<經 id="n194">NHỮNG KINH DO TĂNG-GIÀ-LA-SÁT TẬP THÀNH Hán dịch: Đời Phù Tần, Tam tạng Pháp sư Tăng-già-bạt-trừng, nước Kế tân. <卷 id="50112219">BÀI TỰA Ngài Tăng-già-la-sát là người nước Tu-lại. Sau khi Đức Phật nhập diệt bảy trăm năm, ngài sinh ở nước ấy, xuất gia học đạo, du hành, giáo hóa các nước và đến lãnh thổ nước Kiền-đà-việt làm thầy của vua Chân-đà-kế-nị. Ngài là bậc cao minh tuyệt thế, có nhiều dịch thuật và sáng tác. Tại nước đó, ngài tập thành các kinh “Tu hành kinh” và “Đại đạo địa kinh”. Ngài lại trước tác Hiến chương của kinh này: “Đức Thế Tôn từ khi mới thành đạo đến khi nhập diệt, chỗ hành hóa không luận lớn nhỏ phải tùy việc mà diễn bày, việc du hành giáo hóa, kiết hạ an cư không việc gì mà không rõ ràng rành mạch. Tuy bổn hạnh độ đời đã được các kinh ghi chép rõ ràng, nhưng việc Phật đi, Phật ở vẫn còn là điều bí ẩn. Nay xem kinh này chỗ hiểu biết sẽ được tăng rất nhiều! Lúc sắp tịch diệt, ta đã lập nguyện rằng nếu ta đạt năng lực của bậc Đại só, lời thật chẳng dối, thì sẽ đứng dưới cây, tay cầm trang kinh mà bỏ thân mạng, dù dùng sức mạnh của con voi lớn cũng không thể làm lay chuyển mảy lông và ngay khi trà-tỳ sẽ không thể làm cháy được kinh này. Sau đó ta đứng mà thị tịch. Vua Kế-nị tự thân đến vẫn không thể làm lay động, bèn dùng voi lớn kéo cũng chẳng xê dịch được, đến lúc trà-tỳ lửa đốt mà kinh không bị tổn hại. Ta bay lên cung trời Đâu-thuật, cùng đàm đạo với Đại só Di-lặc, là vị Phật sắp bổ xứ vào thời Hiền kiếp thứ tám”. Vào năm thứ hai mươi niên hiệu Kiến nguyên, Sa-môn Tăng-già-bạt-trừng, người nước Kế tân mang bản kinh này đến Trường an, Thái thú Võ Oai là Triệu Văn Nghiệp xin phép được xuất bản. Ngài Phật Niệm phiên dịch, ngài Tuệ Trung làm bút thọ, chính lúc đó ngài Mộ Dung gặp nạn ở ngoài thành, tất nhiên dịch phẩm không hoàn thành. Tôi cùng với Pháp Hòa đối chiếu để kiểm định, đến ngày 30 tháng 11 mới xong. Năm ấy xuất bản sáu mươi quyển kinh Trung A-hàm, bốn mươi sáu quyển kinh Tăng nhất A-hàm, trong lúc đánh trống, gõ mõ để phổ cáo, xuất bản hơn một trăm quyển kinh này. Dù lúc cùng lời hay khi thông lý vẫn mặc nhiên không sửa đổi, há chẳng phải là bút tích của Tiên sư đó sao?  NHỮNG KINH DO TĂNG-GIÀ-LA-SÁT TẬP THÀNH <卷 id="50112220">Quyển 1 Bấy giờ, lúc mới tu hành Bồ-tát vì thương xót thế gian nên phát tâm cầu đạo; vì xuất gia cho nên thực hành nhẫn nhục, vì tâm bất tương ứng<註 n="18"/>18 nên đạt Tâm tam-muội; vì đoạn trừ vô trí nên hành trí tuệ Kim cang; vì trừ bỏ sự đùa giỡn, hành chân đế nên từ bỏ ý ô uế; vì trực hạnh nên hành khổ hạnh; vì có lòng Từ hiếu với cha mẹ nên kiên cố không bỏ thệ nguyện; vì ly dục nên làm theo điều nhiêu ích; vì đã niệm báo ân cầu giải thoát nên mặc áo ca-sa; vì muốn tịch tónh ở nơi núi rừng nên không để ý mọi việc; vì hành giả tìm hiểu nơi người thân nên biết thân mình là sự trói buộc; vì miệng thực hành không nói dối nên đối với tất cả gốc khổ, ý không niệm nhưng không xả hiện hữu vậy. Lại nữa, như khi Bồ-tát thực hành trí tuệ, nhờ những điều đã biết nên gọi là trí tuệ. Trong tất cả việc làm của Ngài, đối với chúng sinh không thâm hiểu nghóa lý của đêm dài sinh tử, Ngài khuyến hóa, phân biệt bằng trí tuệ xác quyết của Ngài: “Đây là sâu, đây là cạn, thanh tịnh, nhiều lợi ích; đây là ác, đây là xấu, nên thân cận thiện tri thức”. Pháp ấy không loạn, vô lượng vô hạn, cũng không tăng giảm, giống như mọi vật khi bị gươm, kích đâm chặt đều đứt, trí tuệ của Ngài cũng như vậy. Vì hiển bày đệ nhất nghóa nên Ngài có trí tuệ sáng suốt; vì ý tự ngã tối tăm, bế tắc nên Ngài mở bày cái thấy sáng suốt tương ứng với Ngài; nhờ có các hạnh nên căn môn đầy đủ; vì không khiếp nhược nên Ngài hiện oai lực của mình; vì muốn đoạn tài nghiệp bất thiện nên hiện ra có tài nghiệp; vì trân bảo là không thể nắm bắt được cho nên hiện ra trân bảo như vậy; vì đoạn mạng cho nên hiện ra thọ mạng; vì đoạn các kết sử cho nên ra sức quán sát việc lâu xa. Ngài phân biệt các việc ấy cho chúng sinh khiến tất cả họ đều hiểu rõ hoàn toàn, cứu họ khỏi bị nguy khốn; vì chúng sinh ưu sầu cho nên làm khởi tâm hoan hỷ; vì để tâm ý vắng lặng, không khởi cho nên lìa pháp ác mà thành tựu pháp thiện, bỏ tà theo chánh, nhờ vậy cho nên Ngài thành tựu sức trí tuệ; vì sự sinh tử cho nên muốn đoạn vọng kiến, đến chỗ giải thoát; vì dạo khắp thế gian cho nên tu hành tất cả cảnh giới, đạt trí tuệ viên mãn hoàn toàn, do vậy đạt đến Vô vi Niết-bàn. Khéo đứng không di động Không có sợ sinh tử Liền đến cõi Bất hoàn Tiêu diệt hết ba cõi. Cả trăm kiếp tu hành Muốn thanh tịnh chúng sinh Không có tưởng ba đời Cũng không có hy vọng. Đó là lúc Bồ-tát tu hành chân lý. Tên của chân lý đó là tâm không hư vọng, không nói hai lời, thường vui thích việc đó; cũng không có bỉ thử, luôn luôn vui thích sự thật ấy. Trong lúc thức hay ngủ, chưa từng đùa giỡn, cũng không thích nói dối. Lại nghe: Ngày xưa có một vị vua tên là Tu-đà-ma, ở trong cung chế ra loại trống pháp để thống lãnh bốn cõi, khi đánh lên thì quần thần, nhân dân đều nghe thấy. Vị vua phước đức ấy muốn đi đến ao nước để tắm rửa, liền lên xe Vũ bảo ra khỏi thành. Bấy giờ có một Bà-la-môn nhan sắc đoan chánh, thông minh trí tuệ, muốn đến chỗ vua để xin châu báu. Bà-la-môn liền tâu với vua, tự xưng tên họ và đưa tay cầu xin. Vua nghe xong, hoan hỷ trả lời: –Hãy khoan! Này Tôn giả, chờ ta về nước sẽ cứu tế cho. Phàm phép vua không nói hai lời. Nhà vua liền đến ao nước tắm rửa; tắm rửa xong trở về nước. Khi ấy có con quỷ có cánh tên Yết-ma-sa-ba-la, hiện tướng khủng bố, tay nắm thân vua làm nhà vua rơi lệ. Lúc đó quỷ quán thấy tâm của nhà vua như vậy, liền hỏi: –Đại vương, vì sao ông lại khóc, và có tâm ưu sầu thế kia? Bấy giờ Bồ-tát trả lời: –Ta không lo tưởng cho thân này, chỉ vì ta có hứa cho một vị Bà-la-môn của báu nên mới ôm lòng sầu lo như vậy. Con quỷ nói với nhà vua: –Tôi chưa bao giờ nghe chuyện hết sức kỳ quặc như vậy, thế gian rất hiếm có! Nếu vì nhân dân của ông, vậy tôi cũng đến để xem thử. Nay nếu tôi thả ông ra, ông có trở lại chăng? Bấy giờ vua hết sức sung sướng. Con quỷ vỗ đôi cánh bay lên hư không, quán xét lời nói của vua, liền thả vua ra. Bồ-tát trở về nước, hoan hỷ lấy tài vật cho vị Bà-la-môn kia thật chẳng dối gạt; bố thí không hối hận đúng như lời đã nói. Sau đó vị quốc vương trở lại chỗ con quỷ, tự xưng tên họ và nói: –Ta đã đến đây. Bấy giờ con quỷ thấy tướng mạo của nhà vua liền rất kinh sợ, vì vua đã nói lời thành thật nên nhan sắc của vua không thay đổi, trừ bỏ sân hận, không có ý sát hại. Nó thốt lên: –Thật là chuyện hết sức kỳ lạ, ta chưa từng nghe thấy bao giờ! Và nói bài kệ: Tôi thà uống chất độc Thà nuốt nước đồng sôi Dao bén cắt thân thể Sao dám hại Pháp vương? Phước xưa sinh vương tộc Xét đức không ai bằng Dũng mãnh, thật chẳng dối Rất xứng làm Quốc vương. Nay tôi phải tôn kính Theo Ngài không sát hại Hối cải, tu thiện hạnh Chúng sinh được an lành. Khi Bồ-tát tu hạnh nhu hòa, tâm Ngài nhu hòa, có danh tiếng tốt, lời nói không thô bạo; vì muốn cầu pháp nên luôn phòng hộ ý, chưa từng sinh lòng oán ác, không sinh hy vọng, miệng không nói lời ác; vì người ngu si nên hiện tướng trí tuệ; vì trừ tâm cấu uế nên ai cũng khen ngợi, không có ý tưởng tự cao, không tùy thuận các điều hư huyễn; tất cả đều nhờ chư Phật ủng hộ nên đạt được đức như vậy. Ngài cũng không có điều gian ngụy, những ô uế như vậy thảy đều tránh xa. Ngài có được tâm nhu hòa, thiện căn vốn đầy đủ, nên mọi người đều mến yêu. Ngài không tiếc thân mạng nên thần tiên đều khen ngợi. Với sự nhu hòa như thế thì có thể quán biết quả báo thiện ác của Ngài. Trí tuệ công đức của Ngài đầy đủ như đã nói trên, gốc thiện cũng không đoạn mất khi bần cùng. Ngài bố thí vàng bạc, châu báu để trừ bỏ các ô uế. Năm Ngài lên mười tuổi, gặp phải ách nạn, dù tự tại làm theo ý muốn nhưng Ngài cũng không sát sinh. Thân tạo nghiệp lành, tâm sinh của cải, miệng thì truyền giáo. Khi hành động tạo nghiệp, Ngài trừ khử những điều ô uế ngăn che. Bấy giờ, này các Tỳ-kheo, Ngài đã dừng nghỉ sự tồn tại của thân thế gian, những ý tưởng sở hữu đã chấm dứt hoàn toàn, nhờ đã chấm dứt hoàn toàn nên xa lìa sự nhiễm trước mà đời trước đã tạo ra. Nhiễm trước đã đoạn, đã hết, nên không tạo ra nữa, nên đoạn trừ gốc khổ, hết sự bại hoại. Ngài trụ trong pháp thâm diệu ấy đã tu tập và tuyên thuyết pháp như thế giống như tay cầm bánh xe