<經 id="n1916a">THÍCH THIỀN BA LA MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN (QUYỂN 4 10 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN <卷>QUYỂN 4 <詞>CHƯƠNG VI: PHÂN BIỆT TIỀN PHƯƠNG TIỆN CỦA THIỀN BA LA MẬT (Tiếp Theo) Hai là nói xét căn tánh ác, có bốn ý: Một là nói số lượng phiền não, hai là nói căn tánh xấu ác phát sinh, ba là lập pháp đối trị, bốn là kết thành tất đàn rộng nhiếp Phật pháp. Giải thích số lượng phiền não: Về phiền não, kinh Niết-bàn chép: Phiền não là pháp ác, nếu nói đủ pháp ác thì danh số rất nhiều, nay nói lược có năm pháp ác bất thiện khai hợp để nói về số lượng năm pháp bất thiện: Một là pháp giác quán bất thiện, hai là pháp tham dục bất thiện, ba là pháp sân nhuế bất thiện, bốn là pháp ngu si bất thiện, năm là pháp ác nghiệp bất thiện. Nếu mở ra thì có đến tám mươi bốn ngàn. Nói về căn bản thì chẳng ngoài ba độc đẳng phần. Nếu hợp năm pháp bất thiện làm bốn phần phiền não thì ba độc tức giữ gốc, lại có ba phần đều thuộc tập nhân, giác quán nghiệp ác chướng đạo. Hai thứ bất thiện nầy hợp thành một phần. Vì sao? Vì giác quán tức là mang ba phần phiền não mà sinh, cũng được nói là Tập nhân đẳng phần. Nghiệp ác chướng đạo thì thuộc Báo nhân đẳng phần. Tập và Báo hợp luận chỉ nói một đẳng phần. Cho nên năm pháp bất thiện nếu hợp lại một lượt mà nói thì chỉ có bốn phần, khai ra mà nói thì có đến tám muôn bốn ngàn. Như trong luận Đại thừa có nói. Phiền não tham dục đầy đủ có hai mươi mốt ngàn, phiền não sân nhuế đầy đủ có hai mươi mốt ngàn, phiền não ngu si đầy đủ có hai mươi mốt ngàn, phiền não đẳng phần đầy đủ có hai mươi mốt ngàn. Vậy bốn phần phiền não hợp lại có tám mươi bốn ngàn trần lao. Phật vì đối đó mà nói tám mươi bốn ngàn pháp môn để trị. Nay trong đây là nói thế nên chỉ y cứ năm thứ bất thiện pháp ác để nói căn tánh phát tướng. Vì sao? Vì ở trên nói căn tánh ác phát há chẳng nói theo năm pháp bất thiện. Đây thì thuốc bệnh đối nhau, phát tướng yếu thì khiến bằng, hành giả muốn tu thiền định thì phải khéo phân biệt. Nói về căn tánh xấu ác phát sinh: Có hành giả khi tu thiền định, phiền não tội cấu nặng nề, tuy lại dừng tâm tónh trụ như trên nói, nhưng pháp lành trong ngoài đều chẳng phát một việc, chỉ biết phiền não khởi phát cho nên kế nói căn tánh xấu ác phát sinh. Nay đối với pháp ác phát sinh lại y cứ năm thứ bất thiện mà nói, trong một bất thiện đều tự có ba, ba lần năm thì có mười lăm pháp bất thiện. Nếu nói khi hành giả pháp bất thiện thì không có bốn lớp. Nay y cứ giáo môn y thứ lớp mà nói đủ như trước nêu: Một là nói giác quán sát tướng, có ba: Một là tâm sáng suốt lanh lợi mà giác quán, hai là tâm nửa sáng nửa tối mà giác quán, ba là tâm một bề tối tăm mà giác quán. Một là tâm sáng suốt lanh lợi mà giác quán. Nếu hành giả ở quá khứ chẳng trồng sâu gốc lành thì khi tu định đều chẳng phát các thứ pháp lành, chỉ giác quán phan duyên, niệm niệm chẳng dừng trong ba độc cũng không y cứ duyên, hoặc khi duyên với tham, hoặc khi duyên với sân, hoặc khi duyên với si mà việc được duyên lại rất rõ ràng. Như thế tuy trải nhiều năm tháng mà chẳng phát các thiền định. Đây là trong tâm mình lợi mà giác quán phát tướng; Hai là tâm nửa sáng nửa tối mà giác quán, nếu người khi nhiếp niệm tuy biết giác quán phiền não niệm niệm chẳng dừng, chỉ khi ở chỗ duyên hoặc sáng hoặc tối, sáng thì giác quán phan duyên suy tưởng chẳng dừng, tối thì mịt mù vô ký, không hay biết gì, gọi là nửa sáng nửa tối giác quán phát tướng; Ba là một bề tối tăm mà giác quán, nếu hành giả khi tu định tuy tâm tối tăm như ngủ, mà ở trong sự mờ tối đó tất cả đều phan duyên giác quán chẳng dừng. Đó gọi là tâm trong hôn trầm giác quán phiền não phát tướng. Hai là nói trong tham dục có ba thứ phát tướng: Một là ngoại tham dục, hai là nội ngoại tham dục, ba là khắp tất cả chỗ tham dục. Một là ngoại tham dục phiền não phát tướng, nếu hành giả khi đang tu định, tâm tham dục sinh, nếu là người nam thì duyên với người nữ, nếu là người nữ thì duyên với người nam, giữ lấy các hình dáng sắc đẹp lời nói cử chỉ v.v… tức tâm sinh kiết sử, niệm niệm chẳng dừng. Tức đây là ngoại tham dâm kết sử phát tướng; Hai là nội ngoại tham dục phiền não phát. Nếu người khi tu thiền định tâm dục phát động thì hoặc duyên với hình dạng thân tướng nam nữ bên ngoài về sắc đẹp lời nói cử chỉ, v.v… mà khởi tham đắm, hoặc tự duyên với thân mình, xoa đầu rờ cổ v.v… niệm niệm đắm nhiễm khởi lên các tham ái (yêu thích) ấy là chướng các thiền định. Đây tức là nội ngoại tham dục phiền não phát tướng; Ba là khắp tất cả chỗ tham dục phiền não khởi. Người này mê đắm trong ngoài như trước đã nói, mà lại đối với tất cả cảnh giới năm trần vật tự sinh đều khởi tham ái, hoặc tham ruộng vườn, nhà cửa, y phục, ăn uống, v.v… là tất cả chỗ mà tham dục phát tướng. Ba là nói trong sân nhuế có ba thứ phát tướng: Một là phi lý sân, hai là thuận lý sân, ba là tranh luận sân. Một là trái lý sân phát, là người khi tu định mà sân giác hừng hẫy khởi lên, bất luận là đúng lý hay trái lý, người khác phạm hay chẳng phạm, vô sự mà sân nổi lên. Ấy là trái lý tà sân phát tướng; Hai là thuận lý chánh sân phát. Nếu khi hành giả định có người ngoài đến phá rối, lấy đây làm duyên mà sinh sân giác, tiếp nối mãi chẳng dừng. Cũng như người trì giới mà thấy người phi pháp (làm quấy) mà nổi giận, cho nên trong luận Đại Thừa nói: Trong cõi Phật thanh tịnh, tuy không có tà ba độc mà có chánh ba độc. Nay nói thuận lý chánh sân tức là người ấy; Ba là tranh luận sân, khi hành giả thiền định, mê đắm chỗ hiểu của mình cho là đúng, bảo việc người khác làm và nói đều là sai, người ngoài nói chẳng thuận với ý mình nên tâm sinh não giác. Như đời có người tiền của bị tổn hại thì cũng có thể an chịu mà ít sân, nhưng tranh cãi nghóa lý thì bỗng giận dữ nổi lên gió ngựa theo không kịp. Đó gọi là tranh luận sân phát tướng. Bốn là trong ngu si có ba thứ phát tướng: Một là chấp đoạn thường, hai là chấp có không, ba là chấp thể tánh. Ba thứ này đều chấp trước các tà kiến, chẳng ra khỏi sinh tử. Cho nên gọi chung là ngu si. Một là chấp đoạn thường. Người khi tu định bỗng phát tà tư duy (suy nghó tà) phân biệt lanh lợi rằng: Ở quá khứ ta và các pháp là diệt mà có hay ở hiện tại ta và các pháp là chẳng diệt mà có. Do đó mà suy nghó thấy tâm liền phát suy tìm ba đời. Nếu nói diệt là rơi vào đoạn, nếu bảo chẳng diệt là rơi vào thường. Như thế mà si giác, niệm niệm chẳng dừng. Do đây mà thông minh lanh lợi, biện tài không đuối lý, tranh cãi nói suông làm các việc ác, làm chướng ngại pháp chánh định xuất thế. Đó là si chấp, chấp đoạn thường phát tướng; Hai là si chấp có không phát, cũng có khi tu định bỗng lại phân biệt, suy nghó giác quán bảo rằng: nay ta Ấm và các pháp là nhất định có hay không, cho đến chẳng phải có, chẳng phải không, như thế mà suy tìm thấy tâm liền phát. Tùy chỗ thấy mà sinh chấp là nhất định thật tà giác, niệm niệm chẳng dừng. Do đây mà lợi trí nhanh chóng, hý luận tranh cãi khởi lên các hạnh tà làm chướng ngại chánh định chẳng được khai phát. Đó là si chấp có không phát tướng; Ba là si chấp thế tánh phát. Cũng có khi tu định bỗng nghó rằng: Vì có vi trần nên liền có thật pháp, vì có thật pháp nên có bốn đại, do có bốn đại mà có giả gọi chúng sinh và các thế giới. Suy nghó như thế tâm thấy liền phát, niệm niệm chẳng dừng. Do đây mà lợi trí biện tài, hay hỏi hay nói, cao tâm kiêu ngạo tranh cãi phải quấy, chuyên làm hạnh, lìa đạo chân thật. Vì nhân duyên ấy, nên chẳng được phát các thiền định. Nếu có phát thiền định liền rơi vào các tà định. Đó là si chấp thế tánh phát tướng. Năm là nói nghiệp ác chướng đạo phát, cũng có ba thứ: Một là trầm hôn ám tệ chướng, hai là niệm ác tư duy chướng, ba là cảnh giới ép ngặt chướng. Một là trầm hôn ám tệ chướng, là hành giả định khi muốn dụng tâm thì liền tối tăm ngủ gục, mịt mù vô ký không hề hay biết, chướng các thiền định chẳng được khai phát; Hai là niệm ác tư duy chướng, nếu khi người muốn tu định tuy không có trầm hôn ngủ gục mà ác tâm niệm sinh ra, hoặc nghó muốn làm mười điều ác, bốn tội trọng, năm tội nghịch, phá hủy cấm giới, hoàn tục các việc v.v… không lúc nào tạm dừng, nhân đó chướng các thiền định chẳng được khai phát; Ba là cảnh giới ép ngặt chướng, nếu khi hành giả định tuy không có các việc trên nhưng thân có lúc đau đớn, biết có việc ép ngặt thấy các ngoại cảnh, hoặc thấy không đầu tay chân, không tai mắt, v. v… hoặc thấy y phục rách lủng, hoặc thấy bị vùi lấp dưới đất, hoặc thấy lửa cháy đốt thân, hoặc thấy từ trên cao rơi xuống, bị hai núi cách ngăn, La-sát hổ sói hoặc lại mộng thấy có các tướng ác. Các việc như thế đều là tội chướng đạo khởi lên ép bức hành giả, hoặc làm cho sợ sệt, hoặc làm cho khổ não. Các thứ như đây không thể nói hết. Nay y cứ năm pháp bất thiện này mà hợp thành ba chướng ba độc, trước tức là các loạn pháp giác quán trong Tập nhân phiền não chướng đẳng phần, tức là thô bốn Ấm gọi là Báo chướng. Ba thứ chướng đạo tức là nghiệp chướng. Làm sao biết? Vì quá khứ làm ác, nên ở vị lai phải chịu các báo ác, tức vì nghiệp làm ác này. Nếu hành giả ở vị lai trong khi chịu báo mà tu thiện, thiện và ác trái nhau nên nghiệp liền giúp ác mà khởi lên chướng nghi thiện, cho nên biết tức là nghiệp chướng. Ba chướng như thế, làm chướng tất cả các thiền định trí tuệ, của hành giả chẳng được khai phát nên gọi là chướng. Nói về pháp đối trị. Đối là chủ đối, trị là trị. Như quán bất tịnh chủ trị dâm dục nên gọi là đối trị. Như thế cho đến Tam-muội Niệm Phật, v.v… chủ trị nghiệp ác chướng đạo. Nay nói đối trị thì có sáu ý khác nhau. Một là đối trị trị, hai là chuyển trị, ba là chẳng chuyển trị, bốn là gồm trị, năm là gồm chuyển trị và chẳng chuyển trị, sáu là phi đối, phi chuyển, phi gồm trị. 1.Đối trị trong căn tánh thiện ác trước phát gọi là mười lăm, nay trong đối trị này cũng là mười lăm. Hỏi: Ở đây há không phải là phiền não thêm lớn hay chăng? Đáp: Không đúng. Trước là nghiệm biết mà nói, nay là đối trị mà nói. Trước là y cứ gốc lành tự phát mà nói, nay là vì tu tập mà nói. Ở đây không phải là phiền trọng. 1- Nói trị giác quán nhiều bệnh. Như trong kinh chép: Người giác quán nhiều thì dạy khép sổ tức (đếm hơi thở). Nay bệnh giác quán đã có ba thứ tức (hơi thở) là đối trị cũng có ba ý: Một là minh lợi tâm giác quán. Hành giả khi ngồi tâm lanh lợi phan duyên, niệm niệm chẳng dừng. Ở đây nên dạy pháp sổ tức. Vì sao? Vì pháp sổ tức buộc tâm ở hơi thở, hơi thở là thuốc quý trị loạn. Nếu từ một đến mười, giữa chừng chẳng quên thì được vào định, phá được loạn tưởng. Pháp sổ tức đối với tâm trầm thẩm trị được minh lợi. Do đó sổ tức trừ được bệnh giác trong tâm minh lợi; Hai là nói trị giác quán nửa tối nửa sáng, tướng bệnh như trước nói. Nay pháp đối trị là phải khiến tùy tức (theo hơi thở). Theo hơi thở ra vào thì tâm thường nương hơi thở, vì nương hơi thở nên hơi thở thô thì tâm thô, hơi thở tế thì tâm cũng tế. Hơi thở tế ra vào, tâm thường duyên nó nên phá được giác quán, tâm tịnh như gương sáng. Biết hơi thở ra vào dài ngắn tới lui, chiếu dụng rõ ràng phá được hôn trầm. Cho nên nói tùy để trị. Nếu chỉ sổ tức thì có lỗi giúp hôn trầm, nếu chỉ quán tức thì cũng có lỗi phù loạn, chẳng gọi là khéo đối trị; Ba là nói trị giác quán trong tâm hôn trầm. Giác quán khởi tướng như trước đã nói. Pháp đối trị phải dạy quán tức. Khi hơi thở vào, quán kỹ hơi thở này từ đâu tới, ở khoảng giữa nó đến chỗ nào, thở vào rồi thì trụ ở đâu. Miệng nhả hơi thở ra cũng thế. Pháp này sau sẽ nói rộng. Như thế mà tìm nguồn gốc, thở ra không phân tán, thở vào không chứa nhóm. Chẳng thấy định tưởng, tâm sáng suốt quán chiếu, mắt tâm liền mở thì phá trầm hôn, tónh tâm nương hơi thở thì phá được, tán loạn. Cho nên dùng quán tức để đối trị bệnh giác quán hôn trầm; Ba là nói trị bệnh nhiều tham dục. Như kinh nói tham dục có nhiều thì dạy quán bất tịnh, dục bệnh có ba thứ, nay đối trị cũng phải có ba ý: Một là nói trị ngoại tham dục nhiều. Bệnh phát từ đắm mê cảnh ngoài về thân nam nữ đẹp đẽ, lời nói cử chỉ êm ái, v.v… Cho nên lửa dâm đốt cháy dữ dội chẳng thôi. Pháp đối trị là phải dạy thực hành quán chín tưởng. Như đến gò mã xem thây chết. Cũng phải quán kỹ cảnh đáng yêu, cụt hai chân nằm trên đất. Quán thấy thây chết sình chương rả nát, máu mủ chảy ra, cứt đái dẫy đầy, giòi kiến đục khoét. Đến phiên ta cũng giống như thế, có chỗ nào đáng yêu thích đâu. Quán như thế rồi thì tâm dâm tự dứt. Cho nên chín tưởng phá được bệnh nặng tham dâm, đắm trước cảnh ngoài; Hai là nói trị phiền não tham dục trong ngoài. Bệnh phiền não phát như trước đã nói. Nếu muốn trị thì phải dạy thực hành quán bối xả đầu. Quán kỹ trong thân mình bất tịnh đáng ghét liền phá duyên nội tham ái. Lại phải như trước, quán ngoại bất tịnh đáng ghét thì lìa được ngoại cảnh tham ái. Tức là bối xả đầu. Dùng tâm quán nội ngoại sắc bất tịnh thì phá được bệnh yêu đắm, tham đắm trong ngoài; Ba là nói trị tất cả chỗ đều khởi tham ái. Bệnh tham phát tướng như trước nói pháp trị là phải dạy duyên tất cả chỗ mà quán bất tịnh, quán tất cả cảnh nam nữ thân mình, thân khác và ruộng vườn nhà cửa, y phục ăn uống, tất cả các thứ trên thế gian đều thấy là bất tịnh, chẳng có chỗ nào đáng sinh tâm tham đắm. Khi ấy sinh tâm chán lìa tất cả, thì tất cả tham dục không còn chỗ khởi nữa. Đó gọi là đối trị bệnh tham dục ở tất cả chỗ. Ba là nói trị sân nhuế nhiều bệnh, như trong kinh nói: Người nặng về sân nhuế thì dạy quán từ tâm mà trị bệnh sân. Đã có ba thứ, nay đối trị cũng phải có ba: Một là trị tà sân, ngày đêm trong tâm thường phát tướng nghó việc phi lý muốn dùng việc ác để làm khổ bức người. Đầy đủ như trên nói, muốn trị phải khiến chúng sinh tu duyên từ, lấy tướng người khác được vui duyên đó mà nhập định. Như thế thấy người thân được vui, cũng khiến thấy kẻ thù được vui, lấy tướng vui của người mà sinh ra yêu thương, tức phá tâm sân hận oán hại chúng sinh; Hai là nói trị chánh sân, nếu đối với các việc khác đều không có tâm sân chỉ khi thấy người làm ác, hoặc phạm giới thì liền khởi bệnh sân tâm phát tướng, đủ như trước nói. Muốn trị thì dạy pháp duyên từ quán năm Ấm là luống dối, chẳng thấy có chúng sinh há là thấy việc trì phạm phải quấy. Chỉ duyên với các thọ pháp lạc vì từ tâm yêu thương người khác, chẳng nên làm khổ, phải quấy đã mất, tâm sân sẽ tự dứt. Đó là thực hành pháp duyên từ, trị được bệnh sân thuận lý; Ba là nói trị sân trong tất cả tranh luận. Bệnh phát như trước nói. Phương pháp đối trị là dạy phải tu vô duyên từ. Vì sao? Vì người này tùy theo pháp đã được tự cho là phải, cho người khác là sai. Việc đồng với mình thì vui mừng, trái với mình thì giận. Hoặc ở bốn câu và trong dứt bốn câu mà sinh chấp, hoặc lại chấp ở Trung đạo. Như thế đều có chỗ nương, cho nên có tranh cãi, chấp kể nhân duyên, liền sinh sân giác. Phương pháp đối trị thì dạy tu vô duyên từ. Khi thực hành từ này thì đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt (dứt hết nói năng và ý ngữ) đối với tất cả các pháp chẳng còn nhớ nghó. Nếu không nhớ nghó thì do đâu tranh cãi mà sinh tâm tức giận. Đại từ bình đẳng đồng cho vui, lìa bức não người, nên gọi lòng từ ban vui. Cũng được nói Bồ-tát vì chúng sinh nói pháp như thế gọi là đại từ. Phải biết tu vô duyên từ để đối trị tất cả tranh luận mà tức giận. Bốn là nói trị ngu si thường bệnh. Như trong kinh nói ngu si có nhiều nên dạy họ quán nhân duyên. Hỏi: Pháp nhân duyên nghóa rất sâu, vì sao người ngu si lại dạy quán nhân duyên? Đáp: Nói ngu si không phải như trâu dê v.v… chỉ là người thông minh nhưng phân biệt suy lường không được chánh tuệ, mà tà tâm giữ lý nên gọi là ngu si. Bệnh ngu si đã có ba thì đối trị cũng phải có ba: Một là nói trị bệnh si chấp đoạn thường, là nghó tà ma chấp trước, hoặc khởi chấp thường, hoặc khởi chấp đoạn, liền phá được nhân quả. Tướng bệnh như trước đã nói. Phương pháp trị bệnh là dạy cho họ quán mười hai nhân duyên ba đời. Quá khứ có hai, hiện tại có tám, vị lai vó hai là mười hai nhân duyên, ba đời nhân nhau, chẳng thường chẳng đoạn, như bài kệ trong kinh nói: Ta đối với Phật pháp Tuy không cũng chẳng dứt Nối nhau cũng chẳng thường Thiện ác cũng chẳng mất. Nếu hành giả khéo quán mười hai nhân duyên, chẳng chấp đoạn thường thì tâm tà kiến dứt. Cũng được dùng đối trị nầy mà phá giả hoặc tương tục; Hai là nói trị bệnh si chấp có không, là tà niệm suy nghó rằng có ta hay không có ta (có ngã vô ngại) có Ấm hay không Ấm, v.v… như trước đã nói, lập cách đối trị là dạy họ quán quả báo mười hai nhân duyên. Quả báo mười hai nhân duyên, là quán hiện tại về thời Ca-la-la, gọi là vô minh cho đến già chết. Hiện tại thì có năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, thành tựu đều từ nhân duyên sinh, thời Ca-la-la nầy có ba việc: Một là mạng, hai là hơi Ấm (noãn), ba là Thức nên gọi là vô minh. Đây đã từ duyên mà sinh nên không có tự tánh, chẳng thể nói có, chẳng thể nói không, cho đến già chết cũng giống như thế. Nếu biết chẳng phải không, chẳng phải có thì liền phá hai chấp có - không. Phải biết quán quả báo mười hai nhân duyên tức là trị bệnh chấp có - không. Nay cũng được dùng đối trị này để phá chấp hoặc nhân thành giả; Ba là nói trị thể tánh ngu si phát, nếu thấy tánh nhỏ nhặt (như nguyên tử) sinh ra muôn pháp như thế mà tà niệm gọi là chấp thế tánh. Nói rộng như trước. Pháp đối trị là lại thực hành quán một niệm mười hai nhân duyên. Vì sao? Vì hành giả quán kỹ trong một niệm đầy đủ mười hai, một chẳng phải mười hai, mười hai chẳng phải một. Mà nay y cứ một nói mười hai, y cứ mười hai nói một. Phải biết một là tánh vô định, vô định là một thì thế tánh chẳng thật có. Cho nên quán một niệm mười hai nhân duyên nầy phần nhiều là phá chấp một và khác (chấp là một, là khác) nay cũng được dùng đây mà phá hoặc tương đãi giả. Năm là nói trị nghiệp ác chướng đạo nhiều bệnh. Như trong kinh nói chướng đạo thì dạy niệm Phật. Nay chướng đạo đã có ba thì đối trị cũng có ba: Một là nói trí tối tăm thì chướng, tướng bệnh nghiệp ác như trước đã nói. Muốn đối trị phải dạy họ quán một tướng trong ba mươi hai tướng của Ứng Phật, hoặc trước quán sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày của Phật. Nhắm mắt mà quán. Nếu tâm ám độn (ngu tối) quán mãi chẳng thành thì phải đối trước một tướng đẹp của hình tượng, nhất tâm lấy tướng ấy duyên nói mà vào định. Nếu chẳng thấy rõ ràng thì liền mở mắt mà quán, rồi lại nhắm mắt. Như thế lấy một tượng rõ ràng rồi thứ lớp quán khắp các tướng, làm cho mắt tâm mở sáng, tức là phá tâm ngủ nghỉ tối tăm, vì công đức niệm Phật dứt trừ tội chướng. Hỏi: Nếu lấy tướng rõ ràng phá được tối tăm, sao chẳng lấy các quán chín tưởng xương trắng? Đáp: Chín tưởng xương trắng chỉ là thân sinh tử bất tịnh, nghóa trừ tội rất kém cho nên không phải đối trị; Hai là nói trị niệm ác tư duy chướng. Tướng chướng phát như trước nói. Đối trị phải dạy công đức niệm Phật, niệm thế nào? Tâm chánh niệm duyên với mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng, trí Nhất thiết chủng, Viên chiếu pháp giới, Thường tịch bất động hiện khắp sắc thân, lợi ích tất cả, công đức vô lượng không thể nghó bàn. Khi niệm như thế tức là đối trị. Vì sao? Vì công đức niệm Phật này từ duyên với pháp thắng thiện mà sinh tâm sở, còn niệm ác suy nghó, thì từ duyên với pháp ác mà sinh tâm sở. Vì thiện phá được ác nên phải niệm Báo Phật. Ví như người ít trí xấu xí trước người đại trí đẹp đẽ thì tự hổ thẹn. Ác cũng như thế, đối với tâm lành thì xấu hổ tự dứt, duyên với công đức Phật trong niệm niệm thì sẽ diệt tất cả chướng. Ba là nói trị cảnh giới ép ngặt chướng. Tội nghiệp phát tướng như trên đã nói về phương pháp đối trị là dạy niệm pháp Phật, pháp Phật tức là pháp tánh bình đẳng chẳng sinh chẳng diệt, không có hình sắc, vắng lặng vô vi, trong vô vi đã không có cảnh giới thì làm sao có tướng ép ngặt. Biết cảnh giới là không tức là đối trị. Nếu nhớ nghó ba mươi hai tướng tức là chẳng phải đối trị. Vì sao? Vì khi người ấy chưa duyên tướng đã là cảnh giới não loạn rồi, mà lại lấy tướng thì phần nhiều do đây mà mê đắm ma, tâm ma cuồng loạn. Nay quán không để phá trừ các cảnh giới, giữ tâm niệm Phật, công đức vô lượng thì liền diệt hết tội nặng. Đây là đối trị, ở nghóa có thể thấy. Lược nói đối trị đã xong. Hai là nói chuyển trị. Trích trong luận Đại thừa giải thích mười lực, nói trong câu định lực câu tịnh trí, luận ấy chép: Người tham dục, thì dạy tu từ tâm, người nặng về sân thì thực hành quán Bất tịnh, người nặng về ngu si thì dạy cho Suy tư biên và không biên, người trạo tán trong tâm thì dạy dùng trí tuệ phân biệt. Người mất tâm thì dạy cho nhiếp tâm, v.v… Như thế gọi là chuyển trị. Nếu không như thế thì gọi là chẳng chuyển trị. Đây là trái với trên nói: 1. Nay nói chuyển trị có hai: Một là bệnh chuyển thì pháp cũng chuyển, hai là bệnh chẳng chuyển mà pháp chuyển. Nay y cứ một quán trước nói nghóa chuyển trị. Trước trong đối trị, trị người nặng về tâm tham thì dạy quán bất tịnh, quán tâm đã thành, thấy ở bất tịnh chán sợ cảnh trước, liền sinh tâm sân. Như khi Phật còn tại thế có các Tỳ-kheo học quán bất tịnh, thành rồi liền nhờ người tự hại. Loại như thế phải dạy chuyển quán tu từ để trị sân, gọi là chuyển trị. Đây là thuốc bệnh đều chuyển. Như ở đây nói xem xét thật kỹ cũng chưa gọi là giáo ý; Hai là bệnh chẳng chuyển mà thuốc chuyển. Bệnh tham chẳng chuyển, trước quán bất tịnh, tu từ quán trị. Hỏi: Pháp tham tâm là lấy tướng đẹp của người, từ cũng lấy tướng người đẹp, làm sao đối trị? Đáp: giới Bồ-tát có nói rõ rằng: Tất cả người nam đều là cha ta, tất cả người nữ đều là mẹ ta, mà Bồ-tát chẳng khởi từ bi, hành dâm vô độ, chẳng tránh người thân, phạm tội Ba-la-di. Nếu quán cảnh trước nam nữ đều như cha, như mẹ, như con, thì tự sinh tâm yêu kính, thương xót mà phá tham dục. Thí như cha mẹ đối với con không hề sinh tâm phi pháp. Lại nữa, từ là ban vui cho người, còn tham dục bất thiện lại làm tăng thêm phiền não cho người. Đây không phải là đạo ban vui. Như thế mà suy nghó, buộc tâm tu từ. Nếu từ định phát sinh tức là trị tham dục. Vì sao? Vì vô lượng tâm là sắc pháp giới, chẳng được có tâm tham dục sinh, ở đây thì bệnh tuy chẳng chuyển mà chuyển quán để trị. Nay dùng một quán bất tịnh còn mười bốn môn thiền kia đều có hai nghóa chuyển trị nên biết. Lại nữa, chuyển quán có hai thứ: Một là chuyển tâm chẳng chuyển cảnh, hai là tâm cảnh đều chuyển. Khéo suy tầm nghóa sẽ thấy. Ba là nói chẳng chuyển trị, cũng có hai ý: Một là bệnh chẳng chuyển, quán cũng chẳng chuyển, hai là bệnh chuyển, quán chẳng chuyển. Một là bệnh chẳng chuyển, quán cũng chẳng chuyển: như người tâm tham, thực hành quán bất tịnh, tâm tham chẳng dứt, lại càng tăng thêm thực hành quán, chẳng cần chuyển quán, lại phải quán tướng máu mủ rã nát. Thực hành một người chẳng dứt, lại thực hành nhiều người, cứ như thế cho đến một ngôi thành, một ngôi làng, đều thực hành bất tịnh. Như trong thiền kinh có nói rộng. Hoặc tiến vào các các trị Bạch cốt lưu quang v.v… thì tâm tham mới dứt, nên gọi là chẳng chuyển trị. Tuy có lý này, nhưng suy ra cũng sợ chưa phải là chánh giáo ý; Hai là bệnh chuyển quán chẳng chuyển trị, là hành giả vì có bệnh tham dục thực hành quán bất tịnh mà trị. Tham dục chuyển mà sinh tức giận. Bấy giờ, chẳng chuyển quán bất tịnh, tức cứ đối với bất tịnh mà càng quán tưởng bất tịnh và Bạch cốt lưu quang nhập định thì tâm sân tự dứt. Cũng có hai ý: Một là cảnh chẳng chuyển mà tâm chuyển, hai là cảnh chẳng chuyển mà tâm cũng chẳng chuyển. Còn mười bốn nghóa đối trị chẳng chuyển kia cũng giống như thế. Bốn là nói gồm trị, cũng xuất xứ từ văn của luận Đại thừa giải về tám niệm niệm xả. Luận ấy nói: Bồ-tát pháp thí, pháp thí nhân duyên, hoặc lại nói pháp, hoặc hiện thần thông, hoặc phát ra ánh sáng như thế v.v… mà lợi ích độ thoát chúng sinh, gọi là pháp thí. Lại nữa, người thực hành pháp thí, phải khéo biết chúng sinh phiền não nhiều ít, hoặc chỉ có một bệnh phiền não hoặc hai thứ lộn lạo, hoặc ba thứ, sáu thứ. Nếu một phiền não thì nói một pháp trị, hai thứ thì nói hai pháp trị, ba thứ thì ba pháp trị, v.v… đây tức là tướng gồm trị. Một bệnh nói một pháp trị như trước đã nói. Hai bệnh thì hai pháp trị như bệnh tham dục lại có sân nhuế thì phải dùng bất tịnh mà từ tâm quán cùng trị. Vì sao? Vì nếu chỉ dùng một pháp, tuy trị riêng một bên lại tăng thêm một bên thì rất có lỗi. Nay hai pháp cùng gồm thì bệnh đều hết. Hoặc bất tịnh gồm từ, hoặc từ gồm bất tịnh. Nay phải tùy bệnh khởi, dùng nghóa châm chước gồm ba, gồm bốn, cho đến năm, đều có nghóa ấy. Nay chẳng nói đủ. Năm là nói gồm chẳng chuyển mà trị. Nghóa này cũng như ý chuyển trị và chẳng chuyển trị. Chỉ ở trong gồm đối bệnh phát nhiều ít. Lại y cứ ý chuyển và chẳng chuyển trên mà tìm kỹ sẽ thấy. Sáu là chẳng phải đối, chẳng phải chuyển, chẳng phải gồm trị, tức là Đệ Nhất Nghóa Tất-đàn Bát-nhã Chánh Quán. Quán nầy trị chung mười lăm thứ bệnh, cũng có thể phát chung mười lăm môn thiền. Do đó mà nói chẳng phải đối, chẳng phải chuyển, chẳng phải gồm trị chánh quán, không nghiêng lệch, chẳng tăng thêm. Các bệnh khác chẳng cần chuyển. Năng lực phá khắp các bệnh, cho nên chẳng cần gồm. Tuy chẳng được năng phá, sở phá mà trị được các bất thiện, thảy đều trừ diệt, nên gọi là Trị. Đó là Đại thừa nói có Tam-muội chỉ trừ được tham, chẳng thể trừ sân, chẳng thể trừ si, có Tam-muội trừ được ba độc, tức là nay nói chánh quán Đệ nhất nghóa tất-đàn. Sở dó Bát-nhã một quán trị được năm bệnh: Một là chánh quán trị được tham dục. Như kinh Tư- ích nói: Người tham dục dùng tịnh quán mà được thoát, chẳng dùng bất tịnh. Thế tôn tự biết thế; Hai là chánh quán trị được sân. Như Bát-nhà nói: xưa ta bị vua Ca-lợi chặt khắp thân thể, khi ấy, không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh thì sân nhuế chẳng sinh. Cho nên biết thật tướng trị được sân; Ba là chánh quán phá ngu si. Trí tuệ phá vô minh, nghóa ấy rất dễ thấy. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Sáng thì không tối, tối thì không sáng. Khi có trí tuệ thì không có phiền não, khi có phiền não thì không có trí tuệ; Bốn là chánh quán trị được giác quán. Chánh quán thì trong tâm dứt nói năng, dứt nghó suy (đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành diệt) thì giác quán từ đâu mà sinh. Cho nên, kinh Duy-ma-cật chép: Thế nào là dứt phan duyên, nghóa là tâm không thật có; Năm là chánh quán trị được tội chướng. Như trước đã dẫn Phổ Hiền Quán rằng: Ngồi thẳng nhớ nghó thật tướng, ấy gọi là Đệ nhất sám, các tội như sương mù, mặt trời tuệ diệt trừ. Lại nữa, như thuốc ở đời đều tùy đối trị có thể trị một bệnh, không thể trị tất cả bệnh. Thuốc A-kiệt-đà có thể trị khắp tất cả các bệnh. Đó gọi là chẳng phải đối, chẳng phải chuyển, chẳng phải gồm trị. Cũng đầy đủ tất cả môn thiền. Như kinh Đại Phẩm chép: Muốn học tất cả pháp lành thì phải học Bát-nhã. Vì sao? Thí như vua đến thì có quân theo, nếu Bát-nhã tuệ phát thì một tâm đầy đủ muôn hạnh. Ở đây có thể lấy bảo châu Như ý làm dụ. Nói kết thành tất-đàn rộng nhiếp Phật pháp. Nay y cứ đây nghiệm trong các căn tánh mà nói về đối trị. Tức đối với luận Đại thừa nói về nghóa bốn thứ tất-đàn. Vì sao? Vì như mười lăm thứ cảnh giới bất thiện phát tướng. Đây chính là tất-đàn thế giới, vì đều là nhân duyên sinh, thuộc về Ấm, nhập, giới. Kế là nói mười lăm thứ đối trị, môn thiền tức là tất-đàn đối trị, trong ấy chánh nói về thuốc và bệnh đối nhau. Kế là nói: Chuyển trị gồm chuyển chẳng chuyển trị, tức là tất-đàn vị nhân. Đây là theo căn duyên bất định của người mà phương tiện lợi ích nên gọi là Nhân. Kế là nói chẳng phải đối chẳng phải chuyển, tức là tất-đàn Đệ nhất nghóa, nghóa ấy rất dễ thấy. Cho nên luận Đại thừa nói: Bốn tất-đàn này nhiếp hết mười hai bộ kinh, tám muôn bốn ngàn pháp tạng, tất cả Phật pháp. Theo lý mà suy phải biết nghóa thiền môn rất rộng lớn, gồm thâu tất cả. Ba là nói an tâm thiền môn, lược có năm ý: Một là nói tùy tiện nghi, hai là nói tùy đối trị thành tựu, ba là nói tùy lạc dục (ưa thích), bốn là nói tùy thứ lớp, năm là tùy Đệ nhất nghóa. Một là nói tùy tiện nghi: Như xét trong căn tánh lành mà phát ra mười lăm môn thiền, tùy pháp nó phát phải biết quá khứ đã trải qua tu tập, có thể tu lại cho thành tựu, tùy pháp phát ra mà tu để an tâm. Như sau khi phát giác xúc muốn tu an tâm thì phải dạy sổ tức. Vì sao? Vì căn bản sơ thiền phần nhiều từ sổ tức mà phát. Phải biết người ấy ở quá khứ đã từng sổ tức tu thiền. Nay nếu từ đạo tức (đạo hơi thở) mà vào thì cùng bản giúp nhau thì thiền dễ phát, càng gia công không thôi thì sẽ đầy đủ bốn thiền không định. Do đây liền phát ba thừa Thánh đạo. Con của Kim Sư dạy tu sổ tức, ấy là tùy bản. Gốc lành phát rồi, nói pháp an tâm, mười bốn gốc lành kia phát, tùy tiện nghi mà lập an tâm cũng giống như thế. Hai là Nói tùy đối trị thành tựu lập pháp an tâm như hành giả vốn có tham dục bất thiện chướng pháp. Để trị bệnh nào phải thực hành quán bất tịnh, quán thành thì bệnh hết. Khi ấy, tuy không có bệnh dục mà chưa chứng pháp sâu thì lại càng gia tâm mà tu tập bất tịnh, thực hành các thứ bất tịnh thành rồi, kế phải trừ bỏ da thịt, tu xương trắng phát sáng, vào tám bối xả, dứt kết ba cõi, thành đạo ba thừa, ở đây chẳng mất công phu ấy. Nếu lại an tâm pháp khác mới lại tạo công thì ở sự khó thành. Mười bốn thứ kia tùy đối trị thành tựu mà làm pháp an tâm, so đây có thể hiểu. Ba là tùy lạc dục (ưa thích), nếu đối trị dứt được nạn phiền não bất thiện cõi dục thì mười lăm thứ thiền chung không bị ngăn chướng. Khi ấy, phải tùy tâm hành giả ưa thích các thiền Tam-muội, đều an tâm môn ấy mà tu tập lấy thì sẽ khai phát, trước sau đều thành tựu. Đây có thể lấy nhiều người đồng trị mà tu làm cùng loại. Bốn là y cứ thứ lớp mà lập pháp an tâm, ngăn chướng đã dứt, có hành giả muốn từ cạn đến sâu, tu đầy đủ tất cả thiền định, thì phải từ A- na-ba-na mà dạy sổ tức, chứng căn bản bốn thiền không định rồi kế dạy tùy tức, chứng mười sáu đặc thắng rồi, kế dạy quán tức đầy đủ thông minh thiền. Kế dạy bất tịnh quán vào chín tưởng bối xả các thiền, cho đến phải quán tâm tánh vào chín thứ đại thiền. Thứ lớp thiền định đều như trên; Năm là trong thứ lớp mà bất biến phương pháp tu chứng. Ở dưới sẽ nói đủ. Nay nói y cứ xét căn tánh thiện ác rồi thì dùng pháp an tâm. Đã có tiện lợi như thế cho nên nói kế sau. Năm là nói tùy nghóa Đệ nhất: Nê-hoàn là pháp chân bảo của các môn chúng sinh. Vào mười lăm thứ gốc lành phát nầy và năm đối trị trừ chướng rồi thì tùy một pháp môn chỗ dễ ngộ nhất mà dùng để an tâm. Hành giả phần nhiều nhờ môn ấy mà vào Thánh đạo. Bốn là nói phương pháp trị bệnh, hành giả đã an tâm tu đạo hoặc bốn đại vốn bị bệnh, nhờ nay dụng tâm tâm và hơi thở đánh vỗ phát động thành bệnh, hoặc có lúc chẳng điều thích ba thứ thân, hơi thở, tâm, trong ngoài có sự trái phạm, cho nên bị bệnh phát. Phàm pháp ngồi thiền nếu hay khéo dụng tâm thì bốn trăm lẻ bốn bệnh tự nhiên tiêu hết. Nếu dụng tâm sai chỗ thì động bốn trăm lẻ bốn bệnh. Cho nên phải tự hành hóa tha (tự làm, dạy người làm) phải khéo biết nguồn gốc bệnh, khéo biết phương pháp trị bệnh trong khi ngồi. Nếu chẳng biết phương pháp trị bệnh, một khi động bệnh thì chẳng phải chỉ hành đạo bị chướng ngại mà đại mạng có lo lớn. Nay nói pháp trị bệnh có hai ý: Một là nói tướng bệnh phát, hai là nói phương pháp trị bệnh. Bệnh phát tuy có nhiều nhưng chẳng ngoài ba thứ: Một là bệnh bốn đại tăng động, hai là từ năm tạng sinh bệnh, ba là bệnh trong năm căn. Bệnh bốn đại: Địa đại tăng nên thủng kết trầm trọng, thân thể khô gầy, như thế một trăm lẻ một bệnh sinh ra. Thủy đại tăng nên đàm ẩm trướng mãn, ăn uống không tiêu, đau bụng kiết lî, một trăm lẻ một bệnh sinh ra. Hỏa đại tăng nên nóng bức, gân xương đều đau, miệng sưng, đại tiểu tiện không thông, một trăm lẻ một bệnh sinh ra. Phong đại tăng nên hư huyền chiến trạo đau nhức gân xương, ói mửa thở gấp một trăm lẻ một bệnh sinh ra. Cho nên kinh chép: Một đại chẳng điều thì một trăm lẻ một bệnh sinh ra. Bốn đại chẳng điều thì bốn trăm lẻ bốn bệnh đồng thời náo động. Bệnh bốn đại phát đều có tướng mạo phải ở trong ngồi thiền và trong mộng mà xét, tướng trạng rầt nhiều chẳng thể nói hết. Bệnh năm tạng sinh ra, từ tim sinh bệnh. Phần nhiều thân thể lạnh nóng, miệng khô, v.v… vì tim phụ trách về miệng. Từ phổi sinh bệnh phần nhiều thân thể trướng mãn, bốn chi đau nhức, nghẹt mũi, v.v… vì phổi phụ trách về mũi. Từ gan sinh bệnh. Có nhiều mừng rầu, lo lắng, chẳng vui, buồn bã, giận hờn, đầu nhức, mắt đau, mắt mờ, v.v… vì gan phụ trách về mắt. Từ tỳ sinh bệnh, thân thể trên mặt sưng phù toàn thân, ngứa ngáy, đau nhức, ăn uống mật vị, vì tỳ phụ trách về lưỡi. Từ thân sinh bệnh như cổ nghẹn, sình bụng tai đầy (ù tai) vì thân đứng đầu về tai. Năm tạng sinh bệnh rất nhiều đều có hình tướng. Nên trong lúc ngồi, trong lúc mộng mà xét biết. Tướng trạng rất nhiều chẳng thể ghi hết. Nói lược về nói bệnh năm căn. Thân bệnh, là thân thể đau ngứa, ghẻ nhọt, nhức mỏi… Lưỡi bệnh, là lưỡi sưng lở, đau rát ăn uống mất vị. Mũi bệnh, là mũi nghẹt, sổ mũi, sưng đau, v.v… Tai bệnh, là tai ù, điếc, hoặc kêu o o… mắt bệnh là mắt mờ đau xốn, sưng chảy ghèn, nước mắt v.v… Bệnh bốn đại như thế, năm tạng, năm căn khởi lên chẳng phải một, có rất nhiều bệnh chẳng thể nói hết. Hỏi: Bệnh năm căn không khác tướng trong ngoài của bệnh năm tạng, vì sao phải nói riêng. Đáp: Vì trong khi ngồi thiền có cách trị riêng nên phải nói riêng. Nếu hành giả muốn tu thiền tránh khỏi các bệnh thì phải khéo tự biết nhân khởi, ba thứ bệnh có chung nhân trong ngoài phát động. Nếu ngoại thương thì lạnh nóng phong, ăn uống không cẩn thận mà bệnh từ ba chỗ phát ra. Phải biết đây là nhân ngoại phát. Nếu dụng tâm chẳng điều, quán hạnh trái lẽ, hoặc pháp nội tâm khởi lên là chẳng biết dùng hơi thở nên ba chỗ bệnh nầy phát ra, đây là nhân nội phát. Lại nữa, hành giả phải biết bị bệnh có ba thứ khác nhau: Một là bệnh bốn đại thêm bớt, như trước đã nói; hai là bệnh do các quỉ thần làm, và do việc ma xúc não mà bị bệnh; ba là nghiệp báo gây bệnh. Các bệnh như thế khi mới bệnh thì phải trị ngay thì rất dễ lành. Nếu để lâu thì bệnh thành, thân gầy ốm, trị khó hết. Về phương pháp trị bệnh, đã biết rõ bệnh từ nguồn gốc nào phát khởi thì phải làm theo cách thức mà trị. Cách trị bệnh có nhiều, tóm lại chẳng ngoài năm thứ: Một là khí tức trị bệnh, đó là sáu cách thở và mười hai cách thở. Thế nào là sáu cách: Là Xuy (thổi), Hô (thở ra hét) Hy (cười hy hy) - Ha (là hơi) - Hư (hà hơi) - Thẩn (thở dài) sáu hơi thở này đều ở trong mỗi phương tiện chuyển trắc (đổi cách) mà làm. Nếu khi lạnh thì xuy (thổi), khi nóng thì hô. Nếu để trị bệnh thì xuy để đuổi lạnh, hô để đuổi nóng, Hy để đuổi đau và dùng để trị phong. Ha để đuổi phiền và để hạ khí hư (khạc đàm) để tan đàm, lại để tiêu mãn. Thẩn (thở dài) để bổ lao. Nếu trị năm tạng thì hai thứ xuy hô có thể trị tim. Hư để trị gan, ha để trị phổi, hy để trị tỳ, Thẩn để trị thận. Lại nữa, có mười hai thứ hơi thở trị được các bệnh: Một là thượng tức, hai là hạ tức, ba là mãn tức, bốn là tiêu tức, năm là tăng trưởng tức, sáu là diệt hoại tức, bảy là noãn tức, tám là lãnh tức, chín là xung tức, mười là trì tức, mười một là hòa tức, mười hai là bổ tức. Mười hai thứ tức này đều tưởng trong tâm mà dùng. Nay nói lược mười hai tức để đối trị các bệnh. Thượng tức là trị trầm nặng. Hạ tức là trị hư huyền. Mãn tức trị gầy khô. Tiêu tức là trị thủng mãn, tăng trưởng tức là trị tổn. Diệt hoại tức là trị tăng. Noãn tức là trị lạnh, Lãnh tức là trị nóng, Xung tức là trị ủng kết chẳng thông. Trì tức là trị rung động, Hòa tức trị bốn đại chẳng hòa, Bổ là giúp bồi bổ bốn đại. Khéo dùng tức này có thể trị khắp các bệnh. Dùng sai chỗ đều sinh ra các bệnh. Hãy suy ra mà biết. Các Sư dùng tức trị bệnh có rất nhiều phương pháp, v.v… chẳng thể nói hết. Nay lược bày một, hai điều để biết đại ý. Hai là nói giả tưởng trị bệnh, như trong kinh Tạp A-hàm có Bí pháp trị bệnh thiền đã nói. Chỉ này do thần căn đã độn nên thực hành quán tưởng này phần nhiều đều chẳng thành tựu, hoặc chẳng được như ý. Không phải chỉ bệnh không hết mà lại tăng thêm nhiều bệnh, cho nên các Sư đắc ý. Nếu có bí yếu thì giả tưởng mà dùng không bệnh nào chẳng lành, chẳng thể dùng văn kể hết. Ba là chú thuật trị bệnh. Muôn pháp đều có đối trị, dùng tướng mà nhàm chán, khéo biết pháp thuật ấy mà dùng, đều lành bệnh cả. Chú pháp ấy từ các Tu-đa-la hoặc trong kinh thiền. Thuật pháp thì các Sư dấu kín, phần nhiều chẳng truyền bừa. Bốn là dụng tâm chủ cảnh mà trị bệnh. Có Sư nói: Tâm phụ trách quả báo trong một thời kỳ, ví như vua đến chỗ nào thì giặc phải tan. Tâm vương cũng thế, hễ chỗ nào có bệnh sinh trụ tâm trong ấy trải lâu chẳng tan thì bệnh liền dứt hết. Lại có thầy nói dụng tâm trụ vào Ưu-đà- na, Hán dịch là Đan điền, cách rún 2,5 tấc về phía dưới (2,5 lóng tay) thì trị được nhiều bệnh. Lại có Sư nói: Để tâm dưới chân thì trị được nhiều thứ, bí yếu khá nhiều không thể nói hết. Năm là quán chiết trị bệnh, là dùng chánh trí tuệ mà xem xét chỗ bị bệnh không thể được thì bệnh bốn đại liền hết. Nếu là quỉ thần và do Ma-la mà bị bệnh thì phải dùng tâm mạnh mà gia thêm chú và các pháp quán chiếu, v.v… mà giúp trị. Nếu là nghiệp bệnh thì phải nhờ tu phước sám hối chuyển đọc tụng thì bệnh sẽ tự hết. Năm phép trị bệnh này nếu hành giả khéo được một ý thì sẽ tự làm và làm cho người, huống chi thông suốt đầy đủ. Nếu chẳng biết một thì bệnh sinh mà không trị, chẳng phải chỉ bỏ tu chánh nghiệp mà e tánh mạng có sự lo rầu lớn, đâu thể tự làm và dạy người, cho nên người muốn tu thiền phải khéo hiểu pháp trị bệnh nội tâm. Phương pháp trị bệnh nội tâm rất nhiều đâu thể đủ truyền ở văn. Nếu muốn biết thì phải tìm hỏi các chỗ đã trích ra ý trên, là chỉ nêu ra đại ý. Nếu chỉ y theo văn này, văn này đã thiếu sót, tóm tắt e rằng không đáng nương cậy. Người trì khéo được ý ấy mà phương tiện trở lại, ở chỗ không có thiện tri thức thì cũng có thể tạm dùng mà cấp cứu. Hỏi: Dụng tâm trong ngồi thiền thì trị bệnh có công hiệu chăng? Đáp: Nếu đủ mười pháp thì đều có ích. Mười pháp đó là: Một là tin, hai là dụng, ba là siêng năng, bốn là thường trụ trong duyên, năm là biết do đây mà khởi, sáu là phương tiện, bảy là làm lâu, tám là biết lấy bỏ, chín là khéo giữ gìn, mười là biết ngăn che. 1.Tin, nghóa là tin pháp này có thể trị bệnh; 2.Dụng, tức là lúc nào cũng dùng; 3. Siêng, là chuyên tinh dùng chẳng thôi, lấy hạn được làm mức; 4.Thường trụ trong duyên, là tế tâm niệm niệm, y pháp chẳng tán loạn; 5. Riêng biết bệnh do đâu khởi lên, là biết nguyên nhân bệnh khởi như trên nói; 6. Phương tiện, là lấy bỏ duyên tưởng vận tâm khéo léo thành tựu, chẳng thất nghi; 7. Làm lâu, nếu dụng mà chưa có ích ngay thì chẳng kể ngày tháng thường thực hành chẳng bỏ; 8. Biết lấy bỏ, nghóa là biết có ích thì siêng làm, dùng có lại thì bỏ đi, dần dần chuyển tâm mà trị; 9. Biết giữ gìn, nghóa là khéo biết duyên lạ phạm xúc; 10. Ngăn che, nghóa là được lợi ích thì chẳng nói ra ngoài, chưa được và tổn hại thì chẳng chê bai nghi ngờ. Nếu y theo mười pháp này mà trị thì chắc chắn có công hiệu. Năm là nói việc ma, Ma-la đời Tần dịch là sát giả (kẻ giết hại) là cướp đoạt công đức của hành giả, giết mạng sống trí tuệ, nên gọi là Ma-la. Thế nào là việc ma? Như Phật dùng công đức trí tuệ độ thoát chúng sinh vào Niết-bàn là việc chánh. Ma cũng thế, thường phá hoại gốc lành của chúng sinh khiến trôi giạt trong sinh tử là việc chánh. Nếu an tâm ở đạo môn, đạo cao thì ma mạnh, nên phải khéo biết việc ma. Nay giải thích có ba: Một là phân biệt pháp ma khác nhau, hai là nói việc ma phát tướng, ba là nói pháp phá hoại ma. Một là phân biệt ma và pháp khác nhau, ma có bốn thứ: Một là ma phiền não, hai là ma Ấm nhập giới, ba là ma chết, bốn là ma Thiên tử cõi Dục. 1. Ma phiền não, tức là ba độc, chín mươi tám sử, thủ hữu lưu ách phược cái, triền não kiết, v.v… đều phá hoại việc tu đạo. Như luận Đại thừa nói kệ: Dục là quân đầu ông Lo rầu là quân hai Đói khát là thứ ba Xúc ái là thứ tư Ngủ nghỉ quân thứ năm Sợ hãi, quân thứ sáu Nghi hối là thứ bảy Tức giận là thứ tám Lợi dưỡng dối thứ chín Tự cao, khinh người mười Các quân chúng như thế Che ngăn người xuất gia Ta dùng sức thiền trí Phá quân này cho ông, Được thành Phật đạo rồi Độ thoát tất cả người. Hai là ma Ấm giới nhập là năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới tất cả gọi là sắc hệ phược chúng sinh. Ấm ngăn che gốc lành thanh