<經 id="n208">CHÚNG KINH TUYỂN TẠP THÍ DỤ Sưu tập: Tỳ-kheo Đạo Lược. Hán dịch: Đời Diêu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập. <卷 id="41126196">Quyển 1 ­1- Người có trí suy nghó: “Tiền tài vật chất không thể tồn tại lâu dài.” Ví như ngôi nhà đang bị lửa cháy, người thông tuệ sáng suốt biết được sức mạnh của lửa, khi lửa mới cháy, đem gấp tiền tài, vật chất ra ngoài. Nhà tuy bị cháy mà tiền tài vật chất còn nguyên vẹn. Sau đó tạo nhà cửa, mở rộng sự nghiệp tốt đẹp trở lại. Người trí gieo trồng phước đức, siêng tu bố thí cũng thường làm như vậy. Biết thân này là nguy ách; tiền tài, vật chất là vô thường; gặp được ruộng phước kịp thời gieo giống bố thí, đời sau được an vui. Cũng như người kia lấy vật của trong nhà lửa ra, sau sửa lại nhà, tạo sự nghiệp, nhờ phước lợi đó mà tự an ủi. Người ngu mê chỉ biết tham tiếc, ham hố kinh doanh tìm cầu rối loạn, mất trí, nên không lường được thế lực của lửa, sức mạnh của gió đốt phá đất đá tiêu tan, chỉ trong khoảng khắc tiêu ma hết sạch. Nhà cửa đã không cứu được, tiền tài vật chất cũng tiêu mất luôn, lạnh lẻo, đói khác, khổ đau suốt đời. Người tham tiếc cũng lại như vậy. Không biết thân mạng vô thường, mau chóng, không thể bền chắc, lại thêm thu góp, cất giấu tiền của, giữ gìn, mến tiếc, chết đến không hẹn, thoắt vậy buông tay ra là đi không trở lại, thân hình lạnh như đất, cứng đơ như khúc cây khô, tiền tài vật chất đều buông bỏ cả. Cũng như người ngu buồn khổ quá, quên cả sự tính toán lo liệu. Người sáng suốt có trí tuệ có khả năng mau giác ngộ biết thân là như huyễn, tiền tài không thể giữ gìn, vạn vật đều trở về vô thường, chỉ có phước đức là nơi đáng nương tựa, nó có thể đưa người ra khỏi khổ đau và cũng có thể đưa người đến thành tựu đạo quả.  2- Bồ-tát bố thí không tiếc thân mạng. Cũng ví như chuyện: Vua Thi-tỳ dùng thân bố thí để cứu mạng chim bồ câu. Trời Đế Thích đến thử để biết vua có tâm trí Bồ-tát hay không. Trời Đế Thích mới nói với trời Tỳ-thủ-yết-ma: –Ngươi hãy hóa làm thân chim bồ câu, ta sẽ hóa làm chim cắt, rượt ngươi, ngươi sợ hãi sà vào nấp dưới nách nhà vua. Liền khi ấy Tỳ-thủ biến thành chim bồ câu, Đế Thích hóa làm thân chim cắt, bay nhanh rượt bắt chim bồ câu, bồ câu bay vào ẩn nấp dưới nách vua, toàn thân run sợ. Khi ấy chim cắt bay đến đậu trên cây, nói với đức vua: –Ngài hãy trả chim bồ câu lại cho tôi. Đó là món ăn của tôi, chẳng phải của ngài. Vua nói: –Ta đã phát tâm muốn cứu tất cả chúng sinh, mong họ hết khổ. Chim cắt nói: –Đức vua muốn cứu độ tất cả chúng sinh, tôi cũng là một trong số chúng sinh ấy, tại sao riêng tôi không được thương lo, mà còn đoạt đồ ăn của tôi? Đức vua đáp: –Ngươi cần ăn thứ gì? Chim cắt nói: –Tôi đã thề là chỉ ăn máu thịt tươi của chúng sinh mới giết. Đức vua phát tâm Bồ-tát nói: –Ta cũng có thệ nguyện: “Tất cả chúng sinh đến nương nơi ta, ta sẽ hết lòng cứu giúp, khiến cho họ không gặp tai nạn.” Ngươi cần ăn gì ta sẽ đem cung cấp cho. Chim cắt lại nói: –Đồ ăn của tôi là máu thịt tươi mới giết. Đức vua liền nghó: “Đồ ăn này thật khó kiếm. Nếu không sát sinh làm sao có được. Không lẽ ta giết một mạng để cứu một mạng?” Khi suy nghó như thế, trong lòng đã quyết định, vua liền kêu một người đến bảo họ dùng dao cắt thịt nơi vế của mình để bố thí cho chim cắt. Chim cắt nói với đức vua: –Nếu ngài muốn dùng thịt để cho ta, phải đúng với lẽ công bằng, nghóa là làm sao cho thịt của ngài và chim bồ câu bằng nhau mới được. Chớ xem thường vậy. Đức vua nói: –Hãy đem cân đến, cân thịt để đối xứng với thân chim bồ câu. Nhưng lạ thay, thân chim bồ câu lần lần nặng thêm, thịt của vua chuyển thành nhẹ. Vua sai cắt hết thịt đùi của hai vế, cũng còn nhẹ chưa đủ; thứ đến cắt thịt dưới hai gối, thịt hai vú, trước ngực, sau lưng, thịt toàn thân đã cắt lóc hết mà thân chim bồ câu vẫn còn nặng hơn. Khi ấy vua mang cả thân đặt vào bàn cân, thì mới nặng bằng thân chim bồ câu. Chim cắt nói với vua: –Này Đại vương, việc này khó làm thật, mà sao ngài phải cố dụng tâm như vậy? Chỉ đem chim bồ câu trả cho ta là được rồi! Đức vua nói: –Bồ câu đã đến với ta, sẽ không bao giờ trả lại cho ngươi. Ta xưa nay đã bỏ thân mạng không phải ít. Khi chưa vì pháp mới mến tiếc thân này, nay muốn cầu Phật đạo bám chắc vào với việc hướng thượng, tâm ta quyết không có hối hận. Chư Thiên, Long thần, tất cả nhân dân đều cùng nhau tán thán: –Vì một con chim bồ câu nhỏ mà phải chịu đau xót, độc hại đến thế! Việc này thật là ít có! Khi ấy quả đất chấn động lớn. Tỳ-thủ tán thán: –Lành thay! Đúng là bậc Đại só chân thật không hư dối. Được như thế này mới là ruộng phước cho tất cả chúng sinh Đế Thích và Tỳ-thủ đều hóa trở lại thân trời, liền khiến cho thân của đức vua phục hồi như cũ. Người cầu đạo được như thế mới mau thành Phật.  3- Ngày xưa, một người có việc phải đi xa, lỡ đường phải ngủ lại trong căn nhà bỏ hoang. Đêm ấy có một con quỷ vác một xác chết để ở trước sân, sau đó có một con quỷ khác đi đến, nổi giận la mắng con quỷ trước: –Xác chết này là của ta, sao ngươi mang đến đây? Hai con quỷ đều nắm mỗi người một tay của xác chết tranh giành nhau. Quỷ đến trước nói: –Ở đây có người, chúng ta nên đến hỏi? Liền hỏi: –Người chết này ai mang đến? Người ấy suy nghó: “Hai con quỷ này có năng lực rất lớn. Nếu nói thật cũng phải chết, nói dối cũng chết. Cả hai cách đều không ổn, vì sao ta phải nói dối?”, nên nói: –Quỷ đến trước đã mang đến. Quỷ đến sau rất giận, nắm tay người kia bứt ra khỏi thân, vứt xuống đất. Con quỷ tới trước thấy vậy liền lấy một cánh tay xác chết ráp vào. Lần lượt tiếp đến hai chân, đầu và hông đều bị quỷ bứt lìa ra. Quỷ đến trước nhanh tay dùng thân của xác chết ráp vào cho người kia như cũ. Khi ấy hai con quỷ cùng ăn thịt cái thân người được thay, rồi liếm miệng ra đi. Người kia suy nghó: “Thân ta cha mẹ sinh ra, đã chứng kiến hai con quỷ ăn hết. Nay thân ta hoàn toàn là thân thể của kẻ khác. Như vậy ta đang có thân hay không thân? Nếu cho là có thân thì thân này hoàn toàn là mượn thân của kẻ khác. Nếu cho là không thì thân hiện nay là như thế nào đây?”. Suy nghó như vậy, tâm người kia trở nên mê muội, giống như người điên. Khi trời đã hừng sáng, anh ta tìm đường đến một nơi khác, thấy có tháp thờ Phật và chúng Tăng. Anh ta không hỏi gì khác, chỉ hỏi chư Tăng: –Thân này có hay là không? Các thầy Tỳ-kheo hỏi: –Ngươi là ai? Thưa: –Tôi cũng không biết tôi là ai. Liền sau đó anh ta vì chúng Tăng nói hết việc xảy ra đêm hôm qua. Các thầy Tỳ-kheo nói: –Vị ấy biết rõ được pháp vô ngã, rất dễ được độ thoát. Chư Tăng dạy thêm: –Thân của ngươi từ xưa đến nay vốn là vô ngã, chẳng phải đến hôm nay ngươi mới thấy nó là do bốn đại hòa hợp, mà chấp cho là thân ta đó thôi. Sau đó, các thầy tiếp độ anh ta vào đạo, lần lần tu hành đoạn các phiền não, liền được chứng quả A-la-hán. Vì vậy người nào hiểu được thân này là vô ngã, là hư dối thì sẽ đắc đạo không còn xa vậy.  4- Người trì giới muốn gì đều được vừa ý. Người phá giới tất cả đều mất. Cũng ví như câu chuyện sau đây: Ngày xưa có một người nghèo thường cúng dường, phụng sự chư Thiên. Anh ta tuy nghèo nhưng rất chí thành, khấn nguyện bốn phương suốt mười hai năm, hết lòng cầu mong phú quý. Tâm chí vị ấy đã thành thục, chư Thiên thương xót, liền vì người ấy hiện thân mà hỏi rằng: –Ngươi muốn cầu điều gì? Người ấy đáp: –Tôi cầu mong phú quý. Xin tất cả hãy giúp cho sự mong cầu của tôi được như sở nguyện. Vị trời trao cho anh một đồ vật gọi là bình “công đức” mà nói rằng: –Tất cả mong cầu của ngươi sẽ từ bình này mà có. Người kia khi đã có bình rồi, muốn gì được nấy, anh ta dùng bình ấy tạo ra nhà cửa to lớn tốt đẹp, voi ngựa, xe cộ, bảy báu trang hoàng trong nhà rực rỡ. Đồ ăn, thức uống đầy đủ, sẵn sàng cung cấp tiếp đãi quan khách không có thiếu sót. Có một vị khách hỏi: –Anh trước đây nghèo, vì sao nay được phú quý như thế này? Người ấy đáp: –Ta có được bình “công đức do trời ban cho”, từ trong bình ấy sẽ sinh ra tất cả mọi đồ vật cần dùng, cho nên ta mới được giàu có như vậy. Người khách nói: –Mong ông đem bình ấy ra và cho chúng tôi được thấy nó sinh ra các đồ vật như thế nào? Anh ta liền đem bình ra khoe và mọi người cũng được thấy trong bình ấy sinh ra các đồ vật như ý muốn. Khi ấy anh ta được mọi người tán dương, khen ngợi, liền sinh tâm kiêu mạn, không tự kiềm chế, đứng dậy cầm bình nhảy múa. Do nắm không vững, sơ ý, sút tay rơi xuống đất bình vỡ. Tất cả các vật dụng do bình tạo ra đồng thời diệt mất. Người trì giới tất cả niềm vui thù thắng đều được. Nếu người hủy giới mà lại còn kiêu mạn, buông lung thì cũng giống như người bị bể bình kia, tất cả đều mất. Vì vậy cho nên muốn có niềm vui ở các cõi trời và được an lạc Niết-bàn thì phải kiên trì giới cấm, chớ phá giới đã lãnh thọ. Nếu phá giới đã thọ thì phải chịu khổ trong ba đường ác, khó mong ra khỏi. Luận rằng: Người muốn cầu quả báo ứng hợp với mình, thường phải tu tập thiện tâm thường xuyên liên tục không cho gián đoạn; đến khi chết mới thoát khỏi ác báo mà tiếp nhận quả báo lành. Vì sao vậy? Nếu có người trước đó không chịu tu tâm sửa tánh cho hiền lành thì đến khi sắp chết, muốn khởi tâm lành nhưng rốt cuộc là không kịp được vừa ý. Như ở phương Tây có một ông vua, vì trong nước không có ngựa tốt, nên đem ngân sách quốc gia đi khắp nơi tìm cầu mua ngựa. Sau đó mua được tất cả năm trăm con ngựa hay đã có tập luyện để đề phòng chống giặc, đủ sức giữ yên bờ cõi. Nuôi dưỡng, tập luyện ngựa đã lâu mà trong nước yên lành vô sự, chẳng có việc gì phải dùng đến ngựa. Vua liền suy nghó: “Năm trăm con ngựa ăn không phải ít, cho ăn nuôi dưỡng cực nhọc mà không ích lợi gì cho việc nước!” Vua liền ra lệnh cho người chăn ngựa: –Hãy che mắt ngựa lại, đưa vào việc kéo cối xay, sẽ có lợi tức; đủ tự túc cho việc ăn dùng của nó, không tổn phí đến ngân sách quốc gia. Ngựa kéo cối xay đã lâu, tập quen với việc đi vòng tròn. Bất ngờ nước kế cận kéo binh vượt biên giới đến lấn chiếm quốc gia. Khi ấy vua mới ra lệnh đem ngựa, thắng yên cương chuẩn bị cho các tướng cỡi ra trận chiến đấu. Khi các kî mã ra roi thúc ngựa hướng thẳng tới trước để đi vào trận địa, nhưng các chú ngựa được thúc roi, theo thói quen, tất cả đều chạy vòng trở lại, không thể điều khiển đi thẳng tớùi được. Quân giặc của nước lân bang thấy vậy biết là ngựa kia không có khả năng đối địch. Họ liền thúc ngựa tiến tới phá tan binh trận của nhà vua. Cho nên người tu hành muốn được quả báo tốt đẹp, lúc sắp lâm chung, nếu con ngựa lòng không bị rối loạn, tất sẽ được tùy ý, tự tại. Thường ngày phải luyện tập đều đặn, hướng dẫn tâm cho ngay thẳng, thuần thục, dễ sử dụng. Nếu không như thế, khi giặc chết liền đến, nó sẽ chạy quanh co, tán loạn và ta sẽ không được như ý muốn. Cũng như ngựa của vua, không thể phá trừ giặc oán, bảo vệ an toàn cho đất nước vậy. Vì vậy cho nên người tu hành thường phải tu tâm dưỡng tánh, thuần hậu lương thiện vậy.  5- Nếu có người nghèo khổ, biết nhịn phần ăn mặc của tự thân, đem bố thí, phước kia vô lượng. Cũng ví như câu chuyện sau đây: Ngày xưa có một đức vua thiết lập trai hội, dùng các món ngon quý để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Thời ấy, có một bà già nghèo khổ, thường ngày chỉ biết đi xin ăn để tự nuôi sống. Nghe đồn đức vua thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường, trong lòng rất vui mừng, ý muốn khuyến khích, hỗ trợ, tự suy nghó: “Nay ta nghèo khổ không có gì cả, chỉ có một ít hạt đậu, muốn vào cúng đường, mà người giữ cửa không cho vào, phải làm sao đây?” Khi ấy Đức Phật biết được tâm tốt của bà lão, liền dùng thần lực biến đậu thành nhiều, đặt chung vào trong món ăn. Khi đức vua ra chuẩn bị cúng đường, thấy có đậu trong món ăn, rất giận người đầu bếp. Vua hỏi: –Vì sao trong món ăn có những hạt đậu như thế này? Đức Phật nói với nhà vua: –Việc đó chẳng phải lỗi của nhà bếp, mà là đồ bố thí của bà lão nghèo. Bà ta nghe đức vua thiết trai cúng đường, bà không có gì để khuyến trợ, nên đem một ít đậu này để tùy hỷ với đức vua. Do đó cho nên trong món ăn có đậu vậy. Đức Phật dạy nhà vua: –Bà lão ấy bố thí tuy ít nhưng được phước có thể nhiều hơn Đại vương. Vua nghe vậy hỏi: –Vì sao Ngài nhận được các món ăn ngon quý này mà người cúng lại được phước ít? Còn bà lão kia chỉ đem một ít vật hèn mọn mà lại được phước nhiều? Đức Phật dạy vua: –Bệ hạ tuy có cúng dường nhiều, nhưng tất cả vật thực có được đều từ nhân dân trăm họ mà ra, đối với vua không tổn hại gì. Còn bà lão này chỉ có một ít đậu, lại đem hết để tùy hỷ cúng dường. Vì vậy nên bà ấy được phước nhiều, còn vua được phước ít là vậy. Sau đó Đức Phật vì vua mà thuyết pháp, vua và bà lão đều thấm nhuần đạo tích. Vì vậy cho nên người nào muốn gieo trồng phước đức, chỉ do lòng chí thành, thấu rõ pháp tướng không thật, lo gì không kết quả.  6- Ngày xưa có một vị Bà-la-môn trong nhà nghèo thiếu, chỉ nhờ một con bò cái một ngày vắt được một đấu sữa để cung cấp cho sự sống. Nghe nói nếu ai trong ngày rằm cúng dường đồ ăn cho chúng Tăng sẽ được phước đức lớn, ông ta ngưng không vắt sữa suốt trong một tháng để dồn lại, hy vọng vắt được ba hộc sữa cúng đường các Sa-môn. Đúng một tháng, ông ta mời các Sa-môn đến nhà, khi các ngài đã an tọa, ông ta mang bình ra chuồng bò vắt sữa, nhưng cũng chỉ một đấu. Tuy để lâu không vắt sữa mà sữa cũng không được nhiều. Mọi người thấy vậy đều trách mắng: –Ông ngu quá! Vì sao mỗi ngày không vắt sữa để dành, mà đợi cho đủ một tháng để mong có nhiều sữa làm sao được? Người đời nay cũng như vậy, khi có tiền tài vật chất không chịu tùy khả năng nhiều ít mà bố thí. Họ cố gom chứa của cải cho thật nhiều, thật lâu rồi mới làm phước. Nhưng lẽ vô thường cũng như nước, lửa… và ngay cả thân mạng; chỉ trong khoảnh khắc cũng khó bảo toàn. Nếu không tỉnh ngộ, thì một sớm một chiều, khi buông tay sẽ mất hết không còn lại gì. Tiền tài, vật chất nguy hiểm cho thân mạng cũng như rắn độc, không nên tham trước. Cũng ví như câu chuyện sau đây: Ngày xưa, Đức Phật đi đến nước của vua Ba-tư-nặc. Ngài thấy có một kho tàng đầy bảo vật nằm trong lòng đất. Đức Phật dạy thầy A-nan: –Ngươi có thấy đây là loại rắn độc không? Thầy A-nan thưa: –Con đã thấy. Thời bấy giờ, có người đi theo Đức Phật, nghe nói như vậy thử đến xem, thấy có vàng bạc, của báu quá nhiều, ông ta nghi ngờ lời dạy của Đức Phật, cho Ngài nói không thật, cố thêm thắt vào. Đây thật là của báu mà nói là rắn độc! Liền khi ấy họ gọi tất cả người nhà cùng nhau chở của báu ấy về, tạo nhà cửa, ruộng đất, thành người giàu có lớn. Có người đến thưa với vua : –Người kia gặp kho báu mà không chịu nộp cho quan. Vua nghe báo, liền ra lệnh bắt giam tất cả người trong nhà và tịch thu gia sản; nhưng vua còn không tin đã lấy lại hết, nên sai người tìm nhiều phương cách khảo tra, trị tội. Đau đớn độc hại hết cách mà ông ấy cũng không khai và nhận tội. Vua rất giận, muốn giết hết bảy đời bà con dòng họ của ông ấy. Khi áp tải ra pháp trường, vua cho người theo dõi họ nói năng những gì. Ông ta trên đường đi, than thở: –Đức Phật dạy rất đúng, đúng là rắn độc mà ta không chịu tin. Nay biết rõ nó là rắn độc, phải làm sao đây? Nếu là rắn độc, thì giết ta và thân tộc ta thôi, mà nay phải chịu chết oan cả bảy đời. Thật quả đúng và độc hại hơn cả lời Ngài dạy! Sứ giả đem những lời than trên thưa lại cho vua. Vua nghe qua liền ra lệnh gọi họ trở lại. Vua nói với người kia: –Đức Phật có công đức rất lớn. Ngươi nhớ được lời Phật dạy, ta hoan hỷ trả lại bảo vật cho ngươi. Sau đó vua ra lệnh tha tất cả bà con thân tộc trở về nhà. Do nhân duyên niệm tưởng lời dạy của Đức Phật mà được khỏi nạn chết. Vì vậy nên lời dạy của Đức Phật không thể không hết lòng ghi nhớ.  7- Người trì giới thà mất thân mạng, không trái với lời Phật dạy. Ví như câu chuyện này: Ngày xưa có người đi buôn, nương thuyền vào biển. Lúc bấy giờ có hai vị Đạo nhân muốn đến nước khác, cũng xin đi theo. Khi đã vào biển sâu, không may gặp gió to sóng lớn làm đắm thuyền. Mọi người ai cũng kiếm vật nổi làm phao để tự cứu. Khi ấy vị Đạo nhân hạ tọa tìm được một miếng gỗ, vị Thượng tọa nói: –Pháp của Phật dạy phải cung kính Thượng tọa, ngươi nhường cho ta miếng gỗ để khỏi trái lời răn dạy của Ngài. Vị Đạo nhân nghe như vậy, liền tự suy nghó: “Người tu hành lấy gì làm trọng? Phải hộ giới làm đầu. Như vậy ta thà tôn trọng lời dạy của Phật mà chết”, liền dâng miếng gỗ cho Thượng tọa, Hạ tọa chịu chìm trong biển nước. Thủy thần thấy vị Đạo nhân trì giới không trái lời Phật dạy như vậy, rất cảm động, dùng năng lực của mình đưa Đạo nhân và tất cả vào bờ. Nhờ Đạo nhân chí thành trì giới mà mọi người trong thuyền đều được thoát nạn. Thủy thần tán thán vị Đạo nhân: –Ngài thật là người chân chánh trì giới. Do vậy chúng ta nên giữ đúng lời dạy của Phật mà chết, còn hơn vi phạm lời dạy của Ngài mà sống vậy. Chúng sinh nếu nương cậy vào giới đức của Phật thì có thể qua khỏi biển khổ sinh tử vậy.  8- Tất cả mọi người trong thế gian đều tham lam, chấp trước vui thú ở đời, không chịu suy nghó để biết nó là vô thường, là hoạn nạn, là đau khổ. Ví như chuyện này: Ngày xưa có một người phạm tội đáng chết, bị giam trong lao ngục, vì sợ chết, nên ông ta cố vượt ngục trốn chạy. Theo phép nước, nếu kẻ tử tù vượt ngục trốn chạy, chủ ngục thả voi theo đạp chết. Khi voi rượt theo tội nhân, kẻ kia thấy voi sắp bắt kịp, liền chạy gấp đến định trốn trong cái giếng bỏ trống; nhưng nhìn xuống dưới đáy giếng thấy một con rồng độc há miệng hướng lên; ở trong giếng còn có bốn con rắn độc nằm bốn bên; trên miệng giếng có một rễ cây; kẻ tội phạm quá sợ hãi, cấp bách nắm lấy rễ cây, buông thân xuống giếng, lại thấy hai con chuột trắng đang gặm rễ cây đó. Ngay lúc ấy trên giếng lại có một cây lớn, trong cây này có mật ngọt, mỗi ngày có một giọt mật rơi vào trong miệng. Kẻ kia khi đã được mật, chỉ nhớ mật ngọt mà quên tất cả các tai họa khổ đau đang bao quanh và cũng không còn có ý muốn ra khỏi giếng nữa. Những hình ảnh trên đây Thánh nhân mượn để làm thí dụ: Ngục là chỉ cho chúng sinh đang ở trong tù ngục tam giới. Voi say là chỉ cho vô thường. Giếng là nhà ở của chúng sinh. Rồng độc dưới giếng là địa ngục. Bốn con rắn là bốn đại. Sợi dây, rễ cây là mạng sống con người. Chuột trắng là ngày, tháng. Ngày tháng chế phục mạng sống con người mỗi ngày thêm tổn giảm, không có tạm dừng, nhưng chúng sinh thì tham lam, chìm đắm vào những vui thú ở đời, không biết suy nghó nó là tai họa lớn. Vì vậy cho nên người tu hành phải quán pháp vô thường để xa lìa các khổ.  9- Ngày xưa có một vị trưởng giả, tánh rất tham lam, bỏn sẻn. Đức Phật muốn độ ông ta, trước sai Tôn giả Xá-lợi-phất vì ông mà nói các pháp công đức bố thí, nhưng vị trưởng giả này không phát tâm bố thí. Thấy trời đã gần trưa, ông nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: –Ngài nên đi, tôi không cúng đồ ăn cho ngài đâu. Tôn giả Xá-lợi-phất biết ông này không thể hóa độ liền trở về thưa lại với Phật. Đức Phật lại sai Tôn giả Mục-kiền-liên vận thần thông bay đến nhà ông ta để giáo hóa. Trưởng giả lại nói: –Ngài muốn xin tôi thứ gì mà làm huyễn thuật này? Tôn giả Mục-kiền-liên biết vị này khó cảm hóa, liền trở về trình lại với Phật. Khi ấy Đức Phật vì lòng thương xót, muốn dẹp bỏ lòng tham lam bỏn sẻn của ông ta, nên Ngài thân hành đi đến nhà, vị trưởng giả khi thấy Đức Phật đến, liền bước ra lễ Phật và mời Ngài vào ghế ngồi. Đức Phật nói các pháp phương tiện, Ngài nói với trưởng giả: –Ông có thể thực hành năm việc bố thí lớn không? Vị trưởng giả thưa: –Bố thí nhỏ con còn làm chưa được, huống gì bố thí lớn. Nhưng ông cũng hỏi Đức Phật: –Thưa Ngài năm việc bố thí lớn là những gì? Phật dạy: –Năm việc bố thí lớn là: Một, không được sát sinh, ông có thể làm được không? Vị trưởng giả suy nghó: “Nếu không sát sinh sẽ không tổn thất tiền tài, thú vật, như vậy thì được.” Ông liền bạch Phật: –Thưa Thế Tôn, việc ấy con làm được… Như vậy, thứ lớp Ngài hỏi đến các giới và cuối cùng là không uống rượu, ông đều thưa là có thể làm được. Khi ấy Đức Phật vì vị trưởng giả mà giảng ý nghóa năm giới, nếu có thể thọ trì năm giới này thì người ấy đã làm xong năm việc bố thí lớn. Khi trưởng giả nghe Đức Phật dạy như vậy, tâm rất hoan hỷ, muốn đem một khổ lụa xấu để cúng dường Ngài, liền vào kho tìm mà không có vải xấu, phải lấy một khổ vải tốt để cúng dường Đức Phật. Nhưng tất cả vải, lụa trong kho đều kéo dính theo, làm cho tâm ông ta do dự. Khi ông đến trước Phật, Đức Phật biết tâm ông chưa định, Ngài nói với trưởng giả: –Trời Đế Thích cùng với loài A-tu-la chiến đấu, do tâm của vua không được định tónh cho nên ba lần tấn công mà không được như ý. Về sau vua trời tâm đã định, liền phá tan quân của A-tu-la. Vị trưởng giả nghe Đức Phật dạy như vậy, biết Ngài là Bậc Đại Thánh hiểu rõ tâm ý của người; phát sinh lòng tin tưởng, tâm được thanh tịnh. Đức Phật liền vì ông ta mà nói pháp, ông ta chứng đạo quả Tu-đà-hoàn. Ngày hôm sau, Ma vương biết được tâm ý của ông đã chuyển đổi, liền hóa làm Phật đi đến để phá hoại. Vị trưởng giả vì chưa được tha tâm thông nên không biết là ma, nên rất hoan hỷ, nghênh đón, mời vào ghế ngồi. Ma nói với trưởng giả: –Những lời ngày hôm qua ta đã nói chỉ là phương tiện hoàn toàn không phải là lời mà Bậc Giác Ngộ nên nói, ngươi mau bỏ những ý tưởng ấy đi. Vị trưởng giả khi nghe lời dạy ấy, cảm thấy quái lạ. Ông suy nghó: “Hình thức vị này tuy giống Phật mà lời nói nội dung rất trái, như con lừa đội lốt sư tử, hình thức là con sư tử, mà tâm ý chỉ là lừa”, nên ông không chịu tin. Ma biết tâm của ông ta đã chân chánh, không thể phá hoại, liền hiện nguyên hình nói: –Ta cố đến thử ngươi mà tâm ngươi không lay chuyển. Thế cho nên trong kinh có dạy: Người thấy được chân lý còn không tin lời ma giả Phật, huống gì các đạo quả khác. Do quán sát nghóa lý sâu xa, cho nên đệ tử của Phật đều hiểu sâu đạo lý, thì dù ma nói hay Phật nói, đều có thể biết rõ. Vì vậy cho nên, nghóa lý Phật pháp không thể không học, bố thí không thể không tu.  10- Người tu hành muốn cầu đạo không nên tham vị, đắm sắc. Nếu tham đắm như vậy, sẽ mất tất cả công đức. Ví như câu chuyện này vậy: Ngày xưa có một vị A-la-hán thường vào trong cung của loài rồng thọ trai. Thọ trai xong, ngài vì họ mà nói pháp, sau đó từ cung rồng trở về, đem bát trao cho chú Sa-di rửa. Trong bát còn một vài hạt cơm, chú ấy nếm thử, thấy có hương vị đặc biệt. Vì muốn tìm hiểu nên tìm cách vào ẩn nấp dưới chân giường của thầy, hai tay ôm cứng chân giường. Đến lúc thầy ngồi vào giường nhập định, mang cả giường vào Long cung. Long vương thưa: –Vị ấy chưa được đạo, sao ngài cho đến đây? Thầy nói: –Do tôi không để ý nên không biết. Chú Sa-di được ăn cơm ngon, lại thấy Long nữ thân thể đoan chánh, mùi thơm đặc biệt, ở thế gian ít ai sánh bằng. Chú quá say đắm trước những sự việc này, liền phát nguyện rằng: “Ta sẽ chiếm đoạt cung rồng này làm chỗ ở.” Long vương nói: –Sau thầy chớ mang chú ấy xuống đây nữa. Sa-di khi trở về, hết lòng Bố thí, Trì giới, mong cầu sớm được làm thân loài rồng. Một hôm chú ấy đi nhiễu quanh chùa, dưới chân tự nhiên có nước, biết mình sắp được sinh vào loài rồng. Bèn đi đến bên bờ ao, nơi thầy thường đi vào cung rồng, chú dùng áo ca-sa phủ trên đầu rồi nhảy vào trong nước, liền chết. Vị ấy trở lại hóa sinh làm một con rồng lớn có nhiều năng lực, phước báo. Về sau “chú” giết Long vương, khắp ao nước nhuộm một màu đỏ. Khi chú ấy còn sống, các thầy và chúng Tăng đã khuyên răn, nhắc nhở rất nhiều nhưng không được. Chú ấy nói: “Tâm con đã quyết định, các tướng đã xuất hiện, liền dẫn quý thầy đến ao để chứng kiến.” Do nhân duyên này, người tu hành không nên tham luyến mùi thơm, đắm trước sắc đẹp, nó sẽ làm tiêu tan căn lành và đọa vào đường ác, như đã thấy rõ trong câu chuyện này.  11- Xưa có một vị trời sắp hết phước, có bảy điều để có thể tự biết: 1. Hoa trang sức trên đầu bị héo. 2. Ánh sáng trên cổ diệt lần. 3. Thân hình gầy yếu, âu sầu. 4. Dưới nách ra mồ hôi. 5. Ruồi dơ dính vào thân. 6. Đất bụi dính áo. 7. Tự nhiên ưa rời khỏi chỗ ngồi. Vị ấy tự biết sau khi hết phước sẽ xuống nhân gian, ở trong nhà nghèo theo heo mẹ ghẻ lác làm con, cho nên vị trời này buồn lo không vui. Khi ấy có một vị trời đến thăm chơi, hỏi: –Ngươi vì sao không được vui? Vị trời ấy đáp rằng: –Ta thọ mạng sắp chết, sẽ bị đọa xuống nhân gian theo heo mẹ ghẻ lác làm con. Vì vậy cho nên ta buồn. Vị trời kia mách bảo: –Có Đức Thích-ca Văn Phật tại cung trời Đao-lợi đang vì mẹ mà nói pháp. Ông nên đến quy y Phật và chúng Tỳ-kheo Tăng, sẽ được khỏi khổ. Vị trời kia nghe vậy liền đến gặp Phật, nguyện đem thân mạng về nương tựa ba ngôi Tam bảo, nhớ nghó không quên. Sau bảy ngày thọ mạng đã hết, trở lại thế gian, sinh vào làm con trong nhà trưởng giả giàu có lớn. Đặc biệt, khi còn ở trong thai mẹ, lúc thai đã lớn, thường nghe tiếng xưng niệm Tam quy. Mười tháng cưu mang đã mãn, khi vừa sinh ra, đứa bé chắp tay nói: –Xin đem thân mạng quay về với Phật, Pháp, Tăng. Người mẹ sợ hãi cho là không tốt, liền có ý muốn giết đi, nhưng bà suy nghó: “Nó là con trưởng giả. Không thể tự tiện, tội ấy không phải nhỏ.” Bà liền đến thưa với vị trưởng giả tất cả việc trên. Trưởng giả nói: –Con người sinh ra ở đời được mấy ai biết đem thân mạng nương tựa Tam bảo, mà đứa bé con ta, vừa mới sinh đã biết Tam bảo, đúng là Thần nhân. Hãy khéo nuôi dưỡng, chớ cho là kỳ quái. Đứa bé ấy nhờ phước đời trước nên thông minh đặc biệt khác thường, cha mẹ lại rất thương yêu mến trọng. Đến khi được năm tuổi, cùng với các bạn trẻ chơi bên đường, khi Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đi qua, chú bé liền bước đến trước cung kính đảnh lễ. Ngài Xá-lợi-phất nói: –Ta chưa thấy chú bé nào mà biết đảnh lễ Sa-môn như vậy. Chú bé thưa: –Các ngài không biết con sao? Ngài Xá-lợi-phất nhập định, quán sát căn nguyên của chú mới biết là vị trời thọ sinh. Chú bé sau đó liền đến quỳ dưới chân hai vị Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thưa: –Nguyện hai ngài vì con mà thỉnh Đức Phật và chúng Tăng ngày mai đến nhà con thọ trai. Hai Tôn giả liền hứa chấp nhận. Chú bé trở về thưa với cha mẹ: –Con đã hướng về ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên mong hai vị thưa thỉnh Đức Thế Tôn và chúng Tăng ngày mai đến nhà mình thọ trai. Cha mẹ rất vui vẻ, sửa soạn thiết trai cúng dường. Ngày hôm sau Đức Phật và chúng Tăng đến nhà. Chú bé và cha mẹ đều ra nghênh đón, đảnh lễ. Ngài và chúng Tăng đã an tọa, dùng nước rửa tay và thọ trai. Khi đã thọ trai xong, Đức Thế Tôn vì mọi người và gia đình mà nói pháp. Cha mẹ và cả chú bé đều được Vô sinh pháp nhẫn, hằng trăm ngàn người khác nhân đó cũng đều phát tâm Vô thượng chánh chân đạo ý. Kinh dạy: Hết lòng hướng về Đấng Từ Tôn mới có thể được như vậy.  12- Ngày xưa có một người chăn bò, thấy ở trong đầm lớn có loại hoa màu vàng sáng chói rất đẹp, bèn suy nghó: “Đức Phật ở cách đây không xa ta nên lấy hoa đẹp này để cúng dường Ngài.” Anh ta liền xuống hái hoa, kết lại một bó mang đi cúng Phật. Trên đường đi bị bò húc chết, do tâm chuyên chú nghó đến chuyện cúng dường Phật nên liền được sinh lên cõi trời Đao-lợi thứ hai, ở trong cung điện rộng rãi, trang nghiêm tốt đẹp. Bên ngoài bốn phía cung điện, đặc biệt có một loại hoa màu vàng, có ánh sáng soi chiếu. Pháp thường của chư Thiên là khi được sinh lên trời thì quán sát kiếp trước của mình. Người chăn trâu này cũng vậy. Ông ta quán sát kiếp trước của mình, biết rõ do công đức mang hoa đi cúng Phật bị trâu húc chết, rất vui mừng tán thán: –Đức Phật là Đấng Vô Thượng phước lộc, dù chưa kịp cúng dường Ngài mà phước báo rực rỡ như thế này, huống gì tu các công đức khác. Vị trời liền hái hoa quanh cung điện và các vật cúng dường khác, muốn y theo nguyện xưa, đến gặp Đức Phật cúng dường. Chư Thiên thấy anh ta hái hoa đều đến hỏi: –Ngươi mới đến đây để thọ hưởng phước báo, nên dùng năm dục để tự vui thú, hái hoa để làm gì? Vị trời mới sinh trả lời: –Khi tôi làm người muốn đem hoa cúng Phật mà không được như nguyện, còn được sinh lên đây, huống gì người phát tâm làm được việc này. Nay tôi hái hoa cúng Phật là muốn y theo nguyện xưa để tạo thêm công đức. Lúc bấy giờ chư Thiên nghe như vậy đều rất hoan hỷ đồng phát thiện tâm, có đến tám vạn bốn ngàn vị ở cõi trời cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật trụ trên hư không, khảy nhạc trời, rải hoa trời, xông hương trời và các món cúng dường lên Đức Phật và chúng Tăng. Chư Thiên vào trong các chùa, tháp, chẳng thấy Phật đâu, chưa được thấy Phật, chỉ mới gặp vị Thượng tọa Tỳ-kheo đã đắc đạo vì chư Thiên nói pháp. Chư Thiên nghe pháp, tâm được hoan hỷ, tăng thêm công đức. Sau liền được gặp Đức Phật, họ dùng trống nhạc, đàn ca, rải các danh hoa và tất cả các thứ cúng dường khác dâng lên Đức Phật và chúng Tăng. Đức Phật vì chư Thiên giảng nói Diệu pháp thanh tịnh, Vị trời kia cùng với tám vạn bốn ngàn chư Thiên khác đều được pháp nhãn thanh tịnh. Các vị trời này đời trước là thiện tri thức của nhau, cho nên nay mới có thể khởi đạo tâm cho nhau, để cùng một lúc được đạo.  13- Ngày xưa ở nước ngoài có một vị trưởng giả rất giàu chỉ sinh một người con trai nên thương mến, quý trọng vô cùng. Sau đó đứa con bị bệnh nặng, vô phương cứu chữa, đành phải chịu chết. Người con trai này khi sắp lâm chung một lòng niệm Phật, thấy Đức Phật hiện ra trước mặt. Tâm anh ta nhờ đó mà được định tónh, an ổn. Sau khi chết anh ta liền được sinh lên cõi trời. Cha mẹ vì chưa hiểu đạo, nên luôn nghó nhớ đến con, sầu buồn áo não, chỉ muốn chết theo con, trong lòng không được cởi mở. Vì vậy cha mẹ đã dùng củi để thiêu đốt thân anh ta, lấy tro xương bỏ trong một cái bình bằng bạc, mỗi tháng cứ đến ngày rằm, đặt đồ ăn trăm món trước bình đựng xương cốt kia, rồi cất tiếng buồn khóc, lăn lộn dưới đất. Vị Thiên tử ở cõi trời thấy cha mẹ như vậy, tự nghó: “Nếu ta không hiện ra để cảm hóa thì ý của cha mẹ sẽ không được cởi mở.” Nghó như vậy rồi vị ấy liền hiện xuống, biến thành một đứa bé khoảng tám, chín tuổi đi chăn bò ở bên đường. Khi ấy có một con bò chết nằm dưới đất, chú bé đi kiếm cỏ non đặt ở trước miệng con bò chết, lấy roi đánh bò, miệng kêu bò: –Hãy dậy ăn!