sáu tháng mà không giải đãi. Các Đức Phật Thế Tôn đều đã biết rõ, đều đã thành tựu hết, liền nói bài kệ: Không tạo ý dua nịnh Biết rõ nghiệp tà pháp Vốn không tạo nghiệp ấy Luôn quán sát như vậy. Ý dũng mãnh như biển Nhu hòa không thô bạo Đầu mặt xin đảnh lễ Bậc Vô Trước hy hữu. Lúc Bồ-tát từ hiếu đối với cha mẹ, tâm Ngài có niệm báo ân, cung kính vâng lời, xa điều ác, theo điều thiện, tùy thời cung cấp, nửa đêm thức dậy thăm dò ý cha mẹ, không việc gì mà không làm. Những điều cha mẹ giáo huấn, ngăn cấm, chưa từng vi phạm. Ngài có tâm nhu hòa như vậy cho nên mới có việc làm như vậy. Tâm Ngài đã tu hành, thường tự quán sát nên làm việc gì, nghe những điều cha mẹ giáo huấn liền biết rõ; tâm thường hoan hỷ, ái kính tất cả; nhớ nghó, biết rõ tâm của cha mẹ nên thường nghó việc muốn báo ân; không bao giờ có lời nói thô bạo. Lại nghe, ngày xưa khi Ngài chưa thành Bồ-tát, còn làm đại tượng vương, đoan chánh vô song, đầu, mắt, da, lông thảy đều đoan chánh, ai xem cũng không chán. Tai dày, sung mãn hơn các con voi khác, ngà dài, chân ngay thẳng, có tâm vui thích, môi răng đều đỏ, đầu tai tròn trịa; hình thể tròn đầy cân đối vô cùng to lớn, cao rộng giống như hòn núi cao, bước đi chững chạc, bảy chỗ (trên thân) đầy đặn giống như hoa sen xanh, bước đi vững vàng không có trở ngại, do long nữ sinh ra, rong chơi trong núi đầm, sắc như tuyết trắng. Khi bị thợ săn bắt được dắt đi, cây cối, núi rừng bấy giờ thảy đều nghiêng mình buồn thảm, nước tự dâng lên chỗ voi ở, thợ săn đem các món ngon ngọt đến, nhưng voi cũng không chịu ăn. Bấy giờ người huấn luyện voi đến trước, quỳ dài chắp tay nói với con voi ấy bằng bài kệ: Tôi vốn tạo căn lành Mời voi thần đến đây Sao lại không chịu ăn Như có tâm oán hận? Bấy giờ voi thần liền nói kệ đáp lại: Mẹ tôi bị mù mắt Già yếu thêm sầu não Nhớ mẹ không thể ăn Cho nên xin tha mạng. –Ở trong núi sâu kia, mẹ tôi không ăn, đói khát, chắc chắn sẽ bị chết. Thật là thống khổ! Mẹ con nay phải ly biệt. Vì sự sầu lo ấy nên tôi không thể ăn, cũng không thể uống được. Không có quả ngon để dâng cho mẹ tôi, như vậy, cả tôi và mẹ tôi đều chết. Voi thần nói những lời chua xót ấy xong, người thợ săn liền hoan hỷ thả voi ra. Bấy giờ, ở nước Câu-tát-la có một vị học só ẩn cư tên Diễm Thí. Vị này tu hành Thập thiện đầy đủ công đức, ôm bát đi lấy nước. Khi ấy quốc vương nước Câu-tát-la xuất hành để đi săn, đuổi theo con nai từ trong núi phóng ra, nhà vua liền buông tên, lỡ bắn trúng Diễm Thí. Bấy giờ Diễm Thí kêu la, lo cho cha mẹ, nói: –Tôi giống như con chim mà không có hai cánh, cha mẹ tôi tuổi già, mù lòa không thấy đường, nay tôi bị trúng tên độc ắt sẽ chết. Cha mẹ tôi đang tu Tứ đẳng tâm. Liền nói bài kệ: Lo cha mẹ tôi già Mắt mờ không thể thấy Khi cha mẹ sinh con Muốn được nhờ sức con. Tự giác và giác tha Tất cả đồng tự tướng Như nghe thanh, thấy sắc Người trí ý tự dừng Tối thắng thương chúng sinh Đều đưa đến đạo tràng Phát khởi tâm diệt độ Nghóa tối diệu thế gian. Khi mới phát tâm, người được gọi là Bồ-tát phải có những hạnh nguyện như vầy: Tiêu diệt vô minh và các thứ ngăn che, tất cả vô minh đều làm cho trở thành hữu minh. Ngoại trừ người có tuệ giác, chúng sinh nào không có khả năng để loại bỏ vô minh muốn hiện bày hữu minh phải dùng trí tuệ tu hành. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà hành hạnh Đại từ. Xót thương thế gian nên phát tâm hướng về đạo; vì tất cả chúng sinh đều bị ái nhiễm, không thể tự đảm đương việc lớn, ngoại trừ bậc Tuệ giác. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị sắc tướng, bị dục ái trói buộc không người nào có thể giải thoát khỏi chúng, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị hai niệm căm ghét, oán hờn cùng nhau trói buộc làm cho mê mờ nhưng không ai có thể biết được điều ấy ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị gánh nặng khổ, bị khổ làm hại, không ai có thể vượt qua gánh nặng khổ ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh thường ôm lòng sợ hãi, trăm thứ khổ cùng lúc ập đến không ai có thể trừ được sự sợ hãi ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh gặp phải mất mùa đói kém, khát ái không chán, không ai có thể giải trừ được nạn đói kém ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị bệnh khổ bức bách, một bệnh chuyển động thì trăm thứ bệnh tăng, không ai có thể thoát khỏi bệnh ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị sinh, già, bệnh, chết thường theo đuổi thân mà bị tai họa, không ai có thể thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết để đạt được Vô vi, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh chấp đắm tư tưởng hiện hữu, thường còn trước các sự việc tạp nhạp ở đời, không ai có thể trừ được sự tạp nhạp đó, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh có việc không làm được nên tâm tánh hoang mang, hỗn loạn, không ai có thể làm việc ấy rốt ráo được, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh tham đắm một chút mùi vị mà phải trải qua các thứ khổ không ai có thể thoát khỏi khổ não ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh thường ôm lòng do dự, mong mỏi bỏ chánh, theo tà, không ai có thể đoạn trừ sự hồ nghi ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh có nhiều kiến chấp, không ai có thể nhổ hết các kiến chấp ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị chìm đắm trong đám bụi trần không thể vượt đến bờ giải thoát, không ai có thể đạt đến bờ giải thoát, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị ba thứ lửa cháy lớn thiêu đốt, không ai có thể thoát khỏi chúng, cũng không thể dùng mưa pháp để tiêu diệt chúng, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị luân chuyển trong vòng sinh tử, không bao giờ dừng nghó, cũng không ai có thể đạt đến bờ giải thoát, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị hành động ô uế, nhiễm trước làm tăng trưởng gốc sinh, không ai có thể thoát khỏi sự sinh tử ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh thân thì bị sự hiểm nghèo lớn, tay thì vịn dây nguy khốn, không ai có thể thoát khỏi sợi dây nguy khốn ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh như tằm ăn dâu bị hành xua đuổi bức bách, không ai có thể thoát khỏi dòng thác ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh khởi ra niềm sầu bi với sinh tử, nhưng thường ôm lòng hy vọng, cũng không ai có thể làm cho nó ngừng lại, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh hướng tới ác đạo, thường có tưởng dục hạnh, không ai có thể ở yên trong chánh đạo, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh tự ở trong đêm dài tăm tối không có trí tuệ, không ai có thể thoát khỏi con đường tà ấy, để được chánh trí, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh không quán chiếu để thấy cứu cánh, thấy chân lý Hiền thánh, không ai có thể làm cho mình thấy được chân lý Hiền thánh, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh bị chìm đắm trong đêm dài sinh tử, không ai có thể thoát khỏi sự chìm đắm ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh không có nhàn tịnh và những nơi tương ứng với nhàn tịnh, không ai có thể đến được chốn nhàn tịnh ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh mãi mãi bị nhiễm trước bởi tham đắm kết sử, không ai có thể diệt trừ được kết sử ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh gặp khổ nạn, tâm tánh rối ren, không ai có thể làm cho họ đến được chỗ giải thoát, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh cho dục là thanh tịnh, bên trong dẫy đầy hôi thối, không ai có thể thoát khỏi ái dục ấy, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh cho dục là vui nên bị các ấm làm khổ hoạn, không ai có thể hiểu được Đệ nhất nghóa để đạt đến Niết-bàn, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh chấp trước tưởng “Hữu thường”, cho là không dời đổi, không ai có thể chỉ ra con đường Niết-bàn, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh cứ lo toan tính ngã tưởng mà không hiểu pháp số, không ai có thể phân biệt pháp, ngoại trừ người trí. Bồ-tát quán sát như thế nên đối với chúng sinh mà khởi tâm Đại từ. Chúng sinh không được cứu chữa mối họa chán ghét Niết-bàn giống như loài chó thường giữ thây chết, chạy Đông chạy Tây không bao giờ dừng nghỉ. Mối họa mà người ngu si làm nay cũng như vậy, không khác gì