<經 id="n1893">TỊNH TÂM GIỚI QUÁN PHÁP (QUYỂN THƯỢNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TỊNH TÂM GIỚI QUÁN PHÁP Sa-môn Thích Nguyên Chiếu ở quận Dư Hàng soạn. <詞>LỜI TỰA Rầt gần rất dễ không gì bằng tâm mình, vào tử ra sinh không cần hay biết. Thể nó sáng lượng nó bao dung. Cho nên khiến một mê vội sinh ra các pháp. Giống như gương báu nhân sáng mà ảnh sinh. Lại nếu sông dài lắng yên mà sóng động, nghóa là tâm khác vật, làm vật chuyển tâm, xáo động trần duyên công thành lao kết, trải mất các hữu, chìm tánh linh mình, các đường khác không biết, nhân luân phải học, nếu khiến nghe tập, phần nhiều đều rơi vào tà si, đuổi theo danh vọng đóng kín tri giải. Còn như ở Giang Nam, Giang Bắc tìm kiếm Bồ-đề, khúc kiến tà tâm không hề ngay thẳng. Khỉ vượn nhảy nhót chó nhà chậm về, nhọc Thánh sư ta, lắng tai nghe dạy bảo, để lại thuốc hay chỉ rõ gốc bệnh, bao gồm hai thừa, bến chung muôn hạnh. Mượn thân độ ấy dùng biểu hoằng từ, chúc khiến ngẫu khuy, riêng bày bí thắng. Rất quở trách giảng luận khổ gắng tu trị. Văn này dùng quán bày tu đã không phải không mắt mà đến, há là đếm tiền cho người khác. Phải tin rằng từ chân khởi vọng cả thể hiện tiền, đạt vọng tức chân chẳng từ người được. Yếu của tịnh tâm xem đó nên biết. --------------------------------- TỊNH TÂM GIỚI QUÁN PHÁP Sa-môn Thích Đạo Tuyên ở núi Chung Nam soạn. <卷>QUYỂN THƯỢNG Kính lễ Tam Bảo Tạng, Tát-bà-nhã pháp thân Tùy sức răn mới học, mong Thánh thương che chở. Bấy giờ, Hưng Đương Già-lam, ở Tùy châu, mùa Hạ an cư soạn ra khiến đưa đến chùa Linh Nham trao cho Từ Nhẫn thọ trì, gồm ba mươi thiên như sau: 1/ Thiên ThíchDanh 2/ Thiên Tự Tông 3/ Thiên NgũĐình 4/ Thiên Giảo Lượng 5/ Thiên TựKhánh 6/ Thiên Thiện Căn 7/ Thiên Phá giới 8/ Thiên TàMạng 9/ Thiên Cuống Phật 10/ Thiên Tạo Quá 11/ Thiên GiảiThoát 12/ Thiên Thực Duyên 13/ Thiên Lưu Chuyển 14/Thiên Bất Động 15/ Thiên Quá Hoạn 16/ Thiên TâmTrược 17/ Thiên Hai Báo 18/ Thiên KiếtSử 19/ ThiênDuyên Sinh 20/ Thiên An-ban 21/ Thiên TươngTư 22/ Thiên Nhân Quả 23/ Thiên Chỉ Kiếp 24/ ThiênNhất Đế 25/ Thiên TâmHạnh 26/ Thiên Bồ-đề 27/ Thiên GiáoHóa 28/ Thiên Phật Tánh 29/ Thiên Phước Điền 30/ Thiên Thọ Trì. <詞>NĂM CHỮ “TỊNH TÂM GIỚI QUÁN PHÁP”, THIÊN THÍCH DANH THỨ NHẤT Tịnh tâm, là hiện thầy đang gây các thứ lỗi lầm phiền não, dạy thầy tu đối trị, giúp thầy liền được tùy phần giải thoát, cấu nhiễm dần diệt, tâm chuyển minh tịnh, phát sinh định tuệ, khởi tín tâm thanh tịnh Đại thừa, hướng đến chỗ bình đẳng chủng tánh. Dùng nhân yếu này sau cảm đến quả. Cho nên dạy ông xét bệnh mà đối trị, phát triển công nghiệp, tu vào tín cảnh, thành quyết định căn lực, là chân lý không tông của ba Hiền mười Thánh, Vô cấu diệu giác ba mươi hai địa. Chỉ có thể biết nghe thô tướng ảnh tượng, vì phàm phu hạ địa năng lực chưa kịp, cũng chưa thể làm. Nay chỉ giúp thầy trừ sạch nghiệp cảnh khách trần, các bệnh màng mắt, thấy trong thân thầy có phần ít Phật tánh, thì thầy có thể uống cam lộ Bát-nhã, rửa sạch triền cái, dần dần hiển bày tịnh tâm. Nếu tâm thanh tịnh thì khiến chúng sinh giới tịnh. Chúng sinh đã tịnh thì là Tịnh độ Phật. Trước dứt trừ phiền não khiến giới thanh tịnh. Giới đã đầy đủ, định lại thanh tịnh thì dùng giới định thanh tịnh khiến trí tuệ tịnh trí đã tịnh rồi thì hiển nguồn tự thân. Vì có nghóa này nên gọi là tịnh tâm. Các thiên dưới đây là trị lỗi tuy khác nhưng đồng gọi là tịnh tâm. Răn, là khiến thầy biết môn đầu đối trị, trước dứt thô nhiễm, căn bản nghiệp ác, biết bệnh biết thuộc giữ tâm giữ miệng, cố gắng tu đạo lìa lỗi, nên gọi là Răn. Quán là nghóa xét, quán sát giới nầy có tương ưng hay không tương ưng với Phật và các lỗi lầm danh tự cú kệ chướng đạo, suy lường xét kỹ, như thật mà tâm hiểu được bản ý của răn. Lại hay thuận theo hai môn Chỉ - Quán. Hai pháp này là định tuệ đầu tiên sinh trưởng tất cả Thiền Chi Đạo Phẩm, nên gọi là Quán. Pháp, tức là văn giới này thứ lớp từ đầu quyển hết lòng dạy bảo, muốn khiến chấm dứt phiền não, bỏ các nghiệp ác, gia hạnh thắng tấn trụ tâm bất thối, nên gọi là Pháp. Các thiên dưới đây đều có năm nghóa của Tịnh Tâm Giới Quán Pháp, phải biết như thế. <詞>RĂN QUÁN TỰ TÔNG Hễ muốn tu đạo, đối với ba nghiệp trước phải bỏ hai thứ tài - sắc. Nếu không tham tài thì không có nịnh hót tranh cãi, nếu không tham sắc thì không có nhiệt não. Kinh nói bối xả, ly dục thì thuận với Bồ-đề phần. Phải tu thân quán siêng năng một lòng dứt trừ các tham ái ở đời, chế phục cấu não khiến tâm thanh tịnh. Vì dứt bỏ tài sắc mà thành gốc lành vô lậu, hun đúc trong bản thức thành hạt giống vô tham, dần dần hết các hoặc nhiễm mà vào nhập - địa vị Hiền Thánh. Nay thấy người hiểu pháp vẫn còn tham tài sắc, nuôi lớn kiết sử, tương ưng với các lậu, buộc ràng nghiệp ác mà rơi vào ba đường ác. Kinh nói: đã chẳng phải là người đạo, cũng chẳng phải người tại gia, không biết gọi là gì. Phần nhiều đều cầu lợi, chuyên luyện môi mép, thêu dệt bóng bẩy, hý luận ganh ghét chê bai, ba độc càng mạnh, phiền não thêm nhiều chìm đắm biển khổ. Biết mà cố phạm không có lúc giải thoát. Ngàn Phật ra đời không thấy không nghe. Vì nhân duyên đó, đều tội trong địa ngục xong, liền làm thân rồng dữ, trộm cơm áo Phật, phá giới sân cấu phải bị quả ác. Như kinh nói rồng đui. Liền biết hiểu nghóa chẳng cứu nghiệp khổ. Thầy nên y theo giới như ta nói mà tu hành. Tùy bệnh đối trị, tùy phần giải thoát, chẳng thể miệng nói mà được thanh tịnh. Ba độc năm kết vì sao riêng nặng. Trước trị nặng thì nhẹ liền hết. Mặc áo giáp giới định mà dẹp tâm giặc ma. Tất cả nhân quả khổ, tài sắc là gốc. Tất cả nhân quả vui giới định là gốc. Nhưng nhân quả nầy ở tâm chúng sinh nhiều như hạt bụi, vì sao chẳng dứt trừ, trước cấm tài sắc, kinh Đại thừa nói tám mươi bốn ngàn tội nghiệp chướng đạo do tài sắc là gốc. Vì sao? Vì chúng sinh mười phương từ vô thỉ đến nay vì tài giết nhau còn hơn số đó. Hai dòng đạo, tục đều vì tài sắc. Nay hiện có một trăm hai mươi sáu địa ngục lớn, chịu ngàn muôn các khổ, trải qua vô lượng kiếp mới vào ngạ quỉ, súc sinh. Hai người đạo, tục đồng vì tài sắc mà bị tổn hại. Trước trì sau phạm, rất ít người khỏi được. Nếu có đoạn dứt thì gọi là hạnh Bồ- tát, gọi là chân trì giới, gọi là Hiền só, gọi là đệ tử Phật. Hai việc tài, sắc giống nhẹ mà cảm tội rất nặng. Hà sa mê lầm do tài sắc khởi lên. Hai lỗi này làm phá hoại vua tôi, thầy trò, chồng vợ, v.v… cũng phá hoại thân tộc trong ngoài, bạn bè tri thức. Nếu lìa tài sắc thì không còn thế gian, trời người thoát khổ, Thánh phàm đồng khen. Các lậu dứt hết tiến đến quả Phật. Vì đây cấm trước hai thứ tài sắc. Do sắc mà sinh kiêu mạn, do tài mà sinh mến tiếc. Kiêu mà lại tiếc, tuy có đức khác cũng chẳng xem đủ. Trước phải dứt bỏ tài sắc, để công hạnh được thành lập. Sau nghe kinh luận tức là thứ lớp vào đạo. Nói nghịch làm nhanh nên gọi là tịnh tâm, kệ rằng: Phiền não như cát sông, Trước phải dứt hai ác Một tài, hai là sắc Khi chết, Thần chẳng sợ. Cát-la phải hộ trì Huống chi phạm bốn trọng Ba tụ giới thanh tịnh Bồ-tát tâm mừng vui. Kẻ quê ham tài sắc Răn thầy bỏ tham đắm Do tài ba đời khổ Nhân sắc vào vạc lửa. Sắc làm chướng Thánh đạo Tài khiến cho hạnh mỏng Xét chắc tự xét tâm Biết tham là mê lầm. Trí tránh được hầm lửa Người ngu chẳng sợ ác Nếu phạm phải hối trừ Dứt rồi không làm nữa. Tất cả có hình loại Chung qui lấp hang hố Giữ giới cấm căn khổ Sau được an vui lớn. <詞>THIÊN GIỚI NĂM PHÁP QUÁN DỪNG TÂM: Năm vọng tưởng, như nhổ cây gai trước phải chặt rễ. Nếu tu năm pháp quán dừng tâm để dứt năm lỗi, ngăn lại chẳng cho khởi, nên gọi là quán dừng tâm. Do tu quán này mà các não chẳng hiện hành, do đó được giải thoát nhỏ. Giới định điều nhu, dần chứng thần thông, gọi là giải thoát lớn. Mười chướng diệt hết gọi là chân giải thoát, chân thật đều do năm pháp quán dừng tâm này, như thế tu nhập gọi là Tịnh tâm, kệ rằng: Tự biết dục tình nặng. Một bề quán bất tịnh Bối xả được giải thoát, Dục hết liền được định Nếu chạy theo giảng luận Thì niệm dục càng mạnh Tức là chẳng đối trị Liền đi xuống đường hiểm Tự biết sân nhuế nhiều Một bề tu Từ Bi Lửa độc được mát mẻ Thành tựu luật nghi thiện Nếu chạy theo giảng luận Chẳng trị lúông mỏi mệt Tham sân càng tăng mạnh Lại bị phiền não trói Tự biết người si nặng Quán kỹ mười hai nhân Mời ngộ khổ luân hồi Biết rõ vô ngã nhân Nếu chạy theo giảng luận Tranh cãi trọn ngày ồn Bỏ gốc, tìm cành lá Chẳng thể nhổ tạân gốc Tự biết ngã mạn nhiều Quán chắc mười tám giới Mới được hiểu vô nhân Thì bệnh ta liền hết Nếu chạy theo giảng luận Càng trả nợ ba đường Chấp ngã thường cầu hơn Danh lợi tự trói cột Tự biết loạn tưởng nhiều Thường hơi thở ra vào Giác quán dần được thành Ta thêm sức giới định Nếu chạy theo giảng luận Ồn ào chẳng thể dứt Lại tranh nhau phải quấy Lúc nào diệt sự thức. Trong bảy phương tiện của Tỳ-đàm, thì năm pháp quán dừng tâm là phương tiện thứ nhất. Các thứ khác là Biệt tướng niệm xứ, Tổng tướng niệm xứ, Noãn pháp, Đảnh pháp, Nhẫn pháp, Thế đệ nhất pháp gọi là bảy phương tiện. Quán hạnh thành tựu thì được quả Tu-đà-hoàn, nếu mới vào đạo thì người Đại Tiểu thừa đều tu chung quán này. Kệ rằng: Vì sao nói năm dừng Lại chẳng theo giảng luận Ôm bệnh nói thuốc hay Chi muốn được tiếng tăm, Phàm phu tham lợi dưỡng Vô tâm trị vong tình Nếu tu năm quán dừng Chắc chắn tu đạo thành. Vì sao dạy tu năm pháp quán dừng tâm thôi dứt giảng luận? Có hai yếu pháp: Một là Phật dạy thứ lớp vào đạo, đối trị phiền não thô trọng, hai là người thấy rõ pháp nghóa biết mà cố phạm, chẳng sợ giới Phật, chẳng tu oai nghi. Năm Thiên tịnh giới đều phá hết, thấy người khác giữ giới thì lại ghen ghét chê bai, chỉ tham tài sắc, sân não đấu tranh, ganh tị kiêu mạn, không biết hổ thẹn, chết rồi phải đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, trải qua nhiều kiếp. Phải quán việc này hiện tiền nghiệm biết. Cho nên năm pháp quán dừng tâm dứt lỗi, khởi đạo thuận lời Phật dạy, nên gọi là tịnh tâm. Kệ chép: Tham như tánh sói lang Sân như tâm rồng dữ Hoại pháp nên hủy cấm Ô giới phạm gian dâm Biết pháp mong trừ độc Trái lại gây tội sâu Tạo nghiệp tâm không hối Chết rồi đến rừng dao Đoạ ngục lớn Vô gián Phật tánh chìm nhiều kiếp Như chức trừ gọi phạt Mất thế, không kham nhận. Vì sao miệng phá giới? Thức ăn trong phóng túng, Vì sao tay phá giới? Lấy vật thí của người. Vì sao thân phá giới? Nằm ngồi giường nệm tốt. Vì sao nghiệp phá giới? Nhận người lễ dưới chân. Vì sao hạnh phá giới? Im lặng nhận người khen. Nếu phạm năm việc nầy Các trời đều buồn thương. Phật dạy người mới thọ giới năm năm học luật, sau đó mới học kinh. Luật có năm bộ: Một là Tứ Phần, hai là Ngũ Phần, ba là Thập Tụng, bốn là Tăng-kỳ, năm là Giải Thoát. Năm bộ luật này đồng một Tỳ-ni Đại Tạng. Văn tướng rất rộng, các nạn đều biết. Nay muốn biết thì tài sắc là gốc, dứt được tài sắc thì gọi là vâng giữ luật, giới cấm thanh tịnh thì phát sinh định tuệ, thành tựu Thánh đạo. Biết luật cương yếu nên gọi là Tịnh Tâm. Kệ chép: Trong năm bộ giới luật Tông yếu dứt tài sắc Tu thiền quán bất tịnh Đối trị tự đè nén Rừng hoang khen thây chết Trong lòng rất thương xót Thân ta gặp việc ấy Lửa tham