<經 id="n1925">PHÁP GIỚI THỨ ĐỆ SƠ MÔN (QUYỂN THƯỢNG, TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN PHÁP GIỚI THỨ ĐỆ SƠ MÔN Sa-môn Thích Trí Khải (Trí Giả) ở Núi Thiên thai soạn. <詞>MỤC LỤC Phần một quyển thượng Danh sắc Năm Ấm Mười hai nhập Mười tám giới Mười sáu tri kiến Hai phiền não kiến và ái Ba độc Năm cái Mười phiền não (mười sử) Chín mươi tám sử Mười điều ác Mười điều lành. <詞>Phần hai quyển thượng Ba qui y Năm giới Bốn thiền Bốn Tâm vô lượng Bốn định vô sắc (bốn không định) Sáu diệu môn Mười sáu đặc thắng. Nói chung về quán. <詞>Phần một quyển trung Chín tưởng Tám niệm Mười tưởng Tám bối xả Tám thắng xứ Mười Nhất thiết xứ Mười bốn biến hóa Sáu thần thông Chín định thứ lớp Ba Tam-muội Tam-muội sư tử phấn tấn Tam-muội Khởi diệt. <詞>Phần hai quyển trung Bốn đế Mười sáu hạnh Sinh không và không pháp Ba mươi bảy phẩm Ba giải thoát Ba căn vô lậu Mười một trí Mười hai nhân duyên. <詞>Phần một quyển hạ Bốn thệ nguyện rộng lớn Sáu Ba-la-mật Bốn y Chín thứ đại thiền Mười tám không Mười dụ. <詞>Phần hai quyển hạ Một trăm lẻ tám Tam-muội Năm trăm Đà-la-ni Bốn nhiếp Sáu hòa kỉnh Tám tự tại ngã Bốn biện tài vô ngại Mười lực Bốn vô sở úy. Mười tám pháp bất cộng Đại Từ đại Bi Ba mươi hai tướng Tám mươi vẻ đẹp Tám thứ âm thinh Ba niệm xứ. --------------------------------- PHÁP GIỚI THỨ ĐỆ SƠ MÔN <詞>LỜI TỰA CHUNG Sa-môn Thích Trí Khải ở Núi Thiên thai, chùa Tu Thiền, nương vào kinh luận mà soạn ra Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn gồm ba trăm khoa, chia thành bảy quyển lưu truyền cho người mới học. Lược có ba ý: Một là giúp người đọc kinh xem luận hễ thấy pháp môn thì cởi bỏ mê lầm về danh số; hai là vì người hiểu Thánh giáo mà chế ra pháp môn thứ lớp cạn sâu; ba là vì người học ba quán nên dùng các pháp nghóa lý danh tướng này giúp tâm hiểu rõ mà chuyển làm thì quán giải vô ngại, gặp cảnh chẳng mê. Nếu ở một niệm trong tâm thấu suốt tất cả Phật pháp thì ba quán tự nhiên sáng tỏ. Cho nên nêu ba trăm khoa này gọi là giáo cũng được. Sau danh thì nói lược về thể tướng. Mới soạn được ba quyển thượng, trung, hạ. <卷>QUYỂN THƯỢNG (PHẦN 1) DANH, 2.SẮC. Nay nói về pháp giới sơ môn trước bắt đầu từ danh sắc mà nói về các pháp bản nguyện là thanh tịnh, dứt danh lìa tướng, không hề có một, huống chi là có hai. Chẳng hai mà nói hai. Vì người tu bị một kỳ vọng báo Ca-la-la chỉ có hai pháp Danh, Sắc. Phải biết danh sắc là cội gốc của tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Danh sắc hay tất cả pháp, nhiếp khắp tất cả, là cội gốc tất cả pháp. Nếu các vị Đại Thánh phân biệt nói tất cả pháp môn thì đều y cứ vào danh sắc mà phân biệt. Không có pháp nào ở ngoài sinh sắc cả. Cho nên luận Trí Độ có bài kệ rằng: Trong tất cả các pháp Chỉ có danh và sắc Nếu muốn quán như thật Chỉ phải quán danh sắc Tuy tâm si nhiều tưởng Phân biệt ở việc khác Lại không có pháp nào Nằm ngoài danh và sắc. Danh: Là tâm chỉ có tên gọi nên gọi là Danh, tức là tâm và pháp số tương, ưng tuy có dụng (năng) thuyên mà không có chất ngại tìm. Đã khác với sắc mà tâm, ý, thức và các tên gọi khác của các pháp số nên gọi là Danh. Sắc: Pháp có hình tướng chất ngại thì gọi là Sắc, đó là mười Nhập và Nhập thiểu phần, đều là pháp chất ngại và có dụng vô tri giác, vì khác với tâm ý thức nên gọi là Sắc. NĂM ẤM: là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Kế danh sắc mà nói về năm Ấm. Vì người mê hoặc nên chấp nặng về danh, giáo của Phật, khai danh làm bốn tâm (bốn thứ thuộc tâm), đối với sắc họp làm năm, năm thứ này gọi chung là Ấm, Ấm có nghóa là ngăn che, tức là ngăn che các tuệ chân minh xuất thế, mà làm cho sinh tử lớn thêm, tập hợp và tan ra mãi chẳng dứt, nên gọi chung là Ấm. Sắc Ấm: Pháp có hình chất ngại gọi là Sắc, Sắc có mười bốn thứ, đó là: Bốn đại, năm căn, năm trần là mười bốn sắc pháp. Thọ Ấm: Lãnh nạp (thọ nhân) các duyên gọi là thọ. Thọ có sáu thứ, nghóa là sáu nhân duyên xúc chạm sinh ra sáu thọ. Nhưng cảnh đã có trái, thuận, khác với chẳng phải trái, chẳng phải thuận. Cho nên sáu thọ đều có thọ khổ, thọ vui và khác với thọ chẳng khổ chẳng vui. Tưởng Ấm: Nay lấy chỗ hiểu rõ duyên tướng thì gọi là Tưởng. Tưởng có sáu thứ, làm hiểu rõ tướng sáu trần, nên là sáu tưởng. Hành Ấm: Tâm tạo tác, làm cho đến các quả nên gọi là Hành (đi). Hành có sáu, trong kinh Đại Phẩm gọi là sáu Tư, Tư tức là hanh, tức là sau sáu tưởng, đều khởi nghiệp bất thiện, nghiệp thiện và nghiệp vô động. Thức Ấm: Hiểu rõ cảnh duyên theo gọi là Thức, có sáu thứ tức sáu thức. Phần nhiều các luận sư nói thức ở trước ba tâm. Trong các kinh Đại thừa nói thức ở sau. Nay y theo kinh. MƯỜI HAI NHẬP: Sáu trần nhập bên trong: Mắt nhập, tai nhập, mũi nhập, lưỡi nhập, thân nhập, ý nhập. Sáu trần nhập bên ngoài: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Kề năm Ấm là nói về mười hai nhập. Vì người mê lầm chấp nặng về sắc. Giáo của Phật mở sắc làm mười, tâm chỉ có hai, họp thành mười hai, gọi chung là Nhập. Nhập là can thiệp vào, căn trần đối nhau thì có thức sinh. Thức nương căn trần mà chen vào, Căn trần tức là chỗ vào. Nay mười hai thứ này từ chỗ vào mà được tên, nên gọi là Nhập. Sáu nhập bên trong, sáu pháp này thân thuộc bên trong làm chỗ nương cho thức, nên gọi là Nhập, cũng gọi là Căn. Căn là nghóa sinh ra sáu thức này, vì có công sinh ra thức nên gọi chung là Căn. Nhãn nhập (mắt): Thân đối với sắc, thấy sắc gọi là mắt, mắt là sắc do bốn đại tạo, thể là mười sắc lớp chung mà thành, gọi là bốn đại bốn vi, thân căn vi, nhãn căn vi. Nhó nhập (tai): Thân đối với tiếng, nghe tiếng gọi là tai. Tai là sắc do bốn đại tạo, cũng là mười sắc lớp chung mà thành gọi là bốn đại, bốn vi, thân căn vi, nhó căn vi. Tỷ nhập (mũi): Thân đối với hương, nghe hương là mũi. Mũi là sắc do bốn đại tạo, cũng là mười sắc lớp chung mà thành gọi là bốn đại, bốn vi, thân căn vi, tỷ căn vi. Thiệt nhập (lưỡi): Thân đối với vị, biết vị gọi là lưỡi. Lưỡi là sắc do bốn đại tạo, cũng là bốn sắc lớp chung mà thành gọi là bốn đại bốn vi, thân căn vi, thiệt căn vi. Thân nhập (thân): Sáu phần giả hợp, thể đối với chạm xúc, chạm xúc gọi là Thân. Thân là sắc do bốn đại tạo chỉ có chín sắc tạo thành, gọi là bốn đại bốn vi, thân căn vi. Ý nhập (ý): Tâm đối với tất cả pháp có dụng biết pháp nên gọi là Ý. Ý là tâm vương, trong đó trừ các pháp tâm sổ, chỉ lấy tâm vương dùng làm ý nhập. Sáu nhập bên ngoài, sáu pháp này ở ngoài, thức đến nên gọi là Nhập, cũng gọi là Trần. Trần nghóa là nhiễm ô, vì làm ô nhiễm tình thức, nên gọi chung là Trần. Sắc nhập: Tất cả đối với mắt, sắc thấy được gọi là sắc. Sắc có hai thứ nhiếp tất cả sắc. Một là sắc chánh báo thấy được, như sắc thân chúng sinh, các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, v.v…; hai là sắc y báo thấy được, ngoài các sắc vô tri xanh, vàng, đỏ, trắng, v.v… Thanh nhập (tiếng): Tất cả sắc đối với tai nghe được gọi là thanh (tiếng). Tiếng có hai thứ nhiếp tất cả tiếng. Một là tiếng từ sắc chánh báo phát ra như tiếng nói của chúng sinh; Hai là tiếng từ sắc y báo phát ra. Hương nhập: Tất cả sắc đối với mũi biết được thì gọi là Mùi. Mùi có hai thứ nhiếp tất cả mùi: Một là mùi của sắc chánh báo, như mùi thơm hôi của thân chúng sinh; hai là mùi phát ra từ sắc y báo, là mùi thơm hôi ngoài các sắc vô tri. Vị nhập: Tất cả đối với lưỡi biết được thì gọi là Vị, vì có hai thứ nhiếp tất cả vị: Một là vị của sắc chánh báo, như sáu vị trong thân chúng sinh; hai là vị của sắc y báo là ngoài sáu vị của tất cả sắc vô tri. Xúc nhập: Tất cả sắc xúc chạm do thân biết được gọi là xúc. Xúc có hai thứ nhiếp tất cả xúc. Một là Xúc của sắc chánh báo như thân các chúng sinh có mười sáu xúc lạnh nóng, trơn rít, v.v…; hai là xúc của sắc y báo, là ngoài mười sáu xúc như tất cả lạnh nóng, v.v… của tất cả sắc vô tri. Pháp nhập: Tất cả pháp đối với ý biết được thì gọi là Pháp. Pháp có hai thứ nhiếp tất cả pháp. Một là tâm pháp, trong đó trừ tâm vương chỉ lấy các pháp tâm sổ tương ưng; hai là pháp phi tâm, tức là sắc pháp ở quá khứ, vị lai, các tâm bất tương ưng hành và ba pháp vô vi. MƯỜI TÁM GIỚI: Sáu căn nội giới: 1. Nhãn giới; 2. Nhó giới; 3. Tỷ giới; 4.Thiệt giới; 5. Thân giới; 6. Ý giới. Sáu trần ngoại giới: 1. Sắc giới; 2. Thinh giới; 3. Hương giới; 4. Vị giới; 5.Xúc giới; 6. Pháp giới. Sáu thức giới: 1.Nhãn thức giới; 2.Nhó thức giới; 3.Tỷ thức giới; Thiệt thức giới; 5. Thân thức giới; 6. Ý thức giới. Kế mười hai nhập là nói về mười tám giới. Vì người mê lầm chấp nặng về danh sắc, nên khai sắc thành mười, lìa danh làm tám, hợp thành mười tám giới, gọi chung là Giới. Vì giới là nghóa khác, vì mười tám pháp này đều có thể riêng, nghóa không nhầm lần nên được gọi là giới. Sáu căn nội giới, đầy đủ như trước nói, nhập vào sáu phân biệt tướng ấy. Lại thân nghóa giới là muốn giúp người tu quán suy ra không nhầm lẫn, chẳng trệ ngại, vọng chấp mười sáu tri kiến. Sáu trần ngoại giới. Đây đủ như trước vào trong ngoại sáu trần mà phân biệt tướng nó, thêm vào danh nghóa của giới là ý đồng với sáu căn, trong đó đặt tên là giới. Sáu thức giới: Nếu căn trần đối nhau thì sinh ra thức, thức là ng- hóa phân biệt mà biết. Thức nương vào căn co 1khả năng phân biệt biết các trần. Cho nên sáu thức này gọi chung là Thức. Nếu hiểu rõ Thức từ duyên sinh thì đâu chấp có thần làm cho biết nhầm lẫn. Nhãn thức giới, mắt đối với sắc trần liền sinh nhãn thức. Khi nhãn thức sinh thì biết ngay sắc trần, nên gọi là Nhãn thức giới. Nhó thức giới, tai đối với thanh trần liền sinh nhó thức. Khi nhó thức sinh thì liền biết thanh trần, nên gọi là Nhó thức giới. Tỷ thức giới, mũi đối với hương trần liền sinh tỷ thức. Khi tỷ thức sinh thì liền biết hương trần nên gọi là Tỷ thức giới. Thiệt thức giới, lưỡi đối với vị trần liền sinh thiệt thức, khi thiệt thức sinh thì liền biết vị trần, nên gọi là Thiệt thức giới. Thân thức giới, thân căn đối với xúc trần liền sinh thân thức. Khi thân thức sinh thì liền biết xúc trần, nên gọi là Thân thức giới. Ý thức giới, năm thức sinh rồi liền mất, ý là ý thức, ý thức này tiếp tục sinh. Khi ý thức sinh liền biết Pháp trần. Nếu năm thức sinh ra ý thức liền dùng năm thức trước làm căn, ý thức sau làm ý thức. Ý thức này diệt, thức kế tiếp tục sinh, cho nên ý thức trước sinh ý thức sau. Như thế cũng thoát truyền gọi là tên căn thức, đều dùng năng sinh làm căn, sở sinh làm thức. Nay nói thức sở sinh là ý thức giới. 5.MƯỜI SÁU TRI KIẾN: 1. Ngã; 2. Chúng sinh; 3. Thọ giả; 4. Mạng giả; 5. Sinh giả; 6. Dưỡng dục; 7. Chúng số; 8. Nhân; 9. Tác giả; 1 0.Sử tác giả; 1 1.Khởi giả; 1 2.Sử khởi giả; 1 3.Thọ giả; 1 4.Sử thọ giả; Tri giả; 16 Kiến giả. Kế là Danh Sắc Ấm, Nhập, Giới: nói về mười sáu tri kiến. Trong các pháp như danh sắc, v.v… thì thần ngã vốn chẳng thật có mà người chưa thấy đạo thì đều đối với pháp danh sắc mà vọng chấp có ngã, ngã sở, chấp tâm của ngã trải duyên nói lược thì có mười sáu tri kiến khác nhau. Rộng đối các duyên thì vọng chấp chẳng thể đếm hết, do đây mà điên đảo khởi đủ tất cả phiền não hạnh nghiệp sinh tử. Nay vì muốn ở sau nói Sinh không và pháp, không tất cả các quán môn phải khéo biết pháp giả thật, cho nên lược nương theo luận Đại Trí Độ mà giải thích. Ngã: nếu đối với các pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, Giới, v.v… không gì chẳng rõ ràng thì trong hoặc tức hoặc lìa mà vọng chấp có ngã và ngã sở là thật, cho nên đặt tên là Ngã. Chúng sinh, đối với Danh Sắc, Ấm, Nhập, Giới, v.v… các pháp hòa hợp mà vọng chấp có ngã sinh, nên gọi là Chúng sinh. Thị giả, đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, Giới, v.v… mà vọng chấp có ngã, có nhận, quả báo trong một thời kỳ, (tuổi thọ) có dài ngắn, nên gọi là thọ giả. Mạng giả, đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp mạng căn của ta có thành tựu liên tục chẳng dứt, nên gọi là mạng giả. Sinh giả: đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta năng khởi các việc như cha sinh con, nên gọi là Sinh. Cũng chấp ta thọ sinh đến cõi người, nên gọi là Sinh. Dưỡng dục: đối với pháp Danh sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta nuôi dưỡng người, nên gọi là dưỡng dục, cũng như chấp ta từ khi sinh ra đến nay đức cha mẹ nuôi dưỡng, nên gọi là dưỡng dục. Chúng số: đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta có các nhân duyên như danh sắc năm chúng, mười hai nhập, mười tám giới, v.v…, đó là các pháp có số nên gọi là chúng số. Nhân: đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta là hành nhân, khác với phi hành nhân, nên gọi là nhân. Cũng vọng chấp ta sinh vào đường người (loài người), khác với các đường khác, nên gọi là Nhân. Tác giả: đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… vọng chấp ta có sức manh tay chân, làm ra các việc nên gọi là Tác giả. Sử tác giả: đối với pháp danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta có thể sai khiến người nên gọi là Sử tác giả. Khởi giả: đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta tạo ra nghiệp tội phước ở đời sau, nên gọi là Khởi. Sử khởi gia: Đối với pháp Danh sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta có khả năng khiến người khác khởi nghiệp tội phước đời sau, nên gọi là Sử khởi giả. Thọ giả: Đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp thân sau của ta sẽ chịu quả báo tội phước, nên gọi là thọ giả. Sử thọ giả: Đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta sẽ khiến người khác chịu quả báo khổ vui nên gọi là sử thọ giả. Tri giả: Đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta có năm căn biết được năm trần, nên gọi là Tri giả. Kiến giả: Đối với pháp Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới, v.v… mà vọng chấp ta có mắt thấy tất cả sắc. Cũng chấp ta khởi tà kiến, khởi chánh kiến v.v… nên gọi là Kiến. não. HAI PHIỀN NÃO KIẾN: - Ái: Là Kiến phiền não, Ái phiền Kế là mười sáu thứ Danh Sắc, Ấm, Nhập, Giới và ngã v.v… mà nói về Kiến ái. Nếu mê hai pháp giả thật thì đảo tưởng lăng xăng, cho nên ba cõi trôi lăn không bờ bến đều là phiền não khiến cho như thế. Nếu nói về cội rễ phiền não thì chẳng ngoài kiến ái phân biệt chi nhành thì khoa mục rất nhiều. Đó là ba độc, năm cái, mười sử, chín mươi tám phiền não, tám muôn bốn ngàn cho đến số trần sa. Các khoa mục này tuy số có nhiều ít mà đồng là năng lực phiền não nuôi sống, thể nó không khác. Chỉ giáo môn khéo léo bèn y cứ số thêm bớt mà chế lập ra. Cho nên kinh Anh Lạc chép: hai pháp Kiến trước mê sắc tâm pháp giới, khởi ra tất cả phiền não ba cõi, gọi chung là phiền não. Phiền là ồn náo phiền hà, não là bức loạn, là pháp hay ôn ào, phiền hà bức loạn tâm thần người tu, khiến chân minh không được khai phát, nên gọi là Phiền não. Kiến phiền não: Tà tâm quán lý gọi là Kiến, nếu đối với Lý giả thật mà tình mê đảo tưởng tà cầu, tùy thấy (thiên lệch) vọng chấp là thật, nên gọi chung là Kiến. Kiến phiền não là năm lợi sử, tám mươi tám sử và sáu mươi hai kiến do thất đế mà dứt trừ. Ái phiền não: Tâm tham nhiễm gọi là ái. Nếu đối với hai việc giả thật mà tình mê tùy tâm, đối với tất cả sự cảnh nhiễm trước triền miên thì gọi chung là ái. Ái phiền não tức là năm Độn sử, mười sử do Tư duy mà dứt trừ và sở đoạn kết lưu ái, ách triền, cái triền, v.v… 7. BA ĐỘC:là tham, sân, si. Kế là kiến ái là nói về ba độc. Hai khoa này đã có họp ly khác nhau, sự phải phân biệt. Nếu hợp thì chỉ lấy một phần si làm kiến, còn một phần khác và tham nhuế thì đều hợp làm ái. Nếu ly thì trong kiến ái đều có ba độc. Như đây trải qua ba cõi, năm hành thì lìa khỏi chín mươi tám sử. Tất cả phiền não gọi chung là độc. Độc là trầm độc, phá hoại rất nhiều, nên gọi là trầm độc. Vì nó phá hoại tâm lành xuất thế, nên gọi là Độc. Tham độc: Tâm dẫn lấy gọi là Tham. Nếu vì mê tâm đối với tất cả cảnh thuận tình dẫn lấy không chán tức là tham độc. Trải qua ba cõi, năm hành, mười lăm tham sử đều là tham độc. Chỉ hai cõi trên phiền não đã mỏng nên gọi là ái riêng. Sân độc: Tâm trái giận nên gọi là Sân. Nếu vì mê tâm đối với tất cả cảnh trái tình liền khởi lên giận dữ, tức là sân độc. Trải cõi dục năm hạnh trở xuống tức có năm sân sử đều là Sân độc. Thường ở hai cõi trên không có sân (hai cõi trên là cõi sắc, và vô sắc). Si độc: Tâm mê hoặc gọi là si, nếu mê tất cả pháp sự lý, vô minh chẳng hiểu biết gì, mê hoặc vọng chấp khởi các tà hạnh, tức là si độc. Cũng gọi là Vô minh, Vô minh có hai thứ: Một là Tương ưng vô minh, tức là tương ưng cùng khởi với ; tám mươi tám sử như ba cõi, năm hành trở điều lành hai là Bất tương ưng vô minh, tức là mười lăm si sử như ba cõi năm hành trở đi. 8.NĂM CÁI: Tham dục cái, Sân nhuế cái, Thùy miên cái, Trạo cử cái và Nghi cái. Kế ba độc là nói về năm cái: Nếu nói thể ba độc đâu khác năm cái, chỉ khoa mục chẳng đồng, danh tự thêm bớt khác nhau, cho nên kế là phân biệt. Nếu mất tên si độc mà lìa pháp si thì là ba cái thùy miên, Trạo hối và nghi, nếu đủ tham, sân thì là năm cái. Nếu khai năm cái thì có vô lượng phiền não gọi chung là Cái. Cái nghóa là màng che, tức hay làm ngăn che các tâm lành thanh tịnh chẳng được khai phát, nên gọi là Cái. Mà năm cái này sẽ y cứ nói trong chánh chướng các thiền nên lược nêu các tướng ấy. Tham dục cái, tâm dẫn lấy không biết thỏa mãn là tham dục. Phân biệt thể tướng thì đủ như trong tham độc đã nói là mười lăm tham sử trong ba cõi, năm hạnh, tức là tham dục cái. Sân nhuế cái, tâm giận dữ gọi là Sân nhuế. Phân biệt thể tướng đủ như trước nói, các thứ sân sử trong năm hạnh cõi dục tức là Sân cái. Thùy miên cái, Ý thức tối tăm gọi là Thùy, năm căn đen tối gọi là Miên. Nếu tâm nương vô ký thì thêm lớn vô minh, cho nên ý thức tối tâm, năm căn mờ tối chẳng biết gì nên gọi là Thùy miên. Nhiều người nói là tăng tâm số pháp, cũng thuộc mười lăm si sử của kiến tư sở đoạn. Trạo hối cái, tà tâm động niệm gọi là Trạo, suy nghó lo lắng) gọi là Hối. Nếu từ vô minh nhầm chấp thì tâm hý luận động trạo sinh ra đã là trái lỗi, lại suy nghó lo lắng thì có hối hận, cũng là tăng tâm sổ pháp, chánh thuộc ba mươi hai kiến sử của kiến đế sở đoạn. Nó (thuộc) tư duy đoạn, cũng có phần ít. Nghi cái: Tâm si tìm lý do dự chẳng quyết, nên gọi là Nghi. Nếu tu các pháp Đạo định bị vô minh tối tăm chẳng phân biệt được chân ngụy, do đó sinh ra do dự mà tâm không quyết đoán đều gọi là Nghi. Nghi ở thế gian chẳng phải một thứ, nói về nghi chướng đạo tức là kiến đế sở đoạn, là mười hai nghi sử của ba cõi bốn hạnh. 9. MƯỜI SỬ:. Năm độn sử: Tham, sân, vô minh, mạn, nghi. Năm lợi sử: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ, kiến thủ. Kế năm cái là nói về mười sử, đâu có mười sử khác với năm cái. Nếu giáo môn nói cho người tu định, thì được lập số ba độc, năm cái. Nếu nói cho người tu tuệ thì muốn khiến biết hoặc sở đoạn không nhầm, nên phải phân biệt thành mười sử. Rõ ràng như thế. Hai cái tham, sân tức là hai sử tham sân. Thùy cái là gốc, tức là si sử. Lìa si thì sinh mạn tức mạn sử, nghi cái tức là nghi sử, đó là năm độn sử. Trạo hối tức là tâm là tà tư trạo động, nếu phân biệt kỹ về tướng nó thì có năm lợi, năm đốn sử khác nhau. Mà suy ra thì lại là năm cái mà phân biệt thành mười sử. Nếu khai mười sử thì sinh ra tất cả phiền não. Mười thứ này gọi chung là Sử. Sử là sai khiến, làm cho tâm thần người tu trôi lăn trong ba cõi, nên gọi chung là Sử. Cũng gọi là mười phiền não, nghóa phiền não như trước đã nói. Tham dục sử: dẫn lấy không thỏa mãn gọi là Tham dục. Phân biệt tướng nó đủ như nói trong tham độc, kiến tư sở đoạn, mười lăm tham trong ba cõi năm hạnh đều là Tham sử. Sân nhuế sử: tâm giận hờn gọi là Sân. Phân biệt tướng nó thì như trong sân độc nói. Là kiến tư sở đoạn năm sân nhuế trong cõi dục năm hành, tức là nhuế sử. Vô minh sử: Tâm mê hoặc chẳng hiểu gọi là Vô minh. Nếu dùng tâm mê duyên cảnh tùy có chỗ khởi thì niệm niệm lỗi mất mà chẳng biết hổ thẹn, đều là si. Là kiến tư sở đoạn, là mười lăm si của ba giới năm hạnh trở xuống, tức là Vô minh sử. Mạn sử, tâm tự ỷ lại khinh chê người khác gọi là Mạn. Nếu tự ỷ dòng họ mình giàu sang, có tài năng mà khinh miệt người khác tức là Mạn. Mạn có tám thứ ở dưới sẽ nêu ra cho đến kiến tư sở đoạn, mười mạn trong ba cõi năm hạnh trở xuống đều là Mạn sử. Nghi sử, tâm mê trái lý do dự chẳng quyết định gọi là Nghi. Phân biệt tướng có nói trong Nghi cái, mười hai thứ nghi trong ba cõi bốn hạnh đều là Nghi sử. Thân kiến sử, nếu đối với Danh Sắc, Ấm, Nhập, giới v.v… mà vọng chấp là thân thì gọi là Thân kiến. Nếu vì vô minh không hiểu thì đối với năm Ấm khởi lên hai mươi thứ thân kiến, thì thân kiến có hai mươi thứ kiến đế sở đoạn, trong một hạnh trải ba cõi có hai thứ thân kiến. Biên kiến sử, tâm chấp một bên nên gọi là Biên kiến. Nếu cả bốn bên không hiểu, tùy thấy cho một bên là thật, còn các bên khác đều là nói dối. Như chỗ thấy chấp một bên lẫn nhau thì đều rơi vào biên kiến. Trải năm Ấm ba đời thì có sáu mươi hai kiến đều là kiến đế sở đoạn hợp thành sáu mươi hai kiến, đồng là kiến một bên. Lại y cứ kiến đế sở đoạn, trong một hạnh trải ba cõi tức là kiến ba biên. Tà kiến sử: tâm tà giữ lý gọi là tà kiến, nếu vô minh chẳng hiểu nhân quả bốn đế tâm tà suy tìm được, thì không có việc ấy, vì đoạn mất gốc lành xuất thế gian, cho đến gốc lành thế gian mà làm hạnh xiển-đề, ấy là tà kiến, là trong kiến đế sở đoạn ba cõi bốn hạnh có mười hai tà kiến. Kiến thủ sử: Đối với pháp không chân thắng mà nhận lầm Niết- bàn, sinh tâm chấp lấy nên gọi là Kiến thủ. Nếu khi hành đạo, tuy vào các thứ quán môn mà chân minh chưa phát, vô minh không rõ liền chấp nhầm sỡ đắc, cho là chân là thắng, mà sinh tâm chấp trước thì đều gọi là Kiến thủ. Kiến đế sở đoạn ba cõi bốn hạnh có mười hai kiến thủ. Giới thủ sử: Đối với không phải giới mà nhận lầm là giới, giữ lấy vâng làm thì gọi là Giới thủ. Như giữ giới gà, chó, trâu, cho đến chín mươi lăm giới của ngoại đạo cho là chân giới thì đều gọi là Giới thủ. Nếu người tuy giữ giới Phật mà thấy có tướng giới thì cũng là Giới thủ. Kiến đế sở đoạn ba cõi hai hạnh có sáu thứ giới thủ là đó. CHÍN MƯƠI TÁM SỬ: Môn Kiến đế có tám mươi tám sử, cõi dục có ba mươi hai sử, cõi Sắc có hai mươi tám sử, cõi Vô sắc có hai mươi tám sử. Môn Tư duy có mười sử, cõi Dục có bốn sử, cõi Sắc có ba sử. Kế mười sử là nói về chín mươi tám sử. Chính vì hai đạo hoặc chướng Kiến tư khác nhau nên muốn khiến cho người tu quán tinh thức hoặc được tự đoạn trừ hàng phục vô lạm, cho nên giáo môn trải qua ba cõi năm hạnh phân biệt kỷ mười sử thì chín mươi tám, cũng gọi là chín mươi tám phiền não gọi chung là Sử, gọi phiền não là như trước đã giải thích. Nếu lìa chín mươi tám sử thì ra khỏi tất cả phiền não. Nay y theo số người nói chín mươi tám sử. Như người giải luận Thành Thật thì có khác. Kiến hoặc tư hoặc cõi Dục có ba mươi hai sử, khổ đế trở xuống có đủ mười sử, Tập đế trở xuống có bảy sử. Trừ thân kiến, biên kiến và giới thủ. Dạo đế trở xuống có tám sử chỉ trừ thân kiến, biên kiến. Cho nên cõi Dục bốn hạnh trở đi gồm có ba mươi hai sử. Kiến đế hoặc cõi Sắc có hai mươi tám sư, khổ đế trở xuống chín sử trừ sân. Tập đế trở xuống có sáu sử trừ sân và trừ thân kiến, biên kiến, giới thủ. Đạo đến trở xuống có bảy sử, cũng trừ sân sử và thân kiến, biên kiến. Cho nên cõi sắc bốn hạnh trở xuống gồm có hai mươi sử. Kiến đế hoặc cõi Vô Sắc có hai mươi tám. Khổ đế trở xuống có chín sử, Tập đế trở xuống có sáu sử, Diệt đế trở xuống có sáu sử, Đạo đế trở đi có bảy sử hoặc lấy, hoặc trừ, đều phân biệt như trong cõi sắc. Cho nên vô sắc giới bốn hạnh trở đi họp hai mươi tám sử. Họp ba cõi, bốn đế trở xuống có tám mươi tám sử đều làm chướng hoặc kiến đế, vì kiến đạo sở đoạn của Tu-đà-hoàn, phân biệt tướng sử mà nói lược đều như mười sử ở chương môn trước đã nói. Tư duy hoặc cõi Dục có bốn sử, một là Tham sử, hai là Sân sử, ba là Si sử, bốn là Mạn sử. Sử này từ Tư-đà-hàm hướng đến tu đạo đoạn, cho đến quả A-na-hàm, chín phẩm mới hết. Tư duy hoặc cõi Sắc có ba sử: Một là Tham sử, hai là Si