<經 id="n1859">TRIỆU LUẬN SỚ (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TRIỆU LUẬN SỚ Tác giả: Thích Nguyên Khang <卷>QUYỂN THƯỢNG Bài tựa Triệu Luận do pháp sư Đề Đạt chùa Tiểu Chiêu Đề soạn. Theo toàn tác phẩm ấy thì văn gồm hai phần: phần trước là bài tựa, sau là phần chính của luận, nay nói về lời tựa của Triệu Luận. Thời Vua Diêu Hưng đời Hậu Tần, pháp sư Tăng Triệu người Trường An đã soạn bài Tông Bản nghóa “và các luận như Vật Bất Thiên v.v…”. Theo tên người để đặt tên tác phẩm, nên gọi là Triệu Luận, thuật lại ý của pháp sư Tăng Triệu trong việc soạn luận ấy, nên gọi là lời tựa. Sách Nhó Nhã chép: “Bức tường nơi hướng Đông, Tây gọi là Tự.” Quách Tượng chú thích: “Sở dó gọi tự là để phân biệt trong ngoài”. Nay pháp sư Tuệ Đạt trình bày về ý nghóa của luận, chỉ ra quá trình hình thành của tác phẩm ấy, cũng như bức tường nơi Đông Tây làm rõ khoảng không gian của nhà cửa, nên gọi là lời tựa. Còn về ngôi chùa Tiểu Chiêu Đề của pháp sư Đề Đạt thì ở đất Nhuận Châu, huyện Giang Ninh, ngày trước là quận Đơn Dương. Bắt đầu từ triều Đông Ngô, kế đến là các triều đại Lưu Tống, Tề, Lương, Trần trở đi, Phật giáo hưng thịnh, chùa chiền, tịnh xá được xây dựng khắp chốn, tên gọi như xen lẫn vào nhau, cứ như thế mà đặt. Tức như chùa Trang Nghiêm thì có Đại Trang Nghiêm, Diệu Trang Nghiêm; chùa Chiêu-đề thì có Đại Chiêu-đề, Tiểu Chiêu-đề. Chùa Đại Chiêu- đề được xây dựng vào đời Lương, chùa Tiểu Chiêu-đề được xây dựng vào đời Tấn, pháp sư Tuệ Đạt là người đời Trần, là Tăng só của chùa Tiểu Chiêu-đề. Vào đời Trần, chẳng phải chỉ có một người tên Đạt, nên phải nói tên chùa kèm theo để phân biệt. Có bản nghi là “Tiểu Chiêu đề soạn”. Soạn là tập hợp, biên soạn, chẳng phải là sáng tác. Ở đây nên gọi sáng tác, chẳng nên gọi là biên soạn. Nói là Tiểu Chiêu-đề. Chẳng nói tới tên, là do sự kính trọng các vị Pháp sư ở vùng Giang Tả, nên không gọi tên hiệu, chỉ nói tên chùa thôi. Nhưng vị Pháp sư này, chưa rành lắm về văn thể, nên trong bài tựa của luận do mình viết, hay dùng những tiếng thông thường, chính là để nói bày điểm quan trọng trong luận, chẳng phải không rõ thứ lớp, quý ở chỗ nhã ý, như sau đây sẻ giải thích, hy vọng được người đọc thông cảm, may mắn không bị chê trách. - Từ Câu: “Tuệ Đạt suất ngu” trở xuống: Theo lời tựa thì có thể chia thành hai đoạn: đoạn trước nói về nguyên do khiến mình viết, đoạn sau chính là trình bày tông chỉ của Triệu Luận. Văn trong đoạn trước được chia làm sáu đoạn nhỏ: 1/ Nói tên gọi của luận. 2/ Khen ngợi người và pháp. 3/ Nói về sự vui mừng, may mắn được gặp gỡ. 4/ Bác bỏ những trường hợp chê trách, nghi ngờ. 5/ Nói về tình cảnh gốc. 6/ Nói về ý nghóa lời tựa. Trước nói về chữ suất. Sách Nhó Nhã giải thích: “Suất là gắng sức”. Tuệ Đạt là tên người viết lời tựa. Trường An là tên đất. Nhà Tần đóng đô ở Hàm Dương. Nhà Hán dời đô đến Trường An, Trường An là tên gọi một khu vực đời Tần, tức lấy gốc mà gọi là huyện Trường An Pháp sư Thích Tăng Triệu: Pháp sư Huệ Hạo, chùa Gia Tường, người ở đất Cối kê, đời Lương, biên soạn sách “Cao Tăng Truyện”, chép: “Thích tăng Triệu người ở đất kinh Triêu, nhà nghèo, sinh sống bằng nghề chép thuê sách, nhân dịp ấy nên được xem khắp các thứ kinh sử, cùng các loại sách vở khác, rất ưa thích lý huyền vi, thường lấy lời Lão Trang làm điều tâm đắc, hay đọc sách Đạo Đức, kinh của Lão Tử, than rằng: “hay thì hay thật, nhưng còn trụ nơi hư vô, chưa đạt được rốt ráo.” Về sau, xem kinh Duy-ma, vô cùng vui mừng, kính tin thọ trì, cho rằng “nay mới được chỗ quay về!” Do đó phát tâm xuất gia học đạo, lãnh hội nghóa mầu của các kinh Phương Đẳng, thông hiểu cả ba tạng kinh điển, lúc này tuổi vừa đôi mươi mà danh tiếng đã vang khắp chốn. Sức học và khả năng biện giải đối đáp của Ngài đều khiến cho các thức giả xa gần thời bấy giờ phải nể phục. Sau đó, Pháp sư La-thập đến Cô Tang, Tăng Triệu từ xa cũng tìm tới ra mắt. Pháp sư La-thập hết mực khen ngợi. Đến khi La-thập đến Trường An, Tăng Triệu cũng theo về. Vua Hậu Tần là Diêu Hưng vốn kính mến Phật, thỉnh các vị như Tăng Triệu, Tăng Duệ, v.v… vào “Vườn Tiêu Dao” để xem đọc, xét định các kinh luận. Tăng Triệu cho là do cách bậc Thánh quá lâu xa, nên danh nghóa trong các kinh luận có sự lẫn lộn, lầm lạc, các bản chú giải từ trước có nhiều chỗ sai, nhầm lẫn, nên mới tìm gặp Pháp sư La-thập để tham vấn, lãnh hội, chỗ tỏ ngộ càng tăng thêm. Do đó viết các bài “Tông bản nghóa” “Vật Bất Thiên”, “Bất chân không”, “Bát-nhã Vô Trỉ”. Xong rồi đem trình lên Pháp sư La-thập. Pháp sư đọc, cho là rất có giá trị, bèn nói với Tăng Triệu: “Kiến giải của tôi không hơn gì ông, lời thỉnh cầu của ông, theo tôi, chúng ta nên cùng giúp đỡ cho nhau!”. Bấy giờ Lưu Di Dân ở Lô Sơn, xem mấy bài luận của Tăng Triệu, khen ngợi cho là một hiện tượng kỳ lạ trong giới tăng só học Phật, do đó mới trình lên Đại Sư Tuệ Viễn. Đại sư Tuệ Viễn xem qua rất đỗi ngạc nhiên, vỗ ghế nói: “thật chưa từng có!” Thế là càng nghiền ngẫm, thưởng thức, lại có thư từ qua lại trao đổi. Sau ngày Pháp sư Cưu-ma-la-thập qua đời, Tăng Triệu luôn thương tiếc, càng thương nhớ thì càng trong sự học hỏi, gắng sức viết “Niết-bàn vô Danh luận”, trình lên Vua Diêu Hưng. Vua đáp lẽ ân cần, càng thêm khen ngợi về kiến giải sâu sắc ấy, liền ra lệnh cho chép lại bài luận đó để ban phát cho các con cháu trong Hoàng tộc. Đại thể, đương thời Tăng Triệu được trọng vọng như vậy, vào năm Nghóa Hy thứ mười đời Tấn (4 14), Tăng Triệu mất ở Trường An, thọ ba mươi mốt tuổi. Từ Câu: “Đãn mạt pháp hoằng kinh Duẫn chúc Tứ Y Bồ-tát” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ hai khen ngợi người và pháp. Người là pháp sư Tăng Triệu, pháp là bài luận được viết ra. Duẩn là tin tưởng. Về chữ Chúc này thì có hai âm, hai nghóa. Ở đây chọn âm thứ nhất là Chúc. Hai nghóa: thì chọn nghóa một. Sách Nhó Nhã chép: “Chúc là sự gắn bó, làm sáng rõ, cũng có thể chung cho nghóa sau. Phẩm tứ y trong kinh Niết-bàn nói về “Bồ-tát tứ y” xuất hiện ở đời là để hộ trì chánh pháp!” nhận thức đầy đủ về tự tánh của phiền não, vâng giữ giới luật, đó là hạng “Bồ-tát Tứ y”thứ nhất. người đã đạt được đạo Tu-đà-hoàn. Tư-đà-hàm là hạng thứ hai. Người chứng đắc quả A-na-hàm, A-la-hán là hạng thứ ba và thứ tư. Nói nơi xứ Thiên- trúc, làm việc mở mang kinh giáo, xứng danh là bậc “Bồ-tát Tứ y”, chính là những vị truyền thừa từ các vị Bồ-tát Mã Minh, Long Thọ. Câu: “Truyền bá ở cõi này cũng là trường hợp ấy”: Viên là ở đây. Sách Nhó Nhã chép: “Duyên là biến đổi, thay đổi, ức là căn cứ, dựa vào. Tức người của xứ này làm việc mở rộng chánh pháp, chính là các vị Đại sư: Đạo An, Tuệ Viễn, Đạo Sinh, Tăng Triệu. Câu: “chí như di thiên Đại đức đồng thọ tang môn.” Sách Cao Tăng truyện chép: “Ngài Thích Đạo An, một lần danh só Tập Tạc xỉ tìm đến yến kiến, vừa ngồi bèn tự nói: (bậc Đại dức có chí nguyện cao xa) “Tứ hải Tập Tạc xỉ” đạo an ứng theo lời ấy liền đáp. “Di Thiên Thích Đạo An”. Người đương thời do lời đáp ấy mà gọi thành tên. Nay nói “Di Thiên Đại Đức” tức chỉ cho Đại sư Đạo An, cũng sách Cao Tăng Truyện ghi: “Pháp sư La Thập vốn có tên là Cưu-ma-la Kỳ-bà, Trung Hoa dịch là đồng thọ. Do có tài lãnh hội, lý giải về nhiều thứ văn tự nên gọi là La-thập.” Nay nói đồng Thọ (người tuổi còn nhỏ mà đã có những đức tính của bậc trưởng thượng) tức là Pháp sư La-thập. Tang môn: người làm công việc dịch thuật kinh điển thời xưa gọi là Tang môn, gần đây gọi là Sa-môn, đều là những cách dịch âm khác nhau tư tiếng Phạm, Hán dịch ý là “Tịnh chí” (Tâm ý Tịch Tónh). Câu: “Tịnh sáng thủy mạng tông đồ biện cách trí”: sáng là mở đầu, mạng là sai bảo. Tông là tôn quý, đồ là đo tính; cách là suy lường; trí là đạt được lý. Như pháp sư Đạo An lập nghóa, lấy “Tánh không” làm tông chỉ, soạn “Luận Tánh không”, Pháp sư La-thập lập nghóa, dùng “Thật Tướng” làm tông chỉ, soạn “Luận Thật Tướng”, đó gọi là nhằm nói rõ tông chỉ, suy xét, biện luận để đạt tới chỗ sâu xa của diệu lý. Câu: “Bá dương tuyên thuật, sở sự huyền hư”. Bá là truyền bá khắp nơi. Giáo pháp Phật được giảng nói, truyền bá vào lúc này, chỉ lấy nẻo “Hư vô huyền diệu” của đạo gia làm chính. Câu: “Duy tư nghó Thánh mặc chi sở tổ”: Kinh Tư-ích nói: “Này các vị Tỳ-kheo! Những khi hội hợp đông dảo thì nên làm hai việc: hoặc giảng nói giáo pháp như bậc Thánh, hoặc im lặng như bậc Thánh”. Nay nói như vậy là nhằm nói chỉ có hai vị Pháp sư là Đạo An, và La-thập, với những bài luận đã viết, chính là mẫu mực, khuôn phép, là bậc tổ tông trong việc thể hiện đúng tính chất im lặng của bậc Thánh giác ngộ. Từ Câu: “Tự hàng hồ dó hoàn” trở xuống: phải nói là “Hàng tư dó hoàn”, mà viết là “Hàng Hồ” thì chẳng đúng theo văn thể. Câu: “Phàm trước Nhã Tăng truyện” tức là nổi tiếng, nức tiếng ở chỗ được lưu truyền trong sử sách. Câu: “Chí năng biện chánh phương ngôn tiết văn giai cấp”: nghóa là có khả năng phân biệt về ngôn ngữ, phong tục của từng địa phương. Suy tính căn nhắc về từng đoạn từng phần của văn kinh theo đứng thứ lớp. Câu: “Thiện hạch danh giáo tinh sưu nghóa lý”: hạch là giảng giải để đạt tới sự thật, sưu là chỉ dẫn việc tìm tòi, nghóa là có khả năng nghiêm cứu, khảo xét về sự đồng khác của các giáo pháp nổi tiếng, tìm kiếm sự sai, đúng của những nghóa lý. Câu: “Ấp thử quần hiền ngữ chi sở thống” ấp là nói rõ sự cung kính, suy kính hàng tiền nhân vì bậc Thánh giác ngộ mà giảng nói chánh pháp, tạo được sự gồm thâu thống nhất. Câu: “Hữu mỹ nhược nhân siêu ngữ kiêm mặc” phần thơ của Mao Truyện chép: “Có một cô gai mặt mày xinh đẹp, may mắn được gặp gỡ, thật hợp với sở nguyện của ta!” sách luận ngữ có câu: “Như người ấy đúng là bậc quân tử!” nay hợp hai lời ấy thành một câu, mà nói “siêu ngữ kiêm mặc” tức là siêu vượt cả ngôn ngữ và sự im lặng, ở đây dùng chữ “siêu”, nghóa là đối với hai vị pháp sư Đạo An và La-thập trước đó chỉ đạt được lý mầu mà văn từ thì còn có chỗ chưa đầy đủ. Đại sư Tăng Duệ. Tạ Linh Vận thì chỉ đạt được một phần văn từ, mà về lý mầu thì còn thiếu sót, nay thì Pháp sư Tăng Triệu, cả văn từ và lý mầu đều hoàn bị, nên gọi là “siêu vượt”. Chẳng phải cho là Pháp sư Tăng Triệu, về văn thì hơn đại sư Tăng Duệ, Tạ Linh Vận; về diệu lý thì hơn hai pháp sư La Thập và Đạo An. Vì sao? Vì văn luận có chép: “Tánh không là thật tướng các pháp, thấy rõ thật tướng các pháp, nên gọi là chánh quán, nếu không thực hành như vậy thì đó là tà quán.” Pháp sư Đạo An soạn “không Luận Tánh”, Pháp sư La-thập nói “Luận Thật tướng”, đều là sự nghiên cứu tận cùng về tông chỉ huyền vi, làm sao có thể hơn được? Pháp sư Tăng Duệ soạn lời tựa cho bản dịch luận Đại Trí Độ, cho rằng: “Muôn loài gốc ở nơi sự sinh mà sinh khởi, mà sự sinh khởi không dưới ấy là vô sinh. Sự biến hóa từ chỗ mở đầu của sự vật, mà cái khởi đầu của ban đầu ấy là không có đầu (Vô thỉ). Thế thì vô sinh, vô thỉ là tánh của vật. Sinh khởi bắt đầu chẳng làm động ở tánh mà muôn vật nói bày rõ ra ngoài. Phát khởi lầm lỗi nhỏ đối với bên trong thì đó chính là suy nghó tà vạy. Giác ngộ chân chính về Hữu nhờ thấy rõ sự tư duy tà vạy tự dấy khởi, nên kinh A-hàm vì thế mà được nói giảng. Nhận biết sự vướng mắc về Hữu do mê lầm, nên Bát-nhã do đó mà soi chiếu. Song gốc được soi chiếu vốn vượt quá mọi sự thấy nghe, bờ bến thì mênh mông, lý mầu thì siêu vượt mọi thứ ngôn ngữ, văn tự, dứt hẳn mọi cảnh giới của suy nghó. Dùng ngôn từ để tìm cầu thì trái với chỗ sâu mầu, dùng trí óc để suy lường thì mất đi yếu chỉ. Nhị thừa do đó mà nghiêng ngửa, khốn đốn với bo1ạng kinh điển. Người mới học cũng do đó mà lận đận, vất vả trên bước đường tu tập, há chẳng phải như thế sao!” Tạ Linh Vận thì văn chương nức tiếng vượt ngoài khuôn khổ xưa nay. Như kinh đại Niết-bàn diễn đạt sự tỏ ngộ bước đầu về “Mặt mũi xưa nay” của mình vốn viết: “Tay nắm chặt”, chân giẫm bước để đạt đến bờ giác ngộ giải thoát.” Tạ công đã sửa lại: “Chân tay cùng khởi động, cắt đứt hẳn dòng chảy mà vượt quá”. Lại như thơ có câu: “Mây trắng phủ kín hòn đá vắng vẻ, bóng cây trúc biếc làm tăng vẻ đẹp những gợn sóng lăn tăn.” Hoặc: “Mây và mặt trời cùng soi chiếu rực rỡ, bầu trời và mặt nước cùng lặng trong.” Ở đây thật khó có ai hơn được! Vì Pháp sư Tăng Triệu gồm đủ cả văn từ và lý mầu, nên gọi là vượt hơn. Có người cho rằng: “Ngôn ngữ của Pháp sư Tăng Triệu hơn hẳn Tăng Duệ và Tạ Linh Vận, nên gọi là “ngôn ngữ siêu vượt”. Về tính chất im lặng thì giống như Pháp sư Đạo An và La-thập, cũng có thể thấy rõ. Câu: “Tiêu bản tắc cú cú thâm đạt Phật tâm; minh mạt tắc ngôn ngôn bị thông chúng giáo”: (Nói về gốc thì câu câu thấu đạt sâu xa về tâm Phật, biện minh về ngọn thì lời lời thông hợp đầy đủ mọi giáo pháp) Bàn Luận Bản, tức bài “Tông Bản Nghóa”, Mạt (cuối) tức chỉ cho bài viết Câu: “Lượng thị Đại thừa ý điển, phương đẳng bát thư”: Lượng là tin tưởng. Sách Tiểu Nhã nói: ý nghóa là sâu mầu, tức chỉ cho luận ấy là loại sách với nội dung bàn về những vấn đề sâu xa, rộng lớn. Câu: “Tự cổ tự kim trước văn trước bút”. Ở đây nên nói: “Tự cổ cập kim” (Từ xưa đến nay), chẳng nên viết “Tự kim”. Nhưng viết như thế là nhằm để đối với vế dưới “trước văn trước bút”. Người viết văn sử dụng âm vận là văn, không có âm vận là bút. Nhưng Lưu Hiệp trong sách “Văn Tâm Điêu Long” chẳng phải đã nói như vậy. Khổng Tử nói: “Văn Vương đã mất rồi thì văn chẳng còn ở nơi ấy! Có thể có âm vận chăng? Chắc chắn là chẳng đúng. Câu: “Tường thái danh hiền sở tác chư luận”: đó là nói về Chi Pháp Tường. Bàn về Thật tướng Luận” có hai nhà. Một là Pháp sư La-thập, nay không còn truyền lại. Hai là Chi Pháp Tường hỏi, Thích Tuệ Nghi đáp. Như thế thì Pháp sư Tuệ Nghi viết chứ chẳng phải Chi Pháp Tường. Câu: “Hoặc lục gia thất tông viên diên thập nhị”. Bản ở Giang Nam đều chép là “Lục tông thất tông”. Nay tìm trong “Ký truyện” thì đúng là “Sáu nhà bảy tông”. Đời Lương, Đại sư Thích Bảo Xướng soạn “Luận Tục Pháp” gồm một trăm sáu mươi quyển, cho rằng: đời Lưu Tống, Đại Sư Thích Đàm Tế chùa trang nghiêm soạn “Luận Lục Gia Thất Tông”, luận có sáu nhà chia thành bảy tông: 1/ Tông Bản Vô. 2/ Tông Bản Vô Dị. 3/ Tông Tức Sắc. 4/ Tông Thức Hàm. 5/ Tông Huyễn Hóa. 6/ Tông Tâm Vô. 7/ Tông Duyên Hội. Gốc có sáu nhà, nhà thứ nhất chia làm hai tông nên thành bảy tông, nói về mười hai thì văn của “Luận Tục pháp” chép: “Sau đó, đại sư Thích Tăng Cảnh chùa Định Lâm soạn “Luận Thật Tướng Lục Gia”, trước nói việc khách hỏi về tính chất “Nhất thể của hai đế”, tiếp theo thì dẫn lời giải đáp của sáu nhà: Nhà thứ nhất: Cho rằng lý thật vô, hữu vi là không, phàm phu cho rằng hữu vi là có, không là chân đế, Hữu là Tục đế. Nhà thứ hai: Cho tánh của sắc là không làm không, Thể của sắc là có, là Hữu. Nhà thứ Ba: Lấy sự “không Tâm” lìa mọi duyên là không, duyên hòa hợp có tâm là Hữu. Nhà thứ tư: Lấy tâm từ duyên sinh là không, lìa mọi duyên có Thể của tâm riêng là Hữu. Nhà thứ năm: Lấy chỗ chấp của tà kiến về tâm không là không, còn tâm được sinh khởi từ nhân duyên là Hữu. Nhà thứ sáu: Lấy vật của đối tượng được nương dựa nơi các sắc thực chất không là không, còn sự giả danh trong tính chất lưu truyền khắp ở đời là Hữu. Trước có sáu nhà, sau có sáu nhà, hợp lại là mười hai nhà, nên gọi là “Viên diên thập nhị” (nối dài thành ra mười hai) Câu: “Tịnh phán kỳ tang phủ, biện kỳ sai đương”. Tang phủ, sai đương tức là phi. Trong sự luận bàn của sáu nhà trước, phê phán nhà thứ tư là tốt (Tang) năm nhà còn lại là xấu (phủ). Còn sáu nhà sau thì nói năm nhà trước là sai, một nhà sau cùng là đúng. Câu: “Duy thử hiến chương vô tệ tư cữu”: hiến là nói về pháp luật. Mười hai nhà kể trên đều có cái tệ của sự đúng sai, còn nay, trong tác phẩm của Pháp sư Tăng Triệu không có cái “Tệ” ấy, chỉ là đúng mà không có sai lầm. Câu: “Lương do khâm tình phiến nhược, bất tri hà hệ”: Lương là tin thật, khâm là hung khâm (tư tưởng, tấm lòng), tình là tánh phiếm là không còn bị lệ thuộc, vướng mắc, nhược là chẳng chấp vào nghóa. Sách chu Dịch (Quẻ Thuần Ly) nói: “Nước mắt chảy ròng ròng”. Ngòi nước thì chẳng tính toán hoặc nhờ cậy. Do chẳng có nghóa riêng biệt chẳng chấp vào nghóa. Câu:“Thất bỉ uyên hải số việt cữu lưu”. Uyên hải (biển sâu) là chỉ cho sự rộng lớn, vượt quá số lượng của chín dòng (cửu lưu). Pháp sư Tăng Triệu mang một hoài bão rộng lớn, vượt hơn các vị như Tường, Thải. Uyên hải, sách Tiểu Nhã gọi là thâm diệu. Chín dòng: sông lớn (giang) có chín sông, sông thường (Hà) cũng có chín sông đều là chín con sông lớn, sách Tầm Dương Ký nói. 1/ Sông Ô. 2/ Sông Phong. 3/ Sông Ô độ. 4/ Sông Gia Mỹ. 5/ Sông Quyến. 6/ Sông Oa. 7/ Sông Bẩm. 8/ Sông Đề. a/ Sông Khuẩn. Chín sông thường (Hà): Sách Nhó Nhã ghi: 1/ Sông Đồ Hã. 2/ Sông Đại sử. 3/ Sông Mã Giáp. 4/ Sông Phú Phụ. 5/ Sông Hồ Tô. 6/ Sông Giản. 7/ Sông Khiết. 8/ Sông Câu Bàn. 9/ Sông Cách Tân. Câu: “Đỉnh bạt thanh hư tiên nhiên vật ngoại”: đónh là hơn hẳn. Tiêu nhiên nghóa là vắng lặng, an nhiên. Pháp sư Tăng Triệu tài năng và tư tưởng vượt trội, hơn hẳn, thanh nhã, khoáng đạt, vượt ngoài mọi ràng buộc của sự vật. Câu: “Tri công giả hy, quy công thái Thập”: Tức người biết được Pháp sư Tăng Triệu thì ít, những người quy kính, hướng về Pháp sư thì còn thâu thái được văn chương đủ loại. Câu: “Như viết bất tri tắc công qúy hỹ”. Viết là lời mở đầu. Lão Tử nói: “Người được ta ít tức ta là hạng quý giá!” Nay mượn lời ấy. Có người cho rằng: như mặt trời, mặt trăng, hằng ngày đều sử dụng mà chẳng biết. Thật chẳng đúng. Từ Câu: “Đạt ổi sinh thiên hạnh” trở xuống: là đoạn thứ ba bày tỏ về sự vui mừng, may mắn được gặp gỡ. Ổ là nhiều, nghiã là có được may mắn được nhiều đời. Hạnh là ân sủng mà viết là “Thiên hạnh” tức là ân sủng của trời. Cũng có thể theo nghóa thường dùng. Thiên là tự nhiên. Nay nói “Thiên hạnh” tức là tự nhiên có được ân sủng như vậy. Sách Thế Thuyết Tân Ngữ chú giải: “Trương Mẫn tự là Tử Vũ người cùng thời với Trương Hoa nhưng không ra làm quan, nên viết bài Đầu Qúy Tử Vũ” có câu: “Tánh ông vốn câu nệ, không phóng khoáng trong lễ nghi, lầm lạc là do “Thiên hạnh” làm người được nhờ vả.” Nói “Thiên hạnh” là dùng ở lời ấy. Có người cho chữ hạnh thuộc về câu dưới, rất là đáng cười! Câu: “Hân dược bất dó, hưởng yến vong bì”: tức vui mừng vung tay múa chân, hầu như không dứt, hết lòng kính mến, ăn uống vui vẻ không chút mỏi mệt. Nhưng ở đây chữ hưởng hợp với chữ hưởng gồm chữ hương, dưới là chữ Thực, nay phần nhiều đều viết là Hướng, cũng đúng. Có bản viết chữ Âm thay cho chữ Thực là không đúng. Câu: “Mỗi chí phi tầm bất thắng thủ vũ”: Bài tựa sách Tử Hạ Thi có câu: “chẳng rõ là tay vung múa, chân giẫm đạp”. Nay sử dụng lời này, ý nói là hết sức vui mừng, hớn hở. Câu: “Huống trung bách môn quán, viên ký phương đẳng thâm kinh”. Sách Tiểu Nhã (kinh thi) nói kî cập. Sách Tả Truyện viết là kî chí. Hoặc dùng chữ ký. Nghóa cũng như nhau. Luận Thập Nhị Môn gọi là Môn Quán. Pháp sư Tăng Duệ, trong bài tựa Trung Luận viết: “Bách Luận nhằm đối trị ngoại đạo, ngăn chặn tà kiến. Văn ấy cũng nhằm phá trừ tính chất chấp trước, nướng mắc của nội giáo. Luận Đại Trí Độ thì sâu rộng. “Thập Nhị môn Quán” thì đạt đến chỗ tinh tường.” Từ Câu: “Thế ngạn hàm vân” trở xuống: là đoạn thứ tư, nhằm bác bỏ những trường hợp chê trách, nghi ngờ. Truyện chép: gọi là ngạn (kẻ só tài giỏi). Chữ Ngạn có chữ Ngôn một bên cũng đọc là ngạn. Nay dùng chữ khẩu để viết chữ ngạn (?) là chữ mang ý nghóa thô tục, quê mùa. Câu: “Triệu chi sở tác cố thị Thành Thật chân đế, địa luận thông tông”. Tông chỉ của Luận Thành Thật có nói nghóa chân đế. Tông chỉ của Luận Thập Địa có nói tông chỉ chung. Nghóa là về diệu lý, ở chỗ giải thích của Pháp sư Tăng Triệu cũng là nghóa hàm chứa trong hai bộ luận kia. Câu: “Trang lão Sở Tử Mạnh lãng chi thuyết”: tức là Pháp sư Tăng Triệu dùng ngôn ngữ của Lão Trang để giúp đỡ cho luận này, là những lời nói mang tính chất sơ lược, chưa sâu sắc. Mạnh là lớn, lãng là lưu lãng (nay đây mai đó, không ở một chỗ). Câu: “Thử thật cổ chi ngôn khi vu dó một”. Cự là to lớn, cổ là cổ độc. Kinh thư nói: “Dùng vật làm cho người mắc bệnh gọi là cổ cũng như người Hán cầu nguyện sự xấu ác cho kẻ khác. Một là hết, chung cuộc. Sách Tiểu Nhã viết là đãi nay viết là một, thấy pháp sư Tăng Triệu mất rồi thì tạo ra lời vu khống, xúc phạm. Pháp sư Tăng Triệu mượn ngôn từ của lão Trang để tuyên đương chánh đạo, đâu xem lão Trang là chánh pháp? Tất nhiên là chẳng đúng, Câu: “nhai hạng lậu âm vị chi túc thập”: đây là những lời hẹp hòi thô lậu, chẳng đáng để thâu thập. Câu: “Phù thần đạo bất hình, tâm mẫn nan hội”: là đoạn thứ năm nói về tình cảnh gốc, tức thuật lại ý tưởng gốc của pháp sư Tăng Triệu, nói rõ là chẳng giống với kiến giải của lão Trang. Thần đạo là đạo pháp thần diệu, tức là Phật đạo. Mẫn là mau chóng, nhanh nhẹn. Về chữ hội, sách Luận Ngữ nói: Hội là vẽ. Câu: “Ký văn ước nghóa viễn cố chúng đoan sở thuyết”. Nay gọi là soạn luận, văn, ngắn gọn, nhưng lý thì sâu xa, rộng lớn, không phải mượn một số ngôn từ của lão Trang, chẳng nhờ vào đó để diệu lý được phổ cập, thông suốt; Có bản chép là Thuyết, có bản nghi là quyệt, quyệt là biến đổi. Câu: “Triệu chi bốc ý khởi đồ nhiên tai!” Pháp sư Tăng Triệu đã có sự liệu tính để thể hiện hoài bão của mình, há tự thân không có lý, phải dùng lý của lão Trang làm Phật lý hay sao? Điều này rõ ràng là đáng tin. Câu: “Như phục tuẫn hiệp kỳ ngôn, nguyện sinh sinh bất diện”: Chữ Tuẫn tức đem thân theo vật gọi là Tuẫn, nay viết là (Tuẫn) chính là chết theo, gọi là Tuẫn. Hiệp là thói quen, là hợp. Yù nói nếu lại có người thuận theo lời nói ấy thì tôi xin nguyện đời đời kiếp kiếp không đối diện với kẻ đó. Câu: “chí hoạch nhẫn tâm, hoàn độ tư hạ”: tức đạt được Pháp nhẫn Vô sinh mới trở lại hóa độ hạng người “hạ phẩm” ấy. Từ Câu: “Đạt lưu liên giảng tứ nhị thập như niên” trở xuống: là đoạn sáu, nói về ý nghóa là giảng tịnh (ở bậc cao Tăng giảng dạy kinh điển). Sách Thuyết văn Giải Tự nói: giảng là tập. Sách Tả Truyện nói: giảng là giảng mưu (mưu tính, mưu toan). Sách Chu Lễ cho rằng: “Quan Tư Nhị thường làm việc bày biện đủ các thứ vật.” Đây tức là bày đặt các thứ sản vật làm hàng quán (Tứ), gọi chỗ giảng kinh nói pháp là “Tứ” vì ở đấy cũng sắp đặt bày biện ghế, chiếu. v.v… công việc cũng như chỗ bày hàng hóa (Tứ). Từ khi giảng dạy kinh luận trở đi là hai mươi năm. Cũng có thể được nghe giảng đến nay là hơn hai mươi năm. Câu: “Phả phùng trùng tịch mạt quan tư luận”: tức là cũng từng gặp nhiều lượt giảng tập, sau cùng mới được gặp luận này. Trùng tịch nhắc lại tích Vua Hán sai các Nho Só giảng luận, người hơn sẽ đoạt lấy chiếu ngồi của người thua. Đới Bằng một mình ngồi đến năm mươi lớp chiếu. Người đương thời nói: “Thuyết giảng kinh chẳng ai hơn Đới Thị Trung” (Đới Bằng). Câu: “Liêu ký nhất tự thác ngộ tại trung”: tức là gởi gắm tâm tỏ ngộ trong nội dung bài Tựa này. Câu: đồng giả hiền dư thỉnh só lai triết”: só là đợi. Đồng đối với ta, Hiền ở nơi ta, xin chờ đợi bậc minh triết. Từ Câu: “Phù, đại phân thâm nghóa quyết hiệu bản vô” trở xuống: là phần thứ hai, là nói về tông chỉ của luận (Triệu Luận). Toàn phần này có bốn đoạn: 1/ Lần lượt nói bày. 2/ Dứt bỏ hình tướng. 3/ Khen ngợi. 4/ Chọn lựa, phân biệt. Trước hết nói về câu: “Đại phân thâm nghóa”. Câu này xuất xứ từ Luận Thập Nhị Môn. Luận ấy chép: “Nói về (Đại phân) nghóa, sâu xa, đó là không”. Nếu thông hiểu diệu nghóa này thì thấu đạt Đại Thừa, đầy đủ các pháp Ba-la-mật, không hề bị chướng ngại “nay lấy “Bản vô” là nghóa không, nên phần mở đầu nói bày như vậy, đây là bài “Tông Bản Nghóa”. Nhưng nói “Đại phân”, đại phân là giảng nói, quyết là kia, ấy. Câu: “cố kiến ngôn tông chỉ tiêu thật tướng”. Thật tướng là tên gọi riêng của Bản Vô. Do Bản Vô là nghóa sâu mầu được đặt ở đầu, nói “Bản Vô thật tướng”. Câu: “Khai không pháp đạo mạc du Chân Tục”: du là vượt hơn. Kinh Niết-bàn nói: “Bồ-tát Tuyết Sơn, được nghe nói nửa bài kệ, bèn leo lên cây cao xả thân mạng, để đáp lại cái giá của bài kệ. Thần cây hỏi: “Bài kệ như thế đem lại lợi ích gì?” Bồ-tát đáp: “Bài kệ ấy là lời giảng nói của Chư Phật, mở ra con đường của pháp không. Ta vì pháp đó mà xả bỏ thân mạng mình. Nay, hai bài Luận Vật Bất Thiên và Bất chân không có công năng mở ra con đường pháp không. Bài Bất chân không nói về Chân đế. Bài Vật Bất Thiên nói về Tục đế. Câu: “sở dó thứ thích nhị đế hiển Phật giáo môn”: chân đế và tục đế là cửa chính của Phật giáo, do đó nên tiếp theo “Tông bản nghóa” là giải thích hai đế. Câu: “Đản viên chánh chi nhân vô thượng Bát-nhã”: Đây có nghóa là nói về bài Bát-nhã Vô Tri, nhân chính của Niết-bàn không gì hơn là Bát-nhã. Câu: “Chí cực chi quả duy hữu Niết-bàn”: Quả vị cùng cực của Bát-nhã chỉ có pháp Niết-bàn. Câu: “cố mạt khải trùng huyền”: do nhân quả ấy, lại không còn gì hơn nữa nên sau cùng là nói về pháp “hai lớp huyền diệu” ấy. Bát-nhã là một pháp huyền diệu, Niết-bàn là một pháp huyền diệu. Trước nói chân, tục là chỉ cho hai bài luận trước (Vật Bất Thiên và Bất chân không). Sau nói Trùng, huyền là chỉ cho hai bài luận sau (Bát-nhã Vô Tri, Niết-bàn Vô Danh). Điều này là tất nhiên, khỏi phải giải thích thêm. Về chữ Trùng Huyền, Lão Tử nói: “Huyền diệu lại thêm huyền diệu, đó là cánh cửa của mọi sự biến hóa diệu kỳ.” Nay mượn lời ấy. Câu: “Monh chúng Thánh chi sở trạch”: do xem Niết-bàn, Bát-nhã, là tất cả các bậc Thánh đều an trụ ở đấy, nên gọi là nhà (trạch) Từ Câu: “Tuy dó tánh không nghó bản vô bản khả xưng” trở xuống là đoạn hai “Dứt trừ các hình tướng”. Câu: “Ngữ bản tuyệt ngôn phi tâm hành xứ”: Nói Bản (gốc) tức là dứt bặt mọi nơi chốn của ngôn từ, nên chẳng phải do tâm tạo tác. Câu: “Thiên Tất Bất Thiên đương tục, tục tắc bất sinh”: đạo chẳng dời đổi thì là chẳng sinh. Câu: “Bất chân vi chân, chân đãn danh thuyết”: đạo chẳng phải chân thì chẳng phải giả danh để giảng nói. Câu: “nhược năng phóng khoáng đãng nhiên, sùng tư nhất đạo”: là chỉ cho phần nói về “Tông bản” ở trước. Đãng là rộng lớn, nghóa là bao la không bị hạn chế ngăn ngại. Hai chữ “Nhất đạo” xuất xứ từ kinh Niết-bàn, quyển mười hai của kinh ấy có câu “Thật đế là nhất đạo thanh tịnh, không hai.” Câu: “Thanh nhó hư khâm vô ngôn nhị đế”: là chỉ cho hai bài Vật Bất Thiên và Bất chân không ở trước. Thanh nhó là sự lắng nghe vắng lặng. Hư không là tâm vắng lặng, dứt hết mọi đối tượng duyên hợp. Vô ngôn là đạt được ý, hợp ý. Nhị đế là chân đế và Tục đế. Câu: “Tư tắc tónh chiếu chi xảo trước, cố Bát-nhã vô tri”: trước là hiển bày, lệ rõ, có thể soi chiếu vắng lặng như thế, tức là nghóa của Bát-nhã vô tri. Câu: “Vô danh chi đức hưng, nhi Niết-bàn bất xưng”: hưng là dấy khởi. Nếu soi chiếu vắng lặng, biết rõ pháp chẳng thể gọi tên tức là nghóa mầu của Niết-bàn vô danh. Từ Câu: “Dư vị thử thuyết chu viên, khánh Phật uyên hải” trở xuống: là đoạn ba: Khen ngợi. Khánh là tận cùng, là dứt sạch hết, không còn vật gì nữa. Uyên là sâu xa. Câu: “Hạo bác vô nhai, cùng pháp thể tướng” tức rộng lớn mênh mông không bờ bến, là tận cùng thể tánh, thật tướng các pháp. Câu: “Tuy phục ngôn ước nhi nghóa phong, văn hoa như lý nghệ”. Ước là ít, phong là nhiều. Kinh Dịch chép: phong là lớn lao. Sách “Mao Thi Truyện chép: “Phong là rậm rạp tươi tốt”. Nghệ là đi tới, xuất xứ từ sách Tiểu Nhã. Văn của sách có câu: “Tạo tấn, nghệ tấn” (tạo được sự hòa hợp để cùng đi tới) Câu: “ngữ thế liên hoàn ý thật vô đãn liên hoàn là nối tiếp không dứt. Cô đản là sinh khởi. Sách Mao Thi nói: đản là rộng khắp (đãn khoát). Sách Nhó Nhã nói: đãn là rộng lớn (đãn đại). Câu: cảm thị tuyệt diệu hảo từ, mạc bất kiệt tư hồng luận”. Đời Hán, Tằng can, người ở xứ Cối kê, thường vỗ tay hát một mình, một hôm lội qua sông Chiết Giang bị chết chìm. Người con gái của Can là Tào Nga, tuổi mới mười hai, tìm kiếm thi thể của cha chẳng thấy, cũng tự nhảy xuống sông Chiết Giang mà chết. Quá năm ngày sau thì ôm xác cha mình, cùng nổi lên mặt sông. Quan huyện lệnh “Độ Thượng” vì việc ấy mà tạo bia, đặt trên núi Thượng Ngu, xứ Cối kê, cuối đời Hán. Quan Nghị Lang là Sái Ung, ban đêm đi đến chỗ văn bia, tìm lửa không có, nên phải dùng tay sờ vào bia mà đọc, khen ngợi văn bia ấy, bèn khắc vào mặt sau tấm bia tám chữ: “Hoàng quyên ấm phụ, ngoại tôn tê cữu”. Về sau, Tào Tháo và Dương Tu cùng đọc tám chữ ấy. Tháo hỏi Tu: hiểu chăng? Tu đáp ngay: Hiểu. Tháo bảo Tu chớ nói ra, chờ mình suy nghó đã. Tháo đi được ba mươi dặm (một dặm:360 bước) mới hiểu ra, bèn than: “có trí hay không trí cũng ở trong vòng ba mươi dặm!” sau muốn giết Tu. Các con của Tháo ngăn, Tháo nói: “Người này là một kẻ phi thường, sợ các con chẳng thể khống chế được!” Thế là Tháo bèn giết Tu. Về tám chữ ấy thì: Tơ màu vàng tức chữ Ty đứng bên chữ sắc là chữ Tuyệt Ấn phụ là thiếu nữ. Chữ nữ đứng cạnh chữ thiếu là chữ Diệu, ngoại tôn là nữ tử. Chữ nữ đứng bên chữ Tử là chữ hảo. Tê cữu là thọ nhận sự cay đắng (Thọ Tân). Chữ thọ đứng bên chữ Tân là chữ Từ. Tức là “Tuyệt Diệu hảo Từ”. Nay dùng bốn chữ này là nhằm khen ngợi hết mực về nội dung, văn từ của Triệu Luận. Hồng là rộng lớn. Từ Câu: “Sở dó đồng thọ thán ngôn” trở xuống: lời này xuất xứ từ sách “Danh Tăng Truyện”. Nơi truyện của Đại sư Tuệ Quán, cho là Pháp sư La-thập đã nói lời khen ngợi ấy, chẳng phải không có lý do. Câu: “Chương tại hàn độc” tức chỉ cho văn từ, nghóa lý của pháp sư Tăng Triệu hiện bày rực rở trong giới văn chương, trứ thuật. Người xưa dùng lông cánh của con gà để viết lên thẻ tre (giản) hay miếng gỗ (độc), tức là sách vở. Nay dùng giấy để viết hoặc in. Từ Câu: “Đãn tông bản tiêu nhiên” trở xuống: là đoạn thứ tư, nhằm chọn lọc, phân biệt luận, chẳng phải là Luận. Tông bản vắng lặng, chẳng thể nói ra những câu hỏi, nên chỉ nói lên ý nghóa. Bốn bài tiếp theo như vật Bất Thiên, v.v… nhằm để dẫn dắt những người cầu học, nên mượn hình thức hỏi đáp, do đó gọi là Luận. Có bản chép là khai thông. Có bản ghi là quan thiệp. Sách Tiểu Nhã chép: khai là thông đạt. Câu: “Vấn đáp tích vi, sở dó xưng Luận”: tức Luận vốn phân tích về diệu lý, sự khảo xét phân tích gồm đủ cả bốn khoa nên gọi là Luận. <詞>- Tông Bản Nghóa: Tông là Tông Tổ. Bản là căn bản. Pháp sư Tăng Triệu cho Bản Vô, Thật Tướng, v.v… là tông tổ, căn bản của mọi kinh, luận. Nay giải thích về nghóa ấy nên gọi là Tông Bản Nghóa. Cũng có thể dùng một ít văn ấy, làm “tông bản” cho bốn luận tiếp theo, nên gọi là Tông Bản Nghóa. Nay dựa vào đó để dưới đây lần lượt giải thích. Toàn văn có hai phần riêng: Tông Bản một nghóa, đó là nói về tông chỉ. Bốn bài Luận tiếp theo như Vật Bất Thiên, v.v… là nói về giáo pháp. - Câu: “Bản Vô, Thật Tướng, Pháp Tánh, Tánh không, Duyên Hội, năm tên gọi này cùng một nghóa”: Văn luận trong đoạn này (Tông Bản Nghóa) có bốn phần: 1/ Nói về tông chỉ của Bản Vô, Thật Tướng. 2/ Nói về tông chỉ của Phi Hữu Phi Vô. 3/ Nói về tông chỉ của Phương Tiện, Bát-nhã. 4/ Nói về tông chỉ của Nê-hoàn, Tận Đế. Phần thứ nhất nói về tông chỉ của Bản Vô, Thật tướng là tông của Luận Vật Bất Thiên này. Phần thứ hai nói rõ tông chỉ của phi Hữu, phi vô là tông bản của Luận Bất chân không. Phần thứ ba nói về tông chỉ của Phương Tiện, Bát-nhã là Luận Bát-nhã Vô Tri. Phần thứ tư nói rõ về tông chỉ của Nê-hoàn Tận Đế, là tông bản của luận Niết-bàn vô Danh. Nay nói về Bản Vô, v.v… có người cho rằng đó là sự giải thích gồm chung về ý nghóa của năm nhà. Đại sư Trúc Pháp Thái soạn Luận Bản vô. Pháp sư Cưu-ma-la-thập soạn Luận Thật Tướng. Pháp sư Tuệ Viễn soạn Luận Pháp Tánh, Pháp sư Đạo An soạn Luận tánh không. Vu Đạo Thúy soạn Luận Duyên Hội Nhị đế. Nay hợp năm nhà ấy lại nên gọi là một nghóa. Sự giải thích này không đúng, vì sao? Vì nay, nếu hợp chung Luận Bản Vô của Trúc Pháp Thái chẳng hạn, thì vì sao ở phần đầu của bài Bất Chân không, Pháp sư Tăng Triệu đã công kích nghóa Bản Vô? Lại như Pháp sư Tuệ Viễn soạn Luận pháp Tánh, tự hỏi: “Tánh không là pháp tánh phải chăng? Đáp: chẳng phải. Tánh không là đối tượng không mà được gọi tên, pháp tánh là chân tánh các pháp chẳng phải là tên gọi của không” vậy nay sao được gọi là hợp làm một? Lại có người nói: Chi Pháp Tường soạn Luận Thật Tướng, nay hợp chung luận ấy lời giải thích này lại càng chẳng đúng. Chi Pháp Tường không gặp Pháp sư La-thập. Vâng mệnh đi đến Quan Trung mới viết sách. Hỏi môn sinh của Pháp sư La-thập là Thích Tuệ Nghi về nghóa Thật Tướng, Tuệ Nghi đáp, nên gọi đó là Luận Thật Tướng. Đây đều là người cùng thời với Pháp sư Tăng Triệu, tài học lại là hàng dưới so với ông, thì sao có thể khẳng định tác phẩm của Pháp sư Tăng Triệu là nhằm giải thích gồm chung về chỗ soạn luận của những người ấy? Tất nhiên là chẳng đúng. Nay chỉ rõ năm nhà kia là chỗ ý nghóa chính trong kinh luận, có người cho là đồng, có người cho là khác. Pháp sư Tăng Triệu hợp lại cho là một, chẳng nói là khác. Lại nữa, bốn tên gọi kia như Bản Vô, v.v… là chân, Duyên Hội là Tục. Nay hợp cả hai đế chân tục ấy thành chẳng khác. Gọi Là Bản Vô, như kinh Duy-ma nói: “Vô Ngã, không tạo tác, không thọ nhận. Nghiệp thiện ác cũng không mất”, đó chính là nghóa của Bản Vô. Kinh Nhân Vương chép: “Có gốc tự nó không có nhân duyên hợp thành các pháp.” Đây cũng là nghóa của Bản Vô. Trung Luận chép: “Nếu như chẳng có Hữu Làm sao mà có vô? Hữu, vô đã không có Biết Hữu Vô là ai?” Lại nói: “Các pháp chẳng thể đạt Dứt tất cả hý luận Không người cũng không chốn Phật cũng không giảng nói.” Đây là nghóa Bản Vô. Gọi là Thật tướng: Như kinh Duy-ma nói rõ: Như quán Thật tướng của thân, quán Phật cũng thế. Ta quán Như lai, đời trước chẳng lại, đời sau chẳng đi, hiện tại chẳng trụ. Chẳng quán về sắc, chẳng quán về sắc như, chẳng quán về tánh của sắc. Trung Luận chép: “Thật tướng của các pháp Tâm hành ngôn ngữ dứt Không sinh lại không diệt Vắng lặng như Niết-bàn.” Đây cũng là nghóa Thật tướng. Nói là Pháp tánh: Như kinh Đại Phẩm nói: Pháp tánh, Pháp Trụ, Pháp Vị, Thật Tế, dù có Phật hay không có Phật thì tướng của Pháp tánh vẫn thường trụ. Đây là nghóa của Pháp tánh. Phẩm Hữu Pháp Tánh trong Kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã quyển ba, có nói rộng về tính chất chẳng thể nghó bàn của pháp tánh, tánh ấy là gốc nơi pháp của Chư Phật, mọi công đức trí tuệ do đó mà phát sinh. Trung Luận chép: “Tánh vốn có Như lai Tức là tánh thế gian Như lai chẳng có tánh Thế gian cũng không tánh”. Đây cũng là nghóa của Pháp Tánh. - Gọi là Tánh không: Như kinh Niết-bàn chép: “Tánh của tất cả các pháp, gốc tự là không, cũng do Bồ-tát tu không nên không. Đó là nghóa của Tánh không. Trung Luận có đoạn chép: “Như thế trong tánh không Cũng chẳng thể suy nghó Sau Như Lai diệt độ Phân biệt về có không”. Đây cũng là nghóa của Tánh không. - Nói là Duyên Hội: Như kinh Duy-ma chép: “Nói pháp chẳng có cũng chẳng không. Do nhân duyên nên các pháp sinh.” Đây là nghóa Duyên Hội. Trung Luận chép: “Chưa hề có một pháp Chẳng từ nhân duyên sinh Do đó tất cả pháp Rõ ràng đều là không.” Đó cũng là nghóa của Duyên Hội. Năm nghóa như vậy là tông chỉ chính của kinh luận. Dùng lý để hợp lại, một mà không khác, nên gọi là một nghóa. Lại như kinh Niết- bàn và kinh Nhân Vương đều nói về hai đế là một Thể. Nay nói về năm nghóa này cũng chính là hai đế, nhưng hai đế ấy là một thể không khác, nên gọi là một nghóa. Tuy có hai giải thích, nhưng giải thích trước là chính. - Hai chữ Hà Tắc tiếp theo: Luận này thường dùng từ “Hà Tắc” là từ dùng để hỏi (tại sao?) Câu: “Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp (duyên hội) mà sinh: phần trước nói về nghóa thì trước nói Bản Vô. Nay giải thích cho năm nghóa thì trước hết nói về Duyên Hội. Như vậy là thích hợp. Câu: “Tánh thường tự không nên gọi là Tánh không”: ở đây có ba cách ngắt câu. Tánh thường tự không cố, vị chi tánh không: là một câu. Tánh thường tự không cố, vị chi tánh không, pháp tánh: là một câu. Tánh thường tự không cố, vị chi tánh không, pháp tánh, thật tướng: là một câu. Trong ba cách ngắt câu ấy thì cách ngắt câu thứ nhất là thích hợp. Nay dựa theo đó mà đọc. Tức do tánh luôn tự nó là không nên gọi là Tánh không. Câu: “Pháp tánh như thế nên gọi là Thật tướng”. Tánh không tức là pháp tánh. Tánh ấy tức là Thật tướng. Câu: “Thật tướng tự là không, chẳng phải do suy luận để cho đó là không”: tức các pháp tự là không, gọi là thật tướng, chẳng phải do suy luận để khiến nó trở thành không. - Từ Câu: “Nói về cái chẳng có chẳng không” trở xuống: là phần thứ hai nói về tông chỉ của “Phi Hữu Phi Vô”, là tông bản của luận Bất Chân không. Chữ ngôn (nói) tức là lời giảng nói của kinh luận. Kinh Đại Phẩm chép: “Sắc chẳng phải không, chẳng phải bất không. Thọ, Tưởng, Hành Thức chẳng phải không, chẳng phải bất không.” Kinh Niết-bàn nói: “Phật tánh chẳng phải chân như hư không, chẳng phải không có như sừng thỏ.” Trung Luận chép: “Nói có thì chấp thường. Gọi không thì chấp đoạn. Do vậy người có trí Chẳng nên chấp có, không.” Nay giải thích chung theo kinh Luận về câu ấy. Cái gọi là “chẳng có” thì chẳng phải như cái có của người chấp có, chấp thường. Mà nói “chẳng không” thì cũng chẳng giống cái không của người theo tà kiến chấp đoạn. Nên gọi như vậy. Chấp có nghóa là kiến chấp về có sở đắc (chấp thường). Tà kiến tức là chấp không, thường kiến cũng là chấp có, đoạn kiến cũng là tà kiến. Lại nữa, chấp có tức chấp có ngã kiến, thường kiến tức chấp thân là thường còn. Tà kiến là chấp không có ngã kiến. Đoạn kiến tức chấp thân là vô thường. Trung Luận chép: “Ta ở đời quá khứ. Là có hay là không Thế gian hay chấp thường Đều theo đời quá khứ. Ta ở đời vị lai Tạo tác, chẳng tạo tác Các kiến chấp một bên Đều theo đời vị lai.” Cũng có thể trong đây chỉ chung cho sự chấp trước đối với muôn pháp: quyết định có là có, khẳng định không là không. Có tức là chấp thường, không tức là chấp đoạn. Câu: “Nếu lấy cái có làm có thì lấy cái không làm không”. Nếu có chẳng định là có, không thì khẳng định là không. Có đã chẳng có thì không cũng không. Có bản chép có hai chữ Vô, có bản chỉ có một chữ Vô. Nếu có hai chữ Vô thì câu ấy đầy đủ hơn: nói có đã chẳng phải là có thì nói không cũng chẳng phải là không (Vô). Nếu chỉ có một chữ Vô (không) thì câu này đã bỏ mất chữ hữu, về sau mới bỏ luôn chữ Vô. Nay cho câu có hai chữ vô là đúng. Câu: “Hễ chẳng dùng cái không để quán các pháp” tiếp theo: trước đã hai lần nói về việc bỏ mất chữ Hữu vô. Nay lại hai lượt giải thích hai nghóa: Hiện tại cho câu ấy là giải thích lại câu không có chữ Vô. Câu: “Tuy quán về có mà không chấp giữ lấy tướng”: câu này là giải thích trở lại câu không có chữ Hữu. Chẳng chấp không để quán các pháp thì không chẳng phải không. Quán về có mà không chấp tướng tức có chẳng phải có, chẳng phải có, chẳng phải không chính là Trung Đạo. Câu: “Thế thì tướng của các pháp là tướng của vô tướng”: Đó gọi là thật tướng của pháp, không có tướng của pháp gọi là vô tướng. Lấy cái vô tướng ấy làm tướng, nên gọi là Thật tướng. Câu: “Tâm của bậc Thánh là An trụ trong Vô sở trụ”. Đó là nghóa Bát-nhã. An trụ trong vô vi gọi là Trụ. Trụ trong “vô sở trụ” nên gọi là vô trụ. Câu: “Ba thừa cùng quán về tánh không mà đạt đạo”: trước cho rằng: “Có đã chẳng có, thì không cũng chẳng không” đều là lý mầu của tánh không. Bậc Thánh Ba thừa cùng quán về lý ấy mà về sau thành tựu đạo quả. Kinh Niết-bàn chép: “Quán mười hai nhân duyên, trí tuệ gồm có bốn hạng: thấp, vừa, trên, hơn hết. Hạng trí tuệ thấp là Thanh Văn, hàng trí tuệ vừa là Duyên Giác. Hạng trí huệ cao là Bồ-tát. Hàng trí huệ hơn hết là Phật”. Mở ra Phật và Bồ-tát là bốn hạng. Hợp Phật và Bồ-tát lại thì có ba hạng. Như thế là hạng bậc ấy cùng quán về tánh không của nhân duyên, nên sự đạt được trở thành đạo quả của Ba thừa. Kinh Kim Cương Bát-nhã chép: “Tất cả các bậc Hiền, Thánh đều do pháp vô vi mà có sự khác nhau”. Chính là ý nghóa ấy. Câu: “Tánh không chính là thật tướng các pháp”. Tánh các pháp là không, đó là lý chân thật, nên gọi là Thật Tướng. Câu: “Thấy được thật tướng các pháp nên gọi là Chánh quán” Kế thấy không là chánh, thấy có là tà. Câu: “Nếu người Nhị thừa chứng thấy được lý này thì trở thành điên đảo”: có bản chép chữ số là chẳng đúng. Thiết là giả thiết. Nếu người Nhị thừa chẳng thấy được tánh không thì sẻ điên đảo. Mà nay thấy được tánh không nên chẳng phải điên đảo. Câu: “Vì vậy, người Ba thừa quán các pháp chẳng khác nhau” tiếp theo: đã cho chẳng phải điên đảo, mà có sự khác nhau của Ba thừa, là do tâm có lớn nhỏ, trí có cạn sâu. - Từ Câu: “Phương tiện, Bát-nhã” trở xuống: là phần ba, nói về tông chỉ của Bát-nhã, Phương Tiện, là tông bản của Luận Bát-nhã Vô Tri. Đủ gọi theo âm tiếng phạn là: Âu-hòa-câu-xá-la, Bát-nhã Ba-la- mật. Âu-hòa-câu-xá-la, Hán dịch là phương tiện. Bát-nhã Ba-la-mật, thì gọi là Trí tuệ. Phương tiện là quyền trí. Trí tuệ là Thật trí. Kinh Đại Phẩm có chín mươi phẩm, Bồ-tát Long Thọ dùng phẩm phương Tiện về trước nói về Bát-nhã đạo, từ phẩm phương tiện về sau nói về đạo Âu- hòa. Kinh Duy-ma nói: “Có trí tuệ thì phương tiện được mở ra. Không có trí tuệ thì phương tiện bị bó buộc. Có phương tiện thì trí tuệ được phát huy, không có phương tiện thì trí tuệ bị trói buộc, hạn chế. Nay hợp lại để nói về hai pháp ấy, trí tuệ, phương tiện là tên gọi của trí tuệ rộng lớn. Câu: “Thật tướng các pháp gọi là Bát-nhã”: Trí quán thật tướng, đó là Bát-nhã. Câu: “Có thể chẳng theo hình tướng ấy mà chứng đắc là nhờ vào công dụng của phương tiện”, hình là hiện ra, các Thanh Văn quán không tức hiện chấp vào sự chứng đắc. Bồ-tát quán không thì có khả năng không hiện chứng. Sỡ dó như thế là vì, lý ấy sâu mầu, chúng sinh chẳng lãnh hội được. Bồ-tát khởi tâm đại bi, nguyện ở trong sinh tử để giáo hóa chúng sinh, vì họ mà giảng nói pháp ấy, khiến cho tất cả chúng sinh có tâm đều đạt được sự tỏ ngộ lý giải. Đây chính là Bồ-tát đã khéo vận dụng năng lực mầu nhiệm của phương tiện, nên gọi là công dụng của phương tiện (Âu-hòa). Câu: “Giáo hóa thích hợp theo căn cơ chúng sinh đó là phương tiện”: Thích là thường, Bồ-tát vào chốn sinh tử, giáo hóa chúng sinh giúp tỏ ngộ tánh không. Đây chính là trí của phương tiện khéo léo. Câu: “Chẳng bị nhiễm phiền não cấu uế là nhờ năng lực mầu nhiệm của Bát-nhã”: phàm phu đi qua Hữu nhiều đời đắm nhiễm, Bồ- tát vượt qua Hữu, biết pháp hữu đều không. Do đó, đối với sắc, đối với thanh nhưng không tham đắm, cấu nhiễm, đó là diệu lực của Thật Trí nhận thức về không nên gọi là diệu lực của Bát-nhã. Câu: “Thế thì, cửa Bát-nhã là quán không, cửa của phương tiện là bước qua có”: Quán không là Thật trí, bước qua có là Quyền trí. Câu: “Bước qua có mà chẳng hề chấp không, nên thường đối với có mà chẳng bị nhiễm” Kế là giải thích lại về hai nghóa trước. Vị thỉ là buổi đầu không hề. Bồ-tát bước qua Hữu không hề mê chấp vào không, do thường biết các pháp là không, nên có thể ở trong sinh tử mà chẳng sinh tham đắm, cấu nhiễm, trước đã giải thích chẳng bị bao thứ phiền não cấu nhiễm là diệu lực của Bát-nhã. Câu: “Chẳng nhàm chán cái có mà quán không, nên quán không mà chẳng chứng đắc”: Bồ-tát đi qua Hữu chẳng sinh chán nản, mệt mỏi, mà có khả năng quán không, đối ở trước nói “Bước qua Hữu chẳng mê chấp không” nên ở đây nói “quán không mà chẳng nhàm chán Hữu”. Do quán không chẳng chán Hữu, vì thế, quán không mà chẳng ở ngay đó chứng đắc. Câu: “Đó là năng lực mầu nhiệm của một niệm trong đó gồm đủ cả trí tuệ và phương tiện”. Bước qua Hữu chẳng mê chấp không, là trong Quyền có Thật. Quán không chẳng nhàm chán Hữu tức trong Thật có Quyền. Ở đầu nói: “Năng lực mầu nhiệm của một niệm gồm đủ cả quyền, tuệ chính là trong Quyền có Thật. Sau nói “Năng lực mầu nhiệm của một niệm, quyền tuệ gồm đủ tức là trong Thật có Quyền. Câu: “Khéo suy nghó” tiếp theo: là suy nghó, xem xét thì sẽ nhận thấy. - Từ Câu: “Nói Niết-bàn là Tận Đế (Diệt Đế) là chỉ rõ mọi trói buộc của phiền não đã dứt sạch mà thôi” trở xuống: là phần thứ tư, nói về tông chỉ của Nê-hoàn Tận Đế, là tông chỉ của Luận Niết-bàn Vô Danh. Tận đế tức là Diệt đế. Trong bốn đế Niết-bàn là đế thứ ba. Kinh Niết-bàn, quyển hai, ba chép: “Này người Thiện nam! Thể của Niết- bàn không có nơi chốn, là nơi chốn mà Chư Phật đã dứt trừ phiền não, nên gọi là Niết-bàn”. Nay chọn lấy lời ấy để làm sáng tỏ tông bản của Niết-bàn. Câu: “không còn có riêng một nơi chốn để tận cùng nữa”: Gốc tận tức là tận cùng đối với phiền não trói buộc. Phiền não trói buộc dứt sạch hết chứ không có riêng một nơi chốn tận cùng. Đó chính là đại Niết-bàn gồm đủ thường, lạc, ngã, tịnh. <詞>Luận Vật Bất Thiên: Từ đây trở đi, bốn bài luận là chương hai, nói về giáo pháp. Bốn luận là bốn phần, tức là có bốn giáo pháp: 1- Luận Vật Bất Thiên: Nói về Hữu, phát huy giáo pháp Tục đế. 2- Luận Bất chân không: Nói về không, phát huy giáo pháp chân đế. Luận Bát-nhã: Nói về nhân, phát huy giáo pháp Bát-nhã. Luận Niết-bàn: Nói về quả, phát huy giáo pháp Niết-bàn. Làm sáng tỏ bốn pháp ấy, phát huy bốn giáo lý đó, tức là đạt tới chỗ tận cùng về lý mầu của đức Thích-ca một đời giáo hóa. - Nói về Luận Vật Bất Thiên: Sách “Trang Tử Nam Hoa Kinh”. Chương đạt sinh trong Phần Ngoại Thiên chép: “Hễ có hình dạng, thanh sắc, đều gọi là Vật”. Công Tôn Long nói về Danh và Thật, cho rằng “Đối tượng được sinh ra của trời đất gọi là Vật.” Sách Mao Trường Thi Truyện giải thích: “Thiên là đi, di chuyển.” Người cho vật là di chuyển, biến đổi vô thường. Nay nói về gốc của vật là chẳng đổi dời (Bất Thiên), đương thời đều có nói đến, tuy trái với nghóa thường, nhưng hợp với đạo, nên gọi là Luận Vật Bất Thiên. Câu: “Sự sinh tử luân hồi, mùa Đông mùa Hè thay nhau biến đổi, sự vật có sự trôi lăn, di động, đó là nhận thức của người thường” trở xuống: văn luận có hai phần: trước là trình bày, sau là biện chính. Trước nói về phần trình bày, có thể chia làm bốn đoạn: 1/ Nói ra nhận thức thông thường. 