tịnh công đức trí tuệ của hành giả, làm cho không lớn lên được nên gọi là Ma. Đó là Ấm nhập cõi dục cho đến Ấm giới nhập Sắc và Vô Sắc cũng giống như thế. Nếu hành giả tâm không dứt thọ trước thì đều gọi là Ma. Nếu chẳng thọ chẳng đắm, quán như hư không thì chẳng bị che chướng, tức là phá nghiệp ma. Ba là ma chết, là tất cả sinh tử nghiệp báo trôi lăn chẳng dứt đều gọi là Ma. Lại nữa, nếu hành giả muốn phát tâm tu đạo liền bị bệnh mà chết, hoặc bị người khác hại, chẳng thể tu đạo, liền bị bỏ phế. Nay tu tập Thánh đạo cho đến đời sau, nhân duyên chuyển khác, quên mất bản tâm đều gọi là việc ma. Lại nữa, khi hành giả phải tu đạo thì lo chết chẳng sống liền yêu đắm thân ấy mà chẳng tu đạo, cũng thuộc về ma chết. Bốn là ma trời, tức là Ba-tuần. Ma này là kẻ thù của Phật pháp, thường sợ hành giả ra khỏi cõi ma nên sai các quỉ thần quyến thuộc làm các thứ não loạn phá hoại gốc lành của hành giả, đó là ma trời Tha Hóa Tự Tại. Hai là nói bốn ma phát tướng. Nếu là ma phiền não thì như trước trong căn tánh bất thiện ba độc đẳng phần phiền não đã nói. Nếu ma Ấm nhập giới phát tướng thì như trước trong căn tánh bất thiện các thứ sắc tâm cảnh giới đã nói. Nếu ma chết phát tướng thì như trước trong các pháp bệnh đã nói. Vì sao? Vì bệnh là nhân của chết, nếu ma quỉ thần: nay sẽ phân biệt giải thích. Ma quỉ thần có ba thứ: Một là tịnh mị, hai là phụ thích quỉ, ba là Ma-la. Một là tinh mị là thú mười hai giờ (tí, sửu…) biến hóa thành các thứ hình sắc hoặc loạn thanh niên nam nữ, hoặc cụ già và các hình dáng đáng yêu để phá hại hành giả. Chúng đến theo giờ. Phải khéo biết rõ, nếu thường đến giờ mão ắt là chồn, thỏ, v.v… nói tên, chúng thì tinh mị ấy liền tan. Hình tướng mười một giờ kia so với đây có thể biết; Hai là phụ thích quỷ, cũng làm các thứ phá khuấy hành giả, hoặc như sâu bọ bò trên đầu mặt người mà hút chích đục khoét đáng sợ, hoặc chui rút vào hai nách, hoặc chợt ôm cứng lấy người, hoặc nói cười ồn ào, làm các hình thú lạ v.v… đến khuấy phá hành giả. Phải nên biết, nhất tâm nhắm mắt ngầm mắng rằng: Ta đã biết ngươi, ngươi là kẻ ở trong cõi Diêm-phù-đề ăn lửa thơm thúi: thâu- lạp-cát, tà kiến thích phá giới, nay ta trì giới, chẳng hề sợ ngươi. Nếu là người xuất gia thì phải tụng bài tựa giới, nếu là người tại gia thì phải tụng ba quy năm giới cấm, Bồ-tát mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, v.v… quỉ liền bò lổm ngổm mà đi. Như thế các tướng mạo gây trở ngại và pháp trừ dứt đều như trong Thiền kinh đã nói rộng. Ba là Ma-la não loạn. Ma thường làm ba tướng mà phá hành giả: Một là làm việc trái tình, tức là làm năm trần đáng sợ; hai là làm việc thuận tình, tức là làm năm trần đáng yêu khiến tâm người mê đắm; ba là làm việc không trái không thuận tình, tức là làm năm trần trung bình động loạn hành giả. Cho nên ma gọi là sát giả (kẻ giết hại). Lại gọi là hoa tiễn, cũng gọi năm kiển (năm mũi tên) bắn vào năm căn. Trong một tình có ba thứ cảnh, đối tình mà phá rối hành giả. Năm tình hợp lại có mười lăm cảnh. Trong sắc có ba: Một là thuận tình sắc, là làm các hình cha mẹ anh em, hình Phật đẹp đẽ, hoặc cảnh nam nữ đáng yêu, làm cho người mê đắm; hai là trái tình sắc, như làm các hình cọp sói, sư tử La-sát, các thứ rất đáng sợ, đến phá khuấy hành giả; ba là sắc không trái không thuận tình: là chỉ làm các hình sắc bình thường cũng chẳng khiến người yêu thích hay sợ hãi, đều phá khuấy tâm người mà khiến đánh mất thiền định, nên gọi là Ma. Trong các tình khác cũng như thế mà phân biệt. Chỉ y cứ tướng trần có khác. Nếu hành giả chẳng biết các tà ngụy thì sẽ bị hoại mà điên cuồng gây tội, trần truồng không hổ thẹn, khởi các lỗi phá các gốc lành của người, phá hại Tam bảo, chẳng thể kể hết. Hoặc có lúc bị bệnh mà chết, nên phải cẩn thận, khéo léo hiểu biết. Hỏi: Vì sao chẳng y cứ pháp trần, đối với ý căn mà nói về ba thứ việc ma? Đáp: Từ nhiều mà luận. Tất cả việc ma phần nhiều đều từ năm căn mà vào. Nhưng nói năm căn nếu xem xét tỉ mỉ thì trong ý căn cũng đều là ba thứ não loạn (phá khuấy) so sánh mà biết. Lại nữa, trong các kinh Đại thừa nói các thứ huyễn ngụy trong sáu trần đối ý căn việc ma khởi tướng mà nói rộng việc ấy. Cho nên kinh Đại Phẩm nói: các thứ việc ma như thế, mà tội chẳng nói chẳng dạy, phải biết tức là Bồ-tát ác tri thức. Ba là nói pháp phá ma, phải dùng ba pháp trừ bỏ ma: Một là phải biết chỗ thấy, nghe, hay, biết là không thật có, chẳng thọ nhận, chẳng mê đắm, cũng chẳng lo sợ, cũng chẳng phân biệt thì nó liền không hiện. Hai là chỉ quán trở lại tâm thấy, nghe, hay, biết kia chẳng thấy có chỗ sinh, làm sao não loạn được. Khi quán như thế thì chẳng thọ, chẳng phân biệt, chúng liền tự tan biến; Ba là nếu thực hành quán này chẳng bỏ đi ngay, chỉ nên chánh niệm chớ sợ hãi, chẳng mê đắm, thân mạng, chánh tâm bất động, biết ma giới Như thì Phật giới Như, Ma giới Như thì Phật giới Như, một Như không hai Như. Không bỏ Ma giới, không theo ma giới, tức Phật pháp hiện tiền, Ma tự tan biến. Đã chẳng thấy đến đi, cũng chẳng lo mừng. Khi ấy, đâu bị Ma phá rối! Lại nữa, cũng chưa từng thấy có người trong khi ngồi, thấy Ma làm hổ báo đến ăn thịt người, xương thịt bừa bãi lung tung chính là đến dọa người, làm cho tham sợ sệt đều là việc không thật, phải biết là giả dối. Biết như thế rồi tâm chẳng sợ hãi. Lại nghó rằng: Nếu có thật đi nữa thì nay ta vì đạo mà chết thì có sợ gì. Nay ta thân nầy người nên biết tâm ta như kim cương chẳng thể thay đổi. Như thế, hoặc một tháng, hai tháng cho đến cả năm mà ma chẳng đi thì cũng phải vững tâm chánh niệm, bền chắc không lo buồn, sợ hãi. Thường tụng các chú Đại thừa Phương Đẳng để trị ma. Tụng thầm, luôn kinh Tam Bảo. Nếu khi xuất định cũng phải tụng chú tự phòng, sám hối sợ sệt và tụng giới Ba-la-đề-mộc-xoa, tà chẳng liên quan đến chánh, lâu dần thì tự mất. Sự lý trừ ma pháp ấy rất nhiều chẳng thể nói hết. Hành giả phải khéo biết, phương tiện mà dứt trừ. Người mới tu muốn học ngồi thiền phải gần gũi thiện tri thức, vì có các nạn này, khi ma ấy vào tâm người khiến hành giả chứng được các thiền Tam-muội trí tuệ thần thông Đà-la-ni, huống chi là muốn biết thì các kinh Đại thừa và chín mươi sáu đạo chủng kinh cũng phải biết chút ít. Nay lược nói đây vì giúp hành giả biết rõ ý nầy, chẳng vọng nhận các cảnh. Tóm lại, nếu muốn bỏ tà về chánh. Phải quán thật tướng các pháp. Cho nên luận Đại thừa nói: Trừ thật tướng các pháp, ngoài ra tất cả đều là việc ma cho nên kệ nói: Nếu phân biệt nhớ tưởng Ấy là lưới Ma-la Chẳng động chẳng phân biệt Ấy chính là pháp ấn Thường nhớ lý thường không Người nầy chẳng hành đạo Đối chẳng sinh chẳng diệt Mà sinh tưởng phân biệt. Lại nói lược nghóa phá ma khác nhau, như trong luận Đại thừa nói: Vì được đạo Bồ-tát mà phá ma phiền não. Vì được thân pháp tánh mà phá ma Ấm giới nhập, được đạo Bồ-tát, được thân pháp tánh nên phá ma chết. Được Tam-muội Bất động, đối với tất cả pháp được tự tại vô trụ, phá được ma trời Tha Hóa Tự Tại cõi dục. Như kinh Đại Tập nói được bốn niệm xứ tức là phá bốn ma. Có hai lời nói này tên khác mà ý đồng. Như kinh Anh Lạc nói Đẳng Giác Như lai đã qua ba Ma, chỉ có một phẩm Ma chết. Như kinh Pháp Hoa chép: Người Nhị thừa chỉ phá ba ma, trừ ma trời cõi Dục thì chưa thể phá. Ở đây thì kinh luận cùng nói khác nhau, đều có ý sâu. Nếu nói chung bốn ma đều phải đến Bồ- đề mới hết. Vì sao? Vì như ma phiền não có vô minh tế hoặc thì trí Phật bình đẳng mới dứt hết, còn ma Ấm giới nhập thì như Phật bảo Kiều- trần-như: sắc là vô thường, nhờ diệt sắc ấy mà được thường sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế. Ma chết như trước theo kinh Anh Lạc nói: Ma trời cõi Dục khi Phật ngồi đạo tràng mới đến chiến đấu với Bồ-tát. Cho nên biết bốn ma đều đến Bồ-đề rốt ráo mới hết. Đại Bồ- tát tâm rất rộng lớn, an trụ bất động tu sâu thiền định. Từ mới phát tâm cho đến quả Phật hàng phục bốn ma mà làm Phật sự rộng hóa độ chúng sinh, tâm chẳng lui sụt. Kinh Niết-bàn nói có tám ma, kinh Hoa Nghiêm nói có mười ma, khéo hiểu được ý. Bốn ma nhiếp hết, không còn pháp nào khác. Các kinh luận nói việc ma rất nhiều, lược nói chẳng đầy đủ.  THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN <卷>QUYỂN NĂM <詞>CHƯƠNG VII. GIẢI THÍCH TU CHỨNG THIỀN BA LA MẬT Trên đã nói rộng phương tiện nội ngoại, nếu hành giả chuyên tâm tu tập hệ niệm môn thiền sẽ có chứng nghiệm. Cho nên chương bảy nói rộng tu chứng. Cho nên kinh nói: Tu pháp ta, chứng thì tự biết. Nay nói tu chứng, là có bốn: 1. Tu chứng thiền thế gian; 2. Tu chứng thiền vừa thế gian vừa xuất thế gian; 3.Tu chứng thiền xuất thế gian; 4.Tu chứng thiền không phải thế gian không phải xuất thế gian. A. Tu chứng thiền thế gian, có ba: Một là tứ thiền, hai là bốn tâm vô lượng; ba là bốn định vô sắc. Tu chứng bốn thiền: Một là Sơ thiền, hai là Nhị thiền, ba là Tam thiền, bốn là Tứ thiền. Nay nói Sắc Giới Căn Bản Chánh Định, chỉ nói có bốn. Nếu phương tiện chung trung gian thì là bất định. Như các Sư Tát-bà-đa nói thì có Vị Đáo địa và Thiền trung gian thì đủ bốn thiền là sáu địa định. Còn các Sư Đàm-Vô-Đức thì không nói có thiền vị lai mà nói có thiền định trung gian cõi Dục, lấy làm sáu địa định (định của sáu địa). Như luận Đại thừa và Cù-sa nói thì có đủ thiền trung gian Vị đáo địa cõi Dục, là bốn thiền làm bảy địa định (định của Thất địa). Đây là hội trung dung lấy nghóa mà suy. Nay nói theo vào chánh thiền thì chỉ nói có bốn: Thứ nhất: Giải thích Sơ thiền tu chứng, như kệ trong kinh nói: Ly dục và pháp ác Có giác và có quán Ly sinh và hỷ lạc Người nầy vào Sơ thiền Đã lìa được lửa dâm Thì được định mát mẻ Như người quá nóng bức Xuống ao lạnh thì vui Như nghèo được kho báu Rất mừng biết động tâm Phân biệt tức là quán Vào Sơ thiền cũng thế. Trong kệ này Phật nói đủ tướng tu chứng của Sơ thiền chỉ có ý là khó thấy, nay sẽ phân biệt. Nói trong Sơ thiền có mở ra ba thứ khác nhau: Một là giải thích tên, hai là nói tu tập, ba là nói tướng chứng. 1. Giải thích tên: Nói Sơ thiền, Thiền gọi là dốc lòng, hành giả mới được pháp Chi lâm nên gọi Sơ thiền. Lại nữa, pháp giác quán gọi là chi, hành giả pháp Giác quán Sơ thiền trước phải phát nên nói giác quán gọi là Sơ thiền. Hỏi: Nếu nói được phát trước nên nói Sơ thiền, thì Vị đáo địa cõi Dục là phát trước nhất, sao không được gọi là Sơ thiền? Đáp: Thiền gọi là công đức tòng lâm, Vị đáo cõi Dục, v.v… chưa có pháp công đức chi lâm, tuy phát trước mà không gọi là Sơ thiền. Lại nữa, luận Đại thừa nói Vị đáo trung gian cõi Dục thì trí nhiều mà định ít, là chỗ không vui, đã không phải chánh địa cho nên chẳng được gọi Sơ thiền. Lại nói Sơ thiền cũng gọi là Tam-muội có giác có quán, vì có người nghi nói trong tâm giác quán không có định, cho nên Phật nói Tam-muội giác quán. Luận Địa Trì cho rằng gọi giác quán đều là thiền. Thiền nầy khi phát phải cùng giác quán đều phát, cũng gọi là Thánh nói, pháp định trong định này có giác quán, đường nói năng chưa dứt, cũng gọi là nói pháp. Có các thứ tên gọi khác nhau như thế v.v… Hai là nói tu tập, lại có hai: Một là nói pháp phải tu, hai là nói tâm năng tu. 1.Nói pháp phải tu: Tức là A-na-ba-na, là pháp tu tập Căn bản Sơ thiền, có ba ý: Một là giải thích tên tức, hai là nói về tướng tức, ba là nói dụng của tức khác nhau. Một là nói A-na-ba-na, đây là tiếng Thiên-trúc, đời Tần dịch A-na là thở vào, Ba-na là thở ra. Kinh An-Ban Thủ Ý Tam-muội nói An là sinh, Ban là diệt. Nếu nói theo hơi thở sinh diệt thì nghóa như trên. Nếu nói theo tâm sinh diệt thì bất định. Nay cho rằng nghóa hơi thở ra vào là dịch chánh; Hai là nói về tướng tức, có bốn: Một là Phong, hai là Suyễn, ba là Khí, bốn là Tức. Phân biệt bốn tướng đủ như trong Điều Tức có nói: Chỉ nhiều phong thì tán, nhiều Suyễn thì kết, nhiều khí thì lao (nhọc) nhiều tức thì định. Hành giả phải bỏ ba thứ kia mà giữ lại tức, khéo lấy chẳng có tiếng, chẳng kết, nhẹ nhàng dường như còn, dường như mất mà dùng; Ba là nói dùng tức khác nhau: Một Sư dạy buộc tâm đếm hơi thở ra. Vì sao, vì đếm hơi thở ra thì khí chẳng gấp, thân chẳng trướng mãn, thân tâm nhẹ nhàng nhanh nhẹn dễ vào Tam-muội? Có Sư dạy đếm hơi thở vào. Vì sao? Vì đếm hơi thở vào thì một là dễ vào định theo hơi thở thu vào trong, hai là dứt cảnh ngoài, ba là dễ thấy ba mươi sáu vật trong thân, bốn là sức thân nhẹ mạnh, năm là trong thật dứt tham giận. Có các lợi ích tốt đẹp như thế chẳng phải một, nên đếm hơi thở vào. Có Sư dạy đếm hơi thở ra vào không ở đâu hết, lấy chỗ tiện lợi mà đếm không dùng riêng, tùy tâm người an vào định không lỗi, tức dùng chỗ luận của ba Sư đều chẳng cho ra vào đều đếm một lúc. Vì sao? Vì bị hơi thở ngăn, bệnh sẽ sinh trong cổ họng, cũng như có lá cỏ khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào, đây là bệnh sinh. Lại thầy y theo bốn thời dùng số, nay thì chưa rõ; Hai là nói tâm năng đếm, cũng có ba ý: Một tâm năng đếm, hai là chuyển duyên, ba là phân biệt. Một là Tâm năng đếm dùng tâm tế niệm nhiếp tâm đối hơi thở từ một đến mười khiến tâm chẳng tan, nên gọi là sổ tức (đếm hơi thở). Nếu đếm chẳng đủ mười gọi là số giảm (đếm bớt), nếu đêm mười một gọi là số tăng. Song số tăng giảm đều không phải được đạo định, nếu từ một đến mười, phải thường đủ mười, không có lỗi cách một, nên gọi là đếm pháp thành tựu. Nếu giữa chừng tâm bỗng gặp duyên khác mà số đếm lộn lạo thì tâm biết tán loạn còn mạnh. Nếu lấy một làm số thì không có khoảng giữa, nếu có duyên lạ thì chẳng biết ngay vì chỉ duyên với một hơi thở, chẳng thể dứt loạn. Nếu quá mười thì lại một pháp mà khởi, một tâm duyên hai thì có loạn sinh, nên gọi là thêm. Hễ đếm số, chỉ tế tâm y cứ hơi thở ghi số mà thôi, chẳng được lấy nhiều số. Nếu thờ nhiều thì khí đầy bụng phình thể gập, muốn ngồi chẳng yên. Hai là chuyển duyên, là trước đếm hơi thở, biết hơi thở nhẹ nhàng thì phải bỏ đếm số mà theo hơi thở (tùy tức), mặc tình vào ra, nếu tâm muốn tịnh, liền bỏ tùy ngưng mà tâm dừng trụ ở tâm. Nếu tối tăm liền tónh chiếu sắc tức tâm. Nếu phù động thì liền bỏ quán theo sổ và theo chỉ, cho nên gọi là hoàn. Tâm chẳng rong ruổi, ngưng thần dứt lự nên gọi là Tịnh. Nếu hành giả khéo léo nhiếp lục như thế thì tâm dễ định. Ba là phân biệt tức là môn đầu. Hỏi: tất cả pháp môn đều có thể làm đầu, vì sao chỉ nói A-na-ba-na là môn đầu? Đáp: Chẳng phải thế, nay theo Phật dạy như kinh nói: A-na-ba-na là môn đầu của Chư Phật ba đời vào đạo. Cho nên Đức Thích-ca trước đến cây đạo muốn tu tập Phật pháp, trong tâm nghó về An-Ban một Sổ, hai Tùy, cho đến Hoàn tịnh, đủ như Kinh Thụy Ứng có nói. Lại nữa, Đề-bà khi mới ra đời, hàng phục ngoại đạo xong, mọi người kính tin, độ người xuất gia chẳng biết bao nhiêu, do đó tập hợp bảy chúng đệ tử tại gia xuất gia và Sát-lợi Bà- la-môn, ở giữa chúng lên tòa sư tử khóc lóc như mưa. Khi ấy, đại chúng đều nghó thầm rằng: Có lẽ Phật pháp sắp diệt, ngoại đạo sắp khởi tà, có lẽ trong nước sắp gặp nhiều tai họa dịch bệnh khắp nơi. Khi ấy, Bồ-tát biết tâm đại chúng, lấy khăn lau lệ, sửa lại y phục ngay ngắn đưa tay phải lên nói rằng: Không phải Phật pháp sắp diệt mà ngoại đạo khởi tà, không phải nước chẳng yên bệnh dịch khắp nơi. Chỉ thương mặt trời Phật bớt sáng, mặt trăng Thánh lặn mất, trong đó trống rỗng chẳng có cà sa. Bấy giờ, đại chúng nghe lời ấy xong đều tự cảm thương mà khóc lớn. Khi ấy, nhiều loài chim ở trên hư không rơi xuống tán loạn, phát tiếng kêu thảm thiết. Bấy giờ, Bồ-tát dùng lời dịu dàng từ ái an ủi đại chúng mà nói kệ rằng: Mặt trời Phật ở đời Không mắt nên chẳng thấy Trăng Hiền Thánh không lặn Bị che nên chẳng thấy Nếu dẹp hết màn che Thì sẽ tự thấy được, Đâu lo sợ mất mát Ngủ say như trẻ con. Bấy giờ, đại chúng nghe từ âm của Bồ-tát tâm đều tỉnh ngộ, nhiếp tâm ngồi yên, lặng lẽ không tiếng động, nhìn Bồ-tát chăm chú, đều muốn nghe pháp. Khi ấy, Bồ-tát đều bảo khắp đại chúng mà nói kệ rằng: Phật nói môn cam lồ Tên A-na-ba-na, Ở trong các pháp môn Đạo bậc nhất an ổn Nhân duyên thứ lớp khởi Chẳng lẫn các vọng tưởng Thí như trồng thạch lựu Mầm mộng lần lượt mọc Hoa trái và sắc vị Tự nhiên chẳng thể làm Thời đến thì tự chứng Chẳng phải màu mỡ sáp các ông điều thục địa Cho ông giống thạch lựu Khiến tâm vào cam lộ Đạo pháp thứ lớp sinh. Từ đây trở đi, Pháp sư Tây Trúc truyền nhau chẳng thôi, thường dùng pháp này khi mới học đạo. Nếu Đại só bốn y, Bồ-tát sáu thông nói pháp độ người thì nói đây trước. Há không phải là cửa đầu vào đạo hay sao? Đời mạt pháp nối theo nói pháp dạy trao mà tự mình chẳng tu định. Đã không có nội đạo nói ra liền phá hành giả định. Nếu theo lời Đề- bà nói bèn cho thiền định là cốt yếu. Người đời điên đảo thật là đáng thương. Lại có người nói pháp thiền một bề chẳng được chỗ, đại chúng nói kính tìm Đề-bà ở giữa đại chúng nói rộng thiền định. Thời nay há đốn, ngậm miệng chẳng được nói ta chứng pháp ấy. Ta chứng pháp ấy và cảnh giới thiền vi diệu bí mật nói với người thì bị tội chẳng nhẹ. Ba là nói chứng tướng thiền, thông phương tiện luận chứng có ba bậc: Một là chứng tướng định cõi Dục, hai là chứng tướng Vị đáo định, ba là nói về chứng Sơ thiền. 1) Nói chứng định cõi Dục, có hai ý: Một là nói tướng chứng, hai là nói được mất. Nay nói trong cõi Dục, có ba: Một là thô trụ tâm, hai là tế trụ tâm, ba là chứng định cõi Dục. Một là thô trụ tướng: Do hơi thở trước đã phương tiện tu tập tâm dần hư ngưng, chẳng còn duyên lự, gọi là thô trụ; Hai là tế trụ tướng: Ở sau tâm ấy mà mất dần chuyển tế tức là tế trụ tâm. Phải được các thô tế nầy, hoặc khi sắp được thì sẽ có pháp trì thân sinh ra. Pháp nầy khi phát thì thân tâm tự nhiên ngay thẳng, ngồi không mỏi mệt, như vật giữ thân, nếu giữ thân tốt thì chỉ nhẹ nhàng giúp thân lực mà thôi. Nếu là thô thì thân cứng chắc mạnh mẽ. Đến thì khổ gấp cứng chắc, đi thì chậm nhẹ làm khốn đốn người. Đây không phải là pháp tốt, tâm đã tế rồi, đối với giác (mà biết) tâm tự trong sáng, tương ưng với định. Pháp định từ tâm mặc tình bất động từ cạn vào sâu, hoặc trải qua một lần ngồi mà ý không phân tán. Do đó, nói đây là định cõi Dục. Khi vào định này, tướng cõi Dục báo thân chưa hết; Hai là nói được mất, vào định cõi Dục pháp tâm đã cạn, chưa có chi trì thì khó được mà dễ mất. Nhân duyên dễ mất là việc cần phải biết. Mất định có hai thứ: Một là từ duyên bên ngoài, tức là khi được định chẳng khéo dụng tâm, phương tiện nội ngoại, giữa chừng trái phạm thì lui mất thiền định. Lại nữa, nếu hành giả khi được định hoặc nói với người, hoặc hiện tướng định cho người khác biết, hoặc bỗng có sự duyên hoại nhau như thế, các thứ ngoại sự ở trong chẳng hay chẳng biết, chướng pháp đã sinh thì liền mất định. Nếu giữ gìn vốn được thì chẳng mất. Chướng chẳng sinh nên gọi là Được. Hai là y cứ nội mà nói về được mất, có sáu thứ hay mất thiền định: Một là tâm trông mong, hai là tâm nghi, ba là tâm sợ, bốn là quá mừng, năm là ái nặng, sáu là lo hối. Chưa được thiền định có một, tức là tâm trông mong. Nhập định có bốn là nghi - sợ - mừng ái, xuất định có nhiều lo hối. Ở đây thì phá tâm định làm cho lui mất. Nếu nói chung sáu thứ nầy thì đều chưa nhập - trụ - xuất, đều có sáu thứ nầy làm cho lui mất định. Nếu lìa sáu thứ này thì dễ được định. Vì chẳng mết nên gọi là Được. Ở đây tuy việc gần nếu chẳng nói thì người chẳng biết. Nếu khéo giữ ý thì biết là che chướng; Hai là nói tướng định Vị đáo địa. Nhân định cõi Dục này thân sau tâm mất trống rỗng, mất thân cõi Dục, trong lúc ngồi chẳng thấy đầu tay giường chõng, cũng như hư không. Đây là định Vị đạo địa, nói Vị đáo địa là địa này sinh ra Sơ thiền, tức là định Sơ thiền phương tiện. Cũng gọi là thiền Vị lai, cũng gọi là trạm tâm Hốt Nhiên. Khi chứng minh định này thì tướng đều cạn sâu, nay chẳng có sáng suốt. Lại nữa, trong định này hoặc có tà ngụy. Hành giả phải chứng tướng nó không phải một. Lược nêu hai việc: Một là định tâm quá sáng, hai làquá tối đều là tà định. Sáng là khi nhập định thì thấy cảnh giới ngoài xanh vàng đỏ trắng, hoặc thấy mặt trời, mặt trăng, các sao và cung điện, v.v… hoặc một lúc, một ngày, cho đến bảy ngày mà không xuất định, thấy tất cả việc như được thần thông. Đây là tà, phải mau bỏ đi; Hai là nếu vào thiền này, bỗng biết tối tăm như ngủ mê chẳng khác, tức là không có tâm tưởng khiến cho hành giả sinh tâm điên đảo, phải mau bỏ đi. Đây là nói lược tướng tà định, trong ấy các hại nạn không dùng văn nói hết. Lại nữa, nếu y vào Thành luận, Tỳ-đàm phân biệt hai định là bất tiện. Nay y theo Tôn giả Cù-sa nói phân biệt hai định có khác, lẽ ra cũng không lỗi, đủ như trước đã dẫn luận Đại thừa giải thích. Nhưng thường thấy người ngồi khi chứng định, thật có hai tướng định khác nhau, cho nên nay nói cõi dục hai định Vị đáo đều khác. Ba là nói về tướng chứng thiền, có sáu thứ: Một là Sơ thiền phát tướng, hai là nói chi, ba là nói thể dụng nhân quả, bốn là nói cạn sâu, năm là nói tiến lùi, sáu là nói công đức. - Nói tướng Sơ thiền phát, lại có bốn ý: Một là nói về Sơ thiền phát tướng, hai là phân biệt không phải thiền pháp, ba là giải thích nhân duyên phát, bốn là phân biệt tà chánh. Nói Sơ thiền phát tướng, hành giả ở Vị đáo địa chứng mười sáu xúc thành tựu, tức là Sơ thiền phát tướng. Thế nào là chứng? Nếu hành giả ở Vị đáo địa nhập định sâu dần thân tâm vắng lặng, chẳng thấy trong ngoài, hoặc trải qua một ngày, cho đến bảy ngày, hoặc một tháng, cho đến một năm. Nếu định tâm chẳng hoại, giữ gìn thêm lớn. Ở trong định này bỗng biết thân tâm ngưng đọng, dần dần xao động, đương khi động lại biết dần dần có thân như mây như bóng động phát, hoặc từ trên phát, hoặc từ dưới phát, hoặc từ eo phát, dần dần khắp thân, trên phát phần nhiều lui, dưới phát phần nhiều tiến. Khi động xúc phát thì công đức vô lượng nói lược có mười thứ pháp lành quyến thuộc cùng động đều khởi, mười thứ ấy là: 1. Định; 2. Không; 3. Minh tịnh; 4. Mừng; 5. Vui; 6.Thiện tâm sinh; 7.Thấy biết sáng rõ; 8.Giải thoát không lụy; 9. Cảnh giới hiện tiền; 10.Tâm điều mềm mỏng. Mười pháp như thế cùng động đều sinh, nên gọi là động. Quyến thuộc tốt đẹp, công đức trang nghiêm động pháp. Nếu phân biệt đủ thì khó hết. Đây là lược tướng nói sơ động xúc. Như thế hoặc trải qua một ngày, hoặc mười ngày, hoặc một tháng, bốn tháng, một năm, việc này đã qua lại có xúc khác thứ lớp phát sinh. Cho nên gọi Sơ thiền các xúc khác phát, tức là tám xúc: Một là động, hai là ngứa, ba là mát, bốn là Ấm, năm là nhẹ, sáu là nặng, bảy là rít, tám là trơn. Lại có tám xúc là trạo. Ỷ lạnh, nóng, nổi, chìm, cứng, mềm. Tám xúc này tuy đồng với tướng trước nhưng phân biệt kỹ thì đều có khác chút ít, lại nêu danh mục riêng, đủ vời trước hợp thành mười sáu xúc. Mười sáu xúc này khi phát đều có pháp lành công đức quyến thuộc như trước đã nói trong động xúc. Hành giả nhân Vị đáo địa phát các thứ xúc công đức thiện pháp như thế, nên gọi là Sơ thiền mới phát đều là bốn đại thanh tịnh cõi sắc. Y thần cõi Dục mà phát. Cho nên luận Đại thừa nói: cõi Sắc bốn đại tạo sắc, mang thân cõi Dục. Hỏi: Hai mươi bảy xúc vì sao có lấy bỏ. Lại nêu ra xúc khác gọi là phân biệt, v.v…. Nói phân biệt chẳng phải tướng thiền. Hỏi: Hành giả khi mới ngồi chưa được định tâm cũng phát ra các xúc như lạnh, nóng, động, v.v… đã không có các công đức như trên nói. Có người nói đây là bệnh pháp khởi, vì sao? Vì như động xúc, rít, v.v… là bệnh của địa, như động xúc nhẹ là bệnh của phong, như nóng ngứa v.v… là bệnh của hỏa, như lạnh, trơn v.v… là bệnh của thủy. Lại nữa, như Ấm, nóng, ngứa, v.v… là sinh cái tham dục, do nặng, trơn, trầm là sinh cái thùy miên, do động, phù, lạnh là sinh cái trạo hối, do cường rít là sinh cái nghi. Lại do cứng rít, v.v… mà sinh sân cái. Phải biết xúc khi phát thì khiến cho bốn đại phát bệnh và sinh năm cái chướng pháp, hoặc nói là ma làm. Nếu khi động phát như lỗi trên, trên nói đều là ma xúc phát, vì sao xem đây là Sơ thiền? Đáp: Chẳng đáng, nếu ông theo chỗ nói tướng phát xúc, thì đây là xúc sinh bệnh sinh cái, nếu như trên nói và tăng thì cũng là tướng ma xúc phát. Nay nói chẳng đúng, nếu chưa được định Vị đáo địa mà phát trước thì phần nhiều là bệnh xúc, là sinh cái và ma làm ra. Nếu khi xúc phát thì không có mười thứ công đức quyến thuộc như trên đã nói, cũng là bệnh xúc sinh cái và ma xúc. Nay nói xúc phát là phải do định Vị đáo địa mà phát, cũng có đầy đủ các công đức quyến thuộc đều phát, nên lấy đây làm tướng Sơ thiền phát thì có gì phải nghi. Hỏi: Phát xúc trước Vị đáo địa chỉ là sinh bệnh, sinh cái và ma xúc, có khi nào trị bệnh trừ cái mà không phải là ma xúc chăng? Đáp: Cũng có. Hỏi: Nếu thế cùng xúc Sơ thiền sao bảo là khác? Đáp: Có khác. Cõi Dục có trị bệnh trừ cái và không phải ma xúc mà chẳng phải Sơ thiền xúc, đây cũng là bốn đại sắc pháp trong cõi Dục chẳng thể phát định, vì không có các công đức thiện pháp chi lâm nên không gọi Sơ thiền. Đây thì lược nêu tướng xúc thiện bất thiện của cõi Dục, chỉ hành giả khi mới ngồi hoặc có một, hai chứng này hoặc đều chẳng chứng. Song đã có pháp nầy nên lược nêu ra. Hỏi: Trong Vị đáo địa cũng phát thiện, bất thiện xúc cõi Dục hay chăng? Đáp: Đều là nghóa này. Nói nhân duyên thiền phát, có hai: Một là từ khi tu thiền đến nay không kể cần khổ đã có tâm lành công lực thành tựu thì tự nhiên chiêu cảm quả báo, như trong kinh Pháp Hoa nói: Tùy công mà ban thưởng. Cho đến thiền định căn lực, v.v… Lại có Sư nói là tương ưng mười thiện. Ý này khó thấy; Hai là Ấm cõi sắc ở trong thân cõi Dục, thô tế trái nhau, nên có trạo động, tám xúc, v.v… ví như người đời lo buồn phiền não ở trong khởi lên mà kết trệ lấp bít chẳng thông. Nay bốn đại chịu các nóng bức từ tâm sinh ra cho đến bị bệnh đến chết chẳng từ ngoài đến mà có khổ. Nay trong thiền có xúc lạc cũng từ tâm mà có. Do sổ tức nên khiến tâm dịu dàng tu các pháp định, định pháp cõi sắc trụ ở trong thân cõi Dục. Pháp sắc định cùng báo thân cõi dục xúc nhau, có mười sáu xúc thứ lớp sinh ra, cũng chẳng từ ngoài tới mà biết rõ, nên gọi là Xúc. Tám thứ này tuy có mười sáu đều y cứ bốn đại mà phát. Do bốn đại sinh, trong địa có bốn là nặng, chìm, cứng, rít, trong thủy có bốn là mát, lạnh, mềm, trơn, trong hỏa có bốn là Ấm, nóng, ỷ, ngứa, trong phong có bốn là động, trạo, nhẹ, nổi. Cho nên Kim Quang Minh nói: Hai rắn địa thủy tánh chìm xuống, hai rắn phong hỏa tánh nhẹ bay lên. Nếu do bốn đại chỉ nên có bốn, sao được mười sáu. Đáp: Tướng gồm cho nên như thế, như nóng là thể của hòa, nhưng gồm thủy nên có Ấm, gồm phong nên có ngứa, gồm địa nên có ỷ (dựa) khi gồm ba thì mất tướng nóng gốc, cho nên có bốn. Ba đại kia đều gồm ba nghóa, suy đây mà biết. Lại nữa, mười sáu xúc này đều có mười công đức pháp lành, hợp thì có một trăm sáu mươi. Nhưng người mới ngồi phát pháp thì chưa hẳn đủ hết, hoặc phát ba, năm nên lược nêu ra. Hỏi: Tám xúc này phát có thứ lớp hay không thứ lớp, trong các xúc thứ gì phát trước? Đáp: Nếu nói thứ lớp thì cũng không nhất định trước sau, tuy bốn đại nhân duyên khi họp, mạnh thì phát trước, mà phần nhiều thấy có người từ động mà phát. Việc như trước đã giải thích. Phân biệt tà chánh, đủ như trong nội phương tiện đã xét căn tánh thiện ác mà nói hư thật. Trong ấy phải phân biệt rộng. Hai là nói nghóa chi, cũng có ba: Một là giải thích tên chi, hai là giải thích nghóa chi, ba là nói tướng chi. Giải thích tên chi, Sơ thiền có năm chi: Một là giác chi, hai là quán chi, ba là hỷ chi, bốn là lạc chi, năm là nhất tâm chi. Giác là sơ tâm giác ngộ gọi là giác quán, là hậu tế tâm phân biệt gọi là quán, tâm mừng vui gọi là hỷ, tâm điềm đạm gọi là lạc. Lặng lẽ chẳng tán loạn gọi là nhất tâm. Do đó chế ra năm chi, nếu đối bất thiện tức là phá năm dục năm cái, nếu đối pháp thiện tức là đối hạnh năm pháp. Cho nên Thích Luận chép: Lìa năm cái, thực hành năm pháp, đủ năm chi là vào Sơ thiền. Giải thích nghóa chi. Nhữ kinh Anh Lạc chép: Thiền gọi là chi lâm, đây là nói theo nghóa chung riêng. Nói chi là nghóa chi li, như do rễ thân cây thì có cành nhánh, rễ thân là một, cành nhánh có khác. Trong thiền nghóa chi cũng thế, từ một định tâm mà sinh ra năm chi, đây là nghóa riêng trong chung. Nói lâm, như rừng có nhiều cây thì gọi là Lâm. Nghóa thiền cũng thế, năm chi hòa hợp, được tên gọi chung là Thiền. Đây là y cứ vào chung trong riêng. Cho nên biết nói thiền có năm chi. Như nghe tên lâm (rừng) thì biết có cây và các cành nhánh. Lại có người nói: Chi trì là nghóa, như trong Vị đáo địa cõi Dục tuy có đơn tịnh định tâm mà chưa có giác quán, v.v… năm chi giúp đỡ về định tâm cạn mỏng dễ mất. Nếu được Sơ thiền thì có các pháp giác quán định tâm an ổn, bền chắc khó mất. Nói về tướng chi: nếu số người biện tướng, chánh y cứ hai mươi hai tâm sở lấy bỏ nói rõ tướng năm chi, nêu đủ nghóa ấy, v.v… là điều các nhà đời nay nói, lược có hai: Một là riêng, hai là chung. Một là giải thích riêng tướng năm chi. Thế nào là giác? Giác là xúc giác, có hai: Một là thành thiền giác, hai là hoại thiền giác. Như có gió thì sẽ thành mưa, gió làm hoại mưa. Như trên nói trong mười sáu xúc, một xúc có mười pháp lành quyến thuộc an ổn trang nghiêm, là thành tựu thiền giác. Như trên nói một xúc có hai mươi pháp ác là hoại thiền giác. Lại giác, giác thuộc thân căn, là thân hữu tình khác với gỗ đá, do đó đối trị nên sinh giác. Như kinh nói nghóa thấy, nghe, hay, biết. Thấy thuộc mắt, nghe thuộc tai, mũi xúc giác thuộc về thân, biết thuộc về ý, cũng đối lưỡi, vì có tăng dụng. Hỏi: Như trong kinh nói: Sáu xúc nhân duyên sinh thọ, sao được giác xúc chỉ thuộc thân? Đáp: Đấy là đối chung mà nói, nếu chung khi thấy cũng nói là nghe. Các nghóa cũng giống như thế. Nay ở nghóa riêng mà nói về giáo chi, là chánh đối thân. Vì trong Vị đáo định phát mười sáu xúc, xúc do thân căn sinh, thức biết tướng xúc trước, nên gọi là giác chi. Lại giác gọi là kinh ngộ. Hành giả khi được Sơ thiền, chưa từng được pháp lành công đức như thế nên tâm rất kinh ngộ. Xưa thường bị lửa dục thiêu đốt, khi được Sơ thiền như người xuống tắm dưới ao mát. Chỉ khi giác này sinh thì khác với thân căn cõi Dục sinh giác. Vì sao? Vì đều phát một lúc với các pháp lành như định, v.v…, như bài kệ nói: Như nghèo được kho báu, Mừng lớn biết động tâm. Nên nói sơ tâm, thô niệm gọi là giác. Đây cùng số người nói nghóa có phân biệt hơi khác, v.v… Hai là giải thích quán chi. Hậu tế tâm phân biệt gọi là quán. Đã phân biệt xúc phát rồi, tâm chánh niệm suy lường phân biệt hướng về xúc khi sinh rất khác với các pháp lành trong cõi Dục và Vị đáo, v.v… Vì sao? Vì trong xúc này có các thứ pháp lành (quý báu) đều phát với xúc, cõi Dục thì không. Lại nữa phân biệt là phân biệt tướng pháp báu trong mười sáu xúc cũng khác nhau. Biết thô thì lìa, biết thiện thì tu, tế tâm này phân biệt nên gọi là quán chi. Nên kinh nói phân biệt thì là quán. Hỏi: Nếu thế giác có gì khác. Đáp: Như luận nói thô tâm ở duyên gọi là Giác, tế tâm phân biệt gọi là quán. Lại hỏi: Như trong Tỳ-đàm nói: Giác quán ở trong một tâm, nay vì sao lại là hai? Đáp: Pháp tuy ở một tâm, hai tướng chẳng đều nghóa là khi giác thì quán không rõ ràng, khi quán thì giác không rõ ràng. Ví như đánh chuông, tiếng chuông tuy một mà thô tế có khác, giác quán trong một tâm cũng như thế. Lại nữa, thân căn và thân thức tương ưng nên gọi là Giác, ý căn và ý thức tương ưng nên gọi là Quán. Thân thức là ngoại độn nên gọi là thô. Ý thức là nội lợi nên năng phân biệt gọi là Tế. Ở đây tuy đồng duyên một xúc mà hai tướng chẳng đồng, nên là quán chi. Ba là nói Hỷ chi, thấy mà tế tâm phân biệt suy lường biết rõ mười sáu xúc mầu nhiệm quý báu, xưa chưa gặp, vì tâm mừng vui lại biết bị mất. Dục lạc rất ít, nay được Sơ thiền công đức thì lạc ấy rất nhiều. Như thế mà giác quán lợi mình không ít thâm tâm mừng vui hớn hở vô lượng nên gọi là Hỷ chi. Bốn là lạc chi, hành giả vui mừng rồi tâm rất an nhiên, thọ lạc trong xúc, pháp lạc làm vui, tâm an ổn tự nhiên nên gọi là lạc chi. Hỏi: Hỷ lạc có gì khác? Đáp: Như giác quán trên đã phân biệt. Nay hỷ lạc cũng thế. Thô lạc gọi là Hỷ, tế lạc gọi là Lạc. Cũng có thể nói thô hỷ là hỷ, tế hỷ là lạc. Lại nữa, hỷ lạc tuy đều là tướng vui mà hai tướng có khác. Hỷ căn tương ưng nên gọi là Hỷ, trong tâm an tónh nên gọi là lạc. Lại nữa, hành giả duyên dầu được lạc, tâm sinh vui mừng, chưa kịp thọ lạc gọi là hỷ, sau duyên tình hỷ đã dứt nên lấy lạc làm vui, nên gọi là lạc. Ví như người đói được ăn, mới được thì vui mừng, nhưng chưa kịp thọ nhận vị nên gọi là Hỷ, sau ăn rồi mới nhận được vui trong vị nên gọi là Lạc. Lại như Tam thiền có lạc mà không có hỷ, nên biết hai căn có khác. Năm là nhất tâm chi. Tâm thọ lạc lâu thì dứt, tuy có các giác xúc việc mà tâm chẳng duyên, đã không phân tán định trụ vắng lặng nên gọi là nhất tâm chi. Ở đây lược nói năm chi Sơ thiền thứ lớp phát sinh, đều y cứ thành tựu lập nghóa chi. Hỏi: Nếu thế y cứ mười sáu xúc, một xúc đều có năm nghóa chăng? Đáp: Thật đúng như thế. Cho nên biết Sơ thiền đối duyên thì có nhiều chi. Tuy là đối xúc có nhiều nhưng chẳng ngoài năm chi. Ví như nếu năm Ấm đối năm căn, căn căn nói năm, tuy là có nhiều mà chẳng thể nói. Nói có sáu Ấm, năm chi cũng như thế. Hai là y cứ nghóa chung mà nói năm chi, tức khi một giác thì đều đủ nghóa năm chi, vì sao khi đang giác phát, bản đối ở xúc. Trong giác xúc lạnh Ấm tức là giác chi, khi đương giác há chẳng phân biệt, biết lạnh khác Ấm tức là quán chi. Đương khi xúc phát thì có hỷ tâm, như người thấy sắc đẹp liền sinh vui mừng chẳng đợi suy nghó. Cho nên luận có kệ rằng“Đại hỷ giác động tâm”. Khi xúc phát thì cả thân đều có cảm giác vui tức là lạc chi. Giải phát sẽ đồng với định, nên gọi là giác quán cu Tam-muội, phải biết tức có chi một tâm. Đây thì năm chi một lúc mà phát chẳng đợi thành tựu. Chỉ đối với sự chưa hiển nên y cứ thành mà nói nghóa riêng như trước. Hỏi: Nếu thế, thì tâm đều lo? Đáp: Tâm chẳng cùng pháp thì có gì hơn loại này. Như nghóa mười Đại địa tâm vương tâm sở. Hỏi: Nếu chi chung có năm, thì năm chi phải có hai mươi lăm. Đáp: Như trong kinh Phật nói năm Ấm một Ấm có năm, năm lần năm có hai mươi lăm mà chẳng phải trái nghóa năm Ấm, nghóa chung năm chi cũng như thế. Ba là nói thể dụng của chi, tức có hai ý: Một là nói nhân quả, hai là nói thể dụng. Một là nhân quả: Xa mà nói thì làm phương tiện nội ngoại và vào Vị đáo địa làm nhân, cảm được Sơ thiền làm quả. Nay giải thích gần chỉ y cứ vào Sơ thiền, tự có nhân quả. Có người nói bốn chi trước là nhân, chi nhất tâm sau là quả, ở đây thì không có văn nói. Nay y theo kinh Anh Lạc giải về chi thiền, năm chi là nhân. Sáu tâm yên lặng là thể của định, tức lấy thể làm quả. Nếu nói chung về nhân quả, các chi nhân nhau đều được nói về nhân quả. Hai là nói về thể dụng, lại dùng tâm yên lặng làm thể của định. Từ yên lặng xúc lại động phát khởi năm chi, đây là dụng. Vì sao? Vì từ thể khởi dụng, dụng thì ở sau, nhân thì y cứ theo trong. Hỏi: Nhân dụng thể quả, tức không phân biệt. Đáp: Chẳng thể tuy đồng y cứ vào năm chi mà nói nhân dụng, ở yên lặng làm thể quả. Nhưng ý nghóa có khác. Vì sao? Vì năm chi trong nhân là cảm quả vắng lặng, nhân quả vắng lặng mà khởi pháp năm chi. Đây là đối với yên lặng làm thể, năm chi làm dụng. So sánh với ba mươi bảy phẩm đạo trước làm nhân, đạo sau làm dụng. Hỏi: Có lúc từ thể yên lặng mà phát năm chi thắng phẩm, sau được yên lặng tăng thắng, nghóa này thế nào? Nếu thế, tức lại phải nói về nhân quả, nếu không có Thắng phẩm thì chỉ là thể dụng. Bốn là nói cạn sâu: Khi Sơ thiền phát thì năm chi và tạm yên lặng trước sau đều thô tế khác nhau, cho nên có cạn sâu, cần phải phân biệt. Vì sao? Như luận nói: Khi đệ tử Phật tu các thiền thì có thượng - trung - hạ gọi là ba phẩm, lìa ba phẩm này, một phẩm chia làm ba cho nên có chín phẩm cạn sâu. Nếu nói kỹ thì phải có vô lượng phẩm. Ngoại đạo được định cũng có cạn sâu mà chẳng nói phẩm, vì tâm ấy thô, ở trong định không biết, y cứ vào lập phẩm mà nói cạn sâu, có hai ý: Một là y cứ đồng loại, hai là y cứ khác loại. 1.Y cứ đồng loại: Như khi một động xúc phát thì dần dần giác sâu, cho đến chín phẩm; 2.Y cứ khác loại: Như sau khi động xúc mất, liền phát xúc khác. Tuy tướng xúc khác nhau mà biết định dần dần sâu hơn định trước. Lại nữa, nếu y cứ năm chi mà nói cạn sâu, cũng có hai: Một là đồng loại: Như khi xúc phát năm chi liền có tướng cạn sâu; hai là khác loại: Nếu năm chi thứ lớp thêm lớn, trong mỗi chi cũng đều có tướng cạn sâu. Hỏi: phải phát đầy đủ mười sáu xúc mới gọi Sơ thiền, hay chỉ phát một xúc cũng được gọi Sơ thiền? Đáp: Sơ thiền có hai thứ: Một là đầy đủ, hai là không đầy đủ. Nếu phát đủ mười sáu xúc thì Sơ thiền đầy đủ này là tốt. Nếu phát một, hai xúc thì cũng được gọi là Sơ thiền. Vì sao? Vì một xúc có đủ mười thứ định pháp quyến thuộc năm chi mà thành tựu, nhưng Sơ thiền này không gọi là đầy đủ. Năm là nói tiến lùi: Khi chứng Sơ thiền có bốn hạng người căn tánh khác nhau: Một là thối phần, hai là trụ phần, ba là tiến phần, bốn là đạt phần. 1.Thối phần, là nếu người được Sơ thiền hoặc có nhân duyên, hoặc không nhân duyên mà liền lui mất. Mất có hai: Một là lại tu lại được, hai là lại tu không được. Đó là chướng pháp quá khứ và đời nay khởi lên. Trong đời mạt pháp thì thối phần nầy nhiều; 2. Trụ phần, là có người được Sơ thiền rồi thì chẳng lui mất, định tâm an ổn. Trụ phần cũng có hai thứ: Một là nhậm vận tự trụ, hai là thủ hộ mới trụ; 3.Tiến phần, là có người khi được Sơ thiền liền tiến lên được Thắng phẩm, cho đến tiến lên được Thượng địa. Tiến có hai: Một là chẳng gia thêm công sức, nhậm vận tự tiến; hai là siêng tu mới tiến; 4.Đạt phần, có người khi được Sơ thiền thì ở trong định này liền phát kiến tư vô lậu, đạt đến Niết-bàn. Đạt cũng có hai: Một là nhậm vận tự đạt, hai là tu quán mới đạt. Lại nữa, bốn phần này trong định lại có bốn thứ người căn tánh khác nhau. Như trong thối phần có bốn: Một là tự có thối thối mà được, chín phẩm dần thối cho đến mất hết; Hai là tự có thối trụ mà được, chín phẩm thối đến tám phẩm, bảy phẩm rồi trụ mà không mất; Ba là tự có tiến lùi mà được, chín phẩm thối đến bảy phẩm, bảy phẩm cho đến một hoặc, rồi từ một phẩm lại tiến lên; Bốn là tự có thối mà đạt được. Chín phẩm đã thối, trở về phẩm tám, phẩm bảy, cho đến một phẩm ở giữa chừng bỗng phát chân vô lậu. Các Trụ phần, Tiến phần, Đạt phần kia đều có bốn nghóa cũng như thế. Trong ấy hoặc có nhân buông lung làm chướng nên thối, hoặc nhân sám hối thanh tịnh nên trụ, tiến, đạt. Nghóa nầy rất nhiều chẳng thể nói hết. Sáu là nói công đức thiền. Như kệ ở trước nói đã được lìa lửa dâm thì được định mát mẻ. Kệ này là có hai công đức: Một là đức lìa lỗi, hai là đức tâm lành. Đây đối với hai thiện chỉ hạnh cũng có thể loại ở hai đức trí đoạn. Cho nên kinh Đại Tập chép: Sơ thiền cũng gọi là lìa cũng gọi là đủ. Nói lìa là lìa năm cái, nói đủ là đủ năm chi. Nay giải thích sở dó được thiền là lìa các tham dục, vui ở cõi Dục thì thô cạn, nay được Sơ thiền thì vui sâu xa. Vì thắng hơn khinh cho nên lìa được năm dục. Lìa sân, là ở cõi Dục duyên khổ ép ngặt cho nên sân. Khi được Sơ thiền thì không có các ép ngặt, cảnh vui ở trong tâm cho nên không sân. Lìa được ngủ nghỉ là khi được Sơ thiền thì thân tâm trong sáng, định pháp được giữ, tâm không mê mờ, xúc lạc tự vui, cho nên chẳng ngủ. Sở dó lìa được trạo hối là thiền định giữ ở tâm, nhậm vận bất động, cho nên lìa trạo. Do trạo nên có hối, đã không trạo thì không hối. Lìa nghi là khi chưa được Sơ thiền thì nghi là chẳng biết có định hay không. Nay đã thân chứng định thì tâm nghi liền dứt, nên được lìa nghi. Vì thế khi được Sơ thiền thì có đủ đức lìa lỗi. Khi được Sơ thiền thì có đủ tâm lành. Công đức là y cứ năm chi mà nói về công đức pháp lành, nghóa như trước nói. Lại nữa, nếu được Sơ thiền thì đủ các thiện lành tín, giới, xả, định, văn, tuệ, v.v… * Kế nói về Nhị thiền, như kệ nói: Biết hai pháp loạn tâm, Tuy thiện mà phải lìa. Như nước lớn lắng yên Sóng nhỏ cũng chẳng thấy. Thí như người đang ngủ ngon mà có tiếng gọi thì rất bực bội. Nhiếp tâm khi nhập thiền vì giác quán làm não (rối) cho nên phải trừ giác quán được vào một thức xứ, trong tâm thanh tịnh nên định sinh hỷ lạc. Được nhập vào Nhị thiền này, hỷ mạnh tâm rất vui. Phật dùng kệ này nói rộng về tướng Trung gian thiền, Nhị thiền. Nay nói Nhị thiền có ba nghóa: Một là giải thích tên, hai là nói Tu hành, ba là nói Tướng chứng. 