sử, ba là Mạn sử. Ba sử này đều là A-la-hán hướng, dụng tu đạo trí đoạn. Tư duy hoặc cõi Vô sắc có ba sử là Tham sử, Sân sử và Mạn sử. Cho nên, ba cõi tư duy hoặc gồm có mười sử, đủ ở kiến đế trước, họp thành chín mươi tám sử chỉ ba sử này cũng là A-la-hán hướng đoạn, đến quả mới hết. Kế đây phải nêu rộng, khoa mục các phiền não, cái gọi là ba lậu, bốn lưu, bốn phược, tám tà, tám đảo, chín kiết, chín não, mười triền cho đến năm trăm phiền não, tám muôn bốn ngàn các môn trần lao và Hằng hà sa số phiền não, đều từ kiến ái chín mươi tám sử, ly hợp mà luận. Nếu nêu đủ khoa mục, v.v… Nay lược nêu mấy khoa đủ để hiển sáng giáo môn, biết rõ phiền não ly hợp các pháp hoặc chướng nhuận sinh khoa mục các phiền não. Đến quyển sáu lại phải tùy chỗ quan trọng mà nêu ra. MƯỜI ĐIỀU ÁC: Thân có ba điều ác: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng có bốn điều ác: Nói dối, nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói lời thêu dệt. Ý có ba điều ác: Tham dục, giận dữ, tà kiến (ngu si). Kế các kết sử phiền não là nói về mười điều ác. Vì phiền não đã là pháp hoặc loạn, sai khiến tâm thần người tu, làm cho xúc cảnh đều điên đảo, buông lung hoặc tình mà khởi thân miệng ý bị xao động và trái lý. Cho nên ở ba nghiệp khởi lên có đủ mười điều ác, gọi chung là Ác. Ác nghóa là trái lý, vì mười thứ này đều trái lý mà khởi lên nên gọi là Ác. Cũng gọi là mười bất thiện đạo, vì nó thông với báo khổ, nên không phải thiện đạo. Sát sinh, là cắt đứt mạng sống tất cả chúng sinh. Trộm cắp, là trộm lấy của cải người khác. Tà dâm, là phạm dâm với người không phải vợ và thiếp mình. Nói dối, là nói dối trá, lừa gạt người khác. Nói hai lưỡi, là nói đâm thọc khiến hai bên đấu tranh có phần được mất. Nói lời hung ác, là chửi mắng làm nhục, khiến người khác buồn khổ. Nói thêu dệt, là trau chuốt những lời trái với đạo lý. Tham dục, là ham đắm trần cảnh thuận tình. Giận dữ, là đối cảnh trái ý tâm sinh giận dữ. Tà kiến: bác lý nhân quả, tích tín cầu phước, đều là tà kiến. Kế đây sẽ nêu ra bốn tội trong, năm tội nghịch, bảy tội nghịch, hủy báng kinh phương đẳng, v.v… lạm dụng vật của tăng, làm hạnh xiển-đề, mười sáu ác luật nghi. Các khoa mục của nghiệp ác nặng nhẹ đều từ mười điều ác ly hợp phân biệt mà nói. Nay muốn nói về các yếu môn vào đạo nên nêu ra. Đến cuối quyển sáu sẽ nêu rõ. 12. MƯỜI ĐIỀU LÀNH: Thân có ba thứ: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng có bốn: Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói hung ác, không nói thêu dệt. Ý ba: Không tham dục, không giận hờn, không tà kiến. Kế mười ác là nói về mười điều lành. Nếu người biết ác là hạnh trái lý, hiện tại tương lai do đây mà chịu khổ thì sẽ dứt ác làm lành, để đời sau luôn hưởng quả vui cõi trên. Do đó, kế mười điều ác là nói về mười điều lành. Nhưng mười điều lành có hai: Một là chỉ, hai là hành. Chỉ thì dứt ác trước chẳng gây khổ cho người. Hành thì tu thắng đức, lợi lạc tất cả. Hai thứ này gọi chung là Thiện; Thiện là nghóa thuận lý, dứt đảo trở về chân, cho nên nói thuận lý. Chỉ thì dứt ác trọng trùng đảo, hành thì dần về Thiện thắng đạo. Cho nên hai thứ chỉ hành đều gọi là Thiện, hoặc thêm chữ Đạo vì thông đến quả vui. Không sát sinh, tức là chỉ thiện, dứt làm ác sát sinh ở trước, Thiện là phóng sinh. Không trộm cắp, tức là chỉ thiện, là dứt ác trộm cắp của người trước. Thiện là làm việc bố thí. Không tà dâm, tức là chỉ thiện, là dứt ác dâm dục ở trước. Thiện là cung kính. Không nói dối, tức là chỉ thiện, là dứt ác nói dối ở trước. Thiện là nói lời thành thật. Không nói hai lưỡi, tức là chỉ thiện, là dứt ác nói hai lưỡi ở trước. Thiện là nói lời hòa hợp. Không nói lời hung ác tức là chỉ thiện, là dứt nói lời hung ác ở trước. Thiện là nói lời dịu dàng êm ái. Không nói lời thêu dệt thêm thắt, tức là chỉ thiện, là dứt ác thêu dệt trái lý ở trước. Thiện là nói lời lợi ích có nghóa lý. Không tham dục, tức là chỉ thiện, là dứt ác ham hố không thỏan mãn. Thiện là là quán bất tịnh, quán sáu trần là dối trá, bất tịnh. Không giận dữ, tức là chỉ thiện, là dứt ác giận hờn ở trước. Thiện là thực hành từ nhẫn (nhẫn nhục). Không tà kiến, tức là chỉ thiện, là dứt hành vi ác bác bỏ nhân quả chân chính ở ở trước. Thiện là thực hành chánh tín qui tâm, chánh đạo, sinh tâm lành trí tuệ.  <卷>QUYỂN THƯỢNG (PHẦN 2) 13.BA QUY GIỚI: Qui y Phật, qui y pháp, qui y tăng. Kế mười điều lành là nói về mà bàn ba qui y. Khi Như Lai chưa ra đời, lúc ấy đã có sự giáo hóa bằng mười điều lành, đó là điều thiện xưa ở thế gian đâu, có Tam bảo để về. Đại Thánh (Phật) khi mới thành Chánh Giác vì Trưởng giả Đề-vị mà trao cho ba qui y năm giới là bỏ tà về chánh làm căn bản bước lên bậc Thánh, người thực hành ba thừa mà qui tông tiến hành lấy đây làm đầu. Dụng của ba qui chính là phá ba tà, cứu ba đường, tiếp ba thừa, ra khỏi ba cõi. Phật pháp lấy ba qui y này làm gốc mà phát ra tất cả giới phẩm và các thiện xuất thế, há đồng với pháp mười điều lành của xưa kia ư? Hỏi: mười hai môn điều lành cũng là pháp xưa nay sao chẳng trước nói ba qui. Đáp: Nếu y theo thời tiết nói giáo thì đúng thật như câu hỏi, nhưng nay muốn nói thứ lớp tu hành về giới định thì chẳng phải như thế. Nay kể sau ba qui là nêu đủ khoa mục các giới đều đồng với ý này. Qui y Phật: Phật-đà, đời Tần dịch là Giác giả, tự giác, giác tha nên gọi là Phật. Qui là trở về, bỏ thầy tà về với thầy chánh nên gọi là qui. Y là nương tựa, nương tựa tâm linh giác được ra khỏi ba đường và ba cõi sinh tử. Nên kinh chép: Qui y Phật rồi thì không còn qui y các Thiên thần khác. Qui y pháp: Đạt-ma, đời Tần dịch là Pháp, Pháp là khuôn phép đáng theo. Lời Đại Thánh nói hoặc giáo, hoặc lý có thể làm khuôn phép cho tâm nên gọi là Pháp, qui là bỏ pháp tà về pháp chánh, nên gọi là Qui. Y là nương vào pháp Phật nói mà ra khỏi ba đường và ba cõi sinh tử. Cho nên kinh nói: Qui y pháp là lìa hẳn giết hại. Qui y tăng: Tăng-già, đời Tần dịch là Chúng, chúng là hòa hợp. Người xuất gia tu ba thừa tâm hòa hợp với sự lý của lời Phật nói, gọi là tăng qui, là bỏ chín mươi lăm bọn tà hạnh mà tâm quay về bạn chánh hạnh xuất gia ba thừa, nên gọi là qui. Y là nương bạn chánh hạnh xuất gia ba thừa thì được ra khỏi ba đường và sinh tử ba cõi. Cho nên kinh nói: Qui y tăng thì không bao giờ qui y các ngoại đạo khác. 14.NĂM GIỚI: là 1.Giới không sát sinh, 2.Giới không trộm cướp, 3. Giới không tà dâm, 4. Giới không nói dối, 5. Giới không uống rượu. Kế ba qui y là nói về năm giới. Luận Đại Trí Độ chép: nhớ nghó Phật như thầy thuốc: Nhớ nghó Niệm pháp như uống thuốc, nhớnghó tăng như người nuôi bệnh, nhớ nghó giới như thuốc cấm kî. Nay sở dó kế ba qui y mà nói về các giới phẩm chính là ý này. Cho nên, Phật trao ba quy y cho các đệ tử tại gia như Đề-vị, v.v…. rồi liền trao cho năm giới làm Ưu-bà-tắc. Nếu đệ tử Phật tại gia phá năm giới này thì không phải là các só nữ Thanh tín. Nên kinh chép: Năm giới là năm điều cấm lớn trong thiên hạ, nếu phạm năm giới thì đối với trời trái với năm kinh, đối với đất trái với năm nhạc, đối với phương trái với năm đế, đối với thân trái với năm tạng. Như thế, ở trong thế gian trái phạm vô lượng. Nếu y cứ xuất thế mà phạm năm giới này thì phá năm phần thân tất cả Phật pháp. Vì sao, vì năm giới này là giới căn bản của tất cả Đại, Tiểu thừa. Nếu phạm năm giới thì chẳng được giới Đại Tiểu thừa. Nếu giữ gìn bền chặt thì tức là năm Đại thí. Đây gọi chung là giới, tức là nghóa ngăn ngừa, ngăn ngừa các luật nghi ác không nên làm, ngăn ngừa khởi ác nghiệp ba, nên gọi là phòng chỉ. Giới không sát sinh. Thế nào là sát sinh? Nếu thật biết là chúng sinh, sinh tâm muốn giết mà cướp mạng sống, khởi thân nghiệp làm việc ấy thì đó là tội sát sinh. Nếu chẳng làm việc ấy thì gọi là giới bất sát. Ngoài ra các thứ cột trói, đánh đập, roi vọt đều là phương tiện giết, chẳng phải chánh tội. Giới không trộm cướp: Thế nào là trộm cướp? Biết vật của người khác mà sinh tâm trộm lấy, đem vật đến chỗ khác cho là của mình thì gọi là Trộm. Nếu chẳng làm việc ấy gọi là giới không trộm cướp. Ngoài ra, tính toán cho đến tay lấy mà chưa lìa chỗ thì gọi là phương tiện, không phải là chánh tội. Giới không tà dâm. Thế nào là tà dâm? Nếu người nữ được cha mẹ, anh em, chị em, chồng con, pháp vua thế gian giữ gìn, hoặc giới pháp xuất gia giữ gìn, cho đến từ vợ mình thọ giới pháp một ngày, hoặc có thai, cho con bú, và phi đạo xứ như thế mà phạm thì gọi là Tà dâm. Nếu chẳng làm việc ấy gọi là giới không tà dâm. Ngoài ra như nói chơi, dùng vật cho nhau, cho đến nắm tay đụng thân. Nếu chưa làm dâm dục thì đều là phương tiện tà dâm, không phải là chánh tội. Giới chẳng nói dối: Thế nào là nói dối? Tâm bất tịnh muốn dối gạt người, che giấu sự thật nói lời khác lạ, sinh ra khẩu nghiệp đó là nói dối. Nếu chẳng làm viếc ấy thì gọi là giới không nói dối. Tội nói dối từ lời nói mà sinh ra hiểu nhau. Nếu chẳng hiểu thì tuy nói chẳng thật cũng đều là phương tiện nói dối, không phải chánh tội. Giới chẳng uống rượu: Thế nào là rượu? Rượu có ba thứ: Một là rượu nếp, hai là rượu trái cây, ba là rượu thuốc. Hoặc khô, hoặc ướt, hoặc đục, hoặc trong, các thứ như thế làm cho tâm người buông lung sinh ra ba mươi sáu lỗi. Nếu không uống rượu thì gọi là giới không uống rượu. Kế đây là nói người tại gia Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, một ngày một đêm thọ tám giới, người xuất gia Sa-di-ni mười giới, Thức-Xoa-ma-na- ni sáu pháp giới, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mười thứ đắc giới, năm thiên bảy tụ tướng, cho đến Bồ-tát mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh và ba ngàn oai nghi, tám muôn luật nghi. Trong đó đều theo thứ lớp nói lược khoa mục. Luận ý đại thành chế giới từ thô đến tế. Các sự thay đổi rất nhiều việc đều nêu đủ v.v… Nay muốn tìm biết các thiền định trí tuệ pháp môn khoa mục thứ lớp, việc trong các giới này rất nhiều, đền phần cuối quyển sáu sẽ tùy cốt yếu mà nêu riêng. 15.BỐN THIỀN: là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, và Tứ thiền. Nay kế các giới phẩm là nói về bốn thiền. Trên là nói giới tướng (tướng của giới) tuy thô tế có khác nhưng đều là ngăn ngừa ngoại ác của thân miệng cõi Dục, đã chưa trừ tế loạn thì đâu thể vượt cảnh cõi Dục. Nếu giới mình sáng sạch chí cầu Thiền môn chuyên tu năm pháp, thì bốn đại Tự hiện duyên trong thân cho nên. Theo thứ lớp được bốn thiền căn bản các thứ thắng diệu, cả rừng công đức, do đó mà vượt ra lướt Dục, quả ở cõi Sắc, gọi chung là Thiền. Thiền là tiếng Tây Trúc, Hán dịch là bỏ ác, là bỏ tất cả các điều như ác năm cái, v.v… ở cõi Dục, nên gọi là bỏ ác, lại dịch là Công đức tòng lâm, hoặc Tư duy tu. Nay không giải thích đủ mà gọi là Căn bản. Dùng Vô lượng tâm trái bỏ thắng xứ, tất cả chỗ thần thông biến hóa là vô lậu quán tuệ, v.v… các thứ Thiền Tam-muội, đều từ bốn thiền mà ra, nên gọi là Căn bản. Sơ thiền có năm chi: 1.Giác chi; 2.Quán chi; 3.Hỷ chi; 4.Lạc chi; Nhất tâm chi Giác chi: Sơ tâm ở tại duyên gọi là Giác, người tu y vị đáo địa mà phát Sơ thiền cõi sắc thanh tịnh sắc pháp, gặp thân căn cõi Dục, tâm rất kinh ngộ. Bấy giờ, liền sinh thân thức giác. Sắc này gặp công đức lợi ích chưa từng có nên gọi là Giác chi. Quán chi: Khéo léo phân biệt gọi là Quán. Người tu đã chứng công đức Sơ thiền liền dùng tâm khéo léo mà phân biệt, trong Thiền định này các sắc pháp, các cảnh giới mầu nhiệm công đức, rõ ràng không có các ngăn che. Các công đức như thế chưa có ở cõi Dục nên gọi là Quán chi. Hỷ chi: Tâm vui mừng là Hỷ, người tu khi mới phát thiền bèn liền sinh ra hỷ, nhưng phân biệt chưa rõ nên tâm hỷ chưa thành. Nếu quán tâm phân biệt bỏ chỗ vui cõi Dục rất ít, nay được Sơ thiền lợi ích rất nhiều. Như thế mà suy nghó xong thì vui mừng vô lượng, nên gọi là Hỷ chi. Lạc chi: Tâm vui vẻ gọi là lạc. Người tu khi mới phát thiền liền có lạc, nhưng tâm phân biệt hỷ động dứt hết thì an nhiên tịnh lự được các lạc xúc vui vẻ khoan khoái, nên gọi là Lạc chi. Nhất tâm chi: Tâm và định là một, nên gọi là Nhất tâm. Người tu khi mới chứng thiền bèn có trước định đắm vào định) mà tâm còn nương pháp giác quán hỷ lạc cho nên có tán loạn chút ít, nếu nhận tâm hỷ lạc, tự nhiên cùng định là một pháp. Nên gọi là Nhất tâm chi. Nhị thiền có bốn chi: Một là Nội tịnh chi; hai là Hỷ chi; ba là Lạc chi; bốn là Nhất tâm chi Nội tịnh chi: Tâm không quán giác lẫn lộn nên gọi là Nội tịnh chi. Người tu khi muốn lìa Sơ thiền thì chê trách các thứ giác quán. Giác quán đã diệt thì tâm nội tịnh. Tâm tương ưng với sắc pháp thanh tịnh thì rỗng rang sáng sạch, nên gọi là Nội tịnh chi. Hỷ chi: Tâm vui mừng gọi là Hỷ. Người tu khi mới được nội tịnh liền cùng hỷ phát sinh, mà hỷ tâm chưa thành, kế thì tâm tự mừng được khói nạn giác quán mà được hỷ thắng định nội tịnh, nên vui mừng vô lượng, mà gọi là Hỷ chi. Lạc chi: Tâm vui vẻ gọi là lạc. Người tu hành mừng rỡ đã dứt, an nhiên tịnh lự, được niềm vui trong hỷ nội tịnh, gọi là Lạc chi. Nhất tâm chi: Tâm và pháp định là một, gọi là nhất tâm. Người tu tâm thọ vui đã dứt, thì tâm và định là một, lắng dừng bất động nên gọi là Nhất tâm chi. Tam thiền có năm chi: Một là Xả chi; hai là Niệm chi; ba là Tuệ chi; bốn là Lạc chi; năm là Nhất tâm chi. Xả chi: Lìa hỷ chẳng hối, tâm này là xả. Người tu khi muốn lìa nhị thiền thì dùng các thứ nhân duyên quở trách hỷ. Hỷ đã dứt thì Tam thiền liền phát. Nếu chứng lạc Tam thiền thì bỏ hỷ Nhị thiền, không sinh tâm hối hận, nên gọi là Xả. Cũng gọi là Tam thiền. Khi lạc mới sinh, là vui bậc nhất của ba cõi nên sinh tâm đắm trước. Tâm đắm trước thì thiền hư hoại, nên phải thực hành xả. Niệm chi: Niệm là ái niệm (ưa thích), người tu đã phát sinh cái vui tam thiền. Lạc từ trong khởi nên phải ái niệm, sắp dứt thì lạc càng tăng mạnh, cho đến cùng khắp thân. Như mẹ hiền nhớ con, ái niệm nuôi dưỡng nên gọi là Niệm chi. Tuệ chi: Tâm hiểu rõ gọi là Tuệ. Người tu đã phát lạc Tam thiền thì lạc này rất mầu nhiệm, khó được tăng trưởng khắp thân. Nếu không có giải tuệ khéo léo thì chẳng thể phương tiện nuôi lớn được lạc này ở khắp thân. Lạc chi: Tâm vui vẻ gọi là Lạc, người tu phát lạc tam thiền rồi, nếu khéo dùng xả niệm tuệ giải mà giữ gìn cái vui này. Cái vui đã không lỗi thì sẽ tăng mạnh khắp thân, khiến được sự vui vẻ khoan khoái của cái vui Tam thiền. Tam thiền là vui bậc nhất. Nếu lìa tam thiền ở các địa khác thì không có cái vui khắp thân. Nhất tâm chi: Tâm và pháp định là một, gọi là nhất tâm lắng dừng bất động, gọi là Nhất tâm chi. Tứ thiền có bốn chi: Một là chi Không khổ không vui; hai là chi Xả; ba là chi Niệm; bốn là chi Nhất tâm. Chi chẳng khổ chẳng vui là tâm vừa chừng chẳng khổ chẳng vui. Khi người tu muốn lìa Tam thiền thì dừng các thứ nhân duyên chê trách lạc, lạc (vui) đã dứt hết thì định bất động, củng phát với xả, nên nội tâm vắng lặng, chẳng khổ chẳng vui. Xả chi: Lìa lạc chẳng có hối tâm ấy, gọi là xả. Người tu đã được chân định bất động đệ Tử thiền thì bỏ lạc khó bỏ của Tam thiền mà chẳng sinh tâm hối hận nên gọi là Xả chi, cũng gọi là chứng định bất động Tứ thiền. Chẳng nên chấp định mà khởi tâm động niệm. Nếu tâm thực hành xả thì không trái với động niệm. Chi Niệm thanh tịnh: Niệm là ái niệm. Người tu đã được chân định Tứ thiền, nên nghó lối của hạ địa mà nghó công đức mình phương tiện nuôi dưỡng chẳng lui mất, tiến vào thắng phẩm, nên gọi là Niệm. Cũng nói là trong Tứ thiền có bất động chiếu liễu, chánh niệm (rõ ràng), nên gọi là Niệm chi. Nhất tâm chi: Tâm và pháp định là một nên gọi là Nhất tâm chi. Người tu đã được định Tứ thiền đều xả bỏ. Xã niệm đã dứt thì không còn chỗ nương, vắng lạng bất động, một tâm ở định cũng như gương sáng, lặng lẽ chẳng động, yên ổn không sóng mà chiếu soi, vạn tượng đều hiện rõ. Vì sao? Vì trong Tứ thiền này gọi riêng là Định bất động. Sơ thiền thì giác quán động, Nhị thiền thì hỷ động, Tam thiền thì lạc động; trong Tứ thiền này trước lìa ưu hỷ (mừng lo) nay lại dứt bỏ khổ vui, nên gọi là chân định. Là thắng định trong ba cõi không gì hơn. Nếu người tu ba thừa khéo chiếu liễu rỏ ràng thì do định này mà phát chân vô lậu. Ngoại đạo hữu lậu không có tuệ phương tiện khi vào định này thì sắc thân bất hoại, mất hẳn tâm ấy mà vào định vô tưởng, tức là Niết-bàn, ấy là tà đảo không phải Niết-bàn. Từ Sơ thiền đến Tứ thiền có mười tám pháp đều gọi là Chi, tức là chi phái. Từ trong bốn thiền mà phân phái nêu ra mười tám công đức, nên gọi là Chi. 16.BỐN TÂM VÔ LƯỢNG là: Từ, bi, hỷ, xả. Kế bốn thiền mà nói về bốn Tâm vô lượng. Bốn thiền đã là tự chứng công đức thiền định mà chưa có công được lợi người. Cho nên ưa thích công đức lớn thì phải thương xót tất cả chúng sinh, tu Từ bi hỷ xả bốn định vô lượng. Ở đây gọi chung là bốn Tâm vô lượng, là từ cảnh mà được tên. Vì sở duyên là vô lượng chúng sinh nên tâm năng duyên cũng tùy cảnh mà vô lượng, nên đều gọi là tâm Vô lượng. Tâm Từ vô lượng: là tâm đem đến niềm vui cho người khác thì gọi là Từ. Nếu người tu ở trong thiền định khi nghó nhớ chúng sinh làm cho được vui thì trong pháp tâm sổ sinh ra định, gọi là Từ định. Từ ấy tương ưng vối tâm không giận không hờn, không oán không não, khéo tu được hiểu rộng lớn vô lượng trùm khắp mười phương thì gọi là tâm Từ Vô lượng. Tâm Bi vô lượng, là tâm cứu khổ người gọi là Bi. Nếu người tu ở trong thiền định khi nghó nhớ chúng sinh chịu khổ mà giúp cho được giải thoát thì trong pháp tâm sổ sinh ra định gọi là Bi định. Bi ấy tương ưng với tâm không giận không hờn, không oán không não, khéo tu được hiểu tương lai vô lượng cùng khắp mười phương, ấy là tâm Bi vô lượng. Tâm Hỷ vô lượng, mừng người khác được vui mà tâm vui mừng thì gọi là Hỷ. Nếu người tu ở trong thiền định, nghó nhớ chúng sinh giúp cho lìa khổ được vui mà vui mừng thì trong pháp tâm sổ sinh ra định gọi là Hỷ định. Hỷ ấy tương ưng với tâm, không giận không hờn không oán không não, khéo tu được hiểu, rộng lớn vô lượng biến khắp mười phương, ấy là tâm Hỷ vô lượng. Tâm Xả vô lượng, nếu duyên với người khác mà tâm không yêu không ghét thì gọi là Xả. Người tu ở trong thiền định nghó nhớ chúng sinh đều được không yêu không ghét, như chứng Niết-bàn, vắng lặng thanh tịnh. Như khi nghó nhớ ấy mà trong pháp tâm sổ sinh ra định thì gọi là Xả định. Xả ấy tương ưng với tâm không giận không hờn, không oán không não. Khéo tu được hiểu, rộng lớn vô lượng, trùm khắp mười phương. Ấy là tâm Xả vô lượng. 1 7.BỐN KHÔNG ĐỊNH: Một là Hư không xứ định; hai là Thức xứ định; ba là Vô sở hữu xứ định; bốn là Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định. Kế bốn Tâm vô lượng là nói về bốn không xứ định. Trong bốn Tâm vô lượng tuy có công đức lớn mà chưa tránh được hoạn nạn về hình chất. Nếu người tu nhàm chán sắc như lao ngục thì tâm tâm ưa muốn ra khỏi lồng sắc, cho nên kế tâm vô lượng là nói về bốn Không xứ định. Gọi chung là Không. Bốn định này thể nó không hình sắc, nên gọi là Không. Đều y theo cảnh sở chứng làm xứ cảnh pháp trì tâm, tâm không phân tán nên gọi là Định. Không xứ định, nếu diệt ba thứ sắc duyên không mà vào định thì gọi là Không xứ định. Người tu nhàm chán, sợ sắc như lao ngục, tâm muốn thoát ra liền tu quán trí để phá sắc, nên qua tất cả sắc tướng, diệt hết tướng đối đãi, chẳng nghó nhớ các tướng mà vào vô biên hư không xứ, tâm tương ưng với hư không, ấy là Hư không xứ định. Thức xứ định, nếu không duyên thức vào định thì gọi là Thức xứ định. Người tu chán sợ không, mà hư không vô biên duyên nhiều thì tán có công năng phá hoại định, liền bỏ hư không, chuyển tâm duyên thức. Tâm tương ưng với thức thì gọi là Thức xứ định. Vô sở hữu xứ định, nếu bỏ tâm thức xứ, nương pháp vô sở hữu mà vào định thì gọi là Vô sở hữu xứ định. Người tu nham chán, sợ thức ba đời, mà thức vô biên duyên nhiều thì tán phá hoại định, cho nên bỏ duyên thức mà chuyển tâm nương vào pháp vô sở hữu xứ, khi tâm với ưng pháp vô sở hữu tương thì gọi là Vô sở hữu xứ định. Có người giải thích rằng: Bỏ nhiều thức lấy ít thức duyên đó mà vào định, thì gọi là Vô sở hữu xứ định. Phi hữu tưởng phi vô tưởng định: Nếu bỏ tưởng hai bên mà vào định thì gọi là Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Người tu chán sợ tưởng vô sở hữu xứ như si mê, và Hữu tưởng xứ như ghẻ nhọt, liền có định gọi là Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Liền bỏ Vô sở hữu xứ mà duyên niệm với pháp phi hữu phi vô tâm (chẳng phải có tâm chẳng phải không tâm), tâm tương ưng với pháp phi hữu phi vô tưởng. Ấy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định. Cũng nói là phàm phu ngoại đạo được định này cho là chứng Niết-bàn, dứt tất cả tưởng, nên gọi là Phi hữu tưởng, đệ tử Phật như thật mà biết có tế tưởng, nương vào bốn chúng mà trụ, nên gọi là Phi vô tưởng đắc thất, hợp lại mà lập tên nên gọi là Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ định. Nói lược mười hai môn thiền ở ba cõi, cùng cực là ở đây. 18.SÁU DIỆU PHÁP MÔN là: Sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Kế bốn không định là nói về sáu diệu môn. Trước nay nói về thiền định tuy rất sâu xa mà đều là pháp xưa ở thế gian. Từ đầu đến cuối nhàm chán dưới, dính mắc trên, trong các địa đều chưa có quán tuệ chiếu liễu phương tiện xuất thế. Cho nên phàm phu, ngoại đạo tu được mười hai môn thiền này chẳng thể phát chân ngộ đạo, cho nên sinh tử không dứt là ý ở đây. Nay sáu pháp này, ba thứ trước là định, ba thứ sáu là tuệ định ái tuệ sát, phát sinh chân minh, xa lìa sinh tử, đâu đồng với trước? Sáu thứ này gọi chung là Diệu môn. Niết-bàn là diệu môn, nghóa là thông với sáu pháp, thứ lớp thông nhau, đến được. Nê-Hoàn, Chân thật mầu nhiệm nên gọi là Diệu môn. Một nhà nói có mười thứ sáu diệu môn. Nay chỉ lược nêu một khoá thứ lớp sinh nhau, sáu môn xem là thứ lớp. Sáu môn này cũng là thiền hữu lậu và vô lậu. Các thứ khác cũng có hữu lậu và vô lậu, cạn cợt và cục bộ nên lấy đây làm thứ lớp. Sổ tức môn: Nhiếp tâm vào hơi thở, từ một đến mười gọi là Sổ (đếm). Người tu vì tu chân pháp vô lậu trước phải điều tâm vào định ở cõi Dục, thô tán khó nhiếp không phải sổ thì không trị được, cho nên phải khéo điều thân mà thở từ một đến mười hơi thì thô loạn đều dứt, tâm thần dừng trụ. Ấy là cốt yếu nhập định, cho nên dùng Sổ tức (đếm hơi thở) là Diệu môn. Tùy tức môn: Tâm sâu kín nương vào hơi thở, biết ra biết vào, nên gọi là Tùy (theo). Người tu do đếm hơi thở tâm trụ mà thiền định chưa phát, nếu còn đếm hơi thở thì tâm có lỗi khởi niệm, cho nên phải bỏ Sổ (đếm) mà tu Tùy (theo). Tâm nương vào hơi thở khi vào thì biết vào, khi ra thì biết ra, dài ngắn lạnh nóng đều biết rõ. Nếu tâm an, minh tịnh, do đó mà các thiền tự phát nên lấy Tùy làm môn. Chỉ môn: Dứt tâm lo nghó gọi là Chỉ. Người tu nhân Tùy tức mà tâm an, minh tịnh, nhưng định cũng chưa phát. Nếu tâm nương vào Tùy thì nhẹ khởi loạn tưởng. Lắng dừng an ổn không gì bằng Chỉ. Cho nên bỏ Tùy mà tu Chỉ. Trong đó, thường dùng ngưng tâm mà chỉ, ngưng tâm dứt lo nghó, tâm không còn giao động mảy may thì các thiền định tự nhiên khai phát. Nên lấy Chỉ làm môn. Quán môn: Tâm phân biệt chia sẽ gọi là Quán. Người tu tuy do chỉ mà chứng các thiền định nhưng giải tuệ chưa phát. Nếu trụ ở tâm định thì có lời đắm mê vị vô minh, cho nên phải suy tìm xem xét thiền định đã chứng. Trong đó thường dùng thật quán bốn Niệm xứ. Nếu quán tâm rõ ràng thì biết năm chúng dối trá, phá bốn điên đảo và mười sáu tri kiến như ngã, v.v… Điên đảo đã không thì phương tiện vô lậu do đây mà khai phát. Nên lấy Quán làm môn. Hoàn môn: Chuyển tâm phản chiếu gọi là Hoàn. Người tu tuy quán chiếu mà chân minh chưa phát. Nếu chấp có ta là năng quán, đánh phá điên đảo, cái hầm chấp ngã lại nương vào quán mà sinh thì đồng với ngoại đạo. Cho nên nói các ngoại đạo chấp trước, quán “trí tuệ Không” chẳng được giải thoát. Nếu biết nạn này thì phải chuyển tâm xét lại tâm năng quán. Nếu biết tâm năng quán là dối trá không thật thì sự điên đảo nương vào quán chấp ngã kia