2/ Nói về kiến giải đúng đắn. 3/ Thuật lại sự đồng khác. 4/ Bàn rộng ý luận. 1- Về chữ sinh tử (trong câu đầu): có bản chép là sinh tử, có bản chép là sinh diệt. Cả hai đều thích hợp. Nay dùng chữ sinh tử. Có bản ghi: Điệt Thiên, có bản ghi là đệ thiên đều được cả. Nay dùng chữ Điệt Thiên. Sách Nhó Nhã chép: “Điệt Đệ giao canh” (Lần lược thay đổi). Nay nói rõ chữ “Điệt Thiên” tức là cùng thay đổi, chuyển biến. Sinh tử: chẳng phải chỉ cho thân người chết đây sinh kia, mà là chỉ chung cho sự sinh tử, biến hóa của tất cả muôn vật. Như kinh Niết-bàn chép: “Tất cả mọi sự vật ở thế gian, đã sinh thì đều quy về tử, tuổi thọ dù là vô lượng, tất yếu cũng có chung cuộc”. Đã từ sinh đến tử, thì cũng từ tử tới sinh, sinh tử xoay vần tiếp nối, trước sau đầu cuối không bờ bến, giới hạn. Đó gọi là giao tạ. Tạ là đi, ra đi. Kinh Dịch chép: “Mùa Hạ đi qua thì mùa Đông tới, cái lạnh qua đi thì cái nóng đến.” Lại nói: “Vang động là do sấm sét. Nhuần thấm là do gió mưa. Mặt trời, mặt trăng vận hành nối nhau, một hạ một đông, đó là thay đổi, chuyển biến” tức gọi sinh tử, mùa đông mùa hạ là có, cho đó là vật, đều có sự chuyển dịch đổi thay, nên gọi là lưu động (Lưu chuyển, biến động). Trôi như nước chảy, biến động như gió nổi, đều là sự hiểu biết thường tình. Thường là tầm thường. Sách Tiểu Nhã giải thích: Bốn thước là một Nhận. Gấp đôi Nhận gọi là Tầm. Tầm tức là khoảng cách khi dang hai cánh tay ra, gấp bội Tầm gọi là Thường. Từ Câu: “Tôi thì cho là chẳng đúng” trở xuống: là đoạn hai, nói về kiến giải đúng đắn. Dư là tôi, Vị là nói, cho rằng. Chẳng như kiến giải ở trước nên gọi là “chẳng đúng”. Câu: vì sao? Kinh Phóng Quang Bát-nhã chép: “Các pháp chẳng có đi đến, chẳng có động chuyển”. Đại sư Trúc Pháp Hộ phiên dịch phần trước kinh Đại Phẩm, gọi là Phóng Quang, do kinh ấy phần đầu nói rộng khắp về các việc Như lai phát ra ánh sáng, v.v… nên lấy điều ấy làm tên gọi. Kinh này đã nói: “các pháp chẳng có đến đi, vì sao đó sinh tử xoay vần nối tiếp? Lại nói: “không động chuyển, sao có mùa đông, mùa hạ đổi thay, chuyển biến?” cũng có thể là nói chung, chưa cần thiết có sự phối hợp. Về chữ Hà giả (vì sao?) có thể là lời của Pháp sư Tăng Triệu, chẳng phải văn kinh. Câu: “Cứu xét về chỗ tạo tác của sự bất động, há bỏ động để cầu tónh”. “Thích là bỏ, lìa. Cứu xét kinh Phóng Quang nói chữ “Bất động”, chẳng phải cho là bỏ động mà chỉ nói về tónh, tức là cầu tónh ở ngay trong pháp động, tức động mà là tónh. Nói: “khởi thích” (há bỏ) là chẳng bỏ. Câu: “phải cầu tónh ở động” tiếp theo là trở lại ý vừa nói trên có thể thấy rõ. Từ Câu: “Thế thì động tónh cũng không hề khác nhau, mà vì kẻ mê lầm cho là không giống” trở xuống: là đoạn ba nói về sự đồng khác: Động tónh về diệu lý tuy chẳng khác nhau, nhưng người mê lầm cho là khác. Câu: “Duyên sử chân ngôn trệ ư canh biện, tông đồ khuất ư hiếu dị” (Thành ra giáo pháp của Phật bị dính mắc ở chỗ ham tranh biện mà chẳng được hiển bày, lý của chánh pháp bị chìm khuất trong các kiến giải khác nhau): Chân ngôn chính là Phật giáo. Ham tranh biện tức là các học thuyết khác. Tông đồ là diệu lý của chánh pháp. Hiếu dị là những kiến giải khác. Câu: “Do vậy mà sự phân cực của động tónh không dễ gì biện luận”: nghóa là tónh động, khoảng cách của hai hiện tượng ấy khó có thể biện luận. Lại giải thích động tónh là không hai. Cái cực của động tónh ấy, muốn nói về lý đó, không dễ luận bàn. Câu: “Vì sao? Vì hễ bàn về chân thì trái với tục, thuận theo tục thì ngược với chân”. Người tục cho là khác. Nói chẳng khác tức là ngược với kẻ tục. Chân lý là một, nói chẳng một tức là trái với chân lý. Ở đây nói chân nghóa là lý thật như thế, nên gọi là chân, chưa hẳn là chân đế. Như nói chân thư, chân bảo, có thể cho đó là chân đế hay chăng? Cố nhiên là chẳng phải. Có người chấp vào lời này, cho rằng chẳng phải trong phần trình bày trước, Luận Vật Bất Thiên hợp với tục đế. Yù kiến này không thích đáng. Câu: “Nghịch với chân nên mê chấp tự tánh không thể trở về. Trái với tục nên thể luận bàn trở thành nhạt nhẽo, vô vị”. Trái với chân lý thì mê lầm đối với pháp tánh, chẳng thể tự quay về. Cũng có thể hiểu do tình mê chấp nên chẳng thể tự tìm về nẻo giác ngộ, nghich với kẻ tục nên sự bàn luận không có chút ý vị. Lão tử nói: “Âm nhạc với vị ngon làm cho khách qua đường dừng lại, còn đạo mà nói ra thì nó nhạt nhẽo vô vị” (Đạo Đức kinh, chương 3 5). Nay mượn lời ấy để tăng thêm cái đẹp cho văn luận. Đức Như lai giảng nói chánh pháp đều dựa vào hai đế. Về lời thì thuận hợp với Tục, về lý thì làm sáng tỏ chân. Vả chăng, người Tần thích câu văn, người dịch kinh thường tham khảo các thứ kinh sử. Đời Tấn chuộng lý, người viết luận, nơi ngôn từ thường có mối liên hệ với Trang Lão. Nói tham khảo kinh sử, nhưng chẳng thể cho Phật và khổng tử là cùng một phong cách. Ngôn từ liên hệ với Lão Trang, cũng chẳng thể cho rằng Pháp và Lão Đam, Trang Chu ngang nhau từ Chấn đán đến. Pháp sư Tăng Triệu một thời là bậc xuất chúng, khác thường, ngàn năm là ngọn cây riêng lẻ. Hàng thượng trí thì quý chuộng chỗ kiến giải cao minh. Kẻ phàm phu thì chê là hỗn tạp. Đó gọi là người nước Tống buôn mũ chương phủ mà mang sang nước Việt bán, sự việc lộ rõ, kẻ tục thấy thì cười nhạt. Ôm bó kinh, ngọc mà quay về Sở, đám người mù nghe vậy thì mỉm cười. Kẻ tin thì thương xót. Người sâu sắc thì thở than. Gần đây, có những người không hiểu biết, tự kết thành phe nhóm, hoặc thân tướng thì dự vào hàng pháp lữ, lại phỉ báng Đại thừa; hoặc hình mạo thì gần gũi với thế tục, phản lại tông chỉ, cho là giáo pháp nhỏ. Trên thì bác bỏ bậc cao đức, chỉ càng làm cho tên tuổi mình bị đời bàn luận chê cười. Dưới thì tán dương hạng tầm thường, lại cho đó là khế hợp với chân thật, đã quên mất gương mặt dày của mình thì đâu còn biết xấu hổ! Kinh dạy. “Ví như bọn giặc ngu si vứt bỏ vàng bạc châu báu mà lại đi khuân vác gạch ngói”. Chính là nghóa này… Câu: “Chỉ khiến cho người trung căn chưa thể phân biệt có không, người hạ căn thì vỗ tay cười mà bỏ đi”. Lão Tử nói: “Bậc thượng só nghe đạo, hiểu được thì cố gắng thực hành. Hạng trung bình nghe đạo thì nữa tin nữa ngờ. Hạng thấp kém nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa!” (Đạo Đức kinh, chương 4 1). Nay tác giả mượn lời ấy. Hạng trung căn nghe nói về lý “động tónh không hai” ấy thì chưa thể quyết định, hoặc tin hoặc ngờ, nên gọi là “chưa thể phân biệt có không”. Hạng hạ căn nghe như thế thì nhất định chẳng tin, nên gọi là “Vỗ tay cười mà bỏ đi” “Phủ chưởng” là vỗ mạnh tay. Phất cố là chẳng thèm nhìn. Câu: “Ở gần đấy mà chẳng thể nhận biết, đó chính là tánh của muôn vật phải chăng? Động tónh chẳng hai là tánh của muôn vật. Gần gũi, đối diện mà người chẳng biết, nay tỏ ý thương cảm, thở than nên viết như thế. Từ Câu: “Nhưng chẳng nên tự dừng nghó” trở xuống: là đoạn bốn nói rộng về ý luận. Dó tức là dừng lại. Câu: “Há cho là tất nhiên”. Tức chưa phải tất nhiên. Từ Câu: “Kinh Đạo Hành Bát-nhã chép: các pháp vốn chẳng có nơi xuất phát, đi cũng chẳng có chỗ để đến” trở xuống: là phần hai của luận văn nhằm giải thích. Văn gồm có sáu đoạn. 1/ Dẫn kinh làm rõ tính chất “Bất Thiên” (chẳng dời đổi chuyển biến) 2/ Nói vật để nói về “Bất Thiên” 3/ Dứt trừ mê lầm để nói về “Bất Thiên” 4/ Hợp giáo pháp để nói về “Bất Thiên” 5/ Phản bác về thường để nói về “Bất Thiên” 6/ Kết hợp để nói về “Bất Thiên”. Dẫn kinh để nói về Bất Thiên: Dẫn một kinh, một luận để nói rõ ý nghóa sâu xa của chỗ quay về nhằm nói rõ tông bản của Luận Vật Bất Thiên. Kinh Đạo Hành tức Kinh Tiểu Phẩm Bát-nhã. Pháp sư Tăng Duệ, trong bài tựa của kinh ấy (bản Hán dịch) chép “Kinh tuy có ba mươi chương (phẩm) thâu tóm lại là Đạo. Lời tuy có mười muôn, điều đáng nghi nhớ là Hành. Hành chẳng vướng mắc thì sau đó mới chứng đắo1vô sinh. Đạo đầy đủ thì sau đó mới thành bậc Bổn Xứ” Trung Quán: Trung Luận còn có tên là Luận Trung Quán. Dùng ý nghóa trong luận ấy để nói về việc quán nhân duyên các pháp. Nhưng trong Luận ấy không có lời này, có thể tác giả đã lấy ý trong phẩm Khứ Lai. Phẩm Khứ Lai viết: “Đã đi là không có đi, chưa đi cũng là không đi. Lìa cả đã đi, chưa đi, thì khi đi cũng không đi”. Nay tác giả chọn lấy ý ấy nên chép: “Đi mà không có nơi chốn để đến.” Câu: “Đây đều là ở ngay trong động mà cầu tónh, do đó nên biết rõ ràng là Vật Bất Thiên”. Kinh nói: “không đến không đi”. Luận nói: “không đi”. Hai câu văn ấy đều là ở nơi đi nói về không đi, chẳng phải lìa bỏ mới có không đi. Đối với đi mà không đi, đó là nghóa của “Bất Thiên”, là ý nghóa sâu xa nơi chỗ quay về của toàn bài luận. Từ Câu: “Chỗ người thường cho là động” trở xuống: là đoạn hai chỉ rõ vật để nói về “Bất Thiên”. Người cho vật xưa diễn biến đến nay, nên gọi là Động. Còn tác giả cho vật xưa ở nơi xưa nên gọi là Tónh. Câu: “Động chẳng phải tónh, là vì nó chẳng đến. Tónh mà chẳng phải động là vì nó không đi”: Các bản khác đều chép: “Tónh chẳng phải động là do nó không đến, động chẳng phải tónh là vì nó chẳng đi”. Câu trên có thể giải thích; còn câu dưới thì khó lãnh hội. Nay xét lại bản xưa thì đúng như câu trước. “Động chẳng phải là tónh là vì nó chẳng đến”. Đây là trở lại với câu “Người thường cho là động”. Câu “Tónh chẳng phải động là do nó không đi” là trở lại với câu “còn chỗ tôi cho là tónh”. Người do thấy vật xưa cách nay mà cho là xa xưa, nên gọi là động, chẳng phải tónh. Tác giả thì theo vật xưa ở nơi xưa chẳng đi, nên gọi là tónh, mà chẳng phải là động. Câu: “Thế thì chỗ đạt đến không hề khác nhau “Nhiên tắc sở tạo vị thường dị” tiếp theo:. Sách Quảng Nhã nói: “Tạo Nghệ” (Dấu vết chỗ đạt đến). Sách Nhó Nhã chép: “Tháo Thích” (Đi đến, đạt đến). Chữ thường có hai nghóa: một là từng, hai là thường. Trang Tử nói: “Lời nói chẳng phải như gió thổi, lời nói là nói lên một cái gì. Nếu chỗ nói của nó mà chưa định thì lời nói ấy quả đã có nói không, hay không hề nói gì cả!” (Nam Hoa Kinh, Tề Vật Luận, Đoạn C). Chữ thường ở đây là theo nghóa Từng. Lại nói: “Trong Ni bảo Nhan Hồi: Nếu chắc có cho dù được thì thường nói để ta đến” thì chữ Thường trong câu này theo nghóa là thường. Xem chỗ đạt đến không hề có khác nhau, nhưng chỗ thấy của mắt tâm thì không hề giống nhau. Câu: “Nghịch trái thì thấy là bít lấp, thuận hợp thì đó là thông suốt:” Nghịch trái với lý thì bít lấp. Thuận hợp với lý thì thông suốt. Nghịch với lý thì kiến giải của người. Thuận theo lý thì kiến giải của tác giả. Câu: “Nếu tỏ ngộ được đạo thì còn có chỗ nào bị vướng mắc”: Cẩu là vả chẳng, nếu như. Nếu đạt được lý của đạo, tức “Lý động tónh không hai” thì không còn sự nghi ngờ, chấp mắc. Từ Câu: “Tình thức nơi con người bị mê lầm đã lâu” (Thương phù nhân tình chi hoặc cữu hó) trở xuống: là đoạn ba: dứt bỏ mê lầm để nói về “Bất Thiên”. Thương là thương cảm, thở than! Câu: “Nên nói với cái chân thật trước mắt mà chẳng hay biết”, đây cũng là chỉ cho việc của “Bất Thiên”. Lý được xét kỹ như thế, nên gọi là chân thật, chưa hẳn đã là chân đế. “Mạc giác” là chẳng hay biết. Câu: “Đã biết vật xưa chẳng đến mà cho vật nay có thể đi”: là nói về tình thức bị mê lầm. Câu: “Vật xưa đã chẳng đến thì vật nay có thể đi tới chỗ nào? Là câu hỏi về sự mê chấp. Câu: “Vì sao? Vì tìm vật xưa ở nơi xưa, thì nơi xưa từng là không”. Cầu tìm vật của ngày xưa ở ngày xưa thì ở ngày xưa ấy chẳng không. Câu: “Tìm vật xưa ở nay thì ở nay không hề là có”. Tìm vật ngày xưa ở nay thì ngày hôm nay chẳng có”. Câu: “Ở nay không hề có nên rõ là vật chẳng đến:” Đây là câu “Động mà chẳng phải tónh” ở trước ý nơi câu là “Chẳng đến”. Câu: “Ở nơi xưa không hề không, nên biết là vật chẳng đi”, đó là câu “Tónh mà chẳng phải là động” ở trước do ý nơi câu là “Chẳng đi”. Câu: “Trở lại mà cầu tìm nay thì nay cũng chẳng tới”. Hai phần đối ở trước, chính là để nói đi đến mà chẳng đến. Nay cho nay giống với xưa cũng lại như thế. Câu: “Đó là vật xưa trụ ở xưa, chẳng phải từ nay dẫn về xưa”. Đây là nghóa chẳng đi. Câu: “Vật nay trụ ở nay, chẳng phải từ xưa cho đến nay”. Đây là nghóa “chẳng đến”. Câu: “Cho nên Trọng Ni bảo Nhan Hồi: Ta và Hồi vừa bắt tay nhau thì việc ấy chẳng còn là việc cũ”. Sách Trang Tử Nam Hoa kinh, Ngoại Thiên, chương điền Tử Phương, chép: “Khổng Tử bảo Nhan Hồi: Ta và ông luôn gần nhau, vậy mà mới vừa cùng ông khoác tay nhau, thế là việc ấy như đã mất, thật đáng xót xa!” Quách Tượng chú giải: “Phàm sự biến hóa chẳng thể nắm giữ lại, nên tuy vừa cùng nhau khoác tay, mà chẳng thể khiến sự việc dừng lại”. Nay tác giả sử dụng lời ấy. Kiến tân tức là người cũ đã giã từ, người mới tự đến. Câu: “Giao tý phi cố” (nắm tay nhau thì việc ấy chẳng còn là việc cũ). Mới nắm tay nhau mà cũng đã là giã từ ra đi. Chẳng phải là sau đó thành người cũ. Đây là dựa theo sự giải thích của Quách Tượng. Nay cho rằng sự chú giải của Quách chẳng đúng. Nói vừa mới một lần nắm tay, nghóa là trong khoảnh khắc diễn ra của việc ấy, đã không còn là người trước nữa, chẳng phải là nắm tay mà chẳng thể khiến việc ấy dừng lại. Ở đây là biết rõ trong khoảnh khắc khoác tay ấy, sự việc trước đã chẳng phải là việc sau, nên cho rằng ai đã tạo ra sự chuyển biến ấy? Nhưng việc trước đã chẳng phải là việc sau thì đó là nghóa biến thiên, dời đổi. Mà nói “Bất Thiên” đó là nhằm nói rằng không có một vật nào đứng yên, mà là từ đấy dời đổi sang kia, nên gọi là “Bất thiên”. Câu: “Như thế rõ ràng là vật chẳng qua lại với nhau”: Như người ở trước đến phía sau, người ở sau đến phía trước thì mới gọi là qua lại. Đã chẳng như thế, nên không có sự qua lại. Câu: “Đã không có một triệu chứng nhỏ về sự qua lại, thì làm sao có vật nào để di động, biến đổi?” Chữ Trẫm có hai cách phát âm: 1/ Trần cẩm thiết => Trẫm, xuất xứ từ sách Nhó Nhã. 2/ Trần Nhẫn thiết=> Trẫm, xuất xứ từ sách Hoài Nam Tử do HứaThận chú giải. Xét về mầm mống của sự vật trước khi phát sinh thì gọi là Trẫm. Nay theo âm sâu (Trẫm). Lý kỳ nói “Trang Tử bảo: Thể của vô vi là không cùng, còn cách hành hóa của nó thì không để lại dấu vết gì cả” (Vô Trẫm) - > (Nam Hoa kinh, Thiên Ứng đế Vương) Quách Tượng chú giải “theo đúng tánh của sự vật, nên tự nhiên, không dấu vết. Trẫm là dấu vết”. Đã không có dấu vết của sự qua lại nên biết là chẳng động. Từ Câu: “Cho nên gió lốc cuốn sạt lở núi mà thường tónh” trở xuống (Nhiên tắc toàn lam yểu nhạc nhi thường tónh): Toàn lam là gió lớn nổi lên vào kiếp sơ. Cũng gọi là Tùy Lam là do sự khác nhau do cách phát âm nặng nhẹ của tiếng Phạm. Có bản chép là toàn Lam, Lam ở đây là gió. Toàn lam là gió lốc, gió xoáy lại giải thích, kinh “Tu hành đạo địa” cho rằng. Gió cuốn dồn mây nổi lên gọi là Toàn lam, hướng về trước gọi là Phủ. Hướng về sau gọi là yểu . Yểu là ngã lộn ngược, nhạc là núi. Về chữ giang hà thì có bản chép là giang hải. Nói hải thì chẳng thích hợp bằng Hà. Trang Tử nói: “Dã mã, trần ai giã” (Cái mà ta thấy trên không kia có phải là bầy ngựa rừng chăng, hay là bui trần?. Nam Hoa Kinh, Tiêu Dao Du). Quách Tượng chú: “Dã mã tức là khí bốc lên từng đám”. Khí bốc lên từng đám bồng bềnh trôi giạt ví như bầy ngựa rừng đang bay nhảy. Cổ là động, mặt trời, mặt trăng là chỉ cho sự trải qua khắp bầu trời. Có bản chép là Lệ Thiên, nói Lịch Thiên dễ thấy hơn. Mặt trời, mặt trăng chuyển vận xoay vần nên gọi là trải qua. Về chữ Lệ, Kinh Dịch chép: “Nhật nguyệt lệ hồ thiên, bách thảo mộc lệ hồ địa” (mặt trời, mặt trăng gắn liền với bầu trời, trăm thứ lúa thóc, cây cỏ gắn liền với mặt đất). Sách Tiểu Nhã giải thích: “Lệ là dính, bám, gắn vào”. Gió trước chẳng phải gió sau nên nói lớn nghiêng đổ mà thường tónh. Nước chảy trước chẳng phải nước chảy sau, nên dù trôi băng băng mà chẳng chảy. Hơi bốc trước chẳng phải là hơi bốc lên sau nên lao xao, bồng bềnh mà chẳng động. Mặt trời mọc trước chẳng phải mặt trời mọc sau, nên chảy khắp bầu trời mà chẳng vận hành, kinh Hoa Nghiêm chép: “Ví như nổi gió lớn Cuốn giật sinh thế động Cả hai chẳng rõ nhau Các pháp cũng như vậy Ví như nước cuộn chảy Nước trôi mãi không dừng Cả hai chẳng tỏ nhau Các pháp cũng như vậy” Pháp sư Tăng Triệu chưa thấy Kinh Hoa Nghiêm mà viết luận lại khế hợp một cách âm thầm như thế, nếu tự mình chẳng tỏ ngộ được lý huyền diệu thì đâu đạt được như vậy? Từ Câu: “Than ôi! Bậc Thánh có nói” trở xuống: Là đoạn bốn, hợp giáo pháp để nói về Bất Thiên. Văn đoạn này gồm. Hai đoạn nhỏ: chung là hợp giáo pháp, trước bàn rộng, sau tóm lược. Nay nói về đoạn trước: về chữ Y. Sách luận ngữ nói: Ôi! Hạng người nhỏ nhen như cái đấu, cái sao ấy đáng kể gì. (Thiên 13, đoạn 2 0). Chú giải: “Y (Than ôi!) là tiếng diễn tả sự bất bình”. Sách Thiết vận chú giải: “Y là tiếng diễn tả sự oán hận”. Bậc Thánh: Sách Lễ ký, phần đại tại nghi: “Ai công hỏi Khổng Tử: Thế nào gọi là bậc Thánh? Khổng Tử đáp: Bậc Thánh là người trí tuệ thông đạt đạo lớn, biến hóa ứng hợp mà chẳng cùng tận”. Trang Tử cho rằng: “Dùng đức để phân biệt người và Thánh, lấy tài để phân biệt người và hiền. Câu: “Nhanh hơn cả nước chảy” (Tốc ư xuyên lưu): kinh Niết-bàn chép: “Mạng người không dừng lại, vượt hơn cả núi sông” chẳng phải trong luận Ngữ than thở về nước cuộn trôi chảy. Văn tiếp theo mới dẫn sách Luận Ngữ, ý ở đây muốn nói: giáo pháp của bậc Thánh tự cho rằng mạng sống của con người trôi qua mau chóng, tức là nghóa biến chuyển đổi dời. Sao cho là “Bất Thiên? (chẳng dời đổi, chuyển biến). Nhiều người có thắc mắc này, nên nay mới khiến giải thích. Câu: “Vì thế nên các Thanh văn tỏ ngộ lẻ Vô thường mà chứng đắc đạo quả. Các duyên giác “ngộ” lìa duyên mà đạt đạo”. Do các pháp dời đổi nên Duyên Giác giác ngộ lý vô thường mà đạt đạo. Câu: “ví thử muôn vật chuyển động mà chẳng phải biến hóa thì há có thể tìm sự biến hóa để lần lượt đạt đạo”: Nếu như muôn vật chẳng phải dời đổi, biến hóa thì do đâu mà tìm được lý vô thường, biến hóa đổi dời ấy để đạt đạo? Nên đúng là dời đổi, biến chuyển. Câu: “Trở lại suy xét của bậc Thánh thật là ẩn khuất, sâu kín khó lường” trước như câu hỏi, đây như lời đáp. Vi là nhỏ. Lão Tử nói: “Nhìn mà không thấy gọi là Di, lắng tai mà không nghe gọi là hi, nắm lấy mà không được gọi là vi. (Đạo Đức kinh, chương 14). Trắc là đo lường. Câu: “Hình như động mà tónh, dường như đi mà ở:” Y cứ vào ngôn từ, giáo pháp thì như động, như đi. Dựa vào thật lý thì như tónh, như ở lại. Câu: “chỉ có thể dùng thật trí để lãnh hội, chứ không thể dùng sự tướng mà cầu tìm” chỉ có thể dùng tâm thần diệu của Bát-nhã mới khế hợp, chứ không thể dùng ngôn từ, sự tướng mà cầu tìm. Câu: “Cho nên nói đi, đâu cần cho là đi, chỉ để ngăn chận ý tưởng chấp thường của phàm phu”. Phục Kiền giải thích Hán Thư cho rằng: Nhàn là ngăn chận, Vương Bật chú giải kinh dịch rằng: Nhàn là ngại. Hoặc là lan, là ngại đều là nghóa phòng bị, ngăn chận. Về chữ Thích. sách Tiểu Nhã chú: Thích là cởi bỏ. trong kinh nói các pháp sinh diệt, vô thường, đó là đi. Gọi là vô thường, chưa hẳn là vô thường, vì nhằm ngăn chận những người chấp thường, nên nói là vô thường. Trong kinh lại nói nghiệp quả chẳng mất, đó gọi là Trụ. Nói có ở đâu cần cho là ở, mà là nhằm ngăn chận tâm của kẻ chấp đoạn, nên gọi là ở. Câu: “Đâu thể nói đi mà rời chỗ, nói ở mà có thể lưu lại được” có bản chép: “Đi mà có thể đuổi theo”, không phải thế tánh của các là chẳng đi. Trong kinh nói đi, là do chẳng thể khiến được pháp tánh nên cho là có đi. Tánh các pháp là chẳng ở, trong kinh nói ở, là do chẳng thể giữ lại được pháp tánh, nên cho là có ở. Nên biết: do duyên hợp nên nói là đi, thật sự thì chẳng phải đi. Do duyên hợp nên nói là ở, thật sự cũng chẳng phải ở. Câu: “Nên kinh Thành Cụ chép: Bồ-tát đối với chỗ chấp thường mà giảng nói về giáo pháp vô thường” kinh Thành Cụ là kinh Quang Minh Định Ý. Văn của kinh ấy chép: “Đức Như lai, chẳng dùng y phục, thức ăn uống, đối với chỗ chấp thường mà nhận biết rõ về chân lý vô thường” Nay tác giả lấy ý của kinh đó, nên gọi là Bồ-tát (thay cho từ Như lai). Câu: “Luận Ma-ha-diễn nói”: Luận Đại Trí Độ giải thích kinh Ma-ha-diễn (ở đây là kinh Đại Phẩm Bát-nhã) nên gọi như thế, chứ không có tên “Luận Ma-ha-diễn” Ma-ha-diễn là phiên âm tiếng Phạm, Hán dịch là Đại thừa, tức kinh Đại Phẩm Bát-nhã. Câu: “Đó đều là nhằm để dẫn dắt chúng sinh thông đạt lý mầu. Hai lời trên chỉ là một nghóa”. Tư giai đạo đath quần phương, lưỡng ngôn nhất hội Đạo nghóa là dẫn dắt, Đạt là thông đạt, quần phương là chúng sinh: ý nói bậc Thánh dẫn dắt chúng sinh có nhiều phương tiện. Tuy có nhiều phương tiện nhưng cùng quy về một đường. Cũng có thể cho quần tự nó là quần (đàn, bầy, đông nhiều) phương tự nó là phương (phương hướng, nơi chốn). Kinh Dịch nói “Phương dó loại tụ, vật dó quần phân” (phương tụ theo loài, vật chia theo bầy đàn). Bậc Thánh nói như thế, nên có hai cách giải thích. Câu: “Đâu phải do lời văn khác nhau mà trái với chỗ nhằm đạt đến”. Tức chẳng thể dùng hai lời văn có sự khác nhau: đi, ở mà khiến cho pháp tánh vốn thanh tịnh, sâu thẳm, cao xa bị ngăn cách, trái ngược. Câu: “vì thế nói thường mà chẳng ở, nói đi mà chẳng lời” nói thường chưa là thường nên chẳng ở. Gọi đi chưa hẳn đi nên chẳng dời. Phần sau lại giải thích lời này sẽ thấy rõ hơn. Câu: “Cho nên, sự việc “cất giấu núi” của Trang Tử, “Đứng ở bờ sông” của Trọng Ni là vậy”. Sách Nam Hoa kinh của Trang Tử, Phần Nội Thiên, chương Đại Tông Sư, chép: “Phù tàng chu ư hác, tàng sơn ư trạch, vị chi cố hó! Nhiên nhi dạ bán hữu lực giã phu chi nhi tẩu, muội giả bất chi giã”, “như giấu thuyền vào trong khe, giấu trái núi vào trong đầm sâu, cho thế là vững chắc rồi ư? nhưng vào nửa đêm có người có sức mạnh vác nó mà chạy, người ngu muội mới không biết”. Sách Luận Ngữ chép: “Khổng Tử đứng trên bờ sông nói: Nước chảy hoài ngày đêm không ngừng, mượn ý của Trang Tử nhằm nói rõ núi trước chẳng phải là núi sau. Mượn ý của Khổng Tử để nói dòng nước trước chẳng phải dòng nước sau. Câu: “Đó đều là sự cảm nhận về tính chất khó lưu, trụ của việc đến đi, đâu phải nói thấy có đi mà có thể cho là đi đến”. Đây là trường hợp cả Trang Tử và Trọng Ni đều cảm thán về sự “đi” không dừng nghỉ. Trước sau đều khác nhau, chẳng phải cho là có một vật cố định, từ đây bày ra đến kia. Do đó dẫn trong hai sách kia là để chứng minh đúng là “Bất Thiên”. Giáo pháp được nói giảng là thể, ý ở chỗ tỏ ngộ vật. Nếu đối với vật có sự tỏ ngộ thì giáo pháp được tăng trưởng, giáo pháp được tăng trưởng rồi giáo pháp trở lại thành suy tổn. Dựa vào kinh luận để giảng rộng về nghóa “Bất Thiên”, sợ hai phái Nho, Đạo nghi ngờ chẳng tin, nên tác giả dẫn ra hai đoạn văn trên khiến họ thể lãnh hội, tỏ ngộ. Ví như Phật giáo nói về giới luật, lấy “chẳng sát sinh” làm đầu, người thế tục ưa sát sinh, đâu có thể tiếp nhận được! Nếu dùng sách thông thường để nói về việc chẳng sát sinh thì ai cũng thuận theo. Mạnh Tử nói: “Năm mẫu đất quanh nhà dùng để trồng dâu nuôi tằm thì người bảy mươi tuổi cũng có thể mặc áo lụa. Gà, chó heo con, heo nái, nếu được nuôi dưỡng tốt thì người tám mươi tuổi cũng được ăn thịt. ” Nếu y vào lời nói ấy thì người dưới bảy mươi tuổi chẳng được mặc áo luạ, người chưa tới tám mươi tuổi không hợp với việc ăn thịt hay sao? Từ bi, không sát sinh đâu phải chỉ riêng kinh Phật? Lấy đều ấy để cùng chứng minh, ai có thể chẳng tin? Nay tác giả dẫn ra từ hai sách như trên, ý giống như thế. Câu: “Do đó, người thấu đạt tâm của bậc Thánh chẳng giống với sự nhận thức của người thường” (Thị dó đổ Thánh Tâm giả bất đồng nhân chi sỡ kiến đắc giã): có bản chép là Dụng, có bản nghi là Đồng, cả hai đều được. Trong kinh nói thường, Vô thường, tâm của bậc Thánh khó có thể thấu đạt, nên tâm của người thường thì chẳng thấy được tâm của bậc Thánh. Câu: “Vì sao? Người thường thì theo trẻ, già cùng một cơ thể, đến trăm tuổi thì cùng một bản chất”. Người thường cho rằng ngày xưa là niên thiếu, sau thay đổi dần đến thời trai tráng, nên gọi là cùng một cơ thể, trăm tuổi cùng là một thân, chẳng phải người khác. Câu: “Đâu biết năm tháng cứ trôi qua, chẳng rõ là hình hài đã theo đó mà biến đổi” (Đồ chi niên vãng, bất giác hình tùy): Đồ là không có. Năm tháng đi qua, hình hài cũng đi qua, đều là nghóa đổi dời. Tức ở trong sự chuyển dời ấy có sự chẳng chuyển dời. Năm xưa trước ở nơi thời xưa trước, hình hài ngày xưa ở ngày xưa, đó gọi là “Bất Thiên”. Mà người thường cho rằng: Người ngày xưa đời chuyển đến hôm nay, đó chính là mê lầm. Câu tiếp theo: “Cho nên Phạm chí xuất gia hồi còn trẻ”: sự tích này chẳng biết xuất xứ từ kinh nào. Câu: “Người xưa kia hay còn đó sao?: tức người xưa cũng còn cho tới hôm nay. Câu: “Tôi giống với người xưa” (Ngô Du tích nhân) Du là vẫn như, giống như người xưa nhưng chẳng phải thật là người xưa. Cũng có thể cho rằng, thân tôi tuy cũng là người xưa nhưng thật ra chẳng phải người xưa. Lại cũng có thể nói: ông cho rằng tôi cũng người xưa nhưng thật ra chẳng phải người xưa. Hoặc cũng có thể bảo: “Tôi có thể cũng là người xưa hay chẳng phải là người xưa. Câu: “Người hàng xóm ngạc nhiên cho lời nói ấy là không đúng” (Lân nhân giai ngạc nhiên phi kỳ ngôn) Ngạc là kinh ngạc, chẳng hiểu được lời nói ấy nên kinh ngạc. Câu: “Đó là, như câu nói của Trang Tử:” Giấu núi vào trong đầm sâu như vào nửa đêm kẻ có sức mạnh có thể vác nó lên vai mà chạy”: (Sở vị hữu lực giả phụ chi nhi xu) có sức lực tức là sức mạnh của Vô thường. Phụ nghóa là gánh vác, Xu là đi nhanh. Muội là tối tăm. Chữ Dư (?) là trợ từ, cũng giống như chữ yên, chu Hồ. Câu: “Do vậy nên Đức Như lai do sự chấp mắc của chúng sinh, dùng phương tiện giảng nói để chỉ rõ chỗ mê lầm”: (Thị dó Như lai nhân quần tình sở trệ tức phương ngôn dó biện hoặc) là đoạn nhỏ thứ hai, tóm lược về việc hợp giáo pháp giải thích “Bất Thiên”. Do chúng sinh chấp Hữu thì vì đó mà giảng pháp động. Nhân chúng sinh chấp Vô thì vì đó mà giảng giáo pháp Tónh. Nói “phương ngôn” tức theo phương tiện mà nói bày, giảng nói giáo pháp để trừ bỏ mê lầm. Câu: “Dựa theo chân tâm không hai để chỉ bày nhiều cách giáo hóa khác nhau chẳng phải một:” (Thừa mạc nhị chi chân tâm thổ bất nhất chi thù giáo): Biết rõ động tónh không hai là mạc nhị (không hề là hai) tức là chân tâm. Giảng nói hai giáo pháp động tónh, tức là cách giáo hóa khác nhau, chẳng phải một. Câu: “dù trái nhau mà chẳng thể cho là khác nhau, chỉ có bậc Thánh mới nói được những lời như thế”: (Quai nhi bất khả dị giả, kỳ duy Thánh ngôn hồ!): Nói trái là ngược mà lý thì chẳng thể cho là khác. Nên bàn về chân thì có tên gọi là “Bất Thiên”, về việc dẫn dắt, Tục thì thuyết gọi là “lưu động”, chân thì gọi là “Bất Thiên”. Dẫn dắt ở nẻo tục thì nói là Thiên (Dời đổi, chuyển biến). Câu: “Tuy có ngàn đường với lời diễn đạt khác nhau, nhưng cũng gặp nhau để cùng quy về một nơi”: Nói động nói tónh là có sự khác nhau, nhưng lý chỉ là một: cái gọi là động tức là tónh. Câu:”Những kẻ vin vào văn tự, nghe nói về “Bất Thiên” thì cho là vật xưa chẳng còn đến nay”(Nhi trưng văn giả văn bất thiên tắc vị tích vật bất chí kim) tức chấp vào giáo pháp Tónh, Trưng là Trưng, trách, xin vào chứng cứ để vặn hỏi. Câu: “Lãnh hội về “lưu động” thì nói là vật nay có thể dẫn tới xưa: (Linh lưu động giả nhi vị kim vật khả chí tích): Sách “Thương Hiệt Thiên” nói “Linh Thính”. Linh là lắng nghe, lãnh hội. Nghe nói động thì cho là vật nay chuyển biến, qua lại, đi đến. Câu: “Đã nói xưa nay, mà muốn dời đổi, sao lại như thế được!” xưa tự ở nơi xưa, đâu phải dời đổi đến nay. Nay tự ở nay, đâu phải dời đổi đến xưa? Câu tiếp theo: “vì thế, nói đến chẳng cần đến” Trong kinh nói dời đổi, chưa hẳn là dời đổi, là do xưa ở xưa, nay ở nay. Câu tiếp theo: “Bảo đi chẳng cần đi”, câu này ý đồng với câu trên, nhưng nói riêng ra. Câu: chẳng đến nên chẳng rong ruổi nơi xưa nay” (Bất lai cố bất trì sinh ư cổ kim). Trì sính tức là chạy, rong ruổi xưa chẳng đến nay, nay chẳng đến xưa. Câu: “Bất động nên các tánh trụ lại ở một đời”: câu này ý giống với câu trên mà nói riêng ra. Xưa nay đều định rõ, nên gọi là các tánh trụ trong một đời. Câu tiếp theo: “Thế thì lời văn không giống nhau trong các kinh sách:” (Nhiên tăùc quần tịch thù văn): Quần tịch tức là kinh sách. Trăm nhà là sách của các bậc thầy nổi tiếng. Chín kinh tuy khác, nhưng cùng nói rõ một giáo pháp. Trăm nhà tuy không giống nhau, nhưng cùng làm sáng tỏ một đạo. Cả các ý trên là dùng để dụ cho kinh Phật tuy nhiều ngôn từ khác nhau, nhưng toàn bộ là cùng làm sáng tỏ nơi chốn đạt đến là một. Đạt được lý mầu của đạo thì lời văn chẳng thể làm cho mê hoặc, lẫn lộn. - Từ Câu: “Thành ra chỗ người thường cho là ở, thì tôi cho là đi” trở xuống, là đoạn năm, bác bỏ về thường để nói về “Bất Thiên”. Người thường cho từ trẻ đến già vẫn là một người, nên gọi là ở. Còn tác giả thì nói người trước chẳng phải người sau, nên gọi là đi. Người thường cho người xưa là đã qua, nên gọi là đi. Còn tác giả thì nói người xưa ở xưa, nên gọi là ở. Câu: “Thế thì đi, ở tuy khác nhau nhưng vẫn dẫn về một nẻo” (Nhiều tắc khứ trụ truy thù kỳ trí nhất giã): Tác giả nói đi cùng với ở chẳng trái nghịch nhau. Lấy nơi niệm niệm thường biến chuyển, đổi khác nên gọi là đi. Lấy ở sự vật đều trụ một đời nên gọi là ở. Đó chính là ở cũng gọi là đi, đi cũng là ở. Câu: “Nên kinh nói: lời chánh nói ra tựa như lời trái, ai có thể tin được?” kinh Trung Bản Khởi đã nói như thế. Nay nói có nguyên do, tức là dẫn lời trong kinh ấy. Câu: “Vì sao? Vì người thì tìm xưa ở nay, gọi đó là chẳng ở:” do vật xưa đi đến xưa, chẳng ở nay, nên cho là chẳng ở. Tác giả thì tìm nay ở xưa, nên biết đó là chẳng đi. Do vậy nay tự ở nay, chẳng đi đến xưa, nên cho là chẳng đi. Từ đây trở xuống lại giải thích hai câu ấy. Câu: “Sự việc các tánh trụ nơi một đời thì còn vật gì có thể đi đến nữa” (Sự các tánh trụ ư nhất thế, hữu hà vật nhi khả khứ lai): sự là vật, vật đều trụ trong bản tánh của nó, đều trụ nơi một đời, nên không có đi đến. Câu: “Thế thì hình tượng của bốn mùa như gió bay” kế là: (Nhiên tắc tứ tượng phong trì): là nói sự vật để giải thích rõ. Tứ tượng tức là hình tượng bốn mùa, đổi thay nhanh chóng như gió, nên gọi là gió bay. Câu: “Toàn cơ điện quyển” về chữ Toàn hầu hết viết gồm bộ thủ một bên và chữ. Người trong học phái không hiểu nên dẫn văn của sách Thượng Thư để giải thích, cho rằng chữ này là chẳng đúng. Sách Thượng Thư chép: “Tại Tuyền Kinh ngọc hành dó tề thất chính” Khổng Tử chú giải: “ở chỗ xem xét. Tuyền là ngọc đẹp. Ki là đồ để xem thiên văn. Tuyền Kinh là một thứ dụng cụ để xem thiên văn, có thể dùng để vận chuyển, Vua Thuấn dùng để xem thiên văn. Khảo xét về Thất chính -> (Xuân, Thu, Đông, Hạ, Thiên văn, địa lý, nhân đạo)… nếu giải thích như trên thì chữ phải viết là nay cho là chẳng đúng. Đây là tên gọi của chòm sao Bắc Đẩu. Bảy ngôi sao trong chòm sao Bắc đẩu là: 1/ Thiên Xu. 2/ Toàn. 3/ Ki. 4/ Quyền. 5/ Hành. 6/ Khai Dương. 7/ Giao Quang. Nay không thể nói đủ bảy ngôi sao ấy, nên chỉ nói hai sao sao Toàn và sao ki thôi. Bảy ngôi sao vận chuyển cũng như ánh chớp lóe lên. Tuy bốn tượng, bảy sao vận hành chuyển biến nhanh chóng, nhưng người thấu đạt lý mầu thì cũng thường là bất động. Vương Bật so sánh tóm lược: “ở nơi sao Toàn sao Ki mà xem xét sự vận hành, chuyển biến lớn, thì sự biến động của trời đất không đáng cho là lạ”. Ý này cũng chỉ cho bảy ngôi sao. - Từ Câu: “Cho nên công đức của Như lai trải qua muôn đời mà thường còn trở xuống: (Thị dó Như lai công lưu vạn thế nhi thường tồn) là đoạn sáu kết hợp để nói về Bất thiên. Muôn đời, trăm kiếp là lời nói chung về sự nhiều, chứa nhóm công đức muôn đời thì công đức trước ở trước, chứa nhóm đạo trăm kiếp tức đạo xưa ở xưa, không hư hoại, không mất mát, nên càng thêm vững chắc. Câu: “Khiêng đất đổ dần thành núi phải nhờ giỏ đất trước hết (Thành sơn giả tựu ư thủy qũy) sách Luận ngữ có câu: “Ví như đắp núi, tuy mới đổ xuống một sọt đất, mà tiếp tục đổ nữa, là tại ta muốn tiếp tục” (Thí như vi sơn, tuy phục nhất quỹ, tiến giả ngô vãng giã) (Luận Ngữ Thiên thứ chín, Tử Hãn, Đoạn mười tám) chú giải: Quỹ là cái sọt tre đựng đất, chứa sọt đất để làm nên núi, công sức trước ở nơi trước mà không mất, nên chứa nhiều dần mà thành núi. Câu: “Đi được đường xa cũng phải nhờ bước đầu tiên” (Tu đồ thác chí ư sơ bộ): Lão Tử nói: “Đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đấ, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân” (Cữu tầng chi đài khởi ư lũy thổ. Thiên lý chi hành thủy ư túc hạ, Đạo đức kinh, chương 6 4. Theo Bồ-đề của NHL). Do chứa nhóm từ một bước dẫn đến nhiều. Đi tới ngàn dặm, không do một bước, nên gọi là phải nhờ đến. Thác là giả thác là mượn cớ, nhờ vào. Câu: “Đạo quả do công đức tạo nên trở thành bất hữu” (Quả dó công nghiệp bất khả hữu cố): bốn sự việc ở đầu đều do công sức trước chẳng bị hư hoại, công sức sau tiếp nối, mới thành tựu được sự việc. Câu: “Tuy ở nơi xưa mà chẳng biến đổi”. Công sức xưa ở nơi xưa, ở xưa chẳng mất, nên gọi là chẳng thay đổi”. Chẳng thay đổi nên cho là “Bất Thiên”, do “Bất Thiên” nên việc dường như luôn tồn tại, cho nên gọi là an tónh hiện rõ. Câu: “Nên kinh nói “Ba tai họa lớn diễn ra cùng khắp các cõi, mà hạnh nghiệp vẫn tồn lại, an nhiên” (Cố kinh vân: Tam tai di luân nhi hạnh nghiệp trạm nhiên). Di Luân nghóa là đầy khắp, phần Hệ Từ trong sách Chu Dịch chép: “Kinh Dịch cùng làm chuẩn đích với trời đất, nên có thể chỉnh đốn, sửa sang được đạo của thiên hạ” (dịch dữ thiên địa chuẩn, cố năng di luân thiên hạ chi đạo nhó). (Theo ý nghóa của Đại sư Nguyên Khang, tác giả Triệu Luận sở thì chép là: “kinh Dịch cùng làm chuẩn đích với trời đất, nên có khả năng thể hiện cùng khắp đạo trong thiên hạ). Về kinh ở đầu nói thì chưa rõ là kinh gì. Câu: “Vì sao? Vì quả chẳng cùng nhân, do nhân mà có quả:” Nhân qua không cùng một chốn, nên gọi là chẳng cùng nhau. Do nhân mà được quả, nên gọi là do nhân mà có quả. Câu: “Nhân xưa chẳng mất, tức ở xưa không mất. “Nhân chẳng đến nay”. Tức là nhân xưa chẳng đưa đến quả nay. Câu: chẳng mất, chẳng đến, thì chỗ tột cùng của “Bất Thiên” đã hiện rõ”: đã chẳng bị diệt mất, lại chẳng có đến, đi, nên gọi là “Bất Thiên”. Câu: “Đâu còn mê lầm về chỗ đi ở, mà mãi do dự giữ động tónh nữa!”, “chẳng hai” nên chẳng còn do dự (là lần nữa, lững thững không bước đi được). Câu: “Bởi vậy, đất trời đảo lộn chớ cho là chẳng tónh” (Nhiên tắc càn khôn đảo phúc vô vị bất tónh). Càn là trời, khôn là đất. Tuy đất trời bị đảo lộn, cũng chớ cho là chẳng tónh. Câu: “Nước tràn ngập đầy trời chớ bảo là có động”. Thời vua Nghiêu gặp chín năm bị lụt lội, nước dâng ngập đầy trời, vẫn còn là tónh. Câu: “Nếu có thể khế hợp một cách thần diệu đối với “Tức vật”, như vậy là chẳng cần tìm đâu xa, mà ngay ở đó có thể biết được”: Tức do thần nơi tình khế hợp với lý thì sự vật biết rõ là “Bất Thiên” chẳng còn xa nữa. <詞>Luận Bất Chân không: Đây là bài luận thứ hai nói về không, phát huy giáo pháp Chân đế. Các pháp là luống dối nên gọi là “Bất Thiên”. Luống dối, chẳng chân thật, do đó là không. Có người cho rằng, chân là Hữu, không là vô. Nói “Bất chân không” tức là nói về nghóa Trung Đạo chẳng có chẳng không. Đó chỉ là chuyện “vẽ rắn thêm chân”, chẳng phải ý thích hợp. Theo kiến giải ấy thì, Không chẳng phải là Trung chăng? Phần chính nơi nghóa sâu mầu đâu ở đấy, rõ là chẳng phải thế. Chỗ nói về không, các kinh luận Đại thừa đều lấy Không làm tông bản. Học giả hiện tại phần đông hay bác bỏ đều này, cho rằng nói về không là chẳng thấu đạt nghóa mầu, là không có trí tuệ sáng suốt, thật đáng buồn thay! Kinh Phật Tạng nói: “này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vào đời vị lai, sẽ có hạng Tỳ-kheo chẳng tu giới, tuệ. Kẻ ấy cười chê những điều Như lai đã giảng nói và hành hóa. Như lai thường đối với đệ nhất nghóa không, cung kính cúng dường, luôn an vui hành hóa pháp ấy. Các Tỳ-kheo kia lại chê bai những điều Như lai nói và hành về pháp Không rốt ráo, chẳng sinh chẳng diệt. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tu khổ hạnh cũng chê bai. Lúc này như có người tu tập pháp Không, ta khen ngợi là tốt. Vì ngay vào lúc ấy, họ đều chẳng thể hộ trì các giới pháp quan trọng, mà nói tự tướng các pháp là không, thì đâu thể thực hiện được? Như người làm trò Na-la với vô số sự biến hiện, người không biết, trông thấy thì cười lớn. Vì sao? Vì không hiểu về ảo thuật có những thủ thuật ẩn hiện bèn sinh tâm cho là ít có, quái lạ nên cười lớn. Như thế đấy, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bấy giờ, những Tỳ-kheo chân thật, giảng nói về pháp vắng lặng, những kẻ chỉ dốc cầu sự sống lại cũng cười cợt. Vì sao? Vì những kẻ ấy chẳng rõ về ý nghóa của pháp Phật, nghe nói về pháp không thì nghi ngờ, kinh sợ. Này Tôn giả Xá-lợi-phất!. Tôn giả hãy xem những người đó, ở nơi an ổn sinh tâm sầu não, hay ở chốn sầu não sinh tâm an ổn?”. Đó là lời Phật dạy, tin tưởng chẳng phải là lời sai quấy. Từ Câu: “Cái rỗng lặng tột cùng, không sinh” trở xuống: văn của luận này gồm có hai chương: trước là trình bày, sau là biện chính. Phần trình bày gồm ba đoạn: 1/ Nói tông chỉ chính. 2/ Phá bỏ các kiến giải khác. 3/ Nói về ý của luận. Nói tông chỉ chính: Văn đoạn này lại chia làm ba: a/ Nói rõ chân cảnh. b/ Nói về chân trí. c/ Cùng nói về cảnh trí. a/ Nói “Chỗ rỗng lặng tột cùng, không sinh” tức là chân cảnh (cảnh giới chân thật) của pháp không rốt ráo, không sinh, Câu: “chính là diệu dụng nơi sự chiếu soi mầu nhiệm của Bát-nhã, là trí tôn vô thượng của muôn vật”. Cái là từ mang tính bất tịnh, sắp được xem là đúng nhưng chưa dám khẳng định, do đó gọi là Cái. Thú là hướng về, hướng tới. Tông là tông bản. Gọi cái không rốt ráo chẳng sinh này là cảnh giới được soi chiếu của Bát-nhã, là tông bản của muôn vật. b/ Từ Câu: “Tự chẳng phải là bậc Thánh với trí sáng tỏ thông suốt, đặc biệt”. Trở xuống: là đoạn hai nói về chân trí (trí chân thật) Thánh minh tức là Bát-nhã, chẳng phải là Bát-nhã kỳ diệu, đặc biệt, sáng tỏ, thấu đạt, thì làm sao dùng thần tình khế hợp với diệu lý chẳng phải có chẳng phải không của Trung Đạo được? Tức chẳng phải là có chẳng phải là không này là “Trung đạo rốt ráo không”, nên gọi là ở giữa có không. c/ Từ Câu: “Vì thế bậc Chí nhân thông hợp tâm thần diệu ở chỗ vô cùng” trở xuống: là đoạn ba kết hợp nói về cảnh giới, trí cùng kết hợp. Dùng tâm thần diệu quán về lý vô cùng, nên gọi là hợp chung tâm thần diệu ở chỗ vô cùng. Chẳng hề bị muôn vật làm trở ngại, nên cho là “chỗ tận cùng ấy không gì có thể làm cho vướng mắc, trở ngại. Câu: Đối với sự nghe thấy tột bậc của tai mắt thì các đối tượng thanh, sắc đâu thể hạn chế nổi”: như tai lắng nghe âm thanh, chẳng bị âm thanh làm cho lầm lạc. Như mắt nhìn ngắm hình sắc, chẳng bị sắc làm cho mê hoặc. Câu: tiếp theo: “Há chẳng cho rằng đó tức là đều là không”. Do xem muôn vật là vắng lặng nên mọi sự thấy, nghe không hề bị thanh, sắc làm cho mê lầm. Chữ lụy là phiền lụy. Câu: “Do đó bậc Thánh dùng chân tâm để thuận theo chánh lý, thì không có chỗ vướng mắc nào mà chẳng thông suốt”: Thuận là nhận rõ các pháp là không, chẳng trái với chánh đạo. Vận hành với tâm Bát- nhã theo lý hợp với Không, thì chẳng có chỗ vướng mắc, ngăn ngại nào chẳng thông suốt. Có bản chép chữ Lý, cũng có thể thích hợp. Gọi là lý tiễn (bước đi) thuận hợp với Không. Câu: “Dùng cái “nhất khí” để quan sát muôn pháp, nên mọi đối tượng gặp gỡ đều thuận hợp”. Hóa tức là muôn hóa (muôn loài) Thích là đi đến. Sách Nam Hoa kinh của Trang Tử, Chương Đại Tông Sư thuộc Nội Thiên có câu: “Nơi ấy muôn vật được sinh ra, làm người mà dạo chơi cùng khắp phải chăng? Là khí hỗn độn tiên thiên của trời đất.”