<經 id="n1937">GHI CHÉP VỀ GIÁO VÀ HẠNH CỦA TÔN GIẢ TỨ MINH (QUYỂN 1 7) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN GHI CHÉP VỀ GIÁO VÀ HẠNH CỦA TÔN GIẢ TỨ MINH Sa-môn Tông Hiểu ở Thạch Chi thuộc Tứ Minh biên tập. <卷>QUYỂN 1 LỜI TỰA Đại sư Trí Giả thuộc tông Thiên Thai, ở giữa hai nước Trần và Tùy, Ngài ngộ Toàn Đà-la-ni của Kinh Pháp Hoa, nối pháp tông pháp tánh, dùng biện tài vô ngại mà phân chia giáo pháp của các Đức Phật trong ba đời, khai sáng Giáo quán tông, đến nay mọi người vẫn còn vậy theo. Ngoài ra Ngài còn đặt các pháp sám hối, cùng những bài văn khắc trên bia mà hai triều vua đã sắc phong, đệ tử Ngài là Thiền sư Chương An bèn tập hợp lại thành sách, đặt tên là “Quốc Thanh Bách Lục”, đặc biệt được Hoàng đế Nhân Tông cho phép đưa và Đại tạng, cùng lưu hành với Kinh Phật, hầu như không còn bỏ sót. Tổ sư của chúng ta mở mang đạo pháp khắp sáu mươi châu, hưng thạnh vào đời Tùy, Đường và suy yếu vào thời Ngũ đại, nhưng pháp thì không có lúc kết thúc, người học theo thì được lợi ích, như chùa Thiên Phước ở Thạch Phổ có Pháp sư Nghóa Thông, Ngài đến từ Cao ly. Đi về phía Nam tham vấn ngài Loa Khê, tức Pháp sư Hy Tịch ở viện Loa Khê của tông Thiên Thai, Ngài đã thông đạt đạo pháp của tông Thiên Thai, và muốn đi mở mang, Đại sư Tiền Công Duy Trị cố lưu giữ lại, và sửa nhà thành chùa lấy tên là Bảo Vân để Sư ở, từ đây đạo tràng hưng thạnh, có hai vị Đại sư có đại thần túc, một là sư Pháp Trí, húy là Trí Lễ, hai là sư Từ Vân, húy là Tôn Thức, Đại sư Pháp Trí lập đạo trạng tại Diên Khánh, mở mang giáo pháp này, thời ấy tôn xưng là Tứ Minh Tôn giả, Đại sư Từ Vân lập đạo tràng Linh Sơn, người đời gọi là Thiên Trúc sám chủ. Ngài Từ Vân sinh vào niên hiệu Càn Đức năm thứ hai, tịch vào niên hiệu Minh Đạo năm đầu, thọ một trăm hai mươi tuổi, người cháu năm đời thành lập Kim Viên và truyền bá ở đời. Sư Pháp Trí sinh vào niên hiệu Kiến Long năm đầu, tịch vào niên hiệu Thiên Thánh năm thứ sáu, cách nay đã hơn một trăm bảy chục năm rồi. Những bài văn do Ngài soạn hoặc ghi chép có hơn ba mượi muôn lời, người đọc đều vâng theo, ngoài ra có một số chương cú giải thích các nghi vấn cho các nhà Nho đến thăm hỏi nhưng đã bị mất hết. Than ôi! Sư nhất tâm giảng sám giữ gìn trong bốn mươi năm, lưng không dính chiếu, những người thích hợp cơ duyên mà thấm nhuần công đức của Ngài thật không thể đếm hết, dẫu tách hết gỗ đá, biên chép trên che lụa, cũng chỉ là một trong ngàn muôn mà thôi. Tông Hiểu tôi là kẻ hậu học không được như Sư, chỉ là học trò trường làng, trộm xem những lời dạy của Sư, tuy là một lời một chữ, mà tất cả đều là pháp của Phật, há lại để cho tùy ý lẫn lộn hoặc mai một hay sao? Thế nên dốc lòng tìm cầu, và chỉ được hơn một trăm bài, lại phân chia theo loại thành bảy quyển, lấy tên là: “Tứ Minh Tôn giả giáo hạnh lục”. Tứ Minh là tên do người tôn trọng Ngài mà gọi, bởi lúc sống Ngài đã đắc đạo và giáo hóa mọi người, cho nên gọi như vậy. Môn đồ của tông Thiên Thai ai cũng y giáo lập hạnh, dùng hạnh hiểu giáo, ngõ hầu giáo và hạnh cùng thành tựu trên đường tu. Sư thường dạy đại chúng rằng: Ta dù đi hoặc ở, hoặc nói hoặc im lặng, đều dùng ý chỉ của giáo quán làm khuôn phép. Thế nên nay dùng chữ giáo hạnh để đặt tên, đây cũng là chí của Tôn giả. Lớn lao thay! Bản văn này đã hoàn thành, nguyện cùng với tập “Quốc Thanh Bách Lục” và “Thiên Trúc Kim Viên” đứng vững như đảnh ba chân, truyền bá đến đời sau, tiếp nối đạo Tổ. Nếu như có chỗ nào thiếu sót, mong bậc hiền triết đời sau hễ thấy nghe được gì thì thêm vào, đó là đều tốt đẹp. Tháng 12 năm Nhâm tuất niên hiệu Gia Thái năm thứ hai, Tỳ- kheo Tông Hiểu kính ghi lời tựa. <詞>NIÊN PHÓ VỀ TÔN GIẢ Hoàng đế Thái Tổ đời Tống lúc mới lên ngôi đã đổi niên hiệu Hiển Đức năm thứ bảy đời Chu Thành niên hiệu Kiến Long, năm đầu là Canh thân, tháng giêng năm này, Thái Tổ được vua nhà Chu truyền ngôi, nay xét theo bài minh trên tháp và tập “Toàn Thập Lục” của các môn đồ thì Sư thọ được sáu mươi chín tuổi, thị tịch vào năm Mậu thìn. Nếu dựa theo tập “Hạnh Nghiệp Ký” do Thành Hiến Công đời Triệu soạn thì Sư thị tịch vào niên hiệu Thiên Thánh năm thứ năm, tức là lầm. Nay đi ngược lại từ năm Giáp tý, thì đúng là sự sinh vào năm Canh thân, tức năm Thái Tổ lên ngôi, há chẳng phải là bậc chân nhân ứng vận thì hiền triết giáng sinh sao. Sư tên húy là Trí Lễ, tự là Ước Ngôn, Hoàng đế Chân Tông ban hiệu là Pháp Trí Đại sư, thời ấy xưng là Tứ Minh Tôn giả, mang họ Kim là dòng dõi của Kim Nhật Ngạc (sách Tây Hán chép: Kim Nhật Ngạc là con của vua Hưu Đồ nước Hung Nô. Di Địch mất nước, bị bắt theo nhà Hán mà rất trung thành hiếu kính, bảy đời làm nội thị. Nhà Hán vốn cho rằng Hưu Đồ là người Kim cho nên ban họ là Kim), đời sau là người ở huyện Ngân, cha Sư tên là húy là Kinh, mẹ là họ Lý, ban đầu vì chưa có con nối dõi nên thành tâm cầu Phật. Một đêm bỗng nằm mộng thấy có vị tăng dắt đứa bé đến nói rằng: đây là La-hầu-la. Sau đó sinh ra Sư và lấy đó để đặt tên. Năm thứ hai là năm Tân Dậu, năm thứ ba là năm Nhâm Tuất, niên hiệu Càn Đức năm đầu tức năm Quý Hợi, năm thứ hai là năm Giáp Tý, năm thứ ba là năm Ất Sửu. Năm thứ tư là năm Bính Dần, lúc này Sư được bảy tuổi bài minh trên tháp viết: năm lên bảy thì Sư mất mẹ, nghó đến công sinh dưỡng không dễ gì báo đáp, nên Sư khóc mãi không thôi, do đây mà nhàm chán thế gian, muốn đi xuất gia. Cha của Sư lấy làm lạ nên không ngăn cản ý chí của Sư, sau đó Sư đến chùa Thái Bình Hưng Quốc làm đệ tử vị tăng tên là Hồng Soạn. Trong bài tựa của tập Thiên Trúc Chỉ Yếu Sao chép: “Sư lúc nhỏ vừa đọc kinh liền đã suy nghó ý nghóa, căn tánh đặc biệt, chẳng phải là căn tánh bậc thượng sao?” Năm thứ năm là năm Đinh mão, năm thứ sáu là năm Mậu thìn, năm này đổi niên hiệu là Khai Bảo năm thứ nhất, năm thứ hai là năm Kỷ tî, năm thứ ba là năm Canh ngọ, năm thứ tư là năm Tân mùi, năm thứ năm là năm Nhâm thân, năm thứ sáu là năm Quý dậu. Năm thứ bảy là năm Giáp tuất, bấy giờ Sư được mười lăm tuổi, bài minh trên tháp viết: năm mười lăm tuổi Sư thọ giới cụ túc, chuyên nghiên cứu về luật. Năm thứ tám là năm Ất hợi, năm thứ chín là năm Bính tý, năm nay Hoàng đế Thái Tông mới lên ngôi, đổi niên hiệu là Thái Bình Hưng Quốc năm thứ nhất. Năm thứ hai là năm Đinh sửu, năm thứ ba là năm Mậu dần, năm thứ tư là năm Kỷ mão, lúc này Sư đã hai mươi tuổi. Tập Hành Nghiệp Ký chép: năm hai mươi tuổi Sư rời quê hương đến Pháp sư Thông ở Bảo Vân và được truyền dạy về ý nghóa của tông Thiên Thai, mới ba ngày vị Thủ tọa bảo Sư rằng: pháp giới thứ lớp ông phải hành trì. Sư hỏi: thế nào là pháp giới? Đáp: Đại tổng pháp tướng, viên dung vô ngại. Sư nói: đã là viên dung vô ngại thì sao có thứ lớp. Vị Thủ tọa không trả lời được, Sư ở lại đây một tháng, tự giảng Kinh Bát nhã, mọi người đều kinh ngạc và cung kính truyền tụng. Năm thứ năm là năm Canh thìn, Tập Bảo Lục chép: Sư ở lại chùa Bảo Vân hai năm, cha Sư bỗng nhiên mộng thấy Sư quỳ trước Pháp sư Thông, Pháp sư cầm bình nước rót vào miệng và Sư liền đốn ngộ ý chỉ. Năm thứ sáu là năm Tân tî, bấy giờ Sư hai mươi hai tuổi, Tập Hành Nghiệp Ký chép: Sư ở lại chùa Bảo Vân đến ba năm, thường thay thế Pháp sư Thông giảng kinh, đọc đến đâu thì hiểu nghóa đến đó và càng mở rộng sự học của mình. Năm thứ bảy là năm Nhâm ngọ, năm thứ tám là năm Quý mùi, năm Giáp thân thì đổi niên hiệu là Ung Hy năm thứ nhất, năm thứ hai là năm Ất dậu, năm thứ ba là năm Bính tuất, năm thứ tư là năm Đinh hợi. Năm Mậu tý đổi niên hiệu là Đoan Củng năm thứ nhất, lúc này Sư ở chùa Bảo Vân đã mười năm, và đúng lúc Pháp sư Thông viên tịch. Thạch Tháp Ký chép: “Pháp sư Thông thọ sáu mươi hai tuổi, tịch vào niên hiệu Đoan Củng năm đầu, đệ tử là Trí Lễ và Tuân Thức cùng kính tiếc bậc cao minh”. Năm thứ hai là năm Kỷ sửu, năm thứ ba là năm Canh dần, năm này đã đổi niên hiệu là Thuần Hóa năm thứ nhất, năm thứ hai là năm Tân mão, lúc này Sư ba mươi hai tuổi và ở đây đang tuyển chọn vị trụ trì. Tập Bảo Lục chép: Năm Tân mão thuộc niên hiệu Thuần Hóa. Sư nhận lời mời và trụ chùa Càn Phù, trải qua bốn lần cúng tế, Sư trụ viện Bảo Ân. Tập Giới Thệ Từ chép: ta ở chùa Bảo Vân đã gặp chim hạc, bắt đầu dời đến viện nhỏ Tây Thiên chùa Càn Phù (chùa Càn Phù sau đổi thành chùa Thừa Thiên, nay là chùa Năng Nhân, viện nhỏ Tây Thiên nay là viện Pháp Hoa). Ở đây có chỗ ngủ mà không có chỗ thờ, học chúng đến ở cũng không đủ chỗ cho mười người, thật không thích hợp lâu dài, Sư bèn dời đến góc phía Nam thành Đông. Bài tựa Tập Chỉ Yếu chép: Sư ở Càn Phù giảng pháp, mọi người vui vẻ vâng theo, như các dòng nước chảy về biển. Năm thứ ba là năm Nhâm thìn, năm thứ tư là năm Quý tî, năm thứ năm là năm Giáp ngọ, năm Ất mùi thì đổi niên hiệu là Chí Đạo năm thứ nhất. Năm thứ hai là năm Bính thân. Tập Sử Thiếp chép: Tháng bảy niên hiệu Chí Đạo năm thứ hai, vị chủ viện là Lãng Hiển Thông giao phó viện Bảo Ân cho ngài Trí Lễ, từ đây làm trụ trì ngôi thường trụ, truyền bá giáo pháp tông Thiên Thai. Tập Giới Thệ từ chép: vào mùa thu năm Bính thân thì viện đã hư hại nhiều, trải qua hơn mười năm sửa sang, đến năm Kỷ dậu thì hoàn thành, Thạch Công ghi lại sự việc khắc vào bia đá, cho đến năm Nhâm tý thì đã yên ổn cho mọi người đến học, ròng rã suốt mười bảy năm. Năm thứ ba là năm Đinh dậu. Tập Bảo Ân Viện Ký chép: viện này xây dựng đã lâu, ngày càng hư hại nhiều. Đến niên hiện Chí Đạo thứ ba bắt đầu sửa sang, có vị tăng là Giác Viên cũng phát tâm giúp sức lo liệu. Trải qua mấy năm mới hoàn thành. Điện Phật ở phía trước, nhà Tăng ở phía sau, tất cả đều sáng sủa đẹp đẽ, bên phải có chỗ để kinh và bên trái là phương trượng, tiện lợi cho việc sinh hoạt. Năm Mậu tuất, Hoàng đế Chân Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Hàm Bình năm thứ nhất. Năm thứ hai là năm Kỷ hợi, bấy giờ Sư được bốn mươi tuổi, Tập Bảo Lục chép: Từ niên hiệu Hàm Bình năm thứ hai về sau, Sư chỉ chú trọng về sám hối, ngồi mãi không nằm, chân không bước ra ngoài, những người muốn đến thăm hỏi Sư đều không tiếp. Năm thứ ba là năm Canh tý, năm này gặp hạn hán lớn, Sư và ngài Thiên Trúc sám chủ cầu mưa và có được cảm ứng. Tập Hành Nghiệp ký chép: năm hạn hán, Sư và ngài Tuân Thức cùng thực hành Quang Minh sám để cầu mưa trong ba ngày, nếu trời không mưa thì sẽ đốt một cánh tay để cúng Phật. Chưa hết thời hạn thì trời đã mưa lớn. Tập Từ Vân Hành Nghiệp Ký chép: niên hiệu Hàm Bình năm thứ ba, vùng Tứ Minh gặp hạn hán, Sư phát nguyện sám hối cầu mưa trong ba ngày, nếu không mưa sẽ tự thiêu cánh tay, quả nhiên lời nguyện của Sư có cảm ứng và trời đã mưa. Thái thú quận ấy lấy làm lạ và khắc vào bia đá chuyện này. Năm thứ tư là năm Tân sửu, năm thứ năm là năm Nhâm dần, năm thứ sáu là năm Quý mão, năm này Quốc sư nước Nhật Bổn phái tăng đến vấn nạn. Bài tựa ghép: năm Quý mão, niên hiệu Hàm Bình năm thứ sáu, vị tăng Nhật Bản là Tịch Chiếu đến hỏi Sư về hai mươi bảy điều khác nhau trong giáo môn Thiên Thai, Sư đã dựa vào giáp pháp mà lược đáp. Năm Giáp thìn, niên hiệu Cảnh Đức năm thứ nhất, bấy giờ Sư được bốn mươi lăm tuổi đã sáng tác tập “Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao”. Lời tựa có chép: Ngày mùng chín tháng giêng năm Giáp thìn, niên hiệu Cảnh Đức thứ nhất. Năm thứ hai là năm Ất tî, năm thứ ba là năm Bính ngọ, năm này Sư đến tham vẫn ngài Thiện Công. Bài tựa chép: Tháng mười hai niên hiệu Cảnh Đức năm thứ ba, Trí Lễ cung kính với tâm vì pháp mà tham vấn Thiết Dương Thiệu thượng nhân. Năm thứ tư là năm Đinh mùi, bài tựa chép: niên hiệu Cảnh Đức năm thứ tư, Tỳ-kheo Trí Lễ cung kính với tâm vì pháp mà hỏi nghóa với Triết Dương Thiệu thượng nhân. Năm Mậu thân đổi niên hiệu là Tường Phù năm thứ nhất, năm thứ hai là năm Kỷ dậu, bấy giờ Sư đã năm mươi tuổi, đã xây dựng xong và khánh thành viện Bảo Ân. Tập Giới Thệ Từ chép: Viện hoàn thành vào năm Kỷ dậu. Thạch Công ghi lại sự việc. Năm thứ ba là năm Canh tuất, năm này vâng theo thánh chỉ mà đổi tên viện Bảo Ân thành Diên Khánh. Viện Bảo Ân xây dựng vào niên hiệu Quảng Thuận năm thứ hai đời Chu, đến niên hiệu năm thứ ba thời Hoàng Triều thì đổi tên là Diên Khánh, niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ mười bốn đổi viện thành chùa. Tập Sử chép: Tháng bảy niên hiệu Tường Phù năm thứ ba, vị tăng là Trí Lễ dâng bản tấu xin đổi viện thành chùa, truyền bá giáp pháp Thiên Thai và đến tháng mười thì được chuẩn tấu. Năm thứ tư là năm Tân hợi, năm thứ năm là năm Nhâm Tý, năm thứ sáu là năm Quý sửu, ngày mười lăm tháng hai năm này sáng lập hội niệm Phật, truyền giới. Tháng mười niên hiệu Tường phù, Sư tự thân sáng tác sớ văn, để giáo hóa mọi người, trải qua một trăm chín mươi năm mà không bỏ phế, từ xưa đến nay số người được giáo hóa nhiều không thể biết hết. Năm thứ bảy là năm Giáp dần, bấy giờ Sư sáng tác tập “Quán Kinh Dung Tâm Giải”, cuối lời tựa có ghi rằng: Ngày mùng chín tháng chín năm Giáp dần, niên hiệu Tường Phù năm thứ bảy. Năm thứ tám là năm Ất mão, năm thứ chín là năm Bính thìn, năm này Sư được năm mươi bảy tuổi. Tập Thập Lục chép: năm năm mươi bảy tuổi, Sư phát nguyện tu Pháp Hoa sám, ba năm viên mãn thì đốt thân cúng dường kinh, nguyện sinh Tịnh độ. Niên hiệu là Thiên hỷ năm này thứ nhất là năm Đinh tî. Bài minh trên tháp chép: niên hiệu Thiên Hỷ năm đầu năm này Sư tuổi đã cao, bèn dạy các đệ tử rằng: người xưa vì muốn nghe nửa bài kệ mà chịu mất thân, vì một câu mà gieo mình vào lửa, tâm cầu pháp của bậc thánh là như vậy, nay ta không thể biếng nhác để hai tổn thân mạng. Rồi Sư tập hợp mười vị tăng, cùng tu Pháp Hoa sám trong ba năm, khi viên mãn thì đều đốt thân. Bấy giờ, Hàn Lâm học só là Dương Ức và Phò mã đô úy là Lý Tuân Cao, đều là quan võ đương triều, rất kính mến đạo hạnh của Sư và mong thấm nhuần ơn giáo hóa, bèn tâu lên vua và sự được ban cà-sa màu tía. Sau đó, Dương Công gởi thư đến tha thiết mời Sư trụ thế, do đây mà hạnh nguyện không thể thực hiện. Năm thứ hai là năm Mậu ngọ, năm thứ ba là năm Kỷ mùi, năm thứ tư là năm Canh dần. Tập Thập Lục chép: Niên hiệu Thiên Hỷ năm thứ tư, Phò mã là Lý Tuân Cao dâng Tập Hành Thập Lục lên vua và vua ban cho Sư hiệu là Pháp Trí. Năm này các vị tăng ở kinh thành gồm hai mươi ba vị, mỗi vị làm một bài thơ tặng Sư, và sau đó viết lời tựa khắc vào bản đá, bên bài thơ ghi rằng: Ngày ba mươi tháng chín năm Canh thân. Năm thứ năm là năm Tân dậu, bấy giờ được sáu mươi hai tuổi, năm này triều đình ban lịnh tu pháp sám hối. Tập Hành Nghiệp Ký chép: Hoàng đế Chân Tông nghe danh tiếng Sư, bèn sai Trung Quýđến chỗ Sư ở và ban lịnh tu Pháp Hoa sám, vua sẽ ban lời tựa. Lúc này có Du Tử muốn hiểu biết về chỉ thú của sám pháp nên Sư chỉ dạy, và Sư đã soạn tập Biệt Hành Huyền Sớ Ký, trên đề ghi rằng: tháng 08 niên hiệu Thiên Hỷ năm thứ năm. Và Sư cũng có soạn tập Quán Kính Diệu Tông Sao, trên đề ghi: niên hiệu Thiên Hỷ ngày mùng chín tháng chín năm thứ năm. Niên hiệu là Càn Hưng thứ nhất là năm Nhâm tuất, năm thứ hai là năm Quý hợi, năm này Hoàng đế Nhân Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Thánh năm thứ nhất, năm này Sư sáng tác tập: Quang Minh Thập Di Ký, lời tựa ghi: Ngày ba mươi tháng tư niên hiệu Thiên Thánh năm thứ nhất. Sư lại vì Phan Truân Điền mà soạn tập Mộng Ngự, lại soạn bốn mươi hai chương để để khảo thí các học trò, và trả lời mười câu hỏi Phật pháp về Thiền Tông. Năm thứ hai là năm Giáp tý, năm thứ ba là năm Ất sửu, vào thời Hoàng đế Chân Tông niên hiệu Thiên Hỷ có ban chiếu cho dân chúng trong nước lập ao phóng sinh, Sư muốn giáo hóa rộng nên mỗi khi gặp mọi người đều khuyến khích việc phóng sinh, và đã lập bia nói về phóng sinh, Lưu Đào soạn văn, Thái thú sai Tăng Hội khắc vào bia đá, trên ấy ghi: Ngày mười lăm tháng bảy niên hiệu Thiên Hỷ năm thứ ba. Một đêm, Sư bỗng mộng thấy Tương Công đi vào viện, hôm sao thì con của Tăng thái thú đến và sự việc trùng hợp như trong mộng. Hoàng phu nhân nước Sở dân tài sản để cúng dường, lại viết thư xin Tăng thái thú phần đất sau vườn mãi mãi làm Đặc-già-lam, cũng vào năm này. Năm thứ tư là năm Bính dần, năm thứ năm là năm Đinh mão, Sư sáng tác tập Quang Minh Văn Cú Ký gồm sáu quyển, trên đề rằng: Ngày mùng ba tháng mười hai niên hiệu Thiên Thánh năm thứ hai. Nhưng lúc này Sư đã gần quy tịch, nên không kịp soạn cho trọn bộ, sau đó đệ tử Sư là Pháp sư Quảng Trí tiếp tục soạn thêm một phẩm tán Phật, cho nên mới trọn bộ. Năm thứ sáu là năm Mậu thìn, năm này Sư thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi, theo tập Thập Lục thì Sư tịch vào giờ Tuất ngày mùng năm tháng giêng niên hiệu Thiên Thánh năm thứ sáu, Sư ngồi kiết già, nói pháp cho đại chúng nghe xong, bèn xưng danh hiệu A-di-đà Phật mấy trăm tiếng rồi im lặng mà hóa. Thi thể để qua hai mươi bảy này, tóc và móng tay đều dài, mặt vẫn tươi như lúc còn sống, lại thêm bảy ngày nữa mới đem ra ngoài cửa Nam để thiêu, trước là nghe mùi hương lạ thơm phức, sau khi thiêu xong thì cái lưỡi vẫn còn nguyên và có rất nhiều xá lợi năm mầu (Xá-lợi còn giữ trong bình lưu ly và thờ tại lầu đại bi). Qua năm năm sau, vào ngày hai mươi chín tháng bảy niên hiệu Minh Đạo năm thứ hai thì thỉnh linh cốt về xây tháp ở bên trái viện Sùng Pháp. Tông Hiểu tôi đã đọc Cao Tăng truyện cùng các sách khác, mà thấy Tổ sư chúng ta là ngài Pháp Trí dùng pháp cúng dường, hưng khởi đại giáo, xây chùa tạo tượng, gieo trồng phước đức, cho nên khi thiêu rồi mà lưỡi vẫn còn và có vô số xá-lợi, mùi hương lạ bay khắp. Còn như Ngài theo lời khuyến khích của Dương Công mà trụ thế, há cho rằng nhất thời ngăn trở đạo của Ngài sao? Huống chi Ngài có đốt ba ngón tay để cúng Phật, đây cũng là thuộc chi phái xả thân. ------------------------------------- <詞>MỤC LỤC Nghi thức thọ giới Bồ-tát Thành lập hội niệm Phật Pháp sư Giao trao cho huấn từ Pháp sư Lạn trao huấn từ Văn phóng sinh Truyện mộng thấy cá Lời bạt mộng thấy cá Bia khắc khuyên phóng sinh. --------------------------------------------- <詞>NGHI THỌ GIỚI BỒ TÁT: Gồm mười hai phần, thứ nhất cầu thầy trao pháp, thứ hai răn nhắc khuyến tin, thứ ba thỉnh thánh hiền chứng minh, thứ tư trao ba pháp quy y, thứ năm triệu thỉnh Thánh sư, thứ sáu bạch Phật xin giới, thứ bảy sám hối tội lỗi, thứ tám hỏi về già nạn, thứ chín yết-ma trao giới, thứ mười lược nói giới tướng thứ mười một phát thệ nguyện lớn, thứ mười hai kết thúc hồi hướng. Cầu thầy trao pháp Luận rằng người muốn thọ giới Bồ-tát, trước hết phải thỉnh cầu thầy răn nhắc, khai mở đối với tất cả cảnh phải khởi tâm đại bi, nếu không như vậy thì giới không nhờ đâu mà phát khởi. Nay vì đại chúng hiện tiền mà cung thỉnh vị ấy… làm giới Sư trao giới Bồ-tát Đại thừa mọi người phải nhất tâm cầu thỉnh theo tôi, đến chỗ đọc tên thì phải xưng tên mình. Bạch Đại Đức nhất tâm niệm, nay con tên… đến chỗ Đại Đức, xin thọ tất cả tịnh giới của Bồ-tát, cúi xin Đại Đức không nề nếp nhọc, thương xót hứa khả. Răn nhắc khuyến tin. Đại chúng thanh tịnh đồng hội hiện tiền đã cùng nhau cung thỉnh muốn cầu giới pháp thì trước phải phát khởi tín tâm, nếu tín tâm thành tựu thì giới định huệ mới đầy đủ, ba thân bốn trí Phật quả mới có thể mong được, không còn nghi ngờ gì. Một là tin rằng tất cả chúng sinh đều có tánh, hai là tin rằng siêng tu hạnh cao quý mà chứng quả Bồ-đề, ba là tin chắc đều lên quả vị Phật thường, lạc, ngã, tịnh. Cho nên kinh chép: đại chúng tâm tin chắc, ngươi là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành, thường tin tưởng như vậy, giới phẩm đã đầy đủ. Kinh Hoa Nghiêm chép: lòng tin là cội nguồn của đạo, là mẹ sinh ra các công đức, nuôi lớn tất cả các gốc lành, xé rách lưới nghi, lên khỏi sống ái, khai mở đạo Niết-bàn vô thượng. Cho nên biết nếu phát tín tâm sẽ lãnh thọ được giới, giới là bước đầu của muôn hạnh, là nền móng của pháp sáu độ, như xây dựng nhà, trước phải làm nền móng, nếu không có nền móng thì không thể thành tựu. Giới là vốn liếng của đại đạo, là thuyền bè để vượt qua biển cả, biển lớn sinh tử nếu không có giới thì không thể vượt qua, giới là chuỗi anh lạc để làm đẹp pháp thân, giới là gió mát để thổi tan phiền não nóng bức. Giới kinh chép: giới như mặt trời mặt trăng sáng, cũng như chuỗi anh lạc, hằng sa Bồ-tát đều do giới mà thành Chánh giác. Mọi người phải tin tịnh giới Bồ-tát đã thọ, chính là nguồn gốc thành đạo của các Đức Phật trong ba đời ở khắp mười phương, là khuôn phép tu hành của các đại Bồ-tát. Bài kệ trong giới kinh chép: Như các Phật quá khứ Cho đến Phật vị lai Các Phật trong hiện tại Đều cùng tôn kính giới. Kinh chép: Thân công đức của Như Lai ấy việc thọ giới làm gốc, việc giữ giới làm đầu. Lại nói rằng: Nếu không giữ giới, thân dã can lở loét còn không được làm, huống là pháp thân công đức. Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội chép: Tuy có sắc đẹp, sức khỏe và học rộng, nhưng không có tịnh giới thì cũng như cầm thú, tuy ở địa vị thấp hèn ít hiểu biết, mà giữ được tịnh giới thì gọi là người cao quý. Kinh Hoa Nghiêm chép: Giới là gốc của Vô thượng Bồ-đề, cho nên phải giữ tịnh giới đầy đủ, nếu giữ gìn được tịnh giới vững chắc thì được các Như Lai khen ngợi. Kinh Niết-bàn chép: Muốn thấy Phật tánh, chứng đại Niết-bàn, thì phải tín tâm tu trì tịnh giới. Kinh Phạm Võng chép: Chúng sinh thọ giới của Phật, tức bước lên địa vị Phật, nếu không thọ giới này, tức là kẻ ngoại đạo tà kiến, cũng không khác loài súc sinh hay gỗ đá. Cho nên biết người không thọ giới Bồ-đề, dẫu có học Phật pháp và siêng tu khổ hạnh trải qua ngàn muôn kiếp, cũng chỉ là chúng sinh mà không thể giả thoát sinh tử, phá trừ nghiệp chướng, thành đạo Bồ-đề, chứng quả vị Phật. Vì thế ở Tây Thiên, mỗi khi vua lên ngôi, hàng quan lại nhậm chức, trước hết đều thọ giới Bồ-tát, bởi muốn đem lợi ích cho nhân dân trong chỗ mình cai quản. Các bậc hiền nhân, thà thọ mà hủy phạm, chứ không thể không thọ, dẫu thọ mà hủy phạm, vẫn là đệ tử Phật, nếu không thọ tức là ngoại đạo. Kinh chép: Hoa Chiêm-bặc tuy héo, vẫn cao quý hơn tất cả hoa, các Tỳ-kheo phá giới, còn hơn tất cả ngoại đạo. Các Phật tử ở trong đại chúng, vô lượng chúng sinh ở trong sáu đường, chịu khổ trong ba đường ác, không nghe Phật pháp. Dẫu được làm người, hoặc ở nơi biên địa, hoặc gặp đời loạn lạc, hoặc đắm say sắc dục, hoặc bị quả báo ngu si, hoặc theo tà kiến, Phật pháp khó gặp, ai chịu tin theo? Nay mọi người cùng vui mừng, khéo biết thiện ác, biết có giới pháp để thọ, biết có Tịnh độ để sinh, có thể gọi là muôn kiếp khó gặp, nghìn đời có một mà thôi. Kinh Pháp Hoa chép: Phật pháp khó gặp, thời kỳ cũng khó gặp, nhờ có phước đời trước sâu dày nên sinh ra gặp Phật pháp. Mọi người phải nhớ nghó vô thường nhanh chóng, việc sống chết khó hẹn được, một mai chết đi thì thần thức không nơi nương tựa, lúc ấy muốn thọ giới Phật thì cũng không thể được. Cho nên mỗi người phải tinh tấn, gắng sức cầu giới, dứt bỏ duyên đời, trai giới niệm Phật, khi công tu viên mãn sẽ được vãng sinh Tịnh độ, an dưỡng, sống mãi không chết, hưởng sự vui sướng cao quý. Nhưng giới có nhiều thứ: năm giới, tám giới thì gọi là cận trụ giải thoát, nếu thọ thì gọi là biệt biệt giải thoát, nếu thọ giới này thì tùy theo từng giới đã giữ mà được giải thoát, nhưng tuy ra khỏi sông ái sinh tử, nhưng chỉ đến quả vị A-la-hán Tiểu thừa, không thể chứng đắc Phật tánh thường trụ, rộng độ chúng sinh. Nay đây ba nhóm tịnh giới của Bồ- tát, nếu thọ giới này sẽ viên mãn quả Phật, tướng tốt vô biên, ba đạt, năm nhãn, mười lực vô úy, tất cả công đức đều được đầy đủ, tức ngay nơi thân này, trong một niệm cho đến thành Phật, được đầy đủ tám thứ công đức cao quý. Một là thẳng đến đạo tràng cao siêu, phải biết người thọ giới Bồ- tát cũng như chim đại bàng, vỗ cánh tay bay có thể hơn mười muôn chín ngàn dặm. Bồ-tát phát tâm thọ trì đại giới thì sẽ vượt qua hàng Nhị thừa và sáu đường thẳng đến vô thượng Bồ-đề, ngồi nơi đạo tràng. Hai là phát tâm cao siêu, như có người trong một niệm mà phát tâm đại bi đại trí thọ giới Bồ-tát, sẽ vượt qua cảnh giới hàng Nhị thừa. Thuở xưa, có vị Sa-di đi theo hầu vị A-la-hán, bỗng nhiên phát tâm Bồ-đề cầu thọ giới Bồ-tát. Vị A-la-hán liền sinh lòng cung kính, trả lại y bát cho vị Sa-di và nhường đi trước. Ba là ruộng phước cao quý, nếu như có người cúng dường tất cả đại A-la-hán trong cõi Diêm-phù-đề, phước đức ấy cũng không bằng cúng dường một người phát tâm thọ giới Bồ-tát, bởi tâm ấy rộng lớn. Bốn là công lực cao quý, như người thọ giới Tiểu thừa, giống như ánh sáng đom đóm chỉ có thể tự chiếu mình, còn người thọ giới Bồ-tát thì như ánh sáng mặt trời giữa trưa, chiếu sáng khắp tất cả. Năm là diệt tội cao quý: mọi người chớ nên nghó rằng thọ giới rồi không thể giữ gìn mà không dám thọ. Kinh chép: sau khi thọ lỡ có phá giới hay phạm giới cũng còn hơn ngoại đạo. Người không thọ giới tức là ngoại đạo tà kiến, mãi chìm đắm trong đường ác không có lúc nào, ra khỏi. Người thọ giới mà phá giới, do oai lực của giới nên dẫu đọa trong đường ác cũng chịu tội rất nhẹ, nếu đọa trong địa ngục thì làm vua địa ngục, nếu đọa làm súc sinh thì làm súc sinh đầu đàn, nếu bị đọa vào ngạ quỷ thì làm vua loài ngạ quỷ. Nếu sinh làm người thì làm vua cõi người, nếu sinh lên cõi trời thì làm vua cõi trời, bất cứ sinh chỗ nào cũng không mất ngôi vua. Kinh chép: Người có phạm cũng gọi là Bồ-tát, bởi có giới để phạm, không phạm gọi là ngoại đạo, bởi không có giới để phạm. Sáu là thọ trai cao quý, người thọ giới nếu lúc ở trong bào thai, thường được trời, rồng và thiên thần hộ vệ. Bảy là thần thông cao quý, người thọ giới do có năng lực giữ giới nên có thể khuấy nước sông thành đề hồ, biết đất đai thành vàng ròng, có thể ở trong một niệm mà vượt quá ngàn đời, có thể ở trong một ngày mà độ vô số chúng. Tám là quả báo cao quý, người thọ giới tức là Bồ-tát, sẽ sinh vào cõi Liên hoa hải tạng được thân pháp tánh, chứng đắc chân thường, mãi không lui sụt, như trên đã dẫn chứng các kinh. Tôi đã vì Phật tử mà mở bày cửa hạnh, nguyện mọi người hiện tại đều được giới pháp thanh tịnh, mãi là bến bờ tốt, làm nhân duyên gặp Phật, là nghiệp sinh về Tịnh độ. Thỉnh thánh chứng minh. Đại chúng hiện tiền, nay tôi đã vì mọi người mà nói pháp khi mở dẫn dắt, mọi người phải có tâm kính ngưỡng, nay cung thỉnh thánh chúng giáng lâm đạo tràng để chứng minh hộ niệm. Mọi người nên nhất tâm đọc theo lời tôi để cung kính. Nay là ngày…… tháng…… năm……, tại huyện…… tỉnh…… nước…… thuộc cõi Diêm-phù-đề. Ở phía Nam, hiện có số đông nam nữ phát tâm tịnh thành cùng muốn thọ tịnh giới, xin cung thỉnh Tam bảo, tất cả Thánh hiền, nguyên xin hộ trì đồng giáng lâm. Nhất tâm phụng thỉnh tận hư không giới vi trần cõi nước, tất cả các Đức Phật chân thân ứng thân, tất cả đạo pháp Đại thừa Tiểu thừa, Thánh hiền, ba thừa, xin nguyện nghe lời phụng thỉnh này mà giáng lâm đạo tràng, chứng minh thọ giới. Nhất tâm phụng thỉnh hộ pháp chư Thiên, công đức đại biện, phạm thiên Đế-thích Tứ thiên vương, tám bộ trời rồng, trời đất linh thiêng, trời trăng các sao sông hồ đầm ao, núi cao non sâu, thành ấp đồng trống, xã tắc thông minh, ủng hộ trai giới, xin nguyện nghe lời phụng thỉnh này mà giáng lâm đạo tràng, che chở gia hộ. Nhất tâm phụng thỉnh bốn sinh sáu đường trong pháp giới mười phương, chín loại chúng sinh tất cả hữu tình, hiện tiền đại chúng thọ giới trong đạo tràng, cha mẹ sinh thân, tôn thân nhiều đời, cúi mong năng lực Tam bảo, đồng đền đạo tràng, đồng thấm nhuần giới pháp. Trao ba pháp quy y. Trên đây đã triệu thỉnh Tam bảo bách linh giáng lâm đạo tràng, đồng giúp đỡ giới pháp, phải biết giới này không phân biệt người nam người nữ, thánh phàm đều được, âm dương đều thấm nhuần, cho đến loài súc sinh, chỉ cầu hiểu rõ lời Pháp sư thị được thọ giới, không như giới Tiểu thừa, người đầy đủ sáu căn mới được thọ. Từ lúc thọ giới Bồ- tát này cho nên khi thành Phật, mãi mãi không còn lui sụt. Nay lại vì đại chúng mà dẫn dắt bỏ tà về chánh, trao cho ba pháp quy y, phải biết Tam bảo chính là ruộng phước của tất cả chúng sinh, nếu chí thành cung kính quay về nương theo, thì sẽ phát sinh tất cả công đức pháp lành. Nhưng Tam bảo thì có chia ra nhiều thứ, một là trụ trì Tam bảo, hai là biệt tướng Tam bảo, ba là nhất thể Tam bảo. Trụ trì Tam bảo tức là tượng Phật tô, vẽ, đắp sơn tức là tô vẽ đắp, kinh viết trên lụa, tre là Pháp bảo, người xuất gia cạo đầu nhuộm áo là Tăng bảo. Biệt tướng Tam bảo nghóa là bậc tu hành chứng quả diệu giác, hóa độ chúng sinh là Phật bảo, giảng nói tám mươi bốn ngàn pháp tạng và mười hai bộ kinh là Pháp bảo, từ bậc Đẳng Giác trở xuống thánh hiền của hàng Tam thừa thì gọi là Tăng bảo. Nhất thể Tam bảo nghóa là trên từ các Đức Phật, dưới cho đến loài côn trùng nhỏ nhít đều có đầy đủ thể Tam bảo này. Các gọi là diệu thể thật tướng tuy một mà ba, gọi là Bí mật tạng, như đồ trang sức quý giá ở thế gian đều gọi chung là báu. Nay mọi người đều sẵn có giác tánh là Phật bảo, tánh này thanh tịnh không nhiễm ô là Pháp bảo, tánh này nhu hòa không tranh cãi là Pháp bảo. Vì thế tôi khuyên mọi người không nên tự khinh mình, ai ai cũng như vậy, ai ai cũng có khả năng thành Phật. Đức Như Lai do tu chứng nhất thể Tam bảo này nên có khả năng vận dụng thần thông rộng lớn, làm các Phật sự, Tam bảo này có ở trong thân mọi người, như nước đóng lại thành băng, không thể bỏ băng mà tìm có nước. Nếu muốn làm cho băng tan thì phải có phương tiện khéo léo, muốn hướng đến quả Phật mà không tu hành thì không được. Nay đã hiểu biết thể tánh như vậy, nên hướng đến Tam bảo làm chỗ quy về nương tựa. Đệ tử tên là……………… nguyện từ hôm nay cho đến hết đời vị lai, thề quy y Phật đấng Lưỡng túc tôn, quy y pháp ly dục tôn, quy y Tăng chúng trung tôn (ba lần). Trên đây tuy đã quy y, nhưng nếu không nói lời kết thúc thì pháp không thể viên mãn, cho nên phải nói lời kết ba lần. Đệ tử tên là……………… quy y Phật xong, quy y pháp xong, quy y tăng xong (ba lần). Từ nay trở đi luôn tôn Phật làm thầy, không quy y tà ma ngoại đạo, xin nguyện Tam bảo thương xót che chở (ba lần). Triệu thỉnh Thánh sư. Trên đây đã thọ xong ba pháp quy y, tôi chỉ làm người truyền giới, nay lại vì đại chúng hiện tiền mà phụng thỉnh Đức Thích-ca Thế Tôn và các vị Bồ-tát làm năm tòa Thánh sư, xin giáng lâm đạo tràng. Nay ở trước các Đức Phật, Bồ-tát cầu xin sám hối, hỏi về già nạn, mới làm thực hành pháp truyền giới được. Nhưng về pháp thỉnh Sư thì lẽ ra các vị phải tự trình bày, nhưng các vị chưa làm được, cho nên tôi hướng dẫn các vị, các vị phải nhất tâm cung kính, chớ nên xem thường. Đệ tử tên là………………… nhất tâm phụng thỉnh Đức Thích-ca Như Lai làm Hòa thượng trao giới, con nương theo Hòa thượng mà được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót con. Đệ tử tên là… nhất tâm phụng thỉnh Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi làm Yết-ma A-xà-lê, con nương theo Yết-ma A-xà-lê mà được thọ giới Bồ- tát, xin thương xót con. Đệ tử tên là………………… nhất tâm phụng thỉnh Bồ-tát Di-lặc, làm Giáo thọ A-xà-lê, con nương theo Giáo thọ A-xà-lê mà được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót con. Đệ tử tên là………………… nhất tâm phụng thỉnh các Đức Phật mười phương làm các vị tăng tôn chứng, con nương theo các vị tăng tôn chứng mà được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót con. Đệ tử tên là………………… nhất tâm phụng thỉnh các vị Đại Bồ-tát làm bạn đồng học, con nhờ nương theo các bạn đồng học mà được thọ giới Bồ-tát, xin thương xót con. Bạch Phật xin giới. Trên đây đã thỉnh năm tòa Thánh sư, là những bậc đầy đủ đại từ bi tha tâm đạo nhãn, thương xót chúng sinh mà diệt khổ ban vui, sẽ giáng lâm đạo tràng. Nay tôi lại vì mọi người mà bạch Phật xin giới, mọi người nên chí thành hướng về Phật chắp tay lắng nghe tác bạch: Ngưỡng bạch năm tòa thành sư, mười phương tận hư không khắp pháp giới tất cả các Đức Phật, đại địa Bồ-tát tăng. Nay có đệ tử ở huyện…… thành…… nước…… thế giới Ta-bà, cầu con cung thỉnh bạch chư Phật Bồ- tát xin thọ ba nhóm tịnh giới, các đệ tử này đã là người phát tâm Bồ-tát chân thật, có thể sinh lòng tin sâu xa, thệ nguyện học và tu hành theo tịnh giới này, xin nguyện các Đức Phật, các vị đại Bồ-tát thương xót ban cho ba nhóm tịnh giới (ba lần). Sám hối tội lỗi. Trên đây cung bạch Thánh sư đã xong, sắp thọ giới pháp, tự nghó mọi người từ vô thỉ đến nay phiền não sâu nặng, không việc ác nào mà không làm, thân tâm bất tịnh. Giới pháp này chính là pháp bạch tịnh, nhưng thân căn thanh tịnh mới cầu thọ được, cho nên phải cầu xin sám hối, như giặt sách áo cũ mới nhuộm ăn màu. Huống gì Như Lai diệt độ đã hơn hai ngàn năm, chánh pháp ít người biết, mà gió tà lại thổi mạnh, vào lúc này cũng có số người tuy thấy Phật nghe pháp mà không sinh lòng tin theo, bởi do vô minh che lấp, tà kiến ràng buộc, nếu không sám hối lỗi trước, chừa lỗi này thì không nhờ đâu mà trở về bản tâm thanh tịnh. Vì nhân duyên ấy, nên hôm nay đạo tràng đồng ở trước Phật phát lời sám hối tội căn, mỗi người nên nhất tâm chí thành sám hối. Đệ tử tên………………… xin dốc lòng sám hối, từ vô thỉ cho đến ngày nay, lúc chưa biết Phật, lúc chưa nghe pháp, lúc chưa gặp tăng, không tin nhân quả, chìm đắm trong sinh tử, động thân miệng ý, không việc ác nào mà không làm, gặp duyên không lành, gần gũi bạn ác, cho đến đốt chùa phá tháp, phỉ báng kinh sách Đại thừa, xâm tổn của thường trụ, nhiễm ô phạm hạnh, vu báng tăng chúng, phạm các giới cấm, hành động trái oai nghi, gây ra năm tội nghịch, mười điều ác. Thân nghiệp không lành: làm việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm; khẩu nghiệp không lành: nói láo, nói thêu dệt, nói độc ác, nói hai chiều; Ý nghiệp không lành: khởi tham, sân, si. Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hiệp tăng, làm thân Phật chảy máu, tự mình làm và dạy người khác làm, hoặc thấy làm, nghe làm mà hùa theo, các tội như vậy vô lượng vô biên, nay giải bày phát lồ sám hối, cúi mong Tam bảo đồng thường xót, khiến cho gốc tội của chúng con một niệm tiêu sạch đều được thanh tịnh. Hỏi về già nạn. Trên đây đã vì mọi người mà thực hành pháp sám hối, bởi thân căn thanh tịnh mới được thọ tịnh giới. Theo lời kinh dạy thì lúc nào thọ giới này nếu có bảy già nạn thì không được thọ, bởi bảy tội nghịch này làm ngăn che tịnh giới, cho nên gọi là già. Nay tôi hỏi rõ từng điều, các vị nếu có thì nói có, không thì nói không, phải trả lời đúng như thật. Ngươi có làm thân Phật chảy máu không? Ngươi có giết cha không? Ngươi có giết mẹ không? Ngươi có giết Hòa thượng đắc giới không? Ngươi có giết A-xà-lê không? Ngươi có phá Yết-ma Chuyển pháp luân tăng không? Ngươi có giết A-la-hán không? Yết-ma trao giới. Lành thay! Các người không có bảy thứ già nạn trên, đã là thân thanh tịnh để lãnh thọ giới, thánh chúng đồng vui, phàm tục đều thích, ngàn đời muôn kiếp được may mắn gặp. Bây giờ, là lúc Yết-ma thọ giới, phải biết giới này được các Đức Phật, Bồ-tát ba đời ở khắp mười phương nhiều kiếp huân tu, là chỗ thành tựu của vô lượng công đức, mọi người phải khởi tâm sinh ý tưởng khó gặp, sẽ khiến cho pháp này trong một niệm mà viên thành. Lúc này nên tha thiết kính ngưỡng thận trọng, như bình đựng vậy, không được sơ suất, vì nhân duyên ấy nên lắng nghe, lắng nghe. Các Phật tử lắng nghe, các ngươi nay ở chỗ tôi mà cầu thọ tất cả tịnh giới của Bồ-tát, tất cả chỗ học của Bồ-tát, đó là giới nhiếp luật nghi, giới nhiếp thiện pháp, giới nhiêu ích hữu tình. Các tịnh giới này, các chỗ học này được tất cả Bồ-tá ở đời quá khứ đã thọ, đã học, đã hiểu, đã thực hành, đã thành tựu. Tất cả Bồ-tát trong đời vị lai sẽ thọ, sẽ học, sẽ hiểu, sẽ thực hành, sẽ thành tựu. Tất cả Bồ-tát ở hiện tại đang thọ, đang học, đang hiểu, đang thực hành, đang thành tựu, đời sau sẽ thành Phật. Các người từ nay cho đến khi thành Phật, trong thời gian ấy không được hủy phạm có thể giữ được không? (hỏi ba lần, đồng thời đáp rằng giữ được). Phật tử các vị phải tin, lần đầu Yết-ma đã thành, giới phép diệu thiện ở các thế giới trong mười phương đều do nghiệp lực của tâm đều chấn động. Đây là hỏi Yết-ma lần thứ hai đã thành, gới pháp diệu thiện ở các thế giới trong mười phương, giống như hư không, như mây như long, che trên đảnh các vị. Đây là hỏi Yết-ma lần thứ ba đã thành, giới pháp này từ trên đảnh các vị chảy vào thân tâm, chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, không có hình tướng, không hay không biết, tràn đầy chánh báo. Phải biết thân tâm các vị là nơi nhóm họp vô lượng công đức, mỗi vị ở trước Tam bảo phải sinh tâm cất vui mừng, tha thiết dốc lòng hộ trì, chớ nên hủy phạm. Lược nói về giới tướng. Các Phật tử, trên đây tôi đã y theo pháp mà trao ba nhóm tinh giới cho các vị, tuy đã đắc pháp, nhưng các vị ắt là chưa hiểu rõ hình thức, phạm, nay tôi y theo mười giới trong bốn mươi tám giới khinh trong Kinh Phạm Võng, giảng nói mỗi giới, các vị nên lắng nghe. Giới thứ nhất không được giết hại: nếu tự mình giết hoặc bảo người giết, thì không có tâm từ bi, chẳng phải là Bồ-tát, nếu có phạm thì mắt tội Ba-la-di. Các vị từ nay cho đến khi thành Phật, trong thời gian ấy, không được hủy phạm, có thể giữ được không? (Đáp rằng giữ được, ở dưới cũng lệ theo đây). Giới thứ hai không được trộm cắp, hoặc tự mình hoặc xúi giục người khác, cho đến vật của quỷ thần, dù chỉ một cây kim, ngọn cỏ cũng không được cố lấy, nếu trộm thì phạm tội Ba-la-di, các vị có thể giữ được không? Giới thứ ba là không được tà dâm, người nam không được tư thông với người nữ không phải vợ mình, người nữ không được tư thông với người nam không phải chồng mình, nên bố thí pháp thanh tịnh cho chúng sinh, các vị có thể giữ được không? Giới thứ tư không được nói dối: có thì nói có, không thì nói không, không được vì lợi mà nói dối, phải nói chân thật, các vị có thể giữ được không? Giới thứ năm không được làm hoặc bán các thứ rượu, rượu là thứ nước làm cho mê loạn và gây nên tội lỗi, uống vào thì che lấp tâm tánh, sẽ sinh ra ba mươi sáu tội lỗi, các vị có thể giữ được không? Giới thứ sáu không được nói lỗi của người khác, cho đến thầy tổ, bạn bè, phải thường nêu cái tốt, che điều dở, các vị có thể giữ được không? Giới thứ bảy không được khen mình chê ngoại đạo, việc xấu phải nhận về mình, việc tốt thì dành cho người, từ nay không được khen hay chê, các vị có thể giữ được không? Giới thứ tám không được bỏn sẻn tài vật, nếu có người đến xin, hễ mình có vật gì thì tùy theo vật cho họ vật đó, từ nay không được keo kiệt, các vị có thể giữ được không? Giới thứ chín không được sinh tâm giận dữ: một niệm sân khởi lên đốt cháy vô lượng công đức, khi chết đọa làm loài rắn, do tức giận mà chiêu cảm, các vị có thể giữ được không? Giới thứ mười không được hủy báng Tam bảo: bởi Tam bảo có ân đức lớn đối với tất cả chúng sinh. Tam bảo là ruộng phước, cho nên không được hủy báng, các vị có thể giữ được không? Trên đây là lược nói tướng của mười giới trọng, còn bốn mươi tám giới khinh thì nhiều nên không thể nói lại từng giới, đại chúng hiện tiền phải nghe và thọ pháp này, sự việc không thể xem thường, cần phải hiểu rõ đời là vô thường, nên tu hành các điều lành, ngõ hầu dùng đó trang nghiêm Tịnh độ, lúc qua đời chắc chắn được vãng sinh, phải biết niệm Phật và thọ giới có công luân không thể suy nghó, bàn luận. Phát thệ nguyện rộng lớn. Hôm nay đại chúng hiện tiền đã được đắc giới, cần phải khởi tâm độ chúng sinh, bởi người thế gian từ xưa đến nay hễ làm việc gì đều là cho bản thân mình, chưa thể phát khởi tâm niệm lợi ích cho người, vì thế luân hồi trong sáu đường, phước huệ mỏng manh. Nay đã thọ trì đại giới, về sau cần phải phát tâm Bồ-đề, khởi bốn thệ nguyện rộng lớn, bốn thệ nguyện rộng lớn là thầy của các Đức Phật, các Đức Phật nhờ đây mà thành Chánh giác. Bồ-đề, Hán dịch là Đạo, bởi dùng đạo làm tâm nên gọi là đạo tâm, phát đạo tâm này là nương bốn giáo mà cảnh trí khác nhau, nay y theo Viên giáo Vô tác tứ đế để phát đạo tâm, đạo tâm này, hoàn toàn không khác với tâm của các Đức Phật và tất cả chúng sinh trong mười phương. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Phật cũng giống như tâm, chúng sinh giống như Phật. Tâm, Phật và chúng sinh ba thứ không khác nhau. Nếu biết tâm này tức là tâm Phật, cũng là tâm của chúng sinh, thì sự là lý đều như nhau, chúng sinh và Phật chẳng phải hai, vi diệu vắng lặng, y nơi phát tâm này mà gọi là Chánh giác. Nếu trái với tâm này mà lập nguyện, thì nguyện không gọi là cùng khắp. Cho nên tông Thiên Thai nói: phát tâm hẹp hòi, thì muôn hạnh chỉ uổng phí. Nhưng tâm này theo lý thì đều gọi là tâm Phật. Tức về lý thì không khác nhau, nhưng về sự thì xa cách nhau một trời một vực. Cho nên phải học theo tâm từ bi như Phật mà phát thệ nguyện rộng lớn, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Hoằng là rộng lớn, thệ là chế ngự. Nương theo cảnh tứ đế mà rộng chế ngự tâm ấy, trước hết y theo khổ đế mà phát nguyện lớn rằng chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Thứ hai nương theo cảnh tập đế mà phát nguyện rộng lớn rằng phiền não vô tận thệ nguyện dứt, thứ ba nương theo cảnh đạo đế mà phát nguyện lớn rằng pháp môn vô lượng thệ nguyện học, thứ tư nương theo cảnh diệt đế mà phát nguyện lớn rằng Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Hiện tại mọi người ở trong một niệm tâm phàm mà dùng cảnh Phật trí Phật, khởi bốn nguyện rộng lớn này, lợi mình lợi người, công đức vô lượng, dựa vào duyên cao quý này mà cầu sinh thượng phẩm cõi Tịnh độ, mỗi người nên chí thành phát nguyện. Đệ tử tên là………………… nay ở trước tượng Phật, Bồ-tát, chân chánh phát tâm Bồ-đề: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Kết thúc hồi hướng. Công đức thí giới trên đây như hư không, bằng với pháp giới, khắp vì tất cả chúng sinh trang nghiêm mé thật, thoát khỏi luân hồi, mãi chứng vô sinh thường trụ vui sướng. Sau đó dùng duyên tốt này dâng lên các vị trời hộ pháp, những vị thần thường phạt trong ba cõi, oai đức linh thông, tiên tổ nhiều đời, cha mẹ sinh thân, chủ nợ kẻ thù, nợ tiền thiếu mạng, pháp giới hữu tình, đồng thấm nhuần lợi ích. Trời đất yên ổn, phân rõ ngày đêm, cõi nước bình an, nhân dân an vui, mưa thuận gió hòa, mùa màng hưng thạnh. Nam nữ hiện tiền nhờ giới lành này giúp đỡ thường được tốt lành, tai họa tiêu diệt, phước trí đầy đủ, hiểu đời là huyễn mộng mà siêng tu pháp lành, kính mong Tam bảo chứng minh, các trời che chở, kính bái bạch. <詞>SỚ KẾT HỘI NIỆM PHẬT VÀ LỜI BẠT CỦA CƯ SÓ THANH SƠN LÂU: Tịnh xả niệm Phật viện Diên Khánh đất Minh châu. Xã này phổ kết một muôn người gồm nam nữ tăng tục, cùng xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, phát tâm Bồ-đề cầu sinh Tịnh độ. Vào ngày mười lăm tháng hai hàng năm thì lập đạo tràng ở viện, cúng dường Tam bảo, dâng lễ trai tăng, phước lợi nhân dân. Pháp kiến lập hội này, đầu tiên khuyến khích hai trăm mười người, mỗi người lại tìm thêm bốn mươi tám người, cùng niệm Phật sám nguyện, mỗi ngày niệm một ngàn câu danh hiệu, sám hối tội chướng, phát nguyện Bồ-đề, vì độ chúng sinh, cầu sinh Tịnh độ. Hoặc trong hội có người nào qua đời thì thỉnh thêm cho đủ số, sau đó ghi tên họ người ấy, chín trăm chín mươi người trong hội, mỗi người niệm một ngàn câu danh hiệu Phật để sám tội cho người chết, giúp thêm nguyện hạnh, giúp họ được sinh Tịnh độ. Đến ngày kiến lập hội, thì mọi người cùng niệm Phật cầu hương linh được vãng sinh, và lại khuyến khích người vào hội, để mong thường đủ số muôn người đồng tu tịnh nghiệp. Luận rằng: Một niệm vốn viên dung, các pháp không ngăn ngại, qua sự huân tập mà cảm báo thành khác nhau. Cho nên nếu thuận tánh mà tu, thì hiển bày Tịnh độ các được Phật, theo vọng tình mà gây ra nghiệp, thì xoay vần trong con đường khổ. Con người ở cõi Ta-bà, thoát ra thì rất khó mà đọa lạc thì nhiều. Kinh dạy: làm được thân người, số ít như đất dính trong móng tay, mà mất thân người thì nhiều như đất cả đại địa, cho đến khi nào tu hành công hạnh tròn đầy, mới mong thoát khỏi thọ sinh trong bốn loài, cảnh Ta-bà này phiền não dẫy đầy, tự sức mình cầu thoát ra thật là khó, nếu sinh về cõi An Dưỡng, được sống trong cõi nước trang nghiêm, thân tâm thanh tịnh, cho đến thành Phật, không còn đọa trong ba đường ác. Kinh chép: nơi cõi ấy không có tên gọi đường ác, huống là có thật, chúng sinh sinh về cõi ấy, đều là bậc A-bệ-bạt-trí. Người muốn sinh về nước Cực Lạc, chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật Di-đà, tu hạnh từ bi như Phật, sẽ được Phật nhiếp thọ theo bổn nguyện của Ngài, lúc xả báo thân sẽ sinh về cõi Phật, thật đúng như lời kinh dạy, chẳng phải lời huống dối. Nay tập hợp muôn người làm thành một xã, tâm tâm chuyên nhất, ngày ngày niệm Phật, mỗi năm đến tháng hai thì tập trung một chỗ, đồng tu cúng dường, đồng nghe pháp âm, tập hợp muôn tâm làm thành một chí, khiến thành định nghiệp, thệ sinh Tịnh độ. Huống nữa thân mạng vô thường như đèn trước gió, nếu một hơi thở không trở lại, thì ba đường ác ở trước mặt, đâu thể tự lơ là mà không nghó đến quả báu sẽ đến. Cho nên phải y theo lời dạy của Phật, không thuận theo tình dục thế gian, dứt bỏ các duyên bên ngoài mà siêng năng niệm Phật. Cẩn sớ. Pháp môn Tịnh độ là chắc chắn đáng tin, Đức Như Lai nhiều lần đặc biệt giảng nói, chỉ dạy rõ ràng. Nhưng người đời còn nửa tin nửa nghi, đại khái là kẻ só cao minh thì nói rằng: miệng xưng danh hiệu Phật thì liền thành Phật, sao quá dễ như vậy? Đó là họ chưa hiểu thấu đáo, không biết rằng nghiệp Tịnh độ thành thì sinh về nước kia, không có cảnh giới ác, có tiến không có lùi, thẳng đến thành Phật, đâu phải mới sinh về nước kia liền thành Phật. Có người nói rằng: miệng xưng danh hiệu Phật, chắc chắn sẽ vãng sinh. Đây cũng là chưa hiểu rốt ráo, gọi là Niệm, tức là tâm ý tinh chuyên thành khẩn, không để tâm xao lãng, đâu phải niệm nơi miệng lưỡi. Tôi tuy thiếu việc hương hoa lễ bái, nhưng mà cảm động trong tâm, niệm niệm không dứt, tuy trên giường chiếu còn loạn động, ắt cũng hướng về phía Tây, tự nghó rằng người đời không ai tu tịnh nghiệp như tôi. Tứ Minh Pháp Trí đại lão mở mang đại giáo tông Thiên Thai, giúp người thấy tánh thành Phật, hơn nữa còn dùng pháp này dạy cho người, cho nên biết pháp môn sâu xa này có thể bỏ phế. Về sau Ngài còn lập hội niệm Phật, muốn noi theo người xưa tu hành, và lại nhờ tôi viết lại sự việc ấy, tôi vui mừng vô cùng, muốn từ chối mà không thể. Dám mong đại chúng đồng nguyện đồng cầu bậc cao minh giúp đỡ mà thành tựu, ngõ hầu người cao kẻ thấp, kẻ trí người ngu đều được vãng sinh. Nếu nói rằng: Cầu gì sinh về nước kia rồi mới thành Phật, thì người tại gia cũng không cần xuất gia, mà được tỉnh ngộ, mọi người cũng không cần tìm thầy học đạo. Những người chưa hiểu nên lưu ý. Mùa hạ năm Nhâm ngọ, thuộc niên hiệu Thiệu Hưng viết tại lầu Thanh sơn. <詞>PHÁP SƯ GIAO TRAO HUẤN TỪ Tổ sư chúng ta là Đại sư Trí Giả, Ngài tu hành lập hạnh, giảng pháp mở mang, làm những việc chẳng phải người tầm thường và vì sinh mà làm được. Tôi hổ thẹn là người nối tiếp nghiệp lớn của Ngài, trải qua thời gian lâu xa, không hề có chút biếng nhác, các vị cũng có ngày được dự vào thiền môn. Nay tôi trao cho các vị lư hương như ý, dùng làm dụng cụ truyền pháp, muốn các vị có danh thơm về ba môn học giới định tuệ, trước là lợi ích cho mình, sau là lợi ích cho người, các vị nên cẩn thận, chớ nên xao lãng, thấy danh lợi như hạt cải, xem cường quyền yếu hèn như giặc cướp. Các vị làm được như vậy mới hợp ý ta đôi chút, cũng không trái với lời dạy và việc làm của Tổ sư, cũng thoát khỏi sự phiền não của loài hữu tình, cho nên chớ xem thường lời ta dạy bảo. Ngày mùng hai tháng giêng, niên hiệu Thiên Thánh thứ hai. <詞>PHÁP SƯ XÁN TRAO HUẤN TỪ Tông Thiên Thai dùng thiên, viên một đường để chỉ dạy giáo pháp, dùng cảnh, trí không hai mà sáng tỏ ở quán, chẳng có giáo thì không do đâu mà hiểu biết, không có quán thì không có gì để thành tựu hạnh, giải và hạnh đầy đủ, sau đó mới bước lên hàng hiền thánh được. Ta thờ phụng đạo này đã lâu, không hề có chút biếng nhác, cho nên người học khắp nơi thường tìm đến. Luận sư Văn Xán cùng bàn luận yếu nghóa với Pháp sư Tường, mà Pháp sư Tường chuyên tâm về chí lý, tâm quên bỉ ngã, còn ông thì hiếu học, cho nên khiến ông vào thất với ta. Từ đó chăm lo về giáo quán, ngày đêm không nghỉ, trải qua thời gian lâu, lời nói đã tương ưng với việc làm. Nay Pháp sư Tường lo việc chùa tháp, kế thừa di phong của Tam bảo, cho nên việc dắt dẫn đồ chúng phó chúc cho ông ta, chúc mừng Pháp sư Tường có kiến giải xuất thế, lại quán xét thấy ông có thể làm dụng cụ truyền pháp, vì thế trao cho ông lư hương cùng y uất-đa-la-tăng, muốn ông đức hạnh được thành tựu. Như vậy thì đây xích lợi dưỡng cùng tên độc tiếng thơm làm sao tổn thương ở mình được, và địa vị hiển thánh ắt cũng có phần dự vào, ông nên hiểu và làm theo ý ta. Ngày mùng sáu tháng mười niên hiệu Thiên Thánh năm thứ tư đời Tống. Diên Khánh tọa chủ Tri Lễ trao huấn từ. <詞>VĂN PHÓNG SINH Pháp sư nên trải tòa mà ngồi ở chỗ phóng sinh không gần không nếu có đồ chúng đến thì cũng đến ngồi kế bên, mỗi người đều dùng mắt từ bi mà nhìn các chúng sinh, nghó đến sự chìm đắm của chúng mà khởi tâm thương xót. Lại nghó đến Tam bảo có oai lực lớn có khả năng cứu vớt chúng sinh, nghó như vậy rồi Pháp sư bèn bưng chén nước tưởng niệm rằng: nhất tâm phụng thỉnh Đại Uế Tích Kim Cương thánh giả, xin giáng lâm đạo tràng gia trì vào nước này, có công huân lớn, thấm nhuần mọi loài, khiến thân tâm chúng được thanh tịnh và nghe được phép mầu. Pháp sư trì tụng mười bảy biến Uế Tích chân ngôn, lại rãy nước ba lần. Sau đó bưng lư hương bạch rằng: Ngưỡng bạch Thập phương Tam bảo, Đức Bổn sư Thích-ca Phật A-di-đà, Bảo Thắng Như Lai, Bồ-tát Quán Âm, xin nguyện từ bi chứng tri che chở, nay có các loài chúng sinh bị người đánh bắt, sắp đi vào chỗ chết, đệ tử nguyện tu hạnh Bồ-tát, phát tâm từ bi, thực hiện việc phóng sinh để gieo nhân sống lâu, nguyên mua chuộc thân mạng chúng sinh trả lại tự do. Nay thuận theo kinh điển Đại thừa mà trao cho chúng ba pháp quy y, xưng danh mười hiệu và giảng nói mười hai nhân duyên, nhưng các loài này vốn ngu si lại có nghiệp ác, nên thọ sinh các loài, sáu thứ mê muội, không thể hiểu biết pháp mầu sâu xa, kính mong Tam bảo thầm che chở, khiến các chúng sinh tâm ý được khai mở, đối với pháp mầu mau được tương ưng, chuyển báo thọ sinh, sớm được giải thoát, cúi xin thương xót. Chúng sinh các ngươi từ vô thỉ đến nay, không nghe danh hiệu Tam bảo, không hiểu pháp quy y, cho nên luân hồi trong ba cõi, nay đọa làm thân súc sinh mà đền trả nghiệp đời trước. Nay ta vì các ngươi mà ngưỡng cầu Tam bảo che chở, khiến các người khai mở tâm ý, hiểu được pháp mầu, ta sẽ trao cho các ngươi pháp mầu sâu xa nhất thể Tam bảo. Tam bảo ấy là: Phật là giác, Pháp là bất giác, Tăng là hòa hợp, ba thứ này tức là một, một tức là ba. Không ngang không dọc, không chung không riêng, không thể suy nghó bàn luận gọi là Bí mật tạng, là bậc tôn quý nhất của thế gian và xuất thế gian, gọi đó là Bảo. Nay gọi Phật, Pháp, Tăng là Bảo, tất cả muôn pháp đều quay về nên gọi là Ba quy, về lý tuy sâu xa nhưng lại rất gần với tâm tánh của các ngươi, các ngươi phải tin chắc lý này mà hướng về. Xin đại chúng đồng nhất tâm trao cho chúng sinh ba pháp quy y. Hiện tiền tất cả chúng sinh đủ loại, nương theo nghóa mầu sâu xa của kinh Đại thừa, và quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (ba lần). Quy y Phật xong, quy y Pháp xong, quy y Tăng xong (ba lần). Từ nay trở đi, tôn Phật làm thầy, không quy y theo tà ma ngoại đạo, xin nguyện Tam bảo thương xót nhiếp thọ (ba lần). Các Phật tử, nay ta lại vì các ngươi mà xưng niệm mười hiệu công đức của Bảo Thắng Như Lai, vì các ngươi mà thành kính thỉnh Đức Từ Tôn bày phương tiện cứu vớt. Đức Phật ấy có nguyện nếu có chúng sinh trong các cõi nước mười phương, khi nghe danh hiệu ta, liền được sinh về cõi trời Tam thập tam. Xưa, Trưởng giả Lưu Thủy thay thế cho mười ngàn con cá mà xưng mười hiệu này, những con cá ấy liền được sinh về cõi trời, Trưởng giả thành Phật hiệu là Thích-ca Văn, trong mười ngàn Thiên tử kia thì Oai Đức Vương là vị đứng đầu, đó là nhờ nhân duyên đời trước, ở trong hội Quang Minh được thọ ký Bồ-đề. Lúc ấy, các Thiên tử được nghe mười danh hiệu liền đốn ngộ bổn tâm, thâm chứng vô sinh và được thọ ký. Hôm nay nguyện các ngươi nghe ta xưng dương mười hiệu của Đức Bảo Thắng mà được chứng như các vị Thiên tử kia, hoàn toàn không khác nhau. Nam-mô Quá khứ Bảo Thắng Như Lai, Ưùng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng só, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Bảo Thắng Như Lai thường trụ bất diệt, nguyện nương bổn nguyện chứng tri lời con xưng danh, khiến các chúng sinh này mau được thọ ký (ba lần). Các Phật tử, nay ta lại vì các ngươi mà nói pháp mười hai nhân duyên sâu xa nhiệm mầu, nguyện nương năng lực Tam bảo, khiến các ngươi được hiểu rõ ràng: Mười hai pháp này thể của nói là ba đức Đại bát Niết-bàn, mà các ngươi vì mê nên trở thành ba đường, khiến nhân quả ba đời trôi lăn không dứt. Nay ta vì các ngươi trước tiên nói về tướng sinh của mười hai nhân duyên, sau đó nói về tướng diệt của mười hai nhân duyên, nguyện các ngươi hiểu rõ pháp sinh diệt này, ngày chỗ ấy tức là bất sinh bất diệt, chỗ ấy rốt ráo, chỗ ấy thanh tịnh, chỗ ấy tự tại. Một rốt ráo, tất cả rốt ráo, một thanh tịnh, tất cả thanh tịnh, một tự tại, tất cả tự tại, đồng như các Đức Phật chứng Đại Niết-bàn. Đại chúng cùng xướng rằng: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già chết, lo buồn khổ não. Đây là tướng sinh của mười hai nhân duyên và kế tiếp nói về tướng diệt. Đó là vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết, lo buồn khổ não cũng diệt. Các lại chúng sinh, nay ta đã vì các ngươi và y theo pháp mầu sâu xa của kinh điển Đại thừa mà trao ba pháp quy y, xưng danh mười hiệu và nói mười hai pháp nhân duyên đã xong. Lại nghó rằng các ngươi từ vô thỉ có nghiệp chướng sâu nặng nên đọa làm súc sinh, nay ta vì các ngươi đối trước Tam bảo phát lồ tội khiên, cầu ai sám hối, nguyện cho các ngươi tội chướng băng tiêu, sau được sinh lên cõi trời, gần gũi Phật và được thọ ký. Hiện tiền các loài chúng sinh dốc lòng sám hối, từ vô thỉ đến nay vì không ngộ bổn tâm nên luân hồi trong sinh tử, ở trong các cõi, trong thì không có mắt tụê, ngoài thì gần gũi kẻ ác, mở cửa luông lung, tạo nghiệp sinh tử, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói láo, nói thêu dệt, nói ác, nói lưỡi đôi chiều, tham lam, sân si, tà kiến, tự mình làm, dạy người làm, thấy người làm khen ngợi hoặc vui mừng, bốn mươi thứ ác này tương ứng từng niệm chưa từng xả bỏ, hoặc là làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng, giết A-la-hán, giết hại cha mẹ, hoặc giết hai vị thầy thế gian và xuất thế gian, hủy báng kinh điển, trộm cắp tài vật của chúng tăng, tự phá tịnh giới, làm nhiễm ô phạm hạnh của người khác, cân non đong thiếu, lấy giả làm thật lừa dối kẻ khác, uống rượu hôn mê, phạm các tội lỗi, làm tổn hại chúng sinh để cung cấp thức ăn cho mình, tạo vô lượng tội, kết vô lượng oán, đến nỗi thân này luân hồi trong ba cõi, đọa làm súc sinh để đền trả nợ kiếp trước, từ khổ đi vào khổ, mà không có thời hạn thoát ra. Nay gặp Tỳ-kheo nói pháp Đại thừa, vô biên trọng tôi này xin Phật Thế Tôn chứng tri, cùng xin sám hối, nguyện tội tiêu trừ, nguyện tội tiêu diệt. Nguyện cầu sau khi phóng sinh, các ngươi không còn bị sập bẫy mắc lưới, sống cho hết số mạng, sau khi xả thâ, nương nhờ nguyện lực của Phật Bảo Thắng mà sinh lên tầng trời Đao-lợi, hưởng sự vui sướng, có các Đức Phật xuất thế nói kinh Đại thừa, thì lại ở trong pháp hội và được nghe pháp, tâm ngộ vô sinh, được Phật thọ ký, cũng như Oai Đức Xí vương bình đẳng không khác. Nguyện cầu người làm việc phóng sinh, từ nay trở đi hạnh nguyện be luôn thêm lớn, gặp Phật Di-đà và các thánh chúng, sớm chứng vô sinh, phân thân các cõi, rộng độ hữu tình, đồng thành Chánh giác. <詞>TRUYỆN MỘNG THẤY CÁ Pháp sư Tứ Minh ghi. Ta đến đây nhậm chức, y theo hạnh ngài Phổ Hiền, không cho mọi người đánh bắt cá trong ao, hồ, sông, rạch. Mùa đông niên hiệu Cảnh Đức thứ tư, ta vâng chiếu quay về Kinh đô, đến đêm mùng mười tháng mười thì bỗng mộng thấy dưới sông có đến mấy vạn muôn cá, chúng đều khóc mà nói rằng: “Trưởng giả đi rồi, chúng tôi vị người ta bắt đi chiên, nấu, tiếng khóc than không thấu được trời. Nhưng mà đây là thật hay giả, là chân hay vọng, làm sao biết được người đến nhậm chức sao không như Trưởng giả, tiếng than này con người làm sao hiểu được, xin quân tử chứng giám, sao nỡ để chúng tôi bị chiên nấu”. Ta thấy buồn cho loài hữu tình, nên ghi lại lời này. Sa-môn Tứ Môn Tri Lễ tình cờ thấy chuyện này, và có thể biết được nguyên do ấy, nếu chẳng phải kinh điển liễu nghóa thì sao biết được nguồn cơn. Bởi tánh của cá là Phật tánh, vốn không khác với tánh của người trưởng ấp, do nơi sự việc mà chia làm hai, thật ra vốn không hai. Phật đã giác ngộ trước, lập giáo pháp để giáo hóa người, quan sát tánh của loài vật mà khởi tâm bi đồng thể, làm cho nó thoát cơn nguy hiểm và chỉ bày sự an vui cho chúng, khiến nó trở về bản tánh vốn có, cùng ngang bằng như tánh Phật, cho nên Trưởng giả Lưu Thủy cứu loài cá mà được thành Phật, cá cũng sẽ thành Phật sự ứng nghiệm không hai. Nay những điều ta mộng thấy đâu phải là tự nhiên, chính là do Phật dạy việc phóng sinh, cá sẽ được giải thoát, người phóng sinh tăng thêm điều lành, lý là như vậy. Mong người thấy nghe gắng sức thực hành theo lời dạy, xét kỹ nơi tâm tánh, để mình được bằng với Trưởng giả Lưu Thủy. Ngày mười một tháng tư niên hiệu Thiên Thánh năm đầu tiên. Vua ban bài minh khắc trên bia dựng ở ao phóng sinh trong viện Diên Khánh. Vua đất Việt vì dân chúng trong nước dùng súc vật để tế thần, ban đầu sai làm vòng lưới để săn bắt cá, chọn dụng hợp thời tiết, bởi do thuận với sự sát phạt mà nuôi dân, cho nên bốn vật linh làm súc sinh, chim cá cầm thú chết hết, thật là đáng thương. Muôn vật như bị tan tác, cỏ cây bèn rơi rụng, và đại đạo đã ẩn mất, phong tục thuần hậu không còn trở lại, con người ham muốn không biết thỏa mãn, muôn vật hung bạo, các loài côn trùng ẩm thấp kín đáo đều bị tổn thương, bậc thánh than thở, quân tử lo lắng thương xót, trải qua nhiều đời nêu bày các việc ngăn cấm chẳng phải một, quý là ở chỗ cuối cùng mọi người cũng trở về lòng nhân, làm cho đời được thái bình thạnh trị. Thánh Tông bỗng có muôn nước, Chân Tông nối tiếp thái bình, lại như chim tró tung hoành lên hư không lại nuôi dưỡng tơ tằm dệt lụa mà báo gốc, song còn cất chứa những gì hay đẹp để truyền lại cho đời sau, mọi sự chìm nổi đều phế bỏ, phước trời làm giềng mối cho nguyên nhân ban đầu. Vâng chiếu chỉ ở đất Kinh hồ thuộc Chiết giang tỉnh Hoài nam có ao phóng sinh, nay sửa chữa hoàn tất tăng thêm phần mới đẹp. Chỉ có ngài Tứ Minh mới phân biệt hiểu rõ vùng đất cũ của Dương châu, các loại cá sống ở dưới nước rất nhiều, dân còn ngu si dốt nát chỉ lo lợi cho bản thân mình, các loài sâu bọ nhỏ bé không nhờ vào đâu mà sống nỗi, ở ao dơ bẩn kia các lưới giăng đầy, các loài cá lớn như cá côn, cá phi có thể tránh được, còn các loài lươn trạch thì khó thoát khỏi, may mắn tăng thêm, lòng tham không phân biệt, ai cứu giúp để khỏi lỗi lầm. May có Đại sư Pháp Trí đạo phong cao vời vợi, hạnh nghiệp thuần phục, truyền tôn Thiên Thai chỉ quán, tu sám pháp Phổ Hiền, trừ được tội lỗi ban ngày không ngủ say, ba năm là kỳhạn thường thường nhớ niệm, thân này đáng ghét như giặc, chí muốn lìa bỏ, an vui nơi vắng lặng, cố nhiên để sánh với nhà xí thì rất nhàm chán, sắp có công hiệu đốt thân chân thành cúng dường. Mà đại thiện trí thức khẩn thỉnh khuyến khích trụ thế. Bọn quan phủ hạch sách đốc thúc kẻ dưới bảo toàn, thật nhanh chóng thuận theo chúng, suy tư lấy lợi tha làm đầu, huống gì gặp sự vận chuyển của thánh thần thích nghi khôi phục lai, từ bi phương tiện dùng phép tắc nhắc nhở những hạnh mê muội, nên thương xót cứu giúp trở về cõi thanh tịnh này, mà nương tựa chứa nhóm công đức lưu lại cho đời sau, thăm thẳm như vực sâu mầu nhiệm, thấu đạt điều lớn lao, thấm dần nguyện lực vô cùng cực để độ chúng sinh đạt được lợi ích, luôn vâng mạng người dưới, công tư hòa hợp vâng theo, từ đầu đến cuối không lầm lỗi, thẳng đứng cao lớn giữ gìn khắp tất cả. Do duyên tâm giáo hóa khắp xóm làng, rộng ban bố nhiều thứ, khắp tất cả được thoát khỏi, phòng dự thi mắc lưới lại sớm có trăm phương ngàn kế, song trở về sông lớn phía Tây khiến mùa xuân niềm vui tràn đầy vận mạng của muôn vật. Lại hàng năm lấy ngày Phật đản sinh, đại chúng hòa hợp dạo chơi khắp đó đây, trên thuyền tơ gấm đủ màu kéo dài thỏa thích khắp cõi Phật, gặp duyên tốt như dòng nước chảy suốt, hiểu quả báo lành như ngậm châu trong miệng, không gì là không mạnh, giữ gìn đảm đang chủng loại đều tạo, dòng sông uốn quanh mênh mông, vui sướng thay cùng khen ngợi, mừng vui nương hoa sen mà thệ (vãng sinh), như bọt nước cỏ trôi trên mặt nước. Cố nhiên là rất vui, mong vượt qua bờ hào thành lũy và nước, dẹp bỏ rọ hư, nơi khô cạn gọi là hất không, đến nơi có lưới thì phải bẻ cần tre, sám hối tội lỗi thì nghiệp biến đổi. Than ôi! Thuần phục theo phong tục xưa, chí có nói rằng: người thú ở chung lẫn lộn không làm hại nhau, toàn ăn cỏ cây để nuôi mạng sống, bậc Thánh triết gầy dựng gieo trồng hạt giống làm giáo, vì trước đó dân đó bị xem thường, vì vậy nên hòa hiệp trăm điều vui vẻ. Rùa rồng ở ao trong cung, loại trong thai trứng không bị giết hại, tuy nơi ấm biến hóa dần, cho nên gọi là Thát tế cá (con rái cá), song sau trông mong người vào ao đầm. Lại nói: câu mà không có lưới, ruộng thì không có cá, đều lấy đức trên làm sáng tỏ, ngăn ngừa lỗi lầm dưới. Từ xưa sự trị vì của các vua chúa đều chuộng sự sống làm gốc, thường nghiêm trì giới luật khiến chuyên đè nén không tản mát, kia như dụ dẫn làm lợi cho người, mênh mông quấy động mà quên trở lại, hại đã rất sâu, pháp không thắng gian xảo, thiên tai liên tiếp liền bỏ sót lợi lộc một hạt lúa. Cho đến khi thì trời nắng cạn khô thì mưa nước tràn khắp, núi trơ trọi, ao đầm khô cạn, côn trùng bị làm hại, đường sống không trông mong vào đâu, bọn hung bạo mạnh nhóm họp làm loạn, đánh trâu giết chó bán, muốn trộm rượu đâu chỉ bỏ mất bổn nghiệp, khinh suất phần nhiều mạo phạm mắc án tử hình, chẳng cần kiềm chế, ăn uống no nê vị tanh hôi, trời tàn hại sinh mạng, muôn vật phạm vào đạo gia kiêng kî rõ ràng, việc ắt tốt đẹp trở lại, bỏ đi lời bàn luận tốt đẹp đời Xuân Thu, thích hợp với chỗ bại hoại ấy ư! Bậc só không có từ bi, đâu bằng giác ngộ nguồn gốc. Lại nói: Phàm có khí huyết đồng một xúc thể, tất cả hằng hà xa cõi cùng một chân tánh, há lại nói lời tự do buông lung lòng ham muốn, kết nghiệp luân hồi, lý kia không hiểu, duyên tâm quán được như kinh Kim Quang Minh có luận giảng rõ ràng. Huống chi khu vực Ngô Việt đất phì nhiêu gấp bội, lúa má mênh mông, tre gai bạt ngàn, gò đất cao thì cây cỏ tre măng ùm tùm tập hợp, nước thì có biển rong rêu rau cỏ, sẵn có đầy đủ để xoay về nơi theo, trâu quý tốt đẹp đông nhiều, cũng không cần phanh thai cho báo an lúa, nhai nhấm huyên náo cá con, sắc chất mùi vị kia là phủ tạng, mùi cỏ thơm hôi kia là xương tủy, thực khí (thức ăn mùi vị) đã hơn, thịt khô độc càng dày mà tai nạn bệnh hoạn chết yểu cũng chưa hẳn là không do đây. Xét rằng, xưa các bậc Thánh lập pháp là để kiềm chế mọi người, lớn nhỏ sang hèn không cách nhau quá xa, chỉ có vua là ăn thức ăn quý hiếm, chỉ nhân khi tế lễ mới làm thịt súc vật cúng tế để tỏ lòng tôn kính thần thánh, đâu tính liệu đời sau có đụng chạm đến sự chuộng lợi ích lo lắng biết ghi chép cùng tận, quản lý nền gốc trần thiết chạm vẽ nơi những thứ đựng đồ cúng, niêm thị trở về với Thái sơn, cho đến nuôi dưỡng khách ăn ba năm, dò xét tâm trâu một cắt, rong ruổi chạy theo sự ưa thích dục vọng xa xỉ tốt đẹp, hạng hào kiệt đều bắt chước, phong tục càng giả dối, cố nhiên tuy trống rỗng không sống gò hết sức săn bắt, thân thể để làm thành tựu công việc, cho đầy đủ nhu cầu kia, vậy nên biết nguồn gốc nhu cầu kia rất sâu xa, song sẽ có đến dần dần, căn cơ quyền biến không đủ để ngăn chống, bùa rìu ngăn chặn không đủ để dụng oai. Cho nên nói: Người tốt vì nước trăm năm, song rau có thể lấy cái mạnh hơn tàn sát nước lớn do ngã, triều đại lớn còn rộng thứ mà trị vì, do Thánh nối tiếp Thánh, gần sáu mươi năm vâng theo nhân nghóa trên mà an ổn chúng sinh, dùng đạo lý ôn hòa mà an ủi vỗ về sự hung bạo của thế tục, kính trọng Tam bảo và Trưởng lão, làm ngoại hộ đại hùng. Đại sư hy vọng sớm được trùng phùng hưng thịnh, kết tụ kết quả nhiệm mầu. Cõi kia phúc lộc bí ẩn kính mến thương yêu giúp đỡ nhà cửa, tỏ bày sự bố thí lớn mà không có thế lực, thật sự bằng lòng cậy nhờ hàm linh, cho đó là ích lợi, thích hợp có phô bày rõ ràng cấp cho nhiều nhiều bệnh. Xưa kia tại cấm rừng, tìm kiếm rơi về nghề nghiệp, xoay về lại chịu làm quan nhỏ đợi tội trong ty. Từ khi chịu ghi chép phần nhiều mượn cớ kể đầu đuôi câu chuyện mà không biết, trong thiếu đã quá, nghiêm răn suy nghó không kham nỗi, trốn tránh nhún nhường lúc ban đầu, nghi ngờ mà lại rộng hun đúc dấu vết Đại sư, thu thập gởi thư hỏi thăm, đốc thúc thuật lại điều ấy, ghi chép vào văn bia để ghi nhớ mãi, vin vào xe ngựa vượt lên trên chỉ thành nhiều câu, cứu xét trình bày tạo ra dáng dấp hay ho, chung cho mọi người xem, đọc thầm đi quanh ao nước lạnh, có chia thành nhiều chương, khen ngợi đã thành văn không sánh kịp ý, tự thẹn cùng với những người tài năng, viết bài minh kia rằng: Trời đất rộng lớn Nhân nghóa Thánh hiền Vời vợi tôn nghiêm Đời đời đức độ Thuận đạo người xưa Hợp với lòng dân Điềm lành hưng thịnh Muôn vật trang nghiêm Dễ có lòng tin Sách vỡ ghi đủ Đức tin càng thêm Thấm nhuần lan rộng Tự tại an vui Nếu đắm thế tục Tàn hại càng nhiều Lân phượng bay đi Cá kình quậy sóng Chỉ trời thông minh Bèn cầu bậc thánh Đất nước đại đồng Cõi nước yên tịnh Rực rỡ tổ tông Chất chồng thêm sáng Thấm đức đôn hậu Dung mạo nhân ái Phục sức theo nam Thức ăn tươi tốt Sửa sinh phòng bị Muôn vật vươn chồi Nhân tài an tịnh Ao vàng thông suất Dựng thành đê lớn Luyện lắng trăm trượng Gió thổi nước đứng Chiếu soi cảnh tượng Sớm chiều bố thí Thành tâm sám hối Chim cá dạo chơi Quét sạch hết sóng Thương sâu đau xót Trung thực hết lòng Quốc giáo sánh kịp Kinh sợ xót thương Đầu mối do đây Từ xưa đến nay Điều lành đáng kính Hổ thẹn chẳng lành Mà được khen thưởng Nhờ thời đại này Khắc chép ghi nhớ. Ngày mười lăm tháng bảy năm Ất sửu niên hiệu Thiên Thánh năm thứ ba, vị tăng ở Tráp Khê hiệu Nhân Nhạc ghi chép. Vâng phụng vua, Đại phu Thượng thư hình bộ lang Trung tu hợp đủ nhân hiền sửa chữa biên soạn biết rõ Minh Châu, Quân Châu bao gồm buôn bán, thuyền bè qua lại, quản lý nội hạt khuyến khích việc công nông, làm nền tảng cho nước nhà, được vua ban dãi lụa đỏ buộc cá vàng, do công lao các hiền tài chung sức dựng lập.  