sẽ tự mất. Do đó mà phương tiện vô lậu tự nhiên phát sáng. Nên lấy Hoàn làm môn. Tịnh môn: Tâm không chỗ nương cậy sóng vọng chẳng khởi, gọi là Tịnh. Người tu khi Tu hoàn tuy hay phá đảo quán, nếu chân minh chưa phát mà trụ vào không năng sở thì tức là thọ niệm, cho nên khiến tâm trí uế trược giác bất. Đây đã không dính mắc chấp trước, thanh tịnh vắng lặng, do đây mà chân minh khai phát, liền dứt kết sử ba cõi mà chứng đạo Ba thừa. Cho nên nếu thanh tịnh được nhất tâm thì muôn tà đều mất, nên lấy Tịnh làm môn là ý ở đây. 1 9.MƯỜI SÁU ĐẶC THẮNG: 1.Biết thở vào; 2. Biết thở ra; 3. Biết hơi thở dài ngắn; 4.Biết hơi thở khắp thân; 5.Trừ các thân hành; 6. Thọ hỷ; 7. Thọ vui; 8.Thọ các tâm hạnh; 9. Tâm làm hỷ; 1 0. Tâm làm nhiếp; 1 1. Tâm làm giải thoát; 1 2. Quán vô thường; 1 3. Quán xuất tán; Quán ly dục; 1 5. Quán diệt; 16. Quán bất biến. Kế sáu Diệu môn là nói về mười sáu Đặc thắng. Hai thứ thiền định này đại ý tuy đồng, mà sáu Diệu môn thì một bề (dọc) cạn, (ngang) rộng, còn mười sáu Đặc thắng thì dọc dài ngang cục. Dài thì vị xa khó đến cùng. Kế sẽ nói sau, đều gọi là Đặc thắng. Giải thích siêng có việc nhân duyên, nếu đủ ra đầy v.v… Nhưng thiền này bắt đầu từ điều tâm, sau cuối đến phi tưởng, mỗi địa đều có quán chiếu phát sinh vô lậu mà không có lỗi nhàm chán điều ác, tự hại, nên gọi là Đặc thắng. Các thầy phần nhiều dùng mười sáu thứ này mà đối quán bốn Niệm xứ. Nếu giải thích này thì tấn thối y cứ vị chỉ ngang bằng với sáu Diệu môn. Phân biệt hai thứ đối với Đặc thắng ở trước thị dọc ngang khác nhau. Lược nói như sau, vừa ý lấy dùng. Biết hơi thở vào: Khi mới tu tập Đặc thắng thì chính là nương tùy tức, nên dùng biết hơi thở vào làm môn, tức là thay thế pháp sổ tức để điều tâm. Sở dó như thế là. Vì sổ tức (đếm hơi thở) thì ám tâm mà đếm nên quán tuệ không sáng. Nay biết hơi thở vào thì (biết) hơi thở rõ ràng, nên giải tuệ dễ phát. Ấy là dùng biết hơi thở vào làm pháp điều tâm. Nếu đem mười sáu Đặc thắng mà đối ngang với bốn Niệm xứ thì Từ biết hơi thở vào trở đi là có năm Đặc thắng, đều thuộc về quán thân niệm xứ. Biết hơi thở ra: Người tu Đặc thắng phải dùng biết hơi thở ra mà thay cho pháp sổ tức đầu tiên để điều tâm. Ý nghóa như giải thích ở trước. Nếu đối với niệm xứ thì cũng thuộc về quán thân niệm xứ. Biết hơi thở dài ngắn: Người tu Đặc thắng phải nhờ quán để điều tâm. Tâm đã tịnh tế thì chiếu rõ dần sáng. Nếu được thô trụ, tế trụ và định cõi dục. Trong Định ám chướng mỏng dần, tức liền biết hơi thở ra vào dài ngắn. Nếu đối với niệm xứ thì vẫn thuộc về quán thân niệm xứ. Biết hơi thở khắp thân: Người tu Đặc thắng từ định cõi Dục cùng quán giúp nhau mà vào Vị Đáo địa. Cho nên khi chứng minh Vị đáo địa định thì biết thân và định pháp đều là giả dối. Hơi thở ra vào khắp thân nhè nhẹ dường như dường có như không. Đã ở trong định chiếu soi rõ ràng mà tâm nhiễm trước mỏng dần. Nếu đối với niệm xứ thì vận thuộc về Thân niệm xứ. Trừ các thân hành: Người tu Đặc thắng từ Vị Đáo địa, khi muốn vào Sơ thiền thường phải quán xét chia chẻ. Do đây nếu phát pháp giác quán sơ thiền thì thân tâm rỗng sáng, như người mắt sáng nhìn trời xanh thì thấy rất rõ ràng các thứ trên trời, phân biệt cảnh giới mình chứng đều là giả dối, không có nhân ngã. Đã không có nhân ngã thì ai làm các việc, ai thọ thiền định. Ấy là điên đảo khởi thân nghiệp đều hoại diệt, cho nên trừ các thân hành. Nếu đối với niệm xứ thì đây vận thuộc về quán thân niệm xứ. Thọ hỷ: Người tu Đặc thắng, đã thường tương ưng với quán tuệ, nếu chứng sơ thiền hỷ chi thì sẽ chiếu rõ. Do đó hỷ sinh không lỗi nên gọi là Thọ hỷ. Nếu đối với niệm xứ thì từ đây có ba Đặc thắng đều thuộc về quán thọ niệm xứ. Thọ vui: Người tu Đặc thắng đã thường tương ưng với quán tuệ. Nếu chứng Sơ thiền khi được lạc chi thì sẽ biết rõ. Đối với lạc chi mà không khởi đắm trước, vì không có chỗ thọ mà thọ xúc vui nên gọi là thọ vui. Nếu đối với niệm xứ thì cũng thuộc về quán thọ niệm xứ. Thọ các tâm hạnh: Người tu Đặc thắng đã thường cùng quán tuệ giúp đỡ lẫn nhau. Nếu khi chứng chi Sơ thiền nhất tâm thì liền chiếu rõ nhất tâm, chẳng khởi điên đảo. Ở trong nhất tâm mà được chánh thọ, nên gọi là thọ các tâm hành. Nếu đối với niệm xứ thì đây vẫn thuộc về quán thọ niệm xứ. Tâm làm hỷ: Người tu Đặc thắng khi lìa Sơ thiền vào Nhị thiền thì thường tự chiếu rõ. Do đó nếu phát nội tịnh hỷ của Nhị thiền thì chân hỷ từ quán tuệ mà sinh. Nên gọi là tâm làm hỷ. Nếu đối với niệm xứ thì đây có ba Đặc thắng đều thuộc về quán tâm niệm xứ. Tâm làm nhiếp: Người tu Đặc thắng, đã do quán tuệ mà được chi nhất tâm của Nhị thiền tức chiếu rõ nhất tâm. Do đó mà đảo tưởng chẳng khởi, nên gọi tâm làm nhiếp. Nếu đối với niệm xứ thì vẫn thuộc về quán tâm niệm xứ. Tâm làm giải thoát: Người tu Đặc thắng khi lìa Nhị thiền vào Tam thiền thường có quán chiếu. Cho nên nếu phát Tam thiền thì liền chiếu rõ. Tuy được diệu lạc nhưng tâm không mê đắm, không vướng lụy tự tại, nên gọi là tâm làm giải thoát. Nếu đối với niệm xứ thì vẫn thuộc về quán tâm niệm xứ. Quán vô thường: Người tu Đặc thắng khi lìa Tam thiền vào Tứ thiền thường tu quán chiếu, cho nên khi phát Tứ thiền bất động định thì tự quán đạt. Trong định, tâm thức luống dối, niệm niệm sinh diệt, nên gọi là quán Vô thường. Nếu đối với niệm xứ thì từ đây có năm Đặc thắng đều thuộc về quán pháp niệm xứ. Quán xuất tán: Người tu Đặc thắng khi từ Tứ thiền vào Hư không xứ càng tu quán trí thì trong ngoài chiếu rõ, cho nên nếu khi chứng Không định thì sẽ có lìa cõi sắc duyên thức mà tự tại, tiêu tán mà dối trá chẳng thật, tâm không mê đắm nên gọi là Quán xuất tán. Nếu đối với niệm xứ thì vẫn thuộc về quán pháp niệm xứ. Quán ly dục: Người tu Đặc thắng lìa định Hư không xứ khi vào Thức xứ thường dùng quán tuệ tự xem xét muốn lìa hư không xứ. Tâm lìa dục cho nên phát Thức xứ định, tức là quán đạt (quán thấu suốt). Thức định dối trá chẳng thật, tâm không mê đắm nên gọi là quán ly dục. Nếu đối với niệm xứ thì cũng thuộc quán pháp niệm xứ. Quán diệt: Người tu Đặc thắng khi lìa thức xứ mà vào vô sở hữu xứ thì dùng trí chiếu rõ cảnh sở tu và tâm năng tu, cho nên nếu phát vô sở hữu xứ xứ định tức là tự quán đạt Vô sở hữu xứ là dối trá chẳng thật nên tâm chẳng đắm trước, nên gọi là quán diệt. Nếu đối với niệm xứ thì vẫn thuộc về quán pháp niệm xứ. Quán khí xả (buông bỏ): Người tu Đặc thắng lìa Vô sở hữu xứ tu Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng tức là tự dùng trí quán sát pháp sở tu và tâm năng tu. Cho nên nếu khi phát định vô tưởng thì liền quán chiếu rõ ràng, biết rõ định Phi tưởng xứ cả hai đều bỏ nhưng vẫn còn có niệm tưởng sâu kín. Bốn chúng hòa hợp mà có dối trá chẳng thật, không phải là chân pháp Niết-bàn An vui thì tâm không mê đắm. Người tu Đặc thắng nếu ở mỗi địa mà tu quán chiếu rõ thì trong các địa điên đảo chẳng khởi, tâm chẳng đắm nhiễm. Tùy nhân duyên chỗ gặp liền ở địa đó mà phát chân vô lậu, chứng đạo Ba thừa. Nói lược về đặc thắng đã xong. Nói ít nên ý khó thấy, người đọc cần phải dùng tâm khéo léo so sánh khiến biết trong mỗi địa đều cùng bốn thiền căn bản không chứng một lượt, tuy đồng mà quán tuệ có khác. THÔNG MINH THIỀN: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, hư không xứ, Thức xứ, Thiểu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, định diệt thọ tưởng. Kế mười sáu Đặc thắng là nói về Thông minh thiền. Thiền này (dọc ngang sâu kín), định quán khéo léo hơn cả Đặc thắng. Cho nên kế nói sau, mà chẳng nói tiếp sau chín tưởng bội xả. Thiền này tuy thật quán sâu kín, mà chưa được giải vô lậu, được dụng đối trị rộng lớn. Có nghóa là phá phiền não rất kém cho nên chẳng sắp sau bội xả vì cũng phải là khí loại. Nay ở sau mười sáu Đặc thắng mà được chỗ, gọi là thông minh, vì nói về tướng thiền này có nêu đủ trong kinh Đại Tập, nhưng kinh không nêu danh mục riêng mà các Thiền sư ở các nước phương Bắc ngồi chứng pháp này, muốn dùng để dạy người thì phải nêu danh để truyền đời. Nếu dùng thiền căn bản mà nói. Tuy tên có tương tợ mà hành tướng có khác. Còn dùng tên này thì người nói, người làm đều hiểu nghóa thường, rất trái với sự mầu nhiệm ấy. Nếu đặt sau mười sáu pháp quán đặc thắng thì tuy có giống chút ít mà tên gọi đều không liên quan. Nếu đối với Bội xả thắng xứ thì tên và quán đều rất khác. Đã tấn thối đều chẳng đồng với các thiền khác thì đâu, thể dùng tên các thiền khác mà nói, cho nên lập riêng tên nó gọi là Thông minh. Nói thông minh là khi tu thiền này phải quán chung ba việc nên gọi là Thông minh. Cũng vì phát được sáu thông, ba minh nên gọi là Thông minh. Chỉ có cảnh giới thiền này quá rườm rà không thể truyền thuật được. Nay chỉ nêu qua khoa mục trong kinh Đại Tập nói mà chỉ bày cho biết có một pháp môn khác thường này truyền bá thiền. Sơ thiền có sáu chi, kinh Đại Tập chép: Nói Sơ thiền cũng gọi là cụ, cũng gọi là ly. Ly nghóa là lìa năm cái, cụ nghóa là đủ năm chi. Nói năm chi tức là giác, quán, hỷ, lạc, an định. Giác chi: Thế nào là Giác? Như tâm giác đại giác, tư duy đại Tư duy, quán về tâm tánh thì gọi là Giác. Thế nào là Quán? Là tâm thực hành đại hạnh cùng khắp tùy hỷ, đó gọi là Quán. Thế nào là Hỷ? Như chân thật biết đại Biết tiểu, tâm động tâm, đó gọi là Hỷ. Thế nào là lạc, là thực hành pháp này thì tâm nhận được các lạc xúc (các vui), đó gọi là lạc. Thế nào là An? Nghóa là tâm an, thân an, nhận được các vui, đó gọi là An. Thế nào là Định? Nghóa là như tâm trụ đại trụ chẳng loạn, ở duyên chẳng nhầm không có điên đảo, đó gọi là trụ. Nhị thiền có ba chi, kinh Đại Tập chép: Nhị thiền cũng gọi là Ly, cũng gọi là Cụ. Ly là lìa năm cái, cụ là đủ ba chi, tức là hỷ, an, định. Tam thiền có năm chi, kinh Đại Tập chép: Tam thiền cũng gọi là Ly, cũng gọi là Cụ. Ly là lìa năm cái, cụ là đủ năm chi, tức là niệm, xả, tuệ, an, định. Tứ thiền có bốn chi. Kinh Đại Tập chép: Tứ thiền cũng gọi là Ly, cũng gọi là Cụ. Ly là đồng lìa năm cái, cụ là đủ bốn chi, tức là niệm, xả, không khổ không vui, định. Định Không xứ, kinh Đại Tập chép: Nếu có Tỳ-kheo quán thân mà nhàm chán sợ hãi, xa lìa thân tướng, tất cả thân xúc, hỷ xúc, lạc xúc, phân biệt sắc tướng xa lìa sắc Ấm, quán vô lượng không xứ, thì Tỳ-kheo ấy được định Không xứ. Thức xứ định. Kinh Đại Tập chép: Nếu có Tỳ-kheo tu Xa-ma-tha Tỳ-bà-xá-năng lực, quán tâm, ý, thức tự biết thân này chẳng thọ ba thọ. Vì được xa lìa ba thứ thọ ấy, nên tỳ-kheo đó được Thức xứ định. Định Thiểu xứ. Kinh Đại Tập chép: nếu có Tỳ-kheo quán không ba đời biết tất cả hạnh vừa sinh vừa diệt. Không xứ, Thiểu xứ vừa sinh vừa diệt. Thực hành quán ấy rồi thứ lớp mà quán thức: Nay ta thức này vừa thức vừa chẳng phải thức. Nếu chẳng phải thức thì gọi là vắng lặng. Vì sao ta cầu cắt đứt thức này, đó gọi là được Thiểu xứ định. Định Phi tưởng, kinh Đại Tập chép: Nếu Tỳ-kheo có phi tâm tưởng, nghó rằng: Nay ta tưởng này là khổ lậu, là ghẻ nhọt, là chẳng vắng lặng. Nếu ta dứt bỏ phi tưởng và Phi phi tưởng ấy thì gọi là tịch tịnh. Nếu có Tỳ-kheo dứt bỏ Phi tưởng Phi phi tưởng ấy thì gọi là được Vô tưởng giải thoát môn. Vì sao? Vì Tỳ-kheo pháp hạnh nghó rằng: Nếu có thọ tưởng, hoặc có thức tưởng, hoặc có xúc tưởng, hoặc có không tưởng, hoặc có thức tưởng, hoặc phi tưởng Phi phi tưởng, v.v… thì đều là thô tưởng. Nay ta nếu tu Tam-muội Vô tưởng thì dứt bò được các tưởng như thế. Cho nên ở Phi tưởng Phi phi tưởng là vắng lặng. Thấy như thế rồi bèn nhập vào Phi phi tưởng định. Đã chẳng còn yêu đắm mà phá vô minh ấy rồi thì được quả A-la-hán. Ba thứ định trước hai đạo đã dứt, định thứ tư sau chẳng thể dùng đạo thế tục mà dứt. Phàm phu ở Phi tưởng xứ tuy lìa Niết-bàn thô mà cũng có mười thứ tế pháp. Vì không có phiền não thô nên tất cả phàm phu gọi là Niết-bàn. Phàm phu đó tức là ngoại đạo Uất-đầu-lam-phất. Định Diệt tận, kinh Đại Tập chép: Này Kiều-trần-như! nếu có Tỳ-kheo tu tập Thánh đạo nhàm chán xa lìa Bốn thiền, bốn Không xứ quán, là đạo diệt định trang nghiêm mà vào định Diệt tận. Nay nói về chi thiền Thông minh đều trích từ kinh Đại Tập, trong đó không có một câu giải thích riêng nào. Người độc nên tự tìm suy nghó. <篇> PHÁP GIỚI THỨ ĐỆ SƠ MÔN <卷>QUYỂN TRUNG (PHẦÂN 1) CHÍN TƯỞNG: Một là tưởng sình chương; hai là tưởng sưng tím; ba là tưởng hư hoại; bốn là tưởng máu chảy ra; năm là tưởng máu mủ nhầy nhụa; sáu là tưởng bị cắn xé; bảy là tưởng rã tan; tám là tưởng xương; chín là tưởng đốt. Kế Thông minh thiền là nói về chín tưởng. Trên nói thiền tuy có định tuệ mà chỉ là thật quán chưa có quán đắc giải thì sức đối trị sẽ rất yếu, từ chín tưởng trở đi nói về thiền định đều có quán đắc giải để đối trị bệnh nặng phiền não, lực dụng sẽ mạnh. Như đống cây gỗ chắc mà dùng dao nhỏ thì không chặt được phài dùng búa lớn. Chín tưởng là đầu tiên của quán Đắc giải, nên kế nói chín thứ này gọi chung là tưởng, vì chuyển được tâm, chuyển được tưởng. Vì có công năng chuyển tưởng bất tịnh điên đảo nên chín thứ này đều gọi là Tưởng. Tưởng sình chương. Nếu quán thây người chết sình chương lên như cái túi đầy hơi, khác với tướng xưa, đó gọi là Tưởng sình chương. Tưởng bầm xanh. Nếu quán thây chết da thịt vàng đỏ, ứ chất xanh đen thì gọi là tưởng bầm xanh. Tưởng hư hoại. Nếu quán thây chết gió thổi mặt trời thiêu đốt khiến vữa nát ra, ấy là Tưởng hư hoại. Tưởng máu chảy tràn lan: Nếu quán thây chết máu mủ chảy đầy dẫy, dơ bẩn tràn lan, đó là tưởng máu chảy tràn lan. Tưởng máu mủ nhầy nhụa: Nếu quán thây chết thịt da nhầy nhụa, giòi trong máu mủ bò ra khắp đất, đó là tưởng máu mủ nhầy nhụa. Tưởng cắn xé. Nếu quán thây chết bị giòi bọ sâu kiến bu ăn, chim mổ, thú cắn xé. Đó là tưởng bị cắn xé. Tưởng phân tán. Nếu quán thây chết, cầm thú cắn xé, thân hình phân tán, gân xương chia lìa, đầu mình tay chân ngỗn ngang, ấy là tưởng phân tán. Tưởng bộ xương. Nếu quán thây chết, da thịt đã hết chỉ thấy toàn xương trắng, gân liền hoặc rời ra, ấy là tưởng xương. Tưởng thiêu đốt. Nếu quán thây chết bị lửa thiêu đốt tan vụn khói bốc lên, củi hết hình mất, chỉ còn tro nát. Nếu chẳng thiêu đốt thì cũng bị tan mất, đó là tưởng đốt. 2 2.TÁM NIỆM: 1.Niệm Phật; 2.Niệm pháp; 3.Niệm tăng; 4. Niệm giới; 5. Niệm xả; 6. Niệm thiên; 7. Niệm hơi thở ra vào; 8. Niệm cái chết. Kế chín tưởng thì nói về tám niệm để trừ sợ sệt. Nếu khi tu chín tưởng, suy nghó thây chết đáng nhàm chán, do đây mà sợ hãi nổi ốc và bị ác ma quấy nhiễu, lo sợ càng thêm. Nếu để ý tám niệm thì sợ sệt liền dứt, cho nên nói rõ. Gọi chung là Niệm, Niệm là tên khác của trong tâm nhớ nghó, chuyên tâm nhớ tám công đức này, nên gọi là tám niệm. Không phải chỉ trừ được sợ sệt thế gian. Nếu khéo tu thì cũng dứt trừ được tất cả chướng nạn và ba cõi thế gian sinh tử. Niệm Phật: Khi gặp sợ sệt và các chướng nạn thì nên niệm Phật. Phật là Đa-đà A-già-độ A-la-ha-Tam-niệm-Tam-Phật-đà, thần đức vô lượng, nghó nhớ như thế rồi thì sợ sệt và các chướng nạn đều trừ. Niệm pháp: Nếu khi có chướng nạn và sợ sệt thì nên niệm pháp. Phật pháp khéo sinh ra quả ngay đời này không nóng bức, không đợi lúc đến chỗ thiện, thông suốt vô ngại ấy là Niệm pháp. Niệm tăng: Tăng là chúng đệ tử Phật, có đủ năm phần Pháp thân, trong đó có bốn song tám bối được quả ba thừa, xứng đáng thọ nhận cúng dường lễ bái v.v… là ruộng phước vô thượng của thế gian, đó là niệm Tăng. Niệm giới. Giới có công năng ngăn các điều ác, là chỗ ở an ổn. Trong đây giới có ba thứ. Đó là giới Luật nghi, giới Định cộng, và giới Đạo cộng. Luật nghi thì trừ được điều các ác của thân miệng. Định cộng thì ngăn được các ác giác phiền não. Đạo cộng thì phá vô minh được tuệ giải thoát, đó là niệm giới. Niệm xả. Có hai thứ: Một là Xả thí xả; hai là Xả phiền não xả, Xả thí xả thì sinh ra công đức lớn. Xả phiền não xả, là do đây mà được trí tuệ, nhập Niết-bàn, đó là niệm xả. Niệm thiên: Tức là từ trời Tứ thiên vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Hoặc có bốn thứ trời: Một là Thiên, hai là Sinh thiên, ba là Tịnh thiên, bốn là Sinh tịnh thiên. Như thế quả báo thanh tịnh, lợi ích an vui tất cả, đó là niệm thiên. Niệm A-na-na, như mười sáu Đặc thắng nói niệm hơi thở ra vào. Như thế khi niệm trì trừ được tâm loạn mà nhập vào chánh đạo huống chi các sợ sệt ở thế gian, đó là niệm A-na-ban-na. Niệm cái chết: có hai thứ (chết): Một là (tự chết), hai là do nhân duyên khác mà chết. Hai thứ này thường theo thân không thể tránh được. Đó là niệm cái chết. 2 3.MƯỜI TƯỞNG: 1.Tưởng vô thường; 2. Tưởng khổ; 3.Tưởng vô ngã; 4. Tưởng thức ăn bất tịnh; 5. Tưởng thế gian chẳng có gì đáng vui; 6.Tưởng cái chết; 7.Tưởng bất tịnh; 8.Tưởng dứt; 9.Tưởng ly; 1 0. Tưởng cùng tận. Kế tám niệm là nói về mười tưởng. Luận Đại Trí Độ chép: Chín tưởng như dây trói giặc, mười tưởng như giết giặc. Nếu thế phải trước nói chín tưởng, chỉ khi tu chín tưởng thì có các chướng nạn và sợ sệt, nên phải nói tám niệm. Đã lìa được các sợ sệt rồi thì tâm an và không chướng. Nên kế nói mười tưởng. Nói tưởng là vì có công năng chuyển được tâm, chuyển được tưởng, chuyển được các tưởng điên đảo như chấp thường, lạc, v.v…, nên gọi là Tưởng. Ba là tưởng trước là đoạn kiến đế hoặc mà nói, bốn tưởng giữa là đoạn tư duy hoặc mà nói và ba tưởng sau là vì tu đạo vô học mà nói. Do đó người hoại pháp phải tu mười tưởng này thì dứt được kết sử ba cõi mà chứng quả Thánh vô lậu. Tưởng vô thường. Quán tất cả pháp hữu vi là vô thường, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là tưởng vô thường. Tất cả pháp hữu vi có hai thứ: Một là chúng sinh, hai là cõi nước. Hai thứ này đều thường mới và sinh diệt, nên gọi là Vô thường. Tưởng khổ. Quán tất cả pháp hữu vi là khổ, trí tuệ tương ưng với tưởng (dùng trí tuệ mà tưởng) gọi là tưởng khổ. Nếu pháp hữu vi vô thường, tức là khổ thường bị áp bức của ba khổ, tám khổ. Ấy gọi là Khổ. Tưởng vô ngã. Quán tất cả pháp là vô ngã, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là Tưởng vô ngã. Nếu pháp hữu vi đều là khổ thì tức là vô ngã, vì không tự tại, cũng vì khổ từ duyên sinh mà không có tự tánh. Trong không có tự tánh nên ngã không thật có. Tưởng thức ăn bất tịnh. Quán các thức ăn uống đều bất tịnh, trí tuệ tương ưng với tưởng nên gọi là Tưởng thức ăn bất tịnh. Thức ăn uống thế gian đều từ nhân duyên bất tịnh, cho nên thịt từ tinh huyết sinh ra, bơ lạc từ đường nước tinh huyết sinh ra, tùy việc mà quán, đều là bất tịnh. Tưởng thế gian chẳng có gì đáng vui. Quán tất cả thế gian đều chẳng có gì đáng vui, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là Tưởng thế gian chẳng có gì đáng vui. Có hai thứ thế gian: Một là chúng sinh, hai là cõi nước. Có nhiều lỗi ác chẳng đáng vui. Tưởng cái chết. Quán cái chết, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là Tưởng cái chết. Nếu quả báo trong một thời kỳ thường bị hai thứ chết đeo đuổi thì thở ra có thể không thở vào. Tưởng bất tịnh: Quán thân mình và người đều bất tịnh, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là Tưởng bất tịnh. Như quán trong thân này có ba mươi sáu vật, ngoài thì có chín lỗ thường tiết ra nước dơ. Từ sinh đến chết không có một thứ nào là sạch cả. Tưởng dứt: Quán Niết-bàn lìa sinh tử, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là Tưởng dứt. Người tu phải nghó nếu Niết-bàn thanh tịnh không có phiền não thì phải dứt trừ kết sử mà chứng Niết-bàn. Tưởng lìa. Quán Niết-bàn lìa sinh tử, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là Tưởng lìa. Người tu suy nghó nếu Niết-bàn thanh tịnh lìa sinh tử, thì phải lìa sinh tử mà chứng Niết-bàn. Tưởng cùng tận. Quán Niết-bàn, kết sử và sinh tử dứt hết, trí tuệ tương ưng với tưởng gọi là Tưởng cùng tận. Người tu nghó rằng: Nếu Niết-bàn thanh tịnh kết sử và sinh tử, thì phải dứt hẳn kết sử và nghiệp sinh tử mà chứng Niết-bàn. 2 4.TÁM BỐI XẢ: 1.Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc; 2.Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc; 3. Tịnh bối xả thân làm chứng; 4.Hư không xứ bối xả; 5.Thức xứ bối xả; 6. Vô sở hữu xứ bối xả; 7.Phi hữu tưởng phi vô tưởng bối xả; 8. Diệt thọ tưởng bối xả. Kế mười tưởng là nói về tám bối xả. Trước nói chín tưởng mười tưởng. Đã là hoại pháp đối trị quán môn thì ngang cục mà dọc ngắn, đối trị các thiền định quán đều chưa đầy đủ. Nếu chứng quả Thánh thì không có các công đức lớn chưa ba minh, tám giải thoát, v.v… Nay muốn nói đủ tất cả vô lậu đối trị, quán luyện huân tu thiền định nên sẽ nói kế đây. Nếu tu quán này luyện các thiền định khi chứng quả Thánh thì thành La- hán có sức mạnh, đầy đủ sáu thông ba minh và tám giải thoát, Nguyện trí đảnh thiền, Tam-muội Vô tránh, v.v… là các công đức. Tám thứ này gọi chung là tám bối xả. Luận Đại Trí Độ chép: Bối là tịnh khiết năm dục. Xả là tâm đắm, nên gọi là bối xả. Nếu phát trí tuệ vô lậu chân thật, dứt hết kiết nghiệp ba cõi thì gọi là giải thoát. Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc: Trong có sắc tướng là chẳng hoại nội sắc, chẳng diệt sắc tướng bên trong. Ngoài quán sắc là chẳng hoại sắc ngoài, chẳng diệt sắc tướng bên ngoài, lấy tâm bất tịnh ấy mà quán sắc ngoài. Rõ ràng như thế vì tu lưu quang nên chẳng phải ở trong Sơ bối xả mà hoại diệt xương người trong thân. Kết sử cõi Dục khó dứt cho nên phải dùng tâm bất tịnh mà quán sắc ngoài. Vị Sơ bối xả này ở Sơ thiền xả được mình người và ở địa dưới nên gọi là Bối xả. Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc. Trong không sắc tướng, hoại sắc trong, diệt tướng sắc trong. Ngoài quán sắc là chẳng hoại sắc ngoài, chẳng diệt tướng ngoại sắc. Dùng tâm bất tịnh mà quán sắc ngoài. Rõ ràng như thế người tu vì nhập vào Nhị thiền nội tịnh mà hoại diệt người trong xương. Vì kết sử cõi dục khó dứt nên cũng quán tướng bất tịnh bên ngòai. Tịnh bối xả thân làm chứng. Tịnh là duyên tịnh nên gọi là tịnh. Người tu từ tướng bất tịnh bên ngoài , chỉ ở trong định mà luyện tám sắc ánh sáng, thanh tịnh sáng sạch cũng như mầu chất báu, nên gọi là duyên tịnh thân làm chứng. Vì không có tâm (đắm trước) nên được thân khắp vui trong Tam thiền, nên gọi là thân làm chứng. Hư không xứ bối xả. Nếu diệt sắc căn bản Tứ thiền và ba bối xả, bốn thắng xứ, tám sắc trong tất cả chỗ, một tâm duyên với vô biên hư không mà nhập định, tức là quán định này nương Ấm nhập giới, cho nên có vô thường, khổ, không, vô ngã, giả dối chẳng thật mà tâm sinh nhàm chán chẳng đắm trước, thâm nhập sâu vào, một bề không trở lại. Ấy là Hư không xứ bối xả. Thức xứ bối xả. Nếu xả hư không, khi một tâm duyên thức vào định thì quán định này, nương Ấm nhập, giới nên có vô thường, khổ, không, vô ngã, dối trá chẳng thật, tâm sinh nhàm chán mà chẳng không thọ trước, vào sâu một bề chẳng trở lại, đó là Thức xứ bối xả. Vô sở hữu xứ bối xả. Nếu xả thức, một tâm khi duyên vô sở hữu mà vào định, tức quán định này, nương Ấm nhập giới cho nên có vô thường, khổ, không, vô ngã, dối trá chẳng thật, tâm sinh nhàm chán mà chẳng thọ trước, vào sâu một bề chẳng trở lại. Ấy là Vô sở hữu xứ bối xả Phi hữu tưởng, phi vô tưởng bối xả: Nếu xả vô sở hữu xứ, khi một tâm duyên Phi hữu tưởng phi vô tưởng mà vào định, tức quán định này, nương Ấm nhập giới cho nên có vô thường, khổ, không, vô ngã, dối trá chẳng thật, tâm sinh nhàm chán mà chẳng thọ trước, vào sâu một bề chẳng trở lại. Ấy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng bối xả. Diệt thọ tưởng bối xả. Bối diệt thọ tưởng các pháp tâm, tâm sổ. Ấy là Diệt thọ tưởng bối xả. Vì sao? Các đệ tử Phật nhàm chán sợ sệt tâm tán loạn, muốn nhập định nghỉ ngơi, đặt pháp Niết-bàn mà vào trong thân, cho nên nói thân chứng mà tưởng thọ diệt. 2 5. TÁM THẮNG XỨ: 1.Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc ít, hoặc tốt hoặc xấu, đó gọi là Thắng tri thắng kiến; 2. Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc nhiều, hoặc xấu hoặc tốt, đó gọi là Thắng tri thắng kiến; 3. Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc ít cũng như thế; 4. Trong không sắc tướng ngoài quán sắc nhiều cũng như thế; 5. Thanh thắng xứ; 6. Hoàng thắng xứ; 7. Xích thắng xứ; 8. Bạch thắng xứ. Kế tám bối xả là nói về tám thắng xứ. Bối xả tuy có dụng bối xả tịnh khiết năm dục. Đã là sơ quán ở trong duyên mà chuyển biến, chưa được tự tại tùy tâm. Nếu muốn quán tâm được thuần thục chuyển biến tự tại, ắt cần phải tiến tu thắng xứ quán. Cho nên sẽ nói kế đây, vì vậy luận Trí Độ có thí dụ rằng: Như người cởi ngựa phá trận, cũng tự chế phục ngựa ấy, nên gọi là Thắng xứ, cũng gọi là tám trừ nhập. Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc ít, hoặc tốt hoặc xấu, đó gọi là Thắng tri, thắng kiến. Trong có sắc tướng ngoài quán sắc ít: Sơ bối xả mà nói ít, là duyên ít nên nói ít. Nếu quán đạo chưa thêm nên phải quán ít nhân duyên, nhiều thì sợ khó nhiếp, chuyển biến chẳng được tùy tâm. Nếu quán ít đẹp xấu trong pháp bất tịnh thì chuyển biến tự tại, thông đạt vô ngại. Tâm không lấy bỏ chẳng khởi yêu ghét. Ấy gọi là Thắng tri thắng kiến. Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc nhiều, hoặc xấu hoặc tốt, đó gọi là Thắng tri thắng kiến. Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc. Như sơ bối xả mà nói nhiều là quán nhiều nhân duyên, nên gọi quán nhiều. Tâm đã điều phục thành khuôn phép thì quán nhiều không hại, cho nên nói nhiều. Nếu đối chiếu tốt xấu ở trong cảnh bất tịnh mà chuyển biến tự tại thông đạt vô ngại, tâm không lấy bỏ, chẳng khởi yêu ghét. Đó gọi là Thắng tri thắng kiến. Trong không sắc tướng ngoài quán sắc ít, hoặc tốt hoặc xấu, đó gọi là Thắng tri thắng kiến. Trong không sắc tướng như hai bối xả, ngoài quán sắc ít hoặc tốt hoặc xấu v.v…. đều như Thắng xứ ở đầu. Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc nhiều, hoặc tốt hoặc xấu, đó gọi là Thắng tri thắng kiến. Trong không sắc tướng như hai bối xả, ngoài quán sắc ít hoặc tốt hoặc xấu đều như hai Thắng xứ Thanh thắng xứ. Nếu quán mầu xanh, chuyển biến tự tại, ít có thể nhiều, nhiều có thể ít, sắc sáng rực rỡ hơn cả bối xả. Tướng xanh được thấy cũng chẳng khởi ưa thích, nên gọi là Thanh thắng xứ Hoàng thắng xứ, giống như phân biệt của Thanh thắng xứ. Xích thắng xứ, giống như phân biệt của Thanh thắng xứ. Bạch thắng xứ, giống như phân biệt của Thanh thắng xứ. Nay dùng bốn sắc làm thắng xứ là y theo luận Đại Trí Độ, như trong kinh Anh Lạc thì dùng bốn đại, bốn thắng xứ. 2 6.MƯỜI NHẤT THIẾT XỨ: Một là Thanh nhất thiết xứ; hai là Hoàng nhất thiết xứ; ba là Xích nhất thiết xứ; bốn là Bạch nhất thiết xứ; năm là Địa nhất thiết xứ; sáu là Thủy nhất thiết xứ; bảy là Hỏa nhất thiết xứ; tám là Phong nhất thiết xứ; chín là Không nhất thiết xứ; mười là Thức nhất thiết xứ. Kế tám thắng xứ là nói về mười Nhất thiết xứ. Thắng xứ tuy ít mà trong quán chuyển biến tự tại nhưng chưa cùng khắp. Nay mười Nhất thiết xứ sẽ quán cùng khắp, do đó mà kế đây sẽ nói. Luận Đại Trí Độ chép: Bối xả là sơ môn (môn đầu), thắng xứ là trung hạnh (hạnh giữa), Nhất thiết xứ là thành tựu (thành tựu sau cùng). Ba thứ quán đủ tức là quán thiền thể thành tựu, gọi chung là Nhất thiết xứ, đều từ chỗ quán cảnh đầy khắp mà được tện gọi. Cũng gọi là mười Nhất thiết nhập. Thanh nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc xanh trong bối xả thắng xứ ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều xanh. Hoàng nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc vàng trong bối xả thắng xứ ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều vàng. Xích nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc đỏ trong bối xả thắng xứ ở trước khiến cho khắp tất cả chỗ đều đỏ. Bạch nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc trắng bối xả trong thắng xứ ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều là trắng. Địa nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc đất trong bối xả thắng xứ ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều là sắc đất. Thủy nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc nước trong bối xả thắng xứ ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều là sắc nước. Hỏa nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc lửa trong bối xả thắng xứ ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều là sắc lửa. Phong nhất thiết xứ: lại lấy ít sắc gió trong bối xả thắng xứ ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều là sắc gió. Không nhất thiết xứ: lại vào định hư không bối xả ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều là không. Thức nhất thiết xứ: lại lấy ít thức xứ bối xả ở trước, khiến cho khắp tất cả chỗ đều có thức. 2 7.MƯỜI BỐN BIẾN HÓA: Sơ thiền có hai biến hóa, Nhị thiền có ba biến hóa, Tam thiền có bốn biến hóa, Tứ thiền có năm biến hóa. Hợp lại thành mười bốn biến hóa. Kế mười Nhất thiết xứ là nói về mười bốn biến hóa. Trên đã nói quán thiền, chánh thể tuy đủ nhưng chưa nói về công dụng. Nay muốn học dụng sáu thông, thì trước phải tu tâm biến hóa. Nói chung là Biến hóa, là khiến cho không mà chợt có, có mà chợt không, nên gọi là biến hóa. Sơ thiền có hai biến hóa: Một là sơ thiền hóa sơ thiền, có khả năng biến hóa địa mình; hai là Sơ thiền hóa cõi dục, có khả năng biến hóa địa dưới cõi Dục. Nhị thiền có ba biến hóa: Một là Nhị thiền hóa Nhị thiền, có khả năng biến hóa địa mình; hai là Nhị thiền hóa Sơ thiền, có khả năng biến hóa địa dưới Sơ thiền; ba là Nhị thiền hóa cõi dục, là có khả năng biến hóa địa dưới cõi dục. Tam thiền có bốn biến hóa: Một là tam thiền hóa tam thiền, là có khả năng biến hóa địa mình; hai là Tam thiền hóa Nhị thiền, có khả năng biến hóa địa dưới Nhị thiền; ba là Tam thiền hóa Sơ thiền, có khả năng biến hóa địa dưới Sơ thiền; bốn là Tam thiền hóa cõi dục, có khả năng biến hóa địa dưới cõi dục. Tứ thiền có năm biến hóa, tức Tứ thiền có khả năng hóa từ Tứ thiền, Tam thiền, Nhị thiền, Sơ thiền và cõi dục, tất cả có năm thứ như trên suy ra. 2 8.SÁU THẦN THÔNG: 1.Thiên nhãn thông; 2.Thiên nhó thông; Tri tha tâm thông; 4. Túc mạng thông; 5. Thân như ý thông; 6.Lậu tận thông. Kế biến hóa là nói về sáu thần thông. Ở đây có ba ý khác nhau. Nếu y báo được thần thông thì được thần thông rồi mới biến hóa. Nếu là tụ được thần thông thì trước phải tu biến hóa rồi mới được thần thông. Nay ở đây đã y cứ tu được thứ lớp, nên kế biến hóa là nói về Thần Thông, đây đều gọi là thông. Còn kinh Anh Lạc thì nói: Thần là thiên tâm, thông là tuệ tánh, là tuệ thiên nhiên thấu suốt vô ngại, nên gọi thần Thông. Thiên nhãn thông. Người tu Thiên nhãn nếu ở sâu trong thiền định thì phát được tạo sắc trụ cõi sắc bốn đại thanh tịnh, mắt thấy chúng sinh trong sáu đường chết đây sinh kia và thấy tất cả hình sắc ở thế gian, đó là Thiên nhãn thông. Thiên nhó thông. Người tu Thiên nhó, nếu ở sâu trong thiền định thì phát được bốn đại thanh tịnh tạo sắc trụ cõi sắc, tai nghe được tiếng nói của chúng sinh trong sáu đường và các thứ tiếng thế gian, ấy là Thiên nhó thông. Tri tha tâm thông. Người tu tha tâm trí nếu ở sâu trong thiền định thì phát trí tha tâm, liền biết được tâm và pháp số của chúng sinh trong sáu đường và các thứ duyên niệm, đó là Tha tâm thông. Túc mạng thông. Người tu túc mạng thông nếu ở sâu trong thiền định thì phát trí Túc mạng, liền biết được quá khứ một đời, hai đời, trăm ngàn muôn đời cho đến túc mạng (mạng đời trước) và các việc đã làm của mình trong tám muôn đại kiếp cũng hay biết được túc mạng và các việc làm của các chúng sinh, đó là Túc mạng thông. Thân như ý thông. Người tu thân thông nếu ở sâu trong thiền định thì phát được thân thông. Thông có hai thứ: Một là bay mau đến, núi không ngăn ngại được; hai là biến thân mình thành thân khác và các thứ trên thế gian tùy tâm tự tại, đó là Thân như ý thông. Lậu tận thông. Người tu lậu tận thông nếu ở sâu trong thiền định phát được chân trí kiến tư thì ba lậu dứt hết. Đó là Lậu tận thần thông. 2 9.CHÍN ĐỊNH THỨ LỚP: 1.Sơ thiền; 2.Nhị thiền; 3.Tam thiền; 4.Tứ thiền; 5.Không xứ; 6.Thức xứ; 7.Vô sở hữu xứ; 8.Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; 9. Diệt thọ tưởng thứ đệ định. Kế sáu thông là nói về chín định thứ lớp. Trên đã nói thiền, tuy thể dụng đã đủ mà đều là quán thiền, chưa nói tướng luyện thục điều nhu. Nay muốn nói tu luyện quán thiền thể dụng, khiến thuần thục vào thể và khi khởi thì tâm niệm không xen hở, cho nên kế là nói gọi chung là định Thứ lớp. Nếu khi nhập thiền thâm tâm trí tuệ sâu xa lanh lợi, từ một thiền vào một thiền, tâm tâm tiếp nối, không có niệm khác xen vào nên gọi là định Thứ lớp. Sơ thiền thứ đệ định, lìa các dục ác, các pháp bất thiện, có giác có quán, lìa sinh hỷ lạc khi vào định sơ thiền, ở trong sơ thiền định quán mà (ngang nhau), tự biết tâm ấy. Tâm ấy thứ lớp mà vào, không có sát- na tạp niệm xen vào định sơ thiền. Ấy là Sơ thiền thứ lớp định. Nhị thiền thứ đệ định. Nếu khi từ Sơ thiền vào Nhị Thiền, ở trong Nhị thiền định quán giới hạn, tự biết tâm ấy, tâm ấy thứ lớp mà vào, không có sát-na tạp niệm xen vào định Nhị thiền, đó là Nhị thiền thứ đệ định Tam thiền thứ đệ định: Ý loại giống như đã nói trong Sơ thiền và Nhị thiền. Tứ thiền thứ đệ định (như nói trong Sơ thiền và Nhị thiền). Hư không xứ thứ đệ định (cũng nói như trên). Thức xứ thứ đệ định (cũng nói như trên). Vô sở hữu xứ thứ đệ định (cũng nói như trên). Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ thứ đệ định (cũng nói như trên). Diệt thọ tưởng thứ đệ định. Nếu từ Phi hữu tưởng Phi vô tưởng khi vào định Diệt thọ tưởng thì như định trước tự biết tâm ấy, yếu kỳ tâm lợi, tâm tâm thứ lớp mà vào, không có sát-na tạp niệm xen vào định Diệt thọ tưởng. Ấy là Diệt thọ tưởng thứ đệ định. 3 0.BA TAM MUỘI: 1.Tam-muội có giác có quán; 2.Tam-muội không giác có quán; 3. Tam-muội không giác không quán; Kế chín định thứ đệ là nói về ba Tam-muội. Thể của chín định thứ đệ tức là ba Tam-muội, chỉ có ly hợp danh số nhiều ít khác nhau, chế lập có khác. Vì sao? vì chín định thứ đệ luyện chung các thiền mà chẳng có tự thể khác, còn ba Tam-muội cũng như thế. Cho nên biết thể không phải là pháp khác mà không đặt tên. Chín định danh số tuy nhiều nhưng chẳng lấy khoảng giữa, còn Tam-muội danh số tuy ít mà chung cho cả khoảng giữa hợp lấy chín định. Một bên từ lý sự các thiền mà được gọi Tam-muội, một bên từ các thiền lý sự mà được tên gọi, đó là hơi khác. Cho nên kế chín định thứ lớp là nói về ba Tam-muội. Nói Tam-muội là Tam-ma-đề, đời dịch Tần là Chánh tâm hành xứ. Là tâm ấy từ vô thỉ đến nay thường cong vạy, không đầu mối, nay được thẳng nên gọi là Tam-muội. Tam-muội Có giác có quán: Nếu dùng không vô tướng, vô tác tương ưng với tâm mà nhập vào các định quán Sơ thiền, và trong các phương tiện thì tất cả giác quán đều là thiền, đều là chánh trực, nên gọi là Tam-muội Có giác có quán. Tam-muội Không giác có quán: Nếu dùng không, vô tướng, vô tác tương ưng với tâm mà nhập vào các định, quán thiền trung gian thì tất cả thiền không giác có quán đều là chánh trực, nên gọi là Tam-muội Không giác có quán. Tam-muội Không giác không quán: Nếu dùng tâm tương ưng với không vô tướng vô tác mà nhập vào các định, mà quán trong thiền không giác không quán thì từ Nhị thiền cho đến định diệt thọ tưởng và định quán không giác không quán đều là chánh trực, nên gọi là Tam- muội Không giác không quán. 3 1.TAM MUỘI SƯ TỬ PHẤN TẤN: Có hai thứ Tam-muội Sư tử phấn tấn tam: Một là Phấn tấn nhập; hai là Phấn tấn xuất. Kế ba Tam-muội là nói về Tam-muội Sư tử phấn tấn. Trong kinh Đại Phẩm Phật tự khuyên rằng: Bồ-tát nương chín định thứ đệ mà vào Tam-muội Sư tử phấn tấn. Ba Tam-muội và chín định pháp tướng đã đồng cho nên nói kế ba Tam-muội vì nghóa không trái. Nói Sư tử phấn tấn là mượn dụ để hiển bày pháp, như ở đời có Sư tử và phấn tấn là hai việc. Cho nên một là giũ sạch bụi đất, hai là chạy đi chạy lại nhanh hơn các thú khác. Tam-muội này cũng như thế. Một là phủi sạch các hoặc chướng định nhỏ nhặt khó biết, hai là ra vào nhanh chóng không xen hở, khác với các thiền định đã được ở trên nên gọi là tam muội Sư tử phấn tấn. Nhập thiền phấn tấn. Tam muội sư tử phấn tấn nhập: lìa pháp dục ác bất thiện, có giác có quán sơ thiền. Như thế thứ lớp vào nương Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, định diệt thọ tưởng, đó là phấn tấn nhập. Xuất thiền phấn tấn. Sư tử phấn tấn xuất là định diệt thọ tưởng, lại nhập phi hữu tưởng phi vô tưởng. Xuất Phi hữu tưởng Phi vô tưởng lại nhập Vô sở hữu xứ, như thế Thức xứ, Không xứ, Tứ Tam Thiền, Nhị Thiền, sơ thiền cho đến trong xuất tán tâm, đó là phấn tấn xuất. 3 2.TAM MUỘI SIÊU VIỆT: 1. Siêu nhập; 2. Siêu xuất. Kế Sư tử phấn tấn là nói về Siêu việt, trong kinh Đại Phẩm Phật tự khuyên rằng Bồ-tát nương tam muội Sư tử phấn tấn nhập Tam-muội Siêu việt. Do đó gọi là Siêu việt, vì vượt qua các địa, tự tại ra vào, nên gọi là Siêu việt. Tam-muội Siêu nhập. Thế nào là Tam-muội Siêu nhập là lìa các pháp, dục ác bất thiện, có giác có quán ly sinh hỷ lạc nhập vào sơ thiền, xuất sơ thiền mà siêu nhập vào Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, xuất phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ rồi nhập vào định diệt thọ tưởng, định xuất diệt thọ tưởng rồi lại nhập vào nhị thiền, xuất nhị thiền rồi lại nhập định diệt thọ tưởng, xuất định diệt thọ tưởng rồi lại nhập vào Tam thiền, xuất tam thiền lại định diệt thọ tưởng, xuất định diệt thọ tưởng vào tứ thiền, xuất tứ thiền lại nhập vào định diệt thọ tưởng, xuất định diệt thọ tưởng lại nhập vào Thức xứ, xuất Thức xứ lại vào định diệt thọ tưởng, xuất định diệt thọ tưởng lại nhập vào bất dụng xứ, xuất bất dụng xứ lại nhập vào định diệt thọ tưởng, xuất định diệt thọ tưởng lại nhập vào Phi hữu tưởng Phi vô tưởng. Xuất phi hữu tưởng phi vô tưởng lại nhập vào định diệt thọ tưởng. Ấy là tướng Tam-muội siêu nhập của chư Phật, Bồ-tát. Nếu người Thinh văn thề chỉ có thể nhập vào một mà chẳng thể siêu nhập vào hai huống chi là có thể tự tại siêu nhập như trên nói. Trong ấy nói siêu nhập có ba thứ: Một là thuận nhập siêu; hai là nghịch nhập siêu; ba là thuận nghịch nhập siêu. Tế tâm y cứ nghóa tự có thể hiểu. Siêu xuất Tam-muội. Thế nào là Tam-muội siêu xuất, là xuất định diệt thọ tưởng thì nhập vào tán tâm. Xuất tán tâm mà nhập vào định diệt thọ tưởng. Xuất định diệt thọ tưởng lại nhập vào tán tâm, từ tán tâm lại nhập Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, xuất phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ lại trụ vào tán tâm. Xuất tán tâm lại nhập Vô sở hữu xứ. Xuất Vô sở hữu xứ lại trụ tán tâm. Xuất tán tâm lại nhập Thức xứ. Xuất thức xứ lại trụ tán tâm, xuất tán tâm lại nhập không xứ. Xuất không xứ lại trụ tán tâm, xuất tán tâm lại nhập Thức xứ. Xuất thức xứ lại trụ tán tâm, xuất tán tâm lại nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền lại trụ tán tâm. Xuất tán tâm lại nhập Tam thiền. Xuất tam thiền lại trụ Tán tâm, xuất tán tâm lại vào Nhị thiền, xuất nhị thiền lại trụ Tán tâm. Xuất tán tâm lại nhập sơ thiền. Xuất sơ thiền lại trụ Tán tâm. Đó là tướng Tam-muội siêu xuất của chư Phật, Bồ-tát. Nếu người Thinh văn siêu xuất thì chỉ có thể siêu vượt một thiền xuất ra mà chẳng thể siêu (vượt) được hai, huống chi có thể tự tại siêu xuất. Trong ấy, siêu xuất có ba: Một là thuận siêu xuất, hai là nghịch siêu xuất, ba là thuận nghịch siêu xuất. Đủ như ba thứ siêu nhập ở trước, hợp thành sáu thứ siêu việt Tam-muội. Như Lai ở trong sáu thứ Tam-muội này mà nhập Niết-bàn. Ngang đây đã nói các hạnh và thiền Ba thừa đã xong. <篇> PHÁP GIỚI THỨ ĐỆ SƠ MÔN <卷>QUYỂN TRUNG (PHẦN 2) 33.TỨ ĐẾ là: 1. Khổ đế; 2. Tập đế; 3. Diệt đế; 4. Đạo đế. Kế siêu việt là nói về bốn đế. Từ trước đến đây toàn là nói các thiền vô lậu, các thiền đều có quán tuệ bốn đế. Đã nói tướng thiền thì ẩn lý hiển sự. Từ sự mà đặt tên. Vì tuy có bốn đế quán pháp mà không phải từ đế được tên. Như trong túi có báu chẳng lấy ra chỉ cho người thì người không thấy. Nên nay sau các thiền lại nói bốn đế tám khoa tuệ hạnh pháp môn. Bốn thứ này gọi chung là Đế, vì Đế là nghóa chắc thật. Pháp môn bốn đế này chính là người Thanh văn từ nghe mà hiểu, cho nên phải nhờ giáo nói lý. Nay nói giáo lý chẳng dối nên gọi là chắc thật. Nếu do nhân cảm quả thì trước phải là nhân, sau là quả, nay đều trước quả mà sau nhân, là giáo môn dẫn vật làm tiện lợi, cho nên đều quả trước mà nhân sau. Khổ đế. Khổ là nghóa bức não, tất cả hữu vi tâm hạnh thường bị khổ nạn vô thường áp bức, nên gọi là khổ. Khổ có ba thứ là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Nay nói ba khổ có riêng, có chung. Riêng là ba khổ, tức đối riêng với ba thọ: thọ khổ từ khổ duyên sinh ra, tình biết là khổ, tức là khổ khổ. Thọ vui, khi vui hoại thì sinh khổ, tức là khổ hoại . Thọ chẳng khổ chẳng vui thường bị vô thường (dời) động, tức là khổ hành. Nếu nói chung về ba khổ thì ba thọ chung có ba khổ. Như thế rõ ràng vì tâm ba thọ tức là khổ. Chung là từ duyên khổ sinh nên chung là khổ. Tâm khổ ba thọ chung là tướng hoại, bị hoại cho nên chung là khổ hoại. Tâm ba thọ chung là khởi diệt, vận động mãi chẳng dừng, cho nên chung là khổ hành. Nếu tâm ba thọ hoặc riêng hoặc chung đều là khổ cả. Phải biết khổ là chắc thật mà có, nên gọi là Đế. Tập đế. Tập nghóa là tụ tập. Nếu tâm cùng kiết nghiệp tương ưng thì ở vị lai sẽ nhóm họp khổ sinh tử, nên gọi là tập. Tập có ba nghiệp, gồm nhiếp tất cả nghiệp: Một là nghiệp bất thiện, tức là mười bất thiện; hai là nghiệp thiện, tức là mười điều thiện; ba là nghiệp bất động, tức là mười hai môn thiền. Đủ như trước nói về phiền não. Có hai thứ phiền não gồm nhiếp tất cả phiền não: Một là phiền não thuộc ái, hai là phiền não thuộc kiến, là hai phiền não sinh ra tất cả ba độc, năm cái, mười sử, chín mươi tám phiền não, v.v… Đều như trước nói. Nếu phiền não này cùng họp với nghiệp trước, thì ở đời vị lai chắc chắn sẽ nhóm họp quả khổ sinh tử, tức là Tập đế. Diệt đế. Diệt nghóa là diệt vô vi, kiết nghiệp đã hết thì không có khổ nạn sinh tử, nên gọi là Diệt. Nếu phát kiến tư vô lậu chân minh, đủ ba mươi bốn tâm đoạn kiết, thì chín mươi tám sử ở ba cõi đều diệt. Vì kết sử phiền não diệt rồi nên nghiệp ba cõi cũng diệt. Nếu nghiệp phiền não ba cõi diệt thì tức là Diệt đế Niết-bàn hữu dư. Nhân diệt nên quả diệt. Khi bỏ báo thân này thì quả khổ đời sau không bao giờ còn nối tiếp, gọi là nhập Niết-bàn vô dư, là diệt đối với chân thật. Lý diệt chẳng dối nên gọi là Đế. Đạo đế. Đạo là nghóa năng thông. Chánh đạo và trợ đạo, hai thứ giúp nhau năng thông đến Niết-bàn nên gọi là Đạo. Chánh đạo là thật quán ba mươi bảy phẩm ba môn giải thoát, duyên lý tuệ hạnh gọi là chánh đạo, kế nêu khoa mục dưới đây. Trợ đạo là trong giải quán các pháp đối trị và các thiền định, đều là trợ đạo đủ như trên nói. Lại nữa, chánh đạo là kiến đế tám nhẫn, tám trí, mười sáu tâm. Tư duy chín vô ngại, chín giải thoát, mười tám tâm là tuệ vô lậuchân thật, gọi là chánh đạo. Ngoài ra, các phương tiện đối trị, các thiền Tam-muội và ba mươi bảy phẩm, ba giải thoát, v.v… đều là trợ đạo. Hai đạo này giúp nhau năng thông đến Niết-bàn, chắc thật chẳng dối, tức gọi là Đạo đế. 3 4. MƯỜI SÁU HẠNH: Khổ đế có: 1. Vô thường; 2. Khổ; 3. Không; 4. Vô ngã. Tập đế có: 1. Tập; 2. Nhân; 3. Duyên; 4. Sinh. Diệt đế có: 1. Tận; 2. Diệt; 3. Diệu; 4. Ly. Đạo đế có: 1. Đạo; 2. Chánh; 3. Tích; 4. Thừa. Kế bốn đế là nói về mười sáu hạnh. Lại lìa bốn đế mà khai ra mười sáu hạnh. Chỉ giáo môn đã có chung riêng khác nhau, cho nên đế có ly hợp khác nhau, là muốn giúp cho người tu quán nhận lý không lầm, cho nên kế là nói bốn đế, đều dùng bốn hạnh mà phân biệt thì ý nghóa chắc thật cùng sáng tỏ. Lấy hạnh mà gọi, vì hạnh là nghóa đến đi. Tu mười sáu pháp quán này sẽ đến bốn lý chắc thật, nên gọi là Hạnh. Hoặc có khi từ lý mà được tên, tức mười sáu đế. Bốn hạnh Khổ đế: Hạnh vô thường: Quán năm thọ Ấm do nhân duyên sinh, sinh diệt đổi mới nên gọi Vô thường. Hạnh khổ: Quán năm thọ Ấm nếu vô thường tức là khổ, vì bị vô thường ép bức. Hạnh không: Quán năm thọ Ấm không có một tướng hay khác tướng, không tức là không. Hạnh vô ngã: Quán xét trong năm thọ Ấm thì pháp ngã và ngã sở chẳng thật có cho nên vô tướng, ấy là hạnh vô ngã. Bốn hạnh của Tập đế: Hạnh tập: Quán phiền não khổ lụy hữu lậu hòa hợp thì với lấy quả khổ, nên gọi là hạnh Tập Hạnh nhân: Là quán sáu nhân sinh quả khổ. Hạnh duyên: Là quán bốn duyên sinh quả khổ. Hạnh sinh: Lại sau thọ có năm Ấm nên gọi là Sinh. Diệt đế có bốn hạnh: Hạnh tận: Quán Niết-bàn các khổ đều hết, nên gọi là tận. Hạnh diệt: Quán Niết-bàn các lửa phiền não đều tắt. Hạnh diệu: Quán Niết-bàn là mầu nhiệm nhất trong tất cả thứ. Hạnh xuất: Quán Niết-bàn lìa sinh tử thế gian nên gọi là xuất. Đạo đế có bốn hạnh: Hạnh đạo: Quán năm bất thọ Ấm ba mươi bảy đạo phẩm có công năng thông đến Niết-bàn, nên gọi là Đạo. Hạnh chánh: Quán năm bất thọ Ấm, ba mươi bảy đạo phẩm không phải là pháp điên đảo, nên gọi là Chánh. Hạnh tích: Quán ba mươi bảy đạo phẩm là pháp thực hành của tất cả bậc Thánh, nên gọi là Tích. Hạnh thừa: Quán ba mươi bảy đạo phẩm người vận hành sẽ đến ba giải thoát. Ái kiến phiền não không thể ngăn nên gọi là Thừa. 3 5.SINH KHÔNG PHÁP HAI KHÔNG là: 1. Chúng sinh không; Pháp không. Kế mười sáu hạnh bốn đế là nói về sinh không và pháp không chính là nói người Thanh văn. Tuy nói thông ba tạng giáo môn thì vào Đạo, mà nhưng ba tạng giáo môn có hai thứ không khác nhau. Cho nên biết tu mười sáu hạnh bốn đế cũng phải có khác. Ấy là vì Tỳ-đàm thì thấy có đắc đạo, Thành Thật thì chứng không thành Thánh. Đây đều là y cứ hai giáo môn không mà có khác. Nay để phân biệt tu mười sáu hạnh bốn đế khác nhau nên kế là nói về sinh không và pháp không. Nói không là nghóa không hữu vi. Chẳng có sinh pháp hữu, nên gọi là Không. Chúng sinh không: Nếu quán quả khổ sinh tử, chỉ thấy danh sắc, Ấm, nhập giới là thật pháp, từ nhân duyên mà sinh, sinh diệt đổi mới là không trong thật pháp, không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, mười sáu tri kiến, như lông rùa sừng thỏ thảy đều không thật có. Đó là Chúng sinh Không. Pháp không. Nếu quán quả khổ sinh tử chẳng phải chỉ có ngã, nhân, chúng sinh,v.v… mười sáu tri kiến là không, như lông rùa sừng thỏ chẳng thật có, ấy là trong danh sắc, Ấm, nhập giới còn có pháp khác, mỗi pháp phân biệt, chia rẻ ra cho đến các phần bé nhất như như bụi, sát-na thì đều không thật có, nên gọi là Pháp không. Ấy là người Thanh văn nói pháp không tướng. Nếu trong Đại thừa nói về pháp không thì các pháp như mộng huyễn. Xưa nay tự không, chẳng vì phá hoại, phân tách mà thành không. 