1.Giải thích tên gọi, kế Sơ thiền nên nói Nhị thiền đã lìa giác quán ở tâm thứ hai mà được Thắng chi công đức, nên gọi là Nhị thiền, cũng gọi là Tam-muội Vô giác vô quán. Vì sao? Vì được thiền trung gian thì dứt giác, Nhị thiền nội tịnh phát ra. Dứt quán cũng gọi là Thắng mặc nhiên định, vì giác quán nói năng dứt hết nên gọi là mặc nhiên (yên lặng). Nếu được vô lậu chánh tuệ vào định nầy thì gọi là Thánh mặc nhiên. Luận Địa Trì gọi là Hỷ câu thiền. Khi định nầy sinh thì phát sinh chung với Hỷ. Hai là nói Tu tập, có hai: Một là nói phương pháp tu tập, hai là nói chứng thiền Trung gian. Nay nói tu Nhị thiền nếu phàm phu cũng phải trước tu sáu hạnh. Đệ tử Phật nhiều hành giả tám Thánh chủng. Thánh chủng nghóa như trước đã nói. Sáu hạnh tức là trong Sơ thiền tâm thứ sáu yên lặng, nhàm chán xa lìa giác quán quán, Sơ thiền là khổ bậc thấp, biết hai pháp động loạn bức não động tâm nên khổ. Từ giác quán sinh hỷ lạc định, v.v… nên là thô. Pháp giác quán này làm chướng nội tịnh của Nhị thiền nên gọi là Chướng, phan duyên với thắng ở trên. Nhị thiền nội tịnh an ổn hơn Sơ thiền là định còn giác quán động loạn. Diệu là hỷ định, do nội tịnh mà phát ấy là vi diệu. Xuất là nếu được Nhị thiền thì tâm được xuất ly các chướng như giác quán, v.v… Hạnh, đã biết lỗi Sơ thiền chướng Nhị thiền, nay muốn xa lìa thì phải y theo ba thứ phương tiện: Một là chẳng thọ, chẳng đắm cho nên được lìa, hai là quở trách nên được lìa, ba là quán (phân tích) nên được lìa. Thí như người đời cùng làm việc sau thấy có lỗi thì tâm muốn xa lìa cũng dùng ba pháp: Một là bậc thượng nhân lợi trí chẳng cùng nhan sắc, người trước tự đi; Hai là nếu chẳng đi thì phải trách mắng nhiều lần, thì nó liền đi; Ba là nếu chẳng đi thì phải lấy gậy mà đánh thì nó liền đi. Nếu được ba ý này thì sẽ lìa lỗi giác quán của Sơ thiền. Hai là nói tướng pháp thiền trung gian. Hành giả đã thâm tâm quở trách giác quán Sơ thiền, giác quán đã mất, năm chi và mặc nhiên đều mất, vì lìa Sơ thiền mà Nhị thiền chưa sinh thì trong khoảng trung gian đó cũng có pháp định, cũng được gọi là Thiền. Nhưng không bền chắc, không có các chi giúp sức, vì tâm ấy lơi lỏng, nhưng các Sư phần nhiều nói là chuyển tịch, là tâm chuyển Sơ thiền mặc nhiên. Thích Luận gọi là quán tương ưng, định nầy dùng sáu hạnh quán làm thể mà an trụ. Nếu lìa sáu hạnh mà quán thì sinh ra nhiều ưu hối. Tâm ưu hối sinh thì mãi mãi không phát sinh Nhị thiền, cho đến chuyển tịnh cũng mất. Hoặc có khi lại phát Sơ thiền hoặc khi hợp Sơ thiền cũng mất. Do đó không có pháp mà khi đến định này công cao như núi mà thiếu một chút, phải rất thận trọng. Trong kinh gọi là Tam-muội Vô giác hữu quán. Sơ thiền và mặc nhiên đã mất rồi chỉ trụ tâm quán tương ưng mà tu Nhị thiền. Ba là nói Nhị thiền pháp tướng, cũng có sáu ý: Một là nói thiền phát, hai là nói nghóa chi, ba là nói nhân quả thể dụng, bốn là nói cạn sâu, năm là nói tiến lùi, sáu là nói công đức: Một là nói pháp tướng Nhị thiền, hành giả ở trung gian tâm thiền chẳng ưu hối, nhất tâm gia công chuyên tinh chẳng thôi, sau đó tâm ấy an nhiên vắng lặng không phân tán, gọi là Vị đáo địa. Cho nên luận có kệ rằng: Được vào chỗ một thức, tức là định phương tiện Nhị thiền phát. Hỏi: Như luận chỉ nói trước Sơ thiền có Vị đáo địa, nay sao lại nói trước Nhị thiền có Vị đáo địa? Đáp: Luận nói chung nên chỉ nói một, như Xá-lợi-phất trong Tỳ-đàm nói có bốn Vị đáo địa và bốn trung gian thiền. Nay dùng theo nghóa này, lại nói có Vị đáo địa và trung gian trải lâu chẳng mất, chẳng lui sụt, chuyển tâm không ngừng. Sau đó, tâm ấy bỗng rỗng rang sáng suốt, định tâm và hỷ đều phát. Cũng như người từ nhà tối mà ra thấy ánh sáng nhật nguyệt bên ngoài, thì tâm ấy bỗng rỗng rang sáng rỡ, nội tịnh công đức quyến thuộc đều phát đủ như pháp tướng Sơ thiền, chỉ có từ nội tịnh định đều phát là khác. Lại nữa, hỷ lạc Nhị thiền khi phát thì chẳng từ ngoài đến, một tâm lắng yên mừng lớn, tốt đẹp, thanh tịnh hơn Sơ thiền nhiều. Nên luận chép: Vì nội tâm thanh tịnh Định sinh được hỷ lạc Được vào Nhị thiền nầy Hỷ mạnh tâm rất mừng. Thế nào là nội tịnh? Nói xa là vì đối ngoại trần nên nói nội tịnh. Nói gần là vì đối nội cấu nên nói nội tịnh. Vì sao? Như ở Sơ thiền khi được xúc lạc thì thân liền trong sáng, gồm khiến tâm tịnh. Xúc là thân thức tương ưng nên ngoại tịnh. Nay đối Sơ thiền ngoại tịnh nên nói Nhị thiền tâm thức tương ưng là ngoại tịnh, cũng khiến thân tịnh, vì thân tịnh nên gọi là ngoại tịnh. Nội tịnh là tâm tịnh, tịnh từ tâm ra khiến thân cũng tịnh, nên nói nội tịnh. Nay nói đối nội cấu nên nói nội tịnh, là trong Sơ thiền tâm bị giác quán khuấy động nên gọi là nội cấu. Nay được Nhị thiền, trong tâm không có cấu giác quán nên gọi là nội tịnh. Nói định sinh được hỷ lạc, trên ở Sơ thiền nói là ly sinh, nay ở đây nói Định sinh ý nghóa thế nào? Là chánh nói Sơ thiền lìa cõi Dục mà sinh pháp định cõi sắc. Nhị thiền đã không cò nghóa này, chỉ nói định sinh. Hỏi: Nếu thế thì hư không định cũng phải nói là lìa sinh hay sao? Đáp: Chẳng phải thế, trước đã được gọi thì chẳng nên nói lại. Vả lại, hư không lìa cõi sắc chỉ khi phát định mà không có các pháp chi lâm sinh ra, cho nên chẳng nói ly sinh. Hỏi: Sơ thiền cũng có hỷ lạc, khác đây thế nào? Đáp: Đó là từ giác quán sinh hỷ lạc tương ưng với thân thức, còn đây thì hỷ lạc từ nội tâm sinh, lại tương ưng với ý thức, chỉ đây là khác. Hai là nói nghóa chi. Nhị thiền có bốn chi: Một là nội tịnh, hai là hỷ, ba là lạc, bốn là một tâm. Nay nói nghóa chi, lệ có chung riêng. Chi nghóa là chi li, loại như trước nói. Một nói Nội tịnh chi, đã lìa giác quán, y nội tịnh tâm mà phát định, sáng rỡ rõ ràng, không có cấu uế, nên gọi là Nội tịnh chi; Hai là Hỷ chi, định và hỷ cùng phát, hành giả thâm tâm tự mừng, trong tâm sinh mười thứ công đức thiện pháp của hỷ định mà vui vẻ vô lượng, nên gọi Hỷ chi; Ba là Lạc chi, hành giả thọ vui trong hỷ, an nhiên vui vẻ nhẹ nhàng nối tiếp vui sướng, nên gọi là Lạc chi; Bốn là nhất tâm chi, thọ vui tâm dứt đã chẳng duyên với hỷ lạc trong định, lại chẳng duyên với tư tưởng bên ngoài, nhất tâm bất động nên gọi là nhất tâm chi. Hỏi: Kinh Anh Lạc sao được trước nhất tâm mà lập Ỷ chi? Đáp: Cũng là nội tịnh, ở sau hỷ lạc, đặt tên khác mà nói. Vì sao? Vì tên Ỷ là túng, tên túng là Nhậm, đã trong không cấu lụy thì ỷ nhậm tự tại, chẳng lo thanh thích và giác quán lôi kéo, nên gọi là Ỷ. Hỏi: Trọng Kinh Đại Tập, vì sao chỉ lập ba chi mà không có nội tịnh? Đáp: Kinh ấy vì còn lược chẳng nói. Nhị thiền gọi là Hỷ câu định, đã lìa giác quán mà nói hỷ, thì biết có nội tịnh định. Ý chung riêng lập chi so với trước mà biết. Ba là nói thể dụng nhân quả. Như kinh Anh Lạc chép: Nhị thiền, bốn chi làm nhân, thứ năm tâm mặc nhiên là thể của định, trái lại nói nghóa nhân quả thể dụng chẳng khác Sơ thiền. Bốn là nói về cạn sâu, lệ như Sơ thiền, từ Sơ phẩm cho đến thứ lớp phát Thắng phẩm, đây là tướng cạn sâu rất dễ thấy, nay chẳng nói riêng. Năm là nói tiến lùi, lệ như Sơ thiền. Sáu là nói công đức, tức lại có hai: Một là đức lìa lỗi, hai là đức tâm lành. Cho nên kinh Đại Tập chép: Nhị thiền cũng gọi là lìa cũng gọi là đủ. Nói lìa là lìa năm cái, nói đủ là đủ bốn chi. Nếu nói lìa lỗi là lìa lỗi giác quán, đủ là từ nội tịnh hỷ tâm mà đầy đủ sinh sáu pháp lành như tín, kính, tàm, quý, v.v… * Kế nói Tam thiền, nghóa như bài kệ nói: Nhiếp Tâm định bậc nhất Vắng lặng không thấy gì Sợ khổ muốn dứt bỏ Cũng như bỏ giác quán Do ái nên có khổ Mất hỷ thì sinh lo Lìa khổ vui thân an Bỏ niệm và phương tiện. Trong kệ này nói đủ tướng tu chứng của Tam thiền. Nay giải thích Tam thiền cũng có ba: Một là giải thích tên, hai là nói tu tập, ba là nói chứng đắc: Một là giải thích tên gọi Tam thiền: Hành giả ở tâm thứ ba được năm thứ pháp lành chi lâm trong định công đức nên gọi là Tam thiền. Nếu theo kinh Địa Trì thì gọi là Lạc câu thiền. Công đức quyến thuộc định này cùng khắp thân lạc đều phát. Cũng là Tam-muội Vô giác vô quán, thuộc về định Thánh mặc nhiên, chỉ là gọi chung, ở Nhị thiền trước đã được gọi tên, nay chẳng giải thích lại. Hai là nói phương pháp tu tập Tam thiền: Như một hàng rưỡi kệ trước nói: Nhiếp tâm định bậc nhất Vắng lặng không thấy gì Sợ khổ muốn dứt bỏ đi Cũng như bỏ giác quán Do ái nên có khổ Mất hỷ thì sinh lo. Kệ này quở trách rộng tướng hỷ của Nhị thiền. Nay hành giả quán Nhị thiền là lỗi khi muốn được Tam thiền, trong ấy phải đầy đủ phương pháp sáu hạnh. Nay chỉ lược nêu tướng tội lỗi của sáu hạnh Nhị thiền. Định Nhị thiền này tuy từ nội tịnh mà phát nhưng đại hỷ mạnh mẽ, định chẳng bền chắc, giống như trước nói. Chỉ luống tâm niệm, dính mắc chỗ an ổn. Như người biết vợ là La-sát nữ thì liền bỏ mà không mê đắm, nhất tâm chuyên nhớ nghó công đức Tam thiền. Khi ấy, liền bỏ đại hỷ và mặc nhiên phải như trên mà dùng ba pháp để xua đuổi. Ba pháp là: chẳng thọ, 2.quở trách, 3.quán tâm xem xét. Đã chẳng thọ hỷ, thì hỷ và mặc nhiên tự vui. Tam thiền chưa sinh trung gian có định, cũng nói như thế, chỉ cạn sâu có khác. Hành giả lúc ấy phải cẩn thận chớ ưu hối. Lỗi đồng như trước nói. Ba là nói tướng pháp Tam thiền, cũng giống như trước, có sáu ý: Một là nói tướng pháp Tam thiền, hai là nói nghóa chi, ba là nói nhân quả, bốn là nói cạn sâu, năm là nói tiến lùi, sáu là nói công đức. Nói tướng pháp Tam thiền: Gia công chẳng ngừng, nhất tâm tu tập, tâm ấy rỗng rang an tịnh. Khi ấy lạc định chưa phát mà chẳng cố sức gia công, tâm tự lắng yên tức là Vị đáo địa của Tam thiền, sau đó tâm ấy mất hẳn, vào định chẳng nương trong ngoài, cùng lạc đều phát. Đang khi lạc phát cũng có công đức quyến thuộc đủ như trước nói: Chỉ không có hỷ động mạnh là khác mà vui nhẹ nhàng từ trong tâm phát ra, tâm lạc tốt đẹp chẳng thể dụ được. Lạc định mới sinh chưa liền khắp thân, ở trung gian có ba lỗi: Một là Lạc định đã cạn, tâm ấy đắm chìm, ít có dụng trí tuệ; Hai là tâm lạc định bằng với tuệ lực lâu dài tốt đẹp. Thường sinh tham đắm, tâm ấy say mê. Cho nên kinh nói: Lạc ấy bậc Thánh được liền bỏ, người khác bỏ thì khó. Tam thiền sắp phát có ba lỗi nầy thì lạc định chẳng được thêm lớn khắp thân. Hành giả phải khéo điều hòa thích hợp. Điều hòa thích hợp thế nào? Phải dùng ba pháp: Một là nếu tâm đắm chìm thì phải dùng các pháp niệm, tinh tấn, tuệ, v.v… mà sách tấn; Hai là nếu tâm phát mạnh thì phải nhớ (nghó) định pháp Tam-muội mà thu nhiếp; Ba là nếu tâm mê say, phải nhớ (nghó) hậu lạc và các pháp môn thắng diệu để tự tỉnh ngộ chẳng để tâm mê đắm. Nếu hành giả khéo thực hành ba pháp điều thích lạc định, thì phải biết lạc pháp hóa độ thêm lớn đầy khắp thân phần. Cho nên kinh nói: Tam thiền thọ vui khắp thân. Hỏi: Nếu vui đầy khắp thân, thân đủ năm căn thì trong năm căn đều có vui chăng? Đáp: Khi lạc khắp thân thì khắp các lỗ chân lông đều vui vẻ. Khi ấy năm tình tuy không ngoài trần phát thức mà lạc pháp bên trong phát ra đầy khắp các căn. Trong năm cân đều vui sướng. Chỉ không đối ngoại trần thì chẳng phát ra năm thức. Tình nương vào thân, thân lạc đã đầy, tình được chung vui sướng, tương ưng với ý thức. Vì trong thức đã đầy thì khắp thân mà thọ. Do đó Phật nói lạc Tam thiền khắp thân mà thọ. Lại nữa, lạc Sơ thiền từ bên ngoài mà phát, ngoài thức tương ưng, ý thức chẳng tương ưng, trong lạc chẳng đầy đủ. Còn lạc của Nhị thiền tuy từ trong phát ra nhưng từ hỷ mà sinh, hỷ căn tương ưng, lạc căn chẳng tương ưng. Lạc y vào hỷ, hỷ còn chẳng khắp huống chi là lạc ư? Nay lạc của Tam thiền từ trong phát, vì lạc làm chính, trong không có hỷ động, niệm tuệ nhân duyên khiến lạc thêm lớn khắp thân, trong ngoài đầy đủ an vui sung sướng. Là lạc cao cấp nhất của thế gian. Phật nói đó là quả báo của hạnh từ khắp tịnh địa. Hỏi: Phật nói Tam thiền có hai lạc: Một là thọ lạc, hai là vui sướng thì y cứ vào nghóa nào mà nói? Đáp: Thật thế lạc của vui sướng là lạc định khi mới phát chưa khắp thân, còn lạc của thọ lạc là lạc đã thêm lớn khắp thân mà thọ. Ví như suối trong đá từ trong phun ra chảy đầy ra ngoài đầy khắp suối khe, vui của Tam thiền cũng giống như thế. Nói Nghóa chi, có hai ý: Một là nói nghóa chi, hai là nói trước sau khác nhau: Nay nói nghóa chi, Tam thiền có năm chi: Một là xả, hai là niệm, ba là trí, bốn là lạc, năm là nhất tâm. Một là xả chi: Khi được Tam thiền lạc định sinh thì xả bỏ tâm hỷ chẳng hối tiếc, cũng được gọi là bỏ lìa ba lỗi; Hai là niệm chi: Đã được lạc Tam thiền thì dụng niệm ba pháp giữ gìn khiến lạc thêm lớn; Ba là trí chi, khéo léo ba pháp lìa ba lỗi; Bốn là lạc chi, là vui sướng thọ lạc khắp thân; Năm là nhất tâm, tâm thọ vui dứt, nhất tâm vắng lặng tướng mạo đều nói như trong pháp tướng Nhị thiền. Ở trong chi nầy y cứ nghóa tự có bốn ý: 1. ba là phương tiện chi; hai chứng chi, dùng ba chi niệm - tuệ - trí mà điều thích lạc định khiến mau được thêm lớn khắp thân, nên nói là phương tiện chi thọ thân, hai chi lạc và nhất tâm làm chứng, hai thứ này phát đồng thời. Ấy là chánh chủ của Tam thiền; 2.bốn là tự địa lập chi. Một hướng về hạ địa mà lập tuệ - niệm - lạc, nhất tâm y cứ tự địa mà lập, xả chi y cứ xả hạ địa hỷ chẳng hối mà lập. Ba là năm chi thường được nói là làm phương tiện chi. Ba thứ như trên nói. Hai thứ dưới vì sao cũng được gọi là Phương tiện? Vì chánh là tu lạc thêm lớn làm cảm vời lạc sau, nhất tâm cũng thế. Lại nhìn thứ sáu mặc nhiên định thể năm chi lệ mà được tên, do lệ mà được gọi là phương tiện. Bốn là năm chi thường được nói là chứng chi. Khi được chứng lạc định tự nhiên sinh niệm xả ái. Lạc định như mẹ bảo vệ con chẳng do người khuyên, đẳng trí tự phát, suy lường điều thích, năm chi đều thuộc về chứng. Hỏi: Nếu thế trước nói đều là phương tiện, sau nói là chứng đắc, ý này há chẳng phải là trái nhau lắm ư? Đáp: Đều có nghóa ấy nhưng tìm kỹ sẽ tự thấy. Hai là nói chi trước sau khác nhau: Các kinh và luận đều khác lập thứ lớp như Luận Thành Thật, nói thứ lớp năm chi là: Xả, niệm, trí, thọ lạc, nhất tâm. Còn A-tỳ-đàm nói thứ lớp là: Tuệ, niệm, lạc, xả, nhất tâm, Đại Tập thì nói thứ lớp là: Niệm, xả, tuệ, an, định, kinh Anh Lạc nói thứ lớp là: Lạc, hệ, niệm, trí, nhất tâm, Thích Luận nói thứ lớp có văn không nhất định hoặc giống với Luận Thành Thật, hoặc giống với Anh Lạc. Hỏi: Sao riêng đây nói thứ lớp chỉ không nhất định còn các thiền khác không như thế? Đáp: Sơ thiền, v.v… chỉ có một lạc. Nay Tam thiền lại có hai thứ lạc do hai lạc này trước sau khác nhau. Trung gian lẫn nhau chẳng định. Cho nên thứ lớp các kinh đều lập chẳng đồng mà đều có ý phải có nguyên do. Nói thể dụng: Như kinh Anh Lạc chép: Năm chi làm nhân, tâm thứ sáu mặc nhiên làm thể. Nói cạn sâu Nói tiến lùi đều giải thích như trước. Nói công đức: Có đủ lìa lỗi và hai đức thiện tâm. Như kinh Đại Tập chép: Nói lìa là lìa năm cái, nói đủ là đủ năm chi. Y cứ vào riêng thì chỉ có Tam thiền riêng có đức lìa lỗi hỷ, còn các nghóa khác thì như trên có thể biết. * Kế là nói Tứ thiền. Có kệ kinh nói: Bậc Thánh được hay bỏ Người khác bỏ rất khó Nếu hay biết nạn lạc Thấy bất động, đại an Ưu hỷ trước đã dứt Khổ vui nay cũng dứt Xả niệm tâm thanh tịnh, Là vào Đệ Tứ thiền Lạc ở trong Tam thiền Vô thường, động nên bỏ Trong cõi Dục dứt ưu Sơ, Nhị thiền dứt khổ Cho nên Phật, Thế tôn Nói trong Đệ Tứ thiền Trước đã dứt lo khổ Nay thì trừ khổ vui. Nay bốn hàng kệ nầy nói đủ tướng tu chứng của Tứ thiền. Nay giải thích Tứ thiền, có ba ý: Một là giải thích tên, hai là nói phương pháp tu tập, ba là nói phát tướng. Giải thích tên gọi Tứ thiền: Thiền gọi là Chi lâm, Tứ thiền nắm bốn chi thành định, ở trong tâm thứ tư mà chứng đắc thì gọi là Tứ thiền, cũng là Tam-muội Vô giác vô quán thuộc về Thánh mặc nhiên, cũng gọi là định Bất động. Kinh Địa Trì nói tên là Xả câu thiền. Định này khi phát thì thể không khổ vui, phát chung với vi diệu xả thọ, vì định nầy tương ưng với xả căn nên gọi là câu xả thiền. Nói về phương pháp tu tập, như một hàng kệ trên nói: Lạc ấy bậc Thánh được liền xả, người khác bỏ rất khó, nếu hay biết nạn của lạc, thấy chẳng động, đại an Phật dùng kệ nầy nói về phương tiện tu Tứ thiền. Vì sao? Vì hành giả muốn được Tứ thiền thì phải rõ tội lỗi của Tam thiền. Thấy lỗi thế nào? Một, muốn được lạc thì nhất tâm siêng cầu rất khổ sở, đã được rồi thì lại giữ gìn mê đắm đó cũng là khổ, một khi mất đi thì lại càng khổ, cho nên kinh nói: Trong Tam thiền, lạc vô thường, động cho nên khổ. Lại lạc nầy che niệm khiến chẳng thanh tịnh. Hành giả đã thấy rõ khổ lớn của lạc Tam thiền thì phải nhất tâm chán lìa mà cầu định Tứ thiền chẳng động. Khi ấy, ở bên Đệ Tam thiền phải tu phương pháp sáu hạnh, lệ như trước nói. Cũng phải dùng ba pháp mà dứt trừ: Một là chẳng mê đắm (đắm trước), hai là quở trách, ba là quán sát phân tích. Ba pháp này tức là Tam thiền mất đi mà Tứ thiền chưa đến, ắt có định phát trước, cũng quán tương ưng có đồng tướng mạo, đều như trên nói khác nhau. Lỗi ưu hỷ như trước nói. Giải thích tướng Tứ thiền phát sinh: Đây như đủ ba hàng kệ trên nói chứng, lệ trước có sáu ý: Một là chánh nói Tứ thiền, hai là nói nghóa chi, ba là nói thể dụng, bốn là cạn sâu, năm là nói tiến lùi, sáu là nói về công đức. Nói về tướng Tứ thiền phát sinh: Hành giả nhân thiền Trung gian mà tu hành không ngừng thì được vào Vị đáo địa, tâm không động tán, tức là phương tiện định Tứ thiền. Sau đó tâm ấy rỗng rang khai phát, định tâm an ổn, thở ra vào mà dứt. Khi định phát thì sinh chung với xả, không khổ không vui, sáng suốt vắng lặng. Pháp lành quyến thuộc giống như trước nói, nhưng không có sự dụng hỷ lạc động chuyển là khác. Khi ấy, tâm như gương sáng bất động cũng như nước yên không sóng, dứt hết loạn tưởng, chánh niệm bền chắc cũng như hư không, đó gọi là thế gian chân thật thiền định, không có các cấu nhiễm. Hành giả trụ trong định ấy, tâm chẳng nương thiện cũng chẳng nương ác, không có chỗ nương cậy nào, vô hình vô chất cũng không có các sắc tướng mà bên trong thành tựu tịnh sắc. Làm sao biết được nếu không có tịnh sắc căn bản thì chẳng phải ở trong định, khi đối nhân duyên phát các thứ sắc như chung về bốn tâm vô lượng, thắng xứ, Nhất thiết xứ biến hóa các sắc đều nương vào Tứ thiền. Nếu vì chẳng thấy các sắc mà bảo là không sắc, thì phải như Không xứ định ba thứ sắc diệt, tất cả sắc pháp đều chẳng được hiện. Nay tất cả sắc pháp được tự tại hiện ra mà đối với định pháp không bị tổn giảm, thì phải biết đây là chân sắc định. Ví như gương sáng thể là tịnh sắc nên tùy đối với các sắc tất cả đều được hiện. Nếu không có tịnh sắc làm gốc thì chẳng hề ở hư không mà hiện ra các sắc tượng. Lại nữa, Tứ thiền chủng trí định nhất tâm, nên niệm thường thanh tịnh cũng gọi là định Bất động, cũng gọi là trí tuệ Bất động. Ở trong thiền nầy nếu muốn chuyển duyên học tất cả sự thì tùy ý thành tựu tất cả thần thông biến hóa, nói pháp như mưa rào đều từ định này mà ra. Như kinh nói: Phật ở Tứ thiền làm căn bản. Nói nghóa chi, Tứ thiền có bốn chi: Một là chi chẳng khổ chẳng vui, hai là chi xả, ba là chi niệm thanh tịnh, bốn là chi nhất tâm. Một, chi chẳng khổ chẳng vui là khi thiền này mới phát thì cùng xả thọ đều phát xả thọ tâm số chẳng tương ưng với khổ vui nên gọi là chi chẳng khổ chẳng vui; Hai là xả chi, đã được định chẳng khổ chẳng vui thì xả thắng lạc bậc hạ, chẳng sinh nhàm chán hối hận. Lại nữa, chân định vì phát chưa được thành tựu. Nếu tâm tiến lên thắng định thì liền tùy niệm mà động chuyển, chẳng gọi là định Vô động. Cho nên, định phát tâm chẳng mê đắm thì tự có thể lìa bỏ nên gọi là xả chi. Thiền định rõ ràng đẳng trí soi rõ nên gọi là niệm thanh tịnh chi. Định tâm vắng lặng tuy đối với các duyên mà tâm không động niệm Tỳ-già-la Nhất tâm chi. Nói thứ lớp nghóa chi thì như thế. Nếu nói chung thì một chi đầu liền đủ bốn chi. Hỏi: Vì sao kinh Đại Tập nói chẳng khổ chẳng vui là chi thứ ba, trong đây sao nói là chi đầu? Đáp: Trước sau đều có nguyên do. Nay y cứ phát mà nói, y cứ vào thành tựu mà lập. Lệ như Tam thiền lập lạc chi trước sau bất định. Nói về thể dụng như kinh Anh Lạc nói: Tứ thiền bốn chi là dụng, mặc nhiên thứ năm là thể. Nói cạn sâu. Nói tiến lùi, lệ theo trước mà biết. Nói công đức, thì bốn thiền cũng đủ lìa lỗi và hai thứ công đức thiện tâm. Như Kinh Đại Tập chép: Lìa năm cái và đủ bốn chi. Mà riêng Tứ thiền có lìa lỗi ưu hỷ, khổ vui và thiện tâm, kính tin, hổ thẹn, v.v… và sáu thiện phá, đều từ Bất động định Tứ thiền mà phát, công đức gốc lành rất sâu dày hơn ở trên gấp bội. Lệ theo trước rất dễ hiểu. Hỏi: Nay nói hành đạo Bồ-tát phải nói thật tướng các pháp sâu xa không định, vì sao lại nói Tứ thiền thế gian là pháp nói suông, sinh tử giả dối. Đáp: Chẳng phải thế, như trong Thích Luận lập hỏi đáp rằng: Trong Bát-nhã Ba-la-mật luận nghóa chỉ nói các pháp tướng không, vì sao đối với Bồ-tát pháp không mà có thể sinh khởi thiền định? Đáp: Bồ-tát biết các năm dục và năm cái đều từ nhân duyên sinh, không có tự tánh, không thật có, xả đi thì rất dễ. Còn chúng sinh nhân duyên điên đảo mê đắm, dục nầy, tham chút lạc xấu mà lìa bỏ định lạc thâm diệu của thiền. Bồ-tát vì chúng sinh ấy mà khởi tâm từ bi tu hành thiền định, buộc tâm trong duyên lìa năm dục, trừ năm cái, vào hỷ Sơ thiền, diệt giác quán nhiếp tâm thâm nhập vào nội thanh tịnh mà được vi diệu hỷ. Vào Đệ nhị thiền vì hỷ sâu đã tán, lìa tất cả hỷ mà được lại đầy khắp. Vào Đệ tam thiền, lìa tất cả khổ vui, tất cả ưu hỷ và hơi thở ra vào tự dứt, dùng thanh tịnh vi diệu xả mà tự trang nghiêm, vào Đệ tứ thiền. Bồ-tát ấy tuy biết các pháp không, vô tướng, nhưng vì chúng sinh không biết nên dùng tướng thiền giáo hóa chúng sinh. Nếu có các pháp không thì chẳng gọi là không, cũng chẳng phải bỏ năm dục mà được thiền không xả không đắc. Nay các pháp không tướng cũng chẳng thật có, bèn hỏi rằng: Nếu các pháp không làm sao có thể được thiền. Lại nữa, nếu Bồ-tát chẳng vì chấp tướng ái trước, làm thiền như người uống thuốc là muốn trừ bệnh chẳng vì làm đẹp, vì giới thanh tịnh trí tuệ thành tựu mà Bồ-tát hành thiền. Trong mỗi thiền thực hành đại từ quán không, ở thiền không có chỗ nương nhờ. Vì năm dục thô cuống điên đảo thì dùng tế mầu nhiệm hư không mà trị. Ví như độc trị các độc. Lại Thích Luận có nói: Ví như vua thấy con mình từ núi cao rơi xuống sợ nhất định phải chết bèn dùng vật mềm mà hứng, chẳng để thân mạng tổn thương. Bồ-tát cũng như thế. Thấy chúng sinh xa lìa Bát-nhã điên đảo đọa lạc nên nói không Tứ thiền để tiếp dẫn chúng sinh, khiến chẳng mất pháp thân tuệ mạng. Cho nên nay luận hành đạo Bồ-tát, lược nói Tứ thiền ở nghóa không lỗi. <篇> THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN <卷>QUYỂN 6 <詞>CHƯƠNG VII. GIẢI THÍCH TU CHỨNG THIỀN BA LA MẬT (Tiếp Theo) Giải thích bốn tâm vô lượng, có năm: 1. Nói thứ lớp; 2. Giải thích tên gọi; 3. Nói nơi chốn; 4. Nói tu chứng; 5. Nói công đức. Giải thích bốn tâm vô lượng, sở dó nói sau bốn thiền là nói hành giả có hai thứ: Một là hành giả thế gian, hai là hành giả xuất thế gian. Ở hành giả phàm phu có ba: Một là ưa cao quý tự tại cầu làm Phạm Thiên vương, cho nên tuy được bốn thiền mà tiến tu bốn tâm vô lượng. Vì sao? Vì bốn vô tướng chỉ là cõi sắc tự hành đầy đủ mà không có đức lợi ích người khác, nó rất cạn mỏng, nếu sinh vào trời ấy thì không được làm vua. Nếu tu bốn tâm vô lượng duyên với chúng sinh mười phương mà vào Tam-muội, vì từ bi nhiếp khắp đại tâm lợi tha, cho nên công đức rất nhiều. Nếu sinh vào cõi trời ấy sẽ làm vua Phạm Thiên vương rất tự tại. Cho nên nếu được bốn thiền cũng phải tu tập bốn tâm vô lượng; Hai là người thực hành hạnh ngoại đạo, tuy được bốn thiền mà thấy có nạn tâm thức muốn cầu Niết-bàn vô tưởng vắng lặng mà không biết phá sắc, dùng ngay tà trí diệt tâm mà vào định vô tưởng; Ba là hoặc có phàm phu, người ngoại đạo đều chán nạn sắc cũng như lao ngục, nhất tâm phá sắc, tu Bốn không định thì phàm phu, ngoại đạo ấy đều được định này chí lạc (ưa thích) chẳng đồng đều tùy chỗ quen ưa thích khác nhau. Nếu đệ tử Phật thì có hai hạng người. Đó là Tiểu thừa và Đại thừa. Hai người nầy khi được bốn thiền tự điều tâm thường trụ phước đức dễ được Niết-bàn. Còn người Đại thừa muốn độ chúng sinh thì phải dùng đại bi làm gốc. Kế bốn thiền là nói tu bốn tâm vô lượng. Hỏi: Như trong Đại thừa giả thiết hỏi rằng: Trong bốn thiền có bốn vô lượng và tất cả đều vào các định, nay vì sao nói riêng? Đáp rằng: Tuy trong bốn thiền đều có pháp ấy, nếu chẳng nói riêng thì người chẳng biết công đức ấy. Ví như trong túi có báu nếu chẳng chỉ thì người không biết. Nếu muốn chỉ phước đức lớn thì nói bốn tâm vô lượng. Chán sợ sắc như lao ngục thì nói bốn định Vô Sắc. Đối với duyên chẳng được tự tại mà quán sở duyên thì vì nói tám thắng xứ. Nếu có ngăn đạo chẳng được thông suốt thì nói tám Bối xả. Tâm chẳng điều nhu chẳng thể từ thiền mà khởi thứ lớp vào thiền thì vì nói chín định thứ lớp. Chẳng thể được tất cả duyên chiếu khắp tùy ý thì vì nói mười Nhất thiết xứ. Hỏi: Nếu vì luận nói nay được bốn thiền thì cũng phải được các thiền định như bốn vô lượng, v.v… chăng? Đáp: Ở đây nói theo nghóa: Nếu trong Tứ thiền vô lậu mà nói có bốn tâm vô lượng thì đối với nghóa không lỗi. Vì sao? Vì trong thiền vô lậu đủ các pháp môn quán hạnh, nếu hữu lậu căn bản thiền thì người nói phải biết trong sữa mà nói lạc. Nói tên bốn vô lượng: Một là tâm từ vô lượng, từ là ái niệm chúng sinh thường tìm việc vui để làm lợi ích; hai là tâm bi vô lượng, bi là thương xót chúng sinh phải chịu các thứ thân khổ trong năm đường; ba là tâm hỷ vô lượng, hỷ là muốn cho chúng sinh từ được vui mừng; bốn là tâm xả vô lượng, là xả bỏ ba thứ tâm, chỉ nghó nhớ chúng sinh chẳng yêu chẳng ghét. Duyên bốn pháp này nên nói bốn tâm. Khắp mười phương Bồ-đề không ngăn cách nên gọi là vô lượng tâm. Tu tâm từ để trừ sân giác cho chúng sinh. Tu tâm bi để trừ não giác cho chúng sinh. Tu tâm hỷ để trừ chẳng vui vẻ cho chúng sinh. Tu tâm xả để trừ yêu ghét cho chúng sinh. Bốn định nầy thứ lớp cấp bực ở sau sẽ giải thích. Nói nơi chốn tu, có hai: Một là nói chỗ chung, hai là nói chỗ riêng, một nói chỗ chung là bốn thiền trung gian đều được tu bốn tâm vô lượng. Như trong Thích Luận nói: Từ ấy ở tại cõi sắc căn bản thiền, cũng ở tại thiền trung gian cõi vô sắc. Vô Sắc duyên với chúng sinh là bất tiện Vị đáo địa cõi Dục định cạn chẳng nhậm tu các công đức. Hỏi: Người Vị đáo địa cõi Dục lợi căn hay dùng định nầy mà phát chân giải kiến tư, vì sao chẳng được tu bốn tâm vô lượng. Đáp: Duyên lý tuệ lợi được phát như thần thông vô lượng v.v… là sự pháp, phải (nhờ) định sâu, mà Vị đáo cõi Dục không phải hoàn toàn chẳng được tu vô tâm lượng, chỉ phát được tức thuộc Sơ thiền, cho nên chẳng nói. Như năm chi Sơ thiền phân biệt hai chi giác quán. Cõi Dục thì sinh bi dễ, hỷ chi thì sinh hỷ dễ, lạc chi thì sinh từ dễ Nhất tâm chi thì sinh xả dễ, nên nói là chỗ tu chứng. Hỏi: Tứ thiền và trung gian không có hỷ lạc, vì sao dùng hỷ lạc mà ban cho chúng sinh? Đáp: Trong tuy không có duyên hỷ lạc nhưng ngoài lấy tướng hỷ lạc của người mà bình đẳng cho vui. Ví như người lìa dục tự chẳng cần năm trần, cũng chẳng cùng trần dục giao nhiễm mà làm phước đức lớn, cũng lấy năm dục thắng diệu cấp thí cho người mà đối với tự tâm thì không bị ô nhiễm. Đối với bốn thiền cho người khác hỷ lạc cũng giống như thế. Vị đáo trung gian loại đó có thể hiểu; Hai là nói chỗ tu riêng. Như Sơ thiền lấy giác quán làm chính, biết rõ tướng khổ não của chúng sinh cõi Dục. Chỗ nầy tu bi thì dễ. Trong Nhị thừa có đại hỷ, chỗ này tu hỷ vô lượng thì dễ. Trong Tam thiền có lạc khắp thân, thì chỗ này tu từ rất dễ. Tứ thiền diệu xả trang nghiêm, thì chỗ này tu xả rất dễ. Đây thì tùy địa có chỗ tiện của nó. Hỏi: Nếu thế vì sao Phật nói trụ ở Tứ thiền tu bốn vô lượng thì dễ được? Đáp: Thiền thứ tư gọi là Niệm Thanh Tịnh được định Bất động. Ở trong đây tu tất cả công đức Phật pháp dễ thành nên nói như thế. Hỏi: Trên nói Sơ thiền làm bi, ở đây thì hoại thứ lớp. Như Từ ở trước, thì Sơ thiền phải tu Từ, Nhị thiền phải tu Bi, Tam thiền phải tu Hỷ, Tứ thiền phải tu Xả. Vì sao chẳng như thế? Đáp: Theo nghóa liền chẳng theo thứ lớp. Ví như mười đệ tử Phật đều là bậc nhất. Nếu hỏi người nào trí tuệ bậc nhất thì phải đáp là Thân Tử. Nếu lấy hạ lạp lớn mà đáp là bậc nhất thì nghóa rất đúng. Nói tu chứng, y cứ bốn tâm vô lượng, tức có bốn: Một là Tu từ chứng Từ, hai là tu Bi chứng Bi, ba là tu Hỷ chứng Hỷ, bốn là tu Xả chứng Xả. Tu Từ chứng Từ, có hai: Một là chánh nói phương pháp tu tập. Ở đây như Phật nhiều chỗ trong kinh dạy: Có Tỳ-kheo dùng từ tương ưng, tâm không tức giận oán não, rộng lớn vô lượng khéo tu tập. Thế nào gọi là dùng từ tương ưng tâm? Như Thích Luận chép: Như khi nghó chúng sinh mười phương khiến được vui thì trong pháp tâm sở sinh pháp gọi là Từ. Thiện là tương ưng. Muốn vào thiền định trước phải thệ nguyện rằng tất cả chúng sinh đều được vui sướng, ta ở trong định đều được thấy. Thọ, tưởng, hành, thức đó là pháp tâm sở, các thân nghiệp, khẩu nghiệp và tâm không tương ưng các hạnh, là pháp hòa hợp đều gọi là Từ, pháp đó dùng Từ làm chánh nên được gọi là Từ. Ví như tất cả pháp tâm sở đều là nhân duyên đời sau, mà chỉ được tên Từ. Đối với tác nghiệp thì tư rất có sức. Đó gọi là tướng từ tương ưng. Lại nữa, khi người mới tu dụng niệm thanh tịnh tâm, lấy tướng người ngoài thân ai được vui. Nếu cha mẹ, anh em hễ lấy một người yêu nhất mà một tâm duyên với. Nếu có niệm lạ thì nhiếp tâm trở lại. Khiến ở tâm tưởng thấy rất rõ ràng tướng được vui của người thân, trong tâm luôn nhớ nghó thương yêu. Cho đến nghó người oán thù với mình ở trong năm đường khác cũng giống như thế (tức nghó người thù của mình được vui như người thân). Lại nữa, khi hành giả như thế nếu thấy các thứ cảnh giới thiện ác và phát các việc trong thiền đều chẳng được theo, chỉ nhất tâm mà quán tướng người thân mình được vui, tâm tâm nối nhau. Đó là lược nói phương pháp tu từ. Hai là nói từ định phát tướng, hành giả thiền định trí tuệ phước đức năng lực gốc lành rất thanh tịnh. Như thế khi một tâm từ niệm chúng sinh thì Tam-muội liền phát. Vì năng lực Tam-muội ở trong tâm định mà thấy người thân đáng yêu được vui, thân tâm vui vẻ nhan sắc vui hòa rất rõ ràng. Thấy người thân được vui như thế rồi kế thấy người thường (không thân, không oán) cho đến kẻ thù cũng được vui như thế. Đối với tâm định mà thấy một người, kế thấy mười người, ngàn người, muôn ức người, một hàng xóm, một cõi nước, một cõi Diêm-phù-đề, bốn thiên hạ cho đến các thế giới ở mười phương tất cả chúng sinh đều được vui. Hành giả ở trong định thấy người ngoài được vui mà nội định chuyển sâu, tương ưng với ngoài, rỗng rang bất động. Ấy gọi là tâm từ tương ưng, tức là tương ưng các pháp thọ tưởng hành thức, Ấm nhập giới, v.v… như trước nói. Hỏi: Từ tương ưng định khi thấy chúng sinh là sẽ như trên nói, từ một đến mười dần dần thấy hay cùng lúc đều thấy? Đáp: Hành giả căn cơ có tiệm đốn, chẳng nhất định một thứ tâm từ tương ưng. Từ gọi là pháp tâm sở trừ được trong tâm rối đục, đó là phiền não sân hận san tham. Ví như tánh của hạt ngọc lóng nước để vào nước đục thì nước đục liền trong. Không sân hận, không oán não, là đối với chúng sinh hoặc có nhân duyên, hoặc không có nhân duyên, mới sinh gọi là sân. Sân tăng nhiều trù tính mê đắm trong tâm mà chưa quyết rõ thì gọi là hận, cũng gọi là Oán. Nếu tâm đã định mà không kiêng sợ, muốn tổn hại người khác, đó là não. Dùng năng lực từ tâm mà trừ bỏ ba thứ nầy, đó gọi là không sân hận, không oán não. Không sân hận oán não là khen ngợi từ tâm công đức rộng lớn vô lượng. Nhất tâm phân biệt có hai tên. Như từ tướng duyên thấy một phương là rộng, bốn phương là lớn, duyên bốn hướng và trên dưới là vô lượng. Lại nữa, phá tâm sân hận gọi là rộng, phá tâm oán gọi là lớn, phá tâm não gọi là Vô lượng. Lại Từ duyên với người thân gọi là rộng, từ duyên với người bình thường gọi là lớn, từ duyên với kẻ thù thì được nhiều phước, nên gọi là Vô lượng. Lại vì duyên hẹp nên nói rộng, vì duyên nhỏ nên nói lớn, vì duyên có hạn lượng nên nói vô lượng. Khéo tu là tâm Từ bền chắc, mới được Từ chẳng gọi là khéo tu. Chẳng phải chỉ thương xót chúng sinh, chẳng phải chỉ ưa thích chúng sinh, chẳng phải chỉ lợi ích một chúng sinh, chẳng phải chỉ chúng sinh một phương mà gọi là người khéo tu. Đối với người thân bậc thượng, người thân bậc trung, người thân bậc hạ, người thường bậc thượng, người thường bậc trung, người thường bậc hạ, kẻ oán bậc hạ, kẻ oán bậc trung, kẻ oán bậc thượng là chín hạng người thương ghét bằng nhau chẳng khác. Cho đến thương xót chúng sinh trong năm đường, dùng một tâm từ mà nhìn như cha mẹ, như anh chị, như đệ tử, con cháu luôn cầu cho họ việc tốt, muốn cho họ lợi ích an vui. Tâm như thế đầy khắp mười phương, đó gọi là khéo tu. Lại nữa, nếu chỉ cho chúng sinh vui cõi Dục thì không gọi là khéo tu, cho vui Sơ thiền cũng không gọi là khéo tu, cho vui Nhị thiền cũng không gọi là khéo tu, nếu đầy đủ cho vui cõi Dục cho đến vui Tam thiền, Tứ thiền đó gọi là khéo tu. Từ tâm như thế gọi là chúng sinh duyên hoặc ở chỗ làm của người phàm phu, hoặc người có học chưa được lậu tận, cũng thực hành bi này mà điều tâm được phước đức lớn, nhập vào vô lậu. Pháp duyên là các A-la-hán lậu tận, Bích-chi-phật và Chư Phật, là các bậc Thánh đã bỏ ngã tướng, dứt tướng một và khác, cho nên chỉ quán từ nhân duyên tiếp nối sinh ra. Dùng từ thương xót chúng sinh, từ hòa hợp nhân duyên mà tiếp nối chỉ là không, năm Ấm tức là chúng sinh, niệm là năm Ấm, từ niệm này chúng sinh chẳng biết là pháp không định, chúng sinh thường nhất tâm muốn được vui. Bậc Thánh thương xót nên khiến tùy ý được vui là pháp thế tục nên gọi là pháp duyên. Vô duyên là từ chỉ Chư Phật có riêng. Vì sao? Vì Chư Phật chẳng trụ vào hữu vi, vô vi, chẳng nương trên dưới, quá khứ, vị lai, hiện tại, biết các nhân duyên chẳng thật, điên đảo lừa dối, và tâm không duyên đến. Phật vì chúng sinh chẳng biết thật tướng các pháp qua lại năm đường, tâm đắm trước các pháp mà phân biệt lấy bỏ, thật tướng trí tuệ của các pháp chúng sinh đều được, ấy là vô duyên. Thí như cứu giúp người nghèo hoặc cho tiền của, vàng bạc, châu báu, hoặc cho thần châu như ý. Chúng sinh duyên pháp duyên theo vô duyên cũng giống như thế. Nghóa này như trong luận Đại thừa đã nói rộng. Lại nữa, chúng sinh duyên từ chỉ thấy chịu quả báo tướng vui, pháp duyên từ thì thấy thọ các pháp môn và tướng Niết-bàn. Vô duyên từ thì thấy tất cả đồng là Phật tánh thường lạc bình đẳng. Lại nữa, chúng sinh duyên từ thì ở trong thiền căn bản, pháp duyên từ thì phần nhiều đối với đặc thắng, thông minh, bối xả, v.v… các thiền vô lậu, còn vô duyên từ phần nhiều là ở Thủ-lăng-nghiêm, Tam-muội Pháp Hoa và chín thứ thiền. Giải thích tu chứng bi, có hai: Một là chánh nói phương pháp tu bi. Như Phật nói: Nếu có Tỳ-kheo dùng bi tương ưng với tâm, không sân hận oán não, rộng lớn vô lượng khéo tu bi tương ưng tâm, là hành giả ở trong định từ thường nghó muốn ban cho vui chúng sinh, xuất định từ cũng còn thấy chúng sinh chịu các thứ thân khổ, tâm khổ, mà tâm thương xót nghó rằng: Chúng sinh đáng thương chớ để cho phải chịu các thứ thân khổ, tâm khổ. Lại nghó rằng: nay ta không mắt, trong năm đường các người thân, người thường và kẻ thù đều chịu các khổ thân tâm mà ta chẳng thấy chẳng biết, đêm dài biếng lười chẳng sinh tâm cứu khổ. Nghó xong liền phát nguyện rằng: Nếu có chúng sinh chịu các khổ, ta ở trong định đều nguyện được thấy mà càng siêng cứu hộ. Nguyện xong liền nhập vào thiền định, dùng định niệm mà tịnh tâm, trước lấy tướng một người thân đáng yêu chịu khổ, buộc tâm mà duyên, nếu có niệm khác liền nhiếp tâm khiến trở lại. Khiến ở tâm tưởng thấy rất rõ ràng. Tâm thương xót vô cực như thế cho đến trong oán ghét, một phương cho đến mười pháp, một đường cho đến năm đường cũng giống như thế. Ấy là nói lược phương pháp tu Bi. Hai là nói bi định phát tướng, hành giả phước đức trí tuệ gốc lành thanh tịnh, khi thực hành quán ấy thì Tam-muội liền phát. Liền ở trong định mà thấy tướng người thân chịu khổ rất rõ ràng. Tâm thương xót muốn cứu hộ. Đã thấy người thân chịu khổ sinh tâm thương xót rồi, kế thấy người thường và kẻ thù cũng như thế. Cho đến các chúng sinh mười phương chịu khổ trong năm đường. Người ở trong định tâm mà thấy người ngoài chịu khổ trong tâm rất thương xót. Từ bi định xuất rồi thì tâm càng thêm sâu chắc. Định tâm tương ưng với bên ngoài, rỗng rang bất động. Đó gọi là tâm bi tương ưng. Không sân hận, không oán não rộng lớn vô lượng đều như trên nói. Khéo tu, ở trong bi định chẳng phải chỉ thấy người thân chịu khổ mà rất thương xót cho đến người thường, kẻ thù, chín thứ, mười phương, năm đường, các thứ chịu khổ mà thương xót cứu hộ, tâm ấy bình đẳng, nên gọi là khéo tu. Lại nữa, nếu thấy người ấy chịu khổ mà sinh tâm thương xót, còn người được vui và chẳng khổ chẳng vui mà chẳng thương xót thì chẳng gọi là khéo tu. Nếu thấy ba hạng người trên chịu khổ mà đều thương xót chẳng hại thì là khéo tu. Lại nữa, thấy chúng sinh năm đường chịu khổ có khác nhau thì gọi là chẳng khéo tu, nếu thấy chịu khổ chẳng khác và thương xót bình đẳng thì gọi là khéo tu. Cũng có thể nói nếu thấy chúng sinh năm đường chịu khổ một thứ thì gọi là chẳng khéo tu. Nếu phân biệt chúng sinh năm đường chịu khổ khác nhau chẳng đồng thì gọi là khéo tu. Lược nói tướng khéo tu như thế. Hỏi: Chúng sinh năm đường quả báo khác nhau, khổ vui có khác. Như chúng sinh ba đường có nhiều quả báo khổ, còn chúng sinh cõi người thì nửa khổ nủa vui. Chúng sinh cõi trời thì có nhiều quả vui, vì sao thực hành nhân duyên từ thấy tất cả đều được vui, còn làm nhân duyên bi thì thấy tất cả đều chịu khổ, há chẳng phải là điên đảo hay sao? Đáp: Chẳng phải như thế. Ấy là vì được hiểu đạo, khi hành giả muốn học tâm từ vô lượng ấy, thì trước phải phát nguyện, nguyện các chúng sinh được các điều vui, lấy tướng người được vui mà nhiếp tâm nhập định, thì liền thấy chúng sinh đều được vui. Ví như dùi lửa trước phải lấy cỏ mềm và phân trâu khô, thế lửa càng mạnh nên có thể đốt cháy chất ướt nhiều. Tâm đại từ mới phát cũng như thế. Lửa mới sinh ra chỉ kịp đến người thân, từ tâm chuyển rộng thì thân oán đều đồng nhau, đều thấy không còn chịu khổ. Lại nữa, chúng sinh năm đường xoay chuyển khổ vui bất định, tức chỉ tạm vui sau thì chịu khổ lớn, nay tuy khổ lớn nhưng sau sẽ được vui. Tuy chưa có ngay nhưng phải có việc ấy. Cho nên hành giả dùng tâm hiểu biết duyên với tất cả điều vui thì chẳng rơi vào điên đảo. Tâm bi, hỷ, xả cũng giống như thế. Giải thích tu hỷ chứng hỷ, có hai: Một là chánh nói phương pháp tu hỷ. Như Phật dạy: Nếu có Tỳ- kheo dùng hỷ tương ưng với tâm, không sân hận oán não, rộng lớn vô lượng khéo tu tâm hỷ tương ưng. Hành giả vào bi định rồi tâm ấy thương xót tất cả chúng sinh trong đêm dài bị các khổ não ép ngặt, ta phải làm sao cứu giúp, khiến các chúng sinh ấy từ khổ được vui, từ vui sinh mừng rỡ. Khi ấy quán rõ chúng sinh tuy chịu khổ não, nhưng khổ này luống dối, xưa không nay có, dễ bị diệt trừ. Vì sao? Vì người bị bệnh khổ gặp thuốc hay thầy giỏi thì liền lành, lại dùng cơm áo cung cấp vui sướng vô lượng. Lại nữa, như người bị lửa đốt thân chịu khổ nếu được nước mát lạnh thì khổ lửa kia liền dứt, an vui liền sinh. Như người hiện bị nghèo khốn ấy là do nhân duyên san tham làm ác, nếu cấp thí cho châu báu, dạy tu biết làm lành, thì hiện tại lìa các nghèo khổ, thân tâm vui mừng mà ở đời vị lai sẽ mãi được vui sướng. Lại như người đời ngu si điên đảo phiền não trói buộc, chịu các khổ não, nếu nghe pháp mầu vô lậu thanh tịnh như nói tu hành thì bệnh phiền não sẽ dứt trừ, liền được thiền định trí tuệ và vui Niết-bàn. Các thứ nhân duyên như thế, khổ không có tánh nhất định, có thể dễ trừ diệt khiến được vui sướng. Hành giả quán như thế rồi liền phát nguyện rằng: Nguyện các chúng sinh các khổ đều dứt mà được các điều vui. Ta ở trong định đều thấy. Nguyện như thế rồi liền vào thiền định, dùng tâm niệm thanh tịnh thấy tướng người thân từ khổ được thoát mà nhận các vui sướng. Nhất tâm quán tưởng khiến ở tâm niệm thấy rất rõ ràng, thấy tướng người thân được vui sướng. Tâm vui vẻ mừng rỡ vô lượng. Kế duyên người thường và kẻ thù cho đến chúng sinh năm đường, mười phương các tướng mừng vui mà tâm sinh mừng rỡ. Ấy là lược nói phương pháp tu Hỷ. Hai là nói Hỷ định phát tướng. Hành giả như thế rồi, niệm tuệ phước đức là năng lực gốc lành, khi thực hành duyên ấy thì liền phát năng lực Tam-muội. Tức ở trong định mà mặc tình thấy tướng người thân lìa khổ được vui mừng rất rõ ràng. Ở trong Tam-muội tâm ấy vui mừng chẳng thể nói. Cho đến chúng sinh năm đường, mười phương, được các điều vui sướng cũng giống như thế. Hành giả ở trong Tam-muội mà thấy tướng người ngoài được vui mừng, mà trong tâm mình không có động chuyển. Định