con chó ấy, tự mình không có tánh hạnh, cứ chạy Đông chạy Tây mà không hiểu ý nghóa Niết-bàn, lại bị ấm cái ngăn che không thể quán sát. Bồ-tát khởi ý dũng mãnh làm cho chúng sinh đạt được đạo Niết-bàn, liền nói bài kệ: Có nhiều loại chúng sinh Lưu chuyển trong sinh tử Quán khổ gian nan ấy An ổn đến Niết-bàn Bị mây ấm ngăn che Sống tối tăm, mờ mịt Bậc trí hiện thế gian Trừ mây, ánh sáng hiện. Khi Bồ-tát thực hành hạnh bố thí ấy, ban đầu dấy lên pháp tưởng, dùng đồ ăn ngon ngọt, thơm ngon để làm lợi ích chúng sinh tùy thời cung cấp, cùng tương ưng với Đệ nhất nghóa, tâm không tham tiếc mùi vị, thành tựu tròn đầy, trừ bỏ các trói buộc, cũng không xa lìa, không trái với người xin, khi cho xong không có tâm hối tiếc. Tất cả đều do trước kia Ngài đã làm các công đức bố thí khiến cho tâm không còn bị trói buộc. Ngài vì chúng sinh mà gánh vác trọng trách, khiến họ đều bỏ hết kết sử như việc bố thí ngày hôm nay. Ngài đã thành tựu điều nguyện ước của mình, muốn cho những mong cầu của chúng sinh đều được thành tựu. Từ nhỏ đến lớn Ngài không có ý gây tổn hại, kham nhẫn các thứ ô uế, tai họa, mà hành công đức bố thí, dần dần đạo đức càng dày, làm Bậc thuyền sư để dẫn đường cho dân chúng. Ngài không bao giờ rời bỏ hạnh bố thí, thường ưa ban bố; bên trong thì tự thanh tịnh, bên ngoài hiện tướng ô uế; không trái nghịch tất cả, nghóa là đối với tất cả chúng sinh trừ bỏ tâm kiêu mạn, không có tâm lười biếng, tâm bố thí tăng trưởng, sắc diện vui vẻ, không có oán hận; không tự khen mình, cũng không tự hạ mình. Yêu thích chúng sinh, tất cả những gì Ngài sở hữu đều đem bố thí. Việc đáng làm đã làm xong nên tập hợp nhân dân bố thí không kể xiết mà vẫn không có tâm hối tiếc; tâm ý vui vẻ, khen ngợi quả báo bố thí sâu xa. Ngài lấy vàng bạc, châu báu, xa cừ, mã não, xe cộ, nam nữ, thành quách… tất cả đều đem bố thí. Tâm Ngài không xan tham, tật đố, chỉ có lòng yêu thương kẻ được thí và muốn làm cho họ sung mãn, tròn đầy theo ý nguyện của họ, muốn cho quả báo kẻ được thí đều được kiên cố, muốn làm cho kẻ đi thuyền được đến bờ. Ngài vì người được bố thí ấy cho nên làm đầy đủ các việc nghóa ấy, và quán sát quả báo của sự bố thí mà trừ bỏ các kết sử, trừ bỏ sự tham đắm của chúng sinh khiến cho họ không còn tà kiến, trừ khử xan tham, tùy thời sinh sống. Họ nhờ mưa pháp thấm nhuần cho nên đều quy mạng. Thí vàng bạc, trân bảo Ngọc xa cừ, mã não Chiêm ngưỡng không nhàm chán Nay lạy Đấng Thích Tôn. Voi, ngựa và vàng ròng Sắc tốt đẹp đệ nhất Hay thí, nhan sắc tươi Quy mạng Bậc Giải thoát. Xe báu là thứ nhất Ngọc Anh lạc trân bảo Nhan sắc thật tươi vui Vợ con và nam nữ Bát vàng chứa đầy bạc Hoặc là chứa đầy vàng Người dùng hoan hỷ thí Ai hơn Tỳ-sa-môn? Hòa nhã tự bố thí Như quả rất tốt tươi Hoan hỷ mà tuệ thí Đầy tràn cả ba cõi. Nam nữ thật mỹ miều Vợ, thân và đầu mắt Bố thí hết cho đời Ai thí bằng vị ấy? Đàn thí không gì hơn Trời người không sánh kịp Giống như Thượng Nhân kia Tâm như biển không đáy. Khi Bồ-tát tu giới, với vị ấy giới chẳng phải là vô giới và những việc mà thân, khẩu làm, những điều mà tâm ý khởi đều là pháp cam lộ, giống như hoa quả kia nhờ vun đắp gốc rễ tất sẽ sinh quả tốt; và với vị ấy năng lực có được đều là những việc con người làm. Mọi người sát sinh, không cho mà lấy, dâm dật và các thứ buông lung, còn Bồ-tát thì không uống rượu, đối với các giới, trí tuệ thảy đều đầy đủ, trừ bỏ tà giới, ở nơi đạo tràng thường hành Tam-muội; xa lìa việc phạm giới, cũng không có ý sát hại; thọ nhận đồ tín thí cúng dường, tâm vật đều thanh tịnh, với mùi vị nồng nàn cũng không vi phạm, nội tâm không khiếm khuyết, bỏ ý niệm sở hữu, cũng không bày vẽ; y cứ theo cái nhìn không hư hại, không uế trược nên không tạo quả ô uế mới mà trồng giống thiện mới, ngủ hay thức đều không buồn lo, cho nên dù vị ấy có mang hình tướng chúng sinh vẫn là tối đệ nhất. Do công đức ấy nên hương lành bay xa. Ngài nhờ thọ dụng của tín thí không tạo tác nên ý luôn kiên cố; nhờ các căn đầy đủ nên không bị tán hoại; nhờ trí tuệ vững chắc không lay động nên không có gì mà không hủy hoại được. Do vậy vị ấy có sự tăng ích, do vậy vị ấy có thể mang vác gánh nặng khổ não. Vị ấy nhờ có thiện pháp cho nên bất cứ ở đâu cũng không sầu não, cũng không nhiễm trước. Vì hình dáng cho nên có phục sức, bởi vậy vị ấy có tài bảo vô hạn, vô lượng, vô cùng tận. Từ lúc Ngài mới phát tâm vẫn chưa từng thay đổi, hối hận, huống chi những giới cấm của Bồ-tát đã thành tựu? Bấy giờ liền nói kệ: Trên, dưới và bốn phương Các cõi nghe hương giới Tất cả đều đầy đủ Lìa dục là tối thượng. Gần gũi thiện tri thức Bậc thiện tạo công đức Sắc đẹp không ai bằng Giới hương, phước đệ nhất. Các uế đều tiêu trừ Biết ngã là vô ngã Đắc quả sau bảy đời Con nay xin đảnh lễ. Lại nữa, khi Bồ-tát thực hành tinh tấn, duyên với các pháp tâm vị ấy vẫn thường nhiên, cũng không giải đãi nên việc xuất gia không bị chướng ngại. Vị ấy vì chúng sinh nên xuất gia, và do không dao động nên có lực duyên làm cho tất cả chúng sinh có sức tinh tấn ấy; do không thể hơn nên có tâm nhẫn; do có điều tăng ích nên thị hiện ở đời; do có công đức nên thị hiện làm chúng sinh; do nhiếp tâm ý nên tâm vị ấy không dao động; và làm thuyền sư hướng dẫn tất cả được đến bờ bên kia. Vị ấy nhờ định cho nên không loạn, nếu có người khởi ý đi theo tất sẽ được độ. Ngài vì họ mà làm cho sở nguyện của họ được thành tựu. Ngài vì muốn thành đạo nên bố thí voi, ngựa, xe báu. Khi Bồ-tát ở trong chúng sinh có sự tinh tấn ấy, ai nghe danh tiếng tinh tấn của Ngài liền phát tâm đến với đạo. Những công đức mà một đời đã làm không thể tính lường, huống chi là công đức mà Đức Như Lai đã tạo trong vô số a-tăng-kỳ kiếp? Lúc Ngài ngồi nghiêm trang ở đạo tràng hàng phục ngoại đạo, trải qua sinh tử nhờ tâm ý tinh tấn nên Ngài trừ hết các ưu sầu. Hạnh tinh tấn tối thượng Cúi lạy Đấng Pháp Vương Do Phật khéo tự giác Nay lễ Bậc Vô Đẳng. Ngài tối tôn đệ nhất Tiếng trống pháp vang xa Với tự giác, giác tha Thế nên quy mạng lễ. Lại khi Bồ-tát thực hành nhẫn nhục, tâm Ngài không sợ hãi, không có niệm hoảng sợ, không có nhiễm ô, không quán xem quả báo của kẻ khác. Ngài có năng lực hộ trì cho chúng sinh, thường xa lìa điều ác, tâm tánh luôn luôn kiên cường, tự xét lỗi mình. Tất cả chúng sinh đều ôm lòng sợ hãi thì làm cho họ không sợ hãi, chỉ cho họ tu giới luật; cũng vì tất cả chúng sinh hàng phục điều thô ác, bỏ lời nói bất thiện, thương yêu chúng sinh. Ngài không hề có hạn lượng trong việc y theo ngôn ngữ của chúng sinh để thuyết giảng đưa người nghe pháp đến với chân lý, vi diệu đệ nhất. Giống như hoa trái không phải là không thể nở hoa vì bị gió thổi, mà ở nơi thâm sơn cùng cốc ta vẫn hái được những đóa hoa đủ màu, hương thơm ngát, pháp âm phước đức của Ngài tất cả chúng sinh đều thích nghe. Giống như ong chúa hút nhụy hoa dùng để làm mật nên các ong con cũng đều làm mật như thế; các nguồn suối nơi nơi chảy tràn nên các vườn Na-đà vui sướng không gì bằng, Ngài dù bị chửi mắng cũng đều nhẫn được. Với các người cầu mong chú thuật thì Ngài chỉ sự tàm quý cho họ. Chúng sinh tu hành bị ách nạn thì được Ngài cứu độ, nên gọi là Nhẫn nhục Tiên nhân. Bấy giờ, vua Ca-lam-phù đi vào núi sâu muốn săn hươu nai. Vừa vào trong núi thấy vị Tiên nhân Nhẫn nhục ấy, liền đến trước quỳ hỏi: –Ngài ở trong núi sâu này để cầu đạo gì? Vị tiên đáp: –Cầu tu đạo nhẫn nhục. Bấy giờ nhà vua không tự quán sát, cũng không quán sát các hạnh, muốn thử Tiên nhân, liền nói: –Nay tôi sẽ chặt đứt tay chân Ngài. Nhà vua liền chặt tay chân của vị Tiên nhân ấy, lại hỏi: –Nay Ngài cầu đạo gì? Tiên nhân đáp: –Tôi cầu đạo nhẫn nhục. Và Tiên nhân khen ngợi đức tính nhẫn nhục. Đại vương càng thêm giận dữ, muốn giết Tiên nhân. Bấy giờ Tiên nhân đã bị chặt đứt tay chân, liền thề nguyện: –Hãy khiến cho ta đời đời đừng sân hận, cũng không có tâm sân hận đối với vị Đại vương này mà sẽ làm cho ông này hiểu rõ tất cả pháp đều là hư không. Có vị Tiên khác đến chỗ vị Tiên ấy hỏi: –Tại sao Thần tiên không khởi tâm sân hận đối với vị vua kia? Vị Tiên tu nhẫn nhục đáp: –Như khi thực hành nhẫn nhục này, có năng lực đại nhẫn nhục này, nên ở mọi thời khắc không khởi ý sân hận, và do quán như vậy thì sắc mặt cũng không thay đổi. Bấy giờ, Hộ Thế tứ vương đi đến chỗ của vị Tiên nhân ấy, Đề-đầu-lại-tra, đầu mặt đảnh lễ Tiên nhân hỏi: –Nay con muốn giết vua