3 6.BA MƯƠI BẢY PHẨM: Hợp bảy pháp môn thành ba mươi bảy phẩm: Một là Bốn Niệm xứ; hai là Bốn Chánh cần; ba là Bốn Như ý túc; bốn là Năm căn; năm là Năm lực; sáu là Bảy giác chi; bảy là Tám Chánh đạo. Kế sinh không pháp hai không là nói về ba mươi bảy phẩm. Nếu quán hai không mà vào đạo thì phải biết cấp bực của đạo phẩm. Nếu y theo Hữu môn mà học Thánh thì y cứ chúng sinh không mà quán để tu ba mươi bảy pháp. Nếu dùng bình đẳng mà dứt hoặc thì phải hiểu rõ pháp không tao tác ở môn đạo phẩm, nên kế hai không mà luận. Nói chung đạo phẩm là nghóa Đạo như trước, phẩm là phẩm loại. Bảy khoa pháp môn này đều là khí loại cạn sâu nhập đạo, nên gọi là Đạo phẩm. Bốn Niệm xứ: Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ, Pháp niệm xứ. Thân niệm xứ: Sáu phần như đầu v.v…do bốn đại, năm căn giả hợp, nên gọi là Thân. Trong ấy, quán thân trí tuệ là niệm, thấy rõ trong thân năm thứ bất tịnh, phá tịnh điên đảo tức là Xứ. Quán ngoài thân, trong ngoài thân cũng giống như thế, ấy là Thân niệm xứ. Thọ niệm xứ: Sáu xúc nhân duyên sinh ra sáu thọ, từ sáu thọ sinh ba thọ gọi là Thọ. Trong ấy quán thọ trí tuệ là niệm, thấu suốt ba thọ đều khổ, phá vui điên đảo tức là. Quán ngoài thọ, trong ngoài thọ trong thọ cũng giống như thế. Ấy là Thọ niệm xứ. Tâm niệm xứ: Sáu thức hay biết các trần phân biệt phan duyên, gọi là Tâm, trong ấy, quán nội tâm trí tuệ gọi là Niệm, hiểu rõ tâm từ duyên sinh sát-na chẳng dừng trụ, niệm niệm sinh diệt, phá thường điên đảo tức là Xứ. Quán ngoài tâm trong ngoài tâm cũng như thế. Ấy là Tâm niệm xứ. Pháp niệm xứ: Hai Ấm tưởng hành, và ba pháp vô vi, gọi là Pháp. Trong ấy quán pháp trí tuệ gọi là Niệm. Thông suốt tất cả pháp ngã, ngã sở rốt ráo chẳng thật có, cho nên vô ngã, phá ngã điên đảo tức là Xứ. Quán pháp ngoài, pháp trong ngoài cũng giống như thế. Ấy là pháp niệm xứ. Nếu trong Ma-ha-diễn nói niệm xứ tức là nói phá tám đảo là niệm xứ. Cho nên kinh Đại Phẩm chép: Nếu quán sâu bốn Niệm xứ, ấy là ngồi đạo tràng. Bốn Chánh cần: 1.Pháp ác đã sinh thì siêng năng dứt trừ; 2.Pháp ác chưa sinh thì siêng năng chẳng để cho sinh; 3. Pháp thiện chưa sinh thì siêng năng làm cho sinh; 4. Pháp thiện đã sinh thì siêng năng làm cho càng thêm rộng. Nhất tâm siêng năng trừ pháp ác chưa sinh, khi quán bốn Niệm xứ nếu tâm biếng nhác vàø các phiền não và năm cái v.v…che tâm. Năm thứ thiện căn, tín v.v… như thế nếu các pháp đã sinh thì phải siêng năng phương tiện dứt trừ cho thật hết. Nhất tâm siêng năng khiến dừng pháp ác chưa sinh. Khi quán bốn Niệm xứ nếu tâm biếng lười và các phiền não ác pháp như năm cái v.v…tuy chưa sinh, sợ sau sẽ sinh mà ngăn năm thứ thiện căn, tín v.v…nay khiến chẳng sinh, một tâm siêng năng phương tiện ngăn dừng khiến cho chẳng sinh. Pháp thiện chưa sinh nhất tâm siêng năng khiến cho sinh. Khi quán bốn Niệm xứ thì năm thứ thiện căn như tín v.v…chưa sinh nay khiến cho sinh. Nhất tâm siêng năng phương tiện tu tập khiến các thiện căn như tín v.v…sinh ra. Pháp thiện đã sinh nhất tâm siêng năng khiến cho thêm lớn. Khi quán bốn niệm xứ v.v… năm thứ thiện căn như tín v.v…, đã sinh thì khiến càng thêm lớn. Nhất tâm siêng năng phương tiện tu tập, các thiện căn như tín v.v… khiến chẳng lui mất, thêm lớn thành tựu. Bốn thứ này gọi là Chánh cần vì phá Tà đạo mà vào chánh đạo. Là hạnh siêng năng nên gọi là Chánh cần. Bốn Như ý túc: 1. Dục như ý túc; 2. Tinh tấn như ý túc; 3.Tâm như ý túc; 4. Tư duy như ý túc. Dục như ý túc. Dục (muốn) là chủ được định, hạnh dứt trừ thành tựu, tu như ý phần. Tinh tấn như ý túc. Tinh tấn là chủ được định, hạnh dứt trừ thành tựu, tu như ý phần. Tâm như ý túc. Tâm là chủ được định, hạnh dứt trừ thành tựu tu như ý phần. Tư duy như ý túc. Tư duy là chủ được định, hạnh dứt trừ thành tựu tu như ý phần. Ở đây nói như ý túc là thật trí tuệ trong bốn Niệm xứ, là chánh tinh tấn trong bốn Chánh cần. Tinh tấn trí tuệ tăng nhiều và định lực yếu kém. Vì được bốn thứ định nhiếp tâm, trí định lực v.v… (bằng nhau) thì những điều đó đã nguyện đều được, nên gọi là Như ý túc. Trí định lực v.v… thì có công năng dứt trừ kết sử, nên nói là đoạn hạnh dứt trừ thành tựu. Năm căn là: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Tín căn. Tín chánh đạo và trợ đạo, gọi là Tín căn Tinh tấn căn. Hạnh là chánh đạo và khi các pháp thiện trợ đạo thì cần cầu chẳng dứt gọi là Tinh tấn căn. Niệm căn. Niệm chánh đạo và các pháp thiện trợ đạo, không còn niệm nào khác, gọi là Niệm căn. Định căn. Nhiếp tâm ở chánh đạo và trong các pháp thiện trợ đạo không tán hoại gọi là Định căn Tuệ căn: Là chánh đạo và các pháp thiện trợ đạo quán vô thường, mười sáu hạnh, ấy là Tuệ căn. Năm thứ này gọi là căn vì là năng sinh. Người tu đã được bốn Như ý túc, trí định an ổn tức năm thứ thiện pháp tín v.v…, hoặc tợ hoặc chân, nhậm vận mà sinh, ví như âm dương thích hợp, tất cả hạt giống đều có căn sinh, nên gọi là Căn. Năm lực: Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Tín lực. Khi Tín chánh đạo và các pháp trợ đạo, nếu tín căn thêm lớn thì ngăn được các nghi ngờ, phá các tà tín và phiền não thì gọi là Tín lực. Tinh tấn lực. Khi hạnh là chánh đạo và các pháp trợ đạo, nếu tinh tấn căn thêm lớn thì phá được các thứ thân tâm biếng lười làm xong việc xuất thế, ấy là Tinh tấn lực. Niệm lực. Khi niệm chánh đạo và các pháp trợ đạo. Nếu niệm căn thêm lớn phá các tà niệm, thành tựu tất cả công đức chánh niệm xuất thế, ấy là Niệm lực. Định lực. Khi nhiếp tâm trong chánh đạo và các pháp trợ đạo, nếu định căn thêm lớn thì phá được các loạn tưởng, phát sinh các sự lý thiền định, ấy là Định lực. Tuệ lực: Là chánh đạo và các pháp trợ đạo, khi quán vô thường mười sáu hạnh, nếu tuệ căn thêm lớn thì ngăn được hoặc kiến tư ba cõi, phát chân vô lậu chân thật, nên gọi là Tuệ lực. Năm thứ này gọi chung là lực vì phá hoại được các hữu lậu bất thiện thành,tựu các việc lành xuất thế. Nên gọi là Lực Bảy giác phần: 1. Trạch pháp giác phần; 2. Tinh tấn giác phần; 3. Hỷ giác phần; 4. Trừ giác phần; 5. Xả giác phần; 6. Định giác phần Niệm giác phần, Trạch pháp giác phần. Khi trí tuệ quán các pháp, khéo léo phân biệt chân ngụy, chẳng lấy nhầm các pháp giả dối, nên gọi là Trạch pháp giác phần. Tinh tấn giác phần. Khi tinh tấn tu các đạo pháp khéo biết rõ chẳng nhầm lẫn, thực hành các khổ hạnh vô ích, thường siêng tâm đối với các hạnh trong chân pháp, nên gọi là Tinh tấn giác phần. Hỷ giác phần. Nếu tâm được pháp hỷ thì khéo biết rõ hỷ này chẳng nương vào pháp điên đảo mà sinh, vui mừng trụ chân pháp hỷ, nên gọi là Hỷ giác phần. Trừ giác phần. Nếu khi dứt bỏ các kiến phiền não thì khéo biết rõ trừ diệt thức các giả dối, chẳng làm tổn hại gốc lành chân chánh, nên gọi là Trừ giác phần. Xả giác phần. Nếu khi bỏ cảnh mà chỗ thấy đắm trước, hiểu biết rõ cảnh đã bỏ là giả dối chẳng thật, không bao giờ nhớ nữa, ấy là Xả giác phần. Định giác phần. Nếu khi phát các thiền định khéo biết rõ các thiền giả dối, chẳng sinh kiến ái vọng tưởng, ấy là Định giác phần. Niệm giác phần. Nếu khi tu đạo xuất thế khéo biết rõ thường, khiến định tuệ bằng nhau. Nếu tâm nặng nề phải nghó (nhớ) dùng trạch ba giác phần pháp, tinh tấn, hỷ mà xem xét nếu tâm phù động phải dùng ba thứ trừ, xả, địnhù mà nhiếp. Cho nên niệm giác thường ở giữa hai bên điều hòa thích nghi. Ấy là Niệm giác phần. Bảy thứ này gọi là giác phần. Vì bậc vô học thật biết bảy việc mà đến được, nên gọi là Giác phần. - Tám Chánh đạo: 1. Chánh kiến; 2. Chánh tư duy; 3. Chánh ngữ; Chánh nghiệp; 5. Chánh mạng; 6. Chánh tinh tấn; 7. Chánh niệm; 8.Chánh định. Chánh kiến. Nếu tu mười sáu hạnh vô lậu, thấy bốn đế rõ ràng thì gọi là Chánh kiến. Chánh tư duy. Khi thấy bốn đế, tương ưng tâm vô lậu, tư duy phát động, hiểu biết thọ lượng vì khiếncho thêm lớn nhập vào Niết-bàn, nên gọi là Chánh tư duy. Chánh ngữ. Dùng trí tuệ vô lậu dứt trừ bốn tà mạng, nhiếp khẩu nghiệp trụ vào tất cả khẩu chánh ngữ, đó là Chánh ngữ. Chánh nghiệp. Dùng trí tuệ vô lậu dứt trừ tất cả tà nghiệp của thân, trụ vào thanh tịnh chánh thân nghiệp. Ấy là Chánh nghiệp. Chánh mạng. Dùng trí tuệ vô lậu trừ năm thứ tà mạng trong ba nghiệp trụ vào chánh mạng thanh tịnh. Ấy là Chánh mạng. Năm thứ tà mạng ấy là: Một là vì lợi dưỡng, dối trá hiện tướng đặc biệt lạ lùng; hai là vì lợi dưỡng mà tự nói công đức của mình; ba là vì lợi dưỡng mà xem tướng bói lành dữ, nói pháp cho người nghe; bốn là vì lợi dưỡng mà lớn tiếng hiện oai nghi khiến người kính sợ; năm là vì lợi dưỡng mà khen ngợi được cúng dường để động tâm người, dùng tà nhân duyên mà nuôi mạng sống, nên gọi là Tà mạng. Chánh tinh tấn. Dùng trí tuệ vô lậu mà tương ưng siêng năng tinh tấn tu đạo Niết-bàn, ấy là Chánh tinh tấn. Chánh niệm. Dùng trí tuệ vô lậu mà tương ưng, niệm pháp chánh đạo và trợ đạo, đó là Chánh niệm. Chánh định. Dùng trí tuệ vô lậu mà tương ưng nhập định, nên gọi là Chánh định. Tám thứ chánh đạo này, gọi là chánh vì chẳng tà, nghóa là tám pháp này không nương vào thiên tà mà làm, nên gọi là Chánh, có công năng đi đến Niết-bàn nên gọi là Đạo. 3 7.BA GIẢI THOÁT: 1.Không giải thoát; 2.Vô tướng giải thoát; Vô tác giải thoát. Kế ba mươi bảy phẩm là nói về ba môn giải thoát. Luận nói Đại Trí Độ ba mươi bảy phẩm là đường đến Niết-bàn, là đạo đến Niết-bàn. Thành Niết-bàn có ba cửa, tức là không, vô tướng, vô tác. Đã nói đạo rồi thì phải nói cửa đến. Ba thứ này gọi chung là cửa giải thoát. Giải thoát đã là cửa Niết-bàn, nghóa năng thông ba pháp này thì sẽ đi thông vào Niết-bàn nên gọi là cửa giải thoát, cũng gọi là ba Tam-muội. Tam- muội như nghóa ở trước đã nói. Nhưng Tam-muội thì từ đương thể mà được tên, giải thoát là từ dụng năng thông mà được gọi, giải thoát là từ dụng, có sư giải thích rằng: Bình thường thì gọi là Tam-muội, chứng quả thì đổi tên là Giải thoát. Loại này giống như tám bối xả, tám giải thoát. Cửa không giải thoát môn. Thế nào là cửa Không giải thoát? Quán các pháp vô ngã, ngã sở nên là không vì, vì các pháp từ nhân duyên hòa hợp mà sinh, không có người làm ra không có người nhận, người thông đạt hay như thế,đó là cửa Không giải thoát, cửa Không giải thoát ấy duyên với hai hạnh là Không và vô ngại. Cửa vô tướng giải thoát: thế nào là cửa Vô tướng giải thoát? Quán tướng nam nữ, tướng một tướng khác, trong tướng ấy cầu thật chẳng thật có, cho nên Vô tướng. Vì sao? Vì các pháp vô ngã, ngã sơ cho nên không. Vì Không nên chẳng có nam chẳng có nữ, các pháp một khác, v.v… Trong ngã, ngã sơ tên gọi là khác, do đó mà các tướng nam nữ một khác, v.v… không thật có. Người biết rõ như thế gọi là Vô tướng giải thoát. Giải thoát ấy duyên với bốn hạnh là Tận - Diệt - Diệu Xuất Cửa vô tác giải thoát. Thế nào là cửa Vô tác giải thoát? Nếu biết tất cả pháp là vô tướng tức đều không có chỗ làm ra, nên gọi là Vô tác. Vì sao? Nếu đối với pháp có sở đắc, tức đối với ba cõi mà có mong cầu thì nhân là nghiệp tạo tác ba cõi. Nay tất cả tướng đều chẳng thật có thì đối với ba cõi không có mong cầu, chẳng gây ra tất cả nghiệp sinh tử ba cõi. Không có nghiệp cho nên không có quả báo, đó là cửa Vô tác giải thoát cửa. Vô tác giải thoát ấy duyên với mư hạnh, tức là vô thường, khổ, tập, nhân, duyên, sinh, đạo, chánh, tiến, thừa. căn. BA CĂN VÔ LẬU: 1.Vị tri dục tri căn; 2.Tri căn; 3.Tri dó Kế ba của giải thoát là nói về ba căn vô lậu, giải thoát đã là cửa Niết-bàn, nếu khéo tu ba giải thoát thì nhất định phát sinh vô lậu, chân thật, chứng Niết-bàn Vô dư, được Niết-bàn Hữu dư tự có ba đạo khác nhau, tức là Kiến đạo, Tu đạo, Vô học đạo. Khi chứng ba đạo sẽ phát ba căn. Nên kế ba giải thoát mà nói về ba căn, căn lấy trụ lập năng sinh làm nghóa. Được ba pháp này trụ lập không lui sụt, sinh chân trí chiếu soi nên gọi là Căn. Vị tri dục tri căn: Chín căn hòa hợp người tín hạnh, pháp hạnh trong đạo kiến đế gọi là Vị tri dục tri căn. Nói chín căn đó là: Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn, Tuệ căn, Hỷ căn, Lạc căn, Xả căn, và Ý căn. Tri căn: Là người tín hiểu mà thấy, đối với đạo tư duy, chín căn đổi tên là Tri căn. Chín căn như đã nói trong phần Vị tri dục tri căn. Tri dó căn. Nếu đến đạo Vô học thì chín căn ấy đổi tên thành Tri dó căn. Chín căn cũng như đã nói ở trên. 3 9.MƯỜI MỘT TRÍ: 1.Pháp trí; 2. Tỷ trí; 3. Tha tâm trí; 4.Thế trí; 5.Khổ trí; 6.Tập trí; 7.Diệt trí; 8.Đạo trí; 9.Tận trí; 1 0.Vô sinh trí; Như thật trí. Kế ba căn vô lậu mà nói về mười một trí, vì ba căn ra sinh mười một trí. Vì sao? Vị tri dục tri căn sinh ra Pháp trí, Tỷ trí, còn Tri căn sinh Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí và Tha tâm trí, Thế trí. Còn Tri dó căn sinh Tận trí, Vô sinh trí và Như thật trí. Cho nên kế ba căn là nói về mười một trí, gọi là Trí vì là rõ biết quyết định, nên gọi là Trí. Nếu khi phát mười một trí này thì đều ngang hàng với chiếu soi rõ ràng nên gọi chung là Trí. Pháp trí: Là trí vô lậu trong pháp hệ cõi Dục là trí vô lậu trong hệ nhân cõi dục, là trí vô lậu trong pháp trí diệt cõi Dục, là trí vô lậu trong Đoạn hệ pháp đạo trong cõi Dục và là trí vô lậu trong pháp trí phẩm Tỷ trí. Trong cõi sắc và cõi vô sắc y cứ bốn đế mà nói bốn thứ trí vô lậu, cũng như đã nói trong pháp trí, chỉ có khác về pháp tỷ. Tha tâm trí. Biết cõi dục, cõi sắc hệ hiện tại pháp tâm, tâm sổ và ít phần pháp tâm, tâm sổ vô lậu, đó là Tha tâm thông. Thế trí. Các trí tuệ hữu lậu thế gian cũng gọi là Đẳng trí. Phàm phu, bậc Thánh đều có trí này, nên gọi là Đẳng trí, cũng gọi là danh tự trí. Trí ấy chỉ có tên mà không có lý. Khổ trí. Khi quán năm Ấm vô thường, khổ, vô ngã thì được trí vô lậu. Tập trí. Biết các pháp nhân, nhân tập sinh duyên quán là trí vô lậu. Diệt trí. Khi quán diệt chỉ diệu xuất là trí vô lậu. Đạo trí. Khi quán đạo chánh hạnh viễn là trí vô lậu. Tận trí. Ta thấy khổ rồi, dứt tập rồi, chứng diệt rồi, đã tu đạo rồi. Như thế khi (nghó) là trí tuệ vô lậu thấy minh giác. Vô sinh trí: Ta đã thấy khổ rồi, chẳng còn thấy nữa, đã dứt tập rồi chẳng còn dứt nữa. Đã chứng diệt rồi chẳng còn chứng nữa, đã tu đạo rồi chẳng còn tu nữa. Như thế khi niệm là trí tuệ vô lậu thấy minh giác. Như thật trí. Tất cả pháp tướng chung, tướng riêng đều như thật chánh trí, không có quái ngại, là trí như thật, trí này chỉ có trong tâm Phật, Nhị thừa không có. 4 0.MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN: là 1.Vô minh; 2.Hành; 3.Thức; Danh sắc; 5.Sáu nhập; 6.Xúc; 7.Thọ; 8.Ái; 9.Thủ; 1 0.Hữu; 1 1.Sinh; 12. Già chết. Kế mười một trí lá nói về mười hai nhân duyên. Trừ trí Như thật ra, trí mười lực kia Nhị thừa đều có. Nay nói qua một lần, nếu người Thanh văn chỉ một đời nhìn chung bốn đế thành mười trí thì trí kém. Vì trí kém nên chẳng thể dứt trừ được tập khí, công đức thần dụng cũng giảm ít. Nếu người Duyên giác y cứ chung ba đời phân biệt quán kỹ mười hai nhân duyên, nếu thành mười trí thì trí mạnh, vì trí mạnh nên công đức trừ được tập khí, thần dụng cũng rộng. Cho nên giáo môn đại Thánh riêng mơ đạo, Trung thừa là ý này. Gọi nhân duyên là mười hai pháp này xoay vần chiêu cảm được quả, nên gọi là Nhân, cùng giúp mà có gọi là Duyên. Nhân duyên tiếp nối thì sinh tử mãi vô cùng. Nếu biết vô minh chẳng khởi thủ hữu thì ba cõi, hai mươi hữu sinh tử đều dứt. Ấy là pháp quan trọng của xuất thế. Giáo môn mười hai nhân duyên có ba thứ khác nhau: Một là y cứ ba đời nói mười hai nhân duyên; hai là y cứ quả báo hai đời mà nói nhân duyên; ba là ước một niệm một đời mà nói mười hai nhân duyên. Nay vô minh ba đời, mười hai nhân duyên, hai thứ trước là thuộc đời quá khứ, hai thứ sau là thuộc đời vị lai, tám thứ giữa là thuộc đời hiện tại, đó là nói lược ba sự phiền não, nghiệp, khổ; Ba sự ấy xoay vần cùng giúp nhau làm nhân duyên, ấy là phiền não nghiệp nhân duyên, nghiệp khổ nhân duyên, khổ khổ nhân duyên, khổ phiền não nhân duyên, phiền não nghiệp nhân duyên, nghiệp khổ nhân duyên, khổ khổ nhân duyên. Ấy là xoay vần cùng giúp nhau làm nhân duyên. Nên nói ba đời mười hai nhân duyên. Vô minh: Tất cả phiền não đời quá khứ gọi chung là Vô minh, vì quá khứ chưa có trí tuệ sáng suốt thì tất cả phiền não khởi lên. Do đó phiền não quá khứ đều gọi là Vô minh. Hành. Từ vô minh sinh ra nghiệp, nghiệp tức là hành, vì nghiệp thiện và bất thiện mà làm ra quả thế giới, nên gọi là Hành. Thức. Từ hành mà sinh ra tâm cấu. Trước thân nhân như trâu con, Thức mẹ tự biết nhau, nên gọi là Thức. Tức là khi cha mẹ mới giao hội mà muốn gá thai nên gọi là Thức. Danh sắc: Từ thức sinh ra bốn Ấm phi sắc và sắc Ấm sở nhậm, ấy gọi là Danh sắc, Tức là tên lúc còn là Ca-la-la. Sáu nhập: Từ danh sắc sinh ra sáu căn như mắt, v.v… gọi là sáu nhập. Từ năm hòn bọt mới khai đến nay tức gọi là sáu nhập. Xúc. Do nhập đối trần mà tình trần hợp với thức gọi là Xúc, vì sáu trần xúc chạm sáu căn thì sinh ra sáu thức nên gọi là tình trần thức họp Thọ: Từ xúc sinh thọ, nên gọi là Thọ, tức nhân sáu xúc chạm sáu căn liền biết tướng sáu trần làm sáu thọ. Ái: Từ thọ mà tâm mê đắm nên gọi là Ái, nghóa đối sáu trần lãnh thọ mà tâm sinh (yêu thích). Thủ: Từ khát ái mà tìm cầu, đó gọi là Thủ, nghóa là tìm cầu các trần yêu thích. Hữu: Từ thủ thì thành nghiệp nhân đời sau, đó gọi là Hữu. Nhân có sinh quả nên gọi là Hữu. Sinh: Từ hữu lại thọ thân năm chúng đời sau, nên gọi là Sinh. Đó là trong bốn sinh sáu đường mà thọ sinh. Già chết: Từ sinh thân năm chúng thuần thục hư hoại thì gọi là già chết, già chết (già chết) thì sinh buồn thương khóc lóc các thứ sầu khổ, các phiền não nhóm hợp. Nếu chánh quán các pháp thật tướng là thanh tịnh thì vô minh dứt. Vô minh dứt thì hành dứt. cho đến các khổ hòa hợp đều hết. Nếu như thế mà chánh quán ba đời, mười hai nhân duyên, phát vô lậu chân thật thì thành Bích-chi-phật. Kế nói từ quả báo, y cứ hai đời mà quán tướng mười hai nhân duyên, nói rõ trong kinh Đại Tập. Nay lược nêu văn kinh: Mười hai nhân duyên ấy từ Ca-la-la mà nói về vô minh, nên gọi là quả báo. Y cứ hai đời mà nói thì mười nhân duyên trước là thuộc về hiện tại, còn hai nhân duyên sau là thuộc về vị lai. Hai đời họp thành mười hai. Vô minh: kinh Đại Tập chép: Thế nào gọi là quán vô minh. Trước quán Trung Ấm, đối cha mẹ mà sinh tâm tham ái. Do ái nên có bốn đại hòa hợp hai thứ tinh, huyết tạo thành một giọt như hạt đậu, gọi là Ca-la-la. Ca-la-la có ba việc: Một là mạng; hai là thức; ba là nhu. Trong đời quá khứ nghiệp duyên quả báo không có người làm và người thọ nhận. Hơi thở đầu tiên ra vào gọi là Vô minh. Thời Ca-la-la thì hơi thở ra vào có hai đường, gọi là theo hơi thở mẹ lên xuống, bảy ngày biến đổi một lần. Hơi thở ra thì gọi là thọ mạng, ấy là phong đạo chẳng thúi chẳng rã, đó gọi là Nhu. Tâm ý trong đó gọi là Thức. Này người thiện nam nếu muốn thành Bích-chi-phật thì phải quán mười hai nhân duyên như thế. Hành. Lại quán nhân duyên ba thọ, năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Thế nào là Quán? Theo tâm ở niệm mà quán hơi thở ra vào, quán trong thân, da thịt, gân xương, tủy não như mây trên hư không, gió trong thân này cũng giống như thế. Có gió ở trên, có gió ở dưới, có gió làm đầy, có gió làm tiêu, có gió làm lớm thêm. Cho nên hơi thở ra vào gọi là thân hành, hơi thở từ giác quán mà sinh gọi là ý hành, hòa hợp ra tiếng gọi là khẩu hành. Thức: Vì nhân duyên ba hành như thế mà có thức sinh, nên gọi là Thức. Danh sắc. Vì nhân duyên thức thì có bốn Ấm và sắc Ấm, nên gọi là Danh sắc. Sáu nhập. Vì nhân duyên năm Ấm, thức đi sáu chỗ nên gọi là Sáu nhập. Xúc: (mắt) và sắc đối nhau nên gọi là Xúc, cho đến ý và pháp cũng giống như thế. Thọ: Do nhân duyên xúc mà nghó đến sắc, cho đến pháp, đó gọi là Thọ. Ái: Do tham đắm sắc, cho đến pháp mà gọi là Ái. Thủ: Do nhân duyên ái mà tìm kiếm bốn phương, gọi là Thủ. Hữu: Do nhân duyên Thủ mà thọ lấy thân sau nên gọi là Hữu. Sinh: Do nhân duyên hữu mà có sinh. Già chết: Do nhân duyên sinh mà có già chết các thứ khổ. Đó là cây đại thọ năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên. Đây đều là nói lược văn kinh. Từ lúc mới thọ báo đến nay y cứ hai đời mà nói tướng mười hai nhân duyên. Không hề thêm một câu ý riêng, người đọc nên tìm hiểu mà tự biết từ trước đến nay y cứ ba đời mà nói mười hai nhân duyên, có khác. Kế nói một niệm mười hai nhân duyên, chỉ y cứ một đời tùy một niệm tâm khởi đủ cả mười hai nhân duyên. Cũng trích từ kinh Đại Tập, nay lược nêu văn kinh. Vô minh: Do mắt thấy sắc mà sinh tâm ái, tức là Vô minh. Hành. Do ái mà tạo nghiệp, tức là Hành. Thức: Dốc lòng chuyên nhớ nghó gọi là Thức. Danh sắc: Thức và sắc hành nên gọi là Danh sắc. Sáu nhập: Sáu trần sinh tham gọi là sáu nhập. Xúc: Do nhập mà cầu thọ gọi là Xúc. Thọ: Tâm tham đắm nên gọi là Thọ. Ái: Trong kinh lạc mất chẳng giải thích ái. Nay ý riêng giải thích rằng: Triền miên chẳng buông bỏ gọi là Ái. Thủ: Cầu các pháp ấy gọi là Thủ. Hữu: Pháp như thế sinh gọi là Hữu. Sinh: Thứ lớp chẳng dứt gọi là Sinh. Già chết: Thứ lớp mà dứt gọi là Tử, do nhân duyên sinh từ, bị các khổ ép ngặt gọi là Não. Cho đến ý pháp nhân duyên sinh tham cũng giống như thế. Mười hai nhân duyên này một người một niệm đều thảy đầy đủ. Đều trích từ kinh Đại Tập không hề thêm một câu nói riêng. Người đọc nên khéo tìm. Ở đây có khác với các nhân duyên ba đời thường nói. Nếu người muốn học nhân duyên Phật đạo trước nay ba thứ luận nhân duyên, tu học bắ cứ một môn sẽ chứng trí Duyên giác. <篇> <卷>QUYỂN HẠ (PHẦN 1) 41.BỐN HOẰNG THỆ NGUYỆN RỘNG LỚN: 1.Người chưa độ thì độ họ; 2.Người chưa hiểu thì giúp họ hiểu; 3.Người chưa an giúp họ được an; 4. Người chưa Niết-bàn giúp họ được Niết-bàn; Kế mười hai nhân duyên là nói về bốn thệ nguyện rộng lớn. Hai quyển trên pháp môn được nêu hoặc là phàm phu cộng pháp, hoặc đồng có với Nhị thừa, đều chưa nói đạo bất cộng của Bồ-tát, chư Phật. Cho nên này một quyển này lược nêu hai mươi khoa pháp môn đều là nói riêng hạnh của Bồ-tát làm và chứng pháp của chư Phật. Cho nên kế là trình bày thệ nguyện rộng lớn, cho nên trong pháp phàm phu và Nhị thừa tuy có Từ bi nhưng đều không có đức hoằng thệ. Nếu người phàm phu chẳng biết bốn đế, mười hai nhân duyên, tuy tu Từ bi chỉ là phước đức lớn sinh lên cõi Phạm thiên, hưởng quả báo Phạm thiên. Đây là đối với chúng sinh không có lợi ích xuất thế, đâu thể nhân Từ bi mà dựng lập công hoằng thệ. Nếu là Nhị thừa tuy biết bốn đế, mười hai nhân duyên nhưng chỗ tu Từ bi chỉ là tự điều tâm muốn một đời hết khổ, một mình mình vào Vô dư, chẳng thể ở lâu trong sinh tử gánh vác tất cả. Đâu thể nhân Từ bi mà khởi đức hoằng thệ. Nay Bồ-tát thấu hiểu bốn đế, mười hai nhân duyên thương xót tất cả, tưởng như con ruột. Cho nên hay vì chúng sinh ở lâu trong sinh tử phát tâm gánh vác tất cả, cùng nhập vào Niết-bàn. Ấy vì tu đại thệ trang nghiêm tâm siêng năng chẳng lui sụt. Bốn thứ này gọi là thệ nguyện rộng lớn, duyên rộng lớn gọi là Hoằng, tự chế phục tâm mình gọi là Thệ, chí cầu đầy đủ gọi là Nguyện, Đại Bồ-tát dùng Từ bi duyên với bốn chân đế, vận dụng tâm rộng lớn, khiến tất cả chúng sinh đồng chứng đạo rốt ráo bốn chân thật, nên gọi là bốn thệ nguyện rộng lớn. Nếu Bồ-tát dùng các pháp tuệ thật tướng phát bốn nguyện này tức là phát tâm Bồ-đề là gốc của muôn hạnh, cội nguồn của linh giác. Do đó tất cả Đại só do hoằng thệ này mà nhiều kiếp tu nhân. Các bậc Đại Thánh Mười phương duyên theo bốn nguyện này thường ở trong sinh tử rộng độ chúng sinh mà chẳng diệt mất. Nay nói pháp bất cộng; trước từ thệ nguyện lớn làm đầu là ý ở đây. Người chưa độ thì độ họ: Hoằng thệ này duyên khổ đế mà khởi. Nên kinh Anh Lạc chép: Chưa độ khổ đế khiến độ khổ đế, nay nói khổ đế tức là sinh tử, Sinh tử có hai thứ: Một là sinh tử phần đoạn, tức là chúng sinh sáu đường nhận lấy thân Ấm, nhập, giới quả báo thô có hình chất thành hoại phần đoạn. Hai là sinh tử Biến dịch, nghóa là A-la-hán, Bích-chi và Bồ-tát Đại Lực, ba thứ sinh ý thân tuy không có phần đoạn thô báo, nhưng cũng có những sự sâu kín nhân chuyển quả dời, là chỗ dời đổi của biến dịch sinh diệt. Nếu tất cả chưa độ hai thứ khổ sinh tử, thì Bồ-tát phát tâm nguyện hóa độ, nên gọi là người chưa độ thì độ họ. Người chưa hiểu thì giúp họ hiểu: Hoằng thệ này duyên tập đế mà khởi, nên kinh Anh Lạc chép: Chưa hiểu tập đế giúp họ hiểu tập đế. Nay nói Tập tức là phiền não nhuận nghiệp có công năng với lấy sinh tử; Phiền não nhuận nghiệp có hai thứ: Một là Tứ trụ địa phiền não, nhuận nghiệp sinh tử phần đoạn, với lấy quả khổ của sinh tử phần đoạn. Hai là Vô minh Trụ địa phiền não, nhuận nghiệp biến dịch sinh tử vời lấy quả khổ của sinh tử biến dịch. Nếu tất cả chưa hiểu hai thứ tập này, thì Bồ-tát phát tâm nguyện giúp họ được hiểu. Nên gọi là người chưa hiểu giúp họ hiểu. Người chưa an giúp họ được an: Hoằng thệ này duyên với đạo đế mà khởi. Nên kinh Anh Lạc chép: Chưa an đạo đế giúp họ an đạo đế. Nay nói đạo đế tức là thông với Chánh trợ đạo Niết-bàn. Có hai thứ đạo Chánh trợ: Một là Thiên duyên chân đế, tu đạo Chánh trợ. Đạo này chỉ đến được Tiểu thừa Niết-bàn (hết) khổ; Hai là Chánh duyên thật tướng Trung đạo mà tu đạo chánh trợ. Đạo này đến được Đại thừa đại Niết- bàn. Nếu tất cả chưa an hai đạo này thì Bồ-tát phát tâm nguyện giúp họ được an, nên gọi là người chưa an đạo giúp họ an. Người chưa Niết-bàn giúp họ được Niết-bàn. Hoằng thệ này duyên diệt đế mà khởi. Nên kinh Anh Lạc chép: Người chưa được diệt đế thì giúp họ được diệt đế. Nay nói diệt đế tức là diệt nghiệp phiền não, diệt quả khổ sinh tử. Có hai thứ nghiệp phiền não sinh tử: Một là nghiệp sinh tử phần đoạn, diệt bốn trụ địa phiền não thì quả khổ sinh tử phần đoạn diệt, tức là Diệt đế của Nhị thừa có được; Hai là nghiệp sinh tử biến dịch, diệt vô minh trụ địa phiền não tức là quả khổ sinh tử biến dịch diệt, là diệt đế bất cộng rốt ráo có được của chư Phật và Bồ-tát. Nếu tất cả chưa được hai thứ diệt đế này, thì Bồ-tát phát tâm nguyện giúp họ được diệt. Cho nên nói người chưa được Niết-bàn giúp họ được Niết-bàn. Nay bốn để mà bốn thứ hoằng thệ duyên theo và bốn đế nói trong Thanh văn ở trước có bán mãn khác nhau. Trước chỉ nói chữ bán làm bốn Thánh đế. Nay nói chữ mãn không làm bốn Thánh đế. Cho nên hai thứ bốn Thánh đế chung nói là đạo Bồ-tát, giáo môn khác nhau. Nếu là Tạng giáo, Thông giáo nói về Hoằng thệ thì chỉ duyên có làm bốn Thánh đế mà khởi. Nếu là Biệt giáo, Viên giáo nói về Hoằng thệ thì (duyên chung) có làm và không làm hai thứ bốn Thánh đế mà khởi. Cho nên y cứ hoằng thệ mà phân biệt bốn đế, bán mãn khác với trước. 