GHI CHÉP VỀ GIÁO VÀ HẠNH CỦA TÔN GIẢ TỨ MINH <卷>QUYỂN 2 Quán kinh dung tâm giải. Tu sám yếu chỉ. Thích phụ hành truyền hoằng quyết đề hạ chú văn. Chỉ quán nghóa lệ cảnh trí hổ chiếu. Thiên Thai giáo và Khởi Tín luận dung hội chương. Thích thỉnh Quán Âm sở trung tiêu phục tam dụng. Đối lan nghóa sao biện tam dụng nhất thập cửu vấn. <詞>QUÁN KINH DUNG TÂM GIẢI VÀ LỜI TỰA Một hôm người học cúi đầu nói rằng: mười sáu pháp quán là bến bờ tất yếu để giải thoát, nghe đã hơn năm, vụng siêng năng nghiên cứu, quán đạo chưa hiểu, tạo lập tu tập đâu có chỗ nương tựa, dám xin thỉnh cầu chỉ dạy cho được thông suốt, ngõ hầu làm khuôn phép. Tôi trải lời: Chú thích rõ ràng, ôi mê hoặc làm sao! Bỗng có chỗ ngăn che thử hỏi làm sao thông, hễ hỏi chỗ nào thì trình bày chỗ đó. Dẫn văn để chứng minh, xem qua xem lại đã nhiều lần, tôn chỉ nghóa ý dần dần sáng tỏ, còn sợ chúng sinh đời vị lai chưa nghe hiểu biết, những người không thông suốt nhờ đây mà hiểu biết. Lúc này nhằm ngày mùng chín tháng chín năm Giáp dần niên hiệu Đại Trung Tường Phù năm thứ bảy đời Tống, tác giả tự trình bày. Người học hỏi rằng: Mười sáu pháp quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đối với ba thứ quá môn của các nhà giải thích đời nay thuộc về môn nào? Đáp: Đã chẳng phải nhờ nơi sự nghóa lập quán lập cảnh, thì không gọi là thác sự (mượn việc), lại chẳng tóm lược pháp tướng nhập tâm thành quán, đâu có quán hệ gần gũi pháp. Bà Vi-đề đặc biệt thỉnh Phật giảng nói pháp môn niệm Phật để thọ trì, thệ nguyện luận đàm pháp tu chứng đến chết, tuy nương gởi vào kia mà chính đều hiểu rõ duy sắc duy tâm, dùng thân pháp giới nhập vào tầm tường, cho nên y cứ vào hành để nói. Hỏi: Tuy là vái vào hành, mà ban đầu quán mặt trời lặn, giữa tưởng thân Phật, sau cùng luận về ba bậc, vì chỉ quán tưởng y báo, chánh báo sự cảnh mà thành quán hạnh, vì chiếu ba đế lý đó thôi ư! Mọi người nghi ngờ cúi mong giải thích rõ? Đáp: Ý Phật tuy rõ ràng mà lời kinh khó hiểu, cần phải nhờ vào pháp tứ y chỉ bày phương pháp tu tập kia. Vì sao? Vì tôn chỉ ý nghóa của một bộ kinh là suy tìm nơi đầu đề của kinh ấy, cho nên lời sớ nói: Pháp quán tuy có mười sáu, nhưng lời Phật dạy đã bao trùm tất cả. Đã dùng một tâm ba quán giải thích quán, một thể ba thân giải thích Phật. Thật tướng các pháp là chánh thể của kinh. Tu tâm diệu quán hiển bày bốn cõi tịnh làm tông, dứt trừ được năm tội nghịch liền sinh chín phẩm làm dụng, Phương đẳng Đại thừa Viên Đốn là giáo tướng. Năm lớp đã vậy đâu chỉ tưởng sự cảnh tiêu văn kinh ư! Ngài Kinh Khê nói: đầu đề đã vậy, cuối đề giải thích lý riêng chẳng dễ dàng gì. Lại Bất Nhị Môn nói rằng: Xem riêng là chung, văn phù hợp có thể biết, cho nên đầu và văn kinh chung riêng hiển bày lẫn nhau không thể là khác, cho nên biết mười sáu pháp quán đều viên ba quán. Lại hỏi: Bà Vi-đề-hy bị nghịch tử giam trong cung lạnh, bèn khóc lóc thỉnh cầu Đức Thế Tôn chỉ dạy nơi không còn phiền não, cho đến Phật phát ra ánh sáng chiếu soi các cõi thâu nhiếp nơi đài vàng, mà nói không ưa cầu các cõi khác, mới dốc lòng cầu Cực lạc, huống chi sớ văn trình bày chung cõi Lạc bang toàn cõi đất đề bằng vàng báu, căn cứ các văn đây chỉ ở cõi Đồng cư là nêu rõ, cho nên chỉ y cứ vào ba quán bốn cõi mà nói ư! Đáp: Muốn giáo pháp hưng thịnh, sao chẳng phải đối với việc gần mà vào ư! Bà Vi-đề-hy tuy muốn xả bỏ ô uế này mà cầu sinh cõi an tịnh, nhưng Phật dạy pháp quán, xả uế phải hết hiển tịnh không sót, như mặt trăng bao trùm tất cả để tránh khỏi bệnh xa lìa quả báo, thỉnh Quán Âm và đọc tụng chú mới có thể tiêu phục nguồn gốc ba độc, đầy đủ quả ngũ nhãn, các giáo hưng thịnh do kia theo lệ phần nhiều là vậy, cho nên tu nhất tâm ba quán cầu sinh Tịnh độ, tức dùng ba hoặc làm nhân cõi uế, dùng ba đế làm quả cõi tịnh, cho nên biệt hoặc hết sạch, thì tịch quang tịnh, rốt ráo ba đế. Nếu hoặc này chưa hết thì thật báo tinh phần chứng ba đế. Thông hoặc hết thì phương tiện tịnh, tương tự ba đế, hoặc này còn thì đồng cư tịnh quán, thực hành ba đế. Nếu không có đế quán này thì đâu khiến bốn cõi đều tịnh, còn chẳng phải uế thật báo, đâu chỉ tịnh Đồng cư. Ngài Kinh Khê nói: kiến tư hoặc chưa phá, an lạc hạnh là khí hần của hạnh Đồng cư Tịnh độ. Cho nên sớ nói rằng: kinh này lấy tu tâm diệu quán làm tông, thật tướng làm thể. Nếu không như vậy, thì tông chẳng hiển tông của thể, thể chẳng hiển thể của tông gia, đây như nhà Nho dạy con về phương pháp y thực, tức khiến đọc sách cầu lộc thì sự giàu sang sẽ đến, đâu cần cày cấy buôn bán. Hiểu được ý của thí dụ này thì kinh này sẽ hiểu. Lại hỏi rằng: Nếu có thể viên tu ba quán hiểu sâu diệu lý, sao không chỉ ở cõi Ta-bà vượt thẳng ra sinh tử, đâu cần xả bỏ cõi này cầu đến cõi kia, lại tự tu ba quán, sao gọi là hạnh Tịnh độ? Đáp: Kinh này tuy quán lý sâu, nhưng vì y báo, chánh báo cõi Cực Lạc làm cảnh, tu ba quán thì khác với trực quán các quán trong ba đường. Cho nên người gọi là Tịnh độ. Nếu không như vậy thì bốn thứ Tam-muội làm sao phân biệt, lại vì cõi này trước nặng tu đến Thập tín mới vượt khỏi vòng khổ, cõi kia cảnh giới tốt đẹp đến được chín phẩm thảy đều không lui sụt, cho nên dạy gá vào cảnh tốt đẹp kia mà tu quán, dù lý chưa hiển bày kiến ái vẫn xả, báo sẽ sinh nơi không còn lui sụt, như đây vì sao không bỏ cõi này cầu về cõi kia! Cho nên luận Khởi Tín chép: Hàng sơ học Đại thừa tâm còn nhút nhát do ở cõi Ta-bà không thường gặp Phật, sợ rằng tín tâm còn lui sụt, nên biết Đức Như Lai có phương tiện tốt đẹp, chuyên niệm Tây phương Cực Lạc thế giới của Phật A-di-đà cầu sinh cõi kia, nếu quán pháp thân chân như của Đức Phật ấy thì chắc chắn được sinh về nước ấy, an trú nơi chánh định. Đã sợ cõi này thiếu duyên, lòng tin lui sụt nên cầu sinh về cõi kia, nên dạy quán chân như pháp thân của Đức Phật giải thích kinh, cùng với ý ngựa hý không có chút khác nhau, cho nên luận Thập Nghie nói về chánh hạnh vãng sinh, dạy quán tưởng pháp thân, báo thân của Phật Di-đà, ánh sáng tướng tốt và bảy báu trang nghiêm nhiệm mầu… ở cõi Cực Lạc, nói đầy đủ như trong Kinh Thập Lục Quán, thường thực hành Niệm Phật Tam- muội, cho nên biết chánh hạnh vãng sinh là ở ba quán tưởng ba thân kia. Nay duyên Đức Phật kia tu ba quán ấy, là thực hành sâu Tịnh độ quán lý nhiệm mầu, xả cõi này cầu cõi kia, tâm ban đầu không lui sụt, nghóa kia đều thành. Lại hỏi: Trong mười sáu phép quán đã không có lời suy tìm lý, sớ văn tùy giải thích, không có lời chỉ bày ba quán, vậy thì ba quán giải thích danh, bốn cõi hiển bày thể, mới gọi là khai mở viên giải, như đã đạt đến trải qua cảnh tu quán, lại chỉ tưởng nơi sự cảnh, nương gá buộc niệm, sinh về cõi Lạc bang kia, đã được không lui sụt thì lo gì không đến cõi Thật báo Tịnh Quang, sự dựng lập của tông đâu thể vượt ngoài hai môn giải hạnh ư! Đáp: Lý giải thích đề, sự hành tiêu quán, chưa thể được, sao lại đề nêu quán Phật, kinh nói bao gồm tất cả, chủ bạn y báo chánh báo đầy đủ có mười sáu, sợ rằng khác dấu vết, cho nên trước hết nêu lên rằng: Nêu chánh báo để đạt được y quả, nói Hóa chủ thì bao gồm đồ chúng, kinh đã nói theo chỗ quan trọng. Sớ là y cứ chung mà nói, người giảng cần phải dùng chung mà quán suốt riêng, người tu vẫn phải dùng lý dung sự mới được gọi là thật tướng, xứng với tông thể không trái ngược, dù giải hạnh có sai, chung riêng trái nhau thì đề chẳng phải tên kinh này, quán chẳng phải đây thì gọi là triệu, các tác phẩm ở đời nếu cũng trái với đề thì không đúng cách thức huống chi thánh giáo ư! Nếu cho rằng không có văn thì thành vu khống, cho nên kinh dạy: “Pháp giới thân của các Đức Phật nhập vào trong tâm tưởng của chúng sinh, cho nên nói khi lâm tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật”. Sớ soạn cảm ứng đạo giao đã giải nhập tương ưng thích, nếu không có sơ thích phải quán Phật, nếu không giải thích tiếp thì chúng sinh và Phật thể khác nhau, hai lần giải thích nương nhau mà thành. Nay Quán Pháp sớ nói rằng: Phật pháp giới thể không nơi nào là không trùm khắp, niệm Phật Tam-muội giải nhập tương ưng”. Cho nên nói nhập vào trong tâm tưởng, tự chẳng phải Tam-muội nhất tâm tam chỉ, đâu thể cùng với pháp giới mà luận về ứng nhập được. Tâm ấy làm Phật: nói tức tâm biến chuyển toàn tánh thành tu. Tâm ấy là Phật: Ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm. Đây là kiến cho hành giả hễ quán một cảnh nào đều biết tâm biến chuyển, toàn thể là tâm, đã toàn là tâm, tâm đâu thấy tâm, như ngón tay không tự đụng ngón tay, đao không tự làm tổn thương dao. Cho nên Kinh Bát Chu chép: sở niệm của ta là thấy tâm, tạo tâm Phật tự thấy tâm, cho đến nói rằng: Tâm ấy không biết tâm, tâm ấy không thấy tâm, tâm có tưởng thì si, không tưởng thì Niết- bàn. Chỉ quán căn cứ đây mà lập Trung quán, nếu Trung quán lập thì nhậm vận tức ba. Văn trong kinh Bát Chu này cùng kinh này rộng lược có chút khác nhau nhưng tôn chỉ thì không khác nhau, Đức Như Lai vốn sợ chấp tướng quán Phật không thành diệu tông, cho nên ở trước chân tượng chỉ bày quán thể, dạy nương pháp này mà quán thân Phật, nếu không nương pháp này thì đây thể riêng thành diệu quán, hoặc là cũng không phát sinh tướng tốt. Người có trí hiểu được tôn chỉ nhiệm mầu của kinh, như ở đầu đề có nói trước về quán thể, nay sẽ quán nhập mười sáu môn này thì tướng tướng viên dung tâm tâm vắng lặng, cho nên thứ chín Phật tưởng, sớ gọi là chân pháp thân quán, chân theo đối tượng, pháp làm sao tiêu, cùng pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu của Pháp Hoa đầy đủ ba mươi hai tướng, vì sao mà khác ư! Phải biết pháp thân của Tiểu thừa, nghóa đồng với sinh thân, sinh thân của Đại thừa nghóa đồng với pháp thân, cho nên Đức Thích-ca Mâu-ni tên là Tỳ-lô-giá-na, tám muôn tướng hải đâu chẳng phải pháp thân, huống chi chẳng phải chính mắt trông thấy rõ ràng, chỉ là quán thành. Văn kinh chép: “Thân pháp giới của Phật nhập vào trong tâm tưởng của chúng sinh”. Lại nói: Tâm nếu là Phật đâu thể hạn cuộc thân của ứng thân, tưởng của hữu tưởng ư! Cho nên bà Vi-đề-hy nghe xong liền đốn nhập phần chân, các thị nữ nghe đều được tương tự, chẳng phải cảnh viên quán, chúng sinh đương cơ đâu được chứng nhập như đây, do kết quả hiệu nghiệm lợi ích, pháp quán có thể biết. Lại hỏi: Trên là căn cứ vào tâm này là Phật, đây chính y cứ vào Phật, trong luận tại sao nói các môn giới luận về ba quán, mong nghe giải thích rõ ràng để dứt các sự nghi ngờ. Đáp: Nếu đối với hàng sơ tâm mà đã Trung quán thì sẽ song chiếu nhậm vận thành ba, nhất quán đã thế thì các môn khác cũng vậy, bởi người Viên Giác vốn tin các pháp viên dung, nay gá vào duyên tốt tưởng nơi các tướng, liền biết các tướng bốn tánh bất sinh, pháp thể vốn không, tâm cảnh không thật có. Tuy biết không thật có mà không ngăn ngại duyên sinh, toàn tánh khởi tu, nghó nhớ liền thấy, khởi là do tánh khởi, không là tánh không, tánh chẳng phải hai bên, năng sở cũng bặt dứt, chỉ có tâm chỉ có sắc, đối đãi quên mất, cho nên chỉ quán chia văn Bát-chu tâm Phật không thật có, là không, việc mộng rõ ràng là giả, tâm không thấy tâm là trung, nói thì ba tướng rõ ràng, tu thì một niệm đầy đủ. Kinh chỉ bày các tướng, dạy phải quán kỹ, người của Viên giáo tu chẳng phải các tướng này thì không cứu xét, cho nên biết mười sáu pháp đều có ba quán, mà ba quán đây ở trong một niệm, nay quán y báo, chánh báo mỗi thứ đều có công năng, vì sao? Vì tâm cảnh không thật có cho nên nhiễm có thể quán tịnh, không ngại duyên sinh cho nên trưởng thành tướng khởi, duy sắc duy tâm cho nên ngay nơi ấy hiển hiện. Có người nghi ba quán ngăn tưởng y báo, chánh báo, nay nói ba quán năng hiển y bá cháh báo, ba quán dần dần làm rõ y báo chánh báo, ở trong một tâm giúp sức lẫn nhau, phát sinh lẫn nhau. Lại nữa nên biết một tâm ba quán tu có nhiều môn, nếu thẳng nơi ba đường mà hiển bày lý thì đây như một hạnh, nếu nhờ quán Phật mà hiển lý thì đây như Bát-chu v.v… Nếu đối với sổ tức hiển lý như thỉnh Quán Âm, nếu đối với thiện ác vô ký hiển bày lý, như trải sự hiểu ý, ba quán này chẳng phải thẳng đối với ba đường hiển lý, mà là duyên Tịnh độ y báo chánh vào mà tu, tuy duyên theo sự chẳng phải tán thiện ác và vô ký, cho nên biết tuy đồng là toàn lý khởi sự nhưng phải phân chia nghịch thuận, sự trái lý chiếu soi khiến dứt bặt, sự thuận lý quán khiến thành tựu. Nay y báo, chánh báo là diệu dụng của Phật tương ưng với viên quán. Đây quán chưa thành thì tùy giả tưởng mà tiến, cho nên quán mặt trời làm băng cứng, nếu đắm trước quán này thì dùng Phật pháp làm duyên, cho nên quán đất, cây, thân Phật, nên biết dụng một tâm, ba quán thì y báo chánh báo rõ ràng, chẳng phải một tâm ba quán y báo chánh báo khó hiển bày. Lại hỏi: Pháp giới nhập tâm, tâm này là Phật, là thể diệu quán, người hiểu không nghi ngờ, như văn kinh kia nêu quán đầu tiên, các quán dưới đây đã có thể thức, có thể tức đủ ba, các môn đây Đức Phật đã chưa chỉ bày lấy gì làm bằng cứ để tu ba quán? Đáp: Đức Phật thường quán sát căn cơ để chỉ bày pháp, trước hết khước từ ý kia khó so lường, hiểu sâu ý kinh không như tứ y, đã dùng ba quán ba thân giải thích đề mục chung mà gọi là mười sáu, Phật nói bao trùm tất cả, hành nhân đâu thể không vâng theo lời nói này, nếu kia chưa hiểu phải tìm hiểu hỏi han cho thấu đạt, cẩn thận chớ bỏ kinh theo tình mà dùng ngu vấn nạn trí, huống gì một nhà chế lập trường hợp ấy càng nhiều, như văn Bát-chu tam quán, sám Phổ Hiền sáu căn, đều là trong định thấy thánh, bắt đầu chỉ dạy pháp môn kia. Nhưng bậc trí dạy người đều phải chuẩn bị trước rồi mới vào đạo tràng, sao không nghi ngờ mà chỉ trách ở đây, huống chi ngoài một nàh chánh thọ vị thiền sáu diệu trở lên không gì là không đầy đủ đối với tưởng vô lậu, sao Đốn giáo Phương đẳng niệm Phật Tam-muội thuần quán về sự ư! Mong chớ hủy báng kinh mà vời lấy nghiệp Vô gián. Lại hỏi: y theo văn nêu rõ ràng, nếu tu hành đúng thì đâu cần gá tâm, đã trải qua chánh y rõ ràng, hoặc đại hoặc tiểu, cảnh tướng quanh co mỗi mỗi phải quán, nếu chiếu chân như, thì phải bặt niệm, không hữu đều dứt cảnh quán đều tiêu. Vả lại quán tướng thì trái với chân, chiếu lý thì trái sự, đã khó tính liệu ắt không nơi quay về, mong chỉ bày dụng tâm lâu dài làm phương pháp tu tập? Đáp: Tuy chia ra lý sự nhưng cùng ở trong một niệm, đã chẳng phải hai nguyên nhân thì đâu cần phải lo lắng tính liệu, cho nên biết thân và cõi không lìa chân như, có thể đối với hàng Sơ tâm không hai mà soi chiếu, tuy là Viên đốn giáo nhưng ba thứ trước không thể, cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Long vương Tạ Kiệt rưới mưa xoay vòng chỉ biển mới có thể thọ nhận, ngoài ra đất chẳng thể chịu nỗi. Bát-chu Tam-muội quán bốn mươi tám tướng, hiểu biết mỗi tướng lại đối với lúc này mà tu ba quán, ngài Kinh Khê lập thân tướng làm cảnh, không v.v… làm quán. Nay hỏi: vì đợi thân tướng quán thành mới tu ba quán, hay vì trở lại cảnh quán đồng thời mà tu, nếu đợi quán thành, hoặc chín mươi ngày tướng cảnh chưa hiện thì ba quán không thực hành, đâu thành viên hành, nếu nhập đạo tràng tức tu ba quán, nghiệm biết quán tướng không ngại chiếu chân, huống lại một nhà lập viên hành này, không riêng ba quán, phải luận thập thừa. Thân chủ yếu hành thí, miệng vẫn xưng tụng, ba nghiệp đều vận dụng, chín tuần không nghỉ thì Tam-muội mới thành, các Đức Phật đồng hiện, không thể do hạn cuộc tình huống mà tự ngăn ngại, phải dùng sự thông suốt ghi nhớ tạo tu, nhưng chẳng phải viên tông của ta, người khác chẳng thể hiểu, chỉ như ba quán, thể tuy không hai, nhưng nghóa lại trái nhau, không thì một tướng chẳng thật có, giả thì các pháp đều lập, trung thì tánh lìa hai bên. Hàng Sơ tâm Biệt giáo tuy tin trung đạo nhưng không thể quán ngay được, phải phân tích thể không quán thành, sau phải trải qua nhiều kiếp học khắc các môn, hai quán bằng nhau mới tu Trung quán. Người trong Viên giáo phát động thì trong một tâm đốn quán ba đế, cho nên kinh Nhân Vương Bát-nhã chép: Có không vốn tự hai, thí như hai sừng con trâu, soi giải kiến không ba, hai đế thường bất tức. Lại nói: Đối đế thường tự hai, đối giải thường tự một, tự chẳng trước rõ tánh, đầy đủ pháp dung diệu mà quán, hàng Sơ tâm làm sao vượt qua bậc đã chứa nhóm, công đức tu hành từ lâu xa được, nay y báo, chánh báo thể vốn khó nghó bàn, dùng diệu quán mà quán tự nhiên khế hợp, sao lại tưởng sự nhiều ngại là chân thật đoạn diệt mà nghi nan ư! Nên biết Thiền mà dịch là tịnh lự, tức tên khác của tịch chiếu. Đã trong tịch có chiếu, người Viên giáo tu đâu có soi chiếu cảnh tối tăm mà không chiếu ngay nơi chỗ sáng suốt nhiệm mầu. Lại pháp quán này đã giống như Bát-chu, phải luận về ba năng lực, đó là năng lực Phật, năng lực Tam-muội và năng lực công đức vốn có của hành giả, không thể dùng tình tưởng của mình mà bàn luận thánh pháp khó nghó. Lại hỏi: Nếu pháp quán như thế thì ai có khả năng tu chứng! Nếu kia không tu, thì làm sao sinh được về cõi kia, vậy thì đường vãng sinh dứt hẳn, đối với chúng đương cơ đâu có lợi ích gì? Đáp: Căn tánh của con người đều do Sư huân tập ở đời trước có thành thục hay không, đối với năng phát, mình còn khó so lường, người khác đâu thể luận bàn, phải tin năng tu không chuyển thì dù cho Phật xuất thế cũng vẫn tối tăm, đâu riêng người đời nay, bà Vi-đề-hy thỉnh Phật giảng nói là vì chúng sinh đời vị lai, Đức Phật biết có lợi ích cho nên khiến lưu thông như vậy, tự mình buông lung không tu, chớ vu khống người năng tu. Nhưng nay luận về diệu quán là nguồn gốc tông chỉ của kinh, nên y theo hạng thượng căn có thể luận về chánh hạnh, cho nên như trên nói Tiểu thừa thực hành pháp năm giới, tám giới, hiểu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, làm việc từ thiện thế gian, khi sắp mười ác, năm tội nghịch khi sắp qua đời niệm mười niệm cũng được vãng sinh, cho nên biết chỉ đối với kinh này tận lực tu hành, một niệm tùy hỷ, đều hướng đến biển niệm Phật, đều cùng trở về nguồn linh giác. Nhiếp vật như đây không bỏ sót, trừ tội ác đến cùng cực, đều do kinh giải thích rõ ràng lý viên quán cùng cực nguồn gốc, khiến lực dụng khó suy luận nghó bàn luận và bạt dứt không bờ bến, đâu đến nỗi bị mắc kẹt nơi kinh này, phải tôn trọng lời nói người trí để hiểu ý của Như Lai, từ nay về sau, niệm đây tại đây, đối với một niệm tâm hiển bày bốm Tịnh độ, vì vậy các sự nghi ngờ của người học đã đắc được tâm mình, xin hãy vâng hành và chỉ bảo cho chúng sinh đời sau. <詞>YẾU CHỈ TU SÁM Nhân vào trong điện vâng lệnh của vị chủ viện giảng nói phương pháp tu Pháp Hoa Tam-muội ba ngày ba đêm, vì muốn biết yếu chỉ sám pháp nên trình bày lại đây để chỉ bày cho họ. Xét rằng các kinh Đại thừa giảng giải hành pháp căn cứ vào uy nghi của thân để phân tích, không ngoài bốn thứ, thu nhiếp tất cả hành hết sạch không gì là không cùng tận: 1) Thường ngồi, tức Tam-muội nhất hành; 2) Thường đi tức Tam-muội Bát-chu, đều lấy chín mươi ngày làm một kỳ hạn; 3) Bán hành bán tọa, tức Tam-muội Phương đẳng, lấy bảy ngày làm một kỳ hạn. Lại Tam-muội Pháp Hoa ba lần bảy ngày làm một kỳ hạn; 4) Phi hành phi tọa, tức Tam-muội thỉnh Quán Âm, bốn mươi chín ngày làm một kỳ hạn. Lại Tam-muội Đại Bi ba lần bảy ngày làm một kỳ hạn, nhưng trong các kinh nói có người không chuyên đi, ngồi và bán, tất cả hành pháp đều thâu nhiếp Tam-muội này. Nhưng hạn định số ngày ấy bởi khiến hành giả khắc phục thời mà phá chướng, mục đích là tu hành quyết định chân chánh, chọn lấy công thành, lý mới hiển hiện. Nếu muốn tu lâu, như phẩm An Lạc Hạnh trong kinh Pháp Hoa chép: Rốt đời sau người tu hành hoặc thời cơ thích hợp thúc giục, như kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: “Một ngày đến bảy ngày”. Hoặc như phẩm Phổ Môn chép “Nhất thời lễ bái…”. Nhưng quan trọng là dụng tâm, không nhất định ngày. Nay tu Tam-muội Pháp Hoa nếu chuyên tinh cho đến tiến công thì đâu lại không phá chướng hiển bày lý được ư! Nhưng phải biết trước chỗ nêu tâm và môn tiến hành, đó là viên thường chánh tín. Thế nào là sinh tín? Là tin tất cả pháp chỉ do tâm vốn đầy đủ, toàn tâm phát sinh, sinh không có lý khác, đều do tâm vốn đầy đủ, đầy đủ mà không phân biệt đều là duyên sinh. Tướng thế gian là thường, duyên khởi lý chỉ một, sự lý không hai, sắc tâm dung hợp, cho nên pháp pháp trùm khắp, niệm niệm đầy đủ, mười phương ba đời không lìa sát-na, Phật và chúng sinh đều gọi là pháp giới, đương xứ đều không, toàn thể tức giả, hai bên không thật có, trung đạo không thể tồn tại, ba đế viên dung; một tâm đầy đủ, chẳng một chẳng khác, chẳng ngang chẳng dọc, không thể nói để nhập đạo. Nương đây rộng vận chuyển tâm từ bi vô duyên vô niệm, nhờ đây mà khéo an nơi định huệ, vô tác vô vi, cậy nhờ đây mà phá hết tình chấp, tình chấp nào không phá, căn cứ theo đây lại tìm sự bít lấp, không chấp không thông, trong đây thích hợp cho sự trợ giúp, nương gá, hợp thành viên vị, có thể bước lên địa vị tịch nhẫn bất động, không dính mắc tương tự, mau nhập phần chân. Cho nên ngài Thiên Thai Trí giả trước hết dạy người tu hành gần gũi thầy tốt, học chỗ sám hối, tức cảnh bất tư nghì đến chỗ lý quán. Kế là chỉ bày pháp sám hối, có ba thứ cách: 1) Tác pháp sám: Thân lễ bái, miệng xưng lời, ý suy nghó, cả ba phải nhất nhất nương theo pháp độ; 2) Thủ tướng sám: nghóa là định tâm vận tưởng tướng khởi làm kỳhạn; 3) Vô sinh sám: nghóa là hiểu rõ tâm ta tự không, tội phước vô chủ, quán thật tướng của nghiệp, thấy nguồn gốc tội, pháp giới viên dung, chân như thanh tịnh. Pháp tuy có ba thứ nhưng hành tại nhất thời, đâu thể thiếu trước, không được sót sau, vô sinh tối yếu, thủ tướng còn chậm rãi, vì tông diệu quán là đứng đầu Đại thừa, diệt tội như lật úp mặt đất cỏ cây đều khô, hiển bày đức độ như chiếu soi, sông lắng rừng cây đều hiện. Dùng nghi thức lý quán này dẫn dắt nơi sự thì nhất lễ nhất toàn, tội nhiều kiếp như bụi thảy đều tiêu diệt, một ngọn đèn, một giọt nước, phước bằng hư không, cho nên miệng nói sám hối sáu căn, tâm còn ba thứ sám pháp, nếu tâm như vậy mới kham năng tiến hành. Pháp Hoa Tam-muội ghi chép: Hành giả mới vào đạo tràng phải có đủ mười pháp: 1) Nghiêm tịnh đạo tràng; 2) Thanh tịnh thân khí; 3) Ba nghiệp cúng dường; 4) Phụng thỉnh Tam bảo; 5) Khen ngợi Tam bảo; 6) Lễ Phật; 7) Sám hối; 8) Hành đạo đi nhiễu quanh; 9) Tụng kinh Pháp Hoa; Suy nghó cảnh giới nhất thật. Nói rõ trong mười thứ này chỉ có nói bố thí là phương pháp, có giáo vận chuyển tâm tác niệm, có giáo tụng văn chương, miệng tự giảng nói đầy đủ rõ ràng trong văn kia, ở đây không chép đủ, nay chỉ lược thuật dụng tâm chỉ thú mà thôi. Pháp thứ nhất nghiêm tịnh đạo tràng, thứ hai phương pháp tịnh thân, ở đây đều có thể thấy… thứ ba tu pháp ba nghiệp cúng dường, hành giả trong thời gian ba nghiệp cúng dường ấy cần phải khởi tưởng khó suy nghó bàn luận, xa lìa cho tâm là thật, hoặc hương hoặc hoa thể là pháp giới, năng cúng sở cúng tánh vốn chân không, lượng kia trùm khắp, xuất sinh vô tận, tánh kia thường trú thường thấu suốt không bỏ sót, đâu chỉ đến khắp cõi này phương kia, hoặc cũng khắp nhập đời quá khứ, vị lai, hiến cúng Tam bảo, bình đẳng huân tập cho chúng sinh, tuy gọi là tài thí nhưng dùng tài thông pháp đó gọi là pháp cúng chân thật. Có công năng giúp ích co pháp thân, năm quả đều thường, bốn đức đều hiển, cho nên thầm tưởng kệ hương hoa… pháp thức bốn là thỉnh Tam bảo, thứ năm là pháp khen ngợi Tam bảo, pháp thứ sáu là lễ bái Tam bảo… Vả lại khi mới lễ Phật, hiểu rõ thể Phật không lìa tâm ta, đồng một nguồn giác, viên chiếu các pháp, các Đức Phật ngộ khởi đồng thể bi, chúng sinh mê gương thọ các huyễn, bi khổ tương đối cảm ứng ở đây thành, một thân trùm khắp đến trước các Đức Phật, một lạy khắp tiêu trừ vô biên tội, cho nên thầm tưởng kệ lễ Phật. Kế đến là lúc lễ pháp, biết rõ quả đức mà các Đức Phật chứng, chúng sinh mê lý tâm, tất cả hành môn, vô biên giáo đạo, lìa nhiễm thanh tịnh, có khả năng làm khuôn phép co thánh phàm, xứng pháp môn này, ba nghiệp kính lễ, cho nên thầm tưởng kệ lễ pháp… kế đến là lễ tăng, tức Thánh hiền ba thừa, tuy là nhân vị đã đạt đến nguồn chân đồng với Phật, lòng từ vô duyên đồng với Phật, không cầu mà ứng, nay ta ba nghiệp cảm đến thánh chúng, bốn thệ nguyện huân tu diệt tội gốc của ta, sinh quả vui của ta được quả an, cho nên thầm tưởng kệ lễ tăng… Kế đến vận tâm sám khắp, dụng đạo thành tựu cứu giúp rộng khắp, nếu không như vậy thì chẳng những không thành đại đạo mà còn khó diệt các lỗi lầm, vì sao? Vì ta từ vô lượng kiếp đến nay tạo tội không bờ bến, tự thân là gốc nghiệp, chúng sinh là duyên ác, đời đời đối với kia thương ghét, mỗi nơi đối với người dâm sát, huống gì tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta, không gì là không trói buộc liên quan với nhau, đều bị phiền não che lấp. Nay vận động thể từ bi, như lý sám hối, hết sạch vọng nhiễm, thấu suốt nguồn chân tánh, hoặc đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi, các loài hữu tình xứng tánh cùng khắp, cho nên thầm tưởng v.v… pháp sám hối sáu căn thứ bảy và bốn pháp hối, xét về nguồn của sáu tội căn nguyện đều tiêu trừ, tâm tứ hối nguyện đều thành tựu. Người mới tu sám hối, cái gọi là phát lộ các tội, vì sao? Vì như gốc rễ của cỏ cây, lộ bày ra thì bị khô héo, được che phủ thì tốt tươi, cho nên gốc lành cần phải bao phủ thì các mầm lành đều sinh, gốc tội phát lộ thì các tội đều diệt. Nay đối với Tam bảo chân thật thấy biết, chiếu soi khắp bờ cõi thiện ác của ta, cùng tận bờ mé gốc ngọn của ta, cho nên từ đầu đến cuối, từ vi tế đến rõ ràng thảy đều phát lộ càng không che giấu, đó là mười tâm nghịch thuận, chung cho hai phái mê ngộ, nên mê chân tạo ác thì có mười mười tâm, nghịch dòng Niết-bàn thuận biển sinh tử, bắt đầu từ vô thỉ, vô minh khởi ái khởi kiến, cuối cùng đến tạo tội nhất-xiển-đề, bác bỏ nhân quả, do đó nên đắm chìm trong sinh tử không có lúc nào ra khỏi. Nay may mắn gặp Tam bảo là duyên tốt, hãy sinh nhất niệm chánh tín, trước người sau mình, sửa đổi lỗi đã qua, tu tập về sau, cho nên khởi mười tâm, nghịch dòng sinh tử, thuận đường Niết-bàn, ban đầu thì tin sâu Tam bảo không quên bỏ, sau thì viên ngộ tâm tánh vốn vắng lặng, mỗi mỗi trở lại phá mười tâm trên, không rõ mười tâm trước thì không biết sự gây ra tội, nếu chẳng có mười tâm sau thì không biết pháp tu sám, cho nên muốn thực hành ngũ hối trước phải vận mười tâm cho nên thầm tưởng v.v… Tưởng rồi, sẽ nói tội lỗi sáu căn, nhưng văn sám sáu căn này chẳng phải so sư soạn, chính là lời của các bậc Thánh đích thân giảng nói, là Đức Bổn sư Thích-ca nói. Đại só Phổ Hiền thực hành hạnh Tam-muội chỉ bày pháp môn trừ chướng, bởi do thấy suốt nguyên nhân tướng của chúng sinh gây ra tội, lại biết các pháp xưa nay vắng lặng toàn thể linh thiêng, sáng suốt vô tướng vô vi nhiễm ô ngại, dung nhiếp lẫn nhau phát sinh lẫn nhau đều là chân như chẳng phá chẳng lập, tình mê tối tăm, gặp việc thì ngu muội, cho Bồ-đề Niết-bàn là sinh tử phiền não, do đó nên Đại só chỉ dạy phương pháp sám hối mở cửa giải thoát, giúp cho chúng sinh hiểu rõ vô minh tức minh, biết trói buộc tức không trói buộc, căn cứ diệu lý ấy để sám hối lỗi lầm này, cho nên khi sám tội nhãn căn liền thấy thường sắc của các Đức Phật, tiếp thì sám hối tội nhó căn, tức nghe âm thanh nhiệm mầu của các Đức Phật, cho đến sám hối ý căn, tức sát- na ngộ chỗ ở của ba thân, một thể bốn đức rõ ràng, do lời tất yếu này mà tất cả tội tướng đều là thật tướng, mười điều ác, năm tội nghịch, bốn tội trọng, tám tà đều là pháp môn lý độc, đều là tánh nhiễm bổn dụng, lấy đây làm năng sám, tức đây là sở quán. Trí mê hoặc vốn như lý sự một mé, năng chướng sở chướng đều diệt, năng sám sở sám đều mất, suốt ngày gia công, suốt ngày vô tác, đó gọi là tội tướng sám hối, cũng gọi là đại trang nghiêm sám hối, cũng gọi là tối thượng đệ nhất sám hối, do đó vô sinh lý quán là sám hối chủ, mới dùng nghi thức hữu tác về sự làm duyên sám hối. Nghi thức về sự kia tức năm vóc gieo sát đất, như núi Thái sơn sụp đổ, quở trách tâm mình, lời nói tha thiết nước mắt rơi xuống, bỏ tình dẹp ý, cúi đầu cầu khẩn, thành tâm sám hối, sự hành như vậy đã siêng năng lý quán càng tăng tiến, đúng như pháp rửa sạch, chỉ sạch tại nước trong, nếu không thêm tro thì cấu nhơ khó trừ, cho nên chánh trợ hiệp lại hành, như mắt chân nương cậy vào nhau, đâu chỉ diệt tội mà còn chứng được chân, cho nên nếu sáu căn sám hối thành tựu thì sẽ đạt được sáu căn thanh tịnh, nếu không dùng viên quán làm chủ thì không gọi là Đại thừa sám pháp, dù có thể diệt tội cũng chỉ thoát khỏi ba đường, dù được điều lành cũng không vượt ngoài ba cõi, trước hết biết ý này nhưng tụng văn kia, giúp cho hành giả được thanh tịnh lợi ích lớn… Kế đến là pháp tứ sám, đó là khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng, phát nguyện. Sở dó đều gọi là sám là bởi đều có thể tiêu diệt tội, khuyến thỉnh thì diệt tội của ma Ba-tuần thỉnh Phật nhập diệt, tùy hỷ thì diệt lỗi lầm ganh ghét người khác tu điều lành, hồi hướng thì diệt tâm điên đảo cầu ba cõi, phát nguyện thì diệt lỗi tu hành thối chí. Trước hết tu khuyến thỉnh: Hành giả trước biết hiện nay sát-na mười phương thế giới có cõi số Phật nhiều như bụi nhỏ không thể tính kể mới ngồi dưới gốc cây chưa quay bành xe pháp, nay ta xứng lý vận tưởng, ở trước mỗi Đức Phật thỉnh Phật nói pháp nhiệm mầu, tức mười phương sát-na đây có cả Đức Phật như số bụi nhỏ ở trên, tuyên bố nhập Niết-bàn, ta đều đến trước thỉnh Phật trụ lại thế gian lâu dài, vận dụng niệm này không ngừng, diệt trừ ác ma. Lại thành tựu được pháp thí, công đức ấy rất lớn, tha thiết dụng tâm, trước vận tâm này, tỏ bày ngôn ngữ kia… đế đến tu tùy hỷ, thì hễ người khác tu điều lành, vui theo, họ thì đắc thành, ấy phàm phu sáu đường, Hiền thánh Nhị thừa, tất cả Bồ-tát, Như Lai ba đời, gốc lành hữu vi vô lậu, công đức thượng cầu hạ hóa đều vui mừng khen ngợi, thuận theo tu hành. Xét rằng điều lành là nhân của sự an vui, nay tùy hỷ trợ giúp thành tựu thì cùng tất cả chúng sinh hưởng quả an vui, phải dùng ý này mà niệm niệm tu hành… kế đến tu hồi hướng: Đó là hồi sự hướng lý, hồi tự hướng tha, hồi nhân hướng quả. Trước hết là hồi sự hướng lý: Nguyên do lý đầy đủ mới có sự dụng, tất cả sự tu chứng không ra ngoài lý tánh, chúng sinh gượng chấp trước là hữu vi, này hồi chuyển tâm này hướng về mé thật. Hồi tự hướng tha: Xưa mê lý cùng khắp, tất cả những điều lành đã tu trang nghiêm tự thân và quyến thuộc của mình, nay thuận theo bổn tánh hồi hướng đến cho chúng sinh. Hồi nhân hướng quả: Một mảy hạt giống lành ba nghiệp huân tu không thú hướng Nhị thừa, đâu dính mắc ba cõi, tu đã thuận tánh thì thành duyên nhân liễu nhân, nhân ắt hiển bày chân, đồng quy về ba đức rốt ráo, đó gọi là hồi nhân hướng quả. Ba thứ hồi hướng này tất cả Bồ-tát đều tu, vì vậy cho nên người tu hành phải y pháp hồi hướng này mà thực hành v.v… kế đến tu phát nguyện: Là yếu chỉ thệ nguyện mục đích của hành giả. Tất cả Bồ-tát có bốn thệ nguyện chung: Đó là người chưa độ khổ khiến được độ, chưa giải tập khiến được giải, chưa an đạo khiến được an, chưa chứng diệt khiến được chứng, ở đây thì nêu chung chí nguyện của hàng Bồ-tát, đã đầy đủ ở môn trước. (Xưa vốn không, đây thi hai câu dưới, nay y theo khoa trước phụ kiến cho phần này). Nay thì nêu riêng tâm kia, chuyên cầu Tịnh độ, bởi cõi Kham nhẫn này không thường gặp Phật, nhiều các duyên ác, địa vị cao vẫn còn lui sụt, như cõi An dưỡng kia thường được thấy Phật, chỉ có duyên tốt, hàng sơ tâm liền được không lui sụt, lại nguyện lực của Đức Phật kia thâu nhiếp khắp loài hữu tình, nếu năng nguyện cầu thì chắc chắn được sinh về cõi kia, huống chi quá khứ, hiện tại chứa nhóm nghiệp duyên thiện ác, thường đến trọn đời đều phải trả báo, khi sắp qua đời niệm ác tăng thịnh thì các ác thành công, lôi kéo chúng sinh vào đường ác, khi sắp qua đời niệm lành tăng thì các điều lành đều thành, dẫn dắt chúng sinh vào đường lành. Nay đã cấu sinh cõi An dưỡng thì tịnh nghiệp phải trang nghiêm, nếu không có nguyện lực mạnh dắt dẫn thì lúc sắp qua đời đâu thể chánh niệm, cho nên thành tâm phát nguyện quyết chí cầu mong, đã muốn vãng sinh thì phải chuyên tâm tha thiết. Thứ tám là pháp hành đạo, thứ chín là pháp tụng kinh v.v… Nhưng muốn biết sơ lược yếu chỉ của pháp quán chỉ tưởng thân nhiễu Phật, tiếng tụng kinh đều là pháp giới, mỗi mỗi trùm khắp hư không. Tất cả chúng sinh nghe câu kệ này, mười phương ba đời nhận ra nhiễu quanh, mà không có năng triền sở triền, dứt hẳn năng tụng sở tụng, triền thì mỗi bước không dấu vết, tụng thì mỗi tiếng bặt dứt nghe, cho nên nói giở chân lên, đặt chân xuống đều là đạo tràng. Lại nói: Người nói pháp kia không nói không dạy, công trì tụng như thế chớ cho là ti lớn. Thứ mười là pháp ngồi thiền chánh quán thật tướng: Các pháp quán tưởng trên tuy đều không cậy chấp, công không từ bỏ, như ở trước đã lập bày, nay thiền pháp chính là chánh tu, hoàn toàn dùng lý quán, nay trước hết nêu rõ tướng ngồi mới chỉ bày quán môn. Về tướng ngồi, phải ở trong nhà riêng, thân ngồi kiết già trên giường dây, đặt chân trái lên chân phải gọi là bán già, lại đặt chân phải lên chân trái, kéo tới cho thân ngay ngắn, cả hai bắp về, gọi là toàn già. Người như vậy là tốt để phát sinh thiền định, nếu không thể toàn già thì bán già cũng được. Kế đến là sửa sang y phục, không được quá rộng, rộng thì thừa một bên vai, không được thở quá gấp thở gấp thì khí bị tắc nghẽn. Kế đến phải sửa thân ngay thẳng không được cong lưng hay dựa kề, cổ lưng thẳng hàng, đầu không quá cúi thấp hay ngưỡng lên mà phải ngay thẳng không nghiêng bên nào, để cho tự nhiên đừng dùng sức chế phục, mắt nhắm lại khiến ngăn bớt ánh sáng bên ngoài, miệng ngậm để ngăn gió vào, kế đến khiến cho hơi thở điều hòa, tâm lìa hôn trầm hay tán loạn. Cho nên Chỉ Quán chép: Điều hòa thân thì không chậm chạp, không gấp gáp, điều hơi thở thì không rít, điều hòa tâm thì không chìm không nổi, ba nghiệp nếu điều hòa thì thiền định sẽ phát sinh. Kế đến chỉ bày quán môn: Có chỗ bỏ ngoài theo trong, bỏ sắc chọn tâm, không nhờ pháp khác làm cảnh, chỉ quán đương niệm sát-na hiện tại rất gập, rất vi tế, vừa gần vừa quan trọng, đâu cần phải xả bỏ vọng niệm này riêng tưởng đến chân như. Đương quán nhất niệm, biết tâm đức vô lượng vô biên, thể tánh thường trú, các Đức Phật mười phương tất cả chúng sinh quá khứ, hiện tại, vô lượng, hư không cõi nước thâu nhiếp tất cả không ngoài, đều đến trong đó, như một hạt châu trong lưới võng cũa trời Đế Thích, tợ như một hòn bọt sóng trong biển lớn, sóng không có thể riêng mà do toàn nước tạo thành, nước đã vô biên sóng cũng vô bờ, một hạt châu tuy nhỏ nhưng bóng hiện khắp các hạt châu, bóng các hạt châu đều vào trong một hạt châu, các hạt châu chẳng nhiều, một hạt châu chẳng ít, nhất niệm hiện tiền cũng giống như vậy. Tánh thấu triệt ba đời, thể trùm khắp mười phương, gồm nhiếp không sót, xuất sinh vô tận, chín cõi Phật tạo, Phật địa quyền lập bày, không lìa tức nay, sát-na năng cùng tận tác dụng của quá khứ Chuyển luân thánh vương, nhưng phải biết tánh tất cả, cho nên năng nhiếp năng sinh, chớ cho rằng bản giác lẻ loi tùy vọng duyên mới có. Không rõ biết tánh đầy đủ ấy thì pháp thành hữu tác, quán chẳng phải vô duyên, nay quán các pháp tức nhất tâm, nhất tâm tức các pháp, chẳng phải nhất tâm sinh các pháp, chẳng phải nhất tâm bao gồm các pháp, chẳng trước chẳng sau, vô năng vô sở, tuy luận các pháp tánh tướng vốn không, tuy tức nhất tâm thánh phàm rõ ràng, ngay nơi phá là lập luận, chẳng phải tâm có thể tư duy, cho nên gương chỉ dạy pháp quán nhiệm mầu bất khả tư nghì. Quán này có công năng trừ diệt bờ bến tội, năng hiển nguồn gốc lý, gọi là Thủ-lăng-nghiêm thiền, là tam-muội Pháp Hoa, cũng gọi là Vương Tam-muội, thống nhiếp tất cả tam-muội, cũng gọi là chủ tổng trì xuất sinh tất cả tổng trì, công đức sâu xa xưng tán chẳng hết. Trên đây đã nói về sự nghi lý quán phần nhiều có sơ sót, nêu tìm xem chỗ khác, ở đây không phiền trích dẫn, nếu muốn biết rộng, nên tìm Ma-ha Chỉ Quán xem, phải biết bộ Chỉ Quán tức là giềng lưới của tam-muội Pháp Hoa, Nhất thừa thập quán là chánh thể của tam-muội Pháp Hoa, viên đốn Đại thừa rốt ráo ở đây. <詞>GIẢI THÍCH PHỤ HÀNH TRUYỀN HOẰNG QUYẾT ĐỀ HẠ CHÚ VĂN Người chú văn này có nhiều thuyết khác nhau, nay nhân giảng giải tiếp cho nên cũng ghi chép, tạm thời nêu lên cho chúng sinh dùng mà dứt bỏ mê hoặc. Mười câu đầu nêu rõ bốn chữ “Phụ hành truyền hoằng”, mười câu kế tiếp nói rõ một chữ “Quyết”, bốn câu sau tổng kết nêu bày. Trong phần đầu, tám câu trước là nói rõ ý lập bốn chữ, hai câu sau tổng kết dụng công chúng giáo. Ban đầu lập ý Phụ Hành rằng: Cứu giúp giáo hạnh có tông, tin giáo gánh vác phụ hành. Giải thích rằng: Ngài Kinh Khê làm bến bờ cứu giúp người hành Chỉ Quán, ghi chép các giáo trong kinh luận, mà giáo kia vốn tự có tông, đương phần thì thành đối với giáo mình tu chứng, vượt qua tiết thì đều thành nhân quả Pháp Hoa, giáo vốn là do tông thiết lập, tin biết các giáo có khả năng dùng phụ hành thành chỉ quán. Kế đến ý truyền hoằng rằng: Hiển giáo hạnh hợp lý, xét hành có thể truyền hoằng rộng rãi, giải thích rằng: Người trí là ánh sáng hiển bày giáo lý của Như Lai, nên nói hạnh chỉ quán, mà hạnh này sâu xa phù hợp với lý. Đã là hành khế hợp lý, xét biết nhất định hoằng truyền làm lợi lạc chúng sinh. Tiếp đến nêu bày giải thích truyền hoằng nói rằng: Hành hoằng nơi nào, chẳng phải các giáo không lập! Giải thích rằng: Câu trên nêu bày hạnh chỉ quán, vậy thì pháp hoằng nơi nào ư! Câu dưới giải thích chẳng dùng giáp mở bày, không thể an lập chỉ quán diệu hạnh ở thế gian. Kế đến nêu giải thích phụ hành nói rằng: Giáo phụ nơi nào? Chẳng phải diệu hạnh thì chớ giải thích. Giải thích rằng: Câu trên nêu kinh luận các giáo, dùng pháp gì làm chỗ phụ ư! Câu dưới giải thích nếu chẳng phải diệu hạnh Nhất thừa thí chẳng giải thích các giáo, vậy thì sở phụ sở hoằng tức là chỉ quán, năng phụ năng hoằng không vượt ngoài các giáo, vẫn còn hiền thần đã dùng lục kinh để phụ thành đế đạo (đạo vua), lại dùng lục kinh rộng tuyên bày đế đức (đức của vua), tuy rõ ràng ba dụng đều nương vào lục kinh (sáu kinh), ngài Kinh Khê cũng vậy, hoằng phụ chỉ quán đều nương các giáo. Cho nên hai câu dưới tổng kết dụng công của các giáo rằng: Trước hết dùng ba phen nghe toàn bộ giáo hạnh một dấu vết. Giải thích rằng: Hết tận, vì là dụng. Ba phen nghe nói vượt ngoài phó pháp tạng. Kia nói: Ba phen nói đều có thể thọ trì, cho nên mới gọi là chuyên chở ba phen nghe chương cú của các giáo. Bởi ngài Kinh Khê nói: Thường nghe thầy đàm luận các giáo, luôn xem kinh Phật chỉ dạy giải thích. Cho nên mới tận dụng điều nghe này mà hoằng phụ chỉ quán, muốn cho mình và người y giáo tu hành thành hạnh, do hạnh hiển giáo, giáo hạnh thầm hợp thành một dấu vết. Mười câu kế là giải thích một chữ “Quyết”: Trên dùng giáo hoằng phụ, tuy cũng có khả năng như ngài Kinh Khê, nhưng suy tìm công phu nơi giáo, nay chữ Quyết này là vâng lệnh tâm yếu của thầy, dùng trí của mình mà khai thông chỉ quán, hoặc nghe hoặc thực hành. Miệng thưa bẩm quyết định là do thầy, suy xét lý v.v… phần nhiều từ nơi mình hiểu, nhưng tu tập giáo quán nơi phát sinh đều chẳng phải sự luận bàn trong lòng có nói đủ ở văn dưới, người đọc tự thấy. Sau là tổng kết nêu bày, ý kia lại càng rõ ràng, đâu cần giải thích quanh co. Hỏi: Hai chữ Phụ hành đã dùng giáo làm năng phụ, chỉ quán làm sở phụ, hai chữ truyền hoằng vì sao dùng chỉ quán làm năng truyền hoằng, giáo làm sở truyền hoằng, có chỗ ngăn ngại mà không giải thích như vậy. Đáp: Sự ngại kia tóm lược có bốn: 1/ Sợ ngăn ngại đại thể vốn là truyền hoằng chỉ quán, đặt ra ký văn này, đâu thể lập đề trở lại để tự truyền giáo; 2/ Sơ ngăn ngại văn tự trong đề, hoặc ghi chép chú ý dùng giáo làm sở hoằng, sao không gọi phụ hành hoằng giáo quyết, nhân đâu mà năng hoằng còn hai chữ ấy, mà đặc biệt không chỉ bày thể sở hoằng, nghiệm xét sở truyền, sở hoằng chỉ là hạnh sở phụ; 3/ Sợ ngăn ngại văn nêu bày giải thích, giải thích rằng: Chẳng phải các giáo không lập, đã dùng các giáo làm năng nhập thì phải dùng chỉ quán làm sở lập, sở hoằng cho nên được lập. Hỏi: Về ngôn từ tuy là chưa phân, nhưng lời đáp chẳng phải không rõ ràng, nghóa lệ cầu đáp ý để lập bày câu hỏi. Nghóa là đây vậy; 4/ Sợ ngăn ngại văn tổng kết, kết rằng: Nắm bắt các yếu chỉ này để làm đầu đề, tam-muội nêu rõ chỗ truyền không bỏ sót sự thấy biết trước, tin lập đề các yếu chỉ dùng chỉ quán làm sở truyền rõ ràng, đâu dám sửa đổi sở truyền thành năng truyền, năng truyền thành sở truyền, muốn tránh khỏi lỗi lầm này như trên giải thích, nếu cho rằng chưa đầy đủ, xin lại thưa hỏi. <詞>CẢNH TRÍ SOI CHIẾU LẪN NHAU CỦA NGHÓA LỆ Nghóa Lệ hỏi rằng: Văn Pháp Hoa Huyền Nghóa nói: Cảnh năng chiếu trí, tuy dẫn đương chứng, lý cũng khó sáng tỏ! Đáp: Thuận phương tiện giáo, lý cũng không thể hợp, nếu nói cho cùng thì lý dễ dung hợp, lấy tâm làm cảnh, tâm cũng năng chiếu, năng sở đều là tâm, tâm thể đều khắp, tâm tâm soi chiếu lẫn nhau đối với lý rất rõ ràng, cho nên ban đầu nói cảnh bất khả tư nghì, cảnh bất khả tư nghì tức là quán, do đó mà phân biệt được bốn câu: Cảnh chiếu nơi cảnh, cảnh chiếu nơi trí, trí chiếu nơi cảnh và trí chiếu nơi trí, chiếu ấy mới chiếu, chẳng thể nói hết được, chiếu thì nên nói, chẳng có chiếu để rõ biết, người nói mới nói, chẳng có chiếu để cùng tận, người nói nên chiếu, chẳng thể nói để rõ biết (do người học có hỏi về tám câu chiếu dưới nêu bình luận). Nay liền bình luận ý văn này, bởi do trên dùng bốn câu chiếu nhau rõ cảnh trí bất tư nghì. Sợ người nghi rằng: Hễ lập bất tư nghì ấy thì Đường Tâm hành bặt, nẻo ngôn ngữ dứt, mà lại lập bốn câu phân biệt, mỗi câu đều bao gồm nói là chiếu há chẳng phải câu tức là nói chiếu, tức là tư duy, sau gọi là cảnh trí bất tư nghì ư! Cho nên lại lập tám câu để chiếu đối thuyết, quyết định phải trái, ý nói: Vong tình thì chiếu mới chiếu, lìa văn tự nói mới là nói, chiếu như thế thì nên nói, nói như thế thì nên chiếu, vậy thì vong tình cho nên chiếu, thời viên dung mới có thể tự tại mà nói, lìa văn tự nên nói, tức tự tại mới có thể viên dung mà chiếu, do đó bốn câu đều nêu rõ sự đắc kia, trọn ngày nói và chiếu, bặt đường suy nghó nói năng, đó gọi là sự nói năng của bậc thánh, sự im lặng của bậc thánh, hoặc ngưng tình mà chiếu, chấp lời mà nói thì hoặc nói hoặc chiếu chẳng cùng chẳng rõ. Vì sao? Vì dính mắc tình cho nên chiếu, chiếu thì thành thiên chấp lời mà nói, nói thì có ngăn ngại, đâu thể như bốn câu trên dung hòa lẫn nhau ư! Cho nên bốn câu thiên chấp khờ dại đều bị bác bỏ, bèn gọi là bất tư nghì. Trong văn dùng các pháp xen nhau dường như khó thấy, nếu dùng ý này để quyết định thì thuyết chứng đạo tụ rõ ràng, tên gọi bất tư nghì lại hiển bày, còn sợ trình bày chung chưa hiểu lại đem ý này chú thích. Chiếu thì mới chiếu (Viên dung chiếu mới gọi là chiếu) chẳng phải nói có thể cùng tận (chấp tự mà nói thì không thể cùng tận, đây dùng thật chứng mà bác bỏ nói suông). Chiếu thì nên nói (chiếu như trên hợp với nói tự tại) chẳng có chiếu để rõ biết (chỉ có năng chiếu thì thành ngầm chứng, đây dùng hai thứ tốt đẹp để bác bỏ người chỉ biết làm tốt đẹp cho riêng mình). Nói thì mới nói (nói tự tại mới gọi là nói) chẳng phải chiếu có thể cùng tận (dính mắc mà chiếu thì không thể cùng tận, đây dùng hai thứ tốt đẹp để bác bỏ ngầm chứng). Nói thì nên chiếu (như trên nói hợp với viên dung chiếu) chẳng có nói để hiểu rõ (chỉ có năng thuyết mới thành hủy báng pháp) lại dùng song luân mà bác bỏ hai sự giúp đỡ. <詞>CHƯƠNG THIÊN THAI VÀ LUẬN KHỞI TÍN DUNG HỢP Có người khách chợt hỏi tôi rằng: Luận Khởi tín đối với bồn giáo của Thiên thai thì thuộc giáo nào? Tôi tình cớ đáp rằng: Luận Khởi tín do Pháp sư Pháp Tạng đời Đường chú sớ trình bày thông suốt, Thiên thai không thấy có văn tự giải thích, đây là do mỗi nhà chú sớ nên khó có thể hòa hợp. Khách bèn nhíu mày hỏi: Nghe tông Thiên thai rất có thể dung hợp, như nói dùng năm thời tám giáo phê phán giải thích một đại thời giáo ở Đông lưu trống rỗng không gì là không cùng tận, lời này như thế nào? Tôi bèn lập lý đáp rằng: Chỉ sợ không cho Thiên thai dung hợp, nếu tin Thiên thai nhiếp thuộc có lý ấy, thì Khởi Tín nhiếp thuộc giáo nào đâu có khó gì, cùng bèn tự thấy các nhà nghiên cứu khác nhau, nay thử làm trước dùng giáo nhiếp luận, kế là dùng giáo hợp sớ. Lại xét luận tông này có bách lạc xoa kinh mà đầu đề là Đại thừa thì lý hợp chung cho diễn môn tam giáo, cho nên Thiên Thai Tịnh Danh Huyền Nghóa chép: Phật tánh Duy thức v.v… luận thông suốt về tam giáo của Đại thừa, Duy thức còn đủ tam giáo, thì Khởi Tín làm sao không đủ tam giáo, huống chi cùng với Phật tánh phần lớn là đồng, chỉ khác chút ít, nay đối với luận từ đầu đến sau tóm lược giáo văn để đối tam giáo. Luận dùng nhất tâm làm tông, bèn nói răng thâu nhiếp chung pháp thế gian và xuất thế gian, đây thì chính tại viên môn, cũng bao gồm hai thứ còn lại, chân như môn có nghóa ly ngôn, y ngôn, không, bất không thì lỳ tam giáo rõ ràng. Sinh diệt môn nói sơ phát tâm trụ có thể thấy một chút phần pháp thân, tám tướng thành đạo. (Kinh Niết-bàn nói: Thập trú thấy chút phần pháp thân, thấy không rõ ràng, Thiên thai phàn là viên vị. Diệu Lạc nói: Hoa Nghiêm, Khởi Tín nêu rõ tám tướng sơ trú rất rõ ràng), há chẳng phải viên vị ư! Theo thứ lớp tranh luận chín tướng, há chẳng phải biệt vị ư! Bát địa đắc vô công dụng đạo, há chẳng phải bị tiếp vị của Thông giáo lược dẫn văn này tất cả điều lệ theo như đây. Khách hỏi: Pháp Tạng soạn sớ phân biệt như thế nào? Đáp: Hiền Thủ lập nghóa y cứ vào Thiên thai, đó là thuyết chung của Biệt giáo, chưa gọi thông phương biệt giáo, vì sao? Vì biệt cógiáo đạo và chứng đạo, kia thì chỉ luận về giáo đạo, biệt có bốn môn phù hợp căn cơ, kia mới chỉ luận về hai, Biệt có tự tha ngang dọc, kia mới chỉ luận về tự hành dọc nhập, biệt có nhiều nghóa, kia thì không nói, chưa gọi biệt giáo thông phương bởi vì là thuyết chung. Khách liền hỏi rằng: Sớ kia lấy tùy duyên bất biến làm tông, Thiên thai cũng lấy tùy duyên bất biến để chứng ba nhân thể khắp, đó là ý viên, đâu thể nói biệt ư! Tôi đáp: Pháp tạng tuy dụng viên danh mà thành biệt nghóa, vì sao? Vì kia nói: Chân như tùy duyên tạo ra tất cả pháp, mà chân như thể tánh thường bất biến, lại lầm dẫn thích luận rằng: Vô tình chỉ có pháp tánh mà không có Phật tánh, đây thì tên gọi tuy là viên mà nghóa thành biệt. Khách hỏi: Biệt nói bất động là lý, nay dùng tùy duyên chân như mà thành biệt lý, ở đây căn cứ vào văn nào? Tôi đáp ngược lại: Biệt lý tùy duyên văn kia hơi rõ, bất động là lý, rút ra từ văn nào! Khách nói: Tông này người giảng đều có nói như vậy, mà không thấy trong văn sớ nêu ra. Tôi nói: Chịu đem tùy duyên để bất động hai lý, phân biệt với nơi hai tông tánh tướng, đây mới rút ra từ ngài Hiền Thủ, Thiên Thai chưa thấy văn này, theo lý thì tùy duyên chưa gọi là viên cực, tông kia còn tự phê phán Chung giáo, chưa đề cập đến Viên, há Viên Thiên Thai đồng với Chung kia ư! Nên biết, hoặc bất động hoặc tùy duyên, chỉ căn cứ theo bên nghóa phương tiện đều thuộc Biệt giáo. Khách hỏi: Thiên Thai lập biệt lý tùy duyên căn cứ văn như thế nào? Tôi đáp: Chỉ Quán lập Biệt giáo, Phát tâm cảnh chép: Chỉ Quán căn trần nhất niệm là mê, sách giải thích ghi chép biệt Như Lai tạng làm nhân lành, không lành. Diệu Lạc nói: Biệt giáo từ vô trú vốn lập tất cả pháp, bèn nói vô minh che lấp lý, năng che lấp, sở che lấp đều gọi là vô trú. Lại nói chân như ở tại mê thì sinh ra tất cả pháp. Lại nói vô minh làm nhân sinh ra tất cả pháp. Lại nói vô minh làm nhân sinh ra chín cõi, cần có pháp tánh làm duyên, văn chứng như đây đủ có thể làm bằng chứng nương tựa. Khách nói: Sớ nghóa ở tại biệt, đây thì đã rõ, luận đủ ba giáo lại phân tích rõ ràng. Tôi nói: Nếu có chút ngăn ngại đều mong trình bày. Khách nói: Chân như môn thuộc về lý, đủ ba giáo rõ ràng. Sinh diệt môn luận về địa trú tu chứng, cần phải nương vào một dấu vết, Biệt thì từ đầu đến cuối đều biệt, viên thì từ đầu đến cuối đều viên, địa vị thứ lớp của ba giáo trình bày như thế nào? Đáp: Luận về tông kinh này phần nhiều nói về lý, vì vậy nên chẳng phải một lý, đã không phải một, y vào địa vị tu chứng sao lại một đường. Như kinh Hoa Nghiêm chép: Sơ trú của Viên giáo, bèn nói khi mới phát tâm liền thành Chánh giác, sau nói về địa vị, từ chối rằng hàng Bát địa đắc vô công dụng đạo. Lại, trong một bài kệ của Nhân Vương nói tam hiền Thập Thán htrú quả báo tại Viên, thập tứ Bát-nhã là Biệt, ngũ nhẫn thuộc về Thông. Hai kinh này nói rõ địa vị còn như vậy, huống chi luận tông này có bách lạc-xoa kinh, đâu thể chỉ có một lần trở lại địa vị trong văn thiếu tam tạng vị, đã dùng tiêu đề Đại thừa chỉ có thể diễn giảng giáo lý rõ ràng. Khách nói: Lại như Hiền Thủ học thông về tánh tướng, địa vị nối tiếp tứ y, nhân đâu giải thích nghóa, hoàn toàn thuộc dưới Thiên Thai! Tôi nói: Bồ-tát mở mang truyền bá giáo pháp đều phù hợp, thích nghi căn cơ, bởi vì một hạng căn cơ nghe nói thuyết một đường, do đó trình bày thông suốt điều này, chưa hẳn tứ y chỗ không rõ ràng. Khách hỏi: Đã nói mỗi duyên một sự tốt đẹp đều phù hợp thích nghi căn cơ thì đâu cần đây kia lệ thuộc nhau. Đáp: Đã biết hai tông đều phù hợp căn cơ thì đâu cần phải hỏi, đã khiến nhiếp thuộc, thế nên như trên, nếu luận về căn cơ thì không cần hòa hợp, khách liền vâng dạ mà lui ra. <詞>GIẢI THÍCH THỈNH QUÁN ÂM SỚ TRUNG TIÊU PHỤC TAM DỤNG VÀ LỜI TỰA Thần chú Tiêu phục, đạo cốt yếu tu hành, công dụng khó suy nghó bàn luận, tổ tiên của ta phát huy, người đời sau này thọ nhận ân tuệ ấy, sớ văn đã phân biệt, người đọc phần nhiều mê muội, chỉ thâu nhiếp một kinh, thật tiêu phục ba dụng, hoặc giải thích không đúng, người tu hành nương tựa vào đâu! Nay phụ giúp bổn tôn lược bình luận nghóa này, dám nói lợi ích muôn vật tạm theo tự tâm mình. Ngày 16 tháng 10 năm Đinh tî niên hiệu Thiên Gia năm thứ nhất đời Tống. Lời sớ chép: Dụng chia làm ba: 1/ Sự; 2/ Hạnh; 3/ Lý. Sự: Loài cọp sói hung ác và đao kiếm, v.v… Hạnh là Ngũ trú phiền não. Lý la: Pháp giới vô ngại vô nhiễm, nhiễm từ là sự độc hại của lý tánh. Giải thích rằng: Dụng chia làm ba là nêu lên ba dụng. Sự v.v… là bày tỏ ba dụng. Trung đạo phá chung mười thứ hành pháp, tu khác nhau mới thành dụng của ba thứ tiêu dụng, pháp Quán Âm phần chứng trùm khắp trong tâm của tất cả chúng sinh, tùy theo công hạnh thân sơ đến nỗi khiến cho lực dụng khác nhau, như luận Khởi Tín nói về lực dụng của Phật và Bồ-tát, đều căn cứ vào sự thức, nghiệp thức của chúng sinh mà phân biệt rõ, dùng lương y diệu dược cho cuồng tử uống mới hiễn rõ công dụng. Nên biết ba thứ độc hại, bỏ tà theo chánh, được gọi tên khác nhau, như Phổ Môn Biệt Hành Sớ phân biệt các tướng về nạn lửa, v.v… quả báo lửa đến Sơ thiền, đâu phải như dưới đây có những trường hợp hoàn toàn không có nghiệp hoặc, bởi khổ báo là chánh. Nghiệp lửa đến Hữu đảnh đâu như ba cõi không có hoặc báo, lấy nghiệp làm chánh. Lửa phiền não chung cho bốn giáo, đây như người ba thừa hoàn toàn không có nghiệp báo, lấy phiền não làm chánh. Nay sự độc tại nơi cõi Dục, đây căn cứ vào quả báo cho nên được gọi là Sự. Hạnh độc từ cõi Sắc, cùng tận Biệt giáo dạy đạo dùng lý bất tức, gọi riêng là hạnh, lý độc tuy là viên để đàm luận về lý tức, bởi trong phiền não phân chia tức, bất tức khác nhau, cho nên gọi hạnh gọi lý khác nhau. Nếu phân biệt tướng từ chánh thọ danh khác với kia, sơ tiêu độc hại đã vậy thì năng tiêu dụng có thể biết. Giải thích trong sự ấy trình bày sự tiêu phục dụng. Cọp sói, đao kiếm v.v… là độc hại bị tiêu phục, bởi quả báo người tu hành vì tránh khỏi nạn đao kiếm cọp sói trong hiện tại, thường tán tâm trì danh tụng chú, tu nhân giữ giới tốt cũng có thể tránh khỏi các nạn cọp sói, đao kiếm cho đời vị lai. Căn cứ vào những người này nói về năng tiêu, sở tiêu đều thuộc về sự. Hành giả thực hành tiêu phục dụng. Ngũ trụ phiền não là độc hại bị tiêu phục, vì không vượt ngoài tướng năng tiêu nên dùng tướng sở tiêu hiển bày, ngũ trụ phiền não chẳng phải ba quán không tiêu, nhưng ba quán này thâu nhiếp cả hai Nhị thừa vá Tam Bồ-tát, người tu nhân thiền định cũng tiêu phục ái Bát địa. Các hành nhân này tuy hàng phục, dứt trừ được phiền não mà đều là bất tức pháp tánh, như Biệt giáo đạo dù biết tâm thể năng tạo là Phật tánh mà cho là vô minh tự trụ, do không nghe bổn tánh đầy đủ pháp môn ác, cho nên chẳng phải hoặc tức lý, người Biệt giáo còn như vậy thì các giáo trước có thể biết, cho nên những người này độc hại sở tiêu đã phải tự trụ quán năng tiêu hoàn toàn là biệt tu, vậy thì tứ đế đều chẳng phải vô tác, cho nên năng tiêu, sở tiêu đều gọi là hành. Về Lý là trình bày lý tiêu phục dụng, Pháp giới vô ngại vô nhiễm mà nhiễm tức là chất độc của lý tánh, là sở tiêu phục, vì không vượt ngoài tướng năng tiêu nên dùng tướng sở tiêu để hiển bày. Vả lại nêu rõ tướng sở tiêu, pháp giới là lý sở mê, vô ngại là đức thọ huân, sở mê vốn tịnh cho nên không nhiễm, thọ huân biến tạo cho nên bị nhiễm, đầy đủ ba đức mà thành ba chướng cho nên nói tức chất độc của lý tánh, nhưng đàm tức lý khó mà được tự tại, phải dùng cụ, bất cụ phân biệt rõ mới thấy được sự khác nhau giữa tức và bất tức, vì sao? Vì nếu pháp giới sở mê không đủ ba chướng nhiễm thì có ba chướng, dẫu nói nhất tánh tùy duyên cũng chính là hoặc nhiễm tự trụ độc hại có tạo tác, vì khi trở lại gốc thì ba chướng phải phá, nghóa tức không thành thì không gọi là chất độc của lý tánh, thuộc biệt giáo, ở trước đều gọi là hành độc. Nếu pháp tánh sở mê vốn đủ ba chướng nhiễm thì hiện ra ba chương, ở đây hoặc nhiễm nương vào người khác, độc hại vô tác, để trở lại gốc thì nhiễm độc rõ ràng mới thành nghóa tức, vì vậy cho nên gọi là chất độc của lý tánh, đích thực thuộc Viên giáo. Cho nên ngài Kinh Khê giải thích nghóa vô minh y tha rằng: Đồng thể y tha này mà lại tức, cho nên biết thể có ba chướng, khởi dụng ba chướng, dụng lại nương thể, cùng với thể không hai, nương đây mới tức, đều do lý đầy đủ, mới có sự dụng, đây là viên thừa, nếu không đàm cụ mới gọi là Biệt giáo, cho nên biết do tác ác nên mới luận về độc của tức lý. Năng tiêu phục dụng cũng do độc của sở tiêu tức là lý tánh, dụng năng tiêu đâu không tức lý, đây là lý tuệ lý định làm năng tiêu, năng phục. Lại nên biết rõ lý tiêu phục dụng, thể nó là tánh ác mới được sơ tâm liền tu trung quán, cho nên ngài Kinh Khê nói: Bỗng chưa nghe tên gọi tánh ác, đâu thể tin có hạnh tánh đức, tánh đức chẳng phải lý ư! Hành chẳng tiêu phục dụng ư! Muốn nói về dụng lý tiêu thì phải biết công của tánh ác vì sao? Vì do người sơ tâm đều dùng kiến tư hoặc, tâm vương, tâm sở làm mở đầu để phát sinh quán, ba giáo trước không luận về tánh ác, tâm vương tâm sở này không thể tức tánh, đã không tức tánh cho nên phải đối với hai lý trong chân của biệt duyên mà phá tâm vương, tâm sở này, đã có năng duyên, sở duyên, năng phá, sở phá cho nên độc hại tiêu phục đều được gọi là hành. Nếu Viên đốn giáo đã giải bày tánh ác thì hoặc kiến tư, tâm vương tâm sở là độc của tức tánh, độc đã tức tánh cho nên chỉ dùng độc này làm năng tiêu phục, đã dùng làm năng tiêu phục thì đương xứ bặt dứt sử đối đãi, ai nói năng phá sở phá có gì là năng duyên, sở duyên. Độc hại tức trung, các pháp hướng về độc, ngăn chiếu tương tức, nói năng suy nghó. Độc hại tức trung, các pháp hướng về độc, ngăn chiếu tương tức, nói năng suy nghó chẳng cùng tận, cho nên ngài Kinh Khê nói: Chẳng những sở quán vô minh, pháp tánh thể tánh không hai, mà quán được quán trí tực là vô minh. Nếu chẳng phải lý độc thì đâu tức năng quán, cho nên nhất tâm ba quán viên đốn thập thừa, chẳng còn phải biệttu đều là lý tiêu phục, nên biết ba dụng được trước trước, không được sau, nếu được sau sau thì được trước trước, lại y cứ vào tụng chú để phân biệt. Nếu tán tâm tụng, chưa tu thiền tuệ thì chỉ đắc sự không, gọi là hành lý, nếu người của Tam giáo như Ưu-ba-tư-na nghe sáu chữ rồi, chỉ quán tâm mạch và mé thật của bốn đại, đắc A-la-hán, đây là chỉ tu tiêu phục quán hạnh, đã bao gồm miệng tụng thì riêng gọi là hành, hoặc có người không xả miệng tụng mà tu quán pháp ba giáo, đây là tụng hoàn toàn thành quán, tuy bao gồm sự dụng mà phải theo cái tốt đều gọi là hành tiêu phục, nhưng không gọi là lý. Nếu người Viên giáo, như nhân địa Đức Thích- ca nghe chương cú này liền đếm hơi thở trú Thủ-lăng-nghiêm, thì chuyên về lý dụng. Hoặc nói quá khứ được nghe câu này trung ấm đọc tụng thì bao gồm sự dụng; nếu quán cây chuối huyễn hóa dùng làm trợ đạo thì bao gồm hành dụng, tuy bao gồm sự hành, đã y cứ vào viên tu thì không gì là không tức tánh, phải theo sự thù thắng đều gọi là lý tiêu phục, lại dụng ba dụng này tiêu phục không nhất định, tự dùng sự tiêu diệt hoặc, tụ dùng hành tiêu diệt báo, có tu sự hành mà ngộ được lý, có tu lý dụng chỉ tiêu được nghiệp báo, trong văn chỉ nêu ra ba thứ độc sở tiêu, không giải thích ba thứ dụng năng tiêu, bởi có ý đối tiêu, hỗ tiêu, không thể đầy đủ, đây khiến người nói căn cứ nghóa chỉ bày, huống gì không chỉ có các văn trong đây đều giản lược, nếu quên ý chỉ sâu xa của giáo quán sơn gia thì sớ này trình bày thật không phải dễ, nay giải thích văn này, phần nhiều có sơ sót mong người thông đạt khắc cho đúng. <詞>ĐỐI XIỂN NGHÓA SAO GIẢNG GIẢI BA DỤNG MƯỜI CHÍN CÂU HỎI VÀ LỜI TỰA Tựa Pháp sư Cô Sơn là bậc tiên giác của tông ta có soạn xiển nghóa sao giải thỉnh Quán Âm Sớ, trong đó minh nghóa tiêu phục tam dụng cũng rất rõ ràng. Nhưng đối với tôn chỉ giáo quán của nhà thì còn sai lầm, vì thế tôi quê mùa ít học khẩn thiết lập ra mười chín câu hỏi, để thưa hỏi xem có đúng không? Khiến cho những người học đối với pháp nghóa này không bị dị đoan làm mê hoặc. Ngày 01 tháng 10 Thiên Hy kỷ nguyên, Tứ Minh Tri Lễ soạn. Câu hỏi 1: Căn cứ vào sự và hạnh hai thứ độc hại, vì lý tánh vốn đầy đủ, tùy duyên mà phát hiện ư! Vì lý vốn vô nhân do mê mới có ư! Nhân mê mới có, chẳng phải nay đã đầy đủ nghóa, vốn có nghóa tùy duyên nhưng thể năng duyên chẳng phải tánh ác ư! Câu hỏi 2: Căn cứ vào đâu mà hiển bày, y cứ vào liễu nghóa nào; lý tánh độc hại chẳng phải tánh ác ư! Câu hỏi 3: Lý tánh độc hại là vô minh ư! Hay chẳng phải vô minh ư! Nếu cho là đúng thì hoàn toàn giống như y cứ vào hành, nếu cho là sai thì lại chẳng phải tánh ác, ngoài vũ trụ có thể tánh riêng ư? Câu hỏi 4: Hành độc lý độc nếu không có tướng riêng thì cớ sao nhà chú sớ đặc biệt chia ra ba dụng. Câu hỏi 5: Lời sao nói: Tu nhất tâm ba quán phá ngũ trú hoặc, tức y cứ vào hành tiêu phục độc hại, cho đến giải thích lý độc, cớ sao lại nói: Nay quán các pháp duy tâm, thể ô nhiễm thảy đều thanh tịnh, tức thần chú trị độc của lý tánh, hai điều này giải thích năng trị sở trị, y cứ vào hành, y cứ vào lý, tại tu tại tánh, tướng khác nhau như thế nào? Câu hỏi 6: Lời sao giải thích vô ngại vô nhiễm mà bị nhiễm, rằng: Pháp tánh cùng vô minh tạo khắp các pháp, gọi là nhiễm, nhiễm cho nên tức có độc trong sự và độc trong y cứ vào hành. Đây giải thích nhiễm, vô nhiễm hoàn toàn thuộc sự hành, độc hại rõ ràng, tại sao giải thích lý tánh độc hại lại chỉ cho đây ư! Lý nếu không có độc hại thì pháp môn tánh ác đến quả thì dứt hẳn ư! Ba độc hóa sự tác ý mới có ư! Câu hỏi 7: Trong lời sao đặc biệt trình bày lý độc chẳng phải tánh ác, vì hiển bày tư nghì hay bất tư nghì ư! Nếu cho rằng tư nghì thì chẳng phải điều ở đây nói nếu bất tư nghì một thể ba dụng thì tại sao chợt khác hẳn, nghóa của độc chỉ thuộc sự hành lý tánh vốn không ư! Câu hỏi 8: Sớ sao giải thích lý độc, vì sao lại không trình bày tướng của lý, mà liền nói rằng: Nay quán các pháp duy tâm thể ô nhiễm thảy đều thanh tịnh, tức thần chú trị lý độc, lời nói này là giải thích lý tánh sở tiêu phục ư! Hay giải thích lý tánh năng tiêu phục? Nếu giải thích sở tiêu lý độc là chỉ cho thể ô nhiễm ư! Hay chỉ cho dụng ô nhiễm? Nếu chỉ dụng ô nhiễm thì ngũ trú tự thuộc về y cứ vào hành, nếu chỉ cho thể ô nhiễm thì lại chẳng phải tánh ác, pháp môn tánh ác mà một nhà bàn luận là chỉ cho vật nào ư? Câu hỏi 9: Lời sao nói: Có chỗ cho rằng tánh ác là lý độc, nghóa độc tuy thành, nhưng nghóa tiêu hoàn toàn thiếu. Nếu không có nghóa tiêu thì đâu xứng với dụng ư! Hỏi vặn rằng: Một nhà Viên giáo đàm luận, nếu cho rằng lý độc tức là nghóa của tánh ác thì vì sao lại nói nghóa tiêu hoàn toàn thiếu, nếu vậy, tại sao ngài Kinh Khê nói: Chợt chưa nghe tên gọi tánh ác, đâu thể tin hành có tánh đức ư! Nhưng không biết lý độc tức tánh ác, vì sao lúc khác đều không nghe ư! Dù cho lý độc là tánh ác, mình tại sao lại trách rằng: Nghóa tiêu hoàn toàn thiếu, đây là chính tuy nghe mà không hiểu, vả lại ý của ngài Kinh Khê chỉ sợ không nghe tánh ác thì hạnh không có tánh đức, nay vì sao trở lại như vậy ư! Soạn thuật như thế chẳng thành hủy hoại tông đồ của mình ư? Chẳng thành người mù mắt ư! Nếu cho rằng không như vậy thì cung thỉnh ba lần văn này, nghiên cứu nghóa lý sâu xa tôn chỉ Đại thừa để giải đáp. Câu hỏi 10: Lời sao chỉ y cứ vào hạnh, là y cứ vào trí đoạn, đoạn tức sở đoạn, chỗ ngũ trú đoạn gọi là tiêu hành độc, cho rằng khác với lý độc nên hỏi văn rằng: Trí tức năng đoạn, đoạn tức sở đoạn, không còn có tự thể riêng tức chỉ cho ngũ trú, đối với trí năng đoạn gọi là hành tiêu ư! Nếu đoạn không có tự thể thì đây tức là đoạn diệt không, vì sở đoạn này tự có thể thường, chỉ tu tức tánh, là hoặc sở đoạn gọi là hành tiêu ư! Nếu đoạn không có tự thể thì đây tức là đoạn diệt, đâu có khác gì với Tiểu thừa, nếu đoạn có tự thể thì hành độc tiêu xứ, trở lại đầy đủ độc lý tánh chăng? Nếu chẳng phải lý độc, thì chỉ do đâu làm thể mà luận về viên đoạn ư! Lẽ ra chỉ cho biệt thanh tịnh chân như ư! Chúng sinh nhân tâm chỉ có tu ác không có tánh ác ư! Câu hỏi 11: Lý tánh nếu không có nghóa tiêu phục, y cứ vào lý giáo hạnh giải thích riêng đề này, giáo hạnh gọi là kinh, có nghóa tiêu phục, y cứ vào lý gọi là kinh ắt có thể hoàn toàn phế bỏ ư! Vì sao lại gọi biệt, giải thích trong đề lý của kinh ư! Nếu không thể phế bỏ sao lại chợt phân biệt rằng nghóa độc tuy thành, nghóa tiêu hoàn toàn thiếu ư! Câu hỏi 12: Lý tánh tiêu phục là nói về tu hay phân biệt về tánh! Nếu nói về tu thì không ngoài y cứ vào hạnh tiêu phục, nếu y cứ về lý tánh thì lý tự tiêu phục, tại sao nói nay quán các pháp tuy tâm nhiễm thể v.v.. ư! Nay nói quán tu hay tánh ư! Câu hỏi 13: Về lý tiêu phục, lời sao tự phân biệt rằng: Vậy thì hoặc tánh tướng đợi, chẳng phải thiếu đoạn trí. Nay hỏi vặn rằng lý tiêu phục nghóa đã nói chẳng liên quan đến ước hạnh trí đoạn, hay chỉ lý cảnh không liên quan đến trí đoạn ư! Là y cứ vào mê sự chẳng quan hệ đến trí đoạn ư! Hay căn cứ hạnh tánh đức chẳng quan hệ đến trí đoạn ư! Hay đều y cứ vào bốn nghóa chẳng quan hệ đến trí đoạn ư! Câu hỏi 14: Lý tánh nếu không có nghóa tiêu phục, y cứ vào hạnh tiêu phục đều chẳng phải tánh khởi ư! Nếu vậy, tại sao Đại sư nói rằng, nay vốn là hạt giống tánh đức, nếu tâm từ bi trí tuệ trang nghiêm hiển xuất chân thân đều lấy liễu nhân làm hạt giống, nếu tâm từ phước đức trang nghiêm hiển xuất ứng thân đều lấy duyên nhân hạt giống. Văn này y cứ vào hạnh tiêu nghóa chẳng phải bi trí trang nghiêm, y cứ vào hạnh phục nghóa chẳng phải từ phước trang nghiêm ư! Nếu không có hạt giống bổn tánh làm sao hiển bày được ước hạnh viên tu! Câu hỏi 15: Lời sao nói: Hoặc tánh đối đãi nhau chẳng liên quan đến trí đoạn gọi là tiêu lý độc, vì y cứ vào bổn tịnh không nhiễm ngũ trú gọi là lý tiêu ư! Hay dùng quán trí chiếu lý quên hoặc gọi là lý tiêu ư! Nếu nói vốn tịnh không nhiễm đều không phải trải qua tu, tại sao nay quán các pháp duy tâm nhiễm thể đều gọi là trị lý độc ư! Nếu nói hoặc tánh đối đãi nhau, suy hoặc tức tánh gọi là tiêu lý độc, đây tức ước vào hạnh suy xét nhập không hiển hiện tu thành, sao lại cho là y cứ vào lý! Tại sao ngài Kinh Khê nói lý thì tánh đức duyên liễu! Tại sao vốn tự hai không tức nghóa tánh đức ư! Câu hỏi 16: Nếu nói nghóa độc tuy thành, nghóa tiêu hoàn toàn thiếu, thì nay lẽ ra không phù hợp nên nói vốn là nhân quả căn bản, tức là tánh đức duyên liễu, tánh đức này vốn tự có chẳng thích hợp với ở đây, tánh đức liễu nhân chẳng phải lý tiêu nghóa ư! Tánh đức duyên nhân chẳng phục nghóa ư! Câu hỏi 17: Nếu nói hoặc tánh đối đãi nhau chẳng liên quan đến trí đoạn hạnh tiêu nghóa, thì đây khác với lý tu tánh, trí đoạn thể ràng buộc, tại sao Đại sư nói bắt đầu thì khởi từ liễu nhân, sau cùng thì Bồ- đề đại trí, mới thì khởi từ duyên nhân, sau cùng thí Niết-bàn đoạn đức, vì sao đặc biệt trình bày hoặc tánh đối đãi nhau gọi là lý tiêu độc chẳng liên quan đến nghóa ước hạnh trí đoạn ư! Tánh ước liễu nhân chẳng phải trí thể ư! Tánh đức duyên nhân chẳng phải đoạn thể ư! Câu hỏi 18: Lời sao nói: hoặc tánh đối đãi nhau gọi là tiêu lý độc, ở đây là đối với hoặc tánh gọi là cảnh tu đức ư! Hay cảnh tánh đức ư! Nếu nói tu cảnh thì căn cứ khảo sát cùng tận thành nghóa tiêu phục cũng chỉ thuộc về tu, y cứ vào hạnh mà nói. Nếu nói tánh cảnh, pháp tánh tự như vậy chẳng phải do tạo thành, tánh đây đối hoặc gọi là tiêu lý độc, năng đối tánh đã nói nghóa tiêu hoàn toàn thiếu, nên lựa chọn chỉ ở trong lý làm năng đối tánh ư! Nên chọn thanh tịnh chân như làm năng đối tánh ư! Câu hỏi 19: Lời sao nói: Hoặc cho rằng tánh ác là lý độc, nghóa độc tuy thành, nghóa tiêu hoàn toàn thiếu, nếu có nên phá tánh ác hỏi văn rằng: Nếu vậy tại sao Phụ Hành nói: Lại lý này chuyển thành tu đủ, mỗi mỗi tu đầy đủ, không lý nào không đủ, khiến thức tu đủ, toàn là lý đủ, là đạt lý đủ, tức không tức trung, lý đầy đủ này tức không tức trung, cũng chẳng phá pháp môn tánh ác ư! Đại sư nói: Tướng mạo tu đức ở trong tánh đức, đây cũng dứt bỏ tánh ác ư! Lý đầy đủ trong không, nêu tướng mạo tu đức, đâu chẳng phải nay y cứ vào lý tiêu phục nghóa ư! Tôi cho rằng nếu dựa vào lời Sao, một nhà tuyên bày về pháp môn tánh đức đều thành vô dụng, viên tu trí hạnh đều thành hữu tác, vì sao? Vì nếu cho rằng lý đầy đủ các hạnh thì lẽ ra phá pháp môn tánh ác, nếu nói tánh ác lý độc nghóa tiêu hoàn toàn thiếu thì hiển hiện đồng duyên liễu mới có, vì sao tu đức mà chẳng viên dung ư! Xét rằng như vậy thì thuyết tánh nghiêng đổ, đạo viên đốn phế bỏ, truyền thuật và sáng tác giúp ích tông thừa, tại sao bỗng nhiên trái với đại nghóa. <卷>QUYỂN 3 Biệt lý tùy duyên hai mươi câu hỏi. Quang minh huyền đương thể chương hỏi đáp Ráng vi hỏi đáp ba mươi chương Khai vi Thí vấn bốn mươi hai chương Giáo môn tạp hỏi đáp bảy chương Bốn loại tứ đế hỏi đáp. <詞>BIỆT LÝ TÙY DUYÊN HAI MƯƠI CÂU HỎI VÀ LỜI TỰA Có học giả của đương tông hỏi tôi rằng: cái nhân đối với chỉ yếu trong lời sao, lập biệt giáo chân như có nghóa tùy duyên ư! Tôi đáp: Đúng vậy. Khách hỏi: Lại như ngài Pháp Tạng biên soạn Sở thích Khởi Tín luận, chuyên lập chân như có hai nghóa bất biến và tùy duyên, ông nói bất biến tức tùy duyên tùy duyên tức bất biến, bởi vì đối với trong năm giáo kia nó thuộc về Chung giáo cũng bao gồm đốn giáo mà đối phá Duy thức tông đàm luận về lý chân như chỉ luận về bất biến, không nói đến tùy duyên, xét kỹ Duy thức chính là nay Biệt giáo, Chung giáo và Đốn giáo nêu rõ bất biến và tùy duyên chính là lý Viên giáo ngày nay. Vì sao biệt lý tùy duyên ư! Tôi nói rằng: Ngài Pháp Tạng y cứ vào nghóa nào. Mà phê phán Duy thức đàm luận chân như không tùy duyên ư! Khách nói: Sơ Khởi Tín nói: Tông Duy thức chỉ dùng nghiệp tướng làm gốc sinh khởi các pháp, chân như kia vô giác vô tri, bất động bất biến, không bị tùy duyên, chỉ nói tám thức sinh diệt dù chuyển thành bốn trí cũng chỉ là hữu vi, không được tức lý, cho nên giải thích giới hạn của pháp chỉ ngang bằng nghiệp thức. Tôi nói: Nếu nói cho nên tánh có giác biết, thì có thể huân biến mới nói tùy duyên, đã ngang bướng mới không được huân, đã không được huân thì đâu tùy duyên tạo khắp các pháp, nhân đó mà vặn hỏi; Biệt giáo chân như không giác biết ư? Nếu không giác biết cớ sao được gọi là Phật tánh, cho nên Phụ Hành nói: Giáo môn này nói rõ Trung đạo chỉ có hai nghóa: 1/ Lìa đoạn thường, thuộc hai giáo trước; 2/ Phật tánh, thuộc hai giáo sau. Biệt giáo Trung đạo đã gọi là Phật tánh thì Phật chẳng phải nghóa giác ư! Nếu đối với lý ngang bướng, vốn không giáo biết sao gọi là tánh của bậc đại giác quả, huống chi dùng tánh không thay đổi làm nghóa, nếu nhân không có nghóa giác đến quả mới có thì đây biến chuyển, sao gọi là tánh ư! Lại nữa Diệu Lạc nói: Phàm trong Biệt giáo lập Phật quả có ba ý: 1/ Lấy lý tánh làm cõi Phật; 2/ Dùng quả ban đầu làm cõi Phật; 3/ Dùng sơ địa cách phần làm cõi Phật. Biệt giáo đã lập cõi Phật đâu có Phật ngang bướng, tạng sớ đã y cứ vào chân như vô giác biết cho nên bất động, bất động cho nên không tùy duyên, biệt lý đã có giác biết, xét thật chẳng phải bất động, đã chẳng phải bất động tại sao không tùy duyên ư? Khách bỗng nhiên sợ hãi lúng túng. Tôi liền nói rằng: Ông đã không biết chỗ ấy đâu được vọng có phá lập, tôi đã thương xót sự vô tri kia mới lập vài mươi câu để hỏi, trưng dẫn sự lầm lẫn kia để phá lập, khiến cho biết chút ít biệt lý có nghóa tùy duyên. Khách thưa: Xin lắng nghe. Câu hỏi 1: Tạng sớ chép: Tông Duy thức ngang bằng với nghiệp tướng để làm sốc sinh khởi các pháp, cho nên chân như kia không nói tùy duyên, ngài Kinh Khê đã lập Biệt giáo chân như ở nơi mê thì sinh ra chín cõi, lấy chân như làm gốc sinh ra các pháp, là khác hẳn với nghiệp tướng làm gốc sinh ra các pháp, sao nói biệt lý không tùy duyên ư! Câu hỏi 2: Tạng sớ lại chép rằng: Tông Duy thức chưa nói về nghiệp tướng v.v… cùng với chân như đồng lấy nhất tâm làm nguồn gốc, cho nên nói chân như vô giác tri, bất động, bất biến, không chịu tùy duyên, ngài Kinh Khê đã giải thích Biệt giáo căn trần nhất niệm là mê, nên giải thích rằng, lý tánh Như Lai là gốc của thiện ác, đâu chẳng phải nghiệp tướng v.v… cùng chân như đồng lấy nhất tâm làm gốc sinh ra các pháp ư! Đã vậy, sao nói biệt lý không tùy duyên ư! Câu hỏi 3: Tạng sớ chép: Tông Duy thức nói tám thức sinh diệt tự do chuyển thành bốn trí cũng chỉ là hữu vi, không được tức lý, ngài Kinh Khê đã lập biệt lý gọi là Phật tánh, sao lại chuyển tám thức thành bốn trí ư! Biệt lý đã là Phật tánh tức tùy tịnh duyên thành tựu quả Phật, sao nói không tùy duyên ư! Câu hỏi 4: Tạng sớ ngũ giáo không lập lý đầy đủ tam thiên, chỉ căn cứ bất biến tùy duyên, lập ba giáo Chung, Đốn, Viên, xin Ngài trình bày rõ lý ba giáo và tướng tùy duyên, nếu không có tướng khác thì đâu lập ba giáo, nếu có tướng khác xin nói kỹ. Câu hỏi 5: Tạng sớ Viên giáo chưa bàn luận lý tánh vốn đủ các pháp, cùng với Viên giáo của các nhà có thể sánh ngang nhau không? Viên kia vọng trông vào Viên này, còn tự khác nhau xa, đâu thể đàm lý chung giáo hợp với Viên này… Câu hỏi 6: Tạng sớ không bàn luận lý đủ các pháp, là biết mà không đàm luận, hay là không biết? Nếu biết mà không bàn luận thì mắc lỗi che giấu nghóa sâu xa, nếu vốn không biết thì không khéo đàm luận viên thì đâu được đồng với Viên này, viên kia còn không đồng với viên này huống chi Chung giáo ư! Câu hỏi 7: Tạng sớ chưa bàn luận về lý đủ các pháp, vậy thì một lý tùy duyên biến tạo các pháp thì chẳng phải vô tác, nếu không thành vô tác, đâu được đồng với viên này. Câu hỏi 8: Tạng sớ Viên giáo bàn luận về sự sự vô ngại lớp lớp, dường như trong sắc hương này các pháp trung đạo hướng đến nghóa sắc v.v… tham gia mà luận bàn dường như Viên giáo này Chung giáo kia bất biến tùy duyên, có được lập thuyết này không? Nếu nói sự sự vô ngại chính là viên kia thì chẳng phải Chung giáo, nếu chưa được như vậy còn trông mong vào viên kia, thì đâu bằng Viên này ư! Câu hỏi 9: Chung giáo kia bất biến tùy duyên, cùng với bài vàng nói về bất biến tùy duyên là đồng hay khác? Nếu khác thì chẳng phải viên này, nếu đồng thì bài vàng chân như là muôn pháp là do tùy duyên, muôn pháp là chân như là do bất biến. Căn cứ vào hai nghóa này lập loài vô tình có Phật tánh. Chung giáo tuy lập tùy duyên bất biến nhưng lại nói tại hữu tình được gọi là Phật tánh, tại vô tình chỉ gọi pháp tánh, không gọi Phật tánh, đã chia hai phái, không nói bất biến chính là biến vậy. Đã trái với bài vàng làm sao gọi là viên lý, nên biết quyền giáo có danh vô nghóa, vì nói có Phật tánh là nói theo giải, nói theo lý, y cứ vào giải và lý còn chưa nói khắp, chẳng phải quyền thì là gì? Câu hỏi 10: Bài vàng chép: Khách nói: Vì sao quyền giáo không nói duyên liễu hai nhân khắp ư! Tôi nói: Chúng sinh từ vô thỉ chấp ngã, ngã sở, theo chỗ chấp mà chỉ bày, chưa nên nói khắp, trong kinh Niết- bàn mang quyền mà nói thật, cho nên được dùng “không” để dụ cho chánh, chưa vì dụ duyên liễu, nếu giáo hướng về quyền thì ba nhân đều hạn cuộc, như hàng sơ tâm Biệt giáo nghe chánh cũng hạn cuộc, tạng tánh lý tánh tất cả đều như vậy, cho nên hàng bạt địa nghe vô tình là vô, nương mê mà bày mê, cho rằng năng tạo là đúng, gá quyền lập tánh, cho rằng sở tạo là sai (trên dều là bài vàng nói không bỏ sót một chữ) hai nhân không khắp, còn nói mang quyền, chính hạn cuộc hữu tình, đích xác thuộc biệt giáo, Chung giáo đã vậy sao chấp là Viên ư! Câu hỏi 11: Tạng sớ nói rõ A-lại-da là gốc sinh ra các pháp cho nên gọi là Phần giáo hiển bày chân như là gốc sinh ra các pháp gọi là Chung giáo, nay ông đã tin biệt lý vô trú năng tạo các pháp, nếu không tùy duyên thì đâu thể tạo ra pháp ư! Câu hỏi 12: Các tông khác đều không nói vô trú, nay ông giải thích chỗ pháp tánh sở y có thể che chở làm vô trú dù ông có lời giải thích này chỉ như Chung giáo chân thật tùy vọng chuyển tạo lập ra các pháp, điều ấy có nghóa là bao phủ hay không? Nếu không thể bao phủ, chỗ tạo các pháp được gọi một nhiều, tướng nhập sự sự vô ngại không? Nếu vậy, thì sao lại khác với Viên kia. Nếu không vậy, thì chẳng bao phủ được gì, đâu phải chân như lý tánh không tự tại ư! Phải biết Chung giáo chỉ có lý là vô trụ, không thể chấp tánh cõi Phật là vọng động ngăn cản trói buộc thành chín cõi, đáng lẽ có thể che lấp nghóa, bẩm thọ giáo pháp kia, tuy tin chân như khắp tạo các pháp chưa biết sự sự đương xứ viên dung, vì giáo này chưa giải thích lý tánh đốn đầy đủ các pháp, nếu bẩm thọ Viên giáo này thì biết tánh đức vốn đủ các pháp, tuy tùy vô minh khắp tạo, là tác mà vô tác, vì vốn đầy đủ, sự đã tức lý pháp pháp viên mãn, thường thâu nhiếp khắp các pháp, không gì chẳng phải pháp giới. Chung giáo giải thích rõ đã không như kia đâu được ngang bằng với Viên giáo này ư! Câu hỏi 13: Chung giáo nói chân như là bản giáo, Biệt giáo nói chân như là Phật tánh, tánh chẳng phải bổn ư! Phật chẳng giác ư! Danh nghóa đã ngang bằng thì đâu được không đồng. Câu hỏi 14: Tông Duy thức nói: Chân như vô giác tri cho nên không thể mê, Chung giáo bàn về chân như có giác tri cho nên bị mê, vì bị mê cho nên có khả năng ngộ, vì thế lập ra tùy duyên. Biệt lý đã có giác tri sao không thể như vậy? Nếu có khả năng sao không tùy duyên? Câu hỏi 15: Ông nói biệt lý vô trụ năng tạo các pháp, chỉ là lý năng tạo sự, lả nghóa thiên về một, đâu chẳng phải chỉ có nghóa tùy duyên không có nghóa bất biến, ông vốn không biết bất biến thì Chung giáo phân giáo đồng giải thích rõ, tùy duyên thì riêng tại Chung giáo, cho nên nói bất biến chưa hẳn tùy duyên, nếu nói tùy duyên thì có bất biến, do đó tánh chân như tùy duyên, nếu khi tùy duyên thì biến đổi không có danh tánh. Câu hỏi 16: Ông nói Biệt giáo nói bất tức, Chung giáo nói tức, là khác nhau bởi người mê danh hoàn toàn không trá xét lý, do kia không bàn luận tánh đủ chín cõi, nhưng chỉ lý tùy duyên tạo thành chín cõi, nếu dứt bỏ vô minh chín cõi phải hủy bỏ, nếu chín cõi tức là lý chân như (Đại ý cùng chỉ quán đều dùng nghóa ấy giải thích, tức như nói sơ tâm là hậu tâm…) đâu cần trừ chín cõi, há chẳng phải chín cõi nhất định làm ngăn chướng lý ư! Nếu cho rằng không như vậy thì Chung giáo lại nói chín cõi là pháp giới, mỗi mỗi thâu nhiếp khắp chăng? Nếu nói cùng viên kia sao lại biệt? Nếu không nói thì đâu xứng với tức ư! Huống chi viên kia đã chưa bàn luận tánh đủ ba ngàn ( 3. 