêm. Mua chỉ năm mầu về, nhờ một bé gái nhỏ se lại, rồi mình cầm chỉ ấy tụng một biến chú Chuẩn-đề rồi gút lại một gút, cứ tụng và gút luôn cho đủ hai mươi mốt gút, rồi lấy chỉ đeo vào mình đứa nhỏ, bệnh sẽ lành ngay. Nếu trong thân người các chi tiết bị đau nhức, nên gia trì thần chú vào tay hai mươi mốt biến mà xoa vào chỗ đau, cũng được lành bệnh. (Muốn trị bệnh theo pháp này, phải là người trì chú tu hành trong thời gian lâu dài mới có hiệu nghiệm). (Còn người mới tụng Phạm âm chưa thuần, tâm không chuyên nhất, không hiệu nghiệm mà đắc tội nặng. Khi nào tự chữa cho mình lành bệnh, rồi mới trị cho người). Người bệnh nặng: Niệm chú Chuẩn-đề trong chỉ năm mầu, cứ niệm mỗi câu gút một gút, cho đủ số một trăm lẻ tám gút đeo trên cổ người bệnh thì được lành bệnh. Nếu người ở xa, nên vẽ hình người bệnh, rồi nhìn vào hình, xưng tên một lần, trì chú một biến, cho đến khi đủ một trăm lẻ tám lần, rồi mới lấy chỉ đó đeo vào hình người, thì bệnh cũng lành. Lúc đi đường, vào rừng đi tàu, thuyền, phải nên nhớ tụng chú Chuẩn-đề để hộ thân và tránh khỏi tai nạn. ----------------------------------------- <詞>CHÂN NGÔN TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT ĐẠI QUÁN ĐẢNH QUANG Kinh Bất không Quyên Tác Thần Biến chép: Nếu các chúng sinh gây ra đủ mười điều ác, năm tội nghịch bốn tội trọng, tội số như cát bụi, đầy khắp thế giới. Khi chết bị đọa vào các đường ác. Gia trì chân ngôn này vào đất cát thật sạch cho đủ một trăm lẻ tám biến, rồi rải trên thi hài người chết, hoặc trên mồ mả họ, người chết kia nếu ở địa ngục, ngạ quỷ, tu la, súc sinh v.v… Nhờ oai lực gia trì của chân ngôn, nhờ năng lực thần thông của chú lực, bấy giờ liền được ánh sáng của Chư Phật rọi vào thân và trừ được các quả báo, bỏ thân khổ sở, vãng sinh về cõi Cực Lạc Tây Phương, hoa sen hóa sinh, thẳng đến thành Phật không còn bị đọa lạc. Chân Ngôn Án: A: Mộ Già: Vó Lô Tả Nẵng Ma Hạ Mẫu Nại Ra: Mạ Ni Bát Nạp mạ: Nhập phạ: Ra: Bát ra: Mạt: Đa: Dã: Hồng: ------------------------------------ <詞>PHƯƠNG PHÁP RẢI CÁT Lấy cát ở giữa lòng sông đem về phơi khô, trộn vào ít châu sa, thần sa, để trong chén sạch. Tay kiết ấn Bảo Thủ bưng chén cát, còn tay mặt kiết ấn Cát Tường. Mắt ngõ vào chén cát, miệng tụng thần chú Tỳ-lô một trăm lẻ tám biến làm chừng, gia trì trong ba đêm, rồi rải cát ấy trên môg mả hay thi hài người chết trùng, hay chết bất đắc kỳ tử, mà vong nhân không siêu được, làm phương pháp này liền được siêu sinh, hoặc viết thần chú này trên vải, giấy vàng rồi đắp trên thi hài người chết, vong họ sẽ nhờ chú lực mà được siêu sinh về cõi Phật. Đại Bảo Quảng Bát Lầu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà-Ra-Ni Nẵng: Mồ: Tát: Phạ: Đát: Tha: Nghiệt: Đa: Nẫm: Án: Vó: Bổ: Lã: Nghiệt: Bệ: Mạ: Nó: Bát ra: Bệ: Đát: Tha: Đa: Nễ: Nại: Xả: Nỉnh: Ma: Nó: Ma: Nó: Tô: Bát ra: Bệ: Vó: Ma: Lê: Ta: Nghiệt: Ra: Nghiễm: Tỷ: Lệ: Hồng: Hồng: Nhập phạ: Lã: Nhập phạ: Lã: Một: Đà: Vó: Lô: Chỉ: Đế: Hủng: Hế dạ: Địa: Sắc sỉ: Đa: nghiệt: Bệ: Ta phạ: Ha: Thần chú này viết chữ Phạn trên chuông, trên bản, trống, trên cờ phướn, trên vách tường. Viết trên giấy, vải đeo trong mình, viết trên áo mặc vào thân. Hoặc đọc hay tụng cho các chúng hữu tình, nghe tiếng nghe danh, liền được tiêu trừ bao tội chướng, ngủ thức được yên ổn thân tâm, không loạn động. Các chúng sinh, mắt thấy, tai nghe, thân chạm xúc đều được tiêu tội thêm phước. Ai thường thọ trì đọc tụng thì thân hiện tại không bị các bệnh khổ, khi qua đời được sinh về các cõi Phật. -------------------------------------------- PHỤ THÍCH : LINH NGHIỆM MỘNG TỐT CỦA NGƯỜI TRÌ CHÚ CHUẨN ĐỀ Tụng mười muôn biến hay hai mươi muôn biến thì trong mộng thấy Phật, Bồ-tát, liền nhổ ra vật đen (vật đen tiêu biểu cho nghiệp ác, mửa ra là tướng tội diệt phước sinh, cho nên tự thấy trong miệng mửa ra vật đen hay cơm đen). Mộng thấy các vị trời, Đường, Tự, Xá, (Nhà, Chùa, Tịnh xá rộng lớn) hoặc lên núi cao, hoặc thấy ở trên cây cao (không bị tội nghiệp hệ lụy, cho nên được thăng lên, đây là nhân lành được thành tựu, nên thấy cõi trời, Tự, Xá). Hoặc thấy ở trong ao lớn tắm gội (Là diệt trừ tội cấu được thân thanh tịnh). Hoặc mộng thấy thân bay lên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc, cho nên thân bay lên nhẹ nhàng) hoặc thấy cùng các Thiên nữ an vui sung sướng. (Được sức giữ gìn gốc lành tương ưng, nên cùng thấy vui sướng). Hoặc thấy nói pháp (Được thị giáo lợi hỉ). Hoặc thấy râu tóc rơi rụng (Râu tóc rơi rụng là pháp tây quốc ngoại đạo, râu tóc rơi rụng đều tiêu biểu dứt trừ cội gốc phiền não). Hoặc nói rằng thấy thân mình cạo bỏ râu tóc). Hoặc thấy ăn sữa cơm, uống nước cam lồ (Thấy ăn sữa cơm là thành tựu được phước lành của thế gian, uống nước cam lộ là được pháp vị xuất thế). Hoặc vượt qua sông, suối, biển lớn (được ra khỏi biển khổ). Hoặc leo ngồi trên tòa sư tử (được tòa Pháp Vương). Hoặc thấy cây Bồ-đề (Là thấy tướng đạo). Hoặc cỡi thuyền (Là nương thuyền bát nhã, là được tướng đến bờ giải thoát. Kinh Tô-Tất-Địa chép: Hoặc thấy cỡi sư tử, cỡi trâu trắng, nai trắng, ngỗng trắng, v.v… đều là tướng Tất-địa thành tựu) Hoặc thấy Sa-môn (Được lìa thế nhiễm mà ra khỏi ba cõi). Hoặc thấy cư só mặc áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là tiêu biểu cho chánh, trắng là tiêu biểu cho tịnh, tức là lấy chánh pháp bạch tịnh mà che chở). Hoặc thấy mặt trời, mặt trăng (tiêu biểu cho phá phiền não vô minh ám). Hoặc thấy các đồng nam, đồng nữ (không bị phiền não tham dục làm ô nhiễm). Hoặc thấy trên cây có nhũ quả (Nhũ là trắng, trắng là nghiệp thiện, nghóa là được thiện nghiệp quả báo thế gian, xuất thế gian). Hoặc thấy người hắc trượng phu trong miệng tuôn ra lửa hừng hẫy, đấu chiến với họ được thắng (Nghóa là cộng chiến với phiền não ma mà được thắng). Hoặc thấy ác mã, trâu nước muốn đến húc người trì tụng thần chú. Người trì chú hoặc đánh, hoặc nạt nộ, sợ mà bỏ chạy (Nghóa là đối với si ma phiền não, mà được thắng). Hoặc ăn sữa, cháo, cơm bơ (Là được thành tựu thượng vị phước thiện). Hoặc thấy Hoa Tô-Ma-Na (Hoa ở đây nói là hoa xứng ý, mầu vàng trắng mà rất thơm, cây cao ba, bốn thước rũ xuống che như tàng lọng. Nghóa là tiêu biểu thiện pháp sở cầu quyết được xứng ý. Hoặc thấy có mùi thơm, bạch hoa hương tiêu biểu cho hương của năm phần pháp thân. Nghóa là được năm phần thiện nghiệp). Hoặc thấy quốc vương (Nghóa là được đại nhân hộ niệm được thắng nghiệp tôn quí). Nếu không thấy những cảnh giới như vậy thì phải biết người đó đời trước đã gây ra năm tội vô gián, nên càng phải trì tụng mãn bảy mươi muôn biến, chín mươi muôn biến, trăm muôn biến, liền thấy những cảnh giới như trên, nên biết đó là tội đã diệt, liền thành hạnh tiên. Những cảnh giới mộng tốt như trên, đều là tướng chứng nghiệp thành tựu của hành giả. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 170