4 2.SÁU BA LA MẬT: 1.Đàn Ba-la-mật; 2. Thi-la Ba-la-mật; 3. Sằn-đề Ba-la-mật; 4.Tỳ-lê-da Ba-la-mật; 5. Thiền Ba-la-mật; 6.Bát- nhã ba-la-mật. Kế, bốn thệ nguyện rộng lớn là nói về sáu Ba-la-mật. Đại Bồ-tát nguyện hạnh giúp nhau. Đã phát đại nguyện thì phải tu hành. Nay sau Ba-la-mật tức là gốc chánh hạnh Bồ-tát. Nên kinh Pháp Hoa chép: Vì cầu đạo Bồ-tát phải thực hành sáu Ba-la-mật, nên kế hoằng thệ thì nói về sáu Ba-la-mật này. Đàn-thi cho đến Bát-nhã đều là tiếng nước ngoài. Đến phần giải thích riêng ở sau sẽ nói về tên người dịch. Tám thứ này gọi chung là Ba-la-mật đều là tiếng Tây Vực, các kinh luận dịch vào đời Tần khác nhau, nay nói lược có ba cách dịch: Có chỗ dịch là Sự cứu cánh, hoặc dịch là Đáo bỉ ngạn, hoặc dịch là Độ Vô Cực. Bồ-tát tu sáu pháp này có khả năng rốt ráo hai thứ nhân quả chung riêng, tất cả việc từ hành và hóa tha, cho nên nói là sự rốt ráo. Nương vào sáu pháp này, có thể từ hai thứ sinh tử bờ này mà đến hai thứ Niết-bàn bờ kia, nên gọi là Đáo bỉ ngạn. Vì sáu pháp độ được hai thứ sự lý chung riêng, các pháp rộng xa, nên nói là Độ vô cực. Nếu y theo giải thích riêng thì ba cách dịch trên đều có chủ, nếu y theo giải thích chung thì ba cách dịch tuy có ý khác nhưng đồng không khác. Đàn Ba-la-mật. Đàn-năng lực, đời Tần dịch là bố thí, nếu trong có tín tâm, ngoài có ruộng phước, có tài vật, khi ba thứ hòa hợp thì tâm sinh pháp xả, phá được san tham, ấy là Đàn. Bố thí có hai thứ, một là thí Tài, hai là thí Pháp: Một tài thí là thức ăn uống, y phục, nhà cửa, ruộng vườn, lục súc, tôi tớ tất cả vật giúp thân cần dùng và vợ con cho đến thân mạng thuộc người làm tài vật của người. Nên gọi là xả thân cũng thuộc tài thí, tùy có chỗ cần đều đem cho cả, đều gọi là thí tài; hai là thí Pháp, nếu từ chư Phật và các thiện tri thức nghe nói pháp lành thế gian và xuất thế gian. Nếu nghe từ kinh luận hoặc tự dùng quán hạnh mà biết, đem tâm thanh tịnh giảng nói nghe cho người đều gọi là thí pháp. Bồ-tát dùng tâm ngay thằng mà thực hành hai thứ thí này nên gọi là Đàn. Ba-la-mật dịch như ở trước nói. Nếu Bồ-tát đối với đàn tu đủ năm tâm, bố thí, lúc ấy gọi là Ba-la-mật. Thế nào là năm? Một là biết thật tướng của thí; hai là khởi tâm Từ bi; ba là phát nguyện; bốn là hồi hướng; năm là đầy đủ phương tiện: 1) Thế nào là thật tướng của biết thí, nếu khi bố thí thì ba việc người thí, người nhận và tiền của đều không thật có. Nhập vào thật tướng mà chánh quán, dùng pháp vô sở xả tùy người cần dùng vật gì mà thí cho không tiếc. Ấy là biết thật tướng của thí. 2) Thế nào là khởi tâm Từ bi? Nếu Bồ-tát tuy biết thật tướng của thí không có gì mà khởi tâm đại Từ đại Bi muốn nhân thí này mà cho tất cả vui, cứu tất cả khổ, ấy là khởi tâm Từ bi. 3) Thế nào là phát nguyện? là khi thí, nguyện nhờ sự bố thí này mà được Phật quả Vô thượng, chẳng cầu quả báo Ba thừa, phàm phu, ấy là phát nguyện. 4) Thế nào là hồi hướng? là tùy khi bố thí mà xoay công đức bố thí này hướng về Tát-bà- nhã, và bố thí cho tất cả chúng sinh, ấy là Hồi hướng. 5) Thế nào là đầy đủ phương tiện? là nói hay bố thí một pháp mà xoay vần thông suốt tất cả Phật pháp, tu khắp các hạnh, ấy là đầy đủ phương tiện. Nếu Bồ-tát có đủ năm tâm này, tùy lúc mà bố thí, trong nhân nói quả, cũng gọi là sự rốt ráo, cũng gọi là Đáo bỉ ngạn, cũng gọi là Độ vô cực. Ấy là chỗ làm bố thí của Bồ-tát, gọi là thực hành đàn Ba-la-mật. Nếu đến quả Phật Vô thượng Bồ-đề mới là Đàn Ba-la-mật thành tựu đầy đủ. Thi-la Ba-la-mật: Thi-la, đời Tần dịch là Hảo thiện, ưa làm việc lành không tự buông lung, ấy là Thi-la. Hoặc thọ giới làm thiện hoặc chẳng thọ giới mà làm lành thì đều gọi là Thi-la. Thi-la có hai thứ: Một là Thi-la tại gia; hai là Thi-la xuất gia. Thi-la tại gia là ba qui y, năm giới cấm, tám trai giới. Thi-la xuất gia là Sa-di, Sa-di-ni mười giới, Thức-xoa Ma-na-ni sáu giới, Đại Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni giới Cụ túc, cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn luật hạnh, hoặc Bồ-tát mười trọng bốn mươi tám giới khinh, là giới chung cả tại gia và xuất gia. Nếu Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh ngay thẳng trì giới như thế thì đều gọi là Thi-la. Ba-la-mật dịch nghóa như trước. Nếu Bồ-tát đối với hai thứ thi-la mà tu hành đầy đủ năm tâm, thì lúc đó Thi-la gọi là Ba-la-mật. Năm tâm ấy là: Một là biết thật tướng Thi-la, tội chẳng thật có, mà ưa làm việc lành, chẳng tự buông lung. Bốn loại kia như trong Đàn đã phân biệt, nếu Bồ- tát tu đủ năm tâm này tùy theo trì giới làm lành, trong nhân nói quả đều đủ ba nghóa, ấy là vì Bồ-tát trì giới nên gọi là hành Thi-la Ba-la-mật. Nếu đến được quả Phật Vô thượng Bồ-đề thì mới là Thi-la Ba-la-mật thành tựu đầy đủ. Sằn-đề Ba-la-mật: Sằn-đề, đời Tần dịch là nhẫn nhục, là trong tâm an nhẫn được cảnh bên ngoài làm nhục, nên gọi là nhẫn nhục. Nhẫn nhục có hai: Một là sinh nhẫn, hai là pháp nhẫn, thế nào là sinh nhẫn? Sinh nhẫn có hai: Một là đối trong cung kính cúng dường, nhẫn được chẳng mê đắm, chẳng sinh kiêu mạn buông lung; Hai là đối với, giận mắng đánh đập hãm hại mà nhẫn được, chẳng sinh giận hờn, oán ghét. Ấy là Sinh nhẫn. Thế nào là Pháp nhẫn? Pháp nhẫn có hai: Một là phi tâm pháp, tức là nóng lạnh, gió mưa, đói khát, bệnh chết, v.v…; hai là tâm pháp, tức là các tà kiến giận hờn buồn rầu si mê dâm dục kiêu mạn v.v… Bồ-tát đối với hai pháp này mà an nhẫn bất động thì gọi là Pháp nhẫn. Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh ngay thẳng tu hai nhẫn này gọi là sằn-đề. Ba-la-mật, dịch tên như trước, nếu Bồ-tát trụ vào Sằn-đề ma tu đủ năm tâm. Khi ấy, Sằn-đề gọi là Ba-la-mật. Năm tâm ấy gồm: Một là biết thật tướng của nhẫn, là tuy đối với các nhục tâm chẳng thể nhẫn mà tùy cảnh nhục sinh ra pháp hai thứ tâm, lại an nhẫn được bất động. Bốn tâm kia như trong Đàn đã phân biệt. Bồ-tát nếu tùy nhẫn tu được đầy đủ năm tâm này, trong nhân nói quả đều đủ ba nghóa, ấy là Bồ-tát tu nhẫn, gọi là hành Sằn-đề Ba-la-mật, nếu đến được quả Phật Vô thượng Bồ-đề mới gọi là Sằn-đề Ba-la-mật thành tựu đầy đủ. Tỳ-lê-da Ba-la-mật: Tỳ-lê-đại chủng, đời Tần gọi là tinh tấn, là ưa muốn siêng làm việc lành, chẳng tự buông lung, tức là tinh tấn. Tinh tấn có hai thứ: Một là thân tinh tấn, hai là tâm tinh tấn. Nếu thân siêng tu pháp lành hành đạo, lễ tụng, giảng nói, khuyên giúp khai hóa, ấy là thân tinh tấn. Nếu tâm siêng làm việc lành, tâm tâm tiếp nối, ấy là tâm tinh tấn. Lại nữa, siêng tu pháp lành thí, giới, ấy là thân tinh tấn. Siêng tu nhẫn nhục thiền định, trí tuệ ấy là tâm tinh tấn. Như thế phân biệt các pháp tướng của tinh tấn thân và tâm khác nhau, nay chẳng luận đủ. Nếu Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh ngay thẳng mà tu hai thứ tinh tấn này nên gọi là Tỳ-lê-da. Ba-la-mật thì dịch tên như trước. Nếu Bồ-tát đối với tinh tấn mà tu hành đầy đủ năm tâm, khi ấy Tỳ-lê-da được gọi là Ba-la-mật. Năm tâm ấy gồm: Một là Bồ-tát biết thật tướng của tinh tấn, thân tâm tuy chẳng thật có mà siêng tu tất cả việc lành. Bốn tâm kia như đã phân biệt trong đàn. Nếu Bồ-tát đối với tinh tấn mà có đủ năm tâm này thì tùy chỗ siêng tu việc lành, ở trong nhân nói quả đều có đủ ba nghóa. Ấy là vì Bồ-tát tinh tấn gọi là hành Tỳ-lê-da Ba-la-mật. Nếu đến được quả Phật Vô thượng Bồ-đề thì mới là Tỳ-lê-da Ba-la-mật thành tựu đầy đủ. Thiền Ba-la-mật: Thiền đời Tần dịch là tư duy tu, là tất cả nhiếp tâm hệ niệm muốn học các Tam-muội đều gọi là Tư duy tu. Thiền có hai thứ: Một là thiền thế gian; hai là thiền xuất thế gian, tức là bốn thiền căn bản, bốn Tâm vô lượng, bốn định Vô Sắc. Tức là thiền của phàm phu thực hành. Thiền xuất thế gian lại có hai thứ: Một là thiền xuất thế gian; hai là thượng thượng thiền xuất thế gian. Thiền xuất thế gian gọi là sáu diệu môn, mười sáu Đặc thắng, Thông minh chín tưởng, tám niệm, mười tưởng, tám bối xả, tám thắng xứ, mười một Nhất thiết xứ luyện thiền, mười bốn Biến hóa nguyện trí đảnh thiền, Tam-muội Vô tránh, ba Tam-muội, Tam-muội sư tử phấn tấn siêu việt v.v… cho đến ba minh, sáu thông, các thiền như thế v.v… đều là thiền xuất thế gian, cũng gọi là Nhị thừa cộng thiền; hai là thượng thượng thiền xuất thế gian, tức là chín thứ đại thiền như tự tánh, v.v…., Thủ-lăng-nghiêm, v.v… một trăm lẻ tám Tam-muội chư Phật bất động, một trăm hai mươi Tam-muội v.v… đều là thượng thượng thiền xuất thế gian, cũng gọi là bất cộng thiền, chẳng đồng với phàm phu và Nhị thừa. Nếu Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh ngay thẳng, tu các thiền như thế, gọi là Thiền. Ba-la-mật thì đã dịch tên như trước. Nếu Bồ-tát đối với các thiền tu đủ năm tâm, lúc đó thiền định gọi là Ba-la-mật. Năm tâm ấy gốm: Một là biết thật tướng của thiền, chẳng loạn chẳng vị mà tu khắp các thiền. Còn bốn tâm kia cũng như trong đàn đã phân biệt. Nếu Bồ-tát đối với thiền có được mà tu đủ năm tâm như thế, tùy chỗ nhập thiền, ở trong nhân nói quả đều đủ ba nghóa. Bồ-tát tu thiền định như thế đều gọi là hành thiền Ba-la-mật. Nếu đến được quả Phật Vô thượng Bồ-đề mới là thiền Ba- la-mật thành tựu đầy đủ. Bát-nhã ba-la-mật: Bát-nhã đời Tần dịch là Trí tuệ, soi rõ tất cả các pháp đều chẳng thật có mà thông suốt tất cả vô ngại, gọi là Trí tuệ. Trí tuệ có ba thứ: Một là trí tuệ Thanh văn, hai là trí tuệ Bích-chi-phật, ba là trí tuệ Phật. Một là cầu trí tuệ Thanh văn, có ba thứ là học, vô học và phi học phi vô học. Trí tuệ phi học phi vô học là như Càn tuệ địa, Bất tịnh quán, A-na-ban-na, bốn Niệm xứ thuộc cõi Dục, Noản pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp. Học trí là khổ pháp nhẫn tuệ, cho đến A-la-hán, là Kim cương Tam-muội Tuệ trong vô gián thứ chín. Trí Vô học là A-la-hán giải thoát thứ chín. Từ đó trở đi tất cả Vô học, như tận trí, Vô sinh trí, v.v… ấy là trí tuệ Thanh văn, cầu trí tuệ Bích-chi-phật đạo cũng giống như thế. Chỉ vì người ấy gốc lành thuần thục. Tuy sinh ở đời không Phật chẳng nghe từ người khác, tự nhiên giác ngộ được thiền định. Ba giới lậu tận, tất cả công đức ba minh sáu thông trội hơn Thanh văn, ấy là trí tuệ Bích-chi-phật. Lại vì quán mười hai nhân duyên trí tuệ sâu sắc lanh lợi, trừ được các tập khí hơn Thanh văn, từ bốn đế quán môn dứt kiết, đó là có khác. Cầu trí tuệ Phật đạo, Bồ-tát từ lúc mới phát tâm trở đi thực hành sáu Ba-la-mật, phá các ma quân và các phiền não, đắc Nhất thiết trí, thành Phật đạo. Cho đến vào Niết-bàn vô dư. Tùy bổn nguyện lực từ trung gian ấy tất cả trí tuệ, tướng chung, tướng riêng tất cả đều biết hết, ấy là trí Phật. Nếu Bồ-tát dùng tâm thanh tịnh ngay thẳng tu ba thứ trí tuệ này thì gọi là Bát-nhã. Ba-la-mật dịch tên như trước. Nếu Bồ-tát tùy trí tuệ đã tu mà tu đủ năm tâm. Lúc ấy, Bát-nhã gọi là Ba-la-mật. Năm tâm ấy gồm: Một là hiểu biết thật tướng trí tuệ là chẳng phải cảnh, chẳng phải trí, tâm không thật có, mà hay khắp học trí tuệ ba thừa và tất cả tri kiến thế gian. Còn bốn tâm kia như trong đàn đã phân biệt. Bồ-tát có khả năng như thế, đối với trí tuệ đã tu đầy đủ năm tâm này, tùy trí tuệ đã được ở trong nhân nói quả đều đủ ba nghóa. Ấy là Bồ-tát tu trí tuệ đều gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật. Nếu đến được quả Phật Vô thượng Bồ-đề mới gọi là Bát-nhã ba-la-mật thành tựu đầy đủ. 4 3.BỐN Y: Một là Y pháp chẳng y người; hai là Y kinh liễu ng- hóa chẳng y kinh bất liễu nghóa; ba là Y nghóa chẳng y ngũ; bốn là Y trí chẳng y thức. Kế sáu Ba-la-mật là nói về bốn y: Bồ-tát đã muốn học chánh hạnh sáu Ba-la-mật mà thực hành chẳng cô lập ắt có chỗ (nương) mà được thành tựu, chỗ nương tựa nếu chánh thì đủ chánh hạnh, đến được Bồ-đề. Nếu chỗ nương tựa tà thì rơi vào tà đạo. Cho nên kế sáu Độ là nói bốn y. Bốn thứ này gọi chung là y, tức là nương cậy, nương cậy vào bốn pháp này mà thành các nhân muôn hạnh Ba-la-mật, đầy đủ quả Phật Bồ-đề, nên gọi là Y. Y pháp chẳng y người: Y pháp là thật tướng và tất cả pháp lành thuận theo thật tướng gọi chung là Pháp, cũng gọi là Pháp thân. Nếu y vào Pháp thân thật tướng mà tu các Ba-la-mật muôn hạnh công đức thì đều đầy đủ, tất cả thanh tịnh, đến được Bồ-đề, nên gọi là Y pháp. Chẳng y người là do năm Ấm tạo thành giả gọi là thân tướng tốt, nếu y vào thân tướng tốt mà tu các Ba-la-mật và muôn hạnh công đức thì đều rơi vào điên đảo, chẳng bao giờ thấy được Pháp thân chân thật, nên gọi là chẳng chín nhân. Vì sao, như kinh Niết-bàn nói Ma vương Ba-tuần còn làm được Phật, huống gì chẳng thể làm (người) của bốn y. Cho nên, tuy là phàm phu nhưng nếu y theo lời nói mà thực hành, tương ưng với thật tướng thì có thể y đó mà tin, tuy hiện thân Phật tướng tốt hoặc lời nói việc làm trái với pháp thật tướng thì chẳng nên nương tựa, huống chi các người khác. Y kinh liễu nghóa chẳng y kinh bất liễu nghóa: Y kinh liễu nghóa, là đối với mười hai bộ kinh Đại thừa Phương Đẳng đều nói trung đạo Phật tánh, lý thật tướng như như. Nếu y vào giáo này mà tu các Ba-la- mật muôn hạnh công đức, thì tâm tương ưng với trung đạo, thấy được tạng lý Phật tánh Như Lai, nên gọi là Y kinh liễu nghóa. Không Y kinh bất liễu nghóa, đó là hạnh nên làm của Thanh văn, trong chín bộ chẳng tu trung đạo táng lý Phật tánh Như Lai. Nếu nương vào giáo này mà tu các Ba-la-mật muôn hạnh công đức thì rơi vào hai bên, không thấy được tàng lý Phật tánh Như Lai. Nên nói chẳng Y kinh bất liễu nghóa. Y nghóa chẳng y ngũ: Y nghóa, nghóa là Trung đạo đệ nhất nghóa đế. Nếu y Trung đạo đệ nhất nghóa đế mà tu các Ba-la-mật muôn hạnh công đức thì đường ngôn ngữ dứt, chộ tâm hành diệt, phá các điên đảo, tâm tâm vắng lặng tự nhiên lưu nhập vào vô lượng thiền định. Cho nên nói y nghóa chẳng y ngữ (lời nói). Ngữ là lời nói thế gian, văn tự chương cú giả dối không thật. Cho đến chỗ thấy của Nhị thừa về chân đế Niết- bàn cũng có văn tự. Nên kinh Pháp Hoa chép: Dùng hóa thành mà dụ, nếu y vào văn tự ngôn ngữ như thế mà tu các Ba-la-mật muôn hạnh công đức thì chỉ thêm lớn tranh cãi, vọng tưởng phiền não hoặc rơi vào địa vị Nhị thừa, chẳng đến được Đại bát Niết-bàn của Đại thừa, nên nói chẳng y ngữ. Y trí chẳng y thức. Y trí là tâm soi rõ gọi là Trí. Nếu đối với chánh quán trí tuệ tâm không mê đắm mà tu các Ba-la-mật muôn hạnh công đức thì phá tan năm trụ phiền não và vô biên nghiệp sinh tử, sẽ được thường, lạc, ngã, tịnh của Niết-bàn Đại thừa. Cho nên nói y trí chẳng y thức. Tâm vọng tưởng gọi là Thức. Nếu y vào vọng thức mà tu các Ba-la-mật muôn hạnh công đức thì cấu tập năm trụ phiền não và hai bên nghiệp sinh tử. Ấy là vì trôi lăn vố cùng, các khổ chẳng dứt, nên nói là chẳng y thức. 4 4.CHÍN THỨ ĐẠI THIỀN: 1.Tự tánh thiền; 2.Nhất thiết thiền; Nam thiền; 4.Nhất thiết môn thiền; 5.Thiện nhân thiền; 6.Nhất thiết hạnh thiền; 7. Trừ phiền não thiền; 8. Đời này đời khác thiền; 9.Thanh tịnh tịnh thiền; Kế bốn y là nói chín thứ thiền. Bồ-tát đã được chỗ nương cậy chân chánh thì tu rộng sâu các đại hạnh. Nội hạnh rộng sâu trong kinh luận không gì bằng thiền định. Nên Đại Trí Độ luận chép: Thiền cao nhất như vua. Nói thiền thì tất cả đều nhiếp rằng: Nếu Bồ-tát thành đạo, xoay bánh xe pháp, nhập vào Niết-bàn, tất cả công đức thắng diệu đều ở trong thiền. Nay nói quán riêng Bồ-tát thành đạo, xoay bánh xe pháp, nhập vào Niết-bàn, công đức thắng diệu, suy nghó tu pháp đều nằm ở trong chín thiền này. Cho nên kế bốn y là nói về chín thứ thiền này. Trong kinh Anh Lạc tuy có ý mà chẳng nêu tên. Giải thích chỗ Bồ-tát Di-lặc soạn luận Trì địa nói sáu Ba-la-mật mới nói ra tướng chín thiền, đều là thiền bất cộng của Bồ-tát. Từ tự tánh cho đến thanh tịnh thì chẳng chung với người Nhị thừa. Nay nói bất cộng thứ đệ của Bồ-tát, nội hạnh rộng sâu, suy tư tu pháp đối với sáu Ba-la-mật mà nêu riêng chín thứ đại thiền. Chín thứ này gọi chung là Thiền, là tên phiên dịch đồng với trước nhưng pháp tướng có khác. Tự tánh thiền: Thế nào là Tự tánh thiền? Trước khi văn tư tạng Bồ-tát thì làm điều lành thế gian và xuất thế gian, nhất tâm an trụ, hoặc chỉ, hoặc quán, hoặc hai thứ đồng loại, hoặc toàn phần, đều là Tự tánh thiền. Nhất thiết thiền. Thế nào là Bồ-tát Nhất thiết thiền? nói lược có hai thứ: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Lại tùy chỗ ứng mà đều có ba thứ: Một là Hiện pháp lạc trụ thiền, hai là Xuất sinh Tam-muội công đức thiền, ba là lợi ích chúng sinh thiền. Bồ-tát thiền định lìa tất cả vọng tưởng, thân tâm dừng nghỉ (vắng lặng bậc nhất), tự nêu tâm dứt, buông bỏ vị trước, và tất cả tưởng. Đó gọi là Hiện pháp lạc trụ thiền. Bồ-tát thiền định sinh ra các thứ không thể nghi bàn vô lượng vô biên chủng tánh mười lục, Tam-muội sở nhiếp. Các Tam-muội ấy tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng biết được tên gọi huống chi biết được chỗ khởi và chỗ sinh ra giải thoát của Nhị thừa, trừ nhập tất cả vô ngại tuệ vô tránh nguyện trí thắng công đức diệu. Đó gọi là Bồ-tát xuất sinh Tam-muội công đức thiền, lợi ích chúng sinh thiền, là mười một thứ, như trước đã giải thích, Bồ-tát y bố thí chúng sinh làm ra các nghóa để lợi ích, vì cùng đồng sự mà trừ các khổ. Biết điều nên nói, biết ân báo ân, ngă ngừa các sợ sệt, các nạn sầu khổ, vì khai mở cho. Chỗ cần dùng chẳng đủ, bèn cấp thị cho, đúng pháp nuôi chúng, khéo thuận theo, thấy công đức chân thật vui mừng khen ngợi, tâm bình Đẳng chiết phục, thần lực sợ sệt, hoặc khiến vui mừng. Đó gọi là nói lược tất cả thiền, không thiếu (sót), không gì trên. Nam thiền. Thế nào là Bồ-tát nạn thiền? Nói lược có ba thứ: Bồ-tát đã lâu tu tập các thiền định thắng diệu, đối với các Tam-muội tâm được tự tại, thương xót chúng sinh muốn cho thành thục, bỏ đệ nhất thiền lạc mà sinh cõi dục. Đó gọi là Bồ-tát Đệ nhất nan thiền. Bồ-tát nương theo thiền sinh ra vô lượng vô số không thể nghì bàn các Tam- muội sâu xa, ở trên tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, đó gọi là Đệ nhị nan thiền. Bồ-tát Y theo thiền được Vô thượng Bồ-đề, gọi là Đệ tam nan thiền Nhất thiết môn thiền. Thế nào là Nhất thiết môn thiền của Bồ- tát? Nói lược có bốn thứ: Một là Hữu giác hữu quán câu thiền, hai là Hỷ cu thiền, ba là Lạc câu thiền, bốn là Xả câu thiền. Thiện nhân thiền. Thế nào là Thiện nhân thiền của Bồ-tát? Nói lược có năm thứ: Một là Bất vị trước, hai là Từ tâm câu, ba là Bi tâm câu, bốn là Hỷ tâm câu, năm là Xả tâm câu. Nhất thiết hạnh thiền. Thế nào là Nhất thiết hạnh thiền của Bồ-tát: Tức là sáu thứ, bảy thứ, nói lược mười ba thứ: Thiện thiền, Vô ký hóa hóa thiền, chỉ phần quán phần tự tha lợi chánh niệm thiền, Xuất sinh thần thông lực công đức thiền, Danh duyên, nghóa duyên, chỉ tướng duyên, Cử tướng duyên, Xả tướng duyên, hiện pháp, lạc trụ, đệ nhất nghóa thiền, là mười ba thứ Nhất thiết hạnh thiền của Bồ-tát. Trừ não thiền. Thế nào là Trừ não thiền? Nói lược có tám thứ: Một là Bồ-tát nhập định trừ các nhiệt bệnh khổ nạn độc hại sương mù, mưa đá, đó gọi là chú thuật Sở y thiền; hai là Bồ-tát nhập định trừ được các bệnh do bốn đại sinh ra. Ấy là Trừ bệnh thiền; ba là Bồ-tát nhập định khởi lên mưa ngọt trừ được các hạn hán cứu các đói khát. Đó gọi là Vân vũ thiền; bốn là Bồ-tát nhập định cứu giúp các tai nạn sợ sệt, tất cả nạn nước lửa sợ sệt, nhân, phi nhân, gọi là Đẳng độ thiền; Năm là Bồ-tát nhập định hay dùng thức ăn uống mà làm lợi ích các chúng sinh trong đồng cỏ đói khát. Đó gọi là Nhiêu ích thiền; sáu là Bồ-tát nhập định dùng tài vật điều phục chúng sinh. Đó gọi là Điều phục thiền; bảy là các Bồ-tát nhập định biết các mê say, các mê trong mười phương đều được khai giác, đó gọi là Khai giác thiền; tám là Bồ-tát nhập định, các việc chúng sinh làm đều giúp cho thành tựu, đó gọi là Đẳng tác thiền. Thử thế tha thế lạc thiền. Lược nói có chín thứ: Một là Thần túc biến hiện điều phục chúng sinh thiền; hai là Tùy nói điều phục chúng sinh thiền; ba là Dạy răn biến hiện điều phục chúng sinh thiền; bốn là vì chúng sinh ác mà bày đường ác thiền; năm là chúng sinh không có biện tài dùng biện tài làm lợi ích thiền; sáu là chúng sinh Thất niệm dùng niệm để làm lợi ích thiền; bảy là Tạo bất điên đảo, luận vi diệu tán tụng Ma-đắc-lặc-già vì khiến chánh pháp ở lâu trên đời thiền; Tám là Thế gian kỹ thuật nghóa lợi ích nhiếp thủ chúng sinh. Cái gọi là Thư số toán kế, tư sinh phương tiện pháp, các chúng cụ thiền như thế; chín là Phóng ánh sáng tạm dứt đường ác thiền. Thanh tịnh tịnh thiền. Thế nào là Thanh tịnh tịnh thiền của Bồ-tát. Lược có mười thứ: Một là Thế gian thanh tịnh tịnh bất vị bất nhiễm ô thiền; hai là Xuất thế gian thanh tịnh tịnh thiền; ba là Phương tiện thanh tịnh tịnh thiền; bốn là Đắc căn bản thanh tịnh tịnh thiền; năm là Đắc căn bản thượng thắng tấn thanh tịnh thiền; sáu là Trụ khởi lực thanh tịnh tịnh thiền; bảy là Xả phục nhập lực thanh tịnh tịnh thiền; tám là Thần thông sở tác lực thanh tịnh tịnh thiền, chín là Ly nhất thiết kiến thanh tịnh tịnh thiền; mười là Phiền não trí chướng đoạn thanh tịnh tịnh thiền. Bồ-tát có vô lượng thiền như thế, được quả đại Bồ-đề. Bồ-tát y theo đó mà được A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồ-đề, đã được sẽ được. Chín thứ thiền nói trong đó từ đầu đến cuối đều là trích từ Địa trì xứ do Bồ-tát Di-lặc nói, không có một câu riêng nào, người đọc tự biết lấy ý ấy. 4 5.MƯỜI TÁM KHÔNG: 1.Nội không; 2. Ngoại không; 3.Nội ngoại không; 4.Không không; 5.Đại không; 6.