<經 id="n1934">QUỐC THANH BÁCH LỤC (QUYỂN 1 4 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LỜI TỰA QUỐC THANH BÁCH LỤC Sa-môn Quán Đảnh Đời Tùy soạn Tiên sư từ năm Ất Mùi niên hiệu Thái Kiến năm thứ bảy đời Trần, ban đầu ẩn cư ở Thiên Thai, núi nơi dừng trụ xưa gọi là Phật Lũng. Hỏi thăm tìm hiểu người địa phương nói: Người đi lại vùng núi đó phần nhiều thấy hình dáng Phật, cho nên truyền nhau, từ đó mà thành tên gọi. Đến năm Mậu Tuất, niên hiệu Thái Kiến năm thứ mười, Trần Tuyên Đế ban sắc chỉ gọi là chùa Tu Thiền, Lại bộ thượng thư Mao Hỷ viết bảng triện chuyển giao đặt ở cổng chùa. Đến năm Mậu Ngọ niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười tám đời Tùy, Thái Úy Tấn Vương ở phía dưới núi, vì Tiên sư sáng lập chùa, y cứ vào núi để đặt tên là Thiên Thai. Vua lên ngôi Hoàng đế, vào năm Ất Sửu niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ nhất, sắc chỉ cho các danh tăng vùng Giang Châu, Dương Châu rằng: “Trước đây vì Trí Giả sáng lập chùa, tạm thời y cứ theo núi để gọi tên, nay phải đặt tên gọi. Trong kinh luận có phần mục nào tốt đẹp, hãy thuật rõ tất cả lòng dạ của trẫm, trẫm sẽ tự mình chọn lựa kỹ càng”. Chư tăng tâu trình hai tên gọi, một là Thiền Môn, hai là Ngũ Tịnh Cư. Biểu đó chưa tấu trình, mà Tăng sứ Trí Tảo khải trình điềm báo về Quốc Thanh. Sắc chỉ rằng: “Đây là điềm báo linh nghiệm của Tiên sư ta, lập tức sử dụng!”. Sắc chỉ chọn lấy tấm biển điện Đại Nha ở cung Giang Đô, điền vào dùng thư hoàng, viết bằng đại triện, phái Kiêm nội sử thông sự xá nhân Lư Chính Lực chuyển giao lấp vào cổng chùa. Tên gọi Quốc Thanh bắt đầu từ đó. Tiên sư khi sinh ra có ánh sáng thần, ngồi kiết già mà diệt độ, chứng ngộ diệu pháp, vượt ra làm thầy Đế vương. Đầy đủ thì chữ cung pháp luận tra cứu Trí Quả, Quốc Thanh, Quán Đảnh đều là ba tryện ký vốn có đăng tải. Còn Sa-môn Trí Tịch, biên tập về Tiên Sư sai đón rước tín mạng, tìm tòi hỏi thăm chưa hoàn bị nhưng vì Trí Tịch là người trách nhiệm, công phu bút mực và trạng thái tinh thần đều bỏ đi, tôi xem bản thảo đó, tiếp tục thay đổi soạn thành thứ lớp phương pháp các kinh hợp lại được một trăm điều, gọi là Quốc Thanh Bách Lục, để chỉ lại cho con cháu sau này, biết đây là do công đức to lớn. ------------------------------------ LỜI TỰA QUỐC THANH BÁCH LỤC Sa-môn Hữu Nghiêm ở Đan Khâu soạn Rằng việc không có to lớn hay nhỏ bé, chỉ có bổ sung đối với thấy nghe, khiến cho người nhạy cảm thức tỉnh mà hướng tới thiện đạo, thì không thể, bởi vì không ghi chép mà để lại cho các đời sau. Xưa kia, Thiền sư Trí Giả tổ của tôi, vốn là một người của Thánh chúng Linh Sơn, xuất hiện ở thế gian vào đời Trần- Tùy, thay Phật truyền đi bí mật làm tai mắt của trời người, chỉ thẳng tâm người cho hơn sáu mươi châu, có đủ tri kiến Phật thêm vào tu hạnh viên mãn, thì diệu quả không xa. Lại còn ngoài giáo pháp vốn bàn luận do việc khác chứa nhóm lại, Tôn giả Chương An toát yếu lại những gì đáng ghi chép gồm một trăm điều, Quốc Thanh làm mục lục. Trong niên hiệu Thiên Thánh, dựa theo thánh triều sắp xếp vào Đại tạng, đã niêm phong vào hộp kẹp sách bằng vải, cho nên người đời ít khi được thấy. Thiền sư từ khi nhập diệt vào năm Đinh Tî, niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy, đến niên hiệu Thiệu Thánh năm thứ tư là đủ năm trăm năm. Mùa Xuân sang năm, Tứ Minh sắp đặt tôn chỉ đã thất lạc, bắt đầu tìm cách khắc bản ấn hành kết quả, ngay ngắn đàng hoàng nên pháp- tục nhờ đó được lấy đọc. Vì thế mà biết Thiền sư là người đức hạnh tài giỏi trong Thích bộ, tuy không được nhìn thấy diện mạo, nhưng đọc văn đó cũng thấy được tâm của Thiền Sư. Nhìn thấy tâm tốt hơn nhìn thấy diện mạo. Vâng mạng soạn lời tựa đặt ở đầu. ------------------------------------ QUỐC THANH BÁCH LỤC <卷>QUYỂN 1 Sa-môn Quán Đảnh đời Tùy soạn LẬP CHẾ PHÁP (và lời tựa). Áo mới không rách không thể dùng chỉ vá, vốn xưa gieo trồng thuần thiện thì không thể thêm vào để phạt. Tôi lúc đầu còn trôi nổi sống ở Kim Lăng. Trước khi đến Thiên Thai, các pháp đồ đến đều nhóm họp, dạo nghiệp tôn sùng không cần phải nói lời mềm mỏng khuyến khích tiến lên, huống chi sau khi lập pháp nghiêm túc. Đến Thiên Thai xem xét người vãn học, như vượn như ngựa mới, nếu chẳng khống chế kềm tỏa, ngày tháng càng tăng thêm, bởi vì thành tựu, mất hai trị một, roi cỏ bồ chỉ ra hổ thẹn chẳng làm cho tôi đau khổ. Nay khuyên răn những người học, nên nêu ra sơ lược mười điều, về sau nếu phương hại xảy ra tùy đó cần phải thêm bớt, chúng cùng nhau chọn lọc sắp xếp. Điều thứ nhất- căn tánh khác nhau, hoặc độc hành mà đắc đạo, hoặc dựa vào chúng mà giải thoát. Nếu người nương vào chúng nên tu tập ba hạnh: 1- Dựa vào nhà chính để ngồi thiền, 2- Tách biệt nơi khác sám hối, 3- Biết công việc của tăng. Người thực hành ba hạnh này, ba ý sáu đồ vật dụng cụ tu đạo đầy đủ, hễ có bất cứ một hạnh nào thì sẽ dung nạp. Nếu y vật có gì thiếu hụt, hoàn toàn không có một hạnh thì không cùng nhau dừng lại. Điều thứ hai- Tăng nương vào nhà chính, căn bản theo bốn thời ngồi thiền, sáu thời lễ Phật, đây là việc thường xuyên. Ngồi thiền và lễ Phật mười thời không thể thiếu một. Tăng thực hành riêng điều đó khi hành pháp hoàn tất, ngoài ba ngày lập tức phải theo mười thời của chúng. Nếu lễ Phật không đạt tới một thời thì phạt ba lạy đối trước chúng sám hối. Nếu hoàn toàn mất một thời thì phạt mười lạy đối trước chúng sám hối. Nếu hoàn toàn mất đi sáu thời thì phạt một lần duy-na. Bốn thời ngồi thiền cũng vậy, trừ khi tật bệnh trở ngại, trước đó trình bày với tri sự tăng thì không phạt. Điều thứ ba- Sáu thời lễ Phật, Đại Tăng phải khoác vào y phục của chúng, y không có điều, hoặc mạn y đều không được. Sau ba tiếng chuông sớm nhóm hợp bày đồ ngồi, cầm lư hương, cùng nhau quỳ, chưa xướng tụng thì không được tụng, không được tùy ý tản ra chuyện trò, rập đầu búng ngón tay, giẫm chân lôi kéo giày dép, cao thấp không đều, tất cả phạt mười lạy đối trước chúng sám hối. Điều thứ tư- Ý thực hành riêng, vì ở tại chúng làm chậm lại, cho nên tinh tiến siêng năng tu tập bốn thứ tam-muội, mà mượn cớ đạo tràng không xứng hợp với ý thực hành riêng, xem xét đính chính được sự thật thì phạt một duy-na. Điều thứ năm- Tăng biết công việc của mình, vốn là làm cho yên ổn tồn tại lợi ích, làm ngược lại hao tổn thì bỏ điều lành, chúng có lợi ích cho bản thân tự mình tùy ý ân tình, nếu trái lý xâm nhập một mảy may, tuy là chúng sử dụng mà không trình bày thông suốt, xem xét đính chính được thực tế thì không cho dừng lại. Điều thứ sáu- Vào hai buổi ăn, nếu không bị bệnh, bệnh thì không nen nằm ngay, bệnh mình khỏi hẳn đều phải ra nhà chính, không được đề nghị ăn phù hợp đối với chúng, đồ dùng để ăn tùy ý sử dụng sắt, gốm, hai đồ dùng lò nung du như chén- bát, thìa- đũa đều không được dùng, xương- sừng, trúc- gỗ, võ bầu, sơn đen, da thú, ngọc trai, đều không được đi lên nhà chính. Lại nữa, không được đường đột va chạm bát của mình, những âm thanh hút- uống chứa đựng thức ăn chuyện trò, tự mình vì cầu tìm riêng tư mang dưa muối xì dầu, một mình ăn giữa chúng. Phạm những điều ấy thì phạt ba lạy đối trước chúng sám hối. Điều thứ bảy- Về Đại Đẳng tiểu giới, đi xa, đi gần trong chùa- ngoài chùa, đều không được trộm ăn cá- thịt, ngũ tân, bia rượu; Không phải lúc mà ăn, điều tra được thực tế thì không được cùng nhau cư trú, ngoại trừ bệnh tật nguy nan đốc thúc xem bệnh, sử dụng theo lời thầy thuốc, ra bên ngoài chùa tìm đến chữa trị thì không phạt. Điều thứ tám- Tăng gọi là hòa hợp. Mềm mỏng nhẫn nại cho nên hòa, nghóa tình nhường nhịn do đó hợp, không được tranh cãi tính toán lớn tiếng lời nói xấu xa, sắc mặt giận giữ. Hai bên cạnh tranh nhau đều phạt ba mươi lạy, đối trước chúng sám hối, không thuận theo người đối diện thì không phạt, có bản lónh thì tiến hành lẫn nhau, bất luận nặng nhẹ đều không cùng nhau cư trú. Người không bắt tay vào thì không phạt. Điều thứ chín- Nếu người trái phạm nghiêm trọng thì dựa theo luật mà trừng trị; nếu hung bạo vu khống lẫn nhau, người bị vu khống thì không phạt, người thực hiện vu khống không cho cư trú. Nếu lúc học hành chưa gia nhập chúng, vượt qua chúng, mà người chịu trách nhiệm không chịu, thì sẽ chúng học không thâu nhiếp. Người kia tự nói là Tỳ- kheo cho nên gia nhập chúng, xảy ra vi phạm nghiêm trọng và vu khống người khác, thì trừng trị xử phạt như trước. Điều thứ mười- y theo kinh lập ra phương pháp khác bệnh cho thuôc. Chẳng phải ở phương pháp nói ra thuốc đó có ích lợi gì chăng? Nếu chín điều chế định trên đây người nào nghe theo để sám hối, nhiều lần sám hối mà không có tâm hổ thẹn thì không thể tự mình đổi mới. Đây là người nói ra thuốc nên khiến cho ra khỏi chúng. Nếu có thể cải cách sau đó cũng xem xét cho trở về. Nếu trái phạm các điều chế định bảo vệ không chịu sám hối, đây là người không đúng phương pháp, không thuận theo cương phép của chúng thì không cho cư trú. PHÉP KÍNH LỄ (và lời tựa). Pháp này đích thực dựa theo Tỳ-Bà-Sa của Long Thọ, thấm nhuần ý các kinh. Trong một ngày một đêm lược thích hợp thời, sáng- trưa lược bớt kinh lễ, do đó mà thành ba, giờ Thân (từ ba đến năm giờ chiều) sử dụng kính lễ lược bớt mà thành, đầu hôm sử dụng hoàn toàn, giờ Ngọ (từ mười một giờ đến mười ba giờ) mười vị Phật thay cho nửa đêm, gần sáng lễ tất cả. Nhất Tâm kính lễ thường trụ Tam Bảo, trang nghiêm cầm giữ hương hoa đúng như Pháp cúng dường, nguyện mây hương hoa này, tỏa khắp mười phương, mỗi cõi nước chư Phật, trang nghiêm vô lượng hương hoa, đầy đủ các đạo Bồ-tát, thành tựu hương Như Lai. Cúng dường xong rồi, đúng như pháp hành đạo, hành đạo hoàn tất, kính lễ thường trụ Tam Bảo khen ngợi Phật chú nguyện, chú nguyện rằng: Sắc mầu như vàng Diêm-Phù, khuôn mặt hơn trăng tròn sáng, thân sáng ngời trí tuệ, chiếu soi vô biên ranh giới, dẹp tan ma chúng oán thù, khéo cảm hóa các trời người, cưỡi thuyền tám Chánh đạo, thường độ người khó độ, nghe tên gọi được không lui sụt, cho nên cúi đầu lễ lạy, khen ngợi công của Phật, có trời rồng ba cõi, hoàng quốc bảy miếu, Sư Tăng cha mẹ, đàn xây dựng chùa, tất cả oán thân…, lónh hội chân như cùng thành của Phật, tòa cao đang dùng trí lực tự tai nói ra. Kính lễ thường tịch quang độ Tỳ-lô-giá-na khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Liên Hoa tạng hải, Lô-Xá-Na khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Ta-bà thế giới Thích-ca Mâu-ni khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Đông phương Vô Ưu thế giới, Thiện Đức Như Lai khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Nam phương Hoan hỷ thế giới, Thiên Đàn Đức Phật khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Tây phương Danh Thiện thế giới, Vô Lượng Minh khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Bắc phương Vô Động thế giới, Tướng Đức khắp Như Lai pháp giới chư Phật. Kính lễ Đông Nam phương Nguyệt Minh thế giới, Vô ưu Đức Phật khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Tây Nam phương Chúng Tướng thế giới, Bảo Thí Như Lai khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Tây Bắc phương Chúng Âm thế giới, Hoa Đức Như Lai khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Đông Bắc phương An Ẩn thế giới, Tam Thừa Hạnh Phật khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Hạ phương Quảng đại thế giới, Minh Đức Như Lai khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Thượng phương Chúng Nguyệt thế giới Quảng Chúng Đức Phật khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Vô Ưu Đạo Thọ hạ Tỳ-bà-thi Phật khắp pháp giới chư Phật. Phật. Phật. Kính lễ Phân-đà-lợi thọ hạ, Thi-khí Như Lai khắp pháp giới chư Kính lễ Thi-lợi-sa đạo thọ hạ, Tỳ-thủ-thi Phật khắp pháp giới chư Kính lễ Thi-lợi-sa thọ hạ, Ca-cầu-thôn-Đà Phật, khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Câu-lâu-đà thọ hạ, Ca-diếp Như Lai khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Ưu-đàn-bát thọ hạ Ca-năng lực-hàm Mâu-Niết-bàn Phật khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Na-ca-đạo thọ hạ, Di-lặc Như Lai khắp pháp giới chư Phật. Kính lễ Xá lợi, hình tượng chi-đề bảo tháp. Kính lễ Mười hai bộ kinh thanh tịnh diệu pháp. Kính lễ Ba thừa đắc đạo, tất cả Hiền Thánh Tăng. Vì Phạm Thích, Tứ Thiên Vương, tám bộ cung thuộc trì quốc hộ pháp các thịên thần… Nguyện uy quyền tự tại hiển dương Phật sự, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì các Long Vương… nguyện gió mưa thuận thời hàm sinh được lợi ích, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì Thiên Thai Sơn Vương, vua và quyến thuộc, đỉnh ngọn chân núi rừng hoang, tất cả u kỳ; nguyện thầm phù hộ cho già-lam làm nên lợi ích rộng lớn, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì Vũ Nguyên Hoàng đế, Nguyên Minh Hoàng thái hậu, Thánh linh bảy miếu, nguyện thần thông đi lại cõi nước thanh tịnh địa vị hội nhập Pháp vân, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì Thánh ngự chí tôn; nguyện Bảo lịch dài lâu, phước trời mãi mãi, yêu thương đến muôn nước cứu giúp bốn loại chúng sinh, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì thể tôn quý của Hoàng hậu; nguyện trăm phước trang nghiêm ngàn Thánh ủng hộ cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì Hoàng Thái tử điện hạ; nguyện bảo vệ đất nước, yên lòng nhân dân, phước vua dài lâu muôn đời, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì các quan đại triều, trăm ty năm bậc; nguyện giúp đỡ phụ tá Hoàng gia tất cả sự việc thành tựu khí tiết, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì trải qua cuộc đời cha mẹ, bao kiếp Sư Tăng, bốn thế hệ đàn việt, hai ân tài pháp; nguyện sớm vượt qua biển khổ, ra khỏi hẳn sông ái, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì cơ nghiệp thí chủ, số mạng vượt qua đàn việt hướng về Chư Tăng cảm hóa …, nguyện sáu Độ chóng trọn vẹn, bảy thánh tài được đầy đủ, cung kính lễ lạy thường trú chư Phật. Vì Châu mục sứ quân sáu cơ quan tham gia phò tà, tướng trấn giữ huyện này và trai gái năm xã; nguyện gió lành mưa thuận, tất cả cảnh giới dồi dào yên ổn, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì từ khi lập chùa đến nay khai mở quản lý, cày cuốc đốn chặt, ruộng vườn bếp núc, đi đường vận động, tất cả bị xâm hại tổn thương; nguyện tính mạng đi qua quay về chân thật trong tương lai không còn đối phó, cung kính lễ lạy thường trụ chư Phật. Vì pháp giới oán thân- thức tánh bình đẳng, dứt trừ ba chướng, thức tâm ăn năn lỗi lầm, dốc kòng sám hối: Vô lượng cõi mười phương Phật vốn biết không gì không cùng tận, nay con ở trước Phật phát lộ các tội ác đen tối, ba lần ba hợp thành chín loại, từ ba phiền não phát sinh ra, thân bây giờ giống như thân trước đây, là tội lỗi thảy đều sám hối, ở trong ba đường ác nếu phải nhận chịu nghiệp báo. Nguyện đối với thân này đền bù, không rơi vào đường ác, sám hối rồi lễ lạy chư Phật. Dốc lòng khuyến thỉnh tất cả chư Phật mười phương hiện tại được đắc đạo, nay nguyện cầu xoay bánh xe pháp an lạc cho mọi húng sinh. Tất cả chư Phật ở mười phương, nếu muốn xả bỏ thọ mạng, nay con đầu mặt cúi lạy, khuyến thỉnh an trụ mãi mãi. Khuyến thỉnh xong rồi lễ lạy chư Phật. Dốc lòng hồi hướng tất cả các phước đức con vốn có đều hòa hợp giúp đỡ cho các chúng sinh, đích thực hồi hướng Phật đạo, tội lỗi phải sám hối như vậy, khuyến thỉnh tùy hỷ phước hồi hướng quay về bồ-đề. Hồi hướng xong rồi lễ lạy chư Phật. Dốc lòng phát nguyện, nguyện cho các loại chúng sinh, đều phát tâm bồ-đề, gắn bó tâm tư thường nghó nhớ tất cả chư Phật mười phương. Lại nguyện cho các chúng sinh mãi mãi phá tan các phiền não, thấy rõ được Phật tánh, giống như các diệu đức. Phát nguyện xong rồi quy mạng lễ lạy chư Phật. Tất cả đều cùng tụng, tụng xong nên xướng, xướng rồi sám hối, sám hối xong rồi lễ lạy chư Phật cung kính. Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể nhập đại đạo, phát tâm vô thượng. Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, đi sâu kinh tạng, trí tuệ như biển. Tự quy y tăng, xin nguyện chúng sinh, quản lý đại chúng, hòa hợp không ngại. Nguyện cho các chúng sinh, ba nghiệp được thanh tịnh, vâng giữ giáo pháp tôn quý. Cúi đầu kính lạy Phật- Pháp- Hiền Thánh Tăng. Tiếp theo dựa vào thời lễ nói kệ, xong xướng to tùy ý. PHÁP LỄ KHẮP (cung kính chú nguyện đều hoàn toàn như trước). Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, Tịch diệt đạo tràng thượng Lô-Xá-Na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, Phổ quang pháp đường thượng Lô-Xá-Na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, Viêm ma thiên thượng Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật Đâu-suất-đà thiên thượng Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật Tha Hóa Tự Tại thiên thượng Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, Trùng hội Phổ quang Pháp đường thượng Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, Kỳ-hoàn lâm gian Thiện tài đồng tử Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, bảy xứ chín hội viên mãn đốn giáo Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, hư không bất động giới tạng Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, hư không bất động định tạng Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, hư không bất động tuệ tạng Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, đắc bồ-đề thiện tâm thường bất thoái Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, quy y Pháp tát-bà- nhã nhập đại tổng trì môn Lô-xá-na Phật. Lễ khắp tất cả mười phương ba đời chư Phật, quy y Tăng dứt tranh cãi, nhập đại hòa hợp hải Lô-xá-na Phật. Nguyện cho các chúng sinh, ba nghiệp được thanh tịnh, vâng giữ giáo pháp tôn quý. Cúi đầu kính lạy Phật, Pháp, Hiền Thánh Tăng. <詞>PHÁP THỈNH QUÁN THẾ ÂM SÁM HỐI. (Ghi thẳng việc đó, quán sát tuệ phân biệt, nêu ra ở văn khác). Kinh nói: “Hai mươi mốt ngày hoặc bốn mươi chín ngày, toàn bộ phải vào sáu ngày trai, lập ra đầu tiên nên bày biện đạo tràng trang nghiêm, hương liệu nhão như bùn thoa dầu, treo các phướn lọng, an trí tượng Phật phía Nam nhìn về tượng Quán Thế Âm, phân biệt phía Đông nhìn về mặt trời, ngoài ra còn có cành dương và nước sạch, đốt hương rải hoa. Hành giả mười vị, đã trở vào hướng về phía Tây nhìn xuống chiếu trải dưới đất, nếu nền đất ẩm thấp thì bố trí chiếc giường thấp chân, trước mắt cởi y bạch, vào ra trái phải, tắm gội xong mặt áo sạch sẽ, nên ra sức cúng dường hằng ngày. Nếu không thể lo liệu được, ngày đầu tiên chẳng thể không thi hành sắp xếp hoàn toàn, mọi người bưng lư hương nhất tâm nhất ý, nhìn về phía Tây năm vóc lạy rạp sát đất, sai khiến người có âm thanh rõ ràng xướng rằng: Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn. Nhất tâm đảnh lễ Tây phương Vô Lượng Thọ Thế Tôn. Nhất tâm đảnh lễ Thất Phật Thế Tôn. Nhất tâm đảnh lễ Thập phương nhất thiết chư Phật Thế Tôn. Nhất tâm đảnh lễ Tiêu phục độc hại Đà-là-Niết-bàn, phá ác nghiệp chướng Đà-la-niết-bàn, Lục tự chương cú Đà-la-ni. Nhất tâm đảnh lễ Thập phương nhất thiết Tôn Pháp. Nhất tâm đảnh lễ Quán Thế Âm Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm đảnh lễ Đại Thế Chí Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm đảnh lễ Thập phương nhất thiết chư Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm đảnh lễ Thanh văn, Duyên giác Hiền Thánh Tăng. Lễ lạy xong đốt hương rải hoa mà nói như vậy: Này các chúng đẳng tất cả cùng quỳ, nghiêm trang bưng hương hoa đúng như pháp cúng dường, cúng dường mười phương pháp giới Tam bảo. Niệm tưởng xong miệng phát ra lời thành thật rằng: Nguyện mây hương hoa này, xông đầy cõi mười phương, cúng dường tất cả chư Phật, Tôn Pháp các Bồ-tát, vô lượng chúng Thanh văn, phát khởi đài ánh sáng, vượt vô biên thế giới, trong vô biên cõi Phật, thọ dụng hiện Phật sự, xông ngát khắp chúng sinh, đều phát tâm bồ-đề. Cúng dường xong nên hướng về phía Tây, ngồi xếp chân kiết-già gắn liền vào niệm sổ tức, khiến cho tâm không còn tán loạn. Đừng đếm nhanh làm hơi thở hổn hển, vì các chúng sinh, qua khoảng mười niệm trở thành mười niệm rồi, kế là niệm Phật mười phương và bảy Đức Phật Thế Tôn, sắc thân thật tướng và diệu thông giống như hư không. Lại nên yêu thương nhớ nghó tất cả chúng sinh, lúc thực hiện niệm này giống như đồng nhất đạt đến thiền. Vận dụng lâu ý niệm này rồi thì khoan thai chầm chậm tỉnh giác. Một người bày ra hương đèn, tất cả đều cùng nhau quỳ triệu thỉnh: Nhất tâm phụng thỉnh Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Văn Phật (phụng thỉnh ba lần trước khi lễ lạy Tam Bảo). Triệu thỉnh xong, nói: Nay con đã có đủ cành dương, nước sạch, chỉ nguyện cầu Đại Bi xót thương nhiếp thọ (nói ba lần). Kế là ba lần xưng danh hiệu Tam Bảo, danh hiệu Quán Thế Âm, kế đến chắp tay nói kệ: Nguyện cứu khổ ách cho con chấm dứt không còn, sau kệ là bốn đoạn văn xuôi của văn kinh, tiếp theo tụng bài thần chú tiêu phục độc hại, sau khi nói thần chú là bảy hàng văn kinh (hoặc ba lần, hoặc bảy lần). Kế đến lại xưng danh hiệu Tam Bảo, tụng bài chú Phá nghiệp ác chướng Đà-la-ni. Kế đến lại xưng danh hiệu Tam Bảo, tụng câu Lục tự chương cú xong, tự dùng trí lực tác bạch bày tỏ sám hối, phá phạm hạnh của người và gây ra mười nghiệp ác, trừ diệt hết phẩn uế, lại được thanh tịnh, kế là nêu phát nguyện sám hối xong, nhất tâm thực hành lễ lạy. Lễ lạy nói trên vốn là thỉnh Tam Bảo, lễ xong đáng như pháp hành đạo. Hoặc ba vòng, hoặc bảy vòng xong, đến ba tự quy Tự quy y xong khiến một người khác bước lên tòa cao, xướng tụng kinh Thỉnh Quán Âm. Buổi sáng và đầu hôm thì thực hành phương pháp trên đây, những thời còn lại ngồi thiền, lễ Phật dựa vào cách thức thông thường. Đây là khuôn phép của một ngày một đêm, đến ngày thứ hai cho đến ngày bốn mươi chín, cũng lại như vậy. <詞>PHÁP SÁM HỐI THEO KINH KIM QUANG MINH. (Ghi thẳng việc đó, quán sát tuệ phân biệt, nêu ra ở văn khác). Trang nghiêm đạo tràng, ngoài ra sắp đặt tòa để xướng kinh, bày biện các thứ phướn lọng, hương hoa như phương pháp trên. Sắp xếp tòa Công Đức Thiên ở bên trái tòa Phật. Đạo tràng nếu rộng rãi lại bố trí tòa Đại Biện, tòa Tứ Thiên Vương ở bên phải. Các tòa đều đốt hương rải hoa, ra sức kiếm trái cây, thức ăn. Ngoài ra lại bày biện một mâm trái cây, thức ăn xen lẫn, đặt ra phân tán tung rải các phương, nên hằng ngày tắm gội mặc áo mới sạch. Kinh nói: “Bảy ngày bảy đêm phải sử dụng sáu thứ chay tịnh, lập ra đầu tiên vào ngày thứ nhất giờ Ngọ, tất cả bưng lư hương, một người xướng rằng: Tất cả cung kính. Nhất tâm đảnh lễ thập phương thường trú nhất thiết Tam Bảo. Này các chúng đẳng! tất cả cùng nhau quỳ, kính dâng hương hoa đúng như pháp cúng dường. Tâm lặng lẽ cúng dường xong, miệng nói lời này: Nguyện mây hương hoa này, xông khắp cõi mười phương, như phương pháp trên, thực hiện nói như vậy xong, nên triệu thỉnh. Nhất tâm phụng thỉnh Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Đông phương A-súc Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Nam Phương Bảo Tướng Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Tây phương Vô lượng Thọ Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Bắc phương Vi Diệu Thanh Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Bảo Hoa Lưu Ly Thế Tôn. Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Bảo Thắng Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Vô Cấu Xí Bảo Quang Minh Vương Tướng Nhất tâm phụng thỉnh Kim Viêm Quang Minh Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Kim Bách Quang Minh Chiếu Tạng Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Kim Sơn Bảo Cái Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Kim Hoa Viêm Quang Tướng Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Đại Cự Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Bảo Tướng Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Kim Quang Minh kinh trung vào Thập phương tam thế nhất thiết chư Phật. Nhất tâm phụng thỉnh Đại thừa Kim Quang Minh hải thập nhị bộ kinh. Nhất tâm phụng thỉnh Tín Tướng Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm phụng thỉnh Kim Quang Minh Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm phụng thỉnh Kim Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm phụng thỉnh Thường Bi Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm phụng thỉnh Pháp Thượng Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm phụng thỉnh Kim Quang Minh kinh nội vào thập phương tam thế nhất thiết Bồ-tát Ma-ha-tát. Nhất tâm phụng thỉnh Xá-lợi-phất, tất cả Thanh văn, Duyên giác, Hiền Thánh Tăng. Nhất tâm phụng thỉnh Đại Phạm Tôn Thiên tam thập Thiên hộ thế Tứ vương Kim cương Mật Tích Tán Chi Đại Biện Công Đức Ha-lợi-Đế Nam quỷ tử mẫu cùng năm trăm đồ đảng. Tất cả đều là Đại Bồ-tát, cũng thỉnh cầu quỷ thần địa phận xưa này (Thỉnh ba lần). Lại nói rõ ý của tâm lập ra sám pháp, tùy theo trí lực mà bày ra nói tự nhiên. Nói xong ba lần xưng danh hiệu Bảo Hoa Lưu Ly Thế Tôn, kinh Kim Quang Minh, Công Đức Thiên. Ba lần xưng niệm xong, lấy mâm thức ăn trộm lẫn tung vãi các phương. Nên nói Ba-lợi Phú-lâu-na, từ trước đến này, sở cầu của tôi đều được may mắn tốt lành. Nếu xong xướng lên tất cả cung kính trở về mỗi mỗi lễ lạy. Trên đây đã thỉnh cầu Tam Bảo lễ lạy xong, ba lần vòng quanh, xong đến ba tự quy y, tự quy y xong mới cùng nhau ngồi ăn. Đây là phương pháp buổi sáng, lúc khác như thường lệ, chỉ riêng xướng tụng kinh Kim cương Minh. PHÁP SÁM HỐI (Sơ lược nêu ra năm ý, quán sát tuệ xuất xứ từ văn khác). Thứ nhất khuyến khích tu tập. Kinh chép: “Sau khi ta diệt độ, kinh điển Phương Đẳng này, ở tại Diêm-phù-đề, giống như mặt trời, mặt trăng chiếu sáng thế gian, chúng sinh gặp ân được thấy bốn phương”. Nói là Diêm-phù-đề là khu vực vô minh. Nghe kinh Phương Đẳng nhận thức sâu sắc về nhân quả, như thấy mặt trăng, mặt trời soi sáng nhìn thấy bốn phương. Vì thế biết pháp mầu rất sâu của kinh, có thể chỉ bày tướng thế gian, đó là chỉ ra là đạo chẳng phải đạo, chẳng phải đạo tức là khổ tập thế gian, đạo chính là đạo - diệt xuất thế. Bốn pháp như vậy, đều do Phương Đẳng soi sáng rõ ràng. Kinh lại nói: “kinh Phương Đẳng này thế lực vô lượng, có khả năng làm cho tất cả trời, người, Tu la, Địa ngục, ngạ quỷ đều đến đạo tràng. Chương cú như vậy rất ít có, khả năng diệt hết tất cả nghiệp báo tội lỗi rộng lớn, há chẳng phải chỉ ra nhân quả thế gian hay sao?”. Vì sao như vậy? vì đã nêu ra năm đường tức công khai về khổ. Lại nói: Diệt hết nghiệp và tội lỗi há chẳng phải là Tập ư? kinh lại nói: “Nếu tu hành được toàn phần Bảo, nhưng có thể đọc tụng được trung phần Bảo, hoa hương cúng dường được hạ phần Bảo, cho đến Nhị thừa thọ ký thành Phật, há chẳng phải chỉ ra nhân quả xuất thế hay sao? “Giải thích thông suốt sự lý bốn đế rõ ràng đã nói như trên, hành chuyển ba chướng nay sẽ nói. Kinh nói: “Nếu trái phạm tự quy, cho đến sáu trọng Bồ-tát và hai mươi bốn giới của các giới Sadi, Sadini, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phải dốc lòng sám hối, nếu không trả lại sinh thì không có chốn này”. Nên biết rằng Phương Đẳng công năng dứt trừ tất cả nghiệp ác tội chướng, chắc chắn không ngăn ngại. Lại nói: Địa ngục, ngạ quỷ là nơi ác báo tận cùng, nhờ uy lực của kinh nghe liền ngộ đạo, thay đổi hình hài xấu xí. Lại nói: Thân bị bệnh hủi nhất tâm sám hối, nếu không được khỏi cũng không có việc ấy. Nên biết kinh này có thể chuyển đổi tất cả báo chướng xấu ác sâu nặng. Lời chân thành từ miệng vàng chắc chắn không luống dối. Nếu thực hành pháp chân thật này, ban đầu hoa quy tụ, Quán Thế Âm đến, kế đó Phật Bảo Vương Thích-ca Phật đến, cho đến ngày thứ bảy chư Phật và đại chúng đều đến. Lường căn nói pháp, phát tâm bồ-đề, mà không còn lui sụt. Nên biết kinh này có công năng phá tan phiền não chướng, văn sáng tỏ ở chỗ này, người nào không tin? Vì thế cho nên hành giả dùng sự vắng lặng, thực hành sáu Ba-la-mật, không có ta trong cái sở cầu, cho nên cầu thật pháp của Phật, tùy ý vãng sinh thế giới Diệu Lạc và ở trước chư Phật, phá trừ các phiền não, thoát ra vỏ cứng vô minh, lớn lên tách biệt với khổ, đầy đủ Thánh đạo tiến lên địa vị Bồ-tát, độ thoát tất cả chúng sinh, rộng ra vì ba cõi mà làm cha mẹ họ. Nếu chẳng phải từ lực của Phương Đẳng thì không biết do đâu, ví như mặt trời, mặt trăng muốn xua tan bóng tối, nuôi lớn muôn vật, kinh này cũng giống như vậy, có công năng dứt trừ các trái đạo, biểu hiện rõ ràng con đường chân chánh, là thuốc hay của bậc Đại Pháp Vương, là châu báu vô giá dồi dào của cõi nước vui sướng. Nếu nghe kinh này như người tù nghe lênh ân xá, như bệnh được chữa trị, như nghèo hèn được vật báu, như đi đến nhà, vui mừng hớn hỡ lên cũng giống như vậy. Vì pháp nên còn cho cả mạng sống, không hề tiếc nuối thân thể, huống là những điều còn lại. Nếu nghe kinh này nên biết không từ công đức nhỏ bé mà đến. Ai nghe pháp như vậy mà không phát tâm bồ-đề, ngoại trừ hạng kia không giống người ngu si nhắm mắt không có trí tuệ. Cho nên nói: Biện giải như Văn-thù trong một kiếp, giáo hóa tất cả khiến cho lên đến quy cách bổ xứ thì công đức đó không bằng người ở hạ phần Bảo, huống chi thượng phần ư? Lại nữa, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, Thập tín Bổ xứ như Hằng sa, cùng đi sâu vào thiền tư duy, công đức không bằng một phần. Còn vật báu trong bốn đại châu, dâng cúng Như Lai, không bằng có người giúp cho người trì kinh này một bữa ăn để giữ gìn thân thể. Đâu chỉ nghi ngờ xem xét như vậy chăng? Bảy Đức Phật chính là hiện tại chứng thật sự không luống dối, ba đời Như Lai, đều từ pháp này mà được thành tựu Phật đạo. Thứ hai là phương tiện, Hành giả nghe Phương Đẳng có thế lực rộng lớn, khiến cho mình tăng thêm thuổi thọ tâm sinh trong pháp, giống như chết rồi sống lại, cũng có thể làm mẹ, há không phát tâm lập ra ý mạnh mẽ, đau thương cho bản thân, hôn trầm từ vô lượng đời kiếp đến nay, không tu tập vượt ra nhưng phải hổ thẹn ân hận quở trách. Nếu phạm vào hình phạt nghiêm khắc thì nhất tâm run rẩy sợ hãi, như đi vào hang lạnh. Nghó đến mũi tên độc này thì phải mau chóng rút ra, bệnh nặng do phiền não chịu khó tiến hành cứu chữa. Nếu thường dốc lòng thì sự việc không có gì khó khăn. Nghó đến việc này rồi quay về nương tựa mười hai vị Mộng Vương, cầu xin mộng thấy điềm lành. Nếu không cảm ứng thì chỉ thực hành vô ích. Thành khẩn gấp bội đến ăn uống cũng không quên, tùy đó thấy một vị vua tức là nghe theo thừa nhận. Thấy việc này rồi lo liệu các đồ dùng cúng dường, đã không thể tan xương bán thân, cũng phải bỏ tâm keo kiệt. Nếu trước đó có đạo tràng, lại cần phải sáng sủa sạch sẽ. Nếu không có đạo tràng đó thì trước mắt phải tìm kiếm lập nên, tiện lợi cho các nơi đun nấu thuốc thang tắm gội, đều làm cho ổn định, thuận tiện, lo liệu đốt hương hoa dầu đèn, quả trái thức ăn, không hạn định rộng hẹp. Nếu không thể hằng ngày thì đầu cuối chẳng được không có, tự học không thể được thì nên cầu sự giúp đỡ bên ngoài. Chứa góp để lo liệu cần phải có một kiện y phục mới và sạch sẽ, không có mới thì giặt sạch. Dựa vào một Luật sư giải thích rõ ràng trong ngoài để phát lộ lãnh thọ hai mươi bốn giới, thọ chú chuẩn bị tụng trì, khiến tụng danh hiệu mười vị Phật, mười vị Pháp vương tử, mười hai vị Mộng vương, nhớ giữ gìn đừng quên, xả bỏ tất cả các loại sắc, thanh, hương, vị, xúc, rất sinh tâm chán ghét xấu ác, biết sắc giống như vàng nóng, thanh giống như trống độc, hương giống như gió ác, vị giống như mật sôi, xúc giống như rắn độc, đều không đáng mê đắm, mê đắm thì làm tổn thương. Lại dứt trừ tất cả nguyên cớ sự việc thế gian, sinh hoạt phải trái, kỹ năng thực hiện làm ra, đừng để cho trải qua hoài niệm, tất cả nguồn gốc đó không làm cho não loạn. Lại bỏ tham, sân, si … và quán xét hiểu ra những điều không tốt, không có ý niệm suy nghó mong cầu phước lạc thế gian, chỉ riêng chí hướng vô lượng thanh tịnh bồ-đề, từng tâm từng tâm, nối nhau liên tục đi vào cảnh giới lành. Thứ ba là phương pháp: Các phương tiện trước đây tìm cách khiến cho thuần thục, khát khao kính mến vô cùng không hề tiếc rẻ thân mạng, hạn định ngày giờ chặt chẽ ở đạo tràng thực hành pháp. Tháng mới lúc đầu đi vào có hai ngày, bạn đạo nhiêu ít mười vị trở xuống, hương nhão thoa nền phân tán ra làm cho viên mãn đàn tràng, mầu sắc tranh vẽ trang nghiêm mô phỏng từ Tịnh độ, đốt hương rải hoa treo phướn lọng năm mầu, thỉnh hai mươi bốn bức tượng, bày biện thức ăn trăm món. Một ngày ba lần tắm gội, mặc y phục mới, tay bưng lư hương, chuyên tâm chú ý tản ra lễ một lạy, cùng nhau quỳ thẳng, vận chuyển ý niệm, tưởng vầng mây hương này, che phủ khắp cả mười phương rưới mưa rộng ra tất cả, tất cả món ăn, áo quần, đồ nằm quý báu lầu gác điện phòng dây đàn phát ra âm thanh của pháp, trên cúng dường các vị Thánh, dưới bố thí chúng sinh, nhờ thần lực Phật mở rộng thực hành Phật sự, lợi ích cho tất cả, đều đi vào Phật đạo, đồng với hư không pháp giới, thực hiện ý niệm này rồi hướng về phụng thỉnh Tam Bảo, khiến cho từng câu từng câu chuyển vận ý niệm, rơi lệ trên má như về chỗ chết cầu xin Đại lực. Nhất tâm phụng thỉnh Nam-mô Bảo Vương Phật. (Cho đến mười vị Phật vốn có xuất xứ từ văn kinh) Nhất tâm phụng thỉnh Nam-mô Ma-ha Đản Trì Đà-la-ni Phương Đẳng phụ mẫu. Nhất tâm phụng thỉnh Thập Pháp Vương Tử Hoa Tụ Lôi Âm. Nhất tâm phụng thỉnh Xá-lợi-phất đẳng nhất thiết Thanh văn, Duyên giác. Nhất tâm phụng thỉnh Phạm Thích Thập Nhị Mộng Vương. (Tất cả đều triệu thỉnh ba lần). Kế đến khen ngợi Phật. Trí tuệ Thế Tôn như hư không, thấy tướng khứ lai của chúng sinh, tất cả mười phương đều thấy nghe, con hướng cúi đầu lạy Pháp Vương. Kế là mỗi mỗi lễ lạy mười vị Phật, mười vị vương tử v.v… xong, cùng quỳ xuống phát lộ tác bạch, kể ra đau thương rơi lệ, thú tội hối hận trước Tam Bảo, có đầy đủ chân thật chí thành không nịnh hót, không dối trá, không đến mức che giấu, tùy theo trí lực của hành giả mà tự nhiên nói ra. Kế đến phát nguyện, nguyện cùng kẻ oán người thân trong pháp giới, cải cách giặt rửa huân tu thanh tịnh. Kế là đi vòng quanh một trăm hai mươi vòng, tụng một trăm hai mươi biến thần chú, mỗi vòng một thần chú, tiếng không to không nhỏ nhanh chậm thích đáng. Vòng quanh tụng xong hướng về lễ lạy mười vị Phật, mười vị Vương Tử. Lại sơ lược tác bạch phát nguyện, sau đó lùi lại ngòi suy nghó, quán nhất thật tướng, phương pháp quán xem trong văn khác. Suy nghó xong đứng lê sửa sang y phục, lễ Phật một lạy, lại đi vòng quanh một trăm hai mươi vòng, tụng một trăm hai mươi biến thần chú. Tụng chú vòng quanh xong, lễ lạy Tam Bảo, tự nói ra tội lỗi sai lầm, trở về ngồi suy nghó. Thực hiện như vậy rồi, hết một vòng thì bắt đầu lại từ đầu. Chỉ riêng ngày thứ hai lược bớt không còn triệu thỉnh, những việc còn lại trọn vẹn suốt trong bảy ngày. - Thứ tư là tâm thuận nghịch, bốn tội trọng, năm tội nghịch là xác chết trong biển Phật. Theo kinh Tiểu thừa, giống như chặt đứt cây Đa-la không bao giờ sống lại, không có việc sám hối tội này. Theo kinh Đại thừa, xem xét đồng ý tẩy rửa, như chú nguyện cây khô sinh ra quả, như người chết sống lại. Tuy có pháp này nhưng phải dốc lòng, chỉ lý không nghịch thuận mà sự có xa cách thuận theo. Ngay nơi điều ác mà luận, xa cách đối với Niết-bàn, thuận theo hướng về sinh tử, sơ lược mười loại: 1/. Vô minh làm cho mê hoặc, tiếp xúc cảnh sinh ra mê đắm. 2/. Nội tâm đã mê muội, bên ngoài bị bạn bè xấu ác làm cho mê hoặc, say đắm tối tăm theo phi pháp nên tâm ác chuyển biến hừng hực. 3/. Duyên trong duyên ngoài có đủ, tự phá điều lành của mình mà cũng phá điều lành của người, đối với các việc lành tâm không hề tùy hỷ. 4/. Đã không tu tập nghiệp lành, chỉ có nghiệp ác là thuận theo, buông thả ba nghiệp không điều ác nào không làm. 5/. Việc ác đã làm tuy chưa nhiều, mà tâm ác trải ra khắp nơi, muốn giành lấy tất cả vui sướng lại cho là tất cả khổ đau. 6/. Ý niệm ác tiếp nối liên tục, nàgy đêm không ngừng, tâm hoàn toàn là niệm ác, không hề dừng lại. 7/. Che đậy dấu vết, giấu giếm lỗi lầm, trong lòng gian trá, ngoài mặt dối hiện hiền thiện. 