liền tắt ngay Ba độc rất mạnh mẽ Dùng sức trí dẹp nó Chỉ mặc áo cũ rách Giữa ngày ăn một bữa Thường hành tâm bình đẳng Tịnh ý luôn ngay thẳng, Nếu chẳng thể như thế Ca-sa thành gai góc. Thánh giáo muôn khác vì căn tánh khác nhau, bệnh thuốc rất nhiều, nhưng người ngu rất mê lầm, tuy dùng công sức mà không phải chánh đối trị, vọng tham danh lợi, thêm nhiều bụi nhơ. Do đó trước tu năm định, sau học giảng luận. Biết đạo thứ lớp gọi là tịnh tâm. Kệ rằng: Người đời quen học rộng Không hề làm một phần Vọng tình chấp vọng pháp Cạnh tranh khởi lăng xăng Vào đạo theo thứ lớp Giới định tự giúp xông Tịnh mạng như Ca-diếp Chớ được đồng lục quần. <詞>DẠY QUÁN T6AM HẠNH TRONG ĐỜI MẠT PHÁP: Phàm phu hiểu nghóa đều do nghe học, vì người biệt pháp, thân phạm bốn tội trọng, chứa tám thứ bất tịnh tài, ăn uống thức ăn tục. Không có tâm hổ thẹn, biết mà cố phạm, chẳng sợ đời sau. Cho nên khiến ông xét lường tâm hành. Trước tịnh giới cấm, sau mới nghe kinh. Ông giữ năm giới được gọi là tịnh tâm. Xưa, Đại đức giảng kinh Hoa Nghiêm chỉ một quyển Sớ, sau Pháp sư soạn Sớ ba quyển. Nay khi giảng phẩm Thập Địa soạn ra Sớ mười quyển. Đều sinh công năng tranh bày lời hoa, văn tự rất rộng không chỗ gởi tâm. Nhưng đương thể của văn là nghóa, đâu cần người nói. Nay người ngu chỉ cầu danh mà không cầu pháp, pháp còn chẳng nên mê đắm, huống chi là mê đắm văn tự. Pháp lìa văn tự, nói năng đoạn dứt. Kinh Đại Tập chép: Văn kinh là một, giảng là nói khác, đều ỷ thấy của mình mà phá hoại chánh pháp, trời thần sẽ giận, cho nên ba tai đều khởi. Do nhân duyên đó Phật pháp lạt lẽo như một hộc nước chế vô vào thăng lạc, thấy giống mầu lạc mà ăn thì chẳng có mùi vị gì. Nghó kỹ giảng luận là đem tình người suy lường Phật, trí Chánh giác của Phật, há người thường đâu thể suy lường, như thế xét kỹ gọi là tịnh tâm. Kệ chép: Pháp sư giảng nói pháp Hai thứ lên tòa cao Một là phước vô lượng Hai là lìa tội lỗi Từ tâm thành tựu người Pháp thí hơn tiền của Tức giận chuyện đúng sai Là nằm ngồi trên gai Hữu lậu là nền tảng Vô minh là cội gốc Giảng kinh chẳng trừ độc Pháp sư tự thương tổn Tâm giặc cầu danh lợi Vội vàng chưa nghó suy Trẻ con muốn leo thang Trước phải giới đủ ẩn Người Học só thông minh Hành động thường vội vàng Hoặc có lầm hiểu nghóa Tà kiến lại đảo điên, Cho nên Định trị Động Pháp yếu trong bảy giác Định tuệ bình đẳng tu Chủng trí được mầu nhiệm Khi Thế Tôn ở đời Chỉ dạy tu xuất ly Tạp thiện chớ sinh đủ Ác nhỏ cũng lánh xa Niệm niệm quán vô thường Siêng tu chân đối trị Vắng lặng học thiền-na Sao mê đắm văn tự. Do đâu khi Thế tôn còn ở đời thì đều được Thánh đạo và sinh lên cõi trời, vì y theo thứ lớp mà học, chẳng vượt, Tỳ-ni mới có phương vào đạo năm năm tu giới, đêm thì tu định, nhiếp tâm giữ cảnh ở trong rừng hoang, chẳng chứa các thức ăn khác, ít ham muốn, biết hổ thẹn, một lòng quán chắc vô thường bất tịnh, lìa lời nói suông, ý chẳng tán loạn, đi đứng tới lui đều phải tịnh khiết, không có tư dụng xấu ác, trước ý hỏi thăm. Đó là duyên lành đều được dấu Đạo. Ông hãy một lòng y theo đây mà tu học thì gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Chánh pháp khi chứng đạo Tịnh pháp điều chúng sinh Tùy việc hành Yết-ma Trừ cấu được ba minh Tượng pháp hết đến Mạt, Yết-ma bỏ chẳng làm Tuy dường như hòa hợp Nhóm thì khởi đấu tranh Hễ là các kinh luật Cam lồ cũng thuốc độc Cởi áo, trăm vết sẹo. Chẳng tiêu bệnh phát tác Biết pháp chẳng hướng tâm Hạnh giải kinh lại mỏng Bỏ hết nghiệp giới định Lại mê đắm văn tự Do đó soạn câu vần Khi đọc tâm vui vẻ Ngồi yên suy nghó kỹ Quán sát tự xét lường Duyên nào trùng tụng kệ Văn ít nghóa lại rộng Y giới lợi thân ông Tin nhận chớ nghi ngờ Hoặc thấy người mắng chửi Tâm khinh chê lặng yên Đây theo Đại thừa giáo Chẳng trái lầm với lý. <詞>DẠY QUÁN TU ĐẠO PHÁP TỰ MỪNG TRÁNH ĐƯỢC SÁU NẠN: Một là trong muôn loài, thân người khó được, như Kinh Đề-vị chép: Nay được thân người khó như rùa mù tìm bụng cây; Hai là tuy được thân người, mà khó sinh ở giữa nước. Cõi này tức ở biên giới có đầy đủ chánh pháp kinh luật Đại thừa; Ba là tuy có chánh pháp nhưng tin ưa lại khó, nay tùy sức tin chẳng dám nghi ngờ chê bai; Bốn là thân người khó đủ, nay được thân nam mà căn không thiếu, tướng mạo đầy đủ, năm là tuy được thân nam mà sáu căn không thiếu, bị năm dục cột trói, xuất gia rất khó. Nay được cắt ái xuất gia tu đạo, đắp y Phật, thọ tịnh giới của Phật; Sáu là tuy thọ giới cấm mà giữ giới rất khó nay ông đã có khả năng ở trong giới luật mà tôn trọng ưa thích, biết hổ thẹn cẩn thận hộ trì. Đối với sáu việc nầy nếu chẳng quán sát thì liền buông lung chơi bời, rất chướng ngại chánh đạo. Đã vượt sáu khó trên thì phải thường vui mừng: Khó được đã được, được rồi không mất như thế mà xét lường, gọi là Tịnh tâm. Kệ rằng: Đời có sáu thứ khó Khó được, đã được đủ Siêng tu giới định tuệ Khéo hiểu các câu nghóa Cho nên học Đại thừa Hỏi liền phải biết chỗ Nhận cơm của đàn việt Ăn no không trí lự Không trí nuôi tham sân Chẳng thể đúng pháp trụ Phạm cấm và hủy giới Chết rồi sinh bốn đường. <詞>DẠY QUÁN TƯỚNG ĐỜI NHƯ MỘNG MÀ TU GỐC LÀNH XUẤT THẾ : Vì sao phải phương tiện giúp cho chúng sinh lìa khổ mà ra khỏi thế gian. Chỉ người ngu tham ái, còn ta thì chẳng tham. Thế nào gọi là người ngu tham ái? Cái gọi là quan chức vinh hoa, kho tàng ngựa xe, lầu các vườn ruộng, thể nữ âm nhạc, ăn ngon mặc đẹp, dạo chơi săn bắn, yến tiệc ca múa cưới gả cậy nhờ dòng họ giao du bạn bè theo thế lực, ba quân bày trận, mưu mô sách lược bàn bạc, hạch hỏi giết hại, khoái ý thích tình, công thành phá hủy, giam bắt trói cột dao kiếm. Hào hiệp ý chí lập ra các nghề, phương thuốc khéo léo, công lao được tôn kính, cúng tế. Tóm lại có vô lượng việc đời giết hại, rượu thịt, đấu tranh thắng thua oán thù, nhiệt não buồn vui an nguy, lành giữ họa phúc, v.v… lìa bỏ được các thứ đó thì gọi là người thật tu đạo xuất thế. Chúng sinh mê lầm điên đảo đối với các việc đời này cho là chân pháp, mà không biết từ vô số kiếp đến nay sinh tử khổ lớn, thân chết rồi đọa vào đường ác, Hằng hà sa kiếp chịu khổ thiêu đốt. Tuy gặp khổ nầy nhưng vẫn tham đắm sinh tử chẳng chán, buông lung quen thói mê lầm trần cảnh, đều do chưa gặp người chỉ đường tốt, chưa nghe chánh pháp. Nay ông đã nghe hãy như nghe, mà tu học, gọi là tịnh tâm. Kệ chép: Phàm phu tánh cuồng si Thấy biết thường chẳng chánh Nuôi lớn thân ba độc Tham sân càng thêm mạnh Chưa quán thân hình uế Cầm phân đi chỗ vắng Thường dạo cảnh trái thuận Giả dối khởi dua nịnh Thật vô thường ngã lạc Vọng thấy Thường Ngã Tịnh Vì tội nghiệp điên đảo Thường vào các đường hiểm Người trí hiểu đúng thật Tuệ mạng tâm quyết định Xem đời như mộng huyễn Cùng chân đạo thành Thánh. <詞>DẠY QUÁN TĂNG NI PHÁ GIỚI CHẲNG TU PHÁP XU- ẤT THẾ: Tăng Ni phá giới, đó gọi là nuôi dưỡng tôi tớ hầu hạ, trâu lừa xe cộ, ruộng vườn trồng trọt, rừng rậm hoa trái, vàng bạc lúa thóc, bình phong nệm mền, giường chiếu rương tủ, chậu thau, bình đồng mâm chén, ba y hảo hạng, giường nệm phòng nhà, kho bếp cối thớt, dầu mì tương giấm, các thứ hợp khẩu vị vua quan quí trọng nhiều người khen ngợi. Sinh duyên giầu sang hơn người xưa, ra thưa vào trình, chê bai nha phủ thân làm đầu chúng môn đồ mạnh đông, giảng nói gạn hỏi ưa thích âm nhạc, thường ở một chùa mà bình luận việc tăng, tự do đuổi phạt, mượn hỏi, hạn, hụt, trúng mùa, kiệm ước, trộm cướp lửa nước, v.v…, ngủ đêm ở quán bar, chợ búa, nhà người giết mổ, săn bắn, bạn thân với phụ nữ, đàn kèn thi phú, cờ vây song lục, đọc sách ngoại điển, lớn tiếng nói cười, ghen hờn, tranh nhau ăn thịt uống rượu, y phục lụa là năm mầu tươi sáng, cạo râu tóc láng sạch, móng tay nhọn hoắt, chứa tám thứ bất tịnh tài, báu vật giàu sang, v.v… các việc như thế tham cầu mê đắm chứa nhóm chẳng rời, gọi là thật phá giới. Kinh nói: Các Tỳ-kheo này gọi là Cư só trọc, gọi là giặc, mặc áo ca sa gọi là thợ săn trọc, gọi là người ba đường, gọi là người không biết hổ thẹn, gọi là Nhất-xiển-đề, gọi là kẻ chê bai Tam bảo, gọi là kẻ hại tất cả tai mắt đàn-việt, gọi là hạt giống sinh tử, gọi là kẻ chướng đạo. Xa lìa mười tên gọi xấu ác này gọi là Tịnh tâm. Kệ rằng: Lạ gì kẻ phàm phu Chứa nhóm tham, sân, si Phá giới không hổ thẹn Khinh chê báu Mộc-xoa Tìm cầu vội như lửa Gây ra các khó khăn, Dạy người thường bố thí Mình thí như rút gân Ngạo mạn thiện tri thức Cậy nhờ thân máu mủ Buông lung mê năm dục Lúc nào thoát bến khổ Áo, tham đồ năm mầu Ăn, luôn tham no bụng Bỏ tịnh vào chợ ồn Kinh giới không hề đọc Nhổ cỏ lại đào đất Tưới rót tự vườn tược Nghề nghiệp hơn người tục Rương chậu đến ba - năm Chỉ lo tiền không đủ Khóa xiềng các cửa nẻo Lớn tiếng nói cười ta Xiểm mạn tâm chưa khắp Hủy phạm bốn trọng cấm Dữ dằn hơn cọp sói, Chết rồi mãi đắm chìm Hết tội sinh biên giới, Đáng thương chúng sinh phạm Tối tăm không trí tuệ Chỉ tham lợi trước mắt Không thấy tội tương lai Xuất gia mong tịnh lạc Lại đeo đuổi mong cầu Ôm tiền rồi bỗng chết Đạo tục lại chia hai Tánh ác như rắ rít, Tham lam như sói lang Cạo đầu không thật đức Cao dung lại tổn thương Dấu tội cầu danh vọng Chẳng sợ ghẻ lợi dưỡng Cư só tu giới thí Tuổi hết sinh cõi trời Sa-môn lại tham tiếc Chẳng quán không, vô thường Chỉ biết gây nghiệp ác Gặp việc nhìn vào vách Phá giới trái kinh luật Che dấu không hổ thẹn Ta làm thì ta chịu Ba đường có ai thay Tuy pháp không ngã nhân Thiện ác cũng chẳng mất Ba cõi khổ luân hồi Sáu đường sinh tử mãi Các lỗi ác như thế Cẩn thận mà xét lường Nguyện dứt nhân tiếp nối Giữ tâm như kim cương Nước định rửa phiền não Thành giới tự ngăn ngừa Đức như Loa Kế Phạm, Chỗ đi thấy Tây phương. <詞>RĂN QUÁN NGOÀI HIỆN OAI NGHI, TRONG KHỞI TÀ MẠNG: Tà mạng: Là nói làm thanh tịnh chỗ ở, trang hoàng làm đẹp đạo tràng bày phướn hoa và các đạo cụ, thường cạo đầu thường mặc áo ca- sa đi giày dép, oai nghi khoan thai, đi chậm ngó thẳng, nói nhỏ nhẹ, êm ái hoặc lại làm thinh, ngó xuống cúi đầu. Y bát luôn theo mình, xem luật mà luôn ở trong tâm lại cầu danh lợi, mong người khác mời thỉnh cung kính tôn trọng. Tiến giới độ người, gượng làm thầy đứng đầu. Ở trong đồ chúng mà mong người khác y chỉ. Nếu giải thích kinh luật, có hỏi thì sinh khó dễ. Phần nhiều đều ghen hờn, mắt dữ nhìn người. Kiến thức hẹp hòi phạm lỗi chẳng chịu sám hối, nếu nói ra thì ưa nói châm chọc, ganh người khác được lợi như lửa đốt tâm, tình trần ý cấu không hề dứt bỏ. Tuy ngồi giường dây mà khởi quán ác giác, phan duyên loạn tưởng. Lại nghó đến việc đời, khiến ban đêm ác mộng, mà rò rỉ bất tịnh. Ác giác nhiếp ý luôn hun đúc bản thức, chứa kết hạt giống nghiệp ác, thu nhiếp chướng tịnh, sinh tử chẳng dứt, luân hồi không bờ bến, chịu các khổ não, ba nghiệp bất tịnh, trái tám Thánh đạo, ngoài trắng trong đen, thuận tám đường tà, đó gọi là Tà mạng dối lừa phàm Thánh. Quán sát như thế được gọi là Tịnh tâm. Kệ rằng: Miệng tụng Kinh Vô Thường Thân lại chấp có thường Cầu mong lợi dưỡng khác Nhắm mắt chưa quán đế Ba y chỉ muốn tốt Chẳng chịu mặc áo rách Trong tâm rất thô ác Bên ngoài rất nhỏ nhẹ Dối gạt người thế gian Giả đại bi thương xót Hiền Thánh chẳng ngợi khen Thiện thần chẳng che chở, Nghiệp chướng ngày đêm tăng