<經 id="n203">KINH TẠP BẢO TẠNG Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Sa-môn Kiết-ca-dạ và Đàm Diệu. <卷 id="41126051">QUYỂN 1 Gồm chín chuyện: 1. Chuyện Thập Xa vương. 2. Chuyện Vương tử lấy thịt mình cứu cha mẹ. 3. Nhân duyên chim Anh vũ cúng dường cha mẹ mù. 4. Chuyện Khí Lão quốc. 5. Chuyện Đức Phật ở cõi trời Đao-lợi thuyết pháp cho Mẹ là bà Ma-da. 6. Đức Phật kể chuyện ngày xưa mẹ Ngài là bà Ca-đán-già-la. 7. Chuyện Từ Đồng Nữ. 8. Chuyện phu nhân Liên Hoa. 9. Chuyện phu nhân Lộc Nữ.  <詞 id="41126052">1- CHUYỆN THẬP XA VƯƠNG Ngày xưa, lúc con người sống thọ đến một vạn tuổi, có một vị vua tên Thập Xa, làm vua cõi Diêm-phù-đề. Vợ chánh của nhà vua sinh được một người con trai tên là La-ma. Vợ thứ của nhà vua có một người con tên là La-mạn. Thái tử La-ma là người đại dũng mãnh, có sức mạnh của Na-la-diên, kiêm cả tài văn chương thi phú. Hễ ai nghe tiếng hay thấy hình đều có thể bị hại, không ai địch nổi. Bấy giờ, vị phu nhân thứ ba sinh được một người con trai tên là Bà-la-đà. Phu nhân thứ tư sinh được một người con trai tên là Diệt Oán Ác. Đặc biệt phu nhân thứ ba được nhà vua rất yêu quý, thường nói: –Nay ta đối với nàng, tất cả những của cải, châu báu của ta, ta hoàn toàn không keo kiết gì cả, nếu nàng cần thứ gì ta sẽ cho ngay. Phu nhân thưa: –Hiện nay thiếp chưa có cầu mong gì, nếu sau này có thỉnh nguyện gì thì thiếp sẽ xin tâu. Khi ấy nhà vua bị bệnh, tánh mạng rất nguy kịch, liền lập thái tử La-ma thay mình làm vua. Thái tử lấy lụa búi tóc, đầu đội mão trời, nghi dung phép tắc như pháp của vua. Bấy giờ, phu nhân thứ ba thấy bệnh của vua có thuyên giảm đôi phần, tự ỷ mình được vua yêu dấu như thế và thấy La-ma nối ngôi vua cha, trong lòng sinh ra ganh tức, tìm đến chỗ vua, xin vua cho bà lời mong ước ngày trước, bà thưa: –Mong cho con của thiếp được làm vua, truất phế La-ma. Nhà vua nghe lời này rồi như người mắc nghẹn, nuốt không trôi mà nhổ ra cũng không được. Vì nếu muốn truất phế con trưởng nay đã phong làm vua rồi; nếu không muốn truất phế thì trước đây đã hứa là cho bà ta muốn gì cũng được. Song, vua Thập Xa từ xưa đến nay chưa từng bội tín với ai cả. Vả lại, pháp của vua là pháp không được nói hai lời, không nuốt lời hứa trước. Suy nghó như vậy xong, nhà vua liền truất phế La-ma, lấy lại áo mão. Khi ấy, người em là La-mạn nói với anh: –Anh có sức mạnh, lại có tài văn chương điển nhã sao lại không sử dụng mà phải chịu sự sỉ nhục này? Người anh nói với em: –Làm ngược lại sự mong ước của cha không thể gọi là con hiếu thảo. Song, nay người mẹ này không sinh ra ta, nhưng cha ta thương mến thì cũng như là mẹ của ta vậy. Còn người em Bà-la-đà tánh tình rất hòa thuận, chắc không có ý gì khác. Như ta bây giờ tuy có sức mạnh vó đại, có tài thi phú, nhưng đối với cha mẹ và người em ấy, không nên làm gì để tổn hại họ cả. Người em nghe xong liền im lặng. Bấy giờ, vua Thập Xa bắt hai người con phải đi thật xa, vào núi sâu, sau mười hai năm mới cho về nước. Anh em của La-ma liền vâng theo lệnh của vua cha, trong lòng không ôm hận, bái từ cha mẹ, đi vào núi sâu thật xa. Khi ấy Bà-la-đà đang ở nước ngoài, nhà vua ra lệnh tìm kiếm, triệu về nước để làm vua. Song, Bà-la-đà đối với hai người anh rất hòa kính, cung thuận, luôn giữ lòng kính yêu. Lúc trở về nước rồi thì phụ vương đã băng hà, mới hay mẹ mình đã dối lập việc hưng phế, tẫn xuất hai người anh đi xa. Nghi ngờ việc làm của mẹ mình có điều phi lý, cho nên Bà-la-đà nói với mẹ mình mà vẫn không lễ bái, thưa quỳ: –Tại sao mẹ làm việc bội nghịch này, tiêu diệt tình máu mủ của chúng ta? Rồi thái tử hướng về phía mẹ lớn bái lạy, cung kính hiếu thuận gấp bội lúc bình thường. Bấy giờ, Bà-la-đà liền đem binh chúng đến ranh giới của hòn núi mà hai anh đang ở, rồi bảo binh chúng ở phía sau, một mình đi vào núi. Đang khi thái tử em đi đến thì La-mạn nói với anh: –Trước đây chúng ta hằng cho rằng người em Bà-la-đà là con người đạo nghóa, kính nhường, cung thuận, nhưng hôm nay nó lại đem binh đến đây để giết hại anh em chúng ta! Hoàng tử anh nói với Bà-la-đà: –Hôm nay vì sao em đem binh chúng tới đây? Hoàng tử em thưa với anh: –Sợ đi giữa đường gặp bọn giặc cướp cho nên em phải đem theo binh chúng, mục đích là để tự phòng vệ, ngoài ra em không có ý gì khác cả, mong anh hãy trở về nước để trông coi việc triều chính. Người anh trả lời: –Trước đây anh đã vâng lệnh của vua cha lưu đày nơi xa xôi này. Nay anh vì sao lại trở về liền như vậy? Nếu anh tự ý làm thế thì không thể gọi là người con nhân từ hiếu thuận được. Người em đã ân cần thỉnh cầu hết sức như vậy, nhưng ý của người anh đã quyết định rõ ràng, kiên cố. Người em biết ý của anh mình dứt khoát không trở về, liền tìm thấy đôi giày da của anh mình thường mang, trong lòng buồn rầu áo não, đem nó về nước. Khi trở về nước thống nhiếp việc quốc chánh, người em thường đặt nó lên trên ngự tòa, ngày đêm triều bái, hỏi han, xem như là anh mình không khác. Nhà vua lại thường bảo người vào trong núi luôn luôn thỉnh mời hai anh về nước. Nhưng vì hai người anh theo lệnh của vua cha phải đủ mười hai năm mới được về nước. Nay chưa đủ thời gian ấy, vì lòng chí hiếu tận trung nên không dám trái lệnh. Về sau dần dần đã đủ mười hai năm, lại biết người em luôn luôn ân cần mời thỉnh, lại còn biết người em luôn luôn kính chiếc giày của mình như chính mình vậy. Vì cảm kích tấm lòng của người em tha thiết như thế, liền trở về nước. Khi về đến nước người em liền nhường ngôi cho người anh. Người anh nhường lại, nói: –Phụ vương đã giao ngôi cho em, ta không nên nhận lấy ngai vàng này. Người em lại thưa: –Anh là con trưởng, phải gánh lấy sự nghiệp của cha, như vậy mới là đúng lẽ. Cứ như vậy hai bên nhường ngôi qua lại cho nhau. Cuối cùng người anh không thể từ chối được nên phải lên làm vua. Anh em hòa kính, thương yêu, phong hóa thịnh hành, đạo đức dồi dào nên muôn dân được nhờ cậy, họ càng thêm trung hiếu. Dân chúng suy nghó tự khuyến khích mình tôn thờ việc hiếu kính. Mẹ của Bà-la-đà tuy có tạo ra sự đại ác nhưng La-ma vẫn không có lòng oán hận. Do nhân duyên trung hiếu này mà mưa gió đúng thời, ngũ cốc sung mãn, con người không có tật dịch. Ở trong cõi Diêm-phù-đề tất cả dân chúng đều giàu có sung mãn, mười phần gấp bội lúc bình thường.  <詞 id="41126053">2- CHUYỆN VƯƠNG TỬ DÙNG THỊT CỦA MÌNH ĐỂ CỨU CHA MẸ Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả A-nan mang y cầm bát vào thành để khất thực, thấy một cậu bé có cha mẹ bị mù. Hễ đi xin được món đồ ăn nào ngon thì cậu dâng lên cho cha mẹ, còn món nào dở thì tự ăn lấy. Tôn giả A-nan bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, cậu bé này thật là hiếm có, vì hễ khi xin được đồ ăn ngon thì dâng lên cha mẹ, còn đồ dở thì để mình ăn. Đức Phật bảo: –Điều đó cũng chưa phải là khó. Trong thời quá khứ, Ta đã cúng dường cho cha mẹ mới thật là điều khó làm. Tôn giả A-nan thưa: –Bạch Thế Tôn, trong đời quá khứ Thế Tôn đã cúng dường cha mẹ như thế nào? Đức Phật bảo: –Ở thời quá khứ có một vị đại quốc vương thống lãnh đất nước. Nhà vua có sáu người con, mỗi người cai trị một nước. Bấy giờ có một vị đại thần tên là La-hầu-cầu lập mưu, nổi quân giết chết vị đại vương và năm người con kia. Còn người con thứ sáu đã có Quỷ thần đến mách bảo trước: –Đại vương là cha của ngươi và năm người anh đều bị đại thần La-hầu-cầu giết hại. Tiếp theo, y sẽ muốn đến giết ngươi. Vương tử nghe xong, liền trở về nhà. Người vợ thấy vương tử diện mạo âu sầu, tiều tụy, không giống lúc bình thường, liền hỏi chồng: –Anh có điều gì vậy? Người chồng nói với vợ: –Việc của người đàn ông không thể nói cho nàng biết được. Người vợ nói: –Này vương tử, nay tôi với chàng đồng sinh đồng tử, có việc gì gấp hay hoãn mà không nói cho nhau nghe? Chồng nói với vợ: –Vừa rồi có quỷ thần đến bảo với ta: “Cha của ngài là đại vương và năm người anh đều bị kẻ khác giết chết. Họ sẽ đến đây tìm ngài.” Do đó cho nên ta mới sợ sệt, chẳng biết phải làm sao! Vợ chồng bàn với nhau liền mang theo người con nhỏ chạy trốn sang nước khác. Họ mang theo lương thực cho bảy ngày thì sẽ tới nước muốn đến. Vì quá kinh hoàng sợ hãi cho nên đã đi lộn đường. Quanh co hết mười ngày trời rồi mà vẫn chưa đến nơi, lương thực hết sạch cho nên bị đói khát, khốn khổ gần chết. Vương tử suy nghó: “Nếu để ba người cùng sống thì sự thống khổ càng thêm kịch liệt. Chẳng thà ta hãy giết chết một người, chỉ còn có hai người thì sẽ bớt khổ.” Nghó như vậy xong, vương tử liền rút kiếm muốn giết người vợ. Cậu bé quay đầu lại thấy cha sắp sửa giết mẹ, liền chắp tay thưa: –Ngày hôm nay xin cha đừng giết mẹ con. Xin cha cứ giết con để thay thế cho mẹ. Nghe con nói như vậy, người cha lại muốn giết con. Nhưng người con nói tiếp: –Xin cha đừng làm cho con chết. Nếu con chết, thịt sẽ thối rữa, không thể để lâu được, thì cha mẹ sẽ không đủ lương thực để đi tiếp. Xin đừng giết con chết, cứ từ từ cắt thịt mà dùng, mỗi ngày ăn chút ít trong lúc chưa đến xứ người. Thịt ở trong thân con chia làm ba phần, cha mẹ hãy lấy hai phần mà ăn, còn lại một phần thì để con dùng. Cha mẹ hãy để con nằm ở đây rồi đi tiếp. Bấy giờ, cung điện của Thích Đề-hoàn Nhân bị chấn động, trời Đế Thích bèn quan sát xem do nhân duyên gì mà bị như vậy, mới thấy cậu bé này đã làm một việc hy hữu. Ông liền hóa hình một con chó sói đói đi đến đòi ăn thịt. Lúc ấy cậu bé suy nghó: “Nếu ta ăn thịt này thì cũng sẽ chết, còn không ăn thịt thì ta cũng chết.” Cậu bé liền bỏ phần thịt còn lại cho chó sói đói ăn. Khi ấy Thích Đề-hoàn Nhân liền hóa thành người, nói với cậu bé: –Nay ngươi cắt thịt để nuôi cha mẹ, vậy ngươi có hối hận chăng? Cậu bé trả lời: –Không hối hận. Người kia lại nói: –Nay ngươi đang khổ não, vậy ai tin ngươi không sinh lòng hối hận? Bấy giờ, cậu bé nói lời thành thật: –Nếu tôi không có lòng hối hận thì xin ngay bây giờ thịt trong thân tôi sẽ bình phục lại như xưa. Còn nếu tôi có lòng hối hận thì tôi sẽ chết tức thì. Khi cậu bé nói lời ấy xong thì thân thể lại bình phục như xưa. Thích Đề-hoàn Nhân liền đưa cậu bé cùng với cha mẹ đồng đến một nơi gặp vị vua nước khác. Thấy việc này rồi trong lòng nhà vua hết sức thương xót và vô cùng hoan hỷ. Nhà vua thương người con chí hiếu, khen ngợi là chưa từng có, liền cấp cho quân đội trở về để lấy lại nước. Thích Đề-hoàn Nhân dần dần ủng hộ vị ấy trở thành vua của cõi Diêm-phù-đề. Cậu bé lúc ấy chính là thân Ta. Còn cha mẹ lúc ấy chính là cha mẹ của Ta bây giờ. Đức Phật dạy: –Đâu có phải chỉ ngày hôm nay Ta mới tán thán lòng từ hiếu. Nhưng trong vô số kiếp Ta cũng thường tán thán như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, trong đời quá khứ Ngài cúng dường cha mẹ như thế nào? Đức Phật dạy: –Ngày xưa, trong lãnh thổ của vua nước Ca-thi có một hòn núi lớn. Trong hòn núi ấy có vị Tiên nhân tên là Thiểm-ma-ca, cha mẹ đã già lại mù cả hai mắt. Vị Tiên thường dâng quả ngon, hoa thơm, nước tốt cho cha mẹ dùng, để cha mẹ ở nơi an nhàn, yên vắng, không có gì phải sợ sệt. Hễ vị Tiên này có làm công việc gì nhất cử nhất động, trước hết đều thưa với cha mẹ. Khi vị Tiên thưa với cha mẹ xong, liền đi lấy nước. Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt đang đi săn, bỗng thấy một con nai đang uống nước, liền giương cung lên bắn. Tên độc lỡ trúng vào người của Thiểm-ma-ca. Khi bị tên độc, vị Tiên nhân la lớn: –Một mũi tên giết chết ba người, đau đớn biết chừng nào! Nhà vua nghe tiếng than ấy, tìm theo chỗ mũi tên rơi đi đến đó để xem thử việc gì, ai đã nói lời ấy? Vua nói: –Ta nghe trong núi này có một vị Tiên nhân tên là Thiểm-ma-ca, nhân từ hiếu thuận, nuôi dưỡng cha mẹ mù, mọi người đều khen ngợi. Vậy ngươi có phải là Thiểm-ma-ca không? Đáp: –Người ấy chính là tôi. Rồi chàng nói tiếp: –Nay thân của tôi dù có thống khổ cũng không sao. Tôi chỉ lo cho cha mẹ tôi già cả mà lại bị mù lòa, từ nay sẽ bị đói khát, cùng khốn, không ai nuôi dưỡng! Nhà vua lại nói: –Cha mẹ mù của ngươi hiện nay đang ở chỗ nào? Thiểm-ma-ca chỉ cho vua: –Trong ngôi nhà cỏ kia. Nhà vua liền đi đến chỗ ở của cha mẹ bị mù ấy. Khi đó, cha của Thiểm-ma-ca nói với vợ: –Nay con mắt của tôi bị giật, há không phải là đứa con hiếu thảo Thiểm-ma-ca của chúng ta bị tai họa sao? Người vợ lại nói với chồng: –Nay cái vú của tôi cũng hồi hộp bất an, chẳng lẽ đứa con của chúng ta bị điều gì không lành chăng? Lúc ấy cha mẹ mù đang nghe tiếng của vua đi đến, trong lòng sợ sệt, biết không phải là bước chân của con mình. Vậy đây là ai? Nhà vua đi tới phía trước, nói lời bái chào. Cha mẹ mù nói: –Con mắt của chúng tôi không thấy gì cả. Vậy ai bái chào đó? Vua đáp: –Tôi là vua của nước Ca-thi. Cha mẹ mù nghe xong bèn mời nhà vua ngồi xuống, nói: –Nếu con tôi có mặt ở đây, nó sẽ dâng lên cho đức vua những hoa thơm quả ngon. Con của chúng tôi sáng nay đã đi lấy nước. Chúng tôi chờ đã lâu rồi mà chưa thấy về. Nhà vua liền buồn khóc, nói kệ: Ta là vua nước này Đi săn tại núi đây Chỉ muốn bắn cầm thú Không ngờ lại hại người. Nay ta bỏ ngôi vua Phụng dưỡng cha mẹ mù Giống như con cha mẹ Xin chớ có buồn khổ! Cha mẹ mù lại dùng kệ đáp lại vua: Con tôi hiền, hiếu thuận Trong đời không ai bằng Tuy vua thấy xót thương Làm sao giống con được? Xin vua rủ lòng thương Chỉ con tôi ở đâu? Được con ở gần bên Như vậy là mãn nguyện. Bấy giờ, nhà vua dẫn cha mẹ mù đi đến bên Thiểm-ma-ca, khi họ đi đến bên con rồi, liền đập ngực, khóc lóc, áo não, nói: –Than ôi, con của ta nhân từ, hiếu thuận không ai bằng. Hỡi Thiên thần, Địa thần, Sơn thần, Thọ thần, Thần sông, Thần hồ, các vị Thần hãy nghe bài kệ này: Thích, Phạm vua cõi trời Vì sao không phò trợ Con hiếu thuận của ta? Để phải khổ như vầy Thương đứa con hiếu tử Hãy mau đến cứu mạng. Lúc ấy, cung điện của Thích Đề-hoàn Nhân bị chấn động. Vua trời dùng Thiên nhó nghe những lời đau thương, trắc ẩn của cha mẹ mù, liền từ trên trời đi xuống, đến chỗ đó nói với Thiểm-ma-ca: –Ngươi có sinh tâm ác với nhà vua chăng? Đáp: –Quả thật tôi không có tâm ác với nhà vua. Thích Đề-hoàn Nhân nói: –Ai mà tin được nhà ngươi không có tâm ác? –Thiểm-ma-ca đáp: –Nếu tôi có tâm ác đối với nhà vua thì chất độc sẽ chạy khắp thân khiến tôi chết lập tức. Nếu tôi không có tâm ác đối với nhà vua thì tên độc sẽ ra khỏi thân và vết thương liền lành. Liền đúng như lời nói ấy, tên độc tự ra khỏi thân và Thiểm-ma-ca bình phục như xưa. Nhà vua hết sức vui mừng, vô cùng sung sướng, liền ra cấm lệnh, bảo khắp mọi người trong nước phải tu nhân từ, hiếu thảo với cha mẹ. Thiểm-ma-ca từ xưa đến nay nhân từ hiếu thuận, cúng dường cha mẹ. Nên biết rằng người cha mù lúc ấy chính là vua Tịnh Phạn. Người mẹ mù nay là Ma-da phu nhân. Thiểm-ma-ca chính là thân Ta. Vua nước Ca-thi lúc ấy nay là Xá-lợi-phất. Thích Đề-hoàn Nhân nay là Ma-ha Ca-diếp.  <詞 id="41126054">3- NHÂN DUYÊN CHIM ANH VŨ CÚNG DƯỜNG CHA MẸ MÙ Đức Phật ở tại thành Vương xá, bảo các Tỳ-kheo: –Có hai loại tà hạnh, tựa như vỗ vào trái cầu, mau bị đọa vào địa ngục. Những gì là hai? Một là không cúng dường cha mẹ. Hai là làm điều ác đối với cha mẹ. Có hai chánh hạnh, như dồi vào trái cầu, mau được sinh lên cõi trời. Những gì là hai? Một là cúng dường cha mẹ, hai là làm các hạnh thiện đối với cha mẹ. Các Tỳ-kheo thưa: –Hy hữu thay, bạch Thế Tôn, Đức Như Lai đã hết sức tán thán cha mẹ. Đức Phật dạy: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay! Về đời quá khứ, trong núi Tuyết có một con chim Anh vũ, cha mẹ đều bị mù. Nó thường mang những hoa thơm, trái chín trước tiên là phụng dưỡng cha mẹ. Bấy giờ có một điền chủ, khi mới trồng lúa có phát nguyện: –Tôi trồng lúa này mục đích là cho chúng sinh cùng ăn. Khi ấy, chim Anh vũ vì ông điền chủ trước đây đã có lòng bố thí, nên nó thường đến ruộng này lượm thóc lúa đem về cúng dường cha mẹ. Lúc đó vị điền chủ đi ra ruộng để xem lúa, thấy các thứ sâu, chim cắn hư bông lúa cho nên buồn rầu, bực tức. Ông liền giăng lưới bắt được chim Anh vũ. Chim Anh vũ nói: –Này điền chủ, trước đây ông đã có lòng tốt bố thí tài vật, không keo kiết. Vì thế nên tôi mới dám đến đây để lượm lúa thóc. Vậy cớ gì nay ông lại giăng lưới bắt tôi? Vả lại, ruộng thì giống như người mẹ, còn hạt giống thì giống như người cha. Lời nói thành thật như con, điền chủ như vị vua che chở cho chúng tôi. Khi chim nói lời này xong, điền chủ rất hoan hỷ, hỏi chim Anh vũ: –Ngươi nhặt lúa này đem về cho ai? Anh vũ đáp: –Tôi có cha mẹ mù, nguyện suốt đời phụng dưỡng. Điền chủ bảo: –Từ nay về sau hãy thường đến đây để lấy lúa, đừng có sợ gì cả. Đức Phật nói: –Chim Anh vũ vui mừng được nhiều hạt và ông điền chủ cũng vậy. Chim Anh vũ lúc ấy chính là Ta. Điền chủ nay là Xá-lợi-phất. Người cha mù lúc đó là vua Tịnh Phạn, người mẹ mù là Ma-da phu nhân.  <詞 id="41126055">4- CHUYỆN KHÍ LÃO QUỐC Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy như vầy: –Cung kính người già có lợi ích lớn là: Những điều chưa được nghe thì được nghe hiểu, tiếng tăm đồn xa, được người trí kính nể. Các Tỳ-kheo thưa: –Đức Như Lai Thế Tôn thường khen ngợi những ai cung kính cha mẹ và những bậc kỳ túc trưởng lão. Đức Phật dạy: –Đâu chỉ có ngày hôm nay, mà trong vô lượng kiếp ở quá khứ. Ta thường cung kính cha mẹ cùng những bậc trưởng lão kỳ túc. Các Tỳ-kheo thưa: –Ở thời quá khứ, Đức Thế Tôn đã cung kính cha mẹ và các bậc trưởng lão như thế nào? Đức Phật dạy: –Về thời quá khứ lâu xa về trước, có một nước tên là Khí lão. Trong nước này hễ nhà ai có người già đều phải bỏ đi thật xa. Lúc ấy, một vị đại thần nọ trong triều có người cha tuổi đã già. Theo pháp luật của nước thì phải đem bỏ người cha thật xa. Nhưng vị đại thần này có lòng hiếu thuận nên không nỡ làm vậy. Ông mới đào sâu trong đất làm một căn phòng bí mật để người cha ở đó, để tùy lúc phụng sự hiếu dưỡng. Bấy giờ, có vị Thiên thần bắt hai con rắn để trước điện của vua, nói: –Nếu vua phân biệt được con nào đực, con nào cái thì nước này được bình yên, còn nếu không phân biệt được thì cả thân vua và nước này sau bảy ngày nữa sẽ bị diệt hết. Nhà vua nghe lời ấy rồi, trong lòng buồn bực, liền triệu tập tất cả quần thần để thảo luận về việc này. Nhưng các quần thần ai cũng không thể phân biệt con nào đực, con nào cái. Nhà vua liền chiêu mộ các hiền tài trong nước, hễ ai có thể phân biệt được, nhà vua sẽ phong tước vị và trọng thưởng. Vị đại thần trở về nhà hỏi cha mình, người cha bảo: –Việc này phân biệt rất dễ dàng. Hãy dùng một vật mềm mịn rồi đặt con rắn lên trên, nếu thấy con vật cựa quậy thì biết đó là con đực, còn nếu nó nằm yên thì đó là con cái. Vị đại thần liền tới tâu với nhà vua, quả nhiên nhà vua phân biệt được con nào đực, con nào cái. Vị Thiên thần lại bảo: –Ai đang ngủ mà gọi là thức? Ai đang thức mà gọi là ngủ? Nhà vua và quần thần lại cũng không thể biện biệt nổi. Nhà vua lại chiêu mộ các hiền tài trong nước, cũng mhông ai có thể giải thích được. Vị đại thần liền về nhà hỏi cha mình: –Lời ấy có ý nghóa gì? Người cha nói: –Đó là gọi về những học giả, đối với các phàm phu thì gọi họ là người thức, nhưng đối với các vị La-hán thì đó là những người đang mê ngủ. Vị đại thần liền đem lời nói ấy để giải thích thì Thiên thần đồng ý. Vị Thiên thần lại hỏi: –Con bạch tượng lớn này được bao nhiêu cân lượng? Nhà vua và quần thần cùng nhau bàn luận, nhưng cũng không thể biết được. Nhà vua liền chiêu mộ những người trong nước, nhưng cũng không có ai biết. Vì đại thần lại hỏi cha mình, người cha trả lời: –Hãy đặt con voi trên chiếc thuyền, chiếc thuyền ấy được để trong hồ nước lớn. Nên làm dấu chiếc thuyền lúc bình thường thì mực nước thế nào và khi bỏ con voi vào thì mực nước chìm xuống sâu bao nhiêu. Lúc đó đưa voi ra, dùng đá bỏ vào chiếc thuyền cho đến lúc chiếc thuyền chìm xuống nước bằng trọng lượng con voi thì sẽ biết cân lượng của con voi. Vị đại thần liền dùng lời trí tuệ đó giải đáp, vị Thiên thần đồng ý. Thiên thần lại hỏi: –Ai có thể biết được làm sao để nước trong một bụm tay gọi là nhiều hơn nước trong biển cả? Nhà vua và quần thần cùng nhau nghị luận cũng không thể giải thích. Nhà vua lại chiêu mộ hết mọi người trong nước nhưng cũng không có ai biết. Vị đại thần lại hỏi cha mình: –Đó là lời nói có ý gì? Người cha đáp: –Lời này rất dễ hiểu. Nếu có người với tín tâm thanh tịnh, lấy một bụm nước để cúng dường Đức Phật, chúng Tăng, cha mẹ và các bệnh nhân nguy cấp. Do công đức này trải qua mấy ngàn vạn kiếp, kẻ ấy được hưởng phước vô cùng. Còn nước biển tuy rất nhiều nhưng chẳng qua cũng hạn cuộc trong thời gian một kiếp rồi nó cũng sẽ khô cạn. Theo đó mà xét, một bụm nước của người tín tâm ấy còn nhiều gấp trăm ngàn vạn lần so với nước trong biển cả. Vị đại thần liền dùng lời nói này để trả lời vị Thiên thần và được chấp nhận. Vị Thiên thần lại hóa thành một người đói khổ chỉ còn một bộ xương, đi đến hỏi: –Ở thế gian có người nào đói khổ kịch liệt, ốm o như tôi không? Nhà vua và quần thần cùng nhau nghị luận nhưng cũng không thể giải thích. Vị đại thần cũng vậy, về hỏi cha mình, người cha trả lời: –Ở thế gian có người tham lam keo kiệt, ganh ghét, không tin Tam bảo, không cúng dường Cha mẹ, Sư trưởng, cho nên đời sau phải bị đọa trong loài ngạ quỷ cả trăm ngàn vạn năm vẫn không nghe nói đến tên cơm nước chi cả. Kẻ ấy thân thì to như núi, bụng thì lớn như cái hang, cổ thì nhỏ như cây kim, tóc như dao nhọn từ đầu đến chân, hễ lúc chuyển động thì các khớp xương đều bị bốc lửa. Con người như vậy còn khổ đói kịch liệt hơn người gấp trăm ngàn vạn lần. Vị đại thần liền lấy lời ấy để giải đáp Thiên thần và được chấp nhận. Vị Thiên thần ấy lại hóa làm một người tay chân bị trói, trên cổ lại bị gông cùm, trong thân phun lửa, cả người rực cháy như bó đuốc, lại hỏi: –Thế gian có người nào khổ sở như ta chăng? Nhà vua và quần thần nghị luận, nhưng chẳng biết trả lời ra sao. Vị đại thần lại hỏi cha mình, người cha liền đáp: –Ở thế gian có người không hiếu thảo với cha mẹ, nghịch hại sư trưởng, phản lại chồng mình, phỉ báng Tam bảo, đời sau phải đọa vào địa ngục núi dao rừng kiếm, xe lửa lò than, sông hiểm, hầm xí, đường dao, nẻo lửa, phải chịu tất cả sự khổ sở như vậy vô lượng vô biên không thể kể hết. Lấy đó mà so sánh thì còn khốn khổ hơn ngươi gấp trăm ngàn vạn lần. Vị đại thần bằng theo lời ấy thưa với Thiên thần và được chấp nhận. Vị Thiên thần lại hóa làm một người nữ đoan chánh, đẹp đẽ hơn người thế gian, lại hỏi: –Ở thế gian có người nào đoan chánh như ta chăng? Nhà vua và quần thần đều im lặng không thể trả lời. Vị đại thần lại hỏi cha mình, người cha bảo: –Thế gian có người kính tin Tam bảo, hiếu thuận cha mẹ, Bố thí, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Trì giới nên được sinh lên cõi trời, đoan chánh, thù thắng hơn cả thân ngươi gấp trăm vạn lần. Theo đó mà biết thì ngươi như con khỉ mù mà thôi. Vị đại thần theo lời ấy mà trả lời Thiên thần và được chấp nhận. Vị Thiên thần lại lấy một cây chiên-đàn vuông vức, ngay thẳng lại hỏi: –Cây này phần nào là đầu? Nhà vua và các quần thần có trí lực không thể nào trả lời được. Vị đại thần lại hỏi cha mình, người cha nói: –Điều ấy rất dễ biết. Hãy ném khúc gỗ vào nước, hễ phần gốc thì chìm, còn phần đầu thì nổi. Vị đại thần liền lấy lời ấy trả lời cho Thiên thần và được chấp nhận. Vị Thiên thần lại lấy hai con ngựa trắng hình sắc hoàn toàn giống nhau, hỏi: –Con nào mẹ, con nào là con? Nhà vua và quần thần cũng không thể trả lời được. Vị đại thần lại hỏi cha mình, người cha đáp: –Hãy lấy cỏ cho nó, nếu là con mẹ sẽ nhường cỏ cho con ăn. Những câu hỏi như vậy đều được giải đáp, vị Thiên thần rất hoan hỷ, ban tặng quốc vương những châu báu quý giá đặc biệt và nói với vua: –Nay đây đất nước của nhà vua tôi sẽ hết lòng ủng hộ, khiến cho kẻ địch bên ngoài không thể xâm hại được. Nhà vua nghe lời ấy xong hết sức vui mừng, nói với vị đại thần: –Những câu trả lời vừa rồi là do ngươi tự biết hay là có ai chỉ dạy cho? Nhờ tài trí của ngươi mà nước nhà được an ổn, đã được châu báu còn được Thiên thần hứa sẽ ủng hộ xã tắc. Đó là nhờ tài lực của ngươi vậy. Vị đại thần đáp lại lời vua: –Đó không phải là trí của thần, mong đức vua tha tội thì thần mới dám tâu trình. Vua nói: –Giả sử hiện nay ngươi có vạn tội đáng chết đi nữa, ta còn không hỏi tới, huống chi một chút tội nhỏ. Vị thần tâu: –Trong nước có lệnh không được nuôi dưỡng người già, thần có người cha già, không nỡ bỏ đi, mới mạo phạm phép vua đem giấu trong lòng đất. Những điều ứng đáp của thần đều là nhờ tài trí của cha thần, chứ không phải là sức lực của thần. Cúi mong Đại vương đối với tất cả quốc dân xin cho họ được phép nuôi dưỡng các người già cả. Nhà vua liền khen hay, tâm sinh hoan hỷ, phụng dưỡng người cha của vị đại thần, tôn xưng là bậc Thầy vì đã cứu tất cả nhân mạng trong nước, nói: –Những lợi ích như vậy đâu phải là chỗ biết của ta. Nhà vua liền ra lệnh bảo khắp các người trong thiên hạ không được phép bỏ người già, lại phải biết hiếu dưỡng cha mẹ. Nếu ai bất hiếu với cha mẹ, không cung kính Sư trưởng thì phải bị tội lớn. Đức Phật dạy: –Người cha lúc ấy chính là thân Ta. Vị thần bấy giờ nay là Xá-lợi-phất, vị vua lúc ấy nay là vua A-xà-thế, còn vị Thiên thần lúc ấy nay là A-nan.  <詞 id="41126056">5- CHUYỆN ĐỨC PHẬT Ở TRÊN CÕI ĐAO-LỢI THUYẾT PHÁP CHO MẸ LÀ BÀ MA-DA Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, bảo các Tỳ-kheo: –Nay Ta muốn lên cõi trời Đao-lợi, kiết hạ an cư thuyết pháp cho mẹ Ta nghe. Này các Tỳ-kheo, ai thích lên đó hãy theo Ta. Đức Phật nói lời ấy xong liền bay lên trời Đao-lợi ngồi bên gốc cây an tọa nơi tòa an cư, thuyết pháp cho mẹ Ngài và vô lượng chư Thiên, khiến cho tất cả đều được thấy lẽ thật, rồi Ngài trở về cõi Diêm-phù-đề. Các Tỳ-kheo thưa: –Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn, Ngài vì mẹ nên đã ở nơi cõi trời Đao-lợi hết chín mươi ngày. Đức Phật dạy: –Đâu phải chỉ có ngày nay, trong thời quá khứ Ta cũng đã dứt trừ tất cả những khổ đau cho cha mẹ Ta. Các Tỳ-kheo lại bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, những việc Ngài làm trong thời quá khứ như thế nào? Đức Phật dạy: –Thuở xưa, thật lâu xa về trước ở bên núi Tuyết có một con khỉ chúa, thống lãnh bầy khỉ gồm đến năm trăm con. Bấy giờ, có người thợ săn giăng lưới chung quanh để bắt khỉ. Khỉ chúa nói: –Ngày nay các ngươi hãy cẩn thận, đừng có sợ sệt. Ta sẽ vì các ngươi xé rách lưới ấy. Này các bạn khỉ, tất cả hãy theo ta đi ra. Tức thời khỉ chúa bèn phá lưới và tất cả bầy khỉ được thoát ra ngoài. Khi ấy, có một khỉ già cõng con bị trật chân rơi xuống hang sâu. Khỉ chúa đi kiếm mẹ, không biết ở đâu. Nó thấy một hang sâu nên đi đến bên hang để xem xét, thấy mẹ đang ở dưới, bèn bảo với các con khỉ: –Các ngươi hãy tự gắng sức, cùng ta đưa mẹ ta ra ngoài. Lúc đó các con khỉ cùng nắm đuôi nhau cho đến tận hang sâu, rồi kéo được khỉ mẹ ra ngoài, thoát khỏi khổ nạn. Đức Phật dạy: –Lúc đó Ta đã đưa mẹ thoát khỏi khổ nạn nơi hang sâu. Huống chi Ta ngày nay lại làm cho mẹ thoát khỏi khổ nạn. Bấy giờ chỉ giúp cho mẹ thoát nạn nơi hầm sâu, nay lại giúp mẹ thoát khỏi ba đường ác. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo: –Cứu giúp cha mẹ có công đức lớn. Ta nhờ cứu độ mẹ mà đời đời Ta không có tai nạn, cho đến ngày thành Phật. Vì ý nghóa đó cho nên, này các Tỳ-kheo, các thầy hãy nên hiếu thuận, luôn cúng dường cha mẹ.  <詞 id="41126057">6- PHẬT KỂ CHUYỆN: NGÀY XƯA MẸ NGÀI LÀ BÀ CA-ĐÁN-GIÀ-LA Khi Đức Phật du hành đến nước Cư-hà-la, Ngài ngồi cạnh một gốc cây bên vệ đường. Bấy giờ, có một lão mẫu tên là Ca-đán-già-la đi ở cho nhà người ta, đang múc nước nơi giếng. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Hãy đi kiếm nước mang lại đây. Tôn giả A-nan vâng theo lời Phật dạy liền đi kiếm nước. Khi ấy, lão mẫu nghe Đức Phật nói đi kiếm nước, bà tự mang bình nước đến. Vừa tới chỗ Phật, bà bỗng quăng bình nước xuống đất, ôm chầm lấy Đức Phật. Lúc đó Tôn giả A-nan muốn ngăn cản, Đức Phật bảo: –Đừng ngăn cản, lão mẫu này trong năm trăm đời đã từng là mẹ của Ta, lòng thương yêu chưa hết cho nên mới ôm Ta như vậy. Nếu ngươi ngăn cản, máu sẽ trào ra mặt và chết tức thì. Khi đã ôm Phật xong, bà nói lớn đây là người thân thuộc rồi đứng qua một bên. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan đi đến gọi người chủ của bà tới. Người chủ đi đến, cúi đầu lạy dưới chân Đức Phật rồi đứng qua một bên. Đức Phật nói với người chủ: –Hãy trả tự do cho lão mẫu này, để bà được xuất gia. Nếu bà xuất gia sẽ chứng quả A-la-hán. Người chủ liền trả tự do cho bà lão. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Hãy giao bà lão cho Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề, độ cho bà xuất gia. Không bao lâu lão mẫu liền chứng quả A-la-hán, ở trong hàng ngũ Tỳ-kheo-ni bà là người khéo hiểu Khế kinh không ai bằng. Các Tỳ-kheo-ni khác nghi cho chuyện này là lạ, bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, do nhân duyên gì mà lão mẫu phải đi ở cho người khác, lại do nhân duyên gì mà bà chứng được A-la-hán? Đức Phật dạy: –Vào thời Phật Ca-diếp, lão mẫu có xuất gia học đạo, nhờ đó mà chứng được A-la-hán. Bấy giờ, bà làm chủ đồ chúng, lại mắng nhiếc các Hiền thánh, bắt nhiều Ni giỏi khác làm đầy tớ. Do nhân duyên này nên nay phải đi ở cho người khác. Trong năm trăm đời bà thường làm mẹ của Ta, nhưng tham lam keo kiệt, ganh ghét, hay ngăn chặn không cho Ta bố thí. Do nhân duyên ấy nên thường sinh ra nơi chốn bần tiện. Đâu phải chỉ có ngày nay Ta mới làm cho bà ra khỏi chốn bần tiện đâu! Các Tỳ-kheo thưa: –Bạch Thế Tôn, không biết trong thời quá khứ Đức Thế Tôn đã diệt trừ sự bần tiện của bà như thế nào? Đức Phật dạy: –Trong thời quá khứ, ở nước Ba-la-nại, có một gia đình bần cùng, mẹ con cùng nhau chung sống. Đứa con thường đi làm mướn để phụng dưỡng mẹ. Hễ được chút ít tiền bạc liền đem ra chi dùng sáng tối trong ngày. Bấy giờ người con thưa với mẹ: –Nay con muốn cùng các người khách buôn đi xa để buôn bán. Người mẹ chấp thuận. Từ đó ra đi, sau khi người con đi xa, giặc cướp đến phá nhà, cướp hết tiền của, dẫn bà lão đem tới nơi khác bán cho người lạ. Người con trở về nhà, liền đi tìm mẹ mình. Khi tìm được chỗ mẹ đang ở, người con liền mang nhiều tiền bạc để chuộc mẹ ra khỏi chỗ ấy, rồi đem về nước mình sinh sống, làm ăn, tiền bạc dồi dào, khá hơn lúc trước. Đức Phật dạy: –Người mẹ lúc ấy nay là Ca-đán-già-la, người con bấy giờ chính là thân Ta. Lúc ấy Ta đã cứu giúp mẹ Ta thoát khổ.  <詞 id="41126058">7- CHUYỆN TỪ ĐỒNG NỮ Một thời, Đức Phật ở thành Vương xá, Ngài bảo các Tỳ-kheo: –Đối với cha mẹ, nếu ai cúng dường một chút cũng được vô lượng phước, còn ai làm điều bất thiện với cha mẹ, cho dù rất ít cũng bị tội báo vô lượng. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Quả báo của tội phước, sự việc ấy như thế nào? Đức Phật dạy: –Vào thời quá khứ lâu xa về trước, ở nước Ba-la-nại có người con của một trưởng giả tên là Từ Đồng Nữ. Cha chết sớm, tiền gạo hết sạch, phải ra sức đi bán củi, ngày kiếm được hai đồng tiền để phụng dưỡng mẹ già. Công việc càng khấm khá, mỗi ngày chàng kiếm được bốn đồng, đều dùng để phụng dưỡng cho mẹ. Rồi làm ăn càng khá hơn, chàng kiếm mỗi ngày được tám đồng, cũng đều cúng dường cho mẹ. Càng được dân chúng nhiều nơi tin tưởng, xa gần đều tới làm với chàng, nên kiếm lợi càng nhiều, mỗi ngày tới mười sáu đồng tiền, chàng cũng dành để cấp dưỡng cho mẹ. Dân chúng thấy chàng thông minh, phước đức, nên mới khuyên: –Khi cha ngươi còn sống thường đi vào biển để tìm châu báu. Tại sao nay ngươi lại không đi biển? Nghe được lời ấy rồi, chàng thưa với mẹ: –Khi cha con còn sống thường làm nghề gì? Người mẹ nói: –Lúc cha con còn sống thường vào biển để lấy châu báu. Người con liền thưa: –Nếu cha con làm nghề vào biển để tìm châu báu, vậy nay tại sao con không làm nghề ấy? Người mẹ thấy con là người nhân từ hiếu thuận nên bảo: –Con không nên đi. Rồi bà lại nói đùa một câu: –Con cũng có thể đi được. Nghe mẹ nói như vậy, người con nói: Như vậy là đã quyết định. Người con bèn rủ bạn bè cùng đi biển. Khi đã chuẩn bị xong, chàng giã từ mẹ để lên đường, người mẹ liền nói: –Ta chỉ có một mình con, chừng nào ta chết thì con mới đi. Người con thưa: –Nếu trước đây mẹ không cho thì con đâu dám trái ý. Chính mẹ đã hứa rồi, sao nay lại ngăn cản? Mẹ cứ nhìn thân con này, thà giữ chữ tín mà chết. Con đã hứa với mọi người rồi, không thể ở lại được. Người mẹ thấy con đã quyết ý, liền đến trước ôm chân con mà khóc, nói: –Sao không chờ cho ta chết đã rồi hãy đi! Người con đã quyết ý, tự dùng tay hất mạnh để mẹ thả chân ra, làm cho người mẹ đứt hết mấy chục sợi tóc. Người mẹ sợ con mình mang tội, nên liền thả cho con mình đi. Người con cùng các khách buôn đi vào biển, đến bãi có châu báu, lấy rất nhiều thứ, họ liền về lại nơi xuất phát. Lúc ấy, có hai con đường để trở về: Một đi bằng đường thủy, hai đi bằng đường bộ. Mọi người liền nói: –Chúng ta cứ theo đường bộ mà đi. Họ liền đi theo đường bộ. Thời ấy, pháp luật của nước này quy định: Nếu bị giặc cướp đoạt cả thương chủ và tài vật của các khách buôn thì tất cả thuộc về giặc. Còn nếu không bắt được thương chủ, tuy lấy được của cải, khi thương chủ trở về, nhà nước sẽ giao hết của cải lại cho thương chủ. Vì lý do đó nên Từ Đồng Nữ này thường ra khỏi trại, ngủ riêng một mình. Thương nhân dậy sớm, đi tới rước về. Một đêm nọ có gió to, thương nhân vừa dậy sớm, bỗng quên rước thương chủ, thương chủ ở sau, không được gặp bạn, không biết đường đi, thấy một hòn núi liền đi lên trên đó, từ xa trông thấy có một tòa thành toàn màu lưu ly xanh. Vì thương chủ quá đói khát cho nên chạy nhanh về hướng thành đó. Bấy giờ ở trong thành có bốn ngọc nữ đều đeo ngọc Như ý, ca hát kỹ nhạc, đồng đi đến nghênh rước. Thương chủ ở nơi thành ấy đến bốn vạn năm, thọ hưởng đủ mọi dục lạc, bấy giờ tự nhiên tâm sinh nhàm chán, liền muốn bỏ đi. Các ngọc nữ thưa: –Người Diêm-phù-đề đừng nên phản phúc. Đã chung sống cùng chúng tôi trải qua bốn vạn năm, tại sao bây giờ lại bỏ chúng tôi mà đi? Chàng vẫn không đoái hoài tới lời nói ấy, cứ tiến tới trước, thấy một tòa thành pha lê, trong đó có tám ngọc nữ đều mang ngọc Như ý, cũng dùng kỹ nhạc đi đến để nghênh rước. Chàng sống ở đấy tới tám vạn năm hết sức sung sướng, nhưng lại sinh tâm nhàm chán, bỏ đi thật xa. Chàng đến thành bạc trắng, nơi có mười sáu ngọc nữ mang mười sáu viên ngọc Như ý, cũng đến nghênh rước chàng giống như trước. Chàng sống ở đó tới những mười sáu vạn năm thọ hưởng đủ mọi hoan lạc, rồi chàng cũng lại bỏ đi. Chàng đến thành bằng vàng ròng, nơi đây có ba mươi hai ngọc nữ đeo ba mươi hai viên ngọc Như ý, cũng đến nghênh rước như trước. Chàng sống ở đây đến những ba mươi hai vạn năm, hưởng thọ bao thứ dục lạc hơn trước, rồi chàng cũng bỏ đi. Các ngọc nữ nói: –Từ trước đến giờ chàng thường được ở những chốn tốt đẹp. Từ nay trở đi chàng sẽ ở những chỗ xấu ác. Vậy hãy ở lại đây! Nghe lời ấy rồi, chàng tự suy nghó: –Chẳng qua các ngọc nữ này vì luyến mộ ta cho nên mới nói như vậy. Nếu ta tiến tới trước chắc vẫn gặp những chỗ tốt đẹp. Chàng liền bỏ đi, từ xa trông thấy thành bằng sắt, trong lòng bỗng sinh nghi ngại, liền nghó: “Bên ngoài tuy là thành sắt, nhưng bên trong hẳn là hết sức đẹp”, cho nên chàng từ từ tiến vào. Khi vào gần đến thành, hoàn toàn không có ngọc nữ nào ra nghênh tiếp cả. Chàng lại suy nghó: “Có lẽ trong thành này hết sức vui thích cho nên mới có sự chậm trễ đón tiếp ta chăng?”. Do đó chàng từ từ tiến tới trước, bỗng vào cửa thành sắt. Khi cửa thành mở ra, bên trong có một người đầu đội vành lửa, vành lửa ấy liền bay khỏi đầu người ấy và chụp lên đầu Đồng Nữ, người trong ngục kia được ra khỏi nơi đó. Từ Đồng Nữ hỏi ngục tốt: –Tôi đội vành lửa này tới chừng nào mới được thoát? Ngục tốt đáp: –Nếu trên thế gian có người làm những điều tội phước giống như ngươi, rồi vào biển tìm châu báu, cũng trải qua các thành lâu xa như ngươi, sau đó sẽ đi đến để thay tội cho ngươi. Do vậy mà vành lửa này không bao giờ rơi xuống đất. Từ Đồng Nữ hỏi: –Tôi đã làm phước gì và tội gì? Ngục tốt nói: –Ngày xưa ngươi ở trên Diêm-phù-đề, mỗi ngày dùng hai đồng tiền để cúng dường cho mẹ, nên được vào thành lưu ly, được bốn viên ngọc Như ý và bốn ngọc nữ, ở đó trong bốn vạn năm, thọ hưởng hết sức an lạc. Rồi ngươi dùng bốn đồng tiền để cúng dường cho mẹ, nên được vào thành pha lê, có tám viên ngọc Như ý và tám ngọc nữ, ở trong đó tám vạn năm, thọ hưởng các thứ dục lạc. Rồi ngươi cúng dường cho mẹ tám đồng tiền nên được vào thành bạc trắng có mười sáu viên ngọc Như ý và mười sáu viên ngọc nữ, ở đó mười sáu vạn năm thọ hưởng hoan lạc. Ngươi cúng dường cho mẹ mười sáu đồng tiền nên được vào thành vàng ròng, có ba mươi hai viên ngọc Như ý và ba mươi hai ngọc nữ, ở đó ba mươi hai vạn năm, thọ hưởng đủ mọi dục lạc. Vì ngươi bứt đứt tóc của mẹ cho nên ngày nay phải đội vòng lửa sắt này. Vòng lửa này không bao giờ rơi xuống đất, trừ phi có người đến thay thế, chừng đó mới thoát được. Chàng lại hỏi: –Nay trong ngục này có ai thọ tội như tôi chăng? Đáp: –Có đến hàng trăm, ngàn không sao kể hết. Nghe lời ấy rồi, chàng tự suy nghó: “Ta chắc chắn không thoát khỏi, ta nguyện chịu khổ thay cho tất cả mọi người mãi mãi. Xin hãy dồn hết tất cả những nỗi khổ này nơi thân tôi.” Khi chàng nghó như vậy xong, vòng lửa sắt tức thì rơi xuống đất. Từ Đồng Nữ nói với các ngục tốt: –Ngươi nói cái vòng lửa này không bao giờ rơi xuống đất. Vậy tại sao bây giờ nó lại rơi xuống? Ngục tốt tức giận liền lấy xoa bằng sắt đánh lên đầu Đồng Nữ. Nhờ vậy chàng liền mạng chung, sinh lên trời Đâu-suất-đà. Đức Phật dạy: –Nếu các ngươi muốn biết Từ Đồng Nữ lúc đó thì chính là thân Ta. Các Tỳ-kheo nên biết, nếu ai đối với cha mẹ mà có làm một chút bất thiện nào, người ấy phải thọ lấy quả báo hết sức khổ. Còn ai cúng dường cho cha mẹ dù chỉ chút ít, thì người ấy sẽ được phước vô lượng. Các ngươi hãy học như vậy, cần phải hết lòng siêng năng cúng dường cha mẹ.  <詞 id="41126059">8- CHUYỆN PHU NHÂN LIÊN HOA Lúc Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, Ngài bảo các Tỳ-kheo: –Nếu ai đối với cha mẹ, đối với Đức Phật hoặc đệ tử Đức Phật mà khởi tâm sân hận, người đó phải đọa vào địa ngục Hắc thằng, thọ khổ vô lượng, không có bờ bến, biên giới. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, phải kính trọng cha mẹ. Nếu người đối với cha mẹ mà không lòng kính trọng, còn tạo ra việc bất thiện dù là chút ít, thì việc ấy như thế nào? Đức Phật dạy: –Ở thời quá khứ lâu xa, vô lượng kiếp về trước, trên Tuyết sơn có một vị Tiên nhân tên là Đề-bà-diên, dòng dõi Bà-la-môn. Theo pháp của Bà-la-môn, nếu ai không sinh con trai, con gái, người ấy không được sinh lên trời. Vị Bà-la-môn này thường ngồi trên tảng đá để tiểu tiện, tinh khí chảy xuống mỏ đá. Có một con nai cái đến liếm chỗ tiểu tiện nên liền có thai, ngày tháng đã đủ, nó bèn đến dưới hang đá của vị Tiên nhân, sinh ra một người con gái. Cô gái này từ trong thai mẹ ra, toàn thân đầy hoa, đoan chánh, đẹp đẽ. Vị Tiên nhân biết đó là con gái của mình liền đem về nuôi dưỡng. Cô bé dần dần khôn lớn, có thể đi lại được, cứ mỗi bước chân cô đặt xuống đất là nơi đó đều có hoa sen xuất hiện. Phép của Bà-la-môn là phải để lửa suốt đêm, bỗng một đêm tự nhiên lửa tắt, chẳng còn gì cả, cô bé phải đến nhà người khác để xin lửa. Người ấy thấy cứ mỗi bước chân của cô đều có bông sen, mới nói: –Cô hãy đi quanh nhà tôi bảy vòng, tôi sẽ cho cô lửa. Cô bé liền đi bảy vòng và được lửa đem về nhà. Gặp lúc vua Ô-đề-diên đi săn bắn, thấy nhà người kia có bảy lớp hoa sen, cho là sự lạ liền hỏi nguyên do: –Nhà của các ngươi vì sao có hoa sen? Họ liền tâu vua: –Trong núi này có Phạm chí nữ đến đây xin lửa, dưới chân cô ta sinh hoa sen ấy. Nhà vua tìm theo dấu chân, đến chỗ của Tiên nhân. Nhà vua thấy cô gái đoan chánh tuyệt đẹp liền nói với Tiên nhân: –Hãy cho ta người con gái này. Tiên nhân liền dâng cho vua và nói: –Hãy để nàng sinh cho đức vua năm trăm người con, lúc đó vua sẽ lập nàng làm phu nhân. Nàng là người đứng đầu trong năm trăm thể nữ. Đại phu nhân của nhà vua rất ganh ghét đối với Lộc nữ, mới nói như vầy: –Nay nàng được vua yêu quý, nếu nàng sinh cho nhà vua năm trăm người con, nhà vua càng mến yêu gấp bội. Sau đó không bao lâu, nàng sinh ra năm trăm cái trứng đựng đầy trong một cái hộp. Khi ấy Đại phu nhân lấy năm trăm cục bột thay thế chỗ các cái trứng ấy, rồi bà lấy cái hộp đó niêm phong và ghi dấu, xong quẳng xuống sông Hằng. Nhà vua hỏi phu nhân: –Nàng ta sinh vật gì? Đáp: –Toàn là những cục bột. Vua nói: “Tiên nhân đã nói dối”, liền cách chức phu nhân của nàng và không cho gặp vua. Bấy giờ vua Tát-đam-bồ đang ở nơi hạ lưu sông Hằng vui chơi cùng các thể nữ, thấy cái hộp ấy trôi đến, liền nói: –Cái hộp này thuộc về ta. Các thể nữ nói: –Nay vua lấy cái hộp, còn chúng tôi lấy cái đựng trong hộp. Nhà vua bảo người mở hộp giao cho năm trăm phu nhân mỗi người một cái trứng. Các trứng đều tự nở ra mỗi trứng là một đồng tử mặt mày đoan chánh, được nuôi dưỡng khôn lớn, tất cả đều có sức mạnh của đại lực só, dựng lên năm trăm cờ lực só. Vua Ô-đề-diên thường đến chỗ vua Tát-đam-bồ đòi triều cống. Vua Tát-đam-bồ nghe vua này đòi cống hiến, ưu sầu không vui. Các người con thưa vua cha: –Tại sao phụ vương buồn rầu? Vua đáp: –Nay ta ở đời bị người khác xâm lấn. Các người con thưa: –Ai xâm lấn? Vua đáp: –Vua Ô-đề-diên thường theo ta để đòi triều cống. Các người con thưa: –Tất cả các vua trong cõi Diêm-phù-đề này nếu họ đòi vua phải cống nạp thì chúng con lại bảo họ phải triều cống cho vua. Vì sao đức vua phải cống nạp cho người khác? Nói xong, năm trăm lực só kéo quân lính đi chinh phạt vua Ô-đề-diên. Vua Ô-đề-diên sợ hãi, nói: –Chỉ một lực só thôi, ta còn không thể địch nổi, huống chi ở đây tới năm trăm lực só? Nhà vua liền chiêu mộ những người tài năng ở trong nước để chống giặc. Nhà vua lại suy nghó: –Vị Tiên nhân kia có thể biết cách cứu ta chăng? Ông liền tạo các phương tiện để đi đến chỗ vị Tiên nhân và nói với vị ấy: –Trong nước có đại nạn, làm thế nào để trừ được? Vị Tiên tâu: –Trong nước có oán địch chăng? Vua đáp: –Vua Tát-đam-bồ có năm trăm lực só đều dẫn binh chúng muốn đến đánh tôi. Nay tôi thậm chí không có được một lực só để đối địch cùng họ. Vậy ngài có biết cách gì để đẩy lui quân địch chăng? Vị Tiên đáp: –Ngài hãy về cầu cứu với phu nhân Liên Hoa, nàng mới có thể đẩy lui quân địch được. Vua nói: –Làm sao nàng ta có thể đẩy lui được quân địch? Vị Tiên nhân đáp: –Năm trăm người lực só đó đều là con của ngài, đều do phu nhân Liên Hoa sinh ra cả. Đại phu nhân của ngài ôm lòng ghen ghét mới ném tất cả những người con của nàng Liên Hoa xuống sông Hằng. Vua Tát-đam-bồ ở vùng hạ lưu nhặt được đem về nuôi dưỡng, khiến cho khôn lớn. Nay vua hãy bảo phu nhân Liên Hoa cỡi trên voi lớn ra trước quân trận, các người ấy sẽ tự nhiên quy phục. Nhà vua liền như lời Tiên nhân nói, trở về cung tạ lỗi với phu nhân Liên Hoa. Sau đấy, vua cho trang điểm phu nhân, mặc y phục mới, bảo nàng cỡi Đại bạch tượng, ra trước quân trận. Khi ấy năm trăm lực só giương cung muốn bắn, nhưng tay họ tự nhiên thẳng cứng, không thể co duỗi và hết sức sợ hãi. Lúc ấy Tiên nhân bay đến, ở trên hư không nói với các lực só: –Cẩn thận! Chớ động thủ, chớ sinh tâm ác. Nếu các ngươi sinh tâm ác thì tất cả đều bị đọa địa ngục. Đức vua và phu nhân này chính là cha mẹ của các ngươi. Nói xong, người mẹ liền nâng hai đầu vú lên, mỗi cái phun ra hai trăm năm mươi tia sữa chảy thẳng vào trong miệng của các người con. Những người con ấy liền hướng về phía cha mẹ xin sám hối, tự sinh lòng xấu hổ và họ đều đắc quả Bích-chi-phật. Nhà vua cũng tự nhiên được khai ngộ, cũng chứng quả Bích-chi-phật. Đức Phật dạy: –Vị Tiên nhân lúc ấy chính là thân Ta. Lúc đó Ta ngăn cản các người con, khiến họ không sinh tâm ác với cha mẹ, cho nên họ liền được quả Bích-chi-phật. Nay Ta cũng tán thán công đức cúng dường cha mẹ.  <詞 id="41126060">9- CHUYỆN PHU NHÂN LỘC NỮ Lúc Đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá, Ngài bảo các Tỳ-kheo: –Có hai pháp có thể khiến cho con người mau được làm người, trời, cho đến chứng Niết-bàn an lạc. Có hai pháp có thể khiến cho con người mau bị đọa vào ba cõi ác, thọ khổ não cùng cực. Những gì là hai pháp có thể khiến cho con người mau được làm người, trời, cho đến chứng Niết-bàn an lạc? Đức Phật dạy: –Một là cúng dường cha mẹ, hai là cúng dường các bậc Hiền thánh. Những gì là hai pháp mau bị đọa vào ba cõi ác, thọ khổ não cùng cực? Đức Phật dạy: –Một là tạo các điều bất thiện đối với cha mẹ, hai là cũng làm điều bất thiện đối với bậc Hiền thánh. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, các việc thiện ác mau thành ấy như thế nào? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Thời quá khứ lâu xa vô lượng kiếp về trước, có nước tên là Ba-la-nại. Trong nước này có một hòn núi tên là Núi tiên. Bấy giờ có một Phạm chí sống ở đấy, lúc đại tiện, tiểu tiện thường ngồi trên tảng đá, sau đó có tinh khí nhỏ xuống chỗ đi tiểu, con nai cái đi đến liếm vào tức thì mang thai. Khi đủ ngày tháng, nai kia bèn đến chỗ vị Tiên nhân sinh ra một người con gái đoan chánh, tuyệt đẹp, nhưng chỉ có đôi chân thì giống như chân nai. Vị Phạm chí đem về nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành. Pháp của Phạm chí là luôn luôn thờ lửa, không bao giờ cho lửa tắt. Cô gái này vì còn nhỏ, không để ý nên để cho đống lửa buổi tối bị tắt. Cô gái rất lo sợ Phạm chí tức giận. Lúc ấy, có các Phạm chí khác sống cách trụ xứ này đến năm trăm dặm. Cô gái liền chạy thật nhanh đến chỗ các Phạm chí kia để xin lửa. Các Phạm chí thấy dấu chân nàng, cứ mỗi dấu là có một bông sen lớn, họ yêu cầu nàng: –Hãy đi quanh nhà ta bảy vòng, ta sẽ cho lửa. Lúc đi ra cũng phải đi quanh bảy vòng, không giẫm lên dấu chân cũ, hãy theo con đường khác mà trở về. Nàng làm đúng như lời yêu cầu của những vị ấy, cho nên được lửa đem về. Bấy giờ vua nước Phạm Dự đi săn, thấy chung quanh nhà Phạm chí kia có mười bốn lớp hoa sen, lại thấy hai đường có hai hàng hoa sen, cho là lạ mới hỏi vị Phạm chí kia: –Ở đây hoàn toàn không có ao nước, tại sao lại có những hoa sen tuyệt đẹp như vầy? Phạm chí thưa: –Nơi trú xứ của vị Tiên kia có một người con gái đến chỗ tôi để xin lửa. Mỗi bước chân của cô gái này đều sinh ra một hoa sen. Tôi bèn yêu cầu: “Nếu muốn được lửa hãy đi quanh nhà ta bảy vòng, lúc trở về cũng phải đi quanh bảy vòng.” Do đó cho nên mới có bông sen mọc quanh nhà như vậy. Nhà vua tìm theo dấu chân, đến chỗ của Phạm chí, muốn gặp cô gái. Nhà vua thấy cô gái diện mạo đoan chánh, hết sức vừa ý, liền thưa Phạm chí xin cô con gái ấy. Phạm chí liền dâng cho nhà vua cô gái này và nhà vua liền lập nàng làm đệ nhị phu nhân. Cô gái ấy lúc bé được Tiên nhân nuôi dưỡng cho nên chịu ảnh hưởng, tánh tình luôn chất trực, không hiểu những sự việc quái dị của phụ nữ. Về sau lúc có thai, tướng sư đoán: –Nàng sẽ sinh một ngàn người con trai. Người vợ lớn của vua nghe lời ấy rồi, trong lòng sinh đố kî, từ từ tạo kế độc, dùng ân sủng để chiêu dụ những người hầu cận của phu nhân Lộc Nữ, cho chúng tiền bạc, châu báu. Bấy giờ Lộc Nữ đã đủ ngày tháng liền sinh ra một bông sen có ngàn cánh. Lúc nàng sắp sinh, đại phu nhân lấy vật dụng bịt mắt nàng để không thể thấy gì cả, rồi lấy một miếng thịt ngựa hôi thối thế vào đó. Bà lấy hoa sen ngàn cánh kia đựng đầy trong một hộp rồi cho người ném vào giữa sông. Sau đó bà mới mở mắt cho nàng và nói: –Hãy xem vật do ngươi sinh ra. Nàng chỉ thấy ở đấy là một miếng thịt ngựa hôi thối. Nhà vua bảo người đến hỏi: “Nàng đã sinh vật gì?”, thì được trả lời: “Nàng chỉ sinh một miếng thịt ngựa hôi thối.” Khi ấy đại phu nhân nói với nhà vua: –Đức vua đã bị mê hoặc, cô gái này do loài súc sinh sinh ra, nhờ Tiên nhân nuôi dưỡng cho nên nay mới sinh ra vật bất tường hôi thối như vậy. Đại phu nhân của vua liền cách chức phu nhân của nàng, không cho yết kiến vua nữa. Bấy giờ vua Ô-kỳ-diên đem các phu nhân thể nữ tùy tùng vui chơi ở vùng hạ lưu dòng sông, thấy cái lọng mây vàng từ phía trên dòng sông theo nước trôi xuống. Nhà vua suy nghó: “Dưới cái lọng mây này chắc chắn phải có vật thần.” Nhà vua bảo người đến đó xem thử là vật gì, thì thấy ở dưới đám mây vàng kia là một cái hộp, liền nhặt lấy mở ra trong hộp là một hoa sen ngàn cánh, cứ mỗi một cánh hoa có một cậu bé. Nhà vua đem về nuôi dưỡng, dần dần các cậu bé to lớn, tất cả đều có sức mạnh của đại lực só. Vua Ô-kỳ-diên mỗi năm thường cống nạp cho vua Phạm Dự. Vua tập hợp những vật dâng nạp lại, bảo sứ chuẩn bị đem đi. Các người con hỏi: –Cha muốn làm những gì vậy? Khi ấy vua đáp: –Ta muốn cống nạp cho vua nước Phạm Dự. Các người con đồng thưa: –Cha chỉ cần một người con như chúng con thôi cũng có thể bắt sứ của các nước trong thiên hạ đến triều cống cho cha. Huống chi cha có tới ngàn người con mà phải cống hiến cho người khác sao? Lúc đó ngàn người con liền đem quân binh đi đánh các nước, thứ lớp đi đến nước vua Phạm Dự. Vua Phạm Dự nghe có quân đến, liền chiêu mộ các người trong nước: –Ai có thể đẩy lui quân địch như thế này? Hoàn toàn không ai có thể làm được việc đó. Lúc ấy đệ nhị phu nhân đi đến chỗ nhà vua nhận lời chiêu mộ, nói: –Tôi có thể đẩy lui được quân địch. Nhà vua hỏi: –Nàng làm thế nào để đẩy lui được quân địch? Phu nhân trả lời: –Chỉ cần dựng cho tôi một cái đài cao một trăm trượng, tôi ngồi trên đó, chắc chắn có thể đẩy lui được quân địch. Nhà vua ra lệnh làm đài xong, đệ nhị phu nhân đã ngồi trên đó. Khi ấy một ngàn người con muốn giương cung để bắn, tự nhiên tay họ không thể nâng lên được. Phu nhân nói với họ: –Các ngươi cẩn thận, đừng có giơ tay lên hướng về cha mẹ. Ta là mẹ của các ngươi đây. Một ngàn người con hỏi: –Lấy gì làm chứng để biết bà là mẹ của chúng tôi? Đáp: –Nếu ta nâng đôi vú lên, mỗi vú biến thành năm trăm tia sữa đều chảy vào miệng của các ngươi, thì đó chính là mẹ của các ngươi. Nếu không đúng như vậy tất là không phải. Nói xong, bà đặt hai tay lên hai vú, trong mỗi vú có năm trăm tia sữa chảy thẳng vào miệng của ngàn người con. Ngoài ra, các quân binh đứng chung quanh thì hoàn toàn chẳng có gì cả. Do đó một ngàn người con đều quy phục, hướng về cha mẹ để xin sám hối. Các người con lúc đó hòa hợp, hai nước không còn oán thù, cùng nhau khuyên răn, giúp đỡ lẫn nhau. Năm trăm người con thì thân cận cha mẹ, còn năm trăm người con khác thì nuôi dưỡng cha mẹ. Lúc ấy, hai vị quốc vương phân chia cõi Diêm-phù-đề, mỗi vua đều thâu nhận năm trăm người con. Đức Phật dạy: –Nên biết một ngàn người con thời đó thì chính là một ngàn vị Phật của Hiền kiếp. Người vợ mang lòng ganh ghét độc ác tức Mạn-tha-mục lúc ấy nay là Giao Lân Cổ Mục Long. Người cha thời bấy giờ nay là vua Bạch Tịnh, người mẹ nay là Ma-da phu nhân. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Cô gái ấy do nhân duyên gì mà sinh vào bụng nai, hễ bàn chân đặt xuống đất là sinh ra hoa sen? Lại do nhân duyên gì mà được làm vợ của vua? Đức Phật dạy: –Cô gái ấy trong thời quá khứ đã sinh trong một gia đình bần cùng, có hai mẹ con. Họ đang gieo mạ ở ruộng thì thấy một vị Bích-chi-phật ôm bát đi khất thực. Người mẹ nói với con gái: –Ta muốn vào nhà lấy phần ăn của ta để dâng cho vị đạo só này. Người con gái cũng nói: –Con cũng lấy phần ăn của con nữa cộng chung với phần ăn của mẹ. Họ liền trở về nhà lấy phần ăn của hai mẹ con đi đến cúng dường cho vị Bích-chi-phật. Người con gái lấy cỏ kết hoa làm tòa cỏ, rải hoa trên tòa ấy, thỉnh vị Bích-chi-phật ngồi lên. Cô con gái thấy mẹ đi chậm, mới lên một chỗ cao, từ xa trông mẹ, khi đã thấy mẹ bèn nói với mẹ: –Sao mẹ không đi nhanh lên, như con nai vậy! Lúc mẹ đến, vì giận mẹ chậm chạp, cho nên lại bực tức nói: –Con sinh trong bụng mẹ không bằng sinh trong bụng con nai! Người mẹ liền lấy hai phần ăn dâng lên vị Bích-chi-phật, còn đồ ăn dư thừa thì mẹ con cùng ăn. Khi vị Bích-chi-phật ăn xong, ngài tung bình bát lên hư không rồi bay lên theo. Ở nơi hư không, ngài hiện ra mười tám thứ biến hóa. Lúc đó người mẹ vô cùng hoan hỷ và phát lời thệ nguyện: –Hãy khiến cho con ở đời vị lai thường sinh ra con Thánh, như Thánh nhân bây giờ. Do nghiệp duyên ấy cho nên đời sau sinh ra năm trăm người con đều được quả Bích-chi-phật. Một người làm mẹ nuôi, một người làm mẹ sinh. Vì lời nói với mẹ, trong khi đối đáp mà phải sinh trong bụng con nai, chân có móng như chân nai vì quở mẹ đi chậm. Nhờ hái hoa rải cúng Bích-chi-phật, cho nên trong dấu chân có một trăm bông hoa sinh ra. Nhờ trải tòa cỏ cho nên thường được làm vợ của vua. Hậu thân của người mẹ làm vua Phạm Dự. Còn hậu thân của người con gái làm phu nhân Liên Hoa. Do nghiệp duyên này đời sau được làm ngàn vị Thánh trong thời Hiền kiếp, nhờ sức mạnh nơi thệ nguuyện nên thường sinh các Hiền thánh. Các Tỳ-kheo nghe Đức Phật dạy như vậy, hoan hỷ phụng hành. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126061">QUYỂN 2 Trong tập này gồm các kinh: 10. Chuyện con voi trắng sáu ngà. 11. Chuyện con thỏ tự thiêu thân để cúng dường vị đại Tiên. 12. Chuyện con khỉ thiện và con khỉ ác. 13. Phật dùng nước trí tuệ diệt trừ ba thứ lửa. 14. Chuyện một người con của trưởng giả và vị Thiên thần nước Ba-la-nại cảm hóa nhà vua thực hành hiếu hạnh. 15. Chuyện con Bạch hương tượng của quốc vương Ca-thi nuôi cha mẹ mù và làm cho hai nước hòa thuận. 16. Nước Ba-la-nại, em khuyên anh bỏ ác pháp, nhờ thừa tương khuyên vua giáo hóa thiên hạ. 17. Chuyện vợ Phạm-ma-đạt vì đố kị mà hại con là Pháp Hộ. 18. Chuyện Tỳ-kheo Đà-phiếu bị hủy báng. 19. Chuyện Ly Việt bị hủy báng. 20. Chuyện người con gái xấu xí tên Lạc-đề, con vua Ba-tư-nặc. 21. Chuyện người con gái tên Thiện Quang, con vua Ba-tư-nặc. 22. Chuyện hai anh em Vương tử bị đuổi ra khỏi nước. 23. Vợ của trưởng giả Tu-đạt cúng dường Phật được quả báo. 24. Chuyện Tỳ-kheo Sa-la-na bị vua Ác Sinh làm khổ não. 25.Chuyện nội quan chuộc lại con trâu thiến được nam căn. 26. Chuyện hai nội quan tranh nhau đạo lý.  <詞 id="41126062">10- CHUYỆN CON VOI TRẮNG SÁU NGÀ Thuở xưa, ở nước Xá-vệ có một vị đại trưởng giả sinh một người con gái. Cô bé tự biết được kiếp trước, mới sinh ra mà đã biết nói và nói như vầy: –Đã làm việc bất thiện, đã làm việc bất hiếu, đã làm việc không biết xấu hổ, đã làm việc ác hại, đã làm việc bội ân. Nói như vậy xong, cô bé im lặng. Cô bé lúc ấy sinh ra vì có đại phước đức nên được đặt tên là Hiền. Bé Hiền dần dần khôn lớn, rất cung kính màu áo ca-sa. Vì cung kính áo ca-sa cho nên xuất gia làm Tỳ-kheo-ni. Tuy không đến ở bên Đức Phật nhưng tinh tấn tu học nên liền chứng La-hán. Hối hận vì không đến ở gần bên Đức Phật, nên cô đi đến chỗ Đức Phật cầu xin sám hối. Đức Phật dạy: –Lúc đó Ta đã nhận sự sám hối. Các Tỳ-kheo nghi ngờ chuyện lạ, đến hỏi Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo-ni tên là Hiền này vì sao từ lúc xuất gia đến nay không gặp Phật? Và do nhân duyên gì mà ngày nay được thấy Phật thì sám hối? Đức Phật liền nói nhân duyên cho các Tỳ-kheo nghe: –Ngày xưa có một con voi trắng sáu ngà ở trong bầy voi rất đông. Voi trắng này có hai vợ: Một vợ tên là Hiền, vợ thứ hai tên là Thiện Hiền. Voi trắng du hành trong rừng bỗng gặp một bông sen, ý nó muốn đem cho Hiền thì bị Thiện Hiền đoạt mất. Hiền thấy mình bị mất hoa nên sinh lòng tật đố cho rằng Bạch tượng chỉ thương yêu Thiện Hiền chớ không yêu thương ta. Bấy giờ ở trong núi kia có một cái tháp của Đức Phật, nó mới phát nguyện: “Cầu cho con được sinh trong lòng người, tự biết được kiếp trước và nhổ sạch ngà của con bạch tượng này.” Nói xong, nó liền lên trên đỉnh núi, tự nhào xuống mà chết, đầu thai làm con gái trong nhà vua Tỳ-đề-hê. Cô ta tự biết được kiếp trước, khi tuổi đã lớn khôn, làm vợ của vua Phạm-ma-đạt, nhớ lại mối thù kiếp trước nên nói với vua Phạm-ma-đạt: –Nếu chàng làm cho thiếp cái giường bằng ngà voi thì thiếp mới có thể sống được. Nếu chẳng được như vậy, chắc là thiếp không sống nổi. Vua Phạm-ma-đạt liền chiêu mộ thợ săn, nói: –Nếu ai có thể kiếm được ngà voi đem đến đây, trẫm sẽ ban thưởng kẻ ấy một trăm lượng vàng. Ngay lúc đó có một người thợ săn giả mặc áo ca-sa, mang cung tẩm thuốc độc đi đến chỗ con voi đang ở. Lúc ấy con voi vợ là Thiện Hiền thấy người thợ săn rồi liền nói với voi chúa: –Ở đằng kia có người đang đi đến. Voi chúa hỏi: –Kẻ ấy mặc áo gì? Đáp: –Mặc áo ca-sa. Voi chúa nói: –Mặc áo ca-sa, chắc chắn trong lòng người ấy thiện chớ không có ác. Gã thợ săn nhờ đó mà được đến gần, mới lấy tên độc ra bắn. Lúc đó Thiện Hiền nói với chồng: –Ông nói: ‘Trong áo ca-sa có sự thiện chớ không có sự ác, thì tại sao lại như thế này?’ Chồng đáp: –Đó không phải là lỗi của áo ca-sa, đó là lỗi của tâm phiền não vậy. Khi ấy Thiện Hiền liền muốn giết gã thợ săn ấy. Voi chúa phải dùng nhiều lời thuyết pháp để an ủi không cho bà ta hại kẻ ấy. Voi chúa cũng sợ năm trăm con voi trong đàn thế nào cũng giết gã thợ săn, nên đã lẫn tránh bầy voi năm trăm con này một thời gian, làm cho chúng đi xa rồi mới hỏi gã thợ săn: Ngươi cần vật gì mà bắn ta? Đáp: –Ta chẳng cần gì cả. Vua Phạm-ma-đạt nhờ ta kiếm bộ ngà của ngươi cho nên ta đến đây là muốn lấy nó. Voi nói: –Hãy lấy nhanh đi! Đáp: –Tôi không dám tự mình đến lấy. Ngài đã Từ bi như vậy, xin hãy che chở tôi. Nếu tôi tự đến lấy ngà của ngài thì tay của tôi sẽ bị thối nát và rơi xuống. Ngay lúc đó Bạch tượng hướng về cây đại thọ tự nhổ ngà của mình ra, dùng vòi cuốn lại, phát nguyện rồi mới cho, lấy ngà bố thí, nguyện là: “Cho tôi đời sau dứt trừ hẳn ngà ba độc của tất cả chúng sinh.” Người thợ săn đến lấy ngà liền dâng cho vua Phạm-ma-đạt. Lúc đó phu nhân khi đã được ngà voi rồi liền sinh tâm hối hận, mới nói như vầy: –Nay ta tại sao lại lấy ngà của bậc Hiền thắng tịnh giới này? Bậc rộng tu các công đức? Do đó phát nguyện: “Nguyện cho tôi đời sau khi được gặp Phật, ở trong pháp ấy xuất gia học đạo, được quả A-la-hán.” Các ngươi nên biết, voi trắng lúc ấy chính là thân Ta. Người thợ săn lúc ấy chính là Đề-bà-đạt-đa. Nàng Hiền lúc ấy chính là Tỳ-kheo-ni này. Còn Thiện Hiền lúc ấy chính là Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la.  <詞 id="41126063">11- CHUYỆN CON THỎ TỰ THIÊU THÂN ĐỂ CÚNG DƯỜNG VỊ ĐẠI TIÊN Ở nước Xá-vệ có một người con của vị trưởng giả đã xuất gia trong Phật pháp rồi mà vẫn thường thích thân cận với người quyến thuộc, không thích ở chung với Đạo nhân, cũng không thích đọc kinh, hành đạo. Đức Phật bảo vị Tỳ-kheo đi đến chỗ thanh tịnh. Vị ấy làm theo lời Phật dạy mà tinh tấn tu tập nhờ đó đã được chứng quả A-la-hán, đầy đủ lục thông. Các Tỳ-kheo nghi là chuyện lạ mới bạch Đức Phật: –Đức Thế Tôn xuất hiện ở thế gian hết sức kỳ diệu, hết sức đặc biệt, như trường hợp người con của trưởng giả này mà Ngài có thể làm cho được an lập nơi thanh tịnh mà chứng được đạo A-la-hán, đầy đủ lục thông. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay Ta mới an lập, nhưng ngày xưa Ta cũng đã từng an lập rồi. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Chúng con không rõ Đức Thế Tôn ở trong thời quá khứ, việc an lập như thế nào? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Thời quá khứ có một vị Tiên nhân sống ở trong rừng núi. Khi ấy gặp trời rất hạn hán, những trái cây, gốc, cành, nhánh, lá ở trong núi đều bị khô rang. Bấy giờ có một vị Tiên nhân rất thân thiện với một con thỏ nên nói với nó: –Nay ta muốn vào thôn xóm để khất thực. Con thỏ nói: –Xin ngài đừng bỏ tôi mà đi, tôi sẽ dâng đồ ăn cho ngài. Khi ấy con thỏ liền nhặt một đống củi, nó lại nói với vị Tiên nhân: –Ngài hãy ăn đồ ăn của tôi. Trời sắp có mưa, ngài hãy ở đây ba ngày, hoa quả sẽ mọc lại, lúc đó ngài có thể hái mà ăn, đừng có xuống trần gian. Nó nói lời ấy xong, liền đốt một đống lửa lớn, rồi nhảy vào trong ấy. Vị Tiên nhân thấy như vậy rồi liền suy nghó: “Đây là con thỏ nhân từ, là bạn hiền thiện của ta, vì để ta có cái ăn cho nên nó bỏ thân mạng, thật là một việc khó làm!”. Khi đó vị Tiên nhân ấy hết sức khổ não, liền lấy nó để ăn. Bồ-tát đã làm việc khổ hạnh khó làm như vậy, cho nên cung điện của Thích Đề-hoàn Nhân bị chấn động, Đế Thích tự nghó: “Nay vì nhân duyên gì mà cung điện của ta bị chấn động?”. Do đó quan sát biết là con thỏ đã làm một việc khó làm, mới có sự cảm ứng như vậy. Đế Thích liền cho một trận mưa xuống để cho Tiên nhân vẫn ở đó mà có hoa quả để ăn. Nhờ vậy, lúc ấy Tiên nhân tu tập được năm thứ thần thông. Vị tiên chứng năm thứ thần thông lúc đó, chính là vị Tỳ-kheo này. Còn con thỏ lúc ấy chính là Ta. Nhờ Ta xả thân làm cho vị Tiên nhân ấy an trụ ở chỗ thanh vắng mà chứng được năm thần thông. Huống chi bây giờ ta lại không thể làm cho Tỳ-kheo ấy xa lìa quyến thuộc, an trụ nơi vắng vẻ mà chứng được quả A-la-hán và được sáu thần thông sao?  <詞 id="41126064">12- CHUYỆN CON KHỈ THIỆN VÀ CON KHỈ ÁC Đức Phật ở tại thành Vương xá, các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, ai y chỉ nơi Đề-bà-đạt-đa thì thường bị khổ não, còn ai y chỉ với Như Lai Thế Tôn thì hiện tại được an lạc, đời sau được sinh đến chỗ thiện, được đạo giải thoát. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Đâu có phải chỉ ngày hôm nay mới vậy mà ở trong thời quá khứ cũng thế. Lúc ấy có hai con khỉ, mỗi con có năm trăm quyến thuộc. Bấy giờ có người con của vua Ca-thi đi săn bắn xung quanh, sắp đến chỗ mấy con khỉ. Con khỉ thiện nói với con khỉ ác: –Chúng ta ngày hôm nay phải vượt qua con sông này mới mong thoát nạn. Con khỉ ác bảo: –Tôi không thể vượt qua được. Con khỉ thiện nói với bầy khỉ: –Cành nhánh của cây Tỳ-đa-la rất dài. Hãy đu theo nhánh cây mà qua sông. Cả đoàn năm trăm con khỉ thiện liền đu theo nhánh cây mà được thoát nạn. Còn quyến thuộc của con khỉ ác vì không vượt qua sông cho nên liền bị vương tử bắt được. Con khỉ thiện lúc ấy chính là Ta. Còn con khỉ ác chính là Đề-bà-đạt-đa. Nó đã làm cho quyến thuộc của nó lúc ấy rất khổ não. Nếu ai bây giờ y chỉ nơi Đề-bà-đạt-đa cũng lại như vậy. Bây giờ ai nương dựa Ta mãi mãi được an lạc, hiện tại được tiếng tốt, cúng dường, đời vị lai được làm người, làm trời và được giải thoát. Bây giờ ai y chỉ Đề-bà-đạt-đa cũng sẽ mãi mãi bị sự suy hao khổ sở, thân hiện tại bị tiếng xấu, người ta không cúng dường, tương lai phải bị đọa vào ba đường ác. Cho nên, này các Tỳ-kheo, hãy nên xa lìa ác tri thức, thân cận với Thiện tri thức. Bậc thiện tri thức làm cho con người mãi mãi được an ổn, khoái lạc. Do vậy các ngươi hãy nên thân cận với Thiện tri thức và hãy xa lìa ác tri thức. Vì sao vậy? Vì kẻ ác tri thức hay làm con người bị nóng bức, làm cho các khổ đời này, đời sau lại tụ tập, phát khởi.  <詞 id="41126065">13- CHUYỆN PHẬT DÙNG NƯỚC TRÍ TUỆ DIỆT TRỪ BA THỨ LỬA Có một nước tên là Nam phương sơn, Đức Phật muốn đến nước ấy. Trên đường đi, Ngài đến một tụ lạc và nghỉ ngơi tại đó, gặp lúc tụ lạc ấy đang tổ chức một hội vui chơi, dân chúng uống rượu say sưa, mê loạn. Bỗng nhiên, có một ngọn lửa nổi lên thiêu đốt tụ lạc này. Mọi người kinh sợ, chẳng biết chạy đi đâu, họ cùng nhau nói: –Chúng ta chỉ nương tựa nơi Đức Phật mới có thể thoát khỏi nạn lửa này. Họ liền thưa Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, xin Ngài cứu vớt chúng con! Đức Phật nói: –Tất cả chúng sinh đều có ba thứ lửa: Lửa tham dục, lửa nóng giận và lửa ngu si. Ta dùng nước trí tuệ diệt trừ ba thứ lửa này. Nếu lời nói của Ta mà đúng thì ngọn lửa này sẽ tắt. Đức Phật nói như vậy xong, ngọn lửa liền tắt. Mọi người vui mừng, hết sức tin phục Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho họ nghe, làm cho họ chứng đắc đạo Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo nghi là chuyện lạ, nói: –Đức Thế Tôn xuất thế hết sức kỳ diệu, hết sức đặc thù, Ngài đã làm lợi ích lớn cho thôn xóm này, lửa trong tụ lạc đã diệt, tâm cấu uế cũng diệt. Đức Phật dạy: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay Ta mới làm lợi ích cho họ, mà trong đời quá khứ Ta cũng từng làm sự lợi ích lớn cho những vị ấy. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, không rõ trong kiếp quá khứ Ngài đã làm sự lợi ích gì? Đức Phật dạy: –Trong đời quá khứ, một bên của núi Tuyết là một rừng trúc lớn, với rất nhiều chim thú sống trong khu rừng ấy. Có một con chim Anh vũ tên là Hoan Hỷ Thủ. Bấy giờ trong rừng trúc gió thổi làm cho hai cây trúc cọ nhau, do đó phát lửa đốt cháy khu rừng trúc này. Chim thú sợ sệt, không có chỗ nương tựa. Bấy giờ con chim Anh vũ hết sức thương xót cho những con chim thú kia, liền nhúng cánh xuống nước rồi rưới lên trên lửa. Vì do lòng thương, tinh cần cho nên cảm ứng đến cung trời Đế Thích khiến chấn động mạnh. Lúc ấy, Thích Đề-hoàn Nhân dùng Thiên nhãn quan sát xem thử do nhân duyên gì khiến rung chuyển cả cung điện của mình, mới thấy ở dưới thế gian có một con chim Anh vũ ôm lòng Từ bi rộng lớn muốn dập tắt ngọn lửa nên đem cả sức lực ra, nhưng không thể làm cho lửa tắt. Thích Đề-hoàn Nhân liền hướng về chỗ chim Anh vũ, nói: –Rừng này to lớn đến mấy ngàn vạn dặm, đôi lông của ngươi lấy nước chỉ được vài giọt, làm sao có thể làm tắt được ngọn lửa to lớn này? Chim Anh vũ đáp lại: –Tâm của tôi rộng lớn, tinh cần không giải đãi, chắc chắn sẽ dập tắt được lửa này. Nếu hết cả đời này mà không dập tắt được ngọn lửa ấy thì tôi thọ thân sau thề sẽ dập tắt nó. Thích Đề-hoàn Nhân vì cảm động trước chí nguyện của chim Anh vũ nên đổ mưa thật lớn xuống chỗ ấy làm cho ngọn lửa tức thì bị dập tắt. Đức Phật nói: –Con chim Anh vũ lúc đó chính là thân Ta. Còn bầy thú, chim trong khu rừng chính là dân chúng trong làng xóm lớn này. Lúc đó Ta vì muốn dập tắt ngọn lửa ấy để các chim thú được sống còn. Nay Ta cũng dập tắt ngọn lửa để cho dân ở đây được an lạc. Các Tỳ-kheo lại hỏi: –Lại do nhân duyên gì mà họ được thấy đạo Chân thật? Đức Phật dạy: –Các dân chúng này vào thời Đức Phật Ca-diếp đã thọ trì năm giới. Do nhân duyên đó, cho nên nay được thấy được lẽ thật, chứng đạo Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126066">14- CHUYỆN CON CỦA TRƯỞNG GIẢ VÀ VỊ THIÊN THẦN NƯỚC BA-LA-NẠI CẢM HÓA NHÀ VUA THỰC HÀNH HIẾU HẠNH Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở nước Xá-vệ bảo các Tỳ-kheo: –Nếu ai muốn có vua Phạm thiên ở trong nhà mình, người đó phải hiếu dưỡng cha mẹ thì Phạm thiên liền ở trong nhà. Nếu ai muốn có Đế Thích ở trong nhà mình, người đó phải hiếu dưỡng cha mẹ, liền có Đế Thích ở trong nhà. Nếu ai muốn có tất cả Thiên thần ở trong nhà mình, người đó chỉ cần hiếu dưỡng cha mẹ thì tất cả Thiên thần liền ở trong nhà mình. Nếu ai muốn có Hòa thượng ở trong nhà mình, người ấy chỉ cần hiếu thảo với cha mẹ thì liền có Hòa thượng ở trong nhà. Nếu ai muốn có A-xà-lê ở trong nhà mình, chỉ cần cúng dường cha mẹ, đó tức là A-xà-lê hiện ở trong nhà. Nếu muốn cúng dường các Hiền thánh và Đức Phật, thì hãy cúng dường cho cha mẹ, tức là chư Hiền thánh và Đức Phật ở trong nhà mình vậy. Các Tỳ-kheo thưa: –Đức Như Lai Thế Tôn thật là vô cùng hy hữu, Ngài đã cung kính cha mẹ. Đức Phật dạy: –Đâu phải chỉ có ngày nay Ta mới làm việc hết sức hy hữu là cung kính cha mẹ, nhưng trong thời quá khứ Ta cũng từng cung kính cha mẹ một cách hết sức hy hữu. Các Tỳ-kheo thưa: –Trong thời quá khứ, Ngài cung kính cha mẹ như thế nào? Đức Phật dạy: –Ngày xưa, ở nước Ba-la-nại có một người nghèo khổ chỉ sinh được một người con, nhưng người con này lại sinh ra nhiều người con. Vì nhà cửa bần cùng, gặp lúc thời thế đói kém, phải đem cha mẹ đang sống chôn ở dưới đất, để dành phần cơm nuôi bầy con. Người hàng xóm mới hỏi: –Cha mẹ ngươi ở đâu? Đáp: –Cha mẹ tôi vì già cả sắp chết cho nên tôi liền đem chôn, lấy phần cơm của cha mẹ nuôi bầy con để nó được lớn. Nhà hàng xóm nghe xong cho là có lý. Như vậy tin ấy dần dần lan khắp nước Ba-la-nại và họ lấy đó làm luật. Lại có một vị trưởng giả cũng sinh một người con. Người con này nghe điều ấy cho là phi pháp, liền suy nghó: “Ta phải làm cách gì để bỏ được điều phi pháp này?”. Cậu ta thưa với cha: –Nay cha nên đi xa để học đạo, để biết kinh, luận. Người cha nghe xong bèn ra đi. Ông ta học hỏi được chút ít lại trở về nhà, trong lúc tuổi càng ngày càng già cả. Người con bèn đào dưới đất làm một cái nhà thật đẹp để người cha ở trong đó, chàng dâng đồ ăn thức uống ngon lành. Chàng nghó như vầy: “Ai có thể cùng ta trừ bỏ điều phi pháp này?”. Lúc đó, vị Thiên thần hiện thân nói: –Nay ta cùng ngươi làm bạn với nhau. Vị Thiên thần viết một tờ sớ hỏi nhà vua bốn việc. Nếu nhà vua giải thích được những sự việc nêu ra trong sớ thì Thiên thần sẽ ủng hộ nhà vua, còn nếu không giải thích được thì sau bảy ngày sẽ đập đầu vua bể thành bảy mảnh. Bốn điều đó là: 1. Cái gì là tài sản quý nhất? 2. Cái gì là niềm vui lớn nhất? 3. Cái gì có mùi vị ngon hơn cả? 4. Cái gì sống lâu nhất? Thiên thần dán tờ sớ ấy trước cửa của vua.Vị vua thấy vậy mới cho người đi tìm những người trong nước coi ai có thể giải thích được lời này. Nếu ai giải thích được lời này thì có mong cầu điều gì nhà vua cũng làm cho được thỏa mãn. Người con của trưởng giả nhân bản văn sớ đó liền giải thích hết các ý nghóa trong đó: –Đức tin là tài sản quý nhất. –Chánh pháp là niềm vui lớn nhất. –Lời nói thật là mùi vị ngon hơn hết. –Trí tuệ là thọ mạng lâu dài nhất. Chàng giải thích ý nghóa này xong liền dán nó trước cửa vua. Vị Thiên thần thấy vậy trong lòng hết sức hoan hỷ, nhà vua cũng rất hoan hỷ. Nhà vua hỏi người con của trưởng giả: –Ai dạy ngươi những lời ấy? Đáp: –Cha tôi dạy tôi. Vua nói: –Cha ngươi ở đâu? Con của trưởng giả thưa: –Xin vua ban cho tôi sự vô úy. Cha tôi quả thật đã già, vì vi phạm phép của nhà nước, tôi đã giấu cha tôi ở dưới đất, xin cho tôi được nói. Tâu Đại vương, cha mẹ ân nặng giống như đất trời, mang thai mười tháng, để con nằm chỗ khô, tránh chỗ ướt, cho bú sữa mà nuôi con lớn, dạy bảo việc đời. Thân này mà có là đều nhờ cha mẹ, chúng ta được thấy mặt trời, mặt trăng, làm việc để sinh sống là do sức lực của cha mẹ. Giả sử vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, đi suốt một trăm năm, lại cúng dường đủ thứ vật lạ… cũng không thể báo ân cha mẹ được. Bấy giờ nhà vua hỏi: –Ngươi muốn cầu những gì? Thưa: –Tôi chẳng cầu mong gì cả. Mong đức vua bỏ cái pháp ác này đi mà thôi. Nhà vua chấp nhận lời nói ấy, tuyên bố những người dân trong nước: –Nếu ai bất hiếu với cha mẹ phải bị xử tội nặng. Đức Phật dạy: –Nếu các ngươi muốn biết người con của trưởng giả lúc ấy là ai thì đó chính là Ta. Lúc ấy, Ta vì nước kia trừ bỏ pháp ác, thành tựu pháp hiếu thuận. Do nhân duyên đó mà được thành Phật. Cho nên hôm nay Ta cũng lại tán thán pháp hiếu thuận.  <詞 id="41126067">15- CHUYỆN CON BẠCH HƯƠNG TƯỢNG CỦA QUỐC VƯƠNG CA-THI NUÔI CHA MẸ MÙ VÀ LÀM CHO HAI NƯỚC HÒA THUẬN Ngày xưa Đức Phật ở nước Xá-vệ, Ngài bảo các Tỳ-kheo: –Có tám loại người nhất định phải bố thí, không nên sinh nghi. Đó là: Cha, mẹ, Phật, đệ tử Phật, người từ xa đến, người đi xa, bệnh nhân và người chăm sóc kẻ bệnh. Các Tỳ-kheo thưa Đức Phật: –Đức Như Lai Thế Tôn hết sức kỳ đặc, thường tán thán, cung kính cha mẹ. Đức Phật dạy: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay, từ xưa đến nay Ta thường tôn trọng cung kính cha mẹ. Các Tỳ-kheo bạch: –Đức Thế Tôn đã tôn trọng, tán thán cha mẹ như thế nào? Đức Phật dạy: –Thời quá khứ lâu xa về trước có hai vị quốc vương: Một là vua Ca-thi, hai là vua Tỳ-đề-hê. Vua Tỳ-đề-hê có con voi Đại hương, nhà vua đã dùng sức của con Hương tượng để đánh phá quân đội vua Ca-thi. Vua Ca-thi mới nghó như vầy: “Nay ta làm sao có con Hương Tượng để đánh trả quân đội vua Tỳ-đề-hê?” Bấy giờ có một người nói: –Tôi thấy ở trong núi nọ có một con Bạch Hương tượng. Nhà vua nghe điều này rồi liền ra lệnh tuyển mộ: Ai có thể bắt được con Hương tượng, ta sẽ trọng thưởng. Lúc ấy có người chấp nhận lời chiêu mộ của nhà vua, tụ tập rất đông binh chúng đi đến để bắt con voi ấy. Con voi suy nghó: “Nếu ta bỏ đi xa thì ai lo cho cha mẹ ta mù lòa già cả? Chi bằng ta hãy thuận theo chỗ họ mà đến chỗ vua. Bấy giờ mọi người bèn dắt con Hương tượng đi đến bên vua. Nhà vua rất hoan hỷ nên đã làm phòng đẹp, trải mền nỉ ở dưới, cùng các kỹ nữ đàn ca trống đánh để tự vui chơi. Nhưng khi cho con voi ăn uống thì nó chẳng ăn uống gì cả. Khi ấy người giữ voi đi đến tâu với vua: –Con voi chẳng chịu ăn! Nhà vua hướng về phía con voi, nghó: “Những súc sinh đời thượng cổ đều có thể nói chuyện với người”, cho nên nhà vua hỏi con voi: –Vì sao ngươi không ăn? Con voi trả lời: –Tôi có cha mẹ tuổi đã già mà mắt lại mù, chẳng ai cho nước cỏ gì cả. Cha mẹ không có gì ăn, làm sao tôi ăn được? Con voi tâu với vua: –Tôi có thể bỏ đi được, các binh đội của ngài cũng không thể ngăn cản tôi được. Chỉ vì tôi có cha mẹ đã già lại mù, cho nên tôi mới chịu theo vua đến đây. Nếu nay nhà vua cho phép tôi được trở về phụng dưỡng cha mẹ cho đến khi cha mẹ hết tuổi thọ, tôi sẽ tự trở lại với ngài. Nhà vua nghe lời ấy xong, hết sức hoan hỷ, nói: –Chúng ta là con voi đầu người, còn con voi này mới là con người đầu voi. Trước đây, người của nước Ca-thi đối xử độc ác với cha mẹ, không có tâm cung kính, nay nhờ con voi này nên nhà vua liền lệnh cho tất cả mọi người trong nước, nếu ai không hiếu dưỡng, cung kính cha mẹ thì phải bị tội lớn. Nhà vua liền thả con voi trở về chỗ cha mẹ nó để nó cung dưỡng cha mẹ, tùy theo tuổi thọ cha mẹ dài hay ngắn, hễ khi cha mẹ chết thì trở lại chỗ vua. Khi vua thấy con Bạch tượng trở lại, hết sức hoan hỷ, liền trang sức cho nó, muốn chinh phạt nước đối phương. Con voi nói với nhà vua: –Đừng nên tranh đấu với nước khác. Hễ tranh đấu thì gây nhiều sự thương hại. Nhà vua nói: –Vì vua nước ấy khi dể xâm lấn ta. Con voi nói: –Hãy cho tôi đi sứ qua nước ấy, khiến cho nước oán địch ấy không dám khi dể ngài. Nhà vua nói: –Nếu để ngươi đi rồi ngươi không trở về nữa thì sao? Voi đáp: –Không ai có thể ngăn chặn không cho tôi trở về được cả. Con voi ngay lúc ấy liền đến nước kia. Vua Tỳ-đề-hê nghe con voi đến, hết sức hoan hỷ, tự ngài ra cung để nghênh tiếp. Khi nhà vua đã gặp con voi rồi, mới nói với nó: Ngươi hãy ở lại nước ta nhé! Con voi tâu với vua: –Tôi không thể ở lại đây được. Từ khi tôi lập thân đến nay không bao giờ nuốt lời thề của mình. Trước đây tôi có hứa với vua nước kia là tôi sẽ trở về nước ông ta. Này hai vị quốc vương, các ngài hãy trừ bỏ oán thù ác độc, tự làm cho nước nhà an ổn, vậy không vui sao? Con voi nói kệ: Đắc thắng thêm hận thù Thất bại càng đau khổ Không tranh thắng hay bại Là an lạc đệ nhất. Bấy giờ con voi này nói bài kệ ấy xong liền trở về nước Ca-thi. Từ đó về sau, hai nước hòa hiếu với nhau. Đức Phật dạy: –Vua Ca-thi lúc ấy nay chính là vua Ba-tư-nặc. Vua Tỳ-đề-hê nay là vua A-xà-thế. Còn con Bạch tượng lúc ấy chính là thân Ta. Nhờ hiếu dưỡng đối với cha mẹ, lúc đó Ta có thể làm cho hai nước hòa hiếu với nhau, ngày hôm nay cũng vậy.  <詞 id="41126068">16- NƯỚC BA-LA-NẠI, EM KHUYÊN ANH BỎ ÁC PHÁP, NHỜ THỪA TƯỚNG KHUYÊN VUA GIÁO HÓA THIÊN HẠ Thuở trước, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: –Nên biết, ngày xưa ở nước Ba-la-nại có pháp bất thiện lưu hành ở đời là người cha lúc tuổi đã sáu mươi, thì trải tấm dạ để ngồi giữ cửa ngõ. Bấy giờ có hai anh em, người anh nói với em: –Em hãy trải tấm dạ với cha để giữ cửa ngõ. Trong nhà chỉ có một tấm dạ, người em bèn cắt một nửa tấm dạ đưa cho cha rồi thưa với cha: –Anh cả cho cha, chứ không phải là con cho cha. Anh cả nói cha hãy giữ cửa ngõ. Người anh nói với em: –Tại sao em không đưa hết tấm dạ cho cha mà lại cắt một nửa rồi mới đưa? Người em thưa: –Chỉ có một tấm dạ, nếu không cắt một nửa sau này lấy gì mà dùng? Người anh hỏi: –Vậy em muốn cho ai nữa? Em thưa: –Chứ không phải cho anh sao? Người anh nói: –Sao lại cho ta? Người em nói: –Rồi anh cũng sẽ già, các con của anh cũng để anh ở trong cửa như vậy. Người anh nghe lời ấy, kinh ngạc nói: –Ta cũng sẽ già như vậy sao? Em thưa: –Ai có thể thay thế cho anh được. Rồi người em nói với anh: –Pháp ác như thế, hãy nên trừ bỏ đi. Hai anh em dắt tay nhau đến nhà của phụ tướng, đem những lời nói ấy hỏi với phụ tướng. Phụ tướng đáp: –Thật vậy, tất cả chúng ta đều sẽ phải già. Vị phụ tướng tâu với vua. Nhà vua nghe lời ấy rồi ra lệnh cho toàn quốc phải hiếu dưỡng cha mẹ, bỏ điều phi pháp, không được bất hiếu.  <詞 id="41126069">17- CHUYỆN VỢ CỦA PHẠM-MA-ĐẠT VÌ ĐỐ KỊ MÀ HẠI CON LÀ PHÁP HỘ Đức Phật ở thành Vương xá, nói với Đề-bà-đạt-đa: –Ta thường để lòng thương nhớ ngươi một cách sâu xa và thân, khẩu, ý của Ta đối với ngươi cũng không có điều ác. Nay chúng ta hãy sám hối với nhau đi! Đề-bà-đạt-đa mắng nhiếc Đức Phật rồi bỏ đi. Các Tỳ-kheo thưa: –Tại sao Đức Như Lai có Từ tâm mà Đề-bà-đạt-đa lại chửi rủa hung ác như thế? Đức Phật dạy: –Đâu có phải chỉ ngày hôm nay! Trong thời quá khứ, nước Ba-la-nại có một vị vua tên Phạm-ma-đạt, vợ tên là Bất Thiện Ý. Họ có người con tên là Pháp Hộ, thông minh, nhân từ. Nhà vua cho mời thầy về dạy cho thái tử học. Bấy giờ vua Phạm-ma-đạt dẫn các thể nữ đi vào vườn thượng uyển để vui chơi. Khi ấy nhà vua dùng rượu dư mời phu nhân. Phu nhân tức giận mới nói: –Ta thà đâm cổ thằng Pháp Hộ lấy máu để uống, chứ không chịu uống rượu này. Nhà vua nghe lời ấy mới tức giận nói với những đứa trẻ cùng học, bảo Pháp Hộ đến. Khi Pháp Hộ đến, nhà vua nói: –Ta muốn cắt cổ ngươi. Người con thưa cha: –Con đâu có tội tình gì. Vả lại, đức vua chỉ có một mình con, vì sao lại giết con? Vua nói: –Ta không muốn giết con, nhưng đó là ý của mẹ con. Con hãy xin sám hối với mẹ con, nếu bà hoan hỷ, sẽ không giết con. Người con liền hướng về phía mẹ sám hối mà nói: –Mẹ chỉ có một mình con là con, vả lại con cũng không có tội lỗi gì, vì sao mẹ lại giết con? Tuy người con nói như vậy nhưng người mẹ cũng không tha, liền đâm vào cổ con lấy máu mà uống. Đức Phật dạy: –Phụ vương thời đó chính là Câu-ca-ly. Người mẹ lúc đó chính là Đề-bà-đạt-đa. Người con chính là Ta. Lúc ấy Ta hoàn toàn không có tâm ác, nhưng mẹ Ta vẫn không cho Ta sám hối. Ngày hôm nay cũng vậy, y không nhận sự sám hối của Ta. Lúc đó mặc dù Ta bị giết nhưng Ta không có một ý nghó sân hận nào cả, huống chi ngày hôm nay mà lại sân hận, có tâm ác hay sao?  <詞 id="41126070">18- CHUYỆN TỲ-KHEO ĐÀ-PHIẾU BỊ HỦY BÁNG Ngày xưa, có một Tỳ-kheo tên là Đà-phiếu, Tỳ-kheo này có sức mạnh của một vị đại lực só, nhờ xuất gia tu học tinh tấn nên đắc đạo A-la-hán, có đầy đủ oai đức, thường lo việc cho Tăng. Năm ngón tay của vị ấy phát ra ánh sáng. Ngài phân phối cho Tăng chúng các thứ đồ dùng. Do đó, cho nên Đức Phật gọi vị ấy là Tri sự đệ nhất. Có Tỳ-kheo Di-đa vì phước đức cạn mỏng nên phải ngồi sau số đông, ăn uống toàn đồ dở, do đó tức giận nói: –Nếu để gã Đà-phiếu này lo liệu việc Tăng chúng thì kết cuộc mình phải ăn toàn đồ dở mà thôi. Vậy ta phải tạo cơ hội để phá y. Di-đa có một người chị là Tỳ-kheo-ni; cả hai cùng lập mưu đến hủy báng Đà-phiếu. Họ hủy báng cho đến lần thứ ba, Tỳ-kheo Đà-phiếu nhàm chán sự thô ác ấy, liền bay lên hư không, làm mười tám cách biến hóa, nhập Hỏa quang tam-muội, ở trong hư không, như lửa thiêu hủy, không có thi hài. Vì bài báng sự tham lam khinh ghét, nó có thể làm có Hiền thánh còn bị hủy diệt thân thể, huống chi là phàm phu, cho nên người có trí tuệ phải cẩn thận việc bài báng, chớ khinh thường lời nói. Khi ấy các Tỳ-kheo liền bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo Đà-phiếu do nhân duyên gì mà bị bài báng? Lại do nhân duyên gì mà lại có sức mạnh lớn này? Lại do nhân duyên gì được quả A-la-hán? Đức Phật dạy: –Vào thời quá khứ, lúc con người thọ hai vạn tuổi, có một Đức Phật hiệu là Ca-diếp. Bấy giờ, trong chánh pháp của Phật Ca-diếp có một Tỳ-kheo trẻ, mặt mày đoan chánh, nhan sắc tuyệt đẹp. Tỳ-kheo trẻ ấy khi khất thực chưa về thì có một thiếu phụ bị mê hoặc bởi nhan sắc của Tỳ-kheo ấy, nhìn mãi mà mắt không rời. Tỳ-kheo Đà-phiếu lúc ấy đang ăn muối, bắt gặp cô gái này đi theo vị Tỳ-kheo trẻ ấy mà mắt không phút nào rời, cho nên mới hủy báng: –Cô gái này chắc chắn đã tư thông cùng Tỳ-kheo kia. Do nhân duyên đó nên Tỳ-kheo Đà-phiếu phải đọa vào ba đường ác, thọ vô lượng khổ. Cho đến ngày hôm nay dư nghiệp vẫn chưa hết nên mới bị phỉ báng như vậy. Lại vào lúc Phật Ca-diếp ở thời quá khứ, Tôn giả có xuất gia học đạo cho nên nay mới được quả A-la-hán. Do vì ở thời quá khứ Tôn giả có kinh doanh cho Tăng sự, lúc đi ghe, lừa, ngựa, chở gạo, bún, Tôn giả bị chìm dưới bùn sâu nhưng liền được ra khỏi, nhờ nhân duyên đó nên được sức mạnh lực só.  <詞 id="41126071">19- CHUYỆN LY VIỆT BỊ HỦY BÁNG Ngày xưa ở nước Kế tân có một vị A-la-hán tên là Ly Việt, ngồi thiền ở trong núi. Có một người mất trâu đang tìm theo dấu vết của con trâu, cho nên đi thẳng đến chỗ Tôn giả Ly Việt. Bấy giờ Tôn giả Ly Việt đang đốt cỏ để nhuộm y, tấm y tự nhiên biến thành tấm da trâu, những giọt thuốc nhuộm biến thành máu trâu, cỏ dùng để đốt trong lúc nhuộm thì biến thành thịt trâu, cái bồn để nhuộm biến thành đầu trâu. Khi ấy người chủ trâu thấy vậy bèn bắt trói Tôn giả lại và dẫn đến chỗ vua. Nhà vua bèn ra lệnh bỏ Tôn giả vào trong ngục, trải qua mười hai năm trường bị chủ ngục cho ăn lúa ngựa. Đệ tử của Tôn giả Ly Việt có đến năm người đều chứng quả A-la-hán, họ tìm kiếm thầy mình nhưng chẳng thấy ở đâu. Do nghiệp duyên của Tôn giả sắp hết nên có một người đệ tử thấy thầy mình ở trong ngục của nước Kế tân, cho nên vị ấy mới đến tâu với vua ở đó: –Thầy của tôi tên là Ly Việt, hiện đang ở trong ngục của nhà vua, cúi mong đức vua xét xử. Nhà vua liền bảo người vào ngục để kiểm tra. Người của nhà vua vào ngục chỉ thấy có một người nhan sắc tiều tụy, râu tóc thật dài mà bị chủ ngục cho ăn lúa ngựa, người ấy trở về tâu lại với vua: –Trong ngục hoàn toàn không có Sa-môn, đạo só nào cả, chỉ có một tội nhân là Tỳ-kheo mà thôi. Đệ tử lại tâu với vua: –Xin vua ra lệnh, nếu có các Tỳ-kheo thì đều cho ra khỏi ngục. Nhà vua liền tuyên lệnh: –Cho các Đạo nhân được ra khỏi ngục. Tôn giả Ly Việt lúc ấy đang ở trong ngục mà râu tóc tự rụng, mình đắp ca-sa, bay lên hư không, làm mười tám cách biến hóa. Nhà vua thấy việc này rồi cho là chưa từng có, năm vóc liền gieo xuống đất, cúi lạy, thưa với Tôn giả: –Xin Tôn giả hãy cho con sám hối. Khi ấy Tôn giả liền nhận sự sám hối của nhà vua. Nhà vua liền nói: –Do nhân duyên gì mà Tôn giả bay lên hư không được mà lại chịu khổ nhiều năm ở trong ngục? Tôn giả đáp: –Ngày xưa tôi cũng mất trâu, tìm theo dấu chân trâu, đi vào trong một hòn núi thấy một vị Bích-chi-phật ngồi thiền ở một nơi vắng vẻ, tôi liền vu khống vị ấy bắt trâu. Trải qua thời gian một ngày một đêm như vậy. Do nhân duyên đó cho nên tôi phải đọa lạc trong ba đường ác, khổ não vô lượng. Cái tai ương ấy còn xót lại không hết, cho đến ngày nay tuy đã chứng A-la-hán rồi mà vẫn còn bị hủy báng.  <詞 id="41126072">20- CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI XẤU XÍ TÊN LÀ LẠC-ĐỀ, CON VUA BA-TƯ-NẶC Ngày xưa, vua Ba-tư-nặc có một người con gái tên là Lạc-đề. Cô này có mười tám cái xấu, hoàn toàn không giống người khác. Hễ ai nhìn thấy cô cũng đều hoảng sợ. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc vì con gái đã lớn tuổi, chiêu mộ người trong nước, không kể là con trai của trưởng giả, có danh vọng, kẻ nghèo cùng đói khát hay kẻ cô độc đều dẫn đến chỗ vua. Bấy giờ ở mé chợ có một người con của trưởng giả cô độc một mình đi xin để tự sống. Những người tìm thấy anh ta bèn dẫn đến vua. Nhà vua dẫn vị ấy đi ra sau vườn mới giao ước: –Ta sinh một người con gái hình dạng xấu xí, chẳng nên để người khác trông thấy. Nay ta muốn gả cho khanh làm vợ, khanh thấy thế nào? Khi ấy con của trưởng giả thưa: –Đức vua đã có lệnh giao ước, giả sử đó là con chó thì thần cũng không dám từ chối, huống chi đây là con gái của vua mà thần lại từ chối sao? Nhà vua giữ lời hứa, cho con mình làm vợ người ấy, cho ở trong cung thất và giao ước: –Con gái của ta xấu xí, cẩn thận đừng để người khác thấy. Hễ lúc đi ra thì khóa cửa lại, còn khi vào thì đóng cửa lại, phải luôn luôn như vậy. Khi ấy có các con của các trưởng giả, họ đều là thân hữu, họ thường rủ nhau uống rượu vui đùa. Cứ mỗi ngày hội họp là con của các trưởng giả đều có đem theo vợ của họ đồng đến để tập hợp. Chỉ có con gái của nhà vua là không đến. Lúc đó mọi người đồng nói với chàng rể: –Ngày hôm sau chúng ta lại hội họp, yêu cầu anh hãy dắt vợ anh đến. Nếu anh không dắt vợ đến, chúng ta sẽ phạt anh nặng đấy. Lại đến ngày hội, người con của trưởng giả nghèo ấy vẫn như trước, không dắt vợ đến. Các người kia bèn cùng nhau trách phạt anh ta. Nhưng anh ta vẫn cam lòng chịu sự trách phạt ấy. Các người kia lại cùng nhau nói: –Ngày mai chúng ta lại họp, nếu anh không dắt vợ đến sẽ bị phạt nữa. Cũng vậy, anh ta lại bị phạt. Cứ vậy cho đến lần thứ hai, lần thứ ba, anh ta cũng không dắt vợ đến chỗ hội. Mãi đến sau cùng, người con của trưởng giả cô độc này mới về nhà nói với vợ: –Anh đã mấy lần vì em mà bị phạt. Người vợ hỏi: –Vì sao? Người chồng đáp: –Mọi người đều yêu cầu trong ngày yến hội, tất cả mọi người phải dẫn vợ tới. Nhưng anh đã bị lệnh của đức vua: Không được dắt vợ theo để người ngoài thấy. Vì vậy mà anh đã bị phạt mấy lần rồi. Người vợ nghe chồng nói lời ấy hết sức xấu hổ, buồn tiếc nên ngày đêm niệm Phật. Bấy giờ, vào ngày hôm sau, bạn bè lại mở yến tiệc, người chồng lại đi một mình. Người vợ ở trong phòng càng thêm khẩn nguyện: –Đức Như Lai xuất thế đã làm nhiều điều lợi ích cho chúng sinh. Nay con vì tội ác nên riêng con chưa được mong nhờ đại ân ấy. Đức Phật cảm động trước tấm lòng chí thành của nàng, liền từ dưới đất hiện lên. Ban đầu nàng thấy đầu tóc của Đức Phật nàng rất kính trọng, hoan hỷ, do đó tóc nàng liền đổi khác, biến thành đầu tóc thật đẹp. Tiếp theo nàng thấy cái trán của Đức Phật, dần dần nàng thấy lông mày, con mắt, lỗ tai, thân và miệng của Đức Phật, tùy theo cứ thấy một bộ phận nào nàng càng thêm hoan hỷ. Do đó thân hình của nàng liền biến đổi không còn những cái xấu xí nữa. Dung mạo của nàng bây giờ giống như chư Thiên. Khi ấy con của các trưởng giả bí mật bàn với nhau: –Con gái của nhà vua sở dó không đến hội này hoặc là nàng đoan chánh dị thường, hoặc là rất xấu, cho nên mới không đến đây. Vậy chúng ta hãy ép chồng nàng uống rượu cho đến lúc không còn biết gì nữa bấy giờ chúng ta hãy lấy chìa khóa của chàng mở cửa ra để xem. Họ liền phục cho chàng uống rượu thật say, lấy chìa khóa của chàng rồi cùng nhau đến mở cửa để xem. Họ thấy con gái của đức vua này đoan chánh vô song, họ liền đóng cửa lại, trở về chỗ cũ. Lúc ấy người chồng của nàng vẫn chưa tỉnh rượu, họ liền lấy chìa khóa cột lại dưới lưng chàng. Đến lúc người chồng thức giấc, liền tìm đường trở về nhà, thấy vợ đoan chánh lạ thường, chàng lấy làm lạ mới hỏi: –Nàng là Thiên thần ở đâu đến nhà tôi vậy? Người vợ đáp: –Tôi là Lạc-đề, vợ của chàng đây. Người chồng cho là quái lạ mới hỏi vì sao mà nàng lại đổi khác nhanh như vậy? Người vợ trả lời: –Em nghe chàng mấy lần vì em mà bị phạt cho nên sinh tâm xấu hổ mới khẩn thiết niệm Phật, liền thấy Đức Như Lai từ dưới đất hiện lên, em hết sức vui mừng, nhờ đó mà thân thể trở thành tốt đẹp. Người con của trưởng giả nghèo hết sức vui mừng liền vào tâu với vua: –Thân thể con gái của vua tự nhiên biến thành tốt đẹp. Nay nàng mong được yết kiến đức vua. Nhà vua nghe xong rất hoan hỷ, liền bảo người đưa vua đến xem. Nhà vua thấy con rồi tuy rất hoan hỷ nhưng trong lòng cũng rất nghi ngại, cho là điều kỳ lạ, liền đi đến chỗ Đức Phật và bạch Đức Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, người con gái này do nhân duyên gì được sống ở nơi thâm cung mà thân hình lại xấu ác, ai thấy cũng kinh sợ? Lại do nhân duyên gì mà nay hóa thành tốt đẹp? Đức Phật bảo nhà vua: –Ở thời quá khứ có vị Bích-chi-phật, ngày ngày khất thực, đến trước ngõ của một trưởng giả. Khi ấy con gái của vị trưởng giả mang cơm ra cúng dường cho vị Bích-chi-phật. Cô ta thấy thân thể của Bích-chi-phật xấu xí nên mới nói: –Vị ấy xấu xí, thân hình có da như con cá, tóc như lông ngựa. Đức Phật nói: –Người con gái của trưởng giả lúc ấy chính là con gái của vua bây giờ vậy. Nhờ nhân duyên cúng dường nên được sinh nơi thâm cung của vua. Do hủy báng thân hình của vị Bích-chi-phật cho nên thân hình phải xấu xí. Nhờ biết sinh tâm xấu hổ nghiêng lòng khẩn cầu nên được thấy ta. Nhờ sinh tâm hoan hỷ nên thân hình hóa thành tốt đẹp. Bấy giờ chúng hội nghe Đức Phật thuyết pháp, cung kính đảnh lễ phụng hành.  <詞 id="41126073">21- CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI TÊN THIỆN QUANG CON VUA BA-TƯ-NẶC Ngày xưa vua Ba-tư-nặc có con gái tên là Thiện Quang, thông minh đoan chánh, được cha mẹ thương yêu, mọi người trong cung ai cũng kính mến. Vua cha nói với con gái: –Con nhờ thế lực của ta mà khiến cho mọi người trong cung đều yêu mến. Người con gái thưa với vua cha: –Vì con có nghiệp nhân riêng chứ không phải nhờ phụ vương mà được như vậy. Vua cha nói ba lần như thế thì người con gái ba lần cũng trả lời như thế. Bấy giờ nhà vua nổi giận bảo: –Nay ta sẽ thí nghiệm để coi thử tự ngươi có nghiệp lực riêng hay không? Nhà vua liền ra lệnh cho những người tả hữu vào trong thành này tìm cho vua một người đi ăn xin, hết sức bần cùng. Bấy giờ những người tả hữu vâng lệnh đức vua tìm được một người hết sức nghèo khổ, dẫn đến chỗ vua. Nhà vua liền đem con gái của mình là Thiện Quang gả cho người bần cùng ấy. Nhà vua nói với con gái: –Nếu như con tự có nghiệp nhân riêng mà không cần nhờ vào ta thì từ nay trở đi nghiệm việc này sẽ rõ. Người con gái vẫn đáp: –Con có nghiệp lực riêng. Rồi cô ta ra đi với người bần cùng ấy. Cô hỏi chồng: –Trước đây anh có cha mẹ chứ? Người bần cùng đáp: –Cha tôi trước đây ở trong thành Xá-vệ, là trưởng giả giàu có số một. Cha mẹ tôi ở nhà đều mất cả, tôi chẳng còn ai để nương tựa, cho nên mới bị bần cùng như vậy. Thiện Quang lại hỏi: –Nay anh có biết ngôi nhà xưa của cha mẹ anh ở chỗ nào không? Người chồng đáp: –Tôi biết chỗ ấy. Nhà đã bị hư hoại chỉ còn là khoảng đất trống. Thiện Quang cùng chồng đi đến chỗ ngôi nhà xưa ấy, họ đi quanh để xem xét. Họ đi đến đâu cũng thấy thế đất ở đó hiểm trở. Lúc ấy ở trong lòng đất có chôn một kho tàng, tự nhiên hiển lộ. Họ liền lấy hết châu báu thuê người cất nhà. Chưa đầy một tháng mà cung thất, nhà cửa đều đã thành tựu. Bên trong có rất nhiều gia nhân, mỹ nữ, nô tỳ, tôi tớ không thể kể xiết. Lúc ấy nhà vua bỗng nhớ con, nói: –Con gái của ta là Thiện Quang, không biết bây giờ sinh sống ra sao? Có người thưa: –Cung thất của con gái đức vua có nhiều tiền của chẳng thua gì đức vua. Nhà vua nói: –Đức Phật quả nói lời chân thật là tự làm việc thiện hay ác là phải tự thọ lấy quả báo tương ứng. Ngay ngày hôm đó, con gái đức vua nói với chồng mình về mời nhà vua đến. Nhà vua liền nhận lời mời, đi đến thấy trong ngôi nhà ấy lót toàn là nệm, thảm thật đẹp, trang hoàng nhà cửa còn hơn cả cung vua nữa. Nhà vua thấy như vậy rồi khen là: “Chưa từng có”. Cô gái này tự biết lời nói ấy đều là sự thật nên mới nói là: –Con có nghiệp nhân này nên tự thọ lấy quả báo ấy. Nhà vua đi đến thưa Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, cô con gái này đời trước đã làm phước nghiệp gì mà đời nay được sinh vào nhà của vua, thân có ánh sáng? Đức Phật trả lời đức vua: –Ở thời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có Đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi. Bấy giờ có một vị vua tên là Bàn-đầu, nhà vua có vị Đệ nhất phu nhân. Sau khi Đức Phật Tỳ-bà-thi nhập Niết-bàn, vua Bàn-đầu lấy xá-lợi của Đức Phật xây bảo tháp. Đệ nhất phu nhân dùng mão trời treo lên để trang sức trên đảnh của Đức Phật Tỳ-bà-thi, trong mão trời có viên ngọc Như ý treo ở trên đầu, làm cho ánh sáng chiếu khắp thế gian. Nhân đó phát nguyện: “Xin Đức Phật hãy cho thân của con ở tương lai có ánh sáng sắc vàng tía, tôn vinh hào quý, không đọa vào ba đường ác và tám nạn.” Đệ nhất phu nhân của vua nay là công chúa Thiện Quang vậy. Thời Đức Phật Ca-diếp, công chúa lại dùng những món ngon để cúng dường Đức Ca-diếp Như Lai và bốn vị đại Thanh văn, nhưng chồng của nàng ngăn chặn, người vợ mới khuyến thỉnh: –Xin anh đừng đoạn tuyệt với tôi, nay tôi đã thỉnh nguyện cúng dường, hãy để cho tôi được mãn nguyện! Người chồng chấp thuận để người vợ cúng dường ngọc Như ý. Người chồng lúc ấy nay chính là người chồng của đời này vậy. Người vợ lúc ấy chính là vợ của anh ta vậy. Người chồng lúc ấy vì ngăn chặn vợ làm phước cho nên phải mãi mãi bần cùng. Nhưng sau nhờ chấp thuận cho vợ cúng dường, do đó mà vợ được hết sức phú quý. Lúc anh ta chưa có vợ thì vẫn cứ bần tiện. Cái nghiệp thiện ác theo đuổi con người không hề sai chạy. Nhà vua nghe Đức Phật dạy, hiểu thấu hạnh nghiệp sâu xa, không tự khoe mình là cao quý, sinh sự tín ngộ một cách vững chắc rồi hoan hỷ lui ra.  <詞 id="41126074">22- CHUYỆN HAI ANH EM VƯƠNG TỬ BỊ ĐUỔI RA KHỎI NƯỚC Ngày xưa có hai anh em vương tử bị đuổi ra khỏi nước, đến giữa một con đường trống thì lương thực đã hết. Người em bèn giết vợ mình lấy thịt chia cho anh và chị dâu cùng ăn. Người anh thấy miếng thịt ấy ngầm sợ nên không ăn. Người anh tự cắt thịt đùi của mình, vợ chồng cùng ăn. Người em thấy thịt của vợ mình đã hết liền muốn giết chị dâu. Người anh bảo: –Đừng giết chị dâu. Rồi người anh lấy thịt đã giấu ở trước đưa cho người em ăn. Khi họ đã đi qua khỏi đồng trống, đến chỗ ở của Thần tiên, hái được trái ngon để ăn. Người em sau đó bị bệnh mà chết, chỉ còn người anh sống sót. Khi ấy, vương tử thấy một người bị chặt hết tay chân, cho nên sinh lòng từ bi, hái hoa quả nuôi sống người ấy. Vương tử là người thiểu dục, trong lúc đi hái hoa quả thì người vợ của chàng ở sau tư thông cùng người bị chặt tay chân đó và trở lại ghét chồng mình. Trong một ngày nọ theo chồng để hái hoa, đến một bên bờ sông, bà nói với chồng: –Anh hãy hái hoa quả trên cây kia. Người chồng nói với vợ: –Ở dưới có sông sâu, trèo lên cây có thể dễ rơi xuống sông. Người vợ nói: –Anh lấy dây cột ngang lưng rồi trèo lên cây, em sẽ nắm một đầu dây đứng gần mé sông. Người chồng làm vậy. Thế rồi người vợ bày kế làm người chồng rơi xuống dòng sông, nhờ chàng có sức mạnh từ thiện, tuy rơi xuống nước và bị trôi đi nhưng vẫn không bị chết chìm giữa dòng sông. Bấy giờ có một vị quốc vương băng hà, vị tướng sư của nước ấy đi tìm kiếm những người ở trong nước xem ai có thể làm vua được, từ xa trông thấy trên mặt nước có cái lọng mây vàng lơ lửng. Vị tướng sư xem quẻ xong nói: –Dưới cái lọng mây vàng, chắc chắn có Thần nhân. Ông liền bảo người xuống nước rước lên và tôn làm vua. Người vợ cũ của nhà vua đang cõng người bị chặt tay chân kia đi xin ăn, đi đến cửa vương tử. Người dân trong nước ấy đều khen: –Có một người đàn bà tốt cõng một người chồng bị chặt tay chân, cung kính hiếu thuận đang đến chỗ vua. Nhà vua nghe lời ấy rồi liền cho người kêu đến trước điện. Nhà vua hỏi vợ: –Người bị chặt tay chân đó có phải thật là chồng của ngươi chăng? Người vợ đáp: –Thưa đúng thật là chồng của tôi. Bấy giờ vua lại nói: –Ngươi có biết ta chăng? Thưa: –Không biết. Vua nói: –Ngươi biết tên họ ta hay không biết? Bà hướng về phía vua nhìn xong, sau đó bà xấu hổ. Nhà vua vì lòng từ cho nên bảo người nuôi dưỡng họ. Đức Phật nói: –Các ngươi nên biết, nhà vua đó chính là thân Ta. Còn người vợ lúc ấy là người con gái của Bà-la-môn tên là Chiên-giá, đã độn gỗ trong bụng để hủy báng Ta. Còn người bị chặt tay chân lúc ấy chính là Đề-bà-đạt-đa.  <詞 id="41126075">23- VỢ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU-ĐẠT CÚNG DƯỜNG PHẬT ĐƯỢC QUẢ BÁO Ngày xưa, lúc Đức Phật còn tại thế, có một vị trưởng giả tên là Tu-đạt cuối đời rất nghèo khổ, tiền bạc của cải đều hết sạch, ông phải ra sức làm thuê cho người khác, kiếm được ba cân gạo đem về nấu ăn. Khi cơm chín thì đúng lúc Tôn giả A-na-luật đi đến để khất thực. Vợ của Tu-đạt liền lấy bình bát của Tôn giả bới một bát đầy dâng lên. Sau đó thì Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Xá-lợi-phất, lần lượt đi đến để khất thực. Người vợ của trưởng giả cũng đều lấy bình bát của các Tôn giả bới đầy bát rồi dâng lên. Sau cùng thì Đức Thế Tôn tự đến để khất thực, cũng bới một bát đầy dâng cúng. Bấy giờ ông Tu-đạt ở bên ngoài vào bảo vợ dọn ăn. Người vợ đáp lời chồng: –Nếu có Tôn giả A-na-luật đến, ông có tự đem phần cơm của mình dâng cho ngài không? Đáp: –Nên nhịn phần ăn của mình để dâng lên Tôn giả. –Nếu lại có Tôn giả Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Xá-lợi-phất… cho đến có Đức Phật đến, ông phải làm thế nào? –Thà mình nhịn đói để cúng dường tất cả cho những vị ấy. Người vợ nói với chồng: –Sáng nay có các vị Thánh ấy đến đây khất thực, cho nên trong nhà có bao nhiêu cơm tôi đều dâng cúng cho các Ngài hết rồi. Người chồng nói với vợ: –Như vậy là tội của chúng ta đã hết, phước đức của chúng ta phải sinh. Ông liền mở kho ra thì vải, lụa, đồ ẩm thực… đầy cả kho, cứ dùng hết rồi lại sinh ra.  <詞 id="41126076">24- CHUYỆN TỲ-KHEO SA-LA-NA BỊ VUA ÁC SINH LÀM KHỔ NÃO Ngày xưa con của vua Ưu-điền tên là Sa-la-na, tâm thích Phật pháp, xuất gia học đạo, tu Đầu-đà khổ hạnh, vào trong núi rừng hay ở trong gốc cây để tọa thiền, nhiếp tâm. Bấy giờ vua Ác Sinh đem các thể nữ tuần tự dạo chơi, đi vào trong rừng. Khi mới xuống xe, thấy không khí tónh mịch, nhà vua liền nằm ngủ. Tất cả các thể nữ thấy vua đang ngủ liền cùng nhau đi dạo, đến dưới một gốc cây, thấy một Tỳ-kheo đang tọa thiền nhập định. Họ đến chỗ ấy lễ kính, hỏi thăm. Lúc đó vị Tỳ-kheo thuyết pháp cho họ nghe. Sau đó nhà vua thức giấc, đi tìm kiếm các thể nữ, từ xa trông thấy một Tỳ-kheo ở dưới gốc cây, nhan sắc diện mạo đoan chánh, trẻ tuổi xinh đẹp, tất cả các thể nữ thì ở phía trước nghe pháp. Nhà vua liền đi tới nói: –Nhà ngươi đã chứng quả A-la-hán chưa? Đáp: –Chưa chứng. –Nhà ngươi đã đắc quả A-na-hàm chưa? –Chưa đắc. –Nhà ngươi đã đắc quả Tư-đà-hàm chưa? –Chưa đắc. –Nhà ngươi đã đắc quả Tu-đà-hoàn chưa? –Chưa đắc. –Nhà ngươi đã thành tựu pháp quán bất tịnh chưa? –Chưa thành tựu. Lúc ấy nhà vua hết sức tức giận nói: –Ngươi chẳng đắc cái gì cả, tại sao kẻ phàm phu sinh tử này lại dám cùng ngồi một chỗ với các thể nữ? Vua liền bắt lên đánh đập, làm cho khắp thân thể vị Tỳ-kheo bị rách nát. Các thể nữ thưa: –Vị Tỳ-kheo này không có lỗi gì cả. Nhà vua càng thêm sân hận. Các thể nữ lại thấy vị Tỳ-kheo bị đánh đập nữa, họ đều khóc lóc áo não, làm cho nhà vua sân hận kịch liệt gấp bội. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo trong tâm tự nghó: “Chư Phật ở thời quá khứ, nhờ có thể nhẫn nhục mà được đạo Vô thượng. Lại nữa, ở thời quá khứ có vị Tiên nhân nhẫn nhục, bị người khác cắt đứt tai, mũi, tay, chân… Ngài vẫn có thể nhẫn nhục được, huống chi ta ngày nay, thân hình vẫn còn nguyên vẹn sao lại không nhẫn được?”. Suy tư như vậy cho nên im lặng nhẫn chịu. Khi bị đánh đập xong, toàn thân đau đớn kịch liệt, không thể chịu nổi sự thống khổ ấy, cho nên vị Tỳ-kheo lại suy nghó như vầy: “Nếu ta ở thế gian thì ta là con của quốc vương, sẽ lên nối ngôi vua, binh chúng thế lực đâu có thua vị vua kia. Ngày nay ta đã xuất gia đơn độc, lại bị khinh khi, đánh đập, hết sức áo não…” liền muốn bỏ đạo trở về nhà. Cho nên vị Tỳ-kheo ấy đến chỗ Hòa thượng Ca-chiên-diên từ tạ, muốn xin trở về thế tục. Hòa thượng đáp: –Nay thân thể của ngươi mới bị đánh đập đau đớn. Hãy đợi đến sáng mai, hãy nghỉ ngơi chút xíu rồi hãy đi. Khi ấy Sa-môn vâng lời dạy liền trở lại. Vào lúc nửa đêm, Tôn giả Ca-chiên-diên vì Tỳ-kheo ấy hiện cho thấy chiêm bao, khiến cho Sa-la-na tự thấy thân mình khi bỏ đạo về nhà, vua cha đã băng hà, liền lên kế vị, liền tập hợp tất cả bốn thứ binh chủng để chinh phục vua Ác Sinh. Khi đến nước địch, hai bên giao chiến thì chính mình bị bại trận, binh chúng bị tan tát, thân mình bị cầm tù. Bấy giờ vua Ác Sinh đã bắt được Sa-la-na rồi bảo người cầm đao đến định giết. Lúc ấy Sa-la-na hết sức sợ hãi, liền sinh ra ý nghó mong thấy Hòa thượng, dù có bị người khác giết cũng không ân hận. Bấy giờ Hòa thượng khởi niệm biết tâm của Tỳ-kheo, ngài cầm tích trượng, ôm bình bát muốn đi khất thực, hiện ra ở phía trước và nói: “Ta thường vì ngươi mà thuyết vô vàn pháp môn, còn việc đấu tranh để cầu thắng, trọn không thể được. Nếu không nghe lời ta dạy thì ta biết làm sao?” Vị ấy đáp lại lời Hòa thượng: “Nếu nay ngài cứu tánh mạng đệ tử thì con chẳng bao giờ dám làm sai lời ngài dạy.” Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên nói với vị vua kia để cứu Sa-la-na, bảo: “Xin hãy chờ một lát, nghe ta tâu với vua xin cứu mạng ngươi.” Nói như vậy rồi liền hướng đến chỗ vua. Người đao phủ đứng ở phía sau vua không chịu chờ đợi bèn dẫn đi giết. Khi đao phủ sắp sửa hạ đao thì trong tâm vị Tỳ-kheo ấy rất kinh sợ, la không ra tiếng, rồi tỉnh giấc. Khi tỉnh rồi bèn đem tất cả những điều thấy trong mộng bạch Hòa thượng, Hòa thượng trả lời: –Chiến đấu là con đường sinh tử luân hồi, hoàn toàn không có sự thắng. Vì sao vậy? Hễ là pháp chiến đấu, tàn sát kẻ khác để được chiến thắng, là con đường của sự tự hủy hoại. Hiện tại kẻ ngu tình lấy đó làm khoái ý, tương lai sẽ bị đọa vào ba đường ác, thọ khổ vô lượng. Nếu bị kẻ khác sát hại làm tổn hại đến thân mạng chính mình và gây ra nhiều tai ương khác thì kẻ ấy phải chịu nhiều trọng tội, khiến họ phải rơi vào địa ngục. Còn nếu tàn sát lẫn nhau thì oan gia không bao giờ dứt, luân chuyển trong năm đường không bao giờ kết thúc. Xét cho cùng, việc giết hại nào có bổ ích gì cho thân ghẻ lở này, cho sự đau đớn khổ sở này? Nay ngươi muốn lìa sinh tử, sợ hãi, đánh đập đau đớn, phải tự quán thân mình để chấm dứt sự oán thù hủy báng. Vì sao vậy? Vì thân này là gốc của các khổ, bị đói khát, lạnh nóng, sinh già bệnh chết, bị muỗi mòng, thú độc làm tổn hại… Các sự oán thù như vậy nhiều vô lượng, ngươi không thể báo thù hết được. Vậy sao muốn báo thù vua Ác Sinh làm gì? Nếu muốn diệt trừ oán thù thì phải diệt trừ phiền não. Oan gia của phiền não hại đến vô lượng đời kiếp, còn oán thù của thế gian tuy nặng nhưng chỉ hại có một thân, oan gia phiền não thì tổn hại đến cái thân thiện pháp. Oán thù thế gian tuy là khốc hại, nhưng chỉ làm hại cái thân hôi thối hữu lậu này thôi. Nhờ đó quán xét biết: Oán hại làm căn bản của sự khởi sinh phiền não. Nay ngươi không đánh giặc phiền não, tại sao chỉ muốn đánh vua Ác Sinh làm gì? Ngài thuyết pháp cho Tỳ-kheo ấy nghe nhiều pháp đạo như vậy. Bấy giờ Tỳ-kheo Sa-la-na nghe những lời ấy rồi, tâm khai ý giải, chứng Tu-đà-hoàn, càng tín mộ chánh pháp và càng thêm tinh tấn hành đạo thì chưa bao lâu đã chứng A-la-hán quả.  <詞 id="41126077">25- CHUYỆN NỘI QUAN CHUỘC LẠI CON TRÂU THIẾN ĐƯỢC NAM CĂN Ngày xưa ở nước Càn-đà-vệ có một anh đồ tể dẫn năm trăm con trâu con đi định làm thịt. Bấy giờ có một vị nội quan lấy tiền vàng ra để chuộc lại bầy trâu rồi thả đi. Do nhân duyên đó nên thân hiện tại được nam căn đầy đủ. Khi ông trở về Vương gia, bảo người vào thông báo với vua: –Mỗ giáp ở bên ngoài. Vua nói: –Ngươi là người nhà của ta, cứ tự nhiên mà vào. Chưa bao giờ ngươi xin phép, tại sao hôm nay ngươi lại làm như vậy? Khi ấy nhà vua liền gọi lại hỏi lý do tại sao. Vị ấy đáp với vua: –Vừa rồi thần thấy có một tên đồ tể dắt năm trăm con trâu con đi định giết làm thịt, thần liền chuộc hết rồi thả đi. Do nhân duyên đó mà thân của thần được đầy đủ, cho nên không dám vào. Nhà vua nghe rồi hoan hỷ, kinh ngạc, thâm nhập Phật pháp, sinh tâm kính tín, cho rằng người mới gieo nhân mà được cảm ứng như vậy, huống chi là quả báo về sau, há có thể suy lường được sao?  <詞 id="41126078">26- CHUYỆN HAI NỘI QUAN TRANH ĐẠO LÝ Ngày xưa vua Ba-tư-nặc trong lúc nằm ngủ, nghe hai vị nội quan tranh cãi đạo lý. Một vị quan nói: –Tôi nhờ nương tựa vào vua mà được sống. Còn vị khác thì nói: –Tôi chẳng nương tựa vào ai cả, chỉ tự nương tựa nơi nghiệp lực của tôi mà được sống. Nhà vua nghe chuyện này rồi, liền có cảm tình với người nói nhờ nương tựa nơi vua mà được sống, nên muốn khen thưởng người ấy. Nhà vua liền bảo với người hầu nói với phu nhân: –Nay ta sẽ bảo một người đi đến, phu nhân hãy cho kẻ ấy thật nhiều tiền bạc, y phục, anh lạc. Bấy giờ nhà vua bảo người nói nhờ nương tựa vào vua mà được sống đem rượu vua uống dư đưa cho phu nhân. Khi ấy người đó đem rượu ra khỏi nhà thì máu trong mũi chảy ra, không thể bước tới trước được. Tình cờ gặp người nói: “Mình được sinh sống là do nghiệp lực” liền nhờ người ấy mang rượu đến dâng cho phu nhân. Phu nhân thấy người ấy rồi, nhớ lại lời nói của vua, bèn ban tặng cho người ấy tiền tài, y phục và ngọc anh lạc, rồi người ấy trở về trình diện với nhà vua. Nhà vua thấy hết sức kỳ quái, liền cho gọi kẻ nói “Nhờ nương tựa nơi vua mà được sống” hỏi: –Ta bảo ngươi đến hoàng hậu, sao ngươi không đến? Kẻ ấy tâu: –Thần mới ra khỏi cửa, bỗng nhiên bị chảy máu mũi, cho nên không thể đi được, thần mới nói người kia đem rượu dư của đức vua dâng lên phu nhân. Bấy giờ nhà vua mới khen gợi: –Ngày nay ta mới biết lời của Đức Phật là chân thật. Mình tự tạo nghiệp phải tự thọ lấy quả báo, nghiệp không thể mất được. Do đó quán xét, sự báo ứng của thiện ác, vì do hành nghiệp mà thọ báo chứ không phải do trời hay vua mà được. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126079">QUYỂN 3 Gồm các chuyện: 27. Chuyện hai anh em đồng xuất gia. 28. Chuyện Cừu-già-ly hủy báng ngài Xá-lợi-phất. 29. Chuyện bài kệ của Long vương. 30. Chuyện Đề-bà-đạt-đa muốn làm Đức Phật bị thương. 31. Chuyện chim Cộng mạng. 32. Chuyện Bạch nga vương. 33. Chuyện con rùa lớn. 34. Chuyện hai phụ tướng sàm tấu. 35. Chuyện Sơn Kê vương. 36. Chuyện chim Cát lợi. 37. Chuyện vị Tiên già. 38. Chuyện hai khách buôn. 39. Chuyện tám vị trời lần lượt hỏi pháp.  <詞 id="41126080">27- CHUYỆN HAI ANH EM ĐỒNG XUẤT GIA Ngày xưa có hai anh em nhà nọ, trong tâm ưa thích Phật pháp, muốn xuất gia học đạo. Người anh thì tinh cần tu tập các pháp lành, tu hạnh Đầu-đà, chưa bao lâu mà đã được chứng quả A-la-hán. Còn người em thì thông minh, học nhiều biết rộng, tụng ba Tạng kinh. Về sau được phụ tướng mời làm thầy dạy học cho con mình, cung cấp cho nhiều tiền bạc, giao phó cho việc xây dựng Tăng phòng, chùa tháp. Khi ấy, Tam tạng Pháp sư nhận tiền của của phụ tướng, bảo người mua đất để xây cất chùa tháp. Công việc hoàn thành, cơ đồ đoan nghiêm, phòng ốc tráng lệ, đó là do ý của Pháp sư tạo ra, đúng là bậc Thầy tuyệt diệu. Vị phụ tướng thấy như vậy càng thêm tín kính, cúng dường cung cấp chẳng thiếu vật gì. Tam tạng Tỳ-kheo thấy tâm của phụ tướng tốt mới nghó như vầy: “Chùa miếu đã làm xong, vậy phải mời chúng Tăng đến ở, cho nên ta hãy nói với phụ tướng mời anh ta.” Nghó như vậy xong liền nói với vị phụ tướng: –Tôi có một người anh ở tại chỗ kia, đã bỏ nhà nhập đạo, siêng năng tinh tấn, tu hạnh Đầu-đà, phụ tướng nay có thể mời anh tôi đến ở chùa này. Phụ tướng thưa: –Thầy đã ra lệnh, dù đó là vị Tỳ-kheo thì tôi cũng không dám trái lệnh, huống chi đó là anh của thầy, là bậc tu khổ hạnh. Nói xong, phụ tướng liền cho người tới mời một cách ân cần anh của Tam tạng Tỳ-kheo đến. Khi vị ấy đã đến, phụ tướng trông thấy vị ấy siêng năng tu học nên cúng dường rất nhiều. Về sau vị phụ tướng này lấy một tấm dạ đẹp trị giá đến ngàn vạn đồng cúng dường cho Tỳ-kheo Đầu-đà ấy. Nhưng vị Tỳ-kheo kia không nhận, vị phụ tướng này tha thiết ân cần xin cúng, sau đó ngài mới nhận, nhưng ngài lại nghó: “Em của ta lo việc xây cất nên cần tiền của”, ngài bèn đem tiền của cho người em. Sau đó vị phụ tướng lấy một tấm dạ thô xấu đem cúng cho Tam tạng Tỳ-kheo, vị này thấy vậy hết sức tức giận. Lại nữa, ngày hôm sau vị phụ tướng lại lấy một tấm dạ đẹp trị giá ngàn vạn đồng đem cho người anh là bậc Đầu-đà. Người anh khi được tấm dạ ấy lại đem cho người em, người em thấy vậy càng ôm lòng ganh ghét, liền cầm tấm dạ ấy đi đến chỗ người ái nữ của phụ tướng, nói: –Cha của ngươi là bậc phụ tướng, trước đây đối xử với ta rất hậu. Từ ngày có vị Tỳ-kheo kia đến ở tới nay, không biết vị ấy có làm huyễn thuật gì mê hoặc cha của ngươi, mà nay cha của ngươi lại xử tệ với ta. Nay ta cho ngươi tấm dạ này, ngươi hãy cầm đến trước phụ tướng, may thành tấm y. Nếu cha ngươi có hỏi lý do thì ngươi hãy đáp: “Người mà cha kính trọng là vị tu hạnh Đầu-đà đã đem tấm dạ này cho con.” Vị phụ tướng chắc chắn sẽ tức giận, không nói chuyện với vị ấy nữa. Người con gái ấy nói với vị Tam tạng ấy: –Cha tôi hiẹân nay rất đang kính trọng vị Tỳ-kheo ấy như yêu thương tròng con mắt của mình, cũng xem như viên ngọc minh châu, sao bỗng nhiên lại hủy báng ngài? Vị Tam tạng lại nói: –Nếu ngươi không làm như vậy thì ta sẽ không bao giờ gặp lại ngươi nữa. Cô gái lại đáp: –Tại sao bỗng nhiên ngài lại làm như vậy? Vì nể tình cho nên cô nhận tấm dạ ấy, cô đi đến trước mặt cha mình, cắt ra để may y. Khi ấy phụ tướng thấy tấm dạ liền biết là của ai, liền nghó: “Gã Tỳ-kheo ấy là con người rất ác, đã nhận được tấm dạ của ta cho rồi mà không tự làm y lấy, trở lại mê hoặc phụ nữ.” Bấy giờ, ngày hôm sau, khi vị Tỳ-kheo tu Đầu-đà đến, thì vị phụ tướng không ra nghênh tiếp nữa, sắc mặt đổi khác. Khi ấy vị Tỳ-kheo này thấy thái độ vị phụ tướng như vậy, trong lòng tự suy nghó: “Chắc có người nào hủy báng ta với ông, cho nên ông mới có thái độ như vậy chăng?”. Ngài liền bay lên không trung làm mười tám cách biến hóa. Vị phụ tướng thấy như vậy rồi càng thêm kính phục, liền dắt vợ đến, cùng đảnh lễ dưới chân ngài để xin sám hối và cung kính hơn lúc bình thường. Họ liền đuổi vị Tam tạng và con gái mình ra khỏi nước. Đức Phật dạy: –Vị Tam tạng lúc đó chính là thân của Ta vậy. Vì hủy báng người khác cho nên trong vô lượng kiếp phải thọ sự khổ não cùng cực, mãi đến ngày hôm nay bị Tôn-đà-lợi hủy báng. Người con gái lúc ấy vì hủy báng vị Thánh cho nên hiện nay bị đuổi ra khỏi nước, bị cùng khốn đi xin để kiếm sống. Cho nên người đời đối với tất cả sự việc cần phải quán sát rõ ràng, đừng có coi thường, bài báng rồi chiêu lấy tai ương.  <詞 id="41126081">28- CHUYỆN CỪU-GIÀ-LY HỦY BÁNG NGÀI XÁ-LỢI-PHẤT Ngày xưa có Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên du hành đến các làng xóm. Đi tới chỗ thợ làm ngói, trời đổ mưa lớn, họ liền vào đó ngủ trọ. Vào trọ ở nhà làm đồ gốm, họ gặp trước hết là cô gái chăn trâu, ở chỗ thâm u phía sau. Bậc Thanh văn khi không nhập định, đâu khác gì kẻ phàm phu, cho nên họ không hay biết. Cô gái chăn trâu ấy thấy Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên dung mạo đoan chánh nên trong tâm sinh ra mê hoặc, liền động tâm. Lúc Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên từ nhà làm gốm đi ra. Có Cừu-già-ly là người khéo biết hình tướng, hễ thấy dung mạo của ai đều biết có chuyện bất tịnh hay không. Cùng lúc Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đi ra, ông ta thấy có cô gái chăn trâu ấy theo sau, trên nét mặt cô ta có hiện dục tướng. Ông ta không biết cô ấy tự khởi tâm bất tịnh nên liền nói lời hủy báng: –Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên có làm chuyện bất tịnh với cô gái chăn trâu. Ông đến các Tỳ-kheo loan tin này một cách rộng rãi. Bấy giờ các Tỳ-kheo liền can gián ông ba lần: –Đừng có hủy báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên. Khi ấy trong tâm của Cừu-già-ly đã sinh ra sân hận, ganh tị, lại càng thêm phẫn nộ. Lúc đó, có một trưởng giả tên là Sa-già được Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên dạy cho chỗ quan trọng của pháp mà chứng được quả A-na-hàm, mạng chung được sinh lên cõi Phạm thiên, xưng tên là Sa-già-phạm. Bấy giờ Sa-già-phạm từ xa trên cõi trời trông thấy Cừu-già-ly hủy báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-liên, liền xuống cõi trần, vào trong phòng của Cừu-già-ly, Cừu-già-ly hỏi: –Ngươi là ai? Đáp: –Ta là Sa-già-phạm. –Vì việc gì mà đến đây? –Ta dùng Thiên nhó nghe ngươi hủy báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-liên. Ngươi đừng nên nói các Tôn giả có làm những việc này. Can gián đến ba lần Cừu-già-ly vẫn không nghe, ông lại nói: –Này Sa-già-phạm, rằng ngươi đã đắc quả A-na-hàm, A-na-hàm thì không còn trở lại cõi này nữa, sao ngươi lại đến bên ta được? Nếu như ngươi đến bên ta được thì lời Đức Phật nói là hư vọng sao? Phạm thiên trả lời: –Bất hoàn có nghóa là không trở lại thọ sinh ở Dục giới nữa. Bấy giờ trên thân của Cừu-già-ly liền sinh ra ghẻ độc từ đầu đến chân, lớn nhỏ như hạt đậu. Ông liền đi đến chỗ Đức Phật và bạch Đức Phật: –Tại sao Xá-lợi-phất và Mục-liên làm việc bất tịnh với cô gái chăn trâu? Đức Phật lại can gián: –Ngươi đừng nói là Xá-lợi-phất và Mục-liên có làm việc này. Ông nghe Đức Phật nói như vậy lại càng thêm sân hận. Khi ấy những cái mụt nung độc chuyển lớn như hạt xoài. Lần thứ hai ông lại đem việc này bạch Đức Phật, Đức Phật lại can gián: –Đừng nói việc này. Thì ghẻ độc trong người ông lại lớn như nắm tay. Lần thứ ba, ông tiếp tục nói như vậy cho nên ghẻ độc chuyển lớn như trái bầu, thân thể bốc nóng dữ dội. Ông liền xuống ao nước, nước trong ao sôi lên sùng sục, các ghẻ độc ấy đều lở ra, tức thì mạng chung, đọa vào địa ngục Ma-ha Ưu-ba. Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, do nhân duyên gì mà Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-liên bị người khác hủy báng nặng như vậy? Đức Phật dạy: –Vào kiếp quá khứ, Xá-lợi-phất và Mục-liên còn là người phàm, có hôm nọ họ thấy vị Bích-chi-phật từ trong nhà thợ làm đồ gốm đi ra. Lúc ấy cũng có một cô gái chăn trâu từ phía sau đi ra, liền hủy báng: “Tỳ-kheo này chắc chắn đã thông dâm với cô gái.” Do nghiệp duyên đó nên bị đọa vào trong ba đường ác, thọ khổ vô lượng. Tuy nay đã được quả Thánh mà duyên xưa vẫn chưa hết, cho nên mới bị hủy báng như thế. Nên biết rằng bậc Thanh văn không thể làm vị Đại thiện tri thức cho chúng sinh được. Vì sao vậy? Nếu Xá-lợi-phất và Mục-liên vì Cừu-già-ly mà hiện ra mọât chút thần thông thì Cừu-già-ly chắc chắn sẽ thoát khỏi địa ngục. Vì không hiện thần thông cho nên mới khiến Cừu-già-ly đọa vào địa ngục. Vì việc như vậy cho nên Đức Phật mới nói: –Nếu là Bồ-tát, như khi Phật Câu-lưu-tôn ra đời, có một Tiên nhân tên là Định Quang cùng với năm trăm Tiên nhân ở trong hang cỏ của núi rừng. Bấy giờ có một phụ nữ ngẫu nhiên đi ngang qua, gặp lúc trời đổ mưa, gió lạnh buốt cực độ, không có chỗ núp mưa, bà liền đến chỗ của vị tiên Định Quang xin ngủ trọ một đêm. Lúc trời sáng thì bà đi ra. Các Tiên nhân thấy vậy, liền hủy báng: “Vị tiên Định Quang này chắc chắn đã làm hạnh bất tịnh với người nữ ấy.” Lúc đó tiên Định Quang biết tâm niệm của các người kia, sợ họ hủy báng phải đọa vào địa ngục, liền bay lên hư không cao đến bảy cây Đa-la, biến hóa mười tám cách. Các vị Tiên kia thấy xong liền nói như vầy: “Thân của ai có thể cách mặt đất chừng bốn ngón tay thì người đó không có dâm dục, huống chi ngài Định Quang bay lên hư không, có đại thần biến mà lại có việc dâm dục sao? Tại sao chúng ta lại đối với một người thanh tịnh như vậy mà sinh tâm hủy báng?” Bấy giờ năm trăm Tiên nhân năm vóc liền gieo xuống đất, cúi đầu sám hối. Nhờ nhân duyên đó mà thoát khỏi tội nặng. Nên biết: hàng Bồ-tát có đại phương tiện, đúng là bậc Thiện tri thức của chúng sinh. Đức Phật dạy: –Vị tiên Định Quang lúc ấy chính là Di-lặc ngày nay. Còn năm trăm Tiên nhân lúc đó nay là năm trăm vị Tỳ-kheo Trưởng lão.  <詞 id="41126082">29- CHUYỆN BÀI KỆ CỦA LONG VƯƠNG Đức Phật ở thành Xá-vệ, Đề-bà-đạt-đa đi đến dùng lời ác độc để chửi mắng Ngài. Tôn giả A-nan nghe xong hết sức tức giận, đuổi Đề-bà-đạt-đa ra ngoài, nói: –Nếu ngươi còn trở lại đây nữa, ta sẽ làm cho ngươi bị khổ não lớn. Các Tỳ-kheo thấy vậy, liền bạch Đức Phật: –Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, Như Lai thường sinh lòng từ mẫn đối với Đề-bà-đạt-đa, nhưng Đề-bà-đạt-đa lại đối với Đức Như Lai thường ôm lòng ác độc. Vì vậy, Tôn giả A-nan tức giận đuổi Đề-bà-đạt-đa ra ngoài. Đức Phật dạy: –Đâu có phải chỉ ngày hôm nay thôi, nhưng ở trong thời quá khứ cũng đã xảy ra như vậy. Ngày xưa, ở nước Ca-thi, lúc ấy có hai anh em của Long vương, một người tên là Đại Đạt, còn người kia thì tên là Ưu-bà Đại Đạt. Họ thường đổ những trận mưa ngọt ngào làm cho cây cỏ xứ ấy tươi tốt, ngũ cốc dồi dào. Loài súc sinh uống được nước ấy đều được mập mạnh, trâu dê sinh sôi nảy nở. Bấy giờ vị vua của nước ấy giết nhiều trâu, dê đi đến chỗ rồng ở để tế cho rồng. Lúc ấy rồng liền hiện thân nói với vua: –Ta vốn không ăn thịt, cần gì phải sát sinh mà cúng cho ta? Rồng nói như vậy đến mấy lần mà nhà vua vẫn không nghe. Anh em rồng liền dẫn nhau đi khỏi xứ này, đến một vùng của một con rồng nhỏ tên là Thuần Độ Tỳ. Con rồng Thuần Độ Tỳ ngày đêm tức giận, dùng những lời ác độc mắng chửi. Khi ấy Đại Đạt nói: –Ngươi đừng nên sân hận. Chúng ta sẽ đi xa. Nhưng Ưu-bà Đại Đạt hết sức tức giận, nói: –Này con rồng nhỏ, mày thường ăn ểnh ương. Nếu ta phun hơi ra thổi quyến thuốc của mày, thì tất cả sẽ bị tiêu diệt. Đại Đạt nói với em: –Đừng nên sân hận. Nay chúng ta hãy trở về chỗ cũ vì vua nước Ca-thi khát ngưỡng chúng ta. Vua nước Ca-thi nói như vầy: “Nếu hai vị rồng trở lại, tùy ý thích ta sẽ dâng cho các vị, chứ ta không có sát sinh nữa.” Long vương nghe lời ấy liền trở lại chỗ cũ. Bấy giờ Đại Đạt nói bài kệ này: Tất cả hòa hợp lắng lòng nghe Chân thiện, thanh tịnh tâm nghe pháp Có duyên Bồ-tát mới nói ra Nay Phật hiển hiện kệ tích xưa. Vị trời giữa trời, Tam-phật-đà Như Lai tại thế, các Tỳ-kheo Thấy tuôn lời ác hủy báng nhau Đại bi nghe biết lời như vậy Họp Tỳ-kheo Tăng nói như vầy: Các Tỳ-kheo theo Ta xuất gia Những việc phi pháp không nên làm Tất cả các ngươi nói lời ác Cùng nhau hủy báng, tự hủy hại Chẳng chịu nghe biết cầu Bồ-đề Tu tập từ nhẫn, khổ hạnh khó. Các ngươi nếu muốn theo Phật pháp Cần phải phụng hành sáu hòa kính Bậc trí khéo nghe học Phật đạo Vì muốn lợi ích, an chúng sinh Đối với tất cả, đừng não hại Người tu hành tránh xa điều ác Nếu xuất gia khởi lòng tranh cãi Như nước băng gặp phải lửa hừng. Kiếp quá khứ Ta làm Long vương Hai anh em cùng ở một nơi Nếu muốn tùy thuận pháp xuất gia Phải đoạn sân, cãi, mới hợp đạo. Người anh cả tên là Đại Đạt Còn người em tên là Ưu-bà-đạt Đều không sát sinh, giữ tịnh giới Có đại oai đức, chán thân rồng Hằng hướng chỗ thiện mong làm người Nếu thấy Sa-môn, Bà-la-môn Tu trì tịnh giới với đa văn Biến hình cúng dường, thường thân cận, Mồng tám, mười bốn và ngày rằm Thọ trì tám giới, giữ tâm ý. Bỏ chỗ mình ở đi phương khác Có rồng tên là Thuần Độ Tỳ Thấy anh em ta đại oai đức Biết ta không hề sinh giận, ghét Thường dùng lời ác để mắng chửi Phùng mang, chụm miệng tuôn hơi độc Tâm đầy sân hận, thân phùng to Nói lời ác này mà hủy báng: Huyễn hoặc, dối láo hòng xâm bức. Nghe lời mắng chửi hạ tiện này Ưu-bà Đại Đạt rất tức giận Thưa thỉnh với anh mình Đại Đạt: Nó dùng lời ác nhằm hủy báng Thường ăn ễnh ương, ở bờ nước Vật đê tiện này dám chửi ta Nếu ở trong nước hại thủy tánh Nếu ở trên đất hại nhân dân Nghe lời ác khó lòng nhẫn nhục Nay ta trừ diệt quyến thuộc nó Hủy diệt tất cả về chỗ cũ. Đại Lực Long vương nghe em nói Chỗ nói kệ hay người trí khen Nếu trong một đêm ngủ chỗ nào Cung cấp dù ít, mà ngủ yên Đừng sinh ác niệm với kẻ ấy, Biết ân, báo ân, Thánh khen ngợi Nếu nghỉ dưới cây được chút mát Không phá cây 1á và hoa quả Đối với người thân làm chút ác Người ấy cuối cùng không an lạc Dù ân bữa cơm, dùng ác trả Chẳng biết báo ân, làm kẻ ác Quả lành không sinh, còn tiêu mất. Giả sử rừng cây bị cháy sạch Sau lại sinh trưởng như lúc trước Còn kẻ bội ân thiện chẳng sinh Nếu nuôi người ác bằng trăm thứ Nó chẳng nghó ân, lại báo oán, Giống như voi nương tựa nơi tiên Sinh con liền chết, tiên nuôi sống Lớn lên cuồng nộ giết lại tiên Cây cối, cửa nhà đều giẫm nát. Kẻ ác bội ân cũng như vậy Tâm ý khinh tháo không dừng nghó Giống như khúc cây trong nước xoáy Không tu, bạn thân chẳng báo đền Giống như dạ trắng đã bị nhuộm Nếu muốn báo oán nên làm thiện Không nên lấy ác để hủy hại. Bậc trí báo oán bằng lòng Từ Gánh vác đất trời và núi biển Còn nhẹ hơn là tội bội ân. Bình đẳng từ bi với tất cả Đó chính là niềm vui đệ nhất Giống như qua sông được an ổn Từ bi bình đẳng, vui cũng thế Chẳng hại bạn hiền niềm vui sướng Diệt trừ kiêu mạn cũng là vui Trong không đức hạnh, ngoài kiêu căng Vì không hiểu biết mới kiêu mạn Ưu thích đấu tranh, gần bạn ác Uy tín sút giảm, bị tiếng xấu Mồ côi, người già và kẻ bệnh Mất điều phú quý, thân gầy guộc Bần cùng không của, mất ngôi vua Khổ ách một mình biết cậy ai Những thứ khổ ách ở trên đó Không lòng thương xót, chẳng nhân từ Dù đến nước khác chẳng bà con Bị người chửi mắng, nhẫn là vui Hay dừng các ác đấu tranh dứt Thà ở nước ngoài, không người biết Còn hơn trong nước bị khinh khi Nếu ở ngoài nước được cung kính Đều nhờ không sân với xóm giềng Là thân quyến thuộc của nước mình. Phú quý thế gian vui rất ít Suy diệt khổ não lại rất nhiều Nếu thấy chúng sinh đều thoái bước Đâu phải do mình, im lặng vui Oán địch hoành hành kẻ yếu hèn Thân hữu đã ít khi nương cậy Quán sát như vậy mặc nhiên vui. Người phi pháp đã tham lại kiết Không tin, không thẹn, chẳng nghe lời Với kẻ ác ấy, lặng lẽ vui Sân nhuế càng nhiều thêm tàn hại Thích khiến chúng sinh nhiều khổ não Với kẻ như vậy, lặng lẽ vui. Bất tín, cứng đầu thích tự cao Bội nghịch, dối trá và mê hoặc Với kẻ như vậy, lặng lẽ vui. Phá giới, hung ác, không nhẫn nhục Thường làm phi pháp, không tín hành Với kẻ như vậy, lặng lẽ vui. Thích vọng ngữ, không thẹn, hai lưỡi Tà kiến, ác khẩu và thêu dệt Ngạo mạn, tự cao thêm chấp ngã Hết sức xan tham và ganh ghét Với kẻ như vậy, lặng lẽ vui. Nếu người xứ khác chẳng biết mình Cũng khôngcó tánh hạnh cá biệt Không nên tự cao sinh kiêu mạn Đi đến nước người mà dừng nghỉ Áo cơm nhờ người chẳng tự do Nếu bị mắng chửi nên nhẫn nhục. Ở nhờ nước người, nhờ cơm áo Nếu vì cơ nghiệp, muốn sung sướng Cũng phải nhẫn nhục như ở trên, Nếu ở nước người kiếm áo cơm Cho đến bị nghèo hay khinh dễ Ai là kẻ trí nên nhẫn chịu. Nếu ở nước người, gần bạn ác Ở chung kẻ ngu, người hạ tiện Bậc trí lánh mình như tránh lửa Như gió lớn thổi vào đống lửa Làm cho núi rừng đều thiêu rụi Sân giận như lửa đốt mình, người Là sự hủy hoại độc ác nhất. Kẻ trí diệt trừ lòng sân, dục Nếu tu lòng từ, sân sẽ dứt Chưa từng ở chung với người thiện Mãi gần kẻ ác là người ngu Không quán lỗi mình để trừ bỏ Làm việc như trên đâu phải trí. Nếu không ngu si, không hiện trí Như chim gãy cánh chẳng bay được Bậc trí không ngu cũng như vậy Vì quá ngu si không trí tuệ Không thể hiểu rõ bậc Trí lực Bởi vì nghóa này các hiền triết Biết rộng, đa văn được an lạc Bậc trí ích dụng không tự cao Mất lợi không buồn, không ngu si Hiểu rõ nghóa lý ấy thật thuyết Những điều họ nói là ngăn ác An lạc lợi ích nên tuyên thuyết Vì để hiểu rõ nên nói ra Bậc trí nghe xong không làm vội Tư duy chín chắn, nghiệm lẽ chân Rõ ràng nghóa lý mới thực hành Ấy là tự lợi và lợi tha. Bậc trí rốt cuộc chẳng vì thân Mà tạo ác nghiệp không đúng đạo Không vì khổ vui, trái chánh pháp Quyết chẳng vì mình, bỏ chánh hạnh. Bậc trí không tham, không ghét giận Cũng không độc ác không ngu si Nguy hại sắp đến không sợ sệt Trọn không vì lợi sàm tấu người Cũng không hung dữ, không khiếp nhược Lại không hạ liệt trong chánh xứ Các việc như vậy là bậc Trí. Oai mãnh người ghét, yếu người khinh Bỏ hết hai bên, ở trung hạnh Hoặc là im lặng như người câm Hoặc là nói năng như vua chúa Hoặc là lạnh lùng như tuyết băng Hoặc là nóng cháy như lửa đốt Hoặc hiện cao lớn như Tu-di Hoặc hiện thấp bé như cỏ dại Có khi hùng mạnh như vị vua Có lúc lặng lẽ như giải thoát Có khi nhẫn chịu khổ đói khát Có khi kham nhẫn chuyện khổ vui Xem các của báu như phân dơ Tự tại điều phục các sân hận Có khi an vui theo kỹ nhạc Có khi sợ sệt như nai rừng Có khi dũng mãnh như cọp sói Quán thời, phi thời, lực, vô lực Hay quán phú quý và suy diệt Nhẫn không thể nhẫn là chân nhẫn Nhẫn điều nên nhẫn là thường nhẫn Với người yếu đuối cũng phải nhẫn Phú quý cường thịnh cũng phải nhẫn Không thể nhẫn, nhẫn được là nhẫn. Kẻ đáng ghét giận, không ghét giận Với kẻ sân hận, tâm thường tịnh Thấy người làm ác mình không làm Nhẫn kẻ hơn mình, nhẫn vì sợ Nhẫn kẻ bằng mình sợ đấu tranh Nhẫn người dưới mình là tròn nhẫn Kẻ ngu chẳng nhẫn lời phỉ báng Như hai cục đá ném vào mắt. Chịu được chửi mắng, phỉ báng nặng Bậc trí nhận lãnh như mưa hoa, Nếu bị chửi mắng phỉ báng nặng Bậc trí hay nhẫn nhờ mắt tuệ Giống như mưa rơi trên đá lớn Đá không tổn hoại chẳng tiêu diệt. Lời ác, lời hay, việc khổ vui Bậc trí hay nhẫn cũng như đá Nếu vì sự thật thấy nhục mạ Vị ấy nói thật chẳng phải sân? Việc không thật mà bị mắng chửi Tự họ khi dối như cuồng ngôn Người trí thấu rõ nên chẳng sân Nếu vì của báu và các lợi Phải nhận khổ, vui, chửi, phỉ báng Nếu ai chẳng vì tiền của quý Dẫu được trăm ngàn các trân báu Còn phải tránh mau như tránh ác Cành cây bị chặt không nên vịn Đã mất tâm người chẳng nên gần. Kẻ theo ngoại đạo liền xa lánh Dẫu đầy bạn hữu ở trong đời Trước kính, sau lờn, rồi khinh hủy Cũng không cung kính, không khen ngợi Như con hạc trắng nhẹ bay đi Bậc trí sớm lìa xa kẻ ngu Ưa thích đấu tranh cùng nịnh hót Ưa nhìn lỗi người, nói hai lưỡi Vọng ngôn, ác khẩu và thêu dệt Khinh chê hủy nhục mọi chúng sinh, Lại nói lời đau thấu tim, xương Chẳng giữ nghiệp từ thân miệng ý Bậc trí xa lìa, ở nơi khác. Người ác ganh tî chẳng tâm lành Thấy người lợi lạc và danh tiếng Tâm sinh nóng giận và đau khổ Lời nói thì hay ý thâm độc Bậc trí lánh xa, đến phương khác. Người ưa ác dục, tham lợi dưỡng Quanh co, chấp thủ, không xấu hổ Trong không thanh tịnh, ngoài cũng thế Bậc trí liền xa, đến phương khác. Nếu người khác không lòng cung kính Kiêu mạn, làm điều sai giáo pháp Tự cho là trí, thật ngu si Người trí xa lìa, đến phương khác. Nơi nào ăn uống, được ngọa cụ Và các y phục để sinh sống Cần nên ủng hộ, nhớ ân người Giống như mẹ hiền cứu con một. Ái hay sinh trưởng mọi khổ đau Trước phải đoạn ái rồi lìa sân Vì nó đưa người đến đường ác Tự cao, kiêu mạn cũng phải bỏ Giàu sang làm bạn, nghèo tránh xa Bạn bè như thế phải mau lìa Hoặc vì một nhà bỏ một người Hoặc vì một thôn bỏ một nhà Hoặc vì một nước bỏ một thôn Hoặc vì thân mình bỏ thiên hạ Hoặc vì chánh pháp bỏ thân mình Hoặc vì ngón tay bỏ của cải Hoặc vì thân mạng bỏ tứ chi Hoặc vì chánh pháp bỏ tất cả. Chánh pháp như dù hay che mưa Người tu hành pháp, pháp ủng hộ Nhờ hành pháp lực, dứt đường ác Như nóng mùa xuân được bóng mát, Người tu hành pháp cũng như vậy Cùng các hiền trí ở một nơi Được nhiều tài lợi không vui mừng Mất nhiều của báu chẳng âu lo Thường chẳng lo khổ, cầu khất thực Mới là chân thật Đại trượng phu Giúp người của báu rất hoan hỷ Lổi ác thế gian, sớm xa lìa An lập thân mình sâu như biển Gọi là Trượng phu đầy sức mạnh Nếu rõ nghóa lý, mọi việc hay Vui sống cùng người tâm nhu nhuyễn Mọi người khen rằng Thiện trượng phu. Ưu-bà Đại Đạt nói như vầy: Với anh nay tôi càng kính trọng Giả sử gặp khổ rất khốn cùng Trọn chẳng tái phạm nhiều điều ác Hoặc chết, hoặc sống được của cải Hoặc mất tài sản không tạo ác Nay anh nên biết tôi phụng sự Nguyện giữ gìn giới dù có chết Chớ không phạm giới mà được sống Cớ gì chỉ vì một đời này Mà lại buông lung tạo ác hạnh? Ở trong sống chết chớ buông lung Nếu trong sinh tử tạo bất thiện Gặp bạn bè ác làm điều sai Nhờ có bạn lành mới đoạn trừ. Phật vào túc mạng trí rõ thông Dạy các Tỳ-kheo bài kệ này Lúc ấy Đại Đạt là thân Ta Ưu-bà Đại Đạt là A-nan Nên biết lúc đó Thuần Độ Tỳ Chính là thân Đề-bà-đạt-đa. Tỳ-kheo nên biết học như vậy Gọi là tóm thâu tất cả pháp Cẩn thận, rộng rãi, cung kính làm Các Tỳ-kheo Tăng tu pháp ấy.  <詞 id="41126083">30- CHUYỆN ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA MUỐN LÀM ĐỨC PHẬT BỊ THƯƠNG Thuở Đức Phật ở thành Xá-vệ, Ngài bảo với Đề-bà-đạt-đa: –Ngươi đừng nên sinh tâm tội lỗi đối với Đức Như Lai để phải gánh lấy sự tổn hại, sự bất an, tự thọ lấy khổ đau. Các Tỳ-kheo thưa: –Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, Đề-bà-đạt-đa thường sinh tâm ác đối với Đức Như Lai. Nhưng Đức Thế Tôn vẫn mãi mãi Từ tâm, thương xót nói với ông ta những lời nhu hòa êm dịu. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay mới vậy! Trong thời quá khứ ở thành Ba-la-nại, nước Ca-thi, có Đại long vương tên là Chiêm-bặc. Đại long vương thường đổ những trận mưa đúng thời, khiến cho lúa thóc dồi dào. Vào ngày mười bốn, ngày rằm Long vương hóa thành hình người, thọ trì năm giới, bố thí nghe pháp. Bấy giờ ở phía Nam nước Thiên trúc có một vị chú thuật sư đến, cắm cung tên, kiết chú, bắt Long vương Chiêm-bặc. Khi ấy Thiên thần bảo vua Ca-thi: –Có một chú thuật sư bắt Long vương Chiêm-bặc mang đi khỏi nước Ca-thi. Nhà vua liền xuất quân rượt theo chú thuật sư, nhưng Bà-la-môn này lại kiết chú khiến cho quân đội của nhà vua đều chẳng thể cử động. Nhà vua bỏ ra một số tiền bạc của cải rất nhiều để chuộc lại Long vương. Lần thứ hai, Bà-la-môn này lại đến dùng chú thuật để bắt Long vương. Các rồng quyến thuộc của Long vương nổi mây, đổ mưa và sấm sét dữ dội muốn giết chết Bà-la-môn này. Long vương vì lòng Từ nói với các rồng: “Chớ hại mạng ông ta. Rồi Long vương dùng lời hay đẹp để ủy dụ, khiến cho ông ta bỏ đi.” Lần thứ ba, ông ta lại trở lại. Bấy giờ các rồng liền muốn giết chết. Long vương lại ngăn chặn, che chở không cho họ giết, liền thả cho đi. Long vương lúc đó chính là thân Ta, chú thuật sư lúc đó là Đề-bà-đạt-đa. Lúc Ta làm rồng, còn hay dùng Từ tâm luôn luôn cứu tế ông ta, huống chi hôm nay mà không thương xót ông ta sao?  <詞 id="41126084">31- CHUYỆN CHIM CỘNG MẠNG Lúc Đức Phật ở thành Vương xá, các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, Đề-bà-đạt-đa là em của Đức Như Lai, tại sao ông ta lại thường muốn oán hại Đức Phật? Đức Phật nói: –Không phải chỉ ngày hôm nay mới thế, mà ngày xưa ở trong núi Tuyết cũng đã có một con chim tên là Cộng mạng, nó có một cái thân mà đến hai cái đầu. Một đầu thường ăn quả ngon để thân được an ổn, còn một đầu thì sinh tâm ganh ghét mà nói như vầy: “Tại sao cái đầu kia thường ăn những quả ngon mà ta không có, nó liền lấy quả độc ăn vào, để làm cho hai cái đầu cùng chết.” Các ngươi có biết chăng? Cái đầu con chim ăn quả ngọt lúc ấy thì chính là thân của Ta. Còn cái đầu ăn quả độc lúc đó chính là Đề-bà-đạt-đa vậy. Ngày xưa cùng một thân với Ta, nhưng do sinh tâm ác, nên ngày nay làm em Ta cũng là như thế.  <詞 id="41126085">32- CHUYỆN BẠCH NGA VƯơNG Đức Phật ở tại thành Vương xá, Đề-bà-đạt-đa xô núi đè Phật, thả con voi Hộ tài muốn giẫm đạp Đức Phật, tiếng ác lan khắp. Đề-bà-đạt-đa ở trước mọi người, hướng về Đức Phật để sám hối, hôn chân Đức Phật; khi không có mọi người, ông lại dùng lời ác mắng Đức Phật. Mọi người đều nói: –Đề-bà-đạt-đa hướng về Đức Phật sám hối, tâm ông ta hết sức điều thuận, cớ sao tiếng ác của ông ta lan khắp? Chư Tỳ-kheo đáp: –Đức Thế Tôn thật là hy hữu! Đề-bà-đạt-đa là con người xảo trá, tà ngụy, lúc ở trước mọi người thì ông làm ra vẻ điều thuận với Đức Phật, nhưng lúc ở chỗ vắng vẻ ông dùng ác tâm mắng Đức Phật. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có hôm nay mới vậy! Vào thời quá khứ, trong một ao sen, có nhiều chim nước sống ở trong đó. Bấy giờ có con chim hạc ở trong ao, chầm chậm cất bước. Các con chim khác đều nói: –Con chim này đi thật khéo, oai nghi chững chạc, không làm hại tánh nước. Lúc ấy có con ngỗng trắng nói bài kệ: Bước chân đi từ từ Âm thanh rất êm ái, Lừa dối thế gian này, Ai không biết siểm ngụy? Con chim hạc nói: –Sao ngươi lại nói như vậy? Hãy đến thân thiện với ta? Con ngỗng trắng đáp: –Ta biết sự xảo trá, tà ngụy của ngươi, dứt khoát không thể thân thiện với ngươi được. Các vị có biết không? Con ngỗng trắng lúc đó thì chính là thân Ta, còn con chim hạc lúc đó chính là Đề-bà-đạt-đa.  <詞 id="41126086">33- CHUYỆN CON RÙA LỚN Đức Phật ở thành Vương xá, Đề-bà-đạt-đa thường ôm lòng độc ác muốn hại Đức Thế Tôn, mới thuê năm trăm Bà-la-môn rất giỏi cung tên, bảo họ mang cung tên đến chỗ Đức Thế Tôn, giương cung bắn Phật. Những mũi tên họ bắn Đức Thế Tôn bỗng hóa thành những bông hoa: Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, Ba-đầu-la, Ưu-bat-la. Năm trăm Bà-la-môn thấy sự thần biến này đều hết sức sợ hãi. Bọn họ liền bỏ cung tên xuống, đảnh lễ Đức Phật, cầu xin xám hối, xong ngồi qua một bên. Đức Phật thuyết pháp cho họ nghe, nên tất cả đều chứng quả Tu-đà-hoàn. Họ lại bạch Đức Phật: –Cúi xin Đức Phật cho chúng con được xuất gia học đạo Đức Phật nói: –Thiện lai Tỳ-kheo! Lúc đó năm trăm Bà-la-môn râu tóc tự rụng, mình mặc pháp phục, Đức Phật lại thuyết pháp nữa, làm cho tất cả đều đắc quả A-la-hán. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Thần lực của Đức Phật hết sức hy hữu. Đề-bà-đạt-đa thường muốn hại Đức Phật, nhưng Đức Phật vẫn luôn luôn sinh lòng Đại từ với ông ta. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay thôi đâu! Vào thời quá khứ, ở tại nước Ba-la-nại, có một thương chủ tên là Bất Thức Ân cùng với năm trăm khách buôn vào biển để tìm kho báu. Khi được ngọc báu họ trở về, ngang qua dòng nước xoáy, gặp Thủy La-sát nắm giữ thuyền lại khiến không thể đi tới được. Tất cả thương nhân hết sức hoảng sợ, đều cùng nhau xướng lên: –Thiên thần, Địa thần, mặt trời mặt trăng, các thần ai có thể từ mẫn cứu vớt chúng con thoát khỏi ách nạn? Lúc ấy có một con rùa lớn, lưng của nó rộng đến một dặm, sinh lòng Từ mẫn, đi đến chỗ chiếc thuyền, chở hết mọi người đưa lên bờ. Khi ấy, con rùa hơi buồn ngủ, ông Bất Thức Ân muốn lấy đá lớn đập lên đầu rùa để giết nó. Các thương nhân nói: –Chúng ta mong nhờ rùa cứu mạng mà được sống, giết nó là điều không lành, là thứ vô ân. Bất Thức Ân nói: –Ta đang đói dữ dội, không cần thiết ân nghóa gì cả. Nói xong, liền giết để ăn thịt. Ngay trong đêm đó có một bầy voi lớn đến đạp chết hết mọi người. Con rùa lớn lúc đó chính là thân Ta, Bất Thức Ân lúc đó chính là Đề-bà-đạt-đa. Còn năm trăm thương nhân lúc đó chính là năm trăm Bà-la-môn xuất gia được đắc đạo. Ngày xưa Ta cứu họ thoát khỏi tai nạn, ngày nay Ta lại nhổ sạch gốc cái họa sinh tử cho họ.  <詞 id="41126087">34- CHUYỆN HAI PHỤ TƯỚNG SÀM TẤU Đức Phật ở tại thành Vương xá. Đề-bà-đạt-đa tạo đủ nhân duyên để giết hại Phật, nhưng không thể được. Bấy giờ, ở nước Nam Thiên túc, có một Bà-la-môn rất rành nghề chú thuật, chế biến thuốc độc đi đến. Đề-bà-đạt-đa đi đến chỗ Bà-la-môn ấy lấy được thuốc độc đem rắc lên chỗ Đức Phật. Nhưng gió thổi thuốc này bay ngược lên đầu Đề-bà-đạt-đa, nên ông liền bị bất tỉnh, ngã nhào xuống đất, sắp chết, thuốc men không thể cứu chữa được. Tôn giả A-nan bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, Đề-bà-đạt-đa bị nhiễm độc sắp chết. Cúi mong Đức Phật thương xót. Đức Phật nói lời chân thật: –Từ lúc Ta ở địa vị Bồ-tát cho đến khi Ta thành Phật, thì cũng vì Đề-bà-đạt-đa mà Ta thường sinh tâm Từ bi, không có tâm ác hại, chất độc trong người Đề-bà-đạt-đa sẽ tự tiêu diệt. Các Tỳ-kheo thưa: –Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, Đề-bà-đạt-đa thường khởi ác tâm đối với Đức Như Lai. Tại sao Đức Như Lai vẫn làm cho ông ta được sống? Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày nay Đề-bà-đạt-đa mới có tâm ác đối với Ta, nhưng ở thời quá khứ cũng vậy. Chúng Tăng liền hỏi Đức Phật: –Thời quá khứ y đã dùng ác tâm đối với Đức Phật như thế nào? Đức Phật nói: –Ở thời quá khứ, trong nước Ca-thi, thành Ba-la-nại, có hai phụ tướng, một người tên là Tư-na, một người tên là Ác Ý. Tư-na thường thuận theo pháp lành, còn Ác Ý thường làm việc ác, ưa thích gièm pha. Ác Ý tâu với vua: –Tư-na muốn làm việc phản nghịch. Nhà vua liền bắt Tư-na bỏ vào tù. Lúc ấy chư Thiên, Thiện thần ở trên không trung phát ra âm thanh nói: –Người hiền như vậy, thật chẳng có tội gì, tại sao lại bị bắt trói? Lúc đó các loài rồng cũng nói lời ấy, quần thần nhân dân cũng nói lời như vậy. Nhà vua liền thả Tư-na ra. Lần thứ hai, Ác Ý cướp kho tàng của vua, đem đồ cướp được bỏ vào nhà của Tư-na để vu khống. Nhưng nhà vua cũng không tin và nói với Ác Ý: –Ngươi ghen ghét Tư-na mới làm việc ngang ngược như vậy. Nhà vua ra lệnh bắt Ác Ý giao cho Tư-na để xử đoán. Tư-na liền dạy cho Ác Ý tới vua để xin sám hối. Ác Ý tự biết mình có tội, liền chạy đến chỗ vua Tỳ-đề-hê làm một cái hộp báu chứa hai con rắn độc, hễ ai nhìn thấy nó liền bị nhiễm độc. Ác Ý bảo vua Tỳ-đề-hê sai sứ đem dâng cho quốc vương nước đối diện để quốc vương và Tư-na, hai người cùng xem, đừng giao cho ai khác. Nhà vua thấy hộp báu, trang sức quá đẹp, trong lòng hết sức hoan hỷ, liền bảo Tư-na cùng mở ra để xem. Tư-na tâu vua: –Hãy tránh xa vật này, chớ nên tự xem. Hãy tránh xa đồ ăn này, không được ăn vào. Vì sao vậy? Cái đó, hoặc của người ác, hoặc có thể do người ác đem đến, hễ thấy là bị thương tổn. Nhà vua nói: –Ta rất muốn xem. Tư-na ân cần can gián ba lần, nhưng nhà vua vẫn không nghe, nên lại tâu với vua: –Nếu nhà vua không nghe lời của thần, vậy xin vua cứ tự xem, chứ thần thì không thể xem. Nhà vua liền mở hộp ra xem, thì bị mù cả hai mắt, chẳng thấy vật gì cả. Tư-na đau khổ, sầu muộn gần chết, mới bảo người đi bốn phương, qua khắp các nước xa xôi, tìm kiếm thuốc hay. Khi họ đã tìm kiếm thuốc hay đem về chữa trị mắt cho vua, thì hai mắt vua được bình phục lại như trước. Nhà vua lúc đó chính là Xá-lợi-phất. Tư-na lúc ấy chính là thân Ta, còn Ác Ý lúc ấy chính là Đề-bà-đạt-đa.  <卷 id="41126088">35.CHUYỆN SƠN KÊ VƯƠNG Đức Phật ở tại thành Vương xá, Đề-bà-đạt-đa đi đến chỗ Đức Phật nói: –Ngày nay Như Lai nên ở chỗ nhàn tịnh, hãy đem đại chúng này phó chúc cho tôi. Đức Phật nói: –Thôi đi, kẻ mê lầm đáng chê trách. Đối với Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên mà ta còn chưa đem đại chúng phó chúc cho họ, cớ sao lại phó chúc cho ngươi! Đề-bà-đạt-đa tức giận mắng nhiếc rồi bỏ đi. Các Tỳ-kheo thưa: –Bạch Thế Tôn, Đề-bà-đạt-đa muốn làm cho Đức Phật bị đủ thứ khổ não, lại còn đặt bày nhiều phương tiện để lừa dối Đức Như Lai. Đức Phật dạy: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay y mới vậy! Ở đời quá khứ, bên núi Tuyết, có con Sơn kê vương, có rất nhiều gà theo hầu. Mào của gà rất đỏ, thân thể trắng toát, nó bảo các con gà khác: –Các ngươi hãy xa lìa thành ấp tụ lạc, đừng để nhân dân ăn thịt. Chúng ta có rất nhiều kẻ thù oán, ganh ghét. Hãy khéo tự cẩn thận giữ mình. Bấy giờ trong tụ lạc có một con mèo, nghe ở chỗ đó có gà, nó liền chạy đến, ở dưới một gốc cây, đi từ từ, nhìn xuống đất, nói với gà: –Tôi là vợ anh, anh là chồng tôi. Thân hình của anh đoan chánh khả ái, trên đầu của anh có cái mũ đỏ, thân anh trắng tinh. Chúng ta hãy giúp đỡ nhau để được an ổn khoái lạc. Con gà liền nói bài kệ: Mèo con, mắt vàng, vật nhỏ ngu Gặp nhau, não hại, muốn ăn thịt Không thấy con nào như vợ này Mà được thọ mạng an ổn cả! Con gà lúc ấy là thân Ta, còn con mèo nay là Đề-bà-đạt-đa. Ngày xưa trong thời quá khứ muốn dụ dỗ, lừa dối Ta, ngày nay cũng lại muốn dụ dỗ lừa dối Ta nữa.  <卷 id="41126089">36.CHUYỆN CHIM CÁT LỢI Thuở Đức Phật ở tại thành Vương xá, bấy giờ Đề-bà-đạt-đa suy nghó: “Đức Phật có năm trăm quỷ thần áo xanh thường luôn luôn hầu hạ, bảo vệ. Đức Phật có trăm ngàn đại lực só, không ai bì kịp, nay ta không thể hại vị ấy được, nên ta trở lại phụng sự xem xét chỗ yếu kém của vị ấy rồi mới có thể làm thương hại, mới có thể giết chết được.” Nghó như vậy rồi ông mới đến trong đại chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hướng về Đức Phật cầu xin sám hối và có suy nghó rằng: “Nếu nhận sự sám hối của ta thì sẽ có phương tiện, còn nếu không cho ta sám hối, ta sẽ làm cho tiếng xấu của Như Lai lan tràn khắp nơi.” Ông liền bạch Đức Phật: –Thưa Thế Tôn, Ngài hãy cho tôi xin sám hối. Tôi muốn ở chỗ nhàn tịnh để tự tu tâm mình. Đức Phật nói: –Pháp vốn không lừa dối, những người lừa dối thì không có pháp. Lục sư ngoại đạo đều nói: –Đề-bà-đạt-đa có lòng tốt hướng về Phật sám hối, nhưng Đức Phật không nhận sự sám hối của ông. Các Tỳ-kheo nói: –Đề-bà-đạt-đa quanh co, dối láo đối với Đức Phật. Nhưng Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày nay mới vậy, mà ở thời quá khứ lâu xa, ở nước Ba-la-nại, có một vị vua tên là Phạm-ma-đạt, ban hành lệnh không sát sinh, bấy giờ có một người thợ săn, mặc y phục Tiên nhân, giết hại các con nai, con chim, nhưng không ai biết. Lúc ấy có con chim Cát lợi nói với mọi người: –Con người đại ác này, tuy mặc đồ của Tiên nhân, nhưng chính là người thợ săn, thường hay giết hại chúng ta mà không ai biết. Mọi người đều tin lời nói chân thật của chim Cát lợi. Chim Cát lợi lúc đó chính là thân Ta, gã thợ săn lúc ấy là Đề-bà-đạt-đa, còn nhà vua nay là Xá-lợi-phất.  <詞 id="41126090">37- CHUYỆN VỊ TIÊN GIÀ Đức Phật ở tại thành Vương xá. Bấy giờ vua A-xà-thế mỗi ngày hiến cúng cho Đề-bà-đạt-đa năm trăm nồi cơm và được rất nhiều lợi dưỡng. Các Tỳ-kheo bạch Đức Thế Tôn: –Vua A-xà-thế mỗi ngày hiến cúng cho Đề-bà-đạt-đa năm trăm nồi cơm. Đức Phật nói: –Này các Tỳ-kheo, chớ ưa thích sự được nhiều lợi dưỡng của Đề-bà-đạt-đa. Ngài liền nói bài kệ: Chuối sinh trái cây khô, Lau, tre cũng như vậy Lừa mang thai thì chết Con la cũng như thế Kẻ ngu tham lợi dưỡng Bị người trí cười chê. Đức Phật nói bài kệ rồi, bảo các Tỳ-kheo: –Đề-bà-đạt-đa đâu phải chỉ có ngày hôm nay mới bị lợi dưỡng làm hại, bài báng, chê bai Ta, mà ở trong quá khứ cũng vậy. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Câu chuyện của quá khứ như thế nào? Đức Phật nói: –Ngày xưa, ở nước Ba-la-nại, trong núi Tiên, có hai vị Tiên, một người thì già đã đắc được năm thần thông, còn một người thì trẻ, hoàn toàn chẳng chứng đắc gì cả. Bấy giờ vị Tiên nhân già liền dùng thần lực bay đến xứ Uất-đơn-việt lấy lúa thơm chín đem về ăn chung; lại đến cội Diêm-phù thọ lấy quả Diêm-phù-đề về ăn chung; lại đến cung trời Đao-lợi lấy thức ăn trời Thiên tu đà vị về ăn chung. Vị Tiên trẻ thấy vậy, trong tâm rất ngưỡng mộ cho là hy hữu, mới nói với vị Tiên già: –Mong ngài truyền dạy cho tôi năm phép thần thông. Vị Tiên già đáp: –Nếu có tâm tốt khi được năm thứ thần thông thì chắc chắn có lợi ích, còn nếu không có lòng tốt thì ngược lại sẽ bị ác hại. Song vị Tiên trẻ vẫn ân cần cầu thỉnh mong được thọ giáo. Bấy giờ vị Tiên già liền dạy cho vị Tiên trẻ năm phép thần thông và vị ấy liền chứng được. Khi đã chứng được năm phép thần thông vị ấy ở trước đại chúng hiện các thứ thần túc. Từ đó về sau được nhiều danh xưng và lợi dưỡng. Đối với vị Tiên già thì vị ấy lại sinh tâm ghen ghét, phỉ báng cùng khắp. Do đó, nên liền bị mất hết thần túc. Mọi người nghe việc ấy, cùng nhau nói: –Vị Tiên nhân già là bậc Tôn túc đức độ, mà Tiên nhân trẻ này sinh lòng ngang ngược, hủy báng. Vì vậy, họ tức giận vị Tiên trẻ, ngăn chặn trước cửa thành không cho vào, cho nên vị Tiên trẻ bị mất hết lợi dưỡng. Nếu muốn biết vị Tiên nhân già lúc đó là ai? Thì đó chính là thân của Ta. Còn vị Tiên trẻ lúc ấy chính là Đề-bà-đạt-đa.  <詞 id="41126091">38- CHUYỆN HAI KHÁCH BUÔN Đức Phật ở thành Vương xá, thuở bấy giờ các Tỳ-kheo nhờ làm theo lời Phật dạy nên đều được Niết-bàn, được Thiên đạo, Nhân đạo. Vì nghe theo lời của Đề-bà-đạt-đa cho nên đều bị rơi xuống địa ngục, lãnh thọ sự khổ não dữ dội. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày nay ai nghe theo lời dạy của Ta thì được lợi ích lớn. Còn ai nghe theo lời Đề-bà-đạt-đa thì bị khổ não lớn lao. Ngày xưa cũng vậy, ở thời quá khứ có hai khách buôn cùng dẫn theo năm trăm thương nhân đi vào nơi đồng không mông quạnh. Nơi ấy có con quỷ Dạ-xoa hóa làm một thiếu niên mặc y phục đẹp, đầu đội vòng hoa, đánh đàn cầm mà đi, nói với khách buôn: –Không nên mang nước cỏ này theo làm gì cho mệt, chẳng có dùng vào việc gì. Ở gần phía trước kia có nước trong cỏ tốt, cứ đi theo ta, ta sẽ chỉ đường cho. Một người chủ khách buôn nghe theo lời ấy nên nói: –Nay chúng ta nên vứt hết nước cỏ chở trên xe đi, để cho xe nhẹ, rồi đi tới trước. Còn chủ khách buôn kia thì nói: –Nay chúng ta chưa thấy cỏ nước gì cả, cẩn thận chớ bỏ chúng đi. Đoàn buôn phía trước vì vất hết cỏ nước nên bị chết khát, còn đoàn người nhờ không vất cỏ nước, nên đi đến đích. Người không vứt bỏ cỏ nước ấy chính là thân của Ta, còn người vứt bỏ cỏ nước ấy chính là Đề-bà-đạt-đa.  <詞 id="41126092">39- CHUYỆN TÁM VỊ TRỜI LẦN LƯỢT HỘI PHÁP Ngày xưa Đức Phật còn tại thế, vào lúc nửa đêm, có tám vị trời lần lượt đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Vị trời đến đầu tiên có dung mạo đoan chánh, hào quang chiếu sáng cả một dặm, có mười Thiên nữ làm quyến thuộc, đi đến chỗ Đức Phật, chí tâm đảnh lễ, đứng qua một bên. Đức Phật bảo vị trời ấy: –Ngươi nhờ tu phước nên được thọ thân trời, tự hưởng thú vui ngũ dục, sung sướng an lạc chăng? Bấy giờ vị trời ấy thưa với Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, con tuy sinh ở trên trời, nhưng tâm con luôn luôn sầu khổ. Vì sao vậy? Vì đời trước của con tu hành đối với vua, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, tuy có trung hiếu và cung kính, nhưng lúc đó lại không thường ân cần, cung kính lễ bái, nghênh đón, tiễn đưa. Do duyên nghiệp đó, nên được quả báo quá ít ỏi, không như các vị trời khác. Vì không giống họ, nên tự trách mình tu hành không được đầy đủ. Lại có một vị trời, dung mạo, thân hình rực rỡ, cùng với quyến thuộc, hơn vị trời trước đến mười phần, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Đức Phật, xong đứng qua một bên. Đức Phật bảo vị trời: –Ngươi sinh ở trên trời, được sung sướng an lạc chăng? Vị trời ấy bạch với Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, tuy con sinh ở trên trời, nhưng cũng thường bị ưu khổ. Vì sao vậy? Vì đời trước của con, lúc tu hành tuy đối với vua, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, có tâm trung hiếu, cung kính lễ bái, nhưng lại không hay cúng thí sàng tọa, cũng không hay trải tọa cụ êm ấm mời ngồi. Do nghiệp duyên đó, nên nay được quả báo, không giống các vị trời khác. Vì không giống các vị trời khác, nên cứ tự trách mình lúc tu nhân không được đầy đủ. Lại có một vị trời, dung mạo sáng rạng, cùng với quyến thuộc, hơn vị trời trước gần mười phần, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Đức Phật, xong đứng qua một bên. Đức Phật hỏi vị trời ấy: –Người thọ thân trời được vui vẻ, an lạc chăng? Vị trời bạch Đức Phật: –Con tuy được sinh ở cung trời, nhưng thường ôm lòng sầu não. Vì sao vậy? Vì thân đời trước của con tuy có làm việc tốt đối với vua, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, có tâm trung hiếu, cung kính lễ bái có cúng dường giường nằm nhưng đối với những vị ấy, lại không rộng bày các món ăn, đồ uống, thượng vị để cúng dường. Do nhân duyên đó, nên nay được quả báo không bằng các vị trời khác. Vì không bằng những vị ấy, nên trong lòng hối hận, trách mình lúc tu nhân không được đầy đủ cho nên ưu não. Lại có một vị trời, dung mạo sáng ngời cùng với quyến thuộc, hơn vị trời trước gấp mười phần, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Đức Phật rồi đứng qua một bên. Đức Phật hỏi vị trời ấy: –Ngươi thọ thân trời được vui vẻ, an lạc chăng? Vị trời bạch Đức Phật: –Tuy con sinh ở trên trời, nhưng trong tâm thường sầu não. Vì sao vậy? Vì ở thời quá khứ, con tuy đối với vua, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, có tâm trung hiếu, cung kính lễ bái, cũng có cúng dường cho những vị ấy tọa cụ và đồ ăn uống, nhưng con không chịu nghe pháp. Do nhân duyên đó nay được quả báo không bằng các vị trời khác. Vì không bằng các vị trời khác nên thường tự nghiêm khắc trách mình lúc tu nhân không được đầy đủ, cho nên mới ưu não. Lại có một vị trời, thân sắc rạng ngời, cùng với quyến thuộc, mười phần hơn vị trời trước, đến chỗ Đức Phật đầu mặt lạy sát chân Ngài, rồi đứng qua một bên. Đức Phật hỏi vị trời ấy: –Ngươi thọ thân trời được vui thích, an lạc chăng? Vị trời bạch Đức Phật: –Con tuy sinh ở trời, nhưng tâm thường sầu não. Vì sao vậy? Vì đời trước của con, tuy đối với vua, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn hay có lòng trung hiếu, cung kính lễ bái, trải tòa mời ngồi, cúng đồ ăn uống, tuy có nghe pháp, nhưng không hiểu nghóa. Vì không hiểu nghóa, nên nay được quả báo không bằng các trời khác. Vì không bằng các trời khác, nên tâm thường hối hận, trách mình lúc tu nhân không được đầy đủ, cho nên sầu não. Lại có một vị trời, thân sắc chói sáng, cùng với quyến thuộc, mười phần hơn vị trời trước, đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên. Đức Phật hỏi vị trời ấy: –Ngươi thọ thân trời được vui thích, an lạc chứ? Vị trời bạch Đức Phật: –Con tuy sinh ở trên trời, nhưng tâm thường sầu não. Vì sao vậy? Vì đời trước của con lúc tu hành, tuy đối với vua, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, có lòng trung hiếu, cung kính, lễ bái trải tọa cụ, cúng đồ ẩm thực, mặc dù có nghe pháp, có hiểu nghóa, nhưng không đủ khả năng như lời dạy mà tu hành. Do nghiệp duyên ấy, nên nay được quả báo không bằng các trời khác. Vì không bằng các trời khác, nên hết sức hối hận, trách cứ mình lúc tu nhân không được đầy đủ, cho nên sầu não. Lại có một vị trời dung mạo sáng rạng, cùng với quyến thuộc, mười phần hơn vị trời trước, đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên: Đức Phật hỏi vị trời ấy: –Ngươi thọ thân trời, được vui thích an lạc chăng? Vị trời bạch Đức Phật: –Ngày hôm nay con được sinh ở cung trời, tự vui sướng với ngũ dục, hễ cần vật gì thì nghó đến liền có, hết sức khoái lạc, không có các khổ não. Vì sao vậy? Vì đời trước của con, lúc tu nhân, đối với vua, cha mẹ, sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, có lòng trung hiếu, cung kính lễ bái, trải tọa cụ, mời ẩm thực, nghe pháp có thể hiểu được ý nghóa, như lời dạy mà tu hành. Do nhân duyên ấy, thọ quả báo của trời, thân hình đoan chánh, hào quang đẹp đẽ khác thường, quyến thuộc đông đúc, hơn các trời khác. Nhờ tu hạnh này nên được quả báo đầy đủ, nhờ đầy đủ nên được quả báo tối thắng. Nhờ được quả báo tối thắng cho nên tất cả các vị trời không ai bì kịp, vì không ai bì kịp cho nên tâm con hết sức an lạc. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126093">QUYỂN 4 Gồm mười một chuyện: 40. Chuyện người nghèo cúng bánh bằng bột lúa tiểu mạch hiện tại được quả báo. 41. Chuyện cô gái nghèo cúng hai đồng tiền liền được quả báo. 42. Chuyện người họa só tên Kế-na ở nước Can-đà-vệ cúng dường trai phạn được quả báo. 43. Chuyện hai vợ chồng Kế-di-la tự bán mình để thiết hội, hiện tại được quả báo. 44. Chuyện Sa-di cứu bầy kiến khỏi bị nước trôi nên được sống lâu. 45. Chuyện vua nước Càn-đà-vệ nhờ sửa chùa tháp cũ được sống lâu. 46. Chuyện Tỳ-kheo tu bổ lỗ hỏng vách chùa được sống lâu. 47. Chuyện con của trưởng giả thấy Phật cầu được trường thọ. 48. Chuyện con của trưởng giả làm thuê thiết hội được hiện báo. 49. Chuyện Phất-na cúng Phật một bát cơm được hiện báo. 50. Chuyện Đại Ái Đạo cúng Đức Phật y bằng vàng và người thợ xâu ngọc.  <詞 id="41126094">40- CHUYỆN NGƯỜI NGHÈO CÚNG BÁNH BẰNG BỘT LÚA TIỂU MẠCH HIỆN TẠI ĐƯỢC QUẢ BÁO Ngày xưa có một người, nhà rất nghèo, đi ở cho người ta kiếm được sáu thăng tiểu mạch mang về nhà để nuôi vợ con. Khi đến giữa đường gặp một Đạo nhân ôm bát chống gậy đi xin ăn, người ấy liền nghó: “Vị Sa-môn kia hình mạo đoan nghiêm, oai nghi chững chạc, rất đáng cung kính. Nếu mình cúng cho vị ấy một ít đồ ăn, há chẳng vui sao?” Bấy giờ Đạo nhân biết tâm niệm của người ấy, liền đi theo anh đến gần bờ sông, người nghèo kia liền nói với Đạo nhân: Nay tôi có bột lúa mạch, ý muốn cúng cho ngài, vậy ngài có dùng chăng? Đạo nhân đáp: –Được vậy là tốt. Người nghèo kia liền đến bên bờ sông, trải áo ra mời Đạo nhân ngồi, rồi anh ta lấy nước hòa một thăng bột lúa mạch làm thành một tấm bánh cúng cho Đạo nhân. Anh suy nghó: “Nếu Đạo nhân này là người thanh tịnh nghiêm trì giới luật, đắc đạo, hãy khiến cho ta làm vua một nước nhỏ.” Khi Đạo nhân được bột lúa mạch, nói với người nghèo ấy: –Sao lấy quá ít, sao lấy quá ít? Người nghèo cho rằng Đạo nhân này ăn nhiều, anh ta lại hòa thêm một thăng nữa, nhồi thành một tấm bánh, cúng dường rồi nguyện: “Nếu vị Đạo nhân này là người trì giới thanh tịnh, đắc đạo hãy khiến cho tôi làm vua hai nước nhỏ.” Đạo nhân lại nói: –Sao lấy quá ít, sao lấy quá ít? Người nghèo kia lại nghó: –Đạo nhân này in tuồng như người ăn nhiều, ta đã cho lúa mạch như mong ước, nhưng vẫn chê là ít, dù sao, ta đã mời ngài thì phải cung cấp đầy đủ. Anh ta lại hòa hai thăng bột tiểu mạch, nhồi thành một tấm bánh, rồi đem cúng dường, anh lại nghó: –Nếu Đạo nhân này là người trì giới thanh tịnh, đắc đạo, hãy khiến cho tôi hiện tại được làm vua, thống lãnh bốn tiểu quốc. Đạo nhân lại nói: –Sao lấy quá ít, sao lấy quá ít? Người nghèo ấy còn lại hai thăng, đem hòa hết với nước, nhồi thành một tấm bánh đem dâng cho Đạo nhân, lại mong ước: –Nay Đạo nhân này, nếu là người trì giới thanh tịnh hãy làm cho tôi được làm vua nước Ba-la-nại, thống lãnh bốn nước nhỏ, được thấy chân lý của đạo. Đạo nhân khi đã được toàn bộ bột tiểu mạch rồi, vẫn chê là quá ít. Người nghèo ấy thưa: Xin ngài hãy ăn đi, nếu như không đủ, tôi sẽ cởi y phục đổi lấy đồ ẩm thực để dâng cho ngài. Đạo nhân liền ăn hết một thăng, còn dư trả lại cho chủ. Người nghèo ấy hỏi: –Tôn giả trước đây chê là bột tiểu mạch quá ít, tại sao bây giờ lại ăn không hết? Đạo nhân đáp: –Ban đầu lúc ngươi cho ta một tấm bánh bột tiểu mạch, người cầu làm vua một nước nhỏ, cho nên ta nói: “Tâm nguyện của ngươi ít quá.” Lần thứ hai ngươi cho ta một tấm bánh bột nữa, nguyện được làm vua hai nước nhỏ, cho nên ta nói: “Sự mong ước của ngươi quá ít.” Lần thứ ba ngươi lại dâng cho ta một tấm bánh bột, mong được làm vua bốn nước nhỏ, cho nên ta nói: “Tâm nguyện của ngươi quá ít.” Lần thứ tư ngươi dâng cho ta một tấm bánh bột mong cầu được làm vua nước Ba-la-nại, thống lãnh bốn tiểu quốc, sau đó được thấy chân lý chứng đạo quả, cho nên ta nói: “Sự mong ước của ngươi quá ít.” Vì ta không chấp nhận sự mong ước ít ỏi như thế cho nên chê là quá ít. Bấy giờ người nghèo ấy tự sinh nghi, nghó: “Hãy khiến cho tôi hiện tại được làm vua của năm nước, việc này không phải nhỏ, sợ không thật chăng?” Anh lại suy nghó: “Vị ấy biết được tâm niệm của ta chắc là bậc Thánh nhân, là bậc Đại phước điền, đâu có thể nào lừa ta.” Đạo nhân biết vậy liền ném bát lên hư không, sau đó bay lên theo, hóa thân to lớn trùm khắp hư không, lại hóa thân nhỏ như một hạt bụi, dùng một thân hóa thành vô lượng thân, dùng vô lượng thân hợp thành một thân, trên thân phun nước, dưới thân phun lửa, đi dưới nước như đi trên đất, đi trên đất cũng như trên nước, làm mười tám phép biến hóa, rồi nói với người nghèo: –Hãy khéo phát nguyện lớn, đừng có nghó suy nghi hoặc nữa! Nói xong vị ấy liền ẩn thân đi mất. Bấy giờ người nghèo này đi về phía thành Ba-la-nại, mới được giữa đường thì thấy vị phụ tướng, vị phụ tướng thấy anh ta rồi, nhìn kỹ hình tướng của anh, nói: –Ngươi có phải tên này họ này không? Đáp: –Thưa đúng vậy. Hỏi: –Sao lại rách rưới tả tơi như vậy? Đáp: –Lúc nhỏ không nơi nương tựa, nhà cửa khánh tận, không ai giúp đỡ, cho nên mới khốn khổ lam lũ như vậy. Vị phụ tướng liền tâu với vua Ba-la-nại: –Đứa con thân yêu của ngài tên đó, họ đó, hiện nay đang ở ngoài cửa, hết sức nghèo khổ tiều tụy. Vua liền ra lệnh: –Hãy dẫn nó vào. Nhà vua hỏi anh ta những việc riêng tư thì biết đó là người thân của mình, liền bảo: –Ngươi hãy ở gần ta, cẩn thận đừng đi xa. Sau bảy ngày, nhà vua bị bệnh rồi chết, các quần thần bàn với nhau: “Nhà vua không có người kế tự, chỉ có người cùng tử này là chỗ thân thích của nhà vua, vậy chúng ta nên suy tôn anh ta làm vua nước Ba-la-nại, thống lãnh bốn nước.” Sau khi làm vua, người cùng tử này trở thành bạo ngược. Vị Đạo nhân ở trên không trung vừa thấy liền đến trước điện vua ngồi kiết già và nói: –Ngày trước ngươi phát nguyện cầu được thấy chân lý, nay tại sao lại tạo các điều ác, ngược với bổn nguyện? Đạo nhân lại vì nhà vua thuyết pháp. Nhà vua nghe pháp rồi hối hận những tội ác đã làm trước, xấu hổ, siêng năng hành đạo, nên chứng được quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126095">41- CHUYỆN CÔ GÁI NGHÈO CÚNG HAI ĐỒNG TIỀN LIỀN ĐƯỢC QUẢ BÁO Ngày xưa, trong núi Kỳ-xà-quật có nhiều Hiền thánh chúng Tăng ẩn cư. Người người các nơi trong nước, nghe tiếng núi này, đến cúng dường rất đông. Có một trưởng giả đem theo quyến thuộc đến để cúng dường. Có một cô gái ăn mày bần cùng suy nghó: “Nay các trưởng giả đem đồ dâng cúng đến núi này chắc là họ muốn mở hội, ta nên đến đó để xin.” Khi đến núi rồi, cô ta thấy trưởng giả đặt bày các món trai soạn để cúng dường chúng Tăng, trong lòng tự suy nghó: “Người kia đời trước có tu phước nên ngày nay mới được giàu có. Ngày nay lại tạo thêm công đức, tương lai sẽ khá hơn. Đời trước ta không tạo phước cho nên đời nay mới bần khổ. Nếu nay ta không tạo phước, tương lai càng thêm đau khổ hơn.” Suy nghó như vậy rồi khóc lóc buồn bã. Cô lại tự suy nghó: “Ta đã kiếm được hai đồng tiền trên đống phân và luôn luôn yêu quý nó, giữ gìn chờ lúc xin ăn không được ta sẽ dùng nó mua đồ ăn uống, để sống qua ngày. Nay ta hãy đem nó cúng dường chúng Tăng, dù nhịn đói một ngày hai ngày không ăn uống gì cũng chẳng đến nỗi chết.” Cô ta chờ lúc Tăng chúng ăn xong liền lấy hai đồng tiền này đem cúng dường. Tăng pháp của núi này, hễ ai cúng dường thì thầy Duy na đứng trước Tăng chúng chú nguyện. Ngay lúc đó, vị Thượng tọa không để cho thầy Duy na chú nguyện, tự ngài chú nguyện. Các vị ngồi dưới trong lòng rất nghi ngờ, mới nghó như vầy: “Được hai đồng tiền của cô ăn mày này mà vị Thượng tọa tự coi thường đứng lên chú nguyện. Tại sao lúc bình thường thấy tiền, ngài lại không làm như vậy?” Khi ấy vị Thượng tọa lưu lại phân nửa phần cơm của mình đem cho cô gái này. Các vị chung quanh thấy vị Thượng tọa đem nhiều cơm cho cô gái, mọi người cũng làm như thế. Cô gái lúc ấy được một gánh đồ ẩm thực nặng, rất đỗi vui mừng, nghó: “Ta mới cúng dường, nay được phước báo”, liền gánh đồ ăn xuống núi, đến một gốc cây nằm ngủ nghỉ ngơi. Gặp lúc phu nhân của Đại vương nước này mất đã bảy ngày, nhà vua bảo sứ giả đi tìm trong nước xem ai có phước đức để chọn làm phu nhân. Vị tướng sư bói quẻ nói: –Dưới cái lọng mây vàng này, chắc chắn có người hiền. Ông liền đến dưới gốc cây cùng với sứ giả, thấy cô gái này nhan sắc tươi đẹp, có tướng phúc đức, cho nên bóng mát của cây mặc dù trời đã về chiều mà ánh nắng vẫn không thay đổi. Tướng sư nói: Cô gái phước đức này có thể làm phu nhân. Ông liền bảo người nấu nước thơm cho nàng tắm rửa, cho mặc y phục của phu nhân, thì thấy thân nàng vừa khít, không rộng cũng không chật, ông lấy ngàn cỗ xe, vạn kî só tả hữu theo hầu, đưa cô đến cung vua. Nhà vua rất hoan hỷ và sinh tâm kính trọng khi thấy nàng. Như vậy, một thời gian sau, cô ta tự suy nghó: “Ta có được sự giàu có, phước duyên này là do ta cúng tiền vậy. Nay chúng Tăng đã có ân lớn đối với ta.” Nàng liền tâu với vua: –Trước đây thiếp là người rất nghèo hèn, được vua suy cử lên làm hoàng hậu. Vậy xin vua hãy cho phép thiếp báo đền ân của các chúng Tăng ấy. Nhà vua nói: –Tùy ý nàng. Phu nhân liền cho xe chở đồ ăn uống và các châu báu đến núi kia để cúng dường trai phạn cho chúng Tăng. Khi chúng Tăng dùng xong thì nàng lấy châu báu ra để cúng dường. Lúc ấy vị Thượng tọa không đứng dậy, ngài bảo vị Duy na chú nguyện chứ tự mình không chú nguyện. Hoàng hậu nói: –Ngày trước con cúng hai đồng tiền mà ngài chú nguyện cho con. Ngày nay con cho xe chở đồ châu báu đến cúng dường mà ngài lại không chú nguyện cho con? Các Tỳ-kheo trẻ đều xầm xì: –Vị Thượng tọa này trước đây người nữ nghèo ấy đã cúng hai đồng tiền mà ngài chú nguyện cho cô ta. Nay làm hoàng hậu, chở cả xe ngọc báu đến cúng dường mà ngài vẫn không chú nguyện. Có phải ngài già cả lẩm cẩm chăng? Bấy giờ vị Thượng tọa diễn thuyết chánh pháp cho hoàng hậu nghe: –Này phu nhân, trong tâm của phu nhân hiềm trách ta như sau: “Lúc trước ta cúng có hai đồng tiền mà ngài chú nguyện cho ta, nay ta chở cả xe châu báu cúng dường mà ngài chẳng chú nguyện!” Phu nhân nên biết trong Phật pháp của chúng ta không quý trọng châu báu, chỉ quý trọng thiện tâm mà thôi. Này phu nhân, lúc trước phu nhân cúng có hai đồng tiền mà thiện tâm mãnh liệt, bây giờ phu nhân cúng dường châu báu mà với lòng cống cao ngã mạn. Do đó, nay ta không chú nguyện. Các đạo só trẻ tuổi cũng đừng hiềm trách ta, các vị nên hiểu rõ tâm của người xuất gia. Các người tu đạo trẻ tuổi đều tự hổ thẹn, nên đều chứng quả Tu-đà-hoàn. Phu nhân của vua nghe pháp xong vừa hổ thẹn vừa vui mừng cũng chứng được quả Tu-đà-hoàn. Sau khi nghe pháp xong phu nhân đảnh lễ mà lui ra.  <詞 id="41126096">42- CHUYỆN NGƯỜI HỌA SÓ TÊN KẾ-NA Ở NƯỚC CÀN-ĐÀ-VỆ CÚNG DƯỜNG TRAI PHẠN ĐƯỢC QUẢ BÁO Ngày xưa ở nước Càn-đà-vệ có một người họa só tên là Kế-na, ba năm làm việc ở xứ người được ba mươi hai lượng vàng. Anh muốn trở về nhà thì thấy có người lập hội Vô già cúng dường, anh hỏi thầy Duy na: –Một ngày làm hội, tốn hết bao nhiêu? Thầy Duy na đáp: –Tốn hết ba mươi lượng vàng. Anh liền tự nghó: “Vì đời trước của ta không trồng phước nghiệp, cho nên mới thọ quả báo nghèo khổ như ngày nay, phải ra sức kiếm sống. Nay gặp được phước hiền, sao lại không làm.” Anh nói với thầy Duy na, xin hãy vì đệ tử mà đánh kiền chùy vân tập Tăng chúng và nói rằng con muốn thiết hội. Khi thiết hội xong, anh vui mừng hoan hỷ liền trở về nhà. Khi về đến nhà, vợ anh hỏi: –Ba năm anh đi làm thuê, tiền bạc đâu rồi? Người chồng trả lời: –Tiền tài ta kiếm được, nay ta đã bỏ vào trong kho chắc chắn rồi. Bấy giờ người vợ hỏi: –Cái kho chắc chắn ấy bây giờ ở đâu? Người chồng đáp: –Ở trong Tăng chúng. Bấy giờ người vợ hiềm trách chồng, liền triệu tập bà con trong xóm lại, bắt trói anh rồi đem đến nhờ quan xét xử, nói: –Mẹ con của tôi bần cùng khốn khổ, không có mặc, không cơm ăn, thế mà chồng tôi kiếm được tiền bạc dư dả không chịu đem về nhà. Xin quan trên xét xử. Bấy giờ quan xét xử hỏi người chồng: –Tại sao ngươi làm như vậy? Người chồng đáp: –Thân của tôi như tia điện chớp, chẳng sáng được bao lâu, cũng như sương buổi sáng, phút chốc liền mất. Do đó, tôi sợ hãi, tự nghó một cách sâu xa: “Bởi do tiền kiếp của ta không tạo phước nghiệp, nay bị cùng khổ, y thực thiếu thốn. Cho nên nay nhân tôi thấy trong thành Phất-ca-la kia, thiết hội gọi là Ban giá hội để cúng dường chúng Tăng thanh tịnh. Do đó, tâm tôi sinh hoan hỷ, phát sinh kính tín liền hỏi thầy Duy na: “Phải tốn hết bao nhiêu để cúng một ngày trai tăng?” Thầy Duy na đáp: “Phải tốn ba mươi lượng vàng mới có thể đủ cúng một ngày trai tăng.” Trong ba năm tôi làm ra số của đó, tôi liền giao cho thầy Duy na để làm một ngày trai tăng cho chúng Tăng. Bấy giờ, quan xét xử nghe lời nói ấy, sinh tâm hoan hỷ, thương mến người đó, liền cởi y phục, cũng như chuỗi anh lạc của mình đồng thời lấy yên ngựa và các dụng cụ cỡi ngựa đem cho Kế-na hết. Ông lại cắt một thôn xóm đem phong thưởng cho Kế-na. Quả báo trước mắt thì như vậy, còn cái quả báo lâu dài thì ở tương lai.  <詞 id="41126097">43- CHUYỆN HAI VỢ CHỒNG KẾ-DI-LA TỰ BÁN MÌNH ĐỂ THIẾT HỘI, HIỆN TẠI ĐƯỢC QUẢ BÁO Ngày xưa có một người tên là Kế-di-la, cả hai vợ chồng bần cùng khốn khổ, phải đi làm thuê để kiếm sống. Ông ta thấy một vị trưởng giả đem cả nhà đến chùa để làm đại thí hội, rồi anh trở về nhà, cùng vợ ngủ nghỉ, đầu anh gối lên tay vợ, tự suy nghó: “Vì tiền thân của ta không làm phước, cho nên ngày nay mới nghèo khổ. Như vị trưởng giả kia, thân đời trước đã làm phước, đời này cũng làm phước. Nay ta không có phước, đời tương lai chỉ thêm đau khổ. Nghó như vậy rồi lại sụt sùi buồn bã, làm rơi nước mắt chảy xuống cánh tay vợ. Người vợ hỏi chồng: –Tại sao anh lại rơi nước mắt? Đáp: –Người ta nhờ tu phước nên thường được mọi an lạc, tự mình keo kiệt bần cùng, vì không tu phước, cho nên mới rơi lệ. Người vợ nói: –Anh rơi lệ thì có ích gì? Có thể anh hãy bán thân tôi cho người khác rồi lấy tiền để làm phước. Người chồng nói: –Nếu phải cùng bán cho người khác, thì thân của ta làm sao để tự sinh sống? Người vợ nói: –Nếu sợ không sống, không thấy được mặt, không thấy ngày ra, thì nay tôi cùng anh tự bán mình để làm công đức. Bấy giờ vợ chồng cùng nhau đi đến nhà một người giàu, nói: –Nay vợ chồng chúng tôi đem thân hèn hạ này xin đổi tiền vàng. Chủ nhân nói: –Muốn được bao nhiêu tiền? Đáp: –Muốn được mười đồng tiền vàng. Chủ nhân nói: –Nay ta giao tiền cho các ngươi. Nếu sau bảy ngày mà các ngươi không trả lại cho ta thì hai vợ chồng ngươi phải làm nô tỳ cho ta. Thưa: –Như vậy là khế ước đã thành. Họ mang tiền đến một chùa tháp kia, thiết lễ mở hội. Hai vợ chồng người ấy cùng nhau đãi gạo, khích lệ nhau: –Ngày nay chúng ta cùng nhau ra sức để tạo phước nghiệp, ngày sau thân chúng ta thuộc về nhà người ta rồi, há lại buông lung ý sao? Khi ấy hai vợ chồng ngày đêm siêng năng sắm sửa đầy đủ đến đầu ngày thứ sáu, vừa muốn mở hội, thì gặp vị vua nước ấy cũng muốn mở hội, đến để xin chúng Tăng thiết lễ. Chúng Tăng đều nói: –Ngày đó, bổn tự đã nhận của người nghèo kia rồi, không thể đổi ngày được. Nhà vua nghe rồi, liền suy nghó: “Họ là bọn người nào, dám cùng ta mà tranh việc mở hội?” Nhà vua liền bảo người đến nói với Kế-di-la: –Ngươi hãy tránh qua ngày khác. Kế-di-la thưa: –Quả thật không thể tránh qua ngày khác được. Nói qua nói lại như vậy đến ba lần, mà vợ chồng anh nghèo vẫn khư khư như trước. Nhà vua lấy làm lạ, cho nên tự đến chỗ Tăng phường, nói với vợ chồng người nghèo: –Nay các ngươi tại sao không để ngày sau mở hội, mà lại tranh mở hội cùng ngày với ta? Đáp: –Chỉ có ngày nay là chúng tọâi được tự do, còn ngày mai thì chúng tọâi thuộc về nhà của người khác, cho nên không thể mở hội được. Nhà vua liền hỏi: –Vì sao không được? Vợ chồng người tự bán mình trả lời: –Tại chúng thần tự nghó đời trước không tạo phước nghiệp, cho nên đời này mới bần cùng khổ sở. Nếu đời sau mà không tạo phước, e rằng đời sau sẽ khổ hơn. Vì cảm nhận việc này cho nên mới tự bán thân để đổi lấy tiền tài nhằm tạo công đức, ngõ hầu đoạn trừ khổ này. Cho đến sau bảy ngày, nếu không có tiền tài để trả cho người ta, chúng thần phải làm nô tỳ để trả. Nay đã sáu ngày rồi, sáng mai là hết hạn. Vì lý do ấy, cho nên thà chịu chết, chúng tọâi vẫn phải mở hội thiết trai. Nhà vua nghe lời ấy hết sức thương xót, khen là chưa từng có, nói: –Ngươi là người hiểu rõ chân thực về nỗi khổ của sự bần cùng, có thể đem cái thân không chắc đổi lấy cái thân bền chắc, có thể lấy của cải không bền chắc đổi lấy của cải bền chắc, lấy cái thân mạng không chắc đổi lấy thân mạng bền chắc. Do đó nhà vua liền chấp nhận cho vợ chồng anh nhà nghèo thiết hội. Nhà vua lấy y phục và ngọc anh lạc trên thân của mình và của phu nhân đem cho vợ chồng Kế-la, rồi vua lại cắt mười tụ lạc phong cho vợ chồng anh để vợ chồng anh làm phước. Phàm người hay chủ tâm tu phước đức, thì hiện tại quả báo còn được nhiều như vậy, huống gì quả báo ở trong tương lai. Xem xét kỹ bài học này tất cả mọi người trong thế gian, nếu muốn thoát khổ phải siêng năng tu phước, đâu có thể nào lười biếng buông lung tình ý mà được.  <詞 id="41126098">44- CHUYỆN SA-DI CỨU BẦY KIẾN KHỎI BỊ NƯỚC TRÔI NÊN ĐƯỢC SỐNG LÂU Ngày xưa, có một vị Đạo nhân La-hán, nuôi một chú Sa-di. Vị ấy biết chú Sa-di sau bảy ngày nữa, chắc chắn sẽ chết, vì vậy cho phép chú trở về thăm nhà, đến đầu ngày thứ bảy thì phải trở lại. Chú Sa-di giã từ thầy liền trở về nhà. Trên đường trở về, giữa đường thấy bầy kiến đang trôi bập bềnh theo dòng nước, sắp chết đến nơi, sinh tâm Từ bi, chú tự cởi ca-sa ra, đắp đất ngăn nước, vớt hết bầy kiến đem đến chỗ cao ráo, làm cho tất cả được sống. Đến đầu ngày thứ bảy chú lại trở về chỗ thầy. Thầy chú hết sức ngạc nhiên, nên liền nhập định dùng Thiên nhãn để quán sát, mới biết rằng chú Sa-di không còn chút phước nào để sống còn, ngoại trừ nhờ nhân duyên cứu bầy kiến, cho nên qua bảy ngày rồi mà vẫn không chết, lại được trường thọ.  <詞 id="41126099">45- CHUYỆN VUA NƯỚC CÀN-ĐÀ-VỆ NHỜ SỬA CHÙA THÁP CŨ ĐƯỢC SỐNG LÂU Ngày xưa ở nước Càn-đà-vệ có một vị quốc vương. Một vị tướng sư tài ba xem tướng cho vua, biết chắc rằng sau bảy ngày nữa nhà vua sẽ mạng chung. Nhà vua nhân một chuyến đi săn thấy một ngôi tháp cổ đã bị hủy hoại, hư nát, liền ra lệnh cho quần thần tu bổ lại. Sau khi tu bổ xong, vua vui mừng trở về hoàng cung, bảy ngày trôi qua vẫn yên ổn. Vị tướng sư thấy đã quá bảy ngày lấy làm lạ hỏi nhà vua: –Ngài đã làm được công đức gì? Đáp: –Ta chẳng phải làm gì cả, chỉ thấy có một ngôi tháp hư, lấy bùn để tu bổ lại, chắc do tu bổ ngôi tháp mà được công đức như vậy.  <詞 id="41126100">46- CHUYỆN TỲ-KHEO TU BỔ LỖ HỎNG VÁCH CHÙA ĐƯỢC SỐNG LÂU Ngày xưa có một vị Tỳ-kheo, giờ chết sắp đến, gặp một ngoại đạo Bà-la-môn. Người ấy xem tướng xong, cho biết rằng vị Tỳ-kheo này sau bảy ngày nữa chắc chắn sẽ mạng chung. Bấy giờ vị Tỳ-kheo này nhân vào chỗ Tăng chúng ở thấy vách tường có lỗ hổng, liền bảo người nhồi bùn bít lại. Nhờ phước này nên thọ mạng được tăng thêm. Đã quá bảy ngày mà vị Tỳ-kheo vẫn sống. Bà-la-môn thấy cho là lạ mới hỏi: –Ngài đã làm được phước gì? Đáp: –Tôi chẳng tạo phước gì cả, chỉ có hôm qua, tôi vào chỗ Tăng ở, thấy vách tường có một lỗ hổng, bèn tu bổ lại thôi. Bà-la-môn khen: –Chính Tăng là phước điền hết sức quan trọng, mới có thể khiến cho Tỳ-kheo này đúng ra là phải chết mà lại được trường thọ.  <詞 id="41126101">47- CHUYỆN CON CỦA TRƯỞNG GIẢ THẤY PHẬT CẦU ĐƯỢC TRƯỜNG THỌ Ngày xưa, lúc Đức Phật còn tại thế, có một người con của trưởng giả mới năm, sáu tuổi. Tướng sư xem tướng thấy cậu bé đầy đủ phước đức, nhưng có điều là phải chết yểu. Gia đình cậu bé mới mang cậu đến chỗ Lục sư ngoại đạo, nhờ họ làm cho cậu bé được trường thọ. Nhưng gia đình cậu tức giận, vì Lục sư ấy hoàn toàn không có khả năng làm cho cậu bé được trường thọ. Họ lại đem cậu bé đến chỗ Đức Phật, bạch: –Bạch Thế Tôn, đứa bé này đoản mạng, cúi mong Đức Thế Tôn cứu cho đứa bé được sống lâu. Đức Phật đáp: –Không có pháp nào làm cho nó trường thọ cả. Gia đình cậu bé lại bạch Đức Phật: –Cúi mong Đức Phật chỉ cho phương pháp. Bấy giờ Đức Phật dạy: –Hãy đem cậu bé đến dưới cửa thành, hễ thấy có người đi ra thì đến đảnh lễ, hay thấy có người vào cũng đến đảnh lễ. Bấy giờ có một quỷ thần hóa làm người Bà-la-môn muốn vào thành. Đứa bé đến đảnh lễ, quỷ thần ấy chú nguyện: “Mong cho ngươi được trường thọ”, nhưng quỷ này là loại giết trẻ em. Vì pháp của quỷ thần là không được nói hai lời, lỡ đã cho trường thọ nên không thể giết. Cậu bé nhờ khiêm tốn cung kính như thế nên được trường thọ.  <詞 id="41126102">48- CHUYỆN CON CỦA TRƯỞNG GIẢ LÀM THUÊ THIẾT HỘI ĐƯỢC HIỆN BÁO Ngày xưa lúc Phật còn tại thế, có một người con của trưởng giả, cha mẹ mất sớm, cô đơn nghèo khổ, lang thang kiếm sống bằng nghề làm thuê, nghe có người nói: “Trên cõi trời Đao-lợi hết sức sung sướng.” Lại nghe người ta nói: “Cúng dường cho Phật và Tăng được sinh lên cõi đó.” Anh ta liền hỏi một người khác: –Phải dùng bao nhiêu tài vật mới có thể cúng dường cho Phật và chúng Tăng được? Bấy giờ người ấy nói: –Phải dùng ba mươi lượng vàng mới có thể thiết hội cúng dường được. Khi ấy anh ra chợ để xin làm mướn. Ở gần bên chợ có một trưởng giả rất giàu có, anh đến đó xin làm mướn. Trưởng giả hỏi: –Nay ngươi có thể làm được những việc gì? Đáp: –Việc gì tôi cũng làm được. Tôi xin làm công cho ông ba năm. Hỏi: –Ngươi muốn lấy bao nhiêu tiền? Đáp: –Tôi muốn ba mươi lượng vàng. Trưởng giả nghe anh này việc gì cũng làm được liền mướn anh làm việc. Anh vốn là người đoan chính, ngay thẳng, nên ông giao cho bày bán các thứ vàng bạc, đồng, thiết, anh bán được lời gấp bội bình thường. Ngày tháng đã đủ, nên trưởng giả đã giao cho anh số vàng trên. Trưởng giả hỏi: –Nay ngươi được vàng, vậy dùng làm việc gì? Đáp: –Tôi muốn cúng dường cho Phật và Tăng. Trưởng giả nói: –Nay ta sẽ phụ giúp ngươi, trợ cấp cho ngươi các thứ bồn đựng, gạo, bột mì làm đồ ăn. Ngươi chỉ thỉnh Đức Phật và chúng Tăng thôi. Anh liền đến phòng Tăng thỉnh Đức Phật và chư Tăng. Đức Phật bảo chúng Tăng đều nhận lời thỉnh cầu của anh. Đức Phật ở ngay phòng của Ngài, còn chúng Tăng đều nhận lời mời của anh. Hôm đó đúng ngày tiết nhật, mọi người đều mang dâng các thứ đồ ăn uống đến chỗ chúng Tăng. Chúng Tăng đã ăn no, vì vậy lúc đến nhà của trưởng giả, khi anh tự mình sớt cơm, vị Thượng tọa nói: –Sớt ít thôi. Mọi người cũng đều thứ lớp nói: “Sớt ít thôi”. Ăn xong các ngài ra về. Bấy giờ anh khóc lóc áo não than thở: –Ba năm cay đắng để cúng được bữa cơm này, những mong chúng Tăng thọ thực. Ta mong cầu được sinh lên trời, như vậy chắc là không được sinh. Anh đi đến một bên Đức Phật bạch: –Bạch Thế Tôn, chúng Tăng không ăn đồ ẩm thực của con cúng dường. Như vậy sự nguyện cầu của con chắc chắn không thành tựu. Đức Phật hỏi: –Có ăn chút ít chứ? Thưa: –Tất cả chúng Tăng đều ăn rất ít. Đức Phật nói: –Giả sử chúng Tăng không ăn gì cả, thì nguyện của ngươi cũng thành tựu, huống chi có thọ thực chút ít mà sao lại không thành? Đồng tử vui mừng trở lại chỗ dọn ẩm thực. Bấy giờ chúng Tăng đã thọ thực xong liền trở về. Khi ấy có năm trăm khách buôn, đi biển về, vào thành tìm kiếm thức ăn. Lúc ấy gặp buổi đói kém, chẳng ai cho ăn. Có người nói: –Con của vị trưởng giả kia hôm nay mở hội, chắc chắn có đồ ẩm thực. Bấy giờ anh nghe nói có các khách buôn, liền hoan hỷ mời họ ăn. Năm trăm khách buôn đều được ăn uống no nê, tất cả những người đi theo đều cũng được no đủ. Người khách buôn cuối cùng cởi một viên ngọc trị giá một vạn lượng vàng, người trưởng đoàn cởi một viên ngọc trị giá mười vạn lượng vàng cho chàng. Năm trăm khách buôn, người thì cho chàng một viên ngọc, người thì cho một cái bồn đồng. Nhưng chàng đều không dám nhận, chàng chạy đến hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo: –Đó là quả báo tạm thời, hãy nhận đi sẽ hết khổ, về sau chắc chắn sẽ sinh lên trời, đừng nên sợ hãi. Vị trưởng giả chủ nhân vốn không có con trai, chỉ có một người con gái liền gả cho đồng tử. Nhờ vậy gia nghiệp của chàng trở nên giàu có vô cùng. Trong thành Xá-vệ, vị trưởng giả giàu có hạng nhất mạng chung. Vua Ba-tư-nặc nghe chàng thông minh, trí thức cho nên đem tất cả gia nghiệp của ông ta ban cho chàng. Quả báo tạm thời là như vậy, còn quả báo thực thụ thì sau này.  <詞 id="41126103">49- CHUYỆN PHẤT-NA CÚNG PHẬT MỘT BÁT CƠM ĐƯỢC HIỆN BÁO Ngày xưa, lúc Đức Phật còn tại thế, có năm anh em của Phạm chí: Người thứ nhất tên là Da-xà, người thứ hai tên là Vô Cấu, người thứ ba tên là Kiều-phạm-ba-đề, người thứ tư tên là Tô-đà-di, bốn anh em vào núi học đạo, chứng được năm thứ thần thông. Còn người em út tên là Phất-na thấy Đức Phật khất thực, đem cơm trắng sạch rất ngon đổ đầy bát để cúng Phật. Lúc ấy Phất-na thường lấy việc cày bừa trồng cấy làm nghề nghiệp. Lúc cày bừa trồng cấy xong, chàng trở về nhà. Sau đó vào một ngày, chàng ra giữa ruộng, thấy lúa mạ trong ruộng ấy đã biến thành lúa vàng dài đến mấy thước. Chàng lấy lưỡi liềm cắt hết, nhưng lúa vẫn mọc lại như trước. Vị quốc vương nước ấy nghe vậy, cũng đến cắt lúa, nhưng lúa vẫn không hết. Cũng giống như vậy tất cả những người đến cắt lúa, lúa cũng không hết. Các người anh của chàng nghó: “Em của chúng ta là Phất-na làm ăn sinh sống, có nghèo khổ chăng?”. Họ cùng nhau đến thăm, thấy phước nghiệp của em mình hơn cả vị quốc vương, bèn nói với em: –Trước đây em nghèo khổ, tại sao bỗng nhiên được giàu có? Người em đáp: –Em gặp Đức Cù-đàm, cúng Ngài một bát cơm mà được quả báo như vậy. Bốn người anh nghe như vậy, vui mừng hớn hở, lại nói với người em: –Nay em hãy vì các anh làm cho mỗi người một tấm bánh cơm hoan hỷ để cho bốn anh, mỗi người đem một bánh đến cúng dường Cù-đàm, nguyện cầu sinh lên trời. Chúng ta không nghe pháp của Ngài, cũng không cầu giải thoát. Bấy giờ mỗi người đều mang bánh hoan hỷ ấy đến chỗ Đức Phật, Đức Phật nói: –Các hành vô thường. Người anh thứ hai lại lấy bánh hoan hỷ bỏ vào trong bát Đức Phật, Đức Phật nói: –Là pháp sinh diệt. Người anh thứ ba lại lấy bánh hoan hỷ bỏ vào bát Đức Phật, Đức Phật nói: –Sinh diệt diệt rồi. Người anh thứ tư lại lấy bánh hoan hỷ bỏ vào bát Đức Phật, Đức Phật nói: –Tịch diệt là vui. Bốn anh em cùng trở về nhà, đến chỗ vắng vẻ, cùng nhau hỏi: –Các anh nghe lời gì? Người anh thứ nhất nói: –Tôi nghe nói: “Các hành vô thường”. Người anh thứ hai nghe: “Là pháp sinh diệt”. Người anh thứ ba nghe: “Sinh diệt diệt rồi”. Người anh thứ tư nghe: “Tịch diệt là vui”. Cả bốn anh em đều suy nghó bài kệ này, nên đều được quả A-na-hàm. Họ đều đến chỗ Đức Phật cầu xin xuất gia, nên đều được chứng quả A-la-hán.  <詞 id="41126104">50- CHUYỆN ĐẠI ÁI ĐẠO CÚNG ĐỨC PHẬT Y BẰNG VÀNG VÀ NGƯỜI THỢ XÂU NGỌC Ngày xưa, lúc Đức Phật còn tại thế, bà Đại Ái Đạo đã dệt y bằng chỉ vàng mang đến cúng dường Phật. Đức Phật bảo: –Hãy đem cúng cho chúng Tăng. Bà Đại Ái Đạo thưa: –Tôi đã cho Thế Tôn bú mớm, nuôi lớn Thế Tôn, tự làm y này là để dâng lên Thế Tôn, ngưỡng mong Đức Thế Tôn vì tôi mà thọ nhận. Tại sao Ngài lại nói: Đem cúng cho chúng Tăng? Đức Phật nói: –Tôi muốn cho Di mẫu được công đức lớn. Vì sao vậy? Vì ruộng phước của chúng Tăng rộng lớn vô biên, cho nên Tôi mới khuyên Di mẫu như thế. Nếu làm theo lời Tôi thì như vậy là đã cúng dường cho Đức Phật rồi. Bấy giờ Đại Ái Đạo liền đem cái y đó đến chỗ chúng Tăng, dâng cho vị Thượng tọa, nhưng vị Thượng tọa không dám nhận. Tiếp đến dâng cho Tôn giả Di-lặc. Tôn giả Di-lặc nhận y xong, liền đắp y vào thành khất thực. Thân của Tôn giả Di-lặc có ba mươi hai tướng tốt, sắc thân vàng tía; khi vào trong thành, mọi người tranh nhau mà nhìn, nhưng chẳng ai cúng dường cả. Lúc ấy có một thợ xâu ngọc thấy mọi người không ai cúng dường, nên liền quỳ trước Tôn giả, cầu xin Tôn giả đến nhà ông ta để thọ thực. Lúc Tôn giả Di-lặc thọ thực xong, người thợ xâu ngọc lấy một cái tòa nhỏ trải trước Tôn giả Di-lặc để cầu xin Tôn giả thuyết pháp. Tôn giả Di-lặc có bốn năng lực biện tài, liền thuyết cho anh ta nghe các thứ diệu pháp. Khi ấy anh thợ xâu ngọc hoan hỷ lắng nghe, không có nhàm chán. Trước đó có một trưởng giả, muốn đem con gái gả cho người ta, mới mướn anh thợ xâu ngọc này, xâu một hòn ngọc báu, trả cho anh mười vạn tiền. Ngay lúc ấy, nhà của cô dâu bảo người đến lấy ngọc, khi đó người thợ xâu ngọc đang nghe pháp chuyên ròng, không rảnh mà xâu, nên anh ta liền trả lời: –Hãy chờ cho chút nữa sẽ đến lấy. Gia đình cô dâu đến tới ba lần mà vẫn chưa lấy được ngọc, vị trưởng giả tức giận liền đòi cả ngọc cả tiền lại. Vợ của anh thợ xâu ngọc tức giận nói với chồng: –Lại mất việc rồi. Chỉ xâu ngọc có chốc lát mà được lợi mười vạn. Sao lại đi nghe lời hay của Đạo nhân làm gì? Người chồng nghe xong, trong ý hơi bực tức. Khi ấy Tôn giả Di-lặc biết trong ý anh ta có hơi bực tức, liền hỏi: –Ngươi có thể theo ta để đến chùa chăng? Thưa: –Con có thể. Anh liền đi theo Tôn giả Di-lặc đến chỗ chúng Tăng hỏi vị Thượng tọa: –Giả sử có người được đầy mười vạn lạng vàng, đâu bằng người hoan hỷ nghe pháp. Lúc ấy Tôn giả Kiều-trần-như đáp: –Giả sử có người được mười vạn lạng vàng không bằng có người lấy một bát cơm cúng dường cho một vị trì giới, huống chi người ấy có thể dùng tín tâm nghe pháp trong khoảnh khắc thì hơn người kia gấp trăm ngàn lần. Lúc đó anh ta lại hỏi vị Thượng tọa thứ hai, vị Thượng tọa thứ hai trả lời: –Giả sử có người được mười vạn xe vàng cũng không bằng có người lấy một bát cơm cúng dường cho người trì giới, huống chi người ấy lại hoan hỷ nghe pháp trong khoảnh khắc. Anh ta lại hỏi vị Thượng tọa thứ ba. Vị ấy đáp: –Nếu có người được mười vạn nhà vàng, cũng không bằng cúng dường cho vị trì giới một bát cơm, huống chi lại còn nghe pháp. Lại hỏi vị Thượng tọa thứ tư. Vị ấy đáp: –Nếu có người được mười vạn nước bằng vàng, cũng không bằng có người cúng dường cho vị trì giới một bát cơm, huống chi người ấy lại còn nghe pháp nữa thì sẽ hơn gấp trăm lần vạn lần. Cứ hỏi thứ lớp như vậy cho đến Tôn giả A-na-luật. Tôn giả A-na-luật nói: –Nếu có người được vàng đầy bốn thiên hạ vẫn không bằng có một người cúng dường cho vị trì giới một bát cơm, huống chi người ấy lại còn nghe pháp. Ngài Di-lặc hỏi: –Như chỗ Tôn giả nói nếu có người cúng dường cho vị Tỳ-kheo một bát cơm cũng vẫn hơn người được vàng đầy cả bốn châu thiên hạ, tại sao như vậy? Tôn giả A-na-luật đáp: –Điều này chính tự thân tôi chứng nghiệm. Tôi nhớ lại ngày xưa, cách đây chín mươi ức kiếp, có một vị trưởng giả, ông ta có hai người con, một người tên là Lợi-sất, còn người kia tên là A-lợi-sất. Ông thường dạy con: –Cái gì hễ cao thì sẽ rớt, thường thì cũng sẽ chấm dứt. Hễ sinh thì phải tử, họp hội thì phải chia ly. Rồi trưởng giả bị bệnh, giờ lâm chung sắp đến, ông dặn dò hai con: –Cẩn thận đừng ở riêng. Giống như một sợi tơ thì không thể cột nổi một con voi, phải dùng nhiều sợi tơ chập lại thì con voi không thể bứt đứt. Anh em cùng sống chung nhau, như nhiều sợi tơ chập lại vậy. Khi trưởng giả dặn dò con xong thì trút hơi thở cuối cùng. Nhớ lời khuyên bảo của cha mà hai em sống chung với nhau, hết sức kính nhường nhau. Sau đó người em cưới vợ, sống với nhau chưa bao lâu thì người vợ nói với chồng mình: –Anh như một tên đầy tớ. Vì sao vậy? Vì tiền của dùng để nuôi sống mà anh như người khách, tất cả đều do anh của anh nắm cả. Anh nay chỉ được áo cơm mà thôi, không phải nô lệ là gì? Nàng nói mấy lời như vậy, khi ấy tâm của hai vợ chồng thay đổi, yêu cầu người anh ở riêng. Người anh nói với em: –Em không nhớ lời cha nói lúc lâm chung sao? Nhưng người em vẫn không tự cải hối, mấy lần yêu cầu anh ở riêng. Người anh thấy ý của em đã quyết, liền chấp thuận chia gia tài, tất cả vật sở hữu, đều chia làm hai phần bằng nhau. Nhưng vợ chồng của người em, vì tuổi trẻ nên chơi bời buông thả, ăn tiêu xa xỉ, chưa được bao lâu mà đã trở nên bần cùng nghèo khổ, nên đi đến người anh để xin ăn. Lúc ấy người anh cho họ mười vạn đồng. Khi được tiền họ ra đi, nhưng chưa bao lâu lại tiêu sạch. Họ lại đến xin người anh. Sáu lần như vậy, người anh đều cho mỗi lần mười vạn đồng. Đến lần thứ bảy họ trở lại để xin thì người anh liền trách mắng: –Mày không nhớ lời cha dạy lúc lâm chung, đòi chia gia tài, ở riêng mày không ra sức làm ăn đàng hoàng mà trở lại đây cầu xin tài vật. Nay lại cho mày mười vạn đồng nữa. Từ nay về sau nếu không chịu làm ăn đàng hoàng mà trở lại đây để cầu xin nữa, thì ta sẽ không cho gì nữa cả. Khi nghe những lời cay đắng của anh, hai vợ chồng ra sức làm ăn, nhờ đó dần dần giàu có. Lúc ấy tiền của người anh thất thoát, dần dần trở nên nghèo khổ, đi đến xin người em, nhưng người em vẫn không cho người anh một bữa ăn, lại còn nói như vầy: –Anh luôn luôn giàu có, cũng bị nghèo nữa sao? Ngày trước tôi đến để xin, bị anh trách mắng thậm tệ, ngày nay vì cớ gì mà đến đây để xin tôi? Người anh nghe lời nói ấy rồi, hết sức buồn khổ, tự nghó: “Cùng là anh em mà còn như vậy, huống chi người ngoài?” Anh liền nhàm chán sự sinh tử, không trở về nhà nữa, vào núi học đạo, siêng năng khổ hạnh, được quả Bích-chi-phật. Sau đó dần dần, người em cũng trở nên nghèo khổ, gặp nạn đói kém, phải đi bán củi để kiếm sống. Bấy giờ vị Bích-chi-phật vào thành để khất thực, nhưng chẳng có gì cả, ôm bát không đi ra. Khi ấy người bán củi thấy vị Bích-chi-phật ôm bát không ra khỏi thành, nhờ bán củi nên có lúa tẻ, lúa mạch, muốn đem cúng cho ngài, nên nói với vị Bích-chi-phật: –Tôn giả có thể ăn món ăn dở chăng? Đáp: –Không cần ngon hay dở miễn nuôi thân là được. Người bán củi khi ấy liền cúng cơm cho ngài. Vị Bích-chi-phật thọ nhận và ăn. Sau khi ăn xong, bay lên hư không, làm mười tám cách biến hóa, liền trở về chỗ an trú. Người bán củi, sau đó đi kiếm củi, thấy một con thỏ, anh lấy gậy đập rồi mang về. Con thỏ biến thành người chết, bỗng nhiên đến ôm lấy cổ anh, nó bắt anh, anh dùng nhiều cách để hất nó xuống, nhưng không thể nào hất được. Anh cởi áo nhờ người kéo giữ nó lại, cũng không thể thoát được; lần lựa cho đến trời tối, anh cõng nó về nhà. Khi về đến nhà, người chết tự thả tay rơi xuống dưới đất, biến thành người bằng vàng ròng. Khi ấy người bán củi liền chặt đứt đầu người vàng, nhưng đầu liền mọc lại, anh chặt đứt tay chân nó, nhưng tay chân liền mọc lại. Trong khoảnh khắc đầu vàng và tay vàng đầy cả phòng anh, chất thành một đống lớn. Người hàng xóm thấy vậy tâu với quan: –Người bần cùng này tự nhiên trong nhà có một đống vàng. Nhà vua nghe vậy bảo sứ đến âm thầm tra xét. Khi sứ vào trong nhà thấy toàn là tử thi hôi thối, tay chân người chết. Anh tự cầm cái đầu vàng đến dâng cho vua, nó liền biến thành vàng ròng. Nhà vua rất hoan hỷ, nói: “Đây là người có phước”, liền phong cho anh nhiều thôn xóm. Từ đó đến lúc mạng chung, vị ấy được sinh lên cõi trời thứ hai, làm Thiên đế Thích. Đến lúc sinh xuống nhân gian làm Chuyển luân thánh vương, làm vua trời, vua cõi người chín mươi mốt kiếp, không bao giờ đoạn tuyệt. Nay thân cuối cùng sinh trong dòng họ Thích. Ngày đầu tiên khi mới sinh trong bốn mươi dặm những châu báu giấu dưới đất tự nhiên xuất hiện, sau đó lần lần lớn thêm ra. Người anh là Thích-ma-nam được cha thương mến. Mẹ của Tôn giả A-na-luật muốn thử các con, khi ấy bà bảo người nói: –Hôm nay không có cái ăn. Tôn giả A-na-luật nói: –Hãy mang cái nồi không đến đây. Bà mẹ liền đem cái nồi không đến. Khi ấy tự nhiên trong cái nồi không bỗng nhiên có đồ ăn trăm vị tràn đầy. Dẫu cho lấy vàng trong bốn thiên hạ để tiêu dùng thì một kiếp cũng không đủ, huống chi trong chín mươi mốt kiếp, trường thọ hưởng khoái lạc? Sở dó ngày nay tôi được đồ ăn thức uống tự nhiên như vậy là do thân đời trước cúng dường chư vị Bích-chi-phật một bát cơm, nay mới được quả báo như vậy. Trên từ chư Phật dưới đến Phạm thiên, người giữ giới thanh tịnh, đều gọi là trì giới. Bấy giờ thợ xâu ngọc nghe lời ấy xong, trong tâm hết sức hoan hỷ. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126105">QUYỂN 5 Gồm hai mươi hai truyện: 51. Chuyện Thiên nữ dùng tràng hoa cúng dường tháp Phật Ca-diếp. 52. Chuyện Thiên nữ dùng hoa sen cúng dường tháp Phật Ca-diếp. 53. Chuyện Thiên nữ thọ trì tám trai giới được sinh về cõi trời. 54. Chuyện Thiên nữ nhờ đốt đèn cúng dường được sinh ở cõi trời. 55. Chuyện Thiên nữ đang cỡi xe thấy Phật hoan hỷ tránh đường. 56. Chuyện Thiên nữ lấy hoa rải lên Phật biến thành lọng hoa. 57. Chuyện Xá-lợi-phất-ma-đề cúng dường tháp của Phật. 58. Chuyện vợ chồng trưởng giả xây cất chùa tháp được sinh ở cõi trời. 59. Chuyện vợ chồng trưởng giả tín tâm cung kính lễ Đức Phật được sinh ở cõi trời. 60. Chuyện cô gái ngoại đạo Bà-la-môn học đệ tử của Đức Phật thiết lễ trai diên được sinh ở cõi trời. 61. Chuyện cô gái nghèo cùng lấy tấm dạ cho trưởng giả Tu-đạt được sinh ở cõi trời. 62. Chuyện cô gái của trưởng giả không tin Tam bảo, cha nàng lấy tiền mướn nàng thọ trì Ngũ giới được sinh ở cõi trời. 63. Chuyện cô gái quét dọn thấy Phật sinh tâm hoan hỷ nên được sinh ở cõi trời. 64. Chuyện trưởng giả làm nhà thỉnh Đức Phật cúng dường, dùng nhà mới đểø bố thí được sinh ở cõi trời. 65. Chuyện người phụ nữ lấy nước mía cúng dường cho vị A-la-hán được sinh ở cõi trời. 66. Chuyện cô gái lấy hương xoa lên chân Đức Phật được sinh ở cõi trời. 67. Chuyện nữ tỳ của trưởng giả Tu-đạt quy y Tam bảo được sinh ở cõi trời. 68. Chuyện cô gái nghèo xin thức ăn nơi Phật được sinh ở cõi trời. 69. Chuyện nữ tỳ của trưởng giả đem cơm cho chủ, gặp Đức Phật liền cúng dường nên được sinh ở cõi trời. 70. Chuyện trưởng giả xây cất giảng đường cúng dường Đức Phật được sinh ở cõi trời. 71. Chuyện trưởng giả thấy vua xây tháp, ông cũng xây tháp được quả báo sinh ở cõi trời. 72. Chuyện người khách buôn xây cất nhà cúng dường Đức Phật được sinh ở cõi trời.  <詞 id="41126106">51- CHUYỆN THIÊN NỮ DÙNG TRÀNG HOA CÚNG DƯỜNG THÁP PHẬT CA-DIẾP Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân theo Phật nghe pháp được quả Tu-đà-hoàn liền trở về cõi trời tập hợp các Thiên chúng, tán thán Phật, Pháp, Tăng. Khi ấy có Thiên nữ đầu đội tràng hoa, tràng hoa chiếu sáng, ánh sáng hết sức rực rỡ, cùng các Thiên chúng tụ tập tại giảng đường Thiện pháp. Chúng các cõi trời thấy Thiên nữ ấy cho rằng đặc biệt hiếm thấy. Thích Đề-hoàn Nhân liền nói kệ hỏi Thiên nữ: Ngươi tạo phước nghiệp gì Thân sáng như vàng ròng Sắc sáng như hoa sen Lại có oai đức lớn? Thân chiếu sáng vi diệu Mặt tươi như hoa nở? Sắc vàng chiếu rực rỡ Do làm gì mà được Xin hãy nói ta nghe. Bấy giờ Thiên nữ nói bài kệ đáp lại: Xưa tôi lấy vòng hoa Cúng tháp Phật Ca-diếp Đời này sinh cõi Trời Được công đức vượt trội Sinh ở nơi giữa Trời Quả báo thân kim sắc. Thích Đề-hoàn Nhân lại nói kệ tán thán: Lạ thay! Ruộng công đức Đã nhổ hết cỏ xấu Hạt giống nhỏ như vậy Được quả báo thù thắng Ai mà không cúng dường Cung kính thân vàng tía. Ai không cúng dường Phật Ruộng công đức vi diệu Mắt Ngài thấy tất cả Giống như hoa sen xanh. Ngươi nên đến cúng dường, Bậc Vô Thượng thứ nhất Tạo một chút công đức Được nhan sắc như vậy. Bấy giờ Thiên nữ liền từ cõi trời đi xuống, tay cầm lọng hoa đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho Thiên nữ nghe Thiên nữ được đắc quả Tu-đà-hoàn, rồi trở về lại trời. Các Tỳ-kheo thấy chuyện lạ liền hỏi Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, nay vị Thiên nữ này nhờ làm công đức gì mà được thân trời đoan chánh, lại đặc biệt khác thường như thế? Đức Phật dạy: –Thuở xưa, cô ta đã dùng nhiều tràng hoa cúng dường tháp của Phật Ca-diếp. Do nhân duyên ấy nên nay được quả báo như vậy.  <詞 id="41126107">52- CHUYỆN THIÊN NỮ DÙNG HOA SEN CÚNG DƯỜNG THÁP PHẬT CA-DIẾP Bấy giờ lại có một Thiên nữ, trên đầu có tràng hoa chiếu sáng rực rỡ, cùng chư Thiên chúng đến tụ tập tại giảng đường Thiện pháp. Bấy giờ chư Thiên chúng thấy Thiên nữ, cho rằng đặc biệt hiếm thấy. Khi ấy vị trời Đế Thích dùng kệ hỏi: Xưa ngươi tạo phước gì Thân như khối vàng ròng Sắc sáng như hoa sen Lại có oai đức lớn Thân chiếu sáng vi diệu Mặt đẹp như hoa nở Hào quang chiếu rực rỡ? Nhờ nghiệp gì mà được Xin hãy nói ta nghe. Thiên nữ liền nói kệ đáp lại: Xưa tôi dùng hoa sen Cúng dường tháp Ca-diếp Ngày nay gặp Thế Tôn Được công đức thù thắng Được sinh ở trên trời Được quả báo sắc vàng. Thích Đề-hoàn Nhân lại dùng kệ tán thán: Lạ thay! Ruộng công đức Đã nhổ hết cỏ xấu Nhân gieo trồng rất ít Được quả báo thù thắng Ai chẳng muốn cúng dường Cung kính thân vàng tía. Ai không cúng dường Phật Ruộng thắng phước thượng diệu Mắt rộng, mày lại dài Giống như hoa sen xanh Xưa ngươi hay cúng dường Bậc Tôn Quý hơn hết Tạo phước đức vi diệu Được quả báo như vậy. Bấy giờ Thiên nữ liền từ cõi trời hạ xuống tay cầm lọng hoa đi đến chỗ Đức Phật, nghe Phật thuyết pháp được pháp nhãn thanh tịnh xong lại trở về cõi trời. Khi ấy các Tỳ-kheo bèn hỏi Đức Phật: –Cô gái ấy ngày xưa làm hạnh nghiệp gì mà được quả báo như vậy? Đức Phật dạy: –Trong thời quá khứ cô ta đã dùng hoa sen đẹp cúng dường tháp của Phật Ca-diếp, cho nên nàng được quả báo thù thắng, đồng thời cũng thấy được dấu vết của đạo.  <詞 id="41126108">53- CHUYỆN THIÊN NỮ THỌ TRÌ TÁM TRAI GIỚI ĐƯỢC SINH VỀ CÕI TRỜI Bấy giờ lại có một Thiên nữ thọ trì bát trai giới nên được sinh lên trời, được quả báo đoan chính, mặt sáng ngời tướng oai vệ, siêu tuyệt hơn những vị khác. Khi ấy cô cùng với chư Thiên tập hội tại giảng đường Thiện pháp, chư Thiên thấy cô cho rằng đặc biệt hiếm thấy. Thích Đề-hoàn Nhân liền dùng kệ để hỏi: Xưa ngươi tạo nghiệp gì Thân như núi vàng ròng Mặt sáng ngời, chiếu diệu Sắc như hoa sen đẹp Được oai đức thù thắng Thân phóng hào quang lớn? Tạo nghiệp gì được vậy Xin hãy nói ta nghe. Bấy giờ Thiên nữ nói bài kệ trả lời: Xưa thời Phật Ca-diếp Thọ trì bát trai giới Nay được sinh lên trời Được quả báo đoan chánh. Thích Đề-hoàn Nhân lại dùng bài kệ tán thán: Lạ thay! Ruộng công đức Sinh quả báo thắng diệu Xưa tu nhân rất ít Mà được sinh trên trời Như phước thù thắng này Người nào chẳng cúng dường. Đấng Tối Thắng như thế Ai mà chẳng cung kính! Các cõi nghe việc này Nên vui mừng hớn hở Muốn cầu sinh lên trời Cần phải trì tịnh giới. Bấy giờ vị Thiên nữ này cầm lọng hoa đẹp đi đến chỗ Đức Phật, Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe, Thiên nữ liền được thấy con đường chắc thật. Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Vị thiên này ngày xưa tạo phước nghiệp gì mà được sinh lên trời chứng được Thánh quả. Đức Phật trả lời: –Ngày xưa, lúc còn là người, vị ấy ở chỗ Đức Phật Ca-diếp thọ trì Bát trai giới. Do thiện hạnh đó nên được sinh lên cõi trời, rồi thấy được đạo.  <詞 id="41126109">54- CHUYỆN THIÊN NỮ NHỜ ĐỐT ĐÈN CÚNG DƯỜNG ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ, ở thành Vương xá, vua Tần-­bà-sa-la đã được đắc đạo, được tín tâm bất hoại đối với Phật pháp, thường đốt đèn sáng để cúng dường Phật. Sau đó Đề-bà-đạt-đa cùng với vua A-xà-thế làm ác tri thức, muốn hại Phật pháp. Vì vậy trong nước không ai dám thắp đèn cúng dường nữa. Bấy giờ có một người nữ, vì tập quán thường lệ, vào ngày Tăng tự tứ ở đầu đường Phật kinh hành, cô đốt đèn cúng dường. Vua A-xà-thế nghe việc ấy bừng bừng tức giận liền vung kiếm chém ngang lưng cô. Khi mạng chung cô được sinh lên cung điện Ma-ni-diệm ở tầng Trời thứ Ba mươi ba. Từ cung điện này cô đi đến giảng đường Thiện pháp. Thiên đế Thích dùng kệ để hỏi: Xưa ngươi tạo nghiệp gì Thân như khối vàng sáng Lại có đại oai đức Dung mạo thật quang minh? Khi ấy Thiên nữ dùng kệ để trả lời: Bậc Cứu Tế tam giới Đèn lớn soi ba cõi Chí tâm, mắt quán Phật Thân trang nghiêm tướng hảo. Bậc Tối Thắng của pháp Vì Ngài đốt đèn sáng Đèn sáng diệt tối tăm Đèn Phật trừ các ác Thấy đèn như trời sáng Sinh lòng tin chân thật Thấy đèn sáng rực rỡ Vui mừng đảnh lễ Phật. Nói bài kệ này xong, cô đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe, cô được chứng quả Tu-đà-hoàn, liền trở về cõi trời. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Cô ta nhờ nhân duyên gì được sinh ở cung trời? Đức Phật dạy: –Ngày xưa ở nhân gian, vào ngày Tăng tự tứ, cô đốt đèn ở đầu đường Phật kinh hành để cúng dường, bị vua A-xà-thế chém ngang lưng. Do nhân lành đó sau khi mạng chung được sinh lên trời, cô lại đến bên Ta để nghe pháp một cách tin hiểu liền chứng được đạo quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126110">55- CHUYỆN NGƯỜI NỮ ĐANG CỠI XE THẤY PHẬT HOAN HỶ TRÁNH ĐƯỜNG Bấy giờ Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, vào thành khất thực. Khi ấy có một đồng nữ đang cỡi xe vui chơi, muốn vào trong vườn, giữa đường gặp Đức Như Lai, sinh tâm hoan hỷ, liền quày xe tránh đường. Sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba, đi đến tụ tập tại giảng đường Thiện Pháp. Thích Đề-hoàn Nhân dùng kệ hỏi: Xưa ngươi làm hạnh gì Sắc thân như vàng thật Mặt chiếu sáng rạng ngời Giống như hoa Ưu-bát Được oai đức thù thắng Được sinh lên cõi trời? Xin hãy nói ta nghe Do đâu mà được vậy? Khi ấy Thiên nữ liền dùng kệ trả lời: Tôi thấy Phật vào thành Quày xe để tránh đường Sinh hoan hỷ, kính tín Mạng chung được sinh Thiên. Khi nói kệ xong, cô đi đến chỗ Đức Phật, Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe và cô chứng được quả Tu-đà-hoàn, liền trở về ở cung trời. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Do nghiệp duyên gì mà cô ta được sinh lên Trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian, cô ta quày xe tránh đường Ta. Nay được sinh lên trời, cô lại đến chỗ Ta, nghe pháp tín thọ, được chứng quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126111">56- CHUYỆN THIÊN NỮ DÙNG HOA RẢI TRÊN PHẬT BIẾN THÀNH LỌNG HOA Bấy giờ ở nước Xá-vệ có một người nữ, vào ngày tiết hội, hái hoa A-như-già, lại đi vào thành, gặp Đức Phật đang đi ra. Cô liền lấy hoa ấy rải cúng dường Đức Phật, hoa hóa thành lọng hoa. Cô hớn hở vui mừng, sinh tâm tín kính. Đến khi mạng chung, sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba, từ cung điện ấy đi đến Thiện pháp đường. Đế Thích dùng kệ hỏi: Xưa ngươi tạo nghiệp gì Được sinh lên cõi trời Thân như sắc vàng ròng Oai đức thật quang minh Nhờ nghiệp gì mà được Xin hãy nói ta nghe? Thiên nữ liền dùng bài kệ trả lời: Xưa ở Diêm-phù-đề Lấy hoa A-như-già Khi về gặp Như Lai Liền đem cúng dường Phật Lòng hoan hỷ kính trọng Mạng chung được sinh Thiên. Khi nói kệ ấy rồi, cô liền đến chỗ Đức Phật, Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe, cô liền đắc quả Tu-đà-hoàn, lại trở về cõi trời. Lúc ấy các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Người Thiên nữ này nhờ nhân duyên gì mà được làm thân trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa, ở cõi người, cô ra khỏi thành hái hoa A-như-già, khi trở vào thành gặp Ta, phát tâm hoan hỷ liền đem hoa cúng dường. Nhờ thiện nghiệp ấy, lúc mạng chung được sinh lên trời, lại đến chỗ Ta để nghe pháp, cô liền được chứng quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126112">57- CHUYỆN XÁ-LỢI-PHẤT-MA-ĐỀ CÚNG DƯỜNG THÁP CỦA PHẬT Vua Tần-bà-sa-la đã thấy được chân lý, mấy lần đến chỗ Đức Phật lễ bái thăm hỏi. Khi ấy các cung nữ trong cung ngày ngày đến gần Đức Phật không được. Nhà vua bèn lấy tóc của Đức Phật dựng tháp ở trong cung, để cho người trong cung thường ngày đến cúng dường. Khi vua Tần-bà-sa-la băng hà, Đề-bà-đạt-đa cùng vua A-xà-thế, tâm đầu ý hợp cùng sinh tâm phỉ báng Phật, không cho phép người trong cung đến cúng dường tháp này. Khi ấy có một người trong cung tên là Xá-lợi-phất-ma-đề, vào ngày Tăng tự tứ, nhớ lại tập tục trước, liền lấy hương hoa cúng dường tháp này. Khi ấy vua A-xà-thế vì ghét người ấy đến cúng dường tháp Phật, ông dùng gươm đâm chết người đó. Lúc mạng chung cô được sinh lên cõi trời Ba mươi ba, từ cung điện ở cõi trời cô đến tập hội tại Thiện pháp đường. Trời Đế Thích liền dùng kệ để hỏi: Xưa ngươi tạo phước gì Mà được sinh lên trời Oai đức thật quang minh Giống như sắc vàng ròng Tạo nghiệp gì mà được Xin hãy nói ta nghe? Lúc ấy Thiên nữ dùng kệ đáp lại: Xưa tôi ở nhân gian Tâm hoan hỷ cung kính Dùng các hương hoa tốt Để cúng dường tháp Phật Nhưng vua A-xà-thế Đã dùng gươm giết tôi Mạng chung được sinh Thiên Hưởng vui sướng tột bậc. Khi nói kệ ấy xong, cô ta đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe và cô được đắc quả Tu-đà-hoàn, liền trở về Thiên cung. Lúc ấy các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Nhờ nhân duyên gì mà cô ta được sinh ở cõi Trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian, cô đã từng lấy hương hoa để cúng dường tháp Phật. Do nghiệp lành ấy cho nên nay được làm thân trời, lại đến chỗ Ta nghe pháp nên được giác ngộ, chứng quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126113">58- CHUYỆN VỢ CHỒNG TRƯỞNG GIẢ XÂY CẤT CHÙA THÁP ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ở nước Xá-vệ có một trưởng giả tạo lập chùa tháp và nhà Tăng. Khi trưởng giả bị bệnh mạng chung, được sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba. Người vợ nhớ chồng ưu sầu khổ não. Vì thương nhớ chồng cho nên bà sửa sang chùa tháp và nhà Tăng như lúc chồng còn sống. Người chồng ở trên trời tự mình xem xét và nói: “Ta nhờ nhân duyên gì mà được sinh trên cõi trời này?” Ông biết nhờ công đức tạo chùa tháp, cho nên mới được sinh đến đây. Ông tự biết như vậy mà được sinh thân trời, cho nên tâm thường sinh hoan hỷ, thường nghó đến chùa tháp. Nhờ Thiên nhãn quán thấy những chùa tháp mình đã tạo, nay ai đang coi ngó? Ông liền thấy vợ mình ngày đêm nhớ chồng, ưu sầu, khổ não, vì chồng của mình, cho nên mới sửa sang chùa tháp. Người chồng liền nghó: “Vợ ta vì ta mà có được công đức lớn, nay ta thường đến chỗ ấy để thăm viếng an ủi.” Ông liền biến mất ở cõi trời, đi đến bên vợ, nói: –Nàng ưu sầu thống thiết là vì nhớ ta chăng? Vợ hỏi: –Ông là ai mà đến khuyên can tôi vậy? Đáp: –Ta là chồng nàng, nhờ nhân duyên tạo dựng chùa tháp, tăng phường mà được sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba. Thấy nàng siêng năng sửa sang chùa tháp, cho nên ta đến bên nàng. Vợ nói: –Hãy đến trước cùng tôi giao hội. Chồng nói: –Thân người hôi thối không thể đến gần. Nếu muốn làm vợ ta, hãy nên siêng năng cúng dường Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng, sau khi mạng chung sẽ sinh lên Thiên cung của ta, ta sẽ lấy nàng làm vợ. Người vợ làm theo lời chồng, cúng dường Phật, Tăng, tạo các công đức, phát nguyện sinh lên cõi trời. Do đó sau khi mạng chung liền sinh lên cõi trời ấy, vợ chồng gặp nhau, đồng đến bên Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp, sau khi nghe xong họ chứng được quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo thấy chuyện lạ liền hỏi Đức Phật: –Hai vợ chồng họ tạo nghiệp duyên gì mà được sinh lên cõi trời? Đức Phật dạy: –Ngày xưa ở cõi người, họ xây cất chùa tháp, nhà Tăng, cúng dường Phật và Tăng, do công đức đó cho nên nay được sinh cõi trời.  <詞 id="41126114">59- CHUYỆN VỢ CHỒNG TRƯỞNG GIẢ TÍN TÂM KÍNH LỄ ĐỨC PHẬT ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Trong thành Vương xá có một trưởng giả ngày ngày đi đến chỗ Đức Phật, làm cho vợ ông sinh nghi mới nghó: “Phải chăng chồng ta tư thông với người nào cho nên ngày nào cũng đi? Bà liền hỏi chồng: –Ngày ngày ông thường đi đâu rồi trở về? Người chồng trả lời vợ –Ta đến hầu Đức Phật rồi trở về. Vợ hỏi: –Đức Phật đẹp hay xấu, có hơn ông không, mà ông cứ thường đến bên ông ta? Người chồng liền tán thán các thứ công công đức của Đức Phật cho vợ nghe. Khi ấy người vợ nghe công đức của Đức Phật, tâm sinh hoan hỷ, liền cỡi xe đi đến chỗ Đức Phật. Lúc ấy, ở bên Đức Phật có các vị vua, đại thần vây quanh bên phải, bên trái khiến nàng không thể đến trước Đức Phật, mà đứng từ xa lạy Phật rồi trở vào thành. Sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba, vị ấy liền tự nghó: “Ta nhờ ân sâu của Đức Phật, nhờ công đức lạy Ngài một lạy mà được sinh lên cõi trời.” Cô liền từ cõi trời xuống, đi đến chỗ Đức Phật, Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe và cô liền được chứng quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Nhờ nhân duyên gì mà cô ta được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian, cô đã đảnh lễ Ta, nhờ công đức của một cái lạy ấy, sau khi mạng chung cô được sinh lên cõi trời.  <詞 id="41126115">60- CHUYỆN CÔ GÁI NGOẠI ĐẠO BÀ-LA-MÔN HỌC ĐỆ TỬ CỦA ĐỨC PHẬT THIẾT LỄ TRAI DIÊN ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ ở nước Xá-vệ, có các đệ tử của Phật, là nữ nhân làm ấp hội, thường đi đến bên Đức Phật. Trong số bạn bè theo học, có một cô gái Bà-la-môn, tà kiến không tin, không từng thọ trai trì giới, thấy các người nữ cùng tụ hội để thọ trai. Cô hỏi: –Hôm nay các chị vì sao lại tập hợp ở đây? Tôi với mấy chị là chỗ thân thiết, sao lại không sai tôi làm cái gì? Các cô bạn trả lời: –Chúng tôi đang thiết trai. Cô gái Bà-la-môn nói: –Hôm nay không phải là ngày mồng sáu trong tháng, cũng không phải là ngày mười hai, vậy thiết trai theo pháp của ai? Các cô bạn trả lời: –Chúng tôi thiết trai theo pháp của Đức Phật. Cô gái Bà-la-môn nói: –Các chị thiết trai theo pháp của Đức Phật thì được công đức gì? Đáp: –Được sinh lên cõi trời, được giải thoát. Cô gái Bà-la-môn vì ham ăn uống cho nên lấy nước làm trai thực, sau đó lấy nước tương ngon đổ vào. Trai pháp của Bà-la-môn thì không uống, không ăn. Còn trai pháp của Đức Phật thì ăn cơm ngon, uống nước ngọt. Trai pháp này rất dễ, cho nên cô sinh tín tâm, ưa thích, hoan hỷ. Vì vậy sau khi mạng chung cô được sinh lên cõi trời. Cô lại đi đến bên Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe, cô được đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Nhờ nhân duyên gì mà cô ta được sinh lên cõi trời? Đức Phật đáp: –Ngày xưa ở nhân gian, cô thấy các cô gái tụ tập để thiết trai, cô cũng tùy hỷ thiết trai. Do nghiệp lành ấy, cô được sinh lên cõi trời.  <詞 id="41126116">61- CHUYỆN CÔ GÁI NGHÈO CÚNG TẤM DẠ CHO TRƯỞNG GIẢ TU-ĐẠT ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ trưởng giả Tu-đạt suy nghó như vầy: “Thiện pháp nuôi sống gia đình ta, sau khi mạng chung, không đọa ác đạo. Vì sao vậy? Vì ta đã hết lòng dạy dỗ gia đình ta bằng tịnh pháp. Những người bần cùng khốn khổ, có tín tâm hay không có tín tâm, nay ta cũng dùng điều lành dạy họ, bảo họ cúng dường Phật và Tăng. Đó là việc làm đầy đủ trên hết.” Ông liền tâu với vua Ba-tư-nặc, vua bảo sứ đánh trống, rung linh báo cho dân chúng biết: –Sau bảy ngày nữa trưởng giả Tu-đạt muốn khuyến hóa, quyên góp để cúng dường Tam bảo. Xin tất cả nhân dân ai nấy cũng tùy hỷ, bố thí nhiều hay ít, cho đến đầu ngày thứ bảy, trưởng giả Tu-đạt sẽ đi đến từng người để khuyến hóa quyên góp. Khi ấy có một cô gái nghèo buôn bán khổ sở chỉ được một tấm dạ để che thân. Cô thấy trưởng giả đến xin liền đem cho. Tu-đạt nhận rồi, lấy làm kinh ngạc, liền lấy tiền bạc, lúa, luạ, y thực, tùy ý cô ta thích gì ông đều đem cung cấp đầy đủ. Sau khi mạng chung người nữ nghèo khổ đó được sinh lên cõi trời, cô đi đến bên Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe và cô được quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Nay Thiên nữ này nhờ nhân duyên gì được sinh lên cõi trời. Đức Phật trả lời: –Ngày trước ở nhân gian, gặp trưởng giả Tu-đạt khuyến hóa, quyên góp, cô sinh tâm hoan hỷ liền lấy tấm dạ trắng đang mặc trên người, bố thí cho Tu-đạt. Nhờ nghiệp lành ấy, cô được sinh lên cõi trời. Rồi cô lại đến bên Ta nghe pháp tin, hiểu nên chứng được quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126117">62- CHUYỆN CON GÁI CỦA TRƯỞNG GIẢ KHÔNG TIN TAM BẢO, CHA NÀNG LẤY TIỀN BẠC MƯỚN NÀNG THỌ TRÌ NĂM GIỚI ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ, trong nước Xá-vệ có một vị trưởng giả tên là Phất-xa, sinh hai người con gái. Một người thì xuất gia, tu hành tinh tấn, chứng quả A-la-hán, còn một người thì tà kiến, phỉ báng không tin. Khi ấy, người cha nói với cô gái không có tín tâm này: –Nay nếu con quy y Phật, cha sẽ cho con một ngàn đồng vàng, cho đến quy y Pháp và Tăng, thọ trì năm giới, cha sẽ cho con tám ngàn đồng tiền vàng. Khi ấy cô liền thọ năm giới, không bao lâu sau đó thì mạng chung, được sinh lên cõi trời. Cô đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe, cô liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Cô Thiên nữ này nhờ làm hạnh nghiệp gì mà được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Lúc ở nhân gian, cô tham tiền vàng của cha nên quy y Tam bảo, thọ trì năm giới. Nhờ nhân duyên ấy, nên nay cô được sinh lên cõi trời, lại đến chỗ Ta nghe pháp được đắc đạo.  <詞 id="41126118">63- CHUYỆN CÔ GÁI QUÉT DỌN THẤY PHẬT SINH TÂM HOAN HỶ NÊN ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Theo pháp ở Nam Thiên trúc, hễ trong nhà có đồng nữ thì phải bảo đồng nữ dạy sớm để quét dọn trong nhà, ngoài ngõ, bên trái bên phải thật sạch. Có một cô gái của vị trưởng giả dậy sớm quét sân, bỗng gặp Đức Như Lai đang đi ngang trước ngõ. Cô thấy Đức Phật sinh tâm hoan hỷ, chú ý nhìn Phật. Sau đó tuổi thọ ngắn ngủi, mạng chung cô sinh ở cõi trời. Phàm người sinh ở cõi trời có ba cách suy nghó. Tự suy nghó: “Xưa thân ta là gì?”, cô tự biết mình là thân người. “Nay sinh ở đâu?”, cô biết rõ là đang ở cõi trời. “Xưa tạo nghiệp gì mà được sinh đến đây?”, cô biết là nhờ thiện nghiệp thấy Phật mà sinh lòng hoan hỷ, nên mới được quả báo này. Cô cảm niệm ân sâu của Đức Phật, đi đến để cúng dường Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe, cô chứng quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Phật: –Nhờ nhân duyên gì mà cô gái này được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian, cô ta dậy sớm quét dọn, gặp Đức Phật đi ngang qua cửa, cô thấy Đức Phật sinh tâm hoan hỷ. Do nghiệp lành ấy cho nên được sinh lên cõi trời, cô lại đến chỗ Ta nghe pháp mà được chứng đạo.  <詞 id="41126119">64- CHUYỆN TRƯỞNG GIẢ LÀM NHÀ THỈNH PHẬT CÚNG DƯỜNG, DÙNG NHÀ MỚI ĐỂ BỐ THÍ ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ở thành Vương xá có một vị đại trưởng giả, xây dựng nhà mới, thỉnh Đức Phật đến để cúng dường. Rồi ông bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, từ nay về sau, khi vào thành rửa tay rửa bát, mong Ngài luôn luôn đến đây. Sau đó, ông mạng chung được sinh lên cõi trời. Từ cung điện cõi trời ông đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe và ông chứng được quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Nhờ nhân duyên gì mà ông ta được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian, ông tạo dựng nhà cửa mới, thỉnh Phật đến cúng dường. Do thiện nghiệp ấy nay được sinh lên Thiên cung, ông lại đến chỗ Ta nghe pháp và được đắc đạo.  <詞 id="41126120">65- CHUYỆN NGƯỜI PHỤ NỮ LẤY NƯỚC MÍA CÚNG DƯỜNG CHO VỊ A-LA-HÁN ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Xưa ở nước Xá-vệ có một vị Tỳ-kheo La-hán vào thành khất thực, lần lượt đến nhà ép mía. Lúc ấy có một nàng dâu của nhà ấy đem một bát nước mía dâng cúng vị Tỳ-kheo này. Mẹ chồng thấy vậy liền khởi sân tâm, lấy gậy đánh đập cô ta, không may trúng vào thắt lưng nên cô ta tức thì mạng chung và được sinh lên cõi trời Đao-lợi, cũng làm thân nữ và ở chỗ cung điện toàn là mía đường. Lúc chư Thiên chúng tập hợp tại Thiện pháp đường thì cô ta cũng đến đó. Khi ấy Đế Thích dùng kệ hỏi rằng: Xưa người gieo nhân gì Mà được diệu sắc thân Sắc quang minh hơn hết Giống như sắc vàng ròng? Thiên nữ dùng kẹâ đáp: Xưa tôi ở cõi người Lấy nước mía cúng dường Nay được quả báo lớn Ở trong chúng chư Thiên Quang minh tỏa sáng ngời.  <詞 id="41126121">66- CHUYỆN CÔ GÁI DÙNG HƯƠNG XOA LÊN CHÂN ĐỨC PHẬT ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa, ở trong thành Xá-vệ có một người nữ đang ngồi dưới đất mài hương, bỗng gặp Đức Phật đi vào thành. Khi thấy Đức Phật cô gái liền sinh tâm hoan hỷ, lấy hương đã mài xoa vào chân của Đức Phật. Nhờ đó sau khi mạng chung cô được sinh lên trời, hương trong thân bay xa hơn bốn ngàn dặm. Cô đến tập hợp tại Thiện pháp đường. Đế Thích dùng kệ để hỏi: Xưa ngươi tạo phước gì Thân hình hương thơm phức Sinh ở trên cõi trời Ánh sáng như vàng khối? Thiên nữ liền dùng kệ trả lời: Tôi dùng hương thượng diệu Cúng dường Đấng Tối Thắng Được oai đức tuyệt luân Sinh tầng trời Ba ba Hưởng vui sướng cùng tột Thân thơm các diệu hương Xa đến trăm do-tuần, Những người nghe hương này Đều được lợi ích lớn. Liền khi ấy Thiên nữ đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe, cô liền chứng được quả Tu-đà-hoàn, rồi cô trở về cõi trời. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Ngày xưa cô ta tạo phước gì mà nay được sinh ở cõi trời, thân mình có mùi hương thơm phức? Đức Phật dạy: –Thiên nữ này ngày xưa ở nhân gian nhờ lấy hương xoa chân Ta. Do nhân duyên đó khi mạng chung được sinh lên cõi trời, hưởng quả báo như vậy.  <詞 id="41126122">67- CHUYỆN NỮ TỲ CỦA TRƯỞNG GIẢ TU-ĐẠT QUY Y TAM BẢO ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ, ở nước Xá-vệ trưởng giả Tu-đạt dùng mười vạn lượng vàng mướn người quy y Tam bảo. Khi ấy có một nữ tỳ nghe trưởng giả nói liền quy y Phật. Sau khi mạng chung cô được sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba. Bấy giờ cô đi đến Thiện pháp đường. Đế Thích dùng kệ để hỏi: Xưa ngươi có phước gì Mà được sinh cõi trời Sắc quang minh vi diệu Xin hãy nói ta nghe? Khi ấy Thiên nữ dùng kệ trả lời: Bậc Tối Thắng tam giới Cắt đứt khổ sinh tử Bậc Cứu Tế ba cõi Đoạn trừ tham, sân, si Xưa tôi quy y Phật Cùng với Pháp và Tăng Bởi do nhân duyên ấy Được quả báo như vậy. Nói kệ xong, cô đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe và cô đắc được quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Nhờ nghiệp duyên gì mà cô ta được quả báo như vậy? Đức Phật trả lời: –Xưa ở nhân gian, cô ta quy y Phật cho nên được sinh lên cõi trời. Nhờ nghe Ta thuyết pháp nên được quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126123">68- CHUYỆN CÔ GÁI NGHÈO XIN THỨC ĂN NƠI PHẬT ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa ở nước Xá-vệ có một cô gái bần cùng khốn khổ, thường đứng ở đầu đường xin ăn để kiếm sống, dần dần đã lâu ngày tất cả mọi người, chẳng ai thèm nhìn cô. Khi ấy Đức Phật đi đến chỗ cô đang ở, cô xin thức ăn nơi Phật. Đức Phật xót thương cô gái nghèo, khốn khổ đói khát gần chết. Ngài liền bảo Tôn giả A-nan lấy cơm cho cô ăn. Khi ây cô gái nghèo được ăn nên vui mừng. Sau đó cô mạng chung được sinh lên cõi trời. Cảm nhớ cái ân trước của Đức Phật, cô đi đến để cúng dường. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe và cô đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Nay Thiên nữ này nhờ nhân duyên gì mà được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Thiên nữ này, ngày xưa ở nhân gian đói khát khốn khổ gần chết, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan lấy cơm cho ăn. Khi được ăn xong, sinh tâm hoan hỷ. Nhờ thiện căn ấy, nên sau khi mạng chung, được sinh Thiên cung, cô lại đến chỗ Ta nghe pháp mà đắc đạo.  <詞 id="41126124">69- CHUYỆN NỮ TỲ CỦA TRƯỞNG GIẢ ĐEM CƠM CHO CHủ, GẶP ĐƯỢC PHẬT LIỀN CÚNG DƯỜNG NÊN ĐƯỢC QUẢ BÁO SINH Ở CÕI TRỜI Ở trong nước Xá-vệ có người con của trưởng giả vui chơi trong vườn với con của các trưởng giả khác. Đến lúc muốn đi thì bảo với người nhà: –Hãy đem cơm cho tôi. Sau đó người nhà bảo nữ tỳ đem cơm. Nữ tỳ đi ra ngoài ngõ liền gặp Đức Phật, cô liền lấy cơm ấy cúng dường cho Đức Phật. Cô lại trở về nhà lấy cơm khác đem đi. Cũng ngay giữa đường gặp ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, cô liền cúng dường cho các ngài. Lần thứ ba cô lấy cơm đem cho con của trưởng giả. Khi con của trưởng giả ăn xong, tự đi về nhà và nói với vợ: –Vì sao hôm nay đem cơm trễ quá vậy? Người vợ trả lời: –Hôm nay đem cơm cho chàng đến ba lần sao lại nói chậm trễ? Bà liền gọi cô nữ tỳ để hỏi: –Sáng nay ngươi lấy cơm ba lần đem cho ai? Cô nữ tỳ đáp: –Lần thứ nhất đem cơm gặp Đức Phật tôi liền cúng cho ngài. Lần thứ hai đem cơm gặp ngài Xá-lợi-phất và ngài Mục-kiền-liên, tôi lại cúng cho các ngài. Lần thứ ba lấy cơm mới đưa lại cho đại gia. Đại gia nghe vậy bừng bừng tức giận lấy gậy mà đập làm cô chết ngay, cô liền sinh lên cõi trời. Khi mới sinh lên cõi trời, có đầy đủ ba ý nghó: 1. Tự nghó: “Nay ta sinh ở chỗ nào?”. Tự biết là sinh ở cõi trời. 2. Tự suy nghó: “Từ cõi nào mạng chung mà lại sinh ở cõi trời?”. Cô biết từ cõi người được sinh ở cõi trời. 3. Tự suy nghó: “Nhờ những nghiệp duyên gì mà được sinh lên cõi trời?”. Cô biết nhờ cúng dường cơm mà được quả báo này. Cô liền đi đến chỗ Đức Phật để cung kính cúng dường. Đức Phật thuyết pháp cho cô nghe và cô đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Nay Thiên nữ này nhờ nhân duyên gì mà được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian cô ta làm nữ tỳ của trưởng giả khi đem cơm cho con của trưởng giả thì gặp Đức Phật Như Lai, cô liền lấy cơm ấy cúng dường cho Phật nên ông chủ cô tức giận lấy gậy đập chết. Nhờ nhân duyên ấy nên mạng chung được sinh lên trời. Cô lại đến chỗ Ta nghe pháp mà chứng đạo.  <詞 id="41126125">70- CHUYỆN TRƯỞNG GIẢ XÂY CẤT GIẢNG ĐƯỜNG CÚNG DƯỜNG ĐỨC PHẬT ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ ở thành Vương xá, vua Tần-bà-sa-la xây cất chùa tháp và tăng phòng cúng dường Đức Phật. Khi ấy có một trưởng giả cũng muốn xây cất phòng ốc nhà cửa đẹp để cúng dường Đức Phật, nhưng không tìm ra chỗ, liền lấy chỗ Đức Phật kinh hành xây cất một giảng đường có bốn cửa lớn. Sau khi mạng chung vị ấy được sinh lên cõi trời. Từ nơi cung điện của chư Thiên, ông đến cúng dường Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe và ông đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Nay Thiên tử này nhờ nghiệp duyên gì mà được sinh lên Thiên cung? Đức Phật trả lời: –Xưa ở nhân gian ông ta xây cất giảng đường để cúng Đức Phật. Do thiện nhân ấy, nên mạng chung ông được sinh lên cõi trời. Nay đến chỗ Ta, vị ấy cảm nhớ ân đức, cúng dường, lại nghe Ta thuyết pháp nên được quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126126">71- CHUYỆN TRƯỞNG GIẢ THẤY VUA XÂY THÁP, ÔNG CŨNG XÂY THÁP ĐƯỢC QUẢ BÁO SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ, trong núi Kỳ-xà-quật, phía Nam nước Ấn độ có một vị trưởng giả thấy vua Tần-bà-sa-la xây Tăng phòng đẹp đẽ cúng cho Đức Phật. Ông cũng xây tháp và tăng phòng rồi thỉnh Đức Như Lai đến ở. Sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời, ông lại đến chỗ Đức Phật để báo ân và cúng dường. Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe và ông đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Trước đây vị Thiên tử này nhờ nhân duyên gì mà được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian thấy vua xây tháp, ông ta sinh tâm tùy hỷ và rồi xin phép Đức Như Lai tạo lập tháp để cúng dường. Nhờ thiện nghiệp ấy được sinh lên cõi trời, ông lại đến chỗ Ta nghe pháp, rồi tin hiểu, chứng quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126127">72- CHUYỆN NGƯỜI KHÁCH BUÔN XÂY NHÀ CÚNG DƯỜNG ĐỨC PHẬT ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ, ở nước Xá-vệ có một người khách buôn đi xa để buôn bán, bị chết ở xứ người không trở về được. Người mẹ ở nhà phải nuôi con anh. Khi đứa con khôn lớn lại muốn đi xa. Tổ mẫu mới nói với anh: –Cha ngươi đi xa, khi chết bỏ thân nơi đất khách không trở về nữa. Vậy ngươi chớ nên đi xa, hãy ở gần đây, ra chợ buôn bán. Anh ta liền vâng lời dạy ấy, đi đến giữa chợ làm một cái quán để buôn bán. Anh nghó như vầy: “Nhân dân trong thành này tất cả đều thỉnh Đức Phật. Nay ta mới làm nhà xong cũng nên thỉnh Đức Như Lai.” Khi Đức Phật đến nhà, anh bạch Đức Phật: –Con đem nhà này cúng dường Đức Như Lai. Từ nay về sau, khi nào vào thành rửa tay rửa bát, mong Đức Như Lai hãy đến nhà con. Nhờ vậy sau khi mạng chung, anh liền sinh lên cõi trời. Rồi vị trời đi đến chỗ Đức Phật, Đức Phật thuyết pháp cho vị ấy nghe nên được đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Vị trời này ngày xưa nhờ nhân duyên gì mà được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa lúc làm người, anh làm nhà mới để buôn bán và thỉnh Phật vào nhà. Nhờ thiện nghiệp ấy cho nên anh được sinh lên cõi trời. Anh lại đến chỗ Ta nghe pháp và được chứng quả. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126128">QUYỂN 6 Gồm sáu chuyện: 73. Chuyện Đế Thích hỏi việc. 74. Chuyện Đức Phật độ A-nhã Kiều-trần-như và nhiều người trong quá khứ. 75. Chuyện con của Sai-ma bị bệnh mắt quy y Tam bảo được nhãn tịnh. 76. Chuyện bảy loại pháp bố thí. 77. Chuyện vua nước Ca-bộ lúc trời hạn hán tắm Phật nên được mưa. 78. Chuyện trưởng giả thỉnh Xá-lợi-phất và Ma-ha-la.  <詞 id="41126129">73- CHUYỆN ĐẾ THÍCH HỎI VIỆC Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở phía Nam thành Vương xá tại nước Ma-kiệt-đề. Có tụ lạc của Bà-la-môn tên là Yêm-ba-la-lâm, ở phía Bắc của tụ lạc này có một hang núi đá tên là Tỳ-đề-hê. Bấy giờ Đế Thích nghe Đức Phật ở tại đó, liền bảo vương tử Kiền-thát-bà Bàn-xà-thức-xí: –Đức Thế Tôn đang ở trong hang núi Tỳ-đề-hê về phía Bắc của tụ lạc Bà-la-môn, tên là Yêm-ba-la-lâm thuộc nước Ma-kiệt-đề. Nay ta cùng ngươi hãy đến đó. Vương tử Kiền-thát-bà Bàn-xà-thức-xí đáp: –Thưa vâng, việc này rất tốt. Vương tử vui mừng hớn hở ôm đàn lưu ly theo Đế Thích đi đến chỗ Đức Phật. Bấy giờ chư Thiên nghe Đế Thích cùng vương tử Kiền-thát-bà… muốn đi đến chỗ Đức Phật, cả đoàn tự trang nghiêm đi theo Đế Thích và biến mất nơi cõi trời hiện đến núi Tỳ-đề-hê. Khi ấy trong núi này ánh sáng rực rỡ, những người ở núi này đều bảo nhau: –Lửa cháy. Đế Thích liền bảo vương tử Kiền-thát-bà: –Nơi này thanh tịnh, xa lìa các ác, là chỗ vắng vẻ, an ổn để tọa thiền. Nay ở bên Đức Phật có nhiều bậc Tôn thắng, chư Thiên bít lối, đứng đầy hai bên Ngài. Nay chúng ta làm sao ra mắt Đức Thế Tôn được? Đế Thích liền bảo vương tử Kiền-thát-bà: –Ngươi hãy vì ta đến chỗ Đức Phật nói lên ý muốn của chúng ta là muốn đến gần Ngài để thân cận thăm hỏi. Vương tử Kiền-thát-bà vâng lời đi đến một chỗ không xa cũng không gần để chiêm ngưỡng tôn nhan, rồi ôm đàn Tỳ-bà mà khảy để cho Đức Phật nghe tiếng. Vương tử làm bài kệ rằng: Lòng dục sinh luyến trước Như voi bị lún bùn Cũng như voi điên chạy Mà không có móc xích Giống như A-la-hán Luyến mộ nơi diệu pháp Cũng như ta tham sắc Cung kính lạy cha nàng Nhờ sinh chỗ quý thắng Sinh ái lạc bội phần. Ái dục lòng ta thêm sinh trưởng Tợ như nóng bức gặp gió mát Như khát dữ dội, được nước trong Dáng mạo của nàng thật khả ái. Giống như La-hán mến Chánh pháp Cũng như người bệnh gặp thuốc hay Như người đang đói gặp cơm ngon Nước mát trừ hết cơn nóng khát Nay ta tham trước muốn rong ruỗi Như ta bị buộc không được đi. Đức Phật nói: –Lành thay! Này Bàn-xà-thức-xí, nay tấu lên âm thanh này, đàn sáo hòa điệu. Người đang ở gần hay xa mà tạo ra ca khúc này? Vương tử liền bạch Phật: –Thuở trước con gặp một hiền nữ tên là Tu-lợi-bà-chiết-tư là con gái của vua Kiền-thát-bà Trân-phù-lâu. Thiên tử Ma-đa-la tên là Thức-kiển-nhã, lần đầu cầu thân với nàng, lúc ấy tâm con vui sướng, yêu mến, liền đến chỗ nàng, nói lên bài kệ này. Nay con ở trước Đức Phật, lại nói bài kệ này. Đế Thích nghó: “Đức Phật đã dùng định lực mà biết, nay đang nói chuyện với Bàn-xà-thức-xí.” Đế Thích lại nói với Thức-xí: –Nay ngươi hãy nhân danh ta xin đảnh lễ dưới chân Đức Phật, thăm hỏi Đức Thế Tôn có ít bệnh ít não, đi đứng nhẹ nhàng, ăn uống dễ tiêu hóa, khí lực an lạc, không có gì trở ngại chăng? Đang sống an lạc chăng? Vương tử liền đáp: –Thưa vâng. Rồi theo lời dạy của Đế Thích, vị ấy liền đảnh lễ dưới chân Đức Phật, đem lời của Đế Thích thăm hỏi Đức Thế Tôn. Đức Phật hỏi lại: –Đế Thích và chư Thiên đều an lạc chứ? Vương tử lại bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, Đế Thích và chư Thiên cõi trời thứ Ba mươi ba muốn ra mắt Đức Phật, Ngài có cho phép chăng? Đức Phật trả lời: –Nay đã đúng thời. Đế Thích và chư Thiên cõi trời thứ Ba mươi ba nghe Đức Phật dạy như vậy liền đến chỗ Ngài, đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên, bạch Đức Phật: –Bạch Thế Tôn, chúng con nên ngồi ở chỗ nào? Đức Phật bảo: –Hãy ngồi lên chỗ này. Đế Thích bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, hang động này quá nhỏ mà chư Thiên lại quá đông! Khi nói lời ấy xong thì Đế Thích thấy hang động rộng lớn. Đức Phật dùng thần lực khiến cho hang động có thể chứa tất cả. Đế Thích liền đảnh lễ dưới chân Đức Phật, rồi ngồi ở phía trước, bạch Đức Phật: –Con luôn luôn muốn gặp Đức Phật, muốn được nghe pháp. Thuở trước Đức Phật ở tại nước Xá-vệ đang nhập Hỏa quang tam-muội. Ngay lúc đó có thị nữ của Tỳ-sa-môn tên là Bộ-xà-bạt-đề, Bộ-xà-bạt-đề đang chắp tay hướng về Đức Phật. Khi ấy con nói với các thị nữ của Tỳ-sa-môn ấy: “Nay Đức Phật đang ở trong định, ta không dám làm náo loạn. Ngươi hãy thay ta đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nói tên của ta thăm hỏi Ngài.” Cô gái ấy có thay lời Đế Thích đến lễ bái, hỏi thăm Ngài chăng? Đức Phật nói với Đế Thích: –Ngay khi ấy Ta nghe tiếng các người, sau đó không bao lâu thì Ta xuất định. Đế Thích bạch Đức Phật: –Ngày xưa con có theo các bậc Tôn túc, nghe rằng chư Như Lai, Bậc A-la-hán, Tam-miệu-tam-phật-đà xuất hiện ở thế gian thì chúng chư Thiên tăng trưởng, chúng A-tu-la bị giảm bớt. Ngày nay con đích thân tự sinh ở cõi trời, chúng chư Thiên tăng trưởng, chúng A-tu-la giảm thiểu. Nay con thấy đệ tử của Đức Phật được sinh lên cõi trời, có ba sự trội hơn chư Thiên: Đó là trội hơn về thọ mạng, trội hơn về ánh sáng, trội hơn về danh xưng. Khi ấy con gái Cụ-tỳ-da-bảo, sinh ở cõi trời Đao-lợi, trước kia là đệ tử của Đức Phật, nay làm con của Đế Thích, tên là Thiên tử Cừ Hoặc. Lại có ba vị Tỳ-kheo, trước đây theo Phật để tu hành phạm hạnh, nhưng tâm chưa lìa dục, nên khi thân hoại mạng chung, sinh vào nhà Càn-thát-bà, ngày ngày ba buổi bị chư Thiên sai bảo. Thiên tử Cừ Hoặc thấy ba vị ấy đến để Thiên tử sai bảo, liền nói: –Tâm ta không vui, không chấp nhận được. Ngày xưa khi ta ở nhân gian thì ba người thường đến nhà ta để nhận sự cúng dường của ta. Ngày nay bị chư Thiên sai khiến, ta không nỡ nhìn các ngươi. Ba vị trời ấy vốn là hàng đệ tử Thanh văn của Đức Phật, lúc ta làm người đã nhận sự cúng dường cung kính, ẩm thực, y phục của ta, ngày nay lại trở thành hạ tiện. Các ngươi nghe pháp từ miệng của Đức Phật, nhờ Phật mà khai giải. Tại sao ngày nay lại sinh vào chốn khổ sở này? Trước đây ta phụng sự cúng dường các ngươi. Song ta theo Phật nghe pháp, tu bố thí, tin nhân quả, cho nên ngày nay làm con của Đế Thích, có đại oai đức, thế lực tự tại. Chư Thiên đều gọi ta là Cừ Hoặc. Các ngươi đã được thắng pháp của Đức Phật, tại sao lại không nỗ lực tu hành, lại sinh vào chỗ đê tiện này? Nay ta không nỡ nhìn thấy sự xấu ác này. Những việc như vậy ta không muốn nhìn. Tại sao cùng trong một pháp lại sinh nơi hạ tiện này, mà đệ tử của Đức Phật thì không nên sinh vào đó? Thiên tử Cừ Hoặc nói lên lời hiềm trách ấy, cả ba vị ấy, tự mình hết sức xấu hổ, sinh tâm nhàm chán, chắp tay nói với Cừ Hoặc: –Như lời Thiên tử nói, đúng là lỗi của chúng tôi, nay nên trừ bỏ những dục ác như vậy. Họ liền siêng năng tinh tấn, tu tập định tuệ, cả ba người nhớ nghó đến pháp của Cù-đàm, thấy dục là tội lỗi tai họa, liền đoạn sự trói buộc của dục. Giống như voi lớn bứt đứt dây trói, họ đoạn trừ tham dục cũng lại như thế. Khi ấy Đế Thích cùng Nhất-thương-na thiên, chư Thiên khác và Hộ thế Tứ Thiên vương đều đến ngồi ở tòa này. Ba vị ấy đã đoạn trừ hết dục, ở trước chư Thiên liền bay lên hư không. Đế Thích bạch Đức Phật: –Ba vị ấy đã đắc được pháp gì mà có thể làm các thứ thần biến như vậy? Con đến gặp Đức Thế Tôn muốn hỏi những vị ấy đã chứng đắc được những gì? Đức Thế Tôn trả lời: –Cả ba vị ấy đã bỏ chỗ ấy được sinh cõi trời Phạm thiên. Đế Thích thưa: –Cúi mong Đức Thế Tôn nói cho con nghe pháp họ được sinh cõi Phạm thiên. Đức Phật bảo: –Lành thay! Này Đế Thích, Ta sẽ phân biệt, giải thích những nghi vấn của ngươi. Khi ấy Đức Phật suy nghó: “Đế Thích là người không nịnh bợ, dối trá, chân thật hỏi những điều nghi ngờ, không làm não loạn Ta.” Ngài nói: –Nếu ngươi có hỏi điều gì Ta sẽ phân biệt giải thích. Đế Thích hỏi Đức Phật: –Kết sử nào có thể trói buộc Người, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Ma-hầu-la-già? Khi ấy Đức Phật trả lời: –Hai thứ kết sử tham lam và tật đố trói buộc Người, Trời, A-tu-la, Càn-thát-bà… tất cả loài người đều bị tham lam và tật đố mà tự trói buộc. Đế Thích thưa: –Việc này đúng như vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, vì nhân duyên tham lam, tật đố có thể trói buộc tất cả. Nay con nhờ theo Phật hiểu rõ nghóa này, lưới nghi liền trừ, càng thêm hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi những vấn đề khác: –Do đâu sinh ra tham lam, ganh ghét? Cái gì là nhân, cái gì là duyên mà sinh ra tham lam, ganh ghét? Do nhân duyên gì mà sinh? Do nhân duyên gì mà diệt? Đức Phật đáp: –Này Kiều-thi-ca, tham lam tật đố là do lòng thương ghét sinh ra, do thương ghét làm duyên; có thương, ghét thì có tham lam tật đố, không có thương ghét thì tham lam tật đố liền mất. –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời. Nay con nhờ Phật được nghe hiểu nghóa này, lưới nghi liền trừ, càng thêm hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi những nghóa khác: –Thương và ghét do nhân duyên gì sinh? Do nhân duyên gì diệt? Đức Phật đáp: –Thương ghét là do sự ham muốn mà sinh, không có lòng ham muốn, thì thương ghét liền tiêu diệt. –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, con nhờ theo Phật được nghe, tin và hiểu nghóa này nên lưới nghi liền dứt càng thêm hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi: –Dục do nhân gì phát sinh? Do duyên gì mà tăng trưởng? Làm sao có thể đoạn diệt? Đức Phật dạy: –Dục vọng do giác quan sinh ra, duyên theo giác quan mà dục tăng trưởng, có giác quan thì có dục, không có giác quan thì dục tiêu diệt. –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, nay con nhờ Phật, nghe, hiểu nghóa này, nên lưới nghi liền dứt, càng thêm hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi: –Giác quan do nhân gì mà phát sinh? Do duyên gì mà tăng trưởng? Làm sao để tiêu diệt? Đức Phật dạy: –Giác quan do đùa giỡn mà phát sinh, do đùa giỡn mà tăng trưởng. Không đùa giỡn thì giác quán liền tiêu diệt. –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, nay con nhờ Phật nghe hiểu nghóa này, nên lưới nghi liền hết, càng thêm hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi: –Đùa giỡn do đâu sinh trưởng, làm sao để tiêu diệt? Đức Phật bảo: –Này Kiều-thi-ca, muốn diệt trừ đùa giỡn phải tu Bát chánh đạo: Thấy biết chân chánh; Hành nghiệp chân chánh; Lời nói chân chánh; Đời sống chân chánh; Phương tiện chân chánh; Suy tư chân chánh; Nhớ nghó chân chánh; Định chân chánh. Đế Thích nghe xong bạch Đức Phật: –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, đùa giỡn quả thật phải nhờ Bát chánh đạo mà diệt trừ. Nay con nhờ Phật được nghe nghóa này nên lưới nghi liền trừ. Đế Thích hoan hỷ lại hỏi: –Muốn diệt trừ đùa giỡn thì phải tu Bát chánh đạo. Bát chánh đạo này, Tỳ-kheo lại nhờ pháp gì mà tăng trưởng? Đức Phật nói: –Có ba pháp: 1. Sự muốn chân chánh. 2. Siêng năng chân chánh. 3. Hay tập luyện nhiếp tâm. Đế Thích thưa: –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, chúng con nghe nghóa này mà lưới nghi liền hết. Tỳ-kheo hay tu hành chánh đạo phần, thật sự chính nhờ ba việc này mà tăng trưởng. Đế Thích nghe xong hoan hỷ lại hỏi: –Tỳ-kheo muốn diệt trừ đùa giỡn, phải học bao nhiêu pháp? Đức Phật dạy: –Phải học ba pháp. Phải học tăng trưởng đầy đủ tâm giữ giới, phải học tăng trưởng đầy đủ tâm thiền định, phải học tăng trưởng đầy đủ tâm trí tuệ. Đế Thích nghe rồi thưa: –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, con nghe nghóa này nên lưới nghi được trừ, vô cùng hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi nghóa khác: –Muốn diệt trừ đùa giỡn cần phải hiểu thấu mấy nghóa lý? Xin Đức Phật nói cho con nghe. Đức Phật nói: –Cần phải hiểu thấu sáu nghóa lý: 1. Mắt biết sắc. 2. Tai biết tiếng. 3. Mũi biết hương. 4. Lưỡi biết vị. 5. Thân biết trơn mịn. 6. Ý biết các pháp. Đế Thích nghe xong thưa: –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng trời, con nghe nghóa này nên lưới nghi được trừ vô cùng hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi nghóa khác: –Tất cả chúng sinh có cùng một sự tham lam, một sự dục vọng, một sự hướng đến, một sự theo đuổi chăng? Đức Phật nói: –Này Đế Thích, tất cả chúng sinh cũng không đồng một sự tham lam, một lòng ham muốn, một sự hướng đến, một sự theo đuổi. Chúng sinh vô lượng, thế giới vô lượng, ý muốn vào sự theo đuổi càng sai biệt không đồng, họ đều chấp theo chỗ thấy của họ. Đế Thích nghe xong, thưa: –Thật vậy, thưa Đấng Trời trong hàng Trời, con nhờ nghe nghóa này nên lưới nghi được trừ, vô cùng hoan hỷ. Đế Thích lại hỏi nghóa khác: –Tất cả Sa-môn, Bà-la-môn đều được một chỗ rốt ráo, được sự không dơ bẩn, được phạm hạnh hoàn toàn chăng? Đức Phật trả lời: –Tất cả Sa-môn, Bà-la-môn không thể đều được chỗ rốt ráo chỗ không dơ bẩn, cũng không được phạm hạnh hoàn toàn. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào được sự giải thoát vô thượng vì đã đoạn trừ được sự trói buộc của ái dục, được chánh giải thoát thì người ấy trọn được chỗ rốt ráo, chỗ không dơ, chỗ phạm hạnh đầy đủ. Đế Thích lại hỏi: –Như lời Phật dạy, ai được sự giải thoát tối thượng vì đã đoạn trừ được sự trói buộc của ái dục, được chánh giải thoát thì người ấy mới trọn được chỗ rốt ráo, chỗ không dơ, chỗ phạm hạnh đầy đủ. Nay con nhờ Phật nghe hiểu nghóa này, được rõ pháp này, được thoát khỏi nghi, đến bờ kia, được nhổ mũi tên độc tà kiến, đã trừ được chấp ngã và tâm chẳng thoái chuyển. Khi Đức Phật nói kinh này, Đế Thích và tám vạn bốn ngàn chư Thiên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Đức Phật nói: –Này Kiều-thi-ca, có phải ngươi đã từng đem câu hỏi này hỏi Sa-môn, Bà-la-môn rồi chăng? Đế Thích thưa: –Bạch Thế Tôn, con nhớ thuở xưa, con đã từng cùng chư Thiên tụ tập tại Thiện pháp đường, hỏi chư Thiên: “Có Phật xuất thế chưa?” Chư Thiên đều đáp: “Chưa có Phật xuất thế.” Chư Thiên nghe Phật chưa xuất thế liền tự giải tán. Chư Thiên có đại oai đức khi hết phước mạng chung. Khi ấy con lo sợ, thấy có Sa-môn, Bà-la-môn nào ở chỗ nhàn tịnh, con liền đến chỗ vị ấy. Vị Sa-môn, Bà-la-môn kia hỏi con: “Ông là ai?” Con đáp: “Tôi là Đế Thích.” Con không đảnh lễ họ, ngược lại họ đảnh lễ con. Con cũng không hỏi họ, mà họ lại hỏi con. Biết họ không có trí cho nên con không quy y họ. Nay con từ đây quy y Phật, làm đệ tử của Phật. Đế Thích liền nói bài kệ: Trước con thường hoài nghi Ý tưởng không thỏa mãn Mãi mong cầu bậc Trí Phân biệt các nghi này Tìm kiếm Đức Như Lai Thấy các chỗ nhàn tịnh Sa-môn, Bà-la-môn Tưởng đó là Thế Tôn Liền đến ngay chỗ ấy Lễ bái và hỏi thăm, Con mới hỏi như vầy: “Sao là tu Chánh đạo?” Tất cả Sa-môn ấy Không hiểu đạo, phi đạo Nay con thấy Thế Tôn Lưới nghi đều diệt sạch Ngày nay lại có Phật Đại Luận Sư thế gian Phá tan các ma oán Hết phiền não, Tối Thắng; Thế Tôn hiện ở đời Hy hữu không ai bằng Nơi chư Thiên, Ma chúng… Không có ai bằng Phật. Bạch Thế Tôn, con đã đắc quả Tu-đà-hoàn. Con đã đắc quả Tu-đà-hoàn. Đức Thế Tôn nói: –Lành thay! Lành thay! Này Kiều-thi-ca, nếu người không phóng dật sẽ được quả Tư-đà-hàm. Đức Phật bảo Đế Thích: –Ngươi ở chỗ nào mà được sự chẳng đánh mất đức tin này? Đế Thích bạch: –Con ở ngay chỗ này, bên Đức Thế Tôn mà được, con ở ngay nơi đây lại được thọ mạng như chư Thiên. Đức Phật nói: –Chỉ mong ông khi đã giác ngộ phải nhớ giữ việc này. Đế Thích thưa: –Bạch Thế Tôn, nay con suy nghó: “Con nguyện được sinh ở nhân gian, trong nhà hào quý, các sự đầy đủ, khi ấy con sẽ xả bỏ thế tục, xuất gia, hướng đến Thánh đạo, hoặc đắc Niết-bàn, được vậy thì rất tốt. Nếu không được vậy con nguyện sinh cõi trời Tịnh cư. Khi ấy Đế Thích tập hợp các Thiên chúng lại bảo: –Ta đối với ba thời cúng dường Phạm thiên, từ nay về sau, ta sẽ không làm như vậy nữa. Ta sẽ đối với ba thời cúng dường Đức Thế Tôn. Khi ấy Đế Thích bảo Càn-thát-bà tử Bàn-xà-thức-xí: –Nay ngươi đối với ta có ân rất lớn. Nhờ ngươi có thể biết được Đức Phật Thế Tôn nên mới khiến cho ta được nghe pháp thâm sâu. Khi trở về cõi trời ta sẽ đem Trân-phù-lâu nữ Hiền-tu-lợi Bà-chiết-tư cho ngươi làm vợ, lại cho ngươi thay thế cha nàng là Càn-thát-bà vương. Bấy giờ, Đế Thích đem các Thiên chúng nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi lui ra, đến chỗ vắng vẻ, tất cả đều xưng niệm: “Nam-mô Phật-đà”, rồi trở về cõi trời. Khi Đế Thích ra đi chưa bao lâu, thì Phạm Thiên vương lại nghó như vầy: “Đế Thích đã đi, nay ta sẽ đến chỗ Đức Phật. Trong khoảnh khắc giống thời gian tráng só co duỗi cánh tay, Phạm Thiên vương liền đi đến được chỗ Đức Phật, lạy dưới chân Phật xong, rồi ngồi qua một bên. Ánh hào quang của Phạm thiên sáng ngời cả núi Tỳ-đề-hê. Bấy giờ Phạm thiên liền nói kệ: Được nhiều lợi ích, Hiển hiện nghóa này Xá-chỉ-ba địa Ma-già-bà Châu tráp đều hiền Hay hỏi vấn nạn Sa-bà-bà. Lại nói: –Đế Thích đã hỏi xong, liền trở về Thiên cung. Vào sáng sớm, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Phạm thiên vương hôm qua lại đến chỗ Ta nói kệ trên xong liền trở về cõi trời. Các Tỳ-kheo vui mừng cung kính đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi lui ra.  <詞 id="41126130">74- CHUYỆN ĐỨC PHẬT ĐỘ A-NHÃ KIỀU-TRẦN-NHƯ VÀ NHIỀU NGƯỜI TRONG QUÁ KHỨ Đức Phật ở tại thành Vương xá, thuyết pháp độ cho A-nhã Kiều-trần-như, Thích Đề-hoàn Nhân, vua Tần-bà-sa-la và cùng với tám vạn bốn ngàn người đi theo, đều được đắc đạo. Các Tỳ-kheo nghi là chuyện lạ, vì mỗi vị mang theo bao nhiêu người như vậy mà đều được thoát khỏi ba đường ác. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ ngày hôm nay mới như thế, mà ở thời quá khứ, Ta cũng từng cứu tế họ. Các Tỳ-kheo thưa: –Trong thời quá khứ Đức Phật cứu tế họ như thế nào? Đức Phật nói: –Trong thời quá khứ có các thương nhân vào biển tìm châu báu. Khi trở về giữa đường, ở giữa đồng không bao la, họ gặp một con mãng xà, thân nó đứng cao đến sáu câu-lâu-xá. Nó bao quanh bốn mặt, các người đi buôn không có chỗ nào ra hay vào được. Khi ấy các người đi buôn hết sức kinh sợ. Họ đều xướng lên: “Hỡi Thiên thần, Địa thần, các vị có lòng từ mẫn xin cứu vớt chúng tôi.” Khi ấy có con bạch tượng cùng với bạn là sư tử. Con sư tử nhảy đến cắn vào đầu mãng xà, làm cho các thương nhân thoát khỏi tai nạn. Khi ấy con mãng xà liền phun hơi độc trong miệng nó giết chết sư tử và bạch tượng. Lúc hai con này sắp chết, các khách buôn nói: –Các ngài đã cứu giúp chúng tôi, vậy các ngài có mong ước điều gì không? Đáp: –Chúng tôi chỉ mong làm Phật, độ tất cả mọi người. Các thương nhân nói: –Nếu các ngài được làm Phật, xin cho chúng tôi ở tại hội đầu tiên được nghe pháp đắc đạo. Sư tử, bạch tượng liền đó mạng chung. Các thương nhân thiêu xác, lấy cốt xây tháp. Đức Phật nói: –Muốn biết con sư tử lúc đó thì chính là Ta, còn con bạch tượng lúc đó là Xá-lợi-phất vậy. Thương chủ lúc ấy là Kiều-trần-như, Đế Thích và vua Tần-­bà-sa-la, còn các thương nhân lúc ấy là chư Thiên nhân nay đã đắc đạo vậy.  <詞 id="41126131">75- CHUYỆN CON CỦA SAI-MA BỊ BỆNH MẮT, QUY Y TAM BẢO ĐƯỢC NHÃN TỊNH Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại vườn Thích thị. Khi ấy ở trong thành Xa-đầu có người họ Thích tên là Sai-ma, một lòng thanh tịnh tin vào Phật, một lòng thanh tịnh tin vào Pháp, một lòng thanh tịnh tin vào Tăng; quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng; nhất tâm hướng về Phật, nhất tâm hướng về Pháp, nhất tâm hướng về Tăng; không nghi đối với Phật, không nghi đối với Pháp, không nghi đối với Tăng, không nghi đối với Khổ đế, không nghi đối với Tập đế, không nghi đối với Diệt đế, không nghi đối với Đạo đế; nhờ được Kiến đế, nên được đạo quả. Như chỗ thấy biết của vị Tu-đà-hoàn, vị ấy đều được thấy biết. Đối với ba quả Bồ-đề, chẳng qua là thời gian, chắc chắn sẽ đạt được. Thích tử Sai-ma vì bệnh con mắt, mắt bị loạn chẳng thấy gì cả. Thích tử Sai-ma liền niệm Đức Thế Tôn: –Xin quy hướng về con mắt, xin quy hướng về ánh sáng, xin quy hướng sự trừ tối tăm, xin quy hướng về bậc cầm ngọn đuốc, xin quy hướng về Phật-đà, xin quy hướng về Đấng Thiện Thệ. Đức Phật dùng Thiên nhó thanh tịnh nghe xa hơn người thường, nghe âm thanh ấy liền bảo Tôn giả A-nan: –Nay ngươi hãy dùng chương cú này để ủng hộ Thích Sai-ma, để cứu tế, để thủ hộ, để chăm sóc, diệt trừ tai họa, vì bốn chúng làm lợi ích, sống an lạc. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì Thích Sai-ma thuyết kinh chú Tịnh nhãn: –“Đa chiết tha thí lợi di lợi khí lợi hê hê đa.” Dùng chú Tịnh nhãn này làm cho con mắt của Sai-ma được thanh tịnh, để màng mắt được lành, hoặc vì gió mà bị màng mắt, hoặc vì sức nóng mà bị màng mắt, hoặc vì lạnh mà bị màng mắt, hoặc vì các nguyên nhân khác mà bị màng mắt, thì đừng nóng, đừng rát, đừng sưng, đừng đau, đừng ngứa, đừng chảy nước mắt. Giới hạnh thật, Khổ hạnh thật, Tiên thật, Trời thật, Câu chú thật, Nhân duyên thật; Khổ thật, Tập thật, Diệt thật, Đạo thật; A-la-hán thật, Bích-chi-phật thật, Bồ-tát thật; như vậy gọi tên Thích Sai-ma, các tên khác cũng xưng danh như vậy thì mắt liền được lành. Khi mắt lành rồi thì các bóng tối liền trừ, hết màng mắt. Hoặc là có màng mắt vì gió, hoặc có màng mắt vì sức nóng, hoặc màng che mắt, hoặc màng mắt vì lạnh, hoặc màng mắt vì các nguyên nhân khác thì mắt đừng bị hỏa xông đốt, đừng rát, đừng sưng, đừng đau, đừng ngứa, đừng chảy nước mắt. Này A-nan, chương cú như vậy, sáu Đức Phật Thế Tôn nay Ta nữa là bảy, cũng nói như vậy. Tứ Thiên vương cũng nói chú này, Đế Thích cũng nói, Phạm vương và các Phạm chúng cũng tùy thuận hoan hỷ. Này A-nan, Ta không thấy hoặc Trời hoặc Người, hoặc Ma hoặc Phạm thiên, hoặc chúng Sa-môn, hoặc chúng Bà-la-môn, ba lần nói chương cú này, hoặc màng che, hoặc mờ tối, hoặc màng mắt, hoặc sưng, hoặc mắt xanh, hoặc chảy nước mắt, hoặc do Trời làm, hoặc do loài Rồng làm, hoặc do Dạ-xoa làm, hoặc do A-tu-la làm, hoặc do Cưu-bàn-trà làm, hoặc do ngạ quỷ làm, hoặc do Tỳ-xá làm, hoặc vì chất độc mà bị, hoặc do ác chú mà bị, hoặc do bệnh cổ độc gây nên, hoặc do chú Tỳ-đà-la gây nên hoặc do ác tinh làm ra, hoặc các tinh tú làm ra. Tôn giả A-nan liền đến vì Thích Sai-ma, ba lần nói chú này thì con mắt vị ấy trong sáng lại như xưa được thấy các sắc, nhờ chú này mà theo đó gọi tên người. Thích Sai-ma đều trừ hôn ám, trừ màng mắt, gió, sức nóng lạnh và đẳng phần, đừng đốt, đừng nấu, đừng sưng, đừng đau, đừng chảy nước mắt. Nam-mô Phật, Nam-mô Đa-đà A-dà-đà A-la-ha Tam-miẹâu-tam-phật-đà.” Bồ-tát dùng câu thần chú này thì tất cả đều được thành tựu tốt đẹp. Các trời Phạm thiên đều tùy hỷ.  <詞 id="41126132">76- CHUYỆN BẢY LOẠI PHÁP BỐ THÍ Đức Phật nói bảy pháp bố thí, không hao tổn tài vật mà được quả báo lớn. Một là bố thí mắt, thường đem con mắt cung kính để nhìn cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, chứ không lấy con mắt độc ác để nhìn họ, gọi là bố thí mắt. Như vậy khi xả thân, thọ thân, được con mắt thanh tịnh, vị lai được thành Phật, được Thiên nhãn, Phật nhãn. Đó gọi là quả báo thứ nhất. Hai là bố thí nhan sắc, hòa thuận vui vẻ đối với cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, không dùng gương mặt buồn rầu, sắc mặt hung ác tiếp họ. Nhờ vậy khi xả thân, thọ thân được sắc mặt đoan chánh, đời vị lai thành Phật được sắc thân vàng ròng. Đó gọi là quả báo thứ hai. Ba là bố thí lời nói, đối với cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, nói lời êm dịu, không nói lời thô ác. Nhờ vậy khi xả, báo thân được ngôn ngữ biện tài, nói ra điều gì mọi người đều tín thọ. Lúc vị lai thành Phật, được bốn biện tài. Đó gọi là quả báo thứ ba. Bốn là bố thí thân. Đối với cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn phải đứng dậy nghênh tiếp, lễ bái, gọi là bố thí thân. Nhờ vậy khi xả thân hay thọ thân, được thân hình đoan chánh, to lớn, mọi người đều cung kính. Thời vị lai, được thành Phật, thân như cây Ni-câu-đà có được tướng vô kiến đảnh. Đó gọi là quả báo thứ tư. Năm gọi là bố thí tâm, tuy đem những việc trên để cúng dường mà tâm không nhu hòa, tốt đẹp, thì không gọi là bố thí. Phải dùng thiện tâm nhu hòa tốt đẹp, tâm thường sinh những điều tốt đẹp để cúng dường. Đóù gọi là bố thí tâm. Nhờ vậy khi xả thân, thọ thân được tâm tinh minh sáng suốt, không có tâm si mê, điên loạn, đời vị lai thành Phật, được Nhất thiết chủng trí. Đó gọi là quả báo thứ năm. Sáu là bố thí sàng tọa, hoặc thấy cha mẹ, Sư trưởng, Sa-môn, Bà-la-môn, thì trải tòa mời ngồi, cho đến tự lấy tòa của mình đang ngồi mời các vị ấy ngồi. Nhờ vậy khi xả thân, thọ thân thường được sàng tọa thất bảo tôn quý. Thời vị lai thành Phật, được ngồi pháp tòa Sư tử. Đó gọi là quả báo thứ sáu. Bảy là bố thí nhà ở. Ở trước Sư trưởng, Sa-môn Bà-la-môn, mời họ vào nhà, tự do đi lại, nằm ngồi. Đó gọi là bố thí nhà ở. Nhờ vậy khi xả thân, thọ thân, tự nhiên được cung điện, nhà cửa. Thời vị lai thành Phật được các thiền thất. Đó gọi là quả báo thứ bảy. Đây gọi là bảy cách bố thí tuy không hao tốn tài vật mà được quả báo to lớn.  <詞 id="41126133">77- CHUYỆN VUA NƯỚC CA-BỘ LÚC TRỜI HẠN HÁN TẮM PHẬT NÊN ĐƯỢC MƯA Nếu ai gieo một ít giống lành thì được vào ruộng phước, về sau chắc chắn sẽ được quả báo. Giống như ngày xưa cách đây vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có một vị vua tên là Ca-bộ, thống lãnh tám vạn bốn vạn quốc độ trong cõi Diêm-phù-đề. Nhà vua có đến hai vạn người vợ nhưng không có con. Nhà vua bèn cầu đảo thần thánh, nhưng trải qua nhiều năm, thì phu nhân lớn nhất mới sinh được một thái tử tên là Chiên-đàn. Vị ấy làm Chuyển luân vương thống lãnh bốn thiên hạ. Về sau vị ấy nhàm chán thế tục, xuất gia, được thành Chánh giác. Khi ấy ở trong nước kia, các tướng sư đều nói: –Trời đại hạn đã mười hai năm vậy làm cách gì để cầu thoát khỏi tai họa này? Họ cùng nhau nghị luận: –Nay chúng ta nên làm một cái chậu bằng vàng, đặt ở giữa chợ, chứa đầy nước hương dùng để tắm Phật, phân bố nước hoa để dựng tháp miếu, thì có thể trừ được tai họa. Họ liền thỉnh Đức Thế Tôn, tắm bằng nước hoa, rồi phân nước Đức Phật tắm còn lại làm tám vạn bốn ngàn cái bình báu, phân cho tám vạn bốn ngàn nước để chiêm ngưỡng tạo lập tháp miếu để cúng dường làm phước. Nhờ nhân duyên tạo lập tháp miếu làm phước cho nên trời liền đổ mưa lớn, ngũ cốc dồi dào, muôn dân an lạc. Bấy giờ có một người thấy tháp miếu này, tâm sinh hoan hỷ, liền lấy một bó hoa rải lên trên tháp, liền được quả báo tốt lành. Đức Phật nói: –Ta dùng Phật nhãn xem thấy vị ấy ở lâu xa về trước, đối với Đức Chiên-đàn Như Lai, lấy nước hoa xây tháp miếu, được Ngài giáo hóa thành Phật từ lâu, đã nhập vào Niết-bàn. Người dùng bó hoa để cúng dường thì chính là thân của Ta vậy. Ngày xưa Ta nhờ tạo nhân duyên này, nay là kiếp cuối cùng được thành Phật. Cho nên các hành giả phải siêng năng làm các công đức. Đừng cho là việc làm thiện nhỏ mà sinh tư tưởng cho là thấp kém.  <詞 id="41126134">78- CHUYỆN TRƯỞNG GIẢ THỈNH XÁ-LỢI-PHẤT VÀ MA-HA-LA Ngày xưa, ở trong thành Xá-vệ có một vị đại trưởng giả là nhà cự phú, tiền tài châu báu vô lượng, thường đối với Tăng, thứ lớp thỉnh các Sa-môn đến nhà để cúng dường. Bấy giờ theo thứ lớp của Tăng tới phiên Tôn giả Xá-lợi-phất và Ma-ha-la đến nhà trưởng giả. Trưởng giả thấy hai vị, hết sức hoan hỷ. Chính ngày ấy ông vào biển thu được nhiều trân bảo, an ổn về nhà. Cùng thời gian ấy, vị quốc vương nước đó, phong tặng thôn ấp cho trưởng giả. Người vợ của trưởng giả đang mang thai lại sinh được con trai. Các việc vui mừng đồng một lúc đến với trưởng giả. Tôn giả Xá-lợi-phất… khi đã vào nhà thọ dụng đồ ăn uống của trưởng giả xong, trưởng giả dâng và trải sàng tòa trước Tôn giả. Ngài Xá-lợi-phất chú nguyện và nói: –Hôm nay gặp thời nên được quả báo tốt, tài lợi chuyện vui đều tụ tập, hớn hở vui mừng tâm hoan lạc. Tín tâm dũng mãnh niệm thập lực. Giống như hôm nay, ngày sau cũng vậy. Khi ấy trưởng giả nghe lời chú nguyện xong, trong tâm hết sức hoan hỷ, liền lấy hai tấm dạ thật đẹp cúng dường Tôn giả Xá-lợi-phất. Nhưng riêng Ma-ha-la thì ông không cúng gì cả. Khi Ma-ha-la trở về chùa buồn bã, nghó: “Hôm nay sở dó Tôn giả Xá-lợi-phất được như vậy là nhờ lời chú nguyện thích hợp với ý của trưởng giả. Cho nên mới được sự cúng dường như vậy. Nay ta nên xin học lời chú nguyện ấy.” Ma-ha-la liền nói với Tôn giả Xá-lợi-phất: –Lời chú nguyện vừa rồi, xin ngài hãy dạy cho tôi. Tôn giả liền đáp: –Lời chú nguyện này không phải lúc nào cũng dùng, có lúc dùng nhưng có lúc không nên dùng. Xong, Ma-ha-la ân cần cầu thỉnh: –Xin ngài hãy dạy cho con! Tôn giả Xá-lợi-phất vì khó tránh được ý cầu của ông ta nên mới dạy cho lời chú nguyện này. Khi được lời chú nguyện rồi, ông ta liền đọc tụng hết sức lưu loát và suy nghó: “Lúc nào, thứ lớp đến phiên ta được làm Thượng tọa, ta sẽ dùng chú này.” Bấy giờ vì theo thứ lớp của Tăng, vị ấy được đến nhà trưởng giả, được ngồi ghế Thượng tọa. Gặp lúc vị trưởng giả này vào biển mua bán, đã bị mất hết ngọc báu, còn vợ của trưởng giả bị sa vào lưới quan huyện, con lại bị chết. Ma-ha-la nói lời chú nguyện giống như ngài Xá-lợi-phất đã dạy, cho đến câu về sau cũng như thế. Bấy giờ trưởng giả khi nghe lời nói ấy, trong lòng hết sức phẫn nộ, liền đánh đập kéo ông ra khỏi cửa. Vì bị vị trưởng giả tức giận đánh đập nên Ma-ha-la trong lòng hết sức áo não, liền vào ruộng trồng mè của vua, đạp nát mầm mộng cây mè, làm cho nó gãy ngã. Người giữ ruộng thấy việc như vậy tức giận, liền dùng roi đánh, làm cho ông ta hết sức khổ nhục. Khi Ma-ha-la lại bị đánh đập xong, mới hỏi người đánh mình: –Tôi có lỗi gì mà đánh tôi vậy? Bấy giờ người giữ vườn mè nói rõ là ông đã đạp nát cây mè, rồi chỉ đường cho ông đi thẳng con đường trước, chưa được mấy dặm thì gặp người ta cắt lúa mạch chất thành một đống. Theo phong tục lúc đó, nếu ai đi nhiễu quanh đống lúa về phía hữu thì gia chủ mời ăn uống, vì cầu mong cho họ giàu có thịnh vượng, còn nếu ai đi về phía bên trái đống lúa là điều không lành. Khi ấy Ma-ha-la đi quanh phía bên trái của đống lúa nên người chủ lúa mạch tức giận liền lấy gậy đánh. Lúc đó Ma-ha-la lại hỏi: –Tôi có tội gì, mà vô cớ ông lại lấy gậy đánh tôi? Người chủ lúa mạch đáp: –Ngươi đi quanh đống lúa mạch của ta sao lại không đi phía bên phải và chú nguyện cho ta được nhiều của, mà lại làm trái phép của ta, cho nên ta mới đánh. Người ấy chỉ đường cho ông rồi tiếp tục lên đường, trên đường đi gặp người ta đang chôn cất, ông nhiễu quanh mộ huyệt như hướng nhiễu quanh đống lúa mạch lại chú nguyện: “Tăng thêm, tăng thêm”. Tang chủ tức giận liền bắt lại đánh đập nói: –Ngươi thấy người chết sao không xót thương, rồi cầu nguyện từ nay về sau đừng xảy ra như vậy; trái lại tại sao ngươi lại nói “Tăng thêm, tăng thêm?” Ma-ha-la nói: –Từ nay về sau tôi sẽ nói như ông. Rồi Ma-ha-la lại đi tiếp, thấy đám cưới hỏi, như lời người tống táng dạy, ông nói: “Từ nay về sau đừng có diễn tiến như vậy nữa.” Khi ấy người chủ đám cưới nghe ông ta nói như vậy tức giận lại lấy cây đánh cho đến vỡ đầu. Ông lại đi tiếp, vì bị đánh nên ông chạy như điên, lại gặp người đang giăng lưới bắt chim ưng, làm cho chim kinh sợ, hoảng hốt tung đầu vào lưới của người khác, vì vậy làm các con chim ưng khác cũng hoảng sợ, bay tán loạn. Thợ săn tức giận, bắt ông lại và đánh. Ma-ha-la bị đánh khổ sở, liền nói với người thợ săn: –Từ lúc tôi ra đường đến giờ, thường bị đánh đập làm cho tinh thần thác loạn, chạy gấp mới sa vào lưới của ông. Vậy mong ông hãy khoan dung thả tôi ra, để tôi còn đi tiếp. Thợ săn đáp: –Vì ngươi quá thô tháo, nóng nảy nên mới vậy. Sao lại không thong thả bò dưới đất mà đi? Ông liền đi tiếp, theo lời người thợ săn, ông cứ bò xuống mà đi lại đến giữa đường, gặp người thợ nhuộm thấy ông đi bằng khuỷu tay, cho rằng ông muốn trộm y, liền rượt bắt, lấy gậy mà đánh. Khi ấy Ma-ha-la lại gặp chuyện nghi khốn cấp bách, mới trình bày việc trên cho thợ nhuộm rõ, xin được thả ra. Về đến Kỳ hoàn ông nói với các Tỳ-kheo: –Ngày trước vì tôi tụng lời chú nguyện của Tôn giả Xá-lợi-phất nên mới bị sự khổ não lớn. Ông tự tường thuật lại mình bị đánh đập vào người, cơ thể bị bầm dập thương tổn, mấy lần gần mất thân mạng. Các Tỳ-kheo dẫn Ma-ha-la đến bên Đức Phật, trình bày đầy đủ nguyên do vị ấy bị đánh đập. Đức Phật dạy: –Ma-ha-la này không phải chỉ ngày hôm nay mới có chuyện như vậy. Trong quá khứ có một người con gái của vua bị tật bệnh, vị thái sư bói quẻ bảo phải đến giữa gò mả để giải trừ tật bệnh. Khi ấy công chúa liền đem theo người dẫn đường, đi đến giữa gò mả. Trong lúc đi đường, có hai người khách buôn thấy công chúa có thị tùng trang sức theo hầu, trong lòng sợ hãi mới chạy đến giữa gò mả. Một người thì bị thị tùng của công chúa bắt cắt tai, cắt mũi. Còn người kia vì quá sợ hãi liền nấp dưới tử thi, giả làm thây người chết. Khi ấy công chúa sắp muốn giải trừ tai họa, chọn người mới chết mà da thịt chưa hư rữa, ngồi lên trên để tắm, để trị lành bệnh. Lúc ấy bà bảo thị tùng xem xét thì bắt gặp người khách buôn này, thị tùng lấy tay mà sờ, thì thấy thi thể vẫn còn mềm. Công chúa cho đó là người mới chết, liền lấy bột hạt cải xoa vào thân, ngồi lên trên mà tắm. Vì bột hạt cải có mùi cay, bay vào lỗ mũi khách buôn, mặc dù cố gắng đừng phản ứng nhưng không được, liền bị hắt hơi thật lớn. Khi ấy người thị tùng cho rằng đó là tử thi của con quỷ sống dậy, có thể gây các tai họa cho mình, nên đến đóng cửa lại để chống lại sự bất trắc. Công chúa liền bắt lấy tử thi không thả. Khi ấy khách buôn lấy sự thật nói: –Tôi thật chẳng phải là quỷ. Lúc ấy công chúa liền cùng đi với người khách buôn đến thành, bảo người mở cửa thành. Người khách buôn nói rõ sự thật của mình. Khi ấy vua cha, tuy nghe người ta nói vậy nhưng vẫn không tin, ông liền chuẩn bị binh gậy, bảo người mở cửa để xem mới hay đó chẳng phải là quỷ. Khi ấy phụ vương nói: –Hình thể của người nữ không phơi bày hai lần. Ông liền đem cô gái gả cho khách buôn làm vợ. Khách buôn vui mừng, sung sướng vô cùng. Đức Phật dạy: –Người khách buôn lấy được công chúa lúc đó chính là Xá-lợi-phất, còn người bị cắt tai, mũi chính là Ma-ha-la vậy. Chuyện ngày xưa cũng như vậy, đâu phải chỉ có ngày hôm nay đâu. Từ nay về sau, tất cả các Tỳ-kheo nếu muốn thuyết pháp chú nguyện, phải biết thời nghi, nên tu tập Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Khi buồn rầu, vui sướng, phải biết đúng thời hay không đúng thời, không nên nói không hợp căn cơ, không đúng thời điểm và tuyệt đối không được vọng ngữ. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126135">QUYỂN 7 Gồm mười sáu chuyện: 79. Chuyện Bà-la-môn dùng ngọc Như ý cúng dường Phật, xuất gia được đắc đạo. 80. Chuyện Thập Lực Ca-diếp dùng lời chân thật làm chân Phật hết chảy máu. 81. Chuyện ma vương Ba-tuần muốn đến não loạn Đức Phật dưới cây Bồ-đề. 82. Chuyện Đức Phật nói về tai họa của lợi dưỡng cho các Tỳ-kheo nghe. 83. Chuyện tên giặc sắp bị giết, từ xa trông thấy Đức Phật hoan hỷ nên được sinh ở cõi trời. 84. Chuyện người sa lưới pháp luật bị chặt tay chân, cảm niệm ân của Đức Phật được sinh ở cõi trời. 85. Chuyện trưởng giả lấy nước mật tốt bố thí cho người đi đường được sinh ở cõi trời. 86. Chuyện lúc vua Ba-tư-nặc sai người đi thỉnh Phật, nhờ đó người ấy được sinh ở cõi trời. 87. Chuyện vua Ba-tư-nặc lúc khuyến hóa quyên góp, có người nghèo lấy tấm dạ dâng cho vua nên được sinh ở cõi trời. 88. Chuyện người anh thường khuyên người em phụng tu Tam bảo nhưng người em không kính tin, người anh được sinh ở cõi trời. 89. Chuyện người cha nghe con đắc đạo, vui mừng liền được sinh ở cõi trời. 90. Chuyện người con bị cha bắt buộc xuất gia được sinh ở cõi trời. 91. Chuyện La-hán Kỳ-dạ-đa đuổi ác long ra biển. 92. Chuyện hai Tỳ-kheo thấy Tôn giả Kỳ-dạ-đa được sinh ở cõi trời. 93. Chuyện vua nước Nguyệt thị thấy Tôn giả Kỳ-dạ-đa. 94. Chuyện vua nước Nguyệt thị kết bạn thân với ba vị quan trí tuệ.  <詞 id="41126136">79- CHUYỆN BÀ-LA-MÔN DÙNG NGỌC NHƯ Ý CÚNG DƯỜNG ĐỨC PHẬT, XUẤT GIA ĐƯỢC ĐẮC ĐẠO Bấy giờ, Đức Phật ở nước Xá-vệ. Lúc ấy, ở Nam Ấn độ có một Bà-la-môn giỏi phân biệt được ngọc Như ý, vị ấy đã cầm một viên ngọc Như ý đi từ Nam Ấn độ đến Đông Ấn độ, cùng khắp các nước, nhưng không có ai phân biệt được. Cứ vậy lần lượt cho đến chỗ vua Ba-tư-nặc thuộc xứ Xá-vệ, ông mới nói: –Ai có thể phân biệt để biết viên ngọc này? Vua Ba-tư-nặc triệu tập các quần thần cùng tất cả người trí tuệ lại, nhưng chẳng ai biết được. Vua Ba-tư-nặc cùng mọi người đồng đến chỗ Đức Phật. Đức Phật nói với Bà-la-môn ấy: –Ngươi biết tên của viên ngọc này không? Biết ngọc sinh ra ở chỗ nào không? Biết được công năng của nó không? Thưa: –Không biết. Đức Phật bảo: –Viên ngọc này xuất xứ từ trong não của con cá lớn tên là Ma-kiệt. Thân của con cá dài đến hai mươi tám vạn dặm, tên của viên ngọc này là Kim cương kiên. Nó có công năng thứ nhất là làm cho tất cả những người bị ngộ độc hễ thấy nó thì độc liền tiêu hết. Lại thấy ánh sáng của nó chạm vào thân thì cũng tiêu độc. Năng lực thứ hai của nó là người bị bệnh nhiệt hễ thấy nó thì bệnh liền lành, ánh sáng của nó chạm vào thân cũng làm hết bệnh. Năng lực thứ ba của nó là nếu ai có vô lượng trăm ngàn oan gia, hễ cầm viên ngọc này lên thì tất cả đều thành thân thiện. Khi ấy Bà-la-môn nghe nói như vậy, hết sức vui mừng, thấy Đức Như Lai đúng thật là Bậc Nhất Thiết Trí, liền đem viên ngọc này dâng lên Đức Phật cầu xin xuất gia. Đức Phật nói: –Thiện lai Tỳ-kheo! Khi đó vị ấy râu tóc tự rụng, mình khoác ca-sa. Đức Phật thuyết chỗ cốt yếu của chánh pháp cho vị ấy, nghe xong liền chứng quả A-la-hán. Các Tỳ-kheo thưa: –Như Lai khéo hay phân biệt được viên ngọc này, lại hay thuyết pháp khiến cho vị ấy được đắc đạo chứng quả. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay, mà ở quá khứ cũng đã vậy. Ngày xưa trong núi Tiên nhân, thuộc nước Ca-thi, có vị tiên chứng được ngũ thông. Khi ấy, có một Bà-la-môn cầm một nhánh cây hỏi vị Tiên nhân ấy: –Đây là lá cây gì? Vị Tiên nhân đáp: –Cây này gọi là Kim đảnh. Nếu ai bị độc, thọ mạng gần hết, lấy cây này để dưới rồi ngồi lên trên thì độc liền tiêu. Nếu có người bị bệnh nhiệt, dựa vào cây này bệnh cũng lành. Lấy lá cây này chạm vào thân người, nếu có khí độc hay là bệnh nhiệt, tất cả đều tiêu trừ. Bà-la-môn vui mừng cầu xin Tiên nhân cho làm đệ tử tu tập pháp của Tiên nhân và Bà-la-môn cũng chứng được ngũ thông. Vị Tiên nhân chứng được ngũ thông lúc ấy chính là thân Ta, còn người Bà-la-môn cầm lá cây lúc ấy chính là Bà-la-môn này vậy. Khi ấy Ta dạy cho vị ấy được đủ năm phép thần thông, nay Ta cũng dạy cho y được thoát khỏi tai họa sinh tử, chứng được quả A-la-hán.  <詞 id="41126137">80- CHUYỆN THẬP LỰC CA-DIẾP DÙNG LỜI CHÂN THẬT LÀM CHÂN PHẬT HẾT CHẢY MÁU Bấy giờ Đức Như Lai bị gai Ca-đà-la chích vào chân Ngài, máu chảy mãi không dứt. Ngài dùng các thứ thuốc đắp lên để điều trị mà nó vẫn không lành. Các A-la-hán ở trong Hương sơn hái thuốc đắp lên để điều trị mà nó vẫn không bớt. Khi ấy Tôn giả Thập Lực Ca-diếp đi đến chỗ Đức Phật nói như vầy: –Nếu Đức Như Lai đối với tất cả chúng sinh có tâm bình đẳng, Ngài đối với La-hầu-la, Đề-bà-đạt-đa… cũng như vậy, thì máu trên chân hãy cầm lại. Lúc đó máu liền cầm và mụt cũng lành. Các Tỳ-kheo vui mừng nói: –Các thứ thuốc hay đắp lên để điều trị mà máu vẫn không cầm, Tôn giả Ca-diếp nói lời chân thật nên máu cầm ngay. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày nay thôi đâu, nhưng ở thời quá khứ cũng đã như vậy. Ngày xưa có một Bà-la-môn sinh được một người con tên là Vô Hại. Người con thưa với cha: –Khi làm ruộng chớ giết hại chúng sinh. Người cha bảo con: –Con muốn làm Tiên nhân à? Cách thức sinh sống làm sao tránh loài trùng kiến được. Người con thưa: –Nay con muốn đời này được an lạc, đời sau được an lạc. Nếu cha không nghe lời con thì sống để làm gì? Cậu ta liền đến ngồi bên suối Độc long, muốn cầu cho chết. Lúc đó, có con rồng hung dữ hễ thấy người là nó giết. Khi con của Bà-la-môn mới thấy con rồng độc, thì bị chất độc chạy khắp cả người, thọ mạng gần dứt. Người cha lúc ấy lo sầu, không biết con ở chỗ nào, mới cấp tốc tìm kiếm. Thấy con mình sắp chết, người cha mới đến bên con nói: –Con ta từ xưa đến nay không có tâm giết hại, độc này phải tiêu diệt. Nói lời ấy xong, khí độc liền tiêu, thân thể chàng ta bình phục như xưa. Người cha lúc ấy là Thập Lực Ca-diếp, còn người con lúc ấy chính là thân Ta. Trong thời quá khứ, vị ấy đã có thể nói lời chân thật để làm tiêu trừ bệnh của Ta, thì ngay đời này cũng dùng lời chân thật để làm lành bệnh của Ta.  <詞 id="41126138">81- CHUYỆN MA VƯƠNG BA-TUẦN MUỐN ĐẾN NÃO LOẠN ĐỨC PHẬT DƯỚI CÂY BỒ-ĐỀ Ngày xưa Đức Phật ngồi dưới cây Bồ-đề, ma vương Ba-tuần dẫn theo tám mươi ức ma chúng muốn đến phá hoại Đức Phật. Khi đến chỗ Đức Như Lai, ác ma nói: –Này Cù-đàm, ngươi chỉ một mình sao lại ngồi ở đây? Hãy gấp đứng dậy đi đi. Nếu không đi, ta sẽ nắm chân ngươi ném ra ngoài biển. Đức Phật nói: –Ta xem thế gian này không ai có thể ném Ta ra ngoài biển được cả. Tiền nhân của ngươi đã có xây cất một ngôi chùa, thọ giới Bát quan trai trong một ngày, cúng dường cho vị Bích-chi-phật một bát cơm, cho nên được sinh ở cõi trời thứ sáu, làm Đại ma vương. Nhưng Ta trong ba a-tăng-kỳ kiếp đầu Ta đã cúng dường vô lượng các Đức Phật, trong a-tăng-kỳ kiếp thứ hai và thứ ba cũng lại như vậy, Ta đã cúng dường các vị Thanh văn và Duyên giác, không sao tính được. Trên toàn địa cầu này chẳng nơi nào mà chẳng có xương cốt của Ta để lại. Ma nói: –Này Cù-đàm, ngươi nói ta ngày xưa có giữ giới một ngày, cúng cho vị Bích-chi-phật một bữa ăn, ta tin điều đó là đúng, ta cũng tự biết như vậy, ngươi cũng biết ta, song ngươi tự nói về ngươi như vậy ai chứng biết? Đức Phật lấy ngón tay chỉ xuống mặt đất nói: –Mặt đất này sẽ làm chứng cho Ta. Khi nói như vậy thì toàn quả địa cầu sáu thứ chấn động. Địa thần liền từ Kim cang tế xuất hiện, chắp tay bạch Đức Phật: –Con là nhân chứng, con đến từ mặt đất này, con thường ở trong đó. Những điều Đức Thế Tôn nói là chân thật, không hư ngụy. Đức Phật nói với Ba-tuần: –Nay ngươi trước hết nếu có thể di động được cái bình tắm này thì sau đó mới có thể ném Ta ra ngoài biển được. Khi ấy Ba-tuần và tám mươi ức ma chúng không thể làm cho cái bình tắm di động, quân chúng ma vương tự rớt ngã la liệt, mắt đổ đom đóm. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Ma Ba-tuần luôn luôn làm não loạn Đức Như Lai, mà không thắng được Như Lai. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay đâu, ngày xưa cũng vậy. Ngày xưa ở nước Ca-thi, trong núi Tiên nhân, có vị Tiên chứng được ngũ thông, giáo hóa cho các em thiếu niên ở trong thành Ba-la-nại. Ngài độ cho chúng xuất gia, bảo chúng tu Tiên đạo. Bấy giờ vị Thần giữ thành này bừng bừng tức giận nói với vị Tiên nhân: –Ngươi đã vào thành, lại còn độ người. Ta sẽ nắm chân ngươi ném ra ngoài biển. Khi ấy vị Tiên nhân cầm một cái bình tắm nói với vị thần giữ thành ấy: –Trước tiên ngươi di động được cái bình này, thì sau đó mới ném ta được. Vị thần dùng toàn lực mà vẫn không di động được cái bình, nên xấu hổ quy phục vị Tiên nhân. Vị Tiên nhân lúc ấy chính là thân Ta, còn vị Thần của thành lúc ấy chính là Ba-tuần.  <詞 id="41126139">82- CHUYỆN ĐỨC PHẬT NÓI VỀ TAI HỌA CỦA LỢI DƯỠNG CHO CÁC TỲ-KHEO NGHE Bấy giờ Đức Như Lai ở tại nước Xá-vệ, nhàm chán tai họa của lợi dưỡng. Có một khu rừng sâu tên là Tham trang nghiêm, vì tránh sự lợi dưỡng, nên Ngài đi đến khu rừng ấy. Trong khu rừng có một ngôi chùa, có một vị La-hán tên là Na-dặc-ca, trụ trì ngôi chùa này. Đức Phật đi đến khu rừng đó, vào ngày hôm sau, có nhiều người mang y đến cúng dường, đầy cả khu rừng. Vị ấy nghó: ‘Ta không cần lợi dưỡng mà lợi dưỡng cứ theo đuổi ta.” Lúc ấy có một vạn hai ngàn Tỳ-kheo cũng đến rừng này. Đức Phật nói với các Tỳ-kheo: –Lợi dưỡng là một tai họa lớn, nó hay tạo ra chướng nạn, thậm chí vị La-hán cũng bị lợi dưỡng làm chướng nạn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Tại sao sự lợi dưỡng hay gây ra chướng nạn? Đức Phật trả lời: –Tai họa của lợi dưỡng nó làm rách da, rách thịt, bể xương, bể tủy. Sao gọi là rách? Nó làm rách da trì giới, rách thịt thiền định, bể xương trí tuệ, bể tủy thiện tâm vi diệu. Lúc ấy một vạn hai ngàn Tỳ-kheo đều giữ ba y, sáu vật, sống hạnh tịch tịnh, không thọ nhận các vật khác. Đức Phật liền khen ngợi: –Lành thay! lành thay! Các vị hay giữ pháp A-luyện-nhã. Pháp môn của Ta là pháp ít ham muốn chứ không phải là pháp muốn nhiều, là pháp biết đủ chứ không phải là không biết đủ, là pháp ưa thích sự thanh tịnh chứ không phải là pháp ưa thích sự ồn ào, là pháp tinh tấn chứ không phải là pháp giải đãi, là pháp chánh niệm chứ không phải là pháp tà niệm, là pháp tịnh tâm chứ không phải là pháp loạn tâm, là pháp trí tuệ chứ không phải là pháp ngu si. Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Đức Phật nói lời ấy, đều chứng quả A-la-hán. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay mới như thế, nhưng quá khứ cũng như vậy. Ngày xưa ở nước Ca-thi có một phụ tướng tên là Dạ-xoa. Con của Dạ-xoa tên là Dạ-nhi-đạt-đa hiểu sâu lẽ vô thường, xuất gia học tiên đạo. Các Tiên nhân có nhiều sự ham muốn, đều tranh nhau trái cây và cỏ. Dạ-nhi-đạt-đa vì muốn cho những người đó trở thành ít ham muốn nên bỏ những trái mềm lấy những trái cứng, bỏ trái ngọt lấy trái chua, bỏ những quả mới của mình lấy những quả xấu của người. Nhờ bỏ quả ngon mà lấy quả dở như vậy liền chứng được ngũ thông. Khi ấy một vạn hai ngàn Tiên nhân, thấy vị ấy được như vậy liền học hạnh ít ham muốn, không còn cầu nhiều, nên đều chứng được ngũ thông. Lúc ấy Dạ-nhi-đạt-đa dần dần tạo phương tiện giáo hóa cho các vị Tiên, nên sau khi mạng chung họ được sinh vào cõi Bất dụng. Đạt-đa lúc ấy chính là thân Ta, còn một vạn hai ngàn Tiên nhân lúc ấy thì nay là một vạn hai ngàn Tỳ-kheo.  <詞 id="41126140">83- CHUYỆN TÊN GIẶC SẮP BỊ GIẾT TỪ XA TRÔNG THẤY ĐỨC PHẬT, HOAN HỶ NÊN ĐƯỢC SINH THIÊN Bấy giờ ở nước Xá-vệ, vua Ba-tư-nặc nổi trống xướng lệnh nói: –Nếu ai làm giặc, bắt được sẽ bị giết. Khi ấy có một người bắt được một tên giặc dẫn đến. Nhà vua bèn bảo người dẫn ra ngoài giết đi. Khi dẫn kẻ giặc ra ngoài thành, giữa đường bỗng thấy Đức Như Lai từ xa kẻ giặc sinh tâm hoan hỷ. Khi đến chỗ hành hình, tuân theo lệnh vua phải chết, kẻ ấy liền được sinh lên cõi trời có đủ ba ý niệm. Biết rằng lúc sắp chết nhờ thấy Đức Phật, sinh tâm hoan hỷ, nên khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Vì cảm nhớ ân đức của Đức Phật nên vị trời lại xuống cúng dường. Đức Phật thuyết pháp, cho vị ấy nghe xong đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Nhờ nghiệp duyên gì mà vị ấy được sinh nơi Thiên cung? Đức Phật trả lời: –Vị ấy ngày xưa ở nhân gian bị vua bắt giết, lúc sắp chết thấy Đức Phật sinh tâm hoan hỷ. Nhờ nhân lành ấy được sinh lên cõi trời. Vị ấy lại đến chỗ Ta nghe pháp mà được giác ngộ nên chứng được quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126141">84- CHUYỆN NGƯỜI SA LƯỚI PHÁP LUẬT BỊ CHẶT TAY CHÂN, CẢM NIỆM ÂN CỦA ĐỨC PHẬT NÊN ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa, ở nước Xá-vệ có một người phạm vào phép của vua nên bị chặt đứt chân tay, đem bỏ ở đầu đường. Đức Phật đang đi thấy vậy liền đến gần hỏi: –Ngươi hôm nay vì cái gì làm khổ? Người chặt chân tay nói: –Con rất khổ vì đói. Đức Thế Tôn liền bảo Tôn giả A-nan lấy cơm cho người đó ăn. Người bị chặt chân tay mạng chung, được sinh lên cõi trời, rồi cảm nhớ ân sâu của Đức Phật, lại xuống để cúng dường. Đức Phật thuyết pháp cho vị ấy nghe và vị ấy chứng được quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi rằng: –Do hạnh nghiệp gì mà vị ấy được sinh lên cõi trời? Đức Phật đáp: –Ngày xưa ở nhân gian, vị ấy bị pháp luật chặt đứt tay chân rồi quẳng ở đầu đường. Ta đến gần, bảo Tôn giả A-nan lấy cơm cho ăn, nên vị ấy sinh tâm hoan hỷ, lúc mạng chung được sinh lên cõi trời. Vị ấy lại đến chỗ Ta nghe pháp và đắc đạo.  <詞 id="41126142">85- CHUYỆN TRƯỞNG GIẢ LẤY NƯỚC MẬT TỐT CÚNG DƯỜNG CHO NGƯỜI ĐI ĐƯỜNG ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa, tại nước Xá-vệ, có một trưởng giả ở trong rừng Kỳ hoàn, tìm đến chỗ đất trống vắng vẻ, muốn xây cất nhà cửa. Trưởng giả Tu-đạt đã đi xem khắp mà chẳng có chỗ trống, ông liền vào cửa lớn của Kỳ hoàn, lấy nước ngon sạch, dùng nhiều mật, nhiều lúa tiểu mạch để làm nước uống, cung cấp cho người đi đường. Sau chín mươi ngày, Đức Phật cũng thọ nhận nước ấy. Lúc đó ông mạng chung được sinh trên cõi trời, thành vị trời có đại oai đức. Vị trời ấy lại từ cung trời xuống cúng dường Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp và vị ấy đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Nhờ hạnh nghiệp gì mà vị ấy được sinh cõi trời, lại có oai đức như vậy? Đức Phật đáp: –Khi còn làm người vị ấy ở trong thành Kỳ hoàn, làm các thứ nước uống để bố thí cho mọi người, Đức Phật cũng có thọ nhận nước ấy. Nhờ nhân duyên ấy nên vị ấy được sinh lên cõi trời, rồi vị ấy lại đến chỗ Ta nghe pháp, được đắc đạo.  <詞 id="41126143">86- CHUYỆN VUA BA-TƯ-NẶC SAI NGƯỜI ĐI THỈNH PHẬT, NHỜ ĐÓ NGƯỜI ẤY SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa, ở nước Xá-vệ, vua Ba-tư-nặc và trưởng giả Tu-đạt, đã lâu mà chưa gặp Đức Phật, trong lòng rất khát ngưỡng. Sau mùa hạ, họ bảo sứ giả đến thỉnh Phật. Sứ giả đi đến chỗ Đức Phật, cung kính bạch Đức Phật: –Nhà vua và trưởng giả muốn gặp Đức Phật. Cúi mong Đức Thế Tôn ngồi lên xe này đi đến nước Xá-vệ! Đức Phật đáp: –Ta không cần dùng xe, tự Ta có thần túc. Tuy Đức Phật nói như vậy, nhưng để cho tín chủ được phước, Ngài liền ngồi trên xe bay trên không trung. Sứ giả liền đến trước tâu với vua và trưởng giả biết. Nhà vua và trưởng giả tự mình ra ngoài để nghênh tiếp. Sứ giả cũng theo vua đến gặp Đức Phật. Sứ giả này nhờ vậy khi mạng chung được sinh lên cõi trời, rồi cỡi xe báu đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho vị ấy nghe nên vị ấy đắc quả Tu-đà-hoàn. Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Nhờ nhân duyên gì mà vị ấy được sinh lên Thiên cung và cỡi xe báu này? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian, vị ấy được vua bảo đến thỉnh Phật, mời Đức Phật cỡi lên xe. Do nghiệp duyên này nên nay được sinh ở cõi trời, thường cỡi xe báu. Nay lại đến chỗ Ta nghe pháp được ngộ, chứng quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126144">87- CHUYỆN LÚC VUA BA-TƯ-NẶC KHUYẾN HÓA QUYÊN GÓP, CÓ NGƯỜI NGHÈO LẤY TẤM DẠ Dâng CHO VUA NÊN ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa, ở nước Xá-vệ, vua Ba-tư-nặc hỏi: –Trưởng giả Tu-đạt mà còn có thể khuyến hóa tất cả nhân dân, làm các phước nghiệp. Nay ta cũng nên vì các chúng sinh dạy dỗ, dẫn dắt và quyên góp khiến cho họ được phước. Lúc đó nhà vua đi khuyến hóa và quyên góp các nơi. Khi ấy có một người bần cùng khổ sở, chỉ có một tấm dạ, liền đem dâng cho vua Ba-tư-nặc. Khi nhà vua nhận được tấm dạ xong, đem dâng lên Đức Phật. Sau đó người nghèo này mạng chung được sinh lên cõi trời. Vì cảm ân đức to lớn của Đức Phật nên đến để cúng dường. Đức Phật thuyết pháp cho vị ấy nghe, vị ấy đã chứng được quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Ngày xưa vị ấy tạo nghiệp gì mà được sinh lên cõi trời? Đức Phật đáp: –Khi ở nhân gian, vị ấy gặp nhà vua khuyến hóa, liền lấy tấm dạ trắng để cúng dường. Nhờ thiện nhân ấy cho nên nay được sinh lên cõi trời. Nay lại đến chỗ Ta nghe pháp, được chứng quả.  <詞 id="41126145">88- CHUYỆN NGƯỜI ANH THƯỜNG KHUYÊN, NGƯỜI EM PHỤNG TU TAM BẢO NHƯNG NGƯỜI EM KHÔNG KÍNH TÍN, NGƯỜI ANH ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa ở nước Xá-vệ có hai anh em, người anh thì phụng tu Phật pháp, còn người em thì thờ phụng Phú-lan-na. Do đó người anh thường khuyên người em bảo nên thờ phụng Tam bảo nhưng người en không tùy thuận, nên anh em thường tranh cãi với nhau, không hòa hợp nhau, cho nên ai sống phần nấy. Người anh nhờ cúng dường Đức Phật cho nên sau đó mạng chung, được sinh lên cõi trời, liền đến chỗ Đức Phật để báo ân và cúng dường. Đức Phật thuyết pháp cho vị ấy nghe nên vị ấy được đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Ngày xưa vị ấy tạo nghiệp gì mà nay được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Lúc ở nhân gian, tâm vị ấy thích chánh pháp, tôn thờ và thực hành theo Tam bảo. Nhờ phước nhân ấy cho nên nay được sinh lên cõi trời. Nay lại đến chỗ Ta nghe pháp rồi tin hiểu mà chứng được đạo quả.  <詞 id="41126146">89- CHUYỆN NGƯỜI CHA NGHE CON ĐẮC ĐẠO VUI, MỪNG LIỀN ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa ở nước Xá-vệ, có hai người anh em thường ưa thích đấu tranh, nên oán thù nhau, liền cùng đi đến chỗ vua, muốn nhờ vua xét xử, giữa đường gặp được Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho họ nghe và họ đắc đạo A-la-hán. Người cha nghe con ông gặp Đức Phật và được đắc đạo nên tâm sinh vui mừng, tức thì mạng chung và được sinh lên cõi trời. Ông lại đến chỗ Đức Phật, Đức Phật thuyết pháp cho vị ấy nghe và vị ấy được đắc quả Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Ngày xưa vị ấy tạo nghiệp gì mà nay được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Ngày xưa ở nhân gian, vị ấy nghe các người con ông nhờ Ta thuyết pháp mà đắc đạo, nên vui mừng hớn hở, khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Ông lại đến chỗ Ta nghe pháp, tin và hiểu nên được chứng đạo quả.  <詞 id="41126147">90- CHUYỆN NGƯỜI CON BỊ CHA BẮT BUỘC XUẤT GIA ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Ngày xưa, ở nước Xá-vệ có người cha bảo con xuất gia thờ Phật, Đức Phật liền độ cho và thường bảo vị ấy quét dọn. Vì không chịu nổi sự đắng cay khổ cực nên anh ta bỏ đạo trở về thế tục. Người cha nói với con: –Con chỉ xuất gia, còn từ nay về sau cha thay con mà quét dọn. Người con liền cùng với người cha đến tinh xá Kỳ hoàn. Người con thấy tinh xá, trong lòng bỗng thanh tịnh, tâm sinh hoan hỷ mới nói như vầy: –Ta thà chết đi, thề xuất gia quét dọn, không trở về thế tục nữa. Sau khi mạng chung; vị ấy được sinh lên cõi trời, liền đến chỗ Đức Phật nghe Ngài thuyết pháp và được chứng qủa Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật: –Nhờ nghiệp duyên gì mà vị ấy được sinh lên cõi trời? Đức Phật trả lời: –Khi ở nhân gian, vị ấy không chịu nỗi khổ sở, cho nên muốn hoàn tục. Người cha không cho phép và thay anh quét chùa, buộc anh phải xuất gia, anh ta liền hoan hỷ. Lúc mạng chung vị ấy được sinh ở cõi trời, rồi lại đến chỗ Ta nghe pháp nên được đắc đạo.  <詞 id="41126148">91- CHUYỆN LA-HÁN KỲ-DẠ-ĐA ĐUỔI ÁC LONG RA BIỂN Ngày xưa có vị Tôn giả A-la-hán, tên là Kỳ-dạ-đa. Lúc ấy Đức Phật đã nhập diệt. Sau bảy trăm năm Tôn giả xuất hiện ở nước Kế tân. Bấy giờ ở nước Kế tân có một con rồng hung ác tên là A-lợi-na thường gây ra tai ương, khổ lụy cho các Hiền thánh, kẻ só và nhân dân trong nước. Khi ấy hai ngàn vị A-la-hán đều dốc hết toàn lực, xua đuổi con rồng này ra khỏi nước. Trong đó có một trăm vị A-la-hán dùng thần thông làm rung động quả đất, lại có năm trăm vị phóng luồng hào quang lớn, lại có năm trăm vị nhập thiền định và đi kinh hành. Các vị đều đem hết thần lực, nhưng không thể làm con rồng di động. Bấy giờ Tôn giả Kỳ-dạ-đa sau cùng đi đến ao của con rồng, khảy móng tay ba lần nói: –Này rồng, nay ngươi phải đi đến chỗ khác, không được ở đây nữa. Con rồng liền ra đi không dám ở lại. Bấy giờ hai vị A-la-hán nói với Tôn giả: –Chúng tôi cùng Tôn giả đều được lậu tận, giải thoát, pháp thân thảy đều bình đẳng, tại sao chúng tôi đều dùng hết thần lực, mà không thể làm nó di động? Tại sao Tôn giả chỉ khảy móng tay có ba lần mà khiến cho con rồng A-lợi-na phải đi xa vào biển lớn vậy? Khi ấy Tôn giả đáp: –Từ lúc làm phàm phu đến nay, tôi thọ trì cấm giới cho đến giới Đột-kiết-la, mà vẫn dùng tâm bình đẳng thọ trì, xem như bốn trọng giới không khác. Nay sở dó các vị không thể làm di động con rồng này là vì thần lực không đồng nhau cho nên không thể làm nó di động. Khi ấy Tôn giả Kỳ-dạ-đa cùng các đệ tử hướng về phía Bắc Thiên trúc mà đi. Giữa đường thấy một con chim, Tôn giả ngẩng đầu mỉm cười. Các đệ tử thưa: –Chẳng hay Tôn giả vì sao lại mỉm cười, xin nói cho chúng tôi biết? Tôn giả đáp: –Đúng lúc ta sẽ nói. Lúc đó Tôn giả đi trước đến thành Thạch thất, khi đến cửa thành, Tôn giả bỗng buồn thảm biến sắc. Lúc đến giờ ăn, vào thành khất thực, khi đã ăn xong, đi ra cửa thành, Tôn giả lại buồn thảm thiết biến sắc. Các đệ tử quỳ thẳng bạch: –Không rõ vừa rồi, do nhân duyên gì mà ngài mỉm cười, nay lại buồn thảm biến sắc? Khi ấy Tôn giả Kỳ-dạ-đa trả lời các đệ tử: –Ngày xưa cách đây chín mốt kiếp, lúc Đức Phật Tỳ-bà-thi sau khi nhập Niết-bàn, ta làm con của một trưởng giả, khi ấy ta mong muốn xuất gia, nhưng cha mẹ ta không cho, cha mẹ mới nói với ta: “Gia nghiệp nhà ta là rất quan trọng, nếu ngươi xuất gia thì ai thừa kế sau này? Ta sẽ cưới vợ cho ngươi, hãy sinh cho ta một đứa con nối dõi, ta sẽ cho ngươi xuất gia.” Lúc ấy ta liền cưới vợ. Khi cưới vợ rồi ta lại xin xuất gia, cha mẹ ta lại nói: “Nếu sinh được một đứa con, ta sẽ cho ngươi xuất gia.” Sau đó, không bao lâu, ta sinh được một đứa con trai. Nó bắt đầu nói được, ta lại thưa với cha mẹ: “Xin cha mẹ cho phép con xuất gia.” Khi ấy cha mẹ sợ trái với lời hứa trước, ngầm bày nhũ mẫu, nói với đứa cháu trai này: “Nếu khi cha cháu muốn xuất gia, thì cháu ở trước cửa nắm cha lại và nói: ‘Cha đã sinh ra con thì xin cha hãy nuôi dưỡng con sao nay cha lại muốn bỏ nhà xuất gia? Nếu cha muốn đi, xin cha hãy giết con, sau đó sẽ đi.’” Khi ấy người cha buồn thảm, đổi ý, nói với con: “Nay ta sẽ ở lại, không đi nữa.” Vì vậy mà ta trôi nổi trong đường sinh tử. Ta dùng đạo nhãn xem thấy đời trước của ta sinh cõi trời, cõi người và ba đường ác. Ta nói: “Gặp nhau rất khó, gặp nhau rất khó.” Nay ta mới thấy một con chim, chính là đứa con trai của ta lúc ấy. Vì vậy ta buồn rầu đổi sắc, ta đến bên thành thấy một đứa con của ngạ quỷ, nói với ta: “Tôi ở bên thành này đã bảy mươi năm rồi, mẹ tôi đã vì tôi mà vào thành xin cơm cho tôi ăn, nhưng chưa một lần trở về. Nay tôi đói khát hết sức khốn khổ, cúi mong Tôn giả vào thành, thấy mẹ tôi xin Tôn giả hãy vì tôi mà nói với bà: ‘Hãy về gặp tôi gấp’.” Khi vào thành, thấy mẹ của ngạ quỷ, ta nói với bà: “Con bà ở ngoài thành đói khát, nguy khốn, muốn được gặp bà.” Khi ấy mẹ của ngạ quỷ nói với ta: “Tôi đi vào thành đã hơn bảy mươi năm rồi, vì tôi bạc phước, lại thêm mới sinh con, đói ốm không còn sức. Tuy có đồ ăn, máu mủ, đờm dãi, phân thối, đồ dơ, nhưng những con quỷ có sức mạnh lớn đến trước mang đi, tôi chẳng lấy được. Sau cùng tôi được một miếng đồ dơ, muốn mang ra cửa cho con tôi cùng ăn, nhưng trong cửa lại có các con quỷ đại lực lại không cho tôi ra. Cúi mong Tôn giả thương xót dẫn tôi ra, làm cho mẹ con gặp nhau cùng ăn đồ dơ này.” Khi ấy Ta liền dẫn mẹ con ngạ quỷ ra khỏi thành, mẹ con gặp nhau, cùng ăn đồ chẳng sạch. Ta hỏi con quỷ kia: “Ngươi ở tại đây đã bao lâu rồi?” Con quỷ đáp: “Tôi ở thành này đã qua bảy lần hư và bảy lần sửa lại.” Lúc ấy Tôn giả than: –Ngạ quỷ sống lâu, hết sức khổ sở! Bấy giờ các đệ tử nghe nói lời ấy, thảy đều nhàm chán tai họa sinh tử, liền thấy được đạo.  <詞 id="41126149">92- CHUYỆN HAI TỲ-KHEO THẤY TÔN GIẢ KỲ-DẠ-ĐA ĐƯỢC SINH Ở CÕI TRỜI Bấy giờ, ở Nam Ấn độ có hai vị Tỳ-kheo nghe tiếng Tôn giả Kỳ-dạ-đa có đại oai đức, nên họ đi về phía nước Kế tân, đến chỗ của Tôn giả, con đường dẫn đến thấy dưới một gốc cây, có một Tỳ-kheo, hình thể hết sức tiều tụy, ngồi trước bếp đốt lửa. Hai vị Tỳ-kheo này hỏi: –Ngài có biết Tôn giả Kỳ-dạ-đa chăng? Đáp: –Ta biết. Hai Tỳ-kheo kia hỏi: –Hiện nay Tôn giả ở đâu? Đáp rằng: –Ở trong hang động thứ ba, phía trên núi. Hai Tỳ-kheo kia liền leo lên núi, đi vào hang đá, thì thấy vị Tỳ-kheo nhen lửa lúc nãy. Khi ấy hai vị Tỳ-kheo này nghi là chuyện lạ. Một Tỳ-kheo nói: –Ngài có danh đức như vậy, lo gì không làm được, mà phải đến đây trước? Lúc đó một Tỳ-kheo cầu Tôn giả giải quyết sự nghi ngờ nên hỏi: –Tôn giả có oai đức như vậy, vậy tự nhen lửa làm gì? Tôn giả đáp: –Ta nhớ nỗi khổ sinh tử đời trước. Nên nếu bây giờ đầu, mặt, tay chân của ta có thể nhen lửa được, thì ta cũng vì chúng Tăng mà nhen lửa, huống lại đốn củi ư? Khi ấy hai Tỳ-kheo liền hỏi: –Không rõ nỗi khổ sinh tử ngày xưa của Tôn giả như thế nào, xin nói cho nghe. Tôn giả đáp: –Ta nhớ ngày xưa, trong đời thứ năm trăm, ta sinh trong loài chó, thường bị khốn khổ vì đói khát, chỉ có hai thời là được no đủ. Một là gặp người uống rượu say mửa đồ ăn dưới đất, nhờ vậy mà được no đủ an lạc; hai là gặp hai vợ chồng người ta cùng nhau làm lụng, người chồng thì ra ruộng cày bừa, còn người vợ ở nhà nấu ăn. Khi ấy người vợ vì có chút việc ra ngoài, ta liền nhảy vào ăn trộm đồ ẩm thực của họ, gặp họ để đồ ăn ở chỗ có miệng rất nhỏ, ban đầu tuy đút đầu vào được, nhưng sau rút đầu ra rất khó. Tuy được một bữa no, nhưng sau đó phải nhận chịu sự đắng cay khổ sở. Lúc người chồng ở ruộng trở về, liền cắt đầu ta ngay lúc ta đang đút đầu vào vật đựng đồ ăn. Khi ấy hai Tỳ-kheo này nghe Ngài thuyết pháp, nhàm chán sinh tử, đắc quả Tu-đà-hoàn.  <詞 id="41126150">93- CHUYỆN NƯỚC NGUYỆT THỊ THẤY TÔN GIẢ KỲ-DẠ-ĐA Có một vị vua tên là Chiên-đàn-kế-ni-tra ở nước Nguyệt thị. nghe ở nước Kế tân có Tôn giả chứng A-la-hán tên là Kỳ-dạ-đa, rất có tiếng tăm, nhà vua muốn gặp ngài, liền đích thân lên xe cùng với quần thần theo sau, đi đến nước Kế tân. Đi giữa đường trong lòng nhà vua thầm nghó: “Nay ta là vua, vua của thiên hạ, của tất cả dân chúng, không một ai mà không kính phục, nếu tự ngài không có đức lớn, làm sao lại có thể nhận được sự cúng dường của ta?”. Nghó như vậy xong, liền đi tới trước, thẳng đến nước ấy. Bấy giờ có người báo cho Tôn giả Kỳ-dạ-đa: –Vua nước Nguyệt thị tên là Chiên-đàn-kế-ni-tra, cùng với quần thần tùy tùng, từ xa đến đây để gặp ngài, cúi mong Tôn giả sửa lại y phục, cùng vua tiếp đãi. Khi ấy Tôn giả đáp: –Ta nghe Đức Phật dạy, người xuất gia tôn trọng đạo đức, coi thường hình thức, chỉ có đạo đức mới là quan trọng, ta há lại trang sức y phục mà ra nghênh tiếp sao? Rồi ngài im lặng, ngồi ngay thẳng không ra. Lúc ấy vua nước Nguyệt thị đi đến chỗ Tôn giả, thấy oai đức của Tôn giả Kỳ-dạ-đa, càng thêm kính tín, liền đến trước cúi lạy rồi đứng qua một bên. Tôn giả vừa muốn nhổ nước miếng, lúc ấy vua nước Nguyệt thị bất ngờ bước tới trước, nên bị dính bãi nước miếng ấy vào người. Lúc đó Tôn giả Kỳ-dạ-đa liền nói với vua: –Bần đạo nay chưa thể vì vua mà làm ruộng phước, sao ngài lại tự mình hạ cố đến đây? Khi ấy vua nước Nguyệt thị càng thêm xấu hổ, nghó: “Vừa rồi ta mới trộm sinh một niệm nhỏ, mà ngài đã biết tâm ta, tự cho rằng ngài không có thần đức, sao có thể như vậy được.” Từ đó, nhà vua đối với Tôn giả càng sinh lòng kính tín. Khi ấy Tôn giả Kỳ-dạ-đa liền nói giáo pháp cho vua nghe: –Tương lai của vua rất tốt, quá khứ cũng đã như vậy. Nhà vua nghe Tôn giả dạy xong liền trở về nước, khi đến nửa đường quần thần oán than: –Chúng tôi chẳng quản đường xa theo Đại vương để đến nước kia mà chẳng nghe được gì cả. Đột nhiên, lại trở về nước. Khi ấy vua Nguyệt thị trả lời quần thần: –Các khanh sao nay trách ta là chẳng được gì cả? Vừa rồi Tôn giả có thuyết pháp cho ta nghe: “Tương lai vua rất tốt, quá khứ cũng như vậy.” Các khanh đều không hiểu điều này sao? Vì ở đời quá khứ ta có Trì giới, Bố thí, tạo Tăng phòng, tạo lập chùa tháp, làm các thứ công đức để trồng hạt giống làm vua, cho nên nay được hưởng quả vị ấy. Nếu nay lại tu phước, tích lũy các điều thiện, thì đời tương lai chắc chắn lại thọ phước, cho nên mới răn dạy ta: “Tương lai của vua rất tốt, quá khứ cũng đã như vậy.” Quần thần nghe xong, cúi lạy tạ: –Chúng thần là kẻ thấp hèn, trí tuệ nông cạn, ngu si trộm hiểu một cách sai lầm, nói những điều không đúng. Còn thần đức của Đại vương thì khế hợp một cách tài tình với lời nói cũng như tôn chỉ của Tôn giả chứa nhóm được cội đức đã trồng, cho nên được hưởng địa vị quốc vương này. Quần thần hoan hỷ nói như vậy rồi thoái lui.  <詞 id="41126151">94- CHUYỆN VUA NƯỚC NGUYỆT THỊ KẾT BẠN THÂN VỚI BA VỊ QUAN TRÍ TUỆ Bấy giờ, ở nước Nguyệt thị có một vị vua tên là Chiên-đàn-kế-ni-sất kết bạn với ba người trí. Người thứ nhất tên là Bồ-tát Mã Minh, người thứ hai là vị đại thần tên Ma-sất-la, người thứ ba là vị lương y tên Già-la-ca. Ba vị ấy là bạn thân thiện của nhà vua, được vua đãi ngộ rất ân cần. Họ thường gần gũi bên cạnh nhà vua. Bồ-tát Mã Minh tâu với vua: –Nếu nhà vua nghe theo lời của tôi thì đời sau của vua thường tương ứng với điều thiện, xa lìa các nạn, vónh viễn xa lìa con đường ác. Người bạn thứ hai vị đại thần tâu với vua: –Nếu vua dùng lời sâu kín của thần, mà không tiết lộ cho ai biết, thì người trong bốn biển đều có thể tóm thâu được. Người bạn thứ ba vị lương y lại tâu với vua: –Nếu Đại vương nghe theo lời của thần thì khiến cho trong thân vua suốt đời không bị chết yểu, trăm vị tùy theo tâm tự điều hòa thích ứng không có hoạn nạn. Nhà vua nhờ nghe lời của vị ấy nên chưa hề có chút bệnh nhỏ. Bấy giờ nhà vua theo lời của vị đại thần nói, nên những quân đội oai hùng của các nước, không nơi nào mà chẳng bị đánh bại. Ở trong bốn biển ba phương đã định, chỉ có phương Đông là chưa đến để quy phục. Nhà vua bèn chuẩn bị quân đội, muốn đến để thảo phạt. Trước tiên sai khiến các rợ Hồ và các con bạch tượng đi đầu, vua dẫn binh đi sau muốn đến rặng núi Thông lãnh, vượt qua cửa ải hiểm nghèo. Lúc ấy có những người cỡi những con voi, con ngựa ở trước, không chịu tiến tới. Nhà vua hết sức kinh ngạc, nói với ngựa: –Trước sau ta vẫn cỡi các ngươi chinh phạt, ba phương đã bình định, nay các ngươi tại sao không chịu tiến tới? Khi ấy vị đại thần tâu với vua: –Trước đây thần đã tâu với vua đừng tiết lộ lời nói kín đáo. Nay vua đã tiết lộ, thì thọ mạng của ngài sẽ không còn lâu nữa. Như lời của vị đại thần nói, nhà vua tự biết rõ sự chết của mình không còn lâu nữa. Bởi vua chinh phạt từ trước đến nay đã giết hại hơn ba ức người, tự biết tương lai chắc chắn phải thọ lấy tội nặng, nên trong lòng hết sức sợ hãi, liền sám hối, lập đàn trì giới, tạo lập Tăng phòng, cúng dường chúng Tăng, tứ sự đầy đủ, tu các công đức, siêng năng không mệt mỏi. Khi ấy quần thần tự nói với nhau: –Nhà vua tạo nhiều tội ác, giết hại vô đạo. Nay tuy có làm phước cũng đâu có ích gì đối với những tội lỗi khi xưa? Nhà vua nghe quần thần nói như vậy, muốn giải tỏa ý nghó của họ, liền tạo phương tiện, bèn ra lệnh cho một vị hạ thần. Ngươi hãy đốt một cái vạc trong bảy ngày, bảy đêm, làm cho nước thật sôi, đừng để tắt lửa. Xong nhà vua lấy một cái vòng ngọc ném vào trong vạc rồi ra lệnh cho các thần: –Các khanh hãy vào trong cái vạc lấy vòng ngọc ra. Có vị quan tâu với vua: –Thà chịu chết chứ không thể lấy vòng ngọc này được. Nhà vua nói với vị quan ấy: –Vậy có phương tiện gì để lấy vòng ngọc ấy chăng? Khi ấy vị quan thưa: –Hãy tắt lửa ở dưới, thì nước bên trên sẽ nguội lạnh, nhờ cách đó mới không làm phỏng tay người ta, rồi mới có thể lấy được. Nhà vua đáp: –Trước đây ta làm ác, giống như cái vạc nước sôi, nay ta tu các điều thiện, hổ thẹn sám hối không còn làm ác nữa. Sao lại không tiêu diệt được tội lỗi? Như vậy ta có thể đình chỉ ba đường ác, có thể sinh ở cõi người, cõi trời. Khi nghe vua nói xong quần thần, tức thì rõ biết được việc vua làm, người nào cũng hoan hỷ. Vậy lời nói của người trí, không thể không áp dụng. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126152">QUYỂN 8 Gồm bảy chuyện: 95. Chuyện vợ chồng phụ tướng nước Câu-thi-di ác tâm đối với Đức Phật, nhờ Đức Phật hóa đạo mà chứng quả Tu-đà-hoàn. 96. Chuyện Nan-đà, em của Đức Phật bị Đức Phật bắt buộc xuất gia, được đắc đạo. 97. Chuyện đại lực só cảm hóa nhóm giặc đồng hoang. 98. Chuyện phụ tướng nghe pháp nên ly dục. 99. Chuyện Ni-kiền Tử nhảy vào đống lửa được Phật cứu độ. 100. Chuyện năm trăm con chim ưng trắng nghe pháp được sinh lên cõi trời. 101. Chuyện Đề-bà-đạt-đa thả con voi say tên Hộ tài muốn hại Phật.  <詞 id="41126153">95- CHUYỆN VỢ CHỒNG PHỤ TƯỚNG NƯỚC CÂU-THI-DI ÁC TÂM ĐỐI VỚI ĐỨC PHẬT, NHỜ ĐỨC PHẬT HÓA ĐẠO MÀ CHỨNG QUẢ TU-ĐÀ-HOÀN Đức Phật ở tại nước Câu-thi-di, ở đấy có một phụ tướng Bà-la-môn là con người cuồng bạo, chẳng có chút đạo tâm, còn vợ ông là người nịnh hót tà vạy, cũng chẳng kém gì chồng. Người chồng bảo vợ: –Sa-môn Cù-đàm đang ở trong nước này, nếu ông ta đến đây, hãy đóng cửa đừng mở. Có một hôm, bỗng nhiên Đức Như Lai ở trong nhà ông. Vợ của Bà-la-môn thấy vậy im lặng chẳng nói với Ngài một tiếng. Đức Phật liền nói: –Ngươi là người Bà-la-môn ngu si, tà kiến, không tin Tam bảo. Người vợ nghe lời nói ấy, hết sức tức giận, tự bứt dây anh lạc, mặc áo dơ, ngồi bệt dưới đất. Người chồng từ ngoài đi vào hỏi: –Tại sao lại làm như vậy? Đáp: –Sa-môn Cù-đàm mạ nhục tôi, nói: “Ngươi là người Bà-la-môn tà kiến, bất tín.” Người chồng nói: –Hãy chờ đến sáng mai, sáng mai hãy mở cửa để chờ Phật đến. Vào ngày hôm sau Đức Phật xuất hiện trong nhà ông. Bà-la-môn liền cầm kiếm nhọn đâm Đức Phật, nhưng không thể đâm được. Ông thấy Đức Phật ở trên hư không, liền tự thấy xấu hổ, năm vóc gieo xuống đất, bạch Đức Phật: –Cúi mong Đức Thế Tôn giáng hạ để con xin sám hối. Đức Phật liền đi xuống đất, cho ông sám hối và nói những điều cốt yếu của Chánh pháp cho ông nghe. Nhờ vậy vợ chồng ông đều đắc được đạo quả Tu-đà-hoàn. Khi ấy các Tỳ-kheo nghe Đức Phật hàng phục và giáo hóa người ác như vậy, họ đều nói: –Đức Thế Tôn xuất thế hết sức kỳ diệu. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: –Đâu phải chỉ có ngày nay mới thế, mà ở thời quá khứ, Ta cũng từng điều phục họ như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Đức Phật: –Không rõ ở thời quá khứ Đức Phật đã điều phục như thế nào? Đức Phật nói: –Ngày xưa, ở nước Ca-thi có một vị vua tên là Ác Thọ, ông làm những điều hết sức phi pháp, khổ não trăm họ chém giết vô đạo. Các khách buôn bốn phương xa xôi có những vật trân kỳ thù thắng, ông đều đánh thuế để chiếm đoạt, không đền trả những vật báu ấy. Vì vậy mà các vật quý ở trong nước đều lọt vào tay ông, mọi người rao truyền, tiếng ác của vua lan khắp. Bấy giờ có chim chúa Anh vũ đang ở trong rừng nghe người đi đường nói về sự độc ác của vua ấy, liền tự suy nghó: “Ta tuy là loài chim còn biết đó là điều trái. Nay ta nên đến chỗ vua kia nói về con đường thiện. Nếu nhà vua nghe lời, ta sẽ nói: Vua của loài chim kia còn có lời thiện, sao vua của loài người mà để người ta chê trách? May ra còn có thể giúp cho vua sửa đổi tu tỉnh.” Chim chúa liền bay lên cao, vào trong vườn của vua, liệng một vòng rồi hạ xuống, đậu trên một cây, gặp lúc phu nhân của vua vào vườn dạo mát. Khi ấy chim Anh vũ vỗ cánh ca hát, nói: –Nay vua bạo ngược hết sức vô đạo, tàn hại vạn dân ác độc với chim, thú, phun hơi phì phì, làm cho người, vật căm tức, buông lời ta thán, thiên hạ đều nghe. Phu nhân của vua cũng hà khắc không kém, làm cha mẹ của dân mà như vậy sao? Hoàng hậu nghe xong, bừng bừng tức giận nói: –Vì sao con chim nhỏ này lại mắng nhiếc ta không tiếc lời? Bà bảo người rình bắt nó. Khi ấy chim Anh vũ không khiếp, không sợ, nhảy vào tay của người bắt. Khi hoàng hậu bắt được chim, liền dâng cho vua. Nhà vua nói với chim Anh vũ: –Sao ngươi lại mắng ta? Chim Anh vũ đáp: –Tôi nói về điều phi pháp của vua, là muốn ích lợi cho ngài, chớ đâu dám mắng! Khi ấy nhà vua hỏi: –Ta có điều phi pháp gì? Đáp: –Có bảy việc phi pháp, có thể làm nguy hại thân vua. Vua hỏi: –Những gì là bảy? Đáp: –Một là đam mê tửu sắc, không làm việc ngay thẳng. Hai là uống rượu say sưa mê loạn, không lo việc nước. Ba là tham đắm cờ bạc, không tu lễ kính. Bốn là săn bắn, sát sinh, hoàn toàn không có lòng từ. Năm là thích nói lời ác độc, không nói lời lành. Sáu là thuế má hình phạt nhiều hơn pháp thường. Bảy là không theo nghóa lý, cướp đoạt tài vật nhân dân. Nếu có bảy việc này thì có thể làm nguy hại thân vua. Lại có ba việc làm nghiêng ngửa, suy bại vương quốc. Nhà vua lại hỏi: –Ba việc ấy là những gì? Đáp: –Một là thân cận với người tà nịnh, hiểm ác. Hai là không dựa vào Hiền thánh, không nghe lời trung. Ba là ưa thích chinh phạt nước khác, không nuôi dưỡng nhân dân. Nếu ba việc này không từ bỏ, thì thời gian mất nước không sớm thì muộn. Phàm người làm vua được mọi người quy ngưỡng, vậy nhà vua phải như cây cầu để cứu giúp vạn dân. Vua phải như cái cân, đối xử bình đẳng giữa người thân kẻ sơ. Vua phải như con đường, không ngược với dấu vết của Thánh. Người làm vua như mặt trời chiếu khắp thế gian.Vua phải như mặt trăng làm mát dịu mọi vật. Vua như cha mẹ, có ân nuôi dưỡng thương yêu. Nhà vua như bầu trời bao che tất cả. Nhà vua như mặt đất, vận tải nuôi dưỡng vạn vật. Vua như lửa, thiêu trừ tai họa hiểm nghèo cho muôn dân. Vua như nước, làm thấm nhuần bốn phương. Giống như vị Chuyển luân thánh vương ở thời quá khứ, vua lấy mười việc thiện để giáo hóa chúng sinh. Nhà vua nghe lời ấy rồi, tự mình hết sức xấu hổ, vì lời nói của Anh vũ chí thành, chí thiết. Vua nghó: “Ta là vua của loài người, đã làm điều vô đạo. Vậy ta xin vâng theo lời dạy ấy và thờ chim Anh vũ làm thầy, vâng chịu và thực hành Chánh pháp.” Bấy giờ ở trong nước phong giáo đã được thực hành, tiếng ác của vua được tiêu diệt. Hoàng hậu, thần quan đều sinh lòng trung thành tôn kính, tất cả nhân dân thảy đều hoan hỷ. Giống như trâu chúa vượt qua sông, người dẫn đường đã chánh thì kẻ đi theo cũng chánh. Chim Anh vũ lúc ấy là thân của Ta. Vua Ác Thọ nước Ca-thi lúc ấy thì nay là phụ tướng, còn phu nhân lúc ấy nay là vợ phụ tướng vậy.  <詞 id="41126154">96- CHUYỆN NAN-Đà, EM CỦA ĐỨC PHẬT BỊ ĐỨC PHẬT BẮT BUỘC XUẤT GIA ĐƯỢC ĐẮC ĐẠO Đức Phật ở nước Ca-tỳ-la-vệ, Ngài vào thành để khất thực, đến nhà của Nan-đà, gặp lúc Nan-đà cùng vợ đang trang điểm xoa hương, kẻ lông mày. Nghe tin Đức Phật ở ngoài cửa, Nan-đà muốn ra ngoài để gặp Phật, vợ chàng căn dặn: –Hãy ra gặp Đức Như Lai, để em trang điểm trên vùng trán rồi hãy trở vào. Nan-đà liền đi ra, gặp Phật, đảnh lễ Ngài, lấy bát vào nhà bỏ đầy đồ ăn rồi đem lên dâng Đức Phật, nhưng Đức Phật không nhận. Nan-đà lại đưa bình bát cho Tôn giả A-nan, Tôn giả A-nan cũng không nhận. Tôn giả A-nan nói: –Ngài nhận bát của ai, hãy đưa cho người ấy. Bấy giờ Nan-đà ôm bát đi theo Đức Phật đến tinh xá Ni-câu-lủ. Đức Phật bảo thợ hớt tóc cắt tóc cho Nan-đà. Nan-đà không chịu, tức giận nắm tay nói với thợ hớt tóc: –Tất cả nhân dân của nước Ca-tỳ-la-vệ, nay ngươi có thể cắt tóc hết chăng? Đức Phật hỏi thợ hớt tóc: –Sao không hớt tóc? Thưa: –Vì sợ Nan-đà cho nên không dám hớt tóc. Đức Phật cùng Tôn giả A-nan đích thân đến một bên, nên Tôn giả Nan-đà không dám cản thợ hớt tóc. Tuy đã thế phát nhưng Nan-đà luôn muốn trở về nhà, vì Đức Phật thường dẫn Tôn giả đi theo nên không thể về nhà được. Sau đó có một ngày, thứ lớp đến phiên Tôn giả phải giữ tinh xá, nên Tôn giả rất vui mừng nghó: “Nay đã đúng thời cơ thuận tiện để ta trở về nhà. Chờ sau khi Đức Phật và chúng Tăng đều đi khỏi, ta sẽ trở về.” Sau khi Đức Phật vào thành, Tôn giả nghó rằng ta hãy đổ nước đầy vào các bình chứa, sau đó sẽ về nhà. Trong khi Tôn giả đổ nước, bình này vừa đầy thì bình kia lại cạn. Cứ như vậy suốt thời gian đổ nước vào bình mà vẫn không đầy. Tôn giả liền nói: –Tất cả bình đều không thể đầy, hãy để cho các Tỳ-kheo trở về tự đổ lấy. Nay ta chỉ đổ lấy cái bình trong phòng, rồi bỏ mà đi. Tôn giả liền đóng cửa phòng, vừa đóng cánh cửa này thì cánh cửa kia lại mở, vừa đóng xong phòng này, thì phòng kia lại mở. Tôn giả liền nghó: “Tất cả đều không thể đóng được, vậy hãy bỏ đó mà đi, ví dầu có mất y vật của các Tỳ-kheo thì nhà ta có nhiều châu báu dư sức bồi thường.” Tôn giả liền ra khỏi chùa tự nghó: “Có lẽ Đức Phật sẽ về đường này, ta hãy đi đường kia.” Đức Phật biết ý của Tôn giả, nên Ngài cũng trở về con đường của Tôn giả chọn. Từ xa trông thấy Đức Phật đi đến, Tôn giả nấp sau cây đại thọ. Lúc ấy vị Thọ thần nâng cây này trên hư không, thành thử Tôn giả Nan-đà đứng ở giữa đất trống. Đức Phật thấy Nan-đà, lại dắt về tinh xá và hỏi: –Ngươi nhớ vợ phải không? Nan-đà thưa: –Sự thật có nhớ. Đức Phật liền dẫn Tôn giả Nan-đà đến đỉnh núi A-na-ba, lại hỏi: –Vợ ngươi có xinh đẹp không? Thưa: –Rất xinh đẹp. Ở trong núi đó có một con khỉ mù, Đức Phật lại hỏi: –Vợ của ngươi là Tôn-đà-lợi, mặt mày có giống con khỉ này không? Tôn giả Nan-đà áo não, lại nghó: “Vợ của mình xinh đẹp không ai bằng. Nay vì cớ gì mà Đức Phật lại đem vợ ta ví với con khỉ này?” Đức Phật lại dẫn Tôn giả đến cõi trời Đao-lợi, đi cùng khắp các Thiên cung, để dạo xem. Tôn giả thấy các Thiên tử với các Thiên nữ cùng nhau vui chơi. Nhưng Tôn giả thấy trong một cung điện có năm trăm Thiên nữ, mà chẳng có Thiên tử. Tôn giả đến hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo: –Ngươi hãy tự đến hỏi xem. Tôn giả Nan-đà đến hỏi: –Trong các cung điện đều có Thiên tử, tại sao ở đây không có Thiên tử? Thiên nữ thưa: –Trong cõi Diêm-phù-đề, Nan-đà là em của Đức Phật, Đức Phật bắt ông phải xuất gia. Nhờ nhân duyên xuất gia ấy, nên khi mạng chung sẽ được sinh lên cõi trời này, sẽ làm chồng chúng tôi. Tôn giả Nan-đà đáp: –Người ấy chính là tôi, nếu muốn tôi sẽ ở lại. Thiên nữ nói: –Chúng em là người trời, nay chàng là loài người. Khi nào chàng xả tuổi thọ cõi người, lại sinh nơi đây mới có thể ở lại đây được. Tôn giả đến chỗ Đức Phật đem việc ấy trình bày đầy đủ với Đức Phật. Đức Phật nói với Tôn giả Nan-đà: –Vợ của ngươi xinh đẹp sao bằng Thiên nữ? Tôn giả Nan-đà đáp: –So với các Thiên nữ này, thì vợ của con giống như con khỉ mù vậy. Đức Phật dẫn Tôn giả Nan-đà trở về cõi Diêm-phù-đề. Tôn giả Nan-đà vì các Thiên nữ khích lệ cho nên siêng năng trì giới. Khi ấy Tôn giả A-nan nói bài kệ: Giống như dê chiến đấu Bước tới lại thoái lui Tâm ngươi muốn trì giới Sự việc cũng như vậy. Đức Phật lại dẫn Tôn giả Nan-đà đi xuống địa ngục, Tôn giả thấy các chảo nước sôi đều có nấu người bên trong, duy chỉ có một chảo nước sôi là không có người, Tôn giả thấy chuyện lạ mới đến hỏi Đức Phật. Đức Phật bảo: –Ngươi hãy tự đến hỏi xem. Tôn giả Nan-đà liền đến hỏi ngục tốt: –Các chảo đều có nấu tội nhân, sao chảo này lại chẳng có ai? Đáp: –Trong cõi Diêm-phù-đề có người em của Đức Như Lai tên là Nan-đà nếu vì xuất gia có công đức thì phải được sinh lên cõi trời, còn nếu vì dục vọng mà bỏ đạo thì sau khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục này nên tôi nấu chảo dầu sôi này mà đợi. Nan-đà liền hoảng hốt, sợ ngục tốt lưu lại trong địa ngục liền nói: –Nam-mô Phật-đà. Xin Ngài che chở, đem con trở về cõi Diêm-phù-đề. Đức Phật nói với Tôn giả Nan-đà: –Ngươi siêng trì giới, tu phước cầu sinh lên cõi trời phải không? Thưa: –Con không cầu sinh lên cõi trời, chỉ muốn không đọa vào địa ngục mà thôi. Đức Phật thuyết pháp trong bảy ngày cho Tôn giả nghe, Tôn giả liền thành A-la-hán. Các Tỳ-kheo khen: –Đức Thế Tôn xuất thế, rất kỳ lạ, hiếm có. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay đâu, mà ở thời quá khứ cũng lại như vậy. Các Tỳ-kheo thưa: –Sự việc của quá khứ thế nào? Xin Đức Thế Tôn nói cho chúng con nghe. Đức Phật nói: –Ngày xưa ở nước Ca-thi có một vị vua tên là Mãn Diẹân. Ở nước Tỳ-đề-hy có một mỹ nhân đoan chánh tuyệt diệu. Bấy giờ hai nước thường có oán thù ganh ghét nhau. Khi ấy có một nịnh thần ở một bên, tán thán với vua nước Ca-thi: –Nước kia có một mỹ nữ xinh đẹp hiếm có, thế gian không ai bằng. Nhà vua nghe lời ấy rồi, tâm sinh mê hoặc, bảo sứ đi tìm bắt đem về, nhưng nước kia không cho. Nhà vua lại bảo sứ đến nói: –Chỉ xin thấy mặt thời gian ngắn khoảng bốn, năm ngày, rồi sẽ trả lại. Bấy giờ vua nước kia dặn dò mỹ nữ: –Con người của ngươi có nhiều kỹ năng, đầy đủ vẻ đẹp, hãy làm cho vua Ca-thi bị mê hoặc ngươi, không thể xa rời ngươi một phút nào, ta sẽ để ngươi đi. Bốn năm ngày sau, sứ giả nước Ca-thi lại đến, vua nước Tỳ-đề-hy lại đáp: –Nếu vua mở hội cúng tế lớn, thì được người con gái này; ta sẽ tạm thời thả ra, sau đó phải đem nàng trở lại. Vua Ca-thi liền trở về mở hội cúng tế lớn xong, bảo sứ đến rước về. Đáp: –Sáng mai sẽ cho đi. Đến sáng mai rồi mà vua Tỳ-đề-hy cũng không cho mỹ nữ đi. Nói dối như vậy, trải qua nhiều ngày, làm lòng vua nước Ca-thi bị mê hoặc, một mình đem theo ít người, muốn đến nước kia. Các thần khuyên can, nhưng nhà vua vẫn không nghe. Bấy giờ ở trong núi Tiên nhân, có con khỉ chúa, thông minh trí tuệ, biết nhiều. Vợ của khỉ chúa vừa chết, nên nó lấy một con khỉ cái khác, các con khỉ khác đều tức giận bảo: –Con khỉ dâm này là của chung tất cả, tại sao khỉ chúa lại chiếm hữu một mình? Bấy giờ khỉ chúa cùng với khỉ cái chạy vào trong nước Ca-thi, nương tựa chỗ vua. Còn cả bầy khỉ thảy đều truy lùng. Khi đã vào trong thành, chúng dỡ nhà phá tường, không sao dẹp yên được. Quốc vương Ca-thi nói với khỉ chúa: –Nay ngươi tại sao không đem con khỉ cái này trả lại cho các con khỉ? Khỉ chúa đáp: –Vợ tôi đã chết, lại không có vợ. Nay tại sao nhà vua lại muốn tôi trả về? Nhà vua nói: –Nay các con khỉ của ngươi, phá loạn nước ta, sao ngươi vẫn không trả về? Khỉ chúa nói: –Việc này không tốt sao? Vua đáp: –Không tốt. Như vậy cho đến hai ba lần, nhà vua vẫn nói không tốt. Khỉ chúa nói: –Trong cung của ngài có tám vạn bốn ngàn phu nhân mà ngài không đủ ái lạc lại còn muốn đến nước địch để tìm kiếm dâm nữ. Nay tôi không có vợ, chỉ lấy có một người mà ngài nói là không tốt. Tất cả vạn dân nhờ ngài mà được sống. Chỉ vì một dâm nữ mà ngài nỡ vất bỏ tất cả. Đại vương nên biết: Việc dâm dục vui ít khổ nhiều, giống như ngược gió mà cầm đuốc, kẻ ngu không chịu buông đuốc thì chắc chắn sẽ bị cái hại thiêu đốt. Dục là bất tịnh, giống như đống phân kia; dục hiện hình bên ngoài, nhờ lớp da mỏng che đậy; dục không báo đáp giống như phân dơ, giống như rắn độc; dục như kẻ thù oán tặc giả làm người thân giúp đỡ, dục như đồ vay mượn, không thực, chắc chắn phải trả lại; dục là điều đáng ghét như ở trong hầm xí; dục như kẻ lác ngồi bên bếp lửa càng gãi càng thêm đau nhức, dục như con chó gặm xương khô, nước miếng chảy ra, nuốt vào cho là có vị, làm cho sứt môi gãy răng mà vẫn không biết nhàm chán; dục như người khát nước mà uống nước mặn lại càng thêm khát; dục như khúc thịt làm cho các con chim tranh nhau; dục như cá, thú, vì tham mùi vị mà phải chết, tai họa của dục vô cùng to lớn. Con khỉ chúa lúc ấy chính là thân Ta, còn nhà vua nay là Nan-đà. Người dâm nữ lúc ấy chính là Tôn-đà-lợi. Thời đó Ta muốn kéo Nan-đà ra khỏi đống bùn lầy hôi thối, nay Ta cũng muốn kéo ông ấy ra khỏi cái khổ sinh tử.  <詞 id="41126155">97- CHUYỆN ĐẠI LỰC SÓ CẢM HÓA NHÓM GIẶC Ở ĐỒNG HOANG Bấy giờ Đức Phật ở tại thành Vương xá. Khoảng giữa thành Vương xá và nước Tỳ-xá-ly có nhóm giặc năm trăm người. Vua Tần-bà-sa-la là người nhân từ hiền thiện, dùng pháp ân đức để trị dân, không hại sinh vật, liền có lời chiêu mộ: –Ai có thể cảm hóa được năm trăm tên trộm để chúng không làm giặc nữa, trẫm sẽ phong tước và trọng thưởng. Khi ấy có một vị lực só theo lệnh chiêu mộ của vua, đến giữa đồng hoang ấy, vỗ về, cảm hóa những người làm giặc này, liền khiến những người ấy không còn làm giặc. Khi đã điều phục xong, lực só làm một thành trì lớn để họ ở trong đó. Rồi nhiều người dần dần đến tụ tập khiến chỗ ấy bỗng nhiên trở thành một nước lớn. Nhân dân trong nước ấy đều nói: –Ngày nay chúng ta nhờ ân nuôi dưỡng của đại lực só mới cùng tụ tập ở đây. Họ nói điều quan trọng như vầy: –Từ nay về sau, nếu ai cưới vợ, trước phải dâng cho lực só. Họ liền đến chỗ lực só, nói với lực só: –Chúng tôi xin được nói lên điều quan trọng này: Hễ ai cưới vợ, trước phải dâng lên lực só, vì hai nguyên do: 1. Muốn được con khỏe như lực só. 2. Để báo ân của lực só. Lực só đáp: –Cần gì phải làm vậy. Nhưng mọi người đều ân cần tha thiết, do đó lực só cũng phải theo ý họ. Chỉ theo pháp này, dần dần qua nhiều thời gian có một người nữ không thích việc này, ở trước mọi người, lõa hình đứng tiểu tiện, mọi người chê trách nói: –Ngươi không biết xấu hổ. Tại sao người nữ mà đứng tiểu tiện trước mọi người? Người nữ ấy đáp: –Người nữ thì ở trước người nữ mà lõa hình đứng tiểu tiện, có gì là xấu hổ? Cả nước toàn là người nữ, chỉ có một mình đại lực só là đàn ông hay sao. Nếu đứng trước ông ta mà tiểu tiện thì mới xấu hổ, chớ ở trước các người thì có gì là xấu hổ? Từ đó mọi người rao truyền với nhau lời nói ấy khiến lời nói của người nữ này trở thành có lý. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-liên cùng với năm trăm đệ tử đi qua vùng đồng hoang này. Lực só biết được, mời hai Tôn giả cùng với năm trăm đệ tử dừng chân nghỉ ngơi để ông cúng dường y thực. Sau ba ngày, nhân dân trong nước tụ tập mở hội, uống rượu say sưa túy lúy, cùng nhau bao quanh nhà của đại lực só nổi lửa đốt. Lực só hỏi: –Vì sao các người lại làm vậy? Mọi người đáp: –Phụ nữ mới lấy chồng đều phải qua tay ngươi. Bọn người như chúng tôi không chấp nhận được việc này, cho nên đến đốt ngươi. Lực só đáp: –Trước đây ta không chịu, nhưng các ngươi cưỡng ép ta kia mà! Tuy nói vậy, nhưng họ vẫn không tha, bèn đốt cho ông chết. Lúc sắp chết, ông phát thệ nguyện: –Mong nhờ nhân duyên công đức cúng dường cho Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-liên, ta sinh trong đồng hoang này, làm Đại lực quỷ thần, tiêu diệt hết các ngươi. Nói lời ấy xong thì mạng chung, ông liền ở nơi đồng hoang hóa sinh làm con quỷ, phun khí rất độc, giết chết nhiều người. Sau đó một thời gian, có một người trí đến yêu cầu với quỷ: –Nay ngài tự giết vô lượng nhân dân, ăn thịt không hết đổ hôi thối vô ích, xin hãy nghe theo lời thỉnh cầu của chúng tôi, ngài hãy giết các trâu, ngựa và mỗi ngày chúng tôi đem một người đến cung cấp cho ngài. Bấy giờ ở trong nước, mọi người đều phải rút thẻ, ai cũng có một ngày làm vật tế quỷ thần. Như vậy, thứ lớp đến phiên trưởng giả Tu-bạt-đà-la. Tu-bạt-đà-la sinh được một người con trai, phước đức đoan chánh, đến ngày tới phiên phải nộp mạng, trưởng giả nghó: “Đức Như Lai xuất thế, cứu vớt tất cả chúng sinh khổ não. Cúi mong Đức Thế Tôn cứu hộ cho con của con ngay hôm nay đang bị nguy khốn.” Đức Phật ở tại thành Vương xá, biết tâm của trưởng giả, Ngài liền vào ngồi trong cung điện của quỷ thần ở đồng hoang. Quỷ thần ở đồng hoang đi đến, thấy Đức Thế Tôn nên hết sức tức giận, nói với Đức Phật: –Sa-môn hãy ra đi! Đức Phật liền đi ra. Quỷ vừa vào cung, Đức Phật lại vào theo. Như vậy đến ba lần, tới lần thứ tư, Đức Phật không đi ra, quỷ nói như vầy: –Nếu không ra ngoài, ta sẽ làm cho tâm ngươi điên đảo, ta sẽ nắm chân ngươi ném xuống sông Hằng. Đức Phật nói: –Ta không thấy ở thế gian, hoặc cõi Trời, cõi Thiên ma, hoặc cõi Phạm thiên có thể bắt ném Ta như vậy được. Quỷ đồng hoang nói: –Như vậy là, như vậy là, nếu Như Lai cho phép tôi hỏi bốn việc thì tôi sẽ hỏi: 1. Ai có thể vượt khỏi dòng thác? 2. Ai có thể vượt qua biển lớn? 3. Ai có thể xả bỏ các khổ? 4. Ai có thể được thanh tịnh? Đức Phật liền đáp: –Đức tin vượt khỏi dòng thác. Chẳng buông lung có thể vượt qua biển lớn. Tinh tấn có thể xả hết khổ. Trí tuệ có thể làm cho thanh tịnh. Nghe lời ấy rồi, quỷ liền quy y Phật, làm đệ tử của Phật, tay nắm đứa tiểu nhi bỏ vào trong bình bát của Đức Phật, liền gọi đứa bé là Khoáng Dã Thủ. Đứa bé dần dần lớn khôn, nghe Đức Phật thuyết pháp, được đạo A-na-hàm. Các Tỳ-kheo nói: –Đức Thế Tôn xuất thế hết sức hy hữu! Như quỷ thần đồng hoang đại ác này mà Đức Phật có thể hàng phục được, cho làm Ưu-bà-tắc. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay, ở thời quá khứ, cũng ở một vùng đất hoang mênh mông khoảng giữa hai nước Ca-thi và Tỳ-đề-hê, có một con ác quỷ tên là Sa-sất-lô, nó cắt đứt đường sá, làm cho tất cả nhân dân không thể đi qua được. Có một thương chủ tên là Sư Tử, dẫn năm trăm khách buôn muốn qua con đường này. Mọi người hoảng sợ, lo không thể qua được. Thương chủ nói: –Cẩn thận, chớ lo sợ. Chỉ việc đi theo sau ta. Lúc đó thương chủ đi trước, đến chỗ của con quỷ nói với nó: –Ngươi chưa nghe tên của ta sao? Đáp: –Ta có nghe tên của ngươi cho nên đến đây để chiến đấu. Ngươi có tài năng gì? Thương chủ liền cầm cung tên mà bắn con quỷ. Năm trăm khách buôn cũng bắn tên. Tất cả tên ấy đều biến mất vào bụng con quỷ; cung tên, đao gậy cũng đều vào bụng con quỷ. Nếu dùng nắm tay mà đánh thẳng tới phía trước thì nắm tay cũng lại vào bụng nó. Lấy tay mặt mà đánh thì tay mặt cũng dính vào bụng nó. Lấy chân mặt mà đạp thì chân mặt cũng dính, lấy chân trái mà đạp thì chân trái cũng dính. Lại dùng đầu mà đánh thì đầu cũng dính. Lúc ấy con quỷ nói bài kệ: Ngươi dùng tay chân với cái đầu Tất cả các vật đều bị dính Người nào vật nào mà chẳng dính? Thương chủ nói kệ đáp lại: Nay tay, chân cùng đầu của ta Tất cả tiền tài và dao gậy Chỉ có tinh tấn không bị dính Nếu ta tinh tấn không bị dính Nếu ta tinh tấn không dừng nghỉ Ta chẳng bao giờ biết sợ ngươi. Lúc ấy con quỷ trả lời: –Nay vì các ngươi, năm trăm khách buôn, ta đều phóng thích tất cả. Sư Tử lúc ấy chính là thân Ta, còn Sa-sất-lô chính là con quỷ đồng hoang.  <詞 id="41126156">98- CHUYỆN PHỤ TƯỚNG NGHE PHÁP NÊN LY DỤC Đức Phật ở tại thành Vương xá. Vua Tần-bà-sa-la có một vị phụ tướng đã mấy lần cùng vua đi đến chỗ Đức Phật để nghe Đức Như Lai dạy về pháp ly dục. Sau đó ông hoàn toàn không đến phòng của vợ nữa. Do đó vợ ông sinh tâm ác, đi tìm thuốc độc bỏ vào trong đồ ăn uống, mời Đức Phật đến dùng. Người chồng biết vợ mình có ôm lòng ác độc nên đi theo để xin đồ ăn uống ấy, nhưng người vợ không chịu cho, bà lại đưa cho ông đồ ăn khác. Khi Đức Phật đã đến nhà, người chồng bạch Đức Phật: –Thứ đồ ăn này không nên dùng. Đức Phật hỏi: –Vì sao không thể dùng? Thưa: –Có chất độc. Đức Phật nói: –Những chất độc trong thế gian không có gì hơn ba độc mà Ta còn tiêu trừ hết, huống gì một chút độc này mà có thể làm hại Ta được sao? Đức Phật liền ăn đồ ăn ấy mà chẳng sao cả. Bấy giờ vợ của phụ tướng liền sinh tín tâm. Đức Phật thuyết pháp cho họ nghe, cả hai vợ chồng đều được đạo Tu-đà-hoàn. Các Tỳ-kheo khen là chuyện chưa từng có. Đức Phật bảo: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay đâu, ở thời quá khứ Ta cũng đã từng giáo hóa họ. Ngày xưa, vua nước Ca-thi có một vị đại thần có trí tuệ tên là Tỷ-đồ-hê, thường lấy đạo pháp dạy cho phụ tướng của quốc vương và các quần thần, làm cho họ tu theo điều thiện. Khi ấy có một Long vương tên là Minh Tướng, thường thường đi đến chỗ Tỷ-đồ-hê để nghe và thọ trì lời pháp. Long vương cũng trở nên ít tới lui với vợ. Vợ của Long vương tức giận mới nói: –Nếu ta lấy được tim của Tỷ-đồ-hê để tế lửa, lấy máu y để uống, thì ta mới có thể sống được. Khi ấy có con quỷ Dạ-xoa cùng với vợ chồng của Long vương qua lại thân thiện, nghe vợ của Long vương nói như vậy liền đáp: –Tôi có thể lấy được. Bấy giờ Dạ-xoa đến chỗ vợ Long vương lấy viên ngọc Như ý, giả làm khách buôn, đi đến nước Ca-thi. Khi đến ranh giới của nhà vua, cùng vua đánh cờ xu-bồ, đem viên ngọc Như ý đổi lấy một phần kho tàng, đất đai và đại thần Tỷ-đồ-hê… của vua. Dạ-xoa đắc thắng, không lấy kho tàng, đất đai, chỉ lấy Tỷ-đồ-hê để đổi lấy viên ngọc cho vua. Vua hỏi: –Ngươi lấy Tỷ-đồ-hê là muốn đem đi chăng? Dạ-xoa đáp: –Muốn đem đi. Và Dạ-xoa đem ông đi. Tỷ-đồ-hê hỏi Dạ-xoa: –Ngươi đem ta đi theo là có ý gì? Dạ-xoa không đáp. Như vậy ông cứ ân cần hỏi mãi, Dạ-xoa liền nói: –Vợ của Long vương muốn được tim ngươi để tế lửa, muốn được máu ngươi để uống. Tỷ-đồ-hê nói: –Nếu ngươi giết ta để lấy tim và máu, tất cả mọi người tim và huyết giống nhau, vậy biết là của ai? Nay ngươi đừng giết ta, hãy dẫn ta đi, muốn được trí của ta thì chính là tim ta, muốn được pháp của ta thì đó là máu ta. Nghe lời nói ấy rồi, Dạ-xoa suy nghó: “Đây đúng là người trí”, liền dẫn ông đến chỗ con rồng. Rồng thấy ông vui mừng, ông liền thuyết pháp cho nó nghe. Vợ chồng Long vương và các quyến thuộc sinh tâm kính tín, đều thọ năm giới, cùng với chúng Dạ-xoa cũng thọ năm giới. Bấy giờ loài Rồng và Dạ-xoa ở cõi Diêm-phù-đề mang nhiều trân bảo tặng cho Tỷ-đồ-hê. Tỷ-đồ-hê được trân bảo này liền đem dâng lên cho vua cùng với nhân dân. Khi ấy người Diêm-phù-đề và Rồng, Quỷ thọ trì Năm giới, tu hành Thập thiện. Khi ấy Tỷ-đồ-hê chính là thân Ta, Minh Tướng Long vương nay là phụ tướng Thiện Kiến, vợ của Long vương lúc ấy là vợ của phụ tướng. Vị vua nay là Xá-lợi-phất, Dạ-xoa nay là Mục-liên.  <詞 id="41126157">99- CHUYỆN NI-KIỀN TỬ NHẢY VÀO ĐỐNG LỬA ĐƯỢC PHẬT CỨU ĐỘ Đức Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Như Lai hàng phục hóa độ Lục sư ngoại đạo tà kiến và quyến thuộc của họ, khiến bọn họ hoàn toàn bị phá hủy. Năm trăm Ni-kiền suy nghó: “Tất cả đồ chúng bọn ta đều bị phá hoại tan tành, chi bằng bọn ta thiêu thân để sớm sinh ở đời sau.” Họ chất một đống củi và cỏ lại để thiêu thân. Đức Như Lai từ bi muốn cứu khổ họ nên làm cho lửa không cháy. Đức Phật đến bên họ nhập Hỏa quang tam-muội. Các Ni-kiền tử thấy đống lửa lớn, tâm sinh vui mừng, nói: –Chúng ta không cần đốt lửa, hãy nhảy vào trong đống lửa này. Khi họ mới vào nhảy vào trong đống lửa này, thân thể mát rượi, vô cùng khoái lạc. Thấy Phật ở trong đống lửa, họ càng thêm vui thích, cầu xin xuất gia. Đức Phật bảo: –Thiện lai Tỳ-kheo! Tức thì râu tóc của họ tự rụng, thân mặc pháp phục. Đức Phật thuyếp pháp cho họ nghe và họ đắc quả A-la-hán. Các Tỳ-kheo thưa: –Hy hữu thay Thế Tôn! Ngài có thể cứu nhiều Ni-kiền tử này thoát khỏi khổ tự thiêu, lại còn làm cho họ được quả A-la-hán. Đức Phật nói: –Đâu phải chỉ có ngày hôm nay đâu. Ngày xưa, ở trong nước Xá-vệ có năm trăm khách buôn vào biển kiếm ngọc. Khi ấy có vị thương chủ tên là Tỳ-xá-khư dẫn các khách buôn thuận theo gió mà ra đi và liền đến đảo châu báu. Họ tập hợp trên thuyền, các khách buôn vì tham lấy nhiều châu báu nên trên thuyền rất nặng. Khi ấy Tỳ-xá-khư bảo các khách buôn: –Đừng ham của báu, nó sẽ làm mất mạng các ngươi. Khi ấy các khách buôn không nghe theo lời ông. Họ nói: –Thà chết theo châu báu, chứ không thể bỏ bớt được. Thương chủ liền lấy châu báu của mình ở trên thuyền ném xuống nước. Các khách buôn vẫn ôm châu báu ngồi lên thuyền. Thuyền chở các châu báu này chìm xuống biển. Hải thần thấy vị thương chủ này có thể bỏ châu báu mà cứu các khách buôn, tâm sinh hoan hỷ, nắm lấy thương chủ –người đã bỏ hết châu báu– để trên vai, bay tới trước. Khi đã ra khỏi biển, hải thần thả vị thương chủ xuống. Các thương nhân nói: –Chúng ta làm gì khi không có của báu? Thấy họ khổ não, khi ấy Tỳ-xá-khư hết sức thương xót. Ông đem các châu báu của mình kiếm được phân đều cho họ. Rồi ông ta tu theo pháp xuất gia của ngoại đạo, được năm phép thần thông. Các thương nhân nói: –Như vị đại só này không tham của quý, tự tu tâm mình, được lợi ích lớn. Chúng ta nên học theo ngài. Họ đều bỏ hết châu báu, đến chỗ Tiên nhân tu tập pháp của vị ấy, đều được năm phép thần thông. Tỳ-xá-khư lúc ấy chính là thân của Ta, còn năm trăm khách buôn lúc ấy là các vị Ni-kiền tử này.  <詞 id="41126158">100- CHUYỆN NĂM TRĂM CON CHIM ƯNG TRẮNG NGHE PHÁP ĐƯỢC SINH CÕI LÊN TRỜI Đức Phật ở tại nước Xá-vệ. Bấy giờ nước Bàn-già-la đem năm trăm con chim ưng trắng cống hiến cho vua Ba-tư-nặc. Vua Ba-tư-nặc đem thả chim ưng ở tinh xá Kỳ hoàn. Khi chúng Tăng thọ thực, nhiều người đến xin ăn. Chim ưng thấy chúng Tăng tụ tập, chúng bay đậu ở phía trước. Đức Phật dùng một thứ âm thanh thuyết pháp, tất cả chúng sinh tùy theo loại, nghe mà hiểu. Khi ấy bầy chim ưng cũng hiểu lời Phật, nghe pháp hoan hỷ, chúng còn hót tiếng hòa dịu, rồi bay xuống ao nước. Sau đó, lông mao và lông vũ dần dần dài ra, chúng bay đến xứ khác. Thợ săn dùng lưới bắt hết rồi giết đi. Đang khi dính lưới, một con chim ưng kêu lên, các con khác đều hòa theo. Đó là tiếng hót khi nghe pháp. Nhờ thiện tâm này nên chúng được sinh lên cung trời Đao-lợi. Thông lệ sinh ở cõi trời có ba cách nhớ nghó: 1. Nhớ từ đâu sinh đến đây? 2. Nhớ đã sinh chỗ nào. 3. Nhớ trước đã tạo nghiệp gì mà được sinh lên cõi trời. Chúng liền tự suy nghó, tự thấy nghiệp nhân đời trước của mình hoàn toàn chẳng có chút điều thiện nào, ngoại trừ chỉ đứng bên Phật và chúng Tăng nghe pháp. Nghó như vậy rồi, năm trăm Thiên tử tức thì hạ xuống, ở bên Đức Như Lai. Ngài thuyết pháp cho họ nghe và tất cả đều chứng quả Tu-đà-hoàn. Vua Ba-tư-nặc tình cờ đến chỗ Đức Phật, thường thấy năm trăm chim ưng bay giỡn trước Đức Phật, hôm nay lại không thấy mới bạch Đức Phật: –Các con chim ưng ở đây đã bay về hướng nào? Đức Phật nói: –Đại vương muốn thấy các con chim ưng chăng? Vua thưa: –Con muốn thấy. Đức Phật nói: –Các con chim ưng trước đây đã bay đến chỗ khác, bị thợ săn bắn giết, mạng chung được sinh lên cõi trời. Nay là năm trăm Thiên tử này, đọâi mão đẹp của cõi trời, vô cùng xinh đẹp trang nghiêm. Ngày nay nhờ nghe pháp nên họ đều đắc quả Tu-đà-hoàn. Nhà vua hỏi Đức Phật: –Các con chim ưng này do nghiệp duyên gì mà lại đọa vào loài súc sinh và sau khi khả mạng chung lại được sinh lên cõi trời và ngày nay lại được đắc đạo? Đức Phật đáp: –Ngày xưa, thời Phật Ca-diếp có năm trăm cô gái cùng nhau thọ giới, nhưng vì tâm không kiên cố, phá giới đã thọ. Do việc phạm giới cho nên đọa vào loài súc sinh làm thân chim ưng. Nhờ thọ giới cho nên gặp Đức Như Lai, nghe pháp mà được đạo. Khi thọ thân chim ưng, nhờ nhân duyên nghe pháp nên được sinh lên cõi trời.  <詞 id="41126159">101- CHUYỆN ĐỀ-BÀ-ĐẠT-ĐA THẢ CON VOI SAY TÊN HỘ TÀI MUỐN HẠI PHẬT Thuở Đức Phật ở tại thành Vương xá, bấy giờ Đề-bà-đạt-đa thả con voi say tên là Hộ tài muốn hại Đức Phật. Lúc ấy năm trăm La-hán đều bay lên hư không, chỉ có một mình Tôn giả A-nan là đứng sau Đức Phật, Đức Phật khi ấy đưa cánh tay phải lên, con bạch tượng Hộ tài thấy năm trăm con sư tử. Lúc ấy con voi hoảng sợ, tức thì bị điều phục quy thuận. Năm trăm Tỳ-kheo lúc đó bỏ Đức Phật mà đi, chỉ có Tôn giả A-nan là ở sau Đức Phật. Đức Phật nói: –Đâu chỉ có ngày hôm nay mới vậy, mà ở thời quá khứ cũng vậy. Ngày xưa ở nước Ca-thi có năm trăm con chim ưng, làm thành một bầy. Khi ấy con chim ưng chúa tên là Lại-tra. Chim ưng chúa có một vị bề tôi tên là Tố-ma. Khi ấy chim ưng chúa bị thợ săn bắt được, bầy chim ưng năm trăm con đều bay đi chỗ khác, chỉ có con Tố-ma là đi theo chim chúa, nó nói với thợ săn: –Xin ông hãy thả chúa tôi ra. Hôm nay tôi lấy thân mình để thay cho chúa tôi. Nhưng thợ săn không chịu. Ông liền đem chim ưng chúa dâng cho vua Phạm-ma-diệu. Nhà vua hỏi chim ưng chúa: –Ngươi có an ổn chăng? Chim ưng chúa đáp: –Nhờ đại ân của vua, được nước trong của vua, lại được cỏ ngon để được nuôi sống nên thường được bình an ở trong đất nước này. Cúi mong Đại vương hãy thả tất cả con chim ưng ra, làm cho chúng không sợ hãi. Lúc ấy bầy chim ưng năm trăm con ở trên điện của vua, kêu lên trên không trung. Khi ấy nhà vua hỏi: –Đó là chim ưng nào vậy? Ưng chúa đáp: –Đó là quyến thuộc của tôi. Nhà vua bèn ban cho bầy chim ưng được vô úy, ra lệnh trong và ngoài không được giết chim ưng. Ưng chúa tâu với vua: –Nay đức vua nên lấy chánh pháp để trị nước. Thế gian vô thường, như núi bốn phương. Thí như núi lớn ở phương Đông cao vút không ngần, đến lúc nào đó, cả không gian thời gian đều bị nghiền nát. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng lại như vậy. Tất cả chúng sinh cùng với người, quỷ đều bị tiêu diệt dần dần, không thể trốn thoát được, không thể nương tựa vào đâu được, không thể cứu vãn được. Chính lúc đó biết trông cậy vào đâu? Chỉ nghó như vậy nên phải có lòng Từ, cứu giúp tất cả, tu hành chánh pháp, làm công đức. Đại vương nên biết, tất cả sự giàu sang phú quý đều bị suy diệt, đều bị nghiền nát cuối cùng cũng tan biến trong bốn phương. Tất cả sự cường tráng lại có các bệnh tật từ bốn phương đến phá hủy tiêu diệt sự khỏe mạnh ấy. Tất cả tuổi trẻ khỏe mạnh đều bị hòn núi bệnh yếu từ bốn phương đến phá hoại tuổi tráng niên ấy. Tất cả sinh mệnh có ngọn núi đại tử từ bốn phương đến hoại diệt sinh mạng. Bốn hòn núi như vậy, tất cả muôn loài đều bị nó hoại diệt từ loài trời, loài rồng, loài người, loài quỷ, đã có sinh mệnh thì không sao tránh khỏi. Vì nghóa này cho nên phải thường tu tâm, siêng làm chánh pháp. Nếu ai làm được như vậy, khi chết không hối hận. Nhờ tâm không hối hận nên được sinh đến chỗ lành, được gặp hiền thánh, được thoát sinh tử. Nhà vua hỏi: –Vì sao Tố-ma im lặng? Tố-ma đáp: –Nay hai vua là: Vua chim ưng và vua loài người cùng nói chuyện, nếu tôi nói xen vào thì chẳng phải là nghi lễ, không có tâm kính trên nhường dưới. Nhà vua nói: –Thật là hy hữu! Ngươi là chim ưng mà lại có tiết tháo của một bậc trung thần như vậy, loài người không bì kịp. Ngươi có thể lấy thân mạng để chết thay cho chim ưng chúa, lại còn biết khiêm cung hòa thuận, không xen vào lúc người khác nói chuyện. Như đạo nghóa vua tôi của ưng chúa và ngươi, thế gian thật là hiếm thấy. Nhà vua lấy vàng luyện buộc lên mé đầu chim Tố-ma, lấy lụa trắng đẹp buộc lên đầu chim ưng chúa và bảo: –Vừa rồi chim đã thuyết thiện pháp cho ta nghe. Rồi nhà vua thả chim bay đi. Chim ưng chúa lúc bấy giờ là thân Ta. Tố-ma nay là A-nan. Vua loài người lúc ấy nay là vua Tịnh Phạn, cha của Ta. Còn người thợ săn lúc ấy là Đề-bà-đạt-đa. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126160">QUYỂN 9 Gồm mười bốn chuyện: 102. Chuyện Ca-chiên-diên giải thích tám giấc mộng của vua Ác Sinh. 103. Chuyện con mèo vàng. 104. Chuyện vua Ác Sinh được năm trăm cái bát. 105. Chuyện người cầu vị trời Tỳ-ma mong được giàu lớn. 106. Chuyện quỷ Tử mẫu mất con. 107. Chuyện người chủ tế trời. 108. Chuyện thờ thần cây. 109. Chuyện người phụ nữ nhàm chán dục, xuất gia. 110. Chuyện đứa con bất hiếu bị khổ báo. 111. Chuyện luận nghị của vua Nan-đà và Na-già-tư-na. 112. Chuyện người vợ bất hiếu, ý muốn hại mẹ chồng trở lại giết chồng. 113. Chuyện vua nước Ba-la-nại nghe tiếng kêu trong gò mả. 114. Chuyện Tỳ-kheo già được bốn quả. 115. Chuyện người nữ chí thành được đắc quả.  <詞 id="41126161">102- CHUYỆN CA-CHIÊN-DIÊN GIẢI THÍCH TÁM GIẤC MỘNG CỦA VUA ÁC SINH Ngày xưa vua Ác Sinh hành động tàn bạo, không có lòng từ mẫn, tin, hành toàn theo tà kiến. Đức Như Lai đại Bi bảo các đệ tử đi khắp các nước để giáo hóa. Tôn giả Ca-chiên-diên là người dòng Bà-la-môn thuộc nước của vua Ác Sinh nên Đức Phật liền bảo Tôn giả Ca-chiên-diên trở về giáo hóa cho vị quốc vương, cùng với nhân dân xứ này. Khi ấy Tôn giả Ca-chiên-diên vâng theo lời Phật dạy liền trở về bổn quốc. Bấy giờ vua Ác Sinh không thấy điều chân chánh, phụng thờ tà đạo, vào sáng sớm, thường không muốn thấy người trước khi đến lạy ở miếu thờ trời. Lúc ấy Tôn giả Ca-chiên-diên vì muốn khai hóa cho vua Ác Sinh cho nên lúc bình minh, dậy sớm, hóa làm một người lạ giống như sứ giả ở xa, hình mạo đoan chánh, vào trong cửa cung vua. Khi ấy vua mới thấy Ca-chiên-diên, ngài liền hiện nguyên hình là Sa-môn. Nhà vua đối diện với Đạo só đã cạo bỏ râu, tóc, thì lại càng thêm cay ghét. Nhà vua hết sức tức giận quát: –Nay nhà ngươi phải chết. Vua liền bảo người đem Tôn giả Ca-chiên-diên đi định giết. Tôn giả Ca-chiên-diên tâu với vua: –Tôi có lỗi gì mà mới thấy tôi ngài muốn giết? Nhà vua lại nói: –Ngươi là người không có râu tóc, thấy ngươi là điều không lành, cho nên nay ta muốn giết ngươi. Tôn giả Ca-chiên-diên liền đáp: –Nay cái điều không lành ấy là ở nơi tôi chớ không phải ở nơi vua. Vì sao vậy? Vì vua tuy thấy tôi nhưng vua hoàn toàn không có tổn giảm gì cả. Còn tôi thấy vua, thì vua muốn chết. Theo đó mà suy: Cái gọi là không lành ấy là ở nơi tôi. Nhà vua vốn thông minh nghe lời nói ấy rồi liền lãnh hội ý Tôn giả, liền thả Tôn giả Ca-chiên-diên, không còn khởi ác tâm với ngài nữa. Nhà vua bí mật sai hai người đi theo sau ngài để xem chỗ nghỉ ngơi, xem ngài ăn đồ ăn gì. Họ thấy Tôn giả Ca-chiên-diên ngồi dưới gốc cây, đi khất thực về thì ăn. Trong khi ăn, ngài chia đồ ăn cho hai người cùng ăn. Ngài để lại chút đồ ăn dư bỏ xuống dưới sông cho cá ăn. Hai người khi trở về nhà, vua hỏi về chỗ nghỉ ngơi và sự ăn uống của Tôn giả. Hai người như điều thấy ở trên tâu đầy đủ với vua. Ngày hôm sau nhà vua thỉnh Tôn giả Ca-chiên-diên và mời ngài thọ thực với đồ ăn thô sơ. Nhà vua bảo người đến hỏi: –Đồ ăn hôm nay có vừa ý ngài chăng? Tôn giả đáp: –Mục đích của sự ăn là để cho no đủ. Ngày hôm sau nhà vua dâng cho ngài món ăn thượng vị, ngon lành. Nhà vua lại bảo người đến hỏi ngài: –Ngài thấy vừa ý chăng? Đáp: –Mục đích của sự ăn là để cho no đủ. Sau đó nhà vua hỏi Tôn giả: –Tôi đã cúng dường đồ ăn cho ngài mà ngài không nói ngon hay dở, chỉ nói là “no, đủ”, vậy có ý nghóa gì? Tôn giả Ca-chiên-diên trả lời nhà vua: –Phàm thân và miệng giống như cái bếp, vật chiên-đàn nó cũng tiêu hóa, vật thối tha nó cũng tiêu hóa. Thân và miệng cũng như vậy. Bất cứ đồ ăn ngon hay dở, miễn no là được. Ngài liền nói kệ: Thân này như chiếc xe Không lựa chọn ngon, dở Dầu thơm và mỡ thối Vẫn đều chuyên chở hết. Nhà vua nghe lời nói ấy nên biết rõ về Đại đức. Vua lại lấy đồ ăn ngon và dở đem cúng cho Bà-la-môn. Các Bà-la-môn lúc đầu nhận được đồ ăn dở, thảy đều tức giận, biến sắc mặt, mắng chửi. Nhưng sau khi nhận được đồ ăn ngon, họ hoan hỷ khen ngợi. Nhà vua thấy các Bà-la-môn đối với việc ăn uống mà tâm sinh mừng giận, cho nên tâm sinh càng thêm tín kính đối với Tôn giả Ca-chiên-diên. Bấy giờ Tôn giả có một vị nữ tín chủ tên là Ngoại Sinh, trước ở ngoài thành, sống trong tụ lạc của Bà-la-môn, có một mái tóc rất đẹp. Đã đến mùa an cư, cô có ý muốn cúng dường, mới cắt tóc mình đem bán, được năm trăm đồng tiền vàng, bèn thỉnh Tôn giả Ca-chiên-diên đến an cư để mình được cúng dường. Tôn giả Ca-chiên-diên, sau mùa hạ an cư xong, lại trở vào trong thành. Khi ấy ở trong cung vua Ác Sinh có một con chim tró bỗng chết. Giống như vua Chuyển luân vương muốn ăn thịt chim tró, vua Ác Sinh cũng muốn ăn nó. Một vị đại thần trí tuệ tâu với vua: –Đối với chim tró này không nên tự ý ăn thịt mà nên thí nghiệm trước. Vua nghe theo lời nói ấy, liền bảo người cắt một miếng nhỏ đem cho chó ăn. Khi chó được ăn thịt, liền tham đắm mùi vị của thịt bèn ăn luôn cả lưỡi của mình liền bị chết. Nhà vua lại cắt một miếng thịt nhỏ nữa, để thí nghiệm nơi một người, người ấy ăn thịt xong, cũng tham đắm vị ngon của nó, cho đến tự ăn luôn cả tay của mình mà chết. Vua thấy như vậy nên hết sức sợ hãi. Nghe có người nói thứ thịt này chỉ có Chuyển luân thánh vương, người có trí vô lậu đắc đạo, mới có thể ăn được. Nhà vua liền bảo người xào nấu thịt này thật ngon, rồi đem cúng cho Tôn giả Ca-chiên-diên. Tôn giả Ca-chiên-diên ăn thịt này xong thân thể vẫn bình an. Ngày hôm sau nhà vua bảo người đến rình xem, thì thấy Tôn giả nhan sắc tươi sáng hơn lúc bình thường. Khi nhà vua nghe lời ấy rồi, cho là hết sức đặc biệt càng thêm tôn trọng Tôn giả, mà lại khinh chê các Bà-la-môn ngoại đạo. Nhà vua hỏi Tôn giả Ca-chiên-diên: –Mùa hạ này Tôn giả an cư ở đâu? Nay đi về phương nào? Tôn giả nói một cách đầy đủ: –Nhờ cô gái tên là Ngoại Sinh bán tóc lấy tiền cúng dường chúng Tăng. Nhà vua nghe Tôn giả nói như vậy, mới nói: –Người trong cung của ta có đầu tóc thật đẹp, nhưng để xứng đáng tiền bằng đồng thì bất quá được vài người. Nay Tôn giả nói đầu tóc vị ấy, trị giá đến năm trăm đồng vàng. Vậy nếu cô gái này có đầu tóc phi thường, thì thân hình nàng phải tuyệt đẹp. Nhà vua liền hỏi tên họ của cha mẹ cô gái ấy, rồi bảo sứ giả đến đó đích thân xem thân hình của nàng, sứ giả thấy nàng dung mạo siêu tuyệt, đúng là nhà vua đã nghó. Vua liền bảo sứ đem lễ vật đến hỏi nàng làm vợ, nhưng gia đình của nàng đòi hỏi thật nhiều châu báu, thành ấp, tụ lạc. Nhà vua suy nghó: “Nếu ta cho nhà họ, khi nàng về đây thì của cải đó cũng thuộc về ta.” Nhà vua liền ban cho nhà nàng và được nàng nhận làm chồng. Ngày rước lễ đầu tiên, cả nước đều vui mừng, mọi người đều nói là rất tốt. Nhà vua lại ra lệnh đại xá, phóng thích tất cả tù nhân. Từ đó nàng có danh hiệu là Thi-bà-cụ-sa phu nhân. Nhà vua rất vui mừng, kính nể người vợ. Về sau nàng sinh được một thái tử tên là Kiều-bà-la. Bấy giờ, nhà vua đang nằm ngủ, mộng thấy tám việc: 1. Trên đầu lửa cháy. 2. Hai con rắn cột lưng lại với nhau. 3. Một cái lưới sắt nhỏ bao quanh thân. 4. Hai con cá đỏ nuốt hai chân vua. 5. Bốn con hạc trắng bay về hướng nhà vua. 6. Vua đi trong huyết bùn, bùn biến mất nơi nách của vua. 7. Vua lên núi Thái bạch. 8. Chim Quán tước ỉa trên đầu vua. Sau khi tỉnh giấc, nhà vua cho đó là điều chẳng tốt cho nên sầu lo buồn thảm, liền đến hỏi các Bà-la-môn. Các Bà-la-môn nghe vua nói mộng này, họ vốn hiềm ghét nhà vua, hiềm ghét Tôn giả, cho nên nhân giấc mộng của vua họ nói: –Này Đại vương, đó là điềm chẳng lành. Nếu không cúng trừ, họa sẽ đến thân vua. Nhà vua nghe lời nói ấy tin là đúng, càng thêm sầu não, liền hỏi: –Lúc cúng trừ thì cần vật gì? Các Bà-la-môn đáp: –Vật cần cúng trừ là thứ vua yêu mến. Nếu chúng tôi nói thì vua chắc chắn không thể làm được. Nhà vua đáp: –Điều mộng này hết sức hung ác, chỉ lo tai ương lớn ập đến ta, trừ thân ta ra, ta chẳng tiếc thứ gì cả. Xin các ngài hãy nói những vật cần thiết ấy cho ta. Các Bà-la-môn thấy vua ân cần, biết trong tâm nhà vua lo lắng, liền nói với vua: –Những vật cần thiết ấy là: Trong giấc mộng này có tám điều, cần phải dùng tám thứ để cúng tế cầu khỏi tai họa: 1. Giết phu nhân Thi-bà-cụ-sa mà vua kính mến. 2. Giết thái tử Kiều-bà-la mà vua thương yêu. 3. Giết đại thần phụ tướng. 4. Giết con chim thần của vua. 5. Giết con voi một ngày có thể đi được ba ngàn dặm của vua. 6. Giết con lạc đà một ngày có thể đi được ba ngàn dặm của vua. 7. Giết con ngựa hay của vua. 8. Giết gã đầu trọc Ca-chiên-diên. Nếu sau bảy ngày, giết tám thứ đó lấy huyết trộn lại rồi bôi vào thân mà đi thì có thể được tiêu tai nạn. Nhà vua nghe nói lời ấy, vì cho mạng của mình là trọng, liền đồng ý. Khi trở về cung, vua âu sầu áo não. Phu nhân hỏi vua: –Vì sao ngài buồn như vậy? Nhà vua trả lời phu nhân đầy đủ về giấc mộng bất thường ở trên và nói những điều Bà-la-môn cần cúng tế để trừ mộng dữ. Phu nhân nghe xong mới nói: –Chỉ để cho thân vua được bình an, không tai họa, còn thân hèn mọn của thiếp thì không cần đề cập đến sao? Bà liền tâu với vua: –Sau bảy ngày nữa thiếp sẽ phải chết, vậy hãy cho thiếp đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên trong sáu ngày để thọ trai, nghe pháp. Vua nói: –Không được. Nếu nàng tới đó nói sự thật cho Tôn giả, nếu Tôn giả biết được việc ấy bỏ ta mà bay mất thì sao? Song phu nhân ân cần xin mãi, vua không thể từ chối được đành cho đi. Khi phu nhân đến chỗ Tôn giả rồi, đảnh lễ thăm hỏi. Đã qua bảy ngày mà phu nhân vẫn còn ở, Tôn giả thấy lạ hỏi: –Phu nhân của vua chưa từng đến đây ở lại thời gian lâu thế, sao hôm nay lại lạ vậy? Phu nhân nói rõ về ác mộng của nhà vua. Sau bảy ngày nữa là vua sẽ giết hết chúng ta, để cúng tế cầu tiêu tai ương họa hoạn. Con còn sống sót chẳng mấy ngày nữa, cho nên đến đây để nghe pháp. Do phu nhân nói cho Tôn giả nghe giấc mộng của vua, Tôn giả Ca-chiên-diên nói: –Giấc mộng ấy hết sức tốt, phải nên vui mừng, không nên lo lắng: “Lửa cháy trên đầu” là điềm vị vua nước Bảo trụ sẽ dâng cho vua cái mão trời, giá trị mười vạn lượng vàng, họ sẽ đem cống hiến cho vua, chính là điềm mộng này. Trong lòng phu nhân rất nóng nảy vì sắp hết bảy ngày thì sẽ bị vua giết, sợ điều Tôn giả đoán đến chậm, bà thưa Tôn giả: –Chừng nào điều đó sẽ đến? Tôn giả đáp: –Xế chiều ngày hôm nay sẽ đến. Còn “hai con rắn giao lưng” là vua nước Nguyệt chi sẽ hiến cho vua hai cây kiếm giá trị mười vạn lượng vàng, trong ngày hôm nay sẽ đến. Còn “lưới sắt mỏng quấn quanh thân” là điềm vua nước Đại tần sẽ hiến cho vua viên ngọc Anh lạc trị giá mười vạn lượng vàng, sáng mai sẽ đem đến. Còn “con cá đỏ nuốt hai chân” là điềm vua nước Sư tử sẽ hiến cho vua đôi dép báu Tỳ lưu ly trị giá mười vạn lượng vàng, sau giờ ăn ngày mai sẽ đem đến. Còn “bốn con bạch hạc đến” là điềm vua nước Bạt-kỳ sẽ hiến cho nhà vua xe báu bằng vàng, trong giờ ngọ ngày mai sẽ đem đến. Còn “đi trong máu bùn” là điềm nước An tức sẽ hiến cho nhà vua cái áo da nai Khâm-bà-la, trị giá mười vạn lượng vàng, vào lúc mặt trời xế bóng ngày mai sẽ đem đến. Còn “lên núi Thái bạch” là điềm vua nước Khoáng dã sẽ hiến cho nhà vua con Đại tượng, chiều mai sẽ đem đến. Còn “con chim Quán tước ỉa trên đầu” là điềm nhà vua và phu nhân sẽ có chuyện riêng bí mật, sự việc này đến ngày hôm sau sẽ rõ. Quả đúng như lời Tôn giả nói, thời hạn đã đến, tất cả những vật cống hiến của các nước đều đem đến, nhà vua rất vui mừng. Phu nhân Thi-bà-cụ-sa trước đây đã có mão trời, nay lại được nước Bảo trụ cống hiến thêm một mão trời (Thiên quan) nữa. Nhà vua nhân đó mới đùa cợt, cởi mão trời mà phu nhân Thi-bà-cụ-sa đang đội, vua đội thêm một cái nữa lên đầu mình, rồi vua choàng cái vòng vàng đẹp lên đầu phu nhân. Phu nhân tức giận nói: –Nếu có điều xấu thì tôi phải chịu trước, nay được mão trời thì người khác đội. Bấy giờ phu nhân liền lấy hũ đựng sữa ném lên đầu vua, làm cho đầu vua dính đầy sữa. Khi ấy vua bừng bừng tức giận, rút kiếm định chém phu nhân. Phu nhân sợ hãi chạy vào trong phòng đóng cứng cửa lại, khiến cho nhà vua không thể tiến tới được. Bấy giờ nhà vua tự ngộ điều Tôn giả đoán mộng nói: “Có bí mật riêng”, chính là điều này. Nhà vua cùng phu nhân liền đi đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên trình bày đầy đủ chuyện trên và nói: –Vì tin lời nói phi pháp của bọn ác tà, đã mấy lần con định làm chuyện đại ác đối với Tôn giả, vợ con, đại thần và các vật mến yêu. Nay mong Tôn giả trình bày lẽ thật, khai thị kẻ đui mù này để cho con được thấy chánh đạo, xa lìa điều ác. Nhà vua liền mời Tôn giả đến để kính phụng cúng dường, xua đuổi các Bà-la-môn đi xa khỏi lãnh thổ vua đang ngự trị, rồi hỏi Tôn giả: –Do nhân duyên gì mà các nước như vậy lại đem những vật quý báu của họ để dâng hiến cho con? Tôn giả đáp: –Về thời quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp, bấy giờ có Đức Phật tên là Tỳ-bà-thi. Khi Đức Phật xuất thế, có một nước tên là Bàn-đầu, thái tử của nước ấy hết sức tin tưởng, vui vẻ, siêng năng, đến chỗ Đức Phật cúng dường lễ bái. Thái tử liền lấy cái mão trời đang đội, kiếm báu, ngọc anh lạc, voi lớn, xe báu, y Khâm-bà-la cúng dường Đức Phật. Nhờ phước lành ấy nên đời đời được tôn quý, những châu báu ưa thích, không cần cũng tự đến. Nhà vua nghe điều này xong, càng thêm kính tín Tam bảo, đảnh lễ rồi trở về cung.  <詞 id="41126162">103- CHUYỆN CON MÈO VÀNG Ngày xưa vua Ác Sinh dạo chơi trên nhà của khu vườn Lâm uyển, thấy một con mèo vàng từ góc Đông bắc chạy vào góc Tây nam. Nhà vua bảo người đào ngay chỗ ấy lên, thì thấy một cái bình bằng đồng, bình đồng ấy chứa đầy ba hộc tiền vàng. Cứ từ từ đào sâu xuống, lại được một cái bình nữa. Như vậy thứ lớp được ba cái bình, mỗi bình đều chứa ba hộc, dần dần đào sang một bên cũng được một cái bình đồng. Cứ đào mãi cho tới năm dặm đều được bình bằng đồng chứa đầy tiền vàng. Khi ấy vua Ác Sinh cho là một chuyện rất kỳ lạ, liền đi đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên thưa với Tôn giả nghe đầy đủ về nguyên nhân được tiền và nói rằng: –Con muốn sử dụng số tiền ấy, nó không có đem đến tai họa cho con và mọi người trong nước chứ? Tôn giả đáp: –Bởi vì nhân tốt đời trước của Đại vương đã gieo nên nay mới được phước báo cứ dùng sẽ không khổ. Nhà vua liền hỏi: –Không rõ nguyên nhân của con đời trước đã làm những gì? Tôn giả đáp: –Hãy lắng nghe, lắng nghe! Vào thời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, trong thời mạt pháp của Đức Phật Tỳ-bà-thi, khi ấy có các Tỳ-kheo, ở đầu ngã tư đường, làm một cái tòa cao lớn, để bình bát ở trên, nói: –Có người thế gian nào có thể đối với trong kho tàng bền chắc, đem tiền tài bỏ vào kho tàng này thì nước không thể trôi, lửa không thể cháy, vua không thể lấy, giặc không thể cướp. Khi ấy có một người nghèo, trước đây nhân bán củi được ba đồng tiền, nghe lời nói ấy, sinh tâm hoan hỷ, liền đem tiền ấy bỏ vào trong bát thành tâm phát nguyện. Anh rời xa nhà năm dặm, rồi quay trở về, từng bước, từng bước hoan hỷ. Khi vào trong cửa, anh hướng đến chỗ khuyến hóa chí tâm phát nguyện, sau đó mới vào nhà. Tôn giả nói: –Người nghèo khi ấy, nay là vua vậy, nhờ đời xưa dùng ba đồng tiền cúng dường mà đời đời vua được giàu sang thường được ba lớp bình tiền như vậy. Lại nhờ đi năm dặm đường từng bước hoan hỷ, nên thường ở trong năm dặm, có tiền vàng này. Nhà vua nghe về đời trước của mình nên vui mừng ra về.  <詞 id="41126163">104- CHUYỆN VUA ÁC SINH ĐƯỢC NĂM TRĂM CÁI BÁT Ngày xưa vua Ác Sinh đi đến thành Uất-thiền-diên. Khi ấy người giữ cửa, buổi sáng mở cửa. Ngoài cửa bỗng nhiên có năm trăm chiếc xe, mỗi xe đều có chở bát báu, trong mỗi bát đều chứa đầy lúa vàng. Tất cả đều có đóng ấn niêm phong, đề chữ: “Những bát này biếu cho vua Ác Sinh.” Khi ấy người mở cửa tâu với vua: –Bên ngoài có bát quý, trên bát đề chữ: “Biếu cho vua”. Không rõ bây giờ có nên nhận chăng? Nhà vua suy nghó: “Những vật báu này bỗng nhiên lại đến, hoặc đây là điều không lành, nếu ta nhận, có thể làm cho nước nhà bị tai họa chăng?”. Nghó như vậy, nhà vua liền đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên hỏi: –Sáng nay mở cửa bỗng thấy bát báu, trên bát có dấu ấn, đề: “Biếu cho vua Ác Sinh. Không rõ đó là điều tốt hay xấu, có nên lấy chăng?” Tôn giả đáp: –Đó là quả báo phước đức đời trước của vua, cứ nhận lấy đừng nghi ngờ. Nhà vua bạch Tôn giả: –Nhân đời trước con tu công đức gì mà lại được quả báu này? Tôn giả đáp: –Ngày xưa cách đây chín mươi mốt kiếp, trong núi Tiên nhân có một vị Bích-chi-phật gặp lúc trời mưa trợt té, liền bị bể bát. Khi ấy vị Bích-chi-phật đi đến nhà thợ làm đồ gốm để xin cái bát. Thợ làm đồ gốm liền lấy năm cái bát chứa đầy nước, hoan hỷ cúng dường cho vị Bích-chi-phật. Khi được bát rồi ngài ném bát lên hư không rồi phi thân bay theo, hiện mười tám cách biến hóa. Bấy giờ vợ, con của người thợ làm đồ gốm cùng người đến mua đồ gốm thấy sự thần biến này thảy đều hết sức vui mừng hớn hở. Thợ làm đồ gốm lúc ấy chính là thân của vua, còn người vợ của thợ gốm lúc ấy là phu nhân Thi-bà-cụ-sa, người con lúc ấy là thái tử Kiều-bà-la, người mua hàng lúc ấy là phụ tướng Phú-lô-khuy, vợ của người mua hàng là vợ của phụ tướng. Nhà vua lại hỏi: –Không rõ những cái bát này là tự nhiên hiện ra hay từ đâu đến? Tôn giả đáp: –Cái bát ấy không phải tự nhiên có, chúng đến từ trong Long cung dưới sông Hằng. Vì sao biết? Bởi vì ở quá khứ, Bà-la-môn cậu của vua La-ma tu hành thanh tịnh, ở bên bờ sông Hằng. Khi ấy vua La-ma hằng ngày lấy bát báu đựng cơm cho cậu. Theo pháp của Bà-la-môn, vật dụng không dùng trở lại, ăn xong ném bát xuống dòng sông Hằng. Khi ấy có con rồng mù nhặt những bát báu chứa đầy lúa vàng để trong cung của nó. Những bát đã ném xuống sông Hằng ngày càng nhiều. Do đó có đến năm trăm xe bát. Khi con rồng mù mạng chung, lại không có con giữ những bát ấy. Vì Thiên đế Thích biết vua ngày xưa đã cúng những bát ấy, nên ngày nay trả lại cho vua. Nhà vua nghe lời ấy liền lấy những bát báu ấy để làm phước, rộng tu bố thí cúng dường Tam bảo. Nhờ nhân duyên này về sau sinh đến chỗ lành.  <詞 id="41126164">105- CHUYỆN NGƯỜI CẦU VỊ TRỜI TỲ-MA MONG ĐƯỢC GIÀU LỚN Ngày xưa có hai anh em nhà cửa nghèo khó. Người anh ngày đêm thường tinh cần lễ bái cầu vị trời Tỳ-ma mong được giàu lớn, mới bảo người em cày ruộng gieo giống. Anh cầu thỉnh như vậy trải qua thời gian lâu. Khi ấy vị trời Tỳ-ma hóa làm người em, đến bên cạnh anh. Người anh tức giận nói với em: –Sao em lại không ra sức trồng tỉa, đến đây làm gì? Khi ấy người em đáp: –Anh ở tại chùa thờ trời, ngày đêm cầu thỉnh mong được giàu lớn. Ngày hôm nay em cũng muốn bắt chước anh, trai giới cầu nguyện, mong được giàu lớn. Người anh nói với em: –Em không chịu cày bừa gieo giống, thì làm sao được giàu sang phú quý? Người em trả lời anh: –Có phải thật sự nhờ trồng tỉa mới thu hoạch được sao? Người anh không thể trả lời được. Khi đó vị Trời Tỳ-ma hiện nguyên hình là vị trời, nói: –Năng lực hiện nay của ta có thể giúp ngươi một cách chân chánh ấy là ngày nay ngươi phải tu hành, bố thí thì ngày sau mới có thể giàu có. Bởi nhiều kiếp quá khứ của ngươi không tu bố thí cho nên mới bị bần cùng. Bây giờ tuy ngươi ngày đêm siêng năng cầu ta để được giàu có, với nhiều tiền tài châu báu nhưng làm sao mà có được. Như cây xoài vào mùa đông, dù có phụng thờ trăm ngàn Thiên thần muốn cho có trái, trái cũng không thể có được, ngươi cũng như vậy, trước không tu nhân, mà lại đến ta cầu xin được giàu có thì làm sao mà được. Khi quả đã chín rồi không cầu mà vẫn cứ có. Vị trời bèn nói kệ: Phước nghiệp như trái chín Không cần phải thờ cúng Người cỡi trên xe giới Sau được sinh lên trời. Định kiến như đèn tắt Muốn đến cõi vô vi Tất cả do hành dụng Cầu trời ích lợi gì?  <詞 id="41126165">106- CHUYỆN QUỶ TỬ MẪU MẤT CON Quỷ Tử mẫu là vợ của Quỷ thần vương Bàn-xà-ca, có một vạn người con, chúng đều có sức mạnh của đại lực só. Người con út tên là Tần-già-la. Quỷ Tử mẫu này rất hung ác, yêu nghiệt và bạo ngược, giết con nít để ăn thịt. Nhân dân bị nó gây ra tai họa, họ mới tới bạch Đức Phật, mong Ngài cứu nạn. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền bắt đứa con út của bà ta là Tần-già-la bỏ dưới đáy bình bát của Ngài. Khi ấy quỷ Tử mẫu đi khắp thiên hạ, trong suốt bảy ngày tìm con, mà chẳng được nên buồn rầu, áo não. Bà nghe người ta đồn: “Đức Phật Thế Tôn có Nhất thiết trí. Bà liền đến chỗ Đức Phật để hỏi hiện nay con bà ở đâu. Khi ấy Đức Phật đáp: –Ngươi có tới một vạn người con, mà chỉ mới mất một đứa, cớ sao ngươi lại đi kiếm tìm ưu sầu khổ não? Còn người dân ở trong thế gian, hoặc có một đứa con, hoặc có năm, ba đứa con mà ngươi lại đành giết hại thì họ sẽ khổ như thế nào? Quỷ tử mẫu bạch Đức Phật: –Nếu nay con tìm được Tần-già-la, con thề suốt đời không giết hại con của người ta nữa. Khi ấy Đức Phật liền khiến cho quỷ Tử mẫu thấy Tần-già-la ở dưới đáy bình bát của Ngài. Bà dùng hết sức lực nhưng không thể đem con ra được, bà lại cầu Đức Phật. Đức Phật nói: –Nếu nay ngươi có thể thọ Tam quy, Ngũ giới, suốt đời không sát sinh, ta sẽ trả con lại cho ngươi. Quỷ Tử mẫu liền như lời Phật dạy, bà thọ Tam quy và giữ Ngũ giới. Khi bà thọ trì xong, Đức Phật liền trả con lại cho bà. Đức Phật dạy: –Ngươi hãy khéo trì giới. Vào thời Đức Phật Ca-diếp, ngươi là con gái út thứ bảy của vua Yết-nị, có làm công đức lớn, nhưng vì không trì giới, mới thọ thân hình quỷ.  <詞 id="41126166">107- CHUYỆN THIÊN TỰ CHỦ Ngày xưa có một Bà-la-môn thờ vị trời Ma thất, ngày đêm phụng sự. Vị trời ấy liền hỏi: –Ngươi cầu việc gì? Bà-la-môn thưa: –Nay tôi cầu làm người chủ cúng tế vị trời này. Vị trời nói: –Đằng kia có bầy trâu, hãy đến hỏi chúng là khổ hay sướng? Người ấy liền như lời vị trời nói đến hỏi bầy trâu: –Các ngươi hiện nay khổ hay sướng? Trâu liền đáp: –Hết sức khổ sở, bị hai cái dàm chằng đầu và mõm, châm chích, bị roi quất rách lưng, lôi kéo xe cộ, không bao giờ dừng. Người ấy lại hỏi: –Do duyên gì mà ngươi phải thọ thân trâu? Trâu đáp: –Tôi là người chủ thờ cúng vị trời kia, tự ý lạm dụng vật cúng tế trời, cho nên sau khi mạng chung phải làm trâu và phải nhận chịu sự khổ sở này. Khi nghe lời ấy, vị ấy liền trở lại chỗ vị trời. Vị trời liền hỏi: –Nay ngươi muốn làm người chủ cúng tế trời chăng? Bà-la-môn thưa: –Chính con chứng kiến việc này, thật không dám làm. Vị trời nói: –Con người do hành động thiện hay ác mà tự nhận lấy quả báo. Bà-la-môn hối hận sự sai lầm ấy, liền phát tâm thực hiện các việc lành.  <詞 id="41126167">108- CHUYỆN THỜ THẦN CÂY Ngày xưa có một ông lão, gia đình rất giàu có. Ông lão này nghó tới chuyện ăn thịt, liền ngụy tạo phương tiện, chỉ cái cây ở đầu ruộng, nói với các con của mình: –Nay gia nghiệp của ta, sở dó được giàu có là do âm phước của vị Thần cây ấy ban cho. Hôm nay các con nên tập trung những con dê lại để tế tự. Khi ấy các người con vâng theo lời cha dạy liền giết dê để cúng tế cái cây ấy và lập đền thờ trời. Sau đó người cha hết tuổi thọ, mạng chung, do hành nghiệp theo đuổi liền sinh vào trong bầy dê của gia đình ông, gặp lúc các người con muốn cũng tế Thần cây, họ chọn một con dê đúng là cha họ. Lúc họ sắp đem đi giết, thì con dê kêu “be be”, cười và nói: –Thật ra cây ấy nào có Thần linh gì! Bởi vì thuở trước ta muốn ăn thịt, mới dối bảo các ngươi thờ cúng, để cùng các ngươi đồng ăn thịt dê. Nay chịu tội báo tai ương thì mình ta gánh. Khi ấy có một vị A-la-hán, tình cờ đến đó khất thực, thấy người cha đã chết của họ thọ vào thân dê, liền cho chủ nhân mượn đạo nhãn, để họ tự quan sát, mới biết đó là cha họ, lòng họ buồn rầu áo não liền phá hoại cây ấy, hối hận tu phước, không còn sát sinh nữa.  <詞 id="41126168">109- CHUYỆN CÔ GÁI NHÀM CHÁN DỤC XUẤT GIA Ngày xưa có một cô gái xinh đẹp vô cùng, xuất gia tu hành trong giáo pháp ngoại đạo. Bấy giờ có người hỏi: –Nhan sắc cô đẹp như vậy, nên ở thế tục, sao lại xuất gia? Người nữ đáp: –Như tôi ngày nay, đâu phải là không xinh đẹp, chỉ vì từ nhỏ đã nhàm chán dâm dục, cho nên nay mới xuất gia. Khi tôi còn ở nhà, vì đẹp đẽ cho nên đã sớm được ở riêng, sớm sinh con trai, con trai lại to lớn khôi ngô không ai bằng, tự nhiên nó bỗng gầy ốm như có bệnh. Tôi liền hỏi con: “Bệnh như thế nào?” nhưng con vẫn không chịu nói. Tôi cứ hỏi mãi, con tôi không giấu được mới nói với mẹ: “Con không muốn nói, nhưng sợ tánh mạng không bảo toàn, bây giờ con muốn nói rõ, rất là xấu hổ.” Nó liền nói với tôi: “Con muốn cùng mẹ tư thông, dục lạc, vì không được như vậy, cho nên mới bị bệnh.” Tôi liền nói: “Từ xưa đến nay, đâu có chuyện này.” Nhưng tôi lại tự suy nghó: “Nếu ta không chấp nhận, thì con ta có thể chết, nay nên đi ngược đạo lý để bảo toàn tánh mạng của con.” Tôi liền gọi con, muốn chìu theo ý con. Đứa con lúc sắp leo lên giường, khi ấy mặt đất liền nứt ra, con tôi liền rớt vào trong đó. Lúc ấy tôi liền hoảng hốt, lấy tay kéo nó, chụp được đầu tóc của con và chỉ còn lại tóc của nó mà thôi. Hôm nay vì vậy tôi vẫn còn ám ảnh trong lòng, cảm thương tha thiết nhớ lại việc này, cho nên xuất gia.  <詞 id="41126169">110- CHUYỆN ĐỨA CON BẤT HIẾU NHẬN QUẢ BÁO Ngày xưa, ở trong thôn Cưu-đà-phiến thuộc nước Ca-nặc có nột lão mẫu chỉ có một đứa con duy nhất. Song đứa con rất ác nghịch, không tu nhân từ hiếu thuận. Vì tức giận mẹ, cho nên cậu ta đã lấy tay hướng về mẹ, vừa đánh một cái thì bà ngã xuống. Ngay ngày hôm đó, cậu bỏ nhà ra đi, bỗng gặp giặc, chúng chém cậu đứt một cánh tay. Bởi vì tạo tội bất hiếu nên liền bị hiện báo, khổ đau như vậy. Về sau sẽ chịu sự khổ não ở địa ngục không thể kể xiết.  <詞 id="41126170">111- CHUYỆN LUẬN NGHỊ GIỮA VUA NAN-ĐÀ CÙNG VỚI NA-GIÀ-TƯ-NA Ngày xưa vua Nan-đà thông minh hiểu rộng, không việc gì mà không sành sỏi thấu suốt, tự biết chính mình, không ai địch nổi. Nhân đó ông hỏi quần thần: –Có người nào trí tuệ thông minh biện tài giải thích được những nghi ngờ, có thể đối thoại với ta chăng? Bấy giờ có một đại thần trước đây cúng dường một vị Tỳ-kheo già, công hạnh thanh tịnh, nhưng không học rộng. Vị đại thần bèn giới thiệu vị Tỳ-kheo ấy với vua. Vua hỏi: –Phàm người đắc đạo là tại gia mới đắc hay xuất gia mới đắc? Khi ấy vị Tỳ-kheo già đáp: –Cả hai hạng đều đắc được đạo. Vua lại hỏi: –Nếu cả hai đều đắc đạo thì cần gì phải xuất gia? Vị Tỳ-kheo già kia im lặng, không biết trả lời thế nào. Khi ấy vua Nan-đà càng thêm kiêu mạn. Bấy giờ các đại thần liền tâu với vua: –Na-già-tư-na thông minh trí tuệ tuyệt luân, hiện nay đang ở trong núi. Khi ấy nhà vua muốn thử sức liền bảo sứ giả mang một bình bơ hiện đã tràn đầy, ý của vua cho là trí tuệ của mình đầy tràn, ai có thể làm cho ta thêm trí tuệ. Tôn giả Na-già-tư-na khi nhận được bình bơ ấy, liền hiểu ý của vua, ở giữa các đệ tử, Tôn giả lấy năm trăm cây kim, chích vào bình bơ, nhưng bơ vẫn không tràn ra, rồi bảo sứ giả đem trả lại cho vua. Nhà vua khi nhận bình bơ xong, liền biết ý Tôn giả, bảo sứ đến thỉnh Tôn giả Na-già-tư-na đến. Theo lời mời của vua, Tôn giả đến. Thân thể Tôn giả cao lớn, đi cùng đồ chúng, Tôn giả là người nổi bật hơn hết. Tâm vua kiêu ngạo, giả bộ nhân đi săn, bỗng gặp nhau giữa đường, thấy một mỹ nhân, tự chỉ tay về hướng xa, tách đường khác mà đi. Đã không nói chuyện với nhau, âm thầm muốn chê trách Tôn giả, làm như tất cả trưởng giả đều không có biết. Bấy giờ Tôn giả Na-già-tư-na liền lấy ngón tay của mình tự chỉ vào ngực nói: –Chỉ mình ngươi biết. Lúc vua Nan-đà sắp vào cung, liền đục một cái phòng nhỏ, cửa vào rất thấp, để Tôn giả Tư-na phải uốn cong mình mà vào. Song Tôn giả Tư-na biết nhà vua phá mình, liền từ chối không vào, không chịu khuất thân. Khi ấy vua Nan-đà liền bảo dọn đồ ẩm thực, đem vài món đồ ăn dở mời Tôn giả. Tôn giả ăn bốn, năm muỗng rồi nói: –Đã no rồi. Sau đó nhà vua bảo sứ giả dọn đồ ăn ngon, Tôn giả lại ăn nữa. Nhà vua lại hỏi: –Vừa rồi ngài nói đã no, sao nay lại ăn? Tôn giả Tư-na đáp: –Vừa rồi tôi no đồ ăn dở, nhưng chưa no đồ ăn ngon. Tôn giả liền nói với vua: –Bây giờ trên điện của vua, xin vua tụ tập tất cả mọi người lên khiến đứng chật cả điện đi. Nhà vua liền bảo người lên đứng đầy cả điện, không còn chỗ thêm cho một người đứng, nhà vua ở phía sau muốn lên trên điện, mọi người vì sợ vua, đều tránh qua một bên, tự nhiên ở giữa điện rộng ra, có thể chứa được nhiều người. Bấy giờ Tôn giả Tư-na liền nói với vua: –Đồ ăn dở giống như dân, đồ ăn ngon giống như vua, dân thấy vua ai mà chẳng tránh đường? Nhà vua lại hỏi: –Người tại gia và xuất gia ai được đắc đạo? Tôn giả Tư-na đáp: –Cả hai đều đắc đạo. Nhà vua lại hỏi: –Nếu cả hai đều đắc đạo cần gì phải xuất gia? Tư-na đáp: –Thí như cách đây hơn ba ngàn dặm, nếu người bảo thiếu niên khỏe mạnh, cỡi ngựa, mang theo lương thực, cầm khí giới, đi đến đó có nhanh chăng? Vua thưa: –Nhanh. Tôn giả Tư-na lại hỏi: –Nếu bảo người già, cỡi ngựa ốm, lại không có lương thực, vậy có đến được đích chăng? Vua đáp: –Cho dù người ấy có mang theo lương thực đi nữa, e rằng cũng không đến đích, huống chi lại không có lương thực? Tôn giả Tư-na đáp: –Người xuất gia đắc đạo giống như thiếu niên khỏe mạnh, còn người tại gia đắc đạo giống như người già ấy. Nhà vua lại hỏi: –Nay tôi muốn hỏi những việc ở trong thân: “Ngã là thường hay vô thường?”. Xin trả lời theo ý của tôi. Tôn giả Tư-na hỏi lại: –Như ở trong cung vua có quả xoài trên cây vậy là ngọt hay chua? Vua nói: –Như ở trong cung của tôi hoàn toàn không có vậy thì tại sao lại hỏi tôi là quả ấy ngọt hay chua? Tôn giả Tư-na đáp: –Nay tôi cũng vậy, tất cả năm ấm, vốn tự vô ngã, sao vua lại hỏi tôi là thường hay vô thường? Nhà vua lại hỏi: –Tất cả địa ngục, đao kiếm phanh thây, phân tán mỗi thứ một nơi, nhưng mạng sống vẫn tồn tại, việc này thật có như vậy chăng? Tôn giả Tư-na đáp: –Giống như người nữ ăn nuốt bánh, thịt, dưa, rau, đồ ăn thảy đều tiêu hóa, đến lúc có thai thì Ca-la-la giống như hạt bụi, tại sao lại chuyển thành lớn, mà không tiêu hóa? Vua nói: –Đó là do nghiệp lực. Tôn giả Tư-na đáp: –Trong địa ngục ấy, cũng do nghiệp lực, nên mạng căn vẫn tồn tại. Vua lại hỏi: –Mặt trời trên bầu trời, thể chất nó vẫn là một, tại sao mùa hạ thì nóng dữ, mùa đông thì lạnh buốt, mùa hạ thì ngày dài, mùa đông thì ngày ngắn? Tôn giả Tư-na đáp: –Núi Tu-di có đường đi lên, đường đi xuống. Mặt trời mùa hạ theo đường đi lên, đường xa nên đi chậm, chiếu vào Kim sơn nên ngày dài mà nóng bức, mặt trời mùa đông thì theo đường xuống, đường gần đi nhanh, chiếu vào mặt nước của biển lớn, cho nên ngày ngắn mà lại rất lạnh.  <詞 id="41126171">112- CHUYỆN NGƯỜI VỢ BẤT HIẾU MUỐN HẠI MẸ CHỒNG TRỞ LẠI GIẾT CHỒNG Ngày xưa có người đàn bà bẩm tính rất hung ác, không biết lễ độ, mỗi khi nói ra điều gì cũng thường mâu thuẫn với mẹ chồng, bị mẹ chồng tức giận trách mắng, nên cô ta thường ôm lòng bất mãn, tâm tức giận càng lúc càng nhiều, vì vậy mưu toan muốn giết mẹ chồng. Sau đó cô ta lập phương kế bảo chồng phải giết mẹ. Người chồng ngu si, liền theo lời vợ, dẫn mẹ mình vào nơi đồng không mông quạnh, cột trói tay chân, sắp sửa muốn giết. Tội nghịch to lớn này, chuyển động đến cõi trời, làm cho mây mù bốn phương dồn lại, sấm sét đùng đùng nổi lên, đánh chết người con. Nhờ vậy mẹ chồng lại trở về nhà, cô dâu ra mở cửa. Người vợ tưởng là chồng về, mới hỏi: –Đã giết chưa? Mẹ chồng đáp: –Đã giết rồi. Đến sáng mai người vợ mới hay chồng mình đã chết. Cái tội bất hiếu quả báo hiện tại là như vậy, về sau phải đọa vào địa ngục thọ khổ vô lượng.  <詞 id="41126172">113- CHUYỆN VUA NƯỚC BA-LA-NẠI NGHE TIẾNG KÊU TRONG GÒ MẢ Phàm tất cả pháp, đối với những điều có thể cầu được, nếu dùng phương tiện, có thể đạt được, còn đối với những điều không thể cầu được, tuy rằng có muốn ép buộc cho được, cũng hoàn toàn không thể được. Giống như ép cát lấy dầu, nấu băng thành bơ thì chẳng những không được mà tự làm lao khổ mà thôi. Ngày xưa ở nước Ba-la-nại có một vị vua tên là Phạm Dự, thường vào lúc nửa đêm nghe có tiếng kêu trong gò mả nói: –Này vua, này vua! Cứ như vậy, một đêm nghe tiếng kêu ấy ba lần. Nhà vua nghe tiếng lạ trong lòng rất hãi hùng. Song âm thanh ấy trải qua thời gian lâu mà vẫn không chấm dứt. Do đó nhà vua mới tụ tập các Bà-la-môn, thái sử, tướng sư, cùng nói: –Vào ban đêm ta thường nghe tiếng gọi ta trong gò mả, ta thường lo sợ, không dám trả lời. Mọi người đáp: –Trong ngôi mộ ấy chắc chắn phải có yêu quái mới tạo ra âm thanh đó. Bây giờ nên sai sứ giả có lòng can đảm, tới gò mả ấy để xem. Nhà vua liền chiêu mộ rằng nếu ai trong đêm tối có thể đi đến ngôi mộ đó ta sẽ thưởng cho năm trăm đồng tiền vàng. Khi ấy có một người cô độc, không có cha, gia đình rất nghèo khổ đói rách, nhưng rất có sức mạnh và can đảm, liền nhận lời chiêu mộ ấy, thân anh mặc giáp, đội mũ trụ, tay cầm dao gậy, ban đêm vào giữa gò mả. Nghe tiếng gọi vua. anh liền quát lên: –Ngươi là ai? Đáp: –Tôi là vật báu được chôn cất. Nó nói với người được chiêu mộ: –Người là bậc Trượng phu dũng mãnh. Ban đêm ta thường gọi vị vua ấy. Nếu vua ấy lên tiếng trả lời ta, ta sẽ nói: “Tôi muốn vào trong kho tàng của ngài.” Nhưng vị vua đó khiếp sợ, chưa hề trả lời ta. Song ta hiện nay cho đến bảy ngày, vào lúc sáng sớm tinh sương ta sẽ đến nhà ngươi. Người được tuyển mộ hỏi: –Sáng mai tôi sẽ làm gì để đón rước ngài? Vật báu nói: –Ngươi chỉ quét dọn vẩy nước trong nhà, vất bỏ những vật dơ dáy, lấy hương hoa trang sức, làm cho hết sức thanh tịnh, dùng bồ đào, nước ngọt, bơ sữa của con nai tất cả đều chứa đầy trong tám hũ, rồi mời tám Đạo nhân thọ thực đồ ăn của ngươi, cúng dường xong ngươi sẽ lấy cây đánh lên đầu Đạo nhân nói: “Vào góc nhà”. Như vậy thứ lớp xua đuổi các Đạo nhân vào góc nhà. Người chiêu mộ biết xong, liền trở về nhà, đến chỗ vua để xin nhận năm trăm đồng tiền vàng, đem về đợi thiết lễ cúng dường. Nhà vua hỏi: –Âm thanh đó là do vật gì? Người được chiêu mộ nói dối: –Đó là quỷ mị. Người được tuyển mộ nghe lời báu vật nói, ôm lòng sung sướng một mình, rồi mời thầy cạo râu tóc, để tự trang nghiêm, chờ đến lúc mặt trời ló dạng sắm vật cúng dường đầy đủ, lúc ấy có tám Đạo nhân đến để thọ thực. Khi thọ thực xong, anh đánh lên đầu Đạo nhân ấy, đuổi vào góc nhà, liền biến thành một hũ vàng. Cứ thứ lớp xua những vị ấy vào góc biến thành tám hũ vàng. Bấy giờ người thợ hớt tóc, đứng dòm vào một lỗ ở cánh cửa, thấy người ấy được của báu, im lặng tự nghó: “Ta hiểu pháp này rồi, vậy ta thử bắt chước pháp ấy xem.” Sau đó anh chuẩn bị đầy đủ như ở trên, thỉnh mời tám Đạo nhân, mời ăn xong rồi, đóng hết các cửa ngõ, đánh lên đầu Đạo nhân, anh tưởng cũng giống như trước, đạt được một đống châu báu. Song vị Đạo nhân này, đầu bể máu chảy ướt cả sàng tọa, anh đuổi vào góc nhà, vì quá gấp làm vị ấy đại tiện trong quần, thứ lớp đến người thứ bảy, đều bị đánh bằng gậy, từ từ ngã xuống đất. Trong đó có một người khí lực khỏe mạnh, liền co tay một cách thình lình, phóng ra ngoài lớn tiếng kêu: –Sao vị chủ nhân này lại muốn giết chúng tôi. Khi ấy vị quốc vương nước ấy bảo người đến xem, liền bắt chủ nhân hỏi rõ sự trạng. Khi ấy người thợ hớt tóc, trình tâu rõ sự việc trên với vua, nhà vua liền bảo người đến nhà của người được tuyển mộ, thấy vàng báu của người đó. Nhà vua muốn đánh thuế để chiếm đoạt, nhưng các vàng báu ấy hóa thành rắn độc, biến thành đống lửa. Nhà vua liền bảo: –Đó là phước của ngươi. Kẻ phàm ngu ở thế gian cũng lại như vậy, họ có đủ tinh tấn, thọ trì tám giới, được quả báo thiện, dần dần thực hành tám Chánh đạo, được quả vô lậu. Một người liền muốn bắt chước người kia, cũng thọ trì tám giới, nhưng bên trong không có lòng kính tín, mà mong cầu được lợi lạc, kẻ ấy đã không có quả thiện, trở lại gặt lấy tai ương, giống như người ngu kia, hoàn toàn không khác.  <詞 id="41126173">114- CHUYỆN TỲ-KHEO GIÀ ĐƯỢC BỐN QUẢ Phật pháp rộng lớn, tế độ không cùng, chí tâm cầu đạo, không ai không chứng đạo quả, cho dù có đùa giỡn mà phước đức cũng không mất. Ngày xưa, có một Tỳ-kheo già, tuổi đã xế chiều, tinh thần uể oải, thấy các Tỳ-kheo trẻ tuổi thuyết đủ loại pháp, nghe nói có bốn quả, tâm sinh ưa thích nói với Tỳ-kheo trẻ: –Các vị là những người thông minh trí tuệ, xin hãy đem bốn quả ấy ban cho tôi. Các Tỳ-kheo trẻ xì một tiếng rồi nói: –Tôi có bốn quả, ngài phải cho chúng tôi ăn một bữa thật ngon, sau đó chúng tôi sẽ cho ngài. Khi đó vị Tỳ-kheo già nghe lời nói ấy vui mừng, phát tâm ngay thẳng, liền cởi áo Khâm-bà đem bán, mua các thứ đồ ăn ngon bổ, mời các Tỳ-kheo trẻ đến đãi, để cầu xin bốn quả. Các Tỳ-kheo trẻ khi dùng các thức ăn đó xong, vị ấy chỉ người kia đùa giỡn vị Tỳ-kheo già, nói: –Này Đại đức, ngài hãy ngồi trong một góc nhà này, chúng tôi sẽ cho ngài quả. Bấy giờ vị Tỳ-kheo già nghe lời nói ấy rất hoan hỷ đến ngồi ở một góc. Các Tỳ-kheo trẻ liền lấy trái cầu bằng da đánh lên đầu vị ấy mà nói: –Đây là quả Tu-đà-hoàn. Vị Tỳ-kheo già nghe xong giữ tâm không tán loạn, liền được Sơ quả. Các Tỳ-kheo trẻ lại đùa giỡn nói: –Vừa rồi ngài tuy đã đắc quả Tu-đà-hoàn song phải trải qua bảy lần sinh và bảy lần tử. Vậy hãy dời qua góc khác, tiếp theo chúng tôi sẽ cho ngài quả Tư-đà-hàm. Khi ấy vị Tỳ-kheo già, nhờ được Sơ quả nên tâm càng thêm tinh tấn, liền đổi chỗ ngồi. Các Tỳ-kheo trẻ lại lấy quả cầu đánh lên đầu vị Tỳ-kheo già và nói: –Cho ngài quả thứ hai. Lúc ấy vị Tỳ-kheo già càng thêm chuyên niệm, liền chứng quả thứ hai. Các Tỳ-kheo trẻ lại đùa nói: –Ngài đã được quả Tư-đà-hàm rồi, vẫn còn cái nạn sinh tử qua lại, ngài hãy qua ngồi chỗ khác. Chúng tôi sẽ cho ngài quả A-na-hàm. Các Tỳ-kheo trẻ lại lấy trái cầu đánh lên đầu vị ấy nói: –Nay ta cho ngài quả thứ ba. Khi ấy vị Tỳ-kheo già, nghe xong hoan hỷ, càng thêm chí tâm, tức thời lại chứng quả A-na-hàm. Các Tỳ-kheo trẻ lại nói đùa: –Ngài đã được quả Bất hoàn rồi, nhưng vì đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc, vẫn còn thọ thân hữu lậu, vô thường biến hoại, mỗi niệm mỗi niệm là khổ. Vậy ngài hãy ngồi qua chỗ khác, tiếp đến chúng tôi sẽ cho ngài quả A-la-hán. Khi ấy vị Tỳ-kheo già, theo lời ấy đổi chỗ ngồi. Các Tỳ-kheo trẻ lại lấy trái cầu da gõ lên đầu vị ấy nói: –Nay ta cho ngài quả thứ tư. Khi ấy vị Tỳ-kheo già, nhất tâm tư duy, liền chứng A-la-hán. Khi được bốn quả rồi, vị ấy vô cùng vui sướng, bày các món ăn ngon bổ, các thứ hương hoa mời các Tỳ-kheo trẻ đến để báo đền ân đức. Cùng luận đàm về công đức vô lậu của đạo phẩm với các Tỳ-kheo trẻ, thì các Tỳ-kheo trẻ không thể nào đối đáp với ngài nổi. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo già mới nói: –Ta đã chứng đắc quả A-la-hán rồi. Các Tỳ-kheo trẻ nghe lời nói ấy đến xin tạ lỗi sám hối cái tội trước đây đã đùa giỡn. Vì thế cho nên người tu hành nên biết rằng nghó đến cần điều thiện dù cho đùa giỡn còn được quả báo chân thật, huống chi là chí tâm thực hiện.  <詞 id="41126174">115- CHUYỆN CÔ GÁI CHÍ THÀNH ĐƯỢC ĐẠO QUẢ Nếu người cầu đạo, mà cốt lõi đặt ở sự tinh tấn chí thành, thì sự tinh tấn chí thành ấy sẽ giao cảm nhau từ đó sẽ đạt được đạo quả. Như ngày xưa có một cô gái thông minh trí tuệ tin sâu Tam bảo, thường đối với Tăng, theo thứ lớp mỗi lần thỉnh một vị Tỳ-kheo đến nhà để cúng dường. Khi ấy có một Tỳ-kheo già cũng theo thứ lớp đến nhà cô, vì tuổi già lẩm cẩm, hoàn toàn chẳng có tri giải. Bấy giờ cô gái, sau khi cúng dường trai phạn xong, xin vị Tỳ-kheo già thuyết pháp cho cô nghe. Riêng cô ngồi một ghế, nhắm mắt tónh lặng. Khi ấy vị Tỳ-kheo già vì biết mình ngu ám, không biết thuyết pháp, chờ lúc cô nhắm mắt, bỏ chạy về chùa. Nhưng cô gái này chí tâm tư duy pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, không được tự tại. Cô nhờ thâm tín quán sát nên được Sơ quả. Khi được Sơ quả rồi, cô muốn báo ân ấy. Nhưng vị Tỳ-kheo già này xét thấy mình chậm lụt, nên bỏ cô mà chạy trốn, càng xấu hổ, lại càng bỏ trốn. Cô gái này cứ thỉnh cầu mãi ông mới xuất hiện. Khi ấy cô gái nói rõ việc trên nên được đạo quả, do đó đến để cúng dường là để báo đền ân lớn. Khi ấy vị Tỳ-kheo già vì xấu hổ tự khắc trách mình hết mực, nên liền được chứng quả. Do đó hành giả cần phải chí tâm. Nếu ai chí tâm, cầu gì cũng được. KINH TẠP BẢO TẠNG <卷 id="41126175">QUYỂN 10 Gồm sáu chuyện: 116. Chuyện vua Ưu-đà-tiện. 117. Chuyện La-hầu-la. 118. Chuyện vị Bà-la-môn dối trá 119. Chuyện người vợ của Bà-la-môn muốn hại mẹ chồng. 120. Chuyện con chim kiêu và con quạ báo oán. 121. Chuyện nô tỳ và con dê đực chiến đấu.  <詞 id="41126176">116- CHUYỆN VUA ƯU-ĐÀ-TIỆN Ngày xưa vua Ưu-đà-tiện ở tại thành Lô-lưu là người thông minh hiểu biết thấu đáo, có trí tuệ lớn. Nhà vua có một phu nhân tên Hữu Tướng, nhan sắc hết sức đặc biệt, lại có thêm đức hạnh. Do đó nhà vua rất thương yêu, kính nể, tình cảm đối với nàng hết sức mặn nồng. Bấy giờ luật lệ ở nước ấy là các vị vua tự mình không chơi đàn Lục huyền cầm. Khi ấy phu nhân ỷ mình được nhà vua ái sủng, bèn tâu với vua: –Xin bệ hạ chơi lục huyền cầm, thiếp sẽ múa cho bệ hạ xem. Nhà vua không cầm lòng được liền lấy đàn ra khảy, phu nhân xòe tay lên múa. Nhà vua là người giỏi xem tướng, thấy phu nhân múa, hiện tướng của người chết. Lúc ấy nhà vua liền buông đàn xuống, buồn thảm thở dài. Phu nhân liền tâu với vua: –Như thiếp ngày nay, nhờ ân sủng của bệ hạ, chuộng bản nhạc hay mới xin bệ hạ khảy đàn, tự thiếp đứng dậy múa là để cùng vui. Có điều gì không vừa ý ngài mà ngài buông đàn thở dài? Xin ngài đừng giấu, hãy nói cho thiếp rõ. Bấy giờ nhà vua đáp: –Điều ta thở dài không thể nói cho phu nhân nghe được. Phu nhân tâu với vua: –Nay thiếp thờ vua chí thành không ai hơn. Nếu có điều gì không hợp lý, xin ngài cứ dạy bảo. Phu nhân cứ ân cần mãi, cho nên nhà vua đáp thật: –Ta đối với nàng vẫn trước sau như một. Song vừa rồi nàng đứng dậy múa, tướng chết hiện ra ngoài. Xem ra số mạng của nàng chỉ còn sống trong bảy ngày nữa mà thôi. Bởi vậy ta mới buông đàn mà than thở. Phu nhân nghe xong, trong lòng hết sức buồn lo, mới tâu vua: –Như lời vua nói, thọ mạng của thiếp chẳng còn bao lâu nữa. Thiếp nghe vị Tỳ-kheo-ni ở trong hang đá nói: “Nếu ai có thể tín tâm xuất gia chỉ trong một ngày, chắc chắn được sinh về trời. Vì vậy thiếp muốn xuất gia, mong vua chấp thuận để được đến với đạo.” Khi ấy nhà vua đối với hoàng hậu ân ái sâu nặng không dứt được, mới nói với phu nhân: –Cho đến đầu ngày thứ sáu, ta sẽ để cho nàng xuất gia nhập đạo. Vì không làm trái ý vợ, mãi đến ngày thứ sáu nhà vua mới nói với phu nhân: –Nàng có thiện tâm, muốn cầu xuất gia, nếu được sinh lên trời nàng phải về thăm ta thì ta mới cho nàng xuất gia. Nhà vua tuyên thệ như vậy và phu nhân chấp nhận nên liền được xuất gia, thọ Bát trai giới. Nội trong ngày đó, phu nhân chỉ uống toàn nước đường phèn cho nên trong bụng thắt lại, đến sáng ngày thứ bảy thì mạng chung. Nhờ thiện duyên ấy nên phu nhân được sinh lên cõi trời. Lúc đó liền sinh ba ý nghó: 1. Nhớ lại mình vốn là thân gì? 2. Nhớ ngày trước tu công đức gì? 3. Nhớ hiện nay được làm thân trời. Suy nghó như vậy rồi, biết được kiếp trước có thề với vua, vì lời thề trước nên phu nhân đến chỗ vua. Bấy giờ ánh sáng chiếu khắp cung điện. Nhà vua hỏi: –Ánh sáng này hiện nay là của ai vậy? Xin nói cho trẫm biết. Vị trời đáp: –Tôi là phu nhân Hữu Tướng, vợ của vua đây. Nhà vua nghe, liền nói: –Xin nàng hãy đến ngồi xuống đây. Vị trời đáp: –Hiện nay tôi thấy vua hôi thối, không thể đến gần. Bởi vì trước đây tôi có lời thề cho nên đến đây để thăm vua. Nhà vua nghe lời ấy rồi tâm liền khai ngộ, mới nói: –Nay vị trời kia chính là vợ của ta. Do có thiện tâm, xin ta vào đạo, xuất gia một ngày thì mạng chung. Nhờ công đức này nên được sinh về trời, tinh thần và ý chí cao xa, thấy ta quê mùa, hèn hạ. Nay ta vì sao mà chẳng xuất gia? Ta từng nghe nói: “Một móng tay của vị trời trị giá bằng cõi Diêm-phù-đề” huống chi một nước của ta, sá gì mà tham tiếc? Nhà vua nói lời đó xong, lập con là Vương Quân lên làm vua rồi xuất gia học đạo, đắc quả A-la-hán. Bấy giờ vua Vương Quân lên thống lãnh đất nước xong, tin dùng bọn nịnh thần sàm tấu, không lo nghó đến việc nước. Vua Ưu-đà-tiện thương nhớ con và dân chúng trong nước, muốn đến giáo hóa, khuyên tu điều thiện. Khi ấy vua Vương Quân nghe cha sắp đến, hết sức vui mừng, muốn ra lệnh tất cả nhân dân ra đường nghênh tiếp. Bấy giờ các nịnh thần sợ bị khiển trách mới tâu với vua: –Như vua hiện nay, đầu đội mão trời, ngồi tòa Sư tử. Song, phép của tòa Sư tử là không ngồi trở lại. Nếu ngài nghênh rước vua cha trở lại ngôi vua, chắc chắn vua cha sẽ giết ngài. Nếu vua cha đứng thì ngài phải giết vua cha. Bấy giờ vua Vương Quân trong lòng lo buồn, kinh ngạc, chuyển sang nghi hoặc. Vì các nịnh thần khuyên giải mãi liền có ác ý, mướn người Chiên-đà-la đến giết vua cha. Khi ấy người Chiên-đà-la đã nhận lời mướn, đến chỗ vua cha, đầu mặt đảnh lễ, tâu với vua: –Ngày trước con được sự đãi ngộ của ngài, thật con không có nghịch tâm với ngài. Song nay con bị ra lệnh đến đây để giết ngài. Nếu con không giết ngài chắc chắn con phải bị giết chết. Phụ vương đáp: –Nay ta đến đây là muốn giáo hóa vua của ngươi, há ta lại tiếc thân mà để ngươi bị giết sao? Nhà vua liền trương cổ đài hơn mười thước, bảo Chiên-đà-la: –Tùy ngươi cứ chặt cho đứt. Khi ấy Chiên-đà-la dùng hết sức để chặt nhưng đao không thể làm ngài tổn thương. Phụ vương vì thương xót, dùng thần lực nói với Chiên-đà-la: –Nay ngươi hãy vì ta đến nói với vua của ngươi: “Nay ngươi giết cha, đồng thời là giết vị A-la-hán, tạo hai tội nghịch. Phải khéo hết lòng sám hối thì tội mới nhẹ được.” Chiên-đà-la đã nhận lệnh xong, vung đao chặt đứt đầu phụ vương rồi mang về nước. Khi ấy vua Vương Quân thấy đầu của cha nhan sắc không thay đổi, biết cha đã đắc đạo, không tham ngôi vua, trong lòng hối hận, âu sầu áo não, khóc lóc đến chết ngất, giây lâu mới tỉnh, hỏi Chiên-đà-la những điều phụ vương đã nói. Khi ấy Chiên-đà-la đem lệnh của vua cha tâu với vua: –Ngươi đã giết cha, đồng thời là giết La-hán, tạo hai tội nghịch, phải khéo sám hối. Vua nghe lời ấy xong, càng thêm chết điếng, mới nói: –Nay phụ vương của ta đã đắc đạo A-la-hán, đâu có tham nước này mà ta xử giết cha! Người nịnh thần kia sợ bị vua giết mới tâu với vua: –Trong thế giới này làm gì có La-hán? Vua tin làm gì lời nói suông ấy để tự mình khổ não? Vua đáp: –Nay đầu của cha ta chết đã nhiều ngày rồi mà nhan sắc vẫn không thay đổi. Nếu không đắc đạo, sao được như vậy? Vả lại thời của cha ta có đại thần Bà-điệt-sư, Ưu-ba-­điệt-sư thảy đều xuất gia, đắc A-la-hán đạo, có các thứ biến hóa thần diệu, chúng ta đều thấy, đó là Niết-bàn, nhặt lấy cốt tạo tháp, những tháp hiện nay còn đó, vậy sao bảo là không? Nịnh thần tâu: –Những kẻ chú thuật huyễn hóa ở thế gian và nhờ năng lực của thuốc cũng có thể biến hóa thần diệu được. Hai vị bề tôi ấy chẳng thể so sánh với La-hán. Chờ thời gian nữa thần sẽ chứng nghiệm cho vua thấy. Nói lời ấy xong, nịnh thần ấy vào trong tháp, đục hai lỗ hổng, mỗi lỗ hổng đặt một con mèo, nuôi chúng ở trong tháp, dùng thịt để nhử. Hễ gọi: “Điệt-sư đi ra” thì con mèo đi ra để ăn thịt. Ông bảo chúng đi ra đi vào trong lỗ ấy. Dạy chúng như vậy, các con mèo đã thuần thục, ông liền tâu với vua: –Nay vua có muốn thấy Điệt-sư… chăng? Xin ngài cùng đi xem. Nhà vua liền ra lệnh chuẩn bị xe cộ, đi đến tháp đó. Bấy giờ nịnh thần mới kêu: –Điệt-sư đi ra! Con mèo liền đi ra từ lỗ hổng. Ông bảo: –Vào đi! Con mèo liền trở vào lỗ hổng lại. Nhà vua thấy vậy, tâm càng thêm mê muội, tùy ý muốn làm gì thì làm, chẳng tin tội phước. Khi ấy vua xuất quân vui chơi, đến lúc trở về, đang đi trên đường bỗng gặp Tôn giả Ca-chiên-diên đang ngồi ngay thẳng ở chỗ vắng, tọa thiền nhập định. Khi nhà vua thấy Tôn giả liền sinh ác tâm, tự tay hốt đất tung bụi lên Tôn giả, bảo kẻ tả hữu: –Các ngươi hãy theo lệnh ta, mỗi người phải hốt một nắm bụi tung lên Tôn giả Ca-chiên-diên. Khi ấy cả một đống đất phủ kín Tôn giả. Có một vị đại thần, tín tâm Tam bảo, từ phía sau mà đến, nghe được việc ấy hết sức buồn rầu, liền đến phủi hết bụi đất ấy cho Tôn giả, lại nói với mọi người: –Nếu các vị còn nghó đến ta, hãy đến xúc hết đất này đi. Bấy giờ Tôn giả ngồi trong hang báu lưu ly, thần nghi tươi sáng, không dính một chút bụi. Vị đại thần hoan hỷ, đầu mặt lạy dưới chân, bạch Tôn giả: –Nay nhà vua vô đạo, làm sự ác nghịch này, thiện ác đều có quả báo, làm sao thoát khỏi hoạn nạn được? Tôn giả đáp: –Sau bảy ngày, trời sẽ mưa đất đầy trong thành này, cao như núi đất. Nhà vua và nhân dân đều bị đất lấp chết hết. Vị đại thần nghe xong, ôm lòng sầu não, liền về tâu với vua. Ông lại tự thiết kế, làm một địa đạo thông ra ngoài thành. Bảy ngày đã mãn, trời mưa hương hoa, trân bảo, áo quần người ở trong thành không ai không vui mừng. Lúc đó nịnh thần tâu với vua: –Đây là điềm lành, nhờ đức của vua, Vậy mà kẻ vô trí trở lại sinh lòng phỉ báng nói rằng trời mưa đất, ngược lại là ngọc báu. Sự cuồng hoặc như vậy, trước sau chẳng phải là một, nghe nói ác duyên mà lại có điềm lành tập trung. Khi ấy bốn cửa thành vì do năng lực của bóng tối các cửa sắt đều rơi xuống, biến mất, trời lại mưa đất khắp cả thành cao như núi. Nhưng đại thần kia cùng những người có thiện tâm theo địa đạo ấy mà ra, hướng về chỗ Tôn giả bạch: –Cảm nhớ thành này, chỉ một ngày mà bị lấp sạch, mưa đất thành núi, quân dân đều chết. Vậy trước đây do nhân gì mà đồng chịu sự tai họa này? Tôn giả bảo đại thần: –Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho. Về thời quá khứ cách đây nhiều kiếp, bấy giờ ở trong nước kia có một cô gái con của trưởng giả đứng ở trên lầu, sáng sớm quét dọn, làm cho bụi bay ở trên đầu của một vị Tỳ-kheo mà không biết sám hối, nhưng cô ta lại gặp được người chồng tốt. Bấy giờ các cô gái khác mới hỏi cô ta rằng: “Cô nhờ duyên gì mà được người chồng tốt như vậy?” Người nữ kia đáp: “Tôi chẳng làm điều gì lạ, chỉ do tôi quét nhà làm bụi bay lên đầu vị Tỳ-kheo, nhờ vậy mà được chồng tốt.” Các cô gái nghe như vậy, liền theo lời ấy tranh nhau vung đất để hất bụi lên người Tỳ-kheo. Do nghiệp duyên ấy nên đồng thọ quả báu này. Nói lời ấy xong Tôn giả cùng Công Đức Thiên hướng về thành Hoa thị. Từ xưa đến nay, thành Lô-lưu cùng thành kia đắp đổi thạnh suy bao lần, nước này đã diệt, thành kia lại thạnh. Do đó cho nên Tôn giả… hướng về thành Hoa thị. Trong thành ấy có trưởng giả Hảo Âm Thanh đứng đầu, cúng dường Tôn giả. Lúc bấy giờ trưởng giả làm ăn giàu có, Tôn giả đến nhà, thấy ông của cải dư dả hơn trước rất nhiều. Khi vào thành ấy, Tôn giả Ca-chiên-diên bạch Đức Phật: –Trưởng giả Hảo Âm Thanh nhờ nhân duyên gì mà có âm thanh hay, giàu có vô lượng, của cải dư dả? Đức Phật trả lời: –Ở thời quá khứ có một trưởng giả hằng ngày bảo người đến thỉnh năm trăm Bích-chi-phật đến nhà để thọ thực. Song sứ giả thường dẫn con chó đến, nếu có duyên sự gì sứ không tới thỉnh được, chó cứ đúng giờ đến phòng của Tăng sủa. Khi ấy các Bích-chi-phật mới nói: “Người đời đa sự, thả chó rồi quên, chó sủa vừa rồi để gọi chúng ta, các ngài tự tiện cùng đến nhà của trưởng giả. Lúc ấy trưởng giả rất vui mừng, như pháp cúng dường.” Trưởng giả lúc ấy chính là thân Ta, người sứ giả lúc đó chính là A-na-luật, con chó nay là trưởng giả Hảo Âm. Vì lẽ ấy, đời đời ông ta được tiếng hay, lại nhiều của cải. Vậy nên người trí đối với ruộng phước phải nỗ lực cúng dường.  <詞 id="41126177">117- CHUYỆN LA-HẦU-LA Tôi từng nghe: Thuở xưa, lúc Đức Phật mới xuất gia vào đêm đầu tiên thì con của Ngài là La-hầu-la mới nhập vào bào thai. Bồ-tát Tất-đạt khổ hạnh sáu năm nơi cội cây Bồ-đề hàng phục bốn loại ma, trừ các ngăn che của ấm, hoát nhiên đại ngộ, thành đạo Vô thượng, đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, thành tựu mười tám pháp bất cộng, đầy đủ bốn biện tài, độ thoát tất cả, đạt đến bờ kia, hiểu rõ tất cả pháp của chư Phật, vượt lên trên các vị Thanh văn, Duyên giác. Vào đêm thành đạo đầu tiên của Ngài thì La-hầu-la được sinh ra. Lúc ấy tất cả thể nữ trong cung vua thảy đều thẹn thùng, hết sức ưu não mới nói: –Quái thay, điều đại ác! Da-thâu-đà-la không nghó điều phải điều trái, coi thường hành động, không tự thương mình, không tự thận trọng, khiến cho toàn cung chúng ta đều bị ô nhục. Bồ-tát Tất-đạt xuất gia đã lâu mà nay bỗng nhiên lại sinh con. Ôi, hết sức là xấu hổ, nhục nhã! Khi ấy có Thích nữ tên là Điển Quang, là con gái của di mẫu nàng Da-thâu-đà-la, đấm ngực, giậm chân, tức giận chửi mắng Da-thâu-đà-la: –Ngươi là chỗ thân yêu của tôn trưởng, sao lại tự làm điều tổn hại? Thái tử Tất-đạt-đa xuất gia học đạo cách đây đã sáu năm rồi mới sinh đứa bé này là điều hết sức phi lý. Ngươi theo ai mà có con? Ngươi là người không biết xấu hổ, làm ô nhục chủng tộc của ta, ngươi đã không kể chủng tộc, không sợ ô danh. Bồ-tát Tất-đạt có công đức lớn, tiếng tăm ai cũng biết. Nay ngươi tại sao không gìn giữ cho Ngài mà tạo điều sỉ nhục? Vua Tịnh Phạn ngay lúc đó đang đứng trên lầu thấy quả đất này có sáu thứ chấn động, tướng lạ xuất hiện. Vua Tịnh Phạn thấy điều ấy xong, cho rằng Bồ-tát đã chết, sự buồn rầu giống như mũi tên bắn vào tim vua, hết sức khổ não, nói: –Hương giới của con ta bay khắp bốn phương, tướng tốt trang nghiêm như tràng hoa sen. Nay là ngày con ta chết. Con ta như cây hoa, giới là rễ đâm sâu, tám quý là cành lá, danh dự là hương thơm, lòng từ là bóng mát. Nay đã bị voi giày mà chết. Con ta to lớn như núi vàng, các báu trang nghiêm. Con của ta như Kim sơn vương, thân trang nghiêm tướng hảo, bị chày Kim cang vô thường dập nát. Con ta như biển cả đầy các thứ báu bị con cá Ma-kiệt làm nhiễu loạn nước biển. Biển lớn của con ta cũng như vậy, bị chết vì sự nhiễu loạn của con cá Ma-kiệt. Con ta giống như mặt trăng rằm, các sao vây quanh. Con ta có công đức vô lượng như vậy, tướng tốt trang nghiêm, nay bị vô thường La-hầu-la tiêu diệt. Dòng họ ta sinh ra từ đại trượng phu đến Lô-việt, Chân tịnh. Các vị vua như vậy tiếp nối đến ta. Ngày nay dòng họ ta chưa sắp đoạn tuyệt chứ? Ta đặc biệt mong con ta làm Chuyển luân thánh vương hay thành Phật đạo. Sao nay con ta lại có thể chết? Nếu con ta mà chết thì ta sẽ ưu sầu, tiều tụy cũng chết theo mất. Sự mong ước con ta xuất gia, mặc pháp phục, ôm bát, mưa pháp cam lồ… tất cả những việc như vậy, chắc ta sẽ không thấy được. Vì nhớ thương con mà trong lòng sầu tư, nhớ nghó trăm mối. Khi ấy nghe trong cung có tiếng khóc lớn, nhà vua càng thêm kinh ngạc, cho là Thái tử đã chết, mới hỏi cô hầu đang chạy phía trước: –Đó là tiếng khóc gì vậy? Chẳng phải là con ta chết rồi sao? Cô gái tâu với vua: –Thái tử chưa chết. Hôm nay Da-thâu-đà-la sinh một người con, toàn cung đều xấu hổ cho nên khóc như vậy. Nhà vua nghe lời ấy càng thêm ưu sầu, áo não, bỗng khóc rống, cất tiếng kêu to than: –Quái thay! Thật là hết sức ô nhục! Con ta xuất gia đã sáu năm rồi, hà cớ gì hôm nay mới sinh con? Bấy giờ theo luật của nước ấy, hễ đánh một hồi trống thì tất cả quân lính tụ tập, chín vạn chín ngàn Thích chủng đều tập hội. Họ liền gọi Da-thâu-đà-la. Khi ấy Da-thâu-đà-la mặc bạch tịnh y ôm con trong lòng, không hề sợ hãi, trên mặt có dính chút bụi, ở trong thân tộc, nàng ôm con mà đứng. Bấy giờ Chấp Trượng Thích sắc mặt đầy tức giận, chửi Da-thâu-đà-la, quát lên: –Ngươi là đồ phàm phu thô bỉ, thật hết sức xấu hổ, đã làm nhục dòng họ nhà ta, còn mặt mũi nào mà đứng trước mặt chúng ta! Lúc ấy có một người họ Thích tên là Tỳ-nữu-thiên, là cậu của công chúa Da-thâu-đà-la, nói với Da-thâu-đà-la: –Không có đứa trẻ con nào ngu si thô bỉ, đê tiện hơn cháu. Cậu là người họ hàng, vậy cháu hãy nên lấy lời chân thật nói cho cậu biết đứa con ấy tác giả là ai? Bấy giờ Da-thâu-đà-la chẳng có gì hổ thẹn, nói một cách ngay thẳng: –Đứa bé này chính là con của người họ Thích xuất gia tên là Tất-đạt. Tôi nằm bên Thái tử mà có đứa con này. Vua Tịnh Phạn nghe lời ấy xong, tức giận nói: –Người đã không thủ tiết mà còn nói sai sự thật nữa. Điều đó thật hay hư thì các Thích tử biết rồi đó. Con của ta là Tất-đạt, lúc còn tại gia, nghe nói có ngũ dục mà tai còn không muốn nghe, huống chi lại có dâm dục mà sinh ra con? Như lời nói ấy thật hết sức thô bỉ, nham nhở. Ngươi đã lấy ai mà có con, làm hủy nhục chúng ta? Đây thật là sự quanh co xảo trá, chẳng phải là pháp chân chính. Con của ta là Tất-đạt lúc xưa ở tại gia đối với châu báu, của ngon vật lạ, hoàn toàn không có nhiễm trước. Huống chi nay con ta đã tu khổ hạnh, mỗi ngày ăn một hạt lúa, hạt mè mà lấy việc ấy để hủy báng! Vua Tịnh Phạn bừng bừng tức giận, hỏi các Thích tử: –Nay tại sao ta lại bị sự sát hại khổ độc như vậy! Lại có một Thích tử nói: –Cứ theo ý tôi, hãy làm một cái hầm lửa, ném mẹ con nó vào đó để không còn dấu vết gì nữa. Lúc ấy mọi người đều nói: –Việc đó rất hay! Bấy giờ họ liền đào một cái hầm lửa, lấy cây Khư-đà-la chất đầy trong hầm, chích lửa, rồi họ liền dẫn Da-thâu-đà-la đến bên hầm lửa. Da-thâu-đà-la thấy hầm lửa rồi, trong lòng hết sức hãi hùng, giống như con nai rừng chỉ có một mình trong khu vườn, quay nhìn bốn hướng chẳng có ai để trông cậy. Bấy giờ Da-thâu-đà-la tự trách mình: “Ta đã không có tội mà phải chịu tai ương này!”. Nàng ngước nhìn các người họ Thích, thấy chẳng có ai chịu cứu mình. Nàng ôm con thở dài, nghó đến Bồ-tát nói: –Ngài có lòng Từ bi thương xót tất cả, Trời, Rồng, Quỷ, Thần thảy đều cung kính Ngài. Nay mẹ con thiếp chẳng có ai giúp đỡ, không có tội mà phải chịu khổ. Cớ sao Bồ-tát không chịu lưu ý? Tại sao Bồ-tát không cứu mẹ con thiếp thoát khỏi nguy khốn ngày hôm nay? Các trời, các Thiên thần chẳng nhớ nghó đến tôi sao? Ngày xưa Bồ-tát ở giữa dòng họ Thích, giống như mặt trăng rằm ở giữa các vì sao. Nhưng sao mãi tới hôm nay thiếp chẳng gặp lại được một lần! Than xong, nàng liền hướng về chỗ Đức Phật nhất tâm kính lễ rồi lại bái các người họ Thích, chắp tay hướng về phía hầm lửa nói lời chân thật: –Nếu đứa con của ta quả thật không phải vì ngoại tình mà có, nếu điều này là sự thật không hư ngụy, mặc dù ở trong thai của ta sáu năm, thì xin lửa hãy dập tắt, chớ thiêu hại mẹ con ta. Nói như vậy xong, nàng liền nhảy vào trong lửa, nhưng hầm lửa này lúc ấy lại biến thành ao nước. Nàng tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen, hoàn toàn không có sợ hãi, nhan sắc vui tươi hòa dịu. Lúc ấy nàng chắp tay hướng về những người họ Thích, nói: –Nếu lời nói của tôi mà hư vọng, lẽ đáng tôi bị lửa thiêu cháy. Nhưng đứa bé này quả thật là con của Bồ-tát, đúng như lời chân thật của tôi, cho nên mới không bị lửa thiêu cháy vậy. Lại có một người dòng họ Thích nói: –Cứ xem hình tướng của cô ta không kinh, không sợ, từ đó suy ra biết chắc là cô ta nói thật. Cũng lại có người dòng họ Thích nói: –Cái hầm lửa này biến thành ao mát, lấy đó mà nghiệm thì biết là cô ta không có lỗi gì. Bấy giờ các người họ Thích dẫn Da-thâu-đà-la trở về cung, họ càng thêm cung kính, tán thán nàng. Họ tìm nhũ mẫu để chăm sóc con nàng, giống như lúc bình thường, chẳng khác gì cả. Vua Thái tổ Tịnh Phạn ái trọng nàng tha thiết. Lúc nào không thấy La-hầu-la, ông không thể nào nuốt cơm được. Mỗi khi nhớ Bồ-tát, ông chỉ cần bồng La-hầu-la vào lòng là hết sầu nhớ. Tóm lại sáu năm trôi qua, vua Tịnh Phạn khát ngưỡng mong gặp Đức Phật, ông bảo người đến thỉnh Ngài. Đức Phật vì lòng lân mẫn cho nên Ngài trở về nước. Đến hoàng cung của họ Thích, Ngài biến một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đều giống như thân của Đức Phật, sáng ngời không khác. Lúc ấy Da-thâu-đà-la nói với La-hầu-la: –Ai là cha của con, con hãy đến bên vị ấy. Khi ấy La-hầu-la đảnh lễ Đức Phật xong, đứng bên cạnh Đức Phật. Đức Như Lai liền dùng bàn tay có tướng bánh xe, đã tu công đức trong vô lượng kiếp, xoa lên đảnh đầu của La-hầu-la. Khi ấy các người họ Thích đều nghó: “Nay Phật vẫn còn có tâm thương riêng.” Đức Phật biết tâm các người họ Thích đã nghó, liền nói kệ: Với quyến thuộc của vua Và con Ta sinh ra Ta vẫn thương như nhau Chỉ lấy tay sờ đầu. Ta đã hết kết sử Thương ghét cũng không còn Các ngươi chớ hoài nghi Phân vân với con Ta. Con Ta cũng xuất gia Là Pháp tử của Ta. Nói tóm, công đức ấy Xuất gia học Chân đạo Sẽ thành A-la-hán.  <詞 id="41126178">118- CHUYỆN VỊ BÀ-LA-MÔN GIÀ DỐI TRÁ Tất cả sự xảo quyệt, nịnh hót, dối trá, bên ngoài dường như ngay thẳng, nhưng bên trong ôm lòng gian xảo. Cho nên người trí tuệ phải quán sát cái nào chân, cái nào giả. Giống như ngày xưa có có một Bà-la-môn, tuổi tác đã già, cưới người vợ trẻ. Người vợ ghét chồng già và cứ ở một bên đòi dâm dục mãi. Vì đắm trước dục tâm nên khuyên chồng mở hội, mời các Bà-la-môn trẻ tuổi đến dự. Người chồng nghi vợ có ý gian, cho nên không chịu mở hội. Bấy giờ người thiếu phụ bày nhiều mưu kế để mê hoặc chồng mình. Có một hôm đứa con vợ trước của người Bà-la-môn già rơi vào trong lửa, nhưng người vợ trẻ của ông ta lấy mắt nhìn đứa con rơi, nhưng không kéo nó lên. Vị Bà-la-môn nói: –Sao ngươi thấy con rớt vào trong lửa, mà lại không kéo lên? Người vợ liền đáp: –Từ nhỏ đến giờ tôi chỉ gần chồng tôi thôi, chứ chưa bao giờ kéo một người con trai nào khác. Tại sao bỗng nhiên bảo tôi phải kéo đứa con trai này? Vị Bà-la-môn già nghe lời ấy rồi, cho rằng những lời nói ấy là đúng, mới tin lòng người vợ. Ông liền mở đại hội ngay nơi nhà mình, tụ tập các Bà-la-môn. Bấy giờ người vợ trẻ liền cùng tư thông với Bà-la-môn khác. Vị Bà-la-môn già nghe việc ấy xong ôm lòng tức giận, liền lấy vật báu nhét đầy trong tay áo, bỏ vợ mà đi. Khi cách nhà đã xa, giữa đường thấy một Bà-la-môn liền làm bạn với người ấy. Chiều tối ngày hôm đó, ông ta ở chung với người ấy cho đến sáng sớm cùng với người ấy ra đi. Lúc rời khỏi nhà của chủ nhân, càng lúc càng xa, Bà-la-môn ấy nói với Bà-la-môn già: –Chỗ ở ngày hôm qua có một lá cỏ dính vào áo của tôi. Từ nhỏ đến giờ, tôi chưa bao giờ xâm phạm của cải người khác. Cái lá cây cỏ này dính vào áo làm tôi rất xấu hổ, muốn trả lại lá cỏ này cho chủ nhân của nó. Vậy bạn hãy dừng chân ở đây để chờ tôi trở lại. Nghe xong, Bà-la-môn già rất tin lời người ấy, kính yêu ông ta gấp bội, hứa sẽ chờ đợi. Bà-la-môn kia dối là mang lá cỏ muốn trả lại cho chủ nhân. Đi chẳng bao xa, anh lẻn vào trong một cái ao nước, nằm nghỉ một hồi rồi trở lại, bảo: –Tôi đã đem lá cỏ trả lại cho chủ nhân rồi. Bà-la-môn già tin là sự thật, càng thêm ái trọng anh ta. Bấy giờ Bà-la-môn già đi đại tiểu tiện, liền lấy bảo vật gởi cho anh ta. Sau đó anh ta ôm của báu của ông chạy mất. Bà-la-môn già thấy anh ta đã lấy trộm đồ của mình, liền than thở, ân hận vì đã giao của báu cho người đó, rồi tự cảm thương mình, buồn rầu, áo não, thất thểu lên đường. Ông đi được một lát, đến nghỉ dưới một gốc cây, thấy một con cò xám, trong miệng ngậm một cây cỏ, nói với các con chim khác: –Chúng ta cần phải thương yêu lẫn nhau, tụ tập một chỗ mà cùng ngủ nghỉ. Bấy giờ các con chim đều tin lời nói ấy, cùng đến tụ tập. Khi ấy con cò xám đi đến, thừa lúc các con chim rời khỏi tổ nó đến các ổ chim hút trứng, giết chim non để ăn thịt. Lúc các con chim đến nơi, thì nó lại ngậm cỏ. Các con chim trở về, thấy việc trên thảy đều tức giận. Xong con cò xám kháng cự lại, bảo: –Ta không làm như vậy. Bấy giờ các con chim biết con cò xám là thứ lừa dối, thảy đều bỏ đi, bay đến đậu dưới gốc cây ấy. Một lát sau ông lại thấy một người xuất gia ngoại đạo, thân mặc y chằm vá, đi một cách an ổn, từ từ mà bước, miệng nói: –Tránh đi các loài trùng. Khi ấy Bà-la-môn già mới hỏi: –Vì sao vừa đi mà miệng lại nói: “Tránh đi”? Ngoại đạo đáp: –Tôi là người xuất gia, xót thương tất cả, sợ làm thương hại các loài trùng kiến, cho nên mới nói như vậy. Bấy giờ Bà-la-môn thấy chính miệng người xuất gia ấy buông ra lời này, cho nên hết sức tin tưởng, ông liền đi theo đến nhà của người ấy. Lúc chiều tối đi ngủ, y nói với Bà-la-môn: –Tôi phải ở một cách an nhàn để tự tu tâm. Ngài đến phòng riêng bên kia mà ngủ nghỉ. Khi ấy Bà-la-môn hoan hỷ, nghe vị ấy hành đạo tâm sinh vui mừng. Đến sau nửa đêm, ông chỉ nghe tiếng nhạc, ca múa, ông bèn bước ra ngoài để xem thì mới thấy người ngoại đạo xuất gia ở trong phòng, có một lỗ hỏng ở dưới đất, bên trong có một người phụ nữ bước ra, giao thông với y. Hễ người nữ múa thì ngoại đạo khảy đàn. Nếu người ngoại đạo múa thì người nữ khảy đàn. Thấy việc như vậy rồi, ông tự nghó: “Vạn vật trong thiên hạ, không luận là người hay thú, chẳng ai có thể tin được.” Ông mới nói bài kệ: Không nắm tay con ai Đem cỏ trả lại chủ Cò xám dối ngậm cỏ Ngoại đạo sợ chết trùng Lời nói dối như vậy Hoàn toàn không thể tin. Bấy giờ ở trong nước có một trưởng giả, nhà cửa giàu có, rất nhiều châu báu, vào một đêm nọ bị mất nhiều của cải. Khi ấy nhà vua nghe điều này, hỏi trưởng giả: –Có ai đến hoặc đi khỏi nhà ông, làm ông bị mất của? Trưởng giả tâu với vua: –Ban đầu không có người gian nào lai vãng. Chỉ có một người Bà-la-môn từ lâu đã ra vào nhà tôi, đời sống vị ấy trong sạch, không xâm phạm tài sản của người khác, cho dù một cọng cỏ dính vào áo, ông cũng đem trả lại cho chủ nó. Ngoài vị ấy ra không có ai đến nhà tôi cả. Nhà vua nghe xong, liền bắt Bà-la-môn đến để cật vấn. Bấy giờ trưởng giả đến tâu với vua: –Vị ấy giữ hạnh thanh tịnh, người đời không ai bằng. Vì sao lại bị bắt trói? Tôi thà chịu mất của cải, nhưng xin vua hãy thả vị ấy ra. Khi ấy nhà vua trả lời: –Ngày xưa ta từng nghe có những việc giống như vậy. Bên ngoài giả làm thanh tịnh, bên trong ôm lòng gian ác. Ngươi chớ nên sầu khổ, nghe ta điều tra sự thật. Nói như vậy xong, liền tra cứu người ấy, thì ra thấy y lời cùng, lý gian, cúi đầu chịu tội trước sự thật. Cho nên người có trí sống giữa đời như tấm gương, khéo phân biệt được chân ngụy, là đạo sư của thế gian.  <詞 id="41126179">119- CHUYỆN NGƯỜI VỢ CỦA BÀ-LA-MÔN MUỐN HẠI MẸ CHỒNG Ngày xưa có một vị Bà-la-môn, vợ ông rất trẻ hình dung tuyệt đẹp, dục tình rất mạnh, tâm thích dâm đãng. Vì có mẹ chồng ở chung nên không được toại ý, cô ngầm lập mưu gian muốn hại mẹ chồng. Cô mê hoặc tâm của chồng, dối làm như người chí hiếu sáng tối kính cẩn siêng năng cung cấp cho mẹ chồng không thiếu vật gì. Người chồng vui mừng bảo vợ: –Nay nàng cung cấp nuôi dưỡng mẹ ta không thiếu thứ gì, thật đúng là người vợ hiếu. Mẹ ta đã già cả mà được nàng trợ lực. Người vợ trả lời chồng: –Nay tôi ở thế gian, dù cúng dưỡng cũng chẳng được bao nhiêu. Nếu được ở cõi trời mà cúng dưỡng cho mẹ thì nguyện tôi mới thỏa. Vả lại, có diệu pháp nào có thể làm người ta được sinh Thiên chăng? Người chồng đáp: –Theo pháp của Bà-la-môn thì ném xuống hang sâu, nhảy vào lửa, lấy năm thứ lửa đốt thân, làm những việc như vậy thì được sinh lên cõi trời. Người vợ nói với chồng: –Nếu có pháp này thì mẹ có thể được sinh lên cõi trời, hưởng thọ sự cúng dường tự nhiên, cần gì phải mãi mãi thọ nhận sự cúng dường của thế gian? Nàng nói như vậy xong, chàng tin là đúng, liền đến nơi ruộng hoang, làm một cái hầm lửa lớn, chất rất nhiều củi, ngọn lửa bừng bừng bốc cháy. Rồi ở trên hầm ấy chàng mở đại hội, dẫn mẹ già đến, mời thân tộc tụ tập, các Bà-la-môn đều đến dự hội, trống nhạc đàn ca, vui chơi cho đến chiều tối, các vị khách đã giải tán hết, chỉ còn hai vợ chồng ở lại với mẹ, cả vợ chồng dẫn người mẹ đến hầm lửa, xô người mẹ xuống hầm, rồi bỏ chạy không ngoái lại. Khi ấy trong hầm lửa có một khoảng ngoài biên nhỏ, người mẹ nhờ rớt trên vùng ngoài biên ấy nên không rơi vào lửa. Người mẹ liền tìm cách ra khỏi hầm lửa, lúc ấy trời đã chập choạng tối, lần theo dấu vết muốn trở về nhà. Lúc ấy, con đường dẫn đến một khu rừng, ở trong bóng tối, bà sợ cọp, beo, la-sát, quỷ… nên leo lên một cây thấp để tránh nguy hiểm. Bấy giờ gặp lúc có bọn giặc, trộm cắp nhiều của cải, có đồng bọn theo sau, đến nghỉ dưới gốc cây. Khi ấy lão mẫu sợ hãi không dám cựa quậy, nhưng không kiềm chế được, ở trên cây bà ho. Bọn giặc nghe tiếng ho, cho là có ác quỷ, chúng bỏ tài vật lại, tất cả đều tẩu thoát. Đến khi trời sáng, lão mẫu thản nhiên không còn sợ hãi, liền leo xuống cây, chọn lấy một số của quý, hương anh, ngọc kỷ, kim xuyến, bông tai, đủ loại của quý đặc biệt, mang hết về nhà. Vợ chồng thấy mẹ, ngạc nhiên kinh sợ, cho là thây ma sống dậy, không dám đến gần. Người mẹ bảo: –Ta chết được sinh lên cõi trời, được nhiều của cải. Rồi bà nói với người vợ: –Các thứ hương anh, ngọc kỷ, kim xuyến, bông tai là của cha mẹ, cô dì, chị em của mày đem cho ta. Bởi vì ta già yếu không thể mang được nhiều. Họ bảo ngươi phải tự ý lấy bao nhiêu cũng được. Người vợ nghe mẹ chồng nói vậy, vui mừng sung sướng, mong được như phép mẹ chồng nhảy vào hầm lửa, nên thưa với chồng: –Nay mẹ già nhờ nhảy vào hầm lửa mà được của cải này. Bởi mẹ sức yếu không thể mang nhiều. Nếu em mà đi, chắc chắn phải được nhiều. Người chồng như lời vợ nói, liền làm hầm lửa, nàng nhảy xuống hầm, thân bị thiêu cháy, tức khắc lìa đời. Bấy giờ chư Thiên nói kệ: Phàm người dối cha mẹ Không nên sinh tâm ác Như vợ hại mẹ chồng Thân lại bị thiêu cháy.  <詞 id="41126180">120- CHUYỆN CON CHIM KIÊU VÀ CON QUẠ BÁO OÁN Ngày xưa có con chim kiêu và con quạ oán ghét nhau. Con quạ đợi suốt ngày, biết con chim kiêu không trông thấy, nó đạp giết bầy chim rồi ăn thịt. Còn chim kiêu nhân lúc ban đêm, biết quạ tối mắt, lại đến mổ bầy quạ cho đến lủng ruột rồi cũng ăn thịt. Cả hai loài chim ngày đêm lo sợ, không lúc nào nguôi. Bấy giờ, trong bầy quạ có một con quạ có trí, bảo với bầy quạ: –Chúng ta đã trót gây thù ghét nhau, không thể cứu giải được, cuối cùng phải tàn sát nhau thôi, tình thế này không thể trọn vẹn được cả hai bên. Vậy chúng ta phải tìm cách để tàn diệt các con chim kiêu, sau đó chúng ta mới có thể hoan lạc được. Nếu chẳng như vậy, cuối cùng sẽ bị thất bại. Các con quạ đều đáp: –Như lời ngươi nói, vậy chúng ta phải làm cách gì để tiêu diệt giặc thù? Con quạ có trí nói: –Các bạn quạ hãy đến mổ tôi, nhổ lông vũ của tôi, mổ tét đầu tôi. Tôi sẽ lập kế để tàn diệt chúng. Liền như lời của nó, các con quạ làm cho hình dung nó tiều tụy. Nó đến ngoài hang của chim kiêu cất tiếng kêu bi thảm. Khi ấy con chim kiêu nghe tiếng kêu ấy liền bước ra hỏi: –Nay vì sao nhà ngươi bị vỡ đầu chảy não, lông vũ tả tơi, đi đến bên ta cất tiếng bi thương thống khổ, muốn nói với ta điều gì? Bấy giờ con quạ nói với chim kiêu: –Các con quạ căm thù tôi, tôi không thể sống ở đó được, cho nên đến đây để quy thuận với các bạn, để tránh sự oán thù độc ác. Lúc đó chim kiêu thương xót, muốn cho con quạ ở lại để nuôi dưỡng. Bấy giờ các con chim kiêu đều nói: –Nó là oan gia, không nên thân gần, sao lại nuôi dưỡng nó để bị oán địch mãi mãi? Con chim kiêu đáp: –Nay nó vì khốn khổ, đến đây để quy thuận, một thân cô đơn thì làm được gì? Rồi nó liền nuôi dưỡng chim quạ, cho quạ ăn thịt dư. Ngày tháng đã lâu, các lông vũ của con quạ lại bình phục. Nó giả bộ vui mừng, lập một kế nhỏ, ngậm nhánh cây khô và cây cỏ chất trong hang con chim kiêu, in tuồn như để báo ân. Con chim kiêu nói với con quạ: –Dùng những thứ ấy để làm gì? Con quạ liền đáp: –Ở trong lỗ hang toàn là đá lạnh, nên dùng cây cỏ này để chống đỡ gió lạnh. Con chim kiêu cho vậy là đúng, im lặng không đáp. Song con quạ lúc ấy liền xin giữ hang, giả trá làm tay sai để báo ân nuôi dưỡng. Bấy giờ gặp lúc tuyết rơi dữ dội, khí lạnh mãnh liệt, vì vậy các con chim kiêu đôn đốc nhau tập hợp trong hang. Khi ấy con quạ được cơ hội thuận tiện, trong lòng vui sướng, nó ngậm lửa của bọn chăn trâu đốt hang chim kiêu, khiến lũ chim kiêu tức thì bị tiêu diệt. Chư Thiên liền nói kệ: Các loài có thù xưa Đừng nên tin tưởng chúng Như quạ giả thân thiện Thiêu hủy các chim kiêu.  <詞 id="41126181">121- CHUYỆN NÔ TỲ VÀ CON DÊ ĐỰC CHIẾN ĐẤU Ngày xưa có một nô tỳ bẩm tính ngay thẳng, cẩn thận, thường lượm những hạt lúa tiểu mạch, đậu lép cho chủ nhân. Bấy giờ nhà của chủ nhân có một con dê đực, rình lúc không có người, nó đến ăn lúa mạch và đậu. Lúc cô ta cân lường cho chủ bị thiếu nên chủ tức giận. Cô không còn được chủ tin tưởng nữa là do con dê ăn trộm. Cô thường vì mối hiềm khích ấy nên hay lấy cây đập con dê đực. Con dê đực vì vậy ôm lòng tức giận, nhiều lúc nó cũng húc cô nữ tỳ. Hai bên xúc chạm với nhau như vậy đã nhiều lần. Nhân một ngày, cô nữ tỳ tay không, đang cầm lửa, con dê thấy cô ta không gậy, liền chạy thẳng đến húc cô ta. Cô nữ tỳ nhân lúc gấp rút, lấy lửa đang cầm bỏ lên lưng dê. Con dê bị lửa nóng quá sức đường đột, hoảng nhiên chạy đến thôn xóm người ta khiến thôn xóm bị cháy và ngọn lửa lan đến núi hoang. Bấy giờ ở trong núi có năm trăm con khỉ, bị lửa lan đến bốc cháy rất mạnh, không kịp chạy thoát, liền cùng một lúc bị lửa thiêu chết. Chư Thiên thấy vậy mới nói kệ: Lúc nóng giận chiến tranh Không biết tự dừng lại Dê đấu với nô tỳ Khiến khỉ, người phải chết. <卷 id="41126182">