8/. Tà vạy hơn mức bình thường, bảo vệ thường tăng thêm tiến lên tạo tội, không sợ đường ác. 9/. Lỗ mãng như dê đực, đường đột không có tâm hổ thẹn, không biết nhục nhã. 10/. Bài bác không có nhân quả, không tin thiện ác, cắt đứt các pháp lành làm nhất-xiển-đề. Mười tâm như vậy vô minh là gốc rễ, tăng thêm đạt đến cực điểm cũng tận xiển-đề, thuận theo đi vào sinh tử, từ tối tăm đi vào tối tăm, dệt làm kết nghiệp không có kỳ hạn giải thoát, đây là sinh tử trái thuận. Đã biết vô minh từ trước đến sau, nay muốn sám hối tu thiện cải ác, thì phải xa cách sinh tử, thuận theo niết-bàn, chuyển vận mười loại tâm để làm đối trị: 1/ Chánh tín nhân quả, làm điều lành được quả lành, làm điều ác gặp quả ác, tuy không có quả báo hiện đời, nhưng quả báo tương lai không mất, tuy từng niệm từng niệm diệt, mà nghiệp thiện ác cuối cùng không mất. Niềm tin là mẹ sinh ra công đức, niềm tin là cổng đầu tiên đi vào Đạo, thuận hướng về Niết-bàn, vượt qua phá nhào tâm xiển đề bất tín. 2/ Nên hổ thẹn, tội lỗi này của mình không tham dự vào dòng người, hổ thẹn tội lỗi này của mình không được trời thần che chở, hổ thẹn ăn năn lầm lỗi, đây là bạch pháp, cũng là bạch pháp Ba thừa hành xuất thế, đây là hổ thẹn vượt qua hắc pháp, không biết xấu hổ. 3/ Sợ hãi vô thường, mạng giống như nước trên núi chảy xuống, cũng giống như mượn danh nghóa, một hơi thở ra không trở vào lại, trôi lăn theo nghiệp, âm u tối tăm một mình hướng tới, ai tìm hiểu pháp trái? Chỉ dựa vào phước lành làm tư lương thoát hiểm, nên cạnh tranh với bọt nước, ăn thở không có thời gian rỗi? Đây là quán xét đối với vô thường, vượt qua bảo vệ, thường còn không sợ đường ác. 4/ Phát lộ sám hối tội lỗi lập liền tiêu diệt, như giọt sương tàn lụi ở cành lá gốc cây, đây là phát lộ tội che đậy giếu giếm. 5/ Cắt đứt tâm liên tục nối nhau, rốt cuộc xả bỏ điều ác, quả quyết mạnh mẽ hùng dũng, giống như dao cứng vô cùng, đây là quyết định vượt qua liên tục nối nhau. 6/ Phát tâm bồ đề rộng khắp, cho tất cả niềm vui, nguyện cứu giúp tất cả nỗi khổ đau. 7/ Tu công đức bù lại lỗi lầm, chăm chỉ thúc giục ba nghiệp tinh tiến không ngừng, đây là tu đạo công phu phá sạch ba nghiệp, không việc gì làm ác. 8/ Giữ gìn bảo vệ chánh pháp, không để cho ngoại đạo, ác ma hủy hoại Phật pháp, thề mong muốn làm rạng rỡ, đây là giữ gìn, phá diệt tất cả việc lành. 9/ Nhớ nghó vô lượng công đức thần thông trí tuệ của chư Phật mười phương, nguyện che chở cho mình, đó là niệm Phật, vượt qua sang bằng tâm nhớ nghó bạn ác. 10/ Quán sát tánh tội vốn không, tội lỗi từ tâm sinh ra, nếu tâm đạt được thì tội lỗi chẳng thể không có, tâm mình tự nhiên không thì tội lỗi làm sao nói là có, tội phước không có chủ, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng không ở giữa, không thường xuyên tự nhiên có mà chỉ có tên gọi, tâm của tên gọi là tội phước. Tên gọi chính là không, trở về nguồn cội, suy cho cùng là thanh tịnh, đó là quán sát tội lỗi tánh vốn không, vượt qua san bằng vô minh điên đảo chấp trước. vô minh diệt cho nên các hành diệt, các hành diệt vì thế sinh tử diệt, đại thụ mười hai nhân duyên chết đi, cũng gọi là nhân quả xuất thế, rõ ràng thấy được bốn phương, nói là ở chỗ này. - Thứ năm là biểu hiện cho pháp: hành giả đã biết mười nghịch thuận, dùng tâm chánh quán trải qua nhiều việc, trong mỗi duyên điều biểu hiện pháp cao siêu, từng tâm từng tâm liên tiếp nối nhau quán sát đạo không xen hỡ, đi vào cửa ngỏ không hai. Nói phương đẳng thần chú ấy là quán sát lý thật tướng, lý không thể nói ra, mà chẳng thể không nói ra. Đi đến bốn cơ duyên làm ra bốn phương pháp, nói về thật tướng nên gọi là Phương, tuy thực hiện nói ra như vậy nhưng nói tức là không nói, không nói tức là không, không cho nên chẳng thấy nói và không nói, không bên cạnh không ở giữa gọi là Đẳng. Lại nữa, làm cho cơ có nói ra, nói về chú này, chú đối với ba chướng, pháp năng chú đã không thể nói ra, tội của sở chú cũng không thể nói ra. Không có tội cho nên không sinh tử, không có chú cho nên không Niết-bàn, chung quy thanh tịnh nên gọi là Phương Đẳng Chú. Hương nhão thoa nền mầu sắc tranh vẽ trang nghiêm: Nền đất biểu hiện cho pháp tánh, hương biểu hiện cho phước đức, tranh vẽ biểu hiện cho trí tuệ, hai loại phước tuệ trang nghiêm Pháp thân. Lọng cái năm mầu: Biểu hiện cho năm ấm, không chính là Phật tánh không lìa Phật tánh, phát khởi tâm từ vô duyên che phủ rộng khắp tất cả. Hai mươi bốn hình tượng: Biểu hiện cho quán sát mười hai nhân duyên nghịch thuận. Tất cả hai mươi bốn chi, quán sát thuận mười hai giác ngộ, ba Phật tánh, quán sát nghịch mười giác ngộ ba Phật tánh. Nghóa là Vô minh, Ái, Thủ là Liễu nhân Phật tánh, Hành - Hữu là duyên nhân Phật tánh, Thức, Danh sắc… là Chánh nhân Phật tánh, giác ngộ hai mươi bốn chi, tức là hai mươi bốn vị Phật. Thức ăn trăm món: Biểu hiện trong tất cả các Pháp đều có ý vị thiền duyệt, pháp hỷ, trung đạo. Một ngày ba lần tắm gội: Làm cho dứt sạch vô minh, trần sa, suy nghó về các biểu hiện Pháp thân thanh tịnh. Mặc y phục mới: Biểu hiện chho vắng lặng nhẫn nại bao phủ hai bên xấu xí. Nhiễu quanh một trăm hai mươi vòng: Chính là biểu hiện cho mười hai nhân duyên, tất cả mười loại quán sát có một trăm hai mươi chi. Tóm lại chỉ là ba đạo: Ái và Thủ là phiền não đạo, Hành Hữu là nghiệp đạo, Thức và Danh sắc… là khổ đạo, tuần hoàn ba đạo thường là quán sát cảnh, cho nên nhiễu quanh một trăm hai mươi vòng. Một chú hướng về phá vỡ một chi, tức là san bằng ba đạo, ba đạo sang bằng tức là ba chướng san bằng. Kinh nói: “Phát tâm Bồ-đề, mà được luống dối lui sụt tức là chứng minh phá đổ phiền não chướng. Nếu trái phạm các giới, mà không sinh trở lại thì không có việc này, là bằng chứng phá đổ nghiệp chướng, bạch lại trừ diệt, tức là bằng chứng phá trừ báo chướng”. Quán sát từng câu từng câu tụng chú không thật có, như tiếng vang trong hang trống không có Ngã, quán sát đi nhiễu vòng quanh chân, chân không thật có, như mây như bóng, không đến không đi. Nếu ngồi suy nghó, suy nghó tâm của một niệm, không từ ý căn sinh khởi, chẳng phải ngoại trần hợp lại mà sinh khởi, chẳng phải rời xa mà sinh khởi. Lại nữa, chẳng phải niệm trước sinh khởi, cho nên sinh khởi, cũng chẳng phải niệm trước diệt đi cho nên sinh khởi, cũng chẳng phải niệm trước sinh diệt hợp lại cùng sinh khởi, cũng chẳng phải niệm trước chẳng sinh, chẳng diệt mà sinh khởi. Lại nữa, chẳng phải sinh mà sinh khởi, cũng chẳng phải sinh mà không sinh mà sinh khởi, cũng chẳng phải sinh và không sinh cùng nhau sinh khởi, cũng chẳng phải không sinh và không sinh mà sinh khởi. Suy cho cùng không có một niệm, không biết từ đâu sinh khởi, chỉ có tên gọi của Sinh. Tên gọi chẳng phải trong, ngoài, ở giữa, danh và không danh, cho nên quán sát tâm đã như vậy, từ tâm mà sinh khởi, tất cả các pháp cũng giống như vậy, quán sát tất cả các pháp đều hợp với tu-đa-la. Như vậy lúc quán sát cái gì là mình, mình làm việc gì, cái gì là tội lỗi, cái gì là phước đức? Vì năng lực quán sát cho nên hoát nhiên khai ngộ. Không tuệ trong sáng như tánh lạnh của nước, người uống mới biết được, chỉ một mình hiểu rõ, người khác không thấy. Cồng đức thiền định trí tuệ đạt được, đều không thể nói ra, như lúc ngộ này tự biết che chắn chướng ngại, không đợi phân biệt. Nếu địa vị này không đẳng cấp, chỉ được công đức của việc làm, phải bảo hộ miệng, đừng nói với người. Nếu người trình bày, có thể là tội lỗi ngăn đạo, bệnh mù bẩm sinh, phung hủi, ngu ngốc si mê. Lại nữa, hành giả vốn thệ nguyện, bảy ngày mà giữa đường lơi lỏng lui sụt cũng có thể là tội lỗi ngăn đạo. Vì sao? Vì lừa dối tâm ban đầu, lừa dối chư Phật, lừa dối tất cả chúng sinh, rất phải cẩn thận, trong thời gian đó các tướng không thể nào tự hiểu rõ, nên hướng về các sư Phương Đẳng quyết định cho. <詞>LỜI DẠY BẢO VỊ TRI SỰ: Ta thời trẻ một chút chịu khó, chịu khổ đề phòng cửa ải gian nan, đi lại học hỏi ở kinh-Dương, Ung-Dự, chỉ mặc một Nạp y hơn ba mươi năm, Đông-Hạ không rời thân thể, trên đến vua chúa, dưới đến só dân, tuy có thọ nhận những đồ giúp cho mà không riêng tư, một trái cây, một mái nhà, sau khi nhập chúng còn không mong mỏi nhớ nghó, huống chi cố ý xâm phạm hay sao? Vì sao? Ví chúng quý báu đáng tôn trọng, nếu tăng thêm thì gọi là vườn Cam lộ, nếu có giảm bớt, tức là vườn tật lê, tự ăn no tự tổn thương, nhân sụp đổ nhân khởi lên, ý sẽ đạt được, đâu đợi phải nhiều lời. Nói về người phát tâm tùy đó có những cái thực hiện, là đọc tụng, lắng nghe học hỏi, giảng thuyết, kinh hành, sám hối, cúng dường, chưa có đầu đuôi, cẩn thận đừng dừng giữa chừng, giữa chừng dừng lại là làm trái với tâm ban đầu. Nếu tiếp tục có những cái thực hiện, đến nơi dừng lại trước kia gây khó dễ, tức là phát khởi tu nghiệp không thành tựu, đời này hiện rõ chướng ngại về sau càng ngăn cách với đạo. Người thực hành này rất kiêng kị, thuận theo, phải ra sức bắt đầu tốt khiến cho trọn vẹn, nghiệp đã ngay thẳng như vậy, báo cũng tròn đầy, đây cũng là vừa ý đạt được. Xưa có một chùa mấy trăm thầy trò, ngày đêm thiền giảng thời gian không thể bỏ qua uổng phí, có người thanh tịnh trộm nghe nói pháp, nghe xong dụng tâm, cứ mỗi lần rê thóc sàn sảy rửa bỏ, ý niệm cố gắng giữ gìn luyện tập, gọi là dùng tâm thanh tịnh dâng lên hốt sạch những gì bất thiện, dùng nước sạch thiền định rửa bỏ những gì bất tịnh, tùy theo đó có những việc làm dụng tâm trong từng niệm từng niệm, một thời giữ bếp coi lửa đốt củi, từng niệm từng niệm hết sạch, vô thường qua đi. Bấy giờ nhanh chóng, ngồi xổm trước bếp, vắng lặng đi vào định nên lửa tắt cháo lạnh, vị Duy Na sợ bỏ dở nồi cháo của chúng, bèn nói với vị Thượng tọa, Thượng tọa nói đây là việc tốt đẹp, chúng nên hẫn nại, cẩn thận đừng làm kinh động hay va chạm, để mặc đến khi tự đứng dậy. Mấy ngày mới xuất định, tới chỗ vị Thượng tọa, kể rõ đầy đủ những chứng đạt của mình. Nói pháp càng trở nên sâu sắc, Thượng tọa ngăn lại rằng: Như thế hướng vè điều mà ông nói đều là cảnh giới của mình, nhưng nay đã nói phải, chẳng phải cái biết của mình thì chớ nói tiếp. Vì vậy mà quay đầu lại hỏi: Biết nhiều về túc mạng hay không? Đáp rằng: Biết chút ít. Lại hỏi: Tội gì là hèn hạ, phước nào dễ nhận ra? Đáp rằng: Thân này hèn hạ, thời gian đời trước chính là bậc thầy của đồ chúng cả ngày nay, cũng là Tổ Sư của người trẻ, cái học của đồ chúng đều là những lời dạy bảo ngày xưa, lúc bấy giờ có nhiều khách bạn riêng tư, thường ngày chế ước không dám tiếp cận với chúng, bỗng nhiên có khách bạn khẩn cấp thì lấy tạm chút ít thức ăn, quên không tiếp đãi đầy đủ. Vì việc này mà bị khiển trách, nay làm tôi tớ cho chúng mà thói quen trước đây chưa quên, ít tu dễ dàng nhận ra túc mạng tội phước. Việc đó như vậy, cả chúng nghe việc này đau buồn không thể kể xiết. Gương soi như vậy đâu thể không cẩn thận hay sao? Bạn cùng học là Thiền Sư Chiếu, ở trong chúng Nam Nhạc, khổ hạnh thiền định đứng đầu, sử dụng của chúng một nhúm muối ăn làm thức uống chay tịnh, vốn xâm phạm không mấy, chẳng thể cho là sự việc, về sau thực hành Phương Đẳng bỗng nhiên thấy tướng phát khởi, tính trong ba năm tăng lên tới mấy mười hộc, vội làm chay bồi thường đầy đủ, nhiều lần bán y để mua muối ăn đền bù cho chúng. Việc này chẳng phải lâu xa, cũng chẳng phải nghe tin đồn, nên lấy làm quy định, đừng để cho hối hận. Tôi tuy ít đức hạnh mà xa gần nhiều khi truy tim lẫn nhau, nhưng cách trở Diệm Lónh thật là khó đi bộ. Già bệnh ra vào thường lấy con lừa của chúng để đón rước. Đây là khách ta riêng tư tính toán việc lớn, thực hiện thẳng thắn, khiến cho đôi bên không sai lầm. Ta là người chịu trách nhiệm với chúng, con lừa cũng là ta được phép. Cũng bỏ nhập chúng thì chẳng trở lại ta có, ta sử dụng không thích hợp. Chẳng phải ta nói gì, nêu lên một điều này, còn lại nhiều việc như thế. TRẦN TUYÊN ĐẾ SẮC CHỈ Ở LẠI, không cho phép vào Thiên Thai. Tam Tạng ở kinh đô tuy lớn nhưng đều là một đường nghiên về Hiển, người kiêm đủ rất ít, trẫm nghe Ngõa Quan đông đúc, hết sức có ít an ủi lòng dạ, xong xuôi nên dạy bảo người khác, lẽ nào nhàn rỗi một mình tốt đẹp hay sao? Tào nghóa đạt khẩu đôi chút, có đạt ý trẫm. Ngày mồng một, tháng tư, niên hiệu Cảnh Lịch. NIÊN HIỆU THÁI KIẾN NĂM THỨ CHÍN, Tuyên đế sắc chỉ giúp cho đồ vật. thiền Sư Trí Khải, là bậc lão luyện của tông phái lúc Phật pháp hùng mạnh, hướng về đất nước dạy bảo gồm cõi đạo tục. Nên cắt bỏ bắt đầu từ Phong huyện, điều hòa để đảm nhiệm phí tổn của chúng, miễn trừ hai hộ dân, sử dụng cung cấp củi nước, người chịu trách nhiệm thi hành, ngày mồng sáu tháng hai niên hiệu Cảnh Lịch đời trần. NIÊN HIỆU THÁI KIẾN NĂM THỨ MƯỜI, Vua Tuyên Đề sắc chỉ cho tên chùa. Vốn có Tả bộc xạ Từ Lăng khải tấu, thiền Sư Trí Khải, sáng lập Thiên Thai an nhàn ngồi trên ngọn núi nổi tiếng, nên tên gọi là chùa Tu Thiền. Ngày mồng một tháng năm niên hiệu Cảnh Lịch đời trần. NIÊN HIỆU CHÍ ĐỨC NĂM THỨ BA ĐỜI TRẦN, Thiếu Chủ sắc chỉ đón rước. (Gồm năm sắc chỉ). Mùa xuân lạnh lẽo mà đạo thể như thế nào? An nhàn ngồi yên kinh hành phải chăng là để kiếm chác? Pháp sự ở Đô Hạ thường ngày phát động mong mỏi tương trợ nói rõ làm cho lớn mạnh. Này sai tuyên truyền Tả hữu Triệu Quân Khanh, đón rước muộn có thể lập tức đưa ra. Ngày mười một tháng giêng, Thần Trưng Thần viết. Quân Khanh nói miệng đầy đủ đôi chút, thận tiện nhằm về gặp mặt nhau đang thúc giục. Sắc chỉ thứ hai của Thiếu chủ. Được người sứ Triệu Quân Khanh khải tấu, lại thấy tờ biểu trả lời, chí hướng còn lại nơi rừng núi, thôn dã gồm có tật bệnh, nguyện dừng nơi chùa núi không muốn đưa ra Đô. Không đầy đủ đôi chút, mỏm núi khe suối cao sâu quả là tiết tháo của người u nhã. Phật pháp thị hiện không hẳn như vậy, vả lại chốn kinh đô có nhiều thầy thuốc và thuốc thang. Đang bệnh như vậy quả là vốn thích hợp, cho nên phát thư chủ định trước đây là Chu Trụ đón rước, nghó rằng thuận tiện tùy lẫn nhau đưa ra Đô, chỉ muộn mà dòng pháp không đình trệ, tụ hội nói đang tiếp cận. Ngày mồng tám tháng hai Thần Trưng Thần viết, Chu Trụ trình bày miệng đôi chút. Sắc chỉ thứ ba của Thiếu chủ. Trước đây tuy phái hai sứ đặc biệt chưa phó thác toàn bộ, ý bảo lưu Tam Bảo cho nên có đón rước nhau. Nay lại phái Đạo Thăng ở chùa Long Cung, cùng kiến cho đối diện kể rõ đôi chút. Ngày hai mươi tám tháng hai- thần trưng. Thiếu chủ sắc chỉ. Thứ sử Vónh Dương ở Đông Dương châu, nghe vua ở tại châu đón rước thiền Sư Trí Khải mở rộng pháp sự, rất hiểu ý trẫm. Nay đón rước đưa ra Đô, Vương nên thành khẩn nói cho biết rõ ý trẫm, ngày mồng mười tháng giêng, thần trưng. Lộ trình tiếp đến là đón rước ở Lăng Châu. Sắc chỉ ghi chép chờ đón tiếp đãi. Gần đây được Vónh Dương Vương khải tấu, biết Thiền sư Như Yù có thể khuất đức thuận theo trẫm khiến cho đưa ra Đô. vui mừng rất muộn nên hơi thiếu thân mật, lộ trình trải qua đường xá nguy hiểm khác nào đáng để làm phiền. Này phái sắc chỉ Tả hữu Hoàng Cát Bảo chờ đợi đón rước, nhưng không biết muốn sắp xếp dừng lại chùa nào? Nghó rằng nêu ra cho người sứ y theo mệnh lệnh trở về trước, lập tức ghìm lại lý do, sắp xếp phòng nhà. Muộn tiếp cận có thể nói điều này chưa giao phó tất cả. Ngày hai mươi bốn tháng ba,Thần Trưng. ĐẾN CỔNG KHAI DƯƠNG, xá nhân Trần Kiến Tông cùng truyền đi sắc chỉ bằng miệng của Thiếu chủ (gồm mười hai sắc chỉ). Thiền sư Châu Chử lâu ngày vốn có công lao đạo đức bền chắc, nay phái người chịu trách nhiệm viết thư là Trần Kiến Tông cho kiệu đến, chắc chắn mong đến chùa Chí Kính, ngày hai mươi sáu tháng ba. Tại Chí Kính, tuyên đọc sắc chỉ bằng miệng, kính mong kéo dài bỏ bớt trở thành vất vả, động chạm nhưng thiền tịnh chắc chắn dựa vào thời gian rãnh rỗi hiện nay, lợp lại mái chùa Linh Diệu, tạm thời đảm nhiệm sự an nhàn khi ngồi. Sắc chỉ người chịu trách nhiệm ghi chép là La Xiển cùng chuyển giao. Tháng tư. Tại chùa Linh Diệu tuyên đọc sắc chỉ miệng, sức giữ nước chẳng năng lực nào vượt qua, nhiều lần giảng nói, kinh mong khuất phục hướng về điện Thái Cực, khai mở đề mục luận Đại Trí Độ, trở lại chùa bắt đầu giảng giải. Nay phái xá nhân Thi Văn Khánh đến, luận bàn cùng nhau khai bày pháp thí. Tại chùa Linh Diệu, người chịu trách nhiệm ghi chép là La Xiển tuyên đọc sắc chỉ miệng, tặng tượng bằng vàng ròng một bức (ánh sáng giảm xuống năm mươi), Thích luận một bộ, khám bảo lũ lệnh án một cái, bờm sơn dương đuôi hươu một cái (cùng hộp), lư hương mặt hổ một cái (cùng hộp), ruộng ở phía đông hai thửa. La Xiển lại tuyên đọc sắc chỉ miệng, không cho phép nhượng lại thửa ruộng, tạm thời để lại trong núi, sai bảo đừng chuyển vận vất vả. La Xiển tuyên đọc sắc chỉ miệng chuyển giao, Phù Nguyệt cúng một kiện áo quần mùa Hạ, chuối nhỏ năm nải, vải lụa đều mười xấp, bông tơ mười cân, hoàng tiết hai đấu, gạo trắng Phù Nguyệt năm thạch, tiền ba ngàn đồng, rau quả giao cho tùy ý. Tự Phù Nguyệt tiễn đưa ba người học só và ba mươi người đệ tử, mỗi người đều cấp cho áo quần mùa Hạ, Phù Nguyệt cúng theo cách thức đã từng có. La Xiển tuyên đọc sắc chỉ miệng, không được phép nhượng lại đồ của Phù Nguyệt cúng, hay xem thường Phù Nguyệt, một chút cũng không dẫn đến nhượng lại, thọ nhận rồi xả ra bố thí, tâm càng lónh hội công đức. La Xiển tuyên đọc sắc chỉ miệng, không được phép nhượng lại y vật bố thí, pháp thí không cùng tận, tài sản đồ vật có lúc cạn kiệt, chuyển tặng không nhiều, quên đi thu nhận giúp đỡ. Ngày hai mươi bốn tháng chín. La Xiển tuyên đọc sắc chỉ miệng, giúp cho hai ngàn cây cau, một trăm cây tre, một chiếc chiếu. La Xiển tuyên đọc sắc chỉ miệng, thỉnh giảng, quốc qia một năm trước đây có hai tập Nhân Vương, kính mong khuất phục nhằm về điện Thái Cực bắt đầu giảng giải, cách thức chuẩn mực sắp xếp độc nhất, nghe theo người chỉ huy. Nay phái người chịu trách nhiệm ghi chép là La Xiển chọn lấy ý. Sắc chỉ miệng, ở chùa Quang Trạch giảng kinh Nhân Vương, nay muốn xả bỏ thân mạng ở chùa, Tăng chúng được giúp đỡ to lớn, cung kính khuất phục giảng kinh Nhân Vương, hằng ngày tự mình mong muốn nghe thấy, may sai hậu cáp xá nhân Lý Thiện Khánh, hướng về biết thông đạt đối chút. Sắc chỉ miệng, nghiên cứu chùa Quang Trạch, Quang Trạch là vùng long tiềm của Lương Vũ, không sửa sang giải quyết nhiều, nay sắc chỉ Thiện Lương đi theo đã có công lao đôi chút. La Xiển chọn lấy mục đích đến.  <卷>QUYỂN 2 THIẾU CHỦ HẬU THẨM TỰ TAY VIẾT LỆNH Kính lạy đấng Diệu Giác, nay sai nội sư hướng về Đại Phạm, cúi đầu lễ bái xin truyền lửa hương, nguyện ban cho tên gọi Bồ-tát, ngõ hầu nhờ sự huân tu để làm quyến thuộc Bồ-đề, kính cẩn lễ lạy báo đáp ân ban cho tên gọi Bồ-tát Hải Tuệ. Thẩm Hậu Phù Nguyệt cúng: Huân lục, trầm đàn, mỗi thứ mười cân, hoàng tiết một đấu (một đấu = mười thăng), tế chỉ năm trăm tờ, đuốc mười cây, xích tùng- giản mễ năm thạch (một thạch = một trăm lít), tiền một ngàn đồng. Ngày mười hai tháng ba - Bên phải là công văn hằng tháng cúng dường chùa Quang Trạch. <詞>SỚ THỈNH GIỚI CỦA THIẾU CHỦ HOÀNG THÁI TỬ Dốc lòng lễ bái, kính mong hóa độ vô phương, tùy cô tế vật, bảo vệ nước non, dắt dẫn trời, người. Rõ ràng tiếp xúc ánh sáng rực rỡ, nhờ vào dấu vết bạn bè thiết tha, Tỳ-kheo vào mộng cảnh tượng phù hợp sáng rỡ rất lâu, Hòa-thượng đi đến ân đức cao vời rạng ngời đến thế. Vì vậy, tâm Thất tịnh ngóng trông khát khao kính mến bốn y, ngõ hầu sẽ phát khởi ba tự quy y, mãi mãi giữ chắc năm giới cấm. Thầm tìm tòi hai giáo trong ngoại, hai thừa Đại - Tiểu, trọng đạo tôn sư, từ bấy đến nay vẫn thường như vậy. Cúi đầu mong mỏi thuận theo lời thỉnh, đời đời kết duyên thỏa mãn tâm nguyện, để cho ngày càng thêm nhiều. Ngày mười lăm tháng này tại điện Sùng Chánh, bày ra pháp hội mời ngàn vị tăng, phụng thỉnh làm giới Sư Bồ-tát, kính cẩn phái Lưu Tuyền chấp bút, chân thành khẩn khoản trình bày sơ lược, những điều khác chưa thể nào nói hết. Đệ tử thiết tha bái lạy! Ngày mười ba tháng giêng. Hoàng Thái tử Phù Nguyệt cúng: Huân lục hương một đấu, đàn hương ba mươi cân, trung đằng chỉ một xấp, bơ sữa một đấu, tiền hai ngàn đồng. Bên phải là công văn hằng tháng cúng dường chùa Quang Trạch. <詞>THƯ DO TRẦN VÓNH DƯƠNG TỰ TAY VIẾT (Gồm ba bức) Mùa thu khí trời lạnh lẽo, nguyện an lạc hạnh, vậy mà đệ tử kém cỏi vô vị, không có khả năng chấn chỉnh đạo pháp, nguyện được tán tụ hợp lý mới nhờ đó để chỉ bày dẫn dắt. Này cử tùy tùng là Trần Văn cố gắng đi đến, để biết được đôi điều. Đệ tử Trần Bá Trí kính lạy, ngày mười tháng tám. Bức thư thứ hai - Đệ tử khi nhỏ vâng theo điều chân chánh, lớn lên lại càng dốc lòng. Khi tròn châu quận có hiềm khích thì có thể dụng tâm, chỉ đến khi dừng nghỉ đến nay quả thật có tâm khâm phục sâu sắc. Thư trước mong cầu Tôn Sư hạ sơn giảng nói, nhưng chưa nhận được tin tức trả lời, vì thế tùy ý u uất, đợi chờ tin tức không quên, tiếp tục phái người mang thư này nhất định chóng trở về. Bao nhiêu người cầu học cùng mong mỏi sự dẫn dắt, cho nên trước đây có nói người cố ý tìm tòi đi thuyền đến đợi để đón về, biết rằng lời nói đang còn ngắn ngủi, đệ tử Trần Bá Trí xin kính lễ. Bức thư thứ ba - Khiến cho bao người quay đầu kính mến và ôm lòng mong đợi, châu quận quả thật không được như vậy thì càng hối hận vô cùng. Vốn biết rằng được tánh ngao du , vì vật quên tình, lại càng phải yên lòng nhẫn chịu, nay sai người đợi chờ đón rước sự quang lâm. Đệ tử Trần Ba Trí kính lễ. Những thứ đưa đi như rong biển, nhân sâm Cao Ly, là vật nhỏ bé chẳng đáng gì. <詞>SỚ GIẢNG GIẢI CỦA VÓNH DƯƠNG VƯƠNG Đệ tử Bồ-tát giới Trần Tónh Trí cúi đầu đảnh lễ, mười phương thường trụ Tam Bảo cùng hiện tiền phàm thánh u hiển minh không. Cúi mong pháp lực của đấng Pháp Vương, thương xót hạng ngu dốt trong ba cõi khai bày kinh điển mầu nhiệm vô lậu vô vi của nhất thừa, tông chỉ sâu xa tuyệt vời cùng cực, nương theo hoa sen để đặt tên, thật trí khó nghó suy nhờ vào bảo châu mà dụ lý. Ân cần tiếp nhận mà mở mang, bắt đầu là việc nhân duyên lớn chỉ tay nói rõ, cuối cùng khiến cho người Tiểu thừa tỉnh ngộ rõ ràng. Thay thế Tu-di chuyển dời thế giới, chưa hẵn là khó; mở bày bí mật dắt dẫn chúng sinh, lại không phải dễ. Xà-lê Thiên Thai Trí Khải, dạo chơi khắp mọi pháp môn, thông suốt tất cả Thuyền uyển, xa lìa hết sử hữu vi, hiện tiền pháp Vô sinh nhẫn, ngẩng lên cúi xuống phong thái điềm nhiên, diễn xướng giảng nói giáo pháp cùng cực, hiên cao vòi vọi điện xếp mấy tầng, mở mang rộng rãi cung quán trai nghi, Thánh chúng đều quy tu, tiên nhân cùng hướng về, chung lòng sùng kính, ánh sáng truyền đăng, góp sức giữ gìn dòng chảy như thác, pháp hữu vui mừng hớn hở, thần linh phấn chấn rộn ràng. Đệ tử trôi nổi theo gió nghiệp bồng bềnh, nước ái dục tuy vẫn vây quanh mà niềm pháp lạc không hề gạt bỏ, tâm tư mong muội chỉ khát khao Thuyền duyệt, chung quy lòng dạ vẫn lo nghó bộn bề. Nhưng vầng mặt trời vút nhanh mà dây cương ánh sáng không giữ lại, bóng mặt trăng trôi qua mà hình ảnh Hằng Nga khó hiện hữu, vừa mở hòm vàng liền đóng ống ngọc, bánh xe pháp dừng nghỉ mà sự giảng nói ở Thứu Lónh đâu kỳ hạn, thanh phạm không còn mà lời tuyên dương ở Ngư Sơn vừa kết thúc, có ly tán, có tụ hội, than thở biết nói làm sao, dòng nước ái kính, chánh pháp chảy mãi không ngừng, kính cẩn mong ngày mười ba tháng này trần thiết pháp hội để giảng bày công đức, độ người xuất gia. Lại còn Pháp thân Đại só Bồ-tát Quán Âm, cứu giúp tai ách họa hoạn làm lợi ích cho trời người, vâng lênh tạo tác nghi lễ thiêng liêng, ngay trong ngày ấy sẽ đổ khuôn, nhờ phước lành đó dâng lên giúp đỡ cho các Thánh linh đời Thanh. Lại vâng lệnh ngay trong ngày tôn nghiêm ấy, nguyện ngự thiện được thường an, Đức cung Thái hậu Bồ-tát vui vẻ bình yên, Hoàng Thái tử được nhiều phước đức, các Vương thần cung chủ đều được tốt lành, cuối cùng đến tự thân đệ tử và gia đình con cái, cùng tất cả quyến thuộc trong ngoài, tất cả nhân duyên, tuổi thọ lâu dài, thân tâm thanh thản, chí nguyện mở mang Tam Bảo, thông đạt năm thừa, giới hạnh cùng sáng tỏ như trăng mùa thu, thiền định sẽ khế hợp như hồ mùa Xuân, đời đời kiếp kiếp hòa hợp với xà-lê và giảng chúng, thấy nghe hiểu biết thương kết làm bạn lành, thường cứu độ cho nhau cùng trở lại chứa nhóm trí tuệ. Tôn sùng trí đức cao siêu của Như Lai thì tựa như Dược Vương quán xét hạt giống giác ngộ của Lôi Âm, hoặc thấy sinh về thế giới An Lạc, hoặc ở cõi trời Đâu-suất, cùng dạo chơi trong hạnh Ba Thừa, cùng hướng về đạo Nhất thừa, vô số Bồ-tát làm bạn lành, vô số cõi nước làm Phật sự, đạt được pháp tự tại, đạt được tâm tự tại, cùng tu tập bảy Giác chi, cùng hướng về ba cõi Bồ-đề. Hư không dù có giới hạn nhưng tâm nguyện này không hề cùng tận. Kính mong các vị u hiển chứng minh, pháp giới oán thân cùng hòa vào biển nguyện, hồi hướng Tát-Vân-Nhã, là Vô Sở Đắc. <詞>VÓNH DƯƠNG VƯƠNG TỰ TAY VIẾT THƯ ỦY THÁC CHO HAI PHÁP SƯ CHÂN QUÁN VÀ TUỆ BÙI. Tónh Tuệ kính lạy. Tuyết càng rơi khí trời càng lạnh, nguyện lễ sám không mệt mỏi, đệ tử bàng hoàng vô lý, pháp sư Chân Quán không được nhập sơn để được vắng lặng trong niềm vui thiền định, nay đem thư đó kính trình lên Bùi công. Lại đang gói gém hành trang đợi hơi quang đãng thì sẽ lên đường. Nhưng Quan công không chỉ hiểu rõ nghóa lý, lại tụng Pháp Hoa, đèn tuệ đã sáng tỏ mới lắng trong nước định, kính mong xà-lê đức ngang bằng Đạo An, Tuệ Viễn mà đạo vượt xa Ấn Quang, xa gần đều kính mến chống tích trượng gom mây, tiếp nối tượng pháp vào lúc sắp hủy hoại, để cứu giúp buổi hôn mê mông muội, hiển bày ánh sáng còn lại của mặt trời tuệ giác nhờ đó nhờ đó giúp đỡ cho người phàm tục khắc bạc. Bao gồm Sơn Âm họ Khổng, xả bỏ ruộng đất tốt tươi để cùng nhau canh tác; Bảo Nữ họ Diêu xả bỏ của cải thanh tịnh để giúp đỡ rau dưa, thiền đường đi lại tu tập, lương thực không lo thiếu hụt, không có các nhân duyên lành, cũng đều tùy hỷ đệ tử. Vật mọn chân thành cúng dường, nguyện đừng vì sự giúp đỡ đối đãi mà tiếp nối ý đồ chúng để thêm ưu phiền, nhờ vào phược nghiệp ấy ngõ hầu ngăn chặn những phiền muộn buồn lo; dựa theo sự huân tu này mong muốn chịu ơn phù hộ ngầm kính! Đệ tử Trần Tónh Tuệ kính lạy. Vương đưa ra kinh tượng vào Thiên Thai: Một pho tượng ngồi bằng đồng dát vàng, một bộ kinh Niết-bàn, một trăm cây nến (chúc), hai mươi tấm phướn lớn, một trăm xấp lụa mộc (quyên), tịnh nhân Bạch Thạch và tịnh nhân A Cam. (Hữu điệp). <詞>SỚ THỈNH CỦA TRẦN NGHÓA ĐỒNG CÔNG THẨM QUÂN LÝ. Đệ tử Bồ-tát giới Ngô Hưng Thẩm Quân Lý kính lạy: Thầm nghe Đại thừa ấy là thừa của bậc Đại só, cao rộng vận dụng khắp nơi thẳng tiến đến đạo tràng, lại làm thành bốn y chu toàn sáu đường, kính mong đức dầy lónh hội văn kinh sâu sắc, đối với năm thệ, đầu tiên thỉnh cầu khai mở đề kinh Pháp Hoa, trong một hạ vẫn cứ trình giảng giải, đạo- tục đều chiêm ngưỡng, xa gần đứng đợi ngợi khen, Từ bi lợi ích không trái với bổn nguyện, kính cẩn lễ lạy. <詞>THƯ CỦA TẢ BỘC XẠ TỪ LĂNG ĐỜI TRẦN. (Thư của Từ Lăng rất nhiều, môn nhân tranh nhau giữ, đi tìm khắp nơi chỉ còn được ba bức và nguyện thư). Từ Lăng kính lạy. Trước kia cùng pháp tịch với Thẩm Nghi, thét gào đòi ăn cam lộ vô úy, tất cả đều quy phục, thắp lên ngọn đuốc chánh pháp, soi sáng những người chưa ngộ, tự mừng hơn năm nay được gặp thuyết mầu, tìm tòi sự việc mưu hỏi triển khai tâm này không nói rõ, kính cẫn lễ lạy. Từ Lăng kính lạy, tâm khát khao kính ngưỡng khó có thể phơi bày đầy đủ. Ngày đến gặp được ý chỉ vào ngày hai mươi tháng ba, vì vậy yên lòng tích lũy tháng năm quyết tâm làm thế nào trong thể chất được vắng lặng, nguyện một ngày bình an thanh thản, vui cùng xuân hạ trong chốn núi rừng không còn chướng nạn phiền não vây quanh mà thôi, dần dà khôi phục lại ý chỉ đang còn. Đệ tử hai ba năm nay, bỗng nhiên già cõi, mắt mờ tai điếc, tâm mê khí bít, cho nên chẳng còn là con người, cùng lúc năm ngoái đứa con thứ sáu bị chết non, đau đớn sinh bệnh do đó không chữa khỏi, nào ngờ giữa tháng này lại có chuyện buồn, nhiều năm như vậy suy nghó rất nhiều trở thành sâu sắc, tự nghó cuối đời không thể khôi phục lại đôi chút khả năng, không biết từ đâu tiếp cận lễ bái để gắn bó nương nhờ, phải nói làm sao? Kính trọng Tảo Công nay còn muốn viết rõ không theo thứ lớp, đệ tử Từ Lăng kính lạy. Từ Lăng kính lạy, nghe phóng sinh, phóng đăng, đoàn thể rất tùy hỷ với việc này, vậy trích ra của công chuẩn bị cẩn thận không cần bàn bạc chi nhiều, chỉ chầm chậm trích cho của công để kéo dài ra, mấy trăm dặm sông nước hoàn toàn là mạng căn đó. Công đức như vậy không tính toán hết được, tùy hỷ vô lượng, điều này không thể hỏi han đích xác, đệ tử Từ Lăng kính lạy. Dâng lên thiền sư Trí Giả năm nguyện của Trần Từ Lăng. Từ Lăng kính lạy. Đệ tử suy nghó ra khỏi cảnh cá chậu chim lồng không vì chuyện sống chết, gốc lành đã ít ỏi non kém, hy vọng vào nguyện lực để trang nghiêm: Một là Nguyện lúc khi qua đời chánh niệm được thành tựu. Hai là Nguyện không trải qua địa ngục trong ba đường. Ba là Nguyện liền trở lại trong loài người, sinh vào nơi chốn không cao không thấp. Bốn- Nguyện được đồng chân xuất gia, đúng như pháp thọ giới. Năm là Nguyện không rơi vào hạng Tăng só hủ hóa. Nhờ vào tâm thệ nguyện này để sách tấn sinh về Tây phương, nay viết rõ lòng son mong cầu minh chứng! Từ Lăng kính lạy. <詞>THƯ CỦA TRẦN SỬ BỘ THƯỢNG THƯ MAO HỶ (Gồm năm bức). Hết năm này đến năm khác kính mong gắn bó không dễ dàng có thể nói được, nay nhờ được mùa Hạ hành đạo ở Thạch Tượng, yêu thích và ao ước vô cùng. Lại nghe muốn ở Thiên Thai mưu lập đạo tràng, trước mắt ở hết mùa hạ mà thôi. Hộc trò xa gần quy y, lẽ ra nên chuyển thành nhiều, an tâm nơi rừng núi thôn dã để tự vui với pháp hỷ, giảng giải về