Giới định niệm niệm trệ Tuy có đủ hai mắt Lại bệnh mù một mắt. <詞>RĂN QUÁN CHẤP CẬY NHAU, DỐI LỪA PHẬT PHÁP Kinh nói: Thế nào là Tỳ-kheo dối lừa Phật? Như nói: Ta tu từ bi, còn người kia giận dữ, ta hay bố thí, người kia san tham, ta đủ tịnh giới, người kia phạm giới, ta siêng năng tinh tấn, người kia biếng lười. Ta có trí tuệ, người kia quá ngu, nay ta ưa vắng lặng người kia thích ồn ào. Ta tu oai nghi, người kia vụt chạc, ta trụ như pháp, người kia không đúng pháp. Hoặc cậy mình ở ẩn trong núi tuyệt thực, mặc náp y, giữa ngày ăn một bữa thường ngồi không nằm dưới cây nơi gò mả. Hoặc giảng kinh luật khéo giải tướng pháp. Ta có phước đức trí tuệ như thế, chấp lấy tướng này nên gọi là ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến. Chấp chặt tướng ấy gọi là lừa dối Phật. Vì sao? Vì tu đạo gọi là không lừa dối Phật. Nếu người tu ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng không có mê đắm, chỉ quán thế đế luống dối điên đảo, như huyễn như mộng, không có một thứ nào thật. Thành tựu quán môn này tu giới định tuệ, tinh tấn chẳng ỷ mình khinh chê người khác không có đức, mà mềm mỏng ngay thẳng, khiêm nhường không tranh hơn. Đem các gốc lành này hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Người tu lìa tướng như thế không gọi là lừa dối Phật. Không lừa dối Phật nên được pháp bình đẳng. Pháp nhãn xán lạn, thanh tịnh được trí chướng, chẳng mê đắm có không, nên gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Tám muôn bốn ngàn pháp Đối trị nhiều thứ bệnh Đó gọi Đại phương tiện Thành tựu hạnh khéo léo Chấp tướng gọi dối Phật Đắm ngã khởi tranh chấp Tỳ-kheo tự chết chìm Chẳng thể đến rốt ráo Tu ba môn giải thoát Pháp Không giúp tuệ mạng Quán kỹ duyên nhóm hợp Chứng trí lại mừng vui. <詞> LỖI: RĂN QUÁN KHINH TRỜI SỢ NGƯỜI, CHỖ VẮNG TẠO Phàm phu dua nịnh, không giữ oai nghi. Ở trước người thì thu nhiếp, gọi là dối trá, ở chỗ vắng tạo tội gọi là buông lung, nói là phá các giới nghi ăn uống trộm riêng, mình trần tắm gội ao hồ, chỗ trống tiểu tiện, đánh rắm ra tiếng, mò mẫm chỗ vắng, ngủ ngửa lăn xuống đất, ngồi xổm chống má, vụt chạy liết mắt ngâm vịnh ca hát. Tóm lại gọi là dua nịnh, ba nghiệp bốn nghi đều chẳng đúng pháp. Ở trước người giống người, ở chỗ vắng giống quỉ. Tất cả thiên thần chúng biết lỗi này, chết rồi thì sinh làm khỉ vượn và quỉ mị, vì phạm giới nghi quả báo liền đến, chẳng dối được nhà tối, nghóa ấy như thế, vì sao? Vì cây nghiệp sáng suốt như gương. Chúng sinh tạo nghiệp đều hiện trong đó. Thiên Thần có hai: Một là tự đồng sinh, hai là tự đồng danh. Người chẳng thấy trời, trời thường thấy người, nghiệp lục giữ tội chẳng ở ngày đêm. Người tu phải cẩn thận, chỗ vắng, chỗ có người đều không sai trái. Cả Đại thiên thế giới ở trong lỗ lông của Phật, đâu dung tha tội chỗ vắng, Hiền Thánh chẳng biết. Cho nên Bồ-tát có tám muôn oai nghi, giới Thanh văn có ba ngàn oai nghi. Ông nên tu tập oai nghi thứ tự chỗ vắng, và chỗ có người đều một dụng tâm, cho đến mất mạng cũng không thiếu nghi phạm. Như thế mà hành trì thì gọi là Tịnh tâm, kệ chép: Hiền Thánh thoát ba cõi Thường dạo cảnh ba cõi Quán nghiệp các chúng sinh Như thân đối mặt trời Người trí trọng oai nghi Trì giới tâm mạnh mẽ Chỗ vắng không thiếu sót Bốn nhiếp bền chắc theo Quán thân như rắn độc Xét tâm như kẻ thù, Thân tâm là họa lớn, Che tội như cát sông, Người trí phạm rồi hối Chẳng che giấu tội lỗi Che tội gọi trẻ con Địa ngục chịu vòng sắt Khổ thay thời mạt pháp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni Tuy cạo đầu đổi áo Vẫn giữ tham, sân, si Giả xưng Ưu-bà-tắc Dối trá Ưu-bà-di Trong tên, gọi năm giới Thật chẳng thọ một giới Như thường đọc tên thuốc Tâm bệnh chẳng chịu trị Nghiệp ác luôn che chướng Tà mạng tìm kế sống Thân kiến chấp trước ngã Chẳng biết tức chia lìa Cũng chẳng quán năm ấm Hơi dứt như tơ treo Trước người nhiếp oai nghi Chỗ vắng hơn Tu-di Chỉ sợ người cười chê Chẳng sợ trời chứng biết Dục say cuồng tình phát Đi ngồi đều nhiếp tâm Triền miên phá giới trọng Chết rồi đọa A-tỳ Trải địa ngục một kiếp Kiếp hết lại dời đi Khổ này khó chịu nổi Chỗ vắng phải cẩn thận. Vì tạo nghiệp dối trá, Chư Phật phát đại bi Phạm dục vui chốc lát Chịu khổ vô lượng kiếp Kinh nói người mới sinh Liền có hai thứ trời Ngày đêm ở với thân Cùng người đồng thọ tuổi Một niệm làm thiện ác Rõ ràng đều hiện ra Ác nhiều trời giảm tuổi, Thiện nhiều khiến sống lâu Phật Tỳ-lô-giá-na Thân cõi rộng vô biên Trong một lỗ chân lông Chứa cả cõi Tam thiên Tánh chiếu tròn sáng suốt Đều sinh ra ruộng phước Vì nhiều tội chỗ vắng Vô duyên khởi thương xót. <詞>RĂN QUÁN NGƯỜI NỮ LÀM MƯỜI ĐIỀU ÁC NHƯ TẬT CHÁN LÌA MA GIẢI THOÁT: Mười điều ác của người nữ nói đủ thật khó cùng. Nay nói lược khiến sinh chán lìa: Một là tham dâm vô lượng không chán. Kinh nói mười phương cõi nước chỗ nào có người nữ thì có địa ngục. Tất cả chướng đạo đây là do khổ này. Người nữ ưa muốn người nam như biển nuốt các dòng sông, trăm ngàn muôn kiếp rốt ráo chẳng đầy, được một thì mong một, tâm ý cuồng loạn. Thấy người nam vừa ý liền muốn giao tiếp, cũng như lửa cho thêm củi thì càng cháy dữ. Ngày đêm đi ngồi thường không quên dục, thọ thân năm đường đều thuộc thân nữ. Đời trước đến nay nữ căn chưa đổi, suốt kiếp cùng đời chẳng khỏi thân nữ, nên gọi là tham dục không chán; Hai là tâm ghen ghét như rắn độc, nhà có người nữ, thì sinh ghen ghét, miệng giống người thân mà tâm như kẻ thù, nếu đồng một chồng lại cùng quy mạng, hoặc làm bùa ếm, giải tấu thuốc độc, hoặc thuê người giết hại, hoặc chặt hết tay chân, hoặc rạch phá mặt mày, hoặc lột hết áo quần, đánh đập chửi mắng, phương tiện không muốn người khác độc lập nên gọi là ghen ghét; Ba là dối trá làm thân, hễ thấy người nào chưa nói đã cười, miệng nói nhớ thương mà lòng thì hờn ghét. Đối với chồng thì nghó người Nam khác, muốn chồng đi xa hoặc mong chết sớm, hoặc cùng người ngoài bàn mưu tính kế. Khi thấy chồng thì giả bộ nịnh nọt gần gũi. Thân tâm trái nhau nên gọi là dối trá làm thân; Bốn là buông lung, chỉ nghó áo quần phấn son xoa xuyến, sửa sang mặt mày mong người khác nhớ thương, mê đắm năm dục, chẳng tránh thân sợ, chẳng sợ đời sau phải làm súc sinh, ngạ quỉ, nên gọi là buông lung; Năm là miệng nhiều nghiệp ác, hễ có nói gì thì nói dối trá khó được thật tình, phàm chỗ luận nói dối nhiều thật ít, ưa nói xấu người khác bằng các lời uế ác. Mẹ con, chị em đều chẳng kiêng kî nhau, hai lưỡi đấu loạn, truyền đưa tin tức, thường làm bùa chú chẳng sợ quả báo. Chỗ vắng thường mắng chửi tôn trưởng, cãi lẫy đến cùng. Đó gọi là miệng nhiều nghiệp ác; Sáu là chán ghét chồng, nếu thấy người nam đẹp đẽ thì đeo dính không hổ thẹn, hoặc gởi tin ép bức, hoặc thân đến ngồi nằm, chẳng yên bỏ phế việc làm, hoặc kết thành bệnh, hoặc giả bị bệnh, chỗ vắng thì ăn nuốt mà trước người thì giả không ăn. Chồng cực khổ làm ra tiền mà cắt xén lấy trộm để cung cấp cho trai, cùng bàn mưu kế giết hại, thấy chồng liền giận dữ chẳng khác kẻ thù. Đó gọi là chán ghét chồng; Bảy là tất cả người nữ đều dối nịnh thường không thật tình. Do đó tánh người nữ gian hiểm khó lường. Tuy cùng đối mặt nói năng mà tâm cách ngàn dặm xa, đều là tâm cầu lợi đời, tánh ham kiêu sa. Nói phải mà dẫn ngược làm quấy, chỉ dối làm thật, điên đảo (lật lạng) lý thường, một việc thường có nhiều mối, sau lưng có không, tình theo lạnh nóng, hoặc cậy thế mạnh, hoặc đảng thân biết, hoặc nhân tài sắc mà vu oan, hoặc tranh giành ngôi vị mà chê bai chửi bới. Ấy là miệng trơn như mỡ, tâm như dao nhọn; Tám là tham tài chẳng nghó ân. Cha mẹ nuôi dưỡng cực nhọc khó đáp đền, khi gả chồng thì bỏ quên ân đức, giảm bớt của cha mẹ để lợi ích nhà chồng càng nhiều càng mừng không khen liền hận. Cha mẹ đói rét không hề cung cấp. Đó gọi là tham tài chẳng đoái hoài ân nghóa; Chín là lửa dục đốt tâm, chẳng sợ xấu hổ cha mẹ, chẳng sợ dao gậy, hoặc chưa cưới gả có con thì cùng trốn tránh, hoặc bắt dẫn người khác đến nhà tạo tội, làm nhục cha mẹ, bại loạn tông thân. Cưới gả rồi thì sau lại phản chồng. Chồng mất chưa bao lâu thì lại nghó đến chồng khác. Con cái thành người cũng bỏ đi lấy chồng. Tâm say mê dục chẳng biết xấu hổ. Tội lỗi của người nữ cùng kiếp cũng khó nói hết, nên gọi là lửa dục đốt tâm; Mười là thân nữ hôi thúi, chất bất tịnh thường chảy. Xuân hạ trời nóng, trùng máu cùng xuống. Kinh nói: Trong nữ căn có hai muôn dâm trùng, hình như chiếc vòng đeo tay, nhỏ như sợi lông, hôi tanh dơ dáy. Riêng rơi vào thai, có con thì sinh ra chất dơ bừa bãi. Thiện thần thấy nghe đều bỏ đi. Ác quỉ vọng lượng thường đến khuấy phá. Như thế những người ngu mê cũng tham bỏ niệm xứ mà phá tịnh giới của Phật. Chết rồi đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, nhiều kiếp chịu khổ không lúc nào thoát được. Đó gọi là mười nghiệp ác của người nữ, quán sát xa lìa thì gọi là tịnh tâm. Kệ chép: Bốn trăm bốn thứ bệnh Ăn đêm là cội gốc Khổ ba đường, tám nạn Người nữ là cội gốc Sinh tử vô số kiếp Tham ái là cội gốc Hiền Thánh vui giải thoát Lìa dục là cội gốc Bốn rắn thành thân cõi Tưởng điên đảo làm tâm Máu mủ khắp chín lỗ Tinh tưởng khởi tham dâm Thuận tình bảo vui vẻ Chẳng tin đọa rừng dao Quả báo làm trâu chó Do trước tham ái sâu Tất cả tánh người nữ Ít thật nhiều dua nịnh Chẳng nghó thân hôi thúi Ngồi nằm luôn nghó dục Nhìn thấy người nam khác Ưa thích luôn ép ngặt Trăm ngàn muôn ức kiếp Rốt ráo chẳng đầy đủ Chẳng hổ thẹn mẹ cha Bại tổn các thân tộc Nam ít, nữ thì nhiều Nhà suy luôn bị nhục Nữ có mười nghiệp ác Chết vào ngục giường sắt Dùi nhọn đâm nữ căn Khổ đau kêu khóc rống Địa ngục tội hết rồi, Chuyển vào thai heo, chó Ăn phân ở nhà xí Bùn thúi sinh khuẩn trùng Lại bị khổ giết mổ Nhiều kiếp tội khó hết Từ súc vào ngạ quỉ Ăn dơ thường chẳng no Tay chân bị lửa đốt Xương cốt vẫn chẳng tiêu Tham dục vui tam thời (chốc lát) Chịu báo khổ vô cùng. <詞>RĂN QUÁN BỐN THỨ CỦA ĐÀN VIỆT, TỪ DUYÊN KHỞI MÀ SINH KHỞI Tổn hại sinh mạng gọi là nghiệp khổ, gân xương ở đây hết gọi là duyên khổ. Kinh nói: Ăn là từ cày bừa, gặt hái, sàng sẩy, chứa cấ, xay giã, nấu nướng, rồi đem cung cấp cho ta. Lại trồng rau làm hàng rào, tưới nước ruộng vườn, làm ra hạt cơm, kể ra một bát cơm là một bát mồ hôi, mồ hôi trong da thịt tức là máu. Công làm ra một bát cơm là một bát máu, huống chi cả một đời ăn uống biết là bao nhiêu. Bắt đầu từ cày cấy, gieo trồng cho đến vào miệng thì giết hại vô số trùng nhỏ, do đó Phật dạy ngày ăn một bữa để giữ mạng sống qua một đời. Về áo thì nuôi tằm giết kén lấy tơ dệt nhuộm, giặt rửa cắt may, các duyên làm ra vô lượng cực khổ. Kể áo quần trên dưới đã giết bao tằm, tốn biết bao khí lực. Kén tằm vào nước sôi chịu khổ biết bao. Thế nên Phật dạy mặc áo phẩn tảo, che thân tệ lậu mong được tu đạo. Nhà cửa thì từ đào đất, xây tường giết hại trùng dưới đất, chặt phá cây rừng làm hại trùng cây khi tạo gạch ngói thì giết trùng bùn đất, đốt lửa nung hầm thì giết trùng cỏ. Người làm cực khổ thí chủ tốn tiền, ăn uống các duyên tổn hao lờn mới thành một căn phòng ngôi nhà, cho nên người tu phải nương ở gò mả, dưới cội cây, nệm cỏ mà ở. Nghó ăn là khổ nên ăn có tiết độ. Nghó áo giết hại vật