000), tuy nói mỗi mỗi thâu nhiếp khắp nhưng còn có chỗ chưa thâu nhiếp khắp, nếu so sánh Viên giáo này thì không thành nghóa tức, huống chi Chung giáo ư! Câu hỏi 17: Ông nói tánh đầy đủ chín cõi không được nói khác nhau bởi vì chưa biết trong lý tụ có lập nghóa tất cả pháp, cho nên Diệu Lạc nói: Lý thì tánh đức duyên liễu, v.v… lại nếu cho rằng tánh đủ các pháp không gọi khác nhau, vì sao Diệu Kinh Sớ nói: Nếu biết đất có đào có lý, tức biết trong thật có quyền, giải vô sai biệt tức là sai biệt, nếu biết đào lý tướng thẳng, tức biết trong quyền có thật, giải sai biệt tức vô sai biệt, đã do đất có đủ đào lý là quyền, quyền này gọi là sai biệt, đây chẳng phải tánh đầy đủ chín cõi được gọi là sai biệt ư! Câu hỏi 18: Chỉ quán của Biệt giáo cho một niệm tâm là mê để giải thích bổn, dẫn Kinh Lăng-nghiêm nói về lý tánh Như Lai tạng làm nhân lành, không lành, ý ông cho rằng: Câu này nếu chứng được Chung giáo thì đó là nghóa tùy duyên; nếu chứng được Biệt giáo thì chẳng phải nghóa tùy duyên. Vả lại nay dẫn văn tóm lược, kinh kia nói đầy đủ bảy thức không trôi lăn, không tạo nhân khổ vui (thể của vô minh) là không), Như Lai tạng là nhân lành, không lành, hoặc sinh hoặc diệt, chịu khổ vui, đi chung với nhân (chân như thành sự) đã năng làm nhân lại tức sinh diệt, văn này làm sao không tùy duyên mà hiểu! Nếu cho rằng không dẫn các văn như sinh diệt v.v… thì chẳng tùy duyên, hơn nữa đối với tông Duy thức có thể nói chân như là nhân thiện ác hay không? Lại văn kế là dùng Đại luận ao nước để ví dụ, đây làm sao thông, cho nên nói: Như ao nước lớn voi xuống thì nước đục, bỏ viên ngọc xuống thì nước trong. Nên biết ao nước là nguồn gốc của sự đục trong, hạt ngọc và voi là duyên không đục, trong. Nay hỏi: Ao nước lại tùy hai duyên này làm trong đục hay không? Nếu tùy thì làm sao tạo bất tùy duyên giải ư! Câu hỏi 19: Phụ hành giải thích Biệt giáo phát tâm chép: Trong phiền não có Như Lai tạng, chúng sinh phàm phu mù tối thường đi chung với tạng, không có sự thấy biết, cho nên trôi lăn sinh tử, trở lại làm tàng hại, vả lại Bồ-tát Biệt giáo đã thấy chúng sinh như vậy cho nên phát tâm, đâu thể nói rằng chân như không tùy duyên ư! Câu hỏi 20: Ông nói rằng: Mục đích là phá những câu hỏi, đặc biệt lập ra biệt lý tùy duyên, vì người không hiểu ý hỏi của An Quốc Sư nên mới nói lầm, như kia hỏi rằng: Biệt giáo chân như không tùy duyên, Khởi Tín chân như năng tùy duyên, chưa xét kỹ Khởi Tín là biệt hay viên! Nếu là biệt thì văn càng trái nhau, nếu viên thì trái với tạng sớ kia, hơn nữa ban đầu nói tùy duyên không tùy duyên, bởi vì người học vọng cho rằng Biệt giáo không bàn luận tùy duyên, Khởi Tín vẫn nói tùy duyên. Thuận theo thường tình mà hỏi đầu mối đã cùng biết Khởi Tín bàn luận ở chân như như tùy duyên, cho nên Định Chi nói: Chưa xét kỹ nghóa tùy duyên là Biệt hay Viên, bởi người học không biết chân như tùy duyên chung cho hai giáo. Về sau hỏi vặn rằng: Nếu nói khởi tín là biệt thì càng trái với văn luận, vì văn luận nhất tâm thuộc pháp thế gian, xuất thế gian và tướng đại, nói đủ vô lượng tánh công đức, là vốn đủ một ngàn ( 1. 000) như. Lại tám tướng của hàng Thập Trụ Viên giáo phần chân nhậm vận thùy ứng là viên vị, nếu quyết định xếp vào biệt thì trái với tạng sớ, vì sớ không y cứ vào tâm, đủ trăm cõi là nhiếp pháp thế gian, xuất thế gian, và vô lượng tánh công đức không căn cứ vào tánh thiện, tánh ác để giải thích lại tám tướng của Thập trụ không nói phần chân để phân biệt mà nói là hàng phục kiến tư hoặc trú nguyện lực thần thông mà tạo tác. Nếu xế vào Viên thì trái với các văn trong sớ này, nay nếu ông chấp theo An Quốc Sư xếp Chung giáo là nay Viên, thì ví sao nạn vấn rằng: Nếu viên trái với tạng sở mà tạng sớ chính là tụng Chung giáo giải thích đối với khởi tín, nếu Chung giáo là Viên thì Viên thuyết vừa thuận hợp tạng sớ, sao nói nếu viên trái với tạng sớ kia ư! <詞>CHƯƠNG QUANG MINH HUYỀN ĐƯƠNG THỂ HỎI ĐÁP Từ Vân sám chủ hỏi, Pháp sư Tứ Minh đáp. Tuân Thức cúi đầu trước Diên Khánh pháp chủ, trộm nghe gần đây mọi người đều tuyên dương kinh Kim Quang Minh pháp môn sâu xa, tự nghó vô duyên dưới tòa, hơn nữa kinh này nghóa lý sâu xa chỉ bày được gọi đương thể thứ năm, ý này soi xét, sớm chiều suy nghó không hiểu, cẩn thận thành câu kệ, vâng lệnh để hỏi han, mong nói để truyền trao cho mọi người, nhất là để khai thông quyết đoán, đời sau báo ân rộng lớn. Thế nào là pháp tánh? Tự thể Kim Quang Minh Là phải từ nghóa lập Là đúng chất cũng thành Pháp tánh vốn chẳng chất Màu vàng từ đâu sinh Nếu từ nghóa mà lập Thì là tên gọi giả Toàn vàng làm pháp giới Bụi trần đều bình đẳng Sám hối diệt chỗ nào Khen ngợi vinh chỗ nào Tội phước đã không hai Không dẫn dắt tiếng rỗng Không tạng không không hiện Đất Địa tạng khó nghiêng Tại sao đây đồng khác? Mong giải tâm nghi tôi Hoa sen là lúa gạo Đương thể như thế nào Sánh đồng tất cả pháp Đàn sư tử xin thảy. Trí lễ cúi đầu kính lễ trước Linh Sơn sám chủ, tứ bắt chước nhăn mặt cấm túc, liên tiếp mạnh dạn giảng giải khoa, tuy đạo chưa thâm sâu, lại giới hạn lời nói có nơi, nay bị vấn nạn mạnh dạn sinh khởi đại bi khiến tôi suy tìm, giúp người hiểu ngộ, việc nhân duyên bận rộn, lâu ngày mất sự báo đền, nay xin báo đáp, mong xem xét kỹ. Pháp tánh đủ các sắc Gọi là sắc nhiệm mầu. Pháp tánh đủ các nghóa Gọi là nghóa bậc nhất Nghóa ấy và sắc này Đâu thể chia làm hai Tánh lửa tức chân không Lăng-nghiêm bày ý ấy Sắc tánh tức trí tánh Khởi tín nói nghóa ấy Ngàn như tướng chẳng tướng Sát-na đáng nương tựa Một lý không bất không Tỳ-lư mới trùm khắp Cùng tận sắc gần không Tức là bản lai địa Xét tâm chí sát-na Tức là trí chân như Mũi ngửi hương Phật Ca-diếp Lưỡi nếm vị pháp mầu Tướng thế gian được thường Bởi do trú pháp vị Pháp thân trôi năm đường Do vì có quyền trí Tâm cuồng vàng đá lấp Sắc bệnh niệm tưởng say Tâm, sắc lý không khác Chất, nghóa đâu từng sai Chúng sinh mê nguồn gốc Chắc chắn phân tình khí Nương không hành sám khen Thể pháp giới đầy đủ Ánh sáng chiếu thế giới Vàng ròng các pháp quý Thể rốt ráo chân thật Chiếu soi khắp tất cả Khởi pháp sự vi diệu Đủ phước trí trang nghiêm Ta lấy đây so tính Mong nghiên cứu kỹ lưỡng. Tuân Thức lại một lần nữa dùng Già-đà hỏi Diên Khánh pháp huynh, xin hãy mở ra xem, còn đợi báo âm. Niết-bàn bốn vô thuyết Nhân duyên nên lập chữ Lại nói nghóa bậc nhất. Có nói có thật nghóa. Có không và chân tục Làm sao phân giống khác Các pháp tức chân như Không danh, không văn tự Chân như tức các pháp Tùy duyên có khác nhau Khởi ắt tánh ba ngàn Vì sao không danh nghóa Tánh nước lửa chân không Không sao chia một khác Theo nghiệp mà phát hiện Từ ngọn đến tận cùng Hoàn toàn đều sai khác Kiến lập đều do tục Cớ sao không danh nghóa Sắc tánh tức trí tánh Bởi do thể không hai Không hai, không phải quấy Thảy đều bản lai địa Khước từ tận gần không Làm sao mới hiển trí Vốn là một tinh minh Chia làm sáu thứ nghóa Phương tiện có nhiều cửa Về nguồn tánh không hai Không hai tức như như Làm sao có hương vị Thuốc, bệnh tánh tương ưng Phương tiện trị sắc tâm Nước lửa tự lên xuống Lập tức thành trái bỏ Duyên khởi chỉ theo tánh Làm sao bày không hai? Các pháp như huyễn mộng Một nhiếu nương gởi nhau Thể huyễn tức là chân Nhọc gì cùng lìa xa Tận cùng các vi trần Thảy đều quên sát-na Đâu có ý còn mất Quán tâm sơ bất nhẫn Nay sao nhẫn ý này Thủ xả tuy do ta Nếu kia còn do dự Đại đạo sư trời người Vì sao không quyết trí Quán tâm, cũng quán sắc Duy chỉ quán tâm địa Sắc không gọi quán tâm Tâm bao gồm các nghóa Đồng khác cùng nhiếp nhau Làm sao được ý nghóa Quán tâm chỉ một niệm Một niệm đủ ba ngàn Ba ngàn gồm thân, cõi Quên mất nghóa quán sắc Ba ngàn kịp ngoại cảnh Làm sao được ngang bằng? Tri Lễ tự khiêm nhường cung kính vâng theo hoài bão lại lần nữa đáp lời của Linh Sơn sám chủ, mong hãy chọn lựa xem. Niết-bàn nhất thật đế Ngăn hiển chẳng khác nhau Nương lời và lìa lời Đều là nghóa chân như Tục này kịp chân này Phi tình là tùy trí Hai đế đều gọi chân Chân này có tên gọi Nếu rõ tánh ba ngàn Đây là nghóa viên thành Pháp pháp đều chân thường Danh thật đều tôn quý Nương pháp biến kế này Làm sao giống được đây Thể kia như không hoa Đâu thật phải gọi tên Thể sắc, tâm không hai Trong tình chấp chặt khác Muốn phá tình chấp chặt Phải tìm đến bờ mé Nếu biết nương lý tạng Pháp pháp không bỏ sót Nương đây hiển viên thường Không hề mong lìa bỏ Tuy là một tinh minh Thể đủ nghóa ba ngàn Y chánh lý chứa trong Căn cảnh đủ trong tánh Duy tâm tức duy sắc Duy hương cũng duy vị Duy xúc duy âm này Lý này khó nghó bàn Sức nước lửa chống nhau Sáng tối có thể trị Ngay trong chống trái này Thấy khắp tướng tùy ý Trái nhau rõ đủ đức Theo nhau biểu không hai Bậc trí khéo nghó lường Gốc ngọn không hế khác Quán tâm lý thú sâu Nghóa dường như trái nhau Xuất tự toàn tổng trì Ai lại không do dự Lạm làm người lưu thông Tự xét ở vị nào Lời nói khó tránh ngục Lại suy nghó mới được Chín cõi buộc tu tâm Ba đường nhờ tâm trị Đây quán từ ngoại cảnh Ngoài phá trong mới làm Nương lý tuy hợp nhau Do mê lại chia hai Biết rốt ráo nguyên nhân Dám an trí tâm lực Ba pháp đều nhiệm mầu Duy tâm mầu nhiệm hơn Nương tâm thấy pháp giới Phật, chúng sinh bình đẳng Mình mê theo vật khác. Đích thực lập tình khí Thấy sắc liền thấy tâm Sáng tỏ toàn tánh khởi. <詞>RÁNG VI HỎI ĐÁP BA MƯƠI CHƯƠNG Pháp sư Tứ Minh hỏi, Pháp sư Tịnh Giác đáp. Ngày mùng 4 tháng 2 mùa xuân thay đổi niên hiệu Thiên Hy. Diên Khánh Tọa chủ cho ra đời giáo nghóa sơn gia gồm ba mươi điều tóm tắt trong lời Ráng Vi hỏi các đệ tử, lời văn chỉ lược yếu nhưng ý chỉ rất cao sâu, khiến không ai là không hưng khởi công lao truyền bá giáo pháp, khiến người không thông minh lanh lợi có chí gắng sức học, môn nhân (Nhân Nhạc) theo đây mà đối đáp văn vẻ rõ ràng, chẳng cầu mong một tiếng khen của nước Lỗ, hoặc cầu thỉnh lời răn dạy mạnh dạn thầm nhuần khắp nơi, đã có ghi chép trao truyền, cho nên nay nêu ra rằng: Câu hỏi 1: Trong ba tạng, sơ quả khổ nhẫn chân thật sáng suốt, cớ sao lại nói diệt chẳng phải chân đế, tứ đều xứng đế, vì đế là chân như! Hay đế là tục ư! Đáp: Vốn xét về lý ba tạng chỉ nhất chân quán có lý bốn đế nhân quán hiển bày, cho nên gọi là khổ nhân chân minh, lý hiển thì quán mất, cho nên nói diệt chẳng phải chân đế, vì sao? Vì do diệt chân không lìa lục huyễn, tuy biết khổ đoạn tập, tu nhân, chứng quả đều là sự hành sinh diệt, chẳng phải lý thể vắng lặng, nghiên cứu luận về pháp tánh đâu có chỗ mê ngộ. Cho nên Đại sư nói: Ba tạng pháp tánh tự nhiên nhiên, tập không thể làm ô nhiễm, khổ không thể làm buồn bực, đạo không thể làm không suốt, diệt không thể làm thanh tịnh, nhưng do khổ nhẫn mới hiểu rõ chân như, phân tích cùng tận sắc xứ mới thấy rõ không, tùy năng tích sở tích đều chẳng phải là không, mà thấy không ấy là do phân tích nơi sắc. Cho nên biết khổ nhẫn chân minh diệt chẳng phải nghóa chân đế không trái nhau, lại ở trên nói ắt ở dưới hiển bày, đế tục thì đế chân, há trước sau khác nhau ư! Câu hỏi 2: Nhân duyên đình tâm cùng Bích-chi-phật chánh quán vì sao lại sai khác nhau? Đáp: Nhân duyên dừng tâm, là hàng sơ tâm phần nhiều tâm còn ngu si nên khởi kiến chấp đoạn thường do đó dạy họ quán nhân duyên ba đời để đối trị, cho nên ngài Kinh Khê nói ba đời nối nhau nên không dứt, ba đời lần lượt đổi thay cho nên không thường, đây chỉ lược biết nhân duyên sinh tướng, chưa biết nhân duyên Bích-chi-phật chánh quán, chẳng phải chỉ quán ba đời mà thôi, cho đến năng quán trăm ngàn muôn đời, lại biết sinh và biết diệt, bao gồm đế tục và đế chân, hai quán có khác chút ít, không thể xen lẫn nhau. Câu hỏi 3: Các văn đều nói: Bích-chi-phật quán nhân duyên dứt hoặc, tướng quán như thế nào? Đáp: Các văn nói khác nhau, nay thử trình bày sơ lược, như nói về A-na-hàm, hàng trung thừa quán tướng nhân duyên có nghịch có thuận, từ vô minh đến già, chết gọi là thuận, từ già chết đến vô minh gọi là nghịch, sinh diệt đều như vậy, đây là nói đại lược. Nếu như bốn niệm xứ xác thật rõ suy tìm tướng quán phá, hoặc dùng chi ái làm đầu, hoặc lấy chi thủ làm đầu, cũng có nghịch thuận, lại như chi ái làm đầu, tức suy tìn nhân tham ái do đâu mà sinh, liền biết tham này do ái mà sinh khởi, cho đến hành do vô minh, vô minh do tất cả phiền não trong quá khứ, lại suy tìm thuận thì ái này sinh ra từ thủ, thủ sinh từ hữu, hữu sinh từ hai mươi lăm hữu sinh tử trong đời vị lai… Nếu quán phá thì quán ái tức năm ấm tánh niệm xứ ô uế trong hiện tại, cho đến quán vô minh tức năm ấm tánh niệm xứ ô uế trong quá khứ; lại nếu quán nơi hữu tức thiện, bất thiện năm ấm tánh niệm xứ, cho đến quán sinh tử vị lai, tức quả báo sinh tử vô ký tánh niệm xứ, đó gọi là quán sát nghịch thuận phá bốn điên đảo, điên đảo diệt thì vô minh diệt, cho đến già chết diệt (trên đều lược nghóa chọn văn nghóa bốn niệm xứ). Chi thủ đứng đầu, tức người mê chấp kiến hoặc. Nghịch thuận suy tìm phá theo chẳng hạn như chi ái, lại như chỉ quán nói trong cảnh giới thiền, nhờ tu mới phát sinh, lấy chi hữu làm đầu lại giải thích rõ bốn giáo quán nhân duyên đều từ ái sinh khởi, như đây các thuyết khác nhau, do vì căn tánh có khác nhau nên tu nhập khác nhau, nay căn cứ bộ Phụ Hành phê phán nhân duyên quán, gồm có hai thứ: 1/ Suy tìm quả biết nhân; 2/ Suy tìm nhân biết quả. Nếu niệm xứ và chỉ quán tức suy tìm nhân biết quả, giải thích rõ ràng tức suy tìm quả biết nhân. Nhưng nghóa của hai thứ này ứng dụng niệm xứ làm chánh do chánh năng thuận nghóa nhân duyên. Nhân duyên đã lầy vô minh làm đầu, nay quán ái thủ tức là vô minh, cho nên Đại sư rộng chỉ bày tu tướng là do đây. Câu hỏi 4: A-hàm đã chỉ nói ba tạng, vì sao tám muôn vị trời liền phát đại đạo? Đáp: Bởi do pháp môn tiệm đốn thể vốn không hai, Tiểu thừa Đại thừa căn tánh lý vốn không khác nhau, vì sự ngộ huân khác nhau cho nên được giải thoát có khác nhau, nay các vị trời ngộ đại đạo, đâu có gì hồ nghi ư! Xét ứng tích xưa, từng dùng Tiểu thừa đế cảnh tu Đại thừa quán trí, nay nghe cảnh cũ liền phát sinh hạt giống xưa, thí như trước bỏ thuốc độc vào trong sữa này lại uống sữa tức là có công năng giết người, nhưng do Đức Như Lai biết căn cơ, biết thời, tùy buộc tùy mở, cho nên chỉ dụng sinh diệt tứ đế mà đi đến hai duyên Đại Tiểu, đây tức nói lâu bất định giáo. Hỏi: Tại thời Nai còn nói các vị trời đắc pháp nhãn tịnh, đến hội Bát-nhã mới chỉ nói đạt được Vô sinh nhẫn, vậy thì chúng Thanh văn không biết các vị trời liền phát đại đạo, theo đây thì chẳng thành giáo nghóa bí mật ư! Đáp: So thấy người học phần nhiều nói như vậy, chất vấn kỹ càng thì lời nói không nơi xuất phát, hơn nữa giáo bí mật ấy mới đầy đủ luận bàn về giáo tiệm đốn… mỗi giáo đối với các căn cơ Đại tiểu xen lẫn không nghe lẫn nhau mới gọi là bí mật, chẳng cho là ích lợi nhỏ không biết lợi ích lớn là bí mật. Nếu trong vườn Nai có tướng bí mật như Đại luận nói thì các vì Bồ-tát thấy vô lượng A-tăng-kỳ người chứng đắc Nhị thừa, vô lượng A-tăng-kỳ người đắc Vô sinh nhẫn. Nay tám muôn vị trời chỉ là nói số nhỏ, cùng các hàng Thanh văn đồng thầy đồng nghe có gì bí mật ư! Huống chi Đại sư đích thân làm hiển lộ bất định, đâu không tin ư! Câu hỏi 5: Thông giáo sau khi được dắt dẫn thì hợp thành hai giáo sau, thứ lớp tu chứng, văn kinh Đại Phẩm vì sao chỉ dùng địa thứ mười làm quả ư! Đáp: Đây do Đại Phẩm Thập Địa bao gồm giảng nói nghóa môn ba giáo đó thôi. Như Bồ-tát Sơ địa gọi là phục nhẫn, Nhị địa, Tam địa gọi nhu thuận nhẫn, tứ địa trở lên gọi là Vô sinh nhẫn, cho đến du hý thần thông thanh tịnh cõi nước Phật, v.v… đều chung cho ba giáo, cho nên trong Phụ hành giải thích Thập địa là như Phật, nếu được dắt dẫn đến đây thì đã phá một phẩm vô minh, cũng có tám tướng, cho nên nói như Phật, đâu chẳng phải Thập địa danh nghóa chung cho ba giáo ư! Nếu vậy tại sao Phụ Hành nêu rõ được dắt dẫn, cho rằng dùng giáo trước có thỉ vô chung, đã dùng 7-8, không đến 9-10, tức dùng giáo sau có chung vô thỉ, chỉ dùng Hướng Địa (Thập hồi hướng, Thập địa) không dụng Trụ hạnh (Thập trụ, Thập hạnh) ở giữa tiếp tục dắt dẫn cho nên được gọi là dắt dẫn đây đâu chẳng phải sau khi được dắt dẫn là nương thứ lớp hậu giáo ư! Đáp: Nếu căn cứ văn kinh thì không có biệt vị, nhưng Đại sư được ý chỉ sâu xa của kinh, tự cho là Thập địa chung cho ba giáo, cho nên ngài Kinh Khê căn cứ vào địa vị thứ lớp của hai giáo dẫn ra mà trình bày rõ, muốn khiến cho nghóa được dắt dẫn phân chia khác nhau, dẫn rộng để giải quyết tóm lược, mới là ý tác giả. Câu hỏi 6: Bồ-tát Thông giáo căn cứ vào nghóa nào để lại tập nhuận sinh? Đáp: Để lại nghóa là để lại, chẳng phải sức quán chưa đầy đủ không thể tiến lên dứt bỏ, vì sao lấy đây dạy Bồ-tát đã đạt được tánh địa và trong hàng Bát địa phục kết thuận theo lý, vì các chúng sinh thực hành khắp sáu độ, đối với tất cả việc là phước tuệ đều khiến rốt ráo, như Bồ-tát Tam Tạng nhẫn ở bên trong, hành trong ba tăng-kỳ, hành đến cùng cực thì tự hợp với chân lý, ắt hiển bày chánh tập đều trừ như ba mươi bốn tâm có gì không thể, chỉ do tâm độ sinh rộng lớn thì tác dụng càng thêm tăng trưởng, bèn dùng thệ nguyện từ bi lưu lại nhuận hóa vật. Sở dó cần phải lưu tập là vì không có tự thể chân thật ứng hợp mầu nhiệm, dụng làm gốc của thọ thân, cho nên Diệu Huyền nói: Thông giáo cũng có đắc có ứng, chỉ là tác ý thần thông, nguội thân bặt trí, không có gốc thường trụ, căn cứ vào đâu mà khởi ứng, đây là thật chứng. Câu hỏi 7: Luận Câu-xá dùng trần sa làm thói quen thì làm sao lưu nhuận sinh ư! Đáp: Đại sư nêu rõ thói quen của Thông giáo gồm có hai thứ: Nghóa là thói quen phiền não chướng pháp chướng pháp chướng tức giới nội trần sa. Nếu lưu tập nhuận sinh thì đây chính là thói quen phiền não, do phiền não là nhiễm ô vô tri, vô minh là thể, năng chiêu cảm sinh tử, trần sa là bất nhiễm ô vô tri, trí tuệ thấp kém làm thể, không chiêu cảm sinh tử, nên nói Bồ-tát là nhuận sinh, phải lưu lại thói quen phiền não để hóa vật, phải phá thói quen trần sa thì biết hai thói quen kia thể có khác nhau chút ít. Câu hỏi 8: Phương Đẳng đã có bốn giáo vì mỗi văn đều phải bốn lần giải thích, vì mỗi mỗi đều có văn giải thích phải không? Đáp: Hoặc đều phải bốn lần giải, hoặc mỗi mỗi đều có văn giải thích, phù hợp nhiều đường, không thể chỉ một đường như Đại sư giảng kinh thỉ Quán Âm, bắt đầu từ bệnh tướng cho đến buộc niệm quán sổ tức nghe thần chú được lợi ích, đều y cứ vào mười thứ hành nhân mà nói, tức đều phải bốn phen giải thích, như kinh Thập Lục Quán giải thích chính là đốn cơ, không chung cho tiệm nhập, tức mỗi mỗi đều có văn giải thích. Hoặc một kinh nói đủ bốn giáo, đều có văn giải thích như kinh Tịnh Danh, sở dó phải bốn phen giải thích vì bộ giáo đều kèm theo (kinh Thỉnh Quán Âm), mỗi mỗi đều có giải thích, là vì bộ kèm theo, giáo không kèm theo (kinh Thập Lục Quán) cho nên biết Phương Đẳng giáo tướng khó rõ, không thể đại khái được. Câu hỏi 9: Bát-nhã chỉ giảng môn tam giáo vì sao kinh Nhân Vương nói bốn bài hệ vô thường? Đáp: Nay bắt đầu dùng tạng để trợ giúp giảng rộng, hơn nữa Kinh kia nói Phổ Minh Vương nương pháp của bảy Đức Phật quá khứ thỉnh trăm pháp sư, một ngày hai thời giảng Bát-nhã ba-la-mật tám ngàn ức bài kệ xong, Pháp sư thứ nhất nọi kệ cho vua nghe tức bài kệ thứ tư vô thường, đâu chẳng phải chánh tuyên Bát-nhã, bên cạnh giảng vô thường. Sở dó như vậy là do Phổ Minh đã vì mọi người giảng giải một phần nhỏ, phó thác cái chết cho kia, sợ vua luyến đắm thân mạng, cõi nước, vì vậy cho nên ý kệ đều khuyên xả thân và cõi nước, v.v… Đến khi nghe kệ xong các vua đều chứng tam môn không định, lại giảng môn được sự lợi ích, cho nên nay nói rõ ba giáo như Thông giáo, v.v… đều dùng tạng giáo mà làm trợ đạo tức ý này. Câu hỏi 10: Thông giáo hàng Tam thừa cùng hành, tại sao nói Bồ- tát cách xa bên ngoài (viễn biên)? Đáp: Ba thừa đồng quán huyễn hữu, đều chấp đãn không, từ Đại thừa phân thuyết cho nên nói cùng hành, Bồ-tát chẳng phải chỉ chấp thiên không, gồm biết trung thật từ lợi căn thuyết cho nên được viễn biên, cho nên biết nếu nói cộng giáo thì Bồ-tát phải ở đương phần, chỉ đắc cận biên (bên gần) là có chướng ngại hạn cuộc nhất định, nếu nói Thông giáo thì Bồ-tát hoặc được hậu dắt dẫn tức được viễn biên, nên có vẻ đẹp thung dung, một mà khéo lập danh nghóa, như thế ấy. Câu hỏi 11: Biệt giáo chỉ có pháp Bồ-tát, tại sao nói Bồ-tát cận biên? Đáp: Lại như Thông giáo không gọi là cộng giáo, bởi có nghóa Bồ-tát viễn biên, nay cũng lệ theo như vậy, Biệt giáo sở lập không gọi bất cộng giáo, vì có nghóa Nhị thừa cận biên, chỉ do Biệt giáo Nhị thừa cùng nghe trong Phương Đẳng Bát-nhã là nghóa cận biên đó thôi! Vì Đại luận căn cứ hàng Bồ-tát và Nhị thừa không cùng nghe nên lập bất cộng Bát-nhã, nay Biệt giáo đã có cùng nghe thì chẳng phải không cùng nghe, cho nên y cứ vào nghóa này mà nói là cận biên. Câu hỏi 12: Biệt giáo không đàm luận tức lý, vì sao tâm năng tạo là Phật tánh? Đáp: Giáo này chân như ở tại mê thì sinh ra chín cõi, tuy không tức lý nhưng chân như đâu lìa nơi tâm, như Diệu Lạc nói: Pháp giới của Biệt giáo không ra ngoài tâm, nay nói lý tức, bất tức thí như một nguồn nước (Phật giới chân như) chia làm chín phái (tùy duyên chín cõi), chín phái tuy khác một nguồn (sự bất tức lý), nhưng lòng nước đâu khác nguồn nước (tâm là Phật tánh), vậy thì tâm năng tạo trọn ngày bất tức, trọn ngày là tánh. Nếu vậy thì đâu khác nghóa bất tức bất ly của Viên giáo ư! Đáp: Tánh Viên giáo đủ chín cõi khởi tu chín cõi, toàn tu là tánh cho nên nói bất ly. Chỉ do mê tu đều tự cho là thật nên nói bất ly. Trong chân của Biệt giáo không có chín, phải đoạn chín quy về chân cho nên không đàm tức lý, trong chín có chân, nương chân sinh chín, cho nên năng tạo là Phật tánh, người đời nay thấy thuyết sự lý bất tức, phải dùng nhiều cách khác nhau để giải thích, năng tạo là tánh, ở đây làm sao thông, cho nên tùy duyên không thể nói là không được. Câu hỏi 13: Biệt giáo lý tánh đã có ba nhân, cớ sao biệt tu duyên liễu! Đáp: Lý tánh có ba nhân, đều chỉ đức trong đó. Biệt tu duyên liễu, đều là hạnh hai bên. Bên đã chẳng phải giữa thì tu thành biệt, là sao ư! Trước do Thanh văn không tâm, dứt bỏ kiến ái, tiếp đến co Bồ-tát nhờ trí mà dứt bỏ trần xa, đây mới từ không biên mà nhập hữu biên, dùng biệt hoặc mà nhập thông hoặc, như hai bên này duyên liễu đầy đủ, mới là trung đạo phương tiện ngăn chiếu, phải đăng Sơ địa mới chính thức hiển bày đãn trung tức ba nhân theo chiều ngang trong cõi Phật, cho nên Diệu Lạc nói: Biệt giáo tuy có nói ba đức, cả ba đều tại tánh mà không dung hòa nhau cho nên thành biệt nghóa, nếu cả ba đều tu, trước sau được đạo lý thành dọc; cho nên biết trong tánh duyên liễu không phải trong tu duyên liễu, đâu đồng với Viên giáo chánh nhân duyên liễu hoàn toàn là tam thiên không, giả, trung tu đức duyên liễu, tức tánh đức duyên liễu, không thể bừng cháy mà lạm Viên được. Câu hỏi 14: Người Sơ tâm của Biệt giáo vì sao không tu trung quán? Đáp: Bởi trong biên tiêu biểu như trăng ở ngoài mây, dụng tuy hoàn toàn ở sự ngăn chiếu, nhưng là thể thanh tịnh chân như không có kiến hoặc, tư hoặc, đâu thể đối khởi pháp giới, huống gì xưa nay mê muội đã lâu nên đốn ngộ rất khó, tâm chấp có mạnh mẽ thì sức trong duyên càng yếu, cho nên khiến bắt đầu thực hành thì trước quán thiên chân. Câu hỏi 15: Nay dùng tức ly phân chia Biệt và Viên, đã phân tích Hoa Nghiêm đủ hai giáo đây, vì sao văn trong kinh kia luận về tức, luận về ly ư! Đáp: Ngài Kinh Khê nói rằng: Ý trong kinh Hoa Nghiêm bao gồm nghóa khó phân tích, Tổ còn nói điều này, nay đâu dám bình luận, nhưng tìm theo Đại sư trích dẫn kinh kia để chứng minh Viên, Biệt cũng có thể dùng ý hiểu lại như chỉ quán trích dẫn, tâm như người thợ vẽ tạo các thứ năm ấm… để chứng minh cho Viên giáo, huyền nghóa cũng dẫn văn này để chứng minh Biệt giáo, cho nên biết đàm tức bất đàm, thì khó được hiển văn, nhưng do được ý bất đắc nên chia ra hai giáo, vì sao? Vì người Viên giáo cho rằng tâm đủ mà tạo thì các pháp vô sinh, tức ở trong kia người Biệt giáo cho rằng tâm không có mà tạo thì các pháp tự trụ, lìa ở trong đó. Như các vị hành tướng hoặc một nhiều tức nhau, hoặc thứ lớp riêng trình bày, ngài Kinh Khê đã nêu đủ các văn, ở đây không ghi chép nhiều. Câu hỏi 16: Kinh Hoa Nghiêm nói tâm tạo ra tất cả, để lập diệu cảnh ngàn như, vậy thì kinh kia đã nêu rõ khai hiển, vì sao nói khai quyền hạn cuộc ở đây? Đáp: Chính do Pháp Hoa năng khai Hoa Nghiêm, được đem văn tâm tạo lập ra cảnh ngàn như, như ngài Kinh Khê nói Phật tuệ trong Pháp Hoa, phải phát sinh bốn vị bao gồm đại tiểu, sao không dùng vị sữa bao gồm quyền giáo, hoàn toàn đồng với đề hồ giải thích rõ nhất thật, lại như Đại sư phân tích Hoa Nghiêm là cành lá, Pháp Hoa là gốc rễ, phải hợp nhánh biệt nhập vào gốc viên. Nay dẫn dụng từ hội nhập sau thuyết. Câu hỏi 17: Đã nói Pháp Hoa là đề hộ, vì sao Đại kinh nói Ma-ha Bát-nhã lưu xuất ra Niết-bàn ư! Đáp: Hai kinh được phân tích đều là đề hồ, bởi có hai phen, thứ lớp thục thoát. Nếu nói Pháp Hoa là đề hồ tức phen đầu thục thoát tám ngàn vị Thanh văn vô lượng tổn sinh Bồ-tát… Nếu nói Bát-nhã lưu xuất Niết-bàn, nghóa là hạng độn căn đối với kinh Pháp Hoa không thể thâm nhập, lại dùng Bát-nhã đào thải Phương chí, Niết-bàn tức phen sau thục thoát, năm ngàn vị tăng thượng mạn đứng dậy bỏ đi, trời người bị dời… duy có hai phen, phen đầu là chính, cho nên ngài Kinh Khê nói: Pháp Hoa đã khai mở, công chẳng phải kia được, trận lớn đã phá, dư đảng còn sót lại không khó gì. Câu hỏi 18: Kinh chép: Tôi nghe cớ sao phải dùng bốn giáo để giải thích? Đáp: Nếu giải thích các kinh trước kinh Pháp Hoa, bởi nói bộ giáo bao gồm các cô duyên riêng biệt đại tiểu khác nhau. Nếu giải thích Pháp Hoa, ý tại khai thiên đều cho hợp với thật, lại nữa nên dùng Tạng, Thông, Biệt, Viên để nhập đốn, tiệm Bí mật bất định, chọn lựa bốn vị, tôi nghe khác nhau hiển ra Pháp Hoa, tôi nghe cũng khác, thì pháp đã nghe thể siêu vượt tám giáo, cho nên Diệu Lạc nói: Nếu tiêu các kinh, chỉ dùng Tạng, v.v… văn kia hơi thông, nếu giải thích Pháp Hoa thì không có tám giáo đốn…, cử chỉ sai lầm. Hỏi: Pháp Hoa đã vậy, Niết- bàn thì sao? Đáp: Diệu Lạc giải thích tôi nghe rằng: Đại kinh hiển viên, nay mới khai nghóa, cho nên biết hai kinh khác nhau chút ít. Câu hỏi 19: Giải thích đề phẩm Phương Tiện nói: Khéo đạt được phương, tức là chân bí, đã khai hiển rồi thì đâu gọi là bí được. Đáp: Quán xét lời chân bí khác với nghóa ẩn bí, nếu vì thật thí quyền, quyền gọi là ẩn thật, thì tên gọi phương tiện chính sẽ là ẩn bí, nếu khai quyền hiển thật, ngoài thật không có quyền thì tên gọi phương tiện tức là chân bí, bởi chỉ cho bí của quyền phương tức là chân của thật tướng, cho nên nói chân bí. Lại mười cõi, mười cõi tức không tức trung, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, cho nên gọi chân bí. Câu hỏi 20: Thường quán ba đức, năng sở đều có bốn, thử trình bày hình tướng! Đáp: Diệu Lạc này nói quán tâm bốn: 1. Văn dùng ba đức đối lý giáo hạnh, hòa hợp ba pháp thành giả danh, nhân tức quán hạnh Như Lai, v.v… mà nói năng sở đều bốn, bởi do hiển bày cảnh quán không hai; sao sở quán có bốn, nghóa là trong mê thì ba đường, tức vốn có ba đức, chúng sinh vọng ngã tức lý tánh Như Lai; năng quán có bốn, nghóa là kiến hoặc, tư hoặc, tâm vương, tâm sở, tu không giả trung, như vậy ba quán cũng hoàn toàn ba đức, lại dùng vọng ngã làm quán hành Như Lai, vậy thì có hai lớp bốn, một, đều ngay nơi chướng là đức, nêu vọng toàn chân, năng quán sở quán chỉ một bốn, một, cho nên biết cảnh tự chiếu cảnh, tâm không biết, tri kiến của Phật ở đây ngộ nhập. Câu hỏi 21: Giải thích thể một chiếc xe lớn và đủ các độ, đều từ quả đức, vì sao lấy đó làm thập thừa quán pháp ư! Đáp: Bản tâm chúng sinh vốn có đức Phật quả, tuy mê nên trôi lăn trong ba đường, nhưng thể bao trùm Thập thừa, cho nên Phụ Hành nói lý tánh thể của chiếc xe lớn được các đọ giúp thành, xe trâu trắng quán chiếu tại một niệm tâm phải biết lý thừa hoàn toàn là xe chở Phật thừa, nhân đức đâu thẹn nơi quả đức: cái gọi là bất động mà vận chuyển, không đi mà đến, thiện ác không lìa nơi thể của xe, cho nên nói không còn thừa nào khác, lý quả chủ yếu ở nơi hành môn, mới gọi bình đẳng ban cho các con. Diệu Lạc nói: Nhân duyên thiện ác cùng đồng với pháp giới, cho nên xe quả của cha là xe lý của con, chỉ khai mở tâm kia giả gọi là bình đẳng tâm kia giả gọi là bình đẳng ban cho, tức là nghóa ấy. Câu hỏi 22: Đại thông ứng Phật chỉ ở cõi Đồng cư vì sao nói là kết duyên ở cõi này? Đáp: Nếu chỉ bàn về quyền giáo, có thể nói ứng Phật chỉ ở cõi công đức, nay đã nói Viên thừa, tức là pháp thân mà nương cõi này như trong Pháp Hoa Long Nữ khen ngợi, chỉ cho Đức Thích-ca làm thân Giá-na, kiếp lửa đốt cháy, lấy cõi Ta-bà làm cõi Tịch quang, đại thông thân cõi đâu không như vậy ư! Câu hỏi 23: Pháp của Thanh văn y cứ vào nghóa nào mà khai làm kinh vương? Đáp: Mục đích căn cứ vào lý thiên chân, khai thành lý thật tướng, cái gọi là Tam thiên tam đế thống nhiếp tụ tại cho nên gọi là vương. Trong Thích Tiêm chép, ba thừa đã chứng quyền lý, dùng lý khai lý dễ hiểu rõ ràng, nay các pháp vào đây. Câu hỏi 24: Hàng phàm phu bạc địa ở nơi sự, sao gọi lý tức! Đáp: Chỉ duyên ở sự cho nên nói lý tức, bởi chỉ cho sự của ba chướng tức lý của ba đức, cho nên Diệu Lạc nói: Lý không tồn tại, ở khắp trong sự, cũng có thể nói: Lý tức phân biệt với nghóa của năm sự tức ở sau, từ danh tự cho đến cứu cánh, đâu chẳng phải cái việc như giải hạnh, nhân quả v.v… ư! Như Diệu Huyền nói: Bậc Thánh đắc sự, phàm phu đắc lý. Ký thích chép: Bậc thánh đắc sự đối với nhân quả hóa tha cảm ứng, chúng sinh chỉ đắc lý chẳng nhân chẳng quả trong mê, cho nên biết lý tức là để phân biệt với chẳng phải sự tức, đó là nghóa bác bỏ. Câu hỏi 25: Hạnh tánh đức vì sao phải nghe tánh ác? Đáp: Không nghe tánh ác thì không có hạnh tánh ác, vì sao? Vì chúng sinh xưa nay không hề lìa ác, nên tánh mê đầy đủ, phải nhờ biệt tu, cho nên trước không sau giả, duyên lý mà dứt chín cõi, nếu như hiểu rõ ác là tánh, từ tánh lập hạnh, không cũng là tánh hạnh, phải nghe tánh ác ư! Vả lại, như người Viên giáo nương tâm vương, tâm sở thứ sáu làm đầu để phát sinh quán, đã biết tâm vương, tâm sở chánh là tánh ác, dùng dây phát quán, đâu chẳng phải tánh hạnh, vậy thì tánh ác là nghóa trí chiếu không giảm, bỗng nhiên hành khởi chân lưu nghóa vô tác rõ ràng. Kinh dạy: Không dứt si ái phát khởi minh thoát là nghóa này. Câu hỏi 26: Viên giáo tứ đế căn cứ vào nghóa nào mà được gọi là vô tác? Đáp: Chỉ căn cứ vào khổ tập đầy đủ lý thì biết đạo diệt rỗng không, vì lý không thể trừ, công cũng chỗ tạo tác, vì từ gốc mê nên toàn thể Bồ-đề Niết-bàn là sinh tử phiền não, đối với nay ngộ thì toàn thể phiền não sinh tử là Bồ-đề Niết-bàn, bốn thứ không khuynh loát nhau, mỗi mỗi bặt dứt đối đãi đều do Tứ đế vốn là một lý. Đại Kinh Huyền Nghóa chép: Chẳng phải khổ, chẳng phải nhân khổ, chẳng phải hết, chẳng phải khổ đối, mà là nhất thật bình đẳng, chẳng lẽ lý nhất thật mà có tạo tác ư! Câu hỏi 27: Rốt ráo không quán, mảy bụi không lập, vì sao không trung đủ tất cả pháp? Đáp: Ba đế đều không mới gọi là rốt ráo, tất cả pháp đều ở trong đó, lại như chân đế không hữu đầy đủ pháp của thế giới Nhị thừa, tục đế không hữu đầy đủ pháp của thế giới Bồ-tát, trung đạo cả hai đều ngăn, không có hai bên, đầy đủ pháp của thế giới Phật, trung đạo cả hai chiếu, không có thế giới Phật, đủ pháp của chín cõi, không trước không sau, chẳng phải một, chẳng phải ba, ba đế đốn mất, tức mảy bụi dứt, trăm cõi viên mãn đầy đủ, tức các pháp rõ ràng, phải biết tam thiên ( 3. 000) đều không, không hề chẳng đủ, tam thiền đều giả, chẳng hề bất không, đây chỉ một nhà đàm luận, người khác chẳng thể sánh bằng. Câu hỏi 28: Đồng thể tại sao nói tướng quyền của chín cõi. Đáp: Nếu nói theo đồng thể thì trăm cõi một niệm không thể phân biệt, nay nói tướng quyền của chín cõi, vì Phật giới chín giới không phân mà phân, thì chẳng quyền chẳng thật mà quyền mà thật. Vì sao? Vì tuy chín cõi quyền đều là thật mà mỗi tướng rõ ràng, tịnh cùng với uế mà không lẫn lộn, hơn nữa như thế giới địa ngục tuy đủ mười cõi, đâu phải tánh tướng địa ngục lại đồng với tánh tướng súc sinh ư! Cho nên biết chín quyền là chút phần của ba ngàn, chẳng ngăn phòng, chẳng hạn cuộc mà hạn cuộc, không khác nhau mà khác nhau nhất thật là toàn phần của tam thiên, cho nên chẳng khắp mà khắp khác mà không khác, chỉ do nhất thật không ra khỏi chín quyền, chút phần không lìa toàn phần, cho nên nói là đồng thể, hoặc lý hoặc quả đều như vậy, như ngài Kinh Khê nói: Vật lý xưa nay tánh đủ quyền thật, đầu đồng với tông khác cho rằng lý không có chín cõi, quả chỉ có nhân chân, đồng thể quyền tướng do đâu có thể nói Câu hỏi 29: Tất cả y báo, chánh báo, hoặc nói nghiệp cảm chúng sinh, hoặc nói các Đức Phật biến hiện, là hai sao gọi là định ư! Đáp: Hai nghóa tướng không thể xếp riêng, nếu y báo, chánh báo kia có ngàn thứ, khổ vui có muôn loại chính nghiệp cảm của chúng sinh. Như nói khổ vui do chúng sinh chẳng phải do Phật làm ra, nhưng nghiệp cảm này lại do các Đức Phật diệu ứng, tùy tâm chúng sinh mà biến hiện ra, vì chiết phục nhiếp thọ khiến thành thục được giải thoát, như nói khổ vui do Phật không quan hệ đến chúng sinh, tuy trong các văn tùy duyên riêng trình bày, xét luận về hai nghóa không thể tạm thiếu sót, bởi do ba ngàn tâm địa chúng sinh cùng ba ngàn tâm địa Phật không khác nhau, đắc nhiếp tịnh thông nhau, cảm ứng không sai lầm, vì chúng sinh mê nên đối với y báo, chánh báo Phật mà chấp khác nhau, vì các Đức Phật ngộ nên đối với y báo chánh báo của chúng sinh được tự tại, phải biết trong quả thì thắng dụng không khác ba đường trôi lăn. Lại như bậc Thánh biến hóa tạo tác không ra ngoài sự biến tạo của chúng sinh ba đời. Cho nên nói cũng khiến chúng sinh biến tâm sở kiến. Câu hỏi 30: Người có sinh tử, vật có điều tàn biến hoại, vì sao kinh nói tướng thế gian thường trụ? Đáp: Nếu biết thể thường trụ đầy đủ ba ngàn thì sinh tử điêu tàn biến hoại đều là tướng cờ nêu của thường trụ, từ xưa đã vậy chẳng phải nay mới như vậy, đã biết sinh là tánh sinh cho đến biến là tánh biến, tánh vốn bất động, tướng há chẳng thường, chỉ hạn cuộc tình chưa quên thì sinh tử trái nhau, hoặc duy tân sở kiến thì điêu tàn biến hoại đều như, tự luận bàn chẳng phải tánh đầy đủ, đâu chỉ hợp với ý chỉ của tướng thường, tuy Tạng sớ cho rằng bất biến, Triệu luận cho rằng bất đi, nếu nay trông mong vào người khác thì đều là hữu ngôn mà vô nghóa. Ngài Kinh Khê nói: Khác hẳn các thuyết. Lương Túc nói: Chống đối trăm nhà, đâu phải lời hư dối, mà có nguyên do. <詞>KHAI VÓ THÍ VẤN BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG Các đệ tử siêng năng học tập, nhưng đối với một nhà giáo quán thấm nhuần điều quan trọng là làm sao lãnh hội, do đo kính noi theo các bộ văn nghóa gồm bốn mươi hai điều. “Khai vó thí vấn” may mắn nêu văn nói nghóa đáp từng câu hỏi một, ngõ hầu khai phát cho đời sau. Ngày 16 tháng 5 năm Giáp tý, thuộc niên hiệu Thiên Thánh. Tọa chủ Diên Khánh nói: Câu hỏi 1: Đối đãi thô nêu rõ diệu, riêng khen kinh Pháp Hoa, hợp đối bốn thời, ba giáo đều gọi là thô, trong văn vì sao đồng với các kinh, trước đối đãi vườn Nai mà gọi là thô ư! Câu hỏi 2: Kim cương tạng nói trí Phật sâu xa nhiệm mầu, lời khác mà ý đồng, không hữu chẳng hai chẳng khác, chẳng cùng tận, ý nêu rõ ba đế đều là thể của kinh, vì sao ngài Kinh Khê lại đặc biệt nói không giả tức trung mới là thể của kinh? Câu hỏi 4: Nhân quả tông thành mới được chọn thể, hợp với trước nói về tông mới phân biệt thể, căn cứ vào nghóa nào mà thể trước tông sau? Câu hỏi 5: Dứt quyền nghi, cận nghi? Sinh thật tín, viễn tín là dụng của kinh này và lại đoạn nghi sinh tín tự là trí tuệ tài năng của hành giả, sao gọi là lực dụng của kinh? Câu hỏi 6: Bốn chương như Danh, v.v… lớp lớp đã y cứ vào bốn giáo năm thời mà phán sau mới luận khai, cớ sao đệ ngũ nói về giáo tướng? Câu hỏi 7: Sinh diệt tứ đế đều thuộc về sự, nếu chỉ có đế sự thì làm sao nhập vào chân? Câu hỏi 8: Vô sinh nhân duyên mười hai pháp đều không sinh diệt, tức mỗi mỗi đều thường trụ, sao nói giáo này ban đầu là không biết thường? Câu hỏi 9: Tứ đế của Biệt giáo nương nghóa gì mà được gọi là vô lượng? Câu hỏi 10: Khổ tập diệt đạo nhân quả mê ngộ, chính là pháp tu đắc, Viên giáo vì sao gọi là vô tác! Câu hỏi 11: Tam tạng giáo thuyết thật có là tục, tích diệt quy về chân, làm sao chiết phục khiến cho thật có diệt, xin trình bày hành tướng? Câu hỏi 12: Hai giáo của nội giới đều có ba thừa, tạng giáo vì sao lại 3 nhân khác hẳn vì sao Thông giáo ba nhân giống nhau? Câu hỏi 13: Trong Tam tạng giáo tự có Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Pháp Hoa vì sao đều cho tam tạng là người học của Tiểu thừa. Câu hỏi 14: Bài vàng dẫn Đại Kinh quyển mười chép: Lại nữa ngăn tà chấp không chẳng phải Phật tánh dụ, lìa ngoài mười không, chỉ cho cái không nào là dụ Phật tánh ư? Câu hỏi 15: Theo nghóa chỉ định cảnh bất tư nghì gồm có bốn ý, ban đầu đối cảnh vô tình lập Phật thừa, đây gọi là sắc cụ ư! Hay tâm cụ ư! Nếu nói sắc cụ thì chỉ quán nói: Bởi có tâm như thế nên tam thiên đầy đủ; nếu là tâm cụ sao nói vô tình Phật thừa ư! Câu hỏi 16: Người trí tự đối trước đạo tràng Phổ Hiền, thấy việc đời trước, chứng tam-muội Pháp Hoa vì sao từ chối rằng Nam Nhạc trao lý viên đốn cho Thiên thai? Câu hỏi 17: Quán sát duyên sinh, duyên sinh tức không, không giả không hai, gọi là ba quán. Ngài Kinh Khê nói: Nói như vậy còn chưa thành thông, là đây quán ba quán bên ngoài của Thông giáo, tướng kia thế nào? Câu hỏi 18: Pháp viên lý đã đầy đủ hoặc nghiệp và tánh ác, là đồng hay là khác? Thể tướng của hoặc nhiễm trong tánh như thế nào? Nếu khác thì quả lý rốt ráo là hiển bày có tu ác ư! Câu hỏi 19: Vì giúp cho chúng sinh khai tri kiến Phật, y cứ vào tâm phân biệt rõ tướng, quy về nơi nào? Câu hỏi 20: Diệu Huyền dùng ngũ trùng huyền nghóa riêng đối với bốn tất-đàn có ý sâu gì? Câu hỏi 21: Trăm cõi ngàn như, trăm như ngàn cõi, phân biệt rõ danh số lẫn nhau, diệu chỉ như thế nào? Câu hỏi 22: Viên giáo nhị đế căn cứ vào giáo hạnh chứng minh tùy theo tình trí, tướng kia như thế nào? Câu hỏi 23: Bốn niệm xứ chép: Trong một niệm đầy đủ mười giới khổ hoặc, gọi là vô tác khổ tập, Phật giới biện rõ tướng tu tánh như thế nào? Câu hỏi 24: Tam giáo tôi nghe đều y cứ vào nhó căn, giáo của Viên giáo tức là văn, biện tướng hòa hợp chỉ thú như thế nào? Câu hỏi 25: Đại kinh tám giáo đủ tám biệt ư! Nếu đủ vì sao cho rằng biết thường, nếu không đủ làm sao luận biệt? Câu hỏi 26: Đại kinh bốn giáo là biết thường, cho nên được tương tức, đã khác Phương Đẳng, thì đồng với Pháp Hoa. Nếu đồng thì Pháp Hoa khai phế là bình đẳng ư! Nếu khác thì bốn giáo làm sao tương tức? Câu hỏi 27: Hóa nghi hóa pháp hai thứ bốn giáo, phân tích giải thích Phật pháp đều cùng tận, vì sao Diệu Lạc nói Pháp Hoa vượt ngoài tám giáo? Câu hỏi 28: Kinh xưa kinh này bàn về Viên thông đàm về Biệt, ngài Kinh Khê vì sao khước từ rằng: Bắt đầu từ Hoa Nghiêm cuối cùng đến Bát-nhã, chỉ thứ lớp thuộc về ba đế. Câu hỏi 29: Nương Pháp Hoa, y cứ vào tu y cứ vào chứng nói về ba tuệ, giới hạn như thế nào? Câu hỏi 30: Người học Phật thừa rộng suy tìm giáo quán, tiến tu hạnh mình, rốt ráo mục đích, vì sao văn khai phát tín giải, xin trình bày tướng trạng? Câu hỏi 31: Pháp Hoa bổn môn thọ ký số gấp bội các kinh, tại sao chỉ đối với sự thành viễn báo, chứng nhập như thế nào? Câu hỏi 32: Đại thừa chân thật, dụ bất tư nghì, tại sao khước từ rằng một chấm ở trên? Câu hỏi 33: Đại kinh nói năm việc đối với năm Phật tánh, y cứ vào văn suy rộng nghóa, ý chỉ sâu xa như thế nào? Câu hỏi 34: Tâm yếu của người khác trí chỉ có một bài kệ rằng: Tâm chân thật buộc cảnh chân thật, bình đẳng với chỉ quán là đồng hay khác? Nếu đồng thì chẳng có tâm yếu riêng, nếu khác thì gọi là hoại xe lừa! Câu hỏi 35: Nếu gặp người khác cầu yếu đạo an tâm thì chỉ dạy pháp môn nào cho dễ hiểu? Câu hỏi 36: Như người học diệu thừa, ban đầu tu văn tuệ, thực hành như thế nào? Câu hỏi 37: Chúng sinh và Phật đều đủ ba ngàn, đồng khác như thế nào? Xin nghiên cứu tôn chỉ kia Câu hỏi 38: Bài vàng chép: Gồ đá vô tâm, ngôn ngữ xuất ra từ tiểu tông, tùy duyên bất biến, lợi sinh nơi Đại giáo, đây y cứ vào nghóa nào mà chia ra đại tiểu ư! Nếu nói bán mãn thì Thông không tùy duyên bất biến, riêng có tên gọi là gỗ đá vô tâm. Nếu nói trong chân là riêng ngăn đồng với trước, nếu nói thiên viên là Thông Biệt nhất định chẳng phải tiểu tông sự chướng kia càng sâu. Câu hỏi 39: Danh giải thích ba pháp, giáo phân rõ bốn chương, vì sao Diệu Tông nói: Ngũ trùng huyền nghóa vốn là pháp quán mà trong kinh giải thích. Câu hỏi 40: Cõi Tịch quang đã có sự khác nhau giữa bùn cát vàng báu, sao kinh nói chỉ có một mình Đức Phật ở cõi Tịnh độ ư! Câu hỏi 41: Hàng sơ tâm của Viên giáo dùng quả địa ba đức làm quán thể, lý do vì sao? Câu hỏi 42: Chỉ quán nói: Dùng quán quán chỗ tối, ngay nơi tối là sáng, dùng chỉ dừng tán tức ngay nơi mà tịch, ngài Kinh Khê giải thích hai câu này rằng chiếu soi thể tối tăm này, một quán mà ba tên, ngay nơi mà sáng. Tịch cái thể tán này, ba chỉ mà một tên ngay nơi tán mà tịch, lại một quán tối tăm ư! Hay ba chỉ tán ư? Hay ba quán sáng suốt ư! Một chỉ là tịch ư? Không phải như vậy, vì sao dùng sự giải thích rằng ngay nơi tối là sáng, ngay nơi tán mà tịch ư! <詞>GIÁO MÔN TẠP HỎI ĐÁP BẢY CHƯƠNG Pháp sư Tứ Minh hỏi Học trò Tự Nhân đáp. Vào niên hiệu Đại Trung Tường Phù năm thứ bảy, giảng trao thứ lớp, chưa biết người học hiểu sâu cạn, nhân đó nêu ra một số câu hỏi, xin đáp từng câu. Câu hỏi 1: Ngài Kinh Khê nói: Bỗng chưa nghe tên gọi tánh ác, đâu thể tin có tánh hạnh đức, nhưng do tánh ác mà tu tánh hạnh, nói nghe lâu ngày mục đích là luận bàn ý chỉ, chẳng hay như thế nào? Đáp: Ngài Kinh Khê lập ý hai câu này là nói lên hạnh vô tác của Viên tông, bởi do người Viên giáo tâm bắt đầu tu quán đều dùng kiến tư, tâm vương, tâm sở làm đầu mối phát sinh quán, nếu người của ba giáo trước dùng giáo không luận đàm về tánh đủ chín cõi, thì kiến tư, tâm vương, tâm sở không tức là tánh ác, đã chẳng phải tánh ác, thì nhất định là năng chướng, cho nên phải tu quán trí riêng để phá tâm mê hoặc này, mới hiển bày thể thường trụ vốn có, từ đó đưa đến hoặc trí đối đãi cảnh quán không quên, hạnh thành có sự tạo tác, nay thật trong Viên giáo đã giảng rõ tánh đủ chín cõi thì kiến tư, tâm vương, tâm sở tức là tánh ác, mê hoặc đã tức tánh, chỉ dùng hoặc này mà làm năng quán, hoặc đã là năng quán thì cái gì làm sở quán, năng sở như một, cảnh quán không hai. Phụ hành cho rằng chẳng những sở quán vô minh, pháp tánh thể tánh không hai, hoặc là cũng năng quán quán trí tức vô minh, do nghóa này mới biết hàng sơ tâm tu quán tạo cảnh tức trung, không gì là không chân thật, công do tánh ác dung thông hành vô tác, ở đây mà thành. Câu hỏi 2: Pháp Hoa đã hiểu biết nhất thật, vì sao Huyền nghóa giải thích đề mà nói về hai thứ vi diệu? Đáp: Pháp Hoa là giáo khai quyền hiển thật, làm chỗ quy hướng một đời, đề xướng cùng cực năm thời, nếu không dùng hai thứ diệu để phân biệt thì Nhất thừa hiển bày nghóa thật nhiệm mầu khó bày tỏ, lại tướng ban đầu đối đãi bàn luận phân chia thô diệu, kia đây hiện rõ lẫn nhau gọi là tướng, vì người khác nhìn mình là đối đãi, do đối đãi với cái thô của bốn thời bảy giáo trước mới hiển bày các diệu Nhất thừa của Pháp Hoa, bởi do ngày xưa các kinh sơ duyên chưa thuần thục, bộ vị giáo quán bao gồm chỉ đối đáp, không như Pháp Hoa thuần viên tuyệt diệu, vì vậy gọi là thô, cho nên kinh dạy: Chánh bỏ ngay phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng, nay sẽ nói kinh Pháp Hoa này là bậc nhất, vì vậy kinh này thuần nhất không xen lẫn, riêng được gọi là diệu. Vì lý do đó, kế là bặt đãi luận, khai thô hiển diệu, bắt các thô trước ở trước không thể hình đãi dùng diệu hữu Pháp Hoa bặt dứt công thô khiến cho cái thô của bốn thời bảy giáo ngày xưa bộ kinh Pháp Hoa khai hiển, dùng một diệu thừa quán suốt mà dứt bặt, thô tức là diệu, ngoài diệu không có thô, quyền tức là thật, ngoài thật không có quyền, thí như thần tiên chín phen chuyển đan sa, chỗ sắt thành vàng, một khi đã thành vàng ròng thì không còn trở lại sắt, cho nên kinh nói: Quyết hiểu rõ pháp Thanh văn là vua của các kinh, chỗ ông thật hành là đạo Bồ-tát, khai môn phương tiện, chỉ bày tướng chân thật, một phen khai mở không chỗ nào xen hở, không tiểu không đại, đều quy về cõi Phật, tất cả các pháp đều là Phật pháp, không còn có thừa nào khác, thẳng hiển bày nhất thật, đó gọi là tuyệt đãi luận diệu, nhưng hai diệu này không đối đãi nhau để phân biệt thì không hiển rõ, Pháp Hoa siêu vượt các thuyết, nếu chẳng tuyệt đãi để khai bày thì không biết, Pháp Hoa vi diệu hơn tất cả các pháp, giải thích một đề trình bày hai diệu này, đây gọi là chống đối trăm nhà, siêu vượt các thuyết. Đó là Tổ của chúng ta. Câu hỏi 3: Trong hạnh diệu đã luận về tuệ thánh hạnh, cùng với trí diệu ở trên tại sao chọn lựa khác nhau? Đáp: Tuệ hạnh trí diệu kia thất khác nhau, bởi do trí diệu là thông luận sư giải thích kia, Thích Tiêm cho rằng giải tức là trí. Nếu tuệ hạnh thì tuệ là diệu quán, chiếu soi diệu lý, không nhờ vào trợ duyên mà gọi là tuệ hành, vậy thì trí diệu nương lý mà sinh giải. Tuệ hạnh là hạnh chiếu lý, hạnh giải đã phân có thể biết là khác, nhưng trí là gốc của hạnh thì hạnh nhờ trí mà sinh, hạnh năng thành trí thì trí nhờ hạnh mà thành, hạnh giải nương tựa vào nhau không thể thiếu một được. Câu hỏi 4: Tất cả các kinh luận Đại thừa đều bàn luận rằng tất cả chúng sinh bản tánh thanh tịnh, tông Thiên thai nói rõ tánh đủ mười cõi, sáu đã là uế tại sao hợp với các kinh luận ư! Đáp: Mười pháp giới có sáu uế bốn tịnh, tông Thiên thai đã nói tánh đầy đủ, tức là pháp môn tánh ác, đâu được không thanh tịnh! Ở đây nêu rõ nên đủ hai nghóa: 1/ Căn cứ vào tình trí mà nói; 2/ Căn cứ vào mê ngộ mà phân. Tình trí, như nói dùng tình phân biệt các pháp đều là tà, lìa tình phân biệt các pháp đều là chánh, nay hàng Viên giáo ứng dụng chủng trí Phật nhãn để thấu đạt nhất niệm nhiễm tình thể đủ mười cõi dung hợp lẫn nhau tự tại thì tất cả các pháp thảy đều thanh tịnh, ngài Kinh Khê nói cho nên biết sát-na nhiễm thể đều là tịnh. Y cứ vào mê ngộ mà chia, phải biết mê thì mười cõi tịnh uế đều là nhiễm, ngộ thì mười cõi tịnh uế đều là tịnh. Tống Thiên thai nói mười cõi tánh ác pháp môn thảy đều thanh tịnh, chính là y cứ vào sự giải ngộ nói một bên vậy. Cho nên ngài Kinh Khê nói: Tam thiên tại lý, đồng gọi là vô minh, há chẳng phải mê cho nên Tam thiên đều mê. Tam thiên không thay đổi nên vô minh tức minh, há chẳng phải ngộ cho nên tam thiên đều ngộ ư! Nhưng hai nghóa này cũng là đối tu môn thuyết, nếu thẳng y cứ vào pháp giới bình đẳng mà nói thì chẳng tu chẳng tánh chẳng mê chẳng ngộ, chẳng tịnh chẳng tuế, tất cả chúng sinh không nhọc công tạo tác, bảo tánh linh thiêng sáng suốt đầy đủ mười cõi, không bị các cấu uế. Cho nên kinh dạy: Năm đường thanh tịnh không thọ sắc, có học điều này thì thành đại đạo đâu chẳng phải tất cả chúng sinh trong pháp giới vốn thanh tịnh ư! Câu hỏi 5: Tất cả y báo, chánh báo, hoặc nói nghiệp lực chúng sinh, hoặc nói các Đức Phật biến hiện, nghiên cứu luận bàn, làm sao quyết định ư! (Ráng vó cũng có hỏi điều này, văn đáp phần lớn là đồng, chỉ có khác chút ít, cho nên ở đây ghi chép lại). Đáp: Không thể chỉ chấp cần phải hai nghóa nương nhau. Phải biết các Đức Phật biến hóa y báo, chánh báo các thứ khác nhau, ý là chiết phục chúng sinh khiến cho họ đoạn ác tu thiện, vượt phàm lên thánh, cho nên nói khổ vui do Phật không liên quan đến chúng sinh, nếu chúng sinh nghiệp lực do chúng sinh tự tạo nghiệp kia mà chiêu cảm quả báo y báo, chánh báo khác nhau, cho nên nói ngói đá bảy báu do chúng sinh chắc chắn, chẳng phải Phật làm ra. Nếu nhất định chấp nghiệp lực chúng sinh chiêu cảm chẳng phải Phật biến hiện, thì hiển bày công phu các Đức Phật không độ sinh, nếu nhất định chấp các Đức Phật biến hiện, chẳng phải nghiệp lực chúng sinh, thì bị rơi vào luận vô nhân quả của ngoại đạo, do ví nghóa này nên các Đức Phật biến hiện do nghiệp lực chúng sinh, nghiệp lực chúng sinh toàn là do các Đức Phật biến hiện, hai nghóa nương nhau, y báo chánh báo mới thành lập. Câu hỏi 6: Tông Thiên thai nói: Một không tất cả không, lại nói: Trong không đầy đủ tất cả pháp, tướng kia như thế nào ư! Đáp: Nói Không, hẳn là đạo không giả trung, nhất tâm tam quán, đạo này bắt đầu từ miệng vàng của Đức Phật nói, chính ngài Long Thọ soạn luận, về sau đời Bắc Tề Tổ Thiên Thai truyền thừa nối tiếp, vậy thì tuy nói Phật Tổ tuyên dương, kỳ thật là thân tâm bản thể của tất cả chúng sinh. NÓi không quán, là tất cả pháp đều không, không giả, không, trung và không không, không đây là pháp diệu quán rộng lớn. Vế Giả quán, tất cả các pháp đều là giả vô trung, vô không bất giả, Giả này là pháp diệu quán lập pháp. Về trung quán thì tất cả pháp dều trung, vô không, vô giả và bất trung, trung này là pháp diệu quán tuyệt đãi, ba này là ba một một ba, đây không dựa vào đế quán, tên khác mà thể đồng, diệu thể, thiên nhiên không nhọc công tạo tác, trọn ngày khoáng đãng mà pháp pháp viên thành, trọn ngày lập pháp mà pháp pháp lìa tướng, trọn ngày tuyệt đãi mà hai bên rõ ràng, nay người Viên giáo đã hiểu rõ ba quán thể tánh tương tức thì thấu đạt không quán, trung quán, không có mảy trần mà các pháp đầy đủ. Câu hỏi 7: Trong phá pháp biến của chỉ quán, trước căn cứ bốn câu phá kiến tư giả, kế là y cứ vào thuốc và bệnh để phá trần sa hoặc, sau cùng căn cứ chân duyên phá vô minh hoặc, thứ lớp như vậy tại gọi là nhất tâm ba quán phá pháp biến ư! Đáp: Nói không nhanh chậm văn dường như thứ lớp, văn tuy có thứ lớp ý thật viên dung. Văn dường như thứ lớp là đối phá ba hoặc, trước không kế giả, sau trung. Ý thật viên dung là do hành nhân tu, mới nêu bày một tức ba, chẳng trước chẳng sau, cho nên nói: Khi nói chẳng phải khi hành tức là ý này. <詞>BỐN THỨ TỨ ĐẾ HỎI ĐÁP Pháp sư Tứ Minh hỏi. Học trò Tự Nhân đáp. Bốn loại Tứ đế đều xuất xứ từ trong Đại Kinh, tổ răn bảo đầy đủ, chỉ dạy những việc bình thường, còn sợ người nghe hiểu sơ lược trong gần gũi làm mờ tối văn nghóa, nay nhân giải thích tức mệnh đề này, mong các hình thức ngôn ngữ được giải thích rộng. Tọa chủ Diên Khánh hỏi: Đáp: Vì sao Tứ đế mà không giảm xuống ba, lại không tăng lên năm, là do thuốc và bệnh tương đối, nghóa nhân quả đầy đủ mà tông Thiên thai dùng để đối bốn giáo, đều thâu nhiếp thiên viên, bao gồm hai lý, một kỳ hạn hóa đạo, từ đầu đến cuối đầy đủ, Tạng Thông thì giải thích nội giới chân đế, Biệt Viên thì giải thích ngoại giới trung đạo. Lại lý tuy hai thứ mà giáo chia làm bốn thứ khác nhau, Tạng Thông là xảo chuyết giới nội, Biệt Viên là xảo chuyết giới ngoại. Lại hai thứ trước giải thích về chân, chân lý không khác nhau, Biệt Viên giải thích về trung, trong chia ra đãn, bất đãn. Tạng Thông đã có các pháp đều do nghiệp hoặc cấu tạo, Biệt Viên đã có các pháp đều do Phật tánh biến tạo. Thông gọi là đế, đế là xét thật làm nghóa, lại là xét rõ làm nghóa, đây là chỉ bày chung, sau là trình bày riêng. Sinh diệt tứ đế của Tạng giáo: Khổ tập diệt đạo đều là pháp sinh diệt, muốn hiểu rõ ý chỉ kia thí trước hết nêu bày bốn tướng, cái gọi là nhiều lớp chồng chất bức bách trói buộc… là tướng khổ, kiến ái phiền não có công năng chiêu cảm quả đời sau, là tướng tập, giới định tuệ, vô thường khổ không có công năng trừ gốc khổ là tướng đạo, hai mươi lăm hữu tử quả đều đoạn là tướng diệt. Như Chỉ Quán nói: Khổ thì ba tướng biến đổi, tập thì bốn tâm lưu trú, đạo thì đối trị dễ đoạt, diệt thì diệt hữu trở lại vô. Kế đến xét kỹ về ý chỉ kia, nghóa là sinh diệt. Sở hóa của giáo này là ba thừa, là độn căn giới nội, quán trí đã vụng về mà không thể hiểu rõ pháp giới sáu phàm đương thể tức không, bèn thứ lớp phân tích cùng tận mới thấy không, vì vậy cho nên sáu phàm ở trong cảnh sinh diệt tùy sự mà biện rõ, thì các pháp niệm niệm dời đổi, như đèn sáng rực, như nước nhiễu từng giọt cho nên gọi là sinh diệt tứ đế. Nếu luận về chân đế thì pháp tánh tự thiên nhiên, chẳng sinh chẳng diệt. Hỏi: Đã nói nhân diệt hợp nhân, diệt chẳng phải chân đế, vì sao đạo diệt là chân, khổ tập là tục? Đáp: Luận Bà-sa nói tục nghóa là khổ tập, đệ nhất nghóa là đạo diệt, ngài Kinh Khê giải thích điều này, nghóa là hợp bốn thành hai. Lại khổ tập mê chân, đạo diệt thuận, đây chính là đối phần mê ngộ. Lại có khổ tập thì không có đạo diệt, có đạo diệt thì không có khổ tập, đây là nghóa thuốc và bệnh đối trị. Lại có chân đế thì không có Tứ đế, có tứ đế thì không có chân đế, bộ Phụ Hành nói lại khuynh loát lẫn nhau. Nếu luận ba thừa tiến tu thì sơ môn khác nhau hàng Thanh văn thì dùng khổ đế làm sơ môn, Duyên giác thì dùng tập đế làm sơ môn, Bồ-tát thì dùng đạo đế làm sơ môn. Huống chi Đại Kinh nói: Phàm phu có khổ mà không có đế, Nhị thừa có khổ mà có đế, nên biết hàng Nhất thừa đã biết khổ, dứt tập, chuộng quả, tu nhân, cho nên nói có khổ có đế, hàng phàm phu thì không như vậy. Các nghóa trên đây đều không ra ngoài sinh diệt cảnh quán, cho nên khảo xét tường tận điều này, còn người chỉ duyên theo tạng giáo mê chân nặng thì y cứ vào việc nội giới để lập tên này Vô sinh tứ đế của Thông giáo: Danh tướng tứ đế đồng với tam tạng, nếu luận về giáo chỉ thì khác, cho nên nói khổ chẳng có tướng bức bách, tập chẳng có tướng hòa hợp, đạo không có hai tướng, diệt không có tướng diệt, Phụ Hành nói quán tâm sở sinh không khác với trước, năng quán quán trí tức không là khác. Tức không là khác: Tạng là quán trí sinh diệt, Thông là quán trí vô sinh. Trung Luận nói: Các pháp không tự sinh, cũng không từ nơi khác sinh, không công không phải vô nhân, cho nên nói vô sinh, cũng là Thông giáo luận về tứ tánh vô sinh huyễn, cho nên nói vô sinh. Như Đại Phẩm nói: Nếu có một pháp vượt hơn Niết-bàn thì ta cũng nói như huyễn v.v… chẳng phải nghóa kia ư? Lại kinh Tịnh Danh chép: Pháp vốn bất sinh nhân này bất sinh, nay cũng không diệt, quả này không sinh. Nhân quả đã bất sinh cho nên nói vô sinh. Song như thế bởi giáo này giải thích căn tánh ba thừa quán trí khéo léo của hàng ba thừa, thì năng thể hiểu rõ huyễn pháp của sáu phàm đương xứ tức không, đã tức chân không thì không còn một pháp nào có thể dùng đương tình, cho nên nói chân không nhất tịch Niết-bàn. Lại nữa, nên biết Thông giáo tuy có tên là tức không nhưng nếu dùng viên mà nhìn thì có người nói không thật, vì sao? Vì giáo chỉ của Thông giáo chẳng phải toàn thể khởi dụng, toàn lý thành sự, nói tức chính là đó. Toàn thể là dụng, toàn dụng là thể, thể dụng không hai, mới là cái mà Viên giáo bàn luận. Biệt giáo tuy giải rõ lý trung thật, lý ở ngoài sự còn chẳng phải tức nghóa, huống chi Thông giáo ư! Nên biết Thông giáo chỉ có tức danh mà không có tức nghóa rõ ràng, nên giết giáo này có thể nên chân bị xem nhẹ, theo lý nội giới mà đặt tên vô sinh. Vô lượng tứ đế của Biệt giáo: Giáo này giải thích biệt pháp của Bồ-tát, trải qua nhiều số kiếp tu hành huân tập hằng sa Phật pháp cho nên gọi là vô lượng, nhưng chỗ tu tuy gọi vô lượng nếu chỉ điều cốt yếu kia thì không ngoài bốn thứ thuốc và bệnh cho nên nói khổ có vô lượng tướng. Vì mười cõi quả báo khác nhau, tập có vô lượng tướng, trần sa phiền não khác nhau, đạo có vô lượng tướng, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được, diệt có vô lượng tướng, các pháp Ba-la-mật khác nhau đã có bệnh khổ tập thì có thuốc đạo diệt, các thứ thuốc bệnh đối trị khác nhau ấy là do giáo lý Như Lai tạng này bị trần sa phiền não che lấp, tu pháp môn trần sa mà đối trị, cho nên Phụ Hành chép: Chiếu soi biết nhất tâm, khởi vô lượng tâm, vì tâm vô lượng nên mê giải vô lượng, mê thì mười cõi khổ tập, ngộ thì mười cõi đạo diệt, tức là ý này. Nhưng giáo này luận về lý thì đó là ngoại giới trung đạo Phật tánh, tánh này là chỗ nương của tất cả pháp, nhưng thể kia không luận tánh đủ, chỉ luận tánh khởi, khiến cho các pháp đương thể bất tức. Ngài Kinh Khê nói từ chi phái lưu xuất ra thì không gọi là lý, cho nên biết đó là biệt. Hỏi: Viên giáo giải thích đầy đủ pháp trung đạo, tùy duyên khởi dụng ba ngàn, vì sao không có vô lượng tên gọi? Đáp: Viên kia theo lý thật tướng nên gọi là vô tác, giáo này đã là phụ quyền lập tánh, nói sở tạo là sai đâu được đồng với viên. Phải biết Biệt giáo sở dó khác với Viên là do ngoại giới độn căn mê lý, chê bái vô lượng tứ đế. Vô tác tứ đế của Viên giáo: Bốn đế này đặt tên vô tác là chỉ thẳng điều cốt yếu kia, không nêu ra dùng tánh đoạt tu, vì vậy cho nên các hành vô tác, nay mở rộng ý này nên có ba thứ: 1/ Thuốc bệnh tức nhau: Như Diệu Huyền nói: Do mê lý nên Bồ-đề phiền não gọi là tập đế, Niết-bàn sinh tử gọi là khổ đế, do năng giải nên phiền não tức Bồ-đề, gọi là đạo đế, sinh tử tức Niết-bàn gọi là diệt đế. Phải biết một chữ tức là cửa của các điều nhiệm mầu, phiền não sinh tử là bệnh của chúng sinh, nay dùng lý nhất thật quán thể dẫn dắt họ, bệnh tức thuốc, thuốc tức bệnh, thuộc bệnh như một, không còn tạo tác, cho nên nói vô tác, ngoài nhất thật không còn thừa. Chỉ Quán nói: Ấm nhập giới như, không có khổ để xả, trần lao vốn thanh tịnh, không có tập để diệt, biên tà đều trung chánh, không có đạo để tu, sinh tử tức Niết-bàn, không diệt để chứng. Mà như đây là cho Viên giáo đã giải thích không nêu ra nhất thật, ngoài nhất thật không còn có pháp nào khác. Ngài Long Thọ nói trừ thật tướng các pháp, ngoài ra đều rơi vào việc ma, thật tướng vô tướng trùm khắp tất cả pháp, không có tướng sinh tử, không có tướng Niết-bàn, tất cả các tướng, tướng tướng chân thật, vì vậy cho nên tứ đế đều gọi là vô tác. Tức giáo nghóa chép: Y cứ vào nhất thật để nói tứ thật đế, bốn đế này rốt ráo không thật có, tức là nhất thật đế, đó gọi là vô tác tứ thật đế, chẳng phải nghóa kia ư! Ba tánh ác dung thông trong Viên thật giáo, tất cả khổ tập tức là tánh ác, đạo diệt tức là tánh thiện; nay nói về hạnh của tánh đức, nếu toàn tánh khỏi tu thì mỗi hạnh nghiệp đều là vô tác, nếu toàn tu tại tánh thì dù cho có niệm cũng đều viên thành, cho nên biết tánh tuy vốn có không đổi, nhưng không ngại toàn tánh đủ ba ngàn, khởi làm tu đức ba ngàn, tu tuy tu trị tạo tác mà không ngại toàn tu đức ba ngàn tức là tánh đủ ba ngàn, như vậy thì ngoài tánh không có tu, ngoài tu không có tánh, tu tánh như một, thể dụng tương tức, cho nên Huyền Tiêm nói: Ở tại tánh thì toàn tu thành tánh, khởi tu thì toàn tánh thành tu, tánh không đổi dời, tu thường rõ ràng. Lành thay! Viên thừa đối với tu, đối với tánh đã không thêm bớt, nghóa vô tác nơi đây lại càng rõ ràng, tông khác không rõ tánh cụ, muôn pháp đều thuộc hữu vi, thành thật không thể cùng đồng mặt trời mà nói, viên luận về ba nghóa đều hiển bày vô tác, chỉ duyên giáo này trong lúc mê bị xem thường, theo lý ngoại giới để đặt tên gọi này. Dùng nghóa tứ thánh đế trên cẩn thận suy xét giáo quán của Sơn gia, lược thuật đại khái như vậy, Tự Nhân dùng lời lẽ mạnh mẽ phóng khoáng học vấn sơ cạn, cúi mong Hòa thượng không từ bỏ nơi hoang vu, chịu ban lòng từ soi xét, rất là may mắn. Học trò Tự Nhân kính đáp.  