Thiền không hề ngừng nghỉ, Bốn mươi hai chữ khiến cho gần kế, tuy ở lại nhiều thời gian nhưng đọc xong không thể hiểu được, không biết hỏi hang từ đâu, vì thế tiếc nuối ngày càng thêm. Lúc đó, Nam Nhạc cũng có thiền sư Tín Chiếu ở Nhạc Lónh, đồ chúng không khác gì lúc Đại Sư còn tại thế, Thiện Công ở núi giảng giải về Thích luận, nơi kia cũng áy náy dần dà hướng về, còn giềng nối đại pháp, không thể quy tụ nhiều đỉnh thành núi, thì cũng là nơi dừng lại của tâm, cần gì phải đi đến phương xa vào nơi đạo tràng hy vọng đừng quên. Kinh đô biên địa lẽ nào biết hồi hướng khuynh sắc nên hướng về Đông mà khóc lóc buồn bã, kính đức tín nhân nay trái lại viết rõ ràng chẳng đầy đủ. Đệ tử Mao Hỷ kính lạy. Đệ tử cùng các em và con cái, đều được bình an. Thứ hai nhận chức ở quận Bà Dương. Thứ ba làm Dư Chương Vương Ty Mã. Thứ tư Đại Diên Khanh. Thứ năm vào nội ác làm chức Độ Chi Lang. Vì con lớn đang là người nhà của Trung Thư ở Đông cung, kính mong được rũ lòng chiếu cố, để cho đại thiện tri thức, đại đồng học, thường được hỏi han xa gần. Bức thư tiếp theo của Mao Hỷ, cảnh sắc mùa Thu hãy còn nồng nàn mà đạo thể như thế nào? Thiền lễ phải chẳng tổn hại đến phước đức? Trạng thái bệnh già của đệ tử vẫn thuốc thang vô hiệu, cùng lúc không thể tự nhàn nhã, nên chuyển thành có sự khốn đốn như vậy, kính mong chuyển đến Phật Lũng. Mãi mãi sợ rằng không được tiếp cận nhan sắc, đau buồn than thở tột cùng, chỉ mong bây giờ lấy việc cứu tế rộng rãi làm sự nghiệp, giữ lấy núi không, lại sợ rằng trái với ý chỉ trùm khắp của Bồ-tát. Gần gũi với Từ Đan Vương và các thiện tri thức cùng nhau bàn bạc kỹ càng, đều là một núi, chung một đỉnh Thiên Thai cũng chẳng có gì phân biệt, tất nhiên hy vọng cố gắng suy nghó nhiều hơn, không vướng mắc vào bỉ- ngã. Kinh đô càng đáng nói Sư nương nhờ đôi chút, trích cho một phần trong số tài vật của Sư, nguyện kính trọng đạo đức, đệ tử Mao Hỷ kính lạy. Bức thư tiếp theo của Mao Hỷ, đúng lúc nhận tin của Mao Nhạc, sơn chúng đều bình an, đệ tử có trả lời và thuật lại đầy đủ tất cả. Sau tin đến sẽ có lời từ bên ngoài. Nay dâng biếu thay tấm Tiên hương, hai cân huân lục hương, ba trăm quả cau. Không thể nhiều được mà bày tỏ tâm tư xin đừng trách mắng! Đệ tử Mao Hỷ kính lạy. Mao Hỷ lại viết. Chúc mừng sự thương lượng, nay mong cơm ăn trình bày đầy đủ, nhằm để dạy bảo rộng rãi, đạo tục than thở ý vị, Bát- nhã chiếu rõ ràng, lẽ nào là từ ngữ vụng về xưng thuật sở năng? Đệ tử Mao Hỷ kính lạy. <詞>VĂN BIA PHÓNG SINH CỦA THIỀN SƯ TRÍ KHẢI TẠI CHÙA TU THIỀN NÚI THIÊN THAI. Trần thông trực tán kị thường thị quốc tử tế tửu Đông hải Từ Hiếu Khắc biên soạn. Thái dịch vô thể, vì vậy chủng loại đều bình đẳng; Thái nhất vô danh, đến con người liền đó thiết giáo, nương vào quán phủ pháp xa thì giữ lấy mà bên cạnh thì tìm cầu, gồm đủ cả ba bởi vì tài cán, thổi phồng muôn loại giữ gìn nội dung. Xây dựng cung Đài Huyễn thì Nhạc làm nơi trấn giữ, phân rõ ngay thẳng trăm mục cho nên Tứ Độc phân chia phẩm loại, cung Tịnh Y ngắm Bát Hoành, cửa Tạc Long chứa Cửu Trạch, nhân bát quyết tập hiểm để lợi ích cho dân, cây tượng sinh bốc lạc để quân vương lớn thêm quẻ khảm, thời dụng to lớn như vậy! Hoàng Đế ta, tác Thánh ngưng thần nhân ý đồ ngự lục, vô vi vô dục, đạo khế hợp với Phần Dương, thùy củng thùy y đức sâu đậm, cùng chí trị, thần tượng trinh minh, quản khôi hợp tự, phương ngoài không đắn đo, hải nội có ngăn chặn, phủ trùm phong ngã cho hoa to lớn, nồng đượm ung hi đối với thời trước, vòi vọi thay khó có thể xưng gọi! Đến như Quang Khải, Pháp Thức phô bày cây đạo tươi tót, làm cho sáng tỏ mười điều lành, cứu giúp tất cả bốn sinh, thiền sư Trí Khải chùa Tu Thiền núi Thiên Thai, chọn rau lá tự mình thực hành tiết hạnh gian khổ, Vâng mạng giương cao hoàng phong Tổng Trì tượng quí, Thiền sư, người họ Trần ở quận Dónh Xuyên, là con cháu của Hữu Quy. Tứ hữu kính nể ngài xa nghe đa mỹ lục kỳ, xếp vào hàng ngôi tước Thế tải, Hiền tổ đó giải thích về thế gian từ lâu, khởi Tổ Lương sử trì tiết tán kî thường thị ích dương huyện khai quốc hầu. Thiền sư đồng chân xuất gia, thông minh lanh lợi dễ giác ngộ, sống ở kinh Hạp, du hóa ở U Tinh, từ Bắc đến Nam, gồm cả hai hạnh Thiền Trí, Vũ Huyệt được tìm đến Đài Sơn bói thử quả là. Đường Bạch Kê lộ rõ núi Thanh Tủy mở ra, quế kéo lại kết thành chữ vắng lặng nghỉ ngơi, rừng cùng Ngũ Liễu đã sực nức hương chiên đàn, tháp hiện ba tầng cao vút treo lên sắc màu thủy tinh, núi cao vút tầng mây nhạc trời không gảy mà tự kêu, hình hài sáng ngời trong thạch thất yên bình không hình tướng mà còn lưu bóng ảnh, đỉnh núi đẹp đẽ cao chót vót sóng nước dập dềnh mênh mông, sóng lớn phản chiếu ánh sáng hắt lên tỏa xa bao bọc lấy không gian, suối lớn có cây tùng cao tận mây, che khuất mặt trời, tập trung bay lượn vòng quanh chứa nhóm nuôi dưỡng vật quý vô cùng. Trong lòng đất cất giữ ngọc quý xem gậy chống uốn khúc mà dể dàng phân biệt, dưới vực sâu châu ngọc, chìm xuống thấy trọn vẹn dòng chảy nên có thể khác nhau, thần thông mở bày trí thức, như ý bày cửa quê nhà, chống tích trượng chú nguyện suối vọt lên hư không múa hát, nhận lãnh tiên đan hình dung tràn trề, nước chảy xiết mạnh nơi thời đến, tránh khỏi cung điện chân nhân, thừa dịp gió trở lại mà về đến, quyết thổ hoằng trần, linh sấm tư tại, Thiền sư phước tuệ tư cơ trong sạch lợi ích. Chả trách tướng quân mạnh mẽ vào trong biển cả lịch sử suy nghó hãy còn giáp trụ công lao của con trai, thế gian hiển bày phương thuật bán thuốc lên cõi tiên, nghe từ Hán ngày xưa, phân biệt phù tiết để vâng theo, tức là thời Minh, thỉnh cầu xoay bánh xe pháp, giải thích kinh Kim Quang Minh, trước đó Vân Kî tướng quân Lâm Hải nội sử Trần Tư Triển, cho đến vẫn còn con, đó là Trần Yếu Khanh, chính là người ở đây. Nhung chương y tú tốt đẹp thứ lớp gia đình nước non, Thiền sư Phụng Khuất tiếp theo giảng kinh Pháp Hoa, ngà trắng quạt tròn đầu tiên mở ra cửa ngỏ Luật tạng, ngọc khớp với phần còn lại của cõi trần, kề sát suy diễn kệ của kinh vương, hệ châu bắt đầu khuyên răn bạn thân từ bỏ say sưa, mộng đánh sắp vang thì Phạm-Ma nghi ngờ sai khiến, do đó bèn cùng trình bày, chân thành khuyến khích giải thích rộng rãi về tai ương phước quả. Còn con vẫn cứ khen ngợi bảo cho chủ ấp nghiêm khắc tiếp nối Tổ Dương Công chúc mừng sánh với bậc hiền nhân. Tất cả một trăm người quân tử tin tưởng thề thốt lập nên điều ấy. Lòng son thành thật vâng theo, thường xuyên giải thích hài hòa về bạch nghiệp, than thở như đã qua cây đường lê, liên tục khen ngợi duyên sau này của điếu bộc đều xả bỏ nghiệp ác và các (chỗ đơm cá) gồm có sáu mươi ba nơi, hai duyên thọ hạ xướng lớn lên rằng lành thay! Năm tuần trên tòa từ xa nghe tiếng búng ngón tay, biển cả vô bờ trong phút giây vắng lặng, vô biên chúng sinh cùng chịu ơn an lành vui sướng, tay giơ cao thế giới chưa vượt quá nan tư, tay nắm giữ hư không chẳng gọi là ít có. Điện hạ Quế Dương Vương là người cao quý của hoàng tộc, suy tư tốt đẹp tỉa bớt bình thường tình cảm kính trọng, thông suốt giải thích, nói ra ý chỉ của Huyền Hà gõ nhịp chứng minh, hiển bày hình hài của bán nguyệt, tâm rất tùy hỷ, năm hầu ba kiệt không hề ngăn cách, hoàng phát thanh khâm thảy đều hăng hái, chứa nhóm các triện tố thanh biên lạc giản, cây lấy trinh bài tiếng thơm chẳng dứt, mượn lệnh núi dừng biển chuyển động, tuệ thí đẹp đẽ vẫn còn truyền bá, quy các thệ hung công lao siêng năng, không phá hủy Hiếu Khắc mới xấu hổ vô cùng. Sự học rơi rụng hơn ba xuân góp lại thu săn bắn, từ lâu dứt bỏ vấy nhiễm dừng ngăn, viết dải áo quan vẽ vời mặt đất đã từng mưu toan miêu tả điều gì? Tuy lại bày ra ao hồ, và lẽ nào bí mật làm phỏng theo ngôn từ mầu nhiệm? Nhìn đá khắc vỏn vẹn không có thể rơi lệ, mong cầu thượng thiện huân tâm! Âm thanh trong trẻo của sơn thủy càng cao ước, chí nhỏ đôi lời bộc bạch bén làm bài minh rằng: Thiết lập vị thế quán tượng, phân tích bày rõ tự nhiên, mênh mông phẳng lặng to lớn, xanh ngắt đó dùng tôn quý, sông chảy dòng lệ buồn đau, mạch đất liền với nguồn sông, dẫn thông bàn bạc Vũ vương. Vì lấy giữ cao hiên, than ôi gờ đất công đức, vô cùng thay hỡi khôn nguyên, thuần phong nay ở nơi Lạc độ, vua đến ngắm xem gởi gắm, rõ ràng hiếu thuận bình yên. Đẹp lòng Thánh chủ nghiêm cung, đương kim đạo cao đức trọng, công đức cao như người xưa, chúc mừng hiệp lực điềm lành, đẹp tươi đều muốn vỗ về, nhờ nhân đức lay động, cây, ao đầm và hiên nhà xa, Thích chủng dòng họ cao quý, tư chất thân thể bầu mướp, không phải thích phận ngọc khuê, quy tâm cảm nhiễm phục tùng, từ khước duyên buồn lo kia, lời nói ban cho u cốc, chí nhờ thông tùng tre trúc, hình tùy theo cây gỗ khô, bảy Giác chi khó dẫn dụ, năm cảnh thiền trong suốt yên, không xa nào mà chẳng đến, chẳng suy nghó nào không hợp, tướng quân đứng đầu đất nước, ấn mang vai tiêu trời tội lỗi, thục nữ sánh cùng lương phu, dân nghiệp coi trọng của cải, không mở lớn về mười minh, lẽ nào đuổi theo trăm bội? Không nhìn thấy những ham muốn, quên lòng không đợi chờ, đều xả bỏ các nguồn hàng, cùng thành tựu trong biển Phật. Quyết chí mông muội tối tăm, ngước nhìn xa chỉ hư không, bảo vệ sư đưa tiễn mưa, các con giương cao ngọn gió, vẩy cá côn từ phương Bắc, ngoài cùng cực của phương Đông xa xăm nuốt mặt trời, sống đã từng dạt cỏ bồng, giống như ở trên mặt đất, tối tăm như ở dưới núi, sông kinh trong, sông Vị đục, hướng theo tông chỉ sẽ đồng, Thiên Thai tiếp giữ tiết tháo, Lâm Tuyền khuấy động mạt vụn, đỉnh bày ra ba thần cách, ngọn nguy hiểm có chín triết, thác nước trên cao rót xuống, hình dáng thần kỳ thanh bạch, tiếng vang như sấm lao nhanh, trắng trong như tuyết sáng ngời, mùa Đông rét đậm không ngưng, nắng nóng không hề khô cạn, cầu đá xa tít mịt mờ, ánh mặt trời soi chiếu suốt thông, ngữa lên bầu trời trong xanh, cúi đầu gần đến hang đỏ, đường chim bay mây thông tỏa, con đường người lại bặt lối, vũng bể khó mà giới hạn, hàm tình ngược dòng mang theo, gào khóc nguy hiểm vô cùng, muôn muôn lại đến ngàn ngàn, gõ mang cá gỗ lắc đuôi, cùng hướng về nhau tự nhiên, mạng tường đá không treo mắc, tùy ý móc vào không dắt, tiếng ca mệt mỏi lặng yên, âm vang tiếng thớt hết tanh, làm xong sự nghiệp to lớn, hoằng sinh là điều thứ nhất, bỏ cây đích xác quy định, che rào nhắc nhở điều ấy, nuốt vào chim hạc linh thiêng, thần thái an không tôn kính, tùy đó cảm ngọc sáng, vào kỳ hạn mái hiên che, biết tán thưởng biểu hiện tín, kín đáo bốc lên dựa vào, ôi qua đi vực lo lắng, sóng lớn dễ dàng chuyển biến, bờ cao cùng với hang sâu, bồng hải lại hoặc ruộng dâu, đá còn lại mấy rũ vung, rau cải hết vào năm nào, mặt đất sắp hồi rơi xuống, Tu-di cứ vậy thông suốt, gió lay đổ ranh giới vàng, ngọn lửa đến cõi Sơ thiền, tốt đẹp thay tánh nước, báo thân chuyển biến thường duyên. <詞>SẮC THƯ CỦA HOÀNG ĐẾ CAO TỔ VĂN ĐỜI TÙY. Hoàng đế cung kính xin hỏi Thiền sư Trí Nghỉ chùa Quang Trạch. Trẫm đối với Phật giáo thường nặng tình kính tín, xưa kia vào lúc Chu Vũ hủy hoại Phật pháp, phát tâm lập nguyện chắc chắn cho phép độ trì, cho đến nhận lãnh mạng phần ở cõi trời, vẫn cứ lập tức hưng sùng khôi phục lại, kính mong dựa vào thần lực bánh xe pháp tiếp tục chuyển, chúng sinh mười phương đều được lợi ích. Ví như vì có trình bày về sự ngược loạn tàn bạo, bách tánh khắp đông nam làm lao dịch không thể nào kể xiết sự khổ nhọc đó, cho nên lệnh cho tướng quân rời kinh đô trừ hại do dân, chốn Ngô Việt giờ đây được thanh bình vô cùng, đạo- tục lại an lành rất xứng hợp ý trẫm. Trẫm tôn sùng chánh pháp cứu giúp cho muôn dân, mong muốn khiến cho ruộng phước tồn tại mãi mãi, mọi chốn cầu bến không giới hạn. Sư đã rời xa lưới võng thế gian tu thân hóa độ mọi người, nhất định mong mỏi phần thưởng tiến vào hàng tăng, kiên quyết giữ lấy giới cấm, khiến cho người thấy khâm phục và nghe liền phát sinh điều lành, mới phù hợp với tâm đại đạo, đó là sự nghiệp xuất gia. Nếu thân đi theo đạo phục tùng, tâm nhiễm tục trần, chẳng phải loài hàm sinh không nơi quy y, ngửa lên sợ hãi cánh cổng pháp mầu lại sẽ phỉ báng, nên khuyên nhủ khích lệ nhau để giống với tâm của Trẫm, ngày xuân dần dần ấm áp mà đạo thể như thích hợp. Ngày mười sáu tháng Giêng niên hiệu khai Hoàng thứ mười, nội sử lệnh cho An Bình công thần Lý Đức Lâm, truyền cho nội sử Thị Lang Vũ An tử thần Lý Nguyên Thao, vâng mạng nội sử Xá Nhân Bùi Cử Hành. THƯ CỦA TẦN HIẾU VƯƠNG (Gồm hai bức). Chiều mùa Đông lạnh giá mà đạo thể thế nào? Pháp vụ gian nan vất vả, có vì thế mà phiền nhọc hay không? Chùa Phương Đẳng ở An Châu vâng lệnh Hoàng đế mà xây dựng sửa sang, Pháp sư Khuất hướng về đó để hành đạo, thật không đáng nói. Đã lệnh cho ty sở đó phân phát cung cấp, nguyện đem sự huân tu để làm sự hoài mong, không ngại vượt qua lợi nhuận. Đạo sâu xa kính trọng đức phân phát không cũng chẳng đủ. Đệ tử Dương Tuấn kính lạy. Ngày mười bảy tháng mười hai. Bức thư tiếp theo- Nghiêng mình ngửa mong ngày càng sâu sắc thật nồng nàn. Đạo thể của Thiền sư thế nào, tu tập không đến nỗi nhọc nhằn tâm tư chứ? Không vì có mở rộng mong chờ kết hợp, nguyện rất sâu, đức rất quý nên phân phát hết cũng không đầy đủ. Đệ tử Dương Tuấn kính lạy, ngày mười chín tháng năm. Kính dâng các thứ trầm hương như lúc khác, đến rồi nguyện xin xem xét tiếp nhận! Trầm hương mười cân, tiên hương mười cân, huân lục một ít. Văn điệp hèn mọn cung kính cúng dường. <詞>THƯ ĐÓN RƯỚC LẦN ĐẦU CỦA TẤN VƯƠNG Kim phong ngự tiết, ngọc lộ điều thời. Đạo thể tốt lành hài hòa với an lạc hạnh không, Pháp sư ẩn giấu chí ở lầu tâm danh sơn, pháp môn định tuệ, yên tónh vui sướng trong giới hạnh, sự huân tu rất nhờ, kế hoạch tốt đẹp đã lâu nhận được tin tức đức độ, làn gió kính trọng đã chứa nhóm hứng thú, vì vất vả nên mong muốn nhờ cậy vào tàu thuyền, vì vậy tách mây mù ra, cho nên phái người đi sứ, hướng đến Diên Khuất kia, hy vọng có thể tùy tiện hành động để tưới dội vào vạt áo khiêm tốn, đứng lặng hồi lâu hướng về hình dáng không trái với ý nhớ nhung. Đệ tử Dương Quảng kính lạy. <詞>THƯ NÓI VỀ CHÙA THIỀN CHÚNG CỦA VƯƠNG TRỊ Sâu sắc có đủ ý chỉ của sự khiêm tốn, nhưng cao nhân đi lại giao thiệp tiếp xúc ở chốn an lành. Như vậy, mưa pháp tăng phường cần phải hết mực nghiêm túc chính đáng. Trong kinh dạy bốn thứ cúng dường, không thể thiếu một, đã bắt buộc quan lại sửa chữa, tu bổ, nguyện xin quên đi lòng dạ để nhận sự giúp đỡ! Đệ tử là Dương Quảng kính lạy. <詞>SỚ VỀ VUA THỌ GIỚI BỒ TÁT. Sứ trì tiết thượng thụ quốc thái úy Dương châu tổng quản chư quân sự Dương Châu thứ sử Tấn Vương, đệ tử Dương Quảng cúi đầu lễ lạy. Phụng thỉnh chư Phật mười phương ba đời, Bổn Sư Thích-ca Như Lai, Bổ xứ Di-lặc sẽ giáng sinh cõi này, hết thảy tôn kinh vô lượng pháp bảo, sơ tâm trở lên, Kim cuơng trở xuống, Chư tôn đại quyền Ma-ha Tát-đỏa, Bích Chi, Duyên giác, Độc Thoát, Minh Ngộ, hai mươi bảy vị Hiền Thánh, tha tâm đạo nhãn cho đến cao nhất trong ba cõi, mười tám Phạm Vương, Thiên TỬ sáu cõi rời dục, Đế-thích thiên chủ, Bốn đại Thiên vương, Thiên Tiên rồng thần bay vút lên cao, ẩn khuất hiển hiện, tùy ý nắm giữ, thế giới làm nên, lợi ích rộng lớn, Vệ pháp giữ gìn tháp mộ phòng thân hộ mạng, vô lượng thiện thần bảo vệ tịnh giới, thảy đều nguyện trong khoảng một niệm, kế thừa thần lực của Phật cùng tụ hội đến đạo tràng, chứng minh cho thệ nguyện của đệ tử, nhiếp thọ cho công đức của đệ tử, thầm dùng tâm thức tối tăm, nảy sinh dấy lên chính là tánh Như Lai, vô minh cúi đầu rơi rụng, vốn chưa rõ ràng, lý số quy về đây, vật cùng cực thì trái lại. Muốn hiển bày quả đang là chắc chắn tích góp ở thân, là đấng Điều Ngự Đại Hùng thế gian trải qua đầy đủ sinh tử, cỏ cây làm thẻ không sao tính hết được, cát sông Hằng nhóm họp lại để bắt đầu, cố nhiên khó nghó bàn, hết sức ô nhiễm trong trần lao mới chán bỏ được. Pháp Vương bắt đầu chuyển vận vốn là hóa thân Bồ-tát, giống như mặt trời xuất hiện thì trước tiên soi chiếu núi cao, tùy theo căn cơ hòa hợp nên tạm thời làm phương tiện như những dòng chảy kia đều là họ hàng của biển lớn, đệ tử căn bản kế thừa sự nghiệp chứa nhóm duyên lành mà sinh ở chốn Hoàng gia, nhà dạy bảo sớm hướng về để lại dần dần giáo pháp vốn có, phước lý nơi chung chén thì diệu cơ phải ngộ, hổ thẹn gập gềnh ở con đường nhỏ hẹp, mong mỏi nhàn tản đối với Đại thừa, cười nhạo dừng lại ở chốn hóa thành, thề làm thuyền bè nơi bến bờ kia, nhưng muôn hạnh của người trước bắt đầu từ giới thiện, Bồ-tát nhập thọ, chuyên chú giữ gìn là trên hết, ví dụ tạo nên cung điện nhà cửa chắc chắn nhờ nơi nền móng căn bản, chỉ có gác giữa hư không thì cuối cùng chẳng thành tựu được, chẳng đo đạc làm sao biết được. Hoặc lại nghe Khổng, Lão, Thích môn, đều giúp đở, đúc nóng không có khuôn. Ta đem an bình chân thành kính mong, khôi phục lại th Năng Nhân chính là Hòa-thượng, Văn-thù-sư-lợi sâu xa làm xà-lê, nhưng nhất định mượn người thầy (nhân sư) truyền thụ rõ ràng. Thánh trao cho cái xa tự nơi gần gũi, cảm nên liền thông suốt. Tát-đà- ba-lôn hết thảy cốt tủy ở nơi cô kiệt, Đồng tử Thiện Tài quên đi thân mình cho pháp giới. Kinh có văn rõ ràng đâu dám trở thành nói phỏng? Tin sâu sắc lời Phật dạy, bèn theo sự dẫn dắt rõ ràng. Thiền sư Thiên Thai Trí Khải là bậc long tượng trong Phật pháp, đồng chân xuất gia, giới hạnh sáng ngời, tròn vẹn thanh tịnh, tuổi gần nhó thuận theo nước định lắng sâu trong vắt, nhờ vào vắng lặng mà phát tuệ an ổn, không trở ngại biện giải, trước là vật, sau là bản thân khiêm nhượng dẫn dắt, danh tiếng khắp nơi, mọi người đều quen biết, vì vậy đệ tử kính thành chú ý từ xa, giấu mạng xa xôi trì hoãn, mỗi khi duyên sợ hãi khác nhau gặp các điều làm cho khó dễ, cũng đã đến nơi dừng lại thì con đường tâm rộng mở, vạch mây mù liền dứt trừ phiền não. Kính cẩn từ nay ngày hai mươi ba tháng mười một niên hiệu Khai Hoàng thứ mười một, tổng quản trong thành thết đãi cơm rau mời ngàn vị tăng, kính thỉnh thiền sư Khuất truyền Bồ-tát giới, tên giới là Hiếu, cũng gọi là Chế chỉ, phương tiện trí độ trở về thân thuộc, hết lòng nuôi dưỡng. Đem phước nghiệp thù thắng này giúp đỡ Hoàng Hậu chí tôn, thực hành đại trang nghiên giống như Như Lai thương yêu rộng khắp, chư Phật yêu thương bình đẳng xem bốn loài chúng sinh giống như con một, đệ tử ngay hôm nay gieo trồng nghiệp La-hầu, đời đời kiếp kiếp sinh vào nhà Phật, như tám vị vương tử của Nhật Nguyệt Đăng Minh, như mười sáu vị sa di của Đại Thông Trí Thắng, nhân duyên quyến thuộc với bạn bè trong pháp thành, đều xuất hiện có dòng chảy đến chốn vô vi, bình quân sáu Độ, điềm tónh hài hòa với bốn hạnh chúng sinh. Chúng sinh vô tận cứu độ giải thoát không cùng tận, kết tăng-già đâu phải tâm ban đầu, cuối cùng đại Bi để đi cứu nguy nhân thế, lớn lao xa rộng như pháp giới, kết quả cuối cùng như hư không, thành tựu đầy đủ đều tràn trề biển nguyện. Dương Quảng kính lạy! Vương dâng biếu các thứ y vật lên giới sư, duyên Thánh chủng nạp cà-sa, hoàng văn xá lặc, ba mươi đồn miên (bông tơ) miên (bông tơ), cà-xa vải uất nê-nam, hoàng đi bố miệt một cụ, lụa mộc bốn mươi tấm, một cái uất-nê-ti bố đản, một chiếc hoàng trừu ngọa nhục, một đôi hài tử diên, tiền năm mươi xâu, một chiếc uất nên vân long lăng bị, một chiếc long tu tịch, mười cây lạp chúc, một chiếc uất-nê-la đầu mạo, một chiếc mền Tu-di, một cái nghiễn, đồng một ghế ngồi cao, một đôi ô bì lữ, hai thỏi mực, một chiếc hoàng ti bố bối đang, một cây nam lưu chấm, một hộp hòa hương, thiếu tích trượng một cây (thấy vẫn còn), một ống tượng nha quản, một ống trần vó, một cái bát sắt đen (và túi đựng), hai ống ban trúc bút, một cái cân đồng, một chiếc tê giác như ý (và hộp), một cây bạch đàn khúc kỉ, ba chiếc đồng trọng uyển, một chiếc luân thạch hương lư liêm, một giường sơn thủy thắng, đồng tao lao một chiếc, một chiếc đồng hương hỏa bảy cân, một cây bạch đàn chi giáp, một chiếc đồng tháo quán, một cây nam luận giáp tất, một cây đào trúc dăng phất, thiết tiển đao một chiếc, bồ di văn mộc án tịnh nhục, một chiếc tê trang trảo đao, một chiếc thiết thế đao, một cây hoàng ti bố ẩn tương, một cái tử đàn cân tương, một cái thiết nhiếp tử, một chiếc bạch ngõa thóa hồ (và khăn bịt) một cây thị tâm bút cách, đồng chút kình một cái, một cái luân thạch trang thị tâm kinh cách, một chiếc tê trang thư đao, một chiếc bạch đoàn phiến, sư nghiêm giáo tôn (bên phải bốn chữ Trảo), hỷ xả cúng dường (bên phải bốn chữ Long), tạp não dư khí (bên phải bốn chữ Thông Châm), Duyên giác xâm đoạn (bên phải bốn chữ thùy lộ), hàm đăng thường lạc (bên phải bốn chữ Phi Bạch), khởi như Bồ-tát (bên phải bốn chữ Đảo giới), năng thí sở thọ (bên phải bốn chữ Ngư), Thanh văn thị chứng (bên phải bốn chữ Khoa Đẩu), giới định tuệ mãn (bên phải bốn chữ Triện), khổ tập diệt đạo (bên phải bốn chữ Đại Triện), một chiếc cốc bì bình phong (viết các chữ Trảo,Triện, Long, Ngư, Khoa, Đẩu, Phi, Bạch, Thùy, Lộ, Đảo, Giới), tịnh nhân thiện tâm năm thứ mười một. Hữu điệp, ngày hai mươi ba tháng mười một niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười một. (Vương vâng lãnh tên gọi trong giới là Tổng Trì Bồ- tát, trong thư-sớ bắt đầu sử dụng pháp húy đệ tử, Tổng Trì kính lạy). <詞>THƯ VUA TẠ ƠN. Liễu cố ngôn hoàn phụng chỉ, rũ lòng nên tỏ sáu thứ xả, thí và gìn giữ thọ dụng, đệ tử một ngày cung kính bố thí, vẫn còn vì sơ sài đạm bạc không xứng với tâm vốn có, ý chỉ đến đã đem truyền thí, công đức càng trở thành tăng thượng, ruộng phước bi kính rất là bình đẳng, cố nhiên chẳng phải che đậy kiến thức, sở năng đều thấy, mỗi sự việc kính mong nương vào những gì lưu lại đó. Đã lấy nguyện không nhiều bình thường giữ lại sự thọ nhận, vì thế cho nên cắt cử đền đáp hỏi han. Kính cẩn bái lạy. <詞>THƯ VUA THAM KHẢO. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Thực hiện giới dài lâu ở giữa cõi tục đều chúc mừng khuất phục, ấy là chỉ có nhã ra, đưa vào thiền tuệ, cùng lúc vui vẽ hoà thuận. Đệ tử vâng lệnh lãnh thọ đến nay, thô thiển yên lặng thâu nhiếp, phái người tham thừa. Kính cẩn bái lạy. <詞>THƯ VUA THỈNH Ở LẠI. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, đến nay dạy bảo thì phải hướng về kinh Sở, thoái thác đến mức đầu đuôi, kính mong đầy đủ hoài niệm cao vời, nhưng chỉ vâng lãnh tịnh giới thì sự thành tựu vừa mới như thế. Xưa vốn ngưng trệ không phải là nhàn hạn mưu hỏi quyết định. Xà lê, Hòa- thượng trong kinh gọi là ruộng tốt, hạt giống khi gieo xuống có mầm non tươi tốt nhưng chưa có rễ, mới dùng tâm hình mãi mãi duỗi ra cúng dường, ngõ hầu nhờ vào nghiệp lành dẫn dắt, tẩy sạch trần lao. Hễ mất đi cộng duyên thì nương vào nhờ cậy có chốn, đó cũng là tàu thuyền, bao gồm chuyển vận, lợi ích rộng lớn và nhiều. Như Lai hóa thân dẫn dắt, việc gì phải trở về Thiên-trúc? Bồ-tát ứng hiện biến hóa vốn không quy định phương nào, nguyện sâu xa thản nhiên dùng cái rỗng không để thọ nhận vật, chầm chậm kéo dài ra lễ nghi trực tiếp hướng về mưu hỏi sự sút kém. Kính cẩn bái lạy. Khai phủ Liễu Cố nói: “Tuyên truyền khẩu giáo rằng: Trí Giả là vị sẽ đi lâu lại có thời hạn trở về”. Ý đệ tử không muốn đi xa cách biệt, nếu tức thời trở về không dám lưu lại. Xuống nơi thị trấn gần núi thì tùy đó mà cư trú vui vẻ, chỉ muốn vâng giữ, lại phải tiếp đãi, ngày mười tám tháng hai cùng qua thị trấn Diên Lăng, vẫn cùng đến nghỉ lại, đợi khi trong sáng mới thực hiện, tống biệt với người kia. <詞>THƯ VUA GIỮ LẠI. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, tôn chỉ đến thì phải giữ lấy để trình bày, hai ngày sắp cách biệt, mà sự tu tập lại chưa hoàn bị, thì rất đau lòng nức nở. Đệ tử cả đêm hôm trước càng thêm quen thuộc, chỉ nghỉ về Trí Giả. Từ khi dừng lại đến nay chưa trải qua một mùa Hạ, gồm cả an cư nơi đường xa ở kinh Đàm, gần kề sông nước mênh mông cuồn cuộn, hành trình khó có hạn kỳ. Đã đến chốn này, lại đến nửa chặng đường ở chốn trước, kết thúc mùa Hạ tìm lại cũng khó, lại dựa theo kinh luật, cúng dường tăng an cư trong một mùa Hạ, ruộng phước thật vô lượng, huống chi là vực của sư-đạo và đại chúng ư ? Phàm phu cạn cợt bé nhỏ vốn nhờ duyên tốt giúp đỡ, Bồ-tát đại Bi phải thọ nhận sự ứng cúng, cuối xuân hành đạo, chống đối đầu hạ hướng về đạt đến, chín tuần đừng làm trái mà bốn thứ, cần dùng rỗng không vứt bỏ, tu tâm và lý ở chỗ tình, không phải là an ổn. Nay muốn nương nhờ lưu lại qua mùa Hạ, nên sinh ra cắt cử, hy vọng không phải giữa đường sương gió tung bay mà được nghi ngờ. Dưới huyện thành ồn ào thấp trũng phải dựa vào góc rừng để an cư, mượn núi non cũng nghó là tiện lợi, nếu tuổi pháp sắc đầy đủ, trước nên ghìm lại Tưởng Châu sắp xếp thuyền bè, phía lộ Nam rõ đá, phía Tây nổi đầy vật lạ. Đã nhân thời tiết trong sáng, nhờ đó có thể thuận gió, đi hay dừng lại thích hợp thì sự lý đều thông hiểu. Nơi này chốn kia, mong rằng tùy đó chọn một, ý không thể tận cùng thì từ ngữ đâu cần nói ra nhiều. Cung kính bái lạy, ngày mồng một tháng ba. <詞>THƯ VƯƠNG ĐỒNG Ý ĐI. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, đến bây giờ ý định muốn thỏa mãn với tâm trước đây, công đức nhân duyên đâu dám ngang bướng làm trái? Kính vâng tuân theo túc nghiệp, lập tức lệnh cho địa phương sở tại triển khai phân phát từng ngày, cách sáng sớm ngửa mong tùy ý nói rõ sự chọn lựa, Ngõ hầu giải Hạ chẳng xa xôi, nước hồ thu thừa lưu chuyển, ban cho lời đáp thỉnh cầu hạn kỳ, chắc chắn sẽ không dễ chịu, dùng sự vui mừng này, để dứt trừ sự đau thương nức nở, cung kính bái lạy. <詞>THƯ CHƯ TĂNG Ở TƯỞNG CHÂU NÓI VỀ HỦY CHÙA. Tuệ Văn chùa Phụng Thành, Pháp Lệnh chùa Long Quang, Trí Thắng chùa Quang Trạch… cúi đầu chắp tay kính lễ. Dựa vào mắt thấy sai người đem phù tiết làm hỏng các chùa hoang vắng, nếu chính mắt thấy được toàn bộ cùng với sự phá hoại, cho đến có tăng, không có Tăng, phá hủy dứt bỏ rất nhiều. Hàng phục chỉ có Bồ-tát Đại vương, gieo trồng gốc tín sáng suốt lớn lao khởi công xây dựng Tam Tôn, từ hòa nhân đức cảm hóa mọi vật lữ nào không mở rộng hộ trì Phật pháp, để tâm đến chùa tháp hay sao? Nhưng tăng đồ ở vùng này, chớ thấy hủy hoại hoang phế mà tất cả có tâm buồn lo sợ hãi. Đại vương tuy soi chiếu giống như mặt trời buổi sáng, mà Thánh đức cao xa muôn loài đều dốc lòng kính mến, không nguyên nhân gì mà dễ dàng thấu suốt. Hàng phục chỉ có thiền sư Trí Giả, đạo tục quy y chỉ có những lời khuyến khích, toàn bộ thiện là trước tiên, các văn không đo lường bình thường hay sâu xa, hướng về kính báo, tất nhiên nguyện cầu chuyển vận đại Từ bi, rũ lòng vì trình thưa biểu đạt, đặt biệt chùa chưa bị hủy hoại, mới được an toàn, dám nhờ hộ trì, thì đây là sự kính mong cầu khẩn, cung kính bái lạy. Ngày mồng tám tháng hai niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười hai. <詞>THƯ NÓI VỀ CHƯ TĂNG Ở TƯỞNG CHÂU. Nay được thư của Luật sư Tuệ Văn chùa Phụng Thành ở Tưởng Châu, kính cẩn trình lên để phân tích, kính mong chỉ có giúp đỡ giữ gìn Tam Bảo thực hành tâm từ của Bồ-tát. Mấy năm qua giặc cướp đồng thời hoành hành, đốt cháy chùa tháp, nhờ kế thừa nên ra sức xây dựng, bảo dưỡng ngay ngắn, tức thì khiến cho Phật pháp an toàn, đạo tục được nhờ cậy. Thu dọn kinh tượng lưu thông khắp nơi, khen ngợi công đức đầy mọi ngả đường, ngậm ân sủng khắp mọi nơi chốn. Xưa ở quân đội đang trong trận mạc vẫn còn có thể mưu đồ, huống chi ngừng võ hưng văn, mới bằng lòng hiện bày ánh sáng hay sao? Đến nỗi như Tuệ Văn đã nói rõ, loại bỏ chốn già-lam chắc chắn do người ở cung sở phần nhiều sinh ra hiểu biết kỳ quái, đến mức khiến cho tăng bên ngoài lo sợ nghi ngờ buồn rầu, kinh hãi không yên. Bần đạo thường nghó không thể sai lầm là tri thức. Nếu nói về yêu quí thân mạng hình hài thì lẽ nào dám nói trái với cửa công? Đặt biệt là liên quan với Phật pháp, cũng do chuyện hương hỏa mà làm nên những đại ý, chỉ lo về đạo lý sâu xa, thà rằng quên mất thân mạng hôm nay, chắc chắn còn lại sự luận bàn về sau. Nếu không kể rõ ngu tâm thì uổng phí với sự, lại trái với ba mùa hương hỏa quen thuộc, vậy là người nào ? Ở nơi cung điện, ty sở chỉ sợ hãi việc trừng trị, đâu suy nghó đến nhân tương lai thiện ác ra sao. Nên nguyện Thánh đức tôn nghiêm, dấn bước trên con đường an ổ, phước lộc cao trọng mà không hiểm nguy, tu hạnh Bồ-tát làm rường cột Phật pháp, tường hào bảo vệ Tam Bảo, đầm sâu phù hợp bốn biển, phong cách thơm lừng muôn đời. Nếu cho rằng chùa nhiều châu ít thì đất nước hoặc là không xem xét phán quyết, phương tiện khéo léo, kính mong nghe theo mà an lập. Nếu phải đảm nhiệm tạo lập lo liệu mềm mại thành hoàng, quê hương tre gỗ là Giang Nam, đẳn tre lấy gỗ càng dễ dàng. Kính mong kế thừa làm cho lớn mạnh, cất nhắc những gì sắp chìm đắm. Vì nếu chùa còn lại thì phước mới tạo càng thêm lâu dài, mong mỏi được thương tiếc cho phép u hiển thấm nhuần ân huệ. Pháp sự cầu mong truy tìm sâu xa, sợ sệt và hổ thẹn. Sa-môn tôi cung kính trình bày. Ngày mười một tháng ba. <詞>VƯƠNG TRẢ LỜI VIỆC Ở TƯỞNG CHÂU. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, liền đến ý chỉ cao vời bốc lên từ tăng ở Tưởng Châu mà đến. Trộm cho rằng tăng ở các nơi hướng về chùa Phật, ăn chỉ là phần bảo vệ, tịnh xá đã lập nên vốn dựa vào làng mạc, mấy năm qua vâng theo chiếu chỉ chuyên môn chinh chiến, cứu người dân trừ bạo ngược, Gia Đông trộn lẫn, đất liền lại yên ổn, tướng tháp an ổn vững chắc, thị thành không thay đổi công việc. Ấy cũng là cái thấy sáng suốt chu đáo của Trí giả, mà mất ân cần chơi đùa với dân, không thể dần dần hoài niệm. Trái lại khiến cho chùa tháp bị thiêu đốt. Nếu như gần đây nhà cửa trôi lăn tản xa, chuông chùa ngừng vang, gà chó không nghe kêu, phế bỏ chùa viên giống như nhà lữa, cầm bát hơi thành tựu trở lại trống rỗng, Tăng chúng không chỗ nương nhờ, thật đáng đau thương than thở! Nơi kia hết phước mới trở thành gò hoang, những nhà tháp còn lại vốn không bị hủy hoại hỏng nát, nơi đó có tăng xuất hiện cũng cho phép trú ở phòng ốc, chỉ có điều là hành lang trống rỗng, mái hiên nhà có thể sẽ sụp đè, cho nên chuyển đến nhà ở trong chùa Hoàng Sung, bên ngoài có ván rui tạm thời mượn để xây dựng tường thành. Nếu chùa trống rỗng, hành lang chật hẹp, người có hoàn toàn cũng vây mượn làm công sở, phải trong một hai năm triển khai để an ủi sức dân. Tức là ở trên sông kết bè để thực hiện cái mới, vốn ghìm lại để ty sở có đủ trật tự thông suốt hạng mục. Không suy nghó cẩn thận tỉ mỉ, sợ rằng xa xôi tăng không thể thấy điều ngoắt ngoéo. Sắp xếp sử dụng nương vào xằng bậy, phải đưa ra lời nguyện ngầm giấu các bàn tay đó, thấp hèn kéo dài đầy đủ, tính toán lưu luyến nghiêng về rất sâu sắc, kính cẩn bái lạy. <詞>THƯ NÓI VỀ CHÙA KHUÔNG SƠN. Chùa Đông Lâm thuộc Khuông Sơn ở Giang châu, là nơi Tuệ Pháp Viễn sư đã sáng lập nhạn môn vào đời Đông Tấn. Tuệ Viễn là bậc cao túc của Di Thiên Thích Đạo An. Đạo An là đệ tử của Đại-Hòa- thượng Phật Đồ Trừng. Ba đức cùng kế thừa giống như mặt trời, mặt trăng, các sao, thật sự là rường cột của Phật pháp mà mọi người đều không thể nghó bàn. Nhưng Tuệ Viễn trong thì an nhàn không hoàn toàn hài lòng mà ngoài thì quen thuộc ba huyền, đức phân rãi khắp phương xa, danh tiếng cao vút trời xanh. Đầu tiên đến chân núi nương dựa một khu rừng, cùng thiền sư Da-Xá hành hạnh đầu-đà ở đó. Hoặc nói, hoặc im lặng, tu tập quán Tây Phương, cuối cùng bên phải khu rừng xây dựng nên ngôi già-lam, do đó lấy tên gọi là chùa Đông Lâm. Tuệ Viễn từ lúc sáng lập hai đài Bát-nhã, Phật ảnh, cảm tạ lịnh thiêng chuyển vận xuyên thủng, dòng chảy vào hồ ba nơi, Lương Hiếu Nguyên cấu tạo có lầu gác, chùa viện nghiêm trang ngay hôm ấy đã sừng sững. Chùa Phong Đỉnh là do Thiền sư Trai Tuệ Cảnh, người cảm sơn mời đến, vì dừng lại đỉnh đó. Tiếp theo Lương Tuệ Quy về sau lên nghỉ, mới xây dựng già-lam. Đỉnh có suối nước bỗng nhiên khô cạn, Tuệ Quy đốt hương chú nguyện thì dòng nước trong vắt lại tràn đầy, trời tưới xuống cam lộ vào ngày nê-hoàn. Ấy là vì đức người trước nổi tiếng khắp nơi, lưu truyền thơm tho không dứt. Ráng thông trong suốt khoáng đạt, nơi tiếp xúc tiêu điều, công và tư qua lại chẳng ai không hướng về. Từ lúc đại hóa bên trái sông lớn, bần đạo noi theo lối cũ đến núi kia, dừng lại nghỉ ở Đông Lâm, thời gian dạo chơi Phong Đỉnh lấy năm làm ngày, ao nước ngắm nhìn quên vất vả. Nhưng già-lam dưới núi lại gần trạm dịch đường đi, người đi đường về rất nhiều thành ra lẫn lộn, nay kính đề nghị làm đàn việt của hai chùa, ngõ hầu nhờ vào ảnh hưởng mà tâm chúng được an ổn, lễ tụng thành kính dùng ý báo đáp đầm lớn, đồng thời cầu xin ghìm lại lý do kia, mãi mãi ngăn cấm công và tư neo đậu. Sa-môn tôi cung kính trình bày. <詞>THƯ TRẢ LỜI CHO KHUÔNG SƠN CỦA VƯƠNG. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Rũ lòng chỉ dạy nói rõ về chùa Đông Lâm và chùa Phong Đỉnh ở Lô Sơn, Tầm Dương thuộc Giang Châu, cần phải ra lệnh cho đệ tử cùng làm chủ đàn việt, sơn lónh vòng vèo thanh tú phía dưới thuộc về giang Hồ, hương lư lớp lớp đỉnh ngọn phía trên thiếu mất mây trời, nơi người tiên chấm dứt tội lỗi, ẩn giấu thứ lớp ở chỗ này không quay về; huống chi pháp sư Tuệ Viễn kết cấu thắng ư, cảm tạ khách Lương Nguyên chọc thủng hồ làm lại lầu gác, sư Tuệ Cảnh ngừng tâm trí tinh thần, thuận theo Phong Đỉnh, Trí Giả nghỉ ngơi nhiều lần nối gót bậc hiền tài đời trước, sự đạo hạnh tôn nghiêm, thật sự rất tùy hỷ, hối hận vì mình hèn mọn nhạt nhẽo, chẳng ích gì với tương lai, ngõ hầu nhờ sự huân tu mới chứng được thường lạc, kể rõ cả hai chùa lại gần trạm dịch đường đi, người đi đường qua lại rất nhiều thành ra lârn lộn, cần phải kìm lại châu kia để ban lệnh cho công tư, sứ mạng không được nngừng lại, lập tức giao cho ty sở kia, theo sự việc ban hành, kính cẩn bái lạy. Ngày mồng một tháng ba. <詞>THƯ VƯƠNG GỞI CHO BA CHÙA Ở KHUÔNG SƠN. Tiết trời rất ấm áp mà đạo thể của Pháp sư thế nào, trong chúng đều thích hợp không? pháp sư Tuệ Viễn ở Nhạn Môn bậc tứ y Bồ-tát, bay vượt qua đồng hoàng phía Bắc, nghỉ lại chốn núi phía Nam, từ đó về sau danh đức nối tiếp không ngừng. Trí giả trông thấy khiến làm đàn việt cho chùa. Nhưng tu tập ít ỏi và hèn mọn không dám đảm đương, khen ngợi dẫn dắt khiến cho tùy hỷ rất sâu sắc. Tôn kính đức độ dựa vào đây được hỏi. Dương Quảng kính lạy. Ngày hai mươi mốt tháng ba. Thư gởi cho chùa Thiền Các, mùa xuân thứ lớp sắp qua đi mà đạo thể của Sư thế nào? Tăng chúng yên tịnh tốt lành, chùa Phật Khuông Sơn sáng lập từ thời pháp sư Tuệ Viễn. Thầy của Pháp sư là Di Thiên Thích Đạo An, thầy của Đạo An là Phật Đồ Trừng, diệu đức cùng nối tiếp nhau không điều gì là bậc nhất. Rồng ẩn ở Giang Đông, toàn bộ vốn là Nhạn môn, thượng nhân ở Vạn môn mở đầu dấu vết Lư tạo. Từ Lương đến Tấn chỉ có Đông Lâm, sau Trần không thuần phác, đôn hậu chia lìa, sinh ra Thiền Các, Tăng đồ ưa thích khác nhau đâu xứng với hòa hợp? Trí Giả liền dừng lại trở về, cần phải hợp nhất, nghó rằng đều là biển nguyện lại không khác mùi vị, người đi đường sắp tiển đưa có chỉ ra cho nhau biết nghe thấy lời này. Dương Quảng kính lạy, ngày hai mươi mốt tháng ba. <詞>THƯ VƯƠNG CẢM TẠ PHÁP MÔN. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Vâng theo ý chỉ hôm nay trai tiết hoàn tất, trước cảnh vật được nhìn thấy liền lên thuyền trở ngại còn xa xôi, càng đem hết lòng nức nở đoái thương chỉ bày pháp tướng. Tuy văn của ý chỉ sâu xa ẩn kín mà nguồn gốc vốn khó tìm, nhưng giáo môn phương tiện khai ngộ dễ dàng lợi ích. Cung kính được nhờ điều lành khuyên bảo nên mãi mãi theo đó thọ trì, ngõ hầu nhờ tàu thuyền bến đổ mà được không còn lui sụt. Từ lúc ghi tạc đạo lý vào lòng, mỗi khi đến có thể hộ trì lớn mạnh, đem việc vâng theo con đường lại rưới xuống thuốc hay, tắm gội được yêu thương làm cho khuất phục, do đó đau thương buồn bã đội ơn. Kính cẩn lễ lạy. <詞>THƯ VƯƠNG SAI SỨ ĐẾN KHUÔNG SƠN YẾT KIẾN. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Tự tin rằng truyền lệnh gọi nữa chừng sẽ trở về đông đúc. Đến mồng một tháng trước tuyên bố, vì vậy an ủi kéo dài, kết hợp với nóng nực vẫn còn hừng hực, nguyện cầu đạo thể hòa hoãn tốt lành. Kính mong được trải qua sự bảo dưỡng sơn tự một lòng trọn vẹn, chùa tháp yên ổn tốt lành đồ chúng hài hòa nghiêm túc, vẫn để lại hai mười vị tăng tạm dừng để khai điều lành, vào đến Khuông ngục kiết hạ an cư, Đông Lâm - Thiền Các trở về thành một chùa, Phong Đỉnh, Tịnh Xá lại đều tùy hỷ, kính duyên khuyến phát được sự huân tu này, vì vậy giẫy cỏ ở thân mới chuyển mưua pháp, phước Kim Quang Minh vui mừng đội ơn càng sâu sắc, đệ tử ngày mười bốn tháng trước, bắt đầu qua Chu Phương phong thổ đặt biệt thích hợp, đang đến Lưu Kim bảo dưỡng sức khỏe phần nhiều không điều hòa thích hợp. Mỗi khi có kém hơn nhưng đến ngày hai mươi chín, Thạch Đầu đá đã hơi bình phục trở lại, từ Giang Phố trái với lòng mình rong ruổi tình cảm đến Bành Ngao, lấy ngày làm năm, không lúc nào tạm quên, nguyện trước khi chưa giải hạ, dự định sắp xếp gọn gàng hành lý nếu tuổi pháp đầy đủ, trước cảnh vật được nhìn thấy sẽ vượt quá về Tây. Trong đó thì nguyện cốt phải làm cho còn kề cận, không những đệ tử che lấp kiến thức mongmỏi bao che, tất cả ở đâu cũng đều rất sợ. Học trò học thiền tuệ đều nghó đi sâu vào khâm phục, không trách ni cô đang bày tỏ tập trung khen ngợi tự vệ, dù cho Quy- Khuất tỏ ý quanh co nhưng tình hình chẳng phải vì bản thân. Nay nêu chủ Bạc Vương Quán hướng về cung kính nối theo, cùng dâng lên văn bản khác, dùng quên để lại tỉnh ngộ, dám lược bớt từ ngữ rườm rà. Kính cẩn lễ lạy. Ngày mồng một tháng bảy. Sáu chiếc Pháp y, một trăm hộc muối ăn, một trăm hộc gạo. Gạo muối trong văn kiện bên phải tất cả xuất từ nhà kho chính của Giang Châu, Vương Quán Tề Hợp Ngư bắt đầu đưa đi. <詞>THƯ VƯƠNG TIẾP TỤC PHÁI ĐẾN KHUÔNG SƠN YẾT KIẾN. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Chùa núi Đông Lâm khiến đến, vào ngày mồng tám tháng tám chỉ dạy, dùng sự an ủi hướng về kết hợp, kính mong kế thừa, đã đến Hành Sơn, đến gánh vác khá lâu, pháp duyên nếu hoàn tất thì nguyện liền men theo dòng, hy vọng ở tuổi xế chiều cần phải kỳ hạn triển khai lễ bái. Đệ tử vượt sông trở về, tháng qua lần đầu dời vô nơi ở mới, phần nhiều có vội vàng, chưa dễ dàng an lập. Y chỉ đến gắng sức vì pháp sự, thực sự dùng vào thì hổ thẹn sợ hãi, mới ở ngoại viện mình cư ngụ, kiến lập đạo tràng Tuệ Nhật, sắp xếp thiền sư Từ Chiếu trở xuống, pháp luận sư ở Giang Lăng cũng đã từ xa đến tiếp viện bên trong, kiến lập đạo tràng Pháp Vân, sắp xếp thiền sư Từ Giác ở Đàm Châu trở về sau, chính là xây dựng điều lành sâu sắc thì vì thế mưu hỏi để biết. Kính mong kế thừa tiếp tục thay nhau để đảm nhiệm, công đức sâu xa gánh vác giúp đỡ, khó sử dụng bày tỏ xa xôi, nhưng phát khởi đến Giang Châu này thì sau thỉnh làm nguyên liệu cho tăng, vì sao có thể được giúp đỡ lẫn nhau? Trước đây giúp đỡ gạo muối, gạo đó trở về nhập vào Đông Lâm, muối vì trên đường đi ngoài số tăng thêm thừa ra, chính là không đáng kể vào công đức. Nay sơn tăng đi trở lại con đường, do đó kính mong báo đáp tìm kiếm, đừng cử người đón rước mời mọc, nguyện chỉnh đốn sắp sẳn trước kế hoạch quay về, giang sơn bao la đâu hết mực thành thật uốn khúc? Kính cẩn lễ lạy, ngày mồng mười tháng mười. <詞>THƯ VƯƠNG SAI SỨ ĐÀM CHÂU ĐÓN RƯỚC. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, Rằng đã cuối năm trới rất lạnh, thiền duyệt kinh hành nguyện cầu thường được an vui. Đệ tử khoảnh khắc này mỗi khi bị nhiều bệnh tật làm phiền, chỉ rời xa gần gũi hơi lâu, vâng dùng hết sức kết thúc, kính mong dự kiến công đức đảm nhiệm đã xác đáng rốt ráo. Nay phái Phục Đạt là người thân tín bên cạnh vâng mệnh đón rước, nguyện sự việc tiện lợi men theo dòng trì hoãn chầm chậm để hỏi han đầy đủ. Kính cẩn lễ lạy. Ngày mười lăm tháng mười một. <詞>THƯ VƯƠNG SAI SỨ KINH CHÂU ĐÓN RƯỚC. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Ấm áp hài hòa đạo thể được an nhàn, kính mong pháp sự ở Hành Ngục lâu ngày viên mãn? Công đức ở Gia Lăng lại sẽ thành tựu, tùy hỷ hết mực, khó dùng lời bày tỏ được. Đệ tử nay vào triều kiến, đi tiếp đến Thiểm Châu, rong ruổi thành thật kính mong tích lũy với thời gian, cho nên phái người đi sứ đón rước chờ đợi, hy vọng tiến đạo thuận lợi. Hạ tuần tháng tới chỉ chầm chậm đón rước, lộ trình đầu tiên chợt thúc đẩy há lại đích thực thích nghi? Kính cẩn lễ lạy. Ngày hai mươi hai tháng hai. <詞>THƯ VƯƠNG VÀO TRIỀU SAI SỨ YẾT KIẾN. (Gồm sáu bức thư) Đệ tử Tổng Trì kính lạy, kính mong làm trái năm tháng chuyển dời thành thật rong ruổi chở đầy gian lao, gồm cả việc vào triều càng tăng thêm quyến thuộc kéo dài. Vũ quan tuy trở ngại mà kinh Châu gần kề nơi Ngô, vì vậy tạm thời dừng lại ở Thiểm Châu, sai sứ nối theo đón rước người đi đường về chỉ bày, chuẩn bị vâng mạng kể lại tỉ mỉ. Không chỉ tuổi cao bệnh tật đã khỏi, lại dùng lý sự kết hạ an cư, cùng từ chối kiên quyết, cần phải đình chỉ. Đệ tử trở lại thị trấn không lâu, nếu thuận tiện thì nguyện sẽ men theo dòng chảy kính mong hội tụ ở Giang Đô, ngõ hầu thuận theo sớm chiều bảo dưỡng quả thánh đức, cũng khôi phục lại căn cơ khác nhau, nhân duyên phức tạp đề nghị không làm phiền suy nghó. Kính cẩn lễ lạy. Ngày mồng mười tháng hai. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Tăng cắt cử Trí Thúy đến vâng lệnh dạy bảo ngày mồng hai tháng năm. Dùng sự an ủi truyền đi kết hợp, nương nhờ trông đợi công đức của Hành Ngũ được viên mãn. Tiện việc tập trung ở kinh Vu dấn bước trải qua Khuy Hòa, đi sâu vào quá đỗi sợ hãi. Đệ tử ở Giang Đô vào triều, đến Thiểm Quan hoa mắt rối loạn dừng lại Kỳ Dương, trong bụng lại không điều hòa thích hợp, cuối tháng trước trở về kinh Liên, như muốn nối theo nhau vẫn còn tự mình gầy còm yếu đuối, cuối cùng chính là chỉ có triều bái, nhìn mây vương dài nguyện cầu coi trọng thâu nạp, người đi nay trở lại cáo từ, há không trách có đủ hay sao? Kính cẩn lễ lạy. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Vâng lệnh ý chỉ ở kinh Châu, huyện Đang Duơng. Ngọc Tuyền sơn thùy, để xây dựng già-lam dẫn đến đưa ra sự hành đạo. Kế hoạch mô tả địa hình vốn có thể ban tặng bày rõ. Cúi đầu thừa nhận vì trải vàng khắp mặt đất, mua vườn để xây dựng, kính thờ thiết trí Tam tôn, mãi mãi lưu truyền muôn đời, xướng tụng nhưng không thể nào khen ngợi, toán số mà không thể nào suy lường nổi, ý người nào nhẹ nhàng thì lập tức được sáng tạo. Khôi phục như củ lại thì ý chỉ thẫn thờ lúng túng, sự việc đã rời khỏi thần tâm, lý sinh khởi nhầm về biểu lộ, bất luận quang cảnh trạng thái chp61ng đối không vâng, nếu thực hiện hình tích tức là nước Tần chuẩn bị nghe, tên hiệu tốt đẹp chính là Đàm, danh tiếng phù hợ bậc nhất thiên hạ, tiếng đạo tràng đầy khắp Hằng sa thế giới, phước báo nương nhờ, quay về khiêm nhường từ chối khó vượt qua, kính cẩn lễ lạy. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Truyền ý chỉ xuống lệnh soạn thảo văn kia Thiền sư Hành Nhạc. Quách có đạo lý mà không có chối từ hổ thẹn, cao đức vượt hơn đây. Lục só hành mở văn nghỉ đến tính chất. Đệ tử phần lớn hổ thẹn, đã được ngợi khen thành ra không gì không phàn nàn khích lệ. Hàm Đan tuyệt diệu thật sợ hãi công khó, trở về thị trấn khỏi bệnh, ngõ hầu hoặc là gắng gỏi, vâng theo xem ngắm hành trạng sử dụng khó nghó bàn, Phật Đồ trừng, Đạo An lẽ nào lại hơn? Kính cẩn lễ lạy. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Rũ lòng ban tặng một bộ cà sa vỏ cây vạn xuân, kể rõ vào thời Lương Vũ Đế, nước ngoài chỉ dâng tặng bốn bộ, nay còn lại một, mà là lần đầu xây dựng do Pháp sư Ô Huỳnh mặc. Cẩn thận tìm kiếm người xứng với giới Bồ-tát, cà-sa đã mang vào đều nhiễm ô làm cho hoại sắc, huống chi lại tự nhiên khen ngợi dựng nên, vẻ đẹp lạ kì đạt được từ trời đất, lời nói tương ứng, không vất vả mượn từ bên ngoài, vạn xuân biểu thị xứng hợp với trường sinh, hai cánh hợp lại là từ ngữ khéo léo ví dụ, mãi mãi gánh vác vòng quanh rộng khắp, bền lòng đảm nhiệm Bồ-tát thường sự, nữa tháng đâu chỉ là ngày chủ yếu, khoác áo Như Lai, hết sức đội ơn thương yêu khen ngợi. Kính cẩn lễ lạy. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Thẳng thắng thi hành văn bản khác, phướn gấm năm mầu, lư hương- đàn hương đều mười loại, bày tỏ biểu hiện thành thật sâu xa, hèn mọn trình thưa, ban tặng ít vật sơ sài, trong tâm tìm sợ hãi. Kính cẩn lễ dạy. Hai lá phướn năm màu bốn mươi chín thước, hai tấm khăn kinh ba-la nãm mầu, lụa năm mươi xấp, gầm mười bức lư hương, mười bức đà hương, hai cân huân lục hương, mười cái dao thế phát, chí nạp cà-sa một chiếc, mười cái bát du thuyết, bảy cân hùng hoàng, năm chiếc nỉ mầu xanh Tu-di. (hữu điệp). <詞>THƯ SẮC CHỈ CẤP CHO CHÙA NGỌC TUYỀN Ở KINH CHÂU BỨC HOÀNH PHI CỦA VĂN HOÀNG ĐẾ. Hoàng đế cung kính được hỏi: Thiền sư Trí Khải chùa Tu Thiền, giảm bớt thư chuẩn bị đến, ý là Mạnh Thu trờ nóng nực mà đạo thể thế nào? Huân tu thiền duyệt có vì thế mà vui vẻ yên lòng hay không? Cần bức hoành phi tên chùa nay theo đón đến đề nghị, sư Trí Thúy còn hướng về nói ra ý trước kia. Ngày hai mươi ba tháng bảy niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười ba. Gồm đủ nội sử lệnh cho Thục Vương Thần Tú truyền đi, nội sử Thị lang Vũ An Tử Thần Lý Nguyên Thảm, vâng lệnh nội sử xá nhân Trường thản Nam Thần Trịnh Tử Long thực hiện. <詞>THƯ VUA Ở TẠI KINH ĐÔ PHÁI NGƯỜI. (Gồm hai bức) Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Nhờ vào xa cách đã lâu, rong ruổi trói buộc thật sự sâu sắc, dâng hiến năm tháng chẳng phải xa xôi, nghiêng về chầm chậm cung kính lễ lạy, cuối Xuân đến tiết sẽ phái cử người nuuôi dưỡng thăm hỏi. Kính cẩn lễ lạy. Ngày hai mươi bốn tháng chín. Vương ở kinh thành, tiếp tục phái người, đệ tử Tổng Trì kính lạy. Vừa đến gần ý chỉ dùng quan úy lan truyền tình cảm, mùa xuân ấm áp nguyện cầu đạo thể được khỏe mạnh, Ngọc Tuyền sáng lập đạo tràng nghiêm túc, ngay ngắn, thiền chúng quay về tụ hội yên tónh, cạnh mặt trời trí tuệ mới, vô cùng tùy hỷ, khó dùng từ để nói được. Đệ tử mới uống xong ba thạch thuốc bột, điều hòa nghỉ ngơi tâm tư vất vả, giữa Thu trở về tươi tốt. Thỉnh cầu hạ hoàn tất tiếp tục về sau tùy ý thăm hỏi ra mắt. Công việc trước mắt không phải là quá đáng với công đức quý trọng trong đó, nay phái thống quân Lỗ Tử Dự, hướng về chỉ có kế thừa. Kính cẩn lễ lạy. THƯ VUA TỪ ĐÔNG NHẠC Ở TRÊN ĐƯỜNG PHÁI NGƯỜI (Gồm hai bức). Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Giữa Thu chuyển sang lạnh lẽo, kính mong chỉ đạo riêng để an khang. Đệ tử ngay trong ngày mới xuất đáng đi, không vì cung kính lễ bái nhưng đã từng tăng thêm vươn dài kết hợp, nguyện coi trọng ân đức, cung kính phái tu bổ kế thừa. Kính cẩn lễ lạy. Ở trên đường tiếp tục viết thư, Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Hơi lạnh dần dần buốt giá, kính mong chỉ có an khang vui vẻ, náo động hay lặng yên thì tinh thần dễ chịu, có thể cư trú nơi an ổn vui sướng. Đệ tử đi cùng hầu hạ loan giá nơi tạm dừng chân dọc đường, hầu hạ giỏi thì xa dựa vào năng lực cao siêu, đi về được an ổn, ngước lên nói năng chỉ có bái kiến ngõ hầu có lẽ không phải là xa. Nguyện trân trọng điều này không nói ra đầy đủ. Kính cẩn lễ lạy, ngày mười chín tháng mười. <詞>THƯ NÓI VUA TRỞ VỀ THỊ TRẤN, PHÁI NGƯỜI ĐÓN RƯỚC. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, dâng hiến tuổi xuân rõ ràng nương nhờ chỉ có đạo thể được vui mừng thiền duyệt pháp hỷ. Mọi người đều nhóm hợp làm việc, công lao quy về có tồn tại, toàn bộ do sự dẫn dắt sáng suốt, cung kính nhớ lại Giang Đô, tạm thời mong muốn về Tây, trước tiên đến Hành Nhạc để báo đền ân đức Sư, tiếp đó hướng về Chữ Cung để đền đáp nơi chốn sinh trưởng. Thành kính nhận ý chỉ này bảo vệ chuyển giao. Sông lớn Dương tử sắp trôi chảy, chuẩn bị trình thưa đến thỉnh mời, chính là được tiến hành cho phép trở về đến nơi xem xét sóng lớn, những năm gần đây tuổi hướng về lạnh nóng nhiều lần biến đổi, cung kính nghe công đức viên mãn xa xôi khó bề khen ngợi kể rõ. Đệ tử rất may mắn được sinh trong nhà Phật, đến nhà vốn nghe không chỉ là thật sự thi từ lễ nghi, vâng mệnh Chuyển Luân đây đích xác chỉ có ngày gần cuối. Nay là đi tiếp theo sau loan giá, phát khởi từ kinh đô nói dừng lại ở Lạc Dương, còn dừng lại trải qua về sau, lễ nghi của họ Sài hướng về vốn tự nơi Ngư thư, danh tiếng của đội tuần lớn rộng ở nơi cơ điển, hiến chương chí tôn, trước tiên cổ xưa cho phép hòa vào nhau, loài người và thần tiên phong thái như nhau, hướng về Nam kính cẩn lễ bái Đông Đại (tức là núi Thái Sơn), để ngày mười một tháng này là ngày tốt, việc tổ tông đã hoàn tất, vào lúc trời đát mở rộng, nhật nguyệt thêm phần sáng sủa, không khí trong lành, ánh sáng thần kỳ đuốc gần chiếu khắp xa xôi, linh chi đua nhau nở ra trong hang núi, ngay cả cây cối cùng trổ hoa cung đàn, người câm đui điếc què quặt, không chữa trị màtự khỏi bệnh, bạn dìu người già dắt trẻ nhỏ, không bàn bạc mà cùng đến. Bề tôi nhìn thấy hết mọi việc không phải là giả dối điểm tô. Một vật đạt được vốn là ngàn dặm đây thích ứng, thầy dạy rất quan trọng dám không nghe đôi chút hay sao? Nhưng không thận trọng nghe theo thì sinh sôi nảy nở chính là đã chào Từ biệt ra đi. Bến đổ thuyền chung sắp cuối, phải đến Dương Châu, nay sai phái vâng mạng đón rước thì nguyện men theo sau, xuân còn chưa hết chắc chắn mong mỏi bái kiến thăm hỏi, trong thời gian đó coi trọng ân đức nối tiếp trở lại chỉ có kế thừa. Kính cẩn lễ lạy, ngày hai mươi tháng giêng. <詞>THƯ VUA CẢM TẠ THIÊN QUAN ĐỒNG THỜI THỈNH NGHÓA. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Trước đây suy đoán chừng như Bồ-tát thiên quan khinh xuất lễ nghi, rất nghi ngờ là không tinh tế, chính vì vậy trình lên lựa chọn, liền đến nay hạn định suy nghó đưa ra vạt áo thần kỳ, bản vẽ ví như từng mục nối liền, lạ kì hơn thợ giỏi ở kinh đô nước Sở, bắt đầu tầng lớp trí thức về năm minh chuyên nhất điều đó dừng lại ở nơi này. Chủng trí Kim cương ấy làm sao nêu lên muôn phần, quả là trí nhân địa hóa vật không thể nghó bàn, dắt dẫn tùy phương làm sao không đạt tận cùng? Mũ cao trên thân, đoan nghiêm xứng với đầu nên quỳ để nhận đội lên đầu, ngắm nhìn vào gương lưỡng lự vì có tô điểm cho dung mạo xấu kém, thêm sáng sủa để thay đổi bộ mặt. Đệ tử nhiều may mắn lầm lẫn vâng chịu thầy dạy, vô lượng kiếp sau đều nhờ vào khai ngộ, sắc tâm vô tác tiếp xúc nương nhờ duyên tốt, tàu thuyền độ thoát vì sao lo lắng không kết quả, nhưng giới là nền móng căn bản, tín và thực sự tiến hành làm đầu, giữ gìn hiểu rõ Ty-ni, năm xưa cung kính lãnh thọ, thân tuy sai sót nhưng tâm gặt hái được ngọc quý, mà định phẩm, thiền chi vứt bỏ loại trừ trở về vắng lặng, thấp hèn vì phàm tục khinh bạc, gánh vác quốc gia, trấn giữ ngoại tộc, vì con cái, vì bề tôi khó thiệt thòi, khó lười biếng, lẽ nào nhờ bốn duyên mà có thể đi vào tam muội? Đây chẳng phải là đoán định theo chủ quan, thực sự gánh vác thành thật mà nói hay sao? Kinh chép: “Không thiền chẳng có trí, không trí chẳng có thiền, định và giải giúp nhau, sẽ chứng được vô lậu”. Nhưng ánh sáng điện quyết định kết thúc, ví dụ đó rất nhiều, tuệ giải tuột khỏi người thì bạn bè của nó rất nhiều, ngay trong ngày muốn ghi tạc trí đoạn vào lòng, trước tiên gọi là Giáo, mãi mãi tràn đầy pháp lưu gồm đủ cùng với trợ quốc. Không biết cuối cũng ngưng trệ có thể khai hóa hay chăng? Sự nghiêm khắc, đạo tôn quý có thể thuần thục ý hay không? Căn đời trước nông cạn có thể nẩy mầm hay không? Bồ tát ứng cơ có thể hợp thời hay không? Nếu không thể hóa độ đầy đủ thì tạm thời ngừng duyên, nếu có thể là tàu thuyền bến dỗ thì khai mở bí tạng. Thư chép: Dân sinh coi như một trong ba việc, huống chi kinh Phật sâu xa mà lại không nghe theo thầy? Nay thõa mãn nói hoàn toàn nhỏ giọt xưa nay chân thành, thành tựu sự nghiệp quan trọng, đề nghị bỏ đi từ ngữ tô điểm. Kính cẩn lễ lạy, ngày hai mươi mốt tháng sáu. <詞>THƯ KHIÊM NHƯỜNG THƯA HỎI NGHÓA. Đáp rằng liền đến chứa nhóm văn tự ân cần rất là đúng Pháp. Hạng nhất phu thực hành điều lành chỉ độ được một thân, Nhân vương mở rộng đạo lý thì hàm sinh đội ơn nhờ cậy. Bởi bước lên địa bồ tát thì thuận theo đó sạch trong chốn Đại giác, cho nên phát tâm hưng long đại đạo, làm sao đo lượng được? Ai có thể sánh cùng? Bần đạo là sơn tăng vốn hoài niệm đến sớm, từ Thiên thai nơi ở cũ, nói năng nhớ nghó không xả bỏ, ngõ hầu nhờ vào cảnh đời an vui, lại được gởi thân nơi chốn rừng núi vắng vẻ, kính mong vì hành đạo, chẳng phải chỉ có thành thị, xóm làng. Gần năm sai lầm nối theo người khác trôi nổi, làm phỏng theo dấu vết thầy dạy, chú ý cái này khai thông che lấp, hình như chẳng phải thời gian cho phép, huống chi đầm Thánh mặt trời in đậm, lại lưu truyền mệnh lệnh này, tỉnh ngộ rất nhiều, đâu được xem thường, càng không phải là khắc phục chịu đựng. Bần đạo vâng chịu kế thừa thầy chỉ dạy, giữ gìn tương đối thiền tuệ mà tai rời bỏ mắt trôi đi như hoa trên mặt nước. Sưu tập lắng nghe kinh luận công phu đó đã ít ỏi, dựa vào gánh vác Thiền môn y cứ theo định để tu tập, ví như quay về chuyên môn học hỏi Số luận phân chia, lý mới có thể không làm trái nghiệp thừa dịp đến chín muồi. Tự chẳng phải thấu suốt rõ ràng chủng trí Như Lai, có sở trường về vật liệu cao xa tròn vẹn rất có thể không một ai bằng lòng chấp hai tay vái chào, huống chi cách Thánh càng xa thì sự hiểu ngộ rất bé nhỏ, chỉ muốn thừa ân sợ rằng trái hết sức với sự nương nhờ. Có gây ra tội lỗi thầm kín, bao gồm thiếu đi Thánh đức, chỉ nguyện lại trở về suy nghó tinh thần, ngoài ra chỉ có thắng hiền, quả tốt đẹp nhân thơm ngát, khiến cho không bị dứt mất, kinh nói một câu nhiễm vào tinh thần trải qua đời kiếp không mục nát. Biển trí tuệ lớn tin tưởng là vào được, cố nhiên biết rằng hiểu sâu sắc về Đại thừa, Phật pháp ở lâu thì công đức dễ dàng đầy đủ. Trí tuệ cao nhất vâng theo mộc mạc, ôm ấp ngu dại, kính mong lắng nghe xem xét chỉ có nói rõ bình thường quê mùa, chung quy không tự mình nói ra. Sa-môn tôi trình bày. <詞>THƯ VUA CẠI THỰA HỎI VỀ NGHÓA. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Kính mong ý chỉ đáp lại đến nơi, vẫn noi theo khiêm tốn kính trọng. Vâng theo khôi phục lại từ lâu mà dường như tự nhiên đánh mất. Thiết thực vì thầy, sự việc mở rộng người khác luận bàn, trải qua cầu tìm pháp duyên, để tâm tồn tại. Nếu luyện tập Tỳ-đàm thì ngưng trệ mê đắm vào hữu tình, nếu tu theo Tam luận, lại đi vào không, thành thật quá đáng. Tuy là bao gồm tất cả, nhưng vẫn còn kèm cập Tiểu thừa. Thích luận địa nắm giữ nhưng thông suốt ý chỉ của một kinh, như khiến cho theo thứ lớp tu tất cả, hàng tăng só vẫn còn khó đầy đủ hết, huống chi ở thế tục mà mong gồm đủ thiện ư? Trước mắt Pháp sư Pháp số luận không vượt qua nơi này, chỉ tiếc là không nhờ vào Thiền mà phát khởi, phần lớn bắt đầu từ tâm tranh cãi, người thông đạt không làm trái, cầu sáng ở kệ nào? Kính mong chỉ coi trọng luyện tập gốc lành, chẳng phải một đời mà được. Đầu tiên chính là y cứ vào học tập trong phúc chốc gặp được Thánh Cảnh. Thiền sư Nam Nhạc tự mình đã ghi chép lại “nói pháp bậc nhất” không thể nương nhờ hơn được. Thiền sư chiếu nay chuẩn bị nói rõ việc này, vào lúc tâm vui mừng đã là khu vực của sự chân thành bé nhỏ. Trí Giả xưa kia vào đời Trần, nước đó rõ ràng cách thức nhóm hợp cả cung ngói, mọi người nổi lên bàn luận dữ dội, vinh công miệng mồm ưu việt, trước tiên che đậy quanh co vai diễn, hai viên ngọc đẹp kế rụ biện pháp mới giành được khu vực yên ổn. Nhẫn sư khen ngợi chỉ nói là ít có. Đệ tử nương nhờ trì quảng bắt đầu thuận tiện cho sự việc được nhóm họp, đến khi bước lên vô úy thích nạn như trôi điều lành, tự mình đã lắng nghe, mọi người đều chiêm ngưỡng. Vừa nối theo tiến về kinh sở phía trước, giảng kinh Pháp Hoa, danh tăng cựu học chẳng ai không quy phục. Cho nên biết không Thiền chẳng có trí, nghiệm xét so với kim khẩu, ví như nghe danh tăng đã nói, thì Trí Giả dung hội tất cả, có thềm bậc khác nhau. Ví như mọi dòng nước chảy về với biền lớn, bao gồm tất cả cái này mới đạt được ý Phật, đệ tử ngay trong ngày nếu không nghe theo thỉnh cầu, thí dụ như ngài Di-lặc kia nay sẽ hỏi ai? Chỉ nguyện cầu chưa đạt được khiến cho đạt được, chưa vượt qua khiến cho vượt qua, lạc thuyết vô cùng, pháp thí vô tận, lại khiến cho chú ý mà nói, cúi đầu cung kính bái lạy. Kính cẩn lễ lạy, ngày hai mươi lăm tháng sáu.  <卷>QUYỂN 3 THƯ VUA CẢM TẠ NGHÓA SỚ. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, Ý chỉ đến chuyển giao nghóa sớ quyển đầu tiên, quỳ nhận pháp bảo, xem sơ qua cương tông, tất-đàn trong ngoài tai chưa từng nghe, cho nên biết rằng Long Thọ thay Phật không thể nghó bàn, hiện tại các tác phẩm của ngài nhục nhãn chưa thể nhìn thấy sáng tối, cẩn thận lại nghiên cứu tìm hiểu chầm chậm bái kiến tiếp thụ điều này. Kính cẩn lễ lạy. <詞>THƯ MA NÓ VỀ CÁC CHÙA Ở KINH CHÂU. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Hai chùa Ngọc Tuyền và Thập trụ ở kinh Châu gần đây đã ban lệnh xem xét đính chính, nay nhờ đợi thư đến tổng quản Giang Lăng, trước mắt nghi lại những lý do cuối cùng nghe Tăng sai bảo. Thúc đẩy quá đáng, đệ tử kính mong nhờ được tịnh giới, nhân duyên đời trước rất mong mỏi nghóa lý, trí Ba-la-mật liền buông xuống mở bày thừa nhận, bắt đầu soạn nghóa sớ, mới dựa vào đó dẫn dắt tưới gội hướng vào tuệ môn. Năm xưa nương nhờ thỉnh cầu mây mầu lúc đã qua dừng lại, xem xét hành chính là gắn bó gần gũi, sáng phát khởi thì chiều đến nên phải hỏi han quyết định, không khác gì ở nơi thôn ấp. Hành đạo vốn quý trọng ở chỗ an ổn, lẽ nào vất vả quá ư xa xôi? Con đường của Thiên Thai may mắn nguyện cầu ngừng lại tình cảm, khuất phục bản thân vì người ấy là Bồ-tát có ban tặng, đối với chuyên môn khế hợp không dám làm trái. Trước đây, không biết người thanh tịnh, tâm lành rơi vào tăng số, tế độ không cách trở chỉ có sử dụng tùy hỷ. Kính cẩn lễ lạy, ngày hai mươi bảy tháng bảy. <詞>THƯ KỂ LẠI VIỆC TRỞ VỀ THIÊN THAI. Trước kia đã hỏi han về việc ở núi Thiên Thai, vốn nghe thời gian sau liền đến trả lời bày tỏ, nếu không thì chí hướng vốn có như áng mây lững lờ, chính là nói gang tấc mà chẳng liên quan đến tâm bổn thệ. Thiên Thai đã là nơi gửi gắm cuối cùng, cho nên thường suy nghó đến quả thành công, mỗi khi dặn dò đệ tử, sợ rằng mạng không chờ đợi hạn kỳ, một khi thân vô thường thọ báo loài chim muông, thiêu đốt còn lại xương cốt đưa đến Thiên Thai, nghiệp được tiếp tục sinh lại ở trong hang núi, sự nghiệp tu tập thành tự xong xuôi mới làm lợi ích cho người, chỉ kính mong đi đến Nghóa môn, phần nhiều hổ thẹn vì cạn cợt quê mùa, phát tâm đã sâu nặng thì thời gian há lại sâu xa? Cứ theo từ ân ngõ hầu không vội vàng, chính nói Thiên Thai quản lý vốn nghóa theo mười phương, an lập tăng đồ không phải chỉ vì bản thân. Năm xưa tu tập nguyện lập già-lam, hình dạng có thể tùy duyên mà hương đèn khó không dứt, cho nên muốn cắt cử tu tập hy vọng dựa vào phương tiện, cùng con đường đính chính đầy đủ, người thanh tịnh sẽ gặp được hành động tốt đẹp, cùng thỉnh cầu một ý chỉ sự việc và hỏi han trước đây, mới cầu xin tên gọi của chùa làm cho khuất phục đàn việt, sợ rằng nhiều phiền toái chồng chất không dám đồng thời, khắp nơi kết duyên công đức càng lớn, Ngọc Tuyền và Thập trú đồng ý ban ân xuống cho, chỉ chờ đợi ý chỉ dạy bảo thì lập tức phái tăng đi sứ, hy vọng nhờ vào uy lực rạng rở của ba chùa gánh vác xa xôi, già-lam chưa sửa sang mà công đức đã tràn đầy. Kính mong ầm ó nhiều lần nhàm chán, nói sao có thể chối từ. Sa-môn tôi trình bày, ngày hai mươi tháng ba. <詞>THƯ TRẢ LỜI CỦA VƯƠNG. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Lại ban xuống ý chỉ dạy dỗ càng đầy đủ tâm nhân từ, lòng dạ rỗng rang của bậc khai só theo đó mà cảm, chắc chắn ứng với sức mạnh của thệ nguyện vốn có, lo gì không kết quả. Chính là nói thích ứng với đạo, từng ngày nông cạn không thể làm trái, dựa vào sự hộ niệm khai thị ngộ nhập sâu sắc, Ngọc Tuyền và Thập trụ vốn ở Thiên Thai, kính mong nhờ vào công lao tốt đẹp mà được xây dựng nên, mới cần đến ảnh hưởng lâu dài đến độ kim cương. Thư từ Giang Lăng đến nhóm hợp, cúi đầu được chỉ dạy, đồng thời ghìm lại những sự phát khởi sai phái theo lúc của ty sở. Kính cẩn lễ lạy, ngày hai mươi chín tháng bảy. <詞>THƯ VUA GỞI CHO THƯỢNG TRỤ QUỐC KÌ QUẬN CÔNG KINH CHÂU TỔNG QUẢN ĐẠT HỀ NHO. Thiền sư Trí Giả đức tôn quý, danh tiếng lớn, những năm gần đối với Đạo thường trao truyền tịnh giới, hiện nay tu bổ sửa sang chùa Thập trú ở châu đó, xây dựng chùa Ngọc Tuyền đến phương Tây, đồng thời được mời làm đàn việt. Lại nghe các ông phần lớn kết làm thắng duyên, Đại thừa chuyển vận thông suốt thật vô cùng tùy hỷ. Hiện nay sư phái tăng sứ là hai vị Chí Quả và Pháp Tài, trở về chính là Pháp sư Pháp Sáng và Đạo Tuệ chùa Ngọc Tuyền, Pháp sư Đạo Trăn chùa Thập trụ, kinh lý muốn gia tâm tác động đến, khen ngợi thành tựu sự nghiệp tốt đẹp, công và tư phước báo sâu xa u hiển cùng nương cậy, Pháp sự bày tỏ xa xôi, không trở lại ồn ào chán nản. Dương Quảng cung kính trình lên. Ngày mồng hai tháng tám. <詞>THƯ TRẢ LỜI VỀ VIỆC ĐỘ NGƯỜI XUẤT GIA. Thiết thực vì tháng này ngày giờ tốt đẹp, Bồ-tát ứng hiện ở thế gian vâng lệnh làm bậc Chí tôn Hoàng hậu, báo ân công đức dung tả linh lượng, độ người xuất gia, nhân duyên phước nghiệp hiện tại thật vô lượng, khiến cho năm vị sa di làm đệ tử, thì nên cung kính ý chỉ, vì vị thầy thuyết giới. Tuổi còn nhỏ phải có Hòa-thượng, tất nhiên lựa chọn bậc danh đức để y chỉ, đồng thời ban tặng pháp y, tức là ở trước mọi người vui mừng đón nhận khoác mang. Sa-môn tôi cung kính trình bày. Ngày mười chín tháng bảy. <詞>THƯ TRẢ LỜI VỀ VIỆC THẢ TỘI TÙ. Khai phủ học só Liễu Cố nói: “Tuyên truyền giáo pháp Kim Quang Minh thực hành pháp rốt ráo, giống như trăng đêm rằm sáng ngời tròn đầy, ân tha cho kẻ tội tù thương xót thoát khỏi roi vọt trừng phạt”. Trên khai phủ là Phan Tuệ Đạt, Nghi Đồng Tứ Nương… gồm bốn mươi lăm người, ban lệnh cân nhắc xem xét, xin lập tức y theo việc hỏi han kó càng thiết thực, vì một người xuất thế thì nhiều người lợi ích, thuần phát tốt đẹp, cai quản thế tục nương nhờ thuộc về Luân Vương. Dựa theo kinh này nói: “Nếu phạm vào pháp vua thì gong xiềng trói buộc, những điều khổ não điều giúp cho thoát khỏi”. Còn trong kinh Quán Đảnh chép: “Nhà vua nên tha bổng cho người oan uổng khốn ách, cởi bỏ gông xiềng tù tội, nhà vua được phước ấy, trăm họ thái bình mưa thấm theo thời, người dân an ổn vui sướng”. Giáo chỉ phù hợp ứng với văn kinh, lẽ nào không phải phước đức gieo trồng từ lâu vốn là khả năng của cội rễ từ thiện hay sao? Sai lầm vì nhiều may mắn không xứng đáng với đại duyên này, dẫn dắt khích lệ tăng chúng tẩy rửa sạch sẽ, Long Vương rưới mưa ngọt làm thấm ướt khắp nơi, cửa ngục liền mở rộng, xiềng xích đứt rã, tù nhân được tha thứ không ai không nhảy múa vui mừng, cung điện nhà cửa xứng hợp ân đức cảm động khôi phục hơn lên, đưa tiễn lấy cờ phướn đẹp đẽ nhưng vẫn treo cao trên tháp báu, lên cao rải hoa đốt hương, đèn đuốc sáng rực, hoàn toàn để lại dâng cúng, lập đàn nói pháp khai thị, đều khiến cho hướng về điều lành, tăng pháp đó vận dụng bình đẳng, tuy khoác mặc pháp y mà không thể tu tâm, thân phạm vào pháp nước giữ lấy vết xấu đạo lưu, suy nghó chính là khởi đầu run rẩy, về sau vô cùng hổ thẹn, trình bày với đại chúng lưu lại bảy ngày, sáng tối khuyên răn ban cho tạm thời dựa theo đó gạt bỏ ra, khiến cho hổ thẹn cảnh báo khen ngợi mà thôi. Sa-môn tôi cung kính trình bày, ngày mười sáu tháng mười. <詞>THƯ TRẢ LỜI VỀ VIỆC BỐ THÍ TÀI. Khai phủ Liễu Cố nói: “Tuyên giáo theo tuổi pháp tròn đầy”, liền hạ xuống vất vả tra hỏi, đồng thời giúp cho một bộ lư hương đầy đủ mới làm ra mầu vàng, một kiện pháp y, một trăm xấp lụa mềm, ba mươi cây đuốc nến, hai ngàn tờ giấy, cùng thức ăn và trái cây trên nhà bếp, sát na không dừng lại từng sự việc thứ lớp thúc đẩy nhau, già chết đến dễ đau thương mà quán xét tâm khó tỉ mỉ, may mắn nhờ vào xây dựng mở rộng chánh pháp, nhận ra không có giới tuệ, thật sự sợ hãi khó giải dứt. Từ đỉnh lư hương hoa sen rực rỡ, nhẫn nhục lìa bỏ cõi trần, yên tâm thực hiện dẫn bước theo đuổi. Kinh xưng là “thọ dụng vô tức hằng trụ”, nến đợi đêm mới đốt, giấy mưu làm Tịnh danh, đương cơ yêu cầu giúp đỡ mà Pháp sư quên cảm tạ, trái cây thức ăn, tơ lụa đẹp đẽ, đạo tràng cùng được hưỡng, quy về phước có tồn tại mà từ ngữ sơ lược ngoài lời nói. Sa-môn tôi cung kính trình bày. Ngày mười lăm tháng bảy. <詞>THƯ VUA ĐÓN RƯỚC VÀO THÀNH VÌ TRỜI MƯA NGĂN NGẠI NÊN DỜI SANG NGÀY KHÁC. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, mới nài xin mong trì hoãn lại, mưa quả là tạm thời trở ngại, trong ngày mai nếu quang tạnh, xin đừng nên sai người đưa tin tức. Kính cẩn lễ lạy, ngày hai mươi sáu tháng bảy. <詞>THƯ VUA ĐÓN RƯỚC VÀO THÀNH. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, Sương lạnh mà đạo thể được khỏe mạnh chăng? Đệ tử trở về đến vừa mới như vậy, không rảnh rỗi đóa tiếp lâu dài, chân thành nghó đã sâu sắc, nay phái chờ đón rước khác nào gần gũi, chỉ có bái kiến. Kính cẩn lễ lạy, Ngày mười sáu tháng chín. <詞>THƯ VUA SAI SỨ ĐẾN THIÊN THAI YẾT KIẾN. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Mạch tự khí thanh đạo thể hài hòa thích hợp, phước tuệ trang nghiêm cùng lúc cao rộng tốt đẹp. Đệ tử đến nay không lâu, thô kệch lại có thể thực hiện, tiếp cận nhiều lần gởi xuống hai bức thư, liền rũ lòng chỉ bày công đức, huyền nghóa lược bớt, văn cú đi vào bậc thấp, cái cũ xưa đó bảo toàn cái mới, từ thô thiển đến vi diệu, phải mở ra nhận lấy mới rõ ràng khói mây. Xuân luật đã cảm tạ Hạ tọa mới kết thúc, dám làm trái kinh giáo trải qua nắng nóng, ra ngoài đón rước. Bạch lộ tròn đêm gió mùa thu lá rơi rụng, chắc chắn sắp sẵn thuyền bè đón rước bái kiến Giang Vương. Như vậy kính mong vất vả biên soạn đã trải qua số trước đây, Bát-nhã nhiều ngăn cách, tiếp cận mong được thành công. Mỗi ngày đều có thành tích, mỗi tháng đều có tiến bộ, ngõ hầu mới bắt đầu tốt tươi. Thẳng thắng dâng lên văn bản phân tách bày tỏ thành kính, ở chỗ cung kính không có văn tự, kính mong suy xét làm cho bừng sáng lớn mạnh, trong thời gian đó coi trọng ân đức tiếp nối sự nghiệp âm ngữ, kính cẩn lễ lạy. Dâng tặng mười chiếc cà-sa, hai chiếc long tu, hai chiếc nỉ tu-di, ba lọ bơ miêu ngưu, một hộp huân lục hương. <詞>THƯ VUA SAI SỨ ĐẾN THIÊN THAI ĐÓN RƯỚC. Đệ tử Tổng Trì kính lạy. Khí trời sương giá đã càng đậm, muỗi sốt loại bỏ lâu rồi, còn sợ hang động rét buốt sắp sẵn trước, đưa đến điều hòa thích hợp. Nay sai người vâng lệnh đón rước chỉ có lễ nghi, chẳng phải quá đáng. Kính cẩn lễ lạy. Ngày hai mươi hai tháng chín. <詞>THƯ VUA THĂM HỎI BỆNH TÌNH. Đệ tử Tổng Trì kính lạy, Nương nhờ đến Thiên Thai, đã lần lượt đến chùa Thạch Thành, cảm thấy lo lắng không nguôi, Bồ-tát thị hiện bị bệnh, bệnh cũng khỏi hẳn, nhưng đối với long chân thành cao vút, đồng thời vì sợ lửa thiêu. Nay phái thầy thuốc Lý Ưng tới để chữa trị, ít lâu sẽ được khỏe mạnh, giảm nguyện chầm chậm tiến vào lộ trình muộn màng lễ bái yết kiến không xa. Kính cẩn lễ lạy. <詞>SỚ VĂN PHÁT NGUYỆN. Hai tượng Ca-diếp, ở Duy Vệ thuộc huyện Ngô nguyện thay đổi tụ hợp sửa chữa phục hồi huyện Mậu; tháp chùa A-dục Vương sụt lở hư hỏng, nguyện tiếp tục tu sửa chữa; tượng Di-lặc bằng đá cao mười trượng ở huyện Diệm, mầu vàng bong tróc hư hoại, xin trang nghiêm trờ lại, công đức giúp đỡ ba nơi cầu xin sửa chữa. Sa-môn tôi cung kính trình bày. Cúi đầu kính lạy chư Phật ba đời, lại vì: Pháp thân không hình tượng, tùy cơ hiện rõ tịng-độ, không làm hỏng con người thấy thiêu đốt Hỗ Độc, nổi lên linh pháp đất bằng vọt lên núi nhọn, nhạc trời suốt mộng lục địa tất cả ba nơi, nghi dung tôn quý bày tỏ thay thế năng lực gốc lành ba đời, lợi ích cho cõi ấy, nhưng năm sâu xa tuổi xưa kia, dấu vết Thánh hiền chầm chậm lên cao, hình bóng chư Phật dường như chìm đắm, gốc lành chúng sinh không nơi nương nhờ. Đời trước tôi có may mắn, thẹn thùng tham dự pháp môn, đức hạnh nhỏ bé nên công lao và sự nghiệp không đạt được, cái biết sai lầm về đạo- tục, nhìn thân cảm thấy nhục tự mình không thể tự giải quyết. Trên hổ thẹn với Tam Bảo vì không có khả năng giúp cho hưng thanh, dưới hổ thẹn với chúng sinh, vì thiếu năng lực cất nhắc, khắc cốt ghi tâm lấy gì bù đắp, may mắn gặp được lúc sáng tỏ, rường cột mặt trời Phật, nguyện dựa vào hoàng phong và được nhờ chúng lực, đem khuyến khích người có duyên tu bổ sửa chữa ba nơi, trước để mỡ mang Phật pháp ba đời, sau nữa để ủng hộ lãnh thổ quốc gia Đại Tùy, dưới nữa vì tất cả chúng sinh trong pháp giới. Nếu tháp tượng trang nghiêm thì tiếp nối thịnh vượng không dứt, do đó đền đáp ân đức của Phật. Nếu khắp nơi biên giới quốc gia sáng sủa đổi mới, tự nhiên đặc biệt đẹp đẽ lạ kì, thì đền đáp ơn tuệ vô cùng cao quý của đất nước. Nếu thấy người nghe phát tâm bồ-đề, thì lợi ích tất cả chủng nghiệp xuất thế. Nhưng cương vực lâu xa tâm này bị duyên ngăn cách chưa có kết quả, thời gian này đi đến kỳ hạn về Tây, lộ rõ trạng thái bệnh tật thâm xúc động, chất độc hại làm hỏng bình lọ, cố nhiên không nên giữ gìn tiếc nuối, trước dùng thân mạng hầu hạ giao cho Tam Bảo, kính xin nghe theo uy thần. Nếu hình hài tính mạng lưu lại có thể phát sinh điều lành cho người khác, không làm bẩn Phật pháp, cúi đầu thừa nhận nghe theo, khiến cho cầu xin sớm dứt bỏ sai lầm, hạnh nguyện mau chóng tròn vẹn. Nếu mạng số tuy chưa hết, còn nhiều ma chướng, làm hại gốc lành của người, vẩn đục hỗn loạn Phật pháp, lẽ nào phải dừng ở thế gian hay sao? Mong sớm dập tắt lửa tro! Sau khi mất rồi dùng các thệ nguyện phó chúc cho người đời sau, khiến lo liệu việc sửa sang, xây dựng. Cầu xin Tam Bảo che chỡ xây dựng mau chóng được viên mãn. Trước đây tại đạo tràng Kim Quang Minh ở Phật Lũng đã phát nguyện này, nay tiếp tục hướng về tượng đá tôn quý sẽ nói rõ sự ngu dốt thành thật. Cúi đầu nguyện xin: Thánh phàm lại rủ lòng nhiếp thọ. Kính cẩn trình thưa. Ngày hai mươi mốt tháng mười một, niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy. <詞>THƯ ĐỂ LẠI CHO TẤN VƯƠNG. Bần đạo lúc mới gặp được duyên tốt, bắt đầu phát tâm, trên cầu mong pháp nhẫn vô sinh, dưới cầu xin sáu căn thanh tịnh, ba nghiệp ân cầu chu đáo, một đời trông mong đạt được. Không ngờ tội lỗi tai ương vốn có sâu dày, gây ra những điều làm khó dễ. Trong không có đức hạnh thật sự, ngoài chiêu vời dự giả dối, học trò miễn cưỡng nhóm họp, đàn việt tự nhiên hướng về, đã không thể cắt đứt cương vực để tránh xa, mà lại dựa vào trái ngược thuận theo, đó là tự chuốc lấy phiền muộn, hỗn loạn. Đạo giảm sút hạnh thiếu sót, thuận theo đó được hay không được, buồn rầu ân hận đâu bù đắp được, trên phụ ân Tam Bảo, dưới hổ thẹn với bổn tâm, đây là điều hối hận độc nhất. Nhưng, Thánh pháp đã không khớp, tự mình xem xét không yên lòng, muốn trao truyền thiền tuệ của Tiên sư cho người học, cho nên ở lại Trần đô tám năm, hoằng pháp cho người đến học, hoặc dễ dàng hiểu ra mà lại sớm qua đời, hoặc tùy theo thành phần mà tự nhiên ích lợi, không bao gồm tài năng của người, uổng công kéo dài sự giáo hóa, kế sách trở thành cắt đứt giòng giống. Tự hành trước kia đã thiếu hụt mà lợi vật tiếp sau lại trống rỗng, lại phụ ân tiên sư gởi gắm cho bách kim, đây là điều đáng tiếc thứ hai. Nhưng năm tháng đã về chiều, chếch về Tây thường ngày luyến tiếc diệu đạo, suy nghó gặp được lúc sáng suốt, nguyện được sự hộ trì bên ngoài, ban đầu được bốn thứ cần dùng đã khích lệ tuổi tác cổ hủ, thầy và học trò bốn mươi người, còn lại tăng chừng ba trăm vị, từng ngày ở tại Giang Đô hành đạo, lại cũng cởi mở đợi người đến hỏi. Nếu gặp người dễ dàng hiểu ra, vì vậy đền đáp ân trạch của nhà vua, nhưng không thấy một người nào cầu thiền cầu tuệ, chẳng có duyên với người, tạm dừng đến nỗi như vậy, sai lầm cho rằng tín thí hóa đạo không có công gì, đây là điều đáng tiếc thứ ba. Lại khởi lên ý niệm rằng: Chốn này không có duyên, nơi còn lại hoặc có nhân đời trước. nguyện của kinh Đàm là nguyện báo đền ân đức đất đai, Đại vương mở rộng yêu thương, mưa to tự nhiên trút xuống khen ngợi, đối với Tương Đàm công đức hơi trưng bày tâm gửi gắm, tuy người kết duyên nhiều nhưng người nào có thể ủy thác sự nghiệp? Ban đầu cho rằng người có duyên không đến, nay thì đến cầu không được, suy đoán đã sai lầm, đây là điều đáng tiếc thứ tư. Pháp tụ hội ở kinh châu, thính chúng hơn một ngàn vị tăng, theo học thiền ba trăm vị, quan quản lý châu sợ hãi lo lắng cho rằng trái với cách thức quốc gia, lẽ nào có thể nhóm hợp nhiều người, vì thế làm phiền lòng quan ư? Do đó buổi sáng giống như mây hợp lại, buổi chiều tựa như mưa tỏa ra, dù cho có mầm mà không được lớn lên, đây chính là cuộc đời điều hòa không kham nổi, không thể hài hòa được mọi cái, đây là điều hối hận thứ năm. Đã tiếp tục vân du Giang Đô, thánh tâm trọng pháp ra lệnh soạn chú giải Tịnh Danh. Không suy đoán kiến thức lờ mờ, nhất định là kể rõ nghiêng về lòng dạ, Huyền Nghóa mới hoàn tất chỉ huy lẫn át vào yết kiến, lại cho phép tăng trở về Đông nhưng tụ hội ở Ngô, tất cả vui mừng nghe theo học hỏi. Trong núi hoang vằng, thiếu hụt, không thể tụ hội đông người, giữ tâm chờ đợi, ra ngoài tìm hiểu cầu kiếm pháp môn, tuổi già suy yếu có lẽ đang khai hóa, nay kì hạn đưa ra đã quyết định mà pháp duyên cũng dứt bặt, đây là điều đáng tiếc thứ sáu. Ở trong núi hai mùa Hạ chuyên nghiên cứu Huyền Nghóa, tiến tới giải thích văn kinh đến phẩm Phật Đạo, gồm ba mươi mốt quyển, đem thân không cẩn thận tức thì lay động nhiệt tình khát khao, hơn một trăm ngày cạnh tranh với bệnh tật nghiên cứu sửa đổi, nhân mùa Hạ này cuối cùng nghó rằng có truy tìm gọi người đến, chỉnh lý hành trang chờ đến kỳ hạn. Ngày mười bảy tháng trước sai người đến núi, chỉ ở lại một đêm vội vàng, ví như ánh sáng con đom đóm, sáng sớm mong mỏi lên đường đi qua Diệm Lónh, kế đó đến Thạch Thành tác phong mạnh mẽ gồm đủ thật thà, không thể tiếp tục nghóa sơ này như trước kia, trao truyền bằng miệng, trích từ bản gốc một lượt từ khi nghiên cứu, đều chưa tìm tòi chọn lựa, kinh luận ít thấy sai lầm vẫn còn nhiều, không thể truyền bá khắp nơi, đã vì nhà vua soạn ra, lẽ nào hổ thẹn với sự kém cõi đó ư? Dặn dò đệ tử sao chép bản sau, xin hãy chọn lựa. Trước đây Huyền Nghóa đi vào văn đã chuyển giao ấy, xin giao cho đệ tử đốt hết, trí sáng suốt nhìn thấy được trời sao xa xôi, nguyện xin mở ra xem một lượt, xem xét đại ý đó, còn lại không thể xem. Bần đạo buồn chán thất vọng tuy nhận lỗi, nhưng nguyện lưu tâm đến Phật pháp, hỏi han tìm hiểu về ân đức cao quý, khiến cho Nghóa môn không thể phế bỏ, đi sâu vào cùng tận Phật giáo, nghiên cứu đạo lý càng sáng tỏ; hành khắp nơi, học khắp nơi là hạnh Bồ-tát, Như Lai diệt độ pháp giao cho Quốc Vương, bần đạo là ai mà tuệ môn dựa vào phó thức? Vui vẻ đã hết, không có hưng thịnh nào khác, chỉ trước thuật kéo dài tuổi, văn nghóa khác nhau, buồn bã tự hổ thẹn, sinh ra đã như vậy cho nên kẻ khổ tâm trắc trở, đều vì Phật pháp, vì lãnh thổ quốc gia, vì tất cả chúng sinh. Nay được pháp môn xin nương nhờ cả ba để đầy đủ sáu căn lìa bỏ. sau khi phần mạng đã hết, nếu có thần lực, thề sẽ ẩn nấp bảo vệ khu vực lãnh thổ của nhà vua, khiến cho nguyện vọng giáo pháp truyền bá phát triển, để đền đáp ân sủng của nhà vua, dùng chí hướng vốn có phù hợp, Bồ-tát thệ nguyện thành Phật mà không lừa dối, nghóa hương hỏa sâu sắc lẽ nào biết ngửa mặt chối từ? Nguyện quán xét bóng nước hư ảo, biết rõ pháp hữu vi, tất cả vô thường nhóm họp mà không xa rời, rốt cuộc không thể đạt được, chỉ nên chăm chỉ giới, thí, tuệ để chống đỡ với bốn núi, sớm cầu phải vượt ra, lẽ nào phải làm tổn hại pháp phiền lao đến lòng dạ Thánh hiền ư? Hoa sen, tê giác, như ý, là của nhà vua đã giúp cho, nay vì lúc ly biệt, nguyện cầu đức hương tỏa ngát dài lâu xa xôi, mãi mãi gìn giữ như ý. Đại sư Nam Nhạc sau khi diệt độ, chưa có bia ca tụng, trước được chỉ dạy cho phép tự thảo ra, nguyện không quên ý chỉ này. Đại sư Nam Nhạc ở Đàm châu xây dựng chùa Đại Minh, Di Thiên Thích Đạo An ở kinh Châu xây chùa Thượng Minh, trước được chỉ dạy ẩn kín bảo vệ nguyện tô điểm làm rạng rỡ đức hạnh tổ tiên, cho làm đàn việt chính yếu. Bần đạo ở tại thế gian sáu mươi năm, chưa hề làm công đức hữu vi, tuổi cuối đời sức yếu thường dụng tâm thiếu sót. Lại còn hương hỏa thí trọng, gần kề ở kinh Châu, xin được giúp đỡ làm nên chùa Ngọc Tuyền, tu bổ sửa sang chùa Thập trụ, đồng thời được chỉ dạy dặn dò, tổng quản Kì Quận Công Đạt Hề Nho kia, tăng đưa cho giáo thư mang đến Hạ Khẩu, nhưng Kì Công qua đời, thư chưa kịp giao phó, từ ân đã đủ, nguyện vì Ngọc Tuyền làm đàn việt chính. Hiện nay chùa trên đỉnh Thiên Thai lều tranh khá ngay ngắn, một nơi phía dưới núi tốt đẹp vô cùng, lại tiếp tục mong mỏi xin giúp đỡ, lập nên một chốn già-lam, bắt đầu phát dọn cây cối, nơi nền tảng chỉ dạy đệ tử phụ trách xây dựng. Không thấy chùa thành tựu mắt nhìn man mác vì ân hận, Thiên Thai chưa có hoành phi công bố, nguyện xin một tên gọi, chuyển đến chùa Ngọc Tuyền ở kinh Châu, xuyên qua mười vị tăng cư trú chùa Thiên Thai, xin bỏ dở ruộng chùa làm cơ nghiệp Thiên Thai. Bức vẽ chùa và tượng đá, phát nguyện sớ đều giữ lại, kính mong chọn lựa, thời đại bậc Thánh thái bình, hoàng phong chỉnh tề nghiêm túc, Bồ-tát Tịnh-độ không thể nghó bàn. Thiết thực thấy các châu thay nhau chuyển giao gạo, nộp tô thuế, xe chở đều dăm ba lần, đối với của công gom lại không nhiều mà hao phí của riêng, vì coi trọng pháp lệnh qui chế, giải quyết phân biệt có quy định sâu sắc. Bần đạo không nhàn rỗi sợ ý nói về cách thức của quốc gia, liền cho rằng châu không có gạo, vận chuyển đương nhiên như vậy, châu có gạo vàng đó lần lượt chuyển giao, thì không có sự hao phí của riêng. Tầm mắt hạn hẹp không thấy, lý ra nếu đối với cách thức có gì gây trở ngại thỉnh cầu không cần phải luận bàn, đối với sự việc có ích lợi nguyện rằng vì thế mà bàn hỏi tâu trình, khiến cho muôn dân vui mừng nương tựa. Nhưng quốc gia là quốc gia của vua, dân chúng là dân chúng của vua, tu tập từ tâm thêm nữa để trở về chăm sóc dân đen, chó ngựa biết nuôi giữ mà con người lẽ nào quên ân nghóa ư? Xưa, nghe Tề Cao Thị, thấy binh lính vác than gỗ thân thể tiều tụy, thương xót sự vất vả cực nhọc của họ nên tha tội và cho xuất gia, chỉ có một người vui mừng ra đi, Tề Vương than rằng: Con người đều có cái ái đối với vợ con, ai bằng lòng cảnh phòng không hiu quạnh, trợn mắt nhìn bốn bức tường? Tự tiếp cận núi rừng, dùng điều này quán sát, thì xuất gia khó có được. Hiện nay thiên hạ khoáng đạt rộng lớn, thuế má thu gom thư thái bình thường, người xuất gia ít, tăng lớn tuổi điêu tàn ngày cứ giảm bớt. Lúc trước xuyên qua cái màn, hoặc tùy duyên lắng nghe học hỏi, hoặc tu đạo ở chốn núi rừng không bằng tên ghi bức trướng, tay là dụng tâm mà lòng dạ thường buồn lo sợ hãi. Đây là trường hợp không nhiều điều có hành nghiệp, nguyện cho phép người đứng đầu đó xuyên qua tức là độ người, xuất gia tăng thêm thì tăng chúng bừng lên mạnh mẽ, Phật pháp được vô lượng công đức. Xưa thế chân vạc ở ba phía, dùng vũ lực luyến tiếc người; nay thái bình một biện pháp tu văn, tu phước, chính là thích hợp điều đó. Lại nữa thời Mạt pháp, chúng tăng phần nhiều thực hành không phù hợp với tên gọi, còn không ép buộc ý muốn của người, huống chi phò tá kinh luật hay sao? Nhà vua nắm giữ quốc pháp bao gồm giúp đỡ Phật pháp, nghiêm trị người có tội, kính trọng người vô tội, khởi tâm bình đẳng không thể nghó bàn, thì công đức vô lượng. Những việc như vậy vốn là muốn trực tiếp bàn bạc, không gặp được cơ hội bỗng nhiên trở thành di chúc, cũng là vì Phật pháp, vì lãnh thổ quốc gia, vì tất cả chúng sinh. Nếu lưu tâm đến công đức thì mong được báo đền, đứng trước phần mạng chỉ dạy truyền miệng lời đã hết, sức đã cạn, mong mỏi tiếp cận lưu luyến nhiều tri thức phúc đáp, trình bày đại thiện tri thức, bồ đề là kì hạn. Tôi Sa-môn mỗi tháng mười một niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bảy. <詞>VĂN VUA TRẢ LỜI DI CHỈ. Đệ tử thọ giới Bồ-tát Tổng Trì kính lạy, trên sư Thiên Thai Trí Giả nội đệ tử Quán Đảnh Phổ Minh đến vâng lệnh đón nhận. Ngày hai mươi mốt tháng mười một năm thứ mười bảy thư để lại bảy tờ, bút tích bốn mươi sáu chữ, và Tịnh Danh Nghóa Sớ bốn mươi mốt quyển, các loại tê giác, như ý, hoa sen, lư hương. Quỳ trước đọc tôi tớ, sửa chữa diệt hết làm rung động quay về tâm, xã-lợi trang nghiêm đức âm vốn có đầy đủ. Ca-diếp theo dấu sói lang thân chứng được từ xa, truy tìm ánh sáng mây dày, Thiên Thai làm cho yên, thiền định tiếp cận theo đuổi thành thật khôi phục, Như Lai chốn song lâm bốn phương điều khiển khóc lóc thảm thiết, mà trước lúc Niết-bàn để lại giáo pháp càng ân cần sâu nặng, huống chi năm trăm năm sau, bốn y cứu vớt chìm đắm, ra sức thuận theo ý chỉ của Phật, ở thế gian cùng phàm phu hy vọng nhập vào nê-hoàn, hiện rõ sự việc ít có, Ngũ phẩm Thập tín đã tự nhiên sáng suốt, Di-đà, Quán Âm cùng đến tiếp dẫn. Ân đức trước nay mãi mãi cùng thêm sự xót thương luyến tiếc, truy tìm hiểu ra đời này còn chúc mừng vốn có thừa bẩm, điều ân hận là Tịnh Danh kinh sớ, không tiếp tục tự mình kế thừa, do đó hy vọng tìm tòi suy xét, vì vậy bù đắp hối hận về sai lầm của mình. Truy tìm chỉ có điều là, chướng ngại buồn bực cơ hiện tại chưa phát, nghe xa xôi nghe trước đây cũng có thành tựu, chẳng những hiểu ra có cạn sâu, cúi xin còn thời gian hoặc là sớm tối, sau khi Đức Phật diệt độ có thể có nhiều vị Thánh lớn, đạo lý chiếu soi phương khác âm thầm đến nói cho biết. Lại tiếp tục suy nghó ngay đời kiếp này bỗng nhiên vâng lệnh Đại sư, bởi lẽ duyên vốn có tích lũy, đã từng gần gũi, yêu quý sâu sắc phần mạng tương lai chắc chắn lưu truyền ảnh hưởng, không xả bỏ bổn thệ, bút tích cùng giữ lại, là dùng để quay về thành thật, dựa vào linh giới thỉnh cầu. Quỳ nhận lãnh kinh sớ, như ý, lư hương, cung kính lễ lạy Tây Phương tâm miệng cùng thệ nguyện, tay đưa ra quyển trục, rốt ráo ân cần, cho dù vào ngày mười tám tháng này, vẫn cảm thấy giấc mộng may mắn thuận lợi, cho nên tế độ đã hạ xuống tàu thuyền, chỉ nguyện ngay hôm ấy ở tại bảo trì, từ xa hoa sen nở ra. Nay ở biên cương cõi tịnh, tiếp cận rửa sạch tâm nhiễm ô đời đời kiếp kiếp, thầy dạy không thiếu sót thay đổi phàm bước lên Thánh, cung cấp hầu hạ không cùng tận, nhưng nghóa công phủ mưa móc sâu xa mà văn lại sâu rộng, tuy thêm vào nhưng trước sau đều là vậy mà thôi, đặt biệt hy vọng tưới rót, vì đề hồ như sinh ra sữa thơm, chiếu rọi để giếng sâu tăm tối lập tức hiện bày vàng ròng, sáu đó xin nhờ vào thân thông, cúi xuống vỗ về tinh lực, đồng hỏi han danh tăng, vâng lệnh truyền ba pháp vị, phôt biến cùng chúng sinh làm lợi ích to lớn. Đó tức là không làm trái nêu ra khen ngợi cùng nhau bước lên bờ kia, quý giá nhất, cao vời nhất chính nơi ấy. Quán đảnh đã chuyển giao Tịnh Danh Nghóa sớ ba mươi mốt quyển cuối cùng, đến phẩm Phật Đạo trịnh trọng lập tức sắp xếp nghiên cứu, sửa chữa ghi chép, luyện tập đọc xem ý chỉ, như thế Huyền Nghóa trước đây và giải thích vào văn, giao cho đệ tử đốt hết, tức là giao cho trở về sai bảo cắt cử đối diện đốt sạch. Tê giác, như ý, hoa sen, lư hương, xa vì truyền bá nơi khác, nhất định là sẽ không chán bỏ mà phục tùng, mãi mãi đảm nhiệm pháp sự. Nay vâng lệnh giúp đỡ cho ngói sứ, lư hương cúng dường khám thờ, di chỉ lấy dưới núi Thiên Thai, gặp được một nơi tốt đẹp vô cùng, rũ lòng để tạo lập chùa, mới được tiến hành phát dọn cây rừng, nơi vị trí bậc thềm nền móng. Nay phái Tư Mã Vương mở rộng sáng lập già-lam, tất cả vâng theo dựa vào toàn bộ, chùa cần hoành phi, công bố cần lập nên tên gọi tốt đẹp, cũng không làm trái ý chỉ. Phật Lũng đầu-đà cùng tất cả vẫn cứ làm cho di chuyển đến Ngọc Tuyền ở kinh Châu, mười vị tăng trông coi Thiên Thai, nay là chúng hiện tiền trong núi, phần nhiều là người của Chữ cung, đã đều quy ước bắt buộc không làm cho mở rộng phân tán, lẽ nào cứ như mười vị tăng mà thôi ư? Điều mà họ cầu xin là bỏ ruộng nước của chùa để đảm nhiệm cơ nghiệp, cũng bắt buộc nhà vua mở rộng giúp cho ruộng mầu mỡ, đất phì nhiêu, rất được ủng hộ. Năm ấy, ngoài ra giúp đỡ cho lưu hành, chuyển giao một tạng kinh, theo pháp vì tiên sư ngoài ra cúng dường đầy đủ các thứ như chuông, phướn, hương, còn giúp cho tiền bạc không ngừng và đảm nhiệm phí tổn mỗi ngày. Khung cảnh linh tháp man mác, tượng đá đời Ngô, tượng Di-lặc ở huyện Diệm, dáng dấp tôn quý, cùng sai bảo sắp xếp điểm tô lại cũng không mông gì khác. Chùa Ngọc Tuyền ở kinh Châu đã là nơi sắp xếp tạo ra, sẽ khác với đạo tràng còn lại, chùa Đại Minh ở Đàm Châu, các chùa Thập trụ, Thượng Minh ở kinh Châu, trước vì cung kính đồng ý làm đàn việt, không cho phép trở lại làm trái. Nay dạy bảo khiến cho thảo ra bia văn đại sư Nam Nhạc, lập tức chỉ thị khai phủ học só Liễu Cố Ngôn soạn lời tựa, tự soạn thuật bài minh khen ngợi để nhắc nhở, Tăng có tội thì trừng trị, vô tội thì bình đẳng. Thiết thực làm Niết-bàn yết-ma, kinh có văn đích xác, chánh luận trị nước, kinh Kim Quang Minh, trụ trì Tam Bảo không dám để rơi mất. Lại khiến cho tiến hành tu từ tâm, vỗ về nuôi sóc dân đen, chó ngựa biết nuôi giữ, con người lẽ nào quên ân nghóa? Bởi nghe ngoại thư vì dạy bảo nhân đức còn tha thứ cho người khác, nội điển ở tông chỉ đại Từ làm đầu, văn tuy khác nhau mà chí lý thực sự như nhau, không có quân tử tài năng đó giúp đỡ quốc gia, không có Bồ-tát thì cứu giúp chúng sinh được không? Lại vì tăng chưa xuyên suốt sách vở, thừa nhận tự thú sai lầm của họ, thích hợp vâng lệnh chiếu thư, âm thầm phù hợp đi đến và thấy cơ hội mà làm. Nghóa là ngày kia nếu nhận được thời cơ, vận chuyển quyên tặng lương thực vô cùng liên quan đến quân đội quốc gia, trước đã bày tỏ nghe nơi ty sở không báo cáo, cuối cùng sẽ phương tiện chắc chắn hạn kỳ thảo luận kết quả, và được nhờ gởi gắm dặn dò thì lại có thể hiểu rõ tâm người, tương lai mong được báo đáp, không làm trái với ý chỉ, ngõ hầu dựa vào phước huân tu để giúp đỡ quốc gia. Quán Đảnh, Phổ Minh trực tiếp dẫn lối hỏi han tìm hiểu thật đầy đủ hình hài để an tọa, chẳng khác thường ngày, lại tiếc vì bỏ mất thời cơ, không thể trở lại, ý nghóa thú vị mong suy đoán ra định luật như Tu-di sừng sững, pháp lạp rằng đã hoàn tất, thiết thực nguyện xin kiệu xe đón rước một lần đến Giang Dương trở về, đi vào Thiền chúng, đạo- tục tiếp cận đầy đủ, người và thần đảnh lễ thì sẽ vâng lệnh tiễn đưa. Trở lại khám thờ ở núi kia ngõ hầu nhờ vào sự chiêm ngưỡng, có thể mở mang ý nghóa sâu sắc, nguyện đạo lực không lẻ loi, sự thỉnh cầu tuy là ân sâu dầy trình báo, đầy đủ ở nguyện văn mà quả thực nên che chỡ hộ trì, quả thực phải nương nhờ báo đáp. Hai vị tăng nay trở về nhẹ nhàng dâng lên thư trả lời, xa bái lạy nghi dung linh thiêng mà tâm đầy nức nở nghẹn ngào. Kính cẩn lễ lạy. Ngày hai mươi tháng giêng niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười tám. <詞>NGUYỆN VĂN VUA SAI SỨ ĐẾN THIÊN THAI LẬP CÔNG ĐỨC. Đệ tử thọ giới Bồ-tát Tổng Trì kính lạy. Chư Phật mười phương ba đời, tất cả tôn pháp cùng Thánh chúng Ba thừa, thiên tiên rồng thần ở cõi trên cao, thân tâm đạo nhãn che chỡ ứng hiện, giới tắc hư không vô lượng u hiểm. Thiết thực nghe chư Phật và Bồ-tát không xả bỏ bổn thệ, làm thầy trời người, cứu giúp nâng đỡ hàm thức, lần lượt khiến cho Hòa-thượng, xà-lê thay thế làm bậc thầy gương mẫu, dẫn dắt tiếp nhận thế hệ tương lai không khác với Phật, giúp tiếp tục kính trọng có đủ ở kinh luật, không có sự dẫn dắt sáng tỏ làm sao cứu thoát biển khổ? Không phải đền đáp ân đức sâu nặng lẽ nào thâu nhận ruộng phước? Hạnh để lại có thể theo đuổi, trịnh trọng y theo lời Phật dạy, Thiên Thai Trí Giả là tiên sư truyền trao giời Bồ-tát, vượt qua Diệm Lónh chuyển dời thay đổi Thạch Thành, đầu tiên nghe tin tức đến tình cảm đau xót gắng gỏi đè nén, cung kính chỉ có thắng hạnh cùng thỏa mãn sáng suốt nối liền, Phật cho lúc qua đời tự nói rõ sở đắc, nay mở ra thư của thị giả, có tướng kì lạ rất lớn, cho tôi là đệ tử địa vị ở Ngũ phẩm, sự việc ở Pháp Hoa, Thập trụ Tín tâm quả thật văn có đủ anh lạc, thế là tiếng hư không vàng lại khác nhau, đầy khắp vùng núi, yên lặng khoác đại y nói Quán Âm đến rồi. Nghiệm xét biết rằng chắc chắn đi vào hội, trực tiếp nhìn thấy Di-đà, yên tónh thâu nhiếp chuyển dời thần thái an tọa thân chứng, và làm thay đổi từ tối đến sáng hôm sau, dung mạo hình tướng trang nghiêm, ấy là bởi lẽ từ vô lượng kiếp đến nay đàn tuệ đầy đủ, hết sức hộ trì Phật pháp phát động chúng sinh, không phải lộ ra dạy dỗ ẩn hiện, điều đó ai có khả năng ở nơi này? Người có trước có sau, đó chỉ là bậc Thánh ư? Dù cho dùng biện tài đem ngàn muôn ức bài kệ, khen ngợi phước tuệ của Sư rốt cuộc không thể hết được. Đầu mùa Hạ đưa tin tức đến núi mong chờ pháp, hết năm đón nhận tặng lạp đã đầy đủ, hãy còn nghi ngờ khe núi hiểm trở độc địa, ý giữ lấy không khí làm bạn với sương tuyết. Cốc chén vượt qua mặt gương của nước đến lúc đang nhọn sắc, dù cho nối theo bệnh nằm chẳng lẽ nói để mặc tiếp tục ư? Thần lực vượt qua cõi tịnh thì không được thấy lại dung mạo và tiếng nói. Nếu cứ bàn bạc về pháp vị, thì Duy-ma Nghóa Sớ tiềm tàng mà không nói ra, bởi vì chướng ngại vốn có gốc rễ sâu xa khiến cho trái với tâm khế hợp đã dạy, ở trước phải bổ sung cho sau, gần nơi châu này thiền chúng cư ngụ đã lâu, mong mỏi giúp đỡ tìm cách gặp mặt, đồng thời đến vùng phác họa chỉ ra của Thiên Thai, bắt đầu xây dựng chùa tháp, nhưng ở nơi đầu-đà của núi kia, chưa được huân tu, nay xem xét ngắm nhìn, kèm theo thư dặn dò gửi gắm, sự nghiệp Phật pháp không thể nghó bàn, cảm xúc than thở thành thật khắc ghi tiếc rẻ không dứt. Nay phái người hướng về Phật Lũng, Phong Đảnh, nhónh hợp chúng kết trai, nguyện nhờ năng lực Tam Bảo, nhanh chóng đến Tây Phương. Trí Giả chứng biết Tịnh Độ ký biệt, đời đời kiếp kiếp sinh ra làm đệ tử Đại sư, khi chưa thành Phật tiến lên sớm độ thoát lẫn nhau, không bỏ duyên cảm động làm cho lớn mạnh đến bồ-đề, và cầu xin năng lực của đại chúng sám hối cho đệ tử, từ lúc vô minh trú địa đến nay, còn như Hằng sa hoặc chướng bây giờ, phiền não mê muội mơ màng năm cái mười triền, luân hồi giới nội tám muôn bốn ngàn, trần lao tăng thêm, nguyện dựa vào chứa góp vui mừng đạt đến công ấy, tội lỗi như sương mù được mặt trời trí tuệ làm cho tiêu tan, mọi điều lành rộng khắp đều tụ hội để mưa pháp tưới nhuần tràn trề, thần thông đạo lực chiếu sáng khắp nơi Hoàng gia, phước báu linh trường sâu xa, che phủ ức triệu. Ngày hai mươi chín tháng giêng niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười tám. <詞>VĂN VUA THĂM HỎI ĐẠI CHÚNG. Ngày hai mươi chín tháng giêng, Tổng Trì kính lạy trình bày. Các hành vô thường là pháp sinh diệt, chư Phật và người Duyên giác còn xả bỏ thân vô thường, Đại sư Trí Giả chuyển đổi tùy theo tinh thần biến chuyển, kìm nén đau thương sinh ra phiền muộn, không thể nào kể hết được ý nghó đang thay đổi, kính mến truy tìm đau thương quá đô khó nén chịu, ôi mãi làm sao, nên khôi phục thế nào? Hai vị thị giả là Quán Đảnh, Phổ Minh, đưa cho thư tiển biệt, luận Quán Tâm, Tịnh Danh sớ, tê giác, như ý, hoa sen, lư hương, và pháp sư Trí Việt cùng cả chúng mở đường, thấy phù hợp càng thêm nghẹn ngào, đạo đức và tiếng nói dường như còn giữ lại, lập tức phái thứ lớp truyền đi làm thay đổi dấu vết thần linh, điềm lành sáng sủa gắn liền tự nói rõ ràng, xá lợi toàn thân giờ đây an tọa, chẳng chứng tiểu quả Thanh văn chắc chắn đi vào địa vị Bồ-tát. Xưa nay nghe đạt được tam-muội Pháp Hoa, mới xét đúng là pháp luân bất thoái, tạm mặt thấy Di-đà, Quán Âm, Đại Thế Chí. Dùng trí túc mạng phản chiếu cõi này, bốn chúng đệ tử há không gắng sức? Tự suy đoán ít ỏi hạn hẹp không thể trình thưa báo đáp, chỉ có điều là hướng về cung kính nghe theo lời dặn dò gửi gắm, không dám quên mất, thuận theo xây dựng già lam trong khu vực phác họa chỉ ra, cần phải thông hiểu dẫn dắt nối tiếp, cõi trời liền thuận theo đến ranh giới kim cương, đã có đạo lý quan trọng, thích hợp kiến lập, tu bổ tạo ra, một bề vâng theo ý định sẵn có. Xưa Tuyên Ni qua đời, đệ tử trong coi phần mộ ba năm, học trò của Tử Cống thậm chí đến sáu năm, huống chi phải lập tịnh xạ, cây lâu dài nền móng phước đức hiện bày nơi ấy, Tăng trước kia cẩn thận đừng mở rộng phân tán. Nhưng dù cho mưu cầu đạo lý sao lại lo lắng không có cơm ăn? Mong mỏi kiếp sau được về Tây Phương chẳng phải xa xôi, tất nhiên nếu lơi lỏng thì rời khỏi hồ báu rất xa. Nay phái người đi sứ, vào Phật Lũng ở Phong Đảnh, thành kính sám hối lễ lạy, tu phước kiến trai đầy đủ như nguyện văn. Sơ lược trình thưa ý kiến ngu hèn, hai vị Tăng nay trở về, do đây viết thư an ủi. Dương Quảng trình bày. Ngày mồng năm tháng mười một. <詞>ĐẠI CHÚNG Ở NÚI THIÊN THAI CẢM ƠN DẪN DẮT. Sa-môn Trí Việt Thiên Thai cùng cả chúng kính khải. Tư Mã Vương vô cùng lớn lao, tăng phái Quán Đảnh và Phổ Minh trở về vâng mạng ngày hai mươi chín tháng giêng. Ban dạy rũ lòng thăm hỏi cùng truyền đi khẩu giáo, đặt biệt tìm hiểu ân cần cẩn thận đối với cửa khám thờ, đốt hương quỳ đọc lời lẽ nghóa lý đau xót thiết tha, đớn đau cùng tận tâm hồn, di chúc nhiều lần thuận theo mất còn gánh vác, ngày Sư còn tại thế thường có lời dạy rằng: Nay có được nề tảng chùa viện là nhờ nhà vua sáng lập xây dựng, không phải là tiểu Tăng ấy xây dựng, ngoài ra có người thế lực to lớn, về sau mới thanh tựu. Tiếc là mính không thấy ngôi chùa thành tựu, bấy giờ không lường trước được nguyên do, nay được tu bổ tạo dựng mới tỉnh ngộ nhớ lại trước đây, sâu xa phù hợp nhau không thể nghó bàn, kinh tạng pháp bảo là tàu thuyền xuất thế, thầy của chư Phật dẫn dắt bến đậu cho chúng sinh, mãi mãi trấn giữ Phật Lũng y chỉ thọ trì, chuông- phướn- hoa… giúp cho yên tâm cúng dường, pháp cổ cảnh ngộ lợi ích cho người và thần, pháp hội ngàn vị tăng công đức viên mãn. Cúi đầu nghó rằng u linh Từ bi xa xôi xem xét, trịnh trọng vào ngày trai mở ra đọc nguyên văn, pháp tịch sợ hãi tâm cầu đi vào biển nguyện, được ban thưởng trai lương ân cấp cho ruộng đất, cơ nghiệp vô tận thi mạng vô cùng, có nán lại quả thật là phiền đến long ân, khó đền đáp giáo chỉ, chỉ có điều là hiện tiền tăng này, không làm cho mở rộng phân tán. Cúi đầu thừa nhận suy nghó: Sự nghiệp làm cho lớn mạnh và bảo vệ là quan trọng- tinh xá sắp hoàn lành, môn nhân đồng học mới dựa vào y chỉ, khám thất trang nghiêm tâm nào rời xa? Huống chi ban xuống nghiêm giáo càng sợ hãi, lòng son thành thật. Trịnh trọng hướng về hạn định, nghiêm khắc tăng thêm tâm lực, nhưng một chút mất đi sự che chở mãi mãi của từ nguyện, truy tìm chúc mừng duyên vốn có trở về được che chở bảo vệ, buồn vui đến đồng thời, sắp sửa kể bày thì rơi nước mắt xin bắt đầu. Ngày mười lăm tháng hai niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười tám. <詞>THƯ VUA SAI SỨ VÀO THIÊN THAI LẬP NGÀY GIỖ TRÒN NĂM TIÊN SƯ. Năm lần lượt chuyển dời ngày tháng như qua đi, Trí Giả qua đời đã sắp một năm, truy tìm sâu xa đau lòng tình cảm không thể ngừng dứt. Ý nghó kính mến cảm động thiết tha đâu thể tự nhiên dứt được? Nay phái Điểm Thiên, Ngô Cảnh Hiền hướng về, họ thiết trai dâng lên vào ngày Đại sự mất để được phước đức, biết muộn đôi chút. Dương Quảng kính lạy. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười tám. <詞>CHÚNG Ở NÚI THIÊN THAI KHẢI TẤU CẢM TẠ CÔNG ĐỨC. Sa-môn Trí Việt ở Thiên thai ả chúng kính khải. Điển Thiêm, Ngô Cảnh Hiền đến, vâng lệnh chỉ dạy vì ngày mất của Tiên sư mà thiết trai, tăng chúng năm trăm người cùng lúc tập trung, nẻo hữu tình minh tuy cách ngại nhưng đường cảm ứng thông suốt, Việt tôi và mọi người không thể dập tắt tro muội, bỗng chốc đến ngày húy truy tìm kính mến từ nhan, đau xót nghẹn ngào, rập đầu lạy rơi nước mắt nuốt cơm, không thể nào gánh vác nổi. Tôn kính xin bày tỏ có lời cảm tạ, xin kính cáo. <詞>CHÚNG Ở THIÊN THAI CHÚC MỪNG. Chùa Thiên Thai đệ tử của Trí Giả là Sa-môn Trí Việt cùng cả chúng kính khải, cúi đầu thừa nhận chỉ riêng, điện hạ đức hạnh tự nhiên như trời, kính mến đảm đương xứng với tên gọi, muôn dân vui mừng nương cây vạn quốc vui sướng yên ổn, tất cả đạo tục chẳng ai không vỗ tay nhảy múa, huống chi là Việt tôi và mọi người sớm được che chở bảo vệ, cúi đầu kính nhận ân tuệ yêu thương, quả thật không mặc ý vui sướng, xin phái Tăng sứ là Quán Đảnh, Trí Tảo … vâng mạng tấu khải để nghe. Xin kính cáo. <詞>CHÚNG Ở THIÊN THAI CẢM TẠ XÂY DỰNG CHÙA XONG . Ngày mồng ba tháng mười niên hiệu Nhân Thọ năm dầu, Sa-môn Trí Việt cùng chúng đệ tử của Trí Giả chùa Thiên Thai. Cúi đầu lắng nghe, Long Thọ qua đời, Thiên Trụ giúp ngài xây dựng già-lam. Trong Bảo Trí chép: Nước Lương mất nên ra sức tu bổ khai bày điều lành bởi vì bổn thệ của Bồ-tát biểu hiện khai phát lẫn nhau, hễ là Thanh văn chỉ biết khen ngợi giúp đỡ. Cúi đầu thừa nhận ý chỉ riêng, Hòa-thượng đã tạ thế, vốn có đức hạnh khó nghó, làm bậc thầy trời người, an thiền vào Niết-bàn nêu ra việc ít có, mở ra đối chiếu kinh luật, ngàn năm cùng nghe, diệu đức rõ ràng phát khởi ở tại Thánh thế. Cúi đầu thừa nhận ý chỉ riêng: Tôn sư trọng đạo, liền đó tu bổ già-lam, nơi xây dựng tạo lập rất được tư thế của núi. Tiên sư thường nói: Vùng đó nhất định chờ đợi duyên lành. Truy tìm lại lời ghi nhớ này càng hiểu rõ hôm nay, chính là chùa trong năm núi, chen lẫn dòng chảy của hai con suối, nhà cửa điện thờ sáng sủa giản dị, phòng ốc mái hiên kín đáo chặt chẽ, mới là Tịnh Độ, vì vậy qui tụ thần tiên. Từ khi thành tựu đến nay tiên sư thường để lại bóng dáng dấu vết, cảnh thánh tuy xa xôi nhưng có cảm thì ứng, đã sáng lập tháp miếu nên hiện rõ sự linh thiêng khác lạ, liền đó bày tỏ chư Phật đều cùng nhau nhiếp thọ. Việt tôi và mọi người tầm thường kém cỏi sai lầm nói về môn đồ, ngửa xin hổ thẹn với ngôi nhà cúi xuống khích lệ tâm lực, thường ở trong chùa nơi nhóm họp trai sám, thường ngày chuyên chú lý thiền, ngõ hầu nhờ sự huân tu, hầu hạ báo đền ân trạch bậc Thánh, không thể tùy ý ưa thích gánh vác. Xin phái Tăng sứ Quán Đảnh, Trí Tảo vâng mạng khải tấu cảm tạ để nghe. Xin kính cáo. <詞>TĂNG SỨ HỎI-ĐÁP VỚI HOÀNG THÁI TỬ Ngày mồng ba tháng mười một niên hiệu Nhân Thọ năm đầu. Tôn sùng mến chuộng Thứ tử Trương Hoành truyền đi lệnh tăng, khiến cho Quán Đảnh - Trí Tảo và nội trai lệnh chỉ, tự hỏi tiên sư sau khi mất có gì linh nghiêm, kì lạ chăng? Trả lời rằng: Tiên sư ngày hai mươi bốn tháng mười một niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy, ngồi kiết già di thần nhập diệt, đến ngày mười sáu tháng tư năm thứ mười tám, chúng vào đầu hôm đều tụ quanh giường dây, đang muốn nhiếp niệm vị tăng tên Đạo Tu, thấy tiên sư mặc áo quần vốn có, tay nắm gậy trúc từ cửa phía Tây đi vào, tựa lưng hướng về một lát và theo cửa phía Đông đi ra. Đạo Tu kinh hãi đứng dậy kính cẩn bái lạy, bái lạy xong thì hình bóng biến mất, tất cả mọi người hỏi Đạo Tu là ý gì, Đạo Tu gãi đầu rối rắm nói đầy đủ nhân duyên, mọi người cùng nhau xót xa than thở. Lệnh chỉ chép: Rất kì lạ, rất kì lạ, lại có gì không? Trả lời rằng: Đến năm thứ mười tám, vào giờ Ngọ ngày mồng hai tháng mười một, có Tu Nhân ở huyện Mộc Dương thuộc Hải Châu, quân nhân phòng Bá Nô người cùng quê ở Nghóa Toàn; quân nhân Vệ Bá Sinh người làng Đông Chiêu xã Mâu Lăng huyện Chiêu thuộc Từ Châu, cả hai người này ở bậc thềm phòng trước đây của tiên sư sửa sang nền đất, cửa phòng này có bức mành buông, hai người nghi là thần dị, tiến vào phòng tìm kiếm khắp mà lại không thấy, kinh hãi báo cho tăng, biết sự việc như trên. Lệnh chỉ rằng: Rất kì lạ, rất kì lạ, lại có gì không? Trả lời rằng: Đến ngày mồng tám tháng đó người huyện Liên Thủy thuộc Hải Châu là Vu Khâu Bưu ở đỉnh núi cưa gỗ, sớm chiều bái lạy khám thờ cầu xin được bình an, rằng ngày như vậy, cứ đến giờ Hợi thì muốn nằm nghỉ, bỗng nhiên thấy một vị tăng cầm gậy đẩy cửa đi vào. Bưu định đứng dậy thì vị tăng đã đến trước giường, nói rằng: Nên cố gắng sẽ được bình an. Bưu thuận theo như vậy mà còn tập trung bái lạy, bái lạy đứng lên thấy vị tăng đi ra cửa, vòng quanh chùa Tu Thiền một vòng, mặt hướng về điện Phật giơ gậy lên chỉ huy, chỉ huy xong ra ngoài cổng đi hai mươi bước thì biến mất không thấy trở lại. Bưu đi theo sau quả thật nhìn thấy tất cả rõ ràng, sáng sớm đến nói cho tăng biết, tăng hỏi khoác trên vai áo gì, trả lời là khoác y trí nạp của tăng, dẫn vào hương sàng chỉ rõ bổn nạp thuở bình sinh, Bưu nói: Màu sắc, hình dáng đúng như vậy. lệnh chỉ rằng: Rất kì lạ, lại có gì không? Trả lời rằng: Đến ngày hai mươi sáu tháng mười một năm thứ mười chín, người địa phương là Trương Tạo bái lạy khám thờ rằng: Vốn có được hương hỏa, nguyện đời đời độ thoát. Tức thì nghe bật ngón tay mà nhìn quanh bốn phía không có người, tiếp tục chú nguyện quả nhiên là linh ngiệm, nguyện lại búng ngón tay lập tức tiếp tục nghe lại, Tạo chuẩn bị hướng về kể lại thứ lớp điềm này. Lệnh chỉ rằng: Rất kì lạ, lại có gì không? Trả lời rằng: Đến nay ngày mười chín tháng ba năm đầu, vị tăngtên là Giảo Sinh ở huyện Vónh Gia nghe danh tiếng đức hạnh mà không nghe chuyện linh thiêng kì lạ, cho nên đến sám hối ở khám thờ, nhiễu quanh khám thờ ngàn vòng vẫn lễ ngàn lạy, vào giờ Hợi cửa ngoài của khám thờ tự mở ra rộng rãi thoáng đãng, ánh sáng từ khám thờ phát ra, soi chiếu khắp nơi mọi bề rừng cây hang núi sáng ngời rõ ràng, cành lá cây cối nhìn thấy tỏ tường, cả chúng không biết ánh sáng gì, tranh nhau ra mở của kiếm tìm, Giảo Sinh cũng chạy nhanh trở về, báo cho chúng biết, cùng nhau vui mừng đảnh lễ, ánh sáng rất lâu mới tắt, mọi người nhín thấy nhau. Lệnh chỉ rằng: Rất kì lạ, đệ tử muốn mở phần mộ khám thờ, kinh luận có phương pháp khai mở không? Trả lời rằng: Quán Đảnh tối tăm, hạn hẹp chưa biết rõ kinh luận khác, cúi đầu thừa nhận nghe kinh Pháp Hoa chép: “Thích-ca Như Lai tự dùng tay phải mở tháp Đa Bảo, tám bộ trời rồng nhìn thấy toàn thân”, lệnh chỉ muốn mở phần mộ khám thờ, rất hiểu rõ kinh giáo, học trò xa cách đã lâu, lại nhìn thấy điếm may mắn thuận lợi lạ lùng, đây chính là việc lớn lao như đói như khát, nếu được mở bày lộ rõ lại bái lạy tôn linh, tận số nào ân hận, rơi nước mắt nghẹn ngào nức nở. Lệnh chỉ rằng: Có thể cùng với người đi sứ trở về núi, thiết trai mở khám hoàn, tất thì hai sư trở lại, trải qua từ trước đến nay chớ chối từ vất vả cực nhọc. Trả lời rằng: Đúng vậy, niên hiệu Khai Hoàng năm thứ hai mươi mốt đổi thành Nhân Thọ năm đầu, vì Tấn Vương được làm Hoàng Thái tử. <詞>VĂN HOÀNG THÁI TỬ CUNG KÍNH LINH KHÁM. Năm Tân Dậu niên hiệu Nhân Thọ năm đầu, đời Tùy ngày Bính Dần mười bảy tháng mười hai, bồ tát giới đệ tử Hoàng Thái tử Tổng Trì kính lạy. Cung kính bày tỏ trước tòa linh khám xá lợi toàn thân của tiên sư Trí Giả chùa núi Thiên Thai rằng: Thầm nghe, Dân sinh quyết định bởi ba việc như một điều giúp đỡ quy phạm bậc Thánh, có thể toại nguyện công lao người Hiền, Nhan Hồi không gặp Tuyên Ni, há láng giềng hầu như đông đúc ư? Duẫn Hỷ không gặp Lão Thị, lẽ nào đến mức tăng thêm tuổi thọ? Huống chi đáp thuyền Bát-nhã, nhằm về bờ bồ đề, không có sự dẫn dắt sáng suốt, há đến được đảo châu báu ư? Lại dựa vào niềm tin khiến cho tất cả lần lượt tiến vào pháp thành. Đó gọi là tự lợi lợi tha, người và mình cùng lợi ích, sư và đệ tử đầy đủ trí- đoạn. Nhưng còn nghe rằng: Xem thường truyền thụ cáo lão, Thái tử tặng theo vàng ròng, Hoàn sư chối từ trả lại, gia đình bày ra tang phục. Đó hoàn toàn là công dụng ít ỏi trong pháp hữu vi, báo ân đâu đạt đến? Bày tỏ hư không chẳng ranh giới, ra sức báo đáp năng lực của sư, đệ tử vốn gieo trồng cội đức, sớm kế thừa đạo giáo, thân giới tâm tuệ được hạt ngọc sáng ngời, củ ấu lạnh sớm đơm bông tất cả dựa vào cam lộ, tuy khôi phục dòng thời gian mà tuổi tác mãi mãi sinh diệt không tìm lại được. Đi đứng nằm ngồi cúi đầu nhận chịu như đang giữ, bèn dùng cảnh trí mơ hồ sai lầm, nhắc đến con người lương thiện, chủ yếu giữ lấy đức độ, chẳng phải tài năng lên cao xa rời lắm sợ hãi, vâng mạng công khai dạy bảo kinh xưa, làm ra vẽ đứng dầu, tạm thời ngưng nghỉ đứng trước an ủi trở về nhận ra phương hướng sâu hút, nhìn về phương xa Thiên Thai như có địa Võng, tăng sứ nối tiếp đến điềm báo khám thờ chồng lên từng lớp, diệu pháp Đa Bảo phân thân như ý, kim quang ngọc hào phân đêm phá tối, ứng nghiệm búng ngón tay từ phòng trống lên tiếng, có một điều như vậy đã gọi là hiển ứng, bốn điều khó song song, há chẳng phải ít có hay sao? Từ sau khi Đàm Quang ngồi mà thị tịch, Đạo Du thân chứng đến nay, hưng công phi tích vốn không thể xứng hợp. Vận dụng linh nghiệm ở núi không có việc này, ôi long trọng quá! Chính là đền đáp năm tháng của lương điền ta. Thờ rằng: Không lời nói nào không thực hiện, không ân đức nào không báo đáp, kính lạy nhớ ân báo ân, tất cả chư Phật đều như vậy. Những năm gần đây tuy vâng theo sự khuyên nhủ ước hẹn mà tu bổ cấu thành Kỳ Hoàn nhưng lắm hổ thẹn với trải vàng mua đất, chỉ có nương nhờ không gian núi non ngõ hầu đồng tâm ở tịnh vức, cõi cao quý trang nghiêm may mắn tăng chúng không thiệt thòi, huân tu luyện tập không ngưng bỏ, năng lực sâu xa hết sức giúp đỡ, người công lao nhiều hổ thẹn. Nay phái Viên ngoại tán kị thị lang kiêm Thông sự xá nhân Trương Càn uy đưa các vị tăng sứ như Quán Đảnh… trở về núi, ở tại chùa thiết hội cúi đầu sát chân. Thập phương tam thế nhất thiết Tam Bảo, vô lượng u hiển, hiện tiền đại chúng đem công đức này, kính mong giúp đỡ tiên sư Trí Giả sớm chứng được chánh giác. Vốn có như qua đời chứng minh hiện rõ đã sinh về cõi An Dưỡng, khoảnh khắc đến để lại điềm báo, lâu dài nhìn thấy Di-đà, nối gót Quán Âm, gắn liền nhận định Đại Thế, mắt quay lại phía Đông coi xét không rời bỏ Ta-bà, chuyển sang liếc nhìn Nam Diên, càng thương yêu Chấn Đán, biển lớn xanh thẩm mịt mù vẫn còn không làm cho hướng về trôi theo dòng nước nhỏ, núi cao lớn sáng sủa trang nghiêm vô cùng lẽ nào tùy tiện loại bỏ đối với gò đất bé nhỏ ư? Dám bày ra ít ỏi dâng cúng, nguyện dũ lòng nhiếp thọ, hướng về khiến cho vô biên Pháp thân tất cả được nhờ cam lộ, vô lượng hóa ảnh đều tiến vào đề hồ, cơm Niết Bàn ăn không thể cùng tận, mùi vị Bát-nhã dùng nhưng không cạn kiệt. Niệm lực ta vâng theo đạo thầy ta, dứt trừ phiền não cho tà mạng, thỏa mãn thệ nguyện của ta, hiện tại- vị lai tăng thêm ân tuệ đề bạt, gia đình đất nước cùng toàn quyến thuộc đi vào Đại thừa, bí mật kín đáo đến thường truyền bá ảnh hưởng, trần lao chướng liên tục tiêu trừ, ngấm ngầm gút chặc, cuối cùng đều như hư không, viên mãn dường như pháp giới, ấy tức là năng lực cao quý của Đại sư, chư Phật gánh vác đảm đương- đệ tử giữ tình yêu thương trong lòng, đưa ra Như Lai tạng, không xa rời văn tự, vì cầu giải thoát, tánh của văn tự tức là giải thoát. Không mê đắm thế gian như hoa sen, thường dễ dàng đi vào chỗ vắng lặng, thấu đạt các pháp tướng chẳng thể quái ngại, cúi đầu như hư không chẳng chốn nương nhờ. <詞>NGUYỆN VĂN HOÀNG THÁI TỬ THIẾT TRAI Ở TẠI THIÊN THAI. Đệ tử thọ giới Bồ-tát là Hoàng Thái tử Tổng Trì-xin cúi đầu kính lạy. Pháp Phật- Báo Phật- Ứng Phật, Pháp thân- Ứng thân, hóa thân ba đời ở khắp mười phương. Thầy của chư Phật gọi là Pháp, vì pháp thường cho nên chư Phật cũng thường, Phật thường, pháp thường, tỳ kheo tăng thường. Thế gian đều là không mà thật sự chẳng phải không, chư Phật diệu Hữu mà thực sự không thể Hữu, không thể Hữu ma Hữu, chẳng phải không mà không. Vô cùng yên lặng điềm nhiên, mới gọi là vô cùng an lạc. Hạng phàm tình sai lầm nên quả báo đều sinh nơi vô cùng đau khổ, người mê muội thì sinh ra mù lòa đầu bạc, người đạt được thì không bắt chước châu ngọc đen huyền. Đệ tử may mắn dựa vào tốt duyên, nhân sâu xa gieo trồng kiếp trước phương tiện trí độ, sinh vào nhà Phật, Hoàng Hậu chí tôn yêu thương nhân ái mang thai dạy dỗ, có ân đối với tám vị Vương tử của Nhật Nguyệt Đăng Minh, sự cố gắng Đại Thông Trí Thắng của mười sáu vị sát na-di, hơn nữa xưa kia đến chỗ Hoài Hải kính trọng tôn sùng cửa Phật, nên tiên sư Thiên Thai Khải Thiền sư, nhận thỉnh cầu Giang Đô truyền giới Bồ-tát, từ đó bắt đầu hiểu ra trở về nương tựa có tham gia, nhưng mộng thấy cây cột, nhờ vậy đọc Lương Mộc Tiên Đồi, chắp tay an thiền ngồi nghiêm trang thị tịch, giờ đây mấy năm y hệt như suy nghó, vừa hiện rõ nghi dung hình dáng nối tiếp hướng về ánh sáng, tiếng bật ngón tay rung chuyển ở chỗ khám thất, tăng sứ trả lời kể rõ nhảy lên đứng thẳng, đều từ uy lực của Phật pháp tăng, cảm ứng Trương quan cất nhắc hàm linh, cho nên hiện rõ điềm báo ấy, cung kính vâng lệnh chiếu thư rõ ràng, tạm thời dừng nghỉ giám sát quốc gia tuần du an ủi vùng Hoài Hải, ngậm hờn than thở giúp thêm dân chúng, nhớ báo đáp ân Phật đền một chút nghóa đạo của sư. Đến nay ngày mười bảy tháng mười hai năm Tân Dậu, niên hiệu Nhân Thọ năm đầu đời Đại Tùy, trịnh trọng phái Viên ngoại tán kị thị lang thông xá nhân Trương Càn Uy, đến chùa Thiên Thai cung kính thiết đãi cơm rau, tuy điều hòa tám thứ nước nhưng lắm hổ thẹn với trăm mùi vị, ngõ hầu giống như lần cúng dường sau cuối của Thuần-đà, giống như sự thỉnh cầu từ xa của Tịnh Danh, sắc hương tế nhuyễn đầy khắp mười phương, ưa thích cơm ngon ngọt lẽ nào chỉ có trăm ức? Trờ tiên rồng thần đều mong mỏi mây trời rải ra tùy ý sắp xếp thế giới toàn bộ hướng về dày đặc, vì phân thân của Trí Giả, tiếp thu sự nhiệp thọ của thầy dạy, kinh dạy kính tin là vào được, trí có thể độ thoát, nguyện dứt bỏ cam lộ, tất cả cứu giúp biển khổ, ứng biến cõi uế, thông suốt với cõi tịnh, trời che đất chở, tăng lên chuyển thành kimluân, sáu tông bảy miếu mãi mãi an ổn nơi tòa ngọc, gốc ngọn trăm đời tiếp nối thịnh vượng muôn năm, nam nữ đạo tục đều cảm nhiễm Đại thừa, thủy lục không hành đều biết Phật tánh; nhét núi Tu-di vào trong hạt cải, chưa đủ để trở thành khó, ăn trong khoảnh khắc giống như đại kiếp, vì sao cho là quái lạ, đồng thời ếch nhái không biết sông biển, con muỗi ở lông mi lẽ nào biết cánh chim bằng? Vì vậy nay ta sám hối và cầu xin tiêu trừ sạch sẽ, để hôm nay ta đích xác đều đi vào biển nguyện, phát tâm bồ đề ở khắp cả mọi vật. Tâm bồ đề ấy chính là tâm Phật, dưới cứu độ chúng sinh, trên mong cầu quả Phật, không thể lấy thân đạt được, không thể dùng tâm đạt được, vì vô sở đắc tức là tâm bồ-đề, vô sở đắc tức là đắc vô sở đắc. Cúi đầu quy mạng Tam Bảo mười phương. <詞>HÒANG THÁI TỬ LỆNH THƯ CHO CHÚNG Ở NÚI THIÊN THAI. Tăng sứ là Quán Đảnh, Trí Tảo đến, xem thư ngày mồng ba tháng mười một, và kể rõ việc linh khám ứng theo dấu vết hiện rõ hình dáng, phát ra ánh sáng, búng ngón tay, truyền đi tiếng nói thuận theo ý niệm truyền thụ tiếng vang. Đây quả thực là lực không thể nghó bàn, biến hóa nhiều cách để cảm động thức tỉnh người có duyên, tỏ rõ việc ít có, chung quy cẩn thận tuy tìm xa xăm, cảm xúc mà than thở sâu sắc. Tại song lâm xưa chỉ rõ diệt mà chẳng diệt, chỉ có tháp Đa Bảo đợi lúc xuất hiện, liền ở tại dấu vết lời sói lang mà Ca-diếp phân thân, cả đến núi Linh Thứu nơi Phật Thích-ca để lại bóng hình. Giữa hia đầu chân mày phát ra vẻ đẹp chỉ thẳng về chấn thất, lẽ nào không phải Tượng giáo có thể cứu độ vô biên, là nhân duyên to lớn nghe thấy thiện tri thức, mãi mãi chỉ có xưa kia lâu xa được kế thừa bậc thấy quy phạm, đức hạnh và tiếng nói đầy đủ trong tai, thần lực và ánh sáng đang còn trước mắt, mới dựa vào điềm báo linh thiêng gắn liền với gót chân bồ đề, cung kính nối theo điềm báo linh thiêng khơi lòng an ủi thuyết phục phương Nam, sơn chúng pháp đồ cùng chì hướng làm bạn bè, có thể trở thành những người bạn mới cùng chung tàu thuyền, cuối năm giá lạnh ý nghó đều là đạo cao quý, Thiên Thai gọi là ngục mà bờ biển vốn tôn sùng, tu tạo xây dựng rừng lớn quả thật hổ thẹn với lầu gác quan trọng, ba thời thiết cúng, bốn sự không chi cấp, muốn thiền duyệt ngon ngọt vì giống như pháp hỷ, trong đó cung kính đức độ tin rằng lần lượt cùng nghe. Nay phái Viên Ngoại Tán kị thị lang Trương Càn Uy, đưa Tăng sứ trở về núi, ở tại nơi trước đây thiết cúng ngõ hầu cùng chung cam lộ, có thể làm thay đổi sự thô rút, cũng nhờ vào hương tích chứng đạo hòa hợp, thư viết thừa không hết lời, trái lại không kể hết việc này. Dương Quảng kính lạy. Tăng sứ Quán Đảnh chờ đợi lãnh nhận. Nay giúp cho vật dụng trước mắt, trình bày ngày mười bảy tháng mười hai năm Nhân Thọ nguyên niên: một chiếc lư hương bằng đá (cùng ba tấm hương hợp), một cái chuông đồng lớn, một chiếc trí nạp cà-sa, hai chiếc trí nạp thiên đản, bảy bức phướn mỗi bức bốn mươi chín thước, quần vây vải hoàng lăng một tấm, chăn dạ hai trăm chiếc, hai tấm vải tơ-kì chi, phướn nhỏ một trăm bức, hai hộp hoàn hương, một hòm đồ hào, ba trăm phần quần áo và các đồ dùng hằng ngày, một hộp nài sao, một hộp muối hạt, sáu bình bơ. <詞>CHÚNG Ở THIÊN THAI CẢM TẠ. Sa-môn Trí Việt cùng toàn chúng đệ tử của Trí Giả ở chùa Thiên Thai kính khải. Người đi sứ cùng thông sự xá nhân Trương Càn Uy đến, xin tiếp nhận các đồ vật trước đây, tất cả đều còn nguyên, sạch sẽ, vẫn lập tức bày biện ra trước khám thờ xá-lợi Tiên sư, truyền đi đầy đủ lệnh đến, cùng xướng đọc đồ vật giúp cho, lại thiết pháp trai cho ngàn vị tăng. Cúi đầu thừa nhận nghó rằng: Bảo vệ to lớn ân cần, ân tuệ yêu thương đến tất cả. Lư hương tế nhị, thợ trời trang nghiêm, chuông lớn hòa nhã, rung chuyển phàm thánh tụ hội, cờ phướn đẹp đẽ thư thái rũ xuống, ngờ rằng nhấc cao phạm công, bơ táo muối đào thỉnh mời giống như Hương tích, pháp y sạch sẽ điểm tô lìa xa bụi bặm không dính mắc, chăn dạ vật dụng dồi dào hơn nhiều, lóa mắt kinh sợ nhìn và nghe, ngàn vị tăng nhóm họp phân bố tràn ngập sân núi, liền giáng xuống vương nhân, ánh sáng hiện rõ rừng núi hang động. Tôn kính đối trước linh khám, chắc chắn thần thông nhiếp thọ, nêu lên muốn làm chúng Thánh, mong muốn nguyện hải trang nghiêm, Việt tôi và mọi người phàm tục nhỏ bé sai lầm được ân nhuần gội, yêu thương tưới nhuần trùng lập liên miên, khó có thể khắc phục gánh vác được. Tất cả chúng chí thành cung kính, như đi trên băng mỏng, không mặc ý đến sự mang vác. Xin kính cáo cảm tạ để nghe. Xin kính cáo, ngày mồng sáu thang Giêng năm Nhân Thọ thứ hai. <詞>HOÀNG THÁI TỬ LẠI RA LỆNH. Quán Đảnh, Trí Tảo cùng đến, uổng phí thư đến cho chúng trong chùa, tài thí là không quan trọng, pháp môn nêu lên mới là sâu nặng, Đàn Ba-la-mật Bát-nhã thành tựu cao quý, không đầy đủ hai duyên lẽ nào được giải thoát? Thí giúp thọ nhận quên cả lời nói thậm chí lý lẽ, dấu vết hướng về, lẽ nào lại chối từ là không? Dương Quảng kính lạy. Bên phải thứ tử Vương Hoằng tuyên lệnh, giúp cho Thiên Thai hạng mục vật dụng: một trăm sáu mươi chiếc Pháp y bằng vải lónh rồng bay, một trăm năm mươi tấm cờ phướn, một thạch muối ăn quang minh, năm bình bơ. <詞>CHÚNG Ở THIÊN THAI CẢM TẠ. Sa-môn Trí Việt cùng toàn chúng đệ tử của Trí Giả ở cùa Thiên Thai kính khải. Ân tuệ yêu thương long trọng hỷ xả nhiều lần nhờ cậy, sau khi tăng xứ trở về, lại rũ lòng ban thưởng ân tuệ, cờ phướn đẹp đẽ mầu sắc xen lẫn trang nghiêm điện thờ, pháp phục lónh làm rạng rỡ phù hợp chúng tăng, năm bình bơ mèo sung thân trừ bệnh hoạn, một hộc quang minh vị thuốc ăn gồm đủ đậm đặc. Việc tôi cùng mọi người ở chốn núi non thôn dã mặc phẩn tảo phân chia bảo vệ, nay thì chăn đệm quần áo ấm áp sáng sủa, mùi vị món ăn quý giá ngon ngọt, không tự mình độ lượng, càng thêm run rẩy sợ hãi, không tùy ý kinh sợ, xin kính cáo lắng nghe và cảm tạ. Xin kính cáo. Ngày mười lăm tháng tư năm niên hiệu Nhân Thọ thứ hai. <詞>THƯ CỦA HOÀNG THÁI TỬ TRUYỀN BÁ RỘNG TỊNH DANH SỚ. Hữu Thứ tử Trương Hoành tuyên lệnh: Tăng ở đạo tràng Tuệ Nhật là hai sư Tuệ Trang và Pháp luận, vào Đông cung giảng kinh Tịnh Danh, toàn bộ sử dụng sớ của Trí Giả, phân định giải thích văn kinh, một ngày mai thời tự cúi mình đến nghe. Lệnh cho phủ tổng quản Dương Châu, phái tham quân Trương Hài đến Thiên thai, có một người am hiểu đích thực nghóa Pháp Hoa của Trí Giả, nhiều lần đưa cho sớ đi vào kinh khiến đem đến chùa, chùa sai phái Quán Đảnh đi theo sứ tiếp thu mệnh lệnh. Sớ đến giao cho ti sở sao chép, chép xong giao cho Quán Đảnh hiệu đính, hiệu đính hoàn tất vào cung thọ trì. Bên phải thứ tử Trương Hoành tuyên lệnh: Đưa đường Quán Đảnh đi vào chia tay trực tiếp nhận chỉ. Ngày mười tám tháng tám niên hiệu Nhân Thọ năm thứ hai, lệnh chỉ rằng: Đệ tử coi trọng pháp môn của Tiên sư, cho nên vất vã mệt nhọc lẫn nhau, sư cũng cần phải vì pháp, đừng cho là cáo từ. Nay phái đại đô đốc Đoàn Trí Hưng thỉnh sư trở về chùa, để kính lạy đại chúng có thể y theo pháp dụng, hàng đạo của tiên sư chớ hại đến danh tiếng phong cách. Trừ bỏ dễ dàng, vả lại có bố thí, ba trăm hai mươi chiếc pháp y bằng vải lónh rồng bay, hai mươi bình bơ mèo- trâu, một hộc muối ăn quang minh, Hữu Thứ tử Trương Hoành tuyên lệnh: Ngoài ra ban tặng đồ vật cho Quán Đảnh, kim lâu làm thành tượng Di- lặc, và hai tượng hầu Bồ-tát, vòng quanh Thánh tăng, năm mươi ba vị Phật thêu dệt thành bảy bức kinh đàn, thêu dệt thành cái túi để kinh hai chiếc, một trăm cân huân lục hương, một cân tô hợp hòa hương, còn lệnh thư một hồm cho chúng, lại phái Dương Châu ti công tham quân Thái khác đến, vì Trí Giả thiết trai cúng dường ngàn vị tăng. <詞>NIÊN HIỆU NHÂN THỌ THỨ TƯ HOÀNG THÁI TỬ LÊN NGÔI. Chúng ở Thiên Thai chúc mừng bậc chí tôn, Chùa Thiên Thai- Sa-môn Trí Việt cùng toàn chúng kính khải. Thầm nghe: Kim luân báu xanh, nhiều đời tương truyền, lại xa lìa thời trẻ trung, hăng hái rũ lòng, cai quản chia rõ. Cúi đầu thừa nhận suy nghó: Thánh nghiệp Bồ-tát của Hoàng Đế, thường xuyên thành tựu biên soạn, mô phỏng theo ngai vàng to lớn khắp bốn biển, đạo tục nhiều nước khen là hạnh phúc. Việt tôi không mặc ý vui mừng đến hớn hỡ, trịnh trọng phái tăng sứ là Trí Tảo kính vâng lắng nghe. Xin kính cáo. Ngày ba tháng mười một niên hiệu Nhân Thọ năm thứ tư. Trí Việt cùng Tăng chúng chùa Thiên Thai huyện Lâm Hải thuộc Quát Châu kính khải. <詞>SẮC CHỈ CỦA BẬC CHÍ TÔN. Hoàng Đế cung kính hỏi Sa-môn Trí Việt và các Pháp sư chùa Thiên Thai ở Quác Châu, trời lạnh đạo thể có thích hợp hay không? Tăng sứ Trí Tảo đến nhận được thư đầy đủ ý, ngày mười ba tháng giêng niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu, Trụ quốc nội sử lệnh cho cử quốc công thần chưa đến, Đại đô đốc kim Nội sử thị lang thần Ngu Thế Cơ, kiêm Nội sử xá nhân thần Phong Đức Vũ, xá nhân Phong Đức Vũ, truyền đi sắc chỉ Tăng sứ Trí Tảo rằng: Sư từ xa đến mà đường đi đang giá lạnh khổ nhọc như vậy, hãy tiếp tục trở về chùa nói ra ý trẫm, hướng về đại chúng dễ dàng hành đạo, đừng hại đến danh tiếng phong cách của tiên sư. Bên phải Bộc xạ họ Tô tuyên đọc sắc chỉ ban tặng chùa Thiên Thai năm trăm phần vật dụng, đến kho Dương Châu tham quân Hướng Đức Nguyên chuyển giao vật dụng về chùa. <詞>CHÚNG Ở THIÊN THAI CẢM TẠ. Sa-môn Trí Việt ở Chùa Thiên Thai cùng toàn chúng kính khải. Sai phải Trí Tảo trở về vâng mạng tuyên đọc, ngày mười ba tháng giêng sắc chỉ giúp cho năm trăm phần vật dụng, trịnh trọng lập tức tu tập chúng đến trước điện Phật, cung kính đối với người là sứ chú nguyện đúng như pháp. Việt tôi cùng mọi người may mà gặp được đời Thánh, thừa nhận được sắc chỉ mừng vui sợ hãi đã sâu sắc, lại lãnh nhận sự ban thưởng lớn ân tứ càng sâu nặng. Thầm nghó: Luân vương địa thủy đã giác ngộ khó mà làm cho tiêu tan, huống chi vật dụng mầu nhiệm nơi kho nhà trời lẽ nào cung kính thọ dụng ư? Ngõ hầu dựa vào sắc chỉ thương yêu, lại được nhờ Phật lực dốc hết tâm tư sức lực, lời dạy còn để lại cho người thầy chuyên tu thiền tụng, hướng lên đền tháp ân tuệ của trời, không mặc ý đến chỗ sợ hãi gánh vác. Trịnh trọng dựa theo sứ Dương Châu cung kính cảm tạ để nghe. Xin kính cáo, ngày mười bảy tháng ba niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu. <詞>XA GIÁ TUẦN DU CUNG GIANG ĐÔ, CHÚNG TRONG CHÙA YẾT KIẾN KHẢI TẤU. Sa-môn Trí Việt ở chùa Thiên Thai cùng toàn chúng kính khải. Giữa thu giá lạnh cúi đầu thừa nhận nghó rằng: Hoàng đế bệ hạ sinh hoạt thường ngày trong muôn phước, Việt tôi cùng mọi người từ lâu được rũ lòng che phủ chỗ công nhận được ân tuệ thương yêu, chúng trong núi thường được yên tâm giữ nước hành đạo. Cúi xuống nghe rằng: Xa giá tuần du thăm hỏi, chúng trong chùa vùng Giang Đô vui mừng hớn hở, không tùy ý thành thật thướng về lưu luyến, trịnh trọng phái Tăng sứ là Trí Tảo vâng mạng khải tấu để nghe xin kính cáo. Ngày ba mươi tháng tám niên hiệu Đại Nghiệp nguyên niên. <詞>TĂNG SỨ ĐỐI DIỆN HỎI ĐÁP. Ngày mười chín tháng tám Tăng sứ Trí Tảo, ở tại vườn Hoa Lâm, sở châu bày tỏ tất cả sự sinh hoạt thường ngày. Thông sự xá nhân Lý Đại Phương tuyên đọc sắc chỉ rằng: Sư từ xa tới đây, trên đường đi vất vả cực nhọc như vậy, đến Dương Châu cùng sư gặp gỡ nhau. Ngày hai mươi sáu tháng chín gồm có Tăng sứ các châu, đưa đường hướng về trước điện Đại Nha, Phi quốc công Tô Uy tuyên đọc sắc chỉ rằng: Kính lạy các sư, trời dần giá lạnh, các Sư đều có thể hành đạo, đệ tử tuần du thăm hỏi các sư cư trú trước đây, cho nên có thể đến tìm kiếm lẫn nhau, các sư hãy đi. Ngày hai mươi tháng mười một, xá nhân Lý Đại Phương dẫn vào cửa điện, sắc chỉ rằng: Sư lên chỗ ngồi, ngồi xong, Hoàng môn thị lang Trương Hoành tuyên đọc sắc chỉ rằng: Các sư là Tăng chúng ở chùa của tiên sư hòa hợp không, có can ngăn cạnh tranh phải quấy lẫn nhau không? Trí Tảo muốn đứng dậy trả lời, sắc chỉ rằng: Sư ngồi, đừng đứng dậy. Trí Tảo trả lời rằng: Học trò cùng đại chúng quét dọn sạch sẽ chùa của Tiên sư, trên dưới hòa hợp như nước với sữa, suốt một đời này giữ nước hành đạo không dám có sự cạnh tranh phải quấy, thường do thật vọng đau khổ mà run rẩy sợ hãi. Sắc chỉ rằng: Tốt. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Các sư đã là chúng của chùa Tiên sư, sự hành đạo cùng các nơi như nhau, hay cho là có khác? Đáp rằng: Pháp của Tiên sư có khác nhau so với các chùa hành đạo sáu thời, ngồi thiền bốn thời, nơi khác thực hành khác, đạo tràng thường lấy hành pháp tôn trọng giúp đỡ bậc Chí tôn. Sắc chỉ rằng: Rất tốt, rất tốt. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Các Sư đã là những người hành đạo, đừng dung nạp Tăng só phương Bắc và khách Tăng châu khác, cả đến riêng tư độ người xuất gia, liều chết giúp nhau nhiều lẫn giả dối, hoàn toàn không được dung nạp. Đáp rằng: Chùa Thiên Thai tức đã che phủ nhờ trời, chùa tồn tại lệ thường không dám dung nạp khách Tăng huyện khác, thậm chí thầm lén độ người, lấy sống thay chết. Sắc chỉ rằng: Tốt. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Đệ tử vì Tiên sư độ bốn mươi chín người xuất gia, ở lại chùa thọ nhận sự nghiệp, tiếp nối kế thừa về sau, sư hãy xem xét đính chính, người có đạo tâm chắc chắn thì phải gắn liền nhờ cậy với người, ấy chẳng phải riêng tư mà độ. Đáp rằng: Đúng vậy. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Từ nay về sau lại mở khám thờ Tiên sư được không? Đáp rằng: Niên hiệu Nhân Thọ năm đầu vâng mạng sắc chỉ mở xong, từ bấy giờ về sau càng không dám mở. Sắc chỉ rằng: Biết rõ, Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Sư trở về chùa không tiếp tục mở khám thờ Tiên sư, chắc chắn điều ấy rất phù hợp. Đáp rằng: Đúng vậy. Sắc chỉ rằng: Đệ tử muốn tạo lập bia ký cho Tiên sư, Tiên sư có dường như hành trạng chăng? Đáp rằng: Tiên sư từ khi sinh ra đến nay, kết thúc đến vô thường, trong thời gian đó sự linh thiêng kỳ kạ chảng phải một điều, vả lại quả là đệ tử Quán Đảnh ghi chép trở thành một quyển hành trạng, bởi đang giữ trong núi nên không dám khải tấu. Sắc chỉ rằng: Rất tốt, rất tốt. Đệ tử đang muốn tạo lập bia kí cho Tiên sư, các sư có thể sẽ thuận theo đưa ra cho người làm sứ? Đáp rằng: Như thế. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Hỏi sư Quán Đảnh ở đâu? Đáp rằng: Sư Quán Đảnh ở chùa, vốn đòng ý ra ngoài vâng mạng đến chào, vì mắc bệnh kiết lî hơn bốn mươi ngày nên không thể ở trên đường đi. Sắc chỉ rằng: Được. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ: Các sư là Tăng só, có ở lại chùa hay không? Đừng làm cho gắn liền với danh tiếng, ở tại chùa mà thân trụ ở bên ngoài. Trả lời rằng: Tiên sư còn sống có mười điều quy định, danh tiếng gắn liền với chùa, nếu thân ở nơi khác thì không cùng nhau dừng lại. Sắc chỉ rằng: Rất tốt, rất tốt. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Nhà cửa, chùa viện các sư có dột chảy nghiêng ngã gì không? Đáp rằng: Lúc đang xây dựng chùa đã là đầu mùa Xuân, tre gỗ hoàn toàn trái với thời tiết, đến nay đã có dột thủng, cũng được các quan ở thị trấn Lâm Hải thường xuyên xem xét sửa chữa. Sắc chỉ rằng: Tốt, nếu chưa chỉnh đốn, đệ tử lập tức lệnh cho nguời đi sứ xem xét tính toán. Đáp rằng: Đúng thế. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Giúp đồ vật cho sư đầy đủ, quần áo, tiền của giúp các Sư, đừng để chi dùng gì khác, muốn làm công đức cũng được, phải được đệ tử bằng lòng. Đệ tử thấy sư có điều đặc biệt so với người khác, cung cấp tiếp tục nối liền nhất định làm cho không dứt đoạn, đừng làm cho Tăng ở trong chùa tìm cầu nhiều ở bên ngoài, tổn hại con cháu của tiên sư, đáp rằng: Đúng vậy. Trương Hoành lại tuyên đọc sắc chỉ rằng: Đệ tử sai sứ đưa các sư trở về chùa, vì tiên sư làm công đức, độ cho người xuất gia xong có thể mở khám thờ tiên sư, chắc chắn sẽ rất kỳ lạ, sư hãy gấp rút đi và làm công đức cho hoàn tất, các sư liền thuận tiện theo người làm sứ đưa ra. Đáp rằng: Đúng thế. Trí Tảo và mọi người đứng lên cáo từ, sắc chỉ rằng: Đệ tử đã trả lời thư của đại chúng từ đầu đến cuối. Đáp rằng: Đúng vậy. Cáo từ đi ra đến chùa Thê Linh, Bí Thư tòa giám Liễu Cố Ngôn đến tuyên đọc sắc chỉ rằng: Ý tôi lệnh cho ông thảo ra bia ký cho Trí Giả, nếu chẳng phải ông thực hiện thì không thích hợp được tâm tôi, có thể nói Tăng sứ gấp rút mang hành trạng đến tháng hai sẽ lấy bia ký thành tựu. Sắc chỉ cho Tăng ở Dương Châu gồm năm mươi người rằng: Trong kinh luận, nếu tôn quý ở họ tộc sư, tốt đẹp ở tại Trí Giả. <詞>SẮC CHỈ ĐẶT TÊN CHÙA QUỐC THANH. Còn trước đây vì Trí Giả xây dựng chùa, tạm thời y cứ theo núi mà gọi. Trong kinh luận, lại có tên gọi tốt đẹp, có thể kễ rõ tất cả những gì ấp ủ trong lòng, trẫm tự mình lựa chọn kỹ càng. <詞>DÂNG BIỂU VỀ CHÙA QUỐC THANH Chư Tăng bày tỏ: Giới sư có hành giả, chùa Thánh Biểu là ngũ Tịnh cư của thiền môn. Tờ biểu đó chưa trình đâu, Tăng sứ Trí Tảo kính khải rằng: Xưa vào đời Trần có Thiền sư Định Quang, đức hạnh khó lường, sau khi chuyển dời tinh lực, Trí Giả mộng thấy linh hồn của ngài nói: “ Nay muốn xây dựng chùa chưa phải thời cơ, nếu ba quốc gia trở thành một nhà, có thế lực to lớn người ấy nhận giúp đỡ Thiền sư xây dựng chùa, nếu chùa thành tựu thì đất nước sẽ thanh bình, nhất định phải gọi là chùa Quốc Thanh”. Cúi đầu thừa nhận nghe sắc chỉ muốn đặt tên chùa, không dám im lặng, trịnh trọng kể rõ cho nghe. Xin kính cáo Thông sự xá nhân Lý Đại Phương tâu lên để nghe. Sắc chỉ rằng: Đây là điềm báo linh nghiệm của Tiên sư ta, lập tức sử dụng, có thể lựa chọn niêm yết ở điện Đại Nha, điềm vào lấy thư hoàng viết theo đại tiện, giao cho người đi sứ đặt ở cửa chùa.  