. Quách Tượng chú giải: “Đều là chỗ mịt mờ, mênh mông, nên không có hai”. Cũng sách Nam Hoa kinh, Ngoại Thiên. Chương Bắc Du chép: “Đời sống của con người là sự tụ hội của khí. Cái đẹp đẽ được xem là thần kỳ. Cái chẳng đẹp đẽ thì cho là luống dối. Luống dối lại hóa thành thần kỳ. Thần kỳ lại hóa thành luống dối. Nên gọi chung là một khí hỗn độn tiên nhiên trong thiên hạ”. Chương Viễn Du thuộc quyển sáu của sách Ly Tao có câu: “Theo gió Nam cùng dạo chơi, tới Nam Sào mới dừng nghỉ, gặp Vương tử xin ngụ lại, xét đức hòa của nhất khí”. Nay tác giả mượn ý từ những lời ấy để diễn đạt về Nhất Đạo. Câu: “không có chỗ vướng mắc nào chẳng thông suốt, nên có thể ở chỗ hỗn tạp mà vẫn thuần nhất”. Trang Tử nói: “Mọi người thì bồn chồn, bậc Thánh thì ngu tối, vượt muôn tuổi mà ôm giữ cái chỗ thuần nhất bất biến (đoạn Giải thoát, Tề vật Luận). Nay tác giả mượn lời ấy để dụ cho pháp muôn không hai, nếu không một vướng mắc nào mà chẳng thông suốt” thì tức là pháp môn không hai. Câu: “Mọi đối tượng gặp gỡ đều thuận hợp, nên tiếp xúc với muôn vật mà vẫn như một”. Tức mọi đối tượng được gặp gỡ đều dùng Bát-nhã để quán chiếu, nhận rõ chúng đều là không, không chút vướng mắc, ngăn ngại, đó chính là muôn pháp là Nhất tướng, vô tướng. Câu: “Như thế thì muôn hình tượng tuy không giống nhau mà chẳng thể tự thành khác nhau”: đã đồng một tướng, do đó nên chẳng khác. Câu: “Chẳng thể tự thành khác nhau, nên biết hình tượng chẳng phải hình tượng chân thật”: đã là Nhất tướng, không tướng, do vậy hình tượng tức là phi hình tượng. Câu tiếp theo trở lại với ý trên. Câu: Thế thì vật (đối tượng) và ngã (chủ thể) cùng một gốc. Thị (chân đế) phi (Tục đế) là nhất khí. Vật là sự vật bên ngoài. Ngã là mình, cả hai cùng một là vô tướng, nên gọi là cùng một gốc, đồng nhất với chánh đạo nên gọi là Nhất khí. Câu: “Cảnh giới mầu nhiệm sâu xa của bậc Thánh, phàm phu chẳng thể đạt tới”. Tiềm là tiềm tàng, vi là vi tế, u là sâu xa, u huyền. Ẩn là ẩn khuất. Do khó nhận thức, nên người bình thường chẳng thể đạt tới được. Về chữ Đãi, sách Nhó Nhã giải thích: đãi là nguy khốn. Sách Quảng Nhã giải thích: đãi là hư bại. Trịnh huyền chú giải cho là ki, Mao Trường chú Truyện cho là thủy, nay chọn âm ki là gần. Từ Câu: “Nên sự luận bàn vội vàng, hời hợt” trở xuống: là đoạn hai bác bỏ kiến giải khác. Khoảnh chỉ cho thời gian ít ỏi. Trong hoàn cảnh như thế, các nhà soạn luận. Hầu hết đều không giống nhau. Lại cho lấy hư vô làm tông chỉ để bàn về lẽ huyền diệu nên chỗ luận bàn ấy chẳng đạt được sự thật, trở thành các kiến giải khác nhau. Câu: “Ôi! Đem những cái chẳng giống nhau để tạo sự đại đồng thì đâu còn vật gì có thể đồng được!. Dó là dùng, thích là đi tới. Do tình ý khác nhau mà muốn có được chỗ đại đồng về lý thì do cái gì để đạt được? Có bản chép chữ Thích đều có nghóa là giải. Câu: “Cho nên các thứ luận giải tranh nhau xuất hiện, mà tánh chất thì chẳng giống nhau. Từ câu: “Tại sao? Là vì tâm không” trở xuống chính thức nêu ra chỗ luận bàn khác nhau của các nhà, chỗ luận bàn khác nhau ấy chẳng phải chỉ một nhà. Nay lược nói và bác bỏ ba nhà, số còn lại do đấy có thể nhận biết. Về tâm không: Nhằm đã phá kiến giải về Tâm không của Chi Mẫn Độ (đời Tấn). Sách Thế Thuyết nghi chú: “Chi Mẫn Độ sắp qua sông, làm bạn với một gã đạo nhân. Gã ấy nói: nếu dùng những nghóa cũ đi đến vùng Giang Đông, sợ chẳng thể giải thích để được đãi ngộ như trước. Bèn nói ra nghóa “Tâm không”. Đã qua sông, trong khi đạo nhân kia chưa mở miệng thì quả nhiên Độ Mẫn đã giảng nói về nghóa nọ. Sau có một anh chàng lang thang đi tới, gã đạo nhân trước nói: nếu không có tôi gợi ý thì nghóa “Tâm không” của Mẫn Độ đâu thể lập được. Pháp này là phương tiện để cứu độ hoàn cảnh đói khát, không thực hành thì phụ ơn của Như lai”. Từ đó về sau, nghóa ấy được lưu hành rộng khắp. Sách Cao Tăng Truyện chép: “Sa-môn Đạo Hằng, tài năng đức độ không mấy, thường chấp vào nghóa “tâm không”. Thuyết ấy truyền đến vùng Kinh Châu. Đại sư Trúc Pháp Thái nói: “Đó là tà thuyết, phải nên phá bỏ.” Bèn nhóm họp đông đủ các bậc danh tăng, sai đệ tử mình là Đàm nêu câu hỏi. Đàm dựa theo kinh, dẫn lý bác bỏ về nhiều mặt, liên tục. Đạo Hằng chống gậy đứng vững miệng biện bạch cả ngày, không chịu khuất phục. Sáng hôm sau lại nhóm họp. Đại sư Tuệ Viễn đến tham dự, lần lược công kích, trách cứ, nói câu hỏi, lời ý thật sắc bén, dữ dội. Đạo Hằng tự biết kiến giải của mình là sai lạc, thần sắc dần dần thay đổi, sau cùng thì khua gậy gõ bàn, chưa hỏi đã đáp. Tuệ Viễn nói. “Chẳng cần vội vàng như thế khác nào con thoi ở khung cửa”. Cả chúng hội đều cười ồ. Nghóa về “Tâm không” từ đó mới dứt. Nay pháp sư Tăng Triệu cũng nhằm đã phá kiến giải ấy, nên trước nói tông chỉ, sau mới đã phá. Câu: “không tâm đối với muôn vật mà muôn vật chẳng hề không”. Nghóa là trong kinh nói “không”, chỉ nhằm khiến đối với vật không nên sinh tâm chấp trước, nên gọi là không, nhưng vật thì có chẳng hề là không. Câu: “Đó chính là chỗ được ở chỗ thần tónh, mà mất ở chỗ vật hư”: chính thức đả phá kiến giải kia. Có thể đối với pháp hoàn toàn không chấp trước nên gọi là được. Chẳng biết tánh của vật là không nên gọi là mất. Từ câu: “Tức là sắc” chỉ rõ sắc chẳng phải tự là sắc” trở xuống: là phần tiếp theo thứ hai đả phá kiến giải trong “Tức sắc du Huyền Luận” của Chi Đạo Lâm (đời Tấn). Nay xem “Tức sắc Luận” của Pháp sư đạo Lâm không có lời ấy, nhưng trong “Lâm pháp sư tập” thì lại có chương Diệu Quán chép: “Gọi là tánh của sắc, chẳng tự có ở sắc, Sắc chẳng tự nó là sắc, nên tuy sắc mà là không”.Văn được nói dẫn chính là văn ở đây. Câu: “Gọi là sắc là chỉ cho tự sắc vốn là sắc, đâu phải đợi sắc mới được gọi là sắc, sau đó mới thành sắc đâu”: Đây cũng là ý ở câu nói của pháp sư Đạo Lâm. Nếu sắc hiện có tự nó là sắc, thì có thể gọi là có sắc. Nếu đợi duyên hợp mới thành sắc thì sắc chẳng phải sắc được xác định. Cũng có thể cho rằng: nếu đợi sắc nhỏ nhiệm trở thành sắc thô, thì sắc chẳng phải sắc được xác định. Câu: “Ở đây chỉ nói sắc chẳng tự là sắc, chưa lãnh hội được cái chẳng phải sắc của sắc”. Phần đả phá chính. Có bản chép là ngữ có bản chép là ngộ đều thích hợp cả. Ở đây ý nói Pháp sư Đạo Lâm chỉ biết rằng sắc chẳng tự là sắc, do nhân duyên mà thành, nhưng chưa biết sắc gốc là không, vẫn còn ở chỗ giả có. Từ Câu: “Bản vô” trở xuống: là phần ba nhằm đả phá kiến giải về “Bản vô nghóa” của Trúc Pháp Thái (Đời Tấn). Câu: “Rõ là ý chuộng ở vô, hầu hết sự tiếp xúc, diễn đạt”. Tức tình cảm phần lớn đều sùng thượng Vô, mọi sự tiếp xúc diễn đạt đều hướng về Vô. Tân là khác, khác đều hướng tới chủ. Nay theo tông chỉ của quan điểm “Bản Vô” thì mọi ngôn từ đều quy về Vô. Sách Nhó Nhã chép: “Tân phục”, Tân nghóa là khâm phục. Nói khâm phục ở Vô, nên biết là Tân Vô. Câu: “Nên nói chẳng phải có (Phi hữu) thì chấp có tức không, nói tới chẳng phải không (phi vô) thì chấp cũng là không”. Nghóa là trong kinh nói “chẳng phải có” (Phi hữu) thì cho là không có cái hữu ấy; nói “Phi vô” thì cho là không có cái vô kia. Câu: “Nếu thấu đạt bản ý lập ngôn của bậc Thánh”. Có bản chép là Văn, có bản chép là vô, nay dùng chữ Văn. Nghóa là tìm bản ý qua văn kinh. Câu: “Thì khi nói “phi hữu” tức chẳng phải thật có; khi cho chẳng phải không tức chẳng phải thật không”. Chân là thật, chẳng phải xác định thật là có, nên gọi là “Phi Hữu”, chẳng phải xác định thật là không, nên gọi là “Phi vô”. Câu: “Chứ đâu phải “chẳng phải là có” chẳng có cái này, “chẳng phải là không” không có cái kia” tức không cho rằng “chẳng phải là có” là không hề có cái này, “chẳng phải là không” là không hề có cái kia. Câu: “Đó chính là sự luận bàn của người xưa chuộng về cái vô” chính là ưa chuộng, sùng thương đối với vô, nên mói tiếp xúc, diễn đạt đều hướng về vô. Câu: “Đâu thể cho là thuận hợp với sự thật, đạt đến chỗ “Ngay nơi vật là chân” chẳng thuận hợp với tình thật của muôn vật, chẳng đạt đượct thật tánh của sự tức vật. Từ Câu: “Hễ lấy tên để đặt tên cho vật” trở xuống: là đoạn ba, nói về việc soạn luận. Lấy vật được gọi tên, tên gọi ấy có vật, nên cho là lấy tên để đặt tên cho vật. Lấy vật được gọi tên, nhưng tên gọi chẳng phải vật, nên gọi là lấy tên để đặt tên cho nên chẳng phải vật. Lấy vật được gọi tên, tên gọi ấy có vật, thì có thể đặt tên cho vật có vật thể ấy, nên gọi là “Thì vật có vật thể để được gọi tên”. Lấy vật được gọi tên, nhưng tên gọi ấy chẳng phải vật thì không thể đặt tên cho vật không có vật thể, nên gọi là chỉ có tên gọi mà không có vật”. Câu: “Cho nên, vật chẳng phải do tên gọi mà thành vật thật:” Thể của vật tự có riêng, chẳng phải do tên gọi mà là được xem vật thật. Câu: “Danh cũng chẳng phải do vật mà nên danh đúng nghóa:” danh tự tại cũng riêng biệt, chẳng phải nhờ vật thể làm cái thật của danh. Câu: “Thế thì chân đế riêng vắng lặng ở ngoài tên gọi, hình tướng, giáo pháp:” trở xuống: vật của tục đế thì chỉ có danh mà chẳng là thật, thật chẳng là danh. Lý của chân đế thì mọi tên gọi, giáo pháp đều chẳng đạt tới. Nên gọi là riêng vắng lặng ngoài tên gọi, hình tướng, giáo pháp. Đã chẳng phải là chỗ đạt đến của tên gọi, giáo pháp, thì ngôn ngữ, văn tự đâu thể giải thích được chân đế? Câu: “Nhưng chân lý cần được hiển bày, nên chẳng thể nín lặng, mà phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện nhằm luận bàn”. Đỗ là lấp, về chữ Thố sách tiểu nhã ghi là Thố Trí là sắp đặt, thi thố, nay chép chữ Thố này, nghóa cũng như nhau. Diệu lý tuy chẳng thể nói bày nhưng thử dùng ngôn từ để diễn đạt lý mầu. - Từ Câu: “Luận Ma-ha-diễn chép: “Các pháp chẳng phải có tướng, cũng chẳng phải không có tướng” trở xuống: là phần thứ hai của luận văn nhằm biện chính, văn phần này gồm sáu đoạn: 1/ Nói dẫn giáo pháp để nói về không. 2/ Dựa vào lý để nói về không. 3/ Lại dẫn giáo pháp để nói về không. 4/ Lại dựa vào lý để nói về không. 5/ Theo danh thật để nói về không. 6/ Kết hợp để nói về không. Nói dẫn giáo pháp, dựa vào lý, sở dó khác nhau là vì, nói dẫn giáo pháp thì trước phải dẫn kinh, sau đó mới giải thích trọn vẹn. Còn dựa vào lý thì trước phải nói rõ lý do, sau đó mới dẫn kinh, luận để giải thích, chứng minh. Nói dẫn giáo pháp để nói về không: chia làm ba đoạn nhỏ a/ Nói dẫn hai luận để nói về không. b/ Giải thích ý của hai luận. c/ Dẫn kinh để chứng minh. a) Nói dẫn hai luận để nói về không: nói Luận Ma-ha-diễn tức là luận Đại Trí Độ. Chỉ chung về ý nghóa của một bộ luận, cũng có thể chỉ riêng một đoạn văn trong luận thôi. Văn chép: “Ví như ảnh trong gương Chẳng phải gương hay mặt Chẳng phải là có không.” Còn trong luận thì cũng như vừa nói. Văn Trung Luận chép: “Nếu như chẳng có hữu Thì làm sao có không Có không đã là không Thì ai biết là không?” Câu: “Đó là chân đế bậc nhất” Hai đoạn vừa dẫn trên là văn của hai luận (Đại Trí Độ và Trung Quán). Còn nói “Đệ nhất” là lời của pháp sư Tăng Triệu nói về sự giảng nói của hai luận. Nghóa đế Đệ nhất cũng gọi là chân đế, nên hợp lại để nói. b/ Từ Câu: “Cứu xét về sự chẳng phải có chẳng phải không ấy” trở xuống là đoạn nhỏ thứ hai, giải thích ý nghóa của hai luận. Câu: “Há cho là gội sạch, muôn vật, bít lấp mọi thấy nghe” kế là câu khởi vi địch trừ vạn vật đỗ tắc thị thính. Đích trừ là rửa sạch, tẩy sạch. Lão tử nói “địch trừ huyền lãm năng vô tùy hồ” (Gội rủa tâm linh cho không còn chút bợn, được chăng? (chương 10. Theo Bồ-đề của DHL). Nay mượn hai chữ “địch trừ” trong câu ấy. Chứ đỗ cũng là lấp, bít. Về chữ Tịnh Liêu, Lão Tử nói: “Tịch hề liêu hề, độc lập chi bất cải” (Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi! (ĐĐK, chương 25, theo Bồ-đề của NHL). Người chú giải chép: “không âm thanh gọi là Tịch, không hình sắc gọi là Liêu. Yù này nói: “chẳng phải là dứt trừ không mới là Chân đế”. Câu: “Thật ra do tức vật thuận thông nên vật chẳng hề nghịch lý”. Thành là tin thật. Tức cái có của muôn vật là không nên gọi là thuận thông, thuận hợp thông suốt nên không trở ngại, trái nghịch. Câu: “Do ngay nơi giả là chân” nên tánh không hề chuyển đổi”; tức tục đế là giả, chân đế là chân. Chẳng thể gọi là cải biến tục đế để biện minh riêng về chân đế. Câu: “Tánh không chuyển đổi tuy không mà là có”. Tức có mà không, nên tuy không mà là có. Câu: “Vật chẳng hề nghịch lý, nên tuy có mà là không”. Tức muôn vật thuận hợp với tánh không, nên biết tuy có mà là không. Câu tiếp theo: “Tuy có mà không thì đó là phi hữu (chẳng phải có): Tuy có mà là không, nên biết chẳng phải nhất định có. Câu dưới ngược lại với ý này. Câu: “Như vậy thì, chẳng phải là tuyệt đối không có vật, chỉ là vật ấy chẳng phải là vật thật mà thôi”. Chẳng phải không vật, nói chẳng phải là không(phi hữu), cũng có thể cho rằng, chẳng phải là không vật, chỉ là vật ấy chẳng phải là vật thật có. Câu: “Vật chẳng phải là vật thật, thế thì ở đâu có vật để có thể gọi?” đã gọi chẳng phải là thật, thì ở chỗ nào có vật ấy? c/ Từ Câu: “Nên kinh nói” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ ba, nói dẫn năm kinh để chứng minh: Dẫn kinh Duy-ma: kinh chép: “Sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không” có nghóa là tánh của sắc tức là không, chẳng phải là diệt bỏ sắc rồi mới không. Nhưng dùng chữ Bại là ở bản dịch cổ, bại cũng là nghóa diệt mất. Câu: “Để làm rõ ý của Bậc Thánh đối với muôn vật, tức muôn vật tự nó là không”, nói bậc Thánh nhận biết tánh của muôn vật tự nó là không Câu: “Đâu phải đợi phân tích, mổ xẻ rồi mới là không. Sách Tiểu Nhã chép: Tể là xử trí, cát là cắt đứt, tức sắc là không, chẳng phải mổ xẻ, hủy hoại, sau đó mới thông tỏ là không. Câu: “Do đó, “Tẩm Tật” có lời bàn luận mang nghóa “Phi chân” “Siêu nhật có mang ý nghóa “tức hư”, trước dẫn một kinh, ở đây dẫn hai kinh, sau dẫn lại hai kinh. “Tẩm Tật” (nằm bệnh) là chỉ cho kinh Duy-ma. Kinh nói: “Bồ-tát bị bệnh chẳng phải là thật, chẳng phải là có. Chúng sinh bị bệnh cũng chẳng phải thật, chẳng phải có. Siêu nhật minh. Kinh này nói: “chẳng có thọ, chẳng có sự giữ lấy thân mạng vì bốn đại là chẳng thật!” Câu: “vậy nên văn ngôn của ba tạng kinh điển tuy khác nhau nhưng đều quyền một mối”: Ba tạng là Tu-đa-la, Tỳ-đàm, và Tỳ-ni tuy về ngôn từ diễn đạt có sự khác nhau nhưng lý thì thâu tóm về một, tức chung cuộc đều quy về Không rốt ráo. Câu: “Nên kinh Phóng Quang Bát-nhã có câu: “Chân đế đệ nhất thì không thành tựu, không đạt được” trở xuống: theo nghóa đế đệ nhất thì không có thành Phật, không có đạt được Niết-bàn, còn thế đế thì có. Câu: “Hễ có đạt được (Hữu đắc) tức là danh hiệu giả tạo của vô đắc trở xuống là: Các bản đều chép là “Thành đắc tắc thị vô đắc chi ngụy hiệu thành tựu, đạt được tức là danh hiệu giả tạo của vô đắc) nay dựa theo bản xưa, dùng chữ Hữu đắc là thích hợp. So sánh với câu vô đắc ở dưới, thì ý nghóa cũng như thế. Thật là vô đắc, mà nói hữu đắc tức là danh hiệu giả tạo. Vô đắc thì trái lại với ý ấy. Câu: “kinh hiệu chân thật, tuy chân mà chẳng phải có”: các bản đều chép “Tuy đạt được mà chẳng phải đạt được”. Nay dựa theo bản xưa“Tuy chân mà chẳng phải có”. So với câu “Danh hiệu giả đạo” ở dưới thì ý nghóa cũng vậy. Tuy gọi là danh hiệu chân thật nhưng chẳng phải có. Danh hiệu giả tạo thì trái với ý này. Câu: “Bởi thế nói chân chưa hề có”. Tức trở lại với hai câu trước. Câu: “Hai lời chưa hề là một” trở xuống. Hai lời chân giả chăûng phải một, mà hai lý Hữu, Vô thì chẳng khác. Câu: “Nên kinh nói “chân đế, tục đế, cho là khác nhau sao?” trở xuống. Đây là sự hỏi đáp đối với phẩm Đạo Thọ, thuộc quyển thứ hai mươi hai của kinh Đại Phẩm Bát-nhã. Câu: “Kinh này chính là biện giải” trở xuống. Giải thích ý nghóa của sự hỏi đáp trong kinh đã nói trước. Câu: “Chân đế,để làm rõ tính chất của chẳng phải có” trở xuống: dựa vào chân thì chẳng phải có, dựa vào tục thì chẳng phải không. Câu tiếp theo: “Há do có hai…” tức chẳng do tên đế có hai (chân tục) mà do thể của pháp cũng có hai. Từ câu: Thế thì muôn vật quả thật có, cái sở dó “chẳng có” trở xuống: là đoạn hai: dựa vào lý để nói về không. Văn đoạn này chia làm hai đoạn nhỏ: a/ Chính thức dựa vào lý để nói về không. b/ Dẫn hai kinh để chứng minh cho kết quả đạt được. Nói nhiên tắc tức là nếu thế thì là không, quả là quả của tức nghóa quyết định. Cho là ý nghóa ấy. Muôn vật có nghóa “chẳng có”, có nghóa “chẳng không”, nên gọi như thế. Câu: “có cái sỡ dó “chẳng có”, nên tuy có mà chẳng phải có” trở xuống. Các bản đa số đều chép: Nay so lại với bản xưa thì đúng là phải chép Bất hữu. Nghóa của câu văn cũng nên như thế mới thích hợp. Người cho rằng muôn vật là có. Nay nói muôn vật có nghóa chẳng có, nên tuy có mà chẳng phải thật có. Câu tiếp theo thì trái lại với ý câu này. Câu: “Tuy không mà chẳng phải không, thì cái không ấy chẳng dứt bặt với hư” tuy không mà chẳng là, không quyết định là, thì cái không ấy chẳng giống với cõi vắng lặng lớn lao, hoàn toàn dứt hẳn. Câu tiếp theo thì trái với ý này. Câu: “Nếu có chẳng phải là chân, thì không cũng chẳng đoạn diệt” có chẳng phải quyết định là có, nên nói chẳng phải chân. Không chẳng phải mất hẳn, nên gọi là chẳng đoạn diệt. Di là ngang bằng. Lão Tử nói: “Nhìn không thấy gọi là Di”. (Chương 14, theo bd của dkl). Tích là dấu vết của sự tướng, tức sự vật là không, chẳng phải đợi “di bình” (dứt bặt hết) sau đó mới là không. Câu: “Thế thì có không tuy tên gọi khác nhau nhưng ý nghóa là một” Tức tên gọi là khác mà có lý là một. Từ câu: Nên đồng tử khen gọi rằng” trở xuống: Là đoạn nhỏ thứ hai dẫn hai kinh minh chứng cho kết quả: Đồng tử tức là cậu bé con của trưởng Giả Bảo Tích trong kinh Duy-ma. Đồng tử khen ngợi: “Phật giảng nói chánh pháp chẳng phải có cũng chẳng phải không, đều từ nhân duyên mà có” Câu: “Kinh An Lạc nói” Đó là kinh Đại An Lạc. Trong kinh này, phần đầu quyển 13, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi: “Tất cả Chư Phật xoay bánh xe pháp là có chuyển hay không chuyển? Phật dạy: chánh pháp của Chư Phật, chẳng có chuyển cũng chẳng không chuyển. Bồ-tát Văn-thù lại hỏi: Thế nào là chẳng chuyển, cũng chẳng không chuyển? Phật đáp: các pháp là không, nên cũng không có chuyển, cũng chẳng không chuyển. Câu: “Đây chính là những lời mầu nhiệm của các kinh” tức là những lời vi diệu trong các kinh. Từ Câu: “Vì sao? Vì nếu cho vật là không thì người chấp đoạn chẳng phải mê lầm hay sao? trở xuống: là phần tiếp theo giải thích ý nghóa trong văn hai kinh được dẫn. Tà kiến là chấp không. Nếu cho vật nhất định là không thì tà kiến thật chẳng phải là mê lầm? Câu: “còn nếu cho vật là có thì kẻ chấp thường là đúng sao?” thường kiến là chấp có. Nếu cho vật nhất định là có thì kẻ chấp thường thật chẳng phải là mê lầm hay sao? Câu: “Do vật chẳng phải là không” trở xuống trở lại với ý ở câu trên, có thể nhận thấy. Câu: “Như vậy, chẳng phải có, chẳng phải không, là sự bàn luận đáng tin về chân đế.” Tức chẳng phải có, chẳng phải không, là giáo của chân đế. Từ Câu: “Nên kinh Đạo Hành chép: Tâm chẳng phải có cũng chẳng phải không” trở xuống: là chương thứ ba: lại dẫn giáo pháp để nói về không. Văn phần này chia làm hai đoạn. Trước dẫn một kinh một luận để nói về không. Sau, chỉ dẫn một luận để nói về không. Đoạn trước chia làm hai đoạn nhỏ: a/ Chính thức dẫn một kinh một luận để nói về không. b/ Giải thích văn của kinh luận được dẫn. Câu: “Trung Luận chép” ở đây là dẫn chung về ý của Trung luận, cũng có thể là kệ trong phẩm Tứ Đế, kệ chép: “Pháp từ nhân duyên sinh Ta nói tức là không Cũng gọi là giả danh Cũng là nghóa Trung Đạo.” Câu: “Suy xét về lý thì đúng như vậy” tức chỗ giảng nói của kinh, luận ấy về lý thì đúng như thế. Từ Câu: “sở dó như thế là vì” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ hai giải thích về ý trong văn của kinh luận được trích dẫn. Văn được chia làm hai: trước giải thích “chẳng phải có”, sau giải thích “chẳng phải không”. Câu: “Đâu phải đợi duyên hợp rồi mới có”, có nếu nhất định là có, thì chẳng cần phải đợi duyên sinh mới có. Câu: “còn như cái không, nếu là thật không” trở xuống: ở đây nói lên cái không của cõi rỗng lặng mênh mông, để dụ cho cái có. Câu: “Nếu có chẳng thể tự có, đợi duyên hợp rồi mới có” trở xuống: có đợi duyên hợp mới có thì biết rõ chẳng phải thật có. Câu: “Có chẳng phải thật có” trở xuống là kết hợp để nói về không. Câu: “còn về chẳng không” trở xuống: giải thích “chẳng phải không”. Câu: “Hễ là thật không thì nó yên tịnh chẳng động” trở xuống: Nếu là yên tónh bất động mới gọi là không. Câu: “Muôn vật nếu là không thì chẳng nên sinh khởi”: nếu không nhất định là không thì chẳng nên duyên hợp mà sinh khởi. Câu: “Đã sinh khởi thì chẳng phải không” do duyên khởi mà sinh nên biết chẳng phải không. Câu: “Do thấy rõ tính chất duyên khởi nên chẳng phải không”. Nhận biết rõ duyên khởi nên chẳng phải không. Mà dùng chữ Dó tức là Đem dùng. Từ Câu: “Nên Luận Đại thừa chép” trở xuống: là đoạn hai đơn dẫn một luận để nói về không, văn đoạn này chia làm hai: a/ Chính thức dẫn luận. b/ Giải thích ý của văn luận được nói dẫn. Câu: “Tất cả các pháp, do tất cả nhân duyên sinh, nên chẳng phải có” các pháp đều từ nhân duyên sinh chẳng nhất định là có. Câu: “Tất cả các pháp “không”, do tất cả nhân duyên sinh, nên là có:” các pháp vốn là không, từ nhân duyên sinh nên có. Câu: “Tất cả các pháp có, do tất cả nhân duyên sinh, nên chẳng phải có”: Các pháp từ nhân duyên mà có, do từ nhân duyên nên chẳng phải nhất định có. Từ Câu: “Cứu xét về lời nói có, không trở xuống: là đoạn hai, giải thích về ý của văn luận được nói dẫn. Từ trước đến giờ, hai phần đối nhau mỗi mỗi trái nhau. Trái nhau như thế nhưng thật sự chẳng đúng. Suy xét về ý của lời ấy thì rõ ràng nói về Trung đạo chẳng phải có chẳng phải không. Câu: “ở đây, lý là một mà gọi thành hai. Xem văn hình như chẳng giống”: chỉ là một vật, mà nói chẳng phải có chẳng phải không nên cho là “gọi thành hai”. Nói chẳng phải có (Phi hữu) thì như khác với chẳng phải không (Phi vô). Nói chẳng phải không thì hình như khác với chẳng phải có. Nên nói là chẳng giống nhau. Câu: “Nếu lãnh hội được chỗ giống nhau ấy thì không có sự khác nhau nào mà chẳng giống nhau”, cẩu là vả chăng, nếu như. Chỗ đồng ấy tức là Trung đạo. Nói chẳng phải có chẳng phải không đều nhằm nói về Trung đạo, Trung đạo đã đồng nên không gì mà chẳng đồng. Từ Câu: “Vậy thì muôn pháp quả thật có cái sỡ dó chẳng có” trở xuống: là đoạn chính thứ tư, lại dựa vào lý để nói về không. Văn đoạn này chia làm ba: a/ Chính thức nói về không. b/ Trở lại giải thích. c/ Dẫn kinh để chứng minh cho kết quả. Dựa vào lý thì ý giống với chương trước. Từ Câu: “Tại sao? Muốn nói là có” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ hai, lại giải thích lý đã dẫn. Câu: “Thì cái có ấy chẳng phải là thật sinh” Nhân duyên giả hợp mà sinh, nên chẳng phải thật sinh. Chẳng phải thật sinh nên chẳng được gọi là có. Câu: “Sự việc hình tượng đã hình thành: muôn sự vật, muôn hình tượng, đều đã được hiện rõ hình tướng. Đều đã hiện rõ hình tướng thì chẳng được nói là không. Câu: “Đã là hình tượng thì chẳng phải không, chẳng phải thật không, chẳng phải thật có”: Sự vật hình tượng đã hiện rõ hình tướng thì chẳng phải “Tức là không” có, chẳng phải là thật sinh thì chẳng phải là có nhất định. Câu: “Thế thì ở đây, nghóa “Bất chân không” đã hiện bày” chính do chẳng phải là có chân thật, nên gọi là “Bất Chân”. Đã chẳng phải là thật có, cho nên gọi là không. Luận được đặt tên là “Bất chân không” là theo ý nghóa ấy. Từ Câu: “Nên kinh Phóng Quang Bát-nhã chép” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ ba, dẫn kinh để chứng minh cho kết quả. Câu: “Ví như người huyễn hóa”, ở đây có ba cách đọc: Đọc liền ba câu chung thành một đoạn. “Thí như huyễn hóa nhân” là một câu, hai câu sau cùng gắn liền với nhau. “Thí như người huyễn hóa chính là người huyễn hóa” là một câu, còn phần sau là một đoạn. Nay theo cách đọc thứ nhất. Huyễn hóa đổi khác: từ không dấy khởi thành có là hóa, từ có sinh ra có là huyễn. Câu: “Chẳng phải không có người huyễn hóa, nhưng người huyễn hóa chẳng phải là người thật”: chẳng phải không tức là “Phi vô”, chẳng phải thật tức là “Phi Hữu”. Từ Câu: “Hễ lấy danh để tìm vật thì vật không có thật để được gọi tên” trở xuống: là đoạn lớn thứ năm, y theo danh, thật để nói về không. Văn đoạn này gồm có hai: a/ Chính thức nói về không b/ Dẫn kinh, luận để chứng minh cho kết quả. Dùng danh để lấy vật, thì vật chẳng phải cái danh ấy, nên gọi là “Vật không có thật để gọi tên.” Câu: “Lấy vật để làm danh, thì cái danh ấy không có công dụng để đạt được vật”: Dùng vật để lấy danh, thì danh chẳng phải vật âý, nên gọi là “Cái danh ấy không có công dụng để đạt được vật.” Câu: “Vật không có chỗ thật để gọi tên” trở xuống: là lại giải thích câu trước. Câu: “cho nên, danh chẳng xứng hợp với thật” trở xuống: lại giải thích câu trên. Làm rõ danh chẳng phải thật, thật chẳng phải danh. Câu: “Danh là thật chẳng xứng hợp thì muôn vật ở đâu?” danh chẳng xứng hợp với thật, thì danh chẳng phải danh. Thật chẳng xứng hợp với danh, thì thật chẳng phải Thật. Danh- Thật chẳng xứng hợp với nhau vì muôn vật đều là không. Nên gọi là ở đâu? Từ Câu: “Nên Luận Trung Quán chép” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ hai dẫn kinh, luận để chứng minh cho kết quả. Trước nói dẫn trong luận Trung Quán, sau dẫn kinh Thành Cụ. Câu: “Vật không có đây kia”: là ý nghóa trung trong luận Trung Quán, cũng có thể chỉ riêng cho một câu kệ trong phẩm Quán khổ của luận ấy. Kệ chép: “Tự tạo nếu chẳng thành Làm sao lại tạo khổ Như người ấy tạo khổ Thì cũng gọi là tạo.” Nay tác giả chọn lấy ý ấy để chứng minh ngược lại. Câu: “Nhưng kia đây chẳng hề định vào một tên: trở xuống: đây chẳng nhất định là đây, kia chẳng nhất định là kia, mà kẻ mê lầm cho là nhất định có kia đây. (Nguyên văn trong luận: Tất nhiên là quyết định, Chí là ý chí. Yù có sự ghi chép, bày tỏ nên gọi là chí. Câu: “Vậy nên kia đây vốn chẳng phải có, kẻ mê lầm vốn chẳng phải không” kia đây đã không có tính chất cố định, nên gọi chẳng phải có. Đối với kẻ mê lầm thì khởi đầu là chẳng không. Câu: “Đã tỏ ngộ kia đây chẳng phải có, thì đâu có vật gì để chấp là thật”: đây- kia ở nơi vật đã là không, nên đây kia lại không có vật. Câu: “Nên biết muôn vật chẳng phải chân, từ lâu vốn giả danh”. Hiệu là Danh, do chẳng phải là chân là giả, nên gọi là Không. Câu: “Do vậy, Thành Cụ gượng lập danh để gọi” trở xuống: nên dẫn kinh Thành Cụ và kinh Đại Phẩm để chứng minh cho chỗ đạt được. Trước dẫn kinh Thành Cụ và lời của Trang Tử, sau dẫn kinh Đại Phẩm. Trích dẫn kinh Thành Cụ và lời nói của Trang Tử, để giúp tạo thành nghóa ấy. Kinh Thành Cụ Quang Minh Định Ý chép: “Pháp ấy vốn không thật có, chỉ gượng đặt tên để gọi”.Trang Tử nói: “Dùng ngón tay để dụ rằng ngón tay chẳng phải ngón tay, dùng con ngựa để dụ rằng con ngựa chẳng phải con ngựa. Sao bằng dùng cái không phải là con ngựa để dụ rằng con ngựa chẳng phải con ngựa” (Nam Hoa Kinh, Tề Vật Luận, Đoạn C. theo Bồ-đề của NDC). Yù này cho rằng. Về ngón tay, con ngựa, mỗi thứ đều có một kia đây thì kia đây là không cố định. Mỗi thứ đều có một đúng sai, thì đúng sai cũng không cố định mà nói. “Vườn rừng (Viên lâm) là do Trang Tử từng giữ chức quan nhỏ “Tất Viên” nên gọi như vậy. Câu: “Như thế thì những lời sâu mầu, cao xa ở đâu mà chẳng có” không đây không kia, đó là lời nói sâu mầu. Kinh Thành Cụ cố nhiên là đã nói điều đó. Còn Trang Tử thì cũng điều giảng theo ý ấy. Câu: “Bởi vậy, bậc Thánh độ chúng sinh với trăm ngàn nẻo ứng hóa mà biến đổi” trở xuống: Do muôn pháp là không, nên bậc Thánh ứng biến mà chẳng hề bị cấu nhiễm. Ngàn muôn biến hóa ý nói là rất nhiều. Biến hóa chẳng phải một, nên gọi là ngàn hóa. Mê lầm điên đảo chẳng phải một, nên gọi là muôn sự mê lầm (Vạn hoặc) Tuy hành hóa hàng ngàn lượt, ra vào chốn sinh tử, mà chẳng hề bị sinh tử làm cho nhiễm đắm. Nên gọi là “không thay đổi”. Tuy đi vào muôn nẻo mê lầm, không gì là không làm, mà chẳng bị sự mê lầm điên đảo ngăn chận, che lấp. Nên gọi là “Luôn thông hiểu”. Câu: “Tất do muôn vật ngay đó tự là không” trở xuống: Do pháp tự nó là không, chẳng nhờ ở quán mới biết là không, vì pháp vốn là không. Câu: “Kinh nói rõ: Bạch Đức Thế tôn! Thật hét sức mầu nhiệm” trở xuống: Trích dẫn kinh Đại Phẩm để chứng minh cho chỗ đạt được. Kinh viết: “Như lai an lập chúng sinh ở cõi chân”. Bản xưa chép là Lập Xứ, nay trích dẫn văn trong kinh Đại Phẩm (Bản xưa) để nói tất cả các pháp là cõi chân, có thể khiến cho chúng sinh nhận biết các pháp đều là cõi chân, nên gọi là “Các pháp được xây dựng”. Câu: “Chẳng phải lìa cõi chân mà có chốn để kiến lập” trở xuống: chẳng phải lìa cõi chân để kiến lập riêng chúng sinh nơi cõi chân, tức nói chúng sinh là cõi chân, nên gọi là “Ngay ở chỗ kiến lập túc là cõi chân rồi”. 6.Từ câu: “Thế thì đạo đâu có xa xôi” trở xuống: là đoạn lớn thứ sáu: kết hợp để nói về Không. Đạo là chân lý vô sinh diệt. Thánh là chân trí của Bát-nhã. Câu “đạo đâu có xa xôi” là nói chẳng xa vì sự tiếp xúc nào cũng đều là đạo, lại không có đạo riêng khác. Bậc Thánh cũng đâu có xa xôi, là nói chẳng xa xôi, vì thể nhập, tỏ ngộ điều ấy tức là Thánh, lại không riêng bậc Thánh có khác.  TRIỆU LUẬN SỚ <卷>QUYỂN TRUNG - Luận Bát-nhã Vô Tri: Bài Luận thứ ba này nói về Nhân, phát huy giáo pháp Bát-nhã. Nói Bát-nhã là phiên âm theo tiếng Phạm, Hán dịch là Trí Tuệ. Vô Tri: Tức không có lối nhận thức chấp giữ lấy hình tướng. Người thường đều cho Bát-nhã là trí thì có tri (hữu tri). Nếu có tri thì có sự chấp giữ, vướng mắc. Nếu chấp giữ vướng mắc thì chẳng khế hợp với lý vô sinh. Nay nói Bát-nhã là chân trí, không chấp giữ, không duyên dựa, tuy chứng đạt Chân đế mà không chấp giữ lấy hình tướng, nên gọi là vô tri. Từ câu mở đầu: “Sự vắng lặng nhiệm mầu của Bát-nhã” trở xuống là văn của toàn bài luận này gồm có ba chương: Bài Luận, Lưu Công (Lưu Di Dân) nói câu hỏi, pháp sư Tăng Triệu đáp lại giải thích. Văn của phần luận chia làm ba: 1/ Trình bày nguyên do của Bát-nhã. 2/ Chính thức nói lên tông chỉ của vô tri. 3/ Nói dẫn phần hỏi đáp. Trong phần trình bày, văn gồm bốn đoạn: 1- Nói tông chỉ. 2- Nói về pháp sư La-thập. 3- Khen ngợi vua Hậu Tần. 4- Nói về ý của luận. Nói tông chỉ: Pháp của Bát-nhã là vô tướng nên rỗng lặng (hư), u ẩn nên nhiệm mầu (huyền). Huyền là mầu đen, là sự u ẩn, sâu xa khó tính lường. Hà Thượng chú giải sách của Lão Tử dùng chữ Huyền Thiên, đây cũng dùng theo nghóa Trời cao xa khó thấy rõ. Câu: “Hẳn chính là tông chỉ tột cùng của Ba thừa, thật ra cõi Nhất chân không có sự khác nhau”. Cái là từ chỉ cho sự bất định, cho là đúng mà chưa dám khẳng định là đúng nên gọi là cái thị. Ba thừa đều có Bát- nhã, đều nhờ nơi Bát-nhã làm gốc của tông chỉ, đều lấy Bát-nhã làm chỗ tột cùng. Song có sự sâu cạn khác nhau, nên có sự khác nhau giữa lớn nhỏ. Do ý nghóa như thế nên tin Bát-nhã là chân, là duy nhất, không có pháp sai biệt. Câu: “Nhưng vì những kẻ ham chấp dị kiến tự nói lập tông phái để luận bàn, cho nên từ lâu nay, sự bàn luận kiểu ấy đã lan tràn khắp nơi”: pháp của Bát-nhã, lý tánh không sai biệt. Cho đến những người học hỏi giải thích có sự sai khác, vì họ chẳng thể thấu tỏ tánh Bát-nhã, nên các “Dị thuyết” chẳng giống nhau. Tức như tác phẩm của Pháp sư Tuệ Viễn nói: “Nghe sư Đạo Nhất cho đẳng trí là Bát-nhã, thật tình là chẳng chia sẻ được!” chính là sự việc ấy. Vì sao? Vì đẳng trí là trí cùng có, trên dưới giống nhau. Như kinh Niết-bàn nói: “Tất cả chúng sinh đều có ba thứ đẳng Trí.” Đó là dâm dục, sợ hãi và ăn uống. Người Tiểu thừa dựa vào đấy để lập ra Đẳng Trí. Đó là sự thô thiển, chưa phải là chỗ sâu mầu, đâu thể dùng trí ấy mà cho là Bát-nhã! Sư Đạo Nhất chẳng rõ nên cho trí ấy là Bát-nhã. Nay pháp sư Tăng Triệu cũng chỉ trích nghóa ấy nên viết như thế. Cũng có thể là người thường cho Bát- nhã là “Hữu tri” nên cho “Vô tri” là chẳng thể phân biệt. Nay gọi đó là các kiến giải khác nhau. Nói về pháp Sư La-thập: Từ Câu: “Có vị sa môn người Thiên-trúc” trở xuống: là đoạn thứ hai, trình bày về Pháp sư La-thập. Sách cao Tăng Truyện chép: “Thân phụ của pháp sư La-thập là con trai của một vị Tể Tướng nước Thiên- trúc, tên là Cưu-ma-la-diệm, được giữ chức vị của ông cha mình, nhưng lại lánh không nhận, đi về phía Đông đến nước Quy-tư. Vua nước này là Bạch-đôn có người em gái, thân toàn mầu đỏ hồng như yếm cua, theo đúng pháp sẽ sinh con là bậc tài trí. Vua các nước cùng đến vạm hỏi, nhưng cô gái đều không ưng thuận. Đến khi gặp Cưu-ma-la-diệm thì thấy ưng ý. Vua anh bèn ép diệm lấy Còn về tên Cưu-ma-la-thập thì vốn tên là Cưu-ma-la Kỳ-bà, Hán dịch là Đồng Thọ. Cha tên là Cưu- ma-la-diệm, mẹ tên là Kỳ-bà, nay gọi tên cha làm tên con nên gọi như vậy. Sau này, do người hiểu biết về nhiều thứ văn tự, nên gọi là Thập.” Đây là tóm tắt, lược lấy ý của truyện, chẳng phải toàn văn. Pháp sư Tuệ Hạo, tác giả sách “Cao Tăng Truyện”, đã viết như thế về tên Pháp sư Cưu-ma-la-thập. Các tài liệu khác không thấy nói tới đều này. Cho nên ý kiến ấy có thể đúng mà cũng có thể chẳng đúng em gái mình tức là mẹ sinh ra Pháp sư La-thập. Pháp sư sau khi xuất gia tu Phật, lại trở về Thiên-trúc, nên gọi là Pháp sư người Thiên-trúc. Vì sao? Nếu Pháp sư La-thập được như thế, tức là do giỏi hiểu biết về nhiều thứ văn tự ngôn ngữ, nên gọi là La-thập, thì trong Cao Tăng Truyện lại có một vị tăng người Ấn-độ, tên là Phật-đà-thập, cũng do giỏi về nhiều thứ văn tự, nên sau đó có tên gọi là Thập chăng? Điều này là chẳng đúng. Nên theo đó mà bàn thì chữ Thập như Cao Tăng Truyện nói chưa hẳn đã đúng. Câu: “Từ nhỏ đã đi theo phương lớn” (Thiếu tiễn đại phương), về chữ Đại phương, Lão Tử nói: “Đại phương vô ngung” (Hình Vuông cực lớn thì không có góc, nói về không gian, nó không có góc vì không biết góc nó ở đâu (Đạo Đức kinh, chương 4 1.Theo bd của DHL) nay tác giả mượn lời ấy, dùng để dụ cho giáo pháp Đại thừa. Pháp sư La-thập bảy tuổi xuất gia học đạo, trước học các luận Đại thừa, đến năm mười ba tuổi, theo Vương Tử Tu-lợi-da-tô-ma, con vua Tham Quân thọ học. Tô Ma có hai anh em. Anh tên Tu Lợi Da Bạt Đà, em tên Tu Lợi Da Tô Ma. Tô Ma là bậc có tài năng biện luận chẳng ai bằng. Anh mình cùng với nhiều người đều thọ giáo. Tô-ma vì La-thập giảng kinh A-nậu-đạt. La-thập nghe giảng về các pháp ấm, giới, đều không, vô tướng, cho là lạ, nên hỏi: “kinh này có nghóa như thế sao? Dường như là hủy hoại các pháp!” Tô-ma đáp: “Các pháp mắt, tai, mũi… chẳng phải thật có.” La-thập vốn đã chấp có các căn, vị thầy lại dựa vào đấy giảng nói là không thật. Vì thế, La-thập càng cứu xét kỹ về Đại thừa, Tiểu thừa, chỉ trong một thời gian gắn, liền biết rõ lý có chốn quy về, bèn chuyên tâm học hỏi các kinh Phương Đẳng. Nhân tìm hiểu rộng về các ý nghóa quan trọng, nên thọ trì đọc tụng các luận Trung Qúan, Bách Luận, Thập Nhị Môn, v.v… Do vậy mà gọi là “tuổi nhỏ đã đi theo phương lớn”. Lại nữa, chữ Đại Phương, cũng có nghóa là nước Thiên-trúc, La- thập tuy sinh ở nước Quy-tư, nhưng sớm hướng về Thiên-trúc. Câu: “Nghiên cơ tư thú”: (suy xét về căn cơ để hướng tới nẻo ấy) cơ là căn bản. Kinh Dịch có câu: Biết trước được các triệu chứng [từ khi mới có dấu hiệu] thì quả là thần diệu!) lại nói: “Triệu chứng là cái dấu hiệu đầu tiên rất nhỏ của sự biến động”. Hệ từ truyện. Thiên Thượng, chương Vô thường, bd của NHL). Chữ thì tuy khác với hiện nay (chữ cơ trong kinh Dịch viết cơ?). Nhưng nghóa thì hoặc có thể đồng, hoặc có thể khác. Gọi là đồng, vì dấu hiệu đầu tiên diễn tiến dần dần của sự biến động cũng là tâm. Nói chẳng đồng vì căn cơ chỉ nói về Tâm, còn dấu hiệu đầu tiên rất nhỏ của sự biến động thì luận chung cho tất cả các sự biến việc. Năm hai mươi tuổi, pháp sư La-thập ở trong cung vua của vua nước Quy-tư thọ giới, trú ở ngôi chùa mới xây. Lại ở chỗ cung xưa cạnh ngôi chùa, lần đầu tiên có được kinh Phóng Quang Bát-nhã, bèn đem ra đọc. Aùc ma đến che lấp câu văn, chỉ thấy toàn là giấy trắng. La-thập biết là ma đã làm việc này nên thệ nguyện trong tâm càng bền chắc. Ma bỏ đi và chữ trong kinh hiện rõ, Pháp sư bèn theo kinh mà đọc. Lại nghe trong hư không có tiếng nói: “ông là người trí, cần gì phải đọc sách ấy.” La-thập bảo: “Ngươi chỉ là loài ma nhỏ, nên biết thời mà đi mau cho khuất. Tâm ta vững như đất, không gì lay chuyển được!” Nay là nhằm chỉ cho việc ấy, nên gọi như thế. Câu: “Riêng vượt hơn đối với mọi biểu hiện của ngôn từ, hình tượng). Sách Chu Dịch có văn ngôn, Tượng, Từ. Nhờ văn Ngôn, Tượng, Từ mới hiển bày được đạo lý của Dịch. Vương Bật, trong sách “chu dịch Lược Lệ” nói rõ về Tượng, viết rằng: “Tượng là nói dẫn ra ý. Văn ngôn là sự biện minh về Tượng,” diễn đạt tận cùng về ý không gì bằng Tượng, diễn đạt tận cùng về tượng không gì hơn văn Ngôn. Ngôn sinh từ Tượng nên có thể dựa theo văn Ngôn để quán về Tượng. Tượng sinh tứ ý, nên có thể theo Tượng để lãnh hội ý. Yù dùng Tượng để nói bày tận cùng. Tượng dùng ngôn từ để làm sáng rõ. Nên ngôn từ dùng để nói về Tượng, đạt được tượng thì quên ngôn từ. Tượng là dùng để giữ lấy ý, đạt được ý thì quên Tượng. Do đó, chấp giữ ngôn từ thì chẳng đạt được Tượng, chấp tượng thì chẳng thấu đạt được ý. Tượng sinh từ ý, mà chấp giữ Tượng thì chỗ chấp giữ ấy chẳng phải Tượng. Ngôn từ sinh từ tượng mà chấp Ngôn từ, thì chỗ chấp giữ đó, chẳng còn là ngôn từ chân thật nữa. Thế thì phải quên Tượng mới đạt được ý, quên ngôn từ mới đạt được hình tượng. Nay tác giả mượn lời ấy để sử dụng. Ngôn, Tượng của Dịch vốn nhằm làm sáng tỏ đạo lý của Dịch. Pháp sư La-thập tỏ ngộ lý nhiệm mầu của Bát-nhã nên không nhờ Ngôn, tượng của Dịch. Câu: “Khế hợp một cách thần diệu nơi cảnh giới nhiệm mầu”. Khế là khế hợp. Sách thuyết văn nói: “khế hợp nẻo cốt yếu”. Xét chữ khế, bản in là yếu. Nhưng khế thì gồm cả thư hùng, biếu tượng cho người nữ. Hùng (nam) ở bên tả khế, thư (nữ) ở bên hữu khế. Lão Tử nói: chấp tả khế (cầm lấy phía bên trái tờ khế. (ĐĐK. Chương 79, theo bd của NHL) đó phải là nghóa này. Về chữ hy vi. Lão Tử nói: “nhìn không thấy gọi là vi. Nghe không tỏ gọi là hi, nắm lấy không được gọi là vi. Ba cái đó Di, Hi, Vi, tức vô sắc, vô thanh, vô hình, truy cứu đến cùng cũng không biết được gì, chỉ thấy trộn lẫn làm một thôi” (ĐĐK, chương 14, theo bd của NHL) của Bát-nhã và Pháp sư La-thập đã có thể khế hợp một cách thuần diệu. Câu: “Tề Di học ở Ca-di” (Phá trừ học thuyết của ngoại đạo ở Ca-di) Tề là làm cho chỉnh tề, Di học là các ngoại đạo. Ca-di là tên một nước ở vùng Trung Ấn-độ, Hán dịch là nước Xích Trạch. Nói Ca-di, ý nói là ở nơi nước vùng Tây Vực, phá trừ học thuyết của ngoại đạo, chứ chưa hẳn chính ở vùng Trung Ấn-độ. Sự việc ấy như sau: ở nước Ôn Túc phía Bắc nước Quy-tư có một ngoại đạo với tài hùng biện xuất chúng, danh tiếng lẫy lừng khắp chốn, tay vỗ mạnh vào trống lớn, tự thề: “Nếu tranh luận hơn ta thì xin chặt đầu để đáp lại” Pháp sư La-thập tìm đến, dùng hai nghóa để dùng khảo xét, thì ngoại đạo ấy mịt mờ, bỏ cuộc đảnh lễ quy y. nay tác giả Tăng Triệu nhắc lại để khen ngợi tài ba và đức độ của Pháp sư La-thập. Câu: “Đem gió thuần hòa để thổi ở phương Đông”. Phong là chỉ cho gió Tuệ của Bát-nhã. Cũng như ngọn gió thuần hòa. Đông phiến tức là quạt thổi ngọn gió Bát-nhã ở nước phía đông này. Việc ấy là: Thân mẫu của Pháp sư La-thập trước tiên đem con mình đến vùng bắc Ấn-độ, gặp một vị A-la-hán tên Đạt-ma-cù-sa. Vị này thấy La-thập có vẻ khác thường nên nói với người mẹ: “Nên thường giữ gìn! Vị Sa-di này đến lúc ba mươi lăm tuổi, nếu chẳng phá giới thì sẽ hóa độ người vô số, giống như Tôn giả Ưu-bà-cúc-đa. Nếu phá giới thì không có đối tượng nào có thể hơn được!” Điều này chính là nói rõ tài năng tuyệt vời của Pháp sư La-thập mà thôi. Bèn giao La-thập lại cho người mẹ. Sau lại đến Thiên-trúc, lúc sắp đi đã nói với La-thập: “Giáo pháp của các kinh Phương Đẳng rất sâu mầu, nên dốc lòng mở mang ở chốn Chấn Đán (Trung Hoa). Truyền bá sang vùng đất phía Đông, chính là nhờ tâm lực của ông!” La-thập thưa: “Đạo pháp của bậc Đại só là quên mình để đem lại lợi lạc cho muôn người. Nếu tạo được sự lưu truyền giáo hóa rộng khắp, giúp cho bao kẻ tăm tối ở thế gian được giác ngộ thì tuy thân sau này có bị đau khổ nơi cảnh thiêu đốt cũng không hề ân hận. Sau thì Pháp sư La-thập đã truyền bá chánh pháp đến xứ này, nên tác giả Tăng Triệu viết là “Đông phiến”. Câu: “Muốn cho ngọn đuốc soi sáng ở phương khác mà ánh sáng còn ẩn giấu ở đất lương”. Tương là nhằm; viên là ở nơi, đối với. Sách Tiểu Nhó Nhã chép: “Viên là thay đổi, sửa đổi”. Chúc là soi chiếu, soi sáng. Đất Lương tức là đất Lương châu. Nhà Lương có năm đều đại. Tiền lương của Trương Quỹ, Hậu Lương của Lữ Quang, Nam Lương của Thổ Phồn Ô Cô Tang, Tây Lương của Quý Cảo. Nay nói về Lương tức của Thư Cừ Mông Tốn (Bắc Lương). Năm Triều Lương đều đóng đô ở Cô Tang. Hai Triều Tiền Lương, Hậu Lương cùng đóng ở Cô Tang thì có thể nhận rõ. Nhưng về ba triều kia (Nam Bắc Tây) cũng đóng đô ở đất ấy thì cần lưu ý. Nam Lương đầu tiên đóng đô ở Vũ Uy, Tây Bình, sau dời đến Đông Đô, lại đến Cô Tang, sau thì trở lại đông đô. Tây Lương đầu tiên đóng đô ở Cô Tang, sau chuyển đến Tu Tuyền. Mông Tốn thì lúc đầu đống đô ở Trương Dịch, sau dời đến Cô Tang. Nay nói về Lương tức chỉ cho Bắc Lương của Mông Tốn. Câu này ý nói Pháp sư La-thập muốn đem ngọn đuốc chánh pháp chiếu sáng đất nước ấy, do đó, ở đất Lương, bậc tài trí còn ẩn giấu là có lý do. Sự việc này như sau: vua nhà Tiền Tần là Phù Kiên, vào tháng giêng niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ 13, quan Thái sử tâu: “Có ngôi sao hiện ra ở vùng trời nước ngoài, sẽ có bậc đại đức tài trí đi vào vùng giáp ranh giới Trung quốc.” Phù Kiên nói: “Ta nghe bên Tây có Cưu-ma-la-thập, đất Tương Dương có Thích Đạo An. Phải chăng là hiện tượng ấy?” Liền sai sứ đi tìm. Đến tháng chín năm thứ 18, Phù Kiên sai kiêu kî. Tướng quân là Lữ Quang, tướng quân Lăng Giang là khương Phi, thống lãnh bảy vạn quân binh sang đánh nước Quy-tư. Sáp lên đường, Phù kiên bày tiệc rượu tiễn Lữ Quang ở cung Kiến Chương, nói với Quang: “Bậc Đế vương thuận theo mệnh trời trị nước, phải hết lòng thương yêu muôn dân, như con, há vì ham đất đai mà gây chiến tranh hay sao! Chính là muốn có người hết lòng với đạo. Trẫm nghe bên Tây vực có Pháp sư Cưu-ma-la-thập, hiểu biết sâu rộng về Phật pháp, Trẫm hết sức kính mến. Bậc hiền triết chính là vật báu lớn của quốc gia. Như đánh thắng nước Quy-tư thì nên mau chóng hộ tống Pháp sư La-thập về.” Lữ Quang quả nhiên đánh thắng Quy-tư, đem La-thập về Đông độ, đi tới Lương Châu thì nghe tin Phù Kiên đã bị Diệu Trường diệt, lập ra nhà Hậu Tần. Quang bèn xưng vua ở ngoài quan ải. Quang qua đời, con là Thiệu nối ngôi. Con thứ của Quang là Toản, giết Thiệu, tự lên ngôi vua. Cháu gọi Quang bằng chú là Siêu giết Toản, lập anh của Toản là Long lên ngôi. Tất cả trải qua 18 năm, cha con của Lữ Quang chẳng mở mang được chánh đạo, bậc tài năng hiểu biết sâu rộng về đạo pháp không có nơi chốn để thể hiện, hành hóa. Nay, tác giả Tăng Triệu nhắc lại việc ấy. Câu: “Do đó, đạo chẳng ứng hợp một cách thông thật, ứng hợp phải có nguyên do”. Phù Kiên mất, đó chính là không còn nguyên do. Diệu Hưng xuất hiện, đó gọi là có nguyên do. Câu: “Niên hiệu Hoằng thỉ năm thứ ba” trở xuống: là niên hiệu của nhà Hậu Tần, vua Diêu Hưng. Hoằng Thỉ (năm399 TL) Câu: Vào năm Tinh kỷ Tháng sửu là tháng của sao Tinh Kỷ. Năm Sửu là xích Phấn Nhược (sao Thái Tuế ở nơi giờ sửu gọi là xích Phấn Nhược). Nay dùng tên tháng để nói thẳng về năm, nên gọi là Tinh Kỷ. Vì sao? Vì sách Nhó Nhã, giải thích tên gọi, cho rằng: “Năm Dần gọi là nhiếp đề cách (Tên năm Thái Tuế). Năm Mão gọi là Đơn Ất. Năm Thìn gọi là chấp Trừ (Theo đại từ điển). Năm Tî gọi là đại Hoang Lạc. Năm Ngọ gọi là đôn Tang. Năm Mùi gọi là Hiệp Hợp. Năm Thân gọi là Quân Than. Năm Dậu gọi là Tác Ngạc. Năm Tuất gọi là Yêm Mậu. Năm Hợi gọi là Đại Uyên Hiến. Năm Tí gọi là Khốn độn. Năm Sửu gọi là Xích Phấn Nhược. Về tháng thì: tháng giêng là Tích Mộc, tháng Hai là Đại Hỏa, tháng Ba là Thọ Tinh, tháng Tư là Thuần Vó, tháng Năm là Thuần Hỏa, tháng Sáu là Thuần Thủ, tháng bảy là Thật Trầm, tháng Tám là Đại Lượng, tháng chín là Giáng Lâu, tháng Mười là Thú Tuy (Theo Đại Từ Điển), tháng mười một là Huyền Kiêu, tháng mười hai gọi là kinh kỷ. Nay nói “niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ ba” chính là hợp với năm sửu, năm thuộc “Xích Phấn Nhược”. Hiện tại dùng tên gọi của tháng sửu để thay cho tên gọi của năm Sửu, nên nói là “Niên hiệu Hoằng Thỉ, năm thứ ba là vào năm Tinh Kỷ”. Có người cho rằng, tên gọi của mười mười hai tháng, mười hai tháng đều lần lượt cùng sử dụng không ở mãi một chỗ, nên dùng tên gọi của tháng để gọi cho năm. Câu: “Nhà Hậu Tần nhân việc nhập quốc ý mưu tính dấy binh mã để đưa Pháp sư La-thập về nước mình’. Các bản đều chép tám nước là không đúng. Nay dựa theo bản xưa ghi là “nhập quốc”. Sách “Tam Thập Quốc Xuân thu” chép: “Lữ Long sợ Nam Lương, Bắc Lương lấn áp nên dâng biểu tâu xin thần phục Hậu Tần” Long chuyển về với Hậu Tần. Người thừa kế sự nghiệp của Lữ Quang đến lúc này xem như chấm dứt. Vậy đây chính là Lữ Long “nhập” nước Tần chứ chẳng phải “tám nước”. Sách Cao Tăng Truyện chép: “Niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ ba, tháng ba, ở triều đình có hiện tượng hai nhánh cây từ một gốc sinh ra cùng lúc; ở vườn Tiêu Dao, cây hành biến thành rau kiệu; Triều Thần cho là điềm tốt, tức là bậc xuất chúng sẽ đến nước này. Tới tháng năm, Diêu Hưng sai Lũng Tây Công Thạc Đức đem quân đi về hướng tây đánh Lữ Long, quân của Long thua to. Đến tháng chín thì Long dâng biểu xin quy hàng. Diêu Hưng mới được đón La-thập vào đất Trường An” nên tác giả viết là “mưu tính của việc đi vào nước mình”. Sư là quân binh nhiều, dấy binh mã để đem được Pháp sư La-thập về nước mình. Câu: “Ý trời chăng! Vận số của vùng bắc Thiên-trúc đã rõ ràng như thế!) sách văn Tuyển, trong lời tựa của bài Phú Lỗ Linh Quang Điện chép: “Từ Tây Kinh đến cung Vị Ương đều thấy cảnh hoang tàn đổ nát, nhưng điện Linh Quang thì trơ trọi còn một mình. Yù trời chăng! Há chẳng phải là nhờ các bậc Thần Thánh sáng suốt đã hết lòng che chở, để giữ gìn cơ nghiệp của nhà Hán hay sao!” nay tác giả Tăng Triệu dựa theo văn ấy để viết, nhằm nói rõ việc Phù Kiên dấy binh mã sang Quy-tư để rước Pháp sư La-thập, việc chưa thành thì Kiên chết. Nay Diêu Hưng cũng làm việc ấy và thành tựu. Đây chính là vận số của vùng đất Bắc Thiên-trúc, vận số ứng hợp. Về từ “Bắc Thiên Trúc” thì kinh Đại Phẩm có câu: “Bát-nhã, sau khi Phật diệt độ, sẽ được truyền đến phương Nam, phương Tây, sau thì đến phương Bắc. Ở phương Bắc thì hết sức hưng thịnh”. Luận Đại Trí Độ giải thích: “Phương Bắc tức là Bắc Thiên-trúc.” Nay cho là vùng Bắc Thiên-trúc vận số chuyển biến mới đến cõi nước phía Đông (Trung Hoa). Từ Câu: “Bậc Thiên Vương nước Đại Tần” là đoạn ba, khen ngợi vua Hậu Tần là Diêu Hưng. Diêu Hưng ban đầu kế thừa sự nghiệp của cha mình, xưng là Hoàng đế, hiệu là Tần Vương, trăm quan đều hết lòng giúp sức, bèn đổi niên hiệu là Hoằng Thỉ. Nay tác giả không gọi là “Thiên Tử” mà gọi là “Thiên Vương” là nằm trong ý khen ngợi vua Tần. Câu: “Việc trị nước khế hợp với giềng mối của trăm vua”, trở xuống: đạo ở chỗ được thể hiện từ các vua trước, nên viết là “giềng mối của trăm vua”. Đức độ nhuần thấm cả đến đời vị lai, nên gọi là “ngàn năm về sau”. Câu: Dùng trí tuệ sắc bén để xử đoán bảo lãnh vực nhà việc nước là chỉ cho trí tuệ sắc bén. Về chữ Du nhận, sách “Nam Hoa kinh” của Trang Tử, nội Thiên, chương Dưỡng Sinh Chủ chép: “Bào đinh mổ bò cho Văn tuệ Quân. Lúc ra thịt, điệu bộ của tay động, của vai đưa, của chân đạp, của gối cung, tiếng da xương lìa nhau, tiếng dao cạo cắt đều trúng cung bực, hợp với điệu mưa Tang Lâm, với bài nhạc kinh Thủ. Văn Tuệ Quân nói: “Thật hay! Nghệ thuật đến đó là cùng!” Bào Đinh buông đao thưa. “Chỗ ưa thích của thần, là đạo. Ban sơ, lúc ra thịt một con bò, chỗ mà thần chỉ thấy là con bò. Về sau ba năm, thần không còn thấy con bò nữa. Bấy giờ thần không dùng mắt nhìn, mà dùng cái “Thần” để nhìn… người đầu bếp thường mỗi tháng thay dao một lần vì họ mà chặt. Nay con dao của thần đã dùng mười chín năm, số bò đã mỗ có trên ngàn con, vậy mà dao như mới mài xong. Các khớp xương kia như mới hở mà lưỡi dao này thì mỏng. Lấy cái bề mỏng của con dao mà đưa vào chỗ kẽ thì rộng có