GHI CHÉP VỀ GIÁO VÀ HẠNH CỦA TÔN GIẢ TỨ MINH <卷>QUYỂN 4 Đáp hai mươi bảy câu của Nhật Bổn Quốc sư Thảo am lục kỷ Nhật Bổn Quốc sư hỏi việc Lại đáp câu hỏi của Nhật Bổn Quốc sư Đáp Thái Thiền sư Phật pháp mười câu hỏi Lại đáp ba câu hỏi của Thiền sư Thái Bức thư thứ nhất Thiền sư Thiên Đồng Ngưng dâng lên Pháp sư Tứ Minh Bức thư thứ nhất Pháp sư Tứ Minh đáp lời Thiền sư Thiên Đồng Ngưng Thiên Đồng lại dâng ngài Tứ Minh bức thứ thứ hai Tứ Minh lại trả lời Thiên Đồng bức thứ thứ hai Thiên Đồng lại dâng ngài Tứ Minh bức thứ thứ ba Pháp sư Thiên Đồng Tứ Minh trả lời thư và lời hậu tự Thảo am lục kỷ Thiên Đồng Tứ Minh trả lời thư. <詞>ĐÁP HAI MƯƠI BẢYCÂU HỎI CỦA QUỐC SƯ NHẬT BỔN (Bài tựa y cứ vào bia Hành nghiệp thì nói hai mươi câu hỏi, nếu tất cả các bản truyện ghi chép thì đều là hai mươi bảy câu hỏi, sợ tiếp nối lời hỏi đáp sau xen nhập lẫn văn trước, nay y theo hai mươi bảy câu hỏi mà ghi chép). Quốc sư Nhật Bổn hỏi. Pháp sư Tứ Minh đáp. Năm Quý mão niên hiệu Hàm Bình năm thứ sáu đời Tống có vị tăng tên Tịch Chiếu ở nước Nhật Bổn đến núi Thiên thai, Thiền sư Nguyên Tín đối với giáo môn Thiên thai chống trái nên đặt ra hai mươi bảy câu hỏi, ngài Tứ Minh truyền giáo Sa-môn Tri Lễ nương giáo lược đáp tùy theo lời hỏi mà viết thư trả lời. Bậc thầy đạo đức khắp các phương một khi giở sách ra xem không tiếc lời cân nhắc nói hai mươi bảy điều thắc mắc đối với tông Thiên thai, kính cẩn bỏ vào trong hòm, chịu gần gũi thương mến giúp đỡ mỗi mỗi giải thích rộng thật là may mắn. Pháp Kiều thượng só vị ở viện Lăng-nghiêm thuộc núi Thiên thai, nước Nhật Bổn. Nội cung phụng mười vị đại Thiền sư, ngài Nguyên Tín đứng đầu. Câu hỏi 1: Pháp Hoa Tam châu thọ ký thành Phật v.v… thời gần đây có người nghi rằng: Vì đó là Phật sơ trú hay là Phật Diệu Giác; nếu Phật Diệu Giác thì Đại sư thường nói tám tướng Phật của sơ trú; nếu sơ trú thì viên đốn nhanh chóng trải qua một hai đời còn có thể rốt ráo, huống chi trải qua vô số kiếp ư! Đáp: Tam châu đã thọ chính là tam tướng Ứng thân ký, tám tướng này bắt đầu từ sơ trú phần hiển pháp thân, cuối cùng đến pháp thân Diệu giác rốt ráo, đều có thể hiện tướng này làm lợi ích muôn vật. Tam châu được nhập không hạn cuộc hàng Sơ trụ, như sớ nói: Ngài Thân Tử đã là thượng căn lợi trí thì phải siêu nhập, nhưng phần nhiều nói Sơ trụ ấy chỉ chọ vị ấy làm đầu. Lại đều nói trải qua vô số kiếp kết duyên với vật kết duyên làm nhân thanh tịnh cõi nước Phật, nếu không có chúng nhiều là các căn cơ thọ hóa thì đâu có hiện thân nói pháp. Nếu luận về nguồn gốc pháp thân thì ngay trên tòa mà chứng đắc, đâu đợi phải trải qua vô số kiếp ư! Nếu luận về nguồn gốc pháp thân thì ngay trên tòa mà chứng đắc đâu đợi phải trải qua vô số kiếp ư! Câu hỏi 2: Phẩm Thí Dụ ghi rằng: Ngài Thân Tử ở tâm thứ sáu trong thập trú lui sụt sơ các kiến tư hoặc trước đây đã đoạn, đến tâm thứ sáu thì kiến còn chưa hết, lục tâm còn lui sụt. Gần đây có người nghi rằng: Sơ Trụ của Biệt giáo nội giới kiến hoặc đều đã dứt hết, đâu phải để lục trú kiến hoặc lại không khởi các tội nặng, huống chi kiến hoặc danh số tuy nhiều, là một vị đốn đoạn, tư hoặc phải trải qua các địa vị mới dứt hết, đây thường bàn luận phân tích về Biệt giáo. Nay ký chủ thấy Thân Tử đã ở Lục trụ còn lui sụt lại sinh khởi tội nặng liền dùng nghóa cầu mong, sợ có giáo môn kiến tư hoặc đều dứt, đến tâm thứ sáu tư hoặc còn chưa hết, kiến hoặc cũng còn sót, cho nên có công năng lôi kéo vào đường ác, đây là ký chủ y cứ vào nghóa châm chước không thể đem Biệt giáo hiện hành mà vấn nạn. Nếu căn cứ Khởi Tín thì chỉ bất thối mới thành tựu, người của Viên giáo có khả năng phân biệt, nếu luận chỉ bày dấu vết cũng phải chỉ bày giai vị kia y cứ vào hoặc để phân biệt mới có nghóa lui sụt. Câu hỏi 3: Lời sớ của phẩm Hóa Thành Dụ chép. Hỏi: Số vi bụi như trên thường cho phép thời tiết, nay mới đắc A- la-hán, phải biết vô sinh pháp nhẫn đâu dễ gì được bước lên. Đáp: Đại Thánh khéo léo nương bốn tất-đàn mà nói như vậy, là để đối trị hạng người nhàm chán đạo lâu dài mà nói ngắn, người đối với đạo sinh ý tưởng là dễ mà nói dài, phải biết nói như vậy qua nhiều kiếp nay mới đắc La-hán, đây là Đức Như Lai dùng quyền thực hành bốn tất-đàn dẫn dắt chúng sinh thực hành, khiến cho họ nhập đạo đó thôi! Gần đây, có người nghi rằng: Rộng nói Phật đạo dài ngắn, hoặc có thể gọi là khéo léo bốn tất-đàn nhưng đại khái klà nêu sô kiếp nhiều như bụi nhỏ là chỉ cho sự thật, nếu không như vậy thì đâu nhọc công xoay vần qua nhiều, luống uổng ngôn từ ư! Việc ấy nếu chẳng thật thì bao nhiêu ngôn thuyết quyền thật khó rõ ràng, thêm lời sớ quyền thứ nhất nói lâu xa là hạt giống trong quá khứ, còn đời gần đây là giải thoát, ghi chép phân tích là bản quyến thuộc, đây vì sao nói mới đắc A-la-hán ấy là dùng quyền thực hành bốn tất-đàn ư! Đáp: Thật như đã hỏi nhưng có nguyên do, vì sao? Vì nêu tìm kiếm nhân cha con, mé sâu xa kín đáo cùng cực, chủng tử thuần thục, các kinh chưa bàn luận đầu mối kia, phẩm này cũng chưa đề cập đến, phải y phẩm Thọ Lượng mới tận lực thần thông, nếu chỉ vì suy tìm hạt giống lâu xa nhất định chỉ thời gian dài thì chúng sinh không khởi tâm trạng, không gượng tự lực, nay sớ ghi chép lại giải thích tất-đàn muốn giúp cho lập hạnh thêm công thì yếu chỉ của Kinh mới rộng rãi, cho nên tuy một sinh, mười địa, ba đời sáu căn, nếu không nhờ huân tập hạt giống đời trước thì đâu có lợi căn tự phát. Lại nếu phẩm này chỉ luận về quyền, chỉ bày tuổi thọ mạng lâu xa, cũng là hư nói suông. Vả lại, sao khác hẳn với các kinh, sao lại dùng để nêu rõ nguồn gốc nhiệm mầu, tuy nói hàng Sơ tâm nương vào giáo, trở lại phải dùng nghóa tự suy xét. Lại thêm lời sớ nêu lên một điều rằng, biết chẳng phải nhất định phê phán ghi chép bác bỏ nguyên nhân chung quanh, tin đó lời răn nhắc, nếu căn cứ vào văn đây thì chẳng trái với giáo. Câu hỏi 4: Phẩm Bảo Tháp chép: Nương bổn nguyện của Đức đa Bảo phân thân đều nhóm họp. Có người nghi rằng: Trong Đại luận nói rõ Đức Thích-ca phân thân các cõi, nói là thế giới bạc trắng, toàn Bích-chi-phật, thế giới vàng ròng thì toàn các bậc La-hán, cõi kia các Đức Phật đều có đến không? Nếu đến, thì ánh sáng của Phật chiếu phân thân cõi nước, đều dùng pha-lê làm đất, không phải bạc trắng, vàng ròng. Lại cõi phân thân có các hàng Bồ-tát, khi phân thân đến đều dẫn theo một vị Bồ-tát, nhưng hai thế giới kia không nói có Bồ-tát. Nếu nói không đến thì trái với nguyện tất nhóm họp một chỗ, lại trái với văn đều đã đến nhóm họp. Có người vặn hỏi rằng: Y cứ vào phần nhiều nói tất cả nhóm họp đều đến, hoặc nói pha lê làm đất, có các Bồ-tát như để chung đậu xanh, đậu đen vào trong một chỗ, lấy ít theo nhiều gọi là nhóm đậu đen, lại hỏi văn rằng: Nếu y cứ vào phần nhiều lại chiêu cảm sự trở ngại lớn, cõi Phật ở mười phương kia chỉ có văn Nhất thừa, nói Thanh văn, Bồ-tát đều thành Phật đạo cũng ứng theo nhiều, nếu vậy tức là đồng ý với tông ngũ tính ư! Đáp: Kinh luận trái nhau, những trường hợp ấy không ít, không cần hòa hợp, nay nếu gượng hợp thì kinh này tuy nói đều dùng pha-lê làm đất đâu có trở ngại rừng cây cung điện, hoặc toàn vàng ròng bạc trắng, cũng được nói là thế giới vàng ròng bạc trắng. Lại cõi nước ấy tuy không có Bồ-tát, khi muốn đến nhóm hội là đồng với các Đức Phật, sẽ hóa hiện Bồ-tát đến làm thị giả nên không có chướng ngại. Lại các cõi chỉ nói Bồ-tát đây khắp, vì y cứ vào kinh này khai hiển mà nói, thì chỉ có hóa Bồ-tát, không phải Nhị thừa, mới thẳng dùng Nhị thừa làm Bồ-tát thì có gì mà không được. Câu hỏi 5: Phẩm Đề-bà giải thích long nữ cung rồng dưới biển đến có ba nghóa: Nghóa thứ hai kia nói biển thì rung chuyển mà cung rồng bất động, rồng thì bất động mà chỗ ở đã biến đổi, từ biến mà chỗ đến bất biến thì có gì mà không được. Có người nghi rằng: Trong đây chỉ cho nơi nào gọi là chỗ ở, nếu là cung rồng thì ở trên nói bất động, dưới sao lại chợt nói đã biến, nếu là biển lớn thì ở trên nói cung rồng bất động, không nói biển lớn bất động, nay sao bỗng y cứ vào biển lớn nói rồng là bất động ư! Lại biến mà bất biến, ý ấy như thế nào? Gần đây người học đều chấp khác nhau, thử nêu ra một quyết định! Đáp: Kinh dạy: Dời các trời người. Lời Ký chép: Các biển chuyển động. Kinh dạy: Thế giới Ta-bà liền biến đất thành lưu ly, đến nơi không có sông ngòi, biển lớn, chứng thật là dời loài hữu tình biến thành vô tình. Trong loài hữu tình, các rồng Ta-kiệt-la vì có duyên nên không bị dời đi, rồng đã không bị dời chỗ ở cung điện đâu thể nương nơi đất báu tức phải ở trong biển lớn. Cho nên biết chúng trong hội này nhờ thần lực của Phật biến hóa cho nên đều thấy cõi báu, các rồng tự thấy được cung điện dưới biển, nay Văn-thù tùy loại kia mà thấy, cho nên kinh dạy: Từ dưới biển lớn, Ta-kiệt-la Long vương tự nhiên lên, Biến mà bất biến, tư duy có thể biết. Câu hỏi 6: Thọ Lượng Phẩm chép: Hoa Nghiêm tịch chiếu, đạo tràng Đại Kinh, siêu việt chín kiếp trước đều thành phương tiện. Có người nghi rằng: Đại kinh chỉ có Tuyết Sơn Đồng tử siêu việt mười hai kiếp, trong đây vì sao nói vượt chín kiếp ư! Đáp: Hoặc người ghi chép lầm, hoặc người ghi chép bị đặt, huống chi không có hại lớn, đâu đáng thắc mắc. Câu hỏi 7: Phân Biệt Công Đức Phẩm Sớ chép: Hoặc có thể mỗi người có tám lần tăng, hoặc có thể một đời, hoặc tám đời, hoặc vô lượng đời, hoặc một niệm, hoặc tám niệm, hoặc vô lượng niệm v.v… Có người nghi rằng: Lời sớ quyển tư chép: Tam châu Thanh văn chưa dứt vô minh, có ba căn lợi độn. Nếu chân thật tu thì thể hiển bày, không bị lầm lẫn, hàng Sơ trụ trở lên lại khởi duyên tu, không còn thắng thua, chân thật tu hành để dung thông, đâu được có khác ư! Nay tại sao có một niệm, tám niệm, cho đến vô lượng đời khác nhau ư! Nếu vậy, tại sao luận về thân do cha mẹ sinh chứng Diệu giác ư! Nếu hứa chứng thì kinh cho long nữ là chứng mau chóng, nhưng Đại sư xếp vào tám tướng sơ trụ. Đã có mau chóng chứng lý vì sao long nữ không chứng Diệu giác ư! Huống gì Khởi Tín hòa hợp các kinh dài ngắn hai thuyết, chỉ dùng ba tăng-kỳ làm chứng lý, Thiên thai không thể trái với ngài Mã Minh. Nếu không hứa thì đã có một niệm tám phen tăng giảm, sao không hứa một đời bốn mươi hai phen ư! Đại viên đốn nhanh chóng đều phải trải qua bao nhiêu kiếp ư! Đáp: Sớ quyển bốn chép: Ba căn nhập Sơ trụ còn có lợi độn không? Lời Ký chép: Ngay nơi ba căn này từ khi nhập trụ về sau vẫn gọi là ba hay không? Nay căn cứ vào ký chủ nêu ra ý hỏi, sau khi nhập trụ Thân Tử v.v… là bậc thượng căn, Ẩm Quang, Mãn Từ Tử… vẫn là trung căn, hạ căn ư! Sớ đáp: Chân tu thể hiển thì không có sai khác, ở đây đáp ý sau khi ba căn chứng lý, dù khởi duyên tu cũng không bao giờ theo hạng thượng căn trước, vẫn là thượng trung căn trở lại bậc trung. Cho nên biết vì hành căn tánh cầu định cho nên nói chân tu không sai khác, nếu tự phân biệt pháp thân tăng đạo tổn sinh thì đâu không có nhanh chậm ư! Cho nên có một niệm, tám niệm, ba đời, tám đời v.v… sai khác! Lại hỏi một đời Diệu giác, lời sớ đã có một niệm tám phen, trong kinh Kim Quang Minh lại có sinh thân Thập địa, lấy đây mà nghiệm thì ngay nơi thân chứng Diệu giác chẳng phải một bề là không, chỉ vì trong kinh Hoa Nghiêm nói người mới phát tâm liền thành Chánh giác chính là tám tướng của Sơ trụ người đời phần nhiều cho rằng Diệu giác pháp thân thì hoàn toàn mất bốn mươi mốt vị tu chứng, cho nên các nhà chú thích hiện nay chia ra gồm tám tướng, phần nhiều ở trong giai vị vô sinh. Vả lại, văn nói Long nữ tu chứng và lấy tướng nam phương thành Phật khó có thể phân chia cao thấp, vì phát tâm rốt ráo cả hai không khác nhau, như các chỗ khác đã nói. Lúc mới bước lên địa trụ thì ba nhân khai phát, đã đắc vô sinh, nhậm vận chứng đắc hậu vị, hơn nữa Long nữ là loài súc sinh mà cón chứng địa vị này, tức có đủ tám tướng làm lợi ích muôn vật, đủ hiển bày chứng nhanh chóng, nếu căn cứ Khởi Tín đã rộng giảng bày tam giáo, trong văn định nói kiếp số, e là nghóa giáo đạo của Biệt giáo. Nếu nói Mã Minh Thiên Thai không thể trái nhau, như Thiên Thai xếp bổn môn ký biệt thì một bề không dùng luận này của Thiên thân, luận này còn tự lấy bỏ, huống chi thông suốt luận ư! Câu hỏi 8: Phẩm Tùy Hỷ thứ năm nói: Mười người xoay vần nghe kinh Pháp Hoa, một niệm tùy hỷ được công đức vô lượng vô biên, sớ xếp vào phẩm tùy hỷ đầu, gồm có năm mươi công đức. Lại phẩm Khuyến Phát chép: Thành tựu bốn pháp có thể được kinh này. Sớ nói: Xưa nói thật hành được bốn pháp sẽ tận tay được kinh này, ở đây nói không phải như vậy. Văn trên nói nghóa thật tướng của các pháp đã nói cho các ông nghe. Lại nói: Vì muốn chúng sinh khai thị nhập tri kiến Phật, bởi toàn thể Pháp Hoa năng hành bốn pháp sẽ hiểu được điều này. Có người nghi rằng: Kinh Đại Bát-nhã chép: Hạng người gốc lành chưa thuần thục phước đức mỏng còn không nghe được tên gọi, huống chi tay được cầm kinh này. Nếu tay được cầm kinh thì mau ngồi tòa Bồ-đề. Lại nói: Chỉ nói một kinh kia nếu gốc lành mạnh mẽ thì chắc chắn đắc Vô thượng Bồ-đề, tức biết không đủ năm mươi công đức, không hiểu được thật tướng, chỉ nghe danh tự tay cầm quyển kinh đều là công đức vô lượng, thật không thể thiên chấp ở đây! Đáp: Giải thích kinh sâu cạn đều có chỗ cùng cực, nay kinh tùy hỷ có hai thứ: Nghóa là trong giải ngoài sự, ngoài sự bao dung có thể giải thích cạn, trong giải phải làm sáng tỏ sâu xa, nếu phẩm khuyến Phát đã là Phổ Hiền tiền từ xa xưa đến nay lại thỉnh nói kinh. Đức Như Lai nhân đây lược giảng bốn pháp, nếu chẳng khai thị ngộ nhập tổng quát một kinh thì làm sao có thể đáp lại lời thỉnh, giai vị năng thỉnh đã cao, kinh sở đắc đâu thể cạn, cho nên không thể chỉ tay được quyển kinh mà còn phải hiểu biết. Kinh Bát-nhã kia nói tay được cầm kinh, tai nghe kinh thì đã thành hạt giống Bồ-đề, nếu không có gốc lành thì làm sao mà may mắn gặp được ư! Nếu thành hạt giống bất hoại tức có kỳ hạn ra khỏi cho nên có chỗ nói mau ngồi tòa Bồ-đề thì nhất định được, huống chi tay cầm kinh, tai được nghe thì đâu thể một bề làm việc nông cạn mà còn phải hiểu biết hơn nữa mở mang kinh điển vốn là sinh điều lành, nếu không dùng lý hạnh răn nhắc thì kia có thể được đắc ư! Câu hỏi 9: Phẩm Pháp Sư Công Đức Sớ chép: Phạm vương báo tin đắc thiên nhãn, ở cõi mình thấy khắp đại thiên, ngoài đại thiên có phong luân, do mắt bị che chướng không thể thấy ngoài xa nếu ở cõi khác thì không thể thấy khắp Đại thiên, chẳng phải nơi thống lãnh. Đại La-hán thấy Đại thiên, Bích-chi-phật thấy trăm thế giới Phật không bị phong luân làm chướng ngại, cũng không bị cõi mình hay cõi người ngăn cách. Có người nghó rằng: Đại luận quyển chép: Đại La-hán ít dụng tâm thấy hai ngàn cõi, dụng tâm Nhị thừa thấy cõi Đại thiên, Bích-chi-phật cũng giống như vậy. Lại Đại Luận quyển 14 chép: Hàng Thanh văn phần lớn thấy Tiểu thiên, thượng hạ cũng thấy khắp. Hỏi: Đại Phạm vương cũng có thể thấy ngàn thế giới thì có gì đồng khác? Đáp: đại phạm tự ở trong ngàn thế giới, đứng thì thấy khắp, nếu đứng ở một bên thì không thấy các nơi khác, hàng Thanh văn không phải như vậy, tại chỗ ở thường thấy ngàn thế giới, hàng Bích-chi-phật thấy trăm ngàn thế giới. Theo ý luận nói: Nương vào nhậm vận dụng tâm, đại tiểu đều khác nhau, sự thấy biết của hàng Nhị thừa đều khác nhau, nhưng ngàn thế giới mà Phạm vương thấy chỉ là một tiểu thiên, trăm ngàn thế giới mà Bích-chi-phật thấy chỉ là trăm tiểu thiên. Lại nữa, luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa chép: Hàng Nhị thừa thần thông không vượt qua đại thiên. Nay vì sao nói Phạm vương thấy Đại thiên, Bích-chi-phật thấy trăm thế giới Phật ư? (Trăm thế giới Phật ý của luận văn phải là trăm ngàn thế giới, cho nên bốn niệm xứ, bốn giáo nghóa đều nói: Bích-chi-phật phát sinh thiên nhãn, vượt quá Tam thiên thấy thế giới khác) các sự tướng như vậy khác nhau, chủ yếu phải có luận thuyết nhất định. Đáp: Lời nói của tổng trì Bồ-tát phải xứng pháp tướng vì đã từng đích thân giảng Trí luận cho nên không luốn uổng, mới là khéo hiểu luận văn, được ý sâu sắc kia vì sao? Vì như luận trình bày rộng nghóa của hai giáo, trong văn hề nêu Nhị thừa tức bao gồm Tạng thông chỉ như sự trích dẫn, đâu phải một đường, ban đầu nói người dụng tâm nhiều thì thấy Đại thiên, kế đến nói rất nhiều người thấy Tiểu thiên, hàng Thanh văn đã có nhiều thứ, Bích-chi-phật không thể có một tiêu chuẩn nhất định đã quen phân chia xâm nhập hiệp lại chỗ thấy càng rộng. Trong văn đã nói thấy trăm ngàn thế giới đâu thể nhất định là Tiểu thiên ư! Chỉ là tiều Bích-chi cùng Thanh văn không khác, nói Bích-chi-phật cũng giống như vậy. Phạm vương các giáo công dụng cũng nhiều, chỉ là hàng Nhị thừa kia khiến cho yếu kém hơn một bậc, nhưng là người đứng đầu Đại thiên, đâu muốn thấy cõi mình không trọn vẹn cùng khắp, nguyện đem nghóa pháp định văn, chứ không để cho có văn mà mất nghóa. Câu hỏi 10: Phẩm Bất Khinh chép: Nhờ thực hành hạnh bất khinh, mau được thành Phật v.v… Có người nghi rằng: Việc bất khinh này là mong cửu viễn thật thành, là trước hay sau, nếu trước thì trái với Thọ Lượng Kinh Sớ chép: Thường bất khinh lại nói gần, nếu sau thì ai tin do Bất khinh tu hành thành Phật nhanh chóng. Đáp: Nếu ở trước tức là thật nhân! Nếu sau tức là nhân thanh tịnh cõi nước Phật, cho nên biết nương ý kinh này riêng chỉ bày chánh nhân thực hành hạnh bất khinh tức nhanh chóng nhiếp lấy cõi mà được thành Phật, cho nên nói thọ trì kinh này, giảng nói cho người khác nghe mau được thành Phật. Câu hỏi 11: Chúc Lụy Phẩm Sớ chép: Đức Phật dùng một tay quyền trí khéo léo xoa trên đỉnh thật trí của các Bồ-tát trong ba ngàn ba trăm na-do-tha cõi nước che lấp hư không. Có người khác nghi rằng: Chỉ cho những quốc độ nào mà gọi là ba ngàn ba trăm na-do-tha ư? Có chỗ nói cghỉ cho cõi Tịnh độ ba phen biến hóa, tám phương đều lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cõi nước, nếu nương nghóa này thì có thể nói ba ngàn ba trăm, thuyết này có đúng không? Đáp: Y theo lý thì phải chỉ cho Tịnh độ ba phen biến hóa trong đây lẽ ra chẳng phải đại thiên là một cõi nước, sợ chỉ cho một tứ thiên hạ là một cõi nước, Ta-bà đã gọi là đại thiên thì có thể đủ thành ba ngàn ba trăm, nhưng đại thiên cũng dường như chưa sánh bằng một trăm muôn ức na-do-tha tứ thiên hạ, sợ y cứ vào số lớn tăng đến đại thiên, vì sao? Vì số nhỉ thì mười lần mười thành trăm, trăm lần trăm thành ngàn, ngàn lần ngàn thành muôn. Câu hỏi 12: Chúc Lụy Phẩm Ký rút ra chánh Pháp Hoa, lầm nói rằng: Bồ-tát Bảo Chướng ly khai thành hai, lại thêm Báo Ấn Thủ, chưởng đã là tay, lại thêm đứng đầu, phân ly thành hai người. Có người nghi rằng: Kinh kia có Bồ-tát Bảo Chướng, Bồ-tát Ấn Thủ, Bồ-tát Vô Bảo Ấn Thủ, nay nói thêm Bảo Ấn Thủ, ý lại nói gì, huống chi trong các kinh khác cũng có ba vị Bồ-tát này, cần gì phải nhọc phá? Đáp: Do sự truyền chép phần nhiều sai lầm, còn mất khó thấy, người chép đương thời bản mà họ xem chắc chắn có tên ba vị Bồ-tát, hoàn toàn chẳng vọng bác bỏ, các kinh khác tuy có danh hiệu của ba vị thánh này, văn đã không dịch lại thì chẳng phải trường hợp này đáng vấn nạn. Câu hỏi 13: Phổ Môn Phẩm Sớ chép: Tự có nhiều khổ làm khổ một người, nhiều người chịu một khổ, một người chịu nhiều khổ, một người chịu một khổ. Có người nghi rằng: Câu thứ ba có thể nói nhiều người chịu nhiều khổ, nếu không như vậy, thì tự câu ấy đồng với câu thứ nhất, vì sao cú pháp luống thiết lập Đáp: Căn cứ vào câu pháp mà suy tìm ý nghóa, câu thứ ba sẽ như đã sửa đổi, ở đây vì ngày xưa ghi chép thấy ở câu thứ tư một người chịu ít khổ, muốn đối với câu này bèn vọng sửa câu thứ ba, là một người chịu nhiều khổ mà không nghó đồng với ý nghóa câu thứ nhất. Câu hỏi 14: Phẩm Khuyến Phát chép: Hàng Thập địa chỉ dứt hết mười hai phẩm, chẳng dứt phục cực, biết chẳng phải nghóa Phổ Hiền. Có người nghi rằng: Hàng Thập địa chỉ dứt mười phẩm, vì sao lại nói mười hai ư! Nếu dứt mười hai phẩm, thì còn hơn ngài Phổ Hiền, vì sao nói chẳng dứt phục cực, cũng không thể nói là ý của Biệt giáo, do đó mà Phổ Hiền chỉ y cứ vào Viên vị! Đáp: Văn ghi chép của nước kia lầm lẫn. Y cứ theo bản đời Tống chép: Hàng Thập địa chỉ dứt hết bốn mươi phẩm, chẳng dứt phục cực. Câu hỏi 15: Diệu Ký quyển thứ nhất quyết định giải thích lúc đầu chưa có tôn giáo, Phật dạy: Cuối cùng có một Đức Phật, lúc đầu chưa có sự giáo hóa… có người nghi rằng: Nghóa vẫn chưa rõ, nếu cho rằng: không có Phật giáo hóa thì rời vào lỗi vô nhân, nếu nói vâng lãnh sự giáo hóa thì rơi vào lỗi vô cùng, mong người xem xét lại! Đáp: Ban đầu một Đức Phật tuy không có nhân lãnh nhận giáo pháp mà có nhân bên trong huân tập tự ngộ, trong ký trình bày rất rõ, sao nói rơi vào vô nhân? Câu hỏi 16: Ngài Nam Nhạc trong Pháp Hoa Sám Pháp nói: Đời quá khứ có hai muôn ức Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, đời vị lai có đủ muôn quang tướng trang nghiêm Phật. Có người nghi hỏi rằng: Trong kinh không có chữ ức, không có chữ trang nghiêm, vì sao ngài Nam nhạc lại thêm ư! Đáp: Trong Kinh tuy không có, nhưng ngài Nam Nhạc là người ở giai vị tương tự dùng tam đạt ngũ nhãn chiếu soi, hiệp có ba chữ cho nên thêm vào đời sau cho là khó nên cắt bỏ. Câu hỏi 17: Diệu Huyền quyển thứ sáu nói cõi nước khổ vui có hai cách giải thích: 1/ Do chúng sinh, chứng pháp Phật tạo tác. 2/ Do Phật, không quan hệ đến chúng sinh v.v… có người nghi rằng: Bản nguyện của Đức Thích Tôn nói rằng: Đời vị lai ta xuất hiện ở cõi nước uế ác làm lợi ích Tịnh độ mười phương, tẫn uất chúng sinh ác nghiệp, cho nên biết nơi có việc khổ chỉ là do chúng sinh nghiệp ác chiêu cảm, sao nói do Phật không quan hệ đến chúng sinh? Nếu Phật tạo tác, chẳng phải chúng sinh ác nghiệp không, không có quả báo ư! Há Đức Như Lai trái ngược với phương tiện đại bi khiến các chúng sinh chịu ba đường khổ ư! Thế thì hạnh mà Bất Khinh thực hành, các chúng được ngài Văn-thù giáo hóa đều là phương tiện thi thiết khéo léo khiến tăng trưởng điều thiện, dứt bớt điều ác, chuyển tội nặng thành nhẹ, cố nhiên chẳng phải thiết lập nhân duyên khổ não! Đáp: Nếu nói về gây nhân thiện ác chiêu cảm quá khổ vui chính do chúng sinh chẳng liên quan đến Phật, nếu nói về dụng việc khổ vui nhiếp phục chúng sinh, chính do Phật hiện không liên quan đến chúng sinh. Bởi thích dụng khổ trị mới được giáo hóa, các Đức Phật liền tạo, như tiên vương đặt ra hình phạt, đâu muốn để khổ thêm cho bách tính, và rất nhân đức, các Đức Phật cũng vậy, vì việc chiết phục mà gượng hiện. Lại nữa, chúng sinh ở nước khổ vui nên không được tự tại, các Đức Phật do đó mà năng chuyển biến, cho nên nói do Phật. Lại, Phật là Phật trong nhà chúng sinh, chúng sinh là chúng sinh trong nhà Phật, cho nên nói các Đức Phật trong tâm chúng sinh niệm niệm chứng chân, chúng sinh trong tâm các Đức Phật thường gây ra nghiệp mới cho nên biết, luận về chúng sinh thì nhất thời thuộc về chúng sinh, nếu Phật thì nhất thời thuộc về Phật, do vì nghóa ấy cho nên kinh dạy nay ba cõi này đều có ta và có chúng sinh ở trong đó đều là đệ tử của ta. Câu hỏi 18: Bộ Diệu Huyền quyển thứ chín (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghóa) giải thích Bổn môn được lợi ích rằng: Khiến cho Bồ-tát pháp thân được lợi ích lớn, nghiền mười muôn na-do-tha nước khác thành số bụi làm tăng trưởng đạo Bồ-tát không thể để mất. Gần đây có người nghi rằng: Phẩm Phân Biệt Công Đức chỉ nêu số bụi nhỏ Đại thiên giới, trung thiên giới, Tứ thiên hạ v.v… vẫn chưa nói đến trăm ngàn, sao lại nói mười muôn na-do-tha ư! Đáp: Đối các phương diện đều gọi na-do-tha, các cõi nước nhỏ mới gọi là Đại thiên. Kinh chép: Số bụi nhỏ của đại thiên đâu không bao gồm cả mười muôn, như một hạt bụi nhỏ còn có mười phương phần huống chi Đại thiên ư! Nếu nói khắp mười phương cõi đều nghiền thành bụi nhỏ thì mới trái với văn kinh. Câu hỏi 19: Quyển thứ sáu giải thích Tam-muội Bất Động rằng: Quả báo ba hoặc thành ba bất động, động thì bao gồm nghiệp, đế chỉ có ba nghiệp và kiến hoặc, tư hoặc đồng bị tục đế sở phá. Gần đây có người nghi rằng; ngoài tam-muội và các nơi đều dùng kiến tư hoặc làm chân đế sở phá, trong đây vì sao nói tục đế sở pháp ư! Đáp: Trong đây chính do nghiệp và kiến tư đồng nhập sinh tử tục đế, chính là bị chân đế sở phá, thành ra chân đế tam-muội, văn khác dùng nghiệp đồng trần sa phá thì thành tục đế tam-muội đều có nguyên nhân. Vì sao? Vì như trước trong các văn vô cấu v.v… chính dùng tán thiện để phá nghiệp ác, tán thiện thì thành giả quán. Trong đó, dùng định thiện để phá tán thiền thì thành không quán, cho nên có Bối xả hàng phục kiến, tư hoặc… người ghi rất cùng cực sâu kín cho nên có đối này. Câu hỏi 20: Chỉ Quán quyển thứ nhất nói Tam tạng giáo Phật thần thông nói rằng: Nhất tâm thành một, không được quá nhiều. Hoằng Quyết chép: Khi hóa chủ nói, hóa sự liền nói, khi hóa chủ im lặng thì hóa sự im lặng. Nói năng, im lặng đã như vậy các nghóa còn lại cũng vậy, cho nên chẳng phải nhậm vận chân hóa. Gần đây có người nghi rằng: Luận Câu-xá 27 chép: Thần thông của hàng Thanh văn nhất tâm chỉ là một, thần thông của Như Lai nhất tâm là vô lượng. Như bài tụng kia nói: Một khi hóa chủ rồi, các sở hóa đều nói, khi hóa chủ im lặng, các sở hóa cũng thế hóa thân và hóa chủ, nói đều chẳng phải Phật, nay Chỉ Quán làm sao trái với kia ư! Lại nữa Đại luận quyển thứ 9 nêu rõ nghóa Phật trong luận Tỳ-đàm, cùng với lời ghi ở đây văn cũng trái nhau thể trịch dẫn nhiều. Đáp: Dù cho hóa chủ hóa sự hiện trong một lúc, một không nói năng, im lặng một lượt vì nhất tâm nói một lời, nhất tâm thì im lặng, cho nên nói nhất tâm tác, đâu có so sánh luận xét an thiền chắp tay, dùng ngàn muôn bài kệ tán tụng các Pháp vương, bất động mà ứng hóa, hóa vô phương. Ngoài ra trái lại thì có thể dùng ý hội ắt không có chướng ngăn lớn. Câu hỏi 21: Chỉ Quán quyển ba nói người Biệt tiếp Thông rằng: Ban đầu tu hai quán không giả, phá chân tục, hoặc trên hết, mới nghe Trung đạo, vẫn phải tu quán phá vô minh mới đủ tám tướng thành Phật, ý nói: Tức thân chứng Thập địa. Gần đây có người nghi rằng: Hàng Biệt giáo còn không có nhục thân chứng Thập địa, vì sao từ giáo thấp kém mà có thể siêu đăng ư! Đáp: Y cứ vào hai quán kia, cộng thành hai đế, hoặc hết, vẫn tu trung quán hàng phục vô minh, ắt hợp với kinh chúng sinh trải qua nhiều kiếp, chưa biết nơi nào định nói tức thân, lỗi ứng hiện trong lúc nghe mới có thể tức thế, nói tu quán không hẳn một đời, huống chi sau khi nghe không hạn cuộc nay chứng, phải trở về hậu giáo (giáo sau). Câu hỏi 22: Chỉ Quán quyển thứ sáu chép: Nếu siêu vượt đoạn đến ngũ phẩm (thứ năm) gọi là Gia gia. Gần đây có người nghi rằng: Bộ Hoằng Quyết nói: Điều Đại sư sử dụng đều căn cứ vào luận Tỳ-bà-sa, nếu muốn biết lại xem xét văn kia. Nay xét Tỳ-bà-sa, người dứt ba bốn phẩm sinh hai ba đời ấy gọi là Gia gia, không vượt thứ lớp, Biệt cũng không phải dứt ngũ phẩm gọi là Gia gia, tái sao nói vượt dứt năm phẩm gọi là Gia gia ư! Tuy Hoằng Quyết giải thích cũng không ngoài nghóa này. Chỉ Quán lại chép gọi là Nhất Vãng Lai, vả lại Tư-đà-hàm Hán dịch là Nhất Vãng Lai, vì sao dùng một tên phân biệt siêu vượt phân biệt siêu việt thứ lớp khác nhau ư! Chỉ Quán lại chép: Tiếp đến đoạn bảy phẩm đến tám phẩm gọi là A-na-hàm hướng, siêu đoạn phẩm thứ tám gọi là nhất chủng tử, ở đây cũng y theo luận kia nói đoạn, ở đây nghóa siêu vượt đều không biết từ nơi nào. Đáp: Luận Tỳ-bà-sa tân dịch hay cựu dịch chưa tiện tra xét. Câu hỏi 23: Chỉ Quán v.v… ý nói rằng: Từ vô thỉ tạng tâm đầy đủ pháp mười giới, mười như thị, cho đến quả Phật cũng giống như vậy. Bộ Hoằng Quyết chép: Hạng xiển-đề dứt hết việc tu điều lành, chỉ có tánh thiện, Đức Như Lai dứt hết làm điều ác, chỉ còn tánh ác. Gần đây có người nghi rằng: Luận Khởi Tín, môn đối trị tà chấp chép: Nghe Tu-đa- la nói pháp nhiễm sinh tử của tất cả thế gian đều nương Như Lai tạng mà có tất cả các pháp không lìa chân như, vì không hiểu nên cho rằng tự thể Như Lai tạng đầy đủ tất cả các pháp sinh tử thế gian, làm sao đối trị! Hỏi: Do Như Lai tạng từ trước đến nay chỉ các công đức thanh tịnh vượt hơn sông Hằng, không lìa không đoạn, không khác nghóa chân như, do pháp nhiễm phiền não vượt hơn sông Hằng chỉ là vọng có, tự tánh vốn không, từ vô thỉ đến nay không hề tương ưng với Như Lai tạng. Nếu Như Lai tạng tự thể có vọng pháp mà khiến chứng đắc dứt hẳn vọng thì không có điều ấy ư! Đáp: Luận cho rằng tánh tự vốn không, sau cùng với tánh cụ mà Thiên thai chủ trương là trái nhau ư! Đáp: Trăm cõi ngàn như tánh thiện tánh ác đều là thể đầy đủ, pháp môn mầu nhiệm, công đức thanh tịnh, tức Khởi Tín nói hơn hằng hà sa các công đức thanh tịnh không lìa không đoạn, đều là chân như, nếu tất cả pháp vọng nhiễm sinh tử phiền não của thế gian đều là tu ác thì tuy hoàn toàn là tánh khởi mà trái với tánh cho nên diệt hẳn, nếu xứng lý mà tu muôn hạnh công đức đều là tu thiện, cũng toàn tánh khởi mà thuận với tánh, đức đồng với thường trú, cho nên nói: Giống như thật cho nên xứng lý bản hữu hư không, cho nên mê chuyển thành tánh, liền khiến chứng hiểu thời tu ác tuy hết nhưng tánh ác thường còn nghóa cảm ứng mà các nhà nói vì không biết pháp môn tánh ác, cho nên quả sau đưa đến thân trong đường ác đều phải dùng năng lực thần thông biến hiện, cho nên các nhà sớ kinh ngày nay bác bỏ là đồng thần biến của ngoại đạo. Cho nên nói: Chứng bổn chân nguyên, trở lại mặc chúng sinh chuyển thức hiện khởi, nếu không luận bàn thể đủ mười cõi cũng là nghóa Biệt giáo, nếu hiểu được ý này thì giáo chỉ một nhà như nhìn trong lòng bàn tay không chút khác nhau với các kinh luận. Câu hỏi 24: Tứ giáo nghóa quyển thứ nhất có giải thích tiệm đốn v.v… các giáo sai khác rằng: Văn của lộc Giả Hạc Lâm, giáo bảy chỗ tám hội đâu chẳng phải không có sự khác nhau giữa đốn tiệm, bí mật bất định, có người nghi rằng: Trong đây nên nói há chẳng phải có, sao nói vô tự ư! Đáp: Nếu y cứ vào bổn địa này mà nói chẳng có sự khác nhau giữa đốn tiệm, nay dùng nghóa để tìm, biết hai nơi vốn đều là lầm, đối với kia vốn là phi tự dưới, phải trừ vô tự. Địa bổn này phải đối với phi tự trên thêm một chữ há, thì văn nghóa kia đây (hai bên) thành. Câu hỏi 25: Tứ giáo nghóa quyển ba chép: Bồ-tát Tam Tạng hành đạo Bồ-tát, trải qua hai mươi hai A-tăng-kỳ kiếp là giai vị Noãn pháp, ba A-tăng-kỳ là giai vị Đảnh pháp… gần đây có người nghi rằng: Luận Tỳ-bà-sa nói hậu thân Bồ-tát ngồi dưới gốc cây bắt đầu tu bốn gốc lành, ngay tại chỗ ngồi thành Chánh giác, giáo nghóa tam tạng phần nhiều nương luận Bà-sa, trái với văn này là vì sao? Đáp: Bồ-tát Tam Tạng hai ba tăng-kỳ tuy dùng pháp quán Noan, Đảnh chính là vì hàng phục hoặc, hành các sự hành, cho đến ngồi dưới gốc cây, thực hành là chân. Lại dùng bốn pháp làm doạn hoặc gia hạnh, như ba tăng-kỳ hàng phục tư hoặc lâu dài trong ba cõi, nhưng ở dưới gốc cây vẫn dùng ba mươi bốn tâm, lấy đây suy xét thì biết chẳng khác nhau lắm. Câu hỏi 26: Luận đề đoạn cuối trong Ngũ Bách vấn nói Đại sư Diệu Lạc soạn. Có người nghi rằng: Luận này phần nhiều dường như sai lầm, vả lại nêu lên một hai, như nói A-la-hán vân, trong luận không nêu số cúng dường Phật và phá sư (thầy) khác giải thích chủng tánh… nghóa của Thất địa, Mười địa như tự hoan hỷ v.v… Nếu là Đại sư soạn thì không thể không thông. Đáp: Luận này đời tông thiếu bản, ở đây không thể bình luận. <詞>GHI CHÉP VIỆC QUỐC SƯ NHẬT BỔN HỎI TẠI THAO AM Quốc sư Nhật Bổn đã từng đi bộ vượt biển ngàn dặm để đến hỏi ngài Pháp Trí hai mươi việc, Pháp Trí lý rất sâu xa, về sau ngài Quảng Trí nối pháp. Ngài lại sai hai đệ tử là Thiệu Lượng, v.v…mang kinh Pháp Hoa chữ vàng đến lễ bái ra mắt, do đó buồn khóc lóc rất cung kính, xin được học hỏi, ba phen thì đạo kia thành tựu, trong nước lại lớn mạnh môn học Thiên Thai, có nói đủ về tháp của Lỗ Công. <詞>LẠI ĐÁP MƯỜI CÂU HỎI CỦA QUỐC SƯ NHẬT BỔN (Mười câu hỏi này không biết vì sao sư nước kia đặt ra, tương truyền chỉ nói: Sư nước Nhật Bổn hỏi, Tứ Minh Pháp sư đáp). Câu hỏi 1: Nghi định tánh Thanh văn thành Phật hay không thành Phật! Kinh Giải Thâm Mật chép: Thành tựu đệ nhất thú Thanh văn, tất cả các Đức Phật ra sức giáo hóa, không thể khiến hàng Thanh văn kia ngồi đạo tràng chứng Vô thượng Bồ-đề, ta nói gọi là tịch diệt Thanh văn. Luận Duy Thức chép: Định tánh Thanh văn nhập Niết-bàn vô dư, thân trí đều diệt, giống như hư không, chẳng phải số chúng sinh lại không phát tâm, hơn nữa nếu kinh luận như vậy mà tông Thiên thai vì sao giải thích văn Thâm Mật, Duy thức hiển lý tánh Thanh văn thành Phật đạo như thế nào. Đáp: Kinh Thâm Mật, luận Duy thức là giáo nói lên thi thiết quyền, Thanh văn thú hướng vắng lặng chỉ còn thiên chân, nương lý phát tâm, chỉ thành nguội đoạn, chẳng biết thật lý rốt ráo chân thường, muốn hướng đến Bồ-đề không bao giờ được và đến trong hội Pháp Hoa ở núi Linh thứu, khai quyền hiển thật, chánh thức bỏ thẳng phương tiện, chỉ nói đạo Vô thượng, tam châu thọ ký Thanh văn thành Phật không thể còn chấp kinh luận ngày xưa Thanh văn không thể thành Phật nữa. Câu hỏi 2: Vế nghi xiển-đề thành Phật hay không thành Phật! Kinh Thiện giới chép: Nếu người không có tánh Bồ-tát thì tuy phát tâm siêng tu tinh tấn nhưng không bao giờ đắc A-nậu Bồ-đề. Luận Du-già chép: Không có chủng tánh mà tụng trì Du-già, do không có chủng tánh nên tuy có phát tâm và tu gia hạnh nhưng không kham nỗi Vô thượng Bồ-đề viên mãn, như vậy kinh luận hiển đủ nghóa xiển-đề không thành Phật, nay tông Thiên thai đối với kinh luận kia làm sao dung hợp. Đáp: Dẫn luận Du-già, kinh Thiện Giới, phát tâm tu chứng gọi là xiển-đề vô tánh, đó là Tạng giáo, phát tâm đồng với hàng Nhị thừa ở trước, chưa hiểu rõ tánh trung thực chân thường chẳng phải là hàng xiển-đề. Hạng xiển-đề kia không có tín tâm không thể phát tâm, nghóa là không có duyên nhân và liễu nhân, cho nên nói không thành Phật, cho nên kinh Niết-bàn chép: Hoặc có người xiển-đề có Phật tánh người có gốc lành thì không (nghóa là hàng xiển-đề có cảnh giới tánh ác), hoặc người có gốc lành Phật tánh người xiển-đề thì không (nghóa là người có nhân duyên thiện tánh) hoặc có người cả hai tánh ấy đều không (nghóa là hai tánh đều vô duyên), vì hàng cả hai tánh đều vô duyên trên nên nói nghóa xiển-đề không Phật tánh. Lại nữa, kinh chép: Hoặc có người cả hai tánh đều có (Nghóa là có chánh nhân Phật tánh), y cứ vào chánh nhân này nghóa là hạng xiển-đề cực ác cũng có Phật tánh, do đó kinh Niết-bàn cuối cùng hiển bày tánh luận thường, không phân biệt xiển-đề cực ác, đều đồng chánh tánh, đều được thành Phật, huống chi hàng Nhị thừa ư! Câu hỏi 3: Nghi loài cỏ cây vô tình thành Phật hay không thành Phật! Kinh Niết-bàn chép: Nếu cây câu-đà có tâm sẽ thọ ký cho thành Phật, do cây kia vô tâm nên không được thọ ký. Luận Pháp Tướng chép: Chân như có khả năng làm chỗ nương cho tất cả các pháp, cỏ cây vô tâm tuy không biến hiện chỉ có lý tánh không có hạnh tánh, nên không thể thành Phật… Nay tông Thiên thai vì sao giải thích kinh luận kiến lập loài cỏ cây vô tình thành Phật ư! Đáp: Kinh Niết-bàn luận Pháp tướng nói cỏ cây vô tâm, chỉ có ý tánh, không có hạnh tánh, đây là quyền giáo cho nên phân biệt với vô tình, vì khởi chân tu mà phải tiến hành mới được thành Phật, duyên tu chính là vô thường, tức là nghóa xưa không nay có. Muốn hiển lộ chân chân tu phải nương lý tánh, lý không có xưa nay, không phân biệt sắc tâm, một thành tất cả đều thành, cho nên nói vô tình thành Phật. Lại y duyên tu thuyết, vô tình thành Phật, tướng hết tình quên thì vô tình thảy đều thành Phật. Câu hỏi 4: Nghi trong kinh Pháp Hoa Phẩm Chúc Lụy nói: An tiền an hậu, nay giải La-thập dịch đắc Phẩm Chúc Lụy, sau phẩm Thần Lực, nhưng tông pháp tướng lập mười kty tám trái nhau, phải dời phần cuối kinh, nếu vậy, tại sao thông mười tám nạn vấn kia, phải nương sự sắp đặt của ngài La-thập? Đáp: Phẩm Chúc Lụy, ngài Từ Ân An Quốc đều dời đặt sau Khuyến Phát, nếu ở trước có tám tướng trái mười thì không được, ý của tông Thiên thai là phải y theo ngài La-thập kế là phẩm Thần Lực. Ngài Kinh Khê thì chung riêng đều phá, cũng tám không thể mười trái nhau, hơn nữa sau khi tháp hiện lên rồi thì sau đó nói gồm về Đa Bảo đều nói trong tháp không nói thấy Phật, nếu dời ở sau, không có nơi ra khỏi tháp là một điều không thể. Phân thân tán sau gồm có chỗ trình bày chỉ nói về tháp Phật, không liên quan đến phân thân, nếu dời ở sau thì Phật không có tán loạn là điều thứ hai không thể. Trong văn phẩm Chúc Lụy Phật khen cõi uế, văn kinh ở dưới nói không liên quan đến tịnh, nếu dời ở sau không còn chỗ uế là điều thứ ba không thể. Hợp với chỗ bổn địa, nhân tháp bay lên hư không Phật tán ra khỏi tháp, văn sau tại địa, nếu dời ở sau không trở lại nơi địa (đất) là điều thứ tư không thể. Sau phẩm Chúc Lụy Kinh đã chưa chỉ trình bày hết các điều vui không nói mà đi lui, nếu chuyển đổi ở sau phải thêm mà lui là điều thứ năm không thể. Sau phẩm Khuyến Phát không còn các văn khác kinh đã kết thúc thì nói mà lui, nếu dời ở sau phải từ biệt mà lui, là điều thứ sáu không thể. Việc bổn tích đã xong, phải có chỗ giao phó là có Chúc Lụy, nếu dời ở sau là pháp không nơi nương tựa, là điều thứ bảy không thể. Chúc Lụy sau cùng nêu rõ việc người nương xe cần phải chúc lụy, nếu dời ở sau thầy trò lẫn lộn, là điều thứ tám không thể, mười thứ kia trái nhau mỗi mỗi trình bày phá đủ ghi chép trong Diệu Lạc ký. Câu hỏi 5: Nghi xưa nay nhất thừa là đồng hay khác! Kinh Pháp Hoa chép: Trong mười phương cõi Phật chỉ có pháp Nhất thừa, bởi ngày xưa là ba hay là hai, kinh này chỉ khai một thôi! Nếu vậy vì sao kinh Thắng-man chép: Thanh văn Duyên giác đồng nhập Đại thừa. Đại thừa tức là Phật thừa, vì vậy cho nên ba thừa tức là Nhất thừa, đây nói Nhất thừa cùng Nhất thừa của kinh Pháp Hoa này là đồng hay khác! Đồng thì có ý ngăn trở một đời giáo hóa, khác thì khác tướng như thế nào? Đáp: Kinh luận đồng khác tất nhiên rất nhiều rất nhiều cần phải dùng nghóa quyết định thì mới có thể, vả lại bộ kinh Thắng-man ở thời giáo Phương Đẳng thứ ba, Nhị thừa tại tòa chính đang thời quở trách chuyển tiểu nhập đại. Thiên Thai giáo có nói: Nếu đến Phương Đẳng thì đến Pháp Hoa, bởi sau khi thọ đàn dần dần chứng nhập, mà kinh kia cho rằng Nhị thừa nhập Nhất thừa. 1/ Trong bộ kinh Phương Đẳng này dự liệu bày tỏ văn trên kinh kia nói sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề, vì sao? Vì hàng Thanh văn, Duyên giác đồng nhập Đại thừa, xin xét lời sẽ được tự thấy nơi quay về. 2/ Nếu căn cứ Phương Đẳng tự luận thì Nhị thừa bị quở trách, chuyển Tạng thành Thông, Thông là Ma-ha-diễn môn, cũng được gọi là Nhị thừa nhập Đại thừa, trong hai điều giải thích nghóa ban đầu là chính. Câu hỏi 6: Nghi Văn-thù không đi mà đến, vả lại phần tựa của kinh này nói Văn-thù đứng đấu trong số chúng, lại vì Di-lặc dẫn chứng chuyện xưa quyết đáp đến trong ba vòng (tam chu), đồng thời không có văn nói Văn-thù xuống biển, làm sao đạt được nhiều phẩm bỗng nhiên Long vương Ta-kiệt-la từ dưới biển lớn vọt hiện lên ư! Đáp: Văn-thù không xuống biển, y cứ theo sau khi Phật thành đạo bốn mươi hai năm ngài ở núi Linh thức nói kinh Pháp Hoa, từ đầu đến cuối tám năm thời gian đã lâu dài, hoặc có văn nói Văn-thù xuống biển, văn kinh truyền dịch về cõi này thì tóm lược, cho nên không nói vậy. Đây do y cứ vào giải thích như vậy, nếu y cứ lý trí suy rộng ra thì kinh này nói Đức Như Lai thường ở dưới biển tuyên dương chánh pháp, Văn-thù thật trí cùng khắp đâu phải ngăn cách núi Linh thứu nghe thọ, lý đã không còn, đâu hạn cuộc phương hướng cảm ứng mà nơi nơi đều là Thích-ca, tùy duyên mà thân thân diệu đức. Câu hỏi 7: Nghi Long nữ thành Phật là quyền hay thật, lúc long nữ tám tuổi chỉ trong sát-na đã phát tâm Bồ-đề, cho đến nói rằng: Tức đến thế giới vô cấu phương nam ngồi tòa sen báu thành Đẳng Chánh Giác. Lại tông tam luận, tông pháp tướng nạn vấn rằng: Long vương Ta-kiệt- la kia đã đến địa vị sâu xa quyền hiện thân rồng, đâu phải Long nữ kia thành Phật là thật chứng. Đáp: Tông khác nói quyến bậc thánh ở giai vị cao tột làm phép tắc cho hạ phàm cho nên chỉ bày gần thành. Nếu Thiên Thai nói thật chính là hiển bày diệu lực quyền xảo của Phật thừa, khai mở tánh hải chân thường bất tư nghị, một niệm phát tâm liền thành Chánh giác, cho nên Sớ dẫn kinh rằng: Pháp tánh như biển lớn, không nói có đúng sai (thị phi), hàng phàm phu Hiền thánh bình đẳng không cao thấp, do tâm cấu tịnh, thủ chứng như trở bàn tay. Xá-lợi-phất nêu lên năm chướng của người nữ để làm nghi, Trí Tích nêu rõ trải qua nhiều kiếp chứa nhóm các hạnh là việc rất khó làm, long nữ dâng hạt ngọc sáng cúng dường Phật làm dứt tâm nghi của đại chúng, sao đến ngày nay lại còn do dự ư! Câu hỏi 8: Nghi long nữ ngồi tòa sen thành Phật là Biệt hay Viên? Dù cho long nữ thành Phật nếu là Viên thừa thì phải dùng hư không làm tòa, cớ sao lại là tòa hoa sen như là toà riêng của Phật ư! Lại ba phen được thọ ký đều là thành Phật vị lai, cớ sao Long nữ hiện thân thành Phật mà không thành kiếp Phật, tên nước là sao? Đáp: Long nữ là pháp thân trong Viên đốn giáo thành Phật đốn hiển, một thành tất cả thành, một thân tất cả thân, một cõi tất cả cõi, quả báo trí tuệ sáng suốt liền ở trong thế giới Liên Hoa tạng, thân cõi không chướng ngại nhau, sắc tâm bị ngăn ngại, tuy ngồi hoa sen báu nhưng thể tức là tánh hư không, là bất tư nghị viên dung giải thoát đại dụng, nếu vậy thì làm gì có Biệt ư! Ba phen được thọ ký đời vị lai thành Phật đều là hàng Thanh văn độn căn chưa từng tu hạnh Bồ-tát, cho nên lại phải trải qua số kiếp như bụi nhỏ để tu sửa, Long nữ chính là người thừa gấp giới chậm cho nên một phen siêu thẳng nhập, kia nếu không nói thời kiếp, tên nước phải dùng Thông ký, Biệt ký ghi chép suy rộng, Thông thì không nói, Biệt thì có nói. Câu hỏi 9: Nghi Thân Tử xưa nay đồng hay khác! Trong hội Hoa Nghiêm có Xá-lợi-phất, cùng với Thân Tử trong kinh Pháp Hoa có gì sai khác đâu. Vả lại Thân Tử trong Hoa Nghiêm là từ ngoại đạo đến, nghe A-bệ nói kệ liền chứng Sơ quả, kế đến chỗ Phật chứng tứ quả thì chẳng phải Thân Tử của Pháp Hoa, nếu khác thì chẳng lẽ Đức Thích-ca một sự giáo hóa mà có Thân Tử ư! Đáp: Hoa Nghiêm luận bàn về Biệt Viên, không nói đến Tạng Thông, hàng Nhị thừa tại tòa như câm, như điếc, đã không nhập vào hàng Nhị thừa thì không thể đổi phàm thành thánh, chỉ hoàn toàn còn sống như sữa, liền du hóa trong vườn nai thi thiết tiệm quyền, do đó đạt được lợi ích, chuyển đổi tà chấp ngoại đạo, chứng Niết-bàn vô lậu, kế đến là trong sự chê trách thiên của Phương Đẳng thì Bát-nhã đào thải, cho đến Pháp Hoa hiển bày nhất thật, đây là Thanh văn Pháp Hoa. Vậy thì không hai mà hai, Thân Tử xưa nay khác nhau, hai mà không hai, chỉ là một thân vốn không có hai người. Câu hỏi 10: Nghi quả Bất hoàn sinh lên năm tầng trời Tịnh cư! Tiểu thừa nói quả Bất hoàn trùm khắp thánh vị thượng lưu kia, ở các tầng trời vô sân, Phước sinh, Quảng quả. Sinh lên năm tầng trời Tịnh cư ấy là quả Bất hoàn thân không tạo tác nghiệp thọ sinh, vì sao ở ba tầng trời dưới mà được sinh năm tầng trời Tịnh cư ư! Nếu nói phàm phu thì dị thục nghiệp làm sao nghiệp mà sinh nghiệp của năm tầng trời Tịnh cư ư? Đáp: Tiểu thừa nhập kiến đạo vị, dứt kiến hoặc, tức chướng lý hoặc, người mới chứng nhân không, đắc tướng vô ngã, mới không phát nghiệp, lìa bốn đường ác dị thục sinh chướng, quả thứ hai kia năm đường ở lẫn lộn của cõi Dục, chín phẩm giới hế nhuận sinh hoặc, tức bảy lần sinh lên cõi trời cõi người, quả Bất lai kia thuộc sắc giới vô sắc giới hệ, trong bốn quả trừ hai còn tám, chín, bảy, mười, hai phẩm nhuận sinh hoặc, ở trong hai cõi định nghiệp thọ sinh, vì sao nghi kia sinh lên năm tầng trời Tịnh cư ư! Chỉ đến quả thứ tư mới dứt hẳn sự ràng buộc của ba cõi không còn thọ sinh nữa. <詞>ĐÁP MƯỜI CÂU HỎI VỀ PHẬT PHÁP CỦA THIỀN SƯ THÁI VÀ LỜI TỰA Thiền sư của Thiền tông hỏi Pháp sư Tứ minh đáp. Thanh Thái lạm ở trong cửa thiền, mang ôn chúng lớn như biển, trộm thấy các phương, đắn đo lược chỗ nghi, liền trình bày mười câu thắc mắc đặc biệt thưa hỏi, cúi mong kim bài ở trong tay, gương báu mãi còn bóng mong được phát huy, mãi làm người dẫn đường tốt thì được muôn lần may mắn. Ngày 01 tháng 03 niên hiệu Thiên Thánh, Thanh Thái thưa hỏi Hòa thượng Diên Khánh Pháp Trí đại Đạo sư. Câu hỏi 1: Vô minh và pháp tánh là có trước sau hay không có trước sau? Nếu nói có trước sau thì vì sao nói pháp tánh không có ban đầu, vô minh cũng không có ban đầu. Lại nói vô minh tức là Phật tánh ư! Nếu nói không trước sau thì vì sao trong quả vị Phật lại dứt hết vô minh mới thành Phật quả. Đã nói dứt hết thì lẽ ra dứt bỏ pháp tánh ư! Đáp: Nếu nói về bản cụ thì bình đẳng một tánh chẳng phải chân chẳng phải vọng, mà không nói có không, nói về pháp tánh cũng không luận có thỉ có chung, nhưng chúng sinh từ vô thỉ chợt bất giác mê lý mà sinh vô minh, vô minh có dụng huân chân, pháp tánh có khả năng theo vọng, chân vọng hòa hợp gọi là duyên khởi. Cho nên Kim Bài chép: Không có nước nào mà không có sóng, không có sóng nào không ướt, tánh ướt đâu có xen lẫn lộn tạp hay lắng trong, vì sóng tự phân chia khác nhau. Cái gọi là sóng trong đục là có hai dụng chân vọng, trong đục tánh ướt một thể không khác nhau, vô minh pháp tánh đồng thể nên sinh khởi không có trước sau. Cho nên luận Khởi Tín chép: Như Lai tạng không có mé trước tướng vô minh cũng không có ban đầu, nếu giác ngộ thì thấu đạt vọng tức chân, rõ vô minh tức là pháp tánh, y cứ vào tu môn mà nói, nghóa là phải dứt vọng, tuy nói dứt vọng mà thể của vọng vốn chân thì vọng dứt chỗ nào, cho nên nói vô minh cũng không có chung. Lại nếu xét về khi đang mê cũng như người trong mộng mà không biết là mình đang mộng, bỗng nhiên thức giấc, mê vọng tự dứt, vậy thì gió ngừng nước trong, vọng tiêu chân tự hiển bày, suy xét kỹ không đợi phải nói nhiều. Câu hỏi 2: Tất cả chúng sinh xưa nay đồng một pháp tánh, pháp tánh xưa nay thanh tịnh vì nhân duyên gì mà chợt mê, chỉ như lúc mới mê là nhất thời mê hay là trước sau mê. Nếu nói nhất thời mê thì khi ngộ cũng nên nhất thời khai ngộ, chứng đắc quả Phật, vì sao hiện có chúng sinh chưa ngộ ư! Nếu trước ngộ đã đồng một pháp tánh, vì nhân duyên gì mà đưa đến trước sdau đều mê ư! Đáp: Cụ đức viên thường chánh tánh chân không diệu hữu gặp duyên mà phát, pháp vốn như vậy không nhọc công tạo tác. Lại mê vọng duyên khởi, như người chợt ngủ, lửa linh ngầm sinh, mắt thấy cuồng giác bỗng khởi, tất cả chúng sinh mê chân như, năng mê bất giác, chân vọng hòa hiệp cả hai không có hai tướng, nhưng Phật tánh chỉ một, mê ngộ tuy đồng, sáu đường bốn sinh gặp duyên huân tập thân sơ khác nhau, căn tánh lợi độn có khác, cho nên giác có trước sau, nhưng không có thật, vì vô minh pháp tánh là một, nên căn tánh đều đồng. Phải biết tất cả chúng sinh mê không có trước sau, giác có trước sau, thí như giữa đêm nhiều người đồng ngủ, ngủ tuy đồng nhưng không ngại dậy trước dậy sau, khéo hiểu được ví dụ này, thì câu hỏi tự tiêu Câu hỏi 3: Tất cả chúng sinh đã mê bản tánh mình vì sao bỗng nhiên năng khai ngộ ư! Nếu nói nhờ giáo pháp của thiện tri thức duyên huân mà được khai ngộ, chỉ như một Đức Phật ban đầu, lại từ người nào mà đắc pháp, tin hiểu khai ngộ ư! Đáp: Chúng sinh được ngộ, duyên huân khác nhau, hoặc có người không nhờ thầy mà tự ngộ, nương bản trí tự nhiên mà chứng, bởi do gốc vẫn linh thiêng sáng suốt có thể tự suy tìm lý mà được hiểu ngộ. Cho nên Tổ sư nói: Trong thể vắng lặng, trí vô sự tự nhiên năng trí, đã biết tự tánh thì liền thành Phật. Sau khi một người thành Phật lần lần nói pháp giáo hóa chúng sinh mê lầm, chúng sinh vâng giữ giáo pháp tu hành vì vậy nên theo thứ lớp thành Phật. Tại sao nghi ban đầu một Đức Phật không từ đâu mà khai ngộ ư! Câu hỏi 4: Kính nghe trong quả của các Đức Phật, hễ pháp sở chứng tất cả chúng sinh đều có đầy đủ, nay lại y cứ vào loài người để nói về trong nhân, làm sao phân biệt được dụng cơ của ba minh, tám giải, sáu thông, cho đến lỗ chân lông nuốt cả nước biển lớn, hạt cải thâu nạp núi Tu-di… ư! Nếu nói đến quả Phật mới đắc thì nghóa vốn có làm sao trình bày? Đáp: Các Đức Phật, chúng sinh duyên khởi tuy khác nhau nhưng biển giác vốn đồng, cả Đức Phật ngộ lý tánh tướng không chướng ngại, chúng sinh mê vọng sự lý cách xa nhau, cho nên Kim Bài chép: Chúng sinh có sứ lý trong mê, các Đức Phật có đủ sự lý trong ngộ, mê ngộ tuy khác nhưng sự lý thể đồng nhất, một Đức Phật thành đạo cả pháp giới đều là y báo, chánh báo của Đức Phật này chúng sinh tự đối với y báo, chánh báo này mà sinh khổ vui lên xuống, đã tạo lên xuống thì không có kỳ hạn giải thoát, nay sách dạy huân tu khế viên thật lý bắt chước sự tu của Bồ-tát, tu không tạo tác, đồng sở chứng với các Đức Phật, chứng các bổn cụ, cho nên nhất niệm đốn viên tất cả, tất cả đều thuộc về một trần, ba minh tám giải sử dụng hàng ngày không thiếu, năm nhãn sáu thông thảy đều đầy đủ. Cho nên ngài Kinh Khê nói: Phàm thánh như một, sắc hương dứt tịnh. Y báo, chánh báo A-tỳ hoàn toàn ở trong tự tâm của bậc cực thánh, thân cõi Tỳ-lô không hơn một niệm hạ phàm. Chôn lông nuốt nước biển cả, hạt cải thâu nạp núi Tu-di, ấy là đại dụng của ngài Tịnh Danh bất tư nghị giải thoát, vả lại phàm phu tâm một niệm tạo ác còn trùm khắp mười phương ba đời, sao là đại dụng bất tư nghị bất tức bao gồm thâu nạp, nếu không tin tâm phàm phu lý vốn sáng suốt công dụng này thì y báo, chánh báo trong quả của Đức Phật dung thông thảy đều không thành. Câu hỏi 5: Hai pháp chân vọng là đồng hay khác. Nếu nói đồng thì vọng vốn là chân, người xưa không nên nói lầm lẫn trí thế gian là trí Phật, như cho mắt cá làm hạt ngọc sáng. Nếu nói khác thì lìa vọng có chân, người xưa không nên nói bỏ sóng tìm nước, bỏ nhẫn tìm vàng, nếu chân vọng cả hai đều lập lại cả hai không tồn tại làm sao phân chia suy diễn rộng ư! Đáp: Có chân có vọng ấy là đối mê mà nói giác, bặt chân dứt vọng là diệt cái nơm lìa tướng, xác thật tôn chỉ kia của luận, chân là chân của toàn vọng, vọng là vọng của toàn thân, cả hai không có hai thể. Đức Phật là bậc đại thánh nói chân nói vọng là muốn cho người mến chân mà phá bỏ các vọng, khiến cho vọng không sinh khởi được, người đời đối với điều này không hiểu, gượng chấp hiện tiền một niệm vọng tâm đều đã là Phật, chính là bị rơi vào lời nói vọng nhận của người xưa. Nếu lại bỏ vọng niệm này mà tìm chân như riêng thì đồng chỗ tu của Thiên giáo, cũng như bỏ sóng tìm nước, bỏ nhẫn tìm vàng, hai thứ này lầm lỗi còn không bằng, chủ yếu phải bất tức bất ly, vi diệu ở trong đó. Lại có ý hỏi: Vọng và chân là đồng hay khác! Nay đáp: Trong chẳng đồng khác giả lập đồng khác. Chẳng đồng khác, là chân vọng đồng nguồn, buộc thoát không hai, giả lập đồng khác. Chẳng đồng khác, là chân vọng đồng nguồn, buộc thoát không hai, giả lập đồng khác, mê ngộ khác nhau, tình trí có khác, suy xét như đây tự nhiên xa hợp các văn, đừng nhọc công theo luận. Câu hỏi 6: Xét rằng nói vô tình nói pháp, đó gọi là pháp tánh vốn thanh tịnh, nói pháp cho vô tình nghe. Đó là chỉ cỏ cây ngói gạch là vô tình nói pháp. Nếu pháp tánh vốn thanh tịnh là vô tình nói pháp, tánh đây ngang dọc cùng khắp, chúng sinh và Phật bình đẳng, không nên nói thuyết pháp, dù có nói thuyết thì ai là người nghe. Nếu chỉ cỏ cây gạch ngói là vô tình nói pháp thì giáo tướng làm sao phân biệt ư! Đáp: Nói vô tình nói pháp, mục đích là nói về yếu chỉ, khó được ý chỉ, ông hỏi thanh tịnh pháp tánh cỏ cây gạch cỏ cây gạch ngói lập hai pháp, phải biết ngoài pháp tánh ra không riêng có ngói gỗ, ngoài ngói gỗ ra không có pháp tánh riêng, hai chẳng phải hai. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp tánh trùm khắp tất cả mọi nơi, tất cả sông núi và cõi nước, ba đời đều có mặt, không có dư thừa, không có hình tướng để đắc, đạo này nếu luận về hữu tướng thì lấp đầy thái hư, bao trùm pháp giới, nếu nói về vô tướng thì một pháp cũng không lưu lại, thấy nghe không trú trước, tự do tự tại, thể bày uy nghiêm. Ngày xưa, Nam Dương Trung Quốc sư đáp học giả dùng tường vách, ngói gạch làm cổ Phật tâm không khác ý chỉ này. Nếu luận về nói pháp thì mạnh mẽ thường nói, xưa nay không xen hở. Trong Hoa Nghiêm thì bụi nói, cõi nói, Phật nói, chúng sinh nói, ba đời tất cả đều nói. Nếu luận về nghe thì mười phương đều nói, mười phương đều nghe ba đời đều nói, ba đời đều nghe. Người xưa nói: Hư không hỏi muôn tượng, muôn tượng đáp hư không thì ai đích thân được nghe, mộc xoa rõ giác đồng. Lại nói rằng: Khí chân thật nói pháp thì âm thanh không hiện, chánh trực uy nghiêm ẩn mất thân chốn; người học lại hỏi quốc sư: Vô tình nói pháp ai là người được nghe? Sư đáp: Các Đức Phật được nghe. Hỏi: Chúng sinh vô phần sao! Đáp: Ta vì chúng sinh mà nói. Hỏi: Tôi đui điếc không nghe, sư lẽ ra được nghe! Sư nói: Ta cũng không nghe. Hỏi: Sư đã không nghe làm sao biết vô tình nói pháp. Sư nói: Nếu ta được nghe tức đồng với các Đức Phật, ông tức không nghe pháp ta nói. Hỏi: Chúng sinh rốt ráo được nghe không? Sư đáp: Chúng sinh nếu nghe tức chẳng phải chúng sinh, Quốc sư đáp có lý sâu xa, hành thức giả nên suy tư để biết. Câu hỏi 7: Thế gian hữu tình biến thành vô tình như người đá, cóc đá, cua đá… Vô tình biến thành hữu tình như lúa đại mạch, cỏ mục nát hóa thành bướm bay đom đóm… các loài chúng sinh này do nhân duyên gì mà biến đổi ư! Đáp: Chỉ có một Như Lai tạng tánh, chúng sinh tùy theo nghiệp phát hiện khác nhau cho nên núi sông đất đai kiến lập, thai noãn thấp hóa thành hình, như kinh Phật Đảnh nói: Tánh biển giác vắng lặng, vắng lặng vốn nguyên diệu vốn sáng, chiều thì sinh sở, sở lập thì tánh chiếu mất, mê vọng có hư không, nương hư không lập thế giới, tưởng lắng thành cõi nước, tri giác là chúng sinh. Lại vô tình hóa hữu tình, là thần thức nương thời mà đến, nương cỏ nhờ cây. Hữu tình hóa thành vô tình, là thần thức gặp khí hơi nên chuyển biến, nên biết ngàn biến không lìa một niệm, muôn hóa khó trốn khỏi tạng thức, thế gian lại có chuột lửa, trùng nước sôi, tằm băng, chim đá, tình khí khó lường, nghiệp báo làm sao đo lường, Phật và chúng sinh đều bất tư nghì đối với sự hiểu biết này. Câu hỏi 8: Thế gian có người, thân này chưa chết đã sinh đến chỗ kia, như viện chủ họ Vương v.v… đây là do nhân duyên gì! Nếu nói chúng sinh nghiệp dụng tự tại thì tất cả chúng sinh đều có nghiệp dụng, vì sao theo lệ không có việc này ư! Đáp: Tông Thiên thai nương ba thứ diệu pháp của Nam Nhạc: 1/ Pháp chúng sinh; 2/ Phật pháp; 3/ Tâm pháp. Ba thứ pháp mầu này không thể dùng mắt trâu dê mà thấy được, cũng không thể dùng mắt phàm tình trí thế gian so sánh mà biết được, chỉ có mắt trí của Như Lai mới so sánh đo lường được, bởi do thể tánh bất tư nghị mỗi mỗi cao rộng, Hoa Nghiêm có chép: Phật cũng như tâm vậy, chúng sinh cũng như Phật, tâm Phật và chúng sinh, ba thứ không khác nhau, cho nên có thể đối một thân hóa thành trăm ngàn ức thân, đối một pháp giảng nói vô lượng các pháp, sáu căn ba nghiệp, đại dụng pháp giới không có cùng tận, chỗ chúng sinh mê tuy không thể như vậy, không do tánh đức vốn đầy đủ thể dụng này, chỉ nơi thân nghiệp báo cũng có chút phần biến hiện, như vua Thuấn phân thân để ứng thuận hai Vương phi, cô gái xinh đẹp lìa bồn mà hợp thành một chất, trình bày khiến đêm ngủ, thức hóa thành cá, cho đến có hai người còn kê đầu trên gối, hai hồn đều chịu tai ương địa ngục, các việc như vậy không thể nêu hết, đều là những việc nghiệp báo khó suy nghó bàn luận trong cõi chúng sinh phải biết không chỉ riêng mình viện chủ họ Vương mà thôi, sao lại khổ nhọc dựng lên nghi nạn này ư! Câu hỏi 9: Hữu tình, vô tình đã đồng một chân tánh vì sao chặt đốn cây gỗ, không bị oán đối, không khiến người đọa vào địa ngục, vừa tổn hoại hữu tình liền bị oán đối, khiến người đọa khổ chịu báo là vì sao ư! Lại nữa, y báo, chánh báo đồng một pháp tánh vì sao hữu tình có giác biết, còn vô tình không có giác tri? Đáp: Pháp giới thể tánh lìa các vọng niệm, tướng đồng hư không, không chỗ nào mà không trùm khắp, trùm khắp y báo chánh báo, khắp căn khắp trần, cho đến một hạt bụi nhỏ đều là khắp toàn thể pháp giới, than ôi chúng sinh, gông cùm thể này, vọng là tình khí, tình là bốn sinh, sáu đường thủy lục không hành, khí thì núi cao sông ngòi, cây cỏ lùm rừng. Ở trong phần tình vọng chấp ngã nhân, tri kiến, cho nên không có lỗi lầm nghiệp lụy đền bồi. Những sự khác nhau như vậy đều là cảnh giới luống dối, phân biệt của chúng sinh, xét luận về pháp giới thể tánh có gì khác nhau, cho nên ngài Kinh Khê nói: Dù cho tạo ra y báo, chánh báo nhưng lý không bao giờ khác dấu vết, là nói điều đó. Câu hỏi 10: Tất cả chúng sinh đã đồng một giác tánh, cớ sao đánh đập người khác không biết đau khổ, lại vui sướng, mỗi người không biết nhau tại sao biện luận là giác tánh bình đẳng? Đáp: Thanh tịnh bổn nhiên, không có một pháp, mới đúng với tình, huống chi nói sự đánh đập đau khổ, như một nguồn nước từ dòng nhánh riêng, đục trong động tịnh biển mặn sông lạt, cho nên đối với ngã nhân cạnh tranh sinh khởi, ưa ác hưng thịnh, lấy mạnh hiếp yếu, công kích không dừng, nay ông dù hỏi chính là việc cân lường trong sự mê vọng, chỉ có bỏ vọng về chân, bỏ trần hiệp giác thì hiểu rõ tất cả chúng sinh mười phương ba đời đồng một pháp thân, một thân trí tuệ năng lực vô úy cũng giống như vậy, khi giác tánh đến đây thì nhất chứng bình đẳng, không còn có kia sắc tướng đây, lần lượt thay đổi, sao lại luận sự đánh đạp thắng thua của thế gian ư! <詞>LẠI ĐÁP BA CÂU HỎI CỦA THIỀN SƯ THÁI Thiền sư Thái của Thiền tông hỏi Pháp sư Tứ Minh đáp. Thanh Thái không về sự thấp kém ngu muội nên có mười điều thắc mắc cầu mong sự chỉ dạy ban ân đáp lại những điều nghi này, ba phen đáp lại cảm động vui sướng như được vật báu, như mặt trời, mặt trăng chiếu sáng cùng khắp, người không hiểu biết tự mình lầm lỗi, đó còn ba chỗ chưa hiểu, không tránh khỏi lại một lần nữa bộc lộ sự vụng về, quả thật mong một lần nữa được chỉ dạy, trong lòng vô cùng cảm kích được sự may mắn (Thanh Thái) thượng bạch Diên Khánh giáo chủ Pháp Trí Đại pháp sư. Câu hỏi 1: Trong phần đáp thứ nhất nói: Bỗng nhiên bất giác, mê lý mà sinh vô minh, chỉ như bất giác nương vào đâu mà sinh, lấy gì làm thể, do nhân duyên gì mà bỗng nhiên sinh ư! Đáp: Nguồn tạng tánh sâu xa chẳng chân chẳng vọng, tánh này tùy duyên mà chân mà vọng, cho nên luận Phật tánh chép: Riêng chân không sinh, riêng vọng khó thành, chân vọng hòa hợp với sở hữu, cho nên giáo môn dạy chân có nghóa tùy duyên bất biến, vọng có công năng thể không thành sự, bởi do nguồn vô trụ, tùy vọng mà sinh, gượng giác đã mê bỗng nhiên mà khởi, nhưng đây nói khởi vọng lại nên hiểu biết ý kia. Nếu nói chúng sinh tánh bản giác tròn sáng đây là chỉ thẳng vô thỉ vô minh mà thành pháp tánh, do vô minh và pháp tánh là một thể. Nếu nói bỗng nhiên bất giác mà sinh vô minh, đây là y cứ vào tu để nói, đối tánh luận khởi, từ thể bản giác mà có bất giác, không như vậy thì không thể là người hiển bày tiến tu ở đây lại trở về đạo hoàn nguyên, hễ là các kinh luận thì phần nhiều nói từ chân khởi vọng, kỳ thật tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chỉ có mê vọng bất giác mà thôi! Cho nên luận Khởi Tín chép: Tất cả chúng sinh không gọi là giác, do từ xưa đến nay không hề lìa niệm nên nói vô thỉ vô minh. Ông hỏi bất giác do đâu mà sinh, nếu hiểu ý trên thì không cần hỏi như vậy, như trong kinh Thủ- lăng-nghiêm ngài Mãn Nguyện Tử (Phú-lâu-na) thường nghi việc này, Đức Phật lại trách rằng: Đã gọi là vọng thì làm sao có nhân. Lại kinh Viên Giác Kim Cương Tạng cũng nên thắc mắc này, Phật bác bỏ là hỏi chẳng đúng, quán kỹ hai nơi, ý Phật thật không muốn khởi lên thắc mắc này, vì vọng của chúng sinh từ vô thỉ đã có. Câu hỏi 2: Trong đệ nhị rằng: Tất cả chúng sinh mê không trước sau, giác có trước sau, thì như giữa đêm nhiều người cùng ngủ, khi ngủ tuy là cùng mà khi dậy thì có trước sau. Nếu dần dần giác ngộ thành Phật như thế thì lẽ ra thế giới chúng sinh có kỳ hạn cùng tận, nếu vậy trong kinh luận vì sao đều nói chúng sinh là vô biên? Đáp: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ che lấp chân tánh hòa hiệp mà sinh khởi các tướng, tuy nguồn chân không hai mà nơi chiếu có khác nhau như đạo đức xưa loài hàm sinh tùy nghiệp hiện ba cõi khác nhau vì thân, như bọt nước nương vào nước mà khởi, nương không ngại chìm nổi, người mê tuy không hai mà huân phát có hiền có ngu (Thánh, phàm), trước hỏi chúng sinh thành Phật nên thế giới chúng sinh cùng tận, như nước kia nổi bọt, bọt nước tùy trước sau diệt, nhưng không thể nói nước theo. Cho nên kinh Phật Tạng chép: Trong một ngày có trăm ngàn muôn ức chúng sinh cùng một lúc thành Phật, cõi chúng sinh không bớt, cõi Phật cũng không thêm, vì sao? Vì Như Lai tạng vô tận. Lại Đại sư Trường Sa khen ngợi Nam Tuyền rằng: Nam Tuyền uy nghiêm, nguồn gốc ba đời, kim cương thường trụ, vô tận mười phương. Phải khéo tư duy, cẩn thận chớ đối với trong cảnh giới khó nghó bàn của chúng sinh mà khởi kiến chấp đoạn diệt. Câu hỏi 3: Trong lời đáp câu thứ sáu về vô tình nói pháp rằng: Mười phương đều nói, mười phương đều nghe, mười phương đều giảng, mười phương đều nghe. Đã đều nói lại vì sao đều nghe? Đã đều giảng vì sao đều nghe, huống gì các bậc thánh lại vì sao nghu ư! Đáp: Ông nghi đều nói, đều nghe đều giảng, đều nghe, phải biết mỗi cõi, mỗi hạt bụi đều nói đều nghe nói nghe đồng thời, rõ ràng không khác, nhiệm mầu thay cảnh này, không thể dùng lời nói mong cầu, không thể dùng phàm tính so sánh, đó là đại tổng tướng pháp môn, tịch mà thường chiếu, cảnh pháp thân sâu xa tụ nhiên. Cho nên ngài Kinh Khê nói: Nguyện ngày giải thoát, y báo chánh báo thường giảng kinh mầu, một cõi một hạt bụi đều lợi ích muôn vật. Lại hỏi các thánh tại sao dụng nghe, đã nói pháp thân sâu xa tự nhiên tất cả đều nói, sao không thể tất cả đều nghe, như vậy thì lời nói không quan hệ đến lưỡi. Ngàn thánh đều nghe, chiếu cho nên thường nói, ngăn cho nên thường nghe, chúng sinh vừa nghe thì đồng với các Đức Phật, trước Phật sau Phật, chỉ là một đường, nếu lại lập riêng đường đi, thì chẳng phải Thánh ở Tây phương, hướng đến một con đường Niết-bàn. <詞>THIỀN SƯ THIÊN ĐỒNG NGƯNG DÂNG THƯ CHO PHÁP SƯ TỨ MINH LẦN THỨ NHẤT Ngày 18 tháng giêng trụ trì Cảnh Đức thiền Tự ở núi Thiên đồng truyền pháp cho bí sô Tử Ngưng. Kính cẩn tắm gội xông hương quyết định viết thư dâng Diên Khánh đường Thượng giáo chủ Pháp Trí Đại sư (giả của Tử Ngưng): Thường nghe người trí lo ngàn điều thì hoặc có một điều lỗi, kẻ ngu lo ngàn điều chỉ được một điều, đây thường là cách ngôn của bậc hiền triết, chẳng phải do thuyết của phàm phu, Tử Ngưng ngu muội không thấu hiểu ý chỉ của người xưa, liền nói lời ngu muội, mong làm phiền Ngài chỉ dạy cho nghe điều hay phải để được thông suốt, giải bày chút sự ngông cuồng, bởi vì lúc rảnh rỗi kính cẩn xem xét giải thích yếu chỉ của Thập bất nhị môn, nghóa vô cùng cao siêu chẳng sơ sót, có thể bước lên được, biển giảo mênh mông làm sao Sư nghe hiểu rộng có thể cùng tận được! Thật đáng trân trọng, bên trong có chứng dẫn. Môn hạ của Đạt-ma, ba người đắc pháp có cạn sâu, Ni Tổng Trì nói: Dứt phiền não chứng Bồ-đề. Sư nói: Được phần da của ta. Đạo Dục nói: Mê tức phiền não, ngộ tức Bồ-đề. Sư nói: Đượcphận thịt của ta. Tuệ Khả nói: Vốn không phiền não, vốn là Bồ-đề. Sư nói: Được phần tủy của ta. Chỉ là truyền văn cho nên không thật chứng, chưa biết lời nói đây đắc từ người nào, tất cả khai vật chỉ mê phải y cứ vào văn để hiển rõ, đâu thể dùng đường nghe đường nói mà cho là chánh giải. Kinh Lễ chép: Lời ghi nhớ không đáng làm thầy người, đây cũng lo không xét những lời vô căn cứ để làm chánh thuyết, đâu có thể chỉ nai cho là ngựa, sự loại càng cao khiến dân run sợ rõ ràng đồng với tể ngã, nay căn cứ Tổ đường và Truyền Đăng Lục chỉ nói: Hai vị Tổ lễ ba lạy nương bổn vị mà đứng, chưa thuận theo tông kia thì làm sao hiểu. Nay hoặc có sư nói: Đạo của Đạt-ma chỉ dắt dẫn hạ căn, chưa chung cho bậc thượng trí. Lại nói: Ngộ lý tức tâm, mê pháp ở ngoài tâm, đây đều là dùng ống nhìn trời, bệnh do không hiểu biết, không có sự khuyên răn, đeo mang danh tướng, đối với câu lời chẳng lễ giáo không thể làm tâm sáng tỏ, còn thuốc chẳng thể chữa bệnh ư! Bởi chữa trị lâu dài càng tăng thêm bệnh nhiều, lời nói làm mê hoặc tánh, do đó Tổ sư từ Tây Vực đến chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, cũng là một con đường phương tiện mà thôi! Có người còn nói: Chỉ cho tức tâm, chưa nhập Phật tuệ, như kinh Bát-nhã nói chín loại chúng sinh đều trụ Niết-bàn vô vi, kinh Hoa Nghiêm nói một niệm thấy khắp vô lượng kiếp, chưa biết ở đây nói cùng với đạo Tổ sư là đồng hay khác ư! Than ôi kẻ tiểu trí tự khinh rẻ người quí ta, thấu hiểu người quán xét rõ là điều không thể không thể, ngày xưa các bậc hiền nhân nói tín ngũ đế tùy theo mà hòa thuận cả ngăn người. Vì ngoài biển từng có thay hôi thối, đâu phải đạo điền ba có thể thắng đạo tam hoàng ngũ đế. Giáo chủ Đại sư lâu ngày chứa nhóm tịnh hạnh làm giềng mối giáo hóa cùng khắp, trước không có người xưa sau không thể nối tiếp tự sẽ nương kinh giải nghóa thừa kế phong cách chân chánh của người trí, đâu cần chọn lời nói quê kịch thô bỉ chỉ bày dắt dẫn! Mong tước đoạt truyền nghe (người naỳ nghe truyền lại cho người khác) tự giữ gìn bổn giáo không để đắm vào danh tướng mà bắt chước, rất may mắn không tuyên truyền. Trụ trì Cảnh Đức Thiền Tự núi Thiên đồng truyền pháp Tỳ-kheo Tử Ngưng cúi đầu sát đất tác bạch. <詞>PHÁP SƯ TỨ MINH TRẢ LỜI THIỀN SƯ THIÊN ĐỒNG NGƯNG LẦN THỨ NHẤT Ngày 24 tháng giêng, trú trì viện Diên Khánh truyền Thiên thai giáo quán Tỳ-kheo Cảnh Đức đường đầu Thiền sư (thị giả). Ngày 18 tháng nay tăng sai mang đến một phong thư, văn lý cao siêu dồi dào làm người đọc quên sự mỏi mệt càng thêm yêu quí, chỉ vì sám hối nghiệp đời trước, hoàn toàn ít hiểu về văn học, vả lại lo toan tụng biếu và đáp lại dự liệu, có tâm hỗ thẹn, nhưng xét về văn từ chải chuốt thâu nhiếp đầy đủ ý chỉ thanh nhã, bởi vì (thi lễ) đã sớm hiểu rõ bổn tôn mười môn bất nhị liền trình bày rõ chỉ yếu biên soạn văn ghi chép công việc, tạm nhờ học chúng tìm tòi nghiên cứu, nghóa thô cạn lời sơ sài, cúi mong Tông sư giúp đỡ xem xét lại chỉ dẫn trong đó. Ba vị học trò của Đạt- ma đắc pháp sâu cạn khác nhau. Ni Tổng Trì nói: dứt phiền não chứng Bồ-đề. Sư nói: Được phần da của ta. Đạo Dục nói: Mê tức phiền não, ngộ tức Bồ-đề. Sư nói: Được phần thịt của ta. Tuệ Khả nói: Vốn không phiền não, vốn là Bồ-đề. Sư nói: Được phần tủy của ta. Lại sách nói: Lời nói này không khế hợp với Tổ đường và Truyền Đăng Lục, cho là lời nói của người đi đường quê mùa thấp hèn nói không đáng tin cậy, mà không biết lời này rút ra từ trong tập sau của ngài Khuê Phong. Tướng quốc Bùi Hưu hỏi Thiền sư nguồn gốc tông đồ sâu cạn! Thiền sư Tông Mật nhân đó đáp lời giải thích trình bày rộng về các tông, thẳng dựa truyện nêu ra nguồn đồng phái khác. Thủ nói: Đạt-ma nêu thẳng Tuệ Khả, bên cạnh truyền Đạo Dục và Ni Tổng Trì, mới nêu ra kiến giải sâu cạn của ba vị cho nên có lời này, tập sau này ấn bản thấy còn truyền bá lưu hành khắp Nam Bắc không dừng, điểm gặp gỡ nhân trao truyền là được nghe, huống chi có Thiền sư Khuê Phong đời Đường để Đế vương hỏi đạo, Tướng quốc đích thân gánh vác, hòa hợp các tông, tập