… Cha mẹ và những người lớn nhỏ ở trong nhà, thấy chú bé làm như vậy đều buồn cười và đến hỏi: –Mày con nhà ai mà ngu vậy? Bò đã chết mà đem cỏ bỏ trước miệng, làm sao nó ăn được? Chú bé cười nói: –Bò của tôi nay tuy đã chết, nhưng đầu và miệng vẫn còn nguyên vẹn, mà tôi đưa cỏ nó không chịu ăn. Huống chi chú bé con ông bà chết đã lâu, lại còn dùng lửa đốt thiêu, chỉ còn lại chút ít tro xương mà ông bà lại dùng đồ ăn trăm vị đặt ở trước bình tro kia, lại còn khóc lóc nữa, chú bé ấy có thể ăn được không? Cha mẹ nhờ đó, ý liền cởi mở, hỏi chú bé: –Ngươi là ai? Chú bé thưa: –Trước đây tôi là con của ông bà trưởng giả, nhờ chí thành niệm Phật nên được sinh lên cõi trời. Thấy cha mẹ buồn thương áo não thái quá, cho nên cố đến để hóa giải. Cha mẹ nghe vậy trong lòng được cởi mở, rất vui và không còn sầu khổ như trước nữa. Vị trời liền biến mất. Cha mẹ trở về nhà liền thiết lễ trai hội bố thí cúng dường, nguyện giữ gìn cấm giới, nghe kinh hành đạo, sau được đạo quả Tu-đà-hoàn.  14- Thời xưa, trải vô số kiếp có một ngôi chùa lớn; trong chùa có hơn ngàn vị Sa-môn ở đó tu học. Hằng ngày có vài trăm chú Sa-di khuất thực để cúng dường chúng Tăng. Thầy dạy mỗi chú một ngày phải cúng một đấu gạo và phải học thuộc một bài kệ. Có một chú Sa-di vào phố thị khất thực, chú vừa đi vừa nhẩm học bài kệ. Trong phố có một vị Hiền giả, thấy Sa-di vừa đi vừa nhẩm học bài kệ, Hiền giả đảnh lễ, hỏi: –Đạo nhân vừa đi vừa nói gì vậy? Chú Sa-di ấy thưa rằng: –Tôi vừa đi khất thực để cúng dường chúng Tăng, vừa phải học thuộc một bài kệ. Hiền giả lại hỏi: –Nếu chú không vướng bận việc gì cả thì tụng thuộc bao nhiêu kệ. Thưa rằng: –Có thể thuộc hơn mười bài kệ. Lại hỏi: –Chú phải khất thực bao nhiêu ngày? Chú thưa: –Trong chín mươi ngày phải cung cấp chín mươi đấu gạo. Hiền giả thưa với Đạo nhân: –Chú hãy trở về chùa yên tâm lo học kinh kệ, tôi sẽ giúp cho chú cung cấp số gạo đó. Chú Sa-di nghe Hiền giả nói vậy rất vui mừng. Hiền giả liền đem chín mươi đấu gạo cúng dường. Chú mang về thưa thầy, rồi nộp cho chúng Tăng xin đóng cửa học kệ, tụng kinh. Trải qua ba tháng, chú ấy đã học thuộc một ngàn bốn trăm bài kệ, chú thưa với thầy: –Con học kệ đã xong. Bây giờ, con xin đến nhà thí chủ tụng những bài kệ đó để nhờ kiểm tra lại. Thầy hoan hỷ chấp nhận. Đến nhà Hiền giả, chú thưa: –Nhờ thí chủ trợ duyên nên tôi được yên ổn, tụng kinh, học kệ. Nay việc học kệ đã xong, tôi đến đây xin đọc để đạo hữu nghe. Chú Sa-di đọc kệ, văn cú lưu loát, không vấp váp trở ngại. Hiền giả nghe qua rất vui vẻ, cúi đầu đảnh lễ, thưa: –Nguyện cho tôi đời sau thông minh, hiểu biết rộng rãi, thấu đáo, nghe nhiều không quên. Nhờ làm việc phúc đức nên vị Hiền giả này đời đời sáng suốt, hiểu biết, nhớ dai, đến khi gặp Phật ra đời được làm đệ tử tên là A-nan. Thường làm thị giả cho Đức Thế Tôn, đặc biệt riêng ngài là vị đệ tử biện thuyết thông suốt, nghe nhiều vào bậc nhất. Thầy dạy: –Hiền giả thời ấy nay là Đại đức A-nan. Luận rằng: Ai chú tâm khuyến khích, hỗ trợ cho người tu học, là được công đức lớn, nếu người ấy có ý chí hoặc cầu nguyện gì đều được thành tựu. Đó là nương vào phước báo mà được vậy. Phía Nam núi Tu-di có một cây đại thọ cao bốn ngàn dặm. Các con chim to loại Bát-xoa nương ở trên cây mà cây vẫn bình thường, không chuyển động. Chỉ có một con chim thân hình rất nhỏ, loại thuần âm, bay đến đậu trên cây kia, cây liền bị dao động. Chim to Bát-xoa nói với thọ thần: –Không biết tại sao thân ta rất nặng, thường nương ở đây mà cây vẫn bất động, còn con chim nhỏ kia mới vừa bay đến, chưa ngủ qua đêm mà lại làm cây chấn động? Thọ thần nói: –Chim kia tuy nhỏ nhưng nó từ đáy biển lớn mà đến. Hằng ngày chỉ ăn toàn đá quý, kim cương. Đá kim cương này va chạm vào các vật khác, các vật kia đều bị phá hoại. Vì vậy cho nên khi chim kia đến đậu, ta rất sợ hãi, không thể tự yên. Kinh nêu thí dụ này, ý muốn nói: Nếu có người phàm hiểu rõ ý nghóa sâu sa của một câu kinh, miệng đọc tụng, tâm nghó nhớ thì ba độc, bốn ma, tám vạn cửa trần cấu, thảy đều không thể tự yên, huống gì người tu hành rộng thâu thập các pháp giải thoát để làm cầu đò cho tất cả chúng sinh.  15- Một hôm Đức Phật dạy Tôn giả Mục-liên: –Nghiệp quả của Tôn giả sắp đến lúc phải trả. Mục-liên thưa: –Con có thần lực có thể vượt qua núi Tu-di, quả báo nếu từ phía Đông mà tới, con sẽ bay về phía Tây, nếu từ phía Bắc mà đến, con liền nhảy sang phía Nam… Làm sao nghiệp quả bắt gặp con được? Đức Phật dạy: –Tội phước tự nhiên không thể trốn tránh. Nếu Tôn giả bay xa trên núi cao, đến khi không còn hơi thở thì cũng sẽ phải rơi vào trong núi. Thời bấy giờ có một ông lão đang cỡi xe, Mục-liên bị nạn rơi vào ngay trước đầu xe, hình dáng xấu xí như quỷ. Ông lão cho là vật xấu ác, liền cho xe cán ngang qua, khiến Tôn giả bị gãy xương. Mục-liên khi ấy trong lòng áo não, mê man không còn biết gì. Đức Phật thương xót giúp cho Tôn giả phục hồi thần lực, khi ấy Tôn giả mới định tỉnh, tìm cách phục hồi trở lại thân hình. Ông lão cỡi xe cán qua thân ngài, thời trước là cha của Mục-liên. Vì cha con cùng tranh cãi nhau, Mục-liên thời ấy nghó ác rằng: “Giết được ông già kia để chẻ xương mới hả giận.” Vì nhân duyên đời trước sân giận, ác khẩu nên ngày nay mới vương phải tai ương như vậy. Phải cẩn thận, chớ tạo tội bất hiếu với cha mẹ. Vì vậy, người biết xử thế chẳng những phải dè dặt ý nghó và lời nói, mà còn phải hiếu dưỡng cha mẹ.  16- Ngày xưa có một vị Sa-môn đang đi trong đám cỏ rậm, có một con rắn nói: –Xin chào Hòa thượng. Vị Sa-môn giật mình nhìn xem hai bên. Rắn nói: –Thầy chớ sợ hãi, mong ngài vì tôi mà giảng nói kinh điển, khiến cho tôi thoát khỏi thân tội báo này. Rắn thưa tiếp: –Ngài có biết vua A-kỳ-đạt không? Sa-môn nói: –Có biết. Rắn thưa: –Ông ấy là tiền thân của tôi. Sa-môn nói: –Vua A-kỳ-đạt tạo lập chùa tháp, cúng dường chúng Tăng, công đức rất lớn, đang được sinh ở cõi trời, do nhân duyên gì mà phải bị đọa vào loài này? Rắn thưa: –Khi tôi sắp chết, người hầu cận cầm quạt hầu, sơ ý để quạt rơi nhằm mặt tôi, tôi khi ấy nổi sân giận, nên sau khi chết phải đọa vào thân rắn này. Sa-môn liền vì rắn mà giảng kinh, rắn một lòng lắng nghe, rồi quyết nhịn ăn trong bảy ngày mà chết. Khi xả thân nghiệp báo ấy thì liền sinh lên cõi trời. Vài tháng sau đó, vị trời này mang hoa trời xuống rải cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Lúc ấy đại chúng rất ngạc nhiên, liền ở trong hư không có tiếng nói: –Tôi kiếp trước là vua A-kỳ-đạt, bị đọa làm súc sinh. Nhờ vị Sa-môn giảng dạy Phật pháp, tôi được nghe, nhờ đó mà được sinh lên cõi trời. Nay mang hoa đến rải cúng dường Đức Phật và chúng Tăng để báo ân. Vì vậy, chúng ta đối với người đau bệnh sắp chết, khi thân cận giúp đỡ phải cố gắng cẩn thận hộ trì tâm của người ấy.  17- Ngày xưa, ở ngïoại quốc có một người làm ăn buôn bán tấn phát, tiền của vàng bạc thâu vào có hơn ngàn cân. Trong lòng vị ấy rất lo lắng, muốn chôn giấu dưới đất nhưng sợ dế mèn, côn trùng, chuột bọ đục phá; muốn cất giấu trong cây cỏ, núi rừng cũng sợ chồn, cáo, con người gặp được lấy mất. Lại cũng không tin vợ con trong nhà, anh em bên ngoài, chỉ còn cách là mang theo trong người. Cho nên khi cần đi đâu vị ấy rất sợ mất của. Thời ấy, gặp tháng trường trai, bốn chúng đệ tử đến chùa tháp đốt hương rải hoa. Vị ấy xem xét đã thấy tất cả, lại thấy ở trước tháp tự có một bát lớn, bốn chúng đệ tử đi nhiễu quanh tháp, đem tiền của, vàng bạc, vật báu đặt vào trong bát ấy cúng dường Tam bảo. Người kia thấy vậy hỏi: –Vì sao đem vật báu để trong bát này? Có vị Sa-môn đứng gần đó đáp: –Đây gọi là phát tâm bố thí để đúc tượng Phật, làm chùa tháp, tạo công đức cho người cúng, cho nên gọi là nơi cất giấu vững chắc, cũng gọi là nơi gởi không bị mục nát. Người ấy nghe vậy suy nghó, chấp nhận, nói: –Đúng như lời ngài nói. Thật đúng với chỗ mong cầu của tôi. Ông ta phát tâm đem tất cả vàng bạc để vào trong bát cúng dường. Vị Sa-môn vì người kia mà chú nguyện, lại dạy thêm: –Tôi nói chỗ cất chứa vững chắc có nghóa là người có tâm cúng dường Tam bảo, phước đức ấy nước không thể làm chìm, lửa không thể đốt, trộm cướp, oan gia đều không thể xâm phạm, tổn hại công đức này được. Đã gieo vào trong kho báu này rồi thì không bao giờ mục nát, hư hoại, đời sau sẽ được gặt hái quả báu gấp trăm ngàn vạn lần của báu đã cúng dường hôm nay, nên gọi là bố thí. Vị ấy nghe dạy như vậy, ý được cởi mở, vui vẻ vô cùng, tức thời ở ngay trước tháp mà được đạo quả Tu-đà-hoàn. Vì vậy nên người chí tâm biết làm phước, công đức ấy không bao giờ cùng tận, sau cùng tự mình cũng sẽ được đạo quả giải thoát.  18- Ngày xưa ở chùa Tước ly có vị Trưởng lão Tỳ-kheo, đã được đạo quả A-la-hán, dẫn một chú Sa-di vào thành thăm viếng, y bát nặng, thầy sai chú Sa-di mang đi theo sau. Chú Sa-di đang đi trên đường, tự suy nghó: “Con người sinh ra ở đời đều chịu đau khổ. Muốn thoát khỏi nỗi khổ này nên phát tâm tu theo con đường nào?” Lại suy nghó: “Đức Phật thường tán thán Bồ-tát là thù thắng, ta nay nên phát tâm tu hành Bồ-tát đạo.” Khi chú suy nghó như vậy, thầy của chú dùng Tha tâm thông rõ hết ý nghó kia. Vị thầy dạy chú Sa-di: –Chú đem y bát đến đây. Chú đem y bát trao cho thầy. Rồi thầy bảo chú: –Ngươi hãy đi trước đi! Sa-di đi trước, lại suy nghó: “Con đường tu hành Bồ-tát đạo phải siêng năng, chịu khó. Nếu có người xin đầu phải cho đầu, xin mắt phải cho mắt. Việc này rất khó, không phải sức ta có thể làm xong, chi bằng chứng quả A-la-hán để mau được lìa khổ.” Vị thầy biết chú suy nghó như vậy nên nói với chú ấy: –Ngươi mang y bát đi theo sau ta. Như vậy ba lần. Chú ấy rất kinh ngạc, không hiểu thầy có ý gì? Đến chỗ bóng mát, thầy trò nghỉ chân, chú chắp tay thưa hỏi thầy về ý nghóa kia. Vị thầy dạy: –Ngươi với con đường tu hành Bồ-tát, ba lần muốn tiến lên, cho nên ta ba lần nhường cho ngươi đi tới trước. Tâm ngươi ba lần thoái thất nên ta ba lần đẩy ngươi lui ra sau. Đó là lý do vậy. Người phát tâm tu hành Bồ-tát đạo, công đức kia thù thắng hơn người được đạo quả A-la-hán. Cho dù đầy cả ba ngàn thế giới người được đạo quả A-la-hán cũng không đủ để so sánh vậy.  19- Ngày xưa, vào thời Đức Phật Ca-diếp, có hai anh em đều xuất gia làm Sa-môn. Người anh ưa trì giới, ngồi thiền, một lòng cầu đạo mà không thích bố thí. Người em trái lại ưa bố thí, tu phước mà không chịu giữ giới. Đến khi Đức Thích-ca ra đời, người anh gặp Phật, xuất gia tu học. Tuy được đạo quả A-la-hán mà lại chịu bạc phước, thường bị nạn cơm ăn áo mặc không đủ. Cùng các thầy đi khất thực, mà riêng mình thường chịu đói trở về. Trong khi đó người em sinh trong loài voi, là một con voi có nhiều sức mạnh, có thể dẹp trừ giặc oán, được nhà vua mến trọng, dùng các món vàng bạc, ngọc báu, chuỗi anh lạc để trang điểm thân cho voi. Vua còn phong vài trăm hộ trong ấp phải cung cấp đồ cần dùng cho voi. Người anh làm thầy Tỳ-kheo gặp lúc mất mùa, đi khất thực tiếp tục bảy ngày mà không được món gì ăn cả. Sau cùng chỉ được một ít món ăn tầm thường để duy trì mạng sống. Ngài biết con voi của vua trước kia là anh em, nên đi đến thăm, tay cầm tai voi nói nhỏ: –Ta với ngươi đều có tội. Voi suy nghó lời của thầy Tỳ-kheo dạy, liền biết được tiền kiếp, thấy rõ nguyên nhân kiếp trước của mình. Từ đó voi rất buồn rầu, không còn muốn ăn uống. Người nài chăm sóc voi thấy vậy rất sợ, đến tâu với đức vua: –Thưa, voi không muốn ăn uống, hạ thần không biết lý do gì. Vua hỏi người chăm sóc: –Trước đó ngươi có thấy ai xúc phạm voi không? Người chăm sóc voi tâu: –Thưa không thấy có ai khác, chỉ thấy một Sa-môn đi đến bên voi, trong khoảng khắc rồi đi. Vua liền ra lệnh cho người đi khắp nơi để tìm vị Tỳ-kheo ấy. Có người ở trong rừng cây gặp được, liền dẫn vị Sa-môn kia đến trước nhà vua. Vua hỏi Sa-môn: –Thầy đến bên voi của trẫm nói những gì? Vị Sa-môn thưa: –Tôi không nói gì nhiều, chỉ nói thẳng với voi: “Ta cùng ngươi đều có tội.” Khi ấy Sa-môn liền thưa với vua về nhân duyên đời trước. Nghe xong, tâm vua được tỉnh ngộ, liền thả vị Sa-môn về chỗ ở của ngài. Vì vậy, ai là người tu phước, việc Trì giới, Bố thí đều phải thực hành, chớ thiên chấp mà công đức không được đầy đủ.  20- Ngày xưa có một thầy Tỳ-kheo phạm lỗi, bị đuổi ra khỏi chúng Tăng, trong lòng rất buồn khổ, vừa đi vừa khóc. Trên đường đi gặp một con quỷ, nó cũng bị phạm pháp, đang bị vua trời Tỳ-sa-môn đuổi. Khi ấy quỷ hỏi thầy Tỳ-kheo: –Ông vì sao mà vừa đi vừa khóc như thế? Vị Tỳ-kheo nói: –Tôi phạm việc cấm của chúng Tăng nên chư Tăng đuổi, tất cả sự cúng dường của đàn-việt cho tôi đều mất sạch, lại tiếng xấu đồn khắp xa gần, vì vậy nên tôi buồn khóc. Quỷ nói với thầy Tỳ-kheo: –Tôi có thể giúp ông trừ bỏ hết tiếng xấu mà còn được cúng dường lớn lao. Quỷ nói tiếp: –Bây giờ ông có thể ngồi trên vai trái tôi, tôi sẽ vác ông bay đi trên hư không, mọi người chỉ thấy ông mà không thấy thân tôi. Nếu ông được cúng dường nhiều, nên chia cho tôi cùng hưởng. Con quỷ kia liền vác thầy Tỳ-kheo bay trên không, ngang qua xóm làng mà trước đó thầy đã bị đuổi. Khi ấy mọi người thấy đều kinh hãi, quái lạ. Họ cho rằng vị kia đã đắc đạo, cùng nhau bàn rằng: –Chúng Tăng không nắm được tình hình nên đã đuổi người đắc đạo một cách oan uổng. Khi ấy mọi người trong xóm làng cùng đi đến chùa trách móc chúng Tăng. Họ liền đi đón thầy Tỳ-kheo ấy trở về chùa và được cúng dường trọng hậu hơn trước. Vị Tỳ-kheo ấy khi được đồ ăn cúng dường, liền đem chia phần cho quỷ, không trái với lời hứa. Con quỷ này là thuộc hạ của vị quan hầu của Tỳ-sa-môn Thiên vương. Một hôm, đang vác vị Tỳ-kheo đi trên không, chợt thấy vị quan hầu Tỳ-sa-môn Thiên vương đi thẩm tra, quỷ rất sợ hãi, liền quăng bỏ thầy Tỳ-kheo, ra sức chạy trốn. Thầy Tỳ-kheo bị rơi xuống đất chết, đầu mình đều tan nát. Câu chuyện thí dụ này khuyên người tu hành nên tự nỗ lực để đạt đến ý chí hướng thượng của mình, không nên tìm cầu bên ngoài. Nếu người tu hành mà ưa nương tựa kẻ giàu có, thế lực, một mai tình thế thay đổi, sẽ như thầy Tỳ-kheo bị hại kia không khác.  21- Ngày xưa, Tôn giả Mục-kiền-liên cùng đệ tử từ núi Kỳ-xà-quật đến thành Vương xá khất thực. Tôn giả đang đi trên đường, ngước nhìn lên hư không, đột nhiên phát ra lời than, người đệ tử theo hầu thưa: –Vì nhân duyên gì mà thầy than? Tôn giả Mục-liên dạy: –Con muốn biết, khi trở về gặp Đức Phật thì đem ra thưa hỏi. Khi thầy trò khất thực xong, trở về chỗ Đức Phật đang ngự. Người đệ tử đem việc Tôn giả đã than khi sáng ra hỏi. Mục-liên đáp: –Ta thấy trong hư không có một ngạ quỷ, thân rất lớn, hình tướng xấu xa, có bảy viên sắt tròn vào từ miệng và xuyên suốt xuống chân, khi ra ngoài lại vào từ miệng, làm cho toàn thân bị đốt cháy, đau khổ lăn lóc, lộn nhào xuống rồi lại đứng dậy, vừa đứng dậy rồi lại lộn nhào xuống. Vì thế cho nên ta than. Việc này chẳng phải chỉ có ta thấy, Đức Thế Tôn cũng thấy như vậy. Đệ tử hỏi: –Do nhân duyên gì mà ngạ quỷ kia phải chịu đau khổ như vậy? Tôn giả Mục-liên dạy: –Ngươi nên đem việc này thưa hỏi Đức Thế Tôn. Người đệ tử liền đến bạch với Đức Phật về nhân duyên việc kia. Khi ấy Đức Phật dạy: –Con ngạ quỷ này, đời trước đã từng làm Sa-di. Gặp lúc đói kém, chư Tăng phải dùng đậu làm thức ăn. Chú Sa-di phân chia đồ ăn cúng dường chúng Tăng, vì có tâm thiên vị, khi đến bên thầy của mình cố bỏ thêm bảy hạt đậu. Do tạo lỗi này, cho nên phải làm thân ngạ quỷ, chịu khổ đau như vậy. Đức Phật dạy: –Ta cũng đã thấy, sở dó không nói là sợ con người không tin, phải mắc tội rất nặng. Câu chuyện thí dụ này cho chúng ta thấy: Với một ít hạt đậu của chúng Tăng, do tâm thiên vị vì thầy chứ không phải vì mình mà tội kia còn như vậy. Huống gì Đức Phật nói lý Bát-nhã mà chúng ta không tin, lại còn phỉ báng, tội kia rất nặng, như tội ngũ nghịch, phải chịu khổ ở địa ngục không biết bao lâu.  22- Ngày xưa có một vị cư só, bà vợ đang mang thai, ông thỉnh Đức Phật đến nhà cúng dường, muốn nhờ Đức Thế Tôn đoán thử bà vợ của ông sau này sinh con, sẽ là trai hay gái. Đức Phật dạy: –Sau này bà ấy sẽ sinh con trai, trang nghiêm tốt đẹp. Đến khi lớn khôn, tuy ở trong loài người mà hưởng thọ cái vui của cõi trời. Nếu xuất gia tu hành sẽ được đạo quả A-la-hán. Vị cư só nghe Đức Phật dạy như vậy, trong lòng không tin. Sau đó, ông lại thỉnh nhóm Lục sư đến cúng dường để nhờ họ đoán thử. Cư só nói với Lục sư: –Trước đây tôi đã nhờ Sa-môn Cù-đàm đoán. Ngài dạy sau này sẽ sinh con trai. Theo ý các ngài, có phải bà ấy sẽ sinh con trai không? Lục sư đáp: –Bà ấy sẽ sinh con gái. Nhóm Lục sư đố kî với Phật pháp, nên muốn nói ngược trở lại, nhưng rồi họ lại suy nghó: “Nếu sau này bà ấy sinh con trai, cư só này sẽ bỏ ta mà phụng sự Cù-đàm”, nên họ dùng lời quỷ quyệt mà nói với cư só: –Vợ ông sẽ sinh con trai, nếu sinh trai, sau này sẽ gặp tai họa hung ác, gia đình thân thuộc của ông bảy đời sẽ bị tuyệt diệt. Do không được tốt, cho nên trước ta nói dối là sinh con gái. Cư só nghe xong rất sợ hãi, không biết làm sao. Nhóm Lục sư liền nói với cư só: –Muốn được tốt đẹp và lợi ích nên trừ khử trước đi. Nhóm Lục sư liền giải phẫu bà vợ của cư só để trừ bỏ đứa bé. Muốn trừ bỏ đứa bé mà trái lại bà mẹ thì bị hại. Vợ của cư só chịu đựng không nổi phải chết, còn đứa bé thì không sao, vì phước đức đời trước đã giúp đứa bé. Vị cư só mang xác vợ đến nghóa địa chất củi hỏa thiêu. Khi ngọn lửa đã cháy, Đức Phật dẫn các đệ tử đến nơi lửa đang cháy thân của bà vợ cư só để xem; liền thấy trong ngọn lửa, đứa bé ngồi trên hoa sen, trang nghiêm tốt đẹp, hình thể trắng như tuyết, Đức Phật thấy vậy liền sai Tôn giả Kỳ-vực bồng đứa bé ra. Tôn giả vâng lời dạy bước vào lửa bồng đứa bé ra ngoài rồi giao lại cho ông cư só để ông ta mang về nuôi dưỡng. Khi chú bé đã lớn, đến năm mười sáu tuổi, tài hoa tốt đẹp hơn người. Cư só lại mở tiệc, sắm sửa thức ăn thỉnh nhóm Lục sư cúng dường. Nhóm Lục sư ngồi chưa bao lâu, liền có một người phì cười. Có người hỏi: –Thưa, vì sao ngài cười? Lục sư đáp: –Ta thấy cách đây năm vạn dặm có một núi lớn, dưới chân núi có suối nước chảy, một con khỉ rơi tõm xuống nước, vì vậy mà ta cười. Chú bé nghe qua biết họ nói dối nên lấy bát của Lục sư bỏ canh và món ăn ở dưới, lấy cơm phủ lên trên, sai người đem bát dâng cho họ. Những bát khác thì dưới để cơm, trên để đồ ăn. Khi đại chúng đều thọ trai, riêng Lục sư giận không ăn. Chủ nhân hỏi: –Sao các ngài không ăn? Lục sư đáp: –Không có canh làm sao ăn? Chủ nhân hỏi: –Mắt các ngài thấy xa năm vạn dặm, biết có con khỉ rơi xuống nước, sao các ngài không thấy dưới cơm trong bát có canh? Khi nghe nói vậy, họ tự ái, càng sân giận hơn, không thể ăn được liền đứng dậy ra về. Vị cư só và chú bé nhân việc này chấm dứt không phụng sự họ nữa, mà từ đấy cư só hết lòng đặt niềm tin phụng sự Tam bảo, thường theo Phật nghe pháp, sau đều được đạo quả. Câu chuyện thí dụ này rất dài, chỉ ghi tóm lược để rõ điều thật giả là như vậy. CHÚNG KINH TUYỂN TẠP THÍ DỤ <卷 id="41126197">Quyển 2 23- Ở nước ngoại, có một thầy chuyên tụng chú để cảm hóa rồng. Thầy dùng bình đựng đầy nước mát, tắm rửa mát mẻ rồi, đến bên ao rồng một lòng tụng chú. Khi ấy rồng ở trong ao này thấy lửa từ đáy ao cháy lên, rồi lan ra khắp trong ao chỗ nào cũng đều có lửa cháy. Rồng thấy lửa sợ hãi, ngước đầu nhìn lên núi, lại thấy lửa lớn đốt cháy núi rừng. Ngước xem đỉnh núi cũng thấy không có chỗ để nương thân. Khắp nơi đều bị lửa đốt cháy, không có nơi nào làm đất dung thân. Chỉ còn lại bình nước mát là nơi có thể vào đó để tî nạn. Muốn vào đó phải dẹp bỏ thân to lớn kềnh càng, biến thành thân hình nhỏ gọn mới có thể vào trong bình nước mát được. Ao rồng ví như cõi Dục. Ngước nhìn lên núi ví như cõi Sắc. Nhìn đảnh núi cao ví như cõi Vô sắc. Thầy tụng chú cảm hóa rồng ví như Bồ-tát. Bình nước mát ví như Niết-bàn. Dùng chú thuật ví như pháp phương tiện. Lửa lớn đốt cháy ví như hiện cảnh vô thường. Rồng có thân to lớn ví như lòng kiêu mạn. Thân hình nhỏ ví như lòng khiêm tốn. Ở đây nói: Bồ-tát thị hiện kiếp thiêu, làm cho tất cả Dục giới, Sắc giới đều bị đốt cháy. Ngọn lửa lớn vô thường sẽ khủng bố chúng sinh, khiến cho chúng sinh diệt trừ lòng kiêu mạn, thực hành khiêm cung nhỏ nhẹ, về sau mới tiến tu để vào Niết-bàn.  24- Ngày xưa có một người thợ săn chim, anh ta giăng lưới trong rừng vắng, dùng thức ăn mà chim ưa thích đặt vào trong lưới. Các loại chim cùng bạn bè tranh nhau đến ăn. Khi ấy thợ săn kéo sập lưới xuống, tất cả chim đều bị rơi vào bẫy lưới. Lúc ấy, có một con chim lớn đủ sức mạnh, dùng đôi cánh lớn quạt gió, cất bổng lưới lên, cùng với các chim khác bay đi. Thợ săn thấy bóng liền đi theo. Có người nói với người thợ săn: –Chim bay trên trời cao, còn ngươi thì đi bộ dưới đất, sao mà ngu vậy? Thợ săn đáp: –Không như ông nói đâu, chim kia khi trời tối sẽ tìm chỗ nghỉ, ý muốn tiến tới, thoái lui không đồng nhau. Như vậy sẽ bị rơi xuống. Thợ săn nói như vậy và tiếp tục đi theo. Mặt trời đã sang xế chiều, thợ săn ngước nhìn bầy chim, thấy chúng nó bay ngược, bay xuôi, cạnh tranh nhau. Có con muốn đến phía Đông, con khác lại muốn sang Tây. Nhiều con mong lên rừng sâu, hoặc có con lại muốn xuống suối, khe; tranh nhau không dừng. Do ý chí bất đồng như thế, chỉ trong khoảnh khắc liền bị rơi xuống đất tất cả. Thợ săn tóm trọn rồi lần lượt giết hết. Thợ săn là ma Ba-tuần. Giăng lưới cũng như kết sử. Mang lưới mà bay cũng như người chưa lìa kết sử mà muốn ra khỏi ba cõi. Trời chiều, tìm chỗ nghỉ, như người biếng nhác, không cầu tiến lên. Tìm chỗ nghỉ không đồng, như khởi sáu mươi hai kiến chấp tương phản nhau. Chim rơi xuống đất, như người chấp nhận tà giáo bị rơi vào địa ngục. Do đây chúng ta biết được kết sử và trần cấu là lưới ma. Kết sử phủ che con người như lưới giăng. Được hưởng phước trời, người thì phải khéo giữ gìn thân nghiệp và khẩu nghiệp, tâm không buông lung vì chúng ta còn ở trong lưới ma. Ba đường ác là khổ, vì phải chịu sinh tử lâu dài, không thể kham nhẫn ở mãi đây vậy.  25- Ngày xưa có năm trăm người đi buôn, nương thuyền vào biển muốn tìm cầu châu báu, không may gặp lúc cá Ma-kiệt ngẩng đầu, há miệng muốn ăn nuốt tất cả chúng sinh. Ngày ấy gió thuận, thuyền đi nhanh như tên bắn. Vị thương chủ nói với mọi người: –Thuyền đi nhanh quá, nên hạ buồm xuống. Nghe vậy, mọi người đều hạ buồm xuống, nhưng thuyền đi càng nhanh, không thể hãm bớt lại được. Vị thương chủ hỏi người ngồi trên cột buồm: –Ngươi thấy những gì? Người ấy đáp: –Tôi thấy phía trên có hai mặt trời xuất hiện, dưới mặt trời có núi trắng, giữa là núi đen. Vị thương chủ kinh hãi nói: –Đây là cá lớn, chúng ta phải làm sao? Ta cùng các ngươi nay gặp tai ách ngay khốn, vào trong bụng cá này thì không ai còn sống được. Các ngươi nên tùy chỗ tôn thờ của mình mà hết lòng cầu cứu. Khi đó mọi người đều tùy chỗ tôn thờ của mình, mà hết lòng cầu mong thoát khỏi ách nạn ấy. Nguyện cầu càng gấp, thuyền đi càng nhanh, chỉ trong khoảnh khắc, nếu không dừng lại được sẽ vào miệng cá tất cả. Khi ấy thương chủ bảo mọi người: –Ta có đại thần hiệu gọi là Phật, các người đều nên bỏ chỗ tạp cầu, mà hãy cùng nhau một lòng xưng niệm. Khi ấy năm trăm người cùng phát ra tiếng xưng niệm lớn: “Nam-mô Phật”. Cá nghe được hiệu Phật, tự suy nghó: “Ngày nay thế gian còn có Phật, tại sao ta lại nỡ sát hại chúng sinh.” Vì nghó thế, cá liền ngậm miệng, nước vì vậy mà chảy ngược trở lại. Thuyền lần lần xa miệng cá, năm trăm người đi buôn liền được thoát nạn. Con cá này trước đây đã từng làm Sa-môn, do tạo tội cho nên phải thọ sinh làm loài cá có thân hình to lớn ấy. Đã nghe được tiếng xưng niệm Phật, cá nhớ lại tiền kiếp của mình, vì vậy mà tâm lành liền phát sinh. Ở đây chúng ta thấy: Năm trăm người đi buôn chỉ một lòng niệm Phật, tạm xưng danh hiệu mà liền được thoát nạn. Nếu có người biết thọ trì niệm Phật tam-muội, thì tội nặng chuyển thành nhẹ, tội nhẹ được tiêu trừ. Câu chuyện trên đủ để làm chứng nghiệm vậy.  26- Ngày xưa có một chú đồ tể đi đến gặp vua A-xà-thế cầu xin một ước nguyện. Vua bảo: –Ngươi cầu xin điều gì? Anh ta thưa: –Khi ngài mở hội cúng tế, cần mổ giết súc vật, nếu vua chấp nhận tôi sẽ tận tâm làm việc ấy. Vua nói: –Mổ giết là việc ít ai ưa, vì sao ngươi lại muốn làm? Thưa: –Tôi ngày xưa vốn là người nghèo, chuyên nghề giết dê bán để tự sinh sống. Nhờ việc làm đó, sau khi chết được sinh cõi trời Tứ Thiên vương. Hết tuổi thọ ở cõi trời, sinh trở lại làm người, tiếp tục làm nghề giết dê. Khi chết lại được sinh lên cõi trời lần thứ hai. Như vậy sáu đời ở dương gian làm nghề giết dê, nhờ đó mà sáu lần được sinh lên cõi trời, thọ phước không thể lường được. Vì lý do như vậy nên tôi đến đây xin vua làm việc mổ giết ấy. Vua nói: –Ngươi đặt bày nói dối như vậy, chứ ngươi làm sao biết được. Anh ta thưa: –Tôi biết được đời trước. Vua nghe không thể tin, cho là nói dối, vua suy nghó: “Kẻ hạ tiện như vậy làm sao có thể biết được tiền kiếp?”