dần càng sâu. Đó gọi là tương ưng tâm hỷ, không tức giận không oán não rộng lớn vô lượng. Khéo tu thì như trong từ tâm đã nói. Hỏi: Từ tâm khiến chúng sinh vui, còn hỷ tâm khiến chúng sinh hỷ, vậy Lạc và Hỷ khác nhau thế nào? Đáp: Như trong luận Đại thừa nói thân vui gọi là Lạc, tâm vui gọi là Hỷ. Năm thức tương ưng gọi là Lạc, ý thức tương ưng gọi là Hỷ. Đối với năm trần sinh vui gọi là lạc, đối với pháp trần sinh vui gọi là hỷ. Lại trong cõi dục, năm thức tương ưng gọi là lạc, trong Sơ thiền ba thức tương ưng gọi là Lạc, trong Tam thiền tất cả lạc gọi là lạc. Cõi Dục và Sơ thiền ý thức tương ưng gọi là Lạc. Trong Nhị thiền tất cả lạc gọi là hỷ, thô lạc gọi là lạc, tế lạc gọi là Hỷ. Khi nhân gọi là Lạc, khi quả gọi là hỷ. Khi mới được vui gọi là lạc, trong tâm mừng phát tướng vui, ngoài hiện tướng vui mừng hớn hở gọi là Hỷ. Lạc căn tương ưng gọi là Lạc, hỷ căn tương ưng gọi là Hỷ. Như thế các thứ phân biệt tướng hỷ lạc khác nhau. Hỏi: Nếu thế vì sao chẳng dùng từ Hỷ kế nhau. Đáp: Khi thực hành tâm từ thì yêu thương chúng sinh cũng như con, tâm nguyện cho vui phát ra từ Tam-muội, còn thấy chúng sinh chịu các khổ, tâm rất thương xót muốn cứu khổ ấy khiến được an vui, phải như trước lạc sau hỷ mà cách bi cho nên chẳng để Hỷ sau Từ. Thí như người mẹ tuy thường nghó đến con khiến được an vui vẫn chưa gọi là Hỷ. Sau thấy bị bệnh thì tâm rất buồn khổ. Khi bệnh đã lành giao cho gia nghiệp thì rất mừng rỡ. Cho nên kế Bi mà nói Hỷ. Hỏi: Vì sao y cứ thiền nói hỷ lạc thì Hỷ là thô, còn y cứ bốn tâm vô lượng mà nói thì Hỷ là tế? Đáp: Thiền thì lấy định làm quý, lạc tâm điềm tịnh cùng định giúp nhau cho nên là hơn. Vô lượng thì tâm duyên với chúng sinh, nhân duyên với chúng sinh mà vui mừng làm hơn cho nên tế. Lại hành giả Sơ định đã cạn chỉ dùng lạc duyên với chúng sinh. Vì sao? Nếu lấy tướng Hỷ thì tâm tán khó nhiếp. Sau duyên với Tam-muội sâu dần, tuy mừng rỡ mà tâm không tán loạn cho nên tế. Giải thích tu xả chứng xả, có hai: Một là chánh nói phương pháp tu xả. Như Phật nói: Nếu Tỳ-kheo dùng xả tương ưng với tâm, không tức giận oán não, rộng lớn vô lượng, khéo tu tâm xả tương ưng, là hành giả từ hỷ định xuất ra mà tâm còn nhớ nghó. Nếu Từ là ban vui cho chúng sinh, Bi là muốn cứu khổ, Hỷ là khiến vui mừng mà chấp chặt rằng: Ta hay làm lợi ích chẳng quên hai việc thì không phải là thắng hạnh (hạnh cao quý). Thí như cha từ lợi ích cho con, chẳng cầu ân đức mới gọi là chân thân. Lại chúng sinh được vui có nhiều nhân duyên, chẳng riêng do mình, nếu nói mình hay cho vui tức là quá mức. Lại nữa, từ tâm cho vui chỉ là được hiểu, nhưng các chúng sinh thật chẳng được vui. Nếu xem thật tức là điên đảo. Lại nữa, các chúng sinh ấy chịu khổ vui, tâm sinh lo mừng. Tâm sinh lo mừng tức là kết sử, khó được giải thoát. Nay ta muốn cùng pháp lành thanh tịnh chẳng nên trụ ở ba tâm này. Lại nữa, ta tuy từ bi thương nghó đối với nó vô ích, nay phải bỏ ba tâm này làm các pháp lành thật lợi ích chúng sinh. Nghó như thế rồi liền bỏ ba tâm, một lòng phát nguyện, nguyện tất cả chúng sinh đều được diệu xả trang nghiêm, khiến ta đều thấy. Nghó đoạn liền nhập vào thiền định dùng niệm tâm thanh tịnh lấy tướng người thân được chẳng khổ chẳng vui mà duyên lấy, nếu có niệm khác thì nhiếp khiến trở lại, khiến ở tâm tưởng rất rõ ràng thấy rõ người chịu chẳng khổ chẳng vui. Như thế thứ lớp duyên với người thường và kẻ thù và tất cả chúng sinh ở năm đường, mười phương đều là tâm bình đẳng chẳng khổ chẳng vui, đó là lược nói phương pháp tu xả. Hai là nói xả định phát tướng. Hành giả như thế rồi chánh nghó phước đức là năng lực gốc lành, khi thực hành duyên đó thì Tam-muội liền phát, tức ở trong định chẳng gia thêm công lực mà mặc tình thấy tướng người thân yêu chịu chẳng khổ chẳng vui rất rõ ràng. Ở trong thiền định tuy thấy chúng sinh mà tâm không yêu ghét cho đến chúng sinh trong năm đường, mười phương cũng giống như thế. Khi ấy hành giả ở trong định nầy thấy các chúng sinh đều là tướng xả, Tam-muội khai phát không có động chuyển, sâu nhiệm bền chắc, tâm rất an ổn, bình đẳng không hai. Ấy là nghó tâm xả tương ưng không có sân hận oán não, rộng lớn vô lượng khéo tu, đều như trên nói. Hỏi: Trong ba tâm trước phải có phước đức, còn tâm xả đối với chúng sinh chẳng khổ chẳng vui thì có ích gì? Đáp: Hành giả nghó rằng: Tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, khi mất tức là khổ đều là não lụy, khi được chẳng khổ chẳng vui thì tâm an ổn, trước sau không rối loạn, lấy xả làm lợi ích cho nên được phước cũng lớn. Lại nữa, khi hành giả tâm từ hỷ, hoặc khi tâm yêu đắm sinh, khi thực hành tâm bi hoặc khi tâm ưu bi sinh vì tham ái thì công đức rất yếu mỏng, vào tâm xả ấy mà trừ lỗi tham này, không có các phiền não. Phải biết thực hành xả phước đức rất lớn. Lại nữa, hành giả đối với tâm xả, làm các thứ lợi ích chúng sinh, cho nên phước đức càng thêm nhiều. Lược nói tâm xả vô lượng đã xong. Hỏi: Vì sao trong bi, hỷ, xả không nói pháp duyên, vô duyên? Đáp: Nghóa loại từ tâm trước có thể thấy chẳng cần nói lại. Hỏi: Bốn tâm vô lượng ấy, lạc có hai phần, bi hỷ xả vì sao chẳng chia ra hai phần? Đáp: Lạc (vui) được tất cả chúng sinh đều yêu thích quý trọng cho nên có hai phần, khổ là cái mọi người chẳng yêu chẳng muốn nên chẳng có hai phần. Hỏi: Bốn vô lượng phát nguyện vào định thấy chúng sinh là thấy thật hay tâm tưởng mà thấy? Đáp: Thấy có hai thứ: Một là được thiên nhãn vô lượng tâm, đây là thật thấy; Hai là chỉ dùng được giải để nhớ tưởng, duyên chúng sinh mà nhập vào Tam-muội. Đã chứng Tam-muội, nhờ năng lực Tam-muội vào thì được thấy, ra thì không thấy. Đây là năng lực Tam-muội được giải, không phải là thật thấy. Hỏi: Chứng bốn tâm vô lượng vì sao chẳng phân chi và các tướng thể dụng, cạn sâu, tiến lùi, v.v…? Đáp: Khi chứng tâm vô lượng cũng không phải hoàn toàn không có nghóa ấy. Chỉ vì không có văn nên chẳng cần phân biệt. Giải thích Công đức của bốn vô lượng, có hai: Một là ở hiện đời, hai là đời vị lai. Một là công đức hiện đời, như trong kinh A-hàm, Phật nói: Nếu nhập vào Tam-muội từ tâm thì hiện đời được năm thứ công đức: Một là vào lửa chẳng đốt cháy, hai là trúng độc không chết, ba là đao binh chẳng làm bị thương, bốn là chẳng bao giờ chết ngang trái, năm là thiện thần thường theo che chở. Vì lợi ích vô lượng chúng sinh mà được vô lượng công đức. Hai là công đức vị lai, khéo tu bốn tâm vô lượng, nếu sinh cõi sắc thì phần nhiều làm Phạm vương, vì tâm vô lượng riêng nhiếp chúng sinh, nếu được Sơ thiền thì làm vua cõi Sơ thiền, cho đến Tứ thiền cũng như thế. Hỏi: Trong ba tạng chỉ nói Sơ thiền gọi là Phạm Thiên vương, chủ thế giới Ta-bà, nay vì sao nói cho đến Tứ thiền đều có Phạm Vương? Đáp: Trong kinh Anh Lạc nói Tứ thiền, mỗi thiền đều có Phạm vương. Hỏi: Nếu thế, vì sao Phật nói: quả báo của tâm từ là sinh lên Phạm thiên? Đáp: Vì Phạm thiên được tôn trọng, đều nghe đều biết. Phật ở nước Thiên-trúc thường có nhiều Bà-la-môn, pháp của Bà-la-môn khi có phước đức đều nguyện sinh lên cõi trời Phạm thiên. Nếu nghe làm Từ mà sinh Phạm thiên thì người nghe đều tin giáo mà tu hành pháp Từ. Do đó nên nói hành từ thì sinh lên cõi trời Phạm thiên. Lại nữa, trời dứt dâm dục đều gọi là Phạm. Nói Phạm thì gồm nhiếp bốn thiền, bốn định vô sắc. Như trong năm giới chỉ nói một thứ là không nói dối mà nhiếp cả ba thứ kia. Lại nữa, nếu trong bốn thiền mà tu bốn tâm vô lượng, thì tùy thiền ấy mà đều được thọ sinh. Đã tùy thiền sinh tâm vô lượng phước đức lớn thì quả báo cũng phải có khác, đâu được sinh ở trời ấy mà không có vua dân khác nhau. Lại nữa, như trong kinh Nhân Vương Phật nói mười tám phạm thì cũng phải có vua dân khác nhau. Lại nói trong bốn thiền có Đại Tịnh vương mà Phật ở trong ba tạng chỉ nói Sơ thiền có Đại Phạm vương, vì trong Sơ thiền có tâm giác quán, tuy có nói pháp chủ lãnh hạ địa chúng sinh là tiện, còn Thượng địa không có thứ này nên không nêu riêng. Hỏi: Nếu thế vì sao Phật nói công đức bốn vô lượng. Từ tâm tu tốt, tu khéo, phước đức sẽ đến cõi trời Biến Tịnh. Tâm bi tu rốt ráo, tu khéo, phước đức sẽ đến hư không xứ. Tâm hỷ tu tốt, tu khéo, phước đức sẽ đến Thức xứ. Xả tâm tu tốt, tu khéo, phước đức sẽ đến Vô sở hữu xứ, vì sao nói từ quả báo phải sinh lên Phạm thiên? Đáp: Phật pháp chẳng thể nghó bàn, tùy chúng sinh đáng độ mà nói như thế. Lại nữa, từ Từ định ra thì vào ba thiền rất dễ. Từ Bi định ra hướng lên hư không xứ thì dễ. Từ Hỷ định ra mà vào Thức xứ thì dễ. Từ Xả định ra mà vào vô sở hữu xứ thì dễ. Lại nữa, từ tâm nguyện khiến chúng sinh được vui, quả báo này tự phải được vui. Trong ba cõi thì trời Biến Tịnh là vui nhất, nên nói phước đức đến Biến tịnh. Tâm Bi quán chúng sinh bị bệnh già tàn hại, hành giả sinh tâm thương xót, làm sao khiến được lìa khổ. Nếu trừ hết khổ trong thì khổ ngoài lại đến, nếu trừ khổ ngoài, khổ tâm lại đến. Hành giả nên nghó có thân thì khổ, chỉ có không thân mới không khổ. Hư không có khả năng phá sắc, cho nên phước đức đến hư không xứ. Hỷ tâm muốn cho vui chúng sinh, tâm thức vui là tâm được lìa thân như chim sổ lồng. Hư không xứ, tâm tuy được lìa thân nhưng còn hệ tâm, hư không xứ chẳng chướng ngại đối với tất cả pháp đều có tâm thức, Thức được tự tại vô biên cho nên lấy hỷ phước đức ở Thức xứ. Xả tâm là xả bỏ khổ vui trong chúng sinh, cho nên được chân pháp. Đó gọi là vô sở hữu xứ, vì thế nên xả tâm phước đức đến Vô sở hữu xứ. Nếu làm như thế mà nói công đức bốn tâm vô lượng, chỉ có các bậc Thánh trí tuệ thanh tịnh tự tại nên như thế, không phải là các phàm phu. Vì sao? Vì phàm phu trụ ở Sơ thiền cho đến Tứ thiền mà tu bốn vô lượng tùy thiện mà chịu báo, phương tiện khéo vào Vô sắc mà tu bốn vô lượng. Lại nữa, Phật biết ở đời vị lai các đệ tử độn căn, phân biệt mê đắm các pháp lầm nói bốn tướng vô lượng, là bốn tâm vô lượng bậc Thánh đã biết, chúng sinh duyên nên chỉ là hữu lậu. Chỉ duyên cõi dục, cõi Vô sắc không có. Vì sao? Vì cõi Vô sắc chẳng duyên cõi Dục, vì dứt như thế là vọng thấy của người mà nói bốn tâm vô lượng. Trong cõi Vô sắc cũng dùng bốn tâm vô lượng duyên khắp chúng sinh mười phương, nên chẳng lại nói chẳng duyên cõi Vô sắc. Như thế người nói phần nhiều giữ còn pháp duyên và vô duyên. Lại nữa, hành giả đối duyên chúng sinh đầy đủ vào pháp duyên vô duyên. Lúc ấy, chúng sinh duyên bốn tâm vô lượng là Đại thừa. Lại nữa, Bồ-tát phát tâm Bồ-đề hành đạo Bồ-tát, chúng sinh này duyên bốn tâm vô lượng tuy là chỗ làm của phàm phu nhưng cũng phải biết, phải chứng. Chứng rồi dùng không chẳng thật có, chẳng có sự đắm trước mà khéo tu phương tiện, tức ở trong định mà đầy đủ tất cả pháp lành độ các chúng sinh, tức là hành đạo Bồ-tát. Lại nữa, trong bốn tâm vô lượng, quán hạnh công đức rất nhiều. Lại muốn luận việc khác nên không nói đủ. - Giải thích định Vô tưởng. Có ngoại đạo rất chán hữu vi, tâm thức sinh diệt, muốn cầu thường lạc của Niết-bàn vắng lặng. Đã không có trí tuệ nên không biết chân thật. Khi được bốn thiền thì không thấy lỗi tế sắc. Chỉ biết tâm thúc sinh diệt giả dối nên chán sợ tâm ấy. Đã chẳng biết phá sắc, cắt đứt ràng buộc của sắc, dùng thẳng tà trí mà diệt tâm ấy. Tà pháp tương ưng với tâm không nhớ tưởng gọi là chứng Niết-bàn. Chưa dứt ràng buộc của sắc thì khi chết liền sinh lên cõi trời Vô Tưởng. Đây cũng là cõi Sắc còn sinh tử, chưa được giải thoát, cũng gọi là Khách thiên, cũng như người A-na-hàm tu năm phẩm Huân thiền, là cõi Sắc tư duy hoặc chưa hết, sinh nhờ ở cõi sắc cũng gọi là Khách thiên. Định Vô tưởng nầy đã là tà pháp, chẳng phải pháp tu của đệ tử Phật. Nay muốn nói đầy đủ về định ba cõi, do đó lược chỉ cho biết tướng tà chánh. Giải thích tu chứng bốn định vô sắc: có bốn: Một là không xứ, hai là Thức xứ, ba là Vô sở hữu xứ, bốn là Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ. Nay giải thích bốn định nầy có hai ý: Một là chung, hai là riêng. Giải thích chung: Trước bốn thiền và bốn định vô lượng đều nương vào sắc pháp mà có. Nay bốn định này đều nương vào pháp Vô sắc mà có. Nay bốn định nầy đều nương vào pháp vô sắc từ cảnh mà được tên, nên gọi là định vô sắc. Cho nên kinh nói: Bốn không diệt sắc đạo, tâm tâm nương nhau. Cũng gọi là Không định, không hình không chất, tức nghóa đồng với hư không, nên gọi là bốn không định. Cũng gọi là bốn không định xứ, bốn thứ định tâm nầy cũng gọi là định xứ. Bốn thứ định tâm này sở dó lấy cảnh được quán làm chỗ, như niệm xứ, thắng xứ, Nhất thiết xứ đều từ chỗ quán mà được tên. Tướng thứ lớp bốn không định ở sau sẽ nói, mà chẳng gọi là Thiền, vì trước đã được gọi tên nên nay không lặp lại. Nay phải đặt tên thắng. Lại nữa, bốn thứ Vô sắc này tự thể chi lâm có thiếu nên chẳng được gọi Thiền. Hỏi: Kinh Anh Lạc nói: Năm chi làm nhân, mặc nhiên làm định thể, là sao? Đáp: ở đây chỉ y cứ nghóa phương tiện mà lập chi, không phải như bốn thiền đều thành tựu đầy đủ pháp chi lâm. Cho nên trong các kinh luận đều chẳng nói có chi. Giải thích riêng về không xứ, có ba: Một là giải thích tên, hai là tu hành, ba là chứng tướng. Một là giải thích tên: Sở dó gọi là không xứ định, là vì định này trước hết lìa ba thứ sắc tâm duyên hư không. Đã tương ưng với vô sắc nên gọi là định hư không. Nay không xứ nầy và ba định vô sắc đều thuộc về Vô giác vô quán Thánh mặc nhiên và xả câu. Cho nên luận Đại thừa nói: được hư không xứ định, tâm chẳng khổ chẳng vui càng tăng. Hỏi: Nếu hư không vô sắc gọi là không định, mà các thiền từ trước nay cũng thấy không tưởng, vì sao chẳng gọi là hư không định? Đáp: Chẳng phải thế, trong Lục địa kia vì là tâm nhập định tế nên chẳng thấy thô sắc. Ý nói là không mà thật chưa thể quán sắc, phá tán sắc pháp, dứt sự ràng buộc của sắc. Do đó trong định hoặc có lúc thấy sắc, có lúc không thấy, chẳng phải như hư không một bề không có sắc. Cho nên trong Lục địa định tuy có tướng không mà chẳng gọi là hư không Vô sắc định. Hai là phương pháp tu không, có hai: một là nói cảnh được tu, hai là nói tâm năng tu. Trong cảnh được tu có hai: một là cảnh chướng, hai là cảnh giúp làm thành. Cảnh chướng: hành giả muốn vào không xứ, phải diệt ba thứ sắc: một là sắc có thể thấy có đối, hai là sắc không thể thấy có đối, ba là sắc chẳng thể thấy không đối. Cho nên trong kinh nói qua tất cả sắc tướng mà diệt có đối, chẳng nghó nhớ các tướng mà vào vô biên hư không xứ, luận Đại thừa nói: qua tất cả sắc tướng liền phá sắc, có thể thấy có đối, không nghó các tướng là diệt sắc, chẳng thể thấy không đối. Tất cả sắc pháp chẳng quán sắc pháp trần, năm căn và một nhập thiểu phần, tức là sắc pháp trần, như A-tỳ-đàm chép: một thì thấy mười thì nói có đối, một nhập phần ít là sắc chẳng thể thấy không đối. Hành giả muốn vào hư không xứ định thì phải phá ba sắc này, ba sắc nầy tức là chướng cảnh, hai là thành định cảnh, hư không là chỗ trí duyên, do đây mà vào định, tức là cảnh thành định, hai là nói tâm pháp năng tu, có hai: một là quở khen, hai là quán sát phân tích mà tu tập. Nói quở khen sâu về tội lỗi của sắc pháp, tức là nếu có thân sắc thì có đói khát bệnh tật, đại tiểu tiện, dơ bẩn, thô nặng, xấu ác, dối lừa, hư giả v.v… Tất cả các khổ ngoài thì chịu lạnh nóng, dao gậy, xiềng xích, chửi mắng, v.v… Tất cả các khổ từ nhân duyên đời trước hòa hợp mà báo được thân nầy, tức là cội gốc tất cả các khổ, chẳng nên ôm giữ mê đắm. Lại nữa tất cả sắc pháp ràng buộc ở tâm chẳng được tự tại, tức là tù ngục của tâm, khiến tâm khổ não chẳng thể tham vui. Ấy là nói lược quở trách tội lỗi của sắc. Còn khen là khen hư không. Không sắc thì không có lỗi, mà rỗng rang an vui, đây là chỗ vắng lặng không có các não loạn. Nay nói chê trách, khen ngợi, tức là tu tập sáu hạnh, loại trước rất dễ biết. Hai là nói quán sát phân tích mà tu tập, người ta ở trong bốn thiền phải nghó rằng: nay ta ở trong định nầy nhưng thân cõi dục đầy đủ sắc pháp vì sao chẳng thấy. Nghó thế xong liền phải một tâm mà quán kỹ thân mình, tất cả lỗ chân lông và chín lỗ trong thân các khoảng không đều là trống rỗng cũng như la hộc, trong ngoài thông nhau, cũng như thân cây chuối nhiều lớp không thật, khi quán như thế thì thấy được. Đã được thấy rồi thì phải chú tâm quán sát, thấy thân tạm bợ như cái bình, như cái niêu đất, như màng nhện, dần dần nhỏ dần, thân phần đều hết, chẳng thấy ở thân và năm căn. Như trong thân đã hết sắc, ở ngoài cũng thế. Vì sao? Vì trong thân bốn vi, bốn đại, tất cả sắc pháp chẳng khác ngoài thân, bốn vi bốn đại là tất cả sắc pháp. Lại nữa, khi hành giả quán như thế, mặt thấy sắc hoại nên gọi là quá sắc, tai thì tiếng, mũi thì hương, lưỡi thì vị, thân thì xúc biết loại, thì gọi là tướng diệt có đối, ở hai thứ sắc kia và vô giáo sắc, các thứ vì chẳng phân biệt nên gọi là chẳng nghó nhớ các tướng lạ khác. Tất cả sắc pháp đã diệt, chỉ một tâm mà duyên với không, nghó không chẳng bỏ, tức sắc định đã lui mà không định chưa phát, cũng có thiền trung gian. Bấy giờ cẩn thận chớ ưu hối, phải càng tinh tấn nhất tâm nghó không phải vượt qua nạn sắc. Đó là nói lược phương pháp tu thiền định. Hai là chứng hư không định, cũng có sáu ý: một là tướng chứng, hai là nói có chi và không chi, ba là thể dụng, bốn là cạn sâu, năm là tiến lùi, sáu là công đức. Một nói tướng chứng là hành giả đã nhất tâm nghó không, chẳng bỏ phép tắc, thì tâm ấy mất hẳn, mặc tình tự tại không duyên, ở đây cũng giống như trước nói tướng Vị đáo địa, sau rỗng rang tương ưng với không, tâm ấy sáng trong, chẳng khổ chẳng vui, lại càng thêm lớn. Ở trong định sâu chỉ thấy hư không, chẳng có sắc tướng. Tuy duyên với vô biên hư không, tâm không phân tán, đã không sắc ràng buộc, tâm thức lắng yên tự tại vô ngại như chim ở trong lồng, lồng hư thì được thoát ra, bay đi tự tại. Chứng định hư không cũng giống như thế. Lại nữa, được định không xứ thì ra khỏi cõi sắc, gọi là qua, tất cả sắc tướng. Pháp không giữ tâm các thứ sắc chẳng được khởi gọi là diệt tướng có đối. Đã được thắng diệu không xứ thì quyết định sẽ bỏ sắc pháp mà tâm không luyến tiếc gọi là chẳng nhớ nghó các thứ tướng. Cho nên trong kinh phần nhiều dùng nghóa này mà nói là chứng Hư không xứ định. Hai là nói có chi, không chi: Trong các kinh luận khác nói bốn định vô sắc, lệ chẳng lập chi, nhưng kinh Anh Lạc chép: bốn không định, năm chi làm nhân. Tâm thứ sáu mặc nhiên làm định thể (thể của định), phương tiện đạo đồng, thể dung tương tự. Nếu y vào lời kinh Anh Lạc nói thì hư không định có năm chi. Năm chi như kinh nói: một là tưởng, hai là hộ, ba là chánh, bốn là quán, năm là nhất tâm. Chỉ bốn thiền trước nói đều có chi, tướng mạo sẽ thấy rõ. Nay không định này đã không chứng riêng pháp chia ra. Đây e là y cứ vào nghóa tu không định, mà lập làm chi. Cho nên kinh nói phương tiện đạo đồng, thể dung tương tự, cho nên các kinh luận khác đều chẳng là chi, thì phải vì tự thể không có chứng riêng chi lâm thành tựu, mà trong kinh Anh Lạc nói có chi, phần nhiều là y cứ vào phương tiện và y cứ nghóa nên nói chi, y cứ phương tiện mà lập chi. Nghóa ấy thế nào? Một là tưởng khi tu định, tưởng thân mong manh như cái nồi đất (dễ bể), hai là hộ tức là xả chi, xả bỏ ba sắc tướng. Lại hộ là giữ gìn, là ngăn ba thứ sắc khiến chẳng phá tâm không. Ba là chánh là chẳng tà, khiến tu không định làm chính, nếu nghó nhớ sắc tướng thì là là. Bốn là quán, quán thấu suốt chánh niệm phá ba thứ sắc, thấu suốt không. Nếu quán tâm trụ hư không, chẳng có phân tán thì gọi là chi nhất tâm, chi thông minh tức là nghóa chi li, vì năm pháp nầy chi li (chia ra), chẳng phải một, nên gọi là chi. Y cứ tu phương tiện mà nói chi thì phải như thế. Ý Phật khó biết, đã không có văn rõ ràng thì khó phán định. Hoặc là khi chứng không định thì ở trong nghóa không định mà lập năm chi. Vì sao, vì kinh cũng nói năm chi làm nhân, tâm mặc nhiên thứ sáu làm định thể. Nay y cứ tu không mà lập chi, ẩn hiển mà nói nhân quả thể dụng, hình như bất tiện. Nếu y cứ khi chứng không định nghóa lập năm chi cũng lại rõ ràng như có thể thấy, suy tìm kỹ thì tự hiểu, chẳng cần phải giải thích. Ba là thể dụng, năm chi trước là nhân, tâm mặc nhiên thứ sáu là quả. Quả sau lại khởi năm chi thì là dụng, mặc nhiên là thể, so sánh giống như bốn thiền trước chẳng khác. Hỏi: vừa nói không chứng chi sao được so sánh với trên? Đáp: Lại dùng phương tiện nghóa chi đối chi, ẩn hiển so sánh làm cũng phải ở nghóa, không có lỗi. Bốn là cạn sâu, trước được định hư không liền lìa ba thứ sắc, tâm với tương ưng mười phương hư không. Sau đó, định đã lại phát, lại biết tâm thức minh tịnh, thấy không cũng rộng, định lại càng sâu, thì tự biết trước cạn hẹp nay thì dần sâu rộng. Như thế cho đến chín phẩm so với trước có thể biết. Năm là tiến lùi, được hư không cũng có bốn hạng người khác nhau. Đó là Thối phần, Trụ phần, Tiến phần, Đạt phần giống như trong bốn thiền đã nói, nay chẳng nói thêm. Sáu là công đức, cũng có chung và chẳng chung. Chung như trên nói, chẳng chung là lìa lỗi. Trước ở trong không định nầy mới được lìa lỗi ba thứ sắc. Tâm lành chẳng chung được lìa sắc chứng không thì được tăng thêm các công đức kính tin, hổ thẹn, v.v… Hai là Thức xứ định, cũng có ba: một là giải thích tên gọi, hai là phương pháp tu hành, ba là chứng tướng. Giải thích tên gọi, sở dó gọi Thức xứ là bỏ không duyên giới thức, lấy thức làm chỗ (xứ), chính từ chỗ duyên mà được tên gọi nên nói là Thức xứ. Phương pháp tu hành, có hai : một là quở trách không xứ, khen ngợi Thức xứ. Hai là quán phá không xứ hệ duyên, nghó về niệm Thức xứ. Một là quở trách Không định: Hành giả biết không xứ định tương ưng với không. Hư không vô biên, tâm duyên với không, duyên nhiều thì tán cho nên phá định. Lại nữa, hư không là pháp bên ngoài, duyên với pháp bên ngoài mà vào định, định từ ngoài sinh thì chẳng an ổn có nhiều lầm lỗi. Thế nên quở trách hư không mà định thức xứ. Đã là pháp bên trong, duyên với pháp bên trong mà vào định thì nhiều yên tịnh, an ổn, cho nên khen ngợi Thức xứ. Hai là quán phá không xứ, là quán duyên không, thọ tưởng hành thức như bệnh ghẻ nhọt, như gai đâm, vô thường, khổ, không, vô ngã hòa hợp mà có, dối lừa chẳng thật. Đây tức là quán tám thành chủng. Bốn thứ trước là phương pháp đối trị, tức là sự quán, bốn thứ sau vô thường, v.v… tức là duyên đế lý quan. Trong tám quán nầy thì có chung riêng. Quán chung là dùng tám pháp này quán chung định không xử, bốn Ấm hòa hợp mà định này đáng sợ không thật. Quán riêng là dùng tám pháp này bốn thứ trước là đối trị mà quán bốn Ấm, như bệnh là đối trị với thọ Ấm, như nhọt là đối trị với tưởng ẩm, như ghế là đối trị với hành Ấm, như gai đâm là đối trị với thức Ấm. Lại nữa, bốn vô thường, v.v… tức đối quán bốn Ấm lý tưởng. Vô thường là quán thức Ấm, khổ là quán thọ Ấm, không là quán tưởng Ấm, vô ngã là quán hành Ấm. Hai quán sự lý, chung riêng mà quán hư không xứ. Sự lý không thể tham vui, tức tâm dễ sinh chán nên nhanh chóng có thể lìa bỏ. Khéo dùng niệm xứ tìm trong đối riêng nầy, nghóa rất dễ thấy. Hỏi: Khi lìa bốn thiền vì sao chỉ nói có ba phương tiện, nay lìa bốn không định lại nói tám Thánh chủng? Đáp: Không định đã tế, nếu chẳng nói Thánh chủng vãng quán thì lỗi khó thấy. Hỏi: Nếu thế phàm phu không có tám Thánh chủng làm sao lìa được? Đáp: Khéo tu sáu hạnh cũng lìa được, nhưng chẳng nhanh như tám Thánh chủng. Hỏi: Nếu tu thiền hữu lậu được dùng tám Thánh chủng thì có gì khác với vô lậu chăng? Đáp: Nay trong đây dùng tám Thánh chủng chỉ là muốn nhanh chóng lìa định địa dưới mà tu định địa trên, chẳng thể quán sâu địa mình mà phát tuệ vô lậu nên có khác với vô lậu. 2- Nói buộc tâm duyên thức, hành giả đã khéo biết lỗi lầm của không định, tâm chẳng vui mừng, liền bỏ không xứ, mà nhất tâm duyên với tâm thức hiện tại, niệm niệm chẳng rời. Ở vị lai, quá khứ cũng giống như thế. Thường nghó nhớ thức, muốn được tương ưng với thức. Gia công chuyên nhất chẳng kể ngày tháng mà nhất tâm duyên thức không có một niệm khác. Hỏi: Thức ở quá khứ đã mất, vị lai chưa đến, còn hiện tại thì không dừng, làm sao có thể duyên mà vào định? Đáp: Tâm thức thật như đã hỏi. Tuy ba đời tâm thức chẳng thật có mà cũng có thể nhớ giữ được, như tâm giận ở quá khứ đã mất không thể được lại mà còn có thể nhớ biết. Cũng như được tha tâm trí, liền có thể biết được tâm ba đời, các pháp tuy không mà chẳng dứt, huống chi là tự duyên với tâm thức ba đời mà chẳng được làm nhân nhập định ư? Duyên theo đây mà suy thì cũng được có nghóa duyên thức vào định. Cho nên hành giả một tâm duyên thức thì không định liền lui. Thức định chưa sinh thì trung gian cũng so sánh như trên. Hỏi: Nếu thế cũng nói có tướng thiền Trung gian ư? Đáp: trên đã giải thích, nghóa ấy rất dễ thấy. Ba là chứng tướng, cũng có sáu nghóa: một là chứng tướng, hai là nói chi, ba là thể dụng, bốn là cạn sâu, năm là tiến lùi, sáu là công đức. Chứng định phát tướng là hành giả nhất tâm duyên thức liền mất hẳn mà nhậm vận tự tại. Thức duyên do đây, sau rỗng rang tương ưng với thức, tâm định chẳng động, mà ở trong định chẳng thấy việc khác, chỉ thấy tâm thức hiện tại, niệm niệm chẳng dừng, định tâm rõ ràng, thức lự rộng lớn vô lượng, vô biên. Cùng ở trong định mà nhớ thức quá khứ đã diệt, vô lượng vô biên, và ở vị lai khởi thức cũng vô lượng vô biên, và trong định tương ưng với thức. Thức giữ ở tâm không phân tán ý. Định nầy an ổn thanh tịnh vắng lặng, tâm thức sáng tỏ chẳng thể nói. Hỏi: Hành giả chưa được ba thông vì sao biết được tâm ba đời? Đây là năng lực Tam-muội so với nghóa bốn tâm vô lượng trên có thể biết. Nói về chi: như kinh Anh Lạc nói bốn không năm chi phương tiện đạo, đồng dùng tương tự, lệ như không xứ chẳng cần nói lại. Về thể dụng, cạn sâu, tiến lùi, công đức, v.v… đều so sánh trên có thể hiểu, nay chẳng giải thích riêng. Nói bất dụng xứ, cũng có ba: một là giải thích tên gọi, hai là nói phương pháp tu hành, ba là nói về chứng tướng. Giải thích tên gọi: Bất dụng xứ, là khi tu định nầy thì không dùng tất cả cảnh giới trong ngoài. Cảnh ngoài gọi là Không, cảnh trong gọi là Tâm, bỏ hai cảnh nầy nhờ mới tu mà được tên, cho nên nói bất dụng xứ cũng gọi là thiếu (ít). Xứ cũng gọi là vô sở hữu xứ, cũng gọi là vô tưởng xứ, ba tên gọi nầy từ định thể mà được tên. Nói phương pháp tu vô sở hữu xứ định, có hai: một là quở trách và khen ngợi, hai là quán hạnh tu tập. Một là quở trách ngợi khen: Hành giả biết rõ lỗi lầm của thức xứ. Vì sao? Vì thức định thì tâm tương ưng với thức, nếu ở trong định mà tâm duyên với thức quá khứ, hiện tại, vị lai tâm thức đều vô lượng vô biên. Nếu tâm duyên với vô biên nhiều thì làm tan hoại định. Lại nữa, ở trên duyên với không nhập vào định thì gọi là Ngoại định, nay duyên với thức vào định thì gọi là Nội định, mà y nội y ngoại thì đều không vắng lặng. Nếu y nội tâm dùng tâm duyên tâm mà không vào định, thì định này đã nương ba đời mà sinh, tâm không có chỗ nương nhờ mới gọi là an ổn. Biết như thế rồi thì khen vô sở hữu xứ. Hai là quán hạnh tu tập: Quán ở duyên biết thọ tưởng hành thức như bệnh, như nhọt, như ghẻ, như gai đâm, vô thường, khổ, không, vô ngã hòa hợp mà có, lừa dối chẳng thật. Nghóa như trước đã giải thích, biết như thế rồi liền bỏ thức xứ mà hệ tâm duyên với vô sở hữu xứ. Vô sở hữu xứ đã không có chỗ nương, duyên tâm thức thì nội tónh dứt, cầu pháp chẳng dùng tất cả tâm thức, biết là pháp không thật có, nhưng chẳng phải không, chẳng phải thức, vô vi pháp trần chẳng thể phân biệt. Biết như thế rồi thì yên dứt tâm ấy, nghó về pháp không thật có. Khi ấy, thức định liền lui, thiếu định chưa khởi. Ở trung gian mà chứng tướng như trước nói. Hỏi: Có người nói: tu vô sở hữu, lấy thiểu thức duyên mà nhập định. Việc này thế nào? Đáp: chẳng phải thế, phải bỏ tất cả, chỉ nghó nhớ pháp không thật có, nên gọi là Vô sở hữu xứ. Nay nói thiểu xứ thì chỉ là ý căn đối với không có pháp trần mà sinh thiểu xứ, không phải là duyên với thiểu thức để nhập định nên gọi là Thiểu xứ. Nói chứng tướng: Cũng có sáu: một là nói về chứng tướng, hai là nói chi, ba là thể dụng, bốn là cạn sâu, năm là tiến lùi, sáu là công đức. Một là nói vô sở hữu định phát tướng: hành giả ở tâm trung gian chẳng lo buồn hối hận, chuyên tinh chẳng lười biếng, nhất tâm nội tịnh không, chẳng có chỗ nương, chẳng thấy các pháp, vắng lặng an ổn, tâm không lay động. Đây là tướng chứng Vô sở hữu định. Khi vào định này thì vui vẻ lặng dứt, các tưởng chẳng khởi. Còn chẳng thấy tướng tâm huống chi là các pháp không hề phân biệt. Đó gọi là định Vô sở hữu xứ, cũng gọi là định vô tưởng. Hai là nói chi, ba là thể dụng, bốn là cạn sâu, năm là tiến lùi, sáu là công đức đều như trước nói. Giải thích định phi tưởng, phi phi tưởng: cũng có ba: một là giải thích tên gọi, hai là phương pháp tu hành, ba là chứng tướng. Một là giải thích tên: nói định phi tưởng phi phi tưởng giải thích khác nhau. Có người nói định này là quán một còn một mất. Nói phi tưởng, không phải là thô tưởng, đây thì mất ở thô tưởng. Phi phi tưởng là phi phi tế tưởng, đây là còn ở tế tưởng. Lại giải thích rằng quán thức xứ trước là có tưởng, bất dụng xứ là không tưởng. Nay cùng trừ hai thứ tưởng trên, phi tưởng là trách thức xứ có tưởng, phi phi tưởng là trách bất dụng xứ không tưởng. Lại giải thích rằng: Nếu chẳng phải có tưởng thì trong định nầy chẳng thấy tất cả tướng mạo. Nói chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng là hành giả hoặc nghó rằng: nếu một bề không tưởng như gỗ đá không biết gì thì làm sao biết là không tưởng, nên nói chẳng phải không tưởng. Hỏi: Trong chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng là thật có tưởng, có bốn Ấm chung thành, há được nói không? Chỉ vì phàm phu nhập định nầy thì Ấm giới nhập rất tế chẳng biết, nên gọi là không tưởng. Trong Phật pháp nói bốn Ấm chung thành, chỉ do gốc nói mà nói chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng. Cũng có người giải rằng: y cứ phàm phu mà nói chẳng phải có tưởng, y cứ Phật pháp mà nói chẳng phải không tưởng, hợp mà luận nên nói chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng. Hai là nói về phương pháp tu hành: cũng có hai: một là quở khen, hai là quán hạnh tu tập. Quở khen là biết rõ lỗi lầm của không tưởng là vô sở hữu định như si như say, như ngủ như tối, vô minh che đậy không biết gì không đáng yêu thích. Luận Đại thừa nói quán Thức xứ như ghẻ, như tên đâm, quán Vô tưởng xứ như si dại, đều là tâm bệnh chẳng phải chỗ thật vắng lặng, lại có diệu định gọi là phi tưởng, là chỗ an ổn, không có lỗi lầm, ta thường cầu nó; Nói quán hạnh tu tập, khi ấy quán chắc không chỗ duyên, thọ tưởng hành thức như bệnh như nhọt, như ghẻ như gai đâm, vô thường khổ không vô ngã lừa dối chẳng thật, hòa hợp mà có, chẳng phải thật có. Quán như thế rồi liền lìa bỏ tâm quán chẳng phải có chẳng phải không, pháp nào chẳng phải có tức là tâm, chẳng phải chẳng phải có. Vì sao? Vì quá khứ, hiện tại, vị lai tìm đều không thật có, không có hình tướng, cũng không có nơi chốn, phải biết đó là không thật có. Thế nào là chẳng phải không, nếu nói là không vì sao là không? Vì tâm ấy không hay lìa tâm là không vì không biết không duyên, cho nên nếu tâm chẳng phải không, thì lại chẳng khác không. Vì sao? Vì không chẳng tự không, vì phải có cho nên nói không, không có thì chẳng không cho nên nói chẳng phải có, chẳng phải không. Như thế khi quán chẳng thấy có không, một tâm mà duyên chẳng nghó việc khác. Đó gọi là tu tập định chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng. Như thế tức là y theo chẳng phải có, chẳng phải không, thường nhớ nghó chẳng buông bỏ, thì bất dụng ung xứ liền tự lui mất, mà định chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng chưa phát, ở trung gian như trên đã nói. 3- Nói về chứng tướng: cũng có sáu: ý một là nói về chứng tướng, hai là nói về chi, ba nói về thể dụng, bốn nói cạn sâu, năm nói tiến lùi, sáu nói về công đức. Một là nói chứng tướng: hành giả đã nhất tâm chuyên tinh gia công chẳng dừng, năm ấy mặc tình trụ trong duyên. Sau bỗng nhiên định chân thật phát, chẳng thấy tướng mạo có không. Tan tiêu lặng dứt, tâm không lay động, an nhiên thanh tịnh như tướng Niết-bàn. Định ấy mầu nhiệm, ba cõi không gì hơn, ngoại đạo chứng được gọi đó là Trung đạo thật tướng Niết-bàn thường-lạc-ngã-tịnh. Đắm mê pháp ấy chẳng còn tu tập. Nếu nó chánh quản như con sâu bò đến cây chẳng tiến lên mà lại trở về, trong kinh nói: phàm phu chứng định nầy như chim bị cột dây, ba hết dây thì trở lại. Đã chẳng biết bốn Ấm hòa hợp chẳng có tự tánh. Song nó tuy không có phiền não thô mà cũng thành tựu mười thứ tế phiền não. Vì chẳng biết nên gọi là chân thật, ngoại đạo vào định này chẳng thấy có không mà biết có khả năng biết tâm chẳng phải có, chẳng phải không, liền chấp tâm này bảo đó là chân thần chẳng diệt. Cho nên nói thần rất tế, chẳng phá thần hay biết. Nếu đệ tử Phật biết là bốn Ấm hòa hợp mà có dối lừa chẳng thật, tâm tưởng trong đó, biết không có thần khác biết. Lại nữa, hư không xứ trước phá sắc cho nên nói không, thức xứ phá không cho nên nói Thức. Nói Thức là có tưởng. Bất dụng xứ phá thức cho nên không có thức, nói không thức là không tưởng. Nay định nầy phá vô sở hữu mà nói chẳng phải không tưởng, nên nói chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng. Định nầy ở trong thế gian rất trầm phù nên trí định không có quân bình, là định an ổn, cao quí nhất trong thế gian. Đẳng trí không thể phá, cho nên nhiều người nói một thường hữu lậu. Lại nữa vô tưởng có ba nghóa: một là định vô tưởng thiên, hai là định chẳng phải có tưởng, chẳng phải vô tưởng, ba là định diệt thọ tưởng, không có phương tiện ngoại đạo thì diệt tâm vào định Vô tưởng thiên, có phương tiện phàm phu ngọai đạo thì diệt tâm vào định phi hữu tưởng phi vô tưởng, còn đệ tử Phật thì diệt tâm vào định diệt thọ tưởng. Hỏi: Vô sở hữu xứ cũng gọi là định vô tưởng, vì sao chẳng xếp vào ba thứ diệt tâm? Đáp: chẳng khéo diệt pháp tâm sở trong vô sở hữu nên chẳng phải diệu. Lại nữa, nếu ở cõi sắc vô tưởng là tột, nếu ở cõi vô sắc thì phi hữu tưởng phi vô tưởng là tột. Nếu trong Phật pháp tự có biệt thọ tưởng. Bất dung xứ trong ba xứ đều không phải là thắng định, cho nên chẳng nên theo. Nói về chi, thể dụng, cạn sâu, tiến lùi, công đức nghóa như trước rất dễ biết. Bát-nhã diệt tất cả pháp mà nănh sinh tất cả pháp, như từ Sơ thiền lại diệt ưu, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng diệt tưởng bất dụng xứ, đều là tiền phương tiện trong Bát-nhã, diệt các pháp là vào không, vì nó diệt các pháp cho nên năng sinh thắng pháp về sau. Vì Bát-nhã năng sinh muôn pháp, nên mười hai môn thiền này đều thuộc về khí phần Bát-nhã. Hỏi: Bồ-tát hành đạo Bồ-đề, nhập thật tướng không còn chẳng được không, nay vì sao theo không phần chẳng thật điên đảo nầy mà riêng có bốn? Đáp: như trong Thích luận giải nghóa bốn không mà nói chung hạnh trí tuệ với các pháp thật tướng, trong bốn Vô Sắc không có điên đảo, là bốn Vô sắc trong luận Đại thừa. Hỏi: Thế nào là trí thật tướng các pháp? Đáp: đó là các pháp tự tánh không. Hỏi: Sắc pháp hòa hợp phân biệt nhân duyên nên không, còn các Vô sắc nầy vì sao là không? Đáp: Sắc là mắt thấy, tai nghe các việc thô còn có thể làm cho không, huống là sắc không đối chẳng thể thấy, chẳng biết khổ vui mà chẳng không ư? Lại nữa, sắc phân biệt cho đến vi trần đều tan diệt mà trở về không, pháp tâm sở, tâm ấy ở trong thời gian ngày tháng cho đến trong một niệm cũng không thật có đó là nghóa không chân thật của bốn Vô sắc. Bồ-tát biết như thế rồi cũng phân biệt các tướng dùng phương tiện đại bi mà vì tất cả chúng sinh, làm mà không mê đắm. Hồi hướng công đức ngày về Bồ-đề, đầy đủ tất cả Phật pháp thí khắp cho chúng sinh, tức là hành đạo Bồ-tát. <篇> THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN <卷>QUYỂN 7 <詞>CHƯƠNG VII: GIẢI THÍCH TU CHỨNG THIỀN BA LA MẬT (Tiếp Theo) Tu chứng thiền vừa thế gian vừa xuất thế gian Nay y cứ ba pháp môn để nói về thiền vừa hữu lậu vừa vô lậu: một là Sáu diệu môn, hai là mười sáu đặc thắng, ba là quán. Ba pháp môn nầy cũng được gọi là Tinh thiền. Trong đây nói tịnh thiền có hơi khác với A-tỳ-đàm về thứ lớp cạn sâu, như trong năm quyển trước đã nói. Nhưng giáo môn phân một tức một tức đạo, lập ba thứ thiền để hóa độ chúng sinh. Nay sẽ lược suy ý giáo này phần nhiều là đối ba hạng người căn tánh khác nhau này: một là có các chúng sinh tuệ tánh nhiều mà định tánh ít, mà vì nói sáu diệu môn. Trong sáu diệu môn vì tuệ tánh nhiều, ở trong sơ thiền cõi Dục phát được vô lậu, ở đây chưa hẳn là đến các thiền Thượng địa. Hai là có chúng sinh định căn nhiều mà tuệ căn ít thì vì nói mười sáu thắng. Vì tuệ căn tánh ít nên thuộc về hạ địa, tức chẳng phát vô lậu. Vì định tánh nhiều nên phải đủ các thiền Thượng địa mới được tu đạo. Ba là có các chúng sinh căn tánh định tuệ bằng nhau mà vì nó Tthông minh. Thông minh cũng đủ căn bản thiền mà quán tuệ khéo léo, từ hạ địa cho đến thượng địa đều có thể phát vô lậu. Đây là tùy cơ mà nói, nếu tùy đối trị thì trái với tướng này. Như ý trong năm môn trước, có thể hiểu. Giải thích Sáu diệu môn: có ba: một là giải thích tên gọi, hai là nói về vị thứ, ba là nói tu chứng. Giải thích tên gọi: Nói Sáu diệu môn thì một là Sổ, hai là Tùy, ba là Chỉ, bốn là Quán, năm là Hoàn, sáu là Tịnh. Gọi chung là Sáu diệu môn, diệu là Niết-bàn, pháp diệu nầy thông đến Niết-bàn, nên gọi là Diệu môn, cũng gọi là Sáu diệu môn, sáu diệu môn nầy có ba pháp là định, ba pháp là tuệ, định thì ái, tuệ thì sách, vừa hữu lậu vừa vô lậu, nghóa ở đây. Nói về vị thứ, sáu diệu môn này vị thứ không nhất định. Vì sao? Vì nếu ở vị đáo địa cõi Dục khéo thực hành sáu pháp, tịnh tâm thứ sáu thành tựu thì phát ba thừa vô lậu, huống chi là tiến lên các thiền Thượng địa mà chẳng nhanh chóng chứng đạo hay sao? Tuy đây có khác với trước, ấy vì kinh Thụy Ứng nói: Do sáu pháp này mà dạo dừng, ba lần bốn sinh ra mười hai. Lấy đây mà suy cho nên biết sáu diệu môn nầy vị thứ bất định. Nói về tu chứng: Nếu nói rộng sáu pháp tu chứng thì các thiền đều thuộc sáu diệu môn nầy. Nay chỉ lấy chánh yếu thứ lớp sinh nhau vào đạo để nói tướng tu chứng của sáu diệu. Nay nói tu chứng của sáu diệu môn mở làm mười hai môn. Vì sao? Như số có hai: một là tu sổ, hai là sở tương ưng. Cho đến tu tịnh cùng tương ưng cũng giống như thế. Nay y cứ tu chứng phân biệt có mười hai môn. Một là tu sổ: Hành giả điều hòa hơi thở, chẳng rít chẳng trơn, từ từ an lành mà đếm từ một đến mười, nhiếp tâm đếm chẳng để tán loạn, đó gọi là Tu sổ. Hai là tương ưng với sổ là biết tâm nhậm vận từ một đến mười chẳng gia thêm công lực. Tâm và hơi thở tự tại, hơi thở đã hư ngưng tâm tướng dần tế, sợ đếm làm thô, ý chẳng muốn đếm. Bấy giờ, hành giả sẽ phải bỏ đếm số mà tu Tùy (theo hơi thở). Tùy cũng có hai: một là tu tùy, hai là tương ưng với tùy. Một là tu tùy: là bỏ đếm, một tâm y theo hơi thở ra vào (tùy tức), tâm trụ ở hơi thở không phân tán ý là tu Tùy; Hai là tương ưng với tùy, tâm đã phân tế, biết hơi thở dài ngăn khắp thân ra vào, hơi thở nhậm vận nương ý lự vui vẻ ngưng tịnh, đó gọi là tương ưng với tùy. Biết tùy là thô tâm nhàm chán muốn bỏ. Như người rất mệt mỏi muốn ngủ, chẳng muốn làm việc. Bấy giờ, hành giả sẽ phải bỏ Tùy mà tu Chỉ, Chỉ có hai: một là tu chỉ, hai là tương ưng với chỉ. Một là tu chỉ, trong ba chỉ thì chỉ dùng để chế tâm chỉ. Chế tâm dứt các duyên lự, chẳng nghó nhớ sổ, tùy mà ngưng tịnh tâm mình, đó gọi là tu chỉ; Hai là tương ưng với chỉ tự biết thân tâm tan mất mà nhập vào định, chẳng thấy tướng mạo trong ngoài. Như vị đáo địa cõi Dục các định pháp trì tâm nhậm vận bất động. Khi ấy hành giả liền nghó: nay Tam-muội này lại vắng lặng mà không có tuệ phương tiện thì chẳng thể phá hoại sinh tử. Lại nghó rằng: nay định nầy đều thuộc nhân duyên, Ấm nhập giới hòa hợp mà có, dối lừa chẳng thật. Nay ta chẳng biết, cần phải soi rõ nghó thế rồi nên không đắm mê chỉ. Khởi quán phân biệt cũng có hai thứ: một là tu quán, hai là tương ưng quán. Một là tu quán, quán có ba thứ: một là tuệ hạnh quán, là tuệ quán chân; Hai là đắc giải quán, tức là giả tưởng quán; Ba là Thật quán, như sự mà quán. Nay sáu diệu môn nầy mười sáu đắc thắng, thông minh, v.v… đều do dùng thật quán mà thành tựu. Sau đó mới dùng tuệ quán mà quán lý vào đạo. Vì sao? Gọi thật là như chúng sinh một kỳ hạn (một mong ước) quả báo thật là do bốn đại bất tịnh, ba mươi sáu vật mà thành. Chỉ vì vô minh che đậy, mắt tâm chẳng mở sáng, nên chẳng y theo thật mà thấy. Nếu xét kỹ quán sát, mắt tâm mở sáng, y theo thật mà thấy, thì gọi là thật tuệ hạnh quán, và đắc