nên mặc áo phấn tảo, nghó phòng nhà ngọa cụ từ duyên khổ sinh ra chí thích hạnh đầu-đà, ba tháng mới dời đổi. Nghó bốn việc khó tiêu mà ít muốn, biết đủ. Kinh chép: Ăn của đàn việt như đời đói kém mà ăn thịt con, mặc của thí chủ như sắt nóng cột trói mình. Khi vào phòng như vào rương sắt, khi nằm ngồi giường như giường sắt nóng, thà đập nát thân này cũng như bụi cát chứ chẳng chịu thân phá giới mà nhận người cung cấp. Khổ báo ba đường đều là thích áo tham ăn, ham thuốc men nhà cửa. Nếu nhân phá giới phải chửi mắng đuổi xô, hoặc làm thân sáng suốt mang lông đội sừng, sống thì trả gân xương, chết thì dâng da thịt, mang kéo vật nặng, hết sức đứng dậy thì té ngã. Luống thọ của tín thí, vui chẳng bao nhiêu mà đền trả thí chủ thì khổ gấp muôn lần. Cho nên dạy ông phải biết hổ thẹn, cẩn thận giữ gìn đời sau, chớ phá giới mà nhận của tín thí gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Người trí chẳng tham ăn Người tham ăn, không trí Chẳng nghó xuất khẩu Chỉ lấy lợi người ăn Tự nuốt đờm trong não Trên ngọn xuống dưới bỏ Tuệ mạng dứt bốn ăn Người tu chẳng ham thích Tỳ-kheo chẳng ưa tịnh Tham lợi nhận đạo cụ Tìm cầu tâm tán loạn Vội gấp đủ các duyên Được một lại mong một Tâm qui thường chẳng dừng Phải biết thẹn thí chủ Thân thúi mặc áo rách Khuyên quán ba thoát môn Lìa tướng tự điều ngự Ít muốn, học biết đủ Đáng nương Phú Thích Tử <詞>RĂN QUÁN ĐƯỜNG TRÔI LĂN, CHỊU BÁO VÔ CÙNG: Chúng sinh ba cõi từ vô thỉ đến nay gây ra các nghiệp thiện ác đều huân vào bản thức, thành hạt giống cùa nghiệp, tịnh nhiễm hợp tạp, số hơn cát bụi, chịu báo sáu đạo sinh tử vô biên. Từ địa ngục ra sinh lên cõi trời, người, quỉ, súc. Súc sinh thì trước chịu các thân loài bò cạp, bướm và các sâu bọ nhỏ nhít, một ngày một đêm trăm lần chết trăm lần sinh, ngàn chết muôn sinh rồi dần dần chịu thân lớn cho đến cá Ma-kiệt thân dài mười ngàn do-tuần. Thoát thân súc sinh thì làm thân Tu-la. Phước trên cõi trời hết lại đoạ xuống địa ngục, ngạ quỉ. Kinh nói quỉ có trăm ngàn muôn thứ, quả báo đều khác, sáu đường người súc đều có cả ngàn muôn loại, sắc mạng khổ vui, chất hình xấu tốt, ngàn muôn sai khác nói khó hết được. Nay nói nhân đạo bản nghiệp đến nơi. Kinh chép: Thọ thân đẹp đẽ có tánh tịnh khiết là các vị trời đến, da dẻ thô xấu chẳng thích tu bố thí là loài súc sinh đến. Hình sắc xấu xa, khô khan ít trí là loài địa ngục đến, cử động vụt chạt là từ loài khỉ vượn, nhanh nhẹn giỡn đùa là từ trẻ múa hát đến, tánh nhiều dua nịnh là từ loài quỉ thần đến, chỉ nói sơ lược, rộng thì khó hết. Trong một đường có Hằng hà sa số nhân quả. Chịu một thân kiến cũng trải qua nhiều kiếp, huống chi chịu các hình khác ở các đường khác. Cho nên sinh tử chẳng thể cùng tận. Thầy hãy quán kỹ, khi chết phải chịu khổ nhiều thì khi thọ thân sống lại càng khổ dữ. Như thế đau khổ đã trải qua nhiều kiếp, đã bỏ vô số thân rồi chịu vô biên khổ. Người ngu ở trong đó cũng buông lung chơi bời. Thầy hãy suy nghó mà siêng cầu thoát khỏi, siêng năng gắng sức thành quả Vô học, chứng chân giải thoát, vui vẻ an ổn. Quán được như thế gọi là Tịnh tâm, kệ rằng: Tất cả người đời muốn được vui Khiến tu nhân vui chẳng chịu làm Người ngu được vui bảo thường vui Chẳng biết chết rồi bị giảm tiêu Mười lăm dáng đẹp nói đáng yêu, Bốn mươi trở đi tự khô hao Nếu sinh lên trời tám muôn kiếp Chẳng khỏi vô thường lọt khe hang Phàm phu tạm vui quên khổ lớn Khi chịu khổ lớn lại quên vui Khổ vui phải chịu như hoa đốm Xưa nay chỉ là tình mê lầm Mê giải, ngộ đạo được thần thông Dứt hết sinh tử gọi vui thật. <詞>RĂN QUÁN NĂNG LỰC TÁM THỨ GIÓ NGƯỜI ĐẠI TRÍ CHẲNG ĐỘNG: Tám thứ ấy là: 1/Lợi; 2/ Suy; 3/ Hủy; 4/ Dự; 5/ Xưng; 6/ Cơ; 7/ Khổ; 8/ Lạc. Tất cả chúng sinh bị tám thứ này khuấy động, tâm chẳng yên, nên gọi là tám gió. Tướng động thế nào? Được lợi liền vui, suy não liền lo buồn, bị hủy nhục liền giận, khen nói liền vui, gặp khổ liền đau buồn, gặp vui liền buông lung, khen ngợi thì tình mừng, cơ thích (chê chọc) thì ôm hận. Tám pháp nầy khiến cho người si phàm xao động chẳng an. Hủy dụ (chê, khen) một tiếng thì vọng khởi hai nghiệp, tạo nhân ba đường, quả báo bốn đường, trôi giạt trong năm đường, thành tựu mười triền, mãi bị buộc ràng, lúc nào mới giải thoát. Nhưng mười giới thì duyên hòa hợp nên sinh, tánh không nên diệt. Hiểu rõ sinh diệt liền không ghen hờn. Gió hờn chẳng khởi thì lửa tội chẳng cháy. Lửa chẳng cháy thì tâm được mát mẻ, không có các nhiệt não. Vì không nhiệt nào nên gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Người ngu ham ăn ngon Ghét cứt đái trong bụng Thấy sinh thì ái nhiễm Xem nhẹ già bệnh chết Chê khen đồng tiếng vang Giận mừng lại cùng khởi Tâm chấp tướng cao thấp Chẳng biết lý bình đẳng Si hoặc chấp âm thanh Phàm phu cùng như thế Phân sinh tử cho ăn Văn kinh khiến so sánh Tai bị tiếng gạt lừa Thần tiên té núi chết Người trí hiểu chân không Thấy nghe chẳng giống nhau. <詞>RĂN QUÁN TƯỚNG KHỔ NÃO LẦM LỖI CỦA THÂN TÂM: Thân tướng, là sáu đường khác loại do ấm đại giả thành, giảm quả hiện tiền đáp nhân quá khứ, nên gọi là thân tướng. Thân tướng có tám mươi bốn ngàn các thứ hình. Hai báo y chánh đều khác nhau. Một người chịu khắp các thân, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp. Nay răn quán thân chỉ nói nhân đạo (loài người), một người có chịn muôn chín ngàn lỗ lông, tám vạn thứ gió ra vào trong ấy, tám vạn hộ trùng khắp thân đầy đủ, bốn trăm lẻ bốn bệnh lại cùng phát động, ba trăm sáu mươi gân xương nương gá vào nhau, một trăm mười khổ không lúc nào chẳng chịu, ba mươi sáu thứ bất tịnh máu mủ hợp thành ấm thân. Chín lỗ thường chảy ra chất dơ. Như trên khổ vui mới thành ở một người. Hiền Thánh xa lìa như trừ bệnh truyền nhiễm, nên gọi là quán thân. Tâm tướng, trong khoảng một niệm có chín mươi sát-na sinh, trụ, dị, diệt cũng như ánh điện chớp, trần hiện thức sinh, tham cảnh vời lấy quả báo. Kinh nói tâm tham dục có hai muôn một ngàn, tâm sân có hai muôn một ngàn, tâm ngu si có hai muôn một ngàn. Tâm đẳng phần có hai muôn một ngàn, hơp lại có tám mươi bốn ngàn trần lao, một trăm tám mươi thứ phiền não, năm trăm bốn mươi thứ thọ, chín mươi tám thứ sử. Nên gọi là quán tâm. Nếu vào pháp quán An-ban tâm sở tạm dứt, cho đến chín định thứ đệ lại qui về một chân tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh này gọi là Phật tánh, gọi là pháp thân chân thường, là tâm của vô tâm, tướng của vô tướng, quán sát như thế gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Bỏ duyên nhờ cảnh tịnh Chánh mạng tự nuôi thân Quán kỹ tâm hư không Tùy phần được giải thoát Nếu tham sân sắp khởi Quán không để dứt hết Hà sa gốc phiền não Định lực năng dứt trừ Chuyên định chẳng tu trí Tiểu thừa chẳng Đại tuệ Tuy lại khổ thân hành Uổng phí trải năm tháng Tu định tuệ bình đẳng Mới biết thể tánh Phật Thẳng đến Đại Niết-bàn Huống chi Đế thế gian.  TỊNH TÂM GIỚI QUÁN PHÁP <卷>QUYỂN HẠ RĂN QUÁN GIẢ THIỆN KHOE DANH, MIỆNG TRONG TÂM ĐỤC Thánh hiền mật hạnh thì trong trí ngoài ngu, phàm phu cuồng si thì trong ngu ngoài trí. Chưa có giới định mà hiện tướng giới định khoe bày tướng tốt để được lợi dưỡng. Che giấu lỗi lầm ngoài hiện bày thanh bạch, luôn hướng về đạo tục mà nói công đức mình. Kinh nói: Đó là tên cướp nguy hiểm không dao, phạm tội cướp giật, giả dối phạm trọng bị đọa ba đường ác. Người giả thiện có đủ năm nghiệp: Một là Thiên thần không che chở, chứng biết thiếu giới mà nhận của tín thí. Hai là năm ngàn quỉ lớn thường đứng che trước mặt nói là “tên cướp nguy hiểm” và quét hết dấu chân. Ba là hiện đời bị suy não lớn. Bốn là thường chẳng gặp Phật, sinh vào nhà tà kiến. Năm là dối mình, cũng dối người khác, tự chịu quả báo, thí chủ không được quả báo. Đó là năm nghiệp. Cho nên khuyên ông nên suy tốt ở người mà dẫn xấu về mình. Che giấu thiện đức tốt, dường như chẳng thể nói. Vì sao? Vì điều lành như vàng ngọc chẳng cho người khác biết, ác như cứt đái chẳng nên giấu giếm, pháp cứt đái quí ở sớm dẹp bỏ. Vật báu quí hiếm thì im lặng giữ kỹ. Tánh biết đủ chẳng cầu danh tốt, ít muốn vắng lặng đâu sợ tiếng ác. Người chấp ngã muốn được danh lợi. Xét thân vô ngã danh lợi ở yên, danh lợi đều không, lìa ngã tức thật, diệt ở không thật chánh vào Bồ-đề, bỏ được danh lợi, đó là Tịnh tâm. Kệ rằng: Xuất gia làm phi pháp Cảm với nhiều suy não Nguy khổ theo niệm khởi An vui khen tình ít Thiên thần chẳng thường giúp Việc ma luôn quấy nhiễu Khi chết tâm sợ sệt Nhiều kiếp đọa đường ác Đức tốt ngầm giấu sâu Cũng như báu ma-ni Lỗi ác đều dứt hết Lý đồng diệt mầm cỏ Chân hạnh chẳng cầu danh Trong giới định sáng tỏ Giả thiện, che giấu ác Trong Phật pháp chẳng tốt Quán kỹ văn khuyên nầy Hệ ý mở hoài bão Tất cả nhân chướng đạo Sám hối không làm nữa. <詞>RĂN QUÁN CHÚNG SANH ĐỀU MÊ ĐẮM HAI BÁO Y CHÁNH: Chúng sinh ba cõi mê đắm bền chắc là tham hai báo mà chướng ngại giải thoát. Trời Phi Phi tưởng tự gọi là Niết-bàn quả báo chung cực, có tâm tăng thượng mạn, chẳng sợ ba đường. Chúng sinh cõi Sắc tham đắm vị Thiền, tự nói An vui không gì hơn. Lại nghó, thân quang cung điện sáng chói thanh tịnh, quả của ta là hơn hết. Chúng sinh cõi Dục tánh thường buông lung, tham năm dục lạc, chẳng biết vô thường, phước thế gian hết rồi thì lại trở về đường ác. Bạc địa phàm phu thân hôi thúi cách lậu quả báo thấp hèn, khởi tâm kiêu mạn dữ dội, đều cậy vào ngã kiến, bảo trong người nầy thường, lạc, ngã, tịnh không còn gì hơn. Muôn loài chúng sinh ở tổ ở hang đều thích mạng sống mình, chẳng nguyện làm trời, người, chẳng chê thân mình, chẳng mong Tịnh độ. Thân tạp loại này, một thân chịu khắp cho đến rắn độc, các loại sau nhỏ đều yêu thích mạng sống và chỗ ở. Chẳng biết trong thân đồng có Phật tánh. Nhưng các thân nầy từ vô thỉ đến nay theo nghiệp thay đổi không ngừng. Ông nên quán kỹ mà sinh tâm nhàm lìa, siêng cầu phương tiện, thoát khỏi sinh tử, hai báo y chánh, dần chứng pháp thân nguy nga bất động. Đến được giác ngộ như thế thì dứt hết các nghi ngờ, quyết định thành tín, gọi là Tịnh tín. Kệ rằng: Trong ba cõi sáu đường Vô số các chúng sinh Hình, thọ đều khác nhau Y chánh cũng khó rõ Nay tu ở đường người Đối trị tùy phần làm Quán các loại chúng sinh Tâm yêu ghét bất bình Ghét thì muốn giết nhau Yêu thì mãi si mù Tham sân lại cùng khởi Chết rồi rơi ba đường, Đều tham ái quy mạng Chỗ hiểm chưa biết sợ Tạo nhân chẳng sợ quả Đâu biết chết lại sinh Vì cớ ấy Bồ-tát Muốn cho chúng sinh vui Chúng sinh phiền não cấu Phương tiện mà dứt bỏ Dạy quán mười tám không Sáu trần chớ mê đắm Bốn đảo và năm dục Cấm dứt lại chẳng làm Người ngu tham hiện vui Chẳng biết ác vị lai Vị lai lại là ta Vì sao lại xem thường, Dù cho nhiều thân vui Mỗi mỗi đầy khe hang Vì đây cầu thường trụ Thoát vô minh trói buộc. <詞>DẠY QUÁN PHIỀN NÃO KIẾT SỬ Tất cả nghiệp khổ sinh tử chướng đạo đều nhân kiết sử, như Tỳ- đàm chép: Nay lược huống lá nói, khiến dứt giác quán. Kiết có mười kiết, Sử chung ba cõi có chín mươi tám thứ. Nay sợ văn rườm rà nên lược nói một phần nhỏ. Kiết sử, tức là nhiễm phần. Hạt giống của tạng A-lại-da gọi là Kiết, chịu quả báo sáu đường gọi là Sử. Sử nghiệp phát sinh, tăng thêm hạt giống hữu lậu. Như giặc cướp ở