Ca-lam-phù, có nên chăng? Vị ấy nói như vậy xong, Tiên nhân im lặng không đáp. Khi ấy Đệ nhị Thiên vương lại hỏi: –Nay tôi sẽ giết sạch trai gái, già trẻ và nhân dân trong thành quách này được chăng? Nói như vậy xong, Tiên nhân vẫn im lặng không đáp. Bấy giờ vua Tỳ-lâu-bì-xoa lại hỏi: –Tôi đem tất cả nhân dân trong nước này giết hết, xin Ngài cho phép. Bấy giờ Tiên nhân vẫn im lặng không đáp. Tỳ-sa-môn vương hỏi: –Tôi muốn đem cảnh giới nước này đến phương khác, xin Ngài chấp thuận. Bấy giờ Tiên nhân hoan hỷ khen ngợi đức tính nhẫn nhục, liền nói bài kệ: Chặt đầu, mắt, tay, chân Không khởi tâm oán hận Tất cả đều đem cho Huống chi chống thế gian? Bấy giờ Hộ thế Thiên vương lại hỏi: –Vậy ý muốn của Tiên nhân như thế nào? Mong cầu điều gì? Tiên nhân đáp: Muốn để cho thân vua Không bị báo ác hạnh Vua ấy tuy hung tàn Lo người không tự lo. Như khi Bồ-tát tu hành Tam-muội, giả sử lúc nhập Tam-muội ấy tâm có đối tượng để duyên thì không bao giờ quên mất cũng không phóng dật chỉ giữ tâm chuyên nhất; hoặc lại không ân cần tìm cầu phương tiện cũng không thọ các hành, tuy hiểu các pháp vị nhưng không đắm vào pháp, nội tâm vị ấy cũng không có kết sử. Ngài trú trong Tam-muội thanh tịnh không tỳ vết nên có thể hàng phục kẻ địch bên ngoài mà không khiếp nhược, và do nhất tâm nên hiểu được khí vị của Tam-muội đó; tâm không đắm trước nên chế ngự được căn tánh; do tâm chưa từng giải đãi nên thành tựu các hành, chứng đắc Tam-muội, căn tánh hoan hỷ, tinh tấn không dời, niệm không tán loạn; trọn kiếp tu hành, rõ biết đạo phẩm, tâm niệm hoan hỷ, đạt được dũng mãnh, tất cả đều nhờ vào trí tuệ mà dần dần đạt được hoan hỷ, an lạc. Tuy nhiên khi Bồ-tát hành Tam-muội ấy thì sẽ khởi Tam-muội thiện hạnh; khi đã đạt được Tam-muội thì mọi thiện hạnh lúc đi, lúc đứng chưa từng quên mất. Vị ấy nhờ có hạnh này nên thiện pháp đầy đủ; nhờ khởi các thiện hạnh nên những điều mong cầu đều hiện ra trước mắt. Giả sử tâm có sầu muộn thì dần dần sẽ chế ngự tâm ấy khiến cho không xao lãng thiện hạnh. Khi tư duy tăng trưởng thì càng tăng thêm điều thiện; nếu tâm phóng dật thì hướng tâm tư duy thiện pháp; nếu tâm bị ưu sầu trói buộc liền có thể tư duy về pháp thiện giải thoát ấy. Khi mọi trạng thái oai nghi của mình đều hoàn thiện, vị ấy liền vì người diễn thuyết về loạn tưởng, các bệnh cấu uế và các loại Tam-muội khác. Đó là các Tam-muội với đầy đủ công đức. Đó là các hạnh Tam-muội mà kết quả tối thiện, giống như cây cối xanh tươi là biểu hiện của sự giải thoát thanh tịnh và các màu sắc khác như xanh, vàng, đen, trắng là đều tùy theo sự đến đi không bị chướng ngại của Tam-muội ấy. Nếu dùng năng lực Tam-muội như sức hỏa quang của mặt trời thì không nơi nào mà không được chiếu soi; người đắc Thiên nhãn cũng lại như thế rõ thấu đêm ngày; người đắc Thiên nhó năng lực cũng vậy nghe được cùng khắp. Vị Bồ-tát chứng được Tam-muội vô hạn vô lượng, không thể luận bàn ấy đều nhờ năng lực Tam-muội, cũng nhờ tư duy, nhờ không giải đãi, nhờ trí tuệ sáng suốt, biết nắm, biết buông thả, cũng nhờ mong cầu Tam-muội, nhờ xa lìa tưởng ác, nhờ năng lực thuận nghịch của Tam-muội. Các tưởng như vậy đều là từ Tam-muội này sinh ra. Vị ấy dùng pháp môn tổng trì để thành tựu Tam-muội, với việc chọn pháp tu thích hợp mà không mệt mỏi, chán nản, không tìm cầu phương tiện Tam-muội không kiên cố để tu tập chánh định; vì tất cả dục cho nên chế ngự tâm ý, khéo hộ trì tư duy cũng không tán loạn, tùy ý tự tại, không nói lỗi của người, vô lượng, vô hạn không có cùng tận; ở trong Tam-muội hiện tại đoạn trừ nghi hoặc, phóng vô số ánh sáng, nương vào tất cả thiện pháp làm thanh tịnh tất cả kết sử, luôn luôn tu tập Tam-muội, nương nơi các thiện pháp. Do vậy nên nói bài kệ này: Được tâm giải thoát ấy Tam-muội không chướng ngại Ban đầu vào đại hải Nước xoáy khó kiềm chế. Nếu trong ý có dục Tâm cũng không chuyển dời Muốn đoạn cảnh giới nước Đều là gốc muôn hạnh. Ta suốt trọn trăm năm Gánh cha mẹ mà đi Nguyện Ta vẫn không mãn Để báo ân cha mẹ, Được che chở mẹ cha Chỉ nơi cha mẹ thọ Ai biết rõ như vậy Là hy hữu thế gian. Bấy giờ, khi Bồ-tát thực hành tâm kiên cố, nhiếp tâm giải thoát, có phương tiện như vậy, và có tâm ý dũng mãnh thì những việc mà vị ấy làm đều không ngăn ngại, cũng không bị người khác ngăn cấm, cho nên phải cầu phương tiện. Xưa kia ông A-lan-ca-lan khởi các thiền định, rồi xả các thiền ấy, lại cầu đạo Vô thượng của Tam-da-tam Phật, liền đến một nơi cách nửa do-tuần về phía Nam. Khi đến chỗ vắng vẻ ấy hành các thứ khổ hạnh, ăn trái cây, uống nước, mặc áo da đen, ở dưới gốc cây, ngồi kiết già, hoặc có lúc uống nước, hoặc có khi ăn trái cây, hoặc có khi nhịn đói, tu những khổ hạnh như vậy, nằm trên cỏ, hoặc lấy tro phủ lên, ưa thích ở đấy suốt ba đêm mà nhan sắc vẫn không thay đổi, trong chín ngày lễ bái thờ lửa. Những người phóng dật nghe theo lời dạy của vị ấy, hoặc khi thờ trời, đầu mắt dần dần suy yếu, xương tay lộ ra, hoặc đứng một chân, thân thể cong lại, mà không có tâm trộm cắp chỉ lấy pháp tự vui. Lúc ấy, Ngài khổ hạnh cầu đạo cũng không ăn uống, da xương liền nhau, thân hình khác ngày trước, thân đen xạm, sắc mặt vàng vọt, giống như đàn không hầu bên trong trống rỗng; gân cốt đều hiện ra, có trăm thứ biến hóa, không thể quán sát, tướng mạo của tuổi thanh xuân vónh viễn không còn nữa; ví như voi già không được cho ăn, ngồi nằm đi đứng đều không có sức lực, cũng không thể nói năng, tuy có tham sống nhưng không tồn tại bao lâu. Ngay sau đó, Thiên sứ đã đến chỗ Ngài hiển bày phương tiện, có không biết bao nhiêu cách biến hóa như thế. Ngài vì pháp cho nên lúc thức hay ngủ cũng không đánh mất khí tiết của mình; vì cầu giải thoát như vậy nên không tiếc thân này. Bấy giờ Ngài liền nói kệ: Dù ta bị hư nát Thân người thành trăm mảnh Tâm vẫn không sân hận, Muôn loài sinh không khác Trong ý nào có tham. Khổ não nhiều vô số Nếu chấp có ngã tưởng Ngủ với chết đâu khác. Bấy giờ Bồ-tát tu hạnh Đa văn. Người được gọi danh tiếng là dùng tâm vắng lặng đệ nhất để tự tán dương đức của mình, và được mọi người kính hầu, tâm tánh không loạn nên những điều nghe được có thể thọ trì không xao lãng. Bồ-tát nhờ quán sát nghóa ấy nên tâm trừ bỏ được kiêu mạn, có hạnh nghiệp và trí tuệ cùng tương ưng với nhau như thế. Nay những việc nghe biết đều nhờ có trí tuệ không giải đãi, cung kính sư trưởng, mong được tự tại; với người đói khổ thì khởi lòng Từ bi, hàng phục ngoại đạo, không bị chướng ngại, cũng không có cấu uế; ở nơi quốc độ khác hiện thân hành đạo, không bị ái dục nhiễm trước, khởi ý phương tiện muốn đem lại giải thoát cho thế nhân. Bấy giờ Bồ-tát có tâm Từ, Nhất thiết trí như vậy đều do phương tiện khởi ra. Do vậy nên nói kệ: Ngài nghe nhiều tiếng tốt Sắc mặt vẫn không đổi Vật kiên cố cũng hư Huống thân Ta ngày nay. Ban đầu thọ pháp này Có đức tin Thế Tôn Liền sinh trí tuệ lớn Trừ bỏ các kết sử. Khi Bồ-tát làm việc ân đức, Ngài phân biệt ân đức không lãng quên nên có được trí tuệ. Vì muốn báo đáp ân kia nên Ngài tạo chút công đức trọn không quên mất, cũng không cùng tận, giống như gieo ít hạt lúa mà suốt đời vẫn không bỏ qua. Xưa kia Bồ-tát muốn cầu đạo Vô thượng, ở một chỗ nhàn tịnh, có con chim Bồ-tát Anh vũ thường ở trên cây ấy. Bấy giờ gió thổi làm các cây cọ vào nhau phát ra lửa; lửa cháy càng lúc càng mạnh, cháy tới hang núi; các cây xanh đều bị lửa thiêu rụi. Lúc ấy lửa đã tuôn khói cuồn cuộn rất mãnh liệt không thể diệt được, giống như ánh sáng mặt trời, khói bụi bay lên, các cây lớn nhỏ đều bị thiêu sạch, tợ như lúc trời đất tan hoại. Người thấy, nghe hiện tượng ấy bỗng chốc đều hoảng hốt, các vật đều bị đốt hết, cây cối đều bị cháy sạch. Khi ấy Bồ-tát là thân chim Anh vũ, trong một đêm liền nghó như vầy: “Giống như chim bay đậu trên cây này còn có tâm báo ân, ta cũng vậy”, liền khởi lên ý báo ân: “Huống chi nay chúng ta luôn ở nơi đây mà không thể dập tắt lửa này sao? Nay đã đúng lúc ta hiện oai lực của mình”. Nó bay vào đại dương lấy hai cánh đựng nước đem về rưới đám lửa ấy, hoặc dùng cánh rưới, hoặc dùng miệng phun bên Đông, bên Tây. Bấy giờ có một vị thần nói bài kệ: Lửa ấy hết sức mạnh Mây khói khó thể gần Tuy ngươi có thiện tâm Cũng không thể dập tắt. Bồ-tát Anh vũ nói với vị thần đó: Tôi ở trong núi này Chưa từng quên ân ấy Sao lại phải bỏ đi Mặc lửa đốt rừng cây. Nay tôi có sức lực Ý muốn dập tắt lửa, Ở