. Sau đó, vua được gặp Đức Phật, liền đem việc ấy thưa hỏi. Đức Phậy dạy: –Thật như lời anh ấy nói, không phải hư dối. Vị này đời trước đã từng gặp được Bích-chi-phật. Anh ta thấy vị Bích-chi-phật lòng hoan hỷ, chí tâm quán sát kỹ, chiêm ngưỡng từ đầu cho đến chân, rồi liền phát sinh tâm lành. Do nhân duyên đó mà được sáu lần sinh lên cõi trời, sáu lần trở lại nhân gian, tự biết được túc mạng. Do phước đức đã thuần thục nên chưa đến lúc phải thọ quả khổ. Khi hết thân này, mới đọa vào địa ngục chịu tội đã giết dê. Tội ở địa ngục mãn, sẽ phải sinh làm dê nhiều lần để thường mạng. Tên đồ tể ấy chỉ biết một ít đời trước, thấy sáu lần được sinh lên trời mà không biết được đời thứ bảy: Khi thọ thân người thì phước đã tạo trước đó rồi, nên mới hiểu lầm rằng: “Nhờ giết dê mà được sinh lên cõi trời.” Như vậy chỉ biết được đời trước, chẳng phải thần thông mà cũng chẳng phải là người sáng suốt đâu! Vì thế nên người tu hành khi tạo công đức phải phát nguyện, chớ có buông thả, khiến quả báo không rõ ràng. Lấy chuyện thí dụ này để có thể chiêm nghiệm vậy.  27- Thời Đức Phật còn tại thế, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, Ngài sinh trong vương cung, xuất gia tìm đạo, sáu năm khổ hạnh. Sau đó ngồi dưới gốc cây Bồ-đề mà được giác ngộ. Như vậy quả Phật, có phải dễ được thành tựu hay không? Đức Phật dạy Tôn giả A-nan: –Ngày xưa có vị trưởng giả rất giàu có, các thứ châu báu đều đủ cả, chỉ thiếu hạt ngọc bội trân châu. Cho là chưa đủ, ông liền dẫn người vào biển tìm châu báu. Trải qua biết bao nhiêu điều nguy hiểm, trở ngại mới đến chỗ có ngọc châu, phải chích lấy máu trong thân đựng trong túi, đặt dưới đáy biển. Con sò có ngọc nghe mùi máu đến ăn mới bắt được nó, tách vỏ sỏ để lấy ngọc. Chọn lựa trong suốt ba năm mới có được một hạt ngọc bội trân châu. Khi trở về, băng qua biển gặp một hòn đảo, ghé vào lấy nước ngọt, đồng bạn thấy ông ta được ngọc báu nên lập mưu với nhau. Khi xuống thuyền lấy nước, họ xô ông ta xuống giếng, lấp lại rồi bỏ đi. Vị trưởng giả bị rơi xuống đáy giếng, Sau đó tình cờ, một hôm ông thấy một con sư tử từ trong hốc đá bên hông giếng đi vào uống nước, ông rất sợ hãi. Khi sư tử đã lui ra, ông lần mò theo lỗ hổng ấy mà được ra ngoài đất liền. Những người bạn kia cướp được châu báu, trở về nhà trước. Khi ông tìm được đường trở về nhà, liền gọi những người bạn kia đến hỏi: –Các ngươi âm mưu hại ta lấy ngọc bội trân châu, cho rằng không ai biết. Nay ta đã trở về đây, các ngươi nếu biết khôn ngoan, tế nhị, hãy giao trả tất cả ngọc báu lại cho ta. Nếu không, ta sẽ tố cáo các ngươi. Những người kia sợ hãi, cùng nhau giao trả số ngọc châu trở lại cho ông ta, trong đó có cả hạt ngọc bội trân châu. Lúc đó trong nhà có hai đứa con nhỏ của ông ta, đang chơi giỡn với nhau, được thấy hạt châu, nó hỏi nhau: –Ngọc châu này từ đâu mà có? Chú bé nói: –Nó sinh từ trong túi em đây. Chú bé lớn hơn nói: –Nó được cất giữ ở trong túi nhà mình. Người cha nghe các con nói như vậy liền cười. Bà vợ hỏi: –Ông cười gì vậy? Ông đáp: –Ta có được hạt châu này rất khó khăn, cực nhọc. Các con nương theo ta mà có, làm sao biết được nguồn gốc của hạt châu, nên nó cho rằng hạt châu có từ trong túi. Đức Phật dạy Tôn giả A-nan: –Ngươi chỉ biết Ta thành Phật dưới gốc cây Bồ-đề mà không hiểu rõ Ta từ vô số kiếp, siêng năng khó khổ, tu hành Bồ-tát đạo, đến nay mới thành tựu, nên các ông cho là dễ. Như chú bé cho rằng ngọc báu xuất phát từ trong túi vậy! Như vậy muốn thành tựu đạo quả phải phát tâm tu theo Lục độ vạn hạnh của Bồ-tát, tích chứa công đức trong nhiều kiếp, chứ chẳng phải chỉ làm một việc, tu một hạnh, xả bỏ một thân mà có thể được đạo vậy.  28- Ngày xưa có một vị đạo sư muốn vào biển để tìm châu báu. Thời ấy có năm trăm người xin cùng đi theo. Đạo sư nói: –Người đi vào biển sẽ gặp năm thứ tai nạn là: 1. Ghềnh thác. 2. Sóng nước xoáy tròn. 3. Cá lớn. 4. Quỷ dữ. 5. Cỏ thơm ăn vào bị say. Nếu người nào đủ quyết tâm vượt qua năm tai nạn này thì có thể cùng đi biển. Tất cả đều chấp nhận và cùng sửa soạn các thứ cần thiết xong, đến lúc thuận gió xuôi buồm vào biển. Đến được bãi biển có châu báu, mọi người đi tìm châu báu. Trong nhóm có một người không chế ngự được, ăn nhằm cỏ thơm, say nằm bảy ngày. Mọi người kiếm châu báu đã đủ, gió thuận thổi đến, họ chuẩn bị trở về. Đạo sư dùng tiếng trống tập hợp tất cả lại. Riêng một người chưa thỏa mãn, không chịu trở về, tiếp tục tìm cầu châu báu. Trên đường đi tìm, anh ta gặp một người khác ăn nhầm cỏ thơm say nằm dưới gốc cây, chưa tỉnh, liền dìu vị ấy về trại. Sau đó hai người cùng chặt cây lớn làm bè, kiếm cây làm sào chống, cùng nhau trở về nước. Người nhà nghe tin rất mừng, đều đến đón trở về. Người bị say trên đảo tự thấy mình không tìm được vật báu nào cả nên đau khổ, hổ thẹn. Anh ta buồn nên vác gậy vào chợ thăm chơi. Có người trong chợ thấy gậy quý nên đi theo trả giá. Họ đòi mua với giá hai ngàn lượng vàng. Vị ấy thấy giá mua quá cao, ngoài mức mong ước nên anh ta chịu bán. Khi bán xong hỏi người mua: –Gậy này có công dụng gì mà anh mua với giá ấy? Người mua nói: –Đây là cây báu, nếu nghiền nó ra làm bột, đốt thành khói, xông các loại ngói đá thì ngói đá ấy sẽ thành ngọc châu. Người bán thấy vậy xin lại được chút ít đem về thử nghiệm. Quả đúng như lời nói của người kia, các thứ gạch đá được xông đều thành châu báu quý giá. Dụ này nói: Vị Đạo sư là Bồ-tát. Năm nạn là chỉ cho năm uẩn. Bến châu báu là pháp Bát-nhã, là Thất thánh tài. Người say là theo tánh biếng nhác mà bỏ phế đạo nghiệp. Chặt nhằm cây báu là tự mình phải siêng năng tu hành cho đến kết quả thì mới phát khởi tinh tấn hơn. Xông ngói đá thành châu báu nghóa là dùng kinh điển, giáo pháp huấn tập cho người làm ác thành bậc pháp khí vậy.  29- Ngày xưa ở trong núi có hai vị Sa-môn an nhàn hành đạo, chứng đắc sáu phép thần thông. Cách chỗ ở của hai vị không xa, có một con sư tử sinh được hai con nhỏ, sau dần dần lớn khôn. Sư tử mẹ muốn đi xa, trong lòng suy nghó: “Chỉ có đạo đức của hai vị thầy Từ bi kia mới có thể ủy thác thân mạng.” Sư tử đến thưa: –Con muốn đi lại kiếm sống mà hai con còn nhỏ, sợ người làm tổn thương giết hại, muốn đem gởi Đạo nhân, xin mong ngài Từ bi giúp đỡ, con sẽ tới lui thăm viếng. Đạo nhân chấp nhận nuôi hai con sư tử. Khi sư tử mẹ trở về, thấy hai con nương theo Đạo nhân nên an tâm đi nữa. Đạo nhân mỗi khi khất thực về, đem đồ ăn dư cho hai sư tử con cùng ăn. Mỗi lần thấy Đạo nhân về, nó đều chạy ra vui mừng nghênh đón. Sau đó Đạo nhân đi vắng, có người thợ săn thấy được sư tử, cả hai con đều chạy trốn vào cỏ rậm. Thợ săn muốn mượn hình thức của Đạo nhân nên lẻn vào tịnh thất lấy trộm áo ca-sa mặc vào, đi đến đám cỏ vạch tìm. Sư tử tưởng lầm là Đạo nhân liền chạy đến nên bị thợ săn bắn chết. Ông ta lột da sư tử để làm áo lông, giá bán cả ngàn lượng vàng. Khi vị Đạo nhân trở về không thấy sư tử, liền ngồi thiền quan sát, biết là đã bị thợ săn giết. Vì lòng Từ, Sa-môn dùng thần lực lấy da sư tử trở lại làm nệm lót ngồi thiền, miệng thường vì hai sư tử mà chú nguyện. Về sau, Đạo nhân lại ngồi thiền quán sát, biết kiếp sau chúng nó sẽ được sinh vào nước kia, làm con của vị trưởng giả. Đạo nhân đi đến nhàvị trưởng giả, hỏi ông ta muốn mong cầu gì. Ông ta thưa: –Chúng tôi chỉ phiền là không có con. Vị Đạo nhân dạy: –Tôi sẽ vì trưởng giả mà cầu tự. Trưởng giả nghe vậy rất vui mừng. Đạo nhân nói: –Nếu có con, ông báo ân như thế nào? Trưởng giả thưa: –Nếu con khôn lớn, tôi sẽ cho ngài làm Sa-di. Đạo nhân nói: –Ông chớ quên lời nguyện trọng yếu này. Sau đó, bà vợ vị trưởng giả có thai, sinh được hai người con trai giống nhau như đúc. Đến lúc đã tám, chín tuổi, Đạo nhân đi ngang qua, ghé vào thăm vị trưởng giả. Hai đứa bé vừa gặp, tự nhiên rất mừng rỡ, mến thương. Đạo nhân nói với trưởng giả: –Đạo hữu còn nhớ lời nguyện trước đây không? Vợ chồng trưởng giả không dám trái lời nguyện, liền dẫn hai con đến đảnh lễ Sa-môn, xin theo thầy làm đệ tử. Thầy dẫn vào núi chỉ dạy phương pháp tu hành. Nhờ hai chú bé đều siêng năng tinh tấn, sau cả hai đều được đạo quả A-la-hán. Họ thường ngồi trên tấm da cũ, ngày ngày nhập định. Khi tự quán sát đời trước, liền biết tấm da này là thân cũ của mình đời trước, liền đứng dậy lễ tạ. Họ cũng biết được nhờ ân đức, năng lực của thầy nên mới được đạo. Vì vậy chúng ta biết rằng: Tất cả năng lực hộ niệm của bậc Ân sư là vô cùng to lớn. Loài cầm thú mà phát thiện tâm còn được giải thoát; huống gì chúng ta chú tâm phát thiện nguyện mà không được giải thoát hay sao?  30- Ngày xưa, có một chú đồ tể muốn cúng dường người tu hành, nhưng vì nhà chú ấy làm nghề ác, dù cố tâm mà không có Đạo nhân nào đến viếng nhà. Sau gặp được một Sa-môn còn trẻ mà có oai nghi đáng kính, anh ta thỉnh vị ấy đến nhà cúng dường. Sau khi thọ trai xong, gia chủ phát nguyện thỉnh Đạo nhân đến nhà để xin cúng dường trọn đời. Đạo nhân chấp nhận, nên thường đến nhà thọ trai. Sa-môn tuy thấy việc sát sinh mà không dám can gián, quở trách. Trải qua nhiều năm, sau đó người cha của chú đồ tể chết, bị đọa làm quỷ ở một dòng sông, thường dùng dao để tự cắt xẻ thân. Khi thân đã phục hồi, lại cắt xẻ nữa. Một hôm, Đạo nhân đi qua sông, con quỷ đến níu thuyền lại nói: –Hãy bỏ Đạo nhân kia xuống sông thuyền mới có thể đi được! Mọi người trong thuyền sợ hãi không biết sao, nhưng quỷ lại nói tiếp: –Nhà ta xưa nay cúng dường Đạo nhân kia, đã trải qua nhiều năm tháng mà ông ta không có lời quở trách, can gián ta làm việc sát sinh, nay mới chịu tai ương này. Ta rất giận, nên muốn giết ông ấy. Người đi thuyền nói: –Ông chỉ sát hại sinh vật mà còn phải chịu tai họa như vậy, huống hồ làm tổn hại Đạo nhân! Quỷ nói: –Tôi cũng biết như vậy, nhưng vì sân hận cho nên mới nói như thế. Nếu quý vị có thể vì tôi mà bố thí làm phước, kêu tên chú nguyện cho tôi, tôi sẽ buông thả cho quý vị đi. Sa-môn và người trong thuyền nghe vậy đều hứa sẽ làm phước hồi hướng cho quỷ. Quỷ liền buông thả. Đạo nhân về thiết lập trai hội, cúng dường chúng Tăng và kêu tên chú nguyện cho quỷ. Những người khác cũng lần lượt thiết lập trai hội cúng dường chú nguyện. Khi mọi người đã làm xong, đến bên sông gọi quỷ hỏi: –Ngươi đã được cảm ứng gì chưa? Quỷ nói: –Tôi nay đã bớt khổ, không còn phải tự hành hạ nữa. Mọi người đã đi thuyền, nói rằng: –Ngày mai chúng tôi sẽ cùng nhau vì ông thiết trai cúng dường chú nguyện. Vậy ông có thể đến được không? Quỷ vui vẻ nói: –Tôi sẽ đến được. Sáng ngày mai, quỷ hóa làm một người Bà-la-môn đi đến trai hội, tự tay đem cơm cúng dường, tự nhận lời chú nguyện. Thượng tọa đại diện chúng Tăng, vì ông ta nói kinh. Quỷ nghe xong liền được đạo quả Tu-đà-hoàn, vui vẻ lạy tạ mà lui ra. Do vậy người bố thí, kẻ thọ thí đều phải đúng như pháp mà có lời can gián chính đáng. Ông ta nhờ phước cúng dường, cho nên bị đọa vào đường ác mà cũng còn có nhiều thiện duyên. Luận rằng: Hiểu biết thiện tri thức là một nhân duyên lớn vậy.  31- Ngày xưa có một số thương khách ra biển để tìm châu báu, gặp một vị Long thần hình thù to lớn, làm cho thuyền chao đảo muốn đắm. Mọi người đều sợ hãi. Long thần nói: –Các ngươi có đi qua nước kia không? Thương khách thưa: –Chúng tôi có qua nước ấy. Long thần đem một cái trứng lớn bằng cái bình, nặng năm thăng và bảo những người thương buôn: –Các ngươi đem trứng này đến đặt gần chợ của nước kia, dưới một tàng cây lớn. Nếu các người không làm đúng như vậy, sau này ta sẽ giết các ngươi. Những thương khách kia hứa sẽ làm theo. Khi đã đến nước kia, họ tìm cách lén đặt trứng ở gần chợ, dưới gốc cây. Từ đó về sau, trong nước này gặp nhiều tai biến, tật dịch. Nhà vua cho mời đạo só đến để suy đoán nguyên do tai nạn. Ông ta bảo: –Có một cái trứng độc đang ở trong nước nên mới có thiên tai, tật dịch. Bệ hạ hãy cho người lục tìm, đốt bỏ đi, bệnh tật sẽ được dứt trừ. Những thương khách sau đó trở về, đi ngang qua biển, gặp lại Long thần, ông ta hỏi họ việc ấy xảy ra như thế nào. Những thương khách nói: –Trước đây, chúng tôi đã theo lời thần dạy, lén đặt cái trứng vào trong chợ, khiến cho trong nước ấy bị nhiều tật, dịch. Vua nước ấy triệu Phạm chí đến; ông ta bảo có trứng độc, phải tìm để thiêu đốt mới hết tật dịch. Long thần bảo: –Ta hận không giết bọn tôi tớ. Các thương khách hỏi vị thần: –Vì sao ngài giận ghét họ như vậy? Long thần nói: –Các ngươi đã từng nghe ở nước kia có một chú bé rất dũng kiện tên ấy không? Thương khách thưa: –Chúng tôi có nghe danh, nhưng người ấy đã chết rồi mà! Long thần bảo: –Đó là thân trước của ta. Ta thời ấy khi còn sống ưa lấn hiếp, hại người trong nước. Ngay từ đầu không ai dạy bảo, quở trách ta mà chỉ có khen ngợi ta mà thôi. Do lỗi lầm ấy mà nay ta phải đọa vào loài rắn độc, nên ta muốn giết hết họ vậy. Vì chuyện này, cho nên chúng ta phải cố gắng can gián những sai lầm của người khác; luôn luôn sống thuận thảo với nhau. Cũng chớ nương vào những thế lực nhất thời để lấn hiếp người, vì như thế sẽ phải chịu khổ đau, đọa lạc trong ba đường ác, làm thân quỷ thần, chỉ có thể nghe tiếng mà không thấy hình dáng ở đâu cả.  32- Ngày xưa ở nước Ba-la-nại, có năm trăm người mù đi xin ăn khắp nơi, gặp lúc đói kém rất khó kiếm thức ăn. Họ cùng bàn luận với nhau: –Đức Phật hiện đang ở tại thành Xá-vệ, Ngài thường dạy người phải nhân ái và bố thí. Chúng ta hãy tìm đến nước đó, mới có thể kiếm sống được. Sau đó họ tìm thuê một người để dẫn đường. Vị ấy chịu hướng dẫn với giá mỗi người mù phải trả một đồng tiền vàng, thì ông ta hứa sẽ đem họ đến nước đó. Khi đến đoạn đường khó đi, người hướng dẫn nói với những người mù: –Con đường chúng ta sẽ đi qua rất nguy hiểm, các ngươi đem tất cả tiền bạc giao cho ta. Nếu gặp giặc cướp thì ta sẽ cất giấu cho. Những người mù nghe nói vậy, đều đem tiền bạc giao phó hết cho anh ta. Người kia khi đã có tiền bạc liền bỏ đi, các người mù đi quanh quẩn vài ngày, bị đó khát mà chẳng biết đường thoát thân. Với hoàn cảnh khó khăn như thế này họ chỉ biết hướng về Đức Phật và đều thành tâm khấn nguyện: –Đức Phật là Bậc Thần Thánh có nhiều năng lực. Xin Ngài thương xót chúng con, khiến cho chúng con thoát khỏi khổ nạn này. Khi ấy Đức Phật vận thần thông hiện ra trước mắt họ, dùng tay sờ đầu, nhờ đó mà những người mù ấy đôi mắt liền được sáng tỏ, mà cũng không còn cảm thấy đói nữa. Khi được sáng mắt, năm trăm vị ấy quá vui mừng và đều phát tâm nguyện theo làm đệ tử. Đức Phật mở lòng Từ bi hứa khả, tất cả năm trăm vị ấy, râu tóc đều tự rụng, y pháp, bình bát tự có đủ, thành tướng Sa-môn. Đức Phật vì họ mà giảng nói giáo pháp. Sau khi nghe xong, tất cả đều chứng quả A-la-hán; vận thần thông bay theo Đức Phật, trở về tinh xá Kỳ hoàn. Tôn giả A-nan bạch với Đức Phật: –Năm trăm vị này kiếp trước đã tạo tội gì? Tu phước gì mà phải gặp những hoàn cảnh đặc biệt như vậy? Đức Phật dạy: –Đời trước rất lâu xa, có một vị trưởng giả thuê năm trăm vị ấy làm công. Họ đều đã lấy tiền trước nhưng không chịu làm, mà rủ nhau bỏ trốn. Đã trải qua nhiều đời, nay phải chịu tai nạn này vậy. Trưởng giả thời ấy nay là người lấy hết tiền của những người mù này mà vẫn bỏ họ để đi. Nhờ vậy, nợ kiếp trước được trả xong, gặp Ta khai ngộ cho, tất cả đều được đạo quả. Tội, phước rõ ràng như vậy. Do con người tạo nghiệp không đồng, nên khi sinh ra ở đời, hoặc là để tạo nghiệp, hoặc là để trả nghiệp. Chúng ta không thể không cẩn thận.  33- Ngày xưa, có hai người thân thích gần gũi và hiểu biết lẫn nhau nên không bao giờ trái ý, mất lòng nhau. Sau đó có một người phạm phải tội chết, liền chạy đến người thân kia để nương tựa. Người kia không đón tiếp, lại lạnh lùng hỏi: –Ngươi là ai? Người phạm tội đáp: –Ta là người quen thường lo lắng cho ngươi đó. Nay có tội nên đến nhờ giúp đỡ. Người thân kia nói: –Khi bình thường là thân thích, ngươi giúp đỡ ta, nhưng nay ngươi gặp việc gấp thì phải tìm đường mạnh ai nấy đi, không như lúc trước được. Người phạm tội rất buồn, tự nghó: “Ta lúc bình thường cùng với nó thân cận tới lui, ăn uống, lo lắng cho nhau, không một phút xa lìa. Nay gặp khó khăn, sao đành lìa nhau, nó thật không phải là người bạn tốt!” Người phạm tội kia buồn khổ đi vào trong núi, sau đó lại được gặp một vị Thiện tri thức, vị ấy lại vui vẻ đón mừng, mở cửa mời vào, tìm cách che chở và nói: –Lúc trước ngươi với ta tuy tình cảm sơ sài, nhưng nay ngươi gặp khó khăn, ta sẽ đem ngươi đến chỗ an ổn. Vị ấy liền dùng xe chở nhiều của báu và tự mình đưa vị ấy đến một nước khác, dẫn đến gặp gỡ, thăm viếng, làm quen với vua chúa, trưởng giả, rồi vì ông ta mà tạo lập cung điện, nhà cửa, sắp xếp ruộng vườn, tiền bạc, vật báu, cung cấp cho đầy đủ tất cả rồi mới trở về. Đức Phật thấy việc này đều có trong mỗi người chúng ta nên dẫn làm thí dụ. Kẻ lanh lợi bị phạm tội ví cho tinh thần của con người chúng ta. Người bạn thân gần là ví cho thân tứ đại. Thiện tri thức là ví cho phước nghiệp của con người làm các công đức như giữ gìn Tam quy, Ngũ giới. Người kia khi còn sống chỉ biết cung dưỡng thân tứ đại, thường đem đồ ăn uống ngon, áo mặc đẹp, thuốc thang, chỗ ở, tạo điều kiện giúp đỡ cho thân không thiếu thốn. Khi vô thường đến phải đọa vào địa ngục ác thú, đến cầu xin thân tứ đại kia trốn tránh trong khoảnh khắc. Thân tứ đại lại lạnh lùng đóng cửa, không xem thân thích như trước nữa! Sau gặp thiện tri thức, vị tri thức này đem đến nước khác, đưa vào chỗ an ổn, cung cấp đồ cần dùng không có thiếu sót, ví như người có Bố thí, Trì giới, đến khi chết nhờ năng lực của phước đức dẫn đến cõi trời, ở trong cung điện bảy báu, mang áo đẹp, đồ ăn trăm vị của cõi trời tự nhiên đều có, vui sướng vô cùng. Vì vậy cho nên người sinh ra ở đời chớ đặt nặng việc ăn uống, nuôi dưỡng bản thân, mà chúng ta phải nên cắt giảm tạo phước đức để dành cho đời sau. Nếu như chỉ biết nuôi dưỡng thân tứ đại đâu có lợi ích gì! Người hiểu biết nên thực hành như vậy.  34- Sau khi Đức Phật vào Niết-bàn một trăm năm có một ông vua phụng thờ Thiên thần, thường tổ chức cúng tế lớn, dùng đến bò, dê, heo, chó, gà, vịt … mỗi loại hằng trăm con; tất cả đều giao phó cho vị phụ trách nhà bếp lo liệu. Trong các đầu bếp, có một vị đã thọ giới Ưu-bà-tắc. Ông ta nói với người giám sát việc bếp: –Tôi phát nguyện trì giới của Phật, không thể làm việc giết hại. Vị giám sát rất giận, đem câu phát biểu kia tâu với nhà vua, muốn vua trị tội người ấy. Khi gặp, vua hỏi: –Nếu ngươi cố ý trái lệnh ta, ta sẽ giết ngươi. Đầu bếp thưa: –Tôi là đệ tử của Phật, đã phát nguyện giữ gìn năm giới, thà chịu mất thân mạng, không thể trái lời Đức Phật dạy mà làm việc sát hại. Nếu theo lệnh vua mà phạm giới sát, khi chết đọa vào địa ngục trải qua muôn vạn năm tội hết mới được ra khỏi. Nếu được sinh làm người cũng thường bị chết yểu. Trái lại, nếu biết giữ gìn giới không sai phạm, dẫu bị vua giết, khi chết sẽ được sinh lên cõi trời. Nếu được hưởng phước ở cõi đời, tất cả mong cầu đều tự nhiên có. Vì vậy, nay vì lệnh vua mà chết tôi sẽ được chuyển sinh lên cõi trời. Quả báo của việc tạo tội và làm phước cách nhau rất xa. Nay tôi dẫu có bị chết cũng chấp nhận, không thể phạm giới. Vua nói: –Ta cho kỳ hạn bảy ngày sẽ dùng voi đạp chết ngươi. Nếu ngươi không chết, lời nói ấy mới có thật. Sau bảy ngày đã hết, cư só hóa như thân của Phật. Vua muốn nghiệm xem, cho năm trăm con voi đến chà đạp. Ưu-bà-tắc như pháp của Phật dạy, vận lòng thành, đưa bàn tay lên, dùng năm ngón tay tưởng thành năm hòn núi lớn, ở khoảng giữa mỗi núi có một con sư tử xuất hiện. Voi thấy sư tử hoảng sợ, đều quỳ xuống đất như khi Đức Phật còn tại thế. Nhà vua nhờ đó mới tin và biết có Phật. Sau đó vua ra lệnh bãi bỏ việc cúng tế, theo cư só hướng dẫn, để được thọ giới của Phật. Quan lại, nhân dân cũng đều phát tâm theo thọ giới tu học. Vị cư só này được vua tôn làm quốc sư. Người hiền đức trì giới sẽ giúp ích được nhiều người như vậy.  35- Ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế có một vị Ưu-bà-di sớm tối cúng dường Đức Phật, một lòng thành kính, chưa từng giải đãi. Đức Phật biết nên hỏi: Phật tử có chí nguyện gì? Cô ấy bạch Phật: –Nếu con có phước báo, nguyện đời này sinh được bốn người con. Đức Phật hỏi: –Vì sao muốn sinh bốn người con? Ưu-bà-di bạch Phật: –Nếu có bốn người con, khi chúng đã khôn lớn; con sẽ cho một người chuyên buôn bán kinh doanh kiếm tiền của, vật báu. Còn một người làm nghề nông, chăn nuôi gia súc, lúa gạo sẽ đầy bồ, lục súc tăng trưởng đầy nhà. Một người cho đi học, sau sẽ ra làm quan, ăn lộc vua, phúc ấm che chở cho cả gia đình. Người con cuối cùng sẽ xuất gia làm Sa-môn, khi thành tựu đạo quả, trở lại độ cho cha mẹ và tất cả mọi người. Cầu mong sinh được bốn người con là có ý như vậy. Đức Phật dạy: –Ngươi sẽ được như nguyện. Vị Ưu-bà-di rất vui mừng, đảnh lễ Phật lui ra. Sau này lập gia đình, cô ta chỉ sinh được một người con trai, thông minh sáng suốt. Người mẹ hết lòng mến thương ít ai so bằng. Người con khi đã lớn khôn, thưa với mẹ: –Vì sao mẹ để ý chăm sóc đến con nhiều như vậy? Mẹ nói với con: –Nguyên trước đây mẹ nguyện sinh được bốn người con, mà nay mẹ chỉ được có một mình con, nên tình thương và hy vọng của mẹ chỉ trông cậy nơi một mình con đó thôi. Rồi mẹ nói hết ý muốn của mình cho con nghe. Người con nghe xong rất thông cảm ý nguyện của mẹ. Người con trai sau đó lúc đầu đi kinh doanh buôn bán làm ăn. Chưa đầy một năm mà tiền của dư dả bạc ức, bạc triệu. Tiếp đến, dùng tiền ấy mua ruộng vườn, trâu bò, ngựa xe gia súc đầy đủ. Đến mùa thu hoạch lúa gạo rất nhiều. Khi đã dư dả tiếp tục học hành, sau được đổ đạt ra làm quan, vinh quy bái tổ, cưới vợ sinh được con trai, thành một gia thế hào phú nhất trong vùng. Sau người con suy nghó: “Sở dó mẹ ta mong sinh được bốn người con để mỗi người làm một việc. Nay ta thay thế đã làm xong hết ba việc. Chỉ còn một việc chưa xong. Nếu được xuất gia tu học nữa thì quá tốt đẹp. Mẹ hiền sẽ nói: Ý nguyện sinh bốn người con đã được trọn vẹn.” Trong tâm người mẹ cũng nghó: “Vốn trước đây ta mong sinh bốn người con để giao phó cho mỗi người một việc mà còn lo sợ làm không xong. Việc làm của con ta bây giờ hơn cả điều mong mỏi lúc trước. Nếu con ta được xuất gia tức có thể thành đạo.” Sau đó anh ta phát tâm xuất gia, cha mẹ, gia đình đều hoan hỷ. Anh hướng về Đức Thế Tôn nguyện làm Sa-môn tinh tấn tu hành, không bao lâu liền được đạo quả A-la-hán, trở lại độ thoát cha mẹ, gia đình và tất cả mọi người đều được phước đức, được đạo quả, ai ai cũng đều hoan hỷ vô cùng. Vì vậy cho nên khi làm phước phải phát nguyện, biểu lộ ý chí ở bên trong thì không nguyện gì mà không được thành tựu.  36- Ngày xưa có một bà lão chỉ có một người con đã lớn, sau do bị bệnh mà chết, bà mang tử thi con để ở gò mả. Vì quá thương con, làm mất tự chủ, bà than: –Ta chỉ có một người con để an ủi thân già, nay nó đành bỏ ra đi, ta làm sao có thể sống mà trở về một mình cho được! Bà ấy tính sẽ cùng chết chung với con nên không ăn uống đã bốn, năm ngày rồi. Đức Phật biết được, vì lòng từ bi dẫn năm trăm thầy Tỳ-kheo đi đến chỗ gò mả. Bà lão thấy Đức Phật từ xa đi đến, oai thần sáng chói, như người đang mê được ngộ, như say chợt tỉnh, liền đi đến chỗ Đức Phật đang trú, đảnh lễ đứng qua một bên. Đức Phật hỏi bà lão: –Bà cụ đến đây có việc gì? Bà ấy thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, con chỉ có một người con duy nhất mà nay đã chết. Vì thương con nên con cũng muốn chết theo! Đức Phật bảo bà lão: –Chắc bà muốn con sống phải không? Bà ấy thưa: –Nếu con tôi sống lại được thì tốt quá! Đức Phật dạy: –Bà hãy đi lấy lửa thắp hương để ta chú nguyện, may ra nó sống lại. Ngài lại dạy: –Nên đến lấy lửa nơi nhà nào xưa nay chưa có ai chết. Khi ấy bà đi tìm lửa, gặp nhà nào cũng hỏi: –Nhà này xưa nay chưa có ai chết phải không? Nhà nào họ cũng đều đáp như nhau: –Từ ông bà, tổ tiên, con cháu nhà nào mà khỏi có người chết! Trải qua cả mười nhà mà bà cũng chưa lấy được lửa, liền phải trở về chỗ Phật, bạch lại với Ngài: –Thưa Đức Thế Tôn, con đi khắp xin lửa, nhưng không có nhà nào là không có thân nhân đã chết, cho nên con không lấy lửa được. Đức Phật dạy: –Từ thuở khai thiên lập địa cho đến nay, không có ai sống mà không chết. Người trước có chết thì người sống mới có chỗ để sinh hoạt thuận tiện. Riêng bà sao lại không biết mà đòi chết theo con? Khi nghe dạy như vậy, tâm bà được cởi mở, rõ được lý vô thường. Đức Phật nhân đây nói pháp cho bà nghe. Nhờ nghe pháp bà liền được đạo quả Tu-đà-hoàn. Tại chỗ gò mả cao này có vài ngàn người đến xem, nhân đó nghe được pháp cũng đều phát tâm Vô thượng chánh chân đạo lý.  37- Ngày xưa có một người đàn ông có hai vợ. Người vợ lớn không có con; người vợ nhỏ sinh được một người con trai rất xinh đẹp, dễ thương nên bà rất vui mừng. Người vợ lớn trong tâm rất ganh ghét, nhưng bên ngoài giả mến thương như con ruột của mình. Chú bé khi được một tuổi, trong nhà ai cũng biết bà vợ lớn luôn tỏ vẻ thương mến chú bé, nên không ai còn nghi ngờ gì. Lúc ấy bà vợ lớn mới ra tay. Bà dùng một cây kim nhỏ đâm vào tai thật sâu, lấp dưới da thịt của chú bé. Đứa bé đau đớn kêu khóc, bỏ bú, nhưng mọi người trong nhà không ai biết lý do. Bảy ngày sau nó chết, bà vợ lớn cũng khóc. Riêng bà vợ nhỏ vì nghó nhớ thương con, buồn khóc suốt đêm không dứt, nằm dài không ăn uống. Về sau bà nhỏ biết bà lớn làm hại chết con mình, liền tìm cách báo thù. Bà đi đến chùa, tháp hỏi thăm các thầy Tỳ-kheo: –Thưa các Đại đức, người mong cầu thực hiện ý nguyện, nên tu công đức gì? Các thầy dạy: –Muốn đạt thành chí nguyện nên thọ trì giới Bát quan trai, chỗ mong cầu sẽ được như ý. Cô ta cùng Phật tử khác, đến quý thầy xin thọ giới Bát quan trai. Khi đã xả giới trở về nhà, bảy ngày sau thì chết, đời sau thọ sinh làm con bà vợ lớn. Bà lớn sau này, sinh được một người con gái rất dễ thương, nhưng chỉ được một tuổi đứa bé ấy chết. Bà lớn quá buồn thương, kêu khóc đau đớn còn hơn nỗi khổ của bà vợ nhỏ. Như vậy bà nhỏ chết đi rồi trở lại làm con bà lớn tới bảy lần, hoặc sống chỉ hai năm, ba, bốn, năm, sáu, hoặc bảy năm. Mỗi lần sinh trở lại đều đoan chánh, tốt đẹp hơn lần trước. Sau cùng, bà lớn sinh một bé gái được mười bốn tuổi đã hứa hôn với người, chỉ bệnh trong một đêm, sáng ra đã chết. Bà lớn khóc lóc, buồn đau không thể tả bỏ ăn bỏ uống, suốt đêm kêu khóc, rơi lệ tiếc thương; cố giữ thây con ở trong hòm không cho đậy nắp, hàng ngày nhìn ngắm tiếc thương. Đặc biệt sắc mặt cô bé khi chết mà còn đẹp hơn lúc còn sống. Hơn hai mươi ngày sau có một vị A-la-hán thấy tình cảnh như vậy, thương xót cố đến để hóa độ. Ngài đi đến nhà để khất thực. Bà sai người giúp việc đem cơm cúng dường. Ngài không chịu thọ nhận mà nói với người ở: –Ta muốn gặp bà chủ của ngươi. Người giúp việc vào nhà thưa: –Vị ấy muốn gặp bà chủ. Bà ấy nói: –Ta buồn đau muốn chết, làm sao có thể ra gặp Sa-môn? Ngươi vì ta đem vật thực cúng, rồi mời họ đi. Người giúp việc đem vật thực cúng Sa-môn, nhưng ngài vẫn cố không chịu đi. Sa-môn nói: –Ta chỉ muốn gặp chủ nhân. Cứ như vậy người giúp việc phải đi vào, đi ra vài ba lần, mà vị Sa-môn vẫn không chịu đi. Bà ấy sầu lo không biết tính sao. Vị Sa-môn cứ đứng ở đấy, không chịu đi, làm loạn ý định của bà. Không còn nhẫn nại được, bà liền nói với người giúp việc: –Hãy ra mời Sa-môn vào. Khi vị Sa-môn đi vào, thấy bà ta nhan sắc tiều tụy, đầu tóc rối bù, rủ xuống che lấp cả mặt. Sa-môn nói: –Bà vì sao mà phải như thế này? Bà ấy nói: –Tôi trước sau sinh được bảy người con gái, sáng suốt, dễ thương, nhưng đều chết yểu hết, còn riêng người con gái sau cùng này đã lớn, sắp đến tuổi cài trâm lại cũng vừa mới chết, khiến tôi quá buồn khổ. Vị Sa-môn nói: –Hãy sửa tóc, rửa mặt đàng hoàng, tôi sẽ nói chuyện cho bà nghe. Bà ấy cứ khóc không chịu dừng. Sa-môn gọi bà ấy nói: –Người vợ nhỏ của nhà này nay ở đâu? Người con trai của bà ta vì sao mà phải chết? Bà ấy khi nghe hỏi như vậy mới suy nghó: “Vị Sa-môn này vì sao mà biết được?”