chỗ hiểm mà nhóm họp phục kích đều gọi là Kiết. Cầm gậy cướp hại, giật của báu người, đều gọi là Sử. Tham sân tánh quen, nương chân ngầm phục, lại duyên khởi phát sinh, cướp bóc giới tài, chấp trước các trần làm hại Trí bảo. Sát-na tiếp tục truy tìm như sử, không đối gọi là kết, ngoại quán gọi là sử, dứt lự gọi là Kiết, phan duyên gọi là Sử, hệ niệm gọi là kiết, dịch tâm gọi là sử. Vì có kết sử nên ái nhuế cùng sinh. Do ái nhuế mà thành nghiệp lấy bỏ, vọng lấy bỏ nên si ám càng nặng, cho nên che chướng mắt tuệ. Tuệ nhãn chưa mở gọi là Vô minh ám, do che tối tâm nên tương ưng với điên đảo, ôm tánh chân thường thích khổ sinh tử, sinh tử trôi giạt mê mất chánh đạo. Chưa thấy chánh đạo gọi là mê hoặc. Không thường tưởng là thường, không vui tưởng là vui, không ngã thấy là ngã, không tịnh thấy là tịnh, lầm lạc như thế đều do kiết sử. Kiết sử như thế tạo nghiệp điên đảo. Muốn dứt kiết sử phải tu năm pháp quán dừng tâm để đối trị. An-ban Thủ Ý vào ba môn giải thoát. Quán không lìa tướng, kiết sử dứt trừ, thân tâm vắng lặng, cho nên chẳng khởi phiền não. Chỗ phiền não diệt, gọi là Chân giải thoát. Giải thoát tức là Đại Niết-bàn. Muốn khởi tâm nhiễm phải tự tỏa nhục, tỏa chẳng khiến tán danh gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Phật ở Ba-la-nại Ba chuyển hạnh chán lìa Trao cho pháp bốn đế Để trị bệnh phiền não Nhổ hẳn gốc sinh tử Thành tựu mạng trí tuệ Tu thiền đoạn kết sử Chiếu lý gương tâm treo Điều tâm chỉ mềm mại Trì giới phải càng chắc Giới tịnh chẳng hối hận Bồ-tát tâm vui mừng Phiền não sinh kiết sử Kiết sử nuôi phiền não Chỉ có sức thiền định Dẹp bỏ như cỏ mục Kiết sử vọng lấy bỏ Mù dầy che thấy đạo Nên tu năm quán dừng, Trong sáng tỏ tịnh tâm. <詞>DẠY QUÁN MƯỜI TÁM GIỚI, PHÁP DO DUYÊN SINH: Thế nào là mười tám giới? Thân có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Ngoài có sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong có sáu thức, ba thứ sáu phần giả hợp thành mười tám giới. Thế nào là căn có công năng sinh ra các nghiệp, nuôi lớn nhậm trì, nên gọi là Căn. Thế nào là trần, làm tịnh tâm, chạm thân thành cấu, nên gọi là Trần. Thế nào là thức? Biết rõ cảnh trước, dối khởi phân biệt, gọi là Thức. Nhưng căn trần này thiệp nhập lẫn nhau nên gọi là Nhập. Là giả duyên sinh khởi, không có chân tánh thật chúng sinh chẳng hiểu, cho rằng trong ngoài có nhập thường, lạc, ngã, tịnh. Tâm tham nóng bức chấp chặt lấy mê hoặc sai lầm, chẳng tin Thánh đạo, thuận tình thì sinh tham, trái ý thì khởi giận. Do đây, tham sân nuôi lớn kiết sử. Đó gọi là phàm phu lấy mười tám giới. Người học mười tám giới, mê đắm trước ba mươi hai tướng gọi là tham sắc, nguyện nghe nói pháp gọi là tham tiếng, nguyện dâng hương cúng dường gọi là tham hương, nguyện chứng giáo lý Đại thừa, thật tướng các pháp gọi là tham vị, nguyện được pháp thân thanh tịnh gọi là tham xúc, nguyện thành tựu trí Nhất thiết gọi là tham pháp. Đối với duyên tu nầy có thiện tham, sân, si. Tiến cầu địa trên gọi là Tham. Bối xả các hạnh kém gọi là Sân, tình có hướng bối, gọi là si, thấy thân chứng đạo gọi là Mạn, cho nên người học mười tám giới nghóa gọi là tri chướng, không có phiền não, chẳng phải không có phiền não. Biết được hai thứ căn trần mà hăng hái tu nhập vào pháp Bình Đẳng Đại Đại Vô Vi, nên gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Trần cảnh tuy như huyễn Thấy sắc khởi từ bi Phát ý lìa nịnh mạn Chẳng mất bốn oai nghi Sáu trần hạnh dơ bẩn Cũng là thầy hạnh giả Trừ bệnh chẳng trừ pháp Bảy giác phần tu trì Tuy quán văn tự không Cần phải đọc kinh khắp Rộng tìm nghóa Thánh giả Bát-nhã dần được thành Tuy quán căn trần không Hòa kỉnh hộ tình người Giới nghi phải đầy đủ Tu đức phòng tiếng xấu Tuy quán các hạnh không Đối trần tu năm dừng Tham si kết sử dứt Vắng lặng tâm an ổn Tuy quán ba cõi không Bỏ ác, thiện phải về. Tu hành chọn giác phần Lìa cấu biết đúng sai Tuy biết ba đế không Tuy đế nghóa cùng vi Thường nương hai đế nói Chẳng trái ngược với lý Mười tám cõi tuy vọng Sinh ra các châu báu Quán hiểu nghóa duyên hòa Chẳng sinh cũng chẳng già Đại Bồ-tát Thất địa Chẳng gọi không phiền não Tâm kim cương diệt rồi Mới chứng đạo Vô vi. <詞>DẠY QUÁN TU TẬP A-NA-BAN-NA GIẢ TƯỚNG QUÁN Phàm tọa thiền yếu pháp có mười thứ: Một là trước mượn chỗ vắng lặng xa lìa nước lửa cầm thú âm nhạc, cảnh giới tám nạn khiến tâm an ổn. Hai là bày nệm cỏ dày dưới bên trung cao, ba là chậm thay áo quần, ăn ít uống ít. Bốn là ngồi kiết già tay trái để trên tay phải, nhắm mắt ngậm miệng răng không cắn nhau, ngồi thẳng nhìn ngay. Năm là tuổi trẻ ăn no phải thường thở ra, tuổi già bụng đói phải thường thở vào. Sáu là phải quán thở ra cách mũi xa gần, vào đến chỗ nào liền biết khí sắc, trước thô sau tế, dưới xuống đến khí hải, trên xông lên đầu. Bảy là từ hơi thở thứ nhất đến hơi thở thứ mười, nếu chưa đến mười do tưởng duyên khác thì phải nhiếp tâm đếm lại từ một đến tám, trong bàn tay đặt một viên ngọc sáng, buộc niệm quán châu tâm tâm tiếp nối, ánh sáng liền hiện. Chín là như năm pháp quán dừng tâm đối trị năm thứ phiền não hiện hành, hễ khởi liều trị, tùy phần giải thoát phiền não chẳng làm khiến giới thanh tịnh, vì giới thanh tịnh cho nên các vị trời vui mừng, thiện thần che chở. Mười là vì tu định nên cử động xét đế, tâm chẳng thô bạo, khiêm nhường nhu hòa, nhẫn nhục không tranh cãi. Do đó, thêm lớn công đức trí tuệ. Khi chết thì Bồ-tát phương khác đến đón rước thần thức, chẳng gặp khổ hoạn. Các trời, người đời cùng khen ngợi, sinh về Tịnh độ thấy Phật, nghe pháp vô vi, lìa xa ba đường được vui giải thoát. Ngoài ra các pháp khác như kinh đã nói: Ông phải vâng làm thành gốc giới định, căn tánh xán lạn gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Phàm phu học đạo pháp Chỉ tâm mình tự biết Vội vàng đến đạo khác Người khác lại chê bai Quán kỹ năng Người trọng đức rất oai Xa đông gần chỗ vắng Ngồi thẳng chánh tư duy Chỉ tự quán thân hành Miệng chớ nói lỗi người Kết lưỡi ít luận bàn Im lặng tâm dịu dàng Không biết như mù điếc Trong trí ôm đồ thật Đầu-đà vui vắng lặng Đối tu lìa biếng lười. <詞>DẠY QUÁN THIỆN ÁC GIÚP NHAU: Thiện là thầy các điều ác. Ác lại giúp muôn điều thiện. Kinh chép: Chúng sinh năng độ Phật, Phật lại độ chúng sinh. Vì sao? Vì tất cả Chư Phật đều nhờ chúng sinh mà thành Phật đạo. Kinh chép: Cao nguyên đất bằng chẳng mọc hoa sen, chỉ trong bùn mới sinh hoa sen mà thôi. Lại, tất cả chúng sinh đều nhờ Phật mà được giải thoát, nói các ác tức là năm tội nghịch, mười điều ác, phạm bốn trọng cấm, tám trọng cấm, chê bai các Hiền Thánh, phá chánh pháp luân, nhất-xiển-đề, v.v… Bồ-tát ở đây đem làm ruộng phước. Vì sao? Vì đồng thể đại bi, ở ba đường bốn đường thay thế các chúng sinh mà chịu khổ nát thân, nói lời dịu dàng để dẫn dắt khiến sám hối. Từ tâm cứu giúp khiến cho được vui, rộng mở cam lộ nói pháp mầu nhiệm, phá nghiệp ác đó, khéo nói dạy dỗ khiến tin Thập Thiện sinh làm trời người. Lại khuyên hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Nhân công đức ấy mà đạo Bồ-tát thành, nên gọi là chúng sinh cũng năng độ Phật. Lại chân tánh trong thân do người mở mang. Nếu không có tín lực văn tư tu thì Chư Phật Bồ-tát dù có tâm từ bi cũng chẳng biết làm sao. Cho nên khuyên ông, hễ là chúng sinh tội ác thấp hèn chỉ nên khởi tâm thương xót chẳng nên giận ghét mắng chửi, sinh tâm hèn kém. Lại thấy người tốt thượng hạnh thanh tịnh chẳng nên riêng trọng mà thỉnh cúng dường. Vì sao? Vì thiện ác như một, tánh đều là không. Đối với hai sắc tốt xấu đều thấy bình đẳng. Thường quán vắng lặng mà vào ba môn giải thoát. Các loài hàm sinh đều như huyễn hóa, chẳng mê đắm các tướng gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Muốn được vui giải thoát Sợ mình thường thân khác Hành từ cứu khổ người Tự vượt sông sinh tử Nếu nghe ta và kia Liền là ma phân biệt Chúng sinh, thọ giả kiến Hiền Thánh cùng chê trách Pháp giới đồng như một, Chân vọng, nước và sóng Sóng kia tức là nước Nước kia tức là sóng Cửa thiện có nhiều đường Từ bi là rất gấp Cho nên Tát-đà luân Đời gọi Thường Đề khóc Vì thương xót chúng sinh Bỏ vui ôm sầu khổ Hộ sinh thành nhân Phật Tổn sinh ngăn Phật đạo Không tài thí nghèo khổ Phân cơm giảm thức ăn Nếu tu được lòng từ Mười sáu phần chẳng hợp. <詞>DẠY QUÁN NHÂN QUẢ THIỆN ÁC, CHÚNG SINH SÁU ĐƯỜNG: Tạo nhân cảm quả số như hà sa, nay nói lược thì có mười tám thứ: Một là nhân quả Thô, hai là nhân quả Tế, ba Nhân quả lớn, bốn là Nhân quả nhỏ, năm là Nhân quả nhẹ, sáu là nhân quả nặng, bảy là Nhân quả sáng, tám là Nhân quả tối, chín là Nhân quả thơm, mười là Nhân quả thúi, mười một là Nhân quả dài, mười hai là Nhân quả ngắn, mười ba là Nhân quả ngu, mười bốn là Nhân quả trí, mười lăm là Nhân quả phàm, mười sáu là Nhân quả Thánh, mười bảy là Nhân quả chân, mười tám là Nhân quả vọng. Trước nêu hiện quả, sau nêu nhân: 1/ Quả thô là địa ngục,súc sinh, ngạ quỉ v.v… 2/ Quả tế là thân bốn ấm cõi Vô sắc. Quả lớn là Phạm thiên cõi Sắc và Rồng lớn, chim cánh vàng, cá Ma-kiệt, v.v… ba do-tuần tiết cấp, cho đến tám muôn bốn ngàn do-tuần và thân địa ngục A-tỳ báo thiện ác khác nhau thuộc về quả lớn. Quả nhỏ dưới đến các loài máy động nhỏ như bụi nhỏ, chỉ động mà chẳng đi. Quả nhẹ là quả báo thân các vị trời nhẹ bay đi, các vị tiên năm thiền thông liên hệ Dạ-xoa quỉ thần, v.v… Quả nặng là như thân rắn lớn trong núi Thiết Vi, thú lớn, Rồng mù dưới biển lớn, thân nặng như núi. Quả sáng trong trời người thân có ánh sáng như mặt trời, mặt trăng, hỏa châu, v.v… Quả tối như trong tám địa ngục lớn chỉ nghe tiếng chịu khổ mà mắt chẳng thấy. Quả thơm như các vị trời ở trên trời các lỗ chân lông đều thoảng ra hương thơm, người nghe tâm vui, y báo chỗ ở cung điện đều thơm. Quả thúi là loài súc sinh ngạ quỉ bất tịnh, trong loài ngạ quỷ loài người, vật thúi không thể sánh. Quả dài là trời Phi phi tưởng sống lâu tám muôn kiếp. Quả ngắn là như các loài mối mọt sinh xong liền chết, chẳng tạm dừng. Quả ngu là các loài phàm phu, quỉ súc. Quả trí là bậc Đạo sư của chúng sinh. Quả phàm là trong trời người chưa phát đạo tâm. Quả Thánh là A-na-hàm trở xuống và trời người ở năm tầng trời tịnh cư. Quả chân là người học ba thừa chưa hết lậu, quả vọng là thân tâm bốn đại, năm ấm duyên tập. Đây chính là quả trong sáu đường. Nay thứ lớp nói về nhân. Nhân thô là bốn trọng, tám cấm, năm nghịch, mười ác, chê bai tất cả Hiền Thánh và chánh pháp, sử dụng tài vật của của Tam bảo, giết chúng sinh phát tâm Bồ-đề, phá tháp đốt chùa, v.v… Nhân tế là tu nghiệp thiền định, ngoại đạo tà mạng phạm hạnh v.v… Nhân lớn là tu nhân lành, bốn tâm vô lượng mà có nhân ác phá ba tụ tịnh giới. Nhân nhỏ là mới thoát khỏi địa ngục thì vào súc sinh. Nhân nhẹ là tịnh tu phạm hạnh, duyên nghiệp mười điều lành. Nhân năng là làm tổn hại Tam bảo, hạnh Nhất-xiển-đề. Nhân sáng là bố thí đèn đuốc chiếu sáng hình tượng Phật, đồng với mười điều lành. Nhân tối là phá hỏng mắt người, trộm đèn sáng của tháp, bôi đen kinh sách, phá người làm lành, làm dơ bẩn giới Phật. Nhân thơm là tạo hình tượng tháp miếu bằng gỗ chiên-đàn, nước thơm rửa tượng tắm gội Tăng, hương hoa cúng dường. Nhân thúi