núi này sao chẳng Muốn được báo ân này? Thọ thần lại nói bài kệ: Chim này có ân từ Màu sắc thật đoan chánh Đó là ứng nhân pháp Thế gian rất hy hữu. Bấy giờ vị Thiên thần suy nghó, liền nói với chim Bồ-tát Anh vũ: Biết ngươi có từ ân Vì ngươi, ta dập lửa Thương người có tâm này Ta diệt lửa tức khắc. Bấy giờ có mây lớn Vì thương chim Anh vũ Nay ta diệt lửa kia Khiến ngươi được thỏa nguyện. Bậc sẽ thành Đẳng Chánh Giác liền nói bài kệ: Như Lai vào lúc đó Do có tâm Từ ân Các Ngài sinh hoan hỷ Bậc trời, người cúng dường. Để đến được bờ giác Xa lìa sinh, lão, bệnh, Tín tâm phải kiên định Mới thống nhiếp mười phương. Bấy giờ, Bồ-tát mặc áo ca-sa là vì làm mô phạm cho người đời, vì làm cho chúng sinh bỏ tục theo đạo, vì làm cái lọng lớn che mát thế gian. Thế là Ngài bỏ quốc vương, vợ con, xuất gia học đạo để vượt qua các nghi hoặc. Khi Bồ-tát đắp y ca-sa có công đức tăng ích như thế. Ta từng nghe thời quá khứ, Đức Tam-da-tam Phật dạo vườn xem hoa quả sầm uất và muốn được xuất gia. Dân chúng dạo chơi trong vườn ấy thấy Phật xuất thế ngắm nhìn không chán. Dân chúng tập hợp đông đảo trong vườn ấy mà không có tiếng ồn. Trước vị mặc áo ca-sa, ba màu trong sáng, tất cả đều lắng tai nghe lời giải thoát, âm thanh nhu hòa, và vì tuổi thọ hữu hạn nên cùng nhau đều tự quy y Phật. Ngài vì tất cả chúng sinh khổ cho nên chế ngự sân hận. Người sân hận sắc mặt như đồng đỏ, hơi thở dồn dập như thể khói, gió nổi lên. Phật thấy sắc như vậy liền nói: –Hãy cùng tâm Ta tương ưng, khi Ta khởi tâm này thì được giải thoát. Bấy giờ vì giữ gìn ca-sa có các công đức và xả các uế tạp, Ngài liền nói bài kệ: Cũng không tự biết tên Cùng việc ấy tương ứng Cũng không khéo tắm giặt Hàng phục nên đến đây. Sớm thâu nhiếp quả ấy Tự cắt không hối tiếc Miệng dạy lời nói lành Ắt phải tự bại hoại. Tuy lại quán như vậy Cùng Ta nói nghóa này Ta sẽ bố thí chúng Nhẫn sự khổ não này. Khi đã cắt bỏ thân thể để hàng phục tâm mình, liền nói lời ấy bằng bài kệ: Đừng làm các khổ hoạn Với xan tật như thế Quả này tuy rất nhỏ Ác báo không thể lường. Bấy giờ Bồ-tát ưa thích chỗ nhàn tịnh nên ở tại khu vườn kia mà quán chiếu, thanh tịnh không náo loạn cũng không có các sự duyên. Ai đến chỗ ấy đều sợ hãi, nhưng đó là chỗ vị ấy ưa thích. Ta từng nghe: Có một vị tiên đã đạt chỗ cực diệu, không đâu sánh bằng (chỗ ở của Tiên nhân được rộng nói như trên). Các sự duyên mà vị ấy có đều bị diệt tận nên vị ấy rời khỏi khu vườn ấy ra đi. Lúc ấy Bồ-tát chưa đạt quả A-duy-tam Phật còn là thân con thỏ nương tựa nơi chỗ ở của vị tiên, thấy vị tiên xuống núi, liền dùng kệ nói với Tiên nhân: Thân người ở thế gian Vi diệu không gì bằng Đã được sinh ở đời Nên ở nơi rừng núi. Lành thay! Này Tiên nhân, Gần gũi bậc thiện căn Không có các uế ác Tự mình điều phục tâm Tâm sát hại khởi lên Tự biết phải hạn chế Có thể tự nhiếp phục Không còn tưởng cảnh giới. –Tiên nhân, ngài đã bỏ cảnh giới đáng được có. Chúng ta xuất gia là vì cầu đạo giải thoát, tâm ý đã quyết, không bỏ vị cam lộ, hãy bỏ tâm mong cầu, vì các công đức nên cùng ở chốn núi rừng. Ngài có tâm chánh định không loạn động và đã ở chốn núi rừng này thì phải nên ưa thích nó. Như mặt trăng chiếu ban đêm, mặt trời chiếu ban ngày, bậc Năng nhân có ân từ nên ở nơi núi rừng này. Tiên nhân lúc còn trẻ đã sống trong núi rừng này, năm nay tuổi tác già nua, vì cớ gì mà bỏ chốn này đi? Khi ấy vị tiên bèn nói: –Ta nên tự điều phục tâm mình trở lại! Bồ-tát hoan hỷ nói: –Nếu Tiên nhân bỏ đi thì ai có thể thích sống ở đây được? Bồ-tát liền nói kệ này: Nay Ta không có đậu Lúa, thóc và ngũ cốc Tâm đã tự điều phục Nguyện ở núi rừng này. Bấy giờ Ngài thành Bậc A-duy-tam Phật liền ở tại núi ấy soi sáng thế gian và ưa chốn an nhàn ấy, vì vậy thường ở núi rừng, rồi nói kệ này: Cảnh giới thật rõ ràng Núi rừng, hành nghiệp khổ Thường thích chỗ nhàn tịnh Tự thân tu tư duy. Thân công đức giải thoát Tâm ý thường vui tươi Trí tuệ rất vi diệu Nên sống gần núi rừng. Bồ-tát có tâm thân hữu này, thường mang tâm Từ, sống tỉnh giác, sống như thật như những điều Ngài đã được nghe trong khoảng không bao la nơi núi rừng… như Khế kinh đã nói liền khởi niệm: “Núi rừng này không có các quả, các pháp giải thoát, chỉ nhờ tu hạnh nhẫn mới được pháp giải thoát”. Lúc ấy Bồ-tát suốt đêm hành từ tâm và các pháp giải thoát, không xúc nhiễu dân chúng ở đó. Ngay khi Ngài thẳng thân ngồi tư duy không di động thì có một ổ chim ở trên đầu. Ngài biết con chim ở trên đầu đang ấp trứng, luôn lo sợ trứng rớt nên thân không lay động. Lúc ấy Ngài liền quán sát và hành pháp xả thân bất động ngay tại đó, do sức ân cần của Ngài nên làm chim kia được an lạc. Ít lâu sau chim con đã mọc đủ lông cánh nhưng chưa thể bay được, nên Ngài vẫn ngồi yên không bỏ đi. Nay Ngài hành tâm Từ này dù có gặp điều gì lạ vẫn không sợ hãi. Chúng sinh chưa bao giờ làm như thế, chỉ tự biết điều tiện lợi cho mình. Do vậy nên nói kệ: Vị hay biết việc này Vó đại trong loài người Không xúc nhiễu kẻ khác Đức độ ấy ai hơn? Cho nên Đức Thế Tôn Có sức Thần đệ nhất Nên ở nơi đạo tràng Tự đầy đủ công đức. Bấy giờ, khi Bồ-tát thực hành lòng Từ, vì tự Ngài có sức mạnh nên có thể gánh vác gánh nặng cầu đạt mục đích: “Ta sẽ độ thoát làm tăng trưởng công đức cho tất cả chúng sinh; với người không có năng lực thoát khổ thì Ta trừ diệt ưu sầu ở đời; với người không ai cứu hộ Ta vì họ làm người cứu hộ; người không hy vọng làm cho họ hy vọng; người không sức mạnh làm cho họ có sức mạnh; với người có tật bệnh làm y vương cho họ; với người già cả chỉ cho họ tâm hồn trẻ trung; với người trẻ trung, ta chỉ cho họ cách sống có năng lực”. Từng nghe: Khi Đức Thế Tôn hành đạo, có vô số Tỳ-kheo vây quanh trước sau. Lúc viên quán bị lửa cháy, các Tỳ-kheo thấy khói lửa bốc cháy, họ đều chạy đến chỗ Thế Tôn, hoặc có người tán thán Thế Tôn, hoặc đến đứng trước Phật. Các Tỳ-kheo ấy đứng trước Đức Như Lai quán sát Ngài. Bấy giờ Ngài liền nói kệ: Như Ta, chẳng ai bằng Ba đời, công đức đủ Do nói lời thành thật Điều ác mau chấm dứt. Ngài nói kệ vừa xong, đám lửa ấy liền dập tắt. Bấy giờ các Tỳ-kheo khen là chưa từng có, đều là nhờ ân lực của Thế Tôn. Họ hoan hỷ đối với Như Lai, mọi người đều khen bài kệ này là chưa từng có. Đức Thế Tôn bảo: –Này các Tỳ-kheo, Ta tuy ở nơi vắng vẻ, an nhàn nhưng có đủ các loại cảnh giới, với rất nhiều hình thức. Lúc đó, Ta chưa thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, tên là Chất-cốc-la-cù. Ta từ lúc ra đời đến lớn, luôn tự tại, ưa bố thí cho mọi người, để cầu hạnh vi diệu. Thời đó, dân chúng nước Trại trà rất thịnh vượng, đất đai phì nhiêu, có nhiều rừng trúc, lan, cây cối, núi cao. Khi ấy các khu rừng bị lửa cháy dữ dội, dần dần lửa lan đến núi đầm. (Những biến cố như vậy đã được nói rộng trong Khế kinh). Bấy giờ có bầy chim đến khu rừng sinh con. Các con chim non ấy chưa có lông cánh, hoặc có con có cánh thì sống còn, hoặc có con rơi xuống đất, hoặc có con bể đầu, sứt đuôi, chúng cũng không thể bay được, hoặc có con bị đói khát, thấy lửa cháy dữ dội chúng đều muốn bay thoát. Ngay lúc ấy thấy ngọn lửa này, Ta nghó cũng không giữ được thân mình, nhưng nhờ công đức trong vô số trăm ngàn kiếp khởi tâm hộ trì chúng sinh. Lúc đó Ta phát nguyện thanh tịnh khiến những chúng sinh kia thoát khỏi đại họa ấy. Ta bèn dập tắt ngọn lửa và ngọn lửa liền tắt. Thuở trước nhờ hành tâm Từ mà nơi quốc độ kia Ta đã dập tắt được ngọn lửa dữ; huống chi ngày nay Ta đã thành tựu tâm đại bi nên ngay đây lửa sẽ bị dập tắt. Đức Thế Tôn liền nói bài kệ: Do từ thuở thiếu thời Đã quán pháp vô thường Tất cả đều hư hoại Nên thương xót chúng sinh. Ngọn lửa ấy liền được dập tắt. Khi lửa tắt chưa lâu, ta dùng trí tuệ sáng suốt để diệt trừ lửa tham ưu ở đời. Bấy giờ Bồ-tát vì việc lớn sinh tử, nên muốn ra đời để cứu độ chúng sinh, quán sát nguồn gốc sinh ra khổ. Từng nghe: Ở chốn núi rừng vắng vẻ có các con quạ, nai, bồ câu, rắn sống ở đấy. Nơi đó có một vị Tiên nhân Bồ-tát thường sống bằng hoa quả, nước suối. Bấy giờ con quạ đến bên vị tiên hỏi: –Thế gian có cái gì khổ? Khi ấy con quạ lại nói: –Cái đói là khổ nhất. Nhưng do nhân duyên gì mà có nỗi khổ ấy? Tất cả chúng tôi sẽ tự trình bày ý kiến của mình: thân thể mệt mỏi, bị đốt cháy, các căn bất định, miệng không thể nói, tai không thể nghe, thường ôm lòng suy nghó, cho nên đói là khổ nhất. Gặp khổ hoạn này thân như bị