QUỐC THANH BÁCH LỤC <卷>QUYỂN 4 SẮC CHỈ ĐẶT PHÁP DANH CHO BỐN MƯƠI CHÍN NGƯỜI. Hoàng đế sắc chỉ - Hoàng đế cung kính hỏi Sa-môn Trí Việt và các Pháp sư chùa Quốc Thanh ở Quát Châu, Tăng sứ Trí Tảo đến nhận được thư có đủ hoài mong hết sức, phước đại Thiên Thai thật sự là cảnh giới tốt đẹp, cho nên cung kính giúp đỡ Trí Giả xây dựng già-lam, pháp duyên đã sâu sác, nghóa tôn sư sâu nặng, muốn làm cho bậc thầy để lại khuôn phép tôn kính mà không rơi rụng, Bồ-tát tịnh nghiệp lâu nên càng mới, vậy thì cách bậc Thánh lâu xa học trò sẽ suy thoái, tìm cách mưu cầu lợi dưỡng, không cắt đức tục duyên, mùi vị ngọt béo, trái phạm giới luật, đây là chính tăng thêm tội lỗi nhơ bẫn, há cho là ruộng phước ư? Các sư lìa bỏ pháp hữu vi, cầu đạo quả vô thượng, vứt đi các lậu hoặc thế tục, xem xét ở hoài bão thanh cao, bởi vậy phải khen ngợi dạy bảo người chưa học tu tịnh hạnh, khiến cho các pháp môn kia trở thành bạn, đều quay về hòa hợp, giới cấm của chư Phật chung quy vâng theo thực hành. Còn chùa này tốt đẹp thuận theo sự việc mẫu mực của Tiên giác, đó là lý do cảm ứng sâu xa, chính là tên gọi chùa Quốc Thanh, đồng thời có giúp cho đồ vật vì vậy nói tùy hỷ. Mùa Đông lần lượt rất lạnh mà đạo thể rõ ràng vui vẽ, trẫm tuần du nhận ra phong tục, liền đến Giang Đô, nhìn về núi sông xa xăm lại nghó về sự vất vả hết sức, cho nên phải gồm thông sự xá nhân Lư Chính Lực hướng về, chỉ ra đây không nhiều, người làm sứ là Lư Chính Lực kia đến chùa, tuyên đọc sắc chỉ ban tặng đồ vật giúp chùa. Ngày hai mươi chín tháng mười một, niên hiệu Đại Nghiệp năm, sắc chỉ độ cho bốn mươi chín người xuất gia, huân lục hương hai hộc, xây tường đất bốn phía xung quanh tạo năm gian, thiết trai ngàn vị tăng, hai ngàn phần vật dụng, gạo một ngàn hộc. Trụ quốc nội sử lệnh cho Cử quốc công thần chưa đến, Đại đô đốc kiêm nội sử thị lang thần Ngu Thế Cơ, Đại đô đốc Triêu tán phu kiêm nội sử xá nhân thần Trương Càn Uy, sắc chỉ độ cho bốn mươi chín người xuất gia xong, Tăng xứ giúp cho Tăng thực hiện pháp danh là Quán Đảnh, vâng mạng Tăng sai khiến nghe theo sáu việc để đặt tên. Người làm sứ ghi chép tấu trình tướng trạng điềm báo cảm ứng thông suốt ứng nghiệm, ánh sáng lên cao, bên trên tám tên gọi dựa theo điềm báo Quốc Thanh, tất cả dùng chữ Linh nêu ở đầu; vắng lặng chân thật như dấu vết noi theo, tám tên gọi trên dựa theo sự việc xuất gia, tất cả dùng chữ Đạo nêu ở đầu; nhờ giới, định, tuệ mà mắt trí tuệ mở mang giác ngộ, ở trên tám chữ tên gọi dựa theo sự việc thiết trai, tất cả dùng chữ Tịnh nêu ở đầu; mạng căn năng lực biện giải tùy hỷ an trú được vui vẻ, bên trên tám tên gọi dựa theo sự việc ban tặng gạo thóc, tất cả dùng chữ Tuệ nêu ở đầu; cơ nghiệp của tông bổn nhân quả trang trọng thanh tịnh, bên trên tám tên gọi dựa theo việc tu bổ sửa sang, tất cả dùng chữ Chánh nêu ở đầu; phỏng theo nguyện Diệu Đức, vâng theo hạnh Phổ Hiền, bên trên tám tên được gọi là dựa theo việc sắc chỉ giới luật, tất cả dùng chữ Tư nêu ở đầu; một người cuối cùng gọi là Cát Tường. <詞>CHÚNG CHÙA QUỐC THANH CẢM TẠ. Sa-môn Trí Việt cùng toàn chúng chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai kính khải. Kiêm thông sự xá nhân Lư Chính Lực vâng mạng tuyên đọc: Ngày hai mươi chín tháng mười sắc chỉ rằng: “Trời yêu thương dạy bảo ban thưởng cho chùa tên gọi thuận lợi may mắn, giúp cho hai ngàn phần vật dụng, một ngàn hộc thóc gạo, hai hộc huân lộc hương, thiết pháp trai ngàn vị tăng, độ cho bốn mươi chín vị xuất gia, tu bổ sửa sang nhà cửa chùa viện”. Lập tức nhóm hợp mọi người đốt hương tuyên xướng. Kính mong suy nghó: Bậc thánh lo liệu đức hạnh phù hợp trời đất, người nuôi dưỡng vạn bang yên tâm, thăm hỏi bốn biển, giúp Phật giáo hóa độ thoát chúng sinh, ân đức rộng lớn quả thật không gì sánh được. Việt tôi cùng mọi người tuy khoác mặc pháp y mà hạnh không xứng so sánh, quả là hầu hạ tiên sư mà từng trái với tông phạm, ngày đêm kiềm chế quở trách, không chỗ mở đường giải quyết, Cúi đầu thừa nhận vâng mạng sắc chỉ, đảm đương thọ trì. Là kẻ tầm thường, bé nhỏ kém cỏi, không biết Bồ-tát đại trí, vào đời Trần xưa kia tự mình nghe sư nói: Ba nước trở thành một, người có thế lực to lớn sẽ giúp đỡ xây dựng chùa viện, nếu chùa tồn tại thì lãnh thổ quốc gia sẽ thanh bình, nhất định phải là chùa Quốc Thanh. Vào lúc chuyến xe thư chưa một lần không biết nói sao, từ đó đến nay ôm ấp nghi ngờ không hiểu, vâng mạng sắc chỉ ban thưởng cho chùa, tên gọi Quốc Thanh không ngờ phù hợp với điềm báo lúc đầu, Tăng trong núi, dân trong núi vừa mừng vừa vui, mới biết các nguyện của Bồ-tát lại bắt đầu gợi mở lẫn nhau, hoặc làm Ngũ phẩm, hoặc tất cả muôn cơ, làm rạng rỡ vinh hiển Tam tôn, lợi ích cho lãnh thổ quốc gia, chúc mừng hàm tình này, may mắn nghe được điềm báo tốt lành. Ngửa mặt nhìn lên bức hoành trên chùa, trước mắt như ngộ đạo, chỉ từ ân trọng khắp bao phủ, ngày sau cùng nhau được hưởng, mà Thiên Thai một nơi lại cảm thấy ân huệ rộng lớn, y phục nổi tiếng, áo quần tốt đẹp lần lượt tiếp nhau đến, vật dụng lạ kỳ, lương thực trước sau ban xuống nhóm họp, Việt tôi và mọi người ba học chẳng công lao gì, một bữa cơm khó chịu, huống chi thóc gạo, vật dụng đầy đủ, tích lũy lâu ngày, há có thể cung kính lớn lao? Vô cùng sợ hãi không có suy nghó kéo dài tội lỗi, ngõ hầu nhờ sự yêu thương tha thứ, mở rộng ra hết ngu đần thực sự, vâng mạng báo đền ngôi vua cao nhất. Nhưng Thiên Thai vắng vẻ xa xôi, từ xưa đến nay chỉ thích ứng một mình lưu hành, nay thái bình đang vận dụng xây dựng chùa Quốc Thanh, bốn mươi chín người xuất gia một ngày, cắt tóc tiêu trừ chướng ngại quả thật là ít có. Hy vọng tâm lực của họ tăng tiến học hành ngày càng biến chuyển mới mẻ, niệm niệm hun đúc sự nghiệp, vâng mạng giúp đỡ nhà vua và đất nước; lại kết trai cho ngàn vị Tăng, phàm Thánh đều hội tụ, cảnh tượng từng ngày rực rỡ trong sáng, Tăng đồ vui mừng tôn kính. Cúi mong suy nghó: Diệu đức của Tiên sư không thể nghó bàn, cảm ứng thần thông chắc chắn đang xem xét buông xuống, sau buổi trưa đối với người làm sứ tiến hành mở linh khám, điềm lành thiêng liêng ít có đầy đủ, những người sứ này công tư đạo tục cùng nhau trông thấy, Việt tôi vàmọi người buồn vui lẫn lộn. Trịnh trọng đem kể rõ để biết, xin kính cáo. Ngày hai mươi bốn tháng mười một, niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu, Sa-môn Trí Việt cùng toàn chúng chùa Quốc Thanh ở Quát Châu kính khải. <詞>KHẨU SẮC BAN SẮC CHỈ TRẢ LỜI NHIỀU TY SỞ DÂNG BIỂU CHÚC MỪNG. Người đi sứ là Lư Chính Lực trở về trình tâu, mở phần mộ khám thờ Tiên sư không thấy xá-lợi, còn một cuốn hành trạng dâng lên, nhiều ty sở chúc mừng. Sắc chỉ nói các ông rằng: Trí Giả là giới sư Bồ-tát của ta, trước kia có nhiều linh thiêng kỳ lạ, thường nói với ta rằng: “Tất nhiên nếu đắc đạo, sau khi đắc đạo, giúp đỡ bảo vệ quốc gia và làm lợi ích cho trăm họ, còn nếu niết-bàn, thì ngồi trong hang đá, dung mạo khuôn phép không thay đổi. Ta vào niên hiệu Nhân Thọ năm đầu sai Trương Càn Uy đến xem, y hệt như cũ. Hôm qua, lại lệnh cho Lư Chính Lực đến, tự mở cửa khám thờ, bít lấp không có, nghe dấu vết tức thì không thấy, linh thể đã biến hóa rồi, đắc đạo chẳng phải giả dối, nói giúp đỡ bảo vệ và làm lợi ích chắc chắn thuận theo không sai. Nay có một quyển hành trạng, các ông đều cùng nhau xem, các châu nghiên cứu sai bảo đều viết một kiện, trở về sở bộ truyền bá khắp nơi. <詞>KHẨU SẮC CÚNG DƯỜNG CỜ PHƯỚN Tăng Trí Tảo vào ngày hai mươi bảy tháng hai năm thứ ba, dẫn lối vào trong điện cáo từ khẩu sắc: Ban tặng một ngàn không trăm hai mươi lăm lá phướn. <詞>SẮC CHỈ TẠO RA VĂN BIA CHÙA QUỐC THANH Bia văn thiền sư Thiên Thai Trí Giả chùa Quốc Thanh. Tùy kiêm bí thư giám trực nội sử tỉnh khai phủ nghi đồng tam tư thần Liễu Cố Ngôn vâng lệnh sắc chỉ soạn. Thần nghe: Ở cõi trời có sẵn dáng vẻ, pháp của kinh húy còn giữ lại đây; ở đất có sẳn hình dạng, đều chia ra phương hướng phỏng theo rồi. Hai lễ tiết đã như vậy nên ba tài năng sáng sủa không sai. Thượng Thánh kế thừa cao nhất minh vương, cho nên phô bày giáo pháp của bậc Tiên giác, truyền trao đạo lý phù hợp mới được lên cõi tiên. Vì thế cho nên lên xe ra đi đến Đồng trống chung quanh có cảnh vật quen thuộc. Bức tranh vận mạng nói ra sự nghiệp, khen ngợi phong cách rộng lớn. Rèn luyện bản chất giữa chín phủ, vọt lên khiêm tốn trong sáu phương, ở đây hoàn toàn tạm thời thích ứng cất nhắc, tạm thời giữ gìn tiêu dao. Cuối cùng bao phủ che lấp đối với khổ- không, xong xuôi mọi sự truân chuyên ở sinh tử, chưa đạt tới bất sinh bất diệt, không đến không đi, chẳng phải thật, chẳng phải hư, không phải như, không phải khác, thường lạc ngã tịnh, mãi miết yên lặng, thản nhiên vui vẽ, là giải thoát không thể nghó bàn. Bèn dường như Hoàng đế Đại Tùy của Đa pháp, húy Tổng Trì, chuyển tải lưu thông mặt trời Phật pháp điềm báo khởi sự tịnh cung, thuận lợi trông thấy Pháp vương thích ứng với chủ nhân Diêm Phù, để phủ kín rỗng không đi vào kế thừa sự nghiệp, tiếp theo cao tân lập nên ngôi vua, và có thể ngai vàng bề thế đẹp đẽ mở rộng, từ trời đến nơi cao vút, bao bọc đức lớn mà giúp đỡ tâm nhỏ, hy vọng thế gian đảm đương kỳ hạn, bên trong văn minh, bên ngoài nhu thuận, biết tinh vi biết rõ ràng, theo dõi bản thân xem xét huyền hoặc, chính là Võ, Chính là văn, tài cán ấy hoàn toàn. Từ Vónh Gia mất quyền cai quản đến hải nội phân chia tan rã, nương cậy hiểm nguy, tự ý gắng gượng mỗi bên dựng nên vị vua đứng đầu, lễ nhạc chìm đắm vào nơi không hợp, ngọc rùa làm hỏng vào địa phương khác, sách vở thông thường cạnh tranh phân rẽ gần ba mươi kỷ (một kỷ là mười hai năm), Thiên tướng ân hận tổn thất quen thuộc điều ác có ngày, Hoàng thượng tỏ ý nhã nhặn Phần Dương rạng rỡ, dấu vết thay thế họ Để, địa vị bề thế phân chia hẹp hòi, tinh thần sự nghiệp đang tiềm ẩn, vào lúc miếu thờ họ cao sách lược linh nghiệm, suy nghó sâu sắc tóm chung tất cả, chuyên môn đánh dẹp dựa vào búa rìu. Hoàng đế nói: Đây ư, chỉ có vua, chỉ có mình biết bề tôi, biết con cái, mới có thể dương oai muôn dặm, hỏi tội chín phạt một việc mà xác định Giang Tả, lại trở lại điều khiển mà tiềm ẩn tro tàn tạm thời tranh giành tiến cống, ngoài biển có cắt đứt, tuy Cửu Tiết có đủ năm bề tôi mà Chu Đán ở mười loạn. Vốn chịu nhiều thành quả xưa kia nhiều hổ thẹn, Bàn Thạch suy xét kỹ công lao không gì phỏng theo như vậy, ba năng lực chính yếu của tông phái, chín tính mạng chỉ có dâng lên, nguồn gốc lấy nhân từ- thực hiện lấy tiếng nói chỉ dạy, hành động theo đạo lý quan trọng, thê lấy pháp vô vi, tạm thời chiếu rọi vắng lặng hãy còn muốn sâu xa ẩn kín, sóng nước xanh thẩm mạnh thêm. Suy nghó tàu thuyền cứu giúp cho là Năng Nhân, gieo trồng giác ngộ buông xuống nay nhẫn nại quê mùa, Tín Tướng vào đạo, tịnh giới đứng đầu, Phạm Võng có văn bản rõ ràng sâu sắc truyền ba Tát-đỏa. Quốc sư là Tăng bảo, chắc chắn gồm đủ thiền tuệ, có gặp gỡ dừng lại núi Thiên Thai, Đại thiên sư ấy sống mà tinh thần rạng rỡ soi chiếu phòng ốc, hai mắt trùng con ngươi. Thiền sư pháp húy là Trí Khải, người họ Trần, ở quận Dónh Xuyên. Thái Khâu Đạo Viễn Quý Bá Phong Diên, chủ trì giờ ngọ suy yếu rối loạn bỏ trốn Họa dung. Cha bắt đầu từ Lương tổ làm Trì tiết tán kinh kị Thường Thị, phong tước khai quốc hầu ở huyện Ích Dương. Thiền sư phong thái siêu ngộ, tuổi non trẻ ít thấy ai hơn, ít học thì tụng Pháp Hoa, cha cầu hôn cho, thuận tiện thỉnh cầu dừng lại, Nho môn sử quán phần nhiều biên soạn rõ ràng, dưới cột trên hào càng đạt được sâu sắc, Chữ Cung bị địch chiếm thì cho dù rau cỏ, bắt đầu tuổi đội mũ, xuất gia ở chùa Quả Nguyện vùng Trường Sa, bảo vệ giới giống như ngọc quý, tâm an ổn dường như nước lặng, nhiều lần nghe kinh luận, chỉ khiến cho một lần nghe được ở trong tâm, biểu đạt ở miệng. Vì Tương Đàm hạn chế nhỏ hẹp chưa phát khởi đại căn cơ, lướt nhẹ qua dấu vết Hoành Dương, đi bộ đến phần mộ của anh, hướng về núi Đại Tô thỉnh cầu sự nghiệp với thiền sư Tuệ Tư. Thiền sư nhìn thấy liền than rằng: Nhớ lại xưa kia ở Linh Thứu cùng nghe Pháp Hoa, khiến cho tiến vào đạo tràng Phổ Hiền của ta, nói bốn hạnh an lạc cho nghe, ở lại mười bốn ngày tụng phẩm Dược Vương, đến câu “chư Phật đồng tán”, vắng lặng vào định trí tuệ sáng tỏ liền cùng phát, đứng lên bạch với sư, Sư nói: “Chẳng phải ông không cảm, chẳng phải ta không biết, người vốn định ấy là phương tiện tiến lên tam-muội Pháp Hoa cho đến nghe và trì Đà-la-ni. Dù cho thầy của văn tự đến ngàn loạt ức phẩm, tìm ông để biện luận thông minh cũng không thể cùng tận, trong những người nói pháp thật là bậc nhất”. Đã có ước hẹn Nhân Vương anh lạc, Long Thọ, Mã- Minh lập ra “ba quán bốn giáo”, Phật rõ bổn tông của sư và cho là then chốt Đại thừa, có thể về sau bên trong cai quản lưu thông học hỏi lớn rộng. Trí để cất giữ hướng về, chứng mịnh sự xây dựng chánh giáo của vua A-dục, thần để biết rõ tương lai, xem kỹ sự tiêu diệt đại pháp của Chu Vũ Vương, thế là cất bước lên cao sắp sẵn trước đất đai vòng quanh tụ tập ở Thiên Thai, nhiều lần dạo chơi núi lớn nổi tiếng, nói xây dựng Lư Ngục Tần Hiếu Vương dấy lên trấn giữ Hoài Hải, sai người mang tin tức đón rước khuất phục, đối với sứ giả nói: Tuy muốn gặp nhau nhưng cuối cùng sợ rằng duyên khác nhau, thì mấy tuần nối tiếp gió lớn yêu quái trộm cướp tranh nhau nổi lên. Trên bộ dưới nước đều ngăn giữ yên tâm, ngồi ở Khuông Tụ. Lát sau, long nhu khám nạn, vẫn thay Hiếu Vương liền đến bang vức, thành thực trong sạch mới về thuận theo gánh vác phong cách. Mấy ngày nhanh chóng cũng đến, đã gặp gỡ dừng lại, liền chắc chắn thầy dạy, cùng nương nhờ ánh sáng kỳ diệu của thiện ý. Nếu được cao tông truyền nhau thuật lại, hết lần này đến lần khác kiên quyết chối từ nhưng không thể cho phép. Vào niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười một, năm Tân Hợi, hằng tháng cùng Hoàng Chung vào ngày hai mươi ba, ở tại chùa Đại Thính thuộc Dương Châu dọn bày vô ngại địa trai, tiến lên lãnh thọ giới pháp Bồ tát, hạ thấp xuống là nuôi nấng kính trọng người bác, theo tiêu chuẩn của tiên sư, cởi áo bỏ lông cổn mà khoác mặc nhẫn phục, rồi bỏ hoàn khuê mà truyền bá giới hương, phát khởi đầy đủ sơ tâm tập trung lễ kính chư Phật, vào lúc ấy trời đất cùng yên ổn ngày tháng đầy hoa, sân nhà chuyển sang gió nhẹ yên êm dịu, hư không nổi lên luồng khí tốt lành, sáng ngời rừng hoa bảy giác, hồ trắng tinh nước tám tịnh, hóa cảm sâu sắc trong ngoài thành mọi sự đều theo nhau chuyển vận, giáo chuyển pháp luân, lý phù hợp hang sâu tối tăm quý báu. Văn võ quan dân đều được mây hiền che chở, vẻ mặt hớn hở hơn, đông đúc hơn, nghiêm túc hơn- thong thả hơn. Kinh gọi là giới nhiếp luật nghi, giới nhiếp thiện pháp, giới nhiếp chúng sinh, biểu hiện pháp khởi ba nguyện, chân chánh mười thọ, như tất cả các sắc đều hòa nhập giữa cõi hư không, đều ấy thì nói là pháp sự xong xuôi bảy báu cùng xả. Rời bỏ nơi ở ra ngoài thành, thiền chúng rất nhiều mà bốn sự cúng dường, tình sâu xa vẫn còn nghi ngờ là chưa đầy đủ, cho rằng họ tộc sư lễ nghi cao nhất chắc chắn có danh tiếng tốt đẹp như Y Doãn đặt tên là A Hoành, Lữ Vọng xưng là Thượng Phụ, Kiểm Địa trì kinh Trí Giả sư mục, trịnh trọng nghe theo miệng vàng cung kính bày tỏ ngọc dụ, liền hạn định giờ lành tự mình đến đảnh lễ. Tuy bước lên có trách mắng làm bằng tre lá nhưng thích hợp với Hán văn trên sông, mới coi thường như vậy. Trí giả dùng lời dạy sâu sắc của chư Phật để bên trong thực hành, bên ngoài khen ngợi, sự thực gồm đủ tất cả tuệ phương tiện của Đại só, Đế-thích đàn-na đã bao gồm tín giải, Nhân vương nhiếp thọ không đến gần mà có thể đạt được lợi ích, băn khuăn do dự cáo lui mới trở về núi cũ, ân cần đề nghị ở lại thì lại làm trái cao ý, giống như mua chuộc Tứ Hạo những phép thuật Nam Sơn, gạt bỏ vàng Đông Hải của Nhị Sơ, chấn tích trượng lìa xa bui trần mới xứng đáng gọi là xuất thế. Thân thích nói nhà Nho chưa đủ để hưng thịnh, trộm theo Tứ Minh Thiên Thai Diễn Đông Ngọc Tụ, hai câu và vân Mão, Ngân Nam ở sân vàng, rất đỗi cao lớn hướng lên trời ngửa mặt để tay lên mặt trời, vòng eo trấn giữ ở tại đất, cúi xuống soi vào gương biển cả, ráng mây hơi nước ban đêm phấp phới lướt nhẹ qua vạt áo, cầu vòng uyên loan được kế thừa phi tích, hoa quả tranh nhau sản sinh, thường làm mê muội bốn mùa, cỏ thuốc dầy đặc, người nào phân biệt được muôn loại? Đạo Du hướng tới mà chứng quả hưng thịnh, Công Phú không thể nói rõ, nền tảng của chùa thuộc về lúc mới bắt đầu dối dào, đỉnh nổi tiếng là Phật Lũng, chủ yếu có thiền sư Định Quang, ẩn kín lộ rõ biến hiện tùy thích trước đây ở tại đỉnh này, thường nói với đệ tử rằng: Không bao lâu sẽ có thiện tri thức hơn hẳn, tướng lónh đồ chúng đều nhóm hợp ở núi này. Phút chốc Trí Giả vượt qua sông hồ, nhanh chống đến nhóm hội, bỗng nghe tiếng chuông khánh làm rung chuyển khe núi, liền hỏi thiền sư Định Quang nguyên cớ của tiếng vang. Đáp rằng: Đây là kiền-chùy nhóm hợp Tăng, tướng của sự có thể cư trú, tương đối nhớ lại đã từng trải qua lúc giơ tay dẫn dắt nhau không? Trí Giả liền hiểu ra lúc tuổi mười lăm, cúi trán lễ Phật bừng tỉnh sao như mộng, thấy núi cao cùng cực đối diện chỗ uốn khúc của biển lớn, có vị tăng giống như Định Quang bây giờ, giơ tay đón lấy kéo lên nói: Ông sẽ ở nơi này, ông sẽ chết chỗ này. Vái lạy nói năng buồn vui lẫn lộn nước mắt nước mũi đầm đìa, vẫn hướng về phía Nam Phật Lũng tìm đường đi đến khu vực chùa, thì thấy năm đỉnh xung quanh núi đều già cả cao siêu, hai khe nước lại cặp chảy xiết như suối mây lụa hồng, vạch cây phỉ mở đường lợp lại nhà dùng cỏ tranh, công đức tùng lâm thường xông ấm hoa chiêm bặc, nhẫn chịu tường viện không vất vã chốt cài cửa ngõ, vượn hú chim kêu, suối chảy cuồn cuộn, tiếng vang lên hòa lẫn nhau, chim bay thú chạy nghe pháp làm cho thần phục bậc thềm cao lớn, Tấy Nam có nhánh sông Vónh Phong và nguồn sông Chiết, phân chia Lónh Đông tụ hội vào biển, thủy triều qua lại trong mấy trăm dặm, người trong thôn xóm thường sống bằng nghề bắt cá, giáo dục dần dần trở về nhằm đốt lưới bỏ xà, cày ruộng trồng quả, thay đổi trở thành giàu có, người tín hiểu sâu sắc phần nhiều làm Sa- môn, yêu thượng hóa độ vốn sâu xa đều xếp vào đây. Cho đến thiền sư Định Quang vô thường, về sau muốn sửa chữa rộng lớn, bỗng nhiên nhìn thấy một vị tăng tuổi như thiền sư Định Quang, thường nói với Trí Giả rằng: “Nếu muốn xây dựng chùa thì nay chưa phải lúc, ba nước thành một, người có thế lực to lớn có thể giúp đỡ xây dựng chùa. Nếu chùa thành tựu thì đất nước liền thanh bình, nên gọi là chùa Quốc Thanh”. Lời này xa xôi tản mạn ai sẽ tin, há đợi chờ phù hợp thích ứng sâu xa thỏa thuận với nhau bấy giờ mới quyết định ư? Đến lúc vua ta đứng trước giới hạn tuổi tác lâu dài, tánh tình hiếu thảo thuần phác, đến khi vào kinh thì được tỉnh, chốc lát bước đến Giang Đô nếu chỉ thị thuyền bè, đón đến nơi trấn giữ. Giả sử so với đến nơi kia thì trách ngiệm sắp đặt trói buộc, nói với đại chúng rằng: “Do thượng ý sâu nặng, không dám mở lời cảm tạ, nhưng hướng về mà không trở lại”. Bởi vì lần phân ly lâu dài này nói với đệ tử rằng: “Sẽ thành tựu chùa dưới Lónh Nam, nhà cửa điện thờ đó nền móng tất cả dựa theo bức vẽ của ta”. Thị giả đáp rằng: “Nếu không có Sư tham gia thì đâu thể thành tựu được xây dựng?”. Tiếp tục nói rằng: “Sẽ có Hoàng Thái tử thay ta xây dựng, các ông thấy mà ta không thấy”. Đi hơn trăm dặm đến chùa Thạch Thành ở Diễm Đông, chùa có tượng đá dát vàng cao trăm thước, Lương Thái Tế Nam Bình Nguyên Tương Vương điêu khắc mở đầu, tự nhiên có dấu vết linh nghiệm. Vì thế hiện rõ bệnh tật phải nằm nghiêng hông, bỗng nhiên gió mây đổi mầu, tùng quế rậm rạp đứng thẳng giống như nhạc trời, đi vào cửa phòng bắt đầu ngồi chắp tay, thần sắc sáng sủa vui vẽ, quay lại nhìn thị giả nói: “Quán Âm đến rước, không bao lâu sẽ đi”. Đệ tử là Trí Lãng thỉnh cầu rằng: “Phật cho phép Thánh Hiền lúc sắp qua đời nói ra địa vị thực hiện được, cầu xin dũ lòng nói rõ cho biết mới suy nghó khâm phục kính mến”. Đáp rằng: “Ta chỉ ở địa vị Ngũ phẩm đệ tử mà thôi, đối chiếu Ngũ phẩm tức là địa vị Phương tiện tiến lên tam-muội Pháp Hoa”. Hình như với suy nghó của Sư thì lời xưa sâu xa nhất, vẫn cứ cầm bút sáng tác kệ, dạy truyền khẩu để lại như ngôn từ lý lẽ thiết thực trình độ, kể rõ sâu vào duyên cao quý kín đáo đến bí mật đi, thề sẽ thầm che chỡ, để soạn thuật bộ Tịnh Danh Nghóa Sớ, cùng lúc đưa đi. Vẫn lấy đại y Tăng-già-lê, tự tay khoác vào, quay mình hướng về phía Tây ngồi nghiêm trang dời chuyển thần thức. Sáu mươi Xuân Thu, mười ngày lập ra trai tịnh ngồi xếp bằng đổ mồ hôi, viên ngọc tròn bên trong tóc lộ ra từng giọt giữa ngực, muốn bày tỏ các pháp vốn tự bất sinh, nay thì chẳng diệt, giường dây gánh trở về Phật Lũng, nhẹ nhàng đưa lên dường như nhẹ hơn hư không. Bấy giờ mở hương khám ra tất cả không khác gì xưa, dịch trạm khiến cho lúc đầu báo tin buồn làm rung chuyển đối với thần tâm, liền xả bỏ hết cả tài sản tùy theo nói rõ công đức, người chuyển tin truyền bá cùng nhằm bắt đầu xây dựng tháp miếu. Chùa tuy vùng này đã có mà suy nghó mới mẻ, nhà quỳnh phòng cam dựa vào quốc gia linh nghiệm, mà tìm kiếm được Đại Lợi, Thứu Đầu, Lang Tích, dựa vào tịch mặc mà làm đạo tràng, trở về lưu truyền bậc thầy nổi tiếng cạnh tranh nhau, dung túng đan móc dây câu, ngõ hầu con dân chỉ trong mấy ngày nữa đi đến thành tựu, thần minh giúp đỡ, bỗng nhiên cùng nhau xuất hiện đông đúc. Lưng cao thì cúi xuống tức là Học Ngục mà xây dựng điện thờ nhà cửa, nương nhờ ánh sáng mặt trời soi xuống, đối diện lòng tin lung linh mà được họa vẽ, Đa Bảo phân tòa đều nhận anh lạc, trời cao bày tỏ chùa Phật như nối liền Phạm tràng, Hòm vàng điệp ngọc thường phân tán ra giảng giải tùy ý, thiền tục luật nghi không làm trái với pháp của sư. Điều này đáng gọi là địa vị cao nhất của đầu-đà, địa phương thanh tịnh của Di-đà cùng với a-nậu mà thường đầy đủ, giống như sự kiên định vững chắc mãi mãi của Tu-di, đến như ánh sáng trùng lặp biên soạn sách vở thì có thành công ổn định chăng? Đến nay tháng chín niên hiệu Đại Nghiệp năm đầu, loan dư tuần du đến Hoài Hải, chăm chú nhìn Giang Nam thương cảm Thiên Thai-Nam Nhạc, nhóm hợp danh Tăng ở Dương Châu, tất cả hỏi rằng: “Trí Giả lập chùa tạm thời dựa theo tên núi, nên tất cả nói rõ hoài mong Trẫm nhận sẽ lực chọn kỹ càng”. Mấy ngày liên tục không trình tấu, đúng lúc vị tăng trong chùa là Trí Tảo giữ hành trạng trong lòng mà đến, có đủ thứ tự năm xưa Thiền sư Định Quang gọi là Quốc Thanh; Thái sử dựa theo lời này, thời đại chính là mồng tám đời Chu Kiến Đức, tỏ ra không giống với thế chân vạc, ở ba phương nay hơn bốn mươi năm, Thánh chứng rất cao, phù hợp với thời gian rõ ràng, chứng minh thích ứng, chiếu thư giao phó tả sử trước soạn thực hiện thư, vẫn sắc chỉ đều dùng chữ Đại triện viết vào cửa chùa, lập tức sai xá nhân đưa Trí Tảo cùng giúp cho cơ nghiệp. Đến ngày hai mươi bốn tháng mười một, ngày giỗ Tiên sư thiết trai làm cho tăng chúng nhóm họp, quỳ mở hang đá chỉ thấy màn không giường trống rêu phủ nhện giăng, pháp lữ gào khóc, ban đầu diệt độ, công tư xiết chặc dường như không ngước nhìn nghe theo. Còn pháp hội ngàn vị tăng đều có sổ sách, tới lúc thiết trai điểm lại, chắc chắn bỗng thừa ra một người. Có ty sở lại tiếp tục xem xét vẫn đầy đủ số ngàn, cho đến đứng trước trai lễ thọ nhận lại thành ra một ngàn lẻ một, người nắm giữ trách nhiệm kinh ngạc ẩn hiện khó giải thích, há chẳng phải Tiên sư hóa thân đến thọ nhận quốc gia cúng dường ư? Vua tôi trở về chỉ thị chuẩn bị tấu trình một điều, hướng về bình phong nhuần nhã dung nạp hết sức sâu xa, dấu vết linh thiêng, trăm ty sở vái lạy chúc mừng bốn biển lan truyền danh tiếng. Ôi, vô cùng quá thời tượng pháp chưa chìm đắm, dòng giống Phật thường xuyên nối tiếp chính là cơ cảm bậc Thánh, đại sư thuận theo biến hóa khả năng mầu nhiêm khó nghó bàn, họa đồ thần kỳ còn mãi mãi, nền tảng tốt lành quốc gia may mắn, lộn xộn rậm rạp sáng rõ so với sự thịnh vượng này. Xưa kim long tông vương khen ngợi công đức của Phật, trưởng giả Bảo Tích dâng tặng xây cất phải nên giương cao, Phạm Ngũ Tử danh tiếng nhờ ở dân, Tang Văn Trọng lời nói lưu truyền bất hủ, huống chi cây đạo tốt đẹp là nhờ vào phước địa sư môn, mà dựng lên cao vút tận mây bày tỏ bờ cõi kim cương, đến mức chỉ thị dây tơ xanh dệt thành vật, chuyển tải ngôn từ lý lẽ. Dường như nghi lời nghi việc, sử quan đạt được thì rải hoa xâu hoa, giảng rộng pháp tạng, xin nói lại, nên làm bài tụng rằng: Treo lên bức họa rồng, chọn lấy mầm ngũ điển, kim luân cứu chìm đắm, chỉ mở rộng mười lành, ha như Hoàng đế ta, cây công nhờ to lớn, trở về nguồn vốn tịnh, đường về nay hiện rõ, soi gương hiền triết xưa, nơm chân thú nào dễ, trời tạo ra mông muội, nhật nguyệt thì lên cao, núi cao và biển lớn, hoặc hình ảnh hoặc trong, hổ gầm gió tung lên, rồng cuộn mây xuất hiện, đến người hầu như thấm, nuôi chánh vâng theo nhận, khiêm tốn vốn đầy đủ, gương sáng tôn sùng gánh, đơn độc ai bằng lòng? Có ngước nhìn sẽ được, huân tu thiền quán tịch, như mùa Đông vắng lặng, tinh thông nghóa suối trào, như mùa xuân băng tan, ta có thợ khắc đá, chính trực theo nối tiếp, ta có luật cứu giúp, tàu thuyền ấy dựa vào, cung kinh đến tha thiết, vui sướng được thi đua, thuận theo giúp muôn hạnh, xem lẫn thành Nhất thừa, rung chuyển bằng sáu cách, mười phương đều khen ngợi, đồng thanh sẽ tương ứng, tin mà có chứng minh, chân thành cảm thần linh, đạo hợp phù tiết thuận, sâu xa bởi Trí Giả, sóng lớn không ranh giới, thầy vua đã tốt tươi, Thiên Thai về nghỉ ngơi, ở tại núi Đông A, vào cạnh nước của sông, biển xanh thẩm mênh mông, vách ngọn xa xa dần, mặt trời tắm phù tang, mặt trăng sâu tùng quế, đi theo sau Vụ Thái, sắp thông suốt muôn kế, thường chảy xiết té gió, thành không ráng mây kéo, nhân trí màu mỡ trốn, núi rừng thiếu che đậy, không lời không thực hiện, đã phù hợp an vang, không dức không báo đáp, có đều là cảnh tượng, đầu tiên chọn am la, cứ chân thành kính mến, hiện rõ nhận Quang sư, lâu muốn hướng về mãi, chẳng sáng như mơ hồ, đối chiếu gương như xưa, chùa gọi là Quốc Thanh, cửa linh thiêng ngầm mở, người nào nghó thầy ta? Vội vàng duyên An Dưỡng, lầu rồng vốn có ghi, cửa hạc không hề sai, nơi vua ở trước kia, đau xót tạo Kỳ viên, khiến cho cuối như đầu. Thầy nghiêm đạo tôn quý, đoán mặt trời mới họa, nhìn sao đúng hoàng hôn, đặc tâm điểm chân cao, gọt mãi thành bằng phẳng, núi đá thành đài sen, suối cẩn thận nguồn đào, cửa sổ Tiên hè lạnh, thần thức mùa Đông ấm, thềm ngọc thuần phục beo, chim vàng chim uyên nghỉ, gió hòa tiếng chim quý, hư không chuyển châu phướn, trăm thứa cốc nở hoa, muôn dặm rừng sum suê, cỏ linh chi thiền duyệt, cam lồ trong bình trời, chân ngọc ngà tiếp đất, khu vực tịnh kinh hồn, rải vàng đổi vườn cây, cung trời còn trang trọng, phướn của sự sáng tạo, vì sao đáng hơn gốc? Nhiều vòng càng thấu suốt, trang nghiêm cần xây dựng, sóng này hòa hợp luyện, tốt điền vào bản khắc, vẻ mặt trăng tròn vàng, lông ngọc trắng thuần khiết, phỏng theo phiên dịch qua, cung rồng mở ra xem, pháp thừa kế đông đúc, tâm đúng đắn chướng diệt, thềm Thái đã yên ổn, đạo Vương đã trong sáng, khác đường cùng bày tỏ, không suy nghó lo gì, vua nhớ nghó sâu xa, đạt sâu thẳm quên tình, có vốn là không tịnh, không thường có tất cảm, đàn giới độ sâu nặng, định tuệ thật tinh thông, chỉ đối diện gương sáng, xa cung cấp dựa đúng, đại chúng tung hương hoa, lễ cột khám điện thờ, toàn thân trên chỗ ngồi, cửa đóng kín nhện giăng, Ca- diếp nơi Phật Lũng, kiếp Hiền danh tiếng đủ, cơm tăng nhiều lần tràn, điềm báo ta thanh bình, ruộng thân mưa tưới thấm, cây tâm hoa tươi tốt, hiện tại cùng nhau trồng, tương lai chung thành tựu, giống như gương treo cao, phản chiếu kiếp sống này, giống như ngọc khuê nghiêng, đã từng không thiếu thừa, thần lực luôn tự tại, chơi đùa nơi thành thơm, bồ- đề thường đầy đủ, rõ ràng là hiển hách. <詞>BIA CHÙA NGỌC TUYỀN. Huyện lệnh huyện đương dương là Hoàng Phủ Tì soạn. Vì nghe càn nguyên giúp đỡ bắt đầu ba thần (mặt trời- mặt trăng- sao) nổi lên dáng vẻ ở tại trởi, khôn đạo giúp đỡ sinh ra muôn vật lay động hiện ra trên mặt đất. Hoàng Vương ngay sau đó xây dựng quốc gia cho nên Hiền Thánh truyền bá văn tự, chế định danh giác mà chẳng như nhau, quy định oai nghi mà có khác nhau, còn đến như họa quẻ quán hào bởi phỏng theo chọn lấy tùy thời, tổng hợp sợi dọc dệt với sợi ngang, thông suốt làm ngôn từ của công việc, đại lễ cùng hòa thuận, cùng đạo lạc, cùng tiết tháo, yên tâm tiến lên sắp đặt sửa sang, dân chúng thay đổi phong tục tập quán cũ, đây chính là tóm lược sự nghiệp lúc còn sống. Có thể nói sau khi chết hỏi biết rằng Trọng Ni không nói. Dù cho màu tuyết đỏ thẩm vay bọc hư không màu sương đen huyền lướt nhẹ qua cây, ăn kim đan mà chín chuyển, nuốt ngọc tủy mà ngàn năm cưỡi mây, điều khiển chín màu sắc mà rồng đen đi lại nơi sông Hán, khống chế ba ngọn núi nên chim hộc trắngtiêu dao trên Ngọc đài, dung mạo thân thiết giữa cung khuyết Ngọc lâm, không dòm ngó vào cửa giải thoát, chung quy cảm thấy thú vị nơi khu vực của triền cái. Chỉ riêng bậc Chánh giác hướng về sâu xa nơi chân như diệu hữu, bất sinh bất diệt, vô tướng vô ngôn, tùy duyên tiếp thu bản chất thì mượn sắc tạo thành hình, tùy loại quán xét, âm thanh thì dựa vào tiếng nói nêu ra giải thích, cho nên có thể ngàn thước của bạc trắng, thân trượng sáu của vàng ròng, Văn của tám bộ Bát-nhã, nghóa của bốn thứ tất-đàn, thần thông tự tại, tuệ lực không cùng, nhờ dẫn dắt cảm hóa thực hiện mở ra, bày tỏ ngộ nhập, người quy y ra sức phát tâm bồ-đề hồi hướng, cùng đặt chân lên thường lạc, đều là để khỉ ma xây dựng tháp liền sinh lên cõi trời Đao-lợi, chim nhạn trời ngậm hoa lại hướng về cõi nước của Phật Di-đà, há cứ như Sa-môn Nhật Tạng đơn độc đi lại trong chánh đạo, Nguyệt Quang đồng tử một mình trông thấy Như Lai ư? Bốn loại chúng sinh nhờ vào điều ấy mà độ thoát, sáu đường khổ đau dựa vào nơi này mà tỉnh lại rõ ràng, thực sự là xe cao của nhà lửa, bè lớn giữa sông mê. Nếu quả là thời đại Chu Thất, Chu Vương, hình ảnh làm mất đi Hằng tinh (sao chức Nữ, mặt trời), thời kỳ của Hán triều Minh Đế, cảnh vật trong mộng giống như ban ngày, khiến cho rất nhanh chỗ ở phía Tây thay đổi từng bước trở thành kinh đô phía Đông, lập nên tượng thờ ở cung Nam, nói rõ tâm ở mặt Bắc, từ khi Ma-đằng đi vào Lạc Hà, La- thập giao du với Tần, danh giáo càng thêm lớn mạnh đạo phong thì rừng rực, đài kinh tượng các tháp báu hương sơn, tráng lệ tuyệt trần nham thạch gò đồi đẹp đẽ đầy khắp thành thị thôn quê, đâu đợi chờ năm của Hậu Ngụy Chân quân, năm của Hậu Chu Kiến Đức, linh miếu đã trừ bỏ mà già lam lại hủy diệt ư? Hình dáng hủy hoại, bỏ đi văn tự, phân tán để lại, âm vang rơi vào hang gọi, danh tiếng chìm xuống chuông đạt quý báu, tu thiền già dặn trước đây, cuốn lại lưỡi mình mà không trò chuyện, bảo vệ giới luật của các bậc tiên hiền, thay đổi hình dạng đó mà mờ tối hình ảnh, thế gian hết cách đều hòa tâm tư, thời đại thiếu đường đề bạt dẫn dắt, không có bến bãi cầu thuyền của sự xuất thế, mất đi hy vọng rộng lớn của muôn dân. Hoàng đế Đại Tùy ta, nhân theo trời cai quản vũ trụ cầm gương mở bức vẽ cha yêu thương dân đen, vua đứng trước xích huyện, trời đất giống như ân dức to lớn ấy, mặt trời mặt trăng hợp lại cùng ánh sáng lớp lớp kia, tiếng vang thì dùng sấm sét, tưới nhuần thì lấy gió mưa, diệt trừ bạo loạn làm nên thái bình, mở rộng bốn phía hướng về muôn nước, công lao thành tựu định ra âm nhạc sửa trị, ổn định thảo ra lễ nghi. Chánh đạo vô vi, phân chia khu vực có ngăn dứt, mở con đường nê-hoàn làm thông suốt cổng Bát-nhã, nói ra mười hai phần kinh, truyền đi pháp bốn mươi chín năm, tinh cần kỳ cựu, lại bỏ tục về tăng, thanh tịnh ở lúc ban sơ, trẻ nhỏ giữ gìn tâm tư chủ trì giới luật, không phải cứ như pháp luân, lại tiếp tục đánh trống pháp, trả lại tiếng vang, khắp nơi ngay sau đó không còn lo lắng, muôn ức dân như nhau mà còn nhờ cậy đất nước, chứa góp tiếng tăm thừa dịp phát tiển, kính mến phong tục giáo hóa đến tận sân nhà, chim muông linh nghiệm khen ngợi tặng cho tốt lành, thuận theo sổ sách mà hội tụ ở vườn nuôi, cao to đồ sộ vậy mà chẳng phải khu vực suy nghó của trí, bát ngát mênh mông thay, há lời lẽ nói năng mà có thể hết ư? Chùa Ngọc Tuyền ấy là nền tảng của núi này, là nơi đã chọn ở của thiền sư Trí Khải, sắc chỉ đích thực tên gọi gắn vào hoành phi là núi ấy, cao vút như đài hoa chót vót, gập ghềnh quanh co bé nhỏ chênh vênh, đỉnh ngờ rằng ngửa ra che phủ ngọc, núi tròn tựa như thuyền lập úp, dáng vẻ của năng lực rất to lớn vô cùng khác lạ, hình dạng của sườn dốc núi lớn biến hóa kì lạ, đồi núi uốn khúc kết hợp với nhau mà thành bằng phẳng, nước vây bọc quanh co mà kết thành bầu sữa, cây phong xanh rì lung lay cành lá, chiếu rọi ráng mây mầu như vàng xa xa, cây liễu xanh biếc đung đưa cành nhánh xuống thấp đến tận ao đầm trong đẹp, vượn ngâm nga trên mây trắng, oanh hót giữa cây xanh, nhật nguyệt bị che lấp thiệt thòi, mây nước từ đó tản ra tụ vào. Đằng trước ngước nhìn vùng sông lớn quay lại hướng về kinh Sầm, bên trái kèm cặp Chiêu Khâu bên phải nối liền ba Hiệp. Thiền sư vốn họ Trần, người ở quận Dónh Xuyên, tuổi nhỏ bẩm sinh hiểu biết, đồng chân cạo tóc, theo sư Nam Nhạc tích góp đạo lý Thiên Thai, tiếng vang của trí sáng suốt tài lớn lao, không mãi truyền ba ở tại Giang Nam, biết rõ căn cơ danh tiếng của sự biện luận tuyệt vời, cố nhiên cũng nghe từ Hà Sóc, Hoàng đế ngoại tử Thái úy Công tấn vương, tánh vốn hiếu từ tình chưa trắc ẩn, biết bề tôi, biết con cái, giúp nước giúp nhà, trí tích chứa căn cơ thần diệu tâm rũ xuống tràn trề yêu thương, rải ra phong cách quân tử hạ xuống rơm cỏ muôn dân, hướng về để giả sắp đặt, thu nhận kẻ phản bội chịu đựng ước thúc, hành sư thúc cho diệu chỉ, từ uy Lăng Giang Hải, liền hạn định nghiêm khắc Kim Lăng, cảm hóa yên ổn cột đồng, tam Ngô sương mù cuộn lại, bách Việt bụi bặm sạch sẽ, Sư quả là vì Vương thuận lợi vượt qua, Vương liền nhờ cậy sự thọ giới, sư đến đây mà lại đầu đà, vua nghe tâu bày mà xây dựng chùa, ngay sau đó người khách tài tình của khu vực khác, kính mến đạo ấy mà nói đến nơi tốt đẹp, vị tăng luyện hạnh ở xứ xa lạ, nếm thử phong cách đó mà tuôn mưa tụ tập, sư quả là ngôn từ tốt đẹp dẫn dắt lý lẽ dùng hết ý để thảo luận những vấn đề sâu xa khó hiểu. Lời nói chứng minh nhánh thiền, tâm tư bày ở gốc tịnh, tông chỉ sâu thẳm nghóa lý rộng lớn giống như múc nước biển không cùng tận, câu kéo biện luận từ ngữ trong sáng tựa như thác đổ mà tự chảy xiết, bạn bè nhóm lại tuy số lượng dư thừa mà giành nhau trở về, học trò vài nơi từ tận cùng núi cao mà không ai trở lại, như vậy quả là tín tâm đàn việt chứa nhóm điều lành thông suốt mọi người, tất cả giúp cho một vật liệu đều bỏ vào một viên ngói. Dựa vào chúng lực, bấy giờ sự việc dường như thành tích thần diệu, chỉ trong mấy ngày quản lý mà trở thành trang sức rồi, trải qua thời gian thì hoàn thành, tầng đài hướng gác nhiều lớp điện thờ nối liền phòng ốc, lạnh nóng hình dạng khác nhau âm dương quy định đặc biệt, mái nhà chạm trổ thêu thùa đấu củng, núi cao mà tranh nhau, đục lỗ đá tảng điêu khắc nền móng cùng chung tảng đá nham thạch mà đều bền chắc, phong cảnh vượt ra ngoài cửa sổ đó, mây mù phát sinh từ rường cột đó, hoa chiếu rọi ở trên khay vàng, mùi thơm ngát ở tại cây ngọc, công nhân và bản vẻ thân nhau sâu đậm như núi vàng, thợ miêu tả vẻ mặt chân thật chăm chú như trăng rằm, điện xây dựng trụ ba tầng, chuông treo lên cho tự nhiên vang, nhà chính mở ra hoa ngàn cánh, hoa sen nâng tòa ngồi bay đến, ánh đèn không tắt rót vào biển càng sáng tỏ, trụ chùa đều thấp xuống nhận phướn tự nhiên giơ lên. Cỏ mềm mại trơn nhẵn bất ngờ hồn nhiên dựa vào sân nhà, hương ngược gió hòa cùng không khí ngào ngạt khắp sân viện, nghiêng xuống thông suốt hang động, không ngừng rót vào suối mãi miết, mầu sắc dường như lưu ly, mùi vị giống như cam lộ, sóng lao vào cái đỉnh lớn, sóng nước chảy xiết theo bậc thềm nhà chính, uống vào bụng tiêu trừ bệnh tật khắc nghiệt thân thể càng thêm mạnh mẽ, hình dáng trụ đá, xà đồng soi bóng vào giữa hồ sen, hoa của rừng đào biển cúc thơm ngát nổi lên giữa vườn đẹp làm sao. Có thể nói núi tương tự kỳ-xà chùa giống như Ly-việt, tựa như Cung rồng mà lại xuất hiện, ngỡ rằng Lộc Dã bay đến. Thầm cho rằng đục tạc đỉnh thờ của vua trước, công lao chỉ nói về thể của đất nước, nay cùng nhau khắc bia ghi lại đạo mãi mãi của Bồ-đề, còn đảm nhiệm chủ quản chùa Thuộc Thành ở nơi phần núi, văn tuy viết ý mà thư chẳng hết lời, lời từ đó rằng: Nhị nghi khai mở mênh mông, bốn khí ngào ngạt mơ màng, phương hướng gom về theo loại, sinh vật hợp lại theo đàn, thông suốt Hiền nối liền Thánh, rõ ràng Hậu sáng tỏ quân, thuận theo cơ lập ra giáo, nhìn thay đổi lưu truyền văn, nhạc chương tổ khúc đã soạn, lễ nghi hình tiết mới định, phân rõ thân sơ đây kia, dứt khoát ngờ vực điểm này, mở bản vẽ giải thích vật, là ngôn từ thí dụ rõ. Chỉ cảm hóa trong một đời, không nói về cả ba thì, miếu Huyền đô cùng thẻ ngọc, cung điện tím kinh pháp bạc, bỏ xác thân để lại cốt, uống huyết dịch nuốt tinh lực, cưỡi rồng đến suốt muôn năm, điều khiển chim hộc ngàn tuổi, chung quy chẳng phải thật