thành thiền tạng, soạn Thiền Nguyên Đô Tập Tự hai quyển được đời sau quí trọng, sao luận đàm về sự quê hèn, đâu phải lời nói của kẻ đi đường vô giá trị, đây chính là thiền môn tự sinh mâu thuẫn, cố nhiên chẳng giảng giải, dám quở trách đây, chỉ như Tổ đường cũng là thầy người, thâu góp lại mà ghi chép, ai đúng ai sai nói sao cho dễ dàng. Xét rằng pháp vốn vô thuyết,, thuyết phải phù hợp căn cơ, căn cơ phát sinh tại duyên, duyên có khách và chủ, cho nên các bậc thánh kiềm chế kia, tán dương kia, phải một trái nhiều, Bổ xứ Dật-đa còn chịu khuất phục Duy- ma-cật, Thượng Thủ Thi-lợi cam chịu khuất phục Am-đề-già, đâu phải Bổ xứ thâu nạp ngôn ngữ, Thượng Thủ am hiểu lý, vì biết duyên không tại nơi mình, do đó công nhường cho người, nhẫn đến trong thời chánh pháp, tượng pháp, tông chủ Trung Hoa, Thiên trúc không còn phá nữa, tánh tướng sai trái, người tu thiền thường bài bác tìm kiếm văn, người truyền giáo hoặc chê bai ám chứng, đều vì tiến lên đối với người sơ học muốn cho họ hiểu sâu về tông mình. Trí Luận lập Tất-đàn phù hợp căn cơ, thiền kinh dùng bốn tùy làm lợi ích chúng sinh, thiết lập pháp giáo hóa đại khái phù hợp, chỉ dùng giả danh dẫn dắt khiến nhập thật, không được ý kia, đâu tránh khỏi sinh nghi. Sách gửi đến lại nói: Nay hoặc có sư nói: Đạo của Đạt-ma chỉ dắt dẫn hạng hạ căn, chưa chung cho bậc thượng trí. Lại nói: Ngộ lý tức tâm, mê thì pháp ngoài tâm, chưa xét kỹ lời nói này làm sao văn chuyên chở, đích thân nghe từ nơi nào, không tìm tiếng ở ngõ hẻm mà lời nói xúi giục, vu khống, đường nghe đường nói, việc có chỗ nương (qui về). Hơn nữa xét về pháp tín hạnh, pháp hạnh, mỗi pháp có lợi căn độn căn, duy sắc duy tâm đâu có phân chia nội pháp ngoại pháp, sát-na trải qua chín đời, một niệm đến Tam thiên, lý sự đều dung thông, luôn làm sáng tỏ yếu chỉ, đã được đoái hoài hợp với nguồn gốc, mong giữ gìn tâm vì pháp rộng mở đao lợi người, khiến họ tin pháp căn tánh tùy theo nói năng hay im lặng mà khai giải rõ ràng, không khiến con cháu của Đạt-ma riêng có thể phá lập, người trí truyền thừa tông phái hoàn toàn phế bỏ sự khen chê thì chúng đương cơ kia có con đường hướng đến chân thật, khiến cho tông này người học sau không có cửa vào lý, Thiền sư ngộ suốt nhất tâm, phân giải siêu vượt ngàn xưa, làm đệ tử Phật tổ, làm thầy dẫn dắt cõi trời người hy vọng mở rộng lòng cứu giúp, chớ thiên chấp tình riêng, lúc giảng giải sám hối vội kính vâng báo đáp may mắn không dùng lời quê mùa thật thà mà bị quở trách, không giảng nói. Trú trì viện Diên Khánh truyền Thiên thai giáo quán Tỳ-kheo Tri Lễ chấp tay đáp lời. <詞>THIÊN ĐỒNG LẠI GỬI THƯ CHO TỨ MINH LẦN THỨ HAI Ngày 28 tháng giêng trú trì ở Thiên Đồng Cảnh Đức thiền tự Tỳ- kheo truyền pháp là Tử Ngưng lại lần nữa trả lời thư phụng bạch giáo chủ Diên Khánh Pháp trí Đại sư (Tử Ngưng) nghe, luận rằng ý cạn thấp thì ngôn ngữ sơ sài, tư duy sâu sắc thì ngôn ngữ thận trọng. Trước hết hiến dâng lời nói, lại muốn Đại sư trước bỏ truyền văn tự phò giúp bổn giáo, lại chỉ bày trích dẫn nguồn gốc luống biết xuất xứ từ ngài Khuê Phong, hỏi nhờ tướng quốc phần rõ sự khác nhau của ba tông, chưa hiểu tận sở trường, rất không biết rõ hiểu biết tông đồ Tổ sư xưa ghi chép, y theo kia nói rộng, đâu có hẹp thông hiểu. Thuyền Nguyên Thuyên kia chép: Tổ Đạt-ma chín năm xoay mặt vào vách, bởi vì bặt dứt duyên do đó Tổ sư độc đoán nói rằng biết một chữ là cửa của các điều nhiệm mầu, nay Đạt-ma truyền chỉ có linh tri (tinh thần sáng suốt) mà thôi, còn như đối với sự suy tìm sâu xa, Hà Trạch coi thường Ngưu Đầu lời nói mâu thuẫn dương dương tự đắc đối với bên ngoài. Đã nói là từng gặp điểm trao, hợp đủ thư hoàng, đâu khác gì chọn lời quê mùa, giúp môi miệng giải thích, hơn nữa xét về nhị Tổ sư đắc pháp của Đạt-ma cũng còn là người có trí của Tứ Đại. Làm phép tắc cho người, sáng suốt ngàn xưa, nếu ngôn giáo của người trí mà thành sai thì con cháu Đạt- ma cũng lầm, há cho ngậm miệng im lặng, cần phải bàn luận theo thầy truyền dạy, sai thì báng nhân báng duyên là không, vời lấy sự suy bại, phải thì chính người chính mình kính tin điều hòa, đâu phải nói Tướng quốc tự thân thừa lệnh đế vương hỏi đạo. Bắc Tông Thần Tú Đế Quốc sư nương nhờ thế lực, cậy ỷ quyền hành, gió kia tự ngừng. Sách lại nói: Bổ xứ Dật-đa còn chịu khuất phục Duy-ma-cật, Thượng Thủ Thi-lợi cam chịu phụ thuộc Am-đề-già, vì biết duyên không tại mình, do đó công lao nhường cho người khác, nếu như vậy thì tuy hiểu biết khen chê thật tế không cùng tận. Nếu nói công lao nhường người thì chưa dụ được sự nhún nhường chứa trong lòng. Lại nói: Nghiệp thiền thường bác bỏ việc tìm tòi văn, người truyền giáo hoặc mấy người khác ngầm chứng, khến cho căn tánh tin pháp tuy nói rằng im lặng đều thông suốt rõ ràng, không khiến con cháu Đạt-ma có thể phá lập riêng, tông phái của người trí hoàn toàn phế bỏ sự khen chê, suy tư kỹ điều này thì ai có lỗi ư! Gượng nói phá lập, do có lỗi với người, sao không nói một niệm tam thiên, sát-na chín đời. Ý của Thiền giáo, lý nào không chứa? Kinh Tư Ích chép: Nói pháp có hai thứ: Hoặc nói pháp như bậc thánh, hoặc im lặng như bậc thánh, đâu cần có bói năng, đắm trong ngôn ngữ, không nói thì trái với ý chỉ thật thì không hai, chẳng thiên chấp tình, người xưa cắt tại hại thân, kéo ruột chặt tay là có nguyên do, không như thế thì thừa lòng dũng cảm, cậy chết không trở lại, người ở núi rừng thường một lần trải qua tâm như mang vác gai nhọn, mong Đại sư của ta ra sức giúp đỡ vận mệnh đời tượng pháp, quán sát kỹ nguồn gốc, không để cho chánh pháp bị khinh rẽ, nhân tình (lòng người) tốt đẹp thuận hòa, chỉ tôn kính khuôn mẫu cao quý, chân hưng phong tục thuần hậu, biết việc sám hối không được luống qua ngày, lại tỏ vẻ giữ gìn khiêm tốn, chuyên dò ngóng quở trách, không nói hết. Trú trì Cảnh Đức thiền tự núi Thiên đồng truyền pháp Tỳ-kheo Tử Ngưng cúi đầu bạch lên. <詞>TỨ MINH LẠI TRẢ LỜI CHO THIÊN ĐỒNG LẦN THỨ HAI Ngày mồng 7 tháng hai trú trì viện Diên Khánh truyền Thiên thai giáo quán Tỳ-kheo (tri lễ) lại trả lời thư của Thiên Đồng Đường Thượng Đại thiền sư (trượng thất), so sánh tiếp tục sự im lặng, dung nhau tỏ rõ ý sâu sắc. Thư trước nói: Chỉ cốt yếu dẫn dắt ba người đắc pháp, hoàn toàn không y cứ vào. Đây là đường nghe đường nói, lựa chọn luận đàm những lời quê mùa thô bỉ, do vì không hiểu văn đây rút ra từ tập sau của ngài Khuê Phong, chỉ do tự thấy hiểu chẳng phải người kia nói, cho nên dùng thơ dài trách không thật chứng, nay biết chỗ xuất xứ, ngậm miệng thẹn với lòng ít được nghe, lại sao từ chối bài bác điều mà ngài Khuê Phong dẫn chứng ư! Than ôi! Lồi không sửa chữa lại càng thêm lỗi lầm. Hơn nữa như chỉ yếu trích dẫn, chẳng phải không có lý do, bởi người trí lập Pháp Hoa bặt sự đối đãi, thập diệu chỉ quán, viên đốn thập thừa, lấy hai câu phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn mà làm phương thức cương yếu, thật chẳng phải hai pháp hợp nhau gọi là Tức, cho nên không thể dùng sự độc đoán chứng minh, cũng chẳng phải một pháp chuyển đổi gọi là tức, cho nên không thể dùng sự mê ngộ để chỉ bày, phiền não chẳng nhất định, vốn không, Bồ-đề chẳng nhất định vốn có, cho nên dụng phiền não tức Bồ-đề… bặt dứt ngôn ngữ, vắng lặng suy nghó, khiến cho diệu giải viên minh, diệu hạnh âm thầm khế hợp, chân lý vi diệu lập tức hiển bày, sao dùng giáo pháp tông Thiên thai lăng trì trong đó ư! Khuê Phong hậu tập lưu hành đến đời Ngô, học trò giảng giải phần nhiều chuộng về tông mình, đều nói: Đạt-ma ấn chứng cho Nhị Tổ: Vốn không phiền não, vốn là Bồ-đề mới gọi là được phần tủy. Người trí nói đã đồng với kiến giải của Đao Dục, mới thành được lời nói đắc phần thịt, lời nói khiêm tốn nối tiếp tông Thiên thai, không còn bị xót xa đau đớn, huống chi nghe điểm trao truyền, thấy tạng về phần thô, liền đối với yếu chỉ trong văn xưng tán làm sao tiện cho việc khen tặng mà thả lỏng có chỗ chê bai. Hơn nữa, luận về phân tông thọ pháp, truyền trao dẫn dắt người, người y cứ vào ngài Khuê Phong nạn vấn đối với bổn giáo, đâu không y giáo mà trở lại phá, đây đều là phò giúp cho bổn tôn khuyến mới học mau chứng ngộ, kia đây đâu có tồn tại, trước có chỗ nói thiết lập pháp giáo hóa đại thể là phù hợp, tất-đàn hợ căn cơ, bốn tùy là lợi ích chúng sinh, không đắc ý kia thì lòng tin có sự nghi ngờ, kịp quán tâm tổn hại thân, chặt cánh tay, như phụ thêm lời châm chích, năm trăm năm sau có thể có được bao nhiêu người tự xét mình phò trợ tông, đã có thể như đây thì đối với người hộ pháp khác đâu được ngăn cản, may mắn giúp đỡ Thiền sư hiểu rộng bổn tông, khéo khen ngợi đạo tổ, không được ngăn cản người khác, giải thích nạn vấn liền thành, công phu thiết lập giáo hóa của ta, mong nhờ nguyện vọng báo đáp âm thầm, đâu thể im lặng không tuyên diễn. Trú trì viện Diên Khánh truyền Thiên thai giáo quán Tỳ-kheo Tri lễ cúi đầu lại bạch. <詞>THIÊN ĐỒNG LẠI GỬI THƯ CHO TỨ MINH LẦN THỨ BA Ngày 24 tháng 2 trú trì Cảnh Đức thiền tự núi Thiên đồng, truyền pháp Tỳ-kheo Tử Ngưng cẩn trọng gởi thư cho Diên Khánh đường Thượng giáo chủ Pháp Trí Đại sư: Dưới tòa Tử Ngưng trộm nghe: Trong số người giết chóc bảo vệ giữ gìn ắt có người khác biệt, trong sự giải hòa ăn năn sám hối làm sao không thông hiểu, đâu cần phải nhọc công qua lại bày tỏ từ đầu đến cuối mà Đại sư chỉ cốt yếu chạm văn khắc nghóa, chỉ nói là truyền nhau, ba vị học trò của Đạt-ma đắc pháp có cạn sâu (ngu tôi) đã bàn luận, đâu thể trách ngài Khuê Phong để tìm tình thật, nghóa là nghe đồn phong phanh mà có thể cho là truyền nhau, quả thật có thư sau chỉ là y cứ việc nhỏ mọn mà vọng sinh xuyên tạc, hợp với sự hiểu biết không che giấu. Hoặc Đạt-ma trao truyền cho Nhị Tổ, có thuyết vốn không, Đạo Dục, Ni Tổng Trì có nói dứt phiền não thì ngài Khuê Phong nói, mà Đại sư suy nghó đây cũng có thể. Đã vốn không có thuyết này thì so sánh, giũa gọt người nào@đâu thể liền buông thả theo dòng danh tiếng lừng lẫy mà ngăn cấm tiếng vang lại. Trước nói: Thiết lập giáo hóa đại khái phù hợp, đây chưa thể được, tất cả dẫn chứng xưa nay xem xét làm sao thuận theo, tông kia cố chấp đáng bị bác bỏ mới gọi là khen chê bày tỏ nghóa lý. Nếu người hoằng giáo trích dẫn kinh Phật không đúng cũng phải tước đoạt chức vị, được như vậy thì xứng làm người thầy có khả năng làm Giáo chủ, chúng sinh đời sau không thể vượt qua khuôn phép tông chỉ của ngàn xưa. Có chỗ nói học mà không suy nghó, truyền mà không huân tập, đây là điều hổ thẹn, thẹn làm sao nghe được điều tốt đẹp. Thư lại chép: Tông Thiên thai giáo, bờ mé lăng trì, Khuê Phong Tập lưu hành đến đời Ngô. Do ngài Khuê Phong nạn vấn đối với Thiên thai giáo sao không y giáo mà trở lại phá, đó đều là trợ giúp bổn tông, khuyến khích người mới học đó thôi! Thử luận bàn xem, vốn luận về bậc thánh lập giáo khai thị chỗ mê, tình đồng như con chó bằng rơm, trí tuệ hạn chế như bình nước đá, tinh thần phù hợp vời hoài bão thì đạo không gì mà không tồn tại, đâu đồng vối hạng quê hèn có xen lẫn đường lối, thường lo lắng theo thầy học Phật, chưa thể quên nơm lìa tướng. Tôi luận bàn với Đại sư bởi vì Đại sư tồn tại mãi mãi dù cho tín nhiệm ngài Khuê Phong là đúng, cần phải biết nhìn lại, Tổ đường không nói, chưa rơi vào bổn tôn, còn cần phải luyện tập thân thể khổ sở có thể thấu đạt đạo, chứ đâu đồng với ngoại đạo, phi lý nhảy vào lửa, gieo mình xuống sườn núi là thích hợp với các vọc mới không sáng sủa, nương chỉ quán thập thừa, Pháp Hoa thập diệu, Bồ-đề phiền não tin vốn không sai lầm, nói giềng mối cách thức, đâu cho phân tích rắc rối, cái gọi là có lỗi mà không sửa đổi, đây có nơi qui về, không tuyên diễn. Núi Thiên Đồng trú trì Cảnh Đức thiền tự truyền pháp Tỳ-kheo (Tử Ngưng) cúi đầu bạch lên. <詞>PHÁP SƯ THIÊN ĐỒNG VÀ TỨ MINH GỬI THƯ QUA LẠI VÀ LỜI BẠT SAU Tổ Pháp Trí Tôn giả của ta, bắt đầu nhân đời Tiền Đường vâng lệnh Tiên Thanh Sư mà chế tạo ra ngọc, chỉ giải thích mười hai môn bất nhị, gồm ở trong văn nhất niệm làm chân tâm, chia riêng sắc tâm làm tục đế, thay đổi môn sắc tâm, tạo tác cho thể dụng là tạo, nghóa là thể đồng sữa đổi nội môn ngoại môn, tam thiên tức không tức giả tức trung, là tức không tức trung, đổi tất cả hai mươi chữ. Thiền sư Dục thuộc Thiên thai Sư chú giải môn bất nhị, lập duy quán bất tư nghì, tiêu nhất niệm tam thiên, duy sắc duy tâm làm chân đế, Pháp Trí thương xót cứu giúp, bởi vậy chỉ yếu làm nguyên nhân tạo tác. Cho nên bài tựa chép: Hoặc chỉ bày, hoặc chú giải soạn thuật v.v… là ở đây. Thanh Sư lại lập chúng sinh và Phật tam thiên làm sự tạo, tâm pháp tam thiên làm lý tạo, mà không biết ba pháp đều đầy đủ sự lý. Như chỉ yếu phá nói: Y cứ vào sự giải thích của người khác thì tâm pháp là lý, chỉ có luận là đầy đủ năng tạo, chúng sinh và Phật là sự, chỉ có đầy đủ sở tạo, thì nghóa tâm tạo còn thiếu sót, văn không sai lầm mãi sai lầm. Lại lời tựa chép: Sự lý chưa rõ ràng, giải hạnh không nơi nương tựa, đây đều là phá lời của Thanh. Nhưng trong chỉ yếu chính là nói về quán tâm, là đạo đạt vọng, tránh thuyết Sơn Ngoại, quán lỗi của chân, văn dẫn hai câu phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn làm nguồn gốc phát tâm lập hạnh, nhân đây chọn lựa chỉ bảo ba vị đệ tử ngài Đạt-ma đắc đạo sâu cạn, có thể Đại sư nói: Vốn không phiền não, vốn là Bồ-đề. Đạt-ma nói: Được phần tủy của ta, Pháp Trí bình luận rằng, thấy ý của Tuệ Khả buông thả dần dần tiến lên đây nói năng chưa đầy đủ. Thiền sư Ngưng cho rằng điều mà chỉ yếu trích dẫn là sai lầm, thuận theo mà biện rõ mới y cứ theo Tổ đường và Truyền Đăng Lục, đương thời có thể sư chỉ Lễ ba lạy, đứng ngay tại chỗ, không hế có nói vốn không phiền não v.v… Tử Ngưng nâng đỡ cứu giúp như thế hủy báng bác bỏ Pháp Trí rằng là nghe đồn phong phanh chẳng phải là chánh luận, thật không biết, Pháp Trí căn cứ vào hậu tập của ngài Khuê Phong mà chỉ bày, đến đây Tử Ngưng tự phgải làm thinh nghe theo, làm sao sau ghi chép cứng cỏi không thôi, nay lại căn cứ sách kia biện rõ, nếu đem vô ngôn của Tuệ Khả mà đứng y chỗ cũ thì đó là nói lên viên đốn. Lại Thân Tử nói: Ta nghe trong sự giải thoát không có ngôn thuyết. Đại phẩm nói: Nếu có một pháp nào hơn Niết-bàn ta cũng nói như huyễn. Lại có Đồng tử Vô Ngôn Tịnh Danh lấp miệng v.v… Nay hỏi: Các vô ngôn này cùng vô ngôn của Tuệ Khả là đồng hay khác, xin chỉ bày nguyên nhân, thận trọng chớ xem thường. Lại như ngoại đạo A-hàm hỏi Phật! Bất luận là hựu ngôn vô ngôn, Như Lai ngồi tòa, ngoại đạo khen ngợi rằng: “Thế Tôn là đấng Đại từ vẹt đám mây mê hoặc cho chúng tôi”, liền lễ Phật ba lạy rồi lui. Tôn giả A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo đắc pháp gì mà lui! Phật dạy: Như ngựa chạy nhanh do thấy bóng roi quất liền chú ý vào đường chính. Tổ đường dẫn dắt đến viên đốn bậc nhất thì ngộ, Thiên Thai phê phán chia viên đốn này thành Tiểu thừa tam tạng, nếu trông mong viên đốn cũng như trời và đất, cho nên biết không thể vừa mới thấy vô ngôn liền cho rằng chứng chân thật. Đương thời quan Thái thú là Xứ Tứ Minh là Trực các lâm công thấy hai sư tranh luận không dứt, nhân đó thỉnh Pháp Trí đối với chỉ yếu dung hòa, Pháp Trí không thể từ chối liền sửa đổi yếu chỉ của văn cũ chép: Ở đây lại nói về thuyết siêu vượt được phần tủy, thấy ý của sư Tuệ Khả buông thả dần tiến, lời nói này vẫn chưa viên mãn. Hỏi: Nay nói về Viên giáo, đâu không luận dứt hoặc chứng lý và bỏ mê về ngộ ư! Nếu luận thì đâu khác với Tổng Trì, Đạo Dục giải thích, đáp chỉ như ngài Tuệ Khả, đâu không dứt hoặc bỏ mê, há cũng đồng với hai vị trước ư! Cho nên biết hễ chia ra tiệm đốn do đó nên luận về năng dứt, năng bỏ. Chỉ yếu mới sửa đổi rằng: Nhưng lời ông trích dẫn Đạt-ma ấn chứng. Tuệ hả vốn không phiền não, vốn là Bồ-đề… đây chính là ngài Khuê Phong nói khác, khiến cho người đời sau lấy làm cực điểm liền bỏ ba đường chỉ quán chân tâm. Nếu y cứ Tổ đường, tự nói: Nhị tổ lễ ba lạy, đứng y chỗ cũ đâu nói phiền não Bồ-đề một không một có ư! Cho nên không thể dùng dị thuyết của ngài Khuê Phong mà biến đổi luận bàn) huống chi Đạt-ma từ Tây trúc đến trao kinh Lăng-già bốn quyển cho Đại sư Tuệ Khả. Lại nói nhờ giáo mà ngộ tông. Nhân quả nương đây tu hành sẽ tự được ngộ. Kinh Khê từng phê phán Lăng-già nương tựa Thiên thai Biệt giáo, do kinh nói tất cả chúng sinh tự tâm hiện dòng. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi là đốn hay tiệm! Phật đáp là tiệm. Đã nói là tiệm thì đâu được chỉ là đốn ư! Y theo đây thì Pháp Trí xét định tín không vu khống, nay cẩn thận ghi chép đương thời uận chép năm lần, chẳng những giúp cho con cháu đời sau thấy rõ chỉ yếu của hai văn cũ mới, mà còn hiểu nhân biện luận đời trước. Giữa mùa xuân, niên hiệu Hy Ning năm thứ ba, Vónh Gia Pháp Minh viện truyền giáo pháp tông (Kế Trung) kính ghi. <詞>THẢO AM GHI CHÉP THƯ TRẢ LỜI CỦA NGÀI THIÊN ĐỒNG Ở TỨ MINH Pháp Trí học hạnh cao siêu nhiệm mầu, các tác phẩm của Ngài đều lập tông chỉ bác bỏ tà lệch, khai mở nhân tâm, đạt đến chỗ chân thật, trong chỉ yếu sao dẫn hậu tập của ngài Khuê Phong so sánh khai mở điều sâu kín mà Thiền sư Thiên Đồng Ngưng một phen thấy sinh tâm vui mừng chỉ nói những điều trích dẫn kia ít có lầm lẫn, muốn Pháp Trí sửa đổi mà thôi! Ghi ghép chọn đi chọn lại qua lần, cuối cùng đến nỗi có người nói ngàn kẻ só vâng dạ không bằng một kẻ só nói lời ngay thẳng, khiến cho đại pháp lưu thông trăm đời không có tỳ vết. Tôi trước kia địch thân thấy ghi chép trên lụa nét chữ viết rõ như Chung Dao, ngôn ngữ như Hàn Thối Chi thật đáng quí. Có chỗ Pháp Trí lấy đây tạm làm sửa đổi. Lại nghe chỉ yếu đã nêu ra Thiền sư Tuyết Đậu Trọng Hiển đặc biệt xuống núi hiến dâng thức ăn chay, làm lễ chúc mừng, vẫn có treo bảng đãi trà, đủ những việc tốt đẹp, tôi chưa từng thấy việc ấy, chỉ thường thấy Quảng Trí sơ chủ lúc ở pháp tích tại Nam hồ. Hiển Công tuy đã già cũng treo bảng đãi trà tiễn chân người, chỉ nhớ cây gai cao bằng đầu người. Chữ ấy nhỏ xưa, do đây mà biết thời Pháp Trí không luống dối, tại thuở xưa Thiền giáo nhất thể khí vị chuộng nhau mới có như thế. Tông Hiểu tiếp tục trả lời cho Thiên Đồng Tứ Minh chỉ được năm lần. Căn cứ Thảo Am đã nói gồm hai mươi lần chọn, quả thật bị vùi lấp không ít việc ấy nói lên Thiền sư kia treo bảng đãi trà, đồng thời không nghe, hễ ai xem thư này hoặc có người được may mắn thấy thì rất trông mong. <篇> GHI CHÉP VỀ GIÁO VÀ HẠNH CỦA TÔN GIẢ TỨ MINH <卷>QUYỂN 5 Chân Tông Hoàng Đế ban chỉ dụ lưu Tứ Minh trú lại thế gian. Dương Văn Công đáp thư chúc mừng Pháp Trí sống lâu. Đại sư Pháp Trí gởi thư cám ơn Dương Văn Công. Thư Dương Văn Công thỉnh Pháp Trí trụ lại thế gian. Thư Pháp Trí trả lời Dương Văn Công. Thư Dương Văn Công đáp nghóa tạ ơn Pháp Trí. Dương Văn Công ba lần hỏi và Pháp Trí đáp. Thư Dương Văn Công tạ ơn Pháp Trí hỏi đáp. Pháp Trí lại gởi thư cho Dương Văn Công. Dương Văn Công lại gởi thư thỉnh Pháp Trí trụ lại thế gian. Thư Dương Văn Công dâng thư lên Thái Thủ Lý Di Canh, đồng thỉnh Pháp Trí trụ lại thế gian. Thư Dương Văn Công khải bạch sám chủ chùa Thiên Trúc. Lại thỉnh Pháp Trí trú lại thế gian Dương Văn Công lại gởi thư lưu Pháp Trí trụ lại thế gian. Pháp Trí lại đáp thư Dương Văn Công. Thư Pháp Trí tạ ơn Lý Phụ Mã thỉnh trụ lại thế gian Thư Pháp Trí chúc mừng Dương Văn Công được tăng chức Hàn Lâm. Thư Dương Văn Công cám ơn Pháp Trí chúc mừng. Thư Lý Phụ Mã dâng tặng danh hiệu Pháp Trí. Thư Pháp Trí tạ ơn Lý Phụ Mã. Thư qua lại giữa Pháp sư Tuệ Chiếu và Bạt Tiền. Pháp sư Thảo Am ghi chép sự việc qua lại trong thư. Thư Chiêu giảng chủ gởi Pháp sư Tứ Minh. Thư tạ ơn Pháp sư Thánh Quả (Thánh Quả tức Thiên Trúc sám chủ là tên gọi trước kia). Tứ Minh gởi Cự pháp sư mười bức thư. Thư gởi cho Cự pháp sư (mười thư) Thư di chúc để lại cho Bân Xà-lê. Thư gởi Đại Lôi Am Trường (hai thư) Thư Sám chủ chùa Thiên Trúc gởi cho Pháp sư Tứ Minh (hai thư và lời bạt của Thảo Am). Thư gởi Pháp sư Thần Chiếu (và lời bạt của Nguyệt Đường). Thư gởi Pháp sư Diệu Quả (và lời bạt của Nguyệt Đường). Thư gởi ngài Vónh An sơn chủ (ba thư và lời bạt của bốn nhà). Thư Tứ Minh gởi cho môn nhân là Tông pháp sư. ------------------------------- <詞>HOÀNG ĐẾ CHÂN TÔNG BAN CHỈ DỤ LƯU TỨ MINH TRỤ LẠI THẾ GIAN Tứ Minh Giáo chủ lễ công là bậc cao hạnh trong Thích môn, nhóm họp đồ chúng rất đông mà chuyên lấy pháp môn Tịnh độ khuyên mọi người tu tập. Vào niên hiệu Thiên Hy, ban đầu kết nạp mười vị tăng thực hành sám pháp, đủ kỳ hạn ba năm thì thiêu thân, trong số đó có Hàn Dương Đại Niên kính mến Ngài nên viết thứ thỉnh trú lại thế gian thư nói rằng: Ức tôi kính nghe tu sám ngàn ngày, đốt thân bốn đại, kết nạp mười vị tăng tu tịnh hạnh được vãng sinh chín phẩm Lạc bang. Trộm nghó thường thỉ đầy đủ, mong thuận theo tình ý của mọi người, xin trú lại thế gian để làm kỳ hạn, mong truyền trì làm hưng thịnh Phật pháp, lợi ích chúng sinh, nguyện rủ lòng thương hứa khả, ngõ hầu chiêm ngưỡng phong cách. Cuối cùng ngài Tri Lễ không bằng lòng, Đại Niên lại đưa thư kính lễ sư Thiên Trúc cúi mình đến để lưu giữ, thư nói: Hôm qua đến Minh Châu lễ tọa chủ, tâm phát nguyện rộng lớn chuyên tu, sám pháp kỳ hạn ba năm đều hướng về lửa mà thiêu thân, huống chi tăng ở đây truyền trì đại giáo, làm thầy thế gian, dẫn dắt chúng sinh được trú thế lâu dài lợi ích rất nhiều, thật là cảnh tượng đáng ghi nhớ tôn kính, trộm muốn khuyến khích lưu lại nghiêm chỉnh trình bày, có thể thành công, liền cúi mình khẩn thiết thỉnh cầu được kia báo ân, đích thật không cần phải cân nhắc, thầm biết Sám dũ đồng bẩm thọ, đồng thời hóa độ phương Đông nam, có thể đi đến Triết Giang, tạo cõi Tịnh cư ở Ngân Thủy, khéo nói lời can ngăn nên trụ thế lâu dài. Năm ấy vào ngày lễ Phật đản, Ức tôi cầu xin lễ Công, tiến cử thuận theo mà mọi người mến chuộng. Đến cuối niên hiệu Thiên Hy, có quan Khu Mật Sử Mã là Tri Tiết thỉnh ngài Đại Niên soạn bia Thần Đạo để đáp ơn nhuận bút, tất cả đều không thọ, chỉ cầu dâng tiến danh hiệu Tứ Minh pháp sư, Tri Tiết nhân đó tâu lên. Chân Tông nói: Thần thỉnh Dương Ức vì tiên phụ soạn bia “Thần Đạo”, không nhận nhuận bút, huống chi danh từ “thần thọ” đã thường làm phép tắc tặng thế gian, cầu xin giáng chỉ để thọ nhận, vua Triệu Đại Niên đến hỏi, Ức liền tâu về việc di thân của Tứ Minh, vua nghe lấy làm vui vẻ khen ngợi. Một lần nữa ban chỉ dụ bảo Đại Niên rằng: Chỉ truyền y của trẫm thỉnh trú lại thế gian lâu dài, như danh hiệu sư trẫm sẽ ban tặng, tiền nhuận bút khanh phải thọ nhận kinh nghiệm nhún nhường, do đó vua Đại Bồ-tát phong tặng hiệu Pháp Trí Đại Sư, sư cũng do đó mà trú thế nhiều năm, sau mới nhập diệt. Một hôm tôi đến thành phía Nam chiêm bái tháp thờ sư, nhân sợ người đời sau quên mất những điều kỳ diệu việc thấy nghe về sư từ trước nên cầm bút ghi chép lại. Giữa mùa Đông năm Bính tý niên hiệu Cảnh Hựu, Hy Bạch kính đề. <詞>DƯƠNG VĂN CÔNG ĐÁP THƯ CHÚC MỪNG NGÀI PHÁP TRÍ SỐNG LÂU Khởi phục Hàn lâm Học só quan lục đại phu hành thượng thư công bộ thị lang tri chế cáo lễ nghi viện phán bí các nhị Trụ Quốc là Dương Ức dâng lên. Ức viết thư nói rằng: Vốn có tình bạn trong sáng, nhân quen biết cao danh, nghe truyền giáo nơi thành lớn, lãnh đồ nơi Ngân thủy, thông đạt ý chỉ khế kinh, phù hợp với kia trùng tuyên, chuyên tu sám quy đạt đến bốn tịnh, cơ duyên thích ứng, chân tục đều nương theo, phút chốc lại may mắn gặp sự thành tựu trang nghiêm, thường kính tiếp và hay giúp đỡ, cầu luận tiến dâng kính trọng tán dương, chống lát bị bệnh trở về ruộng vườn, hoặc hiểu biết quá nhanh mà đi đến lầm lẫn trải qua nhiều năm, mất hết hy vọng báo ân, nóng chiếu chưa kinh hoàng, thư nhanh chóng đến, trước nói có thể thực hành, riêng nguyện tùy thuận hòa hợp thích ứng, sự tuy cầu mong gần gũi đạo càng sáng nơi xuất thế, đã có Đại sư ban y, lệnh vua sai khiến đối với châu này có sự thay đổi, thay nhau nương gá bên trong, ắt sắp gần lãnh thọ, kính cẩn vâng theo tình hình, bàn bạc bao gồm trình bày rộng sự chúc mừng, cúi mong chiếu xét, kính dâng. <詞>ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ GỬI THƯ TẠ ƠN DƯƠNG VĂN CÔNG Tri Lễ suy nghó thân già ở nơi yên tịnh giữ gìn hương hỏa, ngửa nhìn mặt trăng từ xa chiếu soi ta, trông mây trắng mà cao dời đế hương, xoay theo mặt trời không có hiệu nghiệm, nhân hổ thẹn không gì được, chịu suy nghó bí mật xem xét kết quả thực hành trau dồi đức hạnh, tự thành thật mà hiểu biết làm gỗ quý cho các mùa hè, làm cái mõ cho chín châu, làm cho hưng thịnh sự nghiệp đế vương, cầm bút ghi chép nơi hàn lâm viện xưa, làm yên ổn giúp cho thời cuộc, sáng rực thành sự nghiệp lớn đối với người trước ấy sao xe ngựa thông suốt, cung kính thứ lớp chiêm ngưỡng đầy đủ, kính mến bấy lâu, khâm phục môn giáo, tuy nơi xa xôi mà biết lễ nghóa, lòng lạnh như tro tàn phó mặc cho đời, chỉ biết dùi mài thật hành theo kinh mong gấp thay đổi hương vị, khiêm nhượng nối theo dòng dõi tông Thiên thai, lạm thừa hưởng phong tục người xưa, để lại thịnh vượng đầy đủ, đâu có thời gian lầm lẫn luống theo hư danh, xa đến ở nơi kín đáo, đến nỗi phục tùng theo các mệnh lệnh, cho dùng lời tốt đẹp tấu sớ dâng vua, cảm động đến thịt xương. Tuy lo nghó nơm nớp, còn sợ tổn hại đến thân, nhớ nghó lại điều cần thiết, ở này làm sao sánh bằng, trở lại âm thầm xét kỹ điều tốt đẹp của Bùi Công, đại khái đây còn nhẹ hơn, nên tiếp tục giảng giải ở núi sâu, làm người đứng đầu hội liên xã, nhìn kỹ lại thân thể, thọ nhận sự ban hơn không xứng đáng ư! Ngỡ rằng Đại giáo càng sáng chói có từ trước đến nay, làm lan đài mà đưa thư chẳng thỏa lòng tâm sự, ở trong hang đá để quán tâm, hy vọng sự ủng hộ bên ngoài mãi mãi lâu dài, kính cẩn vâng theo, cúi mong thấu hiểu. <詞>THƯ DƯƠNG VĂN CÔNG THỈNH NGÀI PHÁP TRÍ TRỤ LẠI THẾ GIAN Ức viết thư, gần đây trộm nghó, Đại sư hy vọng kết nạp mười vị tăng ở hội liên xã, ước hẹn ba năm nhập sám, nhưng đến tam-muội hỏa quang thì quyết chọn Tịnh độ vãng sinh, chấp thân đốn không, nguyện lực càng mạnh, đăng tuyệt phẩm hoa sen, nghe âm thanh cùng cực của cây pháp, việc này chẳng luống dối, Đức Phật đã chứng, nhưng đối với ý niệm về thế tục phải chứa nhóm tâm nguyện, thật do Đại sư thông suốt chỉ qui của ba quán, được bốn chúng cung kính chiêm ngưỡng, nối tiếp tuệ mạng cao vời vợi, chỉ bày siêu việt các môn, dùng mười điều lành dẫn dắt người, tranh tu đối với bạch nghiệp, một âm thanh phò trợ giáo lý rộng giảng bày lời vàng ngọc, an lành đều khắp, phẩm chất đạo đức xứng hợp chỉ có cõi Cực lạc. Bởi Giác hoàng chỉ bày quyền mà thân bị đại hoạn chẳng phải điều mà người trí ưa muốn, nếu còn ưa thích chán ghét tức khởi tâm yêu ghét, tức manh tâm lấy bỏ cho đến thấy có năng sở, cố chấp chỉ có mình thông ngộ. Sớm nghiệm xét chân thường, hoặc thuận theo hàng sơ cơ, đốc thúc phát tâm tịnh hạnh, lại trông mong nhân nương ân dạy bảo, rộng tạo ruộng phước cùng khắp, hy vọng tuổi thọ thêm lâu dài, trú lại thế gian có khả năng mở mang chánh pháp, hóa duyên hưng thạnh, vẫn mong thực hành xong kỳ hạn sám hối. Lược trái pháp để theo nhau, may mắn Thuần-đà, cung kính dâng lên thức ăn cuối cùng, nguyện đồng phước đức, mau có tâm lìa bỏ trần thế xót thương cho chúng sinh mê muội không hiểu biết, chưa hướng về cõi tịch diệt, tha thiết hy vọng lắng nghe báo ân rộng lớn, cẩn trọng vâng mệnh thưa hỏi. <詞>THƯ NGÀI PHÁP TRÍ TRẢ LỜI DƯƠNG VĂN CÔNG Tri Lễ lúc rảnh rỗi kính cẩn giảng sám y theo giáo quán của bổn tôn, ghi chép kính đáp, xem xét đại đàn việt, Tri Lễ vâng lệnh đến Hàn Lâm viện trùng tuyên lại, khiến cho Tri Lễ hoàn tất kỳ hạn sám này, lại lưu lại giảng huấn, ngưỡng thừa tôn chỉ sửa đổi phù hợp với chân người trước, chỉ duyên tâm chân thật, hướng pháp môn này. Ý chí thấp kém chẳng dễ thay đổi, huống chi lúc tốt khó gặp, việc tốt dễ qua, cho nên càng muốn giúp đỡ, sẵn có tâm nên rất cung kính trang nghiêm vâng theo mạng lệnh. Có chỗ nói. Tri Lễ thông suốt chỉ quy của ba quán là nói thái quá. Lại nói rằng Cực lạc vốn do nêu bày quyền, tu đạo cần phải quên vui buồn, chân thật thay lời nói ấy. Nhưng Tri Lễ nay ưa thích cõi Tịnh độ, đặc biệt nhàm chán thân bệnh hoạn, cũng có nguyên do kia, sẽ trình bày ở sau, nếu kia một tam ba quán, tuy chẳng thông suốt có lẽ không nương tựa. Tri Lễ hơn bốn mươi năm, tím kiếm cái nơm kia, bắt chước kia đi tới, thần căn đã ám độn, chứng nhập không có nguyên nhân, mà phòng ngừa nơi cửa sổ, thực hành đúng thời tiết, trải qua nhiều chỗ cũng hiểu biết sơ qua. Nay người chịu tìm tòi báo ân cho nên khó bịt miệng, trình bày sơ lược hy vọng, ban bố chẳng dấu che. Ba quán: Một niệm tức không, tức giả, tức trung, nêu cao chí khí lanh lợi của mình bởi Như Lai, chứng ngộ vi diệu, gần gũi suy tìm nới người trí, hoàn toàn do tánh phát, thật chẳng phải do tu mà thành, cho nên đối với một tâm rõ ràng có ba dụng. Có chỗ nói không là tất cả đều không, tức ba quán đều hiện rõ dụng phá tướng. Giả là tất cả đều giả, tức ba quán đều rõ rệt công phu lập phá. Trung thì tất cả đều trung, tức ba quán thảy đều là thể bặt dứt sự đối đãi. Cho nên cả ngày phá tướng mà các pháp đều thành, cả ngày lập pháp mà bụi trần ắt hết, cả ngày bặt sự đối đãi mà nhị đế bừng rỡ, cho nên Bát-nhã bàn luận về không mà tám mươi pháp môn được hiển bày. Duy-ma lập pháp mà kiến ái trong ba cõi đều mất, Pháp Hoa nhất tâm, tướng thế gian thường trụ, đều do ba quán tức nhau, đến nỗi khiến cho các pháp không thiếu sót, cho nên ba tức chẳng ba, một tức chẳng phải một, chẳng phải thứ lớp mà vào, chẳng phải đều riêng mà quán, không thể dùng hữu mà cầu, không thể dùng trung biên mà chấp thủ, cho nên nói không đều, không biệt, chẳng ngang, chẳng dọc, vì ba và một viên dung, tu tánh sâu kín đâu thể dùng tâm thức mà đo lường được, làm sao có thể giải bày ngôn thuyết cho nên gượng nêu lên rằng: Diệu quán bất tư nghị, nói tức chẳng nói, chẳng nói mà nói biết được như vậy rồi thì đối với tất cả cảnh, dùng đây quán chiếu rõ ràng, lập tất cả hạnh, dùng quán này dẫn dắt thông suốt, biện rõ tất cả việc, dùng quán này thành tựu tất cả, thiết lập tất cả giáo, mở mang quán này rộng rãi. Người tu quán này năng sở đều quên, lấy bỏ đều dứt, cho nên chân như vô niệm, hướng về thì tâm bắt dứt, cả ngày nói bày mà chẳng khác gì không nói, xả bỏ điều này thì chắc đồng với chúng ma, lìa điều này thì chưa vượt qua các ngoại đạo. Cho nên ngài Long Thọ nói: Trừ thật tướng các pháp, còn ngoài ra thảy đều là việc ma. Ngài Ca-diếp nói: Chưa nghe Đại Niết-bàn, trước đó đều là tà kiến. Lớn lao thay diệu tông của một tam ba quán, cho nên Tri Lễ cầu sinh cõi An Dưỡng, muốn lửa tàn mà chết, nương ba quán này bỏ sót trăm phi kia. Nói cõi Cực lạc bởi các Giác hoàng chỉ bày kinh luận, dùng Tịnh độ giáo làm phương tiện thù thắng, nghiệm biết là do Đức Như Lai khéo léo quyền dùng, nhưng quyền danh không hạn cuộc thật lý thông suốt, là soi xét phân biệt mới chọn hay bỏ, quyền ngoài thể cần phải phá, phương tiện trong thể cần phải tu, phá lìa sự thì thô, thật là phương tiện vi diệu của quyền, cho nên Tiểu thừa không nói Phật khác. Đại giáo có nói về sát hải, vì tâm tánh trùm khắp, pháp giới không ngoài, lý cùng cực cho nên khiến sự rộng lớn, vì hoa lớn cho nên xét ao sâu, cõi như hạt châu trong lưới trời Đế Thích xuất hiện lớp lớp vô tận mới hiển bày cõi Tịch quang, thân thể chủng loại trời tỏ ý cảm kích, cảm báo kia kia khác nhau, mới bày tỏ tánh Giá-na, đâu thích ứng cõi Cực lạc không can dự đến duy tâm, cho nên trong Như Lai tạng đầy đủ Niết-bàn, tùy duyên phát hiện, ứng lượng mà biết, đã có thể phơi bày địa ngục thiên cung, đâu không tạo uế bang tịnh quốc, bổn tánh tuy đầy đủ, do tâm phát minh, Di-đà dùng vô duyên từ chọn cõi Cực lạc, Đức Thích-ca dùng biện luận lạc thuyết mà chỉ bày pháp môn vãng sinh, đây đều là quyền phương tiện khéo léo, thâu nhiếp phẩm loại kia chỉm đắm trong biển khổ khiến người sợ lui sụt, dạy người quán bất thiện hãy quán Tịnh độ, quyền tướng thêm nhiều. Nay lại nói sơ lược về hai thứ này, cho nên luận Khởi Tín chép: Mới học Đại thừa chánh tín, cho rằng ở cõi này không thường gặp Phật, sợ rằng tín tâm ý muốn lui sụt. Nên biết Như Lai có phương tiện tốt nhiễp giữ tín tâm, nhưng phải chuyên niệm thế giới Cực lạc pháp thân chân như của Đức A-di-đà cuối cũng được vãng sinh, trú trong chánh định, cho nên chuyên niệm chân như thực hành, đâu khác Đại thừa chánh tín, nương Đức Phật kia làm cảnh, cho nên có thể dẫn dắt chúng sinh về Tịnh độ, đây là phương tiện khéo léo của Như Lai. Lại, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật chép: Phàm phu tâm tưởng yếu đuối, chưa đắc thiên nhãn, không thể quán sâu, các Đức Phật Như Lai có phương tiện đặc biệt, giúp chúng sinh kia được thấy, đây là do thần lực của Đức Thích-ca, tâm nguyện của Phật Di-đà. Nếu có người quán kỹ sẽ nhìn thấy, đây cũng là phương tiện đặc biệt của Giác hoàng. Đã y cứ Viên đề luận bàn thì đồng với phương tiện vi diệu của Pháp Hoa, không hai không khác, các trời chúng ta người, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát sự độ, Đại só tiệm tu đầy khắp thế gian số nhiều như cát sông Hằng, tư duy đo lường cùng tận cũng không thể hiểu biết rõ, chỉ có Phật và Phật mới thấu hiểu cùng tận. Viên tín Viên giải mới có thể tu tạo, Tri Lễ tuy là độn căn thấm lạm Viên giáo, không lìa đương niệm mong thấu đạt đến cõi kia, may mắn lập tức hạ phàm liền dần dần đến quả không lui sụt. Lại nghe đời Đức Phật Đại Thông hàng đệ tử kết duyên đã trải qua số kiếp như bụi nhỏ còn trú trong địa vị Thanh văn, đều do lui sụt Đại thừa, cho nên trải qua thời gian dài Thân tử đã chứng lục tâm, còn lui sụt rơi vào trong năm đường, huống chi học Phật lâu dài. Bởi do ở cõi này gặp nhiều duyên lui sụt, cho nên nói: Bồ- tát mới phát tâm, trong ba việc nhân tác nhân thì nhiều kết quả thì ít. Nếu cầu sinh An dưỡng tức ở nơi bạc địa, nhờ vào duyên tốt mới mới đạt được quả vãng sinh, không bao giờ còn lui sụt, nghe lợi ích này không được cầu vui, liền dụng một tâm ba quán làm thuyền bè, lại dùng sáu thời năm pháp sám hối làm mái chéo cầu vãng sinh Tịnh độ duy tâm, nguyện thấy bổn tánh Di-đà, sau đó vận đồng thể đại bi độ hàm thức khắp pháp giới, thuận theo quyền xảo của Phật cầu sinh Lạc bang, ý kia sơ lược như vậy. Nếu có tâm ưa thích hay buồn chán liễu sinh thương ghét, đã khởi tâm lấy bỏ liền sinh kiến chấp năng sở, khởi tướng lỗi lầm, thật như đã nói, nhân duyên lập đức ở đây sẽ nói lược. Bởi vì vui buồn lấy bỏ, khéo léo làm cho lỗi lầm thành công đức, cho nên ngài Mã Minh lập làm nền tảng thỉ giác, người trí gọi là tiệm của Tịnh độ, Duy-ma dùng kiến ái làm thị giả, Văn-thù dùng tham nhuế làm công năng, đây đều do người dụng có pháp thừa. Hơn nữa chúng sinh trải qua nhiều kiếp trù cõi Ta-bà, tham thanh sắc thô tế, chấp đắm nơi y báo chánh báo thấp kém, đã không có niệm lìa chán chỉ thêm duyên trói buộc, dù có huân tu nhưng ít có thành công, do ở cõi này nhiều pháp chướng ngại, đến nỗi khiến đạo hạnh khó thành. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Được thân người như đất dính trên móng tay, mất thân người như đất trong đại địa vì vậy cho nên các Đức Phật thương xót chúng sinh đây, dùng công hạnh nguyện chọn cõi Tịnh độ, khiến cho chúng sinh khởi tâm kính mến, tạo nhân thọ sinh, dùng lời tha thiết nói tướng nhơ uế, khiến cho chúng sinh nhờm gớm, thành tâm xuất ly, nếu không có tâm này thì không thành hạnh ban đầu, cho nên chẳng nhàm lìa, bỏ thì đây không có nguyên do, không khởi tâm cầu an vui thì không có phần vãng sinh cõi kia, bởi pháp thọ sinh lấy ái làm duyên. Bắt đầu từ sơ tâm, cuối cùng đến Đẳng giác, biến dịch chưa hết, ưa chán không thể quên, huống chi hạnh ban đầu ư! May cầu Tịnh độ, không cầu thân thọ các sự vui, tâm nhiễm bụi trần, vì muốn nương nhờ tịnh duyên kia mau nuôi lớn đạo tâm, do cõi kia tuổi thọ vô tận, y báo tự nhiên, không có người nữ và người thiếu căn, tuy thánh phàm ở chung mà không có tên đường ác, tuy Thanh văn vô biên, lại lìa chấp thật, Đức diệt độ làm thầy dẫn dắt, Quán Âm làm bạn lành, bậc Nhất sinh bổ xứ rất nhiều, bậc thánh Thập địa vô số, tiếng gió phát ra âm thanh kỳ diệu cây trái hoa lá bằng báu, sóng động sông vàng đều phát ra âm thanh hay ho, giải thích cùng tận chỗ chí lý, đã không trái thuận mà lại dứt hẳn tham sân, hễ có thấy nghe điều gì đều nhờ tịch chiếu, đều trú chánh định. Nay các vườn này cần phải cầu dự, cõi báu kia sao không nguyện sinh! Chỉ biết Tịnh độ duy tâm, cõi uế tức tánh, ngay nơi nhàm chán là không nhàm chán, ngay nơi ưa thích là không ưa thích, vậy thì chánh trợ hợp tu, giải hạnh đều vận, thuận theo chánh giáo của Phật, chẳng vì bản thân mình, huống chi Quán Kinh nói nhân sinh thượng phẩm là phải có diệu giải Đại thừa. Cho nên Tri Lễ dùng ba quán kích tâm, năm pháp sáu giúp đạo, lại sợ tịnh nhân chưa đủ cho nên dùng vận mạng cuối cùng mong cầu sự may mắn nương tựa Dự sau rốt mạnh mẽ để làm định nghiệp vãng sinh, nhưng lại nếu không đốt thân, cánh tay, ngón tay thì chẳng phải Bồ-tát xuất gia, kinh Phạm Võng có dạy rõ, nhưng xả bỏ tài vật, thân mạng là pháp cúng dường chân thật văn có nói rõ trong kinh Pháp Hoa, kinh Lăng-nghiêm nói đốt hương thắp đèn nợ đời trước đều phải trả, luân vương khoét thân thắp sáng ngàn ngọn đèn quả mầu mới được như vậy, cho nên hàng sơ tâm hậu vị, thượng thánh hạ phàm đều có thể tiến tu, đồng thời hiện rõ chí giáo, chỉ thực hành chánh giải, tự tránh tà tu, vì biết tánh hỏa chân không, đâu có tướng năng thiêu, thỉ sở thiêu tự mất. Lại viết thể của Phật là viên mãn nhiệm mầu, đâu có người sở cung thì năng cung cũng vắng lặng, năng sở hai lớp đã dứt tất cả công đức đây thành, đó gọi là pháp môn khổ hạnh. Có chỗ gọi là hỏa quang tam- muội, cảnh của bốn cõi tịnh lập tức hiểu biết, đây là tâm chư Phật đạo tràng đều ảnh hiện nơi đây, chỉ tùy theo sở nguyện sẽ liền vãng sinh. Cho nên ngài Trí Giả nói: Lúc sắp qua đời mà ở trong định thì đó tức là Tịnh độ. Như đây xả bỏ thân uế độ thì tận mé cấu uế, thì lý gì lại không rõ ràng, chọn lựa cõi Tịnh độ như thế thì cùng tột nguồn thanh tịnh, hoặc nghiệp nào mà không bỏ, do đó Vi-đề vui nơi nghiệp báo thanh tịnh, liền chứng vô sinh. Tát-đỏa xả thân tật bệnh ghẻ lở cầu cõi thường an vui, lấy bỏ ở đây cùng với không lấy bọ tự thể không hai thứ, dụng cũng đồng thời, được gọi là ba thứ pháp môn, đó là pháp môn thủ, pháp môn xả, pháp môn bất thủ bất xả, cũng là pháp môn ba độc. Đầy đủ tất cả pháp, cho kinh Vô Hành chép: Tham dục tức là đạo, nhuế si cũng giống như vậy, trong ba pháp này đầy đủ tất cả công đức. Ngài Văn-thù nói: Ta là tam dục thi-lợi, ta là sân nhuế thi-lợi, ta là ngu si thi-lợi. Hiểu sâu được ý này tức một tâm ba quán dẫn dắt tất cả hành, phân biệt rõ tất cả sự, vì dùng tất cả pháp nên xả uế sẽ hết, tất cả pháp giả, lấy tịnh không sót, đối với tất cả pháp không lấy không bỏ, ba pháp này tất cả Như Lai đồng chứng, tất cả Bồ-tát cùng tu, cho nên Tri Lễ nay xả thân cõi uế, ưa cầu Tịnh độ, hết lòng cố gắng. Nhưng tu tâm muôn hạnh, nhập đạo nhiều môn, tùy thích tùy nghi, tùy tu tùy ngộ, dám đem ống mà nhìn hư không, chỉ vì Tri Lễ còn ít tuổi đã thúc giục ý chí, nay đã già yếu trải qua nhiều sự duyên. Tâm này thường tự hiện tiền đối cảnh càng thêm tăng tiến. Tin do nguyện đời trước, dám không cung kính, đến năm sau kiến lập đạo tràng mọi người tin cùng dâng cúng dường đầy đủ. Ba phen trợ duyên của Tổ tiên, đầy đủ nhiều hạnh nguyện của tăng, nên tình cờ đồng với đây, gặp gỡ bí mật xem xét, biết rõ họ tên quan sát kia từ đầu đến cuối, mới dám thỉnh làm đàn việt, vận sức xoay bánh xe pháp khiến cho có thành tựu chút điều lành, khiến nguyện sinh Tịnh độ sẽ thành công. Sau đó giúp cho tông giáo của ta được lưu hành rộng, để cho người chưa nghe được nghe, người chưa ngộ được ngộ, về sau càng giúp đỡ trị giúp thành công, hy vọng đều đáp đầy đủ, tùy nguyện cầu sinh thế giới Cực lạc, mong được đồng hợp một chỗ, đồng bày tỏ nhân xưa, đồng giáo hóa các loài chúng sinh, đồng lên Đại giác. Tri lễ hiện tại không có văn tự vốn là tăng quê mùa phát ra lời thô lỗ rỗng không, hiển lý sơ sót, do vâng lệnh đọc thư trước rằng: Tinh tu sám quy, đến được bổn tịnh, thư kế nói: Có thể cùng nguồn, lại biết cõi tịnh vốn là tức lý, vì muốn Tri Lễ rộng dẫn chứng Thừa giáo, chỉ bày người chưa nghe là bạo dạn phụ thêm cho bổn tôn, trình bày chút ít ý kiến của mình, khi nghe có nhàm chán có ưa thích mà không lo sợ, không tuyên bày. <詞>THƯ DƯƠNG VĂN CÔNG ĐÁP NGHÓA NGÀI PHÁP TRÍ Ức viết rằng : Gần đây thư gởi qua bưu điện nên đức hạnh được bay cao, nương nhờ pháp đầy đủ để tăng thêm sự cao quý, hưởng cõi Tịnh độ an vui không bờ bến, cảnh tượng tôn kính rất sâu mầu. Lòng vô cùng cảm động trình bày đâu hết ý, do phụ thuộc hạn chế nơi công cuộc, xa xôi cách trở gợi nhớ chuyện cũ, rong ruổi nơi đây, tuyên dương phô bày, kính tu cảm tạ. <詞>DƯƠNG VĂN CÔNG BA LẦN HỎI VÀ NGÀI PHÁP TRÍ ĐÁP Ức viết thư rằng: Xa gởi ý bày tỏ trong thư mong đáp lại, nhiều lần đáp lại, chỉ tôn kính chỗ sâu kín. Học theo thế tục nông cạn làm sao đáp đền, liền chuyên đến ý, bền chí đến hỏi ba lần, chia giấy đầy đủ, mong ban cho ý kiến! Nếu khế hợp với tâm thấp kém, thì đáp riêng cho biết, nhưng hy vọng chứng lấy Niết-bàn, cũng giúp đỡ chuyên tu đến cùng. Ức xin bài bạch! Thừa Sư có nói: Tịnh độ Tây phương gió thổi ngân nga, hoa lá bảy báu, sóng động sông vàng, đây là cảnh giới bậc nào? Đáp: Ngay nơi sự thấy nghe này càng không có đạo lý, đã hiển rõ giáo nghóa đâu tránh khỏi bảy tỏ chí hướng. Xét rằng y báo, chánh báo cõi Tịnh độ đều giảng nói pháp nhiệm mầu, người nghe hợp hiểu, căn trần bắt dứt dấu tích, vật ngã như một, đâu chấp có người đối với cảnh giới khác, đây là người tu hành viên đốn, dùng căn đối trần, khi khởi thức liền hiểu rõ, dùng Phật giáo đối pháp giới, khởi pháp giới, thật chẳng phải cảnh ngoài tâm, tâm ngoài cảnh, tâm tự biết tâm, cảnh tự thấy cảnh, cảnh đâu thấy cảnh, tâm đâu biết tâm, thấy biết đã quên nói năng giải thích cũng bặt dứt, cho nên gượng gọi là cảnh quán bất tư nghị, địa vị phàm phu tu còn như vậy, địa vị của bậc thánh chứng làm sao nói được. Lại nếu nói về cảnh sở lìa tướng khác nhau thì thô trong thô là cảnh giới của phàm phu, tế trong tế là cảnh giới của Phật, đây là do giáo đạo phân biệt. Nếu nay nói đầy đủ thì không mà lìa hàng sơ tâm lìa được sở lìa cửa Phật vì một tâm ba quán tức Phật trí, cho nên thư trước nói: Đối tất cả cảnh dùng đây quán chiếu rõ, nghóa là ở đây. Thừa Sư có nói: Đốt thân đốt tay chân mới là Bồ-tát xuất gia, xả bỏ thân mạng, tài vật mới gọi là pháp cúng dường chân thật, lời này rút ra trong hai kinh Phạm Võng và Pháp Hoa nhưng đều là lời nói của ma vương, chẳng phải chánh giáo. Đáp: Phật và ma cách nhau bao nhiêu, tà cùng với chánh có thiếu thừa chỗ nào, bởi do bổn lý đầy đủ tánh ma và Phật, không hai mà một, hai mà không hai, tùy duyên phát hiện, thành Phật thành ma, tánh đã vốn dung tu, đâu thể khác nhau cho nên Viên thật giáo xưng tánh mà luận, ma giới như, Phật giới như, nhất như, vô nhị như, cho nên nói ngoài ma không có Phật, ngoài Phật không có ma, cũng là một ma tất cả ma, một Phật tất cả Phật, đều xứng với Pháp giới, đều là một thể trùm khắp tất cả, cho nên đều được gọi là vua, đều sớm hiểu biết các pháp. Nếu đối với ma và Phật mà khởi tâm hơn thua thì tự là tà tư, chẳng phải chánh quán, nhưng pháp ma vốn vi diệu, như trong nhà giàu đầy đủ bảy báu, nhưng chúng sinh phàm phu bị mù bẩm sinh không hiểu biết, chuyển động thành trở ngại, bị báu làm tổn thương, hàng Nhị thừa quen lo lắng, thấy quỉ hổ, rồng rắn sợ hãi cho nên trốn tránh, hàng Bồ-tát tiệm tu cũng như nhìn ban đêm không thấy rõ ràng. Chỉ có hành giả của Viên đốn từ lúc ban đầu quyết định thấy được bảy báu mà dùng tự tại, chỉ có Phật không ngăn ngại. Ma là pháp giới ma, là pháp vương bạc địa, chỉ có lý tánh, là sơ học chỉ danh tự, là năm phẩm quán hạnh, là Thập tín vị tương tự, là Bồ-tát pháp thân phần chứng, đó chỉ là Diệu giác Như Lai rốt ráo, cho nên ở địa vị này mới cùng nguồn tột gốc sự lý ma pháp, đầy đủ khả năng đối với ma giới, gồm nhiếp tự tại thì thành tựu nghóa ma vương. Nên biết Ba-tuần xưng ma vương là có danh mà không có thực, do có khả năng thống nhiếp tự tại, cho nên kinh Niết- bàn chép: Thế đế chỉ có danh mà không có thật nghóa, đệ nhất nghóa đế vừa có danh vừa có thật nghóa. Nếu vậy thì kinh Phạm Võng, kinh Pháp Hoa là thật do ma nói đâu còn gì nghi ngờ, vì ma vương cùng một thể với giác mà khác tên, như Đế Thích một thân có đủ ngàn đức nên có ngàn tên, sao Nhân-đà-la nói khác với Kiều-thi-ca nói ư! Nay cho là ma vương nói chẳng phải riêng không khác với Phật nói mà có thể hiển bày viên tông, vì sao? Vì viên không tự viên, là các pháp thiên tà, mỗi khác đều là viên. Pháp Hoa xoá bỏ pháp Thanh văn, là vua của các kinh, sao không xóa bỏ ma vương là vua ư! Chỉ vì ngoại ma dễ khai, vì vậy Đại thừa nói Thanh văn khó khai cho nên Pháp Hoa tùy theo khó mà chỉ bày riêng đó thôi. Như Hoa Nghiêm nói Bà-la-môn thắng thục nhảy vào lửa hóa đỏ người thì hoàn toàn là dụng hạnh của ngoại đạo, cô gái Hòa-tu- mật-đà nhiễm dục, để nhiếp sinh thì hoàn toàn là dụng pháp của Ma-la. Nếu chẳng trú sâu trong pháp giới của ngoại ma thì đâu thể khiến cho vô lượng người chứng được tam-muội, mới gọi là thực hành phi đạo mà thông đạt Phật đạo, huống gì nay thiêu đốt thân, đốt tay chân chánh trợ hiệp hành, xả bỏ thân mạng tài vật, gồm cứu giúp cả tài thí, pháp thí, tất cả pháp thú hướng khổ hạnh gọi là pháp giới. Giáo chủ đã cùng ma Phật, thể một pháp môn, thì tà chánh vốn dung hòa mới gọi là cụ túc thi-la, cái gọi là phương tiện trong thể là ý của ma nói, há không như vậy ư! Như vậy nghe ma không sợ, đối Phật lìa chấp, mới là nghiên cứu thô về công phuba quán. Thư trước nói: Lập tất cả hạnh dùng quán này, là dẫn dắt có nguyên nhân. Thừa Sư có nói: Hòa quang tam-muội là pháp môn khổ hạnh, đương lúc kiếp hỏa thì Đại thiên đều bị thiêu họai cháy chết, vậy người nào thọ sinh ở cõi Cực lạc? Đáp: Đến khi đốt thân đâu định có người thọ sinh cõi Cực lạc, khi kiếp hỏa thiêu đâu nhất định không có người thọ sinh cõi Cực lạc, cho nên kinh Tịnh Danh nói: Tuy nghiệp thiện ác không mất mà người tạo ác nhẫn chịu vốn không. Kinh Pháp Hoa chép: Khi kiếp thỏa thiêu cõi ta đây an ổn hàng trời người thường đầy dẫy, trang nghiêm an vui, vì người khổ hạnh tức người khác xưa nay lìa tướng có không, người xưa nay tức người khổ hạnh, nên chẳng phải pháp sinh diệt, toàn tu tại tánh, toàn tánh thành tu, lúc đây lúc kia, không thêm không bớt, thật bất khả tư nghị, chánh thọ này thể là nhân pháp vô thượng, xuyên suốt ba đời, trùm khắp mười phương, thường trụ hoại không không thể biến chất, thủy hỏa phong tai chưa bắt đầu lìa dụng, dùng toàn vàng làm nhẫn, lìa nước không có sóng, đâu chỉ một lý bao gồm thông suốt, hoặc cũng thâu nhiếp hết đương niệm, cho nên mười phương sát hải, chín cõi qua lại đồng hướng nhất tâm, gọi là diệu tam-muội mà dùng khổ hạnh làm chủ vốn trị việc ác, giúp mở lý tu, lấy dụng tâm làm tối hậu mong cho tịnh nghiệp thêm lớn, chánh trợ đã hợp vận liền tu tánh nhất như, không lìa tâm này mà đến Cực lạc. Thư trước nói: Thực hành tất cả việc do đó quán thành, kia là ở đây vậy. <詞>DƯƠNG VĂN CÔNG TẠ ƠN PHÁP TRÍ ĐÁP BA CÂU HỎI Ức nói rằng: Gần đến hỏi nguyên nhân, xa vâng lời đáp, kính nghe liễu nghóa, đặc biệt trừ sạch tối tăm, bởi long tượng cùng cực luận bàn, nối tiếp anh hùng gặp vận, tạo nên sự nghiệp, y đó mà hiểu rõ, phụng mạng để vâng theo thực hành, đủ chiếu soi rõ nơi sắc không, mới hòa đồng với tâm cảnh tùy nguyện vãng sinh, phước trí đều trang nghiêm, được Phật xoa đầu thọ ký, có gì là xa xôi, đắc chánh vị pháp nhũ, nhưng mà người ít học nghe kịp, làm thinh chẳng cho, có nghi phải thưa hỏi, không liên quan đến ngã nhân, nhìn thấy tướng mạo rõ ràng, hî vọng thấu đạt ngưng giây lát, như tiếng vang trong hang núi tùy âm thanh chuyển động đáp ứng rõ ràng, gương soi lửa sáng lập chiếu thuận theo hiện rõ hình dáng. Như lý mà nói là tiêu biểu cho phát điểm quan trọng, y kinh để giải thích, vị cặn bã để nghiên cứu sâu, kia như câu “lìa bốn dứt trăm phi” cuối cùng xa tít mờ mịt, mất lời, quên lo, chẳng theo phan duyên, chỉ là tông phong của thiếu thất vốn là nụ cười mỉm ở Linh sơn, vừa thấy liền khởi niệm đã lần đến Tây thiên, ngây ngất như vậy mà quên tình, chính ngồi trong hang núi có tu có chứng, lo khoét để thành vết thương, dùng tâm truyền tâm, bèn giơ ngón tay để chỉ mặt trăng, mình và người tuyệt đường, chúng sinh và Phật đạo ngang nhau, ngay đó đảm đương, đến đời vị lai mà táng mất, cho nên ngài Hoàng Bá dùng gậy đánh Lâm Tế đau đến ba phen thì Lâm Tế tự biết. Ngài Thuyền Tử chèo thuyền mà ngộ nơi ngài Giáp Sơn, một sát-na mà đốn ngộ, hoặc hoàn toàn không kích phát làm cho dứt mất tông phong, nhưng cơ phong thiếu thất là cầu khế hợp đạo, cung kính thừa sự chỉ dụ, nhưng chứa dồn lòng tôn kính, tin tưởng sức lãnh chúng, đáng đạt được thiền lạc sâu xa, chưa hy vọng chiêm bái, nhưng chứa dồn nương tựa, kính cẩn phụng mạng chắc hẳn sinh tâm cảm tạ. <詞>PHÁP TRÍ LẠI GỬI THƯ CHO DƯƠNG VĂN CÔNG Tri Lễ kính cẩn tắm gội sạch sẽ đốt hương mài mực viết thư xem xét kỹ rồi gởi lên đàn việt. Tri Lễ tự suy nghó, ở nơi vùng biển ngăn cách xa xôi thăm thẳm, thường tư duy oai nghi của Duy-ma-cật, luôn dùng phương tiện phá thiền-na. Cúi mong xem xét đại đàn việt, sớm gần gũi tiên Phật, chứng sâu vô sinh, dùng bổ nguyện mà huân tâm, tác đại thần mà hộ pháp, cho nên được thông suốt Nho Thích, cho đến hạnh giải, thực hành thiền định, truyền pháp mở mang giáo pháp khởi tưởng bạn chí thân, tha thiết vì pháp, chuyên nghiên cứu cùng tận về lý, giữa thời đại bây giờ chỉ có một người như vậy mà thôi. Nhưng Tri Lễ tôi trí tuệ chẳng chứng hiểu sâu, hành chưa vượt hơn thường tình, gặp được bạn tăng thấu đạt điều phải trái, liền ban tặng sự tốt đẹp đáng quí, đặc biệt phân phát ân đức, tiến cử để sai khiến, nương ở tiêu biểu giải thích về nghiệp, tuy bổn tâm chẳng ham muốn nhưng đối với đại giáo có rực rỡ vẻ vang vẫn là tự tâm diệu chứng, đặc biệt dù có tư duy nạn vấn cũng có thể phát minh ý chí suy xét mầu nhiệm, giúp cho mọi người ngộ giải Viên tông. Đã được sự kích thích đâu dám không đối đáp, thật cho rằng đem vàng đổi mì, đặc biệt chẳng như tiếng dội, lời đáp đâu có kỳ hạn, chịu khó bày tỏ thư dài, từ xa yên tâm gởi đi, tin chắc ý chỉ văn từ trùng lặp vượt qua sự tô điểm, thấy suốt rõ chân phong thiếu thất, ngẩng cao thể mật chỉ tinh sơn như thế là siêu ngộ, thật cho rằng đáng vượt ngoài đồng loại, lại thương xót nhân từ sâu nặng, thành khẩn khuyến khích khiến sám đủ ba năm, lại lưu thân bốn đại, thương nhớ nơi đàn việt cho rằng ắt có ích, như sự hóa độ của vị tăng thấp kém biết bỏ mới thành, bởi do dùng giáo chiếu soi tâm trải qua sự nghiệm xét thực hành. Tuy tu ba quán mà chưa phá được bốn ma, tuy vận từ bi mà dần dần sinh ái kiến, không có thuyền cứu vớt thì bị chìm đắm, mắc bệnh xứng với thuộc, đã không có công cứu giúp thì trị liệu đâu có ích, mong muốn chân thật hóa độ phải nói đến cõi Tịnh, cho nên y theo Đại thừa chuyên tu diệu sám, nương nhờ tịnh cảnh đạo tràng, nhiều duyên lẫn lộn, thay đổi việc đời, năm pháp sám hối rửa sạch tâm, một phen nghe giảng huân vào hạt giống, trợ giúp pháp quán vô danh, hy vọng tâm sáng suốt đầy đủ đức độ. Lại vì nương thúc chưa suy ắt đối với tuệ mạng có thể sách lệ kính cẩn đền đáp nguyện xưa, quyết định vãng sinh, vì suy nghó bị quả báo hiện tại mạnh lôi kéo, lại lo lắng tai họa đời trước mà ai đoạt mất, bèn nương khổ hạnh mong tạo duyên lành, dụng công hiểu biết mỏng manh, dẫn dắt niệm lúc sắp qua đời thì không diệt mà diệt, đợi đến sau cùng thân thể tiêu hoại thì không sinh mà sinh, thấu triệt nguồn gốc mà chọn lấy cõi nước, bốn mươi năm nêu ý, hy vọng đây có thể báo đáp, thọ thân trăm ngàn kiếp, lược xét đều là trống rỗng, giúp nguyện đầy đủ cho hạng thất phu, khó vâng theo lời nói của bậc đại só, cõi này thấy mặt tuy trái, cõi kia thấy mặt ắt thỏa lòng, mong mỏi năng lực ngoại hộ, dùng thời gian xứng với bổn tâm. Vẫn nghó nhớ tạo nghiệp giáo thừa, mong nương nhờ ân Thiên thai che bóng, khiến cho thừa thừa tiến lên không ngừng, khiến cho mọi nơi đều nghe, chỉ có việc này gấp trông mong sự thấy được thỏa lòng; Thư Tri Lễ không thành chữ, lời không thành văn, mong tiêu biểu tất lòng thành, chẳng đáng nhờ tay, lấy đây nói lên tình cảm, một, hai trong ngàn muôn, cúi mong lòng từ của Thiên thai ban ơn, nhớ nghó. Không tuyên diễn. <詞>DƯƠNG VĂN CÔNG LẠI GỬI THƯ THỈNH NGÀI PHÁP TRÍ TRỤ LẠI THẾ GIAN Ức lại hỏi thăm, bỗng chốc tỏ bày cung kính thành thật nguyện tuổi thọ trụ lại thế gian lâu dài, chịu thuận theo âm thanh báo đáp, mong ý chí bền chắc, như vậy đẻ trở lại Thiên thai giáo làm mở mang bờ cõi của mình mà bắt đầu xướng, nhờ cậy Hương Tượng phụ giúp, đồng hoa ưu-đàm một phen khai mở; hoặc lựa chọn chứng cõi lạc bang, sao có thể phò trợ pháp vận, Đức Thích-ca nhớ thuyết quá khứ, không hướng đến Niết-bàn, lưu trú lâu dài, dự liệu chứa nhóm phép tắc xưa, hy vọng quán sát thời gian dài, thật là may mắn lắm. <詞>THƯ DƯƠNG VĂN CÔNG GỬI THÁI THỦ LÝ DI CANH, ĐỒNG THỈNH PHÁP TRÍ TRỤ LẠI THẾ GIAN Ức viết thư rằng từ xưa đến nay thuận theo điều nhất định, làm sao đến cùng, liền nghe nói rằng: Không tránh khỏi sự phiền nhiễu, thuận theo tôn quí giáo chủ Thiên thai, lễ bái Đại sư tinh tu sám nghi, trước hết tất cả năm ghi chép sẽ xu hướng hỏa hóa dể diệt thân, bởi ức vốn nghe phong tụcx kia liền khuyến khích thông suốt bí điển trong thành lớn chỉ bày vượt qua cửa sông Thiết giang, vừa truyền diệu cơ chỉ quán, bằng lòng nối dõi tuệ mạng của Đức Phật Thích-ca, thật là xứng đáng long hổ của kinh luận, làm đèn sáng trong bóng tối, nếu trụ thế lâu dài tất nhiên lợi lạc chúng sinh, dần dần rộng lớn, văn thư chồng chất, chí nguyện vững chắc, phù hợp với bốn chúng, tra hỏi không ngừng, vượt qua sự trở ngại của sông, nhanh chóng nối tiếp theo kịp đạt đến âm kia, rất giống thuận theo, còn lo giữ gìn nguyện đời trước. Hoặc chẳng nhìn lại thân huyễn hóa, tâm trông mong đôn đốc sự giúp đỡ bên ngoài, cùng vận mạng trụ thế lâu dài, phù hợp giảng nói đại giáo, có thể gây dựng nhân thù thắng từ xa khấn nguyện nơi đây, vì vậy mà kể lại nhiều ở đây tinh chuyên thâu nhiếp là thích hợp. <詞>THƯ DƯƠNG VĂN CÔNG GỬI SÁM CHỦ CHÙA THIÊN TRÚC Ức viết rằng: Từ xa kính ngưỡng phong cách khác thường, giảng nói rộng chỉ giáo, nối triếp tuệ mạng của Thiên thai, phù hợp với căn cơ bậc thượng ở Triết giang, làm thịnh vượng nơi bụi trần phiền muộn, cách ngăn dặm đường, tự thân lo lắng nói năng dịu dàng, chẳng thấu rõ ứng nghiệm năng thuyên, bạn từ xa đến đáng được kính trọng, đồng gởi thư đến Hán Thượng, người trí biện giải khó tri lời, kết bạn ở Hương Sơn, tâm nguyện còn chứa nhóm kính vâng thừa mệnh đạo lý quen thuộc. Bên trong chứa nhóm biểu lộ vẻ mặt thẹn thùng, bên ngoài bộc lộ sự kích trọng làm việc thêm hơn, không giảng nói. <詞>LẠI GỬI THƯ THỈNH NGÀI PHÁP TRÍ TRỤ LẠI THẾ GIAN Hôm qua, nhân nghe chùa Diên Khánh ở Minh châu lễ bái Tọa chủ kết nhóm tăng nhập sám kỳ hạn ba năm đều xu hướng theo hỏa hóa, huống chi nay tăng truyền trì đại giáo đồ chúng đều nhóm họp về, làm thấy dẫn dắt thế gian, khai mở tuệ nhãn cho người trụ thế lâu dài làm lợi rất nhiều, liền mở thư rộng khuyến khích người khác, có trả lời thư trình bày đầy đủ chính xác ý muốn. Nay đã mời được đệ tử Trí Hoàn đến, đây là đệ tử trì giới của Đại sư Tổng Ấn Trừng Công, hiện muốn chuyên xét lựa thư từ đồng như nước mùa xuân kia, thỉnh sư Trí Hoàn một lần trình bày khuyến thỉnh. Trộm nghó thầy ta cũng đồng vãng sinh và giáo hóa ở phương Đông nam, phải nương cậy lời nói thật của pháp hữu, chịu lưu lại Đại só trú lại thế gian cùng nhau thứ lớp phân chia kỳ hạn, giúp đỡ xem xét thư từ, trước hết dẫn dắt những người có hoài bão như đây. <詞>DƯƠNG VĂN CÔNG LẠI GỬI THƯ LƯU PHÁP TRÍ TRỤ LẠI THẾ GIAN Ức viết thư rằng: Gần đây chuyên theo khuynh hướng nương cậy đã thông, nghe phụ thuộc vào tang lễ, ban đầu cố nhiên trình bày những điều trong lòng còn chưa thực hiện xong, hoặc là kính cẩn trình bày khuyến thỉnh kính mong trụ lại thế gian lâu dài, người tại gia xuất gia đồng kính thành, thầm hợp nguyện của trời rồng thuận theo lời vàng xa an ủi, trong lòng rối bong, chỉ bí mật giảng giải Thiên thai giáo, trách sai lầm đường dứt bặt, nhưng tuệ mạng Linh sơn có thể rộng truyền đăng (thắp sáng), xã hội bạn bè cùng nhau vui vẻ. Không ai thay nhau báo đáp. Còn lo lắng Đại sư chưa quên niệm cũ, còn chấp lời thề bên ngoài, tuy thuận theo sư thỉnh cầu giải thích, bên trong ý chí còn xác thực, huống chi nghóa thiên mới hiển bày, hóa độ cõi có nhiều chúng sinh nương ở, cầu đảo số kiếp tăng thêm tuổi thọ, dẫn dụ căn cơ dần dàn thuần thục, làm lợi tha rộng rãi, báo đáp ân sâu của Phật, kính thành phát lộ tấc lòng, may mắn giúp cho mọi người kính ngưỡng, cẩn thận tu tập trong mọi hành động thưa hỏi cúi mong quan sát cẩn trọng. <詞>PHÁP TRÍ LẠI TRẢ LỜI DƯƠNG VĂN CÔNG Tri Lễ suy nghó, mây tại quê hương của vua, báo dừng lại khi núi bị sương mù, tuy phân chia rõ ràng mà nói năng im lặng cách xa nhau, đạo nối tiếp tinh thần giao cảm, sớm tối tự gần đâu cho rằng từ tâm thấy rõ, ngọc khuê được đánh dấu nối nhau đem đến, ngồi cao sợ hãi dung mạo nghiêm trang, mở phong thư trình bày nơi giấy chữ viết đời xưa tươi đẹp rực rỡ thể chất kết thành một thứ mây trắng, hạng người kia chèo chống ngược sóng, văn chương vượt bực, phô bày bóng bẩy, khinh miệt người khác, chạm ngọc đặc biệt tìm tòi ý chỉ cao nhã, nghi ngờ lo sợ không giữ lời hứa, cần kíp nói theo Tri Lễ, sở học thông suốt, tình thường biện giải phân rõ kỹ càng, thông thạo việc khó, bờ cõi rộng lớn không cùng cực, muốn dạo chơi xem xét nơi quê hương bằng phẳng rộng rãi, nhờ đây mà kính ngưỡng, chỉ ao sen mà muốn rong ruổi, nhóm họp răn bảo để nói, cuối cùng tránh khởi sự dừng ứ hội họp ở Đốc thành, dần dần xem xét mình, dời đổi chí khí hăng hái, đã thông suốt thương yêu muôn vật, lời nói sai lầm đâu thể trở lại, bởi do bí mật xem xét quan Thị lang, tô vẽ giáo môn, trang hoàng nhà từ, chỉ sợ thay đổi tốt đẹp sáng suốt, tinh tường nghe tông viên đốn, thân tỏ hiên ngang, trên giúp đỡ nhân chủ, dùng đạo vắng lặng chiếu soi, có thể giúp Đức Phật, muốn tiến lên sau bậc hiền, đặc biệt gần làm khuôn phép chỉ nhận biết hành động suy nghó thông suốt điều này, đâu đồng với sách ghi chép dẫn dắt, như người khách dừng chân khóc lóc, dòng châu tuôn chảy, chưa đủ để tưởng nhớ, phong tặng bảo vệ người báo điều lành, chỉ hiểu biết phép tắc ngôn ngữ, tiếp nối trao truyền thông suốt, mong báo đáp sự khuyến khích. Tri Lễ kính dâng tôn từ hữu tình không tùy ý. <詞>THƯ PHÁP TRÍ TẠ ƠN LÝ PHỤ MÃ TRỤ LẠI THẾ GIAN (Phu Mã sách bị thất truyền). Tri Lễ kính nghó xưa cầu tạng bí mật, nhân tự xét tài hèn, nước chảy đá mòn, không mua bán danh lợi, kết cuộc nhìn kỹ trở lại nghèo, chỉ theo thói quen mong muốn vui vẻ, tính toán cân nhắc, từ bỏ thân như huyễn mới mong mau thấu đạt trí tuệ vô sinh. Há cho rằng khác xa vốn thường, liên quan đến nhau, từ xa chỉ bày âm thanh nhiệm mầu, lời văn khúc chiết, làm kích động khiến cản trở lối trở về chân chánh, chọn lựa chữ vàng ngọc như luyện đơn trong nhà, sáng suốt như cành vàng lá ngọc mãi mãi trong sáng, ngàn quân chưa nặng, ba quán sao nhàm chán, trở lại lo yếu đuối, dám nói những điều hơn người nhưng do Phụ Mã Đô úy là người đáng kính ngưỡng, làm phép tắc nước nhà, thần tình soi sáng phẩm cách khác xa, cảnh mới kham tướng ác, âm thanh trong trẻo phấn chấn tuyên truyền chưa thể cùng đi, vì tôn trọng đạo, quý người có hành động tôn kính khiêm nhường, đã có nhiều hình thức khuyến khích, sao bằng lòng đem lời ban cho, đó có lẽ là hết sức già yếu, hết sức ngu dốt, lại giảng lại nói may mắn nương nhờ lợi ích lớn, tôn kính cảm tạ hồng ân. <詞>THƯ PHÁP TRÍ CHÚC MỪNG DƯƠNG VĂN CÔNG ĐƯỢC TĂNG CHỨC HÀN LÂM Tri Lễ thầm xét vinh dự được kính thờ tôn tượng, đứng đầu nhà ngọc, vỗ tay vui vẻ, cùng cực yên nghỉ, không phụ thuộc theo, kính mong chúc mừng an ủi cung kính, quan Thị lang hàn lâm cao cả, do chứa nhóm công hạnh nhân đức, có đạo đức phụ giúp không lấy sắc đẹp hình dáng làm mê hoặc người đời, tính toán xoay vần có thể kém hơn Tử Phòng, ngay thẳng như người đời trước chưa mặc ý hướng về, cộng thêm ý chí mạnh mẽ cao vời, bảo dưỡng tình cảm như sách xưa chép, kết thúc văn thiếu sót trăm đời, soạn nghóa xét bộ, thử dò xét ngàn phen âm thanh còn sót lại, khảo cứu văn từ đến thứ bậc, chịu chứa nhóm, chuyển biến ghi chép các nguyên nhân đầu mối, bao trùm hình tượng bên trong của bác cực, cho nên đắc địa vị với Tam phụ, giúp tâm thận trọng con ngươi, đâu phải xem cỏ mà cho là cao cả hơn rừng hoa, ắt có thể chịu ăn canh mà ngồi lầu gác. Tri Lễ thẹn cho mình chẳng tài trí hơn người, chịu ân ghi nhớ, thành rộng lớn tông nhiệm mầu, sao đắm chìm ở đương thời, Bạch liên tịnh xã sáng chói thịnh vượng nơi rừng xưa, huống chi Thiên mạch mà xa hiểu tâm đầu ý hợp, nhưng còn trở ngại từ phía Tây vọng nhìn cửa nhà trọ, sơn tình không tin tưởng, sáng suốt đến chân thật. <詞>THƯ DƯƠNG VĂN CÔNG TẠ ƠN PHÁP TRÍ CHÚC MỪNG Ức viết thứ rằng: Gần đây khởi sự lợp nhà, nhặt nhiều sợi tơ xe lại bện thành hai lớp, lại nêu rõ dấu vết bên trong, vẫn đứng đầu, gần ngôi thứ, phụ thuộc gầy dựng hết sức to lớn, cố nhiên tính chất rất khô cạn, thường nối nhau ghi chép phân biệt rõ ràng, không thể trốn tránh từ chối mà không gắng sức để làm việc, càng tăng thêm sự chia lìa, nhận lấy lời chê trách. Giáo chủ Đại sư hướng khuyên răn đạo lý thân thuộc, sao tốn công gởi thư chúc mừng, ngẫng đầu trộm nhìn kín đáo siêng năng đầy đủ, chỉ biết tha thiết cảm động, giữ sự hổ thẹn, cẩn thận tu sửa bày tỏ sự cảm ơn. <詞>LÝ PHỤ MÃ DÂNG TĂNG DANH HIỆU PHÁP TRÍ , ĐÀM CHÂU GIỮ GÌN TIẾN CỬ PHỤ MÃ LÊN CHỨC ĐÔ ÚY LÝ HUÂN TÚC Tuân Húc viết thư rằng: Dấu chân trẻ con, thứ bậc quan chức, như vậy thuần thục đạo đức phong cách, xa ghi nhớ tên thành ngân thủy, sớm mở mang Mật giáo Thiên thai, hai chữ bán mãn ý nghóa sâu xa thuần túy, ngày đêm sáu thời siêng năng tu đạo không biếng nhác, tôn kính sự tu tập sùng bái, chỉ bảo cho mọi người hòa nhã vui vẻ xu hướng vào nhau, sáng sủa rực rỡ tinh tường, đáng làm đảo châu báu, thường thông thạo âm thanh, nhờ cậy khăn bát, gần đây gặp ngày giờ tốt liền cầu danh hiệu Trí giả, cung kính bày tỏ công ơn ban thưởng, xem xét cõi trần phiền nhiễu để không thuận theo mà làm hưng thịnh tông giáo, biên tập đạo thượng thức mà khuyến khích cùng khắp, tuổi pháp được an trụ, thọ mạng kéo dài, hộ trì bên trong phát huy thêm rộng, may mắn chỉ quán xét tâm từ bi của đạo, cúi đầu khẩn thiết thuận theo kết duyên, dương cờ dựng xây sự tình khéo yên ổn, bí mật trông ngóng ca ngợi như đá mài dao sắc bén, vì sao đã răn bảo kia ghi chép một đường, lần lượt truyền đạt thêm, thận trọng mọi hành động bày tỏ chúc mừng, bao gồm sự tra xét. <詞>LỜI BẠT CỦA PHÁP SƯ TUỆ CHIẾU TRẢ LỜI THƯ QUA LẠI Có người chết nặng như núi Thái, có người chết nhẹ như lông ngỗng, bởi lẽ ấy nên phải suy cứu nghóa thích hợp. Tỷ Can ở dưới thời nhà Thương, Ngũ Viên vào thời Ngu, Kỷ Tín thời Hán, cảm động lòng yêu nước cứu chúa nên những bậc trung thần này chết nhẹ như lông ngỗng. Quản Trọng thì cố chấp, Tăng Tử thì tránh giặc cướp, Tử Phòng thì ẩn núp, cố chấp trí sâu chí cả, cho nên chết nặng như núi Thái. Tiên sư Tuyên Ni có chế ra khuôn phép: Nói thì chắc chắn phải tin, hành thì chắc chắn đạt kết quả. Kiến thức hạn hẹp là tiểu nhân ư? Tổ ta thệ nguyện lúc bỏ thân trên mong Thiên Tứ biết thưởng thức, kế nữa tướng các châu biết giữ gìn. Khi chết thì hao tổn rất nhiều, khi sống thì làm nhiều lợi ích. Muôn một không rảnh rỗi để quan tâm điều này, âm thầm thiêu để vào hang sâu, thì cũng tin chắc là kẻ thất phu. Hệ phái của người trí, có thể làm hưng thạnh hay chăng? Ngày 19 đầu hạ niên hiệu Kiến Viêm năm thứ hai, pháp tôn truyền giáo của Đại sư Tuệ Chiếu soạn lời bạt. <詞>THẢO AM GIÁO UYỂN GHI LẠI NHỮNG VIỆC CHỈ DẠY QUA LẠI KHI TRẢ LỞI THƯ Pháp Trí đã kết hội Liên xã, thiêu thân nguyện sinh về Tây phương. Nội Hàn Dương Công Đại Niên nghe phong thái này sợ lụy đến thân nên khuyên thỉnh, nên gắng đến hỏi mấy lần. Có người hỏi Tịnh độ là cảnh giới của người nào? Có người hỏi Pháp Hoa, Phạm Võng đều nói cho Ma vương. Dương Công này dùng lý trình bày việc. Nhưng hỏi điều này Pháp Trí dùng sự tức là lý, nên đáp tắt rằng: Việc thấy nghe này không có đạo lý. Lại nói: Phật và ma cách nhau bao nhiêu? Sau này Dương Công cám ơn đáp: Cung kính nghe liễu nghóa, dứt sạch những điều hôn mê, vì đây là các bậc long tượng luận bàn, tiếp nối vận hùng như mây sấm, đây hoàn toàn là những lời tắt: Có nghi chắc chắn có tranh luận, không quan hệ đến nhân ngã. Đối mặt nhau chỉ bày, đạt được cội nguồn kia. Chỉ nói tông phong Thiếu Thất, nhìn cười bày đường xưa, cho đến Hoàng Bá ăn gậy đau đớn khôn xiết của họ Lâm Tế, Thuyền Tử chào Giáp Sơn. Dương Công này dùng thiền đoạt giáo. Nhưng Pháp Trí lại khải phát, đặc biệt không lãnh hội điều này. Vốn khi xưa Thiền giáo giúp nhau, nếu không được như vậy, thì biết thủ đoạn của đại Tông Sư phải tự có chỗ thể hội. Thư của Tiền Đường Chiêu Giảng Chủ dâng lên Pháp sư Tứ Minh. Tỳ-kheo Khánh Chiêu pháp môn Tiền Đường đem thơ đến, Tứ Minh giảng chủ lễ thượng nhân. Đạo của Thiên thai, tổ Long Thọ, y cứ theo Nam Nhạc từ đời Trần, Tùy đến Hoàng Triều, hơn bốn trăm năm. Long Thọ đến Kinh Khê chín đời, Kinh Khê đến chúng ta mười đời, trong thời gian đó, những vị tài giỏi xuất hiện, giảng nói tướng vọng, các bậc hiền xuất hiện rất nhiều, người học rất nhiều, người đạt được pháp môn này rất ít. Năm xưa có nghe, Túc Hạ thông hiểu đại thể bốn giáo, xây dựng cội nguồn Tam giáo. Thật đúng như lời dạy tu hành, chỉ có ngày nay không xứng đáng nên nói đạt được pháp môn này, nghiên cứu đến nay cũng không thêm, chỉ tiếc một điều là không gặp được một ngày. Đến khi thấy Túc Hạ quán tâm về ba trạng thái nghóa, quả nhiên thấy người hiểu sâu, nhưng lý sâu xa học hiểu rộng mà ý chí sâu sắc, có lẽ văn từ mạch lạc, tài hoa bộc phát, tìm cầu và có tài năng, lại khó làm được, những chỗ nghóa kết cấu này, tuy chẳng đồng với ngu, nhưng mỗi lời đều hiểu được. Nói lên sự kế thừa này, thì đâu có hại gì? Từng tónh lặng suy tư điều này, nếu người biết nói ngu cùng Túc Hạ, khổ tâm hết lòng vì pháp. Nếu người không biết cho rằng: Tranh giành cầu lợi, lại có những điều không biểu hiện thì có ẩn mất hay chăng? Nhưng có người ngậm miệng không nói, lúc này mới như vậy, đời sau nếu có người biết, điều này làm thế nào? Từ trước, biết Túc Hạ làm ra sao chép yếu chỉ, hiểu được mười điều trong pháp môn không hai, vì một lý sâu rộng, phân biệt sự được mất của hai nhà, hai năm trước tuy có hứa chỉ dạy, nhưng chưa thấy được văn này, tha thiết kính mong như đói khát. Nếu không ăn mà nói, thì chắc chắn có giản tuệ đến nói tôi hiểu biết rộng, theo sự hành viên mãn của tôi, đâu chỉ là tôi may mắn mà cũng là sự may mắn của môn đồ. Lại thấy Túc Hạ tôi dạy người không biết mỏi mệt, chẳng nói . Tỳ-kheo Khánh Chiêu pháp môn Tiền Đường. <詞>PHÁP SƯ TẠ THÁNH QUẢ SOẠN TỰA YẾU CHỈ Tỳ-kheo Tri Lễ pháp môn Tứ Minh, Xà-lê Thánh Quả Thượng thủ, mảy trần tiêu hết, cõi vui mừng thật xa xôi, yêu mến sự nói cười, đâu chỉ đói khát. Thầm nghó chỉ vì sự hưng thạnh nên thi hành không ngừng khảo xét