lửa đốt, do bị đói khát nên bệnh ấy khó trị dứt, tướng khổ liên tục, đều là do có cái khổ như thế. Lúc đó con nai lên tiếng: –Sợ hãi là khổ. Những yếu tố đem đến sợ hãi là thân ở riêng một mình gặp phải người thợ săn nên thường ôm lòng sợ hãi; thân tâm ô uế nhưng thường sợ mất thân này; lại sợ thợ săn muốn giết hại mình. Thân này đâu có bền chắc gì, nó ở trong vô thường, dong ruổi Đông, Tây. Sự sợ hãi ấy do đâu sinh ra? Và thường khởi niệm: tất cả những sở hữu ấy đều là hành nghiệp, nên xả ly tất cả thân. Vì tất cả chúng ta có thân này nên thường ôm lòng sợ hãi, không an ổn dù trong khoảnh khắc, đều do chúng ta đã tạo cái khổ bại hoại này nên có sự sợ hãi như vậy. Do đó, sợ hãi là khổ. Chim bồ câu liền nói: –Dục là khổ nhất, tức là tâm chìm trong cảnh vui tịnh lạc, tư duy như thế sẽ không thoát khỏi tai họa của dục. Dục ấy giống như lửa, giống như dầu bơ đựng vào hủ nhưng bị lửa dữ đốt cháy, nếu có nói điều gì đều bị đắm nhiễm trong tâm. Lửa dục cũng vậy, vì tâm nhiễm trước dục nên thiêu đốt hình hài, tăng thêm sự trói buộc. Trong vô số kiếp bị dục mê hoặc, hội họp đốt cháy thân thể người. Vì vậy, dục là khổ nhất. Con rắn liền nói: –Sân hận là khổ nhất. Cái gọi là sân hận đó làm thương hại mạng người, nó không có lớn nhỏ, làm tăng thêm các gốc tội, làm cho thân thể, nhan sắc thường bị biến đổi; hễ động tâm là có ý sát hại, trở thành đỏ mắt, bức xúc, nghiến răng, nhìn mọi người một cách hằn học, lắc đầu, động thân, thở dài, mửa chất độc, thân thể, da thịt đỏ rực một màu sân hận, tất cả mọi người đều không muốn nhìn, thường nằm trong hang, đói cũng sân, no cũng sân, mắt nhìn không thiện cảm, có sự biến hoại như vậy giống như lửa thiêu đốt núi đầm; lửa sân hận này cũng lại như thế. Vì vậy cho nên sân hận là khổ. Bấy giờ Bồ-tát với trí tuệ thậm thâm tư duy việc ấy, liền nói bài kệ: Tất cả đều là khổ Do gần gũi với sắc Thọ sinh tất phải khổ Nay hãy nghe ta nói Giống như tai họa lớn Khổ não không hạn lượng Tất cả do nhân sinh Nên sinh chẳng phải thật. Nếu có người đã thành Bồ-tát đạo rồi, lưu chuyển trong sinh tử, lấy tâm Từ bi hoan hỷ để che chở thương yêu tất cả chúng sinh, nhờ trí tuệ bén nhạy nên không bị chướng ngại, có ý dũng mãnh tu Nhất thiết trí, không có tâm giải đãi nên khi giáo hóa không có sự hoài nghi, thường có cái nhìn bình đẳng nên chí tánh kiên cố không có trở ngại, được khí vị ấy nên không mất ý chí, có năng lực để đảm nhận việc phân biệt các pháp không bị lệch lạc. Vị ấy thành bậc Đại trí tuệ, tâm bố thí giải thoát không thay đổi, hối hận. Bố thí tất cả như quốc vương Thấp-tỳ thường tu tịnh hạnh, chưa từng giải đãi; như vua Ma-ha-đề-bị có đầy đủ nhẫn lực; như Thần tiên nhẫn giữ giới không khiếm khuyết; như học só Bố-lại-đa vui thích xuất gia nhan sắc hòa duyệt, hoặc lại được ái kính mà tâm ý không nhiễm trước; như vua Đại-tu-đạt-thí-na du hành giáo hóa nhân gian; như vua Cù-tần-đà yêu thích chánh pháp; như Uất-đa-la-ma-nạp thích ở chỗ vắng vẻ an nhàn, dùng tiếng kỹ nhạc mà thấu triệt được lý đạo; như Bồ-tát Thiện Giác ở trong đại chúng cất tiếng sư tử rống, tất cả vị ấy đều được giải thoát, đều đến cảnh giới Niết-bàn; các công đức đầy đủ ắt sẽ thành tựu, với đạo càng tăng thêm đức độ viên thành Bồ-tát hạnh. Bấy giờ liền nói bài kệ: Càng không ý giết hại Bồ-tát công đức tịnh Chí tánh đã kiên cố Như mặt trời chiếu soi Yêu thích pháp như thế Phước điền không uế trược Thương xót người thế gian Nên nói Như thị nghiệp. Bấy giờ Bồ-tát không có tâm sợ hãi, từ cung trời Đâu-thuật giáng thần, quán các hành hữu vi là vô thường, tâm không loạn tưởng, thường tự quán sát, biết mình từ đâu sinh đến, cũng lại tự biết không còn thọ thai nữa; tâm trụ trong chân đế cứu cánh không nhiễm trước. Lúc vào trong thai mẹ, an trụ trong đó cũng không loạn tưởng, quán sát phạm giới là ác hạnh, giữ giới là thanh tịnh không bị nhiễm trước. Lúc ở trong thai, không hạnh nào mà không thanh tịnh, giống như hoa sen không bị nhiễm bùn, ở đó khởi nhiều tâm đạo. Có trí tuệ này nên được các Thiên tử thường hộ vệ. Chư Thiên của cõi trời Đâu-thuật liền đến ở lại hộ vệ, hiện ở trong các tướng dâm, bất tịnh mà vẫn thích tu phạm hạnh. Từ lúc Bồ-tát nhập thai vào bụng mẹ, thân của phu nhân chưa hề ô uế đều nhờ giới hạnh của Bồ-tát hết sức thanh tịnh, tâm không có ý làm thương hại chúng sinh, lập nguyện hành bố thí, chí thành quán sát kỹ, muốn đi xuất gia. Thiên tử Đại Tôn Diệu Thần đều phò trì để thai được thanh tịnh không bị não hại. Nếu nhấc chân thì đi bảy bước. Khi Bồ-tát khởi ý muốn xuất gia liền quán xem bốn phương, nay phải đi phương nào để thoát hết khổ hay muốn có nước thơm để tắm gội thì tự nhiên có ao nước thơm, tất cả những điều ấy đều do công đức đời trước mà có. Trời mưa hoa Ưu-bát, hoa Câu-văn-la để cúng Đức Như Lai. Do vậy nên nói kệ: Siêng tu vô số kiếp Vì cứu khổ chúng sinh Luân chuyển không hạn lượng Trời người được yên ổn Thường có kỹ nhạc trời Đều khiến tâm hoan hỷ Làn hương bay đến trước Hàng phục các oán ma. Khi Bồ-tát từ cung trời Đâu-thuật giáng thần, chúng Phạm thiên đều đến hầu hạ, Thiên chúng và nhân dân vây quanh Đức Thế Tôn, đó là tướng thứ nhất; hoặc Bồ-tát từ cung trời Đâu-thuật giáng thần, quả đất bị chấn động mạnh; hoặc khi Đức Thế Tôn giác ngộ, các trần lao của chúng sinh không có tạp uế. Điềm lành được ứng hiện đầu tiên này là quả đất bị chấn động mạnh; là các trần lao của chúng sinh vónh viễn không sinh ra nữa, là sự an lạc tối thắng. Hoặc khi Bồ-tát từ cung trời Đâu-thuật giáng thần thì có luồng ánh sáng lớn chiếu khắp thế gian, đó là tướng ánh sáng trí tuệ đầu tiên được ứng hiện. Làm cho các nơi u ám đều thấy ánh sáng, đó cũng là tướng trí tuệ. Hoặc lúc Bồ-tát mới sinh, cất chân đi bảy bước, đó là hiện điềm lành của bảy giác ý. Khi Bồ-tát quán sát bốn phương, đó là điềm lành của Tứ hiền Thánh đế. Khi Bồ-tát mỉm cười, đó là hiện tướng điềm lành cứu hộ chúng sinh. Khi Bồ-tát nằm mộng thấy thế giới này là cái giường, núi Tu-di là gối, tay chân duỗi ra ngoài bốn biển, đó là niệm tưởng về thế gian hữu thường, đó là hiện điềm lành pháp vị cam lộ. Ngài lại nằm mộng thấy cây Đề-lệ-ca mọc trên rốn, lá che khắp cả ba ngàn thế giới, đó là hiện điềm lành đạo tràng, trời người tôn kính. Ngài lại mộng thấy nhiều con chim bay chung quanh Ngài, đều đồng một màu, đó là hiện điềm lành chúng thành tựu. Ngài lại mộng thấy con trùng thân trắng đầu đen, đó là hiện điềm lành chúng Ưu bà tắc thành tựu. Ngài lại mộng thấy đi trên đỉnh núi, là được điềm lành được lợi không xan tham. Bấy giờ liền nói kệ: Hiện điềm lành hy hữu Nhờ ngài công đức đủ Đã khởi tất phải diệt Khổ vui cũng đổi thay Thấy điềm kia hoan hỷ Ắt có Phật ra đời Như trời trong không mây Không còn các trần lao. Bấy giờ tâm ý của Bồ-tát không gì có thể làm lay động như đã nói, như mặt trăng mới mọc ở chốn tối tăm, mọi người đều kính mến, Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy muốn được xuất gia. Khi Bồ-tát khởi tâm ấy liền có ba cảm thọ lạc cuối cùng. Từ giường cao bước xuống, lúc ấy Ngài khởi ý này: “Đó là sàng tòa cao rộng nhất”. Khi Bồ-tát ra khỏi cửa thành, Ngài khởi niệm: “Ta không đắc đạo, trọn đời không trở về”. Bồ-tát cởi xâu chuỗi Anh lạc trao cho Xa-nặc, khi ấy Bồ-tát lại nghó: “Cái y báu này là vật sở hữu cuối cùng của Ta”. Bồ-tát lấy ngựa trao cho Xa-nặc, Ngài cũng nghó: “Đây là con ngựa Ta cỡi cuối cùng”. Bấy giờ Bồ-tát tay phải cầm dao tự cắt tóc mình và khởi niệm: “Đây là râu tóc cuối cùng của Ta”. Bồ-tát lấy y báu đổi da nai để làm ca-sa, khi ấy Bồ-tát nghó: “Đây là y phục Ta nên mặc”. Hoặc Bồ-tát ngồi nơi đạo tràng và nghó: “Ta không bỏ thế ngồi kiết già. Nếu chưa đạt được Nhất thiết trí, Ta sẽ không bao giờ rời khỏi tòa này”. Do vậy nên nói kệ: Tích đức từng chút một Sẽ được vô lượng phước Như nước cứ nhỏ mãi Tất thành dòng sông lớn Quán xem bao nhiêu loại Hạnh hữu vi đã tạo Nên ăn vị cam lộ Tiêu diệt các độc ác. Khi Bậc Nhất Thiết Trí thành Đẳng Chánh Giác, Ngài quán thế gian là vô thường, khổ, không. Ngài đã thành Đẳng Chánh Giác nên không có các phiền não. Do nhân duyên thành Đẳng Chánh Giác nên những phiền não khởi lên thảy đều tiêu diệt. Ngài biết rõ tất cả cái chết cùng với sự sống xoay vần tương quan với nhau. Bấy giờ Ngài phân biệt bằng nhãn thức nên có sự giác tri như vậy, cao hay thấp tùy theo sự tạo tác của chúng sinh mà có cảnh giới ấy. Trí