<經 id="n1929">TỨ GIÁO NGHÓA (QUYỂN 1 12) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TỨ GIÁO NGHÓA Thiền sư Trí Khải chùa Tu Thiền ở núi Thiên thai soạn <卷>QUYỂN 1 Cơ duyên chúng sinh khác nhau, cho nên giáo môn các thứ cũng khác nhau. Kinh nói: Từ đêm Đức Phật thành đạo cho đến đêm Đức Phật nhập Niết-bàn, pháp của Ngài nói ra đều chân thật không luống dối. Để tìm tòi yếu chỉ ấy phải có nguyên do đưa đến. Cho nên nói điều đó. Đạo dứt hai đường, mà chỗ rốt ráo là thường vui. Pháp chỉ có một vị, vắng lặng là quy về chân văn ở Lộc Dã Hạc Lâm, giáo của bảy chỗ tám hội há không có sự khác nhau về đốn tiệm, không nhất định có sự khác nhau về bí mật hay sao? Bởi vậy, các sư thời gần đây mỗi vị đều giải thích theo ý mình. Nay ý lập nghóa khác với khuôn phép trước. Cho nên nay lược soạn bốn giáo môn dùng chung. Nói chung tiệm đốn không nhất định dấu vết của bí mật. Nếu người đạt được yếu chỉ này thì tin quyền thật của Như Lai không ngại gì đạt đến sự sâu xa về dấu vết của con người, rất khó nghiên cứu. Huống chi tiệm đốn này không nhất định dấu vết của sự bí mật, hoàn toàn không dính mắc. Nay nói rõ nghóa này lược nêu ra bảy lớp. Thứ nhất giải thích tên gọi bốn giáo. Thứ hai nói về những điều được giải thích. Thứ ba nói về nhập lý của bốn môn. Thứ tư nói về xếp vào giai vị khác nhau. Thứ năm nói về quyền thật Thứ sáu nói về quán tâm. Thứ bảy nói chung các kinh luận. Thứ nhất giải thích tên gọi bốn giáo. Bốn giáo gồm: Tam Tạng giáo. Thông giáo. Biệt giáo. Viên giáo. Bốn điều này gọi chung là Giáo, vì nó nói về lý hóa vật làm nghóa. Bậc đại Thánh đối với bốn giáo này không thể nói dùng bốn tất-đàn. Phó duyên mà có bốn thuyết, nói làm rõ lý hóa chuyển tâm vật, nên nói là giáo hóa chuyển, có ba nghóa: Chuyển ác thành thiện. Chuyển mê thành ngộ. Chuyển phàm thành Thánh Cho nên giáo lấy làm rõ lý hóa vật làm nghóa, lược có năm ý: Chánh giải thích tên của bốn giáo. Xét định về bốn giáo. Dẫn chứng Xét lường Nói về kinh luận dùng giáo thông khác nhau bao nhiêu. Thứ nhất là chánh giải thích tên gọi bốn giáo, có bốn: Giải thích tên Tạng giáo. Giải thích tên Thông giáo. Giải thích tên Biệt giáo. Giải thích tên Viên giáo. Giải thích tên Tạng giáo: Giáo này nói về lý bốn Thánh đế, nhân duyên sinh diệt, chánh là dạy Tiểu thừa, phụ là dạy Bồ-tát. Nói về Ba tạng giáo là: Tạng Tu-Đa-La. Tạng Tỳ-Ni Tạng A-Tỳ-Đàm Tạng Tu-Đa-La: Ở đây có người nói phiên âm, có người nói không phiên âm. Nói có phiên âm, cũng có nhiều nhà phiên không giống nhau, nhưng phần nhiều dùng pháp bổn, là gốc của ngôn giáo về pháp lành xuất thế gian, cho nên nói là pháp bổn, tức là bốn kinh A-hàm. Tạng Tỳ-ni: Tỳ-ni dịch là diệt, Phật nói giới tác, vô tác có công năng diệt trừ sự xấu xa của thân miệng, cho nên nói là diệt, tức là luật Bát Thập Tụng. Tạng A-tỳ-Đàm: A-tỳ-Đàm: dịch là Vô tỷ pháp, là pháp nghóa phân biệt về trí tuệ của bậc Thánh, người thế gian không thể sánh được. Cho nên nói là Vô tỷ pháp. Nếu Phật tự phân biệt pháp nghóa, hoặc đệ tử Phật phân biệt pháp nghóa, đều gọi là A-tỳ-Đàm. Nhưng ba pháp này gọi chung là Tạng, Tạng lấy bao gồm tạng làm nghóa, nhưng người hiểu thì khác nhau có người nói: Văn có thể bao gồm lý nên gọi là Tạng. Có người nói lý có thể bao gồm văn nên gọi là Tạng. Nay nói tên của ba pháp đều là một câu, ba tên đều bao gồm tất cả văn và lý, nên gọi là Tạng, A-hàm chính là Định tạng. Bốn A-hàm phần nhiều nói về cách tu hành. Tỳ-ni tức là giới tạng, là nói nhân sự chế giới, ngăn dứt pháp ác về thân miệng. A-tỳ-đàm Tạng tức là tuệ Tạng, phân biệt pháp tuệ vô lậu, phân biệt pháp tuệ vô lậu không thể so sánh được. Ba tạng giáo này thuộc về Tiểu thừa. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: người học tham đắm vào Ba tạng Tiểu thừa. Hỏi rằng: Như thế đối với nghóa lý có thể như vậy, vì sao gọi là trái với thứ lớp của giải thích? Đáp: Lúc nói không phải là lúc thực hành, thứ lớp của giáo khởi lấy Bốn A-hàm làm đầu, mới tu hành lấy mộc-xoa làm đầu. Lại như tám Chánh đạo thì chánh kiến, chánh tư duy làm đầu. Kế là sáu pháp: Chánh ngữ, v…v…đều gọi là Chánh. Như cách của người đi đường, mắt phải nhìn đường trước sau mới bước chân. Cho nên luận Đại Trí Độ chép: Mắt chân đầy đủ, cho nên vào được ao nước mát mẻ. Hỏi: Đức Phật đối với Ba tạng Đại thừa là tối thắng trong Ba thừa, sao không lấy Đại thừa làm chánh, Tiểu thừa làm phụ? Đáp: Tại vườn Nai, trước Đức Phật xoay bánh xe pháp Bốn đế, năm anh em Kiều-trần-như thấy đế thành đạo, tám muôn vị trời đắc pháp nhãn thanh tịnh, chỉ có Tiểu thừa đắc đạo chưa giúp ích cho Đại thừa nên lấy Tiểu thừa làm chính. Luận Đại Trí Độ chép: Phật đối với kinh A-hàm tuy thọ ký riêng cho Di-lặc, cũng không nói các hạnh Bồ-tát, cho nên Đại thừa là phụ. Hỏi: Ngoại đạo cũng nói giới, định, tuệ vậy đối với định tuệ của Phật nói có gì khác nhau? Đáp: Ngoại đạo nói giới, định, tuệ chính là thầy thuốc xưa, như thầy thuốc xưa theo lối mê hoặc. Giới có hai loại một tà, hai chánh. Tà: Tức là giới gà, chó, v.v… Chánh: Tức là mười điều lành. Cựu định có hai: Tà Chánh Tà định: Tức là chín mươi sáu thứ ngoại đạo, kinh có nói về tà định của quỷ thần, hoặc có thể hiện tướng thần biến, biết được sự lành dữ ở đời. Chánh định: Tức là Bốn thiền, bốn Tâm vô lượng, bốn định vô sắc, dẫn đến phát sinh năm thần thông. Cựu tuệ có hai: 1. Tà tuệ. 2. Chánh tuệ Tà: Do thân kiến, biên kiến, mà phát khởi tà trí, bác bỏ nhân quả, ăn phân, khỏa hình v…v… Chánh: Do thân kiến, biên kiến mà phát khởi trí thế gian, nói có nhân quả tu các pháp lành. Nay Phật nói Ba tạng giáo là nói về giới, định, tuệ của thầy thuốc khách, chính là thầy thuốc mới từ nơi xa đến hiểu rõ tám thuật. Trước nói về bốn khô chánh thuật, tức là Ba tạng giáo môn nói về giới, định, tuệ. Giới: Tức có mười loại đắc giới, phát khởi tất cả luật nghi vô tác. Như thế năm bộ Tỳ-ni nói về các pháp lành về thân miệng. Định: Y theo tám trái xả, nhập chín định thứ lớp, Tam-muội sư tử phấn tấn siêu việt, nguyện trí đảnh thiền, sáu thông bốn biện, v… v… Tuệ: Tứ là bốn đế sinh diệt, phá thân kiến, biên kiến, sáu mươi hai kiến chấp, phát khởi chân vô lậu thành mười một trí, ba căn vô lậu. Giới định tuệ này ngoại đạo còn không nghe tên, huống chi là có chút phần. Thí như sữa lừa và sữa bò, mầu sắc tuy giống, nhưng sữa lừa lắng đọng thì thành phân hôi, còn sữa bò lắng đọng thì thành đề hồ. Giải thích tên Thông giáo: Thông là đồng, Ba thừa đồng thọ cho nên gọi là Thông. Giáo này nói về nhân duyên tức không, lý bốn chân đế vô sinh, là cửa đầu tiên của Ma-ha-diễn, chính là Bồ-tát phụ chung cả Nhị thừa cho nên kinh Đại Phẩm chép: Người muốn học Thanh văn thừa phải học Bát-nhã. Người muốn học Duyên giác thừa phải học Bát-nhã. Người muốn học Bồ-tát thừa thì phải học Bát-nhã. Ba thừa đồng thọ bẩm giáo này, thấy nghóa Đệ nhất, cho nên nói Thông giáo. Nói Thông giáo: Nghóa có nhiều nhưng lược ra có tám nghóa. Giáo thông. Lý thông Trí thông Đoạn thông Hành thông Vị thông Nhân thông Quả thông Giáo thông: Ba thừa đồng thọ lãnh nhân duyên, tức là giáo không. Lý thông: Đồng thấy lý nghiêng về chân. Trí thông: Đồng được khéo độ tất cả trí. Đoạn thông: trong (cõi) mê hoặc đồng dứt. Hành thông: Hành đồng với kiến, tự vô lậu. Vị thông: Tự vị Càn tuệ địa cho đến địa vị Bích-chi-phật đều đồng. Nhân thông: Chín vô ngại đều đồng. Quả thông: Chín giải thoát và hai quả Niết-bàn hữu dư, vô dư. Thông về nghóa có tám mà nay chỉ gọi Thông giáo, nếu không nhờ vào Thông giáo thì không biết được thông lý, cho đến đắc thành Thông quả. Cho nên các kinh Đại thừa phương đẳng và Bát-nhã có người đắc quả Nhị thừa là đồng lãnh thọ giáo này. Hỏi: Vì sao không gọi là cộng giáo. Đáp: Cọng là chỉ được câïn biên của Nhị thừa mà không được viễn biên. Nếu lập thông thì gọi Cận viễn đều tiện. Nói viễn tiện là thông biệt, thông viên. Giải thích tên gọi Biệt giáo: Biệt là không cùng giáo này, không nói với người Nhị thừa, nên gọi là Biệt giáo. Giáo này chỉ nói nhân duyên giả danh, vô lượng lý bốn Thánh Đế. Hàng Bồ-tát không liên quan đến Nhị thừa. Cho nên người Thanh văn ngồi nghe như câm như điếc. Kinh Pháp Hoa nói Ca-diếp lãnh thọ tự thuật. Xưa nghe đại phẩm Phương Đẳng thanh tịnh cõi nước Phật thành tựu chúng sinh, tâm không hỷ lạc, chính là nghóa này. Gọi là biệt, nghóa nó thuật rất nhiều nhưng lược rõ chỉ có tám loại: Giáo biệt Lý biệt Trí biệt Đoạn biệt Hành biệt Vị biệt Nhân biệt Quả biệt Nên gọi là Biệt giáo. Giáo biệt: Phật nói Hằng sa Phật pháp. Biệt: Bồ-tát không chung với Nhị thừa Lý biệt: Tàng thức có Hằng sa lý tục đế. Trí biệt: Đạo chủng trí. Đoạn biệt: Hằng sa cõi vô tri bên ngoài dứt kiến hoặc, tứ hoặc và vô minh Hành biệt: Tu tập trải qua vô số kiếp, thực hạnh các hạnh ba-la- mật tự hành rồi độ người. Vị biệt: Ba mươi tâm chiết phục vô minh là Hiền vị, người Thập địa phát chân, dứt trừ vô minh, đây là Thánh vị. Nhân biệt: Là nhân Kim Cương vô ngại. Quả biệt: Giải thoát, Niết-bàn, bốn đức khác với Nhị thừa. Biệt nghóa có tám loại, chỉ gọi là Biệt giáo. Nếu không nhờ vào Biệt giáo thì không biết biệt lý, cho đến đắc thành biệt quả. Hỏi: Vì sao không nói là bất côïng giáo mà gọi là Biệt giáo? Đáp: Trí luận nói không cùng với Bát-nhã tức là không nói cùng với người Nhị thừa. Như kinh Bất Tư Nghị chép: Nay nói về Biệt giáo như nói Đại phẩm Phương đẳng. Nhị thừa cùng nghe mà Biệt giáo với Bồ-tát, cho nên dùng Từ biệt, kiêm muốn lược bỏ không có Viên giáo, Biệt khác với Thông nên gọi là chưa Viên. Giải thích tên gọi Viên giáo: Viên nghóa là không nghiêng lệch. Giáo này nói về nhân duyên không thể nghì bàn Nhị thừa trung đạo sự lý đầy đủ, không nghiêng lệch, không riêng biệt, chỉ giáo hóa người lợi căn tối thượng, nên gọi là Viên giáo. Kinh Hoa Nghiêm chép: Hiển hiện thần lực tự tại là nói kinh viên mãn, vô lượng các chúng sinh đều thọ ký Bồ-đề. Kinh Duy-ma nói: Tất cả chúng sinh tức là đại Niết-bàn, không còn diệt nữa. Phẩm Cụ Túc trong kinh Đại Phẩm chép: Các pháp tuy không, một tâm đầy đủ muôn hạnh. Kinh Pháp Hoa chép: Chắp tay với tâm cung kính muốn nghe nói đầy đủ. Kinh Niết-bàn chép: Kim Cương Bảo Tạng không có điều gì giảm thiếu, nên gọi là Viên giáo. Gọi là Viên: Ý nghóa rất nhiều, lược nêu có tám loại: Giáo viên Lý viên Trí viên Đoạn viên Hạnh viên Vị viên Đại viên Quả viên - Giáo viên là chánh nói Trung đạo, nên nói giác không nghiêng lệch. lệch. Lý viên: Là Trung đạo tức là lý của tất cả các pháp không nghiêng Trí viên: Là nhất thiết chủng trí viên. Đoạn viên: Không dứt mà dứt vô minh, hoặc. Hạnh viên: Một hạnh tức là tất cả nhân viên tròn của Đại thừa, quả tròn đầy của Niết-bàn chính là nhân quả đầy đủ không thiếu, thực hành một hạnh tức là tất cả hạnh. Vị viên: một địa đầy đủ công đức các địa. Nhân viên: Chiếu soi hai đế tự nhiên lưu nhập. Quả viên: Là diệu giác không thể nghó bàn, quả của ba đức không ngang không dọc. Nghóa của viên có tám thứ chỉ gọi là Viên giáo. Nếu không nhờ Viên giáo thì không biết được lý của viên cho đến đắc thành quả viên. Hỏi: lý của giáo nếu viên sao lại có sự khác nhau về hạnh vị nhân quả? Đáp: Chỉ y theo giáo lý viên cho nên sự khác nhau về trí đoạn hạnh vị nhân quả. Như pháp thế gian nói về gốc tài năng. Người tu học đắc quả có thứ lớp khác nhau, trước tu kém hơn lúc sau, gốc ngọn có khác. Thứ hai: Xét định nói về bốn giáo này thông, mà lại nói trong một giáo có cả bốn giáo. Tuy có bốn giáo nhưng xét định về ba nghóa thật của nó không thành, cho nên đều từ một nghóa để được tên gọi giáo, tức có bốn ý: Xét định Ba tạng giáo. Xét định Thông giáo. Xét định Biệt giáo. Xét định Viên giáo. Xét định Ba tạng giáo. Hỏi: Như trong Ba tạng giáo nói vô thường, ba thừa đồng bẩm thọ nhập đạo tức là Thông giáo. Biệt là Bồ-tát nói sáu Độ hoằng thệ, đây chính là Biệt giáo. Nếu là nói nhất thiết chủng trí để cầu quả Phật thì há chẳng phải Viên giáo hay sao? Đáp: Nay xét định về nghóa của ba giáo này. Nếu nói thuyết vô thường chung Ba thừa giáo là Thông giáo, người Nhị thừa nghe vô thường phát chân dứt kết sử, ngay trong một đời liền nhập Niết-bàn, có thể lãnh thọ giáo pháp, thấy lý vô thường. Bồ-tát tuy bẩm thọ giáo lý vô thường, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp không phát chân, dứt kết sử, cũng đâu thấy được lý vô thường. Nên biết, lý vô thường không thành nghóa của Thông giáo. Tuy nói nghóa nguyện hạnh hóa vật Biệt giáo không thành, vốn nói về Biệt giáo, nói về biệt lý dứt biệt hoặc. Ban đầu, Ba tạng giáo nói về hạnh nguyện. Nếu y cứ Tứ đế sinh diệt mà khởi, thấy tứ đế sinh diệt không bằng người Nhị thừa, há là Biệt giáo? Lại chủng trí này chỉ soi rõ hai đế mà không soi rõ Trung đạo, há là Viên? Bởi vậy tuy có xét nghóa về ba giáo không thành, chỉ gọi là Ba tạng giáo. Xét định về Thông giáo: Hỏi: Thông giáo nói về giới, định, tuệ, há chẳng phải là Ba tạng giáo? Nói Đạo chủng trí, há chẳng phải Biệt giáo nói nhất thiết chủng trí, há chẳng phải là Viên giáo? Đáp: Tuy có ba giáo này nhưng nghóa không thành, cho nên như vậy, Thông giáo nói nhất tướng vô tướng vô sinh giới, định, tuệ, không đồng tướng khác nhau về Ba tạng giới, định, tuệ. Lại nữa, vừa được không mất từ nơi thù thắng mà được tên, cho nên không nói tên Ba tạng, được tên Thông giáo. Tuy nói đạo chủng trí chỉ là trong cõi tục đế không phải là nói đạo chủng trí của thọ Như Lai tạng thọ, cho nên nghóa Biệt giáo không thành. Tuy lại nói nhất thiết chủng trí chỉ là chiếu soi trong cõi Nhị đế. Nói về nhất thiết trí không phải chiếu soi nhất thiết trí về nhị đế không thể nghì bàn của Trung đạo, cho nên nghóa Viên giáo không thành. Bởi vậy nghóa ba giáo không thành chỉ gọi là Thông giáo. Xét định về Biệt giáo: Hỏi: Biệt giáo cũng nói về giới, định, tuệ, vì sao không nói là Ba tạng giáo, cũng nói có lý Vô sinh, vì sao không gọi là Thông giáo, cũng nói là nhất thiết chủng trí chung đạo, vì sao không gọi là thông giáo. Tuy nói Trung đạo nhất thiết chủng trí mà sao không gọi là Viên giáo? Đáp: Biệt giáo là nói Hằng sa Phật pháp, vô lượng giới định tuệ, khác với giới định tuệ trước cho nên không phải là Ba tạng. Tuy nói lý không nhưng không thể chứng được cái không, chẳng phải là không, không đồng kiến với Nhị thừa, cho nên không phải Thông giáo. Tuy nói Trung đạo nhất thiết chủng trí mà không phải Sơ trụ phát tâm tức đủ nhất thiết chủng trí cho nên không phải viên. Cho nên ba nghóa không thành chỉ gọi là Biệt giáo. Xét định Viên giáo: Hỏi: Viên giáo cũng có giới định tuệ, vì sao không gọi là Ba tạng, nó cũng có lý chân không, vì sao chẳng phải thông, nó cũng có pháp môn trải qua từng giai cấp riêng, vì sao mà không phải Biệt? Đáp: Viên giáo nói về giới định tuệ, điều y cứ vào chân như thật tướng, Phật tánh Niết-bàn mà biện. Há đồng Tam Tạng nghiêng về giới định tuệ ư? Phật tánh chân không, lý ấy bình đẳng, người Thanh văn và Bích- chi-Phật không thể biết được huống chi đắc nhập, cho nên không phải Thông. Các thứ pháp môn giai cấp hạnh vị chẳng phải không tương ưng với thật tướng, nhiếp tất cả pháp. Từ một địa đầu không đầy đủ tất cả các địa, cho nên không phải biệt. Ba nghóa không thành chỉ gọi là Viên giáo. Thế thì bốn tên của bốn giáo tuy chung nhau mà nghiên cứu cùng tột về thật lý thì ngay nơi giáo mà đặt tên không thể lẫn lộn. Nếu Viên giáo nhiếp cả ba chính là nhiều đầy tớ theo mà hầu hạ. Dẫn chứng: Hễ muốn bày thông về việc Phật pháp thì văn kinh luận phải rõ. Nhưng huyền chỉ của Phật giáo mênh mông khó tìm, nếu không lập danh biện nghóa thì làm sao biết được chỉ thú. Nay nói về nghóa này, lược làm ba ý: Nói rõ không có văn đặt tên làm nghóa để thông kinh giáo. Dẫn chứng riêng kinh luận. Dẫn chứng chung kinh luận. Không văn đặt tên làm nghóa để thông kinh giáo. Hỏi: Lập bốn giáo làm nghóa nếu không có văn kinh luận rõ ràng thì đâu thể thừa dụng? Đáp: Các sư giảng nói xưa nay không nhất định, đều có văn kinh luận rõ ràng. Như Khai Thiện Quang Trạch Ngũ Thời Minh Nghóa, Trang Nghiêm bốn thời phán giáo, Địa luận bốn Tông, sáu Tông, Nhiếp Sơn Đơn Phức Trung Giả, Hưng Hoàng Tứ Giả đều không có nói rõ văn, đều tùy theo căn cơ chúng sinh mà lập để giúp cho việc mở mang Phật hóa. khắp. Người có duyên chẳng thể không học, tin hiểu giảng nói rộng Hỏi: Ý sao không nương vào bán mãn, năm vị cay nồng xuất xứ từ văn kinh luận? Đáp: Phật giáo có đốn tiệm mà không định bán, mãn, năm vị, đều y cứ một bên, đâu được giải thích chung về các giáo này. Nhưng để cho nghóa phù hợp với kinh luận, không có văn làm sao đủ để đưa đến đều nghi. Luận Đại Trí Độ chép: Pháp thí là nương vào kinh pháp để làm rộng nghóa lý, đặt tên gọi đều gọi là Pháp thí. Nay các nhà giải thích Phật pháp khắp nơi điều y cứ vào tên mà lập nghóa, theo nghóa để đặt tên, hoặc có văn làm chứng, hoặc không có văn làm chứng nếu có văn làm chứng thì không nên nghi ngờ. Không có văn làm chứng cũng cần phải đắc ý. Thí như Thần Nông, Biển Thước, Hoa Đà đều là bậc Thánh hiền thời xưa đã chế tạo ra thuốc để trị bệnh, tuyển tập các kinh phương. Bấy giờ, việc trị liệu được hiệu nghiệm, người đời nay y theo dùng chưa hẳn đều lành. Mà các thầy thuốc phàm tục thời sau tuy y cứ theo phương cách xưa tự ý thêm bớt, tùy bệnh cho thuốc ít có người không sai lầm. Nếu hiểu sâu về dụ này thì thông hiểu kinh để nói pháp, cảm thấy thời sự thích hợp mà lập nghóa, đặt tên cũng có lỗi gì. Nay giải thích bộ kinh này lần lượt lập nghóa đặt tên. Đây không phải một điều, nếu không thể hội ý này làm sao chỉ gọi Tứ giáo mà sinh nghi. Kinh luận chính là hướng về cơ duyên của con người. Thời mạt pháp việc học hỏi chấp vào cái thấy biết ngàn mối, hành đạo chướng ngại chẳng phải một. Đâu thể ôm gốc cây đợi thơ, nhất định để lại sự trách móc. Lại Phật giáo vô cùng, Hằng sa không thuộc về thí dụ. Từ phương đông chảy vào, vạn đều không có một đạt, trí nhân quân tử ít người hiểu điều đó. Dẫn chứng riêng về bốn giáo của kinh luận: Trước giải thích tên đã đủ văn dẫn chứng, nay lại lược nêu như Giới Tâm chép: Phải học Tu-Đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm. Khi Phật còn tại thế há không có Ba tạng giáo? Cho nên luận Thành Thật chép: Nay Ta muốn nói về thật nghóa trong Ba tạng, kế dẫn chứng Thông giáo. Kinh này, ngài Tịnh Danh giải thích cho ngài Ca-Chiên-diên nói có năm nghóa, hai trăm năm mươi Tỳ-kheo tâm được giải thoát, Phẩm Tam tuệ trong kinh Đại Phẩm nói về trí Tát-bà-nhã, ba thừa đều chứng đắc. Trung luận chép: Thật tướng các pháp, ba người cùng chứng nhập. Kế là dẫn chứng Biệt giáo: kinh này nói vì không có chỗ thọ mà thọ các thọ, chưa đầy đủ Phật pháp, cũng không nên diệt tâm mà thủ chứng. Kinh Vô Lượng Nghóa chép: Ma-ha Bát-nhã, Hoa Nghiêm hải không, giảng nói Bồ-tát trải qua nhiều kiếp tu hành chính là văn Biệt giáo. Kinh Niết-bàn nói năm hạnh chính là ý của Biệt giáo. Luận Đại Trí Độ chép: Kết sử có hai loại: 1/ Cộng Nhị thừa đoạn. 2/ Bất cộng Nhị thừa đoạn. Bất công Bát-nhã dứt trừ Biệt hoặc. Kế là dẫn chứng Viên giáo. Kinh Hoa Nghiêm chép: Vì thuyết Tu-Đa-la viên mãn. Kinh này chép: chư Phật giải thoát phải tìm cầu trong tâm hành của chúng sinh. Kinh Đại Phẩm chép: Muốn dùng Nhất thiết chủng trí để biết tất cả pháp phải học Bát-nhã. Kinh Hoa Nghiêm chép: Đa Bảo Như Lai khen ngợi “Hay lắm!” Phật Thích-ca Mâu-ni có thể nói pháp Bồ-tát giáo đại tuệ bình đẳng cho chúng sinh, những lời nói ra điều chân thật. Kinh Niết-bàn chép: Lại có một hạnh là hạnh Như Lai, gọi là đại bát Niết-bàn Đại thừa. Luận Trí Độ chép: Ba trí thật ra đắc trong một tâm, như thế tìm tòi thảo luận kinh luận của Đại thừa văn nghóa bốn giáo khắp nơi đều có. Dẫn chứng chung về kinh luận: Nay bày rõ kinh luận Đại thừa phụ để đặt ra danh nghóa của bốn giáo. Như kinh Niết-bàn chép: Nói rõ bốn giáo không thật, có nhân duyên cũng có thể nói, nói về bốn loại để chuyển hóa duyên trước tức là ý của bốn giáo. Lại kinh Niết-bàn chép: bốn lần xoay bánh xe pháp tứ đế tức là ý của bốn giáo. Lại, kinh Pháp Hoa nói ba loại cỏ, hai loại cây thấm nhuần khác nhau thí dụ phương tiện nói tức là ba giáo một chỗ đất sinh ra một trận mưa thấm nhuần, thí dụ nói rất thật sự tức là Viên giáo. Trung luận phá các dị chấp đã xong lại nói bốn câu nhân duyên chung cho bốn thuyết, tức là ý của bốn giáo. Như thế pháp bốn thuyết này tùy cơ hóa vật, tức là nghóa của bốn giáo. Bốn thuyết là tên khác của Bốn giáo. Suy lường. Hỏi: kinh Pháp Hoa nói Đức Phật nói pháp bình đẳng như một trận mưa, đâu hề có sự khác nhau về bốn giáo? Đáp: Khắp nơi đều dẫn bốn không thể nói vì có nhân duyên cũng có thể nói, còn không hề nhất định có một thuyết, đâu từng nhất định có bốn giáo ư. Kinh này nói: Phật dùng một âm để nói pháp chúng sinh tùy loại đều được hiểu tùy loài hiểu khác nhau là tướng của bốn giáo khác nhau, lại các kinh nói nghóa khác nhau, tự nói có dị giải dị thuyết, một giải một thuyết, dị giải một thuyết một giải dị thuyết, vô thuyết vô giải. Kinh này chép: Người nói pháp chẳng nói không khai thị. Người nghe pháp, không nghe không đắc, nếu đạt được ý này thì điểm bốn giáo nhất định không lập, thì nghi chỗ nào? Hỏi: Bốn giáo từ đâu sinh khởi? Đáp: Nay nói Bốn giáo. Lại trước đã nói từ Ba quán mà sinh khởi. Trở thành ba quán trước quán từ Giả vào Không, có hai loại Tánh thể vụng về khéo léo khác nhau. Từ phân tách Giả để vào Không cho nên có Tạng giáo khởi. Từ thể Giả để vào Không cho nên có Thông giáo khởi. Y theo cái thứ hai từ Không vào Giả thì có Biệt giáo khởi, y cứ vào nhất tâm trung đạo chánh quán thứ ba thì có viên giáo khởi. Hỏi: Ba quán từ đâu mà khởi? Đáp: Ba quán từ bốn giáo mà khởi. Hỏi: Quán giáo từ đâu khởi? Đáp: Quán giáo từ nhân duyên sinh ra bốn câu mà khởi. Hỏi: Nhân duyên sinh ra bốn câu do đâu mà khởi? Đáp: Nhân duyên sinh ra bốn câu tức là tâm, tâm tức là giải thoát không thể nghó bàn của chư Phật rốt ráo không thật có, tức là không thể nói cho nên ngài Tịnh Danh im lặng không nói. Vì có nhân duyên nên cũng có thể nói, tức là dùng bốn tất-đàn nói bốn câu nhân duyên sinh ra do tâm, hướng về bốn loại căn tánh mười pháp nhân duyên mà thành chúng sinh mà nói. Bốn thứ căn tánh gồm: Hạ căn. Trung căn. Thượng căn. Thượng Thượng căn. Vì hướng về bốn thứ căn tánh này cho nên do giáo quán vô ngại này mà khởi, lợi ích khắp chúng sinh được thành lợi ích hai hạnh tín pháp. Đây chính là như bậc Thánh nói pháp, như có ý nghóa im lặng của bậc Thánh. Hỏi: Kinh Đại Niết-bàn chép: Căn có ba loại: 1. Hạ căn, 2.Trung căn, 3. Thượng căn. Vì người trung căn mà xoay bánh xe pháp ở Ba-la-nại, vì hạng người Thượng Căn mà xoay bánh xe đại pháp ở thành Câu-thi-na. Nếu là hạng người hạ căn Như Lai hoàn toàn không xoay bánh xe Pháp. Nay vì sao nói có bốn thứ căn tánh, vì hạng người hạ căn mà nói Ba tạng giáo ư? Đáp: Giáo môn của chư Phật tùy duyên không nhất định. Hoặc nói một căn, hoặc nói hai căn, hoặc nói ba căn, hoặc nói bốn căn, hoặc nói cho hạng hạ căn, hoặc nói cho hạng không phải hạ căn. Nói cho hạng người hạ căn: Như kinh Pháp Hoa nói cỏ cây đều thấm nhuần, đều được lớn lên. Nói không cho hạng hạ căn: Như dẫn văn kinh Niết-bàn. Hỏi: Kinh Đề-vị nói năm giới giải thích về điều lành của trời, người, vì sao không khai thành năm giáo nghóa? Đáp: Dạy về người, trời đã nói rõ ở phần Thầy thuốc cũ. Đạo thường của thế gian không lìa sinh tử, Đấng Pháp Vương ra đời muốn hoá độ chúng sinh cho ra khỏi nhà lửa. Vì thế ba lần xoay bánh xe pháp ở vườn Nai, người trời đắc đạo cho đây là thật, nên có Ba tạng giáo, các kinh Đại thừa như: Đại Phẩm, Pháp Hoa, Niết-bàn đều nói xoay bánh xe pháp bốn đế ở Ba-la-nại. Luận Đại Trí Độ chép: Nói rõ kết tập Ba tạng giáo cũng từ vườn Nai mà khởi không chọn kinh Đề-vị làm đầu. Hỏi: Nếu không khai mở về điều lành của trời, người thì kinh Pháp Hoa đâu được nói cây cỏ đều thấm nhuần? Đáp: Ba tạng giáo nói về bố thí, trì giới, thiền định của thế gian, tức là giáo của trời người, đều ngay nơi nhân duyên mà sinh ra pháp lành. Đây đều thuộc về Ba tạng giáo, cho nên không cần năm giới. Hỏi: Nghóa của bốn giáo và nghóa của bốn tông về người trong Địa luận có đồng nhau không ? Đáp: Nếu người hỏi rằng: Bốn đế chính là bốn đại thì không trái với lời hỏi này. Nay không y vào bốn tông để lập bốn giáo. Ý của nó chỉ có nhiều cách, chỉ lược nêu ba: Bốn Tông nói nghóa ngôn giống như ngưng trệ. Tìm tòi nghiên cứu kỹ, đặt tên làm nghóa dường như bất tiện. Bốn Tông tuy nói một nhà giàu có thường mong nhiếp y Phật pháp vẫn còn có chỗ thiếu. Bốn Tông nói về nghóa ngôn, giống như ngưng trệ: Kia y cứ vào vào bốn không thể nói, dùng bốn tất-đàn để duyên, mà nói thì thành ngưng trệ. Tìm tòi nghiên cứu kỹ, đặt tên làm nghóa dường như bất tiện: Bốn Tông kia Tỳ-đàm thấy có đắc đạo, có thể lấy nhân duyên làm tông. Giả là thế đế đâu được làm tông. Thành luận thấy không đắc đạo, sao không lấy cái không làm tông, lại luận Trí Độ nói về Ba tạng giáo, có ba môn vào đạo. Môn hữu Môn không Môn giả danh Lại, Trí Độ luận Đàn Phương Quảng Nghóa chép: Dùng mười dụ nói thẳng tất cả pháp vô sinh vô diệt, mất đi ý của Bát-nhã đâu được dùng mộng ảo làm Chân tông? Nay nói: Không phải Chân tông chính là Thông giáo, Chân tông chính là Thông tông. Tông thì chung cả chân và không chân, không chân vì sao lại không dùng tông mà dùng giáo. Chân tông vì sao không dùng giáo mà lập tông, nếu tông không có giáo thì làm sao biết được chân, chân tông nếu mất tông, có giáo thì cùng gọi là Thông giáo. Nếu cả hai mất giáo, lưu lại ở Tông thì đồng gọi là Thông tông. Nếu đều lập giáo thì đồng gọi là Thông Tông giáo, nếu lưu lại ở chân, không chân thì gọi là Thông không chân tông, giáo thông chân tông hay giáo thông không chân tông. Cũng có thể là ba thừa thông tu thông chân tông cũng hợp với tu chung của ba thừa. Nếu nói thông này là thông về dung thông, giáo cũng là thông của thông chân. Điều này thì cả hai tên lẫn lộn đồng nhau, nghóa thì không khác. Đáp: kinh Lăng-già chép: Thuyết thông dạy trẻ nhỏ, Tông thông dạy Bồ-tát , cho nên lấy chân làm Thông tông. Lại nói rằng: Nếu như thế thì nhân duyên giả danh trước đã nói không chân, đều là dạy trẻ nhỏ không cần phải đặt tên tông. Lại quyết định ý cho là lập danh nghóa của bốn tông thật không tiện, nay nói bốn giáo Đức Phật từ lúc đắc đạo đến khi Niết-bàn, hiển bày tất cả pháp môn đều là ngôn giáo. Thiết lập khéo léo, cứu giúp danh nghóa của bốn tông để được thành lập. Nếu cho xưa nay tuy là một nhà giàu có đến mong nhiếp ý Phật pháp như có điều thiếu sót lớn. Nay tìm tòi các kinh luận để lập nghóa bốn giáo. Một giáo đều có bốn môn, bốn môn hợp lại có mười sáu môn. Hai tông nhân duyên giả danh kia giống với ở đây đã nói rõ Ba tạng giáo. Hai môn: Hữu môn, và không môn xen nhau giống như thiếu môn Côn-lặc và hai môn Phi hữu phi không. Không chân tông kia nói các pháp như huyễn như hóa, giống với Thông giáo, hữu môn xen nhau. Ngoài ba môn kia không nói, chân tông kia giống như xen lẫn với biệt giáo hữu môn. Ngoài ba môn kia không nói. Đây là bốn Tông nói rõ nghóa, chỉ được xen với ba giáo, bốn môn. Bốn môn Viên giáo này trong đó nói không rõ. Bốn giáo như có mười hai môn làm rõ ý nghóa mà bốn Tông kia không rõ. Lại Pháp sư Hộ Thân dùng năm Tông làm rõ nghóa. Bốn tông kia như trước lập ra Tông pháp giới, dường như xen với hữu môn Viên giáo này, bốn giáo như có mười một môn kia nói không rõ. Pháp sư Kỳ Xà dùng sáu tông làm rõ nghóa ba tông, dường như xen với ba môn này, phân biệt như trên. Chân tông kia dường như xen với Thông giáo không môn. Thường Tông kia dường như này xen với biệt giáo hữu môn. Viên Tông kia dường như xen với viên giáo hữu môn này. Tứ giáo còn có mười môn, có cái sáu tông kia nói không rõ nên biết bốn tông, năm tông, sáu tông, tuy nói xưa nay nói về nghóa giàu có, nay một nhà trông mong nhiếp ý Phật pháp, dường như rất thiếu sót, cho nên trước đã nói rõ bốn tất-đàn kể một nhà nói pháp thông kinh, khác với sự vận dụng mà nói của xưa nay. Cho nên trước nói ba quán để phá các pháp, lược làm mấy mươi lần, để người tìm xem biết có khác với các Thiền Sư và ý của ba luận Sư thuyết. Nay nói bốn giáo, một giáo đều có bốn môn, bốn giáo thì có mười sáu môn, lại khai ra bốn giáo môn của Ba tạng, như năm trăm vị A-la-hán đều nói về nhân của tấm thân, tức là năm trăm môn cho nên kinh nói Nê-hoàn chính là Pháp tạng, chúng sinh từ vô số môn mà vào đạo. Nhưng bốn môn của Ba tạng giáo lại khai mở vô lượng môn để nhập đạo, huống chi là Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo mỗi giáo đều có bốn môn mà không được một môn khai ra vô lượng môn, cho nên kinh Hoa Nghiêm nói Đồng tử Thiện Tài yết kiến bốn mươi hai vị thiện tri thức, vị nào cũng nói ta chỉ biết một pháp môn này. Như thế gặp một trăm hai mươi vị thiện trí thức, cho đến vô lượng thiện tri thức, vị nào cũng nói ta chỉ biết được một pháp môn này, cho nên pháp môn của Đại thừa nhiều vô lượng vô biên. Trải qua ba mươi hai Bồ-tát, các ngài đều nói vào pháp môn không hai. Cho đến tám ngàn Bồ-tát đều nói nhập vào pháp môn không hai, cho nên kinh Pháp Hoa chép: Dùng vô số pháp môn để khai thị Phật đạo. Pháp Tạng như thế thật không thể nói, dùng bốn tất-đàn mà khởi giáo môn, làm cho tất cả chúng sinh nhờ giáo môn của Phật mà ra khỏi ba cõi khổ, nếu lưu tâm vào ý này, so sánh chọn lựa bốn Tông, năm tông, tự biết khác nhau. Thứ năm, nói về kinh luận dùng bốn giáo khác nhau bao nhiêu. Nếu Hoa Nghiêm, Đốn giáo thì dùng hai giáo Biệt giáo và Viên giáo. Nếu sự bắt đầu của Tiệm giáo, kinh Tiểu thừa chỉ dùng Ba tạng giáo. Nếu Đại thừa Phương Đẳng thì có đủ bốn giáo. Nếu Ma-ha Bát-nhã thì dùng ba giáo: Thông giáo, biệt giáo, và Viên giáo. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chỉ dùng Viên giáo, kinh Đại bát Niết-bàn gọi là Pháp giới chư Phật, bốn giáo đều nhập Niết-bàn tánh Phật. Các kinh luận dùng giáo bao nhiêu loại nghóa có thể hiểu. Hỏi: Bốn giáo chung khắp các kinh, vì sao lại nghiêng về văn kinh này trước đã bàn rộng? Đáp: Tất cả các kinh, tiệm đốn chưa hẳn nói về bốn giáo. Chỉ có phương Đẳng, Đại Tập và kinh này có đầy đủ văn của bốn giáo, cho nên y cứ về ý của kinh này nói lược bốn giáo nghóa. Chỉ sai người đời mạt pháp hoằng pháp tìm nghóa của các kinh dùng chung một luận cho dù hàng hậu sinh đều cho là luận giàu kinh nghèo, khinh kinh, trọng luận. Nay tìm tòi các kinh luận đặt lên bốn giáo nghóa để chung các kinh Đại Tiểu thừa. Ý muốn các bậc hiền đời sau kính trọng lời Phật, bỏ đi những cành lá rườm rà. Nếu chuyên tâm vào Đại thừa Phương đẳng, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép đúng như lời mà tu hành thì chẳng những không luống công mà còn khế hợp yếu chỉ của lý.  TỨ GIÁO NGHÓA <卷>QUYỂN 2 Nói về điều được giải thích. Giáo là năng thuyên, lý lá sở thuyên, cho nên nhờ lý để lập giáo, nhờ giáo mà hiển lý, ngay nơi lý chẳng phải giáo, ngay nơi giáo chẳng phải lý, lìa lý thì không có giáo, lìa giáo không có lý, cho nên kinh Tư ích nói: Trong Bồ-đề không có văn tự, trong văn tự cũng không có Bồ- đề. Lìa Bồ-đề thì không có văn tự, lìa văn tự không có Bồ-đề vì Bồ-đề không có văn tự cho nên theo lý để thi hành giáo. Ví văn tự không có Bồ-đề nên ngay nơi giáo có thể hiển rõ lý. Thế thì giáo là năng thuyên, lý là sở thuyên, ý ở ngay đây nói về lý: Tức là đế. Nay y cứ vào đế để nói về lý, lý có thể khởi giáo, giáo có thể làm rõ lý. Giáo là năng thuyên, lý là sở thuyên. Nay nói về sở thuyên lược nêu có bốn ý: Y theo lý tứ đế để nói về sở thuyên Y theo lý tam đế để nói về sở thuyên Y theo lý nhị đế để nói về sở thuyên Y theo lý nhất đế để nói về sở thuyên Y theo lý tứ đế để nói về sở thuyên: Chia làm ba ý: Nói về lý tứ đế sở thuyên. Nói về giáo năng thuyên. Nói về kinh luận. 1. Nói về lý Tứ đế sở thuyên: Có bốn loại tứ đế: Tứ đế sinh diệt Tứ đế vô sinh Tứ đế vô lượng Tứ đế vô tác. Hỏi: Trích ra bốn loại tứ đế này từ kinh luận nào. Đáp: Nếu luận bàn thú duyên các kinh luận thì chỗ nào cũng có văn nghóa này. Nhưng không gôm ở một chỗ. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: tuệ Thánh hạnh, dục là năm vị thí dụ cho gốc, vì thế phân biệt lần lượt, nói rõ bốn loại Tứ đế này. Kinh Thắng-man cũng có văn về bốn loại Tứ đế, gọi là tứ đế hữu tác, tứ đế hữu lượng, tứ đế vô tác, tứ đế vô lượng. Nhưng kinh Niết-bàn, Thắng- man nói tứ đế vô lượng, nghóa thì khác nhau mà ý không khác mấy. Hỏi: Trước nói tứ đế sinh diệt là nghóa của Ba tạng giáo bán tự, việc này có thể như vậy. Kế nói về vô lượng, vô tác thì làm sao phân biệt? Đáp: Nếu làm rõ nghóa Mãn Tự thì ba loại tứ đế đồng là đầy đủ giáo, không cần phân biệt. Nếu nói năm vị thì nghóa ba loại Tứ đế khác nhau. Tứ đế vô sinh này tuy Đại thừa những chung cả Nhị thừa. Tứ đế vô lượng chỉ là con đường thực hành của Bồ-tát. Tứ đế vô tác chính là cảnh giới của Phật, ở đây khác trước nói về lý của tứ đế sinh diệt, nói về sở thuyên tức là nhân duyên sinh diệt. Kế nói về lý của đế, cho nên kinh Pháp Hoa chép: Xưa, Đức Phật xoay bánh xe pháp bốn đế ở Ba-la-nại, phân biệt nói các pháp cho năm chúng. Sinh diệt tức là khởi tác, cho nên kinh Thắng-man nói về tứ đế Hữu Tác. Nói về tứ đế gồm có: 1) Khổ đế. 2) Tập đế. 3) Diệt đế. 4) Đạo đế Nói khổ: Nghóa là bức bách, ba tướng vô thường ép ngặt sắc tâm. Nên gọi là khổ, chân thật không luống dối gọi là Đế. Tập: Là nghóa gom nhóm, phiền não nhóm hợp, có thể vời lấy quả khổ sinh tử. Nên gọi là Tập, vì nó chân thật không luống dối nên gọi là Đế. Diệt: Nghóa là không còn, không còn hai ràng buộc quả và hạt giống nên gọi là Diệt, nó là một chân lý không luống dối nên gọi là Đế. Đạo: Nghóa là thông, giới định tuệ có thể thông đến Niết-bàn nên gọi là Đạo. Nói là một chân lý không luống dối nên gọi là Đế. Đây là Tứ đế sinh diệt. Kinh Niết-bàn chép: Thanh văn có khổ, có khổ đế, có tập, có tập đế, có diệt, có diệt đế, có đạo, có đạo đế. Hỏi: Diệt đạo, bậc Thánh hành nhân đắc quả có thể nói là chân thật. Khổ tập luống dối vì sao gọi là chân thật? Đáp: Nhân quả luống dối của phàm phu, luống dối không gì là luống dối. Cho nên nhân quả hữu lậu, vô lậu đều chân thật không thể lẫn lộn, cho nên kinh Di Giáo chép: Mặt trời có thể lạnh đi, Mặt trăng có thể nóng lên nhưng Bốn đế, lời Phật nói không bao giờ thay đổi, đây là nghóa tứ đế sinh diệt, đầy đủ như số người Thành luận phân biệt, nay không nói đủ. Nói về tứ đế vô sinh: Kinh Tư Ích chép: Biết khổ vô sinh gọi là Khổ Thánh đế, biết tập không có tướng hòa hợp gọi là Tập Thánh đế, dùng quán tướng không hai gọi là Đạo Thánh đế, Pháp xưa không sinh, nay cũng không diệt, gọi là Diệt Thánh đế. Cho nên bốn pháp khổ tập diệt đạo, danh tự sự tướng thì đồng mà nghóa đế có khác. Trước dùng lý sinh diệt làm đế, nay nói về lý không sinh không diệt, chân không làm đế, cũng gọi là Bốn chân đế. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát biết rõ ngay nơi khổ không có khổ, cho nên không khổ mà có chân đế, biết Tập mà không tập, bởi vậy không tập mà có chân đế, có diệt có chân, có đạo có chân, nên gọi là Bốn chân đế, ba thừa cùng quán, đắc nghóa đệ nhất, chứng hai loại Niết-bàn, cũng là tứ đế hữu lượng mà kinh Thắng-man nói. Hỏi: Nếu là ba thừa đều học Niết-bàn, vì sao giải thích diệt đế nói về thường lạc ngã tịnh? Đáp: Như Phương Đẳng, Bát-nhã có nói, chân đế vô sinh ba thừa cùng thấy, mà Nhị thừa, Bồ-tát thông giáo, không thấy Phật tánh, không rõ diệt đế là thường trụ. Đến Đại Niết-bàn đồng nói Phật tánh cho người tu ba thừa, cho nên tứ đế vô sinh chung cho cả Biệt giáo, Viên giáo, cho nên nói rõ bốn đức của diệt đế, khác với Phương Đẳng, Đại Phẩm ý ở ngay đây. Nói về tứ đế vô lượng: Như kinh Đại Niết-bàn chép: Biết các Ấm khổ gọi là khổ đế, phân biệt các Ấm có vô lượng tướng đều là khổ, gọi là khổ đế vô lượng, tập diệt đạo vô lượng, tự phải trích đầy đủ văn kinh. Lý của bốn đế như thế, kinh Niết-bàn chép: hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được, nên biết đều là lý được giải thích của Biệt giáo. Hỏi: Bốn Thánh đế vô lượng này, cái nào là vô lượng của Tứ đế. Đáp: Nay nói rõ pháp được giải thích của bốn giáo, Bồ-tát học đạo chủng trí đều đắc tứ đế vô lượng, nhưng tứ đế vô lượng này thuộc về Biệt giáo. Hỏi: Như kinh Niết-bàn nói về tướng của tứ đế vô lượng, đâu được nhất định biết là tứ đế vô lượng sở thuyên của biệt giáo? Đáp: Nếu không nói Phật tánh mà nói vô lượng của sở thuyên hai giác. Nếu nói Phật tánh, nói vô lượng thì mặc cho tự nó thành sau hai giác mới nói về vô lượng. Nếu Viên giác cũng gọi là tứ Thánh đế vô lượng tức là tên khác của tứ đế vô tác. 4.Nói về tứ đế vô tác: Như kinh Niết-bàn nói y cứ vào một đế mà nói bốn đế tức là tứ thật đế vô tác. Nói về bốn thật đế mà không phải bốn nên gọi là Vô tác. Quán bốn đế được như thật nên gọi là bốn thật đế. Kinh Niết-bàn chép: Nói khổ là tướng vô thường, là tướng bị đoạn diệt. Nếu là tánh Như Lai thật đế thì không khổ, không vô thường, không có tướng để đoạn, nên gọi là Thật. Hư không, Phật tánh cũng giống như vậy. Vô tác tập diệt đạo đế ở ngay đây dẫn đủ văn này trong kinh Niết-bàn, tức là nói tứ thật đế vô tác. Nếu y theo kinh hiểu bốn đế này tức là nhất thật đế là lý được giải thích thuyên của Viên giáo. Kinh Thắng-man nói tứ đế vô tác, không có nhất thật đế kết thành. Kinh Niết-bàn không nói vô tác đều dùng nhất thật đế kết thành Bốn đế. Nghóa đã liên quan với nhau, nay hợp hai kinh lại để đặt tên cho nên nói là tứ thật đế vô tác. Hỏi: kinh Thắng-man tứ Thánh đế vô lượng, tứ Thánh đế vô tác, kinh Niết-bàn cũng có nói. Như thế hai văn kinh chỗ là đồng hay khác? Đáp: Có Bốn Thánh đế vô lượng, tuy nương tàng thức mà không phải vô tác. Có Bốn Thánh đế vô lượng cũng nương vào tàng thức mà là vô tác, vì sao?. Vì nếu y cứ vào vô minh Hằng sa Bốn đế pháp sự, số luận vô lượng tức là vô lượng sở thuyên của Biệt giáo, chẳng phải vô tác. Nếu y cứ vào pháp tánh mà nói vô lượng của Bốn đế tức là vô lượng sở thuyên của Viên giáo. Vô lượng chính là vô tác. Kinh Niết-bàn chép: Ca-diếp nói Tứ đế vô lượng chính là y cứ vào vô lượng sự số. Đây chính làø sở thuyên của Biệt giáo. Nếu đáp ngài Văn-Thù nói về tứ đế tức là nói tứ thật đế vô tác. Kinh Thắng-man nói hai loại Bốn đế. Một khác chưa thể phán định. Hỏi: Kinh Thắng-man nói Tứ đế vô lượng vì sao nói sau tứ đế vô tác? Đáp: Kinh Thắng-man nói: Nương vào vô tác để nói vô lượng, nhưng nương vào nghóa có ba loại. * Nương vào quả để nói nhân, nhân vô lượng tức là nhân của vô tác Nói về nương lý nói nghóa: Lý vô tác không thể suy lường tức là vô lượng. Y vào thể để nói dụng: Vô lượng tức là số lượng của vô tác. Nếu giải hiểu ba nghóa này, kế là nói vô tác sau nói tứ đế vô lượng, không đáng để đưa đến sự nghi ngờ. Hỏi: Vô sinh và vô tác có gì khác nhau? Chân và thật có gì khác nhau? Đáp: Nếu y cứ vào danh để luận nghóa thì thật khó. Hằng gắng lấy ý giải thích chung ý Phật đều gọi là sở hữu chủ. b) Nói về giáo của năng thuyên: Tức là lý của bốn loại bốn đế, năng thuyên của bốn giáo, chia làm bốn ý: Ba tạng giáo: Nói về lý tứ đế sinh diệt. Nhưng lý tứ đế sinh diệt, tức là kinh Niết-bàn nói về nghóa sinh sinh. Sinh sinh đã không thể nói thì tại sao nói lý năng thuyên của Ba tạng giáo. Lại kinh Niết-bàn chép: Khi có nhân duyên cũng có thể được nói tức là Bốn tất-đàn, vì nó khéo léo cho nên nói năng thuyên. Nếu là thế giới đối trị con người thì dùng ba tất-đàn này nói tứ đế sinh diệt. Đây là y cứ theo tình mà nói về năng thuyên. Dùng tất-đàn thứ nhất nói tứ đế sinh diệt chính là y cứ vào trí để nói năng thuyên, nếu không có cơ duyên tình, trí thì không thể nói. Hai cơ này phát có thể dùng cơ phương tiện khéo léo nói tứ đế sinh diệt. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: Tướng các pháp vắng lặng, không thể dùng lời giảng nói, vì năng lực phương tiện cho nên nói cho năm Tỳ-kheo gọi là xoay bánh xe pháp, mới có tiếng Niết-bàn, và A- la-hán. Nói về, lý Thông giáo nói tứ chân đế vô sinh, tứ chân đế vô sinh tức là kinh Đại Niết-bàn nói nghóa vô sinh, vô sinh (bất sinh) đã không thể nói vì sao nói lý thông giáo năng thuyên. Kinh Niết-bàn chép: Có nhân duyên của không thể nói tức là dùng bốn tất-đàn nói về nhân duyên. Nếu thế giới vì người đối trị ba tất-đàn cho nên nói Tứ đế Vô sinh. Đây là y cứ vào tình mà nói về năng thuyên. Nếu dùng tất-đàn đệ nhất nghóa nói tứ đế vô sinh tức là y cứ vào trí để nói về năng thuyên. Nếu không có cơ tình, trí thì không thể nói. Nếu cơ này phát thì dùng phương tiện để đạt đến cơ, khéo léo mà nói Ba thừa, người đến với đạo nghe nói đều nhập nghóa đế đệ nhất, không dùng lời để nói, dứt phiền não kiến hoặc, tư hoặc. Nói về lý năng thuyên tứ đế vô lượng của Biệt giáo: Lý tứ đế vô lượng tức kinh Niết-bàn nói nghóa bất sinh. Nghóa bất sinh đã không thể nói thuyết tại sao lại nói lý này về năng thuyên của Biệt giáo. Kinh Niết-bàn chép: Vì có nhân duyên nên cũng nói được, tức dùng bốn tất-đàn nói nhân duyên. Nếu dùng thế giới đối trị con người thì ba tất-đàn, vì phương tiện khéo léo mà nói tứ đế vô lượng, tức là y cứ theo tình để nói về năng thuyên. Nếu dung tất-đàn đệ nhất nghóa, thì đó là y cứ về trí để nói về năng thuyên. Nếu không có hai cơ tình và trí thì không thể nói. Nếu hai cơ này phát thì sẽ dùng phương tiện để đạt đến cơ mà nói Biệt giáo. Bồ-tát nghe nói liền nhập vào Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng lên Sơ địa. Nói về dùng Viên giáo: Nói lý tứ chân đế vô tác. Lý tứ thật đế vô tác chính là kinh Niết-bàn nói về nghóa Bất sinh. Bất sinh đã không thể nói vì sao nói lý này của năng thuyên Viên giáo. Lại kinh Niết-bàn nói: Có nhân duyên cũng không thể nói được tức là dùng nhân duyên bốn tất-đàn để nói. Nếu dùng thế giới đối trị con người bằng ba tất-đàn nói tứ thật đế vô tác. Đây là y cứ vào tình để nói về năng thuyên. Nếu dùng bốn tất-đàn đệ nhất nghóa để nói tứ thật đế vô tác chính là y cứ vào trí để nói về năng thuyên. Nếu không có cơ tình và trí, thì không thể nói. Nếu cơ này phát thì có thể nói. Người lợi căn nghe nói liền khai mởû tri kiến Phật, thấy lý Phật tánh trụ vào Đại Niết-bàn. Nói về đối các kinh luận, có hai ý: 1. Đối kinh, 2. Đối luận. Đối kinh: Nếu kinh Hoa Nghiêm dùng Biệt giáo và Viên giáo nói về lý tứ đế vô lượng và vô lượng tứ đế vô lượng thì Ba tạng của Tiểu thừa là sự bắt đầu của Tiệm giáo, nhưng nói về lý tứ đế sinh diệt, Đại Tập Phương Đẳng và kinh này sự giống như trước đã dẫn văn kinh của Niết-bàn, chính là nghóa này. Nói về Đối luận: Kinh luận biệt thông xếp vào loại kinh có thể biết. Nếu trình bày chung kinh luận. Như Trung luận phá tất cả chấp trước điên đảo trong ngoài. Ngoại đạo hỏi: Nếu tất cả sự vật trên thế gian đều là không, không có sở hữu tức phải là vô sinh vô diệt. Vì vô sinh vô diệt thì không có bốn đế, bốn quả sa-môn, Tam Bảo. Nếu thọ pháp không thì thọ pháp như thế. Luận Chủ đáp: Nay Ông thật chẳng biết nhân duyên không, chư Phật thường y cứ vào nhị đế để nói pháp cho chúng sinh. Nếu người không biết nhị đế thì không biết được pháp chân thật của Phật, vì có nghóa là không nên tất cả pháp thành tựu. Nếu không có nghóa không thì tất cả pháp không thể thành tựu. Tất cả pháp thành: Có bốn đế, bốn quả sa-môn, Tam bảo. Nay giải thích lời này luận chủ phá chấp đã cùng tận. Nói rõ có bốn đế, bốn quả sa-môn, Tam Bảo: Tức là ba loại Tứ đế trong Ma-ha-diễn, ba loại bốn quả sa-môn, ba loại Tam Bảo trong Ma-ha-diễn. Hỏi: Làm sao biết được? Đáp: luận chủ nói kệ cho nên biết. Kệ rằng: Pháp do nhân duyên sinh Ta nói tức là Không Kệ này trình bày Thông giáo Đại thừa, nói về tứ đế vô sinh, bốn quả sa-môn, Tam Bảo. Kệ nói: Cũng gọi là giả danh Tức trình bày Biệt giáo của Đại thừa, nói về tứ đế vô lượng, bốn quả Sa-môn, Tam Bảo, là phá ý trở lại tam giáo Đại thừa cũng dùng một bài kệ, làm luận khéo léo ở đây. Kế nói hai phẩm, Phẩm đầu nói: Hỏi: Đã biết Ma-ha-diễn nhập đệ nhất nghóa, nay muốn Thanh văn nghe pháp nhập đệ nhất nghóa chủ luận nói rõ mười hai nhân duyên sinh diệt, phá sáu mươi hai kiến nhập đệ nhất nghóa tức là đệ tử Thanh văn độn căn, nói nhân duyên sinh diệt. Nhân duyên tức là tứ đế sinh diệt, bốn quả sa-môn, Tam Bảo. Trung luận trước đã trình bày ba giáo: Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo, ba loại Tứ đế, bốn quả sa-môn, Tam Bảo trong Ma-ha-diễn. Hai phẩm sau trình bày tứ đế sinh diệt, bốn quả Sa-môn, Tam Bảo. Đời sau người căn tánh độn dần nên phải dùng giáo này chính là văn Trung luận lược nhưng nghóa đầy đủ, trình bày bốn giáo của Phật đã nói, lý bốn giáo đã hiển cho nên nói có Tứ đế. Chính là châu luân như ý, không phải là châu luân thủy tinh. Nếu không hiểu nghóa này, đơn phức rối ren, e rằng luống uổng công phu. Bốn giải thông kinh Đại Tiểu thừa của Phật, ý khó thấy, thứ hai y cứ vào ba đế nói về lý sở thuyên của Tứ giáo, chia làm ba ý: Nói về lý sở thuyên của ba đế. Nói về năng thuyên của bốn giáo. Y cứ vào kinh luận. Nói về lý sở thuyên của ba đế: Ba đế danh nghóa đều trích trong hai kinh Anh Lạc và Nhân Vương. Hữu đế Vô đế Trung đạo đệ nhất nghóa đế. * Hữu đế: Là chúng sinh thế gian trong hai mươi lăm cõi, vọng tình kiến chấp nên gọi là Có. Nếu tình kia thấy rõ thật không luống dối thì gọi là Đế. Nên gọi là Hữu đế, cũng gọi là Tục đế, cũng gọi là Thế đế. Như kinh Niết-bàn chép: Như cái thấy của người thế gian gọi là Thế đế. Vô đế: Cái thấy chân không của người Ba thừa xuất thế, vì vô danh, vô tướng nên gọi là Vô (không), suy xét không luống dối nên gọi là Đế, nên nói Vô đế, cũng gọi là chân đế, cũng gọi là Đệ nhất nghóa đế. Kinh Niết-bàn chép: Như cái thấy của người xuất thế gian, gọi là nghóa đế đệ nhất. Trung đạo đệ nhất nghóa đế: Ngăn chặn hai bên, nên gọi là Trung đạo. Nói ngăn chặn hai bên: Ngăn chặn hữu biên ái kiến của kẻ phàm phu. Ngăn chặn chấp không của người Nhị thừa gọi là không tướng không biên. Ngăn chặn hai bên của tục đế và chân đế. Ngăn chặn hai bên của thế đế và đệ nhất nghóa đế. Ngăn chặn hai bên như thế gọi là không hai. Lý không hai gọi là Trung, lý này thông suốt không dính mắc nên gọi là Đạo. Vì nó tối thượng không gì bằng nên nói là đệ nhất nghóa, vì nó sâu xa nên lấy làm nghóa. Chỗ chứng thấy của chư Phật và Bồ-tát chân thật không luống dối nên gọi là Đế, nên gọi là Trung đạo đệ nhất nghóa đế, cũng gọi là Nhất thật đế, cũng gọi là Hư không Phật tánh pháp giới, Như Lai Tạng cho nên kinh Niết-bàn chép: Kẻ phàm phu chấp có, người Nhị thừa chấp không còn Bồ-tát thì chẳng phải có cũng chẳng phải không, tức là lý ba đế, nghóa khác nhau. Lý này đều là sở thuyên của bốn giáo cho nên y cứ vào lý của ba đế mà nói rõ sở thuyên. Hỏi: Nói lý Ba đế là lý về tình hay về trí. Đáp: Y cứ vào một nhà nói về nghóa, giải thích về lý của đế, có ba loại khác nhau: 1. Theo tình, 2.Theo tình trí. 3. Theo trí. Nghóa này phải suy lường, nay lại dùng một đường, theo kinh Niết-bàn quyết phán lý của ba đế chính là: 1/ Lý theo tình, 2/ Lý theo tình trí, 3/ Lý theo trí. Lại nói: Hai là lý theo tình trí, ba là lý theo trí. ý: Lại nói: Lý theo tình, một là lý theo trí. Tình và trí hợp lại nói là lý của ba đế. 2) Nói tứ giáo của năng thuyên, nói lý của ba đế có chia ra bốn Ba tạng giáo: Chỉ nói về lý của hai đế. Cho nên kẻ theo giáo không nghe Phật tánh thường trụ Niết-bàn. Quả của ba thừa giống như tro tàn. Thông giáo cũng chỉ nói rõ nhị đế, cho nên người theo giáo cũng không nghe Phật tánh thường trụ Niết-bàn. Quả của ba thừa giống như tro tàn. Biệt giáo nói về lý Tam đế, cho nên kẻ theo giáo ba mươi hai tâm chỉ thành con đường phương tiện của hai quán. Khi đẳng địa mới thấy Phật tánh vào dòng pháp. Tứ Viên giáo nói về lý của ba đế, vì thế người theo giáo sơ tâm tức là khai trí kiến Phật, tự nhiên chảy vào biển Tát-bà-nhã. 4) Nói về Đối kinh luận: Hoa Nghiêm chỉ nói giả danh tục đế trung đạo hoặc nói giáo Hoa Nghiêm nói về Biệt tướng ba đế, một tâm ba đế. Tiệm giáo của Ba tạng nói về hai đế: Chân đế và tục đế, giáo của phương Đẳng Đại thừa nói về ba Đế, một bề đồng với Hoa Nghiêm. Ma-ha Bát-nhã cũng nói về ba đế, hoàn toàn giống như Hoa Nghiêm. Pháp Hoa chỉ nói về một tâm ba đế. Niết-bàn cũng nói về ba đế, hoàn toàn cũng giống như Hoa Nghiêm. Các luận theo kinh xếp loại rất dễ hiểu. Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sinh Ta nói tức là không. Đây chính là nói về chân đế, cũng gọi là giả danh tức nói về tục đế, cũng là nghóa Trung đạo, tức nói về Trung đạo đệ nhất nghóa. Kệ này là trình bày Ma-ha-diễn, trình bày rõ lý ba đế. Như hai phẩm dưới nói về Thanh văn, tuy vào đệ nhất nghóa, đây là trình bày riêng về Ba tạng giáo, nói về lý hai đế. Thứ ba: Y cứ vào nhị đế nói về lý sở thuyên, cũng chia làm ba ý: Chánh nói về lý sở thuyên, cũng chia làm ba ý: Nói về lý sở thuyên. Nói về lý năng thuyên. Y cứ vào kinh luận Nói về lý sở thuyên tức là lý hai đế. Hai đế có hai loại: Hai đế ngoài lý Hai đế trong lý Nếu chân đế không phải Phật tánh tức là hai đế của ngoài lý, chân đế là Phật tánh là hai đế trong lý. Hai đế trong lý có hai loại: Không tướng chính là hai đế, tức là hai đế sinh diệt. Tướng tức là hai đế, là hai đế vô sinh. Cho nên kinh Đại Phẩm chép: Tức sắc là không, phi sắc diệt không. sắc diệt mới không là không tức hai đế. Tức sắc là không tướng tức là hai đế. Nói về hai đế trong lý: Cũng có hai loại: Không tức là hai đế. 2. Tướng tức là hai đế Không tức là hai đế là hai đế vô lượng Kinh Niết-bàn chép: Phân biệt Thế đế có vô lượng tướng. Nghóa đế đệ nhất cũng có vô lượng tướng, người Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được. Tướng tức hai đế là nhị đế vô tác. Khổ tập diệt đạo vô tác gọi là thế đế vì nó nhất thật đế, nên gọi là nghóa đế đệ nhất. Nói về bốn giáo sở thuyên. Nếu Ba tạng giáo nói về lý ngoài không, tức là hai đế, nếu Thông giáo nói lý ngoài tướng tức hai đế. Biệt giáo nói lý trong không tức là hai đế, Viên giáo nói lý trong tướng tức là hai đế. Đối kinh luận: Kinh Hoa Nghiêm nói: Trong lý có hai loại hai đế, Ba tạng giáo nói lý ngoài không tức là hai đế, Phương Đẳng Đại thừa nói bốn loại hai đế ngoài lý Ma-ha Bát-nhã nói lý ngoài tướng tức hai đế, hai loại hai đế trong lý. Kinh Niết-bàn nói chung cả lý trong lý ngoài có bốn loại hai đế. Các luận thông kinh so sánh rất dễ hiểu. Kệ Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sinh ta nói tức là Không. Đây là trình bày lý ngoài tướng tức hai đế, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghóa Trung đạo. Đây trình bày lý trong tướng tức không tướng, tức nhị đế của Ba tạng giáo. Nói về lý nhất đế giải thích sở thuyên, có ba ý: Nói về lý sở thuyên. Nói về giáo năng thuyên. Nói về kinh luận Nói về lý sở thuyên: Tức là lý nhất đế, sao gọi là lý nhất đế? Đế là chân thật, pháp chân thật tức là không hai, đâu có hai đế, ba đế, đều gọi là chân thật. Nay nói rõ chân tục làm đế chỉ là phương tiện, thật không phải đế. Kinh Niết-bàn chép: Gọi là hai đế, thật ra là một, vả lại Như Lai phương tiện để hoá độ chúng sinh cho nên nói là hai. Thí như mặt trời mặt trăng không di chuyển mà người say rượu thấy di chuyển. Nên biết chỉ có mặt trời không di chuyển, người không say cùng thấy há có mặt trời khác di chuyển. Nếu thật có mặt trời di chuyển thì người không say cũng phải đều thấy. Nhất đế như mặt trời chân thật, hai đế như mặt trời xoay. Mặt trời chân thật có thể gọi là Nhất đế, mặt trời di chuyển không thật làm sao có hai đế, phương tiện nói hai. Vì nghóa thật không thành cho nên chẳng phải đế. Nay lấy nhất thật đế này làm lý sở thuyên. Nói về giáo năng thuyên. Nếu Ba tạng giáo, Thông giáo chính là phiền não, chán ghét rượu mà chưa nôn. Chỉ nói mặt trời di chuyển nói có hai đế, không thể nói nhất thật đế. Nếu Biệt giáo nói nhất thật đế như lìa mặt trời xoay. Viên giáo nói nhất thật đế mặt trời xoay tức không phải mặt trời xoay. Đối kinh luận: Nếu giáo Hoa Nghiêm nói nhất thật đế thì trong lý thế đế không phải phương tiện. Như Ba tạng giáo một bề không nói nhất thật đế, Phương Đẳng giáo nói nhất thật đế, giống như Hoa Nghiêm, có thiên chấp về chân biết được phương tiện của nhất thật đế. Giáo Ma-ha Bát-nhã nói về nhất thật đế cũng giống như Hoa Nghiêm, cũng nghiêng về chân biết được phương tiện nhất thật đế, cho nên kinh Vô Lượng Nghóa chép: Sau khi Phật thành đạo hơn bốn mươi năm chưa hiển rõ chân thật, nay cho là có gì không nói thật đế, có lúc phó duyên khai hai đế, ba đế không tức là phương tiện của nhất đế. Giáo Hoa Nghiêm nói nhất thậát đế, không lại là không tức phương tiện. Nhưng nói tất cả tức Nhất thật đế. Kinh Pháp Hoa chép: Hai muôn Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều nói nghóa thật tướng của các pháp cho các thầy nghe. Nay Phật phát ra ánh sáng giúp cho phát ra nghóa thật tướng. Pháp Hư Phật mãi sau này phải nói chân thật, chính là xả bỏ phương tiện chỉ nói đạo vô thượng. Nếu kinh Niết-bàn giống như Phương Đẳng, giải thích nhập chung vào Phật tánh là khác. Các luận theo kinh so sánh dễ hiểu, như kệ của Trung luận: “Cũng là nghóa Trung đạo” Đây chính là trình bày giáo của Nhất thật đế, cho nên Thanh Mục giải thích rằng: Ngăn hai bên nên gọi là Trung đạo, tức là ngăn duyên, không biên, giả biên của nhân duyên, không phải hai bên này thì không ngăn hai đế chơn tục, gọi là nhất thật đế. Kinh Niết-bàn chép: Nhất thật đế là không hai. Lại tánh không hai chính là thật tánh, tánh không hai là nhập pháp môn không hai. Lại nhất thật đế là bất sinh, vì bất sinh nên không thể nói, bởi vậy Ngài Tịnh Danh im lặng, ngài Văn-thù khen ngợi là chỗ này.  <卷>QUYỂN 3 Nói về bốn môn nhập lý. Tìm lý thật tướng chân tánh, nó sâu xa tuyệt diệu, tất cả thế gian không có gì có thể khế hợp, chỉ có bậc Đại Thánh thấy rõ môn thông lý mới đối với lý vô ngôn đi đến khởi giáo làm môn. Bởi thế, người theo giáo nhờ môn mà khế hợp lý. Nên kinh Pháp Hoa chép: dùng giáo môn của Phật thì ra khỏi khổ của ba cõi. Lại nói: Môn trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, kinh Tịnh Danh nói các Bồ-tát đều nói vào pháp môn không hai tức là ý này. Nay lược có năm ý để giải thích. Nói lược về tướng của bốn môn. Nói về bốn môn nhập lý. Nói về bốn tất-đàn khởi bốn môn giáo. Y cứ mười pháp thành bốn môn nghóa Y cứ vào hạnh tín pháp bốn môn khác nhau. Lược nói về tướng của bốn môn. Môn: Nghóa là giáo năng thông của Phật pháp nói về chính nhân duyên bốn câu pháp, thông cho hành nhân đến lý chân tánh thật tướng, nên gọi là môn, như tà nhân duyên của ngoại đạo thì không có bốn câu pháp nhân duyên. Nhân bốn câu này đều thấy lý của bốn thứ tà pháp. Do đây mà sinh ra mười bốn nạn, sáu mươi hai kiến, khởi các kết sử rồi đắm chìm trong sinh tử. Đây là bốn môn tà đạo. Nay không nói ra. Nếu bốn môn của Pháp Phật tức là chánh nhân duyên, bốn câu pháp hành nhân có thể đồng nhập Niết-bàn đệ nhất nghóa. Cho nên, luận Đại Trí Độ chép: Bốn cửa vào ao mát mẻ, lại Bát- nhã nói như lửa lớn đốt cháy bốn bên, không thể xúc chạm. Lại nói: Bát-nhã Ba-la mật có bốn loại tướng tức là nghóa riêng của bốn môn. Ngưỡng vọng tìm Phật Pháp đã có bốn giáo khác nhau. Nay y cứ vào bốn giáo nói môn đều có bốn môn riêng. Bốn môn của Ba tạng giáo. Bốn môn của Thông giáo. Bốn môn của Biệt giáo. Bốn môn của Viên giáo. Nói bốn môn của Ba tạng giáo; Chia làm bốn ý: Môn hữu Môn không Môn vừa hữu vừa không Môn phi hữu phi không. Hữu môn: Tức Ba tạng giáo nói cõi nhân duyên sinh diệt. Nếu bẩm thọ giáo này có thể phá mười sáu tri kiến; thấy Ấm giới vào tất cả cõi làm các pháp, đều là quán vô thường, khổ không, vô ngã; đắc pháp thế đệ nhất, phát chân vô lậu. Nhân hữu kiến chân hữu tức môn nghóa đế đệ nhất. Nên kinh Đại Tập chép: Lý sâu xa không thể nói. Nghóa đế đệ nhất không có chữ lời. Tỳ-kheo Trần-như đối với các pháp đắc tri kiến chân thật. Đây tức là điều trình bày của các luận A-tỳ-đàm. Môn không: Ba tạng giáo phân tách rõ nhân duyên giả thật, sinh diệt nhập vào không. Nếu bẩm thọ giáo này thì phá được mê hoặc giả thật, thấy giả thật là không, phát chân vô lậu. Nhờ không mà thấy chân không, tức là môn đệ nhất nghóa. Cho nên Tu-Bồ-đề ở trong thất đá quán vô thường, sinh diệt nhập vào không, nhờ cái không mà đắc đạo. Gọi là thấy Pháp thân Phật. Có lẽ đây là trình bày của luận Thành Thật. Môn nói về hữu không: Ba tạng giáo nói về hữu không của chánh nhân duyên sinh diệt. Nếu lãnh thọ giáo này thì phá được hoặc chấp nghiêng về hữu không, thấy nhân duyên hữu không, phát chân vô lậu. Nhờ hữu không mà thấy chân hữu không, tức là môn đệ nhất nghóa. Đây là ngài Ca- chiên-diên nhân vào đạo mà soạn luận Côn-lặc, còn trình bày về môn này. Môn phi hữu phi không: Ba tạng giáo nói về lý chánh nhân duyênsinh diệt phi hữu phi không. Nếu bẩm thọ giáo này thì sẽ phá được tà chấp hữu vô biên, thấy nhân duyên, phi hữu phi vô, phát chân vô lậu. Nhờ phi hữu phi vô mà thấy chân phi hữu phi vô tức là môn đệ nhất nghóa. Ác khẩu Xa-nặc do đây vào đạo, chưa thấy luận văn. Có người nói: Độc Tử A-tỳ-đàm trình bày ý này. Luận kia nói ta ở vào hạng thứ năm không thể nói trong tạng. Ta chẳng phải ba đời tức chẳng phải thấy phi hữu phi vô làm pháp, tức là phi không, đây e chưa thể định dụng. Nói về bốn môn của Thông giáo: Luận Trí Độ nói tất cả không thật, tất cả vừa thật vừa không thật, tất cả không thật, chẳng phải không thật. Phật đối với bốn câu này nói rộng về đệ nhất nghóa tất-đàn. Trung luận nói bốn câu này, đều gọi là thật tướng của các pháp. Chánh nhân duyên pháp như mộng huyễn như tiếng vang, như trăng đáy nước, bóng trong gương. Thể pháp tức là câu không. Nếu ba thừa đều bẩm thọ giáo này nhưng căn duyên khác nhau, đều đối với một câu nhập đệ nhất nghóa, cho nên bốn câu đều gọi là Môn. Điều này đầy đủ thì như Thanh Mục chú giải. Lại chú rằng: Thật tướng các pháp có ba loại: Nên biết bốn câu này ba thừa bẩm thọ đồng vào bốn môn này, được thấy nghóa đệ nhất. Nói về bốn môn của Biệt giáo: Nếu dùng Trung luận cũng gọi là giả danh, mà nói bốn môn tức là bốn môn của Biệt giáo. Luận Trí Độ nói bốn câu cũng đắc. Ý của bốn môn Biệt giáo này trích trong kinh Niết-bàn nhưng nói tản mát nhiều y cứ vào sữa nói bốn câu để thí dụ tức là bốn môn Biệt giáo. Nếu nói về Phật tánh như sữa có tánh sữa, đá có tánh vàng. Lực só đeo châu tức là hữu môn, nếu nói đá không có tánh vàng, sữa không có tánh sữa, chúng sinh, Phật tánh giống như hư không, đại Niết-bàn không, thành Ca-tỳ-la không, tức là môn không. Kinh Niết-bàn nói: Phật tánh vừa có vừa không. Vì sao là có? Tất cả chúng sinh đều có tâm, vì sao là không? Vì từ phương tiện khéo léo mà được thấy, lại thí như trong sữa vừa có tánh sữa, vừa không có tánh sữa, tức là môn vừa có vừa không. Nếu biết Phật tánh tức là Trung đạo, trăm phi đều sót lại. Kinh Thí Dụ chép: Trong sữa không có tánh sữa, cũng không phải chẳng có tánh sữa, tức là môn phi không phi hữu, Bồ-tát của Biệt giáo bẩm thọ bốn giáo môn này nhân thấy Phật tánh trụ đại Niết-bàn, cho nên bốn câu này tức là bốn môn của Biệt giáo. Nay đều y cứ vào Văn kinh Niết-bàn phân biệt tướng bốn môn của Biệt giáo hoặc có thể là bốn môn Viên giáo, bốn môn Viên giáo tự phải suy xét đồng hay khác. Hỏi: Nếu bốn môn của Biệt giáo chỉ trích trong kinh Niết-bàn như các kinh Ma-ha-diễn ở trước thì ý nào là không có bốn môn của Biệt giáo? Kinh Đại Niết-bàn giải thích kinh của giáo trước kinh Ma-ha- diễn này há không có bốn môn của Biệt giáo? Trích đủ trong văn kinh sự rất rườm rà. Nói bốn môn của Viên giáo: Bốn môn là nói nhập nghóa Phật tánh đệ nhất đều với bốn môn của Biệt giáo, nhập nghóa đế đệ nhất, thấy Phật tánh đắc Niết-bàn thường lạc, danh nghóa thì đồng nhưng tìm ý thú tỷ mỉ thì có khác. Hỏi: Dùng tướng gì để biết là khác? Phân biệt ý có khác và nhiều đường lối. Nay lược y cứ vào bảy nghóa của Viên giáo để phân biệt, thì biết bốn môn của Biệt giáo khác với bốn môn của Viên giáo. Bảy nghóa gồm: Rõ tất cả pháp tức chân tánh thật tướng, Phật tánh Niết-bàn không thể diệt mà nói bốn môn, tức là bốn môn của Viên giáo. Nếu tâm ban đầu liền khai tri kiến viên chiếu của Phật mà nói về bốn môn tức là bốn môn Viên giáo. Nếu nói không thể nghó bàn không dứt phiền não mà nhập Niết-bàn để nói bốn môn tức là bốn môn Viên giáo. Nếu nói viên hạnh mà nói bốn môn, tức là bốn môn Viên giáo. giáo. Nếu nói viên vị mà lập bốn môn tức là bốn môn Viên giáo. Nếu rõ thể viên mà nói bốn môn tức là bốn môn của Viên Thứ hai: Nói nhập lý của bốn môn. Nếu bốn môn tâm hạnh của ngoại đạo ngoài lý các tướng điên đảo tương ứng với điên đảo, không được vào lý chân tánh. Vì sao? Vì tùy tâm khác cho nên thấy lý cũng khác. Bởi thế các thuyết cho là được một rốt ráo, do đó khởi lên tranh luận. Nay nói bốn môn Phật tánh đầu được vào một lý. Nhưng có hai loại khác nhau: Bốn môn hai loại của Thông giáo, của Ba tạng đồng nhập lý nghiêng về chân. Bốn môn của Biệt giáo và Viên giáo đồng với lý viên chân. Nói bốn môn của Thông giáo và bốn môn của Ba tạng đồng về lý thiên chân, mỗi thứ đều do bốn môn mà nhập thiên chân đệ nhất nghóa, là đồng được hai loại Niết-bàn. Lý tuy là một mà môn thì có khác nhau. Thấy có sự khác nhau về khéo léo và vụng về cho nên có sự khác nhau về hai loại bốn môn năng thông chân lý không hai, cho nên thông đến lý là một. Thí như Thành Châu mở bốn cửa, sứ quân là một mà theo bốn cửa vào. Cửa tuy có khác mà cái thấy cửa sứ quân chỉ là một. Bốn môn của Ba tạng giáo như từ cửa bốn bên Thành Châu mà vào bốn môn của Thông giáo, như từ bốn cửa chánh mà vào. Thiên chánh tuy khác nhưng vào thấy thiên chân đệ nhất nghóa đế, được hai thứ Niết-bàn là một. Nói về ý môn của Viên giáo và bốn môn của Biệt giáo. Đồng vào lý chân tánh thật tướng Trung đạo đều do bốn môn mà vào, thấy thật tướng Phật tánh, đắc thường lạc, ngã, tịnh là một. Lý tuy đồng mà môn có khác, giác môn đã có sự khác nhau về thiên, viên, cho nên có sự khác nhau về năng thông của hai loại bốn môn. Vì Phật tánh chân lý không hai cho nên lý chân tánh sở thông là một. Thí như thành đài có bốn cửa, cửa tuy khác nhau nhưng cái thấy của thiên tử là một, bốn môn của Biệt giáo như từ cửa bên của bốn bên đài thành mà vào bốn môn của Viên giáo như từ bốn cửa chính mà vào. Thiên chánh có khác mà chỗ vào và cái thấy lý chân tánh giải thoát thật tướng là một. Thứ ba: Nói về dùng giáo của bốn tất-đàn khởi bốn môn. Như bốn môn của ngoại đạo đều không thấy căn duyên, chấp tâm chấp tướng, định thuyết như thầy thuốc cũ thường dùng thuốc sữa để trị tất cả bệnh. Đây không nhờ vào bốn tất-đàn mà khởi bốn môn. Nay bốn môn của Phật pháp đều nhờ vào bốn tất-đàn để phát khởi. Nói về bốn tất-đàn khởi bốn môn của Ba tạng giáo. Nói về bốn tất-đàn khởi bốn môn Thông giáo. Nói về bốn tất-đàn khởi bốn môn Biệt giáo. Nói về bốn tất-đàn khởi bốn môn Viên giáo. Nói về bốn tất-đàn khởi bốn môn của Ba tạng giáo: tức là đời đời không thể nói, vì có nhân duyên bốn tất-đàn cũng có thể nói được. Nói về dùng bốn tất-đàn khởi môn hữu: Nếu tâm chúng sinh thích pháp hữu thì dùng tất-đàn thế giới nói Tỳ-đàm hữu môn. Nếu thích nghe sinh lên cõi trời thì dùng tất-đàn các các vị nhân để nói môn Hữu cho người. Nếu chấp không có nhân duyên, tà nhân duyên, hoặc chấp không, chấp trước sinh khởi các kết nghiệp thì dùng tất-đàn đối trị nói môn hữu cho họ. Nếu nghe liền ngộ nghóa đệ nhất thì dùng tất-đàn đệ nhất nghóa nói môn hữu cho họ. Như năm người Câu-lân, v…v…nghe Tứ đế liền thấy nghóa đế đệ nhất, đắc quả Tu-đà-hoàn. Nếu không thể nói cho họ bằng bốn tất-đàn phó duyên chính là nói pháp sai cơ, là kẻ thù của chúng sinh, một tay thiên ma ngoại đạo làm bạn lữ. Kinh Niết-bàn chép: Nói pháp cảnh giới của chư Phật, người Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được. Nói dùng bốn tất-đàn khởi môn không: Giống như hữu môn ở trước, dùng nghóa bốn tất-đàn khởi môn không thì thành tựu. Nhưng các Sư Thành luận nói: Hữu Môn của Tỳ-đàm chỉ là điều phục tâm nhưng không thể đắc đạo. Luận Thành Thật thấy Không mới là đắc đạo. Các sư Số luận nói: Ta dùng Tiểu thừa rõ nghóa thấy có đắc đạo. Ông dùng Đại thừa rõ nghóa cho nên nói thấy không đắc đạo. Nay cho là đây đều không đắc ý của Ba tạng giáo. Kinh Đại Tập nói người chấp thường nói dứt niệm khác, người chấp đoạn nói một niệm đoạn, cả hai chấp tuy khác nhưng đắc đạo không khác. Luận Đại trí Độ chép: trong kinh, chỗ nào Thanh văn cũng nói nghóa pháp không, đâu được nói thấy không đắc đạo để nói về Đại thừa? Nay y cứ vào bốn tất-đàn này làm thành nghóa hoại. Số người bốn nghóa thành, Thành luận bốn nghóa hoại. Thành luận bốn nghóa thành, số nhân bốn nghóa hoại, cho nên thành hoại địch đồng. Vì sao Thành luận thành, vì sao Số nhân hoại. Nếu hiểu sự khéo léo vụng về của Ba tạng giáo để độ thì nghóa Thành luận không môn thành, nghóa Số nhân hữu môn hoại. Dùng bốn tất-đàn khởi môn hữu, vô: Giống hữu môn ở trước, dùng ý của tất-đàn, thì có không môn đắc đạo, cho nên là chỗ chung của luận Tỳ-đàm. Dùng bốn tất-đàn: Khởi môn phi hữu phi vô cũng giống hữu môn ở trước, dụng của bốn tất-đàn ý rất dễ thấy. Nói dùng bốn tất-đàn khởi bốn môn Thông giáo: Bốn môn Thông giáo tuy như huyễn như hóa nhưng có tên gọi, tức là sinh bất sinh không thể nói, nhưng bốn loại căn duyên của chúng sinh khác nhau. Nếu dùng bốn tất-đàn phó duyên thì khởi được bốn môn. Dùng bốn tất-đàn khởi Thông giáo giống như trước rất dễ biết. Nói dùng bốn tất-đàn khởi bốn môn Biệt giáo, bất sinh, sinh không thể nói, vì nhân duyên bốn tất-đàn được phó duyên khởi Biệt giáo nói bốn môn. Nhưng Địa luận sư nói thức A-Lại-Da chính là Như Lai tạng tức là dùng hữu môn của Biệt giáo. Thông Đạo Tam luận Nhân nói: Ông là ngoại đạo mới sinh biết nghóa, cũng là nghóa ong vàng, bướm vàng, tranh chấp không hòa mục làm sao dung hội được. Nay cho đây là không đắc ý của bốn môn Biệt giáo, không biết bốn tất-đàn nói nghóa hai môn hữu không này. Nói dùng bốn tất-đàn khởi bốn môn Viên giáo, bất sinh bất sinh không thể nói, dùng nhân duyên bốn tất-đàn khởi Viên giáo nói bốn môn. Thứ tư: Nói về mười pháp thành nghóa bốn môn, ngoại đạo cũng nói bốn môn nhưng không dùng mười pháp để thành tựu, cho nên còn điên đảo trôi lăn trong sinh tử không được giải thoát. Nay bốn môn của Pháp Phật đều dùng mười pháp mà thành nhất định, đắc Niết-bàn cho nên không giống với ngoại đạo. Ở đây có bốn ý: Mười pháp thành bốn môn của Ba tạng giáo Mười pháp thành bốn môn của Viên giáo Mười pháp thành bốn môn của Biệt giáo Mười pháp thành bốn môn của Viên giáo 1.Mười pháp thành bốn môn của Ba tạng giáo: Bốn môn chia làm bốn ý: Nói dùng mười pháp thành hữu môn của Tỳ-đàm thấy có đắc đạo Danh mục mười pháp trích ra đủ như trước, nhưng chỉ biết pháp chánh nhân duyên thành thấy có đắc đạo, biết nhân duyên vô minh sinh khởi tất cả pháp. Chân chánh phát tâm thành thấy có đắc đạo. Biết nhân duyên vô minh có tất cả chúng sinh khổ đau trong ba cõi, sinh tâm giác ngộ, muốn dứt vô minh kết nghiệp chánh cầu Niết- bàn. Tâm chân chánh này vượt qua tất cả tâm của ma trời và ngoại đạo. Tiến hành chỉ quán thành thấy có đắc đạo: Nhờ chỉ quán có thể phát định tuệ vô lậu, khác với ngoại đạo không thể biết. Quấy động sữa còn khó được, huống chi là sinh ra váng sữa. Phá pháp khắp thành thấy có đắc đạo. Dùng sinh diệt vô thường phá thân kiến, biên kiến, bốn kiến đơn, bốn kiến phức, đầy đủ bốn kiến, sáu mươi hai kiến, vô lượng các kiến, đều biết từ nhân duyên vô minh sinh khởi, tâm không mê đắm. Kinh Niết-bàn chép: Các ngoại đạo này chẳng có một pháp nào không từ duyên sinh: pháp từ duyên sinh đều là vô thường, vì sao nói ngoại đạo có thường lạc ngã tịnh. Các kiến bốn điên đảo như thế đều sẽ phá khắp, không đồng với ngoại đạo. Khéo biết thông bít thành thấy có đắc đạo: Biết vô lượng các kiến chấp đều có đạo diệt, cho nên là thông, đều có khổ tập cho nên là bít, không đồng ngoại đạo như đạo trùng kia, không biết chữ đúng chữ sai. Khéo tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo thành thấy có đắc đạo: Ba mươi bảy phẩm trợ đạo đều phục thích ứng thực hành, đối với Niết-bàn mà mở ra ba cửa giải thoát khác với ngoại đạo. Như trong kinh, Phật vì Tu-Bạt-Đà-la mà làm sư tử rống tám Chánh đạo. Ngoại đạo còn không có một phần để quyết định, không đắc bốn quả sa-môn. Đối trị trợ giúp mở ra thành thấy có đắc đạo: Năm pháp quán dừng tâm phát các thiền định, lại xả bỏ thắng xứ, khác với ngoại đạo. Vị thiền căn bản sinh khởi ba thứ bệnh: Ái, kiến, mạn. Khéo biết thứ lớp giai vị thành có đắc đạo: Như quả vị bảy Hiền bảy Thánh, tâm không lạm khởi tăng thượng mạn, khác với ngoại đạo. Giới thủ, kiến thủ định pháp sinh tử làm Niết- bàn. Hai giặc an nhẫn, mạnh yếu thành thấy có đắc đạo: Có thể chịu đựng tám thứ gió, ba chướng bên trong, bốn ma bên ngoài, tâm không lui sụt, khác với ngoại đạo. Không thể an nhẫn đối với đạo pháp sâu kín. Thuận đạo pháp ai không sinh, thành thấy có đắc đạo: Bốn người gốc lành phát được hữu lậu năm Ấm thiện, kinh Niết- bàn chép: Đệ tử ta có còn ngoại đạo thì không. Nếu không sinh pháp ái thì không rơi vào pháp nhẫn, thành pháp thế đệ nhất, phát khổ nhẫn rõ sát-na, chứng quả Tu-đà-hoàn. Nếu nhập siêu quả thì thành A-la-hán. Nên biết mười pháp thành thấy có đắc đạo. Thanh văn thừa, Bích-chi- phật thừa cho đến Đại thừa. Nên biết Tỳ-đàm thấy có đắc đạo. Đây chẳng phải nói suông. Nói mười pháp thành môn không: Nói mười pháp thành môn hữu không. Nói mười pháp thành môn phi hữu phi không. Đều được thấy nghóa đệ nhất chứng hai thứ Niết-bàn mười pháp hữu môn thành ý có thể biết. Nay nghóa trong Phật pháp học ngồi thiền, nếu không thấu được ý này chỉ nói thấy có, thấy không đắc đạo, thì có khác gì với ngoại đạo. Luận Đại Trí Độ chép: Nếu không có phương tiện nhập vào A- tỳ-đàm thì rơi vào trong (hữu), vào môn không tức rơi vào không, vào môn Côn-lặc tức rơi vào hữu vô. Trung luận chép: Nếu phi hữu phi vô tức là luận ngu si. Nói mười pháp thành bốn môn Thông giáo. Nói mười pháp thành bốn môn Biệt giáo. Nói mười pháp thành bốn môn Viên giáo. Đều được nhập đạo giống như trước rất dễ biết. Nếu chấp nghiêng về bốn môn, tranh chấp hý luận thì không đắc ý mười pháp nhập đạo, là bị ngọn lửa tà thiêu đốt. Luận Đại Trí Độ chép: Bát-nhã ba-la-mật giống như bốn bên ngọn lửa lớn không thể lấy, vì lửa tà kiến thiêu đốt, việc này trong bốn giác trước đã phân biệt rõ. Thứ năm: Nói bốn môn khác nhau của hai loại tín pháp: Ngoại đạo không tin Tam Bảo, không học Phật pháp, tà tín tà hạnh, tuy có bốn môn mà không phải đệ tử Phật, đâu thành hai hạnh Tín và pháp. Nay nói đệ tử Phật tin sâu lời Phật dạy, tu tập Phật pháp có thể phát vô lậu, cho nên thành hai hạnh Tín và pháp. Nếu người Tín hạnh tức là bốn loại giáo môn, nếu người Pháp hạnh tức là bốn loại quán môn. Cho nên người Tín hạnh dùng giáo môn của Phật vượt khỏi sự khổ của ba cõi. Y cứ vào bốn giáo, mỗi giáo đều có bốn loại giáo môn. Một là có mười sáu giáo môn, mười sáu người Tín hạnh, y cứ vào bốn giáo đều có bốn loại quán môn. - Có mười sáu loại quán môn, có mười sáu loại người Pháp hạnh. Nếu phân biệt bốn giáo kỹ thì có hai hạnh Tín và pháp, giáo môn vô lượng vô biên. Tín hạnh cũng vô lượng vô biên, quán môn vô lượng vô biên, Pháp hạnh cũng vô lượng vô biên. Nói thẳng về bốn môn của Ba tạng, năm trăm vị La-hán đều nói do thân tức năm trăm quán môn. Huống chi các Bồ-tát ở kinh này đều nói vào pháp môn không hai. Thiện tài nhập vào pháp giới thấy vô lượng thiện tri thức, mỗi vị đều nói pháp môn mình đắc, đều từ bốn giác ba mươi hai môn hiển bày ra. Nêu bốn môn không thể nói, ngài Văn-thù-sư-lợi nói tất cả pháp là vô ngôn vô thuyết, dứt trừ các hý luận, gọi là nhập vào pháp môn không hai. Ngài Tịnh Danh im lặng không nói, ngài Văn-thù khen ngợi là thật nhập vào pháp môn không hai. Nên biết tất cả pháp môn đều không thể nói.  TỨ GIÁO NGHÓA <卷>QUYỂN 4 Thứ tư: Y cứ vào giai vị bốn giáo phân biệt nghóa tịnh vô cấu xưng, có sáu ý: 1/ Y cứ vào giai vị của Ba tạng giáo, nói về nghóa tịnh vô cấu xưng. 2/ Y cứ vào giai vị Thông giáo nói về nghóa tịnh vô cấu xưng 3/ Y cứ vào giai vị Biệt giáo nói về nghóa tịnh vô cấu xưng 4/ Y cứ vào giai vị Viên giáo nói về nghóa tịnh vô cấu xưng 5/ Y cứ vào giai vị để kết thành xưng. 6/ Y cứ vào giai kinh luận để nói bao nhiêu giai vị. Y cứ vào giai vị của Ba tạng giáo giải thích về nghóa tịnh vô cấu xưng: Tìm Ba tạng suy tính thú duyên có nhiều loại. Vốn tìm tòi chánh yếu ấy không ngoài bốn môn nhập đạo. Bốn môn gồm: Môn hữu Môn không Môn hữu không Môn phi hữu phi không. Nhưng bốn giáo đều nói bốn môn, tuy đều được nhập đạo nhưng tùy theo giáo mà lập nghóa, nhất định phải cần mới tiện, nếu là bốn môn Ba tạng giáo tuy đều được nhập đạo nhưng các kinh luận phần nhiều dùng môn hữu. Bốn môn Thông giáo tuy đều được nhập đạo nhưng các kinh luận phần nhiều dùng môn không. Bốn môn Biệt giáo tuy đều được nhập đạo nhưng các kinh luận phần nhiều dùng môn hữu không. Bốn môn Viên giáo tuy đều được nhập đạo mà các kinh luận phần nhiều dùng môn phi hữu phi không. Nay nói bốn môn Ba tạng giáo nhập đạo chính là dùng hữu môn của Tỳ-đàm, để phán quyết giai vị. Nếu nói về hợp cơ hóa vật, phó duyên mà nói môn hữu, há có thể nghiêng lệch để nói về nghóa. Tùy theo việc phải cần nghóa bốn môn này. Trở xuống là nói về trong thể phải giải thích sơ lược. Nay y cứ vào môn hữu Ba tạng giáo mà nói về giai vị nhập đạo, tức là cách sử dụng của luận Chủ Tỳ-đàm, y cứ vào môn hữu này nói về giai vị, giải thích nghóa tịnh vô cấu, có ba ý: Lược khai ba thừa Nói Ba tạng giáo: Phật đối với sinh sinh không thể nói chẳng phải lý của Ba tạng dùng bốn tất-đàn. Y cứ vào khổ tập diệt đạo khai giáo môn ba thừa, đến ba loại căn duyên của hành nhân, để cho đồng được Niết-bàn diệt đế, cho nên kinh Pháp Hoa chép: Nói pháp Tứ đế cho người cầu Thanh văn, vượt qua sinh già bệnh chết, đạt dược Niết-bàn rốt ráo. Nói pháp mười hai nhân duyên cho người cầu Bích-chi-phật, nói sáu pháp ba-la-mật cho người cầu Bồ-tát, giúp họ đắc Bồ-đề, thành Nhất thiết trí. Nếu giáo môn của Thanh văn Tiểu thừa thì khổ đế đứng đầu, quán Tứ đế nhập đạo phát chân vô lậu, dứt kết sử chứng La-hán, đầy đủ Ba minh và tám giải thoát. Đã không có lòng Từ bi độ chúng sinh hiện đời nhập Niết-bàn, cho nên luận Đại Trí Độ chép: Như con hươu bị người thợ săn bao vây, nó sợ hãi nhảy ra khỏi lưởi, không hề quay lại nhìn bầy. Nay phán quyết giai vị của Tịnh Danh. Nếu môn thừa giáo trong Duyên giác thì tập đế là đầu, quán mười hai nhân duyên phát chân vô lậu, dứt kết sử ba cõi, trừ bỏ tập khí, đầy đủ ba minh tám giải thoát, tuy có lòng từ mà không thể độ sinh, cũng nhập Niết-bàn ngay trong đời này. Luận Đại Trí Độ chép: Như con hươu bị người thợ săn rượt đuổi nó sợ hải tự nhảy ra, tuy quay lại nhìn bầy nhưng không đứng đợi. Nay y cứ theo đây phán định giai vị của Tịnh Danh. Nếu Bồ-tát Đại thừa Từ bi hoằng thệ không bỏ chúng sinh, với tấm lòng bao la cứu giúp chúng sinh thì giáo môn dùng đạo đế làm đầu. Tu hành sáu Độ giáo hóa tất cả chúng sinh cùng ra khỏi ba cõi, thành tựu quả Phật, làm lợi ích công viên quả mãn, mới nhập Niết-bàn, cho nên luận Đại Trí Độ chép: Như con voi lớn đầu đàn bị thợ săn vây quanh, tuy gặp tên giáo tua tủa mà cũng thoát ra được. Bởi vậy, vị Đại só hoãi bão cứu giúp chúng sinh, phải y theo đây để phán quuyết giai vị của Tịnh Danh. Hỏi: Đây là nói giáo cao siêu của Đại thừa không thể nghì bàn, đâu cần nói dứt bỏ sự tệ xấu của Tiểu thừa? Đáp: Nay muốn nói pháp Tiểu thừa, phải nhân đó để nói sự xấu xa phải dứt bỏ, không điều gì mà không làm, nay lược nêu ra mười ý: Là dụng: Như Đại só Duy-ma là Trưởng giả của các quốc vương, nói pháp vô thường, bất tịnh, khổ, không. Là phá: Như phá mười vị đại đệ tử, năm trăm La-hán, như trước có cái chày đá mới có thể dùng chày. Là nhiếp thọ: Như trong thất nói thân có khổ mà không thích cầu Niết-bàn. Lại nói: Cũng không thể trái với Thanh văn, Bích-chi-phật. Là hội thông: Như phẩm hội Tông và phẩm quảng thừa trong kinh Đại phẩm nói. Là khai bí mật: Kinh Pháp Hoa chép: Quyết định hiễu rõ pháp Thanh văn là vua của các kinh. Kinh Niết-bàn chép: Khai mở mắt tuệ cho các Thanh văn Là vì người thời mạt pháp cho học Tiểu thừa: Kinh luận quán hạnh, chưa khéo thông đạt, nếu bị người ngoài, người tà kiến, người nội tà kiến phá thì liền lui sụt, nản chí. Là phá thuyết tà vạy trong thời mạt pháp: Đại thừa, Tiểu thừa dạy người hoại loại chánh giáo bán mãn của Phật. Vì sao? Như có người nói:Tỳ-đàm thấy có đắc đạo, luận Thành Thật thấy không nhập đạo. Đạo không có, không sao được nói thấy có, thấy không nhập đạo. Cho nên hai luận trình bày giáo môn hữu không Tiểu thừa của Phật, bèn thành vô dụng. Trung luận vì sao nói nghe Thanh văn nhập nghóa đệ nhất, chính là mịt mờ giáo bốn khô của Phật. Phá ngồi thiền thời mạt pháp: Nội chứng hoát nhiên, giải tuệ khai phát, hoặc đồng với Ni-kiền Tử phá giới ác hạnh, ăn phẩn tiểu, khỏa hình, cho là Đại thừa, hoặc lại trì giới ngồi thiền đồng với Uất-đầu-lam-Phất kiến, không tu phạm hạnh. Là để học nghóa một nhà thời nay: Khéo biết các thuyết ngỗn ngang trong ngoài, biết rõ giáo môn khô tươi của bậc đại Thánh. 10. Làm cho học ngồi thiền của một nhà, biết tất cả sự tà phi của trong ngoài, tinh thông Đại Tiểu thừa quán, lấy xả đắc chân, chánh nhập Phật đạo, hai minh, Ba tạng giáo, ba thừa vị khác nhau, lại chia làm ba ý: Nói về giai vị Thanh văn thừa. Nói về giai vị Duyên giác thừa Nói về giai vị Bồ-tát thừa. Nói về ba vị Thanh văn Thừa Ba tạng giáo: Nhưng Ba tạng giáo có bốn môn. Nay chính nương vào môn hữu của Tỳ-đàm giải thích. Kế nói lược môn không để giải thích giai vị. Ước về môn hữu nói về giai vị, nay chia làm hai ý: Nói về giai vị của Thất Hiền Nói về giai vị của Thất Thánh Nói về giai vị của Thất Hiền có: 1- Năm pháp Quán dừng tâm. Nói về tướng riêng của bốn Niệm xứ. 3- Tướng chung của bốn Niệm xứ Pháp noãn Pháp đảnh Pháp nhẫn Pháp thế đệ nhất, đó là giai vị của Thất Hiền. Nói thông hiền là gần với Thánh nên gọi là Hiền. + Bảy giai vị này đều là trí tợ giải của người Phi học Phi vô học, v.v…, có công năng hàng phục kiến hoặc. + Vì tợ giải này có thể phát khổ nhẫn chân minh cho nên nói gần với Thánh gọi là Hiền. Nay giải thích tên Hiền là thiện ngay thẳng, tất cả quyến thuộc của ma trời và các Phạm thiên đều tu điều lành bằng tâm mê đắm. Tất cả ngoại đạo dùng tâm tà kiến tu thiện. Điều này tuy là tu thiện, nhưng luống dối tà vạy không gọi là Trực. Nay bảy loại hành nhân của đệ tử Phật đều biết rõ lý Tứ đế sinh diệt. Biết ái luận, kiến luận đều tà vạy. Chiết phục tâm ái kiến tà vạy này, dùng trực tâm chánh tín tu các pháp lành, nên gọi là Trực thiện. + Lại nữa, tất cả ái luận giải thích đều có lý sinh diệt. Quyến thuộc ma trời và các phàm phu không thể thấy được. Bởi thế trôi lăn trong sinh tử giống như bánh xe quay vòng. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Ta xưa cùng với các thầy không thấy bốn chân đế, bởi thế đã từ lâu trôi lăn trong biển khổ sinh tử. Nay bảy loại hành nhân của Phật pháp từ nghe mà hiểu rõ biết hai loại tứ đế sinh diệt này. Cố được chánh tâm chánh trực, dùng tâm chánh trực này để tu các pháp lành cho nên trực thiện là gọi chung tên Hiền. Hỏi: Tại sao gọi là thuộc về ái lý Tứ đế sinh diệt? Đáp: Hành nhân một khi mong vào quả báo tức là thuộc về quả của ái. Có đủ ba khổ nên gọi là Khổ. Lý của khổ rõ ràng không luống dối nên gọi là Đế. Nếu đối với khổ quả này mà vô minh không hiểu rõ, mê đắm quả này, sinh ra các nghiệp ác, thì sẽ vời lấy quả báo trong ba đường khổ. Lại ái trước quả này mà khởi lên các nghiệp lành, sẽ vời lấy quả báo sinh tử trời, người, Tu-la. Hai kết nghiệp này sẽ vời lấy khổ báo sinh tử trong sáu đường và hai mươi lăm cõi, gọi chung là Tập, lý của tập chân thật không luống dối nên gọi là Đế. Nếu đối với báo thân này, tu giới định tuệ, bốn Niệm xứ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chung đến Niết-bàn gọi là Đạo. Lý của đạo chân thật nên gọi là Đế. Thuộc ái, phiền não, nghiệp thiện, bất thiện, ba cõi, hai mươi lăm cõi nhân diệt gọi là nhân phược diệt. Xả báo thân này thì không bao giờ thọ quả khổ trong ba cõi, hai mươi lăm cõi gọi là quả phược diệt. Hai loại diệt này gọi là diệt, lý của diệt chắc thật nên gọi là Đế. Hỏi: Tại sao gọi là lý thuộc kiến tứ đế sinh diệt? Đáp: Hễ chúng sinh mong vào báo thân đều có ba khổ nên gọi là khổ. Lý của khổ chân thật, không luống dối nên gọi là Đế. Mê báo thân này, khởi thân kiến, biên kiến, bốn kiến, sáu mươi hai kiến, tức là vô minh ái thủ. Do đây nếu sinh nghiệp ác thì sẽ vời lấy quả báo khổ trong ba đường. Lại do đây mà nếu khởi nghiệp lành, thì sẽ vời lấy quả khổ sinh tử cõi trời, cõi người, A-tu-la. Hai loại kết nghiệp này vời lấy quả khổ sinh tử trong sáu đường, ba cõi, hai mươi lăm cõi cho nên gọi chung là tập. Lý của tập chân thật không luống dối nên gọi là Đế. Nếu quán các kiến ô uế, thiện, bất thiện, ngã Ấm này mà tu giới định tuệ, bốn Niệm xứ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thì sẽ đạt đến Niết-bàn, gọi là Đạo. Lý của đạo chân thật không luống dối nên gọi là Đế. Nếu thân kiến và biên kiến diệt thì tất cả tám mươi tám sử phiền não nghiệp diệt, đắc quả Tu-đà-hoàn, vượt qua ba cõi, tư duy mười sử diệt thì chín mươi tám biết sử phiền não diệt, nhân của trong ba cõi hai mươi lăm cõi cũng diệt, gọi là phược diệt. Xả bỏ nghiệp báo này rốt ráo không sinh vào ba cõi, hai mươi lăm cõi, gọi là quả phược diệt. Hai loại diệt này gọi là Diệt, lý của diệt chân thật nên gọi là Đế. Nay nói các kiến, Tứ đế này, đồng thời Trường Trảo giảng thuyết cho những người mê thời mạt pháp. Giải thích chiều ngang về Tứ đế danh nghóa chân thật là ủy tất. Nói rõ chiều dọc thì chưa hẳn thấy sự sâu xa của ý này nên cho tà là chánh, cho chánh là tà, cho cạn là sâu, cho sâu là cạn, pháp thế gian và xuất thế gian lẫn lộn, không phân biệt được. Nghe giảng về ngồi thiền, nếu biết rõ ý này, thì đối với Phật pháp được chân tín rõ ràng, quy y Tam bảo, đạo tâm tự nhiên phát, chuyên cầu lìa khổ, được Niết-bàn, hoàn toàn không đắm nhiễm vào văn tự ngôn ngữ, tranh luận vô ích. Tham lợi danh ở đời là quyến thuộc quả báo. Thất hiền này, ba là ngoại phàm gọi là Càn tuệ địa, bốn là nội phàm là Tánh địa. Nếu là ngoại phàm thì trước chưa hẳn là quy y Tam bảo. Đâu thể biết ái kiến, tứ đế, năm pháp quán dừng tâm? Đều gọi là chúng sinh tà định tụ. Nếu Càn tuệ địa gọi là chúng sinh bất định tụ, hoặc tánh địa gọi là chúng sinh chánh định tụ. 1- Nói về nghóa của pháp quán dừng tâm của sơ Hiền gồm: Quán A-Na-Bát-Na Quán bất tịnh. Quán từ tâm Quán nhân duyên Quán giới phương tiện Năm pháp quán này gọi chung là dừng tâm. Đình nghóa là đình chỉ, cũng gọi là năm quán độ môn. Nếu người quy y Tam bảo, thọ giới pháp của Phật, gọi là bốn chúng đệ tử Phật. Nếu nghe giáo về tứ đế sinh diệt, do đây phát tâm Thanh văn. Muốn quán Tứ đế lìa khổ sinh tử, cầu vui Niết-bàn, chỉ dùng năm loại phiền não tán động bất định như đèn trong gió. Cần phải tu năm pháp quán, năm pháp quán là: Quán sổ tức Quán bất tịnh Quán từ tâm Quán nhân duyên Quán giới phương tiện. Hỏi: Vì sao không y theo nhiều người nói quán bất tịnh làm đầu. Đáp: Nay y theo thiền môn mà nói về thứ lớp để bệnh trước sau tùy người, không nên nhất định chấp vào thứ tự trước sau. Hỏi: Năm loại pháp quán này là đối trị năm hạng người, hay đối trị một hạng người? Đáp: Nói về chiều ngang là đối với năm người, chiều dọc là đối với một người. Một người tùy bệnh nhiều ít mà đối trị không nhất định. Năm pháp quán này, đối trị năm thứ bất thiện, chia làm năm ý: Đối trị Chuyển trị Bất chuyển trị. Kiêm trị. Vừa đối vừa chuyển, vừa không chuyển vừa kiêm trị. Đối trị: Nếu người nặng nề giáo quán thì đối trị bằng sổ tức. Người nặng nề tham dục thì đối trị bằng quán bất tịnh. người nặng nề tức giận thì đối trị bằng tu lòng từ. Người nặng nề ngu si thì đối trị bằng tu quán nhân duyên. Người nặng nề mê đắm ngã thì đối trị bằng quán giới phương tiện. Nếu hành giả tu giác quán, nghiêng nhiều về phiền não, phan duyên không trụ, phải tu sổ tức. Tùy quán sổ tức mà đối trị, tưởng ứng thì ba loại giáo quán, phiền não dứt, tâm không tán động phát khởi các thiền định. Pháp định duy trì tâm định ra vào an ổn nên gọi là đình tâm. Vì sao? Vì tu tám niệm định có ba loại: Mới tập hành, đã tập hành và tư duy đã độ. Sổ là mới tập, tùy là tập hành, quán tức là đã độ Lại nữa, sổ, tùy, quán đều gọi là thỉ tập (mới tập), được ba loại mà cõi dục chưa đạt đến đỉnh gọi là đã tập hành. Phát các Sơ thiền định gọi là đã độ. Còn bốn tâm pháp dừng như quán bất tịnh cũng phải phân biệt như thế. Tâm đã điều phục dừng lại mới có thể tập quán giống như ngọn đèn trong nhà kín. Nhập đạo căn bản không gì hơn năm pháp này. Nếu tâm không trụ, hoặc phải cần chuyển trị, bất chuyển trị mới phát khởi các công đức của thiền. Đầy đủ thứ lớp trong thiền môn phương tiện nói rõ. Nếu hành nhân tùy theo thành tâm nhất quán được dừng trụ, tức là vào địa vị Sơ hiền. Hỏi: Chỗ này vì sao không nói Tam-muội niệm Phật là năm loại ư? Đáp: Khai quán nhân duyên phát sinh thay giới phương tiện. Giới phương tiện đồng với niệm chư Phật của Tiểu thừa, cũng phá cảnh giới, ép ngặt chướng ngại. Có người nói: Nếu thực hành năm độ môn, thì không niệm danh hiệu Phật, nếu thực hành sáu Độ môn tức là niệm Phật độ. Các phần như trị v…v… làm chướng đạo. Hỏi: Nếu dùng sổ tức, bất tịnh, v…v…tâm được dừng trụ, là vị Sơ hiền. Người đời nay tu sổ tức không tu quán bất tịnh, v…v…chẳng những tâm trụ mà còn phát khởi các thứ cảnh giới thiền môn có phải là Sơ Hiền không ? Đáp: Nếu dùng tâm ái kiến tu Sơ thiền, cho đến Phi tưởng còn không phải Sơ Hiền huống chi là tâm sổ tức, bất tịnh, v…v…. Được dừng trụ mới phát các thiền sâu cạn mà gọi là Hiền, vì sao? Vì như kinh chép: Tu nhiều phước đức, thiền định, không tu trí tuệ ấy gọi là Ngu. Tu nhiều trí tuệ, không tu phước đức thiền định gọi là Cuồng. Há có thể nói người cuồng ngu là Sơ Hiền?. Nay nói Hiền giả vốn là người trực thiện. Hỏi: Thế nào gọi là tướng của người trực thiện? Đáp: Ở đây ứng với bốn nghóa để phân biệt. một là nếu người theo ái kiến phá giới, thì đây chẳng phải trực, không phải thiện cho nên không phải người hiền. Như người không có mắt, không chân, không thể đến ao mát mẻ. Hai là trì giới, thiền định mà sinh tà kiến, đây là thiện mà không trực, cũng không gọi là Hiền, như người có chân mà không có mắt cũng không thể đến ao mát mẻ. Ba là sinh tín tâm chánh kiến mà phá giới loạn tâm. Đây là trực mà không thiện, cũng không gọi là Hiền. Như người có mắt mà không có chân, cũng không thể đến ao mát mẻ được. Bốn là nếu người tin hiểu chân chánh đắc ý giáo pháp của Phật, giữ giới thanh tịnh, tu A-Na-Bát-Na, quán bất tịnh, được tâm dừng trụ mới gọi là giai vị trực, thiện sơ hiền như người chân mắt đều đủ, cho nên vào được ao mát mẻ. Hỏi: Thế nào là tín hiểu chân chánh, đắc ý giáo pháp của Phật, phân biệt được tướng? Đáp: Như Trung luận chép: Cách Phật diệt độ năm trăm năm, người trong thời tượng pháp căn độn, đắm trước vào các pháp, cầu tướng quyết định: Mười hai nhân duyên, năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, không hiểu được ý Phật, chỉ mê đắm vào văn tự. Nay gọi là người không biết được ý Phật, Phật biết chúng sinh không thể nói có nhân duyên, nên cũng có thể được nói. Phật nói chánh nhân duyên sinh diệt giáo môn, tính duyên hóa vật, ý muốn cho chúng sinh lìa khổ sinh tử được vui Niết-bàn. Nếu mê đắm văn tự, phân biệt cạnh tranh cãi cọ thì bị nhà lửa ba cõi thiêu đốt. Đây là không đắc ý Phật. Nay nói muốn biết ý Phật, nếu biết phân biệt mười ý của Ba tạng giáo môn thì nhất định thoát khổ sinh tử, được vui Niết-bàn, mười ý là mười pháp, danh mục nói đủ như trong ba quán. Nay y cứ Ba tạng giáo môn này để giải thích. Tin hiểu pháp chánh nhân duyên: Tức là biết mà không thể nói nhân duyên vô minh, sinh ra tất cả pháp, vì phá chấp của ngoại đạo nói không có nhân duyên sinh ra tất cả pháp, phá ngoại đạo nói tà nhân duyên sinh ra tất cả pháp, muôn thứ điên đảo, vọng kế nghiêng lệch. Phát tâm chân chánh: Biết sợ ngọn gió vô thường thiêu đốt thế gian, nhất tâm cầu vui Niết-bàn, không nghó đến danh lợi thế gian, như con nai ở trong lưới vây muốn nhảy ra. Khéo tu chỉ quán: Hành giả xuất thế gian như người cưỡi ngựa cũng thích cây roi. Phá các pháp biến khắp: Quán nhân duyên sinh diệt, phá tất cả, các pháp ái kiến, hý luận. Khéo biết không bít: Biết tất cả pháp về ái kiến, đều có lý về đạo diệt, nên gọi là thông, đều có khổ tập nên gọi là bít. Khéo điều địch tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo: Đối với các ái kiến bất động, mà tu bốn Niệm xứ và tám Chánh đạo. Khéo tu pháp trợ đạo: Tức là tu năm pháp quán dừng tâm, vào mười hai môn thiền, chín tưởng, tám niệm, thâm nhập các điều thiện, đối trị trợ đạo như côïng niệm xứ, duyên niệm xứ, là quán pháp. Khéo biết thứ vị: Khéo biết giải vị của Thất Hiền tâm không lẫn lộn, phá tăng thượng mạn, thành vị tăng có hổ thẹn. An nhẫn thành tựu: Nhẫn được ba chướng, bốn ma, hai giặc mạnh yếu ở trong và ngoài Thuận đạo pháp, ái không sinh, phát muôn thứ pháp lành, thuận đạo nội phàm và ngoại phàm, là tâm không yêu đắm. Hành nhân thời mạt pháp cầu Thanh văn thừa, biết mười pháp này tin hiểu rõ ràng, không mê đắm tất cả văn tự hý luận, là cầu tìm tuệ chân thật, tu năm pháp quán, dừng tâm nhập vị Sơ hiền, tức là khéo biết ý giáo lý của Phật. pháp. - Nói về giai vị biệt tưởng bốn Niệm xứ, có bảy ý: Nói về niệm xứ là con đường quan trọng vào đạo của Phật Giải thích sơ lược tên gọi bốn Niệm xứ: Phân biệt ba loại niệm xứ khác nhau: Nói về phá ba loại sáu vị giáo chủ ngoại đạo: Nói về thành ba loại La-hán. Nói về pháp quán niệm xứ. Nói về giai vị niệm xứ. Nói về niệm xứ là con đường thiết yếu vào đạo của Phật pháp: Như Đức Phật sắp Niết-bàn giữa hai cây sa-la. A-nan thưa hỏi: Sau khi Thế Tôn diệt độ, Các Tỳ-Kheo nương vào đâu mà trụ, nương vào đâu mà tu đạo? Phật đáp: Này A-nan! Nếu ta trụ thế và sau khi diệt độ, các tỳ- kheo nương vào Ba-la-đề-mộc-xoa, trụ vào niệm xứ tu đạo. Nên biết năm pháp quán dừng tâm, được nhập vào Sơ Hiền tức là nương vào thi-la thanh tịnh, gọi là giới nhiếp căn. Bởi thế nhiều người nói định cõi dục là tâm tương ưng với mười điều lành. Nếu y vào chưa đến địa, phát Sơ thiền tức là định côïng giới. Phật pháp tuy có muôn pháp môn, mà lời cuối cùng của Phật chỉ dặn dò nương vào niệm xứ để tu đạo. Nếu lìa niệm xứ, tuy là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tụng kinh hành đạo, đầu đà, ngồi thiền, nghe đọc, học rộng, giảng nói, giáo hóa, đều không được nhập chánh đạo cho nên Phật khuyên nương vào niệm xứ để tu đạo. Giải thích sơ lược về bốn Niệm xứ: Bốn Niệm xứ cũng gọi là bốn như ý chỉ, tức là quán tất cả trong Phật pháp như: Quán năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, đều quán thân thọ tâm pháp, trí tuệ chân thật. Trí tuệ chân thật: Là trí tuệ phá bốn đảo, bốn thực, bốn thức, bốn trụ, bốn ma: Niệm xứ thân. Niệm xứ thọ. Niệm xứ tâm. Niệm xứ pháp. Niệm xứ thân: Tất cả sắc Ấm trong ngoài gọi là thân. Quán trí tuệ của thân gọi là Niệm. Thấy rõ bất tịnh phá tịnh điên đảo gọi là Xứ, ấy là niệm xứ thân. Niệm xứ thọ: Tất cả thọ Ấm trong ngoài gọi là thọ. Quán trí tuệ của thọ gọi là niệm, biết thọ là khổ, phá điên đảo của lạc gọi là xứ, ấy là niệm xứ thọ. Niệm xứ tâm: Tất cả thức Ấm trong ngoài gọi là tâm. Quán trí tuệ của tâm gọi là niệm. Thấy tâm vô thường, phá sự điên đảo của thường gọi là xứ. Ấy là niệm xứ tâm. Niệm xứ pháp: Tất cả hai Ấm tưởng, hành trong ngoài và pháp vô vi nên gọi là pháp, quán trí tuệ của pháp gọi là niệm, thấy pháp là vô ngã, phá điên đảo của ngã gọi là Xứ, ấy là niệm xứ pháp. Bốn Niệm xứ này có mười hai loại quán, nghóa là trong bốn, ngoài bốn, trong ngoài bốn. Hỏi: Bốn Niệm xứ là tuệ, vì sao lại từ tên niệm thọ. Đáp: Vì sơ học dùng niệm giữ gìn tuệ, không vọng thọ, niệm duyên khác, vì tăng thượng mà theo tên niệm thọ. Nói về phân biệt ba loại niệm xứ khác nhau: Niệm xứ tánh. Niệm xứ cộng Niệm xứ duyên Niệm xứ tánh: Nói tuệ không điên đảo, như Phật nói quán tu thân, quán thân là tuệ. Niệm xứ: Làm việc không vọng thọ duyên, cho nên trừ lỗi của tự tánh, gọi là niệm xứ. Sư Nam Nhạc nói: Cũng gọi là tuệ hạnh, cũng gọi là thật quán, chánh yếu là duyên lý dứt kết sử. Niệm xứ cộng: Định vào tuệ, tướng công pháp. Như Phật thuyết: Tỳ Kheo này chứa nhóm pháp lành gọi là bốn Niệm xứ, là chánh thuyết. Sư Nam Nhạc nói: Cũng gọi là hành hạnh, cũng gọi là đắc giải quán, là pháp lành trong việc đối trị, côïng chánh đạo, dứt kiết sắc và các số, lại có thể phát các thần thông. Niệm xứ duyên: Tất cả các pháp như Phật nói: Tì kheo! tất cả bốn pháp niệm xứ là chánh nhiếp thọ cụ túc, vì duyên sơ lược. Sư Nam Nhạc nói: Lại tánh này, côïng hai loại niệm xứ, trí năng quán, cảnh sở quán hợp với nghóa biện đủ tất cả pháp, nếu quán sát phân biệt tức, là bốn biện vô ngại. Hỏi: Như Tạp Tâm nói niệm xứ côïng, dứt phiền não, chẳng trừ niệm xứ tự tánh, tuy có lược cảnh giới, nhưng không đầy đủ, không thể dứt Kết sử? Đáp: Chúng sinh căn tánh có lợi độn, độn căn, kết sử sâu dầy thì không đầy đủ, không thể dứt kết sử. Kẻ lợi căn kết sử mỏng, tuy không đủ trợ đạo, tuệ của tánh niệm xứ thì có công năng dứt kết sử. Lại như lìa tâm, rõ được bốn Niệm xứ, niệm xứ pháp dứt kết sử, không phải ba niệm xứ trước. Nay nói như Thiền kinh ghi: Ma-ha Câu-hy-la tu niệm xứ thân, quán thành thì đắc sở quả, đâu nhất định đến pháp niệm xứ. Hỏi: niệm xứ tánh chỉ nói tuệ số kém yếu làm sao dứt được kết sử? Đáp: Tuệ số không khởi riêng, há không thể dứt kết sử hay sao? Hỏi: Nếu các số tùy khởi tức là cùng nghóa? Đáp: Các số tuỳ khởi có hai loại: Chỉ là tuệ duyên lý, các số mà cho tùy khởi, đây là nói niệm xứ tánh. Tu các số thực hành pháp trợ đạo, cho nên nói niệm xứ côïng dứt kết sử. Cho nên Phật nói chứa nhóm pháp lành thuộc côïng niệm xứ, giúp chánh đạo dứt kết sử, vì tâm tạp loạn nghiêng lệch nên nói niệm xứ côïng, dứt kết sử. 4) Nói vì phá ba loại sáu vị giáo chủ ngoại đạo. Phật nói bốn Niệm xứ để vượt qua thuyết của ba loại sáu vị giáo chủ ngoại đạo, cho nên phá được tất cả ngoại đạo. Nếu hành nhân Ba thừa, tu ba loại niệm xứ được thành tựu cũng phá được tất cả ngoại đạo. Thế nào là ba loại ngoại đạo sáu vị giáo chủ? Nhất thiết trí lục sư. Thần thông lục sư. Vi-đà lục sư Nhất thiết trí lục sư dùng tâm tà thấy lý, phát sinh tà trí, biện tài vô ngại. Thần thông lục sư: Đắc thiền định của thế gian, phát sinh năm thần thông, cũng có Từ bi, sức nhẫn, lấy dao cắt thịt, chà hương vào thân tâm không yêu ghét, đều là sức dùng thiền định của mười hai môn căn bản. Vi-đà Lục Sư: Tức là học rộng nghe nhiều, thông thạo mười tám đại kinh Vi-đà, về bói tướng, y phương, thiên văn địa lý, lành dữ trong thế gian đều biết, cho nên gọi là Vi-đà lục sư. Nếu lục sư này bên trong có tất cả trí tuệ của tà. Bên ngoài có thần thông biến hóa, biết tướng lành dữ của thế gian, thông thạo tứ Vi- đà và mười tám đại kinh đều hiểu biết, vì thế đều có trí tuệ, thông hiểu, được mười sáu nước lớn cung kính như Phật. Vì muốn phá ba loại sáu vị giáo chủ ngoại đạo này, cho nên nói ba loại bốn Niệm xứ này. Niệm xứ tánh: Là để phá lục sư nhất thiết trí. Vì sao? Vì ngoại đạo đều nương vào thân kiến, biên kiến phát sinh nhất thiết trí, cho là được Niết-bàn thường lạc ngã tịnh. Đây là con đường trùng đục gỗ tình cờ được thành chữ, con trùng cũng không biết là phải chữ hay không. Nay Phật nói quán niệm xứ tánh là phá thân kiến, biên kiến này, không sinh ra bốn kiến, sáu mươi hai kiến điên đảo, bởi vậy phá lục sư nhất thiết trí. Nói về niệm xứ côïng là để phá lục sư thần thông. Ngoại đạo đối với bốn thiền căn bản phát sinh năm thần thông, định đã cạn thấp, lại không quán bất tịnh, cho nên dùng thần lực chuyển biến nên không đáng nói. Nay Phật nói niệm xứ côïng tức phát sinh bối xả thắng xứ, nhất thiết xứ, chín định thứ lớp, Tam-muội sư tử phấn tấn siêu việt phát sinh các thần thông thiền định, đã quán sâu, sức thực hành lớn, phát thần thông vô ngại tự tại, biến hóa vô cùng để đẩy trừ các ngoại đạo. Sự như bàn tay. Bởi thế, Thân Tử hàng phục lao nhọc để độ, sai Mục-liên biến hóa thành con sông nhận chìm các ngoại đạo. Đều là quán niệm xứ côïng thành tựu thần thông. Nói về quán niệm xứ duyên để phá ngoại đạo Vi-đà, bốn Vi- đà, mười tám đại kinh đều nói về việc trời, người thích nói về kiến chấp, luận cạn thấp của thế gian, Phật nói Ba tạng xuất thế gian, hoặc danh, hoặc nghóa mà kinh sách kia không ghi chép được. Phật nói quán niệm xứ duyên, duyên với Ba tạng giáo môn của Phật nói, đại lý pháp môn danh nghóa xuất thế gian, nếu tướng đối chẳng lẽ là cái thấy nghe của ngoại đạo, cho nên quán niệm xứ duyên là để phá ngoại đạo Vi-đà. <篇> TỨ GIÁO NGHÓA <卷>QUYỂN 5 Nói về ba loại niệm xứ thành ba loại La-hán. Nếu chỉ tu niệm xứ tánh thì thành tựu La-hán tuệ giải thoát. Niệm xứ cộng thành La-hán câu giải thoát Niệm xứ duyên thành La-hán vô ngại giải thoát. Vì sao? Vì niệm xứ tánh tức là trí tuệ duyên lý, niệm xứ tương ưng phát chân vô lậu, thì thành tựu La-hán tuệ giải thoát. Niệm xứ cộng côïng thiên năm Ấm thành tựu bối xả cho đến Tam-muội siêu việt, nguyện trí đảnh thiền. Như thế trợ đạo côïng chánh đạo, phát chân vô lậu, liền được ba minh sáu thông, đầy đủ tám giải thoát, thành A-la-hán câu giải thoát. Nếu duyên niệm xứ tức là duyên ngôn giáo của Phật, rõ tất cả Ấm, nhập, giới, hai loại niệm xứ tánh và côïng, năng quán, sở quán, danh nghóa, nếu ở trong thiền định quán danh nghóa này liền phát khởi bốn biện vô ngại gọi là đại A-la-hán vô ngại giải thoát. Hỏi: Cái tên “tuệ câu” do bộ Đàm-Vô-Đức nói, chẳng phải các nhà sử dụng phải chăng? Đáp: Ba tạng giáo đều dùng không lỗi. Lại nữa, kệ Tạp Tâm chép: Tuệ giải thoát nên biết không đắc định diệt tận. Nếu đắc định diệt tận nên biết là câu giải thoát. Kệ này nói về thời và không phải thời có tuệ câu khác nhau. Hỏi: Không nên nói rộng vô ngại giải thoát, sao chín loại La-hán không có danh mục này? Đáp: Đây trích trong luận Trí Độ, nói rõ muốn kết tập pháp tạng phải nhóm họp một ngàn La-hán đều đắc côïng giải thoát, vô ngại giải thoát như Bích-chi-phật sinh vào thời không có Phật, tuy đắc đạo Duyên giác đầy đủ ba minh, tám giải thoát, sáu thần thông vì không nghe Phật nói pháp cho nên không được bốn biện tài vô ngại. Nếu muốn báo đáp ân đức của tín thí chỉ hiện mười tám món biến hóa, huống chi La-hán không nghe Ba tạng giáo của Phật nói mà tự phát được bốn biện tài vô ngại, giải thích Phật pháp không ngưng trệ. Nói về pháp quán niệm xứ, pháp quán niệm xứ có ba loại: Niệm xứ tánh: Luận Đại Trí Độ chép: niệm xứ tánh là tánh của trí tuệ, quán trí tuệ của thân là niệm xứ thân; Thọ, Tâm, Pháp cũng giống như thế, cách giải thích khác nhau, có khi chỉ lấy tuệ số làm tánh trí tuệ, tức là niệm xứ tánh cho nên kệ Tạp Tâm chép: Tướng bất tịnh thân này Tánh chân thật thường định Các thọ và tâm pháp Cũng lại nói như thế. Quán biệt tưởng niệm xứ tánh, phá bốn điên đảo, có hai loại. Phá ái Phá kiến. Phá ái niệm xứ tánh: Phàm loài hữu tình không yêu đắm quả báo năm Ấm, và y báo. Quán nhất thân niệm xứ. Quán nội thân này có năm thứ bất tịnh: Chỗ sinh bất tịnh Hạt giống bất tịnh Tự tướng bất tịnh Tư tánh bất tịnh Rốt ráo bất tịnh. Quán chỗ sinh bất tịnh: Trong thai người nữ, sinh tạng và thục tạng trụ mười tháng Hạt giống bất tịnh: Lấy tinh huyết của người khác hợp thành hạt giống. Tự tướng bất tịnh: Thân lắm thứ bất tịnh, chín lỗ bài tiết. Tự tánh bất tịnh: Quán thân bất tịnh: Như người mắt sáng mở kho thấy lúa gạo, ba mươi sáu vật bất tịnh tràn lan. Rốt ráo bất tịnh: Thân nầøy nếu chết sình thối, giòi trùng dục khoét, máu huyết tràn lan, thật đáng nhờm gớm. Nếu thấy năm loại bất tịnh phá tịnh điên đảo, gọi là nội thân niệm xứ, quán trong thân, ngoài thân cũng như thế. Niệm xứ thọ: Quán trong có sáu căn ngoài có sáu trần, căn trần hợp cho nên sinh ra sáu thức. Sáu thức sinh ra ba thọ: thọ khổ, thọ lạc, thọ bất khổ bất lạc. Quán thọ khổ là tướng khổ khổ. quán thọ lạc là tướng hoại khổ, quán thọ bất khổ bất lạc là tướng hành khổ. Nếu ý căn sinh ra ba thọ thì đều là khổ, tức là phá lạc điên đảo gọi là nội thọ niệm xứ. Ngoại thọ, nội ngoại thọ cũng giống như thế. Niệm xứ tâm: Quán ý thức này là hữu vi, thuộc nhân duyên cho nên vô thường. Trước không nay có, nay có sau không, trong sát-na niệm niệm sinh diệt cho nên vô thường, tức phá thường điên đảo, gọi là nội tâm niệm xứ. Ngoại tâm, nội ngoại tâm cũng giống như vậy. Pháp niệm xứ: Quán hành Ấm và tưởng Ấm do nhân duyên hoà hợp, không có tự tánh. Sinh chỉ có pháp sinh khởi, diệt chỉ có pháp diệt, không có nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả, sáu mươi tri kiến đều không thật có. Phá ngã điên đảo gọi là nội pháp điên đảo. Ngoại pháp, nội ngoại pháp cũng giống như vậy. Luận Thành Thật, luận Đại Trí Độ nói như thế, chính là sự ban đầu của niệm xứ Tánh. 2) Niệm xứ phá kiến tánh: Tức là quán thân kiến, biên kiến, ô uế vô ký năm Ấm tức là Ấm ngã lìa Ấm ngã, trong Ấm có ngã trong ngã có Ấm, tìm ngã không thật có, phá hai mươi loại thân kiến gọi là Thánh hạnh. Kế quán riêng thân kiến, biến kiến, năm Ấm. Gọi tánh thân bốn Niệm xứ tức là tánh của sắc. Sắc hoặc thô, hoặc tế, tất cả đều bất tịnh. Sắc thô tức là nhân thân, thế giới. Sắc tế là vật cực nhỏ. Nếu là sắc tế và thô là thường, thì kiến chấp đều nương vào sắc. Nếu là sắc thô tế vô thường vừa thường vừa vô thường, phi thường phi vô thường là kiến chấp đều nương vào sắc, thường tức có kiến chấp, vô thường thì không có kiến chấp, vừa thường vừa vô thường, tức kiến chấp vừa có vừa không, phi thường phi vô thường, tức là kiến chấp phi hữu phi vô. Bốn kiến như thế đều nương vào sắc, tức là bốn biên kiến sắc Ấm. Nếu không biết thân kiến, biên kiến sắc Ấm, thì sinh ra các hiểu biết chấp trước hý luận, tranh nhau từ kiến chấp mà khởi các phiền não kết sử. Rồi nhân kết sử mà sinh các nghiệp ác. Hoặc nhân kết sử mà khởi các nghiệp lành. Kết sử trôi lăn trong ba cõi hai mươi lăm cõi, sinh tử không có bờ mé, vì sao không biết tướng của biên kiến sắc Ấm. Nếu là ngoại đạo mù mịt cho nên không tự biết các sắc về thân kiến, biên kiến ô uế, đều nói là sự thật còn là nói dối, chấp là Niết-bàn thường lạc ngã tịnh. Ở đây không nói được, cho nên người học vốn ngồi thiền, Phật pháp thời mạt, cũng mê mờ sắc Ấm, biên kiến, thân kiến này. Vì sao? Vì như các sư A-tỳ-đàm nói: Tỳ-đàm là kiếp hữu, đắc đạo, phân tách sắc thật nhỏ như cát bụi, không thể phá tận kiến, trần tế này có lý tức đắc đạo. Nay cho là đây còn là sắc về biên kiến, hữu kiến, ô uế. Nếu do hữu kiến sinh giải, khởi các kết nghiệp trôi lăn sinh tử, sự đồng với thuyết trước, đâu liên quan đến đạo, cho nên luận Trí Độ chép: Nếu không đắc phương tiện Bát-nhã, nhập A-tỳ-đàm, thì rơi vào trong các hữu. Lại các sư luận Thành Thật đều nói: Thấy sắc nhổ gần với hư không là có, đây là quán điều tâm, không thể đắc đạo. Nếu phân tách lân hư tế trần không thì đắc thật pháp không. Vì thấy không cho nên sẽ đắc đạo. Nay cho là nếu thấy lân hư sắc là không, chỉ là thấy thân kiến, biên kiến ô uế, sắc Ấm. Nếu thấy sinh giải này khởi các kết nghiệp, trôi lăn sinh tử, sự đồng với thuyết trước, có liên quan gì đến đạo, cho nên luận Trí Độ chép: Không đắc phương tiện Bát-nhã, nếu nhập vào cửa không thì rơi vào trong cái không Côn Lặc chép: Thấy sắc lân hư trần vừa có vừa không thì nhập đạo, lỗi đồng với thuyết trước. Luận đã không đến xứ này, bất luận có thể mở mang truyền bá, không hệ phược mà nêu ra được. Nhưng luận Trí Độ chép: Nếu không đắc phương tiện Bát-nhã thì rơi vào có và không. Nhưng hiểu các Tam luận sư, hoặc nói: Đạo chẳng phải có, chẳng phải không, đâu hẳn Tỳ-đàm thấy sắc lân hư tế có đắc đạo. Thành luận lại đâu chợt nói thấy lân hư tế sắc không mà đắc đạo. Nay hỏi như thế, thấy chẳng phải không, chẳng phải hữu là đắc đạo hay không? Nếu nói đắc đạo thì vì sao Trung luận chép: Nếu nói phi hữu phi vô ấy gọi là luận ngu si. Đây là sắc về phi hữu phi vô, biên kiến ô uế đâu liên quan đến đạo. Đáp: Dùng phi hữu phi vô phá hữu vô, hữu vô đã phá thì đâu có sự tồn tại của phi hữu phi vô. Chánh đạo rốt ráo thanh tịnh không nói, không khai thị. Hỏi: Nếu như thế thì với Trường Trảo và lão tử, rõ ràng không thể nói chẳng khác? Đáp: Nay một nhà rõ tánh niệm xứ thân không phải như vậy. Nếu không thấy sắc Ấm phi hữu phi vô, ô uế, lý Tứ đế gọi là luận ngu si. Nếu biết đây là sắc ô uế thì gọi là tánh niệm xứ thân, tức khai ba môn niệm xứ, bốn môn niệm xứ, khai ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhân ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thấy Tứ đế sinh diệt, đắc vắng lặng Niết-bàn, tức là thấy có đắc đạo. Ấy gọi là đối với các kiến chấp thì bất động, mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nếu biết sắc là phi hữu phi vô ô uế, như huyễn như hóa, rốt ráo không thật có, vốn tự bất sinh, tức là Ma-ha-diễn nói niệm xứ thân đầy đủ tất cả Phật pháp như luận đại Trí Độ chép. Kinh này nói: Đối với các kiến chấp không lay động, mà tu hành ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây là an tọa. Lại đâu cần xả phi hữu phi vô cho hết sạch không thể nói là đắc đạo. Cho nên kinh Tư Ích chép: Thí như có người muốn xả bỏ hư không, cuối cùng cũng chẳng lìa hư không, lại muốn tìm hư không, cuối cùng cũng không được hư không. Nếu chẳng thấy đạo Đại thừa, Tiểu thừa trong phi hữu phi không. Cũng không biết đạo Đại thừa và Tiểu thừa trong tận tịnh không thể nói. Tuy là tuệ giải rõ ràng cuối cùng là thế trí biện thông, không tránh khỏi kết nghiệp trôi lăn sinh tử đồng nói ở trước. Nếu biết thân kiến, biên kiến, bốn kiến, sáu mươi hai kiến đều là sắc Ấm ô uế tức là quán sắc bất tịnh phá điên đảo của tịnh gọi là niệm xứ thân. Niệm xứ thọ: Nếu quán thọ là thường, kiến chấp nầøy nương vào thọ, thọ vô thường, vừa thường, vừa vô thường, phi thường phi vô thường bốn kiến này đều nương vào thọ tức là bốn thọ Ấm biên kiến. Một thọ đều có ba thọ, ba thọ đều khổ, phá điên đảo của lạc gọi là niệm xứ thọ. Quán ba tâm niệm xứ: Nếu quán tâm là thường kiến, chấp này nương vào thức, tâm vô thường, vừa thường vừa vô thường, phi thường phi vô thường. Kiến chấp này đều nương vào thức tức là bốn biên kiến thức Ấm. Bốn loại biên kiến thức Ấm đều là vô thường phá điên đảo thường. Đây gọi là niệm xứ tâm. Niệm xứ pháp: Nếu quán tưởng Ấm và hành Ấm là thường, kiến chấp này nương vào tưởng hành Ấm, pháp vô thường, vừa thường vừa vô thường, phi thường phi vô thường. Kiến chấp nầøy đều nương tưởng Ấm và hành Ấm, tức là bốn biên kiến, tưởng Ấm và hành Ấm. Bốn loại kiến chấp và hai Ấm: Tướng hành đều vô ngã, là phá điên đảo của ngã, gọi là niệm xứ pháp. Quán tánh bốn Niệm xứ này, quả báo năm Ấm, hai kiến, thân kiến và biên kiến đơn phức đầy đủ, cho đến năm Ấm không thể nói, vô ký ô uế. Nếu phá bốn điên đảo tức phá mười bốn nạn, hàng phục sáu mươi hai kiến, tám mươi tám kết sử và do kiến chấp sinh ra tất cả thiện và bất thiện, nghiệp sinh tử trong hai mươi lăm cõi. Lại các kiến chấp này chưa hẳn đều do ngoại đạo sinh ra. Nếu trong Phật pháp học vấn ngồi thiền, phát các thứ tri kiến, tranh cãi đúng sai, đều là thân kiến, biên kiến, năm Ấm ô uế, khởi các kiến chấp, hý luận như thế phá cái thấy không chân thật trong tuệ nhãn. Nếu bất giác bất tri, không thể dùng quán tánh bốn Niệm xứ. Quán năm Ấm này, để phá bốn điên đảo. Thì khởi các kiến chấp gây ra các nghiệp ác, hoặc dùng tâm kiến chấp tu thiện tức là ngoại đạo. Ý này khó thấy Phật pháp, học hỏi ngồi thiền. Con người cần phải suy nghó tốt điều ấy. Nếu giác biết dùng niệm xứ Tánh, quán sát như trước phá bốn điên đảo, có thể sinh pháp noãn. Luận Trí Độ chép: Nếu trong pháp hữu vi không nhớ nghó chân chánh được, không sinh pháp noãn hữu vô là xứ. Luận Trường Trảo thông minh học rộng, cho rằng tất cả pháp thể chuyển đổi được, tất cả luận phá được, không một pháp nào thật có, tự nói đắc thật tướng các pháp còn mê niệm xứ này. Bởi thế Như Lai dùng biệt tưởng niệm xứ tánh để hỏi, tức phá ái mạn, đắc pháp nhãn thanh tịnh, nên biết biệt tưởng niệm xứ tánh này là cửa quan trọng để nhập đạo. Nếu người lợi căn tu niệm xứ tánh này, quán biết rõ ràng thì sẽ phát chân vô lậu, cho nên Phật khuyên các Tỳ-kheo phải nương theo niệm xứ tu đạo. Nếu chúng sinh thời mạt pháp ngồi thiền giảng nói học nghóa nầøy tức là Tỳ-đàm thấy có đắc đạo là ý này. Nếu người mê điều này dù cho nói phi hữu phi không, rốt ráo không thể nói, đều là luận ngu si, sự đồng với thuyết trên, lỗi của Trường Trảo ý ở đây. Hỏi: Nếu niệm xứ tánh dứt hẳn sự huyền diệu của kinh luận như thế, vì sao ý không phải là thuyết này? Đáp: Lúc Phật còn tại thế, người bấy giờ căn tánh lanh lợi, sau khi Thế Tôn diệt độ trong thời tượng pháp còn có người đắc đạo, kinh luận đâu cần nói, lại nữa kinh luận Tây Độ đều sang đến. Lại nữa, dẫn văn kinh luận trên chẳng phải ý của Phật và Bồ-tát. Kế nói quán Niệm Xứ côïng: luận Đại Trí Độ nói quán thân là khổ, nhân duyên sinh đạo, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu. Niệm xứ thọ tâm pháp cũng giống như vậy, cách giải thì khác nhau. Có Sư giải thích rằng: Côïng thiện năm Ấm, các pháp tâm sở Thiện hợp nói rõ niệm xứ tâm, như Sư Nam Nhạc giải thích tức là chín tưởng bối xả thắng xứ. Các quán môn đối trị trợ giúp chánh đạo, mở ba giải thoát nên gọi là niệm xứ côïng. Cho nên kinh nói cũng phải niệm pháp không, tu tâm quán bất tịnh. ấy gọi là cam lộ quán đảnh phục dược của các Như Lai, tâm không ưu não được đến bờ Niết-bàn. Đây chính là văn của bốn Niệm xứ. Nói pháp không là Tỳ-đàm Hữu môn, chỉ quán sinh không gọi là Không. Tu tâm quán bất tịnh tức là sơ bối xả, không hoại sắc tướng trong ngoài, bởi thế tâm bất tịnh, quán sắc bên ngoài gọi là sơ bối xả, từ sơ bối xả tu quán bất tịnh, quán bất tịnh có hai loại: Tiểu quán bất tịnh Đại quán bất tịnh Phá điên đảo của tịnh, bên trong không có sắc tướng nhập hai bối xả, cho đến thành tựu tám bối xả, tám thắng xứ, mười một thiết xứ, chín định thứ lớp Tam-muội sư tử phấn tấn siêu việt, quán cõi dục nhập Sơ thiền, đều thấy bất tịnh phá điên đảo của tịnh, ấy gọi là quán côïng niệm xứ thân; niệm xứ thọ, tâm, pháp cũng giống như thế. Lại nói về quán niệm xứ duyên: Luận Trí Độ chép: Tất cả sắc pháp gọi là Thân, mười nhập và một nhập tiểu phần gọi là Thân. Sáu thứ thọ làm thọ, sáu thức làm tâm, tưởng Ấm và hành Ấm cùng ba vô vi gọi là Pháp, cách giải thích khác nhau. Có Sư giải thích rằng: Chung tất cả cảnh giới sở quán đều gọi là quán niệm xứ duyên, có người nói: Cảnh giới mười hai nhân duyên, có người nói cảnh giới sở duyên Từ bi. Sư Nam Nhạc giải thích: Duyên là Phật nói sở thuyên của giáo, tất cả Ấm, nhập giới, bốn đế, sự lý danh nghóa, ngôn ngữ, âm từ, nhân quả, thể dụng, quán đạt vô ngại, có công năng phát sinh ra bốn biện tài vô ngại. Đối với tất cả sắc pháp tâm không ngăn ngại, thành tựu giải thoát vô ngại, ấy là niệm xứ duyên quán. nhau. Nói về giai vị biệt tưởng bốn Niệm xứ có ba thứ căn tánh khác Nếu tuệ giải thoát căn tánh biệt tưởng bốn Niệm xứ chỉ tu niệm xứ tánh, hoặc câu giải thoát căn tánh niệm xứ tu tánh, cũng tu niệm xứ côïng như vô ngại giải thoát căn tánh đều tu ba loại niệm xứ thành biệt tưởng niệm xứ. Nếu đối với biệt tưởng niệm xứ, sinh ra bốn loại tinh tấn gọi là bốn Chánh cần, tu bốn thứ định gọi là từ như y túc. Năm loại pháp thiện sinh ra gọi là Căn, pháp lành thêm lớn ngăn chặn các phiền não, gọi là lực, phân biệt đạo dụng gọi là bảy phần giác, an ổn thực hành trong đạo gọi là tám Chánh đạo. Nếu nhập vào tám Chánh đạo thì quán Tứ đế thành biệt tưởng bốn Niệm xứ. Nói về giai vị tổng tưởng bốn Niệm xứ: Có người nói: niệm xứ cộng chính là tổng tưởng niệm xứ, nay cho là không phải như vậy, nên làm bốn câu phân biệt: Cảnh riêng, quán cũng riêng Cảnh riêng mà quán chung Cảnh chung mà quán riêng Quán chung cảnh cũng chung. Cảnh riêng quán cũng riêng: Chính là giai vị biệt tưởng tánh bốn Niệm xứ. Cảnh riêng mà quán chung. Cảnh chung mà quán riêng, đây chính là phương tiện của tổng tưởng bốn Niệm xứ. Cảnh chung quán chung nếu quán này thành tức là giai vị của tổng tưởng bốn Niệm xứ. Nay nói về cảnh chung quán chung, chính là bảy loại trên, nói về quán năm Ấm của niệm xứ tánh. Thực hành niệm xứ thân: Quán thân này ô uế bất tịnh, khổ, vô thường vô ngã, phá điên đảo của tịnh và ba điên đảo, đó gọi là tổng tưởng tánh niệm xứ thân. Quán chung niệm xứ thân, hoặc chung hai Ấm, hoặc chung ba Ấm, hoặc chung bốn Ấm, hoặc chung năm Ấm, giải thích đầy đủ thọ, tâm, pháp cũng giống như thế. Tổng tưởng niệm xứ côïng, Tổng tưởng niệm xứ duyên cũng có thể giải thích như thế, cho nên gọi là giai vị Tổng bốn Niệm xứ. Giai vị này cũng có ba loại văn tánh. Loại biệt tướng niệm xứ có thể biết. Nếu có phương tiện thì nhập vào giai vị tổng tưởng niệm xứ. Nếu không có phương tiện thì không thể nhập vào giai vị tổng tưởng niệm xứ. Vì sao có phương tiện? Nếu đối với tổng tưởng niệm xứ, mà tu tổng tưởng đầy đủ, chánh cần, như ý túc, năm căn, năm lực, bảy Giác chi, tám Chánh đạo đều như ở trong tánh bốn Niệm xứ nói. Nhưng lấy tướng chung của pháp lành, sâu tế làm dị. Nếu an ổn thực hành trong tám Chánh đạo thì quán Tứ đế là đắc tánh niệm xứ pháp, cho nên sẽ sinh ra pháp noãn. Luận Trí Độ chép: Thực hành trong tám Chánh đạo, ban đầu được năm Ấm thiện hữu lậu gọi là pháp noãn. Nên biết người có phương tiện đã đắc ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Hỏi: Tám Chánh đạo, kiến đạo, bảy Giác chi tu đạo, vì sao nay nói đắc trong giai vị niệm xứ? Đáp: Luận Tỳ-Bà-Sa chép: Nếu tám Chánh đạo ở trước, bảy Giác chi ở sau, quyết định là vô lậu. Nếu bảy Giác chi ở trước, tám Chánh đạo ở sau thì chung hữu lậu và vô lậu. Vì vị Tam hiền nầøy đều gọi là Càn tuệ địa. Chưa đắc năm Ấm thiện hữu lậu, giống như làm cho nước định lắng. Nước định lắng mà chưa thấm nên gọi là Càn, nhưng phải có quán năng hành mới hàng phục được các kiến chấp, cho nên gọi là Tuệ, giữ gìn sẽ sinh ra pháp lành nên gọi là Tuệ, cho nên gọi là Càn tuệ địa, cũng gọi là ngoại phàm nhân. Nói về pháp noãn: Là năm Ấm thiện, là tánh trí tuệ, sinh ra lửa Thánh trí nên gọi là pháp noãn. Hành giả nhờ vào thiện phương tiện Tổng tưởng bốn Niệm xứ. Tánh côïng duyên niệm xứ pháp nương vào định sáu địa. Cù-Bà-sa nói: pháp noãn cũng nương vào Thất địa. Sơ phát năm Ấm thiện hữu lậu, trí giống như giải, được phần khí của mười sáu lửa trí, nên gọi là Noãn, cũng là bốn Chánh cần. Thí như lấy lửa nếu hơi Ấm phát ra thì có tướng khói. Dụng quán niệm xứ tìm cảnh năm Ấm phát ra hơi Ấm trí tuệ, sinh khởi khói chánh cần nên gọi là pháp noãn. Lại như nước mùa đông, khí dương mùa Xuân đọng thì có tướng tiêu tan, dung hòa. Pháp noãn giải thoát, thân kiến, biên kiến, sáu mươi hai kiến. Nước chấp tiêu dần, cho nên kinh Niết-bàn chép: Người đắc pháp Noãn, người quán ba mươi bảy phẩm trợ đạo đệ tử ta thì có, ngoại đạo thì không. Vì Phật pháp có quán biệt tưởng, tổng tưởng bốn Niệm xứ, phá được tất cả các kiến chấp điên đảo, cho nên đắc pháp noãn, mười tám loại lục sư tuy họ đều xưng là bậc Nhất Thiết trí, nhưng chỉ hý luận phá tuệ nhãn, không thấy tướng chân thật. Kinh Pháp Hoa chép: Đắm sâu vào pháp luống dối, chấp chặt không thể bỏ, ngã mạn, tự cao, dua nịnh, tâm không thật, trong ngàn muôn ức kiếp không nghe danh tự Phật, cũng không nghe chánh pháp. Như thế khó độ. Bởi vậy, ngài Xá-lợi-phất: Ta vì lập phương tiện, nói dứt các đường khổ. nên biết ngoại đạo chấp vào tà kiến tội chướng sâu nặng như thế đâu được sinh pháp noãn? Thời mạt pháp có nhiều người học vấn ngồi thiền, không thể tu tập niệm xứ như thế. Người chấp trước, cạnh tranh cũng đồng có lỗi với ngoại đạo, còn không thể sinh ra điều lành của pháp noãn, công đức Đại thừa không thể phát, nay lược nói giai vị pháp noãn xong. Nói về giai vị của pháp đảnh: Cũng là năm Ấm thiện, cũng là tánh trí tuệ ở trong pháp noãn nên gọi là Đảnh. Chứng pháp noãn rồi, dùng phương tiện chân chánh, ức niệm chân chánh, siêng tu tăng tiến gốc lành noãn pháp, y theo định Lục địa, cũng nương vào Thất địa. Nếu pháp noãn tăng trưởng, kế sinh ra gốc lành thì gọi pháp đảnh, duyên Tứ đế, mười sáu hạnh đắc định bốn Như ý túc, thấy bốn đế rõ ràng, như lên đỉnh núi nhìn khắp bốn phương, đều thấy rõ ràng nên gọi là Đảnh pháp. Nếu sinh ra pháp ái tức là đảnh đọa. Nói về giai vị của Nhẫn: Cũng là năm Ấm thiện, cũng là tánh trí tuệ, đối với bốn đế kham nhẫn dục lạc (ưa thích). Nên gọi là giai nhẫn pháp. Đối với giai vị của pháp Đảnh dùng phương tiện chân chánh, siêng tu tăng tiến gốc lành đảnh pháp, nương vào định Lục địa. Nếu gốc lành pháp đảnh tăng tiến thì sinh ra nhẫn nhu thuận, cũng duyên Tứ đế, mười sáu hành. Bấy giờ, năm loại gốc lành, tín, tấn, niệm, định, tuệ, đều được thành căn. Dùng tuệ căn đối với bốn Thánh đế, kham nhẫn ưa thích nên gọi là Nhẫn pháp. Pháp nhẫn có ba phẩm: Hạ nhẫn: Đối với mười sáu hành, quán pháp rõ ràng. Trung nhẫn: Là mười phen xúc quán. Thượng nhẫn: Chỉ quán cái khổ của cõi dục. Bốn hành dưới tùy theo quán mỗi hành, nếu hai phẩm nhẫn trung và hạ, tuy khởi phiền não, nghiệp ác mà không chịu quả báo khổ trong ba đường. Do chịu quả báo khổ trăm ngàn đời ở cõi trời, cõi người, nếu phẩm Nhẫn trên thành tựu, chỉ có nghiệp báo bảy đời ở trời, người, tăng lên một sát-na thì nhập pháp thế đệ nhất. Hỏi: Noãn, Đảnh, cũng kham nhẫn, vì sao không gọi là Kham nhẫn? Đáp: Nếu luận chung bốn gốc lành cũng gọi là Tứ nhẫn. Nhưng pháp nhẫn không thối, được tên nhân riêng. Nếu pháp noãn gặp nhân duyên xấu mà lui sụt, sẽ sinh ra năm tội nghịch, phỉ báng kinh Phương Đẳng, làm nhất-xiển-đề đọa địa ngục Vô gián. Nếu pháp đảnh gặp nhân duyên xấu mà thối lui, tuy không cắt đứt gốc lành vẫn gây ra các năm tội nghịch, v…v…Nay trí tuệ của pháp Nhẫn này mạnh hoặc yếu nhưng các điều ác không thể lay động được, vì năng lực nhẫn mạnh, nên đối với tất cả tâm ác không thường duyên diệt, như sư tử đầu đàn các bầy thú đều tránh xa. Hỏi: Nếu người Noãn Đãnh lui sụt thì vì sao gọi là Tánh địa? Đáp: Người này tuy làm ác, đọa địa ngục. Nhưng vừa vào chịu tội xong rồi, thì không vào chịu tội trở lại nữa. Vì có gốc lành tánh địa cho nên sẽ đắc quả Thánh. Cho nên kinh nói: Thà làm Điều-đạt chứ không làm Uất-Đầu-lam-phất, Điều-đạt gây ra ba tội nghịch đọa địa ngục, rồi sinh lên làm người đắc quả Bích-Chi-phật, các căn lanh lợi hơn ngài Xá-lợi-phất. Nói về giai vị pháp Thế đệ nhất: Đối với sở đắc của phàm phu gốc lành tối thắng, gọi là pháp đệ nhất thế gian. Cũng là năm Ấm thiện hữu lậu, cũng là tánh trí tuệ. Trên nhẫn một sát-na nương vào định Lục địa vì sinh gốc lành tối thắng trong sát-na nên gọi là pháp đệ nhất thế gian. Một sát-na này đầy đủ khổ năm lực. Bốn hành dưới tùy duyên một hành một sát-na không trụ, cho nên giống như kiến đạo. Vì sao? Vì hành nhân có hai loại: Ái hành Kiến hành. Ái hành có hai loại: 1/ Ngã mạn hành 2/ Giải đãi tăng kiến hành. Cũng có hai loại: Là ngã và ngã sở. Người mê đắm ngã mạn, tu hành vô thường, nhập pháp đệ nhất thế gian. Người giải đãi tăng thêm: Thì tu khổ hạnh nhập. Người mê đắm ngã mạn tu vô ngã hạnh nhập. Người mê đắm ngã sở: Tu hạnh không nhập, tu Tổng tưởng niệm xứ kia thứ lớp sinh tâm quyết định, chín phẩm thiện hữu thế gian hạ hạ, hạ trung, hạ thượng gọi là pháp noãn. Trung hạ, trung trung gọi là pháp đảnh. Thượng thượng, thượng hạ, thượng trung gọi là pháp nhẫn. Thượng thượng gọi là pháp đệ nhất thế gian. Nếu quán gốc lành như năm Ấm vô thường gọi là pháp noãn. Quán công đức Tam bảo gọi là pháp đảnh. Quán sát Thánh đế gọi là pháp nhẫn. Quán khổ Thánh đế, thứ lớp Thánh đạo gọi là pháp đệ nhất thế gian. Pháp noãn hoặc pháp thối pháp xả, hoặc qua đời xả, hoặc qua cõi dục xả, pháp đảnh cũng giống như thế, pháp Nhẫn không có pháp thối xả, ngoài ra hai xả còn lại đồng ở trên. Pháp thế đệ nhất trong một sát-na không xả bỏ. Lại nữa, người có bốn gốc lành này đều dùng tánh niệm xứ côïng duyên pháp. Tu đạo cũng là tên riêng của bốn Niệm xứ, tức là một được một mất, lại được nghóa thắng danh. Tỳ-Bà-Sa giải thích pháp thế đệ nhất, có mấy mươi nhà giải thích khác nhau. Danh nghóa thất hiền vô lượng, kẻ phàm phu đâu thể biết? Hỏi: Giai vị của Thất hiền trước cạn sau sâu, vì sao nghiêng về giải thích Càn tuệ địa, không phân biệt tánh địa? Đáp: Càn tuệ địa rất cạn, phân biệt như trên, đã tự khó biết, người thế gian chẳng thể lường được, chính là sơ tâm học phân phái tà chánh. Tất cả hành nhân Phật pháp, tự dùng tất cả chỗ mà người chìm trong học vấn ngồi