thừa…” (Nam Hoa kinh, chương Dưỡng Sinh Chủ, đoạn B. theo bd của NDC). Về chữ Vạn cơ, sách Thượng Thư, Cao Diêu Mô, viết: “Một ngày, hai ngày luôn thận trọng, lo sợ về chỗ nhỏ nhặt của muôn việc”. Nay viết chữ Cơ này cũng như là chữ Cơ đơn kia thôi ý nói là vua Tần. Diêu Hưng, bên ngoài có khả năng dùng trí tuệ sắc bén để xử lý nhanh nhẹn việc nước, bên trong có thể suốt ngày mở mang rộng khắp Phật giáo. Câu: “Tin vua Tần được muôn dân hết lòng kính ngưỡng như trời” trở xuống: Tín tức là tin đúng, tin thật. Quý là tên gọi về thứ lớp trong ba tháng của một mùa Mạnh, Trọng, Quý. Quý là cuối. Nghóa là tin vua Hậu Tần được muôn dân hết lòng kính ngưỡng như Trời. Chính là chỗ dựa vững chắc cho giáo pháp của Đức Phật Thích-ca để lại, chỗ dựa ấy cũng như cây gậy quý. Giáo pháp để lại nhờ đó mà được hưng thịnh. Về từ thương sinh. Thương là mầu xanh của bầu trời. Sách Nam Hoa kinh của Trang Tử, Thiên Tiêu Dao Du, có câu: “Còn màu trời xanh xanh kia, có phải là màu thật của nó không? (Nam Kinh Hoa Tiêu Diêu Du, đoạn A, theo bd của NDC). Nay cho mọi sinh vật do trời đất sinh là Thương Sinh, tức là muôn loài chúng sinh. Câu: “Bây giờ, bèn tập hợp các vị Sa-môn có học thức, đức độ) trở xuống: Bấy giờ, nhóm họp các tăng só. Nghóa học là có sự học hỏi, hiểu biết về nghóa lý. Nhà Hậu Tần lúc ấy có lập vườn Tiêu Dao, trong vườn có nhà cửa cao rộng, nên gọi là Tiêu Dao Quán. Pháp sư Tăng Duệ nói: “Gác Tây Minh ở vườn Tiêu Dao” (Tiêu Dao viên, Tây Minh các). Các cũng là Quán. Vườn Tiêu Dao ở phía Bắc thành cũ Tây Kinh, gần sông Vị. Câu “Vua Tần đích thân xem lại văn, cùng Pháp sư La-thập xét định về mặt ngôn từ các kinh phương đẳng): Pháp sư La-thập, vào ngày 20 tháng mười hai, niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ ba (401 TL) đến Trường An. Niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ năm. Ngày 23 tháng 4, ở tại vườn Tiêu Dao, đưa ra bản kinh Đại Phẩm đã dịch xong. Vua Diêu Hưng đích thân xem lại bản kinh cũ, so sánh xét kỹ chỗ hơn kém được mất. Nay tác giả nhắc lại việc ấy. Câu: “Ở nơi ấy nhằm khai triển mở rộng trở xuống”. Nói rõ việc vua Tần cung thỉnh các bậc Pháp sư dịch kinh, muốn cho giáo pháp được khai triển, mở rộng, chẳng phải chỉ giữ lấy lợi ích cho đương thời, mà còn là sự dắt dẫn, giúp đỡ cho các thời đại suy kém, loạn lạc. Về từ nhiều kiếp: Ý nói là đem lại lợi ích lâu xa cho đời vị lai. Từ Câu: “Tôi là người học thức kém cõi” trở xuống: là đoạn ngắn thứ tư, nói về ý của Luận, Đoản nghóa là học thức kém, Phạp là lài trí thiếu. Tằng là từng trải qua, từng tham dự. Trắc là ở bên cạnh, ở gần. Gia là tốt đẹp, may mắn. Nghóa là bản thân mình (Pháp sư Tăng Triệu) từng có mặt tham dự công việc với số lượng năm trăm vị Pháp sư được vua Tần cung thỉnh nhóm họp nơi vườn Tiêu Dao. Câu: “Do đó mà được nghe các pháp quan trọng khác thường, lãnh hội được lý mầu nhiệm của Bát-nhã cũng bắt đầu từ đó): Tôi, Pháp sư Tăng Triệu lúc bấy giờ bắt đầu được nghe và lãnh hội các pháp quan trọng, khác thường. Câu: “Song trí tuệ sâu mầu của bậc Thánh trở xuống: Trước đã cho biết là từng được nghe, lãnh hội về Bát-nhã, nay nói Bát-nhã là khó giảng giải, khó có thể dùng ngôn từ để diễn đạt, giảng nói. Câu: “Nói chẳng phải là chỗ đạt được của hình tượng, ngôn ngữ: võng tượng là ôm ấp trong lòng, tựa như có thể giải thích những, thật sự là đánh bạo mượn ngôn từ để tạm luận bàn. Về chữ Võng tượng thì xuất xứ từ sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử, Ngoại Thiên, chương Bắc Du “Hoàng đế dạo chơi nơi vùng bắc xích Thủy (…) bèn sai Võng Tượng. Võng Tượng tìm được, Hòang đế nói: kỳ lạ thay Võng Tượng! Chỉ võng tượng mới có thể tìm được vật báu ấy”. Quách Tượng chú giải: “ý là nhằm nói rõ việc đạt được chân lý, chẳng phải có sự cố sức dụng tâm. Võng Tượng là chân lý.” Nay tác giả dùng từ ấy. Chữ tuy có sự khác nhau chút ít, nhưng gốc là xuất xứ từ Trang Tử. Từ Câu: “Kinh Phóng Quang Bát-nhã chép: “Bát-nhã không có tướng sở hữu, không có tướng sinh diệt” trở xuống: là phần thứ hai của Luận, chính thức nói lên tông chỉ của vô Luận Tri, dùng làm Thể của Luận. Văn phần này chia làm năm đoạn: Nói tông chỉ. Nói về tướng. Dung hợp. Nói rõ về thể. Tổng kết. 1- Nói tông chỉ: Đoạn này gồm ba đoạn nhỏ: a/ Chính thức nói tông chỉ. b/ Giải thích. c/ Dẫn chứng. Đoạn đầu này dẫn hai kinh, nói ra tông chỉ của Vô tri. Câu: “Đây chính là nhằm biện rõ diệu dụng của sự soi chiếu ở trí, nhưng gọi là Vô Tướng, Vô Tri”. Đây cũng là giải thích, nhưng chưa phải là chính thức giải thích. Câu này như là hỏi. Đã gọi là Bát-nhã chính là nói về diệu dụng của trí, nên là Hữu tri. Mà lại cho Vô tướng, Vô tri. Vì sao như thế? Câu: “Vì quả thật là có cái tri của vô tướng, có cái soi chiếu sáng tỏ của bất tri”: câu này như là trả lời. Quả là quyết định. Khẳng định là có cái tri của vô tướng, tức là cái tri của sự không chấp tướng. Do cái tri không chấp tướng nên nói là Vô tri. Từ Câu: “Vì sao? Vì, hễ có đối tượng được nhận biết (Tri) thì có đối tượng “bất tri” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ hai: giải thích. “có đối tượng để nhận biết” là cái tri của sự chấp tướng. Nếu Hữu là cái chấp giữ tướng, thì Vô là cái tri Vô Tướng. Lại nữa, chấp giữ lấy tướng, đây tức là quên điều kia, nhận biết sự vật tức là mê chấp lý. Nên biết “có đối tượng được nhận biết” thì có đối tượng “bất tri”. Câu: “Do tâm của bậc Thánh là vô tri, nên không có đối tượng nào chẳng nhận biết”: không có cái Tri chấp giữ tướng ấy thì có cái Tri Vô tướng. Hơn nữa, giữ lấy tướng đã có đối tượng “bát tri”, thì chẳng chấp tướng tức không có đối tượng nào mà chẳng nhận biết. Lý đương nhiên là như vậy. Câu: “Cái tri của bất tri mới gọi là Nhất Thiết tri”: không có tâm chấp tướng mà có khả năng nhận biết muôn vật, chính là chỗ nhận biết nơi Trí Nhất Thiết của bậc Thánh. Từ Câu: “Bởi vậy bậc Thánh, tâm cũng rỗng lặng thì diệu dụng của sự soi chiếu càng chân thật” trở xuống: là đoạn hai nói về Tướng. Gọi là Tướng tức chẳng phải tướng của Hữu tướng, mà chính là tướng của vô tướng. Lão Tử nói: “Tâm thì rỗng lặng, bụng thì no, chí thì yếu, xương cốt thì mạnh”, (Đạo đức kinh, chương 3, theo bd của NHL). Nay Tăng Triệu mượn từ ngữ ấy, tâm rỗng lặng tức là chẳng chấp hình tướng. Sự soi chiếu chân thật tức là sự nhận biết khắp muôn pháp. Câu: “Nên có thể thu giấu ánh sáng tạo sự tỏa soi vắng lặng): Do chẳng chấp tướng, nên có thể ngầm soi chiếu khắp muôn pháp. Thao quang là ẩn giấu ánh sáng trí tuệ. Hư tâm tức là tâm không chấp trước. Huyền giám là soi chiếu đạt tới chốn huyền diệu. Bế Trí nghóa là chẳng còn sự phân biệt. Tắc thính (Văn bản Triệu Luận ở trước thì chép là thông), tức chẳng còn lãnh hội, dung nạp. Lại nữa, chẳng có ánh sáng mà tỏ sáng gọi là lặng lẽ mặc, tỏa chiếu không có ánh sáng mà sáng tỏ, gọi là thao quang. Không mà là tâm, gọi là Hư tâm. Chẳng xem mà là xem khắp, gọi là Huyền Lãm (Huyền giám). Chẳng nhận biết (tri) mà nhận biết, gọi là Bế trí không lắng nghe mà lắng nghe, gọi là tắc thính. Tuy là nhăn trí lấp nghe mà riêng tỏ ngộï về lý mầu không không, nên gọi là riêng tỏ ngộ âm thầm lan tỏa (độc giác minh minh). Hai chữ “minh minh” xuất xứ từ Trang Tử. Trang Tử nói: “Mọi sự soi chiếu đều sinh tử chỗ tối tăm, mờ mịt, có loài hình tướng đều sinh từ nơi vô hình”. Nay tác giả mượn chữ ấy (minh minh) để dụ cho pháp không không. Từ câu: “Cho nên Thật trí có sự soi chiếu mầu nhiệm mà là vô tri) trở xuống: là đoạn thứ ba: dung hợp. Trí của bậc Thánh soi chiếu tận cùng các chốn nhiệm mầu mà không chấp hình tướng, nên gọi là Vô tri. Cái thần của bậc Thánh ứng hợp với cơ duyên mà chẳng động niệm, nên gọi là Vô lự (không tư duy, tác ý) Câu: “Quyền trí không tác ý nên” (thần vô lự cố) trở xuống: chữ cố này thuộc câu trên hay câu dưới đều được cả. Do quyền trí của bậc Thánh không tác ý, nên có thể tự tại đối với mọi biểu của thế gian, tức nghóa là Tự tại. Do Thật trí của bậc Thánh là “Vô tri”, nên có thể tỏ ngộ nẻo huyền diệu ở bên ngoài của hình tượng sự vật. Câu: “Thật trí tuy soi thấu bên ngoài sự vật” trở xuống: Tuy cho là thật trí của bậc Thánh soi chiếu nẻo u huyền ở bên ngoài sự vật, tức là ngay nơi sắc nhận biết về không, chẳng phải lìa sắc mới có không. Dù cho rằng huyền trí của bậc Thánh tự tại đối với mọi biểu hiện của thế gian, nhưhg chẳng phải không hóa độ chúng sinh, mà là trọn ngày ở trong cuộc đời hóa độ một cách thích ứng. Câu: “Do đó, tùy cơ hóa độ thuận hợp) trở xuống: Phủ nghóa là cúi thấp xuống. Ngưỡng là cất cao lên. Nên thấy được cái lớn lao, là hiện thân vô biên, đó gọi là ngưỡng. Nên thấy cái nhỏ, là hiện nơi thể ba thước, đó gọi là Phủ. Ưùng hóa để dắt dẫn, giáo hóa chúng sinh, không hề dừng nghỉ. Câu: “Không chỗ u huyền nào chẳng tỏa sáng mà không có công năng soi chiếu tức là không một chốn sâu kín, mầu nhiệm nào là không soi sáng, nhưng tự cho là không có công năng của sự soi chiếu ấy, nghóa là Vô tri. Câu: “Đó chính là chỗ Tri của vô tri” trở xuống: Đó là cái tri của vô tri, là chỗ ứng hợp giữa Quyền trí và Thật trí của bậc Thánh. Từ Câu: “Rõ ràng là sự vật ấy) trở xuống: là đoạn thứ tư nói rõ về thể. Văn đoạn này chia làm ba đoạn nhỏ: a/ Chính thức nói về thể. b/ Giải thích. c/ Dẫn hai kinh để chứng minh cho sự thành tựu. Chính thức nói về thể: Gọi là kỳ tức chỉ cho diệu trí của bậc Thánh. Vật tức diệu trí của bậc Thánh ấy là Thể tánh của vật, chẳng phải là vâït gọi là sự vật. Câu: “Thật mà chẳng có, hư mà chẳng không”: Nhận biết các pháp đều là không, đó là thật. Tuy nói là thật mà thể tánh chẳng là vật, nên gọi là chẳng có. Thể tánh chẳng phải vật, tức gọi là hư, nhưng không có đối tượng nào chẳng nhận biết, nên gọi là chẳng không. Cũng có thể cho rằng: Do Vô tri nên nói là chẳng có, do không đối tượng nào chẳng nhận biết nên gọi là chẳng không. Câu: “Thường còn mà chẳng thể luận bàn, đó chính là Thánh Tr”: chẳng không trí ấy nên gọi là còn. Chẳng thể luận bàn về tướng mạo của Thánh Trí ấy, khẳng định là có là không, nên gọi là chẳng thể luận bàn. Chỉ riêng Thánh trí là như thế nên gọi là duy nhất. Giải thích: Từ Câu: “Vì sao? Vì muốn cho nó là có thì nó không hình tướng, không tên gọi” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ hai nhằm giải thích. Vô Trạng là không tướng trạng, dung mạo. Vô danh là không danh tự. Câu: “Bậc Thánh nhờ đó mà trở nên linh diệu”. Bậc Thánh dùng cái linh diệu thông hợp nên không đối tượng nào chẳng nhận biết. Câu: “Bậc Thánh, nhờ đó mà trở thành vắng lặng, nên rỗng lặng mà chẳng mất sự chiếu soi) Tuy rỗng lặng mà không mất diệu dụng của sự soi chiếu. Câu: “Không hình tướng, không tên gọi, nên soi chiếu mà không mất sự rỗng lặng”. Tuy soi chiếu, nhận biết mà không chấp hình tướng. Câu: “Lẫn lộn trong muôn vật mà chẳng biến đổi) Hỗn (?) là hỗn tạp”. Du là thay đổi. Xuất xứ từ Đỗ Dự chú giải sách “Xuân thu Tả Thi” “Tuy lẫn lộn cùng muôn pháp mà mỗi pháp có sự khác nhau” tức là tính chất không thay đổi. Câu: “Nên có sự tạo tác, vận động để tiếp dẫn thuận hợp mỗi cơ duyên” có đối tượng được tác động để ứng tiếp cơ duyên, nên gọi là tiếp thô. Câu: “Như thế, diệu dụng của Thánh Trí” trở xuống: Luôn có diệu dụng không hề dừng nghỉ dù là trong chốc lát. Chỉ tự cầu tìm nơi hình tướng thì cũng chẳng thể đạt được gì cả. Dẫn hai kinh để chứng minh: Từ Câu: “Nên đồng tử bảo tích nói” trở xuống: là đoạn nhỏ thứ ba, dẫn hai kinh để chứng minh cho sự thành tựu. Thứ nhất là kinh Duy- ma, đồng tử Bảo Tích là con của vị Trưởng Giả nói kệ. Bản dịch cũ chép như thế. Nay văn của kinh được chép: “Do không dấy khởi tâm ý nên không thọ nhận, thực hiện”. Thứ hai là kinh Phóng Quang Bát-nhã. Câu: (Bất động Đẳng Giác tức là Bát-nhã. Nghóa là trí tuệ bậc Thánh bất động mà không có chỗ nào không thực hiện, nên gọi là kiến lập chúng sinh ở nơi thật tế. Câu: “Vì vậy, nẻo hành hóa của bậc Thánh có muôn mối nhưng đều dẫn về một chốn mà thôi!). vô số sự biến hiện nên gọi là muôn mối, cùng là chỗ tạo tác, biến hiện nơi chốn tận cùng duy nhất của Bát- nhã, nên gọi là Một. Từ Câu: “Do đó, Bát-nhã có tự thể vắng lặng mà soi chiếu” trở xuống: Là đoạn thứ năm (của phần thứ hai) tổng kết. Trí Bát-nhã tuy vô tri mà có khả năng soi chiếu diệu lý của chân đế. Tuy quên hình tướng mà có thể nhận thức, lãnh hội. Về nghóa của chữ vong đúng ra là chữ vong của nghóa vong là mất. Các bản đều chép chữ Vong. Do chân đế chẳng thể chấp giữ lấy hình tướng nên gọi là vong (Quên). Câu: “Muôn vật náo động mà ngay đó được tónh” trở xuống: Muôn vật khởi động, tức động mà không động. Bậc Thánh ứng hợp với vô vi mà không đối tượng nào không làm, không tác động đến. Câu: “Đó chính là chẳng biết mà tự biết) trở xuống: không tạo cái tri hữu tướng, chính là cái tri vô tướng. Chẳng cùng có tâm tạo tác, chính là không có tâm tạo tác. Câu: “Thế thì lại còn muốn biết” trở xuống: chẳng tri mà tri tức không có cái tri cố định, nên nói là “Lại còn muốn biết” chẳng làm mà làm, tức không có cái làm cố định, nên gọi là “Lại còn muốn làm”. Vặn hỏi: Từ Câu: “Chân tâm của bậc Thánh riêng sáng tỏ) trở xuống: Là phần thứ ba của bài luận nói dẫn về hỏi đáp. Văn của phần này có chín lượt hỏi đáp, nhưng chỉ có bốn câu hỏi: Có một lượt hỏi đáp về chủ thể đối tượng. Có một lượt hỏi đáp về danh Thể. Có 4 lượt hỏi đáp về cảnh Trí. Có 3 lượt hỏi đáp về sinh Diệt. Ba câu hỏi trước (1,2, 3) đều là câu hỏi về Vô tri. Một câu hỏi sau là câu hỏi về sinh Diệt. Vấn tức là Vấn nạn. Văn luận, đoạn trước chép: “Thật trí có sự soi chiếu mầu nhiệm mà là vô tri. Quyền trí có diệu dụng của sự ứng hợp mà vô lự (không tác ý, suy nghó)”. Vô Tri tức là vô trí. Vô lự tức là vô hội. Nay nêu câu hỏi về câu này. Yù nói: có chủ thể Tri, chủ thể ứng hợp. Có cái thể Tri, có thể ứng hợp. Tức là có tri có ứng hợp. Sao lại nói là Vô Tri? Văn trong đoạn này có hai: a/ Dựa theo ý trước nêu câu hỏi. b/ Nêu câu hỏi theo sự cấu tạo về lẽ huyền diệu. Tuy có hai ý nhưng cùng vặn hỏi chung một nghóa, nên hợp thành một câu hỏi. a/ Nói “Chân tâm riêng sáng tỏ:” Lãng là sáng tỏ. Nghóa là tâm của Bát-nhã riêng tự tỏ ngộ, sáng rõ, không vật nào không nhận biết, nên gọi là “Muôn vật được soi chiếu” Câu: “Giáo hóa ứng hợp các chốn) trở xuống có duyên thì đều ứng hiện, đều tiếp độ. Không có giới hạn lằn mức, nên gọi là vô phương. Có nơi chốn gọi là tạo tác, đều ứng hợp với cơ duyên, nên gọi là “Hành động luôn thích nghi với căn cơ”. Câu: “Muôn vật soi chiếu luôn sự nhận biết không có chỗ thiếu sót” Câu: “Hành động luôn thích nghi với căn cơ nên sự thích ứng, không trái với căn cơ”. Có cơ duyên thì ứng hợp, nên không hề mất. Câu “Sự ứng hợp không trái với căn cơ nên phải có căn cơ thích ứng ở khả hội” (Có thể ứng hợp) tức là chúng sinh nơi có thể ứng hợp) Câu: “Sự nhận biết không có chỗ thiếu sót nên phải có chỗ nhận biết để có thể nhận biết” có bản chép: “Tất cũng phải có chỗ nhận bất để nhận biết” chỉ thêm dài, tuy nghóa không mất, chẳng bằng câu gọn kia. Có thể nhận biết (Tri) tức là lý mầu của đối tượng được nhận biết. Câu: “Có chỗ nhận biết, để có thể nhận biết” trở xuống: trở lại giải thích câu trên. Câu: “Đã nhận biết, đã ứng hợp” trở xuống. Bậc Thánh chẳng nhận biết một cách luống dối, tức là có tri. Bậc Thánh chẳng ứng hợp một cách luống dối, tức là có sự ứng hợp, nên nói là “Đã nhận biết đã ứng hợp” đã có nhận biết, ứng hợp, sao lại nói: “Thật trí có sự soi chiếu mầu nhiệm mà là vô tri. Quyền trí có diệu dụng của sự ứng hợp mà vô lự”? b/ Từ Câu: “Nếu nói là quên tri, sót ứng” trở xuống là đoạn nhỏ thứ hai nêu câu hỏi theo sự cấu tạo về lẽ huyền diệu, có bản chép là “Nếu nói” cũng được. Nếu xem bậc Thánh tuy có nhận biết ứng hợp, mà không cho là mình có thể “có tri” có thể có ứng hợp. Câu: “Bậc Thánh không còn chấp ngã, có tri có ứng mà không cho là tri- ứng của mình”. Đây là tâm của bậc Thánh, không tạo sự giải thích riêng về nhâïn biết ứng hợp, chính là dứt hẳn sự nhận biết, ứng hợp kia, chứ chẳng phải cho là không nhận biết, không ứng hợp. Về câu “Mà không cho là tri ứng của mình”. Sách Nam Hoa kinh củaTrang Tử, Ngoại Thiên, chương Thiên đạo có đoạn chép: “Khổng tử nói lên vấn đề Nhân nghóa, đem nói với Lão Đam. Đam hỏi: Thế nào là nhân nghóa?” Khổng Tử nói: Tâm trung thành, chở nên vui vẻ một cách dễ dãi, kiêu ái, không riêng tư, đó là sự biểu lộ của lòng nhân.” Lão Đam nói: “không riêng tư mới là riêng tư”. Quách Tượng chú giải: “ở đời, gọi là không riêng tư, cởi mở mà yêu người. Hễ gọi là yêu người là cũng muốn cho người yêu mình, đó mới là riêng tư, chẳng phải là mất công dụng mà là công dụng”. Nay tác giả Tăng Triệu mượn từ ấy để nói bậc Thánh tuy không có tâm chấp nhận biết (tri) ứng hợp (hội) mới đúng là nhận biết, ứng hợp. Nếu không riêng tư mới thành riêng tư. Câu: “Đây chỉ có thể nói: chẳng tự cho là Tri, đâu được cho là vô tri?” Nếu cho rằng tự quên sự nhận biết ứng hợp, thì đó mới là tự mình chẳng nói là có nhận biết, ứng hợp. Nhưng thể của sự nhận biết, ứng hợp chẳng phải là không nên đâu được cho là không nhận biết, không ứng hợp? Đáp: Từ Câu: “Ôi! Công đức của bậc Thánh cao rộng như trời đất mà chẳng nhân từ” trở xuống: là phần đáp lại. Trong câu hỏi trước tuy có hai ý nhưng cùng hỏi về Tri-Hội (Nhận thức, ứng hợp cơ duyên). Nay lại chẳng cần phân biệt, hợp thành một thể trả lời. Văn trả lời ở đây có ba đoạn: a/ Nói lên tông chỉ gốc. b/ Thuật lại ý của lời hỏi. c/ Kết hợp để trả lời. Nói lên tông chỉ gốc: Câu: “Công đức cao rộng như trời đất mà Bất nhân”. Nhị nghi là chỉ cho trời và đất. Bất Nhân từ này xuất xứ từ sách của Lão Tử, Lão Tử nói: “Trời đất bất nhân, coi muôn vật như chó rơm, bậc Thánh bất nhân xem trăm họ như chó rơm. (Đạo đức kinh, chương 5. Theo bd của NHL). Nay tác giả mượn từ ấy (bất nhân). Công đức của bậc Thánh cao rộng như trời đất, đó tức là Nhân nhưng không tự khoe khoang về khả năng của mình, nên gọi là bất nhân. Trí Bát-nhã sáng tỏ hơn cả mặt trời mặt trăng, đó tức là sáng rõ, nhưng quên, không chấp nơi nhận thức của mình, nên gọi là “Càng lu mờ” Sách Tiểu Nhó Nhã chép: Di là càng, tăng lên, tăng thêm như Di cửu (càng lâu xa). Nay chọn lấy nghóa “thêm lên” Câu: “Đâu phải là vô tri như gỗ đá” Ý cho rằng: Bậc Thánh vô tri, hoài bão há cho là đồng với gỗ đá? Gọi đó là vô tri chăng? Nhất định là chẳng phải thế. Câu: “Thật ra do khác với người thường ở chỗ trí tuệ sáng tỏ thần diệu” trở xuống “Người thường, trí tuệ sáng tỏ thần diệu” pháp có sự chấp giữ lấy hình tướng, đó tức là nhận thức. Thần trí sáng tỏ của bậc Thánh không chấp hình tướng các pháp, nên gọi là “vô Tri”. Do “Vô tri” nên chẳng thể tạo sự chấp hình tướng. Thuật lại ý của lời hỏi: Từ Câu: “Ý của ông là muốn cho rằng” trở xuống: là đoạn thứ hai của phần đáp, nói lại ý của lời hỏi. Văn của đoạn này gồm hai đoạn nhỏ: Nói lại ý của câu hỏi đã dựa theo sự diễn đạt trước đã nêu. Nói lại ý của câu hỏi (theo sự cấu tạo về lý huyền diệu) Phần cuối của câu hỏi trước nói: “Bậc Thánh không còn chấp ngã, có tri có ứng” nên gọi là “vô tri” là chẳng đúng. Câu: “Mà bậc Thánh không hề chẳng có Tri) tức là có nơi “Hữu tri”. Câu: “Là trái với chân tâm của bậc Thánh” trở xuống: Vô nãi tức là nãi, như sách Nhó Nhã viết: “không quyết định là quyết định, không yên ổn là yên ổn. Chẳng hiển bày là hiển bày. Chẳng vâng theo là vâng theo nói “nên trái với chân tâm của bậc Thánh” là làm mất ý nghóa sâu xa của câu văn. Câu: “Vì sao? Kinh nói” trở xuống: giải thích ý kinh để nói về lý do trái với chân tâm của bậc Thánh, làm mất ý nghóa sâu xa của câu văn. Câu: “Vô tri vô kiến” Gồm đủ hoàn toàn là Tri, thấu rõ là kiến. Cũng có thể cho gồm đủ hoàn toàn là kiến, thấu tỏ là Tri. Câu: “Không tạo tác, không duyên hợp” Tác là tạo tác, dấy khởi. Duyên là duyên dựa. Tri này chính là “vô Tri”. Câu: “Đâu phải đợi thu hồi sự soi chiếu, rồi sau đó mới vô tri!” Chân tâm của bậc Thánh không có sự chấp giữ hình tướng, nên gọi là vô tri. Chẳng phải thật có tri rồi tự quên mất tri ấy, gọi đó là vô tri. Từ Câu: “Nếu nói có tri về tánh không mà gọi là thanh tịnh v.v…” trở xuống: Là đoạn nhỏ thứ hai, nói lại ý của lời câu hỏi (theo sự cấu tạo của lý huyền diệu): Nếu cho bậc Thánh thật có cái tri của Bát- nhã, nhưng do thể tánh ấy là không, nên gọi là vô tri, chẳng phải bản ý nay cho là vô tri. Câu: “Thì chẳng thể phân biệt được với Trí mê lầm) Bát-nhã cũng là không. Trí mê lầm cũng là không, cả hai đều không, cùng là “vô tri”. Đây chính là diệu lý “không phân biệt”. Câu: “Ba độc, bốn điên đảo” trở xuống: chẳng những trí mê lầm, cho đến ba độc, v.v… đều như thế. Cũng do tánh không nên là thanh tịnh, khác gì với Bát-nhã? Vậy vì sao chỉ gọi Bát-nhã vô tri? Câu: “Nếu lấy đối tượng tri để khen ngợi Bát-nhã” trở xuống: nếu lấy cảnh giới vô tướng của đối tượng nhận thức của chân đế để khen ngợi cái trí của các thể nhận thức là vô tri, thì cũng chẳng đúng. Câu: “Tự tánh của đối tượng được Tri thường thanh tịnh, nhưng Bát-nhã thì không hề thanh tịnh”. Chân đế tự nó là không, Bát-nhã chẳng phải không. Câu: “Cũng không thể dùng thanh tịnh” trở xuống: chân đế tự nó là không, chẳng liên quan tới Bát-nhã, vì sao khiến Bát-nhã đồng với cái không của chân đế mà cho là vô tri? Câu: “Nhưng kinh cho rằng” trở xuống: giải thích kinh để nói về ý nghóa gốc của Bát-nhã vô tri. Câu: “Vì thể tánh của Bát-nhã chân thật là thanh tịnh, từ gốc không giữ lấy cái tri của sự mê lầm”, “đâu như không do” ý nói là do. Như sách thế thuyết cho rằng “Tương vô đồng” ý nói là đồng. Do thể tánh của Bát-nhã là không chấp giữ, vướng mắc đối với chân đế, không giữ lấy cái Tri của sự mê lầm, nên gọi là vô tri. Câu: “Từ gốc không giữ lấy cái tri của sự mê lầm, nên chẳng thể dùng cái Tri để gọi tên”: Từ Câu “Nhưng kinh cho rằng” đến câu này, thế mạnh của lời văn mới dứt. Do không có giữ lấy cái Tri của sự mê lầm, nên gọi là vô tri. Câu: “Đâu phải vô tri thì gọi là vô tri” Lại đáp cho câu trước “quên tri sót ứng”. Chẳng phải tự quên cái nhận biết, ứng hợp ấy, sau đó mới gọi là vô tri, chỉ rõ sự tánh ấy là vô tri, chẳng đợi quên. Từ Câu: “Cho nên bậc Thánh” trở xuống: là đoạn ba của phần đáp, kết hợp để trả lời. Câu: “Chân đế không còn sự thiếu sót của Thỏ, Ngựa”: trở xuống: kinh nói ba con vật Voi, Ngựa, thỏ qua sông, cạn sâu có sự khác nhau. Voi quơ chân đến tận đáy sông nên không thiếu sót. Thỏ, Ngựa chưa quơ chân đến tận đáy sông nên có sự thiếu sót. Nay nói về Bát-nhã quán chân đế, chân đế không thiếu sót, chẳng phải như Ngựa thỏ, nên gọi là “không có sự thiếu sót của ngựa thỏ”. Trí Bát-nhã soi chiếu tận cùng các chốn, nên gọi là: “sự soi chiếu không chỗ nào chẳng tận cùng” Câu: “Do đó, hội nhập mà không sai sót” trở xuống: hội nhập với cơ duyên chẳng hề sai, mất. Ứng hợp với đạo lý mà không chấp giữ. Vắng lặng, an nhiên, vô tri mà nhận biết khắp các pháp. Nêu câu hỏi: Từ Câu: “Sự vật vốn chẳng tự thông đạt” trở xuống: Là câu hỏi thứ hai, có một lượt hỏi- đáp, câu hỏi về Danh-Thể. Trong câu hỏi này có hai đoạn: a/ Nói bày chung nói lên hình tướng của Danh Thể. b/ Chính thức nói ra câu hỏi. Nói “Sự vật vốn chẳng tự thông đạt”: Tức vật chẳng thể tự nói bày thể của mình được, nên phải lập danh để làm rõ vật. Danh có khả năng trình bày được Thể của vật, nên danh là sự thông suốt. Câu: “Sự vật tuy chẳng phải là Danh” trở xuống: Sự vật tuy chẳng phải là Danh, mà có vật nên có danh, vậy danh làm rõ thể của vật. Câu: “Như thế thì theo Danh để tìm sự vật” trở xuống: Tức dùng tên của vật để giữ lấy Thể của vật thì Thể ấy có thể giữ lấy được, không thể lẫn tránh. Từ Câu: “Mà Luận cho rằng chân tâm bậc Thánh là vô tri” trở xuống: là đoạn hai, chính thức nói lên câu hỏi. Câu: “Ý nói vô tri không hề tri” trở xuống: nói về hai tên gọi khác nhau. Câu: “Đây chính là chỗ thông đạt của ngôn giáo” trở xuống: Đặt hai tên gọi Tri và vô Tri, vốn để làm rõ hai Thể của tri và vô Tri. Câu: “Nhưng, Luận còn muốn nói: chân tâm của bậc Thánh là một” trở xuống: Luận chủ cho rằng: Tri và vô Tri chỉ là một trong chân tâm của Bậc Thánh, nhưng Tri và vô Tri là hai Danh riêng biệt. Câu: “Vậy theo lời văn tìm sự thật” trở xuống: Do Tri, Vô Tri là hai tên gọi (Danh) nên tìm hai sự thật ở đó thì chẳng tương xứng. Câu: “Vì sao” trở xuống là: Giải thích do đâu ý chẳng hợp nhau. Nếu chân tâm của Bậc Thánh là Tri, thì chẳng phải là Vô Tri, nên gọi là không có chỗ tri, không có chỗ giải thích. Câu dưới trái lại ý này. Câu: Nếu cả hai đều chẳng ứng hợp thì hầu như không còn gì để luận bàn”. Nếu vô Tri và Tri đều chẳng hợp với chân tâm của bậc Thánh, cho nên cả hai tên gọi (Danh) đều chẳng tương xứng với Thật, nên chẳng cần phải luận bàn nữa! Đáp: Từ Câu: “Kinh nói” trở xuống. Trong phần đáp có hai đoạn: a/ Nói về ý nghóa dứt bặt ngôn từ của Bát-nhã. b/ Chính thức đáp lại câu hỏi trên. Câu: “Đây chính là pháp của vô Danh” trở xuống: Bát-nhã như thế, chính là pháp của vô danh, nên chẳng thể dùng ngôn từ, danh tự để gọi. Câu: “Ngôn từ tuy chẳng thể diễn đạt được” trở xuống: Tuy chẳng thể diễn đạt, nhưng nhờ ngôn từ mới thông tỏ, chẳng nhờ ngôn từ thì không thể truyền đạt được. Câu: “Cho nên bậc Thánh suốt ngày giảng nói” trở xuống. Do lý mầu chẳng thể diễn đạt, nên tuy diễn đạt mà cũng như không thể diễn đạt. Sách Nam Hoa kinh của Trang Tử, Phần Ngoại Thiên, chương Ngụ ngôn có đoạn: “Chưa nói ra là đồng với lẽ đạo, nhưng nói ra thì đã không đồng nữa rồi. Nên có câu: không có lời nói. Nói không thể dùng tới lời nói. Suốt đời nói mà không hề có nói. Suốt đời không nói mà không hề không nói theo bd của NDC). Nay mượn câu ấy (Suốt ngày giảng nói mà chưa từng có v.v…) để nói Như lai tuy nói mà chẳng nói. Như kinh Niết-bàn nói: “Như biết rõ Như lai thật sự chẳng có nói pháp, thì đó là bậc Bồ-tát đầy đủ sự hiểu biết rộng khắp.” Trung Luận chép: “Các pháp chẳng thể đạt. Diệt tất cả hý luận. Không người cũng không chốn Phật cũng không giảng nói”. Từ Câu: “Nay vì ông mà tôi đánh bạo thử giảng nói” trở xuống: là đoạn hai, chính thức đáp lại câu hỏi trên. Câu: “Chân tâm của bậc Thánh” trở xuống: Giải thích về tướng vô ở chân tâm của bậc Thánh, vô tướng là không hình tướng, dung mạo. Di cần là tinh tấn. Câu: “Chẳng thể cho là không nên” trở xuống: trở lại giải thích phần trên “chẳng phải không”. Gọi là giáo pháp lần lượt thuận hợp ở chỗ chẳng thể giải thích rõ, nên gọi là dứt bặt. Câu: “Do đó, nói Tri chẳng phải Tri, mà chỉ nhằm thông đạt sự soi chiếu” trở xuống: kinh nói Trí của bậc Thánh vô tri là nhằm nói trí ấy soi sáng chỗ linh diệu, vắng lặng, thông suốt, không hề vướng mắc chấp giữ. Kinh cho rằng Thánh trí là vô trí, là nhằm nói rõ trí ấy có khả năng nhận biết tất cả các pháp. Lại giải thích kinh nói Thánh Trí là Hữu Tri, tức chẳng phải thật có tri, mà là nhằm biện minh trí ấy không có đối tượng nào không soi chiếu, nên gọi là Hữu Tri. Kinh nói Thánh Trí là vô Tri, chẳng phải thật sự là vô tri, mà là nhằm nói trí ấy không hề có sự chấp giữ, nên gọi là vô tri. Câu: “Giải thích về sự tướng nên chẳng phải không, thông đạt sự chiếu soi nên chẳng phải có”: Dựa theo giải thích ở trước, để giải thích về Thánh Trí có khả năng thông tỏ các pháp, nên chẳng phải vô Tri. Do Thánh trí thông đạt không có chấp trước, nên chẳng phải Hữu Tri. Còn nếu dựa vào giải thích sau thì dùng để giải thích về tướng. Nên nói Thánh Trí là vô Tri, thật ra chẳng phải Vô Tri, do thông đạt sự soi chiếu, nên gọi Thánh là Hữu tri, thật ra chẳng phải là Hữu Tri. Câu: “Chẳng phải là có nên Tri mà là vô tri” trở xuống: Trở lại phần trên. Do chẳng phải là có, nên Hữu tri tức là vô tri. Do chẳng phải không, nên Vô Tri tức là Hữu Tri. Từ Câu: “Thế thì, Tri tức là vô Tri” trở xuống: là kết thúc. Câu: “không vì sự khác nhau của ngôn từ mà cho là chân tâm của bậc Thánh cũng khác”: Chớ lấy tri, vô tri, hai ngôn từ có sự khác nhau để cho rằng chân tâm của bậc Thánh có sự khác nhau về Hữu. Vô. Nêu câu hỏi: Từ Câu: “Chân đế sâu kín mầu nhiệm” trở xuống: Là câu hỏi thứ ba, có bốn lượt giải đáp, vặn hỏi về cảnh trí. Bốn lượt hỏi đáp này liên hoàn nối tiếp nên chẳng phân biệt rõ. Lượt 1: Hỏi: “Chân đế chính là cảnh giới chân thật, không sinh diệt, chẳng phải là diệu trí Bát-nhã thì chẳng thể tính lượng, nhận biết được. Câu: “Năng lực của Thánh Trí do đó mà là hiển bày”: Bát-nhã là Hữu tri, là công năng của chân đế. Chân đế tức là đối tượng duyên của Bát-nhã. Sở duyên duyên của Bát-nhã là đối với chân đế. Câu: “Lấy duyên để tìm trí thì trí chính là Tri”. Đã có duyên của đối tượng được tri, tức là cái trí của chủ thể tri. Duyên của đối tượng được Tri đã có pháp. Cái trí của chủ thể tri tất có tri. Đáp: Từ Câu: “Lấy duyên để tìm trí, thì trí chẳng phải là tri” trở xuống: trong văn phân đáp có ba đoạn: a/ Giải thích trực tiếp để đáp. b/ Dùng hình tướng để đáp. c/ Tổng kết để đáp. Trước nói, sau giải thích: Nay nói chẳng thể dùng duyên để tìm trí, tức khiến trí có tri (Hữu tri) Câu: “Vì sao?” trở xuống: Giải thích lý do. Câu: “Kinh phóng Quang chép: Chẳng duyên vào sắc sinh Thức”: Người thường đều duyên vào sắc để sinh thức, do đó mà có tri kiến, có tri kiến tức là có tri (Hữu Tri). Bậc Thánh chẳng duyên vào sắc mà sinh thức, tức là không có tri kiến, không có tri kiến tức là Vô tri. Câu: “Lại nói: Vì năm ấm thanh tịnh” trở xuống: Năm ấm là vô tướng, nên gọi là thanh tịnh. Bát-nhã là vô tri, nên cũng gọi là thanh tịnh. Bát-nhã là chủ thể nhận thức (Năng tri) Năm ấm là đối tượng được nhận thức (Sở tri). Bát-nhã là Trí của chủ thể nhận thức. Năm ấm là cảnh của đối tượng được nhận thức. Đối tượng được nhận thức tức là Duyên, tức là pháp của đối tượng được duyên (sở duyên) Từ Câu: “Tri (nhận thức) và đối tượng được Tri đối đãi nhau mà có” trở xuống: là đoạn hai trong phần đáp, nói hình tướng để đáp. Hai sự giải thích về chân đế, tục đế. Giải thích rõ sự mê lầm của hai Trí, Dữ. Và là cùng nhau, cùng đối đãi mà có, tức là trí mê lầm và cảnh mê lầm. Cùng đối đãi nhau mà không, tức là chân Trí và chân cảnh. Do tục đế có hình tướng, nên trí mê lầm có Tri, do đó gọi là “đối đãi nhau mà có” do chân đế là vô tướng, nên chân Trí là vô tri, vì vậy gọi là “đối đãi nhau mà không”. Câu: “Đối đãi nhau mà không nên sự vật chẳng thật có”. Vì chân đế là vô tướng, nên chân trí là vô tri. Người thường chẳng thể cho đó là có Tri. Câu: “Đối đãi nhau mà có nên sự vật chẳng phải không”. Do tục đế là Hữu tướng nên trí mê lầm có nhận thức (Tri). Người thường chẳng thể cho đó là vô tri. Câu: “Sự vật chẳng thật có nên duyên chẳng thể sinh” do người thường chẳng thể cho đó là Hữu tri, tức chẳng cùng nhân sinh khởi. Câu: “Duyên vào đối tượng chẳng thể sinh, nên duyên được soi chiếu mà chẳng phải là Tri”, tức là chân Trí. Tuy chiếu soi chân đế, nhưng chẳng phải sinh từ chân đế. Câu: “Vì nhân duyên sinh khởi nên biết do nhân duyên hợp nhau mà sinh” đó là trí mê lầm. Cảnh và trí đều do đó mà được sinh khởi. Câu: “Cho nên tri là vô tri cùng sinh ở đối tượng được tri kiến” Hai kết luận để giải thích về hai tri hai cảnh mê lầm. Câu: “Vì sao? Vì Trí là do tri về đối tượng được tri, chấp tướng nên gọi là tri” đây tức là trí mê lầm và cảnh mê lầm Câu: “Chân đế vốn là vô tướng thì chân trí do đâu mà tri?” đây chính là chân Trí và chân cảnh. Câu: “Sở dó như thế là vì” trở xuống: trở lại hai nghóa trước. Từ đây cho đến câu “chẳng do nhân duyên mà có câu” là nói thẳng về cảnh mê lầm và trí mê lầm. Câu: “Đối tượng được tri chẳng phải là đối tượng được Tri, đối tượng được tri sinh ở chủ thể Tri”, đối tượng được tri chẳng tự nó đạt được tên gọi của đối tượng được Tri. Do chủ thể Tri nên mới được gọi là đối tượng được tri. Câu: “Đối tượng được tri đã sinh từ tri thì tri cũng sinh từ đối tượng được Tri” đối tượng được Tri đã nhờ chủ thể tri mà được gọi tên, thì chủ thể Tri cũng nhờ đối tượng được tri để gọi tên. Câu: “Chủ thể Tri và đối tượng được tri đã sinh nhau, sinh nhau tức là nhân duyên”, kia đây cùng giúp nhau, nương nhau mà sinh khởi, tức là các pháp do nhân duyên sinh ra. Câu: “Nhân duyên nên chẳng phải thật, nên chẳng phải chân đế” đã từ nhân duyên sinh ra tức là Tục đế. Câu: “Nên Luận Trung Quán chép” trở xuống: ở đây chỉ nói ý của Luận Trung Quán, chẳng phải toàn văn. Yù này nhằm nói rõ Tục đế, theo đó mà đạt chân. Câu: “Nay gọi chân đế là chân” trở xuống: Từ đây cho đến Câu: “chẳng thấy có pháp nào không từ duyên sinh khởi” là nói về chân trí, Chân đế. Chân đế đã gọi là chân, chân nên chẳng từ nhân duyênsinh. Kinh chép“chẳng thấy có pháp nào không từ duyên sinh khởi”. Hễ có pháp thì đều từ nhân duyên sinh. Không có pháp nào chẳng phải là duyên sinh, là nói pháp chẳng do nhân duyên sinh, chính là chân đế. Kinh Niết-bàn chép: “Kể cả các ngoại đạo, không có một pháp nào chẳng từ nhân duyên sinh.” Trong các kinh đều có chung ý này. Nay nói dẫn chung chung. Từ Câu: “Vì vậy, chân trí quán chân đế” trở xuống: Là đoạn thứ ba của phần đáp, là tổng kết đáp. Câu: “Trí chẳng giữ lấy đối tượng được Tri thì trí ấy do cái gì để nhận biết?” Do chẳng chấp giữ đối tượng được Tri, nên gọi là Vô tri. Câu: “Song trí chẳng phải vô tri; chỉ vì chân đế chẳng phải đối tượng được tri kiến, nên chân trí cũng chẳng thể là chủ thể tri: chẳng giống như sự vô tri của gỗ đá, nên nói là “nhưng chẳng phải vô tri”. Chỉ cho chân đế chẳng phải đối tượng được tri của Hữu tướng nên Chân trí chẳng chấp hình tướng, gọi đó là vô tri. Câu: “Mà ông thì muốn lấy duyên để tìm Trí” trở xuống: Tử (người) là tiếng gọi chung cho người nam. Ông cho pháp ở đối tượng được duyên của chân đế là có, mà cho Bát-nhã là Hữu tri. Câu: “Duyên tự nó chẳng phải là duyên thì dựa vào cái gì mà tìm Tri?” cái duyên của chân đế tự nó là không có tướng thì pháp của chân trí làm sao được gọi là Hữu Tri? - Lượt hai: (Nói câu hỏi) Từ Câu: “Luận chép rằng chẳng chấp” trở xuống: là lần hỏi đáp thứ hai. Lấy Câu “chẳng chấp giữ” ở trước để nói câu hỏi. Câu: “Là do vô tri nên chẳng chấp” trở xuống: vì không có đối tượng được Tri nên nói là chẳng chấp giữ, hay vì trước đã tri, sau đó mới quên giữ lấy, nên cho là chẳng chấp giữ? Câu: “Mịt mờ như đi chơi đêm” không có đối tượng được tri thì đồng với đi đêm, chẳng phân biệt rõ đen trắng. Câu: “Cái tri đã khác đối với cho chẳng chấp” Tri và chẳng chấp khác nhau, thì ngay nơi lúc Tri có sự chấp trước, sau đó quên tri mới gọi là chẳng chấp trước. Đáp: Câu: “Chẳng phải do vô tri nên chẳng chấp trước trở xuống: là hai lượt bác bỏ hai ý của câu hỏi. Ngay lúc tri tức là chẳng chấp lấy hình tướng, nên gọi là Vô tri Lượt ba: Từ Câu: “Luận cho rằng chẳng chấp trước” trở xuống: Là lần hỏi đáp thứ ba. Câu: “chẳng chấp lấy vật đối với vật”: chẳng cho vật là có vật. Nếu cho vật là có vật thì đó là sự chấp trước mê lầm, chẳng cho vật là có vật thì không có sự chấp trước mê lầm. Câu: “Không chấp giữ thì chẳng có tâm để nhận vật” trở xuống: đã không có đối tượng được chấp giữ, thì vật gì cho là vật, vật gì hợp với chân tâm của bậc Thánh? Thế thì làm sao bậc Thánh, gọi là “không có đối tượng nào chẳng nhận biết” được? Đáp: Câu: “Đúng vậy! Không có tâm để nhận vật thì không có sự ứng hợp” xét về kết quả của lời ấy thì không thể có được, thật không thể có ứng hợp. Câu: “Phàm không ứng hợp thì sự vật không gì chẳng ứng hợp” không ứng hợp nên là ứng hợp với chân lý. Không tâm nhận vật mới là tiếp nhận chân lý Câu: “Vật không gì chẳng tiếp nhận, nên tiếp nhận mà là không tiếp nhận” trở xuống: tiếp nhận chân lý, tuy sự ứng hợp ấy không có đối tượng được ứng hợp. Câu: “Nhận thức tận cùng về các pháp thì có sự ứng hợp, có sự tiếp nhận, nếu không có Tri kiến thì không có sự ứng hợp, tiếp nhận. - Lần bốn nêu câu hỏi: Từ Câu: “Chân tâm của bậc Thánh chẳng phải là không thể tiếp nhận vật” trở xuống: Là lần hỏi đáp thứ tư. Chẳng phải không thể lấy muôn vật làm vật được tiếp nhận, nhưng do không có vật để cho là vật được tiếp nhận, nên bậc Thánh chẳng cho vật là có vật. Câu: “Tuy không có tâm nhận vật mà nhận được vật, nên phải nhận vật ở chỗ không có tâm nhận”: vật chẳng phải có nên sự ứng hợp là không. Chẳng cho vật là có vật nên cho vật là không vật Câu: “Đúng ra là do Bát-nhã không có cái tri của Hữu tướng”, tức chẳng giống với cái tri hữu tướng của trí mê lầm. Câu: “Nếu lấy vô tướng làm tướng thì đâu có gì tổn hại đế nghóa của chân đế?” Tức chẳng tạo cái tri hữu tướng, chỉ tạo cái tri vô tướng, Như thế thì có gì tổn hại? Đáp: Gọi bậc Thánh vô tướng tức là bậc Thánh lấy vô tướng làm tâm, thì chẳng những vô đối với hữu tướng, mà cũng vô cả đối với Vô tướng Câu: “Nếu lấy vô tướng làm vô tướng” trở xuống: Nếu cho bậc Thánh lấy vô tướng làm tướng, tức cái tri của vô tướng ấy. Đây chính là vô tướng trở thành Tướng, vô tri trở thành tri. Câu: “Bỏ có mà lấy không thì cũng như tránh ngọn núi cao mà chạy xuống vũng nước sâu”. Nói thí như thế là thích hợp. Phong là núi. Hác là nước. Tránh núi mà chạy tới vũng nước sâu, đều có cái lo về thân bị hại. Câu: “ở nơi có mà chẳng có” trở xuống ở chỗ có nhưng chẳng chấp tướng có. Ở chốn không nhưng chẳng chấp tướng không. Câu: “Nhưng cũng chẵng lìa có không”. Ngay nơi có là chẳng có, chẳng phải cho là lìa có mới là chẳng có. Tức không là chẳng không, chẳng phải cho là lìa không mới là chẳng không. Câu: “Đó là sống lẫn lộn với trần lao”. Lão tử nói: “Hòa ánh sáng, đồng với trần tục. (Đạo đức kinh, chương 4, theo bd của NHL). Nay tác giả mượn lời ấy để nói về việc bậc Thánh hòa đồng ánh sáng, với thế tục, ở nơi có đồng có, ở chốn không cùng không. Đồng có mà chẳng chấp có. Cùng không mà chẳng chấp không. Chu toàn là qua lại. Câu “Tịch nhiên mà tới” trở xuống: Tịch, Phách đều là tịch tónh. Tới thì tịch nhiên mà tới, tức tới mà không tới. Lui thì lặng lẽ mà lui, tức lui mà không lui Câu: “Thanh tịnh vô vi”: Điềm nhiên, đạm nhiên (Vắng lặng tónh lặng) không có đối tượng để thể hiện tạo tác, tuy vậy nhưhg không gì không làm. Sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử, Phần Ngoại Thiên, chương Thiên Đạo, có câu: “Ôi! Rỗng lặng, tịch tónh, thanh tịnh, vắng lặng, vô vi, là gốc của trời đất, là chốn cao tột của đạo đức.” Nêu câu hỏi: Từ Câu: “Chân tâm của bậc Thánh tuy vô tri” trở xuống: là câu hỏi thứ tư có ba lần hỏi đáp, nêu câu hỏi về sinh diệt. a/ Lần 1: Câu hỏi: Ứng tiếp cơ duyên mà chẳng mất sự ứng hợp với căn cơ, nên gọi là ứng hợp chẳng sai sót. Giữ lại, tức còn lại mà chẳng thể ứng hợp. Khả hồ! Là phải vậy chăng?), có bản chép là hà hồ, có bản chép là khả hồ, đều thích hợp để nói về tâm của bậc Thánh là sinh diệt chăng? Đáp: Câu: “Nói sinh diệt là sinh diệt trong tâm của phàm phu” Tức là phàm phu nói sinh là sinh trong tâm, diệt là diệt trong tâm. Câu: Bậc Thánh là vô tâm thì sinh diệt đâu thể dấy khởi được”? đã không có tâm, thì không thể sinh diệt. Câu: “Nhưng chẳng phải vô tâm” trở xuống: chẳng phải là sự vô tâm của gỗ đá, chỉ là vô tâm của vô Tri, nên gọi là “Vô cái tâm sinh diệt”. Sự ứng hợp cũng như thế. Câu: “Do đó đạo ứng cơ để giáo hóa của bậc Thánh tin hợp đúng như thật chất của bốn mùa”. Sách Tiểu Nhã viết: “chất là Tin”. Sách Gia Ngữ chép: “Công việc cai trị trăm họ của bậc minh vương, sự giáo hóa cơ thể gìn giữ, lời nói có thể lưu lại, dấu vết có thể noi theo, nên tin tưởng như bốn mùa”. Sách Lữ Thị Xuân Thu chép “Cái lớn lao của trời đất, bốn mùa luôn chuyển hóa, nên rất mực tin tưởng.”Sách xuân Thu Cảm Tinh Phù nói: “Bậc đế vương cùng với mặt trời, mặt trăng đồng chiếu sáng, bốn mùa đồng tin hợp”. Nay cho sự ứng cơ tiếp vật của bậc Thánh, việc ấy như bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, đến mùa thì ứng hợp. Câu: “Lấy cái rỗng lặng làm thể riêng”. Có bản chép câu trên (… tín nhược tứ thời chi chất) không có chữ chi, nên đọc là: “Tín nhược tữ thời chất trực”. Còn câu này thì chép: “Dó hư vô vi Thể”. Nay theo bản trước, cho chữ Trực là thuộc câu dưới. Trực là đãn chỉ song, Độc là riêng. Chỉ riêng tâm của Bậc Thánh thường rỗng lặng, nên không hề chấp trước. Đã không hề chấp trước cho nên là vô tướng, Vô tướng nên không sinh diệt. b/ Lần 2: Nêu câu hỏi: Từ Câu: “Cái vô của Thánh Trí” trở xuống: Là lần hỏi đáp thứ hai (của câu hỏi thứ tư). Bát-nhã là vô tri. Đây chính là cái vô của Thánh Trí. Tánh của Trí mê lầm vốn không. Đó là cái vô của trí mê lầm. Bát-nhã vô tri, là vô sinh vô diệt, tánh của Trí mê lầm là không, cũng là không sinh diệt, thế thì hai cái vô ấy có gì khác nhau? Đáp: Câu “Cái vô của Thánh trí là vô tri” trở xuống: Thánh Trí là không có Tri: Trí mê lầm, xét về Thể thì đều là vô, nhưng khác nhau. Câu: “Do đó nới là vô” là chỉ cho nghóa vừa nó, tuy đều gọi là vô nhưng mỗi thứ có nghóa khác. Câu: “Vì sao? Vì chân tâm của bậc Thánh vốn rỗng lặng, tịch tónh” trở xuống: tức là chân tâm của bậc Thánh không hề chấp trước, không có cái Tri của sự chấp trước, nên gọi sự nhận thức ấy là vô Tri. Câu: “Nên gọi là vô Tri” trở xuống: nên gọi đó là vô Tri, chẳng thể gọi tri về vô. Câu: “Trí mê lầm có đối tượng Tri” trở xuống: tức là trí mê lầm có sự chấp trước. Có cái Tri của sự chấp trước ấy nên gọi sự nhận htức đó Tri về vô. Câu: “Nên gọi là tri về Vô” trở xuống. Nên gọi đó là tri về vô chứ không phải là vô tri. Câu: “Vô Tri tức là cái vô của Bát-nhã” trở xuống. Bát-nhã không hề chấp hình tướng, nên gọi là vô tri. Thể tánh của trí mê lầm là không, nên gọi là Tri về Vô. Tri về vô tức là thật tướng của chân đế. Câu: “Nói về diệu dụng thì đồng mà khác” trở xuống. Nói về diệu dụng thì gốc đồng mà kết quả thì khác. Bàn về sự tịch tónh thì gốc khác mà kết quả thì đồng. Câu: “Vì đồng nên vô tâm đối với kia, đây” trở xuống: Nói về mặt đồng thì kia đây không có khác nhau. Còn nói về mặt khác thì kia đây đều có sự khác nhau. Tức là Bát-nhã có năng lực mầu nhiệm của sự soi chiếu về cảnh. Còn chân đế thì có cái công năng của sự phát sinh trí tuệ, cũng có thể cho là khác: Tức Bát-nhã có công dụng của sự soi chiếu. Còn chân đế thì không có. Câu: “Bởi vậy giải thích về đồng” trở xuống: Nói về đồng tức pháp khác là đồng. Nói là khác, tức pháp đồng là khác. Câu: “Đây chính là tính chất chẳng thật có mà khác” trở xuống: Nói về rốt ráo thì “chẳng thật có” là khác, “chẳng thật có” cũng là đồng. Câu: “Vì sao? Vì bên trong có cái sáng của sự tự soi chiếu” trở xuống: Giải thích ý ở trước: “Tịch tónh thì đồng mà diệu dụng thì khác”. Bên trong có cái sáng của sự soi chiếu tức là diệu dụng của Bát-nhã. Bên ngoài có cái thật của pháp môn, là diệu dụng của chân đế. Câu: “Muôn pháp tuy thật” trở xuống: Tuy có lý thật, nhưng phải có Bát-nhã soi chiếu thì mới hiển bày. Câu: “Trong ngoài giúp nhau thì mới thành tựu được công dụng soi chiếu” Do trong thấy ngoài, do ngoài phát huy trong, nên gọi là giúp nhau. Câu: “Đây là diệu dụng của bậc Thánh chẳng thể đồng” ở đây tức là sự khác nhau về Dụng, bậc Thánh chẳng thể khiến cho đồng được. Câu: “Bên trong tuy soi chiếu mà vô tri” trở xuống: soi chiếu mà vô Tri tức là trí tịch tónh. Thật mà vô tướng tức là cảnh vắng lặng. Hai pháp, thể tánh đồng tức đều là không. Câu: “Trong ngoài đều vắng lặng, cả hai đều không”. Hai pháp đều vắng lặng, đều là không. Câu: “Đó là chỗ vắng lặng của bậc Thánh chẳng thể khác” đó tức là sự đồng của vắng lặng, bậc Thánh cũng chẳng thể khiến cho khác được. Câu: “Há bảo rằng chặt bớt chân con chim hạc” trở xuống: Câu này xuất xứ từ Trang Tử. Sách Nam Hoa kinh, phần Ngoại Thiên, chương Biền Mẫu có đoạn: “Dài, chẳng cho là có dư, ngắn chẳng cho là không đủ, nên chân của loài chim le le thì ngắn, cố mà kéo dài, nó khổ. Giò của loài hạc thì dài, cố làm cho ngắn, nó đau. Cho nên tánh mà dài không phải là cái nên chặt bớt. Tánh mà ngắn, chẳng phải là cái nên kéo dài” (chương Biền Mẫu, theo bd của NDC). Nay tác giả Tăng Triệu mượn ý ấy, để nói về Trí, cảnh tuy khác mà đồng, chẳng phải đợi cho đồng rồi mới đồng. Di là làm cho bằng. Doanh là làm cho đầy, Nhạc là núi cao. Hác là khe sâu. Câu: “Thật ra, do chẳng khác ở nơi khác”. Tức do chẳng khác mà khác. Câu: “Nên tuy khác mà là chẳng khác”: Đã cho chẳng khác mà là khác, nên khác cũng có thể là chẳng khác. Câu: “Đối với pháp không khác mà nói các pháp khác nhau”: Tức các pháp chẳng khác mà khác. Câu: “Cũng chẳng phải một tướng” trở xuống: chẳng phải một, chẳng phải khác, tức chẳng phải đồng, chẳng phải khác. c/ Lần 3: Nêu câu hỏi: Từ câu: “Luận cho rằng, nói về dụng thì khác” trở xuống: Là lần hỏi đáp thứ ba (của câu hỏi thứ tư), tức dựa theo diệu dụng, vắng lặng để nói câu hỏi. Câu: “Chẳng hay trong Bát-nhã có sự khác nhau về Dụng, vắng lặng chăng?”