tuệ viên thành và không có nghi hoặc đối với nguồn gốc nhân duyên của sự giác tri kia. Sự giác ngộ ấy không có giới hạn. Lúc ấy trí tuệ Ngài phát sinh, biết rõ Đạo lưu truyền khắp thế gian, biết rõ Đạo bất di bất dịch. Bấy giờ Ngài vượt qua tất cả khổ, và phân biệt rõ ràng từng cảnh giới một. Hoặc nơi một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, tâm ý lưu chuyển nhưng không hề di dời, ý không nhiễm trước cũng không náo loạn, trí tuệ vô lượng nhưng cũng không bỏ trí tuệ, ý khéo phân biệt, du hý trong cảnh giới để cầu phương tiện, được quả báo vô lượng, đầy đủ trí tuệ, và tất cả đều không chướng ngại. Do vậy nên nói kệ: Biết tất cả vật Cũng là vô lượng Tới, đi xoay vần Không bị chướng ngại Đều rõ tất cả. Sở quán tối thắng Trừ khổ ba cõi Chiếu soi thế gian Ai phân biệt được? Chỉ Phật mới hiểu. Muốn cầu vi diệu Phải cầu Như Lai Như Lai tùy thời Cho họ tương ưng Sẽ được thành tựu Không còn thoái chuyển. Bấy giờ Đức Thế Tôn độc hành, không có bạn lữ, cũng không có bậc Thầy. Bậc Công Đức vô lượng muốn dạy dỗ chúng sinh đối với Phật pháp đều thành tựu Nhất thiết trí, thành tựu Đẳng chánh giác. Bậc Tối Tôn vi diệu không ai bằng biết rõ căn bản thú hướng của các trần lao, tất cả đều thành tựu, ý niệm không dời, dùng trí tuệ phân biệt tất cả pháp độ; chuyển hóa các kết sử trở nên vi diệu bậc nhất, xướng thuyết tất cả hành cho nên gọi là Nhất thiết trí. Khi đã có Nhất thiết trí, giữ tâm chuyên nhất, hiểu tất cả pháp, đoạn trừ tất cả kết sử cho nên gọi là Nhất thiết diệt; trừ bỏ hữu ái và vô ái, cũng không có bạn lữ, thành tựu tất cả công đức, trí tuệ bình đẳng cứu hộ tất cả chúng sinh như cha mẹ thương con, dần dần thành tựu công đức lực. Vì không tham lam, kiêu mạn cho nên gọi là tối thắng; vì hiển bày tám Hiền thánh đạo mà chuyển pháp luân. Ví như cái bóng không ở trước mặt trời mà ở trước bóng tối, cũng vậy tất cả kết sử không thể cùng tương ứng với đạo cho nên Ngài chuyển pháp luân. Do vậy nên nói kệ: Đầy đủ các công đức Cũng không có hạn lượng Sắc Ngài khó nghó lường Đầy đủ tất cả tướng Giống như mặt trăng sáng Chiếu soi trong đêm đen Biển cả nhóm châu báu Đức Thích chủng cũng vậy. Quán các duyên khởi xong, Ngài đạt được trí tuệ hiểu rõ hoàn toàn mười hai nhân duyên. Trí và ý của chúng sinh do khởi ái nhiễm với bụi trần dày đặc nên để chúng giong ruổi trong tâm thức; hoặc do khởi trí hữu lậu, tạo ra các nghiệp khổ nên cần đạt đạo xuất thế. Do biết rõ dục và biết diệt trừ các kết sử nên không có tưởng khổ vui, không có tưởng dừng nghỉ. Bởi trí vô ngã nên được tăng thêm lợi ích; bởi trí tương ưng với thức nên thân tâm rỗng rang; trí muốn hàng phục nên có ý chí mạnh mẽ; tâm này bị nhiễm trước nên khởi ý nương tựa trí, tự mình tỉnh ngộ, quyết định diệt các kết sử; khởi trí tuệ sáng muốn điều phục kết sử; khởi trí Hưu tức muốn đến được bờ giác; khởi trí Khinh cử nhẹ nhàng để tự phù hợp với sự giác ngộ của chính mình; dùng chân lý để truyền dạy cho chúng sinh nên khởi trí Diệt tận; nhờ tư duy chân lý ấy mà có các thiền vi diệu; nhờ tư duy ấy mà khởi trí Độ bỉ ngạn; tâm vị ấy có được hy vọng và những người khác cũng có hy vọng đều được thấy dấu đạo. Ý có chỗ y cứ nên đạt được trí tuệ, tứ đại ở trong trạng thái dừng nghó, tư duy làm cho các tướng loại đều hướng đến bờ giác; được trí Thiên nhó bình đẳng vượt đến cảnh giới giải thoát, hạnh chuyên nhất bình đẳng vượt đến bờ kia; được trí Thiên tỷ, y vào thức ấy muốn có trí phân biệt, biết ý nghó trong tâm trí người khác, khiến tất cả đều tu hành, đều thanh tịnh. Vì muốn hóa độ chúng sinh nên tự ngộ được Túc mạng trí; vì tướng thiện ấy cho nên thị hiện tứ đại; được trí Thiên nhãn trong tâm liền biết, quán sát giới thanh tịnh; được trí Thệ nguyện, có công đức của bậc đại thần tiên, nhờ chủng tử Tam-muội sinh ra ấy nên đạt đến các cảnh giới Tam-muội. Vì muốn mãi ích lợi, làm cho chúng sinh hoan hỷ liền được trí Cứu cánh. Do vậy nên nói kệ: Mỗi mỗi người nghó đến Thân cận thị hiện ngay Để phân biệt các pháp Hiển bày Đại thần tiên. Nên biết rõ nghiệp lực Để bỏ các trần cái Đạt được tâm quán sát Lành thay, Bậc Thượng Nhân! Ngài sống như thật mà không có ái dục, không tương ưng với ái dục; cũng không sân hận và không có ý sát hại; cũng không ngu si, biết rõ căn bệnh ngu si; cũng không dua nịnh, thường hay nhu hòa; cũng không tự khen mình, thường dạy điều lành; cũng không chấp tướng, trừ bỏ tưởng mong cầu; cũng không có tâm bỉ thử, không làm thương hại người khác, tự được giải thoát; cũng không dục vọng, có tâm thương xót, làm việc gì cũng thành tựu, không những có tâm Từ mà có cả tâm bi; không có tư tưởng tạp uế mà có tâm che chở; muốn độ thoát cho tất cả chúng sinh nên có tâm không, cấm giới đầy đủ nên có tâm vô nguyện, trí tuệ thấm nhuần nên có tâm vô tướng, cũng không nhiễm trước, cũng không vui chơi nhưng vì người thế gian nên không lìa sự vui chơi, tránh các ác nghiệp nên thuyết pháp giáo hóa; thành tựu cấm giới nên không có khiếm khuyết; thành tựu Định tam-muội nên không lay động; thành tựu trí tuệ đều đến bờ giác, đầy đủ mười lực nên không ai hơn được; đắc bốn Vô sở úy nên không có tâm khiếp nhược, đi một mình trong ba cõi, ở trong đại chúng mà cất tiếng rống sư tử. Do vậy nên nói kệ: Giống như đại hải kia Rộng lớn rất vi diệu Mười lực, Nhất thiết đức Cảnh quán của Trí nhân Giống như biển lớn ấy Khi sóng lớn lay động Có người đến bờ kia Công đức đó không lường. NHỮNG KINH DO TĂNG-GIÀ-LA-SÁT TẬP THÀNH <卷 id="50112221">Quyển 2 Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy làm thế nào để phân biệt thành trì của sự sinh? “Đó là đoạn tận sinh và vô sinh để lấp bỏ hào rãnh, vượt qua bờ huyết và các rào giậu. Ái dục là do sự ngu si nhiễm trước kiên cố mà có. Ngu si là thành trì không tàm không quý, bị bao quanh bởi các dấu tích, không có chỗ hở. Ngũ cái là cửa ngăn che chúng sinh; ái dục chở đầy trên xe sân hận, với vô số chủng loại bao quanh, dựng tràng kiêu mạn, thổi loa tối tăm, chạy Đông rảo Tây, bị các thứ tà kiến quấn thân, tự chịu sự lôi kéo”, nên tư duy một cách rõ ràng như vậy. Chúng sinh có các viên quán hết sức vi diệu, tâm ý vui thích nên ưa đến chỗ đó; hoặc gặp chốn mất mùa đói kém làm thương nhân ra đi tìm cầu sự sung sướng, và vượt qua các cảnh giới đến nơi cần đến, được quả lợi dưỡng, giải thoát. Gặp ách nạn nóng lạnh, nắng, gió mưa dữ dội, sinh, lão, bệnh, tử cũng có khổ não đó. Nếu như lệ thuộc vào sinh tử, cuốn theo các thú hướng thì giống như chiếc thuyền kia trôi theo dòng nước hoặc Đông, hoặc Tây. Ở trong sinh tử đó mà tác ý như vậy thì nghi hoặc khó có thể thâm nhập, và không cùng hòa hợp cũng không thể tranh đấu. Khi ấy Đức Thế Tôn dùng Tam-muội quán chiếu, với năng lực như thế khó có thể làm trở ngại, đến cảnh giới ấy mọi sinh tử đều diệt tận, tất cả lợi lạc tốt đẹp không có các hành hữu vi. Do vậy nên nói kệ: Sinh nơi có các tưởng Phải trải qua ách nạn, Trong hào đầy huyết kia Như biển sâu không đáy, Tiếng vang dội ba đời Bị thành ngu vây kín, Đức Thế Tôn quán chiếu Dùng quyền trí tận trừ. Khi ấy Đức Thế Tôn dạy làm thế nào để hàng phục các ma? Đó là tắm mình trong ao tám Giải thoát, khéo thực hành không để nhiễm trước, dần dần đến cửa giải thoát; khéo tuyên nói giáo pháp vô thượng giáo hóa chúng sinh khiến cho an trụ nên danh tiếng đồn xa. Mặc áo hổ thẹn, lấy pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện làm mão báu, nhẫn lực đầy đủ, nhan sắc thường vui vẻ, diện mạo tròn đầy, hiển bày tám con đường của Hiền thánh. Tuy có nhiều thứ hương thơm xông ướp các loại y phục, nhưng vốn vẫn biết kết sử là uế trược, nên cỡi xe cấm giới, Chánh kiến dẫn đầu, cùng các công đức vây quanh, dùng năng lực trí tuệ điều khiển chiếc xe, chuyên niệm không dao động và lấy điều thiện giác ngộ chúng sinh. Ba cõi nghe lời dạy ấy đều làm theo bổn hạnh: lấy sự đình chỉ ý làm áo giáp, tay cầm pháp tràng, múa đao trí tuệ; dùng ý tưởng thiện làm phất trần; dùng Thập lực, Vô sở úy để thổi pháp loa; nhờ năng lực thần túc mà ở ba ngàn đời đều được tự tại, lại khéo phân biệt Thất tài, Tứ biện tài không thể cùng tận. Nếu kết sử khởi lên thì có thể làm chúng tiêu diệt, và bố thí sự nghiệp của cải gấp trăm ngàn vạn lần không thể tính kể. Giống như voi lớn trang nghiêm thân mình, Ngài nhiếp thủ chúng sinh ở an nơi thiện nghiệp, dùng tâm Sư tử phấn tấn không khiếp nhược để khai mở pháp