thiền, phải lược phân biệt. nếu nhập tánh địa mở mắt tuệ, thì phàm phu chẳng thể so lường được, nói nhiều nói vọng đâu có tin theo, cho nên một nhà giảng đọc, nói pháp thì phải giải thích cặn kẽ sơ tâm. Như giai vị sâu của Thánh hiền chỉ rõ ràng mà thôi, thì cùng người ngồi thiền, biết sơ lược đại ý của Phật pháp tức phải giác ngộ vô thường, sám hối hành đạo, há có thể chạy theo những lời không cần kíp, họ muốn giảng nói để lợi vật, đắc chánh ý rõ ràng danh tướng này, có cái không thông đạt lại tự tìm hỏi. Lược nói giai vị Thất Hiền đã xong. <篇> TỨ GIÁO NGHÓA <卷>QUYỂN 6 Nói về giai vị bảy Thánh: Tùy Tín hành Tùy pháp hành Tín giải Kiến đắc Thân chứng La-hán thời giải thoát. La-hán bất thời giải thoát. Bảy giai vị này gọi chung là Thánh, lấy chánh làm nghóa, tức là luyện đạo treo gương. Khổ nhẫn nói rõ xả tánh phàm phu, đắc nhập tánh bậc Thánh, chân trí thấy lý dứt các nhân đồng loại, nên gọi là Thánh. Bảy bậc Thánh này lại có hai loại khác nhau, nghóa là Học và Vô Học. Năm loại bậc Thánh ở đầu đều là bậc hữu học, hai loại bậc Thánh sau là giai vị Vô học. Nói bậc hữu học: Bắt đầu từ Pháp khổ nhẫn phát đắc chân trí, tự như vậy mới có bậc Thánh. Có Thánh đế, có năm Ấm của hai loại hữu lậu và vô lậu, thấy dấu vết của bậc Thánh nên gọi là bậc hữu học. Đối với chân đế không tìm cầu nên gọi là bậc Vô học. Lại nói bậc Vô học: Chân trí thấy lý thông tột ba cõi, không cần học tứ chân trí. Lại, giai vị của bảy Thánh chia làm ba đạo: Kiến đạo Tu đạo Học đạo. Kiến đạo: Là tám Chánh đạo, thấy lý, dứt hoặc thấy đế, đến mười lăm tâm, như phương tiện đả phá. Tu đạo: Là bảy Giác chi tùy theo quán một đế dứt tư duy, như phương tiện bẻ sen thì tơ dứt. Vô học đạo: Như phân biệt ở trước. Nói về tùy tín hạnh vị: Tức là người độn căn nhập danh thấy đạo. Nói độn căn: Mình không có trí, chỉ nhờ vào người mà sinh giải gọi là độn. Đây là con đường phương tiện, trước tuy có niềm tin nhưng chưa phát chân thì không gọi là hạnh. Hạnh lấy con đường tiến triển làm nghóa. Từ lúc đắc khổ nhẫn thật nói mười lăm sát-na, tiến thú thấy chân nên gọi là Tùy tín hạnh. Cho nên nói chỉ có hành nhân gần, không có hành nhân xa. Lại, nếu ở trong mười lăm tâm, thì lúc qua đời không có việc ấy. Khổ pháp nhẫn: Cõi dục thấy dứt mười sử đối trị, pháp này chính là con đường vô lậu vô ngại trước tiên. Lại nữa, pháp đệ nhất thế gian, thứ lớp bất tác, bất hướng, bất hành, có thể xả bỏ tà nghiệp, tà thú tà kiến. Lại pháp đệ nhất thế gian phân biệt khổ pháp nhẫn, khởi năm thứ định: nhẫn. Địa định Hành định Duyên định Sát-na định Thứ đệ duyên định. Thứ đệ duyên định, pháp đệ nhất thế gian sau đó liền nhập khổ Kệ Tạp Tâm chép: Là sắc, vô sắc, khổ tập diệt đạo cũng giống như thế. Pháp này không xen hở nói là mười sáu tâm, mười lăm tâm thành thuộc về kiến đạo, tâm thứ mười sáu thuộc về tu đạo. Nếu cho là không đúng như vậy, như tận trí thành cũng thuộc về đạo vô học. Tín này hành nhân kiến đạo, mười lăm tâm cũng gọi là Bát nhân địa. Bát nhẫn đầy đủ, trí ít một phần tức là Tu-đà-hoàn hướng, cũng gọi là hành trung Tu-đà-hoàn. Nói về giai vị tùy pháp hành: Người lợi căn nhập danh kiến đạo. Lợi căn: Dùng trí mình thấy lý dứt kết sử nên nói là lợi. Vốn ở trong con đường phương tiện, có thể tự dụng, quán trí, quán bốn pháp chân đế, nhưng chưa phát chân, không gọi là hành. Vì pháp đệ nhất thế gian phát khổ nhẫn, rõ chân, mười lăm sát-na tiến thú thấy chân, nên gọi là Pháp hành. Phân biệt pháp hành giống như Tín hành ở trước, giải thích rất dễ biết. Nhưng kẻ độn căn nương vào người khác để hiểu, trí ít quán sát. Bậc lợi căn vận dụng nhiều trí của mình quán sát là khác. Nói về giai vị Tín giải: Tức là tín hành nhân này nhập vào tu đạo chuyển sang gọi là tín giải. Kẻ độn căn nương vào người để tiến phát hiểu chân, nên gọi là Tín giải. Người chứng quả tín giải này có ba loại: Chứng quả Tu-đà-hoàn. Chứng quả Tư-đà-hàm. Chứng quả a-na-hàm. Nói về tín giải chứng quả Tu-đà-hoàn: Con đường thứ mười sáu tương ưng với trí thì chứng quả Tu-đà- hoàn. Tu-đà-hoàn là tiếng Thiên-trúc, Hán dịch là tu tập vô lậu. Nếu Thành luận nói giống như là kiến đạo, nếu nhiều người nói nghóa, chứng quả tức nhập tu đạo, liền dùng tu đạo này giải thích nghóa tu tập vô lậu. Nếu kiến sử dứt nói sơ lược ba kết sử cùng tận, nói đủ tám mươi tám kết sử cùng tận, gọi là Tu-đà-hoàn, chịu bảy lần sinh tử không đến đời thứ tám. Nói về Tín giải chứng quả Tư-đà-hàm có hai loại: Hướng Quả Hướng: Bắt đầu sau tâm sơ quả lại tu quán mười sáu đế quán, bảy phần Bồ-đề hiện tiền, ngay đời này đạt vô lậu, dứt một phẩm phiền não, vô ngại dứt một phẩm, nhị phẩm phiền não cõi Dục vô ngại, dứt nhị phẩm đến ngũ phẩm đều là Tư-đà-hàm hướng, cũng gọi là thắng tiến Tu-đà-hoàn, y cứ điều này mà nói nhất lại. Quả: Nếu dứt hết sáu phẩm, chứng đệ lục phẩm giải thoát cõi Dục, tức quả Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm là tiếng Thiên-trúc, Hán dịch là bạc, phiền não cõi Dục chia làm chín phẩm, sáu phẩm trước dứt hết, ba phẩm sau còn, trước dứt nhiều nhưng chưa dứt ít, nên gọi là Bạc. Nói về người Tín giải chứng A-na-hàm cũng có hai loại: Hướng. Quả Hướng: Nếu dứt bảy phẩm cõi dục cho đến tám phẩm đều là A-na-hàm hướng, cũng gọi là Thắng Tiến Tư-đà-hàm, y cứ điều này để nói một hạt giống. Quả: Chín vô ngại dứt kết sử cõi Dục, chứng giải thoát thứ chín, tức a-na-hàm quả. A-na-hàm là tiếng Thiên-trúc, Hán dịch là Bất Hoàn. Người này năm kết sử phần hạ ở cõi Dục dứt hết không trở lại cõi Dục nữa, cho nên nói là Bất hoàn. Lại nữa, Tu-đà-hoàn có ba loại: Tu-đà-hoàn hành trung: Tức là Tu-đà-hoàn hướng. Tu-đà-hoàn trụ quả: Chính là Tu-đà-hoàn quả 3.Thắng tiến Tu-đà-hoàn: Cũng gọi là gia gia (nhất lai), tức là Tư-đà-hàm hướng. Tư-đà-hàm chỉ có hai loại: Trụ quả Thắng tiến. Thắng tiến Tư-đà-hàm cũng gọi là một hạt giống tức là a-na-hàm hướng. A-na-hàm cũng có hai loại: Trụ quả Thắng tiến. A-na-hàm thắng tiến, tiến dứt năm thượng phần kết sử. Gọi là kết sử sắc nhiễm, vô sắc nhiễm, tức là A-la-hán hướng. A-la-hán chỉ có một loại là Trụ quả. Hỏi: Đây là nói thứ lớp đắc quả. Tỳ-đàm nói đắc quả siêu việt làm sao phân biệt? Đáp: Nếu phàm phu dứt sáu phẩm cho đến dứt hết tám phẩm, nhập đạo thấy đế. Sau đó phát khổ nhẫn chân minh trong mười lăm tâm là Tư-đà-hàm hướng, mười sáu tâm tức chứng quả Tư-đà-hàm. Nếu lúc phàm phu trước đoạn phẩm thứ chín cõi dục cho đến vô sở hữu xứ tận. Sau đó nhập kiến đế, mười lăm tâm gọi là A-na-hàm hướng, tâm thứ mười sáu là chứng quả A-na-hàm. Đây là người siêu việt không chứng hai quả trước. Tín giải này tuy là lợi căn nhưng có năm lợi căn tánh không. Gọi là thối tư hộ trụ thắng tiến, nếu chứng quả A-na-hàm. Thì lại có năm loại bàn, tăm loại bàn. Năm loại bàn gồm: Trung bàn Sinh bàn Hành bàn Bất hành bàn Thượng lưu bàn Bảy loại bàn: là khai trung bàn làm ba loại: Tám loại bàn: Năm loại như trước cùng với hiện bàn, vô sắc bàn, và bất định bàn. Nói về giai vị kiến đắc. Pháp hành nhân chuyển nhập tu đạo gọi là kiến đắc Người lợi căn dùng trí của mình thấy pháp đắc lý, nên gọi là kiến đạo. Người kiến đắc này ở vào tư duy đạo, thứ lớp chứng ba quả, đắc hai quả siêu việt, cũng như phân biệt trong Tín giải, chỉ dùng lợi căn, không nhờ vào nghe pháp, không nương các duyên, tự có thể thấy pháp đắc lý, làm dị kiến đắc lợi căn, chỉ là căn tánh bất động. Nếu chứng quả A-na-hàm cũng có năm loại bàn, bảy loại bàn và tám loại khác nhau. Nói về giai vị thân chứng: Lại là hai người tín giải, kiến đắc, nhập tư duy đạo, dùng trí vô lậu dứt năm kết sử hạ phần, năm kết sử hạ phần cho nên phát khởi Bốn thiền, bốn định Vô sắc, tức dùng côïng niệm xứ, tu tám bối xả, tám thắng xứ, mười một thiết xứ, nhập thứ lớp chín định, ba không, hai chướng sự tánh trước đã dứt hết. Lại dứt phi tưởng sự chướng diệt duyên lý, các pháp tâm, tâm sở nhập định diệt tận, đắc định nầøy, nên gọi là thân chứng A-na-hàm, vì sao? Nhập định diệt tận, dường như pháp Niết-bàn, đặt bên trong thân, dứt tất cả trần lao ba cõi, thân chứng tưởng thọ diệt nên gọi là thân chứng. Nếu y cứ sơ quả giải hiểu thân chứng, nhưng trước đối với phàm phu dụng trí dứt kết sử, đắc bốn thiền, bốn định vô sắc, sau đó, tâm thứ mười sáu kiến đế chứng quả A-na-hàm, tức tu niệm xứ côïng. Lại từ cõi dục tu bối xả thắng xứ, nhất thiết xứ, nhập chín định thứ lớp thành thân chứng. A-na-hàm này có hai loại: Trụ quả: Chỉ là A-na-hàm Đối quả hành tướng: Tức là thắng tấn A-na-hàm, còn gọi là A-na-hàm hành hướng, tức là A-la-hán hướng nhiếp. Luận Trí Độ chép: A-na-hàm có mười một loại, năm loại A-na- hàm chính là A-na-hàm, sáu loại A-na-hàm, thuộc về A-la-hán hướng. Nên biết thân chứng A-na-hàm này tức là thắng tiến A-na-hàm, thuộc về A-la-hán hướng, chính là năm thứ bàn Na-hàm, bảy thứ bàn Na- hàm, chỉ có bàn thượng lưu. Tám thứ bàn chỉ có hiện bàn, Vô Sắc bàn như thế, A-tỳ-đàm y cứ vào Tín giải kiến đắc phân biệt số. Na-hàm có một muôn hai ngàn sáu trăm loại, nói đủ phân biệt rất phiền toái. Nói La-hán thời giải thoát: Tức là tín hành độn căn, đợi thời và các duyên đủ mới được giải thoát, nên gọi là A-la-hán thời giải thoát là tiếng Thiên-trúc, Hán không dịch, bao gồm ba nghóa: Sát tặc Bất sinh Ứng cúng Đủ ba nghóa này mới gọi là Vô học. A-la-hán có năm loại: Nghóa là Tùy tín hạnh sinh ra năm loại: Thối pháp, tư pháp, hộ pháp, một trụ pháp, và Thắng tiến, Đắc hai trí kia, các kiến tận trí, vô học trí. Nếu dùng Tam-muội Kim Cương, đối với chín phẩm phi tưởng, hoặc nghiệp, hoặc nghiệp dứt hết, lần lượt một sát-na chứng phi tưởng giải thoát tận trí thứ chín, lần lượt một sát-na đắc cái thấy Vô học, người kia hoặc thời thối, không nói đắc trí vô sinh của năm loại La-hán này, chính là chủng tánh căn độn Tín hạnh. Nhờ tu đạo hẳn nhờ cơm áo giường ngồi, nói pháp cho người, nghe thuận theo gốc lành, tăng tiến không thể tất cả thời tùy theo sự ưa thích mà tiến. Năm loại La-hán này đều có hai loại: Không đắc định diệt tận, chỉ là tuệ giải thoát. Đắc định diệt tận chính là câu giải thoát. Nếu không đắc định diệt tận, người này trong nhân nghiêng về tu chánh niệm xứ quán, không tu quán niệm xứ cộng. Nếu người đắc định diệt tận, người này quán tu niệm xứ tánh, cũng quán tu niệm xứ côïng. Nếu khi chứng quả, ba minh tám giải thoát cùng lúc đều đắc, nên gọi là Câu giải thoát. Nói A-la-hán bất thời giải thoát: Tức là pháp hành lợi căn, gọi là A-la-hán bất động pháp. Bất thời giải thoát: Bất động pháp do một bề lợi căn dùng trung đạo, có thể bất cứ lúc nào thời tùy theo sự ưa thích, tiến tu nghiệp lành không đợi đầy đủ, nên gọi là bất thời giải thoát. Người này không bị phiền não làm xao động nên gọi là Bất động, là nghóa bất thoái thành tựu ba trì, đó là tận trí, trí vô sinh, trí vô học. Có thể dùng Tam-muội trùng không, kích động pháp lành của bậc Thánh dùng không xả không định, cho nên nói có thể kích động. A-La-hán pháp bất động này cũng có hai loại khác nhau: Không đắc định diệt tận chính là tuệ giải thoát Nếu đắc định diệt tận tức là câu giải thoát. Nếu nghe Phật nói ba tạng giáo môn, tu duyên niệm xứ, liền phát bốn biện tài vô ngại gọi là vô ngại giải thoát. Đây gọi là Thanh văn ba- la-mật có thể rốt ráo đầy đủ tất cả công đức A-la-hán. Hỏi: Hai người hợp thời và không phải thời, lợi độn khác nhau, tại sao đều được câu giải thoát? Đáp: Lược gián lợi độn này nói về sự khác nhau giữa khó dễ, đâu có liên quan đến được và không đến được. Bảy Thánh này gọi là chân sa-môn, Sa-môn có hai loại: Chân ngôn Sa-môn: Sa-môn tức là nhân. Sa-môn-na: Sa-môn-na là quả. Sa-môn có tám mươi chín thứ. Gọi là kiến đế tám nhẫn, tư duy tám mươi mốt vô ngại. Sa-môn-na cũng có tám mươi chín thứ: Gọi là kiến đế bát trí, tư duy tám mươi mốt giải thoát. Sa-môn-na lại có hai loại: Quả hữu vi: tám mươi chín quả hữu vi. Quả vô vi: tám mươi chín quả vô vi. Đây là y cứ vào trí đoạn, nương vào trí đức nói về tám mươi chín quả hữu vi. Y cứ vào đoạn đức nói về tám mươi chín quả vô vi, nói sơ lược Ba tạng giáo Tỳ-đàm hữu môn nói về đại y giai vị bảy Thánh bảy hiền xong. Nhưng nghóa hiền Thánh có sự liên quan rất nhiều, Tỳ-đàm hữu môn tuy nghóa không có lỗi này, nếu muốn phân biệt rốt cùng về chi phái ấy thì phải đọc Tỳ-Bà-sa. Hỏi: Trước đã nói giai vị Càn tuệ thật khác hẳn với cách giải xưa. Kế nói về tánh địa, kiến tư Vô học, đây chẳng biết có khác với cách giải thích thường hay không? Đáp: Nếu Càn tuệ có khác, tức là Tánh địa kiến tư vô học đều khác. Thí như người sống người chết. Nếu một phần thân là sống, thì tất cả phần thân đều là sống. Nếu một phần thân chết, thì tất cả phần thân đều chết. Sự khác nhau về sống chết há chẳng phải tất cả đều khác. Nay nói về Càn tuệ, nếu người sống thì tánh địa kiến tư, vô học đều như người sống. Nói về Càn tuệ như người chết thì tánh địa kiến tư Vô học đều như người chết. Lại nữa, nay nói Càn tuệ nếu như người chết thì tánh địa kiến tư vô học như người chết, nói về Càn tuệ như người sống thì tánh địa kiến tư vô học như người sống, phải dùng trí đoạn hợp thí dụ, từ đầu đến cuối danh tướng như phần thân, đâu hề khác nhau. Từ đầu đến cuối trí đoạn khác nhau như sống chết, đâu thể chẳng khác. Người đắc ý này, như người có mắt, ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu soi thì thấy tất cả muôn vật. Người mê ý này như người mù cầm đuốc, đâu có ích gì cho người không có mắt. Ở đây đáng lẽ phải nói rõ Ba tạng giáo không môn nhập đạo, hai mươi bảy gia vị của hiêàn Thánh. Tín hành và pháp hành là hai hiền, đối với con đừờng phương tiện không môn phát chân vô lậu, dứt kiến hoặc chưa tận thực hành tức là Tu-đà-hoàn cận hướng, kiến hoặc dứt hết gọi là quả Tu-đà-hoàn. Hiểu không tăng thêm dứt được một phẩm tư duy ở cõi dục cho đến năm phẩm gọi là Tư-đà-hàm hướng, dứt sáu phẩm hết tức là Tư-đà-hàm quả, dứt bảy phẩm, tám phẩm hết gọi là A-na-hàm hướng. Dứt hết chín phẩm, năm kết sử hạ phần ở cõi dục tức là quả A- na-hàm. A-na-hàm có mười một loại . Đới quả hành hướng tức là A-la-hán hướng, kế dứt tư duy hai cõi, chín phẩm phi tưởng dứt hết tức là quả A-la-hán. A-la-hán có chín loại: Hiền nhân có hai, Thánh có hai mươi lăm, hợp lại có hai mươi bảy hiền Thánh. Trích đủ ở Thành luận. Nhưng sự tướng rườm rà, nói đủ nghóa ma-ha-diễn, côn Lặc-môn, phi không phi hữu môn, kinh không trích, luận không nói, đâu thể nhầm phán quyết. Hỏi: Hai môn không suy lường, không thể phán quyết, không môn nói rõ thắng nghóa A-tỳ-đàm. Vì sao bỏ cao quý mà dùng thấp kém. Đáp: Tỳ-đàm tuy thấp kém nhưng là căn bản của Phật pháp, cho nên sau khi Phật diệt độ lưu truyền khắp nơi. Lại, kinh luận Đại thừa phá Tiểu thừa, Tiểu thừa chấp vào Tỳ-đàm hữu môn ít dùng không môn, cho nên phải lược trích Tỳ-đàm không môn, giai vị thứ lớp của Thánh hiền về căn bản Phật pháp. Kế nói về giai vị Bích-Chi-phật, thừa trong Ba tạng giáo, Ba tạng giáo nói về lý mười hai nhân duyên sinh diệt, nói nghóa Bích-Chi-phật, cũng phải có bốn môn. Nay chỉ y cứ vào tông Tát-Bà-Đa nói về giai vị Bích-Chi-Phật thừa thì có năm ý: Phiên dịch Phân biệt đại tiểu. Nói về túc duyên Nói về quán pháp Suy xét 1) Phiên dịch: Có hai ý: 1- Dịch tên 2- Giải thích. Dịch tên: Bích-chi Ca-la là tiếng Thiên-trúc, Hán dịch là Duyên giác. Người này đời trước phước đức thần căn cao siêu lanh lợi, học mười hai nhân duyên để ngộ đạo. Giải thích: Luận Đại Trí Độ chép: Duyên giác có hai loại: Độc giác Nhân Duyên giác Nói Độc giác, Bích-Chi ca-la: Nếu Phật không xuất hiện ở đời thì Phật pháp đã diệt lâu rồi. người này nhân duyên đời trước chỉ tự phát sinh ra trí tuệ không nghe từ người khác, tự dùng trí tuệ của mình để đắc đạo nên gọi là Độc giác, như luận Đại Trí Độ nói: Có một vị vua nọ, một hôm ra vườn dạo chơi, buổi sáng thấy hoa quả rừng cây tốt tươi rất yêu thích. Bấy giờ, vua ăn trái cây ấy, sau đó nằm nghỉ. Các tỳ nữ của vua đua nhau hái hoa phá cây rừng, vua thức dậy thấy cây rừng bị phá hoại, trong tâm giác ngộ, tất cả thế gian vô thường biến hoại đều giống như thế. Nghó đoạn, đạo tâm vô lậu phát sáng, dứt các kết sử, thành Bích-chi ca-la, đủ sáu thần thông, liền bay đến ngôi rừng an nhàn vắng lặng rừng núi xanh um lại vào sâu thiền định, thọ vui vô vi. Nói về Nhân Duyên giác: Người này đạo căn thuần thục, nhờ vào một chút nhân duyên mà giác ngộ, như thấy rừng cây bị phá hoại, do đó giác ngộ thành Bích-chi-phật. Ý luận Đại Trí Độ giống như cho đây là Nhân Duyên giác. Nay nói về Nhân Duyên giác: Nhân nghe mười hai nhân Duyên giác ngộ thành Bích-chi-phật. Mười hai nhân duyên, có ba loại khác nhau: Mười hai nhân duyên trong ba đời Mười hai nhân duyên trong hai đời Mười hai nhân duyên trong một đời Phá đoạn thường ba đời, phá ngã hai đời, phá tánh một đời. Nói mười hai nhân duyên trong ba đời: Hai nhân quá khứ, năm quả hiện tại, ba nhân hiện tại, hai quả tương lai. Hai nhân quá khứ: Vô minh và hành Năm quả hiện tại: Thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ. Ba nhân hiện tại: Ái, thủ, hữu. Hai quả vị lai: Sinh già chết, lo buồn khổ nhóm họp, ấy là nói về mười hai nhân duyên hợp ba đời. Mười hai nhân duyên này có ba loại đạo: Phiền não đạo Khổ đạo Nghiệp đạo Ba đạo này lại làm nhân duyên cho nhau, từ vô thỉ đến nay sinh tử không dừng, cho đến thân đời này nếu không tu quán trí thì đời vị lai trôi lăn ưu bi khổ não, không có bờ mé. Nếu tu quán trí thì vô minh diệt cho đến già chết tôi là buồn khổ não đều diệt. Thí như trong ngôi nhà tối ngàn năm, nếu không đặt một ngọn đèn thì ngôi nhà ấy tối mãi. Nếu đặt một ngọn đèn thì sự tối tăm ấy đều tan biến, cái tối mới không sinh. Nếu nghe mười hai nhân duyên này phát chân vô lậu thì vô minh diệt, cho đến già chết lo buồn khổ nhóm đều diệt, ấy gọi là Nhân Duyên giác. Kế nói về mười hai nhân duyên trong hai đời: Trích trong kinh Đại Tập: Phật nói pháp cho người cầu Bích-chi-phật, mười hai nhân duyên này, hiện tại có mười, vị lai có hai, hiện tại có chín, vị lai có ba. Hiện tại có mười là: Vô minh: kinh Đại Tập chép: Thế nào gọi là quán vô minh? Trước quán thân Trung Ấm ở trong thai mẹ sinh tâm tham ái, vì ái vào nhân duyên cho nên bốn đại hòa hợp. Tinh cha huyết mẹ hợp thành một giọt, lớn như hạt đậu gọi là ca-la-la. Ca-la-la này có ba việc: Mạng Thức Noãn (hơi Ấm) Trong đời quá khứ nghiệp duyên cảm quả, không có người làm ra, cho đến người thọ hơi thở ra vào gọi là Vô minh, lúc khí ca-la-la hơi thở ra vào có ba thứ đạo: Nghóa là hai lỗ miệng và mũi tùy theo hơi thở của mẹ lên xuống, bảy ngày một lần ngưng ra vào gọi là thọ mạng, ấy gọi là phong đạo, không hôi không rạn nát gọi là noãn, tâm ý trong đó gọi là Thức. Này người thiện nam! nếu có người nào muốn đắc quả Bích-chi- phật thì nên quán mười hai nhân duyên như thế. Hành: Lại quán ba thọ nhân duyên, năm Ấm, mười hai nhập mười tám giới, quán như thế nào? Tùy theo tâm niệm quán hơi thở ra vào, quán da thịt, xương gân tủy não trong thân, như mây trong hư không, phong bên trong thân này cũng giống như thế. Có phong có thể lên, có gió có thể xuống, có gió có thể tươi, có gió có thể khô, có gió thêm lớn cho nên hơi thở ra vào gọi là thân hành, vì hơi thở ra vào từ giác quán sinh ra nên gọi là ý hành, hòa hợp phát ra tiếng gọi là khẩu hành. Thức: Nhân duyên với ba hành thì thức sinh khởi, nên gọi là Thức. Danh sắc: mê đắm vào nhân duyên của thức thì sinh ra bốn Ấm, cho đến sắc Ấm nên gọi là Danh sắc. Sáu nhập: Năm Ấm nhân duyên thức hành sáu xứ nên gọi là sáu nhập. Xúc: Mắt thấy sắc nên gọi là xúc, cho đến ý nhận thức các pháp cũng giống như thế. Thọ: Xúc nhân duyên cho nên nghó đến sắc pháp, gọi là Thọ. Ái: Tham đắm vào sắc cho đến Pháp nên gọi là Ái. Thủ: Nhận duyên ái cho nên tìm cầu khắp nơi, gọi là Thủ. Hữu: Thủ chấp nhân duyên cho nên thọ thân sau, gọi là Hữu. Hai nhân duyên dưới thuộc vị lai. Sinh: Nhân duyên hữu nên có sinh, gọi là Sinh Già chết: Nhân duyên sinh thì có các thứ khổ già chết. Ấy gọi đại thọ là năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên. Nếu nghe mười hai nhân duyên này phát chân vô lậu cũng gọi là Nhân Duyên giác. Nói đủ trích trong kinh Đại Tập. Nói về mười hai nhân duyên trong một đời: Đây chỉ y cứ vào hiện tại, tùy một niệm tâm sinh khởi thì có đủ mười hai nhân duyên cũng trích trong kinh Đại Tập, nói pháp nhân duyên này cho hạng người Bích-chi-phật. Kinh chép: Do mắt thấy sắc mà sinh tâm Ái gọi là Vô minh, vì ái mà tạo nghiệp thì gọi là Hành, đến tâm chuyên nghó gọi là Thức. Sắc và hành gọi là Danh sắc, sáu thứ sinh tham đắm gọi là sáu nhập. Do sáu nhập mà tìm cầu Ái gọi là Xúc, suy nghó từ sắc cho đến pháp gọi là Thọ. Nếu tâm tham đắm thì gọi là Ái. Cầu các pháp gọi là Thủ, các pháp này sinh khởi gọi là Hữu. Thứ lớp không xen hở gọi là sinh, lần lượt đoạn diệt nên gọi là chết. Nhân duyên sinh tử các khổ ép ngặt gọi là não, cho đến ý tiếp xúc với pháp sinh tham cũng giống như thế. Mười hai nhân duyên này, một tâm một niệm khởi đều có đầy đủ, nếu nghe nhân duyên này, tâm khai ý phát tuệ vô lậu cũng gọi là Nhân Duyên giác. Kinh Anh Lạc lại trích mười loại mười hai nhân duyên. Nếu một loại thôi thì phát tâm vô lậu đều gọi là Nhân Duyên giác, nay không trích ra. Kinh Niết-bàn chép: Thí như người già một trăm hai mươi tuổi không chịu giao phó tiền bạc ý cũng giống ở đây. Hỏi: Độc giác cũng được ngộ, trước hết có nói các nhân duyên hay không ? Đáp: Đều do tập khí đời trước. Hỏi: Nếu y theo ba loại Nhân Duyên giác, đắc trí vô lậu tức là bẩm thọ giáo Duyên giác gọi là Thanh văn lợi căn, vì sao sinh ra văn tuệ tứ tuệ, tu tuệ? Lại hỏi: Thế nào là sinh đắc tuệ, thế nào là phương tiện tuệ? Đáp: Cả hai nói về phân biệt đại tiểu khác nhau, hai loại Bích- Chi-ca-la này đều có đại tiểu khác nhau. Nay nói Độc giác, Bích-Chi- ca-la đều có hai loại: Vốn là bậc hữu học sinh vào loài người, bấy giờ không có Phật ra đời, Phật pháp diệt độ lâu rồi, hoặc Tu-đà-hoàn bảy đời đã mãn, không thọ tám đời tự ngộ thành đạo. Người này không gọi là Phật, cũng không gọi là La-hán, là tiểu Bích-chi-ca-la. Nếu nói về đạo lực của họ, hoặc có bậc đại La-hán không bằng ngài Xá-lợi-phất. Đại Bích-Chi-ca-la: Trong hai trăm kiếp làm công đức giúp thêm lớn trí tuệ, được ba mươi hai tướng phần, hoặc ba mươi mốt tướng phần, hoặc ba mươi tướng phần, hai mươi chín tướng phần cho đến một tướng. Trong chín loại La-hán, trí tuệ lanh lợi đối với các pháp tổng tưởng, biệt tướng có thể biết, có thể nhập, tu tập định lâu ngày thường thích ở một mình, có tướng như vậy gọi là Đại Bích-chi-phật, đều trải qua ba loại mười hai nhân duyên phân biệt đại tiểu, nếu Nhân Duyên giác phân biệt đại tiểu cũng giống như thế. Nói về túc duyên: Nay hai loại Độc giác và Bích-chi-ca-la đại tiểu này, đời trước trồng nhân khác nhau, hoặc ở đời trước nếu tu nghiêng về niệm xứ tánh, quán mười hai nhân duyên, gốc lành thuần thục, gặp thời Phật không xuất hiện nhân xa lìa tự nhiên Độc giác thành tiểu Bích-chi- phật. Nếu đời trước tu niệm xứ tánh và niệm xứ côïng, lý sự gốc lành thuần thục, Độc giác tự ngộ, đầy đủ ba minh, tám giải thoát và sáu thần thông thành đại Bích-Chi-ca-la. Nhưng không phát bốn biện tài vô ngại, thiền định là bên trong chứng tâïp nhân, phù hợp với tuệ mà phát danh nghóa, bên ngoài là các pháp, tuy có tập khí đời trước mà không được phát đều y cứ vào ba loại mười hai nhân duyên, mười loại nhân duyên phân biệt duyên xưa. Nếu sinh vào thời có Phật nghe mười hai nhân duyên sinh diệt Ba tạng giáo liền phát bốn biện tài vô ngại, còn gọi là La-hán, ở chúng số Thanh văn giống như Ca-diếp, Xá-lợi-phất, đều là người căn tánh của Bích-chi-phật, cũng gọi là Bích-chi-phật. Nếu không như vậy, đâu được tiên tìm cầu Bích-chi-phật thừa, nói mười hai nhân duyên. Người này dù không gặp Phật cũng tự đắc đạo. Kinh Pháp Hoa chép: Nếu người có phước từng cúng dường Phật, chí cầu pháp cao siêu thì Phật nói Duyên giác, đều là Nhân Duyên giác. Căn tánh ba loại, mười loại, túc duyên khác nhau rất dễ biết. Nói về pháp quán: Pháp quán mười hai nhân duyên có hai loại: Quán thuộc mười hai nhân duyên của Ái Quán thuộc mười hai nhân duyên của kiến. * Quán thuộc mười hai nhân duyên của ái có hai ý: + Suy tìm + Quán phá Suy tìm: Người này nghe pháp nhân duyên sinh diệt tin hiểu rõ ràng, biết tất cả thuộc là phiền não của ái, đều là mười hai nhân duyên. Quán nhân duyên nhập định, muốn dứt tâm đạt bổn nguyên cầu tuệ tự nhiên thích một mình, yên lặng tu tập định tậm, đắc các thiền định, trụ trong định này biết thuộc phiền não ái, tức là vô minh. Suy tìm từ nghịch đến thuận, tức thấy mười hai nhân duyên. Vì sao mà suy tìm nghịch lại, tham ái này do đâu mà sinh? Liền biết do thọ, thọ do đâu sinh khởi, tức biết do xúc. Xúc do đâu mà sinh khởi, liền biết do sáu nhập, sáu nhập do danh sắc, danh sắc do thức, thức do hành, hành do vô minh, tất cả phiền não ở đời quá khứ. Lại suy thuận lại ái này, ái có công năng sinh ra Thủ, do thủ mà có Nghiệp, do có nghiệp này mà có sinh hai mươi lăm cõi ở vị lai. Do sinh mà có già chết, lo buồn khổ nhóm, trôi lăn không cùng. Nếu do năm pháp quán dừng tâm mà nhập sâu thiền định. Như thế suy tìm nghịch lại có khi thân ca-la-la mới thọ sinh cho đến thấy thân khởi nghiệp phiền não ở quá khứ, cho đến hai đời, trăm ngàn đời. Suy tìm thuận chiều thủ hữu. Nếu do năng lực thiền định, hoặc thấy một đời đến mười đời, trăm đời, ngàn đời tương lai. Nếu thấy việc quá khứ, vị lai, tâm bi cảm, đạo tâm tinh tấn, chuyển lại thêm cảm. Nói về quán phá mười hai nhân duyên thuộc ái: Tức là niệm xứ tánh, quán riêng mười hai nhân duyên. Quán niệm xứ tánh sơ lược như trước nói, vì sao? Vì nếu quán ái tức là năm Ấm ô bốn Niệm xứ uế tánh. Nếu quán thọ xúc, sáu nhập danh sắc, thức là quả báo, vô ký hiện tại vô ký, năm Ấm vô tánh bốn Niệm xứ. Nếu quán hành tức là tánh bốn Niệm xứ, năm Ấm thiện bất thiện. Nếu quán vô minh tức là ô uế phiền não, năm Ấm tánh bốn Niệm xứ đời quá khứ. Nếu quán thủ tức là năm Ấm, tánh bốn Niệm xứ ô uế đời hiện tại. Nếu quán hữu tức là năm Ấm tánh bốn Niệm xứ thiện và bất thiện. Nếu quán sinh già chết thời vị lai tức là quả báo sinh vô ký bốn Niệm xứ, chính là dùng bốn Niệm xứ, quán sát nghịch thuận mười hai nhân duyên phá bốn điên đảo. Nếu điên đảo diệt thì vô minh tất cả phiền não diệt. Vì vô minh diệt cho nên hành diệt, cho đến già chết lo buồn khổ não diệt, tức là dùng tánh bốn Niệm xứ. Quán riêng biệt thuộc quán mười hai nhân duyên phiền não của ái. Nói về quán phá mười hai nhân duyên phiền não thuộc ái cũng có hai ý: Suy tìm: Quán phá: Suy tìm: Nếu thấy tinh thần và thường, vô thường của thế gian vừa thường vừa vô thường, phi thường phi vô thường. Chính là hiện tại sinh ra thân kiến, biên kiến, bốn kiến. Do thân kiến, biên kiến, bốn kiến này sinh ra mười bốn nạn, sáu mươi hai kiến. Thân kiến, biên kiến, bốn kiến này tức là bốn thủ. Suy tìm nghịch thuận về bốn thủ này. Suy tìm nghịch bốn thủ, bốn thủ nhân bốn ái, bốn ái do bốn thọ, bốn thọ do bốn xúc, bốn xúc do bốn nhập, bốn nhập do bốn danh sắc, bốn danh sắc do bốn thức, bốn thức do bốn hành, bốn hành do bốn loại vô minh. Lại suy tìm thuận chiều bốn thủ, bốn thủ có công năng sinh ra bốn hữu. Bốn hữu này lãnh chịu tất cả sinh già bệnh chết lo buồn khổ não trong hai mươi lăm cõi. Nếu do năm pháp quán dừng tâm đắc sâu thiền định, hoặc thấy việc đời quá khứ vị lai, đầy đủ như trước nói. Nói về quán phá nhân tánh quán bốn Niệm xứ: Quán bốn thủ, bốn kiến, thân kiến biên kiến, thứ lớp như thế cho đến vô minh, phá quá khứ, như quá khứ không như quá khứ, cũng như quá khứ cũng không như quá khư,ù không như quá khứ, chẳng phải không như quá khứ, thân kiến biên kiến làm ô uế năm Ấm. Lại quán thuận chiều gồm có bốn thủ cho đến sinh tử đời vị lai, phá hữu biên vô biên, vừa hữu biên vừa vô biên, phi hữu biên phi vô biên, thân kiến, biên kiến năm Ấm ô uế. Nếu dùng tánh bốn Niệm xứ như thế phá bốn kiến, hai kiến trong ba đời, tức là phá mười bốn nạn, sáu mươi hai kiến, tất cả phiền não thuộc kiến cùng lúc đều diệt. Ấy gọi là vô minh diệt tức hành diệt, cho đến già chết lo buồn khổ não đều diệt. Nếu phiền não thuộc kiến diệt thì lại dùng quán mười hai nhân duyên của ái quán tánh niệm xứ ở trước, phá dục ái, sắc ái, vô sắc ái đều diệt chính là phiền não nghiệp đạo ba cõi diệt, gọi là Niết-bàn hữu dư. Nếu khổ đạo diệt chính là Niết-bàn vô dư gọi là dùng trí tuệ của tánh bốn Niệm xứ, quán mười hai nhân duyên nhập Niết-bàn. Pháp quán niệm xứ tánh lược như trước đã nói, cho nên kinh chép: Nghóa mười hai nhân duyên rất sâu xa, khó hiểu, khó thấy chính là ý này. Như thời Phật nói kinh Đại Niết-bàn, có một ngoại đạo tên là Phú-na hỏi Đức Thế Tôn: Cù-đàm! ngài làm sao cho con biết tinh thần và thế gian là thường, cho đến phi thường phi vô thường? Phật đáp: Nếu ông bỏ được cái cũ không tạo cái mới thì sẽ biết tinh thần và thế gian thường, cho đến phi thường phi vô thường. Luận liền nói: Con đã biết rồi. Phật hỏi: Ông biết cái gì? Cũ gọi là vô minh, mới là thủ ái nếu biết vô minh không khởi thủ ái thì biết tinh thần và thế gian là thường cho đến phi thường, phi vô thường. Bấy giờ Luận xin xuất gia làm đệ tử Phật. Lại Trung luận chép: Thanh văn trải qua nhập đệ nhất nghóa đế đều y cứ quán mười hai nhân duyên, phá sáu mươi hai kiến, nhập nghóa đệ nhất. Nếu đắc sâu ý này không chỉ phá ngoại đạo. Nếu đệ tử Phật học vấn ngồi thiền sinh ra nhiều ý kiến chấp trước tranh luận, sinh các phiền não, nghiệp sinh tử trong hai mươi lăm cõi, đều là mười hai nhân duyên thuộc về kiến. Người biết có thể dùng niệm xứ tánh, phá sạch được giải thoát. Người mê điều này, mười hai nhân duyên trôi lăn sinh tử không có bờ mé. Cho nên, Trung luận chép: Nói về chân pháp, người nghe khó đắc. Vì thế sinh tử không hữu biên, không vô biên. Niệm xứ cộng, niệm xứ duyên giúp quán mười hai nhân duyên giống như trước rất dễ biết. Nói về suy xét: Hỏi: Nếu người do kiếp trước tu tập nên tự nhiên giác ngộ thì đâu cần Phật nói mười hai nhân duyên? Đáp: Nghe nói thì nhanh đắc, không nói mà tự ngộ thì ít có và ngộ chậm. Như quả chín tuy phải tự rơi, nếu cần gấp mà lay cho rụng thì nó sẽ rụng. Hỏi: Bích-chi-phật thừa sao ý không phán quyết quả? Đáp: Người Thanh văn vì ngu độn cho nên phán quyết quả. Thí như hai người cùng đi, người yếu thì phải dừng nghỉ, người mạnh thì đi thẳng đến chỗ, cho nên Phật chỉ nói Bích-chi-phật thừa, không lập quả vị. Lại nữa, tổng tưởng dứt kết sử, vì trí tuệ thô nên chỉ trừ chánh sử, gọi là Thanh văn thừa. Biệt tưởng quán nhân duyên, vì trí tuệ sâu kín chỉ trừ tập khí, gọi là Bích-chi-phật. Lại nữa, Thanh văn vì độn căn nên trước quán khổ đế, Duyên giác vì lợi căn cho nên trước quán tập đế. Hỏi: Niệm xứ của Thanh văn biệt tưởng là thô, tổng tưởng là thắng, nay vì sao Tổng tưởng là thô, biệt tưởng là thắng? Đáp: Lại dùng Tổng tưởng, biệt tưởng quán kỹ mười hai nhân duyên, cho nên biệt tưởng là thắng. Lại nữa, năng lực thiền định công đức của Thanh văn cạn mỏng nhưng thiên nhãn rất xa, chỉ thấy ngàn cõi nước nhỏ. Bích-chi-phật từ lâu gieo trồng năng lực thiền định gốc lành sâu dày, nếu phát thiên nhãn qua khỏi tam thiên, thấy thế giới phương khác. Nay lược nói Ba tạng giáo hữu môn giai vị Duyên giác xong. Không môn như Thành luận, phân biệt Côn-lặc môn phi không phi hữu, kinh luận đã không suy lường thì không thể biết. <篇> TỨ GIÁO NGHÓA <卷>QUYỂN 7 Y cứ vào Ba tạng giáo nói về giai vị của Bồ-tát để giải thích danh nghóa thanh tịnh, vô cấu: Ba tạng giáo nói về lý nhân duyên sinh diệt. Nói về nghóa Tạng Bồ-tát cũng phải có bốn môn: Nay y cứ vào Tỳ-đàm hữu môn nói về giai vị của Bồ-tát Đại thừa có bốn ý: Phiên dịch Nói về giai vị Suy xét Giải thích danh nghóa thanh tịnh vô cấu. 1- Phiên dịch: Bồ-tát ma-ha-tát là tiếng Phạm, nếu y theo tiếng ấy phải nói là Bồ-đề Tát-đỏa ma-ha tát-đỏa. Nhưng các sư phiên dịch khác nhau, nay không nói đủ nhưng luận Trí Độ chép: Bồ-đề dịch là Phật đạo, Tát-đỏa dịch là tâm, ma-ha là lớn. Người này dùng đại đạo của chư Phật thành tựu cho chúng sinh. Lại có các sư dịch: Bồ-đề là Đạo, Tát-đỏa là Tâm, Ma-ha là Đại, chính là đại đạo tâm, mà các kinh luận phần nhiều nói Bồ-tát ma-ha-tát. Ngài La-thập cho tiếng Thiên-trúc rườm rà hai câu mà tám chữ để nêu tên, cho nên bỏ ba chữ còn năm chữ, hợp thành một câu gọi là Bồ-tát ma-ha-tát. Nhưng Bồ-tát Ba thừa gọi chung là Đạo, mà Bồ-tát chỉ lấy tên Đại, để duyên Tứ đế khởi Từ bi phát bốn thệ nguyện rộng khắp, trên cầu quả Phật, dưới độ chúng sinh. Tâm này rộng lớn cho nên được tên là ma-ha tát-đỏa. Nói về giai vị của Bồ-tát có bảy ý: Phát tâm Bồ-đề Hành đạo Bồ-tát Trồng ba mươi hai nghiệp tướng Sáu Độ thành tựu viên mãn Nhất sinh bổ xứ Sinh lên cõi trời Đâu-suất. Tám tướng thành đạo 1. Phát tâm Bồ-đề: Như Bồ-tát Thích-ca Mâu-ni vào thời quá khứ làm thợ gốm, gặp Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và cúng dường. Bồ-tát thấy đệ tử Phật kia có trí tuệ tên là Xá-lợi-phất và một đệ tử có thần thông tên là Mục-kiền- liên, thị giả học rộng tên là A-nan. Bấy giờ người thợ gốm cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ấy rồi liền phát tâm Bồ-đề và thệ nguyện: Nguyện cho con đời vị lai được thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni, người đệ tử có trí tuệ tên Xá-lợi-phất, đệ tử có thần thông tên là Mục- kiền-liên, thị giả học rộng tên là A-nan. Ngài đã vui với lời nguyện của ngài. Từ lúc mới phát tâm Bồ-đề tức là phát bốn thệ nguyện Từ bi rộng lớn của Ba tạng giáo đều duyên với Tứ đế sinh diệt mà khởi. Tâm Từ bi: Tâm đại Từ: Dục và ái kiến là niềm vui đạo diệt của chúng sinh Tâm đại Bi: Nhổ gốc ái kiến là nơi khổ về khổ tập của chúng sinh. Bốn thệ nguyện rộng lớn: Người chưa được độ làm cho được độ tức là hai thứ ái kiến của ma trời ngoại đạo. Chúng sinh sáu đường chưa thoát khỏi nỗi khổ của nhà lửa ba cõi thì làm cho họ thoát khỏi. Người chưa tỏ ngộ thì làm cho họ tỏ ngộ, là hai loại ái kiến, chúng sinh chưa tỏ nghiệp ái kiến trong hai mươi lăm cõi thì làm cho họ tỏ ngộ. Người chưa an thì làm cho được an. Tức là hai loại ái kiến, chúng sinh chưa an trú trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tất cả khổ đạo làm cho họ an trú nơi đạo đế. Người chưa Niết-bàn thì làm cho họ Niết-bàn: Hai loại ái kiến này chúng sinh chưa diệt được nhân quả sinh tử trong hai mươi lăm cõi, đều cho là được Niết-bàn. Nếu chúng sinh có hai loại ái kiến, tứ đế sinh diệt mà khởi Từ bi bốn thệ nguyện rộng lớn, tức là Bồ-tát mới phát tâm, vì biết Tứ đế ái kiến, biết trí tuệ hơn các ma trời, tất cả ngoại đạo, vì có công đức Từ bi thề nguyện cho nên vượt hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác, cho nên luận Đại Trí Độ chép: Mới phát tâm là thầy của trời người, vượt hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác. Hành đạo Bồ-tát: Tức là thực hành sáu Độ qua ba A-tăng-kỳ kiếp. Từ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thời quá khứ đến thời Phật Kế-na-thi-khí gọi là một A-tăng-kỳ kiếp. Từ đây thường xà lìa thân nữ, bấy giờ không tự biết ta sẽ thành Phật hay không thành Phật. Sơ A-tăng-kỳ kiếp này liền đắc giai vị năm quán dừng tâm, biệt tưởng Tổng tưởng niệm xứ, dùng niệm xứ tánh, niệm xứ côïng, niệm xứ duyên, hành sáu Độ. Nghóa của ba loại niệm xứ lược nói như trước, vì sao? Vì tu niệm xứ tánh là phá hoại nghiệp ma thuộc về ái, phá tất cả trí lục sư thuộc về kiến, tu niệm xứ côïng, muốn hoại ái kết sử, phá thần thông lục sư, tu niệm xứ duyên, nói pháp cho chúng sinh có ái kiến. Vì thuộc ái hoại nên tất cả quyến thuộc của ma trời hoại. Vì kiến hoại cho nên mười tám loại Lục sư và tất cả quyến thuộc ngoại đạo hoại, cho nên dùng ba loại niệm xứ hành sáu Độ là ba-la-mật, ý muốn hàng phục ma trời, chế ngự các ngoại đạo, Bồ-tát dùng ba loại niệm xứ thực hành sáu Độ, tuy tu tánh niệm xứ mà không dứt kết sử, vì sinh vào ba cõi độ chúng sinh cho nên thường muốn tu niệm xứ côïng quán để đắc thần thông, thành tựu bốn nhiếp pháp đồng sự, điều phục chúng sinh ái kiến. Lại thường tu quán niệm xứ Duyên vì muốn thành tựu bốn biện tài vô ngại, nói pháp Ba thừa, hóa độ tất cả chúng sinh ái kiến cùng ra khỏi nhà lửa ba cõi. Tu hành sáu Độ sơ A-tăng-kỳ kiếp này dùng bốn thệ nguyện rộng lớn, an ủi vỗ về chúng sinh, tâm không yếu hèn, nghiệp căn người nữ hoại, thường thọ thân đại trượng phu. Bấy giờ chưa chứng pháp Noãn giải vị ở ngoại phàm cho nên không tự biết mình được thành Phật hay không được thành Phật. Kế nói từ Phật Kế-na-thi-khí đến Phật Nhiên Đăng hai A-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ, Bồ-tát cúng dường Phật Nhiên Đăng bảy cành hoa sen xanh. Bấy giờ, Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Bồ-tát: Ông ở đời tương lai chắc chắn được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Bấy giờ, Bồ-tát tuy tự biết mình chắc chắn thành Phật nhưng miệng không bao giờ ca tụng ta sẽ thành Phật. Đây là dùng trí tuệ noãn pháp tu sáu Độ, vì sao? Vì Tổng tưởng bốn Niệm xứ mới đắc thiện hữu lậu năm Ấm tức là giai vị tánh địa thuận nhẫn sơ tâm, đã có niềm tin chứng pháp cho nên chắc chắn biết mình thành Phật mà dùng pháp noãn tu hành sáu Độ, vì tâm chưa rõ ràng cho nên không nói với người khác. Nói từ Phật Nhiên Đăng đến Phật Tỳ-Bà-Sa là mãn ba A-tăng-kỳ kiếp. Bấy giờ, trong lòng Bồ-tát biết rõ mình thành Phật, miệng tự nói rõ không có ngại sợ, ta ở đời tương lai sẽ thành Phật. Nay là địa vị pháp Đãnh, thực hành sáu ba-la-mật, quán Tứ đế hiểu rõ ràng như lên đỉnh núi nhìn bốn phương đều rõ, biết rõ mình thành Phật cũng nói cho mọi người biết. Nói quá ba A-tăng-kỳ kiếp, trong ba mươi hai nghiệp tướng này là nhập giai vị hạ nhẫn. Dùng trí nhẫn này tu hành sáu Độ thành trăm phước đức dùng trăm phước đức làm một tướng, cho là nghiệp nhân của ba mươi hai tướng. Trồng ba mươi hai tướng nghiệp nhân ở địa vị hạ nhẫn tu sáu ba-la-mật thành tướng trăm phước cho là ba mươi hai tướng nghiệp nhân. Ba mươi hai tướng này thọ thân nam trong Diêm-phù-đề thế giới thuộc cõi dục. Lúc Phật ra đời duyên thân tướng của Phật cho nên được gieo trồng. Hỏi: Trăm phước đức thành một tướng, còn mấy công đức thành một phước đức? Đáp: Có nhiều cách giải thích khác nhau, có thể quyết định được. Có người nói phước ấy không thể lường không thể thí dụ được. Bồ-tát này vào ba A-tăng-kỳ kiếp, tâm tu đại hạnh, trồng ba mươi hai tướng nhân duyên nầøy, cho nên phước không thể lường, chỉ có Phật mới biết được. Hỏi: Bồ-tát trồng ba tướng trong bao lâu? Đáp: Chậm nhất là một trăm kiếp, nhanh nhất là chín mươi mốt kiếp. Phật Phất-sa quán thấy Bồ-tát Thích-ca từ thân đệ tử đời này thuần thục Bồ-tát Di-lặc tự thuần thục sinh làm đệ tử. Nhiều người khó độ, một người dễ hóa, cho nên Phật Phất-sa ở trong hang báu phát ra ánh sáng chiếu soi Thích-ca, Bồ-tát Thích-ca tìm theo ánh sáng đến chỗ Phật Phất-sa, trong bảy ngày bảy đêm nhất tâm quán Phật, mắt không tạm rời, chỉ dùng kệ khen ngợi: Trời đất cõi này nhiều nhà cửa Thệ chỗ cung trời mười phương không, Đại Sa-môn Trượng phu Ngưu vương Tìm đất núi rừng không đâu bằng. Vì khổ hạnh nên vượt qua chín kiếp thành Chánh giác trước Bồ- tát Di-lặc. Nói về sáu ba-la-mật. Hỏi: Đàn ba-la-mật làm sao đủ? Đáp: Tất cả đều làm được không gì ngăn ngại, cho đến dùng thân bố thí cũng không tiếc. Như vua Thi-tỳ bố thí thân cho chim ưng, cắt xẻ da thịt tuy chịu đau khổ lóc hết toàn thân để cấp thịt cho chim ăn mà tâm ta không hối tiếc. Thì thân sẽ bình phục, khi lập thệ rồi trời đất rung chuyển, thân trở lại như cũ, Bồ-tát xả bỏ thân mạng bố thí như thế tâm không lui sụt, đó là Đàn ba-la-mật đầy đủ. Hỏi: Giới ba-la-mật làm sao đủ? Đáp: Không tiếc thân mạng hộ trì tịnh giới như vua Tu-đà-ma. Vị vua này tinh tấn trì giới thường nương theo lời nói chân thật, cùng hẹn với lúc Đại vương Ma-sa-đà rồi trở về nước bảy ngày cúng dường Sa- môn, xong từ đó về sau vua này mãn kỳ, vì trì giới giữ lời chân thật, lúc sắp chết vì trì giới không tiếc thân mạng, như thế khắp nơi nhân duyên vào kinh Thuyết Bổn Sinh. Bồ-tát nhân địa trì giới xả bỏ thân mạng tâm không hối tiếc tức là tướng giới ba-la-mật đầy đủ. Hỏi: Sằn-đề Ba-la-mật làm sao đầy đủ? Đáp: Nếu người đến mắng, lóc da xẻ thịt tâm không tức giận như Tỳ-Kheo Sằn-đề thường