giải quán ở dưới, bốn đế mười hai nhân duyên, chín tưởng, bối xả, v.v… sẽ phân biệt rộng. Thế nào là tu tập thật quán? Là hành giả ở trong định tâm dùng mắt tâm quán chắc trong thân nầy hơi thở rất nhẹ, ra vào tưởng như gió trong không có ba mươi sáu vật như da gân, xương thịt, v.v… như thân cây chuối không thật, trong ngoài bất tịnh rất đáng chán ghét. Lại quán trong định, hỷ lạc, v.v… các thọ đều có tướng phá hoại, là khổ chẳng vui. Lại quán trong định, tâm thức vô thường sinh diệt, sát-na chẳng dừng không đáng mê đắm. Lại quán trong định, tâm thức vô thường sinh diệt, sát-na chẳng dừng không đáng mê đắm. Lại quán trong định các pháp thiện ác đều thuộc về nhân duyên, đều không có tự tánh. Như thế khi quán hay phá bốn đảo chẳng có nhân ngã, thì định nương chỗ nào. Đó gọi là tu quán; Hai là tương ưng với quán. Như thế thì quán biết hơi thở ra vào khắp các lỗ lông. Mắt tâm mở sáng thấy suốt bên trong ba mươi sáu vật và các ổ vi trùng trong ngoài bất tịnh. Các khổ ép ngặt, sát-na đổi khác, tất cả các pháp đều không có tự tánh, tâm sinh buồn vui, không có chỗ nương. Quán giải đã phát, tâm duyên với cảnh quán, phân biệt chia chẻ, biết niệm lưu động chẳng phải đạo chân thật. Khi ấy sẽ phải bỏ Quán mà tu Hoàn. Hoàn cũng có hai: một là tu tập Hoàn, hai là tương ưng với hoàn. Một là tu tập hoàn: đã biết quán từ tâm phát, nếu theo cảnh phân tích thì đây không gặp bản nguyên, nên phải quán ngược lại tâm nầy từ đâu sinh ra, là từ quán tâm sinh hay không phải quán tâm sinh, nếu từ quán tâm sinh thì trước đã có quán, nay thật chẳng như thế. Vì sao? Vì trong ba pháp Sổ, Tùy, Chỉ chưa có Quán. Nếu không phải quán tâm sinh thì nếu chẳng quán tâm là diệt mà sinh hay chẳng diệt mà sinh. Nếu chẳng diệt mà sinh thì tức là hai tâm đồng thời. Nếu pháp diệt rồi mất thì chẳng thể sinh ở hiện tại. Nếu nói vừa diệt vừa chẳng diệt sinh ra. Cho đến chẳng phải diệt chẳng phải chẳng diệt sinh thì đều chẳng thật có, phải biết quán tâm vốn tự chẳng sinh, chẳng sinh nên chẳng có, chẳng có nên tức không. Không nên chẳng quán tâm, nếu chẳng quán tâm thì đâu có quán cảnh. Cảnh trí cùng mất là sẽ trở về nguồn. Đó gọi là tu Hoàn; Hai là tương ưng với hoàn, là tâm tuệ khai phá chẳng cần gia công, nhậm vận tự hay chia chẻ, trở về nguồn gốc, đó gọi là tương ưng với hoàn. Đã tương ưng rồi hành giả phải biết, nếu lìa cảnh trí muốn về không cảnh trí, chẳng lìa cảnh trí thì buộc tâm theo hai bên. Bấy giờ, phải bỏ Hoàn mà an tâm tịnh địa, cũng có hai: một là tu định, hai là tương ưng với tịnh. Một tu định, là biết sắc tịnh nên chẳng khởi vọng tưởng phân biệt thọ-tưởng-hành-thức cũng giống như thế. Dứt cấu vọng tưởng, dứt cấu phân biệt, dứt cấu chấp ngã, gọi là tu Tịnh. Tóm lại, nếu tâm như bản tịnh thì gọi là Tu tịnh. Cũng chẳng được năng tu, sở tu và tịnh, bất tịnh, đó là tu tịnh; Hai là tương ưng với tịnh: khi tu như thế thì bỗng nhiên rỗng rang tâm tuệ tương ưng, phương tiện vô ngại nhậm vận khởi phát, Tam-muội chánh thọ tâm không nương cậy. Chứng tịnh cũng có hai: một là tương tợ chứng, năm thứ phương tiện tương tự vô lậu huệ phát. Hai là chân thật chứng, khổ pháp nhẫn cho đến vô ngại, đạo thứ chín, v.v… Ba thừa chân vô lậu tuệ phát. Cấu ba giới hết rồi nên gọi là chứng tịnh. Lại nữa, quán chúng sinh không, nên gọi là Hoàn. Quán bình đẳng không nên gọi là Tịnh. Lại nữa, tương ưng không Tam-muội nên gọi là Quán, vì tương ưng với không tướng Tam-muội nên gọi là Hoàn, tất cả chẳng phải nội, chẳng phải ngoại quán gọi là Tịnh. Cho nên Phạm Chí Tiên-ni nói: Chẳng phải nội quán cho nên được trí tuệ ấy, chẳng phải ngoại quán cho nên được trí tuệ ấy, cũng chẳng phải không quán cho nên được trí tuệ ấy. Lại nữa, Bồ-tát từ giả vào không quán nên gọi là Quán. Từ không vào giả quán nên gọi là Hoàn. Không giả nhất tâm quán nên gọi là Tịnh. Nếu như thế mà tu thì phải biết sáu diệu môn tức là Đại thừa. Nay muốn lại nói các việc khác cho nên nói lược chẳng đầy đủ. Giải thích mười sáu đắc thắng: có ba ý: một là giải thích tên gọi, hai là nói quán môn chế lập đồng, ba là nói tu chứng. Giải thích tên gọi: nói mười sáu đắc thắng gồm: một là biết hơi thở vào, hai là biết hơi thở ra, ba là biết hơi dài ngắn, bốn là biết hơi thở khắp thân, năm là trừ các thân hành, sáu là thọ hỷ, bảy là thọ lạc, tám là thọ các tâm hành, chín là tâm làm hỷ, mười là tâm làm nhiếp, mười một là tâm làm giải thoát, mười hai là quán vô thường, mười ba là quán xuất tán, mười bốn là quán dục, mười lăm là quán diệt, mười sáu là quán buông bỏ. Gọi chung mười sáu đặc thắng, mười sáu tức là số pháp, đặc thắng là từ nhân duyên mà được tên gọi. Như khi Phật chưa ra đời, ngoại đạo đều đã tu được bốn thiền, bốn không mà không có quán hạnh đối trị cho nên chẳng ra khỏi sinh tử. Như Lai thành đạo trước vì các lợi căn đệ tử như Câu-lân và xá-lợi-phất, v.v… nói bốn chân đế liền được dấu vết của Đạo. Lại vì Ma-ha Ca-diếp, Hy-na, v.v… thẳng nghe chân lý bốn đế mà chẳng ngộ. Lại nói quán bất tịnh để đối trị phá các phiền não. Do đây trước chín tưởng, bối xả, v.v… các thiền bất tịnh quán. Bấy giờ hành giả quán này được đạo vô lượng. Lại có một căn cơ chúng sinh bị tham dục buộc ràng. Nếu tâm chán ghét lại quán kỹ bất tịnh, liền càng sinh chán ghét thân này. Vô lậu chưa phát liền cố ý tự hại. Việc nầy như luật có nói rõ. Phật do đây mà bảo các Tỳ-kheo bỏ quán bất định, lại tu thắng pháp, gọi là mười sáu đặc thắng, tu thì sẽ được đạo. Mười sáu đặc thắng này có định có quán, trong ấy đầy đủ các thiền dùng các pháp hỷ lạc mà ái dưỡng nên không có lỗi tự hại, mà có thật quán quán sát chẳng mê đắm các thiền, do đó mà phát sinh vô lậu. Đã tiến lùi thong dong chẳng rơi vào hai bên, cũng đạt được đạo nên gọi là Đặc thắng. Hỏi: Nếu thế phải ở sau quán thiền mà nói tịnh thiền. Vì sao, vì nếu chấp giáo môn thì ở sau quán thiền. Nếu nói về hành pháp đã thắng hai bên thì cũng phải ở sau. Đáp: nay nói tướng cạn sâu của thiền định, lực dụng thì không phải là lúc đối duyên lợi vật. Vì sao? Vì là bối xả thắng xứ đều là quán được giải, sức quán đã chuyển được tưởng chuyển được tâm, nghóa dứt kiết rất mạnh. Nay đặc thắng này, chỉ là thật quán ba mươi sáu vật trong thân. Lực dụng yếu kém chẳng thể nhanh chóng dứt kiết sử, công đức cạn mỏng nên phải nói trước. Lại nữa, nếu quán bất tịnh xương người tan mất thì chẳng thể được lại quán hơi thở ra vào lỗ lông của thân người. Nếu đối với thật quán sau chuyển thành chín tưởng, bối xả, v.v… thì thành tựu nghóa không lỗi. Lại nữa kinh đại phẩm phẩm Quảng thừa quán mười sáu đặc thắng. Lại nữa, nói các quán thiền như chín tưởng bối xả, v.v… đây là nói chứng, chớ nên sinh nghi. Nói quán môn chế lập khác nhau: có hai giải thích: một là có người nói A-na-ba-na có mười sáu pháp quán này là đối với bốn niệm xứ. Nếu nói theo bốn niệm xứ, thì phải biết chỉ vị đáo địa ở cõi dục cho đến Sơ thiền thì đầy đủ. Thượng địa cõi Dục không phải chẳng được, chỉ vì quán pháp thức thiếu chẳng đầy đủ. Như bốn thiền đã không có thở ra vào và hỷ lạc, v.v… Nếu y cứ hơi thở và hỷ muốn nói niệm xứ thì chẳng tiện. Trên dưới so sánh mà biết. Cũng nói đối thân, ba thứ giữa đối thọ, hai thứ kế đối tâm, năm thứ sau đối pháp. Sư nầy nói mười sáu đặc thắng tự bảo y theo thiền kinh nói: một là quán hơi thở vào đến khi hết hơi; hai là quán hơi thở ra mà ngưng ở chót mũi; Ba là quán hơi thở dài ngắn, nếu thân chẳng an, tâm thường tán loạn, hơi thở ra vào đều ngắn. Nếu thân an tâm tịnh thì hơi thở ra vào đều ngắn. Nếu thân an tâm tịnh thì hơi thở ra vào đều dài; Bốn là hơi thở khắp thân, thân tâm đã an thì đường hơi không bị bít, giống như nuốt khí đã thông khắp thân; năm là trừ các thân hành. Căn thọ là tâm hành, giác quán là khẩu hành, thở ra vào là thân hành. Đã thở khắp thân sợ nó giác động thô niệm, vì trừ các thô nên gọi là trừ thân hành, năm thử nầy thuộc về thân niệm xứ. Thọ niệm xứ có ba, nghóa là thô tức trừ vì thân tâm an ổn; Sáu là thọ hỷ; Bảy là thọ lạc, tuy là có hỷ lạc rất nhỏ nhiệm nhưng đầy khắp thân. Đã đầy nội tâm vui vẻ nên gọi là Lạc; Tám là thọ các tâm hành, đã ôm thọ lạc thì có số pháp nương theo lạc cảnh của tâm nên gọi là thọ các tâm hành. Tâm niệm xứ có ba; Chín là tâm thực hành hỷ, đã dừng tâm ở một cảnh nhưng chưa có tuệ giải sẽ bị tâm chìm đắm che đậy, dùng hỷ nâng lên không để chìm đắm, ngủ gục) nên gọi là làm hỷ; Mười là tâm làm nhiếp, hỷ tâm động tán thì lỗi vượt mức nên thường nhiếp giữ khiến trở về, không chạy theo các duyên, nên gọi là làm nhiếp; Mười một là tâm làm giải thoát, là tâm chẳng trạo tán, quân đẳng mà không lụy, nên gọi là giải thoát. Pháp niệm xứ có năm; Mười hai là quán vô thường đã được tự tại, chẳng bị bại ở chìm nổi, nên quán các pháp vô thường, niệm niệm sinh diệt chẳng có gì đáng vui; Mười ba là quán tán hoại, thân nầy chẳng bao lâu sẽ bị tan hoại, là pháp sẽ mất đi, chẳng phải chân thật có; Mười bốn là quán lìa dục, thân này chỉ là khổ bản tâm muốn lìa, nên gọi là lìa dục’ Mười lăm là quán diệt, tâm ấy trụ diệt có nhiều lỗi lầm nên chẳng muốn trụ nữa; Mười sáu là quán buông bỏ, A-na-ba-na mười sáu hạnh nầy là tuệ tánh, không có một hơi thở ra vào nào mà chẳng biết, Sư ấy tự bảo y kinh nói mười sáu đặc thắng. Nay chưa thấy văn kinh, chỉ thuật lại mà không làm, cũng không dám sửa. Sư kế giải thích riêng rằng nếu đối với bốn niệm xứ khởi mười sáu hạnh, tất cả đều như thế, chỉ phân mà không điều, như mười sáu hạnh vô lậu y cứ vào bốn đế, một đế có bốn, bốn lần bốn là mười sáu. Hữu lậu cũng như thế, nhưng y cứ trong bốn niệm xứ mà nói trong một có bốn, bốn lần bốn là mười sáu nghóa cũng thế. Vừa nói thân niệm xứ có bốn để trừ thân hành thuộc thân, thì nghóa này chẳng đúng. Vì sao? Như tâm và hơi thở là thân hành, thì như kinh Đại Tập nói hơi thở chung cho ba hành, chẳng phải chỉ thuộc thân hành. Nay là nói thân hạnh, như luận Đại thừa nói hành gọi là thân nghiệp. Nay nói các nghiệp thiện ác đều từ tâm sinh, hơi thở của thân là pháp vô tri chẳng thể tạo thiện ác, chỉ là hạnh làm duyên. Nay thân vì tâm đến mà thọ thân khiến thân có tạo tác, nên gọi là Thân. Nay nói hạnh phá thọ tâm tức là phá hạnh, cho nên biết đây thuộc về thọ niệm xứ, phải biết trong thọ cũng có đủ bốn pháp. Vừa nói trong pháp có năm, quán vô thường thuộc về pháp niệm xứ. Ở đây cũng chẳng phải như thế. Vì sao? Vì trong kinh đều nói quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Nay nói quán vô thường chính là tâm niệm xứ. Đây thì trong một đều nói có bốn, bốn lần bốn mười sáu, nghóa ấy rất hợp. Có Sư thứ hai nói: mười sáu pháp này phải dọc đối các thiền, tám quán pháp có liên quan. Vì sao? Vì một là biết hơi thở vào, hai là biết hơi thở ra, đây là đối với sổ tức, ba là biết hơi thở dài ngắn, là đối với định cõi dục, bốn là biết hơi thở khắp thân, là đối với định Vị đáo địa, năm là trừ thân hành, là đối với chi Sơ giác, sáu là thọ hỷ là đối hỷ chi của Sơ thiền, bảy là tâm thọ lạc, là đối với lạc chi của Sơ Thiền, tám là thọ các tâm hành, là đối với chi nhất tâm của Sơ thiền, chín là tâm làm hỷ là đối với nội tịnh hỷ chi của nhị thiền, mười là tâm làm nhiếp, là đối với một tâm chi của Nhị thiền, mười một là tâm trụ giải thoát là đối với lạc chi của Tam thiền, mười hai là quán vô thường, là đối định bất động của Tứ thiền, mười ba là quán xuất tán là đối Không xứ, mười bốn là quán ly dục là đối Thức xứ, mười lăm là quán diệt, là đối Bất dụng xứ, mười sáu là quán buông bỏ, là đối với phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Ở đây thì từ mới điều tâm cho đến phát các thiền định mà nói quán hạnh đầy đủ, giải thích nầy là hơn. Nói về tu chứng: sở dó tâm gọi là tu chứng, là vì tâm làm tu tập, tâm chưa tương ưng với chứng tức là nhậm vận khai phát tâm được tương ưng. Đã có ba Sư chế lập pháp quán khác nhau. Nay cũng có hành giả chứng khác nhau. Sư thứ nhất nói: Ở Vị đáo địa cõi Dục và sơ thiền y cứ bốn niệm xứ mà nói mười sáu đặc thắng, thì pháp quán đại ý cũng chẳng khác. Như pháp quán trong sáu diệu môn nói ở trước chẳng phải không có khác chút ít mà danh mục cũng có khác, khéo tìm phối nhau thì nghóa sẽ hiểu, nên đây chẳng cần nói thêm về tu chứng. Nay chính là nói Sư thứ hai, dọc đối ba cõi là nói chân đặc thắng, từ trên chứa nói phương pháp quán tuệ nầy. Nay sẽ nêu ra tướng tu chứng, dọc nói tu mười sáu đặc thắng: một là biết hơi thở vào, hai là biết hơi thở ra, đây là đối thay đến hơi thở. Phương pháp điều hơi thở các việc như trong sổ tức đã nói. Hành giả đã điều hơi thở miên mật, nhất tâm nương theo hơi thở. Khi hơi thở vào thì biết từ mũi vào đến rún, khi thở ra thì biết từ rún ra đến mũi. Nhất tâm như thế biết rõ y theo hơi thở chẳng loạn. Khi ấy biết tướng hơi thở là thô hay tế. Nếu thô là biết như phong, suyễn, khí là thô. Nếu tế là biết Như tức là tế. Nếu khi thở vào là thô thì phải điều khiển tế. Đó gọi là biết tướng thô tế. Ví như người giữ cửa biết người ra vào ai tốt ai xấu, nếu biết tốt thì cho vào, xấu thì ngăn lại. Lại nữa, biết thô tế, là hơi thở vào thì thô, hơi thở ra thì tế. Vì sao? Vì khi hơi thở vào thì nhanh gấp, nên là tướng thô. Còn hơi thở ra thì rít chậm nên tế. Lại biết nặng nhẹ, là biết khi hơi thở vào thì nhẹ mà khi thở ra thì nặng. Vì sao? Vì khi thở vào thì trong thân có gió nên thể nhẹ còn khi thở ra thì thân không có gió nên biết là nặng. Lại biết rít hơn khi hơi thở vào thì trơn, hơi thở ra thì rít. Vì sao? Vì hơi thở từ ngoài đến hơi gió nhanh nên trơn, còn từ trong thân thở ra có các căn dơ lấp các lỗ lông cho nên rít. Lại biết lạnh Ấm, biết hơi thở vào thì lạnh, hơi thở ra thì Ấm. Vì sao? Vì hơi thở từ ngoài đến lạnh, nên khí vào thì lạnh, hơi thở từ trong ra có sức nóng trong thân nên khí ra Ấm. Lại biết lâu mau, hơi thở vào mau, hơi thở ra lâu. Vì sao? Vì hơi thở vào nhanh thì dễ biết, còn hơi thở ra rít chậm khó hết nên lâu. Lại phải biết do hơi thở ra thì có tất cả các khổ phiền não sinh tử qua lại trôi lăn chẳng dừng, tâm biết kinh sợ. Hành giả khi tùy tức thì biết có hơi thở như thế, các pháp tướng chẳng phải một, nên nói biết hơi thở ra vào. Hỏi: Vì sao lấy đây mà thay sổ tức. Đáp: Nếu là sổ tức thì thẳng che tâm sở không có quán hạnh. Khi tu chứng sinh nhiều ái kiến mạn, v.v… các bệnh phiền não. Ái là ái trước sổ tức này. Kiến là thấy ta năng đếm (sổ), mạn là bảo ta năng đối địch, lấy đây mà khinh chê người khác. Nay ta đã dùng Tùy mà thay Sổ. Khi tùy tức (theo lời thở) thì biết hơi thở này là vô thường, mang sống nương vào hơi thở này, lấy hơi thở làm mạng sống, một khi hơi thở không trở lại thì mạng không còn. Đã biết hơi thở vô thường, biết thân mạng bị nguy ách. Biết hơi thở vô thường thì chẳng sinh ái, biết hơi thở không phải ngã thì chẳng sinh kiến, ngộ vô thường thì chẳng sinh mạn. Ở đây thì từ phương tiện đầu đã phá được các kiết sử, chẳng giống với sổ tức (đếm hơi thở). Lại nữa hành giả nhất tâm nương hơi thở khiến tâm chẳng tán mà được, vào thiền định nhập, do đó cũng gọi là Ái, giác ngộ vô thường nên cũng gọi là Sách, tương ưng với định cũng gọi là hữu lậu, quán hạnh chẳng mê đắm cũng gọi là Vô lậu. Lại nữa, khi sổ tức tối tăm mà đếm, đã không soi rõ sau nầy khi chứng định thì tâm không thấy. Nay tùy hơi thở đã sáng, tâm soi hơi thở, sau nầy chứng định thì mắt tâm mở sáng, thấy ba mươi sáu vật của thân mà phá ái kiến mạn. Đây thì đặc thắng hơn sổ tức. Ba là biết hơi thở dài ngắn, đây là đối với định cõi Dục. Nếu khi chứng định cõi Dục thì phải là định trong sáng, đều chẳng biết tướng mạo trong hơi thở. Nay trong đây khi mới được định liền biết tướng dài ngắn của hơi thở. Thế nào là Giác? Nếu khi tâm định thì biết hơi thở vào dài, hơi thở vào dài, hơi thở ra ngắn. Vì sao? Vì tâm đã tónh trụ trong hơi thở, tùy tâm mà vào nên vào thì biết dài, tâm đã chẳng duyên ngoài nên ra thì biết ngắn. Lại nữa biết hơi thở dài thì tâm tế, biết hơi thở ngắn thì tâm thô. Vì sao? Vì tâm tế thì hơi thở tế, hơi thở tế thì vào từ mũi đến rún nhẹ Ấm mà dài. Hơi thở ra từ rún đến mũi cũng thế. Tâm thô thì hơi thở thô, hơi thở thô thì vào từ mũi đến rún gấp nhanh ngắn, hơi thở ra từ rún đến mũi cũng thế. Lại nữa, hơi thở ngắn nên biết tâm tế, hơi thở dài nên biết tâm thô. Vì sao? Như tâm đã chuyển tịnh, hơi thở ra từ rún đến ngực liền hết, hơi thở vào từ mũi đến cổ họng liền biết hết. Đây là tâm tịnh nên biết hơi thở ngắn, biết dài cho nên tâm thô, như hành giả tâm thô, cho nên biết hơi thở từ rún đến mũi, từ mũi đến rún, khoàng đường dài xa. Đây thì tâm thô nên biết hơi thở dài. Lại trong ngắn mà biết dài thì là định tế, trong dài biết ngắn thì là định thô. Vì sao? Vì hơi thở từ mũi đến ngực thì hết, ở đây thì chẳng đi tuy ngắn mà thời gian lâu mới đến rún, đây thì chỗ đi ngắn mà thời gian dài. Nếu ở đây mà nói trong ngắn biết dài thì định tế, biết trong dài mà ngắn là thô. Như tâm thô cho nên hơi thở từ mũi đến rún, khoảng đường rất dài mà thời gian ngắn trong khoảng giây lát liền ra đến mũi. Vì sao? Vì tâm thô, thì hơi thở đi nhanh. Ở đây tuy dài mà ngắn, vậy hơi thở này ngắn thì là tâm thô. Cho nên nói dài trong ngắn mà tế, ngắn trong dài mà thô, như đây biết thời gian dài ngắn, biết vô thường do tâm sinh diệt bất tịnh. Nay tướng mạo hơi thở dài ngắn chẳng phải một. Khi được định này giác ngộ vô thường lại càng rõ ràng. Chứng định cõi dục nên gọi là Ái, quán hạnh biết vô thường nên gọi là Sách. Đây là nói lược thứ ba là biết hơi thở dài, ngắn mà phá định cõi dục; Bốn là biết hơi thở khắp thân là đối với định vị đáo địa, nếu Vị đáo địa căn bản biết ngay thân tướng tan mất như hư không. Khi ấy thật có thân dứt, chỉ vì mắt chẳng mờ nên chẳng biết, chẳng thấy. Nay trong đặc thắng khi phát Vị Đáo địa cũng tan mất mà vào định, liền dần biết có thân như mây bóng. Biết hơi thở ra khắp lỗ lông. Khi ấy cũng biết tướng hơi thở dài ngắn. Thấy hơi thở vào mà không chứa nhóm, thở ra mà không phân tán vô thường sinh diệt. Biết thân không giả chẳng thật, cũng biết sinh diệt sát na chẳng dừng, ba việc hòa hợp nên có định sinh, ba việc đã không thì định không chỗ nương. Biết không cũng không, nên ở trong định không mê đắm, định tức là phá vị đáo địa căn bản, nghóa ái sách đã ở trong ấy. Hỏi: Trong Đại thừa và các kinh phần nhiều nói quán hơi thở ra vào. Vì sao nói biết hơi thở ra vào? Đáp: Ở đây nói biết là quán, mà pháp quán thật chưa đầy đủ, nên nay nói là biết. Trong phẩm Quảng Thừa của kinh Đại Phẩm có nói tướng mười sáu đặc thắng, đều nói biết hơi thở ra vào dài ngắn. Lấy văn ấy làm chứng, nên nói biết thì không trái văn nghóa. Quán tuệ ở sau sẽ nói thiền có hai: một là nói thân hành, hai là nói trừ thân. Thân hành là trong thân cõi dục phát được Sơ thiền. Bốn đại cõi sắc tạo thân sắc xúc cõi dục. Thân căn cõi dục sinh ra thân thức, biết sắc xúc này. Sắc của hai cõi vì cùng nương trụ nên gọi là Thân. Thân hành tức là quán chi. Quán chi này từ thân phần sinh ra biết pháp trong thân có sự tạo tác, nên gọi là thân hành; Hai là nói trừ thân hành, vì biết hơi thở khắp thân mà phát được Sơ thiền. Mắt tâm mở thấy ba mươi sáu vật của thân hôi thúi dơ bẩn đáng ghét. Bấy giờ, liền biết ba mươi sáu vật vì bốn đại có sáu phần như đầu v.v… mỗi món đều chẳng phải thân, trong bốn đại mỗi đại đều chẳng phải thân. Ở đây tức là trừ thân cõi dục. Trừ thân Sơ thiền, là trong thân cõi dục tìm bốn đại cõi sắc chẳng thật có, gọi là trừ thân Sơ thiền. Vì sao? Nếu nói có cõi sắc tạo sắc là từ ngoài đến hay từ trong ra, nay ở khoảng giữa, khi quán như thế thì rốt ráo chẳng thật có? Chỉ vì điên đảo nhớ tưởng nên nói thọ xúc cõi sắc. Quán kỹ chẳng thật tức là trừ thân Sơ thiền. Thân trừ cho nên thân hành liền diệt. Lại nữa, khi chưa được Sơ thiền, thì trong thân cõi dục khởi các hạnh thiện ác, nay thấy thân bất tịnh thì chẳng tạo ra các kết nghiệp thiện ác, nên gọi là trừ thân hành. Nay nói định này cũng có hai thứ: một là năm chi căn bản như trước nói; hai là năm chi tịnh thiền. Biết ba mươi sáu vật của thân là luống dối chẳng thật thì gọi là Giác. Phân biệt thiền này cùng cõi dục và căn bản, công đức có hơn kém thì gọi là Quán. Đã được pháp hỷ tâm rất mừng rỡ, thì gọi là Hỷ. Đối với vô cấu thọ vui điềm đạm thì gọi là Lạc, chánh định giữ tâm chẳng để lay động gọi là Nhất tâm. Trong đây chi trừ thành tựu hỷ lạc thắng diệu, mà tâm không đắm nhiễm nên gọi là Tịnh thiền. Lại nữa, như trong A-tỳ-đàm nói có nghóa ẩn một vô ký có cấu hay chẳng ẩn một có ký vô cấu, y theo hai thứ thiền này mà phân biệt rộng; Sáu là thọ hỷ, tức là đối phá hỷ chi của Sơ thiền, trong thiền căn bản thì hỷ chi từ ẩn một có cấu sau giác quán mà sinh đã không có quán tuệ soi rõ thì sinh ra nhiều phiền não, vì vậy chẳng nên thọ. Nay nói thọ hỷ, ở trong giác quán chi của Tịnh thiền sinh ra, vì có quán hạnh chia chẻ giác quán tánh không, phải biết từ giác quán tánh không, phải biết từ giác quán sinh hỷ cũng không, tức đối với trong hỷ chẳng mê đắm không có các tội lỗi nên nói là thọ hỷ. Như bậc La- hán chẳng mê đắm tất cả cúng dường, nên gọi là Ứng cúng. Lại nữa, như tri kiến chân thật được chân pháp hỷ nên nói là Thọ hỷ; Bảy là thọ lạc, là đối lạc chi của thiền căn bản. Thiền ấy đã không có lạc trong quán tuệ vì nhiều nhiễm, chẳng nên thọ. Nay nói thọ lạc, là thọ không lạc, biết lạc tánh không, đối với lạc không mê đắm. Đã không có lỗi lầm của lạc, trên không chứng lạc vô vi riêng, nên nói là thọ lạc; Tám là thọ các tâm hành, đây là đối phá chi nhất tâm của căn bản. Nay nói năng thông các pháp nên gọi là các tâm hành. Tâm hành có hai: một là động hành, hai là bất động hành. Có người giải thích rằng: từ Sơ thiền đến Tam thiền cũng là động hành. Tứ thiền trở lên gọi là Bất động hành. Nay y cứ nói bất động hành; bốn chi như Giác, v.v… là động hành, chi nhất tâm sau là bất động hành, cũng gọi là tâm hành, tức là chi nhất tâm là hạnh bất động. Nếu khi thiền căn bản vào nhất tâm mà tâm sinh đắm nhiễm, thì nhất tâm này chẳng nên thọ. Nay nói thọ các tâm hành, là biết nhất tâm nầy luống dối chẳng thật, nhất tâm chẳng phải tâm, liền chẳng mê đắm, đã không có lỗi lầm thì tức là Tam-muội chánh thọ, nên nói thọ các tâm hành. Chín là tâm làm hỷ, đây là đối nội tịnh hỷ của Nhị thiền. Vì sao? Vì hỷ Nthiền từ nội tịnh phát ra, vì không có trí tuệ soi rõ liễu mà thọ nhiều. Nay quán hỷ này liền biết giả dối mà chẳng sinh thọ trước. Như chân thật biết sinh pháp hỷ thì cũng gọi là Hỷ giác phần. Đã từ tâm chánh quán mà sinh chân pháp hỷ nên gọi là Tâm làm hỷ. Mười là tâm làm nhiếp, đây là đối chi nhất tâm của Nhị thiền. Vì sao? Vì nhị thiền hỷ động, trải qua nhiếp thọ nên nói tâm làm nhiếp. Nay nói nhiếp là chánh vì phá hỷ giả trước sinh hỷ mà biết hỷ. Hỷ nầy tuy chánh mà đều có lỗi động mạnh, tức phải quán ngược lại tánh hỷ, đã tâm biết định vắng lặng rốt ráo thì chẳng loạn, chẳng tùy theo hỷ động, nên gọi là làm nhiếp. Cho nên kinh Đại Tập nói là động chí tâm. Mười một là tâm trụ giải thoát, là đối phá lạc của Tam thiền. Vì sao? Vì Tam thiền có lạc khắp thân. Phàm phu được thì sinh nhiều nhiễm bị ái buộc ràng, nên không được giải thoát. Nay nói giải thoát, là dùng quán tuệ chia chẻ, khi chứng lạc khắp thân liền biết lạc này từ nhân duyên sinh là không, chẳng có tự tánh, giả dối chẳng thật, quán lạc tâm chẳng mê đắm, được tự tại nên gọi là Tâm làm giải thoát. Mười hai là quan vô thường, đây là đối phá bất động của Tứ thiền. Vì sao? Như trong thế gian có pháp động và bất động, ba thứ bị lạc động, cũng gọi là Pháp động. Nay bốn thiền này gọi là bất động tịnh. Khi phàm phu được định này thì phần nhiều nghó là thường mà tâm sinh ái thủ. Nếu nay quán định này, sinh diệt thay thế ba tướng dời đổi. Biết là tướng phá hoại chẳng an. Nên kinh nói: tất cả pháp động và bất động ở thế gian đều là tướng bại hoại chẳng an, nên gọi là quán vô thường; Mười ba là quán xuất tán, đây là đối phá không xứ. Vì sao xuất tức lìa khỏi cõi sắc? Tán tức tan ba thứ sắc. Lại nữa, xuất tán tức là lìa sắc tâm mà nương vào hư không tiêu tan tự tại, chẳng bị sắc pháp buộc ràng, nên gọi là Xuất tán. Khi phàm phu được định này cho là chân không an ổn tâm mà sinh mê đắm. Nay nói quán xuất tán là hành giả khi mới nhập vào hư không xứ, tức biết bốn Ấm hòa hợp mà có, không có tự tánh chẳng nên mê đắm chấp lấy. Vì sao? Vì nếu nói có xuất tán thì là hư không xuất tán hay tâm xuất tán? Nếu là tâm xuất tán thì tâm là ba tướng đổi dời, quá khứ đã mất, vị lai chưa đến, hiện tại không dừng trụ thì làm sao có thể xuất? Nếu là hư không xuất tán, mà không là pháp vô tri thì làm sao có xuất tán. Đã chẳng được Không định thì tâm không thọ trước, đó gọi là quán xuất tán; Mười bốn là quán ly dục, đây là đối Thức xứ. Tất cả yêu đắm cảnh ngoài đều gọi là Dục. Từ cõi dục cho đến Không xứ đều là cảnh ngoài tâm. Nếu hư không là cảnh ngoài thức đến lãnh thọ không này, liền dùng không làm chỗ ưa thích. Nay Thức xứ định duyên với nội thức, lìa dục ngoại không cho nên lìa dục. Nếu phàm phu được định này không có mắt tuệ soi rõ, nên bảo rằng tâm tương ưng với thức, chân thật an ổn liền sinh đắm nhiễm, nay nói quán lìa dục là khi được định nầy liền quán sát chia chẻ. Nếu nói dùng tâm duyên thức, tâm tương ưng với thức mà được nhập định thì đã thật chẳng phải thế. Vì sao? Vì thức ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều không tương ưng với tâm hiện tại. Sao lại nói tâm tương ưng với thức ba đời. Định pháp giữ tâm gọi là Thức định, cho nên biết thức định này chỉ có tên gọi mà dối trá chẳng thật, nên được lìa dục (lìa ưa thích). Mười lăm là quán diệt, đây là đối với Vô sở hữu xứ. Vì sao như thế? Định nầy duyên với pháp trần vô vi, tâm tương ưng với vô vi, đối với pháp trần vô vi mà phát ra chút thức. Phàm phu được thì bảo là tâm diệt, sinh nhiều mê đắm chẳng buông bỏ, bị nó ràng buộc. Nay nói quán diệt, là khi được định nầy liền biết có chút thức. Thức này tuy (ít) mà cũng có bốn Ấm hòa hợp, vô thường, vô ngã giả dối. Thí như cứt đái nhiều ít dơ thúi chẳng nên đắm nhiễm, đó gọi là quán diệt. Mười sáu là quán xả bỏ, đây là đối với Phi tưởng. Vì sao? Vì phi tưởng đối trị hai bỏ, từ Sơ thiền trở lại chỉ có bỏ khắp, không có hai bỏ, chưa gọi là xả bỏ. Nay Phi tưởng này đã bỏ hai thứ có không mà gọi là xả bỏ. Cũng vì định này tốt nhất trong xả nên được gọi sau cùng. Nếu phàm phu khi được định này thì bảo là Niết-bàn không có, quán tuệ biết rõ nên không thể lìa bỏ. Nay nói xả bỏ là khi được thiền này liền biết là bốn Ấm, mười hai nhập, ba giới và mười tâm sở nhỏ nhiệm… hòa hợp mà thành. Phải biết định nầy vô thường, hoặc không, vô ngã, giả dối không thật. Chẳng nên chấp là Niết-bàn mà sinh tưởng an vui, đã biết trống không, thì chẳng nhận lấy mà mê đắm, nên gọi là quán xả bỏ. Tuy cầu định tướng mà cũng thành tựu định này. Khi ấy, liền đủ hai thứ xả bỏ: một là căn bản xả bỏ, hai là Niết-bàn xả bỏ. Bỏ hẳn sinh tử nên gọi là quán xả bỏ. Bấy giờ hành giả quán sâu xả bỏ liền được ngộ Niết- bàn Ba thừa. Việc nầy như Tu-bạt-đà-la, Phật khiến quán tế tưởng trong phi tưởng thì liền được quả A-la-hán. Nay nói ngộ đạo chưa hẳn phải quán đủ mười sáu thứ, hoặc chỉ hai ba đặc thắng thì liền ngộ đạo. Đây là tùy người, chứ chẳng nhất định. Từ trước đến nay phát đủ định căn bản nên gọi là hữu lậu. Ở trong đó quán hạnh chia chẻ chẳng mê đắm, nên gọi là vừa vô lậu. Cho nên nói đặc thắng là thiền vừa hữu lậu, vừa vô lậu. Đây là dọc đối các thiền ba cõi, mỗi tướng quán pháp cho đến nghóa đều có thể thấy rõ. <篇> THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN <卷>QUYỂN 8 <詞>CHƯƠNG VII: GIẢI THÍCH TU CHỨNG THIỀN BA LA MẬT (Tiếp Theo) Giải thích tu chứng thông minh quán: Nay nói về đại ý của thiền này có ba: một là giải thích tên gọi, hai là nói về vị thứ, ba là nói tu chứng. Giải thích tên gọi: sở dó thiền nầy gọi là thông minh quán, vì phương pháp quán nầy trích từ văn kinh Đại Tập không có danh mục (tên gọi), khác với các nước phương Bắc, các Thiền sư tu được thiền này muốn trao cho người mà không biết tên gọi của nó, chính vì trong thiền căn bản dục an thiền mà pháp tướng của nó rất khác, với mười sáu đặc thắng thì danh mục, không có liên quan gì. Nếu đối với bối xả thắng xứ thì phương pháp quán hạnh rất khác, tiến lùi đều chẳng tương ưng. Sở dó các Sư làm danh mục (tên gọi) riêng gọi là Thông minh quán thiền là vì hoặc có người nói trong kinh Hoa Nghiêm có danh mục này. Nói Thông, tức là khi mới tu tập dùng chung để quán ba việc, tức nếu khi quán hơi thở thì liền soi rõ các sắc. Nếu quán sắc cho đến tâm thì cũng như thế. Pháp này trong sáng, có khả năng mở sáng mắt tâm không có các tối tăm, che mờ. Đã quán một thì thấu suốt ba, thấy thấu suốt không tối tăm nên gọi là Thông minh. Lại nữa, khéo tu thiền này thì chắc chắn phát được sáu thông, ba minh. Kinh Đại Tập nói pháp hạnh Tỳ-kheo khi tu thiền nầy muốn được thần thông thì liền được. Nay nói thông tức là được sáu thông, còn minh tức là năng sinh ra ba minh. Đây là trong nhân mà nói quả, nên nói quán thông minh. Hỏi: Các thiền khác cũng có thể phát sáu thông, ba minh, sao chỉ nói thiền này là Thông minh? Đáp: các thiền khác có nghóa thông minh khác nhưng chẳng nhanh bằng thiền nầy, nên gọi là Thông minh. Hỏi: như kinh Đại Tập cũng giải thích riêng danh nghóa thiền nầy, cho nên kinh nói: nói thiền là nhanh chóng nên gọi Thiền, nay vì sao lập riêng tên này? Đáp: Kinh ấy tuy có giải thích đối với nghóa là sáng nầy, nhưng tên gọi thì vẫn chưa có, chẳng có danh mục, nên lại đặt tên là Thông minh. Nói về thứ vị, thiền này không có thứ vị riêng, cũng là y cứ bốn thiền bốn không căn bản mà lập vị thứ. Chỉ đối với mỗi thiền lại có tăng thắng pháp quán định xuất thế gian, phát sinh vô lậu và ba minh sáu thông nhanh chóng. Cũng ở Phi tưởng hậu tâm diệt các tâm sở, vào định diệt thọ tưởng, chẳng đồng căn bản thầm chứng chấp trước không có thần trí công năng, cho nên tuy vị thứ đồng với căn bản mà quán tuệ thì khác, sợ người hiểu lầm nên lập tên riêng. Tuy tên có khác mà vị thứ không khác. Hỏi: Nếu thiền này được vào diệt định thì có gì khác với chín định thứ đệ? Đáp: Khi tu định mà tâm tâm không gián cách thì cũng được gọi là chín định thứ đệ. Nhưng không phải hoàn toàn là chín định thứ đệ. Việc này ở sau sẽ thấy rõ. Nếu y cứ luận thành thật giải thích về chín định có tám giải cũng là đầy đủ. Ba là nói về tu chứng, thiền này đã không có thứ vị riêng, lại y cứ vị thứ của căn bản mà nói về tu chứng: một là trước nói tướng tu chứng Sơ thiền. Như kinh Đại Tập chép: Sơ thiền cũng gọi là đủ, cũng gọi là lìa, lìa là lìa năm cái, đủ là đủ năm chi. Năm chi là giác, quán, hỷ, an, định. Thế nào là giác? Như tâm giác đại giác, tư duy đại tư duy mà quán tâm tánh, đó gọi là Giác. Thế nào là Quán? Là quán tâm hành đại hạnh biến thanh tùy ý, đó gọi là Quán. Thế nào là Hỷ? Như chân thật biết đại biết tâm động đến Tâm, đó gọi là Hỷ. Thế nào là an? Tức là tâm an thân an, thọ an mà nhận các lạc xúc (xúc vui), đó gọi là An. Thế nào là Định? tức là tâm trụ đại trụ bất lọan, đối với duyên chẳng lầm, không có điên đảo, đó gọi là định. tức là kinh ấy giải thích sơ lược tướng tu chứng Thông minh sơ thiền. Suy văn kinh này nói về năm chi thì rất khác với các kinh luận khác, nên phải giải thích riêng. Trước giải thích như tâm, như tâm tức là Sơ thiền, định tiền phương tiện phát, cũng tức là Vị đáo địa. Chỉ chứng chẳng phát riêng, phải do tu tập. Hành giả tập phải thế nào? Là từ mới an tâm liền quán hơi ba thứ thở, sắc, tâm không khác nhau. Quán ba việc, tức trước phải quán hơi thở. Thế nào là quán hơi thở? Nghóa là nhiếp tâm ngồi yên điều hòa hơi thở, nhất tâm quán chắc hơi thở khắp thân ra vào. Nếu tuệ tâm trong sáng liền biết hơi thở vào không chứa nhóm, hơi thở ra không phân tán, đến không nguyên do, đi không cần bước, tuy biết rõ hơi thở vào ra khắp thân, như gió trong hư không, tánh chẳng thật có. Ấy là lược nói quán hơi thở như tướng tâm. Kế quán sắc như hành giả đã biết hơi thở nương vào thân, lìa thân thì không có hơi thở. Liền quán chắc sắc thân, như sắc nầy vốn xưa chẳng có, đều là do nhân duyên vọng tưởng đời trước chiêu cảm, đời này bốn đại tạo sắc, vậy quanh hư không, nên giả gọi là Thân. Một tâm quán chắc đầu, v.v… sáu phần ba mươi sáu vật và bốn đại bốn vi, mỗi mỗi đều chẳng phải thân. Bốn vi bốn đại cũng đều chẳng phải thật, còn chẳng tự có làm sao có thể sinh thân sáu phần ba mươi sáu vật, chẳng có thân sắc thật có. Bấy giờ, tâm không phân biệt, liền đạt được sắc như, kế quán tâm như, hành giả phải biết do có tâm thì có thân sắc tới lui chuyển động. Nếu không có tâm này thì ai phân biệt sắc, sắc do ai sinh, quán chắc tâm nầy nhờ duyên mà có, sinh diệt nhanh chóng chẳng thấy chỗ ở, cũng không tướng mạo, chỉ có tên gọi. Tên gọi cũng không, tức đạt Tâm như. Hành giả nếu chẳng được tâm tánh riêng khác, thì gọi là Tâm như. Lại nữa nếu hành giả khi quán hơi thởi đã chẳng được hơi thở, liền biết sắc tâm vắng lặng. Vì sao? Vì ba pháp ấy chẳng lìa nhau. Sắc tâm cũng như thế, nếu chẳng được ba việc sắc tâm thì tức chẳng được tất cả pháp. Vì sao? Do ba việc nầy hòa hợp mà sinh ra tất cả Ấm nhập giới, các khổ phiền não, hạnh nghiệp thiện ác qua lại năm đường trôi lăn, chẳng dừng. Nếu hiểu rõ ba việc không sinh thì tất cả các pháp xưa nay vắng lặng, ấy là lược nói tu tập tướng Tâm như. Nói về tướng chứng, ở đây cũng có đủ chứng tướng cõi dục và Vị đáo địa. Hành giả như trên mà quán sát ba tánh đều chẳng thật có, tâm ấy nhậm vận tự tại chân như. Tâm ấy tan mất, vắng lặng gọi là định cõi Dục, ở định này hậu tâm y theo pháp chân như, tâm tan mất nhập vào định cùng tương ưng với pháp như giữ tâm, tâm định bất động, tan mất chẳng thấy ba pháp thân, hơi, thở, tâm có tướng khác nhau, một thứ cũng như hư không nên gọi là Tâm như, tức là Thông minh Vị đáo địa. Kế là giải thích Sơ thiền phát tướng như trước có dẫn. Kinh nói: ở đây phải giải thích đủ năm chi chứng tướng. Nay trước y cứ vào Giác chi làm gốc, nghóa Giác đã thành rồi, giải thích bốn chi kia thì rất dễ thấy. Do đó kinh nói giác đại giác. Giác là giác thiền căn bản, giác xúc phát tướng, nên gọi là Giác. Việc này như trước nói chỉ có nghóa nặng nhẹ là khác. Đại giác là rỗng suốt, mắt tâm mở sáng, thấy rõ ba việc phát tướng. Đây là giải thích phụ, chưa phải ý chánh. Nay lại phân biệt nghóa giác, đại giác, nói giác tức là tướng thế gian, đại giác tức là Xuất thế gian, là đối hai đế chân tục mà giải thích. Ở đây cũng có nghóa hữu lậu và vô lậu. Nay nói thế gian thì có ba thứ: một là căn bản thế gian, là một kỳ hạn chánh báo năm Ấm, hai là Nghóa thế gian, biết pháp căn bản và tất cả pháp bên ngoài nghóa lý tương quan, ba là Sự thế gian. Khi phát năm thông đều thấy tất cả các loài chúng sinh và việc thế gian. Thế gian đã có ba thứ, xuất thế gian đối thế gian cũng là ba. Vì sao? Vì căn cơ chúng sinh có hạ, trung, thượng lợi độn không bằng nhau, cho nên tuy đồng chứng Sơ thiền này mà cảnh giới cạn sâu thật ra có khác. Cho nên phải y cứ ba nghóa mà phân biệt chứng Sơ thiền khác nhau. Một là giải thích y cứ căn bản thế gian xuất thế gian mà nói giác, đại giác năm chi thành tướng sơ thiền, tức có hai ý: một là nói sơ thiền phát tướng, hai là giải thích tướng khác nhau của năm chi giác đại giác. Hai là giải thích sơ thiền phát tướng: Có ba ý, phẩm thứ khác nhau: một là mới phát, hai là kế, ba là sau. Về tướng mới phát, hành giả khi phát Sơ thiền liền rỗng rang thấy thân mình chín mươi chín ngàn lỗ lông trống rỗng, hơi thở ra vào khắp lỗ lông. Tuy mắt tâm thấy rõ khắp thân ra vào, mà hơi thở vào không chứa nhóm, thở ra không phân tán, đến không nguyên do, đi không cất bước, liền thấy ba mươi sáu vật trong thân, mỗi vật rõ ràng. Ba mươi sáu vật là: tóc, lông, răng, móng, da mỏng, da dày, gân, xương, thịt, tủy, tì, thận, tim, gan, phổi, ruột già, ruột non, bao tử, mật, phân, nước tiểu, nước mũi, nước mắt, máu, mũ, nước dãi, đàm vàng, đàm trắng, mỡ, não, mô, bào thai… ba mươi sáu vật này, mười thứ bên ngoài, hai mươi sáu thứ bên trong, hai mươi hai là đất, mười bốn là nước, đã thấy tướng đất, nước, gió rõ ràng. Lại biết các vật đều có khí nóng nung nấu là tướng hỏa. Quán bốn đại cũng như bốn con rắn đồng ở trong một cái hộp. Con rắn bốn đại, tánh đều khác, cũng như người mổ trâu phân thịt ra làm bốn phần, quán kỹ bốn phần đều chẳng liên quan. Hành giả cũng thế, tâm rất sợ hãi. Lại nữa, hành giả không phải chỉ thấy ba mươi sáu vật, bốn đại giả hợp bất tịnh đáng ghét mà còn biết năm thứ bất tịnh: một là thấy mười vật bất tịnh bên ngoài tâm sinh chán ghét, đó là tự tướng bất tịnh. Hai là tướng hai mươi sáu vật trong thân tánh bất tịnh, đó là tự tánh bất tịnh. Ba là tự biết thân này từ lúc Ca-la-la tinh cha huyết mẹ hòa hợp thành thân, đó gọi là hạt giống bất tịnh. Bốn là thân nầy khi ở trong thai giữa sinh tạng và thục tạng, đó gọi là sinh xứ bất tịnh. Năm là khi thân nầy chết rồi thì ở gò mả rã nát hôi thối, đó gọi là cứu cánh bất tịnh. Phải biết thân này từ đầu đến cuối bất tịnh tạo thành không có chút gì đáng ưa thích, mà rất là đáng chán ghét. Ta vì không có mắt nên từ xưa đến nay mê đắm thân bất tịnh hôi thối này, mà gây ra nghiệp sinh tử, ở trong vô lượng kiếp nay mới giác ngộ, buồn vui xen lẫn. Năm thứ bất tịnh như luận Đại thừa có nói rộng. Lại biết trong định tâm thức duyên với các cảnh giới, niệm niệm chẳng dừng. Các pháp tâm sở tiếp tục sinh khởi, nghó về tướng khác lạ cũng chẳng phải một, đó gọi là tướng sơ chứng Sơ thiền. Kế nói tướng trung chứng Sơ thiền, hành giả trụ trong định Tam- muội nầy sâu dần thì biết hơi thở năm tạng sau, tướng hơi thở đều khác, đó là các mầu xanh vàng đỏ trắng đen tùy tạng khác nhau ra đến lỗ chân lông. Nếu từ căn vào thì sắc tướng cũng khác nhau. Như thế mà phân biệt tướng khí chẳng phải một. Lại thấy thân nầy da mỏng, da dày, mô thịt đều có chín mươi chín lớp, xương lớn, xương nhỏ có ba trăm sáu mươi đốt và tủy đều có chín mươi tám lớp, ở giữa xương thịt có các giòi trùng, bốn đầu bốn miệng chín mươi chín đuôi, hình tướng như thế chẳng phải một. Cho đến ra vào, tới lui, âm thanh nói năng cũng đều biết rõ. Chỉ có não là có bốn phần, mỗi phần có mười bốn lớp. Trong thân, năm tạng các lá che nhau cũng như hoa sen, các lỗ trống trong ngoài thông nhau cũng đều có chín mươi chín lớp, giữa các vật cũng đều có tám mươi ổ giòi trùng, ở trong đó mà giúp nhau, sai khiến nhau. Nếu khi hành giả tâm tịnh tế thì ở trong định nghe tiếng các giòi trùng nói năng, hoặc do đó mà hiểu Tam-muội ngôn ngữ của chúng sinh (Tam- muội hiểu tiếng nói chúng sinh). Trong thân các mạch thì mạch tim làm chủ, lại từ mạch tim sinh ra mạch bốn đại, mỗi đại đều có mười mạch, trong mười mạch mỗi mạch đều có chín mạch, hợp thành bốn trăm mạch. Từ đầu đến chân bốn trăm lẻ bốn mạch, bên trong đều có khí và máu chảy tưới tẩm. Trong các mạch máu này cũng có các vi trùng bé nhỏ nương mạch mà ở. Hành giả như thế biết thân này trong ngoài chẳng thật, cũng như thân cây chuối. Lại quán tâm sở tùy chỗ duyên đều có bốn tâm thọ, tưởng, hành, thức khác nhau chẳng đồng. Nói tướng hậu chứng Sơ thiền. Hành giả Tam-muội trí tuệ càng sâu càng trong sáng bén nhạy. Lại thấy hơi thở đều hòa đồng là một tướng như bình lưu ly không phải xanh vàng, đỏ trắng. Cũng thấy hơi thở ra vào vô thường, sinh diệt, đều vắng lặng. Lại thấy tướng thân thường đổi mới, vô thường thay nhau. Vì sao? Vì ăn uống là bốn đại bên ngoài vào bụng giúp thân đổi mới bốn đại đã sinh, phải biết thân cũ tùy theo đó mà diệt. Thí như cây cối sinh lá mới thì lá cũ đều rụng. Thân cũng giống như thế, kẻ ngu chẳng biết bảo là tiếc thân, người trí ở trong Tam-muội biết thân tướng này vô thường đổi mới sinh diệt không có tự tánh, sắc chẳng thật có. Lại khi một tâm niệm sinh, liền có sáu mươi sát-na sinh diệt. Hoặc có người nói sáu trăm sát na sinh diệt nhanh chóng không có tự tánh, tâm chẳng thật có. Hai là giải thích tướng thành giác quán năm chi, có năm: một là giải thích giác chi, kinh nói giác chi, là giác đại giác, tư duy đại tư duy. Đại tư duy, là quán tâm tánh y cứ năm câu nầy để nói tướng giác. Nay trước giải thích hai câu giác và đại giác. Đây là y cứ cảnh giới thế gian và xuất thế gian mà phân biệt, có hai giác khác nhau. Cảnh thế gian tức là tướng khác, cảnh xuất thế gian tức là tướng như. Hai thứ như và khác nầy tức là tên khác của tục đế và chân đế. Nay y cứ vào quán môn cạn sâu dễ thấy, đều toàn ý vào Đại thừa mà phân biệt. Luận chép: có ba thứ thượng, trung, hạ. Như và khác có ba thứ thì Giác và Đại giác cũng có ba thứ. Ý theo luận phân biệt giả