<經 id="n211">KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ Hán dịch: Đời Tây Tấn, Sa-môn Pháp Cự và Pháp Lập. <卷 id="41126350">QUYỂN 1 <詞 id="41126351">Phẩm 1: VÔ THƯỜNG <章 id="41126352">Thí dụ 1: Thuở xưa, trời Đế Thích bỗng nhiên mất đi năm đức tướng, nên tự biết mình sắp mạng chung, tái sinh vào thai một con lừa trong nhà người thợ làm đồ gốm. Năm đức tướng là gì? 1. Hào quang trên thân mất. 2. Hoa trên đầu khô héo. 3. Không còn ưa thích chỗ ngồi của mình. 4. Mồ hôi nách chảy hôi dơ. 5. Bụi bám trên thân. Đế Thích nhân năm việc này, biết phước mình đã hết nên rất lo buồn. Ông nghó trong tam giới chỉ có Phật mới cứu độ được khổ ách cho chúng sinh, nên vội chạy đến chỗ Đức Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn đang tọa thiền nhập Phổ tế tam-muội trong thạch thất trên núi Kỳ-xà-quật. Thiên đế đến nơi gặp Đức Phật liền cúi đầu đảnh lễ, phủ phục sát đất, chí tâm quy mạng Phật, Pháp, Tăng. Trong khoảng thời gian cúi mình làm lễ, Thiên đế mạng chung, thần thức liền nhập vào thai một con lừa trong nhà người thợ đồ gốm. Lúc ấy, lừa mẹ tự bứt đứt dây, chạy loạn vào chỗ đồ gốm chưa nung, làm đổ vỡ rất nhiều. Người chủ rất giận, bèn xách cây rượt đánh, lừa mẹ nhân đó bị xảy thai. Thần thức của Thiên đế liền thoát khỏi thai lừa, nhập lại thân cũ, đầy đủ năm đức tướng như xưa. Đức Phật trong lúc định tam-muội biết việc đó, tán thán: –Lành thay! Này Thiên đế, ông có thể đến lúc sắp mạng chung biết quy mạng Tam bảo, tội nghiệp đã xong, không còn thọ khổ báo nữa. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói bài kệ: Các hành vô thường Là pháp thịnh suy Sinh thì phải tử Diệt là an vui. Như nhà thợ gốm Nắn đất làm đồ Tất cả đều hoại Mạng người cũng thế! Đế Thích nghe kệ xong liền biết yếu nghóa vô thường, thông lẽ biến đổi tội phước, hiểu rõ tội gốc thịnh suy, tuân theo lý đạo tịch diệt, hoan hỷ phụng trì Chánh pháp, đắc quả Tu-đà-hoàn.  <章 id="41126353">Thí dụ 2: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ thuyết pháp cho hàng trời, người, rồng, quỷ. Lúc ấy, mẹ vua Ba-tư-nặc tuổi hơn chín mươi chợt lâm trọng bệnh, vì trị không đúng thầy đúng thuốc nên đã qua đời. Vua và quần thần theo pháp làm lễ tang rồi đưa đi an táng. Tang sự xong, vua và quần thần trở về, ghé ngang qua chỗ Phật. Lúc ấy vua cởi mũ tháo giầy bước đến làm lễ bên chân Phật. Đức Phật mời vua ngồi xuống rồi hỏi: –Vua từ đâu đến mà quần áo xốc xếch, vẻ mặt tiều tụy? Sao lại ra nông nỗi này? Nhà vua cúi đầu đáp: –Thái hậu, mẹ con tuổi hơn chín mươi mắc phải trọng bệnh vừa mới qua đời. Con đưa linh cữu ra mộ rồi trở về ghé qua đây thăm Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo với vua: –Từ xưa đến nay có bốn việc đáng sợ nhất, đó là: Sinh ra rồi phải già yếu gầy guộc; bệnh phải héo hon hình dung; chết thần thức đi mất, xa lìa thân thuộc. Đó là bốn việc chẳng hẹn cùng người. Vạn vật vô thường, không kể dài lâu. Mỗi ngày trôi qua, mạng sống lần giảm. Như nước năm sông ngày đêm chảy mãi không ngừng, mạng người mau qua cũng như vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ: Như sông chảy mau Theo dòng trôi mãi Mạng người cũng thế Qua không trở lại. Rồi Đức Phật nói với vua: –Mọi vật trên đời đều như vậy, không có cái gì trường tồn. Mọi người đều phải chết, không ai tránh được lẽ này. Các vị Phật, chân nhân, tiên ngũ thông, quốc vương thuở xưa nay có còn đâu? Vua không nên buồn thương vô ích có hại đến thân mình. Làm người con hiếu thương yêu cha mẹ quá vãng thì phải làm phước, tu tạo công đức hồi hướng cho cha mẹ, như là chuẩn bị lương thực gởi cho người thân lúc đi xa. Nghe Đức Phật dạy xong, vua và quần thần đều hoan hỷ, không còn lo buồn. Những người đến nghe pháp đều thấy được đạo.  <章 id="41126354">Thí dụ 3: Thuở xưa, Đức Phật trú trong vườn Trúc tại thành La-duyệt-kỳ. Một hôm Ngài cùng các đệ tử nhận lời thỉnh vào thành thọ trai thuyết pháp. Xế chiều, Đức Phật và các đệ tử ra khỏi thành, trên đường đi gặp một người đang lùa một đàn bò vào thành. Đàn bò mập mạp, ăn no đủ nên nhảy nhót, đùa bỡn cụng húc nhau. Lúc ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng: Như người cầm gậy Chăn dắt nuôi bò Già chết cũng vậy Lùa mạng sống đi. Trăm ngàn chẳng một Dòng họ trai gái Ky cóp tài sản Khỏi già chết đâu. Sự sống ngày đêm Mạng tự lần giảm Tuổi thọ tiêu mòn Như ao rút cạn. Đức Phật về đến vườn Trúc rửa chân rồi ngồi xuống. A-nan ra trước đảnh lễ thưa hỏi: –Bạch Đức Thế Tôn, ban nãy giữa đường Ngài có nói lên ba bài kệ. Chúng con vẫn chưa hiểu lắm, xin Ngài từ bi khai thị cho. Đức Phật hỏi: –Này A-nan, ngươi có thấy người ta lùa đàn bò đi không? A-nan đáp: –Bạch Đức Thế Tôn, dó nhiên là con có thấy. Đức Phật giảng giải: “Này A-nan, đàn bò đó là của một nhà hàng thịt, vốn có cả ngàn con. Mỗi ngày ông chủ đều cho người lùa ra ngoài thành tìm nơi cỏ tươi, nước trong cho chúng ăn uống để chúng lớn mập, rồi mỗi ngày chọn ra các con to béo đem giết lấy thịt. Số bò bị giết đến nay đã hơn phân nửa, mà những con còn lại vẫn không hay biết, cứ lo đấu húc lẫn nhau, nhảy nhót, kêu rống. Ta vì thương cho chúng ngu si vô trí nên mới nói lên bài kệ đó. Này A-nan, đâu phải chỉ có đàn bò đó vô trí thôi, mà người đời cũng như vậy! Họ chấp trước bản ngã, không biết vô thường, ham ăn ham uống, dùng năm dục để cung dưỡng thân mình; tâm ý thỏa thuê trở lại gây ra tai họa. Vô thường túc nghiệp không hẹn chợt đến mà họ vẫn mờ mịt không biết, thì có khác chi với đàn bò kia? Lúc ấy, trong hội chúng có hai trăm Tỳ-kheo tham đắm lợi dưỡng nghe được bài pháp này liền tự sách tấn lấy mình, do đó chứng quả A-la-hán, đầy đủ lục thông. Còn đại chúng đều xúc động bước ra đảnh lễ Đức Phật.  <章 id="41126355">Thí dụ 4: Thuở xưa, Đức Phật thuyết pháp cho các hàng đệ tử ở khu Lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc nước Xá-vệ. Lúc ấy, có con gái của một vị Phạm chí, tuổi khoảng mười bốn, mười lăm, đoan chính, thông minh rất được cha yêu mến, bỗng lâm bệnh nặng đột ngột chết đi. Đồng thời ruộng của vị Phạm chí đó đang mùa lúa chín cũng bị lửa ma trơi đốt cháy hết sạch. Tai nạn dồn dập, vị Phạm chí vô cùng đau buồn, tâm ý hoảng loạn như người phát cuồng, không cách gì giải tỏa nổi. Ông nghe người ta nói Phật là Bậc Đại Thánh, Thầy của cả trời người, hay thuyết pháp giúp cho chúng sinh hết phiền não, khỏi khổ đau, nên tìm đến chỗ Phật nhờ giúp đỡ. Đến nơi, ông đảnh lễ rồi quỳ xuống thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, con vốn hiếm muộn, chỉ có một người con gái sớm hôm an ủi. Thế mà nó bỗng lâm trọng bệnh, bỏ con ra đi. Tình cha con quyến luyến là lẽ tự nhiên, nên con vô cùng khổ não. Xin Đức Thế Tôn oai thần giáo hóa giúp cho con giải tỏa nỗi đau buồn này. Đức Phật bảo Phạm chí: –Trên đời có bốn việc không thể lâu dài. Đó là bốn việc gì? 1. Trường tồn phải hoại diệt. 2. Giàu sang phải nghèo hèn. 3. Hội họp phải chia ly. 4. Khỏe mạnh rồi phải chết. Rồi Thế Tôn nói kệ: Trường tồn phải diệt Cao sẽ đổ ngã Gặp rồi ly biệt Sinh ắt tử vong. Ông Phạm chí nghe xong, tâm ý khai ngộ xin Phật xuất gia làm Tỳ-kheo. Đức Phật hoan hỷ hứa khả bảo: –Lành thay, hãy lại đây Tỳ-kheo. –Phạm chí râu tóc liền tự rụng, thành tướng Sa-môn. Sau đó nhờ nỗ lực quán chiếu lý vô thường, chẳng bao lâu ông chứng quả A-la-hán.  <章 id="41126356">Thí dụ 5: Thuở xưa, Đức Phật trú trên núi Kỳ-xà-quật thành La-duyệt-kỳ. Lúc ấy, trong thành có một nàng kỹ nữ tên là Liên Hoa. Nàng này nhan sắc đoan chính, cả nước không ai sánh bằng. Thanh niên con em các nhà quyền quý ai cũng hâm mộ tranh nhau tìm đến. Một hôm, nàng Liên Hoa bỗng sinh tâm lành, đòi bỏ việc đời xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Nàng từ bỏ tất cả tìm đến núi Kỳ-xà-quật nơi Đức Phật đang cư trú. Giữa đường, gặp một dòng suối mát, nàng Liên Hoa liền ghé lại uống nước rửa tay. Làn nước trong xanh, long lanh hiện lên bóng dáng của nàng: vẻ mặt hồng thắm, mái tóc mượt xanh, thân hình cân đối hoàn hảo. Tự thấy nhan sắc xinh đẹp của mình, nàng Liên Hoa hối tiếc nghó rằng: “Ta sinh ra có được nhan sắc mặn mà như vậy, sao lại nỡ bỏ đi để làm Sa-môn? Ta nên nhân lúc còn trẻ mà hưởng thụ cho thỏa mãn những khao khát riêng mình.” Nghó như vậy xong, nàng liền đi về. Đức Phật biết Liên Hoa có thể độ được, nên hóa ra một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần hơn xa Liên Hoa từ phía khác đi ngược chiều lại. Liên Hoa trông thấy vô cùng yêu mến, liền hỏi thăm người hóa ra đó: –Nàng từ đâu đến? Chồng con cha anh ở đâu mà đi một mình không ai đi cùng vậy? Người hóa ra đáp: –Tôi ở trong thành có việc ra ngoài, nay định trở về nhà. Chị em mình tuy chưa quen nhau nhưng có thể cùng về chung. Gần đây có bờ nước, chúng ta trước hãy đến đó nghỉ ngơi, trò chuyện. Liên Hoa đáp: –Vậy thì hay lắm. Hai người cùng đến bờ nước chuyện trò tâm sự. Một lát sau, người hóa ra mệt mỏi tựa vào gối Liên Hoa ngủ. Không ngờ mới đó mà thiếu nữ đã chết, thi thể sình lên, hôi thối, giòi bò lúc nhúc, răng tóc rụng rời, tứ chi tan rã. Liên Hoa trông thấy hết sức kinh sợ, thầm nghó: “Người đẹp như vậy mới đó mà đã không còn. Nàng ta còn vậy, thân ta há bảo đảm dài lâu? Phải nên đến chỗ Đức Phật để tinh tấn học đạo.” Đến nơi, nàng cúi sát đất đảnh lễ Đức Phật, xong bèn thuật lại đầy đủ những việc đã thấy. Đức Phật nói với Liên Hoa: –Người ta có bốn việc không thể nương cậy. Đó là bốn việc gì? 1. Trẻ trung rồi phải già yếu. 2. Mạnh khỏe rồi phải tử vong. 3. Thân thuộc vui vẻ phải xa lìa. 4. Của cải tích trữ phải phân tán. Bấy giờ, Đức Phật liền nói kệ: Già thì sắc suy Bệnh khiến thân hoại Khi mạng đã hết rồi Thân rã, hư hoại. Thân có gì quý Đồ dơ tuôn chảy Bị bệnh tật phủ vây Chịu họa già chết. Buông lung theo dục Tăng thêm điều phi pháp Đâu biết sự đổi thay Thọ mạng vô thường. Dầu là con ruột Cha mẹ, anh em Khi chết đến nơi Không nương ai được. Nàng Liên Hoa nghe pháp xong hân hoan giải ngộ, quán thân như huyễn hóa, mạng sống chẳng dài lâu, chỉ có Niết-bàn là an ổn vónh cữu, nên đến trước Phật xin xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Đức Phật nói: –Lành thay! Tóc Liên Hoa liền tự rụng thành Tỳ-kheo-ni. Sau đó nhờ công phu tư duy thiền quán, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa đã chứng quả A-la-hán. Những vị được nghe pháp trong pháp hội, ai nấy đều hoan hỷ.  <章 id="41126357">Thí dụ 6: Thuở xưa, Đức Phật thuyết pháp trong vườn Trúc tại thành Vương xá. Lúc ấy, có bốn anh em Phạm chí đã chứng được ngũ thông, tự biết sau bảy ngày nữa mình sẽ chết. Do đó họ cùng bàn với nhau rằng: “Sức của ngũ thông có thể làm nghiêng lệch trời đất, nắm giữ mặt trời mặt trăng, dời núi cao, ngưng sông chảy… không việc nào là không làm được, lẽ nào tránh không khỏi cái chết này sao?”. Người thứ nhất nói: –Tôi sẽ lặn xuống biển, trên không xuất hiện, dưới không đến đáy, ở giữa lưng chừng biển thì quỷ vô thường làm sao biết chỗ mà tìm? Người thứ hai nói: –Tôi chui vào giữa núi Tu-di, khép núi lại bao bọc xung quanh thì quỷ vô thường biết đâu mà kiếm? Người thứ ba nói: –Tôi sẽ ẩn nấp giữa hư không, quỷ vô thường làm sao biết được? Người thứ tư nói: –Tôi sẽ lẫn vào trong chợ, quỷ vô thường đến bắt được người nào đó thì thôi, cần gì phải tìm bắt tôi? Bốn người bàn xong, bèn đến gặp vua Ba-tư-nặc từ giã: –Thọ mạng của chúng tôi chỉ còn bảy ngày nữa. Nay chúng tôi muốn chạy trốn vô thường, mong rằng sẽ thoát được trở về thăm vua, mong bệ hạ ban ân.” Nói xong, bốn vị ấy ra đi trốn vào chỗ của mình. Bảy ngày sau, mãn hạn kỳ bốn người đều chết cả, như trái chín tự rụng. Người quản lý chợ báo cho vua biết có một vị Phạm chí bỗng dưng chết giữa chợ. Vua chợt tỉnh ngộ bảo: –Bốn người cùng trốn nghiệp, một người đã chết, ba người kia làm sao tránh khỏi? Vua liền cho xa giá đến chỗ Phật, đảnh lễ ngồi qua một bên rồi bạch với Phật: –Gần đây, có bốn anh em Phạm chí đã đắc ngũ thông, biết rằng mạng mình sắp chết nên cùng nhau trốn quỷ vô thường. Xin hỏi hiện nay họ có tránh thoát được không? Đức Phật đáp: –Này Đại vương, người ta có bốn việc không thể tránh khỏi. Bốn việc ấy là gì? 1. Khi ở thân trung ấm không thể không thọ sinh. 2. Đã thọ sinh không thể không già. 3. Đã già không thể không mang bệnh. 4. Đã bệnh không thể không chịu chết. Bấy giờ Đức Phật liền nói kệ: Dầu trốn ở hư không Giữa biển khơi, núi rộng Không một nơi nào cả Tránh khỏi được tử vong. Việc này do mình tạo Làm sao mà tránh được Người vì nó bất an Đưa đến khổ già chết. Biết vô thường, tự an Kiến chấp sinh liền hết Tỳ-kheo thắng ma binh Thoát khỏi vòng sinh tử. Vua nghe Đức Phật nói xong bèn than: –Lành thay! Thật đúng như lời Thế Tôn dạy. Bốn người trốn nghiẹâp, nhưng trong đó một người đã chết, ba người kia làm sao tránh được. Các quan tùy tùng nghe Đức Phật dạy xong đều tin nhận.  <詞 id="41126358">Phẩm 2: GIÁO HỌC <章 id="41126359">Thí dụ 7: Thuở xưa, Đức Phật trú ở tinh xá Kỳ thọ nước Xá-vệ. Ngài dạy các Tỳ-kheo hãy tinh tấn tu tập đạo nghiệp, dứt trừ các ấm cái, tâm trong sáng, tinh thần định tónh, mới có thể tránh được các khổ. Có một Tỳ-kheo tâm trí không thông đạt, suốt ngày ăn no xong lại vào phòng đóng cửa nằm ngủ. Ông ấy yêu mến huyễn thân, chỉ lo hưởng lạc thích ý mà không biết nghó đến vô thường, không ngờ bảy ngày sau mạng mình sẽ hết. Đức Phật xót thương, sợ rằng sau khi ông mất sẽ đọa vào đường ác nên bước đến phòng gõ cửa cảnh tỉnh ông: Ôi hãy dậy, đừng mê Loài rận, ốc, trai, mọt Ẩn mình trong bất tịnh Mê hoặc chấp làm thân. Đâu có bị chém thương Mà tâm như trẻ bệnh Đối trước bao ách nạn Lại tham đắm ngủ nghê. Biết nghó, không phóng dật Lo học đạo từ bi Do đó không ưu sầu Thường nhớ trừ vọng tưởng. Chánh kiến luôn trau dồi Là ánh sáng giữa đời Sinh ra, phước đầy đủ Chết không đọa ác đạo. Vị Tỳ-kheo nghe kệ liền giật mình thức dậy. Ông trông thấy Đức Phật đích thân khuyên dạy lại càng kinh sợ, nên liền đứng dậy đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đức Phật lại hỏi: –Ông có tự biết túc mạng mình không? Vị Tỳ-kheo đáp: –Vì ấm cái ngăn che nên không biết được. Đức Phật bảo: –Thuở quá khứ, thời Phật Duy Vệ, ông từng xuất gia song vì tham mê lợi dưỡng cung phụng cho huyễn thân, không lo niệm kinh trì giới, ăn no lại ngủ không nhớ đến lẽ vô thường, nên khi mạng chung thần thức đọa vào loài rận trải qua năm vạn năm, chết rồi lại đọa vào loài trai, sò và sâu mọt trong cây, mỗi loài lại năm vạn năm nữa. Bốn loài này sinh trưởng trong bóng tối, tham yêu thân mạng, thích ở trong chỗ kín đáo tối tăm, lấy đó làm nhà, không thích ánh sáng. Chúng ngủ một giấc dài đến trăm năm, triền miên trong lưới tội lỗi mà không mong cầu giải thoát. Nay ông nhờ trả hết nghiệp tội mới được làm Sa-môn, sao lại còn ham ngủ không biết nhàm chán? Bấy giờ, vị Tỳ-kheo nghe lại túc duyên của mình, liền hổ thẹn sợ hãi, ăn năn tự trách, quét sạch mây mù ngũ cái, chứng đắc quả A-la-hán.  <章 id="41126360">Thí dụ 8: Thuở xưa, Đức Phật trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, nước Xá-vệ, vì tứ chúng trời người thuyết pháp. Lúc ấy, có một vị Tỳ-kheo trẻ tuổi, tánh tình khờ dại chất trực, chưa hiểu được yếu nghóa của đạo. Vị ấy vì tình ý mạnh mẽ luôn nghó đến dục, không tự kiềm chế được, nên luôn bị lửa dục thiêu đốt, phiền não nhiễu loạn không giải thoát được. Vị ấy ngồi suy nghó: “Nếu ta chặt đứt nam căn, sau này sẽ thanh tịnh đắc đạo.” Nghó sao làm vậy, vị ấy liền đi đến nhà người đàn-việt mượn cây búa rồi về phòng đóng cửa, cởi đồ, ngồi trên ván định tự chặt đứt nam căn. Ông cho rằng: “Chính cái này khiến cho ta đau khổ, trải qua sinh tử biết bao số kiếp, trôi lăn trong tam đồ lục đạo đều do nữ sắc. Nếu không chặt nó đi làm sao đắc đạo?”. Đức Phật biết ông này vì ngu si nên mới suy nghó và hành động như vậy. Thật ra, đạo do chế phục tâm, tâm là nguồn gốc. Không biết làm thế là phải chết, mà tự hủy hoại thân thể chỉ gây thêm tội đọa, mãi chịu đau khổ! Bấy giờ Đức Thế Tôn liền bước vào phòng vị ấy, hỏi: –Ông định làm gì đấy? Vị Tỳ-kheo liền buông búa, mặc đồ lại, rồi thưa: –Con học đạo đã lâu mà chưa hiểu được pháp môn tu tập. Mỗi khi tọa thiền, tâm an định sắp đắc đạo lại bị dục niệm che ngăn, lửa lòng lừng lẫy, tâm trí mê mờ, không còn phân biệt gì nữa. Con hết sức tự trách, nghó rằng việc này đều do nam căn đòi hỏi, nên mượn búa định chặt đứt nó đi. Đức Phật nghe xong liền bảo: –Ông sao ngu si không hiểu đạo lý? Người muốn cầu đạo trước phải dứt trừ si mê rồi sau mới chế phục tâm. Tâm là nguồn gốc của thiện ác. Muốn dứt trừ tận gốc rễ ái dục phải chế phục tâm. Tâm an định, ý thông hiểu mới đắc đạo được. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Học đạo trước trừ gốc Bắt vua, ly khai quan Kẻ tùy tùng tan rã Là Đạo nhân bậc thượng. Đức Phật lại nói: –Trong mười hai nhân duyên, si đứng đầu. Si là nguồn của các tội; trí là gốc của các hạnh. Vì vậy phải dứt trừ si, sau đó tâm mới an định. Nghe Đức Phật dạy xong, vị Tỳ-kheo ấy hổ thẹn tự trách: –Ta vì ngu si mê hoặc, trước giờ không hiểu rõ kinh điển nên mới có suy nghó và hành động sai lầm như vậy. Nay được nghe những lời Phật dạy, thật là vi diệu lắm thay! Nhờ đó, vị ấy thiền quán theo dõi hơi thở, kiểm soát nội tâm, hàng phục tình ý, dứt hết dục vọng, được chánh định chứng quả A-la-hán ngay trước Đức Phật.  <章 id="41126361">Thí dụ 9: Thuở xưa, Đức Phật trú tại núi Linh thứu, thành La-duyệt-kỳ vì hàng trời người, quốc vương, đại thần… thuyết pháp cam lộ. Lúc ấy, có một vị Tỳ-kheo tánh nết cang cường, dũng mãnh. Đức Phật biết rõ tâm ý, nên dạy vị ấy: –Ông hãy ra khe núi Quỷ thần phía sau núi, ngồi dưới cội cây mà tu tập sổ tức cầu được chánh định. Hãy theo dõi hơi thở biết rõ dài ngắn, giữ tâm ý (an ban thủ ý), dứt vọng tưởng, hết đau khổ sẽ được Niết-bàn. Tỳ-kheo vâng lời đến khe núi tọa thiền. Núi rừng vắng vẻ, đồng vọng tiếng quỷ thần trò chuyện đã khiến cho Tỳ-kheo sinh lòng sợ hãi, không sao an tâm được. Vị ấy hối hận thầm nghó: “Mình thuộc dòng dõi lớn, giàu sang sung sướng mà không chịu ở nhà, lại đi xuất gia. Học đạo chỉ thấy cô tịch, ở chốn sâu không bạn bè, không người qua lại chỉ có quỷ thần đe dọa thôi.” Vị ấy suy nghó như vậy, định bỏ đi thì Đức Thế Tôn đã đến bên cạnh, ngồi xuống một gốc cây rồi hỏi: –Ông ở đây một mình có sợ hãi không? Vị Tỳ-kheo đáp: –Đây là lần đầu tiên con vào núi tu tập, nên thật rất buồn lo. Giây lát, có một con voi chúa đến gốc cây cạnh bên nằm, trong lòng hoan hỷ khoan khoái vì xa lánh được bầy đàn rộn ràng, ồn náo. Đức Phật biết được ý của voi bèn hỏi vị Tỳ-kheo: –Ông có biết con voi này vì lý do gì đến đây chăng? Vị Tỳ-kheo đáp: –Bạch Đức Thế Tôn, con không biết. Đức Phật bảo: –Con voi này có hơn năm trăm quyến thuộc lớn nhỏ. Vì chán ngán bầy đàn nên bỏ đi đến đây nằm dưới gốc cây và nghó rằng: “Xa được ngục tù ân ái thật an vui biết bao!”. Voi là loài súc sinh còn biết nghó đến rảnh rang yên tónh, huống chi ông là người từ bỏ ngũ dục ở gia đình, cầu được giải thoát mà lại mong muốn có bè bạn. Nên biết bạn bè ngu ám gây ra rất nhiều tai họa. Hãy ở một mình không tiếp xúc bàn luận. Thà sống tu học một mình hơn là kết bạn với kẻ ngu. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Nên học độc cư Không có bạn hiền Một mình tu thiện Không bạn kẻ ngu. Vui tu giới hạnh Cần chi bạn lữ Một mình vô ưu Như voi giữa rừng. Nghe Đức Phật nói xong, vị Tỳ-kheo chợt tỉnh ngộ, thiền quán lời Phật dạy liền đắc quả A-la-hán. Các quỷ thần nơi khe núi cũng được nghe hiểu, phát tâm quy y làm đệ tử Phật. Từ đó họ phụng trì giáo pháp, không còn làm hại nhân dân. Đức Phật và vị Tỳ-kheo mới đắc quả cùng nhau trở lại tinh xá.  <詞 id="41126362">Phẩm 3: HỘ GIỚI <章 id="41126363">Thí dụ 10: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ hoàn nước Xá-vệ, vì hàng trời người thuyết pháp. Lúc ấy, ở thành La-duyệt-kỳ có hai vị tân học Tỳ-kheo muốn gặp được tôn dung Đức Thế Tôn, không ngại xa xôi lên đường sang nước Xá-vệ. Con đường giữa hai nước hoang vắng không có dân cư, lại gặp lúc hạn hán, các suối nước đều khô cạn. Hai vị Tỳ-kheo đi xa mệt mỏi, nóng bức và nhất là đói khát. Họ bỗng gặp một vũng nước còn đọng lại giữa lòng suối, nhưng nước ấy lại có các loài côn trùng nhỏ không thể uống được. Hai vị bàn với nhau: –Chúng ta từ xa đến, cốt ý là gặp được Đức Thế Tôn, không ngờ hôm nay lại phải chết nơi đây. Một người đề nghị: –Chúng ta hãy uống nước để giữ mạng sống của mình đến ra mắt Phật. Ai mà biết được chuyện nhỏ nhặt này? Người kia trả lời: –Đức Phật chế giới lấy Từ bi bất sát làm đầu. Chúng ta giết hại chúng sinh để giữ sự sống cho mình thì dầu gặp Phật nào có ích gì? Tôi thà giữ giới mà chết, quyết không phạm giới mà sống! Do đó, một vị uống nước thỏa thích rồi lên đường đi tiếp. Còn vị kia vì không uống nên đã chết khát, liền sinh lên cung trời Đao-lợi thứ hai. Vị trời ấy quán sát túc mạng của mình, nên suy nghó: “Ta nhờ trì giới không phạm nên nay mới được sinh lên cõi này, phước báo quả thật chẳng xa!”. Nghó như vậy xong, vị trời ấy bèn mang hương hoa xuống đến chỗ Phật, đảnh lễ cúng dường rồi đứng qua một bên. Còn vị Tỳ-kheo uống nước sau nhiều ngày đi đường khổ nhọc, cuối cùng cũng đã đến nơi. Vị ấy thấy Đức Thế Tôn thần đức uy nghi bèn cuối đầu làm lễ rồi khóc lóc thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, con cùng đi với một người bạn, nhưng chẳng may vị ấy đã chết dọc đường. Thật cảm thương cho vị ấy không gặp được Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo: –Ta đã biết rõ. Rồi Ngài chỉ vị trời đứng bên cạnh nói: –Vị trời này chính là bạn ông! Vị ấy nhờ giữ trọn giới pháp nên được sinh Thiên lại đến đây trước. Bấy giờ Đức Thế Tôn vén y bày ngực cho vị ấy thấy rồi nói: –Ông thấy thân Ta mà không giữ gìn giới pháp, tuy nói thấy Ta mà Ta không thấy ông. Còn người cách xa Ta ngàn dặm mà gìn giữ kinh giới, thì thạât gần gũi trước mặt Ta. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Đa văn học rộng Nghiêm trì giới luật Hai đời đều khen Sở nguyện thành tựu. Kẻ ít nghe, học kém Giữ giới không nghiêm Hai đời đau khổ Sở nguyện cũng tiêu. Phàm học có hai Thường gần nghe dạy Hiểu rõ nghóa lý Khốn chẳng đổi thay. Vị Tỳ-kheo nghe kệ xong, suy xét lại việc làm của mình cảm thấy hổ thẹn bèn đảnh lễ Đức Thế Tôn cầu xin sám hối. Còn vị trời nghe kệ tâm rất hoan hỷ, chứng được Pháp nhãn. Chúng hội trời, người không ai là không y giáo phụng hành.  <詞 id="41126364">Phẩm 4: ĐA VĂN <章 id="41126365">Thí dụ 11: Thuở xưa, ở nước Xá-vệ có hai vợ chồng nhà đã nghèo mà lại keo bẩn, không tin đạo đức. Đức Phật thương xót họ ngu mê, muốn cứu độ nên hóa làm một vị Sa-môn tướng mạo tầm thường, đói rách đến nhà đó khất thực. Lúc ấy, người chồng đi vắng, người vợ thấy Sa-môn liền nặng lời mắng chửi, bất kể đạo lý. Vị Sa-môn nói: –Tôi là tu só đi xin để sống qua ngày. Cô không nên chửi mắng như vậy. Tôi chỉ mong được một bữa cơm thôi. Bà vợ bảo: –Dù ông có đứng chết ngay đó tôi cũng không cho, huống chi là mạnh khỏe như vậy mà mong tôi cho ăn! Ông ở đó chỉ tốn thời gian vô ích, nên sớm cút đi cho rồi! Nghe vậy, vị Sa-môn liền đứng ngay đó trợn mắt tắt hơi, hiện ra tướng chết, thân thể sình chướng, miệng mũi giòi bò, bụng nứt ruột rã, đồ bất tịnh chảy tràn. Bà ấy trông thấy sợ hãi, hoảng hồn bỏ chạy. Bấy giờ Sa-môn hiện tướng lại như cũ, bỏ đi đến gốc cây cách nhà ấy vài dặm ngồi nghỉ. Người chồng về giữa đường bỗng thấy vợ mình chạy hớt hơ hớt hãi, ấy làm lạ liền hỏi nguyên do. Bà vợ kể lại có một ông Sa-môn làm mình sợ hãi như vậy. Người chồng nghe xong, đùng đùng nổi giận, bèn hỏi: –Ông ấy bây giờ ở đâu? Người vợ đáp: –Đã bỏ đi rồi, nhưng chắc chưa xa lắm. Ông chồng vội mang cung, xách đao lần theo dấu vết tìm đến chỗ Sa-môn, định chém chết ông ta. Vị Sa-môn liền hóa ra tòa thành pha lê nhỏ vây bọc quanh mình. Người chồng đi quanh mấy vòng không cách nào vào được, nên hỏi Đạo nhân: –Này đạo só, sao ông không mở cửa thành? Sa-môn đáp: –Muốn mở cửa thành, ông hãy quăng bỏ cung đao đi. Người chồng suy nghó: “Mình nên nghe lời ông ấy. Nếu vào thành, mình tay không cũng đủ sức đánh chết ông ta.” Nghó vậy xong, ông quăng cung bỏ đao, song cửa thành vẫn không mở. Ông thấy vậy nói với Sa-môn: –Tôi đã quăng bỏ cung đao đi rồi, sao cửa thành vẫn không mở? Vị sa-môn đáp: –Ta muốn nói ông hãy ném bỏ cung đao ác ý trong tâm, chớ không phải ném bỏ cung đao trong tay! Bấy giờ, người chồng trong lòng kinh sợ, không ngờ Sa-môn là bậc Thần thánh biết được tâm mình. Ông bèn dập đầu sám hối rồi bạch rằng: –Con có vợ tệ hại không biết bậc Chân nhân, đã khiến con khởi ác niệm. Xin ngài Từ bi tha thứ lỗi lầm. Nay con xin dẫn vợ đến sám hối, nghe lời khuyên dạy để biết tu đạo. Nói xong, người ấy đứng dậy ra về. Người vợ đón chồng hỏi: –Ông Sa-môn ấy đâu rồi? Người chồng bèn thuật lại đầy đủ oai đức thần thông của vị Sa-môn rồi khuyên: –Vị Sa-môn ấy vẫn còn ở đó, bà nên đến sám hối để diệt trừ tội lỗi. Hai vợ chồng đến chỗ vị Sa-môn, năm vóc phủ phục sát đất đảnh lễ xin sám hối, nguyện làm đệ tử, rồi quỳ thẳng hỏi: –Ngài là bậc Thần thông oai đức, có thể hóa ra thành pha lê kiên cố khó thể vượt qua, tâm định trí sáng, mãi mãi không còn sầu lo là thực hành đạo đức gì mà được như vậy? Vị Sa-môn đáp: –Ta nhờ học rộng giáo pháp không biết nhàm chán, phụng hành chánh đạo không có giải đãi, tinh tấn trì giới tu tuệ không phóng dật, nên đạt đến Niết-bàn. Bấy giờ vị Sa-môn liền nói kệ: Đa văn: sức kiên cố Phụng pháp: bờ tường thành Tinh tấn: khó phá vượt Nhờ đó giới tuệ sinh. Đa văn giúp sáng tâm Tâm sáng, trí tuệ tăng Có trí hiểu rộng nghóa Rõ nghóa tu không lầm. Đa văn hết ưu phiền Luôn vui trong thiền định Khéo nói pháp cam lộ Đến được chỗ vô sinh. Nhờ nghe, biết pháp luật Hết nghi, thấy đạo chánh Do nghe hết phi pháp Tu đến bất tử thành. Sa-môn nói kệ xong, hiện lại thân Phật, hào quang rực rỡ soi sáng cả đất trời. Hai vợ chồng vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, hết lòng ăn năn cải ác, đảnh lễ Đức Thế Tôn. Nhờ đó, họ tiêu được hai mươi ức kiếp tội ác, đắc quả Tu-đà-hoàn.  <章 id="41126366">Thí dụ 12: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá Mỹ âm nước Câu-siểm-ni vì tứ chúng đệ tử giảng nói chánh pháp. Lúc ấy, có một vị Bà-la-môn thông minh học rộng, hiểu biết rất nhiều kinh sách, không việc gì mà không thông. Ông ta nhân đó cống cao ngã mạn cho là thiên hạ không ai bằng mình. Ông đi khắp nơi tìm người tranh luận, nhưng không ai dám đọ sức. Một hôm, giữa ban ngày ông cầm đuốc đi giữa chốn thị thành. Người ta lấy làm lạ hỏi: –Ông vì sao ban ngày cầm đuốc đi đường Vị Bà-la-môn đáp: –Trên đời đều là người ngu tối, mắt không trông thấy gì cả, cho nên ta cầm đuốc để soi sáng cho họ. Người đời nhìn ngó mà chẳng ai dám góp lời gì. Đức Phật biết Bà-la-môn có phước duyên đời trước đáng được độ, song nếu ông ta cống cao cầu danh, không nghó đến vô thường, cậy mình khinh người như vậy sẽ đọa vào địa ngục, vô số kiếp khó mong ra khỏi. Ngài liền hóa ra một nhà Hiền triết ngồi giữa chợ, gọi vị Bà-la-môn lại hỏi: –Vì sao ông lại làm như vậy? Vị Bà-la-môn đáp: –Vì mọi người ngu tối, ngày đêm không thấy ánh sáng nên tôi cầm đuốc soi rọi cho họ. Nhà hiền triết lại hỏi: –Trong kinh có nói đến bốn pháp sáng suốt, ông đã nghe qua chưa? Đáp: –Tôi chưa nghe qua. Nhà hiền triết nói: –Bốn pháp đó là: 1. Hiểu thông thiên văn địa lý và sự điều hòa bốn mùa. 2. Hiểu thông tinh tú và sự vận chuyển ngũ hành. 3. Nắm vững cách trị nước an dân. 4. Nắm vững việc cầm quân chẳng để thất trận. Ông là Bà-la-môn có thông thạo bốn pháp này không? Bà-la-môn nghe nói trong lòng rất hổ thẹn, ném bỏ đuốc đi, rồi chắp tay cung kính, thầm biết rằng mình còn kém cỏi. Đức Phật biết tâm ông đã thuần liền hiện lại thân Phật, hào quang rực rỡ tỏa khắp đất trời, rồi dùng giọng trong trẻo nói kệ: Nếu hiểu biết chút ít Tự cao, khinh khi người Như đuốc, kẻ mù cầm Người sáng, mình tối tăm. Đức Phật nói kệ xong, bảo với Bà-la-môn: –Không có ai ngu tối hơn ông ban ngày lại cầm đuốc đi vào đô thị. Sự hiểu biết của ông thật nhỏ nhoi, chưa bằng hạt bụi. Bà-la-môn nghe xong tỏ vẻ hổ thẹn, cúi đầu đảnh lễ xin làm đệ tử. Đức Phật nhận lời cho ông làm Sa-môn. Nhờ tâm trí khai sáng, vọng tưởng an định nên ông liền chứng quả A-la-hán.  <章 id="41126367">Thí dụ 13: Thuở xưa, nước Xá-vệ có một vị đại trưởng giả tên là Tu-đạt đã chứng quả Tu-đà-hoàn. Bạn ông là trưởng giả Hiếu Thí lại không tin đạo Phật và các y thuật. Một hôm, trưởng giả Hiếu Thí lâm trọng bệnh nằm liệt trên giường. Thân thuộc và bạn bè nghe tin đến thăm, khuyên ông nên trị bệnh, nhưng ông khăng khăng dầu chết cũng không chịu. Ông trả lời với mọi người: –Tôi thờ mặt trời, mặt trăng, trung với vua, hiếu với cha. Tôi nguyện theo suốt đời, dầu chết cũng không đổi chí. Trưởng giả Tu-đạt nói: –Thầy tôi chính là Đức Phật, oai đức khắp nơi, ai gặp đều được lợi ích. Anh hãy thử thỉnh Ngài đến giảng kinh, chú nguyện. Nghe được lời Phật dạy sẽ cải thiện ngôn hành, không giống với các đạo khác đâu. Còn việc theo hay không theo, đó là tùy ở ý anh. Anh bệnh lâu ngày như vậy, biết đâu nhờ phước thỉnh Phật sẽ được thuyên giảm. Hiếu Trí đáp: –Tốt lắm, xin anh hãy thỉnh Phật và chúng đệ tử giùm tôi. Trưởng giả Tu-đạt liền thỉnh Phật và Tăng chúng. Đức Phật đến trước cửa nhà trưởng giả Hiếu Thí bèn phóng hào quang soi khắp trong ngoài. Hiếu Thí thấy được ánh sáng tâm sinh hoan hỷ, thân thể nhẹ nhõm. Đức Phật đến trước Hiếu Thí ngồi xuống, rồi an ủi thăm hỏi: –Ông bệnh ra sao? Trước giờ tin thờ vị Thần nào và đã trị liệu gì chưa? Trưởng giả thưa: –Bạch Đức Phật, con phụng thờ mặt trời, mặt trăng, vua chúa, tổ tiên. Con từng kính giữ trai giới cầu cúng đủ điều. Thế nhưng nay bị bệnh đã lâu mà vẫn chưa được ân cứu giúp. Còn việc y dược, châm cứu là điều gia đình kiêng kî. Đến như việc tu học kinh giới, gây tạo phúc đức chúng con vốn không biết gì. Từ tổ tiên truyền đến nay, gia đình con đều tuân thủ nghiêm ngặt như thế. Đức Phật nói với trưởng giả: –Người sống ở đời có ba trường hợp bị chết oan: 1. Có bệnh không điều trị. 2. Điều trị không cẩn thận. 3. Không biết phải trái, tự tiện điều trị bừa theo ý ngoan cố của mình. Bệnh này không thể nhờ vào mặt trời, mặt trăng, trời đất, tổ tiên, vua chúa hay cha mẹ mà có thể trị lành bệnh. Phải sáng suốt hiểu đạo, tùy thời trị liệu cho được an ổn. Tứ đại bất hòa nóng lạnh thì cần y dược. Bị tà ma nhiễu loạn thì cần tu niệm kinh giới. Phụng thờ các bậc Hiền thánh, thương yêu cứu giúp khổ nạn chúng sinh, đem oai thần phước đức bảo bọc quần sinh, dùng đại trí tuệ diệt trừ ấm cái. Ông nếu làm được như vậy thì đời này sẽ được sống an lành, không bị chết oan. Nhờ giới đức trí tuệ thanh tịnh, nên đời đời thường được an ổn. Rồi Đức Thế Tôn nói kệ: Thờ mặt trời vì sáng Thờ cha vì nghóa ân Thờ vua vì uy lực Thờ thầy vì nghe đạo. Cầu y só vì mạng Dựa cường hào vì hơn Hiểu pháp nhờ trí tuệ Tu phước đời đời vui. Xét bạn: xem việc làm Rõ bạn: lúc nạn gấp Hiểu vợ: khi hoan lạc Biết kẻ trí: qua lời. Là thầy giỏi thấy đạo Giải nghi, giúp trò hiểu Dạy cho pháp thanh tịnh Giữ gìn được Pháp tạng. Nhờ nghe hiện đời lợi Cả vợ con, anh em Đời sau cũng lợi ích Nghe nhiều thành Thánh trí. Thu nhiếp nhờ hiểu nghóa Hiểu nghóa giới trang nghiêm Người thọ pháp hành trì Nhờ đó bệnh được an. Được vậy, hết giận sầu Cũng không có tai ương Muốn an ổn kiết tường Hãy thờ người học rộng. Bấy giờ trưởng giả nghe Đức Phật thuyết pháp, những nghi ngờ liền dứt sạch như mây mù tan tác. Ông cho mời lương y đến trị bệnh và chuyên tâm tu học đạo. Nhờ vậy tứ đại điều hòa, bệnh tật không còn, như uống nước cam lộ, trong ngoài khoan khoái, thân tâm an định, đắc quả Tu-đà-hoàn. Thân thuộc và người trong nước ai nấy đều kính nể ông.  <章 id="41126368">Thí dụ 14: Thuở xưa, phía Nam nước La-duyệt-kỳ có một núi lớn cách thành hai trăm dặm. Các nước phía Nam đường đi đều ngang qua ngọn núi sâu thẳm này. Trong núi có năm trăm tên cướp dựa vào địa thế hiểm trở để cướp bóc. Về sau chúng lại lộng hành gây hại tanh bành, khiến các thương buôn bị cướp không dám đi qua. Giao lộ chính do đó bị tắc nghẽn. Quốc vương đã nhiều lần đem binh truy quét bọn chúng nhưng vẫn không bắt được. Bấy giờ Đức Phật đang giáo hóa ở trong nước. Ngài thương xót chúng sinh, nghó rằng bọn cướp kia không biết tội phước, cho nên đời có Như Lai mà mắt họ không trông thấy, pháp vang rền mà tai họ không nghe. Ta nếu không đến hóa độ, họ sẽ mãi mãi sa đọa như đá chìm dưới vực sâu. Vì vậy Đức Phật liền hóa ra một người ăn mặc đẹp đẽ cỡi ngựa đeo kiếm, tay cầm cung tên. Con ngựa được thắng yên vàng, dàm nạm bạc, lại có đeo viên ngọc Minh nguyệt trên mình. Người ấy cỡi ngựa thúc chạy vào núi. Bọn cướp trông thấy mừng rỡ vì gặp được món bở. Chúng nghó: “Mình nhiều năm ăn cướp mà chưa gặp được món hàng nào đắc giá như vậy. Với sức một người mà chống lại chúng ta có khác chi lấy trứng chọi đá?”. Suy nghó như vậy nên cả bọn đều kéo ra chặn ngựa lại, rồi bao vây rút đao giương cung định trấn lột. Lúc ấy người được hóa ra liền giương cung bắn, múa kiếm chém khiến mỗi tên cướp đều trúng tên và mang thương. Vì mũi tên sâu, vết thương nặng nên cả bọn đều té lăn lộn trên đất. Năm trăm tên cướp lần lượt dập đầu xin quy hàng, thưa: Ngài là Thần tiên phương nào mà oai lực như vậy? Xin ngài hãy tha cho chúng con được sống. Chúng con bị thương, đau nhức không chịu đựng nổi, xin mau hãy nhổ tên, trị lành vết thương cho chúng con ngay. Người được hóa ra đáp: –Vết thương này chưa phải nặng, mũi tên này chưa phải sâu. Trong thiên hạ, vết thương nặng nhất không gì hơn lo âu; tàn hại lớn nhất không gì hơn ngu muội. Các ngươi mang mối lo âu do lòng tham cầu, tâm ngu muội do ham giết hại thì đao thương độc tiễn này rốt lại không thể chữa khỏi. Gốc rễ của hai thứ này rất sâu chắc, dầu kẻ lực só mạnh mẽ cũng không nhổ nổi. Chỉ có giáo pháp giới luật, đa văn trí tuệ mới có thể trị lành tâm bệnh, nhổ sạch buồn, yêu, ngu si, cống cao. Hãy chế phục tham dục mạnh mẽ và gây tạo phước đức, tu học trí tuệ mới có thể trừ được các tai họa trên, mãi mãi được an ổn. Bấy giờ hóa nhân liền hiện lại thân Phật sắc vàng thù diệu và nói kệ: Sầu lo, vết thương nặng Ngu muội, mũi tên sâu Dầu mạnh không nhổ nổi Đa văn trừ được thôi. Mù từ đó được mắt Tối từ đó được đèn Ai dạy bảo thế gian Như người sáng dẫn lòa. Vậy hãy dứt si mê Bỏ giàu sang kiêu mạn Siêng học bậc Đa văn Đó là tích tụ đức. Bấy giờ năm trăm tên cướp thấy hào quang Đức Phật, lại được nghe kệ khai thị nên đảnh lễ quy y, hết lòng ăn năn chừa đổi. Do đó vết thương họ cũng tự nhiên lành lại. Họ vô cùng hoan hỷ, tâm trí khai thông, thọ trì Ngũ giới. Từ đó trong nước trở lại yên bình, nhân dân ai cũng hoan hỷ.  <詞 id="41126369">Phẩm 5: ĐỐC TÍN <章 id="41126370">Thí dụ 15: Thuở xưa, phía Đông nam nước Xá-vệ có một con sông lớn vừa rộng lại vừa sâu. Bên bờ sông có hơn năm trăm gia đình cư trú chưa nghe biết hạnh đạo đức độ thế. Họ quen thói ương ngạnh, dối trá, ham lợi, buông lung theo tình ý. Đức Thế Tôn thường quán sát ai căn tánh có thể độ được thì đến hóa độ. Bấy giờ Ngài thấy các gia đình có phước duyên đáng độ, nên đến bên bờ sông ngồi dưới một cội cây. Người làng thấy hào quang đức tướng của Phật, ai cũng kinh ngạc cung kính, đồng đến đảnh lễ và hỏi thăm. Đức Phật bảo mọi người ngồi xuống rồi thuyết pháp cho họ nghe. Nhưng tập khí gian dối, giải đãi của họ quá dày, nên dầu họ nghe mà không tin nhận lời chân thật. Đức Phật bèn hóa ra một người từ bên kia sông đi trên mặt nước, nước chỉ ngập mắt cá, hướng đến chỗ Phật. Người đó đến nơi liền cúi đầu lễ Phật. Mọi người trông thấy kinh ngạc, hỏi: –Từ tổ tiên chúng tôi đến nay đều sinh sống bên bờ sông này mà chưa thấy ai đi trên mặt nước. Ông là ai mà có pháp thuật đi trên nước không chìm? Xin hãy cho chúng tôi biết. Hóa nhân đáp: “Tôi là người chân đất ở bên kia sông, nghe Đức Phật ở đây nên vì mộ đạo đức mà tìm đến. Tôi đến bờ sông chờ lúc thuận tiện mà qua, liền hỏi người dân bờ bên kia nước nông hay sâu. Họ nói: “Nước chỉ ngập gót, sao không lội sấn qua?”. Tôi tin lời nên đi qua đây, thật ra không có pháp thuật gì lạ. Đức Phật nghe xong khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Người có lòng tín thành có thể qua được bên kia bờ vực sinh tử. Con sông rộng chỉ vài dặm này, qua được đâu có gì lạ! Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Tin: qua được vực Thu nhiếp: thuyền sư Tinh tấn trừ khổ Tuệ đến bờ kia. Bậc có tín hạnh Được Thánh ngợi khen Vui đạo tịch tónh Mở hết buộc ràng. Tin mới đắc đạo Pháp đến Niết-bàn Nhờ nghe thành trí Đến chỗ quang minh. Tín và giữ giới Tuệ quán siêng hành Bậc có trí tuệ Qua vực tử sinh. Bấy giờ người trong làng nghe Đức Phật nói kệ khai thị, lại thấy người có đức tin qua được sông làm chứng, nên sinh tín tâm kiên cố, thọ trì Ngũ giới làm Phật tử tại gia. Nhờ người trong làng đó có lòng tin hiểu tu hành, nên Phật pháp được phổ biến khắp nơi.  <章 id="41126371">Thí dụ 16: Thuở xưa, lúc Đức Phật còn tại thế có một vị trưởng giả tên là Tu-đà-la, giàu có vô số, tín ngưỡng đạo đức. Ông có lời thệ nguyện vào ngày mùng tám tháng chạp hàng năm thỉnh Phật và Tăng chúng về nhà cúng dường. Trọn đời ông, con cháu phụng hành không bỏ phế. Khi mất, ông đã ân cần khuyên con mình là Tỷ-đà-la không được bỏ phế. Nhưng về sau, gia cảnh lần lần nghèo khó. Tháng chạp đã đến mà trong nhà không có gì nên Tỷ-đà-la rất lo buồn. Đức Phật sai Tôn giả Mục-liên đến hỏi: –Ngày cúng dường hàng năm của cha ông sắp đến, ông tính sao đây? Tỷ-đà-la đáp: –Lời dặn bảo của cha, con đâu dám trái. Mong Đức Thế Tôn từ bi tưởng đến, vào giờ ngọ ngày mùng tám quang lâm nhà con. Tôn giả Mục-liên trở về thưa lại với Phật như vậy. Về phần Tỷ-đà-la, ông qua bên ngoại mượn trăm lượng vàng về nhà, sắm sửa đầy đủ đồ cúng dường. Đúng ngày ấy, Đức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đến thọ trai. Thọ thực xong, Đức Phật và chư Tỳ-kheo trở về tinh xá. Tỷ-đà-la vô cùng hoan hỷ, không chút hối hận. Giữa đêm hôm ấy, trong các kho cũ tự nhiên bảo vật đều đầy đủ như xưa! Sáng sớm hôm sau hai vợ chồng Tỷ-đà-la trông thấy vừa mừng lại vừa sợ. Họ sợ quan tra hỏi của cải này từ đâu mà có. Hai vợ chồng bàn nhau đến hỏi Đức Phật, rồi cả hai đến chỗ trình bày đầu đủ sự việc. Đức Phật nói với Tỷ-đà-la: –Ông hãy an tâm sử dụng, không nên nghi sợ. Ông không trái lời cha, dầu chết cũng không thay đổi. Ông có tín tâm, trì giới, tàm, quý, đa văn, bố thí, trí tuệ. Nhờ có đầy đủ bảy món báu này nên phước đức chiêu cảm như thế, không phải là tai họa đâu. Người trí biết tu hành thì không luận là nam hay nữ sinh chỗ nào phước cũng tự nhiên sẵn đủ. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ: Đức tin và giới Cùng tàm và quý Đa văn, thí, tuệ Là bảy món báu. Tin nên giữ giới Thường tịnh quán pháp Trí tuệ luôn trau dồi Lời Phật chẳng quên. Sống có báu này Không luận nam nữ Trọn đời không nghèo Người hiền nên rõ. Tỷ-đà-la nghe Đức Phật nói, lòng tin Tam bảo càng kiên cố, đảnh lễ dưới chân Phật rồi về nhà. Ông đem những lời Phật dạy thuật lại đầy đủ cho người nhà nghe. Nhờ đó ai cũng tin tưởng Phật pháp, được lợi ích lớn.  <詞 id="41126372">Phẩm 6: GIỚI THẬN <章 id="41126373">Thí dụ 17: Thuở xưa, nước Ba-la-nại có một hòn núi cách thành bốn năm mươi dặm. Trên núi có năm vị Sa-môn ở tu học. Mỗi ngày vào lúc sáng sớm, năm vị ấy xuống núi vào thành khất thực. Sau khi thọ thực xong, họ trở về núi thì trời đã tối. Đi về hai lượt thân thể mỏi mệt, không thể tọa thiền tu tập chỉ quán. Vì vậy trải qua nhiều năm tu tập mà họ không chứng được đạo quả. Đức Phật biết chuyện, thương xót họ nhọc nhằn mà không thu được kết quả gì, nên hóa thành một vị Đạo nhân đến núi đó thăm hỏi các Sa-môn: –Các vị ẩn cư ở đây, có nhọc mệt lắm không? Các vị Sa-môn đáp: –Chúng tôi ở đây cách thành rất xa. Vì còn thân tứ đại nên phải ăn uống mỗi ngày vì chuyện ăn uống phải đi về rất vất vả. Nhiều năm cực khổ, ngày đi về hai lượt như vậy, tối đến đã mệt mỏi ngay, chúng tôi không còn thời giờ để tu tập, có lẽ suốt đời phải chịu như thế! Vị Đạo nhân nói: –Người hành đạo phải lấy giới làm căn bản, lấy nhiếp tâm làm công hạnh, coi nhẹ thân thể, quý trọng chân lý, xả thân cầu đạo. Ăn uống là để duy trì mạng sống tu tập thiền định. Phải hướng đến mục đích đắc đạo mà tu học chỉ quán, dứt trừ vọng tưởng. Còn nếu chỉ lo cung dưỡng thân thể, chìu theo đòi hỏi thì làm sao thoát được khổ đau? Ngày mai các vị đừng xuống núi, nghỉ ngơi một ngày, tôi sẽ lo việc cúng dường. Lúc ấy năm vị Sa-môn rất hoan hỷ trước việc hy hữu này. Ai nấy tâm ý đều an định, không còn lo chuyện đi khất thực. Giờ ngọ ngày hôm sau, vị Đạo nhân mang thức ăn đến. Năm vị Sa-môn thọ trai xong, tâm ý thư thái, an tịnh. Bấy giờ vị Đạo nhân được hóa ra bèn nói kệ: Tỳ-kheo trì giới Giữ gìn các căn Tiết độ ăn uống Ý luôn tỉnh giác. Lấy giới hàng tâm Giữ ý chánh định Trong tu chỉ quán Chánh ý không vọng. Sáng suốt giữ giới Chánh trí tư duy Hành đạo như vậy Tự tịnh, hết khổ. Vị Đạo nhân nói kệ xong, liền hiện lại thân Phật từ quang rực rỡ. Năm vị Sa-môn phấn chấn tinh thần, thúc liễm thân tâm, tư duy chánh trí liền chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126374">Phẩm 7: DUY NIỆM <章 id="41126375">Thí dụ 18: Thuở Đức Phật còn tại thế, vua Phất-gia-sa và vua Bình-sa là bạn thân với nhau. Vua Phất-gia-sa chưa biết Phật pháp. Ông làm một bông hoa bằng bảy báu rồi tặng vua Bình-sa. Vua Bình-sa nhận được, đem dâng lên Đức Phật, thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, vua Phất-gia-sa là bạn, tặng con đóa hoa báu này. Nay con đem dâng lên Phật, nguyện cho vua Phất-gia-sa tâm ý mở mang, gặp Phật nghe Pháp, cung kính Thánh tăng. Nay con nên lấy vật gì để tặng lại vua ấy?”. Đức Phật đáp: –Vua hãy chép kinh Thập Nhị Nhân Duyên rồi gởi kèm theo một lá thư, nói rằng: “Bạn tặng tôi đóa hoa bảy báu, nay tôi tặng lại đóa hoa chánh pháp. Xin hãy suy nghó rõ ràng những nghóa lý trong kinh sẽ được lợi ích to lớn, tốt đẹp. Tôi muốn bạn đọc tụng và tu tập để cùng tôi chia xẻ pháp vị. Vua Phất-gia-sa nhận được kinh, liền đọc và suy xét nghóa lý cẩn thận, rồi bỗng tin hiểu chánh pháp. Vua hết lời tán thán: “Phật lý thật vi diệu, có thể giúp cho tâm người an định, nước nhà phồn vinh. Năm dục là cội nguồn ưu não, ta đã nhiều đời đam mê nay mới tỉnh ngộ. Ta còn tham luyến dục lạc thế gian nữa làm gì?”. Vua bèn triệu tập quần thần nhường ngôi cho thái tử, rồi tự xuống tóc làm Sa-môn. Phất-gia-sa mặc pháp phục, ôm bình bát đến thành La-duyệt-kỳ tá túc tại lò nung của nhà một người thợ đồ gốm, định sáng mai vào thành khất thực, thọ trai xong sẽ đến chỗ Phật lãnh thọ kinh giới. Đức Phật với thần thông biết được ngày mai lúc độ thực Phất-gia-sa sẽ mạng chung. Ông ta từ xa lại mà không được gặp Phật, không được nghe kinh pháp thật đáng xót thương! Vì thế Đức Thế Tôn hóa thành một vị Sa-môn cũng đến nhà người thợ đồ gốm xin nghỉ qua đêm. Người chủ nói: – Có một vị Sa-môn đã ở trước trong lò nung, ông có thể ở chung qua đêm với vị ấy. Vị Sa-môn bèn mang cỏ vào lò nung, trải ngồi bên cạnh Phất-gia-sa, rồi hỏi thăm: –Ông từ đâu đến? Thầy ông là ai? Vì nhân duyên gì mà làm Sa-môn? Đã gặp Đức Phật chưa? Phất-gia-sa đáp: –Tôi chưa gặp Phật, chỉ nghe kinh Thập Nhị Nhân Duyên mà xuất gia làm Sa-môn. Tôi định ngày mai vào thành khất thực sẽ đến ra mắt Đức Phật. Vị Sa-môn kia nói: –Mạng người mong manh sớm còn tối mất. Vô thường nghiệp báo không hẹn chợt đến. Chỉ cần quán sát thân tứ đại do đâu mà có, tạm hợp thành rồi sẽ hoại diệt. Đất nước gió lửa sẽ trả về cho đất nước gió lửa! Hãy tư duy tỉnh giác, tâm vắng lặng không có vọng tưởng, chuyên niệm Tam bảo, bố thí, giới đức. Nếu có thể biết được lẽ vô thường thì cũng như thấy Phật! Nghó đến việc ngày mai chỉ là vọng tưởng vô ích. Bấy giờ vị hóa Sa-môn liền nói kệ: Phàm người được thiện lợi Là tự quy y Phật Cho nên ngày lẫn đêm Thường niệm Phật, Pháp, Tăng. Tỉnh giác biết rõ mình Đó là đệ tử Phật Ngày đêm thường nên niệm Phật, Pháp và chúng Tăng. Niệm thân, niệm vô thường Niệm giới, đức, bố thí Không, bất nguyện, vô tưởng Đêm ngày niệm như trên. Lúc đó vị hóa Sa-môn lại giảng thuyết yếu nghóa vô thường cho Phất-gia-sa. Phất-gia-sa liền nhất tâm thiền quán liền chứng quả A-na-hàm. Đức Phật biết Phất-gia-sa đã giác ngộ, liền hiện lại thân Phật đức tướng quang minh. Phất-gia-sa vừa kinh ngạc vừa vô cùng vui mừng, liền cúi đầu đảnh lễ Phật. Đức Phật lại dặn ông lần nữa: –Tướng tội báo cũng vô thường, ông đừng nên lo sợ. Phất-gia-sa đáp: –Con xin vâng lời dạy bảo. Sau đó Đức Phật từ giã ra đi. Giờ ngọ ngày hôm sau, Phất-gia-sa vào thành khất thực, khi đi ngang qua cổng thành, Phất-gia-sa bị một con bò mẹ mới sinh con húc thủng bụng chết. Ông liền sinh lên cõi trời A-na-hàm. Đức Phật sai các đệ tử đem di thể ông trà-tỳ, xây tháp thờ. Đức Phật nhân đó dạy đại chúng: –Hãy cẩn thận đối với những nguyên nhân gây ra tội báo.  <詞 id="41126376">Phẩm 8: TỪ NHÂN <章 id="41126377">Thí dụ 19: Thuở xưa, Đức Phật trú tại thành La-duyệt-kỳ. Cách nước này năm trăm dặm có một hòn núi là nơi cư trú của một gia tộc gồm một trăm hai mươi hai người sinh trưởng tại đó. Họ sống bằng nghề săn bắn trong rừng, mặc áo da, ăn thịt thú mà không biết làm ruộng rẫy. Tín ngưỡng của họ là thờ cúng quỷ thần, chưa biết gì về Tam bảo. Đức Phật với Thánh trí thấy họ có thể độ được, nên đến đó ngồi dưới một cội cây. Lúc ấy, bọn đàn ông đều vào núi săn bắn chỉ còn phụ nữ ở nhà. Đức Phật tỏa ánh hào quang chiếu khắp đất trời, cây đá trong núi đều biến thành sắc vàng chói. Lớn nhỏ ai nấy cũng đều kinh ngạc hoan hỷ, cho Phật là vị Thần linh nên kéo đến lễ bái, cúng dường chiếu ngồi. Đức Phật nhân đó mới thuyết pháp về tội báo sát sinh, phước đức từ bi, ân ái tạm hợp lại tan cho các phụ nữ nghe. Nghe xong họ đều hoan hỷ, ra trước bạch Phật: –Sơn nhân chúng con sát sinh ăn thịt để sống. Nay muốn dâng cúng Ngài một ít, xin hãy nhận lấy. Đức Phật bảo với các phụ nữ: –Giáo pháp của chư Phật không ăn thịt chúng sinh. Ta đã thọ trai rồi mới đến đây, không cần phải dọn ra nữa. Đức Phật nhân đó lại dạy: –Người sống ở đời món ăn rất nhiều. Sao không ăn những thứ có ích, mà lại giết mạng chúng sinh để nuôi sống cho mình? Khi chết sẽ đọa ác đạo, chỉ hại mà không lợi ích. Làm người nên ăn ngũ cốc, thương yêu các loài chúng sinh, các loài biết máy cựa, không loài nào mà chẳng tham sống. Giết chúng sinh nuôi sống mình tội lỗi rất nặng. Còn ai Từ bi bất sát đời đời sẽ được an vui. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Nhân từ bất sát Thường biết nhiếp thân Là chỗ bất tử An lạc không họa tai. Bất sát vì từ Thận trọng lời,ý Là chỗ bất tử Chốn không họa tai. Theo đạo giải thoát Không hại chúng sinh Tâm không phiền não Xứng với Phạm thiên. Thường dùng Từ bi Tịnh như Phật dạy Biết đủ, biết dừng Sẽ vượt sinh tử. Đức Phật nói kệ xong, những người đàn ông đi săn cũng vừa về đến. Các phụ nữ nghe giảng kinh nên không đón chồng. Các ông này kinh ngạc trước việc bất thường, bỏ thú săn xuống chạy về xem có biến cố gì không. Đến nơi thấy các bà vợ mình đang chắp tay nghe Phật giảng dạy, họ liền nổi giận lớn tiếng mắng nhiếc, định làm hại Phật. Các bà vợ vội nói với chồng mình: –Đây là Thần nhân, các ông đừng nên ác ý. Mọi người nghe nói ăn năn hối cải, quỳ xuống đảnh lễ Đức Phật. Phật vì họ mà giảng nói lại công đức của việc không sát sinh và tội báo của việc giết hại. Người đứng đầu gia tộc tỉnh ngộ liền quỳ xuống bạch Phật: –Chúng con sinh trưởng nơi núi sâu, lấy việc săn bắn làm kế sinh nhai. Tội lỗi vì thế chồng chất rất nhiều. Xin Ngài dạy cho cách nào để tránh khỏi tai ương. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Thực hành nhân từ Bác ái cứu người Có mười một lợi Phước thường theo thân. Một, ngủ an ổn Hai, thức yên vui Ba, không ác mộng Bốn, trời hộ trì. Năm, được kính mến Sáu, không bị hại Bảy, không đao binh Tám, không nạn nước. Chín, không nạn lửa Mười, được phước lợi Chết được sinh Thiên Chính là mười một. Đức Phật nói kệ xong, một trăm hai mươi hai người nam nữ lớn nhỏ đều hoan hỷ tin nhận, vâng giữ năm giới. Đức Phật nói với vua Bình-sa cho họ ruộng đất và thóc ngô để ăn. Từ đó, đạo Từ bi phổ biến, trong nước yên bình.  <章 id="41126378">Thí dụ 20: Thuở xưa có một nước lớn ở vùng biên cương Ấn độ. Vua nước ấy tên là Hòa Mặc. Nhân dân trong nước chưa từng được pháp hóa vi diệu của Tam bảo, chỉ biết thờ ngoại đạo Bà-la-môn theo lời dụ hoặc của họ mà thường làm những việc tà ác, sát sinh tế tự quỷ thần. Lúc ấy mẹ vua lâm trọng bệnh nằm liệt trên giường. Vua đã cho vời rất nhiều danh y điều trị cho đến cầu phù chú nơi các đồng cốt, song trải qua nhiều tháng nhiều năm mà bệnh tình bà vẫn không thuyên giảm. Do đó, vua lại cho mời hai trăm vị Bà-la-môn trong nước vào cung cúng dường, rồi hỏi: “Thái hậu bệnh nặng đã lâu, không biết vì nguyên nhân gì? Các vị là bậc Trí, thông hiểu tướng pháp và thiên văn địa lý, vậy có thấy gì bất ổn xin nói cho trẫm biết.” Các Bà-la-môn trả lời: –Bệnh của thái hậu là do tinh tú sai loạn, âm dương bất hòa thôi. Vua hỏi: –Làm cách nào để giải trừ được? Các Bà-la-môn thưa: –Nên bày lễ cầu đảo núi non, nhật nguyệt, tinh tú nơi khoảng đất trống sạch sẽ ngoài thành và giết một trăm súc vật đủ loại, với một đứa bé để cúng tế trời; rồi vua tự mình dẫn mẹ đến chỗ đó lạy xin khỏi bệnh sống lâu, thì sau đó bệnh sẽ lành. Vua nghe nói bèn chuẩn bị đúng như lời dặn. Vua cho lùa người và trăm loài voi, ngựa, bò, dê từ cửa thành phía Đông đi ra chỗ tế tự giết để tế trời. Dọc đường tiếng than khóc, kêu la vang động đất trời! Đức Thế Tôn đại từ cứu độ tất cả chúng sinh, thương cho vua Hòa Mặc quá ngu si. Sao lại vì muốn cứu vớt một người mà làm ác giết mạng chúng sinh? Cho nên Đức Phật và chúng đệ tử đi qua nước đó. Đức Phật gặp vua và các Bà-la-môn nơi cửa thành phía Đông đang lùa bầy súc vật kêu rống thảm đi đến. Vua từ xa trông thấy Đức Phật uy nghi rực rỡ, hào quang tỏa sáng đất trời như mặt trời mới mọc, như trăng sáng đêm rằm. Nhân dân nhìn xem đều khởi tâm kính mộ. Súc vật bị lùa đi tế thần cũng khởi tâm mong được cứu thoát. Vua liền tới trước xuống xe hạ lọng đảnh lễ Phật rồi quỳ thẳng chắp tay chào hỏi Đức Thế Tôn. Đức Phật mời vua ngồi, rồi hỏi: –Ông định đi đâu? Vua vòng tay đáp: –Thái hậu của nước con lâm bệnh đã lâu, con cho mời các lương y khắp nơi điều trị, cho đến đồng cốt chú thuật cũng không thuyên giảm. Nay con mang người và súc vật để tế cúng chư Thiên, kỳ đảo tinh tú bốn núi năm non cầu mong cho mẹ con được hết bệnh. Đức Phật bảo: –Xin Đại vương khéo lắng nghe lời này! Muốn được giàu có phải hành bố thí, muốn được sống thọ phải hành Từ bi, muốn được trí tuệ phải chuyên học hỏi. Bốn việc này, tùy mình gieo nhân nào thì gặp quả nấy. Kẻ giàu sang thì không tham bữa ăn bần tiện tầm thường. Chư Thiên kia lấy thất bảo xây cung điện, muốn ăn muốn mặc tự nhiên như ý, lẽ đâu bỏ vị ngon cam lộ mà dùng đồ thô lậu máu thịt tanh hôi? Tế tự dâm loạn thế kia là lấy tà giáo làm chánh đạo. Giết mạng sống cầu sống, thật trái với đạo lý quá xa! Giết bao nhiêu mạng sống để cứu một mạng thì làm sao có chuyện đó? Lúc đó Đức Thế Tôn liền nói kệ: Dầu người sống trăm năm Siêng phụng sự quỷ thần Cúng tế bằng voi ngựa Chẳng bằng một việc Từ. Lúc Đức Phật nói kệ hào quang rực chiếu khắp đất trời, chúng sinh trong tam đồ bát nạn đều hoan hỷ, được an ổn lợi ích. Vua Hòa Mặc nghe được diệu pháp lại thấy được hào quang nên vô cùng hoan hỷ, thấy được đạo. Thái hậu bệnh hoạn nghe pháp xong, tinh thần phấn chấn vui vẻ, bệnh tình dứt hết. Còn hai trăm vị Bà-la-môn thấy hào quang, lại nghe lời Phật dạy nên vô cùng hổ thẹn, ăn năn chừa đổi, xin làm đệ tử Phật. Đức Thế Tôn hứa khả cho họ xuất gia làm Sa-môn. Vua và đại thần thỉnh Đức Phật lưu lại nước đó một tháng để cúng dường, đem chánh pháp ra trị nước. Nhờ đó nước nhà ngày càng hưng thịnh.  <詞 id="41126379">Phẩm 9: NGÔN NGỮ <章 id="41126380">Thí dụ 21: Thuở xưa, vua Phất-gia-sa sau khi xuất gia vào thành La-duyệt-kỳ khất thực, ngang qua cổng bị một con bò mẹ mới sinh húc chết. Người chủ bò sợ quá liền bán nó cho một người khác. Người chủ mới lúc dẫn bò đi uống nước lại cũng bị nó từ sau húc chết. Con ông ta thấy vậy nổi giận bắt bò làm thịt, đem ra chợ bán. Có một bác nông dân mua lấy đầu bò gánh về. Còn cách nhà hơn dặm đường, bác ta mới treo đầu bò lên một cành cây rồi ngồi nghỉ dưới gốc. Không ngờ, mới đó dây đứt, đầu bò rơi xuống, sừng cắm đúng vào người khiến bác ta chết ngay tại chỗ. Trong một ngày mà con bò đó đã giết chết ba mạng người. Vua Bình-sa nghe tin rất lấy làm lạ, liền cùng quần thần đến chỗ Đức Phật để thưa hỏi. Đến nơi, vua làm lễ Phật xong rồi mới chắp tay hỏi: –Bạch Đức Thế Tôn, thật là lạ lùng! Có một con bò mẹ đã giết ba mạng người. Vì có chuyện này nên con đến đây hỏi ý kiến Phật. Đức Phật bảo với vua Bình-sa: –Tội báo đều có nguyên nhân, không phải ngẫu nhiên ngày nay mà có. Vua thưa: –Xin Đức Thế Tôn nói rõ nguyên nhân. Đức Phật kể: –Thuở xưa có ba người thương gia đến nước khác buôn bán, ở trọ nhà một bà lão đơn chiếc. Đến kỳ trả tiền thuê nhà, vì thấy bà lão cô độc nên ba người định ăn quịt không trả. Thừa lúc bà đi vắng, cả ba lén bỏ đi. Bà lão trở về không thấy ai cả, liền hỏi hàng xóm mới hay họ đã bỏ đi. Bà lão nổi giận tức tốc đuổi theo. Một hồi lâu sau, chạy đến nhọc mệt bơ phờ bà mới bắt kịp họ. Song khi ba ông khách nghe bà lão đòi tiền, chửi bới ngược lại bảo rằng mình đã trả rồi, sao lại đòi nữa. Họ ba miệng một lời nói ngang không chịu trả tiền trọ. Bà lão thấy mình sức yếu thế cô không làm sao được, nên đành chịu mất tiền, ngậm hờn thề trước ba thương khách rằng: “Tôi nghèo khổ như vậy, sao các ông lại nhẫn tâm lường quịt. Tôi nguyện đời sau sinh ra chỗ nào hễ gặp các ông quyết giết không tha! Chừng nào giết được lòng tôi mới hả, dầu các ông đắc đạo cũng không bỏ qua!”. Đức Phật nói với vua Bình-sa: –Bà lão thuở đó nay chính là con bò mẹ. Ba vị thương khách chính là đám Phất-gia-sa ba người ngày nay bị bò húc chết đó. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ: Lời ác mắng chửi Kiêu mạn, khinh người Ai làm nghiệp này Thù oán sẽ sinh. Lời nhã, thuận hòa Tôn kính người khác Mở trói, dằn ác Thù oán tự tiêu. Phàm người ở đời Trong miẹâng gươm dao Chửi rủa mắng nhiếc Là tự chém thân. Nghe Đức Phật nói xong, vua Bình-sa và quần thần đều gìn giữ lời nói nghiêm túc cẩn thận, nguyện làm việc lành rồi lễ Phật ra về.  <詞 id="41126381">Phẩm 10: SONG YẾU <章 id="41126382">Thí dụ 22: Thuở xưa, vua nước Xá-vệ là Ba-tư-nặc đến thăm Đức Phật. Vua đến nơi liền xuống xe, bỏ lộng, tháo kiếm, cởi giày rồi chắp tay đi vào quỳ xuống đảnh lễ, bạch rằng: –Bạch Đức Thế Tôn, ngày mai con mong Đức Phật và Tăng chúng đến ngã tư đường thọ trai để cho mọi người trong nước đều biết Phật là Đấng Chí Tôn khiến chúng sinh xa lìa tà ma ngoại đạo, gìn giữ Ngũ giới cho quốc thái dân an. Đức Phật nói: –Lành thay! Phàm người làm vua phải lãnh đạo nhân dân một cách sáng suốt, hướng dẫn họ phụng hành đạo đức để được hưởng phước đời sau. Vua thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, con xin thoái lui để về lo việc cúng dường. Vua trở về tự tay lo sắp đặt cơm nước, rồi đích thân đón Đức Phật và Tăng chúng đến ngã tư có thiết trai. Đức Phật đến ngồi vào chỗ, vua tự mình múc nước rửa tay cho Đức Phật. Đức Phật thọ trai xong, thuyết pháp cho vua và mọi người. Người đến dự đông vô số. Trong đó có hai thương nhân, một người nghó: “Phật như đế vương, đệ tử như trung thần. Phật giảng thuyết pháp, đệ tử tụng đọc truyền bá. Vua Ba-tư-nặc thật là sáng suốt, biết Đức Phật là Bậc đáng tôn kính, khép ý phụng trì.” Còn người kia lại nghó: “Vua Ba-tư-nặc ngu thật! Mình đã là vua còn cần gì nữa? Phật thật như bò, đệ tử như xe. Bò kéo xe chạy Đông, Tây, Nam, Bắc. Phật có đạo hạnh gì mà phải y kính phụng trì.” Sau đó hai người ra đi. Đi được khoảng ba mươi dặm đường, họ ghé lại một nhà nghỉ qua đêm. Hai người mua rượu cùng nhau uống và bàn luận chuyện đã thấy ban sáng. Người có thiện niệm được Tứ Thiên vương ủng hộ. Còn người nghó quấy bị quỷ thần ở Thái sơn khiến cho rượu uống vào bụng nóng như thiêu. Vì vậy anh ta bỏ ra ngoài lộ, nằm lăn qua lộn lại trong vết bánh xe trên đường. Sáng sớm có đoàn xe năm trăm chiếc đi ngang nghiền chết anh ta. Người bạn sáng ra đi tìm thì thấy anh đã chết rồi, rất bối rối suy nghó: “Nếu mình về nước sẽ bị nghi là giết bạn lấy của, kết tội bất nghóa, thí thân vì tiền của.” Do đó anh mới đi sang nước khác. Vua nước này vừa băng hà mà không có thái tử nối ngôi. Trong sấm thư nói: “Sẽ có một người thân phận thấp kém ở nước khác lên làm vua nước này. Vua quá cố có một con thần mã, nếu gặp vị ấy nó sẽ quỳ xuống.” Các quan theo lời, thắng yên cương, đeo quốc ấn trên mình thần mã rồi dẫn đi khắp nơi tìm người kế vị. Người xem thần mã rất đông, cũng vừa gặp lúc anh này đi đến nước ấy. Quan thái sử trông thấy nói: “Vị ấy có mây vàng che phủ, chính là khí tượng làm vua.” Thần mã trông thấy liền đến quỳ xuống liếm chân vị thương khách. Quần thần mừng rỡ, liền rước anh về cung tôn lên làm vua. Bấy giờ vị vua này mới coi sóc tình hình trong nước và tự suy nghó: “Ta không làm một việc lành nào cả, sao lại hưởng phước này? Chắc đây là nhờ ân đức của Phật.” Do đó, vua bèn cùng quần thần hướng về nước Xá-vệ, từ xa đảnh lễ bạch: –Con là người hạ tiện thiếu đức, nhờ từ ân Thế Tôn mới được làm vua. Ngày mai xin Đức Thế Tôn và các vị A-la-hán thuận theo ý nguyện của con đến đây thọ trai. Đức Phật ở xa liền biết, bảo A-nan dặn các vị Tỳ-kheo ngày mai vua nước kia có lời cung thỉnh, tất cả hãy sử dụng thần thông đến nước đó cho vua và nhân dân hoan hỷ. Hôm sau, Đức Phật và đệ tử dùng thần túc đến nước đó, theo thứ lớp mà ngồi trang nghiêm như pháp. Thọ trai rửa tay xong, Đức Phật thuyết pháp cho vua và mọi người nghe. Vua hỏi: –Con vốn là người tiện dân, không có phước đức, vì nhân duyên gì được như thế này? Đức Phật đáp: –Lúc trước vua Ba-tư-nặc cúng dường cơm nước cho Đức Phật nơi ngã tư đường. Vua đây trông thấy trong lòng suy nghó: “Đức Phật như quốc vương, đệ tử như trung thần.” Nhờ vua gieo hạt giống lành này mà ngày nay gặt lấy quả báo tốt đẹp. Còn bạn của vua ngày trước vì cho rằng Phật như bò, đệ tử như xe. Người ấy gieo hạt giống vành bánh nên nay chịu quả báo bị xe lửa nghiền nát trong chốn địa ngục Thái sơn. Không phải do vua dũng cảm hùng mạnh mà đoạt được ngôi vị ấy. Làm thiện được phước, làm ác gặt họa. Phước hay họa do mình gây tạo mà chẳng phải trời, rồng, quỷ, thần ban cho hay gây ra. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Tâm là gốc pháp Đứng đầu, sai sử Tâm khởi niệm ác Nói ác, làm ác Tội khổ theo ta Như xe theo vết. Tâm là gốc pháp Đứng đầu, sai sử Tâm khởi niệm thiện Nói thiện, làm thiện Phước lạc theo ta Như bóng theo hình. Đức Phật nói kệ xong, vua và vô số thần dân đều vô cùng hoan hỷ, chứng được pháp nhãn.  <章 id="41126383">Thí dụ 23: Thuở xưa, trưởng giả Tu-đạt mua miếng vườn của thái tử Kỳ-đà rồi hai người cùng nhau xây cất tinh xá cúng dường Đức Thế Tôn. Mỗi người thỉnh Đức Phật và chư Tăng cúng dường trong một tháng. Nhờ nghe Đức Phật thuyết pháp nên hai vị đều thấy được đạo. Thái tử Kỳ-đà hoan hỷ trở về Đông cung, hết lời tán thán đạo đức của Đức Phật, tự đánh nhạc làm vui. Em trai của Kỳ-đà là Lưu Ly thường ở bên vua. Lúc ấy, vua cùng với cận thần và các phu nhân ở hậu cung đến chỗ Đức Phật đảnh lễ nghe kinh. Lưu Ly ở lại lo việc bảo vệ cung điện. Các nịnh thần như bọn A-tát-đà, có mưu gian thưa với Lưu Ly rằng: –Xin ngài hãy đeo thử đai ấn của đại vương, ngồi lên ngai vàng xem có giống vua không? Lưu Ly nghe lời mặc hoàng bào lên ngai vàng ngồi. Bọn nịnh thần lạy mừng thưa: “Ngài thạât như vị đại vương ngàn năm mới gặp được. Ngài nên thuận theo nguyện vọng của lê dân, há để Đông cung thái tử Kỳ-đà chiếm chỗ này sao? Ngai vàng này không lẽ đã lên rồi mà lại xuống?”. Lưu Ly nghe nói liền mang giáp binh, rút kiếm đến bao vây tinh xá Kỳ hoàn để đuổi vua không cho về cung. Quân Lưu Ly đánh nhau với quan quân của vua ở Kỳ hoàn giết hơn năm trăm cận thần. Vua và phu nhân chạy lánh nạn suốt ngày đêm đến nước Xá-di. Giữa đường vì đói khát vua ăn rau rừng trúng độc, bụng chướng lên rồi chết. Lúc ấy Lưu Ly lên nắm quyền, cầm gươm vào Đông cung giết chết thái tử Kỳ-đà anh mình. Kỳ-đà vì hiểu lẽ vô thường nên không chút lo sợ, vẻ mặt an nhiên chẳng đổi, an tâm mỉm cười chịu chết. Khi lâm chung, Kỳ-đà nghe tiếng nhạc từ hư không đến đón rước thần thức. Lúc ấy Đức Phật ở tinh xá Kỳ hoàn biết được liền nói kệ: Tạo vui đời sau vui Làm thiện hai đời vui Người ấy thuần hoan hỷ Thấy phước tâm an vui. Nay mừng đời sau mừng Làm thiện hai đời mừng Đây là tự giúp mình Hưởng phước nên mừng vui. Sau đó, vua Lưu Ly kéo quân sang đánh nước Xá-di, sát hại những người họ Thích và những bậc thấy đạo, tàn bạo vô nhân, tạo đủ năm tội ngũ nghịch. Đức Phật dự ký Lưu Ly vì bất hiếu bất trung, tội nghiệp sâu nặng, bảy ngày sau sẽ bị lửa địa ngục thiêu chết. Quan thái sử cũng bói đúng quẻ như vậy. Lưu Ly nghe tin hết sức lo sợ cho thuyền ra giữa sông, nghó rằng: “Ta sống giữa nước, lửa làm sao đến được?”. Đúng trưa ngày thứ bảy, tự nhiên lửa từ dưới nước bốc lên. Đốt chìm thuyền, Lưu Ly bị chết cháy, thi thể chìm dưới nước. Lúc ấy, Đức Phật nói kệ: Tạo lo đời sau lo Làm ác hai đời lo Kẻ ấy toàn lo sợ Thấy tội tâm bất an. Nay hối đời sau hối Làm ác hai đời hối Đây tự chuốc tai ương Chịu tội đầy khổ não. Phật nói kệ xong, liền bảo các Tỳ-kheo: –Thái tử Kỳ-đà không tham vinh hoa địa vị chịu chết giữ đạo được sinh lên cõi trời sống tự tại an lạc. Còn vua Lưu Ly cuồng ngu buông lung tình ý, chết đọa địa ngục chịu biết bao đau khổ. Tất cả người đời không luận giàu sang hay nghèo hèn đều theo luật vô thường không thể trường tồn. Cho nên bậc Trượng phu thà hy sinh mạng sống để bảo toàn của báu tinh thần, hành vi. Nghe Đức Phật dạy xong, ai ai cũng tin nhận.  <章 id="41126384">Thí dụ 24: Thuở xưa, sau núi Kỳ-xà-quật có hơn bảy mươi gia đình Bà-la-môn đủ phước duyên đáng độ. Đức Phật đến làng đó hiển bày thần thông để giáo hóa. Dân làng trông thấy hào quang rực rỡ của Phật, ai cũng sinh lòng kính phục. Đức Phật ngồi dưới một cội cây, hỏi các Bà-la-môn: –Các ông ở trong núi này được bao nhiêu đời rồi? Làm nghề nghiệp gì để sống? Họ đáp rằng: –Chúng tôi ở đây đã hơn ba mươi đời, lấy việc canh tác, chăn nuôi làm nghề sinh sống. Đức Phật lại hỏi: –Các ông tu hạnh gì để cầu thoát ly sinh tử? Họ đáp rằng: –Thờ mặt trời, mặt trăng, lửa, nước, tùy thời tế tự. Nếu có người chết thì người trong làng lớn nhỏ tụ hội lại cầu nguyện cho thần hồn được sinh lên cõi trời Phạm thiên, thoát ly sinh tử. Đức Phật nói với các Bà-la-môn: –Làm ruộng, chăn nuôi, tế tự mặt trời mặt trăng lửa nước, cầu nguyện sinh Thiên không phải là pháp trường tồn xa lìa sinh tử. Phước lớn nhất không nơi nào hơn cõi trời thứ hai mươi tám mà nếu không có trí tuệ tu đạo vẫn bị đọa vào ba ác đạo. chỉ có xuất gia tu hạnh thanh tịnh, thân đạt tịch diẹât mới được Niết-bàn. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Cho chân là ngụy Lấy ngụy làm chân Đó là tà kiến Không được lợi thật. Biết chân là chân Thấy ngụy là ngụy Đó là chánh kiến Quyết được thật lợi. Người đời đều chết Ba cõi không an Chư Thiên tuy vui Phước hết, mất mạng Hãy quán thế gian Đã sinh phải tử Muốn thoát sinh tử Phải hành đạo chân. Bảy mươi vị Bà-la-môn nghe Đức Phật giảng xong, hoan hỷ tỏ ngộ, xin làm Sa-môn. Đức Phật bảo: –Lành thay! Hãy lại đây các Tỳ-kheo. Các vị ấy râu tóc liền tự rụng, thành tướng Tỳ-kheo. Đức Phật cùng với các vị ấy trở về tinh xá. Đi được nửa đường, các vị tân Tỳ-kheo bỗng nhớ vợ con, muốn trở về nhà. Lại nữa, lúc đó trời trở cơn mưa, càng thêm buồn thảm. Đức Phật biết ý, liền hóa ra vài mươi căn nhà bên đường, rồi cùng chúng Tỳ-kheo vào trú mưa. Lúc ấy mái nhà bị dột, nước mưa theo đó chảy vào. Nhân đây Đức Phật nói kệ: Nhà lợp không kín Nước mưa lọt vào Ý không siêng tu Tham dục xen khởi. Nhà lợp kín đáo Mưa không lọt vào Ý luôn siêng tu Dục không xen khởi. Bảy mươi vị Tỳ-kheo nghe Đức Phật nói kệ xong, cố gắng tự sách tấn, song lòng vẫn còn âm thầm lưu luyến. Mưa dứt, mọi người lại lên đường. Đi một đoạn, Đức Phật gặp một tờ giấy cũ bèn bảo các Tỳ-kheo lượm lên. Các Tỳ-kheo vâng theo lời sai bảo lượm lên. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo: –Đó là giấy gì vậy? Các Tỳ-kheo đáp: –Thưa đó là giấy gói hương, nay tuy đã quăng bỏ song mùi thơm vẫn còn. Đi thêm đoạn nữa, gặp một sợi dây, Đức Phật cũng bảo các Tỳ-kheo nhặt lấy. Các Tỳ-kheo vâng theo lời sai bảo lượm lên. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo: –Đó là dây gì vậy? Các Tỳ-kheo đáp: –Sợi dây này tanh hôi, chính là dây xâu cá. Đức Phật bèn dạy: –Mọi vật bản chất vốn thanh tịnh, song do nhân duyên mà có phước tội khác nhau. Thân cận người hiền minh thì đạo đức cao cả, kết giao kẻ ngu ám thì tội nghiệp đến bên. Ví như tờ giấy và sợi dây kia, gần hương thì thơm, gần cá thì tanh, gần gũi dần dần huân tập trở thành bản tánh mà không tự biết. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Kẻ xấu ô nhiễm người Như gần vật hôi dơ Mê dần, quen nết xấu Thành ác mà chẳng hay. Hiền nhân ảnh hưởng người Như gần vật xông hương Trí tăng, quen tánh thiện Thành hạnh lành sạch thơm. Bảy mươi vị Tỳ-kheo một lần nữa được nghe Đức Phật nói kệ khai thị, biết rõ lòng tham luyến cửa nhà là rừng dơ bẩn, vợ con nào khác gông xiềng, nhân đó liền phát khởi lòng tin kiên cố. Về đến tinh xá, mọi người nhiếp ý tu hành, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126385">Phẩm 11: PHÓNG DẬT <章 id="41126386">Thí dụ 25: Thuở Phật còn tại thế, có năm trăm vị thương khách từ biển mang về nước rất nhiều đồ thất bảo. Chẳng may khi đi ngang một khu núi rừng bị quỷ thần làm mê hoặc lạc mất lối ra, sức cùng lực kiệt lại thêm đói khát nên tất cả đều mất mạng. Châu báu của cải vì thế bỏ lại rải rác giữa núi. Lúc ấy, có một vị Sa-môn đang tu trong núi, thấy chuyện như vậy liền khởi niệm: “Ta cực khổ tu hành đã bảy năm mà không đắc đạo, lại chịu nghèo khổ không có chút gì tự nuôi sống. Nay gặp những vật báu vô chủ này, ta hãy lấy đem về gầy dựng nhà cửa cơ nghiệp.” Nghó vậy xong, Sa-môn bèn xuống núi gom lấy của báu giấu vào một chỗ rồi ra khỏi núi định tìm gọi anh em phụ mang về nhà. Đức Phật biết vị Tỳ-kheo này có thể độ được, bèn hóa ra một vị Tỳ-kheo-ni, cạo đầu đắp y mà lại trang điểm phấn son, vẽ mắt kẻ mày, đeo vàng ngọc đầy người. Vị Ni này đi vào núi, giữa đường gặp vị Sa-môn từ núi đi ra liền cúi đầu làm lễ hỏi thăm. Vị Sa-môn thấy cô Ni mà trang sức liền la rầy: –Pháp tắc cô Ni làm như vậy có được chăng? Đã cạo đầu đắp y sao lại còn trang điểm, đeo đồ trang sức? Tỳ-kheo-ni trả lời: –Pháp tắc Sa-môn làm như vậy có được không? Đã cắt ái từ thân, học đạo nơi chốn rừng sâu sao lại còn lấy của phi pháp? Tham dục quên đạo, buông lòng phóng dật, không xét lẽ vô thường. Cuộc sống trên đời vốn tạm bợ, còn tội báo lại đeo đẳng kéo dài. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo-ni nói kệ: Tỳ-kheo cẩn thận giới Phóng dật lỗi lầm nhiều Đổi thay nhỏ đến lớn Ác thành bị lửa thiêu. Giữ giới phước an vui Phạm giới tâm lo sợ Dứt được lâu ba cõi Vị ấy gần Niết-bàn. Vị Tỳ-kheo-ni nói kệ xong, liền hiện lại thân Phật tướng hảo quang minh. Sa-môn trông thấy kinh sợ dựng tóc gáy, vội cúi đầu đảnh lễ, phát lộ sám hối: –Con vì ngu si lầm lạc mà vi phạm chánh giáo. Đã dấn sâu không thể quay trở lại, giờ biết tính sao đây? Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ: Nếu trước phóng dật Sau biết tự ngăn Nhờ sức niệm định Tỏa sáng khắp trần. Lầm nên gây ác Sau đổi làm lành Nhờ sức niệm thiện Tỏa sáng khắp trần. Tuổi trẻ xuất gia Siêng tu pháp Phật Như trăng khỏi mây Chiếu sáng khắp trần. Người trước làm ác Sau ngưng không phạm Như trăng khỏi mây Chiếu sáng khắp trần. Bấy giờ vị Tỳ-kheo nghe xong, dứt bỏ mọi kết sử, không còn niệm tham, đảnh lễ dưới chân Phật. Rồi vị ấy trở về núi, ngồi dưới một gốc cây nỗ lực tu quán niệm hơi thở, không bao lâu chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126387">Phẩm 12: TÂM Ý <章 id="41126388">Thí dụ 26: Thuở Đức Phật còn tại thế, có một vị Đạo nhân tu dưới một cội cây bên bờ sông, suốt mười hai năm trời mà tham tưởng vẫn không dứt được. Tâm ý luôn phân tán nhớ nghó lục dục: Mắt đối sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp. Thân tuy yên mà ý lang thang chưa từng tónh lặng. Vì thế, dầu dụng công suốt mười hai năm mà vị ấy vẫn không đắc đạo. Đức Phật biết ông có thể độ được nên hóa ra một vị Sa-môn đi đến chỗ đó, cùng ngồi dưới cội cây. Một lát sau trăng mọc, có một con rùa bò từ dưới sông lên đến gần gốc cây. Lại có một con rái cá đang đói đi kiếm ăn, bỗng gặp con rùa liền định ăn thịt. Con rùa vội rút đầu đuôi và bốn chân vào mai, vì vậy rái cá không thể táp được. Rái cá rời xa chút ít thì rùa lại thò đầu đuôi tứ chi ra đi tiếp. Rái cá không thể làm gì được nên rùa thoát nạn. Vị Đạo nhân trông thấy nói với Sa-môn được hóa ra: –Con rùa có áo giáp bảo vệ thân mạng nên rái cá không làm gì được. Hóa Sa-môn đáp: –Tôi nghó rằng người đời không bằng con rùa này. Họ không biết lẽ vô thường buông lung lục tình, ngoại ma do đó có cơ hội xâm nhập. Thân hoại thần đi, sinh tử mênh mang, luân chuyển trong năm nẻo, chịu khổ não vô lượng đều do ý mà ra. Vì vậy nên tự sách tấn cầu chỗ an ổn diệt độ. Bấy giờ vị hóa Sa-môn liền nói kệ: Thân này chẳng bền Phải về đất sâu Hình rã, thần đi Sống tạm, chớ cầu. Chỗ tâm suy lường Rắc rối khó tường Nghó tưởng điều quấy Tự chuốc tai ương. Tự mình gây tạo Chẳng phải mẹ cha Gắng theo nẻo chánh Chớ quay lại tà. Nhiếp căn như “quy” Phòng ý giữ trì thành Trí dẹp ma chướng Thắng, hết hiểm nguy. Vị Tỳ-kheo nghe kệ xong, tâm tham dứt sạch, vọng tưởng lặng trong, liền đắc quả A-la-hán. Vị tân A-la-hán này liên biết hóa Sa-môn chính là Đức Phật nên sửa y cung kính đảnh lễ. Trời rồng quỷ thần ai cũng hoan hỷ.  <詞 id="41126389">Phẩm 13: HOA HƯƠNG <章 id="41126390">Thí dụ 27: Thuở xưa, Đức Phật trú tại nước Xá-vệ. Giữa vùng biển phía Đông nam nước này có một cái đài, trên đài có một cây nở hoa thơm ngát, trong sạch. Lúc ấy, có năm trăm cô gái dòng Bà-la-môn theo ngoại đạo tu hành rất tinh tấn, song không hề biết gì về Phật pháp. Họ bàn với nhau: –Chúng ta sinh ra mang thân phụ nữ, từ trẻ đến già đều bị ba điều ràng buộc không thể tự do. Lại nữa mạng sống ngắn ngủi, thân như huyễn hóa rồi sẽ tử vong. Chi bằng chúng ta hãy cùng nhau đến đài hoa thơm, hái hoa thờ cúng, tinh tấn trì trai, quy y Phạm thiên, nguyện được sinh lên cõi trời đó sống lâu bất tử, lại được tự tại không có ràng buộc, lìa các tội nghiẹâp không còn ưu hoạn.” Bàn xong, các cô liền sửa soạn đồ cúng đến đài đó, hái hoa thơm thờ cúng Phạm thiên, nhất tâm trì trai nguyện quy y với Thần minh. Bấy giờ Đức Thế Tôn quán sát các cô tuy giữ trai giới theo thế tục mà tâm có thể độ được. Cho nên Ngài cùng với đại chúng đệ tử, Bồ-tát, Trời, Rồng, Quỷ, Thần dùng thần thông bay đến ngồi dưới cội cây. Các cô thấy vậy vô cùng hoan hỷ, cho là Phạm thiên cảm được lòng thành cầu nguyện của mình mà giáng hạ. Lúc ấy có một Thần nhân nói với các cô: –Đây không phải là Phạm thiên mà là Đấng Tam Giới Tôn hiệu là Phật, cứu độ chúng sinh vô số. Các cô nghe vậy liền đến trước Phật đảnh lễ, rồi bạch: –Chúng con nhiều nhơ uế nay phải mang thân nữ, vì mong thoát khỏi sự ràng buộc kiềm thúc, nên nguyện sinh lên cõi trời Phạm thiên. Đức Phật nói: –Các cô vì muốn được thiện lợi nên phát nguyện như vậy. Trên đời có hai việc mà quả báo rõ ràng: Làm thiện được phước, làm ác chịu họa. Thế gian đau khổ, chư Thiên vui sướng. Hữu vi phiền não, vô vi tịch tónh. Mấy ai có thể chọn lựa lấy điều chân thật. Lành thay, các cô lại có tâm ý sáng suốt! Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Ai biết rõ cõi đất Khỏi địa ngục, sinh Thiên? Ai giảng nói Pháp cú Như chọn hoa đẹp tươi? Hữu học rõ cõi đất Khỏi địa ngục, sinh Thiên Và khéo nói Pháp cú Hái được hoa công đức. Biết thế gian mong manh Pháp huyễn hóa tạm có Bẻ gãy bẫy ma dụ Không còn có tử sinh. Thấy thân như bọt nước Pháp tánh vốn huyễn hư Bẻ gãy bẫy ma dụ Không còn có huyễn hư. Các cô nghe Đức Phật nói kệ xong, nguyện tu học theo chánh đạo, làm Tỳ-kheo-ni. Đức Phật hứa khả, tóc các cô tự rụng, đầy đủ pháp phục, tư duy lẽ tịch tónh, chứng quả A-la-hán. Ngài A-nan bạch với Phật rằng: –Bạch Đức Thế Tôn, các vị ấy có phước gì mà được Thế Tôn đến độ, vừa nghe Phật thuyết pháp liền xuất gia đắc đạo? Phật bảo A-nan: “Thời Đức Phật Ca-diếp có một vị trưởng giả giàu có, tài sản vô số. Vợ và hầu thiếp của ông đến số năm trăm. Nhưng tánh ông lại hay ghen, cửa nhà không thể vô cớ mà mở ra được. Các bà vợ muốn đến lễ Phật, nhưng rốt lại ông cũng không cho. Một hôm, quốc vương cho mời các đại thần vào cung dự tiệc suốt một ngày. Các bà nhân dịp trưởng giả đi dự tiệc mới cùng nhau đến chỗ Đức Phật đảnh lễ, rồi ngồi giây lâu nghe kinh. Các bà đồng phát nguyện: –Xin cho chúng con đời đời không gặp người ác, sinh ra chỗ nào thường gặp Thánh nhân đạo đức. Chúng con nghe rằng đời vị lai có Đức Phật hiệu là Thích-ca Văn, xin cho chúng con được gặp, xuất gia học đạo, phụng trì giáo huấn. Đức Phật nói với A-nan: –Năm trăm phu nhân thuở ấy là năm trăm vị Tỳ-kheo-ni hiện nay. Do bổn nguyện khẩn thiết nên nay được độ và cũng vì lẽ đó ta đến để giáo hóa họ. Đức Phật nói xong, không ai là không hoan hỷ. KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ <卷 id="41126391">QUYỂN 2 <詞 id="41126392">Phẩm 14: DỤ HOA HƯƠNG <章 id="41126393">Thí dụ 28: Thuở xưa, Đức Phật mới đắc đạo giáo hóa tại thành La-duyệt-kỳ rồi chuyển đến nước Xá-vệ. Vua nước Xá-vệ và quần thần vô cùng tôn kính Đức Phật. Lúc đó có một vị đại thương gia tên là Ba-lợi cùng năm trăm thương khách ra biển tìm châu báu. Giữa biển, đoàn thương buôn gặp một vị hải thần đưa ra một vốc nước ngọt hỏi Ba-lợi: –Nước biển nhiều hay nước trong vốc tay này nhiều? Ba-lợi đáp: –Vốc nước này nhiều. Vì sao? Nước biển tuy nhiều mà vô ích, lúc cần không thể cứu cho người đói khát. Vốc nước này tuy ít mà gặp kẻ khát đem cho họ có thể cứu được mạng sống. Nhờ đó đời đời hưởng phước không thể tính đếm. Hải thần nghe xong hoan hỷ khen lành thay, rồi cởi xâu chuỗi hương anh làm bằng thất bảo trên thân biếu cho Ba-lợi và hộ tống thuyền trở về nước Xá-vệ bình yên vô sự. Về nước, Ba-lợi mang xâu chuỗi hương anh dâng lên vua Ba-tư-nặc, kể rõ đầu đuôi câu chuyện, rồi thưa: –Xâu chuỗi hương anh không phải là món đồ trang sức của kẻ tiểu nhân này, nên nay đem dâng lên vua xin hãy nhận cho. Vua nhận được chuỗi ngọc cho là vật kỳ lạ quý hiếm, liền cho gọi các phu nhân ra trình diện, vị nào đẹp nhất sẽ cho xâu chuỗi hương anh này. Tất cả sáu vạn phu nhân đều trang điểm lộng lẫy bước ra, nhưng lại thiếu Mạt-lợi phu nhân. Vua hỏi: – Mạt-lợi phu nhân sao lại không ra? Thị nữ tâu: –Hôm nay là ngày rằm, Mạt-lợi giữ trai giới mặc đồ trắng không hợp lễ nghiêm cách nên không ra. Vua liền nổi giận cho người bảo: “Trì trai giới mà dám trái lệnh của vua sao?”. Gọi ba lần như vậy, Mạt-lợi phu nhân mới bước ra. Bà không trang điểm chỉ mặc đồ trắng đơn sơ, song đứng giữa mọi người, sắc đẹp và phong cách lại sáng rỡ như mặt trời mặt trăng, gấp bội lúc bình thường. Vua giật mình kính nể hỏi: –Khanh nhờ công đức gì mà thần sắc rạng rỡ đặc biệt như thế? Phu nhân tâu vua: –Thiếp tự nghó mình thiếu phước nên phải chịu mang thân người nữ. Những tâm lý xấu xa, nhỏ nhen chất chứa như núi. Mạng người ngắn ngủi sợ đọa vào tam đồ, nên hàng tháng phụng trì trai giới, cắt ái theo đạo, đời đời mong được hưởng phước.” Vua nghe xong hoan hỷ liền ban cho Mạt-lợi xâu chuỗi hương anh. Phu nhân từ tạ: –Thiếp nay trì trai không thích hợp đeo đồ trang sức, xin cho vị khác.” Vua nói: –Tôi có ý tặng chuỗi ngọc này cho người nào đẹp nhất. Nay khanh đẹp nhất, lại biết trì trai phụng đạo, ý chí cao thượng nên ta tặng cho khanh. Nếu khanh không chịu nhận ta xử trí sao đây? Phu nhân đáp: –Xin vua đừng buồn, hãy thuận ý cùng thiếp đến chỗ Đức Phật dâng chuỗi ngọc này lên cúng dường, để nhận được lời giáo huấn của Bậc Thánh sẽ hưởng phước lạc muôn đời.” Vua đồng ý, liền cho thắng xa giá đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát đất, rồi ngồi qua một bên thưa với Đức Phật: –Đây là chuỗi ngọc hương anh của hải thần tặng cho Ba-lợi. Ông ấy đem dâng lên con. Sáu muôn phu nhân không ai chẳng thích, nhưng Mạt-lợi phu nhân được tặng lại không nhận, do vì trì Phật pháp trai giới tâm không tham dục. Nay chúng con thành tâm dâng lên Đức Thế Tôn, xin hãy thùy từ nạp thọ. Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử Phật kiên tâm gìn giữ trai giới, tín tâm kiên cố như vậy, có phước đức chăng? Lúc đó Đức Thế Tôn vì lòng thành của vua và phu nhân nhận chuỗi ngọc, rồi nói kệ khai thị: Làm nhiều hoa báu Kết thành tràng đẹp Tích nhiều hương đức Mỗi đời phúc hơn. Hoa thơm hay cỏ lạ Hương không ngược gió Gần đạo người ấy Đức tỏa muôn phương. Chiên-đàn thơm ngát Sen xanh ngạt ngào Tuy hương thơm thật Sao sánh giới hương? Hương hoa thơm ngát Chẳng phải thật thơm Hương của trì giới Vượt đến cõi trời! Giới thành tựu đủ Hạnh chẳng buông lung Định ý giải thoát Lìa xa đường ma. Đức Phật nói kệ xong, lại bảo vua: –Công đức phước báo của trai giới thật đáng ca ngợi rộng rãi. Dầu cho đem đến tất cả trân bảo khắp mười sáu nước lớn trong thiên hạ ra bố thí, công đức này so với công đức Mạt-lợi phu nhân một ngày một đêm trì trai giới trong Phật pháp không bằng trong muôn một, như hạt đậu sánh với núi Tu-di, trì trai tích phước tu tuệ có thể đến Niết-bàn. Vua, phu nhân và quần thần nghe xong ai cũng hoan hỷ y giáo phụng hành.  <章 id="41126394">Thí dụ 29: Thuở xưa Đức Phật trú trên núi Kỳ-xà-quật thành La-duyệt-kỳ. Lúc đó, trong thành có năm mươi chàng thanh niên con các bậc trưởng giả đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi qua một bên. Đức Phật thuyết giảng cho họ nghe các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, ân ái như giấc mộng, gặp gỡ sẽ phân ly, giàu sang danh vọng vẫn khổ đau, chỉ có Niết-bàn dứt hẳn sinh tử, không còn tai ương mới là đại an lạc. Nghe pháp xong, năm mươi vị này tâm vô cùng hoan hỷ, xin làm đệ tử. Đức Phật nói: –Lành thay, hãy lại đây các Tỳ-kheo. Các vị ấy râu tóc tự rụng, pháp phục tự đầy đủ, liền thành Sa-môn. Các vị tân Tỳ-kheo có bạn bèn quen biết là những vị trưởng giả, nghe tin họ xuất gia hoan hỷ tìm đến thăm và khen ngợi: –Các vị thật phước đức biết bao mới có được chí hướng này! Rồi họ thỉnh Đức Phật và chúng Tăng ngày mai về nhà họ thọ trai. Ngày mai, Đức Phật và đại chúng đến đó thọ trai, xong rồi thuyết pháp đến chiều mới về. Các vị tân Tỳ-kheo bỗng lưu luyến gia đình quyến thuộc, muốn trở về nhà. Đức Phật biết ý dẫn họ ra khỏi cổng thành, thấy trong mương ruộng bùn lầy dơ dáy đầy phẩn rác lại mọc lên những đóa hoa sen hương sắc thơm sạch, tỏa ngát lấn át mùi hôi. Đức Phật liền bước lại gần và nói bài kệ: Như ruộng rãnh hôi dơ Bên đường cái nằm trơ Hoa sen mọc trong đó Thơm sạch đẹp ý người. Cũng vậy giữa phàm phu Bị sinh tử cầm tù Người trí vui giải thoát Làm Phật tử tiến tu. Đức Phật nói kệ xong liền trở về núi. Tôn giả A-nan đến trước thưa Phật: –Lúc nãy, Đức Thế Tôn đến bên mương ruộng có nói hai bài kệ mà chúng con chưa rõ nghóa. Xin Phật hãy vì chúng con mà giải thích kỹ càng. Đức Phật hỏi A-nan: –Ông có thấy trong vũng bùn lầy phẩn rác nhơ nhớp mà mọc lên hoa sen chăng? Ngài A-nan thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật bảo: –Này A-nan, người sống lần lữa trong đời, tuổi định một trăm, khi thọ khi yểu. Vợ con ân ái, đói khát nóng lạnh, lúc buồn lúc vui, một hung, hai kiết, ba độc, bốn đảo, năm ấm, sáu nhập, bảy thức, tám tà, chín não, mười ác, giống như mương ruộng chứa đầy phẩn rác, sình lầy bất tịnh. Nếu có người giác ngộ cõi đời là vô thường, phát tâm học đạo tu hạnh thanh tịnh, tâm an định, dứt hết vọng tưởng chứng được đạo quả. Đây cũng giống hoa sen thơm sạch mọc lên giữa bùn nhơ. Những vị đó mình đã đắc đạo lại độ cho thân tộc, tất cả chúng sinh đều được khai ngộ. Đây giống như mùi thơm của hoa sen lấn át mùi hôi hám. Năm mươi vị tân Tỳ-kheo nghe Đức Phật dạy xong, tâm chí tinh tấn kiên cố, chứng được quả A-la-hán.  <詞 id="41126395">Phẩm 15: NGU ÁM <章 id="41126396">Thí dụ 30: Thuở xưa Đức Phật trú tại nước Xá-vệ. Trong thành có một vị Bà-la-môn tuổi gần tám mươi, giàu có vô cùng. Nhưng ông lại là người ngu ám ngoan cố, keo kiệt xan tham khó độ, không tin đạo đức, không biết vô thường, ham thích cất nhà to lớn đẹp đẽ. Ông cất nhà trên, nhà dưới, đài hóng mát, nhà sưởi ấm, dãy bên Đông, dãy bên Tây… cả mấy mươi gian, duy chỉ còn mái hiên che nắng căn nhà sau là chưa xong. Lúc đó vị Bà-la-môn để hết tâm trí lo chỉ huy mọi người làm việc. Đức Phật dùng Phật nhãn thấy mạng ông sống không hết ngày hôm đó. Thế mà ông không tự biết, cứ mải miết lo tính toán nhọc nhằn, đến nỗi thân tâm tiều tuî, thật vô phước đáng thương! Đức Phật cùng A-nan đi đến nhà ông, thăm hỏi: –Ông có mệt nhọc lắm không? Nhà cửa nhiều như vậy dùng để ai ở? Ông lão đáp: –Nhà trước dùng tiếp khách, nhà sau để ở, hai dãy bên Đông bên Tây dành cho dâu con, tôi tớ và cất chứa của cải. Mùa hạ thì lên đài hóng mát, mùa đông lại vào phòng sưởi ấm. Đức Phật nói: –Đã lâu nghe danh đức của ông, mà nay mới có dịp trò chuyện. Tôi có một bài kệ quan trọng có ích lợi cho việc tồn vong suy thịnh, muốn đem tặng ông. Không biết ông có vui lòng nghỉ tay ngồi nói chuyện một chút không? Ông lão đáp: –Hôm nay bận lắm, không thể ngồi trò chuyện, xin hẹn hôm khác đến sẽ thong thả luận bàn. Còn bài kệ quan trọng gì đó xin nói ngay đi. Lúc ấy Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Có con, có của Người ngu rộn ràng Ta còn không thật Lo gì của, con. Nóng ở chỗ này Lạnh ở chỗ kia Người ngu lo Không biết đổi thay. Kẻ ngu cực cùng Tự cho là trí Ngu mà tưởng trí Chính là cực ngu! Vị Bà-la-môn nghe xong nói: –Bài kệ này hay thật, nhưng hôm nay tôi rất bận, xin bữa khác hãy đến bàn luận. Đức Phật chỉ biết xót thương ra đi. Ông lão sau đó đích thân đỡ cây đòn dông lên, không ngờ cây đòn dông rơi xuống trúng vỡ đầu chết! Con cháu than khóc động cả hàng xóm xung quanh. Đức Phật đi chưa bao xa liền xảy ra biến cố này. Khi Phật đến đầu làng gặp vài mươi người Bà-la-môn, họ hỏi Phật: –Ngài từ đâu lại? Đức Phật đáp: –Ta đã đến nhà ông lão mới chết để thuyết pháp cho ông nghe. Nhưng ông ta không tin lời Phật, không biết lẽ vô thường, giờ đây bỗng chốc đã sang đời khác! Rồi Đức Phật nói lại bài kệ trước cho các vị Bà-la-môn nghe, ai nấy đều hoan hỷ chứng được pháp nhãn. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ngu gần người trí Như muỗng múc vị Dầu gần rất lâu Vẫn không biết pháp. Thông đạt gần trí Như lưỡi nếm vị Dầu gần giây lát Liền hiểu đạo mầu. Người ngu làm gì Thân cũng rước họa Thích ý làm ác Tự chuốc tai ương. Làm điều bất thiện Xét lại, ăn năn Tràn rơi nước mắt Quả tụ từ lâu. Các Bà-la-môn nghe thêm bài kệ này lòng tin càng kiên cố, đảnh lễ Đức Phật rồi hoan hỷ phụng hành.  <章 id="41126397">Thí dụ 31: Thuở xưa, Đức Phật trú ở tinh xá Cấp cô độc tại nước Xá-vệ vì hàng trời, người thuyết pháp. Lúc ấy vua Ba-tư-nặc có một người con gái góa bụa là Kim Cương, tuổi còn trẻ mà đã thành quả phụ, nay về ở với cha mẹ. Vua và hoàng hậu rất thương xót, xây riêng một tòa cung điện và cho năm trăm thị nữ đàn hay múa giỏi phục vụ cho nàng vui. Trong số đó có một cô thị nữ lớn tuổi tên là Độ Thắng, thường ngày đi chợ mua phấn sáp hương hoa. Một hôm đi chợ, cô thấy rất đông người mang hương hoa đi ra ngoài thành đến chỗ Phật. Cô ngạc nhiên hỏi thăm, thì được trả lời: –Đức Phật là Bậc Tôn Quý trong ba cõi đang ra đời cứu độ chúng sinh khỏi khổ não, được Niết-bàn. Độ Thắng nghe xong tâm sinh hoan hỷ, liền tự nghó: –Mình lớn tuổi rồi mà còn được gặp Phật thì thật là duyên phước đời trước.” Nghó xong cô bèn lấy một phần tiền mua hương mua hoa tươi đẹp theo mọi người đến chỗ Đức Phật. Đến nơi nàng đảnh lễ rồi mới đứng lên rải hoa, đốt hương, nhất tâm nghe pháp. Sau đó Độ Thắng trở lại chợ mua hương ra về. Nhờ công đức nghe pháp và phước báo đời trước khởi theo nên hương nàng đem về thơm ngào ngạt gấp đôi lúc thường. Thấy Độ Thắng về muộn mọi người cùng gạn hỏi lý do, Độ Thắng bèn kể lại mọi chuyện và nói: –Hiện nay có Bậc Tối Tôn trong tam giới, gióng tiếng trống Vô thượng pháp, chấn động khắp Tam thiên thế giới. Có vô số người đến đó nghe pháp, tôi thật vì theo nghe nên trở về trễ. Các thị nữ vừa hoan hỷ vừa buồn bã tự than rằng: “Chúng ta tội chướng gì sao lại không được nghe pháp.” Rồi họ cùng nhau nhờ Độ Thắng nói lại cho nghe. Độ Thắng đáp: –Thân tôi hạ tiện, miệng tôi ô uế không dám tùy tiện nói. Nay xin đến gặp Đức Phật hỏi lại, nếu Ngài đồng ý thì xin tuân mệnh nói lại. Kim Cương sai Độ Thắng lại đến chỗ Phật thỉnh ý. Đức Phật đồng ý và dạy cho cô những nghi thức thuyết pháp. Trong khi Độ Thắng chưa về, Kim Cương và các thị nữ hồi hộp ra sân đứng đón, như con chờ mẹ. Đức Phật bảo với Độ Thắng: –Con trở về thuyết pháp sẽ độ thoát nhiều người. Nghi thức thuyết pháp trước nên lập một tòa cao, rồi ngồi trên đó giảng pháp. Độ Thắng vâng lời Phật dạy, trở về thưa lại Thánh ý. Kim Cương và hơn năm trăm thị nữ vô cùng hoan hỷ, cùng nhau cởi áo ngoài chất lại làm tòa cao. Độ Thắng tắm rửa, rồi thừa oai thần của Phật thăng tòa thuyết pháp. Kim Cương và hơn năm trăm thị nữ dứt hết nghi ngờ, không còn ác kiến chứng được quả Tu-đà-hoàn. Do vì quá hoan hỷ thuyết pháp và nghe pháp nên khi xảy ra hỏa hoạn mọi người không hay. Tất cả đều chết cháy và được sinh lên cõi trời. Vua Ba-tư-nặc hay tin liền dẫn người đến cứu. Nhưng khi đến nơi tất cả đều đã chết cháy. Vua chỉ còn biết thâu lượm thi hài lo việc chôn cất. Mọi việc xong, vua đến chỗ Đức Phật đảnh lễ rồi ngồi qua một bên như thường lệ. Đức Phật hỏi: –Vua đến có việc gì vậy? Vua chắp tay thưa: –Con gái con là Kim Cương và hơn năm trăm thị nữ chẳng may bị lửa thiêu chết. Con vừa lo việc chôn cất xong. Chẳng biết Kim Cương và bọn họ mang tội gì mà bị lửa thiêu như vậy. Xin Đức Thế Tôn giảng cho con biết. Đức Phật mới kể: –Đời quá khứ có một thành tên là Ba-la-nại. Trong thành có một người vợ trưởng giả dẫn năm trăm thể nữ ra ngoài thành tế tự tại ngôi miếu lớn. Cách họ cúng tế rất khắc nghiệt, người ngoài không được đến gần. Không luận thân sơ, nếu ai vi phạm đến gần sẽ bị ném vào lửa. Lúc đó, có một vị Bích-chi-phật tên là Ca-la ở trong núi. Mỗi ngày, lúc sáng sớm vào thành khất thực đến chiều lại về. Hôm đó Ca-la đi khất thực ngang qua ngôi miếu tế tự ngoài thành kia. Vợ trưởng giả thấy vậy nổi giận, cùng nhau bắt Ca-la ném vào lửa. Thân Ca-la liền bị thiêu cháy, bỗng nhiên ngài hiện thần thông bay lên hư không. Các cô vô cùng kinh hãi, khóc lóc sám hối, quỳ gối đảnh lễ rồi tự thưa rằng: “Người nữ chúng con ngu xuẩn không biết ngài là bậc Chí chân nên đã lỡ lầm hủy nhục Thánh tăng. Chúng con tự nghó tội ác của mình thật nhiều như núi, nên xin quy y Tôn đức để tiêu trọng tội.” Vị Bích-chi-phật nghe xong liền hạ thân xuống, nhập Niết-bàn. Các cô liền xây tháp cúng dường xá-lợi. Đức Phật kể đến đó liền nói kệ: Người ngu làm ác Không thể tự giải Tội thành, họa đến Thiêu đốt thân tâm. Ngu nên vọng tưởng Chẳng xét khổ vương Lúc lâm ách nạn Bất thiện mới tường. Đức Phật nói với vua: –Vợ trưởng giả ngày đó chính là Kim Cương con gái vua hiện nay. Năm trăm vị thị nữ thuở xưa chính là nhóm Độ Thắng năm trăm tì nữ kia vậy. Tội phước dầu lâu vẫn không mất. Thiện ác theo người như bóng theo hình. Lúc Đức Phật nói pháp này, nhân dân trong nước đều tin phục hoan hỷ, quy y Tam bảo, thọ Ngũ giới, thấy được lẽ đạo.  <詞 id="41126398">Phẩm 16: MINH TRIẾT <章 id="41126399">Thí dụ 32: Thuở xưa có một vị Bà-la-môn tuổi mới hai mươi mà có thiên tài bẩm sinh, mọi việc lớn nhỏ liếc qua liền biết. Anh ta tự cho mình là minh triết, thề rằng: “Quyết sẽ thông hiểu hết những kỹ thuật trong thiên hạ, nếu còn một nghề nào chưa thông thì chưa phải là minh triết.” Do đó, vị Bà-la-môn đi tu học với tất cả mọi thầy hay, lục nghệ tạp thuật, thiên văn, địa lý, y học, thuật trấn áp núi lỡ động đất, thông thạo kỹ nhạc, cắt may, thêu thùa, nấu nướng bếp núc… nói chung mọi việc trong đời đều biết. Bà-la-môn tự nghó: “Mình giỏi như vậy, ai mà sánh bằng mình, hãy thử đi qua các nước, thi thố tài nghệ chiết phục mọi người để danh vang bốn biển, kỹ thuật thấu trời xanh, tên tuổi lưu lại trong sử sách trăm đời sau.” Thế rồi, vị ấy đi khắp nơi. Đến một nước, anh vào chợ gặp một người thợ làm cung tên đang ngồi tách dây gân, chuốt mũi tên, tay làm thoăn thoắt. Mọi người chen lấn nhau mua. Bà-la-môn tự nghó: “Sở học của ta tưởng đã đầy đủ, không ngờ coi thường không học làm cung, nếu cùng người ấy thi tài ta chắc chắn sẽ thua. Ta nên theo vị ấy học nghề.” Nghó xong, anh bèn bái vị thợ cung làm thầy, dốc lòng học hỏi. Không bao lâu, anh đã biết cách làm cung chuốt tên, khéo léo còn hơn cả thầy. Anh trả tiền công cho thầy rồi từ giã ra đi. Đến nước khác, khi sắp qua sông anh gặp một vị thuyền sư lèo lái thuyền tới lui, qua lại, lượn vòng một cách khéo léo, nhanh nhẹn như bay, thật chưa từng thấy! Anh tự nghó: “Mình tuy biết nhiều nghề, xong chưa từng học lái thuyền. Đây dù chỉ là một nghề mọn, ta cũng nên học qua cho biết.” Anh liền xin học nghề với vị thuyền sư, nhờ siêng năng thờ thầy, hết lòng học tập chẳng bao lâu anh đã nắm vững mọi kỹ thuật lái thuyền, còn nhanh nhẹn khéo léo hơn cả thầy. Sau đó anh ta trả công từ giã thầy ra đi. Vị Bà-la-môn đi đến một nước khác, thấy cung điện của vua này nguy nga lộng lẫy nhất trong thiên hạ. Anh liền nghó: “Người thợ xây cất cung điện này thật là hay khéo. Sao ta trước giờ không chịu học môn này, nếu cùng với người thợ đó thi tài chắc chắn sẽ thua! Ta phải theo học mới vừa lòng.” Anh xin làm đệ tử với người thợ xây cất cung điện. Nhờ sự tận tâm lo lắng cho thầy, chịu cực chịu khổ học nghề, chẳng bao lâu anh đã nắm vững mọi kỹ thuật kiến trúc và điêu khắc trang trí. Tài ba của anh còn vượt hơn cả thầy. Anh tặng thầy tất cả tiền bạc rồi ra đi. Bà-la-môn đi khắp mười sáu nước lớn trong thiên hạ, thách mọi người thi tài mà không có ai dám. Nhân đó, sinh tâm cống cao tự đại, cho rằng: “Trong đời này còn ai hơn ta nữa?”. Lúc ấy Đức Phật ở tinh xá Kỳ viên từ xa thấy vị ấy, biết rằng có thể độ được, Ngài liền dùng thần thông hóa ra một vị Sa-môn cầm tích trượng ôm bình bát đến trước người đó. Trong nước, lúc ấy chưa có đạo pháp, chưa từng thấy Sa-môn nên vị Bà-la-môn thấy làm lạ không biết đó là hạng người gì. Ông định hỏi thăm thì Sa-môn đã đến cạnh bên. Ông liền hỏi: –Phép tắc của trăm đời vua chưa thấy ai như ông. Cách phục sức nơi nơi chưa có thứ y phục này. Những vật lạ trong tông miếu tôi từng thấy qua, song không thứ nào giống bình bát ông cầm. Ông là ai mà hình dáng trang phục khác thường như vậy? Vị Sa-môn trả lời: –Tôi là người tự điều phục mình. Vị Bà-la-môn ngạc nhiên hỏi tiếp: –Sao gọi là tự điều phục mình? Bấy giờ vị Sa-môn bèn dựa vào sự học tập của ông Bà-la-môn mà nói kệ: Thợ cung chuốt tên Thuyền sư lái thuyền Thợ mộc khắc gỗ Người trí điều thân. Như tảng đá lớn Gió thổi chẳng động Người trí tâm an Khen chê chẳng đổi. Như vực nước thật sâu Trong lặng, một màu Người trí nghe đạo Tâm tịnh hết sầu. Vị Sa-môn nói kệ xong, bay lên hư không, hiện lại thân Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, hào quang rực rỡ chiếu khắp đất trời. Rồi Đức Phật lại hạ xuống đất, nói với vị Bà-la-môn: –Đây chính là sức điều phục mình biến hóa ra trong đạo của Ta. Bà-la-môn liền quỳ mọp sát đất đảnh lễ, rồi hỏi: –Xin cho biết yếu chỉ điều phục mình? Đức Phật đáp: –Năm Giới, mười Thiện, sáu Độ, bốn Tâm bình đẳng, bốn Thiền, ba môn Giải thoát chính là pháp yếu điều phục mình. Các kỹ thuật như làm cung, lái thuyền, điêu khắc, thuật lạ… đều là việc trang sức bên ngoài. Tâm ý buông lung chạy theo đuổi bắt chúng là đi vào đường sinh tử vậy. Bà-la-môn nghe xong, hoan hỷ xin làm đệ tử Phật. Đức Phật bảo: –Lành thay, hãy lại đây Tỳ-kheo! Vị Bà-la-môn râu tóc liền tự rụng, thành Sa-môn. Sau đó, Đức Phật giảng cho vị ấy nghe các pháp yếu như Tứ đế, Bát giải thoát. Vị ấy tư duy quán chiếu liền chứng quả A-la-hán.  <章 id="41126400">Thí dụ 33: Thuở xưa, Đức Phật trú tại nước Xá-vệ. Trong nước cách thành năm trăm dặm có một làng sơn cước gồm năm mươi gia đình. Trong làng, có một gia đình nghèo. Người vợ chủ nhà mang thai mười tháng song sinh được hai đứa bé trai rất xinh đẹp. Hai vợ chồng rất thương con, đặt tên cho một đứa là Song Đức, một đứa là Song Phúc. Sinh ra gần được hai tháng, một hôm nhân lúc người mẹ ra ngoài kiếm củi, còn người cha nằm nghỉ trên giường sau khi chăn trâu về, hai đứa nhìn quanh quất không thấy cha mẹ bèn than thở với nhau. Một đứa nói: –Đời trước tôi sắp đắc đạo, lại khởi ý ngu si cho rằng mạng sống là thường, nên đã lui sụt, trôi lăn trong sinh tử không biết bao nhiêu kiếp. Nay sinh làm con trong gia đình nghèo này, ở nhà tranh, đắp tả rách, ăn uống kham khổ để nuôi thân, không biết đến chừng nào mới đắc đạo! Đây cũng là do đời trước tham luyến giàu sang, buông lung tình ý, tìm vui trong chốc lát mà từ đó đến nay phải chịu biết bao nhiêu đau khổ. Nay còn biết nhờ cậy vào ai? Đứa kia nói: –Tôi kiếp xưa, chỉ hơi ngại khó chuyện chuyên cần nhất thời, rốt lại không lo tinh tấn tu tập nên nhiều đời gặp phải khổ hoạn. Đây là mình làm mình chịu, không phải cha mẹ gây ra. Chúng ta phải chịu đựng còn than thở gì? Người cha nghe con nói vô cùng quái lạ, suy nghó: “Đây chắc là ma quỷ đầu thai, ắt có tai biến. Làm gì trẻ con mới mấy mươi ngày mà đã biết nói. Sợ rằng ngày sau chúng giết cha mẹ, hại thân tộc. Nhân lúc chúng còn nhỏ chưa lớn ta nên giết đi để trừ hậu hoạn.” Nghó vậy xong, ông lén ra khỏi nhà đóng cửa lại, ra đồng lấy củi về định đốt chết hai con. Người vợ trở về hỏi chồng lấy củi làm chi. Người chồng đáp: –Thật là chuyện kinh quái! Mấy đứa con còn nhỏ mà đã biết nói chuyện. Đây chính là ma quỷ, chắc sẽ làm hại gia tộc, nên tôi định giết chúng ngay lúc nhỏ. Người mẹ nghe xong, ngạc nhiên do dự chưa tin. Bà bảo với chồng hãy tạm chờ vài bữa nữa rồi sẽ tính. Sáng hôm sau, hai vợ chồng lén ra ngoài, núp bên cửa rình nghe, quả nhiên thấy hai đứa trẻ than thở với nhau y như cũ. Hai người quyết tâm lần này chất củi đốt chết hai đứa con. Đức Phật với Thiên nhãn thấy được việc này, thương cho hai đứa trẻ có túc phước đáng độ nên đến làng đó phóng hào quang rực rỡ, trời đất rung động, vạn vật đều trở nên sắc vàng. Dân làng ai cũng kinh ngạc, hoan hỷ đến chỗ Phật đảnh lễ vì biết đây là Bậc Chí Tôn trong tam giới. Đức Phật đi thẳng đến nhà hai đứa bé. Chúng thấy hào quang rực rỡ của Phật, vui mừng khôn xiết. Hai vợ chồng thấy thế ngạc nhiên, mỗi người một đứa đến chỗ Đức Phật hỏi: –Bạch Đức Thế Tôn, hai đứa trẻ này sinh ra mới gần hai tháng mà đã biết nói chuyện như thế. Chúng con không biết lẽ gì, e rằng sau này chúng sẽ gây họa nên định phóng lửa đốt chết, song chưa kịp làm thì Phật đã đến. Không biết đây là ma quỷ gì, xin Đức Phật giải thích. Quái lạ thay, hai đứa nhỏ trông thấy Đức Phật lại quơ tay chào lộ vẻ vui mừng. Đức Phật trông thấy hai đứa trẻ bèn mỉm cười, hào quang năm sắc từ miệng phóng ra tỏa khắp đất trời, rồi bảo với cha mẹ đứa bé và nhân dân trong làng: –Hai đứa bé này không phải ma quỷ mà là con phúc đức. Vào thời Đức Phật Ca-diếp chúng đã từng làm Sa-môn. Hai đứa thuở nhỏ đã kết bạn chung chí xuất gia, tu hành tinh tấn. Khi sắp đắc đạo, hai người bỗng khởi tà chướng ngăn giải thoát, tham đắm vinh hoa. Họ suy nghó sai lầm: “Chỉ cần tu phước sẽ sinh lên cõi trời. nếu sinh hạ giới cũng làm vua chúa trưởng giả.” Tà tưởng vừa sinh liền thoái chuyển đạo tâm, không được Niết-bàn, rơi vào trong sinh tử, nhiều đời nhiều kiếp thường gần bên nhau. Đến đời Ta lại sinh đôi trong nhà nghèo này. Nhờ công đức cúng dường Phật quá khứ nên còn dư phước có thể độ được, tội hết phước sinh, biết túc mạng mình, nên nay Đức Thế Tôn đến đây để độ. Nếu Ta không độ, chúng sẽ bị lửa thiêu chết oan uổng. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Đại nhân tánh vô dục An trú nơi quang minh Dù gặp cảnh khổ vui An nhiên, trí hiện tiền. Đại hiền không nhiễm đời Không mong của, nước, con Thường giữ đạo giới tuệ Không tham phú quý tà. Trí giả biết vô thường Cảnh giác cây trên cát Bạn chí không kiên cường Như sắc trắng nhiễm màu. Đức Phật nói kệ xong, hai đứa bé thấy thân Phật liền vươn mình lớn lên như trẻ tám tuổi, rồi làm Sa-di chứng quả A-la-hán. Người trong làng thấy hào quang Phật, lại thấy hai đứa bé thay đổi lạ thường đều rất hoan hỷ, đắc qủa Tu-đà-hoàn. Cha mẹ đứa bé dứt hết nghi ngờ chứng được pháp nhãn.  <詞 id="41126401">Phẩm 17: A-LA-HÁN <章 id="41126402">Thí dụ 34: Thuở xưa, có một nước tên là Na-lê gần miền biển phía Nam. Dân chúng nước đó sống bằng nghề mò ngọc trai, tìm gỗ chiên-đàn. Trong nước có một nhà gồm hai anh em, cha mẹ mới mất định chia tài sản ở riêng. Nhà có một người nô lệ tên là Phân-na tuổi nhỏ thông minh, rành việc buôn bán và ra biển kiếm ngọc trai. Cách chia gia tài của họ là: Nhà cửa tài sản tính làm một phần, nô lệ Phân-na tính làm một phần. Hai người rút thăm, người em bắt được phần nô lệ, bèn cùng vợ con với người nô lệ tay trắng ra đi. Lúc ấy tình hình sinh hoạt cơ khổ khó khăn, mà chỉ được có một người nô lệ, nên người em rất lo buồn không biết lấy gì để sống. Phân-na liền thưa với chủ: –Xin ngài đừng lo, Phân-na này sẽ tìm cách trong thời gian ngắn ngài sẽ giàu có hơn người anh. Người em nói: –Nếu ngươi làm được như vậy, ta sẽ trả tự do cho ngươi làm thường dân. Vợ người em có một số châu ngọc riêng bèn giao cho Phân-na làm vốn. Lúc đó hải triều lên, dân chúng trong thành ra mé biển nhặt củi. Phân-na đem châu ngọc ra ngoài thành gặp một đứa trẻ ăn xin vác củi. Trong bó củi có gỗ thơm Ngưu đầu chiên-đàn có thể trị bệnh nặng, một lượng đáng giá ngàn vàng. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở, Phân-na biết bèn đưa ra hai đồng tiền mua được bó cây đem về chặt ra làm vài mươi đoạn. Lúc đó có một vị trưởng giả lâm bệnh nặng, cần hai lượng Ngưu đầu chiên-đàn điều chế thuốc uống, mà tìm không ra. Phân-na đem gỗ hương chiên-đàn đến đổi lấy được hai ngàn lượng vàng, rồi mua sắm hết số tiền kiếm được giúp người em giàu hơn anh gấp bội. Người em cảm niệm ân của Phân-na nên giữ đúng lời hứa cho Phân-na tự do, tùy ý làm gì thì làm. Phân-na liền từ giã gia đình người em ra đi học đạo. Phân-na đến nước Xá-vệ đảnh lễ Phật rồi quỳ thẳng chắp tay thưa: –Con là dòng dõi hạ tiện song rất hâm mộ đạo pháp. Xin Đức Thế Tôn rủ lòng Từ bi tế độ. Đức Phật bảo: –Lành thay, hãy lại đây Phân-na! Phân-na râu tóc liền tự rụng, đầy đủ pháp phục thành vị Sa-môn. Đức Phật thuyết pháp cho Phân-na. Nghe xong, Phân-na y giáo tu tập chứng quả A-la-hán. Lúc đó A-la-hán Phân-na ngồi tư duy: “Ta sở dó ngày nay có được lục thông, tự do trước sinh tử là nhờ ân của chủ nhân. Nay ta đến đến độ cho ông và nhân dân trong nước.” Phân-na nghó xong trở về nước mình, tìm đến nhà chủ cũ. Người em gặp lại Phân-na vô cùng hoan hỷ mời vào nhà đãi ăn. Ăn uống rửa tay xong, Phân-na bay lên không trung, phân thân nửa mình phun nước, nửa mình phun lửa, hào quang rực rỡ rồi hạ xuống đất nói với người chủ cũ: –Thần thông oai đức ngày nay tôi có được là nhờ ân ngài phóng xá cho tôi đến chỗ Phật tu học mới được như vậy. Người chủ đáp: –Phật thần thông oai đức, giáo hóa vi diệu như thế, tôi xin được gặïp Phật để nghe lời dạy bảo. Phân-na đáp: –Chỉ cần ngài chí tâm thiết cúng trai soạn đầy đủ, Đức Phật có đủ Tam minh tất sẽ tự đến. Người chủ nghe lời sắp đặt mọi thứ xong, bèn hướng về Xá-vệ đảnh lễ, thắp hương quỳ thẳng thành tâm cung thỉnh Đức Phật từ bi quang lâm, làm lợi ích cho mọi người. Đức Thế Tôn liền biết được tâm niệm của họ, nên cùng năm trăm vị A-la-hán dùng thần thông đến nhà đó. Quốc vương và dân chúng vô cùng cung kính đến chỗ Phật đảnh lễ, rồi ngồi qua một bên. Thọ thực rửa tay xong, Đức Phật vì người chủ và vua quan nhân dân trong nước thuyết pháp. Nghe xong, tất cả đều hoan hỷ xin thọ Tam quy, Ngũ giới làm đệ tử Phật, rồi đứng lên khen ngợi Phân-na: –Tại gia thì siêng năng, xuất gia thì đắc đạo, thần thức cao cả giúp gia đình và quốc gia đều được độ. Chúng tôi biết làm thế nào để đáp đền ân đức này? Lúc ấy Đức Thế Tôn lại nói kệ khen ngợi Phân-na: Tâm đã an định Ngôn hành lặng yên Theo chánh giải thoát Diệt độ an nhiên. Bỏ dục, không nhiễm Tam giới hết ngăn Ý vọng dứt tuyệt Là bậc Thượng nhân. Xóm làng, đồng trống Bình nguyên, núi cao Nơi La-hán đến Đều được hóa độ. Bậc vui vắng lặng Không ai làm đặng Hạnh phúc thay! Vô dục Không mong cầu, ước vọng. Đức Phật nói kệ xong, người chủ và vua càng thêm hoan hỷ, thỉnh Đức Phật lưu lại cúng dường trong bảy ngày, cả hai đều chứng quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126403">Phẩm 18: THUẬT THIÊN <章 id="41126404">Thí dụ 35: Thuở xưa, Đức Phật trú tại nước Xá-vệ. Trong nước có một vị Tỳ-kheo lớn tuổi tên là Bàn-đặc. Ông là người mới xuất gia, bẩm tính tối dạ. Đức Phật sai năm trăm vị A-la-hán hàng ngày dạy ông, thế mà trong ba năm ông vẫn học không xong một bài kệ. Mọi người trong nước ai cũng biết ông ngu muội. Đức Phật thương xót, bèn gọi ông lại dạy cho một bài kệ: Giữ miệng, thu nhiếp ý Thân không phạm lỗi chi Ai làm được như vậy Sinh tử chẳng còn gì. Bàn-đặc cảm Phật ân từ, tâm hoan hỷ khai sáng, tụng thuộc bài kệ này. Đức Phật bảo: –Ông tuổi đã lớn mới thuộc được một bài kệ mà thông thường ai cũng biết, nên chẳng có chi là kỳ đặc. Ta nay sẽ giảng giải cho ông nghe nghóa lý của bài kệ này, hãy nhất tâm lắng nghe. Bàn-đặc vâng lời nhất tâm nghe giảng. Đức Phật vì ông mà nói nguyên nhân mà ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo nghiệp, thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Và khuyên ông hãy quán chiếu những nghiệp này, sinh khởi như thế nào, chấm dứt ra sao. Chúng sinh trôi lăn không ngừng trong ngũ thú tam giới, do nó mà sinh Thiên, do nó mà đọa lạc, lại cũng nhờ nó mà đắc đạo quả, chứng Niết-bàn. Đức Phật vì Bàn-đặc giảng nói vô lượng diệu pháp. Bàn-đặc nghe nói hoát nhiên tâm trí khai ngộ, liền chứng quả A-la-hán. Lúc ấy có năm trăm vị Tỳ-kheo-ni ở tinh xá riêng. Đức Phật mỗi một ngày cử một vị Tỳ-kheo đến đó giảng kinh thuyết pháp. Hôm sau là đến phiên Bàn-đặc sang bên Ni thuyết pháp. Ni chúng biết tin đều cười nhạo, khinh miệt nói với nhau: “Ngày mai hễ ông Bàn-đặc đến, chị em mình nói đón trước bài kệ đó cho ông ta nghe, khiến ông hổ thẹn câm miệng.” Hôm sau, Bàn-đặc đến chỗ các Tỳ-kheo-ni. Các cô lớn nhỏ đều ra làm lễ, rồi ngó nhau cười khúc khích. Các cô mời Bàn-đặc ngồi rồi dọn đồ ra cúng dường. Thọ trai rửa tay xong, các cô lại thỉnh ông thuyết pháp. Bàn-đặc lên tòa cao, hạ mình khiêm tốn nói: –Tôi là kẻ đức bạc tài sơ, chưa xứng làm bậc Sa-môn. Tánh tình lại vốn ám độn, không học hành chi nhiều, chỉ biết một bài kệ và hiểu sơ ý nghóa của nó, nay sẽ vì các vị giải nói, xin hãy nhất tâm lắng nghe. Các vị Tỳ-kheo-ni trẻ tuổi định nói đón trước bài kệ đó mà không sao mở miệng được. Tất cả đều kinh sợ tự trách, cúi đầu ăn năn. Bàn-đặc liền như Phật đã dạy, giảng cặn kẻ về ba nghiẹâp thân, khẩu, ý gây tội phước ra sao, những pháp sinh Thiên, đắc đạo quả, ngưng thần, trừ vọng tưởng, nhạâp chánh định. Các Tỳ-kheo-ni nghe lời giảng vô cùng kinh ngạc, hoan hỷ nhất tâm lắng nghe, chứng được quả A-la-hán. Hôm sau, vua Ba-tư-nặc thỉnh Đức Phật và chư Tăng vào cung cúng dường. Đức Phật muốn hiển bày oai thần của Bàn-đặc nên giao bình bát cho ông cầm đi theo sau. Người gác cổng biết mặt Bàn-đặc là người ngu tối nên chẳng cho vào, khinh thường bảo: –Ông là Sa-môn mà một bài kệ còn học không xong, nhận lời thỉnh vào cung làm gì? Tôi là người đời còn thuộc kinh, huống chi ông là Sa-môn lại không có trí tuệ. Cúng dường cho ông thật là vô ích. Thôi ông không cần vào cửa! Lúc đó, Bàn-đặc đứng bên ngoài. Đức Phật ngồi trong cung rửa tay chân xong, Bàn-đặc liền cầm bát duỗi tay dài ra, đưa vào tận trong cung cho Đức Phật. Vua và quần thần, phu nhân, thái tử chúng hội thấy có cánh tay mà không thấy người nên kinh ngạc hỏi Đức Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, đây là tay ai? Đức Phật đáp: –Đây là cánh tay của Tỳ-kheo Bàn-đặc gần đây mới đắc đạo. Ta lúc nãy giao cho ông ấy cầm bát, song người gác cửa lại chẳng cho vào, nên ông phải duỗi tay dài ra trao bát cho Ta. Vua nghe vậy liền cho mời Bàn-đặc vào. Lúc đó Bàn-đặc uy nghi rạng rỡ, thần thái khác thường. Vua liền bạch Đức Phật: –Con nghe đồn Tỳ-kheo Bàn-đặc tâm tánh ngu ám, mới biết được một bài kệ, vậy do duyên gì mà đắc đạo? Đức Phật nói với vua: –Học không cần phải nhiều, chủ yếu là phải thực hành những gì đã học. Bàn-đặc hiểu nghóa một bài kệ, thâm nhập nghóa lý, thân khẩu ý vắng lặng thanh tịnh như vàng ròng cõi trời. người học nhiều mà lại không hiểu nghóa, không thực hành, chỉ uổng tâm nhọc trí nào có ích gì? Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Tuy tụng ngàn chương Không hiểu đúng nghóa Chẳng bằng một nghóa Nghe rồi diệt ác. Tuy tụng ngàn lời Không hiểu ích gì? Chẳng bằng một nghóa Nghe hành được độ. Tuy tụng kinh nhiều Không hiểu ích gì? Hiểu một câu pháp Hành theo đắc đạo. Đức Phật nói kệ xong, ba trăm vị Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Vua và quần thần, phu nhân, thái tử không ai là không hoan hỷ.  <章 id="41126405">Thí dụ 36: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ, vì hàng trời người thuyết pháp. Lúc ấy, trong nước có một vị trưởng giả Bà-la-môn tên là Lam-đạt, giàu sang tột đỉnh, của cải trong nhà không biết bao nhiêu mà tính. Ông thường theo pháp Bà-la-môn làm một cái đàn cao cúng tế, để tỏ rõ danh tiếng của mình. Trút sạch gia tài mở hội đại bố thí, cúng dường cho hơn năm trăm ngàn vị Bà-la-môn. Trong vòng năm năm ông cung cấp các thứ y phục, giường chõng, thuốc men, cơm nước, của cải, báu vật và đồ đạt dành riêng cho miếu thờ theo ý thích đòi hỏi của các Bà-la-môn. Các vị ấy cũng vì trưởng giả mà tế tự chư Thiên, các vị thần núi, thần sông, tinh tú, nước lửa không thiếu nơi nào trong vòng năm năm. Kỳ hạn năm năm cho trưởng giả mãi mãi hưởng phước sắp xong. Đến ngày cuối cùng có một cuộc bố thí lớn nhất đúng như pháp tắc của trưởng giả. Bát vàng đựng thóc bạc, bát bạc đựng thóc vàng, voi ngựa xe cộ, nô tỳ, của cải, đồ phục sức bằng thất bảo, giày dép, lọng dù, áo da hươu, tích trượng, sàng ngồi, thau chậu rửa tay chân, giường chiếu… tất cả những thứ cần dùng có hơn tám muôn bốn ngàn món đều đem bố thí hết. Ngày ấy, tất cả Bà-la-môn đều đến đại hội. Quỷ thần, quốc vương, đại thần, quý tộc Bà-la-môn hàng hàng lớp lớp không ai là không hân hoan. Đức Phật thấy việc đó than: –Ông quý tộc Bà-la-môn này sao lại quá ngu si. Bố thí quá nhiều mà phước báo chẳng bao nhiêu, như gieo hạt giống vào lửa thì làm sao có được hoa trái? Nếu Ta không giáo hóa, ông ấy sẽ mãi mãi rời xa chánh đạo. Đức Phật bèn chấn chỉnh pháp phục đến đó, phóng ra hào quang tỏa chiếu khắp chúng hội. Ai thấy cũng cho là việc chưa từng có, kinh sợ không biết là vị thần nào. Trưởng giả Lam-đạt và đại chúng vội đảnh lễ Phật sát đất. Đức Phật thấy mọi người đều có tâm cung kính nên nói kệ: Tháng bỏ ngàn vàng Suốt đời tế tự Không bằng khoảnh khắc Nhất tâm niệm pháp. Phước báo một niệm Hơn cúng suốt đời. Dầu suốt cả trăm năm Phụng thờ thần lửa Không bằng phút giây Cúng dường Tam bảo. Phước một lần cúng Hơn thờ trăm năm. Bấy giờ Đức Phật nói với trưởng giả Lam-đạt: –Bố thí có bốn việc. Thế nào là bốn? 1. Cúng thí nhiều được phước báo ít. 2. Cúng thí ít được phước báo nhiều. 3. Cúng thí nhiều được phước báo nhiều. 4. Cúng thí ít được phước báo cũng ít. Sao là cúng thí nhiều được phước báo ít? Đây là chỉ người ngu si sát sinh để tế tự, uống rượu ca vũ tốn hao của cải, không có phước tuệ. Sao cúng thí ít được phước báo cũng ít? Đây là người vì keo kiệt ác ý mà cúng thí các đạo só phàm tục, cả hai bên đều ngu si nên không có phước. Sao gọi là cúng thí ít mà được phước báo nhiều? Đây là do lòng từ mà cúng thí cho bậc tu só đạo đức, thọ thực xong các vị ấy tinh tấn tu học. Cúng thí như vậy tuy ít mà phước báo to lớn. Sao gọi là cúng thí nhiều được phước báo nhiều? Nếu có bậc hiền giả giác ngộ cuộc đời vô thường, hảo tâm đem tiền của xây dựng chùa tháp, tinh xá, vườn cây, cúng dường Tam tôn đầy đủ tứ sự, phước báo này như nước năm sông chảy vào biển cả. Phước đức dồi dào đời đời không cùng tận. Đây chính là cúng thí nhiều phước báo càng nhiều. Thí như nhà nông làm ruộng, tùy ruộng đất màu mỡ hay cằn cỗi mà thu hoạch khác nhau. Lúc ấy trưởng giả Lam-đạt và chúng hội thấy sức thần biến hóa của Phật nghe giảng pháp đều vô cùng hoan hỷ. Chư Thiên, quỷ thần đều đắc đạo Tu-đà-hoàn. Năm ngàn vị Bà-la-môn xin xuất gia làm Sa-môn, sau đó đắc quả A-la-hán. Trưởng giả Lam-đạt và gia đình lớn nhỏ đều thọ năm giới, thấy được dấu đạo. Quốc vương, đại thần đều thọ Tam quy y, làm Ưu-bà-tắc, đắc được pháp nhãn.  <章 id="41126406">Thí dụ 37: Thuở xưa, Đức Phật giáo hóa ở tinh xá nước Xá-vệ. Lúc ấy, trong thành La-duyệt-kỳ có một người ngu si hung bạo, bất hiếu với cha mẹ, khinh khi người lương thiện, không kính bậc tôn trưởng. Ông ấy làm ăn thất bại, không được như ý nên thờ phụng lửa để cầu ban phước. Pháp tắc thờ lửa, mỗi ngày khi mặt trời sắp lặn phải thắp lên một đống lửa lớn rồi hướng về đó mà quỳ lạy, đến nửa đêm lửa tắt mới thôi. Người ấy thờ như vậy ba năm mà không được phước, bèn chuyển qua thờ mặt trời, mặt trăng. Pháp tắc thờ là ban ngày khi mặt trời mới mọc, ban đêm khi mặt trăng vừa lên thì hướng về đó mà lễ lạy đến chừng nào lặn mới thôi. Người ấy thực hành như vậy ba năm mà vẫn không được phước bèn chuyển qua thờ trời, đốt hương quỳ lạy, dâng lên hương hoa, rượu thịt, trâu bò heo dê tươi ngon cho đến khi nghèo túng mà vẫn không được phước báo. Người ấy vì thế thân thể tiều tụy, bệnh hoạn ra cửa không nổi. Một hôm ông nghe được ở nước Xá-vệ có Đức Phật là bậc chư Thiên tôn kính, nên định đến đó phụng sự, mong được phước báo. Ông liền cố gắng qua nước Xá-vệ tìm đến chỗ Phật. Tới trước cửa Phật khi nhìn thấy tôn dung uy nghiêm của Đức Phật hào quang rực rỡ như trăng sáng nổi bật giữa muôn sao, người ấy tâm sinh hoan hỷ, quỳ xuống đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi chắp tay thưa: –Con sinh ra và lớn lên trong ngu muội, không biết gì đến Phật, Pháp, Tăng, chỉ lo thờ lửa, mặt trời, mặt trăng và các Thiên thần. Chín năm cần khổ ròng rã không được chút phước nào, mà thân thể con lại tiều tụy, khí lực suy vi, bốn đại nhiều bệnh không biết sẽ chết ngày nào. Nay con biết được Đức Thế Tôn là Bậc Thầy cứu độ chúng sinh, nên từ xa lại đây quy y, xin ban cho ân phước. Đức Phật nói với ông: –Ông thờ phụng trước giờ toàn là yêu tà, quỷ mị. Cúng tế cầu đảo với những hạng ấy nhiều như núi thì tội lỗi cũng đầy ắp như sông biển! Sát sinh để cầu phước thì cách phước rất xa! Nếu ông trăm kiếp cần khổ sát sinh, đem tất cả bò dê trong thiên hạ ra tế tự cầu đảo, thì sẽ mang tội lớn như núi Tu-di mà phước chỉ nhỏ bằng hạt cải! Thật phí công phí của vô ích, há chẳng lầm lẫn lắm sao? Lại nữa, ông là người bất hiếu với cha mẹ, khinh khi người hiền, chẳng kính tôn trưởng, kiêu mạn cống cao, tam độc đầy dẫy, tội nghiệp ngày một sâu, do đâu mà được phước? Nếu ông có thể cải đổi tâm tánh, kính lễ bậc hiền, oai nghi lễ phép cung phụng bậc Trưởng lão, bỏ ác làm lành, tu sửa bản thân, trải lòng từ bi thì bốn phước mỗi ngày một tăng, đời đời không gặp họa hoạn. Bốn phước đó là gì? 1. Nhan sắc đoan chánh. 2. Khí lực mạnh mẽ. 3. An ổn không bệnh. 4. Trường thọ, không bị chết oan. Nếu ông tinh tấn theo những hạnh trên, không chút giải đãi thì có thể đắc đạo. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Tế thần để cầu phước Xét quả báo về sau So kính lễ bậc hiền Bốn phần không được một. Biết lễ độ khiêm cung Thường kính bậc trưởng lão Bốn phước tự nhiên tăng Sắc, lực, thọ, an ổn. Người đó nghe kệ xong hoan hỷ tin hiểu, đảnh lễ Phật rồi lại thưa: –Con vì tội cấu che ngăn đã gây ra tội lỗi trong suốt chín năm. Nay may nhờ lòng từ khai thị mới được thông hiểu. Xin Đức Thế Tôn cho con được xuất gia làm Sa-môn. Đức Phật bảo: –Lành thay! Hãy lại đây Tỳ-kheo! Vị ấy râu tóc tự rụng, thành bậc Sa-môn. Sau đó, tinh cần quán niệm hơi thở, vị ấy chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126407">Phẩm 19: ÁC HẠNH <章 id="41126408">Thí dụ 38: Thuở xưa, Đức Phật trú tại nước La-duyệt-kỳ, sai một vị La-hán tên là Tu-mạn đem tóc và móng tay Phật đến núi phía Nam nước Kế tân xây chùa tháp Phật. Năm trăm vị La-hán trụ trong chùa đó, sớm chiều đốt hương đi xung quanh tháp lễ bái. Lúc ấy, trong núi có năm trăm con khỉ thấy các Đạo nhân cúng dường bảo tháp, liền kéo nhau đến bên khe núi sâu vác đất đá bùn sình bắt chước xây một ngôi tháp, dựng cây làm cột rồi treo tràng phan lên đầu cây, sớm chiều lễ bái cũng như Đạo nhân. Một hôm nước lũ trong khe núi dâng cao, nhận chìm chết cả đàn khỉ. Thần thức chúng liền sinh lên cung trời Đao-lợi thứ hai, ở trong cung điện thất bảo, việc ăn mặc tự nhiên có đầy đủ. Họ đều tự nghó: “Chúng ta do nhân duyên gì được sinh lên cõi trời này?”. Rồi họ liền dùng Thiên nhãn tự nhìn thân mình thấy tiền thân là loài khỉ, nhờ bắt chước Đạo nhân xây tháp lễ bái chơi, tuy bị nước cuốn chết mà thần thức được sinh lên trời. Vì vậy họ muốn trở xuống đền ân thân cũ. Chư Thiên đó liền mang theo người hầu đem hương hoa, kỹ nhạc đến bên thây cũ rải hoa, đốt hương, đi nhiễu quanh thây bảy vòng. Lúc ấy, trong núi có năm trăm vị Bà-la-môn ngoại đạo tà kiến, không tin tội phước, thấy chư Thiên rải hoa, trổi nhạc, đi nhiễu quanh thây khỉ đều ngạc nhiên hỏi: –Chư Thiên quang tướng uy nghi như vậy, cớ sao lại hạ mình cúng dường những thây chết này? Các Thiên nhân đáp: –Những thân này chính là thân cũ của chúng tôi. Ngày xưa, chúng tôi ở đây bắt chước các Đạo nhân lập tháp miếu chơi, bị nước khe dâng lên nhận chìm chết. Nhờ chút phước mọn đó nên nay được sinh Thiên. Hôm nay xuống rải hoa là để đền ân thân cũ. Chỉ đùa chơi làm chùa tháp mà còn được phước như thế, nếu chí tâm thờ Phật Thế Tôn phước đức đó thật khó mà ví dụ cho được. Các ông tà kiến không tin đạo chân chánh, thì dầu cực khổ siêng tu trăm kiếp cũng không được một chút lợi ích. Chi bằng ta hãy cùng nhau đến núi Kỳ-xà-quật đảnh lễ, cúng dường Phật thì sẽ được phước vô lượng. Các Bà-la-môn nghe vậy vô cùng hoan hỷ, cùng chư Thiên đồng đến chỗ Phật, thành tâm đảnh lễ, rải hoa cúng dường. Chư Thiên bạch Phật: –Chúng con đời trước mang thân khỉ, nhờ ân Đức Thế Tôn mới được sinh Thiên, hận mình không được gặp Phật, nên nay đến để quy y. Bạch Đức Thế Tôn, chúng con đời trước có tội gì mà phải mang thân khỉ, dầu xây dựng chùa tháp mà vẫn bị nước cuốn chết?”. Đức Phật nói với các Thiên nhân: –Việc này có nhân duyên, không phải tự nhiên mà có. Ta sẽ vì các ông mà nói rõ nguyên nhân. Thuở xưa có năm trăm vị niên thiếu Bà-la-môn cùng nhau vào núi muốn học đạo Tiên. Lúc ấy, trên núi có một Sa-môn định xây một tinh xá bằng đất bùn. Vị ấy xuống khe suối lấy nước thân thể nhẹ như bay. Năm trăm Bà-la-môn thấy vậy sinh tâm ghen ghét, đồng thanh cười nhạo: “Ông Sa-môn này lên xuống lật đật như khỉ, có gì đâu lạ! Ông lấy nước như vậy mãi, có ngày sẽ bị nước nhận chết chìm!”. Đức Phật kể xong bảo với các Thiên nhân: “Ông Sa-môn lên núi thuở đó chính là thân Ta, còn năm trăm vị Bà-la-môn niên thiếu chính là năm trăm con khỉ đó, vì cười đùa gây tội mà phải mắc quả báo như vậy.” Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Đùa cười làm ác Thân đã tạo nghiệp Thọ báo khóc than Theo đó tội đến. Đức Phật nói với các Thiên nhân: –Các ông đời trước tuy là thân loài thú mà biết chơi đùa xây cất tháp miếu, nên tội diệt phước sinh, được sinh lên cõi trời. Ngày nay các ông lại biết đến đây phụng trì Chánh pháp, do nhân duyên này sẽ mãi mãi xa lìa các khổ. Đức Phật giảng xong, năm trăm Thiên nhân đều thấy được đạo. Dù là Thiên nhân, nhưng vẫn chưa phải là người đắc đạo. Còn năm trăm Bà-la-môn được nghe giảng về quả báu tội phước đều tự than: –Chúng ta học theo đạo Tiên đã mấy năm mà chưa được chút kết quả nào, không bằng đàn khỉ chỉ đùa chơi làm phước mà được sinh Thiên. Đạo của Phật quả thật vi diệu! Bấy giờ năm trăm vị Bà-la-môn đảnh lễ Đức Phật xin làm đệ tử. Đức Phật bảo: –Lành thay, hãy lại đây các Tỳ-kheo! Năm trăm vị đó liền thành tướng Sa-môn. Nhờ tu tập tinh tấn, chẳng bao lâu năm trăm vị ấy đều chứng quả A-la-hán.  <章 id="41126409">Thí dụ 39: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ thuyết pháp cho các hàng trời người. Lúc ấy, con thứ hai của vua tên là Lưu Ly, hai mươi tuổi đem tùy tùng bức vua thoái vị và giết chết thái tử anh mình là Kỳ-đà rồi tự lên ngôi. Có một tên quan ác tâm tên là Da-lợi tâu với vua Lưu Ly: –Vua lúc trước còn là hoàng tử sang nước Xá-di bên ngoại nhìn vào bên trong tinh xá của Phật bị dòng tộc Thích-ca mắng nhiếc hết kể nổi. Lúc đó đại vương đã thề rằng: “Nếu ta làm vua sẽ hỏi tội này.” Nay thời cơ đã đến, binh mã hùng mạnh nên báo oán xưa. Lưu Ly nghe lời, liền cho chuẩn bị binh mã, kéo sang chinh phạt nước Xá-di. Đức Phật có vị đại đệ tử thứ hai tên là Ma-ha Mục-kiền-liên. Ngài thấy vua Lưu Ly định tàn sát nước Xá-di để trả thù xưa, sẽ giết hại bốn chúng đệ tử nên vô cùng thương xót. Ngài liền đến chỗ Phật thưa: –Nay vua Lưu Ly vây đánh nước Xá-di, con nghó dân chúng vô tội sẽ chết oan, nên định đem bốn phương tiện cứu dân trong nước Xá-di. 1. Đem dân Xá-di để trên hư không. 2. Đem dân nước Xá-di giấu giữa biển. 3. Đem dân nước Xá-di giấu giữa hai ngọn núi Thiết vi. 4. Đem dân nước Xá-di để ở giữa nước lớn phương khác, khiến vua Lưu Ly không biết chỗ của họ.” Đức Phật bảo: –Này Mục-kiền-liên, Ta biết ông có khả năng trí đức che chở cho dân nước Xá-di. Nhưng chúng sinh có bảy việc không thể tránh khỏi. Bảy việc đó là gì? Một là sinh, hai là già, ba là bệnh, bốn là chết, năm là tội, sáu là phước, bảy là nhân duyên. Bảy điều này dầu ta muốn tránh nhưng không thể được. Dầu oai thần của ông có thể làm được chuyện đó, nhưng túc nghiệp, tội lỗi làm sao tránh được? Mục-kiền-liên lễ Phật lui ra, nhưng vẫn theo ý riêng đem bốn, năm ngàn người tín chủ tri thức đựng trong bát đặt ở khoảng giữa các tinh tú trên hư không. Vua Lưu Ly đánh nước Xá-di, giết khoảng ba ức người rồi kéo quân về nước. Lúc đó, Mục-kiền-liên đến chỗ Phật đảnh lễ, rồi tự hào thưa: –Vua Lưu Ly đánh nước Xá-di, đệ tử thừa oai thần Phật cứu bốn năm ngàn người nước này. Nay những vị đó ở trên hư không đều được thoát nạn. Đức Phật hỏi: –Ông đã đến xem người trong bát chưa? Đáp: –Dạ chưa! Đức Phật bảo: –Ông hãy xem người trong bát trước đã. Mục-liên vâng lời, dùng đạo lực đem bát xuống xem, không ngờ tất cả đều đã chết hết. Mục-kiền-liên buồn thương rơi lệ, trở lại chỗ Đức Phật thưa: –Tất cả người trong bát đều chết cả! Oai lực thần thông không thể cứu họ thoát khỏi tội nghiệp đời trước. Đức Phật bảo Mục-kiền-liên: –Bảy việc mà ta đã nói trước, dù Phật, Thánh chúng, thần tiên, đạo só có oai lực ẩn mình, phân thân song cũng không thể tránh được. Bấy giờ Đức Phật lại nói kệ: Dầu hư không, biển cả Hay núi đá xa xôi Không nơi nào tránh khỏi Quả ác nghiệp đã làm. Chúng sinh bị não hại Lão tử nghiệp trả vay Bậc Bi Trí giải thoát Không nhớ lỗi lầm ai. Đức Phật thuyết pháp xong, vô số người trong pháp hội hiểu được lẽ vô thường, đều buồn thương trước việc không thể tránh khỏi tội báo, hoan hỷ, chứng quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126410">Phẩm 20: ĐAO TRƯỢNG <章 id="41126411">Thí dụ 40: Thuở xưa có một nước tên là Hiền Đề. Trong nước có vị Trưởng lão Tỳ-kheo thường đau yếu luôn, nằm liệt giường, gầy ốm dơ bẩn. Thế mà trong tinh xá không có một ai trông nom săn sóc cho ông. Đức Phật dẫn năm trăm vị Tỳ-kheo đến đó, sai các vị ấy chăm nom, nấu cháo cho vị Trưởng lão Tỳ-kheo. Nhưng ai nghe mùi hôi thối của vị ấy đều nhờm tởm không dám đến gần. Đức Phật sai Đế Thích lấy nước nóng, còn Ngài dùng tay Kim cang tắm rửa cho vị ấy. Lúc đó đại địa rúng động rực rỡ hào quang ai thấy cũng kinh ngạc. Vua chúa, Quan dân, Thiên, Long, Quỷ, Thần đông đảo vô số đồng đến chỗ Đức Phật đảnh lễ, bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là Bậc Tôn Quý trong đời, đầy đủ phước đức trí tuệ trong ba cõi không ai sánh bằng, sao lại hạ mình tắm rửa cho vị Tỳ-kheo già bệnh, thân thể hôi dơ này? Đức Phật bảo với vua và chúng hội: –Như Lai sở dó xuất hiện ra đời vì chính những người khổ ách không ai giúp đỡ như thế. Nếu ai cúng dường những Sa-môn đạo só bệnh tật và những người già cô độc bần cùng sẽ được phước vô lượng, sở nguyện như ý, như nước năm sông chảy vào biển cả, phước này cũng mênh mông như vậy. Người ấy công đức dần dần viên mãn rồi được đắc đạo. Vua bạch với Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-kheo này đời trước tạo tội nghiệp gì mà nay phải chịu bệnh khổ, nhiều năm thuốc men mà vẫn không thuyên giảm? Đức Phật nói với vua: –Thuở xưa có một vị vua tên là Ác Hạnh, dùng chính sách nghiêm bạo để trị dân. Ông giao quyền cho một võ só tên Ngũ Bách lo việc đánh đập tra khảo tù nhân. Ngũ Bách dựa vào oai thế vua mà theo ý riêng tra khảo. Trước khi đánh đập Ngũ Bách đòi lo lót tiền bạc, nếu ai có sẽ được đánh nhẹ, nếu ai không có sẽ bị đánh đập tàn nhẫn. Nhân dân cả nước ai cũng sợ ông. Lúc ấy, có một vị hiền giả bị vu khống mắc tội, lúc sắp chịu đánh đập tra khảo, người ấy nói với võ só: “Tôi là đệ tử Phật vốn không làm điều chi lầm lỗi, chỉ bị người vu oan, xin ông hãy khoan thứ.” Ngũ Bách nghe nói là đệ tử Phật nên nhẹ tay đánh sớt qua thân. Về sau Ngũ Bách chết, đọa vào địa ngục chịu đánh đập hành khổ, đến khi báo tận đọa vào súc sinh hơn năm trăm đời đều bị đánh đập hành hạ. Khi hết tội sinh vào loài người thường yếu đuối bệnh hoạn thống khổ. Vua nước ấy nay chính là Điều-đạt, võ só Ngũ Bách nay chính là vị Tỳ-kheo bệnh tật này, còn vị Hiền giả chính là thân Ta. Ta đời trước được ông ấy nhẹ tay đánh không trúng thân, nên đời nay Ta đáp lại tự tay tắm rửa cho ông. Người gây tạo thiện ác thì phước họa sẽ theo thân, dầu trải qua bao lần sinh tử vẫn không tránh được. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Đánh người vô tội Vu báng người hiền Sẽ mắc mười họa Đến chết không thôi. Một, sống khổ sở Hai, thân tật nguyền Ba, bệnh triền miên Bốn, ý loạn sợ Năm, bị vu báng Sáu, mắc nạn quan Bảy, của tan tác Tám, người thân lìa. Chín, của và nhà Bị lửa cháy tiêu Mười, sau khi chết Phải đọa địa ngục. Lúc đó vị Tỳ-kheo bệnh nghe Đức Phật kể lại túc mạng và nghe được bài kệ này, tự biết việc làm sai lầm thuở trước nên nhiếp niệm lấy mình, ngay trước Đức Phật bệnh tật dứt sạch, thân an ý định liền chứng quả A-la-hán. Vua nước Hiền Đề hoan hỷ tin hiểu, xin thọ Ngũ giới làm Phật tử tịnh tín, suốt đời tu hành, đắc được quả Tu-đà-hoàn.  <章 id="41126412">Thí dụ 41: Thuở xưa, Đức Phật thuyết pháp cho các hàng trời người ở tinh xá Kỳ thọ Cấp cô độc nước Xá-vệ. Phía Đông nước này có một nước tên là Uất-đa-la-ba-đề. Nơi đây có năm trăm vị Bà-la-môn định kéo nhau đến sông Hằng vì nghe nói bên bờ sông có ba ao thờ thần nên định tắm nước nơi đó để rửa sạch cấu uế, rồi khỏa thân tu theo pháp của bọn Ni-kiền. Đi giữa đường họ gặp một cái đầm lớn, lạc lối không làm sao qua được, lại thiếu thốn lương thực. Họ từ xa bỗng trông thấy một cội cây to như có thần khí, tưởng rằng có người ở nên chạy đến bên gốc cây, song chẳng thấy ai cả. Năm trăm Bà-la-môn lớn tiếng than khóc, cho rằng chắc sẽ đói khát chết tại đầm này. Thọ thần liền hiện ra hình người đến hỏi các Bà-la-môn: –Đạo só các vị từ đâu đến và định làm gì? Cả nhóm đồng thanh đáp: –Chúng tôi định đến ao nước thần tắm rửa cầu tu đạo tiên. Nay lạc đường đói khát xin nhờ ông thương xót cứu giúp cho. Thọ thần liền duỗi tay, một trăm món ăn uống ngon lành từ đó hiện ra. Mọi người được ăn một bữa no nê. Số thức ăn còn thừa đủ để mang theo dọc đường. Lúc sắp ra đi các Bà-la-môn đến chỗ thần hỏi thăm: –Ngài trước đây tu tạo công đức gì mà được oai lực như vậy? Thọ thần đáp: –Tôi thuở trước ở nước Xá-vệ. Lúc đó có một đại thần trong nước tên là Tu-đạt. Ông ấy muốn cúng dường thức ăn cho Đức Phật và chúng Tăng nên ra chợ mua sữa tô lạc. Vì không có ai xách, nên Tu-đạt tìm mướn tôi xách giùm. Về đến tinh xá ông lại nhờ tôi múc ra cúng dường. Sau khi làm xong, tôi nhân đó còn được nghe thuyết pháp. Tôi bỗng sinh tâm hoan hỷ, thọ trì trai giới, nên chiều về nhà không ăn cơm. Vợ tôi lấy làm lạ hỏi: “Ông giận gì mà không ăn cơm? Tôi đáp: “Tôi không giận gì cả. Hôm nay tôi đi chợ gặp trưởng giả Tu-đạt cúng dường thức ăn cho Đức Phật nơi vườn nên tôi đến đó trì trai. Trai gọi là Bát quan trai.” Người vợ nghe nói nổi giận bảo: “Ông Cù-đàm làm loạn lẽ thường, đâu đáng cho ông theo! Ông bỏ cả truyền thống thì sẽ gặp tai họa.” Người vợ cứ cằn nhằn thúc ép mãi, kẹt quá tôi đành phải ăn cơm với vợ. Đêm đó thọ mạng ta hết, lúc lâm chung vào lúc nửa đêm, thần thức thác sinh vào chỗ này. Vì người vợ ngu si phá hoại trai pháp của tôi, khiến tôi không trọn nghiệp lành nên phải thác sinh làm thọ thần nơi đầm này. Nhờ phước mang sữa lạc cho Đức Phật nên tay có thể hiện ra các món ăn uống. Nếu tôi giữ trai pháp trọn vẹn sẽ được sinh Thiên, hưởng mọi an lạc. Thọ thần liền nói kệ: Cầu cúng gieo mầm họa Dần dần lớn lá cành Chỉ khổ, hại bản thân Trai pháp: tiên độ thế. Các Bà-la-môn nghe xong hết mê lầm, tin nhận, cùng nhau trở về, sang nước Xá-vệ. Trên đường họ đi ngang một nước tên là Câu-lam-ni. Trong nước có một vị trưởng giả tên là Mỹ Âm hay làm phước giúp đỡ mọi người, ai ai cũng tôn kính. Các Bà-la-môn ghé qua nhà ông nghỉ đêm. Trưởng giả hỏi: –Các đạo só từ đâu đến? Giờ định đi về đâu? Các Bà-la-môn thuật lại công đức của thọ thần, tỏ ý muốn qua nước Xá-vệ đến chỗ ông Tu-đạt thọ trì trai pháp mong được phước đức. Mỹ Âm nghe xong vô cùng hoan hỷ, căn lành thuở trước dấy khởi, tin hiểu Phật pháp. Ông bèn thông báo gia tộc ai muốn thì cùng đi theo thọ trai giới. Tất cả có năm trăm người xin theo, oai nghi trang nghiêm cùng nhau đến nước Xá-vệ. Chưa đến tinh xá Kỳ hoàn, giữa đường đoàn người gặp Tu-đạt, song không biết nên hỏi kẻ đi theo ông: –Đây là ai vậy? Đáp rằng: –Đó chính là Tu-đạt! Bà-la-môn và tất cả mọi người hoan hỷ đuổi theo Tu-đạt nói: –Nguyện vọng của chúng ta thành rồi. Tìm người gặp người nên đuổi theo để ra mắt. Khi gặp, mọi người thuật lại đầy đủ việc gặp thọ thần và nghe thọ thần kể chuyện ra sao, xong lại tiếp: –Thọ thần tán thán công đức ông, nên chúng tôi đến để theo học. Xin hãy dừng xe chỉ dạy cho chúng tôi trai pháp. Tu-đạt nói rằng: –Các vị cầu mong điều thiện lớn. Tôn sư của tôi là Đức Như Lai luôn giúp đỡ và độ thoát cho mọi người. Nay Ngài đang ở tinh xá Kỳ hoàn rất gần, xin hãy cùng nhau đến đó. Nghe xong tất cả đều kính mộ cùng Tu-đạt đến tinh xá Kỳ hoàn. Các Bà-la-môn xa trông thấy Đức Như Lai đều hoan hỷ khôn xiết, vội đảnh lễ sát đất, lui về một bên rồi quỳ bạch Phật: –Chúng con ban đầu rời nhà định đến ba ao thần tắm rửa cầu đạo tiên. Trên đường gặp Thọ thần kể lại mọi việc, nên đến đây xin theo Ngài tu học. Xin Đức Như Lai khai thị cho pháp vi diệu tối thượng. Bấy giờ Đức Thế Tôn dựa theo hạnh nghiệp của họ mà nói kệ: Dầu khỏa thân, cắt tóc Mặc mãi áo cỏ gai Tắm gội hay ngồi xổm Sao hết được nghi hoặc? Không đánh giết, thiêu đốt Cũng không lấn lướt ai Từ bi với mọi người Đến đâu cũng không oán. Năm trăm Bà-la-môn nghe kệ hoan hỷ, xin làm Sa-môn đắc được quả A-la-hán. Còn Mỹ Âm và thân tộc chứng được Pháp nhãn. Các Tỳ-kheo bạch Phật: –Năm trăm vị Bà-la-môn các vị trưởng giả đời trước tu tạo công đức gì mà nay mau chóng đạt đạo? Đức Thế Tôn dạy: –Trong thời quá khứ lâu xa, có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Ngài thuyết pháp cho các hàng đệ tử về thời ngũ trược vị lai. Lúc đó có một ngàn Bà-la-môn và trưởng giả nghe xong đồng phát nguyện: “Chúng con nguyện gặp Đức Phật Thích-ca Văn.” Các vị Bà-la-môn thuở đó nay chính là các vị Bà-la-môn này. Còn các vị trưởng giả thuở đó là nhóm trưởng giả Mỹ Âm hiện nay. Do nhân duyên này họ gặp được Ta liền giác ngộ. Các Tỳ-kheo nghe xong hoan hỷ làm lễ y giáo phụng hành. KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ <卷 id="41126413">QUYỂN 3 <詞 id="41126414">Phẩm 21: LÃO MẠO <章 id="41126415">Thí dụ 42: Thuở xưa Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ thọ nước Xá-vệ. Một hôm, thọ thực xong, Đức Phật thuyết pháp lành cho các hàng trời người, quốc vương, thần dân bốn bộ đệ tử. Lúc ấy, có bảy vị trưởng lão Bà-la-môn từ xa đến chỗ Phật đảnh lễ, chắp tay bạch: –Chúng con ở xa, từ lâu nghe danh giáo hóa của Bậc Thánh Nhân muốn đến quy mạng. Song vì nhiều duyên trở ngại, mãi đến hôm nay mới được chiêm ngưỡng tôn dung. Chúng con xin được làm đệ tử, tu học chấm dứt các khổ. Đức Phật chấp nhận cho các vị ấy xuống tóc làm Sa-môn và dạy ở chung một phòng. Nhưng bảy vị ấy gặp được Thế Tôn cho là có thể đảm bảo đắc đạo, không lo tư duy vô thường, ngồi chung trong phòng chỉ nghó việc đời hoặc trò chuyện cười đùa với nhau chẳng để ý đến chuyện nên hư. Họ không biết mạng sống của mình chẳng còn bao lâu, tâm ý mê mờ bởi những buộc ràng trong ba cõi. Đức Phật với Tam đạt trí biết mạng sống của bảy vị ấy sắp hết. Ngài thương xót bèn đến phòng họ bảo: –Các ông học đạo nên cầu giải thoát, sao lại cười đùa lớn tiếng như vậy. Tất cả chúng sinh đều cậy vào năm việc. Đó là những việc gì? 1. Cậy vào tuổi trẻ. 2. Cậy vào sắc đẹp. 3. Cậy vào sức mạnh. 4. Cậy vào tài sản giàu có. 5. Cậy vào dòng họ sang quý. Các ông thì thầm nói chuyện, cười cợt lớn tiếng là cậy vào điều gì? Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Sao lại vui cười Hãy nhớ thiêu đốt Che lấp tối tăm Chi bằng cầu định. Thấy thân tốt đẹp Dựa cho là an Tham đưa đến khổ Đâu biết vô thường. Già sắc suy hao Thân bệnh tiều tụy Da nhăn, thịt nhão Cái chết cận kề. Thân chết thần đi Như ngồi xe hỏng Xương thịt rã rời Đâu nương thân được! Đức Phật nói kệ xong, bảy vị Tỳ-kheo giác ngộ, không còn vọng tưởng, chứng A-la-hán ngay trước Phật.  <章 id="41126416">Thí dụ 43: Thuở xưa Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ, vì hàng trời người, đế vương thuyết pháp. Lúc ấy, có một thôn Bà-la-môn gồm hơn năm trăm gia đình. Thôn ấy có năm trăm thiếu niên học pháp thuật Bà-la-môn, tánh tình kiêu ngạo cống cao bất kính với các bậc Trưởng lão. Một hôm, năm trăm vị ấy bàn luận với nhau: –Sa-môn Cù-đàm tự xưng là Phật, đủ Tam minh trí tuệ, không ai dám luận biện. Chúng ta thử mời ông luận nghị, cật vấn mọi điều xem sao? Nói xong, họ bèn lo sắp xếp đầy đủ mọi chuyện, đi mời Đức Phật về làng. Đức Phật nhận lời, cùng các đệ tử đến thôn Bà-la-môn. Sau khi đã an tọa, các Bà-la-môn bèn dâng nước rửa tay, rồi thiết trai thỉnh Phật và đệ tử thọ dụng. Thọ trai xong họ lại mang nước đến cho Đức Phật và đại chúng rửa tay, mọi việc rất chu đáo. Lúc ấy, có hai vợ chồng Bà-la-môn già đang đi xin giữa thôn, Đức Phật biết ông Bà-la-môn đó giàu có vô số, từng làm quan lớn. Ngài bèn hỏi các Bà-la-môn này: –Các người có biết vị Bà-la-môn lớn tuổi kia không? Mọi người đều đáp: –Có biết. Đức Phật lại hỏi: –Ông ta trước đây là người như thế nào? Đáp: –Ông ấy vốn là quan lớn, tài sản nhiều vô số. Hỏi: –Vậy sao ngày nay ông ta phải đi ăn xin? Đáp: –Do ông ăn xài hoang phí, không có độ lượng nên phải chịu nghèo. Đức Phật bảo: –Này các Bà-la-môn, trên đời có bốn việc mà người ta khó mà làm theo. Nếu biết làm theo thì sẽ được phước, không bị nghèo cùng như vậy. Bốn việc đó là gì? 1. Tuổi trẻ khỏe mạnh, cẩn thận chớ nên kiêu mạn. 2. Tuổi già siêng năng, không có tham dâm. 3. Có tiền bạc châu báu thường nghó bố thí. 4. Theo thầy học tập, biết nghe nhận lời chân chánh. Vị Bà-la-môn lớn tuổi không thực hành theo bốn việc trên. Đây gọi là biết xét đến lẽ thành bại, nên một mai phải chịu tán gia bại sản. Ví như con chim hộc già đứng canh giữa ao trống, không kiếm chác được chút gì. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Trẻ lười, kiêu mạn Già chẳng bỏ dâm Có của không thí Lời Phật chẳng nghe Có bốn điều ngăn Ai có, họa đến Than ôi! già đến Theo đó tiều tụy. Tuổi trẻ như ý Đến già bị khinh Không tu phạm hạnh Của chẳng còn gì. Già như chim hộc trắng Canh giữ ao không Đã không giới hạnh Của cải: trắng tay. Già khí lực suy Nghó lại sao kịp. Già như lá thu Dơ rách hạnh tu Mạng sống qua mau Hối hận nào kịp. Đức Phật lại bảo các Bà-la-môn: –Trên đời có bốn khoảng thời gian mà ta có thể hành đạo, có phước đắc độ, tránh khỏi các khổ. Đó là bốn thời điểm nào? 1. Lúc trẻ có sức khỏe, oai thế. 2. Lúc giàu sang có tài sản. 3. Lúc gặp được Tam bảo phước điền. 4. Lúc quán xét được lẽ vô thường của vạn vật. Nếu vào bốn thời điểm trên, biết nỗ lực làm việc, tiến tu thì sẽ thành tựu mọi sở nguyện, chứng đắc đạo quả. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ngày đêm mạng gần giảm Nên tinh tấn kịp thời Thế gian vô thường lắm Đừng mê đọa tối tăm. Hãy thắp sáng ý thức Huấn luyện mình, cầu tuệ Thanh tịnh, lìa trần cấu Cầm đuốc soi đường mê. Lúc Đức Phật đang nói, hào quang phóng ra chiếu khắp trời đất. Năm trăm vị Bà-la-môn thiếu niên nhân đó tâm ý khai mở, lông tóc dựng đứng, cùng nhau đảnh lễ dưới chân Phật, bạch: –Chúng con xin quy mạng với Đức Thế Tôn, xin hãy nhận chúng con làm đệ tử. Đức Phật bảo: –Lành thay! Hãy lại đây các Tỳ-kheo. Các vị ấy liền trở thành Sa-môn, chứng đắc đạo quả A-la-hán. Kẻ lớn người nhỏ trong làng đều ân triêm pháp nhũ, thấy được đạo, ai cũng hoan hỷ.  <詞 id="41126417">Phẩm 22: ÁI THÂN <章 id="41126418">Thí dụ 44: Thuở xưa, có một nước tên là Đa-ma-la. Cách kinh thành bảy dặm có một ngôi tinh xá. Đây là nơi tu học hành đạo của năm trăm vị Sa-môn. Trong đó có một vị Trưởng lão Tỳ-kheo tên là Ma-ha-lư, tâm tánh ám độn, được năm trăm vị Tỳ-kheo dạy bảo, vậy mà suốt mấy năm liền không nhớ được một bài kệ. Trong chúng ai cũng khinh khi, không thèm ở chung. Do vậy vị trưởng lão Tỳ-kheo ấy chỉ coi giữ tinh xá, được sai bảo quét dọn trong ngoài. Một hôm, vua cung thỉnh các thầy Tỳ-kheo vào cung cúng dường. Tỳ-kheo Ma-ha-lư tự nghó: “Ta sinh ra ngu độn, một bài kệ cũng không biết bị người khinh khi, vậy sống có ích gì?”. Nghó xong, ông mang dây ra gốc cây sau vườn định treo cổ tự tử. Đức Phật với đạo nhãn ở xa thấy việc như vậy, bèn hóa ra vị Thần cây, hiện nửa thân người can ngăn: –Này Tỳ-kheo kia, sao lại làm thế. Ma-ha-lư liền trình bày nỗi khổ tâm của mình. Thọ thần quở trách: –Ông không nên làm như vậy, hãy nghe lời ta. Thuở Đức Phật Ca-diếp tại thế, ông là vị Tam tạng Pháp sư có năm trăm đệ tử. Song vì ỷ mình thông minh, khinh chê kẻ khác, lại lẫn tiếc kinh nghóa không chịu dạy bảo cho người, cho nên về sau đời đời sinh ra chỗ nào các căn cũng đều ám độn. Vì vậy ông chỉ nên tự trách mình, mà không nên tự sát. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền hiện lại thân tướng quang minh, hào quang tỏa chiếu, rồi nói kệ: Người biết quý thân Cẩn thận giữ gìn Mong trừ các dục Học đạo chẳng mê. Kẻ trí quý thân Luôn gắng tu học Siêng hành giáo hóa Tu thân không mệt. Trước phải sửa mình Sau mới độ chúng Điều thân nhập tuệ Vượt kẻ phàm tình. Mình chưa lợi ích Đâu nên lợi ích người Tâm thuần, hạnh thẳng Nguyện chắc thành tựu. Nếu trước gây tạo Sau phải chịu quả Làm ác phải trả Như dùi ngọc khéo. Tỳ-kheo Ma-ha-lư thấy hào quang của Đức Phật, vui buồn lẫn lộn, xen lẫn sợ sệt vội cúi mình làm lễ dưới chân Phật. Ông tư duy nghóa lý bài kệ này rồi thoạt nhiên nhập định, chứng quả A-la-hán ngay trước Đức Phật. Ông liền biết được mọi việc trong vô số kiếp quá khứ của mình, ba tạng kinh điển nhớ lại nằm lòng. Đức Phật lại bảo: –Này Ma-ha-lư, ông hãy đắp y mang bát vào cung vua thọ trai, ngồi trên năm trăm vị Tỳ-kheo. Năm trăm vị ấy vốn là đệ tử ông đời trước. Sau đó ông thuyết pháp cho họ được chứng đạo quả và khiến cho nhà vua tin hiểu được tội phước. Ma-ha-lư liền vâng lời Phật dạy, đi thẳng vào cung, ngồi ở tòa trên. Mọi người ai cũng bực mình, lấy làm lạ trước việc như thế. Song vì họ chưa biết ý vua như thế nào, nên không dám khiển trách. Họ chỉ nghó ông này thật ngu tối bất thông, sao kham nổi việc thuyết pháp. Thọ trai xong, vua dọn dẹp thức ăn xuống, tự tay rót nước mời chư Tỳ-kheo. Lúc ấy, Ma-ha-lư liền vì đại chúng thuyết pháp, thanh âm hùng dũng như sấm, lời lẽ thanh tao tuôn chảy như mưa. Các Tỳ-kheo nghe qua cũng giật mình kinh sợ, hối hận vì đã nghó sai về ông. Các Tỳ-kheo nhân đó liền chứng quả A-la-hán. Nhà vua và bá quan được nghe giảng giáo pháp một cách rõ ràng ai cũng chứng được quả Tu-đà-hoàn.  <章 id="41126419">Thí dụ 45: Thuở Đức Phật còn tại thế, trong nước Xá-vệ có năm trăm vị Bà-la-môn luôn tìm Phật để phỉ báng. Đức Phật với trí tuệ tam minh, thông hiểu hết tâm tánh của chúng sinh. Ngài thương xót muốn độ cho họ. Thật ra, quả chưa chín là do nhân duyên chưa đủ. Tất cả tội phước xảy đến chẳng qua do mình tự tạo nhân duyên rồi tự nhận lấy quả báo. Những vị Bà-la-môn này ngày nay đáng được độ là nhờ chút phước làm đời trước. Nhờ phước đức mới khiến họ được gặp duyên lành. Lúc ấy năm trăm vị Bà-la-môn cùng nhau bàn: –Chúng ta nên xúi tên đồ tể giết hại sinh vật đến thỉnh Phật và chư Tăng đến nhà cúng dường. Phật ắt nhận lời và tán thán tên đồ tể. Chúng ta sẽ ra trước Phật chỉ trích chuyện này. Bấy giờ, người đồ tể đến thỉnh Phật. Đức Phật hứa khả và nói với anh ta: –Trái chín sẽ tự rụng, phước đến sẽ được độ. Người đồ tể trở về lo chuẩn bị bữa cúng dường. Đức Phật cùng các đệ tử vào xóm đồ tể đến nhà người thí chủ này. Các Bà-la-môn thấy thế đều mừng rỡ, cho là hôm nay đã nắm được nhược điểm của Phật. Nếu Đức Phật tán thán phước đức của thí chủ thì họ sẽ đem đầu đuôi việc sát sinh của người đó ra chê bai. Nếu Đức Phật nói nguyên nhân của tội lỗi thuở xưa, họ sẽ đem phước đức của ngày hôm nay ra vấn nạn. Cả hai đường đều bắt bẻ được, nên ai nấy đều lấy làm đắc ý. Sau khi đến nhà đàn-việt, an tọa, rửa chân tay, thọ trai xong, Đức Phật quán sát tâm tánh của mọi người thấy rằng có thể độ được, liền hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng hào quang chiếu sáng khắp cả thành, rồi dùng phạm âm nói kệ chú nguyện: Người sống theo lẽ đạo Y giáo, chẳng lãng xao Kẻ ngu dại đố kî Thấy vậy, ác hại nhau. Gieo giống đắng, quả đắng Nhân ác, nào tránh được? Làm ác chịu tội khổ Tu thiện hưởng phước lành. Thiện ác kết quả riêng Nhân quả lý đương nhiên Làm thiện sẽ được thiện Gieo giống ngọt: vui yên. Đức Phật nói kệ xong, năm trăm vị Bà-la-môn tâm ý khai ngộ liền đến trước Đức Phật phủ phục sát đất đảnh lễ, rồi chắp tay thưa: –Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con là những kẻ ngu si ngoan cố, trước giờ chưa hiểu được lời dạy của Bậc Thánh. Nay xin Ngài hãy Từ bi nhận chúng con làm Sa-môn. Đức Phật hứa khả. Năm trăm vị đó xuất gia thành Tỳ-kheo. Già trẻ trong xóm làm nghề đồ tể thấy thần thông của Đức Phật ai cũng hoan hỷ, đều được đạo quả. Từ đó người trong xóm được xưng là bậc Hiền thánh không còn tên gọi đồ tể nữa. Đức Phật thọ trai xong, trở về tinh xá.  <詞 id="41126420">Phẩm 23: THẾ TỤC <章 id="41126421">Thí dụ 46: Thuở xưa, có một vị vua dòng Bà-la-môn tên là Đa Vị Tả, phụng thờ chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Bỗng một hôm vua phát khởi thiện tâm, muốn làm việc bố thí theo pháp Bà-la-môn. Vua cho chất của thất bảo nhiều như núi, rồi đem ra bố thí. Người nào đến xin được phép lấy một nắm thất bảo. Vua bố thí như vậy mấy ngày mà số châu báu không giảm. Đức Phật biết vị vua này được phước duyên đời trước có thể hóa độ. Ngài liền hóa thành một vị Bà-la-môn đến nước đó. Vua thấy Bà-la-môn đến liền ra đón tiếp. Sau khi chào hỏi xong, vua bèn đứng dậy nói: –Ngài có yêu cầu gì xin cứ nói ra, chớ có nghi nan. Vị Bà-la-môn thưa: –Tôi từ xa đến, muốn xin châu báu để xấy cất nhà cửa. Vua đáp: –Tốt lắm, ông hãy tự bốc lấy một nắm châu báu rồi đi. Bà-la-môn liền bốc lấy một nắm. Ông đi bảy bước rồi quay lại trả về chỗ cũ. Vua hỏi: –Sao ông không lấy? Vị Bà-la-môn đáp: –Bao nhiêu đây chỉ đủ xây nhà cửa thôi, nếu dùng để cưới vợ thì lại không đủ. Cho nên tôi không lấy. Vua nói: –Vậy ông hãy lấy ba nắm châu báu. Vị Bà-la-môn liền y lời lấy ba nắm. Song ông cũng chỉ bảy bước, rồi quay lại trả. Vua hỏi: –Vì sao ông trả lại? Vị Bà-la-môn đáp: –Bao nhiêu đây chỉ đủ xây nhà, cưới vợ, xong còn ruộng đất, nô tỳ, trâu ngựa thì không đủ để sắm. Vì vậy tôi không lấy. Vua bảo: –Vậy ông hãy lấy bảy nắm châu báu. Vị Bà-la-môn lấy bảy nắm châu báu ra đi. Song cũng chỉ bảy bước, rồi trở lại trả. Vua hỏi: –Sao lại như vậy? Vị Bà-la-môn đáp: –Nếu có con trai con gái, phải dựng vợ, gả chồng cho nó, chi phí mọi chuyện tính ra số châu báu trên không đủ chi dùng, cho nên không nên lấy. Vua bảo: –Vậy ông lấy hết số châu báu này chi dụng cho những việc trên. Vị Bà-la-môn nhận lấy rồi đem lại chỗ cũ. Vua vô cùng ngạc nhiên, hỏi ông tại sao. Vị Bà-la-môn thưa: –Xưa nay kẻ ăn xin là để kiếm sống. Song xét kỹ ra, mạng người ở đời nào có bao lâu, vạn vật vô thường sớm còn tối mất. Nhân duyên càng nặng, ngày khổ lụy càng dài, của cải chứa đầy như núi không ích chi cho mình. Tham dục mưu đồ danh lợi uổng tự chuốt lấy khổ đau. Sao bằng dứt tâm tham cầu, học đạo vô vi. Tôi vì suy nghó như vậy cho nên không lấy. Vua nghe được những lời này, tâm ý bỗng nhiên khai ngộ, nguyện vâng theo lời dạy sáng suốt này. Lúc đó vị Bà-la-môn hiện lại thân Phật, quang minh rực rỡ, bay vọt lên trụ giữa hư không vì vua nói kệ: Dù đời đầy trân bảo Chất đến tận trời cao Vẫn không bằng thấy đạo Giàu sang sánh được nào! Bất thiện tưởng là thiện Ái ngỡ là không ái Lại lấy khổ làm vui Chỗ kẻ ngu bị hại. Bấy giờ quốc vương thấy hào quang Đức Phật chiếu khắp đất trời, lại nghe bài kệ này nên vô cùng hoan hỷ. Vua và quần thần liền thọ Ngũ giới, đắc quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126422">Phẩm 24: THUẬT PHẬT <章 id="41126423">Thí dụ 47: Thuở xưa, Đức Phật ngồi dười cội cây Bồ-đề, hàng phục chúng ma, chứng thành đạo quả nơi đạo tràng Thiện thắng nước Ma-kiệt-đề. Ngài tự tư duy: “Chánh pháp cam lộ ngày nay đã thấm nhuần khắp tam thiên thế giới. Nhớ thuở xưa, lúc Ta còn đang tu khổ hạnh, phụ vương đã sai năm người cúng dường các thứ ngũ cốc và hầu hạ Ta rất có công lao. Nay Ta nên trả ân cho họ.” Năm vị ấy hiện nay đang ở nước Ba-la-nại. Cho nên Đức Như Lai đứng dậy rời khỏi tòa đi đến nước đó. Đức Như Lai với tướng hảo trang nghiêm, từ quang tỏa chiếu khắp đất trời, oai thần chấn động, khiến ai cũng sinh lòng hoan hỷ. Trên đường đi, Ngài gặp một Bà-la-môn tên là Ưu Họâ. Ông này đã từ bỏ quyến thuộc, gia đình đang tìm thầy học đạo. Ông trông thấy tôn dung vi diệu của Đức Thế Tôn vừa kinh ngạc vừa hoan hỷ, dừng lại bên dường, cất tiếng khen: –Vị ấy đức độ cảm người, oai nghi đónh đạc, không biết theo học với vị thầy nào mà được nghi dung như thế? Đức Phật nghe vậy, liền đọc lên một bài kệ để trả lời: Tự giác Bát chánh đạo Nơi đời, không ô nhiễm Phá lưới dục, dứt ái Ta không học với ai. Hạnh Ta không thầy dạy Chí Ta khác mọi người Duy nhất được thành Phật Từ đây đường Thánh mở. Ưu Hộ nghe kệ bỗng thấy buồn bã, hỏi Đức Thế Tôn định đi về đâu. Ngài đáp: –Ta định đến nước Ba-la-nại chuyển Vô thượng pháp luân, đem giáo pháp cam lộ lợi ích cho chúng sinh. Trong ba cõi chưa từng có ai chuyển đại pháp luân giúp chúng sinh thể nhập Niết-bàn như Ta hiện nay. Bà-la-môn Ưu Hộ nghe vậy mừng rỡ nói: –Lành thay! Lành thay! Nếu đúng như lời Ngài nói, sau này rảnh rỗi tôi sẽ đến nghe pháp mầu. Vị Bà-la-môn nói xong vòng tay chào Phật rồi bỏ đi. Trên đường đến chỗ thầy học đạo, ông tá túc tại một nơi ngủ qua đêm. Đêm đó ông bỗng nhiên qua đời. Đức Phật dùng đạo nhãn thấy rõ việc này rất thương xót nói: –Thế gian ngu si cho là mạng sống trường tồn, gặp được Phật lại bỏ đi, kế chịu mất mạng. Trống pháp vang rền mà họ không được nghe. Vị cam lộ diệt khổ mà họ không được nếm. Do đó, vòng sinh tử cứ tiếp nối vô tận, trôi lăn mãi trong năm đường, không biết kiếp nào họ mới được độ. Kế đó, Đức Phật từ mẫn nói kệ: Ngộ chân lý, thanh tịnh Thoát khỏi vòng sinh tử Phật ra đời soi sáng Trừ ưu khổ hữu tình. Khó thay, sinh làm người Khó thay, được sống thọ Khó thay, đời gặp Phật Khó thay, được nghe pháp. Lúc Đức Phật nói kệ này, năm trăm chư Thiên giữa hư không được nghe pháp mầu vô cùng hoan hỷ, chứng được quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126424">Phẩm 25: AN NINH <章 id="41126425">Thí dụ 48: Thuở xưa, Đức Phật trú tại thành La-duyệt-kỳ. Cách phía Đông nam thành này ba trăm dặm, có một làng dân sơn cước, gồm hơn năm trăm gia đình. Dân làng này tánh tình cứng cỏi khó có thể giáo hóa. Song nhờ họ có phước duyên đời trước nên nay mới được Phật độ. Bấy giờ Đức Thế Tôn hóa làm một vị Sa-môn đến làng đó khất thực. Khất thực xong, Ngài ra ngoài làng đến ngồi dưới một cội cây nhập vào định Nê-hoàn, không thở, không động đậy suốt bảy ngày. người làng thấy vậy cho là đã chết, nên bảo với nhau: “Ông Sa-môn này đã chết chúng ta nên đem chôn cất.” Do đó, họ mang củi đến để thiêu. Sau khi củi tắt hết Đức Phật từ chỗ ngồi đứng dậy hiện thần thông giáo hóa, quang minh tỏa chiếu chuyển động mười phương. Hiện thần thông xong, Ngài lại ngồi xuống chỗ cũ, dung mạo an định, từ hòa. Người trong làng nhỏ ai cũng hết sức kinh sợ vội dập đầu tạ lỗi: – Người sơn dã chúng con ngu độn, không biết là Thần nhân đã càn rỡ đem củi đến thiêu Ngài khi còn sống. Chúng con tự nghó tội mình nặng hơn núi Thái sơn. Xin Ngài hãy Từ bi tha thứ đừng oán trách. Không biết Thần nhân có an lành không? Có buồn lo, đói khát, nóng bức chăng?”. Bấy giờ Đức Thế Tôn từ hòa mỉm cười nói kệ: Ta đã an tịnh Không có oán hờn Giữa người hờn oán Ta không oán hờn. Ta đã an tịnh Không còn bệnh não Giữa người bệnh hoạn Ta không não bệnh. Ta đã an tịnh Không còn lo buồn Giữa người lo buồn Ta không buồn lo. Ta được an tịnh Thanh tịnh vô vi Hưởng vị an lạc Như trời Quang âm. Ta đã an tịnh Vô sự và lặng trong Dầu lửa thế gian Không thiêu Ta được. Lúc đó, năm trăm người dân trong làng nghe kệ xong đều xin làm Sa-môn, tu chứng được quả A-la-hán. Người trong làng lớn nhỏ đều tin Tam bảo. Đức Phật cùng năm trăm vị Sa-môn này bay về tinh xá Trúc lâm. Hiền giả A-nan thấy Đức Phật và các vị A-la-hán cùng đến vội ra trước Phật bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, những vị Tỳ-kheo này có phước đức gì đặc biệt mà được Đức Thế Tôn đích thân đến hóa độ. Đức Phật bảo: –Này A-nan, thuở Ta chưa thành Phật, có một vị Bích-chi-phật trú tại núi đó. Một hôm vị ấy ngồi dưới một cội cây cách làng không xa định nhập Niết-bàn. Vị ấy hiện thần thông xong liền nhập diệt. Người trong làng mang củi lửa đến để thiêu, rồi gom lấy xá-lợi đựng trong bình báu chôn trên đỉnh núi. Mọi người cùng nhau nguyện đời sau được đắc đạo, có thể an lạc diệt độ như vị Sa-môn này. Nhờ nhân duyên phước đức đó mà ngày nay họ có thể đắc đạo và Đức Như Lai mới đích thân đến để độ họ. Đức Phật nói xong, vô số trời người nhân đó được đắc đạo quả.  <章 id="41126426">Thí dụ 49: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá thuộc nước Xá-vệ. Lúc ấy, có bốn vị Tỳ-kheo ngồi dưới một cội cây cùng bàn với nhau về việc trên đời này, cái gì khổ nhất. Một người nói: –Cái khổ trong đời không gì hơn dâm dục. Một người khác nói: –Sân hận mới là cái khổ lớn nhất. Người thứ ba bảo: –Đói khát là cái khổ lớn nhất. Người còn lại bảo: –Kinh sợ mới là cái khổ lớn nhất. Vì bất đồng ý kiến, họ cứ tranh luận mãi với nhau về ý nghóa của chữ khổ không dứt. Đức Phật biết việc này bèn đến đó hỏi: –Các ông đang tranh luân với nhau về việc gì? Các Tỳ-kheo liền đứng dậy làm lễ, trình bày những điều đang bàn luận. Đức Phật bảo: –Này các Tỳ-kheo, các ông đang bàn luận chưa cùng tột hết ý nghóa của chữ khổ. Cái khổ trong đời không gì hơn có thân. Tất cả việc đói khát, nóng lạnh, sân hận, kinh sợ, sắc dục, oán họa đều do có thân. Thân là gốc cái khổ, nguồn tai họa, gây nên lao tâm mệt trí, lo sợ đủ điều. Vì nó mà chúng sinh trong tam giới máy cựa tàn hại lẫn nhau. Chấp ngã buộc ràng, sinh tử không dứt đều do nơi thân. Vì vậy muốn xa lìa được cái khổ trong đời phải cầu tịch diệt. Nếu nhiếp tâm giữ gìn theo đạo chánh, không khởi những vọng tưởng sai lầm có thể đạt được Niết-bàn. Đây chính là chỗ vui nhất. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Nóng không gì hơn dâm Độc không gì hơn giận Khổ không gì hơn thân Vui, Niết-bàn trên hết. Không ham mê vui nhỏ Luận nhỏ và tuệ nhỏ Xét tìm điều to lớn Mới được an lạc lớn. Ta là Bậc Thế Tôn Giải thoát không ưu não Đi thẳng qua ba cõi Hàng phục được chúng ma. Đức Phật nói kệ xong, bảo các Tỳ-kheo: –Cách đây vô số kiếp về thuở quá khứ, có một vị Tỳ-kheo đã đắc ngũ thông tên là Tinh Tấn Lực tu tịch tịnh dưới gốc cây trong núi cầu đắc đạo. Lúc ấy có bốn loại chim thú nương theo bên cạnh, nên cũng được an ổn. Đó là bồ câu, quạ, rắn độc và nai. Bốn con này ban ngày đi kiếm ăn, đêm lại trở về một chỗ. Có một đêm bốn con lại tự hỏi với nhau: “Trong đời điều gì là khổ nhất?”. Quạ bảo: “Đói khát là khổ nhất, vì đói khát thân yếu mắt mờ, tinh thần bất an, lao mình vào lưới, không ngại gươm đao. Chúng tôi sở dó mất mạng do đây mà ra. Vì vậy nên đói khát là khốn khổ nhất.” Chim bồ câu nói: “Dâm dục là khổ nhất. Sắc dục lừng lẫy che mờ tâm tánh. Nó khiến người ta bị nguy thân mất mạng.” Rắn độc bảo: “Nóng giận là khổ nhất. Ý độc ác vừa dấy khởi thì không kể gì thân sơ, có thể giết người cũng có thể giết mình.” Nai nói: “Sợ hãi là khổ nhất. Bọn tôi đi trong rừng hoang tâm luôn bất an, sợ gặp thợ săn và lũ sài lang. Hơi nghe động đậy đã phóng mình chạy, có lúc phải sa xuống hố, nên mẹ con phải bỏ nhau, sợ nát gan vỡ mật. Do đó sợ hãi là khổ nhất.” Vị Tỳ-kheo đó nghe vậy liền bảo với bọn chúng: “Chỗ các ngươi bàn luận chỉ là ngọn ngành, mà chưa xét đến được cái gốc của khổ. Cái khổ trong đời không có gì hơn thân. Thân là món đồ chứa khổ, lo sợ vô lượng. Ta vì lẽ này mà xả tục học đạo, điều phục vọng tưởng, không tham chấp tứ đại. Muốn chấm dứt gốc khổ phải để tâm nơi Niết-bàn. Đạo Niết-bàn vắng lặng không hình, mãi mãi không có ưu hoạn, là chỗ đại an lạc.” Bốn con vật nghe xong, tâm ý mở tỏ. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Vị Tỳ-kheo ấy chính là Ta ngày nay. Bốn con vật thuở đó chính là bốn vị các người. Đời trước các vị đã từng nghe được ý nghóa của gốc khổ, sao hôm nay lại còn tranh cãi như thế! Các Tỳ-kheo nghe xong hổ thẹn tự trách, đắc quả A-la-hán ngay trước Phật.  <詞 id="41126427">Phẩm 26: HIẾU HỶ <章 id="41126428">Thí dụ 50: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ. Lúc ấy, có bốn vị tân học Tỳ-kheo đưa nhau đến một gốc cây nại để tọa thiền hành đạo. Cây nại đang mùa nở hoa, sắc hoa tươi đẹp, hương hoa nồng nàn. Nhân đó bốn vị Tỳ-kheo bàn với nhau về việc vạn vật trên đời, điều gì khả ái, hoan lạc hơn cả? Một người nói: –Vào tháng trọng xuân cỏ cây xanh tốt, hoa tươi khoe sắc, nếu được dạo chơi đây đó ngoài đồng nội thật là điều vui nhất. Người thứ hai nói: –Bà con hội họp, chén tạc chén thù, tai được nghe âm nhạc, mắt thưởng thức múa ca, đó mới là vui nhất. Người thứ ba nói: –Tiền của có thật nhiều, cần gì có nấy. Xe ngựa quần áo, đồ trang sức thật lộng lẫy hơn hẳn mọi người. Ra vào sang trọng khiến mọi người phải trố mắt nhìn. Đó mới thật là vui nhất. Người thứ tư nói: –Vợ đẹp, hầu non với lụa là gấm vóc, son phấn ngát hương khiến cho ta có thể mặc tình vui chơi. Đây mới là vui nhất. Đức Phật biết bốn vị Tỳ-kheo này có thể độ được, chẳng qua thất niệm để tâm ý dong ruổi theo lục dục mà không xét đến lẽ vô thường. Ngài bèn gọi bốn vị đó lại hỏi: –Các ông ngồi dưới cội cây đang luận bàn chuyện gì? Bốn vị ấy thành thật kể lại hết những điều đã bàn luận về thú vui. Đức Phật bảo: –Những điều các ông bàn luận toàn là con đường đưa đến lo sợ, oán thù, bại vong, không phải là pháp mãi mãi an ổn, tuyệt đối an vui. Các ông phải suy xét rằng vạn vật xuân thì tươi tốt, sang thu đông lại tàn tạ. Bà con sum vầy vui vẻ rồi phải chịu cảnh chia ly. Tài sản xe ngựa là của chung năm nhà. Thê thiếp xinh đẹp là đầu mối yêu ghét. Kẻ phàm phu ở đời cứ luôn chuốc lấy tai họa nguy thân diệt tộc, nên lo sợ dẫy đầy. Ba đường tám nạn, muôn mối khổ đau đều do đây mà ra. Vì vậy bậc Tỳ-kheo xả tục cầu đạo, chí hướng vô vi không tham danh lợi sẽ tự nhiên đạt đến Niết-bàn. Đây mới chính là chỗ tuyệt đối là an vui. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Ham vui sinh lo Ham vui sinh sợ Nếu không ham vui Đâu còn lo và sợ. Ham lạc sinh lo Ham lạc sinh sợ Nếu không ham lạc Đâu còn sợ lo. Tham dục sinh lo Tham dục sinh sợ Thoát không tham dục Đâu còn sợ lo. Người được không tham Chí thành biết thẹn Tu hành gần đạo Được người kính yêu. Tham dục không khởi Nghó đúng mới nói Tâm không tham ái Cắt dòng sinh tử. Đức Phật bảo bốn vị Tỳ-kheo: –Thuở xưa, có một vị vua tên là Phổ An. Ông kết bạn với bốn ông vua nước lân cận. Một hôm ông mời bốn ông vua bạn sang dự yến tiệc suốt một tháng, với đủ các món ăn uống ngon lạ, các trò giải trí vui vẻ không gì bằng. Đến ngày chia tay, vua Phổ An mới hỏi bốn ông vua bạn rằng: “Người ta sống trên đời cái gì là vui nhất? Một ông đáp: “Dạo chơi là vui nhất.” Ông thứ hai nói: “Thân thuộc hôi họp, đàn ca xướng hát là vui nhất.” Ông thứ ba nói: “Của cải thật nhiều, muốn gì thỏa nấy là vui nhất.” Ông cuối cùng nói: “Ái dục được mặc tình thỏa mãn là điều vui nhất.” Vua Phổ An bảo: “Những điều các ông nói là gốc của khổ não, là nguồn của lo sợ, vui trước sau khổ. Sầu bi muôn mối đều do đây mà ra. Chi bằng tịch tónh, vô cầu vô dục, đạm bạc thủ đạo là an vui nhất.” Bốn ông nghe xong vui mừng tin hiểu hết lời tán thán. Đức Phật bảo bốn vị Tỳ-kheo: –Vua Phổ An thuở đó chính là Ta ngày nay, còn bốn vị vua bạn là bốn người các ông. Thuở xưa ta đã vì các ông giảng rõ mà nay vẫn chưa thông hiểu. Sinh tử mênh mang biết ngày nào mới chấm dứt! Bốn vị Tỳ-kheo một lần nữa được nghe pháp nghóa này, hổ thẹn ăn năn, tâm chợt khai ngộ, vọng tưởng chấm dứt, tham dục không còn, chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126429">Phẩm 27: PHẪN NỘ <章 id="41126430">Thí dụ 51: Thuở xưa, Đức Phật trú trong núi Kỳ-xà-quật tại thành La-duyệt-kỳ. Lúc đó Điều-đạt và vua A-xà-thế bàn nhau tìm cách hại Phật và chúng Tăng. Vua lệnh cho dân chúng không phụng thờ Đức Phật. Chúng Tăng khất thực không được cúng dường. Lúc ấy, các vị Trưởng lão như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Tu-bồ-đề… và các Trưởng lão Ni như Ba-hòa-đề… đều dẫn đệ tử đi đến các nước khác, chỉ còn Đức Phật và năm trăm vị A-la-hán trú tại núi Kỳ-xà-quật. Ông Điều-đạt đến chỗ vua A-xà-thế bàn: –Các đệ tử của Phật nay đã tản đi cả, chỉ còn năm trăm vị gần kề. Xin vua ngày mai mời Phật vào thành, tôi sẽ cho năm trăm thớt voi lớn uống rượu say, rồi thả ra để đạp chết Phật và đệ tử, dứt tuyệt mầm mống. Tôi sẽ làm Phật giáo hóa thế gian. Vua A-xà-thế nghe nói vui mừng đồng ý, liền đến chỗ Đức Phật cúi đều làm lễ thưa: –Ngày mai tôi có sắp đặt buổi cúng dường đạm bạc, thỉnh Phật và chúng đệ tử hoan hỷ vào thọ thực trong cung. Đức Phật tuy biết rõ âm mưu vẫn đáp: –Lành thay! Sáng mai Ta sẽ đến. Vua chào ra về, nói lại với Điều-đạt rằng Đức Phật đã nhận lời mời, nên sắp đặt trước cho voi uống rượu say chờ cơ hội ra tay. Hôm sau, vào giờ thọ thực Đức Phật cùng năm trăm vị A-la-hán đi vào thành. Bỗng một bầy voi say năm trăm con gầm rống cất vòi xông đến, tường vách bị húc đổ, cây cối gãy rạp, người đi đường hãi sợ, cả thành hỗn loạn kinh hoàng. Lúc ấy năm trăm vị A-la-hán liền bay lên hư không, chỉ có A-nan đứng bên cạnh Đức Phật. Bầy voi say xông đến chỗ Phật. Ngài liền giơ bàn tay lên, năm ngón tay tức thời hóa thành năm trăm sư tử chúa, đồng thanh rống lớn chấn động khắp đất trời. Đàn voi say chợt khựng lại, quỳ xuống sát đất không dám ngẩng đầu, cơn say dứt hẳn rơi lệ ăn năn. Trước hiện trạng này vua và thần dân vô cùng kinh ngạc, thán phục. Đức Thế Tôn khoan thai bước vào cung điện, cùng các vị A-la-hán thọ trai. Thọ trai xong Đức Phật vì vua mà ban lời chú nguyện. Nhà vua lúc đó mới bạch Phật: –Con vì tâm tánh u tối mới tin nghe theo lời sàm báng, gây tạo nghịch ác, mưu đồ bất chánh. Xin Ngài hãy rủ lòng Từ bi tha thứ cho sự ngu mê của con. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo với vua A-xà-thế và đại chúng: “Trên đời có tám việc gây ra phỉ báng. Xét ra, nó đều do ham danh dự và tham lợi dưỡng mà gây đại tội, muôn kiếp không dứt. Thế nào là tám? Đó là: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Từ xưa đến nay ít ai không mê hoặc.” Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Bị người nói xấu Xưa nay vẫn vậy Nói nhiều bị chê Trì độn bị chê Vừa phải cũng chê Không ai tránh khỏi. Phàm phu tham dục Không thể công minh Chê đó, khen đó Chỉ do danh lợi Chỉ bậc Minh triết Khen đúng hiền tài. Người trí giữ giới Không chỗ gièm chê Như La-hán tịnh Không ai vu báng Chư Thiên tán thán Phạm, Thích kính tôn. Đức Phật nói kệ xong, lại kể với vua: –Thuở xưa có một vị vua thích ăn thịt chim nhạn. Ông sai thợ săn mỗi ngày giăng lưới bắt nhạn, cung cấp một con cho vua ăn. Một hôm, có con chim nhạn chúa dẫn theo năm trăm con khác bay xuống kiếm ăn. Nhạn chúa vướng lưới, cả đàn hoảng kinh bay vọt trở lên. Song trông thấy nhạn chúa bị bắt, cả đàn cứ bay lượn trên không bịn rịn không chịu bỏ đi. Trong đó có một con bay sát theo nhạn chúa, bất kể cung tên nguy hiểm, thốt ra tiếng kêu bi thương, mồm tứa máu tươi, ngày đêm không ngừng. Thấy tình nghóa của chim nhạn như vậy, người thợ săn cảm động bèn thả nhạn chúa ra. Thấy nhạn chúa được thả, cả đàn vô cùng mừng rỡ bay lượn vòng quanh nó. Lúc ấy người thợ săn tâu lên vua mọi việc. Vua nghe xong rất cảm động, đã từ bỏ ý định ăn thịt nhạn. Đức Phật kể xong, bảo với A-xà-thế: –Con chim nhạn chúa thuở đó, chính là Ta ngày nay. Con nhạn bay theo là A-nan. Còn đàn nhạn năm trăm con là năm trăm vị A-la-hán hiện giờ. Ông vua thích ăn thịt chim nhạn chính là vua, còn người thợ săn là Điều-đạt vậy. Ông ấy từ nhiều đời đến nay luôn tìm cách hại Ta. Ta nhờ sức đại từ nên được an ổn. Ta không chấp kẻ oán nên được thành Phật. Nghe Đức Phật dạy xong, vua và quần thần ai cũng khai ngộ.  <詞 id="41126431">Phẩm 28: TRẦN CẤU <章 id="41126432">Thí dụ 52: Thuở xưa, có một người là con một, không anh em. Từ nhỏ anh được mẹ cưng chìu hết lòng lo cho ăn học, mong mỏi sau này anh được nên người. Cha mẹ đưa anh đến các bậc thầy giỏi bạn tốt và khuyên anh gắng học. Song thuở ấy anh lại nghênh ngang ham chơi, không chịu để tâm học hỏi. Anh sáng theo học, chiều đã bỏ, không ngó ngàng gì đến sách vở, nên đã bao năm rồi mà dốt vẫn hoàn dốt. Thấy vậy, cha mẹ gọi anh về giao việc trông coi nhà cửa, làm ăn buôn bán. Song quen thói ăn chơi lêu lỏng, không chịu siêng năng làm việc, chẳng bao lâu nhà cửa suy sụp. Riêng anh cứ mặc tình tiêu xài, bán hết lúa thóc, rồi lại bán luôn vật dụng trong nhà để thỏa mãn ý thích của mình. Sống đời nghèo khổ, bê tha như vậy, anh suốt ngày đầu tóc rối bù, áo quần dơ bẩn, chân không mang dép la cà khắp nơi. Tánh tình anh lại xan tham, thô lỗ, ngu si không biết só diện. Cho nên ai cũng khinh ghét, gọi anh là tên hung ác, không thèm nói chuyện. Trước tình trạng đó, anh đã không biết lỗi còn trở lại trách cứ mọi người. Trước hết anh oán cha mẹ, kế lại trách thầy bạn. Anh trách tổ tiên, thần linh không chịu giúp đỡ khiến anh ra nông nổi này, có lẽ đến chỗ Phật nhờ giúp sẽ hưởng được phước. Nghó xong, anh bèn đến chỗ Đức Phật làm lễ, rồi ra trước bạch rằng: –Đạo của Đức Phật bao la, dung chứa tất cả. Nay con xin làm đệ tử, mong Phật chấp nhận. Đức Phật bảo: –Phàm người muốn cầu đạo, phải tu hạnh thanh tịnh. Nay ông mang những cấu nhiễm trần tục vào trong đạo, chỉ nhọc công nào có lợi ích gì! Chi bằng ông hãy trở về lo hiếu kính phụng thờ cha mẹ, hết lòng học hỏi thầy bạn, gắng sức gây dựng gia nghiệp trở nên giàu có yên vui, lấy lễ nghóa để sửa mình, không làm những điều bất chánh. Ông hãy tắm gội ăn mặc sạch sẽ, cẩn thận lời nói hành động, giữ lòng chuyên nhất lo làm ăn, siêng năng tu sửa thì sẽ được mọi người yêu mến. Ông làm được những việc như thế mới có thể học đạo. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Không đọc tụng: lời dơ Không siêng năng: nhà dơ Không trang nghiêm: sắc dơ Còn phóng dật: việc dơ. Keo bẩn dơ tuệ thí Bất thiện dơ thiện hạnh Ác pháp là vết dơ Đời này và đời sau. Dơ trong các thứ dơ Ngu si là hơn cả Tu học dứt ngu si Thành Tỳ-kheo vô cấu. Người đó nghe kệ tự biết mình trước đây kiêu mạn ngu si, vâng theo lời Phật dạy hoan hỷ trở về nhà. Anh từ đó luôn tư duy quán xét ý nghóa của bài kệ để cải đổi lỗi lầm, làm lại cuộc đời. Anh trở nên biết hiếu thảo cha mẹ, tôn kính sư trưởng, siêng đọc kinh sách, gắng lo gia nghiệp, khép mình giữ giới không làm điều trái đạo. Do vậy, bà con làng xóm đều ngợi khen, tiếng lành đồn xa cả nước đều xem anh là người hiền. Ba năm sau, anh trở lại chỗ Đức Phật, cúi mình đảnh lễ, thành khẩn bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, Bậc Thầy tôn kính chí chân đã độ con nên người, bỏ ác làm lành, trên dưới đều được an vui. Xin Ngài hãy rủ lòng Từ bi tiếp độ cho con được xuất gia học đạo. Đức Phật đáp: –Lành thay! Râu tóc của người đó liền tự rụng thành tướng Sa-môn. Nhờ tư duy thiền quán lý Tứ đế, ngày càng nỗ lực tinh tấn, chẳng bao lâu người ấy đã chứng được quả A-la-hán.  <詞 id="41126433">Phẩm 29: PHỤNG TRÌ <章 id="41126434">Thí dụ 53: Thuở xưa, có một vị Trưởng lão Bà-la-môn tên Tát-giá-ni-kiền, thông minh tài giỏi vào bậc nhất trong nước. Ông có năm trăm người đệ tử thường xuyên theo học. Do vậy cống cao tự đại không xem thiên hạ ra gì. Ông thường lấy lá sắt mỏng quấn quanh bụng. Người ta ấy làm lạ hỏi, ông đáp: –Tôi sợ trí tuệ tràn ra ngoài nên mới làm như thế! Một hôm ông nghe có Phật ra đời, việc giáo hóa đạo hết sức thành công, nên sinh tâm đố kî, trằn trọc không yên. Ông nói với các đệ tử: –Ta nghe Sa-môn Cù-đàm tự xưng là Phật, nay ta sẽ đến đó hỏi những việc sâu xa vi diệu, khiến ông ta bối rối không biết đường trả lời. Nói xong, ông cùng chúng đệ tử đến tinh xá Kỳ hoàn, đứng ở ngoài cổng. Từ xa, trông thấy từ dung Thế Tôn rực rỡ uy nghiêm như vầng mặt trời mới mọc, ông bỗng sinh tâm hoan hỷ xen lẫn kính sợ, liền rẽ đám đông đi thẳng đến trước Phật làm lễ. Đức Phật bảo ông ngồi. Ngồi xong, ông thưa với Phật: –Cái gì gọi là đạo? Điều gì gọi là trí? Sao gọi là Trưởng lão? Sao gọi là đoan chánh? Sao gọi là Sa-môn? Sao gọi là Tỳ-kheo? Sao gọi là hiền minh? Sao gọi là có đạo? Sao gọi là vâng giữ giới? Nếu như Ngài trả lời được, tôi xin làm đệ tử. Bấy giờ Đức Thế Tôn xét theo căn cơ của ông, dùng kệ đáp rằng: Thường từ mẫn hiếu học Tâm chân chánh tu hành Chỉ giữ gìn tuệ báu Đây chính gọi là Đạo. Gọi là người có chí Không cần biện luận Ai tự tại, vô úy Làm lành là bậc Trí. Gọi là bậc Trưởng lão Không phải do tuổi cao Thân già và tóc bạc Hạng xuẩn ngu khác nào. Ai noi theo chánh pháp Từ bi, đạo đức cao Sáng suốt lại thanh tịnh Xứng đáng xưng Trưởng lão. Người gọi là đoan chánh Không phải đẹp như hoa Không tham lam, tật đố Nói và làm trái xa. Ai bỏ được điều ác Dứt tận đến nguồn cơn Trí tuệ, không giận hờn Mới là người đoan chánh. Gọi là bậc Sa-môn Không phải do cạo tóc Nếu vọng ngữ tham lam Khác chi hạng phàm tục? Ai dứt được điều ác Mở rộng đạo nhiệm mầu Tâm ý không vọng tưởng Chính thật bậc Sa-môn. Gọi là bậc Tỳ-kheo Không phải đi khất thực Tà hạnh không cúng thí Chỉ là cầu danh suông. Ai dứt bỏ tội nghiệp Thanh tịnh tu phạm hạnh Trí tuệ phá được ác Chính thật bậc Tỳ-kheo. Gọi là bậc Hiền minh Chẳng phải im không nói Nếu dụng tâm không khéo Làm dáng bên ngoài thôi. Ai giữ lòng vô vi Hạnh thanh tịnh, vô chấp Tâm bỉ thử vắng lặng Chính thật bậc Hiền minh. Gọi là bậc có đạo Không riêng cứu một ai Cứu giúp cho tất cả Không hại kẻ vô đạo. Người phụng trì chánh pháp Không phải tụng, nói nhiều Tuy là nghe học ít Biết y pháp hành trì Giữ đạo không quên lãng Đó là trì pháp tạng. Tát-giá-ni-kiền và năm trăm đệ tử nghe kệ xong, tâm hoan hỷ khai ngộ, không còn kiêu mạn đều xuất gia làm Sa-môn. Riêng Ni-kiền phát tâm Bồ-tát, còn năm trăm đệ tử đều chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126435">Phẩm 30: ĐẠO HẠNH <章 id="41126436">Thí dụ 54: Thuở xưa, có một vị Bà-la-môn xuất gia học đạo từ nhỏ, đến năm sáu mươi tuổi vẫn chưa đắc đạo. Theo pháp Bà-la-môn, đến tuổi này chưa đắc đạo thì trở về lấy vợ làm ăn. Ông này cũng như vậy, trở về lập gia đình, sinh được một đứa con trai khôi ngô dễ mến. Lớn lên cậu ta tỏ ra thông minh hơn người, học hành giỏi giang, biện luận lưu loát. Đến năm bảy tuổi, vào một đêm cậu ta bỗng lâm bệnh nặng, đột ngột qua đời. Ông Bà-la-môn đau buồn khôn xiết, cứ phủ phục ôm xác con than khóc đến ngất đi tỉnh lại. Thân tộc thấy thế tìm lời khuyên ngăn, giành lấy xác đứa bé tẩm liệm rồi đem chôn ngoài thành. Ông Bà-la-môn tự nghó: “Ta nay kêu khóc nào có ích gì? Chi bằng hãy đến chỗ vua Diêm-la đòi mạng con mình lại.” Nghó xong, ông tắm gội trai giới, chuẩn bị hành lý mang hương hoa rời nhà ra đi. Đến đâu ông cũng hỏi chỗ ở của vua Diêm-la, như thế cứ đi mãi suốt mấy ngàn dặm. Một hôm, ông đến một vùng núi sâu, gặp các Bà-la-môn đắc đạo hỏi thăm. Các Bà-la-môn hỏi: –Ông hỏi thăm chỗ vua Diêm-la là muốn cầu điều gì? Đáp: –Tôi có một con trai thông minh, biện bác hơn người. Thế mà gần đây nó bỗng chết mất, tôi đau thương buồn khổ, không sao quên được, nên muốn tìm đến chỗ vua Diêm-la xin lại mạng sống cho con để nhờ cậy lúc tuổi già. Các Bà-la-môn thương ông lão ngu si, liền bảo: –Chỗ vua Diêm-la người sống đâu thể đến được. Chúng tôi sẽ chỉ cách cho ông. Từ đây đi về hướng Tây hơn bốn trăm dặm có một con sông lớn. Trong đó có tòa thành là nơi dừng nghỉ của các Thiên thần khi đi tuần sát thế gian. Vua Diêm-la vào ngày mùng tám hàng tháng đi tuần sát sẽ ghé lại thành này. Ông trì trai giới đến đó vào ngày ấy sẽ gặp. Vị Bà-la-môn vui mừng vâng theo lời dạy ra đi. Đến con sông lớn, ông thấy chính giữa có một tòa thành tráng lệ, cung điện nhà cửa trang nghiêm như cõi trời Đao-lợi. Ông đến trước cổng đốt hương, cầu nguyện được ra mắt vua Diêm-la và tha thiết trông chờ. Vua Diêm-la cho người đưa ông lão vào rồi hỏi ông có điều gì cầu thỉnh. Bà-la-môn thưa: –Tôi đã già mới sinh được một đứa con trai, mong sau này sẽ nhờ cậy. Nuôi được bảy tuổi, không ngờ một hôm nó bỗng lâm bệnh chết mất. Xin Đại vương ban ân trả lại mạng sống cho con tôi. Vua Diêm-la nói: –Tốt lắm, con ông hiện đang chơi ở khu vườn phía Đông. Ông hãy đến dẫn nó về. Vị Bà-la-môn liền đến nơi đó, trông thấy con mình đang chơi đùa cùng các đứa bé khác. Ông chạy lại ôm con khóc lóc nói: “Cha ngày đêm thương nhớ con, ăn ngủ không yên. Con có nhớ nghó đến cha mẹ đang đau khổ không? Đứa trẻ giật mình la lớn, trở lại quở ông: “Ông già si mê này không hiểu đạo lý. Tôi chỉ ở nhờ nhà ông chẳng bao lâu đã gọi là con! Đừng nói nhiều lời càn rỡ nữa, hãy sớm đi là hơn. Tôi ở chỗ này cũng có cha mẹ. Chúng ta chỉ tình cờ gặp gỡ, quyến luyến ôm ấp làm chi.” Vị Bà-la-môn nghe vậy, buồn bã khóc lóc bỏ đi. Ông vừa đi vừa suy nghó: “Ta nghe Sa-môn Cù-đàm biết được đạo lý dời đổi của thần thức, vậy thử đến hỏi xem.” Nghó xong, ông liền tìm đến chỗ Đức Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn đang trú tại tinh xá Kỳ hoàn nước Xá-vệ vì đại chúng thuyết pháp. Ông Bà-la-môn đến gặp Đức Phật liền cúi đầu đảnh lễ, trình bày đầu đuôi câu chuyện. Ông nói: –Con tôi thật không chịu nhìn nhận tôi, trở lại bảo tôi là ông già si mê, ở tạm không bao lâu lại nhận làm con. Không một chút tình phụ tử như vậy, không biết là do duyên gì? Đức Phật bảo: –Ông quả thật ngu si! Khi người ta chết thần thức đi khỏi lại thọ thân mới. Cha mẹ vợ con chỉ là nhân duyên gặp gỡ, như khách trọ qua đêm, sáng thức dậy là chia tay. Thế mà chúng sinh lại ngu mê, chấp cho là thật. Sở dó có ưu bi khổ não là do không hiểu được cội gốc này, chìm đắm mãi trong sinh tử không ngày ra khỏi. Chỉ có bậc Trí tuệ không tham ân ái, giác ngộ khổ đế, dứt bỏ tập đế, siêng tu kinh giới, diệt trừ vọng tưởng chấm dứt sinh tử. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Người đời lo vợ con Chẳng xét lẽ mất còn Cái chết bỗng chợt đến Như nước lũ cạnh bên. Cha con cứu không nổi Ai khác giúp được nào Mạng hết cậy người thân Như mù canh giữ bạc. Tuệ tri được ý này Nên tu trì kinh giới Siêng tu vượt thế gian Dứt trừ tất cả khổ. Xa lìa các sa đọa Như gió thổi mây tan Vọng tưởng đã lặng yên Tri kiến liền hiện tiền. Trí tuệ quý nhất đời Vui nơi đạo vô vi Nếu chánh pháp thọ trì Sinh tử chẳng còn chi. Vị Bà-la-môn nghe kệ xong, hoát nhiên khai ngộ, biết rõ ràng mạng sống vô thường, vợ con là khách, bèn phủ phục đảnh lễ xin làm Sa-môn. Đức Phật bảo: –Lành thay! Râu tóc ông liền tự rụng, pháp y đầy đủ, thành tướng Sa-môn. Ông tư duy ý nghóa bài kệ, chấm dứt ân ái, không còn vọng tưởng, liền chứng quả A-la-hán ngay tại chỗ.  <詞 id="41126437">Phẩm 31: QUẢNG DIỄN <章 id="41126438">Thí dụ 55: Thuở xưa, Đức Phật thuyết pháp giáo hóa tại nước Xá-vệ. Trời, rồng, quỷ, thần, vua chúa, dân chúng mỗi ngày ba buổi đến đó nghe pháp. Lúc ấy vua Ba-tư-nặc tánh tình kiêu mạn, phóng túng dục tình; mắt đắm theo sắc, tai mê theo tiếng, mũi ham hương thơm, miệng thỏa thê với năm vị, thân thọ dụng láng mịn. Do ăn uống cao lương mỹ vị không biết chán, nên vua ăn mỗi lúc một nhiều, cứ luôn nghe đói. Nhà bếp phải suốt ngày lo cho vua ăn. Do vậy, thân vua mỗi lúc một phì nộn, lên xe khó khăn, nằm ngồi bất tiện, luôn thở hổn hển. Có lúc vua nằm chết ngất một lát sau mới tỉnh. Vua cứ nằm ngồi than thở rên rỉ cho tấm thân nặng nề, xoay trở khó nhọc của mình. Cảm thấy thân là mối hoạn họa, vua bèn sai người thắng xe ngựa đến chỗ Phật. Đến nơi, người hầu đỡ vua xuống chào hỏi Phật, rồi vua ngồi xuống chắp tay bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, đã lâu không gặp, không được nghe lời dạy bảo của Ngài. Con không biết tội nghiệp gì mà thân thể tự nhiên phát phì. Nguyên do nào khiến như thế. Con luôn cảm thấy đau khổ về thân này và cũng lẽ đó mà không thường đến thăm Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo: –Này Đại vương, người ta có năm việc khiến bị phát phì: 1. Ăn nhiều lần. 2. Ham ngủ. 3. Sung sướng. 4. Không lo buồn. 5. Rỗi rảnh. Nếu muốn hết mập, ông hãy bớt ăn, sống đạm bạc rồi sau sẽ gầy. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Ta phải luôn tỉnh giác Khi ăn biết tiết độ Giữ kham khổ đạm bạc Sẽ gầy và sống lâu. Vua nghe kệ xong vô cùng hoan hỷ, bèn gọi người nấu bếp đến bảo: –Ông hãy ghi nhớ bài kệ này, đọc cho ta nghe trước khi dọn ăn mỗi bữa. Vua từ giã Đức Phật về cung. Người đầu bếp trước khi dọn thức ăn luôn đọc kệ nhắc vua. Vua nghe kệ, mỗi bữa giảm bớt một muỗng. Do ăn mỗi ngày một ít, thân vua cũng lần lần nhẹ nhàng, gầy lại như cũ. Vua thấy vậy rất vui mừng, nhớ đến Đức Phật bèn đi bộ đến tinh xá. Đức Phật mời vua ngồi, rồi hỏi: –Xe ngựa và người tùy tùng ở đâu, sao vua lại đi bộ? Vua hoan hỷ trả lời: –Trước đây con được nghe Phật dạy, đã phụng hành như pháp. Thân thể giờ được nhẹ nhàng là nhờ ân Đức Thế Tôn. Hôm nay con đi bộ đến tinh xá xem thử thế nào. Đức Phật nói với vua: –Người đời không biết lẽ vô thường, cứ đắm mình trong tình dục không biết làm phước. Khi chết thần thức ra đi, thân xác để nơi phần mộ. Vì vậy người trí nuôi dưỡng tinh thần, kẻ ngu cung dưỡng huyễn thân. Nếu hiểu được lẽ này sẽ biết tu theo Thánh giáo. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ: Người không chịu học Già như là bò đực Chỉ lớn thịt xương Không chút trí tuệ. Sinh tử nhàm chán Qua lại gian nan Tham đắm chấp thân Đau khổ buộc ràng. Người trí thấy khổ Nên bỏ chấp thân Dứt ý, đoạn dục Ái hết không sinh. Vua nghe kệ hoan hỷ hiểu rõ, liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Vô số người nghe đắc được pháp nhãn.  <詞 id="41126439">Phẩm 32: ĐỊA NGỤC <章 id="41126440">Thí dụ 56: Thuở xưa, ở nước Xá-vệ có một thầy Bà-la-môn tên Phú-lan-ca-diếp. Ông đi đâu cũng có năm trăm đệ tử theo sau, được vua chúa và dân chúng thờ kính. Lúc đó Đức Phật mới thành đạo, cùng các đệ tử từ thành La-duyệt-kỳ đến Xá-vệ. Đức Phật tướng hảo quang minh, việc hoằng pháp được rộng rãi tốt đẹp, vua và nhân dân ai cũng thờ kính. Phú-lan-ca-diếp thấy vậy sinh lòng tật đố muốn hủy báng Đức Thế Tôn để một mình hưởng sự cung kính. Ông bèn dẫn đệ tử đến ra mắt vua Ba-tư-nặc rồi thưa: –Hàng Trưởng lão chúng tôi đã tu học với những bậc thầy trước đây ở nước này. Còn Sa-môn Cù-đàm chỉ là kẻ ra đời cầu đạo sau. Ông ta thật sự không có Thần thông thánh đức, chỉ tự xưng là Phật mà thôi. Thế mà vua bỏ chúng tôi thờ phụng ông ta. Nay tôi muốn cùng Phật so thử đạo hạnh xem ai hơn. Người nào hơn, vua hãy trọn đời kính thờ. Vua nói: –Tốt lắm. Vua liền cho xa giá đến chỗ Phật, làm lễ xong bạch: –Phú-lan-ca-diếp muốn cùng Đức Thế Tôn thi đua đạo lực, thần thông biến hóa. Không biết tôn ý như thế nào? Đức Phật đáp: –Được, vua hãy hẹn với ông ta bảy ngày sau sẽ so thần thông. Vua bèn cho dựng hai tòa cao bốn mươi trượng, thất bảo trang nghiêm, treo đầy tràng phan, xếp chỗ ngồi chỉnh tề nơi khoảng đất rộng bằng phẳng phía Đông kinh thành. Khoảng giữa hai tòa cách nhau hai dặm, chúng đệ tử hai bên đều ngồi dưới tòa bên mình. Ngày ấy, vua và quần thần, nhân dân vân tập đầy đủ để xem cuộc thi thần thông này. Bấy giờ Phú-lan-ca-diếp và các đệ tử đến trước. Ông bước lên thang để đăng tòa. Có một vị vua quỷ thần tên là Bàn Sư thấy bọn ông này hư vọng tật đố, bèn nổi gió lớn thổi vào tòa cao. Tọa cụ văng xa, tràng phan đứt tung. Cát bay đá chạy không sao mở mắt ra nổi. Còn bên tòa ngồi của Đức Thế Tôn vẫn lặng yên bất động. Đức Phật cùng đại chúng ung dung theo thứ tự tới, vừa tiến đến tòa cao là đã nghiễm nhiên ngồi trên tòa rồi. Chúng Tăng lặng lẽ ngồi vào chỗ. Vua và quần thần càng thêm kính ngưỡng, đảnh lễ bạch Đức Phật rằng: –Xin Đức Thế Tôn hãy hiện thần thông, hàng phục tà kiến khiến nhân dân được sáng suốt tín ngưỡng Chánh đạo. Đức Thế Tôn đang ngồi trên tòa bỗng nhiên biến mất, hiện trên hư không phóng ánh sáng lớn, ẩn bên Đông lại hiện bên Tây, bốn phương đều như vậy, trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa, rồi lại thay đổi. Thế Tôn nằm ngồi trên không, hiện ra mười hai phép biến hóa rồi bỗng nhiên biến mất, trở lại tòa ngồi. Thiên, Long, Quỷ thần rải hoa, đốt hương cúng dường, tiếng tán thán vang động khắp đất trời. Phú-lan-ca-diếp tự biết mình không có đạo hạnh, cúi đầu hổ thẹn không dám ngó ai. Bấy giờ Kim Cang Lực só giơ chày Kim cang lên, đầu chày phóng ra lửa để nhắc ông sao không hiện thần thông đi. Phú-lan-ca-diếp kinh sợ, vội leo xuống tòa bỏ đi. Năm trăm đệ tử cũng tản mác đi hết. Đức Thế Tôn vẫn an nhiên bình thản trở về tinh xá Kỳ thọ Cấp cô độc viên. Vua và quần thần đại chúng đều hoan hỷ giã từ ra về. Nói đến Phú-lan-ca-diếp và các đệ tử mang nhục ra đi, giữa đường họ gặp một cụ bà Ưu-bà-di tên Ma-ni. Bà lão lại mắng cho họ một trận: “Các ông ngu si không biết tự xét lại muốn tranh hơn đạo hạnh với Đức Phật. Thật là một bọn giả dối không biết hổ thẹn, còn mặt mũi nào sống trên đời nhìn ai! Phú-lan-ca-diếp vì thẹn với các đệ tử nên khi đến bờ sông bảo với chúng: –Ta nay nhảy xuống đây ắt sẽ sinh lên cõi Phạm thiên. Nếu thấy ta không trở lên, thì biết ta đã hưởng cảnh vui nơi đó. Các đệ tử đợi mãi vẫn không thấy lên, nên bàn với nhau: –Thầy ta đã sinh Thiên rồi, chúng ta còn chờ gì nữa. Rồi họ từng người một nhảy xuống sông mong được theo thầy. Không ngờ tất cả đều do tội nghiệp phải bị đọa xuống địa ngục. Hôm sau vua nghe việc tự sát này, hết sức kinh ngạc vội đến chỗ Đức Phật, bạch: –Thầy trò Phú-lan-ca-diếp ngu mê, không biết do duyên gì mà lại tự sát như thế? Đức Phật nói với vua: –Thầy trò Phú-lan-ca-diếp có hai trọng tội: Một là ba độc tham, sân, si lừng lẫy, tự xưng đắc đạo. Hai là hủy báng Như Lai mong được cung kính. Do hai tội trên nên họ phải đọa vào địa ngục. Vì tội nghiệp thúc đẩy khiến họ tự nhảy xuống sông. Thân chết, thần thức ra đi chịu khổ vô lượng. Cho nên người trí thu nhiếp tâm mình, trong không khởi ác, ngoài không tạo tội. Ví như tòa thành ngoài biên ải sát bên kẻ địch, nếu phòng bị chắc chắn sẽ không sợ hãi. Dân bên trong an ổn thì giặc ngoài không cách gì vào được. Người trí tự phòng hộ cũng giống như vậy. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Vọng chứng Thánh cầu lợi Hạnh bất chánh dối đời Ganh gièm kẻ hơn mình Bịp đời, lừa chúng sinh Tội dẫn hạng vị ấy Rơi hố dữ bỏ mình. Như giữ thành biên ải Kiên cố trong lẫn ngoài Giữ tâm mình thanh tịnh Phi pháp chẳng để sinh Nếu giới hạnh kém thiếu Địa ngục thọ khổ hình. Đức Phật nói kệ xong, lại kể với vua: –Thuở quá khứ có hai con khỉ chúa, mỗi con có bầy đàn năm trăm con. Một con khỉ chúa vì ghen ghét có ý muốn giết con kia để mình cai trị tất cả, cho nên nó gây chuyện đánh nhau. Đã đánh nhau nhiều lần mà vẫn không thắng, nó hổ thẹn rút lui đến một eo biển. Nơi đây bọt nước được gió thổi tích tụ cao mấy trăm trượng. Khỉ chúa này ngu si cho là núi tuyết, bèn nói với bầy khỉ rằng: “Từ lâu nghe nói trong biển có núi tuyết, nơi đó vui vẻ, quả ngọt rất nhiều mặc tình hái ăn, ngày nay ta mới trông thấy. Vậy để ta qua đó trước xem sao. Nếu ta thấy quả thật vui sướng sẽ ở đó luôn, còn không sẽ trở lại bảo với các ngươi.” Nói xong, nó leo lên một cây cao, dùng hết sức nhảy sang. Kết quả nó rơi vào đống bọt nước rồi chết chìm dưới biển. Những con còn lại không thấy khỉ chúa quay về, tưởng là chỗ đó vui lắm nên lần lượt nhảy sang chết chìm cả lũ. Kể xong, Đức Phật bảo với vua: –Con khỉ chúa tật đố thuở đó nay chính là Phú-lan-ca-diếp. Bầy đàn của nó là năm trăm đệ tử của ông ấy ngày nay. Còn khỉ chúa còn lại chính là thân Ta. Phú-lan-ca-diếp đời trước đã ôm lòng tật đố, bị tội nghiệp lôi kéo đã nhảy vào đám bọt nước khiến chết cả bầy. Ngày nay ông ấy lại phỉ báng Đức Như Lai, rốt cuộc cả bọn lại nhảy xuống sông chết chìm. Nghiệp tội xui khiến như thế, nhiều kiếp mà vẫn chưa hết. Nhà vua nghe xong, tin hiểu rồi làm lễ ra về.  <章 id="41126441">Thí dụ 57: Thuở xưa có bảy vị Tỳ-kheo vào núi học đạo. Trải qua mười hai năm mà họ vẫn chưa đắc đạo, nên bàn với nhau: –Học đạo thật khó, phải hủy bỏ hình hài, giữ lấy tiết tháo, chịu đựng nóng lạnh, trọn đời khất thực chịu nhục đủ điều. Rốt cuộc đạo không đắc, tội nghiệp vẫn còn nguyên, chỉ luống tự lao nhọc, bỏ mạng trong núi. Chi bằng chúng ta hãy trở về nhà làm ăn, lấy vợ sinh con, lo làm giàu để hưởng sung sướng sau này ra sao thì ra. Bàn xong, bảy người cùng rời khỏi núi. Đức Phật ở xa biết họ có thể hóa độ. Nếu không nhẫn được cái khổ nhỏ, họ sẽ đọa vào địa ngục thật đáng tiếc thương. Đức Phật liền hóa ra một vị Sa-môn đứng ngay ở đầu khe núi. Bảy người ra đi liền gặp. Hóa Sa-môn hỏi: –Các vị tu hành đã lâu sao lại bỏ núi đi? Bảy người đáp: –Học đạo cực khổ mà không nhổ được gốc tội, việc khất thực thọ nhục khó nhẫn. Lại nữa trong núi không ai cúng dường, bao năm chật vật, luôn sống thiếu thốn, chỉ cực khổ suông mà không đắc đạo. Nên chúng tôi muốn về nhà làm ăn thật giàu có, rồi già mới tu lại. Hóa Sa-môn nói: –Hãy thôi! Hãy thôi! Nghe tôi nói đây. Mạng người vô thường sớm còn tối mất, học đạo tuy khó, trước khổ sau vui. Gia nghiệp khó khăn muôn kiếp khó dứt. Nếu mong cùng vợ con sum họp hưởng lạc, mong sung sướng mãi không gặp tai họa thì khác nào trị bệnh mà uống độc dược, chỉ nặng thêm không chút thuyên giảm. Trong ba cõi có thân là có ưu não, chỉ có giữ tròn giới hạnh, không phóng dật tinh tấn tu hành, chứng được đạo quả mới chấm dứt tất cả khổ. Bấy giờ hóa Sa-môn liền hiện lại tướng Phật, hào quang rực rỡ nói kệ: Tu khó, hết tội khó Ở nhà cũng khó khăn Sum họp hưởng lợi khó Gian nan nhất: có thân. Tỳ-kheo khất thực khó Đâu thể không gắng công Tinh tấn đến tự tại Suốt đời không phiền ai. Có tín, thành tựu giới Từ giới, pháp bảo sinh Nhờ đó sống an ổn Được cung kính cúng dường. Ngồi, nằm hay đi, đứng Không phóng dật tinh cần Luôn chánh tâm giữ đạo An vui sống núi rừng. Lúc ấy bảy vị Tỳ-kheo thấy thân tướng Phật, lại nghe kệ này nên hết sức hổ thẹn, run sợ vội quỳ mọp sát đất lễ dưới chân Phật, hết lòng sám hối rồi lễ Phật ra đi. họ trở vào núi, dốc lòng công phu tinh tấn tu tập, tư duy ý nghóa bài kệ trên, chánh tâm chuyên nhất, an trú tịch diệt, chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126442">Phẩm 33: TƯỢNG <章 id="41126443">Thí dụ 58: Thuở xưa, lúc La-vân chưa đắc đạo, tánh tình thô tháo, lời nói không thành thật. Đức Phật sai La-vân đến ở tinh xá Hiền đề nhiếp tâm gìn giữ khẩu nghiệp, siêng tu học theo kinh giới. La-vân y giáo làm lễ ra đi. Nơi đó, La-vân suốt chín mươi ngày hổ thẹn tinh cần sám hối. Đức Phật đến thăm, La-vân hoan hỷ ra lễ Phật, rồi bày giường dây thỉnh Phật nghỉ ngơi. Đức Phật ngồi trên giường dây rồi bảo La-vân: –Ông hãy lấy chậu múc nước cho Ta rửa chân. La-vân vâng lời làm theo. Rửa chân xong, Đức Phật hỏi: –Này La-vân, con có thấy nước đã rửa chân ở trong chậu không? La-vân đáp: –Bạch Đức Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật hỏi tiếp: – Nước này còn có thể dùng ăn uống, súc miệng nữa không? La-vân lại đáp: –Bạch Đức Thế Tôn, không thể. Nước này vốn sạch, giờ đã rửa chân chứa đầy bùn đất, cho nên không thể dùng. Đức Phật liền dạy: –Này La-vân, ông cũng như vậy. Ông tuy là con ta, cháu của quốc vương, xả bỏ vinh hoa thế lợi, xuất gia làm Sa-môn, nhưng không tinh tấn nhiếp phục thân khẩu, bụi nhơ tam độc đầy ắp trong lòng, khác nào nước dơ trong chậu không dùng được nữa. Đức Phật lại sai đổ nước dơ đi, rồi hỏi: –Này La-vân, chậu nước dơ đã đổ đi, vậy chậu nước không này có thể dùng đựng thức ăn được chăng? La-vân đáp: –Bạch Đức Thế Tôn, không thể, chậu này đã mang tên chậu rửa chân từng đựng đồ dơ cho nên không thể. Phật lại dạy: –Này La-vân, ông cũng như vậy, tuy là Sa-môn mà lời nói không thành tín, tâm tánh ương bướng không chịu siêng tu. Ông đã từng mang tiếng xấu như cái chậu rửa chân kia không thể đựng được thức ăn. Đức Phật lại dùng ngón chân hất chậu văng đi, tung lên rơi xuống mấy cái, quay tròn mấy vòng rồi mới dừng lại. Đức Phật hỏi: –Này La-vân, ông có tiếc chậu rửa chân, sợ nó bị vỡ không? La-vân đáp: –Bạch Đức Thế Tôn, đồ rửa chân là vật rẻ tiền, trong lòng có uổng nhưng không tiếc rẻ lắm. Đức Phật dạy: –Này La-vân, ông cũng như vậy, tuy làm Sa-môn mà không gìn giữ thân khẩu, nói năng thô tháo, ác khẩu làm thương tổn đến đến người khác. Cho nên mọi người không yêu mến, bậc Trí không tiếc thương. Khi thân chết, thần thức đi khỏi phải luân hồi trong ba đường dữ, chịu sinh tử khổ não vô lượng. Chư Phật, Hiền thánh đều không thương tiếc ông, như ông nói không thương tiếc chậu rửa chân. La-vân nghe nói hổ thẹn sợ hãi. Đức Phật lại nói: –Này La-vân, hãy nghe Ta kể thí dụ: Xưa có một vị vua nuôi được một con voi lớn dũng mãnh, giỏi xông pha trận mạc. Tính ra sức của nó còn mạnh hơn năm trăm con voi nhỏ gộp lại. Một hôm, vua nước đó muốn hưng binh đánh vua nước đối nghịch. Vua cho voi mặc một tấm giáp sắt. Quản tượng bảo vệ voi, cột vào hai ngà là hai thanh giáo, cột vào hai tai là hai thanh kiếm rồi bốn chân cũng buộc vào bốn lưỡi đao cong, đuôi cũng buộc một cây mác sắt. Chín món binh khí buộc vào mình voi đều rất bén nhọn. Song voi phải rút vòi vào trong, giấu kín vì đây là nơi mềm mại, hiểm yếu nếu trúng tên sẽ chết. Voi không được phép vươn vòi ra để chiến đấu. Người lính quản tượng rất mừng vì voi được bảo vệ chu đáo. Khi ra trận, voi xông pha không ngại làn tên mũi đạn. Song chiến đấu một hồi lâu, voi bỗng vươn vòi đòi kiếm. Người quản tượng không cho. Hãy nghó xem con voi manh tợn kia không biết tiếc thân mạng hăng máu vươn vòi ra đòi kiếm gắn vào vòi để chiến đấu. Vua và quần thần tiếc con voi lớn này nên không cho nó ra trận nữa. Đức Phật bảo La-vân: –Người ta dầu phạm chín điều ác, duy phải giữ gìn cửa miệng. Cũng như con voi lớn kia phòng hộ cái vòi không dùng chiến đấu. Voi giữ vòi vì sợ trúng tên chết, còn người giữ miệng vì sợ đau khổ của ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Người không phòng hộ miệng phạm đủ mười điều ác, như con voi kia không kể mạng, không sợ trúng tên mới vươn vòi ra chiến đấu. Người ta cũng vậy, phạm đủ mười điều ác do không nghó đến đau khổ trong ba đường. Thực hành Thập thiện, thu nhiếp thân, khẩu, ý, không phạm bất cứ điều ác nào có thể đắc đạo xa hẳn ba đường dữ, không còn tai họa sinh tử. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Ta như voi chiến Không sợ rừng tên Giữa hạng phá giới Độ họ tín thành. Như voi đã điều Vua vừa ý cỡi Người điều phục quý Nhờ giữ tín thành. La-vân nghe được những lời dạy bảo ân cần tha thiết của Đức Phật vô cùng cảm kích, tự khích lệ ghi nhớ mãi không quên. Từ đó tâm ông trở nên nhu hòa nhẫn nhục như đất. Ông tinh tấn tu hành, thức tưởng vắng lặng chứng quả A-la-hán.  <章 id="41126444">Thí dụ 59: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ thọ thuộc nước Xá-vệ vì bốn bộ đệ tử, trời rồng quỷ thần, vua chúa quan dân diễn nói chánh pháp. Lúc đó có một vị trưởng giả cư só tên là Ha-đề-đàm đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ ra mắt xong rồi quỳ xuống chắp tay bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, con từ lâu đã thừa ân giáo hóa, mong được đến hầu cận ra mắt tôn nhan. Song vì việc riêng bó buộc, nên giờ đây mới đến được. Xin Ngài từ bi tha thứ. Đức Phật bảo ông ngồi xuống, hỏi thăm từ đâu đến, tên họ là gì. Trưởng giả quỳ đáp: –Con vốn gốc cư só, tên là Ha-đề-đàm. Lúc trước làm nghề huấn luyện voi cho tiên vương. Đức Phật hỏi: –Này cư só, phép huấn luyện voi có mấy việc? Đáp: –Thường có ba việc để điều phục voi lớn. Ba việc đó là: 1. Dùng móc thép móc vào miệng, rồi khớp dây dàm vào. 2. Cho nó ăn ít, thường để bị đói. 3. Dùng gậy đánh nó thật đau. Do ba việc này có thể điều phục được voi. Đức Thế Tôn lại hỏi: –Ba việc trên có tác dụng gì? Vị ấy đáp: –Dùng móc thép móc vào miệng để chế phục sự cang cường. Không cho ăn uống để thân thể suy yếu, dễ dạy. Còn đánh đập chính là để chế phục tâm nó. Nhờ vậy mà điều phục được voi. Đức Phật lại hỏi: –Điều phục voi như vậy dùng để làm gì? Vị ấy đáp: –Điều phục voi rồi có thể để vua cỡi, cũng có thể để ra trận. Ta có thể điều khiển nó tới lui không có gì trở ngại. Đức Phật lại hỏi: –Chỉ có cách này, còn có cách điều phục nào khác không? Vị ấy đáp: –Cách điều phục voi chỉ như vậy thôi. Đức Phật bảo: –Này cư só, ông có thể điều phục voi, vậy có thể tự điều phục mình được không? Vị cư só đáp: –Con không biết ý nghóa tự điều phục mình như thế nào, xin Đức Thế Tôn giảng nói chỗ chưa được nghe. Đức Phật dạy: –Này cư só, Ta cũng có ba việc dùng để điều phục tất cả mọi người và dùng để tự điều phục mình đến được vô vi. 1. Lấy chí thành điều phục khẩu nghiệp. 2. Lấy từ bi trong sạch điều phục tâm cang cường. 3. Lấy trí tuệ diệt trừ ngu si che ngăn của ý chí. Hành trì ba việc này sẽ độ thoát tất cả, lìa ba đường ác, tự đến vô vi, không còn sinh tử ưu bi khổ não. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Như voi tên Hộ tài Khó kiềm chế hung hăng Khớp miệng chẳng cho ăn Vẫn khăng khăng nết cũ. Ý điều phục thuần thục Thường hành hạnh an vui Hàng phục hết kết sử Như voi thuần nhờ móc. Vui đạo, không phóng dật Thường phòng hộ tự tâm Sẽ nhổ được thân khổ Như voi ra khỏi hầm. Tuy thường điều voi Mới cỡi đã luyện Voi loại giỏi nhất Không bằng tự điều. Voi không thong thả Là người chưa đạt Làm người tự điều Mới đạt điều thuật. Cư só nghe kệ xong vô cùng hoan hỷ, buông bỏ tình tưởng, đắc được pháp nhãn. Vô số người nghe pháp cũng được thấy đạo.  <詞 id="41126445">Phẩm 34: ÁI DỤC <章 id="41126446">Thí dụ 60: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá trên núi Kỳ-xà-quật tại thành La-duyệt-kỳ, vì trời, người, quỷ, thần chuyển đại pháp luân. Lúc ấy, có một người bỏ nhà cửa, vợ con đến chỗ Đức Phật đảnh lễ xin làm Sa-môn. Đức Phật hứa khả. Xuất gia xong, Đức Phật dạy ông ngồi dưới một cội cây, thiền quán chánh pháp. Vị Tỳ-kheo vâng lời vào trong rừng sâu cách tinh xá hơn trăm dặm, ngồi một mình dưới một gốc cây thiền tư suốt ba năm. Song tâm ông không kiến cố, có ý muốn trở về. Ông tự nghó: “Mình bỏ nhà học đạo cực khổ, chi bằng sớm trở về nhà ở với vợ con.” Nghó xong, ông bèn đi ra khỏi núi. Đức Phật với Thiên nhãn trông thấy việc này. Ngài xét thấy ông này đáng lẽ đắc đạo mà ngu si không biết lại muốn trở về nhà. Ngài liền hóa thành một vị Sa-môn, đi ngược lại gặp mặt vị đó. Ngài hỏi: –Ông từ đâu ra đây? Chỗ này có đất bằng phẳng, chúng ta nên nghỉ ngơi cùng nhau trò chuyện. Bấy giờ hai người cùng ngồi nghỉ ngơi trò chuyện. Vị Tỳ-kheo bảo với Hóa nhân: –Tôi bỏ nhà cửa vợ con, xuất gia tu học trong núi sâu này nhưng không đắc đạo. Xa cách vợ con mà không đạt thành chí nguyện, luống mất mệnh vận cuộc đời, cực khổ vô ích. Nay tôi hối hận muốn trở về với vợ con, hưởng nhàn vui trước đã, rồi sau mới tính. Một lát sau, họ thấy một con khỉ già từ lâu đã lánh xa rừng cây ra sống giữa khoảng đất trống. Hóa Sa-môn hỏi Tỳ-kheo: –Con khỉ này vì sao sống một mình nơi khoảng đất trống. Sao nó lại thích nơi không có cây cối? Vị Tỳ-kheo đáp: –Tôi đã từ lâu để ý thấy nó vì hai việc nên đến chỗ này. 1. Nó vì vợ con bầy đàn đông đúc không thể ăn uống đầy đủ, thỏa ý. 2. Ngày đêm nó phải leo trèo, gót chân thường xuyên bị thương khó chịu. Do hai việc này nên nó bỏ rừng cây, ra đất trống sống. Hai người nói chuyện, một lát sau lại thấy con khỉ này trở lại rừng cây, leo lên ngọn. Hóa Sa-môn hỏi: –Ông có thấy con khỉ trở lại rừng cây không? Đáp: –Có thấy, con khỉ này ngu si, đã xa lìa được rừng cây, bầy đàn quấy nhiễu, vậy mà nó không biết nhàm chán phiền nhọc còn trở lại nơi đó lần nữa! Hóa Sa-môn nói: –Ông cũng như vậy, cùng nó khác gì? Ông vốn vì hai việc mà vào núi tu học. 1. Vì thấy vợ con nhà cửa là lao ngục. 2. Vì thấy bà con quyến thuộc là gông cùm ràng buộc. Ông vì việc đó mà cầu đạo dứt khổ sinh tử, thế mà nay lại muốn về nhà chịu ràng buộc trong gông cùm phiền não, vào ngục tù ân ái dẫn đến địa ngục. Hóa Sa-môn hiện lại thân Phật một trượng sáu, tướng hảo quang minh tỏa sáng làm cảm động tất cả các loài trong núi. Các loài chim bay thú chạy đều tìm theo ánh sáng mà đến, biết được túc mạng, trong lòng hối lỗi. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Như cây rễ sâu chắc Dầu chặt vẫn đâm cành Tâm ái chưa dứt tuyệt Khổ não lại phát sinh. Như khỉ xa rừng cây Ra rồi trở lại đấy Người thoát tù ân ái Còn trở lại chỗ này! Tham ý luôn hưng khởi Đầy tập nhiễm kiêu căng Tưởng nhớ điều dâm dục Mê tối, tự che ngăn. Mọi ý tưởng miên man Ái kết: cỏ bò lan Chỉ trí tuệ thấy rõ Dứt nguồn ý, mới an. Người đắm chìm trong ái Vọng tưởng miên man hoài Già chết mãi vần xoay Do ái sâu không đáy. Vị Tỳ-kheo thấy quang tướng rực rỡ của Đức Phật, lại nghe lời kệ nên hết sức kinh sợ, vội quỳ mọp sát đất sám hối lỗi lầm. Ông lại tư duy thiền định chứng quả A-la-hán ngay trước Đức Phật. Chư Thiên đến nghe đều hoan hỷ, rải hoa cúng dường hết lời tán thán.  <章 id="41126447">Thí dụ 61: Thuở xưa có một nước cách phía Nam thành La-duyệt-kỳ bốn ngàn dặm. Nước này phụng thờ mấy ngàn vị tu só Bà-la-môn. Lúc ấy, trong nước có hạn lớn suốt ba năm không mưa. Nhà vua cầøu đảo quỷ thần khắp các chỗ vẫn không kết quả. Vua bèn hỏi các Bà-la-môn đây là do nguyên nhân gì. Các vị ấy nói: –Chúng tôi sẽ trai giới thanh tịnh, rồi sai người tiếp xúc Phạm thiên hỏi xem tai nạn này do đâu. Vua đáp: –Tốt lắm! Trai giới cần gì xin cho tôi biết. Các Bà-la-môn nói: –Cần phải dùng hai mươi cỗ xe củi, tô mật, dầu mỡ, hương hoa phan lọng, vàng bạc, đồ tế… Vua liền cho người sắm sửa cung cấp đầy đủ. Các Bà-la-môn ra khoảng đất trống cách thành bảy dặm chất củi cao như núi. Rồi họ khuyến khích rằng ai không tiếc mạng sống khi chết sẽ được sinh Thiên. Họ chọn bảy người chịu tự thiêu để lên trời Phạm thiên. Bảy người sau khi cúng tế, chú nguyện xong leo lên đóng củi. Bên dưới mọi người đốt lửa thiêu chết họ. Khói lửa bốc lên, sức nóng bức ngặt, bảy người sợ hãi cầu cứu song không có ai. Họ mới cất tiếng kêu: –Có đức Đại từ bi nào trong tam giới thương xót cứu chúng tôi thoát khỏi khổ nạn này, chúng tôi xin quy y vị đó. Đức Phật ở xa hay biết, theo tiếng đến cứu. Ngài ở trên hư không hiện tướng hảo quang minh. Bảy người thấy Phật, buồn vui lẫn lộn hướng về Đức Phật nói: –Chúng con nguyện quy y Ngài, xin hãy cứu khổ nóng bức cho chúng con. Đức Thế Tôn liền nói kệ: Quy y nhiều Thần Núi, sông, cây cỏ Dựng tượng cúng thờ Cầu phước Thần ban, Quy y như vậy Chẳng tốt, chẳng cao Quỷ thần nào đến Cứu hết khổ ương. Nếu ai quy y Phật, Pháp, chúng Tăng Quán lý Tứ đế Ắt đạt chánh tuệ. Sinh tử rất khổ Nương đạo, giải thoát Vượt tám thế nạn Hết khổ, thảnh thơi. Quy y Tam tôn Tối thượng, tối lành Con đường duy nhất Vượt thoát mọi khổ. Đức Phật nói kệ xong, lửa liền tắt ngấm. Bảy người được an ổn, hết sức vui mừng. Các Bà-la-môn và nhân dân trong nước thấy thế kinh ngạc ngưỡng mộ. Đức Thế Tôn bèn hiện thị thần thông, phân thân biến hóa, ẩn bên đây hiện bên kia một cách tự tại. Trên thân phun ra nước lửa, ánh sáng năm màu. Mọi người trông thấy đều mọp mình quy mạng. Bấy giờ bảy người đã từ trên đống củi leo xuống, buồn vui xen lẫn nói lên kệ: Vui thay, gặp Bậc Thánh! Vui thay, được nương tựa! Xa được kẻ ngu muội Tu thiện hạnh phúc thay! Giữ chánh kiến thật vui Thuyết pháp cho nhau vui Với đời không tranh chấp Giới trọn thường an vui. Ở với hiền nhân vui Như sống chung ruột rà Thân cận Bậc Bi Trí Hiểu biết càng cao xa. Bấy giờ bảy người nói kệ xong, cùng với các Bà-la-môn xin làm đệ tử Phật. Đức Phật hứa khả. Họ đều xuất gia chứng quả A-la-hán. Vua quan nhân dân đều phát tâm tu hành. Kế đó trời mưa lớn, đất nước trù phú, nhân dân ấm no, chánh pháp phổ biến, ai cũng hoan hỷ tu học. KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ <卷 id="41126448">QUYỂN 4 <詞 id="41126449">Phẩm 35: DỤ ÁI DỤC <章 id="41126450">Thí dụ 62: Thuở xưa Đức Phật trú tại nước Xá-vệ vì hàng trời người thuyết pháp. Lúc ấy, trong thành có một vị trưởng giả Bà-la-môn rất giàu có, song lại là người keo kiệt tham lam không thích bố thí. Mỗi khi ăn, ông cho người đóng kín cửa, không tiếp khách. Vì vậy, ăn xin, Sa-môn, Bà-la-môn đều đến không gặp được. Một hôm, trưởng giả thèm ăn ngon, sai vợ làm một bữa thịnh soạn. Bà vợ liền giết một con gà béo, ướp gừng tiêu gia vị rồi đem quay. Các món ăn uống, bánh trái chẳng mấy chốc cũng chuẩn bị xong, được dọn ra đầy bàn. Ông lệnh cho đóng kín cửa lại, hai vợ chồng và đứa con nhỏ ngồi ăn uống với nhau. Hai ông bà thay phiên xé thịt gà đút cho con ăn không ngớt. Đức Phật biết vị trưởng giả này có túc phước, có thể độ được, bèn hóa ra một vị Sa-môn ngồi cạnh lúc họ ăn cơm, trước bàn ăn của họ Ngài chú nguyện rồi lại nói: –Xin các vị hãy bố thí cho ít nhiều, nhờ đó mà được phước lớn. Vị trưởng giả ngẩng đầu lên ngó thấy hóa Sa-môn liền mắng: –Ông là tu só mà không biết hổ thẹn, nhà người ta đang ăn uống sao lại đường đột xông vào? Hóa Sa-môn đáp: –Ông mới thật ngu si không biết hổ thẹn. Tôi nay là khất só có gì phải hổ thẹn? Trưởng giả vặn: –Tôi và vợ con ăn uống vui vẻ với nhau có gì mà hổ thẹn? Sa-môn đáp: –Ông giết cha, lấy mẹ làm vợ, nuôi dưỡng oan gia mà không biết hổ thẹn, trở lại cho tôi khất só là hổ thẹn! Bấy giờ hóa Sa-môn liền nói kệ: Cành nhánh sinh không dứt Do lo ăn, tham dục Nuôi oán, thêm hậu hoạn Người ngu mãi rộn ràng. Ái nhiễm của người ngu Với vợ con ràng buộc Trí giả thấy kiên cố Hơn ngục tù thế gian. Người trí thấy rõ ái Ngục kiên cố khó ra Nên với dục tránh xa Dứt ái, được an ổn. Trưởng giả nghe kệ xong, kinh ngạc hỏi: –Đạo nhân vì sao mà nói như vậy? Sa-môn đáp: –Con gà trên bàn là cha ông đời trước. Do vì kiếp trước keo kiệt nên nay ông ta phải luôn làm gà để ông ăn thịt. Còn đứa bé này kiếp xưa là La-sát. Thuở đó, ông là thương khách đi thuyền ra biển buôn bán bị dòng nước cuốn, trôi dạt vào nước quỷ La-sát bị nó ăn thịt. Năm trăm đời đều như vậy, La-sát mạng hết sinh lại làm con ông. Vì tội ông chưa hết nên nó đến để hại ông. Vợ ông ngày nay chính là mẹ ông đời trước, do vì thương yêu sâu chắc nên nay trở lại làm vợ ông. Ông ngu si không biết túc mạng, giết cha cho oan gia ăn, lấy mẹ làm vợ. Sáu nẻo luân hồi mênh mang không bờ bến, quanh quẩn trong đó mấy ai biết được. Chỉ có bậc Chân nhân đắc đạo mới thấy được việc người chết chỗ này, sinh chỗ kia. Kẻ ngu không biết há chẳng hổ thẹn sao? Bấy giờ trưởng giả kinh sợ toàn thân nổi gai, toát mồ hôi lạnh. Đức Phật liền vận dụng thần thông giúp ông biết được túc mạng. Trưởng giả liền sám hối lỗi lầm, tạ ân Đức Phật xin thọ Ngũ giới. Kế đó, Đức Thế Tôn thuyết pháp cho ông nghe. Nghe xong, ông liền chứng quả Tu-đà-hoàn.  <章 id="41126451">Thí dụ 63: Thuở xưa Đức Phật thuyết pháp tại tinh xá Kỳ hoàn nước Xá-vệ. Lúc ấy có một vị Tỳ-kheo trẻ vào thành khất thực. Ông trông thấy một thiếu nữ thật là xinh đẹp, lòng liền khởi niệm sắc dục, quyến luyến mãi không dứt. Do đó, dần dần ông mang bệnh, bỏ ăn uống, mặt mày tiều tụy nằm liệt trên giường. Các bạn đồng đạo đến thăm hỏi nguyên nhân bệnh tình. Vị Tỳ-kheo trẻ cứ như thật giải bày. Ông nói rằng mình muốn bỏ tu, kết tình ân ái với cô ấy, song vì không được như nguyện nên lâu ngày buồn khổ thành bệnh tương tư. Các huynh đệ đồng đạo hết lời khuyên can song ông không để vào tai. Thấy vậy, mọi người mới dìu vị ấy đến chỗ Đức Phật, kể hết mọi chuyện cho Ngài nghe. Đức Phật bảo với vị Tỳ-kheo trẻ tuổi: –Nguyện ước của ông dễ thành thôi, đâu có gì phải ôm mối sầu thương! Ta sẽ tìm cách giúp ông mãn nguyện, hãy vui vẻ dậy ăn uống. Vị Tỳ-kheo nghe xong, trong lòng mừng rỡ, u uất không còn. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền dẫn vị Tỳ-kheo trẻ và đại chúng vào thành Xá-vệ, tìm đến nhà người đẹp nọ. Đến nơi mới hay cô gái đã chết ba ngày rồi, thi thể còn để nguyên tại nhà vì gia đình thương khóc không nỡ liệm đem chôn. Lúc ấy thân cô đã sình lên, đồ nhơ bất tịnh chảy tràn, mùi hôi thối khó chịu. Đức Phật liền bảo vị Tỳ-kheo: –Ông thấy chăng? Người mà ông mơ tưởng nay đã như vậy, vạn vật vô thường trong hơi thở. Người ngu chỉ nhìn bên ngoài mà không thấy được chỗ dơ xấu bên trong, cứ mãi ràng buộc trong lưới tội mà cho là khoái lạc. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Thấy sắc tâm mê tưởng Chẳng xét lẽ vô thường Người ngu cho là đẹp Giả dối lại yêu thương. Đắm mình trong dục lạc Tằm kéo kén khác chi Người trí tuệ dứt hẳn Hết khổ não sầu bi. Người tâm ý buông lung Dâm nhơ cho là sạch Tình ân ái sâu nặng Là lao ngục trói trần. Người tỉnh giác trừ dâm Bất tịnh quán để tâm Nhờ đó khỏi lao ngục Già chết dứt tận mầm. Vị Tỳ-kheo trẻ tuổi lúc ấy trông thấy người đẹp chết đã ba ngày, mặt mày thối rữa khó thể đứng gần, lại nghe bài kệ giảng dạy rất rõ, nên hổ thẹn tỉnh ngộ, biết mình trước đây mê lầm. Ông bèn đảnh lễ, dập đầu sám hối với Đức Thế Tôn. Đức Phật hứa khả, cùng đại chúng trở về tinh xá. Từ đó ông đem hết thân mạng nỗ lực công phu, tinh tấn tu tập, đắc quả A-la-hán. Đại chúng được đi theo hôm đó rất nhiều người thấy sắc dục ô uế, tin hiểu sâu được lẽ vô thường, tham ái lần dứt cũng chứng được đạo quả.  <章 id="41126452">Thí dụ 64: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ, thuyết pháp cho hàng Trời, Người, Long, Thần. Lúc ấy, trong nước có một vị đại trưởng giả giàu có vô số, sinh được một người con trai tuổi chừng mười hai, mười ba. Hai vợ chồng lần lượt qua đời, cậu con nhỏ bơ vơ, không biết làm ăn quản lý gia nghiệp, cho nên mới vài năm mà cậu đã hoang phí tiền của khiến tàn gia bại sản đến nỗi phải đi ăn xin. Cha cậu có một người bạn thân cũng là trưởng giả rất giàu có. Một hôm ông trông thấy cậu ta mới hỏi nguyên do. Được biết hoàn cảnh cậu như vậy, ông thương xót đem cậu về bảo bọc, gả con gái, cất nhà riêng cho ở và cho nô tỳ, xe ngựa, tiền của vô số để làm ăn. Song cậu ta tánh lười biếng, không biết tính toán làm ăn, cứ ngồi không ăn xài phung phí, chẳng bao lâu lại lâm vào cảnh đói nghèo. Trưởng giả vì thương con gái phải cho của cải làm vốn một lần nữa, song anh ta cũng lại như trước, rốt cuộc bị phá sản, nghèo khổ. Thấy mấy lần giúp đỡ, mà anh vẫn ăn xài hoang phí, trưởng giả nghó rằng anh không thể làm ăn nên người được, chi bằng bắt con gái lại đem gả cho người khác. Ông đem chuyện này ra cùng thân tộc bàn bạc. Không ngờ người con gái nghe trộm được trở về mách với chồng bảo: –Nhà tôi đông đảo, có thế lực đè bẹp anh, nay muốn bắt tôi lại vì anh không biết làm ăn. Anh tính như thế nào đây? Người chồng nghe vợ nói vậy, hổ thẹn tự nghó: “Đây chính là do ta bạc phước, sinh ra không có cha mẹ che chở đùm bọc, không học được cách làm ăn sinh sống. Nay ta sắp mất vợ rồi sẽ đi ăn xin như cũ. Tình ân ái sâu nặng, nay phải xa nhau làm sao chịu nổi. Nghó tới nghó lui mãi, cuối cùng anh khởi ác niệm, đưa vợ vào phòng rồi cả hai cùng chết một chỗ. Nghó xong, anh đưa vợ vào phòng đâm vợ chết rồi quay lại tự sát. Nô tỳ hay được hoảng kinh chạy đi báo trưởng giả. Ông và cả nhà vội chạy sang thì thấy việc đã như thế, chỉ còn biết thu lượm thi hài lo tẩm liệm chôn cất. Cả nhà đang lúc đau buồn nhớ con không nguôi, bỗng nghe tiếng nói có Đức Phật đang tại thế thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, ai gặp được Ngài đều hoan hỷ, dứt hết sầu lo. Vị trưởng giả bèn dẫn cả nhà đến chỗ Phật, làm lễ rồi ngồi qua một bên. Đức Phật hỏi: –Ông từ đâu đến? Có chuyện gì không vui mà sao sắc mặt ưu sầu? Trưởng giả bạch: –Nhà con vô phước, trước đây gả một người con gái. Chẳng may gặp đứa ngu phu không biết làm ăn. Vì vậy con định bắt con về, không ngờ nó lại giết vợ rồi tự sát. Con lo đám chôn cất chúng nó xong, trên đường về ghé thăm Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo trưởng giả: –Tham dục, sân hận là bệnh thường trên thế gian, ngu si vô trí là cửa của họa hoạn. Năm đường trong ba cõi do đây mà đọa lạc, sinh tử triền miên trải vô lượng kiếp, chịu khổ biết bao. Người thường còn không biết ăn năn hối cải, huống chi là kẻ ngu làm sao biết được! Cái độc của tham dục giết mình, giết thân tộc, hại lây đến chúng sinh đâu phải chỉ riêng có vợ chồng.” Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ: Ngu do tham trói buộc Không cầu qua bờ giác Hại mình hại luôn người Do tham tài tạo tác. Tâm ái dục như ruộng Dâm, nộ, si là giống Người xả bỏ, giải thoát Được phước thật vô lượng. Giặc tham dục hại mang Như nhà buôn nhiều hàng Giữa đường hiểm ít bạn Nên người trí không tham. Bấy giờ, vị trưởng giả nghe Đức Phật nói kệ tâm sinh hoan hỷ không còn đau buồn khổ não, ngay trước thân tộc và thính chúng, phá mười hai ức kiếp nghiệp đắc quả Tu-đà-hoàn.  <章 id="41126453">Thí dụ 65: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ vì hàng trời, rồng, quỷ, thần, vua chúa, quan dân thuyết pháp. Lúc ấy có hai gã lêu lỏng lang thang kết thân với nhau, đi đâu cũng có mặt như hình với bóng. Hai người bàn nhau muốn làm Sa-môn, bèn đến chỗ Phật làm lễ, rồi quỳ xuống chắp tay thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, chúng con muốn xuất gia làm Sa-môn, xin Ngài thâu nhận. Đức Phật cho phép hai người xuất gia làm Sa-môn, rồi cho ở chung một phòng. Hai người sống chung vì tập khí thế gian còn sâu dày nên suốt ngày chỉ nhớ chuyện ân ái vinh hoa của thế gian. Họ thường xuyên nói đến thân thể mỹ miều của người đẹp mà không xét nghó tính chất vô thường, bất tịnh của nó. Do đè nén dục vọng nên dần dần thành bệnh uất kết bên trong. Đức Phật với tuệ nhãn thấy được chuyện này. Ngài biết họ do vọng tưởng, buông lòng do dục niệm nên không tu được. Ngài liền sai một trong hai người đi khỏi, rồi tự hóa thành người đó đến ở chung với vị còn lại. Hóa Tỳ-kheo này nói với vị ở chung: –Chúng ta cứ nhớ nghó hoài đến ân ái, chi bằng hôm nay đi xem thân thể người đẹp ra sao. Ở nhà mà tưởng nhớ suông nào có được gì đâu. Hai người cùng đến xóm dâm nữ. Đức Phật hóa ra một cô gái điếm ở trong xóm đó. Hai người đến đó vào phòng cô ta rồi nói: –Chúng tôi là người tu, thọ cấm giới của Phật nên không phạm đến việc ăn nằm. Ý chỉ muốn xem thân thể người nữ thôi, nhưng vẫn trả tiền theo phép. Cô gái ấy nghe vậy liền cởi bỏ đồ trang sức, y phục đứng khỏa thân cho vị ấy ngắm. Một mùi hôi hám từ thân cô bốc ra. Hai người trông thấy vẻ nhơ bẩn của nó không ai gần nổi. Hóa Tỳ-kheo nói với vị Tỳ-kheo kia: –Vẻ đẹp của người nữ chẳng qua là do phấn sáp xông hương, tắm gội nước hoa. Họ mặc y phục màu sắc xinh đẹp là để che chỗ dơ xấu của mình, ướp hoa xông hương là để lấp mùi hôi thân thể. Thật ra nó chỉ như cái túi da chứa phân có gì đáng tham? Bấy giờ Hóa Tỳ-kheo liền nói kệ: Dục! Ta biết rõ ngươi Ngươi từ nhớ tưởng sinh Ta nếu không nhớ tưởng Ngươi tự sẽ không còn. Trong tâm thích, là dục Đâu chỉ năm dục ngoài Bỏ ngũ dục được ngay Là người đại dũng lực. Vô dục thì vô úy An lạc chẳng lo chi Dục hết, kết sử giải Sinh tử mãi thoát ly. Hóa Tỳ-kheo nói kệ xong, hiện lại thân Phật tướng hảo quang minh. Vị Tỳ-kheo trông thấy hổ thẹn ăn năn, năm vóc sát đất đảnh lễ Đức Phật. Đức Phật lại thuyết pháp cho ông. Ông nghe xong hoan hỷ tỏ ngộ chứng quả A-la-hán. Cả hai trở về tinh xá. Lúc ấy vị Tỳ-kheo được Phật sai đi cũng trở về. Vị ấy thấy bạn mình thần sắc hoan hỷ hơn mọi khi, bèn hỏi nguyên nhân. Tỳ-kheo liền kể chuyẹân Đức Phật đã từ bi độ mình như thế nào và mình nhờ Đức Phật được thoát khỏi các khổ. Nói xong vị Tỳ-kheo lại nói kệ: Ngày đêm tưởng nhớ dục Ý dong ruổi không ngừng Thấy nữ dục nhớp nhơ Hết tưởng, hết buồn khổ. Vị Tỳ-kheo bạn nghe kệ xong, tự tư duy quán chiếu, đoạn dục diệt tưởng chứng được pháp nhãn.  <詞 id="41126454">Phẩm 36: LỢI DƯỠNG <章 id="41126455">Thí dụ 66: Thuở xưa, Đức Phật dẫn các đệ tử đến tinh xá Mỹ âm thuộc nước Câu-đàm-di thuyết pháp cho hàng trời, người, rồng, thần. Lúc ấy, vua nước này tên là Ưu Điền, có một vị đại phu nhân tính tình nhân từ, được khen ngợi là trong sạch. Vua rất yêu quý, kính trọng tiết hạnh của bà. Vua nghe Đức Phật đến thuyết pháp nên cùng phu nhân xa giá đến chỗ Phật làm lễ rồi ngồi qua một bên. Đức Phật vì vua, phu nhân và thể nữ thuyết pháp vô thường, khổ, không; người ta do đâu tái sinh, hội họp rồi phải chia ly, oán ghét gặp gỡ nhau khổ; do phước sinh lên cõi trời, vì ác phải đọa địa ngục. Vua và phu nhân hoan hỷ tin hiểu, đều thọ Ngũ giới làm Phật tử tịnh tín rồi từ giã trở về cung. Lúc ấy, có một vị Bà-la-môn tên là Kiết Tinh sinh được một người con gái xinh đẹp vô song. Đến năm mười sáu, sắc đẹp của cô thật toàn vẹn không kém khuyết điểm nào. Ông Bà-la-môn treo giải ngàn lạng vàng cho ai phê bình một điểm xấu của con gái mình. Thế mà suốt ba tháng vẫn không có người làm được. Ông Bà-la-môn nghó con gái mình đã đến tuổi lấy chồng, nếu ai khôi ngôi tuấn tú xứng đôi thì sẽ gả cho. Ông nghe nói Sa-môn Cù-đàm dòng họ Thích-ca, tướng mạo kim sắc hiếm có trên đời, nên dẫn con gái đến gả cho Đức Phật. Ông đưa con gái đến, chào hỏi xong, rồi thưa với Phật: –Con gái tôi xinh đẹp hiếm có trẹn đời, nay đã trưởng thành phải gả chồng nhưng trên đời này không có kẻ xứng đôi. Ngài Cù-đàm đây đẹp đẽ vô song nên dẫn nó từ nơi xa xôi đến để gả cho Thế Tôn Ngài vậy. Đức Phật nói với Kiết Tinh: –Nét xinh đẹp của con gái ông là cái đẹp quý của gia đình ông, còn cái đẹp của Ta là cái đẹp quý của chư Phật. Quan niệm về cái đẹp quý của chúng ta khác nhau. Ông tự khen con gái mình xinh đẹp, song Ta xét ra chỉ giống một cái bình tô vẽ đẹp nhưng lại đựng đồ bất tịnh hôi dơ, có gì đáng quý đâu? Sắc vóc xinh đẹp là chỗ dính mắc của năm tên giặc lớn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Tư dung đẹp đẽ là tai họa lớn của thân. Tan nhà nát cửa, giết mình hại thân tộc đều do nữ sắc mà ra. Ta làm Sa-môn sống một mình còn sợ bị tai ách, huống hồ lại phải cưu mang quà tặng chứa đầy tai nạn giặc dữ kia! Ông hãy đem đi, Ta không nhận đâu. Ông Bà-la-môn nghe vậy nổi giận liền bỏ đi. Ông đưa con gái đến ra mắt vua Ưu Điền, khen ngợi vẻ đẹp của con mình, rồi thưa: –Con gái tôi đáng bậc vương phi, nay đã trưởng thành nên đưa đến dâng vua. Vua nhìn nàng đẹp dạ bèn đồng ý và phong làm đệ nhị tả phu nhân, ban cho Kiết Tinh đai ấn, vàng bạc châu báu rồi phong làm quan kề cận giúp vua. Cô con gái sau khi đắc sủng, ôm lòng ganh ghét thường mê hoặc vua. Nhiều lần cô tìm cách gièm pha đại phu nhân, song vua đều quát lớn: –Khanh chỉ đặt điều yêu mị không thật. Đại phu nhân là người tiết hạnh đáng quý mà lại gièm pha. Cô này do lòng đố kî nên vẫn rắp tâm làm hại đại phu nhân, luôn tìm dịp tâu ra tâu vào khiến vua từ từ cũng xiêu lòng tin theo. Một hôm cô tìm ra một cơ hội, nhân ngày trai giới lại khuyên vua: –Cuộc vui hôm nay xin mời hữu phu nhân ra dự. Vua nghe lời ra lệnh hai hậu đều tham dự. Nhưng đại phu nhân vì trì trai giới nên không vâng lệnh. Vua ba lần cho người gọi mà bà nhất định trì trai không ra. Vua nổi giận sai người lôi ra, bắt trói trước điện rồi lấy cung định bắn chết. Đại phu nhân vẫn không sợ hãi, nhất tâm quy y Phật. Vua nhắm phu nhân bắn, không ngờ mũi tên bay lại phía sau vua. Bắn mấy phát liền đều như vậy cả. Lúc ấy vua cảm thấy sợ hãi vội buông cung xuống đích thân cởi trói cho đại phu nhân, rồi hỏi: –Khanh có pháp thuật lạ gì mà khiến như thế? Phu nhân trả lời: –Thiếp chỉ phụng thờ Như Lai, quy y Tam bảo. Sáng nay thiếp thọ trai giới của Phật không ăn quá ngọ. Lại nữa giữ tám giới của Phật không được trang sức. Đây chắc là Đức Thế Tôn từ bi gia hộ khiến được như thế. Vua nói: –Lành thay! Sao không nói sớm cho trẫm? Vua liền đuổi con gái của Kiết Tinh về nhà rồi giao cho đại phu nhân coi quản hết mọi việc trong cung. Sau đó vua, phu nhân, các phi tần hậu cung và thái tử dẫn theo xa giá đến chỗ Đức Phật. Sau khi làm lễ xong, mọi người ngồi qua một bên chắp tay nghe pháp. Vua liền đem những việc đã xảy ra thuật lại đầy đủ cho Phật nghe. Đức Phật nghe xong bảo: –Này Đại vương, người nữ yêu tà độc ác có tám mươi bốn phong thái. Trong đó có tám phong thái chính bị người trí tuệ ghét. Đó là: 1. Tật đố. 2. Giận càn. 3. Mắng chửi. 4. Trù rủa. 5. Trấn áp. 6. Keo lận, tham lam. 7. Ham trang sức. 8. Ôm lòng thâm độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Dầu trời mưa thất bảo Dục tâm thỏa được nào! Vui ít khổ biết bao Ai giác ngộ: Hiền trí. Dầu dục lạc cõi trời Trí giả xả không tham Vui viễn ly ân ái Làm đệ tử Phật-đà. Đức Phật nói với vua: –Người ta làm phước tạo tội, mỗi thứ đều có tính chất riêng. Cho nên thọ quả báo vui khổ cũng khác nhau xa. Nếu thực hành pháp lục trai giới sẽ được phước rất nhiều, chư Phật đều khen ngợi và khi chết sẽ được sinh Thiên hưởng phước an vui. Đức Phật nói xong, vua, phu nhân, thể nữ và các quan đại thần tâm ý đều khai ngộ, thấy được đạo.  <詞 id="41126456">Phẩm 37: SA-MÔN <章 id="41126457">Thí dụ 67: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá nước Xá-vệ vì hàng trời, rồng, quỷ, thần, vua quan, nhân dân thuyết pháp. Lúc ấy, có một vị Tỳ-kheo trẻ sáng sớm đắp y, cầm trượng, mang bát đến một ngôi làng lớn khất thực. Trên con đường cái mà vị Tỳ-kheo khất thực đi ngang, có một khu vườn rau của quan, bên ngoài trồng lúa. Trong đám cỏ xung quanh ruộng lúa có đặt bẫy tên, nếu có thú hay trộm đến đụng vào lưới, tên sẽ bắn ra giết chết. Khu vườn này do một thiếu nữ xinh đẹp canh giữ. Ai muốn vào phải ở xa lên tiếng, cô gái đưa đường mới vào vườn được. Kẻ không biết đường tự vào sẽ bị tên bắn chết. Cô gái một mình giữ vườn buồn nên cất tiếng ca ai oán. Tiếng hát của cô vô cùng truyền cảm, ai đi ngang cũng bị thu hút, xuống xe dừng ngựa muốn vào vườn, tần ngần không đành trở bước, ngồi quanh lắng nghe. Lúc ấy vị Tỳ-kheo trên đường khất thực trở về, đi ngang lắng nghe tiếng ca, năm tình liền dấy khởi, tâm ý mê loạn quyến luyến không sao dứt được. Vị Tỳ-kheo tưởng tượng người ca ắt hẳn vô cùng xinh đẹp nên muốn tìm cách vào khu vườn đó. Chưa vào trong mà ý chí của vị Tỳ-kheo ấy tiêu tan, tay buông tích trượng, để rớt y bát mà không hay biết. Đức Phật với Tam minh thấy vị Tỳ-kheo này như vậy, nếu còn bước thêm ít bước sẽ bị trúng tên mà chết. Vị ấy có phước đang lẽ đắc đạo, song bị ngu si làm mê, lòng dục che lấp. Ngài xót thương muốn độ thoát ông ta, nên hóa ra một cư só đi đến bên cạnh Tỳ-kheo đó dùng kệ trách: Sa-môn là hạnh gì Sao buông lòng phóng túng Từng bước đi dính mắc Chỉ theo ý ruổi dong. Ca-sa khoát trên vai Bị ác tâm tổn hại Người làm theo ác hạnh Sẽ đọa ác đạo ngay. Vượt dòng ái, tự giữ Hàng phục tâm, hết dục Người không dứt được dục Ý vẫn dong ruổi hoài. Hãy nên vì điều đó Phải gắng tự chế ngăn Xuất gia mà giải đãi Ý ô nhiễm trói trăn. Người hạnh tu giải đãi Ý mê hoặc còn hoài Không phải hạnh thanh tịnh Đến bảo sở, khó thay! Kẻ không thuần khó dạy Như gió thổi cây khô Tự mang hại bản thân Sao không lo tinh tấn. Nói kệ xong, vị Hóa cư só đó hiện lại thân Phật, tướng hảo quang minh khắp đất trời, ai trông thấy đều dứt hết mê loạn được an ổn. Vị Tỳ-kheo trông thấy Đức Phật, tâm ý chợt khai ngộ như tối gặp sáng liền năm vóc phủ phục sát đất đảnh lễ sám hối, tạ ân Đức Phật. Vị ấy trong tâm thông tỏ pháp chỉ quán đắc quả A-la-hán, bèn theo Đức Phật trở về tinh xá. Vô số người nghe pháp chứng được pháp nhãn.  <詞 id="41126458">Phẩm 38: PHẠM CHÍ <章 id="41126459">Thí dụ 68: Thuở xưa, trong nước Tư-ha-điệp có một ngọn núi lớn tên là Tư-hưu-giá-tha. Trong núi có hơn năm trăm vị tu só Bà-la-môn đều đắc thần thông. Các vị đó tự bảo với nhau: –Chỗ chứng đắc của chúng ta chính là Niết-bàn. Lúc ấy, Đức Phật mới ra đời gióng trống pháp, mở cửa cam lộ. Ngài thấy các Bà-la-môn này nghe được tên Phật mà chưa đến gặp. Ngài lại xét thấy họ là những người có thể độ được. Nên một hôm, Đức Thế Tôn một mình đi vào núi, ngồi dưới một cội cây nơi đường ra vào. Ngài nhập Tam-muội phóng hào quang trên thân soi chiếu khắp núi, mọi nơi đều rực sáng như núi bị cháy. Các Bà-la-môn thấy vậy sợ hãi, vội dùng thần thông phun nước dập lửa. Nhưng họ dầu cố sức thế nào đi nữa cũng không dập tắt được. Họ lấy làm lạ bỏ núi chạy ra. Xa xa họ trông thấy Đức Thế Tôn đang ngồi tọa thiền dưới cội cây, như mặt trời mọc bên núi vàng, như vầng trăng sáng giữa đám sao đêm. Họ ngạc nhiên không biết đó là vị thần nào nên vội đến xem. Đức Phật bảo họ ngồi xuống rồi hỏi từ đâu tới. Họ đáp: –Chúng tôi ở núi này tu đạo đã lâu. Sáng nay lửa dữ nổi lên đốt cháy rừng cây trong núi nên lo sợ bỏ chạy ra. Đức Phật bảo: –Đây là lửa phước không làm tổn thương người, chỉ muốn đốt cháy trần cấu si mê của các ông. – Lúc ấy các thầy trò Bà-la-môn cùng nhau bàn tán: –Đây là đạo só gì vậy? Trong chín mươi sáu thứ đạo chưa từng có ông thầy này! Có người nói: –Tôi từng nghe con vua Tịnh Phạn tên là Tất-đạt không tham ngôi báu xuất gia cầu thành đạo Phật. Phải chăng là ông ấy? Các đệ tử bèn đề nghị thầy mình: –Chúng ta thử hỏi Phật chỗ hành sự của các Bà-la-môn có đúng pháp không? Lúc ấy, các thầy trò Bà-la-môn đứng dậy bạch Đức Phật: –Kinh pháp Bà-la-môn tên là Tứ vô ngại. Các môn như thiên văn, địa lý, pháp các vua chúa trị nước an dân là những pháp tắc phải làm nên chín mươi sáu thứ đạo đều gồm đủ trong đó. Không biết kinh này có phải là pháp Niết-bàn không? Xin Phật giải nói cho kẻ chưa được nghe. Đức Phật dạy: –Các ông hãy khéo lắng nghe và suy nghó kỹ. Ta từ vô số kiếp quá khứ thường tu theo kinh này đắc được Ngũ thông dời non lấp biển, song vẫn bị sinh tử triền miên không dứt, tự mình không chứng Niết-bàn cũng không nghe có ai đắc đạo. Nên các ông tu hành như vậy không phải gọi là Bà-la-môn. Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng kệ đáp: Dứt dòng ái, vượt qua Vô dục như Phạm thiên Ý hành đều chấm dứt Đó gọi Bà-la-môn. Mở được các dục kết Thanh tịnh vượt vực sâu Không có pháp thứ hai Đó gọi Bà-la-môn. Không phải bện búi tóc Mà gọi Bà-la-môn Nếu thành tín, theo pháp Thanh bạch là Hiền nhân. Búi tóc mà vô tuệ Mặc áo cỏ làm chi? Trong không lìa cấu uế Ngoài xả bỏ ích gì? Bỏ hết dâm, nộ, si Kiêu mạn, các ác kiến Như rắn lột bỏ da Đó gọi là Bà-la-môn. Việc đời quyết cắt tuyệt Miệng không nói lời thô Bát chánh đạo trao dồi Đó gọi là Bà-la-môn. Đã dứt nguồn ân ái Sống vô dục, không nhà Mọi ái nhiễm đoạn tận Đó gọi Bà-la-môn. Lìa xa cõi nhân gian Không rơi lại cõi trời Không vướng trong các cõi Đó gọi Bà-la-môn. Tự biết túc mạng mình Vốn từ đâu lại đây Đã đoạn hết sinh tử Thông tỏ được đạo mầu Sáng suốt và vắng lặng Đó gọi Bà-la-môn. Đức Phật nói kệ xong, bảo các Bà-la-môn: –Chỗ các ông tu tập tự cho là đã được Niết-bàn giống như chút đỉnh nước đọng, cá làm sao vui trọn dài lâu. Vạn vật nhân duyên hòa hợp tự tính vốn không. Các Bà-la-môn nghe xong vô cùng hoan hỷ, quỳ thẳng bạch Phật xin làm đệ tử. Râu tóc họ liền tự rụng thành Sa-môn. Do tu hạnh thanh tịnh họ đều đắc quả A-la-hán. Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều thấy được đạo.  <詞 id="41126460">Phẩm 39: NÊ-HOÀN <章 id="41126461">Thí dụ 69: Thuở xưa, Đức Phật trú tại núi Linh thứu nơi thành Vương xá cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo. Lúc ấy, có vua nước Ma-kiệt-đà tên là A-xà-thế trông coi năm trăm nước nhỏ. Nước kế bên là Việt-kỳ không muốn thần phục nên vua định đem quân sang đánh. Vua bèn triệu tập quần thần hỏi ý kiến: –Nước Việt-kỳ giàu có, sản xuất nhiều trân báu mà không chịu thần phục ta. Theo ý các khanh, ta có nên đem quân sang chinh phạt không? Trong triều có vị thừa tướng tên là Vũ Xá đáp: –Nên đánh. Vua mới bảo Vũ Xá: –Phật cách đây không xa, Ngài là Bậc Thánh Triết có đủ Tam minh biết hết mọi việc. Khanh hãy đến chỗ Phật, theo ý ta lựa lời thăm hỏi xem nếu đem quân sang đánh nước kia thì có thể thắng được không? Thừa tướng vâng lệnh, liền cho thắng xe ngựa đến tinh xá. Ông đến trước Phật đảnh lễ ra mắt. Đức Phật bảo ông ngồi sang một bên, rồi hỏi: –Thừa tướng từ đâu đến? Ông đáp: –Vua sai con đến đảnh lễ hỏi thăm sức khỏe Phật như mọi khi. Đức Phật hỏi tiếp: –Vua và nhân dân bề tôi đều bình an cả chứ? Ông đáp: –Vua và nhân dân nhờ ân Phật thảy đều bình an. Ông nhân dịp đó bạch luôn: –Vua và nước Việt-kỳ có hiềm khích định đem quân sang chinh phạt. Không biết theo Thánh ý có thể chiến thắng được không? Đức Phật đáp: –Này thừa tướng, nhân dân nước Việt-kỳ thực hành bảy pháp nên không thể thắng. Mong rằng vua suy xét cẩn thận không nên vọng đọng dấy binh. Thừa tướng bèn hỏi: –Bảy pháp đó là gì? Đức Phật đáp: –Bảy pháp đó là: 1. Nhân dân nước đó thường tụ họp, bàn luận chánh pháp, tu phước, tự sửa. 2. Vua tôi, thần dân nước đó trên dưới một lòng. Kẻ làm tôi làm dân thì trung lương, người làm vua thì nghe lời can gián, không bạo ác. 3. Nhân dân nước đó gìn giữ chánh pháp, khuyên bảo nhau không lượm của rơi, không dám phạm tội, trên dưới đều tuân theo pháp tắc. 4. Nhân dân nước đó giữ theo lễ nghóa, kính cẩn. Nam nữ phân biệt, lớn nhỏ phân biệt không để mất nghi tắc. 5. Nhân dân nước đó hiếu dưỡng Cha mẹ, kính yêu Sư trưởng, nghe lời răn bảo dạy dỗ coi đó như pháp tắc của quốc gia. 6. Dân nước đó biết theo thời tiết, đất đai, quý trọng lúa thóc, bốn mùa dân chúng siêng năng cày cấy không bỏ bê. 7. Dân nước đó tôn đạo kính đức. Trong nước có Sa-môn, thính giả, A-la-hán từ xa đến đều cúng dường các thứ áo mền, giường chõng thuốc thang. Ai làm vua mà thực hành được bảy pháp này thì không bị nguy khốn. Dầu cho đem binh cả thiên hạ đến đánh cũng không thắng được. Này thừa tướng, nếu như nhân dân nước Việt-kỳ chỉ thực hành một pháp thôi cũng không thể đánh thắng được, huống chi là thực hành cả bảy pháp. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Thắng người không đủ cậy Tuy thắng, khổ bên mình Phải cầu pháp tự thắng Thắng rồi được vô sinh. Vũ Xá nghe Đức Phật nói kệ liền thấy được đạo. Lúc ấy mọi người trong pháp hội liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Thừa tướng từ chỗ ngồi đứng dạy bạch Phật rằng: –Việc nước bận bịu phải về lo, vậy xin từ giã Thế Tôn. Đức Phật nói: –Phải biết xử sự đúng lúc. Sau khi từ chỗ ngồi đứng lên, thừa tướng lễ Đức Phật ra về. Ông đem mọi việc thưa lại với vua. Vua bèn từ bỏ ý định đánh nước Việt-kỳ, nghiêm trì theo lời Phật dạy, lấy đó để giáo hóa nhân dân. Sau đó nước Việt-kỳ đến quy thuận, trên dưới kính quý nhau, nước nhà hưng thịnh.  <詞 id="41126462">Phẩm 40: SINH TỬ <章 id="41126463">Thí dụ 70: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ hoàn vì hàng trời, người, vua quan, dân chúng tuyên thuyết diệu pháp. Lúc ấy, bên đường có một gia đình trưởng giả Bà-la-môn giàu có vô số, chỉ sinh được một người con trai, năm nay vừa tròn hai mươi tuổi. Vị trưởng giả mới cưới vợ cho con được bảy ngày. Hai vợ chồng thương yêu ăn ở hòa thuận với nhau. Người vợ nói với chồng muốn ra vườn sau ngắm cảnh thưởng hoa. Chồng chiều ý vợ, hai người đưa nhau ra vườn sau. Lúc ấy đương vào tiết xuân, trong vườn có một cây nại cao to trổ hoa tươi đẹp. Vợ muốn hái hoa song không có người. Người chồng biết ý vợ muốn hoa nại liền trèo lên cây. Hái được một bông rồi, lại muốn hái thêm một bông khác. Leo chuyền dần dần đến một cành nhỏ. Nhánh cây gãy người chồng rơi xuống đất chết ngay. Cả nhà hay tin vội chạy đến chỗ xác con than khóc kêu trời trách đất đến ngất đi tỉnh lại. Thân tộc trong ngoài đến thăm đông đảo, ai cũng hết sức thương tâm. Người nghe xót xa, kẻ thấy rơi lệ, cha mẹ và vợ trách trời sao tàn nhẫn chẳng hộ độ. Sau đó mọi người tẩm liệm rồi đem anh đi chôn cất. Khi trở về, cả nhà suốt ngày than khóc mãi không thôi. Bấy giờ Đức Thế Tôn thương cho sự ngu muội của họ nên đến thăm hỏi. Cả nhà trưởng giả thấy Đức Phật đến, đau buồn khóc lóc đem hết sự tình ra kể lể. Đức Phật bảo với trưởng giả: –Xin đừng than khóc nữa, hãy nghe Ta nói: “Vạn vật đều vô thường không thể trường cửu.” Đã sinh thì phải tử, tội phước theo nhau. Đứa con này thật ra phải có đến ba chỗ than khóc vì nó, sự đau buồn hai nơi kia cũng không thua chỗ ông đâu. Nó rốt cuộc là con ai? Ai là người thân của nó? Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Mạng sống như trái chín Sẽ rụng chẳng bao lâu Đã sinh là phải khổ Ai bất tử được đâu? Do trước tham ái dục Tưởng dâm nhập bào thai Thọ thân mạng như điện Ngày đêm luôn giảm hoài. Thân này là vật chết Tinh thần: pháp vô hình Thân chết, thức tái sinh Tội phước vẫn không mất. Trước sau biết bao đời Do ái si kéo dài Khổ vui tự mình tạo Thân chết, thần còn lại. Trưởng giả nghe kệ xong, chợt thông hiểu không còn đau buồn, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, người con này đời trước gây tội gì mà đời nay phải yểu mạng như vậy? Xin Ngài hãy giảng nói rõ gốc tội. Đức Phật bảo trưởng giả: –Đời quá khứ có một đứa bé mang cung tên đến một cây thần chơi. Bên cạnh đó cũng có ba người nữa. Thấy trên cây có con chim sẻ, đứa bé muốn bắn. Ba người kia thấy vậy khuyến khích: “Bắn trúng được con chim sẻ đó, mới thật là bậc tiểu anh hùng.” Đứa bé nghe vậy thích quá liền giơ cung bắn. Chim sẻ trúng tên rơi xuống đất chết. Ba người kia khen ngợi rồi bỏ đi. Trải qua vô số kiếøp trong sinh tử họ lại gặp gỡ và cùng thọ tội. Một người trong bọn có phước nay ở cõi trời. Một người hóa sinh làm Long vương ở trong biển. Còn một người làm thân trưởng giả. Đứa bé cầm tên bắn chim chính là con ông ngày nay. Đời trước nó sinh làm con của người cõi trời, rồi mạng chung sinh làm con của trưởng giả. Giờ đây nó té chết lại sinh làm con của người làm Long vương dưới biển. Ngày nó vừa sinh ra đã bị chim Kim sí điểu vương bắt ăn thịt. Ngày nay bọn ông ba người ở ba nơi đều vì đứa nhỏ mà buồn khổ than khóc thì có chi đáng nói đâu! Do vì ba ông đã tán trợ thú vui giết chim của đứa bé nên phải chịu báo ứng khổ đau than khóc. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Thức tâm tạo ba cõi Năm chỗ thiện, bất thiện Thầm làm, thầm đưa đến Chỗ đến, như tiếng vang. Dục, Sắc, Vô sắc giới Tất cả do túc nghiệp Như giống nào trái nấy Báo như bóng theo hình. Đức Phật nói kệ xong muốn khiến trưởng giả giác ngộ, nên đã dùng thần thông khiến cho mọi người thấy túc mạng, những việc đã xảy ra ở cõi trời, cõi của loài rồng. Trưởng giả nghe xong hoan hỷ đứng dậy, ra trước Phật quỳ xuống chắp tay bạch: –Xin Đức Thế Tôn cho cả nhà chúng con là đệ tử, thọ trì Ngũ giới làm cư só tại gia. Đức Phật hứa khả, truyền trao Ngũ giới cho họ, rồi lại thuyết pháp về nghóa vô thường. Mọi người hoan hỷ đắc quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126464">Phẩm 41: ĐAO-LỢI <章 id="41126465">Thí dụ 71: Thuở xưa có một vị quốc vương dùng chánh pháp trị dân, ai ai cũng mến mộ đức độ. Song vua lại không có thái tử nối ngôi nên rất buồn lo về việc này. Một hôm, Đức Phật đến nước đó. Vua ra nghênh đón, nghe pháp vui mừng và xin lãnh thọ Ngũ giới. Vua ngày đêm tinh tấn, nhất tâm phụng trì chỉ xin nguyện có một đứa con. Trong cung có một thị đồng mười một tuổi mà vua thường dùng sai bảo. Cậu ấy là người trung tín, khiêm tốn giữ phép, không trái cung cách. Cậu lại tinh tấn hết lòng học tập, đọc tụng kinh kệ, suốt mấy năm cậu ấy luôn dậy trước mọi người, sắp đặt chuẩn bị chu đáo nhang đèn không biết nhọc. Rốt lại cậu mắc bệnh nặng chết đi, thần thức tái sinh làm con của vua. Vua hết sức thương yêu, hết lòng nuôi dưỡng, đến năm mười lăm tuổi lập cậu lên làm thái tử. Sau khi vua băng hà, thái tử lên kế vị. Từ khi lên ngôi, tân vương trở nên kiêu mạn, phóng túng, hoang dâm vô độ, ngày đêm chìm đắm trong ngũ dục không lo việc nước. Vì thế mà các quan luôn bị bỏ triều, nhân dân bị khốn khổ. Đức Phật biết vua không hiểu được bổn hạnh của mình, nên dẫn đệ tử đến nước đó hóa độ. Vua nghe Đức Phật đến, theo phép tiên vương cũng dẫn đại chúng ra nghênh tiếp, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi xuống chỗ của mình. Đức Phật hỏi thăm vua: –Đất nước nhân dân, bá quan vẫn an ổn như thường chứ? Vua đáp: –Quả nhân còn trẻ chưa đủ tài đức trị dân. Nhờ ân Phật mà trong nước vẫn an ổn. Đức Phật lại hỏi: –Vua có biết mình từ đâu sinh đến không? Tu công đức gì mà được vương vị không? Vua đáp: –Con ngu si không rõ, không biết đời trước làm gì. Đức Phật bảo: –Này Đại vương, người do năm việc mà được làm quốc vương. Thế nào là năm? Đó là: 1. Bố thí được làm vua, được vạn dân phụng hiến cung điện, dâng nạp tiền của vô số. 2. Xây dựng chùa tháp, cúng dường Tam bảo giường chõng, màn trướng được làm vua. Nhờ phước đó mà nhà vua được ngự trên ngai vàng giữa triều trị nước. 3. Thân cận, lễ kính Tam bảo và các bậc Trưởng đức nên được làm vua. Nhờ phước này nên vua được muôn dân kính lễ. 4. Nhẫn nhục ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của miệng, ý không ác niệm do đó làm vua. Nhờ phước này nên ai trông thấy mặt vua cũng vui mừng. 5. Học hỏi, thường cầu trí tuệ nhờ đó được làm vua. Nhờ phước này nên vua quyết đoán việc nước ai cũng nghe theo. Thực hành năm việc này đời đời sẽ làm vua. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ: Người biết thờ bậc trên Vua, cha, thầy, đạo só Có tín, giới, thí, tuệ Chết an, tái sinh an. Đời trước có phước đức Nay tôn quý hơn người Lấy đạo trị thiên hạ Phụng pháp, ai cũng theo. Vua là chủ thần dân Thường yêu thương kẻ dưới Thân noi theo Giới pháp Làm gương dạy mọi người. Sống an chớ quên nguy Sáng suốt, phước càng đầy Quả báo của phước đức Không luận hèn hay sang. Đức Phật bảo vua: –Tiền thân của vua là thị đồng của tiên vương. Do nhờ tín tâm thờ Phật, thanh tịnh trì Pháp, cung kính hầu Tăng, hiếu thảo cha mẹ, trung can với vua, nhất tâm tinh tấn bố thí, cực nhọc mà không biếng trễ nên được phước đời này làm con tiên vương, thừa hưởng ngôi vị vinh hoa phú quý. Thế mà nay vua giàu sang trở lại biếng trễ. Phàm làm vua nên thực hành năm việc: 1. Lãnh đạo muôn dân mà không có xa xỉ, phí phạm. 2. Nuôi dưỡng tướng só tùy thời sai bảo. 3. Nhớ tu theo bổn nghiệp để phước đức còn mãi không dứt. 4. Biết tin nghe lời chánh trực của trung thần, không nghe lời sàm tấu làm hại bề tôi trung trực. 5. Tiết dục, không đắm theo dục lạc, không buông lung phóng dật. Làm được năm việc này sẽ vang danh bốn biển, phước lộc tự đến. Bỏ năm viẹâc này giềng mối sẽ mất hết. Nhân dân khốn khổ sẽ nghó đến việc nổi loạn, quân lính nhọc nhằn sẽ bỏ bê việc công. Do vô phước quỷ thần không giúp đỡ, lại tự tung tự tác bất kể đạo lý, trung thần không dám can ngăn. Cho nên việc nước bỏ bê, gian thần lộng hành, nhân dân oán thán. Nếu như vậy hiện đời thân bại danh liệt, đời sau sẽ vô phước khổ đau. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ: Phàm lãnh đạo thế gian Tu chánh đạo không tà Điều tâm, thắng các ác Đó là bậc Pháp vương. Thấy đạo, hay tuệ thí Nhân ái, thích lợi người Bình đẳng với tất cả Được vậy chúng tựa nương. Nghe Đức Phật nói kệ xong, vua vô cùng hoan hỷ, đê đầu đảnh lễ trước Phật để sám hối và tạ ân, rồi thọ Ngũ giới tu tập. Đức Phật lại vì vua thuyết pháp. Nghe xong, vua đắc quả Tu-đà-hoàn.  <章 id="41126466">Thí dụ 72: Thuở xưa, Đức Phật trú tại tinh xá Kỳ thọ nước Xá-vệ vì hàng trời người, vua quan, bốn bộ đệ tử thuyết đại pháp vô thượng. Lúc ấy, phía Nam của nước này có một vùng núi sâu, nơi đây thường xuất hiện một loại voi lớn. Con voi có ba màu trắng, xanh và đen. Vua muốn có loại voi lớn chiến đấu này nên sai người bắt nó giao cho điều tượng sư huấn luyện. Ba năm sau, voi có thể dùng để cỡi hay chiến đấu. Lúc đó có một con voi thần do rồng sinh ra, thân trắng như tuyết, đuôi đỏ như son, hai ngà màu vàng kim. Thợ săn trông thấy con voi khác thường này bèn trở về tâu vua, mô tả hình dáng và bảo nó xứng đáng để vua cỡi. Vua liền ra lệnh tuyển mộ thợ săn voi hơn ba mươi người vào rừng bắt nó. Bọn họ đến chỗ voi giăng lưới định bắt. Thần tượng biết được ý người liền bước đến, cố ý rơi vào vòng lưới. Mọi người xúm lại định bắt, voi nổi giận lồng lên đạp những người đứng gần chết ngay tại chỗ, chỉ những kẻ ở xa mới kịp bỏ chạy, nhưng voi đuổi theo chẳng buông tha. Lúc ấy, cạnh núi có các Tỳ-kheo trẻ tuổi khỏe mạnh, đã tu học rất lâu nhưng chưa được định tâm. Họ ở xa thấy thần tượng đuổi theo giết người nên khởi lòng thương xót định cậy mạnh chạy đến cứu. Đức Phật từ xa trông thấy việc này, sợ các Tỳ-kheo bị thần tượng giết hại, nên liền hiện đến bên cạnh voi phóng hào quang rực rỡ. Voi trông thấy hào quang của Đức Phật không còn sân hận, thôi không đuổi theo giết người nữa. Các Tỳ-kheo thấy Đức Phật vội làm lễ đón chào. Đức Phật vì các Tỳ-kheo nói kẹâ: Chớ vọng trêu thần tượng Để chuốc khổ vào thân Ác ý là tự sát Chết không sinh cõi lành. Các Tỳ-kheo nghe kệ xong liền cúi đầu đảnh lễ sám hối. Rồi họ tự quán xét sâu xa lỗi lầm của mình, chứng được quả A-la-hán ngay trước Đức Phật. Các thợ bắt voi lúc ấy mới hoàn hồn, nghe pháp xong, đều hiểu được đạo.  <章 id="41126467">Thí dụ 73: Thuở xưa, Đức Phật trú trên núi Kỳ-xà-quật thành La-duyệt-kỳ. Lúc ấy vua Bình-sa có một vị đại thần vì phạm tội bị bãi chức đầy đến ở vùng núi phía Nam cách nước hơn ngàn dặm. Đây là nơi không người lai vãng, ngũ cốc xác xơ. Đại thần đến đó ít lâu, không ngờ xuất hiện suối nước tràn trề, đất đai màu mỡ, ngũ cốc sung túc. Những người nghèo đói các nơi đổ về đây sinh sống, trong vòng mấy năm đã có ba bốn ngàn gia đình. Ai đến đều được cấp cho ruộng đất làm ăn. Một hôm, có ba vị trưởng lão bàn với nhau: “Nước không có vua như thân không có đầu.” Nên cùng đến chỗ đại thần, đề cử ông lên làm vua.Vị đại thần trả lời các trưởng lão: “Nếu muốn lập tôi lên làm vua phải đúng pháp như các quốc vương: Tả hữu có đại thần hầu cận, văn võ tướng só có phẩm trật trên dưới. Mọi người phải tuân theo lễ pháp triều. Lại phải tuyển các thiếu nữ nhập cung và nhân dân phải nộp tô thuế, lúa thóc, vải vóc. Các quốc lão nói: –Xin làm theo như thế. Rồi họ một mực theo vương pháp, lập đại thần lên ngôi, sắp đặt quần thần văn võ trên dưới, phát động nhân dân xây cất thành quách, kiến tạo cung điện. Từ đó nhân dân khốn khổ, không còn cảnh an cư lạc nghiệp. Mọi người vì quá khổ cực nên muốn đảo chính soán ngôi. Các gian thần bày mưu đưa vua đi săn. Ra ngoài thành chừng ba bốn mươi dặm có một cánh đồng trống, họ trói vua lại định giết. Vua hỏi các cận thần: –Sao các ông lại giết ta? Họ đáp: –Nhân dân nếu no ấm hạnh phúc sẽ lấy lễ thờ vua. Còn nhân dân nghèo đói sẽ nổi loạn lật đổ vương quyền. Vua bảo: –Chuyện này là do các khanh làm, không phải tại ta. Nếu giết oan ta thần minh sẽ biết. Hãy cho ta phát một lời nguyện, dù chết cũng can tâm. Vua liền nguyện: –Tôi vốn khai hoang tạo ruộng để nuôi dân. Ai đến sinh sống đều an cư lạc nghiệp. Rồi họ tự động suy tôn tôi lên ngôi vua, chiếu theo pháp vua các nước khác mà sắp đặt, làm ra mọi việc như thế. Nay họ trở lại giết tôi. Tôi thật không có tội với nhân dân. Nếu tôi chết nguyện sẽ làm quỷ La-sát nhập vào thân cũ để trả thù này. Vua nguyện xong, bị cận thần lấy dây xiết cổ chết, bỏ thây ở đó rồi đi. Ba ngày sau, thần thức vua làm quỷ La-sát nhập vào thân cũ, tự xưng là A-la-bà. Quỷ vào cung dùng dây xiết cổ tân vương và giết sạch các gian thần cũng như thể nữ. La-sát vẫn còn giận ra khỏi cung định bắt giết dân chúng. Ba vị quốc lão thấy vậy tự trói ra đầu thú trước La-sát, thưa: –Đây là việc làm của gian thần, dân đen nào có biết gì. Xin ngài hãy rộng lòng tha thứ, trở về làm vua lại. La sát bảo: –Ta đã là La-sát, đâu có thể sống làm việc chung với người. Ta ăn thịt uống máu người, tánh thường hay phẫn nộ bất kể chuyện gì. Ba vị quốc lão nói: –Nước này do ngài mà có, nên xin ngài hãy làm vua lại như cũ. Còn việc ăn uống chính chúng tôi sẽ lo. Từ đó, các quốc lão lập ra quy định: Nhân dân phải rút thăm lấy số thứ tự, nhà nào có con theo thứ tự nộp cho vua La-sát ăn. Trong ba bốn ngàn hộ gia đình, có một nhà là đệ tử Phật, tinh tấn phụng trì Ngũ giới không phạm. Ông theo mọi người rút thăm trúng phải số thứ nhất, phải nộp đứa con nhỏ duy nhất của mình cho vua La-sát ăn trước hết. Cả nhà buồn thương than khóc, hướng vọng về núi Kỳ-xà-quật đảnh lễ sám hối nghiệp tội của mình. Đức Phật với đạo nhãn thấy hết nỗi thống khổ này, tự bảo: “Nhờ nơi đứa bé này Ta sẽ độ được vô số người.” Ngài liền một mình bay đến cửa cung điện vua La-sát, hiện tướng quang minh soi sáng nội cung. La-sát thấy hào quang nghi là dị nhân bèn ra gặp Phật. La-sát thấy Đức Phật liền khởi độc tâm định xông đến ăn thịt. Hào quang Phật chiếu vào mắt, bao nhiêu thần lực của La-sát đều tiêu tan, trở nên yếu đuối phải chịu hàng phục. La-sát thỉnh Phật lên tòa ngồi, còn mình quỳ dưới đảnh lễ. Đức Phật vì La-sát thuyết pháp. La-sát nhất tâm nghe, tin hiểu rồi thọ Ngũ giới làm Ưu-bà-tắc. Lúc ấy, viên quan tống thực mang đứa bé đến cho vua La-sát ăn. Cả nhà đứa bé đều than khóc đi theo. Vô số người đi theo lấy làm đau xót. Viên quan ôm đứa bé trao cho vua La-sát. Vua La-sát đón lấy đứa trẻ, rồi quỳ trước Phật bạch: –Đứa bé này do quốc dân theo thứ tự đưa đến cho con ăn. Nay con đã thọ Ngũ giới của Phật nên không ăn thịt nó nữa. Con xin cúng nó cho Đức Phật làm thị đồng hầu hạ. Đức Phật nhận đứa bé rồi chú nguyện chúc lành. La-sát hoan hỷ đắc quả Tu-đà-hoàn. Đức Phật đặt đứa bé vào bát rồi mang ra khỏi cung về nhà cha mẹ của nó. Đến nơi, Ngài bảo: –Hãy nuôi đứa bé đừng đau buồn nữa. Mọi người trông thấy Đức Phật hết sức kinh ngạc không biết là vị Thần nào. Đứa bé này nhờ phước gì mà được cứu thoát khỏi làm thức ăn cho La-sát. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đứng giữa mọi người nói kệ: Giới đức chỗ nhờ cậy Phước báo sẽ theo ta Thấy pháp thành bậc thượng Ba đường ác tránh xa. Trì giới: hết khổ lo Phước: ba cõi tôn quý Quỷ thần ác độc tà Không hại kẻ trì giới. Đức Phật nói kệ xong, vô số người thấy hào quang của Phật liền biết là Bậc Chí Tôn trong tam giới. Họ đều xin quy y làm đệ tử, nghe kệ hoan hỷ, đều tỏ ngộ được đạo.  <章 id="41126468">Thí dụ 74: Thuở xưa, Đức Phật trú tại vườn Lộc dã, thành Ba-la-nại thuyết pháp cho hàng trời, người, quỷ, thần, vua quan, nhân dân. Lúc đó có một vị thái tử con vua nước lớn dẫn theo hơn năm trăm vị thái tử con vua các nước nhỏ đến chỗ Đức Phật làm lễ rồi ngồi qua một bên nghe pháp. Nghe xong, các thái tử bạch Phật: –Phật đạo nhiệm mầu, cao xa khó đạt. Từ xa xưa đến nay không biết có quốc vương, thái tử, đại thần, con nhà hào phú nào từ bỏ đất nước thần dân, ái ân phú quý làm Sa-môn không? Đức Phật bảo các thái tử: –Vương quốc, vinh hoa, ân ái trên đời đều như huyễn hóa, như giấc mộng, như tiếng vang, có đó rồi không đó nào có trường tồn. Lại nữa, quốc vương, thái tử do ba việc nên không thể đắc đạo. Ba việc đó là gì? 1. Kiêu mạn, buông lung không chịu học hỏi diệu nghóa kinh Phật để cứu độ thần thức. 2. Tham lam vơ vét, không nghó bố thí cho kẻ nghèo cùng, khổ nạn bên dưới. Quan lại có tài sản không ban phát cho dân cùng, ổn địng và củng cố tài lực của đất nước. 3. Không thể xa lìa sắc dục, các việc hưởng lạc. Không bỏ được lao ngục não phiền, để hành Sa-môn hạnh, tu thân dứt hết khổ nạn. Cho nên Bồ-tát sinh làm vua trừ dứt ba việc này, tự sẽ được thành Phật. Lại có ba việc: 1. Tuổi trẻ học hỏi, trông coi đất nước, giáo hóa nhân dân dạy họ hành theo Thập thiện. 2. Đem tiền của bố thí kẻ bần cùng, cô độc. Vua quan tướng só cùng hưởng phước vui sướng với dân. 3. Thường xét nghó đến lẽ vô thường, mạng sống chẳng dài lâu, phải nên xuất gia tu hạnh Sa-môn, chấm dứt nguyên nhân đau khổ, không còn sinh tử. Nếu ba việc này không làm được, sẽ không đạt được gì cả. Kế đó, Đức Phật tự thuật: –Đời trước Ta làm Chuyển luân thánh vương tên là Nam Vương Hoàng đế. Đồ thất bảo, cung điện, ao tắm, hành cung, ngự uyển, quần thần, phu nhân, thể nữ, voi ngựa, đầu bếp… mỗi thứ đều có tám muôn bốn ngàn. Vua có ngàn người con đều dũng mãnh tinh nhuệ, một địch nổi ngàn. Vua có thể bay trên hư không, du hành bốn phương muốn làm gì thì làm không ai ngăn nổi. Thánh vương thọ bốn mươi tám ngàn tuổi, lấy chánh pháp trị dân, không sử ai oan uổng. Một hôm, Thánh vương chợt nghó: “Mạng người vô thường, ngắn ngủi khó giữ. Ta phải tu phước để cầu đạo chân thật, thường bố thí cho dân chúng, đem tài sản của mình ra chia sẻ với mọi người. Sau khi gieo trồng phước đức rồi, phải xuất gia làm Sa-môn, dứt hẳn tham dục mới diệt được khổ.” Nghó xong, nhà vua ra lệnh người hầu chải tóc: “Nếu thấy tóc bạc hãy lập tức báo cho ta biết.” Mấy vạn năm sau, người hầu chải tóc báo rằng vua đã có tóc bạc. Vua ra lệnh nhổ lấy để trên bàn, rồi nhìn tóc bạc rơi lệ bảo rằng: “Sứ giả thứ nhất đã chợt nhớ đến rồi. Nay tóc ta đã bạc, phải nên xuất gia Sa-môn, cầu đạo vô vi.” Vua để tóc trong lòng bàn tay, rồi tự nói kệ: Nay trên đầu của ta Tóc bạc là bị trộm Đã có Thiên sứ triệu Đến lúc phải xuất gia. Thánh vương bèn triệu quần thần lập thái tử lên làm vua, còn mình xuất gia làm Sa-môn vào núi tu đạo. Sau khi mãn tuổi thọ, Thánh vương sinh lên cõi trời thứ hai làm thái tử con vua trời Đế Thích, còn vị Thánh vương thứ hai lên ngôi, cũng noi theo hạnh tiên vương, dặn người chải tóc hễ thấy tóc bạc liền báo. Thời gian lâu sau, được báo đã có tóc bạc, Thánh vương thứ hai sai nhổ để trên lòng bàn tay rồi cũng nói kệ: Nay trên đầu của ta Tóc bạc là bị trộm Đã có Thiên sứ triệu Đến lúc phải xuất gia. Nói kệ xong, vua lại triệu tập quần thần lập thái tử lên vương vị, còn mình xuất gia làm Sa-môn vào núi tu đạo, mãn tuổi thọ lại sinh lên cõi trời làm Thiên đế Thích. Còn vị Thiên đế Thích trước hưởng hết tuổi thọ cõi trời sinh xuống nhân gian làm thái tử con vị Thánh vương thứ ba. Như vậy ba vị Thánh vương thay đổi làm cha con nhau. Trên làm Đế Thích, dưới làm Thánh vương, giữa làn thái tử. Ba người sinh lên xuống ba mươi sáu lần như vậy suốt mấy ngàn vạn năm. Do nhờ luôn thực hành ba việc này nên rốt cuôc được thành Phật. Vua cha (vị Thánh vương đầu tiên) là Ta ngày nay, thái tử (vị Thánh vương thứ hai) là Xá-lợi-phất, cháu nội vua cha (vị Thánh vương thứ ba) là A-nan. Ba chúng ta nhiều đời thay đổi làm vua giáo hóa nhân dân, nên mới được đặc biệt tôn quý, không ai sánh bằng trong ba cõi. Đức Phật nói xong, quốc vương, thái tử và con các vua nước nhỏ vô cùng hoan hỷ, lãnh thọ năm giới làm cư só nam, đều đắc được quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126469">Phẩm 42: KIẾT TƯỜNG <章 id="41126470">Thí dụ 75: Thuở xưa, Đức Phật trú tại núi Kỳ-xà-quật thành La-duyệt-kỳ vì hàng trời, người, rồng, thần chuyển đại pháp luân. Lúc ấy, bên bờ sông Hằng phía Nam núi có mộït vị Bà-la-môn Ni-kiền. Ông ta là bậc trưởng lão kỳ cựu, học rộng hiểu nhiều, đắc được Ngũ thông, hiểu việc xưa nay. Ông chỉ dạy giáo hóa được năm trăm môn đồ. Họ đều thông đạt thiên văn, địa lý, nhân sự, không môn nào là không nghiên cứu thấu đáo. Các việc kiết hung họa phước, được mùa mất mùa, họ đều biết trước. Các đệ tử của vị Bà-la-môn trước khi Phật giáo hóa đã biết tu tập, nên sẵn căn lành có thể độ được. Một hôm, họ đưa nhau đến bên bờ sông, tìm chỗ vắng ngồi bàn luận. Họ tự hỏi với nhau: “Dân chúng trong tất cả các nước cho việc gì là kiết tường?”. Họ không trả lời được, nên đến chỗ thầy làm lễ chắp tay thưa: –Đệ tử chúng con học đạo đã lâu, đều được thành tựu. Song chưa biết dân chúng trong tất cả các nước cho việc gì là kiết tường? Bà-la-môn Ni-kiền đáp: –Lành thay câu hỏi này! Trong cõi Diêm-phù có mười sáu nước lớn, tám mươi bốn ngàn nước nhỏ, nước nào cũng có việc kiết tường, như là vàng bạc, lưu ly, pha lê, minh nguyệt thần châu, voi ngựa, xe cộ, ngọc nữ, san hô, kha bối, kỹ nhạc, phụng hoàng, khổng tước. Hoặc họ lấy nhật nguyệt tinh tú, bình báu, Bà-la-môn đạo só là điềm báo kiết tường mà họ yêu thích. Nếu họ thấy được những việc trên sẽ hết lời khen ngợi, cho đây là điềm báo kiết tường của nước. Các đệ tử hỏi: –Lại có việc gì đặc biệt kiết tường hơn nữa không? Nó đối thân có ích, khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Bà-la-môn Ni-kiền đáp: –Từ các bậc Thầy trước truyền dạy lại không có việc này, sách vở cũng không thấy ghi chép. Các đệ tử thưa: –Gần đây nghe nói có người dòng họ Thích xuất gia tu đạo, tọa thiền sáu năm, hàng phục được ma quân, đạt thành quả Phật, đầy đủ ba minh vô ngại. Chúng ta thử đến hỏi xem sự hiểu biết của ông ta như thế nào, có bằng thầy không. Kế đó, thầy trò hơn năm trăm người theo đường núi tìm đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, mọi người làm lễ rồi ngồi qua một bên. Bà-la-môn Ni-kiền quỳ xuống chắp tay thuật lại mọi việc rồi bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, các nước đều có việc kiết tường như thế, không biết còn việc gì kiết tường hơn không? Đức Phật bảo với các Bà-la-môn: –Những điều ông bàn luận chỉ là việc thế gian. Thuận theo thì kiết tường, trái lại thì tai họa, không thể cứu độ tâm linh, chấm dứt khổ não. Pháp kiết tường mà ta biết, người thực hành theo sẽ được phước, ra khỏi hẳn ba cõi, an trú Niết-bàn.” Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ: Phật tôn quý hơn trời Như Lai thường diễn nghóa Có đạo só Phạm chí Hỏi sao là kiết tường? Bấy giờ Phật từ mẫn Nói yếu nghóa chánh chân Tin, vui theo chánh pháp Là tối thượng kiết tường. Cũng không từ Thiên nhân Mong xin điều không đáng Không cầu đảo quỷ thần Là tối thượng kiết tường. Chọn bạn hiền ở chung Thường siêng làm phước đức Thân trong sạch chân chánh Là tối thượng kiết tường. Bỏ ác theo điều thiện Tránh rượu, biết tiết chế Không dâm với nữ sắc Là tối thượng kiết tường. Học rộng, giữ giới nghiêm Tinh tấn tu chánh pháp Sửa mình, không tranh chấp Là tối thượng kiết tường. Hiếu thảo thờ cha mẹ Lo gia nghiệp, vợ con Không để cho nghèo đói Là tối thượng kiết tường. Không ngã mạn, tự đại Tri túc, biết xét suy Theo thời tụng tập kinh Là tối thượng kiết tường. Thường thích nghe học hỏi Ưa gặp bậc Sa-môn Nghe giảng liền thọ trì Là tối thượng kiết tường. Trì trai tu phạm hạnh Thường thích gặp Hiền minh Nương tựa bậc Trí sáng Là tối thượng kiết tường. Có đức tin, đạo đức Chánh tâm, không nghi nan Mong thoát ba ác đạo Là tối thượng kiết tường. Tâm bình đẳng bố thí Phụng thờ bậc Đắc đạo Cung kính các Thiên nhân Là tối thượng kiết tường. Thường muốn lìa tham dâm Sân si vừa khởi tâm Liền lấy đạo soi chiếu Là tối thượng kiết tường. Lìa bỏ việc phi pháp Siêng năng tu đạo đức Thường thờ bậc đáng thờ Là tối thượng kiết tường. Vì tất cả chúng sinh Gầy dựng đại Từ tâm Nhân ái giúp an ổn Là tối thượng kiết tường. Người trí ở thế gian Luôn tập hạnh kiết tường Tự thành tựu Tuệ giác Là tối thượng kiết tường. Thầy trò Bà-la-môn nghe Đức Phật nói kệ xong tự nhiên tỏ ngộ, sinh đại hoan hỷ, đến trước Đức Phật bạch: –Bậc Vi Diệu Thế Tôn, ít thấy trên đời. Chúng con từ trước tới nay mê lầm, chưa thấy được nẻo sáng. Nguyện Đức Thế Tôn từ bi tế độ chúng con được quy y Tam bảo, xuất gia làm Sa-môn tu học theo Phật. Đức Phật đáp: –Lành thay, hãy lại đây Tỳ-kheo! Ngay đó, các vị ấy đều thành Sa-môn, tu quán sổ tức đều chứng quả A-la-hán. Vô số người nghe pháp chứng được pháp nhãn. q <節>LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH <節>TẬP 16 <節>BỘ BẢN DUYÊN <節>7 <大>卐 <節>Tổng giám tu: Thích Tịnh Hạnh <節>Ban thực hiện: <節>- Ban dịch thuật <節>- Ban biên tập <節>- Ban nhuận văn <節>- Tổng biên tập <節>- Các tổ vi tính v.v… NƠI XUẤT BẢN VÀ PHÁT HÀNH LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH ~~~卐~~~ I. Địa chỉ liên lạc: Xin gởi về hộp thư: * GIẢNG ĐƯỜNG LINH SƠN P.O. BOX 8-264, Taipei – Taiwan, 100, R.O.C Hoặc địa chỉ: * THÍCH TỊNH HẠNH 7F. 21, Sec.1, Chung – Hsiao, W.Road, Taipei-Taiwan, 100, R.O.C TEL: 886-2-2381-4434 / 2361-3015 / 2361-3016; FAX: 886-2-2314-1049 E-Mail:linhson@linhson.org.tw Web site: II. Địa chỉ ủng hộ dịch Kinh hoặc thỉnh Kinh: Ủng hộ dịch và in Đại Tạng Kinh hoặc thỉnh Kinh, dùng ngân phiếu hay chuyển băng, xin gởi về địa chỉ dưới đây: * Dùng CHECK hoặc MONEY ORDER, Xin đề: LI KUANG LIEN, gởi theo hộp thư: P.O. BOX 8-264, Taipei – Taiwan, 100, R.O.C * Nếu gởi ngân khoản xin đề: CITIBANK, N.A., NO.117,2F, SEC.3, MIN-SHENG E. ROAD, TAIPEI-TAIWAN, R.O.C ACCOUNT NUMBER: 51362724 BENEFICIARY: LI KUANG LIEN * Nếu Quý vị nào muốn trực tiếp gởi vào ngân khoản tại Hoa Kỳ xin đề: LI KUANG LIEN BANK OF AMERICA N. BRANCH: 2177 N. ACCOUNT: 21774-09981 - Mỗi một ngân phiếu, ngân hàng sẽ trừ chi phí thủ tục là 10.00 USD - Xin Quý vị đề rõ ngân phiếu tên người lãnh là: LI KUANG LIEN - Trên ngân phiếu xin Quý vị viết cẩn thận, ngân hàng không chấp nhậ ngân phiếu đã bị bôi xóa. * Xin Quý vị chú ý: Nếu số ngân khoản trong ngân hàng đã chuyển tiền rồi, xin Quý vị đem giấy làm thủ tục ở ngân hàng có đề số tiền gởi tên người và địa chỉ, đánh Fax hoặc E-mail đến địa chỉ liên lạc trên, để nhận được giấy cảm tạ hoặc biên nhận, cũng như để tiện ghi vào sổ công đức và liên lạc, chứ ngân hàng không cho biết chi tiết. <大>卐 Sa môn THÍCH TỊNH HẠNH Mẫu bìa mạ vàng: Nguyễn Đồng (California) <釋 n="1">** Bài kinh này trong bản Hán ngữ được xếp vào cuối hai mươi mốt bài kinh thí dụ của Quyển I. Theo chú thích cuối trang 209 (bản Hán), chúng tôi đưa lên đầu quyển thứ nhất như phần Duyên Khởi của bộ kinh. <釋 n="2">1. Ma-ni cũng là từ dùng để gọi theo lỗ để thoát nước (ống cống) <釋 n="3">2. Thuốc thổ hạ: thuốc mửa. <釋 n="4">3. A-già-đà (Pàli: agada): tên một thứ thuốc ngừa trị mọi loại bệnh. Hán dịch là Phổ khứ, Vô giá hay Bất tử dược … <釋 n="5">4. Tương đương Pàli – Mangala-sùtta – kinh Hạnh phúc.