. Có bản không có chữ phủ. Ở cuối câu. Nay chẳng dùng câu có chữ phủ tức là hỏi về: đối với Bát-nhã có sự khác nhau về diệu dụng, vắng lặng hay chăng. Nếu có chữ phủ thì đó sẽ là hai vấn đề có hay không. Đáp: Câu: “Dụng tức là tịch tónh” trở xuống: Lại nói sự giúp nhau của Dụng và tịch tónh. Câu: “Dụng và tịch tónh, thể là một” trở xuống: đều từ diệu lý mà ra nhưng có sự khác nhau về tên gọi. Câu: “Cũng không có cái tịch tónh của vô dụng để làm chủ nơi dụng” chẳng phải cho là bên ngoài của sự lìa Dụng có sự tịch tónh riêng là chủ của dụng ấy. Câu: “Cho nên Thánh trí càng lu mờ” trở xuống: Di là càng, Du là vượt hơn. Thánh trí càng mờ tối thì diệu dụng chiếu soi càng sáng tỏ hơn nữa. Cái Thần của bậc Thánh càng vắng lặng thì sự ứng hợp với cơ duyên càng linh động bội phần.. Câu: “Há cho rằng sáng tối dộng tónh là khác nhau?” Tuy gọi là sáng tối, động tónh, nhưng lại kết hợp chung thành một. Câu: “Nên kinh Thành Cụ chép” “chẳng tạo tác mà hơn hẳn mọi sự tạo tác”, tức chẳng làm mà hơn cả làm. Câu: “Không tâm không thức” trở xuống: không tâm không thức, tức là sự hiểu biết sâu xa, rộng khắp. Câu: “Đó chính là cái thần đạt tới chỗ tận cùng, cái trí đạt đến chốn tột bực” trở xuống: Tức là hai kinh ấy, nói về chỗ tận cùng của trí tuệ thần diệu, luận bàn thấu suốt về trong ngoài nơi các hiện tượng. Câu: “Dựa theo lời văn sáng tỏ ấy” trở xuống: Do lời văn sáng tỏ của sự biện luận đó, nên “chân tâm của bậc Thánh là vô tri” có thể thấy rõ. Cũng có thể chỉ cho hai đoạn kinh dẫn ra ở trên, ý văn kinh được sáng tỏ. - Thư hỏi của Lưu Di Dân: Bài “Bát-nhã Vô Tri” có ba chương: Một phần luận văn, hai là Lưu Di Dân nói câu hỏi và ba pháp Sư Tăng Triệu trả lời. Đây là phần thứ hai. Pháp sư Tuệ Viễn ở Lô sơn nói “Lưu công truyện”, có đoạn: “Lưu trình chi tự là Trọng Tư, người đất Bành Thành, vốn là hậu vệ của Hán sở Nguyên Vương. Tuy là dòng dõi thế gia nhưng tâm tưởng thì một lòng gắn bó với cửa Phật. Rộng bàn khắp trăm nhà, chẳng có gì không để mắt tới. Chuyện nghiêm cứu tìm hiểu về Phật học, đã đạt tới chỗ tận cùng của lý mấu. Ân Trọng Văn người ở Quận Trần, Hoàn Huyền, v.v…các bậc danh só hữu tâm đương thời chẳng có ai là không tôn kính…” ở nơi chốn núi rừng hơn mười hai năm, lúc mất có thuyết cho rằng: Từ khi vào núi, tự cho mình là người dân “Vô dụng” của đất nước, nên đổi tên là “Di Dân”. Buổi đầu, Pháp sư đạo sinh vào đất Quan Trung theo học nói Pháp sư La-thập, sau trở lại Lô Sơn, có được bài “Bát-nhã vô tri luận” của Pháp sư Tăng Triệu, bèn đưa cho Lưu Di Dân xem. Lưu lại trình lên Pháp sư Tuệ Viễn, do đó cả hai vì cùng đọc, cứu xét rất kỹ, nên mới có thư ấy, hỏi về chỗ huyền diệu sâu xa, tuy gọi là bút tích của Lưu Di Dân nhưng cũng là ý của Pháp sư Tuệ Viễn. Từ Câu: “Di Dân hòa nam” (Di Dân xin kính lễ) trở xuống: thư gồm có ba chương: bày tỏ lời thăm hỏi, chính thức nói câu hỏi và tổng kết. a/ Trong phần thăm hỏi, văn có đề cập tới một số chi tiết nhưng vẫn gồm chung một đoạn. Hòa-nam là từ phiên âm tiếng Phạm, chỉ cho sự tôn kính hết mực. Câu: “Gần đây, được nghe tiếng tăm lan truyền khắp nên từ nơi xa xôi có lòng mong đợi gặp mặt: khoảnh là khoảnh khắc, nghóa là gần đây. Xan là trong tai mình đã được nghe, cũng như là ăn, được ăn. Huy là tốt đẹp. Vấn là tên tuổi vang khắp. Tuy là chữ văn nhưng đọc là vấn. Từng được nghe tiếng tốt lan truyền khắp nên trong lòng từ xa đã thường nhớ nghó mong được gặp mặt, Do đó chép là diêu đình (mong đợi từ xa) Đình là chờ đợi. Câu: “Tiếng nói gởi đi trong sự xa xôi cáh trở, những điều ôm ấp trong lòng càng thêm chất chứa” Thời bấy giờ, miền Nam thuộc nhà Tấn (Đông Tấn) miền Bắc là nhà Tần (Hậu Tần). Hai nước đã chẳng thông hợp, nên thư từ càng khó qua lại. Những điều ôm ấp trong lòng muốn được truyền gởi càng thêm chất chứa! Câu: “Đệ tử vốn bị bệnh lâu ngày khó chữa” trở xuống: có bản chép chữ chẩm, cũng được. Nay do bệnh nặng kéo dài, ở trong chốn thôn dã hẻo lánh, thì bệnh hoạn càng thêm khổ. Câu: “Nhân có đạo nhân Tuệ minh đi về miền Bắc” trở xuống: Tức là ở đây, từ trước đã từ có đạo nhân Tuệ minh thường đi về miền Bắc để thư từ tin tức được thông thương. Câu: “Người xưa chẳng lấy cái hình tướng thô sơ để cho là nhạt nhẽo” trở xuống: Hình tưưóng tuy thô sơ nhưng tình thì lại đậm đà. Tỏ ngộ, hiểu rõ mối tương quan tức là gần gũi. Về chữ cổ nhân, sách Thế Thuyết có nói tình bạn giữa Kê Khang và Lữ An, nhớ nhau, dù ngàn dặm cũng rong xe đi tìm. Câu: “Chính là do núi sông xa xôi diệu vợi nên năm này chẳng được gặp nhau” trở xuống: Du, mạc, đều có nghóa là xa xôi. Bất diện đương niên là năm hiện tại, năm nay, chẳng được gặp mặt. Xí hoài phong vị tức trong lòng luôn mong ngóng, kính mến hình tướng Pháp sư Tăng Triệu, ý vị được lãnh hội càng sâu xa. “cảnh tâm tượng tích” tức tâm mình như tấm gương sáng soi vào “Luận Vô tri” của Pháp sư Tăng Triệu, vì sự biện luận ấy thật đã khắc họa sắc nét. Đình là chờ đợi. Duyệt là hân hoan. Cần là hết lòng cố gắng, lương là tin (Trong câu đình duyệt chi cần, lương dó thâm hó!) Câu: “Biền biệt không có lý do gì để gặp nhau, chỉ còn biết nhìn ngắm ráng chiều mà thở than mãi”. Miến là xa cách. Nam Bắc cách ngăn, không có nhân duyên để được gặp mặt, chỉ còn biết nhìn ngắm những ãng mây, ráng chiều mà thở than không dứt! Có bản chép chữ Hà Viễn giá trị không bằng chữ chiêm hà. Câu: “Thuận thời ái kính” là thuận theo bốn mùa để tự yêu tự kính. Câu: “Ký nhân hành lý số hữu thừa vấn” tức chỉ cho sự mong muốn. Sách tả Truyện chú rằng: “Hành lý sứ nhân” (khiến người mang theo hành lý). Có người nói: Tời xưa chữ viết còn ít nên dùng chữ hành lý thay cho chữ hành Lý, lâu dần không đổi, cho đến ngày nay thì hai chữ lý cũng ấy cũng như nhau, người mang theo hành lý đi đến, tới lui. Trông ngóng để được thăm hỏi, nên biết là thừa vấn. Câu: “Lại cầu nguyện cho đại chúng ở đấy được an lành thuận hợp” khang là an vui. Câu: “Pháp sư nước ngoài luôn nhận được mọi sự tốt đẹp” là chỉ cho Pháp sư La-thập. Hưu là tốt đẹp, nạp là thu nạp (xuất xứ từ Trịnh Huyền chú giải kinh Thi). Câu: Thượng nhân đem chỗ tỏ ngộ làm cho nó sáng tỏ hơn, mà cấu là gặp. Có bản chép chữ cấu nghóa là cấu tạo. Thượng nhân là chỉ cho pháp sư Tăng Triệu. Khí tức là tài năng. Lý giải sự tỏ ngộ, làm cho sáng tỏ hơn nữa, nên gọi là ngộ phát, hỏi đáp về chỗ sâu mầu, huyền vi, nên viết là uyên đối. Câu: “Nghó đến công lao của sự khai mở việc nghiêm cứu tìm hiểu về Bát-nhã, quá đủ để cho là hơn một nửa nghóa lý). Sách Nhó Nhã giải thích: cứu là xét đến tận cùng. Phần hệ từ của sách chu Dịch viết: “Người hiểu biết, xem xét về Thoán Từ thì sự suy nghó đã đạt hơn một nữa rồi, vì sao? Vì Thoán nghóa là xét đoán, xét đoán về tính chất tốt xấu của một Quả, nên gọi là Thoán. Tìm hiểu về Thoán Từ của Dịch thì đối với đạo lý của Dịch, suy lường, tỏ ngộ đã được hơn một nửa!) Nay cho rằng bài luận ấy (Luận Bát-nhã vô tri) mở ra sự nghiên cứu tìm hiểu về nghóa mầu của Bát-nhã đã hơn một nửa. Cũng như phần Thoán Từ đã khai mở đạo lý của kinh Dịch. Câu: “Nên thường khi nghó ngợi về sự xa xôi cách trở thì lòng càng bực, hổ thẹn mà than sao diệu vợi như vậy!”. Vì pháp sư Tăng Triệu có thể khai mở sự nghiên cứu tìm hiểu về lý mầu của Bát-nhã như thế, nên thường khi muốn được gặp nhau, nghó ngợi về sự cách trở muôn trùng của Nam Bắc, trong lòng càng thêm tức giận, hổ thẹn mà than thở sao xa xôi đến thế! Chữ Di Lệ là khiến càng cố gắng. Chữ “Tuân Tuân, mục mục”. Sách Nhó Nhã nói: “Tuân Tuân là sợ sệt”. Sách Quảng Nhã giải thích: “Tuân Tuân là cung kính. Vương Túc chú giải sách Luận Ngữ chép: “Tuân Tuân là dung mạo ôn hòa, cung kính.” Mục mục là hòa thuận. Túc tâm là tâm vốn cầu mong sự ẩn dật, nay đã theo đúng chí nguyện vốn có nên gọi là tọai (mãn nguyện). Chữ Thượng quỹ, Quỹ là dấu xe đi qua, là khuôn phép nên noi theo. Ở đây gọi chung Phật pháp là khuôn phép tối thượng. Cũng có thể nói riêng về đức độ ở Lô Sơn là khuôn phép cho mọi người. Câu: “Cảm kích sự gởi gắm ấy là hết sức chân thành, nên hết lòng nghi nhớ ánh sáng trời, trăng đó”. Cảm kích về những suy nghó của Pháp sư Tuệ Viễn, gởi gắm ở trong Phật pháp, sự chí thành ấy hiển bày sáng rõ như mặt trời mặt trăng. Về chữ minh. Minh là nghi nhớ không quên. Có người cho rằng: minh là lời chỉ dạy sáng tỏ. Đã sáng tỏ như thế nên vì như là “mặt trời, mặt trăng”. Câu: “Pháp sư Tuệ Viễn gần đây luôn hành xử một cách thuận hợp”. Lý là thích ứng một cách tốt đẹp. Câu: “Tâm tư sự nghiệp luôn tinh tấn hướng tới”. Tức là tâm tư, sự nghiệp luôn tinh tấn phát triển. Nghệ là đi tới, tiến tới. Câu: “Đêm ngày lúc nào cũng khẻo mạnh hăng hái”. Sách Chu Dịch, Quẻ Càn, Hào Từ của Cửu Tam (hào thứ 3 dương) chép: “Người quân tử suốt ngày hăng hái, tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ”. Nay sử dụng từ ấy (càn càn), để nói về trường hợp đêm ngày luôn tinh tấn, siêng năng. Câu: “Tự mình chẳng phải vận dụng lý thì dùng tâm chế ngự thần khí”. Sách thuyết văn giải thích: Ngự là cầm cương điều khiển ngựa. Sách Thượng Thư nói: Ngự là cai trị. Xét rõ việc cỡi ngựa thì gọi là Ngự, còn cầm cương điều khiển ngựa, thì trong kinh sử đều dùng chữ ngự. Do Pháp sư Tuệ Viễn hành hóa về đạo pháp thì tiền ẩn một cách suy mãn nơi nội tâm, vận dụng lý lẽ thì lấy tâm chi phối thần khí, nên mới viết như vậy. Câu: “Ai đã ở cái tuổi trên sáu mươi” trở xuống: Thục là Thùy, Thùy là ai. Quá Thuận là trên sáu mươi tuổi. Sách Luận Ngữ có đoạn chép: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học đạo; ba mươi tuổi biết tự lập; bốn mươi tuổi không nghi hoặc nữa; năm mươi tuổi biết mệnh trời; sáu mươi tuổi đã biết thuận theo mệnh trời; bảy mươi tuổi đã theo lòng muốn của mình mà không vượt ngoài khuôn khổ đạo lý, sáu mươi trở lên đã là người già, thần chí yên tónh, thư thái như thế là phải gắng sắc. Câu: “Do đấy, sự nương dựa, yên ổn đã trở nên sâu xa mầu nhiệm, trở xuống. Ngửa lên thì nương cậy Pháp sư, cúi xuống thì cảm thấy yên tâm về chỗ sâu mầu của tư tưởng, chẳng thể tỏ bày hết sự kính mến, nên viết là Du tuyệt tuyệt vời không gì bằng. Câu: “Tài năng được thể hiện một cách thanh nhã, xuất chúng, nghóa mầu được diến đạt thâm trầm, thích hợp”. Tài năng tư tưởng được vận dụng thể hiện một cách thanh nhã, tài ba xuất chúng nên nghóa mầu được diễn đạt hết sức thâm trầm, thích hợp. Kinh Dịch cho rằng: “Duẫn là xứng hợp.” Sách thượng thư có câu: “Duẫn chấp kỳ trung, tứ hải khốn cùng, lộc trời vẫn mãi mãi trọn vẹn) Khổng An Quốc chú giải: “Duẫn là tin thật”. Câu: “Suy xét về Thánh Văn thì thuận hợp mà có chỗ trở về” Sách thuyết văn giải thích: Uyển là thuận hợp, Thánh Văn là chỉ cho kinh Phật. Suy xét kỹ về kinh Phật, thì chỗ biên soạn của pháp sư Tăng Triệu rõ là dẫn về đúng tông chỉ. Câu: “Hết lòng mở ra đọc để thưởng thức ý vị của tác phẩm” trở xuống: Mở ra xem để thưởng thức ý vị, tay chẳng lúc nào rời. Câu: “Thật có thể cho là tâm đã được tắm gội dưới vực nước sâu của các kinh Phương Đẳng” trở xuống: tức là Pháp sư Tăng Triệu, đem tâm tắm gội nơi biển giáo pháp của Đại thừa, đem tâm ở chốn tận cùng của sự huyền diệu, mênh mông mà có được sự tỏ ngộ. Cũng có thể là Lưu Di Dân tự cho rằng. Nay xem được luận này, bản thân mình đạt được như thế. Về chữ Tân, sách Nhó Nhã giải thích “Tân là chỗ tột cùng”. Câu: “Nếu khiến sự giải thích ấy được phổ biến rộng khắp” trở xuống sự giải thích ấy là bài Bát-nhã Vô Tri, được nói bày phổ biến, lưu thông khắp thiên hạ. Các dòng Bát-nhã tức các bộ kinh Bát-nhã “Chẳng cần giảng nói mà liền khế hợp” chữ đãi có nhiều nghóa. Kinh Dịch nói: Đãi là sai lầm. Sách quảng Nhã nghi: Đãi là hư bại. Trịnh Huyền chú giải: Đãi là ky, sách “Mao Trường Thi Truyện” chép: “Đãi là khởi đầu”. Nay dựa theo nghóa của Trịnh Huyền. Đãi là ky, ky nghóa là gần. Luận này nếu được phổ biến khắp thiên hạ thì diệu lý của Bát- nhã chẳng cần phải giảng nói mà có thể khế hợp ngay. Câu: “Há chẳng vui sao!” ý nói là vui mừng. Lập lại lần nữa tức là hết sức vui mừng. Sách Quảng Nhã nghi: Hân là vui mừng. Câu: “Hễ lý sâu mầu thì văn từ ẩn sâu” Đạo lý đã sâu xa, mầu nhiệm thì ngôn từ càng sâu kín, khó lãnh hội. Như trước đó: “Tri chẳng phải là tri mà chỉ nhằm thông đạt sự soi chiếu. Bất tri chẳng phải bất tri mà là nhằm giải thích về sự tướng, giải thích về sự tướng, nên chẳng phải không. Thông đạt sự chiếu soi, nên chẳng phải có.” Lại nói: “Nói về diệu dụng thì đồng mà khác, bàn về sự vắng lặng thì khác mà đồng. Vì đồng nên vô tâm đối với đây, kia. Vì khác nên chẳng mất công dụng soi chiếu”, đều là những ngôn từ sâu kín, vượt ngoài mọi nhận thức thông thường. Câu: “Lời xướng càng cao thì sự ứng họa càng ít” tức là pháp sư Tăng Triệu nói lên nghóa mầu của Bát-nhã vô Tri, Văn, lý riêng lẻ, đặc biệt nên khó ứng họa. Về việc này, sách văn tuyển chép truyện Tống Ngọc đáp lời hỏi của Sở vương: “Người khác có khúc hát truyền nơi đất Dónh Trung, kinh đô nước sở, đầu tiên là điệu hát “Hạ lý Ba Nhân”, ở trong nước, những người dựa vào đó mà hát theo có tới mấy ngàn người. Đến điệu hát “Dương A giới Lộ” ở trong nước số người theo đó mà hát là mấy chục. Tới điệu “Dương xuân Bạch Tuyết” thì khắp nước, số người dựa vào đấy để hát theo chỉ còn mấy trục. Đến các điệu “Dẫn thương khắc vũ” “Tạp dó lưu trưng” thì số lượng kẻ hát theo không tới vài ba người. Như vậy là khúc hát càng cao thì người họa lại càng ít.” Câu: “Nếu chẳng phải là hạng người siêu vượt ngôn từ, đạt ý quên lời” trở xuống, nếu là người vượt khỏi mọi sự hạn chế của ngôn từ, hình tượng thì sẽ không còn sự nghi ngại, vướng mắc. Còn như chẳng phải là hạng người như thế thì sẽ chấp vào văn tự, tạo nhiều vướng mắc, tức nói Bát-nhã là Trí, sao gọi là Vô Tri. Ngôn là Văn Ngôn. Tượng là từ ngữ diễn đạt hình tượng. Câu: “Ý nói là lời đáp ở chương “Lấy duyên để tìm Trí” trở xuống: Khen ngợi tính chất khéo léo, sâu sắc trong lời đáp ở trước. Uyển chuyển tức là các nẻo quanh công đức khúc mắc đều dứt hết. “Vô sở gián nhiên” (Hầu như không có kẽ hở) nghóa là không có sự cách trở, chẳng thông suốt. Câu: “Nhưng đối với hạng còn mở tối thì thật khó có được sự thấu hiểu nhanh chóng” trở xuống: Bắt đầu nói bày về ý của câu hỏi. Phương ngôn nói: hiểu rõ, hiểu nhanh để đối với chữ ám giả. Những nghi ngờ còn lại phần sau sẽ hỏi. Câu: “Nếu Ngài rảnh rổi thì xin giải thích giúp cho” sách Quảng Nhã giải thích: ung dung là cử động. Sách Quốc ngữ nói “Hạ là nhàn rỗi”. Thô là sơ lược. Nhưng trong thư, chữ ung dung đều được viết theo lối đơn giản. Các bản hiện nay đều chép là ung dung. Thích, sách Tiểu Nhã nghi: Thích là giải nghóa. Sách Tự Lâm viết: Thích là ngâm gạo (Tí Mễ). Nay cho là giải thích ý nghóa của các câu hỏi, cũng như ngâm gạo cho nở ra. b/ Từ Câu: “Luận cho rằng, Thể của Bát-nhã” trở xuống: Là chương hai của Thư, chính thức nói lên các câu hỏi. Văn gồm hai đoạn. Trước nói câu hỏi chung, sau hỏi riêng. - Nói câu hỏi chung: Trước nhắc lại những câu văn ở phần trước, sau đó mới nói câu hỏi. Từ Câu: “Ôi! Chân tâm của bậc Thánh vắng lặng” trở xuống: Là chính thức nói câu hỏi. Nghóa là mênh mông, vắng lặng, là chỗ tột cùng của lý mầu, đồng với không, vô. Câu: “Chẳng mau mà mau, chẳng chậm mà chậm” tức tự thần biến của bậc chí nhân vừa thư thái vừa cấp bách. Chẳng mau mà mau thì cái mau chóng ấy không cố định. Chẳng chậm mà chậm thì cái chậm chạp ấy không cố định. Lời này xuất xứ từ Trang Tử. Sách Nam Hoa Kinh, Phần Ngoại Thiên, chương thiên đạo có đoạn: “Hoàn công đọc sách ở nhà trên. Người thợ đẽo bánh xe ở nhà dưới, bỏ dùi, đục, bước lên hỏi Hoàn Công” Xin hỏi nhà vua đọc lời gì thế? Hoàn công nói: - Đọc lời của bậc Thánh. Hỏi: Bậc Thánh còn sống không? Hoàn công nói: đã chết rồi! Người thợ nói: Như thế thì cái mà nhà vua đọc đó chỉ là cặn bã của người xưa đấy thôi! Hoàn công nói: Quả nhân đọc sách, kẻ đẽo bánh xe sao dám luận bàn, nói nghe thông thì thôi, không thông thì chết! Người thợ đẽo bánh xe thưa: - Thần xin lấy việc của mình mà nói, đẽo chậm thì êm mà không bền, đẽo mau thì cứng mà không vô. Không chậm không mau tay làm mà ứng hợp với lòng mong muốn, miệng không sao nói ra được việc ấy. Trong chỗ đó, còn lại biết bao điều không thể nói ra. Thần không sao đem điều đó dạy bảo được cho con thần. Con của thần cũng không sao học được ở thần. Cho nên, nay đã bảy mươi tuổi đầu mà vẫn còn làm nghề đẽo bánh xe. Người xưa với những gì không thể truyền dạy đều chết cả rồi! Cho nên cái mà nhà vua đọc đó, chỉ là cặn bã của người xưa mà thôi!” (Theo bd của NDC) Câu: “Vì thế, Tri chẳng lìa vắng lặng” trở xuống: là nói động tónh là chẳng hai. Câu: “Cho nên, việc ứng cơ hóa độ thành tựu” ứng tiếp hóa độ chúng sinh, khiến họ hướng về đường lành, sự việc ấy đã thành tựu. Câu: “Tuy ở trong chốn hữu danh mà đồng với vô danh”, Lão tử nói “Vô danh là cái khởi đầu của trời đất. Hữu danh là mẹ của muôn vật”. (Đạo đức kinh, Thiên Thượng, đoạn 1). Ý cho rằng, Hữu danh là có, vô danh là không. Bậc Thánh tuy ở nơi Hữu mà đồng với vô. Câu: “Đó là sự nhiệm mầu của lý mầu mà phàm phu lại càng cảm thấy mờ tối”. Sách Nhó Nhã giải thích: “cố là lâu dài; di là càng tăng thêm; muội là tối tăm. Lý ấy mầu nhiệm, từ lâu đã tạo nên sự mờ tối, khó lãnh hội, chẳng phải là đến nay, đọc luận này mới phát sinh nghi ngờ. - Nói câu hỏi riêng: Từ Câu: “Nhưng nay người bình phẩm” trở xuống: Là đoạn hai, nói nói câu hỏi riêng, tất cả có ba câu hỏi: a/ Hỏi về thể của trí là Hữu tri hay vô tri. b/ Hỏi về sự soi chiếu ở cảnh là Hữu tướng hay vô tướng c/ Hỏi về Cảnh, Trí đối đãi nhau là có thật hay không thật, là có sự hợp nhau hay không hợp nhau. a/ Gọi là người bình phẩm tức chỉ cho mình. Chỗ nghi đối với tông chỉ cao xa của bài luận: tức là nghi ngờ bài luận của Pháp sư Tăng Triệu. Câu: “Muốn tìm được sự khác nhau của Thánh Trí”(gồm cả Thật Trí và Quyền Trí) là tìm xem đó là Hữu tri hay là vô tri. Câu: “Cho rằng Thật trí linh thiêng cùng tột, siêu vượt mọi số lượng, hết mực u huyền, âm thầm phù hợp với Nhất thể của Trung đạo?”. Đây là Hữu tri. Vì hợp với chỗ tận cùng nơi sự soi chiếu linh diệu của Bát-nhã, tột bậc về số lượng, tột bậc nơi tâm của Thánh trí, sự linh diệu ấy có thể nhận biết tận cùng, âm thầm phù hợp với pháp tánh hay không? Câu: “Quyền trí với tâm thể tự nhiên, linh diệu rỗng lặng, tồn tại riêng?”. Vì hợp với thể tự nhiên của Bát-nhã là vô tri. Tinh diệu, nhiệm mầu, vắng lặng, chẳng đồng cảm ứng với chúng sinh chăng? Câu: “Thế thì tên gọi của Tịch và Chiếu chỉ là Thể của Định và Tuệ”. Tuy không đối tượng nào chẳng nhận biết, vì lấy Tuệ làm Thể, nên là Tri. Còn nói về Định, thì tâm định nhận biết các pháp, gọi là định tuệ. Ở đây nói định tuệ là thể, cũng là Định của tâm sở trong mười đại địa. Tuệ dùng làm thể của Bát-nhã. Mười tâm số là: Tưởng dục, xúc Tuệ, Niệm, Tư, giải thoát, cảnh định, Thọ. Câu: “Thì sự ứng hợp của cơ duyên mà Quyền trí đã dứt hẳn”. Nếu là tự nhiên vắng lặng, rỗng thênh, không có đối tượng cảm ứng, thì đó là vô tri. Chữ cố, kinh Dịch nói: cố là bền chắc, chữ này có ba cách đọc: Đọc là cơ Đọc là kỷ Đọc là kì Kinh Dịch có câu: “Biết trước được triệu chứng, từ khi mới có dấu hiệu, thì quả là thần diệu!”. Lại nói: “Triệu chứng là cái dấu hiệu đầu tiên rất nhỏ của sự biến động”, “cơ giả, động chi vi” thì đó đọc là cơ. Như nhân kỷ tuế? (Như hỏi người bao nhiêu tuổi) thì ở đây đọc là kỷ, nay viết là đọc theo âm kỳ. Sách Luận ngữ chép: “Chẳng vậy sao! Một lời nói mà có thể làm cho nước đây là đọc theo âm kỳ, sách Tả Truyện chú. (nhà hưng thịnh…) giải thích: cơ là gần, Quách Tượng chú giải sách Trang Tử cho, cơ là tận cùng. Câu: “Chân tâm mầu nhiệm” trở xuống: trở lại với câu đã nói ở trước. Chân tâm của bậc Thánh đã huyền diệu, sao cho là lại có sự soi chiếu? Soi chiếu là tuệ. Lược qua, không nói về định, nếu nói đầy đủ là “chân tâm đã là mầu nhiệm, sao được cho là có tác động đến định tuệ, lấy Định Tuệ làm thể chăng? Câu: “Nói về quyền trí ứng hợp cơ duyên hóa độ, gồm thâu cả muôn vật” trở xuống: trở lại với câu sau. Bậc Thánh đã có tâm thần diệu tịch tónh, thuần hòa, biểu thị qua sự ứng hợp ở thế gian, đâu được cho là có Tuệ sáng tồn tại, gặp gỡ riêng? Câu: “Ngài là bậc đã chứng ngộ chỗ mầu nhiệm thì phải có sự chứng ngộ sâu mầu riêng, thì xin vì tôi mà giải thích. Sách Quảng Nhã giải thích: Biện là phân biệt. b/ Từ Câu: “Người bình phẩm còn chỗ nghi là…!” trở xuống: là câu hỏi thứ hai (trong phần nói câu hỏi riêng) hỏi sự soi chiếu cảnh là hữu tướng hay vô tướng? Văn gồm hai đoạn. Trước nói rõ tri nhận biết về biến chuyển ứng hợp là có. Sau, nói về ái cái Tri nhận biết về biến chuyển là khác với vô tướng. - Cái tri của sự nhận biết về biến chuyển, nếu là có, thì sao lại cho là Vô tri? Cái tri của sự nhận biết về biến chuyển khác với vô tướng, nên biết là có. Phủ hội là dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh, khế hợp với cơ duyên. Ưùng cơ là ứng tiếp cơ duyên. Đổ biến là nhìn thấy, nhận biết sự biến động của cảnh ngoại. Câu: “Nhưng tông chỉ của luận lại nói” Quyền trí vốn chẳng có cái Tri chấp giữ”. Luận của Ngài chỉ cho rằng không có cái tri của sự mê lầm chấp giữ, chẳng thể dùng để nhận thức về Danh, mà chưa nói đến cái ý do đâu mà chẳng mê lầm chấp giữ? Câu: “Cho rằng trước hết cần phải xác định chỗ ứng hợp cơ duyên để hóa độ của Thánh Trí” trở xuống: Là đoạn sau, nói về cái tri của sự nhận biết về biến chuyển khác với vô tướng. Hợp với nhận thức về không hay hợp với nhận thức về có, nhận thức về vô tướng tức là nhận thức về không. Nhận thức về biến động tức là nhận thức về có, mà nói mê lầm là gồm cả nhận thức về có. Câu: “Nếu quán được mọi căn cơ khác nhau của chúng sinh” trở xuống: Nếu nhận thức về biến động (Căn cơ khác nhau của chúng sinh) thì là hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Câu: “Còn nếu chỉ soi chiếu mà không có tướng” trở xuống. Nếu cùng nhận thức về không thì chẳng thấy có chúng sinh để dẫn dắt, giáo hóa. Câu: “Đã chẳng có căn cơ nào để hóa độ, mà có công dụng của sự ứng cơ hóa độ kia” trở xuống: đã không có căn cơ để hóa độ, dẫn dắt, sao cho rằng bậc Thánh có công năng của sự dẫn dắt giáo hóa ứng hợp? Câu: “Xin được Ngài chỉ giáo” May mắn lại được chỉ dạy, hối là chỉ dạy. c/ Từ Câu: “Luận chép: chẳng có cơ để ứng hợp thì không có cơ nào được ứng hợp” trở xuống: là đoạn ba, hỏi về cảnh Trí đối đãi nhau là thật hay không thật, hợp nhau hay không hợp nhau? Trước là gặp lại, sau nói câu hỏi. Từ câu: “Chẳng có cơ duyên để ứng” trở xuống: Là chính thức nói câu hỏi. Chẳng có cơ duyên để ứng mà không có có duyên nào là chẳng được ứng, mới chính là ứng hợp với vô, nên gọi là sự ứng hợp chân thật. Chẳng có tâm nhận vật mà không vật nào chẳng nhận ra, mới chính là nhận lấy cái không, nên gọi là sự nhận đúng nghóa. Đây tức là có sự nhận ra, sự ứng hợp, sao lại không nhận ra, không ứng hợp? Câu: “Nếu nói rằng sự ứng hợp đúng nghóa chẳng phải là sự ứng cơ của phàm tình” trở xuống Nếu cho sự ứng hợp với Vô là sự ứng cơ chân thật, chẳng phải cho ứng hợp với hữu là sự ứng hợp thường tình. Sự nhận về vô là sự nhận ra đúng nghóa, chẳng phải cho sự nhận về Hữu là sự nhận ra thường tình. Lý cố nhiên là thế. Thường là sự ứng hợp thường tình, là mê lầm. Sự ứng hợp chân thật, sự nhận ra đúng nghóa, là tỏ ngộ, hai nghóa ấy vốn khác nhau, chẳng phải như luận đã nói. Luận của Ngài bản ý cũng chẳng cho sự ứng hợp chân thật, chẳng phải là sự ứng hợp của phàm tình, là Phi ứng hợp. Sự nhận ra đúng nghóa chẳng phải là sự nhận ra của phàm tình là phi nhận ra. Câu: “Để khỏi bị nghi hoặc nữa”: khư là trừ bỏ. c/ Từ Câu: “Ngày bài luận ấy đến đây” trở xuống: là đoạn ba của bức Thư: tổng kết. Tường tỉnh là xem xét tường tận, đọc kỹ. Câu: “Cũng vui vẻ lãnh hội và khen ngợi tức đạt ý của tác giả bài luận. Câu: “Song có thể vì tông phái có những điểm khác nhau” Pháp sư Tuệ Viễn lấy pháp tánh làm tông bản, cho Tánh không chẳng phải Pháp Tánh còn Pháp sư Tăng Triệu thì cho tánh không là chân đế, hai quan điểm như thế là khác nhau. Câu: “Tôi có đưa cho các vị đồng học cùng xem qua”. Ban là ban cho, đưa cho. Sách Nhó Nhã chép: xem xét, “cấp cho đều khắp”. Hữu hoài tức là người có hoài bão dốc lý giải tỏ ngộ. Câu: “Cũng có nhiều vị khen ngợi” Nghóa là có nhiều người đã tỏ ra đồng tình trong khi đọc qua bài luận. Câu: “Chỉ tiếc là không được hội kiến Ngài”. Tức khen ngợi trong khi tiếp cận với tác phẩm của Pháp sư Tăng Triệu, cho rằng thật đáng giận vì chẳng được hội kiến. Thời ấy mọi người đều biết về các bài luận của Pháp sư Tăng Triệu. Mà viết như thế là mượn việc xưa để khen ngợi. Sách sử ký có đoạn chép: “Người đất Thục là Dương Đắc Ý, làm quan coi về việc nuôi dưỡng đàn chó săn của vua, hầu vua. Vua đang đọc bài “Tử Hư Phú”, khen rằng: “Tiếc là chẳng được gặp mặt người này!”. Đắc ý tâu: “Trong thôn của thần có Tư Mà Tương Như mọi người bảo ông ta là tác giả bài phú này.” Vua kinh ngạc, bèn cho vời Tương Như đến hỏi. Tương Như thưa: đúng là của thần làm ra. Nhưng đó mới chỉ là sự việc của chư hầu, chưa đủ để xem. Xin vì thiên tử viết bài Phú “Du Lạp”, Phú làm xong, tâu lên, vua hết sức vui vẻ, thích thú”. Nay nói nhiều người khen ngợi tác phẩm của Pháp sư Tăng Triệu cũng như Hán Vũ đế đọc Tử Hư Phú. Trả lời thư của Lưu Di Dân: Bài Luận có ba chương, phần dưới đây là chương ba, Pháp sư Tăng Triệu đáp lại, giải thích về những câu hỏi của Lưu Di Dân. Thư đáp cũng gồm ba phần: a/ Bày tỏ lời thăm hỏi. b/ Chính thức đáp lại các câu hỏi. c/ Tổng kết. Bày tỏ lời thăm hỏi: Trong phần này có hai đoạn: trước nói tóm lược, sau nói rộng. Sỡ dó như thế là vì, người xưa viết thư đều có sự lặp lại nhiều lần, trước nói tóm tắt, sau bàn rộng, thường là như vậy. Từ Câu: “Bất diện tại tích, đình tưởng dụng lao” trở xuống: phần đầu nói bày lời thăm hỏi. Nay nói: “Từ lâu nay chưa từng được gặp nhau”. Lời này xuất xứ từ kinh Duy-ma (bản cũ). Kinh chép: “Trưởng giả Duy-ma-cật nói với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Từ trước nay chưa từng được gặp nhau, phiền Ngài đến để được gặp nhau”. Ý nói là từ trước tới nay chưa từng gặp mặt nhau. Đã chưa từng đối diện, nên “đình tượng dụng lao” (tâm tư luôn hết lòng chờ đợi, trông ngóng) Đình là chờ đợi. Dụng là dùng lấy, cho là. “Mở thư ra xem thì lòng vui mừng như được đối diện”. Tức xem thử và những câu hỏi thì hết sức vui mừng như được đối mặt trong chốc lát. Câu: “Gió thu đến thật đúng lúc” trở xuống. Sách Nhó Nhã giải thích: “Lương phong là gió từ phương Bắc. Nói thế là theo phương hướng mà gọi, còn gọi theo mùa thì là gió thu. Giới là đến, giai là tốt đẹp. Câu: “Hình tướng ăn mặc tuy khác, mà sự mong đạt về lẽ huyền diệu thì là một” trở xuống: là phần thư bàn rộng. Một tăng một tục nên gọi là “hình tướng bên ngoài tuy khác”. Thân tuy có khác, nhưng hướng mong muốn của tâm thì giống nhau. Có bản chép chữ kỳ này. Câu: “Sông núi tuy xa cách diệu vợi, mà ự khế hợp về diệu lý thì gần”. Một Nam một Bắc nên nói là núi sông xa tít. Miễn là xa vời. Nơi chốn tuy xa cách, nhưng sự khế hợp về lý mầu thì gần gũi. Khế là khắc vào gỗ, dụ cho lý xứng hợp. Câu: “Do đấy, trông ngóng nơi đường đi để luôn tưởng nhớ, nỗi lòng như được gởi gắm!”: vì sự mong ước nơi tâm là một, sự khế hợp về lý mầu thì gần, nên trông nhìn nơi đường lộ luôn gởi gắm nỗi lòng ở nơi Lưu công (Lưu Di Dân). Câu: “Ngài đã được toại chí với sự ẩn dật theo nẻo chính, siêu vượt thế tục một cách tốt đẹp” Kinh Dịch có quẻ Độn, Độn có Gia Độn (Hào 5, chương), Phì Độn (Hào trên cùng Dương). Ở đây nói Gia Độn (trốn mà theo điều chính), Gia là tốt, lành. Độn là lánh ẩn. Sách Tử Lâm chép: “Độn là lẫn trốn”. Lưu Di Dân vốn có tâm ý ẩn dật, nay đã được toại chí. Siêu vượt hơn kẻ thế tục, nên nói là tốt đẹp. Câu: “Độc điều sự ngoại, hoan túc phương thốn” (riêng mình vắng lặng, gác bỏ mọi việc đời tâm hồn lúc nào cũng vui thích) Điềm là vắng lặng. Nghóa là cư trú nơi chốn núi rừng, gác bỏ mọi việc đời, trong lòng luôn vui thích. Phương thốn là tâm. Câu: “Mỗi khi tụ tập để bàn bạc, sao lại chẳng đạt tới chỗ cao xa”. Mỗi khi có sự tụ hội đông đảo để luận bàn đều đạt tới chỗ sâu xa. Sách “Cổ hiền Giới Tử Thư” chép: “Ngày trước, khi ngồi hầu với Tiên đế, có ba vị Trưởng sử, cùng đến quây quần bên chỗ vua ngự. Vua hỏi họ làm quan lớn như vậy, phải nên trong sạch, phải nên thận trọng giữ mình, phải nên siêng năng, trong ba cái ấy thì lo nhất là cái nào chẳng thể xử trị được? Rồi cùng đi với vua. Vua hỏi “ta ắt là bất đắc dó mà đi, đối với ba điều ấy thì trước hết cho điều gì là gốc? Thưa: Thận trọng, giữ mình chính là gốc. Phàm trong sạch đâu cần phải thận trọng giữ mình, nhưng thận trọng giữ mình thì chẳng thể không trong sạch, v.v… cũng như người nhân từ tất có dũng lực, nhưng kẻ dũng không cần có nhân từ. Vua nói: Khanh thử nói lên những người thận trọng giữ mình gần đây nhất là ai, bèn nêu ra vài vị. Vua bảo: Những người khanh nói ấy cũng là người thận trọng, giữ mình, nhưng trong thiên hạ, người thận trọng giữ mình tột bậc chính là Nguyễn Tự Tông (Nguyễn Tịch 2 10-263 TL). Mỗi khi nói năng luận bàn với người khác, thì lời nói luôn đạt tới chỗ cao xa, không hề nói lời xấu tốt về người vật” Nay tác giả dùng chữ, có ý nhắc lại việc ấy. Câu: “Ví như sự ngâm vịnh thi ca nơi rừng trúc, sự cao thượng thật đã tột đỉnh) Đời Tấn, bảy vị là Kê Khang, Nguyến Tịch, Nguyễn Hàm, Sơn Đào, Vương Nhung, Hướng Tú, Lưu Linh, tại rừng Trúc ở Sơn Dương, cùng sống ẩn dật, chẳng màng chuyện thế sự, chí hướng cao thượng, nay ý nói Lưu Di Dân cũng giống như thế. Câu: “Sự thanh nhàn thỏa thích, xin tự gìn giữ quý trọng”. Tức sự thanh nhàn được thực hiện tùy thích, không có kỳ hạn, mong tự giữ gìn quý trọng lấy bản thân. Câu: “Mong các vị tăng só nơi non cao bình yên, tăng tục điều thuận hợp, tốt đẹp”. Thời ấy, Pháp sư Tuệ Viễn trụ trì ngôi chùa trên núi, đồ chúng có đến bảy trăm, nay nói về đồ chúng ấy. Sách Nhó Nhã giải thích: Dạng là lo, phong tục thông hợp, nhưng lo về bệnh tật. Phần truyện của kinh Dịch viết: “Đời Thượng cổ, lo sợ loài “Dạng trùng” ăn cả tim mình, nên gặp nhau thường chép: không bị loài dạng trùng làm hại chứ? (không việc gì chứ?= Vô dạng) Đạo tức là tăng chúng. Tục tức là cư só tại gia. Bấy giờ, có mấy vị danh só cùng với Lưu Di Dân ẩn cư nơi đạo tràng của Pháp sư Tuệ Viễn, chữ người thế tục là chỉ cho các vị ấy. Câu: “Nhờ nơi uy đức vốn có của Pháp sư Tuệ Viễn nên được yên vui” Pháp sư Tăng Triệu tuổi nhỏ, còn Pháp sư Tuệ Viễn là hàng tôn túc cao niên, Nam Bắc cách trở, hai nước lại chẳng đồng, chưa hề gặp mặt, chỉ từ nơi xa mà khâm phục, quý kính, nên viết là nhờ uy đức vốn có mà mình luôn được yên vui. Câu: “Tuy chưa được thọ nhận sự chỉ giáo, nhưng rất khâm phục uy đức thanh cao” Pháp sư Tuệ Viễn là đệ tử Pháp sư Đạo An, uy danh nổi tiếng một đời. Sách cao Tăng Truyện chép: “Thích Huệ Viễn ở nơi Lư Sơn, tu tập phát huy giáo pháp hữu tông, hàng học só trong thiên hạ đều tìm đến tham vấn để có sự dung hợp.” Nay Pháp sư Tăng Triệu, cũng từ xa kính lễ. Tuy chưa hề hân hạnh được sự chỉ giáo, nhưng cũng khâm phục Pháp sư Tuệ Viễn là bậc đức hạnh thanh cao. Phục ưng là cả ngực bụng áp sát đất, ý nói hết sức khâm phục. Bẩm là thọ nhận. Cao quỹ là sự hành hóa cao thượng, trong sạch. Câu: “Hết lòng mong đợi, trải qua bao ngày tháng” từ lâu nay thường trông mong, chờ đợi. Câu: “Bậc trưởng thượng đã quá tuổi sáu mươi) trở xuống: Khen ngợi đức độ của Pháp sư Tuệ Viễn. Do từ sáu mươi tuổi trở lên đã là tuỏii già, thần khí an tónh, càng thêm uy nghiêm. Câu: “Chỉ dạy đồ chúng nơi núi sâu, tấm lòng vì đạo pháp thật bao la!” chỉ dạy đồ chúng nơi chốn núi sâu. Bão nhất là tấm lòng gắn bó với đạo pháp. Lão Tử nói: “Cho hồn phách thuần nhất, không rời đạo được chăng?”. (Đạo đức kinh, chương 10, theo bd của NHL). Lại nói: “Ít thì sẽ được thêm, nhiều thì sẽ hóa mê. Vì vậy mà bậc Thánh ôm giữ lấy đạo, làm phép tắc cho thiên hạ. (ĐĐK chương 22 theo bd của DHL). Nay tác giả mượn dùng từ ngữ ấy (bão nhất). Câu: “Xa gần đều kính mến, khen ngợi): Hà là xa, nhó là gần. Câu: “Còn gì đẹp đẽ như thế!”. Tức không sự tốt đẹp nào so sánh được. Câu: “Mỗi khi hướng về chân trời xa, tâm tưởng cũng vọng theo, như cái mênh mông của bầu trời”. Tức cho rằng mình mỗi lần hướng về chân trời đông nam phủ khắp, tâm tưởng cũng theo đó mà ngưỡng vọng về Pháp sư Tuệ Viễn. Pháp sư Huệ Viễn đạo đức cao xa, giống như đỉnh cao của ngọn Vân Tiêu, cũng như bầu trời cao, như bờ bến tận cùng. Cũng có thể chỉ thẳng cho chân trời tận cùng nơi bầu trời Đông nam kia. Về chứ Tý sách Nhó Nhã giải thích: Tý là che chở. Câu: “Không sao tả hết nổi lòng quý kính, sự thở than cứ chồng chất!”. Tức không chất lấy gì để diễn tả hết sự quý kính, ngưỡng mộ, nên sự than thở càng thêm chồng chất. Lương là tin thật. Câu: “Ngài suốt ngày được đối diện với bậc tôn đức” trở xuống: Nghóa là Lưu Di Dân luôn đối diện với Pháp sư Tuệ Viễn nên thường có được sự vui thích. Câu: “Còn như đại chúng này” chỉ cho đồ chúng của Pháp sư La- thập ở kinh đô nhà Hậu Tần. Thời bấy giờ, số đồ chúng tham gia việc phiên dịch kinh điển có tới ba ngàn vị. Như nghi là luôn thích nghi một cách tốt đẹp. Câu: “Vua tần bản tánh vốn đạo đức”. Đây là vua nhà Hậu Tần vốn Diêu Hưng, tác giả khen ngợi đạo đức của vua Diêu Hưng. Về hai chữ đạo đức, Đại sư Đạo Kinh nói: “Những bậc lãnh đạo, quan trọng hầu hết đều lấy đó làm khuôn phép, chẳng thể giải thích một cách tinh tường”. Sách Thích Danh chép: đạo là dẫn dắt. Do vậy mới dẫn dắt khắp muôn vật. Sách Thuyết Văn nói: Đức là điều thích hợp, đạt được. Bên ngoài thì thích hợp với mọi người, bên trong thì thích hợp với bản thân mình. Nay cho lý tự nhiên là Đạo. Người có khả năng thực hiện tức là Đức. Lấy gì để làm sáng tỏ. Lão Tử nói: “có một hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi, vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của muôn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên nó là Đạo” (Đạo đức kinh, chương 25 theobd của NHL). Lại nói: “Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là Đạo mãi mãi bất biến. Tên mà có thể đặt ra để gọi nó là (đạo) thì không phải là tên vónh cửu bất biến” (ĐĐK, chương 1, sđđ). Đó là nói về đạo. Lại chép“Tuy sinh dưỡng muôn vật mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho muôn vật lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy là Đức huyền diệu” (ĐĐK, chương 5 1). Lại cho rằng: “Người có đức cao thì thuận theo tự nhiên, không có ý cầu đức, cho nên có đức. Người có đức chấp thì có ý cầu đức cho nên không có đức” (ĐĐK, chương 38, sđđ). Đó là nói về đức. Nay tác giả trước là khen ngợi “Tánh đạo” của vua Tần, sau đó mới khen ngợi nhà vua là bậc hữu đức. Tư Mã Bưu nói: “Tánh là cái gốc của con người”. Sách “Sái Ung Khuyến Học” giải thích: “Tánh là gốc của tâm” Chữ Thiên cơ là cơ tâm tức sự ứng hợp biến đổi khéo léo trong tâm. Trang Tử nói: “Thị dục càng sâu thì thiên cơ càng cạn. Nay cho rằng vua Tần là bậc có thiên cơ sâu rộng nên vượt hơn hẳn hàng phàm tục. Câu: “Cùng với Tam bảo tạo thành lũy hào sâu” trở xuống là khen ngợi về đức độ của vua Tần. Cùng với ba ngôi báu làm thành lũy hào sâu, lấy việc mở mang đạo pháp làm sự nghiệp Câu: “Do đó, nên hàng tăng só tài giỏi ở các nước khác, từ các chốn xa xôi tìm đến”. Do vua Tần là vị vua có đức độ nên hàng tăng só tài giỏi nơi các nước khác, bèn từ những chốn xa xôi tìm đến. (Cảnh tượng như núi Linh Thứu, như tụ hội nơi đất này). Câu: “Phật ở nơi núi Linh Thứu giảng nói đạo pháp, nay cho rằng cảnh tượng ấy đã tụ hội ở đây. Câu: “Tăng só pháp Lãnh từu nơi xa đem về” trở xuống: Đương thời có vị Tăng só, tên là Pháp Lãnh, sang Tây Vực trở về mang theo một số kinh điển Đại thừa như Hoa Nghiêm,v.v… Nay nói việc đi tới các chốn xa ở các nước khác, tìm được những bộ kinh Đại thừa, cùng với ngàn năm về sau là cầu đường vững chắc của Tam bảo. Lương là cầu cống, đường sá. Câu: “Thỉnh được một vị Thiền sư của Đại thừa”: tức Đại sư Phật- đà-bạt-đà-la ( 3 5 9- 429). Vị này là người học rộng, nghiên cứu và hiểu sâu kinh Hoa Nghiêm, thường thực hành Thiền quán. Thời ấy, các Đại sư Trung Hoa như Tuệ Quán, Tuệ Nghiêm, v.v… đều đến Tây Vực, ở đấy thỉnh được một Đại đức trở về nước với đoàn. Vị Đại đức ở nước đó giỏi biện luận, bình phẩm thơ văn, hẳn là Đại sư Phật-đà-bạt-đà-la, bèn cùng trở về Trung Hoa. Đây cũng chính là thời gian Pháp sư La- thập đến Trường An. Phong độ cũng như sự hành trì thiền quán của Đại sư Phật-đà-bạt-đà-la vốn cao xa thâm diệu. Phật-đà-bạt-đà-la nói với Pháp sư La-thập: “Lược xem chỗ dịch thuật của Ngài, ý tưởng không có gì khác lạ lắm, vậy nhờ vào đâu mà được nổi tiếng?”. Pháp sư La-thập đáp: “do tôi vốn giả cả suy yếu nên được tăng chúng suy tôn, chứ đâu phải có tài đức mà được xưng tụng như vậy!” Đại sư Phật-đà-la do đó nói với các môn đồ của pháp sư La-thập: “Tôi xem qua nước này, từ khi có nhiều lượt thuyền bè ngoại quốc ra vào, người dân ở đây hầu như ưa phô bày tiếng nước ngoài!” Đại sư lần lượt cùng một số vị tăng khác cho là nói chuyện khác lạ để mê hoặc mọi người, bèn tập hợp tăng chúng đề nghị trục xuất. Đại sư Phật-đà-bạt-la nói: “Thân tôi như cánh bèo giạt, đi hay ở quá dễ dàng, chỉ có hoài bão là chưa được dịp phát huy, nên lấy làm!”. Bèn ra cửa ô Lam Điền, đi về hướng Nam, tới kinh Châu. Pháp sư Tuệ Viễn ở Lư Sơn cho người đón rước, mời về núi, lo công việc dịch kinh điển về Thiền. Pháp sư Tuệ Viễn theo Đại sư Phật-đà để thọ nhận thiền pháp, bèn viết thư gởi về Trường An, giải bày sự việc bị trục xuất của Đại sư tu thiền, cho rằng lời nói ấy có phần đúng, chẳng phải hạng người quái dị, cũng chẳng phải bày chuyện khác lạ để mê hoặc đại chúng. Sau này. Đại sư Phật-đà-bạt-đà-la lại đi xuống kinh đô nhà Lưu Tống, dịch kinh Hoa Nghiêm, tức là bản dịch kinh Hoa Nghiêm hiện nay (Bản dịch này gồm sáu mươi quyển, bản dịch đầy đủ về kinh Hoa Nghiêm do Đại sư Thật-xoa-nan-đà thực hiện, gồm tám mươi quyển, dịch vào đời Đường, chắc là sau thời đại của tác giả Triệu Luận). Nay tác giả Tăng Triệu nói về Đại sư Phật-đà-bạt-đà-la là thời gian đại sư còn ở Trường An. Câu: “Một vị Pháp sư thông hiểu ba tạng” tức là Đại sư Phất- nhã-đa-la. Sách Cao Tăng Truyện chép: “Đại sư Phất-nhã-đa-la dịch Luật Thập tụng, ba phần được hai thì qua đời, đại sư Đàm-ma-lưu-chi dịch tiếp.” Dùng chữ “Tam Tạng” là chỉ cho sự việc Đại sư Đa-la lúc sinh thời. Lại nữa đây cũng có thể là đại sư Đàm-ma-lưu-chi. Lấy gì để chứng minh?. Lấy câu viết cho là “gốc ngọn đều tinh tường” tức là việc dịch luật đã hoàn tất, nên biết được. Mà cũng có thể là Đại sư Phật-đà-da-xá dịch Luật Tứ Phần. Lấy gì để làm sáng tỏ? Phật-đà-da- xá đến Trường An, Vua Tần thỉnh Đại sư dịch Luật Tứ Phần. Da-xá nói: “không có bản chữ Phạm! Chỉ đọc lại văn mà thôi!” Bắt đầu sai người chép, vua Tần ngờ Đại sư quên, bỏ sót, nên khiến Da Xá đọc lại gốc của các phương thuốc trị bệnh, có tới mấy muôn lời. Sáng hôm sau, Đại sư Da-xá thực hiện việc đọc thuộc lòng kia, không sót một chữ. Vua mới thỉnh đại sư đọc cho bản chữ Phạm của Luật Tứ Phần, sai người chép lại, sau đó mới phiên dịch. Câu: “Hai vị pháp sư chuyên về Tỳ Bà Sa”, tức Đại sư Đàm- ma-quật-đa (và Đàm-ma-da-xá”. Đại sư Đạo Tiêu, trong bài tựa của bản dịch “Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm luận” chép: “Năm thứ chín niên hiệu Hoằng Thỉ, Đại sư Đàm-ma-quật-đa và Đàm-ma-da-xá vâng mệnh vua viết lại bản tiếng Phạm, đến năm thứ mười thì công việc của hai vị coi như tạm xong. Có thể đưa ra bản tiếng Phạm. Nhưng do sự lãnh hội về một số việc chưa thống nhất, sợ chưa hoàn hảo, đến năm thứ mười sáu thì mới quen dần ngôn ngữ người Tần, có thể tự làm việc phiên dịch, sau đó mới chép ra” mà Pháp sư La-thập mất vào niên hiệu Hoằng Thỉ thứ 11.Nay tác giả Tăng Triệu viết thư đáp này là việc lúc Pháp sư La- thập còn sống. Chính thức nghi là “xuất Phạm bản”, chưa nói là phiên dịch, vậy biết rõ sự việc là vào niên hiệu Hoằng Thỉ thứ chín. Câu: “Pháp sư La-thập trụ chùa Đại Thạch” trở xuống: Tức nói như trước, các vị cùng Pháp sư La-thập dịch các bản kinh mới. Câu: “Kho tàng giáo pháp sâu xa, rộng lớn” trở xuống uyên khoáng là sâu xa rộng lớn, vì kinh luận ngày một nhiều, nên gọi là có những giáo pháp khác lạ, chưa hề được nghe. Câu: “Sớm tối không hề biếng trễ”. Sách Mao Thi có câu: “Sớm tối không hề biếng trễ, để phụng sự một người, người ấy là thiên tử”. Phỉ là chẳng hề, giải là biếng nhác. Câu: “Ôn hòa, chỉnh tề”. Ung ung là hòa hoãn ôn hòa, nhưng chữ Ung cùng với chữ ung nghóa như nhau, tức là hòa, Kinh Thư nói: “Đạt đến sự vui vẻ hòa hợp” cũng là nghóa Hòa. Sách Nhó Nhã thì viết chữ Ung, Túc là chỉnh tề. Câu: “Gốc ngọn đều tinh tường như thấy lại lúc mới chế ra giới luật). Bản tiếng Phạm của luật đầy đủ, giống như buổi đầu Phật chế ra giới luật. Câu: “Thời vấn trung sự, phát ngôn tân kỳ” (Luôn hỏi về việc ấy, ngôn ngữ bày tỏ thật mới lạ): Thường hay hỏi về việc nọ, ngôn ngữ kỳ lạ. Câu: “Nhiều người tham dự, thực hiện việc tốt đẹp”, ổi là đông, nhiều, tức là số lượng tham dự, khéo thực hiện được sự việc dịch thuật. Câu: “Riêng mình chẳng thấy được sự tụ hội ở tinh xá Kỳ-hoàn thời Đức Phật Thích-ca” trở xuống: Tự là riêng tự mình. Riêng chẳng thấy sự tụ hội đông đúc của tịnh xá Kỳ-hoàn, nên buồn giận, ngoài ra không hề buồn giận gì cả. Sách “Tự Lâm” giải thích: Tự là từ đó, theo đó. Câu: “Mà buồn giận vì chẳng được cùng với bậc quân tử thanh cao hơn người đồng tụ hội nơi đạo tràng kia”. Tức là chẳng được cùng với Lưu Di Dân đồng ở nơi nhóm họp ấy, nên lấy làm buồn giận. Câu: “Thượng nhân đạo sinh mới ghé ở đây” trở xuống: chỉ cho Đại sư Trúc Đạo Sinh. Sổ niên là hơn ba năm trở lên. Ngôn thoại, sách Mao Thi có câu: “chỉ có bậc triết nhân bảo ban, gọi là Thoại ngôn.” Sách Cổ Huấn nói: “Thoại ngôn là sự khéo nói của người xưa.” Sách thuyết văn có câu: “Hội hợp khéo nói”. Tức là Đại sư Đạo Sinh, trong thời gian nói năng trò chuyện, thường khen ngợi Lưu Di Dân. Câu: “Giữa đường trở về nam, ngài sẽ được gặp mặt nhau”: Thư thăm hỏi nên cứ buồn chán chẳng biết nói gì, gần đây lại chưa được gặp gỡ. Câu: “Gần đây lại không được thư thăm hỏi nên có hơi chán nản, sầu muộn không vui.” Câu: “Đến khi đạo nhân Uy đến, có được tập kinh Niệm Phật Tam muội của Ngài” trở xuống. Tác giả cho tựa như Lưu Di Dân gởi đi, Pháp sư Tuệ Viễn soạn “Niệm Phật Tam-muội kinh” và lời tựa, Lưu Di Dân cùng nhiều người nữa họa lại. Nay tác giả Tăng Triệu nói về việc ấy. Xem lại nơi toàn tập tác phẩm của Pháp sư Tuệ Viễn chỉ thấy có bài tựa của tập “Niệm Phật Tam-muội kinh”, không có tập và phần họa, như vậy là sự thu thập chưa nghiêm túc. Bài tựa có đoạn: “Hễ gọi là Tam-muội, thì tư duy tịch tónh, chuyên nhất. Tư duy chuyên nhất thì chí hướng cũng tập trung về một mối, không bị nhiễu loạn. Tư tưởng vắng lặng thì thần khí rỗng sáng. Khí rỗng lặng thì khí an nhiên tỏa chiếu. Thần sáng tỏ thì mọi nẻo u huyền chẳng có gì không thấu suốt. Hai cái ấy chính là sự phù hợp với sự mầu nhiệm của tự nhiên. Hợp nhất mà dẫn tới diệu dụng”. Câu: “Việc sáng tác ấy, cảm hứng và sự diễn đạt đã cao”. Hứng là dụ cho sự hứng khởi. Ký là ý tưởng được gởi gắm. Bài Tựa của tập Tử Hạ Thi có đoạn: “Thi có sáu nghóa”. Một là Phong, hai là Phú, ba là Tỷ, bốn là Hứng, năm là Nhã, sáu là Tụng. Nay nói Hứng tức là Hứng ở nghóa này. Còn ký tức là Tỷ. Có bản chép là Áo ký là không đúng. Câu: “Ngôn từ rất thanh nhã, uyển chuyển” là ngôn từ thanh nhã, thuận hợp đẹp đẽ. Câu: “Những người sành về văn chương đều khen ngợi) Tức những người thưởng thức thơ văn đều khen ngợi.” (của cõi huyền diệu) Câu: “Có thể xem đó là sự dạo bước đến cửa ngõ của bậc Thánh, gõ vang lên âm thanh Tập “Niệm Phật Tam muội kinh” ấy, có thể cho là đã dạo đến cửa ngõ của bậc Thánh, đập gõ xướng lên âm thanh của tông chỉ mầu nhiệm. Câu: “Do đó mà thực hành theo còn ít) Lạ là những người do đó mà thực hành theo còn ít. Câu: “Pháp sư La-thập, vào năm Ngọ dịch xong kinh Duy-ma). Năm thứ Tám, niên hiệu Hoằng Thỉ (Tây Lịch 4 0 6) thuộc năm Ngọ. Câu: “Điều ký thành ngôn” (Về những điều được nghi, ngôn từ rất chân thật) sự nghi chép, ngôn từ rất chân thật. Câu: “Về nghóa thì vâng theo nơi gốc” tức là vâng theo ý của Pháp sư La-thập. Câu: “Lời hỏi uyển chuyển sâu kín, nói lên chỗ quan trọng, thật khõ tìm người đất Dónh” tức lời văn trong các câu hỏi uyển chuyển, nói ra những điểm rất quan trọng, thật khó đáp lại. Về chữ Dónh nhân, sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử, phần Tạp Thiên, chương Từ vô Quỷ có đoạn nói về “người đất Dónh”, Dónh nhân với việc bôi trét đất bùn vào đầu mũi và “Tượng Thạch” (người thợ giỏi của thời xưa) dùng rìu để gọt bỏ một cách tài tình v.v… Nay tác giả Tăng Triệu dùng chữ “Dónh nhân” (dụ cho sự tri kỷ) để dụ cho những câu hỏi của Lưu Di Dân giống như việc của “Tưởng Thạch”, còn việc đáp lại lời của mình thì giống như trường hợp “Dónh nhân”. Hỏi thì có thể được mà đáp thì khó. Câu: “Bần đạo tư bất quan vi, kiêm chuyết ư Triệu ngữ” (Chỗ tư duy của bần đạo chẳng đạt tới chỗ mầu nhiệm, lại thêm ngôn từ thì vụng về). Tức sự suy nghó chẳng đạt đến chỗ sâu xa mầu nhiệm, mà ngôn từ mình sử dụng chẳng phải là đã điêu luyện tài hoa. Sách Tiểu Nhã giải thích: Quan là đạt đến, vi là không Câu: “Vả chăng lý mầu tột cùng thì chẳng thể nói bày) trở xuống: là lý mầu tột cùng thì chẳng thể nói ra, tức pháp môn không hai. Như Pháp sư La-thập và Pháp sư Phật-đà-da-xá ở cung của vua Tần. Vua Tần hỏi về nghóa Thật tướng, hai vị đều nhìn nhau mà không trả lời. Câu: “Dù nói nhiều lời không dứt” Vân là nói ra, dó là dừng lại. Tuy là nói nhiều mà không có chỗ nào được luận bàn, giải thích cả. Câu: “Nay tôi đánh bạo…” là lời nói khiêm tốn: không rõ sự việc quan trọng hay bình thường mà cứ nói bày. Chính thức đáp các câu hỏi: Từ Câu: “Thư viết: Nói chân tâm của bậc Thánh thanh tịnh, thật trí chứng đạt lý tột cùng thì đồng với không” trở xuống: là phần thứ hai trong bài “đáp lại thư của Lưu Di Dân”, Pháp sư Tăng Triệu chính thức đáp lại các câu hỏi. Văn phần này gồm hai đoạn: a/ Đáp chung. b/ Đáp riêng từ câu hỏi. Đáp chung: Câu: “Nếu lấy điều này làm chỗ tâm đắc, thì nên quên lời nói bên ngoài mà đạt được ý nghóa bên trong” trở xuống: Lý đã sâu xa, huyền diệu, quên lời thì trong tâm mới tự đạt được chỗ chẳng thể luận bàn. Câu: “Thì đâu còn theo sự khác nhau của phàm tình.” trở xuống: Hà túc là đâu được, đâu còn. Theo “Hiếu kinh” thì chữ “Hà túc” cũng như hà năng (đâu thể). Lòng người thì cho sự cạn cợt, mà lý cùng tột thì sâu xa, đâu thể đem chỗ cạn cợt mà tìm lý mầu cao xa được! Từ Câu: “Thư viết người bình phẩm cho rằng, nói sự linh diệu tột cùng, siêu vượt mọi nẻo số lượng, hết mực u huyền, âm thầm phù hợp…” trở xuống: là đoạn hai, đáp riêng về ba câu hỏi nói ở trước. Tức là ba câu hỏi. Thể của Trí là Hữu tri hay vô tri? Sự soi chiếu cảnh là Hữu tướng hay vô tướng. Cảnh, Trí đối đãi nhau… Nay đáp lại câu hỏi 1: Thể của trí là Hữu tri hay vô Tri? Văn trong phần đáp này gồm bốn đoạn: Chính thức đáp câu hỏi. Giải thích về chân tâm của bậc Thánh. Bác bỏ về chỗ cho là đúng. Cật vấn về chỗ chấp sai lầm. Tuy có bốn đoạn như thế nhưng vẫn có điểm chung là trả lời câu hỏi. Ở đây, trước hết là lặp lại lời đã nói ở trước. Câu: “Ý nói hết mực mầu nhiệm, âm thầm phù hợp, thì chẳng thể lấy Định, tuệ làm tên gọi” “Hết mực mầu nhiệm, âm thầm phù hợp” đây là tâm của Bát-nhã là một tướng, chẳng hai, sao có thể nói ở trong đó có hai tên gọi Định, tuệ? Câu: “Ý cho rằng linh diệu rỗng lặng, vô tướng riêng tồn tại, cho nên nói sự ứng hợp cơ duyên để hóa độ chúng sinh chấm dứt”: Đây là tâm của Bát-nhã, không có gì chẳng soi chiếu, làm sao có thể cho là chẳng ứng hợp cơ duyên để hóa độ chúng sinh? Câu: “Do chẳng rõ hai lời nói tuy khác mà diệu dụng thường là một” “Hết mực mầu nhiệm, âm thầm phù hợp” là một lời “Rỗng lặng mầu nhiệm vô tướng tồn tại độc lập”. Là một lời, một là động, một là tónh. Theo nẻo “ngã kiến” thì thấy động tónh có sự khác nhau. Còn ở chân tâm của bậc Thánh thì động tónh chẳng hai. Từ Câu: “Vì sao? Hễ sự soi chiếu lặng lẽ, nhiệm mầu của Thánh Trí” trở xuống: Là đoạn hai giải thích về chân tâm của bậc Thánh, giải thích về chân tâm của bậc Thánh tức là nhằm giải thích rõ câu đáp ở trước. Văn đoạn này chia làm hai: trước là chia ra, chia ra để giải thích Thánh tâm, chia ra để giải thích hai ý. Sau là “Hợp lại”, hợp lại biện giải về tâm Thánh, hợp lại để giải thích hai ý. Nay trước là giải thích về tâm Thánh, sau đó mới giải thích: “Hết mực mầu nhiệm, âm thầm phù hợp, chẳng thể lấy Định, Tuệ làm tên gọi” Huyền tâm là tâm hợp với lý huyền diệu. Mặc chiếu là sự soi chiếu tiềm ẩn về nẻo u ẩn mầu nhiệm. Tột cùng của lý thì đồng với không, tức là nhận thức về lý mầu của không, Vô, thì đồng với vô, đồng với vô nên là cùng tận. Câu: “Đã nói là đồng thì không có chỗ nào mà chẳng đạt tới chỗ cùng tận”, đã đồng với vô tức là Trí cùng tận, không có nghóa của sự cùng tận. Câu: “Đâu có cái diệu lý tột đồng với rỗng lặng mà có hai tên gọi Định, tuệ”, đã đồng với lý mầu vắng lặng, không, gọi đó là cùng cực, thì sao có thể đối với trí tận cùng ấy lại còn có hai tên gọi Định Tuệ? Câu: “Nếu hai tên gọi định tuệ chẳng phải ở ngoài sự đồng mà gượng đặt tên gọi”: Tức nói hai tên gọi ấy là đồng với tên gọi bên ngoài của Trí không cùng tận, chẳng liên quan tới Thể của Trí cùng tận. Câu: “Nếu hai tên gọi Định tuệ cũng từ trong sự đồng thì cái gọi là có ấy chẳng phải đồng”. Nếu hai tên gọi Định tuệ phát sinh ở chỗ đồng với bên trong của trí không cùng tận, thì cái có ở hai tên gọi ấy, tức chẳng phải đồng với cái không ở trí. Câu: “Nếu ở ngoài sự đồng mà gượng đặt hai tên gọi Định tuệ…” Nếu hai tên gọi Định tuệ phát sinh ở chỗ đồng với không, bên ngoài Trí, thì hai tên gọi ấy chẳng liên quan đến trí, ngã ở đây là trí. Câu: “Lại nữa, Thánh trí vắng lặng, mầu nhiệm, dứt bặt với mọi cảnh giới thường tình” trở xuống: giải thích câu trước: “rỗng lặng linh diệu, vô tướng tồn tại độc lập, chẳng thể nói sự ứng hợp cơ duyên để hóa độ chúng sinh đã dứt”. Hư vi là vắng lặng vi diệu. Thường cảnh tức cảnh giới của người thường. Tâm trí của bậc Thánh chẳng đồng nên gọi là “Hoàn toàn dứt bặt”. Câu: “Không có cơ duyên nào chẳng ứng hợp, sự ứng hợp ấy không chỗ nào chẳng thông đạt”, có cảm đều ứng, nên chẳng có gì không ứng hợp. Có hợp thì thông đạt, nên không chỗ nào chẳng thông đạt. Câu: “Sự mầu nhiệm của Thánh Trí âm thầm, linh động, nên diệu dụng của quyền trí thường là như thế”. Minh cơ là cái thần diệu ở trong tâm. Cái tâm thần diệu ấy với diệu dụng tiềm ẩn, linh động, chẳng phải tốn công sức. Sách Mao Trường Thi Truyện giải thích: Cần là gắng sức mệt nhọc. Sách Nhó Nhã nghi: cần là sự khốn khó. Câu: “Làm sao chấm dứt được”: Tức là sự ứng hợp cơ duyên để hóa độ chúng sinh thường tiếp tục, không hề dứt. - Từ Câu: “Vả chăng, tâm có” trở xuống: Là đoạn sau, hợp lại để giải thích về tâm Thánh, hợp lại giải thích hai ý. Gọi “tâm có” của các phàm phu, phàm phu nói về tâm sở dó cho là có, là do nhân duyên mà có, nên gọi là tâm có. Câu: “Vì cái ý ấy là chẳng sự có nên chân tâm của bậc Thánh chẳng có cái có ấy”.