là chạm vào thức ăn sạch của tăng, ăn năm vị cay nồng vào chùa, nuôi dưỡng heo gà làm mười nghiệp ác. Nhân dài là tu giới bất sát và bốn không định, hai nghiệp tà chánh. Nhân gấp là sát sinh và các nghiệp khác v.v… Nhân ngu là không tin chánh pháp. Nhân trí là thọ trì kinh luật huân tu Bát-nhã. Nhân phàm là vô minh si ái, tham năm dục. Nhân Thánh là giới, định, tuệ. Nhân chân là bản tánh thanh tịnh. Nhân mù là các căn đối trần sinh thức. Luận nhân quả sáu đường chỉ có Phật biết hết. Nay nói ít phần để dứt trừ lưới nghi mà tin sâu nhân quả. Ông nên xét lường các thứ gốc lành, thâu nạp quả lành. Việc lành làm được đều hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, thành giải thoát phần thiện, chẳng lấy thiện hữu lậu của sáu đường. Như thế mà thanh tịnh, biết chắc nhân quả vô lậu, gọi là Tịnh tâm. Kệ chép: Đáng thương chúng sinh tội Rơi xuống hố không đáy Chẳng biết nghóa nhân quả Đi trong chốn mịt mờ Ôm chân chưa giác biết Có mắt cũng như mù Chân lạc không tâm đến Vọng sắc lại tranh nhau Nay vì dứt lưới nghi Lược bày nghiệp nhân quả Nếu quyết định tin được Gần ba tăng-kỳ kiếp Vì tin được nhân quả Thường nghe pháp Đại thừa Hay đến địa chủng tánh Tâm mạnh mẽ chớ sợ. <詞>DẠY QUÁN NGƯỜI TU KHÉO HỘ GIỚI TÀI, GIẶC TRẦN THÔI CƯỚP PHÁP: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu khổ sinh tử, quên mất chánh đạo, chướng ngại thường trụ, pháp thân thanh tịnh, chỉ nhân thức tâm tham lấy trần cảnh. Thí như nhà nghèo mà người trí dạy nghề, tùy dạy sửa nghề dần dần giàu sang. Có sáu giặc cướp đêm đến cầm gậy gõ cửa muốn hại. Chủ nhà liền đóng chặt cửa, tường cao hào sâu nên khỏi mất tiền mà thân an, không có các khổ não. Nghèo dụ cho thân xiển- đề không có một điều lành. Người trí dạy nghề dụ cho kinh luật Phật, dần có tiền của dụ cho tập tu phước trí, sáu giặc dụ cho sáu trần, đêm dụ cho vô minh, cướp dụ cho tham ái, cầm gậy gõ cửa dụ cho căn đối với trần, cửa khóa chặt dụ cho người tu đạo giữ chặt bốn niệm và năm pháp quán dừng tâm, tường cao dụ cho thiện tri thức và Tỳ-ni chánh pháp, hào sâu dụ cho thân tâm thệ lớn, chẳng phạm luật cấm. Khỏi bị cướp dụ cho hoàn toàn phạm hạnh, giới không thiếu vô lậu, Chư Phật vui mừng, Thánh hiền đồng khen. Thân an dụ cho sinh đường lành trời người, Tịnh độ và Đại Niết-bàn an ổn vui sướng. Tài bền chặt dụ cho trì giới giữ tâm, làm bất thối Bồ-đề, các Ba-la-mật thêm lớn chẳng mất, pháp dụ cho đều hiển các thầy nên biết: Tỳ-kheo phá giới đọa ba đường ác, chìm đắm trong biển khổ, đều do không có thiện tri thức phương tiện dẫn dắt. Lại chẳng tu tập bốn niệm xứ và năm pháp quán dừng tâm. Thầy nên y giới thuận lời dạy bảo này, thì giặc ma phiền não chẳng làm gì được. Cho nên giữ tâm ngăn cấm các căn môn, giặc trần huyễn hoặc chớ cho vào, buộc ý quán không, lìa ngã, ngã sở. Như thế mà tu hành gọi là Tịnh tâm, kệ chép: Sáu trần như giặc điên Tham trần thanh và sắc Vọng tình như ngựa dữ Thiền bền chắc cấm ngăn Muốn vào biển Phật pháp Bền tu đức giới định Phải trụ ba không môn Tâm tịnh vui vắng lặng. <詞>DẠY QUÁN PHÁP THẾ ĐẾ VÀ ĐỆ NHẤT NGHÓA ĐẾ: Thế đế là cậy nhờ dòng họ công khanh tước lộc, gặp hôn nhân văn võ kỹ nghệ, bia tích lăng mộ, tranh huân tranh phong, mê đắm danh suông, hoặc vì tài sắc chẳng tiếc thân mạng, thí thân làm ác mà giết hại nhau. Khen ngợi cung tên, cỡi ngựa ra trận, tự bảo là trượng phu mạnh mẽ. Hoặc cướp vợ đoạt chức, giết hại người, trái phép chịu lấy khổ độc phi lý, ăn nuốt sinh mạng, ham hố ca múa ngày đêm buông lung, chẳng nể thân sơ, ăn thịt nhậu nhẹt say loạn đánh chửi, giết hại tranh phải quấy, hoặc oán thù lờn, hoặc đuổi theo tài sắc chẳng nghó khó khăn, ăn mặc diêm dúa, ăn uống vô độ, yêu tiếc nuôi dưỡng thân máu mủ hôi thúi, chẳng biết sát-na niệm niệm sinh diệt, già bệnh đã đến rồi chết, sình chướng hôi thúi rã rời, cầm thú ăn nuốt. Thần quỉ chịu báo đoạ ba đường ác, trăm ngàn muôn kiếp không được thoát ra. Đó gọi là Thế đế. Đệ nhất nghóa đế là không tham các thứ trên, luống dối các việc, tùy thuận Bồ-đề, đến đạo vô vi. Chẳng đồng thế gian sinh tử ra vào đối đãi duyên tu. Chẳng phải sắc cho đến thức, chẳng phải cho đến ý, chẳng niệm công phu thấy nghe hiểu biết, chẳng phải danh cú vị (chẳng câu văn chữ nghóa), thanh tịnh bình đẳng cũng như hư không, vắng lặng bất động, ấy là Đệ nhất nghóa đế. Nay quán Thế đế như huyễn hóa, dua nịnh si phàm, không có thật tánh. Rốt ráo trong đạo chân thường mà làm giải thoát, nên gọi là Tịnh tâm, kệ chép: Thế pháp người cuồng si Bảo thật khởi tham sân Nếu biết chẳng tự tánh Tuệ tánh vào đồng chân Phàm phu trải sinh tử Do ái thủ các trần Nếu biết căn trần không Tánh vốn là pháp thân Tham ái gọi Thế đế Luân hồi mười hai duyên Trừ tham tức xuất thế, Câu này chính Phật nói Đệ nhất nghóa đế là Lìa tướng dứt âm thanh Chỗ nói bình đẳng là Giả gọi tên bình đẳng Mượn lời để biểu đế Nên nói trải tất cả Mới biết ấm pháp không Đối trị diệt thân tâm. <詞>DẠY QUÁN TÂM HÀNH CHO NGƯỜI XUẤT GIA MUỘN Người xuất gia muộn có mười thứ lỗi lầm: Một là Kiện Đấu, đời gọi là Kiệt-đẩu, tục khi đã thành tánh tâm ta tự tại, ý lấn hiếp đồ chúng, chẳng nhận lời quở trách; Hai là thích thấy lỗi người, tự nói là tinh thành, sự nghiệp làm ra chưa ắt hợp đạo. Lỗi biết lỗi, chưa hiểu nói hiểu, nói năng thường thêu dệt; Ba là thấy Sư tăng có lỗi khởi tâm ghét bỏ, thiêu mất công đức ba đường ác; Bốn là khinh mạn người khác tự bảo là trượng phu, thân tâm ngang bướng chẳng theo chiết phục; Năm là hành động vụt chạc, oai nghi không nghiêm trang, lớn tiếng cười to không kiêng sợ; bảy là tâm tưởng tán loạn, thường nhớ việc tục thêm lớn phiền não chẳng thể đúng như pháp mà đối trị; Tám là cười người phá giới, tự cho mình thanh tịnh, chấp trước tướng mạo, chẳng hiểu chân lý, chuyên ngu chấp kiến tranh luận giành hơn, chưa đủ năm đức đã nuôi chứa Sa-di, chỉ ham chúng phục dịch, chẳng để tâm dạy dỗ; Chín là chẳng nhiếp các căn, thân tâm biếng lười, buông lung ngủ nghỉ, chẳng nghó tướng sáng, đêm nhiều ác mộng, các vị trời, chẳng hộ trì; Mười là mới vào Phật pháp chẳng thấm đạo vị, lo nghó nghi ngờ, toan nghó hoàn tục, khinh bạc Tam bảo, lại ôm hối hận. Đã hoàn tục rồi thì ghét người xuất gia, khinh tiện hành giả, thành nghiệp xiển-đề. Mười lỗi lầm này là chánh nhân của địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Ông nên tỉnh giác xét biết, gọi là Tịnh tâm. Kệ rằng: Sức tục khí còn mạnh Ba độc rất dữ dằn Tuổi già mới vào đạo Còn giữ tánh thời xưa Chẳng mở đem hộ người Vội vàng ép là chánh Tự bảo rất tinh luyện Bảy chi chưa ắt tịnh Ồn ào theo giảng luận Chẳng chịu tu giới định Đã nói mười thứ lỗi Nếu phạm phải dứt trừ Thân không một đức hạnh Độ hai, ba Sa-di Có lỗi chẳng chịu quở Phạm tội cũng chẳng phạt Phá trai phạm tăng trước Ô giới tiếng xấu đồn Trời người dần hiếm hoi Ba đường càng tăng mạnh Chỉ dạy pháp làm phước Không pháp để người theo Tự thân như con nít Huống điều phục (ngang bướng) Ở đông ưa đấu tranh Thường nghó việc sân hận Bốn chúng chẳng cung kính Quyến thuộc đâu kính khen. - Hai mươi lăm thiên trước nói về Từ Nhẫn đối trị các nghiệp cấu phiền não mà thanh tịnh thân tâm thầy. Tâm đã thanh tịnh rồi thì gọi là hạnh tự lợi. Nay lại vì ông lược nói hạnh lợi tha Đại thừa. Ông nên theo đạo Bồ-tát mà tự tha đều lợi thì gọi là Tịnh tâm. Tự trừ cấu nhiễm thì gọi là chân Tịnh tâm, tự lợi lợi tha gọi là Tịnh tâm rộng lớn. Kệ rằng: Như chim muốn bay không Dưỡng sức, nuôi lông cánh Bồ-tát muốn lợi tha Nuôi đức trước lợi mình Ba tuệ tùy rõ ràng Song nên trao người trí Tịnh tâm lập công đức Kia đây đều đối trị. <詞>DẠY ĐỐI PHÁT TÂM BỒ ĐỀ: Phát đạo tâm như giọt nước gởi trong biển, tuy là rất nhỏ nhưng nước không hề mất. Kinh nói: Một khoảng khắc khởi tâm Đại thừa, sẽ thành Phật đạo. Vì sao? Vì nếu khi tu đạo một trăm mười khổ thì phải kham nhẫn. Nghóa là các thứ đói khát lạnh nóng ruồi muỗi rận rệp mưa dữ gió bão bốn trăm lẻ bốn bệnh, quở mắng, làm nhục, chê bai, nước lửa, trộm cướp, độc trùng, thú dữ, đánh đập, xâm phạm các việc khó nhẫn, thì đều cam chịu mà không thấy các khổ. Thân ta nhẫn được tu hành sáu độ, tu ba không môn. Vì nhân duyên cho đến thành quả Phật. Kinh nói: Cõi nước nầy tu đạo một ngày hơn phương khác một kiếp. Vì sao? Vì trong đây có nhiều não hại mà nhẫn được thì rất ít. Tuy nhẫn các khổ mà công đức dễ lớn. Ở Tịnh độ không não nên Phật đạo khó thành. Ở trong Phật pháp nếu muốn phối tâm phải nhớ quá khứ trải qua vô lượng kiếp ở trong địa ngục chịu lửa dữ đốt nát thân mà không trốn chạy. Khổ trong loài người trăm ngàn muôn ức cũng không bằng khổ ấy trong nháy mắt. Nếu chẳng bền chặt siêng thực hành các độ thì làm sao hết được khổ lớn sinh tử. Người tội ba đường còn cứu được nếu chẳng thể cứu thì sao gọi là từ bi. Đã không có từ bi thì Bồ-đề phần nương vào đâu làm gốc. Nếu không có cội gốc thì xa lìa bản tánh. Cho nên Bồ-tát nguyện hết đời sau chẳng phá giới Bồ-tát. Hàng Thanh văn chịu giới suốt đời, thầy nên khéo biết hai giới khác nhau. Bồ-tát chẳng nhiễm ba cõi, mà chẳng chán ba cõi, cầu đạo vô vi mà chẳng trụ vô vi, thường ở trong sinh tử mà không sinh tử. Vì sao chẳng nhiễm ba cõi? Vì phiền não đã hết, vì nghiệp chẳng trói cột, chẳng chán ba cõi vì thương xót chúng sinh, vì đại từ bi, vì cầu đạo vô vi, vì muốn lợi mình người, vì thuận theo Đại thừa. Vì sao chẳng trụ vô vi? Vì nhiếp chánh pháp, vì nhiếp chúng sinh. Vì sao thường ở sinh tử? Vì lợi đồng sự, vì bổn nguyện vô tận mà chẳng phải hạt giống nghiệp sinh tử hết, vì được tự tại hoàn toàn, vào biển giải thoát. Do đó chẳng ở đây kia, chẳng đắm giữa dòng, lìa ở giữa và bên mà tâm không trụ biên đạo. Vì sao? Vì chẳng giữ tự tánh pháp nên như thế. Thường quán bốn Đế, mười hai nhân duyên, nhóm khổ sinh tử, khởi bốn thệ nguyện rộng lớn, lập chí Đại trượng phu, thường dùng bốn nhiếp lợi ích chúng sinh, thường tu bốn tâm vô lượng, oán thân bình đẳng, thường thực hành sáu độ, lợi ích tự tha, thường tu muôn đức cầu Vô thượng Bồ-đề, vì thành mười lực vô úy Bất cộng pháp. Nay chỉ lược khuyên, nói rộng sợ văn rườm rà. Hay y đây mà răn dè, gọi là Tịnh tâm rộng lớn. Kệ rằng: Nếu phát tâm Bồ-đề Đông niệm khởi từ bi Cầu ở đạo vô vi Thân thường ở hữu vi Bốn nhiếp điều chúng sinh Sau mới thọ ba qui Thí như chỗ tối dữ Mặt trời phát ánh sáng Tự chưa thoát các khổ Trước phải cứu gian nguy Vô duyên tu bốn đẳng Lợi ích và trừ suy Gặp một trăm mười khổ Cam chịu không hề giận Cũng chẳng thấy tướng khổ Lại chẳng thấy thân ta Thân khổ hai đều không Nhẫn pháp cũng như thế Các khổ và Nhân pháp Ba tướng diệt theo chân Bồ-tát chẳng trụ đạo Tùy theo hạnh lợi ích Thường ở trong ba cõi Cứu giúp chúng sinh khổ Mê đạo khiến thấy đạo Vô minh khiến được sáng Tay tuệ cầm bài vàng Vạch màng, trị đám mù Diệt thì chẳng diệt hẳn, Sinh thì chẳng thường sinh sinh diệt đều rốt không Phàm Thánh xưa bình đẳng Nguyện từ nay về sau Bèn thành chủ pháp giới Chẳng khởi một dục tâm Tham nhiễm mọi người nữ Nguyện từ nay về sau Cho đến thành Phật đạo Đối tất cả chúng sinh Chẳng chê bai, sân não Nguyện từ nay về sau Cho đến chứng chân như, Chẳng khởi tâm điên đảo Chấp trước đối sáu trần Nguyện từ nay về