suy nghó từ nhẫn ở dưới rừng cây nhập thiền Tam-muội. Bấy giờ, vua Ca-lợi vì nữ sắc nên sinh tâm tức giận chặt tay chân, xẻo mũi tai mà Tỳ-kheo tâm an nhẫn bất động. Vua hỏi: Nay ta chặt cắt xẻ thân ông ông có nhẫn được không ? Ý tôi thật không tức giận, Ai tin được lời ông? Nếu tôi thật có tâm nhẫn không tức giận thì thân tôi bình phục như thường. Nói lời ấy xong thân trở lại như cũ. Không tiếc thân mạng tu hạnh nhẫn nhục, như thế gọi là tướng sằn-đề ba-la-mật đầy đủ. Hỏi: Tỳ-lê-da Ba-la-mật làm sao đủ? Nếu có đại tâm như Thái tử Đại Thí vì tất cả chúng sinh ra biển tìm của báu, được ngọc như ý muốn trở về cõi Diêm-phù-đề, để bố thí y phục, vật báu cho chúng sinh. Thần biển tiếc viên ngọc nhân thái tử ngủ, thần biển trộm lấy đem về cung. Thái tử thức dậy biết vậy vì viên châu này mà thệ dùng thân này tháo hết nước biển lớn cho khô cạn, theo thần biển tìm châu ngọc tâm định không biếng nhác. Các trời, Đế-thích cảm tấm lòng Thái tử, vì vật mà siêng năng không tiếc thân mạng, tức thời các trời giúp sức tháo nước biển, nước giảm xuống một nửa, thần biển sợ hãi thẹn thùng nên trả viên ngọc lại. Cũng như Bồ- tát Thích-ca gặp Phật Phất-sa bảy ngày, bảy đêm đứng một chân, mắt không hề rời, chẳng tiếc thân mạng như thế, vì chúng sinh mà tinh tấn gọi là tướng Tỳ-lê-la ba-la-mật đầy đủ. Hỏi: Thế nào là tướng thiền ba-la-mật đầy đủ? Đáp: Như tất cả thiền định tự tại, lại như khi vị tiên Xà-lê ngồi thiền nhập định có con quạ bay đến làm tổ trên đầu tóc của vị tiên, nhưng vị tiên lòng không lay động, cho đến khi chim bay đi, ấy gọi là tướng Thiền ba-la-mật đầy đủ. Hỏi: Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ? Đáp: Bồ-tát dùng đại tâm phân biệt, như đại thần bà-la-môn Cù- tần chia mặt đất Diêm-phù thành bảy phần, một số thành lớn thành nhỏ, xóm làng thôn dân đều nhóm lại thành bảy phần. Bát-nhã ba-la-mật cũng giống như thế, đó gọi là Bát-nhã ba-la- mật của Bồ-tát tướng đầy đủ. Nay đều là trí tuệ hạ nhẫn có thể điều phục các căn, đầy đủ sáu Độ, vì sao? Vì năng lực của trí tuệ hạ nhẫn mạnh mẽ, năng lực phiền não yếu, dùng trí tuệ này tu hành sáu Độ, có thể nhẫn sáu tế, không tiếc thân mạng thành sáu Độ. Bốn Ba-la-mật đầy đủ chính là năng lực của niệm xứ tánh cho đến hạ nhẫn. Thiền ba-la-mật đủ chính là lực cọng niệm xứ đến hạ nhẫn. Bát-nhã ba-la-mật đầy đủ chính là năng lực của niệm xứ cho đến hạ nhẫn. Hỏi: La-hán còn không thể không tiếc thân mạng, tu hành sáu Độ, năng lực của trí tuệ hạ nhẫn đâu thể thành sáu Độ? Đáp: Nếu không có Từ bi thệ nguyện, năng lực tu hành nhiều kiếp, thì trí tuệ của La-hán còn không thể như vậy, huống chi hạ nhẫn. Nay bên ngoài duyên Từ bi thệ nguyện huân tu lâu ngày, bên trong có trí tuệ pháp nhẫn, giúp phá năng lực sáu tệ (tâm xan, tâm phá giới, tâm sân nhuế, tâm biếng nhác, tâm loạn, tâm si) Trụ Nhất sinh bổ xứ: Tức Bồ-tát Thích-ca vào thời Phật Ca-diếp là đệ tử Bổ xứ, giữ giới cấm thanh tịnh, thực hành các công đức, Phật Ca-diếp thọ ký cho Bồ-tát sẽ thành Phật vào đời kế, đây là giai vị Trung nhẫn. Sinh lên cõi trời Đâu-suất: Bỏ báo thân cõi Diêm-phù, sinh lên cõi trời này làm thầy trời người, ở cõi trời này dùng ba thứ niệm xứ, tu tám thắng xứ, vì muốn điều phục kết sử được thanh tịnh nên xuống cõi Diêm-phù-đề, dùng thần thông biến hóa hàng phục ma trời, bốn biện tài vô ngại, nói pháp phá các ngoại đạo và độ tất cả chúng sinh, đây là giai vị thuộc Trung nhẫn. Hỏi: Bồ-tát vì sao từ mới phát tâm hàng phục kết sử cho đến hàng phục này mà không dứt? Nếu dứt kết sử thì không được thọ sinh hóa vật, quán vô thường hàng phục kết sử làm cho các phiền não tiêu tan, dụng tâm thanh tịnh tu hạnh sáu Độ làm cho các công đức thêm lớn. Hạ sinh thành đạo: Tức Ba tạng giáo nói về, tám tướng thành quả Bồ-đề. Tám tướng thành đạo gồm: Từ cõi trời Đâu-suất xuống Gá thai Đản sinh Xuất gia Hàng phục ma Thành đạo Xoay bánh xe pháp Nhập Niết-bàn Từ cõi trời Đâu-suất xuống: Lúc Bồ-tát sắp hạ sinh dùng bốn thứ quán nhân gian: Quán thời: Người bấy giờ tuổi thọ trăm tuổi Phật mới ra đời. Quán đất đai: Chư Phật thường nương vào trung quốc sinh ở Ca-duy-la-vệ, tức là trong trăm ức mặt trời, mặt trăng. Quán chủng tánh: Phật sinh vào hai chủng tánh: Vì dòng sát-lợi thế lực rộng lớn Vì dòng Bà-la-môn trí tuệ rộng lớn. Phật Thích-ca Mâu-ni sinh vào dòng sát-lợi. Quán chỗ sinh: Tại sao người mẹ hoài bão Bồ-tát Na-la-diên lực chỉ ở thành Ca- tỳ-la-vệ thuộc trung quốc, vua Tịnh Phan, người mẹ có thể hoài bão thân sau Bồ-tát. Suy nghó rồi sau đó từ cõi trời Đâu-suất giáng xuống. Hỏi: Vì sao có hình dáng con voi trắng, mà không có các hình dáng khác? Nói về ở trong thai: Tức là chánh tuệ nhập vào thai mẹ, tất cả chúng sinh tà tuệ vào thai mẹ, Bồ-tát nhớ nghó không mất, nên gọi là chánh tuệ vào thai mẹ, thân trung Ấm trụ thì biết trung Ấm, khi vào thai thì biết vào thai, Ca-la-la thì biết Ca-la-la, bảy ngày tinh cha huyết mẹ hợp lại. Lúc là an-phù-đà mười bốn ngày như váng sữa. Lúc là già-đà hai ngày như giọt sữa đặc, thân ngũ bào khi sinh ra đều nhớ nghó không mất, đó gọi là chánh tuệ vào thai mẹ. Lại nữa, những người khác trụ thân Trung Ấm khi vào thai mẹ muốn thọ sinh thì đối với cha mẹ sẽ gá sinh ra khỏi tâm điên đảo, sinh tâm bất tịnh. Bồ-tát không phải như vậy, chánh tuệ rõ biết cha mẹ tương tục vào thai, ấy gọi là chánh tuệ. Nói về tướng ra khỏi thai: Bồ-tát đủ mười tháng, chánh tuệ không mất, sinh ra từ hông phải bước xuống đất đi bảy bước, tự nói: Trên trời dưới thế chỉ có ta là tôn quý nhất. Lúc mới sinh trong nước ấy có ba mươi hai việc lành, trong kinh có nói đủ. Rồi cho thầy tướng đến xem tướng Thái tử, thân Thái tử có ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thầy tướng liền rơi lệ. Vua sợ hãi điều không lành bèn hỏi thầy tướng: Con ta có điều gì không tốt hay sao mà ngài rơi lệ? Vị tiên đáp: Thái tử có tướng tốt rõ ràng, nếu ở tại gia sẽ làm vua Chuyển Luân, cai quản bốn châu thiên hạ, tu mười điều lành để dạy dân. Nếu xuất gia sẽ thành Phật, độ thoát muôn dân. Nhưng Thái tử có tướng tốt chắc chắn không ở Ngai Vàng làm vua Chuyển Luân. Nếu Thái tử xuất gia sẽ đắc đạo Bồ-đề, độ thoát trời, người. Thương cho tôi tuổi già không gặp được Phật, nên tôi buồn tủi rơi lệ. Cho nên ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân mình, vì muốn đắc quả Bồ-đề. Hỏi: Vì sao mà hiện ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp? Đáp: Vì pháp thành Phật trang nghiêm như thế. Nói về xuất gia: Bấy giờ, Bồ-tát tuổi càng lớn, ra bốn cửa thành thấy các khổ sinh già, bệnh chết, liền sinh tâm chán sợ, nửa đêm vượt thành xuất gia, sáu năm khổ hạnh, ăn cháo sữa đường phèn của Bà-la-môn Nan-đà, thân được mười sáu công đức. Nói về tướng hàng phục chúng ma: Ngồi dưới cội Bồ-đề phá một muôn tám ngàn ức chúng ma binh quỷ. Ma vương thất bại, quỷ binh lui tán. Nói về thành đạo: Chúng ma lui tán rồi, Bồ-tát nhiếp tâm tónh tọa, trụ trung nhẫn của đệ tứ thiền, tu quán thành một sát-na trung nhẫn, một sát-na thượng nhẫn, một sát-na thế đệ nhất pháp, phát chân vô lậu, ba mươi bốn tâm đắc vô thượng Bồ-đề. Ba mươi bốn tâm: Tám nhẫn, tám trí, chín vô ngại, chín giải thoát, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất côïng, ba đạt vô ngại, ba ý chỉ đại Bi, bốn trí vô ngại, tất cả các pháp chung riêng tưởng biệt đều biết, nên gọi là Phật, giải thoát thứ chín, đầy đủ nhất thiết chủng trí ở đời bị lai, nên gọi là Tiểu thừa Phật. Nói về tướng xoay bánh xe pháp: Ở vườn Nai nói pháp cho năm anh em Kiều-trần-như, ba lần xoay bánh xe pháp tứ đế sinh diệt, trời người đắc đạo. Đây là Tam bảo hình thành ở thế gian. Kế nói mười hai nhân duyên gọi là tạng Tu-đa-la. Sau mười hai năm, Phật ngự tại nước Tỳ-Xá-ly vì con trưởng giả Tu-Lân- Na-Ca-Đà làm dâm dục, bởi thế nhân duyên kết đại tội đầu tiên, chế ra hai trăm năm mươi giới. Lúc Phật ngự tại thành Xá-Bà-Đề bảo các Tỳ Kheo: Có năm sợ hãi, năm tội, năm oán nếu không trừ diệt, ấy là nhân duyên ở đời này, đời vị lai chịu vô lượng khổ. Ấy là Phật tự nói Tỳ-đàm giáo, từ đây xoay bánh xe pháp ba tạng cho đến Niết-bàn, dạy đệ tử ba thừa gọi là xoay bánh xe pháp. Nói về tướng nhập Niết-bàn: Ở giữa hai cây sa-la thành Câu-thi-na ngài xuất nhập thiền định nghịch thuận, đến đệ Tứ thiền nhập Tam-muội hỏa quang, thiêu thân diệt độ chỉ để lại Xá-lợi, làm ruộng phước cho trời người, thân trí đều diệt, nhập Niết-bàn vô dư. Đây là trong kinh Thanh văn nói giai vị Đại thừa. Nói về phân biệt: Hỏi: Trong kinh Thanh văn khai ra ba thừa vì sao ngay đời này đoạn dứt kết sử, Bồ-tát từ mới phát tâm, cho đến hàng phục câc ma nhưng không dứt kết sử ? Đáp: Thanh văn Duyên giác chán sinh tử, tự cầu Niết-bàn, không vì lợi ích chúng sinh. Bởi vậy, tham đắm chấp trước dứt kết sử, kết sử dứt hết thì không thọ sinh, nhập Niết-bàn. Bồ-tát đại Bi thương xót muốn độ tất cả chúng sinh, chịu khổ sinh tử, giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh ra đời gốc lành thuần thục liền thành đạo, nói Ba thừa giáo, cùng người tu ba thừa đồng nhập Niết-bàn. Nếu trong nhân đạo kết sử tức không được thọ sinh thì đâu thể lợi ích chúng sinh. Bởi vậy, nhẫn thọ sinh tử không dứt kết sử, trải qua ba A- tăng-kỳ ở trong sinh tử giáo hóa chúng sinh, cùng ra khỏi ba cõi. Không dứt kết sử là ý nghóa đó. Hỏi: Bồ-tát dứt kết sử thệ nguyện thần thông ứng hóa lợi ích chúng sinh, đâu hẳn hễ còn kết sử là phải thọ sinh đúng không? Đáp: Dứt kết sử, thệ nguyện thần thông giáo hóa thọ sinh, đây là nói về giáo pháp Đại thừa không phải nói về ba tạng, vì sao? Vì dứt kết sử, thệ nguyện thọ sinh là nói về Thông giáo. Pháp tánh thân thông thọ sinh là nói về Biệt giáo. Pháp thân ứng sinh là nói về Viên giáo. Hỏi: Thanh văn đâu được tự ý nói về dứt kết sử thọ sinh ? Đáp: Ba tạng giáo chính là giáo hóa Tiểu thừa, phụ là giáo hóa Bồ-tát. Nếu nói Bồ-tát kết sử dứt hết thọ sinh Nhị thừa liền nghi. Nếu kết sử hết mà được thọ sinh, những vị Thanh văn đắc quả La-hán sẽ không còn thọ sinh. Bởi thế, không nói Bồ-tát dứt kết sử thọ sinh. Hỏi: Nếu là người Nhị thừa sinh nghi, không nói Bồ-tát dứt kết sử thọ sinh, Đại thừa Phương đẳng Ma-ha Bát-nhã dạy chung ba thừa cũng không nói Bồ-tát dứt kết sử, dùng thệ nguyện thần thông thọ sinh ? Đáp: Đây chính là giáo bơ sống, bơ chín. Nhị thừa thuần thục dần tin hiểu rõ ràng, nghe việc của Bồ-tát tâm không nghi ngờ, cho nên kinh Pháp Hoa chép: Sau đó tâm tướng thể tín ra vào không ngại, nhưng dừng lại ở bổn xứ. Hỏi: Điều nói rõ nghóa Bồ-tát trong kinh Thanh văn là Phật nói hay các đệ tử Thanh văn sau khi Phật diệt độ nói ? Cũng có điều Phật nói cũng có các La-hán làm Tỳ-Bà-sa, A-tỳ- đàm nói. Hỏi: Thứ nào là Phật nói, thứ nào là các La-hán nói ? Như nói Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến không dứt kết sử, ngồi đạo tràng bấy giờ kết sử tập khí đều dứt hết. Đây là lời Phật nói. Y cứ đâu để biết ? Luận Chủ Long Thọ đáp với nhiều người: nếu Bồ-tát thân sau không dứt kết sử là Phật phương tiện nói. Cũng có các La-hán sau khi Phật diệt nói. Như nói một A-tăng-kỳ kiếp biết mình thành Phật mà không nói cho mọi người biết, A-tăng-kỳ kiếp biết rõ mình thành Phật, cũng nói với mọi người biết. Nghóa này chẳng phải nói trong Ba tạng giáo, cho đến các La-hán soạn luận Tỳ-Bà-Sa giải thích nghóa Bồ-tát. Hỏi: Nếu Phật tự nói Ba tạng giáo nói nghóa Bồ-tát này có thể tin nhận. Nếu các vị La-hán nói làm sao tin được? Đáp: Các vị La-hán là bậc Thánh, cùng chọn lựa ý trong Ba tạng giáo của Phật, nói nghóa Bồ-tát đâu dễ gì hoàn toàn sai. Hỏi: Nếu vậy thì luận Trí Độ là ý gì ? Từ đầu đến cuối phá trong một búng ngón tay ? Ngài Long Thọ vì muốn trình bày ma-ha-diễn (Đại thừa) nói việc hành đạo của Bồ-tát, dùng lớn phá nhỏ đều có thể phá. Nếu y cứ về Tiểu thừa nói trong Tông đồ Ba tạng bậc Thánh La-hán chọn lựa đâu dễ sai trái. Nếu các La-hán nói kinh Thanh văn, giải thích nghóa Bồ-tát đều sai trái. Các Pháp sư phàm phu thời mạt pháp đâu thể có việc giải thích nhầm. Phàm tình giải thích Tiểu thừa đã không thể thừa dùng kinh Đại thừa sâu xa há có thể trích ra vong tình bàn luận. Nên biết, tuy không phải lời Phật nói. Nếu các vị La-hán soạn luận cũng cần tin nhận. Y cứ vào về giai vị Ba tạng giáo giải thích nghóa thanh tịnh vô cấu: Chính là giai vị trung nhẫn bổ xứ, con đường sáu Độ tức là nghóa tịnh, vì sao? Vì trong ba loại thuốc không có ba loại bệnh. Sáu Độ chính là đạo đế, tức là nghóa tịnh. Bởi vậy, kinh Pháp Hoa chép: Lại thấy Phật tử tu muôn hạnh, cầu tuệ vô thượng thì nói tịnh đạo cho họ. Đại só Duy- ma thành tựu sáu Độ tức là nghóa tịnh, vì không có sáu tệ cấu cho nên gọi là vô cấu, để giải hiểu tương tợ, bên trong xứng lý tứ đế sinh diệt, bên ngoài hợp với nhân duyên, trợ giúp Thích-ca Như Lai hiển Ba thừa giáo cho nên gọi là thanh tịnh vô cấu. Bởi thế phẩm Phương Tiện, thị hiện tật bệnh nói pháp vô thường, khổ, không vô ngã, bất tịnh cho Quốc Vương và Trưởng giả nghe, quở trách nhiều người siêng cầu quả Phật là ý này. Hỏi: Duy-ma gạt bỏ Thanh văn, quở trách Bồ-tát đây là hành vị không thể nghì bàn, đâu được lấy kinh Thanh văn nói về giai vị Bồ-tát rồi so sánh? Đáp: Trụ Bồ-tát giải thoát không thể nghó bàn có thể thị hiện nhiều loại, há không thể hiện Thanh văn nói về giai vị của Bồ-tát phụ Thích-ca Như Lai mà hoằng hóa ư ? Hỏi: Vì sao hóa độ Quốc Vương, Trưởng giả mà thị hiện thân Bồ- tát Ba Tạng để nói pháp cho họ, quở trách Thanh văn, Bồ-tát tức là hiện ngôn giáo Ma-ha-diễn không thể nghì bàn? Đáp: Vì cõi phàm tục bên trong kết sử không hề nói Tứ đế sinh diệt. Đây chính là đối trị cõi Bồ-tát Thanh văn bên trong do tập khí đã dứt, nhưng mê vào lý ba đế không thể nghì bàn. Bởi vậy, nói ba loại Tứ đế để chiết phục Thanh văn, nói tứ thật đế vô tác quở trách Bồ-tát. <篇> <卷>QUYỂN 8 Y cứ Thông giáo nói về giai vị để giải thích nghóa thanh tịnh vô cấu. Thông giáo đã giải thích rõ nhân duyên tức là lý Không. Ba thừa đồng bẩm khế lý để chứng đạo, ắt có sâu cạn cho nên phải phán quyết giai vị. Thông giáo nhập đạo cũng đủ bốn môn. Bốn môn là: Môn thật Môn bất thật Môn vừa thật vừa không thật Môn Phi thật phi bất thật Bốn môn này nhập vào thật tướng các pháp, xuất xứ từ luận Trí Độ. Trung luận tuy Không là môn, bốn câu đã có thể để cho hành nhân nhập nghóa đệ nhất. Nay lập môn quán ý nghóa này, nghóa là đối với lý không sai, dưới đây là biện thể phải giải thích sơ lược. Nay phán quyết Ba thừa đồng nhập nghóa đệ nhất, giai cấp trí đoạn. Thông giáo này có đủ bốn môn nhập đạo, mà kinh luận phần nhiều dùng không môn. Nếu luận hợp cơ hóa vật tùy duyên mà nói bốn môn, há có thể nghiêng về dụng nghóa kinh luận, tiện sự phải như thế. Bởi vậy, nay y cứ vào Thông giáo nói về giai vị Ba thừa, chính là nương vào không môn để giải thích, chia làm năm ý: Lược nói bán mãn, giải thích giai vị có sự giống nhau và khác nhau. nhau: Nương Thông giáo khai ba thừa. Nói thứ vị ba thừa Thông giáo Phân biệt. Y cứ giai vị giải thích nghóa thanh tịnh vô cấu. Nói lược bán mãn, giải thích giai vị có sự giống nhau và khác Nếu bán tự giáo môn ba giáo nói về giai vị đại thể thì đồng mà chi tiết thì khác, như Tỳ-đàm, Thành thật giải thích Ba tạng giáo, giải thích về giai vị Hiền Thánh tuy là dị tiểu mà đại ý là đồng, không dáng nghi. Nếu luận chung về giáo môn mãn tự Ma-ha-diễn chỉ là nhất giáo Ma-ha-diễn. Nếu suy tìm nghóa lý tỷ mỉ thì có Ba giáo nói về giai vị cao thấp khác nhau, không thông đạt phương tiện Đại thừa thật đáng nghi. Cho nên kinh Đại Phẩm chép: Có Bồ-tát từ mới phát tâm tức tương ưng với Tát-bà-nhã. Đây là nương Thông giáo nói về nhập giai vị, cũng là thí dụ cây nhỏ lớn lên trong kinh Pháp Hoa. Lại kinh Đại Phẩm chép: Có Bồ-tát từ mới phát tâm tức là du hý thần thông, thanh tịnh cõi nước Phật thành tựu chúng sinh, đây chính là y cứ vào Biệt giáo để nói về nhập giai vị, tức là kinh Pháp Hoa nói thí dụ cây lớn càng thêm lớn. Lại kinh Đại Phẩm nói: Có Bồ-tát từ mới phát tâm liền ngồi đạo tràng độ chúng sinh. Nên biết: Bồ-tát này giống như Phật, đây là y cứ vào viên giáo để nhập giai vị, cũng là kinh Pháp Hoa rõ thí dụ nhất địa sở sinh, cho nên luận Đại Trí Độ giải thích phẩm Đăng Chú rằng: Từ Càn tuệ địa là sơ diệm (ngọn đèn trước tiên) Phật địa là hậu diệm (ngọn đèn sau cùng). Có người này, Hoàn hỷ địa là sơ diệm (ngọn lửa đầu) Phật địa là ngọn lửa sau. Có người nói mới phát tâm là Sơ diệm, Phật địa là hậu diệm. Giải thích như thế thì không đồng nhau. Đây là các luận sư Đại thừa giải thích giáo môn mãn tự. Ba giáo nói rõ giai vị khác nhau đều lấy ý này để giải thích sơ diệm, hậu diệm. Hỏi: Vì sao Ba tạng giáo nói giai vị phần nhiều giống nhau, Ma- ha-diễn khai làm ba giáo, phán quyết giai vị khác nhau? Đáp: Bán tự giáo môn chỉ nói nội giới, một đời dứt kết sử nhập Niết-bàn. Tiểu thừa cạn hẹp nói rõ sự thấp kém, không thể sâu xa. Nếu là giáo môn mãn tự rộng lớn sâu xa, đủ nói rõ hành vị trong ngoài giới, pháp môn quyền thật vô phương, nói hạnh của các Bồ-tát tướng mạo giai vị khác nhau, vô quái ngại, cho nên kinh Niết-bàn chép: Thí như con đường hiểm không thể đi chung hai người, dễ giải thoát không phải như vậy, được dung thọ tức là chân giải thoát, hành vị quyền thật trong chân giải thoát đâu được không dung thọ. Cho nên, Bồ-tát Long Thọ soạn luận Đại Trí Độ, dùng các nhân duyên phá Chiên-đà-la. Dẫn Tỳ-Bà-Sa giải thích nghóa của Ba tạng giáo, nói nghóa Bồ-tát, chính là muốn trình bày giáo nghóa Ma-ha-diễn, hạnh không thể nghì bàn, dường như là giai cấp tùy duyên khác nhau. 2. Nói nương vào Thông giáo khai Ba thừa: Thông giáo này y cứ vào nhân duyên tức là lý không phân, Ba thừa. Ba người đồng lãnh thọ Thông giáo, thấy nghóa đế đệ nhất, cùng dứt kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, đắc nhất thiết trí, cùng cầu Niết- bàn hữu dư y và Niết-bàn vô dư y. Nghóa này đã đồng, cho nên y cứ vào nghóa Thông giáo để nói về giai vị, mà chia làm Ba thừa. Tổng tưởng thể pháp nhập không của Thanh văn, năng lực trí tuệ yếu, chỉ dứt chánh sử, căn tánh khác nhau, cũng có hai loại giải thoát, như phân biệt trong Ba tạng giáo ở trước. Duyên giác phước đức nhiều, căn tánh lanh lợi, ít phân biệt, biệt tưởng thể pháp nhập không sinh vào thời không có Phật, không nhờ nghe pháp, mà chí đạo thuần phục tự nhiên hiểu ngộ thấy nghóa đế đệ nhất, dứt kết sử, trừ tập khí trong ba cõi, ấy gọi là Bích-chi-phật thừa căn tánh không đồng cũng có hai loại: Tiểu Bích-Chi-ca-la Đại Bích-Chi-ca-la Đã như trước nói rồi, nếu Bồ-tát tu trí tuệ về Tổng tưởng và biệt tưởng nhân duyên của thể là không khởi thệ nguyện đại Bi, để tu các hạnh, thấy nghóa đệ nhất. Dứt phiền não giới nội, dùng thệ nguyện để sinh lại trong ba cõi, dùng đạo chủng trí du hý thần thông, thanh tịnh cõi Phật, thành thục thì ngồi đạo tràng, dùng một niệm trí tuệ, tương ưng, dứt hết phiền não tập khí, đắc nhất thế chủng trí, gọi là Phật, xoay hai loại bánh xe pháp sinh diệt và vô sinh diệt, hóa độ chúng sinh Ba thừa nhập Niết-bàn vô dư, ấy gọi là Đại thừa. Cho nên kinh Đại Phẩm chép: Người Ba thừa đều dùng nghóa đế đệ nhất, vô ngôn nói đạo, dứt trừ phiền não, chỉ có khác là tập khí tận và không tận. Lại, Trung luận nói chư Phật dùng vị Cam lộ để giáo hóa chúng sinh, thật tướng các pháp là vị cam lộ chân thật. Phật nói thật tướng chia làm ba loại. Nếu đắc thật tướng các pháp, diệt các phiền não gọi là Thanh văn. Nếu khởi tâm đại Bi phát ý vô thượng, gọi là Đại thừa. Nếu sau khi Phật diệt độ, bấy giờ không có Phật, nhân xa lìa sinh trí gọi là Bích-chi-phật thừa. Hỏi: Nếu như vậy thì đâu có khác Ba tạng giáo nói Ba thừa ở trước? Đáp: Ở trước nói thấy nghóa đệ nhất không khác nhưng giáo môn có sự khác nhau về gốc độ vụng về và khéo léo. Quán môn thì có sự khác nhau về phân tích để thấy chân, kia đã nói Bồ-tát từ mới phát tâm đến Bổ xứ, chưa nói dứt kết sử. Ở đây nói Bồ-tát từ mới phát tâm đã dứt kết sử, cho đến Bổ xứ, chánh sử dứt hết, tập khí mỏng đi, đây là đại dị. Lại nữa, Ba tạng giáo y cứ vào mười hai nhân duyên bốn đế sinh diệt, sáu ba-la-mật, ba pháp ấn chia Ba thừa. Nay nói Thông giáo thì không phải như thế. Ba thừa đồng quán Bốn đế vô sinh, thấy nghóa đệ nhất mà chia ra sự khác nhau giữa Ba thừa, sự giải như trước. Ba thừa đồng thể, giả nhập không quán mười hai nhân duyên, thấy nghóa đệ nhất mà phân ra sự khác nhau giữa Ba thừa, sự giải thích như trước. Ba thừa cùng quán sáu ba-la-mật, thấy nghóa đệ nhất mà phân biệt Ba thừa, phân biệt như trước. Như thế đâu đồng với Ba thừa của Ba tạng giáo? Hỏi: Bồ-tát có thể tu sáu Độ, Nhị thừa đâu được đồng tu sáu Độ ư? Đáp: kinh Niết-bàn chép: Phước đức trang nghiêm, hữu vi, hữu lậu vô lậu là pháp Thanh văn. Nơi nào có Thanh văn san tham, Bích- chi-phật, La-hán phá giới, tức giận, buông lung, tán loạn ngu si, chỉ là người Nhị thừa, không thể tu hành độ chúng sinh, đâu từng không đồng tu sáu Độ, đệ nhất nghóa cho đến vô ngôn nói đạo, mà dứt kết sử. Hỏi: Ở trên dẫn Trung luận để làm rõ, tức là Đại thừa, Thanh văn, Duyên giác ? Đáp: Không phải vậy. Ở đây tuy chung cho thừa nhập môn, nhưng Nhị thừa thủ chứng Niết-bàn tức là thân diệt độ, cho nên Trung luận đã phân biệt, đắc thật tướng của các pháp diệt các phiền não gọi là Thanh văn thừa. Nếu sinh tâm Từ bi, khởi ý vô thượng gọi là Đại thừa. Nếu Phật không ra đời, người Bích-chi-phật nhân xa lìa sinh trí. Hai hạng này đã không có lòng Từ bi thì đâu được gọi là Đại thừa, Thanh văn, Duyên giác. Kinh Pháp Hoa chép: Thân Tử tự khen ngợi: Chúng con đồng nhập vào pháp tánh, vì sao Đức Như Lai dùng pháp Tiểu thừa tế độ cho chúng con. Nhưng lỗi ấy do chúng con chứ không phải do lỗi Thế Tôn. Đây là tự mình nói đắc thật tướng các pháp, chẳng phải Đại thừa Thanh văn. Nếu Ca-diếp lãnh hội nghe Pháp Hoa khai quyền hiển thật nói: Chúng con ngày nay thật là Thanh văn, dùng tiếng Phật đạo để nghe tất cả, cho nên không được nói thật tướng các pháp tức là Đại thừa, Thanh văn, Bích-chi-phật. Nói về giai vị Ba thừa Thông giáo, có hai ý: Nói về Ba thừa cọng hạnh Thập địa Xét danh chung nghóa riêng. * Nói Ba thừa côïng hạnh có hai ý: Nêu tên Giải thích. Nêu tên gồm: Càn tuệ địa, Tánh địa, Bát nhân địa, Kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dó biện địa, Bích-chi-phật địa, Bồ-tát địa, Phật địa. Kinh Đại Phẩm chép: Bồ-tát từ sơ Càn tuệ địa đến Bồ-tát địa đều thực hành, đều học nhưng không chấp chứng. Phật địa vừa học vừa chứng, cho nên nói giai vị chung Ba thừa. Giải thích: Càn tuệ địa mới phát tâm của tâm, gọi chung là Càn tuệ địa. Càn tuệ địa là địa vị của Tam hiền, gồm: Năm pháp quán dừng tâm, Biệt tưởng niệm xứ, Tổng tưởng niệm xứ. Năm pháp quán dừng tâm gồm có ba ý: Phân biệt vụng khéo khác nhau. Nói về giai vị của năm pháp quán dừng tâm Xét chân ngụy. Phân biệt vụng khéo khác nhau: Ba tạng nói Sơ thiền khác với Thông giáo, đó là y cứ vào tín giải, tứ đế sinh diệt tu năm pháp quán dừng tâm. Nay y cứ vào tứ đế vô sinh tin hiểu tu năm pháp quán dừng tâm. Vì hai loại tin hiểu vụng khéo khác nhau cho nên nhập giai vị dừng tâm cũng khác nhau. Nói về giai vị của năm pháp quán dừng tâm: Gọi là Hiền chính là nghóa gần với Thánh, cũng gọi là trực thiện. Ở đây nói trực thiện có hai ý: Giải thích nghóa trực. Giải thích nghóa thiện. Giải thích nghóa trực: Tin hiểu trực chánh khác với nghiêng lệch của ngoại đạo. Lại không đồng về sự nghiêng lệch vụng về. Lìa hai bên này gọi là Trực, sở dó như vậy, là vì người Ba thừa nghe tứ đế vô sinh, vì tín hiểu rõ ràng cho nên như vậy. Tín không sinh khổ đế, tin năm Ấm mười hai nhập, mười tám giới không sinh, đều như huyễn hóa, như mộng, tiếng vang, như trăng đáy nước, bóng trong gương, rốt ráo không thật có, hữu chính là hiểu được khổ không khổ. Khổ tuy không khổ, nhưng nếu không biết không khổ thì chính là bị khổ làm khổ, gọi là kẻ ngu. Nếu biết không khổ đây là không khổ mà có chân đế tin vào Vô sinh. Tập đế: Là hiểu rõ tất cả nghiệp hành phiền não, đều như huyễn hóa, như tiếng vang, như bóng trong gương, như trăng đáy nước, rốt ráo không, không thật có, không có tướng hòa hợp. Nếu không biết không thật có, thì có nghiệp kết sử trôi lăn, cho nên biết không thật có chính là hiểu Tập là Vô tập. Bởi vậy, không có tập mà có chân đế thì tín không sinh. Diệt đế: Biết tất cả pháp sinh diệt đều không thật có. Dù cho pháp hữu vi quá hơn Niết-bàn cũng như mộng huyễn, như tiếng vang, như trăng đáy nước, bóng trong gương, xưa tự không sinh, nay cũng không diệt, thì sinh diệt đều không tự diệt. Nếu biết không sinh không diệt thì sinh diệt tự nhiên diệt, thế thì có diệt mà có chân đế. Tín vô sinh đạo đế: Tin tất cả con đường đến Niết-bàn đều như mộng huyễn, như trăng đáy nước, như bóng trong gương, hai tướng hữu vô chính là không thấy thông và không thông. Nếu thấy có hai tướng, có thông và không thông thì thành bít lấp. Nếu biết tướng không hai, chẳng thấy thông và không thông chính là mặc cho rỗng thông nhập nghóa đệ nhất. Chính là biết đạo, có đạo mà có chân đế. Nếu người Ba thừa, mới nhập Phật pháp tin hiểu ngộ rõ ràng gọi là tâm chính trực nhưng Bồ-tát nhờ tứ đế vô sinh này mà khởi tâm Từ bi thệ nguyện nên gọi là Ma-ha-tát. Hỏi: Nếu biết các pháp đều không thật có chính là không thấy chân và không chân, thì đâu cần kết tên gọi tứ đế vô sinh? Đáp: Đây là theo kinh Tư Ích, Niết-bàn để chế nghóa không phải phàm tình tự lập, được ý quên lời, cái tên tứ chân đế vô sinh đâu đáng nghi ngại. Giải thích nghóa thiện: Tức là pháp lành năm quán dừng. Năm pháp này có công năng phát sinh các thiền. Thiền gọi là khí ác, cũng gọi là công đức tòng lâm. Hai pháp thiện chỉ, hành không hơn được thiền. Thiền nhờ vào năm pháp, năm pháp này là gốc của cái thiện bên trong. Tin hiểu sơ tâm của hành nhân tuy chân nhưng vì năm thứ bất thiện, theo sự chấp trước nên tâm thường tán loạn, không dừng một khoảnh khắc, như đèn trước gió, soi vật đâu thể rõ. Muốn biết nhân duyên là chân thì phải nhất tâm thiền tịch, như nước lắng trong, thì tướng châu ngọc tự hiện. Bởi thế người giác quán phải nhiều, dạy họ tu sổ tức. Nhân tu sổ tức nên tâm không tán loạn đắc trụ định cõi dục nhưng chưa đến địa, có thể phát Sơ thiền cho đến Bốn thiền, bốn định vô sắc như gương sáng không lay động, nước lặng không có sóng, được đầy đủ tay chân nên được vào ao mát mẻ, ấy gọi là trực thiện. Người trực thiện sẽ phát vô lậu nên nói gần Thánh là hiền. Nên kinh Đại Phẩm chép: A-Na-Bát-Na tức là Bồ-tát Ma-ha-diễn. Vì không thật có nên ở đây y cứ vào sơ đình tâm nói về giai vị Càn tuệ của hiền nhân cũng như thế cho nên kinh Đại Phẩm chép: Quán bất tịnh tức là Bồ-tát Ma-ha-diễn vì không thật có cho nên phương tiện nhân duyên nói về dừng tâm, nhập giai vị Càn tuệ của Sơ hiền cũng giống như thế. Xét chân ngụy: Hỏi: Sơ tâm của Ba thừa, tin hiểu tứ đế vô sinh có chân ngụy hay không ? Đáp: Quả Ca-la-Ca, quả trấn-đầu-ca ngụy nhiều chân ít. Người học Ba thừa thời mạt pháp tuy biết tứ đế vô sinh mà không biết nghóa về chánh nhân duyên tức là quả ca-la-ca. Nếu tâm vô đạo tham đắm danh lợi tức là quả ca-la-ca. Không biết khéo léo tu tập chỉ quán tức là quả ca-la-ca, phá pháp không khắp gọi là quả ca-la-ca, không biết thông bít tức là quả ca-la-ca, không biết đạo phẩm để tiến lên tu tập tức là quả ca-la-ca, không biết đối trị trợ giúp mở ba cửa giải thoát tức là quả ca-la-ca, không biết thứ lớp giai vị rồi sinh tăng thượng mạn tức là quả ca-la-ca, không thể an nhẫn hai giặc mạnh yếu trong ngoài tức là quả ca-la-ca. Quả ca-la-ca có chín phần như người nữ không đem riêng về nhà ăn, quyến thuộc đều chết. Nếu biết rõ rốt ráo không thật có mà hiểu tường tận về được mất này, phát các pháp môn thuận đạo mà không yêu đắm tức là quả trấn-đầu-ca mới có một phần, cho nên Trung luận chép: Sau khi Phật diệt độ căn tánh con người độn dần nghe nói rốt ráo không trong pháp Đại thừa mà không biết vì nhân duyên nên không có liền sinh nghi, nếu đều rốt ráo không thì làm sao phân biệt có tội phước báo ứng, như thế không có nghóa Đệ nhất, thế đế. Chấp vào tướng không này mà sinh tham đắm nên đối với “rốt ráo không” sinh ra muôn lỗi. Bồ-tát Long Thọ soạn luận là ý này. Luận Trí Độ chép: Tà kiến thứ ba là phá nhân duyên, bác quả báo, cũng đâu khác phá tất cả pháp và quán chân không. Luận chữ Long Thọ tám lần lui tới suy xét chân ngụy, trích đủ. Hỏi: năm pháp lành dừng tâm có chân ngụy hay không ? Đáp: Một nhà thiền môn thứ tư phát rõ chi thiền giác, hoặc quá hoặc chưa tới, có hai mươi loại hoại thiền, biết tà tức là quả ca-la-ca. Mười loại thành thiền thiện giác tức là quả trấn-đầu-ca. Hỏi: Tin hiểu tứ đế vô sinh trí tuệ biện tài tức là Bát-nhã, đâu cần quán sổ tức, năm pháp quán dừng tâm. Luận Trí Độ chép: Không, vô tướng, vô tác tuy là trí tuệ. Nếu tâm không định tức là trí tuệ điên cuồng, đâu thể nói là người điền cuồng ? Đây là Càn tuệ địa của bậc Sơ Hiền. Nói về giai vị Càn tuệ địa của biệt tưởng niệm xứ: Người Ba thừa trụ tâm định tónh, tu ba loại sự tướng niệm xứ, sơ lược như Ba tạng giáo phân biệt ở trước. Nhưng Thông giáo này nói về niệm xứ Tánh. Nhưng quán năm Ấm tức không, trí tuệ của pháp tánh gọi là niệm xứ tánh. Bởi vậy, kinh Đại Phẩm chép: Sắc tức là không, phi sắc diệt không, tánh sắc tự rỗng không, không tức là sắc. Lìa không thì chẳng có sắc, lìa sắc thì chẳng có không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như vậy, nếu quán thuộc ái thuộc kiến, thân kiến, biên kiến, bốn kiến, mười bốn kiến và tất cả các sắc đều bất tịnh, luống dối không thật, vốn tự không sinh. Không sinh tức là không, không tức là pháp tánh, pháp tánh không cấu không tịnh, tức phá hai điên đảo cấu tịnh, nghóa chân bất tịnh này gọi là niệm xứ thân. Nếu quán thuộc ái thuộc kiến, tất cả các thọ đều khổ, luống dối không thật, vốn tự bất sinh. Bất sinh tức là không, không tức là pháp tánh, pháp tánh không khổ không vui, phá đảo khổ vui là nghóa khổ chân thật, gọi là niệm xứ thọ. Nếu quán thuộc ái thuộc kiến, tất cả tâm đều vô thường, luống dối không thật, vốn tự bất sinh, bất sinh tức là không, không tức là pháp tánh, pháp tánh vô thường phi vô thường tức là phá điên đảo thường vô thường. Nghóa chân vô thường này gọi là niệm xứ tâm. Nếu quán thuộc ái thuộc kiến, tất cả hai Ấm: Tưởng Ấm, hành Ấm đều vô ngã, luống dối không thật, vốn tự bất sinh. Vì không sinh cho nên là không, không tức là pháp tánh, pháp tánh phi ngã phi vô ngã tức là phá điên đảo ngã, vô ngã. Nghóa chân vô ngã này gọi là niệm xứ pháp. Người ba thừa, quán năm Ấm, nghóa đế đệ nhất, tu bốn Niệm xứ. Trong bốn Niệm xứ có bốn thứ tinh tấn gọi là Chánh cần, bốn loại thiền định gọi là bốn Như ý túc, năm loại thiện sinh: Tín, tấn, niệm, định, tuệ gọi là Căn. Gốc lành thêm lớn, ngăn các phiền não gọi là Lực. Phân biệt dụng của Đạo gọi là bảy Giác chi, thực hành trong đạo an ổn gọi là tám Chánh đạo. Tánh bốn Niệm xứ này đối phá thân kiến biên kiến, bốn kiến, kết thành bốn mươi tám lần cho đến chín mươi sáu lần. Nói về vô sinh niệm xứ ý rất khó hiểu, tự suy nghó cùng tột cũng không thể biết. Nếu tu niệm xứ côïng sự tướng như ở trước, nhưng dùng tướng phòng tướng trướng, tướng rạn tướng hoại, bối xả thắng xứ đều như mộng huyễn, rốt ráo không thật có là khác. Nếu tu niệm xứ duyên phân biệt danh nghóa như trước. Nhưng biết lìa tánh của danh dự tức là tướng giải thoát không có cú nghóa, cú nghóa của Bồ-tát này thông đạt tất cả danh nghóa như thế tức là niệm xứ duyên. Người ba thừa tu ba loại niệm xứ này đều dùng chánh cần, như ý túc, căn lực giác chi, chánh đạo, khéo léo điều phục. Quán năm Ấm tất cả các pháp, không lấy không bỏ có thể hàng phục thuộc ái, thuộc kiến, tám mươi tám kết sử, tất cả nghiệp kết sử trong hai mươi lăm cõi, ba cõi, cho nên nói khéo dứt các hý luận. Nói lược Ba thừa thông quán biệt tưởng bốn Niệm xứ trụ Càn tuệ địa. Nhưng Bồ-tát tuy biết năm Ấm rốt ráo vắng lặng mà phát thệ nguyện đại Bi không bỏ chúng sinh. Dùng vô sở đắc để điều phục các căn, tu sáu Độ tức là Ma-ha-diễn, cho nên kinh Đại Phẩm chép: Bốn Niệm xứ là Bồ-tát Ma-ha-diễn vì không thật có. Hỏi: Thông giáo niệm xứ tánh lý đã là phá chung tám đảo, đâu cần đối riêng? Đáp: Biệt tưởng bốn Niệm xứ của Ba tạng giáo đã phá riêng bốn đảo, nói về Càn tuệ địa. Nay giai vị Càn tuệ đã là đối bằng phá cái vụng, chỉ phá bốn đảo, nay nói phá riêng cái xảo, cho nên lại dùng biệt để phá tám đảo. 3) Nói về giai vị Càn tuệ địa của bốn Niệm xứ: Tổng tưởng ba loại bốn Niệm xứ như Ba tạng giáo phân biệt ở trước. Nhưng dùng như huyễn như hóa pháp thể tức không là dị. Đây là vô sinh Tổng tưởng bốn Niệm xứ, trụ là trong tổng tưởng niệm xứ. Nếu tu niệm xứ thân tức là quán năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, tất cả các pháp đều phá tám đảo, đó gọi là niệm xứ thân. Niệm xứ Thọ, tâm, pháp cũng giống như vậy. Trụ là tổng tưởng bốn Niệm xứ. Tu bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm căn, năm lực, bảy Giác chi, tám Chánh đạo, tuy chưa phát tướng Noãn giống như nước pháp vô lậu mà quán năm Ấm trí tuệ của tổng tướng rất lợi hơn biệt tưởng bốn Niệm xứ. Ấy gọi là giai vị ngoại phàm Càn tuệ địa của Tổng tưởng bốn Niệm xứ. Hỏi: Người ba thừa quán thông đệ nhất nghóa đế, đồng phá tám đảo, đồng thấy Phật tánh, vì sao người Thông giáo nhập Niết-bàn hữu dư y và Niết-bàn vô dư y? Đáp: Phá tám đảo có bốn ý: Phá tám đảo không kết thành khô tươi, chính là Thông Biệt Viên bất định. Phá tám đảo kết thành bốn khô, định thành Thông giáo. Phá tám đảo kết thành bốn tươi định thành Biệt giáo. Phá tám đảo kết thành bốn khô tươi tức là Viên giáo. Nay nói phá tám đảo dung Tịnh danh quở trách Ca-chiên-diên phá năm nghóa của Ba tạng, nói năm nghóa Ma-ha-diễn tức kết thành bốn khô, cho nên hai trăm vị tỳ-kheo tâm đắc giải thoát, chính là ý của Thông giáo. 2. Nói về tánh địa: Nếu nhân Tổng tưởng niệm thì thành ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Sơ phát hữu lậu, năm Ấm của phát thiện gọi là pháp Noãn. Nghóa pháp Noãn nói như trước, tăng tiến tâm sơ, trung, hậu nhập pháp đảnh pháp nhẫn, cho đến nghóa thế đệ nhất gọi là nội phàm tánh địa. Nghóa của tánh địa đều nói như trước. Nhưng vì từ Càn tuệ địa tu tập phương tiện Vô sinh có khác, cho nên nói tâm sơ, trung, hậu của tánh địa giai tuệ khéo léo cũng có khác nhau. Vụng khéo tuy khác nhau nhưng đều điều phục mê hoặc kiến đế giới nội. Nói về tám nhân địa: Tức là tín hạnh và pháp hạnh của ba thừa, thể thấy giả để phát chân dứt hoặc kiến đế, ở trong Tam-muội Vô gián tức là giai vị tám nhân địa. Kiến địa: Tức là Ba thừa đồng thấy lý của nghóa đệ nhất tứ đế vô sinh, đồng dứt kiến hoặc tám mươi tám kết sử. Hỏi: Trước nói về thể pháp nhập không, sau phá thuộc ái thuộc kiến. Nay vì sao kiến hoặc dứt hết trước, thuộc ái dứt tận sau? Đáp: Kiến hoặc mới ái cũ, thể giả nhập không, tuy là phá đủ, kiến thì dễ, dứt ái thì khó trừ. Thí như cắt cọng sen, hoặc tay bẻ gãy cọng sen, bẻ đứt luôn cả sợi tơ. Hoặc dùng dao đứt cả cắt tơ sen. Người thứ lớp chứng quả, kiến hoặc tuy dứt, tư hoặc vẫn còn. Người chứng siêu việt thì kiến hoặc, tư hoặc đều dứt. Bạc địa: Thể ái giả tức là phát chân sáu phẩm vô lậu, dứt sáu phẩm cõi dục, chứng giải thoát thứ sáu và giải thoát mỏng ở cõi Dục. Lìa dục địa: Tức là người Ba thừa thể ái giải tức là dứt năm kết sử hạ phần ở cõi Dục, lìa phiền não cõi Dục. 7.Nói về địa: Tức là người ba thừa thể sắc, vô sắc ái là chân, phá chân vô lậu, dứt năm kết sử thượng phần, bảy mươi hai phẩm dứt hết, dứt việc trong ba cõi, hoặc nghiệp rốt ráo, đã nói về địa xong. Bích-chi-phật địa: Duyên giác, Bồ-tát phát chân vô lậu, năng lực công đức rất lớn, cho nên có công năng phá trừ tập khí. Bồ-tát địa: Từ không nhập giả quán hai lưu, quán sâu hai đế tiến đến dứt tập khí. Sắc vô minh đắc thành pháp nhãn, đạo chủng trí giới ngoại, thần thông du hý, thanh tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh, học mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cọng, đại Từ đại Bi của Phật dứt tập khí. 10. Phật địa: Năng lực công đức lớn, cùng trí tuệ một niệm tương ưng tuệ quán chân đế, tập khí hoàn toàn hết, cho nên luận Trí Độ chép: Năng lực trí tuệ của Thanh văn yếu như ngọn lửa nhỏ thiêu đốt cây cối, tuy nhiên còn lại thân lực trí tuệ của Duyên giác mạnh như ngọn lửa lớn thiêu đốt cây cối, cây cháy than tàn nhưng tro còn. Trí lực của Phật rộng lớn như ngọn lửa to, tro than đều hết, cũng giống như ví dụ thỏ, ngựa, voi qua sông. Hỏi: Bồ-tát và Phật địa tên khác, Nhị thừa đâu được nói chung? Đáp: Tên tuy khác đồng là bậc Vô học ứng cúng, đắc Niết-bàn hữu dư y, cùng quy về tro tận, chứng quả là một, danh nghóa không khác, chính là danh nghóa rốt ráo đều đồng. 2. Xét tên riêng nghóa chung có hai ý: Y cứ vào Ba thừa và Thập địa ở trước, Bồ-tát lập riêng tên gọi Nhẫn. Nói về tên riêng nghóa chung của tên gọi Biệt giáo. 1.Dùng giai vị của Thông giáo lập giai vị riêng tên riêng mà nghóa chung. Nghóa chung như trước đã nói. Nay nói về tên riêng. Biệt là Bồ- tát đặt tên phục nhẫn, nhu thuận nhẫn, vô sinh nhẫn. Vì sao? Càn tuệ địa Ba thừa đều hàng phục kiến hoặc mà Bồ-tát lại hàng phục tên gọi nhẫn. Bồ-tát tin nhân duyên là không, nhưng đối với tứ đế vô sinh hàng phục được tâm mình, phát bốn thệ nguyện rộng lớn, tuy biết chúng sinh như hư không mà phát tâm độ tất cả chúng sinh. Vì Bồ-tát muốn độ tất cả chúng sinh như độ hư không, cho nên kinh Kim Cương Bát-nhã chép: Bồ-tát nên hàng phục như thế, cái gọi là diệt độ vô lượng vô biên chúng sinh mà không có chúng sinh nào được diệt độ. Kế nói về ba thệ nguyện hàng phục tâm mình cũng giống như thế, cho nên ở giai vị Càn tuệ địa tu dừng tâm, tên khác là phục nhẫn khác Nhị thừa. Biệt Tưởng, tổng tưởng niệm xứ đều gọi Phục Nhẫn cũng giống như thế. Lại nữa, người Ba thừa đồng phát năm Ấm thiện hữu lậu, sinh giống như giải đều có công năng hàng phục kiến hoặc, thuận lý nghóa đế đệ nhất mà Bồ-tát chỉ nhận tên gọi nhẫn nhu thuận, Bồ-tát chẳng những hàng phục kết sử thuận lý. Mà còn cứu độ tất cả chúng sinh, hàng phục tâm và thực hành sáu Độ. Trong tất cả việc phước đức trí tuệ đều rốt ráo. Như Ba tạng giáo môn, ba A-tăng-kỳ tu sáu Độ cho đến không tiếc thân mạng, cho đến đầy đủ trung nhẫn. Nay Bồ-tát này cũng giống như thế, dùng không, vô tưởng, vô nguyện đều phục các căn. Muốn làm cho chúng sinh đầy đủ sáu Độ cho nên gọi là nhẫn Nhu thuận. Lại nữa người Ba thừa đồng phát chân vô lậu hoặc biết dứt đoạn đồng gọi là Vô sinh mà Bồ-tát chỉ thọ tên gọi pháp nhẫn vô sinh để thấy nghóa đế đệ nhất. Tuy dứt kết sử mà không sinh tâm chấp chánh cho nên thọ nhận tên gọi pháp nhẫn vô sinh, vì sao? Vì nếu sinh tâm thủ chứng thì rơi vào Nhị thừa, không được nhập Địa thứ chín của Bồ-tát. Lại nữa người Ba thừa cùng đắc thần thông mà người Nhị thừa không thể dùng thần thông, thành tựu chúng sinh, thanh tịnh cõi nước Phật. Cho nên không thể gọi là du hý. Bồ-tát có thể như vậy, cho nên Bồ-tát có thể thọ tên gọi thần thông du hý. Bậc A-na-hàm tuy dứt năm kết sử hạ phần mà không thể xả bỏ thiền định sâu xa sinh lại cõi Dục, hòa quang lợi vật mà không cùng đọa. Bồ-tát có thể như thế, nên gọi riêng là lìa dục thanh tịnh. Hỏi: Thông Ba thừa giáo đồng quán hai đế, y cứ vào giai vị làm sao phân biệt? Đáp: Nhị thừa tuy quán hai đế một bề thể giả nhập không, dung chân dứt kết sử, cho đến quả vô học. Bồ-tát cũng quán hai đế, từ Càn tuệ cuối đến kiến địa, phần nhiều dùng quán từ giả nhập không, đắc nhất thiết trí tuệ nhãn phần nhiều dụng chân, từ bạc địa học du hý thần thông phần nhiều tu quán, từ không nhập giả, đắc đạo chủng trí pháp nhãn, phần nhiều dùng thế tục. Từ Bích-chi-phật địa, (7 5 1) học hai quán thuần thục, chiếu soi hai đế nhập Bồ-tát địa, tự nhiên chảy vào biển Tát-bà-nhã. Chính là không có tâm dụng công tu chủng trí Phật nhãn, Phật địa tròn sáng thành nhất thiết chủng trí, Phật nhãn tròn đầy chiếu hai đế rốt ráo. Nên luận Đại Trí Độ chép: Trong pháp Thanh văn gọi là Càn tuệ địa, đối với Bồ-tát tức là Phục nhẫn, trong pháp Thanh văn gọi là tánh địa, trong pháp Bồ-tát gọi là nhẫn Nhu thuận, trong pháp Thanh văn gọi là Bát nhân địa, trong pháp Bồ-tát gọi là pháp nhẫn Vô sinh, trong pháp Thanh văn gọi là kiến địa, trong pháp Bồ-tát là quả vô sinh pháp nhẫn, trong pháp Thanh văn gọi là bạc địa, trong pháp Bồ-tát gọi là du hý năm thần thông, trong pháp Thanh văn gọi là ly dục địa, trong pháp Bồ-tát gọi là ly dục thanh tịnh A-la-hán địa, trong pháp Thanh văn tức là Phật địa. Ba mươi bốn tâm của Ba tạng Phật phát chân dứt kết sử trong ba cõi, ngang với a-la-hán. Kinh Đại Phẩm: A-la-hán hoặc trí hoặc đoạn, là vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Kinh Đại Phẩm chép: Bích-chi-phật hoặc tri hoặc đoạn, ấy là vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát tức đối với Bồ-tát Bát địa dứt trừ tập khí, Cửu địa quá Bích-chi-phật địa nhập giai vị Bồ-tát. Giai vị Bồ-tát ở Cửu địa, Thập địa chính là Bồ-tát Thập địa nên biết giống như Phật. Tập khí này chưa hết, qua Bồ-tát địa thì nhập Phật địa, dùng thệ nguyện giúp cho tập khí sinh vào tám tướng thành đạo ở Diêm-phù-đề Xét suy tướng như ở trước: Đại tiểu thừa đồng khác, như luận Đại Trí Độ phân biệt. Tướng thành đạo: Dưới cội Bồ-đề được một niệm tương ưng, tương ưng với lý tứ đế vô sinh, dứt tất cả phiền não, tập khí đoạn tận, đầy đủ đại Từ đại Bi, mười sáu tứ vô sở úy, mười tám pháp bất côïng, bốn trí vô ngại, tất cả công đức vô ngại, tất cả công đức trí tuệ gọi là Phật. Tướng xoay bánh xe pháp: Quyền trí khai Ba tạng, bánh xe pháp sinh diệt tứ đế, thật trí nói Ma-ha-diễn bánh xe pháp vô sinh tứ đế chung cho người Ba thừa. Tướng nhập Niết-bàn: Nhập Niết-bàn vô dư giữa hai cây sa-la như củi hết lửa tắt, để lại Xá-lợi làm ruộng phước cho trời người. Ấy là tám tướng thành đạo Thông giáo Đại thừa. Chính là người ba thừa đồng thấy lý chân đế, đồng đắc hai loại Niết-bàn nhưng sự khác nhau về tám tướng thành đạo của Đại thừa. Chính là Thông giáo Đại thừa, biệt là Bồ-tát lập danh vị. 2.Nói rõ dùng tên biệt giáo, biệt vị, tên riêng mà nghóa chung, tức là Ba thừa đồng quán lý nghóa đế đệ nhất, dùng tên Biệt giáo nói về giai vị Bồ-tát, y cứ điều này có hai ý: Y cứ tên riêng nghóa chung nói về giai vị: Phân biệt: Y cứ tên riêng nghóa chung nói về giai vị: Tên riêng: Thập tín, ba mươi tâm, Thập địa. Vị thiết luận tức là Càn tuệ địa phục nhẫn ba mươi tâm tức là tánh địa Nhu thuận nhẫn. Bát nhân địa kiến địa tức là sơ hoan hỷ địa, vì đắc Vô sinh nhẫn, cho nên kinh Đại Phẩm chép: Tu-đà-hoàn hoặc biết hoặc đoạn, đều là vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Bạc địa hướng quả: Hướng là quả ly cấu địa, Phát quang địa, cho nên kinh Đại Phẩm chép: A-na-hàm hoặc trì hoặc đoạn là vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát A-na-hàm hướng quả. Hướng là Diệm địa, quả tức là Nan Thắng địa, cho nên kinh Đại Phẩm chép: A-na-hàm trí đoạn là Bồ-tát, tức là vô sinh nhẫn của Bồ-tát. La- hán địa hướng quả. Hướng là Hiện Tiền địa, quả là viễn hành địa, cho nên A-la-hán trí đoạn là vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Bích-chi-phật địa tức là Bất động địa thứ tám, dứt trừ tập khí, cho nên kinh Đại Phẩm chép: Bích-chi-phật trí đoạn là vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Bồ-tát tức là Thiện tuệ địa thứ chín, Đệ thập Pháp vân địa nên biết như Phật. Phật địa đã nói ở trước, khi ngồi đạo tràng một niệm tuệ tương ưng dứt hai chướng, tập khí tận, là tập khí phiền não chướng và sở tri chướng, hóa độ tất cả chúng sinh có duyên xong, nhập Niết-bàn vô dư, như củi hết lửa tắt, tám tướng thành đạo như đã nói ở trước. Chính là dùng tên gọi biệt giáo để nói về giai vị, tên khác mà nghóa đồng, còn thuộc về giai vị Thông giáo. Phân biệt: Hỏi: Từ Sơ địa đến Thất địa đối với bốn quả xuất xứ từ kinh luận nào? Đáp: Các kinh luận đều nói nhưng cao thấp khác nhau. Các Pháp sư đời sau nói cũng khác nhiều. Sở dó như vậy, vì có người nói: Kiến địa chỉ đối với Sơ địa, điều này như ngày nay sử dụng. Hoặc lấy tam địa đối Kiến địa. Kinh nhân Vương nói bốn địa đều đối kiến địa. Điều này khó có thể y cứ. Nhưng kiến địa của Thông giáo vốn là con đường Vô gián, không xuất phát từ quán chứng Tu-đà-hoàn, há từ Sơ địa dứt kiến cho đến Tam địa, hoặc nói Tứ địa. Nếu dứt hoặc nghiệp riêng không chung với Nhị thừa, nói rõ nghóa này hoặc có điều đó. Lại hoặc nói Lục địa dứt kết sử gọi là ngang với A-la-hán, hoặc nói Thất địa gọi là A-la-hán, điều này khó định được. Lần lượt hai quả kinh luận đối chiếu đã không nhất định hai quả ấy thì ý có thể biết, đã không thể định cứ, nay dùng nghóa để đối chiếu giai vị tuy nhỏ nhưng không thể định chấp. Y cứ vào Thông giáo nói về giai vị giải thích xứng nghóa thanh tịnh vô cấu: Giai vị Đại só ở vào lý tánh bổ xứ chân đế tự nhiên sáng tỏ, gọi là tịnh, hai chướng chánh hoặc nội giới đã dứt tập khí mỏng dần, nên gọi là vô cấu. Trí tuệ ở trong tương ưng với chân đế, ngoài có thể xứng với căn tánh thần thông nói pháp của Ba thừa, nên gọi là xứng, chính là lược nói tên gọi Đại só Thông giáo thọ nghóa thanh tịnh vô cấu cho nên phải thị hiện thân Bồ-tát, dùng hình tiếng này, mượn thân tật bệnh nói pháp như mộng huyễn cho vua chúa Trưởng giả, khuyên cầu Bồ-đề, lại phá Ba tạng giáo Ba thừa, đối với sự nghiêng lệch vụng về nếu tìm Sư La-thập để chú giải ý của Duy-ma đồng dùng ý này. Các Pháp sư đời Trần và đời Lương giảng Văn kinh này quyết đoán giai vị Bồ-tát ý có cao thấp, tuy có đổi chút không đồng. Ngày nay, các nhà thường trông mong dùng ý Thông giáo giải thích kinh này.  