tướng, vẫn còn là thuộc trần tình. Chỉ có bậc xứng Đại Hùng, sâu xa như vậy thường trú, bất sinh cũng lại bất diệt, chẳng đến mà cũng chẳng đi, diệu chỉ của ngàn pháp môn, một lời diễn bày căn dặn, độ thoát cho mọi chúng sinh, Niết-bàn ở chốn song thọ, mộng thông suốt đến Lưu Hậu, cảm ứng đến tận Cơ Vương, mặt trời che ánh trăng rằm, trong veo tỏ sáng sáng rạng, miêu tả hiện ra Đông quốc, hướng về cõi Thánh Tây phương, Từ bi thiết tha biển nguyện, Thiện thệ thể hiện bến cầu, Pháp Hiền trở về nơi Tấn, Ma-đằng đi và sông Lạc, hoa tung ra trên đài kinh, hương lưu chuyển trong gác tượng, Thính giáo chứa nhóm tung lên, cửa dâu ra sức thực hiện, sương nhỏ giọt ngọc trên phướn, gió ngâm nga chuông mõ quý. Thực sự vị vua Kiến Đức, chuyển vận ly cốc diệt đạo, chìm xuống bốn loại chúng sinh, hủy hoại trừ bỏ Tam Bảo, Hoàng đế ta mở đường Thánh, đức ngang bằng với Thương Ngô, dùng pháp mở rộng hơn nữa, tái tạo lễ nghi chân thật, dòng họ Trần bị tiếm ngôi, vua nổi lên chinh phạt này, khiến cho Ngô cuốn sương mù, Mân Việt trong vắt rộng rãi, nhờ đó gặp gỡ Trí Giả, mới đến thăm viếng nhà núi, hòn châu lạ nổi sông Hán, ngọc vượt ra vùng kinh sâu, đỉnh sáng sủa cao chót vót, động đá sâu thẳm xa xôi, mùi thơm cỏ biển ngọt ngào, tí tách suối vàng điểm nhịp, lượn vòng vượt qua như khe, che núi lớn ngỡ là thuyền, đến lễ nghi ngồi an nhàn, cảm động nơi còn vắng vẻ, biện giải tất-đàn kì diệu, sâu sắc cùng tận Bát-nhã, đạo tục cùng đến nhóm hội, múc từ sông cuồn cuộn đó, hoặc giúp cho một vật liệu, hoặc bỏ vào một viên ngói, trải qua mới không mấy ngày, trở lại thành tựu rất nhiều, lại bắt đầu làm cung rồng, trở lại mở bày lộc Dã, núi nối liền thành ô tím, sông vây lại ôm trâu vàng, Tây đối diện khe đầy trăng, Đông tiếp cận gò sáng rõ, chiên đàn vây tròn xung quanh, lâm bích vòng quanh rộng khắp, xuân cửa lớn hạ cửa sổ, điện sông nước lầu núi non, chỗ ngồi nở đóa hoa sen, khám thờ treo cao gương đá, tướng tốt lông trắng mềm mại, tóc xanh đen biếc chiếu rọi, yến bạc bồi hồi bay lượn, vảy gắm bơi lội tung tăng, vượn chạy nhảy tâm yên ổn, bóng chim câu sợ xác định, ôi kìa Triết vương đó chăng? Lệnh cho bình phong um tùm, tự nhiên trời sinh, đức hạnh, hiếu thuận thành thật đều nắm, sáng đồ sộ chẳng bạn bè, rỗi rãi thường xuyên nào cùng, ra ngoài mãi gắn dây cương, vào điều hòa với chung đỉnh, cấu tạo chốn già-lam này, quả thực tài lực đề nghị, ma điện hoành hành nhiễu loạn, tu-di chứa nhóm ước thúc, phút chốc nhìn thấy trọn kiếp, khoảnh kắc xem đốt xong xuôi, đâu giống như bờ kia ư? Sinh tử đều vượt ra hết, đá vàng không hề mục nát, trời đất có thể kết thúc, điêu khắc núi đá nham thạch, mãi mãi lưu truyền tốt tươi. <詞>THƯ CỦA HẬU LƯƠNG CHỦ TIÊU TÔNG. Từ xa kính trọng phong thái cao vời mà chưa được bày tỏ hầu hạ, ngậm ngùi nhìn về Tây lấy ngày thay năm, tiếp theo đi khắp dừng lại Ngọc Tuyền bắt đầu xây dựng phố phường nhà cửa, danh tăng hội tụ hỏi đạo từ xa tựu về, núi rừng đẹp đẽ có vui thiền giúp đỡ, trước cảnh vật được nhìn thấy bỗng nhiễn gió mây khen ngợi lâu dài, nóng mát coi trọng, phụ thêm kế thừa tu tập, thần túc nay trở lại dám trình thưa hỏi han thăm viếng, kính tin hội mới nguyện cung kính kế thừa, tiêu Tông kính lạy. <詞>THƯ CỦA TIỀN TRẦN LÃNH QUÂN THÁI TRƯNG. Từ khi Giang Đông tách ra tan vỡ, đệ tử trước kia dự định đưa về kinh, không được cung kính lễ lạy hướng về, bấy giờ đã năm năm, tấm lòng thành thật thỉnh cầu kết hợp, há thư bút mà nói ra hết ư? Núi sống không hề có nguyên do gì mà bàn bạc thuât rõ. Thú sư vâng lệnh liền đến cung khuyết thỉnh mời, Thiên tử hạ tình xuống thấp, quân chủ đặt biệt gặp gỡ. Mới cho nên kính trọng đối đãi Nam Bắc đều một lòng hướng về, có thể nói khiến chăng, khiến chăng? Trọng Ni vì thế hứng thú ca ngợi kính tụng, nói rõ được nhờ cậy có yên lòng kéo dài sự kính trọng. Trời cao không khí trong lành, nguyện đạo thể được khỏe mạnh hơn, dừng lại thực sự ngàn nhận (nhận bằng bảy, tám thước) yên lặng suy nghó đến Tứ thiền, Lương Tuệ khói mây vui sướng ăn cơm pháp hỷ, cố nhiên chẳng phải học trò thế tục có thể xưng tán ngợi khen được, Trưng tôi tuổi già suy yếu công việc ép ngặt có thể lấy ý mong cầu, em út cháu con họ hàng đúng lúc, sống trong đời thăm hỏi tiếp xúc đất đai có ích tất cả, tuổi còn lại đã đạt đến số tận cùng tất cả cũng không thường, vì sự nghèo hèn mà tự hổ thẹn, nhưng lễ bái hầu hạ thoải mái tự do thật sự tăng thêm hướng về nức nở. Cúi đầu nguyện trân trọng tiếp tục khôi phục, về sau nối theo nếu như gặp được người thực hành ban tặng tìm hiểu còn mất. Ngày mười bảy tháng chín niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười ba, Tiền Trần thị trung an hữu tướng quân trung thư lệnh lãnh quân tướng quân Nam Ung Châu đại trung chánh Tâm Phong huyện Khai quốc hầu, đệ tử Tế Dương Thái Trưng cúi đầu kính lạy. <詞>THƯ CỦA THIỀN SƯ ĐÀM XIÊM Ở TRƯỜNG AN. Ngày mười ba tháng chín niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười ba. Đàm Xiêm chùa Hưng Quốc ở kinh đô kính lễ, Thiền sư túc hạ núi Thiên Thai. Kính mong chỉ riêng danh tiếng cao xa bước chân đạo ngỡ rằng hình dáng Hòa-thượng đến, dức vang xa trú sâu sắc nghó là bậc Di thiên thác sinh, lời nói suy nghó đảnh lễ trình thưa, tiếp nhận đầy đủ cho tấm lòng chân thành. Đứng lặng hướng về Đông Sơn không quên dường như khao khát ánh sáng của nghi dung, thời khắc đến lạnh lẽo lại nguyện về hết sức có gắng trong sinh hoạt hằng ngày, chúng sinh khó điều phục cảm hóa mở rộng làm phiền đến ý nghóa. Kính mong kế thừa giao du chốn xa nơi kinh trấn, lợi ích cho người, làm lớn mạnh thêm nhiều. Dừng lại nghó suy suối xanh đủ để thông suốt hoài bão, mong mỏi dức độ hạ cố, hướng về được sử dụng để mở rộng thành thật nóng lòng trông đợi, cảm hóa dẫn dắt tất cả thực hành, được thấm nhuần lợi ích cao siêu. Nguyện coi trọng đạo đức tiếp tục kết hợp chỉ có kế thừa. Kính cẩn lễ lạy. Thành thật dâng lên đề hồ, nguyện tiếp nhận ý nghóa nhỏ bé. <詞>THƯ CỦA TUỆ NHAM CHÙA ĐẠO NHÂN CÙNG BÀY TỎ. Thầm cho rằng lý mầu quan trọng sâu xa khó hiểu, cách ngoài lời nói phỏng theo, tùy theo căn cơ cứu giúp muôn vật, nương nhờ thảo luận về chân tục, từ chim thiên nga ẩn náu hình dáng nơi kim quan, không rõ ràng dấu vết, ngôn ngữ tinh tế nhớ cậy hướng về truyền dạy, giáo pháp bí mật nhờ mở rộng thông suốt, do đó có năm loại pháp sư, tứ y khai só, sau đó nối liền dấu chân kế tiếp dấu vết đến mấy trăm năm. Trong đó tuy khôi phục lại ánh sáng rực rỡ tiềm ẩn của bó đuốc trí tuệ, nên dòng chảy của giáo pháp tuôn trào không dứt, tiến hành suy nghó thông minh học hỏi rộng khắp, đồng thời nguyện dốc hết tánh, cùng tận nguồn gốc, nhưng tánh không thể cùng tận, mà cội nguồn có thể dễ dàng dốc hết. Văn hươu dê đã làm cho mê hoặc, nói thỏ ngựa hãy còn nghi ngờ, nếu không mượn dùng đại tâm thì cuối cùng mãi mãi che lấp. Kính mong chỉ có Thiền sư hạnh đầy trong suốt cao xa, mẫu mực vượt hơn nhiều đẳng cấp, đặc biệt tài năng bí mật bên trong vượt lên tâm nhân từ của người, tuy không áo gấm về quê, mà lại thấy ôm ấp châu ngọc trở lại nguồn gốc, là để trời xanh đất yên bình Vương đạo an khương phẳng lặng, bốn chúng một lòng hướng về dân chúng khâm phục mừng vui và kính mến, tất cả đều nguyện bàn bạc nhận lãnh đều suy nghó chọn lấy đức hạnh, hy vọng lấy vầng mây trí tuệ tưới nhuận, quên giữ kín cẩn thận và cung kính đối với điều chưa nghe, tin tức của thầy trò mở rộng tuyên truyên dâng cao đối với người khát khao kính mến, tạm thời chuyển bước của dấu vết sói lang, quyền biến mở ra cánh cửa diệt định, hạ cố nhận cho tấm lòng quần chúng xót xa, thương cảm hy vọng thỉnh cầu. Thư rằng “sớm nghe đạo chiều tối chết”, pháp nói một câu nhuộm vào tinh thần chắc chắn không hết tháng này trải qua năm khác, nhiều vất vã trong nghe nhìn ngõ hầu nghe thêm một lần thật sự, nhất định sẽ mặc châu ngọc, chưa phát tâm bồ-đề đều biết hồi hướng, hiền ngu vui mừng hớn hở phàm thánh sung sướng vui vẻ, há không thể mở rộng pháp rường cột làm tàu thuyền cho chúng sinh hay sao? Bất luận ngước cổ trông chờ, kính cẩn phái pháp sư Trăn chùa Thập trụ quy y dưới tòa ngồi, thuật rõ đầy đủ tâm tư của chúng, khoanh tay đợi chờ, giúp đỡ suối tuôn ra nghiêng, chầm chậm tiếng vang của chuông lớn, nhất định là lấy cái nghe của cõi trần, đều nhớ mong, mừng vui hớn hở. <詞>SỚ. ĐẠO TỤC Ở KINH CHÂU THỈNH GIẢNG PHÁP HOA Đệ tử thọ giới Bồ-tát trụ Chùa Đạo Nhân ở Đông Nham là Trần Tử Tú cùng cúi đầu kính lạy. Thầm cho rằng pháp môn không hai lý tuyệt lời quên, thuận theo bệnh tùy căn cơ mượn danh tướng mà nói, tuy là thường ở nơi vắng lặng mà mở rộng bày tỏ oai nghi, không rời khỏi đạo tràng cúi xuống ngẩng lên tự tại, nghóa lý thảo luận mở rộng thu hẹp dấu vết hiện bày mờ nhạt sâu sắc, khắp nơi quả là có biết bến bờ, cầu bến và tàu thuyền cho chúng sinh. Nói về sự cất nhắc đó không có nơi nào không lấy phương tiện làm trước, nói về sự dìu dắt đó chẳng qua thí dụ là căn bản. Trẻ nhỏ trong nhà biết ba loại xe mà tranh nhau chạy ra, kẻ nghèo làm thuê biết có thể quét sạch đồ dơ bẩn. Mong chỉ có Thiền sư ở địa vị không đau buồn, tâm ấp ủ khắp nơi hòa thuận, đạo nối liền ba không, trí là bậc thềm của trăm pháp, nhất định là muốn vâng lệnh làm cho khuất phục, tuyên truyền rộng rãi bộ kinh Pháp Hoa. Thả ra chim muông khuyên nhủ người già nói rõ cho trẻ nhỏ chút công lao sâu xa, vẫn còn khôi phục công bố việc cây đường lê che mát nói ra cảnh sắc dưới cây liễu; huống chi là tự mình kế thừa ba điểm cao tu lên sáu Độ ư? Chắc chắn nguyện hạ cố nhận cho để tâm dốc hết thành thật, nghiên sâu cứu nương nhờ Hán Hoàng mà nước sạch, từ đó hưng thịnh, gió lớn nơi cây dâu, giếng nước có thể tán thưởng, không cho phép lặng lẽ quá, ngõ hầu khiến cho mọi người cao quý nghèo hèn, thượng đẳng hạ lưu, đều biết đến Nhất thừa, lá to cành nhỏ cùng được tưới nhuần yêu thương. Hy vọng nguồn cao đào giếng mau thấy được suối lớn, say nằm hôn mê còn biết vật quý ngày xưa, nhất định là nói rõ tình cảm của chúng sinh không biết sắp đặt chuẩn bị kính cẩn thỉnh cầu. Ngày mồng mười tháng tám niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười ba. <詞>SỚ THỈNH CẦU CỦA BẢO CUNG CHÙA THÊ HÀ Ở TƯỞNG SƠN. Đại chúng chùa Thê Hà và Bảo Cung cùng kính lạy. Thầm vì ngó lên kính mến đức hạnh sáng tỏ mà thất vọng hỏi đến nhiều lần chuyển biến, từ khi hoãn lại lễ bái đến nay khi nóng, khi lạnh vừa mới ngăn cách dựa vào cơm đến pháp, do đó vâng chịu giáo môn, nước định yên tónh mà vô bờ bến, ngọn từ cao vút mà không đỉnh điểm, đến như nghóa của Chỉ Quán, Phương Đẳng, văn của Long Thọ, Mã Minh, không có nơi nào không hết hang dốc của lý đó, suy xét kỹ sự mâu nhiệm thì y cứ vào đó. Cung tôi tuy không thông minh, ít đi lại những buổi giảng giải, thầm ngắm nhìn Pháp sư giảng kinh luận khắp Nam Bắc hơn ba mươi năm, cầu mong ý chỉ sâu xa đó mà không hiểu ra, quán sát các pháp rộng lớn nương nhờ vào cuối đời. Vốn mong muốn dốc hết khả năng giống như vui khi no bụng, nhưng gặp Đạo An để lắng Thượng Nhân thường xưng là bắc diện, gặp Tuệ Vónh xa xôi thượng thủ đến khai sáng Đông Lâm, quả là biết được hầu hạ người cao quý thì phải yên ổn nơi có cảnh đẹp ấy. Cung tôi tuy sơ sài bé nhỏ thầm kính trọng hướng về người có tài đức, nhưng người ở chùa Thê Hà, đời Tống rõ ràng chứng mình chủ trương xây dựng chỗ ở nhà vua tăng kế thừa. Đục khắc núi hiện rõ tượng, khai thông núi đá mở ra điện thờ, tựa như bay đến không hổ thẹn nhảy lên vượt ra, dường như rừng suối đó trong sáng rực rỡ, nhà cửa quanh co, núi quế mùa xuân thơm ngát, cửa sổ mây ban ngày nghỉ lại. Từ xưa bậc cao hạnh quả là sử dụng để dạo chơi ngơi nghỉ, cho nên chúng trong chùa cùng nhau thành thật thỉnh cầu vươn dài uy đức, chỉ nguyện gần gũi quan sát bậc hiền triết xưa kia giáng đến nơi nào, ở nơi kia dựa theo kinh có được để dùng chắc chắn rũ lòng, hưởng thụ nơi chốn có ruộng vườn cơ nghiệp. Đầy đủ ở tại điều khác, trịnh trọng cùng khai phủ só Liễu Cố Ngôn, chứng minh thành tựu lời thề này, ngõ hầu cương vực của Kim cương ủng hộ Thứu Lónh mà tồn tại lâu dài, pháp bảo thì truyền bá ngang bằng Kê Sơn mà không hoại diệt. Kính cẩn dâng sớ. Ngày mồng sáu tháng tám niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười lăm. Bảo cung cùng chúng dâng sớ. <詞>THƯ CỦA BÍ THƯ GIÁM LIỄU CỐ NGÔN. Đệ tử Liễu Chánh thiện vốn có thành tưu cúi đầu kính lạy. Ấm áp hài hòa không biết tôn thể sinh hoạt thường ngày như thế nào? Cúi nguyện được hỷ duyệt của thiền pháp. Năm qua nhận được một ý chỉ đến nay còn giữ nguyên, vâng mạng tặng cho mười quyển Huyền Nghóa, hướng về cung Nhân Thọ phục tùng đọc được tám lần, nghi ngờ lỗ mãng lược bỏ hết mà trở lại tinh tế khó dứt bỏ. Mới nghiên cứu sáu quyển, đồng thời đi vào văn tám cuốn, vì cửa hiệu nhuộm chưa hoàn tất, ít hôm sau đi sâu nghiên cứu, nay phái Đại vương người đi sứ là Tiêu Thông Quốc, tìm hiểu tiếp theo ý thư từ đó hướng về, kính mến chọn lựa, nhiều lần được Cố hỏi đến vâng mạng trả lời chắc chắc đến. Cúi đầu nguyện mùa Hạ hoàn tất sẽ đợi chờ thuyền bè, hy vọng kiếp sống tàn tạ này dốc hết tâm tư lắng nghe nhận lãnh, sám hối bao ngày qua, lơ là lười biếng mê muội rối loạn. Xin kính cáo. THƯ CỦA PHÁP SƯ CÁT TẠNG (Gồm ba bức). Cát tạng bày tỏ tôn kính. Hướng lên trên hết sức vâng mạng ý chỉ cúi đầu thừa nhận an ủi tình hình bên dưới. Gần nóng lên không biết tôn thể thế nào? Cúi đầu nguyện thư sau giấc ngủ bữa ăn được bình thường, dạy dỗ truyền trao phải chăng đến lúc giảm bớt? Cát Tạng thô hạnh được đi theo chúng lễ bái thăm hỏi, không tiếp xúc cúi đầu thừa nhận tăng thêm lưu luyến kết lại nguyện xin trân trọng. Nay phái Trí Chiếu trở lại bày tỏ, không nói ra, xin kính cáo. Cát Tạng bày tỏ tâm kính, hướng lên trên hết sức vâng lệnh, ý chỉ thương yếu của sư nên vô cùng sôi nổi hớn hở. Nguyện lâu cúi đầu đảm đương cam lộ tôn kính gánh vác cầu pháp. Cát Tạng tự nhìn mình là hạng đầy tớ, nói năng vụng về không chịu nổi hướng về truyền trao, nhưng mặt trời Phật sắp lặn xuống, mà mắt chúng sinh thì nhắm nghiền, nếu không phải Đại sư mở rộng nhẫn nại thì lấy gì để khắc phục hưng thịnh? Cúi đầu nguyện mở rộng phân bố vầng mây yêu thương mở đường dạy cho hàng mông muội đình trệ. Cát Tạng trịnh trọng hướng về hết lòng hầu hạ, vâng chịu dạy dỗ khuyên bảo, cùng tận tình hài thân mạng này xa đến kiếp sau. Cúi đầu nguyện đại sư bí mật rũ lòng giảng dạy hơn nữa. Mùa hạ cũng xong, lập tức hướng về lễ bái, nay sẽ phái Trí Chiếu bàn bạc thăm hỏi, xin kính cáo. Cát Tạng bày tỏ tôn kính, thời gian hướng lên chưa đến mấy ngày thì như thế cảm ứng giấc mộng, còn tôn kính hướng lên hết thì về sau vẫn cứ lại được mộng. Trí Chiếu trình bày miệng đôi chút, tôn kính hướng lên tìm trở về, cũng nhờ cậy phó thác bàn bạc. Xin kính cáo. <詞>SỚ THỈNH CẦU KINH PHÁP HOA CỦA CÁT TẠNG PHÁP SƯ. Cát Tạng chùa Gia Tường huyện Hội Khể thuộc Ngô Châu cúi đầu kính lạy. Cúi đầu thừa nhận nghe núi tên gọi là Thôi Ngôi, Đạo An leo lên mà nói pháp, đỉnh tên là Khuông Tụ, Tuệ Viễn dừng lại để an thiền. Không dường như núi này to lớn rực rỡ tiếp cận sông Hán, nối liền ráng mây, khơi thông khe suối, lơ lửng trôi lăn ngút trời rót vào mặt nhật, thành trì đỏ, nước đỏ, chỗ ở của Tiên nơi khu vực eo sông, lư hương Phật Lũng là cõi phước của quả Thánh, lại trải qua thiên về làm cho đẹp tái sinh trao cho tên gọi là ít thấy. Trí Giả dừng lại nương tựa trên hai mươi năm, môn đồ thiền tuệ giáo hóa truyền bá xa gần. Xưa, Đồng Thọ Anh Ngạn mới hiểu rõ thông suốt kinh pháp, Tịnh Tuấn thần đích thực truyền thụ nghiệp thiền. Nếu chẳng phải Đạo Tham bổ xứ học hỏi cùng tận đức hạnh ngàng nhau, thì đâu thể kinh luận sáng tỏ sâu xa, định tuệ cùng soi chiếu? Đến như ngày nhà Chu tàn lụi, sau Khổng Khâu qua đời, Mã Minh giáo hóa xong, Long Thọ tiếp nối theo sau. Nếu trong ngoài không sụp đổ đích thực còn người làm cho lớn mạnh, ánh sáng lộ rõ Đại thừa mở bày phát triển giáo pháp bí mật. Ngàn năm cùng với năm trăm năm quả thật khôi phục quyết định ở hôm nay. Nam Ngục thánh trí sâu xa. Thiên Thai hiền triết sáng tỏ, xưa trú trì ba nghiệp, nay kế thừa gắn liền hai tôn, đâu chỉ rưới cam lồ cho Chấn Đán, cũng hướng về làm rung động phá cổ ở đại Thiên Trúc, phát sinh biết rõ, thức tỉnh lạ kì. Từ Ngụy- Tấn đến nay điển tịch phong dao, quả thực không xếp loại với nhau, giáo chủ Thích-ca, Đồng Anh sinh ra nghi ngờ, Pháp Vương Lô- Xá, Thiện Tài cho tìm đạo, có lẽ là noi theo dấu vết phía trước chăm chú suy nghó tôn kính thành thật, trịnh trọng cùng thiền chúng hơn một trăm vị tăng, cung kính thỉnh cầu đại sư Trí Giả giải thích rộng rãi bộ kinh Pháp Hoa, kinh điển này là pháp sâu kín của các thánh, là then chốt của các kinh. Cúi đầu nguyện khai mở tri kiến Phật, chiếu rọi tối tăm sâu nặng này, chỉ ra đạo lý chân thật soi sáng đêm đen ấy, ngõ hầu để cho cõi nước Tam Thiên đến bẩm báo chưa nghe, trăm kiếp hậu sinh tôn kính vâng theo nghóa lý rộng lớn, xây dựng khu vực giới tiết, cưa chặt gỗ cây đem đến, Dao Lạc sơn trang đen vàng toàn là thôn dã, mỏm núi quế, khu rừng ngọc, bờ biển cúc, hoa lá tốt tươi, càng phù hợp với tâm người Thanh văn, rất cản trở hoài bão của bậc Duyên giác. Cát Tạng kính mong cảm tạ sự đạt được trước kia, cúi xuống thẹn với tìm hỏi mong cầu, tranh nhau sợ hãi chỉ có sâu sắc, chỉ tăng thêm run rẩy sợ hãi. Kính cẩn thỉnh cầu. Ngày hai mươi mốt tháng tám niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bảy. <詞>TRÍ GIẢ ĐỂ LẠI THƯ CHO LÂM HẢI TRẤN, MONG MUỐN GIẢI TRỪ NÂNG CAO ĐẤT NƯỚC VÀ NÓI RÕ VỀ HỒ PHÓNG SINH. Bần đạo ít hoài mong chí hướng yên ổn nguyện dứt bỏ trần lao ầm ó. hiểu ra đôi cút khổ, không thể thuận theo nhàn rỗi trống trải, quả là để đi về quê cũ ở Tây Thiểm, tướng lãnh môn đồ dạo chơi nghỉ lại Thiên Thai, có mười hai năm. Nhưng khe núi này tiếp cận nguồn sông nối liền vươn dài đến bờ biển, nên người đặt lờ đánh cá qua lại tứ tung, tắc nghẽn sông nước, giết hại hàng loạt đã nhiều mà nấu luộc ram nướng nhiều không tính hết, làm sinh mạng loài vật tổn hại chết non có ai hoàn toàn thương xót? Cũng là công tư đi lại liên tiếp gặp phải chìm đắm, đem số tử vong này không thể kể xiết, bần đạo chẳng những rỗng không hèn mọn, mà còn nguyện nói cứu giúp, vẫn thẳng thắn khích lệ sơn tăng áo tiền đồ vật, giúp đỡ vật dụng lặt vặt, đến Khổng Huyền Đạt là người địa phương cùng mua hết đồ nghề đánh bắt, làm hồ phóng sinh vónh viễn, thay đổi cầu cá, trở lại thành sông nước của dòng pháp. Do đó, Lâm Hải nội sử nghó rằng hãy còn con trẻ mà tâm kính pháp sâu nặng, vẫn cứ thỉnh cầu giảng nói kinh Kim Quang Minh, đến phẩm Lưu Thủy, đàn việt là Dương Công chúc mừng cùng nghe câu tuyệt diệu này, tất cả vất bỏ đồ nghề đánh bắt, gồm có năm mươi lăm chỗ, tức thì khiến cho dưới nước trên đất được thấm nhuần, người và côn trùng nhận được ân trạch. Bởi lẽ nghe hoa rơi đầy nhà, đền đáp ân đức của trưởng giả, ngọc sáng chiếu rọi trong đêm, báo đáp đức độ của Tùy hầu, thì kiên quyết vun trồng diệu hạnh quay về hàng tu tập trước kia, truyền bá phong cách tốt đẹp đối với thời đại cuối cùng, phước không luống uổng, vứt bỏ, thiện không giả dối mất đi. Vẫn cứ lấy việc này trình bày về đời Trần trước kia, sắc chỉ rằng sông này nếu không có quạ trộm cắp hải vị quý báu, nên y theo sự thỉnh cầu làm hồ phước vónh viễn. Quốc tử tế tử Từ Hiếu Khắc, vốn có vun trồng cội đức thì đường đi mới gồm đủ tốt đẹp, nghe thì chứa nhóm nhiều điều thiện, thỉnh cầu dựng lên bia cao, mong muốn nền tảng to lớn này cùng với núi cao to vững chắc như nhau, nguyện sự nghiệp cao quý ấy ấy ngày tháng còn giữ trọn. Xưa, họ Trần ở Giang Đông đất đai không vượt quá mấy ngàn dặm, giống như k1inh mến điều lành này mà quên hoài bão. Nương nhờ chỉ có Hoàng đế bệ hạ, nắm giữ vòng vàng mà cai quản tám phương, cầm chắc gương báu để đối diện với bốn hạng dân, mưa gió thuận theo mùa, ngựa trâu hướng về bên trong. Tin tưởng theo đạo cao xa, nghiêu Thuấn đức hạnh cao vời sáng ngời, tiến hành khôi phục, tự mình thực hành mười điều lành, cùng con đỏ hướng về dân chúng. Từ khi chuyển vận bốn hoằng thệ cuối cùng ra đời mà cứu giúp khắp nơi, vả lại không vật. Không trứng đắm từ ngoại thư, cứu kiến cứu cá nghe trong nội điển, há có nhiều thiên hạ mà cẩn thận luyến tiếc một nguồn sông ư? Ân trạch sâu rộng dưới vòm trời mà một mình cách xa mấy trăm dặm ư? Thay đổi hồ hoa sen, dấy lên nghiệp thiêu đốt nấu luộc, làm cho quân dân buông lung tổn thương giết hại loài đó, sinh vật sống dưới nước đau xót khổ sở quẩn quanh, thân đầu chia lìa, xương thịt nát tan. Bởi vì ý bần đạo độ tâm của Hoàng đế, há như thế sao, há là như thế sao? Những Tấn Vương điện hạ đạo xuyên suốt xưa nay, đồng ý văn, đồng ý võ, hai vùng nam chưa đủ sánh với công lao đó, nhiều tài năng nhiều nghề nghiệp, dâng hiến cả hai không thể nào sánh bằng được đức hạnh đó. Mậu công lao làm rung động đối với Sơn Tây, Anh danh tiếng lan truyền ở Giang Tả, trong coi đất đai ở Hoài Hải, cảm hóa dân chúng ở Ngô Hội. Không vì bần đạo phẩm hạnh xấu xa, cúi xuống rũ lòng lễ kính nhận lấy tự mình đảm đương quy phạm thế gian, sai lầm gánh vác, thầy người chuẩn bị nói rõ nguồn gốc sự việc, liền ban xuống là bùa số mạng còn nơi kính mến kế thừa, không dám làm trái vượt qua, giả như khiến cho có người đi sứ nghiêm khắc khác, quả thật phụng mạng sắc chỉ phù hợp hủy bỏ bia đã dựng lên, khôi phục lại dân chúng với nghiệp đánh bắt ấy. Bần đạo lập tức rung tích trượng khoác áo gánh mũ theo đuổi thực hiện, đi lại nơi xa kinh đô, xe vua đến cung khuyết dâng thư, đầu mất thân tan để bảo toàn mạng sống chúng sinh, huống chi nay ý chỉ gởi đến, Tổng sứ Giang Nam thu giữ đồ nghề đánh bắt sinh vật ở biển, mà sông suối núi nước không sinh ra cá biển, mở ra nhận thấy phù hợp vì văn và sự việc không liên quan với nhau, chỉ bởi vì tại đây tùy tiện ham muốn đúng sai, hủy hoại phóng sinh, dấy lên nghiệp làm thương tổn. Ngày nay thế gian thái bình, đường đi không nhặt của rơi, nếu buông thả quân dân, thâu nhặt chọn lấy đánh bắt, thì quả là làm mất đi tài sản hiện có của người, công khai làm việc trộm cướp. Nếu vì đấng Chí tôn muốn cho quân dân dồi dào đầy đủ, không cho phép phóng sinh, xưa bần đạo đi lại phía Tây, đường đi trải qua Nhạc Châu, Thứ sử vương Tuyên Vũ, vẫn kết hợp hương hỏa vâng chịu thọ nhận Đại thừa, mà dân chúng vùng đó không tham gia nông nghiệp, chuyên làm công việc giết hại đánh bắt, người có học là Đàm Kiện thỉnh cầu giảng giải, toại nguyện lập tức dừng lại. Một châu năm huyện đều bỏ việc đó, tổng cộng hơn một ngàn chỗ, theo việc bày tỏ lên trên, ban xuống sắc chỉ bắt đầu thừa nhận. Tất nhiên là Nhạc Châu liên tiếp giáng xuống điềm lành, khiến cho vua Tuyên Vũ treo biển khen ngợi gấp bội bình thường. Đấng trí tôn thần trí cao xa sáng ngời có cảm đều ứng, há cho phép quân dân vì khẩu vị mà đoạt lấy nghiệp lành của người? Huyện úy khởi tấu như vậy sợ rằng thành ra cái thấy kì quái, vả lại sông suối nhỏ hẹp, không bằng đất đai một cơ sở của Nhạc Châu, lại chỉ có loài hỗn tạp, vốn không có loài cá ở biển. Đấng Chí tôn vì Tấn Vương điện hạ có văn võ kỳ tài, cho nên khắp nơi làm thủ tục ủy nhiệm đảm đương các châu vùng Giang Nam, sự việc bất luận lớn nhỏ đều y cứ theo đó quyết định rõ ràng. Nay nếu không được chú thích, vua chỉ dạy không nghe ấy thì quả là, đúng sai y cứ vào huyện xem xét quyết định, không liên quan đến Tấn Vương. Nói như vậy há có thể nghe ở vua mà thôi ư? Vả lại Đại vương tự mình có phù tiết ý chỉ, bắt đầu đồng ý phóng sinh sao để cho ở chỗ công sở thầm lén thực hiện các việc ngăn chặn? Bần đạo các từ trở về khe núi u tối, có hai nhân duyên: Một là vì công đức Đại vương sửa sang tu bổ nhà cửa chùa cổ, hai vì ban hành sông suối, sửa sang quản lý phước hội. Cùng chung với các đàn việt xa xôi xây dựng bồ-đề, liền che đậy mất còn, trang nghiêm vónh nguyện. Nền tảng cơ sở của một người có chúc mừng bảo vệ vững chắc như bàn thạch, khiến cho mười ngàn con cá dễ chịu vui sướng cùng quên. Bần đạo đến dừng lại đã lâu nhiều lần đội ơn, ưu ái đảm đương cung cấp giúp đỡ chờ đợi đến người có công lao, ảnh hưởng từng suy nghó hướng về người kia, chưa phát khởi đến giao du, xa xôi nghe cái nghe chỉ truyền ba ân huệ để cảm hóa, khu vực có ba đức đặc biệt, dân chúng ca năm ca khúc vui vẻ, ý vị bữa cơm phong cách cao hơn thành, vô cùng tùy hỷ. Nhưng nhà vua đối diện sơ qua xong xuôi trở về lại không chịu, chỉ mong mỏi bắt dầu tốt khiến cho trọn vẹn để hoàn bị danh dư đẹp đẽ, trèo lên cổ xe nằm nghỉ đến vết báng xe không hổ thẹn với thánh hiền ngày xưa. Bần đạo suy nghó lập đi lập lại nhiều lần nhận ra quanh quẩn một chỗ, nhân só phương Bắc có phước sống lâu, há không phải là tâm yêu thương ít hại vật mà cảm được tuổi tác lạ kỳ này ư? Dân chúng Đông Hải đông đúc phần lớn chết yểu, đánh cá săn thú cho nên mạng sống ngắn ngủi, nghèo cùng cực khổ chính là thấy hiện tại ở thế gian, đáng để làm tấm gương soi mà khuyên nhủ. Nay nếu cắt đứt mạng sống của ba quy y, dưỡng nuôi thân hình của năm ấm đóa, đó tức là phế bỏ sự nghiệp sáng sủa ở Tịnh độ, dấy lên tai họa sâu nặng vô biên, sự việc đã không bình thường sợ rằng chẳng phải phương pháp dưỡng sinh. Phòng ngừa những châu trấn khác, không kề cận sông biển đã là nơi cao nguyên, khai thác đánh bắt không có chỗ chưa nghe quên thân, vùng khác mang bệnh trở về quê hương há lại tiếp tục, tất nhiên phải nhờ loài thủy tộc để cung cấp thân mạng, không ngừng khiến cho khai thác đánh bắt, còn lại chẳng thích hợp, huống chi có người hủy hoại loài khác để cung cấp rồi phóng sinh. Quân só Minh phủ ở tại thị trấn trong sáng nghiêm khắc, xa gần ngợi khen ca tụng một đồng không nhận, một con nghé còn để ý nuốt vào nuôi chim hộc, binh lính được châu báu, người họ Khổng vui vẻ thả rùa cuối cùng đeo ấn vàng. Nếu đàn việt không làm trái phù tiết ý chỉ tấn vương, không trái với lời của bần đạo, thì quả là tiếp tục rưới dòng nước pháp vâng lệnh truyền đi đế đạo, có đức nhất định báo đền, không thiện không thể đền đáp. Ngọc bội đều cung, không cầu mà tự đến, ấm vàng đai tím tùy niệm liền đến. Nay phái đệ tử là Phổ Minh, tặng cho sự việc đã từng có hướng về chọn lựa, nhưng Minh Phủ bao gồm mọi việc của bang này, nắm giữ binh cơ của một trấn, có giáo lệnh thì nhất định phải thi hành, như gió thổi rạp cỏ, nguyện đem thư này của bần đạo, biểu thị công khai giữa người dân, dạy bảo quân só dân chúng, khiến cho tuân theo chín lời của giáo pháp vô vi bắt đầu tổn thất, thay đổi tâm của mười điều ác, vónh viễn phù hợp, thuận lợi đứng đầu. Sự việc tranh nhau tin tưởng ở miệng con người, vốn có không tiếp tục vòng vo sắp đặt, Sa-môn Trí Khải trình bày. ---------------------------------- <詞>NIÊN PHỔ VÀ SỰ TÍCH VỀ ĐẠI THIỀN SƯ TRÍ GIẢ Năm Mậu Ngọ, niên hiệu Đại Đồng thư tư, đời vua thời Lương Vũ Đế, thiền sư một tuổi cha họ Trần, là khai quốc hầu kinh Châu, người ở Hoa Dung, mẹ là Từ Thị, mộng thấy mây thơm và nuốt chuột trắng mà mang thai. Lúc sinh ra sự ánh sáng thần diệu đầy nhà, mắt có hai con ngươi, đến năm bảy tuổi ưa thích hướng tới già-lam, Tăng dạy truyền miệng phẩm Phổ Môn một lần, văn cú còn lại của phẩm đó chưa nghe mà tự mình có thể thông suốt được, Cha mẹ sư không cho phép đến nhiều lần. Niên hiệu Thừa Thánh năm đầu đời vua Lương Nguyên Đế, mười lăm tuổi muốn xuất gia, cha mẹ không cho, thế là khắc cây đàn hương làm tượng lễ tụng một ngày, đang lúc lạy Phật, dường như mộng thấy núi đối diện biển lớn, Tăng ở phía trên vẫy tay. Niên hiệu Thiệu Thái năm đầu đời vua Lương Kính Đế, mười tám tuổi cha mẹ đều mất, kiên quyết chia tay người anh xuất gia, vẫn dựa vào tăng pháp tự chùa Quả Nguyện vùng Tưởng Châu làm thầy, páhp danh Trí Khải, tự là Đức An. Niên hiệu Vónh Định năm đầu thời Trần Cao Tổ, hai mươi tuổi thọ giới cụ túc, theo luật sư Tuệ Khoáng học thông luật tạng. Khi chưa thọ giới cụ túc, sư đi về phương Bắc, nương theo học Phương Đẳng. Niên hiệu Thiên Hi năm đầu đời vua Trần Văn Đế, hai mươi ba tuổi nương Thiền sư Tư ở núi Đại Tô vùng Quang Châu, sư nhận ra người cùng hội Linh Sơn, nêu ra đạo tràng Phổ Thiền, mười bốn ngày tụng kinh Pháp Hoa, vắng lặng đại ngộ. Niên hiệu Quang Đại năm đầu đời vua Trần Phế Đế, sư ba mươi tuổi, Sư từ giã thầy ra khỏai Kim Lăng, ở tại chùa Ngõa Cung tám năm, giảng về Đại luận, nói về Thứ Đệ Thiền Môn, cùng Pháp Hoa Huyền Nghóa. Niên hiệu Thái Kiến năm thứ bảy đời vua Trần Tuyên Đế, Sư ba mươi tám tuổi đến Thiên Thai, vua Tuyên đế sắc chỉ giữ lại mà không được, đầu tiên dừng lại Thạch Kiều, sau chuyển sang Phật Lũng. Năm sau ở Hoa đỉnh hàng phục ma quỷ. Niên hiệu Thái Kiến năm thứ chín, Sư bốn mươi tuổi, vua Tuyên Đế sắc chỉ ban tặng chùa Tu Thiền. Niên hiệu Thái Kiến năm thứ mười ba, sư bốn mươi bốn tuổi, giảng kinh Kim Quang Minh, dân chài làm nghề đánh cá bắt vật bỏ đơm lồng, chài lưới, lập thành hồ phóng sinh. Năm sau Vónh Dương Vương thỉnh cầu sư giảng giải. Niên hiệu Chí Đức năm thứ hai đời vua Trần Thiếu Đế, sư bốn mươi tám tuổi vâng theo chiếu chỉ ra ngoài, tại điện Thái Cực ở Kim Lăng khai bày Đại luận, giảng kinh Nhân Vương. Năm sau, Thái tử thọ giới, đến niên hiệu Trinh Minh năm đầu, sư năm mươi tuổi ở tại chùa Quang Trạch vùng Kim Lăng, giảng kinh Pháp Hoa. Chương An lúc đó hai mươi bảy tuổi, bắt đầu nghe văn kinh. Niên hiệu Khai Hoàng năm thứ chín đời Tùy, năm mươi hai tuổi, kinh châu của Trần mất, cảm ứng mộng thấy dừng lại ở Khuông Sơn. Năm sau Tùy đế sắc chỉ hỏi. Năm Sư năm mươi bốn tuổi, Tấn vương thỉnh cầu đến Dương Châu, tháng mười một truyền giới cho Tấn Vương, mới có hiệu là Trí Giả. Năm năm mươi lăm tuổi, sự hướng về hai châu kinh- Tưởng, tiếp tục đến Khuông Sơn qua mùa hạ xong, trước đến Đàm Châu. Năm năm mươi sáu tuổi đến kinh châu, đền đáp ân đức đất đai, xây dựng chùa Ngọc Tuyền ở Chương an, vâng lệnh soạn Huyền Nghóa. Năm năm mươi bảy tuổi, ở tại chùa Ngọc Tuyền giảng Ma-ha Chỉ quán. Năm năm mươi tám tuổi từ kinh Châu đến Kim Lăng, nhận Tấn Vương thỉnh cầu soạn thảo Tịnh Danh Sớ. Năm năm mươi chín tuổi vào mùa Xuân lại trở về Thiên Thai. Mùa Đông năm sau Tấn Vương phái đem thư cung kính mời về. Năm sáu mười tuổi đi đến theo lời mời đến trước tượng đá ở Tân Xương, ngồi nghiêm trang nhập diệt, lúc ấy là giờ Mùi ngày hai mươi bốn tháng mười một niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bảy. Từ khi nhập diệt đến năm Ất Tî, niên hiệu Thuần Hi năm thứ mười hai đời Tống, được năm trăm chín mươi hai năm. --------------------------------------- <詞>ĐỀ LỜI BẠT CỦA BÁCH LỤC. Trí Giả đạo lưu truyền ba quán, còn lại chăng sách vở của một tông phái, mà đức hạnh cảm hóa hai triều đại. Chương An ghi lại nhiều Bách Lục, xem xét đó và bắt đầu lập ra quy định pháp lý để nghiêm túc trong chúng, phần giữa đối chiếu thư sớ để làm cho có tác dụng đối với vua quan, sau cùng nói về phóng sinh để yên lòng loài côn trùng. Rõ ràng sáng suốt thay sự giáo hóa rộng lớn, tươi sáng như mặt trời và ngàn sao, đó gọi là làm rạng rỡ ngôi nhà cho thiên hạ. Chương An ghi tựa rằng: Để lại bày tỏ cho con cháu, biết còn đức độ nồng nàn nay làm cho vững chắc, rất đáng tin tưởng. Bản khắc tuy đã ấn hành, mà chưa trải qua khảo đính, nhờ đem bản cũ đối chứng còn sai lạc chẳng phải một chỗ, liền sửa chữa chứng thực, trước sau tất cả hơn mười chỗ, ngõ hầu lúc mở ra đọc xem không có ngăn lấp thiếu sót ý. Thấy lời đề này có thể phân biệt sai đúng. Sa-môn Tịnh Phạm truyền bá Thiên Thai Tổ giáo ở viện Vô Lượng Thọ thuộc Bắc thiền tại Tô Châu kính đề. Tổ của tôi là đại thiền sư Trí Giả, thật sự là người ở Linh Sơn tiếp tục đến. Đạo truyền bá ba quán ngộ từ một tâm, rộng lớn khuếch trương loài rồng mạnh mẽ, lập ra chánh tông, sâu xa giúp đỡ Pháp Hoa bí điển, giải thích phân định lấy năm thời tám giáo, quy tụ hướng về dùng ba quán mười thừa, dù cho biện giải tuyên dương không lập ra văn tự, Chương An kết tập lại bảo lưu cho duyên sau này, điều ấy giống như người tín hiểu chứng nhập, không biết căn cơ ấy trong ngàn muôn chúng, bản khắc các bộ phân bố ở tại các phương, chỉ riêng Quốc Thanh Bách Lục, bởi trước kia bị binh lửa đốt phá mãi cho đến nay, càng trải qua năm tháng dài lâu, vốn chưa thỏa thuận thành tựu trọn vẹn. Nay làm cho người thực hành là Đàm Sầm khắp nơi mong cầu đạo tục, không ngại gian khổ vất vã tâm thành thật không luống dối liền trọn vẹn một bộ, ngõ hầu mở rộng thấy nghe, lưu truyền nhiều đến mãi mãi, thì có thể biết Tổ tôi đạo to lớn, danh sâu xa, giáo hóa vua quan dấu vết từ đầu đến cuối giống nhau. Nhìn thấy tận mắt tức thì ra sức lễ lạy vô cùng cung kính, đọc xem từ đầu đến cuối rằng như vậy. Thảo ra ngày tốt đẹp năm Ất Tî, niên hiệu Thuần Hi năm thứ mười hai đời Tống, thời gian cao quý, Giới Ứng trụ tại núi Bạch Liên kính nghi. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 170