sau Cho đến bờ vô vi Chẳng khởi tâm phan duyên Nghó các ác giác quán Nay phát tâm Bồ-đề Đời đời vượt tám nạn Thệ rộng đã hẹn rồi Đạo tâm không lui tan. <詞>DẠY QUÁN GIÁO HÓA CHÚNG SANH: Đã phát đạo tâm phải tu muôn đức. Tông chỉ cương yếu chẳng ngoài hai thứ: Một là tự lợi, hai là lợi tha. Hạnh tự lợi đã lược nói rồi, hạnh lợi tha nay cũng nói sơ, là trước phải rủ lòng từ bi nghó ba cõi khổ, lại ở loài người mà giáo hóa làm lợi ích chúng sinh, nói năng dịu dàng, khiến họ điều thuận, biết tin nhân quả, quy y Tam bảo, suy lường căn tánh lợi độn mà rộng hẹp dạy trao từng bậc, chánh pháp các thừa: Nhân thừa, Thiên thừa, quả báo ba cõi, tuy là kham thọ hóa đạo hữu lậu, từ trời người mà dẫn vào cảnh ba thừa vô lậu. Hoặc có chúng sinh ngã mạn buông lung tham sân hừng hẫy, chẳng kính Tam bảo, chê bai bác không nhân quả. Nhất Định biết nghiệp nầy sẽ đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Liền dùng phương tiện khéo léo khiến tâm vui ý vui, sau mới dạy dỗ chỉ bày đạo trời người, dạy tu mười điều lành, năm giới, sáu trai, cho lìa ba đường, được quả trời người. Nếu bị mắng chửi đánh đập, ném gạch đá hủy nhục khinh ghét thì đều nhịn được, chẳng sinh lui sụt. Người ấy biết mình hồi tâm hổ thẹn chịu sự giáo hóa. Hoặc lại xuất gia cầu đạo Vô thượng. Người học Nhị thừa, vì nói bốn đế, mười hai nhân duyên, khiến sinh chán hối, biết lỗi hữu vi. Bốn đế là khổ, tập, diệt, đạo gọi là bốn đế, hiểu biết như thật gọi là Đế. Khổ là quả, Tập là nhân. Vì sao trước quả sau nhân? Vì khổ có ba thứ: Khổ khổ, hoại khổ, hai thứ thô ác này chúng sinh mắt thấy nghiệm biết mà sinh chán sợ. Còn môn hành khổ thì người trí hiểu biết. Ba khổ này ở khắp mười phương, nên trước nói khổ khổ từ tập sinh, dạy dứt nhân tập là mười điều ác căn bản và mười thiện hữu lậu. Diệt là sinh tử dứt hẳn, chứng vui giải thoát. Như thế diệt độ vì sao có được. Cho nên phải tu đạo. Đạo là giới, định, tuệ, v.v… từ năm pháp quán dừng tâm khởi lên, cho đến ba mươi bảy phẩm, sáu Ba-la-mật. Cho nên biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo, mười hai nhân duyên, tâm đen tối không biết như người mù đi đêm ở chỗ hoang vắng bị lạc đường, nên gọi là Vô minh. Tham nhiễm pháp thế gian gọi là hành, luống dối tri kiến gọi là Thức, thức thần vào thai đến chỗ thọ sinh, hợp với bất tịnh gọi là Danh sắc. Hiện ấm thành căn thông thức tới lui gọi là sáu nhập. Căn trần đối nhau gọi là xúc. Xúc sinh ra trái thuận mà thương giận thành nên gọi là Thọ. Đối với việc thuận tình thì tâm nhiễm móng lên nên gọi là Ái. Ái (yêu thương) chẳng bỏ nên gọi là Thủ (giữ lấy). Lấy rồi thuộc thân thành nghiệp hữu lậu nên gọi là hữu. Hữu nghiệp đã định thì cảm lấy quả báo đời sau nên gọi là Sinh. Sinh mạng chẳng dừng trụ nên gọi là già chết. Già chết lại sinh, đến cuối rồi trở lại đầu. Ngàn muôn ức kiếp bỏ thân, thọ thân, nên gọi là luân hồi mười hai nhân duyên. Kế dạy mười điều lành đối trị mười điều ác. Ở cõi nhân gian chết yểu là do dư báo sát sinh, muốn được sống lâu thì từ tâm không giết vật. Ở nhân gian nhiều bệnh là do hai dư báo ăn uống máu thịt và đánh đập vật khác. Muốn được mạnh khỏe thì bỏ ăn uống máu thịt và không đánh đập (hành hạ kẻ khác). Ở nhân gian nghèo hèn là do dư báo trộm cắ, muốn được giàu sang phải ra sức bố thí, dứt trừ tham tiếc. Ở nhân gian hèn hạ là do dư báo kiêu mạn, muốn được tôn trọng, phải cung kính. Ở nhân gian xấu xí là do dư báo giận dữ, muốn được đẹp đẽ thì phải nhẫn nhục. Ở nhân gian ngu mê là do dư báo uống rượu, muốn được trí sáng phải đọc tụng kinh điển Đại thừa. Ở nhân gian tham là do dư báo quỉ súc, muốn được phạm hạnh thì thường quán lỗi của dục, cấm dứt dâm dật. Ở nhân gian tánh dữ là do dư báo rồng rằn, muốn được điều nhu hòa nhan (dáng hiền lành) thì phải lìa tâm tranh giành, nếu có hối hận thì phải tự quở trách. Ở nhân gian tà kiến là do dư báo chê bai chánh pháp, muốn được chánh pháp thì phải gần giữ thiện tri thức. Mười thứ này là chánh hạnh đối trị. Vì sao nói dư báo mà không nói chánh báo. Dư là hiện thấy tức có thể khởi nhàm chán. Địa ngục, ngạ quỉ chẳng hiện thấy cho nên sợ nghi chẳng tin. Một đường súc sinh ở trước mắt, thật thấy chánh báo, người ngu nói do trời sinh để ăn, nghi không phải là nghiệp. Mười nghiệp này nhân gian ác nặng, dạy người chưa tin khiến tâm hiểu rõ, sợ đọa ba đường mà mất hẳn thân người. Ấy vì trước dạy khiến sinh lên cõi trời hưởng các điều vui sướng. Nếu Phật ra đời sẽ trước độ các vị trời, còn người thấp kém nghe Đại thừa thật tướng lý không thì tâm rất kinh hãi, ngất xỉu, hoặc khởi tâm chê bai. Cho nên Chư Phật trước dạy người chưa hiểu mà giúp phàm vào Thánh, thí như có hầm sâu trăm ngàn trượng, dưới có cứt đái, các trùng máu mủ, lạnh nóng đói khát, đánh đập trói buộc, chém chặt giết chóc, buồn đau khóc lóc, khổ não hôi thúi đầy dẫy trong đó. Có chúng sinh ngu, mê đắm hầm này cho là vui sướng. Người trí từ bi chẳng tránh hiểm trở vào hầm mà dạy bảo khiến thoát ra, ngàn muôn ức lời chẳng chịu nghe theo. Chẳng nói ngoài hầm còn có chỗ tốt, người ấy chỉ nói hầm này là pháp thường trụ (chỗ nên ở lâu). Bấy giờ, người trí suy nghó trong hầm đầy dơ uế khổ não khó ở, ta phải độ hết rồi mới thoát ra. Nên trong hằng sa kiếp đồng ở trong hầm chẳng nề cực khổ. Người trong hầm giận hờn lại sinh chê bai. Các thứ dạy bảo đều không có tâm thoát ra. Hầm dụ cho ba cõi, kẻ ở dưới dụ cho phàm phu, các khổ bất tịnh dụ cho thân năm ấm. Người trí dụ cho Phật, dạy dụ cho từ bi, thương chúng sinh khó cứu dụ cho trời người dưới hầm. Trở về trước bốn đế, mười hai nhân duyên gọi là Nhị thừa, phá tướng sáu Ba-la- mật duyên tu mười địa gọi là Đại thừa. Như thế Đại phẩm Hoa Nghiêm đã rộng phân biệt. Lại mất Đạo đế và mười tám không, nhập vào lý bình đẳng, biển không nghó bàn, lìa các hình danh ấy là Phật thừa. Như kinh Tư-ích, Duy-ma Tín Lực Nhập Ấn, Thủ-lăng-nghiêm, v.v… trụ ở lý chân không dứt nói dứt làm. Như ngàn muôn sông rạch khi chảy ra biển thì mất hết sắc tướng cũ. Đạo đế duyên tu phương tiện tịnh pháp cũng giống như thế. Ông nên tu tập Vô duyên từ bi, tùy khả năng mà khuyến hóa, khuyên mình khuyên người đối với thân mạng tài sản mà làm Đại thừa, nên chẳng sinh luyến tiếc. Vì một chúng sinh trải nhiều năm tháng lập nhiều phương tiện, nói nhiều Phật pháp khiến cho hiểu rõ, bỏ khổ sinh tử mà được vui tự tại. Vì nhiều chúng sinh cũng giống như thế. Đó gọi là lợi tha giáo hóa chúng sinh. Tuy có lợi ích này, chớ sinh một niệm tâm sáu tướng. Thí như người huyễn vì huyễn nói pháp. Nếu thấy ta nói kia nhận ta dạy thì có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả tức là tâm ma, tâm sinh tử, tâm chướng ngại, tâm tự buộc ràng. Ông chỉ nên phát khởi tâm Bồ- tát chớ sinh sợ sệt, thí như trăm sợi tơ dọc mới có một sợi ngang tuy chưa thành xấp vải mà đều dệt đan nhau. Được đầu mối tức là bắt đầu khởi làm, dần dần nhiều công lao sẽ thành xấp vải. Lợi tha sáu độ vì dứt não cho người khác, tự thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, định tuệ, v.v… cũng giống như thế. Trước tự hành đạo, sau mới dạy người, thì người liền tin phục. Tự mình tạo việc ác lại dạy người làm lành mà họ liền tin theo thì không có việc đó. Hoặc miệng siêng nói mười hai bộ kinh, phương tiện khéo léo các thứ thí dụ khiến người tin hiểu. Hoặc dùng thân mà khuyên, tự mình tu muôn đức, tất cả nghiệp lành khiến người khác tu tập theo. Hoặc dùng ý mà khuyên, nghó nhớ giáo đạo làm các chương cú dễ hiểu mà bố thí cho chúng sinh khiến đọc tụng mà khởi tín hiểu đúng thì gọi là lợi tha. Nói pháp giải thích năm thừa tự thành biện tài là tịnh khẩu nghiệp. Khéo hiện oai nghi, cung kính lễ bái cúng dường Tam bảo. Siêng khổ lợi tha, tự thành tướng tốt là tịnh thân nghiệp. Nếu nghó chúng sinh mê lầm chịu khổ, nghó muốn cứu giúp là tịnh ý nghiệp. Lợi tha khiến chúng sinh tịnh tín lại giúp thân mình thành ba nghiệp chân chánh. Nói biết lợi tha còn là tự lợi, tuy là lợi tha mà luôn tự lợi ích mình. Nhưng người thọ hóa (được dạy) đều được thấm nhuần. Nếu dạy trăm ngàn vô số chúng sinh thì trí tuệ càng thêm, dần thành bốn biện tài. Chẳng giống như tài thí thí, ra thì tốn hao. Còn khi nói pháp thì chẳng nghó tài thực. Cho nên, Đức Thế tôn nói pháp không hề nói trước mà sau thọ nhận cúng dường. Công đức giáo hóa cao hơn núi Tu-di, sâu hơn biển lớn. Vì nhân lợi tha mà thành quả Phật, hãy học như thế gọi là Tịnh tâm rộng lớn. Kệ rằng: Nếu thấy ngu si nặng Chớ nói pháp sâu xa. Người nghe sinh chê bai Chịu khổ trăm ngàn kiếp Đời trước không tập khí Nên nghe pháp nghi sợ Ngã kiến chấp đoạn thường Chưa tin nghiệp ba đời Xét căn trao thuốc pháp Gọi là người đại trí Tâm tà không chánh kiến, Nghe pháp lại nổi giận Như tầm nhả kén tơ Tội nghiệp tự buộc ràng Vì chẳng chịu nghe pháp Thường bị lưới ái buộc Tất cả môn chân như Khéo dùng phương tiện khởi Hễ muốn dạy chúng sinh Ái ngữ khiến vui vẻ Bồ-tát Đồng thể Bi Xem người khác như mình Nhu hòa khéo giúp hộ Như sữa hòa với nước Có lúc phải nói nhiều Có lúc phải làm thinh Biết thời gọi Pháp sư Thấy mặt biết căn lực Nếu chẳng xét cơ tánh Chẳng gọi có trí đức Mịt mờ ở trong tâm Chỗ làm thành phép tắc Khi dùng lời dịu dàng Lúc lại nói điều dữ dằn, Căn mềm, lời mềm Phục dữ, hiện oai mãnh Các thứ điều chúng sinh Đối trị các thứ cảnh Phương tiện khéo như thế Chỉ có Bồ-tát làm Hễ muốn dạy dỗ người Từ vui chớ khiến giận Xúc tình khởi độc tâm Liền tạo nhân địa ngục Người không nghe phi pháp Trao giới khiến sinh người Lại khỏi khổ ba đường Dần dẫn về chánh chân Vì nói pháp Tứ đế Dạy rõ mười hai nhân Khiến biết khổ sinh tử Đến thẳng cửa Niết-bàn Người có tánh đại dục Nhập lý vì bàn luận Phá tướng mười tám không Trong thân không Thế tôn Năm thừa dần phân hóa Nhổ hẳn gốc vô minh Đó là nghóa lợi tha Thuận giáo báo ân Phật. <詞>DẠY QUÁN PHẬT TÁNH CHẲNG PHẢI MỘT CHẲNG PHẢI HAI, CHẲNG PHẢI CÓ CHẲNG PHẢI KHÔNG, Ở TRONG TRUNG ĐẠO MÀ CHẲNG VƯỚNG MẮC TRUNG. Đã phát đạo tâm lại lợi tự tha, phải biết chúng sinh đồng có Phật tánh. Lược nói mười thứ, có nói rộng ở các kinh: Một là sinh tử phiền não từ chân tánh khởi lên. Dụ như nước vốn yên tịnh, nhân gió thổi mà sinh sóng động, sau nhân lạnh dữ mà kết thành băng. Phật tánh chúng sinh như nước vốn thanh tịnh, do gió giác quán mà có sóng sinh tử tham ái bền chắc thành băng phiền não. Muốn hiển bày Phật tánh thì lửa tuệ làm chảy băng thiền định dứt sóng. Băng chảy nước sóng dừng nước liền thanh tịnh mà hiện bóng Phật tánh; Hai là như vàng ở trong quặng dơ bẩn lẫn lộn, nấu chảy vàng rồi mới hiện ra báu, nhất định không nghi ngờ. Phật tánh của chúng sinh ở trong quặng phiền não, lửa giới định tuệ luyện ra chân tánh pháp giới cao nhất không gì sánh; Ba là như trâu chưa sinh ra sữa còn lộn máu, duyên thành mới dừng, chưng nấu thành đề hồ sáng sạch, tùy bình đựng mà đổi mầu không giữ được tự tánh. Phật tánh của chúng sinh lìa phiền não như sữa có lộn máu, nhờ duyên tu trị dần đến quả Phật, phát khởi thần thông tùy chúng sinh biến đổi, đồng loại cứu khổ chẳng giữ tự tánh; Bốn là dụ như một người đi ngàn muôn dặm ngủ đêm nhiều nhà, tuy có nhiều nhưng người chỉ là một. Nhà dụ cho năm ấm, người