TỨ GIÁO NGHÓA <卷>QUYỂN 9 Y theo Biệt giáo nói về giai vị, giải thích nghóa thanh tịnh vô cấu. Biệt giáo nói nhân duyên giả danh, lý Phật tánh Như Lai tạng, Bồ-tát lãnh thọ giáo môn nầøy tu hành đắc chứng nên có sâu cạn, cho nên phải nói về giai vị nhập đạo của Biệt giáo, cũng có bốn môn: Môn hữu, Môn không Môn vừa hữu vừa không. Môn chẳng phải hữu, chẳng phải không. Biệt giáo tuy có bốn môn nhưng tìm ý trong kinh luận phần nhiều dùng vừa hữu môn vừa không môn để nói về hành vị, như kinh Niết-bàn nói: nghóa không Đệ nhất gọi là Phật tánh. Lại nói: Người trí thấy không và không không Thanh văn và Bích-chi-phật thấy không mà chẳng thấy không không. Không không: Là Phật tánh. Nếu hướng cơ lợi vật, bốn môn nhập đạo, đều theo căn duyên đâu thể dùng nghiêng lệch. Nhưng nói về nghóa giai vị thì việc phải như thế. Bởi vậy ngày nay nói về hành vị của Biệt giáo, lại y cứ môn không hữu để nói, ở đây có bốn ý: Kinh luận trích giai vị Bồ-tát về Biệt giáo khác nhau. Nói chung giai vị. Giải thích riêng. Y cứ giai vị của Biệt giáo để giải thích nghóa thanh tịnh vô cấu. Kinh luận nêu ra giai vị của Bồ-tát Biệt giáo đoạn phục, đối chiếu pháp môn khác nhau: Y cứ Biệt giáo nói về nhân duyên giả danh, Hằng hà sa Phật pháp, Phật tánh lý Niết-bàn thường trụ. Bồ-tát lãnh thọ giáo này, quán lý ba đế, nhiều kiếp tu muôn hạnh, dứt Hằng hà sa biệt hoặc vô tri. Muốn thấy Phật tánh cầu bốn đức Niết-bàn thường trụ chính là giáo biệt lý biệt. Đoạn biệt, vị biệt, nhân biệt, quả biệt. Ở đây chỉ nói về nhất thừa. Người Nhị thừa nghe điều này như câm như điếc. Nhưng kinh luận nói về danh sớ biệt vị nhiều ít, đoạn phục cao thấp, đối chiếu các pháp môn phần nhiều có sự khác nhau, có ba ý: Số giai vị khác nhau. Đoạn phục cao thấp khác nhau. Đối chiếu các pháp môn khác nhau. Số giai vị khác nhau: Như kinh Hoa Nghiêm nói ba mươi tâm, Thập địa, Phật địa, có bốn mươi mốt địa. Kinh Anh Lạc nói năm mươi hai giai vị. Kinh Nhân Vương nói năm mươi mốt giai vị. Kinh Kim quang Minh mới dịch chỉ trích Thập địa Phật quả, kinh Thắng Thiên Vương, Bát-nhã Đại Phẩm cũng chỉ nói Thập địa Phật quả, không nói ba mươi tâm, địa vị Đẳng giác. Kinh Niết-bàn nói năm hạnh mười công đức, y theo nghóa phối hợp giai vị giống như ba mươi tâm Thập địa, Phật địa mà văn không nêu tên. Lại luận Thập địa, luận Nhiếp Đại thừa, luận Đại Trí, luận Thập trụ Tỳ-Bà-Sa, luận Đại Trí Độ đều giải thích địa vị Bồ-tát các kinh luận như thế nói về các giai vị Bồ-tát, danh số nhiều ít khác nhau, đoạn phục cao thấp cũng khác, đối chiếu các pháp môn nói về giai vị đều khác nhau, sở dó như vậy vì đây đã nói về hành vị Bồ-tát. Sinh thân, Pháp thân, nội giới, ngoại giới. Như Lai phương tiện dùng bốn tất-đàn hóa độ chúng sinh nội giới tùy cơ được lợi ích đâu được định nói nếu không tìm rộng kinh luận thì không biết đồng khác, nghiêng thiên về định chấp không thêm tranh luận, đây đồng với không mắt mà tranh với mặt trời ở trên trời. Nay nói rõ thứ vị của Đại thừa Biệt giáo, phải dùng hai kinh Anh Lạc, và Nhân Vương, nếu nói về đoạn phục cao thấp phải y cứ ba quán của Đại Phẩm. Nếu nói quán hạnh đối ý pháp môn, thuộc năm hạnh của Niết-bàn, giải thích nghóa đối chiếu các pháp môn tùy tiện tìm tòi các kinh luận. Một nhà nói pháp chính là ở sơ tâm quán môn, giáo môn phải rõ ràng. Chư Phật Bồ-tát, Ba thừa Thánh vị; Phàm phu không thể lường, đâu thể vọng nói ma cần rõ về giai vị. Người biết ý Đại thừa, nếu hành nhân tu đạo phá tâm tăng thượng mạn, nếu nói pháp giảng kinh quyền phải bỏ văn dẫn vật, ít hướng, lại muốn làm cho người nghe đều biết kinh luận Đại thừa, hành vị Bồ-tát về Biệt giáo khác nhau, đâu thể nghiêng chấp thị phi cạnh tranh. Hỏi: Tại sao nói về danh số lấy kinh Anh Lạc và Nhân Vương làm pháp vị danh mục? Đáp: Hoa Nghiêm đốn giáo phần nhiều nói bốn mươi mốt địa viên vị, lai không nêu ra tên Thập địa. Các kinh văn Đại thừa Phương Đẳng phần nhiều nói các pháp môn không các chánh giai vị. Bốn thời Bát- nhã trước phần nhiều cũng nói về ý pháp môn quán hạnh của Bồ-tát, cũng không nói về giai vị. Nay kinh Anh Lạc nói năm mươi hai giai vị, danh nghóa đầy đủ là kết thành giai vị Biệt Viên của các kinh Đại thừa Phương đẳng. Nhân Vương, Bát-nhã nói năm mươi mốt giai vị là kết thành giai vị Biệt Viên bốn thời Bát-nhã ở trước. Pháp Hoa chỉ khai quyền vị chung riêng, hiển một Viên vị. Niết- bàn Đại thừa cũng nói rõ hai vị Viên Biệt mà không nêu đích xác danh mục Hỏi: Đoạn phục cao thấp, vì sao dùng Ba quán của Đại thừa? Đáp: Nghóa một nhà thì tiện. Hỏi: Quán hạnh biệt giáo đối chiếu pháp môn, vì sao dùng năm hạnh của Niết-bàn ? Đáp: Thời mạt pháp nhập đạo phải được hợp nghi, Biệt giáo nói về quán hạnh có hai loại: Không cùng thuyết Nhị thừa. Như Hoa Nghiêm, luận Thập địa, Trì Địa, chín loại giới định tuệ và luận nhiếp Đại thừa. Cùng thuyết Nhị thừa. Như phương Đẳng, Đại phẩm, Trung luận, Thích luận. Nay nói năm hạnh của Niết-bàn thật là yếu nghóa hạnh dụng thời Mạt pháp. Nói chung về giai vị Bồ-tát của Biệt giáo có ba ý: Y cứ kinh Anh Lạc nói về số giai vị. Nương vào Ba quán, kinh Đại phẩm nói về đoạn phục. Y cứ kinh Niết-bàn đối chiếu pháp môn và nói về giai vị. 1) Y cứ kinh Anh Lạc nói về số giai vị. Kinh Anh Lạc có bảy loại nói về giai vị bảy vị: Thập tín. Thập trụ. Thập Hạnh. Thập hồi hướng. Thập địa. Đẳng giác. Diệu giác địa. Sơ Thập tín tức là ngoại phàm là giai vị Càn tuệ địa phục nhẫn của Biệt giáo. Thập trụ là học giai vị chủng tánh. Từ đây trở đi dứt hết ba mươi tâm giải hành vị đếu là tánh địa nội, phàm của Biệt giáo, là giai vị nhu thuận nhẫn. Y cứ vào nghóa để suy ra như pháp nhẫn. Thập hạnh: Tánh chủng tánh, nghóa Biệt giáo suy ra bằng pháp Đãnh. Thập hồi hướng: Đạo chủng tánh, nghóa của Biệt giáo suy bằng pháp nhẫn, Thế đệ nhất. Hỏi: Biệt giáo đều phải nói rõ về Noãn, Đãnh, Nhẫn hay không? Đáp: Thập địa đã đối với bốn quả cho nên phải rõ, Thông giáo chung chân tợ giải thích Noãn, Đãnh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp. Nay Biệt giáo phân biệt chân tợ, giải nghóa đặt tên phán quyết rõ ràng. Thập địa: Thánh chủng tánh. Ở đây đều nhập bốn quả Thánh vị của Biệt giáo, đều dứt vô minh và kiến hoặc, tư hoặc. Đẳng giác vị: Là Đẳng giác tánh, nếu mong vào Bồ-tát gọi là Đẳng giác Phật địa. Hoặc mong vào Phật địa gọi là Bồ-tát Kim Cương tâm cũng gọi là Bồ-tát Vô Cấu Địa. Diệu Giác địa: Là diệu giác tánh, tức là Phật rốt ráo, quả Bồ-đề, quả đại Niết-bàn Y theo kinh Đại phẩm và ba quán hợp vị nói về đoạn phục cao thấp: Kinh Đại Phẩm chép: Phật bảo Xá-lợi-phất rằng Bồ-tát muốn đầy đủ đạo tuệ phải học Bát-nhã ba-la-mật đa. Chính là Thập tín học từ giả nhập không, phục ái luận kiến luận dục, nhập vào Thập trụ. Nếu đắc Thập trụ tức là dứt kiến hoặc và tư hoặc của nội giới, muốn dùng đạo tuệ đầy đủ Đạo chủng trí phải học Bát-nhã, đây là từ không nhập giả, vào Thập hạnh, muốn được đạo chủng tuệ đầy đủ nhất thiết trí phải học Bát-nhã, đây chính là tu Trung đạo chánh quán, vào Thập hồi hướng. Muốn dùng Nhất thiết trí đầy đủ nhất thể chủng trí phải học Bát- nhã, đây là chứng Trung đạo chánh quán nhập Thập địa. Muốn dùng nhất thiết chủng trí dứt tập khí phiền não phải học Bát-nhã, đây chính là đẳng giác vị vô minh phiền não đạo tận, gọi là Phật, tức là Diệu giác địa. Hỏi: Vì sao luận Trì Độ nói Phật nói đắc trong ba trí một tâm? Đáp: Vì hiển bày Viên giáo từ một địa đầu tức đầy đủ tất cả các địa. Nếu chấp vào nghóa này thì trái với nghóa phẩm ba tuệ nói ba trí biệt tướng. Theo kinh Niết-bàn nói năm hành hợp vị: Giới Thánh hạnh, định Thánh hạnh, tứ đế sinh diệt. Tuệ Thánh hạnh tức là Thập tín. Tứ chân đế vô sinh, tứ Thánh là Thập hạnh nói về tu nhất chân đế, tứ Thánh đế vô tác tức là Thập hồi hướng. Nếu phát cái thấy chân chánh nhất thật đế, chứng tứ Thánh đế vô tác tức là Thánh hạnh vị. Vô úy địa sắc hai mươi lăm Tam-muội, có công năng phá hai mươi lăm cõi, gọi là Hoan hỷ địa. Năm hạnh đầy đủ mà nói mười công đức đây là biểu thị trụ công đức của Thập địa đại Niết-bàn. Quá đây nói về trụ đại Niết-bàn tức là Diệu giác địa. 3) Giải thích riêng Giải thích bảy lần: Nói về tâm Thập tín gồm: Tín tâm. Niệm tâm. Tinh tấn tâm. Tuệ tâm. Định tâm. Bất tuệ tâm. Hồi hướng tâm. Hộ pháp tâm. Giới tâm. Nguyện tâm. Mười tâm này gọi chung là Tín tâm: Tín tâm: Nghóa là thuận theo. Nếu nghe nói Biệt giáo, nhân duyên giả danh, Tứ đế vô lượng, lý Phật tánh thường trụ Tam bảo, tâm thuận theo không nghi nghờ, gọi là Tín tâm. Nay giải thích sơ lược về tín tâm, có hai ý: Phát tâm Bồ-đề Hành đạo Bồ-tát Phát tâm tức là mắt, tu hành là chân, vì tay chân đầy đủ nên được vào ao mát mẻ tức là nghóa trực thiện Sơ hiền của Biệt giáo. Một người phát tâm Bồ-đề, nghe kinh điển Đại thừa Phương Đẳng, do đó tâm tin hiểu, phát thệ nguyện đại Bi. Kinh Đại Niết-bàn nói có năm hạnh: Thánh hạnh. Phạm hạnh. Thiên hạnh. Anh nhi hạnh. Bệnh hạnh. Vì sao Bồ-tát tu Thánh hạnh, nếu từ Như Lai nghe kinh Đại Niết- bàn này rồi sinh lòng tin rồi nghó: chư Phật, Thế Tôn có con đường vô thượng, có đại chánh pháp, đại chúng chánh hạnh. Lại có kinh điển Đại thừa và Phương đẳng. Ta phải nguyện cắt ái tu đạo tức là Tín tâm. Vì sao? Vì nếu nghe kinh Đại Niết-bàn tín tâm vui mừng, tức là tin Phật tánh Tam bảo thường trụ tức là tin không nhân không quả, là quả đại Niết-bàn. Nếu nghe năm hạnh tâm sinh ưa thích cái nhân chẳng phải nhân là nhân Thánh hạnh. Nếu tín tâm khai phát tức là phát tâm Bồ-đề. Muốn hành đạo Bồ-tát, phát tâm Bồ-đề tức là Từ bi thương xót tất cả chúng sinh. Đối với tứ Thánh Đế vô lượng. Từ là đem vô lượng niềm vui đạo diệt ban cho chúng sinh, Bi là cứu khổ vô lượng khổ tập cho chúng sinh, khởi vô lượng bốn thệ nguyện rộng lớn. Người chưa qua vô lượng khổ đế thì làm cho họ vượt qua. Người chưa hiểu tập đế vô lượng thì làm cho họ được hiểu. Người chưa an ổn ở đạo đế vô lượng thì làm cho họ được an. Người chưa đắc diệt đế vô lượng thì làm cho họ được đại Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Ấy là Bồ- tát Biệt giáo do tin hiểu mà phát tâm Bồ-đề. Hỏi: Trước nói nhân kinh Niết-bàn có bốn loại Thánh đế, y theo người này mà nói về giai vị Bồ-tát của Biệt giáo. Nay vì sao chỉ y theo tứ Thánh đế vô lượng, mà phát thệ nguyện rộng lớn, không chấp vào bốn loại Tứ đế phát nguyện? Đáp: Nếu ở Biệt giáo, bốn loại Tứ đế này đều gọi là Vô lượng, vì sao? Vì Bồ-tát quán tứ đế vô lượng, sinh diệt, đều phục tâm khác với Nhị thừa. Quán tứ đế vô lượng vô sinh, dứt Kết sử nội giới khác với Nhị thừa, quán lý Như Lai tứ đế vô lượng sinh diệt. Tuy chẳng phải vô tác mà người Nhị thừa cũng không nghe tên gọi này. Nếu chứng tứ đế vô tác, bấy giờ vô tác cũng gọi là vô lượng, vì sao? Vì y vào nhất thật đế thì có bốn đế, gọi là vô tác, pháp tướng nhân quả thế gian và xuất thế gian số lượng vô biên đồng với hư không, cũng gọi là vô lượng, duyên tứ đế vô lượng phát tâm Bồ-đề tức là bốn loại Tứ đế. Hỏi: Nếu hai loại tứ đế sinh diệt và tứ đế vô sinh đều gọi là Vô lượng, vì sao kinh Thắng-man nói tên gọi tứ Thánh Đế hữu lượng? Đáp: Tuy số vô biên vô lượng, người Nhị thừa tâm đồng quy tro diệt, nên gọi là Hữu lượng. Hỏi: Nếu có vô tác vì sao không y cứ vào vô tác mà phát tâm? Đáp: Vô tác này giống như là vô lượng, khi dùng vô lượng và vô tác chứng quả gọi là phi từ nghị vô tác. Nếu sinh diệt cùng tận, không phải tứ đế vô sinh. 2. Hạnh Bồ-tát: Tức là thọ trì, đọc tụng Đại thừa phương đẳng để giải thoát cho người, tự hành Thánh hạnh cũng dạy người thực hành Thánh hạnh. Tự mình thực hành Thánh hạnh: Kinh Đại Niết-bàn nói về Thánh hạnh có ba loại: Giới Thánh hạnh Định Thánh hạnh Tuệ Thánh hạnh Bồ-tát tư duy về lý Phật tánh, sâu xa khó thấy, trước tâm không thể đốn nhập, nhất định phải trì giới, tu định tuệ. Kế ba quán đều tâm mà nhập Trung đạo. Hoặc chướng của ba quán nếu dứt trừ mới đắc đạo, thấy Phật tánh, trụ đại Niết-bàn. Ba quán của biệt tưởng đã nói như trước. Giới Thánh hạnh: Bồ-tát giữ gìn năm thiên giới như phao nổi, hai thứ ái kiến phiền não la sát đến xin. Nếu làm cho tôi khiến ông được nhập Niết-bàn, làm cho được Niết-bàn an vui thuộc ái thế gian, Niết- bàn vui thế gian thuộc về kiến. Nếu Bồ-tát không theo ái kiến mà phá giới tức đầy đủ năm chi các giới. Nghóa là đầy đủ giới thanh tịnh, nghiệp căn bản của Bồ-tát, lần lượt quyến thuộc giới thanh tịnh khác chẳng phải giới các ác giác biết thanh tịnh, giữ gìn chánh niệm, niệm giới thanh tịnh, hồi hướng đầy đủ giới vô thượng đạo, lại hộ trì tánh trọng giới, dứt các giới thế gian chê bai không khác nhau. Trì giới như thế ban cho tất cả chúng sinh, nguyện cho tất cả chúng sinh đều được giới thanh tịnh, giới thiện, giới không thiếu, giới không tách, giới Đại thừa, giới không thối, giới thuận theo, giới rốt ráo, giới cụ túc, thành tựu các giới ba-la-mật. Bồ-tát khéo giữ gìn các giới, đắc nhập Sơ Bất động địa, bất động không lui sụt, không đọa lạc, không tán loạn, ấy gọi là Bồ-tát tu giới Thánh hạnh. Tu định Thánh hạnh: Nghóa là từ sơ an bát, tùy tức quán tức, nhập căn bản đặc thắng thông minh tịnh thiền, thấy thân có ba mươi sáu vật như người mắt tỏ mở kho thóc thấy lúa mè đậu. Lại phân biệt ba mươi sáu vật không thấy có ta. Lại tu tám bối xả quán thiền, quán trong ngoài thân bất tịnh, trừ da thịt, quán rõ xương trắng, thấy sắc tướng của xương khác lạ. Nghóa là mầu xanh vàng trắng. Tướng xương như thế, cũng không có ngã, đắc định thiền quán cõi dục. Bồ-tát bấy giờ lần lượt quán xương, khi quán xương xanh thấy đông tây nam bắc của mặt đất này đều là tướng xanh, mầu vàng trắng cũng giống như thế. Đây chính là đắc thiền quán nhưng chưa đến giới định. Lại nói khi quán, giữa hai dầu chân mày phát ra ánh sáng màu xanh vàng đỏ trắng, trong ánh sáng thấy Phật, ấy là sơ bối xả. Cho đến thành tựu tám bối xả, tám thắng xứ, mười hai thiết xứ, chín định thế đệ, Tam-muội sư tử phấn tấn, Tam-muội siệu việt. Bồ-tát trụ trong các thiền định như bối xả thắng xứ, tu bốn Tâm vô lượng, sáu ba-la-mật, bốn nhiếp pháp, thần thông biến hóa tức là niệm xứ côïng. Lại nhờ thọ trì, đọc tụng Đại thừa Phương Đẳng, trong thiền định tư duy danh nghóa, tu bốn biện tài vô ngại, tức là niệm xứ duyên. Nếu niệm xứ thành tựu thì trụ ở địa kham nhẫn, ấy gọi là Bồ-tát tu định Thánh hạnh. Nếu hai niệm xứ này chưa tương ưng với niệm xứ tánh thì còn thuộc về giai vị Sơ hiền, đình tâm. Tu tuệ Thánh hạnh: Tức là Tứ đế. Kinh Đại Niết-bàn chép: Khổ là tướng ép ngặt. Tập là tướng lớn lên. Diệt là tướng vắng lặng Đạo là tướng Đại thừa. Lại nữa, khổ: Là tướng hiện Tập: Là tướng chuyển Diệt: Là tướng trừ Đạo: Là tướng năng trừ Lại khổ: là ba khổ Tập: Hai mươi lăm hữu Diệt: Diệt hai mươi lăm hữu Đạo: Tu giới định tuệ Đây là trước quán tứ đế sinh diệt, điều phục kiến hoặc, tư hoặc, phiền não nội giới. Tu niệm xứ tánh chính là quán khổ đế sinh diệt. Nếu quán là khổ tập, là khổ diệt, là đạo diệt khổ. Quán tứ đế sinh diệt như thế bên cạnh đó lý vô sinh vô lượng trung đạo Phật tánh, chính là dùng tứ đế sinh diệt điều phục nội giới, thuộc kiến thuộc ái và tất cả phiền nào kết nghiệp đều là năng lực trí tuệ niệm xứ tánh. Nghóa của bốn Niệm xứ tánh đã nói ở trước. Nếu Bồ-tát đắc niệm xứ tánh này hợp với niệm xứ côïng duyên ở trước, tức là ở Kham nhẫn địa, trí tuệ gốc lành thêm lớn, từ Sơ tín tâm cho đến nguyện tâm, thành tựu mười tâm tức là thiết luận ngoại phàm Càn tuệ phục nhẫn. Hỏi: Bồ-tát về Biệt giáo thành tựu mấy pháp thì được tín tâm khác với Thông giáo ở trước? Đáp: Lại y cứ vào mười pháp thì biết không đồng. Tin chánh nhân duyên: Tức là biết bốn loại Tứ đế nhân duyên không loạn. Chân chánh phát tâm Bồ-đề: Biết tứ đế vô lượng, phát tâm thệ nguyện Từ bi. Siêng tu chỉ quán: Biết khéo léo tu bốn loại chỉ quán thứ lớp Phá pháp biến: Quán nhân duyên, sinh diệt là không, là giả, trung đạo phá ba đế hoặc biến. Biết thông bít: Biết bốn loại đạo diệt là thông, bốn loại khổ tận là bít. Khéo tu đạo phẩm: Là biết thứ lớp tu bốn loại ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Khéo tu trợ đạo pháp: Là bối xả thắng xứ, có công năng thành tất cả đối trị, sáu ba-la-mật, trợ khai ba giải thoát Khéo biết thứ vị: Biết nhân bốn loại Tứ đế nhập bảy vị không lạm. An nhẫn hai giặc mạnh yếu: Là biết khi tu bốn loại đạo đế, đối với bốn loại khổ tập tâm có khả năng an nhẫn. Thuận đạo pháp ái không sinh: Biết thứ lớp tu bốn loại đạo đế phát có pháp thuận đạo, không sinh tâm yêu đắm. Bồ-tát tín tâm đối với biệt giáo hiểu mười việc này rõ ràng, khác với Tín tâm ở Thông giáo. Mười pháp này, hiểu nghóa thú rất sâu xa thì được giải thích mười tín tâm. Dưới đây nói về Thập tín của Viên giáo, trích đầy đủ tướng của nó. Kinh An Lạc chép: Tin một có mười, tin mười có trăm. Trăm pháp này là căn bản của tất cả đạo pháp. 2. Giai vị Thập trụ: Tức là thập giải tánh chủng tánh, sơ nhập giai vị Thập hiền nội phàm gồm: Phát tâm trụ Trì địa trụ Tu hành trụ Sinh quý trụ Phương tiện cụ túc trụ Chánh tâm trụ Bất thoái trụ Đồng chân trụ Pháp Vương tử trụ Quán đảnh trụ. Mười tên này gọi chung là Trụ, tâm hợp với lý gọi là Trụ, cho nên kinh Nhân Vương Bát-nhã chép: Nhập lý Bát-nhã gọi là Trụ. Đây chính là quán thể giả nhập không, thành phát chân vô lậu thấy lý chân đế Thông giáo, dứt kiến hoặc, tư hoặc và chín mươi tám kiết sự nội giới nên gọi là Phát tâm trụ, ở đây có hai nghóa: Phát chân giải, trụ lý thiên chân pháp tánh. Sinh Trung đạo tợ giải, trụ lý đệ nhất nghóa Phật tánh. Nếu sinh giải thiên chân tức là tám nhân địa của Thông giáo. Kiến địa trí đoạn ngang với trung đạo tợ giải, tức là sơ đắc năm Ấm thiện hữu lậu của Biệt giáo, nhập tánh địa nội phàm của Biệt giáo, giai vị nhu thuận nhẫn. Vì sao? Vì Bồ-tát này nhờ trì giới, thiền định, nên sinh ra trí tuệ sinh diệt tứ đế, điều phục tâm quán tứ đế vô sinh, dứt kiến hoặc, tư hoặc, phiền não nội giới, là kinh Thanh văn nói: Năm loại giai vị Phật tử là: Tu-đà-hoàn Phật tử Tư-đà-hàm Phật tử A-na-hàm Phật tử A-la-hán Phật tử Bích-chi-phật Phật tử Khai một thành hai, hợp mười phẩm tức đối với Thập trụ vị, dứt kiến hoặc, tư hoặc phiền não và tập khí, là ngang với Bích-chi-phật. Dứt hết hà sa thượng phẩm nhưng Bồ-tát quán tứ đế vô sinh. Như kinh Niết-bàn chép: Phàm phu có khổ, không có khổ đế. Thanh văn Duyên giác có khổ, có khổ đế và không có chân đế. Các Bồ-tát hiểu rõ khổ không có khổ, cho nên không khổ mà có chân đế. Phàm phu có tập không có tập đế. Thanh văn Duyên giác có tập, có tập đế. Các Bồ-tát hiểu có tập, không có tập, cho nên không có tập mà có chân đế. Thanh văn, Duyên giác có đạo phi chân, Bồ-tát có đạo có chân. Thanh văn, Duyên giác có diệt phi chân, Bồ-tát có diệt có chân. Tứ chân đế vô sinh đầy đủ như Thông giáo đã nói ở trước, nhưng kinh Đại Niết-bàn nói: Nói về diệt đế này là thường lạc, ý này có đồng có khác với Thông giáo. Đồng: Tứ đế là chân. Thông giáo ba thừa quán tứ đế vô sinh thấy đế nhất nghóa tức là chân đế. Biệt: Bồ-tát biết không tức chẳng phải không, Biệt là biết Phật tánh Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Hỏi: Nếu vậy kinh Niết-bàn đâu được nói Nhị thừa có khổ, có khổ đế và không chân thật. Đáp: Đây là nói về Ba tạng giáo môn của kinh Thanh văn, không có quan hệ với sơ môn Thông giáo của Ma-ha-diễn. Nếu được diệt đạo, có thể quán Phật tánh thường trụ tức là phát Trung đạo tợ giải, là pháp Noãn về Biệt giáo. 1) Thập hạnh vị: Là Tánh chủng tánh, là Thập hiền nội phàm, gồm: Hoan Hỷ hạnh Nhiêu ích hạnh Vô Sân hận hạnh Vô Tận hạnh Ly Si loạn hạnh Thiện Quán hạnh Vô Trước hạnh Tôn Trọng hạnh Thiện Pháp hạnh. 10- Chân thật hạnh Mười tên này gọi chung là Hạnh. Hạnh nghóa là con đường hướng tới trước đã nói phát chân ngộ lý. Từ đây lại tu từ không nhập giả, quán Tứ đế vô lượng, tứ đế vô lượng, như kinh Niết-bàn chép: Biết các Ấm là khổ, gọi là Trung trí. Phân biệt các Ấm thì có vô lượng tướng, đều là các khổ, người Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được, ấy gọi là thượng trí, ấy gọi là khổ đế vô lượng. Biết các nhập gọi ấy là Môn, gọi là khổ đế. Phân biệt các nhập có vô lượng tướng đều là các khổ, tức là khổ Thánh đế vô lượng. Biết mười tám giới gọi là phần cũng gọi là Tánh, tức là khổ đế. Phân biệt các giới có vô lượng tướng đều là các khổ, ấy gọi là vô lượng khổ Thánh đế. Nói vô lượng tập Thánh đế: Biết ái nhân duyên có thể sinh ra năm Ấm gọi là Tập. Một người khởi ái còn nhiều vô lượng vô biên huống chi là tất cả chúng sinh khởi các ái. Ái như vậy vô lượng vô biên tức là vô lượng tập Thánh đế. Nói vô lượng diệt Thánh đế: Biết diệt phiền não gọi là diệt Thánh đế. Phân biệt phiền não không thể suy lường, diệt đế cũng giống như thế không thể suy lường tức là vô lượng diệt Thánh đế. Vô lượng đạo Thánh đế: Có công năng cắt đứt phiền não gọi là Đạo đế, phân biết tướng đạo đế có vô lượng vô biên, lìa được phiền não cũng vô lượng vô biên, tức là vô lượng đạo Thánh đế. Tứ đế như thế kinh Đại Niết-bàn chép: Đều nói người Thanh văn, Duyên giác không thể biết được. Nên biết đây thuộc về sở học của Bồ-tát về Biệt giáo. Bồ-tát trụ vô lượng đạo đế này học mười ba-la-mật. Tất cả các đạo cắt đứt trần sa vô tri, thành tựu mười phẩm mười hạnh, từ không nhập giả, bình đẳng quán thành, đắc đạo chủng tuệ pháp nhãn thanh tịnh. Giải tương tợ trung đạo chuyển rõ ràng tức là giai vị Đảnh pháp của Biệt giáo. Bồ-tát trụ trong giai vị này, thần thông du hý thanh tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh. 4.Giai vị Thập hồi hướng: Đạo chủng tánh Thập hiền giai vị nội phàm. Cứu tất cả chúng sinh Ly chúng sinh tướng hồi hướng. Bất hoại hồi hướng Đẳng quán nhất thiết Phật hồi hướng Chí nhất thiết xứ hồi hướng Vô tận tạng công đức hồi hướng Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh hồi hướng Như tướng hồi hướng Vô phược vô trước giải thoát hồi hướng. Pháp giới vô tận hồi hướng. Mười tên gọi này gọi chung là Hồi hướng Hồi là sự, hướng là lý. Hồi là nhân, hướng là quả, hồi công đức của mình đến tất cả chúng sinh sự lý hoà dung thuận nhập pháp giới nên gọi là Hồi hướng. Quán chánh tu Trung đạo đệ nhất nghóa đế theo tứ đế vô lượng, học tứ đế vô tác. Y cứ về theo thật nên nói bốn thật. Bất tác tứ nên gọi là vô tác tứ. Quán tứ đắc thật nên gọi là Tứ thật, nhân gọi vô lượng đắc quả là vô tác, chứng quả dứt khổ tập hữu đạo diệt không phải là vô tác của Viên giáo. Nay lập danh nghóa Tứ thật đế vô tác là ý này. Kinh Niết-bàn chép: Nhất thật đế gọi là chân pháp nếu pháp phi chơn không gọi là Thật đế. Thật đế gọi là vô điên đảo, vô điên đảo gọi là thật đế. Thật đế không có luống dối, nếu có luống dối thì không gọi là thật đế. Thật đế gọi là Đại thừa, không phải Đại thừa thì không gọi là Thật đế. Thật đế là lời Phật nói, không phải là lời ma nói. Nếu là lời ma nói thì không phải là Thật đế. Thật đế là nhất đạo thanh tịnh không hai, có thường có lạc, có ngã có tịnh, ấy gọi là nghóa thật đế. Lại kinh Niết- bàn chép: Nhất thật đế là Như Lai hư không, Phật tánh không khác nhau có khổ có đế, có thật, có tập có đế có thật, có diệt có đế có thật, có đạo có đế có thật, Như Lai không khổ không đế gọi là Thật. Hư không Phật tánh cũng giống như vậy. Kinh Niết-bàn chép: Khổ là tướng vô thường, tướng có thể cắt đứt ấy gọi là Thật đế. Tánh Như Lai, không kho,å không vô thường, không có tướng để cắt đứt ấy gọi là Thật, hư không Phật tánh cũng giống như thế. Tập: Do năm Ấm hòa hợp mà sinh khởi, cũng gọi là khổ, cũng gọi là vô thường, cũng có tướng để cắt đứt ấy gọi là Thật đế, hư không Phật tánh cũng giống như vậy. Diệt: Phiền não diệt, vừa thường vừa vô thường, sở đắc của Nhị thừa gọi là Vô thường. Sở đắc của chư Phật gọi là Thường, cũng gọi là chứng pháp, ấy gọi là Thật đế. Tánh Như Lai không gọi là Đế, có công năng dứt bỏ phiền não, phi thường phi vô thường không gọi là chứng biết. Thường trụ không thay đổi gọi là Thật đế, hư không Phật tánh cũng giống như vậy. Đạo: Có thể cắt đứt phiền não, vừa thường vừa vô thường nhưng có thể tu pháp ấy gọi là Thật đế. Như Lai phi đạo, có thể cắt đứt phiền não, không thể tu pháp thường trụ bất biến, ấy gọi là Thật đế. Hư không Phật tánh cũng giống như vậy. Nếu Bồ-tát học quán tứ đế vô lượng, vô tác, quán biết Như Lai Tạng, vô lượng hạt giống không sinh tử, cắt đứt hằng hà sa phiền não hạ phẩm, hàng phục vô minh biệt kiến tương tợ trung đạo giải, lại chuyển tăng rõ pháp giới nguyện hạnh, sự lý hoà dung, thành nhất thiết trí Biệt giáo. Đắc sáu căn thanh tịnh tức là thế đệ nhất pháp nhẫn pháp của Biệt giáo. <篇> <卷>QUYỂN 10 Nói về Thập địa: Đây là giai vị Thánh chủng tánh. Từ giai vị này thấy được Phật tánh, phát Trung đạo đệ nhất nghóa đế quán, chiếu soi hai đế, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên chảy vào biển Tát-bà-nhã, chứng tứ đế vô tác. Nhất, thật bình đẳng pháp giới viên dung. Từ Sơ địa đến Phật địa đều dứt vô minh. Nhưng y cứ vào giai vị này chia làm ba đạo. Sơ địa gọi là đạo kiến đế. Nhị địa đến Lục địa gọi là Tu đạo, từ thất địa trở lên gọi là Vô học đạo. Thập địa gồm: Hoan hỷ địa Ly cấu địa Minh tuệ địa Diệâm tuệ địa Nan thắng địa Hiện tiền địa Viễn hành địa Bất động địa Thiện tuệ địa Pháp vân địa. Mười tên gọi này gọi chung là Địa: Có công năng sinh thành trí tuệ Phật trụ trì bất động. Có khả năng dùng đại Bi vô duyên gánh vác tất cả, nên gọi là Địa. Hoan hỷ địa gọi là kiến đạo: Mới phát chân trung đạo thấy lý Phật tánh, dứt vô minh kiến hoặc hiển hai thân ứng chân duyên cảm thì ứng trăm thế giới Phật, hiện thân mười pháp giới, nhập trí địa của Phật ba đời, có thể tự lợi lợi tha, niềm vui lớn lao chân thật, nên gọi là Hoan Hỷ địa. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát thành hạnh viên mãn tức là trụ vào Vô sở úy địa, tức là Sơ địa. Bồ-tát Sơ địa lìa năm sợ hãi. (không sợ chết) (không sợ không sống) (không sợ đường ác) (không sợ tiếng xấu) (Không sợ oai đức của nhiều người) Kinh Niết-bàn không nói những tên gọi này nhưng nghóa suy ra thì đồng. Nếu nói không sợ tham dục sân si, trong không có ba độc, ngoài lìa tám ngọn gió, ấy gọi là không sợ tiếng xấu. Nếu nói không sợ địa ngục tức là không sợ đường ác, nếu nói không sợ sa-môn, bà-la-môn tức là không sợ đại chúng. Nay đã nhập vô úy địa, thấy Trung đạo thì không có hai cái chết cho nên nói không sợ chết. Pháp thân thường còn để hiển rõ cái không sợ không sống, vì để nhập vào địa này thì có đầy đủ là hai mươi lăm Tam-muội, phá hai mươi lăm hữu, hiển bày ngã tánh của hai mươi lăm hữu. Ngã tánh là thật tánh, ấy gọi là tuệ hạnh thành tựu. Đắc năm Tam-muội tức là thành tựu năm hạnh. Trụ ở địa vô úy tức là đắc sở địa. Y theo điều này thì có năm ý: Đắc hai mươi lăm Tam-muội Thánh hạnh thành tựu, Phạm hạnh. Thiên hạnh Anh nhi hạnh Bệnh hạnh. 1. Đắc hai mươi lăm Tam-muội Thánh hạnh thành tựu có ba ý: Giải thích hai mươi lăm Tam-muội Nói về tu hai mươi lăm Tam-muội thành tựu Ngoại để lợi vật. Giải thích tên của hai mươi lăm Tam-muội có bốn ý: Tức là y cứ vào bốn tất-đàn mà lập tên. Tùy thời gian nơi chốn mà đặt tên. Tùy tiện đặt tên Tùy đối trị mà đặt tên Tùy lý mà đặt tên Tùy thời mà đặt tên: Thí như một người có hai mươi lăm đứa con. Tùy lúc mà đặt một chữ. Đứa lớn đặt một chữ, đứa kế lại đặt một chữ, không thể lấy tên đứa lớn. Đây cũng đặt tên cho đứa thứ hai cũng vậy, như thế thì không lạm, hai mươi lăm tên gọi này cũng giống như thế, mỗi trường hợp đều nêu một tên để không loạn thế đế, danh tự thế gian đều như vậy, không thể tìm nhất định thật. Tùy hai mươi lăm hữu mà tiện đặt tên: Nên làm nhiều tên thì sự nghóa không tiện, bởi thế tùy tiện đặt tên. Tùy đối trị đặt tên hai mươi lăm Tam-muội. Mỗi đối trị có nhân, do đó mà đối trị đặt tên. Tùy ý đặt tên: Hai mươi lăm Tam-muội này không ngoài lý pháp tánh. Lý hợp với nghóa, từ nghóa mà đặt tên, danh nghóa tuy khác mà lý thật không khác. Vì y cứ vào bốn ý này mà đặt tên hai mươi lăm Tam-muội. Ý của văn kinh rõ ràng, phần nhiều dùng đối trị y cứ lý hai nghóa để đặt tên hai mươi lăm Tam-muội. Giải thích tu thành tựu hai mươi lăm Tam-muội. Trong một Tam-muội đều có bốn ý: Nêu ra nghiệp hoặc chướng của các hữu Dùng Tam-muội trị phá Kết thành Tam-muội Từ bi phá hữu Mỗi Tam-muội đều có bốn ý. Nói về Tam-muội vô cấu phá cõi địa ngục, có bốn ý: Nói về nghiệp kết: Tội rất nặng không gì bằng địa ngục, ác nghiệp cấu, kiến hoặc cấu, trần sa cấu, vô minh cấu. Nói dùng Tam-muội phá vô minh. Bồ-tát vì phá các cấu tu giới căn bản, phá nghiệp ác cấu trước, tu các định như tám bối xả hàng phục kiến hoặc, tư hoặc. Tu tuệ: Hữu tác vô sinh dứt cấu kiến hoặc. Tu vô lượng tuệ phá cấu trần sa. Tu tuệ vô tác phá cấu vô minh. Nói rõ kết thành Tam-muội: Phá cấu kiến, hoặc cho nên Tam-muội chân đế thành tựu. Phá cấu nghiệp ác và cấu trần sa nên Tam-muội tục đế thành tựu. Phá cấu vô minh nên thành Tam-muội Trung đạo đệ nhất nghóa. 