kỹ, chắc chắn dùng điều này độ sinh không mỏi mệt, may tông ta không bị mai một. Ngày xưa chỗ ở rảnh rỗi do đó nghiên cứu giáo môn, tánh linh thuần thục, suy ngẫm hiểu được sự chỉ dạy, suy nghó Tứ trạch của Chu Lăng đã hổ thẹn, phân biệt lời dạy của Kinh Khê càng thêm xem thường, sao không luận bàn thêm các sách của các nhà Hiền triết, xuất bản lưu hành, kềm chế không ngừng, cho nên từ sở thích đó dám nghó đến các bậc anh tài, cũng được ban thưởng ngợi khen, thật là oai hổ nép mình dưới chồn, đến khi người trở về, cõi gốc nhục vinh y theo đây tiến cử, càng thấy tâm yếu sâu xa, đủ lãnh nhận khế hợp thành vô nghóa, ngóng nhìn cảnh giác. Không thể nói được. Tỳ-kheo Tri Lễ pháp môn Tứ Minh ghi, Xà-lê Bạch Thánh Quả. <詞>THƯ CỦA TỨ MINH GỬI CHO PHÁP SƯ CỰ Khoảng niêm hiệu Nguyên Phong ở phương trên Diệm khê có người giảng thông suốt, ông đến Tam cù ra mắt Pháp sư Trường Thọ Thủy, thấy trên bức vách của gia tộc đều của Tôn giả Tứ Minh trao thư cho môn nhân Cự Công. Ngôn từ, văn chương giản dị nghóa đạo tin phục hơn, nghiêm nghị như phong độ người xưa, đều ghi chép theo thể lệ chung, từ đây truyền bá. Sau đó, Tứ Minh trung hưng Đạo tổ đồ chúng lãnh đạo pháp nhiều vô số, chỉ có sở đắc của ông vượt hơn tất cả, chỉ có mình ông chiếm lấy bầu trời riêng, mới ở trong đó xoay chuyển thiên hạ, ngồi trên pháp tịch nghiêm chỉnh, thỉnh giảng hai lần. Tứ Minh nghe nói điều này ngạc nhiên, sau này tôi mới chấp nhận. Buổi đầu ra giáo hóa lãnh chùa Bản nghiệp ở Tam cù, Tứ Minh trao cho cây gãi như ý, đủ thấy hết lòng ấn khả cho người. Về sau đến kinh đô, chân sư nghe tiếng mời Ngài đến giảng kinh Tứ Thập Nhị Chương, nhân đó ban mệnh phục. Ngài trở về quê hương trụ trì chùa Phù Thạch. Núi này trước kia là Thiền sát. Trưởng lão Nguyên Huân nghe sư giảng đạo liền hỏi nghóa “Từ chân khởi vọng” vừa nghe giảng đã khế hợp. Ngài lễ Sư xin nhận làm thầy và bỏ viện này mãi mãi theo Sư tu học. Sư vừa khai giảng pháp đồ chúng nhóm họp rất đông. Sư mở rộng pháp đường, mở mang lời giáo hóa của Phật. Đến nay, đi đến Thai đạo Tam cù đều do sứ Sư, biết được sự ổn thỏa này rất là quý tiếc. Lại lời bạt và sở đắc này ở sau, không bao lâu Ngư Lỗ cảm hóa được, cho nên tôi bỏ trông nom quản lý, sửa lại như trước. Sau này mới có người chấp nhận, từ đây mới biết được văn trước. Ngày mồng một, sau tết Trung thu, niên hiệu Gia Thái năm thứ hai kính ghi. <詞>THƯ TỨ MINH GỬI CHO MÔN NHÂN LÀ PHÁP SƯ CỰ (gồm mười bức). Bức thứ nhất: Gần mùa hạ Tông Cự nhận được thư ông năm lần, sư nhận thỉnh của chùa Đông thiền ở Hoàng nham thuộc Đài châu, nghe cả Tăng lẫn tục hai ba lần đã động lòng mọi người và hưng thạnh giáo của ta, được vậy không mừng hay sao? Lần trước Hải Tạng Chủ đem thư từ Đông Sơn đến cũng có đề cập việc này, chưa biết bao giờ đến khai giảng ở đó. Ông đã nhận lời thỉnh ở đó thì phải nghe lời tôi! Hễ lập thân hành đạo việc lớn ở đời, mặc dù Nho Thích khác đường, nhưng đâu thể có khác nhau. Trước phải lập thân, kế nữa mới tính hành đạo, khiêm nhường hành đức. Các ông phải nắm vững điều này, khiến thân từ đây lập đạo, từ đây thực hành. Ta thấy người học trọng danh lợi, đều không thể nhóm họp đồ chúng lại giảng giáo. Các ông phải nhìn những thứ này như dối trá, thân sợ như lang sói. Điều này trước phải răn chừa. Sau đó mới tiến tu và siêng giảng, đâu cần nói nữa. Ngoài ra phải xem những quyển văn của nhà Nho, nghiên cứu rộng năm kinh Nhã ngữ nhằm chữa lại lời văn, không rơi vào những lời thô bỉ. Lòng ta trái với lời học này, thì thường hối hận. Ông còn nhỏ không nên giữ chặt những điều vụng về, mà phải học theo Xà-lê Viên để thực hành. Ta dặn kỹ nếu gặp Nguyên Thúc hãy trình bày rõ với ông ấy. Phật sự chấp chặt, thì nhân tình rối rắm. Xuân đến dần náo nhiệt phải bớt ngủ ăn ít làm chính yếu, còn những việc khác thì không nên nói, chẳng có Tọa Chủ nên giao cho Xà-lê Sùng Cự. Bức thứ hai: Hành giả Phù Thạch nhận được là biết thư ông. Trụ trì vô sự không có Tăng chúng, giảng nói liên tục, quan viên đều đến cúng dường rất dồi dào. Nhưng điều này tuy là việc ngoài, nhưng cũng là duyên cần thiết. Lại biết chuyên dùng Tịnh độ để nhất tâm, niệm Phật không ngừng, ta nghe điều này rất vui, như đói được ăn. Mong ông hãy tu hành thêm, mở mang truyền bá giáo pháp lợi sinh không nên cạnh tranh với người khác. Mình phải hạ mình tôn trọng người làm đầu, nếu ông làm được như vậy thì Thai giáo Tam cù xây dựng trung hưng. Việc trụ trì này, tăng Hàng Châu đến nói. Ông đã nói và hành đều giữ, cần phải lập chưa muộn, Nhân Nhạc có can ngăn viết cho tôi, ông có nhận được chăng? Than ôi! Tiểu tử ngông cuồng, chẳng biết nguyên nhân xác định điều này, mới không muốn đáp. Lại lo ngại người học sau bị y làm mê loạn, trong lúc bệnh viết ba mươi đến hai mươi bức thư để giải thích những lời phỉ báng này, khiến y biết con đường tắt giáo quán, sao chép chưa xong, thư sau sẽ thêm vào. Mùa hạ quá nóng, nên nghỉ thích hợp hơn, tâm siêng năng vì pháp tu và làm Phật sự, đó là điều cần thiết không bao giờ đủ. Bức thứ ba: Ta gởi gắm cho Sùng Cự, gần đây nhận được thư biết ông bình an. Ông nhận được viện Phù Thạch, tôi bớt âu lo không sao nói được. Hơn nữa nghe người Tiền Đường nói có nhiều điều tốt. Nay thấy bức sớ này ý văn rất chu toàn trong lòng rất vui. Hằng ngày ông đế tâm vào giáo quán có sự cảm ngộ. Mong bậc trí viên tông giáo hóa rộng ở vùng ấy giáo hóa chúng sinh. Nếu người đạt được thì đạo này hưng thạnh, người không đạt được thì đạo này diệt mất. Truyền bá rộng ở Tam Cù đều trông cậy ở ông. Ông hãy cẩn thận chớ buông lung, tâm khiêm cung độ sinh làm mô phạm, nếu được như vậy, thì phó thỉnh chủ dụng tâm của học só mới là báo đáp bản ý của Huân Công, cần phải sớm tối suy nghó kỹ mới thành tựu được lợi ích lớn. Tà phân biệt cho Tiểu Tử (Nhân Nhạc) cuồng khởi nghó không chân chánh, chấp trái là phải, lấy ngụy làm chân, sợ người đời gặp y sinh phỉ báng, làm rối ren Thánh đạo, cho nên ta cố gắng viết hai mươi lá thư này để giải thích, để y biết sơ về được mất, chỉ vì y giảng giải. Tuy từ lâu theo chữ nghóa, ghi chép để tranh luận tháo gỡ đầu mối để trang nghiêm cái thấy của ta, hoàn toàn không hỏi kỹ đại thể, chỉ tăng thêm hủy báng tông môn. Nay nhờ ông ta sửa thư này và trình sơ về tông nghóa mầu của ta. Nay dùng một bản thảo nghiên cứu kỹ với ông để thưởng thức. Ông muốn ta trao cho một cách ngoằn ngoèo. Nay văn trí viết chưa xong, dạy y giữ gìn ba nghiệp để mình và người được lợi ích. Người bỏ hết ra ngoài không có chỗ nào là Đạo. Nhờ pháp được an thân là điều không đáng. Bức thứ tư. Ngày mồng năm tháng sáu niên hiệu Sùng Cự. Ban đầu thấy hành giả Linh Diệu tháng hai đem thơ đến ông, biết quan liêu đích thân thỉnh, gọi là tăng được mời ở. Kẻ tăng người tục đều hường về, cung cấp các duyên tài chánh, mong ông cố gắng sức được, cũng là thực hành đạo của ta. Lại phải siêng năng tinh tấn làm cho việc càng mở rộng, nhưng trong tâm đừng nên chấp trước, thì truyền đạt Phật pháp mới thành công, phải kiên cố dựng lập, giữ vững mười phương, mãi mãi truyền viện giáo quán Thiên Thai. Đã có Hạ Xá Nhân ban sắc lệnh thỉnh, châu phủ thuận theo sắc lệnh để thi hành, mọi việc đều kết thúc trong văn từ, khắc vào trong đã mãi mãi thành thể thức mới nghiên cứu được. Thấy văn chương mạch lạc đều do kia, cần phải sáng sủa, y lại là người học có khả năng thành bậc pháp khí. Ngoài ra còn phải điều thân an ổn thì tự nhiên mở mang đạo hưng thạnh, còn lại những điều khác phải đầy đủ. Bức thứ năm Sùng Cự lần lượt nhận thêm thư của ta, chắc chắn lãnh hội được, tạo dựng xong chẳng ngại người bao nhiêu, không cần giảng nói, đối với giáo tỏ được công phu không chấp giữ văn nghóa, nhưng lấy sự tiến tu làm sự nghiệp, giữ giới làm đầu, người được như ông thì ít, chỉ mong ông truyền bá chân đạo, nếu buông lung thì hỏng mất. Ta đối với những việc khác chẳng âu lo, chỉ lo cho giáo quán không có người truyền bá bị mai một, ông phải nghó đến điều này, phải biết ý chí của ta. Đầu mùa hạ tu phương tiện, mong ông thầm nguyện chư Phật giúp đỡ, lúc đó đem bản thân nói cũng chẳng được. Bức thứ sáu Sùng Cự ở Chương An gần đây thế nào? Trong hạ có bỏ giảng hay không? Tự lợi lợi tha lợi ích chăng? Người thấu rõ được đạo ta chẳng mấy ai, mong ông hãy truyền bá để đạo được rộng khắp. Sau cùng không nên làm dứt mất hạt giống Phật. Thời gian ta sám hối gần đủ, gởi lại đời không còn tiêu dao. Qua năm này, ta muốn dứt các duyên, quyết tâm nghiên cứu lý và nhất tâm sám hối tu hành, cho nên dẹp tất cả chỉ cầu dưỡng tinh thần, ở mãi trong dụng. Ông hãy đến nơi kia mong ông truyền đạo, trong mỗi lời cùng với môn đồ ta để mỗi người ưa thích thực hành. Từ đây ta vừa về không cần tiễn đưa về Tây, mong ông tinh tấn giáo quán. Hành giả siêng năng phát triển, trang nghiêm Tịnh độ, mong đời sau được túc nhân chứng được nhiệm mầu, việc này ở chỗ điều phục tâm, nhưng ông tự biết ý chí ta không cần nói lại. Hai ông ra đi, tạm viết ý này để truyền bá, không cần phải biết, không thể nói hết. Bức thứ bảy Xà-lê Sùng Cự từ lâu không nhận được thư, gần đây thế nào? có nghe đã đến Bản Nghiệp Cảnh Đức giảng nói, Tăng tục đều đến nghe rất đông. Phải biết Thành Hoàng không bằng huyện nhà, lại là chỗ của Thọ Nghiệp, trên dưới khó giáo hóa, phải hàng phục ý để độ sinh, nói lời ái ngữ luận bàn điều chân làm cho người nghe đều vui mừng và được lợi ích. Trí biện luận của ông đủ để dạy chúng, nhưng sợ chúng trong chùa có người thấy hành động cử chỉ của ông không được thanh liêm, hơn nữa sợ đàn tín thấy điều quen, lại sinh tâm phỉ báng thì dạy không được lan rộng, càng phải hộ trì, thì đạt đến chỗ tốt đẹp. Ta sám hối sắp mãn nguyện chưa xong, các chướng ngại lẫy lừng, ta không thể bó được, nhưng vì giáo tạng chưa viên mãn, sợ sau này đồ chúng của Sư dạy học khó khăn, cho nên nhẫn hết sức cố gắng cũng thành công. Nay bảo người học đến nước ấy, hóa duyên và in Pháp Hoa kinh ký, tha thiết khuyến khích môn đồ kết duyên nhiều hay ít để cho tâm chí ta được mãn nguyện. Ngoài những việc này ra thì nên thư giãn thân tâm, không nên để sinh bệnh, chức mừng ông, chúc mừng ông, chẳng thể nói hết. Bức thứ tám Sùng Cự gần đây nhận được thư ông, biết ông ban đêm giảng Quang Minh, ban ngày luận bàn Chỉ quán, vì đạo đã siêng năng nghe giảng tôi rất mừng, lại còn biết ông xây dựng tăng đường, chắc chắn là tôi an tâm đến Tây Khê. Đã nói người bất an thì phải thường uống thuốc, lễ tụng cầu nguyện cầu Phật thầm che chở. Tuệ Nam đã an bày ở giảng đường, chỉ vì theo chúng học tập, lại còn ngại gì lãnh hội ư? Đã luận bàn về sự bao dung tâm giải thoát, nay còn trả lời thêm hai ba câu sau, thâu nhận trong ba đời, chắc chắn không trái nhau, đâu không chỉ nói văn ba đời ngại nhau, đâu cần vặn hỏi nhiều, có thể nói tấc nước trượng sóng chính là tâm này. Phải tiêu hết đi mới truyền đạo thông được. Bởi mượn việc để răn ông, hàng trăm cử chỉ thi vi đều phải làm y theo đây. Giáo quán của Sơn gia đều nhờ ông mở mang truyền bá che chở, ông phải nghỉ ngơi mới được, nhiều lần thân an đạo hưng thạnh, ngoài ra không còn gì để dặn dò, không thể nói hết. Bức thứ chín Luận sư Sùng Cự chưa gặp mặt ông, chỉ mười sáu năm không nhận được thư ông cũng là mười năm vậy. Hôm qua, nghe ông từ Tây đến Kinh đô, vội vàng kêu gọi thuyết giảng và ban mạng y, thật là một điều tốt đẹp cho môn đồ ta. Gần đây biết ông về Thiên trúc giảng, rất hợp với tâm tôi, lần này thư đến cởi mở tâm niệm của tôi. Điều quan trọng thường dùng lòng từ để độ sinh, nhưng phải dùng hương hỏa làm duyên, dùng chỉ quán làm sự nghiệp. Không thực hành mà chỉ nói là tôi rất buồn. Nếu vì pháp phải thực hành lợi ích. Ngoài những điều này ra không nên thích nghi với ông ta, phải khéo điều thân, còn lại không cần kể kỹ, không thể nói hết. Bức thứ mười: Ta gởi thư cho Sùng Cự ở Phù thạch, hơn bốn mươi năm ta truyền bá giáo quán, đã nói vui ở trong đó, bất chợt già đến, gần đây bệnh liên miên, cơ thể đều đau nhức, chỉ có không mầu sâu xa thấu suốt được tướng sinh tử. Tướng cũng chẳng phải tướng, đến đi thường chân, đây là yếu chỉ nhất tâm ba quán. Ta ở đó nắm được dạy người, ta nguyện làm nền tảng gặp Phật, ông sớm đạt được văn tự, sớm dự vào hàng truyền bá, phải cố gắng lại truyền cho người sau. Ngọn đèn tổ chiếu khắp, hạt giống Phật không mất, nếu người nương vào đây thì thật là môn đồ của ta, bỏ điều này làm ngược lại thì còn điều gì để nói? Sắp đi nên viết điều này không biết được, phải thầm thể nhận quán sát, không thể nói hết. <詞>ĐƯA THƯ CHO XÀ LÊ BÂN Giao cho Xà-lê Nguyện Bân, xưa ta có duyên pháp được kế thừa truyền bá hơn bốn mươi năm, đạo đức chưa được vang sâu xa cho nên hổ thẹn ông sớm mở mang truyền bá giáo pháp làm chí lớn, từ lâu ở hàng hạ tọa đã truyền xướng lợi người, hơi được khen ngợi. Nay ta già bệnh gần kề, không thể luận bàn với các ông, các ông phải cố gắng làm hưng thạnh thời Tượng pháp, Mạt pháp, không nên chất chứa danh lợi. Tự nghó gần ra đi không thể viết xong, tạm tiêu khiển điều tốt này tự nuôi dưỡng mến tiếc, không thể nói hết. Chủ tọa Diên Khánh trao cho Xà-lê Nguyện Bân. THƯ CỦA THƯỢNG ĐẠI LÔI AM TRƯỜNG (gồm hai bức): Bức thứ nhất: Cao Nhân Phùng Bạch Am Trường, pho tượng khác nhan sắc, chốc lát biến thành tinh sương, luống nhọc thêm ngôn ngữ, ý niệm, hơn nữa không lễ vật đề chữ trên phong bì, điều quan trọng là vâng theo cử chỉ hành động, thì được an lành. Sắp đến an cư, lại hy vọng vâng theo lý, chỉ yếu nhiễm sau, từng có thêm vào, tuy sửa chữa rất nhiều, hơn nữa cân nhắc nặng nhẹ có y cứ, mong lúc rảnh sang cùng nghiên cứu sở. Thời nay ít người thông minh, đâu chỉ dựa vào đây thưa hỏi mà không nói. Tỳ-kheo Tri Lễ kính bạch Đại Lôi Âm Trường. Bức thứ hai: Trong khi sám hối, chợt nương vào bậc hiền phát sinh năng lực. Trưởng lão Am Quy Chân Tịch kinh ngạc xót xa từ lâu chưa hề biết được chính mình. Thì đạo nhân đi đứng là điều bình thường, chỉ vì từ lâu thấm nhuần lòng từ bi, gặp nạn thì xót thương bình đẳng, tuy sớm đã thuần thục giới, định, còn phải nhiều lần tụng niệm làm tư lương. Ngài Trí Giả còn bảo đệ tử thường lễ sám. Tư lương là nơi sinh ra ta, ở trong am thường rỗng sáng đâu cần nói thêm. Tăng sám pháp là dứt chúc mừng thăm hỏi, tình cảnh không xen vào, cho nên phá nghệ thuật chế tác đơn giản. Hỏi nhau bảo người đưa hai cây nến, đốt một hai cây hương, hy vọng may mắn được cúng dường. Tỳ-kheo Diên Khánh Tri Lễ kính bạch. <詞>THƯ GỬI CHO PHÁP SƯ THẦN CHIẾU Tam Thuật ít tu, nổi tiếng đến triều Ngạn, Tầm Mông, Đế Trạch đều được ban y tía, hổ thẹn không được vinh hiển, nhọc gì đến chúc mừng. Ông phải tu sâu và thực hành, ẩn tích mai danh không rơi vào hàng tăng Hiền thánh như ta. Diên Khánh trao cho Pháp sư Đông Dịch Như. Hữu Pháp Trí, Pháp Thiếp viên tịch cách đây hai trăm năm, khi đọc lại còn sợ hãi càng cung kính. Mấy lời đưa người học đến mảnh đất an vui, cũng đủ thấy dụng tâm của các bậc kỳ túc. Vào Mãnh hạ Đinh dậu Pháp Tôn Diên Khánh Huệ Tuân kính viết. <詞>TRAO THƯ CHO PHÁP SƯ DIỆU QUẢ Luận sư giảng chủ Diệu Quả Văn Xướng thời gian qua mau nến pháp lại tăng, năng lực giác ngộ của đồ chúng kém, chưa chứng quả được. Tôi thường nghó việc thay đổi báo thân dựa vào người thù thắng. Ngày hẹn đã đến ta sẽ ra đi, ông phải cố gắng tiến tu, vì pháp chu toàn, hai Lợi đều thực hành, ba Không không trái nhau, phải đạt được quả mầu ngay đời này. Dù ta sức quán chưa đầy đủ nhưng tâm có chỗ đạt đến. Xuất xứ nói và làm dám lìa chỗ an nhàn của Trí giả. Thường lo văn Sớ mười sáu pháp quán, người giảng lý sâu xa cho người học rất cạn, rất gần gũi. Pháp đã không xứng đáng, giống lại không mạnh, cho nên dẫn đến chỗ lo buồn. Nên phải sao chép riêng, ông đã dụng tâm giống với tôi, cho nên viết thêm hai quyển. Nghiên cứu nếu có được tư lương, hoặc có chỗ nào khác ghi thêm gởi đến, ngoài những điều này còn phải điều trị thân tâm để trở thành hạnh nguyện, còn lại thuật thế nào? Lão tăng Đạt Xướng Công lãnh nhận. Tôn giả Hựu Pháp Trí được ban thưởng quả mầu Vónh gia. Pháp sư Thỉ Tổ Xương Công, giảng chủ Chân Tích Giai Công thâu thập báu tạng chứa được nhiều năm. Xoay sở tiến đến hội ngộ, được chiêm bái kính lễ, nhiều lần nghó đến lòng từ chỉ dạy nước mắt rơi mãi. Phàm báu của Hàn Mặc chắc chắn có thần che chở; cục đá chiếu sáng đều có sở nguyện. Giữa mùa xuân Đinh Dậu niên hiệu Thuần Hy, Tỳ-kheo Pháp Tôn trụ trì chùa Diên Khánh kính cẩn ghi. <詞>THƯ GỬI CHO VÓNH AN TRÌ SƠN CHỦ Bức thứ nhất. Sơn chủ Trí Điệt hôm qua đến thăm, mời nhau mãi từ mùa hạ đến mùa thu, tin chắc rằng thân an đạo còn mãi. Nay biết bùn lấp đầy hiên nhà, không dễ gì chỉ huy được. Trong khoảng này những vị tăng hành khất phải ở nhờ mong được tiếp nhận, và hy vọng được khuyến khích. Bốn chúng quanh năm bỏ phiền não càng hết sợ hãi, đã là pháp thuộc, không tránh nghi ngờ chê bai, thích hợp khéo nhiếp hộ, tương lai có nhiều việc tốt. Không nói nữa, Pháp quyến Đạt Vónh An Sơn chủ. Bức thứ hai. Điệt Trì Công Viện Tể của tôi, đến mùa thu vui mừng, khỏe mạnh tu tinh tiến thành gương mẫu, hôm qua đều ngủ nhờ danh lam, đợi dần dần gặp nhau, nhưng mắc bệnh ngu dốt, lại uổng nhọc kế thừa. Thấy tình cảnh pháp thuộc, cảm thông việc chia ra mùa lạnh, nay hai vị tăng lại đi xem xét, lại muốn ấm áp, hoặc đàn việt đăng môn cũng mong được khuyến phát, người trước mình sau là dụng tâm của bậc Đại só. Ngoài ra đều khéo che chở hành và tàng, siêng năng thu thập, trụ trì hưng thạnh, giáo quán được truyền bá, không cần dặn dò gì khác, không nói nữa. Tỳ-kheo Hành ngu pháp Quyến sơn chủ Đạt Vónh An. Bức thứ ba. Sơn chủ Pháp Điệt thêm tuổi đạo, lợi ích cho đạo, nắm vững lý kinh, tin chắc là thành tựu. Hai ông ở viện chấp trước công phu, đến đây không nhọc lo lắng. Khất só phải ở nhờ, hy vọng được chu toàn. Mùa thu vẫn còn nắng, điều quan trọng phải biết điều hòa, để có ngày thành tựu hạnh hai Lợi, hoặc vào quận thành, hy vọng gặp nhau ở viện, không nói nữa. Lão Thúc Thành Ngung Đạt Thượng cháu tôi là Sơn chủ Vónh An. Đại sư Hữu Tứ Minh Pháp Trí môn nhân là Như khải tiếp thỉnh tôi làm lời bạt. Ông không nghe những hàng siêu việt hay sao? Tôi xa nước đã lâu, gặp người giống người nên vui, cũng không cảm thấy xa lắm, chiều sâu của Tư Nhân đối với Đại sư Hỷ Khứ, tiếng tăm Đại sư Tư vang khắp từ lâu nhưng nay mới thấy được bút tích. Rõ ràng bình sinh chẳng khác nào người giống người vui mừng khôn xiết. Năm Ất Dậu, niên hiệu Càn Đạo ngoài môn nhân là Đạo Nhân kính ghi lời bạt. Tiếng nói của tâm là chữ viết của tâm, Diên Khánh đến đây được lễ Tôn giả Pháp Trí Chân Tích Như. Nước không gió tự nổi sóng, chợt có người nước Tấn đưa ra lời người xưa: Phong Vận Lão Thư rất hay, mà mây đời khác người học kế thừa. Kính đề quyển cuối, cải đán giữa mùa hạ năm Canh Tý, niên hiệu Thuần Hy. Pháp Trí cùng người cháu viết lời trước: Hai ông chấp trước vào công phu, ngày sau thực hành hai Lợi, đối với người thường nhớ, đối với đạo không quên, bởi còn sót lại giới thệ nguyện, trăm đời của sư. Ngày mồng tám tháng tư, niên hiệu Càn Đạo, La Nguyệt Đàm Oánh kính ghi. Tôn giả Tứ Minh, cội nguồn đạo đức chắc chắn không lường biết được, nhưng người học đều kính ngưỡng cao phong, dù một một chữ, người đạt được như lượm được ngọc báu, cho đến có hải đường ngọt không bị hư hoại, sự ổn thỏa này lưu lạc vào nhân gian, người đời ít ai thấy, nhưng Giai Công đạt được điều này không dám thất lạc, nhờ tìm lời bạt ở hai ba tông tướng, mượn dùng bất hủ. Than ôi bài minh ngày càng mới, tức chẳng phải mâm thuốc, thì chẳng biết bài minh của ngài Tư Đại thì chẳng trù tính trước được, cho nên không biết được huyền diệu tâm truyền của thầy trò, thì cũng nghó ra được điều này. Đời khác gặp nhau gần như sáng tối, nhưng cũng là điều nhiệm mầu trong Thánh giáo. Thần kỳ nhưng sáng tỏ vẫn tồn tại người này, hơn nữa đâu chỉ thần vật hộ trì thôi. Thuật Trai Triết Trừng Thanh Khanh kính ghi lời bạt, ngày mồng năm tháng tư năm Nhâm Tý, niên hiệu Thiệu Hy. Pháp sư Thượng Tứ Minh Sám chủ Thiên Trúc viết hai lá thư Tông chủ kính lễ Tứ Minh, ngô Huynh ngưng thần đạo thể an khang, nhưng biết tu sám khai giảng thuyết, nói hạnh hai môn lợi mình lợi người, một ngày cùng vận chưa có hai. Đã được giáo thừa, cung cấp một đời, kết giao tình thâm không ngừng, cũng nói đến hạnh truyền thành tựu của ta. Huyền nghóa xiết bàn, để chấp nhận đổi thành một khối, nay lại nhóm họp tăng thêm đông, được hai trăm bảy mươi vị thông thạo và tiến cử thêm bốn trăm vị. Hai trăm và bốn trăm đủ tạo thêm danh nhân không thể thay đổi được. Nay hy vọng nương tựa để tăng thêm người viết. Lại nghe huynh nói bỏ hai câu chết đương danh, đổi Khưu Công làm bản viện cho Tăng chúng rất tốt. Nhưng Khưu Công đối với bản huyền nghóa này chỉ bỏ câu đương khắc tạo, không cần nói là mộ duyên khác với bản sớ kia, phải để mộ duyên thì phù hợp với Ngô Huynh. Nói hai chỗ giảng viện đều mở mang truyền bá kinh điển này đó là để người sau tiến tu. Như văn đã định, lại tính cắt bớt thì không được rõ ràng, đều làm theo sở trường. Luân Công sợ mười chín điều này đưa ra, chỉ còn một bản nêu ra luận bàn nghóa, cũng tính theo tình ý của y. Nay chỉ bảo giữ nguyên bản Phạm, nếu hy vọng để khuyến khích y thì về núi không nói, xin kính lễ. Bức thứ hai. Đại sư Diễn Bạch Pháp Trí, ngô huynh gần đây được tuệ thư và tân ký, đốt hương đem ra đọc, đến đoạn bình phẩm vui mừng được an ủi, đủ biết được điều này. Liệt đệ từ Hạ đến Thu, bệnh lao nằm mãi không tụ giữ gìn được. Nay ở trong bụng tụ thành khối, giống như gánh cục đá, trăm thầy ngàn thuốc bệnh cũng không bớt, mới biết nghiệp duyên quá khứ, nay phải gánh chịu. Nhưng đến khi chết không còn gì để nói để ân hận. Quả thật chỉ tốt một mặt nhưng sau chịu ly biệt. Kính mong ngô huynh là người thông minh mà còn ít người tu tập nghe giảng. Nguyện được an ổn mãi để mở mang truyền bá đạo này. Nay đối với lời dạy của sơn gia trong biển tộc giáo chỉ có một mình huynh thôi, chẳng phải lời hoang đường. Tiểu đệ đã hợp sức xây dựng ở đất này đạo tràng Thiên trúc, để sự truyền đạo thông đạt. Từ Pháp sư Chân Quán về sau tất cả mấy mười đời trụ trì đều là bậc tăng Hiền thánh chỉ dạy. Quán sư sớm kế thừa Thiền sư Thiên Thai tức là Bách Lục Trần Bách Trí là tiến cử hai Pháp sư Chân Quán Tuệ Bội. Nay làm đạo tràng Trí Giả chẳng phải tình cờ đến, bởi kế thừa dư thừa này. Nghi tượng Cửu Tổ làm ranh giới cho thiên hạ, muôn quyển giáo kinh đã có thí chủ lo, thay nhau nhiễm ấn, nhà cửa tăng ở vật dụng đầy đủ, nhưng chưa có lan can chánh điện. Nếu khu vực hình thành nhiều thắng cảnh thì khách sẽ vãng lai. Nói về thiên hạ chăng họ đã quý những người ở đây. Nay muốn thỉnh người hiền trụ trì. Hôm qua, nhân lúc bệnh nặng gọi họ đến để gặp, những người đàn việt của chùa một lòng đồng nguyện, trong ngoài đều vui mừng, cũng là duyên xưa, đã nhận sớ tiểu thỉnh của ông, là y cứ khăng khăng mà nói, chưa biết rõ bản giảng của Tứ Minh, không còn chỗ nào từ chối. Nay thấy cầm đại sớ bản châu, nên đến kính thỉnh. Đầu mùa đông trước sang thưa hỏi Tứ Minh, huống chi Sư huynh ta hằng ngày lấy sự giảng kinh làm bản tâm, thêm đắng miệng. Thúc giục y bước ra phiền phức khắp hội, diễn giảng đại giáo, cũng là phát huy sáng rỡ nhà ta. Việc này hoàn toàn không phải chuyện riêng tư, không bàn riêng về họ và nói lỗi của họ. Đông Sơn chắc chắn bảo Tổ vận đến kia giảng, cũng giống lượng tài. Nếu được mấy chỗ giảng hương thơm không dứt, chết cũng đâu tiếc. Liệt đệ mùa đông này ra đi, mong nương năng lực Tịnh độ của Sư huynh ta để ta được dự vào mạt phẩm, thì sẽ có lúc gặp nhau. Nhưng nay bó tay đợi đến, gần mở được bài minh của Hà Tháp và dặn đệ tử, trình thêm bản đá cho Tống Ai. Nhưng bản vai Tống Ai tuy là đường nhỏ, dùng đó để răn dạy người học dường như có chỗ bổ ích, rất may được xem qua và xem đến quyển Tân Ký thứ ba, mong được thêm vào, trước khi chết thấy được, thì sự ra đi này e có được ít tin tức tốt. Tạm biệt, tạm biệt xin bái bạch. Pháp môn của hai Đạo sư Pháp Trí và Từ Vân sát cánh bên nhau, cho nên nói trí tuệ thông đạt, khéo biết đường hiểm mở thông cản trở, nhưng cung thương nói với nhau, vàng ngọc hài hòa đều khen ngợi giúp đỡ tông Thiên Thai, là người có sức, từ đó mọi người biết bỏ ác biết làm lành, đến nay Đông Nam gọi là dễ trị. Môn nhân viết điều này là muốn khắc vào đá, thỉnh tôi soạn lời bạt, nhưng Trí, Xuyên Đan đều về Đông, dùng sức để viết, ôm hết bóng nước ánh cảnh thôn dã xuất quán mà đọc, tưởng tượng hình dung cử chỉ, cảm kích trong lòng, hứng thú nên viết. Tháng giêng năm Bính Tuất, niên hiệu Càn Đạo, môn nhân kính ghi lời bạt. <詞>TỨ MINH GIAO BẢN VIẾT CHO MÔN NHÂN LÀ PHÁP SƯ TÔNG Luận sư Giám Tông ở quê nhà thân tâm có an vui chăng? Tình cảm bà con có quyến luyến chăng? Có xa cách danh văn lợi dưỡng hay chăng? Đã học Sơn gia thì phải khác người thường, lý sự phải tu và thực hành tự lợi lợi tha, như vậy mới là con cháu của Đại sư Trí Giả. Năm nay ta đã xong việc, chỉ nghó về Tây, các duyên để lại. Quả thật nếu chưa có ý chí này, nhưng kế hoạch truyền giáo đạt được cao siêu, thật đáng âu lo. Nay sai hai vị tăng đi, câu đương nhiễm trong bản kia mong ông soạn sớ, trở thành lời dặn dò quan trọng, không thể nói hết. <篇> <卷>QUYỂN 6 Hai Sư ở chùa Diên Khánh lập mười phương trụ trì truyền giáo quán tông Thiên Thai, giới thệ. Từ Sử Thiếp ở chùa Diên Khánh. Hoàng Tống Minh Châu Tân Tu Báo Ân Viện Ký và Sử Văn Tuệ Vương ghi lời bạt. Thượng Tằng thái thú khất thân tấu hậu viên địa thư và Thảo Am Pháp sư đề lời bạt Khất Thánh chỉ thân Lễ bộ Công Cứ. Tam Tỉnh đồng phụng Thánh chỉ. Thánh chỉ bản châu xuất cấp Công Cứ. Tứ Minh Đồ kinh ghi lai dấu vết chùa Diên Khánh. Tăng Lỗ Quốc Tuyên Tónh Công Từ Đường Ký. Tứ Minh Đồ Kinh Ký Tuyên Tịnh Công Từ. Tằng tướng công phủ chùa Diên Khánh trí trang điền thiếp và hai Tri phủ Lục, Tiết soạn lời bạt. Triệu đãi chế tác kỷ tặng Đại sư Pháp Trí thi đề lời tựa. Đông kinh tăng chức ký tăng Pháp Trí hai mươi ba bài. Pháp sư Tứ Minh tuổi thọ phục môn nhân thần chiếu tác trí ngữ. Tôn giả Trí Minh truyền trì thành hai mươi chín đời Tổ Sư. Tôn giả Trí Minh sai vị tăng Nhật Bản đi tìm kinh Nhân Vương Sớ Pháp sư Thần Chiếu ngộ kinh vương tụng. Môn nhân của Tứ Minh là Pháp sư Linh Xuyên Tịnh Giác. Pháp sư Diệu Ngộ Phổ Tứ Minh Túc Bình Báng Thư. Am tranh giáo uyển di sự ký pháp trí giảng quán. Ghi đệ tử của Tứ Minh trở xuống tính thành mười loại. ----------------------------------------- <詞>HAI SƯ LẬP CHÙA DIÊN KHÁNH MƯỜI PHƯƠNG TRỤ TRÌ TRUYỀN GIÁO QUÁN GIỚI THIÊN THAI LỜI THỆ Tháng bảy mùa thu năm Bính Thân kế thừa viện cũ trải qua mười năm mời trùng tu được đến năm Kỷ dậu mới xong. Thạch Công và Lặc Thạch ghi đến năm Nhâm Tý là mười bảy năm, thì đều đến học được. Hai Sư đồng tâm cầu Phật, khi mạng sống hết mới thôi, chiếu sáng giáo môn sơn gia đã nói lại, sợ tuổi thọ ta không được, bèn dặn dò viện cho các bậc hiền sau, chỉ có người khéo kế thừa ở, truyền nhau mãi mãi, chẳng phải con cháu, liền làm bài giới thệ để không trái lời dạy, nguyện đưa tay cứu giúp đệ tử. (Lập thành Huyền bản Từ bản, thường chuộng các bậc Đại đức có tài như Đàm Tuệ, Đàm Giác, Bản Thuần) làm giới thệ. Do đó, chúng ta là tiểu tử, đều lễ bái thọ mạng, tháng hai khắc vào đá, vẫn còn. Nhị sư là Tri Lễ, Thứ sư là Dị Văn. GIỚI TỪ Ta chỉ hổ thẹn với đức, làm thầy các ông không quên Tam bảo, đều kế thừa lời chỉ dạy. Ngày xưa ta thọ giáo quán của Đại sư Trí Giả với môn sư Bảo Vân, chẳng muốn nhận với người, vì không làm ích lợi cho mình tức là còn ở dưới vòng Tiên sư. Đã có người thích học nhóm họp xung quanh ta, danh suông thật mất buồn bã mãi. Đã gặp rừng hạc, mới dời về chốn cũ chùa Càn Phù ở Tiểu viện Tây Thiên, có chỗ ngủ nhưng không có chùa, học chúng biết ở đâu. Nhiều quá không nơi dung chứa, lại thấy chợ gần sát, thật là không thích hợp ở lâu dài, liền tìm cách đến ngụ Đông nam thành này. Chợ hoặc rừng vắng sung túc thì ở. Đã nếm đủ mùi gian nan, nhờ yêu cầu chu cấp, chỉ nghó đến truyền pháp, không hề có tâm niệm khác, gần đây có tu bổ lại được rộng rãi và xứng với tài năng giã gạo. Tự bản thân thông suốt, thích hợp với truyền trì. Sắp đến tuổi già không bổ ích được, đến đâu được gì? Đều do đức mỏng tôn vinh giai vị sức ít bảo trọng. Năm tháng dần qua, bít lấp tâm ta. Diệu tông của Sơn gia, hoàn toàn không biết gởi vào đâu. Than ôi! Ta hận, sống không duyên để hiểu được chết, luận bàn trái với vật, xe lớn cùng vận chuyển mới tiếp đãi người. Chúng ta phải giữ chốn giảng này và biên tập giáo văn, ngưỡng vọng cung cấp cho bậc hiền sau dùng đây giáo hóa mãi, ngọn đèn pháp thắp mãi soi sáng không cùng, âm mầu trống pháp vang xa rồi có dứt. Pháp Hoa hoặc ruộng hoặc làng, Niết-bàn hoặc cây hoặc đá, Phạm Võng bảo dựng lập, Đại Tập nói thông hay. Ta mượn duyên nhiệm mầu này, bổ túc một ít vào sự truyền hóa. Ông đã là môn đồ của ta hãy vâng lời ta, không cần phải âu lo hoài, hãy nhận lời chỉ dạy này. Huống chi Đại sư ta là bậc Năng nhân đưa ra những điều này. Nghe ba tháng thay chỗ ở, không ở tám chỗ nhơ uế, con cháu thầy trò, chẳng nên dung tục như thế. Bốn thứ cần dùng chung cấp cho ai? Nếu biết gánh vác giới kinh, sư nghiêm vâng giữ theo đạo, thì ở vị lai không cùng ông rơi vào thiêu đốt. Hay là ta buổi đầu dùng tâm theo mười phương, nhận trụ xứ này, đợi đến khi sửa sang khang trang thành nhà, vốn là nơi nhóm họp tu học, đâu dám nghó đến chuyện riêng ư? Trẻ con còn biết điều này, từ xưa không sai. Nay ta bảo ông không nên khởi niệm nhơ vì tự mình xấu hổ. Từ ta về sau, ông không nên nhìn lại chỗ ở này mà phải nghó đến mình, huống chi là chỗ sáng tối? Ta làm chủ mọi việc, đã cấp cho mười phương, còn không chia cho Ta, huống chi của người khác ư? Nhưng Đại đức của tông ta, đủ năm điều không chọn gần xa, ta sẽ trao chỗ ở này, sau này mưu tính phải đúng: 1. Những người học lâu ở Thiên Thai, việc gì cũng đều giảng; 2. Nghiên cứu kỹ nghó sâu, lánh xa sự luống dối phù phiếm; 3. Giới đức vang xa, mình luôn tiếp đãi người đúng; 4. Lánh xa vinh dự không nên khuất phục đạo ta; 5. Văn chương luận bàn hay, hướng dẫn thông minh. Vì sao đều giảng là phản bội lời giảng của ta? Vì phù ngụy thì truyền sai, giới đức thì giáo hóa đạo sáng ngời, xa vinh dự thì chắc chắn đưa đến sự nghiệp, nhưng sau đó dùng nghóa luận biện, dẫn dắt được người. Năm điều đâu thể tăng thêm, dù cho không luận bàn đến được. Than ôi! Ông đối với các nhà hiền triết, có người đủ đức này. Giới ư? Cũng không ở lại, sẽ cưỡng ép những điều nghi này phản lại lời dạy của ta. Nhớ trước kia điều tài này, về sau cũng làm cho ông nhớ nghó đến con cháu làm ngăn ngại đường Thánh hiền của ta. Nếu không như vậy cũng làm người sau nhận em ta. Ở đây là chung cuộc hay chăng? Ở đây là chung cuộc hay chăng? Tiểu Tử hay suy nghó điều này. Ông là do ta, cũng từ Hiền thánh. Ông không sợ lời ta, cũng không sợ lời Hiền thánh. Hiền thánh không nói chăng? Nhưng tiếc đạo Vô thượng, hoàn toàn không yêu mến thân mạng. Mất thân còn pháp mới ở thân ông. Cho nên ta thẹn dặn dò tỷ mỉ, chẳng phải từ việc lớn này. Ta nói chính là ông nói. Nếu không sợ lời ta, thì ta có thệ nguyện, sáng chiếu khắp, lành dữ chẳng thể thay nhau, ông nên ngăn giữ điều này? LỜI THỆ Sa-môn nhất tâm nhất ý, khác miệng nhưng đồng âm kính bạch: mười phương thường trụ Thích-ca Thế Tôn, Di-lặc đương lai Chánh biến tri, Bồ-tát Long Thọ, Thiền sư Nam Nhạc, Thiên thai Trí Giả, các Tổ sơn môn mỗi vị đều chứng được chân thật. Đạo nhân vô ngại Phạm vương, Đao-lợi, bốn vị Thiên vương trấn nhậm, tám bộ Trời Rồng, chư thiện phạt ác bảo hộ chùa tháp, Ngũ nhạc bốn sông, quỷ thần chánh trực, chỉ mong mọi người giữ bản nguyện hộ pháp đồng phủ phục chứng minh, nhờ duyên xưa xông lòng từ, may gặp Thiên thai Trí Giả nói pháp môn chứng đắc, nhớ nghó báo đáp duyên xưa, chỉ dạy dứt hết ngu muội. Trải qua năm tháng, thời gian qua mau, canh cánh bên lòng sở truyền này. Chợt dứt hạt giống, nay mỗi năm càng biết được mạng sống, ngày chết gần kề, việc và nguyện trái nhau, rỗng rang bùi ngùi càng thêm hận, cắt thịt khoét xương, đâu thể đều bù được những điều trái trước. Nay đưa tay độ đệ tử (lậïp thành Huyền bản, Từ bản, thường chuộng bậc tài đức Đàm Tuệ, Đàm Giác, Bản Thuần) cho đến trói buộc quê quán xuất gia, nhóm họp quyến thuộc, giữ gìn chỗ ở giảng viện và chỗ biên tập văn giáo, mong cho tương lai Bồ-tát truyền giáo mười phương, đã cầu nguyện cho sau này truyền trao mãi mãi để đạt đến chỗ cùng cực, thành thật khai triển sơ, không cô phụ lời di chúc. Thầm nghó, hình tượng Như Lai từ lâu gởi núi Linh, phải đạt được nguồn tâm. Trước tiên qua rừng cây Kỳ-đà, cung Phạm vương đều cung phụng, nhưng thỉnh nói thì Tịnh Danh nằm trong thất. Để luận bàn, cho đến chánh pháp trụ trì, đều dặn dò chùa tháp, bốn y kế thừa khuôn phép, đều bày ra chỗ ở, đã mượn pháp nói người, cho nên người phải nương chỗ ở. Chỗ này tuy ở xóm làng, hoặc núi rừng, phía Tây bóng nước hồ ánh lên, phía Đông nối liền cảnh thôn dã, mà kéo dài đến hướng Nam Bắc. Thô sơ nhưng ở được. Sau khi Phật diệt độ, xây dựng giảng đường, đời ác trược mở mang chánh pháp, đến ngày tịch gọi là Như Lai hết du hóa, Pháp Hoa gọi là thọ dụng của Phật. Nay nhà nhỏ hẹp nói kinh thông, kính mong chư Phật dũ lòng từ quan tâm, thương xót thọ nhận bốn y, ngõ hầu khiến cho phàm phu trang nghiêm mãi mãi sáng ngời vị lai an xứ, đạo hưng thạnh nội viện giáo hóa rộng hương thành, thường gặp thầy tài đức, bậc hiền ở xa nhóm hội về học. Làm sao phân đuốc pháp, chiếu khắp mười phương, truyền bá tông thừa, kéo dài mãi trong ba đời, thường thọ dụng không ngừng, hạt giống tuệ thấm nhuần. Nếu có hung đồ bạn ác, tương lai xâm chiếm, cậy thế nương quyền, dọc ngang khinh khi cướp đoạt, bỏ sự truyền thừa Bát-nhã, làm chướng ngại hành đạo. Ta sẽ đến nơi này, kính thờ trên Tam bảo, mong cho truyền giữ. Người này còn cố chiếm, khinh khi cướp đoạt chỗ thọ dụng của Phật cũng phá hoại chỗ xoay bánh xe pháp, cũng là làm chia rẽ hòa hợp Tăng. Người này phá diệt Tam bảo không học Bát-nhã tội rất nặng. Huống chi vào thời mạt pháp làm hộ pháp là khó. Kinh Pháp Hoa nói mắng Phật tội còn nhẹ, không ủng hộ truyền bá việc này là tội nặng. Nguyện nếu con theo bè đảng cho đến người khác muốn chiếm cứ chỗ truyền pháp của con, vừa động tâm thì bị cuồng mê, động miệng thì tắt tiếng không nói được, động thân tay hoặc trúng gió, hoặc gặp lửa cháy đỏ rực, rắn độc bò cạp, tất cả đều xâm hại bọn ác bị ung nhọt máu mủ chảy, đui điếc câm ngọng, đều sẽ bị tổn thương, lao ngục kẻ thù, gông cùm dao gậy đánh đập, ác quỷ sấm sét, thuốc độc tai ương, tất cả các nạn hung dữ họ đều phải chịu. Tất cả quyến thuộc, đau khổ tranh tụng nhau, đều chia lìa ly tan. Con ở chỗ này, tâm thường bồn chồn, như ở trên bồn lửa. Mắt thấy cảnh độc ác, tai nghe tiếng độc ác, thường ngửi mùi hôi và khi chạm vào đều thành độc hại, chạm vào đều không an ổn, đến khi chết đọa vào địa ngục, thành hoại thay đổi, mãi mãi không có ngày ra, vị lại những tai ương khác gấp đôi đời trước. Đâu hoại được thân ta, đâu dứt được mạng sống của ta, đâu hoại được mắt ta. Nếu hoại được mắt, thân hình của ta, thì cuối cùng không chú nguyện được khiến cho người này lãnh chịu các quả khổ. Nếu phá hoại được chỗ ở của ta, tức là dứt được mạng sống của ta và tất cả chủng tánh Bát-nhã căn lành Bồ-đề, cũng dứt luôn tuổi thọ giáo quán của Đại sư Trí Giả, cũng diệt, mất thế lực giáo hóa của Như Lai. Tóm lại, tức là hoại diệt chánh pháp nhãn, tuổi thọ của Tam bảo ba đời mười phương, mở ba đường ác cho tất cả chúng sinh, đóng tất cả đường Niết-bàn trời, người, tội ác người này không thể nghó bàn được. Kính mong chư Phật, Bồ-tát, các Trời, Rồng thần ủng hộ người này, không để họ khởi lên một tâm niệm ác, huống chi là hủy hoại. Lại nguyện quốc chủ, hoàng đế, các vua, phụ tướng, chức quyền, chủ nhiệm châu mục, huyện quan những người có thế lực lớn đồng hộ vệ, khiến cho nơi này mãi truyền pháp không dứt. Nếu con bè đảng và các Tỳ- kheo ác khác hoặc xâm phạm, cho đến hủy diệt chỗ truyền pháp này, nguyện y theo kinh Niết-bàn vua mười sáu nước lớn thệ nguyện ủng hộ, để nghiêm nghị trừng phạt, cho đến tất cả đều khiến về nhà, cũng mong được như văn kinh kia. Xưa có vị vua dùng thân mạng ủng hộ chánh pháp. Khi sống không động đến nước Phật, làm đệ tử của Bồ-tát thượng thủ của Phật kia, xem trọng việc hộ pháp, quả báo cao quý không cùng. Sau này làm quyến thuộc tri thức của ta, thấy nghe đều tùy hỷ, nhưng hay khen ngợi giúp đỡ, hiển bày ánh sáng chỗ truyền pháp này. Nguyện chúng trời ở khắp nơi, thường làm Thánh chúng, chư Thiên, Bồ-tát, chư Phật, đã thấy là có niệm ưa thích, ngày đêm ủng hộ giữ gìn. Như người ác kia đã chịu tội báo, con được phước vui, lại đến ở kia, tội hữu lậu kia sẽ hết, phước của con là vô vi đồng với tánh hư không, trang nghiêm tất cả pháp giới hữu tình, đồng thể nhận được Bồ-đề và Niết-bàn. Lời răn dạy của Tổ sư, chí nguyện cao sâu, bia đá còn tiêu mất, nhưng văn từ vẫn còn như xưa. Tỳ-kheo ở phủ Đâu-suất đệ tử Quách mua đá và muớn thợ khắc. Dùng thấy nghe chỉ dạy cùng thấm nhuần lợi ích, nhằm ngày tốt tháng mười năm Kỷ mão niên hiệu Thiệu Hưng thứ năm. Đại sư trừng Giác Pháp Tôn trụ trì giáo quán Thiên Thai, là Giác Tiên lập lại. <詞>SỬ THIẾP CHÙA DIÊN KHÁNH Theo trụ trì bản viện, Sa-môn truyền Thiên Thai giáo trước trạng gọi là Tiên Khứ, nhằm tháng bảy niên hiệu Chí Đạo năm thứ hai. Tăng viện chủ hai lần trước bỏviện này cùng (Trí Lễ Dị Văn) trụ trì Thập phương Vónh Tác truyền diễn giáo pháp của Đại sư Thiên thai Trí Giả, chúng Tăng an ổn tu đạo, từ tướng này chủ trì việc viện, hội tu đồ chúng giảng nói giáo pháp Thiên Thai trải qua một trăm mười sáu năm. Hôm qua nhà bị hư làm ngăn ngại việc chúng Tăng, liền thỉnh tăng Giác Viên viện Văn Tạng Kim Sơn Thiên Thai đi hóa duyên sửa sang lại, nay đã hoàn thành nhưng vẫn còn khóa, nhà một trăm hai mươi gian đã được ban bản ngạch chùa, Tăng chúng năm mươi vị, giảng dạy tu học sám hối tu tập. Trên báo đáp ân nước, duyên của viện này vốn bỏ cùng (Trí Lễ) trụ trì Thập phương Vónh Tác, tức là không giới hạn kế thừa đồ đệ, phải là tăng có danh đức thay nhau thuyết giảng. Không bỏ sám hối tu tập trong chúng, muốn nương theo thể thức sơn môn theo đường Giang Nam, Hồ Nam. Trụ trì mười phương Vónh Túc (Tri lễ dị văn) hay người thay thế trọn đời, Tăng chúng ở trong viện và đàn việt, chúng tu học trong bản viện, thỉnh nói giải thích giáo thừa của Đại sư Trí Giả, hay nhóm họp đồ chúng từ phương xa đến tu học. Tăng phải có đức hạnh kế thừa trụ trì truyền giáo, hoặc bản viện không có người có đức tức là ở chùa khác và quận khác, thỉnh tăng có đủ hạnh giải truyền trao giáo pháp Thiên Thai, truyền giáo trụ trì và tuyển chọn Tăng từng đến viện nghe giáo và học pháp làm chủ sự. Đã muốn chúng Tăng luôn an ổn, sám hối tu thiền định thuyết giảng, cầu nguyện cho Phật pháp còn mãi. Thầm lo lắng hàng môn đệ tương lai, không hiểu biết bỏ viện ở nhờ trụ trì, nói dối là có sự liên quan, và sợ bản viện tương lai và những vị tăng bên ngoài giảng đạo không thông suốt, nhưng vì danh lợi truyền giáo Thiên Thai, nhân sự dặn dò cậy vào quyền thế, tìm cầu trụ trì, hạnh khất só không có, thay nhau đời đời tu tập giáo thừa của Đại sư Thiên thai Trí Giả. Thật có chúng học giới hạnh, người đều nguyện trụ trì viện này kế thừa thuyết giảng đã mong mỏi người có đức, truyền bá giáo pháp mầu nhiệm, trên là bậc tài trí nước nhà, dưới làm phước cho dân. Vào tháng bảy niên hiệu Đại Trung Trường Phù thứ ba kinh sử Ngô Trần Trạng xin đủ nhân y lục tâu lên vua nghe xin được ban sắc chỉ chấp nhận trụ trì Thập phương Vónh Tác giảng nói giáo pháp Thiên Thai, mong Sử Ngô trình bày tâu lên, huống chi Tăng đồ đệ bản viện (lập thành huyền bản, Tuệ Bản chuộng tài đức. Trước trạng gọi là Phục Đô Sư Chủ (Tri lễ dị căn), kinh châu Trần Trạng đến bản viện trụ trì Thập phương Vónh Tác giảng nói giáo pháp Thiên Thai, tức chẳng phải giới hạn kế thừa trong đồ đệ (lập thành) cũng nguyện đem viện này để cho mười phương trụ trì, thay nhau thỉnh giảng giáo thừa của ngài Trí Giả, hay nhóm họp Tăng chúng bốn phương, tăng có đức hạnh để trụ trì truyền giáo, thường chọn thỉnh tăng đến viện nghe học làm chủ sự, mỗi người đều có bản viện, lại không can dự vào. Thầm lo lắng, tương lai có đồ đệ khác không biết từng bỏ viện cũ đi nương nhờ trụ trì, dối chiếm làm sở hữu, tình trạng xin đủ sách, người trú xứ trình bày tâu, mong Sử Ngô có duyên từ thể lượng trình bày tâu vào tháng 10 năm ấy y theo tập sớ trong văn kiện vâng theo Thánh chỉ, nên ra lệnh cho bản viện chỉ huy theo lệ cũ, tìm Sứ giả đem thư mời xuống tăng chánh ty, thông báo gấp Thánh chỉ trong tập sớ văn kiện, phân giải mau, theo lệ cũ liên kết trình bày chung, xưng hô theo tăng ty trình bày, kiểm tra hội ở Bản châu và chùa Cảnh Đức núi Thiên Đồng, hai trụ xứ viện Đại Mai và Sơn Tiên cũng là mười phương trụ trì, tức là nương vào thể thức thượng hạng sơn môn Giang Nam Hồ Nam, như xem xét hai trụ xứ hội Thiên Đồng và Đại Mai không phải là chỗ trụ trì của mười phương thì người đó phải chịu tội nặng, mong Sứ đưa giấy mời xuống bản viện, mong nương vào Thánh chỉ trong tập sớ văn kiện và Tăng Ty đến hai chỗ Thiên Đồng, Đại Mai để phân tích thi hành theo thể lệ. Nay muốn truyền viết Thánh chỉ và lần lượt đưa thư mời khắc trên bia đá cách thức trụ trì truyền giáo mười phương, trình bày xong đưa xuống ty, người chỉ huygiúp đầy đủ như trước. Nay thâu nhặt những điều xưa để trụ trì chủa Diên Khánh, Sa-môn (tri lễ, dị văn) truyền trình bày giáo nghóa Thiên Thai xin y theo thể thức đường sơn môn Giang Nam, Hồ Nam đem viện này để cho mười phương trụ trì và trình bày rõ sáu vị Tăng môn đồ, cũng xin đem viện này để cho mười phương đến Trụ trì đời đời thường giảng nói giáo thừa của ngài Thiên thai Trí Giả phải là tăng có đức kế thừa trụ trì truyền giáo. Châu Ty nhằm vào ngày 11 tháng 08 niên hiệu Tường Phù năm thứ ba, trình bày đầy đủ tâu lên xin ban sắc lệnh, chỉ huy nhằm vào ngày 18 tháng 10 năm ấy y theo tập sớ văn kiện, vâng theo Thánh chỉ, phải ra lệnh cho người chỉ huy theo lệ của bản viện, liền ghi giấy mời cho viện Diên Khánh, mong y theo Thánh chỉ trong tập sớ văn kiện, chỉ huy xong vào tháng ba niên hiệu Đại Trung Tường Phù năm thứ tư. Lại y cứ theo kinh (Tri Lễ), kinh châu trình bày rõ. Suy nghó thích hợp, tương lai có đồ đệ khác không biết nguyên nhân việc này, nên nói với đồ đệ kế thừa viện khác, thể lệ vọng sinh tranh chấp làm cản trở các bậc danh tăng trụ trì truyền giáo, xin nương vào nguyên nhân này lại tâu lên vua, xin xem xét ban sắc lệnh xuống bản viện là người mười phương trụ trì giảng giáo pháp Thiên Thai? Châu Ty có trình bày lên tâu vua, minh xét y theo Thánh chỉ chỉ huy xong, liền trình bày đầy đủ như trong thư mời. Tăng Chánh Ty báo gấp Thánh chỉ trong tập sớ văn kiện, mau phân tích, đúc kết đầy đủ theo thể lệ xưa, văn trình bày chung, tiếp tục trình bày lên tăng ty, nay lấy lại chùa Cảnh đức ở núi Thiên đồng thuộc Bản châu và hai viện Đại mai, Sơn tiên cư cũng là để cho mười phương trụ trì, cũng dựa theo thể lệ thượng hạng Giang nam, Hồ nam. Nếu xem xét lại hai chỗ hội Thiên Đồng và Đại Mai không phải của mười phương trụ trì tức lả người ấy chịu tội nặng. Nay ngày 24 tháng 02 giấy mời bản viện, gấp báo mới rồi ban Thánh chỉ và đến đây tăng Chánh Ty phân tích đến hai chỗ Thiên Đồng và Đại Mai thi hành theo thể lệ cũ đã xong. Nay có Sa-môn kể rõ muốn viết lại đủ Thánh chỉ và lần lượt đem thư mời, đúc vào bia đá theo cách thức mười phương trụ trì truyền giáo, xin ban chỉ huy… mọi việc phải có giấy mời chùa Diên Hựu, gấp báo Thánh chỉ và lần lượt thư mời chỉ huy, đều đầy đủ tăng chỉ huy, phân tích theo thể lệ, tùy tiện thi hành, không thể để cho thiếu. Giấy mời ngày 17 tháng 07 niên hiệu Đại Trung Tường Phù. Quán sát chung quan quận Đại thường phó só Thông Xan Quân châu sự thành. Thái Thường Phó Só Tri Quân Châu Tăng đồ đệ sự khang, câu Đương Thọ lập. Ngày mồng một tháng 12 Bính Tý niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ hai mươi sáu, Trụ trì truyền giáo quán Thiên Đồng Đại sư Giác Vân được ban y tía trùng lập lại. <詞>SỬA CHỮA LẠI VIỆN BÁO ÂN , MINH CHÂU HOÀNG TỐNG GHI Tướng Só Lang Thư Đại Thường Phó Só Thông Xan Quân Châu cùng Đồng Lãm Thị Bá Quản Nội Khuyến Ký Đô Úy Tích Bài Thạch. Đợi hỏi mới soạn viết. Nếu sinh thật có sinh, bắt đầu từ vô thỉ là thỉ, nhân duyên vọng tưởng vùi lấp chân như, qua lại trong đất nước gió lửa hợp tan trong mộng huyễn bọt bóng. Sông ái mênh mông, thông khắp ba cõi. Lưới trần rộng lớn trùm khắp đại thiên, hoặc tiệm tu nhiều kiếp đốn ngộ trong khoảnh khắc, vượt khỏi đường này đến bờ bên kia. Biến thành ba mươi hai tướng, hóa ngàn thân nhiệm mầu, khắp làm tất cả tâm, trình bày rộng tất cả pháp. Mây từ giăng khắp nhà lửa, quét sạch lửa nóng thành mát mẻ. Vén mặt trời tuệ trong màn vô minh, xua đi màn đêm dài, chỉ có bậc đại hùng thôi chăng? Khi xưa Châu Lỗ Nhị Trang dạy ta hiển bày đợi đến sau này Tấn Minh mới rõ, đạo ta càng được tôn trọng đều là pháp pháp truyền nhau, tâm tâm kế thừa. Người đời không thẹn đức, thay nhau có nhân từ. Do đó. Quán điều này thì tượng giáo hưng thạnh, Ngài đến đây từ lâu, xây dựng chùa Phạm dung thông thiếu ư? Viện Báo Ân Minh Châu tức là Sa-môn tọa chủ bỏ cũ làm lại mới. Tọa chủ họ Kim ở Đô giang, xuất gia năm bảy tuổi tại chùa Hưng Quốc ở Ư châu, thọ giới Cụ túc với Pháp sư Bảo Vân Thông, học giáo với Đại sư Thiên thai Trí Giả. Giáo này rộng lớn đầy đủ, sâu xa mầ nhiệm, chu toàn luôn sáu Độ, bao trùm hết ý nghóa của năm thời. Nghóa không u huyền thì không hiển bày. Lý không ẩn thì không lộ rõ. Người tu giáo này, chỉ là niệm. Niệm không xen hở, cho nên thành tựu sức định, sau đó phiền não dứt sạch. Học quán nhưng rỗng rang, rỗng không nhưng chẳng ngăn ngại, đó gọi là phát sinh tuệ giải, sau đó chứng Bồ-đề. Do đó, phải siêng năng thực hành. Hành giả ứng hiện vào đường ác, tọi nghiệp liền tiêu, vẫn giữ nhưng không mất. Người gieo trồng gốc lành, công đức không thể nghó bàn. Tọa chủ ghi nhớ hai điều này nhất chí ở trong đây nghiên cứu nghóa lý sâu xa cùng lý tận tánh, không thể gọi là bậc tinh tấn mạnh mẽ hay sao? Dùng sự học rộng Tam thừa để thấu suốt bốn Đế, sáu trần không nhiễm, năm uẩn đều không, mới gọi là loa pháp lớn để thức tỉnh chúng sinh mê muội. Đánh trống pháp lớn để dệt hết sai lầm, cho nên được dự vào hàng tăng lữ, lớn nhỏ đều kính mến là hàng tín só tài cao. Loài có vảy thuộc dòng họ rồng, loài có lông thuộc dòng họ phụng. Xưa kia viện này truyền thừa nhiều năm, nay ngày càng suy đồi, người có tài năng thì từ đây được làm cho hưng thạnh. Mọi người bàn luận chỗ trở về, thỉnh được người là điều mai. Dùng chí đạo kế thừa Tam bảo mới cùng với Sư Hàng Tố cùng chí hướng dứt tâm dự nghe, kêu gọi trở về hợp lực thành một mối. Một hai năm tạm làm kinh doanh để cứu giúp người nghèo khổ. Ba bốn năm mới bắt đầu hưng thạnh pháp hội, cùng kết hợp với đàn na. Năm sáu năm đích thân viết văn sớ chỉ dạy giải thích nghóa sâu xa, thêm vào đó bất luận ngày đêm hoặc giảng dạy hoặc sám hối. Do đó, sửa chữa lại những điều sai, không rãnh để mưu tính thi thố tài năng. Ngày tiếp ngày, mới luận bàn sửa đổi việc làm. Gặp được Tỳ-kheo Giác Viên ở Lệ nghiệp, Đan Khâu Thọ Xương cũng muốn phát tâm hợp sức. Tọa chủ truyền miệng sơ về phương thức, chỉ dạy khuôn phép. Luận bàn về thọ Đề-già, dùng nhân quá khứ, nói y Bồ-tát dùng quả vị lai, làm cho sự suy nghó tâm tham lam, keo kiệt thay đổi. Kết duyên lành dứt bỏ ham muốn như trước, hỷ xả khích lệ tinh tấn. Thí tịnh tài nhưng chỉ sợ về sau. Một phương vừa hưởng ứng, thì ngàn dặm đều vui theo. Ngọc trắng châu kim không chân mà đến được. Cây thị không gọi mà tự vào. Công Thâu xóa mực không ngừng, Tượng Thạch kéo cân không ngớt. Trải qua ba năm như vậy mới thành công, thấy được nền nhà rộng lớn, cây đất đẹp lộng lẫy, vàng ngọc óng ánh lồng như, mảy ngọc càng thêm sáng. Điện Phật trước và sau Tăng đường, chiếu sáng như thế, tạng giáo bên phải phương trượng bên trái, mọi việc đầu tiên, tiết kiệm tịnh thí. Ở góc của các cột đều có chạm khắc, hai bên là cầu vòng cong xuống, uyên ương liệng bên mái ngói, đường nét lăn tăn nối liền lên tận nóc nhà, rộng lớn phân chia che bóng mặt trời, lan can dài dãi nhà rộng, hang sâu thăm thẳm cũng có gió luồn vào, người dạo lầm tưởng là ở trong hóa thành, người đứng trong đó nghi là nhà huyễn. Hưng thạnh thay nhau, không cùng gò cao. Lại nước này khác với chúng sinh khác. Như những ngọn núi trên thành, đứng ở trước mái nhà, nước luồn vào vừa tràn khắp lan lan. Khu đất ở hình thù rất đẹp, trời giúp thêm kỳ ảo, cửa mở nhưng trăm màu tía xen nhau, đường vắng nhưng bụi hồng không đến, ngoài sân ngồi lặng lẽ như mây ngàn, xây nhà trên đài từng giờ nằm nghe chim hót vắng. Như thế, cũng đâu cần nâng ly hỏi đạo, chống tích trượng đi du phương, lội suối trèo đèo hỏi đạo các bậc kỳ túc, vén áo qua sông ao A-nậu-đạt ư? Đợi hỏi thông cầm cành trúc Hàn Tân Tùng Bính, hội được toàn thể thù thắng này, báo cáo đã thành công, nương vào các sớ thấy để lại, liền đưa mảy tơ thì biết, không dám giải thích chi tiết để được thấy nghe. Ngõ hầu ngày khác phát huy gốc Liên xã, lập vào ngày 06 tháng 04 năm Kỷ dậu, niên hiệu Đại Trung Tường Phù năm thứ hai. Khi xưa có Pháp sư Thông, bậc tài giỏi hiểu biết rộng, từ Tam Hàn đến cầu đại pháp ở Trung Hoa. Do đó, Ngài thông suốt hết chỉ quán của tông Thiên Thai làm đệ tử đắc pháp. Tôn giả Pháp Trí Tứ Minh và Pháp sư Vân Thiên Trúc. Hai ông như bầu trời xanh băng cứng, có tài năng truyền đạo của thầy này, làm hưng thạnh tông Thiên Thai cùng ngài Trí Giả lái thuyền rong ruổi, một bậc nổi tiếng một thời. Như Dương Vân Công, Vương Dực Công, Tằng Lỗ Công làm thầy bạn với nhau rất hưng thạnh. Chỉ có mình chủ Pháp Trí Viện Bảo Từ về sau nổi tiếng là Diên Khánh mới thỉnh về triều đình và truyền rộng giáo Thiên Thai đã được ban sắc văn, ghi ở viện Bảo Ân khắc vào đá từ lâu, vừa rồi bị binh lửa thiêu sạch, nay trụ trì Giác Vân Liên Công đạo hạnh cao xa, ít lưu lại mô phạm xưa, ra sức nghiên cứu bản cũ, đạt được điều này cốt để ngăn ngừa học chúng. Khắc lại trên đá làm xong xin để lại mấy lời để đời sau tin. Tôi khen điều này có thể không mất dấu vết người xưa, nên thỉnh người. Sơ kết tháng hai năm Bính Tý, niên hiệu Thiệu Hưng, cư só Chân Ẩn soạn lời bạt. <詞>THƯỢNG TẦNG THÁI THÚ XIN TRÌNH TẤU THƯ ĐẤT VƯỜN Khải bạch Quỹ nhật Đảo Thánh, rửa sạch nghiên mực đốt mảy lông viết thành ý, Học só tri phủ tâu lên vua. Thầm nghó, duyên xưa huân tập bản tánh. Ưa nói pháp môn của Đại sư Thiên thai Trí Giả, cho nên nghiên cứu ý này, giảng nói văn này, như giải thích tu hành, nắng mưa không xen hở, chịu khổ quên khó nhọc, nay đã bốn mươi năm. Bởi biết được giáo này, giải hạnh viên dung, quán lý sự hợp thành một, mà tiến đến cửa giải thoát, bảo nhậm được. Điều quan trọng là thấy chỗ truyền tâm này, giảng dạy, hội tụ chúng, mới hợp sức hóa duyên. Xây dựng viện này, mới được hoàn thành để cho mười phương trụ trì truyền nói giáo pháp Thiên Thai. Việc này tuy toại nguyện hơn nữa còn thiếu vườn rau, bèn nhờ Tục Phụ Kinh Công truyền giao đất nhà mấy trăm trượng cho chùa trồng rau, cũng trong ngày ấy cúng chúng Tăng để khỏi xin người khác. Nhưng vẫn lo sợ, sợ có những người sau này không biết, chợt có người kiện tụng bảo đền lại. Kính xin học só dùng tâm thông thái làm chỉ Thiền giáo, truyền bá nhiều gian nan, chấp nhận tâu lên Thiên đình giáo cho phủ Đạt Tướng, nhưng không có người nhận và xả thí lại, cũng không mua ruộng vườn. Do đó, Tục phụ giao cho con trai, thì không trái điều chế và xin ban sắc lệnh để ruộng đất này mãi mãi là của già-lam. Lễ tượng trì kinh, tâm cầu nguyện khấn, chỉ vì làm vườn lâu năm, quả là gặp lúc học só do xuân đoái hoài rủ lòng chiếu cố chỗ khác, chắc chắn có kỳ hạn, mé này phù hợp với tâm nguyện, rất mong tâm vui vẻ khổ hạnh quên thân vì pháp chỉ bố thí sức vó đại kết thành duyên cao quý này, thì một ngày tâm cũng toại nguyện, chết muôn lần cũng không lo. Viết chưa thành chữ, lời không thành văn, mục đích viết để cầu khẩn chí thành, không tránh khỏi hoang đường vụng về, phạm vào giả mạo uy trọng, không khỏi lo sợ. Khải bạch Thượng Hoàng, ngày 15 tháng 08 niên hiệu Thiên Thánh năm thứ ba. Khi xưa Đại sư Pháp Trí viết thư này xin đám ruộng vườn phía sau làm nền xây thiền viện, lời này thật chí thành, thư này cần cù, vì mến mộ chốn hưng long nên mở rộng hình dáng cao quý này. Có năm thu cất để nhớ lại dấu tích này sợ không thấy nghe được mới khắc vào đá cứng, vào lúc ngày rằm nhuần tháng sáu năm Nhâm ngọ, niên hiệu Sùng Ninh năm đầu, Tỳ-kheo Đạo Nhân xây dựng. <詞>BẢN CHÂU XIN THÁNH CHỈ TRÌNH BÀY LỄ BỘ CÔNG CHỨNG NHẬN Minh Châu y theo phù hợp Thượng Thư Lễ Bộ, Phù tỉnh phê chuẩn đưa xuống. Phu văn các học só Tả triều thỉnh Lang Tri Minh Quân Châu Sự đề cử học sự Mạt Tướng. Thầm nghe chùa Diên Khánh Bản Châu là truyền giáo pháp Thiên Thai. Niên hiệu Chí đạo năm thứ hai xây dựng cho mười phương, chùa rất hoành tráng, học chúng kéo về rất đông, truyền giảng không ngừng. Hoàng đế Chân Tông thường sai sứ đến chùa ra lệnh cho chúng Tăng tu thiền, sám pháp, Thái tử Thiếu Bảo đến ghi hạnh nghiệp, chép đủ việc này. Sau khi trải qua binh hóa, may thay chùa này vẫn còn. Mấy năm gần đây, hầu hết đều để cho quan ở và chiếm giữ đánh bạc, làm chỗ ở, lấy làm vật của mình, mùa bán với nhau, không cho Tăng chúng ở. Tượng Phật bị hư hỏng, để lẫn lộn với đất bụi không còn là nơi phước điền và chùa Báo Ân, viện Quảng Tuệ ở châu này khi xưa là Thiền lâm. Trong châu thành chỉ có hai chỗ thiền viện và chùa là nơi huân tu Thánh chúc về sau, mở ra thành chỗ cầu cúng, đạo tràng Thánh tiết, và ở viện Quảng Tuệ từ khi binh lửa về sau tuy còn lại mấy gian nhà nhỏ, nhưng cũng bị chiếm lấy, Tăng chúng không dám xây dựng. Từ đó có ý định xây dựng thành nhà và dùng hết hai chùa làm nhà ở, sau thay đổi ra lệnh cho chùa này sửa lại chánh điện, góp công góp của, nhờ sức của nhiều người dần dần thành tựu, Tăng chúng càng đông đảo dạy thiền. Kính mong sự giúp đỡ của Hoàng Đồ, chúng Thánh vạn thọ. Ngoài ra chùa Báo Ân đã có Thánh chí chỉ huy xuống không cho người dân chiếm giữ. Ngoài các trụ sở chùa Diên Thọ, viện Quảng Tuệ cúi mong điếu Từ đắc ân tâu đủ, ban xuống chiếu chỉ không cho các người chiếm giữ để ở, sau này làm danh lam thắng cảnh di tích xưa, không để rơi vào tình trạng hư hoại, mãi mãi làm nơi phước điền, kính cẩn trình bày đủ Thượng thư tỉnh, phục hầu điếu chỉ. Phê sau ngày 24 tháng 03, Tống Lễ Bộ Hành đưa xuống bản châu, một bề sắp đặt thi hành. Người chú Minh Châu dựa vào Đê Tỉnh Phê rõ ràng, chỉ huy thi hành phải đến đuổi đi. Hữu xuất cấp công chứng nhận giao cho chùa Diên Khánh, mong nhận làm chiếu hội, cấp vào tháng tư, niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ 14. Tả Văn Lâm Lang quan sát Thôi Quan Lưu: Tả Nho Lâm Lang Tiết Độ Thôi Quan Lưu. Hữu Triều Phụng Lang Kiểm Thư Tiết Độ Phán Quan Sảnh Công Sự giá. Hữu Triều thỉnh Đại Phù Thông Phán Quân Châu Chủ Quản Bọc Sự Tiền. Hữu Trung Tán Đại Phu Thông Phán Quân Châu Chủ Quản Học Sự Bằng. Phu Văn các học só Tả Triệu Thỉnh Lang Tri Quân Châu Sự đề cử học sự mạc. <詞>BA TỈNH ĐỀU VÂNG THEO THÁNH CHỈ Thi hành ở Lễ bộ Thượng Thư, y theo sắc lệnh ngày 24 tháng 03 niên hiệu Long Hưng năm thứ 14.Môn hạ Trung Thư Tỉnh Thượng Thư Tỉnh đưa đến tập sớ cho Mạc Tướng coi sóc Minh châu, thầm thấy chùa Diên Khánh ở châu này sau khi trải qua cuộc binh hỏa, may mắn thay chùa này vẫn còn. Mấy năm gần đây tất cả bị làm nhà ở nhờ và chiếm lấy làm nơi đánh bạc, thi đấu làm chỗ ở, không cho Tăng chúng ở tượng Phật hư hỏng bị bụi bám đầy và viện Quảng Tuệ ở châu này xưa là nơi chúc Thánh huân tu, về sau làm chỗ cầu cúng. Đạo tràng Thánh Tiết cũng bị chiếm lấy, tất cả chùa Diên Khánh viện Quảng Tuệ cúi xin chỉ huy xuống không cho các người chiếm ở, ngõ hầu làm danh làm thắng cảnh di tích không để rơi vào tình trạng hoang phế, mà mãi làm chốn phước điền. Ban chỉ huy ngày 24 tháng 03 vâng theo Thánh chỉ, phụng theo sắc lệnh như sau: Công văn đến thực hành, phê trước giờ thìn tháng ba giao cho Lễ bộ thi hành, tùy theo quan hợp thuộc ở hay đi. Đã có thẻ tín quan bản châu thi hành rồi, thầm nghó, thẻ tin trước kia chưa đến phải thi hành lại, thể tín ban xuống Minh châu, người chủ đến nói rõ điều này và đến khi đưa thể tín rồi sự lý đều theo sắc lệnh, chỉ huy thi hành y theo quan hợp thuộc ở hay đi. Thẻ tín đến vâng hành, tháng tư niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ mười bốn. Thú Đương quan cung ra lệnh cho Sử Diêm Chủ Sự Triệu Lãm Thượng Thư Lục Bộ Môn kiêm quyền Ty Bộ Lang Trung. <詞>BẢN THÁNH CHỈ NÊU RA XUẤT CẤP CÔNG CHỨNG NHẬN TỨ MINH ĐỒ KÍNH GHI SỰ TÍCH CHÙA DIÊN KHÁNH Giáo tự Diên Khánh ở huyện Nam Tam Lý, khi xưa là viện Báo Ân được xây vào niên hiệu Quảng Thuận năm thứ hai đời Tấn (khắc tên đá không phải niên hiệu Quảng Thuận đời Tấn), điều này là sai, vào niên hiệu Quảng Thuận năm thứ hai đến niên hiệu Đại Trung Tường Phù năm thứ ba đổi thành chùa Diên Khánh, niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ mười bốn đổi lại thành tên chùa này. Chùa có mười sáu quán đường, điều này thấy ghi ở viện Tịnh độ. Tăng Tri Lễ tự là Ước Ngôn, họ Kim. Buổi đầu khi cha mẹ chưa có con nối dõi tông đường họ cùng nhau đi chùa cầu con, đến khi sinh ra Sư đặt tên La-hầu-la, cốt cách phi phàm, thuở nhỏ không giống như trẻ bình thường. Năm lên bảy tuổi mẹ mất, sư nguyện xuất gia để báo đáp ơn cao cả, cha chấp nhận theo chí hướng của sư. Sư thờ ngài Hưng Quốc (chùa Hưng Quốc) làm thầy, mười lăm tuổi thọ giới cụ túc, nghiên cứu luật, hai mươi tuổi theo sư Bảo Vân học giáo pháp Thiên Thai. Sư lập chí kiên quyết lưng không dính chiếu. Người học bốn phương nghe danh sư cùng nhau kéo đến đứng ngoài cửa rất đông. Quốc sư Nhật Bản cũng đem đồ chúng của mình thưa hỏi pháp yếu. Lễ Tiên Trụ Thừa Thiên, chí đạo trung di, ở Diên Khánh hơn bốn mươi năm. Hoàng đế Chân Tông từng sai sứ đến tặng quà lạ. Niên hiệu Thiên Hy năm thứ hai, Ngài nói đồ chúng: Nửa bài kệ quên thân, một câu ném vào lửa. Tâm bậc Thánh vì pháp như thế, huống chi thời này cách Phật pháp quá xa, nhiều người xem thường đạo pháp, ta không thể quên thân để sách tấn họ, thì chẳng có người nào xứng đáng để nói điều này. Do đó, nhóm họp mười vị Tăng, tu tập sám hối, hẹn ba năm sau cùng nhau thiêu thân, trong lúc ấy có Hàm Dương Đô Úy Lý, Tố Văn Công, Đạo Giá, Vọng Phong Thôi Ấp, được vua mời đến ban y tía và ban hiệu Đại sư Pháp Trí đều là do sức của hai ông tiến cử. Và nghe vẫn còn thân Dương Công sai đem thơ tấp nập và mới thỉnh trụ thế, Thái Thú Lý cầu khẩn thỉnh rất tha thiết, bất đắc dó phải ở lại, cho nên đến khi mất có Thức Sư làm thơ thương xót (truy điệu): Trên trời không hai vầng nguyệt, nhân gian chỉ có mình Ngài. Ngài là một bậc hiền được quý trọng như thế. Ngày mồng năm tháng giêng niên hiệu Thiên Thánh năm thứ sáu, sư ngồi kiết già thị tịch. Trải qua thời gian lâu sau mở tháp ra vẫn tươi tỉnh như còn sống, thiêu được vô số xá-lợi năm màu, nhiều vị nối pháp. Vì kính lễ hành nghiệp Ngài, Tường Kiến Hồ làm bài minh thờ trên tháp. <詞>GHI VỀ ĐỀN THỜ TẰNG LỖ QUỐC TUYÊN TỊNH CÔNG Thiên Thánh Trung Cao Tổ Sớ Công, trấn thủ ở Tứ Minh. Tằng Đại Phụ Tằng Tuyên Tịnh Công, Hạ Nhân Sớ Đức Thị chưa biết điều này, thường muốn đến chùa Diên Khánh. Trước đêm ấy, vị Tăng chủ nằm mộng thấy vị Thần mách bảo: Tướng quốc đến phải đón rước. Đến sáng cho người ra canh cổng. Sau đó Lỗ Công đến. Tri Lễ rùng mình kinh ngạc kể lại giấc mộng và nói sau này quý mến không quên. Thái phu nhân nghe điều này vui mừng nói: Tôi tin điều này phải biết điềm báo trước và bái phục thi hành lời nói ban đầu đã mua ruộng làm nhà, lại thỉnh những người trong triều, ngay năm ấy độ đồ chúng ở đây. Do đó, Diên Khánh là vọng sát và vẽ tượng Lỗ Công, lập đền thờ kính cẩn. Than ôi cũng đã lạ thường rồi. Nghe điều này, Đại nhân vương công lúc hành đạo, làm lợi ích cho thiên hạ và nổi tiếng đến đời sau, đều vượt khỏi ý chỉ chân thừa, chứng được quả vị. Dùng nguyện lực ứng hiện thế gian, thân tể quan, tùy theo chỗ đến mà gặp. Năm sinh ra Lỗ Công, Thái phu nhân nằm mộng, thấy vị Tăng già khoác tấm màn vào phòng ngủ rồi sinh ra ngài. Niên hiệu Khánh Lịch năm thứ tám, được Tri chế ban cho Hàm Tuất rồi về quê, có vị Tăng chèo thuyền đến Tiền đường, nghe ở Thiên Trúc đẹp, bà bèn đến chiêm lễ. Trên đường đi bà thấy có một người mặc áo trắng từ cửa chùa đến gần, bèn hỏi: Thượng tọa từ Tầng Sá Nhân đến phải chăng? Sá Nhân năm mươi bảy tuổi vào Trung Thư. Thượng tọa năm ấy cũng được sư đặt tên, vừa mới từ biệt đã không gặp lại. Sau khi nói điều này, Đoan Minh Sát Công đang bảo vệ Tiền đường vào triều tâu vua điều binh dị này, ban hiệu là Quán Âm Linh Cảm. Các trực học só Lý Công có ghi điều này. Bởi vì trời sinh ra người hiền, chắc chắn dùng đạo đức hoàn hảo và tài ba hơn người này, sau này giao lại. Thánh chủ cùng nhau bàn tính đều chấp nhận, để trồng phước vững mạnh cho tông xã, thật là có một người tướng hiểu đạo, thần đã mách bảo, lý tự ứng hiện điều này, nhưng trải qua ba triều đại, quyết định kế hoạch, đạt được thành tích, vì một đời tông công, mà ánh sáng mênh mông, không thể sánh bằng, đâu phải tình cờ? Chí nguyện xưa kia đã truyền được, nhưng các việc nhỏ không đáng nói. Tôi đâu giống được người phải tựa vào đức người đời để dùng làm thuyền, chỉ lạy dưới đền thờ, chu toàn thăng giáng, kính cẩn những điều nghe được, mà xưa kia chưa từng ghi, vì lo sợ bị mai một, thu thập sự thật này khắc vào đá để lại cho người sau. Ngày 26 tháng 04 niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ ba mươi hai, Tăng Tôn Hữu Triều Tán Lang đề cử. <詞>TỨ MINH ĐỒ KINH KÝ TUYÊN TỊNH CÔNG TỪ Hoàng Triều Cố Thừa Tướng Lỗ Quốc Tằng Tuyên Tịnh Công từ đường ở huyện Nam ba dặm rưỡi chùa Diên Khánh. Theo Thiên Thánh Trung Sớ Quốc Công trấn giữ Minh Châu hầu Thừa tướng Phương Dục Đức. Một hôm đến chùa Diên Khánh, nhưng Tăng chủ Đại sư Pháp Trí đêm nằm mộng thấy vị thần trong chùa báo: Ngày mai Tướng công đến phải ra đón rước. Tri Lễ cho là điều lạ bảo người canh cổng. Sau đó có người vào báo, Tướng Lỗ Công đến. Ngài Tri Lễ kể lại điềm mộng. Lỗ Công nói: Có việc này ư? Ngài thầm nhớ trong vuông tấc, ngài đến lễ bái và cho điềm mộng của Tri Lễ là đúng. Do đó, thỉnh về triều, mua ruộng đất cất nhà, mở rộng pháp tịch đặt tên là Diên Khánh. Vị Tăng trong chùa vẽ hình tượng ngài để thờ, khắc vào bia đá hiện nay vẫn còn. <詞>GIẤY MỜI MUA ĐIỀN TRONG CHÙA DIÊN KHÁNH PHỦ TẰNG TƯỚNG CÔNG Đại sư Pháp Trí chùa Diên Khánh ở phủ Khế, Khám Bản, phủ Tằng Tướng Công ban đêm nằm mộng thấy vị Thần báo rằng: Ngày mai Tướng công vào viện, phải ra cổng đón rước. Hôm sau cho người ra cổng đứng đón, báo với tôi có người đến, do đây kể lại giấc mộng, khi trở về tâu lên gia mẫu, hôm sau cùng đến yết kiến Pháp Trí, tiếp rước rất cung kính, quả nhiên ứng với điềm mộng này, phải bảo đàn tín đem đến cúng viện này. Từ khi Thánh Triều Ngự dùng Tể chấp, gia mẫu không vui với nguyện vọng này, nên mua ruộng vườn ở huyện Minh Châu, huyện Ngân làm quê hương thanh đạo. Hoặc khi còn sống làm nơi Bảo Khánh Bình An, hoặc mất đi thì làm nơi cúng húy kî. Thường hay hổ thẹn, mỗi năm không phế bỏ. Gia mẫu có di chúc: Sở đất mua không nhiều để lại cho con cháu thì xa xôi, nên lần lượt mua thêm để vào cho chùa và cúng cho chúng Tăng, kẻ còn người mất đều được lợi ích. Nay gốc trồng sâu tươi tốt, nguồn xa nên chảy mãi. Nay lại nghó đến điều này, gốc lập thân, không phải xem trọng hạnh hiếu. Hiếu không xem trọng còn sống nuôi dưỡng chết tiễn đưa, kính cẩn truy điệu, cho nên nương vào chủ viện Diên Khánh. Thể nhận được ý gốc này, hổ thẹn không dám trái. Đã thuê hai chỗ, còn tạo thêm bản phủ nạp vào. Chiếu theo giới hạn nạp vào quan ty, không cho thiếu chút thước, tấc, thăng, hợp. Quý trọng ruộng này cung kính này, nên khi giao con cháu đều biết. Cấp vào tháng ba, niên hiệu Thiên Thánh năm thứ ba. Năm Mậu Tuất niên hiệu Chính Hòa, Phó Tiên Đại Phu Tứ Minh lúc này còn nhỏ. Một hôm, theo hầu thầy đến Diên Khánh, thấy đồ chúng rất đông ngồi nghiêm trang lắng nghe pháp, bưng bát lên, trong giảng đường có mấy ngàn cái như vậy. Lúc ấy tâm nghó rằng: Ở trong đây nếu không có bậc Đại đạo sư truyền bá và giữ gìn giáo quán, bên ngoài Đại thí chủ cúng dường, thì không dễ gì được hưng thịnh như vậy. Lui ra sau gặp Tăng chủ mới biết Tôn giả Pháp Trí. Có điều lạ là vị Thần cảm mộng điều này, do đó Đại Thừa Tướng Tuyên Tịnh Tằng Công bỏ trang thiếp văn, cúi xuống đọc kinh ngạc khen ngợi, cho nên thấy trường dạy học Diên Khánh đứng đầu hai tỉnh Triết giang. Từ đó về sau kinh trong chùa bị giặc đốt phá cháy hết; lần lượt trải qua ba đời trụ trì không thể giảng dạy hưng thạnh, cũng từ đây bị bỏ phế. Về sau, có Tôn giả Viên Biệt, thường đem tông chỉ Pháp Trí hướng dẫn người học ở Tư Phước Vónh Gia. Tiên Đại phu do đây nhờ đệ tử của Ngài hợp sức vào việc này ở Tương Châu để cứu vãn lại. Chẳng bao lâu xây dựng giảng đường khang trang, lầu các lớn nhỏ quét màu đỏ tím hoàn toàn mới mẻ; bốn chúng khắp nơi kéo đến vén áo thờ Ngài làm thầy, như mây kéo sương mù giăng, giảng đường đổi lại giáo quán như ngày xưa. Điều này không chỉ biết được nguồn lực sâu xa của ngài Pháp Trí mà còn thấy được phước sâu dày của Lỗ Công. Nay giảng chủ Diên Khánh Thân Công đích thật nối pháp ngài Viên Biện, quán, hạnh đều tu, tông, thuyết đều đạt đến. Một hôm vừa xem qua và nói: Chùa xưa bỏ ruộng vườn, công văn xưa còn khắc bia đá, nay không còn nữa. Muốn lấy sở đắc kia tái bản lại khắc vào đá để lâu dài, và muốn viết truyền bá cho người sau. Nếu gốc lập thân không trọng ở hiếu đây là lời phó chúc của Lỗ Quốc Công. Hai thuế đã thâu không còn sợ mất, đây là lời dạy của Lỗ Quốc Công. Hễ học thì chúng ta phải giữ gìn, đến nỗi ông Khánh còn không cầu lấy phước Tây Càn. Mới biết nay xếp bộ Thượng Thư trung dung thành nhân Thánh trí, dùng huân nghiệp để ngợi khen, điều động cả tám tòa, cùng lúc vẻ vang. Thì biết, gốc sâu cánh xem xê, nguồn thẳm chảy mãi. Di huấn của Đại Thừa Tướng Lỗ Quốc Công đến đây nếu phù hợp, thì đúng với điều Ngài viết. Hữu Triều Tán lung Tân Quyền Tri Thơ Châu Quân Châu Sư kính ghi lời bạt. Có nghe: Như Lai hoặc hiện thân Tể Quan nói pháp. Phật pháp đều giao cho vua chúa, đại thần, hai điều này là một. Nếu không có người này, thì đạo không thực hành, khiến cho vua chúa, đại thần không có túc căn với Phật, ai chịu ra sức chủ trương. Đại Thừa Tướng Tuyên Tịnh Lỗ Công, nhờ ngài Pháp Trí nằm mộng có ứng hiện, bỏ ruộng vườn vào chùa làm lợi ích không cùng. Thầm cho rằng nhân duyên lờn này, chỉ có Phật biết được Phật, rồi dùng tâm ấn tâm. Đại Thừa Tướng và ngài Pháp Trí chẳng phải hai người. Mộng này giác này như gương soi hình, ban đầu không có vọng tưởng, ruộng này cung kính này. Như người mua nhà, không thể một mình thành công. Nay Phán Bộ Thượng Thư là cháu của Đại Thừa Tướng, gánh trách nhiệm nặng nước nhà bàn bạc với nhau, tất cả đều muốn dân giàu sung túc dùng điều độ phải thích hợp, một gốc hiền từ nhân hậu, còn mảy may không thuận tiện đối với người, phải ra sức làm kinh tế, ở trong Phật pháp làm phương tiện Tam-muội lợi tha, mới được Thừa