dụ cho Phật tánh. Phật tánh của chúng sinh trải qua năm đường, mỗi ấm tuy khác nhưng Phật tánh chỉ là một, người khác nhà khác nên nói chẳng phải một. Người thường là một người, nên nói chẳng phải hai. Băng tuyết chưa tan thì nước chẳng có, băng tan rồi thì tức là nước, nên nói chẳng phải không. Đạo lý Phật tánh chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải có, chẳng phải không; Năm là bốn đế, mười hai nhân duyên, bốn đẳng, sáu độ thuộc ba mươi bảy phẩm Đạo Đế, gọi là Phật tánh; Sáu là bốn pháp gần gũi gọi là Phật tánh: Một là gần gũi thiện tri thức, hai là gần gũi chánh pháp, ba là thân cận tịnh tư, bốn là gần gũi đúng như lời dạy mà tu. Lìa bốn pháp này mà được thanh Phật thì không có việc đó; Bảy là Phật tánh chẳng phải một bên mà là Trung đạo. Năm ấm của chúng sinh gá vào Phật tánh mà khởi, nên gọi chẳng phải đoạn, sinh diệt như huyễn nên gọi chẳng phải thường. Người nương năm ấm bèn được tu đạo, ấm nhờ thần giữ nên mới còn; Tám là lìa chân vọng gọi là Phật tánh, lập chân để nói về vọng, đối vọng để nêu bày chân. Nếu diệt vọng thì pháp chân gọi là chẳng sinh. Phật tánh thanh tịnh, trí chẳng thể biết, thức chẳng thể biết; Chính là pháp năng thuyết được hiển bày ở không nói, không của không nói cũng chẳng thể chấp, nên gọi là Phật tánh; Mười là không bình vắng lặng và có loạn cùng đi. Thể lìa hình danh mà thường hiển bày danh sắc. Ấy là mười tánh trí vô ngại cùng si phàm như một. Như giải thoát chân thật vốn từ phàm khởi. Tuy có dụ này nhưng nghóa Phật tánh chỉ có Phật mới biết. Lược nói mười thứ, rộng sợ văn rườm rà. Ông hãy quán biết gọi là tịnh tâm chân thật. Kệ rằng: Tất cả các chúng sinh Bình đẳng có Phật tánh Phật tánh lẫn phiền não Trần nhiễm chưa thanh tịnh Giới định trừ khách trần Thì lìa đường sinh tử Tánh ẩn gọi sinh tử Tánh hiển gọi Hiền Thánh Năm ấm tuy trôi lăn Phật tánh xưa nay định Người muốn biết Phật tánh Gắng sức tu tám chánh. Mới phát đạo tâm chạy tìm đạo Tâm tà thấy cong chưa ngay thẳng Giang Nam, Giang Bắc cầu Bồ-đề Bồ-đề cùng làm chẳng biết nhau Ngoài thân tìm hỏi đã mệt nhọc Một chỗ tịnh tư mau thôi dứt Bỗng nhiên tỉnh ngộ biết ít phần Mới biết Bồ-đề dấu trong thân Hiểu phiền não tánh không như huyễn Chưa chết chẳng lâu tự cùng cực Niết-bàn sinh tử đồng như một, Đạo lý chẳng hai cũng chẳng tức Nếu hiểu rõ được pháp căn trần Nuôi lớn cánh vô ngại thần thông Quán sát năm ấm nhờ duyên sinh Tự tánh xưa nay trùm mười phương. <詞>DẠY QUÁN TRÍ RUỘNG PHƯỚC KHÁC NHAU: Đã khởi đại tâm tu lợi tự tha gồm quán Phật tánh, đây là tướng nhân. Kế phải quán quả. Quả là trí Phật. Kinh nói: Trí của chúng sinh đầy khắp Đại thiên không bằng trí của một vị Tu-đà-hoàn. Trí của cả thế giới Tu-đà-hoàn không bằng trí của một vị Tư-đà-hàm, trì của cả thế giới Tư-đà-hàm không bằng trì của một vị A-na-hàm, trí của cả thế giới A-na-hàm không bằng trí của một vị A-la-hán. Trí của cả thế giới A-la-hán không bằng trí của một Bích-chi-phật. Trí của thế giới Bích- chi-phật đầy khắp mười phương không bằng trí của một vị Bồ-tát chủng tánh, như thế từng cấp bậc, chẳng bằng trí của Bồ-tát Thập Địa. Trí của khắp Bồ-tát Thập Địa không bằng trí một niệm của Như lai. Cho nên trí tuệ của Thế tôn như biển lớn, hằng sa Đại só đều cùng nghó lường cũng không thể biết được một bước chân của Như lai. Cho nên phải một lòng tinh tấn cầu trí tuệ Phật. Nếu đem ăn uống y phục, ngọa cụ, thuốc men mà thí cho chúng sinh phàm phu khắp một thế giới thì chẳng bằng bố thí cho một vị Tu-đà-hoàn, bố thí cho một thế giới Tu-đà-hoàn cũng không bằng bố thí cho một vị Tư-đà-hàm. Cho đến cứ tính cao hơn, cứ tính cho một vị Bích-chi-phật chẳng bằng cúng dường cho một Bồ-tát chủng tánh, cho đến chẳng bằng bậc Thánh Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tư, Ngũ, Lục, Thất, Bát, Cửu, Thập địa. Bố thí cho ba Hiền mười Thánh nầy đầy đủ trong một kiếp không bằng quả báo cúng dường Như lai một bữa ăn. Vì sao? Vì Như lai có trí tuệ rộng lớn, tiêu hóa được các cúng dường cung kính của các trời người, vì trí tuệ nhiều thì tiêu hóa được nhiều cúng dường. Người không có trí tuệ thì lá nước, trên đất còn không tiêu được, huống chi người ăn. Ông phải hiểu rõ bổn ý dạy khuyên, tu tập tịnh giới chớ để cho thiếu phạm. Vì tịnh giới dễ được thiền định. Định tâm thanh tịnh thì phát sinh trí tuệ, phước đức đầy đủ thành năm phần pháp thân trí Nhất thiết chủng. Các trí lực Chư Phật nay lại nói lược. Các thế giới mười phương có những trận mưa hạt rất nhỏ trải qua nhiều năm tháng chỉ trong một nháy mắt liền biết rõ số hạt mưa, đều biết được lượng nước sông biển ở mười phương c đều biết được sức nặng ác núi Thiết Vi, Tu-di, Đại địa ở mười phương, các cõi nước trong pháp giới nhiều như số cát bụi hoặc tâm hành của tất cả chúng sinh khắp cõi hư không đều biết rõ thiện ác. Đều biết mỗi chúng sinh kiếp nào sẽ thành Phật. Núi biển, trời đất, mặt trời, mặt trăng mười phương, đặt trong bàn tay mà đi khắp thế giới, Đế-thích Phạm vương chẳng biết chỗ tới lui. Mười phương nước lửa hút vào miệng nhưng nước không dập tắt lửa, lửa không làm phỏng miệng. Nếu muốn nói đủ thì chẳng thể hết được. Thần lực như thế từ năm pháp quán dừng tâm sinh, từ ba mươi bảy phẩm sinh, từ bốn tâm Vô lượng sinh, từ sáu Ba-la-mật sinh, từ mười địa Đại thừa sinh, đó gọi là trí lực thần lực của Chư Phật, từ trừ bò tài sắc quán năm pháp quán dừng tâm mà sinh, nhân khởi các hạnh thứ lớp đến nay mà thành Phật. Tức là ở đây dạy tướng nói trước sau. Bồ-tát biệt hạnh thứ bậc trước sau, như kinh Hoa Nghiêm chép: Ông nên phát khởi hạt giống từ bi mà gieo trồng trong ruộng chúng sinh, hạt giống cung kính đặt trong ruộng Tam bảo, mầm phước trí sinh, trở thành cây Phật, che mát pháp giới mười phương nở hoa kết trái vô lượng. Từ khi mới phát đạo tâm cho đến rốt ráo, công dụng trong khoảng ấy đều gọi trí chướng, đến Địa Như lai hai chướng dứt hẳn. Lại nhìn sinh tử như huyễn như mộng vốn không chân thật. Người ngu mê lầm, chỉ có Phật là Chánh giác, nên gọi là biết khắp. Nay ông phải nên lấy biển trí của Như lai mạnh mẽ tu nhập vào, gọi là tịnh tâm Quyết định. Kệ chép: Người trong cõi Đại thiên Tự nói căn tánh lợi Đều nhóm hợp suy lường Chẳng bằng người tín hạnh Người tịnh hạnh một cõi cùng nghị luận ra lẽ Thời gian dài xét lường Chẳng bằng Tu-đà-hoàn Tu-đà-hoàn một cõi Nghị luận và tuyên nói Kiến giải và tuệ lực Không bằng Tư-đà-hàm Cứ thế Bích-chi-phật, Cứ thế người mười địa Cứ thế trí khác nhau. Chẳng bằng thần Như lai Bố thí các bậc Thánh Quả báo cứ thế lớn, Bố thí Thánh mười địa Cũng chẳng bằng ruộng Phật Cho nên thầy nên biết Trí Phật rất cùng tột, Ruộng phước khó nghó lường Người tin gọi Tịnh tâm. <詞>DẠY QUÁN NỘI HẠNH MẬT TU, HẾT LÒNG DẶN DÒ HỘ TRÌ: Nói về từ nhẫn cha mẹ bảy đời, Sư tăng nhiều kiếp, nghóa sâu ân nặng, người ngu chẳng biết. Ông mới vào đạo mà lại giã biệt thầy, sớm tối nghó nhớ ông, ông có nhớ ta chăng. Nếu ông ấy y chỉ được người tốt ngày đêm làm đúng. Nếu không có người giỏi thì tâm gởi vào đâu. Ông đã xuất gia thọ giới của Như lai, chỉ khoảng mất ý thì chịu khổ nhiều kiếp. Nay thời mạt pháp tâm chúng sinh bạc bẽo, vong ân bội nghóa, dễ nhàm chán Sư tăng, ưa thích ở riêng, hoặc dạo chơi thỏa tình tự tại. Sợ chẳng như pháp mà đọa đường ác, vì không ai kềm giữ dạy khuyên, nên soạn ra những lời này lược nêu chuyện gần mà nói việc người. Còn các bộ pho khác mọi người cùng biết, ở kinh luận đạo nầy ông phải tự có, Đại thừa yếu nghóa nêu ra đều đồng. Lại muốn hiển bày thì sợ pho quyển quá nhiều, ngay như việc rửa tâm ông cũng hơn ngàn câu. Ông nên như khát được nước, tùy uống chớ ngậm, chỗ vắng mở đọc, ở đây sợ người thấy. Vì ý ta ông chưa thể biết, dẫu khiến người đời cũng chẳng hiểu rõ. Chỉ người có thiên nhãn mới chứng biết lòng ta, ông nên vâng làm, chẳng hề dối lầm. Vì sao tranh tìm chẳng để người xem? Chỉ có bậc Thánh cùng bậc Thánh, chúng sinh chia theo từng loài, ngu trí khác loại mới dùng loại tụ. Thời nay người học, ý kiến khác nhau cùng theo phải quấy, chê người khen mình, phá người khoe mình, tà quái cười nói, lời không gấp thì tranh nhau bàn bạc, lời thiết yếu thì khinh rẽ chẳng đoái hoài. Muốn biết rộng mà chẳng rộng làm, mong một mình trội nhất giữa đám đông. Ham tiếng khen hảo huyền, thông minh dứt tiếng quên mất thân tâm, ham hố danh lợi ba đường sẽ đến, không thể tránh khỏi. Kinh nói: Ví như một ngày khều mắt ngàn người, ngày ngày (nhiều mặt trời) thiêu nhiều ngươi. Người này thật làm tội nặng ở trước lấy đây che chở chỉ ông tự biết. Chẳng phải trong khuyên dạy có nhiều lỗi lầm. Ở đời có lời vặn hỏi, lời cùng theo, lời phá hoại người, lời thêu dệt, lời vượt lý, lời cổn, lời phiên, lời điệp, lời mê người, lời não loạn, lời sai muộn. Nay thì kẻ hậu sinh chuyên học lời này. Người hiểu trước dối kẻ chưa hiểu, quen thói nói suông, đâu liên quan gì với tu đạo, nhọc miệng khổ thần, tâm không thấm nhuần, phiền não lại thêm, ngã ta càng lớn, một đời siêng năng khổ nhọc, tốn công mà không có phước. Ý ở danh lợi chưa hiểu tịnh tâm, mượn danh được lợi, làm sao tiêu được. Như lửa dữ khó chịu khó gần. Lại còn lời đúng pháp, lời dễ hiểu, lời thân tâm, lời giới luật, lời thiết yếu, lời lìa tội, lời trị chướng đạo, lời nhập vào lý, lời thành tựu., v.v… Nếu thấy các lời như thế liền vỗ tay cười lớn, mắt chẳng muốn nhìn, huống là vâng giữ thọ trì. Ông phải tìm kỹ từng chữ xét lường, trong một chữ có vô lượng nghóa. Nếu xem ngay thì chốc lát liền khắp, y lời dạy mà thực hành. Một đời chẳng thấu suốt, quí ở làm nhanh, chẳng ở rơi nhanh. Tay cầm mắt xem, đến phải nhỏ lệ nghó là khó gặp như thấy được Thế tôn. Vì sao? Vì giảng nói khuyên phát thuận theo Thánh đạo, vì dạy ông tịnh tâm đến Bồ-đề. Phàm kinh luận dạy nghóa có hai thứ: Một là thuận lý, Như lai Bí tạng, không bình đẳng, mất tướng nhập vào chân, xung huyền mất cảnh, Bổ xứ chẳng biết, Nhị thừa chẳng hiểu. Đó gọi là thuận lý; Hai là văn nghóa dễ hiểu, khi đọa thì trơn nhanh, hoặc làm kệ tụng hay đẹp thích ý, gọi là thuận tình tướng dục, giống cạn do đây mà vào sâu, bỏ kiến đều là phải, lập kiến đều là quấy. Thí như biển lớn, mới vào thì nước ngập chân, dần dần đến chỗ không bờ không đáy. Như trẻ con bảy ngày chưa ăn tiệc được, quê mùa chân lấm tay bùn làm sao lược ngồi kiệu ngồi xe. Chưa ăn được mà ăn thì nghẹn cổ, chưa ngồi xe mà ngồi thì người trí chê trách. Chỉ có biển lớn Phật pháp không trí chớ vào, đài báu cao ngàn nhận không bậc chớ lên. Mới vào cửa đạo, chưa tu giới định tuệ mà vượt học Không Tông thì Phật chẳng vui. Ỷ công trạng ở đời, kẻ tầm thường vội cầm quốc ấn, vua nếu thấy thì sẽ phạt nặng. Phải từ năm pháp quán dừng tâm dứt phiền não mà chứng quả Thánh. Nay lời dạy này vốn không trau chuốt, thương ông tình thâm chỉ việc mà dạy khuyên. Lại hận thầy đội mũ mà ngu ở dạy dỗ, cho nên dùng lời thiết yếu để nhập tâm như đối trước mặt mà nói để giúp ông đạo hạnh, tự biết mình rồi thì dạy cho kẻ đồng học và những người trí khác. Còn Ta thì bệnh nặng, đêm ngủ chẳng yên, may gặp ông ngay đây ân cần dặn dò chỉ dạy như giới tịnh tâm này. <篇>  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 166