(do nhân duyên mà có) nên chân tâm của bậc Thánh chẳng lấy cái có ấy làm có. Câu: “Chẳng có cái có ấy, nên có là không có”: chẳng lấy pháp có làm có, nên biết cái có ấy chẳng phải có. Câu: “Chẳng có cái có thì cũng chẳng có cái không”. Pháp đã chẳng phải có thì cũng chẳng phải không. Câu: “Chẳng có cái không nên chân tâm của bậc Thánh là chẳng phải có chẳng phải không” Trước nói không có, giờ nói không không, tức Thể của pháp đã là không có, không không, do đó chân tâm của bậc Thánh là chẳng phải có chẳng phải không. Câu: “Chẳng phải có chẳng phải không nên Thánh Trí mới vắng lặng”. Tâm của bậc Thánh chẳng phải có chẳng phải không nên mới rỗng rang, linh diệu. Câu: “Vì sao? Vì sự có và sự không là bóng dáng, là tiếng vang của tâm” trở xuống: Lại giải thích câu đã nói trước: Chân tâm của bậc Thánh là chẳng phải có chẳng phải không. Chân tâm của bậc Thánh chẳng phải là có. Vọng chấp nên cho là có. Chân tâm ấy chẳng phải không, vọng chấp nên cho là không. Cái có không ấy, đối với chân tâm của bậc Thánh, như là bóng dáng, tiếng vang đối với hình tướng và âm thanh, vốn chẳng phải chân thật. Câu: “Ngôn ngữ và hình tượng là sự vin dựa, duyên hợp của bóng dáng và tiếng vãng”. Sự có không là có không của sự vin dựa, duyên hợp nơi bóng dáng tiếng vang, nên có ngôn ngữ, hình tượng, chẳng phải cho là có không của bóng dáng, tiếng vang đối với ngôn ngữ, hình tượng. Từ lời văn dẫn vì tâm duyên gọi là có nên nói có, gọi là không nên nói không. Có cái có không ở tâm duyên ấy nên có cái có không đối với ngôn ngữ, hình tượng. Nói về tượng, như văn ngôn, Tượng từ của kinh Dịch để dụ cho sự nói bày về có không đối với ngôn ngữ. Tượng thì có tượng về có, tượng về không. Ví nhưng nói có là cái có một khối hiện ra. Nói về không là cái không của lòng hang rỗng khối hiện rõ là một khối vật, lòng hang rỗng là hư không, đó đều là hình tượng. Hình tượng ấy tức như đã nói trên dẫn tới việc có ngôn ngữ của có không. Câu: “Sự có và không đã dứt hẳn” trở xuống: Chân tâm của bậc Thánh chẳng phải có, chẳng phải không, nên gọi là “đã dứt hẳn”. Chẳng hề vọng chấp cho là có, là không nên chép: “tâm không còn bóng dáng tiếng vang”. Câu: “Bóng dáng và tiếng vang đã bặt thì ngôn ngữ và hình tượng chẳng thể suy lường được” chân tâm của bậc Thánh đã chẳng phải có, chẳng phải không, thì chẳng có thể nói (ngôn ngữ) là có, là không, dùng hình tượng có không. Đối tượng của ngôn ngữ, hình tượng chẳng thể tính lường được chân tâm của bậc Thánh. Câu: “Ngôn ngữ và hình tượng chăng thể suy lường được thì đạo pháp trùm khắp muôn phương mà chẳng trụ”, kinh Dịch chép: Phương tụ hội theo loài, vật phân theo bầy đàn. Nay cho chân tâm của bậc Thánh chẳng thể nói là có, là không, nên cùng với các loài của muôn nơi hoàn toàn dứt bặt. Câu: “Đạo pháp trùm khắp muôn phương mà chẳng trụ, nên sự linh diệu tột cùng, siêu vượt số lượng”. Do cùng với muôn nơi chốn, muôn loài hoàn toàn dứt hẳn, nên trí linh diệu đạt đến chỗ cùng tận, chỗ thể của tâm vượt mọi số lượng. Câu: “Sự linh diệu tột cùng, siêu vượt mọi nẻo số lượng, nên chân vọng đều dứt, gọi là cực kỳ mầu nhiệm” Do đạt tới chỗ tận cùng, nên chủ thể chẳng có đối tượng nào không nhận biết, không soi chiếu. Nên viết là “cực kỳ mầu nhiệm”. Câu: “Đạo pháp cực kỳ mầu nhiệm vốn là vô trụ”. Đã gọi “cực kỳ mầu nhiệm” tức là Bát-nhã. Đã là Bát-nhã thì đâu còn vướng mắc, chấp trước? Câu: “Vô trụ ở nơi âm thầm vắng lặng. Đã gọi là không nhờ vả, không trụ chấp, do đó tự vắng lặng càng âm thầm, vắng lặng trùm khắp. Câu: “Âm thầm vắng lặng thì thể tánh lìa mọi hình tướng, nên phải mượn từ “rỗng lặng” để diễn tả”, đã gọi là “âm thầm vắng lặng” thì vượt ngoài mọi tên gọi, mà gọi Bát-nhã, tức là mượn sự “vắng lặng” để gọi tên. Câu: “Cực kỳ mầu nhiệm là do siêu vượt mọi số lượng” đã gọi là cực kỳ mầu nhiệm thì các tác động của tâm đều siêu vượt mọi số lượng. Câu: “Siêu vượt mọi số lượng nên có vô biên số lượng để ứng hợp với mọi căn cơ”: tuy gọi là siêu vượt mọi số lượng, nhưng vẫn có thể dùng số lượng để ứng hợp, như trong kinh nói về sự biến hóa, cho rằng không có đối tượng nào chẳng ứng hiện, ứng hợp. Câu: “Có vô biên số lượng để ứng hợp nên tác động luôn khế hợp với sự vật”. Do tâm ứng hợp với vật, nêu có cảm thì có ứng, nên chẳng có gì là không khế hợp. Câu: “Mượn sự rỗng lặng để bày tỏ, nên đạo pháp siêu vượt ngoài danh tướng.” Do danh tự chỉ là giả lập, do đó đạo pháp luôn vượt ngoài giới hạn của danh tự. Câu: “Đạo siêu vượt ra ngoài danh tướng nên gọi là không” Do chân tâm của bậc Thánh siêu vượt ngoài danh tự, chẳng thể biết gọi đó là gì, nên gọi là không tâm. Câu: “Sự ứng hiện luôn khế hợp với cơ duyên nên gọi đó là có”. Do chân tâm của bậc Thánh ứng hợp với vật, nên gọi là có tâm. Câu: “Gọi là có, chẳng phải thật có” trở xuống: cho chân tâm của bậc Thánh là có, tức do sự ứng hợp nên gọi là có ấy là có đối với người thường, chỉ gượng gọi là có, chứ chân tâm của bậc Thánh chẳng phải như thế. Câu: “Nên kinh nói: Thánh trí không tri kiến” trỡ xuống: Dẫn kinh để chứng minh. Đây là đại ý trong kinh Đại Phẩm Bát-nhã, không phải là chính văn. Lại cũng là ý của kinh Tư-ích. Kinh này có câu: “khi ta đạt được đạo quả Bồ-đề thì chính là đạt được tánh không rốt ráo của các pháp, do “Vô sở đắc” nên đạt được, do không có đối tượng tri kiến nên tri kiến.” Câu: “Đây là nói về đạo vắng lặng, vô tướng”. Tức kinh ấy nói đạo vô tướng, lại giải thích về vô tri, vô tri, thì cũng nói về đạo vô tướng. Có bản chép: “Đây là đạo vắng lặng vô ngôn, vô tướng”, tức cho rằng cái vô vi vô tri ấy là đạo vắng lặng vô ngôn vô tướng. Câu: “Đâu phải nói có mà thật có” trở xuống: khởi viết là chẳng phải như thế. Nói chưa hẳn là có, nói không chưa hẳn là không. Động tónh cũng giống như thế. Từ Câu: “Nay người bình phẩm phần nhiều chấp theo ngôn từ để xác định tông chỉ” trở xuống: Là đoạn ba bác bỏ điều cho là đúng. Nay nói người bình phẩm, tức chỉ cho người giảng giải, luận bàn trong nhiều thời, cũng có thể chỉ cho Lưu Di Dân. “Phần nhiều chấp theo ngôn từ để xác định tông chỉ”. Nghóa là chấp vào lời văn, giữ lấy tính chất cố định. Câu: “Muốn ở trong tịnh diệt vắng lặng của Bát-nhã để tìm sự hữu tri và vô tri, dùng ý thức phân biệt để nói bày sự nhiệm mầu”. Lão Tử nói: “Hình vuông cực lớn thì không có góc, nói về không gian, nói không có góc vì không biết góc nó ở đâu. (Đại phương vô ngung. ĐĐK, chương 41, theo bd của NHL) Lại nói: “Tiền thức là cái vẻ sáng bên ngoài của Đạo, dùng để nói lên sự huyền diệu.”. nay nói lý tận cùng như không gian bao la không có góc cạnh, sao lại đem chứng cớ để tìm kiếm chỗ góc cạnh của nó? Tiền thức chẳng phải là chỗ mầu nhiệm, sao lại mang tiền thức để nói bày sự nhiệm mầu? mà nói tiền thức, Hà Thượng chú giải sách của Lão Tử, chép: “Chẳng nhận biết mà nói là nhận biết, gọi là tiền thức.” Câu: “Giữ lấy đối tượng tồn tại cho là phải có sự nhất định đúng hay không đúng” Giữ lấy pháp của sự tồn tại ấy, cho rằng phải hợp với lý. Chỗ tồn tại ấy tức là “Hữu tâm” của bậc Thánh. Câu: “Vì thế, nghe bậc Thánh hữu tri thì cho là hữu tâm” trở xuống: Nghe tri thì khẳng định là Tri, nên cho Tri là có. Nghe vô thì khẳng định là vô, nên gọi vô là không. Câu: “Cảnh giới có và không ấy đều thuộc về biên kiến” trở xuống: chấp hai bên có, không gọi là Biên kiến. Người theo biên kiến thường chấp lấy cái có, không ấy, mà hai kiến chấp về có, không, chẳng phải là Trung Đạo chân thật không hai. Câu: “Vì sao mà muôn vật dù khác nhau nhưng thể tánh thường là một”. một ấy tức là không, vô tướng. Câu: “Chẳng có tên gọi nhưng chẳng phải không có vật để gọi”. Tức chẳng thể gọi tên là có vật, sau đó thì chẳng phải là không có vật để gọi. Câu: “Vì có vật đối vật thì tên gọi, hình tướng nói bày khác nhau” trở xuống: có bản chép: “Có thể gọi tên vật cho nên tên gọi, hình tướng nói bày khác nhau”. Về lý cũng không sai, so với câu tiếp theo thì bản chép: “Khả vật ư vật” là đúng. Lấy vật cho là vật nên gọi là có vật đối với vật. Chẳng lấy vật cho là vật nên gọi là chẳng đem vật đối với vật. Tên gọi, hình tướng nói bày khác, gọi là có. Vật mà hợp với chân thì gọi là không. Câu: “Bởi thế, bậc Thánh chẳng chấp cảnh của tâm” trở xuống: Chẳng lấy vật cho là có vật, chẳng lấy vật cho là không vật. Câu: “Chẳng phải có nên chẳng chấp, chẳng phải là không nên chẳng lìa”. Đỗ Dự chú giải sách Xuân Thu, nói: “Xả là buông bỏ. Chẳng phải có nên chẳng thể giữ lấy. Chẳng phải không nên chẳng thể lìa bỏ. Câu: “Do lìa bỏ nên sự tồn tại mầu nhiệm ấy đều là chân” trở xuống: sách Nhó Nhã giải thích: “Mó là không”. Do chẳng thể lìa bỏ, tức là chân không, do chẳng thể chấp lấy, tức là không do đấy mà có tên gọi, hình tướng. Câu: “Nên kinh chép: Bát-nhã đối với các pháp không chấp, không bỏ” trở xuống: đó là kinh Đại Phẩm. Câu: “Vượt ngoài lãnh vực vin dựa, duyên hợp” trở xuống: đó là lý mầu tột cùng vượt ngoài lãnh vực suy nghó, nên chẳng thể dùng sự có không để vặn hỏi, trách cứ được. Từ Câu: “Vặn hỏi về sự có không” trở xuống: Là đoạn bốn (của phần đáp lại) nói ra sự vặn hỏi về chỗ chấp sai lầm. Vặn hỏi trách cứ vì chấp sai lầm đối với chân tâm của bậc Thánh, cho là có theo cái có của con người. Câu: “Thì cái Trí của sự vặn hỏi ấy cũng do ý thức phân biệt sinh khởi đối với hữu tướng” Đây là nói về Trí của phàm phu. Thế đó có hình tướng nên trí của phàm phu là Hữu tri. Sự sinh khởi của trí ấy là ở trong vòng hữu tướng, không vượt ngoài giới hạn đó. Câu: “Mà pháp vốn vô tướng thì Thánh trí làm sao tri”: Đây là nói về Thánh Trí, Thánh trí nhận thức chân đế, chân đế thì vô tướng, nên Thánh trí là vô tri. Câu: “Người đời nói về vô tri” trở xuống” Thế gian thường cho vô tri như gỗ đa,v.v… Câu: “Nhưng sự soi chiếu mầu nhiệm, âm thầm sáng tỏ của Bát- nhã hiện ra diệu dụng khi một niệm chưa sinh”. Đó là nói về Thánh Trí. Thánh Trí soi chiếu một cách linh diệu, tỏa sáng nẻo u huyền mầu nhiệm, sự vật chưa hiện hình đã nhận thấy. Hình là hiện ra, Vu là ở chỗ, đối với. Triệu là cái điềm của quẻ. Câu: “Đao là” “Vô ẩn cơ” nên gọi là Vô Tri”. Không có đạo của sự ẩn cơ nào mà chẳng nhận biết. Cơ là hết sức nhỏ. Do sự soi chiếu linh diệu, âm thầm sáng tỏ, cùng với đạo là “Vô ẩn cơ” mà nghóa mầu hiển hiện, đâu thể cho là vô tri như gỗ đá được. Cũng có thể cho rằng soi chiếu linh diệu, âm thầm sáng tỏ là một nghóa, hiện ra diệu dụng khi một niệm chưa sinh là một nghóa, Đạo là “Vô ẩn cơ” là một nghóa. Câu: “Lại nữa, vô tri sinh khởi ở vô tri, nên thật chẳng có vô tri” Vô tri tức là không có đối tượng để tri. Do không còn đối tượng để tri nên gọi là Vô tri. Tên gọi của vô Tri ấy sinh khởi ở chỗ không nhận biết. Tri là Thánh trí. Thánh trí không có cái vô Tri ấy nên gọi là “Thật chẳng có vô tri”. Câu: “Chẳng có Hữu tri nên nói chẳng phải có” trở xuống: không có, nên cái có ấy chẳng phải có, không không nên nói chẳng phải không. Câu: “Do đó, rỗng lặng mà chẳng lìa soi chiếu” trở xuống. Vắng lặng là không, soi chiếu là có, vắng lặng mà soi chiếu, tức không là có. Soi chiếu mà vắng lặng, thì có tức là không. Câu: “Trống rỗng, thường trụ, không chấp, không giữ”. Phách nhiên là vắng lặng, an nhiên. Câu là câu chấp. Nói tịch tónh, vắng lặng, nên chẳng thể chấp giữ. Câu: “Đâu thể do động mà làm cho có” Ai có thể khởi động mà khiến cho có? Do yên tónh mà làm cho không? Câu: “Nên kinh có câu: Bát-nhã chân thật chẳng phải có, chẳng phải không” trở xuống: ý của kinh Đại Phẩm Bát-nhã. Câu: “Vì sao? Vì nói về “chẳng phải có” trở xuống: Đây là chỉ cho chân tâm của bậc Thánh. Nói chân tâm của bậc Thánh chẳng phải có tức chẳng phải có của Hữu tướng. Chỉ nói chẳng phải có chứ chẳng phải cho hoàn toàn không. Nói chân tâm của bậc Thánh chẳng phải không, tức chẳng phải là cái không của không vật, chỉ nói chẳng phải là không, chứ chẳng phải cho hoàn toàn có, v.v… Câu: “Cho nên Tôn giả Tu-bồ-đề suốt ngày giảng nói Bát-nhã” trở xuống: Đây là văn trong kinh Đại Phẩm Bát-nhã. Kinh ấy nói: “Các vị trời nghe Tôn giả Tu-bồ-đề giảng nói Bát-nhã, các vị trời nói: Ngôn ngữ của các Dạ-xoa còn có thể hiểu được, còn những điều Tôn giả Tu- bồ-đề giảng nói thì chẳng thể lãnh hội. Tôn giả Tu-bồ-đề nói: Các vị trời không hiểu, không biết chăng? Tôi không có nói gì cả! Câu: “Đây chính là đạo dứt bặt đường ngôn ngữ trở xuống. Đó tức là Bát-nhã dứt bặt mọi nẻo ngôn ngữ, chẳng phải cảnh giới của tri kiến, thì tri kiến làm sao có thể truyền được? Mà nói “sự tri kiến làm sao có thể truyền được” tức là đối tượng được truyền chẳng phải là tri kiến, như thơ xưa có câu: Là nói về bất tri. Cây dâu khô không lá, (cây dâu khô biết gió trời nước biển cả biết trời lạnh) do đó chẳng biết về gió trời, nước biển không đông lại, do đó không biết trời lạnh, tri chính là bất tri. Câu “Vậy chỉ có những bậc dốc tham cứu, thông đạt chỗ huyền diệu” trở xuống: Thứ là trông mong. Sách Nhó Nhã nói: “Thứ là mong, ký thượng, thượng là mong mỏi, cũng nghóa là trông mong, tức là Lưu Di Dân đã tham cứu, khế hợp với lý huyền diệu. - Từ Câu: “Thư lại có đoạn: Trước cần phải xác định chỗ ứng hợp cơ duyên để hóa độ của Thánh Trí” trở xuống: Là câu trả lời thứ hai, đáp lại câu hỏi thứ hai ở trước, hỏi về sự tương quan giữa cảnh và trí là Hữu tướng hay vô tướng. Văn trong câu hỏi thứ hai ấy gồm hai đoạn: Trước nói rõ cái Tri của sự nhận biết về biến chuyển, cho nên là có. Sau nói cái tri của sự nhận biết về biến chuyển khác với vô tướng. Nay trước đáp lại đoạn hỏi sau, sau đó mới đáp lại đoạn hỏi trước. Câu: “Người bình phẩm hình như cho rằng vô tướng cùng với sự biến chuyển…” trở xuống: Người bình phẩm tức là Lưu Di Dân, nói “chẳng phải một” tức là khác. Câu: “Nhận thức về sự biến chuyển thì khác với vô tướng” trở xuống: Nói về lý do của chẳng phải một, nghóa là nhận thức về sự biến động tức là Hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Còn nhận thức về vô tướng thì không có đối tượng để nhận thức, chẳng thể tạo sự tiếp dẫn, ứng hợp. Câu: “Thế thì nghóa mầu “tức chân” có bị vướng mắc chăng”, nếu thế thì vướng mắc đối với nghóa trong kinh “sắc tức là không”, sắc tức là không nên gọi đó là “tức chân”. Câu: “Kinh nói: sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc” trở xuống: Đây là văn của phẩm Tập ứng, trong kinh Đại Phẩm Bát-nhã. Câu: “Nếu theo như ý của người bình phẩm” trở xuống: Nếu theo như ý của chỗ câu hỏi thì sắc và không cách biệt nhau. Tâm trước đây sắc, tâm sau thấy không. Câu: “Như một tâm thấy sắc” trở xuống: Là nói ra lỗi kia. Một tâm thấy sắc thì chỉ thấy sắc mà chẳng thấy không, sao cho là “tức không” được, câu tiếp theo ngược lại ý ấy. Câu: “Thế thì sắc và không đã thành hai, chẳng định rõ được bản ý “sắc không chẳng phải hai” ở trong kinh”. Sắc không đã cách nhau, nên cho rằng chúng đã tách rời nhau, chẳng thể định rõ bản ý tức nhau trong kinh. Lại nói, không và sắc là hai thứ riêng thì đó là chẳng rõ sắc là gốc của không, không là gốc của sắc. Câu: “Cho nên kinh nói “phi sắc”. Giải thích ý gốc của kinh, như phần tiếp theo sẽ nói rõ. Câu: “Thật sự là để phá trừ sự chấp về sắc, chứ chẳng phải lấy phi sắc để phá bỏ phi sắc”. Thành là thật, thật sự là dùng phi sắc để đối với sắc (chấp về sắc) chứ chẳng phải là phi đối với phi sắc. Câu: “Nếu dùng phi sắc để phá bỏ phi sắc” trở xuống là nêu câu hỏi, nếu kinh cho rằng dùng phi sắc để phá bỏ phi sắc, tức là nói hư không phi sắc vì chẳng phải sắc. Vậy thì ở đây muốn nói về lý gì? Hư không chẳng phải sắc, người thường cùng biết, đó chẳng phải là chân lý, há chỗ giải thích trong kinh về phi sắc là bản ý hay sao? Câu: “Nếu lấy phi sắc để phá bỏ sắc” trở xuống: Là giải thích về bản ý của kinh. Như kinh nói phi sắc là phi đối với sắc, tức nhằm nói rõ sắc chẳng khác phi sắc. Câu: “Nên biết, quán được mọi khác nhau là vô tướng” trở xuống: biến chuyển, khác nhau tức là có, Vô tướng tức là không, Sắc đã “tức không” thì có tức là không. Câu: “Vì căn cơ chúng sinh khác nhau, nên giáo pháp có sự khác nhau”, tâm ý của con người đều khác nên giáo pháp của bậc Thánh được giảng nói chẳng đồng, giảng nói về có, không, nhiều khi có sự khác nhau. Câu: “Xem xét các kinh, y cứ theo lý mầu của bậc Thánh”. Sách chú giải về Sở Từ nói: “khảo là cứu xét, tra xét”. Sách Nhó Nhã nói “khảo là tạo nên, làm thành”. Huyền Tịnh là chỉ cho kinh điển. Bản là tận cùng tới gốc. Thành ý là bậc chí nhân vô tâm. Câu: “Há còn có sự khác nhau do chân, giả, Thật Trí, Quyền trí, đối với hai cảnh có không mà sự soi chiếu có khác nhau sao?” Tìm hiểu ý kinh thì chân giả chẳng khác tâm, có không chẳng khác sự soi chiếu. Chân là chân đế. Giả là Tục đế, không có cũng là chân tục. Câu: “Bởi vậy, chiếu soi về vô tướng” trở xuống: Đã cho không, có chẳng khác nhau, nên soi chiếu về không cũng là soi chiếu về có, do đó chẳng làm mất công dụng của sự ứng cơ hóa độ. Thấy có cũng là thấy không, do đó không trái với diệu chỉ của vô tướng. Câu: “Tạo tác về có chẳng khác với không” trở xuống: Lại giải thích rõ ý trên. Sách Quảng Nhã giải thích: “Tạo là đạt đến.” Sách Tiểu Nhã nghi: “Tạo là đi đến, thích hợp.” Câu: “Không hề chẳng có” trở xuống: vị thường là chưa hề. Chưa hề chẳng thấy về có, thì cái có ấy cũng như là không, chưa hề thấy về không, thì cái không ấy cũng là có. Câu: “Nên nói: bậc Đẳng Giác bất động mà lập ra các pháp” đây là lời trong kinh phóng Quang Bát-nhã, tức bản dịch cũ của kinh Đại phẩm Bát-nhã. Nay kinh gọi là “Thật tế”. Thật tế thì bình đẳng, là pháp được nhận thức của bậc Chánh Giác, nên gọi Thật Tế là Đẳng Giác. Cũng có thể nói Giác là Bát-nhã. Thật Tế và Bát-nhã là như nhau, nên nói Thật tế là Đẳng Giác. Như kinh Niết-bàn nói: “Mười hai nhân duyên gọi là Trí Tuệ” kinh cho rằng như trái Hồ qua là bệnh nhiệt. Vì sao? Hồ qua tuy chẳng phải là bệnh nhiệt nhưng có khả năng sinh ra bệnh nhiệt, nên gọi là nhiệt bệnh. Cũng vậy, mười hai nhân duyên tuy chẳng phải là trí huệ, nhưng có thể nhớ đó mà chứng đạt trí tuệ, nên gọi trí tuệ. Nay cũng như thế, Thật tế chẳng phải là Giác, nhưng tương tự với Giác, nên gọi là Đẳng Giác Câu: “Theo đó thì suy hai pháp Tịnh, Dụng đâu có khác nhau”, tức đâu được cho là khác nhau. Câu “Thế nên cho rằng cái Trí quán được sự soi khác nhau thì khác với sự soi của vô tướng?”. Thường xác về ý kiến khác với lời nói của Lưu di Dân. Chi là từ trợ giúp, không có nghóa, nói chẳng thì. “Sao lại cho ái trí quán được sự sai biệt khác với vô tướng”. Cũng có thể cho rằng: “vì sao lại như thế” tức nói “không như thế được”, “không như thế được” cũng là “đâu được như thế”. Ông nói “cái trí quán được sự khác nhau là khác với vô tướng” thì đâu phải như thế. Từ Câu: “Rằng người bình phẩm hoặc cho không có là hai tâm” trở xuống: Là đoạn đáp thứ hai trong câu hỏi thứ hai, phần nói câu hỏi trước: “Trí của sự nhận biết về biến chuyển (quán được sự khác nhau) nên thuộc về có” tức tiếp phần còn lại của sự biến chuyển ở trước, do đó mà đáp:. Rằng ông cho không và có là hai tâm khác nhau, nên ông bảo trí của sự nhận biết về sự biến chuyển là có, chẳng phải không. Câu: “Nếu lìa bỏ sự chấp mắc về sự kiến ở tâm thức” trở xuống: Tâm thức của mình, đối với sự chấp giữ bên trong mà không chấp mắc, nên gọi là lìa bỏ (Xả). Huyền cơ là lý mầu tột cùng, tức tìm lý nhiệm mầu ở bên ngoài danh tự, hình tướng. Câu: “Cùng quán muôn pháp ở nhất thể”. Sách Nam Hoa kinh của Trang Tử có bài “Tề vật Luận”. Nay tác giả Tăng Triệu mượn ý ấy, để diến đạt việc “nhận thức về môn pháp cùng với Nhất thể, Vô tướng” Câu: “Lãnh hội pháp thân vô tướng mà chẳng phải là không”. Trang Tử nói: “Cõi rỗng lặng tột cùng hoàn toàn giữ lấy sự tịnh tónh thuần nhất”. Nay tác giả mượn từ ấy (chí hư) để gọi lý mầu tột cùng. Lý mầu tột cùng thì vắng lặng, trống không, là cái không của “tức sắc”, chứ chẳng phải cái không của đoạn kiến. Câu: “Nên nói bậc Chí nhân suốt ngày tùy theo căn cơ của chúng sinh để ứng hợp, hóa độ” trở xuống: Biết có tức không thì dù ở nẻo có, nhưng không hề bị ngăn ngại. Nên nói: ứng hợp cơ duyên để hóa độ, chẳng đối tượng nào không hành hóa, “biến chuyển, đổi dời với muôn vật” tức là lui tới thuận hợp với thế gian. Thừa vận phủ hóa là dựa theo căn cơ của chúng sinh để dẫn dắt, giáo hóa. Vị thủy vi là không hề cho là có chúng sinh để hóa độ. Câu: “Chân tâm của bậc Thánh như thế thì đâu có chỗ để chấp trước”. Là đáp lại phần trước chưa giải thích lý do đó mà không chấp giữ. Ở đây, có đối tượng nào để chấp giữ mà lại phải giải thích nữa? Có bản chép: “Hà hữu hà thủ” ý nói chẳng nên chấp trước. - Từ Câu: “Lại nói: chẳng có tâm nhận vật mới gọi là sự nhận đúng nghóa” trở xuống: Là câu đáp thứ ba về câu hỏi thứ ba ở trước, hỏi về tính chất đối đãi nhau giữa Cảnh và Trí, là có sự tiếp nhận vật hay không có sự tiếp nhận vật, thuận hợp hay không thuận hợp. Câu: “Cũng có thể như lời viết trong thư” Cũng có thể như lời ông hỏi trong thư, nhưng chưa hẳn là như thế. Câu: “Nếu đạt được “Vô tâm” đối với sự nhận vật thì nhận vật ở chỗ chẳng có tâm nhận”, vì vô tâm nên nhận vật là có sự tiếp nhận mà cho chẳng có tâm nhận vật mới là sự tiếp nhận đúng nghóa. Đó chính là nói có sự tiếp nhận vật chân thật, cũng không sai, về sự ứng hợp cũng vậy. Câu: “Thế thì suốt ngày tiếp nhận vật không trái với “chẳng có tâm nhận”. Vô tâm tức là nhận vật, tuy nhận vật mà là vô tâm. Sự ứng hợp tiếp nhận cũng giống như thế. Câu: “Chỉ sợ rằng tâm chấp giữ chưa quên, nên chấp có sự nhận vật ở chỗ chẳng có tâm để nhận” trở xuống: sợ là do chấp có sự nhận vật là quyết định có tiếp nhận, có sự ứng hợp là nhất định có ứng hợp. Chấp như vậy là không đúng. Câu: “Do đó mới có sự lo ngại, e sợ” vì đó là bệnh chấp. Câu: “Vì sao? Nếu sự nhận vật chân thật là có thể tiếp nhận” trở xuống là giải thích lý do của sự lo ngại, e sợ. Câu: “Nên danh tự, hình tướng theo đó mà hình thành, tốt xấu do đó mà phát sinh” có thật, chẳng thật, đúng, chẳng đúng, thì có hai tên gọi tốt xấu dấy lên, nên có hai tâm phân biệt tốt xấu phát sinh, đó chính là tai họa lớn. Câu: “Đời đời đuổi theo tâm, cảnh thì bệnh chấp trước đến khi nào mới dứt?” đời đời nối tiếp tâm cảnh luôn dấy khởi rong ruổi không dừng, thì ai có thể làm được việc ngăn chận? Câu: “Bởi vậy bậc Thánh vắng lặng trong tâm”. Sách Tựu Lâm ghi: “chữ động đọc là đọng, nghóa là dáng vẻ trôi chảy rất nhanh.” Nay cho là sự thông suốt vắng lặng chính là tâm mở ra không phân biệt. Câu: “Đang lúc vận động theo diệu dụng soi chiếu mà dừng nghỉ ở cảnh giới vô vi” Thân ở cõi diệu dụng vận động nhưng tâm ở cảnh giới vô vi. Sự hành hóa ở trong chốn có thể gọi tên, giảng nói còn bản chất, thể tánh thì ở chỗ dứt bặt mọi nẻo ngôn ngữ, suy nghó. Câu: “Lặng chiếu rỗng thoáng, chẳng thể dùng tên gọi, hình tướng mà đạt được”. Lão Tử nói “Nó yên lặng, vô thanh, trống không, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi, mãi mãi bất biến, vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng”. (Đạo đức kinh, chương 26, theo bd của NHL). Sách “Thích Danh” chú giải: “không chút âm thanh gọi là Tịch không hình sắc gọi là liêu. Khoáng là trống rỗng, mạc là không, chẳng. Nay gọi bậc Chí nhân là như vậy. Câu: “Mà lại cho rằng, sự nhận vật chân thật là có thể nhận” trở xuống: cho rằng chẳng phải là ý của Lưu Di Dân. Vì đã lãnh hội như thế thì sao cho “sự nhận vật đúng nghóa là có thể nhận được, sự ứng hợp tột bực là có thể ứng hợp”? Dụ là bảo cho biết. Nhã là đúng, chỉ là ý sâu xa (trong câu: vị dụ nhã chỉ giã). Câu: “Nhưng sợ rằng sự nhận vật ứng cơ ở họ là do vọng chấp mà sinh khởi” trở xuống: sợ dựa vào tên gọi của sự nhận vật chân thật, sự ứng hợp tột cùng, phát sinh kiến chấp. Người thường cho là như vậy. Chữ vật ở đây (câu vật vị chi nhiên) là chỉ cho người. Câu: “Tâm của bậc Thánh chẳng phải thế sao lại cho là như thế” (Bỉ tự bất nhiên, hà túc nhiên Da?). Bỉ là chỉ cho tâm của bậc Thánh, Chân tâm của bậc Thánh chẳng phải như vậy, thế sao lại nói như vậy? c/ Tổng kết: - Từ Câu: “Phàm sự diễn đạt của ngôn từ khởi lên, từ đó phát sinh nhiều nẻo khác nhau” trở xuống: Là phần thứ ba của Thư đáp (đáp thư của Lưu Di Dân) mang tính chất tống kết. Đoạn cuối của thư hỏi (thư của lưu Di Dân) có đoạn: “Ngày bài luận ấy đến đây (bài luận Bát-nhã vô Tri), tôi cùng Pháp sư Tuệ Viễn xem xét tường tận. Pháp sư cũng vui vẻ lãnh hội và khen ngợi, nhưng có thể so vì tông phái có những điểm khác nhau…” lại nói “cũng có nhiều vị đọc kỹ và khen ngợi” Nay, tác giả nói ý tổng kết, nói về lý do chẳng đồng với chỗ khen ngợi kia. Về chữ Tích, sách Nam Hoa kinh của Trang Tử, phần Ngoại Thiên, chương Thiên Vận có đoạn chép: “Lão Đam nói với Khổng Khâu: Sáu kinh là dấu vết để lại của Tiên Vương, há chẳng do đó mà cho là dấu vết hay sao? Nay, những điều cho ông giảng nói cũng là dựa theo dấu vết của người trước đó thôi. Phàm dấu vết nhờ vào nơi chốn mà xuất phát Nhưng dấu vết há là nơi chốn hay sao!” Đây cho ngôn từ đối với tâm cũng như dấu vết đối với nơi chốn gốc. Ngôn từ là đối tượng được nói ra cho biết. Dấu vết là chủ thể nói bày, nói ra. Lại cũng là dùng ngôn từ làm dấu vết, nên gọi là ngôn tích, hễ có ngôn từ, có dấu vết thì các kiến giải khác nhau từ đó phát sinh. Câu: “Mà dùng ngôn từ để hiển bày chỗ chẳng thể dùng ngôn từ” trở xuống Ngôn từ chỉ để diễn đạt những đối tượng có thể diễn đạt bằng ngôn từ được, còn những lãnh vực vượt mọi sự diễn đạt thì ngôn từ bất lực. Dấu vết cũng chỉ nghi dấu nơi những đối tượng có thể nghi dấu, còn với các lãnh vực không thể ghi dấu được, thì dấu vết cũng đành bất lực. Câu: “Vậy nên người khéo nói, sử dụng ngôn từ…” trở xuống: Người khéo dùng ngôn từ để diễn đạt về tâm, tức là diễn đạt về chỗ chẳng thể nói bày được. Kẻ khéo dùng dấu vết để ghi dấu đối với nơi chốn, tức là ghi dấu nơi chốn chẳng thể nghi dấu. Câu: “Diệu lý tột cùng thì rỗng lặng, mầu nhiệm, hễ khởi tâm dấy niệm đã là sai trái, huống chi là có ngôn từ để diễn đạt”, lý mầu vốn dứt bặt mọi nẻo vận hành của tâm. Hễ khởi tâm dấy niệm là đã sai lạc, huống chi là dùng ngôn từ để diễn đạt được lý ấy hay sao! Ngay việc giải thích, làm sáng tỏ chỗ ta lãnh hội, cũng chẳng thể dùng ngôn từ để thực hiện trọn vẹn được Câu: “E rằng chỗ nói bày dần dà trở nên xa xôi” Tức chỗ muốn nói bày, chỉ rõ lại trở nên xa xôi. Tức như thư hỏi đã xa cách đối với bài luận, nếu lại có việc hỏi đáp thì càng xa cách hơn nữa. Câu: “Chỉ có người tâm trí thông suốt” (Thứ thông tâm quân tử) trở xuống: Là chỉ cho tâm của Lưu Di Dân đã tỏ ngộ lý huyền diệu, nên viết là thông tâm ở ngoài văn tự mà tìm hiểu lý mầu. Chẳng nên chấp trước văn tự để dẫn đến vặn hỏi. Về hai chữ Quân Tử, sách “Bạch Hổ Thông Nghóa” giải thích “có thể vì người mà làm vua, cũng có thể làm con của muôn người, nên gọi là quân tử.” Nay gọi bậc đại nhân là hàng trưởng thượng đối với mình nên gọi là quân tử.”. Chữ tử là tên gọi chung người nam…  <卷>QUYỂN HẠ LUẬN NIẾT BÀN VÔ DANH : BIỂU VĂN TRÌNH VUA DIÊU HƯNG NHÀ TẦN: Đây là bài luận thứ tư (luận Niết-bàn Vô Danh) nói về quả, phát huy giáo pháp Niết-bàn. Toàn bài luận gồm hai phần: Trước là biểu, sau là luận. I- Biểu Văn: Gọi giáo pháp Niết-bàn là hoàn toàn dứt hết mọi nẻo ngôn từ, hình tượng. Ngôn từ, hình tượng đã dứt bặt thì đâu còn có danh? Nhưng đã có danh thì chỉ là giả danh Niết-bàn”. Đã gọi là giả danh thì thật sự là vô danh. Nay nhằm làm rõ cái thật ấy nên nói là “Niết-bàn Vô danh” Pháp sư Tăng Triệu, do vua Tần mà soạn luận này. Luận soạn xong dâng lên vua, nên có bài Biểu. Biểu là biểu chương, bày tỏ nổi lòng của mình nên gọi là biểu, từ trước tới nay có bốn vua Tần. Tần Thỉ Hoàng, gọi là Vong Tần. Phù Kiên, gọi là Tiền Tần. Diêu Trường, gọi là Hậu Tần. Thư cừ Mông Tốn, gọi là Ngụy Tần. Nay nói Tần Vương là Hậu Tần, con của Diêu Trường là Diêu Hưng. Có bản chép là Tần chủ, chủ cũng là vua, sách “Bạch Hổ thông nghóa” giải thích: “Vua là trở về. Là nơi chốn quay về của thiên hạ, nên gọi là vua.” Câu: “Tăng Triệu nói” trở xuống: Văn của bài biểu gồm hai phần: Khen ngợi vua Tần. Nói rõ nguyên nhân soạn luận. 1/ Phần khen ngợi vua Tần gồm bốn đoạn: a/ Khen ngợi Vua Tần. b/ Nói về Niết-bàn. c/ Nói về ân quốc gia. d/ Khiêm cung từ chối. a/- Câu: Có nghe rằng“Trời được đạo mà trong lành” trở xuống. Sách Đạo Đức kinh của Lão Tử chép“Trời được Đạo mà trong, đất được đạo mà yên, thần được đạo mà linh, khe ngòi được đạo mà đầy, muôn vật được đạo mà sinh, Vua chúa được đạo mà làm phép tắc cho thiên hạ” (chương 39, theo bd của DHL) Pháp sư Tăng triệu tóm lược lấy ý ấy, văn có sửa đổi chút ít. Câu: “Cúi mong bệ hạ, là bậc Thánh triết sáng tỏ tôn quý) Duệ là bậc Thánh, Triết là trí tuệ. Khâm là kính. Minh là hiểu rõ. Sách Tự Lâm giải thích “Bệ hạ là luôn luôn. Nói là chẳng dám hướng thẳng tới bậc Thánh, chỉ thường ở dưới thấp. Câu: “Đạo gặp gỡ sự thần diệu) Câu dùng theo lối đảo. Chính là “Thần dữ đạo hội”. Sự thần diệu gặp gỡ với đạo. Câu: Trong cõi mênh mông ấy có sự khế hợp mầu nhiệm. Chữ Hoàn Trung xuất xứ từ sách của Trang Tử, ở đây dùng để dụ cho lý Vô sinh của Trung Đạo. Phần nội Thiên (Tề Vật Luận) sách Nam Hoa Kinh có đoạn: “Đó đây mà khéo gặp chỗ đối đãi của nó thì gọi là cốt đạo. Cốt ấy khởi đầu từ trung tâm của cái vòng tròn và căn cứ vào đó để ứng đối vô cùng. (Theo bd của NDC). Quách Tượng chú giải, chép: “Thị phi thay đổi, qua lại, tìm kiếm nhau, không biết đâu là cùng, gọi là Hoàn Trung. Hoàn trung là cõi không”. Nay tác giả Tăng Triệu nói vua Tần tạo được sự khế hợp mầu nhiệm đối với điều ấy. Câu: “Lý chẳng có gì là không thống nhất) đã khế hợp với “Hoàn trung” thì mọi lý điều thống nhất, nên viết là “vô bất thống” Câu: “Nên có thể dùng trí tuệ sắc bén để xử lý bao lãnh vực của việc nước). Về chữ Du nhận và Vạn cơ đã giải thích ở phần trước. Câu: “Suốt ngày ra sức mở mang đạo pháp”. Câu: Uy đức bao trùm khắp muôi loài, để lại văn chương làm phép tắc cho thế gian). Tức nói về Uy đức của Vua Tần bao trùm khắp muôn loài. Thương sinh là Thiên sinh (tạo vật). Trang Tử nói: “Còn màu trời xanh xanh kia có phải là màu thật của nó chăng? Nam Hoa kinh, Tiêu Diêu Du”, (theo bd của NDC). Kinh Thư chép: “Mầu xanh trên cao kia, màu xanh xanh ấy là bầu trời”, “Thùy văn tác tắc” Là nói dùng văn chương để làm khuôn phép cho thế gian. Có bản chép “Ân đức trùm khắp muôn loài” cũng được. Phần chú giải hệ từ của Chu Dịch chép “Ân Huệ trùm khắp muôn vật”. Câu: “Do đó, ở trong vũ trụ có bốn cái lớn, Vua là một”. Lão Tử nói: “Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, vua lớn. Nên gọi là bốn cái lớn.” (Đạo Đức kinh, chương 25, theo bd của NHL). Do vua có khả năng lấy uy đức trùm khắp muôn loài, dùng văn chương làm phép tắc, nên cũng lớn lao như các Đại kia. b/ Từ Câu: “Giáo pháp Niết-bàn” trở xuống: Là đoạn hai, nói về Niết-bàn. Câu: “Nói chung đó là chốn quy về của Ba thừa” tức là nói người tu học Ba thừa đều quy về giáo pháp ấy. Câu: “Là kho chứa sâu rộng của các kinh Phương Đẳng). Các kinh điển Đại thừa đều gọi là Phương Đẳng. Trong mười hai bộ kinh có bộ Phương Quảng. Phương Quảng tức là Phương Đẳng. Do tính chất rộng lớn, chân chính, bình đẳng, nên gọi là Phương Đẳng. Tuy chỗ nói về ngôn từ, dấu vết của Phương Đẳng chẳng phải một, nhưng đều xem Niết-bàn là thể tánh, là lý mầu tột cùng, hoàn toàn rốt ráo, nên gọi là uyên phủ. Uyên là vực sâu, phủ là kho chứa. Vực rộng lớn thì nước sâu, kho chứa thì nhiều tài vật. Sách Mao Thi nói: Uyên là sâu. Câu: “Mênh mông, bao la, không thấy không nghe, dứt hẳn mọi nẻo âm thanh, hình sắc). Mênh mông bao la, không âm thanh, không hình sắc, nên gọi là dứt bặt mọi sự thấy nghe. Câu: “Diệu lý ấy sâu xa mầu nhiệm, thật chẳng phải là chỗ tính lường của mọi người). Trắc là tính lượng. Ý nói lý mầu Niết-bàn sâu xa u ẩn, chẳng phải là đối tượng suy lường của mọi người. Đãi là ky, ky là gần. Thật sự chẳng phải là chỗ người thường lường tính được. c/ Từ Câu: “Tăng Triệu tôi chỉ là một người hèn kém” trở xuống là đoạn ba nói về ân đất nước: Vi là nhỏ kém, là lời khiêm tốn. Ổi là đông, nhiều. Học tứ là nơi học vấn. Sách Chu Lễ chép: “Người coi về chợ búa thường cho bày biện các vật dụng, còn ở chỗ học hành cũng bày ra các thứ sách vở, kinh sử, giống như chợ quán bày bán các vật dụng”. Tứ là bày ra, nay gọi nơi học hành là Học Tứ. Câu: “Cầu học ở trụ xứ của pháp sư La-thập hơn mười năm”. Đại sư Tăng Triệu năm mười chín tuổi cầu học với Pháp sư La-thập, ba mươi mốt tuổi qua đời, như vậy là hơn mười năm cầu học và làm việc ở chỗ Pháp sư La-thập. Câu: “Tuy các kinh với sự diễn đạt khác nhau, nghóa mầu cao siêu chẳng phải một”. Tức chỉ cho các kinh Đại Phẩm, Pháp Hoa, v.v… đều có nghóa mầu sâu xa. Câu: “Nhưng chỉ mọi nghóa mầu của Niết-bàn là thường đem ra để học hỏi, bàn luận trước nhất”. Tác giả chỉ nói lãnh hội về nghóa Niết- bàn, không nói đến kinh. Xem phần văn tiếp theo của luận, chỗ nào cũng đều có dẫn văn của nói về Niết-bàn. Hoặc có thể là sau khi Pháp sư La-thập qua đời, tác giả mới gặp kinh Niết-bàn. d/ Từ Câu: “Nhưng Triệu tôi tài trí, kiến thức tối tăm, kém cỏi” trở xuống: Là đoạn thứ tư, tác giả bày tỏ sự khiêm tốn, thối thác. Kiến thức thì mờ tối, tài năng thì kém cỏi. Sách Hán Thư chú giải: “Mông là độc, vác. Mạc mạc là mờ mịt, chẳng rõ ràng. Câu: “Vì dốc hết tâm ngu muội chẳng thôi, nên dường như có sự thông hiểu”. Tâm ngu muội dốc tận lực tự cho là chẳng dừng nghỉ, nên thấy dường như có sự hiểu biết. Câu: “Nhưng đối với kinh ấy, chưa có bậc cao minh tài giỏi giảng trước, nên chẳng dám quyết đoán”. Tức là gặp kinh Niết-bàn bản mới, chưa có bậc cao minh tài giỏi giảng giải trước, nên cho là tự mình chẳng thể quyết đoán. Câu: “Chẳng may Pháp sư La-thập qua đời nên không còn chỗ để hỏi han, tham vấn”: Bất hạnh là không may. Bậc Tiên sư đã qua đời, thì đâu còn chỗ để thưa hỏi! Câu: “Mà bệ hạ là bậc Thánh đức chẳng phải vô”. Sách Luận ngữ có câu: “Người có đức thì cô độc, tất có người đồng đạo kết bạn với mình” như ở đâu thì có láng giềng ở đó. Luận Ngữ, Thiên Lý Nhân, (đoạn 25, theo bd của NHL). Thần khế là khế hợp với lý thần diệu, cũng có thể cho là tâm khế hợp với sự thần diệu, chẳng đợi đến ngôn từ. Câu: “Thấy đạo pháp được tồn tại”. Sách Nam Hoa kinh của Trang Tử, Phần ngoại Thiên, chương Điền Tử Phương có đoạn: “Trọng Ni gặp Ôn Bá Tuyết Tử, chẳng nói gì cả. Tử lộ hỏi: Thầy muốn gặp Ôn Bá Tuết Tử đã lâu, sao bây giờ gặp chẳng nói gì cả? Trọng Ni đáp: Hễ con người mới vừa nhìn thấy mà biết là còn giữ đạo, cũng chẳng thể dùng tiếng nói mà hình dung ra được.” Về chữ khoái tận (trong câu: khoái tận kỳ trung phương thốn). Sách thuyết văn giải thích: khoái là ưa thích. Do việc giáo hóa dẫn dắt đối với những tập tục gây suy đồi cho đời sau, nên có thể chấn chỉnh được trào lưu nặng về huyền đàm ở thời ấy. Công việc này, vào thời Diêu Hưng, Phật pháp được mở mang rộng khắp, nay tác giả nói về việc ấy. 2/ Từ Câu: “Một hôm nhân gặp được lời đáp thư hỏi của An Thành Hầu Diêu Tung về chỗ tột cùng nơi tông chỉ của Vô Vi” trở xuống. Là phần hai của Biểu Văn, chính thức nói rõ nhân duyên soạn bài “Niết-bàn vô Danh” văn phần này cũng có bốn đoạn: a/ Nói ra nguyên do của việc soạn luận. b/ Chính thức nói về nhân duyên soạn luận. c/ Trình bày lại lý do. d/ Lại nói về ý của luận. a/ Nói “ngộ mông đáp” (Gặp được lời đáp thích hợp). Tức vua Diêu Hưng, sau khi pháp sư La-thập qua đời, đã không hiểu bốn ý nghóa quan trọng: Thông hiểu nghóa pháp chẳng trụ mà trụ trong Bát-nhã. Thông hiểu nghóa bậc Thánh phát ra ánh sáng rộng lớn. Thông hiểu nghóa ba đời. Thông hiểu nghóa “tất cả pháp không”. Thông hiểu nghóa thứ tư, cho rằng: “Hễ là đạo thì lấy vô tri làm tông chỉ. Như cái vô tri ấy đâu còn có sở hữu?” An Thành Hầu Diêu Tung viết thư nói câu hỏi về nghóa thứ nhất, hai, bốn, chẳng nêu câu hỏi về nghóa thứ ba, tức nghóa về ba đời. Câu hỏi về nghóa thứ tư, rằng: “Chẳng rõ cái vô tri của đạo ấy, lấy gì làm thể” Nếu lấy chỗ mầu nhiệm làm thể, hoặc lấy chỗ mầu nhiệm làm tông chỉ, tuy có trước sự thật mà chẳng phải tột cùng. Nếu cho không có là mầu nhiệm thì sẽ có nhân của sự chẳng không. Cái gọi là nhân đều chưa thông hợp, há là giáo pháp không hai? Nên luận chép: khôngđối với không thì sẽ có có đối với có. Có và không cùng nhau phát sinh, cũng như hình tướng dài ngắn. Cho nên lãnh vực của có, không đó chính là chỗ chấp giữ của biên kiến.” Diêu Hưng đã lần lượt đáp lại các câu hỏi ấy. Thông hiểu được câu hỏi thứ tư, nên cho rằng: “Ý tôi cho là đạo dừng lại ở vô vi, chưa tỏ ngộ được nguyên do của tông chỉ.” Câu: “Vì sao? Là vì chúng sinh từ lâu nay ở trong sinh tử luân hồi đều do chấp trước ái dục.” Yù nghóa được nói rõ như chỗ giải thích của vua Tần, Pháp sư Tăng Triệu do lời ấy mà viết bài “Nói về Niết-bàn” Nay nói “Gặp được thư đáp thích hợp” tức là thư đáp của vua Tần. Câu: “Đây mới thật là” trở xuống: Phần trước là nhắc lại lời của Diêu Hưng, từ đây trở xuống là lời khen ngợi của Pháp sư Tăng Triệu. Câu: “Tự phi đạo tham Văn-thù” trở xuống: Tham là xen lẫn, xen vào. Mưu là cùng, đều. Hai vị Bồ-tát ấy, một là Bồ-tát Pháp Vương Tử, một là Bồ-tát nhất sinh Bổ Xứ. Câu: “Ai có khả năng sửa lại cho đúng”. Do là Bồ-tát tham vấn, tương tự, nên mới làm được như vậy! Câu: “Làm cho giáo pháp của bậc Thánh bị thu hẹp nay lại được mở rộng, tông chỉ mầu nhiệm từng bị chìm mất thì nay lại được hiển bày” Nhờ mở mang, phát huy đạo pháp mầu nhiệm, làm thành trì vững chắc cho chánh pháp, nên Phật pháp tuy bị thu hẹp thì thời này được mở rộng, tông chỉ mầu nhiệm tuy bị chìm mất thì bấy giờ lại được hiển bày. Câu: “Ân cần đọc kỹ”: Tìm đọc, nghiền ngẫm để lãnh hội giá trị của nó, không thể rời xa được. Càng ưa thích thì càng tỏ ngộ, hoài bão đã được thúc đẩy, giúp đỡ, nên tay chân như cứ múa may, giẫm đạp không dứt. Câu: “Chẳng những là khuôn phép hơn hết của đương thời” khởi trực là nói chẳng những, Phạm là khuôn phép, Phương là sắp tới, về sau. Sách Trang chú giải thích: “Hễ gọi là