Đệ nhất nghóa không; 7. Hữu vi không; 8.Vô vi không; 9.Tất cánh không; 1 0.Vô thỉ không; 1 1. Tán không; 1 2. Tánh không; 1 3. Tự tướng không; 1 4. Chư pháp không; Bất khả đắc không; 1 6. Vô pháp không; 1 7. Hữu pháp không; 18. Vô pháp hữu pháp không. Kế chín thứ thiền là nói về mười tám không. Chín thứ trước chính là nói lại Thiền Ba-la-mật có giai cấp sâu. Nay mười tám không kế thành Bát-nhã ba-la-mật, trí tuệ soi rõ sự sâu mầu của vô đắc vô trước, cho nên kế nói. Mười tám thứ này gọi là Không, tức là không thật có, không mười tám thứ hữu nên gọi là Không. Nếu Bồ-tát mới đều là tu Tự tánh thiền, cuối đến Thanh tịnh tịnh thiền, tuy có dụng đại công đức thần thông trí tuệ. Mà thiền định là cửa nẻo, nói pháp có cấp bực. Nếu bất thiện thì dùng mười tám không tuệ soi rõ trừ sạch. Hoặc đối với các thiền Tam-muội đã chứng thì mười tám pháp hữu tùy dính mắc một hữu thì chẳng được vô ngại giải thoát, nhậm vận tự tại, cho nên phải tu mười hai không, soi rõ vô trụ vô trước. Kinh luận nói không, khai họp danh số chẳng đồng hoặc vì lược mà họp thành mười tám không, nhưng chỉ là mười bốn không, hoặc mười một không, hoặc bảy không, cho đến ba không, hai không, một không. Hoặc vì rộng mà chia mười không thành hai mươi không, hai mươi lăm không, cho đến vô lượng không. Nay trong xứ dùng mười tám không dứt sạch các hữu, hết tất cả thì các Ba- la-mật thiền định Tam-muội muôn hạnh thảy đều thanh tịnh. Nội không. Nội không là nội pháp không, gọi là sáu nhập bên trong là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Mắt không nên vô ngã, vô ngã sở, (không) tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng giống như thế. Ấy là Nội không. Ngoại không. Ngoại không là pháp bên ngoài không. Pháp ngoài tức là sáu nhập bên ngòai: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc không nên vô ngã, vô ngã sở (không có ngã, ngã sở), (không có) sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng giống như thế. Ấy là Ngoại không. Nội ngoại không. Trong ngoại không là pháp trong ngoài không. Pháp trong ngoài đó là trong ngoại mười hai nhập, trong mười hai nhập không có ngã, ngã sở, không có pháp trong ngoài, ấy là trong ngoài không. Không không: Không không là dùng không mà phá trong ngoại không, trong ngoại không phá ba không ấy nên gọi là không không, nên kinh Duy-ma chép: Được pháp này rồi không có các bệnh khác, chỉ có bệnh, không bệnh, không cũng không nên gọi là Không không. Đại không. Đại không là mười phương tướng không, nên gọi là Đại không. Vì sao? Vì phương Đông vô biên nên gọi là Đại. Cũng trùm khắp tất cả chỗ nên gọi là Đại. Khắp tất cả sắc nên gọi là Đại. Như thế Đại phương năng phá nên gọi là Đại không. Cho đến Nam Tây Bắc phương, bốn duy trên dưới cũng giống như thế. Đệ nhất nghóa không. Đệ nhất nghóa không nghóa bậc nhất trong các pháp gọi là Niết-bàn. Trong Niết-bàn cũng không có tướng Niết- bàn. Niết-bàn không tức là Đệ nhất nghóa không. Hữu vi không: Pháp hữu vi gọi là nhân duyên hòa hợp mà sinh, đó là năm chúng, mười hai nhập, mười tám giới. Nay pháp hữu vi có hai nhân duyên cho nên không: Một là không có ngã, ngã sở và tướng thường không dời đổi, chẳng thật có cho nên không; hai là pháp hữu vi, pháp hữu vi tướng không, chẳng sinh chẳng diệt, không thật có. Ấy là Hữu vi không. Vô vi không. Vô vi không, pháp vô vi gọi là vô nhân duyên, thường chẳng sinh chẳng diệt như hư không. Nay đối đãi với Hữu vi nên nói Vô vi. Nếu pháp hữu vi chẳng thật có thì không có pháp Vô vi để chấp trước, nên tức là Vô vi không. Tất cánh không: Rốt ráo không vì tám thứ trước không mà phá các pháp rốt ráo đều sạch hết nên gọi là rốt ráo. Nếu không có các pháp thì cũng không có (rốt ráo) để chấp nên gọi là Không. Lại hiểu rốt ráo là chung cánh quán, pháp chung cánh ấy cũng chẳng thật có thì chẳng chấp có pháp rốt ráo , gọi là rốt ráo không. Nên kinh Pháp Hoa chép: cho đến rốt ráo Niết-bàn là tướng thường vắng lặng, (rốt lại) cũng là không. Vô thỉ không: Vô thỉ không là tất cả thế gian, hoặc chúng sinh, hoặc pháp đều không có bắt đầu. Như Phật bảo các Tỳ-kheo chúng sinh vô thỉ vô minh, bị ái trói buộc tới lui sinh tử, vô thỉ có thể phá được vô thỉ này, đối với vô thỉ không có chấp trước nên gọi là Vô thỉ không. Tán không: Tán không là năm chúng hòa hợp nên có thân người. Nếu dùng trí tuệ mỗi mỗi phân biệt phá tan người và năm chúng cùng với pháp bị phá tan đều không, chẳng thật có. Như Phật bảo La- na: Sắc này phá tan, khiến không có gì. Các chúng sinh khác cũng như thế. Đó là tán không. Tánh không. Tánh lạ gọi là tự có, chẳng đợi nhân duyên. Nếu đợi nhân duyên thì là pháp làm ra, chẳng gọi là Tánh. Nay trong các pháp đều không tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu vi đều từ nhân duyên sinh. Nhân duyên sinh thì là pháp làm ra, nếu chẳng từ nhân duyên hòa hợp thì là vô pháp, như thế tất cả các pháp tánh chẳng thật có, nên gọi là Tánh không. Tự tướng không. Tự tướng không là tất cả các pháp có hai thứ tướng: Một là tướng chung; hai là tướng riêng. Tướng chung là như vô thường v.v… Tướng riêng là các pháp tuy vô thường nhưng đều có tướng riêng, như đất có tướng cứng chắc, lửa có tướng nóng. Hai tướng như thế đều không, nên nói là tướng không, phân biệt tánh tướng khác nhau. Hoặc nói tên khác mà thể đồng, hoặc nói tên thể đều khác. Vì sao? Vì Tánh nói là thể, tướng nói là thức. Tánh là các pháp y cứ bên trong, tướng là y cứ bên ngoài. Tướng như thấy sắc vàng là tướng vàng mà trong là đồng, dùng lửa đốt đá mài thì biết không phải là tướng tánh vàng, nên nói riêng về tướng không. Các pháp không. Các pháp không là tên tất cả pháp năm chúng, mười hai nhập, mười tám giới v.v.… là pháp không, đều nhập vào các thứ môn, gọi là tất cả pháp. Tướng có, tướng biết, tướng thức, tướng duyên tăng thượng, tướng nhân, tướng quả, tướng chung, tướng riêng, tướng y… v.v… tất cả đều không, không chẳng thật có, nên gọi là các pháp không. Bất khả đắc không. Bất khả đắc không là tất cả pháp và nhân duyên rốt ráo chẳng thật có, nên gọi là bất khả đắc không. Lại giải thích rằng ở trên dùng các pháp không mà không tất cả pháp, đều chẳng thật có. Nếu cho là không thật có thì đó là đoạn diệt. Nếu biết là chẳng thật có thì cũng chẳng thật có, đối với chẳng thật có tâm chẳng mất, nên gọi là bất khả đắc không. Vô pháp không: Vô pháp không là không pháp để gọi, pháp đã diệt là diệt vô, nên gọi là vô pháp không. Có người giải thích rằng: Pháp quá khứ vị lai gọi là pháp không, là vô pháp chẳng thật có, nên gọi là vô pháp không. Hữu pháp không: Hữu pháp không là có pháp để gọi, các nhân duyên hòa hợp mà sinh, cho nên giải thích rằng: Tất cả pháp hiện tại và pháp vô vi gọi là pháp hữu vi. Như thế pháp có đều không, nên gọi là hữu có pháp không. Vô pháp hữu pháp không: Vô pháp hữu pháp không, là tướng của vô pháp hữu pháp chẳng thật có, nên gọi là vô pháp hữu pháp không. Cũng vì quán vô pháp hữu pháp không nên gọi là vô pháp hữu pháp không. Có người giải thích rằng: Quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả đều không, nên gọi là vô pháp hữu pháp không. 4 6.MƯỜI DỤ: 1. Như huyễn; 2. Như ánh lửa; 3. Như trăng đáy nước; 4. Như hư không; 5. Như tiếng vang; 6. Như thành Kiền-thát-bà; Như mộng; 8. Như (bóng); 9. Như hình tượng trong gương; 10.Như hóa. Kế mười tám không là nói về mười dụ. Mười dụ này là để dễ hiểu về không. Nếu tu quán mười tám không mà chẳng khéo dùng mười dụ để hiểu cái mê chấp vướng mắc, thể hội pháp chân không thì không do đâu chánh giải phát nên kế mười tám không là nói về mười dụ, để thành dễ ngộ quán không, cũng vì khác với hoại pháp Nhị thừa mà tu không. Mười thứ này gọi là dụ vì nhờ sự mà so với lý để hiểu mê tình, nên gọi là dụ. Nay vì huyễn mộng của thế giới dễ hiểu không, để dụ cho tâm mê chấp khó tan như băng khiến cho đều dễ hiểu, cho nên lấy mười sự này làm dụ. Như huyễn. Thí như nhà trò ảo thuật làm ra voi ngựa và các thứ vật thể, tuy không thật nhưng có huyễn sắc mà ta thấy rõ ràng, có tiếng huyễn mà ta nghe, đối nhau với tình mà chẳng lầm loạn. Người vô trí chẳng hiểu, cho đó là Thật. Các pháp cũng như thế, đều là chẳng biết do huyễn làm ra. Tuy không mà ta thấy nghe rõ ràng chẳng lầm loạn. Tâm mê chẳng hiểu vọng chấp là thật. Người tu không quán nếu biết các pháp đồng như tướng huyễn thì tâm không, rỗng rang khai giải, ngộ tất cả pháp đều vắng lặng, nên nói như huyễn. Như ánh lửa: Lửa mặt trời như gió động bụi cho nên ở chỗ trống thấy như có ngựa chạy. Người vô trí mới thấy cho là nước, tướng nam tướng nữ và tướng tất cả pháp cũng giống như thế. Ánh sáng kết sử phiền não, bụi các hạnh, gió ức niệm chuyển trong chốn hoang vắng sinh tử. Người không có trí tuệ cho là một tướng, là nam là nữ, đó gọi là ánh lửa. Lại nữa, nếu ở xa thấy hơi nóng bốc lên tưởng là nước, đến gần thì không có nước. Người vô trí cũng giống như thế. Nếu xa Thánh pháp, không biết vô ngã, không biết các pháp là không. Đối với Ấm, nhập, giới là pháp tánh không mà sinh tưởng người, tưởng nam tưởng nữ. Gần Thánh pháp thì biết thật tướng các pháp. Lúc đó, các thứ vọng tưởng giả dối trừ sạch. Cho nên nói như hơi nóng. Như trăng đáy nước. Trăng ở trên hư không mà bóng nó bên trong nước, thật ra pháp tướng như pháp tánh, thật tế ở trong hư không. Phàm phu đối với nước tâm thấy có tướng ngã và ngã sở hiện ra, vì thế nói là như trăng đáy nước. Trẻ con thấy trăng đáy nước vui mừng chụp lấy. Người lớn thấy đó thì cười. Người vô trí cũng giống như thế. Vì thân kiến nên thấy có tà mạng, vì không thật trí nên thấy các thứ pháp, thấy rồi thì vui mừng muốn nắm lấy các tướng, tướng nam tướng nữ, v.v… Các bấc Thánh đắc đạo thương xót mà cười. Như hư không. Hư không chỉ có tên mà không có pháp thật. Hư không chẳng thể thấy, ở xa nhìn nên mắt thấy hình sắc. Các pháp cũng như thế, là không, chẳng thật có. Người ở xa vô lậu thật trí tuệ, bỏ thật mà thấy có mình người, nam nữ, nhà cửa, các vật. Nếu tu không quán nhập vào lý thật tướng thì tất cả đều không thật có. Nên nói là như hư không. Như tiếng vang. Nếu trong núi sâu hay trong hang núi hẹp và trong ngôi nhà rộng, nếu có tiếng nói hay vỗ đập thì phát ra tiếng vang. Người vô trí cho là có tiếng người nói. Người có trí hiểu là tiếng không do người làm, chỉ do tiếng chạm nhau, nên gọi là vang. Tiếng vang là không mà dối lừa được lỗ tai. Khi người muốn nói thì hơi trong miệng tuôn ra, gọi là Ưu-đà-na, lại vào đến rún, khi phát tiếng vang thì chạm vào bảy chỗ mà trở lại, đó gọi là nói năng như tiếng vang. Người vô trí chẳng biết nhân duyên của nói năng gọi là thật tâm mà sinh vui buồn. Người trí biết nhân duyên nói năng không thật, chỉ như tiếng vang nên khi nghe thì tâm không chấp trước. Các pháp cũng như thế nên nói như tiếng vang. Như thành Kiền-thát-bà, khi mặt trời mới mọc thấy cửa thành có lầu các cung điện, có người ra vào. Mặt trời lên càng cao thì càng biến mất, chỉ mắt thấy mà không có thật. Người vô tri chẳng biết cho đó là thật. Người có trí thì biết là không thật. Các pháp cũng như thế, vì người vô trí chẳng hiểu vọng chấp có giả danh, ngã, Ấm, nhập, giới là thật. Người trí hiểu rõ đều là không thật có, nên nói như thành Kiền- thát-bà. Như mộng. Trong mộng không có việc thật mà cho là có thật. Thức rồi thì lại tự cười. Con người cũng như thế, các kết sử này trong lúc ngủ thật không có mà chấp chặt, khi được đạo thức rồi bèn biết là không thật, cũng lại tự cười. Cho nên nói như mộng. Lại mộng là do năng lực của giấc ngủ, không có pháp mà thấy là có, con người cũng giống như thế. Vì năng lực của giấc ngủ vô minh, các thứ vô mà thấy có, đó là ngã, ngã sở, nam nữ, v.v… Như (bóng) dáng: bóng dáng là chỉ có thể thấy mà chẳng thể cầm nắm. Các pháp cũng như thế, tuy mắt v.v… thấy nghe hiểu biết mà chẳng thật có. Lại như bóng dáng khi chiếu sáng thì hiện, chẳng chiếu sáng thì không có. Các kết sử phiền não ngăn ánh sáng chánh kiến thì có ảnh ngã tướng, pháp tướng. Nếu phiền não kết sử diệt thì ngã tướng, pháp tướng đều không. Lại như bóng người đi thì đi, đứng thì đứng. Bóng dáng nghiệp thiện ác cũng như thế. Đời sau đi thì cũng đi, đời này đứng thì cũng đứng, vì quả báo chẳng dứt. Như hình ảnh trong gương: hình ảnh trong gương thì không phải gương làm ra không phải mặt làm ra, không phải gương và mặt hòa hợp nhau làm ra, cũng không phải nhân duyên làm ra, tuy không nhất định có mà thấy được, phân biệt được. Các pháp cũng như thế. Không phải tự có, không phải khác có, không phải cùng có, cũng không phải không nhân duyên mà có. Tuy có mà chẳng thật có, chỉ vì (tên gọi) mà có phân biệt, như hình ảnh trong gương. Thật không có mà dối gạt trẻ con làm cho sinh vui buồn. Người trí tuy thấy liền biết không thật, cho nên không vui buồn. Các pháp cũng giống như thế, dối gạt phàm phu sinh ra các phiền não. Người thật trí tuệ tuy thấy nghe nhưng biết là không thật, nên chẳng sinh kiết nghiệp, cho nên nói như hình ảnh trong gương. Như hóa. Nếu các trời, tiên Thánh được thần thông, biến hóa các vật như hóa nhân, không sinh già bệnh chết, không khổ không vui, cũng khác với người đời, cho nên không mà chẳng thật. Tất cả các pháp cũng giống như thế, đều không sinh diệt, lại như hóa sinh vật không nhất định, chỉ vì tâm sinh liền có làm, đều không thật có. Người đời cũng như thế. Vốn không có nhân chỉ từ tâm đời trước sinh thân đời này, không có thật. Vì thế nên nói các pháp như hóa. <篇> PHÁP GIỚI THỨ ĐỆ SƠ MÔN <卷>QUYỂN HẠ (PHẦN 2) 47.MỘT TRĂM LẼ TÁM TAM MUỘI: Số một trăm lẻ tám rất nhiều không thể nêu đủ dưới đây. Kế mười dụ mà luận một trăm lẻ tám Tam-muội. Nếu Bồ-tát khéo dùng mừi dụ khai mở cho tâm hiểu thì mười tám không quán sở tu tự nhiên sáng tỏ. Dùng không tuệ đó mà chiếu các thiền định, các thứ pháp môn vô nhiễm vô trước thì hay sinh ra một trăm lẻ tám Tam-muội của Bồ-tát và các Tam-muội bất động của chư Phật v.v… một trăm thì có hai mươi, cho đến vô lượng Tam- muội, đối với Tam-muội mà du hí tự tại. Các Tam-muội ấy chẳng thể nghó bàn, Nhị thừa chẳng có. Nay một trăm lẻ tám thứ này cho đến vô lượng gọi chung là Tam-muội. Tam-muội cũng đồng với dịch ở trước, chỉ Thủ-lăng-nghiêm, v.v… một trăm lẻ tám cảnh giới thể dụng rất mầu nhiệm rộng sâu, cho nên kết đây nói. Nay trong một trăm lẻ tám Tam- muội này danh tướng đã nhiều đâu thể nói đủ. Nếu muốn biết khắp thì phải tìm đọc luận Đại Trí Độ. Tam-muội Thủ-lăng-lghiêm. Thủ-lăng-nghiêm, đời Tần dịch là Kiện tướng, phân biệt biết các hạnh Tam-muội tướng có nhiều ít, cạn sâu, như đại Tướng biết các binh lực nhiều ít. Bồ-tát được Tam-muội ấy thì các ma phiền não và ma quân không thể phá hoại. Thí như vua Chuyển luân đứng đầu chủ các binh tướng báu, đi ở chỗ nào cũng không thể phá hoại, hàng phục được, nên gọi là Tam-muội Kiện Tướng. Tam-muội Bảo Ấn. Bảo Ấn Tam-muội có công năng ấn chứng các Tam-muội. Trong các thứ báu, của báu pháp bảo là báu bậc nhất. Đời nay, đời sau cho đến Niết-bàn có công năng làm lợi ích. Như Phật bảo các Tỳ-kheo: vì các thầy nói pháp đó gọi là pháp ấn, pháp tức là thật, ấn tức là môn giải thoát. Như Tam Tạng giáo môn dùng ba pháp làm pháp ấn. Như giáo môn Ma-ha-diễn chỉ có một pháp ấn là thật tướng các pháp, cùng thật tướng Bát-nhã tương ưng với Tam-muội, nên gọi là Tam-muội Bảo Ấn. Tam-muội Sư Tử Duy Hý: Bồ-tát được Tam-muội này, đối với tất cả Tam-muội ra vào nhanh chậm đều được tự tại. Ví như các thú khi chơi giỡn nếu thấy sư tử thì đều sợ hãi. Sư tử khi đùa giỡn gặp các thú, con mạnh thì giết, con chịu phục thì thả. Bồ-tát cũng giống như thế. Được Tam-muội ấy đối với các ngoại đạo, kẻ mạnh thì phá, kẻ tin theo thì độ. nên gọi là Tam-muội Sư Tử Du (Hý). Một trăm lẻ bốn Tam-muội sau cũng phải như thế, xuất xứ từ luận Đại Trí Độ. Nếu muốn biết thì phải tìm đọc luận ấy. Một trăm lẻ tám Tam-muội Ly Trước Hư Không Bất Nhiễm. Tam-muội Ly Trước Hư Không Bất Nhiễm là Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, quán các pháp đều rốt ráo không, chẳng sinh chẳng diệt như hư không, không có vật nào để dụ. Bồ-tát độn căn mê đắm hư không này, được Tam-muội này cho nên lìa đắm các pháp như hư không, v.v…, cũng chẳng nhiễm trước. Tam-muội ấy như người chìm trong sình có người kéo ra, trói chân bắt làm tôi tớ. Có Tam-muội lìa trước hư không mà lại tự mê đắm Tam-muội này cũng giống như thế. Nay Tam-muội ấy lìa đắm hư không cũng tự lìa trước. Nên gọi là Tam-muội Ly Trước Hư Không Bất Nhiễm. Như thế chư Phật Bồ-tát vô lượng không thể nghì bàn các Tam-muội, trong ấy phải nêu đủ (tên gọi), lược giải thích tướng của nó. Việc ấy, v.v… rộng nói trong các pháp môn khác. 4 8. NĂM TRĂM ĐÀ LA NI: Số năm trăm rất nhiều không thể nêu hết ở sau. Kế các Tam-muội là nói về Đà-la-ni. Nếu y theo luận mà giải thích Tam-muội thì chỉ là tâm tương ưng với pháp Đà-la-ni, hoặc tâm tương ưng, hoặc chẳng tương ưng, cho nên khác với Tam-muội, như kinh Pháp Hoa chép: Tam-muội Phổ hiện sắc thân cũng là Đà-la-ni hiểu biết tiếng nói của tất cả chúng sinh, dùng Tam-muội Đà-la-niết-bàn, đã là pháp thành tựu lẫn nhau, nên kế đây sẽ nói. Năm trăm Đà-la-ni này, Đà-la-ni là tiếng Tây Trúc, Hán dịch là Năng Trì hoặc Năng Giá. Năng trì là tập các pháp lành, chẳng để tan mất. Ví như chiếc bình còn nguyên đựng đầy nước, nước chẳng rò rỉ. Năng giá là bất thiện căn xuất ác sinh ra thì ngăn ngừa không cho khởi, nên gọi là Năng giá. Lại dịch là Tổng trì, là tùy có tên hoặc nghóa, hoặc hạnh địa công đức đều trì được, nên gọi là Tổng trì. Nay năm trăm thứ này đều có nghóa Trì giá, Tổng trì, nên gọi chung là Đà-la-ni. Đà-la-ni nói lược thì có năm trăm, nói rộng thì có tám mươi bốn ngàn cho đến vô lượng đều là pháp môn chư Phật có được, Bồ-tát, danh nghóa đều chẳng chung với Nhị thừa. Nay y theo luận Đại Trí Độ mà lược nói Đà-la-ni để thành năm trăm thứ đệ chương môn. Danh nghóa rất nhiều đâu thể nêu đủ. Văn trì Đà-la-ni. Người được Đà-la-ni này thì lời nói và các pháp mà tai nghe qua đều không quên. Đó là chư Phật mười phương và các đệ tử có giảng nói điều gì khi nghe qua liền nhớ mãi không quên, nên gọi là Văn trì Đà-la-ni, thuộc về danh trì. Phân biệt Đà-la-ni. Được Đà-la-ni này thì các pháp chúng sinh lớn nhỏ tốt xấu phân biệt đều biết, nên gọi là Phân biệt Đà-la-niết-bàn, thuộc về nghóa trì. Nhập âm thinh Đà-la-ni. Được Đà-la-ni này thì nghe tất cả âm thanh tiếng nói chẳng mừng chẳng giận. Tất cả chúng sinh trong số kkiếp nhiều như số cát sông Hằng dùng lời mắng chửi hung ác thì tâm cũng không hờn ghét. Tất cả chúng sinh số kiếp nhềiu như sông Hằng dùng các thứ khen ngợi cúng dường thì tâm cũng không động không mừng không đắm trước. Ấy là Nhập Âm Thinh Đà-la-ni, tức là hành trì. Lại có Tịch diệt Đà-la-ni, Vô biên Đà-la-ni, Oai đức Đà-la-ni, Tùy địa quán Đà-la-ni, Hoa Nghiêm Đà-la-ni, Hư không tạng Đà-la-ni, Hải tạng Đà-la-ni, Phân biệt chư pháp Đà-la-ni, Minh chư pháp nghóa Đà-la-niết- bàn, v.v.… Như thế nói lược cho đến năm trăm Đà-la-ni, nói rộng thì có vô lượng Đà-la-ni. 4 9.BỐN NHIẾP: là bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự. Kế Đà-la-ni là nói về bốn nhiếp. Nếu Bồ-tát bên trong đủ các Tam-muội, tự hành đã đủ thì bên ngoài phải dẫn dắt các hàm thức cùng được đạo như mình. Nhưng vệic lợi vật, rộng giúp của Đại só không gì bằng bốn Tâm vô lượng và bốn nhiếp. Chỉ bốn Tâm vô lượng thì danh mục trước đã nói, đâu cần nói lại. Còn bốn nhiếp thì khéo léo dắt dẫn nên kế dây sẽ nói. Nói bốn nhiếp, chúng sinh có tình yêu kính tức là bốn pháp này. Nếu Đại só dùng bốn pháp này đồng tình dắt dẫn thì người mọi đều nường về. Nếu chúng sinh nương cậy thì mới dắt dẫn đến Chánh đạo Đại thừa mà độ thoát. Cho nên trước phải dùng móc mà kéo, rồi mới khiến vào Phật đạo. Bố thí nhiếp: Bồ-tát dùng tâm không buông bỏ mà thực hành hai thứ bố thí, năng nhiếp chúng sinh: Một là thí tài; hai là thí pháp. Nếu chúng sinh ưa tiền của thì dùng thí tài mà nhiếp lấy. Nếu chúng sinh ưa pháp thì dùng pháp mà nhiếp. Vì hai thứ bố thí đem lại lợi ích tất cả chúng sinh thường mong mỏi lợi. Do đó mà sinh tâm thân ái, tùy học đạo được trụ vào chân lý, nên gọi là Đàn bố thí nhiếp. Hai là tướng thí lược như đã phân biệt trong đàn Ba-la-mật, Ái ngữ nhiếp: Nếu Bồ-tát khéo dùng lời nói êm ái dịu dàng thuận theo tất cả căn tánh, an ủi khai mở thì tất cả chúng sinh đều ưa nghe, do đó mà sinh tâm thân ái nên nương vào Bồ-tát học đạo mà được trụ vào chân lý, nên gọi là Ái ngữ nhiếp. Lợi hành nhiếp: Bồ-tát tùy khởi làm thân, miệng, ý, khiến cho tất cả đều được lợi ích, chúng sinh đã mong thắng lợi thì vui mừng được lợi. Do đó mà sinh tâm thân ái nên nương cậy học đạo mà được chân lý, nên gọi là Lợi hành nhiếp. Đồng sự nhiếp: Bồ-tát dùng pháp nhãn thấy rõ căn duyên chúng sinh nên tất cả đều vui theo, tức là phân tán hình ảnh khắp hòa với chúng sinh, đồng làm sự nghiệp ấy khiến đều lợi ích. Đã khéo léo đồng sự (cùng làm việc) do đó mà sinh tâm thân ái nên nương cậy học đạo mà được Niết-bàn, nên đồng sự ích vật gọi là nhiếp. 5 0.SÁU PHÁP HÒA KỈNH: 1.Đồng giới; 2.Đồng kiến; 3.Đồng hạnh; 4. Thân từ; 5. Khẩu từ; 6. Ý từ. Kế bốn nhiếp là nói về sáu hòa kỉnh. Bồ-tát đã khéo dùng bốn pháp đồng tình mà nhiếp hóa chúng sinh để thành tựu, cho nên phải cùng ở lâu dài, nếu chẳng hòa đồng ái kính thì cả hai chẳng hòa hợp, ắt chẳng được thành tựu Bát-nhã. Ấy là việc ma, nếu khéo dùng sáu Hòa thì thầm đồng với tất cả, sẽ được thiện từ đầu đến cuối. Cho nên kế bốn nhiếp là nói. Sáu thứ này gọi là hòa kỉnh vì bên ngoài thì đồng với điều thiện của người khác gọi là Hòa, bên trong thì tự khiêm nhường nên gọi là Kỉnh. Đồng giới hòa kỉnh: Bồ-tát thông suốt thật tướng, biết tội chẳng thật có, vì muốn an lập chúng sinh vào lý thật tướng nên dùng giới phương tiện khéo đồng tất cả, trì các giới phẩm không tranh cãi nhau cũng biết chúng sinh đồng thiện giới này, chẳng đoạn chẳng thường, ở vị lai sẽ được quả Bồ-đề, vì thế kính như Phật, nên nói Đồng giới là hòa kỉnh. Đồng kiến hòa kỉnh: Bồ-tát thông suốt thật tướng, chẳng được các pháp, chẳng thấy chẳng biết, vì muốn an lập chúng sinh trong thật tướng chánh kiến nên phương tiện khéo đồng tất cả các thứ tri kiến, không tranh cãi nhau. Cũng biết chúng sinh do tri kiến này phân biệt tăng thêm (hiểu biết) sẽ được chủng trí viên minh, cho nên kính như Phật, vì vậy nói Đồng kiến là hòa kỉnh. Đồng hạnh hòa kỉnh. Bồ-tát thông suốt thật tướng vô niệm vô hạnh, vì muốn an lập chúng sinh vào thật tướng chánh hạnh, phương tiện khéo đồng tất cả, tu các thứ hạnh, không tranh cãi nhau, cũng biết chúng sinh đồng các hạnh này, dần dần chứa nhóm công đức đều sẽ thành Phật đạo. Vì thế kính như Phật, cho nên nói Đồng hạnh là hòa kỉnh. Thân từ hòa kỉnh. Bồ-tát trụ vào Vô duyên đại bình đẳng từ, vì tu thân từ năng lực gốc lành, có khả năng không khởi diệt định, hiện các oai nghi, đêm đến niềm vui cho tất cả, nên thân chín hòa đồng đường. Cũng biết chúng sinh được vui ở trước đều có Phật tánh, ở vị lai chắc chắn sẽ được thân Kim cương, vì thế kính đồng như Phật. Cho nên nói thân từ hòa kỉnh. Khẩu từ hòa kỉnh. Bồ-tát dùng đại Từ Vô duyên bình đẳng để tu Khẩu, từ năng lực gốc lành có khả năng không khởi diệt định, khắp phát ra tất cả âm thanh lời nói mà ban cho tất cả đều vui, cho nên khẩu (miệng) hòa đồng với chín đường. Cũng biết chúng sinh được vui ở trước có Phật tánh. Ở vị lai chắc chắn sẽ được khẩu nghiệp Vô thượng, vì thế kính như Phật. Cho nên nói Khẩu từ hòa kỉnh. Ý từ hòa kỉnh. Bồ-tát tâm thường ở trong Tam-muội Vô duyên từ, vì tu về Ý, nhờ nănglực gốc từ thiện có khả năng chẳng khởi Từ định, hiện các tâm ý, ban vui chúng sinh, cho nên hòa đồng với chín đường. Cũng biết chúng sinh trước được vui, đều có Phật tánh, Lý Như Lai tạng, ở vị lai chắc chắn được tâm như tâm Phật, vì thế kính như Phật. Cho nên nói Ý từ hòa kỉnh. 5 1.TÁM THỨ BIẾN HÓA: 1.Có khả năng hiện nhỏ; 2.Hiện lớn; Có khả năng nhẹ; 4. Có khả năng làm tự tại; 5. năng có chủ; 6.Có khả năng đến xa; 7. Làm rung chuyển mặt đất; 8. Hay tùy ý làm. Kế sáu hòa kỉnh mà nói tám thứ biến hóa. Bồ-tát khéo trụ trong pháp hòa kỉnh thì cùng tất cả cũng như nước và sữa. Tâm chúng sinh đã thân ái cho nên dễ hóa độ. Nếu muốn sinh vật tin ít có, thì phải hiện Đại thần thông, Đại thần thông tức là sáu thần thông (đã nói ở trước, nay chẳng nói lại) chỉ cho tám biến hóa có dụng tự tại, lợi vật công sâu, Nhị thừa chẳng thể biết được, cho nên kế là nói hòa kỉnh. Tám thứ này gọi chung là biến hóa. Tên biến hóa đồng với mười bốn thứ trước không nhọc giải thích lại, mà tám thứ lực dụng tự tại khéo léo, người Nhị thừa không có được. Vì thế mà nói riêng, nên trong kinh Đại Niết-bàn dùng tám pháp này mà giải thích nghóa của ngã. Có khả năng nhỏ, dùng năng lực biến hóa có thể làm nhỏ thân mình, cũng có thể làm nhỏ thân người, hoặc hóa thành các vật nhỏ ở thế giới cho đến đều như cát bụi. Ấy là có khả năng nhỏ. Hiện lớn: Dùng năng lực biến hóa có thể làm lớn thân mình, cũng có thể làm nhỏ thân người, hoặc hóa thành các vật rất lớn ở thế giới, cho đến đầy khắp hư không, ấy là có khả năng hiện lớn. Có khả năng làm nhẹ: Dùng năng lực biến hóa có thể làm nhẹ thân mình cũng làm nhẹ thân người, hoặc làm các vật nhẹ ở thế giới cho đến đều nhẹ như lông chim hồng. Ấy là có khả năng làm nhẹ. Làm tự tại: Dùng năng lực biến hóa hay lấy lớn làm nhỏ, lấy nhỏ làm lớn, dài làm ngắn, ngắn làm dài, trong các thứ như thế v.v… có khả năng làm tự tại. Làm có chủ. Dùng năng lực biến hóa hóa thành đại nhân, tâm không thấp kém, hàng phục tất cả, nhiếp thọ tất cả. Đối với tất cả chúng sinh được tự tại. Nên gọi là có chủ. Có khả năng đến xa. Dùng năng lực biến hóa cho nên có khả năng đến xa. Có bốn thứ: Một là đến xa; hai là mất đây hiện kia; ba là dời xa khiến gần, chẳng đi mà đến; bốn là một niệm đến khắp mười phương. Ấy là đến xa. Làm rung chuyển mặt đất: Dùng năng lực biến hóa khiến cho đất bằng rung chuyển sáu cách, và mười tám cách rung chuyển, nên gọi là làm rung chuyển. Tùy ý muốn đều làm được: Dùng năng lực biến hóa mà có được một thân thành nhiều thân, khiến nhiều thân thành một thân, vách đá đều qua được, đi trên nước, bay trong như không, tay nắm mặt trăng mặt trời, chuyển được bốn đại, đất thành nước, nước thành đất, lửa làm gió, gió làm lửa, đá làm vàng, vàng làm đá. Ấy là tùy ý muốn làm gì đều được. Như Niết-bàn nói tám tự tại, có khác ít mà đồng nhiều. 