tướng truyền tâm pháp. Hàng thức giả không được đại dụng hằng ngày. Lỗ Công tái sinh mà ngài Pháp Trí vẫn còn, nay giảng chủ Thân Công Diên Khánh phải tự đảm đương, ngõ hầu, Đại thần và Đạo sư trong ngoài hợp nhau. Do đó, đèn sáng kế thừa. Hữu thừa Nghị Lang Tan Sai Quyền Phát Di Hưng Hóa Quân Chủ Quản Học Sự Tiết kính ghi lời bạt. <詞>HOÃNG SÁNG TÁC BÀI TỰA THƠ GHI TẶNG ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ Nay môn đồ của Giáo quán Thiên thai gọi Tôn giả Tứ Minh ngang với người xưa. Lời nói này là bậc pháp khí trong nước có thể nói làm hưng thạnh tông môn. Người nói lời này từ phương Bắc đến nghe thấy lạ tìm hiểu tên họ, mới biết đó là Pháp Trí Lễ Công đó chăng? Sợ hãi khen rằng: Cao Tổ Văn Nguyên Công ta và Dương Văn Công đã xứng với người ư? Ta tuy không biết học môn của Thiên Thai, chưa hề đọc sách của Pháp Trí, nhưng chắc chắn đạt được bản ý của người này. Pháp Trí là cháu đời thứ ba của Minh Trí Lập Công. Xem hai mươi ba bài thơ viết tặng cho Cao Tăng rằng: Pháp Trí Ngô Tổ rất nổi tiếng xưa nay, bởi sẵn có thiên tánh. Lúc ấy, chủ nhân Hàng Lâm Hoàng Công Dương Công đã để lại văn này và truyền bá, ngài là người nổi tiếng trong những người ấy, văn chương hay, phải làm sao? Nhưng thơ này của Pháp Trí Ngô Tổ. Buổi đầu không có sẵn, khi rơi vào Hàng Châu Thức Công, không biết trải qua mấy năm và truyền được cho những người nào, nhưng về lại ngôi nhà xưa của Pháp Trí, cũng là đáng khen. Đã được khắc vào đá, thầm cho rằng, nguyện được bài tựa. Pháp Trí đã ra đi nhưng thân vẫn còn ở sườn núi Đông hải và tiếng tăm vang dội kinh đô hưng thạnh mãi. Tụng đức Từ Hàng này, dù bị tản mác nhưng nối lại được, cũng khuyên người tu đức được. Về sau có người nhận được đã cảm được lời cao quý này chăng? Than ôi! Đạo Phong thời Tường Phù Cảnh Đức, điều này đâu có nao núng? Ngày mười ba tháng mười một năm Canh Thân, niên hiệu Chánh Hòa năm đầu, triều thỉnh Lang Lam Minh Châu Thuyền tràng phi kỳ úy ban đãi túi cá vàng Hoãng soạn lời tựa. Ngồi trên đá đốt hương Nhân nhớ thu Nhạc tự Cao nhân dưới song thọ Nghiệp tịnh tu mấy đời. Bát báu chim trên cành Bình đồng nòng nọc ngủ Thân yên tịnh khinh an Nhận Tạ công ở lại. Thô bốn mươi chữ tặng Đạo sư Tri Lễ Tứ Minh. Nhà dịch kinh chứng nghóa đồng soạn chú thích, viết dâng lên cho Đại sư Quán Tuệ. Hành Triệu. Các duyên còn trụ thế Mừng thấy thân mấy đời Tòa nêu cao vàng, đá Thần quỷ đứng trước sân. Thời gian như bóng nai Thẳng thiền chẳng biết xuân Người truyền đèn trên sông Ai kế thừa đời sau. Kính làm thơ Đường luật giữ Pháp sư Tri Lễ Tứ Minh. Chú giải dâng lên Đại sư Tuệ Chiếu. Hy Bạch. Đời này đã hẹn lão Vân Sơn Phong cách yên tónh tuyết, trăng thanh Nửa sông lặng ấm, ngâm cỏ nhỏ Nhà trống mới tạnh giảng Hoa kinh. Mây khắp rừng đốt hương trầm Suối chảy vách mát xen tiếng khánh Nhiều lần nghó tham quan về muộn Vịnh thơ trước giữ tên trong xã. Giữ bài thơ ngũ ngôn cho đạo nhân Lễ Công Diên Khánh. Đại sư Tịnh Tuệ Tuệ Sùng. Tứ Minh nhìn tự tại Sắc lặng bày nhiều tầng vách núi Rồng làm người nghe kinh Thần làm khách thí trai. Gió thông gọi gậy sắt Sương mù phủ đá ướt giầy cọ Nhờ già bệnh vô tướng Thẹn nhiều lần thưa thỉnh sai. Kính cẩn ngâm bài thơ bốn mươi chữ giáo chủ Lễ Sư. Dịch kinh chứng nghóa đồng soạn, sửa chú giải, dâng lên vua ban y tía. Nghóa Hiền Thành nhiều lớp dao động Đông nhìn xa khôn cùng Khe tín năm tới dứt Tâm núi đêm chưa qua. Suy tư lặng trăng soi Thấy xa sương phủ dày Sớm tối thấy được nhau Cơ mất đạo liền đồng. Giữ bài thơ bốn mươi chữ tặng sư Tri Lễ giáo chủ Tứ Minh, may thay mong người xem qua. Tuyết Uyển Tả Nhai giảng kinh luận chế tác văn chương, chú giải dâng lên vua ban y tía. Giám Huy. Chùa đảo sóng vây quanh Chân tu xưa cũng ít Sáng sớm chim nhìn bát Tối giảng trăng soi y. Tỉnh tu khói chiên-đàn Xa khám thờ ánh đèn Lúc hoa nổi thuyền trôi Trên sông cùng quên duyên. Kính cẩn ngâm thơ ngôn gửi Pháp chủ Tri Lễ Tứ Minh. Thượng Đô chế tác, chú giải dâng lên vua ban y tía. Thiện Thăng. Ý Phật mầu khó bày Chỉ sư giảng càng rõ Giảng cao như mặt trời trên biển Tiếng vang đến Thiên đô. Rửa bát đầm thu trong Khai thiền biết khánh riêng Nhiều lần hướng bên ngoài Mộng lạnh qua hồ sâu. Kính cẩn ngâm bài thơ Đường luật thất ngôn tứ vận tặng giáo chủ Tri Lễ Tứ Minh, không bỏ văn hoa, cúi xin xem kỹ. Thượng Đô Tả Nhai Ứng Thiệu chú giải, dâng lên vua ban y tía. Ngộ Xương. Mưa tạnh từ xa, khi cây rơi Hết nguy nhìn về Nam quyến luyến Bạch Liên xã cũ người xa lâu Vào quán đêm trăng bạc ngàn sông. Đan thiếu nhiều năm thơ ít sang Trong rừng thì có Lư ta ở Gió tu thông lay đèn heo hút Thưa hỏi cả tuần trên biển về. Kính cẩn ngâm bài thơ Đường luật gửi giáo chủ Tri Lễ Tứ Minh. Tuyết Uyển giảng luật ban y tía. Tịnh Xã nương Vân Đậu Nên nghe đến chân lâu Linh Vân giảng hạ dài Nghóa mầu người nào hiểu? Trăng biển hiện ngâm đêm Hoa núi rơi biết xuân Xa xa ta ứng niệm Áo đầy bụi sáu đường. Kính cẩn ngâm bài thơ bốn mươi chữ gửi tặng Tri Lễ giảng chủ Tứ Minh. Đông kinh tả nhai giảng luật văn chương ứng chế. Chùa xây gần núi biển Cảnh tịnh bỏ phù dung Đạo theo mình vang xa Năm tháng theo tiêu dung. Bên cửa sổ bình sớ Đến bờ phóng sinh nhiễu Bao lần động khinh suất Thân nhau mộng đi xa. Tặng thơ Đạo sư Tri Lễ Công Diên Khánh Tứ Minh. Thượng độ Ứng Chiêu chú giải, sau này tăng sưu tập. Hy Nhã. Đóng cửa tiếng vang xa Sóng lớn ngăn tìm nhau Thôi giảng chỉ lắng niệm Cô phong chỉ tâm này. Cầm thú, khói yên tịnh Đêm núi nhà vắng vẻ Đều ngước nhìn sông Ngân Cảnh thanh vắng rừng đạo. Thơ gửi Pháp sư Tri Lễ Tứ Minh, cúi mong thể nhận. Đông kinh giảng kinh luật, văn chương ứng chế, sa mông chú giải biên tập. Vô Tượng. Nửa đời ở Giang thành Chúng mê nghi bản chất Hành sâu đồng kiếp luyện Dốc lòng nguyện lưu thân. Nắm tê giác gió nổi Đài sư tử xuống chậm Cung ngao đến nhiều lần Giữ làm thầy trong giáo. Kính ngâm bài thơ Đường luật gửi tặng pháp chủ Tri Lễ Tứ Minh, Thượng Đô Ứng Chế chú giải, Sa-môn biên tập. Hiển Trung. Chùa biển giảng nhiều năm Tùy duyên đạo càng thuần Lắng tâm sâu nhờ quán Muốn quên thân vì pháp. Vận tùng thu lạnh sâu Núi trong mới tạnh mưa Bao lần nghó cảnh tịnh Sớm chiều bên thân nhau. Kính thơ ngũ ngôn đạo nhân Tri Lễ Tứ Minh. Đông Kinh Tả Nhai giảng kinh, văn chương ứng chế, chú thích dâng lên vua ban y tía. Thượng Năng. Năm xưa thẹn không biết Nay khâm phục rất nhiều Soạn sớ truyền xứ khác Người nhóm luận bàn không. Ánh đèn đối bóng tối Cây bách không mùa xuân Già nghó núi làm gì Gặp nhau biết nhân duyên. Kính cẩn ngâm bài thơ ngũ ngôn gửi Đại sư Tri Lễ Tứ Minh. Trong điện ban y tía, Sa-môn chú thích biên tập giảng pháp. Phổ Cứu. Thấy nói quên cơ lâu Gặp người muốn luận đạo Cây đỗ trước sân lớn Mắt nhắm, râu như tuyết. Đuôi tùng tận mây xanh Suối cát trăng sáng soi Sông Ngân cuối đợi đi Mùa thu ngắm núi cao. Kính cẩn làm bài thơ tứ vận, ngũ ngôn tặng đại Pháp sư Tri Lễ Tứ Minh. Tứ Minh không mùa xuân Gió cao tự gần nhau Khách tham thiền Lãnh nam Người Đông hải truyền giáo. Già nhớ ẩn núi xanh Nhàn quên cả ban ngày Lúc nào cùng xem tuyết Tùng lửa đêm thân nhau. Kính cẩn ngâm bài thơ gửi tặng pháp chủ Tri Lễ Tứ Minh. Chủ giải biên tập được ban y tía. Sớ xưa truyền ý sâu Dòng sông soi thân gầy. Bốn phương tới hỏi đạo. Nữa đời không xa núi. Nuôi hạc thương trong sạch. Nhìn mây thảy cùng nhàn. Nên nghe thiêu thân huyễn. Sở thích khác người đời. Ngâm bài thơ ngũ ngôn kính tặng Pháp sư Tri Lễ Tứ Minh. Thượng Đô ứng chế chú giải, vua viết ban y tía. Dẫn tê nương Trí giả Chất đá kế Sinh Công Dưới cửa an giấc mộng Giữa rừng tự liễu được không. Trời thi nghó đến khách xã Đêm nhìn động cung ma Dựa lầu nguy ca vịnh U hoài tận Dũng Đông. Kính cẩn ngâm bài thơ gửi tặng Tri Lễ giáo chủ Tứ Minh, cúi xin xem rõ. Thượng Đô ứng chế chú giải, Sa-môn biên tập. Thanh Viễn. Quán sâu biết thân chứng Nhiều năm khép kín cửa Đạo ngoài một mình hóa Từ lâu bỏ phế cơ Tiếng sóng giảng pháp tịch Cây, sắc lạnh áo thiền. Huống chi làm tông chủ Luận cao như Nhị Oai. Tặng thượng só Tri Lễ Tứ Minh một bài thơ, Thượng Đô ứng Thiệu chú giải, Tăng viết Văn Kỷ. Sông Ngân mình sư đi Xa kính ngưỡng cao ngất Ôm nghi như lớp mây Ngưng thực thể giác nhẹ. Giảng cao tiếng vang khắp Hành khổ hạnh râu bạc Thay Thánh sửa sử tăng Để lại tiếng muôn xưa. Kính tặng pháp chủ Tri Lễ Tứ Minh bài thơ ngũ ngôn, Ứng Chế chú giải, Tăng biên tập Kế Hưng. Tu chân nương Tịnh Xã Đến sâu dứt mảy trần Ngồi cả ngày tâm sâu Người học các nơi đến. Sam, tùng vây nghe giảng Vượn chim đứng trên đài Lại nhớ chốn tìm lại Thuyền nhỏ chở trăng về. Kính tặng Pháp sư Tri Lễ Tứ Minh bài thơ ngũ ngôn, Tăng giảng ở Tô đài, Tử Khang. Sắc thu gợi vọng Thiền Lạnh buốt ngâm nghó xa Đi khắp nơi lầm cực phố Lá rơi đầy rừng vắng. Tuyết Đậu nhiều lần ôm mộng Trăng sáng khắp sông Ngân Từ lâu nghe Liên xã Giảng chúc mừng vua Nghiêu. Ngâm bài thơ ngu ngôn tặng giáo chủ Tri Lễ Tứ Minh. Tăng Tuyết Uyển (Trạch Gián). Chùa gối đầu trên biển cả Cửa lớn khép tịch liêu Hoa về lậu hoặc hết Giảng thấu thú khói tiêu. Vào cửa suối thì thầm Thẳng cửa núi xa sắc Khi nào biết trùng tịch Nhìn về Nam đường xa xôi. Thiên tài khắp nơi thông suốt thác Năm ấy một mình giải nghóa khoa Kẻ só nghe kinh ít mộng thu Sông tăng giáo hóa nhiều đêm thiền. Ngàn rưỡi Thiền tăng truyền sao mới Nhiều đời tông sư hiểu sai xưa Chỉ sợ Ngô Hoàng lệnh đồng xe Kỷ nữ không nơi dâng ca hát. <詞>TỨ MINH TRUYỀN TRÌ CHÁNH PHÁP LÀM TỔ SƯ ĐỜI THỨ HAI MƯƠI CHÍN Đức Phật Thích-ca diệt độ ở rừng hạc. Trong hàng Thanh văn chỉ truyền pháp cho ngài Ca-diếp, các Bồ-tát chỉ có ngài Văn-thù, lãnh nhận lời dạy của Phật chỉ có A-nan. Đã có ba vị đâu thiếu một ai. Sau ngài Ca-diếp truyền hai mươi bốn đời cho đến Tỳ-kheo Sư Tử. Ca-diếp truyền đến đời thứ mười ba là Đại só Long Thọ. Ngài soạn đại luận, dịch truyền đến Trung Hoa vào thời Bắc Tề. Thiền sư Tuệ Văn vừa xem qua liền chứng nhập, đem truyền cho Thiền sư Tuệ Tư ở Nam Nhạc. Mười ngày cũng được chứng nhập rồi truyền cho Đại sư Trí Khải ở núi Thiên Thai mười bốn ngày được chứng nhập. Từ đó, có sáu Độ dung thông muôn pháp. Định nhưng có ba Chỉ, tuệ nhưng có ba Quán, đây là bản chấp của tông. Một là nói đầy đủ, hai là nói về pháp tánh. Lìa sớ mà có ba ngàn, tức là kinh chỉ chuyên quán tâm, tông của kinh gọi là Pháp Hoa, thì Hoa Nghiêm, A-hàm. Phương Đẳng Bát-nhã đều là Pháp Hoa. Kinh này là Ca-diếp, Văn-thù, A-nan đều là Tổ Sư của ta. Thiên thai thật truyền Chương An Quán Đảnh đời Đường, Chương An truyền cho Tấn Vân Trí oai, Tấn Vân truyền cho Đông Dương Tuệ oai, Đông Dương truyền cho Tả Khê Huyền Lãng, Tả Khê truyền cho Kinh Khê Trạm Nhiên, đến Kinh Khê về sau gọi là Trí Giả đều chép vào sách. Lời của Trí Giả đều đúng, ngài soạn thành một thời giáo lớn không thể thêm vào được. Kinh Khê truyền cho Thiên Thai Hành Mãn, Mãn truyền cho Quảng Tu, Tu truyền cho Vật ngoại. Ngoại truyền cho Lương Nguyên Tú. Tú truyền cho Chu Thanh Tủng, Tủng truyền cho Hữu Tông Hy Tịch, từ Hy Tịch trở lên đều thuộc tông Thiên Thai. Về sau truyền cho Tứ Minh Nghóa Thông, Thông truyền cho Tri Lễ. Gọi là Tôn giả Trí Minh, cũng gọi là Pháp Trí Tứ minh. Bẩm sinh biết được thượng tánh, suy tư nghóa trong lúc còn nhỏ. Ngài đối với giáo môn Thiên Thai cũng giống như Kinh Khê. Tứ Minh truyền cho Quảng Trí Thượng Hiền, Quảng Trí ban đầu đạt được ở Tịnh Danh, cuối cùng đối với tánh tướng và hiểu sâu Phật pháp. Vì trí truyền điều này, thần trí xem văn chương thần trí phá vỡ tất cả. Dùng nó lặng biển pháp trí, đốt đuốc trí tuệ, dùng nó kế thừa sự sáng ngời của Quảng trí. Nếu ghi lại được sự nhiệm mầu của ba trí có thể truyền mãi, cón nỗi lo kế thừa Vónh Gia, đó là thần trí của Sư. Nhưng tư lương của người trung, gọi là lập trong trí sáng ngời (thấy ghi trong tháp của Pháp sư Minh Trí Thỉ Hoãng tạo ra thuyết này). <詞>TÔN GIẢ TỨ MINH SAI TĂNG ĐẾN NHẬT BẢN TÌM NHÂN VƯƠNG KINH SỚ Đầu đời Tống, Thiên Thai giáo truyền theo đường biển đi vào Ngô, Việt. Đời nay đã truyền ba bộ lớn, nhưng vẫn còn để lại chưa đến, mà đến thì không đủ bộ gốc. Nhân Vương Kinh Sớ, xưa kia đưa đến hai bản mọi người nói là luống dối. Khi xưa, Thiền sư Pháp Trí nhận tóc của vị Bích-chi-phật do Thiền sư Tín người Nhật Bản gởi và trả lời hai mươi ý nghóa của câu hỏi để cầu Nhân Vương Kinh Sớ. Tín đưa huyền đi đường biển, nhưng không biết sao giữa dòng gió to sóng lớn. Người chèo thuyền nghó vì không nghỉ nên rồng giận, bèn ném hết Sớ kinh này. Dùng lời an ủi, Pháp Trí xin ký giả hai vị tăng đến cho Tín học thuộc lòng rồi trở về thuật lại, nhưng chẳng may hai vị tăng mất trên đất Nhật. <詞>PHÁP SƯ THẦN CHIẾU GHI LẠI BÀI TỤNG NGỘ KINH VƯƠNG Sư húy là Bản Như, khi xưa ở trong chúng Pháp Trí Diên Khánh. Một hôm lên phương trượng thưa hỏi ý chỉ Kinh Vương. Pháp Trí nói với Sư: Ta ba năm làm giám viện, ta nói với ông điều này. Thần chiếu theo lời dạy của Sư quả nhiên ba năm biết đường trở về. Thần chiếu đem sở ngộ lên thưa hỏi, chợt bị Pháp Trí hét một viết vang trời. Sư hoát nhiên khai ngộ tụng kệ: Khắp nơi gặp đường về, luôn luôn về cố hương. Xưa nay việc trước mắt, đâu cần đợi suy nghó. Sư nối pháp Tứ Minh, từ đây về sau mở pháp hội ở Đài Thành núi Đông Dịch, làm Tổ Bạch Liên. <詞>PHÁP SƯ TỊNH GIÁC MÔN HẠ CỦA TỨ MINH Sư húy là Nhân Khưu, người đất Xuyên. Thuở nhỏ, sư nghe ngài Pháp Trí mở mang giáo quán Thiên Thai hưng thạnh ở Tứ Minh, cho nên Sư đến đó. Khi lội qua sông cầu nguyện, sư ném cái nón mà hái cọng sen nói: Sở học của ta chưa đạt đến thì không qua được cầu này. Pháp Trí nghe điều này thấy lạ, quan tâm và hậu đãi sư và cho ở nhà phía Đông pháp trượng. Sư ngày, đêm đóng hết cửa lại, mượn cỏ lan tươi tốt để tìm đầu mối, cho nên nhà vách cột kèo đều đen như mực. Đến khi thư nhà gởi đến sư không đọc ném vào gác. Một hôm, khất thực cho đại chúng, đang ngồi chèo thuyền vừa duỗi chân ra sư chợt tỉnh, rỗng rang như hư không, nhưng cột buồm bị gãy. Ở đó được một năm, thì sư được một cái bát rất thích hợp, nôm lưới đều đưa ra. Mỗi khi có điều gì nghi lấy guốc gỗ lên xem rồi khó lại. Đến khi lên thưa hỏi, có người thấy sư còn yếu. Bấy giờ Tiền đường có Pháp sư Khánh Chiêu khai mở huyền nghóa sáng ngời, sơ lược về văn quán tâm. Sư giúp Tứ Minh soạn Quán Nghi để trình bày điều này. Tứ Minh soạn Diệu Tông, Nhuận Công soạn Chỉ Hà Phi Chi, sư chọn điểm chính để giải thích điều này. Tứ Minh xây dựng Tiêu phục ba dụng, Nhuận cũng ký kết nhưng nghi ngờ xem thường điều này. Sư soạn Chỉ Nghi để dừng điều này. Tứ Minh soạn chỉ yếu, luận bàn lý khác nhau của tùy duyên hoặc giả cấu nan, sư soạn Thập Môn Tiết Nan để phân biệt rõ điều này. Về sau, sư cùng Quảng Trí phân biệt về quán tâm, quán Phật, nhờ Tứ Minh xét định. Tứ Minh cho là đúng quán tâm quán Phật để chứng minh tâm tánh. Kia quán nương vào chánh, thâu nhận cả hai nhà, sư nghe điều này không vui. Sau này Tứ Minh khai trương Thân Lượng Đại Nghóa, sư soạn Thập giản để phân biệt điều này. Tứ Minh bất đắc dó sáng tác giải báng để giải thích thành một nhà. Sư khăn gói về Tây, lại lên Tuyết Báng của Tứ Minh soạn những quyển Tam Thân Thọ Lượng Nghóa Tam Thiên v.v… Lời này theo Tứ Minh đều không đồng, tôi có nghe ngài Vónh Gia nói: Giáo viên đốn không nhân tình, có nghi không nên tranh nhau giải quyết, không phải sơn tăng bàn về nhân ngã, tu hành sợ rơi vào hố đoạn, thường. Luận xuyên của Tứ Minh e là đúng, về sau bậc hiền sẽ hiểu điều này. Pháp sư Diệu Ngộ giúp Tứ Minh sáng tác sách bình Báng Xuyên xoay lưng với Tứ Minh tự lập thành một nhà. Về sau lên Tuyết Báng, dùng điều sai lầm lượng Thân Tuyết thêm bớt Nhị Báng. Trong lúc ấy, cảnh chiếu khó chịu Tứ Minh bị bệnh bảo môn nhân thôi đọc. Về sau, Tứ Minh tịch, sách này không trả lại. Lúc này Xuyên ở Linh Chi mà nói dối rằng! Chỉ vì khó giết được sư Tứ Minh, ai dám mở miệng với Linh Chi. Lời nói này xuất phát từ truyền miệng, hoàn toàn làm sao Tứ Minh nói lời này. Nếu luận bàn về Thân Lượng Nhất Gia, ba Song sáu Cú, đây là tiết lớn không thể nhổ được. Đã thấy quyển sách Diệu Tông Liệu giản giải báng, Tuyết Báng đem đến, càng rõ ràng mất đi chuyển kế tuy nhiên kia có văn nghóa, tiếp theo lại có Pháp sư Diệu Ngộ bình phẩm và phân tích chia chẻ sách này. Diệu Ngộ từng ở chỗ Thắng Quả Tú Châu hạnh giải sâu xa mầu nhiệm, hơn nữa còn có sự linh dị, đủ thấy được ghi trên tháp Cung ích nhu. Sư là Pháp tử của Quảng Từ Lôi Phong, ông là cháu đích tôn của Tứ Minh. Bấy giờ Xuyên nghe điều này không dễ gì đối đáp được, nhưng sư trình bày lại điều này có thể thấy được. Lược sơ sách rằng, ít nhất là phải kính cẩn sửa lại, lễ bái giảng chủ Sùng phước, dù ở trong thời gian ngắn, nhưng thưa hỏi rất chu đáo và chăm chỉ hơn, không lo sợ lợi dưỡng. Gần đây thấy hình thành sách Tuyết Báng, gọi là cứu sinh pháp nhị thân và Tuyết thêm bớt lưỡng báng, thường xem sách này, lại nghiên cứu thấy có mất, giải báng tuy rõ ràng, Tuyết Báng vẫn còn chấp cứng, nay y cứ vào phong cách ngôn ngữ của Ngô Tổ để bình luận thuyết sai lầm của Xà-lê. Nhưng sách này tuy có truyền bản viết tay, mà chưa từng khắc nhiễm. Hễ nói là nghóa học, người muốn thấu rõ trước sau sự xây dựng đạo này của Sơn môn thì phải nghiên cứu kỹ. <詞>THẢO AM GIÁO UYỂN GHI LẠI NHỮNG ĐIỀU GIẢNG CỦA PHÁP TRÍ Toàn bộ ba học là những điều cao siêu của môn hạ Pháp Trí, ghi lại hạnh nghiệp của ngài Pháp Trí. Trong đó nói về suốt bốn mươi năm Pháp Trí truyền thừa bảo nhậm, lời văn sâu xa huyền diệu. Giảng bảy, tám biến. Ma-ha Chỉ Quán năm biến, còn lại Tiểu bộ, hoặc giảng mười biến, đến nỗi không thể ghi hết số ấy. Người bấy giờ nói rằng: Pháp Trí giảng kinh, Minh Giác tụng, Từ Vân luận bàn, Phạm Tài làm thơ, Pháp Trí giảng kinh chân thật như vậy. Gần đây, người ta cho rằng người giảng thời nay một bộ giảng mười năm chưa xong, đâu thể bảy, tám cho đến không thể ghi được. Có người nói với tôi rằng: Xưa và nay khác nhau. Người thời nay còn mở rộng giảng giải, vào thời điểm nào đó tôi sẽ đáp rằng: Phần lớn học đạo phải tìm xét sâu xa về nguồn gốc của người xưa. Hoặc làng xóm có nhiều con gái nặng về trang điểm, vào thời điểm này, người si này đâu xứng đáng nói với họ. <詞>MÔN HẠ TỨ MINH GHI THÀNH MƯỜI ĐIỀU LỆ Biên tập điều lệ hưng thạnh, bởi nhiều học giả đọc được cương yếu này. Ban đầu nghe từ Thủ tọa, nhờ nghe Pháp Trí giảng đưa ra rất nhiều, ghi lại thành văn này gồm có năm điều, kế đến Xuyên Khâu Công là môn hạ Pháp Trí, học rộng nhớ hay thành bảy điều. Về sau sư Tiên Đô Thông sao chép thành mười. Lại nữa, Phật Tuệ Tài cộng, sửa lại thêm vào, lại có cát công chọn lọc lại. Đối với câu huyền diệu chỉ quán nghiên cứu ba bộ lớn ghi sớ Tịnh Danh Quang Minh, cùng nhau ghi chép, bớt những điều rườm rà, lược lại bổ sung thêm những điều còn thiếu. Trước sau năm sư chỉnh sửa thành bản hoàn thiện. Khi xưa Pháp sư Quảng Trí có dạy chúng: Thực hành loại tập được mất phân nửa. Được là người học nghiên cứu biết được yếu chỉ này. Quên là quên văn nghóa bản này hết đời sinh khởi. Ngoài văn phải nghiên cứu điều này, không thể chỉ nói điều này, huống chi ngày nay khắp nơi nói lung tung, phần nhiều đọc một chút văn này há không mất gốc chỉ cầu cành nhánh ư? Nhưng giáo điển không có nơi chốn, hoặc đạt được ở đó, ngõ hầu ôn lại những điều củ để biết điều mới không uổng trên đường học vấn. Quả là do đây mà biết được đại yếu, chắc chắn không nên dùng sự xoay vần chậm chạp làm quý.  GHI CHÉP VỀ GIÁO VÀ HẠNH CỦA TÔN GIẢ TỨ MINH <卷>QUYỂN 7 Bia hạnh nghiệp của Đại sư Pháp Trí ở chùa Diên Khánh, Minh Châu đời Tống. Bài minh trên tháp thờ Đại sư Pháp Trí truyền giáo quán Thiên Thai. Thật Lục của Tôn giả Pháp Trí ở Tứ Minh. Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao Tựa, Thiên Trúc, Tuân Thức. Văn Tế Đại Sư Pháp Trí Tứ Minh, Thiên Trúc, Tuân Thức. Thơ Truy Điệu Đại Sư Pháp sư Tứ Minh, Thiên Trúc, Tuân Thức. Tán Tôn giả Pháp Trí Tứ Minh, môn nhân Tăng Giang. Chân Tán Đại Sư Pháp Trí Diên Khánh Minh Châu đời Tống, Ngự sử. Hạo. Tán Họa Tượng Đại Sư Pháp Trí Thỉ Tổ Diên Khánh, Thái sư Sử Tán Đại Sư Pháp Trí Tứ Minh, Tuyết khê, Hy Nhan. Sớ Trai Kî Tổ Sư Pháp Trí Diên Khánh, Thiên Dụ. Sớ ngày húy kî Đại sư Pháp Trí Tứ Minh, Tuyết Khê. Sớ Kî Đại Sư Pháp TríThí Tổ Diên Khánh, Thử sơn, Khả Thọ. Bài Minh ghi ở tượng Tôn giả Pháp Trí trùng tu lại, Bá đình, Thiện Nguyệt. ------------------------------------------------ <詞>BIA HẠNH NGHIỆP CỦA ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ CHÙA DIÊN KHÁNH MINH CHÂU ĐỜI TỐNG Công thần Thôi Thành Bảo Đức Tư Chánh Điện Đại Học Só bảo vệ Thái Tử Thiếu Bảo. Chí Só Thượng tọa Quốc Nam Dương Quận khai quốc công ăn bổng lộc hai ngàn năm trăm (2 5 0 0) hộ, được phong thêm bổng lộc sáu trăm hộ được ban túi thiêu con cá bằng vàng triệu soạn. Đại sư Pháp Trí tên Tri Lễ, tự ước Ngôn họ Kim. Lúc chưa xuất gia rất thông minh, tướng phạm cao lớn. Tánh tình rộng lượng nhưng điềm đạm. Buổi đầu cha mẹ đi cầu Phật, đêm đến nằm mộng thấy Thần tăng dẫn đứa trẻ trao tận tay nói: Đây là La-hầu-la con của Đức Phật”. Nên khi sinh ra cũng đặc tên như vậy. Xuất gia từ thuở nhỏ, năm mười lăm tuổi thọ giới Cụ túc, hai mươi lăm tuổi theo Pháp sư Bảo Vân ở tại quận nhà thọ giáo quán Thiên Thai, mới ba ngày vị Tăng thủ tọa nói: “Pháp giới vốn có thứ lớp, cần phải phụng trì”. Sư thưa: “Thế nào là pháp giới”. Tăng đáp: “Đó là pháp tướng chung viên dung không ngăn ngại”. Sư nói: “Đã viên dung không ngăn ngại, vì sao nói có thứ lớp?” Tăng không đáp được, chừng khoảng một tháng, sư đã giảng Tâm kinh, mọi người đều đến nghe và ngạc nhiên về sự truyền giảng của Sư, nói giáo pháp có y cứ. Ở được ba năm, sư thường thay thầy giảng chung, đọc văn thông nghóa, càng mở rộng sở học của mình. Về sau trụ ở Thừa thiên rồi đến Diên khánh, đức của sư lan truyền xa, đạo pháp càng hưng thạnh, người học thông đạt sâu xa. Sư Nhật Bản sai đệ tử đến thưa hỏi và cầu pháp yếu, sư đáp thấu đạt nghóa sâu xa. Giáo Thiên Thai không hưng thạnh vào thời này, Chân tông Hoàng đế nghe tiếng quý nhân, bèn đến chỗ sư ra lệnh tu pháp, đối xử rất hậu. Gặp năm ấy bị hạn hán, sư cùng hai Pháp sư Tôn Thức và Dị Văn cùng tu sám Kim Quang Minh cầu mưa ba ngày, nhưng trời không mưa. Do đó, Ngài quỳ mãi dưới đất tự nguyện với trời: Hội Phật sự này nếu không mưa thì mỗi người đều đốt cánh tay cúng dường Phật. Phật sự chưa xong thì mưa rất lớn. Có lần, sư cùng Tiền Đường Phụng Nhân Phạm Thiên Cô Sơn sai môn nhân là Đại sư Thần Chiếu cùng luận bàn về thuyết này, cuối cùng sư đạt được. Sư từng viết Chỉ Yếu Diệu Tông Nhị Sao Đại Bi Sám Nghi Biệt Hành Sớ Ký và Quang Minh Nhị Ký. Từng cùng mười vị Tăng tu Diệu sám ba năm và hẹn sám pháp xong cùng nhau thiêu thân này, ngõ hầu để khuyến khích kẻ biếng nhác khiến cho tinh tấn. Hàn lâm học só Dương công Phò mã Đô úy Lý Tuân Úc tiến cử sư và phục hiệu cho, tâm sư rất quý trọng. Biết Ngài có ý thiêu thân, viết thư đến khuyên hãy đừng nên theo. Thư đến Thiên trúc Từ Vân Tuân Thức khiến cho Từ Hàng Chí Minh ra mặt nói ý nghóa này, nhưng sư cũng không nghe. Quần thư trực sử Quan lý công thần Bảo Lăng Xã thường dò xét Sư, không dễ gì lén thiêu được, chí nguyện sư không thành. Sư lại tập họp mười vị Tăng tu Đại Bi Sám ba năm, lại tu Quang Minh sám trong bảy ngày và đúng vào kỳ hẹn mới năm ngày thì sư ngồi kiết già thị tịch, nhằm ngày mồng năm tháng giêng niên hiệu Thiên Thánh thứ sáu hưởng thọ sáu mươi chín tuổi, hạ lạp năm mươi bốn năm. Trải qua một tháng, mở khám thì nhan sắc sư vẫn tươi tỉnh như còn sống, móng tay và tóc đều dài. Khi trà-tỳ lưỡi không cháy, xá-lợi nhiều vô số. Chủ giảng ba pháp hội, chỉ giảng pháp sám. Hơn bốn mươi năm lưng không dính chiếu. Người bấy giờ, những người theo Sư giáo hóa cả ngàn người truyền trao giáo cho họ và mở mang đạo pháp thời ấy hơn ba mươi hội giảng. Các môn đồ như: Tắc Toàn, Giác Tông, Bản Như, Sùng Cự, Thượng Hiền, Nhân Nhạc, Tuệ Tài, Phần Trăn đều là những người nghe giảng thời ấy. Nay giữa Triết giang, người giảng pháp thạnh hành đều truyền giáo của sư. Sư có công khai thị cho người cũng rất lớn. Tháng 10 mùa Đông niên hiệu Nguyên Phong năm thứ ba, sư ra đi một năm từ Cù đến Ôn có Giảng sư Trung ở viện Pháp minh, hạnh giải cao xa, chợt đến đất Cù, không theo thứ lớp tiếp độ mọi người. Một hôm, sư nghiêm nghị nói rằng: Đối với sư Pháp Trí chỉ thuộc hàng cháu trong Phật pháp, đáng tiếc sư thị tịch sáu mươi ba năm đã tạo nhiều công lớn kỳ đặc và đem lại sớ học cho người. Sư chắc chắn là chiếc mõ của họ Thích? Từ xưa Đạt Quan Văn Só, người đời sau rất tin lời sư, nhưng không nói lại, đồ chúng sư thầm hổ thẹn. Sau này có người trình bày hạnh của sư, thỉnh tôi soạn bia để truyền mãi về sau, tôi khen rằng: Buổi ban đầu của con người thênh thang nhưng lặng tónh, vốn không có phàm và Thánh. Đến khi cảnh vật giao chiến nhau, rồi không thể trở lại được. Ở đây chư Phật bất đắc dó đến Trung Quốc nhọc dùng danh tướng này để giáo hóa, há như vậy ư? Nếu dùng pháp mà thực hành được chỉ dạy điều này dùng giới mà không phạm. Như mắt bị hoa đốm người khác không thấy được, như tai nghe tiếng, người khác không nghe được. Muốn hàng phục tâm mà cầu đạt được Sơ địa, để sau này làm hướng đạo sư kế thừa hưng thạnh, mở rộng trí tuệ biện tài, luận bàn diệu nghóa chân thật, khiến người không lìa niệm ngay đó vượt đến Nhất thừa viên đốn; không lìa văn tự, chỉ dạy giải thoát các tướng, hoàn toàn đạt được yếu chỉ, thì không một pháp nào nói được, không dạy một chữ nào cho người, sư Pháp Trí đã đạt được điều này, thì đâu cần mượn lời truyền dạy đời sau ư? Tuy nhiên khẩn cầu siêng năng là trái, nhưng tạm xem chỗ ghi này đều cùng nhau nghe, vì lượm nhặt nội dung chính mà làm thực lục, bèn khen ngợi và nói kệ: Đại hùng giác ngộ nói lời hay Bàng bạc gió trăng và đất trời Bậc trí biện tài khéo giáo hóa Bấy giờ giảng nói khai thị người Tổng kết tám muôn như cát sông Đều xếp vào Chỉ quán Thiên thai Pháp Trí siêu việt truyền tiếng tăm Du hý Tam-muội vượt quần mê Chí vững mạnh, khí độ ôn hòa Tuổi thơ thông minh càng ngộ sâu Để lại ý chỉ quan trọng sâu Văn tiêu giải thích nghóa rực rỡ Văn từ thuần hậu lý đơn giản Hoặc sám hoặc giảng quên sớm trưa Học chúng phương xa cùng kéo về Thành Đẳng chánh giác tiêu Ba tuần Khiến đạo Phật Tổ càng hưng thạnh Như dòng đã trong hòa nguồn này Như lá xanh tươi bồi thêm gốc Hạnh cao danh trọng vang trong nước Thiên tử sai sứ đến ngay cổng Bậc hiền phi thường họ hàng vui Ban y phục, lệnh về Thiên Ân Biết thân biến diệt như mây nổi Nguyện dùng dũng khí để thiêu thân Vốn nguyện không toại nên huân tu Chúng sinh ưa thích theo tham sân Trôi lăn ba đường như cao luân Bốn ngộ là nhân đền tín thí Tội phước khổ vui đường phân chia Nói vốn không nói người là ai Tâm sư kính cẩn lại nghiêm túc Nói phá vọng há chẳng phải chân Thân tuy nói mất nay vẫn còn Sông Triết giang con cháu đầy nhà Gọi ức muôn đời xem văn này. <詞>ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ TRUYỀN GIÁO QUÁN THIÊN THAI Ở CHÙA DIÊN KHÁNH MINH CHÂU Bài Minh trên Tháp và lời tựa Ôn Châu Quân Sự Phán Quan Tướng Só Lang Thức Bí Thư Tỉnh Giảo Thư Lang Tiền Lam Xương Quốc Đông Lam Hồ Phưởng soạn. Trời muốn đạo này trụ đời lâu nên phải sinh người tài nay trên đời. Như Đế Đức đi, Vi Di Công Khổng Tử thì không dùng hưng thạnh thường hành trăm đời. Phật đạo suy chẳng phải nghó sư Trí Giả, cho nên không văn rỗng rang đã nói năm thời. Sau Khổng Tử là các bậc tài giỏi của nhà Nho, đâu từng không có người? Trí Giả không làm Sư biểu cho pháp môn, cho nên sinh ra đức. Đại sư húy là Tri Lễ, tự là Ước Ngôn, họ Kim, người ở Tứ Minh. Buổi đầu khi chưa sinh ra cha mẹ cầu nguyện tha thiết, mẹ họ Lý, cùng đi cầu Phật từ đó có thai và đến khi sinh ra sư đặt tên La-hầu-la. Tánh tình điềm đạm, cốt cách phi thường. Thuở nhỏ siêu vượt khác thường, bảy tuổi mẹ mất, nghó ân cù lao khó báo đáp, khóc mãi không thôi, từ đó chán đời muốn xuất gia, cha nuôi nấng thấy con khác thường, cũng không cản chí nguyện của sư. Buổi đầu, sư thờ ngài Hồng Soạn chùa Thái Bình Hưng Quốc làm thầy, mười lăm tuổi thọ giới Cụ túc và chuyên nghiên cứu luật, hai mươi tuổi học giáo pháp Thiên Thai với Pháp sư Bảo Vân, giữ gìn tâm châu vững như vàng đúc. Sự hiểu biết như nước rót từ bình này sang bình kia, rõ ràng như ban ngày. Từ đó siêng năng tinh tấn có trí tuệ rộng lớn, an nhiên như lộ địa, sáng ngời như trời dâng. Tiếp độ người phải gọi như rồng lên phân tích các nghóa, phải gọi là nai đều phục, cho nên đạo không cầu mà vẫn lan truyền bốn phương đều nghe, chúng không kêu gọi mà ba ngàn dặm đều đến. Tháng bảy mùa thu năm Bính Thân, niên hiệu Chí Đạo, từ đạo tràng Thừa Thiên về pháp tịch Diên Khánh, nhưng một lòng giảng sám pháp suốt qua hơn bốn mươi năm lúc nào cũng sám hối, cũng không hề một đêm biết nằm nệm êm, đó là hạnh tinh tấn của người. Trăm sông tranh nhau chảy mãi không ngừng, luôn làm lợi ích cho người. Ngài như mặt trời trên hư không soi sáng khắp nơi. Trên thì Hoàng đế chân tông sai sứ đến tặng phẩm vật khác thường, xa thì có Sư nước Nhật Bản bảo đồ chúng đến thưa hỏi pháp yếu còn những người khác đều kính mến, cho nên đều biết. Niên hiệu Thiên Hy năm đầu, về già sư bảo đồ chúng rằng: Nửa câu kệ quên thân, một câu vào lửa, tâm bậc Thánh vì pháp như thế, huống chi chúng ta cách Phật đã xa, người xem thường đạo thì nhiều, ta không thể bỏ thân mạng để cảnh tỉnh biếng nhác, phải nên tinh tấn mãnh mẽ, đâu đáng nói. Do đó cùng nhau nhóm họp mười vị Tăng để sám hối trong ba năm, rồi cùng nhau thiêu thân. Bấy giờ, Hàn lâm học só Dương công Phò mã Đô úy Lý Công đều là bậc văn hùng xuất cách, công trạng lớn đương triều, mỗi người đều được thông ngộ ở sư, nghe theo trở về. Năm ấy sư được ban y tía ban hiệu Pháp Trí, đều được tiến cử của hai công luận, nghe sư nguyện cúng dường chân pháp, thường nghó về cõi an dưỡng, Dương Công siêng năng thỉnh sư trụ thế. Lại có ý nhàm chán và có điều nghi ngờ gạn hỏi cho nên Sư đáp: Trọn đời phá tướng, mà đều thành tựu các pháp. Cả ngày lập pháp mà mảy trần đều hết. Dương Công biết không thể cũng nghóa để thuyết phục cũng không thể dùng lời để giữ lại mới giao cho châu tương đến các Tào Sử để cho mọi nhà bảo hộ cho an ổn, thường mến mộ giữ gìn. Vào thời Thái thú Chủ khách viên ngoại lạng sử Quán Lý Công Di Canh cùng quận ấp liêu thuộc đều hết lòng tin, chí thành thỉnh cầu cùng nhau tinh tấn. Lại ở Tiền Đường có Pháp sư Tuân Thức nổi tiếng đương thời, đạo siêu xuất hơn mọi người, trước kia kết giao với sư rất tâm đắc về Phật pháp, Dương Công cũng gởi thư cho Tuân Thức, thỉnh Sư Thức đích thân đến Đại Giang, cùng đến trượng thất. Từ đó hạnh nguyện của Đại sư bất đắc dó ở lại và đến khi Đại sư mất, Thức làm thơ để truy điệu Sư: Trên đời không có hai vầng nguyện, người đời chỉ có một mình Sư. Người luận bàn không ai vượt hơn lời của Thức, nhưng đạo của Sư rõ ràng, thì đạo đức của Đại sư, thành tín của Đại sư, vì đạo của Ngài đồng với bậc hiền, yêu mến kính trọng như vậy. Mùa Đông niên hiệu Thiên Khánh năm thứ năm thân bị bệnh, Sư càng hành đạo tinh tấn. Môn nhân thỉnh Sư nghỉ, nhưng sức khỏe Sư bình phục lại. Ngày mùng năm tháng giêng năm thứ sáu, sư ngồi kiết già tư thái an lành thị tịch. Trải qua thời gian khá lâu mở khám ra vẫn tươi tỉnh như còn sống, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi bốn tuổi hạ. Ngày 04 tháng 12 năm ấy, Xà Duy ở ngoài Nam môn bản quận, chất gỗ chiên-đàn đem đến thiêu, nhưng lại bát ngát mùi hương chiêm-bặt trước đó đã nghe thơm ngát, xá-lợi năm màu nhiều vô kể, cả tăng lẫn tục đều đến xin không biết bao nhiêu. Ngày mồng 9 đến 12 tháng 7 niên hiệu Minh Đạo thứ hai, vâng lệnh đem linh cốt an táng ở bên trái viện Sùng Pháp. Đại sư thiên bẩm chiếu sáng, thần giúp đỡ tinh lực, thông suốt đại kinh, tinh tấn Tam-muội, khi xưa Sư chưa từng am hiểu, nay sở học có những điều chưa rõ sư đều thông sáng và đã ghi lại giải thích, đến bậc tài trí khó thực hiện được, con cháu đời sau khó kế thừa. Sư xác định rõ ràng và tiến đến, cũng như một mình trên muôn nhẫn, nên người đều kính ngưỡng đức cao vời, nhưng không thể bước lên đỉnh cao ấy. Trăm hang đều ở dưới, mọi người đều nhìn chiều rộng, nhưng không thể lường được chiều sâu của nó. Cho nên người viết lại sự truyền thừa của Đại sư, hơn bốn mươi năm, Đại sư thăng đường hơn cả ngàn người, trong số đó đều là những bậc uyên thâm là người lãnh hội kế thừa hưng thạnh. Như chùa Khai Nguyên ở Đương châu; chùa Viên Trí ở Việt châu; Tắc Toàn, Giác Tông ở Thái châu; Đông Dịch Sơn Bản Như ở Cù châu; Sùng Cự ở viện Phù Thạch nối pháp viện trụ trì ,Đại sư đều chuộng bậc hiền. Hơn nữa hai mươi hai người đều là bậc tài giỏi, thể hội tất cả, tâm ngộ siêu việt, vững vàng bẻ gãy các mũi nhọn, lợi ích tất cả, căn tánh thượng, trung hạ đều thấm nhuần. Từ một đám mây tản mác khắp mấy trăm ngàn, vốn chiếu từ một ngọn đuốc. Thì đạo của Đại sư hưng thạnh ở đời lợi ích tất cả, sáng ngời mãi mãi. Lại có thể đạt được và biết được, toàn hành trạng của sư đều sáng tác trong thực lục ở đây chỉ ghi sơ lược. Giáo chủ Hiền Công ra lệnh ghi đạo hạnh của sư vào tháp, nhưng ghi mất những điều hay. Than ôi! Đại sư giáo hóa đâu không nói chăng? Người đạt được không dùng pháp Kỳ Viên thuộc về nhiêu lý mà sư thì vịn vào cây mà đi ư? Giáo môn núi Thiên Thai phải truyền bá rộng mà ánh sáng của sư rộng lớn chăng? Ngoài cửa có xe, Chư Tử không đi, nhưng sư làm cho họ đi. Trong áo có châu người say không biết, mà sư làm cho họ biết chăng? Biến ra hóa thành ở trong đường hiểm chăng? Phao trôi nổi trong biển cả ư? Báo đáp ân chư Phật? Làm Sứ giả Như Lai ư? Không như thế thì làm sao được chuyên tâm hướng về đạo, quên thân vì người, như vậy là quá lắm ư? Khi xưa, Lương Bổ Quyết nói: Thiên Thai Đẳng giác ư? Diệu giác ư? Không nên hiểu như vậy. Tướng quốc Bùi Hưu nói: Khuê Phong là người thiên hạ nương tựa, ngài là bậc Thập địa ư? Thì nay người bàn về Đại sư đâu thể dùng lời của Lương Bùi mà khen ngợi chăng? Phòng vì không được thông minh, thì đâu dám chống lại lời dạy. Đốt hương đảnh lễ kính cẩn viết kệ rằng: Hành đạo ở đời Lâu ở cõi này Dạy giáo bậc thánh Biết giúp hiền này. Hoàng là Chân giác Thỉ là hóa duyên Khai hiển một tánh Truyền khắp đại thiên. Tài giỏi ở đời Tông phong thay giảng Trí giả rộng lớn Diệu đạt kim tiên. Mở rộng chân thừa Đuốc pháp chói sáng Ngân giang tiếp nối Chiếu sáng bốn biển. Vua ban vật lạ Mọi nơi cung kính Ba quán riêng chiếu Muôn hạnh vững vàng. Tánh ngọc vốn sáng Hình châu tự tròn Bước vững đất giác Quên thân giảng mãi. Ngộ không còn ngã Khéo hẹn chúng Tiên Gặp ông còn biếng nhác Thân ta còn tổn sức. Mong người tỉnh ngộ Vâng theo lời dạy Luôn nhớ bậc hiền Bạn đạo giữ chắc. Đều nhớ mến mộ Không cho tự thiêu Lợi ích càng nhiều Tâm ngài càng chuyên. Giáo hóa đều đạt Dạy giáo đều thông Báo linh mượn đời Mặt trời tuệ sâu. Đạo của sư tỏ Không đắc mà nói Hóa tích của sư Đều được ghi khắc Bài minh trên tháp Hương thơm truyền mãi. <詞>THẬT LỤC VỀ TÔN GIẢ PHÁP TRÍ Ở TỨ MINH Môn nhân viện Khai Nguyên Tam học biên tập. Đại sư húy Tri Lễ, tự Ước Ngôn, họ Kim, cháu của Kim Nhật Đan đời Tiền Hán, con cháu đời sau là những người thông minh. Cha họ Kinh, mẹ họ Lý. Bảy tuổi sư mồ côi mẹ, vì muốn báo ơn nuôi dưỡng nên sư xuất gia, và theo tăng tài đức ở chùa Thái Bình Hưng Quốc ở quê nhà thờ làm thầy. Năm mười lăm tuổi xuất gia thọ giới Cụ túc, hai mươi tuổi theo Pháp sư Bảo Vân Thông học giáo quán Thiên Thai. Được hai năm, một hôm sư nằm mộng quỳ trước ngài Bảo Vân Thông, Thông cầm bình nước rót vào miệng sư, từ đó về sau sư thông hiểu ý chỉ viên đốn. Vừa nhận liền hiểu, từ đó thay ngài Bảo Vân Thông giảng dạy. Chỉ trong mấy năm ngài Bảo Vân Thông viên tịch, sư nhớ lại giấc mộng xưa và thông suốt như ban đầu, mặc vào tay trái rồi đi, liền tự hiểu rằng: Chẳng lẽ đem sơ biểu để nhận sự học lưu thông, thứ biểu để nắm giữ chủng trí ban đầu hành hóa ở đời. Đến năm Tân Mão niên hiệu Thuần Hóa, sư nhận chùa Càn Phù kéo dài đến Tứ Tự, Chư Tử đều vui theo. Giảng đường chật hẹp sư dời về viện Báo Ân. Từ niên hiệu Hàm Thông năm thứ hai, sư chuyên giảng sám, thường ngồi không nằm, không giao thiệp với bên ngoài, đuổi hết những người nghiên cứu, yết kiến. Sư lần lượt giảng Pháp Hoa Huyền Nghóa bảy biến, Pháp Hoa Văn Cú tám biến, Ma-ha Chỉ Quán tám biến, Đại Bát-niết-bàn Kinh Sớ một biến, Tịnh Danh Kinh Sớ hai biến, Kim Quang Minh Kinh Huyền Sớ mười biến, Quan Âm Biệt Hành Huyền Sớ bảy biến, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ bảy biến, Kim Cương Bia, Chỉ Quán Nghóa Lệ, Chỉ Quán Đại Ý, Thập Bất Nhị Môn, tất cả các tâm yếu giảng nói nhiều không kể hết. Soạn thuật Quang minh Huyền Tục Di Ký ba quyển, Kim Quang Minh Văn Cú Ký sáu quyển, Quang Kinh Diệu Tông Sao ba quyển, Thập Bất Nhị Môn Chỉ Yếu Sao hai quyển, Quán Minh Dung Tâm Giải một quyển, Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết Đề Hạ Chú Văn một quyển, Nghóa Liệt Cảnh Quán Hộ Chiếu một quyển, Thiên Thai Giáo và Khởi Tín Luận Dung Hội Chương một quyển. Hai mươi câu hỏi Biệt Lý Tùy Duyên một quyển, Thích Thỉnh Quán Âm Sớ Tiêu Phục Tam Dụng một quyển, Đáp 119 Câu Hỏi Xiển Nghóa Sao Biện Tam Dụng một quyển, Quang Minh Huyền Đương Thể Chương Hỏi Đáp Kệ một quyển, Thích Nan Phù Tông Ký hai quyển, Hai Trăm Câu Hỏi Quán Tâm một quyển, Thập Nghóa Thư ba quyển. Giải Báng Thư ba quyển, Trả Lời 27 Câu Hỏi của Thiền sư Nguyên Tín người Nhật một quyển, Trả Lời Ba Câu Hỏi của Dương Văn Công và Một Lá Thư Ba Mươi Câu Hỏi của Giáng Hàn một quyển, Khai Thị Cho Hàn Thức Hỏi Bốn Mươi Hai Chương Kim Quang Minh Tam-muội Nghi một quyển, Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Chú Hành Pháp một quyển. Trao Bồ-tát Giới Nghi một quyển, Văn Phóng Sinh một quyển, Làm Dụ Điện Đầu Tác Tu Sám Yếu Chỉ một quyển, Làm Văn Ty Pháp Chúc Thản Phát Nguyện một quyển, Tu Pháp Hoa Sám Pháp ba mươi ngày đêm năm biến, Kim Quang Minh Sám Pháp mười một ngày đêm hai mươi bốn biến, Di-đà Sám Pháp mười bảy ngày đêm năm mươi biến, Thỉnh Quán Âm Sám Pháp bốn mươi chín ngày đêm tám biến, Đại Bi Sám Pháp ba mươi bảy ngày đêm mười một biến. Mỗi năm như vậy có đến năm mươi bảy vị, cùng đồng chí hướng một trăm mười người phát nguyện tu sám pháp. Đủ ba năm nguyện cùng nhau thiêu thân, cúng dường diệu kinh, cầu vãng sinh Tây phương, thực hành pháp viên mãn không biết làm sao? Nổi tiếng đến triều Ngạn, Hàn lâm học só Dương Công Ức liền viết thư thỉnh Sư trụ thế. Đô thư trực sử Quan Lý Di Canh cùng Phó chúng Quan liêu càng cầu thỉnh đều xin Sư ở lại thế gian nói pháp lợi sinh. Do đó, chí nguyện không thi hành được. Lại hội tu thập tăng tu Sám Đại Bi làm Phật sự ba năm cho ý chí vững vàng, kể từ khi ba mươi hai tuổi Sư ra trụ trì giáo hóa nhất tâm giảng sám pháp tổng cộng ba mươi tám năm, từng đốt ba ngón tay để cúng dường Phật xây thiền viện, một cơ sở lớn nhỏ ba trăm gian, đáp tượng Di-đà, Quan Âm, Thế Chí tổng cộng một trăm mười hai pho. Một tượng Bồ-tát Phổ Hiền, một tượng Bồ-tát Quán Âm, sáu tượng Tổ sư Thiên Thai và viết về Giáo Thừa Thiên Thai một vạn quyển. Niên hiệu Thiên Hy năm đầu, Hàn lâm Dương Ức tâu lên vua, vua ban y tía. Niên hiệu Thiên Hy năm thứ tư, Phò mã Lý Tuân Úc tấu lên vua Chân tông ban hiệu cho Sư là Đại sư Pháp Trí. Đến mùa đông niên hiệu Thiên Khánh năm thứ năm, sư bị bệnh nằm tại chỗ phải nhờ bác só trị bệnh, nhưng Sư cũng không nghó nói pháp. Vào giờ Mậu ngày mồng năm tháng giêng năm thứ sáu, sư ngồi kiết già gọi đại chúng nhóm họp nói pháp. Cuối cùng Sư nói: Ta tận tâm ra sức xây dựng đạo tràng này. Thệ nguyện xây dựng giáo quán Thiên Thai, các ông phải khéo gánh vác, không để đời sau mất hạt giống Phật. Ngô Tổ dạy cặn kẻ các ông nên ghi nhớ. Hễ có sinh thì phải có chết vì vẫn còn sớm tối, nhưng các ông phải thường tinh tấn tu đạo không nên xen hỡ, thì đời đời kiếp kiếp thường gặp nhau. Sư nói xong đột nhiên niệm danh hiệu Phật A-di-đà rồi tịch. Thân an trí trong khám, qua hai mươi bảy ngày móng chân, móng tay và tóc đều dài như thường, nhan sắc vẫn tươi tỉnh như còn sống. Trải qua một tuần đưa về Nam môn giao ngoại, đến lúc Xà-duy nghe mùi hương thơm lạ, sau đó hỏa táng, nhưng lưỡi không cháy, xá-lợi óng ánh năm màu nhiều vô số, và nhiều vị quan, só thứ trong cung được xá-lợi. Năm năm sau, đến ngày 29 tháng 07 năm Quý dậu niên hiệu Minh Đạo năm thứ hai, đệ tử đem linh cốt chôn ở bên trái viện. Sùng pháp lập tháp để người sau biết được. Sư hưởng thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi bốn tuổi hạ. Môn đồ học Pháp sư được lãnh hội ba mươi người như: Tắc Toàn Giác Tông, Bản Như Sùng Cự, Thượng Hiền Phạm Trân, Nhân Khâu Tuệ Tài. Những vị được vào thất có bốn trăm bảy mươi tám người. Mỗi năm vào giữa mùa xuân, sư mở hội Bồ-tát giới người được sư giáo hóa thường đầy đủ năm ngàn người, còn lại người mật hạnh ẩn đức khó gặp được. Nhưng điều ghi chép trên mọi người đều hay biết, và để lại sau này các bậc hiền kính mến đức của người. Ngày 18 cuối thu niên hiệu Minh Đạo, môn nhân là Tắc Toàn kính ghi. <詞>TỰA CHỈ YẾU SAO Đại giáo hưng thạnh an lạc là do người này, các Tổ đã ra đi sự giáo hóa mầu nhiệm sắp diệt mất. Đại giáo: Ở đây không phải thể của giáo môn chia chẻ thiên, viên, đối với nghóa phân chia lớn nhỏ. Y theo trong ngoài của hai tông này để luận bàn. Như Thích Thiên Giải Chương An Đại Pháp Đông Tiệm nói: Thông ý chí Phật pháp là đại pháp. Văn Tuyển nói: Đạo có hưng thạnh an vui. Chú rằng: Long là thanh, Di là bình, hưng thạnh an bình cũng là nghóa ao thấp. Chu dịch: Thần là để nói về điều này. Vẫn còn ở người này. Chư Tổ: Là các sư Kinh Khê về sau. Thái Huyền Kinh nói: Ở xa thấy có màu đen nên gọi là huyền. Từ nay dùng ý chỉ tông Thiên Thai sâu xa mầu nhiệm gọi là huyễn hóa. Âm cơ, văn la soạn thành âm này cũng gần. Thời gian không thể lâu dài. Tâm thì có bậc siêu xuất người đời. Tứ Minh truyền giáo Đạo sư Lễ Công, thật là bậc vó đại trong giáo môn. Thuở nhỏ đã học kinh, thì có khả năng suy tư về nghóa, thiên cơ phẩm phát đặc biệt, không thể nói bậc mới sinh mà biết được tính cao thượng. Nhó Nhã nói: Thế là phế. Thế gian: Là những người có danh đức sống trên đời. Mạnh Tử nói: Bỉ là nhất thời, thử cũng là nhất thời, năm trăm năm có một bậc minh quân làm hưng thịnh đất nước, trong đó có bậc vó nhân xuất hiện. Tứ Minh là ngọn núi nổi tiếng ở phía Nam phủ Khánh Nguyên. Lục Quy Mông nói: Đó là ngọn núi cao nhất, trên núi có bốn hang, nếu hôm nào trời trong từ xa nhìn như cửa sổ, tương truyền rằng đây là cửa sổ đá, tức là chỗ ở của Thần tiên nhìn về Tứ Minh, thấy được Đồ Kinh của Tứ Minh. Lễ Ký: Mười tuổi là ấu học, hai mươi tuổi là Nhược Quan. Nói đồng tử là từ mười đến hai mươi tuổi, giữa Nhược Quan và Thái Hòa vị tán đều gọi là Đồng tử. Sư bảy tuổi xuất chính là lúc còn đồng tử. Thiên Cơ Trang Tử nói: Sự ưa thích sâu xa, cạn hơn đại cơ. Ngữ nói: Chưa học mà biết đó là bậc thượng, học mà biết là bậc thứ. Đến khi thọ giới Cụ túc theo học với ngài Bảo Vân Thông. Buổi đầu mới vào pháp hội học, sư đã nằm mộng thấy mình quỳ trước sư Vân Thông, thông cầm bình nước rót vào miệng, nước chảy xuống như suối, sư lãnh thọ như hang. Từ đó ý chỉ viên đốn của tông Thiên Thai, vừa học liền hiểu, không cần nghe lại. Thái Thông nói rằng: Lời nói của ta ông đều thông suốt hết, ta không cần giúp đỡ ông. Theo bài Minh trên tháp, năm mười lăm tuổi, sư xuất gia thọ giới Cụ túc, hai mươi tuổi theo học với sư Vân Thông. Tứ Minh họ Kim, Húy Kinh. Sư nằm mộng thấy nước chảy như suối, dụ cho giáo quán nối nhau không ngừng. Mạnh Tử nói: Cội nguồn lẫn lộn ngày đêm không ngừng đầy cả phòng sau đó ra ngoài tận bốn biển, người đạt được gốc là như thế. Nhó nhã: Nước chảy từ khe gọi là hang ông đối với lời dạy của ta: Luận ngữ Phu Tử nói: Hồi không cần sự giúp đỡ của ta, đối với lời dạy của ta không lời nào ông chẳng nói được. Sớ giải nói: Vẻ mặt Phu Tử im lặng mà biết được, tức là không phát khởi thêm điều gì nữa, cho nên nói là phi trợ ngã. Đến khi Vân Thông tịch, sư nhớ lại giấc mộng, choàng tay qua đầu Vân Thông, tay trái dắt đi. Chao ôi! Chẳng phải đạt được sơ biểu là học tập. Như A-nan rót nước từ bình này sang bình khác chẳng khác, hậu biểu là truyền giữ được chủng trí của thầy mà hành hóa. Vân Thông tịch vào năm đổi niên hiệu là Đoan Củng đời vua Chân Tông. Quán nghóa là quán xuyên. Hoàn âm là hoạn, xuất phát từ Tả truyện. Kia gọi là mặc áo giáp cầm binh, Hoàn giáp còn gọi là Đới giác. Luận bàn về tướng trạng của giấc mộng: Tay phải của Tứ Minh choàng qua đầu sư Vân Thông, tay phải dắt Thông đi, điều này chắc chắn là giấc mộng lạ, đây là tiếng than thở. Đại Kinh nói: A-nan hầu Phật nhớ mười hai bộ kinh, như rót nước từ bình này sang bình khác. Hai chữ Chủng Trí nói theo ý dồi dào gọi là Nhất thiết chủng trí, Đạo chủng trí, Nhất thiết trí, đây là một tâm ba trí, xuất phát từ kinh Ma- ha Bát-nhã. Đại Luận giải thích trong quyển mười ba. Khi xưa Bắc Tề nương vào đây để tu tâm quán, truyền miệng cho Nam Nhạc, Nam Nhạc truyền cho Thiên Thai. Thiên Thai về sau truyền mười ba đời, đến Tứ Minh, bởi một nhà truyền tông pháp yếu, chỉ là điều này. Đầu niên hiệu Thuần Hóa, chùa Càn Phù quận nhà, buổi đầu tiên thỉnh giảng, mọi người đều vui. Như các dòng về biển cả, vì nhà chật hẹp môn đồ càng đông, chẳng bao lâu sư dời về Báo Ân. Các bộ Pháp Hoa, Chỉ Quán, Kim Quang Minh đều giảng thông suốt, không để ngày tháng qua suông. Chùa Càn Phù ở giữa trung tâm chợ nên đổi về Thừa Thiên. Nay là chùa Thừa Thiên là chỗ ở của sư, tức là viện Phù Dung Pháp Hoa, Bảo Ân nay là Diên Khánh, Duyệt Tùy, Chu Dịch nói: Tùy theo cương mà hạ xuống, nhu động mà vui theo. Khổng Chú Thượng Thư: Trăm sông lấy biển làm tông. Dương Tử nói: Cuối cùng là đầu tiên, đầu tiên là cuối cùng, như liên hoàn không có đầu mối. Sư khuyến khích đồ chúng rằng: Ta hoặc xuất, hoặc xử, hoặc nói hoặc nín đều dùng ý chỉ quyền thật giáo quán, vì ăn mặc mà phải nương tựa như vậy, các ông không nên biếng nhác. Húc là khuyên gắng. Bậc Thượng Thư Phu Tử khuyến khích ư? Cụm từ xuất xứ nói nín đều dùng theo Chu Dịch, kia nói đạo của bậc quân tử trong bốn oai nghi không hề quên. Giáo quán quyền thật: Là then chốt của một nhà vào đạo. Phục là mặc vào thân, vị là ăn cho đỡ đói, trượng là cầm trong tay, ỷ là thân dựa, dụ cho sáng tối đều thực hiện thọ dụng. Lành thay! Nếu mặc áo nhẫn nhục, ở nhà từ bi, khéo dạy dỗ từng bước, không thể xứng đáng. Dùng Pháp Hoa Tam Pháp này, khen ngợi hạnh lợi tha. Kinh nói: Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, nhà danh đức trùm khắp, áo danh đức che điều ác, không dính mắt vào danh tòa, đầy đủ ba thứ này để mở mang đạo Thánh, tức là chỗ y chỉ của thế gian. Luận Ngữ nói: Phu Tử khéo dạy người từng bước. Chú rằng: Tuân tuân là dáng vẻ từ từ, dụ là tiến. Thích Thiêm Thập Bất Nhị Môn: Xưa nay đều truyền giảng, cho rằng văn khó. Hoặc nhiều chú thích, đều trình bày chỗ khác nhau, ai không tự nói cầm được châu linh xà, quơ viết đầy trời, đâu nghó đến một nhà giáo quán. Chỉ vì không biết chỗ khải phát, công xem lại tham. Đâu chỉ giải thích văn chưa đầy đủ, vì sao trao bạn đại cương, núi lở một góc vì dùng lòng bi tha thiết. Hoặc chú thích nhiều, bởi chỉ có Kinh Khê về sau phụng Tiên châu chỉ cô sơn chứng được điều nghóa này. Dẫn hai việc để sở trường các nhà đều hoàn thiện. Khi xưa, lúc Tùy Hầu đi ra thấy Mục đồng đập đầu rắn bị thương, Hầu thương nó dùng thuốc xoa, chữa lành xong thả đi. Đêm khác thấy trong sân có ánh sáng, và thấy một con rắn ngậm hạt châu để dưới đất. Rắn tự nói mình vốn là rồng, biến hình dạo chơi bị Mục đồng đánh trọng thương, nhờ Ngài cứu thoát, cho nên nay đem ngọc đến tạ ơn. Hầu được châu đem dâng lên Sở vương, vua để trong điện phát sáng như ban ngày. Theo Tăng Truyện đời Lương, Pháp sư Đạo An thông thạo văn ký kinh, đức Ngài vang xa được kính trọng, bấy giờ, Tập Tạc Xỉ Phong Biện Thiên Thùy đến yết kiến rồi khen rằng: Tứ Hải Tập Tạc Xỉ Đạo An nói: Thích Đạo An nổi tiếng khắp nơi, bấy giờ mọi người đều khen thưởng đáp lại: Lễ Ký Thiện Cung nói: Thái Sơn suy đồi ư? Lương Mộc hư hoại ư? Thượng Thư Thái Thệ nói: Trăm họ đều thương nhớ như núi lỡ một góc, Nhị văn thán sự hưng vong của người, trong đây gần điêu tàn. Muốn đưa ra những điều chánh để bỏ ta, nhưng ai theo để phân tích đúng văn này, bên cạnh vịn vào đây để nói lên chứng cứ. Thong thả thoải mái và nghiêm chỉnh trên đường rộng, quyền thật giáo môn, thời này cùng với người mê muội ở trong đó phán xét, tùy duyên lý khác là thuộc loại này. Thấy đạo đã vây mượn, thay với người mê, ở trong sự thấy này, thành lập chỉ yếu. Mạnh Tử ghi, Khổng Tử nói: Đời nay, bỏ ta thì còn ai? Lời phân tích, như kinh Lăng Nghiêm nói: Lột trần muôn tượng, che ra tinh minh. Viên là dẫn, trạo là hình dáng thong thả. Kha Thư nói: Đâu không phải giàu có dư giả ư? Trang Tử nói: Đầu bếp là Anh Văn Tuệ mổ mấy ngàn con trâu, nhưng dao vẫn mới toanh như mới mài. Rộng lớn mênh mông dạo chơi trong đó, đều là chốn dư thừa. Tùy duyên lý khác: Tạng thông thì giáo lý đều quyền, Viên thì giáo lý đều thật. Ba điều này dễ hiểu, chỉ khác giáo quyền lý thật, chứa nghóa tùy duyên ý hơi khó hiểu. Tứ Minh có khả năng trình bày điều này, cho nên Thiên Trúc gọi là Quán đạo. Liên đại cộng mê: Các sư ngoài núi xây dựng lời cú huyền chẳng thông, còn nói quán chân không quán vọng. Chỉ yếu quở trách nói: Có người giải thích ngay niệm hiện tại gọi là Chân tánh, e rằng không xứng với ý chỉ của văn. Đến như văn cương cách chỉ quán Pháp Hoa. Ẩn quát nhầm chữ Tổng, đều lược bỏ ở đây, người học đời sau đủ sức để nhìn gần thấy xa chấm mút biết vị, không dễ gì nói ư? Thông chí thiên hạ, định được nghiệp của thiên hạ, dứt được nghi cho thiên hạ, thật là đạt được một hai muôn lời này. Cương cách: Phi Hành nói: Cương là giềng mối, như viền ngoài lưới. Cách nghóa là cách chính. Như đại thể của vạn vật. Kia dùng tám giáo, phán xét giải thích như cương cách. Giáo tùy duyên khác với cương mục, ở đây thì không phải như vậy, tùy theo văn mà dùng. Chữ Ẩn quát, Tuân Tử nói có hai: 1. Phủ Nhiên; 2. Cú Mộc. Thuyết văn nói: Cơ lũ trì tơ giảo tức là lầm yếu chỉ văn này, là tổng hợp lý nghóa này, nhìn gần thấy xa. Trung Dung nói: Đạo của Quân Tử, biết xa biết gần. Nhiễm Chỉ: Tả Truyện nói: Người nước Sở dâng con Ba ba cho Trịnh Linh Công. Tử Gia thấy Tử Công ăn chỉ và dùng đó bảo Tử Gia: Ngày khác ta cũng như vậy, phải nếm thử vị lạ. Đến khi vào Tể Phu làm con Ba ba, nhìn nhau cười. Công hỏi. Tử Gia bảo gọi vào ăn thì Tử Công không cho. Tử Công giận dữ chỉ vào đảnh, nếm thử rồi đi ra. Nay lấy chỉ yếu này làm đảnh. Như người tìm tòi thì gọi là nhiễm chỉ, từ đây đạt được mơ hồ về giáo quán. Không dễ gì bỏ để dùng lời kia, không dùng ý kia. Ý kia là chưa thông ý của thiên hạ, cũng dễ thông được. Nghiệp của thiên hạ chưa ổn định cũng dễ ổn định được. Nghi của thiên hạ chưa dứt cũng dễ dứt được. Trở về ba nghóa này, là trở về với ý chỉ, thật là cùng lý tận tánh. Thức cung tôn là bạn học, mọi người thấy không nói ta cũng phe phái chứ! Nếu chấp cứng vào lý này, không giữ tình kia, văn lý rõ ràng, ai che giấu được. Sám chủ kî nhất là nổi tiếng, xưa nay đều như vậy. Như bài tựa Tăng Hựu Hoằng Minh nói: Lại đem kiến thức cạn cợt để sớ giải duyên khởi Niết-bàn. Chương An tự ghi: Đảm đương sự ngăn ngại ở Dự Chương, cũng có người viết chữ Thượng. Như bài tựa của Quân Sơn Thiêm nói: Bình thường khi còn ở đời hai Sư là bạn học, đồng chí khí liền cành, thật là nan đệ nan huynh, cho nên ghi trong bia đá rằng: Thông khí ở Bảo Vân hằng ngày giảng giáo quán vượt hơn hai chỗ ghi Tri Lễ, Tôn Thức đều thuộc phái siêu xuất của Tử Câm. Thích Danh nói: Năm trăm nhà là một phái. Luận Ngữ của Khổng Tử chép: Ta nghe quân tử không phê phán, quân tử cũng có phe phái chăng? Sớ chép: Giúp đỡ nhau không phải phe phái. Khổng Tử trả lời với Trần Ty Bại rồi lui ra. Tư Bại lại nhóm họp đệ tử Vu Mã. Lại hỏi: Ta nghe quân tử không phe phái. Nay Khổng Tử nói: Chiêu Công, Tri Lễ tức là quân tử cũng có phe phái chăng? Giữ lập trước lý này, Tựa Hiếu Kinh nói: Đối với lý hoặc đảm đương được, thì đâu cần cầu người. Vó đại thay đã tạo được yếu chỉ. Văn lý đã đúng, thật không còn che giấu. <詞>VĂN CÚNG TẾ ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ TỨ MINH Thiên Thánh ra đi đã sáu năm, nay là mùng một Đinh dậu tháng giêng năm Mậu Thìn, pháp đệ đồng môn Hàng Châu Thiên Trúc, Đại sư Từ Vân (Tuân Thức) kính sai học chúng đến dâng nến thơm, Linh Sơn dâng trà và Vân Trù sắm sửa trai phạn, ăn xong vị phẩm, cung tiến tôn linh Đại sư Pháp Trí Pháp Huynh chùa Diên Khánh ở Tứ Minh. Cúi mong, Linh thiên sinh đức tốt đến giúp pháp vương e sẽ dứt mối đạo, lúc nào cũng chấn hưng giềng mối suy đồi. Chương An đã đi, Kinh Khê cũng mất, ngài đản sinh nơi này làm thầy người tiếp nối hưng thạnh. Một nhà Đại giáo nối Tam Lương Tam này, tạ bạn kiến thức rộng, tài giỏi cam chịu lui về ở ẩn hơn bốn mươi năm, mở rộng giáo cương, mở cửa từ bi, ngồi nhà pháp không, mở rộng chúng ở, kính cẩn dùng hóa phương chính là vàng ngọc quý giá. Đào mận tỏa hương kỳ lạ, ong bướm vây quanh, kiến mối mến mộ. Vào nhà thăng đường, chúng tụ hội đông đúc, tụ hội để làm điều lành, có thể chia ra ngàn đèn, có thể phân hóa bốn phương, đến như xoay bút như rui mè, mở rộng cửa văn vẻ. Nghóa nhiệm mầu của mười Bất nhị ta thấu đạt rõ ràng, ý chỉ sâu xa của mười sáu Diệu ta đạt được truyền trao cho đến phẩm Quán Âm phân biệt trống vàng rõ như xưa, hoặc mở mang chỗ u huyền, hoặc bổ túc thêm điều đã mất. Nghóa từ trong ta lưu xuất, giải thích từ trong túi trí ta, trình bày văn chương của bậc tiên giác, thật là chỗ trông mong của người học sau. Than ôi! Thời gian đâu hẹn, bỗng chốc phải theo thường tình, thoáng chốc vô thường lại đến, nhìn lại nước sông tràn đầy, chợt gãy cầu lòng đau thương tràn ngập hai nỗi đau kinh ngạc như mộng, nỗi đau ấy kết thúc ở hai hàng cây, phải chăng người đời sắp mở tay chân, rồi đau khổ lại trói buộc nhiều. Chỉ có huynh cáo chung cùng vạn vật trái với sự bình thường, người kiết già về Tây, niệm Phật rất nhiều, chẳng bao lâu lặng lẽ, thẳng đến Tây phương. Như thế thì thiên nhãn nhìn xa, thần lực như chim liệng, chỉ mong đến cùng đệ dự trai phạn, xem văn này của đệ, than ôi! Đau thương thay! Thơ phải có người trau chuốt mới dễ đoán ra vàng thật. Chỉ có đệ và huynh đồng lòng, giống như anh em hòa vận cũng là kèn sáo hòa âm. Có pháp cùng luận bàn, có lỗi răn bảo nhau vừa tha vừa thiết. Tôi học rộng rất sâu có trước có sau, chỉ có trời là sâu, chợt gặp nhân hóa duyên từ đây cách biệt, cách trở như vượt núi, cách trở như bờ ngô, dấu vết bị ngăn trệ như mộng. Mộng cũng tìm như, ngày bay hết đến ở đông tiễn tình còn dứt ở Nam Kim. Than ôi! Than ôi! Nay thì đã rồi, đau đớn làm sao kham nỗi? Lý hợp liền xa Linh Thứu chốn xa núi rậm, vì Lão sợ xuân lạnh đường cản trở bởi mưa dầm, các đệ bởi tuổi đã già, tuổi ép ngặt, tâm buông lung, đứng ngồi phải dựa ghế nương gậy, đứng nằm rên rỉ, cùng huynh tạm xa cách, kế thừa tiễn đưa đến tận rừng, chỉ hẹn ngày sinh chốn An Dưỡng, nguyện mãi thay nhau. Than ôi! Than ôi! Cúi xin hưởng cho. <詞>THƠ TRUY ĐIỆU ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ Ở TỨ MINH Tôi và Đại sư Pháp Trí ở Tứ Minh làm bạn hơn bốn mươi năm, đến ngày ra đi không được khóc ở Lăng tẩm, vì đường xa năm, sáu trăm dặm. Mùa xuân mưa đá nhiều tuần, thân sáu mươi sáu tuổi, cho nên gậy giầy không thể đến được, nay mới làm mây câu ca vịnh. Trên trời không hai vầng nguyệt, ở nhân gian chỉ có một vị tăng. Người xem xét không nói tôi sâu sắc là đối với sở tri, non kém là đối với sở bất tri nhưng thấy giải và hạnh này có điều đặc biệt vượt hơn người. Gởi những lời cùng cực để thỏa chí những điều luôn giữ trong lòng. Những điều kỳ lạ ấy đâu phải một. Bộ gia giáo Tỳ-lăng Sư chưa ghi, nhưng chắc chắn ghi. Bốn Tam-muội những điều người khó thực hành, nhất định thực hành. Dù nắng mưa thay đổi, nhưng lưng không dính chiếu. Sáu mươi chín tuổi qua đời, nhưng Ngài chóng đốn ngộ mà hành đạo dạy bảo nhiều, không lúc nào ngừng nghó, môn đồ thỉnh an nghỉ, nhưng Ngài vẫn không chịu, đến khi ngồi kiết già thị tịch, về sau hỏa táng, xá-lợi nhiều vô số. Than ôi! Không biết gian nan, thực hành chỉ thấy gian nan. Hai bài thơ mỗi bài tám câu. Ai an táng bạn tôi Ai kế thừa Tỳ-lăng Trời không hai vầng nguyệt Nhân gian thừa một Tăng Để văn thiền nhiều tập Bệnh tòa giảng còn lên Nay thờ ảnh rỗng rang Khám lụa đèn lồng đêm. Trên sông tâm đau thương Chiều tà biến khắp lăng, Anh là người tài giỏi Tôi thay tăng cảm tạ Lá bối cùng năm giảng Hoa sen ngày khác lên Pháp môn truyền đệ tử Không chỉ trăm ngàn đèn. Khen ngợi Tôn giả Pháp Trí Tứ Minh: Đệ tử Tăng Giang đảnh lễ Đường đường thầy ta Pháp uyển anh tài Sinh con Hoàng Tống Thiên Thai một mình bước Kinh Khê ra đi Mậu Lãnh lại đến Giáo môn bít lấp Thầy ta khai thông Nghóa vang như sấm Mê chấp xuân về Họa hình không kịp Văn vẻ khó định Hình dung sáng rỡ Ai không khâm phục. Khen ngợi Chân dung Đại sư Pháp Trí Diên Khánh ở Minh châu đời Tống. Tiết độ phán quan Triệu phụng lang thí đại lý Ty Trực Kiêm, coi xét Ngự sử vân kỳ ủy lạc. Đạo nhờ công chấn Hóa nhờ hành thí Thức nhờ dẫn dắt Hiểu nhờ khuôn phép Người tin tín ngưỡng Người học vâng theo Xa nghe khuôn phép Gần thì thấy hình Ảnh tiếng hợp nhau Thấy nghe đuổi nhau Đức chừ sâu dày Giáo chừ thấm đượm Dạy thuận theo đời Vẫn còn làm thầy. Lưu truyền cháu con Vẫn còn làm thầy. Khen ngợi tượng vẽ Đại sư Pháp Trí thỉ tổ Diên Khánh. Cối Kê Quân Vương Văn Tuệ Công Sử soạn. Ngày xưa ta và Giác Vân Liên Công đi ngao du, nhân thu thập lời này để khen ngợi Đại sư Pháp Trí. Nhiều năm chưa ghi được, nay vì Diên Khánh hỏi Sư được điều này, Trung ngươn năm Nhâm Thìn, niên hiệu Càn Đạo, Chân Ẩn Trai ở Đông hồ tạo. Một hội Linh Sơn Trang nghiêm Thiên Thai Sau mười ba cánh Sinh bậc kỳ tài Xướng đạo Tứ Minh Giảng dạy khắp nơi Nổi tiếng khắp biển, Ầm ầm mây sóng Chương thánh còn ngự Trung Sử đảnh đến Được ý chỉ Pháp Tâm rỗng rộng lớn Ban hiệu Pháp Trí Về lâu đài sáng Bồi bổ hậu học Thảy đều kính ngưỡng Hương lan cúc thoảng Vốn một gốc rễ. Than ôi! Là trụ đá pháp vũ, là Diêm mai giáo đảnh, đúng là ảnh này trải qua ngàn xưa không có trần ai. <詞>KHEN NGỢI ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ TỨ MINH Giáo chủ đạo tràng Tứ Minh là Đại sư Pháp Trí, Tứ Diệp đời Hoàng Tống. Tiên Thánh ra đi sáu năm, nay là năm Giáp Tuất, niên hiệu Thiệu Hưng năm thứ một trăm hai mươi chín. Suối trăng hết si, đạo nhân (Hy Nhan) liền làm bài tán: Hành Thiên Thai khó hành, nhưng vì hai Sư ở Triết Giang, nhớ lại chưa ghi về Tỳ Lăng, nhưng vì pháp trăm đời. Do đó, giáo môn của ngài Trí Giả vẫn sáng ngời như Thục Khổng, đạo tràng Diên Khánh nhờ vào đây mà mở mang vang đội. Làm tiêu biểu cao ngất ở Ma Vân, đường đường là bậc bất thế. Khảo xét và khám phá tùy theo lớn nhỏ. Khen ngợi kính ngưỡng thì càng cứng càng cao vòi vọi cũng có Sư dạo trong chốn Thiên Thai. Như Kỷ Tử, Dự Chương ở núi Thái, biển cả có ngọc trai quý lớn, như môn hạ Trọng Ni có Mẫn Tử, Nhan Tử, nhà Ẩn Thủ Tây Tấn có Thái Sư Viễn Sư. Nếu chẳng phải nhiều đời có nguyện lực từ tâm, thì đâu thể một sớm giáo hóa muôn loài thành tựu, đảnh lễ Tổ Trung Hưng Tứ Minh. <詞>SỚ TRAI KÎ TỔ SƯ PHÁP TRÍ DIÊN KHÁNH, TRẦN THIÊN DỤ Hữu phục dó, pháp lễ như như, vốn không ra vào, duyên đời dần dần có hội họp có chia lìa. Từ khi Trí Giả tịch ở Thiên Thai, đạo như sợi dây tơ treo để nhử đá. Đến khi sư Thông đến ở Dũng Thủy tiếng vang như trong hang ra. Lưa thưa sau thời Tượng pháp. Mờ mịt sau Kinh Khê. Nam Huy, Thai Lãnh, Đông Thiệu, Lệ Sư, tuy là bậc tác gia càng tinh vi, nhưng nếu còn ở đời thì cũng chẳng khác. Cung kính Đại sư Pháp Trí giáo chủ Trung Hưng sinh ra để trung hưng Phật pháp, thuở nhỏ đã thành tựu; giới sáng như ngọc châu, chung cả bộ luật Nam Sơn, biện luận ngã nghiêng sóng biển, phát huy tâm tông Hoành Nhạc, có thể nói nhân gian chỉ có một vị Tăng là bậc Đại só trong thiên hạ. Nếu không như vậy thì năm thời tám giáo, ai là người Trung hưng, trăm cõi ngàn như ở đời đều mất hết. Cho nên Hoàng đế Chân Tông sai sứ càng thêm đặc biệt, Quốc sư Nhật Bản bảo đồ chúng đến thưa hỏi Phật pháp. Một đời Nho tông, cùng năm pháp tịch đều truyền ý cao thượng, trụ lại đời đến phương trượng khỏi thiêu thân, thế nên ngàn đồ chúng đến học pháp, thăng đường bốn mươi năm hướng dẫn về Bỉnh Bút, khiến chuyên tâm ba Quán. Tứ Minh sáng rỡ như mặt trời trên hư không, giống như sấm rền trong lòng đất, cò cây ngói gạch đều giảng nói chân thuyên, chim thú trùng cá đều hiểu giáo mầu. Tiếc thay ra đi biệt tăm, hóa thân vốn như vậy, có hội tụ thì phải chia lìa, tướng người đời là như vậy. Nhưng những ai được thấm nhuần sữa pháp, may mắn điều khiển được tông thừa, huống chi phàm tình tiếp nối, điều này mở rộng thông suốt, vì linh cốt của Đại sư còn nên dễ chiêm ngưỡng thần dung Đại sư. Vì sao ra đi không có nơi đến, dứt bặt tông tích, từ lâu nghó mất ở rừng hạt, chôn chặt nỗi đau buồn ở Lương Mộc. Ngày nay ngồi kiết già, bắt chước Thuần-đà cúng, truy tìm cúng tế tông miếu. Cúi xin, Đại sư không chỗ đến mà đến, vốn không ăn mà ăn, đã trông Linh Phù Đài Lãnh sáng mãi đô thành. Khiến kia ngăn thư, hoàn thành phụ giáo, đến nay Thiền học không còn gọi là truyền riêng, để lại kế sống muôn đời cho con cháu là người tính được chỗ sâu xa, ngõ hầu không quên giúp đạo tổ, Hiếu Tư kính ghi lời tựa. <詞>SỚ HÚY KÎ ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ TỨ MINH, TUYẾT KHÊ HY NHAN Hữu phục dó, muốn thực hành đại đạo, phải nhờ bậc pháp khí và thời cơ. Văn này chưa mất, quả nhiên sinh mạng sư còn ở đời. Nhận mặt trời Phật đến Ngu Uyên. Ngăn chặn sóng dữ đến Đông Hải, giềng lưới ba Quỹ của Đài Lãnh, thổi trống Nhất thừa của ngọn Linh Thứu, đâu chỉ mới mẻ trăm đời, mà ngàn năm không cũ. Chẳng có bậc Đại só thì ai Trung hưng. Cung kính Đại sư Pháp Trí giáo chủ Tứ Minh, toàn đức không thể gọi tên. Trai không mài giũa mà nhận sự ký thác của Phật, hướng dẫn giáo nguy hiểm. Cứu người sông lớn phải có thuyền muôn đấu. Chống đỡ lầu to phải có cây to mười ôm. Bốn mươi năm lưng không dính chiếu, đâu cần nhọc khổ hạnh ba diệu quán thân, dù nói quanh co, điểm chính là muốn diễn tả tận cùng huyền lý. Mở ra con đường Dương Mặc. Khai thông đạo lớn Phật tổ. Ném kim vào bát, phụ cấp lụa thấm hội tụ. Ngoài cửa đầy dép, có thể gia tử áo xanh đến. Chỉ có gió cao ở Tứ Minh, có làm sao đẹp ở hai sông, có thể nói, ban ngày trong sáng mây nổi khắp nơi, nhân gian chỉ có một vị tăng. Thầm nghó không có đức hổ thẹn, thì thiên hạ không có hai vầng trăng, ai không hổ thẹn. Những ai lầm ý Từ Phong, thanh lọc thân học như biển cả. Tuy không quên thêm ngựa ký, không hổ thẹn thêm vào chuột điêu. Bát- nhã Minh Châu là sở khinh nhưng dùng làm sở trọng. Hạt giống diệu Bồ-đề dễ nhổ, nhưng cây khó trồng. Đã thiếu công của nhiễm chỉ, nhọc đau lòng than. Nay thì lễ đến tiết dương xuân, đến sáng viên tịch. Phê bình thật Khánh Kiệt, vì trình bày cúng nhỏ bé. Nhìn thoáng qua, tuy không giấu sinh diệt. Sương móc đã tan, tự cảm nhận lo sợ cẩn thận. Cúi xin, lòng từ sâu xa không ngăn ngại, không lìa đương xứ mà hiện hình dung. Lợi sinh có nơi, ban đầu không động tướng, mà thi hành ứng diệu. Mưa thấm khắp đất khô, màu mỡ trên giường giải thoát. Truyền nghóa như mây trời che biển Niết-bàn. Về sau một nhà giáo quán trăm đời con cháu, truyền bá đạo từ bi không ngăn ngại, giảng xướng ý chỉ truyền trì. Ba Đế, ba Quán nhà quý vào được cửa. Cố hương mười cảnh mười thừa biết đường về. Tâm ý bằng phẳng như lòng bàn tay, hàng phục chúng ma ngăn cản giống như gẫy cây khô, trở về mặt trời Phật nhưng chiếu sáng giờ sau. Kích động sóng say đồi xoay vần thời xưa, công thấm nhuần chín cõi, lợi ích khắp tứ sinh, xé rách lưới phiền não đồng lên thuyền giác ngộ, vượt sông sinh tử đều đến bờ giác ngộ, kính ghi lời sớ. <詞>SỚ KÎ ĐẠI SƯ PHÁP TRÍ THỈ TỔ DIÊN KHÁNH Lại kính vì: Song Lâm diệt đức âm dứt bặt, các Tổ qua rồi trái liễu nghóa, huống chi lời công kích trong đó, mà người thầm chứng loạn ở bên ngoài, cho nên ý chỉ viên đốn sẽ ngộ được mầu nhiệm. Hàng tầm thường mê muội không biết chỗ ảnh hưởng, mình chẳng mong pháp truyền tâm cho mình, ai rửa sạch được nỗi đau danh tướng. Cúi mong Thỉ tổ Sơn môn Đại sư Pháp Trí chủ ghi Thiên Thai đệ tử Diệu Ngộ thay mặt nối pháp đời sau. Từ thuở nhỏ nhận kinh liền tụng, suy tư nghóa thông suốt, có ý chí xuất gia và năm hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc. Năm năm y chỉ và gồm cả Luật thừa, một tháng mở mang truyền bá rộng giáo quán, nghóa là không phân biệt hay hiểu được pháp này, cho nên nói giải thoát nhưng không lìa văn này. Cốt để thực hành hữu tông xây dựng ngôn từ và chỉ yếu. Học cả nội điển ngoại điển, vốn trọng Dương Văn Công, luận bàn dứt dị đồng, chấp nhận với Tuyết Đậu Trùng hiển liền khiến cho Thánh chủ sửa lại thêm vào hiệu Quốc sư, truyền hỏi những điều nghi, và muốn thiêu thân, nhưng duyên nào lưng dính chiếu, thi hành đạo Thiên Thai đã thực hành, tu bốn Tam-muội, nhưng luôn nhớ văn của Tỳ-lăng chưa ghi, thầm nghó mười chín vị Tổ mà không hổ thẹn, vì sao sự suy nghó của người học là mình than với thiên hạ không thể là tông ta. An Thiền không trở lại khóc hết nước mắt Thanh Câm, để lại cuốn tập vẫn còn tín đồng với lời ca Bạch Vân, bèn nghó đến Từ Vân, thoáng chốc đến ngày húy kî, huống chi ân đức chia đều làm nên ta mà lo buồn trọn đời, đúng lúc Tứ Lân thọ phước, dám trình bày phơi cúng, đến chỗ sinh hành đạo ngày trước, ngõ hầu tìm được duyên xưa. Chúng ta đánh chuông phảng phất hương trần, nhầm tham dự Liên xã. Biết danh biết tự chưa trốn được ngày cuối cùng xem xét đếm bảo. Thảo sớ tìm kinh, mới vặn hỏi vào biển đếm cát. Nhọc chỉ bày một chút, thật giúp cho sự mở mang truyền bá. Cúi mong: Mắt tuệ mở rộng, pháp môn rộng phát. Muôn phẩm tự dung thông vào ba Quán. Ngàn như hiển bày nhiệm mầu ở một tâm. Dốc chí truyền bá, nhìn lại chẳng phải xoay bánh xe pháp lần thứ hai, giáo hóa hướng dẫn mãi, chắc chắn dứt hạt giống Phật sau cùng. Hiển bày tinh túy chân thật, rủ lòng chiếu giám. Chúng ta đảnh lễ chí thành quay về, kính cẩn dâng sớ. <詞>TRÙNG TU LẠI BÀI MINH GHI Ở TƯỢNG TÔN GIẢ PHÁP TRÍ BÁ ĐÌNH THIỆN NGUYỆT Mồng một tháng ấy vào năm Canh Thân ở Khánh Nguyên, Sơn môn cung kính tiếp nối tổ. Tỳ-kheo Thiện Nguyệt cung kính sửa lại tượng thờ, liền mời thợ giỏi làm, kính cẩn xông hương gột rửa ghi lời minh. Tôi nhận đồ cất giữ và trung hưng Thỉ tổ Đại tông sư Tôn giả Pháp Trí. Cung kính, Tổ ta là thai linh con Phật hết lòng sống với Hoàng tông, nương năng lực bản nguyện, ý chí truyền rộng lớn. Liền nghó đến Sơn môn giáo quán một nhà, thoáng chốc gặp vận nguy nan, chẳng mấy chốc quét sạch. Thật là Tổ ta bẩm thọ thừa kế vẫn còn, truyền cội nguồn chánh, đến nay bốn phương biết có đạo Tứ Minh ta và đạo tràng này của ta truyền giảng liên tục, dường như mãi mãi không cùng đều do công trung hưng của Tổ ta là năng lực thệ nguyện. Dùng điều này phụng thờ di tượng, hằng ngày tôn sùng cúng thờ, thỉnh thoảng sửa sang lại. Khi ấy có Trạng Khê Tín Só còn giữ lại linh cốt của Tổ ta ngày trước, từ lâu cất trong nhà. Chột một hôm nằm mộng, không thấy hình dung để ở nhà riêng, do đó trở về chốn Tổ của ta thì các tượng đều ở trong đó, đúng vào ngày 23 tháng 11 niên hiệu Khánh Lịch năm thứ bảy đã được sửa sang lại vào năm Đinh Sửu thuộc niên hiệu Thiệu Hưng. Cũng vào ngày tháng này trải qua nhiều năm lại mặc vải gai vào. E chẳng phải tiên đức báo cho biết để làm khuôn mẫu cho đời sau. Do đó, lại sai thợ sơn phết thêm, còn lại mấy thần linh Tổ ta không bị mai một. Năng lực thệ nguyện càng thêm tinh khôi, mãi mãi trấn giữ ở núi này là những người có trước sau với nhau. Hằng ngày phụng thờ an lành, kính cẩn cùng với chúng trong núi đảnh lễ, kính ghi lời Minh: Tổ ta dạo đi Pháp thân tròn đủ Không sinh không diệt Chỉ bảo mới cũ Ngay sự là chân Không lìa đương xứ Ta làm bài minh An trú như vậy. --------------------------------------------- <詞>GHI LẠI HÀNH GIÁO CỦA TÔN GIẢ TỨ MINH Tỳ-kheo chùa Bạch Liên Giáo ở Đài Châu, kính mến đồng chí hướng trình bày lại bản cũ để tiếp tục truyền bá, Mậu Thìn Bảo Khánh giải chế soạn xong kính đề: Loa Khê Chấn Tổ Tập Mục lục: Ngộ Việt Tiền Trung Ý Vương ban chế cho Pháp sư Tịnh Quang. Tấm ngạch chùa Bản Triều. Bài Minh trên bia nói về việc xây dựng viện Truyền giáo. Bia nói về hạnh nghiệp của Pháp sư Tịnh quang. Bài ghi trên tháp đá nói về việc vua A-dục xây dựng viện Truyền giáo. Bài minh trên tháp thờ Pháp sư Tịnh Quang. Bài khen Thừa Tướng Lý Công. Bài khen Tri Phủ Trịnh Công. Bài thơ của Tăng Thống Thông Tuệ. Bài thơ của Đại sư Quang Nhân Văn Đức. Bài tán của Pháp sư Tra Am. Bài khen Pháp sư Bá Đình. Bài ghi dời tháp thờ Pháp sư Tịnh Quang. Loa Khê Chấn Tổ Tập. Tỳ-kheo Nguyên Ngộ trụ trì viện Truyền giáo Thiên Thai soạn. ------------------------------------ <詞>NGỘ VIỆT TIỀN TRUNG Ý VƯƠNG BAN CHẾ CHO PHÁP SƯ TỊNH QUANG, TAM ĐẠO Chế Tăng Hy Tịch chùa Thiền Lâm được Đại sư Tử Huyền, ở tại bản tự vì nước nhà giảng Pháp Hoa kinh văn cú đầy đủ. Bởi danh đức tinh thâm, do dốc công siêng năng, khi xem lại rất hay cho nên trình bày, phải hiểu biết, không bao lâu sai ghi ý chỉ, ngày 13 chế tăng Hy Tịch, khanh từ lâu ở danh sơn thường xem Đại tạng, Quốc triều rất kham phục như chân giáo, trọng ý chí và người cao siêu. Nay trẫm ban hiệu cho sư y tía và mười xấp lụa, mười xấp tơ hãy đến lãnh, cho nên báo điều này cho biết, nên ghi nhớ, không bao lâu thư đến, ngày hai mươi chín. Trình bày công việc và báo cho Hy Tịch. Ngày xưa trao ông giảng kinh Kim Quang Minh cho cõi Thiên, đầy đủ một hội và hiểu biết rõ ràng. Ông sớm quơ phất trần, giảng nói pháp âm như Sư tử, biết được tâm thấu được cội nguồn, xứng đáng với luật hổ nghi long, từ lâu mến phục điều này, nhờ vâng lệnh mở mang, đã nghe giảng nói xong, thấy tinh tấn tu và ý giới lại trình bày đưa ra, rất xứng đáng. Nay ban cho ông sữa, thuốc, hai mươi xấp lụa, hai mươi đấu trà, đến đây nhận lãnh, sai khiển chỉ dụ này. Bất cụ trao ngày tháng chín. <詞>BẢN TRIỀU BAN BỨC HOÀNH Môn hạ Trung Thư Công Văn hai sông chuyển đến ty, hai sông chuyển đến tâu lên, y theo tập Sớ Trung Thư phân tích cai quản. Các châu quận ngụy ra lệnh Cung quán chùa viện chưa hề ban bức hoành. Như viện Truyền giáo ở huyện Thiên Thai thuộc Đài châu nên ban bức hoành cho viện Định Tuệ. Công văn vâng theo sắc lệnh như trước nên ra lệnh chuyển vận công văn về ty, ngay chỗ đến thường khám kỹ. Như bên trong có Tiết thừa thiên đã có ban bức hoành, lại không thực hành, đưa công văn xuống, y theo sắc lệnh công văn cũ. Công văn mồng ba tháng bảy niên hiệu Đại Trung Tường Phù năm đầu. Hữu Giám Nghị Đại Phu Tham Tri Chính Sự Triều. Binh Bộ Thị Lang Tham Tri Chánh Sự bằng. Công Bộ Thượng Thư Bình Chương Sự Vương. Bài Minh nói về việc xây dựng bia viện Truyền giáo. Công Thần Trung Quả Hùng Dũng Kim Châu quản lý bên Trong quan sát Sử Phán Hòa Châu Quân Châu Sự Quan Lộc đại phu, đặc biệt xem xét đại phó Kiêm Ngự Sử Đại Phu, ở trên thành Quốc Bành, Quận Khai Quốc Công thực ấp sáu ngàn ( 6. 