danh là khác. Phân biệt bốn đại thật pháp đồng thể, gọi là hạ như. Phân biệt địa đại khác ba đại kia, gọi là khác, đồng một thứ vô thường sinh diệt chẳng khác gọi là thứ như. Vô thường sinh diệt gọi là dị. Sinh diệt tức không, không khác thì gọi là thượng như. Nay y cứ thiền làm hạ trung thượng phẩm mà nói tướng cạn sâu của quán môn. Nói tướng giác bậc hạ là biết hơi thở ra vào các mầu xanh vàng đỏ trắng cách biệt nhau gọi là Giác. Biết các hơi thở này dồng một phong đại không khác, gọi là Đại giác, kế là biết ba mươi sáu vật cách biệt nhau gọi là Giác. Biết ba đại kia không khác nhau gọi là Đại giác. Biết tâm sở chẳng phải một là Giác, biết đồng là bốn tâm không khác gọi là Đại giác. Nói tướng giác bậc trung: biết hơi thở là phong đại là Giác, biết hơi thở sinh diệt vô thường gọi là Đại giác. Biết ba đại kia khác nhau gọi là Giác, biết đồng một vô thường sinh diệt chẳng khác gọi là Đại giác. Biết bốn tâm khác nhau chẳng đồng gọi là Giác. Biết vô thường sinh diệt chẳng khác gọi là Đại giác. Nói tướng giác bậc thượng: biết hơi thở vô thường là khác, hơi thở này là tám tướng đổi dời nên Vô thường. Tám tướng là: sinh, trụ, dị, diệt, sinh sinh, trụ trụ, dị dị, diệt diệt, tám tướng nầy đổi dời pháp thể khác nhau chẳng phải một, nên gọi là Giác. Biết hơi thở vốn vắng lặng, không có tám tướng khác nhau nên gọi là Giác. Biết ba đại kia xưa nay vắng lặng không có tám tướng khác nhau, nên gọi là Đại giác. Biết tâm tám tướng thay đổi khác nhau chẳng phải một, gọi là Giác. Biết tâm xưa nay vắng lặng, không có tám tướng khác nhau, gọi là Đại giác. Vì sao? Nếu tâm tức là tám tướng, tám tướng tức là tâm thì hoại tướng hữu dư. Vì sao? Vì nay hơi thở và sắc, tám tướng chẳng khác, nên ba việc hơi thở, sắc, tâm cũng không khác. Nếu thế khi nói tâm tức là nói hơi thở và sắc. Nay thật chẳng như thế, là tướng thế đế hoại loạn. Như người gọi lửa mà nước đến. Nói tâm một bề tức là dứt sắc, lỗi đồng với đây. Lại nếu lìa tâm mà có tám tướng, lìa tám tướng mà có tâm, thì tâm chẳng phải tám tướng, chẳng phải là tâm. Nếu tâm không phải tám tướng thì tâm chỉ có tên mà không có tướng. Pháp không tướng thì chẳng gọi là Tâm. Nếu tám tướng lìa tâm thì tám tướng không thay đổi, tức không gọi là tám tướng, nên tám tướng không có tướng. Như thế mà xét tìm kỹ thì tâm và tám tướng vốn tự không thật có. Cũng chẳng nương vào các thứ khác mà có, tánh tánh như hư không, không có tướng một và khác, nên gọi là Đại giác. Biết hơi thở và sắc trước mỗi thứ cũng phải như thế mà phân biệt. Đây thì lược nói tướng Giác và Đại giác bậc thượng. Giải thích hai câu Tư duy và Đại tư duy. Đây lại y cứ Giác và Đại giác trước mà nói. Vì sao? Vì sơ tâm giác ngộ tướng chân tục gọi là Giác và Đại giác. Hậu tâm lại lo nghó quán sát thì gọi là Tư duy và Đại tư duy. Đối sau tiểu giác mà nói Tư duy, đối sau Đại giác mà nói Đại tư duy. Nghóa nầy dễ thấy chẳng cần giải thích nhiều. Kế giải thích quán tâm tánh, tức là quán ngược lại tâm hay tư duy, đại tư duy. Vì sao? Vì hành giả tuy hiểu rõ trước cảnh mà không thể quán ngược lại tâm thì chẳng thật hiểu đạo, nay tức quán ngược lại tâm năng quán là từ quán, mà tâm năng sinh từ chẳng phải quán mà tâm sinh. Nếu từ quán mà tâm sinh, hoặc từ chẳng phải quán mà tâm sinh, thì cả hai đều có lỗi. Phải biết quán tâm là rốt ráo vắng lặng, năm câu giải thích giác chi đã xong. Hai là giải thích quán chi, kinh nói nếu tâm quán hành đại hạnh biến hành tùy ý. Quán tâm, tức là quán tâm tánh trước, hành đại hạnh tức là người Thanh văn dùng bốn đế làm đại hạnh. Ngay khi quán tâm liền đủ bốn đế chánh quán. Vì sao? Vì nếu người chẳng hiểu rõ tâm thì vì vô minh chẳng hiểu mà tạo các kiết nghiệp, gọi là Tập đế. Tập đế nhân duyên phải vời lấy danh sắc quả khổ ở vị lai, đó gọi là khổ đế. Nếu quán tâm tánh tức là đầy đủ giới, định, trí tuệ, thực hành ba mươi bảy phẩm thì gọi là Đạo đế. Nếu có chánh đạo thì phiền não hiện tại chẳng sinh quả khổ, vị lai cũng diệt, nên gọi là Diệt đế, đó gọi là đại hạnh của Thanh văn. Nếu người Duyên giác dùng mười hai nhân duyên làm đại hạnh, nếu là Bồ-tát liền vào Vô sinh, chánh định chánh quán mà chứng vắng lặng Tam-muội lưu ly, trong chân lỗ lông thấy Phật, vào vị Bồ-tát. Đây là nói lược tướng đạo đại hạnh ba thừa. Biến hạnh là quán hạnh chưa lanh lợi, cũng đều y cứ vào tâm mà quán bốn đế gọi là đại hạnh. Nay quán đạo hơi bén nhạy, trải khắp các duyên. Quán bốn đế sinh ra mười sáu hạnh quán nên gọi là biến hạnh. Tùy ý, nếu là biến hạnh tuy ở trong định mà được thấy các duyên khi xuất định rồi thì quán chẳng tương ưhg. Nay tùy ý là tùy ra vào định mà quán tất cả pháp, nhậm vận tự thành, chẳng do tác ý nên gọi là Tùy ý. Đây là giải thích lược về tướng của Quán chi. Ba là nói hỷ chi, kinh chép: như chân thật biết đại tri tâm động chí tâm gọi là Hỷ. Như chân thật biết, tức là từ trước nay quán bốn đế tâm tánh chân lý là như quán hạnh trên nếu tâm xét kỹ, dừng trụ trong duyên xứng quán mà biết, nên nói là chân như thật tri. Nếu rỗng rang khai ngộ xứng lý mà biết tâm sinh pháp hỷ, nên gọi là đại tri. Tâm động chí tâm là đã được pháp hỷ tâm động. Nếu theo hỷ nầy thì bị điên đảo. Nay hiểu Hỷ này là không thì được hỷ tánh, tức được hỷ tánh nên gọi là chí tâm, đó gọi là Hỷ. Bốn là nói về an chi. Kinh chép: nếu thân an tâm an thọ ở lạc xúc, đó gọi là an. Thân an, là hiểu rõ tánh thân thì chẳng bị thân nghiệp khuấy động, tức là được an, nên gọi thân an. Tâm an, tức là hiểu rõ tánh tâm, thì chẳng bị tâm nghiệp khuấy động tức được tâm lạc, nên gọi là tâm an. Thọ an là tâm năng quán, gọi là thọ. Biết thọ chẳng phải thọ mà dứt hết các thọ, gọi là lạc, nên gọi là thọ an. Thọ ở lạc xúc, là hai thứ lạc thế gian và xuất thế gian thành tựu. Lạc pháp vui pháp đối tâm nên thọ lạc vui. Năm là nói định chi. Kinh nói: nếu tâm trụ đại trụ bất loạn, đối duyên chẳng lầm không có điên đảo. Đó gọi là định, tâm trụ là trụ định pháp thế gian, giữ tâm chẳng tán loạn. Chẳng loạn đối với duyên là tuy trụ một tâm mà phân biệt tương thế gian chẳng loạn. Chẳng lầm là vọng lầm, hiểu rõ chân như, vọng chấp chẳng khởi, nên nói chẳng lầm, chẳng điên đảo. Nếu tâm chấp riêng tướng thế gian tức là hữu kiến mà chìm đắm trong sinh tử, chẳng được giải thoat. Nếu tâm chấp riêng tướng Như, tức là theo không kiến mà phá nhân quả thế gian, chẳng tu pháp lành. Đó là chỗ rất đáng sợ. Hành giả khéo hiểu rõ chân tục, lìa hai thứ tà mạng này gọi là chẳng điên đảo. Lại nữa, nếu người Nhị thừa được tâm này phá bốn đảo thì gọi là chẳng điên đảo. Nếu là Bồ-tát được một tâm hay phá tám đảo thì gọi là chẳng điên đảo. Hành giả mới được giác chi thành tựu liền biết chẳng thật, cũng như thân cây chuối, nay được trụ vào nhất tâm định chi thành tựu, tâm đã vắng lặng. Sau đó tan mất, nhỏ đi tức biết tướng dứt thân chẳng thật, cũng như chùm bọt. Ấy là nói lược về người hạ căn chứng Thông minh sơ thiền. Hai là giải thích y cứ nghóa thế gian mà nói Trung căn, tâm tu tiến chứng tướng sơ căn năm chi, có hai: một là chánh nói tướng nghóa thế gian. Hai là giải thích thành nghóa Giác. Giải thích nghóa thế gian có hai ý: một là nói nghóa ngoại thế gian, hai là nói nghóa nội thế gian. Nghóa ngoại thế gian có ba: một là nói nhân duyên căn bản thế gian, hai là nói căn bản và ngoại thế gian có tương quan, ba là nói phép vua trị chánh. 1- Giải thích nghóa nhân duyên sinh căn bản thế gian, hành giả được Sơ thiền rồi mới chứng thấy căn bản thế gian. Khi ấy, hoặc thấy đạo, hoặc chưa thấy đạo. Nay muốn biết rõ căn bản thế gian quả báo một thời kỳ do đâu mà sinh. Bấy giờ, ở trong Tam-muội tâm tuệ sinh quán kỹ ba mươi sáu vật bốn đại năm Ấm trong thân, vì nguyện biết tâm, nguyện biết thân nầy do nhân duyên gì mà có Tam-muội trí tuệ phước đức gốc lành lực thì liền biết rõ thân mạng nghiệp lực như thế, năm giới đời trước giữa trung Ấm chẳng dứt chẳng diệt. Nên khi cha mẹ giao hội thì nghiệp lực biến thức liền chấp lấy thân phân hai giọt tinh huyết của cha mẹ to bằng hạt đậu cho là mình, là chỗ gá thức vào đó. Khi ấy, liền có thân mạng căn, thức tâm đầy đủ. Thức ở trong đó có đủ tánh năm thức. Cứ bảy ngày một lần thay đổi như váng sữa mỏng, bơ đặc. Sau đó biến trong một thân này có năm tạng chứa năm thức. Khi ấy, liền biết năng lực giới chẳng giết hại khắp trong thân này, kế là tạng gan để hồn nương vào. Năng lực giới chẳng trộm cắp biến trong thân nầy thành tạng thân để chí nương vào. Kế là năng lực giới chẳng dâm biến trong thân này thành tạng phổi để phách nương vào, năng lực giới chẳng nói dối khắp trong thân này thành tạng lá lách để ý nương vào. Năng lực giới chẳng uống rượu khắp trong thân này thành tạng tim để thần nương vào, tức là hồn-chí-phách-ý-thần, năm thần là tên khác của năm thức. Nhà cửa năm tạng đã thành thì thần thức có chỗ nương ở. Đã có chỗ gá ở liền phải nuôi dưỡng năm giới. Nghiệp lực lại khắp trong thân có sáu phủ thần khí. Phủ nuôi năm tạng và một thân. Phủ, tức mật là phủ của gan, nước đầy thành khí (hơi) hợp nhuận gan. Ruột non là phủ của tim. Tim đỏ ruột non cũng đỏ. Tim là khí huyết, ruột non cũng thông với huyết khí, chủ nhuận tim vào một thân. Ruột già là phủ của phổi; phổi trắng, ruột già cũng trắng là chủ giết vật giúp ích cho phổi thành hóa một thân. Dạ dày cũng động làm khoảng vàng điều khiển tỳ tạng, khí vào bốn chi. Bọng đái là phủ của thân, thận đen bọng đái cũng đen, thông thấp khí nhuận thận. Lợi tiểu hành tràng nên tiêu hợp thành một phủ đều có chủ. Thượng tiêu chủ thông tâm dịch tà khí thanh ôn trung tiêu chủ thông huyết mạch là khí tinh thần, hạ tiêu chủ thông vật đại tiện. Tiêu chủ lợi trên dưới. Thần của năm tạng phân trị sáu phủ, khí của sáu phủ để thành năm thần quan, chủ trị một thân, phủ tạng nuôi nhau sinh ra bảy thể, thận sinh hai thể là xương và tủy. Thận thuộc thủy, trong nước có cát đá tức là nghóa của xương. Gan sinh hai thể là gân và ruột. Tim sinh huyết mạch, tim sắc đỏ thuộc huyết để thông thần khí, đạo ấy tự nhiên. Tỳ sinh da thịt, tỳ là đất, da thịt cũng đất. Phổi sinh da, ở trên các tạng, da cũng ở ngoài thân. Ấy là năm tạng sinh ra bảy thể, cũng gọi là bảy chi. Phổi là đại phu ở trên dưới bỏ gan hai nghóa mà an ủi tâm nhân ở trung ương mà các tỳ ở trong đó bình năm vị. Thận ở dưới xung bốn khí thêm lớn. Bảy thể thành thân dùng xương để chống, tủy dùng mỡ để hòa, dùng gân để kéo. Mạch để thấy máu, để nhuận thịt, da để bao bên ngoài. Do nhân duyên đó có đầu thân tay chân, là phần lớn của thân xương, dư là răng, thịt dư là lưỡi, gân dư là móng, máu dư là tóc, da dư là tai, thần thức ở trong. Năng lực giới nhân duyên thì năm bào thai mở ra. Bốn đại tạo sắc thanh tịnh biến thành năm tịnh. Ấy vì đối trần thì sinh tình, dùng thức biết năm sắc, nhân duyên thì sinh ý thức, thần lui thì thức về năm tạng. Quả báo một thời kỳ thì có bốn đại, năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới thành tựu đầy đủ. Đây là nói lược nghóa nhân do quả báo một thời kỳ căn bản thế gian. Hỏi: Nếu nói thức từ trong sinh ra ở giữa năm căn thức phân biệt năm trần cùng nghóa ngoại đạo có gì khác? Đáp: như kinh Tịnh Danh nói: chẳng bỏ tám tà mà vào tám chánh, cũng nói sáu mươi hai kiến là hạt giống Như lai. Lời nói này vì sao nói nghóa như thế? Đây là đều do kinh Đề-Vị nói . Hai là nói nội thế gian cũng ngoại nghóa có tương quan. Hành giả Tam-muội trí tuệ nguyện trí lực khi quán kỹ thân, liền biết thân nầy đầy đủ giống tất cả pháp tục của trời đất. Vì sao? Vì như thân này đầu tròn tượng trưng cho trời, chân vuông tượng trưng cho đất, trong có khoảng trống tức là hư không, bụng mềm Ấm là xuân hạ, lưng cứng chắc là thu đông, bốn mùa thể pháp, bốn thời đại tiết, mười hai pháp là mười hai tháng. Tiểu tiết ba trăm sáu mươi pháp là ba trăm sáu mươi ngày. Mũi miệng thở hơi ra vào là khí gió trong hang khi đầm núi, mắt là mặt trời mặt trăng, mở nhắm nhắm mắt là ngày đêm, tóc là sao, mày là bắc đẩu, mạch máu là sông suối, xương là ngọc đá, da thịt là đất, lông là cây cỏ, năm tạng ở trong, trên trời là năm sao, ở đất là năm núi, ở âm dương là năm hành, sứ giả là bát quái, trị tội là năm hình, chủ lãnh là năm quan, thăng là năm mây, hóa là năm rồng, tim là chu tước, thận là huyền võ, gan là rồng xanh, phổi là cọp trắng, tỳ là câu trần, năm thứ chúng sinh này nhiếp tất cả cầm thú ở thế gian đều ở trong đó, cũng là năm họ, tức là Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ, tất cả muôn họ đều ở trong đó. Đối thơ điển là năm kinh, tất cả sử sách đều từ đó mà ra. Nếu đối với nghề khéo là năm minh sáu nghệ, tất cả kỷ thuật đều từ đó ra. Phải biết thân này tuy nhỏ mà nghóa có liên quan đến trời đất. Như thế nói thân không phải chỉ nói năm Ấm thế gian, cũng là cõi nước thế gian. Ba là nói trong thân pháp vua trị chánh: Hành giả ở trong Tam- muội có năng lực nguyện trí liền biết trong thân tâm là vua trên, dưới người, ở thì trong trăm lớp, ra thì có trước sau, phải trái các quan hộ vệ. Phổi là tư mã, gan là tư đồ, tỳ là tư không, thận là trong biển lớn có rùa thần hộ hấp nguyên khí làm gió và mưa, thông khí tứ chi. Tứ chi là con dâm, bên trái có tư mạng, bên phải có tư lục, ghi chép mạng người. Tề Trung Thái một vua cũng là người chủ trị (cai quản người), Thiên đại tướng quân Đặc Tấn Quân vương, chủ trong thân có mười hai ngàn đại thần, Thái Nhất có tám sứ giả là bát quái hợp thành chín khanh. Tam tiêu quan vốn là tả xã hữu tắc, chủ gian thượng tiêu, thông khí vào đầu làm tông miếu, vua ở trong đó mà trị hóa. Nếu tâm làm cho chánh pháp thì người dưới đều theo, trị chánh thanh di, cho nên năm tạng điều hòa, sáu phủ thông thích, bốn đại an vui không có các bệnh não, sống lâu. Nếu tâm làm việc phi pháp thì đám dưới làm loạn tàn hại lẫn nhau. Cho nên bốn đại chẳng điều thì các căn tối tăm bít lấp, do đây mà ôm họa đến chết, đều do tâm làm việc ác, cho nên kinh nói mất hồn liền loạn, mất phách liền điên, mất ý liền mê lầm, mất chí liền quên, mất thần liền chết. Phải biết ngoài lập đạo vua trị hóa đều là pháp trong thân. Như thế các nghóa đủ như kinh Đề-Vị nói. Hai là nói nội thế gian có nghóa tương quan. Trên đã nói nghóa tương quan của ngoại thế gian. Vì sao? Vì khi Phật chưa ra đời thì các thần tiên thế trí biện thông cũng biết pháp nầy, danh nghóa đối nhau nên nói nghóa ngoại thế gian trước, các thần tiên ấy tuy là thế trí biện thông nhưng thông suốt thế gian. Nếu ở đây mà phân biệt thì hoàn toàn là tâm hành lý ngoại, chưa thấy được chân thật. Phật pháp không gọi là bậc Thánh vì cũng còn là phàm phu luận hồi trong ba cõi hai mươi lăm hữu chưa thoát sinh tử. Nếu hóa chúng sinh gọi là thầy thuốc cũ, cũng gọi là thế y (thầy thuốc thế gian). Cho nên kinh Niết-bàn chép: thế y trị bệnh lành rồi lại phát, nếu Như lai trị bệnh thì hết hẳn, không phát lại. Đây như ở dưới nói, nay nói nghóa nội thế gian, tức là Như lai ra đời nói rộng tướng danh nghóa, tất cả giáo môn để hóa chúng sinh. Hành giả ở trong định tâm ý muốn được biết giáo môn, Phật pháp về tướng chủ đối thì nhờ năng lực Tam-muội trí tuệ gốc lành liền biết rõ. Vì sao biết như Phật nói nghóa năm giới là đối năm tạng như trước đã nói? Nếu bốn đại năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới, bốn đế, mười hai nhân duyên đều là trong thân người thì biết nghóa bốn đại này là đối năm tạng, tức phong đối gan, hỏa đối tim, thủy đối thận, địa đối phổi, lá lách. Nếu nghe tên năm Ấm mà tìm thì biết là đối năm tạng của thân, tức sắc đối gan, thức đối lá lách, tưởng đối tim, thọ đối thận, hành đối phổi. Tên tuy không thứ lớp mà nghóa có tương quan. Nếu nghe mười hai nhập, mười tám giới cũng lại biết là đối năm tạng, mười nhập, mười lăm giới, nghóa rất dễ thấy, hai nhập ba giới nay sẽ phân biệt. Năm thức đều là ý của nhập giới. Ngoài năm trần trong pháp trần đều là pháp của nhập giới, đây tức là hai mươi ba giới tương quan. Ý thức giới mới sinh năm thức làm căn, đối ngoại pháp trần liền sinh ý thức giới, gọi là ý thức giới. Nếu nghe năm căn cũng biết đối với năm tạng, ưu căn thì đối gan, khổ căn thì đối tim, hỷ căn thì đối với phổi, lạc căn thì đối với thận, xả căn thì đối với lá lách. Năm căn nhân duyên thì có đủ ba giới. Vì sao thế? Ưu căn đối cõi dục, khổ căn đối Sơ thiền, hỷ căn đối Nhị thiền, lạc căn đối Tam thiền, xả căn đối Tứ thiền, cho đến bốn Không định đều gọi là xả câu thiền. Phải biết ba cõi cũng là nghóa năm tạng tương quan. Nghe nói bốn sinh cũng biết nghóa này có liên quan năm tạng. Năm tạng liên quan bốn đại, bốn đại đối bốn sinh, tất cả noãn sinh phần nhiều là tánh thủy đại vì ẩm ướt mà sinh. Tất cả thai sinh phần nhiều thuộc địa đại vì thân nặng nề. Tất cả hóa sinh đều có tánh hỏa đại, thể hỏa không mà có, cũng có ánh sáng. Như lai vì hóa độ ba cõi bốn sinh nên nói bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu Ba-la-mật. Phải biết ba pháp này là thuốc tiên, đều để đối trị năm tạng, năm căn, năm Ấm của chúng sinh mà nói. Vì sao? Như Phật nói nghóa một tâm bốn đế, phải biết tập đế đối với gan, nhân thuộc mới sinh, khổ đế đối với tâm quả là thành tựu, đạo đế đối phổi, kim có khả năng đoạn dứt, diệt đế đối thận, là pháp đông tạng đã có hai hoàn không. Nhất tâm đã đối tỳ, khai thông bốn đế. Cho đến mười hai nhân duyên, sáu Ba-la-mật so sánh ở đây sẽ hiểu. Ba thứ pháp tạng này rộng nhiếp tất cả giáo môn của Như lai. Cho nên nếu hành giả tâm sáng suốt quán kỹ thân tướng thì liền biết rõ tất cả danh nghóa Phật pháp. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói hiểu rõ thân nầy tức hiểu thấu tất cả. Thế là nói nghóa tương quan nội thế gian, ý rất sâu kín, không phải người ngộ thì chớ nói. Hai là giải thích thành nghóa giác năm chi, cũng có ba nghóa: một là hạ, hai là trung, ba là thượng. Giải thích nghóa giác ba chi: một là giác đại giác bậc hạ: hành giả ở trong tâm tịnh đều biết trước nay nói về hai thứ thế gian trong ngoài, phân biệt danh nghóa khác nhau, tức là tướng cách biệt, nên gọi là nghóa giác. Thế biết nghóa thế gian nên gọi là Giác. Đại giác là biết tất cả ngoại danh, nghóa tuy khác mà không có thật thể, chỉ nương năm tạng. Như do gan mà nói giới chẳng giết hại. Tuế tinh Thái Sơn Thanh Đế mộc hồn nhãn thức nhân mao thi giốc tánh chấn v. v… các pháp, các pháp chẳng khác gan, nghóa gan chẳng khác giới chẳng giết hại, tức là Như. Nên gọi là Đại giác. Biết tất cả các pháp như kia, bốn tạng cũng như thế. Hai là nói giác đại giác bậc trung: Hành giả dù biết gan tuy như giới chẳng giết hại mà gan không phải là phổi tỳ, tim thận. Hiểu rõ khác nhau gọi là Giác, biết các pháp như gan, v.v… là vô thường sinh diệt chẳng khác, các pháp như bốn tạng, v.v… là vô thường nên gọi là Đại giác. Ba là nói giác đại giác bậc thượng. Hành giả biết các pháp như gan, v.v…, tám tướng khác nhau nên gọi là giác. Biết gan này, v.v… xưa nay vốn vắng lặng, không có tướng khác nên gọi Đại giác. Như ở đây phân biệt tướng giác và đại giác, thế gian và xuất thế gian, tuy đồng với trước mà cũng có khác. Suy nghó kỹ sẽ thấy. Kế giải thích tư duy đại tư duy, quán nghóa tâm tánh này hoại như trước nói. Đó là nói lược y cứ nghóa trong thế đế mà biện tướng giác chi của Sơ thiền. Các quán khác như hỷ, an, định, v.v… cũng phải phân biệt mỗi quán như thế. Ba là giải thích sự thế gian, đây là y cứ khi được Sơ thiền, được sáu thần thông, thấy sự thế đế rất rõ ràng, như nhìn quả Am-ma-lặc trong tay. Đây thì hiện thấy các việc khác nhau. Trên nói dùng nghóa mà so sánh suy tìm phân biệt việc thế gian. Nay nói việc thế gian cũng có hai ý: một là chánh thấy sự thế gian, hai là giải thích thành nghóa giác quán năm chi. Giải thích sự thế đế, người thượng căn phước đức trí tuệ, bén nhạy, nên khi chứng Sơ thiền có hai nhân duyên được năm thần thông: một là tự phát, hai là tu mà được. Một là tự phát: là người khi vào Sơ thiền quán kỹ ba việc căn bản thế gian, liền có thể thông suốt tướng nghóa thế gian. Khi biết nghóa thế đế thì Tam-muội trí tuệ lại càng thêm sâu, thần thông liền phát. Lại được bốn đại cõi sắc thanh tịnh tạo sắc nhãn thành tựu. Dùng tâm nhãn của tịnh sắc nầy thấy suốt tất cả các sắc mười phương, sự tướng rất rõ ràng. Phân biệt chẳng loạn gọi là Thiên nhãn thông, các thứ khác như thiên nhó, tha tâm, túc mạng, thân thông cũng giống như thế. Được năm thông nên thấy cảnh giới sắc tâm, mười phương ba đời khác nhau chẳng đồng, các loại chúng sinh, cõi nước các thứ tướng mạo mỗi mỗi khác nhau, ấy vì dị kiến sự thế gian. Cho nên kinh nói: tu sâu thiền định được năm thần thông. Hai là tu mà được năm thông, thấy sự thế gian. Như kinh Đại Tập nói: pháp hạnh Tỳ-kheo được Sơ thiền vào thiền rồi muốn được thần thông, buộc tâm ở đầu mũi mà quán hơi thở ra vào, thấy rõ chín mươi chín ngàn lỗ chân lông hơi thở ra vào. Thấy thân đều không, cho đến bốn đại cũng giống như thế. Quán như thế rồi xa lìa sắc tướng mà được thân thông, cho đến Tứ thiền cũng giống như thế. Vì sao pháp hạnh Tỳ- kheo được Thiên nhãn thông? Nếu có Tỳ-kheo được Sơ thiền, quán hơi thở ra vào chân thật thấy sắc, đã thấy sắc rồi mà suy nghó rằng nay ta thấy các sắc ba đời ý muốn được thấy tùy ý liền thấy. Cho đến Tứ thiền cũng giống như thế. Vì sao pháp hạnh Tỳ-kheo được thiên nhó thông? Nầy Kiều-trần-như! Nếu có Tỳ-kheo được Sơ thiền quán hơi thở ra vào, thứ lớp quán tiếng cho đến Tứ thiền cũng giống như thế. Làm sao pháp hạnh Tỳ-kheo được tha tâm trí. Nếu có Tỳ-kheo quán hơi thở ra vào khi được Sơ thiền mà tu Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, đó gọi là tha tâm trí, cho đến Tứ thiền cũng giống như thế. Làm sao pháp hạnh Tỳ-kheo được túc mạng trí? Này Kiều-trần-như! Nếu có Tỳ-kheo quán hơi thở ra vào khi được, Sơ thiền, liền được thiên nhãn thông, được nhãn thông rồi, quán mới đầu là thời Ca-la-la, cho đến năm Ấm sinh diệt, cho đến Tứ thiền cũng giống như thế, đã được năm thông liền có thể thấy mười phương ba đời chín đường phàm Thánh chúng sinh, chủng loại cõi nước có từng tướng mạo khác nhau chẳng đồng. Đó gọi là tu được thần thông, thấy sự thế gian thông suốt vô ngại. Giải thích thành nghóa giác quán năm chi: một là giải thích giác cũng có ba nghóa: hạ-trung-thượng. Một là Giác đại giác bậc hạ: dùng thiên nhãn thông mà thấy các sắc, phân biệt chủng loại chúng sinh chẳng phải một, cõi nước có các thứ khác nhau chẳng đồng, tên gọi cũng khác, nên gọi là Giác. Đại giác tức là biết các thứ thế gian chỉ là giả lập, quán kỹ bốn đại liền chẳng thấy có thế gian khác nhau rất rõ ràng nên gọi là Đại giác bốn thông kia cũng giống như thế. Hai là nói Giác đại giác bậc trung: dùng thiên nhãn thông mà thấy sắc bốn đại, liền biết tánh nó đều khác, nên gọi là Giác. Biết bốn đại vô thường sinh diệt, tánh không khác nhau, nên gọi là đại giác. Bốn thông kia cũng thế. Ba là nói giác đại Giác bậc thượng: dùng thiên nhãn thông mà thấy pháp vô thường, tám tướng khác nhau, đó gọi là Giác. Lại biết tám tướng xưa nay vắng lặng, nhất tướng vô tướng nên gọi là Đại giác. Bốn thông kia cũng thế. Đây là nói lược dùng năm thần thông mà thấy sự thế gian tướng giác và đại giác. Tư duy, đại tư duy quán về tâm tánh, thành tựu tướng của giác chi, giống như trước nói. Các quán chi hỷ, an, định, v.v… cũng phải phân biệt từng thứ. Hành giả phải biết, nếu Thanh văn Duyên giác được thiền nầy nên y theo định mà được giải thoát bất hoại, Tam-muội vô ngại giải thoát, sáu thông, nên gọi là Thông minh quán. Nếu Bồ-tát Đại só khi trụ trong thiền này liền được đại Đà-la-ni vô ngại. Cho đến Tứ thiền cũng giống như thế. Kế nói Nhị thiền, từ đây trở đi cho đến Phi tưởng diệt định thiền môn lại càng sâu mầu hơn, sự tướng không phải một làm sao có thể biện đủ. Nay chỉ nêu văn kinh lược giải thích ý chánh mà thôi. Nói Nhị thiền thì kinh nói: Nhị thiền cũng gọi là Lìa, cũng gọi là Đủ. Lìa là đồng lìa năm cái, Đủ là đầy đủ ba chi, tức là hỷ, an, định. Giải thích rằng: hành giả ở sau Sơ thiền thì tâm sợ giác quán của Sơ thiền làm động tán, nên nhiếp tâm ở định, chẳng thọ giác quán. Cũng biết địa trên chẳng thật, quán kỹ ba tánh hơi thở, sắc, tâm, nhất tâm duyên nội giác quán tức diệt thì liền phát Tam-muội nội tịnh đại hỷ, ở trong định mà thấy thân như bọt bèo, đủ hạnh Nhị thiền. Kế nói Tam thiền: Kinh nói Tam thiền, cũng gọi là Lìa, cũng gọi là Đủ. Lìa là đồng lìa năm cái, đủ là đủ năm chi, tức là niệm, xã, tuệ, an, định. Giải thích rằng: hành giả ở sau Nhị thiền thì tâm chán sợ đại hỷ làm động tán, cho nên nhiếp tâm chẳng nhận. Cũng như địa trên chẳng thật, nhất tâm quán kỹ, pháp hỷ liền lui mà phát thân lạc (cái vui của thân) liền ở trong định mà thấy thân như mây, thành hạnh Tam thiền. Kế là nói tướng Tứ thiền: Kinh nói: Tứ thiền cũng gọi là Lìa, cũng gọi là Đủ. Lìa là đồng lìa năm cái, đủ là đủ bốn chi, tức niệm, xả, định chẳng khổ chẳng vui. Giải thích rằng: Hành giả ở sau Tam thiền thì tâm chán sợ lạc mà nhất tâm chẳng thọ. Cũng biết Tứ thiền không phải thật đế quán ba tánh, tức rỗng rang trong sáng trí tuệ và xả đều phát. Tâm chẳng nương vào thiện hay ác, mà chánh trụ ở giữa, liền ở trong định mà thấy thân như ảnh (bóng), đầy đủ hạnh Tứ thiền. Kế nói về Không xứ: Kinh nói: quán thân mà chán sợ xa lìa thân tướng tất cả thân xúc, hỷ xúc, lạc xúc. Phân biệt sắc tướng, xa lìa sắc Ấm, nhất tâm quán vô lượng Không xứ. Đó gọi là Tỳ-kheo được không xứ định. Giải thích rằng: ở đây có hai nghóa: một là quán chung trên dưới, hai là chỉ y cứ địa mình và trở lên. 1) Quán chung trên dưới là kinh dạy quán thân chán sợ xa lìa thân tướng. Biết rõ thân cõi dục tội lỗi chẳng phải một, thân phần đều chẳng thật có. Ba xúc thân, v.v… đối Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền đối rất dễ thấy. Phân biệt sắc tướng là phân biệt sắc thân cõi dục cho đến sắc Tứ thiền mỗi thân khác nhau chẳng thật. Cũng biết Không xứ chưa lìa sắc pháp. Xa lìa sắc Ấm và quán vô lượng không xứ, đều như trước nói căn bản thiền trong diệt, ba thứ sắc pháp, tương ưng với hư không. Hai là đều y cứ địa mình mà giải thích, quán thân mà chán sợ xa lìa thân tướng, là chán sợ sắc như ảnh (bóng) che đậy tâm. Quán sắc ảnh này cũng chẳng thật có. Ba xúc như thân, v.v… riêng hỷ căn trước đã hoại. Đây là Tứ thiền sắc khởi xúc, tâm sinh ba xúc. Phân biệt sắc tướng, là phân biệt hỷ lạc của Tứ thiền và sắc như ảnh đều là giả dối. Xa lìa sắc Ấm và quán vô lượng không xứ chẳng khác trước nói. Kế nói Thức xứ định, kinh nói: nếu có Tỳ-kheo tu-xa-ma-tha, Tỳ- bà-xá-na mà quán tâm ý thức, tự biết thân nầy chẳng thọ ba thọ, vì được xa lìa ba thọ ấy nên gọi là Tỳ-kheo được Thức xứ định. Giải thích rằng: tâm ý tùy: Tâm tức là xả không định duyên với ba tánh mà vào Thức xứ định, hành giả dùng Tam-muội mà nhiếp trí tuệ. Tuy biết ba tánh chẳng thật là khỏi nạn không, nhất tâm duyên thức liền vào Thức xứ định. Tự biết thân nầy chẳng thọ ba thọ, là duyên với sắc bốn câu. Không xứ tùy lìa câu đầu mà cũng còn thọ ba câu sau. Nay Thức xứ duyên với thức vào định thì lìa hẳn bốn câu sắc giới. Chỗ có bốn thọ đều thuộc về Thức. Cho nên nói tự biết thân nầy chẳng thọ ba thọ. Cũng nói là chẳng thọ ba thọ như khổ vui, v.v… Đã lìa được ba thọ ấy nên gọi là Thức xứ định. Kế nói Thiểu thức xứ định, kinh nói: Nếu có Tỳ-kheo quán ba đời là không, biết tất cả hạnh vừa sinh vừa diệt, Không xứ, Thức xứ vừa sinh vừa diệt. Khi quán như thế rồi thứ lớp quán thức: nay ta đối với thức này cũng chẳng phải Thức, chẳng phải chẳng thức. Nếu chẳng phải thức thì gọi là vắng lặng, vì sao nay ta lại dứt bỏ thức này? Đó gọi là được Thiểu thức xứ định, giải thích rằng: quán ba đời không tất cả các hạnh, vừa sinh vừa diệt là quán kỹ địa mình và trên dưới, tâm số đều là tướng hữu vi, giả dối chẳng thật. Thứ lớp quán thức, là quán thức xứ cũng là thức, chẳng phải thức chẳng phải chẳng thức, tức là biết chung tất cả pháp không thật có. Nếu chẳng phải Thức gọi là vắng lặng, nay ta làm sao tìm dứt bỏ thức này? Tức là phương tiện nghó diệt thức, duyên với chẳng phải thức mà vào Thiểu thức xứ định. Kế nói Phi tưởng định, kinh nói: Nếu có Tỳ-kheo có chẳng phải tâm tưởng mà nghó rằng: nay ta tưởng này là khổ, là lậu, là ghẻ lở, chẳng vắng lặng, nếu ta dứt bỏ chẳng phải tưởng và chẳng phải chẳng tưởng, như thế thì gọi là vắng lặng. Nếu có Tỳ-kheo dứt được, chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng như thế thì gọi là được môn Vô tưởng giải thoát. Vì sao? Vì pháp hạnh Tỳ-kheo suy nghó như thế, nếu có thọ tưởng, hoặc có thức tưởng, hoặc có xúc tưởng, hoặc có không tưởng, hoặc chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng, đó đều là thô tưởng. Nay ta nếu tu Tam-muội Vô tưởng thì có thể dứt hẳn các tưởng như thế. Cho nên thấy chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng là chỗ vắng lặng. Thấy như thế rồi mà vào Phi phi tưởng định. Đã chẳng thọ, chẳng dính mắc liền phá vô minh. Phá vô minh rồi thì gọi là quả A-la- hán. Giải thích rằng: có chẳng phải tâm tưởng tức là định vô tưởng. Là khổ là lậu, v.v… tức là quán tội lỗi của định Vô tưởng, nếu ta dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng, như thế gọi là vắng lặng. Chẳng phải tưởng (phi tưởng) tức là định vô tưởng, chẳng phải chẳng tưởng (phi phi tưởng) là đã thấy được lỗi ở địa trên nên phải dứt trừ là vắng lặng, là phá định Phi tưởng mà được niết-bàn vắng lặng. Nếu có Tỳ-kheo dứt được Phi tưởng như thế mà được môn vô tưởng giải thoát, là tất cả định trong ba cõi đều gọi là Tưởng, thì sẽ có thể ở định phi tưởng hóa vô minh mà phát vô lậu, được quả A-la-hán, chứng Niết-bàn. Pháp hạnh Tỳ-kheo nếu có thọ tưởng trở xuống tức lại giải thích lần nữa ý trên. Nghóa rất dễ thấy, lại kinh nói ba thứ định trước, hai đạo dứt bỏ. Định thứ tư sau chẳng thể dùng đạo thế tục mà dứt. Phàm phu ở Phi tưởng xứ tuy lìa phiền não thô mà còn đủ mười thứ tế. Vì không có phiền não thô nên tất cả phàm phu đều gọi đó là Niết-bàn. Nói rộng như trong kinh, giải thích rằng: đây là nói phàm phu đẳng trí đối với phi tưởng chẳng thể phát vô lậu. Kế kinh nói: này Kiều-trần-như! Nếu Tỳ- kheo tu tập Thánh đạo, chán sợ bốn thiền bốn không xứ mà quán đạo diệt trang nghiêm. Giải thích rằng: đây là nói quán chung ở tưởng sau được vào diệt tận. Nghóa này trong bối xả sau sẽ nói đủ. Hành giả nhập vào pháp môn này chẳng lấy mé thật làm chứng, đầy đủ phương tiện đại bi, tất cả Phật pháp mà khởi sáu thần thông độ thoát chúng sinh, tức là y cứ một thứ pháp môn nói về Đại thừa. <篇> THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN <卷>QUYỂN 9 <詞>CHƯƠNG VII: GIẢI THÍCH TU CHỨNG THIỀN BA LA MẬT (Tiếp Theo). Nói tu chứng thiền vô lậu, nay nói Vô lậu có hai thứ: một là đối trị vô lậu, hai là duyên lý vô lậu. Nên kinh Đại Tập chép: Có hai thứ hạnh: một là Tuệ hạnh, hai là hạnh hạnh. Hạnh hạnh tức là chín tưởng bối xả, v.v… đối trị vô lậu. Duyên sự khởi hạnh đối trị phá các phiền não, nên gọi là hạnh hạnh vô lậu hạnh. Hai là tuệ hạnh, tức là bốn đế, mười hai nhân duyên chân không chánh quán, duyên lý dứt hoặc nên gọi là Tuệ hạnh vô lậu hạnh. Giải thích đối trị vô lậu, ở đây là nói theo chín thứ pháp môn: một là chín tưởng, hai là tám niệm, ba là mười tưởng, bốn là tám bối xả, năm là tám thắng xứ, sáu là mười nhất thiết xứ, bảy là chín định thứ đệ, tám là Tam-muội sư tử phấn tấn, chín là Tam-muội siêu việt. Nay chín thứ thiền này nói chung là đối trị vô lậu và nghóa thứ lớp cạn sâu đều như trong quyển một ở trước nói. Nay trong chín pháp môn này tức có hai thứ đạo đối trị vô lậu: một là hoại pháp đạo, hai là bất hoại pháp đạo. Hoại pháp đạo tức là chín tưởng, tám niệm, mười tưởng. Khéo tu ba thứ này, nếu phát chân vô lậu, thì thành hoại pháp A-la-hán. Bất hoại pháp đạo, tức là các Tam-muội bối xả, thắng xứ, nhất thiết xứ, chín định thứ đệ, Sư tử phấn tấn, Siêu việt, v.v… Đầy đủ thiền này thì phát chân vô lậu, thành bất hoại pháp đại A-la-hán. Giải thích chung về hoại pháp quán ba thứ pháp môn. Sở dó ba pháp môn nầy gọi là hoại pháp quán, là hành giả tâm chán sáu dục cũng như giặc thù, nên tu chín tưởng để đối trị. Khi thực hành quán này tuy phá hoại sáu dục mà sinh nhiều sợ hãi. Nếu tu tám thứ chánh niệm thì sợ hãi liền dứt. Tâm tham dục đã mỏng, không còn sợ hãi nữa. Khi ấy muốn dứt kiết sử, ba cõi thì phải tiến tu mười tưởng. Mười tưởng thành tựu liền giết hết các giặc kiết sử mà thành A-la-hán. Người ấy đã hoại diệt thân tướng cõi dục nhưng chẳng thể đầy đủ quán luyện ba cõi, quán luyện huân tu ba minh, tám giải, nên gọi là hoại pháp. Hỏi: chín tưởng và mười tưởng có gì khác? Đáp: có khác và chẳng khác. Khác là chín tưởng như giặc trói buộc, mười tưởng như sát tặc (giặc giết người) chín tưởng là mới học, mười tưởng là thành tựu. Chín tưởng là nhân, mười tưởng là quả, cho nên kinh nói: hai là môn cam lộ, một là môn bất tịnh, hai là môn A-na Ba-na chẳng khác là khéo tu chín tưởng liền đầy đủ mười tướng. Nghóa này ở sau sẽ nói. Giải thích chín tưởng quán môn: một là tưởng sình chương, hai là tưởng hoại, ba là tưởng máu me dẫy đầy, bốn là tưởng thân thể rã nát. Năm là tưởng tái xanh bầm tím, sáu là tưởng sâu bọ thú vật ăn thây, bảy là tưởng thân phân tán, tám là bộ xương, chín là tưởng hỏa thiêu, chín pháp môn này gọi chung là Tưởng, chuyển được tâm chuyển được tưởng gọi là năng chuyển, trong bất tịnh mà tưởng điên đảo là định, nên gọi là Tưởng. Nay giải thích chín tưởng có bốn ý: một là nói tu chứng, hai là nói đối trị, ba là nói nhiếp pháp, bốn là nói thú đạo. - Nói tu chứng: Là hành giả trước giữ giới thanh tịnh khiến tâm chẳng thay đổi mà chịu quán pháp, phá được dâm dục và giặc phiền não. Nên phải trước quán người mới chết từ lời lẽ nói năng, hơi thở ra không thở vào, chết rồi khí mất, thân lạnh không còn biết gì. Người nhà kinh hoàng gào khóc, bảo rằng mới đây mà sao đi đâu, vô cùng sợ hãi, vì không ai tránh khỏi. Ví như kiếp hết lửa đốt cháy không đường nào chạy thoát, như bài kệ nói: Chết đến không giàu nghèo Không siêng tu pháp lành Không sang, cũng không hèn Già trẻ không tránh khỏi. Không mong ai cứu được Cũng không chỗ dối gạt. Không giữ gìn được thoát Không ai tránh khỏi được. Chết gọi là xa lìa ân ái, là cái xấu nhất trong sự sống. Tuy biết đáng ghét nhất mà không ai tránh khỏi được. Thân ta chẳng bao lâu cũng sẽ như thế, đồng với gỗ đá chẳng biết gì. Nay ta chẳng nên tham đắm năm dục, chẳng biết chết đến thì đồng với trâu dê, trâu dê cầm thú thấy chết còn chạy trốn kêu rống, chẳng tự giác ngộ, nay ta đã được thân người biết phân biệt tốt xấu thì phải cầu pháp cam lộ, như kệ rằng: Sáu tình căn đầy đủ Gương trí cùng sáng suốt Mà chẳng cầu đạo pháp Uổng phí thân trí tuệ. Cầm thú đều cũng trí Dục lạc để tự vui. Mà chẳng biết phương tiện Vì đạo làm việc lành. Đã được thân người rồi Mà chỉ lo chơi bời. Chẳng biết tu hạnh lành Cùng khác gì cầm thú. Chúng sinh ba đường ác Chẳng được tu đạo nghiệp. Đã được thân người này Phải gắng làm lợi ích. Hành giả nghó như thế rồi, bèn lấy người ta yêu thích như kẻ nam người nữ cởi hết quần áo nằm trên đất trước thây chết, tưởng Tam-muội nhất tâm mà quán thây chết này thì rất đáng sợ mà phá tâm mê đắm. Đây thì nói lược tưởng chết để làm chín tưởng phương tiện trước. Lại chín tưởng có hai thứ: một là lợi căn, hai là độn căn. Nếu người lợi căn thì tâm tưởng tượng thây chết sình chương, v.v… đều được thành tựu. Nếu người độn căn thì tưởng tượng khó thành, cần phải gặp được một thân người mới chết cho đến sình thối, rã rời, v.v… mà buộc tâm tu tập. Đã thấy các tướng rõ ràng rồi thì tâm tưởng thành tựu liền phát Tam- muội. Sau đó tuy rời thây chết mà hễ tưởng thì liền thấy. Tưởng sình chương: Hành giả phải ở bên thây chết mà tưởng sình chương như túi da đầy khí khác với hình dáng cũ, đối với thân vô chủ vọng thức mà nhìn nghe nói năng. Đây là tự dối lừa mình, nay đã đến đâu mà chỉ thấy nhà trống, thây sình chương. Thân nầy hình dung đẹp đẽ, da mịn môi son răng trắng, mắt dài mũi thẳng, trán bằng mày cao. Các vẻ đẹp như thế mê hoặc lòng người. Nay chỉ thấy sình chương còn đẹp đâu nữa, tướng nam nữ còn chẳng biết được. Lấy tướng này mà quán người ta yêu, để trách cứ tâm ham muốn túi cứt đái hôi thối sình chương đáng ghét, có gì để tham đắm mà phải chết chìm. Tự nghó thân ta chưa khỏi việc này mà nhất tâm Tam-muội trừ tham ái ở đời. Tưởng thân hư rã (nứt nẻ): Hành giả lại quán thây chết gió thổi mặt trời nung nấu, nứt vỡ ra trên đất. Sáu phần hư rã, năm tạng cức đái hôi thối, nước vàng dẫy đầy. Cái ta đắm mê do đây không còn yêu thích nữa. Ta bị mê hoặc, bởi túi da sình thối này như bướm đêm gieo mình vào đèn, chỉ tham ánh sáng mà tự đốt mình. Tự nghó thân ta cũng thế chưa thoát việc này. Nhất tâm Tam-muội (nhất tâm thiền định) mà trừ tham ái ở đời. Tưởng máu mủ dẫy đầy: Hành giả lại quán thây chết đã nứt vỡ ra dẫy đầy máu mủ, từ đầu đến chân dơ bẩn chẳng sạch, hôi thối tanh tưởi, sình chương chẳng dám đến gần. Người ta đắm mê, xem đây thật chẳng đáng ưa. Ta bị mê hoặc bời thứ hôi thối nầy có gì đẹp đẽ đáng yêu, tự nghó thân ta chưa thoát việc này mà nhất tâm Tam-muội dứt bỏ tham ái ở đời. Tưởng thân rã nát: Hành giả quán thây chết do gió nóng mà nước dần dần chín lỗ đầy máu mủ, da thịt đều rã nát, một đống trên đất hôi thối cùng cực, chỗ ta mê đắm bị vẻ đẹp này mà hôn mê, nay thấy đống rã nát thối tha nầy mà có gì đáng yêu thích. Tự nghó thân ta chưa khỏi việc này, nhất tâm Tam-muội mà dứt bỏ tham ái ở đời. Tưởng xanh tím: Hành giả lại quán thây chết máu mủ tiêu hết, gió và mặt trời biến da thịt có mầu vàng đỏ, xanh đen hôi thối. Chỗ ta mê đắm do sắc đào hoa mê hoặc lòng ta còn đâu nữa. Tự nghó thân ta chưa khỏi việc này mà nhất tâm Tam-muội dứt bỏ tham ái ở đời. Tưởng ăn nuốt: Hành giả quán thây chết giòi tửa đục khoét, ruồi kiến bu đầy, chim quạ mổ mắt, chồn quạ chó cọp sói cắn xé thân ăn nuốt, rơi vải đầy khắp đáng chán ghét. Chỗ ta mê đắm là thân thể sạch đẹp, áo quần son phấn chải chuốt đã mê hoặc ta. Nay thấy thân tướng rã rời này thật đáng ghét. Tự nghó thân ta chưa khỏi việc nầy, nhất tâm Tam-muội mà dứt bỏ tham ái đời. Tưởng phân tán: Hành giả lại quán thây chết bì cầm thú xé cắn thân thể tan nát, gió thổi, mặt trời nung nấu gân xương đầu mình lìa ra. Cái ta mê đắm đâu còn. Tự nghó chưa khỏi việc nầy mà nhất tâm Tam- muội dứt bỏ tham ái ở đời. Tưởng xương: Hành giả lại quán thây chết da thịt đã hết, chỉ thấy xương trắng. Thấy xương có hai thứ: một là thấy còn gân ràng rịt, hai là thấy gân xương đã lìa nhau. Lại có hai thứ: một là xương còn mủ máu dơ bẩn, hai là xương trắng như vỏ ốc. Chỗ ta ưa thích nay chỉ còn đầu lâu cứng chắc như gạch đá thật đáng sợ, các thứ mềm mại trơn láng đâu còn. Tự nghó thân ta chưa khỏi việc này, mà nhất tâm Tam-muội dứt bỏ tham ái ở đời. Tưởng thiêu đốt: Hành giả lại vào rừng đến bên thây chết, hoặc thấy có nhiều củi thiêu đốt thây chết, bụng bể mỡ chảy ra hôi thối đáng sợ, hoặc thấy chỉ thiêu bộ xương trắng, khói lửa đã tắt củi hết thì thân đồng với tro đất. Nếu chẳng đốt, chẳng chôn thì cũng tiêu mất. Người ta yêu thương nhìn thân tướng này đều tan hết mà rất đỗi đau thương, tắm gội sạch sẽ hương hoa trang điểm mềm mại thơm tho, Ấm áp cười đùa mà mê hoặc lòng người, nay tiêu hết còn gì đâu. Tự nghó thân ta chưa khỏi việc này mà nhất tâm Tam-muội dứt bỏ tham ái ở đời. Nói chín tưởng đối trị: hành giả chín tưởng đã thông thì phải tưởng nhiều mà tu, khiến quán hạnh thuần thục khi tùy chỗ quán thì tâm tương ưng với định. Pháp tưởng giữ tâm, ý không phân tán, pháp nầy có công năng phá sáu dục mà dứt bỏ tham ái ở đời. Sáu dục: Một là sắc dục, hai là hình mạo dục, ba là cử chỉ hình dáng dục, bốn là nói năng dục, năm là mềm mại trơn láng dục, sáu là tướng người dục. Sáu dục này sinh ra sáu mê đắm. Sắc dục là có người mê đắm mầu đỏ, trắng, xanh, vàng, đen, v.v… như sắc hoa đào, người ngu vô tri rất mê đắm. Hình mạo dục chỉ mê đắm mặt như trăng rằm, nhướng mày liếc mắt, eo thon tay nhọn, các vẻ đẹp mà tâm mê đắm. Về cử chỉ dục, có người mê đắm cử chỉ tướng đi, dáng đứng, ánh mắt mỉm cười, v.v… Về nói năng dục, có người chỉ mê tiếng nói, lời lẽ dịu ngọt êm ái, thanh nhã, hoặc ca hát ngâm hò làm động lòng người, người ngu nghó cạn nên rất mê đắm. Về mềm mại trơn láng dục, có người chỉ mê thân hình mềm mại trơn láng trắng hồng như bông đâu-la. Thân mình mùa lạnh thì Ấm áp mà nóng thì mát rượi, thoa vuốt nựng nịu, phàm tình vì đó mà chết mê chết mệt. Về tạp dục, có người mê đắm cả năm việc trên. Về tướng người dục, có người lại không mê đắm năm việc trên, chỉ mê đắm tướng người nam hoặc nữ thấy ở năm việc trên, nếu chẳng được người ưa thích thì cũng còn mê đắm. Nếu gặp được người thích ý rồi thì có thể bỏ thế gian mà chết theo. Như sáu dục đời mê hoặc chúng sinh, trôi lăn trong sinh tử, chìm đắm trong ba đường chẳng được giải thoát. Nếu khéo tu chín tưởng đối trị trừ diệt thì giặc năm dục tan nhanh, mau chứng Niết-bàn, vì sao? Vì tưởng mới chết thì phá hai dục cử chỉ và lời nói, tưởng sình chương, tưởng hư nát, tưởng ăn nuốt thì phá được dục hình mạo. Kế tưởng mau huyết, tưởng xanh tái, tưởng rã nát thì phát được sắc dục. Kế tưởng xương, tưởng đốt thì trừ dục trơn láng mềm mại. Chín tưởng trừ tạp dục và dục mê đắm tướng người. Tưởng ăn nuốt, tưởng phân tán, tưởng xương là riêng trừ dục mê tướng người. Trong ăn nuốt lìa tan, xương trắng chẳng thấy có tướng người đáng ưa thích. Nếu dùng chín tưởng này năng phá thì dục kiết sân si cũng mỏng dần. Ba độc mỏng rôi nên núi chín mươi tám sử đều động, dần dần tăng tiến trên đường đạo, dùng Tam-muội Kim cương mà phá trừ núi kiết sử thì được đạo Ba thừa, chín tưởng tuy là quán bất tịnh nhưng nhờ đó mà thành tựu việc lớn. Thí như thân thể của người chết chìm trong biển lớn nương đó liền được độ. Nói nhiếp pháp: là pháp chín tưởng duyên với sắc thân cõi Dục thuộc về giới tưởng Ấm, cũng là phần nhỏ của thân niệm xứ, hoặc thuộc cõi dục, hoặc thuộc Sơ thiền, nhị thiền. Người chưa lìa dục còn tán tâm thì được hệ với cõi dục, còn người lìa dục thì hệ với cõi sắc. Hệ sình chương, v.v… tám tưởng thì thuộc sơ thiền, nhị thiền cõi Dục. Tịnh cốt tưởng thì thuộc sơ thiền nhị thiền tứ thiền cõi Dục. Trong Tam thiền vì lạc nhiều nên không có tưởng. Nói chín tưởng thú đạo: Tu chín tưởng có hai: một là nếu xét theo sự mà tu, thì đây chỉ phục kết cõi dục rồi tu riêng mười tưởng để dứt kiến tư mà thành đạo Vô học. Hai là nếu khéo tu chín tưởng thì đủ mười tưởng, từ sự vào lý, ở đây thì chẳng nhọc y cứ các môn khác mà tu mười tưởng. Vì sao? Như hành giả khi quán người chết thì hành động lời nói phút chốc bỗng nhiên mất hết, thân thể sình chướng rã nát, phát tán biến đổi, ấy là vô thường. Nếu đắm mê thân vô thường nầy khi hư hoại liền khổ. Nếu vô thường khổ chẳng được tự tại thì vô ngã (không có ngã). Vì bất tịnh, vô thường, khổ, vô ngã thì thế gian chẳng đáng mê đắm. Quán thân như thế. Tuy ăn ở miệng mà nước bọt chảy ra thì cùng hòa hợp thành vị mà nuốt khỏi cổ họng rồi thì không khác. Cứt đái trong bụng tức là tưởng ăn bất tịnh. Lấy chín tưởng quán này mà quán thấy thân vô thường thay đổi, niệm niệm đều mất tức là tưởng chết. Dùng chín tưởng này mà nhàm chán các vui thế gian, biết phiền não dứt thì an ổn vắng lặng, tức là tưởng dứt. Dùng chín tưởng mà ngăn các phiền não tức là tưởng lìa. Dùng chín tưởng mà chán thế gian nên biết năm Ấm mất thì chẳng còn sinh, là chỗ an ổn tức là tưởng tận. Nếu khéo tu chín tưởng như thế liền đủ mười tưởng, dứt hoặc kiến tư, phải biết người ấy nhất định đến đạo Ba thừa. Lại nữa, trong luận Đại thừa nói: nếu khéo tu chín tưởng mở ra môn thân niệm xứ. Thân niệm xứ mở ba môn niệm xứ, bốn niệm xứ mở ra ba mươi bảy phẩm, ba mươi bảy phẩm mở ra cửa Niết-bàn, vào Niết-bàn thì diệt tất cả buồn khổ. Bồ-tát vì thương xót chúng sinh nên đối với chín tưởng có thể vào Niết-bàn mà cũng chẳng lấy thật tế làm chứng. Vì sao? Nếu đối với sắc mà không có tướng vị thì chúng sinh sẽ chẳng đắm mê sắc. Nếu trong sắc mà không có tướng lìa nay cũng sẽ chẳng từ sắc mà được giải thoát. Vì trong sắc có vị nên chúng sinh đắm mê sắc, trong sắc có tướng lìa nên chúng sinh từ sắc mà được giải thoát, mà vị chẳng tức lìa, lìa chẳng tức vị, lìa vị xứ không có thoát xứ, lìa thoát xứ không có vị xứ. Phải biết sắc tức chẳng phải buộc, chẳng phải thoát. Khi ấy, chẳng theo sinh tử, cũng chẳng chứng Niết- bàn, chỉ vì đại bi thương xót tất cả chúng sinh đối với quán bất tịnh nầy mà thành tựu tất cả Phật pháp. Kinh Đại Phẩm chép: chín tưởng tức là Bồ-tát Đại thừa. Kế giải thích pháp môn tám niệm: nói tám niệm là niệm Phật, hai là niệm pháp, ba là niệm tăng, bốn là niệm giới, năm là niệm xả, sáu là niệm thiên, bảy là niệm hơi thở ra vào, tám là niệm chết. Tám thứ này gọi chung là Niệm, trong một tâm thường nhớ giữ chẳng quên, nên gọi là Niệm. Nay giải thích tám niệm, có ba ý: một là nói việc làm của giáo môn, hai là nói tu chứng, ba là nói con đường phải hướng về. 1) Việc làm của giáo môn: đệ tử Phật ở chỗ A-lan-nhã, hoặc chỗ vắng, chỗ gò mả, trong rừng núi hoang vắng, khéo tu chín tưởng bất tịnh mà nghó rằng: vì sao ta cứ đeo đuổi theo thân bất tịnh là túi cứt đái hôi thối này. Bấy giờ, bỗng sững sờ sợ sệt nổi ốc và bị các ma biến ra các thân hình đến đe dọa muốn làm cho lui đạo. Thế nên niệm Phật, kế sau chín tưởng mà nói tám niệm để trừ sợ hãi. Như trong kinh nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: nếu ở chỗ A-lan-nhã mà có sợ sệt thì khi ấy phải niệm (nghó nhớ) Phật thì sự sợ hãi liền trừ. Nếu chẳng niệm Phật thì niệm pháp sợ hãi cũng hết, nếu không niệm pháp thì niệm tăng, sợ hãi cũng tiêu. Cho nên biết ba niệm nầy là để trừ sợ hãi. Hỏi: kinh nói ba niệm nhân duyên là trừ sợ hãi, năm niệm ở sau sao lại nói như thế? Đáp: Tỳ-kheo nầy tự bố thí, trì giới mà sợ hãi thì liền trừ. Vì sao? Nếu phá giới thì sợ đọa địa ngục, nếu san tham thì sợ đọa ngạ quỷ và trong nghèo hèn tự nghó rằng ta có tịnh giới và bố thí này thì rất vui mừng, trên các trời đều là quả báo của bố thí, trì giới, ta cũng có phước đức, cho nên niệm trời cũng có thể giúp cho sợ hãi chẳng sinh. Trong mười sáu niệm thì khi niệm A-na- ba-na mà tâm giác nhỏ nhiệm còn diệt, huống chi là sợ hãi là giác thô. Niệm chết là nghó thân năm Ấm này niệm niệm sinh diệt, từ khi sinh ra đến nay thường cùng với chết, nay vì sao lại sợ chết. Ấy là với năm niệm Phật tuy chẳng nói riêng, nhưng phải biết đó là rất trừ sợ hãi. Vì sao? Vì niệm công đức người khác để trừ sợ hãi thì khó, còn nghó công đức mình để trừ sợ hãi thì dễ, vì nghóa ấy nên chẳng nói riêng. 