4- Nói rõ Từ bi lợi tha: Bồ-tát đã tự phá cấu địa ngục nên đắc tam muội tam đế, có lòng đại Từ bi huân xông pháp giới. Chúng sinh có Từ bi dùng năng lực Tam-muội, pháp tánh bất động mà có thể ứng. Giống như Đề-Bà-Đạt- Đa đáng vào địa ngục, tùy theo sự thích nghi mà nói pháp phá địa ngục. Như phẩm Thánh Hạnh có nói. Tự tu các hạnh giới, định, tuệ cho nên tự chứng Tam Đế Tam-muội thành tựu. Trong thành hạnh có Từ bi thệ nguyện cho nên phá ba đế thượng cấu cho người, cũng phá cấu phiền não nghiệp ác ba đế cho người. Mình đã không còn cấu nhiễm rồi, lại làm cho người khác không cấu nhiễm. Cho nên Tam-muội này gọi là Tam-muội vô cấu. Ở đây đầy đủ bốn ý giống như trước rất dễ biết. Kế nói về Tam-muội bất thế phá cõi súc sinh: Súc sinh là loại không biết hổ thẹn, vì khởi nghiệp ác nên lui sụt đường lành. Vì kiến hoặc, tư hoặc, cho nên lui sụt, vì trần sa cấu nên lui sụt, vì bị vô minh nên lui sụt. Bồ-tát vì phá các lui sụt cho nên tu giới nhẫn phá nghiệp ác tu định hàng phục kiến hoặc, tư hoặc, tu tuệ sinh diệt vô sinh, phá kiến hoặc tư hoặc, tu vô lượng tuệ phá trần sa, tu vô tác tuệ phá vô minh. Vì kiến hoặc và tư hoặc bị phá nên thành tựu tam muội vị không lui sụt. Vì phá trần sa nên thành tựu hạnh Tam-muội bất thoái. Vì vô minh bị phá nên thành Tam-muội niệm bất thoái. Tự mình tu hành để phá ba loại thối, thành ba bất thoái. Tự đắc Tam-muội ba đế. Lực lực bi xông khắp pháp giới, tùy theo súc sinh có cơ cảm, hoặc làm thân voi đầu đàn chim thú. Tùy theo sự thích nghi của chúng mà hiện thân nói pháp, phá cõi súc sinh. Tự mình không lui sụt lại làm cho người không lui sụt, cho nên tam muội này gọi là Tam-muội bất thoái. - Tâm lạc Tam-muội phá cõi ngạ quỷ. Ngã quỷ thường có tánh keo kiệt, nghiệp ác buộc ràng, đói khát tham ái khổ. Khổ kiến hoặc, tư hoặc phiền não, khổ trần sa vô tri, khổ vô minh ám độn. Bồ-tát phá các khổ ấy, tu giới và bố thí để phá keo kiệt, khổ ác nghiệp, khổ tu định hàng phục kiến hoặc và tư hoặc, khổ tu tuệ sinh diệt phá kiến hoặc tư hoặc, khổ tu vô lượng tuệ phá trần sa, khổ tu vô tác tuệ phá vô minh, khổ phá kiến hoặc tư hoặc thành tựu Tam-muội chân đế vô vi tâm lạc. Phá nghiệp ác keo kiệt trần sa khổ, thành tựu Tam-muội tục đế phân biệt đa môn tâm lạc phá vô minh khổ, thành tựu Tam-muội trung đạo thường lạc. Tự thân tu hành chứng đắc Tam-muội tam lạc tam đế, dùng năng lực Từ bi trong các hạnh, hiện các thân hình ngạ quỷ bố thí cho chúng được no đủ rồi nói pháp cho chúng nghe để cho chúng phá ba thứ khổ, được ba thứ vui. Bồ-tát tự được vui này lại làm cho người khác được vui, cho nên Tam-muội nầøy gọi là tâm lạc Tam-muội. - Tam-muội hoan hỷ: Phá A-tu-la có những A-tu-la nhiều nghiệp ác tức giận bố, kiến hoặc và tư hoặc bố, trần sa bố, vô minh bố, Bồ-tát để phá các sợ hãi này nên trì giới tinh tấn mà tu các hạnh không phá giới phá nghiệp ác bố, tu thiền duyệt hỷ phá kiến hoặc tư hoặc, tu chiếu kính hỷ và vô lượng tuệ phá trần sa bố. Tu vô tác tuệ phá vô minh bố, vì kiến hoặc và tư hoặc bị phá nên thành Tam-muội chân không hỷ duyệt, phá nghiệp ác trần sa nên thành Tam-muội nhất thiết chúng sinh hỷ kiến. Vì phá vô minh nên thành Tam-muội Hỷ vương. Dùng năng lực tu hành của mình đắc Tam-muội Ba đế Hoan hỷ như thế. Dùng năng lực Từ bi trong các hạnh Bồ-tát sinh vào cõi A-tu-la dùng lời dịu dàng để nói pháp phá cõi tu-la làm cho họ đắc vô bố, tự không có ba điều sợ hãi, tự chứng ba hỷ, làm cho họ không còn sợ hãi và được hoan hỷ. Bởi thế, Tam-muội này gọi là Tam-muội Hoan hỷ. Kế là nhật quang Tam-muội phá cõi Phất-Bà-Đề. Mặt trời mới mọc ở phương Đông theo đó mà gọi tên. Mặt trời dụ cho ánh sáng trí tuệ chiếu soi nơi tối tăm, phá nghiệp ác mê ám, kiến hoặc tư hoặc trần sa mê ám, vô minh mê ám Bồ-tát để chiếu soi các mê ám này cho nên tu nghiệp lành giới quang, tu thiền định lưu quang, tu sinh diệt vô sinh diệt, nhất thiết trí quang, tu đạo chủng trí quang, tu nhất thế chủng trí quang. Sáng sinh thì tối diệt, dùng thiện giới quang phá tối nghiệp ác, dùng ánh sáng thiền định hàng phục tối tăm kiến hoặc, tư hoặc. Dùng ánh sáng sinh diệt vô sinh diệt phá tối tăm kiến hoặc tư hoặc, tu vô lượng chủng trí quang phá tối trần sa, tu ánh sáng vô tác nhất thiết chủng trí phá tối vô minh (7 5 7) vì phá tối kiến hoặc, tư hoặc nên thành ánh sáng mặt trời Tam-muội nhất thế chủng trí vì phá tối trần sa nên thành ánh sáng mặt trời Tam-muội đạo chủng trí, vì phá tối vô minh nên thành tựu ánh sáng mặt trời Tam-muội nhất thế chủng trí. Dùng năng lực tu hành tự chứng Tam-muội ba đế như thế, dùng năng lực Từ bi huân xông cõi Phất-Bà-Đề, ứng hiện nói pháp, phá ba mê nên hiển trí quang ba đế. Tam-muội này gọi là Tam-muội Nhật Quang. Nói về Tam-muội Nhật Quang phá cõi Cù-da-ni: Mặt trăng mới mọc ở phương Tây, ở đây tùy tiện mà đặt tên. Ánh sáng mặt trăng cũng dụ cho phá tối, giải thích Tam-muội có bốn ý: Giống như Tam-muội Nhật quang rất dễ hiểu. Kế nói về Tam-muội Nhiệt diệm phá cõi Uất-đan-việt. Phương Bắc là địa thủy Ấm kết lại khó tiêu, tự không phải là nhiệt diệm thì hoàn toàn không tiêu tan. Người cõi Uất-đan-việt, nước họ chấp là vô ngã sở, khó có thể hoá độ được họ. Không có ngọn lửa trí sáng rực thì chấp vô ngã, ngã sở không thể tiêu tan được. Phá vô ngã và ngã sở chính là vọng chấp vô ngã, lý ngã sở thật do hữu tánh, sự mê hoặc con người ngã hoặc hữu pháp và ngã hoặc chân như, chấp chưa viên dung. Bồ-tát phá các ngã hữu thỉ chấp này, tu tuệ chân vô ngã về sinh diệt và vô sinh diệt, phá tánh nhân và ngã hoặc, tu tuệ Tứ đế vô lượng phá ngã hoặc pháp, tu tuệ tứ đế vô tác phá ngã hoặc chân như. Nếu được lửa trí nhân không chân thật, phá ngã hoặc tánh nhân thành tựu Tam-muội chân đế. Đắc chân pháp trí không diệm, phá ngã hoặc pháp thành tựu Tam-muội tục đế. Đắc trí không phát chân diệm phá ngã hoặc, pháp thành tựu Tam- muội tục đế, cho nên có thể trồng cây Uất trong hư không, thuận theo thể tục để hóa vật, đắc chân như vô ngã trí diệm. Phá ngã hoặc chân như, biết phi ngã, phi vô ngã ấy là nghóa chân ngã. Trong pháp vô ngã có chân ngã tức là thấy ngã tánh của Uất-đàn-việt, tức là Tam-muội thành tựu, tâm tâm vắng lặng. Bồ-tát tự chứng Tam-muội ba đế vì năng lực Từ bi cho nên hiện hình tướng uất-đàn-việt phá vô ngã, ngã sở ở phương Bắc để thành Tam-muội chân ngã, cho nên Tam-muội này gọi là Tam-muội Nhiệt diệm. Kế nói Tam-muội như huyễn phá cõi Diêm-phù-đề: Quả báo ở phương Nam lẫn lộn, thọ mạng con người ngắn dài không nhất định, giống như huyễn hóa. Sự huyễn nay phát sinh nghiệp quả ác, huyễn sinh ra phiền não, huyễn sinh ra vô tri, huyễn sinh ra vô minh, tất cả chúng sinh không biết cuộc đời như huyễn. Nay Bồ-tát phá các huyễn nầøy cho nên tu ba thứ Tam-muội, tu Tam-muội chân đế. Huyễn sinh ra vô lậu để phá huyễn kiến hoặc và tư hoặc. Tu Tam-muội tục đế huyễn này sinh ra đạo chủng trí, phá huyễn vô tri. Tu Tam-muội Trung đạo huyễn này sinh ra nhất thế chủng trí phá huyễn vô minh, vì năng lực tu hành cho nên tự chứng Tam-muội ba đế. Vì dùng năng lực Từ bi cho nên phá được tha lực, ấy gọi là Tam-muội Như Huyễn. Tam-muội bất động phá cõi Tứ thiên Vương, cõi trời nầøy giữ gìn cõi nước, họ đi khắp thế giới thì thân báo lưu động. Đây chính là quả báo động, kiến hoặc tư hoặc động, vô tri động, vô minh động, nhất tâm tu thiện bất động, và tu bất động nghiệp như bối xả, v.v… phá quả báo động, chân tuệ bất động phá kiến hoặc tư hoặc động, xuất giả tuệ bất động phá vô tri động. Trung đạo tuệ bất động như đỉnh Tu-di phá vô minh động, vì năng lực tu hành cho nên tự chứng Tam-muội bất động, vì năng lực Từ bi nên phá tha tam động. Bởi vậy, Tam-muội này gọi là Tam-muội bất động. Tam-muội nan phục phá cõi trời ba mươi ba: Cõi trời này ở trên đỉnh Tứ thiên, tức là quả báo khó phục, kiến hoặc tư hoặc khó phục, vô tri khó phục, vô minh khó phục. Để phá các tâm cống cao này nên Bồ-tát phải tu giới, định, tuệ, phá quả báo khó phục, tu sinh diệt vô sinh diệt cho nên phá kiến hoặc tư hoặc khó phục. Vì tự tu hành nên phá thành ba khó phục, vì năng lực Từ bi nên phá ba khó phục khác, cho nên Tam-muội này gọi là Tam- muội khó phục. Tam-muội duyệt ý phá cõi trời Diệm-ma: Cõi trời này ở không đạo trượng úy, cho đó là vui, thật ra không có niềm vui này, chưa có niềm vui bất động nghiệp, chưa có niềm vui vô lậu, chưa có niềm vui về đạo chủng trí, chưa có niềm vui Trung đạo. Bồ-tát vì tu phá các thứ này, nên tu Tứ đế, bát xả trung thiền duyệt phá động tán bất duyệt ấy, tuệ sinh diệt vô sinh diệt phá hữu lậu bất duyệt, vô lượng tuệ phá trầm không bất duyệt, vô tác tuệ phá hai bên bất duyệt. Vì vô sinh diệt nên thành tựu Tam-muội Chân đế, vì xuất giả xứng cơ duyệt nên thành tựu Tam-muội Tục đế. Vì Trung đạo duyệt ý nên thành tựu Tam-muội Trung đạo. Vì năng lực tự tu hành cho nên thành Tam-muội tự chứng. Vì năng lực Từ bi nên phá được tam muội khác. Tam-muội thanh sắc phá cõi trời Đâu-suất: Quả báo của trời này thích mầu xanh, đồ mặc chơi đều mầu xanh. Bồ-tát để phá cõi này cho nên tu nghóa không đệ nhất, phải mầu xanh chân thật mà thấy xanh chân thật, chẳng phải xanh giả thấy là xanh giả cho nên đắc Trung đạo. Thấy xanh Trung đạo phá cõi xanh ấy, nghóa suy ra rất dễ biết. Tam-muội hoàng sắc phá cõi trời Hóa lạc: Tam-muội xích sắc phá cõi trời tha hoá tự tại, giống như Tam- muội thanh sắc, có thể hiểu Tam-muội bạch sắc phá cõi Sơ thiền: Cõi Sơ thiền lìa năm Ấm bất thiện cõi dục tức là tâm định, hoàn toàn nghiệp thiện. Nhưng chưa lìa hắc nghiệp như kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc. Để phá các hắc nghiệp này cho nên Bồ-tát tu bạch pháp ba đế, nghóa phá hoặc rất dễ biết. Các thứ Tam-muội phá cõi Phạm Vương: Phạm Vương là chủ Tam thiên Đại thiên, phẩm loại Đại thiên đã nhiều, nên gọi là chủng chủng. Để phá chủng chủng này cho nên tu chủng chủng không, nhập chủng chủng giả, thấy chủng chủng Trung đạo. Như Lai tạng phần nhiều được hám chứa nên gọi là Tam-muội chủng chủng. Nghóa suy ra rất dễ biết. Song chiếu Tam-muội phá cõi Nhị thiền: Nhị thiền chỉ có hai chi tịnh, và hỷ, bên trong có được hai tên. Để phá cái hai này nên Bồ-tát tu song không, song giải, song trung, song chiếu nhị đế, nghóa suy ra rất dễ biết. Tam-muội lôi âm phá cõi Tam thiền: Cõi thiền này thọ lạc bậc nhất, mê đắm sâu vào như cá mê đắm nước. Để phá các lạc này nên Bồ-tát dùng lôi âm ba đế để phá, suy ra rất dễ biết. Tam-muội Chú Vũ phá cõi Tứ thiền: Cõi Tứ thiền như đại địa có đủ loại mầm mạ, nếu không mưa thì mầm mạ không thể sống được, tất cả gốc lành trong cõi Tứ thiền nếu được mưa ba đế thì thiện ba trí phát sinh. Nghóa suy ra rất dễ biết. Tam-muội như hư không phá cõi trời Vô Tưởng: Đây là cõi trời ngoại đạo, thật ra không có vô tưởng mà suy tính làm Niết-bàn Vô tưởng, như trẻ nhỏ nằm mộng mà tiểu trên giường. Để phá cõi này nên Bồ-tát dùng ba đế không phá vô tưởng, cho nên nói Tam-muội như hư không . Tam-muội Chiếu Kính phá cõi Na-hàm: Tu huân thiền tuy theo loại thiền mà sinh ở đó, tuy được tịnh sắc mà không thể biết. Sắc giống như bóng trong gương. Bồ-tát biết sắc giống như bóng trong gương tức là không phân biệt vô lượng bóng nương vào gương tức là thấy bản tánh Trung đạo, thành tựu Tam-muội ba đế phá cõi Na-hàm. Tam muội Vô Ngại phá Không xứ: Không Xứ này vượt khỏi các sắc, bay đi tự tại vô ngại, nhưng chưa phải là vô ngại về Tam-muội Tam đế. Cõi này có kiến hoặc và tư hoặc ngại, trần sa ngại, vô minh ngại. Bồ-tát phải tu Tam-muội Tam Đế để phá các ngại này, nên gọi là vô ngại Tam-muội. Tam-muội thường phá cõi Thức xứ. Thức tương tục không đứt quãng tức là vô thường, để phá các vô thường này cho nên Bồ-tát tu số duyên thường, hóa dụng tương tục thường, Phật tánh thường, trạm nhiên thường. * Tam-muội Lạc Phá cõi Bất Dụng xứ: Bất dụng xứ này giống như si, vì si nên khổ. Bồ-tát dụng Tam- muội Tam đế Tam quán phá được Tam-muội Tam đế Tam-muội lạc. Ấy gọi là Tam-muội Lạc. Tam-muội ngã phá cõi trời Phi Tưởng. Cõi này là đỉnh cao nhất cho là chân ngã Niết-bàn. Bồ-tát thấy thế nếu còn phiền não sâu kín, không được tự tại, tức là kiến hoặc, tư hoặc không tự tại, trần sa không tự tại, vô minh không tự tại, làm sao được ngã này, vì phá ngã này cho nên tu Tam-muội Tam Đế để được vô ngã, tùy tục ngã, tám tự tại ngã ấy gọi là Tam-muội Ngã. Tam muội hai mươi lăm hữu trừ hai mươi lăm hữu. Trong mỗi hữu đều có Tam-muội ba đế. Bồ-tát tự tu Tam-muội tam đế, tự trừ hoặc tam đế, hai mươi lăm hữu dùng năng lực Từ bi trừ hoặc của tam đế hai mươi lăm hữu, nên được gọi là Tam-muội hai mươi lăm hữu. Hoặc từ gốc vô trụ dùng bốn tất-đàn đặt tên hai mươi lăm hữu như trước nói: Tam-muội thông ngôn gọi là điều trực định. Tam muội chân đế lấy lìa ái kiến làm điều trực, Tam-muội tục đế lấy xứng cơ làm điều trực. Tam-muội Trung đế lấy không hai bên làm điều trực. Bởi vậy đều gọi là Tam-muội. Nếu chỉ nhập thẳng không cũng chẳng phải là trực, người Thanh văn được nhập không chẳng phải là Tam-muội Vương. Nếu nhập giả cũng không gọi là rốt ráo. Bồ-tát tuy đắc đạo chủng trí cũng không gọi là Tam-muội Vương, vì đắc Tam-muội Trung đạo nên gọi là Vương. Vì hai mươi lăm Tam- muội, mỗi pháp đều có Tam-muội Trung đạo, nên gọi là Tam-muội Nhị thập ngũ là Tam-muội Vương. Kinh Niết-bàn chép: Tam-muội Nhị thập ngũ này gọi là vua trong các Tam-muội. Nếu nhập Tam-muội vương thì tất cả tam muội đều vào trong đó, cho nên Bồ-tát trụ Bất động địa đều đắc Tam-muội hai mươi lăm, chủng chủng dụng tức ở đây. Núi Tu-di cao rộng chứa trong hạt cải, nuốt nôn ra vào, thần thông biến hóa tự tại, có thể vào địa ngục không chịu các khổ về thân tướng. Nếu Thánh hạnh thành tựu mới có việc này, đầy đủ như kinh Niết-bàn chép: Ngoài ba minh để lợi vật, nên gọi là có thể ẩn hiện hai thứ lợi ích, nhập Tam-muội Vương, tất cả Tam-muội Vương đều ở trong đóù. Bởi thế tất cả chúng sinh chịu các khổ não nhất tâm quy y gọi là cầu xin cứu hộ. * Bồ-tát trụ trong Tam-muội này quán ba nghiệp đều được giải thoát. Giải thoát có tám thứ: 1- Phá quả báo khổ hai mươi lăm hữu. 2- Phá nhân khổ hai mươi lăm hữu. Phá khổ phiền não kiến hoặc tư hoặc hai mươi lăm hữu của Thanh văn. Phá khổ phiền não kiến hoặc tư hoặc hai mươi lăm hữu của Duyên giác. Phá khổ phiền não kiến hoặc tư hoặc hai mươi lăm hữu của Bồ-tát. Phá khổ phiền não kiến hoặc tư hoặc hai mươi lăm hữu của người Ba thừa Thông giáo. Phá khổ biệt hoặc hằng sa vô tri hai mươi lăm hữu của Bồ-tát Biệt giáo. Phá hoặc khổ Ba đế Vô minh hai mươi lăm hữu của Bồ-tát Viên giáo. Nhất tâm gọi là đều được giải thoát là ý này cho nên nói hai mươi lăm Tam-muội có thể phá hai mươi lăm hữu. Hiển bày hai thứ lợi ích tức là trụ hai mươi lăm Tam-muội chúng sinh trong pháp giới mười phương cơ duyên đều cảm. Hiện sắc thân tám lần làm niềm vui cho chúng sinh như Quán Âm Phổ môn thị hiện tướng thần thông, nếu có chúng sinh nào đang dùng thân Phật độ cho họ thì hiện thân tám tướng thành đạo để nói pháp. Tức là kinh này nói trụ giải thoát không nghì bàn thị hiện muôn thứ. Bồ-tát này Sơ địa Thánh hạnh đầy đủ, đầy đủ đại Từ đại Bi vô duyên như nam châm hút sắt. Nói về phạm hạnh: Tức là vô duyên Từ bi hỷ xả: Bồ-tát dùng tâm đại Niết-bàn tu Thánh hạnh đắc vô úy địa, có hai mươi lăm Tam-muội vô phương đại dụng. Bấy giờ, Từ bi là chân phạm hạnh, Phạm thiên chẳng thể tu được. Vô lượng tâm: Cũng chẳng phải lòng Từ bi về pháp duyên, chúng sinh duyên của Thông giáo, ba tạng giáo. Bấy giờ, Bồ-tát dùng Từ bi vô duyên vô niệm này huân tu thì muôn hạnh đều thành tựu. Phạm hạnh này tức là tất cả pháp cho nên kinh Niết-bàn chép: Từ tức là lòng từ Như Lai, tức là Phật tánh. Nếu bi không đầy đủ thì mười lực ba mươi hai tướng, bốn vô sở úy của Phật chẳng phải lòng từ của Như Lai. Trí lực rộng sâu có thể đầy đủ tất cả phước đức để tự trang nghiêm nên gọi là Phạm hạnh. Nói về Thiên hạnh: Tức là Trung đạo đệ nhất nghóa, thiên là lý thiên nhiên, nương hạnh hiển lý, nhân lý thành hạnh nên gọi lý là thiên hạnh. Bồ-tát tuy nhập Sơ địa, Sơ địa bất ưng trụ vì có sở đắc, cho nên lại phải tu trí tuệ thượng địa, mười trọng phát chân, tu đệ khế lý, hiển lý thành hạnh, nên gọi là Thiên hạnh. Thiên hạnh tức là trí tuệ trang nghiêm. Phạm hạnh tức là phước đức trang nghiêm, trên cầu quả Phật, cho nên có Thánh hạnh, thiên hạnh. Dưới hóa độ chúng sinh nên có phạm hạnh, bệnh hạnh, Anh nhi hạnh. Anh nhi hạnh: Nếu Bồ-tát phước đức và trí tuệ tăng dần thì thật tướng hiển bày. Tuy không có ý làm lợi ích chúng sinh, mặc cho vận mạng có thể hiển bày hai lợi ích, minh hiển dùng lực thiên hạnh thì có minh ích, dùng năng lực phạm hạnh thì có hiển ích chúng sinh căn cơ kém, thiện ít, nếu không có Bồ-tát khai phát thì không thể lớn lên được, dùng năng lực gốc lành như nam châm hút sắt, hòa quang lợi hành làm cho chúng sinh đều thấy. Bồ-tát đồng mới học tu năm giới, mười giới, quả báo trời người, hạnh Dương diệp ở cõi trời ba mươi ba lại thị hiện hai trăm năm mươi giới quán luyện tu thiền, bốn đế, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo đồng với Anh nhi hạnh của Nhị thừa. Lại thị hiện tu sáu Độ suốt trăm kiếp gieo trồng tướng tốt hàng phục phiền não, hạnh tiểu thiện Bồ-tát sáu Độ lại thị hiện đồng, tức sắc là không, vô sinh vô diệt. Hạnh tiểu thiện của Thông giáo lại thị hiện đồng Biệt giáo, thứ lớp tương tợ Trung đạo, hạnh tiểu thiện đều là năng lực Từ bi giúp đồng các phẩm tương tục thành tựu. Từ tâm từ và niềm vui mà khởi hạnh Anh nhi. Kinh Niết-bàn chép: Anh nhi là nói chữ Đạo, gọi là bà-hòa, đây là đồng với sáu Độ. Sáu Độ là tiểu hạnh mà cầu thành Phật cho nên nói chữ Đại, cho nên gọi là Bà-hòa. Lại nói: Không thấy các tướng, ngày đêm thân sơ, đây là đồng với Bồ-tát Thông giáo, tức sắc là không, là ý nghóa đế đệ nhất. Lại nói: không thể làm các việc lớn nhỏ, việc lớn là năm tội nghịch việc nhỏ là tâm Nhị thừa. Đây chính là đồng với Biệt giáo. Vì Biệt giáo không sinh tử cho nên không có năm tội nghịch, vì không có Niết-bàn nên không có tâm Tiểu thừa. Lại nói lá vàng cây dương tức là đồng với Anh nhi về năm giới, mười điều lành. Lại nói phi đạo là đạo, vì sinh ra nhân duyên nhỏ nhiệm của đạo. Nói Phi đạo là đạo là có thể sinh ra giả hóa vật, tức là đồng với phương tiện Nhị thừa nên biết năng lực gốc lành đại Từ có thể sinh giả hóa vật, đồng với phương tiện tiểu thiện, dẫn dắt để hướng về phát tuệ, nên gọi là Anh nhi hạnh. Bệnh hạnh: Hạnh này từ vô duyên đại Bi mà sinh khởi, nếu sinh tiểu thiện thì có bệnh hạnh. Nay phân biệt đồng sinh thiện biên nên gọi là hạnh Anh nhi, đồng với bệnh phiền não gọi là bệnh hạnh. Bệnh hạnh này đại Bi sinh, từ bệnh chúng sinh. Bởi vậy ta bệnh đại Bi huân tâm dạo chơi địa ngục, đồng với căn bệnh nghiệp ác của chúng sinh. Như Điều-đạt ở địa ngục, như niềm vui Tam thiền cho đến súc sinh, ngạ quỷ A-tu-la cũng vậy. Lại đồng với trời, người có các bệnh kết nghiệp sinh già bệnh chết. Lại đồng với Nhị thừa có các bệnh kiến hoặc và tư hoặc, phương tiện giúp lời nói để tạo thành động tác. Bồ-tát Thông giáo, Ba tạng giáo cũng giống như vậy. Lại đồng căn bệnh vô minh trần sa của Biệt giáo. Bởi vậy, Bồ-tát lại đồng với căn bệnh kia, cùng khắp pháp giới, lợi ích cho chúng sinh, ấy là tướng của năm hạnh. Bệnh hạnh tức là phẩm Vấn Bệnh trong kinh Duy-ma, sáu phẩm thất nội nói rõ. Bồ-tát Sơ địa đầy đủ năm hạnh hoặc là công đức đầu tiên, còn chín loại công đức có lẽ đối với Cửu địa. Gọi là phá vô minh kiến hoặc. Kinh Niết-bàn chép: Từ đây về trước đều gọi là người tà kiến. Chính là người Ba thừa hai giáo đều chưa thấy lý này nên gọi là người tà kiến. Bởi vậy, Đại só trách Tu-bồ-đề: Sáu vị giáo chủ ngoại đạo là thầy của ông, ma trời, ngoại đạo cũng một tay làm bạn lao nhọc là ý này, cho đến Thập tín của Biệt giáo, ba mươi tâm tuy hàng phục mê hoặc này mà chưa thể cắt đứt, còn như thành tựu vô minh biệt kiến, quở trách các Bồ-tát mê hoặc ý này. Hai từ Nhị địa cho đến Lục địa gọi là Tu đạo, dứt biệt hoặc này, ái kiến trong ba cõi như luận Trí Độ có nói. Ca-diếp nghe tiếng đàn Châu-Ca là không thể tự an. Nói năm dục của ba cõi ta đã dứt hết, đây là công đức diệu tịnh của Bồ-tát sinh ra năm dục, cho nên việc này không thể an nhẫn. Sắc ái, Vô sắc ái cũng như vậy. Kinh này nói Đại só trách Tu-Bồ-đề: Đồng với phiền não không đến bờ giải thoát, vào tám nạn đều bị nạn là ý nầøy. Cho nên từ nhị địa, lục địa gọi chung là Tu đạo đoạn biệt hoặc này. Ly cấu địa: Tức là đoạn ái dục Biệt giáo, gọi là Tư-đà-hàm hướng. Minh địa: Tức là Tư quả -đà-hàm của Biệt giáo. Diệm địa: Là A-na-hàm hướng của Biệt giáo. Nan thắng địa: quả A-na-hàm của Biệt giáo, dứt biệt hoặc, ái dục hết. Hiện Tiền địa: A-la-hán hướng của Biệt giáo dứt hết sắc ái. Viễn Hành địa: quả A-la-hán của Biệt giáo dứt hết Vô sắc ái, cho nên từ đây gọi là Vô học đạo. Hỏi: Đối với bốn quả này xuất xứ từ kinh luận nào? Đáp: Biệt giáo nói về đoạn phục đối chiếu bốn quả, kinh luận phần nhiều nói không giống nhau. Các Pháp sư Đại thừa sử dụng cũng khác với sư Địa luận. Thông giáo phán quyết giai vị rằng: Sơ địa dứt kiến hoặc, nhị địa dứt Dục ái, Tam địa dứt Sắc ái, Tứ địa dứt Vô sắc ái. Địa luận sư thông tông phán vị có dùng Tam địa dứt kiến gọi là Tu-đà- hoàn. Từ Tứ địa đến Lục địa gọi là Tư-đà-hàm nương vào Pháp sư, Thất địa gọi là A-na-hàm. Nương vào Pháp sư, Thập địa, Đẳng giác gọi là A-la-hán. Quả thứ đệ theo Pháp sư có Tam địa đoạn kiến, Tứ địa gọi là Tư- đà-hàm, Ngũ địa gọi là A-na-hàm, Lục địa gọi là A-la-hán. Có áp dụng vào kinh Nhân Vương: Tứ địa dứt kiến hoặc, Ngũ địa gọi là Tư-đà-hàm, Lục địa gọi là A-na-hàm, Thất địa gọi là A-la-hán. Các thuyết như thế không đồng nhau, khó có thể y cứ như thế được. Nay dùng nghóa suy ra để đối chiếu bốn quả một bề dường như tiện, văn không có thì khó biết được ý Phật, không nên câu chấp. Hỏi: Vì sao giải thích không nhất định ? Đáp: Đã giải thích như trước. Bất động địa: Tức là Bích-chi-phật địa của Biệt giáo: Địa luận Sư nói: Từ đây nói về vô học đạo, chưa biết xuất xứ từ kinh luận nào, chẳng những Bát địa đắc Vô Sinh nhẫn vắng lặng mà thường dụng, dụng mà vô tướng, không có công dụng tâm. Tự nhiên dứt hoặc vô minh, sắc tập pháp giới dứt hết. Thiện Tuệ Địa: Vô minh vơi bớt dứt được tập khí, tuệ phát sáng dần, khéo nhập vào Thật tướng. Pháp Vân địa: Từ bi trí tuệ giống như đám mây lớn, Từ bi có công năng thấm khắp, đều rưới mây tuệ, có thể giữ gìn mưa pháp của chư Phật mười phương, dứt được vô minh. Đẳng Giác địa: Trí đầy đủ nhập vào cửa huyền, nếu đối với Pháp Vân gọi là Phật, đối với Diệu giác gọi là Kim Cương tâm Bồ-tát, cũng gọi là Bồ-tát vô cấu địa, ba ma đã hết còn có một phẩm Tử ma, dứt tập khí vô minh. Hỏi: Thông giáo ở trước vì sao không nói về Đẳng giác và Phật ? Đáp: Tập khí nội giới dễ hết, cho nên không cần mở Pháp Vân, khai Đẳng Giác. Hỏi: kinh luận Biệt giáo vì sao chỗ nào cũng nói về Pháp Vân, lại có Kim Cương Đẳng giác, tự có kinh luận chỉ nói hạnh Thập địa viên mãn, bèn thành quả Phật. Các Pháp sư Nam Bắc truyền tranh luận nghóa này? Đáp: Lại lập Đẳng giác không đáng nghi ngờ, sở dó như vậy. Vì kinh Hoa Nghiêm nói Pháp vân địa, trí tuệ công đức, để so với quả Phật. Thượng só như Trảo mới ở đại địa nếu như vậy tuy nói một phẩm vô minh mà thật không nói phẩm, vì sao biết được? Vì tâm có công dụng đạo. Nó nhanh như gió, trong một ngày phá được vô lượng phẩm vô minh chướng hoặc, huống chi kinh Anh Lạc nói Đẳng Giác địa ở trong trăm ngàn muôn kiếp nhập vào lớp cửa huyền, lại tu việc phàm phu, cho nên khai Pháp Vân địa, bèn lập Kim Cương tâm, Đẳng giác, Phật, đối với lý không sai. Nếu biết một phẩm có vô lượng phẩm, vô minh nhân trí vô ngại Pháp Vân địa đã hết, vì sao phải khai ra Đẳng giác địa. Diệu Giác Địa: Kim Cương hậu tâm, Đại giác sáng suốt, diệu trì cùng tột, vô minh đã hết gọi là chân giải thoát, rõ ràng không liên can đến vắng lặng và thường chiếu, gọi là Diệu giác địa. Phật quả thường trụ đầy đủ tất cả Phật pháp gọi là quả Bồ-đề, bốn đức Niết-bàn gọi là quả quả. Hỏi: Định dùng trí Kim Cương dứt vô minh, hay dùng trí Diệu giác dứt vô minh ? Đáp: kinh Niết-bàn chép: Người đoạn gọi là Hữu thượng só, người không đoạn gọi là Vô thượng só. Hỏi: Kinh Thắng-man chép: Vô minh trụ địa, năng lực ấy rất lớn, trí Bồ-đề của Phật có dứt được không? Đáp: Nếu dùng biệt giáo thông Thập địa Đẳng giác tức là trí Bồ- đề Phật. Vì sao ? Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát Cửu trụ gọi là văn kiến, Bồ-tát Thập trụ gọi là nhãn kiến. Tuy thấy Phật tánh mà không hiểu rõ, vì đạo vô ngại cùng trụ với hoặc nghiệp cho nên không hiểu rõ. Chư Phật thấy rõ ràng tức là chân giải thoát, rõ ràng liên hệ ở ngoài cho nên hiểu rõ. Nếu Biệt giáo nói nghóa từ Hoan Hỷ địa thì dùng trí Bồ-đề Phật, dứt sơ phẩm vô minh, cho đến Đẳng giác hậu tâm mới dứt hết. Y cứ vào giai vị Biệt giáo giải thích thanh tịnh, giai vị của vô cấu xưng. Duy-ma đã là một vị Đại só Nhất sinh bổ xứ, tức là Pháp thân, ở vào giai vị Đẳng giác Kim Cương tâm Vô cấu Bồ-tát. Lý Phật tánh hiển bày nên gọi là Tịnh, biệt hoặc chánh tập đều dứt hết, vô minh còn không đáng kể, thí như một ngọn khói, lửa rất nhỏ có cũng như không nên gọi là vô cấu, biên tế trí mãn, bên trong xứng với lý, ngoài dùng không ngại, pháp giới bình đẳng, phó duyên hành hóa nên gọi là Xứng. Cho nên nói Vô cấu xứng, đâu thể đồng với Ba tạng Thông giáo kia: Nói về nghóa Tịnh Vô Cấu Xưng cho nên giáo tích hiện đồng với giai vị bổ xứ, là trách Ba thừa Thông giáo, tiếp nghóa Đại thừa Biệt giáo.  <卷>QUYỂN 11 Y cứ vào Viên giáo nói giai vị giải thích nghóa Tịnh Vô Cấu Xưng. Viên giáo trình bày rõ nhân duyên, tức là lý Trung đạo Niết-bàn Phật tánh không thể nghó bàn. Bồ-tát lãnh thọ giáo môn này, lý tuy không cạn không sâu mà người chứng đều có giai vị cạn sâu. Nay nói về nhập đạo của Viên giáo cũng có đủ bốn môn: Môn hữu. Môn không. Môn không hữu. Môn phi không phi hữu. Viên giáo tuy có bốn môn nhưng ý của các kinh Đại thừa phần nhiều là môn phi không phi hữu để nói về giai vị. Giống như kinh này, các Bồ-tát đều nói nhập pháp môn không hai. Một bề tuy đồng suy luận kỹ càng, đều có sự khác nhau về bốn môn, nhưng phần nhiều dùng môn phi không phi hữu để nhập giải thoát không thể nghó bàn. Nghóa này ở dưới sẽ thấy. Nếu dùng cơ lợi vật, dùng bốn môn để phó duyên đều nhập giải thoát không thể nghó bàn, đâu thể dùng nghiêng lệch. Nhưng chỉ một bề nói về nghóa của hành vi việc phải như thế. Bởi vậy, nay nói về thứ vị của Viên giáo chính là y cứ vào môn phi không phi hữu để làm rõ. Ở đây có năm ý: So sánh Biệt giáo và Thông giáo nói về giai vị khác nhau. Nói về Viên giáo để làm rõ giai vị. Dẫn các kinh luận để làm chứng. Phân biệt. Y cứ vào giai vị của Viên giáo giải thích nghóa Tịnh Vô Cấu Xưng. So sánh Biệt giáo và Viên giáo nói rõ giai vị khác nhau. Viên giáo đã nói lý tròn đầy. Bồ-tát lãnh thọ lý tròn đầy dứt hoặc Ngũ trụ, khai tri kiến Phật, trụ đại Niết-bàn. Ấy là giáo viên lý viên, trí viên đoạn viên, hành viên, vị viên, nhân viên quả khác với Biệt giáo, đã nói đầy đủ ở trước. Nay lược dùng năm nghóa giải thích tướng khác nhau của Biệt giáo và Viên giáo. Y cứ vào dứt vô minh phán quyết giai vị cao thấp khác nhau. Y cứ vào dứt kiến hoặc, tư hoặc giới nội giới ngoại khác nhau. Y cứ vào đoạn, bất đoạn khác nhau. Nương vào giai vị nói về pháp môn Biệt giáo và Viên giáo khác nhau. Y cứ vào giai vị khác nhau, chung hoặc không chung. Y cứ vào vô minh phán quyết giai vị cao thấp khác nhau: Nếu Biệt giáo nói về giai vị, đồng ba mươi hai tâm, dứt hết kết sử ba cỏi, đã hàng phục được vô minh giới ngoại, cho đến hồi hướng Hậu tâm. Sơ địa mới phát chân trí, dứt một phẩm vô minh, cho đến dứt mười phẩm, gọi là Thập địa. Đẳng giác Hậu tâm dứt vô minh mới hết. Diệu giác thường quả tiêu nhiên lụy đến bên ngoài không dứt được. Ở đây như trước đã nói. Nếu Viên giáo nói từ sơ tùy hỷ tâm tu một tâm ba quán, nhập Thập tín vị, dứt hết hoặc giới nội, tức là hàng phục vô minh giới ngoại. Sơ tâm của Thập trụ tức phát chân trí, dứt sơ phẩm vô minh trụ địa, từ bốn mươi tâm nầøy đều dứt vô minh cho đến Đẳng giác Hậu tâm vô minh mới dứt hết. Diệu giác Cực địa lụy đến bên ngoài gọi là Niết- bàn rốt ráo Bồ-đề vô thượng. Đây chính là phán quyết giai vị cao thấp khác nhau, có Viên giáo, Biệt giáo nói về giai vị khác nhau. * Y cứ vào dứt kiến hoặc, tư hoặc vô minh nội giới ngoại giới khác nhau. Nếu ba mươi tâm của Biệt giáo dứt kiến hoặc, tư hoặc giới nội, hàng phục vô minh giới ngoại. Thập địa dứt kiến hoặc tư hoặc giới nội, vô minh giới ngoại chia làm ba đạo. Như Biệt giáo nói phân biệt trong Thập địa. Nếu Thập tín của Viên giáo dứt kiến hoặc, tư hoặc của giới nội, hàng phục kiến hoặc, tư hoặc của giới nội và vô minh của giới ngoại. Phát thú sơ tâm dứt kiến hoặc tư hoặc vô minh của giới ngoại đều đến Đẳng giác mới hết, cho nên luận Địa Trí nói Thanh tịnh tịnh thiền, lìa tất cả kiến thanh tịnh tịnh thiền, phiền não chướng trí chướng đoạn thanh tịnh tịnh thiền. Đây là giai vị Đẳng giác nói về nghóa này. Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát Thập địa bị vô ngã kiến luân hoặc chuyển, tức là nghóa dứt kiến hoặc không hết. Lại Bồ-tát Thập địa tuy thấy Phật tánh nhưng không hiểu rõ. Chư Phật thấy Phật tánh rõ ràng. Đây đều y cứ vào kiến hoặc hết hoặc chưa hết, cho nên có khác nhau về hiểu rõ và không hiểu rõ. Dứt dục ái phải đến quả Phật mới dứt hết. Dục ái tức là sáu dục. Kinh Ương-quật chép: Nhãn căn kia đối với Như Lai thường đầy đủ không giảm bớt, tu rốt ráo, thấy rõ ràng cho đến ý căn cũng như vậy. Như kinh Pháp Hoa chép: Sáu căn thanh tịnh tuy chưa được vô lậu nhưng sáu căn ấy thanh tịnh như thế. Nên biết đây chính là giai vị hàng phục dục ái phiền não. Phát thú Sơ tâm phát chân vô lậu tức là phần đoạn ái dục, cho đến địa vị Đẳng giác mới dứt hết. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Rõ ràng đắc sáu căn của Phật rốt ráo thanh tịnh, dứt sắc ái đến Đẳng giác mới dứt hết. Kinh Đại Niết- bàn chép: Nhân diệt là sắc, được sắc thường còn gọi là sắc giải thoát. Đến Niết-bàn thì sắc ái mới hết, dứt Vô sắc ái đến quả Phật mới hết. Nhân diệt là thọ, được thọ thường còn, tưởng hành thức cũng giống như thế. Ấy gọi là thọ tưởng hành thức giải thoát. Niết-bàn thì số sắc ái mới hết. Bốn trụ hoặc hợp với vô minh, bốn trụ nếu hết thì vô minh cũng hết. Nếu vô minh hết thì bốn trụ cũng hết, ấy là hàng phục viên mãn. Kinh Đại Phẩm chép: Vì sắc vô biên, nên Bát-nhã ba-la-mật cũng vô biên, tất cả các pháp năm Ấm, sáu nhập, mười tám giới đều như vậy. Lại nói: Các pháp bình đẳng nên Bát-nhã ba-la-mật bình đẳng. Kinh này nói: Đối với thức ăn bình đẳng các pháp cũng bình đẳng. Các pháp bình đẳng, thức ăn cũng bình đẳng, dùng một bữa cơm bố thí tất cả. Nếu được như thế thì hãy lấy ăn. Cách ăn còn bình đẳng huống gì pháp sở duyên vô minh kiến hoặc, tư hoặc mà không bình đẳng hay sao? Nghóa như thế chẳng lẽ không khác với đoạn phục của Biệt giáo ở trước? Kinh chép: Nương kinh liễu nghóa, không nương kinh bất liễu nghóa. 3. Y cứ vào đoạn, bất đoạn khác nhau: Luận bàn lý ấy luống uổng vô ích, thể tánh của vô minh vốn tự không có, đã không có vô minh thì đâu luận bàn trí tuệ, không biết không mê hoặc, thì đâu thể phân biệt về sự khác nhau giữa Biệt giáo và Viên giáo. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Người nào có trí tuệ, người nào có phiền não, mà nói Tỳ-Bà-Xá-Na có khả năng phá phiền não. Đây là không nói về đoạn hay không đoạn, mà kinh Niết-bàn chép: Khi tối thì không sáng, khi sáng thì không tối, khi có phiền não thì không có trí tuệ, khi có trí tuệ thì không có phiền não. Nay y cứ vào nghóa có trí tuệ không có phiền não nên nói là đoạn. Nếu theo Biệt giáo, phần nhiều nương vào tướng định để luận đoán, tức là trí nghó bàn dứt mà nói về giai vị, là nghóa vụng về của Đại thừa. Nếu Viên giáo nói nghóa phần nhiều nói về bất đoạn. Không dứt mà dứt, tức là dứt không thể nghó bàn, chẳng có thứ vị mà nói thứ vị, chính là nghóa khéo léo của Đại thừa, cho nên kinh này nói: Tánh dâm nộ si tức là giải thoát. Lại nói: Không dứt si ái, khởi các minh giải thoát. Hỏi: Nghóa suy đoạn bất đoạn có ba mươi sáu câu, vì sao ở đây phân biệt dứt thuộc về Biệt giáo, không dứt thuộc về Viên giáo? Đáp: Hai câu này là ý chính của Phật pháp, ngoài ra đều là phụ, không dứt mà nhập giai vị nghóa đồng với nhét núi Tu-di vào trong hạt cải, đây là giai vị trí đoạn không thể nghó bàn. Y cứ vào pháp môn Biệt giáo và Viên giáo để phân biệt. Biệt giáo nói giai vị đối với các pháp môn chẳng phải là pháp môn không viên, về giai vị cũng có hạn chế. Như luận Thập địa chép: Sơ địa đầy đủ đàn ba-la-mật, ngoài ra chẳng phải không tu. Nhưng tùy theo năng lực, tùy theo phần mà nghóa này có khác. Viên giáo nói rõ các pháp môn không phải như thế. Một pháp môn có đầy đủ tất cả pháp môn đều chung đến Phật địa. Y cứ vào chung hay không chung của giai vị để phân biệt sự khác nhau: Như Biệt giáo nói giai vị Sơ địa không được chung với Nhị địa, huống chi là đầy đủ các vị, hoặc giai vị Viên giáo nói. Như kinh Hoa Nghiêm chép: Từ Sơ địa đầy đủ tất cả công đức của các địa. 2. Nói rõ giai vị của Viên giáo: Còn lại y cứ bảy giai vị, nói năm mươi hai giai vị khác nhau: Thập tín Thập trụ Thập Hạnh Thập hồi hướng Thập địa Đẳng giác địa Diệu giác địa. Nhưng người giải thích khác nhau, có sư nói Viên giáo đốn ngộ, hễ ngộ tức là Phật, lại không có sự khác nhau về giai vị. Nói giai vị của Thập địa là người độn căn, như kinh Tư-Ích chép: người học như thế, tức là không từ một địa này đến một địa khác. Lại có sư giải thích: Viên giáo là đốn ngộ, sơ tâm vừa ngộ tức là rốt ráo viên mãn. Nhưng có bốn mươi hai giai vị chỉ là phương tiện hóa vật, đặt tên sâu cạn cho nên kinh Lăng-già chép: Sơ địa tức là Nhị địa, nhị địa tức là Tam địa. Tịch diệt chân như có giai vị gì. Lại có sư nói: Viên giáo sơ đốn đến Thập trụ tức là Thập địa mà nói có Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa. Đây là chú trọng về ý. Nghóa là các cách giải thích này đều là nghiêng chấp. Pháp giới bình đẳng còn bất luận về ngộ và không ngộ, sao lại luận bàn cạn sâu, không ngộ mà luận bàn về ngộ, không cạn không sâu mà luận bàn cạn sâu. Tìm các kinh Đại thừa nói về lý rốt ráo, không kinh nào hơn Hoa Nghiêm, Đại Tập, Đại phẩm, Pháp Hoa, Niết-bàn. Tuy nói về pháp giới bình đẳng, không nói không chỉ bày mà hạnh vị của Bồ-tát đều rõ ràng. Bởi vậy, nay lại y cứ vào bảy giai vị để nói giai vị Bồ-tát của Viên giáo. * Nói về giai vị Thập tín có bốn ý: + Nhờ nghe pháp mà sinh tín tâm + Nói nhân tín tâm mà tu hành + Nói nhờ tu hành mà nhập vị + Nói kinh nói khác nhau. 1. Nói rõnhân nghe pháp mà sinh tín tâm: Bậc thượng căn lợi trí, nghe Viên giáo, trình bày nhân duyên tức là Trung đạo, tứ thật đế vô tác tức là Tín giải nhất thật đế, tức là Như Lai, hư không Phật tánh, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, phi nhân phi quả, không thể nói năng, không thể hiển bày. Vô thuyết mà thuyết, nhân quả thế gian tức là vô tác khổ tập. Thuyết nhân quả thế gian tức là vô tác đạo diệt, cho nên kinh này Đại só chê trách Di-lặc. Phật biết tất cả chúng sinh rốt ráo vắng lặng, tức là tướng Niết-bàn không thể diệt. Tất cả chúng sinh tức là tướng Bồ-đề. Nếu biết Niết-bàn tức sinh tử, ấy là vô tác khổ đế. Nếu biết Bồ-đề tức phiền não, ấy là tập đế vô tác. Nếu biết sinh tư tức Niết- bàn ấy là vô tác đạo đế. Nhưng vì phi sinh tử, phi Niết-bàn, phi Bồ-đề, phi phiền não, là nhất thật đế. Nhất thật đế nói về bốn đế này tức là tứ thật đế vô tác. Vì sao? Vì y cứ vào nhất thật đều nói bốn thật. Nhất thật đế không làm ra bốn, bốn không tự làm thành bốn, không phải cái khác làm thành bốn, cũng không phải cùng làm bốn, cũng chẳng phải không có nhân duyên mà làm bốn. Nhưng nói là bốn: Đây là bốn vô tác. Bốn này rốt ráo không thật có, tức là nhất thật đế, gọi là tứ thật đế vô tác. Nếu người nghe tin hiểu vô ngại này tức là tin tất cả chúng sinh, tức là giải thoát không thể nghó bàn. Tức là Đại thừa, tức là Bát-nhã, tức là Thủ-lăng-nghiêm, tức là Phật tánh, tức là Pháp thân, tức là thật tướng, tức là Trung đạo đệ nhất nghóa đế, tức là Như Lai tạng, tức là pháp giới, tức là rốt ráo không, tức là tất cả Phật pháp. Do Từ bi thệ nguyện này mà phát tâm Bồ-đề, ấy là danh tự Viên giáo tức là tín giải. Nhân tín tâm tu hành: Do danh tự này mà tín tâm, tức đã phát tâm Bồ-đề. Nếu muốn thực hành đạo Bồ-đề, thì phải thọ trì, đọc tụng giảng nói kinh điển Đại thừa. Thực hành nhân xuất thế nếu muốn mau được nhập giai vị Thập tín đầy đủ, sáu căn thanh tịnh, thì cần phải tinh tấn, không tiếc thân mạng, cần phải siêng tu bốn thứ Tam-muội: Bốn thứ Tam-muội là: Tam-muội thường tọa. Như kinh Văn-thù Bát-nhã nói. Tam-muội thường hành, như kinh Ban Chu nói Tam-muội bán hành bán tọa, như kinh Phương Đẳng, kinh Pháp Hoa nói Tam-muội phi hành phi tọa. Tức là các kinh Đại thừa nói các thứ pháp hạnh. Các pháp hạnh Tam-muội này như trong các kinh Đại thừa có nói. Đây chính là thay thế pháp quán dừng tâm đầu tiên, ở đây y theo viên giáo nói rõ tu sơ tín tâm thực hành các Tam-muội phải tin hiểu mười pháp. Mười pháp: danh tự đã nói trong ba quán ở trước. Khéo biết nhân duyên nghó bàn, không thể nghó bàn.. Nhân duyên nghì bàn: Như tam giáo ở trên đã nói nhân duyên không thể nghó bàn, tức là năng nói. Không thể nghó bàn, tứ thật vô tác đế như trong ba quán ở trước có nói. Thí như một niệm tâm hôn mê thì có đầy đủ tất cả pháp, không ngang không dọc tức là nhân duyên không thể nghó bàn, tứ đế vô tác. Như thế để lấy Đại só Duy-ma chê trách Di-lặc, tất cả chúng sinh tức là đại Niết-bàn, tức là tướng Bồ-đề. Nói về nhân duyên không thể nghó bàn này trừ chín pháp cũng giống như thế, ý nghóa sâu xa. Nay nói rõ thứ lớp, người tìm tòi hãy khéo suy nghó. Nói về phát tâm chân chánh: Tức là vô duyên Từ bi, vô tác bốn thệ nguyện rộng lớn, vô duyên đại Bi, quán sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề, niềm vui diệt đạo này cho chúng sinh. Vô duyên đại Bi: Quán Niết-bàn tức sinh tử, Bồ-đề tức phiền não, muốn cứu giúp chúng sinh, đây là khổ tập luống dối. Vô tác bốn thệ nguyện rộng lớn: Biết Niết-bàn tức sinh tử, người chưa vượt qua khổ để giúp họ vượt qua khổ đế. Biết Bồ-đề tức phiền não, người chưa hiểu tập đế giúp cho họ hiểu tập đế, người chưa an vào đạo đế thì làm cho họ được an. Biết sinh tử tức Niết-bàn, người chưa đắc Niết-bàn làm cho họ đắc Niết-bàn. Bồ-tát Từ bi thệ nguyện như thế, vô duyên vô niệm mà lại che chở tất cả chúng sinh. Giống như đám mây lớn không cần dụng công, như nam châm hút sắt, ấy gọi là tâm Bồ-đề chân chánh. Nói về hành Bồ-đề đạo siêng tu chỉ quán: Biết sinh tử tức Niết-bàn, tức là khéo tu chỉ. Biết phiền não tức Bồ-đề là khéo tu quán như âm dương điều hòa muôn vật trưởng thành. Nếu khéo tu chỉ quán thì một tâm sẽ đầy đủ muôn hạnh. Hỏi: Thế nào là Tập? Đáp: Y theo kinh này và kinh Niết-bàn nói vô minh, ái, tất cả phiền não là Tập đế. Tập thuộc về khổ. Nay đối chiếu nghóa là tiện. Nói về phá các pháp: Nếu biết sinh tử tức Niết-bàn là phá hai thứ phần đoạn và biến dịch, sinh tử đều cùng khắp. Nếu biết phiền não tức Bồ-đề là phá tất cả phiền não biên của giới nội, giới ngoại. Thí như vua chuyển luân có khả năng phá tất cả cường địch, không có ai phá được Bát-nhã ba-la- mật cũng giống như thế, Bát-nhã có công năng phá tất cả pháp, không gì phá được nó. Khéo biết thông bít: Biết sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề thì tất cả pháp đều thông. Biết Niết-bàn tức sinh tử, Bồ-đề tức phiền não thì tất cả pháp đều bít. Khéo tu đạo phẩm: Quán mười pháp giới, năm Ấm, sinh tử tức là pháp tánh của năm Ấm. Pháp tánh của năm tức là tánh tịnh Niết-bàn, tức là bốn Niệm xứ phá tám đảo, biết Niết-bàn tức sinh tử, hiển rõ bốn khô, biết sinh tử tức Niết-bàn là nói lên bốn tươi. Biết nhất thật đế tức là thấy hư không Phật tánh, trụ đại Niết-bàn. Nhân bốn Niệm xứ này mà tu bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm căn năm lục, bảy Giác chi, tám Chánh đạo, tức là đạo phẩm thiện tri thức. Do thành Chánh giác cũng là trang nghiêm ở Song thọ, ấy chính là phiền não tức Bồ-đề. Đối trị trợ đạo tu các ba-la-mật. Biết Bồ-đề tức phiền não trọng ác, chính là biết sinh tử tức Niết- bàn, đề khởi đối trị các ba-la-mật, các thứ trợ giúp như: Độ pháp phiền não tức Bồ-đề, khi ba môn giải thoát đối trị nếu thành thì phiền não tức Bồ-đề. Khéo biết thứ vị: Niết-bàn tức sinh tử, Bồ-đề tức phiền não, đây là lý tức. Nếu biết sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề ấy là danh tự tức. Nhờ quán hạnh này rõ ràng thành năm phẩm đệ tử, tức là quán hạnh hạnh, được sáu căn thanh tịnh, gọi là danh tương tợ tức. Thành bốn mươi mốt địa tức là phần chứng chân thật tức, chứng quả Diệu giác tức là cứu cánh tức. Nếu biết về thứ vị này tức không khởi tội lỗi Tăng thượng mạn đối với Đại thừa, chiên-đàn-la đối với Đại thừa. Thành tựu an nhẫn. Nếu biết sinh tử tức Niết-bàn thì không bị cảnh Ấm, giới, nhập, cảnh bệnh hoạn, cảnh nghiệp tướng, cảnh việc ma, cảnh thiền môn, cảnh Nhị thừa, cảnh Bồ-tát phá hoại. Nếu biết phiền não tức Bồ-đề thì không bị phiền não, các cảnh kiến hoặc, cảnh tăng thượng mạn phá hoại. Nhẫn được khổ đế vô tác này, không bị phá hoại. Điều này như luận Đại Trí Độ chép: Nhẫn được thành đạo, việc bất động cũng không thối, tâm ấy gọi là Tát-đỏa. Thuận đạo pháp ái bất sinh: Quán sinh tử tức Niết-bàn, sinh ra tất cả công đức về các thiền định tam muội. Quán phiền não tức Bồ-đề, sinh khởi các môn Đà-la-ni, bốn việc không sợ, mười tám pháp bất côïng, bốn trí vô ngại, trí nhất thiết chủng. Đối với pháp thuận đạo không mê đắm. Nếu sinh ái trước gọi là đảnh đọa. Biết nó như hư không, không trụ không mê đắm, tức đắc thành sơ tín tâm, cho đến Thập tín tâm. Nói rõ nhân tu mười pháp nhập Thập tín tâm. Hiểu rõ nhân duyên không thể nghó bàn tứ đế vô tác, tức tu sơ tín tâm, niềm tin bình đẳng pháp giới Tam bảo Phật pháp Tăng. tâm. pháp. Phát Bồ-đề chân chánh: Thệ nguyện Từ bi thương xót tất cả chúng sinh tức là tu niệm Siêng tu chỉ quán thành tất cả muôn hạnh: Tức là tu tâm tinh tấn. Dùng quán phá các pháp: Tức là khéo tu tâm tuệ. Dừng tâm trong lắng: Tất cả các tướng được mất, thông bít tự hiện, tức là tâm tu định. Đạo phẩm thứ lớp thêm lớn gốc lành: Không thối, không mất, tức là tu tâm bất thoái. Hồi sự trung các Độ: Giúp khai ba môn giải thoát, tức là tu tâm hồi hướng. Khéo biết thứ vị: Ngăn tăng thượng mạn, lìa nghiệp chiên-đàn-la tức là tu tâm hộ Thành tựu an nhẫn: Pháp ác trong ngoại đều không sinh khởi, tức là tu tâm giới. Thuận đạo pháp: Aùi không sinh, nếu mong cầu thắng quả thì không yêu đắm pháp môn sở đắc cạn thấp. Bởi vậy, Bồ-tát biết sinh tử tức Niết-bàn, biết phiền não tức Bồ-đề, cho nên khéo tu mười pháp này tức là tu mười tin tâm, gọi là quán hạnh tức. Do đây nếu được môn Tam-muội Đà-la-ni, được nhập giai vị sơ tín tâm. Như một tín tâm này có mười tín, mười tín có trăm, thành giai vị mười tín tâm thiết luân. Trụ trong tín này được sáu căn thanh tịnh, công đức không thể nghó bàn. Như kinh Pháp Hoa nói ấy gọi là viên giáo nhu thuận nhẫn vị, cũng là giai vị, thế đệ nhất pháp, Noãn Đãnh Nhẫn của Viên giáo. Cho nên kinh Nhân Vương, Bát-nhã chép: Bồ-tát thập thiện phát đại tâm, vượt qua biển khổ ba cõi. Nên biết trụ vào giai vị Thập tín này dứt hết kiến hoặc, tư hoặc giới nội, phá trần sa vô tri giới ngoại, hàng phục hoặc vô minh trụ địa. 4. Nói về kinh nói khác nhau: Như kinh Pháp Hoa, Bồ-tát pháp tuệ đáp thiên tử chánh niệm, nói Bồ-tát quán mười thứ phạm hạnh là không, học mười thứ trí lực, nhập giai vị Sơ trụ, tức là giai vị Thập tín của giáo nầøy. Vì sao? Quán mười thứ phạm hạnh không tức là quán nhất thật đế. Học mười loại trí lực tức là quán tứ đế vô tác. Kinh nầøy tức là giáo của Phương Đẳng, nói tức đại Niết-bàn, tức tướng Bồ-đề, hoặc chỉ, hoặc quán, sinh tương tợ giải, tức là kinh Anh Lạc nói Thập tín. Kinh Đại phẩm chép: Thừa này từ ba cõi sinh khởi, mười pháp thành thừa như trong ba quán nói ở trước. Ban đầu ra khỏi ba cõi tức Thập tín. Lại kinh Đại Phẩm chép: Thí như ra biển trước thấy tướng bằng, tức là kinh Nhân Vương Bát-nhã nói, Bồ-tát Thập Thiện phát đại tâm thoát biển khổ ba cõi. Kinh Pháp Hoa chép: Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, đây chính là tu bốn hạnh an lạc, hành xứ, thân cận xứ, được sáu cănThanh tịnh, trụ Thập tín vị, kinh Phổ Hiền nói: Người tu Đại thừa chưa đắc Vô Sinh nhẫn, trước có mười thứ tướng chứng, đây là giai vị Thập tín. Kinh Niết-bàn chép: Lại có một hạnh là hạnh Như Lai gọi là Đại thừa đại Niết-bàn. Như luận Đại Trí Độ chép: Bồ-tát từ Sơ phát tâm tức quán hạnh đạo Niết-bàn. Nếu quán hạnh đạo Niết-bàn sinh tương tợ giải tức là một hạnh, là hạnh Như Lai. 2. Nói về Thập trụ: Thập trụ như ở trước nói. Nay nói sơ phát tâm trụ lược có bốn ý: Giải thích Sơ phát tâm trụ Nói về kinh nói khác nhau. Nói lược công đức Nói về Cữu trụ. Giải thích Sơ Phát tâm trụ: Nói phát tâm trụ: Vì phát ba thứ tâm nên gọi là Phát Tâm trụ. Ba đức Niết-bàn gọi là Trụ. Thế nào là phát ba thứ tâm. Duyên theo nhân mà tâm lành phát khởi. Hiểu rõ nhân mà phát khởi. Chánh nhân mà phát lý tâm. Duyên theo nhân mà tâm lành phát sinh: Chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay có người cúi đầu chắp tay, trong khoảnh khắc tâm Bồ-đề khai phát, thệ nguyện Từ bi bố thí, trì giới nhẫn nhục, tinh tấn thiền định, tất cả gốc lành trong cùng lúc khai phát, một tâm đây đầy đủ muôn hạnh, các ba-la-mật. Liễu nhân tuệ tâm khai phát: Chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay nghe kinh Đại thừa cho đến một câu, một kệ thọ trì đọc tụng giảng nói biên chép, quán hạnh tu tập có trí tuệ cùng lúc khai phát thành chân vô lậu. Chánh nhân lý tâm phát khởi: Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, bị vô minh che lấp Phật tánh chân tâm, liễu nhân và duyên nhân phá vô minh mờ ám, hiển rỏ tròn đầy, vì ba thứ tâm này khai phát nên gọi là phát tâm. Trụ vào ba đức Niết-bàn nên gọi là trụ, gồm có: Pháp thân. Bát-nhã. Giải thoát. Ba thứ không ngang không dọc này, như thế theo thứ lớp gọi là bí mật Tăng. Phát tâm chân thật tức là Pháp thân. Tâm liễu nhân phát tức là Bát-nhã, tâm duyên nhân phát tức là Giải thoát. Ba tâm, đồng phát đồng thế y tự, giả gọi là hành nhân, vì không trụ vào ba pháp mà trụ vào ba tâm này tức là trụ vào ba đức Niết-bàn bí mật nên nói là Sơ phát tâm trụ. Nếu trụ vào lý của ba đức tức là trụ vào giải thoát không thể nghó bàn, tức là trụ vào Đại thừa, không trụ vào pháp, mà trụ vào Bát-nhã tức là trụ vào Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội, tâm tu trì như hư không, tức là trụ vào pháp tánh, tức là trụ vào thật tướng, tức là trụ như như, tức là trụ Như Lai tạng, tức là trụ Trung đạo đệ nhất nghóa đế, tức trụ vào pháp giới, tức trụ vào rốt ráo không, tức trụ vào đại Bi, tức trụ vào mười lực, tức là trụ vào bốn vô úy, tức trụ vào mười tám pháp bất côïng, bốn trí vô ngại, trụ ba niệm xứ đại Bi, trụ đại thần thông, trụ bốn nhiếp pháp, trụ các ba-la-mật, tất cả Tam-muội, tất cả môn Đà-la-ni. Tóm lại, tức là trụ chân thân ứng thân, tất cả Phật pháp. Nói về Các kinh Đại thừa, nói về Sơ phát tâm trụ, danh nghóa khác nhau: Kinh Hoa Nghiêm chép: Lúc sơ phát tâm liền thành Chánh giác, liễu đạt tánh chân thật của các pháp, tất cả các pháp đã nghe không nghe từ người khác. Bồ-tát này thành tựu một loại trí lực, rốt ráo không lìa luống dối, không nhiễm như hư không, Pháp thân thanh tịnh mầu nhiệm, vắng lặng cảm ứng tất cả. Nên biết ấy là phát chân vô lậu, dứt sơ phẩm vô minh, tức kinh này chép: Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu nhất thiết trí. Lại kinh này nói nhập pháp môn không hai, đắc pháp nhẫn vô sinh tức là kinh Đại Phẩm nói lúc mới phát tâm liền ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp độ chúng sinh. Nên biết Bồ-tát này như Phật. Lại kinh Đại Phẩm chép: Bồ-tát từ một ngày đầu thực hành trí tuệ Bát-nhã giống như ánh sáng mặt trời. Dù cho Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, khắp bốn thiên hạ ở cõi Diêm-phù-đề như lúa mè tre rau, trí tuệ gần với Bồ-tát. Như ánh sáng bốn thiên hạ khắp Diêm-phù- đề giống như ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Lại tức kinh Đại Phẩm nói tự môn A nghóa là tất cả pháp sơ không trụ. Tức kinh Pháp Hoa chép: Vì giúp cho chúng sinh khai tri kiến Phật. Lại kinh Pháp Hoa chép: Long Nữ trong một sát-na phát tâm Bồ-đề thành tựu Chánh giác liền đến cõi Vô cấu ở Phương Nam ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp, tức kinh Đại Niết-bàn chép: Phát tâm, rốt ráo cả hai không khác, hai tâm như thế, tâm trước tâm khó, tức là kinh Niết-bàn lại có một hạnh, tức là hạnh Như Lai. Nghóa là Đại thừa, đại Bát Niết-bàn, sơ trụ phần chứng chân Niết-bàn. Các kinh Đại thừa như thế đều là Viên giáo nói về phát tâm trụ. Nói về công đức mới phát tâm: Phát tâm công đức vô lượng vô biên, phàm phu Nhị thừa không thể lường được, không thể giảng nói. Nay tìm tòi ý của kinh Đại thừa lược lấy mười thứ pháp môn, trình bày sơ trụ công đức viên mãn. Trụ tâm Bồ-đề thanh tịnh viên mãn: Tức là pháp nhẫn vô sinh, Từ bi vô duyên, thệ nguyện vô tác trùm khắp pháp giới. Trong một niệm thành tựu tất cả muôn hạnh, các ba-la-mật. Đắc trí nhất thế chủng, dứt hết vô minh kiến hoặc và tư hoặc pháp giới. Đắc pháp Phật nhãn, thấy ba đế mười pháp giới Viên nhập tất cả pháp môn nghóa là y cứ hai mươi lăm Tam- muội. Nhập Tam-muội vương, tất cả Tam-muội đều vào trong đó, làm lợi ích cho chúng sinh. Tám lần phá hai mươi lăm hữu. Thành tựu Bồ-đề viên mãn nghiệp, có khả năng hiển bày tất cả thần thông: Nghóa là ba luân không thể nghó bàn hòa, khắp pháp giới hiển bày lợi ích chúng sinh, tám phen lợi ích hai mười lăm hữu. Có khả năng thành tựu chúng sinh, khai quyền hiển thật, nhập đạo nhất thừa. Có khả năng trang nghiệm thanh tịnh tất cả cõi Phật, như Phẩm Phật Quốc nói. Có khả năng khởi ba nghiệp của pháp giới, cúng dường tất cả chư Phật mười phương, đắc viên mãn Đà-la-ni, thọ trì tất cả Phật pháp như mây giữa mưa . Từ nhất địa đầy đủ tất cả công đức, tất cả các địa, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên chảy vào biển Tát-bà-nhã. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói tất cả công đức của Bồ-tát Sơ trụ, chư Phật ba đời vui không thể tận. Phật nói đầy đủ, tất cả phàm phu nghe mà loạn tâm phát cuồng, đây là việc khó hiểu không thể nghó bàn. Các kinh Đại thừa liễu nghóa nói đâu đồng với Thông giáo. Công đức Thập trụ so sánh ở đây, nói sơ trụ và thần thông biến hoá công đức trí đoạn Sơ địa của Biệt giáo đều giống nhau, kinh luận nói sâu hay cạn đều có ý. Giải thích Cữu Trụ: Nếu ba quán sơ trụ này hiện tiền, thì không có tâm công dụng, niệm niệm dứt vô lượng phẩm vô minh trong pháp giới không thể kể hết. Phần lớn lược làm mười phẩm trí đoạn, tức là Thập trụ, cho nên kinh Nhân Vương chép: Nhập lý Bát-nhã gọi là Trụ tức là mười lần tiến pháp vô lậu chân minh, đồng vào lý Trung đạo Phật tánh đệ nhất nghóa đế. Vì không trụ pháp từ cạn đến sâu, trụ vào lý ba đức Niết-bàn của Phật, tức là mười phẩm, vì trụ tất cả Phật pháp nên gọi là Thập trụ. 3- Nói về Thập Hạnh: Tức là Phật tánh đệ nhất nghóa đế vô lậu chân minh, một tâm đầy đủ tất cả hạnh, niệm niệm tiến lên, chảy vào biển pháp giới bình đẳng, cho nên phá mười phẩm vô minh thành mười phẩm trí đoạn. Tất cả các hạnh, các ba-la-mật, không thể nghó bàn, tăng trưởng sinh ra công đức tự hạnh hóa tha đồng với hư không pháp giới, nên gọi là Thập hạnh. Thập hồi hướng: Vô công dụng không thể nghó bàn, vô lậu chân minh, niệm niệm khai phát, thêm lớn tất cả hạnh nguyện cùng khắp pháp giới, sự lý viên dung,tâm tâm vắng lặng, tự nhiên hướng về biển Tát-bà-nhã bình đẳng pháp giới. Lại tiến lên phá mười phẩm vô minh chứng mười phẩm trí đoạn, nên gọi là Thập hồi hướng. Nói về Thập địa: Vô lậu chân minh nhập đạo vô công dụng, giống như đất có công năng sinh ra tất cả Phật pháp, gánh vác chúng sinh trong pháp giới, đều nhập Phật địa ba đời, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Lại tiến phá mười phẩm vô minh, thành tựu mười phẩm trí đoạn. Y đây để nói về Thập địa. Nói về Đẳng giác địa: Quán đạt nguồn gốc vô minh từ vô thỉ, bờ mé trí mãn rốt ráo thanh tịnh, sau cùng dứt vô minh sâu kín cùng nguồn, chứng Trung đạo sơn đảnh và khác với cha mẹ vô minh. Gọi là có sở đoạn là nói có thượng só. Diệu Giác địa: Rốt ráo giải thoát vô thượng Phật địa, cho nên nói không có sở đoạn là nói Vô thượng só. Đây chính là ba đức không ngang không dọc, rốt ráo hậu tâm đại Niết-bàn. Đại Niết-bàn này gọi là pháp giới của chư Phật, dọc sâu ngang rộng có thể dùng hai mươi lăm Tam-muội, hoá độ khắp chúng sinh ẩn hiện, mười lần lợi vật rốt ráo cùng khắp. Thí như cây lớn nếu gốc nó sâu thì cành lá cũng lớn. Nếu công về thật tướng trí tuệ cùng nguồn tánh tận hóa dụng thì rộng khắp pháp giới, vô phương đại dụng rốt ráo viên mãn. Cho nên luận Đại Trí Độ chép: Biển lớn trí độ Phật. Xưa nay, biển sâu trí độ Phật tận đáy. Kinh Đại Phẩm chép: Quá trà không có chữ để nói. Kinh Niết-bàn chép: Bất sinh bất sinh không thể nói, nếu làm như thế mà nói về giai vị đều là vắng lặng chân như bình đẳng pháp giới không thể nghó bàn, không có thứ vị của thứ vị.  TỨ GIÁO NGHÓA <卷>QUYỂN 12 Dẫn chứng các kinh luận nói về giai vị viên giáo: Kinh Đại Niết- bàn nói về Tam-muội nguyệt ái từ ngày mồng một đến ngày mười lăm, ánh sáng dần dần thêm nhiều. Lại ngày mười sáu đến ngày ba mươi ánh sáng dần dần tắt đi. Ánh sáng trăng dần dần thêm nhiều là dụ cho ánh sáng mười lăm Ma-ha Bát-nhã của trí đức. Dần dần tắt mất dụ cho mười lăm đoạn đức, không lụy giải thoát, vô minh dần dần diệt tận. Mười lăm loại trí đoạn: Ba mươi tâm là ba trí đoạn, Thập địa là mười trí đoạn. Đẳng giác là nhất trí đoạn, hợp thành mười lăm trí đoạn, cho nên từ ngày mồng một đến ngày mười lăm lấy mặt trăng để dụ. Thể của mặt trăng dụ cho Pháp thân. Pháp thân là một, ánh sáng tăng dần thì cho trí đức Bát-nhã bất sinh mà sinh, ánh sáng giảm dần dụ cho giải thoát, đoạn đức bất diệt mà diệt. Cho nên kinh Niết-bàn nói từ lúc an trí ba đức Niết-bàn về bí mật tạng của chư Phật. Sau cũng ta cũng phải ở nơi bí tàng và bát Niết-bàn này, sau cùng là rốt ráo Niết-bàn, gọi là bất sinh bất sinh. Bát-nhã rốt ráo bất sinh bất diệt, lại không có hoặc nghiệp để diệt. Hỏi: Nếu là đốn ngộ của giai vị Viên giáo một khi chứng liền rốt ráo, đâu được dẫn Tam-muội nguyệt ái, ngày mười lăm để dụ? Một bề không có sâu cạn đã phá như trước. Nhưng chứng vị là cảnh giới chư Phật, phàm phu chưa biệt thì đâu thể định chấp. Nay mượn thí dụ trời trăng. Là y cứ về không thể thí dụ mà luận thí dụ, cho nên kinh Niết-bàn chép: Lại giải thoát gọi là không thí dụ. Không thí dụ tức là chân giải thoát. Như gương mặt như trăng tròn, thật chẳng phải không có tướng năm căn đồng với mặt trăng kia. Hỏi: Ở đây được biết mặt trăng dụ cho địa vị? Đáp: kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã trích đủ nghóa này. Hỏi: Nếu y cứ vào Phật tánh Trung đạo bị vô minh che lấp, đâu được nhất định có bốn mươi hai phẩm? Đáp: Nghóa này đã nói sơ lược trước đây vô minh tuy không có, không có mà có, chẳng phải không có giai vị địa phẩm sâu cạn, thường chia làm bốn mươi hai phẩm, nhưng nói về phẩm số thật sự vô lượng vô biên không thể nói, cho nên luận Đại Trí Độ chép: Phẩm loại vô minh số ấy rất nhiều. Bởi thế khắp các kinh nói Tam-muội phá vô minh. Lại nói: Pháp ái khó hết, các kinh chú trọng nói Bát-nhã. Kinh Pháp Hoa chép: chư Phật xuất hiện ở đời chỉ có một việc nhân duyên lớn là làm cho chúng sinh khai tri kiến Phật, chỉ bày tri kiến Phật, ngộ tri kiến Phật, nhập tri kiến Phật. Bốn nghóa nầøy Sư Nam Nhạc giải thích rằng: Khai tri kiến Phật tức là Thập trụ, chỉ bày tri kiến Phật tức là Thập hạnh. Ngộ tri kiến Phật là Thập hồi hướng, nhập tri kiến Phật là Thập địa và Đẳng giác địa, đều nói là tri kiến Phật, đều đắc trí nhất thiết chủng. Đều nói tri kiến Phật là đều đắc trí nhất thiết chủng. Đều nói tri kiến Phật là đều đắc Pháp nhẫn. Lại kinh Pháp Cú chép: Ấy là một việc nhân duyên lớn của chư Phật đồng nhập thật tướng nhất thừa của chư Phật. Lại nói chỉ có Phật và Phật mới thấu tột được thật tướng các pháp. Lại Phẩm nhà lửa nói các người con ra khỏi nhà lửa tìm cầu xe, Trưởng giả đều cho các người con một chiếc xe lớn. Bấy giờ, các người con ngồi xe báu dạo chơi bốn phương, vui thích tự tại, vô ngại thẳng đến đạo tràng. Nói bốn phương: Là dụ cho bốn giai vị khai thị ngộ nhập. Thẳng đến đạo tràng: Rốt ráo cùng tận thật tướng các pháp giai vị cùng tột của Diệu giác. Như thế đều nói tên khác của giai vị Viên giáo. Kinh Đại Phẩm chép: Bốn mươi hai tự môn A. Sư Nam Nhạc giải thích: Đây là mật ngữ của chư Phật, biểu thị giai vị của bốn mươi hai tâm. Nếu người học vấn phần nhiều nghi ngờ lời này, cho là luận Đại Trí Độ không giải thích chữ này. Nhưng Long thọ giải thích kinh Đại Phẩm, luận có một ngàn quyển, Sư La-thập đều lược bớt, đâu hẳn không giải thích. Nay cho là giải thích điều này thật sâu xa phải lãnh hội rõ, sở dó như vậy, kinh không nói sơ a-hậu-trà, trong đó có bốn mươi hai chữ, sơ A tự môn cũng có đủ bốn mươi hai chữ. Hậu-trà tự môn cũng đủ bốn mươi hai chữ. Kinh Hoa Nghiêm chép: Từ Một địa đầu đầy đủ tất cả công đức của các pháp: Nói về ý nghóa này rất có tương quan. Lại kinh Đại Phẩm chép: nếu nghe tự môn A đầu tiên thì hiểu tất cả nghóa, nên tất cả pháp trước bất sinh. Đây há chẳng phải Bồ-tát của Viên giáo. Mới đắc giai vị pháp nhẫn vô sinh. Quá trà không chữ có thể nói há chẳng phải là Diệu giác cực địa vô thượng không lỗi, không thể quá chữ này có pháp để nói. Lại phẩm Quảng Thừa trong kinh Đại Phẩm nói tất cả pháp môn xong, đã nói bốn mươi hai chữ há chẳng phải Bồ-tát Viên giáo từ mới phát tâm đắc thật tướng các pháp, đầy đủ tất cả các pháp, nên gọi là chữ A, đến Diệu giác địa cùng tột nguồn gốc tất cả pháp, cho nên gọi là chữ Trà. Giải thích giai vị Viên giáo gần như rõ ràng lại bốn mươi hai tự môn, sau đó thì nói Thập địa. Đây tức là hiển rõ thứ vị phương tiện của Biệt giáo. Lại Thập địa nói Ba thừa cùng Thập địa tức là hiển bày giai vị về phương tiện Thông giáo. Ba chỗ văn kinh rỏ ràng. Phán quyết về Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo hiển rõ văn kinh Đại Phẩm, cho nên kinh Đại Phẩm chép: Thừa này từ trong ba cõi đến bờ Tát-bà-nhã. Lại Phẩm Tam Tuệ chép: Bồ-tát từ mới phát tâm tu tập ba tuệ đến ngồi đạo tràng. Kinh Nhân Vương Bát-nhã chép: Hạnh trung nhẫn của Ba hiền Mười Thánh chỉ có Phật mới biết tường tận. Trước đó dẫn kinh Tư-Ích và Lăng-già nói về chân như vắng lặng có thứ vị gì, tức là thứ vị của không có thứ vị. Lại kinh Anh Lạc chép: Bồ-tát ba hiền tâm tâm vắng lặng, tự nhiên chảy vào biển Tát-bà-nhã. Kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi mốt giai vị đã là giác viên đốn, nói về ý của thứ vị viên đốn rất rõ ràng. Nhưng có khi khai nói phương tiện Biệt giáo, sự tướng cách biệt dường như cạn hẹp cho nên luận sư Thập địa làm rõ nghóa của giáo đạo và chứng đạo. Hoặc làm rõ nghóa của hai loại địa tướng và địa thật, chính là làm văn tu sự tướng phương tiện về Biệt giáo. Lại nói: Tất cả không ngại người, tất cả đạo ra khỏi sinh tử. Luận Trí Độ chép: Bồ-tát từ mới phát tâm quán hành đạo Niết- bàn cho đến ngồi đạo tràng. Lại nói: Bồ-tát từ mới phát tâm quán tuệ thật tướng của các pháp gọi là Bát-nhã ba-la-mật, cho đến biến chuyển trong tâm Phật gọi là nhất thiết chủng. Thí như người ra biển, có người xuống biển trước, có người xuống biển sau, có người đi mới nửa đường, có người đi đến bờ kia, đều gọi là xuống biển cả. Bồ-tát cũng như vậy, từ mới phát tâm quán thật tướng các pháp, thật tướng tuy một. Nhưng trí quán có cạn sâu. Phân biệt: Hỏi: Vì sao không y vào kinh luận Đại thừa để đối chiếu các pháp môn nói về thứ vị? Đáp: Nay dẫn các kinh luận này giải thích thành thứ vị Viên giáo. Đây là y cứ vào pháp giới bình đẳng không thể nghó bàn mà nói về không có thứ vị của thứ vị không thể nghó bàn. Nếu đối chiếu riêng pháp môn thì người tìm không đắc ý, phần nhiều hiểu khác, chấp riêng thì mất đi ý chính về Trung đạo của Thông giáo, không thể nghó bàn là giai vị của chư Phật, Bồ-tát. Việc này phàm phu không thể biết được thật đáng kính tin mà thôi. Cho nên, kinh Hoa Nghiêm chép: Các địa không thể nói, huống chi để dạy người, sở dó như vậy hãy tạm gác Đại thừa qua một bên. Sám hối sơ phát tâm Hoan hỷ, một tín tâm được một môn Đà-la-ni, đã không thể nói cho mọi người nghe được, thì dù cho phân biệt muôn thứ cũng không thể hiểu, huống chi bốn mươi hai tâm pháp môn của Viên giáo. Người Nhị thừa còn không nghe tên gọi này há phàm phu mà nói được sao? Hãy bỏ qua việc này như trong pháp của Thanh văn học của bốn Niệm xứ, khi phát pháp Noãn cũng không thể nói cho các phàm phu, ngoại đạo để chứng đắc được. Dù cho dùng các nhân duyên giải thích, cuối cùng cũng không thể hiểu, huống chi là hành vi của chư Phật, Bồ- tát Viên giáo mà có thể biết, có thể nói, việc này bỏ qua một bên. Như người thế gian ngồi thiền phát năm chi công đức còn không thể nói cho người chưa chứng nghe được, dù cho dùng phương tiện khéo léo thì người chưa chứng cũng không thể hiểu, huống chi pháp môn địa vị của chư Phật, Bồ-tát mà phân biệt được hay sao? Các pháp sư thời mạt pháp phần nhiều dùng phương tiện của kinh luận nói về đoạn phục, đối chiếu các pháp môn, giải thích địa vị của Thánh Hiền Đại thừa. Nay ý không phải như vậy, vì sao ? Vì như tánh của nước nóng nước lạnh người uống mới biết được, tâm không thực hành thì đâu cần hỏi. Bởi thế nay nói về bốn vị của bốn giáo, xuất xứ từ các kinh luận, đây là pháp môn quyền thật của chư Phật, trong bốn không thể nói dùng bốn tất-đàn mà nói, đây là cảnh giới của Đại Bồ-tát và chư Phật, người Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát nhỏ không thể biết được, huống chi kẻ phàm phu thời Mạt pháp mà hiểu được hay sao? Thật một nhà học đạo nói pháp tự chẳng đắc chứng rỏ ràng, cẩn thận chớ nghiêng chấp lời phó duyên phương tiện của chư Phật, Chư Bồ-tát, trong kinh luận hạnh vị vô tránh không thể nghó bàn, không thể suy lường, nguyện chúng sinh khắp pháp giới quy y Tăng bảo, dứt tranh luận nhập vào biển đại hoà hợp. Y cứ vào giai vị Viên giáo giải thích nghóa Tịnh Vô Cấu Xưng. Nếu Đại só Duy-ma ở vào giai vị Pháp thân Bổ xứ, tức là giai vị vô cấu Kim Cương Đẳng giác, trí tuệ sắp viên mãn như trăng ngày mười bốn, vô minh sắp hết như trăng ngày hai mươi chín, cho nên luận Đại Trí Độ chép: Phổ Hiền, Văn-thù cũng có mười lực, bốn vô sở úy như trăng ngày mười lăm. Lý pháp tánh hiển bày nên gọi là Tịnh, hoặc cấu vô minh sắp hết nên gọi là Vô cấu, trí tuệ của Đẳng giác xứng lý viên minh, xứng cơ mà chiếu nên gọi là Tịnh Vô Cấu Xưng, chính là giai vị gần với Diệu giác. Nếu nói về viên ứng cho đến cõi Phật mười phương hiện thân mười pháp giới, tám tướng thành đạo. Đại só này ứng hiện thân bổ xứ thích nghi, cho nên lúc ở cõi Phật vô động làm Bồ-tát Bổ xứ, đi đến cõi Nhẫn chê trách các Bồ-tát, đều nói là không có khả năng đi thăm bệnh, chính là dùng Viên phá Thiên. Lại nói nhập pháp môn không hai mà chỉ im lặng, biểu thị pháp môn nội chứng của Viên giáo, không thể chỉ bày. Y cứ vào thí dụ năm vị hiển rõ giai vị bốn giáo: Kinh Đại Niết-bàn nói thí dụ năm vị khác nhau để thành bốn giáo, nói tướng khác nhau của giai vị. Kinh chép: Phàm phu như sữa, Tu-đà-hoàn như bơ, Tư-đà-hoàn như bơ sống, A-na-hàm như bơ chín, A-la-hán, Bích-chi-phật như đề hồ. Thí dụ ý này là để nói lên giai vị của Ba Tạng giáo. Kinh lại chép: Phàm phu như sữa, Thanh văn như váng sữa, Bích- chi-phật như bơ sống, Bồ-tát như bơ chín, Phật như đề hồ, ý này nói lên giai vị của Thông giáo. Lại kinh chép: Phàm phu như sữa có lẫn máu, La-hán như sữa thanh tịnh, Bích-chi-phật như váng sữa, Bồ-tát như bơ sống bơ chín, Phật như đề hồ. Đây là nói lên giai vị của Biệt giáo. Kinh lại chép: Núi Vân có loại cỏ tên là Nhẫn nhục, nếu trâu ăn thì sinh được đề hồ. Cỏ nhẫn nhục dụ cho tám Chánh đạo, sữa dụ cho hai bộ kinh, tùy theo người nào tu tám Thánh đạo liền thấy Phật tánh, trụ đại Niết-bàn. Đây chính là dụ cho Bồ-tát về Viên giáo. Từ mới phát tâm tức là khai tri kiến Phật, thấy Phật tánh, trụ đại Niết-bàn. Kinh Niết-bàn nói về bốn ví dụ này, dụ cho bốn giáo nói về giai vị, nghóa này rỏ ràng. Nếu không tin bốn giáo nói giai vị khác nhau thì tại sao bỏ năm vị này và bốn thí dụ. Nay nói bốn giáo, là nói rỏ giai vị hợp với bốn thí dụ này, thật giống như mắt thấy, chỉ tự mật ý của bậc Thánh khó biết, đâu thể chấp chặt. Lại kinh Niết-bàn chép: Thí như có người để thuốc độc vào sữa cho đến đề hồ cũng có thể giết người. Thí dụ này ứng hai dụng, nếu đối chiếu năm vị của kinh giáo để nói về nghóa, khắp nơi đều thấy được Phật tánh, nhập Niết-bàn. Đây chính là giáo môn bất định sẽ giải thích ở dưới. Nếu y cứ vào giai vị để nói về nghóa giết người, bốn vị, năm mùi vị căn duyên không nhất định, tùy theo cơ phát của Đại thừa tức là Như Lai diệt độ, mà diệt độ nên đồng với nghóa giết người. Luận về các kinh nói giai vị bốn giáo khác nhau ít nhiều: Hoa Nghiêm Đốn giáo chỉ nói giai vị Biệt giáo và Viên giáo là sự bắt đầu của Tiệm giáo. Kinh Thanh văn chỉ nói giai vị Ba thừa của Ba tạng giáo, nếu Đại thừa Phương Đẳng chỉ dùng bốn giáo nói về giai vị. Ma-ha Bát-nhã chỉ nói giai vị của Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Như kinh Pháp Hoa chỉ nói về nhất Phật thừa của Viên giáo, khai thị giai vị ngộ nhập, đều chung với Đại thừa, nói về Nhị thừa như trước. Nhưng giai vị Bồ-tát Thông giáo dùng biệt tiếp thông nói về bốn đức Niết-bàn của Phật tánh. Nhị thừa Ba tạng như trước, bỏ giai vị Đại thừa Ba Tạng, Ba A-tăng-kỳ kiếp hàng phục nhân kết sử, ba mươi bốn tâm dứt quả kết sử, nhập Niết-bàn hữu dư y và Niết-bàn vô dư y. Lại Thông giáo, Ba tạng giáo nói giai vị Nhị thừa đến đại Niết-bàn đều dẫn nhập hai giai vị Biệt giáo và Viên giáo. Hỏi: Nếu bỏ Ba tạng Phật vị thì đâu được nói A-la-hán, Bích-chi- phật, Phật như đề hồ ? Đáp: Ba giai vị đều là kết sử giới nội, hết kết này thì thành nghóa xưa, chẳng phải sự sử dụng của Niết-bàn ngày nay. Đại môn thứ năm nói về quyền thật: có ba ý: 1. Nói sơ lược về quyền thật. Quyền là danh từ tạm dùng, thật là thi hành mãi mãi, phương tiện ba-la-mật tùy tình được lợi ích, nên gọi là Quyền. Trí tuệ ba-la-mật xứng với lý rốt ráo nên gọi là Thật. Đây là Ba giáo tạm phó vật tình nên gọi là Quyền. Rốt ráo lợi vật của Viên giáo nên gọi là Thật, phân biệt quyền thật phải có bốn nghóa. Nói tất cả phi quyền phi thật. Nói tất cả đều là quyền. Nói tất cả đều là thật. Nói tất cả Phật pháp phi quyền phi thật mà quyền mà thật. Nói tất cả phi quyền phi thật: Nếu nói về bốn không thể nói, vô thuyết là không có bốn giáo để phân, không có Ba giáo tức là phi quyền, vô duyên giáo thì phi thật, chính là tất cả Phật pháp đều phi quyền phi thật. Nói về tất cả đều quyền: Nếu nói về bốn không thể nói có nhân duyên mà nói thì bốn giáo đều là quyền xảo để hoá vật, cho nên Phật nói: Lúc ta ngồi đạo tràng không đắc một pháp thật, tay không dối trẻ con, để độ cho tất cả. Nói tất cả đều thật: Vô thuyết mà thuyết là lợi ích ứng cơ phó duyên, nghóa ấy đều thật, cho nên Bốn giáo đều gọi là Thật. Bởi vậy, luận Trí Độ nói: Có thế giới, đối trị, vị nhân do nên thật, có đệ nhất nghóa cho nên thật. Đây chính là nghóa thật không hư. Nói về tất cả Phật pháp phi quyền phi thật mà quyền thật: Nếu bốn không thể nói thì vô quyền thật để phân, cho nên nói phi quyền phi thật. Không nói mà nói Ba giáo tức là quyền, mà nói Viên giáo tức là thật. Nhưng một nhà nói về nghóa quyền thật có ba loại: Hóa tha quyền thật. Tự hành hoá tha quyền thật. Tự hành quyền thật. Nếu là hóa tha quyền thật thì Ba giáo ở trước không chỉ là quyền mà ở trong quyền này cũng đều nói là quyền thật. Nếu nói tự hành hóa tha quyền thật tức là Ba giáo ở trước đều là dụng của quyền. Viên giáo nói xưa nay là Thật. Nếu nói về tự hành quyền thật tức là nói theo giai vị Viên giáo. Chiếu Trung đạo là thật, chiếu soi hai đế là Quyền. Thứ hai: Nói về cách vị có ba ý: Y cứ Ba tạng giáo vị cách Ba giáo sau. Y cứ Thông giáo vị cách Hai giáo sau. Y cứ Biệt giáo cách Viên giáo sau. Y cứ Ba Tạng giáo vị cách Ba giáo sau, có ba ý: Nói Ba tạng giáo vị cách Thông giáo. Cách Biệt giáo. Cách Viên giáo. Cách Thông giáo: Nếu nói về Thanh văn, Duyên giác và Thông giáo nói về Nhị thừa không khác. Nếu y về Đại thừa nói về giai vị thì đây là rất khác nhau, vì sao? Vì Ba tạng giáo nói tu hành ba A-tăng-kỳ kiếp cho đến bổ xứ, tức là vô cấu vị, tức là đồng với Nhu thuận nhẫn, Tín địa nhẫn, Pháp trung nhẫn của Thông giáo. Nếu Phật của Ba tạng thì bằng với Phật địa của Thông giáo, chánh tập đều hết, tám tướng đầu bằng. Bên cạnh đó nói rằng: Phật Ba Tạng là trí lực phân tích pháp vụng về. Phật thông giáo là thể pháp nên gọi là Xảo. Hỏi: Luận Trí Độ chép: A-la-hán địa trong kinh Thanh văn đều gọi là Phật, nhưng chỉ đắc hai loại Niết-bàn? Đáp: Nay cho là dứt hết chánh sử, đã nói địa ngang bằng, nếu lấy hai đế, chánh sử hết là hai Phật ngang nhau. Dùng Ba tạng giáo vị cách Biệt giáo vị: Ba Tạng giáo vị nói giai vị Nhất sinh Bổ xứ Tịnh Vô Cấu Xưng. Cách Biệt giáo đồng với thuyết luân vị, Thập tín đệ thập nguyện tâm. Phật địa chỉ bằng với Đệ Thập hồi hướng của Biệt giáo, hoặc có thể đồng với Sơ địa. Đây là ý chính, bên cạnh đó nói về đồng với Thông giáo rất dễ hiểu. Nói Ba tạng giáo cách Viên giáo vị: Là giai vị Ba Tạng bổ xứ Tịnh Vô Cấu Xưng chỉ đồng với phẩm thứ năm là Ngũ phẩm đệ tử của Viên giáo. Phật địa chỉ đồng với Thiết luân vị Thập tín, hậu nguyện tâm, nghóa chính như thế. Bên cạnh đó cũng có hạng thấp kém, Tạng Ba Phật chánh tập đều hết, cho đây là cao siêu, không nói sự diệu dụng của sáu căn thanh tịnh không thể nghó bàn, đây là thấp kém cho nên kinh Hoa Nghiêm khen ngợi Bồ-tát sơ phát tâm trụ: Sơ phát tâm còn hơn Mâu-ni. Nói dụng Thông giáo vị cách hai giáo vị sau có hai ý: Cách Biệt giáo. Cách Viên giáo. Cách biệt giáo vị: Thông giáo nói giai vị Bổ xứ Tịnh Vô Cấu Xưng đồng với pháp giới vô lượng hồi hướng thứ mười của Biệt giáo. Quả Phật của Thông giáo chỉ đồng với Sơ Hoan Hỷ địa của Thập địa. Nghóa chính như thế. Bên cạnh đó nói có sự thấp kém, không có trí tương tợ Trung đạo hàng phục vô minh. Nói cách Viên giáo: Nếu Thông giáo nói giai vị bổ xứ Tịnh Vô Cấu Xưng chỉ đồng với Thiết luận vị, Thập tín nguyện tâm thứ mười của Viên giáo. Thông giáo nói quả Phật chỉ đồng với Sơ phát tâm trụ. Đây là một bề cách điều đó, chính là nói về hơn kém. Sơ phát tâm trụ, vì sơ phát tâm trụ có khả năng hiển rõ Pháp thân trung đạo, dứt một phẩm vô minh là cao siêu. Nói về Biệt giáo cách Viên giáo vị: Nếu Biệt giáo nói về giai vị Pháp thân, Pháp Vân Nhất sinh bổ xứ Tịnh vô cấu xưng chỉ đồng với Quán Đảnh trụ thứ mười, Thập vị của Viên giáo Phật địa dứt mười một phẩm vô minh, chỉ ngang với Sở Hoan hỷ hạnh của Thập Hạnh. Nếu theo kinh Nhân Vương khai Thập địa thành ba mươi đời, chính là Vô Cấu đồng với vô lượng hồi hướng vị pháp giới, Phật địa ngang với Sơ Hoan hỷ địa của Thập địa, chính là Biệt giáo nói nhất sinh bổ xứ đối với Viên giáo. Nếu theo cách giải thích trước, lấy nghóa để suy thì có ba mươi mốt phẩm Vô Minh. Nếu theo kinh Nhân Vương thì có mười một phẩm vô minh, chính là Pháp thân Bổ xứ của Biệt giáo và Viên giáo. Tuy y cứ chung giai vị, nghóa Vô Cấu Xưng có khác, đâu được xem là đồng mà giải thích tên của Duy-ma-cật. Hỏi: Tìm chí đạo tức là một. Nếu cách Ba giáo của phương tiện trước nói bổ xứ quả Phật mới truyền sai như vậy, ý này khó hiểu? Đáp: Giải thích hai nghóa: Có giáo có người. Có giáo không người Đều là nói phương tiện Ba giáo trong nhân, thọ giáo tức là có giáo có người, quả Phật, Bổ xứ và Bồ-tát thượng vị có khả năng nói Ba giáo, đây là có giáo không người. Vì sao? Vì hành nhân lãnh thọ Ba giáo đều được lợi ích, cho nên có giáo có người, có thể nói bậc giáo chủ thị hiện thành Phật, Bồ-tát của Ba giáo để cho chúng sinh tin quả thực hành nhân. Nhân hạnh đã thành thì không có hóa chủ nữa. Như thế mới là duyên cảm bền ứng, duyên hết liền thôi dứt. Tay không dối trẻ con, dẫn dắt đem về nhà, trong tay thật không có vật, Ba giáo hoá chủ cũng đều như thế. Nếu là Viên giáo có giáo có người, trong nhân lãnh thọ cho đến Pháp Vân có giáo có người, dứt bốn mươi mốt phẩm vô minh, Pháp thân Bổ xứ đây là thật không dối. Nói Diệu giác Pháp thân không nói được tức là có giáo có nhân của thượng quả. Không giáo có nhân là quyền, có giáo có nhân là thật. Hỏi: Như thế bốn giáo nói quả có thể chia ra quyền thật. Nhân địa của bốn giáo đều có giác có người đâu được chia ra quyền thật? Đáp: Nay nói rõ người Ba giáo gọi là quyền nhân, người lãnh thọ Viên giáo thì người và giáo đều thật, nên y cứ vào giáo nói nhân, chia ra quyền thật. Hỏi: Nhân của Tam giáo đã lập quyền, nhân quả của ba giáo đâu không được nói về quyền nhân ? Đáp: Hành nhân Ba giáo có thể thành nhân viên mãn, không có Phật của Ba giáo tu nhân thành Phật viên mãn cho nên khác nhau. Thứ ba: Nói về hưng phế: Có hai ý Quyền giáo có hưng có phế. Thật giáo hưng mà không phế Nói quyền giáo có hưng có phế, có ba ý: Khởi có Ba tạng giáo tức là hưng, cơ thối thì phế cơ hưng: Nghóa có thể phát nên gọi là Cơ, đối duyên có một chút ưa thích có thể khởi, một chút điều lành có thể sinh, một chút ác có thể trị, giải nghiêng về chân có thể phát, cho nên phải dùng bốn Tất-đàn. Trong kinh Thanh văn nói nhân duyên sinh diệt, bốn đế mười hai nhân duyên, sáu Độ khai đạo ba thừa, nghe thì xứng cơ, tâm ưa thích phát khởi, sinh thiện dứt ác. Nếu là phát chân vô lậu của Nhị thừa chứng Niết-bàn hữu dư y, nếu là sáu Độ điều tâm của Bồ-tát thì được phục nhẫn, nhu thuận nhẫn. Kinh Pháp Hoa chép: Người trí nhỏ thích pháp nhỏ, không tin mình thành Phật. Bởi thế, dùng phương tiện phân biệt nói các quả là cơ duyên này. Tuy không có nghóa Ba tạng hạng phục kết sử, Bồ-tát bổ xứ, Tịnh Vô Cấu Xưng ba mươi bốn tâm quả phật, Phật trụ Niết-bàn hữu dư y vì muốn dùng bốn tất-đàn giáo phó, cho nên thị hiện hình tiếng để dạy, phó cơ độ vật, cho nên kinh Pháp Hoa chép: Trưởng giả liền cởi Anh lạc, mặc áo xấu xa, tay cầm đồ dơ bộ dạng đáng sợ, nói với người làm, đây là nghóa hưng của Ba tạng giáo. Phế: Ít muốn sẽ dứt, chút thiện đã thành, việc ác đã trừ, đã phát cái biết chân chánh. Chính là bốn duyên đều dứt, thì giáo cơ nói Ba tạng, người năng thuyết đều phế. * Nói Thông giáo hư phế: Hưng thì cơ hưng, phế thì cơ phế. Cơ hưng mà giáo hưng tứ đế vô sinh thì ưa thích sẽ khởi, thể giả nhập không, thiện có thể sinh, mê lý kiến tư hoặc có thể dứt thì cái hiển chân chánh sẽ phát, cho nên phải dùng bốn tất-đàn nói Thông giáo về tứ đế vô sinh, người Ba thừa nghe thì tâm ưa thích phát khởi, sinh thiện dứt ác, Ba thừa đồng phát, tức là tuệ chân vô lậu, thấy nghóa đệ nhất. Nhị thừa trụ Niết-bàn hữu dư, Bồ- tát thì chẳng dính mắc không, Từ bi nhập giả hoá vật, thệ cầu quả Phật là đi đến cơ duyên này. Tuy như Thông giáo không dứt hết kết sử. Giai vị thượng địa bổ xứ Bồ-tát Tịnh vô cấu xưng, một niệm tương ưng tuệ dứt kiết tập. Quả Phật trụ Niết-bàn hữu dư là đến Thông giáo, đến cơ duyên của Ba thừa này, thị hiên giáo hóa hình thanh, tất-đàn phó duyên lợi vật, nên gọi là Hưng. Phế: Bốn cơ đã dứt, duyên đã lui sụt, Thông giáo sở thuyết và người năng thuyết điều phế. * Nói Biệt giáo hưng phế. Hưng thì cơ hưng giáo hưng, tứ đế vô lượng, ưa thích sẽ khởi, từ không vào giả, gốc lành sẽ sinh, vô lượng Hằng hà sa phiền não biệt hoặc, kiến tư hoặc sẽ diệt. Trung đạo nghóa đế đệ nhất chân giải sẽ phát cho nên phải dùng bốn tất-đàn nói tứ đế vô lượng khởi Biệt giáo. Bồ-tát nghe thì tâm ưa thích sinh khởi, phát sinh thiện giới ngoại, dứt ác giới ngoại, phát trung đạo tương tợ vô lậu và chân vô lậu, cầu thường trụ quả Phật đại Niết- bàn, là đi đến cơ duyên này. Tuy không có dứt mười phẩm vô minh của Biệt giáo. Bồ-tát Pháp thân Bổ xứ dứt mười một phẩm Vô minh, rốt ráo quả Phật, thì hiện thân hình để giáo hóa, dùng bốn tất-đàn cơ duyên phó vật, nói tứ Thánh đế vô lượng nên gọi là Biệt giáo hưng. Phế: Bốn mươi hai phẩm Bồ-tát Bổ xứ, giáo này quả Phật đều phế. Viên giáo đều hưng mà không phế: Như kinh Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Pháp Hoa, Niết-bàn nói Viên giác đạt đến cơ viên mãn, sinh thiện dứt hoặc, thấy nghóa đế đệ nhất chính là từ sơ phát tâm đến Vô cấu địa, đến bốn căn duyên. Thường nói giáo này đến Đẳng Giác Phật, nên gọi là Hưng. Bởi vậy, ba mươi hai Bồ-tát như Văn-thù-sư-lợi, v.v… đều nói nhập pháp môn không hai tức là ý về giáo hưng. Nếu chứng Diệu giác, không thầy tư ngộ, không có pháp để khen, không có điều lành để sinh, không có điều ác để dứt, lại không có lý sâu để thấy tướng ngôn từ vắng lặng, vốn không có hưng cho nên không phế, không phế cũng được nói về phế. Cơ bốn tất đàn tận thì giáo dứt, nên gọi là Phế. Bởi vậy, kinh Đại Phẩm chép: Quá trà vô tự để nói. Kinh Niết-bàn chép: Bất sinh bất sinh không thể nói cho nên ngài Tịnh Danh im lặng, không cần dùng lời để nói, đối với lý thì không có lời. Văn-thù khen ngợi bên ngoài tuyệt lời chính là ở nhân có người có giáo, đến quả thì giáo mất người còn, ba đức Niết-bàn vắng lặng thanh tịnh, đâu đồng với Bồ-tát Bổ xứ Bồ-đề quả Phật của ba giáo trước đều có giáo không người. Giáo mất thì người cũng phế theo, ý quyền thật hiển rõ ở đây. Thứ sáu: Theo quán tâm nói Bốn giáo. Từ ba quán khởi bốn giáo, như trước đã giải thích. Nay chỉ nói về tức tâm hành dụng, biết tất cả giáo môn từ Sơ tâm quán hành mà khởi, bốn giáo đã nhiếp tất cả kinh giáo. Nếu một niệm quán tâm rõ ràng có thể phân biệt một niệm tâm vô minh sinh khởi, bốn biện tài rõ ràng, thì tất cả đại ý của kinh giáo đều y cứ vào quán tâm mà thông đạt, ở đây chia làm bốn ý: Y theo quán tâm nói về tướng của Ba tạng giáo. Y theo quán tâm nói về tướng của Thông giáo. Y theo quán tân nói về tướng của Biệt giáo. Y theo quán tân nói về tướng của Viên giáo. Y theo quán tâm nói về tướng của Ba tạng giáo: Chính là quán tướng sinh diệt của một niệm tâm do nhân duyên sinh, phá giả vào Không. Y cứ theo quán môn này khởi tất cả Ba tạng giáo. Nếu quán tứ đế sinh diệt nhập đạo tức là tu-đa-la tạng, cho nên Tăng Nhất A-hàm nói: Phật bảo các thầy Tỳ-kheo: Tất cả pháp chỉ là một pháp, thế nào là một pháp? Tâm là một pháp sinh ra tất cả pháp. Luận Trí Độ chép: Từ sơ chuyển pháp luân cho đến đại Niết-bàn kết tu-đa-la tạng. Đây chỉ là y cứ vào tâm sinh diệt nói Tứ Thánh đế, tức là nghóa pháp quy về bổn pháp. Quán tâm sinh ra tất cả Tỳ-ni tạng: Lúc Phật chế giới, Đức Phật hỏi các thầy Tỳ-Kheo: ông lấy pháp nào làm tâm? Nếu có tâm làm tức là phạm giới, vì có phạm cho nên có trì. Nếu không có tâm làm thì không gọi là phạm, nghóa phạm không nói trì, cho nên trọng tâm phát giới, vô tâm thì không phát giới. Nói từ tâm sinh ra Tạng A-tỳ-Đàm. Bốn quyển nói sơ lược tên tâm Tỳ-đàm ở trong Đạt-Ma-Ba-la mà nói là Tạp tâm. Như đây đều là y cứ theo tâm để làm Tỳ-đàm vô tỷ pháp là phân biệt các tâm, tâm sở phát, tất cả pháp không thể so sánh, Y theo quán tâm nói về Thông giáo: Quán tâm do nhân duyên sinh ra tất cả pháp, tâm không thì tất cả pháp không, là thể giả nhập không. tất cả Thông giáo nói về hành vị nhân quả đều từ đây sinh khởi. Y theo tâm nói về Biệt giáo: Quán tâm do nhân duyên sinh khởi tức là giả danh, đầy đủ tất cả Hằng sa Phật pháp, theo vô minh thức a-lại-da, phân biệt tứ đế vô lượng. Tất cả Biệt giáo nói về hành vị nhân quả đều do đây sinh khởi. Quán tâm nói về Viên giáo: Quán tâm do nhân duyên sinh khởi, đầy đủ tất cả Phật pháp, không có chứa nhóm, không ngang không dọc, lý Trung đạo không thể nghó bàn hai đế. Tất cả Viên giáo nói về hành vị nhân quả đều từ đây sinh khởi, như viên ngọc trên đầu của Luân Vương. Chính là bốn giáo đều từ một niệm tâm vô minh sinh khởi, tức là nghóa chẻ một hạt bụi lấy ra quyển kinh bằng thế giới Đại Thiên. Thứ bảy: Chung các kinh luận, có hai ý: Đối chiếu các kinh luận. Giải thích chung văn nghóa của kinh này theo bốn giáo đầu đối chiếu kinh luận. Phật dùng bốn giáo thành tựu tất cả các kinh đốn tiệm, luận giải thích kinh đâu vượt qua bốn giáo, có hai ý: Đối kinh Đối luận Đối kinh: Như kinh Hoa Nghiêm chỉ do hai giáo mà thành, hai giáo là. Biệt giáo Viên giáo, vì sao? Vì Biệt giáo thì các Bồ-tát giảng nói vô lượng kiếp tu hành bốn mươi hai tâm, dứt kết sử, thực hành giai vị đều khác. Viên giáo nói một tâm có đủ tất cả các hạnh, từ Sơ địa có đủ tất cả công đức của các địa. Kế nói về sự bắt đầu của các tiệm giáo, kinh Thanh văn chỉ đầy đủ Ba tạng giáo. Phương Đẳng Đại thừa và kinh này có đủ bốn giáo. Ma-ha Bát-nhã có Ba giáo, trừ Ba tạng giáo, kinh Pháp Hoa khai quyền hiển thật, chính là bỏ hẳn phương tiện. Nhưng nhất viên giáo, kinh Niết-bàn có đủ bốn giáo, thành nghóa năm vị. Hỏi: Đại thừa Phương Đẳng cũng đủ bốn giáo, vì sao không thành nghóa năm vị? Không nói Thanh văn thành Phật, nghóa năm vị không thành, y cứ theo bất định được nói về bốn giáo. Phật Thích-ca ra đời có kinh giáo cũng không qua bốn giáo này, nhiếp các kinh này đều vô tận. Đối luận: luận có hai loại: Trình bày chung kinh luận Trình bày riêng kinh luận Trình bày chung kinh luận, có hai ý: Trình bày chung về kinh Tiểu thừa. Trình bày chung về kinh Đại thừa. Trình bày chung về kinh Tiểu thừa: Như Tỳ-đàm, luận Thành Thật, Côn-lặc, v.v… đều trình bày chung về kinh luận Tiểu thừa, cho nên luận chủ Thành Thật nói: Nay Tôi muốn luận bàn nghóa thật trong Ba tạng. Trình bày chung về kinh luận Đại thừa: Như luận Đại Trì, luận Nhiếp Đại thừa, luận Duy Thức, Trung luận, luận Thập Nhị Môn, v.v… đều trình bày chung các kinh Đại thừa, nói về hai kinh Biệt giáo và Viên giáo. Trình bày riêng kinh luận, có hai ý: Trình bày riêng kinh Tiểu thừa. Trình bày chung kinh Đại thừa. Trình bày riêng kinh tiểu thừa: Như luận câu-xá trình bày riêng về tu-đa-la. Luận Minh Liễu trình bày riêng về Tỳ-ni Luận Tỳ-Bà-sa, luận A-Tỳ-Đàm trình bày riêng Phật tại thế nói Tỳ-đàm. Trình bày riêng kinh luận Đại thừa: Như luận Thập địa trình bày riêng kinh Pháp Hoa, hai giáo Biệt giáo và Viên giáo. Luận Đại Trí Độ trình bày riêng kinh Ma-ha Bát-nhã và ba giáo Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo, có trình bày riêng Đại Tập Phương Đẳng và các kinh luận này không truyền đến xứ này. Bát-nhã Kim Cương luận trình bày riêng kinh Kim Cương Bát-nhã. Luận Pháp Hoa trình bày riêng kinh Pháp Hoa và một Viên giáo. Luận Niết-bàn trình bày riêng kinh Niết-bàn, bốn giáo năm vị, nói về đất này không cùng tận. Luận trình bày kinh như thế tức là trình bày tâm quán, các kinh nầøy nay rõ ràng, chính là quán tâm tinh tấn, hiểu suốt tất cả kinh luận. Nếu kinh luận không từ tâm sinh, thì người quán hành đã không nghe không đọc, đâu được nội tâm thông đạt ư? Đây chính là có ngôn thuyết, rõ ràng tương ưng với kinh luận, ý là ở chỗ này. Thứ hai: Nói dùng bốn giáo giải thích chung kinh này, nói văn nghóa: có hai ý. Giải thích năm nghóa của kinh Chung văn kinh Giải thích năm nghóa của kinh: Giống như y cứ vào giai vị của bốn giáo giải thích tên Tịnh Vô Cấu Xưng tên một mà nghóa khác. Kế nói về thể: ba giáo sở thuyên tức là thể giải thoát có thể nghó bàn, điều minh giáo nói là giải thoát không thể nghó bàn. Kế nói về Tông: tức là bốn giáo nói về bốn loại Tứ đế nhân quả chiêu cảm cõi Phật khác nhau. Kế là hiển dụng: Tức là Bốn giáo từ cạn đến sâu, thứ lớp dùng sâu chê cạn. Kế là phán tướng giáo: kinh này nói về bốn giáo và các kinh có đồng có khác, phân biệt ở trước. Dùng bốn giáo giải thích văn kinh này có ba ý: Chung cho bốn phẩm ngoài thất Chung cho sáu phẩm trong thất Chung cho bốn phẩm ra thất Chung cho bốn phẩm ngoài thất: Dùng bốn giáo nói nhân quả khác nhau cho nên Đức Thế Tôn hiện cõi nước có khác. Như luận Thân Tử thấy khác nhau, các vị trời cúng bình báu, thức ăn tùy theo quả báo, vì mầu sắc của cơm có khác, vì lãnh thọ bốn giáo khác nhau, thấy cõi Phật có khác giải thích Phẩm phương tiện, chính là dùng Ba tạng giáo, Thông giáo. Vì sao? Vì thuyết phục, bẽ gãy pháp nhập không, nhân duyên sinh diệt vô thường. Lại nói ý như mộng huyển, thể giả nhập không, chính là trong nhân dùng hai độ vụng khéo phá tâm ái trước giới nội, siêng tu Pháp thân hai giáo. Phẩm Đệ Tử dùng Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo chê trách mười đại đệ tử và năm trăm La-hán. Dùng Thông giáo chê trách: Như chê Ca-chiên- diên nói năm nghóa Ba tạng giáo vụng về. Dùng Biệt giáo chê trách: Như chê trách Phú-lâu-na thức ăn dơ để trong bình báu. Dùng Viên giáo chê trách: Như chê Thân tử Thiện Cát: Không khởi diệt định, hiện các oai nghi, không dứt trừ ái, khởi minh giải, cũng không ràng buộc, không giải thoát, đều là dùng ý của Viên giáo để chê. Tứ giáo giải thích phẩm Bồ-tát, chính là dùng Viên giáo, chê bốn đại Bồ-tát dùng Ba tạng, Thông giáo, Biệt giáo tự hành hóa tha, nghiêng lệch về đạo Viên không thể nghó bàn của Pháp Hoa. Nói trong thất dùng bốn giáo giải thích sáu phẩm Văn kinh. Đại só không bị bệnh Ba giáo, dùng phương tiện hiện đồng ba bệnh, y cứ giải thích này hỏi bệnh. Phẩm Bất Tư Nghị nói trụ bất tư nghị của Viên giáo thị hiện việc của bốn giáo. Phẩm Quán Chúng Sinh tức là nói về bất tư nghị, Biệt giáo và Viên giáo từ giả vào không. Phẩm Phật Đạo tức là nói Viên giáo bất tư nghị từ không vào giả, hành phi đạo thông đạt Phật đạo. Phẩm Pháp Môn Bất Nhị nói về bất tư nghị, Trung đạo chánh quán của Viên giáo nhập vào pháp môn bất nhị. Phẩm Hương Tích tức là Viên giáo bất tư nghị nói về chiếu hai đế, pháp giới viên dung. Nói về Tứ giáo chung văn kinh bốn phẩm ra thất. Phẩm Thông Bồ-tát Hạnh, để cho Bồ-tát thực hành, hạnh của Bốn giáo. Bốn cõi giáo hóa chúng sinh, bốn giáo thông phẩm Kiến rõ ràng, nếu theo Bốn giáo tu bốn hạnh, phát tâm Bồ-đề mới được sinh về cõi Phật A-súc, cũng dùng hạnh này để (7 6 9) thành cõi Phật Như Lai vô Động. Lúc thành Phật, tất cả cõi Phật như thế giới Diệu Hỷ dùng bốn giáo chung hai phẩm cúng dường pháp và chúc lụy, phó chúc Thiên đế Di-lặc, làm cho Phật pháp đời sau lưu thông kinh này. Bốn giáo làm lợi ích cho đệ tử đời sau, làm cho không dứt mất. <篇>