000) hộ, thực thật phong sáu ngàn một trăm ( 6. 100) hộ Tiền Biên soạn. Bậc Thánh truyền văn lập giáo, nguyên nhân nêu ra giềng mối và chỉ bảo dấu vết, khiến cho đời sau đến với đạo Thánh hiền. Nếu bao gồm cả trời đất âm dương, tận cùng lành dữ đều tiêu diệt, không dễ gì tồn tại. Bắt đầu từ Phục Hy, Trọng Ni thuật điều này là muốn lợi ích cho thiên hạ. Vì ngày tháng tiếp nhau, rõ xưa biết nay, chánh vương đạo kỷ nhân luân, không chuộng xuân thu, nhưng Phu Tử từng qua điều này, Khâu Minh truyền điều này là dạy rõ cho muôn đời. Xin hỏi bậc Thánh truyền văn dạy giáo, tột cùng ở đây ư? Chỉ vì không biết nên truyền văn khen chê, không thể oán thân sinh diệt lẫn nhau. Nghiên cứu không thuật lại rộng lớn, không thể mở mang được diệu tánh bao gồm chân cơ để làm đường cầu cho người trời, vượt nguồn sâu sinh tử, chính là pháp của Đại hùng, không vó đại hay chăng? Đều là bậc Thánh chăng? Nếu âm thao ngọc Linh Thứu, truyền thật điển Long tạng, cách Thánh quá xa, truyền lại để dạy người học sau, cho nên mở rộng sóng cả hương hái, tăng thêm đùm xe lớn lại không hưng thạnh giáo Thiên Thai ư? Cho nên Đại sư Trí Giả, Quốc sư Trần Tùy, pháp danh Trí Khải diễn bày ý chí một cành hoa, lập ra hoa tông tám trụ, dùng ánh sáng phá tối tăm, ánh mặt trời xua tan sương mù. Dùng tịnh lôi động, thần quy vỗ biển cả, mở rộng bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên hợp nhau năm vị đề, hồ, sữa, lạc. Truyền đèn Bát-nhã, mở rộng cửa Phương Đẳng. Gió to phá sóng, nhận chìm quân ma trong cửa Không hai. Núi lớn mây giăng, chánh pháp hưng thịnh ở vườn Ba thuyết, truyền thành diệu điển, mở mang chân phong của ta. Do đó, vua chúa, đại thần mời giảng rộng đơn khâu. Thành ấp, xóm làng say mê đạo tràng kim địa, thì sự giáo hóa của Trí Giả là lợi ích lớn cho người đời chăng? Không thể nói như vậy được. Viện Truyền giáo nay là nơi trụ trì của Tịnh Quang Đại sư Tịch Công. Sư pháp danh Hy Tịch, họ Hồ, người ở Vónh Gia, khi xưa là châu hiển Đức Sơ, Cư Dân Loa Khê Trương Ngan An đến thưa với sư: - Chùa ở phía Đông nam, có khoảng đất trống rộng, hơn một dặm đêm đến thường có quỷ gào thét rên la, cũng có những tiếng chuông khánh và khảo tra đánh đập. Lại nằm mộng thấy thần rồng dạo chơi vùng đất này, cho nên không có ngu dân nào ở đó. Cúi xin sư vì tăng sự. Sư chấp nhận và đích thân đến xem khen cảnh trí non nước đẹp lạ thường, do đó nói với mọi người: Đây là đất già-lam, thường làm chốn truyền trao chân thừa, nghó đây là nơi thuyết giảng. Hơn nữa tông Thiên Thai lãnh nhận của ngài Long Thọ và Tín chủ kia mộng thấy Thần long, há chẳng phải điều này hay chăng? Nhưng tài thí chưa cúng, thì không thể hoàn thành chí nguyện này, nên phải nộp sớ xá và doanh trại vườn, môn nhân Pháp Hoa Nham Công và Tề Công thưa việc này lên Thiền sư Bổn sư. Thiền sư bàn luận điều này và được thí chủ cúng ba mươi vạn đồng để làm kinh phí buổi đầu. Sư nghe điều này rất vui, nhưng hơi ngại về công xây dựng và nói với Tề Công: Nay đã có doanh trại che mát cho học chúng tụng niệm, ý Sư không muốn bị gió mưa nên đời đến chỗ dưới cây gò cao, thân thể và ý ông gắng hoàn thành điều này. Tề Công đục núi ban nền, chở cây đến xây dựng được ba gian pháp đường mấy nhà trù, che tranh nhiều mãnh, rất đơn sơ rất hợp với ý sư, nhà hoàn thành vào tháng tám mùa thu năm Giáp Tý, niên hiệu Càn Đức, bèn thỉnh Sư đến ở. Sư lặng lẽ dẫn hai mươi đồ chúng đến, khi mọi người đều đến thì đã xếp hàng trên đỉnh núi gật đầu, mưa hoa tươi tung lên ghế báu. Sư thấy nhà cửa đơn sơ mộc mạc và ra sức hiệp tâm với An Bính kia, hết lòng vui mừng vô cùng. Sau này Đăng Ngự Môn ngày càng hưng thạnh, sợ người nhóm họp ở rừng hạc. Sư nghe điều này ngăn cản và nói chỉ cần bốn người. Thiền sư Thiện Công Vân Cư truyền đăng mạnh mẽ ở đất này nhưng chưa mở rộng nội quy Hàm trượng, mới sớ vào nay Hán Nam Quốc Vương. Đại sư Trí Giả lên giai vị các địa, chỉ bày dấu vết bốn y đạt được môn Tổng trì, được biện tài vô ngại, thuật lại giáo pháp đầy đủ mấy trăm quyển, Đại sư Tịnh Quang Hy Tịch truyền bá và giảng dạy. Như nước phân chia bình, nhưng chỗ ở tinh xá nhà cửa không được khang trang, mong giúp đỡ về kinh tế, những thứ dụng cụ chính như quần áo để bảo đảm sức khỏe. Vua y theo lời và ra lệnh cho hai sư Ái Tử và Tương Hoa đến can tông thẩm định mỗi đều cho tiền lúa để giúp đỡ. Sư dùng ở thảo đường nhàn nhã an ổn và không cho phép ở lâu. Đến năm Đinh Mão thứ năm xây dựng mới xong, tổng cộng nhà giảng pháp, nhà sám hối, nhà chứa kinh đều the thể lệ nhà chùa, đều hoàn tất đầy đủ, ở giữa trong ngoài tổng cộng hơn một trăm ba mươi gian. Rừng suối tiếp nhau, vàng ngọc sáng đẹp. Đã đến bình tích một năm quên về, năm ấy Quốc vương ra lệnh cho sư giảng Pháp Hoa. Đến Phước can vương Tùy cung ý Thái phu nhân họ Ngô, tự cho là Thần rồng vui mừng đến nghe pháp, chim thú ưa ngậm hoa, Thuần-đà cúng dường. Bố-tát ở Tịch Nghiêm, ẩn dưới ghế cầm phất tử, hai bên cẩn thận, biển phước ruộng y, cứu giúp nhiều người. Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ hai, Nguyên Soái Phủ Đô Giáp Vệ Vương quân thừa ích nội tri Khách Dư Quân Đức Huy cùng bàn luận với bản viện xây điện Phật Di-đà ra lệnh cúng tám mươi vạn đồng. Lại thỉnh sư giảng một hội kinh Kim Quang Minh và cúng trai tăng ba muôn người, hương hoa phướn lộng cúng Phật đầy đủ. Năm sau Đan Thỉ thường đến tham vấn, Kim Luân Đại thống giáo pháp càng hưng thạnh, càng chuyên về trang nghiêm, hình tượng làm chưa xong, mọi người đều mong muốn sự hưng thạnh này, bèn sai tăng Trùng Vân đến Kinh đô thỉnh Tương Sư. Tương sư do đó trình bày cho Quốc phu nhân họ Từ, Phủ Hán Nam Quốc Vương biệt giá Từ Quân Quý An cùng cúng hai mươi vạn tiền giao cho mang về. Lại Lý Tùng vệ quyên góp người trong quận tất cả tịnh tài ba mươi muôn đều đưa đến thành công. Do đó, Khổng Tước Đảnh Loa Tôn đến Trung Lệ, Phù Dung Quan Diệp dực giúp Dùng Đài. Hoàn vệ dùng đây làm oai hùng, người hầu lấy đây làm niềm vui. Miệng vàng ủ rủ thầm không nói, mắt xanh trong sáng thật không nháy. Tam bảo đầy đủ, trăm phước có thể lường. Nhưng nghe, diệu hạnh của Sư tu trong sáng, tâm từ dừng chân, chỉ mặc y đơn giản, nằm nghỉ một giường, đầu gậy quải bát, trong sân không dùng chìa khóa, luận bàn khuyên tiến lên năm mươi pháp tịch, không nói mà phải thông, vui với đạo khoan khoái, gác ba tầng không phải cao xa. Nay tuổi đời sáu mươi tám, bốn mươi chín hạ lạp, tuy tuổi cao, nhưng giảng dạy không lười biếng, thật là bậc kỳ tài trong tăng sử. Than ôi! Giáo pháp Thiên Thai nói lại nghóa không lời của Giác vương, bao gồm cả di chúc dặn dò, mới tạm phân tích vào cửa không, Thập địa vượt xa liền thành Thánh. Đâu chỉ hoa sen trong nước, trước tiên chỉ bày theo phương tiện, tự nhận được hồ đẹp trong mộng, liễu được thể không khác nhau, trình bày nghóa này ai không tông phái. Nhưng Đại sư Thông giám là học chúng của Sư biết được thanh kiết, dùng sự tôn kính Phật của sư nói pháp trong cung từ thứ lớp đem những thành tích cầu mùa rét lạnh, thỉnh sư khắc rõ làm thời gian. Nhưng nghó, núi Thiên Thai có các bậc danh Nho kế thừa luận bàn Thánh giáo, nhưng không có tài để truyền rộng nên đóng mực thiêu trước. Nhưng suy nghó, câu kệ thành nhân, dám dùng lời dụ dỗ để khước từ, đã nguyện vào cả xanh tươi thấm đượm gốc lành, dùng đây tươi mãi, gió lay giúp xanh tốt, thổi ánh sáng trí tuệ không diệt, cẩn thận trai giới, soạn bài Minh: Phục Hy xưa chừ trọng sai không hưng thạnh Để trải qua chừ hào tượng làm sao tỏ Tuyên phụ đi chừ Khâu Minh không xuất hiện Lỗ Sử chừ biên đề dật này Chân giáo rộng lớn chừ vượt sinh tử Phạm âm dồi dào chừ đều quyền thật Viên tịch Hạc thọ chừ bí mật ngọc kệ Loa khê không luận bàn chừ có thành tía Trồng tùng cao vút chừ đúng muôn tuổi Đài sơn cao ngất tìm mấy ngọn Siêng năng truyền giáo mở rừng báu Vượn rét hạc quê đều niệm pháp Tòa sư tử không lời mở mang diệu âm. Ngày 10 tháng 11 năm Bính Tuất niên hiệu Ủng Hy năm thứ ba, bia hành nghiệp của Đại sư Tịnh Quang. Triều phụng đại phu hành Thượng Thư hộ bộ tức là Trung Tri làm ra. <詞>BAN TÚI THÊU CÁ VÀNG TÍA TIỀN SOẠN Núi Thiên Nam kỳ đặc ở phía Đông Tây bắc. Núi này vừa cao vừa sâu người họ Thích tụ tập ở núi Thiên Thai. Thiên Thai nối liền với bốn ngàn muôn núi, lại rộng lớn sâu vắng, tưởng chừng không có người dừng chân. Khi xưa Trí Giả tôi ngồi ở núi này viết sách, nên được gọi là Thiên Thai giáo. Trí Giả ẩn thân vui thích, người đến học giáo đạt được ý chỉ rất đông, dễ phát sinh điều siêu việt. Nghe sư có nhiều điều lạ. Sư họ Hồ, nhà vui vẻ cầu điều tốt lành, ba đời đều học sách Phật. Mẹ họ Trịnh, khi mang thai không ăn thịt, sống đến năm mươi sáu tuổi đùa giỡn với đàn trẻ ở trước cổng, thấy ba vị tăng đi ở xa, giữa đường gặp lũ trẻ, một người vỗ đầu sư nói: Đứa bé này có tướng kỳ lạ, là người thông suốt pháp môn của ta, đã bỏ ba nguyện còn ham danh tiếng, từ đây về sau đưa sách Phật, lễ bái tượng Phật, như người vô vi thờ tâm này. Năm hai mươi tuổi vào tu với tăng Tử An là họ Phù-đồ, siêng năng thông minh, được lễ làm đệ tử, An thấy là bậc pháp khí trao kinh cho, đó là kinh Pháp Hoa, một tháng sư đọc xong, đi đứng ngồi yên uy nghi thư thả như cổ Phật, mười chín tuổi xuất gia thọ giới Cụ túc, đến học luật với Luật sư Thanh, ba năm sau đều thông suốt ý chỉ. Lại đi về phía Nam Thiên Thai học thông giáo pháp của Trí Giả. Sư lãnh thọ sự sâu xa của hai ông, giỏi về Pháp Hoa đạt được môn không hai, đạt đến chỗ pháp tánh cùng vô minh tạo ra các pháp gọi là nhiễm. Vô minh và pháp tánh ứng khắp các duyên gọi là Tịnh. Nhờ ngộ được tâm Phật toát mồ hôi như mưa. Chưa được mấy tháng để lên tòa giảng pháp, hai Sư ngồi trong chúng nghe nét mặt không chút hổ thẹn. Mỗi khi vào trong đại tạng chọn một kinh, chưa từng nghiên cứu riêng về khoa sớ, nhưng giảng nói tự tại, tiêu tan như băng tan. Tìm đến sơn ý, Ngài dừng lại thì tất cả người ở Thiên Thai không thể đi được, bấy giờ phải thuận theo số đông. Dị Trung Ý Thúc Phụ Lãnh Đại Nguyên Soái khai phủ ở Triết Thủy, nghe điều này kiên quyết dừng lại nếu ông ta đến, thì trao hết sở cho Đại sư Tịnh Quang, ba lần nhường nhưng không nhận, mới xây đạo tràng Pháp Hoa, sáu thời thực hành đêm ngày không biếng nhác. Mùa thu năm Giáp Tý ở Loa Khê, thuyết giảng hướng dẫn như ở đạo tràng. Ngô Thúc Đại Nguyên Soái hằng ngày đến cúng thí. Năm Đinh Mão, lầu phía Đông chùa Khai Nguyên ở Thiên Thai, một đêm nằm mộng, như báo sườn núi bên lầu đến sáng sớm dời về sở ông ta, đêm nay núi lớn lỡ lầu ngã, một trăm người thoát được. Năm trước Ngô Việt từ lâu không mưa, nhưng Ngô Thúc lãnh trách nhiệm cầu mưa. Sư dẫn đồ chúng đến đầm lớn trầm bát cầu mưa, và thầm đọc chú, sau đó trong đầm nổi gió, thất vọng khi thấy vật nổi lên trong nước. Khi trở về chưa được nửa đường thì trời mưa lớn và cảnh tượng xung quanh không còn. Lại từng ngồi trong nhà nguy hiểm, có Đồng tử đến mặc áo người núi, thân hình gầy xấu, cầm giỏ tre trồng một cây tùng nhỏ trước nhà. Sư hỏi: Ông từ đâu đến? Ở đảnh hoa đến đây tặng tùng. Nói xong để giỏ xuống đất rồi biến mất. Sư nói với chúng: Thần núi này, ta từng từ biệt ở đạo tràng, sau này khi xây dựng viện giáo ở Loa khê đúng như lời sấm trước. Đầu đường hiểm phía nam cầu đá Thiên Thai xuống đến muôn nhẫn đi về bên suối bốn sạ, nơi ấy nguy hiểm trơn trợt nhưng rất đẹp, hình dáng giống như cầu vòng, sư có lần qua đêm ở đó, ở trước có luồng ánh sáng, giống như bó đuốc tóe lửa đều không biết từ đâu đến? Sư lại thích sửa lại những tượng hư, thâu thập được nhiều vật xưa, nếu có thì rất phù hợp. Nhân vào niên hiệu Hàm Thông năm thứ sáu, Tượng Trung Thư lúc đó tức là văn phát nguyện của Tăng Hy giảo, nguyện sinh lại đời này, tuổi trẻ xuất gia, đứng hàng đầu trong chúng truyền Đại pháp, đó là thân trước của sư. Như chấp nhận việc Nguyên Độ. Khi xưa sư trụ chùa Dục Vương ở Tứ Minh, nằm mộng lên phương trên có tòa cao cờ báu. Đại Thự nói: Đó là đài Văn-thù, xung quanh đều có lan can bao quanh không vào được, ở trên có Bồ-tát, nắm tay nhau dẫn đi, lên một cách thản nhiên. Lại cảm thấy thân mình và thân Bồ-tát hợp chung thành một. Năm Quý mùi, vua ra lệnh cho Nội Thị Tỉnh Quan và Đài Thủ vào núi xây dựng tinh xá và thỉnh sư trao giới Bồ-tát, tự xưng là đệ tử. Sư cùng đài nhân trao giới, có những người bỏ nghề giết mổ cầm kinh luận, có người không ăn thịt, có người đến lúc chết không nói sát sinh, có người vào núi đi một bước lạy một bước chảy cả máu trán, có người đốt ngón tay cánh tay cúng Phật. Than ôi! Đại âm vừa cất lên, ứng ra ngàn hang, không đi mà tất cả đều đến ai có thể thông được Đại Tiểu ư? Ngày 04 tháng 11 mùa Đông năm Đinh Hợi bị bệnh, thần hồn không còn nhưng thân hình tươi tỉnh như còn sống. Môn đồ đưa khám vào phương trượng, đài nhân khóc lóc than thở. Năm năm sau cải táng thân thể không hư hoại, mùi hương thoang thoảng, điều này không thể giải thích được mà cho là kỳ lạ ư? Sư tên Hy Tịch tự là Thường Chiếu, trước kia là Thái Bình Hưng Quốc, nay là Thủ tọa Tả Nhai Chưởng Giáo môn Tây Kinh Sự Ninh Công truyền cho Cao tăng. Hình trạng và dấu vết Sư, nhân hậu nghiêm túc rất hay, thường muốn viết điều đặc biệt vì hay nghe khuyên bảo, mới biết được việc của Sư, thành tích được như vậy. Môn nhân Trọng Thôi trao thư vừa xong, nghiên cứu phân tích đúng và phù hợp với văn xưa, nhân hậu không giống người bình thường. Ba lần Thôi thỉnh lập bia thờ sư, nhưng đều bị từ chối thư không được. Lại lo điều tốt mất đi thuật lại theo đường cũ, nên đảnh lễ kính viết lời minh: Dạy giáo làm gương mẫu cho đồ chúng Làm giáo chủ cho đồ chúng Đồ chúng thấu suốt càng tỏ Chỉ buông lung tự khinh mình. Sáng thì hợp với Thánh Đều dùng theo chân Khinh lờn thì tội lỗi Tội lỗi không hiểu được lỗi. Vó đại thay Thầy ta Thông suốt khế hợp Thánh Ngồi Thiên Thai dạy người Học đạt đến tánh xưa Khi sống dấu vết đặc biệt Khi chết thi thể lạ thường Nam Hoa nghe điều này Khiến đồ chúng đều siêng năng Thầy trò nương vào ai Khắc phục xong giữ gìn Khâm phục mãi muôn đời Không nên buông lung tạo tội. <詞>GHI THÁP ĐÁ MỚI XÂY VIỆN TRUYỀN GIÁO CỦA VUA A DỤC Đồ đệ Như Giảo soạn và ghi. Hóa duyên Phật hết, hình thể ẩn mất chỉ còn tháp tượng, hoặc phong cốt nhiều lớp ngọc vàng nhung, ngọn cờ cao ngất, khiến cho nháy mắt đưa tay tướng phần thành diệu cơ. Có thượng nhân Thư Trừng, bên trong tu Thiền, bên ngoài làm phước được mấy năm. Hễ nói về phước lợi, biết chẳng phải không làm, một ngày nào đó đạt được lợi ích, luận bàn đến chỗ cao siêu bèn nói: Đặc biệt là không phải đều là tháp Thánh. Vững chắc lâu bền không hơn ngọc đá trong sáng. Mệnh trời và tôi đồng sức chứa nhóm điều lành lớn. Tôi nghe điều này, không dám khen ngợi. Do đó, cùng nhau quyên góp tăng tục được sáu muôn tiền và hàng hòa, bèn bảo người thợ đá chia thành bốn sở, không chở nhiều cây, có thể tạo thành vườn. Hai sở này cao năm tầm, xây ở sân viện, lần này dựng ở viện Sám Phổ Hiền chọn nơi đất thích hợp vật chất và hình dáng đều dự định làm theo vua A-dục. Khuôn đúc bằng các báu, chắc chắn không rỉ chảy, thật là ngọn Linh Thứu luận bàn diệu kinh, cho nên không cần phục hồi lại xá-lợi của sư An, vì đã có toàn thân Như Lai, huống chi dùng thật tướng hành đạo, không khác vàng đá lớn nhỏ, kiếp hỏa tiêu thành không gió lam chấm đất, có thể hoại được ư? Tôi không cân nhắc về văn chương viết thẳng vào đây. Ghi vào ngày mồng tám tháng tám Đại uyên hiến Đại Tống Khai Bảo năm thứ tám. <詞>BÀI MINH TRÊN THÁP THỜ ĐẠI SƯ TỊNH QUANG Môn nhân Trừng Tâm soạn. Sư húy Hư Tịch, tự Thường Chiếu, họ Hồ, người ở Vónh Gia. Xuất gia tại chùa Khai Nguyên ở quận nhà, năm mười chín tuổi thọ giới Cụ túc. Học luật ở Cối Kê, nương ngài Quốc Thanh học giáo pháp Thiên Thai. Khi xưa ngài Trí Giả đến Sư lặng lẽ, đèn đèn tiếp nối khắp cả hoàn cầu. Từ Đường Võ Tông hủy hoại, lời nhiệm mầu từ đây tạm dừng, truyền trì hủy bỏ, nhưng hết lòng nghiễn ngẫm. Ở chỗ Tuyên Thông, ra khoa thi khảo văn, dạy người không mỏi mệt. Ở trong núi hơn bốn mươi năm, người học hơn hai trăm. Đặng Vương Tiền có hôm khâm phục đạo đức của Sư, ban y tía và hiệu cho Sư. Xây nhà cho Sư, cúng dường bốn thứ cần dùng để kéo dài thời gian. Nay thiên hạ quận phủ giúp đỡ sự giáo hóa hưng thạnh. Đệ tử được Sư truyền giới Bồ-tát nhiều đến mấy mươi vạn. Đức hạnh hành trạng của Sư được ghi vào Tăng sử. Ngày mồng bốn tháng mười một năm Đinh Hợi niên hiệu Ưng Hy, sư tịch trong thất, hưởng thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi tuổi hạ. Năm sau đổi thành ngày mười sáu cuối hạ năm Mậu Tý, niên hiệu Đoan Cung năm đầu xây tháp, chôn ở Đông nam chùa Quốc Thanh. Hơn hai mươi người đệ tử giỏi. Trường nói khiến cho kế thừa. Cơ cầu gọi là Giảo Như. Thật có thể gánh vác, dùng lễ để thờ, dùng lể để chôn. Nếu vậy thì đâu có gì hối tiếc. Tôi muốn thêm vào để truyền sáng cho đời sau, để thuần thục dấu vết xưa, nên viết bài Minh: Tông viên đốn của ngài Trí Giả Như vết chân của thầy Là bậc vó đại gánh vác sự nghiệp Người ôn hòa như ngọc Siêng năng mở mang giáo pháp Dạy người cặn kẽ Biển pháp giương buồm Chống trượng nơi nào Tháp ở hang sâu Pháp tử pháp tôn Đèn sáng nối nhau Khen ngợi Pháp sư Tịnh Quang: Môn hạ Trung thư Bình chượng sự Lý Thẩm. Sư khải ở Từ Lăng đạo dùng để tôn bậc hiền, Sư nghiêm túc rõ ràng, siêng năng chu toàn. Hai đệ tử may mắn được hai Sư giảng dạy, thâm sâu tỏ tuệ. Hoa sen tâm kia, Tịnh Quang thầy ta tiếng thơm còn đây. Không nói không dạy mà đạt được điều này. Lại thân trang nghiêm trong tượng thất, ngày sau giáo hóa. Vách Thiên Thai không thay đổi, gió mát miên man. Khen ngợi Đại sư Tịnh Quang: Tuyên đức Lang hành tả thập di quyền tri Thai châu Quân châu sự, Trịnh Nguyên Quy. Như mây bất định, châu sáng hợp phố, ngọc bóng côn khâu. Thuận hóa lưu lại hình bóng, chỉ dạy không đạt được tánh, ngàn thu muôn xưa, chiêm ngưỡng càng nhiều. Tả Nhai Tăng Lục Ứng Sử Quán ghi sửa lại Đại sư Thông Tuệ (Tán Minh) phục thừa. Nay kính lễ Đại sư Tịnh Quang. Phụ thêm một bài kệ: Đưa ra chữ triện sám duyên bếp lò Dạy đồ chúng ngôn ngữ cách khê thinh Núi ngăn nước chảy hiện khó thấy Dài rất cao gọi là thượng đỉnh. Chân thân tại chùa Bảo Tháp ở Hàng châu, Đại sư Văn Đức Quang Nhân giảng kinh luận (Thường Thái) Phan Hòa Đô Tăng Lục Cao Sướng gởi Đại sư Tịnh Quang ở Loa Khê, cúi xin xem xét. May thay được ngài Trí Giả trung hưng dạy lại, giảng Kim kinh cả ngày lẫn đêm. Lại bạn Nam Sơn chốn hành đạo, đủ một gian nhà đánh quỷ thần. - Khen ngợi Pháp sư Tra Am. Có trang nghiêm nhưng không lường được sự vụng về, đến giảng lời Phật, dấu vết gởi ở cấm cung. Tâm phục đức cao, thấy giống như hình tượng ở đây. Trình bày lời ca quê mùa nhưng than ôi không dám, cúi xin soi xét. Nhớ khi xưa sương mù muôn dặm, đức như ánh sao sáng đài Nam tu chân tự gọi là Thần châu đến. Tăng mộ từ Nhật Bản đến, đạo đựng thành tựu to lớn mấy lần. Đèn tuệ tiếp nhau thành khói lạnh, lúc ấy không nhờ sức giúp đỡ, kiếp trần mênh mang việc đáng thương. - Khen ngợi Pháp sư Bá Đình. Pháp sư Tịnh Quang thật là Tổ đời sau trung hưng giáo quán phần tháp giáp khe núi, để hoang vu trong chốn bùn đất bùn gai, nay trụ trì Nguyên Ngộ đắp lên cao ráo và làm thành đình để che lại làm lăng tẩm giữa phương trượng. Trải qua từ buổi đầu bỏ phế lại gặp gian nan chăng? Pháp sư để lại đức tiên đức còn khen, chẳng thể thông rộng lớn, kế thừa muôn trước không thể nói lời luống dối. Đặc biệt sai trụ trì pháp tôn lên chùa Linh Cảm Quan Âm Giáo ở Thiên Trúc (Thiện Nguyệt) chắp tay đảnh lễ. Những dấu vết trong bản đồ có mở ra, tháp cao trung quang hiện ba đài, giáo truyền khắp nước tìm nguồn trao, tông phong nhuộm lam có từ xưa, giới sáng ngồn châu trong tận đáy. Nghiên cứu đạo tạo huyền luật khói bay, ngàn năm Loa Khê một trận ngăn, pháp môn được khen cũng chịu đau. Ghi lại việc dời tháp của Loa Khê. Chết mà chôn là thời xưa, cải táng là không phải thời xưa, những điều này tùy theo phương tiện làm được việc ư? Ngày xưa, Tiên chủ nói chôn là giấu kín. Chôn cũng là muốn cho người không thấy, áo chăn đều để trong quan quách đưa đi, tới những phần mộ rồi quàn tại đó. Cho nên, có chữ Táng. Khi Tôn giả Loa Khê mất, môn đồ an táng nhục thân ở phía Đông nam chùa Quốc Thanh, thực hiện nghi lễ theo người đời. Bởi hơn hai trăm năm, năm tháng quá lâu, mực nước vỡ cho nên đường bị ngập, đường đi thấp xuống. Mục đảm nhận việc này, nhìn thấy dòng suối chảy, thấy được âm dương, và thấy vùng đất sau phương trượng, vào ngày mồng bốn tháng mười một năm Canh Dần, niên hiệu Thiệu Định cải táng xây tháp bằng đá. Khi lấy xương lên chôn nghe mùi thum thủm, vì không có người hiểu biết để sắp đặt điều này. Bấy giờ Tôn giả ở đó thấy thân này huyễn hóa, nên nay người chết gọi là vong. Tánh chân thật không đến không ở, vì sao làm nước hôi thúi? Lại đâu cần phải dời đổi. Tuy nhiên người học hết lòng tin, suy nghó tận cùng điều này thấy điêu tàn đáng thương. Nếu thấy được như vậy, mà cho rằng không như thế, thì không còn đâu ý nghóa Tôn sư trọng đạo, nhưng ngược lại mạng mạch của Ngài không cùng. Nếu nghiên cứu từ đầu đến cuối sự truyền trao, thì nghi đầy đủ đức hạnh, ghi luôn những điều cầu cúng có cảm ứng, thì vẫn còn trong sử truyện. Khi xưa ngày rằm tháng giêng năm Tân Mão, niên hiệu Thiệu Định đời vua Thánh tông, Tỳ-kheo Nguyên ngộ Pháp Tôn trụ trì kế thừa đảnh lễ ghi. Loa Khê Chấn Tổ Tập. <詞>BẢO VÂN CHẤN TỔ TẬP VÀ LỜI TỰA Sa-môn Tông Hiểu Thạch phiếm Tứ Minh soạn. Sở truyền không gì hơn đạo, sự mở mang truyền bá phải nhờ vào người. Không phải vì có người mà đạo được còn mãi, chẳng phải vì không có người mà mất, vì đạo vốn Như. Nhưng không có người mở mang truyền bá đạo thì đâu lợi ích đến sinh linh? Nhưng có người truyền bá thì nó bất diệt, đạo này được sáng tỏ, cũng như mặt trăng mặt trời chiếu sáng không cùng. Pháp sư Nghóa Thông ở Bảo Vân xuất thân từ dòng họ cao quý, mến đạo xuất gia. Buổi đầu Sư được truyền Hoa Nghiêm, Luận Khởi Tín, mọi người rất vui, đến khi lan tràn khắp Trung Quốc. Buổi đầu Sư yết kiến ngài Vân Cư khế ngộ được Nam Tông, lại nghó Thai Hành dạy Quán Kinh năm đời loạn ly, chỉ còn một đường. Sư đến thất Loa Khê Tịch Công, và mau chóng nhận được sự truyền thừa này. Sư học tất cả bậc danh tăm khắp nơi. Sau đó phát nguyện trở về bản quốc truyền giảng giáo pháp, do đây chống gậy chèo thuyền đến Tứ Minh gặp Quận Thủ Hoài Hải Đại Vương Tiền Công (Duy Trị) thưa hỏi tâm yếu và mời làm giới sư, từ đây tăng tục hướng về, sư ở lại giảng dạy. Hội Tào Sử Cố Công (Thừa Vi) sửa nhà thành chùa và bảo Sư khai sơn, nhóm họp các bậc long tượng giảng suốt hai mươi bốn năm. Về sau sư truyền pháp cho Pháp Trí Tri Công, đó là Tôn giả Tứ Minh. Pháp Trí làm chủ trì bốn mươi năm ở Diên Khánh, đạo này được truyền rộng ở đời. Ở đây không phải nói người được truyền mà nói đến ý chí hết lòng theo đuổi. Biên khắc di văn Tứ Minh, lại mong Tî tổ Bảo Vân và Tứ Minh là cha con bậc hiền tài, trong ngoài vận mạng đều giống nhau, trung hưng một nhà. Nếu đức nghiệp này không truyền lại cho đời, thì lời chỉ dạy mất tông nguyên, con cháu đời sau lấy đâu nghiên cứu. Do đó mới xem xét lại bia thì thật là biên chép đơn giản, biết được hình tượng thờ Sư và người sau kế thừa, tổng cộng hai mươi bài, xếp riêng vào một pho sách, tựa đề là Báo Chấn Sở Tập. Bởi thu thập ở Tổ đường viện này nên gọi là Chấn Tổ. Người xem văn này nên biết rằng Tổ ta để lại đức tốt không thể biết rõ thu thập điều nhiệm mầu của người mà bị loại bỏ. Tỳ-kheo (Tông Hiểu) Thanh Đán giữa mùa xuân năm Quý Hợi, niên hiệu Hy Thái kính ghi lời tựa. Mục lục: Văn đầu xin ban bức hoành Công văn tỉnh Chỉ dụ màu vàng Giấy mời của Sứ giả. Tứ Minh Đồ Kinh Ký soạn Sự Tích Viện Truyện Pháp sư Tịnh Quang Viện Định Tuệ ở Loa Khê, Đài Châu. Ghi Tháp đá của Pháp sư Bảo Vân Thông Công ở Minh Châu Cự Tông. Ghi lại việc dời tháp thờ Pháp sư Bảo Vân Thông Thờ xá-lợi Pháp sư Ký Thông ở Thảo am. Ghi chép lại di tích Pháp sư Ký Thông Khen ngợi chân dung Pháp sư Bảo Vân Thông Thơ gởi tạng Pháp sư Bảo Vân Thông Công. Khen ngợi Tổ sư Bảo Vân Tứ ở Minh châu. Khen ngợi chân dung giáo chủ Bảo Vân Thông Công. Khen ngợi chân dung Pháp sư Bảo Vân Thỉ tổ Thông Công. Sớ kî Pháp sư Thông khai sơn ở Bảo vân. Sớ trai kî Tôn giả Bảo Vân Tổ sư Nam hồ. Pháp sư Tứ Minh học với Tôn giả Bảo Vân. Sám chủ Từ Vân học với trụ trì Bảo Vân. Pháp sư Minh Trí trụ trì Bảo Vân. Sử Thái sư thỉnh sư Oánh giảng làm sớ khi ở Bảo Vân. Ghi sự sinh trưởng lợi ích ở viện Bảo Vân. Lời sau cùng xây dựng pháp đường Diên Khánh, đề tên là Pháp Vũ Đường. ------------------------------------ <詞>TẤU VĂN XIN BAN BỨC HOÀNH Thần là tăng Diên Đức viện Truyền giáo ở Minh Châu, bên phải đã có Đan thành, Thượng can, Thiên thính, giảm số lượng thì phạm thượng, nuôi hết thì âu lo. Đích thân được Hòa thượng trao, truyền giáo pháp Thiên Thai, nay đã có vị tăng tên Nghi Thông ở viện này. Niên hiệu Khai Bảo năm đầu, được Phước Châu Tiền chuyển vận Sử Cố Thừa Vi Kinh Hoài Hải Đại Vương thỉnh vào viện trụ trì để truyền giảng giáo pháp Thiên Thai cho nước nhà. Học chúng đến nghe hơn sáu mươi vị, nhà ở của viện một trăm gian, chung trong hai thời đều cúng dường đầy đủ. Tuy đi bộ lên đài sen để giảng giáo khen ngợi hoàng phong, hơn nữa Hoa xã trang nghiêm rực rỡ, chưa được ban bức hoành, cúi xin bệ hạ Hoàng để ứng theo vận trời an ủi, chấp hành theo lễ đến triều, muôn nước đều được ấm no vô tư. Bốn biển đều hát khúc ca có đạo. Thần được nhờ gặp đời Thánh, may thay được dư vào hàng chân tăng, dám từ xa đến trình lên triều đình, mong trên bệ hạ yêu thương ban cho, cúi xin xem xét, đặc biệt hạ sắc lệnh, chỉ huy ban xuống cho thần, ghi lại bạn đồ bức hoành viện này, mong thiên ân truyền trao. Chùa Phạm từ xa truyền đến, cốt để cho cửa Phật pháp sáng ngời, mãi mãi giáo hóa thành tựu hưng thạnh. Phạm vào thân cung, thì không thể nhìn trời gánh vác chuyện thánh cảm động đến, kính cẩn tâu lên vua trình bày rõ, cúi xin ban Thánh chỉ. Tháng 12 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ sáu. Thần Tăng là Diên Đức ở viện Truyền giáo thuộc Minh châu xin tấu trạng. <詞>CÔNG VĂN THỈNH Công văn môn hạ Trung Thư, tăng tên Diên Đức ở viện Truyền giáo thuộc Minh châu xin công văn đổi bản tin viện. Vâng theo sắc lệnh Minh châu phân tích, thấy trong điện nhà cửa hành lang, công đức tượng Phật ở trong số mục vị Tăng và bắt đầu niên đại. Theo tấu văn khẩn cấp, công văn y theo sắc lệnh. Công văn cũ là công văn ngày 24 tháng 12 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ sáu, Trung Thư Thị Lang kiêm Binh Bộ Thượng Thư Bình Chương Sự Sư, Tả Bộc Tạ Kiêm Môn Hạ Thị Lang Bình Chương Sự, Ty Đồ Kiêm Thị Trung. Sắc hoàng: Công Văn Môn Hạ Trung Thư Minh Châu. Minh Châu tấu xin theo sắc lệnh phân tích đến viện Truyền giáo, thấy trong điện có trăm gian nhà, thờ bảy mươi tượng Phật, năm mươi tám vị Tăng chủ khách, bắt đầu xây dựng vào niên hiệu Khai Bảo năm đầu. Việc tấu văn, công văn vâng theo sắc lệnh, phải ban bảng chùa cho Thiền viện Bảo Vân, công văn đến y theo sắc lệnh. Công văn cũ là công văn vào tháng tư niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ năm, Xá nhân trung thư Tham tri chánh sự Quách Tư Gián Nghị Đại Phu Tham Tri Chánh Sự Đậu, Tạ bộc xạ kiêm Môn hạ thị lang Bình Chương Sự, Ty Đồ Kiêm Thị Trung, Quyền Tri Quân Châu Sự Triều Dị Tri, Thông phán Quân châu sự Chu Tần. <詞>GIẤY MỜI CỦA SỨ Giấy mời của Châu y theo sắc lệnh vàng ngày mồng năm tháng này sắc tấu hoài ở Minh châu, phân tích đến viện Truyền giáo, thấy ở trong điện một trăm gian nhà, thờ bảy mươi tượng Phật, tăng chủ khách năm mươi tám người, bắt đầu xây dựng vào niên hiệu Khai Bảo năm đầu, việc tấu văn vâng theo sắc lệnh công văn, phải ban bảng chùa cho Thiền viện Bảo Vân. Bên phải có giấy mời từ trước, Tăng chánh ty biết xong. Mọi việc phải có giấy mời bản viện y theo sắc lệnh chỉ huy, ngày 07 tháng 06 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ bảy. Ty Trương Mổ Thủ, Ty Pháp Quyền Lục Sự Tham Quân Sự Chúc, Thông Phán Quân Châu Sự Chu, Quyền Tri Quân Châu Sự Triều. Mùa xuân năm Canh Tuất niên hiệu Kiến Viêm bị cháy, thiền viện quả một đêm không còn gì cả. Thánh triều ra lệnh khắc vàng vào đá, văn chữ bị vỡ nát còn sót lại trong nạn binh lửa, không thể thấy rõ, thường than thở không có cách nào phục hồi lại. Đến năm Kỷ Tî, niên hiệu Thiệu Hưng, cách năm Canh Tuất hai mươi năm, một hôm có vị Tăng Diêu Giang cầm bức tranh cũ ngày xưa. Trọng Mân vui mừng như được vật báu. Chao ôi! Chắc Sư Thông pháp Tổ tiên dạy pháp hội còn thấm nhuần chưa phai, khiến cho ngày hôm nay được may này, nếu không thì làm sao phù hợp phi thường như thế? Đến tháng giêng năm Mậu Tý năm sau lại phỏng theo bức vẽ khắc vào đá. Đại sư Chân Giáo Trọng Mân viết. <詞>SỰ TÍCH VIỆN ĐỒ KINH KỶ Ở TỨ MINH Viện Bảo Vân Giáo ở cách phía Tây nam huyện hai dặm. Xưa là viện Truyền giáo, được xây dựng vào niên hiệu Khai Bảo năm đầu cho đến niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ bảy được đổi lại và ban bản chùa ngày nay. Bản Tào Sử Nguyện Thừa Huy sửa nhà thành chỗ cho Pháp sư Nghóa Thông truyền giáo và xin đặt bảng hiệu là Bảo Vân, để nói lên sự an lành này. Nghóa Thông tự là Duy Viễn, vốn là dòng họ cao quý, từ Tam vi đến làm vang dội ở Trung Quốc. Tri Lễ Tuân Thức Tử Cân là bậc Thượng Túc trong các môn nhân này. Trải qua hai mươi bốn năm, sau đó năm nghiêng luôn bên phải thị tịch, được trà-tỳ, đệ tử nhặt xương cốt chôn về phía mặt trời núi A-dục, xây tháp bằng đá. Có ghi đãi chế Vương Công Bá Tường viết ở sau và khắc vào đá. <詞>TRUYỆN PHÁP SƯ TỊNH QUANG LOA KHÊ Ở ĐÀI CHÂU Sư húy là Nghóa Tịch, tự là Thường Chiếu, họ Hồ, người ở Vónh Gia thuộc Ôn châu. Khi mẹ mang thai không thích ăn thịt, mới sinh ra đã có mũ tía đội trên đầu, từ nhỏ đã từ giã cha mẹ, cầu pháp xuất tục, đến Lan-nhã Khai Nguyên xuất gia, được trao kinh Pháp Hoa một tháng đã đọc thông suốt, các bậc kỳ túc trong chùa đều khen là ít thấy. Sau đó cạo tóc thọ giới Cụ túc đến Cối Kê học tông Nam Sơn, thông hiểu Luật tạng, rồi đến núi Thiên Thai nghiên cứu Chỉ Quán, và hiểu một cách rất dễ, giống như Nam Hà vừa chiếu khắp. Trước đây giáo tích của Thiên thai Trí Giả, xa thì binh của An Lộc tàn phá, gần thì Hội Xương đốt hủy, chỉ còn sót lại những bản biên nửa chừng, gốc gãy cành tiêu. Người truyền không biết lấy đâu làm bằng chứng cho người học. Do đó, mỗi lần Sư nghó đến việc sưu tập, nhờ chọn Kim Hoa, trọng tạng xưa được sớ của Tịnh Danh thôi. Sau này Trung Ý Vương hỏi Quốc sư Đức Thiều về giáo tướng, sư chỉ truyền cho Tôn giả, do đây tâu lên vua, thỉnh Sư ra khỏi Kim môn, xây dựng nhà giảng khâm phục và cung kính làm chùa cho Sư ở, nay là viện Định Tuệ ở Loa Khê. Vua ra lệnh cho mười người sang Nhật Bản thỉnh tạng giáo Thiên Thai về, và ban hiệu cho Sư là Đại sư Tịnh Quang và truy thụy cho danh hàm cửu Tổ đều do công của Sư. Từ đó một nhà giáo thừa do Sư trùng hưng. Nhưng Thiệu Công Thích cùng họ với Sư nên hay giúp đỡ tông ta, lại ở bên Phật Long, nghi là thân sau. Vì Sư là người học của tông này mấy lần cầm nửa hạt châu làm gia bảo. Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm thứ năm, từ núi vào chùa Châu Trì. Phía Đông chùa có một lầu gác, gác nằm gần núi lớn. Đêm đến Sư nằm mộng, cột chùa bị lún sâu xuống đất, ý nói có điều không tốt xảy ra, sư tự dời về phòng tăng bên phía Tây. Đêm ấy vào mùa xuân trời mưa đột ngột, núi lỡ lầu gác sụp đổ. Mọi người đều nói: Sư đã thấy trước chứng tỏ là đạt được thiên nhãn. Sau đó sư chịu đến Hoàng Nham đi thuyền dạo sông nước, phóng sinh, giảng kinh Kim Quang Minh trên dòng nước. Đến cửa biển chùa Linh Thạch, đó là đạo tràng chỗ ở của Trí Giả, nhà đó khuyên người sửa lại tượng, do đó, người có duyên với Sư rất nhiều. Bấy giờ vua ra lệnh cho Cao Phẩm Vệ Thiệu Khâm vào núi xây chùa Thiệu Xương. Các quan cùng nhau thọ giới. Lại vào đầu niên hiệu Ưng Hy, huyện Vónh An sư thọ giới tại chùa Quang Minh, bỗng nhiên tượng Phật điện xưa bị đổ xuống, trong lòng Sư phát nguyện, tức là vào niên hiệu Hàm Thông năm thứ sáu đời Đường, tăng Hy Hiệu vì bảy người ở quê bố thí, trì giới và khuyên tạo tượng này. Nguyện xả báo thân làm người nam, đồng chân xuất gia, mặc áo vải thô truyền pháp lợi sinh, có người khi xem qua đều nói là thân trước của Ý Tịch. Đến tháng mười năm thứ tư sư bị bệnh, ngày bốn giữa mùa Đông sư dạy các môn nhân không được khóc và làm những việc cúng tế, nói xong sư nhắm mắt thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi, năm mươi tuổi hạ, đệ tử truyền pháp hơn một trăm vị, Tăng nước ngoài mười vị. Ngài thông suốt nghóa thật là bậc cao minh, trong lặng kỳ lạ như hạt châu lóng lánh. Lúc này quan dân Thiên Thai những người từng được Sư truyền giới cùng nhau đón rước chân tướng Sư ở chùa Khai Nguyên và hết lòng thờ cúng, đều mặc tang phục khóc thương, sắc trời cũng biến thành ảm đạm. Thái Thú Trịnh Công Quy làm thơ truy điệu rỗng không. Ghi bài thơ ấy ngay phương trượng xây tháp. Sau này đồ chúng cải táng nơi khác khi mở tháp ra thấy dung mạo Sư tươi tỉnh như lúc còn sống, tóc ra dài hơn cả tấc. Hằng ngày Sư thường giảng kinh Pháp Hoa và Huyền Nghóa hai mươi thiên, Chỉ Quán, Duy-ma, Quang Minh, Phạm Võng, Kim Cương Tỷ, Pháp Giới, Thiền Nguyên Thuyên, Vónh Gia Tập mỗi bộ mấy biến. Thuật lại nghóa Bất Nhị Môn, Khoa tiết mấy quyển. Nhưng từ Trí Giả truyền pháp sáu đời về sau, Kinh Khê về sau hơn hai trăm năm, Tịch nhận sự di chiếu nên gánh vác sâu năng, huống chi vào mùa nóng giảng nói, không hề thấm chảy mồ hôi. Chẳng bao lâu được nghe điều này mà hiểu sâu về Phật thừa. Mỗi lần giảng, thì nắm vàng ứng ngọc, gọi Vũ hòa với Thương, còn hơn chín tuần bàn diệu, xa cách nhau thì làm thế nào? Lại từng ở chùa A-dục Tứ Minh nằm mộng thấy mình lên cõi nước Thanh lương. Phương trên có tòa báu trang nghiêm, đề là đài của Văn-thù. Bệ và đế cách với lan can, tìm đường vào không được. Sau đó thấy Bồ-tát Quán Âm từ trong nhà đi ra, tay dắt ngựa đi, cúi xuống tiếp nhau, khi ấy có cảm giác mình và ngài Quán Âm không hai, nhân đó liền tỉnh ngộ. Từ đây về sau ưa nói không cùng, hoặc có người nói rằng vào Trí Thừa Phổ Môn, trên hợp với Phật giác, chứng Vô thượng, dưới hợp với chúng sinh đều đồng thể. Khai mở cho chúng sinh, hòa thành một pháp. Người đạt được tâm này, chẳng phải Quán Âm thì là ai? Vó đại thay! Hành giải của Sư, như thế không phải khuôn phép cho đời hay sao? <詞>GHI THÁP ĐÁ THỜ PHÁP SƯ THÔNG CÔNG BẢO VÂN MINH CHÂU ĐỜI TỐNG Đại sư văn Tuệ Pháp Tôn ở Diên Khánh, Tông chánh soạn. Pháp sư húy Nghóa Thông, tự Duy Viễn, trong phần đức hạnh và hành nghiệp có ghi rõ hành trạng, người nước Bản Hải, họ Y, dòng quý tộc. Mẹ họ Thục, khi mang thai Sư có điềm lạ, do đó bỏ vào viện Quy Sơn. Sư Thích Tông và Quan Nhiễm có truyền Hoa Nghiêm Khởi Tín. Bà rất kính ngưỡng thỉnh lại, đợi lên khi lớn du phương Trung Quốc. Vào niên hiệu Hòa Phước đời Tấn, buổi đầu đến yết kiến Vân Cư khế ngộ, sau yết kiến sư Tịch Loa Khê liễu được tông Thiên Thai, hơn nữa gặp cội nguồn. Tóm lại, nổi tiếng khắp nơi. Cô nói: Học viên đốn cuối cùng thấu suốt được điều này. Tôi muốn dùng điều này để hướng dẫn những người chưa nghe, chắc chắn phát sinh nơi này mới bao gồm được. Đông hạ đạo do Tứ Minh, Thái sư Tiền Công Duy Trị hỏi tâm yếu, Tôn mời làm giới Sư. Kế thừa điều này đạo tục cầu xin ở lại. Sư nói: Chẳng phải tâm ban đầu. Công nói: Hoặc ni nói, hoặc Sứ giả nói, chẳng phải sức của đệ tử. Nếu nói lợi sinh thì đâu cần Khê lâm ư? Duyên ông đã hợp, từ chối chẳng phải ta, do đây ở lại. Hội Tao Sứ cố Thừa Huy sửa nhà thành nơi truyền đạo, lại xin để bản Bảo Vân để bày tỏ điềm lành này. Sau này mở mang giáo quán hơn hai năm. Tri Lễ Tuân Thức Tử Căng là bậc cao nhân, lại còn thăng đường đạt được pháp môn, không thể ghi hết được. Tất cả các tác phẩm của người đều bị thất lạc. Than ôi! Quân Tử nói: Đạo Thiên Thai đột nhiên được Sư ra sức trung hưng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi. Ngày 18 tháng 10 năm Mậu Tý, niên hiệu Đoan Cung đổi thành Nguyên Long Tập. Sư bị bệnh, trải qua ba ngày Sư nằm nghiêng bên trái mà tịch. Trà-tỳ xong, các hiếu đồ thâu nhật xương cốt, chôn ở phía Tây bắc chùa núi A-dục. Về sau trải qua bảy mươi bảy năm, vẫn còn ghềnh đá to hoang vu, đến đó nhiều lần mới thành một phần mộ vuông, càng thêm rạng rỡ nơi ấy. Bấy giờ, vào năm Giáp Thìn niên hiệu Ngũ Diệp Hoàng tông, năm sau Thiên vương lên ngôi đổi niên hiệu là Trị Bình năm đầu, pháp tôn Tông chánh ghi lại. Pháp sư Hữu Thông ghi lại tháp đá ngày 21 tháng 10 năm Canh Thìn, niên hiệu Thiều Hưng, Trí Khiêm nối pháp trụ trì đã xây dựng lại. Thông Công từ Tam Vi đến, tiếng tăm vang khắp Trung Quốc, ở Bảo Vân hơn hai mươi bốn năm, đời thứ nhất. Như Pháp Trí Từ Vân là cao đệ. Giữa chừng giáo quán Thiên Thai bị mai một, nhưng nhờ năng lực sư trung hưng và hành nghiệp sự tích nên một thời được khắc vào đá nay không còn. Khiêm Công ra sức tìm tòi và đi hỏi, mới được ghi vào tháp và khắc in. Lại khai hoang làm nhà, đắp tượng Sư ngồi, đến khi Ngô Việt Quốc vương khen ngợi đảnh tướng và khắc vào đá. Ngoài ra còn ghi tháp ở núi Ô Thạch, A-dục. Nhà nhà đều dùng bằng đá để lại cho người sau. Do đó, đạo của Thông sư càng thêm rực rỡ. Bấy giờ Khiêm đến đó mới hơn nửa năm, Bảo Vân từ sư Thông mới xây truyền được hai trăm năm, hơn một năm bị suy sụp. Khiêm thấy nhưng điều này than: Một bộ phận bị đổ phải sửa lại, cũng có thể nói không phụ ý Tiên sư gánh vác giao phó. Giữa niên hiệu Thiên Bảo, đời vua Thánh Tông, Tào Sử Cố Thừa Huy một lần nữa sửa nhà để làm chỗ ở cho Sư. Sau này Thôi Quan Trần Vân đưa vào bốn trăm ba mươi mẫu ruộng ở phía Tây đảo, nhiều năm không biết đến. Khiêm cũng đặp tượng hai ông để bày tỏ điều đó và mọi người càng biết về gốc của Sư. Khiêm đắc pháp với sư Minh Trí đời thứ năm chùa Diên Khánh, nguồn gốc của Sư cũng có từ đó. Tả Triều Tán Lang Chủ Quán Đài Châu Sùng Đạo Quán Vương Bá Tường kính ghi. <詞>GHI VIỆC DỜI THÁP THỜ PHÁP SƯ THÔNG BẢO VÂN Nguyệt đường ở núi Linh Ẩn Phủ Lâm An Đạo Xương soạn. Khi Tôi ở Dục vương thường hỏi thăm Pháp sư Oai ở Bảo Vân, do đó nói: Pháp sư Thông là Tông chủ khai sáng giáo pháp Bảo Vân, tháp Ngài chôn ở núi này. Tôi thường hỏi những người cũ đều nói ở chùa Tây Ngung, liền đến đó tìm, thì tháp nằm trong bụi rậm gai gốc hoang vu. Lúc này có núi Ô Thạch, mọi người đều nói non nước phong cảnh nơi đây rất đẹp, những người giàu sang nhiều lần đến đây tìm. Tôi dùng đất thường trụ, chẳng phải riêng của tôi, nếu tôi lấy cho, thì chắc chắn chứa lấy nhân quả, nhân tình trong đó có người không vui, nhưng tôi chỉ giữ như buổi ban đầu. Khi ấy Tiên sư và Lão nhân Diệu Trạm ở phía Tây tháp, do đây thưa lại. Tiên sư nói: Pháp sư Thông là tông chủ Thiên Thai, lại người ở đất này đều muốn được linh cốt của Ngài. Nếu dời linh cốt của Thông Công chôn ở đất này, thì chẳng những khỏi xin đất mà họ đều lũ lượt kéo đến, sau đó linh cốt của Thông Công được chôn nơi này. Tôi liền nghe lời Tiên sư, chọn ngày cùng với Oai sư và Lão nhân Diệu Trạm nhóm họp nhiều người dời tháp sư. Đến khi lấy linh cốt, dùng nước thơm rửa, trong sáng như ánh mặt trời. Người đời đều cho rằng đây là vật cứng chắc, hoặc màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, thấm đượm như xương còn sống. Mọi người thấy đều vui mừng làm lễ kkhen ngợi. Thù thắng như thế chưa từng có trên đời. Sau này người trụ trì vua A-dục đời sư về đồ chúng của sư biết đây là vùng đất tốt và muốn được phước này, nên đến đó chôn, chẳng bao lâu bị người dời đi, chỉ còn sừng sững ngôi tháp thờ sư Thông. Hiểu được điều này, người có tâm lành hay không thì hiệu quả báo ứng cũng thấy rõ ràng. Ngày 28 tháng 08 năm Mậu Dần, niên hiệu Thiệu Hưng năm hai mươi tám, Thượng nhân Nhược Quyền thăm tôi ở Lãnh Tuyền, đưa ra lời ghi tháp đá trùng tu thờ sư Thông và muốn nhờ tôi viết nhân duyên cải táng, cho nên trình bày điều này. Tỳ-kheo Nguyệt Đường ở núi Linh Ẩn Đạo Xương kính ghi. <詞>GHI LẠI CHUYỆN XÁ LỢI CỦA PHÁP SƯ THÔNG Ở THẢO AM Pháp sư Thông Bảo Vân người ở Tân La, Tứ Minh, đắc pháp với Loa Khê Thiên Thai, ngài thị tịch ở phía trái núi A-dục vương đã nhiều năm. Sau này nhân đổi cổng chùa, vùng đất này trở thành hoang vu, tháp cũng bị bỏ phế. Mùa Đông năm Đinh Mùi, niên hiệu Tuyên Hòa, Thiền sư Xương ở Tưởng sơn làm chủ Dục vương, đến tháp cốt ở núi Ô thạch, khi ấy đồ chúng hơn nửa ngàn người cùng tiễn đưa. Nay Thiền sư Tuyết Phong Dục, Pháp sư Oai Bảo Vân cũng tham dự. Xương của sư óng ánh trong suốt đáng yêu, chạm nhẹ nghe tiếng leng keng. Vâng Phong thầm nghó, nếu quả thật là xương người, thì ta không cản trở như vậy. Sau đó mặt trời lên thấy đúng là xương người, người đời đều cho rằng là bậc kiên cố. Hai ba người ngạc nhiên ầm ó, thì sau đó biến mất. Mấy mươi năm vẫn còn sáng rực rỡ, rì rào như ngọc khua, hoặc có người xin, cho đến có người đem đồ đựng đầy. Vào năm Tân Hợi niên hiệu Thiệu Hưng tôi chống gậy ở Quảng Lợi, những người học thiền phần nhiều đem lời này đến hỏi tôi, tôi vẫn còn nghi về điều này và đến Ô Thạch lễ tháp thờ Pháp sư, Lão tăng trong am nói với tôi hay nói về điều này. Quả nhiên lại nói: Lão tăng cũng có xin được hai viên và cầm trong lòng bàn tay, khắc vào để khai thị, tăng thêm bảy tám viên, tôi mới tin, vì lão tăng là người không nói dối. Nhưng Pháp sư sống đặc biệt, khi xưa Ngô Việt Quốc vương rất khâm phục, từng khen ngợi rằng: Lông mày trắng tướng lạ, trăng tròn đẹp lạ kỳ. Ngàn dặm đồng phong, chiêm ngưỡng hình tượng. Lại làm thơ rằng: Bình sinh nhờ mắt từ, nhìn về Nam than thở. Lúc ấy đạo Thiên Thai đã suy vi, nhờ Sư giữ gìn, trao cho Pháp trí Từ Vân, dùng đây hưng thạnh gia phong, đây gọi là mạng mạch của Thiên Thai. <詞>GHI LẠI DI TÍCH BIÊN SOẠN CỦA PHÁP SƯ THÔNG Thiên Thai chánh truyền chọn Thiền sư Kinh Khê làm tổ đời thứ chín. Nhưng người truyền từ đời Kinh Khê về sau cũng chưa dứt, tuy định tuệ song truyền, chưa thể cùng nhau gánh vác cửu tổ, nhưng cắt đứt ngọc khuê, bẻ gãy cành chiên-đàn thì đều là người hành đạo Thiên Thai. Nay Bảo Vân Thông Công thật kế thừa sau Kinh Khê, lại được Pháp Trí Từ Vân giáo hóa ở Triết Giang, đạo này liền được chấn hưng lại. Giải hạnh của Sư cao xa rộng lớn sức rất thông suốt. Theo lời ghi tháp đá, các tác phẩm của sư đều bị mất không truyền được, nhưng khảo sát về chương khí của Tứ Minh, thì có biên tập Quán Kinh, Sở Ký Quang Minh Huyền Tán Thích, pháp nghóa còn lại thì Pháp Trí kế thừa, ghi trong Ký sao, bộ Tán Thích này vẫn còn nhưng không được truyền rộng. Đáng tiếc thay! Sư xây viện nhà đã hai trăm hai mươi hai năm, sau khi bị binh đao, di tích xưa đều bị vùi trong đất bụi. Tôi có hỏi các bậc kỳ túc, biết Sư chôn y trong tháp vẫn còn ở viện Hưng Pháp Cảnh Thanh, sư liền đến đó hỏi, quả nhiên đưa tôn tượng đến viện An sám. Điêu khắc bằng vải rất khéo, toàn thân đều bằng vàng, bên trong rỗng, hình vuông, cao năm thước. Quả báo này là vật xưa của Bảo Vân, không biết duyên nào lưu lại chùa kia. Muôn một, châu về hợp phố, đâu không phải là vì ngọn cờ truyền trì của Sơn gia. <詞>KHEN NGỢI CHÂN DUNG PHÁP SƯ THÔNG CÔNG Ở BẢO VÂN Ngộ Việt Quốc vương tiền dựng nên. Sư không lìa ba cõi, Đại sư ta có lông trắng tướng lạ, trăng tròn rất đẹp. Giới châu sáng khắp, biển trí tuệ không bờ. Người trời phước tụ hội, chiêm ngưỡng hình ảnh Sư. Pháp sư Bảo Vân lãnh thọ Thiên Trúc Tứ Minh, chính là Tî tổ trung hưng giáo quán, nhưng ngày xưa không đắp tượng Ngài, cũng không quên gốc ư? Và Tiền Vương làm bài tán phóng theo tượng khắc vào đá, để người chiếm lễ sẽ tưởng thấy được hình dung lúc ấy. Đầu mùa Đông năm Canh Thìn, niên hiệu Thiệu Hưng, Pháp Tôn Đại sư Viên Trừng trụ trì đời thứ sáu Trí Khiêm kính đề. <詞>TẶNG THƠ CHO PHÁP SƯ THÔNG Ở BẢO VÂN TỨ MINH Ngô Việt Quốc Vương Tiền dựng nên. Góc biển lại chân trời, hình phân đạo không xa. Lặng trong đọc Viên giác, hương đốt đảnh ca sa giới hơn châu vô hạng, tâm như gương không vết. Bình sinh nương mắt tuệ, nhìn về Nam than thở. Bài thứ nhất: Nhìn nhau mấy ngàn năm, thêng thang trái đạo tình, từ đây thành cách biệt. Nghi là cách phù sinh, được chỉ sâu thăm dò huyền tịch. Vô tâm tranh danh lợi, rõ ràng bằng đêm thu, bạn với ai đọc kinh nghe. Bài thứ hai: Tông Hiểu từng xem việc để lại giáo uyển ở Thảo Am, được những điều bình sinh nhờ mắt từ, nhìn về phương Nam than thở. Bởi khi xưa Ngô Việt Quốc Trung Ý Vương gởi tặng tác phẩm cho Pháp sư Thông ở Bảo Vân, tiếc thay không thấy được toàn bộ này, mỗi khi cần đến càng thấy tiếc. Một hôm hỏi những người xưa mà được nó, vui mừng không kềm chế được. Ngọc kinh theo châu không đáng để dụ, xong từng thầy người xưa không cho thế lực, địa vị là an nhàn, nhưng đạo nhãn chiếu nhau từ mé người trời. Người được như vậy, chắc chắn đồng với Phật phó chúc ở Linh Sơn. Dùng một sự trung liệt giúp đời, dùng một nguyện lực pháp rộng, dù khác nhau thế gian và xuất thế gian, nhưng vẫn lựa chọn để lại con cháu đời sau, đạt đến tận cùng, đạo của nó là vậy. Tông Hiểu may thay sinh muộn màng những được thấm nhuần bóng từ. Việc thạnh hạnh của Tổ tông có thể không truyền, thế nên cung kính tặng hai chương đăng các ngọc khuê, dùng nó bổ sung thêm vào núi này. Giữa thu năm Nhâm Tuất, niên hiệu Gia Thái, Tỳ-kheo Thạch Chi Tông Hiểu kính ghi. <詞>TÁN TỨ TỔ SƯ Ở BẢO VÂN, MINH CHÂU Cối Kê Quận Vương Văn Tuệ Công sử soạn. <詞>THIÊN THAI TRÍ GIẢ Bao Hy dễ họa, điềm tốt Thái cực, một âm một dương đã rơi vào dấu vết hình tướng. Cù-đàm nói pháp, thân tâm lặng lẽ. Ba Chỉ, ba Quán chợt rơi lại tin tức. Chí diệu trong đây, vắng bặt thâm sâu, mượn gì để nói. Vì sao giải thích những lời tầm thường? Hay thay! Ngài Trí Giả, bản chất vấn trác tuyệt. Bát Thái nhìn lại có người không biết. Nam Nhạc vừa thấy, liền biết duyên xưa. Ngộ được Đà-la-ni, chẳng phải từ nơi khác mà được. Vì sao nói Chỉ Quán mượn nhau lẫn lộn. Bởi dùng duyên từ, làm thành nom lưới. Như vin bị chết đuối, đâu hẹn được với người học sau. Tìm trên giấy mực, văn tự rườm rà, đạo càng thêm mai một. Tình nghóa bát thần như xác ve mực bút. Không lìa đương xứ, một hội Linh sơn, bản nguyện của thầy, do đó bị tắc nghẹn. Phải để lại hình dung đặc biệt, tất cả trăm quân tử, vượt qua được khuôn thức này. <詞>PHÁP SƯ THÔNG CÔNG Ở BẢO VÂN Tông chỉ của Chỉ Quán, hưng thạnh vào đời Tùy, thời mạt pháp không đua tranh đã bị vùi lấp, Thông sư chấn hưng lại. Bờ sông Tam vi, buồm xuôi gió muôn dặm, bỏ thuyền theo sư, đạt được đạo rốt ráo, lời trở về có kỳ hạn. Đàn-việt của Tứ Minh. Họ Cố Thừa Huy sửa nhà thành chùa, lễ tạ cầu mong gọi là Bảo Vân. Chùa vàng nguy nga, sư dừng ở lại, học chúng theo đông, ngoài cửa đầy dép, tiếng chạy tận trời, Thiên Thai rơi vào đầu mối, tiếp nối hệ thống hưng suy. Có hai thần túc, chân sư con cháu. Pháp Trí Từ Vân, anh em thay phiên nhau hòa. Mọi người đều nói sư, chiêu tập bậc anh tài, trồng gốc vững chắc, chỉ có thân cây cành cây, hoa xòe năm cánh, dấu lạ nhưng đồng về một nguồn. Chỉ nay Thiền giáo đều đạt được, tiếp thọ mạng Phật, sư cũng dùng điều này. <詞>TÔN GIẢ PHÁP TRÍ TỨ MINH Hội Linh Sơn bậc Long tượng nhóm họp nhiều như mây. Xe dê, nai, trâu đồng về Nhất thừa. Rưới một trận mưa pháp thù thắng, thấm nhuần khắp chúng sinh mãi đến đời sau. Chỉ Quán hưng thạnh, mũi kiếm trí tuệ, đẩy lùi thành nghi ngờ. Ai kế thừa được? Chỉ có Tứ Minh giảng pháp hội Phật. Nguồn thầm lặng tiếng sấm to, Thiên Thai chánh thống, kế thừa ở đâu? Chương thánh ở điều ngự, khiến nhanh như sao. Hỏi ý chỉ Phật, được tinh anh này. Từng nhận ơn vua ban, Pháp Trí tên rộng lớn, đó là rạng danh trong họ Thích từ muôn xưa. <詞>PHÁP SƯ TỪ MINH Ở THIÊN TRÚC Sư khuôn phép anh tài, như hổ trong văn, như ngọc góc miệng. Đầu bút gấm thêu, vua quan kính phục. Quyến thuộc Thanh Quân ban hiệu Từ Vân. Thiên Trúc là nơi chốn, Pháp Trí là huynh, Thông Công là cha, một tông môn sum hợp đông đúc. Rồng bay phượng múa, nhiều công nhiều hạnh, biết mấy nắng mưa. Bốn chúng đón rước ở lại, như con ở với mẹ. Phạm Âm rực rỡ, biến khắp vũ trụ đều gọi là lễ văn, tất cả Ngài biên soạn, năng lực hạnh nguyện của Phổ Hiền, tay Phật xoa đầu an ủi, tận mé vị lai, làm chủ sám hối. Đạo tràng Pháp Vân xưa dùng sự nông cạn vững chắc kế thừa hạn hẹp truyền cho Đại thừa tướng Ngụy Quốc Công may thay đến đó, ban đầu đến ra mắt Tổ sư còn để lại dấu vết. Khám Tổ bị gió mưa, hai tượng Đại só của Trí Giả và Bảo Vân đều bị hư hỏng trong đó. Công chỉ Bảo Vân, cố nói vối Tông Oánh rằng: Hai Tôn giả Pháp Trí Từ Vân đạt được chẳng phải xuất phát từ thân lão này chăng? Đến này người trong nước thầy đạo tràng của Thông sư, bởi đều do hai đệ tử lập ra, có thể mở rộng nhà đắp họa tượng bốn vị Tổ sư làm cho chùa này mới thêm. Tông Oánh than có ý hổ thẹn với Hộ pháp Vương thần, liền đến Đông Vũ chấn hưng Tổ đường. Khi Tổ đường và tượng làm xong, đại chúng thỉnh Ngụy công làm bài tán. Công không kẹt vào tà kiến, không tư duy. Bài tán Tứ Tổ hoàn thành, lớn dùng thể cốt phát minh trí tuệ, cũng đủ dùng sự lợi ích quán thính khai mở bốn phương. Tông hiểu đã ghi yết bản để khắc vào đá cho lâu dài, bổ túc vào vách sách thiếu của Bảo Vân đề truyền tông ta vô tận. Tháng tư niên hiệu Thuần hy năm thứ tư, trụ trì giáo viện Bảo Vân truyền giáo quán Thiên Thai, Tông Oánh kính ghi. <詞>KHEN NGỢI CHÂN DUNG GIÁO CHỦ BẢO VÂN THÔNG CÔNG Trụ ở dã đường núi A-dục vương. Tất cả cung kính đảnh lễ. Mở cửa đại thiên, biết được mặt mũi hư không, chẳng dung chứa chánh chúc, tạm nhìn bên cạnh. Đúng lúc hoa Ưu-đàm nở, hương ngát muôn dặm như chiêm-bặc, dùng dây cắt đứt các dòng. Cuộn sóng lớn trong biển học, dùng mắt pháp thấu suốt, quay hai vầng nhật nguyệt, thấy được tánh pháp giới, vào cửa Loa Khê. Biết được điều này, gặp trâu trắng nhưng khó điều khiển, vàng rồng chảy nhưng dễ mê mờ. Mở cửa bí mật ba Quán, nắm được sự rộng hẹp của phàm thánh. Đỉnh núi Thông huyền vì sao cao ngất, biển cả gió mát rộng thênh thang. Khen ngợi chân dung Pháp sư Thông Công Thỉ Tổ Bảo Vân. Tỳ-kheo Am Trúc ở Hồ nam, Khả quan đảnh lễ. Than ôi! Tất cả mọi người đều là quê hương. Mây lạnh tan tiếng sấm, cây khô mùa xuân đâm chồi, quyết định được nguyện lực, lại trở về quy mạng, thân sau của Thiên Thai. <詞>SỚ KÎ PHÁP SƯ THÔNG KHAI SƠN BẢO VÂN Đạo nhân Thảo Am. Lại nữa, đạo không có xưa và nay, người học kế thừa tông, một giọt phân chia nhiều dòng, ngàn xe cùng vết, công huân chẳng lớn, trung hưng tự biết có cội nguồn, trao nhận phi thường. Chánh giáo mở mang truyền bá từ Thầy trò, trước tiên tiếp nối dòng chánh pháp trí, Từ Vân phát sinh trong khoảng đó. Khâm phục kính ngưỡng đạo đức, hình dung như còn sống, cung kính, Đại Tôn giả Bảo Vân truyền trì giáo quán phái ở núi Thiên Thai, ánh lửa sáng đảnh Linh Thứu, chia thành ngọn đèn sáng bất tận, mưa pháp rơi chẳng thiếu phương nào, bủa thân hình khắp các nơi, giáo hóa tông tích như thần châu, chân từ ẩn thân chốn diệu đức, như huyễn ứng hình Tỳ-kheo. Lan tỏa hương thơm như nước vọt. Một nhà đạt được giáo sáng tỏa lại khắp cả Đô Giang. Hai Ngài mở mang sáng rỡ lông trắng tướng lạ. Đàn-na truyền bá ở già-lam. Ô Thạch phương khác tháp tranh nhau phân chia xá-lợi, chúng ta thì được gặp sự giáo hóa cao quý, được thấy tháp giống như hình dung, nhưng cùng nhau siêng năng, đồ chúng ta tăng thêm lo buồn. Nay thì Mạnh Đông giới hầu, ngày húy kî đến đây, lòng thành tạm đủ đối với quả cây không ít, trình bày chút ít với người xa. Phục nguyện xong, ta dâng cúng Tổ ta có sai không? Chỉ dạy dung nghi ta có đến không. Nương vào duyên mầu nhiệm này, cảm được khí trung hòa, thì khiến cho dần được an khang muôn vật thuần hòa mùa màng sung túc. Thượng vị đề hồ khắp nơi đều rót vào tâm. Trâu trắng xe lớn thì người tô thêm cốt lõi. Một nhà khiến vết xe bốn biển đồng tôn, tình và vô tình đều trở về bí tạng, nhưng tôi không đạt đến mặc tình làm lễ quy y, kính cẩn soạn sớ. <詞>SỚ TRAI KÎ TÔN GIẢ BẢO VÂN TỔ SƯ HỒ NAM Lại nữa, nguồn pháp từ lâu xa, chảy vào cõi nước nhiều như số giọt nước biển mặt trời trí tuệ mới lên, ánh sáng mây báu tô điểm thêm. Quần cơ phát sáng, ánh đạo này nghiêm trang đến giờ Thìn thị hiện nhập diệt, cung kính như còn sống, cúi mong, đại Pháp sư Tôn giả Bảo Vân trung hưng giáo quán, ứng thân ở Nhật Bản. Sơn gia theo lệnh đời nhìn tất cả mọi người đều đồng quê hương rộng lớn không ở bên ngoài. Xuất hiện hai cao đệ đều ở vị Thập địa, du hóa hơn một nhẫn, sớ phái chánh ở Loa Khê. Chân tông tản mác ở Tượng Phiến. Chúng ta kính mến cao xa, hướng về chốn mờ mịt. Ngọc phàm ngang dọc, đáng tiếc không cùng đương thời nghe chúng ni lễ bái, hổ thẹn ngày nay lạm dụng nhận con cháu. Sau này dựa vào bằng chứng tin sâu, quan sát phát triển lòng từ, cúi xin ánh vô sinh trí sáng mãi như xưa, thường trụ Diệu Hoa càng sáng đẹp đời sau, tất cả rỗng sáng đến mạt học, đồng đến viên thừa, kính cẩn đề sớ (xưa là Vân Phong không phải là cõi Thiền), giáo quán Thiên Thai rộng lớn, Thiền sư Đại Pháp Nhãn ở Thanh Lương cũng học giáo ở đó. Bấy giờ Bảo Vân Thông Công từng giảng ở nơi ấy, Tứ Minh, Từ Vân đều là Thánh chúng, thuyết này thấy trong bia đá ở Vân Phong, còn Ngọc Phàm Phong nay là núi A-dục vương). <詞>PHÁP SƯ TỨ MINH HỌC VỚI TÔN GIẢ BẢO VÂN Pháp Trí tổ ta mở mang Đại giáo hưng thạnh. Năm hai mươi tuổi tham học với Pháp sư Bảo Vân, khi vào pháp hội mới ba ngày, Toa Nguyên nói với Sư: “Pháp giới sẵn có thứ lớp, ông phải nghiên cứu điều này”. Thế nào là pháp giới? Tướng chung của pháp môn là viên dung không ngăn ngại. Đã viên dung không ngăn ngại, vì sao nói có thứ lớp? Tọa Nguyên không đáp được. Sư ở được một tháng thì giảng Tâm Kinh, mọi người nghe đều kinh ngạc. Đến hai năm sau, người cha chợt nằm mộng, thấy Sư quỳ trước Thông Công, Thông cầm bình nước rót vào miệng Sư, từ đây gia phong giáo quán đều thấu suốt, thay Thông giảng kinh. Chỉ trong mấy năm, Thông Công tịch. Sư lại nằm mộng, thấy mình choàng tay qua đầu Thông nắm tay trái đi khắp vũ trụ và tự nói: “Hai giấc mộng là sơ biểu thọ học truyền bá, giấc mộng thứ hai là nắm vững được chủng trí”. Sau này sư dời về Càn Phù ở, bốn năm sau có người thỉnh về Hồ Nam. <詞>SÁM CHỦ TỪ VÂN HỌC VỚI TRỤ TRÌ BẢO VÂN Pháp sư Từ Vân người Minh Hải ở Đài Châu, vào núi Đông Tịch tu, đến khi làm tăng, thì vào Quốc Thanh đứng trước tượng Phổ Hiền đốt ngón tay, nguyện học giáo quán Thiên Thai và từ từ vác va ly đến ở Bảo Vân, giữa đường chợt nằm mộng thấy có vị tăng tự nói: “Ta là Hòa thượng Văn-thù” và bảo Sư đến đảnh lễ Thông Công. Sư chợt tỉnh giấc và biết vị tăng trong mộng chính là Thông Công. Từ đó Sư kính phục và chịu học đạo, mãi đến khi Thông Công mất mới trở về Thiên Thai. Khi đổi niên hiệu là Thuần Hóa, lúc này Sư hai mươi tám tuổi, chúng thỉnh Sư đến ở Bảo Vân mười hai năm, sư giảng bốn bộ kinh lớn. Niên hiệu Hàm Bình thứ năm, sư về lại Đông sơn, cuối cùng Sư về Thiên trúc mở mang giáo pháp rộng lớn và ở ẩn trọn đời. Khi Sư ở Bảo Vân còn để lại bốn điều linh hiển: Khi sư đang giảng kinh ở Bảo Vân, một hôm chợt có người họ Thí mang thai lừa đến phủ phục dưới tòa, nghe pháp xong ra đi, mãi đến bốn mươi ngày sau sinh xong mới đến nghe. Quả thật là lừa nhưng có ý người, nên mới có khả năng nghe pháp, đây không phải điều lạ hay sao? Sư ở Bảo Vân có xây dựng hội Tịnh độ, soạn Thệ Sinh Tây Phương Ký, làm thơ Tam-muội niệm Phật, soạn văn thơ rằng: Niệm Phật Tam- muội bước lên diệu đạo của các Thánh đều trình bày sự nghiêm khắc của dòng pháp, đâu không do đây? Khi xưa ngài Tuệ Viễn giáo hóa tìm các bậc Hiền đều làm thơ Tam-muội niệm Phật, ngài Tuệ Viễn soạn lời tựa. Năm Bính Thân, niên hiệu Hoàng Tống, hội Tuân Thức trăm người khách cao thượng của Tứ Minh. Giữa hai mùa xuân và thu một ngày một đêm tụ hội ở giảng đường Bảo Vân, thường nghó đến giác hạnh vô lượng. Hán Ngụy kinh Nhâm Dần, đã bỏ Đông Sơn chọn Thiên Thai, đáng tiếc không nói lại, đến đời Tấn bậc hiền làm thơ, ghi đề trên đá để truyền lại cho đời sau. Sư ở Bảo Vân từ khi may mắn được bài tán sâu xa về Quán Âm và kêu thợ tạo tượng Đại bi bằng chiên-đàn. Tượng làm xong bị gãy một tay cầm nhành dương, sư hoảng sợ tự mình gắn vào, không để keo vào mà vẫn liên như cũ, liền soạn một trăm mười bốn bài văn phát nguyện, ghi sơ lược: Tháng tư năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hàm Bình năm thứ hai, Sa-môn Tuân Thức ở Tứ Minh khắc tượng, sợ người sau không biết nên tự tay đề bài ký: “Khắc tướng mạo như mặt trăng thanh tịnh lặng lẽ, tu thanh tịnh phải nhờ hình tướng tài vật. Tượng dựng xong trong nhà Đại pháp, mời hơn một trăm vị tăng, thực hành kinh Pháp Hoa mà chứng được điều này”. Niên hiệu Hàm Bình năm thứ ba ở Tứ Minh bị hạn hán, người trong quận dùng phương pháp cầu mưa. Sư nguyện xin Tam-muội Quán Âm thầm hẹn, nếu ba ngày nữa không mưa, thì Sư tự thiêu, đúng như lời hẹn, quả nhiên trời mưa to. Quận Thú Tô cho điều lạ và rất kính phục Ngài, liền đề trên đá làm bài ký. <詞>PHÁ SƯ MINH TRÍ TRỤ TRÌ CHÙA BẢO VÂN Triều Thuyết làm bài ký về hành nghiệp của sư: Minh Trí người ở huyện Ngân, vào niên hiệu Nguyên Hựu trụ ở Diên Khánh. Một hôm Sư từ giã ra đi, dù cố giữ cũng không lưu lại được. Vả lại, sư còn nói: “Đợi tôi sáu mươi năm sau sẽ trở lại”. Từ đây Sư ẩn học trong núi, chúng bèn kéo đến đông, trong hội thiếu tăng làm chức sự, lại không thể bỏ được, Thái Thủ đích thân thỉnh Sư ra ở Bảo Vân, đúng là đạo tràng Thông Công Tổ sư. Bấy giờ Bảo Vân bị sụp đổ không còn một cây cột. Sư muốn làm cái mới và đều nói: “Ngày trước sư nói làm hưng thạnh chỗ ở của Tổ ba đời, nay lại hưng thạnh thất tổ đời thứ tư này, ai nói Tượng pháp, Mạt pháp ư? Trước đó Sư nhặt được trong bụng thần Già-lam một bài văn phát nguyện: Một trăm năm sau có Bồ-tát nhục thân trùng hưng ở đất này”. Sư lại lui về cất am ở núi Bạch Vân bốn năm, ngày nào cũng giảng. Thái Thú lại bảo Sư đến ở Diên Khánh, sư từ chối không được, lúc này Sư đã sáu mươi tuổi, quả nhiên đúng với lời hứa trước. Sử Thái sư thỉnh Giảng sư Oánh soạn sớ khi ở Bảo Vân. Lại nữa, khi xưa Bảo Vân có một đệ tử lớn. Như ngựa con xuất hiện ở bờ vực trũng. Huân tập chánh tri kiến ở Thiên Thai, như mộc lan xanh non hơn các loài cỏ tiêu, ngải cứu, đảm đương lặng lẽ đến tận mé đời sau. Biết A-sư khó truyền trao, cung duy, gần đây có lệnh giảng sư Oánh Công đã dùng tâm truyền, không bị trần lụy, mưa hoa trùm khắp, đích thân ra nấu ở lò vàng. Tóc hạc my sương, người học đạo nhờ vào năm cuối. Sớm hương tối lửa Cư só chỉ thành tâm hoa phong, chúng đã quy y, cư só không lui sụt, kính cẩn dâng sớ. <詞>BÀY KÝ KHỐ SINH LỢI TỨC VIỆN BẢO VÂN Tổ sư Từ Khê Lâm đến yết kiến Loa Khê đạt được rốt ráo đạo Thiên Thai, lại muốn sang Hành Hải, Thái Thú Tiền Công cố giữ lại, Sứ giả Cố Công cũng cúng nhà cho Sư làm chỗ truyền đạo, trao cho hạnh nghiệp, cho nên hai bậc Đại só Pháp Trí, Từ Vân cũng từ đó ra. Nay những người trong nước ở Bảo Vân gọi là đạo tràng Thông sư. Khoảng giữa hưng phế kế thừa nhau không được rõ ràng. Trụ trì Oánh Công ngồi ở pháp tịch chưa được bao lâu, Thủ liễm khăn bát ước tính với mọi người được một trăm vạn đồng tiền, trong ngoài tăng tục lại được một trăm vạn đồng tiền. Thái sư Ngụy Quốc Sử Công quyên góp Quốc phu nhân trâm và bông tai, gom lại thành khố sinh thêm lợi ích để đủ một năm đất, cây, chuông trống để lại không cùng. Năm năm sau xây lại giảng đường, lấy một nửa tiền lời để trả công, thật là ý chí của người. Oánh Công tín thuần hậu ngay thẳng nhưng điều khiển chúng khoang dung độ lượng. Buổi đầu mới về Bảo Vân, có những người hay nói khoác lại đua nhau bàn luận nặng nhẹ, cho đến có những vị Tăng lại dựa vào uy quyền để làm nhạt đi ý chí, người có quyền hành thì làm giặc, mọi người chung quanh đều sợ hãi, nhưng Oánh Công vẫn tự nhiên. Thái sư Ngụy Công biết được sự thật này, đến đó thì mọi người đều vui vẻ khâm phục. Tôi có nghe khi xưa Đức Phật xả thân để cầu đạo, không còn một chút ngã chấp mới chấp được địa vị rỗng không của thân Phật. Ban đầu đến kiếp không, chứa nhóm nhiều tình trần, cho nên nói cây cỏ núi non thành đạo lợi sinh đã đưa đến thành tựu, ở đây há có người trí có nghệ thuật cao đã đạt đến ư? Nay còn lại lò lửa cháy ở Bảo Vân vừa năm Giáp Tý thì thấy khí tượng trở lại như xưa. Tâm Oánh Công này và nguyện của người xưa đều đi trên một vết xe và không bao giờ quên. Đời sau vâng theo những điều cẩu thả, Oánh Công hổ thẹn không làm. Cứng như đá, mềm như đất, thì đây đều xây dựng được như vậy. Tôi không được thì không viết. Oánh Công kế thừa sư Nguyên Tuệ Đông Đường, Oánh Công gọi là Tông Oánh. Buổi sáng tháng bảy niên hiệu Thiệu Hy năm thứ ba, Tỳ-kheo Bảo Đàm ở Cam Châu ghi. <詞>GHI LẠI LỜI XÂY DỰNG PHÁP ĐƯỜNG DIÊN KHÁNH Kính vì, cung phạm làm xong, không vượt qua được Bảo Vân ở quê nhà, đến nay người trong nước biết có Khê Lâm, thật văn này phía Bắc Ký Châu vang dội ở Đấu Nam. Từ kiếp hỏa về sau, thì Thọ vương thành tựu trước, trải qua Quốc triều về sau thì người và vật rất hưng thạnh. Giống như đàn phải có người khảy điêu luyện thì mới phát ra âm thanh hay. Ở trốn chốn thảo mộc tòng lâm tuy gọi vô tình nhưng cũng ảnh hưởng. Một nhà nguy nga, xem quy mô rộng lớn nhiều đời. Cầu vồng cao tít, muốn lên ở Vân Hán. Ca-lăng trong suốt, biến khắp vũ trụ cung duy, Đại sư ở Bảo Vân thượng đường riêng một mình ngoài trấn lưu lại dấu vết để kinh nghiệm lâu năm. Tiếp theo bước long tượng, sớm tối kế thừa chuông phạm, thay nhau mới mẻ than ôi ai biết hai Chu Minh còn làm hầu, trống vuông vang ở chốn thoảng hương thơm, tăng tục kéo đến, cùng qua lại ở đàn hoa quý. Người nào đó vượt qua cảnh cao xa rộng lớn khí ấm chan hòa, đồng dạo cảnh vắng Liên xã, đây cũng là bạn thù thắng Linh Sơn, chúng ta được thấy cảnh giới tốt đẹp. Chịu sánh với hạng người thông minh, không chịu so tài với kẻ tiểu trí, liền trình khẩu hiệu. Lại thấy gió Nam hòa vào điệu đàn thời vua Thuấn, bao nhiêu Long tượng đang gánh vác sai. Một nhà vượt lên trên mây xanh, muôn người đều xưng niệm Phật xưa. Ngồi an vui trên tòa Sư tử như đại định, tay huơ phất tử tận trùng huyền. Núi Vân non Ngân người sống mãi, đều là Lư Ta không tính năm. <詞>ĐỀ TÊN NHÀ PHÁP VŨ Vào năm Tân Hợi, niên hiệu Thiệu Khang, Giảng sư Oánh xây dựng đại pháp đường trong núi, xây dựng rộng các phương. Lúc ấy, Thiền sư Trúc Viện Đàm Công đến thăm viện này, do đó xin Sư đặt tên. Sư nói: - Viện này để bảng là Pháp Vân, mây thì có khả năng mưa, mưa thì thấm nhuần muôn vật. Viện này là nơi Thai Tông trùng hưng phát khởi cội nguồn. Phật Tổ mưa pháp, mưa thấm nhuần chúng sinh chẳng phải một ngày, nên phải đặt giảng đường này tên là Pháp Vũ là rất thích hợp. Do đó, Tông Hiểu rất quý tên này, nhưng sơn môn chưa rảnh để dựng bảng, sợ để lâu bị mai một, và đặc biệt đưa ra điều này, kinh không nói chăng? Diệu ý này, như mây giăng khắp nơi mưa pháp cam lồ. Lại nói: mưa pháp Vô thượng, mưa thấm toàn thân ông. Lại nói: Hãy mưa pháp cam lồ vô thượng, tên Pháp Vũ (mưa pháp) xuất hiện rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Nay Đâu-suất Thông Công tổ ta được sự hiểu biết cao xa, từ Tam vi đến được đạo pháp sáng ngời thanh tịnh, và tới khi truyền khắp đất này. Hai Tôn giả Tứ Minh, Thiên Trúc là bậc anh tài nuôi chí ấp ủ từ lâu, có khả năng gánh vác truyền tông này, đến nay truyền được hai trăm năm, đạo này vẫn còn. Đây chẳng phải mưa pháp thấm nhuần khắp chúng sinh sao? Khi xưa truyền vô vi từng khen ngợi tông môn trình bày với các bậc tôn túc: khắp nơi trong chốn Tòng lâm đều thấm nhuần, nhưng không lường được Lão Long nổi sấm, gió, nay ở Bảo Vân Thông Công cũng nói như vậy. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 170