2- Nói tu chứng tám niệm: một là niệm Phật, nếu hành giả ở chỗ A-lan-nhã (trong tự, viên, am) tâm có sợ hãi thì phải niệm Phật, Phật là Đa-đà- A-già-độ A-la-ha Tam miệu Tam-phật-đà, cho đến Bà-già- bà, mười hiệu đầy đủ, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đại từ đại bi mười lực, vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, trí tuệ sáng suốt, thần thông vô lượng, chúng sinh mười phương là đại sư của ta, cứu hộ tất cả, ta có sợ gì, nhất tâm nghó tưởng sợ hãi liền dứt. Hai là niệm pháp, hành giả phải nghó pháp nầy khéo ra khỏi, được quả đời này, không có các nóng bức, chẳng đợi thời gian mà có thể đến được chỗ tốt đẹp, thông suốt vô ngại. Khéo ra khỏi là khéo nói hai đế chẳng trái nhau. Pháp ấy giúp ra khỏi hai bên nên nói là khéo ra khỏi. Được quả đời nầy: là các pháp của ngoại đạo đều không có quả đời nầy, chỉ có nhân duyên trong Phật pháp lần lượt sinh ra, đó là trì giới thanh tịnh nên được tâm chẳng hối mà sinh ra pháp vui mừng. Nhờ sinh pháp vui mừng nên tâm được an vui. Được tâm an vui nên nhiếp được tâm, nhờ nhiếp tâm nên được trí như thật, được trí như thật nên được chán lìa, được chán lìa nên được lìa dục, lìa dục nên được giải thoát, giải thoát quả báo nên được Niết- bàn. Đó gọi là được quả báo đời nầy. Không nóng bức là không có sự nóng bức của ba độc sinh tử. Chẳng đợi thời, là ngoại đạo thọ nhân pháp yếu phải đợi thời gian. Còn Phật pháp thì chẳng như thế. Thí như củi gặp lửa liền cháy chẳng đợi thời gian. Đến chỗ tốt đẹp: là nếu thực hành Phật pháp thì sẽ đến chỗ quả vui trời người và Niết-bàn ba thừa. Thông suốt vô ngại là được ba pháp ấn nên thông suốt vô ngại. Ta tu các pháp như thế thì còn lo sợ gì, nên nhất tâm nhớ nghó sợ hãi sẽ dứt. Ba là niệm tăng, hành giả phải nhớ nghó tăng, Tăng là chúng đệ tử Phật, đầy đủ năm phần pháp thân, trong đó có bốn đôi tám nhóm, hai mươi bảy người đáng thọ sự cúng dường lễ bái, là ruộng phước vô thượng của thế gian. Đó là tăng Thanh văn, hoặc tăng Bích-chi-phật, hoặc tăng Bồ-tát, trí năng vô lượng cứu khổ nạn, độ thoát chúng sinh. Thánh chúng như thế thật là bạn của chúng ta, thì có lo sợ gì. Nhất tâm nghó nhớ thì sợ hãi liền dứt. Bốn là niệm giới, hành giả phải nghó nhớ giới có công năng ngăn dứt các điều ác, ở chỗ yên ổn, giới. Có hai thứ: là giới hữu lậu và giới vô lậu. Lại có hai thứ là giới luật nghi và giới định cộng. Giới luật nghi ngăn các điều ác giúp thân được an ổn, giới định cộng là ngăn các phiền não mà tâm được nội lạc (vui bên trong). Giới vô lậu phá các điều ác, căn bản vô minh mà được vui giải thoát. Ta tu pháp như thế còn lo sợ gì, nhất tâm nhớ nghó sợ hãi liền dứt. Năm là niệm xả, hành giả phải niệm xã. Có hai thứ: một là xã thí xả, hai là các phiền não xả. Xả thí có hai là xả tài và xả pháp, hai thứ xả này đều gọi là xả, là cội gốc của tất cả pháp lành. Hành giả tự nghó khi từ ta có thân đến nay cũng có công đức xã thí như thế, ta có sợ gì, mà nhất tâm nghó nhớ thì sợ hãi liền dứt. Sáu là niệm điều lành. Hành giả phải nghó nhớ bốn vị Thiên vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Các vị trời ấy xưa kia đều nhờ có gốc lành giới thí mà được sinh lên đó, hưởng vui sướng dài lâu. Pháp lành hộ niệm chúng ta nên nghó nhớ. Trời có bốn thứ: một là danh thiên, hai là sinh thiên, ba là Tịnh thiên, bốn là Nghóa sinh thiên. Quả báo trời như thế rất thanh tịnh, nếu ta có thiện giới thí thì khi chết rồi sẽ sinh lên đó, còn lo sợ gì, mà nhất tâm nghó nhớ thì sợ hãi liền trừ. Bảy là niệm A-na-ba-na như trong môn đầu của sáu mươi đặc thắng đã nói, nếu hành giả tâm sợ hãi thì phải điều hòa hơi thở và duyên hơi thở ra vào biết đủ mười hơi tức phải phát câu niệm A-na-ba-na, như thế đến mười sáu lần thì thần liền về, nhất tâm nghó nhớ, liền dứt sợ hãi. Tám là niệm chết, chết có hai: một là tự chết, hai là chết vì nhân duyên khác, là hai thứ chết thường theo thân này. Nếu người khác không giết mà tự mình cũng chết thì đâu có gì phải sợ. Thí như người dũng só vào trận lấy cái chết để ngăn định thì tâm an ổn không sợ. Như thế nhất tâm nghó nhớ cái chết thì sợ hãi liền trừ. Ấy là nói lược tám niệm đối trị sợ hãi. Trong đó pháp tướng đều như luận Đại thừa phân biệt rộng. 3) Nói về tám niệm thú đạo: Nếu trước nói chỉ là dứt bỏ sợ hãi và các chướng nạn. Nay nói khéo tu tám niệm tức là pháp môn một đường vào đạo. Giải thích tám niệm vào đạo có hai ý: một là tướng thứ lớp tu hành vào đạo. Hai là mỗi niệm đều được vào đạo. 1- Thứ lớp tu hành vào đạo: hành giả muốn cầu giải thoát bệnh phiền não thì trước phải nghó Phật như vua thầy thuôc, pháp như thuốc hay Tăng như người nuôi bệnh, nghó giới như cấm kî ăn uống, nghó xả như nuôi nhau, nghó trời như bệnh vừa lành đôi chút, nghó A-na-ba-na khiến phát thiền định, nghó chết tức biết vô thường bốn đế. Nếu ba cõi bệnh hết thì liền được Thánh đạo. 2- Mỗi niệm đều là phương pháp vào đạo. Niệm Phật tức là tướng Tam-muội niệm Phật vào đạo như trong Văn-thù Bát-nhã và các kinh nói. niệm pháp là như kinh chép: thầy của Chư Phật là pháp, như bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu Ba-la-mật, Trung đạo thật tướng. Các pháp như thế đều là pháp vào đạo. Niệm tăng là như trong các kinh Quán Thế Âm Tam-muội, Dược Thượng, v.v… có nói niệm giới là như trong mười giới trước đã nói. Niệm thí là như trong Đại thừa đàn Ba-la-mật các tướng vào đạo có nói. Còn ba niệm kia như niệm trời và trời đệ nhất nghóa, hoặc tướng vào đạo niệm A-na-ba-na có nói trong Thông minh thiền. Niệm tử là như trong nghóa tưởng tử có nói. Phải biết tám niệm hễ tu bất cứ một niệm nào đều được vào đạo, chẳng cần tu thứ khác. Bồ-tát vì cầu Phật đạo nên thực hành tám niệm ấy tâm không nương cậy. Đại bi phương tiện rộng thực hành pháp môn để hóa độ chúng sinh. Phải biết tám niệm tức là Bồ-tát Đại thừa. Kế nói pháp môn mười tưởng: một là tưởng vô thường, hai là tưởng khổ, ba là tưởng vô ngã, bốn là tưởng ăn bất tịnh, năm là tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, sáu là tưởng chết, bảy là tưởng bất tịnh, tám là tưởng dứt, chín là tưởng lìa, mười là tưởng cùng tận. Nay giải thích mười tưởng có ba ý: một là nói vị thứ, hai là nói tu chứng, ba là nói hướng về một đường. Nói vị thứ: nói các pháp trong Phật giáo có ba thứ đạo: một là kiến đạo, hai là tu đạo, ba là vô học đạo. Nay mười thứ tưởng này tức y cứ ba đạo để nói vị thứ. Vì sao? Vì người hoại pháp ở địa vị Càn Tuệ đã đủ chín tưởng, hàng phục các kiết sử, nay tu ba tưởng như vô thường, v.v… tức là tướng quán chung để phá các pháp sáu mươi hai kiến điên đảo, nhập vào kiến đạo, chứng được Sơ quả. Kế là bốn tưởng có thức ăn bất tịnh v.v…, muốn dứt năm phần kiết dưới Tư-đà-hàm nhập vào tu đạo. Muốn dứt năm phần kiết dưới mà chứng quả A-na-hàm. Nói là bốn tướng riêng, sự quán giúp thành chánh quán, dứt tư duy hoặc sau ba tưởng đoạn, ly, tận v.v… là người A-na-hàm làm hướng A-la-hán tu đạo Vô học, vì muốn dứt cứ lìa Sắc, Vô sắc mà chứng quả A-la-hán, phải biết mười tưởng y cứ ba đạo để nói về vị thứ, nghóa một lần có thể thấy. Nói tu chứng: một là tưởng vô thường, là quán tất cả pháp hữu vi vô thường, tương ưng với trí tuệ gọi là tưởng vô thường. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu vi sinh diệt đổi mới, vì thuộc nhân duyên, vì chẳng chứa thêm, khi sinh chẳng từ đâu tới, diệt rồi không đi về đâu, nên gọi là vô thường. Vô thường có hai: một là chúng sinh vô thường, hai là thế giới vô thường. Chúng sinh vô thường là hành giả quán ta và tất cả chúng sinh từ Ca-la-la đến sắc tâm sinh diệt thay đổi, cho đến già chết không tạm dừng. Vì sao? Vì tất cả hữu vi đều thuộc ba tướng sinh-trụ-diệt thay đổi, cho nên biết là vô thường, nghóa là dục sinh khác sinh, dục trụ khác trụ, dục diệt khác diệt. Như thế thay đổi vô thường trong sát-na nhanh chóng không dừng nghỉ. Cho nên biết tất cả chúng sinh đều vô thường, thế giới vô thường, như kệ nói rằng: Đất bằng cỏ cây đều hư rã Tu-di biển lớn cũng khô sụp Chỗ ở các trời đều cháy hết Bấy giờ thế giới có thường đâu? Lại nữa, như Phật nói quán vô thường có hai thứ: một là hữu dư, hai là vô dư. Tất cả người vật đều hết, chỉ có tên gọi là còn, đó gọi là hữu dư. Nếu người và vật mất hết, đó gọi là vô dư. Vì sao? Nếu nói ba tướng thì tất cả pháp hữu vi là vô thường, ba tướng tự chẳng thật có, thì làm sao có vô thường như khi sinh thì không có trụ diệt, lìa khi sinh cũng không có trụ diệt. Nếu khi sinh có trụ diệt tức liền hư hoại tướng sinh, vì trái với tướng sinh diệt. Nếu nói lìa sinh mà có diệt trụ, thì cũng hư hoại nghóa ba tướng. Nếu lìa sinh thì diệt cũng không có chỗ diệt, nên phải biết ba tướng chẳng thật có. Nếu không có ba tướng thì làm sao nói vô thường? Nếu chẳng được tướng vô thường thì liền thấy Thánh đạo. Đó gọi là tưởng vô thường. Hỏi: Nếu thế, vì sao Phật nói vô thường là Thánh đế? Đáp: là vì đối trị để phá mê chấp cái thường điên đảo kia trong ấy chẳng nên cầu Phật. Nếu tâm chấp vô thường là thật thì liền rơi vào kiến đoạn. Lại nữa, vì tướng hữu vi là vô thường thì như đặc thắng thông minh ở trên nói. Vô dư thì trong tuệ hạnh sẽ nói sau. Hỏi: Vì sao trước dùng Thánh hạnh sơ môn mà nói tưởng vô thường? Đáp: vì tất cả phàm phu khi chưa thấy đạo đều quí chỗ làm, hoặc nói trì giới là quan trọng, hoặc nói học rộng là quan trọng, hoặc nói mười hai hạnh đầu-đà là quan trọng, hoặc nói thiên định là quan trọng. Như thế các chỗ làm đều quí, liền chẳng chuyên cầu Niết-bàn. Phật nói các công đức ấy đều đến đạo phần Niết-bàn. Nếu quán các pháp vô thường là thật đạo Niết-bàn. Nếu quán các pháp vô thường là thật đạo Niết-bàn. Vì các thứ nhân duyên như thế nên các pháp tuy không mà nói là tưởng vô thường. Hai là khổ tưởng: hành giả nên nghó rằng: nếu tất cả pháp hữu dư là vô thường thay đổi thì tức là khổ tưởng. Vì sao? Vì từ sáu tình bên trong, sáu trần bên ngoài hòa hợp nhau mà sinh ra sáu thức, trong sáu thức sinh ra ba thứ thọ, tức là thọ khổ, thọ lạc và thọ xả. Trong ba thọ ấy thì sinh già bệnh chết, ân ái biệt ly, cầu chẳng được, oán ghét mà gặp nhau, năm Ấm lững lẫy, v.v… tám khổ ép ngặt nên gọi là khổ. Lại thọ khổ ấy là khổ, nên tất cả chúng sinh đều chẳng ưa thích, còn thọ lạc là thuận tình nên tất cả chúng sinh đều ưa thích. Nếu tham đắm vô thường bại hoại tức là hiện chịu các khổ, sau phải chịu các khổ địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Các khổ như thế đều từ cầu vui mà sinh ra, nên biết vui tức là khổ. Thọ xả tuy trong tình chẳng biết khổ vui, chẳng lấy, chẳng bỏ. Lý thật vô thường thay đổi ép ngặt cũng là khổ lớn. Như thế khi quán ba cõi thì chẳng thấy tướng vui nào đáng tham đắm mà tâm sinh chán sợ, đó gọi là khổ tưởng. Hỏi: Nếu vô thường tức là khổ, thì đạo Thánh đế hữu vi vô thường cũng phải là khổ? Đáp: Đạo Thánh đế tuy là vô thường mà diệt khổ chẳng sinh các mê đắm, lại cùng không vô ngã v.v… các trí tuệ hòa hợp, cho nên chỉ là vô thường mà không phải ba chỗ. Ba là tưởng vô ngã, hành giả phải nghó sâu rằng: nếu pháp hữu vi đều là khổ, thì khổ tức là vô ngã. Vì sao? Vì năm thọ Ấm đều là khổ, nếu là khổ thì chẳng tự tại, nếu chẳng tự tại tức là vô ngã. Vì sao? Vì nếu có ngã tự tại thì chẳng bị các khổ ép ngặt nên biết khổ tức là vô ngã. Lại nữa, trong năm Ấm, mười hai nhập, mười tám giới v.v… các pháp từ duyên sinh thì không có tự tánh. Nếu tức Ấm lìa Ấm lại cầu ngã, v.v… mười sáu tri kiến đều chẳng thật có, đã chẳng được ngã thì bỏ tất cả các kiến chấp, tâm không chấp thì liền được giải thoát. Đó gọi là tướng vô ngã, ba là tưởng vô thường khổ, vô ngã mà quán hạnh sâu sắc, thì trong phần giải thích khổ đế sau này sẽ nói rõ. Hỏi: Vô thường, khổ, vô ngã là một việc hay ba việc. Nếu là một thì chẳng nên nói ba, nếu là ba thì sao Phật nói vô thường tức là khổ, khổ tức là vô ngã? Đáp: Ba là một, đó là nói thọ pháp hữu lậu quán môn phân biệt có ba thứ khác nhau. Hành tướng Vô thường (vô thường mà làm tướng thì phải là tướng vô thường, khổ mà làm tướng thì phải là tưởng khổ, v.v…) phải là vô thường tưởng, khổ hành tưởng phải là khổ tưởng, vô ngã hành tưởng phải là vô ngã tưởng. Vô thường mà chẳng khiến vào ba cõi, khổ mà khiến biết tội lỗi của ba cõi, vô ngã thì lại bỏ thế gian. Lại, vô thường thì sinh chán, khổ thì sinh sợ, vô ngã thì nhổ lên cho được giải thoát. Lại, vô thường là ngăn thường kiến, khổ là ngăn thế gian chấp Niết-bàn, vô ngã là ngăn chấp trước. Vô thường là thế gian mê đắm pháp thường. Khổ là thế gian mê chấp chỗ vui, vô ngã là thế gian chấp ngã, tù ngục cứng nhắc. Các thứ phân biệt như thế đều như luận Đại thừa có nói rộng. Tưởng thức ăn bất tịnh: Hành giả tuy biết vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu ăn uống cũng sinh mê đắm thì phải tu tưởng ăn bất tịnh để đối trị. Quán chắc thức ăn này đều do nhân duyên bất tịnh mà có, như thịt là trong tinh huyết thủy đạo sinh ra, ấy là chỗ ở của các trùng mủ, như tô sữa lạc là do huyết biến mà thành, không khác với máu mủ rã nát. Uống thì như nước canh bạch tùng, như nước phân. Tất cả ăn uống thì người làm bếp nấu nướng chất dơ bẩn. Nếu mê đắm vật trong miệng thì trộn với nước bọt và đàm mà thành mùi vị, giống như vật ói mửa. Thức ăn vào bụng rồi thì địa đại giữ gìn, thủy đại hòa tan, phong đại chuyển động và hỏa đại nung nấu, như trong nồi nấu, chất cặn đục thì ở dưới, chất trong thì ở trên. Thí như chất cặn bã giẤm rượu, đục như cháo nhừ, trong như nước tiểu. Ở eo có ba lỗ gió thổi chất mủ tan vào trăm mạch. Trước cùng máu hòa hợp rồi ngưng tụ biến đổi thành thịt, từ thịt mới mà sinh mỡ xương tủy. Do đó mà sinh thân căn từ thịt mới cũ khiến sinh năm tình căn. Từ năm căn này sinh ra năm thức. Kế là thứ lớp sinh ý thức, lại phân biệt lấy tướng suy tính tốt xấu. Sau đó mới sinh các phiền não như ngã, ngã sở v.v… và các tội nghiệp. Quán thức ăn như thế các thứ nhân duyên bất tịnh, biết bốn đại bên trong không khác bốn đại bên ngoài, chỉ vì nước ngã kiến nên chấp chặt làm ngã. Có hành giả nghó như thế biết tội lỗi của thức ăn. Nếu ta tham lam sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ ăn nuốt hoàn sắt nóng đỏ, hoặc đọa làm súc sinh heo chó, ăn nuốt cứt đái. Như thế quán thức ăn mà sinh ý tưởng chán sợ: Do chán ăn nên năm dục cạn mỏng, tức là tưởng thức ăn bất tịnh. Tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui: nếu hành giả nghó ở thế gian các thứ sắc dục vị ngon, quyến thuộc, ăn mặc, nhà cửa, ruộng vườn, cõi nước, v.v… thì đều sinh tưởng vui, mà ác giác chẳng dứt, chướng đạo lìa dục. Nếu hành giả phải quán sâu tướng tội lỗi thế gian. Có hai thứ tội lỗi: một là chúng sinh, hai là cõi nước. Tội lỗi chúng sinh: là tất cả chúng sinh đều có hoạn nạn tám khổ, không nên mê đắm. Lại quán chúng sinh vì nặng nề tham dục, chẳng phân biệt tốt xấu, cũng như cầm thú, tức giận nặng nề, cho đến chẳng nghe lời Phật dạy, chẳng nghe pháp, chẳng sợ đường dữ, vì nặng về ngu si nên sự cầu mong không cần đạo lý, không biết tôn ty, hoặc sân tham, kiêu mạn, ganh ghét, dữ dằn, nịnh nọt, lừa dối, tà kiến, không tín, không biết ân nghóa, hoặc tội nghiệp nhiều nên gây ra năm tội nghịch, chẳng kính Tam bảo, khinh chê người lành. Thế gian người lành rất ít mà kẻ xấu quá nhiều. Thấy rõ tội lỗi phiền não như thế nên sinh chán lìa. Như thế chẳng thể coi trọng cõi nước vì nó là tội lỗi, như kệ nói: Hoặc có nước rất lạnh Hoặc có nước rất nóng Có nước không cứu hộ Có nước nhiều hung ác. Có nước rất nghèo thiếu Có nước thường bệnh tật. Có nước chẳng tu phước Chỗ như thế không vui. Hành giả quán kỹ cõi dục việc xấu như thế là chỗ không vui. Cho đến trong ba cõi khi quả báo đã hết thì liền bị buồn khổ rơi lại cõi dưới. Thí như cao hết mức thì sụp đổ rơi xuống bể nát. Kinh nói: ba cõi không an, cũng như nhà lửa, các khổ dẫy đầy, rất đáng ghê sợ. Nếu thường quán tưởng ấy thì rất sinh nhàm chán xa lìa, ái giác chẳng sinh. Đó gọi là tưởng thế gian chẳng đáng ưa thích. Tưởng chết: Nếu hành giả tu các tưởng trên mà có ít nhiều biếng lười thì chẳng thể mau chóng dứt lậu. Lúc đó phải tu kỹ tưởng cái chết. Như Phật nói về nghóa tưởng chết: có một Tỳ-kheo bạch Phật: Con có thể tu tưởng chết. Phật hỏi: Thầy tu thế nào? Tỳ-kheo thưa: con chẳng mong sống một năm. Phật nói: Thầy là kẻ buông lung tu tưởng chết. Lại có Tỳ-kheo thưa: Con chẳng mong sống quá bảy tháng. Các Tỳ-kheo khác nói không sống quá bảy ngày, sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày. Phật bảo các thầy đều là kẻ buông lung tu tưởng chết, có Tỳ-kheo nói từ sáng đến buổi ăn trưa. Có Tỳ-kheo nói chỉ sống trong một bữa ăn. Phật nói: các thầy đều là kẻ buông lung tu tưởng chết. Có một Tỳ-kheo bạch Phật: con thở ra mà chẳng bảo đảm thở vào, thở vào mà chẳng bảo đảm thở ra. Phật bảo: lành thay, lành thay! Thầy là người thật tu tưởng chết, là thật chớ không phải buông lung. Nếu mà tu tưởng chết như thế, phải biết người ấy đã phá giặc biếng lười, tất cả pháp lành thường được hiện tiền. Đó gọi là tu tưởng chết. Tưởng bất tịnh: Như trước trong Thông minh quán thấy ba mươi sáu vật trong thân năm thứ bất tịnh trong ấy nói rộng. Tưởng dứt. Tưởng lìa. Tưởng cùng tận: là duyên Niết-bàn mà dứt kiết sử phiền não nên gọi là tưởng dứt. Lìa kiết sử nên gọi là tưởng lìa. Hết các kiết sử nên gọi là tưởng cùng tận. Hỏi: Nếu thế thì chỉ một tưởng là đủ, sao lại nói ba? Đáp: Như trước một pháp nói ba, vô thường tức khổ, khổ tức vô ngã. Tưởng này cũng như thế. Tưởng dứt là Niết-bàn hữu dư, tưởng cùng tận là Niết-bàn vô dư, tưởng lìa là phương tiện hai Niết-bàn. Phải biết người hoại pháp thành tựu mười tưởng liền thành tựu A-la-hán đầy đủ một thứ Niết-bàn nên nói như thế. Chín tưởng, mười tưởng là đạo hoại pháp. Nghóa mười tưởng các thứ phân biệt đủ như trong luận Đại thừa có nói. 3) Tướng hướng về một đường: có ba: một là lần lượt vào đạo hoại pháp đủ như trước nói: hai là không phải thứ lớp vào đạo hoại pháp: từ mới phát tâm liền tu đủ mười tưởng, dứt các kiết sử mà được quả A-la- hán, đầy đủ hai thứ Niết-bàn. Luận Đại thừa nói: nếu ở Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp chánh tri tuệ mà quán lìa, các phiền não là tưởng lìa, được đạo vô lậu, dứt các kiết sử, là tưởng dứt. Khi vào Niết- bàn diệt năm thọ Ấm chẳng còn tiếp nối gọi là tưởng cùng tận, phải biết từ Sơ Càn Tuệ địa đến tức nói tưởng lìa v.v… Đây thì khác chỗ nói trước, ba tưởng đều ở sau đạo Vô học. 3- Tùy phần vào đạo: Nếu đối với mười tưởng tu bất cứ một tưởng nào khéo được thành tựu, thì sẽ dứt kiết sử ba cõi mà được quả A-la- hán, chứng hai thứ Niết-bàn. Cho nên kinh nói: khéo tu vô thượng thì sẽ dứt tất cả Dục ái, Sắc ái, Vô sắc ái, trạo, mạn, vô minh kiết sử ba cõi, dứt hẳn không còn sót. Phải biết vô thường tức là đầy đủ vào đạo, chẳng còn tưởng phiền não. Chín tưởng dưới cũng phải biết như thế, phân biệt tướng từng đường một. Lại nữa, Đại Bồ-tát khi hành đạo Bồ-tát thì tâm rất rộng lớn, muốn vì tất cả chúng sinh mà tập pháp dược cam lộ. Tuy biết các pháp rốt ráo vắng lặng mà cũng thành tựu đầy đủ mười tưởng. Bồ-tát ấy đối với mỗi tưởng thứ lớp nhập vào tất cả pháp môn lần lượt vô ngại vì chúng sinh mà nói. Phải biết mười tưởng tức là Bồ-tát Đại thừa. <篇> THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT THỨ ĐỆ PHÁP MÔN <卷>QUYỂN 10 <詞>CHƯƠNG VII: GIẢI THÍCH TU CHỨNG THIỀN BA LA MẬT (Tiếp Theo). Giải thích về các pháp môn quán của pháp bất hoại Từ bối xả trở đi có sáu pháp môn đều thuộc về pháp đạo bất hoại. Thanh văn lợi căn đủ sáu pháp này mà phát chân vô lậu, liền thành đại lực A-la-hán bất hoại pháp. Cho nên luận Đại thừa nói: A-la-hán Bất hoại pháp đầy đủ Tam-muội vô tránh, nguyện trí đảnh thiền. Nay chia ra sáu pháp môn này có bốn ý, đó là quán luyện huân tu: một là bối xả và thắng xư, nhất thiết xứ. Ba môn nầy đều thuộc quán thiền. Cho nên luận Đại Thừa nói: bối xả là hạnh đầu, thắng xứ là hạnh giữa, nhất thiết xứ là hạnh sau, đều là đối trị phá vô minh tham đắm và tịnh pháp ái trong vị thiền căn bản. Hai là chín định thứ đệ, tức là Luyện thiền. Ba là Tam-muội sư tử phấn tấn, tức là Huân thiền. Bốn là Tam-muội Siêu việt, tức là Tu thiền. Nay giải thích quán thiền bậc nhất, tức có hai ý: Một là trước giải thích hai phen tu phương pháp quán thiền. Hai là nói công năng quán thiền, trước giải thích bối xả, hai là kế giải thích thắng xứ, ba là giải thích nhất thiết xứ. Giải thích tám bối xả: tám bối xả là: một là trong có sắc tướng ngoài quán sắc, hai là trong không sắc tướng ngoài quán sắc, ba là tịnh bối xả thân làm chứng, bốn là hư không xứ bối xả, năm là Thức xứ bối xả, sáu là bất dung xứ bối xả, bảy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng bối xả, tám là Diệt thọ tưởng bối xả. Nay giải thích bốn xả, có năm ý: một là giải thích tên gọi, hai là nói vị thứ, ba là nói về pháp quán khác nhau, bốn là nói tu chứng, năm là phân biệt tướng con đường hướng tới. Giải thích tên: tám pháp này sở dó gọi chung là bối xả, vì bối là làm trong sạch năm dục, lìa tâm đắm trước, nên gọi là bối xả. Nói làm trong sạch, là các sắc thanh hương vị xúc thô tệ ở cõi dục. Tham đắm là pháp chết chìm trong ba đường gọi là năm dục bất tịnh, Vị đáo địa định cõi Dục là căn bản bốn thiền, bốn không. Trong đó tuy sinh vị mê đắm đều gọi là năm dục trong sạch. Nay dùng bối xả vô lậu mà đối trị phá trừ, chán lìa chẳng mê đắm hỷ lạc của thiền định căn bản cõi Dục. Cho nên nói năng bối là năm dục trong sạch, xả bỏ đắm trước tài ấy, gọi là bối xả, lại có nhiều người nói bối xả là tên khác của giải thoát. Nay dùng ý của luận Đại thừa xét qua nghóa này thì chẳng phải thế. Vì sao? Vì như kinh Đại phẩm chép: Bồ-tát nương tám bối xả mà vào chín định thứ đệ, thân chứng A-na-hàm, tuy được chín định thứ đệ mà chẳng được gọi là đầy đủ tám giải, cho nên biết trong nhân nhàm chán xa lìa phiền não thì gọi là bối xả. Sau đầy đủ quán luyện huân tu phát chân vô lậu mà hết kiết ba cõi. Khi ấy, bối xả đổi tên là giải thoát, nghóa như đây nói rất đáng tin. Nói về thứ vị: Có giải thích khác nhau, nếu theo Đàm-vô-đức thì bối xả đầu vị ở cõi dục, ba tịnh bối xả vị ở cõi sắc, bốn thiền, bốn bối xả, bốn, năm, sáu, bảy là vị ở bốn Không. Bối xả thứ tám là vị diệt thọ tưởng hơn ba cõi. Nếu theo bộ Tát-bà-đa: thì hai bối xả đầu, là chung, cõi dục sơ thiền nhị thiền; tịnh bối xả thứ ba chỉ ở Tứ thiền. Bộ ấy nói: Tam thiền vui nhiều lại lìa bất tịnh gần nên chẳng lập bối xả. Năm bối xả sau nói vị chẳng khác trước. Lại có Sư nói: Tam thiền không có thắng xứ, Tứ thiền không có bối xả. Ở đây có khác với trước. Nay theo luận Đại thừa nói mà luận rằng: bối xả đầu thuộc Sơ thiền, bối xả thứ hai thuộc Nhị thiền, phải biết hai thứ bối xả vị ở Sơ thiền làm đối trị để phá cõi dục đều nói dùng tâm bất tịnh mà quán sắc ngoài. Tịnh bối xả ba vị ở Tam thiền. Nên luận chép: Tịnh bối xả vì duyên tinh nên tịnh, khắp thân thọ vui mà gọi là thân làm chứng, pháp của ba cõi nếu trừ Tam thiền thì không có vui khắp thân. Văn luận lại nói: trong Tứ thiền có một bối, một bối bốn thắng xứ. Như so tiến lùi ở trên thung dung phải biết, vị ở Tam thiền, Tứ thiền. Nếu là khắp thuộc thì trái với luận. Nay nếu lấy đủ nghóa này mà phá trước và dung thông ý giáo thì rất rối rắm năm bối xả sau thì phối vị chẳng khác trước, nay y theo lời giải thích của các Sư sau nầy mà nói về vị thứ. Giải thích quán pháp khác nhau: nếu theo bộ Đàm-Vô-Đức thì tám quán giải thoát này đều dùng quán không làm thể. Nếu theo bộ Tát-bà-đa: thì tám bối xả quán bất tịnh này đều lấy hữu quán nhàm chán làm thể. Nay tám bối xả nầy đều có hai quán sự lý. Ở nhân thì gọi là bối xả, ở quả mãn thì gọi là giải thoát, cũng gọi là tu giải thoát. Nếu chỉ y theo lời hai người trước nói thì sự lý đều có chẳng đủ, đâu được gọi là tu giải thoát ư? Quán hạnh trong đây khác với hai nhà ở trước, cạn sâu có khác, sau sẽ tự thấy. Nói tu chứng: Người muốn tu quán hạnh tám bối xả vô lậu, thì phải tinh trì năm thiên giới cho thật thanh tịnh. Lại phải tinh cầu mạnh mẽ đại thệ trang nghiêm tâm không hề lui sụt và làm xong được việc lớn. Nói sơ bối xả là chẳng hoại sắc trong ngoài, chẳng diệt sắc tướng trong ngoài. Đã là bất tịnh tâm quán sắc. Đó gọi là sơ bối xả (bối xả đầu). Vì sao? Vì chúng sinh có hai hạnh là ái hạnh và kiến hạnh. Người nặng về ái thì đắm mê vui nhiều, buộc ràng bởi ngoại kiết sử. Còn người nặng về kiến thì mê đắm thân kiến, v.v… các kiến bị nội kiết sử buộc ràng. Vì thế nên nặng về ái, thì quán ngoại thân bất tịnh, nặng về kiến chấp thì quán nội thân bất tịnh bại hoại. Nay nói bối xả quán hạnh thì thường từ bên trong mà khởi, nội quán đã thành thì sau mới dùng tâm bất tịnh mà quán ngoại. Quán nội là thế nào? Hành giả thân thẳng tâm chánh quán kỹ ngón cái, tưởng như hạt đầu đen phình to như cái kén tằm. Đối với tịnh tâm quán tưởng nầy thành, lại tưởng nó phình to lên như hạt đậu lê. Như thế cho đến thấy ngón chân cái to như quả trứng gà lớn. Kế quán hai ngón tay, ba, bốn, năm ngón cũng như thế. Kế quán ngón chân lại thấy phình to lên. Cho đến giữa (lòng bàn chân), gót chân, mắt cá, bắp chân, đùi, đầu gối, v.v… đều thấy phình to. Kế quán chân phải cũng như thế, lại phải tịnh tâm mà quán kỹ về đường đại tiểu, eo, lưng, bụng, ngực, hông đều thấy phình to. Lại phải tịnh tâm quán vai trái, cánh tay, cùi chỏ, cổ tay, bàn tay, năm ngón tay, v.v… đều thấy phình to. Cho đến vai phải cũng giống như thế. Lại phải tịnh tâm quán chắc đầu, cổ, hàm v.v… đều thấy phình to. Đứng dậy thẳng cổ như thế, từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, nhìn khắp quán sát chỉ thấy phình to, tâm sinh nhàm chán. Lại phải quán hư rã máu mủ dơ bẩn bất tịnh, đường đại tiểu tiện giòi trùng máu mủ chảy ra. Lại mở phá các nội tạng và ba mươi sáu vật hôi thối bất tịnh mà sinh tâm nhàm chán. Tự quán thân mình như thây chó chết. Quán ngoài thân nam nữ mến yêu cũng giống như thế mà chẳng yêu thích. Nói rộng như chín tưởng, chỉ trừ hai tưởng thiêu đốt và phân tán là khác. Khi hành giả quán này, nếu phiền não cõi dục chưa dứt, thì phải ở lâu trong quán này khiến tâm chán ghét thuần thục. Nếu lìa ái thực thì phải tiến đến quán xương trắng, nhất tâm vắng lặng quán tưởng giữa hai đầu chân mày, da thịt rách ra mà thấy xương trắng như móng tay lớn rất rõ ràng. Kế phải dùng tâm hướng lên xé rách da thịt liền thấy xương trán và mí tóc mở ra mà thấy tướng xương. Lại quán xương đỉnh đầu, cũng thấy da thịt lột ra chỉ thấy sọ người. Lại phải định tâm từ đầu hướng lần xuống dưới đến chân, đều thấy da thịt rách ra mà chỉ thấy xương trắng rất rõ ràng. Bấy giờ, hành giả quán chắc các xương, nầy từ nhân duyên sinh, nương vào xương tay để chống xương chân, nương vào xương chân để chống xương mắt cá, rồi lần đến các xương ống chân, xương đầu gối, xương đùi, rồi chống đến xương chậu, xương lưng, xương cột sống, xương sườn, xương cổ, xương hàm, các răng trên có sọ người. Lại nhờ xương cổ mà chống xương vai rồi xương cánh tay, xương cổ tay, xương bàn tay và các ngón tay. Như thế lần lượt nương nhau mà có ba trăm sáu mươi xương. Mỗi xương quán kỹ biết rõ lớp nhỏ, cứng mềm nương tựa lẫn nhau. Trong ấy là vô chủ vô ngã, đâu còn thấy thân nầy, hơi thở ra vào chỉ là hơi gió, cũng lại chẳng phải thân, chẳng phải ta. Quán thọ, quán tâm cho đến quán pháp đều biết là giả dối vô chủ, vô ngã. Quán như thế rồi liền phá ngã kiến. Kiêu mạn, năm dục cũng đều dứt hết. Bấy giờ, lại phải định tâm từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, tuần tự quán kỹ xương trắng mà luyện sâu trăm ngàn lần. Các bộ xương người, gân đã hết, mâu xương như vỏ sò, vỏ ốc, quán kỹ chẳng thôi thì liền thấy trên xương có ánh sáng lấp lánh. Thấy tướng này rồi thì phải quán kỹ ở giữa hai đầu chân mày. Phải khi quán cũng phải thấy ánh sáng trắng lấp lánh đến tâm hành giả, chẳng chấp tướng ánh sáng, chỉ định tâm ở giữa hai đầu chân mày. Nếu tâm điềm nhiên nhậm vận tự trụ ở gốc lành khai phát, liền ở giữa hai đầu chân mày mà thấy ánh sáng tám mầu xoay vần phát ra chiếu khắp, mười phương đều thấy trong sáng. Tám mầu là đất nước lửa gió, xanh vàng đỏ trắng. Chiếu khắp đất đai thấy sắc đất như đất sạch vàng trắng, thấy sắc nước như nước trong ở vực sâu, thấy sắc lửa như lửa củi sạch cháy, thấy sắc gió như gió sạch không bụi, thấy sắc vàng như hoa sen, thấy sắc đỏ như ráng sáng xuân, thấy sắc trắng như ngọc kha tuyết, tùy theo sắc tướng đều có ánh sáng. Tuy thấy sắc rõ ràng mà không có hình chất. Sắc nầy cao quí trên đời không hề có. Khi tướng ấy phát thì hành giả tâm định an ổn vui mừng vô lượng, chẳng thể diễn tả bằng lời. Hành giả lại phải quán luyện xương người từ đầu đến chân, lại nhiếp tâm mà quán chắc trán mà duyên tâm ở đấy. Lại thấy ánh sáng tám mầu quay tròn tuôn ra. Như thế thứ lớp tâm định quán mái tóc, đỉnh đầu, hai tai, xương mày, xương mắt, xương mũi, răng miệng, xương hàm, xương cổ, v.v… từ trên đến dưới ba trăm sáu mươi các xương, các gân, đều thấy ánh sáng tám mầu xoay tròn tuôn ra. Hành giả nhiếp tâm chuyển tế từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, quán các xương người này đều thấy khắp thân phát ra ánh sáng chiếu khắp tất cả thảy đều sáng sạch. Nếu là Bồ-tát đại só đều ở trong ánh sáng mà thấy các hình tượng Phật. Nếu hành giả gốc 1ành yếu kém, cho đến Tứ thiền mới thấy các hình tượng Phật. Hành giả ánh sáng đã chiếu sáng, định tâm được vui mừng gấp bội ở trên. Đó gọi là chứng sơ bối xả (bối xả đầu). Thấy tám thứ ánh sáng bên ngoài và cảnh cõi dục bất tịnh, nên nói dùng tâm bất tịnh mà quán sắc ngoài. Sắc ngoài có hai: như cõi dục bất tịnh, đây là sắc ngoài bất tịnh, sắc tám thứ thanh tịnh là cõi sắc xuất thế gian, nên gọi là sắc ngoài. Vì hành giả thấy sắc bất tịnh trong ngoài. Mà bối xả cõi dục tâm chẳng vui mừng. Thấy tám thứ tịnh sắc liền biết căn bản Sơ thiền là cảnh giới thô kém, bị vô minh ngăn che, giả dối không thật, liền buông bỏ được mà tâm chẳng mê đắm. Luận nói bối xả là làm trong sạch năm dục, lìa tâm mê đắm nên gọi là bối xả. Lại nữa, như trong luận Đại thừa nói Sơ thiền một bối xả, phải biết bối xả tức là sơ thiền vô lậu. Nếu là sơ thiền thì có đủ năm chi. Nay sẽ phân biệt như hành giả từ mới quán bất tịnh cho đến quán luyện ánh sáng. Xương người là tướng quán thiền định cõi dục. Kế nhiếp tâm giữa hai đầu chân mày tiêu mất mà trụ định, thì tức là tướng thiền định vị đáo địa. Tám thứ ánh sáng xoay tròn tuôn ra, biết ở sắc này từ xưa chưa thấy, tâm rất kinh ngộ, tức là tướng Giác chi của quán thiền. Phân biệt tám sắc tướng ấy đều khác, thế gian này không có được, tức là Quán chi. Tâm vui mừng hớn hở là Hỷ chi. Điềm đạm tâm vui nhẹ nhàng tức là lạc chi. Tuy thấy sắc này không có tưởng điên đảo mà Tam-muội bất động, tức là nhất tâm chi. Nay lược phân biệt tướng năm chi của quán thiền vô lậu nầy, phải biết một bề khác với năm chi trong căn bản đặc thắng thông minh ở trên. Bối xả thứ hai là họai nội sắc, diệt nội sắc, chẳng hoại ngoại sắc, chẳng diệt ngoại sắc. Dùng tâm bất tịnh mà quán ngoại sắc là bối xả thứ hai. Vì sao? Vì hành giả ở bối xả đầu, xương người phát ra ánh sáng đã khắp, nay muốn vào nội tịnh Nhị thiền hoại diệt xương bên trong, nhưng tận cõi dục kiến tư chưa dứt còn quán tướng xương trắng bất tịnh bên ngoài, cho nên nói dùng tâm bất tịnh mà quán ngoại sắc. Nay nói tu chứng là hành giả ở bối xả đầu trong hậu tâm chẳng chịu giác quán động loạn mà quán chắc xương người trong thân là giả dối chẳng thật, trong ngoài đều không sơ, chỉ chấp tướng tan hoại ma diệt, cứ như thế khi quán dần dần thấy xương người rã nát hư hoại cũng như bụi bặm, tan mất trở về không mà chẳng thấy nội sắc. Lúc đó chỉ nhiếp tâm vào định duyên với ánh sáng bên ngoài và bất tịnh, bên trong rỗng rang sáng sạch, Tam-muội chánh thọ cùng hỷ lớn đều phát. Liền thấy tám thứ ánh sáng, chiếu từ nội tịnh ra sáng cả mười phương, hơn trước gấp bội. Đã chứng nội pháp đại hỷ sáng rỡ rồi liền biết căn bản Nhị thiền giả dối thô kém đáng chán mà chẳng mê đắm, nên gọi là bối xả. Cũng gọi là đệ nhị thiền vô lậu. Trong ấy có đủ bốn chi, suy tìm sẽ thấy. Ba là tịnh bối xả thân tác chứng, như luận Đại thừa nói: vì duyên tịnh nên tịnh, khắp thân thọ vui nên nói thân tác chứng. Vì sao? Vì hành giả muốn vào bối xả thứ ba. Ở bối xả hai, hậu tâm chẳng chịu quán ngoại bất tịnh, mà đều hoại thân tán diệt không sót, cũng chẳng thọ nhận hỷ lớn động mạnh, chỉ nhiếp tâm quán chắc tướng ánh sáng tám mầu. Lại lấy tướng ấy mà vào sâu Tam-muội. Luyện tám mầu này khiến thật sáng sạch mà trụ tâm, duyên trong đó liền tiêu mất mà nhập định. khi định phát thì sinh chung với lạc (vui), thấy tám sắc ngoài thanh tịnh sáng sạch cũng như sắc sáng ngọc báu, đều tùy tưởng mà sáng rực rỡ chiếu khắp các phương ngoài, thấu suốt thanh tịnh. Ngoại sắc chiếu tâm, tâm liền sáng sạch, lạc dần thêm lớn đầy khắp trong thân, cả thân đều vui. Đã chướng pháp căn bản bối xả này tâm không mê đắm. Đó là nói lược tướng chứng tịnh bối xả, cũng gọi là tam thiền vô lậu. Trong ấy đầy đủ năm chi, suy nghó sẽ thấy. Cho đến Tứ thiền định sắc cũng giống như thế, đều thuộc về tịnh bối xả. Chỉ không khắp thân vui là khác mà thôi. Hỏi: nếu thế, thì từ bối xả đầu trở đi đều có tịnh sắc, vì sao nay mới gọi là Tịnh bối xả? Đáp: Trong đó phải dùng bốn nghóa phân biệt: một là bất tịnh bất tịnh, hai là bất tịnh tịnh, ba là tịnh bất tịnh, bốn là tịnh tịnh bất tịnh. Bất tịnh là như tánh tướng của ba mươi sáu vật của thân cõi Dục đã là bất tịnh, nhờ sức quán bất tịnh mà thấy thân này sình chương máu mủ rã nát, xanh ứ hôi thối. Ở đây, trong bất tịnh lại thấy bất tịnh. Bất tịnh tịnh, như xương trắng vốn là thể bất tịnh, dùng tâm quán kỷ thì mỡ nhầy đã hết, như ngọc kha, như vỏ sò, vỏ ốc sáng lấp lánh. Đây là tịnh trong bất tịnh. Bất tịnh trong tịnh: Là từ bối xả đầu đến đây tuy có ánh sáng thanh tịnh, nhưng ánh sáng này có ba nhân duyên bất tịnh: một là người xuất xứ bất tịnh, nghóa là người mà ra, hai là chỗ chiếu bất tịnh, tức là chiếu ngoại cảnh, ba là thể ánh sáng chưa được cho luyện nên bất tịnh. Thí như vàng chưa được luyện, chất cặn dơ chưa hết, nên sắc vàng bất tịnh, vì nhân duyên tịnh nên tịnh. Nhị thiền tuy không có xương trắng, ánh sáng từ nội tịnh mà ra cũng chiếu bất tịnh ngoài mà chưa được luyện, và vì hỷ lớn nên cũng được gọi là Duyên tịnh. Nay nói tịnh tịnh, ánh sáng tám sắc vốn là sắc tịnh, nay ở địa nầy lại lìa ba thứ bất tịnh nên tịnh mà nói Tịnh tịnh. Cũng gọi là duyên tịnh nên tịnh. Nghóa tịnh đã đầy đủ do đó gọi là Tịnh bối xả. Bốn là hư không bối xả. Hành giả sau khi ở cõi dục rồi mà trừ sắc bất tịnh của da thịt thân mình bối xả đầu, sau đã diệt sắc