Phương tức là vị lai” b/ Từ Câu: “Nhưng tông chỉ của bậc Thánh sâu xa mầu nhiệm” trở xuống: Là đoạn hai, nói rõ bản ý của việc soạn luận. Do ý nghóa trong thư đáp của Diêu Hưng vốn sâu xa mầu nhiệm, nên tác giả viết bài luận kia là nhằm phát huy, làm sáng tỏ thêm. Câu: “Có thể dùng làm khuôn mẫu cho các bậc tiên tiến, cứu vớt các cao só”: Tiên tấn là chỉ cho các vị Đại Đức tăng. Cao só là các só phu tài cao ở thế gian. Cho rằng kiến giải của Diêu Hưng có thể làm khuôn mẫu cho các vị Đại đức tăng cầu học, có thể cứu vớt các học só tài cao còn mê chấp. Câu: “Cụ ngôn đề chi lưu, hoặc vị tận thượng ý” (Sợ sự tiếp cận của các ngôn từ, đề mục chưa thấu đáo, hoặc chưa lãnh hội hết ý của nhà vua). Ngôn đề là chấp trước các loại ngôn từ, đề mục. Do kiến giải kia, lý thì mầu nhiệm mà lời thì ngắn gọn, nên người tiếp cận chưa thể lãnh hội hết ý của Diêu Hưng, do đó tác giả Tăng Triệu viết luận để làm sáng tỏ. Câu: “Mong như đức khổng Tử viết Thập Dực cho sách Chu Dịch”. Thứ là trông mong. Khổng Tử viết Thập Dực là nhằm giúp cho sự thành tựu đạo Lý dịch. Nay tôi soạn Thập Diễn cũng là nhằm giúp cho sự thành tựu các ý nghóa của vua Diêu Hưng nói ra. Về Thập Dực, xưa có hai lối giải thích. - Thập Dực gồm: Bát quái. Thuyết quái. Tự quái. Tạp quái. Quái Từ. Hào từ. Thoán từ. Tượng Gia Từ. Hệ Từ. Văn ngôn. - Thập Dực gồm: Sách chu Dịch có hai kinh (thượng, hạ) mỗi phần đều có thoán Từ, Tượng Từ, là sáu, văn Ngôn là bảy, Hệ Từ là tám, Thuyết Quái là chín, Tạp Ly quái là mười. Câu: “Há tham cầu lời văn dồi dào”. Tức cho rằng chẳng mong cầu lời văn nhiều. Sách Mao Trường Thi Truyện giải thích: Phong là tươi tốt. Câu: “Là nhằm để mở mang, làm rõ nghóa mầu sâu xa, u ẩn”. Tức là nhằm phát huy, làm hiển bày nghóa mầu sâu kín trong thứ đáp vua Tần. Câu: “Luận này có chín đoạn vặn hỏi, mười đoạn diễn đạt. Chiết là nêu câu hỏi. Diễn là đáp lại. Sách thuyết văn giải thích: “Diến là dòng nước chảy, nghóa cũng như thế. Câu: “Thâu thập rộng nơi các kinh, nhờ đó mà nói ví dụ, chứng minh cho sự thành tựu”. Thâu thập rộng nơi nghóa của văn các kinh để làm ví dụ, chứng minh. Cũng có thể là nói ví dụ để chứng minh cho sự thành tựu. Câu: “Bày tỏ sự kính phục về kiến giải “Niết-bàn vô danh” của Bệ hạ đã nói ra” Tức tác giả bày tỏ sự khen ngợi lý mầu của “Niết-bàn vô danh” được nhà vua nói ra. Câu: “Đâu dám cho rằng đã thấu suốt được chỗ tâm thần diệu” Tác giả tự cho là chẳng thể thấu đạt trọn vẹn tâm của vua Diêu Hưng, tức chẳng thể đạt tới chỗ tận cùng nơi đạo lý ứng cơ khế hợp của Phật. Câu: “Nhờ vào việc dựa theo hình dáng của cửa huyền diệu”. Nghó là dựa theo, nghi là dáng vẻ, hình tượng. Dựa theo hình dáng của cửa lý mầu nhiệm, để nói bày, ban bố khắp đến các hạng cầu học xa gần. c/ Từ Câu: “Đoạn cuối của bài luận cho rằng”. Là đoạn ba, lại nói bày về nguyên do. Vua Diêu Hưng thông suốt chương cuối của nghóa thứ nhất, nên có lời ấy. Gần đây các nhà giải thích về Đệ Nhất Nghóa Đế, cho là như vậy. Câu: “Hết mực xa vời”: Kính là xa. Đình là chẳng, tức là như một vật hết xa cách, chỉ có thể đến thẳng mà chẳng thể quay lại. Có một hạng người như thế, thật đáng thương xót. Nay vua Diêu Hưng cho rằng, nhiều nhà xem Đệ Nhất Nghóa Đế là hoàn toàn không, một thứ không rất xa vời, khác thường, chẳng gần gũi tình người. Câu: “Nếu không có bậc Thánh thì ai là người biết sự chẳng có ấy?” Đây là lời của vua Tần vặn hỏi các nhà giải thích. Câu: “Đúng là lời bảo ban sáng suốt”. Pháp sư Tăng Triệu nói bày sự thành tựu. Câu: “Đạo vốn mập mờ thấp thoáng mà vô cùng sâu xa”. Sách Đạo đức kinh của Lão Tử có câu: “Thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng, mập mờ thấp thoáng bên trong có vật, (ĐĐ kinh, chương 21, theo bd của NHL). Hoảng hốt là chẳng rõ định. Yểu minh là sâu xa. Đó là theo cách giải thích của sách Thuyết Văn. Câu: “Nếu không có bậc Thánh thì ai cùng với đạo du hóa”. Tức nói có bậc Thánh chứng đắc đạo Thánh, cùng với đạo pháp du hành, hóa độ. Câu: “Gần đây, các bậc học só” trở xuống: nói các hàng học só ấy, nghe nói về cõi vắng lặng lớn lao thì trong tâm do dự, tấm tức bất mãn. Sách Quảng Nhã giải thích: “Trù Trừ là do dự, sách Thương Hiệt Thiên chép: “Ưởng Ưởng là trở lại oán giận, nay cho trở lại oán giận tức có sự tức giận. Câu: “May mắn gặp được bậc cao minh nhận định chính xác, người cầu học không còn mờ mịt”. Ý nói là mọi người có được may mắn vì gặp được bậc cao minh là vua Diêu Hưng đã phán quyết rõ ràng, nên trong lòng thông tỏ, dứt khoát. Câu: “Đông đảo người đã tiếp cận với chỗ“huyền môn”, cùng lên chốn “Huyền thất” Khấu là gõ, đánh. Quan là chỗ quan yếu của cửa huyền diệu. Trù là đông đúc. Thương hiệt giải thích: “Dáng vẻ cây cỏ um tùm” Ý nói các người cầu học đã tìm đến cửa Huyền”, giống như cây cỏ um tùm, tươi tốt. Câu: “Thật có thể cho rằng” trở xuống: Khen ngợi vua Tần, cho là “như bánh xe pháp được quay lần nữa” d/ Từ Câu: “Nay nói tông chỉ của bài luận diễn đạt rộng” trở xuống là đoạn thứ tư (của phần thứ hai) lại nói về ý của luận. Diễn luận là đáp lại các nhà giải thích. Khúc biện là sự giải thích tận cùng về các công đức nhỏ nhặt. Câu: “Dứt hản mọi ngôn từ dấu vết, đạt tới chốn rộng lặng tịch tónh”. Tịch là diệt, dứt hết, diệt hết mọi ngôn từ, dấu vết. Quách nhiên là vắng lặng tịch tónh. Câu: “Bác bỏ các thuyết ngoài đời”. Sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử, Phần Nội Thiên, chương Tề vật Luận có đoạn: “Phần ngoài của “Sáu hợp, bậc Thánh nhân để yên, không nói đến. Phần trong của sáu hợp, bậc Thánh nói đến mà không bàn. Lịch sử thời Xuân Thu của các tiên vương, bậc Thánh bàn đến mà không chê khen, giải thích. (Theo bd của NDC) Nay nói rõ bên ngoài của “Sáu hợp” với các công đức nhỏ nhặt, nên bác bỏ thuyết “Bất ngôn” của Trang Tử đang thịnh hành đương thời. Câu: “Sẽ được nói bày đầy đủ ở phần sau”. Điều lục là sẽ được nhắc lại một cách đầy đủ như phần sau, sau là ở dưới. Câu: “Nếu có tham khảo chút ít về Thánh chỉ” trở xuống: Hoặc tham vấn ý của vua Tần, hoặc cũng tham khảo nơi ý của Phật, nên cho là “Như có tham khảo chút ít” Câu: “Nếu có chỗ sai sót thì được sự chỉ dạy”. Nếu có sai lầm thì xin được sự chỉ giáo. Chín câu hỏi và mười diễn đạt đáp lại của bài “Luận Niết-bàn vô Danh” Chín câu hỏi Xét về Thể. Dẫn chứng. Tìm tòi về Huyền diệu Vặn hỏi sai biệt Trách sự sai biệt Vặn hỏi về tiệm Chê về tâm động Truy cứu nguồn gốc Bàn về sự chứng đắc. Mười đoạn diễn đạt đáp lại: (Thập diễn) 1- Khai tông chỉ. Nêu ra thể. Siêu vượt mọi cảnh. 4- Đạo mầu thường còn. 5- Giải thích về khác nhau. 6- Dung hợp sự khác nhau. 7- Nói về Tiệm. Động Tịnh là một. Dung thông xưa nay. Bàn về sự chứng đắc nhiệm mầu. Câu: “Nê viết, Nê-hoàn, Niết-bàn” trở xuống: Về vị trí của các từ này (Nê-viết, Nê-hoàn, Niết-bàn…) các bản không nhất định. Hoặc để ở trước phần chín câu hỏi. Hoặc để ở sau phần mười đoạn diến đạt. Hoặc ở sau phần khai tông chỉ. Nay cho để ở trước là thuận hợp, lấy đó làm cố định. Lại có bản, sau phần Biểu Văn thì để các từ ấy. Nói tên bài luận, sau đó mới nói về Nê-hoàn, Nê-viết, v.v… Như vậy cũng ổn. Người xưa dịch kinh, phần nhiều gọi là Nê-viết, kế đến là Nê- hoàn, sau mới là Niết-bàn, nên gọi là sự xuất hiện có trước sau khác. Câu: “Do vùng Sở, Hạ khác nhau”. Hạ là nước ở giữa, Sở là nước ở vùng biên giới (…). Gọi là Hạ, sách “Bạch Hổ Thông Nghóa” giải thích “Ha là lớn” Ý này cho ở giữa, là lớn, nên gọi là Hạ. Chín chiết Mười diến tức là chín câu hỏi, chín đoạn đáp lại, là mười tám phần, một nghóa về “khai tông chỉ” là gốc của sự đáp lại các kiến giải kia, cũng thuộc về phần đáp, nên có “mười diễn”, hợp thành mười chín phần. Chiết tức là bẻ gãy các kiến giải, vặn hỏi. Diễn là diễn đạt thông suốt ý đáp lại các kiến giải kia. Sách tiểu Nhã giải thích “Diến là làm rộng ra. Trong bài Biểu tuy đã có nói, nhưng đến đây mới giải thích rõ Khai Tông Chỉ: Luận có mười chín chương (10 Diễn+9 chiết), đây là chương 1, mở ra tông chỉ Niết-bàn. Như phần đầu của sách “Hiếu Kinh” có chương “Khai Tông Minh Nghóa”. Nay sắp bàn về đạo lớn không thể không có lời mởi bày, nên phải có phần “khai tông”. Câu: “Vô danh nói” tức tông chỉ của Đại Niết-bàn lấy vô Danh làm chính, nên gọi là vô Danh. Câu: “Kinh nói” “Niết-bàn hữu dư”, “Niết-bàn vô dư”, các kinh điển của Tiểu thừa và Đại thừa đều có nói. Câu: “Niết-bàn, đời Tần dịch là Vô Vi, cũng dịch là Diệt độ”. Niết-bàn là từ tiếng Phạm, Hán không có từ này. Vì sao? Vì từ khi có kỹ thuật khắc bản để nghi chép sự việc trở đi, chỉ nói đến, bàn đến việc người, còn các vấn đề như Niết-bàn, Bát-nhã.v.v chưa từng đề cập. Trang Tử nói: “Phần ngoài của “Sáu hợp” bậc Thánh để yên không nói tới chính là nghóa này. Đã không có từ ngữ ấy thì phải cố gắng dịch ra. Nay nói Vô vi, Diệt độ chỉ là nói theo nghóa phiên dịch. Pháp sư Tăng Triệu sống vào đời Hậu Tần, nên viết là “đời Tần dịch”. Câu: “Dứt hẳn hữu vi”, chẳng hoại giả danh, nhưng khác hẳn không giống gì cả, gọi là dứt bặt. Câu: “Tai họa lớn sinh tử đã dứt hẳn”. Đại hoạn là chỉ cho thân, vì có thân nên gọi là hoạn. Lão Tử nói: “Tại sao sợ vạ lớn mà sinh ra rối loạn? Ta sợ dó có họa lớn là vì ta có thân. Nếu ta không có thân, quên mình có thân đi, thì còn sợ vì tai vạ nữa! (Đạo đức kinh, chương 13 theo bd của NHL). Câu: “Vượt khỏi bốn dòng chảy phiền não”. Bốn dòng chảy phiền não là: Dục lưu, Hữu lưu, vô minh lưu và tà kiến lưu. Câu: “Đó chính là chốn quay về của hình tượng trong gương, cũng là nơi dứt bặt ngôn xưng của căn nhà mầu nhiệm”. Kinh nói về các pháp, cho chúng như hình tượng trong gương, nhằm khiến người tu học, quy về nơi ấy. Cũng có thể cho thể tánh của các pháp rốt ráo vốn không, như hình tượng trong gương, người tu tập đều tỏ ngộ điều ấy tức là Niết-bàn. Thể tánh của Niết-bàn là không. Nói Niết-bàn, rốt ráo là tánh không, Chư Phật cùng chứng nhập, tức là an trụ trong căn nhà mầu nhiệm. Câu: “Mà gọi là Hữu Dư, vô Dư” tức chỉ cho kinh giảng nói. Câu: “Chỉ là tên gọi khác nhau của sự xuất xử, là giả danh của sự ứng hợp cơ duyên để hóa độ”. Chữ này đọc là Xử, Xuất là đi ra, Xử là trở vào, là an trụ. Sở dó đại Niết-bàn, hoặc gọi là Hữu dư, hoặc gọi là Vô dư, là vì, đó là cách gọi khác về tính chất không có, có không của thể tánh. Như gọi Nhanõ (Mắt là Mục Mắt), cũng như mắt bên phải, mắt bên trái, thì cũng là mắt. Nên biết xuất và Nhập tuy khác mà là một. Thành ra “tên gọi khác nhau của sự xuất xử chỉ là cái danh của sự giả đặt để ứng hợp cơ duyên hóa độ muôn vật. Lương là tin thật. Bậc Thánh cần xuất thì xuất, cần xử thì xử, nên gọi là ứng hợp cơ duyên để hóa độ muôn vật. Câu: “Nay tôi thử bàn về vấn đề này”. Sách Tiểu Nhã giải thích: “Thường là nên”, phải nên thử bàn về vấn đề đó. Câu: “Niết-bàn tức là đạo Niết-bàn”, như phần tiếp theo sẽ trình bày. Câu: “Tịch diệt, vắng lặng, bao là, chẳng thể dựa theo tên gọi, hình tướng mà tìm” Đây là nói về tính chất dứt bặt ngôn từ, hình tượng Dứt hết hình tượng là ở chỗ dứt lời, không lời. Lời dứt là ở chỗ không còn hình tượng. Hình tượng mà chẳng thể diễn đạt được hình tượng tức chẳng phải hình tượng. Ngôn từ mà chẳng thể nói lên được, tức chẳng phải ngôn từ. Nếu đã chẳng phải hình tượng, chẳng phải ngôn từ thì chẳng thể tiếp cận hình tượng qua ngôn từ. Không thể tiếp cận hình tượng qua ngôn từ thì đó là tịch diệt, rỗng lặng, mênh mông, nên cho là “chẳng thể dựa theo tên gọi, hình tướng mà tìm.” Câu: “Mầu nhiệm vô tướng nên chẳng thể lấy Hữu tâm mà nhận biết”, tức nói về tính chất vượt ngoài mọi tư duy, tính lượng. Câu: “Cao vượt ra ba cõi, mê lầm đều dứt, chứng lượng như hư không, lý mầu cùng tột) siêu vượt ba cõi với hai mươi lăm nẻo luân hồi sinh tử, ra ngoài mọi buộc ràng của muôn vật, dung lượng đồng với pháp giới, lớn rộng như hư không, chẳng thể hiểu bằng sự nhận thức tính toán, số lượng. Nên gọi là “chứng lượng như thái hư, mãi mãi an trụ” Câu: “Muốn đuổi theo thì chẳng thể tìm ra dấu vết, muốn trở lại tìm chỗ xuất phát thì chẳng thấy nơi bắt đầu”. Phất là chẳng, Võng là không. Thiếu là nhìn qua một bên. Tùy là đi theo sau để tìm. Tìm kiếm chẳng thấy được dấu vết của Niết-bàn. Nhìn gió khắp cũng chẳng nhận ra nơi bắt đầu của Niết-bàn. Sách Đạo đức kinh của Lão tử có câu: “Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi. Ai giữ được đạo từ xưa vẫn có thì có thể khống chế được mọi sự vật ngày nay, biết được chỗ nguyên thỉ tức là nắm được giềng mối của đạo. (Chương 14, theo bd của NHL) Tác giả Tăng Triệu mượn ý để nói về Đạo (Niết-bàn) Câu: “Sáu đường chẳng thể gồm thâu để làm cho sinh” phàm sự sinh khoi của muôn loài không ngoài sáu cõi, nên ở đây nói về Niết- bàn, nên cho sáu đường chẳng có thể gồm thâu để khiến sinh khởi. Câu: “Sức mạnh chẳng làm cho thể biến đổi” sức mạnh lớn của vô thường, có thể làm đổi thay muôn vật, nhưng không thể biến đổi được thể tánh của Niết-bàn, tức là nói rõ Niết-bàn, thể là không. Câu: “Mênh mông, mập mờ thấp thoáng, như có hư không”. Nói mênh mông, bao là nên chẳng biết đâu là bờ bến, ranh giới mập mờ, thấp thoáng, nên không định rõ nơi chốn, chẳng rõ hẳn là có không, nên gọi là hoặc còn hoặc mất. Câu: “Năm mắt chẳng nhìn rõ dung mạo, hai tai chẳng nghe được âm thanh” Năm mắt là: Nhục Nhãn, Thiên Nhãn, Tuệ Nhãn, Pháp Nhãn, và Phật Nhãn. Nhị Thích là hai tai, cũng là tai trời (Thiên Nhó) và tai người (nhân nhó). Năm mắt chẳng thấy được hình tướng, tức nói về vô hình. Hai tai chẳng nghe được âm thanh tức nói về vô thanh. Nhằm nói lên đạo của Niết-bàn chẳng phải là đối tượng của hình sắc âm thanh. Câu: “Mịt mờ, thăm thẳm, ai thấy ai hiểu”. phần Ngoại Thiên, chương Tại Hựu. Sách Nam Hoa kinh của Trang Tử có câu: “Chỗ tinh túy của đạo lớn là thăm thẳm mịt mờ. Chốn cùng tột của đạo lớn là mờ mờ, vắng lặng”. Nay tác giả nói về thể của Niết-bàn còn hơn thế nữa: u huyền, sâu mầu, thăm thẳm, mịt mờ, khó có thể thấy hiểu. Câu: “Bao gồm, trùm khắp, chẳng chỗ nào không tồn tại, mà lại siêu vượt mọi điều có không”. Di là khắp. Luân là thông hợp. Tức cho đạo Niết-bàn chẳng những bao trùm khắp cả loài hữu tình, mà cũng vượt ngoài Hữu tình vô tình, nên gọi là “chẳng chỗ nào không tồn tại”. Cũng như dẫn dắt ra khỏi có không, Biểu là ngoài. Câu: “Cho nên, hễ nói được là mất cái chân thật” trở xuống: Niết- bàn vốn vô ngôn, dùng ngôn từ diễn đạt thì mất chỗ chân thật. Niết-bàn là vô tri, nhận biết thì trở thành kẻ ngu muội, Niết-bàn chẳng phải có, nói có tức là trái với Tánh, Niết-bàn chẳng phải không, nói không tức là làm tổn thương tới Thể. Nhưng nói như kẻ ngu, tức không thấy không biết, tựa như ngu muội. Kinh Đại Phẩm có câu: “Sắc mờ tối nên Bát- nhã mờ tối” tức là nghóa này. Câu: “Bởi vậy Đức Thích-ca đóng của thất ở Ma-kiệt”. Do lý chẳng thể giảng nói, nên đóng cửa thất, ngậm miệng im tiếng, sự việc đóng cửa thất ấy, có thuyết cho rằng “Đức Phật khi mới thành đạo, muốn hóa độ ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, nên mới tạo ra phương tiện, đi tới chỗ ông ấy xin nghó nhờ qua đêm. Ca-diếp bèn để Như lai ngụ trong thất của con rồng dữ. Rồng dữ muốn hại nhưng đã được Đức Thế tôn hàng phục, bỏ vào bát, ở đây là nhằm chỉ cho nghóa dùng pháp để giáo hóa” Thật ra, việc “đóng cửa thất” giải thích như thế là không đúng. Chính là Đức Như lai khi mới thành bậc Chánh Giác Vô thượng, trong khoảng ba mươi bảy ngày tưu duy chưa giảng nói gì cả, giống như là đóng cửa thất, chẳng mở. Luận Đại Trí Độ chép: “Đức Phật khi mới thành đạo, trong năm mươi bảy ngày chẳng nói pháp môn nào cả” đó là nghóa “đóng cửa thất” Câu: “Trưởng Giả Tịnh Danh im tiếng nơi thành Tỳ-da”. Đỗ nghóa là lấp kín. Trưởng giả Tịnh Danh tại thành Tỳ-da-ly hỏi các Bồ-tát về pháp môn không hai, các vị Bồ-tát lần lượt trả lời bày tỏ kiến giải của mình. Kế đến, hỏi Bồ-tát Văn-thù, Văn-thù nói: “Theo ý tôi thì tất cả các pháp không nói, không giảng, đó là đi vào pháp môn không hai?” Tịnh Danh (Duy-ma-cật) im lặng, không nói. Văn-thù-sư-lợi khen ngợi: “Đó mới đúng là đi vào pháp môn không hai” cho đến không ngôn từ, không giảng nói, nên gọi là ngậm miệng im lời. Cũng vì về lý là không lời, nói ra là chẳng đạt lý, lý chẳng thể dùng ngôn từ diến đạt, nên chẳng nói ra. Tôn giả Tu-bồ-đề và Phạm Thiên, Đế-thích, thì trước đã có đề cập rồi. Câu: “Đó đều là lý mầu, là cái đạo dứt bặt ngôn từ, chỉ có người chứng ngộ mới lãnh hội được nên do đó miệng nín lặng” vì lý gắn bó với sự thần diệu, mà sự thần diệu thì dứt hết mọi ngôn từ, nên miệng cũng im lặng. Câu: “Đâu phải không có biện tài, vì biện tài chẳng thể nói bày được”. Tâm sắp duyên theo mà suy nghó dứt, miệng muốn giải thích mà lời mất, nên nói “Đâu phải là không”, chỉ vì chẳng thể nói ra được. Câu: “Kinh nói: giải thoát chân thật thường lìa mọi ngôn ngữ, số lượng” trở xuống: Là ở trong kinh Niết-bàn, đại ý nói về sự giải thoát, chẳng phải là toàn văn. Câu: “Luận chép: Niết-bàn chẳng phải có, cũng chẳng phải không”: đó đều là sự giải thích của Trung Luận, ý chính nói về Niết- bàn, cũng chẳng phải toàn văn. Câu: “Theo những lời của kinh Luận dẫn trên, há cho là không đúng với sự thật hay sao!”. Sách Tiểu Nhã chép: Tầm là dùng, ý nói dùng kinh luận để trích dẫn, nói lên ý nghóa đang bàn cũng chẳng phải là tạo điều luống dối. Cấu là tạo ra. Câu: “Như thế, quả thật có cái sở dó chẳng có”. Quả là quả quyết, có ý nghóa quyết định. Tức là nói Niết-bàn quả thật có cái lý do của chẳng có, nên chẳng thể nói là có. Về không cũng vậy. Câu: “Vì sao? Vì hễ truy cứu về cảnh có” thì năm ấm dứt hẳn” tức ở trong cảnh “có” gốc tận cùng của Niết-bàn, do năm ấm đã hoàn toàn dứt hẳn, nên chẳng thể nói là có. Câu: “Suy xét về cảnh “không” thì sự mầu nhiệm linh thiêng thường hiện hữu”. Sách Mao Thi giải thích”. Hương là nơi chốn. Suy cứu về Niết-bàn, hội nhập vào cảnh không thì tính chất mầu nhiệm, linh thiêng chẳng thể đạt tới cùng tận, nên gọi là “chẳng cạn”. Câu: “Sự vắng lặng duy nhất thường gồm thâu”, tức tướng duy nhất gồm thâu, bao trùm, luôn vắng lặng không thay đổi. Câu: “Muôn thứ phiền não buộc ràng đều dứt sạch”. Sách thuyết văn giải thích. Tổn là dứt bỏ, tức cho rằng mọi thứ phiền não hệ lụy đều dứt hết. Câu: “Thông hợp với đạo …nên diệu dụng thể hiện mà không dụng công”. Đạo ấy vốn thần diệu đâu thể xưng gọi, nên viết là “không hề dứt”. Đã là không dứt thì ai lại nói về công dụng? Câu: “Công năng tột bực thường còn”. Tuy không hề dứt, không tốn công sức, nhưng công năng ấy là rất lớn lao. Lớn thì thường còn chẳng mất, nên noí là “thường tồn tại” Câu: “Sâu rộng mà chẳng biến đổi”. Sách “Tự Thư” chép. Xung là rỗng lặng. Đạo Niết-bàn, thể tánh là rỗng lặng, hư tịch, đâu có việc biến chuyển, dời đổi, nên gọi là chẳng thay đổi. Câu: “Có, không dứt bặt bên trong”: Tức chỉ cho bên trong “của” Niết-bàn thường vượt khỏi có không, xưa nay vốn vắng lặng tịch tónh, nên nói là “dứt bặt bên trong” Câu: “Xưng gọi chìm ở ngoài” nẻo ngoài của Niết-bàn dứt hẳn mọi xưng gọi, xưng gọi chỉ cho danh tự. Đã cho Niết-bàn là vô danh thì đâu còn có tên gọi? Câu: “Mọi sự thấy nghe chẳng đạt đến”. Sách Tả truyện cho kî là đến. Sách Tiểu Nhã giải thích kî, là kịp, đạt tới. Tức nói Niết-bàn là như thế (vượt mọi lãnh vực thấy nghe) Câu: “Kể cả người không cảnh giới, bốn không cũng mờ tối” Ngọai đạo đạt được định Tứ không ở cõi Vô sắc, gọi là định không, sống trong tứ không, cho là Niết-bàn, mà không biết Niết-bàn thật sự, nên nói là “mờ tối” Câu: “Bình đẳng là một vô trụ, rỗng lặng chiếu soi mà gồm khắp”. Di là ngang bằng. Lão Tử nói: “Nhìn mà chẳng thấy gọi là di”. Thái là thông hợp rộng khắp. Rỗng lặng tịch nhiên, hoàn toàn tự tại, thanh tịnh. Câu: “Chính là chỗ quy về gặp gỡ của chín dòng” chín dòng là: Đạo, Nho, Mặc, Danh, Pháp, Aâm dương, Nông, Tung hoành và Tạp, (cũng gọi là Tiểu Thuyết). Tức cho rằng mọi thứ ngôn ngữ văn tự đều do Phật giảng nói, cùng chung hợp ở nơi Niết-bàn, nên viết là “giao quy”. Đây là ý xuất xứ từ kinh Kim cương: “Vì thế, Như lai nói tất cả các pháp đều là Phật pháp.” Câu: “Cũng là cội nguồn rốt ráo của Chư Phật”. Câu trên nói về sự gặp gỡ của các pháp, tức không pháp nào không chung hợp ở nơi Niết-bàn. Câu này nói về sự tụ hội của người, tức cũng không người nào không gặp gỡ nơi đạo ấy. Do đó, Như lai nói tất cả mọi người cũng đều là bậc Thánh. Kinh đại phẩm có câu: “Phật tức là chúng sinh, chúng sinh tức là Phật. Vì vậy, tác giả nói “Cũng chính là cội nguồn rốt ráo của các Thánh” Câu: “Đó là cảnh giới chẳng thể thấy nghe, là nơi chốn của sự nhiệm mầu vắng lặng tột cùng). Hy là nhỏ, vi diệu. Di là phẳng lặng. Cảnh là cảnh giới. Thái là lớn, Huyền là sâu xa. Hươmg là nơi chốn, khu vực. Niết-bàn là mầu nhiệm mà an nhiên, rộng lớn mà u huyền, thì cảnh giới nào mà chẳng trùm khắp. Nên tác giả gọi là “Cảnh giới chẳng thể thấy nghe, nơi chốn của sự nhiệm mầu, vắng lặng” Câu: “Thế mà muốn lấy sự có không để gán tên gọi” trở xuống: Niết-bàn dứt bặt mọi đường ngôn ngữ, mà muốn lấy có, không để gọi tên, nói bày nơi chốn cảnh giới, thì làm sao có thể được! Câu: “Há chẳng phải lại càng xa vời sao!”: Tức nếu dùng có không để gọi tên, nói bày phạm vi của Niết-bàn thì càng trở nên xa cách. Mạc là xa xôi. Nói về thể: Hạch là xét sự việc để đạt sự thật, ở đây là khảo xét về Thể của Niết-bàn, nên gọi như thế. Câu: “Hữu danh nói: Danh hiệu chẳng phải vô cớ mà đặt ra, tên gọi chẳng phải tự mình dấy khởi”, Hữu danh chỉ cho câu hỏi. Kiến giải nói câu hỏi cho rằng: Niết-bàn nói có danh tự, chẳng thể cho là không. Hai câu trên là cùng một ý, đều nói là có nhân duyên nên có tên gọi. Câu: “Là tên gọi chân thật của sự trở về với tự tánh, cũng là sự xưng gọi sâu mầu của đạo pháp mầu nhiệm”. Kinh Trung Bản khởi chép”: “Tất cả gốc các pháp Nhân duyên, không, không chủ Tâm dứt, đạt cội nguồn Nên hiệu là Sa-môn.” Nay nói trở về với gốc tức đạt tới cội nguồn. Thần đạo là đạo pháp thần diệu. Câu: “Vị Như Lai đại giác mới hưng”: Nghóa là Đức Như lai mới thành tựu đạo quả đại giác ngộ, tức Phật mới thành đạo. Câu: “Pháp thân được kiến lập”: tức mới đạt được năm phần pháp thân, là Giới, Định, Trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Câu: “Tắm gội trong dòng nước tám giải thoát”: tức dùng tám thức giải thoát làm dòng nước trong lành mà tắm gội. Tám giải thoát là: Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc. Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc. Thân chứng giải thoát trọn vẹn. Đạt định không xứ. Đạt định Thức xứ. Đạt định vô sở hữu xứ, Đạt định phi hữu tưởng Phi vô Tưởng. Đạt định Diệt Tận Tưởng. (Xuất xứ từ kinh Đại Phẩm, v.v…) Câu: “Nghỉ ngơi trong rừng Bảy Giác chi xanh tốt”: tức lấy Bảy Giác chi làm khu rừng xanh tốt để nghỉ ngơi. Bảy Giác chi hay Bảy Giác phần, gồm có: Trạch pháp. Tinh Tấn. Niệm. Định. Hỷ. Xả. Trừ (khinh an). Cũng xuất xứ từ các kinh Đại Phẩm, Niết-bàn, v.v… Câu: “Rửa sạch mọi sự cáu bẩn từ vô thỉ”. Nghóa là từ vô thỉ đến nay, mọi thứ bụi bặm phiền não đều sạch, không còn chút sót nào, cũng gọi là tập khí. Câu: “Bên trong chứng ngộ ba minh”. Nội là chỉ cho tâm, ba minh là: Thiên Nhãn, Túc mạng, và Lậu tận. Câu: “Bên ngoài, ánh sáng thần diệu tỏa chiếu) Na gọi đủ là Tăng na, Tăng viết, là tiếng Phạm, dịch là bốn thệ nguyện rộng lớn. Tức khi mới phát tâm Bồ-đề, trước là phát nguyện ấy. Câu: “Cứu độ chúng sinh cho đến người sau rốt”: Tức dùng tâm đại bi cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ nạn. Câu: “Trên cầu quả Phật”. Tức ngưỡng cầu cội nguồn của lý huyền diệu. Câu: “Dưới cứu giúp muôn loài”. Phủ là cúi xuống. Đề là dắt dẫn, là nói bậc đại Thánh luôn rủ lòng tế độ bao chúng sinh nhỏ bé yếu đuối trong bể khổ. Câu: “Siêu vượt ba cõi, riêng chứng quả vị Đại giác”. Mại là vượt, Siêu là vượt qua. Đạo là giẫm lên, ba vực là ba cõi. Đại phương là chỉ cho Đại thừa. Câu: “Mở ra con đường bằng phẳng của tám chánh đạo, quét sạch mọi tà kiến của tám vị thuyết”. Khải là mở ra: mở ra tám chánh đạo. Tám chánh đạo gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định (Xuất xứ từ các kinh Đại Phẩm, Niết-bàn, v.v…) chúng thứ là chúng sinh. Di đồ cũng như chữ bình lộ (đường bằng phẳng) ở đoạn trên. Câu: “Giục ngựa tốt của sáu thứ thần thông”. Sách Quảng Nhã chú giải: “Sính là chạy nhanh” Sách Tự lâm chép: “Sính là loại ngựa chạy ngàn dặm” dùng con ngựa kỳ tuyệt của sáu thứ thần thông mà phóng nhanh trên dặm đường cứu giúp. Sáu thần thông là: thiên nhãn, thiên nhó, tha tâm, túc mạng, như ý, và Lậu tận. Câu: “Ngồi nơi xe yên ổn của năm thừa”. Diễn là tiếng Phạm, gọi đủ là Ma-ha-diễn. Ma-ha là Đại, diến là thừa. Nói năm diến tức là năm thừa (nhân, thiên, Thanh văn, Duyên Giác và Phật), đi vào thừa Như lai đều gọi là lớn, nên “thừa” cả năm Diễn. Về từ an xa, sách Khúc lễ có câu “Khi đi đến khắp nơi thì ngồi trên xe yên ổn tự xưng là lão phu” chú giải rằng: “An xa là ngồi yên trên xe” Như nay nói ngồi yên trên xe nhỏ. Huyền Thạch hỏi: “Phật đã đi trên Đại thừa, chỉ nên dùng đại xa để dụ. Nay dùng chữ an xa (nghóa như: ngồi trên xe) giống như là xe nhỏ. Vì sao? Đại sở chủ đáp: “Đã xưng là lão phu. Lão tất nhiên là lớn, lấy người để nói về xe, người lớn thì xe lớn. Đã lớn nên an ổn, ý nói các xe khác là chưa an ổn. Vậy nên nói rõ Phật thừa là xe an ổn. Cũng như nghóa “Năm Diễn” ở trước. Người Tiểu thừa đã đi vào thừa của Như lai thì đều gọi là Đại thừa. Kinh nói: “Là Đại thừa an ổn, diệu lạc” tức là nghóa này. Đó là nói về Trung đạo, chẳng phải chỉ cho nghóa trong sách Khúc lễ. Câu: “Dốc luôn ra vào sinh tử, để tùy cơ hóa độ chúng sinh” ứng hợp với chỗ sinh của muôn vật là xuất, xuất là sinh. Ưùng hợp với chỗ diệt của vật là nhập, nhập là tử. Tới lui luôn thuận hợp với đời, nên gọi là cùng với vật. Nói thôi Di tức là tới lui. Hợp trong câu đạo vô bất hợp là thắm đượm. Thi (trong câu: đức vô bất thi) là nêu bày, thể hiện. Hóa mẫu trong câu: “cùng hóa mẫu chi thủy vật: tận đến chỗ tạo hóa mới sinh khởi” chánh đạo có khả năng nuôi dưỡng muôn vật, như con theo mẹ mà sống. Ngàn biến muôn hóa nhưng không ngoài thể của đạo. Phật đã đạt đến cội nguồn tận cùng ấy nên gọi là Hóa mẫu. Về từ huyền khu trong câu: “Cực huyền khu chi diệu dụng” (đạt diệu dụng tột bậc của Thánh trí) Huyền là u huyền, khu là chỗ quan trọng, tức chỉ cho lý mầu tột bậc sâu xa mầu nhiệm. Chỗ quan trọng của các giáo pháp, Phật đều đạt tới chỗ cùng tận. Câu: “khuếch hư vũ ư vô cương” (Tâm cảnh vắng lặng gồm khắp vũ trụ) tức mở rộng không gian bao la của chánh pháp, không còn có ranh giới, cảnh giới, như biển thế giới Liên Hoa Tạng Trang nghiêm trong kinh Hoa nghiêm. Câu: “Soi sáng cả pháp giới do Nhất Thiết Trí”: Tát Vân là tiếng Phạm, dịch là Nhất Thiết Trí. Soi sáng mọi chốn tối tăm nên gọi là chúc u, cũng có nghóa là ánh sáng của chánh pháp thường ngầm soi chiếu nên gọi như thế. Câu: “Nhân duyên hóa độ ngừng ở chín cõi”: Tưởng là sắp, tuyệt là dứt hẳn. Trẫm là dấu vết, cửu chỉ là chín nơi: Cõi trời, cõi người trong Dục giới (1) Ba cõi Thiền (trừ Tứ Thiền) (3) Tầng trời vô Tưởng (1) Bốn cõi không (4) (Một+ ba+ một+ bốn= Chín cư) Tức là nơi chốn sinh sống, an nghỉ của chín loài chúng sinh (Huyền Thạch cho rằng: đã trừ ra cõi Tứ Thiền, lại cho (Cõi trời Vô Tưởng là một cõi, đây há chẳng phải là cõi trời Tứ thiền sao? May mắn được biết rõ.) Câu: “Chìm hẳn trong thái hư…” Tức chìm bặt trong cõi vắng lặng. Câu: “Mà nhân duyên vẫn còn, dấu vết còn lại không mất”: Dư duyên là chỗ ứng hợp hóa độ chúng sinh. Dư tích là dấu vết ở thân ứng hiện vẫn còn, chưa mất hẳn. (Huyền Thạch cho rằng: Đây là lời vặn hỏi của các nhà ở chín đoạn vấn nạn trước (cửu chiết). Ý vặn hỏi là: “đã có thể” mở rộng không gian bao là của chánh pháp” “Nhất thiết trí soi sáng cả pháp giới” “Nhân duyên hóa độ ngừng nơi chín cõi”, như thế tức là bao gồm cả hư, chẳng sót một vật xa gần nào, thế sao lại có chúng sinh chưa hóa độ? Nhân duyên còn lại chẳng dứt, thân Phật vẫn còn, dấu vết còn lại chưa mất hẳn, v.v… Nếu đọc phần sở giải đều chẳng thấy ý của các câu hỏi. Nay nói ra câu văn, dường như đã có thể hiểu. Mong người đọc xem xét rõ, như có sai lầm thì xin chớ chê cười!) Câu: “Vô minh chưa dứt sạch, Thánh trí vẫn còn!”. Hồn là chủ của thân sắc. Đã có thân thì có nghiệp “Hữu dư”, có nghiệp thì phải thọ nhận. Sự thọ nhận ấy gọi là Báo. Còn như hồn phách thì hồn phách phải tồn tại trong thân tướng, có thân thì có hồn, tức khiến tạo và thọ nghiệp, nên nói là “Nghiệp báo du hồn” (Nghiệp báo như hồn với thân). Du là như, nên câu tiếp theo nói: Thánh trí vẫn còn. Tồn là còn, Phật đã có trí tuệ, suy nghó vẫn tồn tại, tức biết nghiệp chẳng thể mất. Cũng là lời của đoạn vặn hỏi, theo ý của Huyền Thạch. Câu: “Kinh chép: Làm tiêu tan mọi phiền não cấu nhiễm, như luyện vàng ròng): phương pháp huyện vàng, được đào thải trong nước, được đúc huyện trong lò. Tức nói bậc Thánh đã chuyển hóa, dứt bỏ mọi thứ phiền não cấu uế cũng giống như vậy. Câu: “Hai chữ “vô dư” trở xuống: đối lại với Hữu Dư ở trên tức là vô Dư. Câu: “Họa lớn chẳng gì bằng có thân”. Thân là mối họa lớn nhất, quả thật như thế, nên gọi là không gì bằng. Trí vận động là trước hết, nên nói không gì bằng. “Diệt trí để hòa nhập vào cói vắng lặng”: tức là hòa nhập chung vào nơi hư không. Tu đồ là đường dài (trong câu “Luân chuyển tu đồ” (luân chuyển trong sáu đường). Phất dó là không dứt (khổ não chẳng dứt) Câu: “Kinh nói: Trí là gốc của cái thứ độc, hình thể là chỗ dựa của gông cùm”. Trí tuệ lìa điều tốt đẹp, lúc qua đời khiến thần thức khổ nhọc, như ăn phải những thứ độc, rốt lại là hại thân. Sách Thuyết Văn giải thích. Trất là cái cùm buộc chân, cốc là cái cùm trói tay. Văn chép: “Gông cùm trói chân tay, là những vật dụng hại thân” Câu: “Xa cách với lý mầu sâu rộng vắng lặng, nên tai họa do đó mà sinh khởi). Uyên là sâu rộng. Mặc là vắng lặng. Nói có thân có trí, nên có sự phân biệt, tai họa do đó mà dấy lên. Còn như đạo pháp sâu rộng mầu nhiệm thì cách xa, nên cho là “đạo pháp sâu rộng, vắng lặng, vì thế mà xa cách, tai họa do đó mà dấy khởi.” Câu: “Nguội thân, bặt trí, bỏ hình thể, dứt tư duy”. Tổn là bỏ, tức nói thân đã như thế, tai họa phải nên dứt diệt, khiến cùng nguôi thân, bặt trí, dứt suy nghó, không còn mọi hệ lụy, hoạn nạn. Câu: “Bên trong không còn sự lao nhọc của việc ứng hợp cơ duyên soi chiếu. Bên ngoài thì cắt đứt hết mọi nguồn gốc của tai họa” Nếu bên trong đã không trí, thì không còn cái tâm vận hành ứng hợp, cũng không có cái suy nghó để soi sáng, xem xét. Bên ngoài, nếu đã không thân, thì còn sự lo lắng về nóng lạnh, v.v… cũng không còn sự mệt nhọc trong sinh sống. Câu: “Siêu nhiên trong ba cõi, thì sự sinh tử dứt hẳn” trở xuống. Biết rõ tánh của các pháp vốn tự là không, như vượt lên cả “Siêu nhiên” có sự cách biệt lớn với chúng sinh trong ba cõi, thật ra chẳng cách biệt. Vì sao? Vì sắc tức là không, không tức là sắc, đối với phàm phu chưa tỏ ngộ thì tựa như là phân cách hẳn. Còn đối với bậc Thánh đã thấu đạt về Thể thì đâu chỉ có sắc là không, mà Không cũng là không. Câu: “Tịch diệt, chẳng còn sự thấy nghe”: không còn âm thanh nên chẳng thể nghe, chẳng có mầm mống dấu vết, nên không thể thấy. Câu: “Chẳng biết chỗ đi đến”. Tức chẳng rõ nơi chốn đi đến. Câu: “Cũng như đèn tắt, lửa dứt, dầu và ánh sáng đều hết” kinh Niết-bàn, quyển chín, có đoạn: “Người Xiển-đề, thấy Đức Như lai đã hoàn toàn nhập vào Niết-bàn, cũng như đèn tắt, dầu cùng hết.” Câu: “Thế thì hữu dư có thể cho là Hữu Danh” trở xuống: Là kết thúc phần vặn hỏi. Cho Niết-bàn Hữu dư có thể gọi là Hữu, Niết-bàn vô dư có thể gọi là Vô. Câu: “Càng kính mến công đức của bậc Thánh”: Tức người yêu thích nẻo Hữu, nghe về Hữu Dư thì càng tin tưởng, kính mến công đức, mà mong đạt được. Câu: “Đó là lời văn trong kinh” trở xuống: kinh điển sách vở, những sự giảng dạy, được nói bày, diễn đạt qua lời văn, nghóa lý. Cho rằng các kinh điển Đại thừa là con đường hành hóa của Chư Phật, nên gọi là “Quỹ Triệt”. Quỹ là khuôn phép của việc tạo ra xe, Triệt là dấu vết của xe đi qua. Câu: “Làm cho người nhớ ân đức tự cách tuyệt với đạo”: Người nhớ ân đức, nghe nói Niết-bàn chẳng thật có nên chẳng mong cầu đạt được. Kẻ tôn sùng hư vô, nghe vậy bèn bảo Niết-bàn chẳng phải là không nên chẳng chịu cầu học. Tự tuyệt là không có tâm mong cầu đạt đến. Mỹ thác là không nhờ vả, không còn nơi chốn để tâm nương dựa. Câu: “Chẳng khác gì lấp bít tai mắt trên cơ thể) trở xuống: ở trong thì lấp bít tai mắt ở thân, tướng lai trách cứ là có sự giải thích, mà chẳng thể nghe được âm thanh, bên ngoài thì che chắn ánh sáng nhật nguyệt trên hư không” mà bảo có sự giải thích về màu sắc lại chẳng thể nhìn ngắm! Huyền tượng trong câu: “yểm huyền tượng ư vân tiêu chi ngoại”. (Bên ngoài thì che chắn ánh sáng nhật nguyệt trên hư không là bầu trời. Huyền là màu đen, Tố là màu trắng. Câu: “Mà ý nghóa trong luận lại làm cho người đọc không biết được chỗ để quy về”: tức chẳng biết đâu là nẻo sáng để hướng về. Câu: “Nên chỗ sâu mầu của Niết-bàn tự ẩn mà chưa được hiển bày”: tức đạo lý còn bị che chắn, ẩn giấu, nên chưa được hiển bày. Câu: “Lặng lẽ suy xét, tìm hiểu cảm thấy chẳng có chỗ nương dựa” trở xuống: hoài bão của mình không có nơi chốn để nương dựa, an lập. Khởi vị là há có thể cho là “Làm sáng tỏ nghóa mầu Niết-bàn trong ngôi nhà tăm tối ư”. Tức chúng sinh mê muội như ngôi nhà tăm tối, nay soạn bài luận ấy há chẳng phải là nhằm làm sáng tỏ ngôi nhà tăm tối kia, khiến cho họ được nhìn thấy hay sao? Chũng sinh không biết không nghe, nay nói ra luận thuyết ấy, há chẳng phải là tấu lên khúc nhạc nhiệm mầu, để họ được nghe hay sao? Sách Tiểu Nhã giải thích: Tấu là cùng tiến đến nơi. Nêu ra thể: (Vị thể) Sách Thượng Thư chép: “Vị là thứ bậc. Như ngôi bậc thứ lớp cao thấp khác nhau” Nay nói về thứ lớp Thể tướng của Niết-bàn nên dùng chữ vị. Câu: “Vô danh nói” vô danh là lời đáp lại, đáp lại các kiến giải kia. Làm rõ gốc của Niết-bàn là không có tên gọi, nên gọi là Vô danh. Câu: “Đều là tên gọi bên ngoài của Niết-bàn” trở xuống: Thể chính của Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải không. Nói có nói không, chỉ là giả danh của việc ứng hợp cơ duyên để hóa độ, nên nói là “tên gọi bên ngoài” Câu: “Mà kẻ chạy theo tên gọi là chấp danh, kẻ nghi nhớ hình tượng là chấp tướng”, “tồn xưng vị giả” là những người chấp danh, là những kẻ chấp tướng, Phong là giữ chặt, Đam là đắm trước. Câu: “Tên gọi bị hạn chế nơi đề mục” tiếp theo là nói về danh hiệu, chỉ có thể gọi trong phạm vi các đề mục, ngoài phạm vi ấy thì chẳng thể xưng gọi được. Hình tượng chỉ nói bày hết mực trong khuôn khổ vuông tròn. Nếu chịu thuận theo bên ngoài khuôn khổ ấy thì mới hiện bày hình tượng được. Câu: “Vuông tròn cũng có chỗ chẳng thể diễn tả được” trở xuống: Tức cho rằng khuôn khổ tròn vuông ấy chẳng thể diễn tả được các pháp chẳng phải vuông tròn. Đề mục cũng chẳng thể truyền đạt được các pháp chẳng phải đề mục. Câu: “Nên đâu thể lấy tên gọi gán vào vô danh” trở xuống: Yên khả là chẳng thể, Vô danh là các pháp chẳng thể tên gọi. Vô hình trong đoạn: “Nhi hình ư vô hình giả tai!”. (Lấy hình tượng gán vào nơi không hình tượng) là các pháp chẳng phải vuông tròn, ở đây chỉ cho Niết- bàn. Câu: “Chính là bản ý của phương tiện vắng lặng để lập ra giáo môn” trở xuống: Tức nói bày hữu dư là ý của huyền giáo, vô dư là ý của Phật giáo. Quyền là hiển bày, thật là ẩn tàng. Câu: “Nhưng chưa phải là sự sâu mầu dứt bặt ngôn từ của cảnh giới nhiệm mầu vắng lặng” trở xuống: Huyền tịch là chân lý vắng lặng. Hoàn trung trong câu: “Hựu phi chí nhân Hựu phi chí nhân Hoàn trung chi diệu thuật nhó” là không thuật, là con đường đi. Hàn Phi Tử nói: “Bỏ tro trên đường đi thì bị chặt tay.” đó là pháp luật đời xưa. Câu: “Ông chưa được nghe nói Chánh quán phải chăng?” trở xuống: Dẫn văn hai kinh (kinh Duy-ma và kinh Phóng Quang Bát-nhã) nói về chánh quán. Câu: “Thế thì bậc Thánh ở khắp mọi nơi chốn, rỗng rang vắng lặng” trở xuống: Tức nói bậc Thánh ứng hợp cơ duyên hóa độ chúng sinh như thế. Vô chấp là không có đối tượng bị chấp trước. Vô cạnh là không tranh biện với các vật. Kinh Niết-bàn có câu: “Trí tuệ thế gian nói có, ta cũng nói có, trí tuệ thế gian nói không” tức là việc này. Câu: “Ví như tiếng vang nơi hang sâu, hình tượng trong gương sáng”. Hai ví dụ này, là dụ cho phần sau, chẳng dụ cho phần trước, chẳng biết do đâu tới mà tới, không rõ do đâu qua mà qua. Câu: “Chớp nhoáng mà có” trở xuống: Đây cũng là nghóa về qua lại. Câu: “Động lại càng tónh”: Du là vượt hơn, Vượt hơn cả động, tónh, vượt cả che giấu, hiển bày. Biến hóa vô thường tức nói chẳng thường có. Câu: “Đặt ra tên gọi là do sự ứng hợp cơ duyên để hóa độ” Tức là nhân sự ứng hiện để hóa độ, nên có việc gọi tên, tác động. Câu: “Cho nên tên gọi Hữu vô, gốc là ở vô danh”. Gốc là vô danh, theo sự ứng hóa nên mới có tên gọi Hữu Vô. Câu: “Nêu cái đạo vô danh thì chỗ nào mà chẳng phải danh?”: Vu là nơi chốn, tuy nói là vô danh, nhưng chẳng chỗ nào không có danh, tức là vô danh. Câu: “Cho nên bậc Chí nhân” trở xuống: Nói về vô số sự ứng hiện. Câu: “Bởi vì năng lực mầu nhiệm làm trời, làm người”. Nguyên là gốc, nếu thật là người thì chẳng thể làm trời, nếu thật là trời thì chẳng thể làm người, rõ ràng chẳng phải trời, chẳng phải người, nên mới có thể ứng hóa làm trời, làm người. Câu: “Do vậy, khi hóa độ chúng sinh) tức chỉ cho bậc Thánh hóa độ chúng sinh ở thế gian. Câu: “Ứng hợp cơ duyên mà chẳng làm” trở xuống: Tuy ứng hóa mà rốt ráo là vô tâm. Có tạo tác nên các việc mà là không có đối tượng được nói bày, ứng hợp. Câu: “Nên sự nói bày rộng khắp”: tức là sự nói bày trùm khắp. Câu: “Việc làm rộng lớn”: tức nói bậc đại Thánh, với các đối tượng ứng hiện làm Trời, người trong sáu cõi, làm bậc tiểu Thánh tiểu Hiền, đều không thể tăng thêm, vượt hơn, nên gọi là “sự ứng hợp không gì rộng khắp bằng, sự tạo tác không gì lớn lao hơn.” Câu: “Trở lại thành nhỏ”: tức trở lại ở chỗ nhỏ. Câu: “Nên trở về vô danh”: trở về nơi Vô. Câu: “Kinh nói: đạo Bồ-đề chẳng thể suy lường” trở xuống: kinh dẫn ở đây là văn của kinh “Tu hành Đạo Địa” Câu: “Cho nên đạo lớn Niết-bàn” trở xuống: tóm kết quy về chẳng phải có, chẳng phải không. Câu: “Nhưng kẻ mê lầm” trở xuống: Tức chỉ cho sự mê lầm, vọng chấp. Câu: “Há có thể làm chỗ tiêu biểu cho đạo huyền vi, mà diễn tả chân tâm của bậc Thánh hay sao?” chẳng được nêu lên cái chấp về “biên kiến” có không, cho là đạo Niết-bàn, gọi đó là tâm Bát-nhã. Đề là nói lên, bảng là bảng chỉ dẫn, nói Niết-bàn vô danh nên chẳng thể theo con đường ấy mà đạt được. Câu: “Ý cho là bậc Chí nhân tịch diệt, rỗng lặng, không có dấu vết” trở xuống: chỉ chung cho tướng của bậc Chí nhân. Câu: “Ẩn hiện đồng nguồn” (ẩn náu, hiển bày đều cùng một nguồn gốc) là cho ẩn giấu, hiển bày không khác nhau, ở phần dưới sẽ nói rõ. Câu: “Đức Phật nói: Ta vô sinh, bất sinh” trở xuống: “không có nơi chốn sinh ra, mà chẳng thọ sinh” đây là văn kinh Đại Phẩm Bát- nhã. Văn kinh ấy đầy đủ là: “Bồ-tát rốt ráo chẳng thọ sinh qua ngã nhập thai mẹ, chung cuộc chẳng thọ nhận năm dục lạc, vô sinh, bất sinh, rốt ráo chẳng bị pháp sinh làm cho ô nhiễm”, nay tác giả thêm câu “vô hình, bất hình” để cho đủ ý nói về sự sinh. Câu: “Nên biết còn chẳng cho là có” nhằm kết luận: chẳng có. Dùng câu văn ấy để chứng minh, nên biết còn chẳng cho là có. Câu: “Kinh chép: Bồ-tát nhập vào Tam-muội Vô Tận) kinh này không rõ là kinh gì. Câu: “Lại nói: Nhập vào Niết-bàn mà chẳng thấy có nhập Niết- bàn”. Đây là văn trong kinh Niết-bàn, nguyên văn là: “Lúc nhập Niết- bàn, chẳng thấy có nhập Bát Niết-bàn”. Câu: “Nên biết mất chẳng cho là không” câu này mới kết thúc về “chẳng không”. Do văn của kinh ấy, nên biết mất chẳng cho là không. Câu: “Mất chẳng cho là không, thì tuy không mà là có, chẳng phải là không” Câu: “Cho nên, đạo của Niết-bàn quả thật là vượt ngoài lãnh vực có không, dứt hẳn sự chuyển dịch của ngôn ngữ hình tượng) Quả là quyết định. Quyết định vượt ngoài phạm vi có không, quyết định dứt hẳn sự vận hành của ngôn ngữ, hình tượng. Câu: “Thật rõ ràng!” Tức là sự phán đoán rõ ràng, có thể nhận biết. Câu: “Mà ông nói” trở xuống: chẳng phải như ông đã nói ở trước Câu: “Há chẳng phải là trái với lý mầu tột cùng” Vô nãi quai ý nói là trái với. Câu: “Kinh chép: Pháp thân vô tượng, tuỳ vật mà hiện hình” trở xuống: hình là hiện hình. Duyên là cảnh trong câu: đối duyên mà soi chiếu. Câu: “Nên dù muôn việc xảy ra cùng một lúc mà chẳng thấy lao nhọc” ý nói bậc Thánh ứng cảm theo đạo, một lúc phải ứng hợp với muôn đối lượng mà tâm thần diệu không chút loạn động. Sách Thuyết Văn giải thích: chữ ấy đọc là nhiễu, sách Văn Tự Tập Dược chép: Nhiễu là làm cho cong, gãy đi. Trong một lúc phải ứng đối với ngàn muôn câu hỏi, mà chỗ suy nghó không chút chao đảo, lẫn lộn. Câu: “Động như mây bay, tónh như tiếng vang”. Mây bay tuy chuyển động mà vô tâm. Thần hang tuy dừng mà cũng vô tâm. Cốc thần. Tức chỉ cho sự thần diệu của hang núi. Lão Tử nói: “Thần hang bất tử, gọi là huyền tẫn, mẹ nhiệm mầu”. (Đạo đức kinh, chương 6. Theo bd của NHL). Câu: “Không vật nào chẳng hiện hình”: Tức có duyên thì đều ứng hiện. “Chẳng có cảm thông nào mà không ứng hợp” tức có đập gõ thì đều có tiếng vang ứng hợp. Câu: “Cho nên tâm sinh nơi có tâm” chúng sinh có tâm hướng cầu thì hiện rõ hình tượng. Câu: “Nên dùng vàng đá chảy mà ta chẳng bị đốt”. Trang Tử nói: “Bậc Chí nhân không vật nào hại được, nước lớn ngập trời mà không làm cho họ chết chìm, nắng hạn chảy cả vàng đá, núi đất bị thiêu rụi mà không làm họ chết nóng. (Nam Hoa Kinh, Tiêu Diêu Du, đoạn B theo bd của NDC). Nay nói chẳng bị thiêu tức là chẳng bị chết nóng. Câu: “Nên tuy ứng dụng hằng ngày mà chẳng động”. Lão Tử nói: “Tạo tành mọi vật mà không mệt mỏi”. (ĐK, chương 6, theo bd của NHL). Cần là mệt nhọc. Câu: “Muôn vật tự nó lăng xăng, đâu có làm ta bận bịu”. Phân vân là duyên (đối tượng) tự nó lăng xăng, nhưng bậc Thánh luôn vắng lặng, Ngã là chỉ cho bậc Thánh. Câu: “Do vậy, trí tuệ bao gồm khắp muôn vật mà chẳng nhọc nhằn), Trí tuệ của bậc Thánh soi chiếu khắp cả muôn vật, mà không hề nhọc nhằn, là vì vô tâm. Câu: “Hình tướng ứng hện khắp tám phương mà chẳng hề sợ bị hại”: Là vì quên thân, vô ngã Câu: “Tăng thêm chẳng thể đầy, giảm bớt chẳng thể thiếu”: Muốn tẳng thêm mà chẳng thể làm cho đầy, muốn giảm đi mà chẳng thể làm cho bớt. Câu: “Đâu thể lấy việc Đức Phật thị hiện nhập diệt”: Kha lệ là bệnh, qùy là con đường đi. Sách Nhó Nhã giải thích: Quỳ là con đường thông suốt cả chín hướng” kinh Nê-hoàn, quyển hai có đoạn: “Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, đi về phía nước Câu-thi, nửa đường Ngài bị đau bụng, sau đó thì tới rừng Sa-la, ở nơi này mà nhập Niết-bàn” kinh Niết- bàn chép: “Đức Phật nói pháp, đến quyển mười, giữa đường thì hiện bị bệnh”. Đây cũng là sự việc: “Giữa đường bị bệnh”. Câu: “Sự linh diệu đã dứt hẳn trong lớp áo quan, thể tánh đã tận cùng ở sự thiêu đốt, trà tỳ”, chữ ấy bản Nam Hoa kinh của NDC viết là chi. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các vị đệ tử cùng các vị hòa tộc ở địa phương đã dùng thứ lụa sạch đẹp quấn nhiều lớp quanh nhục thân Ngài, lần lượt bỏ vào các thứ áo quan bằng vàng, bạc, đồng, gương, rải đầy dầu thơm dùng lửa đốt. Đó là theo đúng phép an táng Vua Chuyển Luân. Nên ở đây tác giả dùng chữ “Thiên quan” đều có nghóa là thiêu đốt. Câu: “Mà kẻ mê lầm đối với cảnh giới thấy nghe”. Nhìn với tai mắt thông thường qua việc Phật nhập Niết-bàn, trà-tỳ nhục thân, v.v… thì lớn lời cho là bậc Thánh cũng giống như thế, tức là vướng chấp vào cảnh giới thấy nghe. Câu: “Tìm kiếm dấu vết khác nhau của sự ứng hợp cơ duyên”. Tìm kiếm các sự tích hợp với mình, có thì khẳng định là có, không thì khẳng định là không. Câu: “Cầm cây thước kẽ để đo lường hư không): Cổ Quỳ chú giải sách Quốc Ngữ rằng: “Bỉnh là cầm chặt, Quy là tròn, Củ là vuông”. Đại phương là chỉ cho Đại thừa. Lão Tử nói “Đại phương vô ngung”, “Hình vuông cực lớn thì không có gốc. Nói về không gian, nó không có gốc vì không biết gốc nó ở đâu”.