. Trong lòng bà hơi sợ hãi, e ngại. Sa-môn nói tiếp: –Hãy mau sửa soạn cho đàng hoàng, ta sẽ vì ngươi nói rõ cho mà nghe. Sau đó bà đã chịu vén dọn đầu tóc gọn gàng xong, vị Sa-môn lại hỏi lại: –Bà biết con trai của bà vợ nhỏ vì sao mà chết? Bà vợ lớn khi nghe hỏi thế, chỉ biết im lặng, không trả lời được, trong lòng hổ thẹn, không dám thưa. Vị Sa-môn nói tiếp: –Ngươi giết con trai người ta. Bà mẹ của nó buồn rầu áo não mà phải chết, cho nên nó cố đến làm con của ngươi trước sau bảy lần, đó là kẻ oan gia. Bà nhỏ muốn dùng việc ưu phiền, khổ độc, để giết hại ngươi. Bà bây giờ thử đến xem người con gái đã chết ở trong quan tài, để biết cô con gái cưng của ngươi bây giờ như thế nào? Bà ấy đến xem, thấy thân con hư hoại, rã rời, hôi hám không thể đến gần. Sa-môn hỏi: –Bà đã thấy và hiểu chưa? Vì sao bà còn cố tâm nghó đến? Bà vợ lớn rất hổ thẹn, liền sai người khiêng thây thối chôn gấp. Lúc ấy bà tỉnh ngộ, theo thầy Sa-môn cầu xin thọ giới. Thầy Sa-môn dạy: –Sáng ngày mai, hãy vào chùa làm lễ. Người con gái đã chết liền thọ thân rắn độc, biết bà vợ lớn đang đi xin thọ giới, nó nằm sẵn ở đường để đợi cắn chết bà ấy. Bà vợ lớn sáng mai đi đến chùa, con rắn bò ra chận đường không cho bà đi. Trời đã sáng, bà ấy rất sợ, suy nghó: “Ta muốn đến chùa gặp Sa-môn, ngài đã hứa cho thọ giới, con rắn này vì sao ngăn cản, không cho ta đi?” Vị Sa-môn biết được việc đó, liền đi đến chỗ ấy. Khi đã thấy ngài đến, bà rất mừng, liền tới trước làm lễ. Thầy Sa-môn nói với con rắn: –Ngươi nhiều đời làm vợ nhỏ của người khác, cùng nhau tạo nghiệp ác độc không thể cùng tận. Nay ngươi sinh ra ở đời bị bà lớn giết con, nhưng bà ấy đã khổ não vì bảy lần mất con. Những lỗi lầm của ngươi từ trước đều có thể độ được. Bây giờ bà ấy phát tâm đi thọ giới mà ngươi có ý xấu ác cố chận đường. Việc làm này của ngươi nếu không ăn năn sẽ đời đời đọa vào địa ngục, không có ngày ra khỏi. Nay ngươi bị làm thân rắn độc, là loài súc sinh, so ra đâu bằng bà này đang được thân người? Con rắn khi nghe được Sa-môn dạy như thế, mới sực nhớ đời trước của mình, phiền não oán hận mới được dẹp bớt, gục đầu trên đất không dám thở, suy nghó lời của Sa-môn vừa dạy. Thầy Sa-môn chú nguyện: –Nay hai ngươi nhiều đời đã làm khổ não cho nhau, lỗi lầm ấy đến nay nên chấm dứt. Từ nay về sau đừng dùng ác ý mà hại nhau nữa. Người và rắn đều tỏ lòng ăn năn, sám hối. Con rắn liền chết, được sinh trở lại làm người. Bà lớn khi nghe thầy Sa-môn dạy như vậy, tâm được khai ngộ, ý hiểu rõ, rất vui mừng, liền được đạo quả Tu-đà-hoàn, theo thầy Sa-môn vào chùa thọ giới, làm vị Ưu-bà-di. Do đây chúng ta nên biết: Con người đối với nhau nếu sinh ác ý, tạo tội, tạo ác nghiệp thì oan gia sẽ trở lại đối đầu với nhau mãi mãi, chúng ta không thể không cẩn thận.  38. Ngày xưa, ở nước Xá-vệ, buổi sáng có một cơn mưa máu rưới xuống, ngang rộng bốn mươi dặm. Vua và quần thần đều lấy làm lạ và rất sợ hãi. Vua cho mời các đạo gia có pháp thuật và các nhà chiêm tinh đến, đoán thử xem hiện tượng này hiền hay dữ. Có chiêm tinh gia thưa: –Ở sách xưa có ghi: “Tai họa của mưa máu là sẽ sinh người trăn, một loài ác độc.” Phải tìm khắp trong nước cho ra người ấy, để tách riêng, phòng ngừa tai họa. Vua nói: –Vì sao phải tách riêng? Chiêm tinh gia biết việc này, nói: –Đây là người rất độc hại khó có thể lường được. Khi ấy vua ra lệnh cho những đứa bé mới sinh, người mẹ phải bồng triệu tập về đây, dùng một cái bình trống, bảo mấy chú bé nhổ nước miếng vào trong đó. Nếu có chú bé nào nhổ vào bình liền thành lửa bốc cháy, như vậy sẽ biết đứa bé ấy là người trăn. Khi đã khám phá ra người trăn rồi, vua tôi cùng bàn: “Nên đem nó đến chỗ vắng người, trong nước có người đáng chết, mới đưa đến đó, người trăn sẽ nhả độc giết chết.” Như vậy trước sau những người có tội bị người trăn giết chết là bảy vạn hai ngàn người. Sau đó ở trong nước có một con sư tử xuất hiện, tiếng rống của nó vang xa bốn mươi dặm, người và vật nghe đều sợ hãi. Nó hung dữ, tàn hại, không ai chế phục nổi. Nhà vua lo sợ, chiêu mộ người tài năng trong nước, ai có thể trừ khử sư tử sẽ được tặng ngàn vàng và được phong cho một huyện, nhưng không ai dám hưởng ứng. Các quan tâu với đức vua: –Thưa, chúng ta dùng người trăn mới có thể trừ khử được. Vua ra lệnh cho sứ giả đến bảo với người trăn nên trừ khử con sư tử hung ác kia. Người trăn chấp nhận. Khi người trăn đi đến chỗ sư tử ở, nó thấy sư tử từ xa, liền đi thẳng đến trước đầu, sư tử chưa kịp hành động, đã bị người trăn cắn, dùng khí độc thổi vào, sư tử bật ngửa chết ngay. Từ đây nạn dữ đã qua, nhân dân an lạc. Sau này người trăn tuổi đã già lại hay bệnh, mạng sống không còn bao lâu nữa. Đức Phật thương cho người trăn đã tạo tội, một khi đã bị đọa vào đường ác thì rất khó mà được ra khỏi. Cho nên Ngài dạy Xá-lợi-phất: –Ngươi nên đến khuyến hóa người trăn để khiến cho nó thoát khỏi tội nặng phải đọa lạc lâu dài sau này. Ngài Xá-lợi-phất liền đi đến nhà người trăn, vận năng lực thần thông, đứng ngay trước mặt nó. Người trăn nổi giận nghó: “Ta chưa chết mà vị ấy dám coi thường, vào cửa không báo trước, lại đi thẳng đến trước mặt ta.” Nó liền phóng khí độc để hại ngài. Tôn giả Xá-lợi-phất dùng năng lực Từ bi mà đẩy khí độc ấy ra, gương mặt ngài càng sáng đẹp, một mảy lông cũng không động. Nó tiếp tục ba lần phóng độc khí mà không có thể hại được ngài. Người trăn biết đây là bậc Tôn quý, nhiều năng lực nên ác ý liền tiêu tan, niệm lành sinh khởi, dùng tâm hiền từ quan sát, chiêm ngưỡng ngài Xá-lợi-phất đến bảy lần. Ngài giảng dạy Phật pháp cho nó rồi trở về tinh xá. Sau đó người trăn trút hơi thở cuối cùng, khi ấy trời đất có chuyển động lớn. Hiền thiện đúng mức cũng chấn động trời đất. Tạo ác to lớn cũng chấn động như vậy. Lúc đó có vua nước Ma-kiệt đi đến thăm viếng Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, thưa: –Người trăn khi mạng chung, sẽ sinh vào cõi nào? Đức Phật dạy: –Nay người ấy đã được sinh lên cõi trời thứ nhất. Vua nghe Đức Phật dạy như vậy lấy làm lạ, liền hỏi Đức Phật: –Kẻ giết người, tạo tội như thế, làm sao lại được sinh lên cõi trời? Đức Phật dạy: –Do người kia khởi sinh tâm lành, chiêm ngưỡng toàn thân Xá-lợi-phất bảy lần. Nhờ công đức này mà được sinh lên cõi trời thứ nhất. Khi thọ mạng hết, lại được sinh lên cõi trời lần thứ hai, được sinh lên cõi trời bảy lần như thế. Sau cùng sẽ được quả Bích-chi-phật mà vào Niết-bàn. Vua bạch Đức Phật: –Tội đã giết bảy vạn hai ngàn người không thường mạng sao? Đức Phật dạy: –Khi ông ta chưa chứng quả Bích-chi-phật, thân ấy sắc vàng, đẹp như vàng ròng. Khi đang ngồi tónh tọa dưới gốc cây bên đường, nhiếp tâm nhập định. Lúc ấy có một toán quân rất đông, có đến hơn bảy vạn người đi qua thấy Bích-chi-phật cho là người bằng vàng liền lấy tượng ấy, dùng kiếm chặt phân nhỏ ra định nhau chia, nhưng xem kỹ lại thì chỉ là thịt, tất cả đều hối hận, trả gom thịt ấy trở lại một chỗ rồi bỏ đi. Bích-chi-phật nhân đấy mà vào Niết-bàn. Tội lỗi tạo đời nay, đến khi đó gom lại để thường mạng là xong vậy. Đức Phật dạy vua: –Gặp được bậc Thiện tri thức, dù chứa tội lớn như nước cao cũng có thể tiêu trừ được, mà nếu chịu khó tu hành còn có thể đạt đến đạo quả. Khi nghe Đức Phật dạy như vậy, vua và toàn thể đại chúng đều rất hoan hỷ, lễ Phật mà lui ra.  39- Ngày xưa có một thầy Sa-môn thường ngồi bên gốc cây tụng kinh, có chim bay đến đậu trên cây nghe kinh. Trong đó, có một con chim chuyên tâm nghe kinh, không nhìn bên phải, ngó sang bên trái, bị thợ săn bắn chết. Con chim này khi bị chết, tâm của nó không tán loạn, thần hồn liền sinh lên cõi trời, tự suy nghó: “Ta nguồn gốc từ đâu sinh lên đây?”. Khi đã biết rõ đời trước của mình, vị ấy liền trở lại dùng hoa trời rải dưới gốc cây, chỗ vị Sa-môn ngồi. Vị trời nói với thầy Sa-môn: –Con nương nhờ ân phước, đến lắng nghe Đạo nhân tụng kinh, nên khi bỏ thân chim, được sinh lên cõi trời. Thầy Sa-môn khi nghe tiếng nói của vị trời mà đời trước là chim, liền được dấu vết của đạo, trong khoảnh khắc không còn hiện thân. Vị trời trở về Thiên cung. Thầy dạy: Người học đạo, khi mạng sống sắp hết, nếu tâm không tán loạn, đời sau sẽ không đọa vào đường ác, đau khổ; mà còn nhớ được đời trước của mình từ đâu sinh ra, có thể nói lại nhân duyên đời trước của mình để chỉ bày cho người sau vậy.  40- Ngày xưa, khi Đức Phật còn tại thế, cách tinh xá Kỳ hoàn bảy dặm, có một ông lão rất khỏe, thường uống rượu. Đệ tử Đức Phật là thầy A-nan, đến khuyên can: –Nay Đức Phật đang ở gần đây, ông nên đến bái kiến Ngài. Ông lão nói: –Tôi nghe Đức Phật ở gần đây, ý muốn đến bái kiến Ngài. Đức Phật khéo dạy truyền trao năm giới cho người, trong đó có giới không được uống rượu. Nhưng tôi không uống rượu như trẻ nhỏ không được uống sữa, sẽ chết. Vì tôi cảm thấy không chịu được, nên không dám đến. Sau đó, ông ta lại đi uống rượu say mèm, trên đường trở về nhà, gặp gốc cây, dùng chân đá mạnh vào, ý muốn cho trốc gốc cây lên. Ông ta liền bị té nhào xuống đất như núi lớn sụp đổ, toàn thân trầy trụa, sưng bầm đau nhức. Ông tự nói thầm: “Ta uống rượu say sưa, kết quả là sự đau đớn này, có khoái thích gì đâu? Ngài A-nan thường khuyên ta đến viếng Đức Phật, ta không chịu vâng lời. Nay thân ta chịu đau đớn không thể tả, thật đáng ân hận!” Nghó xong, ông liền gọi mọi người lớn nhỏ trong nhà, nói: –Ta nay muốn đến viếng Đức Phật. Trong nhà ai nghe qua cũng đều kinh ngạc, vì ông xưa nay phản đối đi gặp Phật, nay sao ông lại muốn đến thăm. Ông ta nói rồi liền ra đi, đến dừng ở trước cửa tinh xá Kỳ hoàn. Khi ấy Tôn giả A-nan thấy ông lão đứng đó, ngài vội vã đến bạch với Đức Phật: –Thưa Đức Thế Tôn, cách Kỳ hoàn bảy dặm có một ông lão đến muốn gặp Đức Điều Ngự, đang đứng đợi ngoài cửa. Đức Phật dạy: –Ông lão không thể tự đến, năm trăm voi trắng cố sức dẫn đến đấy. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Thưa, con không thấy năm trăm voi, chỉ thấy ông ta đi một mình. Đức Phật dạy thầy A-nan: –Năm trăm voi trắng là thiện căn ở trong thân tâm của ông ta. Khi ấy Tôn giả A-nan gọi ông vào, ông đến trước Phật đảnh lễ rồi thưa: –Con lâu nay nghe Đức Phật ở đây, do vì ngu si che lấp, không chịu sớm đến để chiêm ngưỡng, mong Ngài tha thứ, diệt trừ tội lỗi cho con. Đức Phật hỏi ông ta: –Có năm trăm xe củi chất thành một đống lớn trên đất, muốn đốt hết, nên dùng bao nhiêu xe chở lửa? Ông lão bạch Phật: –Thưa, không cần dùng nhiều lửa, chỉ một đốm lửa như hạt đậu, trong khoảnh khắc sẽ cháy hết. Đức Phật lại hỏi: –Ông mặc áo này bao lâu rồi? Ông lão thưa: –Con mặc áo này đã một năm. Đức Phật hỏi ông ta: –Muốn giặc cái áo này cho sạch, cần thời gian bao nhiêu năm? Ông lão thưa: –Chỉ cần một đấu tro tốt, hòa với nước, giặt trong chốc lát liền sạch. Đức Phật dạy: –Tội của ông chất chứa cũng như năm trăm xe củi, lại cũng như cái áo cũ một năm bị dơ của ông vậy. Ông lão nghe Đức Phật dạy, hiểu được liền xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo và phát nguyện thọ trì năm giới. Khi ấy Đức Phật vì ông ta mà giảng pháp hơn vài trăm lời. Nghe xong, đột nhiên tâm ông được cởi mở, liền được vào địa vị Bất thoái chuyển.  41- Ngày xưa, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn một trăm năm, có đức vua tên là A-dục. Ông rất kiêu sa tạo cung điện, nhà cửa ngang rộng đến mười dặm. Sau khi xây dựng xong, vua triệu tập các nhà điêu khắc, họa só giỏi ở các tiểu quốc đến, ra lệnh cho họ tùy chỗ thích hợp mà đắp vẽ các hình tượng cho tuyệt đẹp. Ở phía Bắc nước Kế tân có một nước nhỏ. Vì ở xa nên họa só được đưa đến là người sau cùng. Anh ta nhìn xem trong cung điện, thấy khắp nơi trên vách, các họa phẩm và điêu khắc đều đã lấp đầy tất cả. Duy chỉ còn một tấm vách rộng năm thước ở một bên gần cửa ra vào là chưa đắp vẽ. Lại nhìn xem cảnh vật, anh ta đang phân vân, không biết sẽ vẽ gì đây? Ông tự suy nghó: “Ta trên đường về đây, có đi ngang qua một thị thành nhỏ. Ta thấy ở bên thành ấy có một ao nước, trong ao nước có hoa sen nở đầy. Đứng bên hồ ao có một người con gái rất đoan chánh, xinh đẹp, có tướng xứng đáng làm mẹ trong thiên hạ.” Đã hồi tưởng như thế, họa só liền dùng bút mực vẽ hình ảnh thành trì ao sen, có hoa đang nở đẹp và cuối cùng là hình tượng người con gái. Vừa vẽ xong thì nhà vua cũng vừa đi đến. Ông chưa vào cung điện đã thấy họa phẩm ngay này. Vua hỏi người cận vệ: –Người nào vẽ bức tranh này? Người hầu thưa: –Thưa, có một họa só đến sau vừa vẽ xong. Vua cho người mời họa só đến. Vua hỏi người họa só kia: –Bức họa này ngươi thấy hình thật mà vẽ hay tưởng tượng mà vẽ? Vị họa só đáp: –Thưa, hạ thần nhân thấy thật mà tạo hình, chứ không phải tưởng tượng. Vua hỏi: –Ngươi chỉ như hình thật mà tạo tượng, hay có vẽ vời thêm cho đẹp? Vị ấy thưa: –Thưa, thần không dám vẽ vời thêm, mà chỉ vẽ đúng như thật. Vua nhìn tướng biết người con gái này biết có thể làm mẹ trong thiên hạ. Sau đó vua sai sứ đi tìm người đẹp ấy về làm hoàng hậu. Sứ giả vâng lệnh đi đến nước kia. Khi gặp cha mẹ của cô gái, sứ giả thưa: –Vua sai chúng tôi đến đây mời rước hiền nữ của ông bà về làm hoàng hậu. Cha cô gái nói: –Con tôi đã gả đi lấy chồng rồi, làm sao đây? Sứ giả liền đi đến nhà người chồng của cô gái và nói: –Đức vua sai chúng tôi đi rước cô này, đường xa cách trở, ba năm mới đến được đây. Nếu anh chấp nhận vua là bậc chí tôn thì anh không nên thương tiếc, mà phải nhường vợ cho đức vua. Người chồng này là một Ưu-bà-tắc, anh tự suy nghó: “Con người thường vì tài sắc mà phải bị tổn thương nguy hiểm đến thân mạng. Nay nếu ta không chấp nhận thì có thể ta và cả thân thuộc sẽ bị hại.” Đã suy nghó như thế nên anh đành đem vợ giao cho sứ giả. Khi sứ giả trở về, dẫn cô gái ấy đến gặp vua, nhà vua rất vui mừng, liền mở yến tiệc phong làm hoàng hậu. Một hôm, hoàng hậu gặp bình hoa sen thơm đẹp, không dằn được lòng thổn thức liền bật khóc, nước mắt ràn rụa. Nhà vua thấy vậy, hỏi: –Vì lý do gì mà ái khanh phải khóc? Hoàng hậu thưa: –Nếu đức vua tha thứ tội cho thì thần thiếp mới dám thưa. Vua bảo: –Ái khanh cứ nói. Hoàng hậu thưa: –Hoa này có mùi hương tợ như mùi thơm nơi thân của người chồng cũ. Vì lý do đó mà thần thiếp khóc vậy. Vua giận nói: –Khanh bây giờ là mẫu nghi của thiên hạ, vì sao còn nghó đến kẻ bần tiện? Như vậy, ta sẽ giao cho thái hậu có cách sửa trị ngươi. Nhưng ta cũng cho sứ giả tìm gặp người chồng cũ để biết mùi thơm ấy thực hư như thế nào. Nếu không thành thật thì ta sẽ trị sau. Khi sứ giả đến thăm hỏi nhà người chồng cũ kia, người nhà thưa: –Vị hiền giả khi đã nhường vợ, anh ta đến thưa với cha mẹ xin xuất gia làm Sa-môn, nay đã được đạo quả A-la-hán. Sứ giả đến chỗ Đức Phật xin gặp Sa-môn và thưa: –Vua muốn gặp và xin cúng dường Đạo nhân. Vị Sa-môn nói: –Ta vốn không thật có, lấy gì để gặp ta? Sứ giả thưa: –Đức vua muốn cúng dường Đạo nhân. Sa-môn theo sứ giả về cung, được dẫn vào yết kiến đức vua. Khi vua đã gặp Sa-môn, mùi trong thân của vị này còn thơm hơn cả hương của hoa sen. Vua cũng còn nghi là vị này có thể dùng dầu thơm thoa vào thân, nên ra lệnh đem nước ấm cho ngài tắm. Nhưng khi tắm xong, mùi thơm lại càng tăng thêm. Vua lại ban lụa mới để thế y cũ. Khi đắp vào, mùi thơm trong thân tỏa ra gấp bội. Lúc đó, vua mới chịu tin, thưa với Sa-môn: –Ngài do nhân duyên gì mà mùi thơm đặc biệt như vậy? Xin ngài trình bày cho tôi được rõ. Sa-môn thưa: –Tôi đời trước thuộc dòng dõi Bà-la-môn. Từ xa thấy có Đạo nhân đang nói kinh, tôi liền chắp tay, vui vẻ đến lắng nghe và hết lòng tán dương vị Bồ-tát ấy, lại còn dùng một ít hương thơm đốt xông cúng dường. Do nhân duyên này, cho nên nay được phước báo thân có mùi thơm và cũng được đạo quả vậy.  42- Ngày xưa có hai cha con cùng ở chung một nhà thường đi vào núi chặt cây, phát rừng. Họ thấy dưới suối nước có vật gì óng ánh như vàng. Khi trở về nhà, người con xin cha đi đãi vàng. Nó thưa: –Con không dùng các vật khác, tất cả đều để lại cho cha, chỉ cho con một xe bò, hai hộc gạo, một ít cỏ khô và một cái rìu chặt cây. Người cha không cho đi, nhưng can gián một vài lần không được, người cha phải tùy thuận nhưng nói: –Ngươi chớ trở lại nhà này nữa. Người con đi vào núi cố đào tìm đãi vàng ở trong nước, ngày nào cũng làm mà không được gì cả. Người cha không yên tâm, đi đến xem cố quan sát xem thử vàng kia đúng vị trí của nó là ở đâu? Ông ngước nhìn lên núi, thấy vàng nằm ở triền núi, do đó mà có bóng hiện ở dưới suối. Người cha liền leo lên núi, dùng cây sào dài thòng xuống, đẩy những thỏi vàng rơi xuống đất. Người cha nói với con: –Con đã biết phương pháp tìm vàng là thế nào chưa? Đâu phải chỉ đào tìm bóng dáng dưới nước, thì đời nào có vàng được? Người con không biết cách tìm vàng là chỉ cho người không trì năm giới, chỉ chạy theo âm thanh sắc tướng. Đời sau thân người dễ gì gặp lại được. Người cha chỉ cho cách tìm vàng phải biết xem xét tận nguồn ngọn của nó. Cũng như người thọ trì năm giới do Phật chỉ dạy, lại thêm thực hành mười điều lành, sau được sinh lên cõi trời. Còn không thì thân người đời đời không mất, thường tinh tấn tu hành cũng sẽ được thành tựu quả Phật.  43- Ngày xưa vua trời Đế Thích rất thân thiện với vị trời Phạm thiên thứ bảy. Thời ấy Phạm thiên xuống cõi trời Đao-lợi để cùng Đế Thích vui chơi. Thấy Đế Thích không vui, Phạm thiên hỏi: –Vì sao ngài không được vui? Đế Thích nói: –Ngài có thấy chư Thiên trên cõi trời chúng ta lúc này bị giảm bớt đi không? Ở cõi dưới, mọi người không chịu làm việc thiện, đều bị đọa vào đường ác, khó sinh lên được. Còn các vị trên cõi trời, sinh xuống nhân gian, ít người được trở lại. Vì vậy cho nên tôi buồn. Trời Phạm thiên nói với Đế Thích: –Tôi đề nghị như thế này, ngài hóa làm một con sư tử rất hùng mạnh, còn tôi hóa làm Bà-la-môn. Chúng ta xuống cõi Diêm-phù-đề cùng dạy người trong thiên hạ làm việc lành. Nếu họ biết làm việc thiện, sau khi chết sẽ được sinh lên cõi trời. Bàn luận xong, hai vị liền biến hóa, cùng nhau hiện xuống một nước nọ. Sư tử đi đến đứng trước cửa thành, nói: –Ta muốn có người để ăn thịt. Mọi người nghe nó nói như vậy đều rất sợ hãi. Tất cả đến trước sư tử cúi đầu vái lạy, cầu xin mà nó cũng không chịu đi. Khi ấy vị Bà-la-môn nói với nhân dân trong nước: –Con sư tử này rất hung dữ, nếu đem tội nhân đáng chết khoảng ba mươi người cho nó, thì nó sẽ đi. Vua nước ấy nghe như vậy, liền xuất ngục đem ba mươi người phạm tội đáng chết, nạp cho sư tử. Sư tử khi nhận được người, lùa họ đi vào trong núi, nhưng chưa ăn người nào. Vị trời hóa làm Bà-la-môn nói với mọi người: –Các vị lúc này nên thọ trì năm giới và nhớ đến mười điều lành, làm cho thân, miệng, ý được thanh tịnh thì con sư tử này sẽ không dám ăn quý vị đâu. Mọi người cùng thưa: –Chúng tôi sẽ phải bị chết, ở đây còn ai biết để dạy chúng tôi làm lành đâu? Nếu được, xin ngài dạy cho chúng tôi. Khi ấy tất cả đều xin theo Bà-la-môn biến hóa ấy để thọ giới, nghe dạy việc lành. Nhờ vậy mà sư tử không ăn thịt. Sư tử nói: –Các vị biết cải ác làm lành, ta để cho các vị trở về. Tuy vậy, ta cũng đã biết tâm của các vị. Nếu người nào từ đây về sau không giữ gìn năm giới của Phật, ta sẽ bắt người ấy ăn thịt. Khi ấy ba mươi vị ấy được an tâm trỏ về nước, mọi người trong nước thấy vậy rất ngạc nhiên, đều đến thăm hỏi: –Các vị làm sao mà trở về được? Họ đều đáp: –Rất may, chúng tôi gặp một Bà-la-môn dạy chúng tôi giữ gìn năm giới của Phật và khuyên chúng tôi thường nghó và làm mười điều lành. Do đó sư tử không dám giết chúng tôi, mà còn tha cho chúng tôi trở về. Một hôm khác sư tử lại trở vào thành, người trong nước một lần nữa rất sợ hãi, họ đều theo ba mươi người kia xin thọ trì năm giới, tập làm việc lành. Sư tử thấy mọi người đã làm lành mới bỏ đi. Nó lại đến một nước khác. Như vậy, lần lượt sư tử và vị Bà la môn đi qua tám vạn nước, dùng mọi phương tiện để khiến cho thiên hạ làm việc lành; Sau khi chết nhờ đó mà họ được sinh lên cõi trời. Từ đây cõi trời trở lại đông vui thịnh vượng. Bồ-tát dùng phương tiện để độ người là như vậy, sau sẽ được thành Phật. Đức Phật dạy thầy A-nan: –Trời Đế Thích hóa làm sư tử thời ấy là tiền thân của Ta. Còn vị Phạm thiên hóa làm Bà-la-môn là tiền thân ông Ca-diếp vậy. Lúc bấy giờ Ca-diếp đã giúp Ta hóa độ mọi người trong thiên hạ, khiến Ta mau thành tựu Phật quả. Cho nên Ta đối với ông Ca-diếp muốn nhường tòa cùng ngồi là để báo ân thời ấy vậy.  44- Ngày xưa, vào thời Đức Phật Ca-diếp còn trụ ở đời, có một đức vua tên là Câu-tuần-ni, ông ta vì Đức Phật tạo lập tinh xá, khi đã hoàn thành thì dâng cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Đức vua có vị công chúa thứ bảy, trước đó phụng sự các Phạm chí, sau cô ta tin theo Đức Phật. Vì vậy, Phạm chí có ý xấu và ganh ghét. Một hôm vua nằm mộng thấy mười điều quái lạ, đem hỏi các Phạm chí. Các Phạm chí suy nghó điều mộng, muốn nhân đó hãm hại công chúa, nên nói với vua: –Mười điều mộng của vua không được tốt, nếu được ái nữ chịu thiêu thân cúng tế Thiên thần, đất nước mới được an lành. Vua nghe các Phạm chí nói như vậy, trong lòng không được vui. Thấy vậy công chúa hỏi vua cha: –Vì sao phụ vương không được vui? Đức vua nói cho công chúa nghe việc Phạm chí đề nghị. Công chúa thưa: –Nếu con chịu chết mà đem lại an lành cho muôn dân thì con xin nhận trách nhiệm. Công chúa hỏi các Phạm chí: –Bao nhiêu ngày nữa các ngài sẽ mở hội cúng tế? Các Phạm chí thưa: –Sau bảy ngày sẽ sửa soạn kịp. Công chúa thưa với phụ vương: –Ngày hy sinh của con cũng đã gần kề, mong vua cha chấp thuận cho con đến viếng Đức Phật lần cuối và cũng xin phụ vương thương con mà ra lệnh cho tất cả người ở ngoại thành phía Nam đưa tiễn con đi viếng Phật lần cuối. Đức vua thương con nên chấp nhận, ra lệnh cho dân ở phía Nam thành tiễn công chúa đi viếng Phật. Nhân đấy công chúa dẫn nhân dân đến chỗ Đức Phật đang ngự. Đức Phật vì tất cả mà nói pháp. Một ngày như vậy, người ở một phía thành tiễn đưa bốn ngày người ở bốn phía thành, tất cả đều đến chỗ Đức Phật nghe pháp và đều hiểu được chân lý. Công chúa lại tâu phụ vương xin người ở trong cung thành tiễn đưa, cũng như thế. Ngày thứ sáu, công chúa cầu xin vua, quan và tất cả quyến thuộc của vua quan, Phạm chí đều tiễn đưa và tất cả đều đến gặp Đức Phật, Đức Thế Tôn vì họ nói pháp, tất cả họ đều hiểu rõ chân lý giác ngộ. Lúc đó vua và mọi người đều biết các Phạm chí dối trá. Đức vua bảo các Phạm chí: –Các ngươi dùng mưu kế cố giết ái nữ của ta. Nếu ngươi không ăn năn theo Phật xuất gia làm Sa-môn thì ta sẽ đuổi ngươi ra khỏi nước. Các Phạm chí đã thấy lỗi và cũng không còn đường nào để lựa chọn, nên xin theo Đức Phật xuất gia làm Sa-môn. Tuy vậy, sau nhờ hiểu Phật pháp, họ tinh tấn tu hành, cũng được đạo quả A-la-hán. <卷 id="41126198">số 209 KINH BÁCH DỤ Tuyển soạn: Tôn giả Tăng-già-tư-na. Hán dịch:Đời Tiêu Tề, Tam tạng Pháp sư Cầu-na-tỳ-địa, người xứ Thiên trúc. <卷 id="41126200">PHẦN DUYÊN KHỞI (<註 n="1"/>*) Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ Đức Phật đang trú trong thành Vương xá, tại vườn Thước phong trúc cùng với các đại Tỳ-kheo, Bồ-tát Ma-ha-tát và tám bộ chúng ba vạn sáu ngàn người. Bấy giờ có năm trăm vị Phạm chí dị học ở trong chúng hội từ chỗ ngồi đồng đứng dậy bạch Phật: –Bạch Ngài, tôi nghe đạo Phật sâu xa, không đạo nào có thể sánh bằng cho nên đến đây thưa hỏi, xin Ngài giảng cho tôi. Đức Phật đáp: –Rất hay! Vị Phạm chí hỏi: –Con người có hiện hữu hay không? Đức Phật đáp: –Có hiện hữu mà cũng không có hiện hữu. Vị Phạm chí hỏi tiếp: –Như hiện nay có sao lại nói là không? Nếu như nay không có sao lại nói là có? Đức Phật trả lời: –Có sinh nên gọi là có, có chết nên nói là không. Vì vậy Ta nói là có hiện hữu và cũng không có hiện hữu. Lại hỏi: –Con người từ đâu sinh? Đức Phật đáp: –Người từ ngũ cốc sinh. Lại hỏi: –Ngũ cốc từ đâu sinh? Đức Phật đáp: –Ngũ cốc từ bốn đại: Đất, nước, gió, lửa sinh ra. Lại hỏi: –Bốn đại: Đất, nước, gió, lửa từ đâu sinh? Đức Phật dạy: –Bốn đại: Đất, nước, gió, lửa từ không mà sinh. Lại hỏi: –Không từ đâu mà sinh? Đức Phật đáp: –Từ vô sở hữu sinh. Lại hỏi: –Vô sở hữu từ đâu sinh? Đức Phật đáp: –Từ tự nhiên sinh. Lại hỏi: –Tự nhiên từ đâu sinh? Đức Phật đáp: –Từ Nê-hoàn sinh. Vị Phạm chí liền hỏi: –Nê-hoàn từ đâu sinh? Đức Phật dạy: –Những điều ngươi hỏi hôm nay muốn tìm hiểu sâu đến mức nào nữa? Nê-hoàn là pháp không sinh không diệt. Vị Phạm chí hỏi: –Bạch Đức Phật, Ngài đã nhập Nê-hoàn chưa? Đức Phật đáp: –Ta chưa nhập Nê-hoàn. Vị Phạm chí hỏi: –Nếu chưa nhập Nê-hoàn, sao Ngài biết được Nê-hoàn là an lạc vónh viễn? Đức Phật nói: –Nay Ta hỏi ngươi: Chúng sinh trong thiên hạ là khổ hay vui? Vị Phạm chí thưa: –Chúng sinh rất khổ. Đức Phật hỏi: –Thế nào gọi là khổ? Phạm chí thưa: –Tôi thấy chúng sinh khi chết đau khổ khó lòng chịu nổi cho nên biết chết là khổ. Đức Phật liền dạy: –Nay ngươi chưa chết mà cũng biết chết là khổ. Ta thấy mười phương chư Phật không sinh, không chết cho nên biết Nê-hoàn là an lạc vónh viễn. Khi đó, tâm ý năm trăm vị Phạm chí đều thông suốt, xin thọ năm giới, chứng quả Tu-đà-hoàn, trở lại chỗ ngồi như cũ. Đức Phật dạy: –Các ông lắng nghe cho kỹ. Nay ta sẽ vì các ông rộng nói các thí dụ.  KINH BÁCH DỤ <卷 id="41126201">QUYỂN 1 Người ngu ăn muối. Người ngu để dành sữa bò. Dùng gậy đánh vỡ đầu. Người vợ giả chết. Người khát gặp nước. Con chết muốn an táng trong nhà. Nhận người làm anh. Chàng nhà quê và kho vua ăn trộm. Khen cha đức hạnh. Nhà lầu ba tầng. Bà-la-môn giết con. Nấu nước đường. Người hay sân hận. Giết người dẫn đường để tế trời. Lương y bốc thuốc mau lớn cho công chúa con vua. Tưới mía bằng nước mía. Nợ năm tiền. Lên lầu mài dao. Đi thuyền roi chén bạc. Phê bình vua bạo ngược. Người phụ nữ cầu con.  <詞 id="41126202">1- NGƯỜI NGU ĂN MUỐI Thuở xưa có một chàng ngốc đến nhà bạn chơi. Người chủ đãi tiệc. Anh ta ăn không vừa miệng, chê không ngon. Người chủ nghe thế bèn bỏ thêm muối vào. Người ngu ăn cơm thấy ngon nên tự nghó: “Ngon như vậy là do muối, ít muối mà còn ngon như vậy huống chi dùng nhiều.” Chàng ngốc kia liền lấy muối ăn không, tưởng rằng ăn vào rất ngon nhưng trái lại vì thế mà mang bệnh. Ví như ngoại đạo nghe rằng: “Giảm bớt ăn uống có thể đạt đạo”, liền nhịn đói suốt bảy ngày hoặc mười lăm ngày, tự hành hạ mình mà không biết việc nhịn đói không lợi ích gì cho việc tu tập. Cũng giống như người ngu kia cho rằng muối ăn ngon nên lấy muối ăn không cho sướng miệng chẳng khác gì.  <詞 id="41126203">2- NGƯỜI NGU ĐỂ DÀNH SỮA BÒ Thuở xưa có một người ngu sắp có bữa tiệc mời rất đông khách, nên muốn để dành sữa bò cho đủ để đãi khách, bèn nghó: “Nay nếu ta mỗi ngày vắt sữa bò cất giữ thì lâu ngày sữa sẽ không ngon hoặc có thể bị hư. Chi bằng ta cứ để sữa chứa đầy trong bụng bò, đợi đến ngày đãi tiệc sẽ vắt lấy ra một thể.” Nghó thế rồi, ông bắt bò mẹ đem nhốt riêng biệt. Một tháng sau, đến ngày đãi tiệc, ông mời khách an tọa rồi dắt bò ra để vắt sữa đãi khách, nhưng sữa của con bò kia đã khô cạn. Bấy giờ, quan khách mọi người vừa bực bội vừa tức cười. Cũng như người muốn tu hạnh bố thí mà cho là: “Đợi đến lúc tôi có thật nhiều tài sản rồi mới bố thí.” Thế nhưng chưa kịp gom góp xong đã bị các nạn lũ lụt, hỏa hoạn, trộm cướp hoặc bị vua quan chiếm đoạt, hoặc bị vô thường lôi kéo chết đi không kịp bố thí. Giống như việc để dành sữa bò đãi khách của người ngu vậy.  <詞 id="41126204">3- DÙNG GẬY ĐÁNH VỠ ĐẦU Xưa kia có một chàng ngốc đầu không mọc tóc. Bấy giờ có một kẻ dùng gậy đánh lên đầu y hai, ba lần, lần nào cũng bị thương, nhưng chàng ngốc ta mặc nhiên chịu đòn không biết tránh đi. Người hàng xóm thấy thế hỏi: –Sao anh không tránh đi mà đưa đầu ra hứng đến nỗi vỡ cả đầu như thế? Chàng ngốc đáp: –Hạng người như kẻ kia chỉ biết kiêu ngạo, ỷ mình có sức mạnh mà không có trí tuệ, thấy đầu ta không có tóc, ngỡ là hòn đá nên dùng gậy đánh vỡ đầu ta đấy chứ. Người hàng xóm nói: –Ông tự bản thân ngu si mà không biết lại cho người kia là ngu. Nếu ông không ngu thì tại sao lại để cho hắn đánh đến vỡ đầu mà không biết tránh. Các vị Tỳ-kheo cũng vậy. Không biết vâng giữ đầy đủ giới đức, trao dồi trí tuệ, chỉ lo chăm sóc hình tướng, điệu bộ bên ngoài để thâu lợi dưỡng cũng như chàng ngốc kia bị người ta đánh lên đầu không biết tránh đến nổi phải bị thương tích mà còn nói rằng: “Hắn thật là ngu.” Những Tỳ-kheo này cũng thế.  <詞 id="41126205">4- NGƯỜI VỢ GIẢ CHẾT Xưa kia có chàng ngu cưới được người vợ rất đẹp nên rất yêu thương nàng. Nhưng người vợ không chung tình. Sau một thời gian quan hệ vợ chồng chung sống, lòng tà dâm trỗi dậy, nàng muốn bỏ chồng trốn theo người tình. Cô ta bí mật bảo một bà lão: –Sau khi tôi đi khỏi, bà hãy tìm một thi hài phụ nữ đem đặt trong nhà tôi, rồi bảo với chồng tôi là tôi đã chết. Bà lão đợi khi người chồng ra khỏi nhà liền đem một xác chết phụ nữ vào nhà anh ta. Người chồng trở về, bà ta liền nói: “Vợ anh chết rồi!”. Người chồng xem qua thi hài liền tin ngay là vợ mình nên làm đám tang, khóc lóc thảm thiết, lấy củi dựng giàn hỏa táng thi hài, cất giữ tro xương bên mình đêm ngày thương nhớ. Sau một thời gian, người vợ bị người tình nhàm chán, phụ bạc, liền quay về nhà thưa với chồng: –Tôi chính là vợ chàng. Chàng ngốc liền trả lời: –Vợ tôi chết đã lâu! Cô là ai mà đến đây nói dối là vợ tôi. Người vợ nói đến hai ba lần, chàng ta cũng nhất quyết không tin. Cũng như chàng ngốc kia, kẻ ngoại đạo nghe theo học thuyết sai lầm, tâm sinh mê hoặc, chấp thủ là chân lý, vónh viễn không thể sửa đổi được, dù được nghe giáo pháp chân chánh cũng không tin tưởng thọ trì.  <詞 id="41126206">5- NGƯỜI KHÁT GẶP NƯỚC Thuở xưa có một người ngu si, đần độn, đi đường rất khát nước, muốn tìm nước uống. Vào lúc trời nóng bức, chàng ta nhìn dợn nắng ngỡ là nước liền chạy tới, thời may gặp một con sông. Anh chàng cứ đứng tần ngần bên sông nhưng không uống. Có người thấy thế hỏi: –Anh đã khát khô cổ muốn tìm nước uống, nay đã đến chỗ có nước sao không uống? Chàng ngốc trả lời: –Nếu anh có thể uống hết nước dưới sông, tôi mới có thể uống hết. Nước sông nhiều như thế không thể nào uống hết nên tôi không uống. Cũng vậy, những kẻ ngoại đạo chấp chặt lý lẽ của mình, cho là không thể giữ trọn vẹn giới luật trong đạo Phật nên quyết không thọ giới. Do vậy, trong tương lai không được một chút đạo hạnh gì còn bị trôi lăn trong vòng sinh tử. So với chàng ngốc gặp nước không uống nên bị mọi người cười chê trên không khác.  <詞 id="41126207">6- CON CHẾT MUỐN AN TÁNG TRONG NHÀ Thuở xưa có một người ngu có bảy đứa con. Một hôm, bỗng có một đứa lăn ra chết. Thấy con chết, chàng ta muốn an táng thi hài con trong nhà còn mình thì bỏ nhà ra đi. Có người hàng xóm thấy vậy liền bảo: –Hai đường sống chết vốn khác nhau. Anh mau đem thi hài đứa bé ra ngoài chôn cất đàng hoàng. Sau lại để thi hài bé trong nhà, bỏ nhà ra đi như thế? Nghe người hàng xóm nói, lúc ấy, chàng ta nảy sinh một ý nghó ngốc nghếch: “Nếu không được an táng trong nhà, phải đem ra ngoài chôn, ta cần giết thêm môt đứa trẻ nữa để gánh hai đầu cho cân.” Thế rồi, chàng ta liền giết thêm một đứa trẻ nữa, gánh đến nơi xa, hoang vắng chôn. Mọi người nghe chuyện đó đều cười chê thậm tệ, cho là việc quái dị chưa từng có. Thí như Tỳ-kheo phạm một giới không ăn năn, sám hối, sửa đổi, lại mặc nhiên che giấu tội lỗi còn tự nói mình thanh tịnh. Khi có bậc hiền trí khuyên bảo: “Người xuất gia giữ gìn cấm giới như gìn giữ viên ngọc sáng không để tỳ vết. Nay ông đã vi phạm giới đã thọ tại sao không phát lồ sám hối?”. Tỳ-kheo phạm giới lại nói: “Nếu phải phát lồ sám hối những tội đã phạm thì hãy để sau này phạm nhiều giới bất thiện, lúc ấy hãy sám hối luôn một thể.” Cũng như người ngu trên đã bị chết một đứa con lại giết thêm một đứa nữa. Vị Tỳ-kheo ấy cũng giống như vậy.  <詞 id="41126208">7- NHẬN NGƯỜI LÀM ANH Thuở xưa, có một chàng tướng mạo khôi ngôi, thông minh, tài giỏi, lại rất giàu. Người đời không ai không khen ngợi. Bấy giờ có một gã ngốc thấy người ấy như thế liền nhận là anh mình. Chỉ vì người kia giàu có, gã ta muốn lợi dụng nên nhận là anh. Thế nhưng, khi thấy người kia trở nên nghèo khó, túng bấn thì y lại tuyên bố không phải là anh mình. Có người biết chuyện bảo: –Anh thật ngốc nghếch quá! Cớ sao vì danh tiếng giàu có nhận người dưng làm anh, rồi khi người ta nghèo khó lại phủ nhận không phải anh mình. Gã ngốc trả lời ngay: –Tôi chỉ vì mong muốn tiền bạc của anh ta nên mới nhận y là anh, chứ thật ra y không phải là anh tôi. Nếu như y đã lâm vào cảnh nghèo khó thì không phải là anh tôi nữa. Mọi người nghe lời gã nói không ai không cười khinh gã. Ngoại đạo cũng vậy. Nghe giáo pháp trọn lành của Đức Phật liền nỗi lòng tham nhận đó là của mình. Đến khi được bậc Thiện hữu khuyên nên tu hành thì chẳng chịu tu tập còn bảo: “Tôi vì lợi dưỡng cúng dường nên mới dùng lời dạy của Đức Phật dạy bảo chúng sinh, chứ chẳng phải thật tu thì cớ gì phải tu tập.” Như gã ngốc trên vì muốn tiền bạc nên tuyên bố người giàu có là anh, đến khi người kia túng thiếu lại nói ngược không phải anh mình, những kẻ ngoại đạo kia cũng như thế.  <詞 id="41126209">8- CHÀNG NHÀ QUÊ VÀO KHO VUA ĂN TRỘM Thuở xưa, có một anh chàng nhà quê lẻn vào kho vua trộm đồ rồi cao bay xa chạy. Sau khi vụ trộm bị phát giác, nhà vua liền sai người tầm nã khắp nơi và bắt được gã đưa về cung. Vua tra hỏi nguồn gốc chiếc áo. Gã ta biện bạch: –Chiếc áo này chính là vật gia truyền của ông cha tôi. Đức vua truyền lệnh cho y bận chiếc áo. Chiếc áo ấy vốn không phải là vật của y nên gã ta cứ loay hoay không biết cách mặc, thứ phải mang trên cánh tay lai đeo dưới chân, thứ phải thắt ngay lưng lại đội lên đầu. Vua thấy y như thế liền truyền gọi quan lại trong triều đến cùng xem xét, rồi phán: –Chiếc áo này nếu là vật gia truyền của ông cha ngươi thì ngươi phải biết cách mặc. Tại sao ngươi lại mặc vào lộn xộn như thế, thứ ở trên lại đưa xuống dưới mặc, chứng tỏ ngươi không biết cách mặc. Do vậy thấy rõ chiếc áo kia chắc chắn là ngươi lấy trộm, chẳng phải là vật gia truyền của ngươi. Trong chuyện này, nhà vua dụ cho Đức Phật, hoàng bào dụ cho giáo pháp, anh chàng nhà quê ngu muội dụ cho ngoại đạo trộm nghe Phật pháp, ăn cắp đưa vào trong giáo lý của mình rồi tự nhận là của họ. Thế nhưng, vì không giải thích được nên họ sắp xếp giáo lý của Phật một cách lung tung, lộn xộn; không thể biết được chân nghóa của giáo pháp. Cũng như gã nhà quê trên được chiếc áo quý của nhà vua, không biết rõ thứ tự trước sau nên bận vào một cách lộn xộn, những kẻ ngoại đạo kia cũng như thế.  <詞 id="41126210">9- KHEN CHA ĐỨC HẠNH Thuở xưa có người thường ngợi khen cha mình trước mặt nhiều người: –Cha tôi bản tánh rất nhân hậu, chưa từng làm hại hay trộm cắp của ai. Ông luôn nói chuyện một cách khẳng khái, trung thực và thường bố thí. Khi ấy, có một chàng ngốc nghe được lời trên bèn lên tiếng: –Đạo đức và việc làm của cha tôi còn tốt hơn cha anh nữa. Mọi người liền hỏi: –Cha anh có đức hạnh gì? Mời anh nói thử xem. Chàng ta trả lời: –Từ nhỏ đến giờ, cha tôi tuyệt hẳn dâm dục, hoàn toàn không bị dục nhiễm. Mọi người đều nói: –Cha anh nếu tuyệt hẳn dâm dục tại sao lại sinh ra anh! Kẻ ngu ngốc thế chỉ bị người đời cười chê mà thôi. Hạng người vô trí trên đời cũng vậy. Muốn tán dương chỗ tốt của người khác nhưng không hiểu rõ sự thật về người đó nên ngược lại trở thành lời mỉa mai, châm chọc giống như chàng ngốc trên có ý tán dương cha mình nhưng lời nói ra lại trở thành ngây ngô, sai lạc. Hạng người vô trí cũng như thế.  <詞 id="41126211">10- NHÀ LẦU BA TẦNG Thuở xưa có một người giàu có nhưng ngu độn. Một hôm, ông ta đến thăm một gia đình cự phú trong vùng. Thấy một tòa nhà ba tầng vô cùng mỹ lệ, cao rộng và sáng sủa, lòng ông ta rất thích, tự nghó: “Tiền bạc của ta cũng đâu có thua hắn, lẽ nào ta không xây được một cái nhà lầu như thế.” Về đến nhà, ông ta lập tức cho mời vị kỹ sư trưởng xây dựng đến hỏi: –Có phải ông đã làm tòa nhà lầu mỹ lệ kia không? Vị kỹ sư trả lời: –Vâng, chính là tôi làm. Nghe vậy, ông phú hộ liền bảo: –Nay ông hãy xây ngay cho tôi tòa nhà như của ông ta. Vị kỹ sư trưởng liền cho thợ khởi công đào móng, đắp nền, xây tường làm nhà. Ông nhà giàu ngu ngốc nọ thấy thợ tiến hành làm móng, xây tường, phòng ốc ngổn ngang, ngạc nhiên liền hỏi vị kỹ sư trưởng: –Các ông muốn xây cái gì vậy? Vị kỹ sư trả lời: –Thì làm nhà lầu ba tầng. Ông phú hộ liền nói ngay: –Tôi chưa cần hai tầng dưới. Ông hãy cho thợ xây ngay tầng trên cùng cho tôi. Vị kỹ sư trưởng liền bảo: –Việc ấy không thể nào được. Làm gì có việc không cất tầng trệt mà có thể xây tầng hai, không có tầng hai thì làm sao có thể xây tầng ba được. Gã nhà giàu ngốc nghếch vẫn nằng nặc: –Tôi nay không dùng hai tầng dưới. Ông chỉ xây tầng trên cùng cho tôi thôi. Mọi người lúc bấy giờ biết chuyện đều chê cười ông ta: –Không cất tầng một thì làm sao có thể xây tầng thượng cơ chứ! Câu chuyện này dụ cho một số người trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật không chịu nỗ lực, tinh cần tu tập, quy kính Tam bảo, lười biếng giải đãi mà lại mong cầu Thánh quả, còn tuyên bố: “Tôi nay không cần trải qua ba thánh vị bậc dưới chỉ mong chứng đắc tứ quả A-la-hán mà thôi.” Những người như thế cũng sẽ bị mọi người cười chê giống như ông nhà giàu ngu ngốc trên không khác.  <詞 id="41126212">11- BÀ-LA-MÔN GIẾT CON Xưa kia có một vị Bà-la-môn tự xưng là học rộng hiểu nhiều, luôn tự phụ là làu thông thiên văn, địa lý, thuật chú, tất cả các môn không môn nào không biết. Muốn phô trương tài năng bản lãnh của mình, ông ta bèn sang nước khác, ôm con mà khóc. Có người hỏi ông: –Vì sao ông khóc lóc như thế? Vị Bà-la-môn trả lời: –Đứa con nhỏ của tôi trong bảy ngày nữa sẽ chết. Tôi đang lo lắng con chết yểu nên đau xót mà khóc đấy thôi. Mọi người đều khuyên: –Mạng sống con người khó mà tính toán kiết hung, tốt xấu được. Biết đâu bảy ngày nữa con ông có thể không chết, ông vì sao lại khóc lóc thảm thiết như vậy, Ông ta liền nói: –Mặt trời, mặt trăng có thể mờ, sao trời có thể rơi chứ lời tiên đoán của tôi không thể nào sai lầm đâu. Rồi vì danh tiếng của mình, đến ngày thứ bảy, anh ta tự tay giết chết con mình để chứng minh lời tiên tri của mình. Sau bảy ngày, mọi người nghe con ông ta chết đều ca tụng: –Quả là bậc đại trí, lời ông nói không sai chút nào. Lòng họ rất khâm phục, tin tưởng, nên cùng nhau kéo đến tôn kính. Câu chuyện này dụ cho một số người trong bốn chúng đệ tử của Đức Phật vì tiếng tăm quyền lợi nên tự xưng là đắc đạo, ngu si đoạn mất tâm Bồ-đề, giả tướng từ bi đức độ. Do nhân ấy nên ở trong tương lai lãnh chịu quả khổ vô cùng giống như vị Bà-la-môn muốn chứng tỏ lời tiên tri của mình nên tự giết con, lừa dối mọi người vậy.  <詞 id="41126213">12- NẤU NƯỚC ĐƯỜNG Thuở xưa có một chàng ngốc làm nghề nấu đường. Một hôm, có ông phú hộ đến nhà thăm. Khi ấy, chàng ta tự nghó: “Ta đang nấu nước đường. Nên đem một ít nước đường đang nấu mời ông ta ăn thử.” Nghó vậy, anh ta thêm ít nước vào nồi mật đang đun trên lửa. Muốn nước đường mau nguội, anh ta ra sức quạt nước đường trong nồi đang đặt trên bếp lửa. Người bạn thấy thế bảo: –Anh không tắt lửa dưới lò mà cứ quạt mãi nước đường trong nồi thì làm sao mà nguội được. Mọi người có mặt khi đó đều cười nói lớn chế giễu anh ta. Chuyện này dụ cho ngoại đạo không nỗ lực diệt trừ lửa tham, sân, si đang bốc cháy trong tâm, chỉ biết hành xác khổ hạnh, nằm giường gai, thiêu đốt thân mình trong nắng gắt mà vọng cầu đạt đạo quả thanh lương, tịch tónh thì cuối cùng không có kết quả mà còn bị bậc Trí cười chê. Hiện tại chịu khổ, tương lai nhất định trôi lăn trong luân hồi sinh tử.  <詞 id="41126214">13- NGƯỜI HAY SÂN HẬN Thuở xưa có một người cùng bạn bè ngồi trong nhà bình luận phẩm hạnh của người khác. Anh ta nói: –Nhân cách, đạo đức của anh ta thì rất tốt, chỉ có hai tật xấu: một là tánh hay nóng nảy, hai là chạm việc hay lỗ mãng. Ngay lúc đó, anh chàng kia đi ngang qua nghe được lời ấy lập tức nổi giận đùng đùng, nhảy bổ vào nhà mắng chửi người vừa nói, rồi đấm đá anh ta một trận. Mọi người trong nhóm lên tiếng: –Tại sao anh lại đánh người ta như thế hả? Anh chàng trả lời: –Trước nay, tôi chưa từng bao giờ nổi giận hay lỗ mãng vậy mà hắn lại nói tôi hay nóng nảy, chạm việc hay lỗ mãng cho nên tôi đánh hắn. Người kia liền bảo: –Hiện giờ chính bộ dạng sân hận và lỗ mãng của anh đã chứng minh rồi đấy! Sao lại cho là nói xấu anh. Mọi người đều bực tức, trách mắng tánh hung bạo của anh ta. Thật đáng bị người đời khinh chê là ngu muội. Những kẻ đam mê rượu chè cũng vậy, chìm đắm trong men say, làm nhiều điều xằng bậy. Nghe mọi người chê trách lại sinh lòng oán trách. Thế nhưng nỗi khổ do hậu quả của rượu tạo ra đã chứng minh cho việc đó. Bọn họ cũng giống anh chàng ngu ngốc trên không muốn nghe lỗi của mình, khi nghe người khác phê bình lại muốn sinh sự, đánh lộn vậy.  <詞 id="41126215">14- GIẾT NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG ĐỂ TẾ TRỜI Thuở xưa, có một chàng thương gia dự định vượt biển buôn bán. Chuyến hải trình cần có một người dẫn đường mới có thể đi được. Do vậy, tất cả cùng nhau bàn tính để mời một người dẫn đường. Sau khi mời được một người dẫn đường, đoàn thương gia bèn khởi hành. Chẳng bao lâu, tàu ghé vào một vùng đất rộng. Tại đó có một đền thờ chư Thiên. Họ phải giết một người để hiến tế rồi mới có thể đi tiếp. Khi đó các nhà buôn cùng họp bàn: –Tất cả chúng ta đều là bè bạn, thân thích. Đã vậy thì làm sao có thể chọn một người để tế trời được. Trong đoàn, chỉ còn anh chàng dẫn đường kia. Chi bằng giết anh ta để hiến tế. Bàn tính xong, họ bèn giết người dẫn đường đem hiến tế chư Thiên. Cúng tế xong, muốn khởi hành thì mọi người trong đoàn đều lẫn lộn, quên mất phương hướng, chẳng biết đi về hướng nào. Cuối cùng, tất cả đều chết trong cảnh cùng khốn. Người đời cũng thế: Muốn vào biển Phật pháp để tìm châu báu cần phải lấy việc tu tập pháp hạnh lành làm Bậc Đạo Sư. Phá hủy hạnh lành thì mãi mãi không thoát khỏi con đường sinh tử mênh mông, trải thân trong ba đường khổ, chịu khổ não triền miên cũng như đoàn thương gia vào bể cả bao la lại giết người dẫn đường nên quên mất bến về. Cuối cùng đành tán thân trong cảnh khổ.  <詞 id="41126216">15- LƯƠNG Y BỐC THUỐC MAU LỚN CHO CÔNG CHÚA CON VUA Thuở xưa có ông vua sinh được một nàng công chúa. Ngày kia, nhà vua truyền gọi một vị lương y đến bảo: –Khanh hãy bốc một loại thuốc để công chúa uống vào lớn ngay tức khắc cho trẫm. Vị lương y thưa: –Thần có một phương thuốc rất hay uống vào có thể lớn ngay tức khắc nhưng phải đến phương xa mới có. Thần chỉ xin bệ hạ một điều là từ nay đến khi thần mang thuốc về, bệ hạ không được đến thăm công chúa. Đợi khi nào thần đem thuốc về cho công chúa uống xong, sẽ đưa công chúa diện kiến bệ hạ. Vị lương y lập tức lên đường đến phương xa tìm thuốc. Trải qua mười hai năm vị ấy mới đem thuốc về cho công chúa uống rồi đưa công chúa đến diện kiến đức vua. Nhà vua thấy công chúa đã trưởng thành, vui mừng kêu to: –Thật là Thánh dược! Con ta uống xong đã lớn ngay lập tức. Nhà vua truyền lệnh cho cận thần đem ngọc ngà, châu báu ban thưởng cho vị lương y. Người đương thời đều cười chê vua ngốc nghếch, không biết tính tuổi con mình nên khi thấy con đã lớn lại ngỡ do hiệu quả của thuốc. Người đời cũng thế, mong trở thành con người hiền thiện nên phát nguyện: “Tôi nay mong cầu đạo giải thoát, kính nguyện được gặp bậc Lương sư chỉ dạy để tôi thành ngay bậc Hiền nhân.” Vị Đạo sư dùng phương tiện dạy anh ta tọa thiền, tu quán giáo lý mười hai nhân duyên, dần dần nuôi dưỡng các đức hạnh lành cho đến khi đắc quả A-la-hán. Khi chứng quả A-la-hán, người ấy vô cùng hân hoan thốt lên: “Thật là nhanh chóng! Chính nhờ bậc Đạo sư nên chúng ta mới có thể sớm đạt được Diệu pháp tối thượng.”  <詞 id="41126217">16- TƯỚI MÍA Thuở xưa có hai người cùng nhau trồng mía. Cả hai người đồng ý lập ra một quy ước: Ai trồng mía lên tốt thì được thưởng, ai trồng lên xấu thì phải bị phạt. Bấy giờ, trong hai người, có một người suy nghó: “Mía thì ngọt, nếu là ép mía lấy nước rồi đem tưới cho cây mía thì chắc mía sẽ rất tốt, chắc chắn thắng hắn ta.” Nghó thế, muốn cho mía ngọt hơn, người ấy đem rất nhiều mía ra ép lấy nước tưới cho khoảng mía mới trồng. Thế nhưng kết quả lại trái ngược: tất cả mía mới trồng của anh ta đều hư hoại hết! Người đời cũng thế, mong cầu phước lành như giàu sang, phú quý mà lại chuyên ỷ mình giàu có, cậy quyền thế ức hiếp người lương thiện để chiếm đoạt tài sản. Rồi dùng tiền đó làm việc phước thiện mong được quả lành. Họ không biết rằng ngược lại trong tương lai sẽ gặp nhiều hoạn nạn cũng như việc dùng nước mía tưới mía nên tất cả mía đều mất trắng vậy.  <詞 id="41126218">17- NỢ NĂM TIỀN Thuở xưa có một thương gia cho bạn hàng vay năm tiền, mãi lâu không thấy trả, liền đến nhà đòi nợ. Trước nhà người kia có một con sông lớn. Ông phải mất hai đồng tiền đò để sang sông. Đến nơi không gặp người vay nợ nên ông đành quay về, sang sông lại tốn thêm hai đồng nữa. Thế là, vì đòi nợ năm đồng mà phải tốn đến bốn đồng. Chỉ vì ngại đi bộ mệt nhọc nên tiền nợ thì ít mà tiền trả tổn thất lại quá nhiều! Kết quả là bị mọi người chê. Người đời cũng thế, vì chút ít lợi danh, hủy hoại hạnh thanh cao, vì tư lợi không màng lễ nghóa, hiện tại phải mang tiếng xấu, tương lai phải chịu quả báo khổ đau.  <詞 id="41126219">18- LÊN LẦU MÀI DAO Thuở xưa có một người nghèo làm việc cho nhà vua rất cực khổ. Trải qua một thời gian dài, thân thể y càng suy yếu. Nhà vua thấy thế thương hại ban cho xác một con lạc đà. Anh chàng toan lột da xác lạc đà vua ban nhưng dao đã cùn nên vội đi tìm một viên đá để mài dao. Kiếm được đá mài trên lầu, chàng ta liền mài bén dao rồi xuống lầu bắt đầu công việc. Thế rồi, chàng ta cứ lên lầu xuống lầu nhiều lần để mài dao. Cuối cùng, quá mệt vì phải lên lầu xuống lầu mãi, chàng ta khiêng luôn xác con lạc đà lên lầu để tiện việc vừa mài dao vừa lột da. Hành động của anh chàng bị mọi người cười chê thậm tệ. Câu chuyện này dụ cho hạng người ngu phá hủy giới cấm, tích trữ tiền của rồi dùng đó để bố thí, cúng dường, tu phước cầu được sinh Thiên giới. Hạng người ấy chẳng khác gì chàng ngốc khiêng xác lạc đà lên lầu để tiện việc mài dao kia, bỏ công sức ra quá nhiều mà kết quả thu được lại rất ít.  <詞 id="41126220">19- ĐI THUYỀN RƠI CHÉN BẠC Xưa kia có một người lái thuyền vượt biển. Giữa đường, anh ta lỡ tay làm rơi một cái chén bằng bạc xuống nước. Anh ta liền khởi lên một ý nghó ngu ngốc: “Nay mình phải đánh dấu để nhớ vùng nước này, rồi cứ để đó mà đi. Sau này sẽ lặn xuống lấy.” Đi được hai tháng, đến nước Sư tử, chàng ta gặp một con sông liền lặn xuống nước để tìm cái chén bạc đã mất. Có người hỏi: –Anh muốn tìm gì vậy? Anh ta trả lời: –Trước đây, tôi đã đánh rơi một cái chén bạc. Nay muốn tìm lại. Người ấy liền hỏi: –Anh làm rơi ở chỗ nào? Chàng ta trả lời: –Tôi đánh rơi khi mới ra biển. Người kia hỏi tiếp: –Mất độ bao lâu rồi? Anh chàng đáp: –Đã mất trước đây hai tháng. Người ấy lại hỏi: –Mất hai tháng trước đây mà sao lại tìm ở đây? Chàng ta liền đáp: –Khi đánh rơi cái chén, tôi đã vạch nước làm dấu để nhớ. Chỗ nước mà tôi đánh dấu và chỗ nước ở đây đâu có khác nhau, cho nên tìm ở đây. Người ấy cười hỏi: –Nước tuy không khác nhau nhưng anh đánh rơi đồ ở chỗ khác, nay lại tìm ở đây thì làm sao có thể tìm được. Lúc bấy giờ, mọi người đều phá lên cười giễu. Ngoại đạo cũng như thế: Không tu tập theo hạnh chân chính, cho rằng các hạnh lành đều như nhau nên chọn ngay lối tu khổ hạnh để cầu mong giải thoát. Bọn họ cũng như chàng ngốc trên mất chén bạc ở một nơi mà lại tìm ở một nơi khác vậy.  <詞 id="41126221">20- PHÊ BÌNH VUA BẠO NGƯỢC Thuở xưa có một người kể tội vị vua đương thời, phê phán rằng: –Nhà vua hiện nay tánh tình bạo ngược, trị nước bất công. Lời ấy truyền đến tai vua, vua liền nổi giận lôi đình nhưng vẫn không tra xét được ai đã nói ra lời ấy. Sau đó, vua nghe lời nịnh thần, ra lệnh bắt một vị hiền thần, xử hình phạt tùng xẻo, lóc nơi xương sống lấy một trăm lạng thịt. Có người chứng minh được vị hiền thần kia không nói lời đó. Lòng vua rất hối hận, nên lệnh đem một ngàn lạng thịt đắp trả lại nơi xương sống của vị quan kia. Suốt đêm vị hiền thần đau đớn rên rỉ, khổ não vô cùng. Vua nghe tiếng rên la liền hỏi: –Sao ngươi còn rên la khổ não như vậy? Ta đã trả lại gấp mười lần số thịt đã lấy cho ngươi. Hẳn là ngươi cho là chưa đủ chăng? Cớ sao lại đau khổ như thế? Có vị quan thân tín tâu: –Tâu đại vương, nếu như chặt một cái đầu thì dù có lại được một ngàn cái đầu cũng không tránh được cái chết. Dù được gấp mười lần số thịt đã mất, ông ta cũng không khỏi đau đớn, khổ não được. Người ngu cũng thế, không sợ quả đời sau, tham hưởng thú vui hiện tại, gây tạo khổ não cho chúng sinh rồi lại đem nhiều tiền của đền bù, phân phát cho mọi người, tưởng rằng tội chướng kia được tiêu trừ, hưởng phúc báo vô tận. Hạng vị ấy cũng giống như vị vua kia nạo xương sống róc thịt người rồi đem thịt đắp vào đền trả, ngỡ rằng người kia không đau đớn, bình yên vô sự.  <詞 id="41126222">21- NGƯỜI PHỤ NỮ CẦU CON Thuở xưa, có một nàng thiếu phụ đã có một con nhưng lòng vẫn mong ước có thêm một đứa nữa. Nàng ta liền đi hỏi các phụ nữ trong vùng: –Trong các chị, có ai biết cách xin hướng dẫn cho tôi sinh được một đứa con nữa. Có một bà lão lên tiếng bảo cô ta: –Tôi có cách để cô có thể sinh con nhưng trước tiên cô phải cúng chư Thiên đã. Nàng thiếu phụ bèn hỏi bà lão: –Thế lễ cúng cần những gì? Bà lão nói: –Giết đứa con kia của cô, lấy máu cúng chư Thiên thì chắc chắn sẽ sinh được nhiều con. Vừa nghe xong, nàng ta theo lời bà lão toan giết con mình. Một người bạn sáng suốt biết chuyện liền chê cười quở trách: –Sao cô lại ngu ngốc hồ đồ đến như thế! Đứa con chưa sinh không biết có sinh được không mà nay lại toan giết đứa còn sống. Người ngu cũng như nàng thiếu nữ kia. Vì mong cầu sinh lên các cõi trời nên tự hành hạ xác thân. Niềm vui ở cõi trời chưa thấy mà hiện tại xác thân phải chịu thiêu đốt trong vô vàn điều đau khổ, bức bách. KINH BÁCH DỤ <卷 id="41126223">QUYỂN 2 Ra biển tìm trầm. Kẻ trộm dùng gấm bọc áo vải thô. Trồng mè rang. Nước và lửa. Bắt chước vua nháy mắt. Trị thương. Đổi mũi cho vợ. Người nghèo đốt áo vải thô. Người nuôi dê. Mời thợ đúc đồ sứ. Thương gia trộm vàng. Đốn cây lấy trái. Dâng nước ngọt. Tấm gương trong rương báu. Móc mắt tiên nhân. Giết đàn trâu. Uống nước trong khe. Bắt chước bạn sơn nhà. Trị bệnh hói đầu. Quỷ Tỳ-xá-xà.  <詞 id="41126224">22- RA BIỂN TÌM TRẦM Thuở xưa có một vị trưởng giả ra biển tìm trầm. Trải qua nhiều năm gom góp được hơn một xe trầm, ông ta liền trở về nhà, đem ra chợ bán. Nhưng giá trầm rất cao nên chẳng ai chịu mua. Nhiều ngày ròng rã không bán được đồng nào, lòng ông sinh ra mệt mỏi, buồn phiền vô cùng. Thấy người bán than bên cạnh bán rất đắt, ông liền nảy ra ý định: “Nếu đã không bán được, chi bằng ta đem trầm đốt thành than. Chắc có thể bán được rất nhanh.” Nghó xong, ông đem hết trầm đốt thành than rồi đưa ra chợ bán mà không biết rằng giá trị một xe than không bằng một nửa giá trị của xe trầm. Những kẻ mê muội trên đời này cũng vậy. Nỗ lực tinh tấn tu tập vô lượng hạnh lành chỉ mong cầu Phật quả. Nhưng chỉ vì ngại khó nên sinh tâm thoái thất nghó rằng: “Nếu Phật vị khó thành như thế chi bằng phát tâm tu tập cầu quả vị Thanh văn, có thể mau dứt đường sinh tử, chứng quả A-la-hán.”  <詞 id="41126225">23- KẺ TRỘM DÙNG GẤM BỌC ÁO VẢI THÔ Thuở xưa có một kẻ trộm lẻn vào nhà một gia đình giàu có trộm được một mớ vải gấm và một số đồ vật khác. Để tiện mang đi, y lại dùng vải gấm bọc bên ngoài mớ quần áo cũ và các thứ đồ trộm khác. Tới khi mang ra ngoài liền bị mọi người cười đùa, nhạo báng. Những người mê muội trên đời cũng thế. Từ lòng tin phát tâm tu tập các pháp lành, vun bồi công đức, nhưng chỉ vì tham đắm danh lợi, phá hủy tịnh giới, tiêu hoại mọi công đức đã tạo nên bị người đời cười khinh giống như tên trộm kia vậy.  <詞 id="41126226">24- TRỒNG MÈ RANG Xưa kia, có một chàng ngốc ăn mè sống thấy không ngon, liền đem rang lên ăn thử cảm thấy ngon. Anh ta tự nghó: “Nếu ta rang chín mè giống rồi mới đem gieo chắc hẳn mè sẽ ngon lắm.” Thế rồi chàng ta đem tất cả mè giống ra rang hết, rồi đem gieo. Kết quả chẳng mọc được cây nào cả. Người đời cũng thế. Nghe kinh dạy: “Chư Bồ-tát trải qua vô số kiếp cần khổ tu hành, làm những việc khó làm”, họ cho là quá khó tu, nghó rằng: “Nếu không thể tu tập Bồ-tát hạnh, nay tu theo A-la-hán quả mau chóng đoạn sinh tử thì dễ hơn rất nhiều.” Trong tương lai muốn cầu Phật quả thì trọn không thể được. Ví như mè giống đã rang đem trồng không thể mọc được, những kẻ mê muội trên đời cũng như thế.  <詞 id="41126227">25- NƯỚC VÀ LỬA Thuở xưa có một người có việc cần dùng lửa và nước lạnh. Anh ta đổ đầy nước vào nồi để lát nữa tắm và để giữ lửa khỏi tắt anh ta lại đặt nồi nước lên trên bếp lửa. Một lát sau, khi anh ta muốn dùng lửa thì lửa đã tắt ngấm, muốn dùng nước lạnh thì nước lại nóng. Cả lửa và nước đều không dùng được. Người đời cũng thế. Phát tâm xuất gia và đạo để cầu giải thoát, nhưng khi đã xuất gia thì lại tưởng nhớ đến vợ con, họ hàng thân thuộc, say đắm thú vui năm dục của thế gian. Do vậy, tự thân làm mất hết lửa –công đức và nước– trì giới. Hạng người say mê dục lạc cũng lại như thế.  <詞 id="41126228">26- BẮT CHƯỚC VUA NHÁY MẮT Xưa kia có một anh chàng muốn lấy lòng vua bèn dò hỏi mọi người: –Tôi phải làm sao để vua ưng ý? Có người lên tiếng: –Nếu anh muốn được lòng vua, phải bắt chước theo điệu bộ, cử chỉ của ngài. Người ấy nghe xong liền đến chỗ vua. Thấy nhà vua nháy mắt, anh ta cũng bắt chước nhấp nháy đôi mắt. Nhà vua thấy thế liền hỏi: –Ngươi bị bệnh hay bị gió thổi bụi vào mắt mà sao lại nháy như thế? Gã ta liền trả lời: –Mắt thần không có bệnh gì cả, cũng không bị bụi rơi. Chỉ vì thần muốn được lòng bệ hạ nên thấy bệ hạ nháy mắt thần cũng nháy mắt theo mà thôi. Đức vua nghe lời ấy liền nổi giận lôi đình, lệnh cho quân đánh đòn một trận rồi đuổi ra khỏi nước. Người đời cũng thế. Muốn được gần gũi Phật pháp để tu học, mong được tăng trưởng căn lành. Thế nhưng, khi đã được gần gũi Phật pháp lại không hiểu rằng Đức Phật Như Lai, Đấng Pháp Vương vì chúng sinh nên hiển bày nhiều phương tiện, thuyết giáo lý vừa tầm hiểu biết của chúng sinh. Người ấy nghe giáo lý ấy, dựa vào câu chữ, ngôn từ không hay nên sinh lòng cười chê, phỉ báng hoặc rập khuôn theo ngôn từ một cách máy móc mà không hiểu rõ. Do vậy, ở trong Phật pháp mất hẳn lợi ích, sau này bị rơi vào ba đường dữ, cũng giống như chàng ngốc bắt chước vua ở trên vậy.  <詞 id="41126229">27- TRỊ THƯƠNG Thuở xưa có một người bị vua phạt đánh đòn, bị thương rất nặng. Muốn mau lành, người ấy lấy phân ngựa xoa vào vết thương. Một chàng ngốc thấy thế, lòng rất vui mừng thốt lên: –Hay quá! Ta vừa biết một phương thuốc trị thương. Y lập tức về nhà kêu con ra bảo: –Con hãy đưa lưng cho cha đánh. Cha vừa học được phương thuốc trị thương rất hay. Nay muốn dùng thử. Nói xong, y quất vào lưng con mình cho bị thương, rồi lấy phân ngựa xoa vào để trị thương. Làm xong, y tự cho mình là rất thông minh, khéo léo. Người đời cũng thế. Nghe dạy: “Tu quán bất tịnh là phương thuốc để trừ bỏ thân năm ấm”, liền nói: “Tôi muốn quán bất tịnh đối với nữ sắc và năm dục nhưng chưa gặp thì không thể quan bất tịnh được.” Thế nhưng, trái lại bị nữ sắc làm điên đảo, trôi lăn trong vòng sinh tử, rồi rơi vào địa ngục. Những kẻ mê mờ trên đời cũng lại như thế.  <詞 id="41126230">28- ĐỔI MŨI CHO VỢ Thuở xưa, có một người có cô vợ rất xinh nhưng chỉ có cái mũi thì hơi khó coi. Chàng ta ra đường gặp một cô gái có khuôn mặt khả ái, mũi nàng ta cũng rất xinh, liền tự nhủ: “Sao mình không xẻo lấy cái mũi xinh đẹp kia đem về gắn lên cho vợ mình, có phải nàng cũng xinh đẹp như vậy không?” Nghó xong, y liền xẻo ngay mũi của cô gái đẹp kia đem về nhà gọi vợ: –Em ra đây mau lên! Anh sẽ cho em một cái mũi rất xinh. Người vợ chạy ra. Y bèn cắt cái mũi của vợ rồi lấy cái mũi của người con gái kia ráp lên mặt vợ. Nhưng mũi đã không ráp được mà vợ y còn mất đi cái mũi của mình. Hành động điên rồ ấy làm cho vợ y càng đau đớn, khổ não hơn. Người mê trên đời cũng thế. Nghe các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, Trưởng lão nhiều đức độ được người đời cung kính cúng dường liền tự nghó: “Nay ta với những vị kia có khác gì nhau.” Rồi, lừa dối tự xưng mình có đức. Làm thế đã không được ai cúng dường mà còn làm tổn thương phạm hạnh của mình giống như hành động xẻo mũi người, tự làm thương tổn vợ mình ở trên. Người ngu trên đời cũng lại như thế.  <詞 id="41126231">29- NGƯỜI NGHÈO ĐỐT ÁO VẢI THÔ Thuở xưa có một người nghèo túng, khốn khổ làm thuê cho người được cho một tấm áo vải thô. Anh ta mặc chiếc áo ấy ra đường, có người thấy thế hỏi: –Anh vốn con nhà giàu sang, tử tế sao lại mặc chiếc áo vải thô như thế. Bấy giờ, nếu anh làm theo lời tôi, anh sẽ có bộ quần áo tốt nhất. Nhưng anh phải nghe theo tôi, tôi tuyệt đối không bao giờ gạt anh. Gã ta vui mừng theo lời. Người kia bèn đốt một đống lửa bên đường, rồi bảo y: –Nay anh hãy cởi chiếc áo vải thô đang mặc kia bỏ vào lửa đốt. Sau khi áo cháy xong, anh sẽ được một bộ quần áo thượng hạng. Người nghèo kia lập tức cởi áo bỏ vào lửa đốt. Đốt xong, anh ta đợi mãi vẫn không thấy áo quần đẹp nào hiện ra cả. Người đời cũng thế. Từ quá khứ tu tập các pháp lành nên có được thân người, cần phải bảo trọng thân này để tấn tu đạo đức. Nay chỉ vì nghe lời dối gạt của bọn ngoại đạo tà ác: “Ngươi phải tin lời bọn ta, nên tu khổ hạnh, hủy hoại thân này, nhảy vào hầm lửa thì có thể sinh lên cõi trời Đại phạm sống lâu muôn tuổi, hưởng rất nhiều khoái lạc.” Có người tin theo tự hủy thân mạng. Sau khi chết phải rơi vào địa ngục, chịu vô vàn đau khổ. Đã không biết bảo trọng lại còn hủy hoại thân này, những kẻ như thế chẳng khác gì gã nhà quê kia vậy.  <詞 id="41126232">30- NGƯỜI NUÔI DÊ Thuở xưa có một người nuôi dê rất khéo nên đàn dê của anh ta càng lúc càng nhiều đến hàng ngàn, hàng vạn con. Nhưng anh ta vô cùng tham lam keo kiệt không bao giờ để cho người ngoài đụng đến đàn dê của mình. Bấy giờ có một người rất xảo trá tìm cách tới lui kết thân với chàng nuôi dê nọ. Một ngày kia, hắn nói với chàng nuôi dê: –Nay tôi và anh tình thân như thủ túc, tuy hai mà một. Tôi quen biết một gia đình có nàng ái nữ rất xinh đẹp. Tôi xin vì anh đến cầu hôn để làm người nâng khăn sửa túi cho anh. Anh chàng nuôi dê nghe thế lòng mừng khấp khởi liền giao cho gã ta rất nhiều dê và các lễ vật, tiền bạc để cầu hôn. Một thời gian sau, gã kia trở lại báo cho anh ta: –Vợ anh hôm nay vừa sinh được một đứa con. Chàng nuôi dê tuy chưa từng gặp mặt vị hôn thê nhưng vừa nghe sinh con thì lòng vui mừng không xiết nên tiếp tục trao cho y nhiều dê tiền bạc và đồ vật. Sau một thời gian, gã nọ trở lại báo cho anh ta: –Hỡi ôi! Con anh nay đã chết rồi. Người nuôi dê nọ nghe gã nói xong liền kêu khóc thảm thiết, buồn khổ không nguôi. Người đời cũng thế. Sau một thời gian tu học có được kiến văn quảng bác nhưng vì danh lợi bản thân bảo thủ sở học không chịu giảng dạy, giáo hóa cho người; lại chìu theo dục vọng mê lầm của thân này, say đắm dục lạc thế gian như nghó tưởng đến việc vợ con, nên bị chúng dối lừa đánh mất mọi công đức lành. Sau khi tán thân mất mạng, tài sản tiêu tan mới khóc lóc bi thương, buồn khổ vô cùng như anh chàng nuôi dê kia vậy.  <詞 id="41126233">31- MỜI THỢ ĐÚC ĐỒ SỨ Thuở xưa, có một vị Bà-la-môn muốn tổ chức đại hội nên truyền dạy các đệ tử: –Thầy cần một số chén bát để dùng trong đại hội. Các con hãy đến mời một người thợ cả đúc đồ sứ cho thầy. Các đệ tử của thầy Bà-la-môn vội tìm đến nhà của người thợ đúc sứ trong thành. Khi ấy, có một người dắt một con lừa lưng chất đầy các loại đồ sứ đem vào chợ bán. Bỗng con lừa sẩy chân té quị xuống. Bao nhiêu đồ sứ trên lưng lừa rơi xuống đất bể tan tành. Người ấy trở về nhà buồn rầu, khóc lóc mãi. Một vị đệ tử thấy vậy liền hỏi: –Sao ông khóc than thảm não như vậy? Người kia đáp: –Suốt một năm ròng, tôi khổ công khó nhọc làm được một số đồ sứ đem ra chợ bán. Chỉ tại con lừa tệ hại này sẩy chân quị ngã khiến bao nhiêu đồ sứ bị vỡ cả nên tôi rất buồn phiền. Khi ấy vị đệ tử nghe xong mừng rỡ nói ngay: –Con lừa này là con vật rất quý. Chỉ trong khoảnh khắc có khả năng phá hết những gì ông tạo ra trong một thời gian dài. Nay tôi sẽ mua con lừa này. Người thợ đồ sứ vui mừng bán ngay con con lừa cho y. Khi y dắt con lừa trở về, vị thầy liền hỏi: –Tại sao con không mời một người thợ đồ sứ mà lại mua lừa đem về. Vị đệ tử trả lời: –Con lừa này còn giỏi hơn người thợ đúc đồ sứ nữa. Bao nhiêu đồ sứ người thợ làm trong vòng một năm, nó có thể phá vỡ hết chỉ trong giây phút. Vị thầy Bà-la-môn nghe xong liền mắng: –Con thật ngu ngốc quá, không có một chút trí tuệ nào! Con lừa này trong khoảnh khắc có thể phá nát bao nhiêu đồ sứ nhưng trải qua cả một trăm năm cũng không làm ra được một cái nào. Người đời cũng vậy. Trong trăm ngàn năm thọ nhận sự cúng dường của người mà không chút báo đền, còn luôn làm tổn thương họ. Hạng người ấy trọn đời không còn được chút lợi ích gì. Những kẻ vong ân lại cũng như thế.  <卷 id="41126234">32.THƯƠNG GIA TRỘM VÀNG Xưa kia, có hai nhà buôn cùng buôn bán ở một chỗ, người thứ nhất buôn vàng, người thứ hai bán bông vải. Bữa nọ, có người đến mua vàng. Người buôn vàng bèn đốt vàng để thử. Anh chàng buôn vải liền lén trộm một cục vàng đang thử giấu vào trong đống bông vải. Vàng đang cháy đỏ nên bao nhiêu bông vải đều cháy sạch. Việc trộm bị bại lộ mà bao nhiêu vải đều cháy hết, cả hai việc đều bị thất bại. Ngoại đạo cũng thế. Trộm lấy giáo lý của đạo Phật đưa vào trong giáo lý của họ, rồi nói dối là của mình không phải của đạo Phật. Do vậy tất cả kinh điển của họ đều chứa đầy mâu thuẫn không thuyết phục được ai cả. Cũng giống như hành động trộm vàng của người buôn bông vải kia cuối cùng phải bại lộ.  <詞 id="41126235">33- ĐỐN CÂY LẤY TRÁI Thuở xưa có một vị vua trồng được một loại cây rất quý, cao to xanh tốt đang ra quả ngọt lạ thường. Lúc ấy, có người đến viếng. Nhà vua bảo người ấy: –Trên cây này có đầy quả ngon ngọt, ngươi có muốn được ăn thử không? Vị khách đáp: –Thần cũng muốn ăn thử một quả nhưng cây này cao to thế làm sao hái được. Vua liền hạ lệnh đốn cây ngã xuống để hái trái nhưng không tìm được trái nào làm cho quân lính khổ nhọc. Sau đó, vua muốn dựng cây trồng lại thì cây đã chết khô không thể nào ra trái nữa. Người đời cũng thế. Đức Thích Tôn từng dạy chúng đệ tử công đức trì giới giống như cây đại thọ có thể sinh các quả thù thắng. Theo lời Phật dạy, một số Phật tử lòng sinh hoan hỷ muốn được quả lành nên nỗ lực trì giới, tu tập các công đức lành nhưng lại không thấu hiểu tường tận phương pháp: Khai, giá, trì, phạm nên trở lại hủy phạm cấm giới giống như vị vua ra lệnh đốn cây rồi lại muốn cây sống lại nhưng tất cả nỗ lực đều không hiệu quả. Người phá giới cũng lại như thế.  <詞 id="41126236">34- DÂNG NƯỚC NGỌT Thuở xưa cách kinh thành năm do-tuần có một ngôi làng. Trong thôn có một giếng nước rất trong, nước trong giếng ngon ngọt lạ thường. Nhà vua ra lệnh cho dân làng mỗi ngày phải chở nước về kinh thành. Dân trong thôn rất mệt mỏi nên muốn bỏ trốn đến phương xa. Khi ấy, vị trưởng làng nghe được liền bảo mọi người: –Các vị chớ đi đâu hết. Tôi sẽ vì dân trong làng tâu lên Hoàng thượng đổi năm do-tuần thành ba do-tuần để quý vị đi lại gần hơn, đỡ lao nhọc hơn. Vị tôn trưởng liền vào cung tâu lên vua sự việc. Nhà vua liền chấp thuận lời thỉnh cầu, hạ lệnh đổi năm do-tuần thành ba do-tuần. Người trong làng nghe được tin ấy đều vui mừng khôn xiết. Có người nói: –Tuy là như vậy nhưng so với năm do-tuần trước đây, con đường đâu có khác gì. Dù nghe người ấy nói, dân làng vẫn tin vào lệnh vua nên không ai chịu rời làng nữa. Người đời cũng thế. Đã phát tâm tu học chánh pháp, vượt khỏi năm đường hướng đến Niết-bàn. Nhưng nửa chừng tâm sinh mỏi mệt, thoái thất muốn rời bỏ dừng lại trong vòng sinh tử không muốn tu tập nữa. Đức Thích Tôn có đủ phương tiện, phân biệt pháp Nhất thừa thành Tam thừa. Những người có tuệ căn thấp kém nghe thế lòng rất vui mừng nghó là Phật pháp dễ tu nên tiếp tục nỗ lực tiến tu các công đức lành để vượt khỏi sinh tử. Sau đó, nghe dạy: “Thật ra không có ba thừa chỉ duy nhất một thừa”, bọn họ lại bảo thủ lời Phật dạy nên rốt cục không chịu xả bỏ quả vị Tiểu thừa. Những người ấy cũng như người trong làng kia vậy.  <詞 id="41126237">35- TẤM GƯƠNG TRONG RƯƠNG BÁU Thuở xưa có một người nghèo hèn khốn khổ, mắc nợ quá nhiều. Người ấy không có phương cách gì để trả nợ nên tìm đường trốn chạy. Đến một vùng đất rộng mênh mông bát ngát, y chợt bắt gặp một cái rương nhỏ, bên trong chứa đầy ngọc ngà, châu báu. Phủ lên trên châu báu là một tấm gương soi làm nắp đậy. Người nghèo kia thấy vậy rất mừng vui thò tay vào toan lấy của báu nhưng bắt gặp một người trong tấm gương, lòng hoảng sợ rụt tay lại nói với người trong gương: –Tôi ngỡ rương này không có chủ, không biết có anh ở trong rương. Mong anh đừng giận. Người đời cũng thế. Bị vô lượng điều phiền não làm cho khốn khổ, lại còn bị sự áp bức, ràng buộc của “ma vương trái chủ” trong vòng sống chết. Họ chỉ mong vượt thoát khỏi vòng sinh tử nên vào trong Phật pháp, tu tập các pháp lành làm mọi việc công đức ví như người nghèo kia gặp được rương châu báu. Nhưng chỉ vì tấm gương “thân kiến” làm nhiễu loạn nên vọng cho thân này có “ngã”, rồi lầm chấp vào đó. Cũng như người nghèo kia cho là châu báu đã mất hết, những kẻ trên do “chấp ngã” nên đối với các công đức pháp lành vô lậu như thiền định, các phẩm trợ đạo đều mất hết. Giống như kẻ ngu kia bỏ rương châu báu, người chấp “ngã kiến” cũng lại như thế.  <詞 id="41126238">36- MÓC MẮT TIÊN NHÂN Thuở xưa có một người vào núi học đạo. Sau một thời gian tu tập, vị ấy trở thành một vị tiên có năm loại thần thông. Mắt vị ấy rất vi diệu, có khả năng thấy được mọi loại châu báu quý giá ẩn tàng trong lòng đất. Quốc vương nước ấy nghe được tin này, lòng rất vui mừng, bàn với các quan trong triều: –Làm thế nào để có thể giữ vị ấy luôn ở trong vương quốc, không đi nơi khác để tìm trân báu trong nước cho trẫm? Lúc đó, có một vị quan ngốc nghếch, lãnh sứ mạng đi tìm vị Tiên ẩn só. Sau khi tìm được, y liền móc cặp mắt của vị Tiên đem về, tâu vua: –Thần đã móc cặp mắt của vị Tiên kia. Ông ta giờ đây không thể đi đâu được, mãi mãi phải ở trong nước. Nhà vua nghe xong liền quát: –Ta muốn giữ vị Tiên ở lại chỉ vì cặp mắt của người có thể khám phá báu vật trong lòng đất. Nay ngươi hủy hoại đôi mắt thì sử dụng sao được nữa. Người đời cũng vậy. Có người thấy bậc Đại đức ở nơi chốn núi rừng heo hút, trú dưới gốc cây hành khổ hạnh, tu quán bốn pháp niệm xứ và quán bất tịnh, liền thỉnh về nhà cúng dường cung phụng mọi vật, nhưng vô tình đã hủy hoại đạo đức thanh bạch của bậc Phạm tăng khiến vị ấy không thể thành tựu đạo quả, đánh mất đạo nhãn giải thoát. Việc làm ấy đã không đem lại lợi ích gì còn khiến đạo nhãn của vị Đại đức kia không thể phục hồi, cũng như vị quan ngốc nghếch hủy đi cặp mắt của vị Tiên vậy.  <詞 id="41126239">37- GIẾT ĐÀN TRÂU Thuở xưa có một người có đàn trâu hai trăm năm mươi con. Anh ta thường lùa trâu đi ăn cỏ, uống nước. Một hôm, trong khi đang xua trâu đi ăn cỏ, bỗng một con hổ nhảy ra vồ ăn mất một con. Lúc bấy giờ, chàng chủ trâu tự nhủ: “Đã mất một con, số trâu cũng không còn đủ nữa, ta còn dùng bầy trâu này làm gì?”. Nghó thế rồi, anh ta lùa bầy trâu đến vùng núi cao, vực thẳm, xua tất cả xuống vực sâu giết hết. Kẻ phàm phu si mê cũng thế. Đã vâng giữ đại giới (giới Tỳ-kheo) khi lỡ phạm một giới không sinh lòng hổ thẹn, thanh tịnh thân tâm sám hối, lại nghó rằng: “Nay ta đã phá một giới, giới thể không tròn vẹn nữa thì còn vâng giữ làm gì?”. Do suy nghó thế nên sống buông lung, hủy phạm tất cả giới, không chừa giới nào. Cũng như chàng chủ trâu ngốc nghếch giết hết đàn trâu không chừa con nào vậy.  <詞 id="41126240">38- UỐNG NƯỚC TRONG KHE Thuở xưa có một người đi bộ đã lâu nên rất khát. Bỗng chàng ta gặp một cái khe, một dòng nước trong lành từ đó chảy ra liền chạy lại uống. Sau khi uống no nê, chàng ta khoát tay bảo dòng nước: –Ta đã uống sông rồi. Ngươi đừng chảy nữa. Dù chàng ta nói thế nào, nước vẫn chảy như cũ. Thấy vậy, chàng ta nổi giận đùng đùng quát: –Ta đã uống xong bảo ngươi đừng chảy nữa. Tại sao lại cứ chảy như thế? Có người qua đường thấy thế bảo: –Anh thật là dại dột, ngốc nghếch quá! Sao không chịu bỏ đi, cứ dùng dằng bảo nước đừng chảy nữa. Hãy đi chỗ khác đi! Người đời cũng thế. Bị đắm chìm trong dòng sinh tử khát ái nên uống vào năm thứ nước dục nhiễm nên bị năm món dục làm cho mệt mỏi, dã dượi, tựa như người kia uống nước no nê. Sau đó lại bảo: “Này sắc, thanh, hương, vị các ngươi chớ có đến gần ta nữa.” Thế nhưng, năm món dục ấy vẫn cứ liên tiếp nhau hiển hiện trước mắt. Người ấy thấy thế nổi giận bảo: “Ta muốn mau chóng tận trừ tham ái, phiền não không để chúng phát triển. Vì sao cứ mãi đến gần để ta phải thấy chứ?”. Lúc ấy, có một người sáng suốt thấy thế liền bảo: “Anh muốn được trở thành bậc ly tham thì cần phải thu nhiếp lục tình, phòng hộ tâm ý bản thân. Vọng tưởng không sinh thì được giải thoát. Cớ gì phải không thấy năm dục mới không sinh tham ái?”. Vị ấy cũng như kẻ ngốc uống nước kia không khác gì nhau.  <詞 id="41126241">39- BẮT CHƯỚC BẠN SƠN NHÀ Thuở xưa có một người đến nhà bạn chơi, tường vách nhà bạn mới sửa, mặt tường bóng láng, sạch sẽ rất đẹp liền hỏi: –Anh dùng vật liệu gì để sơn mà vách tường đẹp thế? Người chủ trả lời: –Tôi dùng cám trộn với bùn và nước nên được như thế. Chàng ngốc nghe xong liền tự nghó: “Dùng thuần là cám mà còn tốt như vậy. Nếu dùng nguyên lúa trộn với nước và bùn mà quét thì vách tường chắc còn tốt hơn thế nữa.” Thế rồi, anh ta lấy lúa trộn với bùn để quét tường nhà mình, tưởng rằng sẽ bóng láng nhưng trái lại mặt tường bị chỗ lồi chỗ lõm, sứt mẻ đủ chỗ. Đã tốn lúa mà không được lợi ích gì không bằng đem bố thí mà còn có thể được công đức. Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Nghe Đức Phật dạy nỗ lực tu hành các thiện pháp, sau khi xả bỏ thân này có thể sinh lên các cõi trời được giải thoát, liền tự sát, hủy bỏ thân mạng mong được giải thoát sinh Thiên. Thế nhưng, đã tự làm hại bản thân mà đối với sự nghiệp tu tập không được chút lợi ích cũng như người ngu vậy.  <詞 id="41126242">40- TRỊ BỆNH HÓI ĐẦU Thuở xưa có một người bị bệnh hói đầu, đầu không có một sợi tóc. Mùa đông thì lạnh vô cùng, mùa hạ lại nóng bức không thể tả, lại muỗi mòng bu cắn, suốt ngày đêm bực bội. Thật là thống khổ. Lúc bấy giờ, có một vị lương y đa tài, rất giỏi trị hết nhiều căn bệnh. Anh chàng hói đầu liền đến nhà vị lương y kia thưa thỉnh: –Mong ngài trị bệnh hói đầu cho tôi. Vị lương y kia vốn cũng bị bệnh hói đầu nên sau khi nghe xong liền lấy nón ra, đưa đầu hói cho anh ta xem và nói: –Ta cũng đang khốn khổ vì căn bệnh này, đau khổ vô cùng. Nếu ta có thể trị được bệnh hói đầu thì trước đã trị cho bản thân khỏi khổ não rồi. Người đời cũng thế, bị sinh, già, bệnh, chết chi phối, làm não loạn, chỉ mong cầu được trường sinh bất tử. Nghe nói nhóm tu só ngoại đạo Bà-la-môn có thần phương diệu dược, trị được mọi khổ não trong đời liền đến thưa thỉnh: “Cúi mong các ngài trị dứt nỗi thống khổ vô thường sinh tử để tôi được sống lâu an lạc đời đời.” Nhóm tu só Bà-la-môn liền trả lời: “Chúng ta cũng đang khổ não vì vô thường sinh, già, bệnh, chết, chỉ mong cầu tìm ra đạo giải thoát nhưng không thể được. Nay chúng ta nếu có khả năng trị cho ngươi thì trước tiên phải tự trị cho bản thân rồi sau mới hướng dẫn cho ngươi.” Bọn họ cũng như người hói đầu kia đang bị trói buộc khổ não trong sinh tử không có khả năng tự giải thoát mà thôi.  <詞 id="41126243">41- QUỶ TỲ-XÁ-XÀ Thuở xưa có hai con quỷ Tỳ-xá-xà lượm được một cái rương, một cây gậy và một đôi guốc gỗ. Con nào cũng muốn dành về phần mình, tranh chấp suốt ngày mà vẫn không thể giải quyết cho công bằng được. Lúc ấy, có một người đi ngang thấy việc trên liền hỏi chúng: –Rương, gậy, đôi guốc kia có gì lạ thường mà sao các ngươi lại nóng giận giành giật nhau như vậy? Hai con quỷ đều đáp: –Rương này của chúng tôi có thể cho tất cả mọi thứ quần áo, đồ ăn uống, ngủ nghỉ như giường, nệm, đồ nằm… các tài sản khác. Tất cả đều từ trong rương hiện ra. Cầm cây gậy này trong tay thì tất cả kẻ thù địch đều quy phục anh không dám chống đối. Mang đôi guốc này anh có thể đi đến phương xa trong nháy mắt. Người kia nghe xong liền nói với bọn quỷ: –Các ngươi hãy đi nơi khác một chút. Khi trở lại, ta sẽ phân xử công bằng cho. Hai con nghe xong tin lời người kia lập tức rời khỏi nơi ấy. Người kia liền ôm rương, cầm gậy, mang guốc bay đi. Hai con quỷ hoảng hốt nhìn theo nhưng không thể làm gì được nữa. Người kia nói với bọn quỷ: –Những vật mà hai ngươi tranh giành ta đã lấy đi rồi. Các ngươi bây giờ không phải giành giật gì nữa. Quỷ Tỳ-xá-xà dụ cho ma vương và ngoại đạo. Bố thí cũng như rương báu, tất cả mọi tư tài hưởng dụng của trời người, năm đường đều từ bố thí mà có. Thiền định ví như gậy báu có năng lực hàng phục, tiêu trừ oán tặc, phiền não. Trì giới ví như đôi guốc báu, người giữ giới thanh tịnh chắc chắn được sinh Thiên. Hai con quỷ tranh giành các vật báu cũng như lũ ma, ngoại đạo trong vòng hữu lậu cố công cầu giải thoát, tuyệt nhiên không thể nào được. Người tu hành nếu nỗ lực tu tập các hạnh lành như Bố thí, Trì giới, Thiền định mới có thể viễn ly mọi khổ não, được giải thoát. KINH BÁCH DỤ <卷 id="41126244">QUYỂN 3 42. Con lạc đà của nhà buôn bị chết. 43. Mài đá. 44. Muốn ăn nửa cái bánh. 45. Đầy tớ giữ cửa. 46. Trộm trâu. 47. Người nghèo giả tiếng chim uyên ương. 48. Chó rừng bị nhánh cây đập. 49. Hai đứa bé tranh nhau sợi lông. 50. Thầy thuốc trị tật gù lưng. 51. Năm người mua nữ tỳ cùng sai việc. 52. Kỹ nữ ca hát. 53. Thầy nhức mỏi đôi chân giao cho hai học trò chăm sóc. 54. Đầu và đuôi rắn tranh nhau đi trước. 55. Muốn cạo râu cho vua. 56. Buộc trả cái không có. 57. Đạp mồm trưởng giả. 58. Hai người con phân chia gia tài. 59. Xem thợ làm đồ gốm. 60. Thấy bóng vàng trong nước. 61. Đệ tử Phạm thiên tạo hình người. 62. Người bệnh ăn thịt gà con. 63. Diễn viên bận đồ diễn La-sát khiến mọi người kinh hãi. 64. Mọi người đồn có ác quỷ trong ngôi nhà cổ. 65. Năm trăm viên thuốc bổ.  <詞 id="41126245">42- CON LẠC ĐÀ CỦA NHÀ BUÔN BỊ CHẾT Có một khách thương đi buôn ở phương xa. Giữa đường, lạc đà bỗng lăn ra chết. Trên lưng lạc đà có rất nhiều hàng hóa từ loại hàng trân phẩm quý giá, cho đến các loại hàng nhẹ như tơ lụa và các vật lỉnh kỉnh khác. Sau khi lạc đà chết, vị khách thương lột da để lại rồi sửa soạn đi trước. Ông dặn hai người học trò: –Các con hãy chăm nom bộ da lạc đà, chớ để bị ẩm ướt. Sau đó, trời đổ mưa. Hai người đệ tử ngu ngốc đem hết hàng tơ lụa quý phủ lên tấm da lạc đà. Các hàng hóa trân phẩm thương hạng đều bị hư mục. Giá trị của tấm da lạc đà và hàng hóa quý giá quá chênh lệch nhưng vì ngu ngốc nên họ mới đem đồ tơ lụa che cho tấm da. Người đời cũng thế. Giới luật cũng như hàng tơ lụa, trân phẩm, tấm da lạc đà dụ cho tiền tài vật chất, trời mưa ẩm ướt ví như sự buông lung, giải đãi phá hoại các hạnh lành. Nghiêm trì giới luật là chánh nhân tối thượng của Phật pháp. Nhưng một số người không chịu nghiêm trì cấm giới chỉ biết đem tiền bạc xây dựng chùa, tháp, cúng dường chư Tăng, bỏ gốc theo ngọn không mong cầu giải thoát nên phải trôi dạt bồng bềnh trong năm đường không tự thân giải thoát được. Do vậy, người tu hành cần phải nỗ lực tinh cần nghiêm trì giới luật.  <詞 id="41126246">43- MÀI ĐÁ Có một người đem hết công sức chuyên tâm mài một viên đá lớn. Ngày tháng dần trôi, người ấy đã mài thành một con trâu đá nhỏ để chơi. Anh ta đã dùng quá nhiều công sức cho một mục đích quá đỗi tầm thường. Người đời cũng thế. Người mài đá ví như sự tinh cần khổ học; làm thành con trâu đá nhỏ dụ cho chốn danh lợi phồn hoa, thị phi phải trái. Đã là người học đạo, suy tư nghiên cứu kinh điển, bác học đa văn lẽ ra phải lấy mục đích cầu đạo quả cao siêu, cớ sao chỉ mong cầu danh lợi, cống cao ngã mạn chỉ làm tăng thêm tội lỗi mà thôi.  <詞 id="41126247">44- MUỐN ĂN NỬA CÁI BÁNH Có người đói bụng nên mua bảy cái bánh rán để ăn. Ăn được sáu cái rưỡi thì quá no, anh ta sinh ra hối hận, bực bội, dùng tay tự đánh mình, thốt lên: –Ta nay ăn nửa cái bánh này thì no, sáu cái bánh nãy giờ chắc đã tiêu hết. Biết vậy phải chi ta chỉ ăn nửa cái bánh này cũng đủ no, cần gì ăn sáu cái bánh trước nữa chứ. Người đời cũng thế. Từ xưa đến nay, luôn trú trong cảnh bất lạc nhưng lại si mê tưởng là sống trong cảnh an vui. Cũng như chàng ngốc trên cứ ngỡ rằng no là vì ăn nửa cái bánh. Thế gian ngu muội quan niệm giàu sang là vui. Thế nhưng những kẻ giàu có trên đường lập nghiệp đã rất cực khổ, thành tựu rồi phải nhọc lòng giữ gìn, bảo quản cũng rất khổ, đến khi tài sản tiêu tán sinh nhiều ưu sầu cũng khổ. Trong cả ba giai đoạn đều không có gì là an lạc. Cũng thế, người đời xem việc ăn mặc là sung sướng, sống trong khổ đau, cay đắng, cứ ngỡ là vui sướng. Do vậy, chư Phật dạy: Ba cõi không yên đều chứa đầy nỗi khổ ngút ngàn. Phàm phu mê lầm, loạn tưởng là hỷ lạc.  <詞 id="41126248">45- ĐẦY TỚ GIỮ CỬA Có người dự định đi xa, gọi người đầy tớ đến bảo: –Ngươi phải cẩn thận xem chừng cửa nẻo và xem lại dây buộc con lừa có chắc không. Sau khi người chủ rời khỏi nhà, nhà láng giềng có tiếng đàn ca xướng hát, người đầy tớ muốn sang nghe nhưng không yên tâm nên y lấy dây buộc cánh cửa đặt trên lưng lừa rồi dắt lừa đến đó nghe nhạc. Người đầy tớ vừa đi khỏi, bao nhiêu tài sản trong nhà đều bị kẻ trộm khiêng đi hết. Chủ nhà trở về thấy thế hỏi gã: –Tiền bạc, tài sản trong nhà đâu mất cả rồi? Gã ta liền đáp: –Hồi nãy, ông chủ bảo con phải giữ cánh cửa, con lừa và dây buộc lừa. Ngoài ba món đó ra, những thứ còn lại con đâu có biết. Người chủ mắng: –Ta bảo ngươi canh giữ cửa nẻo chính là vì tiền bạc, tài sản. Nay tiền bạc, đồ vật đã mất cả thì các cánh cửa kia còn dùng vào việc gì nữa. Những kẻ dại khờ đang chìm đắm trong vòng sinh tử cũng giống như gã đầy tớ tham ái. Đức Phật từng dạy các đệ tử phải luôn nghiêm trì tịnh giới như canh giữ cửa chính, không vướng mắc sáu trần, phòng hộ con lừa vô minh, xem chừng dây tham ái. Thế nhưng, các Tỳ-kheo không phụng trì lời Phật dạy, tham cầu lợi dưỡng, giả hình tướng nghiêm trang, thanh tịnh; an tọa nơi tịch tónh mà mọi suy tư thả trôi theo tham đắm năm dục; bị sắc, thanh, hương, vị làm não loạn; bị lưới vô minh, dây tham ái ràng buộc mọi suy tư chánh niệm tỉnh giác khiến bao nhiêu thánh tài đều mất hết.  <詞 id="41126249">46- TRỘM TRÂU Có một nhóm người cùng làng trộm một con trâu để ăn thịt. Người chủ mất trâu tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng đến ngôi làng ấy. Anh ta mời bọn người kia đến để cật vấn, dò tìm tung tích. Anh ta hỏi bọn chúng: –Các ngươi ở tại làng này phải không? Anh chàng trộm trâu trả lời: –Chúng tôi quả thật không phải ở tại làng này. Người chủ trâu lại hỏi: –Trong làng của người có một cái ao. Có phải các ngươi giết trâu ăn thịt bên cạnh bờ ao đó phải không? Tên trộm đáp: –Làng tôi chẳng có cái ao nào cả. Anh chàng mất trâu hỏi tiếp: –Bên cạnh ao có một cái cây? Gã ta chống chế: –Đâu có cái cây nào. Người tìm trâu gặng hỏi: –Có phải khi trộm trâu ngươi đang ở phía Đông của làng này không? Y liền cãi: –Làm gì có phía Đông. Người chủ mất trâu hỏi tiếp: –Thế có phải các ngươi ăn trộm trâu lúc chính ngọ không? Tên trộm liền đáp: –Làm gì có chính ngọ. Người chủ trâu căn vặn ngay: –Nãy giờ các ngươi bảo không ở trong làng cho đến không có cây thì cũng tạm được nhưng cũng chẳng lẽ trong trời đất này lại không có phương Đông, không có thời gian sao? Do vậy mà biết bọn ngươi nói dối, không thể nào tin được. Chính các ngươi đã trộm trâu của ta để ăn thịt phải không? Bọn trộm đều thú nhận: –Vâng, chính chúng tôi đã trộm trâu ăn thịt. Người phá giới cũng như thế. Che giấu tội lỗi không chịu phát lộ sám hối, sau khi chết phải đọa địa ngục. Đến khi chư Thiên và chư vị Thiên thần dùng Thiên nhãn xem xét thì dẫu muốn che giấu thì không thể được ví như bọn trộm trâu kia không thể chối cãi được.  <詞 id="41126250">47- NGƯỜI NGHÈO GIẢ TIẾNG CHIM UYÊN ƯƠNG Thuở xưa tại một nước ngoài, đến ngày khánh tiết, tất cả phụ nữ đều trang điểm bằng loại hoa Ưu-bát-la. Trong nước đó, có một người rất nghèo. Đến ngày ấy, người vợ nói với chồng: –Anh quá nghèo không thể mua hoa Ưu-bát-la. Nay anh phải tìm cách kiếm về cho tôi thì tôi mới còn làm vợ anh. Nếu không tôi sẽ xin ly dị. Từ thuở nhỏ, người chồng có tài khéo giả tiếng chim uyên ương nên anh ta liền lẻn vào ao vua giả tiếng chim uyên ương để thừa cơ trộm bông Ưu-bát-la. Lúc đó, người giữ ao phát hiện được, quát lớn: –Ai ở trong ao đó? Người nghèo kia buột miệng trả lời: –Tôi là chim uyên ương. Người giữ ao liền bắt anh ta giải đến chỗ vua. Trên đường đi, anh ta cứ giả tiếng chim uyên ương kêu mãi. Người giữ ao nghe thế nói: –Hồi nãy ngươi không giả kêu, nay lại giả kêu mãi. Sao vô ích thế? Người ngu trên đời cũng thế. Trọn đời làm mọi điều tàn bạo, gây tạo nghiệp ác, không hướng tâm tu tập thiện hạnh. Đến khi sắp mạng chung lại nói: “Tôi nay muốn tu tập các điều thiện” thì quỷ tốt đã dắt đi trình diện Diêm-la vương. Dẫu muốn tu thiện cũng không thể được nữa cũng giống như người ngu kia trên đường áp giải đến chỗ vua lại cứ giả tiếng chim uyên ương vậy.  <詞 id="41126251">48- CHÓ RỪNG BỊ NHÁNH CÂY ĐẬP Có một con chó rừng nằm dưới gốc cây. Gió thổi qua khiến một nhánh cây gãy rơi xuống đập lên lưng nó. Chú chó liền bỏ chỗ đó chạy đến khoảnh đất trống nằm tiếp, mắt nhắm nghiền không muốn nhìn lại gốc cây kia. Đến chiều chú ta vẫn không chịu rời nơi ấy. Một lúc sau, mở mắt ra thấy gió thổi làm các nhánh trên tàng cây to rung động lên xuống liên hồi liền tự nhủ: “Cây gọi ta trở về chỗ cũ.” Một số đệ tử dại khờ của Đức Phật cũng như thế. Đã xuất gia được gần gũi bậc Tôn sư trưởng thượng, bị thầy rầy la đôi chút lại rời bỏ ra đi. Về sau gần gũi với bạn bè ngu ác, phiền não nỗi lên làm loạn động tâm trí lại muốn trở về với thầy. Đi đi lại lại như thế thật là ngu muội.  <詞 id="41126252">49- HAI ĐỨA BÉ TRANH NHAU SỢI LÔNG Thuở xưa có hai đứa bé đến bờ sông chơi, vớt được một sợi lông trên mặt nước. Đứa bé thứ nhất nói là sợi râu của Tiên, đứa thứ hai lại bảo là lông gấu. Lúc bấy giờ, có một vị Tiên đang ở cạnh bờ sông. Hai đứa trẻ vẫn tranh luận không ngớt nên cuối cùng phải nhờ vị Tiên phân xử. Vị Tiên thò tay lấy ra một nắm gạo và hột gừng, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến một hồi rồi nhả ra trên bàn tay, bảo chúng: –Vật trong tay ta thật giống như phân chim Khổng tước. Rồi vị Tiên không giải đáp gì nữa đối với câu hỏi của hai đứa trẻ. Mọi người đều biết chuyện trên. Những kẻ ngu si trên đời cũng như thế. Có người khi giảng giáo lý cứ ưa lý luận suông, viễn vông, mơ hồ, còn ý chính lại không chịu giảng rõ cũng như vị Tiên kia không trả lời đúng nghi vấn của hai đứa trẻ nên bị mọi người cười chê. Thuyết giảng một cách mơ hồ, không căn cứ cũng lại như thế.  <詞 id="41126253">50- THẦY THUỐC TRỊ TẬT GÙ LƯNG Có một người bẩm sinh bị tật gù lưng. Anh ta liền mời một thầy thuốc đến trị tật gù. Người thầy thuốc lấy sữa bò thoa trên lưng, đặt thân mình anh ta vào giữa hai tấm ván rồi cứ ra sức ép chặt lại mà không biết đôi mắt của người bệnh đã lòi cả ra ngoài. Người ngu trên đời cũng thế. Có người vì muốn tu phước bố thí nên cố công kiếm tiền bằng cách mua rẻ bán đắt, tranh đoạt, giành giâït; làm mọi điều phi pháp. Tuy nhiên lợi bất cập hại, trong tương lai phải đọa địa ngục cũng như đôi mắt của người gù trên bị lòi cả ra ngoài vậy.  <詞 id="41126254">51- NĂM NGƯỜI MUA NỮ TỲ CÙNG SAI VIỆC Có năm người hùn tiền mua một cô tớ gái. Người thứ nhất trong bọn sai cô tớ gái: –Con giặt cho ta bộ quần áo. Ngay khi đó, có một người nữa cũng sai cô bé giặt áo cho anh ta. Cô tớ gái liền thưa: –Chút nữa con sẽ giặt. Bây giờ con phải giặt bộ quần áo này cho ông chủ kia. Người kia nổi giận nói: –Ta cùng hắn bỏ tiền ra mua ngươi. Tại sao ngươi chỉ giặt riêng cho hắn. Nói xong, y liền đánh cô bé mười roi. Cả bốn người kia cũng thế. Rốt cục cả năm người, mỗi người đều đánh cô ta mười roi. Năm ấm cũng thế. Thân này vốn do các nhân duyên phiền não hội hợp thành. Vì thế chúng sinh mang thân năm ấm này phải mãi mãi chịu sinh, già, bệnh, chết và vô số bệnh đau áp bức, hành hạ.  <詞 id="41126255">52- KỸ NỮ CA HÁT Có một người kỹ nữ ra sức múa hát cho vua thưởng thức. Nhà vua hứa thưởng một ngàn đồng. Sau khi vua xem xong, cô ta theo vua xin tiền thưởng nhưng nhà vua đã không cho còn bảo cô ta: –Ngươi múa hát cho trẫm thưởng thức chẳng qua là một trò vui tiêu khiển cho trẫm. Trẫm hứa thưởng tiền cũng chỉ là một trò vui cho ngươi vậy thôi. Quả báo trong đời cũng thế. Được tái sinh làm người hay ở thiên giới, hưởng đôi chút vui vẻ, khoái lạc đều là không thật. Khi vô thường kéo đến thì mọi thứ đều tiêu hoại, không bao giờ bền lâu mãi mãi cũng như trò vui hư vọng kia vậy.  <詞 id="41126256">53- THẦY NHỨC MỎI ĐÔI CHÂN GIAO CHO HỌC TRÒ CHĂM SÓC Một vị thầy có hai người đệ tử. Hai chân vị thầy nhức mỏi nên giao cho hai người đệ tử mỗi người một chân để xoa bóp. Hai người đệ tử này ngày thường rất ghét nhau. Một hôm, người đệ tử kia đi vắng, người đệ tử còn lại liền lấy đá đập gãy cái chân mà người đệ tử kia chăm sóc. Người kia trở về thấy thế nổi giận tóm ngay cái chân mà người đệ tử này thường xoa bóp đập gãy đi. Người học Phật pháp cũng như thế. Người học theo giáo lý Phương đẳng (Đại thừa) bài bác những người học theo giáo lý Tiểu thừa. Người học theo giáo lý Tiểu thừa cũng khinh chê người học theo giáo lý Phương đẳng. Chính vì thế, kinh điển Thánh pháp tối thượng của cả hai tôn đều bị tổn hại.  <詞 id="41126257">54- ĐẦU VÀ ĐUÔI RẮN TRANH NHAU ĐI TRƯỚC Có con rắn, đuôi và đầu tranh nhau. Đuôi rắn bảo đầu rắn: –Phải để ta đi trước. Đầu rắn bảo với đuôi rắn: –Từ trước đến nay ta luôn đi trước. Sao hôm nay ngươi đòi đi ngược vậy? Nói xong, đầu rắn liền chuyển mình bò đi trước. Đuôi rắn liền quấn ngay lấy thân cây, đầu rắn không cách nào tiến lên được nên phải nhường cho đuôi rắn đi trước. Nhưng ngay lập tức toàn thân rắn rơi xuống hầm lửa, bị thiêu cháy mà chết. Đạo thầy trò cũng như thế. Có một số đệ tử chê thầy đã già cả suy yếu mà mãi giữ vai trò lãnh đạo. Ta nay tuổi trẻ thanh xuân, lý ra phải giữ vai trò lãnh đạo ấy. Tuy nhiên vì tuổi còn trẻ, không nghiêm trì giới luật phạm nhiều lầm lỗi. Do vậy, tương lai phải rơi vào địa ngục.  <詞 id="41126258">55- MUỐN CẠO RÂU CHO VUA Thuở xưa có một vị vua có một người hầu cận trung tín. Trong khi ra trận, vị ấy đã xả thân cứu mạng đức vua. Nhà vua rất vui muốn thưởng anh ta liền hỏi: –Ngươi muốn cầu xin điều gì, trẫm sẽ ban cho. Người hầu cận ấy liền tâu: –Hạ thần chỉ mong bệ hạ cho phép được cạo râu cho bệ hạ mỗi khi ngài cạo râu. Vua nói: –Nếu đó là tâm ý của khanh, trẫm sẽ chuẩn tấu cho khanh. Mọi người biết được chuyện ấy đều chê cười người ngu ấy. Xin làm đại thần cai trị nửa vương quốc còn có thể được hoặc chí ít phải xin tài sản sự nghiệp. Người ngu cũng thế. Chư Phật trong vô lượng kiếp tu tập các hạnh khó làm, khổ hạnh mới được thành Phật. Nếu đã được gần gũi Phật pháp phải biết thân người khó được ví như rùa mù gặp được bộng cây nổi. Cả hai việc khó được nay đã được rồi nhưng tâm ý hạ liệt chỉ vâng giữ một vài giới lại cho là đã đủ, không có ý cầu giáo pháp vi diệu giải thoát, Niết-bàn an lạc, không có chí cầu tiến, tự làm các việc sai quấy mà cho là đã đủ.  <詞 id="41126259">56- BUỘC TRẢ CÁI “KHÔNG CÓ” Thuở xưa có hai người cùng đi trên đường bỗng gặp một người cố sức đẩy một chiếc xe chở vừng sống đang nằm giữa đường núi gập ghềnh, không thể tiến lên được. Khi đó, chủ xe bảo hai người kia: –Xin hai anh giúp tôi đẩy chiếc xe ra khỏi đường núi gập ghềnh này. Hai người kia nói: –Anh sẽ trả ân chúng tôi cái gì đây? Người chủ xe trả lời: –Không có vật gì để đền ân cho hai anh cả. Hai người kia liền giúp đẩy chiếc xe đến chỗ bằng phẳng, rồi bảo với người chủ xe: –Hãy trao cho chúng tôi vật đó. Người chủ xe liền nói: –Không có vật gì cả. Hai người kia cứ cố kèo nài: –Thì anh cứ cho chúng tôi cái vật “không có” ấy. Một trong hai người mỉm cười bảo: –Anh ta không chịu cho. Phải chăng vì không có đủ nên có vẻ ngượng ngập, âu sầu như thế. Người thứ hai bảo: –Anh ta nói cho chúng ta cái “không có” tức là anh ta không có vật gì để cho chúng ta cả. Người thứ nhất bỗng hiểu ra liền nói: –À! Hai chữ “không có” hợp lại chỉ là tên gọi giả mà thôi. Kẻ phàm phu tục tử vướng mắc vào khái niệm “không” nên sa lạc vào cảnh giới “vô sở hữu”. Người thứ hai nói: không có vật gì tức là thể nhập ý: Vô tướng, Vô tác, Vô nguyện.  <詞 id="41126260">57- ĐẠP MỒM TRƯỞNG GIẢ Thuở xưa có vị trưởng giả rất giàu có. Bọn người hầu thân cận muốn đẹp lòng ông nên hết sức cung kính. Khi vị trưởng giả khạc nhổ, bọn người hầu tranh nhau lấy chân giẫm lên. Có một gã ngốc đến trễ, không giẫm được nên tự nhũ: –Nếu ông ta khạc đàm dưới đất, mọi người sẽ tranh nhau giẫm. Vậy khi ông muốn khạc nhổ, ta phải giẫm trước mới được. Đúng lúc đó vị trưởng giả kia muốn khạc đàm. Chàng ngốc nọ liền đưa chân đạp thẳng vào miệng vị trưởng giả khiến ông ta môi bị rách, răng bị gãy. Vị trưởng giả quát lên: –Tại sao ngươi lại đạp vào miệng ta? Chàng ngốc trả lời: –Nếu để ngài khạc đàm xuống đất thì bọn hầu cận tranh nhau đạp mất. Khi đó, con muốn giẫm nhưng thường đến trễ, không kịp giẫm. Do thế, khi ngài sắp nhổ ra con tranh thủ giẫm trước chỉ mong muốn làm đẹp ý ngài mà thôi. Phàm làm việc gì cần phải xem xét thời thế. Khi chưa đến thời dù có trù mưu đặt kế, gắng công hết sức cũng không thể được. Trái lại còn chuốc khổ não vào thân. Do vậy, người đời qua câu chuyện này khi làm việc gì cần phải biết xem xét khi nào phải lúc, khi nào chưa phải lúc.  <詞 id="41126261">58- HAI NGƯỜI CON PHÂN CHIA TÀI SẢN Thuở xưa, tại nước Ma-la có một người thuộc dòng Sát-đế-lợi mắc bệnh ngặt nghèo. Ông ta biết mình sắp chết nên cho gọi hai người con lại nghiêm huấn: –Sau khi cha chết, hai con phải khéo phân chia tài sản trong nhà. Sau khi cha chết, hai người con tuân theo lời dạy của cha chia tài sản thành hai phần. Nhưng người anh lại bảo người em phân chia không công bằng. Lúc ấy có một ông lão ngờ nghệch nghe chuyện liền bảo: –Để lão dạy hai người cách phân chia tài sản cho đồng đều. Các vật trong nhà đều phải cắt làm đôi. Cắt làm đôi là thế nào? Tất cả quần áo đều phải cắt làm hai mảnh, bàn ghế cũng phải cưa đôi ra, chén bát trong nhà cũng đập ra làm đôi. Tiền cũng cắt thành hai phần. Hai anh em nghe theo lời, tất cả tài sản, vật dụng trong nhà cắt làm đôi chia nhau. Mọi người nghe hai anh em phân chia tài sản như thế đều cười chê. Những kẻ ngoại đạo tu tập, say đắm việc luạân lý, phân biệt cũng thế. Phàm nói về luạân lý có bốn loại. Có loại luạân lý khẳng định, cũng như nói: “Tất cả con người đều phải chết”, đó là loại luạân lý khẳng định. Khi nói: “Con người chết có chết ắt phải có sống”, là loại luạân lý phân biệt. Khi nói: “Tham ái tận trừ không còn tái sinh, còn tham ái thì phải tái sinh”, cũng là loại luận lý phân biệt. Có người đến hỏi: “Phải chăng con người là tối thắng?”. Nếu không trả lời được, phải dùng loại luận lý phản vấn đề để đáp: “Câu ông hỏi là đối với ba đường ác hay đối với các cõi trời. Với câu hỏi trên thì trong ba đường ác, con người thắng vượt hơn tất cả. Nhưng nếu câu hỏi của ông đối với hàng chư Thiên thì con người không phải là tối thắng.” Luận lý như thế gọi là luận lý phản vấn. Nếu có người hỏi về mười bốn nạn hay hỏi về vấn đề thế giới và chúng sinh có giới hạn hay không có giới hạn, có khởi đầu kết thúc hay không có khởi đầu và kết thúc. Cách luận vấn này gọi là luận lý đặt vấn đề. Một số ngoại đạo si mê, tự phụ là bậc Trí, khinh chê bốn loại luận lý trên, tự tạo ra một loại luận lý phân biệt riêng cũng như hai anh em ngu ngốc trên muốn phân tài sản lại đem tiền cắt đôi làm hai vậy.  <詞 id="41126262">59- XEM THỢ LÀM ĐỒ GỐM Có hai người cùng đi họp hội nghị. Đi giữa đường, thấy một người thợ làm đồ gốm chân đạp bánh xe quay, tay nắn các bình sứ, cả hai chàng cùng dừng chân đứng lại xem. Sau một lúc, một người rời đó đi đến hội nghị nên được thưởng thức một bữa tiệc rất ngon lại còn được tặng các vật phẩm quý giá. Người kia vẫn ở lại xem người thợ làm đồ gốm. Anh ta nghó: “Ta cứ đợi để xem người thợ làm xong một cái bình đã.” Nhưng dần dà cả ngày mà anh ta vẫn không xem được người thợ làm xong một cái bình nào. Không những thế mà anh ta còn mất luôn bữa tiệc và tặng phẩm ở hội nghị. Người ngu cũng như thế. Bị việc đời ràng buộc, không thức tỉnh trước cơn vô thường đưa đẩy. Ngày nay toan tính việc Mai kia tạo nghiệp duyên Chư Phật, Đấng Long Tượng Lôi âm rền thế gian Mưa pháp tuôn vô ngại Duyên nghiệp trần, xao lãng Chẳng tường sinh tử đến Mất lần giống Phật tâm Chẳng được pháp trân bảo Thường trú trong ác đạo Phóng dật bỏ chánh pháp Như người xem làm gốm Rốt cục cũng thành không Vì thế mất pháp lợi Mãi mãi không giải thoát.  <詞 id="41126263">60- THẤY BÓNG VÀNG TRONG NƯỚC Thuở xưa có một chàng ngốc đi dạo đến một con sông lớn. Anh chợt thấy lấp loáng ánh gì trong nước tựa như vàng. Anh ta hét lên: “Có vàng!” rồi nhảy tùm xuống nước, khuấy bùn lên để tìm. Kiếm một hồi mệt nhoài nhưng chẳng được gì, anh ta leo lên bờ ngồi nghỉ mệt. Đợi đến lúc bùn lắng, nước trong chàng ta lại thấy sắc vàng hiện lên nên lại lặn xuống khuấy bùn để tìm nhưng cũng không tìm được gì. Lúc đó, người cha đi tìm con. Đến bờ sông, gặp anh ta ông liền hỏi: –Con làm gì mà sao có vẻ mệt nhọc thế? Anh ta thưa cha: –Trong nước có vàng nên nãy giờ con lặn xuống khuấy bùn để tìm. Tìm kiếm đã mệt nhoài nhưng vẫn không được gì. Người cha nhìn bóng vàng trong nước, đoán biết có vàng ở trên cây nên bóng của nó mới hiện xuống dòng nước. Ông liền bảo: –Chắc hẳn có con chim nào ngậm vàng rồi để lại trên tàng cây kia. Người con theo lời cha leo lên cây tìm quả nhiên nhặt được vàng. Kẻ phàm phu ám muội Vô trí cũng như trên Thân ấm là vô ngã Lầm tưởng là ngã thân Như người trông vàng ánh Lao khổ vì vàng cân Phí sức chẳng thành công.  <詞 id="41126264">61- ĐỆ TỬ PHẠM THIÊN TẠO HÌNH NGƯỜI Giáo đồ của đạo Bà-la-môn thường tuyên truyền rằng: Đại Phạm thiên vương là cha của toàn thế gian, có năng lực sáng tạo ra muôn loài, vạn vật. Đấng Phạm thiên có một người đệ tử luôn nói với mọi người: “Tôi cũng có năng lực tạo ra muôn loài, vạn vật.” Thật là kẻ ngu si mà tự đề cao là có trí. Một hôm, y đến thưa với Phạm thiên: –Con muốn sáng tạo ra muôn vật. Phạm thiên vương liền ngăn cản: –Chớ có ý tưởng ấy! Ngươi không có năng lực để làm việc đó đâu. Không màng đến lời dạy của Phạm thiên, y vẫn giữ nguyên ý muốn sáng tạo ra muôn vật. Đến khi Phạm thiên vừa trông qua vật mà tên đệ tử tạo ra liền nói: –Ngươi tạo ra sinh vật gì mà đầu thì to, cổ quá nhỏ, bàn tay quá lớn mà cánh tay lại cực bé, bàn chân nhỏ tí mà gót chân lại cực kỳ đồ sộ. Vật ngươi tạo ra thật giống như quỷ Tỳ-xá-xà vậy. Việc Phạm thiên tạo ra muôn vật trong truyện trên cần phải hiểu là mỗi sinh vật trong thế gian đều do nghiệp báo tạo ra chẳng phải do Phạm thiên sáng tạo. Chư Phật thuyết pháp không bao giờ vướng mắc vào nhị biên, không chủ trương “đoạn diệt” cũng chẳng chủ trương “thường trú”. Ví như Đức Thế Tôn thuyết Bát chánh đạo, bọn ngoại đạo nghe xong hoặc chấp đoạn diệt, hoặc chấp thường trụ, rồi lừa dối thế gian kêu gọi tô Phật tượng cúng dường. Những điều như thế thật không phải là chánh pháp.  <詞 id="41126265">62- NGƯỜI BỆNH ĂN THỊT GÀ CON Thuở xưa có một người lâm trọng bệnh, lương y đến xem mạch xong nói: –Ông phải thường ăn một con gà con thì bệnh có thể sẽ thuyên giảm. Người bệnh kia theo lời sai người ra chợ mua một con gà con về ăn thịt, nhưng y chỉ ăn một con rồi không ăn nữa. Sau đó, vị lương y đến xem mạch hỏi y: –Bệnh tình của ông có thuyên giảm chút nào không? Người bệnh kia trả lời: –Bữa trước thầy dạy tôi phải thường ăn thịt gà con vì vậy nay tôi đã ăn hết một con rồi không dám ăn nữa. Vị lương y nói: –Nếu ông đã ăn hết một con rồi tại sao không ăn nữa. Ông tưởng rằng chỉ ăn có một con gà thì bệnh có thể lành sao? Tất cả ngoại đạo đều như thế. Nghe chư Phật, Bồ-tát, các bậc Y vương vô thượng dạy: “Phải tập làm chủ, thấu triệt tâm thức”, chúng ngoại đạo liền chấp thủ thường kiến, chủ trương: “Trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai chỉ có thức là thường trú không biến đổi.” Bọn họ cũng như người bệnh kia chỉ ăn có một con gà nên không thể trị lành căn bệnh phiền não, mê hoặc. Chư Phật, bậc Đại trí dạy họ phương pháp đoạn trừ bệnh chấp thường: “Tất cả các pháp sinh diệt trong từng niệm tưởng, tại sao chỉ có thức là mãi mãi tồn tại, không biến đổi.” Cũng như vị lương y dạy người bệnh kia ăn thịt gà con để lành bệnh, Đức Phật cũng thế, dạy chúng sinh hiểu rõ các pháp vốn biến hoại không thường trú nhưng các pháp cũng vốn tương tục sinh khởi chẳng phải đoạn diệt hoàn toàn để trừ căn bệnh “chấp thường”, “chấp đoạn” của họ.  <詞 id="41126266">63- DIỄN VIÊN mặc ĐỒ DIỄN QUỶ LA-SÁT KHIẾN MỌI NGƯỜI KINH HÃI Thuở xưa tại nước Càn-đà-vệ có một đoàn ca kịch gặp lúc đói kém nên phải tha phương cầu thực trình diễn kiếm sống. Trên đường họ đi ngang qua núi Bà-la-tân. Nơi đây nghe đồn có nhiều ác quỷ La-sát chuyên ăn thịt người. Lúc đó, đoàn phải trú qua đêm trong núi. Gió núi thổi lốc từng cơn lạnh lẽo nên họ phải đốt lửa để ngủ. Trong đoàn có một người sợ lạnh nên lấy bộ đồ diễn kịch vai quỷ La-sát bận vào rồi đến ngồi bên đống lửa. Vào nửa đêm, một người trong đoàn thức dậy chợt thấy bên đống lửa có một con quỷ La-sát. Anh ta không chịu xem kỹ đã co chân bỏ chạy, làm kinh động đến tất cả bạn diễn trong đoàn khiến mọi người đều bỏ chạy tứ tán. Thấy bọn người kia bỏ chạy, anh chàng trong lớp áo diễn La-sát cũng chạy đuổi theo. Các người bạn trong đoàn thấy anh ta đuổi theo sau, la lên: “Ôi! Nó muốn ăn thịt bọn ta kìa!”. Nỗi kinh hoàng tăng lên gấp bội, họ càng ra sức chạy như điên, vượt núi, băng sông, chẳng kể lạch ngòi, đá sỏi. Thân thể cả bọn đều bị thương tích, tinh thần tán loạn. Đến khi trời sáng, họ mới vỡ lẽ không phải quỷ. Người đời cũng thế. Ở trong phiền não, thiếu pháp chân thiện nên muốn đi xa để mong cầu pháp thực tối thượng thường, lạc, ngã, tịnh nhưng lại chấp năm ấm là ngã. Vì ngã kiến nên họ bị trôi lăn, rong ruỗi trong đường sinh tử, phiền não theo đuổi, không được tự tại rơi vào đường chông gai sỏi đá tam đồ ác thú. Đến khi trời sáng ví như đêm đen sinh tử bị ánh sáng trí tuệ quét sạch mới tỏ rõ năm ấm không phải là chân ngã.  <詞 id="41126267">64- MỌI NGƯỜI ĐỒN CÓ ÁC QUỶ TRONG NGÔI NHÀ CỔ Thuở xưa có một ngôi nhà cổ. Thiên hạ đồn rằng có một con quỷ hung tợn đang trú ngụ trong đó. Mọi người đều sợ hãi, không ai dám vào trong nghỉ qua đêm. Bấy giờ, có một anh chàng vỗ ngực tự cho là rất can đảm, tuyên bố: –Tôi sẽ nghỉ qua đêm trong ngôi nhà đó. Đêm đến, anh vào ngủ trong ấy. Khi đó, có một người cũng tự xưng là can đảm, dũng khí hơn cả người kia. Nghe bạn nói có một con quỷ dữ ở trong ngôi nhà đó, anh chàng này liền xung phong vào trong. Khi anh ta đẩy cửa bước vào, người đến trước tưởng là quỷ liền ra sức xô mạnh, chèn cửa không cho vào. Anh chàng đến sau cũng tưởng là có quỷ trong nhà nên dùng hết sức đẩy bật cửa xông vào. Hai người đánh nhau dữ dội. Đến khi trời sáng tỏ nhìn ra mới biết đều không phải là quỷ. Tất cả người đời cũng thế. Mọi vật trên đời đều do nhân duyên giả hợp, không có chủ thể. Khi phân tích rã rời thì có gì là ngã đâu. Thế mà chúng sinh cứ mãi tính toán phải trái, thiệt hơn rồi sinh ra đấu tranh kiện tụng cũng như hai người kia không khác.  <詞 id="41126268">65- NĂM TRĂM VIÊN THUỐC BỔ Thuở xưa có người đàn bà tánh tình trắc nết, hư hỏng. Lòng dục bộc phát nên thị nảy ra ý tưởng độc ác giết chồng. Lúc nào chị ta cũng suy nghó mưu kế để giết cho được người chồng. Mọi kế hoạch mưu toan đều không tiện lợi. Đúng lúc đó, người chồng được lệnh ra nước ngoài. Chị ta liền lập mưu, bí mật làm các viên thuốc độc để giết chồng. Nàng ta nói gạt người chồng: –Nay anh đi xa, em rất lo anh đường xa mệt nhọc nên đã làm năm trăm viên thuốc bổ này để anh dùng làm tư lương mang theo bên mình. Anh ra nước ngoài, đến nước người khi nào mệt đói thì có thể dùng. Nhớ lời vợ, đến nước ngoài anh ta vẫn chưa dùng viên nào. Màn đêm dần buông, anh ta dừng chân nghỉ đêm trong rừng nhưng sợ ác thú nên anh leo lên cây để ngủ, gói thuốc bổ để quên dưới gốc cây. Ngay trong đêm đó, năm trăm tên cướp vừa đánh cướp đúng năm trăm con ngựa và rất nhiều báu vật của quốc vương nước đó cũng dừng chân nghỉ dưới gốc cây kia. Do phải ra sức trốn chạy nên tên nào cũng đói khát mệt nhừ. Thấy dưới gốc cây có gói thuốc bổ lũ cướp liền chợp lấy rồi chia cho mỗi tên một viên. Thuốc độc rất mạnh nên năm trăm tên cướp đều chết ngay tức khắc. Người kia ngủ trên cây đến sáng. Sau khi thức dậy thấy lũ cướp đã chết cả dưới gốc cây. Anh ta bèn lượm một thanh đao chém trên thi thể mỗi tên cướp vài đao rồi mới thâu nhặt tất cả các yên ngựa và của cải châu báu, lùa bầy ngựa đưa về kinh đô nước bạn. Lúc đó quốc vương nước kia cùng đông đảo quan quân đang trên đường truy tìm bọn cướp cũng vừa tới, gặp anh ta giữa đường. Quan quân bắt giải anh ta đến chỗ vua. Nhà vua hỏi: –Ngươi là ai? Lấy được ngựa của trẫm ở đâu? Anh ta thưa: –Thần là dân của quốc gia bên cạnh. Trên đường sang quý quốc, thần gặp phải bọn cường đạo nên đã đánh nhau với chúng. Hiện giờ, bọn cướp năm trăm tên đều chết cả dưới gốc cây đằng kia. Do vậy, thần mới lấy được bầy ngựa và của cải vật báu này đưa về dâng trả cho vương quốc. Nếu bệ hạ không tin thì có thể di gót đến nơi ấy xem qua các vết tử thương do thần chém bọn cướp. Vị vua liền sai vị quan thân tín đến xem, trở về tâu lại quả đúng lời anh ta nói. Nhà vua rất vui mừng, ngợi khen là việc vô cùng hy hữu, lệnh đưa anh ta về kinh ban thưởng rất nhiều vàng bạc châu báu, còn phong anh ta cai quản một tụ lạc. Một vị cận thần trong triều sinh lòng đố kî, tâu lên vua: –Người ấy là người phương xa đến. Bệ hạ chớ nên quá tin tưởng. Sao bệ hạ lại trọng thưởng và ưu đãi y quá hậu như thế, còn phong tước cho y hơn cả các quan cận thần nữa. Người ngoại quốc kia nghe được lời ấy liền lớn tiếng thách thức: –Ai có đủ sức mạnh, dũng khí có thể bước ra cùng tôi thi đấu. Xin mời đến khoảng đất trống kia để thử tài. Các quan cận thần đều kinh hãi không dám lên tiếng. Lúc bấy giờ, trong nước tại một khu rừng lớn có một con sư tử rất hung tợn hay rình bên đường vồ người ăn thịt. Mọi người không ai dám héo lánh đến con đường kia. Vị cận thần nọ biết việc đó liền tâu lên đức vua: –Kẻ ngoại bang kia tự xưng là có dũng khí oai hùng, vô địch thiên hạ. Nay nếu y có thể giết con sư tử kia, trừ hại cho nước ta thì mới thật xứng đáng bậc kỳ tài. Nhà vua nghe lời tâu, ban cho anh ta đao và côn để tìm giết sư tử. Lúc đó, người ngoại quốc kia vâng lệnh vua, can đảm đi đến chỗ mãnh sư. Con mãnh sư thấy y lập tức rống lên một tiếng kinh hồn, nhảy bổ đến trước mặt. Anh chàng kinh hãi vội vã trèo lên cây. Sư tử há lớn miệng, cất đầu ngó lên cây. Anh ta run bắn lên, sẩy tay rớt thanh đao xuống lại rơi ngay vào họng sư tử. Con mãnh sư chết ngay lập tức. Khi đó, anh ta nhảy nhót vui mừng không thể tả. Khi trở về cung tâu lên, đức vua thưởng cho anh ta còn nhiều gấp bội hơn lúc trước. Tất cả nhân dân trong nước đều kính phục, ngợi khen anh ta vô cùng. Thuốc bổ của người vợ là sự bố thí không thanh tịnh. Quốc vương phái anh ta đi sứ dụ cho chư vị thiện tri thức. Đến nước khác dụ cho các cõi trời. Giết năm trăm tên cướp dụ cho người tu hành đoạn tận năm dục và các phiền não chứng được quả Tu-đà-hoàn. Gặp vua nước láng giềng dụ cho gặp được các bậc Hiền thánh. Các vị cựu thần sinh tâm đố kî của nước láng giềng dụ cho ngoại đạo thấy người trí có thể đoạn trừ phiền não và năm dục liền phỉ báng, cho rằng không có việc ấy. Người ngoại quốc thị oai, lên tiếng thách thức nhưng không một ai trong đám cựu thần kia dám đấu với anh ta ví như ngoại đạo không dám chống cự. Giết sư tử dụ cho người tu tập đoạn các điều ác, trừ phiền não, điều phục được ác niệm liền chứng quả lậu tận. Người kia mỗi khi gặp việc luôn run rẩy dụ cho người tu tập có thể dụng nhược thắng cường, lấy chỗ yếu để thắng cái mạnh. Chuyện này có ý nghóa là ban đầu người tu tập tuy không phải tịnh tâm bố thí nhưng được bậc thiện tri thức hỗ trợ, hộ trì thì có thể đạt kết quả thù thắng. Bất tịnh bố thí mà còn như thế, huống chi đem lòng hoan hỷ bố thí để tích góp ruộng phước. KINH BÁCH DỤ <卷 id="41126269">QUYỂN 4 ­66.Mồm lẩm bẩm cách lái thuyền, tay không biết lái. 67. Vợ chồng đánh cuộc ăn bánh. 68. Ôm hận hại nhau. 69. Noi gương tổ tiên ăn nhanh. 70. Nếm trái Tần-bà-la. 71. Hư mắt vì vợ. 72. Ngậm gạo chịu mổ miệng. 73. Nói dối ngựa chết. 74. Phàm phu xuất gia mong cầu lợi dưỡng. 75. Cả lạc đà và ghè đều mất. 76. Nông phu mơ tưởng công chúa. 77. Vắt sữa lừa. 78. Dặn con đi sớm. 79. Gánh ghế cho vua. 80. Rửa ruột. 81. Bị gấu quào. 82. Gieo lúa. 83. Con khỉ. 84. Vì nguyệt thực đánh chó. 85. Người phụ nữ bị bệnh mắt. 86. Cha giữ khuyên tai cho con. 87. Bọn cướp chia của. 88. Nắm đậu của chú khỉ. 89. Chuột vàng và rắn độc. 90. Lượm được tiền. 91. Người nghèo so của. 92. Đứa trẻ được kẹo. 93. Bà lão đánh cọp. 94. Ngọc Ma-ni hay lỗ thoát nước. 95. Vợ chồng chim bồ câu. 96. Nói dối mắt mù. 97. Bị cướp đoạt mất áo lông. 98. Đứa trẻ được rùa.  <詞 id="41126270">66- MỒM LẨM BẨM CÁCH LÁI THUYỀN, TAY KHÔNG BIẾT LÁI Thuở xưa có một vị đại trưởng giả cùng đoàn thương gia ra biển tìm của báu. Ông ta đọc qua rất nhiều sách dạy phương pháp điều khiển tàu thuyền trên biển nên khoe với mọi người: –Trên biển, nếu thuyền đi vào vùng nước xoáy hay gặp vùng có đá ngầm thì phải giữ tay lái cho chắc, xem kỹ phương hướng và phải hết sức bình tónh. Ông ta còn thao thao rằng: –Phương pháp đi biển tôi đều tường tận cả. Mọi người nghe xong rất tin tưởng lời ông nói. Chẳng bao lâu, khi thuyền đang ở giữa biển, vị thuyền trưởng đột nhiên bạo bệnh qua đời. Vị trưởng giả kia liền thay thế thuyền trưởng điều khiển thuyền. Khi thuyền đi vào vùng nước xoáy, chảy giật dữ dội, ông ta cứ lẩm bẩm trong miệng: –Phải giữ tay lái cho chắc, xem kỹ phương hướng. Nhưng thuyền cứ xoay vòng tại chỗ, không cách nào tiến lên để đến cùng nước an toàn. Cuối cùng cả thuyền lẫn đoàn thương gia đều chìm xuống nước táng mạng. Kẻ phàm phu cũng như thế. Có một số người học qua đôi chút phương pháp thiền quán sổ tức và quán bất tịnh. Tuy rành rõ văn chữ nhưng không hiểu nghóa lý một cách tường tận. Thật ra họ không hiểu gì mà cứ tự khoe là tường tận mọi phương pháp thiền quán, rồi dối gạt dạy người tu thiền khiến cho tâm họ càng loạn động, mê muội, đánh mất bản tâm, sai lạc ý chỉ. Đến cuối đời, dẫu tuổi cao vẫn không được chút lợi ích gì giống như gã trưởng giả xuẩn ngốc dìm chết mọi người xuống biển vậy.  <詞 id="41126271">67- VỢ CHỒNG ĐÁNH CUỘC ĂN BÁNH Thuở xưa có một đôi vợ chồng làm ba cái bánh, chia nhau mỗi người một cái, còn thừa một cái. Cả hai cùng đánh cuộc: Nếu ai lên tiếng trước sẽ bị thua, không được ăn nốt cái bánh kia. Đã đánh cuộc nên vì một cái bánh hai vợ chồng đều im lặng, không ai chịu mở miệng nói một câu nào. Đêm đến, một tên trộm lẻn vào nhà vơ vét tiền của. Tất cả đồ đạc trong nhà đều bị y hốt sạch. Vì lời đánh cuộc nên cả hai người dù tận mắt thấy sự việc nhưng chẳng ai lên tiếng. Tên trộm thấy vậy càng dạn dó muốn xâm phạm tiết hạnh của người vợ ngay trước mặt người chồng. Anh chồng cứ giương mắt ngó chứ không chịu mở miệng nói một lời nào. Cô vợ hoảng hốt la ó ầm ỉ: –Anh thật ngu quá! Cớ sao chỉ vì một cái bánh mà thấy trộm vẫn không kêu tiếng nào cả vậy? Người chồng liền vỗ tay cười lớn: –Ha ha! Em đã thua rồi. Cái bánh vậy là thuộc về phần anh nhé! Mọi người nghe được chuyện đó không ai không chê cười. Người đời cũng như thế. Vì chút danh lợi nên giả hình tướng trầm mặc, thanh tịnh nhưng nội tâm lại luôn bị phiền não và vô số điều ác chi phối hành hạ, đánh mất thiện niệm, đọa lạc vào tam đồ. Tuy thế, họ vẫn không chút nào kinh sợ, mong cầu xuất ly trái lại cứ mê đắm năm dục. Dù ở trong cảnh đại khổ não mà lòng không chút e ngại cũng như cặp vợ chồng ngu dại kia không khác.  <詞 id="41126272">68- ÔM HẬN HẠI NHAU Thuở xưa có một người ôm lòng oán hận với một người kia, tâm trạng sầu khổ, u uất không vui. Có người thấy thế hỏi: –Dạo này sao anh có vẻ sầu khổ, tiều tụy như thế? Anh ta trả lời: –Có một gã cứ nói xấu, mỉa mai tôi thậm tệ. Sức tôi không thể báo thù nỗi. Nay tôi không biết làm cách nào để trả thù hắn để vơi cơn sầu muộn này đây. Người kia liền nói: –Chỉ có bài chú Tỳ-đà-la mới có thể hại hắn mà thôi. Tuy nhiên tụng bài chú này có một điều nguy hiểm là chưa hại được gã ta thì ngược lại đã làm hại chính bản thân anh rồi. Anh chàng nghe xong rất vui mừng nói: –Rất mong anh dạy cho tôi. Dù phải tự hại bản thân cũng không sao miễn là tôi phải báo được thù, làm cho hắn bị thương tích mới được. Người đời cũng như thế. Vì nóng giận nên mong ước có chú Tỳ-đà-la để dùng hãm hại, trả thù người. Cuối cùng chưa hại được người mà đã bị lửa sân hận thiêu đốt, làm hại bản tâm, đọa lạc vào tam đồ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh giống như gã ngốc trên không khác.  <詞 id="41126273">69- NOI GƯƠNG TỔ TIÊN ĂN NHANH Thuở xưa có một người từ miền Bắc Ấn đến Nam Ấn cư trú. Ở đó một thời gian dài anh ta cưới được một cô gái, kết nghóa trăm năm. Một hôm, người vợ vừa dọn cơm lên, anh ta không quản cơm canh nóng hổi, há miệng nuốt lia lịa. Người vợ thấy việc kỳ quái nên hỏi chồng: –Ở đây chẳng ai giành ăn với anh. Có việc gì gấp lắm sao mà anh ăn uống hấp tấp như thế. Sao không thong thả, từ từ mà ăn? Người chồng liền đáp: –Có điều này bí mật lắm! Không thể nói cho em được. Người vợ nghe thế, cho là nhất định có điều gì đặc biệt lắm nên cứ ân cần theo anh ta hỏi mãi. Một hồi lâu, anh chàng mới trả lời: –Tổ tiên nhiều đời của anh đều luôn ăn nhanh như thế. Nay anh phải noi gương tổ tiên nên mới có cái tật ăn nhanh ấy. Kẻ phàm phu trong đời cũng như thế. Không tường tận nghóa lý, chẳng phân biệt thiện ác, làm các việc sai quấy mà không biết hổ thẹn lại còn tuyên bố: Cha ông tôi trước nay đều làm theo cách như vậy. Những kẻ như vậy đến tận cuối đời vẫn không thay đổi được cũng như chàng ngốc kia tập ăn nhanh mà còn tự cho là một truyền thống tốt đẹp.  <詞 id="41126274">70- NẾM TRÁI TẦN-BÀ-LÀ Thuở xưa có một vị trưởng giả muốn ăn trái Tần-bà-la nên sai người hầu mang tiền sang nước khác mua. Ông dặn gã người hầu phải lựa loại trái ngon ngọt, tươi tốt mới mua về. Anh người hầu liền đem tiền đến tận vườn để mua. Người chủ vườn rao rằng: –Tất cả trái Tần-ba-la trên cây này của tôi đều rất ngon ngọt, không có trái nào hư cả. Anh có thể nếm thử một trái thì đủ biết. Anh ta nói ngay: –Nay tôi phải nếm hết tất cả trái Tần-ba-la ở đây rồi mới mua. Nếu chỉ nếm một trái thì làm sao biết được. Anh ta bèn tự tay hái. Mỗi trái hái xong anh ta đều nếm thử qua trước khi đem về nhà. Vị trưởng giả thấy đống quả Tần-ba-la nham nhở như thế hết còn muốn ăn nữa, sai đem đổ tất cả. Người đời cũng như thế. Một số người nghe dạy: “Bố thí, giữ giới sẽ được đại phú quý, bình an. Thân luôn được yên ổn, không bị chướng ngại, bệnh tật, tai nạn.” Lại không tin mà nói rằng: “Bố thí thì được giàu sang. Chừng nào tôi được giàu sang thì tôi mới tin.” Nên biết rằng mọi sự giàu sang, nghèo hèn trên đời đều là kết quả của những gì mình đã gây tạo từ trước. Họ không biết rằng muốn khảo xét việc gì phải dựa vào lý nhân quả. Đã không tin còn hủy báng, cố chấp rằng phải tự mình thân chứng. Đến ngày từ giã cõi đời, tài sản tiêu tán hết cũng như gã hầu kia nếm thử trái Tần-bà-la nên cuối cùng phải đổ đi tất cả vậy.  <詞 id="41126275">71- HƯ MẮT VÌ VỢ Thuở xưa có người cưới hai người vợ. Mỗi khi gần gũi với người vợ này thì bị vợ kia giận hờn, anh ta rất lúng túng không biết bỏ người nào, lấy người nào. Đêm đến đi ngủ, anh ta cứ nằm giữa hai người vợ, ngữa mặt lên. Đúng lúc đó, trời đổ một cơn mưa lớn. Mái nhà bị dột, nước mưa cuốn bụi đất trên mái chảy xuống vào ngay đôi mắt của anh ta. Anh chành vẫn kiên quyết giữ quyết định của mình không chịu quay đầu tránh. Nước bụi cứ chảy mãi khiến cả hai mắt anh ta đều bị hư. Kẻ phàm phu trên đời cũng thế. Gần gũi bạn ác, tập các thói hư tật xấu, dần dần tạo nghiệp theo ba đường ác nên mãi mãi trú trong vòng sinh tử, mất hẳn con mắt tuệ cũng như người chồng ngốc nghếch kia chỉ vì hai người vợ nên hai mắt đều bị hư cả.  <詞 id="41126276">72- NGẬM GẠO CHỊU MỔ MIỆNG Thuở xưa có một người cùng vợ trở về nhà thăm cha vợ. Thấy người nhà vợ giã gạo, anh ta bèn lén bốc một nắm cho vào miệng. Thình lình người vợ đi ra muốn tìm chồng bàn chuyện nhưng miệng anh ta đầy cả gạo nên không cách nào nói chuyện được. Anh ta lại ngại vợ mình biết việc nên nhất định không chịu nhổ gạo ra. Thế là anh ta cứ ngậm cứng miệng không nói một câu. Người vợ lấy làm quái lạ: Tại sao chồng mình không nói, bèn lấy tay rờ thử thì thấy miệng anh ta phồng sưng lên liền thưa với cha: –Chồng con vừa về đến nhà đột nhiên miệng bị sưng phồng lên, không thể nói được. Cha vợ liền cho mời thầy thuốc đến trị bệnh cho anh ta. Sau khi xem qua, vị thầy thuốc bảo: –Bệnh này rất nặng phải dùng dao mổ mới có thể trị được. Nói xong, ông lấy dao mổ rạch lên má anh ta. Gạo ngậm trong miệng đổ cả ra ngoài. Sự việc lộ ra, mọi người đều biết cả. Người đời cũng thế. Làm các điều ác, phạm tịnh giới lại cố ý che giấu tội lỗi không chịu phát lộ sám hối, cuối cùng phải rơi vào cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cũng như người ngu kia vì một chút só diện, không chịu nhả gạo ra để khi dao mổ miệng thì việc xấu phải lộ ra cả.  <詞 id="41126277">73- NÓI DỐI NGỰA CHẾT Thuở xưa, có một người cỡi một con hắc mã lâm trận đánh giặc. Quá kinh sợ không thể chiến đấu, anh liền lấy máu bôi lên mặt mũi, nằm lẫn vào giữa thi hài các chiến binh tử trận giả như đã chết. Con ngựa của anh cỡi bị người khác đoạt mất. Khi quân lính hai bên rút đi hết, anh ta muốn đào ngũ về nhà nên cắt đuôi một con ngựa trắng của người khác đem về. Về đến nhà có người hỏi: –Con ngựa anh cỡi lúc trước đâu. Sau không cỡi nói về! Anh ta trả lời: –Ngựa của tôi đã chết. Tôi đã đem cái đuôi của nó về đây. Người kia liền bảo: –Con ngựa trước kia của anh lông đen. Nay tại sao đuôi lại thành lông trắng thế này? Anh chàng lung túng ngậm câm không trả lời được nên bị mọi người cười chê. Người đời cũng thế. Miệng luôn nói về việc tu hành, hiền thiện, vì từ bi không ăn thịt uống rượu nhưng cứ giết hại chúng sinh, tăng thêm tội chướng. Dối gạt tự xưng hiền thiện mà không việc ác nào không làm cũng như người ngu kia nói dối ngựa mình đã chết vậy.  <詞 id="41126278">74- PHÀM PHU XUẤT GIA MONG CẦU LỢI DƯỠNG Thuở xưa có một vị quốc vương ban hành một luật lệ đối với các Bà-la-môn trong nước của mình là phải tắm rửa sạch sẽ thân thể. Ai không tuân theo sẽ bị đầy đi lao dịch. Có một Bà-la-môn luôn mang theo bình đựng nước tắm, nói dối rằng: –Người tắm rửa sạch sẽ là người phải luôn mang theo bình đựng nước tắm bên mình. Khi có nước lại sai đem đổ đi tất cả còn tuyên bố rằng: –Tôi chẳng tắm rửa đâu. Vua muốn vậy thì cứ tự tắm một mình đi. Vì theo lệnh vua tôi phải dùng cái bình đựng nước này để tránh hình phạt lao dịch thôi. Nối dối đã tắm rửa sạch sẽ thật ra chẳng bao giờ tắm cả. Một số kẻ phàm phu xuất gia cũng thế. Mang hình thức đầu tròn, áo vuông nhưng bên trong lại hủy phạm giới cấm, giả hiện nghiêm trì giới luật để mong cầu lợi dưỡng và để trốn tránh trách nhiệm xã hội. Hình thức bên ngoài tương tự Sa-môn nhưng bản chất chẳng phải Sa-môn cũng như gã Bà-la-môn mang bình nước không cho có hình thức vậy.  <詞 id="41126279">75- CẢ LẠC ĐÀ VÀ GHÈ ĐỀU MẤT Thuở xưa có một người nuôi một con lạc đà. Anh ta thường để thức ăn trong ghè cho lạc đà ăn. Một hôm, lạc đà rúc đầu vào ghè để ăn nhưng không thể nào rúc đầu ra được. Anh ta tìm đủ mọi cách nhưng cũng không làm sao kéo đầu nó ra được, nên rất lo lắng, buồn phiền. Có một ông lão đến bảo anh ta: –Anh đừng buồn bã nữa. Lão sẽ dạy cho anh cách để kéo đầu lạc đà ra khỏi ghè. Anh làm đúng theo lời lão thì chắc chắn sẽ kéo ra rất nhanh. Anh chỉ cần chặt đầu con lạc đà thì tự nhiên đầu sẽ rời khỏi ghè. Anh ta theo lời ông lão lấy dao chặt phăng đầu con lạc đà. Đã giết chết con lạc đà còn phá bể luôn cái ghè. Người ngu ngốc như thế chỉ khiến người đời cười chê mà thôi. Những kẻ phàm phu ám độn cũng như thế. Ban đầu phát tâm Bồ-đề, chí cầu đạo quả tam thừa nên nỗ lực nghiêm trì tịnh giới, phòng hộ các điều ác. Nhưng vì năm dục nên phá hủy tịnh giới, xa lìa đạo quả tam thừa, buông lung tâm ý, không điều ác nào không làm. Đạo quả tam thừa lẫn tịnh giới đều bị mất cũng như chàng ngốc trên mất cả lạc đà lẫn cái ghè vậy.  <詞 id="41126280">76- NÔNG PHU MƠ TƯỞNG CÔNG CHÚA Thuở xưa có một nông phu lên kinh thành chơi. Tình cờ anh ta thấy được nhan sắc tuyệt trần của nàng công chúa con vua. Anh ta trở về ngày đêm tưởng nhớ không nguôi nghó mãi không biết cách nào để gặp được giai nhân. Mặt mũi chàng ta dần dần trở nên vàng vọt, bơ phờ rồi lâm trọng bệnh. Người thân trong nhà thấy thế hỏi anh ta: –Vì sao bệnh lại ngặt nghèo như thế? Anh ta thổ lộ nguồn cơn với người thân: –Con tình cờ thấy được dung nhan kiều diễm của công chúa nghó mãi không tìm ra cách nào để gặp được nàng nên vì vậy sinh bệnh. Nếu không gặp được nàng chắc con chết mất. Cha mẹ anh ta liền bảo: –Cha mẹ sẽ tìm hộ con phương cách tốt nhất để con được toại nguyện. Con chớ nên sầu não nữa. Vài ngày sau, gia đình và bạn bè đến thăm bảo anh ta: –Cha mẹ và bạn bè đã tìm cách gặp được công chúa cho em rồi nhưng chỉ vì công chúa không ưng ý mà thôi. Chàng nông phu nghe xong vui mừng tươi cười nói lớn: –Chắc chắn được mà! Những kẻ ngốc trên đời cũng như thế. Không phân biệt rõ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của thời tiết. Vào mùa đông giá rét lại đem giống ra gieo hy vọng gặt được lúa. Đã tốn công mà không cách nào chăm sóc được nên cả mầm, thân, nhánh, lá đều hư thối cả. Có người tu tập hưởng được chút ít phước báo liền tự cho là đã đủ, tuyên bố có thể đạt thành đạo quả Bồ-đề cũng như anh nông phu kia hy vọng công chúa sẽ ưng thuận vậy.  <詞 id="41126281">77- VẮT SỮA LỪA Thuở xưa có người ở vùng biên ải chưa hề biết con lừa ra sao cả. Nghe người ta đồn sữa lừa rất ngon nhưng họ cũng chưa biết sữa lừa như thế nào. Sau đó, cả bọn bắt được một con lừa đực. Thế là, vì muốn uống sữa lừa nên họ tranh nhau tóm. Có người bóp đầu lừa tìm sữa, có người cắn lỗ tai, có người vặn đuôi, có người tìm ở chân, lại có người nắm lấy sinh thực khí của chú lừa để tìm. Mỗi người đều muốn tìm ra trước để uống. Đúng lúc, con lừa bỗng tiểu tiện. Người đang nắm sinh thực khí la lớn: “Ôi! Sữa lừa đây này.” Cả bọn xúm lại hứng nước tiểu mà cứ ngỡ là sữa lừa. Rốt cục cả bọn mệt nhoài mà chẳng ai tìm được sữa. Tự mình làm khổ bản thân mà không được chút lợi ích gì nên bị mọi người chê cười. Những kẻ ngoại đạo phàm phu cũng như thế. Nghe nói tu hành, học đạo không phụ thuộc vào pháp môn tu tập nên vọng tưởng sinh ra các loại tà kiến hoặc lõa thể, hoặc nhịn đói, hoặc trú trong rừng núi, hoặc nhảy vào lửa. Các loại tà kiến như thế đều rơi vào ác đạo cũng như những người ngu vọng cầu sữa lừa trên vậy.  <詞 id="41126282">78- DẶN CON ĐI SỚM Thuở xưa có một người tối đó dặn con: –Sáng mai con phải dậy sớm cùng cha đến ngôi làng kia có việc cần. Đứa con nghe nói mình được đi nên sáng sớm không hỏi ý cha đi một mình đến đó. Đến nơi đó rồi, thân thể mệt mỏi vô cùng nhưng không biết phải làm gì, lại chưa ăn uống gì nên đói khát tưởng chừng sắp chết, nên anh ta vội quay về nhà. Về tới nhà gặp cha, người cha thấy con trở về la mắng thậm tệ: –Ngươi thật là xuẩn ngốc, không có chút trí tuệ gì cả. Tại sao không đợi cha mà tự đi một mình để đến nỗi cực khổ như thế. Mọi người biết chuyện đều chê cười anh ta. Kẻ phàm phu trong đời cũng thế. Một số người có duyên được thế phát xuất gia, vận ba y nhưng không cầu bậc Minh sư để nương tựa học hỏi giáo pháp. Do vậy đánh mất cơ hội tu tập các công đức, thiền định các pháp môn khác. Tất cả bốn quả Sa-môn thù thắng đều mất cả như người con ngốc nghếch kia tự mình ra đi rồi lại tự mình trở về một cách vô ích, chỉ tự làm khổ bản thân. Hình thức tương tự Sa-môn nhưng thật ra không có phẩm hạnh Sa-môn.  <詞 id="41126283">79- GÁNH GHẾ CHO VUA Thuở xưa có một vị quân vương muốn đến vườn Vô ưu để thưởng ngoạn. Nhà vua truyền cho một vị quan: –Khanh hãy tìm một cái ghế mang đến vườn Vô ưu để trẫm ngồi nghỉ. Lúc đó, vị quan kia xấu hổ không muốn đi tìm nên tâu vua: –Thần không tìm được như thần có thể vác được. Vua nghe thế ra lệnh đem ba mươi sáu cái ghế chất cả trên lưng ông ta, lệnh vác vào trong vườn. Người ngu như thế chỉ bị thiên hạ cười chê. Người đời cũng thế. Có người mỗi khi thấy một sợi tóc nữ nhân rơi trên đất, tự nói: “Ta giữ giới thanh tịnh nên không dám đụng đến nói.” Sau đó, bị phiền não mê hoặc nên đối với ba mươi sáu thứ bất tịnh như tóc, lông, móng, răng, phân, nước tiểu… đều không cho là dơ bẩn. Cùng một lúc xúc chạm với cả ba mươi sáu thứ không xấu hổ, đến khi chết vẫn không bỏ cũng như vị quan ngu ngốc cam tâm vác ghế kia vậy.  <詞 id="41126284">80- RỬA RUỘT Thuở xưa có một người bị mắc bệnh ở vùng hạ bộ. Thầy thuốc bảo: –Bệnh của anh ta phải rửa ruột thì mới có thể lành được. Vị lương y lấy thuốc rửa và các dụng cụ dùng rửa ruột cho anh ta ra. Ông ta có việc ra ngoài chưa trở lại, anh chàng bệnh nhân liền chộp lấy chai thuốc rửa uống hết. Vừa uống xong, bụng anh đầy trướng lên đau đớn tưởng chừng như sắp chết, không cách nào kiềm chế cơn đau được. Vị lương y trở lại thấy việc kỳ lạ nên hỏi: –Sao anh lại bị như thế? Anh ta trả lời: –Hồi nãy tôi đã uống chai thuốc rửa nên bây giờ đau đớn sắp chết được. Vị lương y nghe xong liền mắng anh ta thậm tệ: –Anh quả thật là ngu quá đổi. Đã không biết sử dụng lại cứ uống càn thuốc. Nay anh phải ói ra mới có thể hết đau được. Người ngu ngốc như thế chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Kẻ phàm phu cũng thế. Muốn tu học các phương pháp quán tưởng của thiền định nhưng thầy dạy phải quán pháp bất tịnh lại quán niẹâm hơi thở, dạy quán niẹâm hơi thở lại quán tưởng sinh giới. Đảo lộn thứ tự trước sau không có căn bản. Kết quả làm hại đến tuệ mạng, lâm vào cảnh bế tắc. Không chịu tham vấn học hỏi các bậc Minh sư nên tu tập sai lầm đảo lộn phương pháp cũng như người ngu uống thuốc rửa ruột bất tịnh trên vậy.  <詞 id="41126285">81- BỊ GẤU QUÀO Thuở xưa có hai cha con cùng bạn bè đồng hành đi ngang một khu rừng. Người con thả bước vào rừng bất ngờ bị một con gấu xông ra quào cấu. Móng của nó gây thương tích khắp thân thể anh ta. Trong cơn nguy khốn, người con vội chạy ra khỏi rừng trở lại chỗ người cha và các bạn. Người cha thấy thân thể con mình thương tích khắp nơi lấy làm lạ hỏi đứa con: –Vì sao con lại bị thương tích đầy mình như vậy? Đứa con thưa với cha: –Có một loài thú gì thân thể phủ đầy lông dài thườn thượt đuổi theo tấn công con. Người cha cầm ngay cung tên đi vào rừng. Đến giữa rừng, ông ta thấy một Tiên nhân râu tóc rất dài liền giương cung muốn bắn. Người bạn đi theo ngăn lại: –Vì sao anh lại bắn vị kia. Người ấy không làm hại ai cả. Nếu anh bắn vị ấy sẽ có tội đấy. Người ngu trên đời cũng lại như thế. Đã là người xuất gia, tuy bận pháp phục nhưng không có chút đạo hạnh nào nên bị khinh rẻ. Đã vậy lại còn rấp tâm làm hại những người đạo đức, hiền lương tỉ như người cha kia vì thương tích do gấu cào của con mình nên vu oan cho cả bậc Thần tiên.  <詞 id="41126286">82- GIEO LÚA Thuở xưa có một anh nông dân ra thăm ruộng. Thấy lúa mạ phát triển tươi tốt, anh ta bèn hỏi thăm vị chủ ruộng: –Ông làm thế nào mà ruộng lúa này xanh tươi quá vậy? Vị chủ ruộng trả lời: –Cày đất cho kỹ, bang cho bằng rồi bón phân, tháo nước vào nên mới được như thế. Anh ta làm đúng theo phương pháp đó. Cày, bang đất, bón phân, dẫn nước vào đất ruộng của mình. Khi chuẩn bị gieo giống, anh ta lại ngại bước chân của mình giẫm xuống ruộng sẽ làm đất thô cứng, lúa không mọc được. Anh tự nhủ: “Ta phải ngồi trên giường rồi sai người khiêng đi. Ta ngồi trên giường gieo xuống, như thế là tốt nhất.” Nghó xong, anh ta sai bốn người, mỗi người một góc khiêng giường xuống ruộng để anh ngồi trên vãi giống. Mặt ruộng bị dày xéo trở nên thô cứng vô cùng. Mọi người chê cười: Sợ hai chân mình bước xuống ruộng làm đất thô cứng nay lại tăng thành tám cái chân giẫm đạp trên ruộng!”. Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Vâng giữ ruộng giới mầm thiện sẽ sinh. Phải học tập và thực hành theo lời thầy giáo giới để hạt giống chánh pháp nảy mầm. Thế nhưng có một số người trái lời thầy dạy, vi phạm giới luật, làm các điều ác khiến hạt giống giới không thể phát triển được. Tỉ như anh chàng sợ hai chân mình bước làm hư mặt ruộng nhưng lại để tám cái chân người hầu giẫm nát đất ruộng.  <詞 id="41126287">83- CON KHỈ Thuở xưa có một con khỉ bị một người cao to lực lưỡng đánh đập. Chú khỉ không thể làm gì để trả thù nên trút ngược cơn oán giận lên một đứa bé. Những kẻ phàm phu ngu ngốc cũng như thế. Có những người cứ chồng chất nỗi căm hờn tiền kiếp không để nó lặng tắt trong quá khứ mà vẫn kéo dài đến tận đời sau, cứ xem đó như việc diễn ra trước mắt cho nên lòng sân hận, ý niệm tà ác hại người càng sâu nặng cũng như con khỉ kia bị người lớn đánh lại oán hận đứa trẻ vậy.  <詞 id="41126288">84- VÌ NGUYỆT THỰC ĐÁNH CHÓ Thuở xưa vua cõi A-tu-la ngày ngày đều thấy ánh sáng trăng quá chói nên lấy tay che kín mặt trăng. Những kẻ vô trí trong đời lại tin tưởng rằng chính loài chó vô tội đã nuốt mất mặt trăng nên gán tiếng ác cho chúng. Kẻ phàm phu cũng thế. Vướng mắc vào niệm tham, sân, si ngang trái sẽ chuốc khổ vào thân tựa như nằm trên giường gai, bị lửa đốt thân cũng như những kẻ thấy nguyệt thực lại lấy cây đánh chó vậy.  <詞 id="41126289">85- NGƯỜI PHỤ NỮ BỊ BỆNH MẮT Thuở xưa có một cô gái bị mắt bệnh rất nặng. Một cô gái có học vấn thấy thế hỏi: –Chị bị đau mắt phải không? Người con gái đau mắt đáp: –Vâng, mắt tôi bị bệnh. Nàng kia nghe thế liền tự nhủ: –Có mắt thì phải có bệnh. Tuy hiện nay mình chưa bị đau mắt nhưng rồi cũng sẽ như chị ấy. Muốn ngăn ngừa chỉ có cách móc mắt đi để khỏi sợ bệnh về sau. Người bạn biết chuyện ngăn cản: –Nếu giữ cặp mắt thì mắt có thể bị bệnh nhưng cũng có thể không bệnh. Nếu cặp mắt không còn thì trọn đời cô phải mù lòa. Người ngu cũng thế. Nghe dạy: “Giàu sang là nguồn gốc của tai họa” liền hiểu sai, sợ sệt không dám bố thí; lo lắng sau này bị quả báu tài sản càng sung mãn, tiền bạc càng nhiều thì phải chịu nhiều khổ đau, phiền não. Có người khuyên: “Nếu anh bố thí thì có thể gặp khổ nhưng cũng có thể hưởng được an lạc. Nếu anh không bố thí thì sẽ mang quả báo khổ đau, cùng cực.” Những người trên cũng như nàng con gái kia sợ không kham nỗi gánh nặng bệnh tật nên muốn hủy cặp mắt, không biết sẽ bị đui mù vónh viễn.  <詞 id="41126290">86- CHA GIỮ KHUYÊN TAI CHO CON Thuở xưa có cha con hai người nọ có việc cùng đi với nhau. Trên đường đi, bỗng một toán cướp xuất hiện muốn đuổi theo cướp bóc. Trên tai đứa con có đôi khuyên bằng vàng rất giá trị. Người cha thấy bọn cướp hoảng hốt sợ mất đôi khuyên tai nên vội vàng giơ tay giật đôi khuyên nhưng vì khuyên tai xâu vào tai rất chắc không thể lấy ra được. Lúc đó, ông ta nhất định lấy cho được đôi khuyên nên chặt luôn đầu con mình. Một hồi sau, bọn cướp bỏ đi hết. Ông ta xách thủ cấp ráp vào cổ thi hài con mình nhưng không thể nào liền lại như cũ. Người ngu như thế chỉ bị thiên hạ chê cười mà thôi. Kẻ phàm phu cũng như thế. Mưu cầu danh lợi nên lập ra các luận thuyết hư vọng, chủ trương: –Có đời này đời sau cũng không có đời này đời sau. –Có thân trung ấm cũng không có thân trung ấm. –Có pháp quán sổ tức cũng không có pháp quán sổ tức. Tất cả các luận thuyết của họ đều là vọng tưởng, không đưa đến chân lý nên bị người khác đem luận lý đệ nhất nghóa phá các lý luận của họ, tuyên bố: “Tất cả luận của ta đều không phải là học thuyết.” Những kẻ ngu như trên chỉ vì chút bả lợi danh nên rơi vào tội vọng ngữ, mất hẳn đạo quả Sa-môn. Khi mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như người cha ngu si kia vì cái lợi nhỏ mà chặt đầu con mình vậy.  <詞 id="41126291">87- BỌN CƯỚP CHIA CỦA Thuở xưa có một bọn cướp cùng thực hiện một vụ cướp. Số tài sản cướp được rất nhiều và theo lệ cũ được chia đồng đều cho cả bọn. Chỉ có tên cướp Khâm-bà-la ngờ nghệch, hình dung cổ quái nên được chia phần dư thừa, phần ít nhất trong cả bọn. Khâm-bà-la rất căm giận la lên: –Thật là công toi! Phần của ta sao ít thế. Sau đó, y cũng đành mang phần dư thừa ấy vào thành bán. Không ngờ rất nhiều vị trưởng giả giàu sang tranh nhau mua. Sau cùng có một người mua được với giá rất cao. Số tiền y bán được gấp bội so với số tiền các tên khác trong bọn cướp được chia. Lúc ấy, Khâm-bà-la mới nhảy nhót, vui mừng vô cùng. Câu chuyện này dụ cho người đời không rõ bố thí có quả báo hay không. Đến khi bố thí một ít tiền bạc được quả báo tái sinh lên các cõi trời, thọ hưởng rất nhiều thú vui mới hối hận rằng đã không bố thí nhiều hơn. Cũng như tên cướp Khâm-bà-la sau khi bán được phần của mình với giá rất cao mới sinh lòng vui mừng. Bố thí cũng như thế. Bố thí chút ít mà được quả báo rất nhiều. Đến khi đó lòng vừa vui mừng vừa hối hận đã không làm nhiều việc lành hơn.  <詞 id="41126292">88- NẮM ĐẬU CỦA CHÚ KHỈ Thuở xưa có một chú khỉ cầm một nắm đậu, vô ý đánh rơi mất một hột. Nó liền buông hết nắm đậu trong tay, chạy đi tìm hột đậu đã rớt. Chú khỉ chưa tìm được hột đậu kia thì cả nắm đậu đều bị chim ăn hết cả. Một số kẻ phàm phu xuất gia cũng như thế. Ban đầu chỉ lỡ phạm một giới không biết ăn năm sám hối. Đã không phát lồ sám hối, sau đó lại cố ý buông lung hơn nữa nên tất cả giới lậu đều buông bỏ hết cũng như chú khỉ kia mất một hột đậu nên mất cả nắm đậu vậy.  <詞 id="41126293">89- CHUỘT VÀNG VÀ RẮN ĐỘC Thuở xưa có một người đi trên đường. Giữa đường anh ta nhặt được một con chuột bằng vàng, lòng mừng khấp khởi liền cất ngay vào bụng áo rồi tiếp tục lên đường. Đến một con sông, anh ta muốn bơi qua sông nên cởi y phục bỏ xuống đất. Ngay lúc đó, con chuột vàng bỗng biến thành một con rắn độc. Chàng ta suy nghó một hồi lâu rồi quyết định: thà bị con rắn độc này bị cắn chết, ta nhất định phải ôm nó bơi qua sông. Lòng chàng không chút sợ hãi, đột nhiên con rắn biến trở lại thành vàng. Một chàng ngốc đi cùng thấy rắn độc biến thành vật báu cho rằng là việc bình thường nên cũng bắt rắn độc ôm vào lòng, tức thì bị rắn độc mổ chết ngay. Những kẻ ngu trên đời cũng như thế. Thấy các bậc Hiền thiện được lợi ích hiện tiền, trong lòng chẳng có niệm chân thật tín ngưỡng Phật pháp nhưng vì lợi dưỡng nên đi theo Phật pháp. Những người đó sau khi mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như gã ngốc ôm rắn độc nên bị nó cắn chết vậy.  <詞 id="41126294">90- LƯỢM ĐƯỢC TIỀN Thuở xưa có người nghèo đi trên đường. Giữa đường anh ta tình cờ nhặt được một túi tiền vàng. Lòng mừng vui không xiết, chàng ta liền mở túi ra đếm tiền. Đếm chưa xong thì người chủ túi tiền đột nhiên trở lại lấy hết tiền. Lúc ấy, y hối hận đã không mau mang túi tiền cao bay xa chạy, lòng buồn bã ân hận, khổ não vô cùng. Người hội ngộ Phật pháp cũng lại như thế. Tuy được gặp gỡ, thân cận ruộng phước Tam bảo lại không nỗ lực tinh tấn khéo tu tập các hạnh lành. Đến khi đột nhiên qua đời phải rơi vào ba đường ác cũng như người ngu trên bị người chủ trở lại đoạt tiền đi mất vậy. Cho nên có bài kệ: Nay dự tính việc này Mai sẽ làm việc kia Hưởng lạc không màng khổ Nào hay tử thần đến Mãi lo trong mọi sự Có ai tránh được đâu Như gã đếm tiền kia Việc đời như thế cả.  <詞 id="41126295">91- NGƯỜI NGHÈO SO CỦA Thuở xưa có một người nghèo trong nhà có một ít tài sản. Nhìn các gia đình đại phú trong làng, lòng anh mong ước được giàu sang như họ. Nhưng suy đi nghó lại anh ta thấy không thể nào sánh được với những nhà đại phú kia. Vì thế lòng buồn bã muốn đem vứt số tài sản nhỏ nhoi của mình xuống sông. Có người bạn thấy thế ngăn cản. –Số tài sản nay tuy ít ỏi nhưng có thể nuôi sống anh một vài ngày. Vì sao anh lại đem vứt cả xuống sông như thế. Những kẻ ngốc trên đời cũng lại như thế. Một số người tuy có duyên được xuất gia, ít được cúng dường; lòng họ luôn hy vọng việc đó nhưng thường bị thiếu thốn không được như các bậc Đại đức Cao tăng được hàng tín chủ hộ trì. Thấy các bậc Cao tăng thạc đức, bác học đa văn được nhiều người cúng dường, lòng họ cũng mong được như thế nhưng không thể nào được nên ôm mối sầu khổ muốn bỏ đạo. Cũng như người ngu kia muốn được như các nhà giàu sang nhưng không được nên muốn vứt bỏ tài sản của mình vậy.  <詞 id="41126296">92- ĐỨA TRẺ ĐƯỢC KẸO Thuở xưa có một bà vú bồng đứa bé dạo chơi. Đi một hồi, bà ta cảm thấy mệt mỏi nên dừng chân ngồi nghỉ mệt rồi ngủ thiếp đi. Bấy giờ có một người đi đến lấy mấy viên kẹo cho đứa trẻ. Bé thấy viên kẹo màu sắc sặc sỡ, vị rất ngọt nên tham ăn không nghó gì đến thân mình. Người kia lập tức cởi hết kiềng vàng, vòng vàng, chuỗi ngọc, y phục và tất cả trang sức quý báu lấy đi hết. Tỳ kheo cũng như thế. Đam mê thú vui nơi chốn phồn hoa đô hội, vì một chút lợi dưỡng nên bị giặc phiền não cướp mất tất cả công đức tu trì, giữ giới thanh cao. Cũng như đứa bé kia vì tham đắm một chút vị ngon nên tất cả đồ vật đều bị cướp đi hết.  <詞 id="41126297">93- BÀ LÃO ĐÁNH CỌP Thuở xưa có một bão đang nằm nghỉ dưới gốc cây. Từ xa, một con hổ tiến lại muốn vồ ăn thịt. Bà lão vội chạy vòng thân cây để trốn. Con hổ đuổi theo sau, một chân bấu vào thân cây, chân kia toan vồ bà lão. Bà lão trong lúc nguy cấp liền chụp vội hai chân con hổ xiết chặt vào thân cây. Con hổ không sao vồ được. Ngay lúc đó, có một người khách bộ hành đi tới. Bà lão lên tiếng kêu: –Anh mau đến đây cùng lão giết con cọp này. Sau đó chúng ta sẽ cùng chia thịt. Người kia tin lời bà lão liền chạy đến phụ bà giữ chặt hai chân hổ. Khi người kia đã giữ chặt chân hổ, bà lão lập tức rút tay ra bỏ chạy. Gã kia sau đó bị khốn đốn với con hổ. Người ngu đến như thế nên bị thiên hạ diễu cợt. Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Biên soạn các bộ luận lạ thường, tư tưởng đã lệch lạc, văn từ lại rắc rối khó hiểu, cuối cùng vẫn không sao hoàn thành nên được nên đành bỏ dở dang. Hậu học muốn tìm hiểu, xin được giải thích thì không thể phân tích, biện biệt được ý tứ trong đó, trở nên lúng túng, ngại ngùng cũng như người ngu kia thay bà lão giữ con hổ trái lại tự mình bị hại.  <詞 id="41126298">94- NGỌC MA-NI HAY Lỗ THOÁT NƯỚC Thuở xưa có một anh chàng tư thông với vợ người. Một hôm, hai người đang gian díu thì người chồng đi xa trở về. Anh chồng biết được việc ấy nên đứng ngoài cửa dự tính khi tên gian phu chạy ra sẽ xuống tay sát hại. Người vợ đoán biết nên bảo với tình nhân: –Chồng em đã phát hiện rồi, nay anh không thể ra ngoài được. Chỉ còn có ma-ni<註 n="2"/>1 mới thể ra ngoài được. Ý cô ta là muốn người tình men theo lỗ thoát nước để thoát ra. Chàng ta lại hiểu lầm là ngọc ma-ni nên cứ loanh quanh trong phòng tìm kiếm. Kiếm mãi không biết ngọc ma-ni bảo châu ở chỗ nào, gã liền nói: –Kiếm không được ngọc ma-ni, ta quyết không ra ngoài. Thế rồi y cứ loay hoay ở mãi trong phòng nên cuối cùng bị giết chết. Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Nghe có người nói: “Trong cảnh sinh tử vô thường, khổ, không, vô ngã, cần rời xa hai cực đoan chấp thường hay chấp đoạn mà trú trong trung đạo. Trụ trong lý trung đạo mới có thể được giải thoát”, họ lại giải nghóa một cách sai lạc nên suy tư, tìm hiểu vấn đề thế giới có giới hạn hay không có giới hạn cho đến chúng sinh có chủ thể hay không có chủ thể. Cuối cùng không thể lãnh hội được chân nghóa của trung đạo. Đột nhiên bị vô thường lôi kéo thân hoại mạng chung sẽ phải rơi vào ba đường ác cũng như anh chàng ngốc kia mãi tìm kiếm ngọc ma-ni nên bị người giết.  <詞 id="41126299">95- VỢ CHỒNG CHIM BỒ CÂU Thuở xưa có một cặp chim bồ câu trống mái cùng ngụ trong một cái tổ. Mùa thu khi quả chín, chúng tha quả về chứa đầy trong tổ. Sau đó một thời gian, quả bị khô giảm đi chỉ còn nửa tổ. Chim trống tức giận mắng chim mái: –Chúng ta khó nhọc cực khổ lắm tha quả về tổ, thế mà cô lại lén ăn một mình để nay quả chỉ còn lại nửa tổ. Chim mái liền đáp: –Tôi nào lén ăn một mình. Tự quả giảm đi đấy chứ! Chim trống không tin, phẫn nộ nói: –Không phải cô lén ăn một mình thì nguyên do gì quả bị mất đi chứ? Nói dứt lời nó liền lấy mỏ mổ chết chim mái. Chưa được vài ngày, trời mưa tầm tả, quả trong tổ gặp ẩm ướt trở lại như cũ. Bồ câu trống thấy thế mới hối hận: “Quả thật cô ta không ăn, ta đã giết oan cô ta rồi!”, rồi sầu não cất tiếng kêu thảm thiết gọi chim mái: –Em ơi! Em đã bay tận phương nào? Kẻ phàm phu cũng như thế. Khởi tâm điên đảo, mê đắm thú vui nhục dục, chẳng biết quán niệm vô thường, phạm vào trọng giới. Sau đó hối hận thì không còn kịp nữa. Cuối cùng chỉ còn khóc than sầu lụy như con bồ câu ngu ngốc kia.  <詞 id="41126300">96- NÓI DỐI MẮT MÙ Thuở xưa có một người thợ mộc làm việc cho nhà vua không chịu đựng nổi cực khổ, nói dối là mắt mù nên thoát khỏi được lao khổ. Có người thợ khác nghe được chuyện ấy liền muốn hủy hoại đôi mắt của mình để lấy cớ trốn khỏi nỗi khổ lao dịch. Có người biết chuyện liền ngăn cản: –Tại sao anh lại muốn tự hủy đôi mắt để phải chịu nỗi khổ mù lòa như thế? Hạng người ngu như thế đều bị thiên hạ cười khinh. Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Vì đôi chút tiếng tăm và lợi lộc nên cố ý nói dối, hủy hoại tịnh giới. Đến khi thân hoại mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như người ngu kia vì cái lợi trước mắt mà tự muốn hủy đôi mắt của mình vậy.  <詞 id="41126301">97- BỊ CƯỚP ĐOẠT MẤT ÁO LÔNG Thuở xưa có hai người bạn đồng hành, đi đến một cánh đồng rộng khoáng đãng. Một người đang mặc áo lông bị bọn cướp bắt được lục soát bên đường. Người kia nhanh chân trốn vào trong đám cỏ. Anh chàng bị cướp áo lông lúc ra đi đã giấu trên cổ áo lông một đồng tiền vàng, lúc này lên tiếng van nài bọn cướp: –Chiếc áo đó giá trị vừa đúng một đồng tiền vàng. Nay tôi xin được lấy một đồng tiền vàng để chuộc lại chiếc áo. Bọn cướp liền tra hỏi: –Tiền vàng nay ở đâu? Anh ta rạch cổ áo lấy đồng tiền ra, nói với bọn cướp: –Đây là vàng thật đấy. Nếu không tin lời tôi, nay trong bụi cỏ đằng kia có một người thợ kim hoàn rất giỏi, các ông có thể hỏi y thì rõ. Bọn cướp phát hiện ra người thứ hai lại lấy luôn y phục của anh ta. Người ngu như thế nên mất hết tất cả, cả áo lông lẫn tiền vàng. Tự mình mất của còn khiến cho người khác mất theo. Kẻ phàm phu cũng thế. Tu tập các phẩm trợ đạo, tạo được một số công đức nhưng bị giặc phiền não cướp mất thiện pháp nên tiêu hoại hết mọi công đức. Không những tự đánh mất lợi lạc của bản thân còn khiến cho bạn đồng tu tổn hại đạo nghiệp. Sau khi chết phải rơi vào ba đường ác cũng như gã ngốc trên làm bản thân và bạn mình mất sạch của cải vậy.  <詞 id="41126302">98- ĐỨA TRẺ ĐƯỢC RÙA Thuở xưa có một đứa trẻ đi chơi trên đường bắt được một con rùa to. Ý nó muốn giết con rùa nhưng không biết cách nào để thực hiện. Nó liền đi hỏi người khác: –Làm thế nào để giết con rùa này? Có người lên tiếng: –Cháu hãy quẳng con rùa vào trong nước thì giết nó được ngay. Bấy giờ, đứa trẻ tin ngay lời đó nên quẳng con rùa xuống nước. Con rùa gặp nước lập tức bơi đi. Kẻ phàm phu cũng lại như thế. Muốn phòng hộ sáu căn, tu tập các công đức nhưng không biết phương pháp tu tập nên tham vấn ý kiến mọi người: “Phải tạo nhân duyên gì mới được giải thoát?”. Bọn ngoại đạo tà kiến, thiên ma Ba-tuần và lũ bạn ác liền nói: “Ngươi chỉ cần để hết tâm ý vào sáu trần, buông thả tình cảm theo năm dục. Nếu ngươi theo lời của ta thì ắt hẳn sẽ được giải thoát.” Nếu người ngu ấy không suy tư thẩm xét làm theo lời ấy thì khi thân hoại mạng chung phải rơi vào ba đường ác cũng như đứa trẻ kia ném rùa xuống nước vậy.  <卷 id="41126303">KỆ CUỐI QUYỂN Luận trên tôi tuyển soạn Hòa trong thể truyện vui Phần nhiều làm ảnh hưởng Giáo thuyết thể trang nghiêm Nên thẩm tường văn nghóa Điều nên, điều chẳng nên. Thuốc trị độc vị đắng Hợp cùng vị đường ngon Thuốc để tiêu trừ bệnh Luận này cũng như trên. Tiếu văn hòa chánh pháp Như thuốc trị mê cuồng Khiến chánh pháp tịch tónh Chiếu sáng cõi trần gian Như uống thuốc thổ hạ<註 n="3"/>2 Dùng sữa để nhuận thân Tôi nay theo lý đó Rộng truyền nghóa vô vi. Như Thánh dược bất tử <註 n="4"/>3 Phải lấy lá bọc ngoài Dùng thuốc trong trừ bệnh Là bọc cần thải hồi. Tiếu văn như bao lá Nghóa thật tàng ẩn trong Người trí tuyển thật nghóa Tiếu văn cần xả ly. Tôn giả Tăng-già-tư-na tuyển soạn xong kinh Bách Dụ. <卷 id="41126304">