5 2.BỐN VÔ NGẠI BIỆN: 1.Nghóa vô ngại trí; 2. Pháp vô ngại trí; 3. Từ vô ngại trí; 4. Lạc thuyết vô ngại trí. Kế tám biến hóa là nói về bốn Vô ngại trí. Nếu Bồ-tát hiện các thứ thần thông biến hóa thì người thấy đều sẽ tin phục. Chúng sinh đã khởi kính tin. Nếu muốn mở bày Đại đạo thì phải có vô ngại biện tài, cho nên kế là nói tám thứ biến hóa. Bốn thứ này gọi là bốn Vô ngại trí. Vì Bồ-tát đối với bôn pháp này trí tuệ nhanh lẹ, phân biệt rõ ràng, thông suốt không dính mắc, nên gọi là trí vô ngại. Nghóa vô ngại trí. Biết nghóa các pháp rõ ràng thấu suốt không dính mắc. Ấy là nghóa vô ngại trí. Lại biết tất cả nghóa đều nhập vào nghóa thật tướng, cũng gọi là Nghóa vô ngại trí. Pháp vô ngại trí. Pháp là gọi tất cả nghóa, danh tự là biết tất cả nghóa. Cho nên trí tuệ thông suốt danh tự các pháp, phân biệt không trệ ngại nên gọi là pháp ngại trí. Lại có khả năng dùng pháp vô ngại trí phân biệt ba thừa mà không hoại pháp tánh. Đối với lời nói danh tự đều không chấp, không dính mắc. Cũng là Pháp vô ngại trí. Từ vô ngại trí. Dùng lời nói mà nói nghóa danh tự các thứ trang nghiêm. Nói năng tùy theo sự thích ứng khiến cho được hiểu. Nói tất cả chúng sinh khác địa phương, khác ngôn ngữ, hoặc một tiếng, hai tiếng, nhiều tiếng, lời lược lời rộng, tiếng nam tiếng nữ, tiếng ở quá khứ vị lai hiện tại, các thứ tiếng nói như thế giúp cho được hiểu, luận bàn vô ngại, tất cả người nghe đều hiểu lời nói. Ấy là Từ vô ngại trí. Lạc thuyết vô ngại trí. Bồ-tát đối với một chữ nói được tất cả chữ, trong một lời nói được tất cả lời, trong một pháp nói được tất cả pháp. Các pháp nói ra đều chân thật, đều tùy được độ mà có ích lợi. Gọi đó là mười hai bộ kinh, tám mươi bốn ngàn pháp tạng, tùy tất cả căn tánh chúng sinh thích nghe pháp mà giảng nói khéo hợp cơ duyên nói năng, không trệ ngại, người nghe không nhàm chán. Bồ-tát dùng năng lực ưa nói luận mà ở đời nửa kiếp cho đến vô lượng kiếp nói luận vô tận, rộng lợi ích tất cả. Không có mười câu nào sai cơ, nên gọi là Lạc thuyết vô ngại trí. 5 3.MƯỜI LỰC gồm: 1.Xứ phi xứ lực; 2.Nghiệp lực; 3.Định lực; 4. Căn lực; 5. Dục lực; 6. Tánh lực; 7. Chí xứ đạo lực; 8.Túc mạng lực; Thiên nhãn lực; 10. Lậu tận lực. Kế bốn vô ngại trí là nói về mười lực, ở trên nói phần nhiều là sở đắc của Bồ-tát pháp Tự hành hóa tha. Nay muốn nói chỗ được của chư Phật về các pháp môn tự hành hóa tha. Cho nên kế nói pháp mười lực Bất cộng v.v…. Mười thứ này gọi là lực, là sở đắc của chư Phật Trí dụng như thật, thông suốt tất cả, sáng tỏ rõ ràng, không thể hoại, không thể hơn, nên gọi là Lực. Đại Bồ-tát cũng được một phần trí lực này, chỉ so với Phật là yếu kém nên được tên gọi. Xứ phi xứ lực. Phật biết nhân duyên của tất cả các pháp, định tướng quả báo, từ nhân duyên đó sinh ra quả báo như thế, từ nhân duyên đó chẳng sinh ra quả báo như thế, nếu nghiệp ác mà nhận được quả vui thì không có việc đó. Nghiệp ác còn chẳng được vui thế gian huống chi là vui xuất thế gian. Làm ác mà sinh lên cõi trời thì không có việc đó. Làm ác còn chẳng được sinh lên cõi trời huống chi là Niết-bàn. Năm thứ cái che tâm, tán loạn tuy tu bảy giác mà được Niết-bàn thì không có việc đó, năm thứ cái che tâm tuy tu bảy giác còn chẳng được đạo Thanh văn. Tâm chẳng che đậy Phật đạo còn thành, huống chi là đạo Thanh văn. Các thứ như thế là chỗ hay không phải chỗ thì Phậtđều biết, không thể phá hoại không thể hơn, đó là năng lực thứ nhất. Nghiệp lực: Phật biết tất cả chúng sinh quá khứ, vị lai, hiện tại, các nghiệp các thọ. Biết chỗ tạo nghiệp, biết nhân duyên, biết quả báo thảy đều biết hết, không thể hoại, không thể hơn là năng lực thứ hai. Định lực: Phật biết tất cả các thiền định giải thoát Tam-muội, phân biệt tướng cấu tịnh, biết khắp như thật, không thể hoại không thể hơn, là năng lực thứ ba. Căn lực: Phật biết tướng các căn trên dưới của các chúng sinh khác, biết khắp như thật, không thể hoại, không thể hơn, là năng lực thứ tư. Dục lực. Phật biết các dụng của chúng sinh khác, biết khắp như thật không thể hoại, không thể hơn, là năng lực thứ năm. Tánh lực: Phật biết các thứ vô số tánh ở thế gian, biết khắp như thật không thể hoại, không thể hơn, là năng lực thứ sáu. Chí lực đạo lực: Phật biết tất cả tướng đạo chí xứ, biết khắp như thật, không thể hoại, không thể hơn, là năng lực thứ bảy. Túc mạng lực: Phật biết các thứ Túc mạng, tướng chung, nhân duyên chung, một đời hai đời, cho đến trăm ngàn đời kiếp mới cùng. Ta ở trong chúng sinh ấy có tên họ như thế, ăn uống khổ vui, thọ mạng dài ngắn. Chết ở cõi đó sinh đến cõi này, chết ở cõi này lại sinh ở cõi kia. Sinh ở cõi này thì tên họ, ăn uống, khổ vui, tuổi thọ dài ngắn cũng như thế, biết khắp như thật, không thể hoại, không thể hơn, là năng lực thứ tám. Thiên nhãn lực. Thiên nhãn Phật thanh tịnh hơn mắt người, thấy chúng sinh khi chết, khi sống, đẹp đẽ, xấu xí, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc đường ác, đường hoặc sinh đường lành, nghiệp nhân duyên thọ báo như thế. Các chúng sinh ấy do thân, miệng, ý ác mà thành tựu, do nghiệp tà kiến chê bai bậc Thánh mà thành tựu. Vì nhân duyên ấy, khi thân chết rồi bị đọa vào đường ác, rơi vào địa ngục. Thấy các chúng sinh thân miệng ý nghiệp lành thành tựu, do nghiệp chánh kiến không chê bai bậc Thánh thành tựu. Vì nhân duyên ấy, khi thân chết rồi được vào đường lành, sinh lên cõi trời. Biết khắp như thật, không thể phá hoại, không thể hơn, là năng lực thứ chín. Lậu tận lực. Chư Phật các lậu đã hết nên tâm vô lậu giải thoát, trí tuệ vô lậu giải thoát. Trong pháp hiện tại tự biệt sự sinh tử của mình đã hết, trì giới đã lập, chẳng còn thọ thân hậu hữu, biết khắp dứt hết như thật, không thể hoại, không thể hơn, là năng lực thứ mười. 5 4.BỐN VÔ SỞ ÚY là: 1.Nhất thiết trí vô sở úy; 2.Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy. Kế mười lực là nói về bốn Vô Sở Úy. Trí mười lực của chư Phật bên trong đầy đủ, hiểu rõ quyết định, duyên ngoài mà không sợ. Cho nên kế nói mười lực, ý rất dễ thấy. Bốn thứ này gọi chung là vô sở úy. Ở trong tám chúng rộng nói Trí mình người đã dứt đã quyết định không lỗi nên không có một sợ sệt nhỏ nào, nên gọi là Vô sở úy. Nhất thiết trí vô sở úy. Phật răng dạy rằng Ta là (bậc) Nhất thiết chánh trí. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào, hoặc trời, hoặc ma, hoặc phạm, hoặc các chúng khác nói như thật là chẳng biết pháp ấy, cho đến chẳng thấy, là tướng sợ sệt nhỏ. Vì thế ta được an ổn, được không sợ sệt hãi, an trụ vào chỗ Thánh chủ. Như trâu đầu đàn ở giữa đại chúng gầm thét tiếng sư tử thì chuyển được phạm luân, các Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc các chúng khác thật chẳng thể chuyển, là Vô sở úy thứ nhất. Lậu tận vô sở úy. Phật dạy rằng: Ta đã hết tất cả lậu. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Trời, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc các chúng khác nói như thật là các lậu chưa hết cho đến chẳng thấy một tướng sợ nhỏ. Vì thế ta được an ổn, được vô sở úy an trụ vào chỗ Thánh chủ. Như trâu đầu đàn ở giữa đại chúng gầm thét tiếng sư tử thì sẽ chuyển được phạm luân, các Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc các chúng khác thật chẳng thể chuyển, là vô úy thứ hai. Nói chướng đạo vô sở úy. Phật dạy rằng: Ta nói chướng pháp hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Trời, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc các chúng khác nói như thật thọ là chướng pháp, chẳng chướng đạo, cho đến chẳng thấy tướng sợ nhỏ này. Vì thế nên ta được an ổn, được vô sở úy. An trụ vào chỗ Thánh chủ, như trâu đầu đàn ở giữa đại chúng gầm thét tiếng sư tử thì sẽ chuyển được phạm luân. Các Sa-môn Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc các chúng khác thật chẳng thể chuyển, là vô sở úy thứ tư. 55.MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘÏNG: 1.Thân không lỗi; 2.Miệng không lỗi; 3.Niệm không lỗi; 4.Vô dị tưởng; 5.Không có tâm bất định; 6.Đều biết mình xả; 7.Dục không giảm; 8.Tinh tấn không giảm; 9. Niệm không giảm; 10.Tuệ không giảm; 11.Giải thoát không giảm; 12. Giải thoát tri kiến không giảm; 13. Tất cả thân nghiệp làm theo trí tuệ; Tất cả khẩu nghiệp làm theo trí tuệ; 15. Tất cả ý nghiệp làm theo trí tuệ; 16.Trí tuệ biết đời quá khứ vô ngại; 17.Trí tuệ biết đời vị lai vô ngại; 18. Trí tuệ biết đời hiện tại vô ngại. Kế bốn vô sở úy là nói về mười tám pháp Bất cộng. Chư Phật, trí mười lực bên trong đầy đủ, đức Vô Úy bên ngoài hiển bày. Cho nên có tất cả công đức trí tuệ vượt quá vật biểu, không chung với thế gian, muốn cho khác với chỗ được của tất cả phàm Thánh, cho nên kế đây nói. Mười tám thứ này gọi chung là Bất cộng, là pháp cực địa, chẳng chung với phàm phu, Nhị thừa, và các Bồ-tát, nên gọi là Bất cộng. Thân không lỗi: Phật từ vô lượng kiếp đến nay thường dùng giới, định, trí tuệ Từ bi để tu thân. Các công đức này đầy đủ sẽ cứu hết các tôi căn bản, nghóa là tất cả bất thiện, năm trụ phiền não và các tập khí đều hết. Tất cả thân nghiệp làm theo trí tuệ, nên thuộc về thân không lỗi. Miệng không lỗi: Nhân duyên không lỗi, như thân không lỗi ở trên đã nói. Niệm không lỗi: Phật bốn tâm niệm xứ, trọn đời khéo tu. Khéo tu các thiền định sâu xa, tâm không tán loạn nên khéo dứt dục ái và pháp ái. Đối với các pháp tâm không mê đắm (dính mắc) được chỗ an ổn bậc nhất. Tất cả ý nghiệp đều làm theo trí tuệ. Nên niệm không lỗi. Vô dị tưởng (không có tưởng khác). Phật đối tất cả chúng sinh không phân biệt, không tưởng xa gần, khác lạ, mà bình đẳng độ khắp, tâm không chọn lựa, như mặt trời mọc thì chiếu khắp muôn vật. Ấy là Vô dị tưởng. Vô bất định tâm: Tâm Phật tất cả loạn động nhỏ nhặt đều lìa hết, thường ở trong thiền định đều là tâm định. Vô bất tri Dó xả (biết mình đã xả). Phật đối với tất cả pháp đều chiếu biết mới xả. Không có pháp nào chẳng qua tâm biết mà xả. Cho nên gọi là biết mình đã xả. Dục không giảm. Phật biết ân pháp lành tuy đủ các điều lành mà thường muốn tu tập các pháp lành. Muốn độ tất cả nên tâm dục không giảm, không thỏa mãn nên dục không giảm. Ví như vua Chuyển luân có ngựa báu, tuy một ngày đi khắp bốn thiên hạ mà ý dạo khắp chẳng thỏa mãn. Tinh tấn không giảm: Hai thứ của Phật thân tâm tinh tấn đầy đủ, thường độ tất cả không hề dừng nghỉ, nên gọi là Tinh tấn không giảm. Niệm không giảm. Phật đối với pháp của chư Phật ba đời, tương ưng với tất cả, trí tuệ luôn đầy đủ không giảm sút, nên gọi là Niệm không giảm Tuệ không giảm. Phật được tất cả trí tuệ, mười lực bốn vô sở úy, bốn trí vô ngại v.v.… thành tựu viên cực nên gọi là Tuệ không giảm. Giải thoát không giảm. Phật đủ hai thứ giải thoát nên gọi là Giải thoát không giảm. Hai thứ đó gồm: Một là giải thoát hữu vi, tức là trí tuệ vô lậu tương ưng với giải thoát; hai là giải thoát vô vi nghóa là tất cả phiền não đều dứt hết không sót. Giải thoát tri kiến không giảm: Phật đối với tất cả giải thoát thấy biết rõ ràng, nên gọi là giải thoát tri kiến không giảm. Đó gọi là Hữu vi giải thoát. Còn giải thoát Vô vi, giải thoát Thời, giải thoát Bất thời, giải thoát Tuệ, giải thoát câu, giải thoát Bất hoại, Tám giải thoát, giải thoát Bất tư nghị, giải thoát Vô ngại, Phân biệt các tướng giải thoát bền chắc là Giải thoát tri kiến không giảm Tất cả thân nghiệp làm theo trí tuệ. Phật trước biết sau mới Từ biết mà khởi tất cả thân nghiệp, cho nên chỗ hiện ra đều là Phật sự, lợi ích tất cả, nên gọi là Thân nghiệp làm theo trí tuệ. Tất cả khẩu nghiệp làm theo trí tuệ. Giống như Thân nghiệp làm theo trí tuệ đã nói trên. Tất cả ý nghiệp làm theo trí tuệ. Giống như Thân nghiệp làm theo trí tuệ đã nói trên. Trí tuệ biết đời quá khứ vô ngại. Trí tuệ Phật chiếu soi biết rõ đời quá khứ cùng tột bờ quá khứ, tất cả những gì là pháp chúng sinh hoặc không phải pháp chúng sinh, đều biết khắp vô ngại. Trí tuệ biết đời vị lai vô ngại: Trí tuệ của Phật chiếu soi biết rõ đời vị lai, cùng tột bờ vị lai tất cả những gì là pháp chúng sinh, hoặc không phải pháp chúng sinh, đều biết khắp vô ngại. Trí tuệ biết đời hiện tại vô ngại. Trí tuệ của Phật chiếu soi biết rõ đời hiện tại, cùng tột bờ hiện tại tất cả những gì là pháp chúng sinh, hoặc không phải pháp chúng sinh, đều biết khắp vô ngại. 5 6.ĐẠI TỪ ĐẠI BI là: 1. Đại Từ; 2. Đại Bi. Kế mười tám Bất cộng pháp là nói về Đại Từ Đại Bi. Chư Phật đều được mười tám pháp Bất cộng, thường ở trong Đại Từ đại Bi. Năng lực gốc lành Từ bi huân khắp ba nghiệp, hiện khắp các thế giới ở mười phương mà làm Phật sự, lợi ích tất cả. Cho nên kế nói, nói Từ bi tuy đồng với bốn vô lượng nhưng thể nó có khác, không phải cùng loại, cho nên đến cực quả thì mới được gọi tên là Đại. Đại Từ: Phật trụ trong Tâm đại Từ, dùng năn lực gốc lành Đại Từ mà ban cho tất cả chúng sinh niềm vui thế gian và niềm vui xuất thế gian. Nên nói là từ ban cho vui. Còn Từ trong bốn Tâm vô lượng là tuy tâm nghó cho vui mà chúng sinh thật chưa được vui, nên chẳng gọi là Đại. Có hai thứ cho vui: Một là trụ vào Tam-muội Đại Từ, từ lực ngầm huân, tùy chỗ chúng sinh đáng được vui đều được an vui; hai là từ năng lực Tam-muội, hiện khắp ba nghiệp, tùy chỗ chúng sinh đáng được vui thấy nghe hiểu biết thì đều được an vui. Nên gọi là Đại Từ, tức là thân Như ý châu vương. Đại Bi: Phật trụ trong tâm Đại Bi, dùng năng lực Đại Bi gốc lành thật cứu khổ thế gian của tất cả chúng sinh, là khổ sinh tử phần đoạn và khổ sinh tử biến dịch. Cho nên nói Bi năng cứu khổ. Bi trong bốn Tâm vô lượng ở trước, tuy tâm nghó cứu khổ mà chúng sinh thật chưa được thoát khổ nên chẳng gọi là Đại Bi. Có hai thứ cứu khổ, ý đồng với trong Đại Từ đã phân biệt, chỉ có cứu khổ là khác (thứ kia là ban vui) nên gọi là Đại, tức là Thân Dược Thọ Vương. 5 7.BA MƯƠI HAI TƯỚNG. Ba mươi hai tướng danh mục rất nhiều không thể nêu hết. Kế Đại Từ Đại Bi là nói về bốn khoa: ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, tám âm và ba niệm xứ. Còn nói về Pháp thân vắng lặng há có hình tiếng, tâm thức để thấy nghe được ư? Chỉ dùng năng lực Đại Từ bi tùy chỗ đáng thấy căn cơ ba nghiệp thanh tịnh, mà được vui hết khổ, liền hiện tướng tốt đoan nghiêm và diệu âm thanh bình, đẳng ba niệm, và duyên cứu khổ ban vui. Cho nên kế Từ bi là nói về tướng tốt, tám âm, ba niệm xứ. Nay ba mươi hai thứ này gọi là Tướng. Tên tướng có chỗ biểu thị, phát lãm thì có thể khác, gọi đó là tướng. Thể ứng hóa của Như Lai hiện ba mươi hai tướng này để biểu thị Pháp thân, các đức viên cực, khiến người thấy kính yêu, biết là có đức tốt, là bậc tôn quí của trời người, là vua của Thánh chúng, cho nên hiện ba mươi hai tướng. Ba mươi hai tướng: 1.Dưới chân bằng như đáy hộp; 2.Dưới chân có hình bánh xe ngàn căm; 3. Ngón tay ngón chân dài hơn người thường; 4.Tay chân mềm mại hơn người; 5.Giữa các ngón tay ngón chân có màng; 6.Gót chân đầy đặn đẹp đẽ; 7.Mu bàn chân cao đẹp tương xứng; 8. Đùi dài như đùi nai đầu đàn Y-ni-diên; 9. Khi đứng tay dài quá gối; 1 0. Tướng mã âm tàng như ngựa đầu đàn; 1 1. Thân cao rộng cân đối; 1 2.Mỗi lỗ chân lông có mầu xanh mềm mại; 1 3.Lông xoay về phía phải sắc xanh mềm mại; 1 4. Thân tướng mầu nhiệm có mầu sáng vàng ròng; 1 5. (ánh sáng quanh thân) mỗi phía chiếu xa một trượng; 16.Da mỏng trơn láng không dính bụi nước và quyến rũ ruồi muỗi; 17.Dưới bảy chỗ hai chân, hai tay, hai vai và cổ đều đầy đặn; 18. Dưới hai nách đều đầy; 1 9. Nửa thân trên như sư tử; 2 0. Thân rất ngay thẳng; 2 1.Vai tròn đẹp; 2 2. Bốn mươi răng đầy đủ; 2 3. Răng trắng khít đều và chân sâu; 2 4.Bốn răng nanh trắng lớn; 2 5.Hai mánhư má sư tử; 2 6.Trong cổ họng nước bọt có mùi thơm; 2 7.Lưỡi lớn trùm cả mặt đến chân tóc; 2 8. Phạm âm sâu xa như tiếng Ca-lăng-tần-già; 2 9.sắc mắt như vàng ròng; 3 0. Mắt như mắt trâu đầu đàn; 3 1. Giữa hai đầu chân mày có sợi lông trắng như đâu la miên; 3 2. Trên đầu có nhục kế. 5 8.TÁM MƯƠI (VẼ ĐẸP): Tám mươi vẻ đẹp rất nhiều không thể nêu hết dưới đây. Kế ba mươi hai tướng là nói về tám mươi vẻ đẹp. Cũng đồng với tướng tốt, sắc đẹp ấy đều là trang nghiêm hiển bày thân Phật. Nhưng tướng thì chung, còn (vẻ đẹp) thì riêng. Tướng nếu không có (vẻ đẹp) thì chẳng đầy đủ. Luân Vương Thích Phạm cũng có tướng, vì không có vẻ đẹp nên tướng không mầu nhiệm. Cho nên kế tướng là nói vẻ đẹp. Gọi (vẻ đẹp) là rất ưa thích. vì tám mươi (vẻ đẹp) để (làm đẹp) thân, cho nên trời, người tất cả đều ưa thích, vì vậy gọi là vẻ đẹp. Tức là dùng Từ tu thân nên có thân nghiệp tướng tốt thanh tịnh. Tám mươi (vẻ đẹp) là: 1. Tướng đảnh vô kiến; 2. Mũi cao đẹp, lỗ không hiện; 3. Chân mày như trăng non có mầu xanh lưu ly; 4. Trái tai dài; 5.Thân săn chắc như Na-la-diên; 6.xương như móc sắt; 7.Thân xoay lại cùng lúc như voi đầu đàn; 8. Khi đi chân cách đất bốn tấc mà có dấu chân; 9. Móng có mầu đồng đỏ mỏng mà sạch; 1 0. Xương đầu gối chắc chắn tròn đẹp; 1 1.Thân sạch sẽ; 1 2.Thân mềm mại; 1 3.Thân chẳng cong; 1 4.Ngón chân dài nhọn tròn; 1 5.Chỉ tay chân ẩn; 1 6.Mạch máu sâu không hiện; 1 7. Mắt cá không hiện; 1 8. Thân thấm đượm; 1 9. Thân không xiên xẹo; 2 0. Thân đầy đủ; 2 1. Dung nghi đầy đủ; 2 2.Oa nghi đầy đủ; 2 3.Chỗ ở an ổn không thể động; 2 4.Oai chấn động tất cả; 2 5. Tất cả đều thích nhìn; 2 6. Mặt không dài lớn; 2 7. Dung mạo chân chánh không có vẻ cau có; 2 8. Mặt đầy đủ; 2 9. Mầu môi như quả Tần- bà; 3 0.Tiếng nói sâu xa; 3 1.Rún sâu tròn đẹp; 3 2.Lông xoay bên phải hữu; 3 3. Tay chân đầy đủ; 3 4. Tay chân như ý; 3 5. Chỉ tay rõ ràng; 3 6. Chỉ tay dài; 3 7.Chỉ tay không rối; 3 8.Tất cả chúng sinh có tâm ác thấy đều vui mừng; 3 9.Mặt rộng đẹp đẽ; 4 0.Mặt sạch như trăng rằm; 4 1. Tùy ý chúng sinh vui hòa mà nói; 4 2.Lỗ chân lông thoảng ra mùi thơm; 4 3.Miệng phát ra mùi thơm; 44.Nghi dung như sư tử; 4 5.Tới lui như voi đầu đàn; 4 6. Cách đi (hành pháp) như ngổng đầu đàn; 4 7. Đầu như quả Ma-đầu-na; 4 8. Tất cả tiếng đầy đủ; 4 9. Răng nanh trắng bén; 5 0. Lưỡi mầu đỏ; 5 1.Lưỡi mỏng; 5 2.Lông mầu hồng; 5 3.Lông mềm sạch; Mắt dài rộng; 5 5.Tướng các lỗ đầy đủ; 5 6.Tay chân trắng hồng như mầu hoa sen; 5 7.Rốn không lỗi ra; 5 8.Bụng không hiện; 5 9.Bụng nhỏ ; 6 0. Thân không nghiêng động; 6 1. Thân vững vàng; 6 2. Thân lớn; 6 3. Thân cao; 6 4.Tay chân mềm sạch trơn láng; 6 5.Bốn bên thân ánh sáng chiếu xa một trượng; 6 6. Ánh sáng chiếu thân mà điều lành; 6 7.Nhìn chúng sinh bình đẳng; 6 8.Không khinh chúng sinh; 6 9.Tùy theo âm thanh của chúng sinh không thêm không bớt; 7 0. Nói pháp không dính mắc; 7 1. Tùy theo ngôn ngữ của chúng sinh mà nói pháp; 7 2. Phát âm đáp bằng các âm thanh; 7 3.Thứ lớp có nhân duyên với pháp; 7 4.Tất cả chúng sinh không thể quán hết tướng của Phật; 7 5.Quán sát không thỏa mãn; 7 6.tóc dài đẹp; 7 7.Tóc không rối; 7 8.Tóc xoăn đẹp; 7 9.Tóc mầu châu xanh; 8 0. Tay chân có đức tướng. Kinh Tọa Thiền Tam-muội nói ngực có chữ Đức, tay chân có chữ Cát. Tám ân thanh gốm: một là rất hay ho, hai là mềm mỏng, ba là điều hòa thích hợp, bốn là tôn trọng trí tuệ, năm là không có giọng nữ, sáu là không lầm lộn, bảy là sâu xa, tám là không cạn kiệt. Kế tướng tốt là nói về tám âm thanh. Do Phật có tướng tốt trang nghiêm làm cho người thấy phát sinh tâm lành, âm thanh trong trẻo làm cho người nghe kính tin, cho nên kế tướng tốt là nói về tám âm thanh. Tám thông vân âm này là âm thanh giải thích lý, gọi là Âm. Âm thanh do Phật phát ra có sự giải thích, ngôn từ thanh nhã, người nghe không nhàm chán, thỏa mãn, có công năng đem lại niềm vui và nhổ gốc khổ tất cả, chẳng phải như lợi ích nghe âm thanh, tức là dùng từ tu miệng, cho nên có khẩu nghiệp với tám âm thanh tịnh. Âm thanh rất hay ho: Tất cả các trời, Hiền Thánh tuy đều có âm thanh hay ho nhưng nghóa chưa cùng cực, quả báo Phật viên cực cho nên âm thanh nó ra rất thanh nhã, làm cho ngừơi nghe không chán, đều điều lành vào con đường tốt, tốt nhất trong các sự tốt, cho nên gọi là âm thanh rất hay ho. Âm thanh mềm mỏng: Đức của Phật Từ bi hiền thiện, âm thanh ngài nói ra khéo léo thuận với tâm chúng sinh, khiến cho người nghe vui thích, nghe không thỏa mãn, đều bỏ tâm ngang bướng, tự nhiên điều lành vào luật hạnh, nên gọi là âm thanh mềm mỏng. Âm thanh điều hòa thích hợp: Phật sống trong lý Trung đạo, hạnh giải thung dung, nên âm thanh ngài nói ra điều hòa thích hợp, làm cho người nghe tâm được dung hòa, nhờ âm thanh mà hiều lý, nên gọi là âm thanh điều hòa thích hợp. Âm thanh tôn trọng trí tuệ: Đức của Phật cao quý, tuệ tâm sáng suốt, nên âm thanh ngài nói ra làm cho người nghe tôn trọng, trí tuệ mở sáng, nên gọi là âm thanh tôn trọng trí tuệ. Âm thanh không có giọng nữ: Phật trụ trong định Thủ-lăng- nghiêm,thường có đức của bậc Thế Hùng, đã xa lìa tâm yếu ớt từ lâu, cho nên âm thanh ngài nói ra khiến cho tất cả người nghe đều kính sợ, thiên ma ngoại đạo thảy đều quy phục, gọi là âm thanh không có giọng nữ. Âm thanh không lầm lộn: Trí Phật tròn sáng, soi rõ không sai lầm nên âm thanh ngài nói ra không có lầm lỗi, làm cho người nghe đều được chánh kiến, lìa chín mươi lăm thứ tài phi, nên gọi là âm thanh không lầm lộn. Âm thanh sâu xa: Trí Phật soi chiếu tận cùng, như như thật tế, hành vi cực cao nên âm thanh ngài nói ra từ rốn mà khởi, suốt đến mưới phương, khiến cho người ở gần nghe không lớn, người ở xa nghe không nhỏ, đều ngợ lý sâu xa. Phạm hạnh cao xa, nên gọi là âm thanh sâu xa. Âm thanh không cạn kiệt: Như Lai đã chứng cựa quả, hạnh nguyện vô tận, cho nên ngài trụ trong pháp tạng vô tận, âm thanh nói ra cuồn cuộn không dứt, ảnh hưởng không cạn, khiến cho người nghe tìm tòi ngữ nghóa vô tận không sót, cho đến thành quả vô tận thường trụ, nên gọi là âm thanh không cạn kiệt. Ba niệm xứ: 1. Không nhất tâm nghe pháp thì không có gì đáng loại, 2. nhất tâm lắng nghe thì không có gì là vui, 3. Thường thực hành tâm hạnh xả. Kế tám âm thanh là nói về ba niệm xứ. tám âm thanh vì chúng sinh mà khai diễn chánh pháp, người nghe có thệin ác khác nhau, cho nên có tin hủy, trái thuận khác nhau. Nếu không có đức của ba nệim thì không có sự vui vẻ, lo lắng, cho nên kế tám âm thanh là nói về ba niệm xứ. Ba niệm xứ này là tên chung của Niệm xứ, tâm tuệ ănng duyên gọi là Niệm, lý bình đẳng không thêm bớt, gọi đó là Xứ. Phật dùng tâm tuệ duyên với lý bình đẳng không thêm không bớt, cho nên trái thuận với người học, tâm không có sự lo lắng, vui mừng, cho nên ba thứ gọi chung là Niệm xứ. Tức là dúng tứ tu ý, hiện bày ý nghiệp bìng đẳng thanh tịnh: Không nhất tâm nghe pháp thì không có gì lo lắng: Trí Phật biết rõ người không nhất tâm nghe pháp, trong pháp giới bình đẳng thì sự giảm bớt lui sụt rốt ráo không thật có, cho nên không có sự lo lắng. Người nghe pháp nhất tâm thì không có gì là vui mừng: Trí Phật biết rõ trong pháp giới bình đẳng của người nghe thì sự tăng tiến rốt ráo không thật có, cho nên không có sự vui mừng. Trường hành tâm xả: Trí Phật biết rõ tất cả chúng sinh tức là Đại niết- bàn, không thể còn diệt nựa, cho nên đối với tất cả nói năng, lợi ích chúng sinh thì thường thực hành tâm xả, cho nên kinh Kim cương Bát-nhã chép: Diệt độ vô lương chúng sinh như thế mà thật không có chúng sinh được diệt độ. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 169