(ĐĐK, chương 4 1.Theo bd của NHL). Thế thì làm sao có thể, cầm lấy chỗ vuông tròn hạn hẹp mà luận bàn được. Câu: “Muốn đem tâm trí làm cho bậc Chí nhân lao nhọc” trở xuống: Tức cho rằng có Trí là nhọc nhằn, có thân tướng là mối lo lớn. Câu: “Bỏ có vào không, do đó mà đặt tên”. Bỏ hữu vi nhập vô vi, Danh là chỉ cho Niết-bàn, nên nói là “do đó mà đặt tên” Câu: “Đâu phải là lời nói mầu nhiệm siêu vượt mọi thấy nghe!” Nói vi ngôn tức lời nói sâu xa, hay ho, có thể dùng ý lãnh hội. Chốn gốc mầu nhiệm, sâu lặng, có thể dùng lý để nói bày. Nếu chấp trước ngôn từ, hình tướng, thì đó chẳng phải là sự thâu nhận ngôn từ hay ho tiêu biểu của sự thấy nghe, nói bật chốn gốc nhiệm mầu ở cảnh giới vắng lặng tịch tónh. Dẫn chứng: (Nêu ra) Nêu ra dẫn để trách cứ sự giải thích cho Niết-bàn vượt ngoài có không, nên gọi là nêu ra Câu: “Hữu danh nói: “Thời hốn mang sơ khai, muôn vật sinh khởi”. Phẫu là mở ra. Phán là phân rẽ. Lão Tử nói: “Có một vật hỗn độn mà thành, trước cả trời đất, gọi đó là đạo. (ĐĐ kinh, chương 25, theo bd của DHL). Nay tác giả dùng chữ Hỗn nguyên tức là đạo ấy. Kinh Dịch chép “Trời đất chưa phân, gọi là Đại Dịch, khí ban đầu mới xuất hiện gọi là Đại sơ. Khí ấy hiện thành mối manh của hình tướng, gọi là Thái Thủy. Hình tướng biến chuyển có chất, gọi là Đại Tố. Hình chất đã đủ, gọi là Thái Cựu. Hình khí đã phân rõ, gọi là Lưỡng Nghi. Do con người tham dự vào, gọi là Tam tài.”. nay tác giả dùng chữ sâm si tức là nói về khoảng tam tài ấy. Muôn vật, các pháp là như vậy Câu: “Vạn hữu đã có rồi thì chẳng thể cho là không” trở xuống: Nói có pháp, cuối cùng quy về không, thì không có nhân để có. Câu: “Như thế, cao thấp cùng dựa vào nhau, có không cùng sinh nhau”. Tức nói rõ quy luật của sự vật đều tương quan, đối đãi nhau mà có. Câu: “Ấy là lẽ tự nhiên”. Tức nói lý tự nhiên tột cùng. Câu: “Số lượng của thế giới hiện tượng cùng tột ở đây”, ý nói lý đạt tới chỗ cùng cực. Câu: “Tạo hóa sinh ra muôn vật, lý lẽ chẳng có ẩn giấu, hiển bày”. Hóa mẫu là chỉ cho đạo. Dục là nuôi dưỡng, hoặc là che giấu, hoặc là hiển bày, đều sinh từ đạo. Câu: “Sự lớn nhỏ thọ yểu, thật dối đều có cả”. Khôi là lớn. Qủy là trái ngược. Quyệt làdối trá. Quái là lạ lùng. Nay cho rằng tất cả các pháp như thế đều có cả. Chữ Quỷ Quyệt, theo sách Tự Lâm, thì có nghóa hoặc từ tâm hiện ra. Câu: “Sự có do biến đổi mà tiêu diệt, diệt rồi thì là thật không), ý nói có (Hữu) biến hóa thì thành không Câu: “Thế thì cảnh giới có không, đều thuộc về lý này”. Tức lý đều gồm thâu tất cả các pháp. Câu: “Kinh chép: hai pháp có không gồm thâu tất cả pháp”. Đây là nghóa chính của các kinh Hư không là cõi không bao la (Thái hư). Số duyên tận tức dùng trí tính toán dứt trừ các thứ phiền não, mê lầm hết sạch. Phi số duyên tận, tức chẳng do trí tính toán, tự nhiên dứt trừ. Như người chứng đạo quả Tu-đà-hoàn, đầu tiên đạt được quả thì nghiệp ở ba cõi ác tự nhiên dứt hết, chẳng do trí so tính, dứt trừ mới dứt hết, đối tượng được dứt trừ của trí là Năm thứ kiến chấp và Nghi Câu: “Số duyên hết tức là Niết-bàn”. Đây nói Niết-bàn là pháp vô vi, chẳng thể cho là “phi vô” Hạch là cứu xét, (trong câu: Thỉnh hạch diệu đạo chi bản: Nhưng tôi suy xét về bản thể của đạo huyền diệu, vì định là có, hoặc sẻ là không. Nếu quả thật là không thì phải là thật không. Nếu nhất định là không, thì không tức là chẳng khác, đồng với Vô của vô vi. Câu: “Tóm lại, theo đó mà xét”, đây là luận về cả hai pháp có không. Câu: “Chẳng có sự khác với có, chẳng phải có mà là không” trở xuống khác với có tức là không, khác với không tức là có. Câu: “Mà nói, ngoài sự có và không, còn có đạo huyền diệu khác” trở xuống: chẳng phải như trước đã nói. Câu: “Tôi nghe lời này”: tuy nghe lời ấy, nhưng trong lòng chưa tin. Siêu vượt mọi cảnh: Siêu là siêu vượt. Cảnh là cảnh giới, tức nói rõ pháp của Niết-bàn siêu vượt các cảnh giới có, không. Câu: “Tên gọi có và không, chẳng một pháp nào không bao gồm”. Thành là tin thật. Cai là bao gồm. Thống là gồm thâu (trong câu: Lý vô bất thống: không một lý nào chẳng bị lệ thuộc). Câu: “Nhưng sự bao gồm và sự lệ thuộc ấy chỉ là tục đế mà thôi” Tức nói pháp có không ấy chỉ thâu tóm ở lãnh vực tục đế mà thôi. Câu: “Kinh chép: chân đế là gì?” trở xuống Đây là việc trích dẫn văn kinh, chung cho cả hai câu “Chân, Tục” đều là văn kinh (chân đế là gì… Tục đế là gì…) Còn về phần giải thích lời kinh, thì kinh nói: “chân đế là Niết-bàn, Tục đế là pháp có không”. Câu: “Vì sao? Vì có là có ở không” trở xuống: Nói rõ có không là đối nhau, đều là pháp tục đế. Câu: “Thế thì có sinh từ không” trở xuống có từ không mà sinh, không từ có mà sinh, “có không từ sinh với nhau, cũng như cao thấp cùng dựa vào nhau” Đây chính là sự việc thường thấy ở thế gian. Câu: “Như thế, có và không tuy khác nhau đều chẳng khởi từ nơi có” Tức nói có nói không, đều là pháp của tục đế cả. Câu: “Đây là chỗ hình thành của ngôn ngữ, hình tượng” trở xuống Ngôn từ được diễn nói từ nơi có không, hình tượng tất hiện hình tượng ở không có. Đúng sai đều do nơi có, không mà dấy khởi. Hoặc có lúc cho có là đúng, cho không là sai. Hoặc có khi cho không là đúng, cho có làsai. Câu: “Đâu thể bao gồm hết cả sự nhiệm mầu cùng tột”: Tức là nói về có không, đã là cảnh giới của thị phi, thì chẳng thể gồm thâu được pháp nhiệm mầu cùng tột của Niết-bàn. Câu: “Là bởi số lượng của có không chỉ hạn cuộc trong cảnh giới sáu trần” Tức nói số lượng của có không chỉ ở trong cảnh giới sáu trần. Câu: “Cảnh giới sáu căn, sáu trần chẳng phải là ngôi nhà nhiệm mầu của Niết-bàn, nên mượn chữ “xuất” để quét sạch tâm mê chấp”. Cảnh giới sáu căn, sáu trần đã chẳng phải là Niết-bàn, nên gọi Niết-bàn là vượt ngoài có không. Vân là gọi là. Câu: “Hy vọng những người học đạo” trở xuống: Thứ là mong ngóng. Hy là mong cầ, phảng phất là gần với cái thật mà chẳng phải thật. U đồ là chỉ cho đạo pháp nhiệm mầu, sâu xa. Thác tình là gởi tâm. Tuyệt vực là lý tột cùng. Đắc ý vong ngôn là được ý thì bỏ lời. Lời nói ra là do ý, đạt được ý thì quên lời. Thể là hiểu rõ, lãnh hội. Lãnh hội tính chất chẳng phải có, chẳng phải không, nhận rõ đó là Trung đạo. Câu: “Đâu phải cho ở ngoài có, không còn có cái có để gọi là chẳng lìa có không, nhưng vẫn có riêng một “diệu hữu” gọi là Niết- bàn. Câu: “kinh nói ba vô vi” trở xuống: Tức giải thích câu hỏi về vô vi ở trước. Phân nhiễu là lộn xộn, lăng xăng. Đốc là rất mực, Vưu là vượt hơn. Câu: “Muốn xóa bỏ hữu thì trước phải dùng vô (không). Tức muốn phá trừ Hữu thì phải nhờ Vô. Nên nói ba “vô vi” để làm rõ Niết-bàn “Số duyên tận” ấy là để phá bỏ bệnh chấp Hữu của chúng sinh. Câu: “Nên mượn không để làm sáng tỏ cái chẳng phải có” Mượn tên gọi vô vi để làm rõ Niết-bàn chẳng phải hữu vi. Câu: “Làm sáng tỏ cái chẳng phải có, chẳng phải cho là hoàn toàn không” chỉ nói phải là có, chẳng phải hoàn toàn không. Sưu tầm về Huyền diệu: (Sưu huyền) Sưu là tìm kiếm. Huyền là huyền diệu, tìm kiếm nơi của huyền diệu, nên gọi là Sưu huyền. Câu: “Hữu Danh nói. Trong luận nói rằng Niết-bàn đã chẳng ngoài có không” trở xuống: Nhắc lại lời nói ở trước. Câu: “Chẳng ở trong có không thì chẳng thể tìm được ở chỗ có không” là định rõ tông chỉ. Câu: “Chẳng có chỗ tìm, thì đúng là tất cả đều không, mà lại nói đạo mầu chẳng không”: đã không tìm rõ được nơi chốn, thì đúng là hoàn toàn không có Niết-bàn, mà lại chẳng cho rằng không có Niết-bàn. Câu: “Nếu đạo mầu chẳng không” thì chỗ sâu mầu có thể tìm”. Tức cho rằng con đường sâu mầu, huyền vi có thể tìm thấy được. Câu: “Cho nên ngàn Thánh cùng một con đường” Ngàn Thánh là nói nhiều Đức Phật, tức Chư Phật. Chư Phật đều cùng đi theo lối ấy. Triệt là vết xe đi qua, dụ cho chánh đạo. Chư Phật đều thuận theo con đường này, không có việc đi trái lại, “làm trái lại” tức là trước cho không có Niết-bàn, sau đó thì nói ngược lại. Câu: “Đạo mầu đã còn” trở xuống: Đã cho là có đạo Niết-bàn, mà lại bảo đạo ấy chẳng ở ngoài, chẳng ở trong, thì phải có ý khác lạ gì, xin được lãnh hội. Đạo mầu thường còn: “Chẳng phải có, chảng phải không” gọi là “Diệu Hữu”. Nên nói là “diệu hữu thường còn”. Câu: “Vô danh nói: Ngôn ngữ do tên gọi mà khởi” trở xuống. Ngôn ngữ do nơi danh tự, danh tự do nơi hình tướng, hình tướng do chỗ có thể nói bày hình tướng, nên không hình tướng thì không tên gọi. Nếu theo ý nghóa phân tích, thì do chỗ có thể nói bày hình tướng là thuộc về phần trước. Nghóa là tướng mạo do chỗ có thể nói bày hình tướng mà xác lập. Câu: “Không hình tướng, không danh hiệu” trở xuống: lại giải thích lời ở trước. Các pháp là vô tướng, do đó nên không danh hiệu. Do không danh hiệu nên không thể giảng nói nói bày. Do không thể giảng nói nên chẳng thể lãnh hội. Nếu thể của lời văn mà đọc thì “hình tướng do chỗ có thể nói bày hình tướng, nên không hình tướng thì không danh hiệu” là một câu. Câu: “kinh nói: Niết-bàn chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp trở xuống: kinh Niết-bàn, quyển mười chín chép: “Niết-bàn của Như lai chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải pháp Hữu Vi, chẳng phải pháp vô vi, v.v…” Nay tác giả thuật lại ý chính của đoạn kinh ấy. Ông muốn nghe chăng? Nếu ông muốn nghe thì sẽ giảng nói cho. Câu: “Tuy nhiên Tu-bồ-đề đã nói” Đây là văn kinh Đại Phẩm Bát-nhã. Câu: “Nay vì để trình bày, nên cũng có thể dùng ngôn từ để giảng nói) Câu: “Tịnh Danh nói, chẳng lìa phiền não mà chứng đắc Niết- bàn” Đây là lời của Trương giả Duy-ma-cật nói trong chương Xá-lợi- phất. Câu: “Thiên nữ nói: chẳng ra khỏi cảnh giới ma mà nhập vào cảnh giới Phật” trở xuống: tức là lời nói của Thiên Nữ trong kinh Duy-ma. Thiên nữ nói: “Phật nói tánh của tham dâm, giận dữ, si mê tức là giải thoát” giải thoát là cảnh giới của Phật, tham dâm giận dữ si mê là cảnh giới ma. Câu: “Cho nên đạo nhiệm mầu ở nơi diệu ngộ”: Như thế là diệu ngộ tức là thấy đạo, đạt đạo. Câu: “Biết rõ thì tục chính là chân”, đó gọi là diệu ngộ. Câu: “Tức chân” thì có không cùng quán một lượt” Đã tỏ ngộ Tục chính là chân thì có không đều là một thật tướng. Câu: “Cùng quán một lượt thì mình người chẳng phải hai” Đã cùng quán một lượt thì kia đây đâu còn cách biệt nữa? Tức mình và người là một. Câu: Do đó trời đất với ta cùng một gốc”: tức cùng một gốc của đạo “Muôn vật và cùng một thể” là cùng một thể của đạo. Câu: “Đồng với ta thì chẳng còn sự có không” Tức đã tỏ ngộ là đồng nên không còn sự cách biệt về có không. “Khác với ta thì trái với sự chung hợp” Tức nếu cho rằng muôn vật khác với ta thì chẳng thể có sự dung hợp. Câu: “Cho nên chẳng ở ngoài, chẳng ở trong” trở xuống, chính vì muôn vật không còn cách biệt, nên đạo nhiệm mầu tồn tại ngay ở đấy. Thể nhập thì cũng không ở ngoài, mê lầm thì cũng chẳng ở trong. Câu: “Vì sao? Vì bậc Thánh nơi tâm rỗng lặng mà âm thầm chiếu soi”. Hư tâm là không chấp trước. Mặc chiếu là sự thông hợp âm thầm, tiềm tàng, lý mầu đều đạt tới chỗ tận cùng nên chẳng có gì là không bao gồm. Câu: “Ôm cả vũ trụ vào lòng” trở xuống. Bốn phương và hai nẻo trên, dưới là “sáu hợp”, thấy rõ “sáu hợp” ở trong tâm, mà cái trí sáng của tâm có dư. Nhận rõ muôn vật ở trong tâm, mà cái thần diệu của tâm không hề bị vướng mắc. Câu: “Nếu nêu bật được cội gốc nhiệm mầu ở nơi vô thỉ”: từ vô thỉ đến nay, cội nguồn của lý nhiệm mầu vẫn như thế, mà nay có thể nói bật, làm rõ ra, lại như náo động mà là vắng lặng Câu: “Vắng lặng mênh mông mà khế ngộ tự nhiên mầu nhiệm”. Điềm đạm là vắng lặng. Uyên mặc là như vực sâu mà nước trong, lặng. Diệu khế là sự tỏ diệu kỳ ngộ. Tự nhiên tức là lý của muôn vật. Câu: “Do đó đối với có mà chẳng có, ngụ ở chỗ không mà chẳng không) Tức ở chỗ có mà chẳng đồng với không. Câu: “Trụ ở chỗ không mà chẳng không nên chẳng dính mắc đối với không. “Đối với có, chẳng đồng với có, nên cũng chẳng bị chấp mắc đối với có” Câu: “Như thế, nên chẳng ở ngoài có không, mà cũng chẳng ở trong có không” chính là đối với có chẳng chấp có, nên chẳng ở trong có, cũng chẳng ở ngoài có. Đối với không chẳng chấp không, nên chẳng ở trong không, cũng chẳng ở ngoài không. Câu: “Thế thì muôn pháp chẳng có tướng có không”. Như vậy là, nhận rõ các pháp chẳng có tướng có không, chẳng có tướng có, không được khẳng định dứt khoát, chẳng có tri kiến về có không như thế. Câu: “Bậc Thánh chẳng có tri kiến có không, nên bên trong là vô tâm” trở xuống: Tâm là pháp bên trong, số lượng là pháp bên ngoài. Câu: “Kia đây đều vắng lặng thì vật và ngã thầm hợp nhất”. Thử là chỉ cho nội tâm, Bỉ là chỉ cho pháp bên ngoài. Vật (đối tượng) ngã (chủ thể) cũng là kia đây, trong ngoài. Câu: “Rỗng lặng hoàn toàn, nên gọi là Niết-bàn”: Tịch diệt là vắng lặng không còn dấu vết, “Mọi suy lường đều dứt bặt” tức cho rằng chẳng thể tính lường. Câu: “Đâu còn có thể chấp có không ở bên trong” trở xuống: Tức đâu thể dựa vào sự có không ở bên trong để tìm cầu Niết-bàn. Lại có thể trích dẫn có không ở bên ngoài để cầu tìm. Chữ dung gồm luôn cả câu dưới, sao lại có thể nêu câu hỏi ở bên ngoài có không để nói về Niết-bàn? Vặn hỏi về sự khác nhau: Sách sử ký giải thích: “Ngôn luận chống đối nhau, gọi là vặn hỏi” Nay nêu câu hỏi về sự khác nhau nơi ba bậc của ba thừa, nên gọi là “nạn sai” Câu: Hữu danh nói “Niết-bàn đã dứt bặt mọi nẻo suy lường” trở xuống. Lãnh hội câu nói ở trước Câu: “Đây chính là chỗ cùng tận của lý tánh” trở xuống: tức đạt tới chỗ tận cùng của lý mầu, tới chỗ rốt ráo của tánh muôn vật, “Lý đã rõ ràng” tức cho lý ấy là đúng, không có sự khác nhau. Câu: “Mà kinh Phóng Quang chép: Đạo pháp của Ba thừa” Đây là văn nơi kinh Đại Phẩm Bát-nhã. Kinh kim Cương Bát-nhã cũng nói như thế. Câu: “Đức Phật nói: xưa kia, lúc ta làm Bồ-tát tên là Nho Đồng, các kinh đều có nói. Còn “đã nhập Niết-bàn” là văn kinh Pháp Hoa. Văn ở đoạn kinh ấy chép“Trong cùng thời gian này, ta nói Phật Nhiên Đăn,v.v… lại nói là “Đức Phật ấy đã nhập Niết-bàn”. Nay chỗ trích dẫn ý nghóa có khác với kinh Pháp Hoa. Ở kinh Pháp Hoa thì Phật Nhiên Đăng nhập Niết-bàn, còn ở chỗ trích dẫn này thì nói Bồ-tát Nho Đồng nhập Niết-bàn, e rằng ở kinh cũ, sự phiên dịch có khác chăng? (ở đây Đại sư Nguyên Khang, tức người sở giải Triệu Luận, đã nhầm. Câu: “Ngã tích vi Bồ-tát thời, danh viết Nho Đồng, ư Nhiên Đăng Phật sở, dó nhập Niết-bàn” thì “đã nhập Niết-bàn” là Phật Nhiên Đăng, chứ không phải là Bồ-tát Nho Đồng. (Người dịch nghi nhận) Câu: “Lúc ấy, Bồ-tát Nho Đồng mới chứng được pháp Nhẫn Vô sinh ở Thất Trụ”. Theo Đại Đức Quan Hà, thì hễ gọi là “Trụ” đều là “Địa”. Bồ-tát Nho Đồng khi gặp Phật Nhiên Đăng là đang ở bậc Thất địa đạt được Pháp nhẫn Vô sinh, phải tiến tu ba bậc nữa, tức ba địa tám, chín, mười, thì mới thành tựu đạo quả giác ngộ hoàn toàn. Câu: “Nếu Niết-bàn là một thì chẳng nên có ba” trở xuống: nên cả hai lượt vặn hỏi về ba bậc của Ba thừa ở trước, và ba địa của ba bậc. Câu: “Nói có ba thì chẳng phải rốt ráo”, nếu có ba thừa, có ba bậc, thì biết rõ chưa phải là đạo rốt ráo. Câu tiếp theo, ý nói, đã gọi là rốt ráo, thì sao có sự khác nhau của cao thấp chẳng đồng. Thăng là lên cao. Giáng là xuống thấp. Câu: “Theo sự giảng nói khác nhau trong các kinh”: tức nói là các kinh giảng nói không giống nhau, “thì lấy cái gì làm Trung đạo?” Giải thích về sự khác nhau: Biện là phân biệt, phân biệt sự khác nhau của Ba thừa, nên gọi là biện sai. Về sự khác nhau của ba bậc, trong đoạn 14 sẽ nói câu hỏi lần nữa, và đoạn 15 cũng đáp lại. Câu: “Vô danh nói: Lý chính của đạo rốt ráo thì chẳng có khác nhau”, tức cho rằng đạo rốt ráo thật sự không có khác nhau. Câu: “Kinh Pháp Hoa chép: trở xuống: Dẫn chính văn trong kinh Pháp Hoa để phân biệt, chứng minh. Câu: “Vì đều được thoát khỏi sinh tử nên đều gọi là vô vi”: tức đều là vô vi mà có sự khác nhau. “Vì loại xe hành hóa (thừa) chẳng đồng nên có tên gọi” Theo sự tạo nhân đối với sự hành hóa (thừa) chẳng giống nhau, nên có quả Ba thừa. Câu: “Nếu trở về nguồn thì chỉ một mà thôi”: Tóm lại, nẻo quy về chung cuộc là một cảnh giới vô vi. Câu: “Đó là do người có ba nên mới thành ra ba thứ vô vi, chẳng phải vô vi có ba thứ ” Tức do ba hạng người lãnh hội, tu tập, nên chia vô vi làm ba, chứ vô vi không có ba thứ. Câu: “Nên kinh Phóng Quang chép” trở xuống: Nói “Thanh Văn mọi phiền não đã được dứt hết, nhưng tập khí thì chưa dứt sạch” cả câu này cũng là văn kinh. Câu: “Xin lấy thí dụ sau đây” tức dùng sự việc để nói rõ lý mầu. “Như người chặt cây, chặt được một thước” thì một thước chặt được ấy là ở cây, chứ chẳng quan hệ với hư không. Việc dứt trừ phiền não cũng giống như vậy, chỉ tại nơi người chứ không do cảnh giới vô vi. Câu: “Muôn sự khác nhau của chúng sinh” trở xuống, Tức nói rõ căn tánh của chúng sinh khác nhau, lớn nhỏ có khác. Thâm là lớn. Thiển là nhỏ. Dày, mỏng cũng vậy. Câu: “Mà đều được đến bờ bên kia” trở xuống Chi là đi tới, sách Tiểu Nhã giải thích: “Đi tới tức như cùng đến”. Câu: “Bờ bên kia đâu có khác nhau, chỉ do người đi tới chẳng giống nhau thôi!”. Bờ bên kia không khác, khác là do ba người đi “cho nên, sự giảng nói các kinh có khác nhau, mà lý mầu thì giống nhau”, tức kinh được giảng nói cùng một vô vi giải thoát. Lại nói: sự khác nhau của Ba thừa, lấy giải thoát làm đồng, nên gọi là đồng một vô vi. Do sự dứt trừ phiền não có khác nhau, nên gọi là sự khác nhau của ba Thừa. Lời tuy có khác mà lý mầu thì không trái nhau. Trách cứ về khác nhau: Trách cứ về sự khác nhau của ba thừa, nên nói là Trách Dị. Câu: “Hữu danh nói cùng ra khỏi “nhà lửa” thì sự lìa bỏ tai họa là một” trở xuống: Tức dùng pháp dụ để làm rõ cả hai việc. Ba người con cùng ra khỏi nhà lửa tức ba thừa cùng ra khỏi sinh tử. Câu: “Nhưng lại nói: Bờ kia chẳng khác, do người nên thành ra khác” Nhắc lại câu nói ở trước. Câu: “Nếu người tức là vô vi” trở xuống: Nếu là một thì người, pháp chẳng khác, chẳng thể cho rằng pháp cùng mà người khác. Câu: “Nếu người khác và vô vi” trở xuống Nếu là khác thì người và pháp hoàn toàn khác nhau, chẳng thể nói người hội nhập vào vô vi Câu: “Vô vi tự cho là vô vi” trở xuống. Cho nên khác nhau chẳng đồng là một, nên gọi là “chẳng thông”. Câu: “Cho nên người và vô vi” trở xuống. Kết luận về hai mối liên quan giữa một và khác. Nếu là một thì chẳng hợp với việc có ba thừa. Nếu là khác thì chẳng thể nói là có một thừa. Câu: “Vậy tên gọi“Ba Thừa” do đâu mà sinh khởi?” Một liên quan với khác, đã không có cái thứ ba, thì do đâu mà có tên gọi Ba thừa? dị. Dung hợp sự khác nhau: Giải thích thông hợp về sự khác nhau của Ba thừa, nên gọi là hợp Câu: “Vô Danh nói: chỉ ở đây là đây” trở xuống: Thử là hữu vi, Bỉ chỉ cho vô vi, ở chỗ có thì đồng với có, ở chỗ không thì đồng với không. Câu: “Cho nên kẻ đồng nơi được thì sự chứng đắc ba thừa cũng cùng được; kẻ đồng nơi mất, thì sự mê lầm trong sáu đường cũng cùng mất”, “kẻ được thì cùng ở nơi được, kẻ mất thì cùng ở nơi mất. Cùng ở nơi đạt được thì sự đạt được ấy cũng đều được. Cùng ở nơi mất thì sự mất ấy cũng đều mất” Nhưng ở chỗ có thì đồng với có, ở chỗ không thì đồng với không, sự việc cũng như ở nơi được thì cùng được, ở nơi mất thì cùng mất, cho nên nói về được mất tức là thiện ác, đúng sai, v.v… Câu: “Người nào ở chỗ vô vi thì người tức là vô vi” Là nhằm định rõ ý nghóa chính. “Vô vi tuy một thì đâu có trái với chẳng phải một” pháp tuy là một, chẳng có hại tới người tự chẳng phải một. Câu: “Ví như ba loài chim ra khỏi lưới” trở xuống ví dụ ấy rõ ràng có thể nhận thấy. Câu: “Như vậy chúng sinh ở nơi ba thừa” trở xuống. Dụ kết hợp một cách rõ ràng. Phàn là cái lồng (trong câu: “Như vậy, chúng sinh ba thừa đều ra khỏi lồng vọng tưởng”. Trang Tử nói: “Con chim tró đi mười bước thì mổ ăn, đi một trăm bước thì uống, nhưng đâu có mong được nuôi trong lồng”. Quách Tượng chú giải: “kỳ là mong cầu. Phàn là cái lồng nhốt con chim tró.” Nay cho các thứ vọng chấp mê lầm như là cái lồng lớn trói buộc chúng sinh, như con chim tró bị nhốt trong lồng. Câu: “Cho nên, người tức là vô vi” trở xuống: Ngã tức là người của ba thừa, Vô vi là pháp đối với ba thừa. Câu: “Thành ra, chỗ chẳng tai họa tuy là đồng” trở xuống: Lại làm rõ pháp dụ ở trước về hai thứ đồng khác. “Sự bay lượn có xa gần” tức nói rõ về sự khác nhau của ba loài chim. “sự ầm thầm soi chiếu có sâu cạn” là nói rõ về sự khác nhau của ba Thừa. “Vô vi tức là người, người tức là vô vi” đã hai lần nói rõ về pháp dụ, thì sự so sánh ấy có thể nhận rõ. Nay tóm kết ý để đáp lại, nói rõ hơn về pháp. Niết-bàn vô vi tức là người ba thừa. Người của ba Thừa cũng tức là Niết-bàn vô vi, không có sự khác nhau nữa. Đó chẳng phải là người khác với vô vi, mà là nói lý do có ba thừa. Vặn hỏi về tiệm: Cật là trách cứ, hỏi vặn. Tiệm là dần dần (Sách Quảng Nhã giải thích). Nay cật vấn về sự dứt trừ phiền não dần dần của Ba thừa, chẳng thể dứt trừ một cách nhanh chóng. Câu: “Hữu danh nói: Muôn sự khổ lụy sinh ra, đều do vọng tưởng”. Tư chương là nhiều. Lão tử nói “Pháp lệnh càng nghiêm khắc thì đạo tặc càng dậy”. (Đạo đức kinh, chương 5 7.Theo bd của NHL). Ở đây nói gốc do từ vọng tưởng, vì thế mà muôn sự khổ lụy phát sinh. Câu: “Vọng tưởng đã được trừ diệt thì mọi khổ lụy đều dứt”. Khử là trừ bỏ, có bản chép chữ khử cũng là nghóa dứt trừ. Nhị thừa, phiền não đã dứt sạch nên gọi là “đạt được Tận trí”. Bồ-tát đạt được Pháp nhẫn Vô sinh, nên gọi là “chứng đắc trí Vô sinh”. Nhị thừa được tận trí, các thứ phiền não trói buộc hoàn toàn được dứt trừ. Bồ-tát chứng đắc trí Vô sinh thì mọi thứ vọng tưởng đều dứt. Câu: “Sự trói buộc được tiêu trừ thì chân tâm vô vi”: tức ngộ cảnh giới vô vi. Câu: “Tâm đã vô vi thì lý mầu chẳng mảy may bị chướng ngại” Như đã tỏ ngộ về vô vi, thì đối với lý mầu sẽ thấy rõ, không bị chướng ngại, che ngăn. Câu: “kinh nói: Trí tuệ của các bậc Thánh chẳng hề trái nhau, chẳng khởi chẳng sinh, thật ra đều là không” Đây là văn của phẩm Tập ưng kinh Đại Phẩm Bát-nhã, người Đại thừa chỉ nhằm ra khỏi sinh tử, tức chẳng ở nơi ấy. Người tu tập hạnh Bồ-tát không ra khỏi thế gian, nhận rõ các pháp đều không. Câu: “Lại nói, đạo lớn vô vi, bình đẳng, không hai” Đây là văn của kinh chánh Pháp Hoa. Câu: “Đã nói là “không hai” thì chẳng cho tâm có khác nhau” pháp đã không hai, thì thể nơi pháp ấy không thuận hợp với tâm có sự khác nhau. Câu: “Chẳng chứng đắc thì thôi, nếu đã chứng dắc thì phải cùng tột”. Dó là dừng, nếu chẳng thể nhập thì chẳng nói đến, còn đã nói đến sự thể nhập tỏ ngộ thì phải đạt tới chỗ mầu nhiệm cùng tột. Vi là mầu nhiệm. Câu: “Mà cho rằng “sự chứng đắc chưa được cùng tột” là chỗ chưa thể tỏ ngộ được” vặn hỏi về chỗ cho “chưa đạt tới chốn tận cùng của vô vi” ở trước, nên mới có ba thừa khác nhau. Chỗ ấy chưa thể lãnh hội, nên gọi là “chưa tỏ ngộ được” Nói về tiệm: Nói về sự chứng ngộ dần dần của ba thừa, nên gọi là nói về tiệm Câu: “Vô Danh đáp: vô vi, không hai thì đã rõ ràng rồi” Tức trong vô vi không có hai pháp, như trước đã nói. Câu: “Nhưng các thứ phiền não, các lớp mê lầm” trở xuống: kiết tức là phiền não, phiền não tạo nhiều lớp mê lầm mà cho là có thể diệt sạch ngay tức thì, điều này cũng không thể lãnh hội được. Câu: Kinh nói: “Ba mũi tên trúng đích, ba con thú qua sông”. Đây là văn luận Tỳ-bà-sa. Cho luận là kinh, nên gọi là kinh nói rằng. Cũng như Ca-chiên-diên soạn luận Phát trí, gọi là “kinh Phát trí” Tam Tiễn là ba người bắn tên. Đích là sự việc cùng qua sông. Ba con thú là voi, ngựa và thỏ. Câu: “Trong sự trúng ấy không khác” trở xuống: Ba mũi tên đều trúng, thì sự trúng ấy không khác. Ba con thú đều qua sông, thì sự qua sông ấy cũng không khác. Nhưng sức lực của ba con vật kia khác nhau, nên việc đi vào đích có chỗ sâu cạn, tức bơi qua nước cũng có chỗ cạn sâu. Câu: “Chúng sinh đối với ba thừa” trở xuống kết hợp để dụ, mười hai nhân duyên như là bến sông, pháp bốn đế như là việc bắn trúng đích. Câu: “Dứt giả tức chân, cùng đến chốn vô vi”. Dứt trừ phiền não trói buộc, nên gọi là “dứt bỏ giả”. Chứng ngộ Niết-bàn, nên gọi là “Tức chân”. Thăng là lên cao. Câu: “Nhưng con đường hành hóa, thừa, chẳng phải một” trở xuống: căn cơ Ba thừa khác nhau, nên giáo pháp của con đường thực hiện đều có sự khác nhau. Câu: “Muôn vật tuy nhiều, nhưng mọi loại đều có sự hạn chế về số lượng”. Muôn vật chẳng phải là một nên gọi là “quần hữu”. Tuy cho chẳng phải một, nhưng chung cuộc đều có bờ bến của nó. Câu: “Giả sử có trí tuệ như Thân Tử) trở xuống: ví như trí tuệ của Thân Tử, biện tài của Mãn Nguyện, cũng chẳng thể nhận biết đầy đủ về bến bờ của muôn vật. Huống chi là đối với cõi vắng lặng mầu nhiệm mà có thể tức khắc đạt tới chỗ tận cùng hay sao? Câu: “Sách chẳng từng viết rằng” trở xuống cho là “sự học ngày càng thêm” tức là sự hiểu biết tăng dần, “đường đạo thì ngày càng bớt” tức giảm dần sự học hỏi về chỗ tinh hoa. Tổn là giảm bớt. Câu: “Kẻ đi nơi đường đạo là vào cõi vô vi”. Tức tu tập đạo vô vi, nên gọi là “đi vào đường đạo” “vào cõi vô vi, mà nói ngày càng giảm bớt” tức tu tập đạo vô vi mà cho là ngày càng giảm bớt. Câu: “Sự việc ấy há cho là tức thời đại được sao?) Đây chẳng thể cho là tức khắc giảm bớt, nên gọi là giảm bớt dần dần. “cần phải giảm bớt rồi lại bớt nữa, cho tới khi chẳng còn có gì để bớt nữa mới thôi!” Giảm bớt rồi lại giảm bớt, sau đó mới hoàn toàn hết sạch, chứ không thể giảm bớt hết ngay tức khắc. Câu: “Trong kinh, có nói thí dụ về ánh sáng của đôm đốm và ánh sáng của mặt trời, tức diệu dụng của Trí có thể biết được” kinh Duy-ma có câu: “không thể đem ánh sáng của mặt trời so với chút ánh sáng của loài đom đóm” Nay nói trí tuệ Phật như mặt trời, trí huệ Thanh văn như đom đóm, thế thì sao có thể dứt trừ tức khắc hết sạch mọi thứ phiền não, để đồng như Phật? Do chỗ hơn kém khác nhau, nên có sự khác nhau giữa ba thừa. Chê trách về tâm động: Phê phán về chỗ tiến tu của Bồ-tát có liên quan tới chỗ động, nên gọi như vậy, chương này chính là nghóa trong chương tám ở trước, vặn hỏi về sự khác nhau. Nay lại nói lên, sau đó mới đáp. Câu: “Hữu danh nói: Người đã chứng đắc pháp thân là nhập vào cảnh giới vô vi” trở xuống: Bồ-tát Thất địa trở lên tỏ ngộ Pháp nhẫn Vô sinh làm sao có thể cho Bồ-tát Nho Đồng tiến tu ba bậc, sự chứa nhóm công đức càng rộng lớn? Câu: “Phàm sự tu tập được tiến triển do tâm có sự ham chuộng” trở xuống: Tu tập tiến triển là do có tâm ưa chuộng, sự chứa nhóm công đức là do có ý tìm cầu. Câu: “Tâm có chuộng thì trong tình cảm hiện ra sự lấy, bỏ” trở xuống: Tức lấy cái hơn, bỏ cái kém, có bớt có thêm. Câu: “Đã dùng lấy bỏ làm tâm” trở xuống: Nếu có tâm ấy thì chẳng phải là sự vắng lặng.“Đây là lời văn trái nhau, dẫn tới sự khác nhau” trở xuống: tức là lấy bỏ sự vắng diệt, hai câu văn ấy trái nhau, dẫn tới lý khác nhau. Mà nay, như ở trên ông nói, “ở trong động, người dùng tâm động chứng lấy lý tịch” việc ấy chẳng khác gì chỉ lối cho người lạc đường mà chỉ hướng Nam là hướng Bắc! Động Tịch là Một: Động tức tịch tónh, nên gọi động tịch là một. Câu: “Vô Danh nói: kinh nói bậc Thánh vô vi” trở xuống: bậc Thánh tự tại, vô vi tức là vi, vi tức là vô vi. Câu: “Vô vi nên tuy động mà thường vắng lặng” trở xuống: Tuy động mà thường vắng lặng, nên gọi là vô vi. Tuy vắng lặng mà thường động, nên gọi “không có gì chẳng làm” Câu: “Nên tâm và cảnh chẳng thể là một”: tức người chẳng thể khiến cho cảnh luôn vắng lặng. “Nên tâm và cảnh chẳng thể là hai”: tức người chẳng thể khiến cho cảnh thường động. Câu: “Càng động càng vắng lặng” Tuy động mà thường vắng lặng, nên vượt cả tónh lẫn động. Câu: “Do đó, vi tức là vô vi” trở xuống Do động mà thường tónh nên vi tức là vô vi. “Động tónh tuy khác nhau mà chẳng thể cho là khác được” Tức tuy khác mà chẳng thể nói khác. Câu: “Kinh Đạo Hành nói: Tâm chẳng phải có cũng chẳng phải không” Đây tức là chân tâm của bậc Thánh. Câu: “Nói chẳng phải có” trở xuống: Phân biệt rõ ý chẳng phải có cũng chẳng phải không ở trên. Câu: “Vì sao? Hữu tâm tức là chúng sinh” trở xuống: Chúng thứ là chúng sinh, thứ là nhiều loại. Câu: “chúng sinh chỉ có vọng tưởng” trở xuống: chúng sinh chỉ có tâm vọng tưởng, hủ không thì không có chiếu soi. Câu: “Há có thể lấy sự vọng tưởng” trở xuống: chẳng thể đem cái có của chúng sinh, cái không của hư không cho là đạo Vô sinh, là tâm của Bát-nhã. Câu: “Cho nên, chân tâm của bậc Thánh chẳng phải có, cũng chẳng thể cho là hoàn toàn không” Nói rõ về chân tâm của bậc Thánh. Chẳng phải có, chẳng thể cho là hoàn toàn không. Câu tiếp theo nói ngược lại. Câu: “Chẳng có nên tâm tưởng đều diệt” trở xuống: Đã gọi là chẳng có thì nên biết rõ là không có tâm tưởng. Đã cho là chẳng phải không thì biết rõ lý mầu luôn khế hợp. Câu: “Lý mầu luôn khế hợp nên muôn ngàn công đức ngay đó được mở rộng” Đã khế hợp với lý mầu, do đó tu đức sánh cùng với muôn vật, tâm tưởng đã diệt, do đó mà quên mình, là vô ngã. Câu: “Cho nên, sự ứng hợp cơ duyên để hóa độ khắp nơi” trở xuống: lại nói về nghóa động tónh chẳng phải hai. Câu: “Kinh nói: Tâm không có đối tượng hành hóa mà không có đối tượng nào không được hành hóa là đáng tin” Tâm của bậc Thánh là như thế, sao lại chẳng tin? Câu: “Bồ-tát Nho Đồng nói: Ta trong vô số kiếp” trở xuống. Đây là nói sự bố thí với tâm vọng tưởng, chẳng phải bố thí chân chính. Nay dùng tâm Vô sinh, chỉ dùng năm cành hoa cúng Phật, mới là bố thí đúng nghóa. Câu: “Lại như Bồ-tát Không Hành đi vào cửa không là cửa giải thoát”, đó là văn trong luận Đại Trí Độ. Cho rằng nay đang lúc hành hóa, chẳng nên chứng đắc. Câu: “Thế thì tâm càng vắng lặng thì sự hành hóa càng rộng khắp” trở xuống: Đây là lần thứ hai chính thức đáp lại. Bồ-tát Thất địa trở lên, tâm càng vắng lặng thì sự hành hóa càng rộng lớn. Vậy sao có thể cho là chẳng tiến tu? Câu: “Cho nên kinh Hiền Kiếp chép: sự bố thí chẳng có kẻ thí mới gọi là bố thí” kinh Hiền Kiếp, quyển bốn có câu: “Tất cả các pháp không có người trao cho, đó gọi là bố thí” Câu: “Kinh thành cụ khen ngợi sự chẳng hành hóa mà hơn hẳn hành hóa” kinh ấy nói: “chẳng hành hóa mà hơn hẳn hành hóa”. Câu: “Kinh Thiền Dự chép. Tâm từ chánh định là “vô duyên từ” kinh ấy nói rộng về nghóa tâm đại từ không còn đối tượng duyên hợp. Câu: “Kinh Tư Ích nói về tri của chẳng tri” văn kinh này chép: “Do vô sở đắc nên đắc, do vô sở tri nên tri”. Câu: “Ý nghóa ở bốn đoạn kinh trên nhằm làm rõ tông chỉ của bậc Thánh vốn vắng lặng nhiệm mầu, lời văn khác nhau mà ý nghóa thì đồng”. Chỉ là ý sâu xa. Văn các kinh tuy khác nhau nhưng cùng giải thích về ý của bậc Thánh: động tức là Tónh. Câu: “Đâu thể cho rằng hữu vi” trở xuống: Tức cho rằng không thể quan niệm đơn giản như vậy. Câu: “Bồ-tát an trụ trong pháp môn tận, chẳng tận bình đẳng” trở xuống: đó là văn kinh Duy-ma. Câu: “Mà ông thì lấy Nam Bắc làm dụ” trở xuống: cho câu hỏi ở trước là chẳng đúng. Xét về nguồn gốc: Tìm về tận cùng cội nguồn của Niết-bàn, nên gọi là cùng nguồn. Câu: “Hữu danh nói: chẳng phải chúng sinh thì chẳng thể nào đi vào ba thừa” trở xuống: Tức nói người có khả năng sử dụng pháp, tạo nhân mới có thể thành Thánh quả. Câu: “Vậy trước phải có chúng sinh” trở xuống: Đã cho là người có khả năng thực hiện pháp nên trước phải có người. Đã nói là tạo nhân mới có thể nên quả, thì sau mới có quả Câu: “Cho nên Niết-bàn có sự bắt đầu, tu học thì mới thành tựu”, nên có sự bắt đầu. “Nhưng kinh nói: Niết-bàn là không bắt đầu, không chung cuộc, vắng lặng như hư không” không đầu, cuối thì chẳng sinh diệt, như hư không thường trụ. Câu: “Như hư không” trở xuống: Hư không thì chẳng thể do tu học mà thành tựu. Niết-bàn cũng như vậy, làm sao có thể do tu học mà đạt được? Dung thông xưa nay: Pháp Niết-bàn xưa nay là một, nên gọi là Thông cổ. Câu: “Vô danh nói: Bậc Chí nhân thì rỗng lặng, không hình tướng, mà muôn vật đều do tâm tạo” sách tự lâm giải thích: Chữ ấy đọc là động, tức là dòng nước trôi nhanh chóng. Các vị học giả gần đây đều đọc là Đồng. Đã không (rỗng lặng) nên không có hình tượng, cho nên lấy muôn vật làm thể của mình. Câu: “Tỏ ngộ được lý mầu muôn vật đều quy về chính mình” trở xuống: Bậc Thánh thể tánh là không, nên lấy thể tánh của muôn vật làm thể của mình. Câu: “Vì sao? Vì nếu trí tuệ chẳng thấu đạt lý ấy thì chẳng thành bậc Thánh” trở xuống: Tức nếu chẳng chứng ngộ lý thì mầu chẳng thành bậc Thánh. Ngược lại, chẳng phải là bậc Thánh thì không thể chứng ngộ được lý mầu ấy. Câu: “Vậy lý tức là bậc Thánh” đã chứng ngộ lý mầu, thành bậc Thánh, thì bậc Thánh chẳng khác với diệu lý. Pháp sư Tăng triệu nói như thế, là đạt tới chỗ tận cùng của lý mầu nhiệm. Câu: “Nên trời Đế-thích hỏi” Đây là văn kinh Đại Phẩm Bát- nhã. Câu: “Lại nói: Thấy duyên khởi là thấy tánh các pháp” trong các kinh Đại Phẩm, Đại Tập đều có dạy như thế. Câu: “Aáy là lý về cảnh và tâm chẳng khác” tức thì với lý mầu mười hai nhân duyên, biết rõ muôn vật chẳng khác với thể tánh của chính mình, dùng văn ấy để chứng minh, làm sáng tỏ. Câu: “Cho nên bậc Chí nhân cất giấu chỗ huyền diệu bậc nhất khi sự vật chưa hiện hình”. Tập là chôn giấu. Về chữ Tập, sách “Văn Tuyển Thi” có câu: “Tập dực hy tương thủ, thừa lưu úy bạo tai” (Giấu cánh mong chờ nơi đầu ngựa phóng, đi theo dòng chảy sợ loài cá dữ) tức nói về sự dừng lại không đi tới. Huyền cơ tức chân tâm bậc Thánh, vị triệu tức sự việc chưa nẩy sinh, chưa hiện hình. Bậc Chí nhân ẩn tâm dự kiến. Câu: “Tiềm ẩn trong chỗ động để giáo hóa muôn loài”. Minh vận cũng là chân tâm của bậc Thánh, sự việc ở qúa khứ, cái đã quá không còn hình tướng, bậc chí nhân với tâm ứng hợp nên nhận rõ. Câu: “Vũ trụ hiện trọn vẹn trong tâm gương”. Tức là quán hiện tại. Bốn phương và hai phương trên, dưới, gọi là sáu hợp, chân tâm của bậc Thánh trong sáng như gương soi chiếu muôn sự việc. Câu: “Đến đi đều thành thể”: Nhận biết ba đời cùng một thể. Tức nói bậc Thánh lấy muôn vật ở ba đời làm thể tánh, chẳng khác với thể. Nên nơi bài “Vật bất thiên” có câu: “Đạo xa cách chăng? Tiếp cận với vật là nhận ra sự thật” Tức là chỉ cho muôn vật của ba đời. Chân là thể tánh của vật tức vô danh. Vô sinh tức chân, chân tức là không, thể tánh của bậc Thánh khế hợp với lý mầu không ấy, do đó mới thành bậc Thánh, nên gọi là “thành một thể”. Câu: “Hợp chung xưa nay” trở xuống: tức chỉ cho bậc Thánh nhận biết về xưa nay, đầu cuối không khác nhau, gốc ngọn chẳng phải hai, mênh mông rộng lớn mà đều nhau. Đạt được tâm ấy gọi là Niết-bàn. Cũng có thể cho mọi sự vật xưa nay, đầu cuối, gốc ngọn, v.v… thể của các pháp luôn bình đẳng, đó là đại Niết-bàn. Câu: “Kinh nói: “chẳng lìa các pháp mà chứng đắc Niết-bàn”, tức văn trong kinh Duy-ma chép: “chẳng dứt bỏ phiền não mà hội nhập Niết-bàn” lại như Trung Luận có câu “chẳng lìa sinh tử mà riêng đạt Niết-bàn”. Câu: “Lại nói “Các pháp vô biên nên…” trở xuống: ở đây có nghóa là các pháp đồng với Bồ-đề. Câu: “Do đó được biết đạo của Niết-bàn ở chỗ khế hợp lý mầu” khế hợp với lý mầu tức là Niết-bàn. Câu: “Gốc vốn âm thầm hợp nhất” tức biết rõ muôn pháp dung hợp âm thầm ở một thể, đó là sự khế hợp mầu nhiệm. Câu: “Thế thì cảnh chẳng khác tâm” trở xuống: lại nói về lý mầu không hai. Câu: “Tâm cảnh dung hợp trọn vẹn quy về nơi vô cực”: Tức vật (cảnh) ngã (Tâm) cùng quy về lý mầu của vô cực. Câu: “Tiến chẳng ở trước” trở xuống: Tức tiến tới để suy tìm Niết- bàn ở trước mà chẳng phải ở trước. Lùi lại để tìm Niết-bàn nơi phía sau mà chẳng phải ở sau. Đã chẳng ở trước ở sau thì sao lại có đầu cuối? Câu: “Thiên nữ nói” trở xuống: Là văn kinh Duy-ma. Bậc Trưởng thượng là Tôn giả Xá-lợi-phất. Văn đoạn kinh ấy chép: Tôn giả đạt được giải thoát có thời gian lâu mau chăng? Giải thoát thì không có chuyện lâu mau. Tôi dừng lại nơi phần này cũng không có lâu mau” Nay dẫn văn trong đoạn kinh ấy để nói sự giải thoát không có tính chất lâu, mau giải thoát tức là Niết-bàn, lâu mau là đầu cuối. đắc Xét về người được Niết-bàn: Khảo xét về người tu tập chứng đắc Niết-bàn nên gọi là khảo Câu: “Hữu danh nói: kinh chép: tánh của chúng sinh, tận cùng là ở nơi năm ấm” trở xuống: kinh ở đây là nói chung về ý chính của các kinh. Câu: “Thế thì tánh của chúng sinh bỗng dứt trong năm ấm” tức nói năm ấm diệt thì chúng sinh dứt. Lại cũng cho rằng chúng sinh bị giới hạn trong năm ấm, nên gọi là tận cùng ở nơi ấy. Câu: “Đạo Niết-bàn thường kiến lập ở ngoài ba cõi”, tức cho Niết-bàn là “Xuất thế gian” nên kiến lập Niết-bàn ở ngoài ba cõi. Câu: “Là cõi khác nhau, hoàn toàn xa cách” trở xuống: tức một trong, một ngoài, nên nói là “cõi khác nhau”. Đã gọi là cõi khác nhau, nên chẳng thể nói là chúng sinh đạt được Niết-bàn. Câu: “Nếu quả thật có sự chứng đắc” trở xuống: Nếu nhất định nói chúng sinh chứng đắc Niết-bàn, thì có chúng sinh ở ngoài năm ấm, mà cho là chứng đắc. Câu: “Nếu bị hạn chế trong năm ấm” trở xuống: nếu chúng sinh bị hạn chế trong năm ấm, mà lại cho là chứng đắc Niết-bàn, thì năm ấm chẳng thể dứt sạch. Câu: “Còn nếu năm ấm đều được dứt sạch” trở xuống: Nếu năm ấm được dứt sạch thì không có người chứng đắc Niết-bàn. Đây là phần kết thúc về ý chính của việc vặn hỏi. Bàn Về sự chứng đắc Niết-bàn một cách nhiệm mầu: Tuy chứng đắc Niết-bàn, nhưng chính là cái đắc của sự “Vô đắc” không có sự chứng đắc cố định, nên gọi như vậy. Câu: “Vô danh nói: chân là do lìa mọi chấp trước” trở xuống: Lìa bỏ mọi chấp trước thì mới thành chân. Có chấp trước, vướng mắc thì đó là hư giả. Câu: “chấp trước nên có đắc” trở xuống: trong tâm có sự chấp trước, chấp mắc thì đó là “Hữu sở đắc”. Nếu lìa bỏ chấp vướng thì là “Vô sở đắc” mà gọi là “vô danh” tức không có việc để gọi tên, nói hình tướng. Câu: “Cho nên pháp chân thì đồng với chân”. Đồng với chân tức là đúng chuẩn mực, phép tắc. Nương vào chân thì không còn chấp mắc, tức trở thành chân. Dựa vào giả thì chấp trước nên trở thành giả. Câu: “Mà ông cho “Hữu đắc” là đắc nên tìm đắc ở hữu đắc” Đây chính là pháp luống dối đồng với sự luống dối. Câu: “Tôi thì cho vô đắc là đắc, nên có đắc ở vô đắc” Đây tức là chân đồng với chân. Câu: “Vả chăng, theo sự bàn luận thì trước phải xác định gốc”. Bản tức là tông chỉ. Câu: “Nay đã nói về Niết-bàn” trở xuống: tức dựa vào tông chỉ của Niết-bàn để nói về Niết-bàn. Câu: “Nếu ngay nơi Niết-bàn mà khởi sự bàn luận” trở xuống: Nếu dựa theo tông chỉ gốc của Niết-bàn mà nói tất cả các pháp, thể tánh của chúng đều là không, đều là thể chân thật của Niết-bàn, thì đâu còn ai chẳng là Niết-bàn mà muốn đạt được? Câu: “Vì sao?” trở xuống: Giải thích chân tánh của Niết-bàn. Câu: “Diệu tận thường số” (Bặt cả danh tướng, số lượng) Tức chẳng đồng với số lượng của các pháp. Số lượng ở đây có thể là năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, cũng có thể chỉ cho số lượng tạo tác của tâm. Câu: “Dung hóa cả đất trời”. Tức dung hợp chung cả trời đất. Như kim loại được nung chảy trong lò đúc, chẳng có gì là không tan chảy. Câu: “Rửa sạch muôn vật”, tẩy trừ diệt sạch, thảy đều là không. Câu: “Trời, người không khác” trở xuống: Nói về lý không hai. Câu: “Bên trong không tự thấy” Tức nhìn Niết-bàn từ bên trong, chẳng thấy thể tánh của nó. Câu: “Vì chẳng phải âm thanh nên mọi vang vọng chẳng tự nghe”: Tức muốn lãnh hội Niết-bàn qua âm thanh, thì cũng chẳng thể nghe được tiếng của nó. Ngã là chỉ cho Niết-bàn. Câu: “Không hề là hữu đắc” trở xuống: Tức cho chẳng phải hai bên. Câu: “Kinh nói: Niết-bàn chẳng phải chúng sinh” về chỗ nói dẫn kinh nơi luận này có hai cách. Một là nói tên kinh, hai là chẳng nói tên. Nói tên thì đó là nguyên văn của kinh. Chẳng nói tên, thì đó là đại ý, chưa hẳn là nguyên văn. Nay chỗ trích dẫn này là ý chính của các kinh Câu: “Đại só Duy-ma-cật nói” cho đến “chẳng còn diệt nữa”: tức nguyên văn của kinh Tịnh Danh, đây là nhằm nói rõ” trở xuống: là giải thích ý của đoạn kinh. Tuy diệt độ mà chẳng diệt, nên gọi là không diệt. Câu: “Thế thì chúng sinh chẳng phải chúng sinh” trở xuống: trước đã đáp chung đều là dung hợp như kim loại được nung chảy trong lò đúc. Câu tiếp theo này chính thức đáp lại chỗ vấn nạn, nói về đức mầu nhiệm, chúng sinh tự nó là không, nên gọi là không có chủ thể chứng đắc. Niết-bàn cũng là không nên không có đối tượng chứng đắc. Câu: “Kinh Phóng Quang chép: Bồ-đề do có mà đạt được chăng? “trở xuống: đó là trích dẫn từ văn kinh Đại Phẩm Bát-nhã, để nói về Niết-bàn. Từ đây cho đến câu: “Cho nên đều là không đạt được chăng? Đáp: chẳng đúng!” đều là văn kinh. “có tức là tâm có, không nghóa là tâm không” Câu này cũng như vậy, đều nói về tâm. “Lại cho hữu sở đắc là đắc, vô sở đắc là vô dắc” câu này cũng như thế. “Lại cho hữu tướng là hữu đắc, vô tướng là vô đắc” câu này cũng như vậy “Lại cho có người có pháp là hữu đắc, không có người, không có pháp là vô đắc” câu này cũng như thế, “đều là vô đắc” tức là rốt ráo không có pháp đạt được, như hư không. Câu: “Vậy nghóa ấy như thế nào?” đã nói ra năm câu hỏi đều là chẳng đúng. Vậy thế nào là đắc?” đáp: không có đối tượng được chứng đắc, vô sở đắc, nên gọi la chứng đắc” Tức cho vô sở đắc là chứng đắc, cũng cho là đạt được “vô sở đắc” tức là chứng đắc. Lại cũng có thể cho vô đắc tức là chứng đắc. Do vậy, chứng đắc nơi vô sở đắc. Do từ nghóa ấy, nên tuy chứng đắc Niết-bàn mà cũng là “vô đắc”, cũng có thể cho rằng, chứng đắc Niết-bàn là đắc ở nơi “vô đắc” Câu: “Vô sở đắc gọi là Đắc, vậy ai chẳng như thế?” câu này các bản chép không giống nhau, phần nhiều người đọc không hiểu, như thể một thứ chữ gồm nhiều nghóa, khiến người đọc lầm lạc. Nay bản này cố gắng làm cho sáng tỏ để dễ nhận thấy. Nếu cho “vô đắc” là đắc thì chẳng lấy “hữu đắc” cho là đắc, các pháp đều là vô đắc, thì người nào riêng mình chẳng đắc? Câu: “Vậy thì đạo huyền diệu ở chỗ dứt bặt, vô sở trụ, nên chẳng đắc mà là đắc” Đây tức là chân đế. Thể tánh của chân đế là không, hoàn toàn trái ngược với có. Đó chính là nhân của “Vô chân”, nên có đắc của vô dắc. Câu: “Trí mầu nhiệm tồn tại bên ngoài sự vật, nên chẳng tri mà tri” Đây tức là Bát-nhã. Bát-nhã huyền diệu, ở bên ngoài sự vật, hình tượng, mới đúng là sự vật không vật, nên có cái tri chẳng tri. Câu: “Đại Tượng, pháp giới, ẩn nơi vô hình, nên chẳng thấy mà thấy” Đây tức là Pháp thân, Pháp thân vô biên, nên gọi là đại tượng Tuy là Đại tượng, nhưng chẳng thấy thể tánh của nó, nên nói là “ẩn nơi vô hình”. Đã là hình của vô hình, nên gọi là chẳng thể thấy mà thấy. Câu: “Đại âm, thanh âm vắng lặng trùm khắp, giấu nơi hy thanh, âm thanh siêu vượt mọi sự nghe, nên chẳng nghe mà là nghe” Đây tức là âm thanh duy nhất. Âm thanh giảng nói chánh pháp không có tính chất cố định, nên gọi là hy thanh. Tuy cho là “Đại âm”, nhưng không nghe âm thanh ấy, nên nói là “giấu ở hy thanh”. Đã là âm thanh của không âm thanh, nên cho, rằng chẳng nghe mà nghe. Những từ Đại tượng, Đại âm đều xuất xứ từ Lão Tử, tác giả mượn văn để làm rõ ý mình muốn diễn đạt. Câu: (Nên có thể bao gồm xưa nay) Quẻ Thuần khôn (?) nơi kinh dịch, hào bốn, âm chép: “Quát nang, vô cữu, vô dự” danh dự (Theo bd của NHL). Tử Hạ giải thích: Quát là kết lại, thắt lại, tức chỉ cho đạo Niết-bàn bao gồm xưa nay. Cũng như vật chứa đầy trong cái túi được thắt miệng lại. Chung cổ là chỗ tận cùng chung cuộc, từ xưa tới nay. Câu: “Dẫn dắt muôn loài”: Tức dẫn dắt thông đạt, quần phương là muôn phương. Câu: Giáo hóa chúng sinh khắp chốn. Đình độc là nuôi dưỡng. Thương sinh là muôn vật do tạo hóa sinh ra. Chúng sinh được xem như từ tạo hóa sinh ra nên gọi là Thương sinh. Câu: “Tuy thưa mà không lọt” trở xuống để gọi chung cho cả ba câu trên đều là “chẳng lọt”. Bao gồm cả xưa nay, xưa nay không hề bỏ sót. Dẫn dắt muôn loài đều tận cùng. Nuôi dưỡng chúng sinh, chúng sinh không mất, nên gọi chung là “Bất lậu”. Lão tử có câu: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”( ĐĐ kinh, chương 73, theo bd của NHL). Tác giả Tăng Triệu mượn từ ngữ ấy để làm rõ về Niết-bàn. Câu: “Rộng lớn thay! Mênh mông thay!”. Sách Mao Thi chú giải: “Uông dương là hình ảnh nước tràn đầy, mênh mông. Sách Thượng Thư chú: Dương dương là dáng vẻ tốt đẹp. Câu: “Đâu có gì chẳng do đó mà được kiến lập”, tức đâu có vật gì chẳng do Niết-bàn mà có. Câu: “Nên Phạm Chí nói” trở xuống: Đây là văn kinh Bát Sư, kinh này gồm một quyển, cho biết: có một ngoại đạo, tên là Da-tuần, đã nói lời ấy, (Kinh Phật thuyết Bát Sư (quyển, N= 581, ĐTK/ 14) Câu: “Vô nhai” tức là không bến bờ, không ranh giới. Câu: “không có gì chẳng thành tựu” Tức có thể đem lại mọi thành tựu cho chúng sinh. “Chẳng lúc nào không hóa độ chúng sinh” Nghóa là có thể hóa độ tất cả chúng sinh. Câu: “Cho nên con đường ba thừa được mở rộng” trở xuống: Đây là sự tóm kết đại ý của luận về Niết-bàn. Niết-bàn là con đường của ba thừa. Là chân thật chứ không phải là luống dối. Là đạo pháp của bậc Hiền Thánh. Là nghóa mầu của vô danh. Tất cả được hiển bày ở đây. Có thể thấy rõ: Đây là đoạn kết thúc chung cho các luận có tác giả từ trước đến giờ. Con đường đã mở ra nơi luận của ba thừa. Đó là bài “Tông Bản Nghóa”. Chân giả được giải thích tức là bài “Vật Bất Thiên”, “Bất Chân Không”. Đạo pháp của bậc Hiền Thánh thường còn, đó là bài “Bát-nhã Vô Tri”. Nghóa nhiệm mầu của Vô Danh được hiển bày tức bài “Niết-bàn Vô Danh”.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 163