xương trắng trong thân. Bối xả thứ hai sau tức là sắc bất tịnh ngoài của tất cả, chỉ có tám thứ sắc tịnh. Đến tứ thiền thì tám thứ sắc này đều nương vào tâm mà trụ. Nếu tâm bỏ sắc thì sắc liền lui mất. Nhất tâm duyên không, tương ưng với không, liền vào Vô biên Hư không xứ. Đây là nói diệt sắc phương tiện có khác trước. Chứng Hư không xứ định, nghóa như trước nói. Hành giả muốn nhập vào hư không bối xả, trước phải nhập vào Không định. Không định tức là môn đầu bối xả. Bối xả sắc duyên với vô sắc, nên phàm phu nhập định này gọi là Vô sắc. Đệ tử Phật nhập định này thâm tâm một bề chẳng trở lại, nên gọi là Bối xả. Thế nào là thâm tâm? Là khéo tu Xa-ma-tha. Thế nào là một bề chẳng trở lại? Là ở trong định nầy khéo tu Tỳ-bà-xá-na không, vô tướng, vô tác, vô nguyện, bỏ tâm mê đắm, căn bản tức bất thối, không còn trôi lăn trong sinh tử nên gọi là một bề không trở lại. Lại nữa, khi đệ tử Phật vào định vô sắc, thì có tám thứ quán như ghẻ lở, ung nhọt, v.v… bốn thứ quán đối trị, liền phá Vô sắc hai đảo giả thật mà phát sinh vô lậu. Tám thứ Thánh chủng quán hạnh, phương pháp đều như khi lìa định hư không mà tu Thức định như trước đã nói, chỉ vì muốn lìa hư không nên mới tu tám Thánh chủng. Nay khi hành giả vào định hư không thì liền tu tám Thánh chủng. Tuy trụ trong định mà không mê đắm định hư không nên gọi là Bối xả. Năm là Thức xứ, sáu là Vô sở hữu xứ, bảy là phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ bối xả, cũng phải mỗi mỗi phân biệt như thế. Tám là diệt thọ tưởng bối xả, là bối diệt thọ tưởng các pháp tâm, tâm sở, đó gọi là diệt thọ tưởng bối xả. Vì sao? Vì đệ tử Chư Phật chán ghet tâm tán loạn vào định nghỉ ngơi, đường pháp Niết-bàn an trụ trong thân, nên gọi là thân chứng, hành giả diệt thọ tưởng bối xả phải diệt phi tưởing Ấm giới nhập các pháp tâm sở. Thế nào là diệt? Là trong phi tưởng tuy không có phiền não thô mà đầy đủ bốn Ấm, hai nhập, ba giới mười pháp tâm sở nhỏ nhiệm, đó là: một là thọ, hai là tưởng, ba là hành, bốn là xúc, năm là tư, sáu là dục, bảy là giải, tám là niệm, chín là định, mười là tuệ. Thế nào là thọ? Đó là Thức thọ. Thế nào là tưởng? Đó là thức tưởng. Thế nào là hành? Là pháp hành. Thế nào là xúc? Là ý xúc. Thế nào là tư? Là pháp tư? Thế nào là dục, tức là ra vào định. Thế nào là giải? Đó là pháp giải. Thế nào là niệm? Là niệm Tam-muội. Thế nào là định? Nghóa là tâm đúng như pháp mà trụ. Thế nào là Tuệ? Tức là Tuệ căn, tuệ thân và Vô sắc ái vô minh trạo mạn, tâm chẳng tương ưng với các hạnh, v.v… pháp khổ tập hòa hợp nhân duyên thì có Phi tưởng. Trước ở phi tưởng bối xả tuy biết sự ấy chẳng mê đắm phi tưởng nên gọi là bối xả mà chưa diệt các pháp tâm sở. Nay hành giả muốn vào diệt thọ tưởng bối xả thì chẳng thọ phi tưởng, mà nhất tâm duyên chân, dứt hết Ấm giới nhập, Ấm giới nhập phi tưởng diệt hết thì tất cả các hạnh nhân duyên tiêu diệt. Thọ diệt cho đến tuệ diệt, các phiền não như ái vô minh v.v… diệt, tất cả pháp tâm sở diệt, tất cả chẳng phải pháp tâm sở cũng diệt. Đó gọi là chẳng chung với phàm phu, chẳng phải là thế pháp. Nếu quán được như thế thì gọi là diệt thọ tưởng. Vì quán được thọ tưởng của chân mà diệt thọ tưởng khổ tập của phi tưởng. Nay hành giả muốn nhập diệt thọ tưởng bối xả thì lại phải biết rõ quán thọ tưởng của chân cũng chẳng phải rốt ráo vắng lặng, liền bỏ định năng quán mà thọ tuệ tưởng, bỏ duyên hai tâm chân định huệ này nên gọi là bối diệt thọ tưởng các pháp tâm sở. Thí như dùng tiếng sau mà ngưng tiếng trước, tiếng trước đã dứt thì tiếng sau cũng dứt. Thọ tưởng đã dứt thì do đó mà tâm tương ưng với diệt. Diệt đã giữ tâm thì vắng lặng không còn biết gì. Cho nên nói thân chứng tưởng thọ diệt trong định này thì không có tâm thức, nếu muốn ra vào định thì chỉ cho pháp thời gian dài ngắn. Phân biệt tướng hướng về một đường: Hành giả tám bối xả vào đạo có ba thứ khác nhau: một là trước dùng bối xả phá pháp ngăn đạo, sau đó tu tập đầy đủ thắng xứ cho đến Tam-muội siêu việt sự lý hai quán, đầy đủ mới phát chân vô lậu mà chứng đạo Ba thừa. Hai là nếu khi tu tám bối xả người ấy chán lìa sinh tử, muốn mau được giải thoát, lúc đó khắp tu duyên đế chân quán, v.v… thì liền đối với tám bối xả mà phát chân vô lậu, chứng đạo ba thừa, cũng gọi là đầy đủ tám giải thoát. Phải biết người này chưa hẳn đã đủ năm pháp môn dưới. Hỏi: nếu thế người này chưa được chín định thứ đệ, vì sao lại được gọi tên là tám giải thoát? Đáp: nghóa ấy phải phân biệt bằng bốn câu: một là tự có chín định thứ đệ mà không phải giải thoát. Tự có giải thoát mà không phải định thứ đệ. Tự có vừa là định thứ đệ vừa là giải thoát. Tự có không phải định thứ đệ cũng không phải giải thoát mà là tám bối xả. Ba là nếu người chấp ngã nặng mà chán lìa sinh tử, chỉ khi chứng bối xả đầu thì liền quán sâu lý vô lậu của Tứ đế, nếu chân định phát, liền ở địa này mà vào Tam-muội kim cương chứng đạo ba thừa. Phải biết người ấy cũng chưa đủ bảy bối xả trên, Đại Bồ-tát tâm như hư không, không có chỗ xả, dùng năng lực phương tiện khéo tu bối xả mà thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp, độ thoát chúng sinh. Phải biết bối xả tức Bồ-tát Đại thừa. Giải thích pháp môn tám thắng xứ: tám thắng xứ là: trong có sắc tướng ngoài quán sắc ít hoặc tốt hoặc xấu, đó gọi là biết rõ thắng xứ một. Hai là trong có sắc tướng ngoài quán sắc nhiều hoặc tốt hoặc xấu, đó gọi là (biết rõ thắng xứ hai), ba là trong không sắc tướng ngoài quán sắc ít hoặc tốt hoặc xấu, đó là biết rõ thắng xứ ba. Bốn là trong không sắc tướng, ngoài quán sắc nhiều hoặc tốt hoặc xấu, đó gọi là biết rõ thắng xứ bốn. Năm là Thanh thắng xứ. Sáu là Hoàng thắng xứ. Bảy là Xích thắng xứ. Tám là Bạch thắng xứ. Nếu theo kinh Anh Lạc thì dùng bốn đại làm bốn thắng xứ. Nay nói thắng xứ thì có bốn ý: một là giải thích tên gọi, hai là nói vị thứ, ba là nói tướng tu chứng, bốn là nói con đường hướng đến. Giải thích tên gọi: tám pháp Thông minh thắng xứ này có hai nghóa: một là năm dục hoặc tịnh, hoặc bất tịnh khi được quán nầy thì tùy ý có thể phá, nên gọi là Thắng xứ. Hai là khéo điều quán tâm. Thí như cỡi ngựa đánh giặc không phải chỉ phá trận mà còn phải khéo điều khiển ngựa, nên gọi là Thắng xứ. Ở đây thì có khác bối xả. Kinh cũng nói là tám trừ nhập. Nếu nhân thắng xứ mà dứt hết phiền não thì biết Ấm nhập luống dối đều hết. Khi ấy, thắng xứ đổi tên là tám trừ nhập. Nói thứ vị: nay chỉ y theo Đại thừa nói ba thắng xứ trước thì vị ở Sơ thiền, thắng xứ ba và bốn thị vị ở Nhị thiền, bốn thắng xứ sau thì ở vị Tứ thiền. Sở dó Tam thiền không lập thắng xứ vì lạc nhiều tâm độn, trước Nhị thiền đã lìa phần cõi Dục, phiền não cõi Dục rất khó phá. Tuy vị ở Nhị thiền cũng quán bất tịnh, mà phá kiết ở địa dưới. Tứ thiền là cùng tột ở trong Sắc cho nên thắng sắc vị tột ở đây. Bốn không đã Vô sắc, cũng vì phá địa phiền não mỏng nên không lập thắng xứ. Nói tu chứng: Sở dó nói trong có sắc tướng ngoài quán sắc ít, vì duyên ít nên nói ít, quán đạo chưa tăng thêm nên quán ít nhân duyên, quán nhiều sợ khó nhiếp. Thí như nai hoang chưa điều thì chớ thả đi xa. Thế nào gọi là quán ít, hành giả trị quán thấy thân mình bất tịnh, cũng quán thân người mình yêu sình chương, rã nát xương trắng, tâm rất nhàm chán. Như đã nói trong bối xả đầu. Hoặc tốt hoặc xấu, là quán ngoài các sắc nghiệp lành quả báo nên gọi là Tốt, quả báo ác nghiệp thì gọi là xấu. Lại nữa, hành giả từ thầy nhận được quán pháp, duyên ngoài các thứ bất tịnh ấy gọi là sắc xấu. Nếu hành giả nhớ nghó vọng sinh tịnh tưởng, quán tịnh sắc thì là sắc tốt. Lại nữa, hành giả trong thân buộc tâm một chỗ mà quán sắc trong cõi dục, có hai thứ: một là sinh ra dâm dục, hai là sinh ra tức giận. Sinh ra dâm dục là tịnh sắc nên gọi là tốt, hai là sinh ra tức giận. Sinh ea dâm dục là tịnh sắc nên gọi là tốt, sinh ra tức giận là bất tịnh sắc nên gọi là xấu. Thắng tri thắng kiến, là quán tâm thuần thục đối với sắc tốt mà tâm không tham ái, đối với sắc xấu mà tâm chẳng tức giận. Chỉ quán sắc là nhân duyên bốn đại hòa hợp mà sinh, như bọt nước chẳng bền chắc. Có trí tuệ sâu xa thì biết rõ tướng giả thật. Hành giả trụ trong môn bất tịnh ấy, các kiết sử dâm dục, tức giận đến mà chẳng theo thì gọi là Thắng xứ. Thắng là trong bất tịnh mà tịnh được các phiền não điên đảo. Lại nữa, xấu tốt là quán bất tịnh có hai: một là thấy thân mình thân người gồm ba mươi sáu vật hôi thối bất tịnh thì gọi là xấu. Hai là trừ bỏ năm tạng da thịt trong ngoài, chỉ quán xương trắng như ngọc kha như tuyết cho đến lưu ly chiếu sáng, đó gọi là tốt. Khi hành giả thấy bất tịnh liền biết là giả dối, tâm chẳng sợ chết, khi thấy sắc tịnh thì biết là từ duyên sinh mà tâm chẳng ái nhiếm. Đó gọi là (thấy biết cao siêu). Lại nữa, hành giả đối với duyên ít tùy ý quán sắc thay đổi tự tại, cũng có thể khéo chế phục quán tâm nên gọi là Thắng xứ. Hai là trong có sắc tướng ngoài quán sắc nhiều hoặc tốt hoặc xấu đó gọi là thấy biết cao siêu, là hành giả quán tâm đã điều, bấy giờ chẳng diệt xương người bên trong lại ở trong định mà quán rộng sắc ngoài, đó gọi là quán kỹ thây chết cho đến mười trăm ngàn muôn cõi nước Diêm- phù-đề, cho đến bốn thiên hạ dều thấy đều là thây chết. Nếu thấy một sình chương thì thấy tất cả đều sình chương, cho đến máu mủ dơ bẩn rã nát xanh ứ lột ra cũng giống như thế. Hành giả đã thấy nhiều bất tịnh mà tâm không chán ghét. Kế là phải quán kỷ một thây chết, da thịt tiêu hết chỉ còn thấy xương trắng như thế, cho đến tất cả thây chết đều sạch hết da thịt, chỉ thấy xương trắng đầy khắp thế giới. Quán nầy như thiền kinh có nói rộng, nên trong ấy phải nói đủ. Hành giả quán xương ngoài đã thành lại phải định tâm quán chắc xương trắng trong thân, luyện khiến sáng sạch như ngọc kha, như vỏ ốc. Phải tự quán xương mà thấy bên ngoài tất cả xương người đều trỗi dậy đi đứng, huơ tay múa chân mà đến. Hành giả ở trong Tam-muội (định) liền biết đây là các xương người đều theo tưởng mà đến, đều không thật có, nên tâm không sợ hãi. Lại trong tâm thầm nghó quở trách xương người này. Ôi! Các bộ xương người từ đâu đến đây. Khi quở trách như thế thì đều thấy xương người ngã lăn ra đất. Cứ quán như thế nhiều lần. Hành giả lại quán sâu xương bên trong, liền thấy ánh sáng chiếu khắp mười phương. Tất cả xương người bị ánh sáng chiếu cũng rất sáng sạch. Khi quán này thành thì đối với tất cả người thân, kẻ oán, hoặc người không thân không oán và các xấu tốt thì tâm đều bình đẳng, không có yêu ghét. Đó gọi là hoặc xấu hoặc tốt biết rất rõ ràng. Lại nữa, hành giả trụ trong quán này thấy một bộ xương người thì thấy khắp bốn thiên hạ đều là xương người, đó gọi là nhiều, lại nhiếp niệm quán một thân người nên gọi là thấy biết cao siêu, tùy ý trong tướng năm dục nam nữ sạch đẹp mà vượt cao hơn nên gọi là Thắng xứ. Lại hay khéo điều quán tâm, tuy biết tâm năng quán tánh nó vốn không, mà đối với duyên tự tại quay về quán các cảnh giới không có chướng ngại, nên gọi là Thắng xứ, có nghóa như trong luận Đại thừa đã nói rộng. Lại có Sư nói: nếu chỉ quán tất cả mọi người thấy xương trắng bất tịnh, đó là quán ít, nếu dùng đại bất tịnh mà quán là quán nhiều. Đại bất tịnh quán, là phá tất cả sự tham ái. Sao gọi là quán tất cả, tức là quán voi ngựa trâu dê, lục súc chim thú v.v… đều thấy là thây chết sình chương. Lại quán thức ăn uống đều như phân như giòi, y phục lụa là cũng như da rã thịt nát, hôi thối đáng ghét, tiền của vàng ngọc như rắn độc, chết rồi thì rã nát hôi thối bất tịnh, gạo nếp thì như trùng chết hôi thối, nhà cửa ruộng vườn, thành ấp cõi nước, đất đai núi sông, đều rã nát hôi thối bất tịnh, tuôn chảy dầm dề. Cho đến thấy xương trắng ngổn ngang tất cả bất tịnh, thế gian như thế rất đáng chán ghét. Người đối với trong Tam-muội hễ quán liền thấy tự tại, phá được tất cả tốt xấu thương ghét, lo lắng phiền não. Cho nên gọi là trong có sắc tướng ngoài quán sắc nhiều, hoặc tốt hoặc xấu, thấy biết cao siêu. Hỏi các chất nuôi sống ở thế gian đã bất tịnh, đều là da thịt gân xương, vì sao đều thấy bất tịnh hư rã. Đáp: Đây là đạo được giải, sức tâm chuyển biến, không phải thật quán. Vì sao tất cả không phải thật là tịnh? Do năng lực của tịnh đảo nên đều thấy tịnh mà sinh tham ái, tất cả không phải đều là bất tịnh. Nay trí tuệ lực của bất tịnh quán đều thấy bất tịnh mà phá các phiền não thì có lỗi gì? Ví như lửa kiếp thiêu, khởi lên tất cả đất đai, hữu tình, vô tình, v.v… bao nhiêu loại ấy đều thành lửa (cháy đỏ) là do sức lửa. Nay dùng tâm bất tịnh mà quán tất cả thế gian đều thấy là bất tịnh, cũng như người có thần thông biến ngói đá thành vàng ngọc. Phải biết pháp ấy có tánh định nào, Sư ấy như thế gọi là thắng xứ thứ hai, nghó sâu ý nầy thì nghóa lý quán hạnh đều có thể nương tựa. Kế nói thắng xứ ba, bốn phương pháp quán hạnh chẳng khác trước, chỉ có trong không có sắc tướng là khác. Phương pháp diệt nội sắc (sắc bên trong) của hai bối xả trước ở môn đầu có nói. Nay hành giả vì phiền não cõi dục khó phá. Đối với Nhị thiền lại tu hai thắng xứ này mà đối trị dứt trừ kiết sử của địa dưới, khiến hết sạch không sót, cũng lại chuyển biến quán đạo khiến lợi ích thuần thục thêm sáng, bền chắc không mất, công sức càng mạnh hơn. Kế giải thích bốn thắng xứ xanh vàng đỏ trắng. Hành giả chẳng thọ vui thân chứng Tam thiền. Khi vào Tứ thiền thì niệm tuệ thanh tịnh, bốn sắc lại càng sáng rực như ánh sáng báu mầu hơn cả sắc trước, nên gọi là Thắng xứ. Lại nữa, hành giả đối với Tứ thiền dùng trí tuệ bất động mà luyện bốn sắc nầy biến ít thành nhiều, nhiều thành ít một cách tự tại, muốn thấy liền thấy, muốn mất liền mất, nên gọi là Thắng xứ. Lại nữa, hành giả đối với Tam-muội thấy thắng sắc ấy kiết lậu chưa dứt, hoặc khi đó tâm sinh ái. Vì dứt ái mà quán chắc sắc này, biết là từ tâm khởi lên, ví như nhà ảo thuật thấy các sắc huyễn là biết từ tâm sinh nên chẳng sinh mê đắm. Lúc ấy bối xả đổi tên là Thắng xứ. Nói tướng hướng về một đường: cũng có ba ý: một là trước dùng thắng xứ mà điều tâm, sau mới tu tập đầy các pháp vượt hơn, phát chân vô lậu mà chứng đạo Ba thừa. Hai là tám thắng xứ thành tựu đầy đủ vào sâu bốn đế chân quán, ở trong Tứ thiền mà phát chân vô lậu, đầy đủ ba mươi bốn tâm, dứt kiết ba cõi chứng đạo Ba thừa. Ba là tự có hành giả được thắng xứ đầu khi nhập Sơ thiền tâm chán sợ, liền nghó rằng nay tôi đâu cần các thiền này, chỉ cần mau được Niết-bàn. Nghó đoạn, liền ở trong địa này mà quán sâu bốn đế, mười hai nhân duyên, trung đạo thật tướng. Nếu phát vô lậu liền chứng Thánh quả Ba thừa. Bảy thắng xứ dưới cũng phải mỗi mỗi phân biệt như thế. Đại Bồ-tát tuy biết các pháp rốt ráo vắng lặng, vì thương xót tất cả chúng sinh mà tu sâu thắng xứ. Đối với thắng xứ mà phát sinh đại thần thông, dẹp bỏ thiên ma, phá các ngoại đạo độ thoát chúng sinh, phải biết thắng xứ tức là Bồ-tát Đại thừa. Kế là nói về pháp môn mười nhất thiết biến xứ, mười nhất thiết xứ là xanh, vàng, đỏ, trắng, đất, nước, lửa, gió, không, thức. Mười thứ này gọi chung là nhất thiết xứ, mỗi sắc đều chiếu khắp mười phương nên gọi là nhất thiết xứ. Cho đến không cũng như thế. Bối xả, thắng xứ ở trước tuy có tám sắc chỗ chiếu hạn hẹp chưa thể cùng khắp, nên chẳng được gọi là Nhất thiết xứ. Lại nữa, trong kinh có lúc nói là mười nhất thiết nhập, có người giải thích rằng: đây cũng là tên khác của Nhất thiết xứ, ở đây thì chẳng như thế. Trước vì một sắc chiếu khắp mười phương nên gọi là Nhất thiết xứ, sau là tâm chuyển khéo léo hay khắp chiếu tất cả chỗ, trong sắc mỗi sắc đều được nhập vào nhau không chướng ngại. Cho nên xứ được gọi là Nhất thiết nhập. Nay nói nhất thiết xứ có hai ý: một là nói vị thứ, hai là nói về tu chứng. Nói vị thứ mười nhất thiết xứ, tám sắc nhất thiết xứ đầu thì vị ở Tứ thiền, kế Không nhất thiết xứ thứ chín, thì vị ở Không xứ, còn Thức nhất thiết xứ thứ mười thì vị ở Thức xứ. Sở dó trong ba thiền trước không lập Nhất thiết xứ, hành giả sơ học đối với ba địa, bị giác quán hỷ lạc làm động, cho nên chẳng thể làm cho sắc cùng khắp. Dừng trụ ở Vô sở hữu xứ định, không có vật nào rộng hơn, cũng chẳng được vui sướng. Phật cũng chẳng nói vô sở hữu xứ vô lượng vô biên nên chẳng lập Nhất thiết xứ. Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, tâm độn khó giữ tưởng, rộng lớn nên chẳng lập Nhất thiết xứ. Nói tu chứng: Hành giả trụ ở tứ thiền để thành tựu tự tại thắng sắc. Bấy giờ, phải dùng niệm thanh tịnh tâm bỏ bảy thứ sắc, nghó ngay sắc xanh, lấy một ít tướng ánh sáng xanh như lá cỏ lớn một tâm duyên trong đó liền tương ưng với ít xanh. Quán tâm vận chút xanh chiếu khắp mười phương, liền thấy ánh sáng tùy tâm chiếu khắp. Tất cả thế gian đều thấy tướng xanh đầy khắp đứng yên bất động, như thế giới xanh. Đó gọi là xanh nhất thiết xứ. Tướng tu bảy nhất thiết xứ kia cũng phải phân biệt mỗi mỗi như thế. Có Sư nói: tu nhất thiết xứ duyên lấy lá cỏ do sắc bên ngoài khởi tướng chiếu khắp. Như ở đây nói thì không phải chỉ trái mất quán môn mà cũng không liên quan gì đến điều Đại thừa nói. Hành giả đã thành tựu rồi, muốn dùng nhất thiết xứ mà vào hư không nhất thiết xứ thì phải vào hư không bối xả. Chỉ vì bối xả duyên hẹp, chưa gọi là Nhất thiết xứ. Nay lại rộng duyên với hư không mười phương nên gọi là Hư không nhất thiết xứ. Muốn vào Thức nhất thiết xứ thì cũng phải trước vào thức xứ bối xả. Đối với thức định rộng quán thức này cùng khắp mười phương, đều thấy là Thức nên gọi là Hư không nhất thiết xứ. Muốn vào Thức nhất thiết xứ thì cũng phải trước vào Thức xứ bối xả. Ở trong thức định quán rộng thức này cùng khắp mười phương đều thấy là Thức nên gọi là Thức nhất thiết xứ. Nếu người muốn tu Nhất thiết nhập đã được Nhất thiết xứ thành thì phải dùng Nhất thiết xứ làm gốc, sau đó mới dùng quán tâm khéo léo đối với xanh nhất thiết mà khiến vàng, đỏ, trắng v.v… đều vào trong ấy, mà chẳng hoại tướng gốc xanh, lại đối với sắc xanh thấy đủ các sắc kia. Đó là nói lược Nhất thiết xứ, Nhất thiết nhập đã xong. Hỏi: Vì sao chẳng đối với Nhất thiết xứ mà phân biệt tướng hướng về một đường? Đáp: Tất cả kinh Thanh Văn phần nhiều nói nhất thiết xứ là duyên hữu lậu, chỉ là pháp tu chung, đối với nghóa phát vô lậu kém nên chẳng phân biệt. Nếu muốn y vào nghóa Đại thừa mà phân biệt thì giống như trong bối xả, thắng xứ ở trước nói. Nay vì Bồ-tát muốn thần thông thành tựu, hiện khắp sắc thân đầy đủ. Sự trong tất cả pháp giới mà tu nhất thiết xứ ấy, cho nên kinh Đại phẩm cũng nói nhất thiết xứ pháp Ba-la-mật. Nói công dụng quán thiền: Đệ tử Phật đã được ba phen quán hạnh. Nếu muốn vì hóa độ chúng sinh hiện sự ít có, khiến cho tâm thanh tịnh thì phải rộng tu tất cả đạo lực thần thông, đó là sáu thông, mười bốn biến hóa, bốn biện tài, Tam-muội vô tránh, nguyện trí đảnh thiền tự tại định luyện thiền, mười tám biến hóa, v.v… các công đức đều phải trụ trong bối xả, thắng xứ, nhất thiết xứ này mà học. Đã học được rồi lại khiến nhiều chúng sinh nhìn thấy vui mừng tin mà được độ thoát, cho nên tu thần biến. Giải thích sáu thần thông: sáu thông gồm: một là thiên nhãn thông, hai là thiên nhó thông, ba là tha tâm thông, bốn là túc mạng thông, năm là như ý thông, sáu là lậu tận thông. Đều nói thần thông, Thần là thiên tâm, Thông là tánh trí tuệ. Vì trí tuệ thiên nhiên chiếu suốt tất cả các pháp sắc tâm vô ngại, nên gọi là Thần thông. Nay y cứ các thiền này, sau giải thích sáu thông tức có ba ý: một là nói nhân duyên được thông khác nhau, hai là nói phương pháp tu thông, ba là nói công dụng biến hóa. Nhân duyên được thông khác nhau: có ba thứ: một là do quả báo mà được, như các trời có phước đức lớn, người thọ sinh về Tịnh độ, liền cảm quả báo mà được năm thông, hai là do phát mà được, nếu người chí do sám hối, hoặc tu sâu các thiền định đã nói trên, tuy chẳng làm thủ thông phương tiện mà thần thông tự phát. Cho nên kinh chép: tu sâu thiền định thì được năm thần thông, ba là do tu mà được, hành giả tuy chứng được các thiền định sâu đã nói trên mà chưa dứt chướng thông vô tri thì thần thông chẳng bao giờ phát. Nếu ở trong thiền định lại làm thủ thông phương tiện, dứt chướng thông vô tri thì thần thông liền phát, nay là y cứ nghóa này mà nói. Phương pháp tu thông: kinh luận đều nói khác nhau. Nay chỉ lấy ý trong Đại thừa để nói lược phương pháp tu thông. Tu thiên nhãn thông: hành giả thâm tâm thương xót tất cả phát nguyện muốn thấy chúng sinh sáu đường chết đây sinh kia. Bấy giờ phải trụ trong bối xả, thắng xứ, nhất thiết xứ của cõi sắc và trong bốn như ý túc, mà chánh niệm tu tập đầy đủ bốn duyên liền sinh thiên nhãn thông. Bốn duyên ấy là: một là ánh sáng thường soi chiếu ngày đêm không khác. Hai là quán các cách chướng thế gian đều như hư không không có sự che đậy. Ba là chuyên tâm trước lấy một cảnh dễ thấy nhất để duyên tâm, thường siêng năng tinh tấn, khéo léo tu tập, muốn thấy cảnh trước. Bốn là đối với thiền định, phát bốn đại tạo, nhãn căn thanh tịnh thành tựu. Đó gọi là đây đủ bốn duyên hòa hợp. Do đây mà sinh phương tiện, thức liền thấy chúng sinh mười phương sáu đường chết đây sinh kia, các tướng khổ vui như sắc sáng tối gần xa, chướng trong chướng ngoài thô tế, v.v… đều thấy suốt rõ ràng vô ngại. Đó gọi là thiên nhãn thông. Tu thiên nhó thông: Hành giả đã thấy sắc rồi, nếu muốn nghe tiếng thì phải ở trong thiền định mà nắm chắc chướng ngoài có thể nghe tiếng tế (tiếng nhỏ nhặt), nhất tâm mà nghe, mong muốn được nghe. Nếu tâm trong sáng được bốn đại tạo sắc nhó căn thanh tịnh, liền nghe chướng ngoài chướng trong của tất cả sáu đường về các thứ tiếng lời nói khổ vui, lo buồn, v.v… khác nhau, đó gọi là Thiên nhó thông. Tu tha tâm thông: Hành giả đã nghe tiếng rồi, nếu muốn biết tâm niệm của chúng sinh thì phải đối với thiền định mà quán người trước mặt, các tướng mừng, giận, sợ hãi v.v… đều biết nương tâm mà trụ, nhờ các tướng này mà quán chắc tâm niệm đã duyên, nhất tâm muốn biết. Nếu tâm trong sáng thì do đây phát thông, tùy chỗ thấy chúng sinh liền biết tâm niệm của họ. Đó gọi là Tha tâm thông. Tu túc mạng thông: Hành giả đã biết tha tâm rồi, nếu muốn tự biết túc mạng của mình và túc mạng của người, các sự nghiệp đã làm trong trăm ngàn muôn đời liền phải đối với thiền định tự nhớ nghó việc làm của mình trong số các ngày tháng năm các việc đã làm, cho đến việc đã làm trong lúc Ca-la-la. Nhớ nghó như thế nhất tâm muốn biết, nếu tâm trong sáng liền phát thần thông, liền tự biết vô số túc mạng rất rõ ràng, các sự nghiệp đã làm trong quá khứ từ một đời cho đến trăm ngàn muôn đời. Cho đến biết túc mạng của người cũng giống như thế. Đó gọi là Túc mạng thông. Tu thân như ý thông: Hành giả đã biết túc mạng thông nếu muốn được thân thông biến hóa thì phải mà buộc tâm trong Tam-muội hư không trong thân, diệt hết sắc tướng thô trọng. Thường lấy tướng khinh không mà phát tâm rất muốn tinh tấn. Sức tâm trí tuệ suy lường có thể cất mình lên. Chưa suy lường đã tự biết sức tâm của mình đã lớn có thể cất mình lên. Thí như người học nhảy thường tự cất mình lên. Nếu quán thành tựu thì liền phát thân như ý thông. Có ba: một là năng đến, hai là chuyển biến, ba là tự tại. 1) Năng đến lại có bốn thứ: một là thân hay bay đi như chim vô ngại, hai là dời xa khiến gần, chẳng đi mà đến, ba là biến mất ở đây mà hiện ra ở kia, bốn là nghó liền đến. 2) Chuyển biến (biến đối) tức lớn có thể làm nhỏ, một làm nhiều, nhiều làm một, các vật đều có thể biến đổi được. 3) Thánh như ý là đối sáu trần bên ngoài, những vật bất tịnh không dùng được thì quán khiến cho thanh tịnh, còn vật tịnh không dùng được thì làm cho bất tịnh, ấy là pháp tự tại. Như ý thần thông từ tu thắng xứ, nhất thiết xứ, bốn như ý túc mà sinh. Đó gọi là thân chứng như ý túc. Hành giả được thân như ý túc thì có khả năng tùy ý biến hiện. Nếu muốn tự được giải thoát và độ chúng sinh thì phải dứt trừ các tâm bệnh. Lúc đó phải tu vô lậu thông. Về tu vô lậu thông, ở sau trong phần đế quán sẽ phân biệt rộng. Hỏi: Phải tu sáu thông một về đúng thứ lớp như đã nói phải chăng? Đáp: đây là y cứ một đường mà nói về thứ lớp. Nếu hành giả tùy thông ưa thích mà học thì trước liền được, chưa hẳn đều như trước nói. Nói biến hóa: mười bốn biến hóa năng sinh thần thông, cũng do thần mà có biến hóa, mười bốn biến hóa gồm: một là Sơ thiền cõi Dục thành tựu, hai là biến hóa; Một là sơ thiền hóa sơ thiền, hai là sơ thiền hóa cõi dục, hai là Nhị thiền thành tựu ba biến hóa; một là nhị thiền hóa Nhị thiền, hai là Nhị thiền hóa Sơ thiền, ba là Nhị thiền hóa Nhị thiền, hai là Nhị thiền hóa Sơ thiền, ba là Nhị thiền hóa cõi dục, ba là thiền thành tựu bốn biến hóa: một là Tam thiền hóa Tam thiền, hai là Tam thiền hóa Nhị thiền, ba là Tam thiền hóa Sơ thiền, bốn là Tam thiền hóa cõi dục. Bốn là Tứ thiền thành tựu năm biến hóa: một là Tứ thiền hóa Tứ thiền, hai là Tứ thiền hóa Tam thiền, ba là Tứ thiền hóa Nhị thiền, bốn là Tứ thiền hóa Sơ thiền, năm là Tứ thiền hóa cõi dục. Đó là mười bốn biến hóa. Nếu người nào thành tựu các biến hóa này tức là đủ mười tám biến hóa. Tất cả thần thông, sáu quán hạnh công đức vô lượng vô biên. Việc ấy sâu kín đâu thể dùng văn tự mà nói hết. Nay chỉ lược nêu danh mục vì muốn cho người học biết tất cả thần thông biến hóa đều từ trong quán thiền mà ra. Các thần thông nầy nếu ở trong tâm Bồ-tát thì gọi là thần thông Ba-la-mật. Giải thích chín định thứ đệ: chín định thứ đệ là lìa các dục, lìa các pháp ác bất thiện có giác có quán, lìa sinh hỷ lạc vào Sơ thiền. như thế mà thứ lớp vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, định Không xứ, định Thức xứ, định Bất dụng xứ, định phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, định Diệt thọ tưởng. Đó gọi là chín định thứ đệ; giải thích chín định thứ đệ, có ba ý: một là giải thích tên gọi, hai là nói vị thứ, ba là nói tu chứng. Giải thích tên gọi: Nay chín pháp này đều đổi tên là định thứ đệ. Các pháp môn trên đã quán hạnh chưa thuần thục, khi vào thiền thì tâm có gián cách nên chẳng gọi là định thứ đệ. Hành giả đã thành tựu định quán nay ở trong đây mà tu luyện thuần thục thì sẽ từ một thiền mà tâm khởi. Kế vào một thiền, tâm không xen hở khiến niệm khác chẳng vào được. Hoặc thiện hoặc cấu, như thế cho đến định diệt thọ tưởng, đó gọi là chín định thứ đệ, cũng gọi là Luyện thiền. Vì sao? Vì đệ tử Phật tâm ưa vô lậu, trước được các vị thiền. Nay muốn dứt trừ các cấu uế thì dùng thiền vô lậu mà luyện khiến đều thanh tịnh như luyện vàng. Hỏi: Luyện trong chín định thứ đệ và huân tu của Tỳ-đàm nói có gì khác nhau. Đáp: có đồng có khác, kia dùng vô lậu mà luyện hữu lậu, nay cũng lấy vô lậu mà luyện hữu lậu cho nên đồng. Kia thì chỉ nói luyện bốn thiền để đề phòng lui sụt, chuyển đôn thành lợi hiện pháp lạc và sinh tâm năm tầng trời tịnh cư, thì chỉ luyện Bốn thiền. Còn cõi vô sắc thì không có luyện. Nay từ Sơ thiền cho đến Phi tưởng đều phải luyện, khiến tất cả các thiền thanh tịnh điều nhu, thêm nhiều công đức, cho nên là khác. Tìm xem phần tu chứng ở dưới thì thấy rõ. Nói vị thứ: vị thứ này tuy một bề y cứ bốn thiền, bốn không và định diệt tận nhưng vị nó thật chung hết các thiền. Vì sao? Như trên đã nói đặc thắng, thông minh, bối xả, thắng xứ đều có bốn thiền bốn không, chưa hẳn chỉ là căn bản. Nay tu pháp luyện thì đều phải vào khắp các thiền, khiến tâm không xen hở. Chẳng thể y cứ căn bản thế gian thiền xem là thứ vi. Cho nên kinh Đại phẩm nói Bồ-tát nương theo tám bối xả nghịch thuận ra vào chín định thứ đệ. Nếu y vào nghóa Thành luận, Tỳ-đàm thì chỉ dùng tâm vô lậu mà vào chín thiền, duyên chân vào diệt để làm chín định thứ đệ. Nay dùng luận Đại thừa nói về chín định thứ đệ, ý đối với kia thì rất có thiếu sót. Người học tìm ý lời từ trên nói không thể giống, đồng khác rõ ràng rất dễ thấy. Nói về tu chứng: Hành giả đã đầy đủ các thiền này muốn vào chín định thứ đệ thì trước phải từ cạn đến sâu mà tu luyện các thiền, pháp định quán khiến rất điều nhu thuần thục. Sau đó mới tổng hợp hai thứ định, quán, nhất tâm cùng vào, khéo dứt ái, tự biết tâm mình. Từ mới điều tâm mà vào một thiền, chẳng để niệm khác xen lẫn. Như thế cho đến định diệt thọ tưởng. Vì sao? Vì hành giả đối với thiền căn bản, định nhiều mà trí ít thì tâm chẳng điều nhu, nên vào thiền có gián cách bối xả thiền, v.v… quán nhiều mà định ít nên tâm chẳng điều nhu mà vào thiền có gián cách. Thí như xe có hai bánh, một cứng một yếu thì không được yên ổn, cũng như dao giáo mềm cứng không đều thì không bén nhọn. Ở đây cũng như thế, nay tu định nầy đã định quán bằng nhau, định sâu trí lợi. Định sâu cho nên đối với duyên chẳng tán loạn, trí tuệ lanh lợi thì tiến vào nhanh chóng vô ngại. Cho nên từ một thiền khởi vào một thiền nhanh chóng, tâm tâm nối nhau không xen lẫn, tùy niệm liền vào, cũng gọi là Tam-muội Vô gián. Nếu hành giả dùng tâm nầy vào khắp các thiền, không phải chỉ thứ lớp điều nhu, tâm không xen lẫn, cũng lại tăng ích công đức, các thiền càng sâu mầu nhiệm. Như luyện sắc sáng vàng thì càng tăng giá trị gấp bội. Cho nên nói định này là luyện thiền. Hỏi: trong ấy cũng có cõi dục, vị đáo, trung gian. Vì sao chỉ nói chín định? Đáp: tuy có pháp này nhưng chẳng bền chắc. Lại bậc Thánh được công đức lớn chẳng ở biên địa cho nên chẳng nói. Lại nữa, từ trên vào thiền tâm độn, đối với phương tiện trung gian trải dừng thì lâu, cho nên phân biệt có tướng Vị đáo trung gian. Nay chín định này, định tuệ tâm lợi, muốn vào chánh địa, tùy niệm liền vào, đã chẳng trụ lâu phương tiện trung gian cho nên chẳng nói. Nếu phân biệt tướng hướng về một đường thì đủ như trong bối xả thắng xứ ở trước nói, cho nên chẳng nói riêng. Giải thích ba Tam-muội: Ba Tam-muội gồm: một là Tam-muội có giác có quán, hai là Tam-muội không giác có quán, ba là Tam-muội không giác không quán. Cho nên kế chín định thứ đệ, sau nói ba Tam- muội. Tên hai thứ thiền này tuy có khác mà pháp tướng hơi giống nhau. Vì sao? Vì chín định đã luyện chung các thiền mà không có tự thể riêng. Ba Tam-muội cũng giống như thế, nghóa này ở sau sẽ thấy. Giải thích ba Tam-muội có ba ý: một là giải thích tên gọi, hai là nói về tướng, ba là nói sinh ra Tam-muội. Giải thích tên: Ba pháp giác quán v.v… tên đồng thứ vị như trong thiền căn bản ở trước nói. Về Tam-muội, nay phải phân biệt. Tất cả thiền định nhiếp tâm đều gọi là Tam-ma-đề, đời Tần dịch là chánh tâm hành xứ (chỗ thực hành chánh tâm). Tâm ấy từ vô thỉ đến nay thường cong không thẳng, được chỗ chánh tâm hành ấy thì tâm ngay thẳng, nên gọi là Tam-muội. Vì như con rắn bò thường thì cong mà bò trong ống thì thẳng, ở đây cũng thế. Hỏi: Nếu nói thiền định nhiếp tâm gọi là Tam-muội thì thiền định căn bản có gì khác với ở đây? Đáp: có khác, kia thì chỉ nói căn bản nhiếp tâm, nay khắp y cứ tất cả các thiền mà nói nhiếp tâm, phải như đây thì định sâu mà rộng, đâu thể chẳng khác. Lại nữa thiền căn bản chỉ là duyên sự mà nhiếp tâm, chưa dứt tà đảo nên chẳng gọi là Ngay thẳng. Nay nói Tam-muội đều y cứ vào duyên lý mà nhiếp tâm, dứt trừ cong vạy tà đảo, cho nên dùng chỗ tâm ngay thẳng làm Tam-muội. Nói về tướng: Ba Tam-muội này nghóa đồng với chín định, đã không có tự thể riêng, chỉ nói theo các thiền. Một là nói Tam-muội có giác. Như trên đã nói, sơ thiền căn bản cho đến sơ thiền đặc thắng thông minh bối xả thắng xứ, v.v… đều có giác có quán, tương ưng tâm số và các công đức. Khi hành giả vào các Sơ thiền này thì trụ chánh tâm hành xứ đều gọi là Tam-muội có giác có quán. Hai là như trên nói, các thiền trung gian cho đến đặc thắng, thông minh, bối xả, thắng xứ đều có trung gian tương ưng với quán, pháp tâm sở và các công đức. Hành giả dùng chánh tâm hành xứ mà vào các thiền trung gian này, đều gọi là Tam- muội không giác có quán. Ba là như ở trên nói, Nhị thiền căn bản cho đến Hữu đảnh và đặc thắng thông minh, Bối xả, Thắng xứ, v.v… đều có Nhị thiền. Từ Nhị thiền trở lên cho đến Hữu đảnh và định diệt thọ tưởng có như không, tương ưng với giác không quán và các công đức. Hành giả chánh tâm hành xứ vào các thiền công đức này đều gọi là Tam-muội không giác không quán. Phải biết ba Tam-muội nầy không có tự thể riêng, chỉ gồm chung các thiền mà chia làm ba phần. Bậc Đại Thánh (Phật) muốn khiến cho chúng sinh tuy nghe nói rộng các thiền mà chẳng mất căn bản, nên chung làm ba pháp, gồm nhiếp các thiền, hết sạch không sót. Ví như số pháp hoặc đến trăm muôn chung làm một ức, ở đây cũng giống như thế. Nói tướng sinh ra Tam-muội, có hai thứ: một là sinh ra Tam- muội Nhị thừa. Vì sao? Vì như trên đã nói, các Sơ thiền có giác có quán v.v… đều phát sinh Tam-muội niệm xứ cho đến tám Thánh đạo, không, vô tướng, vô tác, mười sáu hạnh, mười hai nhân duyên, Noãn, Đảnh, Nhẫn thế đệ nhất v.v… Tam-muội, Tam-muội Lôi quang, Tam-muội Kim cương, cho đến Tam-muội Phật trí vô tránh. Các pháp môn nầy trong kinh Niết-bàn đều gọi là Tam-muội. Nếu đối với các Sơ thiền khi phát các Tam-muội này tức chứng Nhị thừa hoặc đạo hoặc quả, nên gọi là Tam-muội có giác có quán. Cho đến không giác có quán, không giác không quán cũng phải như thế mà phân biệt mỗi mỗi. Hai là như trên nói các thiền có giác có quán đều phát ra các Tam-muội Đại thừa như Tam-muội quán Phật, hai mươi lăm Tam-muội, Tam-muội bát chu, các thiền Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, v.v… Bồ-tát có một trăm lẻ tám Tam-muội bất động của Chư Phật. Có một trăm hai mươi và tám muôn bốn ngàn các Tam-muội đều do Tam-muội có giác có quán mà phát sinh. Cho đến không giác có quán, không giác không quán cũng phải như thế phân biệt mỗi mỗi. Đại Bồ-tát được các Tam-muội này liền vào vị Bồ-tát, cũng có thể hiện thân như Phật mà độ tất cả chúng sinh. Nghóa ba Tam-muội như trong Đại thừa có phân biệt rộng. Giải thích Tam-muội sư tử phấn tấn: Nay nói Tam-muội sư tử phấn tấn, như kinh Bát-nhã chép: Hành giảy nương chín định thứ đệ mà vào sư tử Tam-muội phấn tấn, là lìa dục, lìa pháp bất thiện, có giác có quán, lìa sinh hỷ lạc mà vào Sơ thiền. Thứ lớp như thế mà vào Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ vào định Diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào định phi hữu tưởng Phi vô tưởng, từ phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ ra lại vào Bất dụng xứ. Thứ lớp như thế lại vào Thức xứ, vào Không xứ, vào Tứ thiền, vào Tam thiền, vào Nhị thiền, vào Sơ thiền, đó gọi là Tam-muội sư tử phấn tấn, ví như khi sư tử hăng hái, không phải chỉ tiến về trước hăng hái mà đi, cũng có thể hăng hái mà về. Tất cả các thứ đều chẳng thể như thế. Hành giả vào pháp môn nầy cũng phải như thế. Chẳng phải chỉ tâm tâm thứ lớp từ Sơ thiền mà thẳng đến Diệt thọ, cũng có thể từ định diệt thọ tưởng liền vào Phi tưởng, vào đến Sơ thiền. Đây thì nghóa đồng với sư tử phấn tấn. Các thiền ở trên chẳng thể như thế. Nên nói định này là Tam-muội sư tử phấn tấn. Hành giả trụ vào pháp môn nầy liền có thể đi ngược lại vào các thiền. Huân các quán định đều khiến thông lợi, chuyển biến tự tại, sinh ra các Tam-muội sâu, các thứ công đức. Thần trí chuyển thắng cũng gọi là huân thiền. Thí như da trâu đã thuộc kỹ thì tùy ý mà làm các vật dụng. Ở đây cũng giống như thế, phân biệt thứ vị ở đây đồng với chín định, chỉ có xuất ra vô gián là khác. Trong đó mà dùng tâm khéo léo, tướng tu tập lược biết đại ý, chẳng phân biệt rộng. Giải thích Tam-muội Siêu việt: nay nói Tam-muội siêu việt, như kinh Bát Nhã nói hành giả nhân Tam-muội sư tử phấn tấn mà nghịch thuận ra vào Tam-muội siêu việt. Thế nào là Tam-muội siêu việt? Là lìa các dục ác bất thiện, có giác có quán, lìa sinh hỷ lạc vào Sơ thiền. Từ Sơ thiền ra, lại vào Phi hữu tưởng. Từ phi hữu tưởng ra, lại vào Phi vô tưởng xứ. Phi vô tưởng xứ ra, lại vào định diệt thọ tưởng. Định Diệt thọ tưởng ra, lại vào Sơ thiền. Từ sơ thiền ra, lại vào định diệt thọ tưởng. Từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào Nhị thiền. Từ Nhị thiền ra, lại vào định diệt thọ tưởng. Từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào Tam thiền, từ Tam thiền ra, lại vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào tứ thiền, từ Tứ thiền ra, lại vào định diệt thọ tưởng. Trừ định diệt thọ tưởng ra, lại vào Hư không xứ, từ Hư không xứ ra, lại vào định diệt thọ tưởng. Từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào định diệt thọ tưởng. Từ định Diệt thọ tưởng ra, lại vào Thức xứ, từ Thức xứ ra lại vào định diệt thọ tưởng. Từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào Vô sở hữu xứ, từ Vô sở hữu xứ ra, lại vào định diệt thọ tưởng. Từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào Phi hữu tưởng, từ Phi hữu tưởng ra, lại vào Phi vô tưởng xứ, từ Phi vô tưởng xứ ra, lại vào Phi vô tưởng xứ, từ Phi vô tưởng xứ ra, lại vào định Diệt thọ tưởng. Từ định diệt thọ tưởng ra, lại vào trong tán tâm. Từ tán tâm ra lại vào định diệt thọ tưởng, từ định Diệt thọ tưởng ra, lại vào trong tán tâm, từ tán tâm ra, lại vào Phi hữu tưởng, từ Phi hữu tưởng ra, lại vào Phi vô tưởng. Từ Phi vô tưởng ra, lại trụ vào tán tâm, từ tán tâm ra, lại vào Tứ thiền, từ Tứ thiền ra, lại vào tán tâm, từ tán tâm ra lại vào Tam thiền, từ Tam thiền ra lại trụ Tán tâm. Từ Tán tâm ra lại vào Tam thiền, từ Tam thiền ra lại trụ Tán tâm. Từ Tán tâm ra lại hại vào Nhị thiền. Từ Nhị thiền ra lại trụ Tán tâm, từ Tán tâm ra lại vào Sơ thiền, từ Sơ thiền ra lại trụ Tán tâm, đó là Tam-muội siêu việt. Nay nói tướng siêu việt, thì có tướng siêu nhập và siêu xuất. Trong siêu nhập siêu xuất đều có bốn thứ: một là thuận nhập siêu, hai là nghịch nhập siêu, ba là thuận nghịch nhập siêu, bốn là nghịch thuận nhập siêu. Siêu xuất cũng giống như thế. Lại trong Tam-muội siêu việt nầy lại có bàng siêu. Bàng siêu cũng có bốn thứ, giống như trước nói: thí như sư tử có bốn thứ: một là nhảy về trước xa bốn mươi dặm, tức dụ cho tướng thuận siêu, hai là nhảy lui bốn mươi dặm, tức dụ cho tướng nghịch siêu, ba là nhảy xa bên phải bốn mươi dặm, tức dụ cho tướng bàng siêu, nhập thiền định căn bản, bốn là nhảy xa bên trái bốn mươi dặm, tức dụ cho tướng bàng siêu nhập quán thiền. Lại có hai thứ siêu việt: một là đầy đủ siêu, hai là chẳng đầy đủ siêu, đầy đủ sự siêu việt của Bồ-tát như trên nói, chẳng đầy đủ siêu việt tức là siêu việt Tam-muội của Thanh văn. Chẳng thể tự tại siêu nhập xa. Nên luận Đại thừa thí như sư tử vàng, sư tử trắng cả hai đều nhảy xa, nếu sư tử vàng thì nhảy chẳng xa bằng sư tử trắng. Người Thanh văn vào Tam-muội siêu việt chỉ có thế từ Sơ thiền mà siêu nhập Tam thiền, còn chẳng thể vượt Nhị huống chi có thể siêu Tam. Ở đây thì như sư tử vàng vượt. Còn Bồ-tát thì chẳng như thế, từ Sơ thiền mà có thể vượt vào định diệt thọ tưởng thì tùy ý tự tại. Ở đây thì như sư tử trắng vượt. Nếu người hạnh ba thừa mà vào Tam-muội này mà tu đầy đủ tất cả pháp môn. Lúc đó, quán định các pháp càng bén nhạy lại sinh ra trăm ngàn Tam-muội, công đức sâu dầy, thần thông mạnh mẽ, nên gọi là quán thiền cũng có luyện thiền tự tại định, luyện thiền như trên nói. Tự tại định, là đối với các pháp môn mà tự tại ra vào và trụ, chuyển biến thấy tám tự tại. Cũng gọi là Đảnh thiền, là đối với các thiền là cao tột nhất, thì có thể chuyển thọ thành phước, chuyển phước thành thọ, nên còn gọi là Tam-muội Phật trí. Muốn biết tùy nguyện liền biết việc ba đời, hai xứ nhiếp, tức là cõi dục và Tứ thiền. Lại có Tam- muội vô đế, khiến Tha tâm thông chẳng khởi đế thuộc về năm xứ là cõi dục và Tứ thiền. Lại có bốn biện, tức là các lời biện luận thuộc về hai xứ tức là cõi dục và Sơ thiền. Nghóa biện lạc thuyết nói thuộc về chín địa, tức là cõi dục tứ thiền định vô sắc. Lại có năm thần thông, mười bốn biến hóa tâm, mười tám biến hóa, đều như trước nói. Nếu trong thiền khi muốn nghe thấy xúc thì đều dùng thức phạm thế, thức diệt thì ngưng. Lại nữa, trong thiền ấy đều có ba mươi bảy phẩm, ba môn giải thoát, bốn đế, mười sáu hạnh quán, mười một trí, ba căn vô lậu, các trí hạnh như thế v.v… ở dưới sẽ phân biệt. Nếu người Nhị thừa đủ các thiền này thì tức là câu giải thoát, sự lý đầy đủ thành tựu không lụy, cho nên cũng gọi là bất hoại giải thoát. Vì đầy đủ các pháp thiền định xuất thế gian nên đầy đủ ba minh sáu thông và tám giải thoát, v.v… tất cả các công đức lớn, nên gọi là đại lục A-la-hán. Nếu là Bồ-tát ở trong tâm chánh quán mà vào Tam-muội này, được các pháp đẳng tướng tức được hai mươi lăm Tam-muội, phá được hai mươi lăm hữu, trụ vào Tam-muội vương, vì tất cả Tam-muội đều vào trong ấy. Lúc đó, cũng gọi là Thiền Ba-la-mật mãn vô lượng, khiến lại muốn nói yếu hạnh nhập đạo, há nói được đầy đủ ư? <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 169