môn, hoặc hiện tướng sợ hãi, hoặc hiện tướng dũng mãnh, tâm không sân hận thu được tài bảo lớn. Giống như quỷ La-sát nhe nanh múa vuốt, biến hóa ra các hình dạng như vậy không khác gì quyến thuộc của chúng. Hoặc hiện hồ ly, hoặc hiện chúng ma, hoặc hiện đầu sư tử mình hổ, hoặc Thất-bộ-xà, hoặc đứng thẳng mà muốn giết hại, lửa sân bừng bừng, hoặc cõng núi, phun lửa bao nhiêu là biến hóa, hoặc hiện thân chó ôm lòng kiêu mạn, hoặc một thân hai đầu, hoặc le lưỡi trợn mắt, hoặc mình dài cổ ngắn, hoặc hình chim Kim sí, hoặc tay cầm dao gậy, hoặc cầm bánh xe, cầm chày, hoặc sư tử rống muốn giết hại người. Hiện những sự biến hóa quái dị như vậy, hoặc hiện hình dạng con trâu lông đuôi dài, hình Cưu-bàn-trà tay cầm ngọn lửa lớn, mình mặc áo giáp, mắt đỏ phóng nguồn ánh sáng phóng vào ngọn lửa lớn, tìm mọi phương tiện để giết hại nhau. Các La-sát kia đều có hai cánh, đánh các thứ trống, nhiều loại âm thanh tràn ngập hư không, có những cái linh đeo ở cổ giống như để ếm quỷ, hoặc hình đồng tử tay cầm bánh xe sắt, những hình tướng ác độc có rất nhiều dạng, giống như Thần biển tay cầm mặt trời, mặt trăng, dùng dao trí tuệ để hàng phục các oán địch ấy. Do vậy nên nói kệ: Hết kết, không sợ hãi Luôn luôn được an lạc Biến các thứ hình sắc Với sắc tướng vô cùng. Biến hóa ra như vậy Bởi do đã tạo nghiệp Tay cầm dao trí tuệ Liền hàng phục các oán. Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy vượt khỏi sông tro như thế nào? Vượt khỏi sông tro là khi trừ bỏ được tâm mong cầu và sân nhuế. Tư duy sông tro kia đều là những thứ bất tịnh, các loại tưởng đều phải từ bỏ. Nhờ đó, các loại tâm tưởng kia đều vónh viễn đoạn tận, không còn nữa, ngoại trừ sự quan sát vi diệu. Do hạnh nghiệp đã tạo đời trước nên không thể vượt khỏi biển sinh tử, dù hợp lại cũng khó qua. Những điều mà tâm ý ưa thích giống như hai loại cỏ già-xá và cứu-xá, bị trôi theo dòng nước chảy; chấm dứt mong cầu, đốn bỏ cội ưu sầu ở hai bên bờ sông xanh rì cỏ. Các nghiệp mà thân đã tạo là như vầy: Cây cối sầm uất là các tiếng khóc lóc; trăm ngàn loại hạnh bất thiện đã tạo là tay cầm đá, cũng đều là việc làm bất thiện. Giống như trong biển có trùng lại đến cầu mong chỗ an vui nên bị các dục xoay vần làm tổn hại đến cảnh giới. Giận dữ bừng bừng, mắt như đồng đỏ; tâm muốn tu thanh tịnh nhưng dục tưởng tràn đầy tạo thành sông tro và các hầm hố hiểm trở. Sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngọt và sự xúc chạm trơn mịn đều là lưỡi gươm hữu lậu đầy khắp mặt đất, và có cái đầm lớn âm u không có ánh sáng, nước theo dòng chảy lên xuống nên gọi là sông. Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng chư vị Bồ-tát tuy ở trong sinh tử vô lượng nhưng đều muốn lìa xa, liền khởi tâm: “Sông tro này hết sức hiểm trở, gai góc mọc đầy, vô cùng u ám không có ánh sáng, như thế mà các người ấy cứ mãi trôi lăn! Do vậy, Ta nay quyết phải đoạn trừ dòng sông ấy”. Khi phát lời thệ nguyện như thế rồi, liền tìm cầu phương tiện. Dùng pháp nhẫn làm phép tắc cho thế gian; cùng tạo thêm các phương tiện khác như: thọ trì cấm giới, dùng đó làm nơi chốn an lạc; dùng bốn Hiền thánh đế để quan sát bốn phương, phân biệt quyết định; dùng các pháp vô lậu để xem bờ sinh tử cheo leo trên núi đá. Sau khi đã chiếm cứ bờ sinh tử rồi liền đạt được thiện nghiệp, đẳng nghiệp, đẳng phương tiện, và các Tam-muội an lạc; với tám Hiền thánh đạo thảy đều phân biệt. Đã muốn đến bờ giác tất phải nhờ Thần túc lực, Ngũ căn, và muốn được Vô sở úy thì phải nhờ có chốn Niết-bàn; an trụ nơi Tam-muội cùng các thiền giải thoát ấy, phân biệt biết rõ trăm hoa tươi tốt không ra khỏi Vô vi. Khi ấy Đức Thế Tôn vì nói Khế kinh nên theo dấu của Phật Định Quang, Phật Nhất Thiết Hoa Vô Thượng, Phật Tỳ-bà-thi mà sinh nơi chủng tánh dòng tộc như các Ngài để đảm đương việc thuyết pháp. Do vậy nên nói kệ: Dù có sức vô hạn Vẫn ôm lòng sợ hãi Sông tro sâu không đáy Kẻ ngu mãi vui đùa. Bấy giờ dùng lực Phật Cứu vớt người chìm đắm Đưa đến chỗ an ổn Dạy pháp yếu cho người. Thệ nguyện của vị Đại thương nhân đã thành tựu nên tâm tánh rất nhu hòa y theo các thứ công đức để tự trang nghiêm thân mình, giáo hóa phù hợp theo thời. Và vì chúng sinh quán sát cội rễ của các kết sử nên được trí tuệ hàng phục các kết sử xấu ác ấy; lại khéo tùy thời nên trí được thành tựu, khéo quán các căn nguyên nên pháp thường vi diệu; khéo nương tựu bậc trí, khéo tham vấn bậc trí để thành tựu cung kính nhẫn; khéo nói nghóa lý của pháp đệ nhất. Thuyết pháp nghóa biện khéo thành tựu, trí cứu cánh của Hiền thánh được thành tựu, pháp biện được thành tựu gọi là Nghóa biện. Danh thân, Cú thân, Vị thân đều là dùng để phân biệt nhiều loại âm thanh. Sự khéo léo nghóa biện kia giống như Danh thân, Cú thân và Vị thân này đều hướng tới cái thiện. Âm hưởng biện tài khéo hơn ba thứ biện tài này và cùng tương ưng với Tam-muội giải thoát, quay về với đạo, khéo biết lòng người. Khi trí được thành tựu rồi thì nếu có truyền trao quyết định điều gì cũng không dao động. Trước hết tham vấn ý nghóa để thuyết pháp vô ngại, để rồi làm cho tâm đều hướng đến một con đường trí tuệ. Ngài đều đã thành tựu sự truyền thọ, thành tựu trí quyết định và thành tựu Vô xứ trí nên khéo khởi sinh tất cả các pháp. Do vậy nên nói kệ: Có hiện trí tuệ báu Cũng nói các nghóa biện Đạm bạc, không bằng Phật Công đức cũng vô song. Vốn bỏ tâm khứ lai An lành hành tịnh tuệ Để cứu nghiệp thế tục Vì đời mở cam lộ. Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy nên thuyết pháp như thế nào? Đó là theo sự yêu cầu trước mà đều làm cho sung mãn. Vì thuyết nghóa của các đức giải thoát như thật không dối, đầy đủ pháp vị, nên tùy từng trường hợp dần dần ban cho nghóa tương ưng, khoảng giữa đều phân biệt, trước sau cùng tương ứng, bao nhiêu loại cảnh giới đều tùy thuận ý mà thuyết pháp phù hợp với người đối diện. Với các pháp nghóa thì có ý dũng mãnh, lại có các trí biến hóa được quả thật nên phân biệt pháp giới không có hạn lượng. Nhất thiết trí khởi lên pháp như vậy cũng không ỷ lại; đã loại trừ sự mong cầu giác ngộ pháp hạnh nghiệp cũng không tự khen mình. Thuyết pháp cho chúng sinh nên giải trừ các chứng bệnh cả gốc lẫn ngọn; thành tựu ba ý chỉ không ôm lòng mong cầu; nhiếp thủ mọi người khen là chưa từng có; khéo an trụ làm chỗ cho trời, người cung kính cúng dường. Do vậy nên nói kệ: Như người diệt tận pháp Miệng tuyên lời tối thắng Khéo thuyết hạnh kiên cố Trí tuệ thảy vô lượng. Ngài như vị cam lộ Ngoài không dính bụi dơ Trong giũ sạch uế trược Cũng không các ác hoạn. Ngài không có uế trược, trừ bỏ ngu si, căn ý thanh tịnh. Do xả ly việc bên ngoài nên thành tựu Phật nhãn, ý không vướng mắc cũng không có tỳ vết; do không có tạo tác tâm ý lỗi lầm trong quá khứ nên được vắng bặt. Tất cả đều bình đẳng, tâm không dao động nên đạt Đệ nhất nghóa. Khổ hạnh một đời, hay khổ hạnh nhiều đời cũng không có các tưởng. Ở trong hàng Thanh văn hoặc dùng Thiên nhó nghe tiếng. Ngài ở trong thế tục không chấp thủ nên đạt được trí tuệ biết rõ tâm trí người khác và không bị lao khổ bởi các loại hạnh hữu vi. Vì chúng sinh Ngài tự phân biệt biết rõ các việc làm trong vô số đời trước. Nếu nay Ngài vui thích với tất cả hoạt khởi của sắc, hoặc dùng Thiên nhãn để quán sắc, các niệm tưởng cũng không dời, không động. Đối với các kết sử đã diệt Ngài quán chúng đều là phi nghóa. Với thệ nguyện tu khổ hạnh Ngài cũng không khởi niệm mong cầu nhờ chúng mà tâm được định tónh, thanh tịnh. Tâm dục nhiễm đã hoàn toàn vắng lặng nên trí của Ngài không còn chấp mê phân biệt theo trần thức. Ngài tự thân thể đạt, nương tựa Thắng nghóa Niết-bàn (Đệ nhất nghóa đế) để quảng truyền chánh pháp tại thế gian. Do vậy nên nói kệ: Ý không có ngu si Vắng lặng không tạo tác Ý nghiệp Phật toàn giác Cho nên con quy mạng Vì chúng nhân thuyết pháp Thanh tịnh không uế trược Du hóa giỡn vườn, quán Và các chốn ẩn học. Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy phước điền có nghóa là: Nương theo phước điền ấy nên có hy vọng, cũng như căn cứ vào lúa mạch mà nói một khu đất là ruộng lúa mạch hay ruộng lúa tẻ. Đức Phật Thế Tôn cũng như thế, y cứ theo phước đức nên gọi là Phước điền, cũng chính vì vậy nên Phật mới được gọi là Bậc Phước Điền. Ngài đã thực hành trăm ngàn hạnh nên thành tựu được phước điền ấy. Thánh Tuệ căn của Ngài, nơi phát khởi mọi hành nghiệp và tư duy đã giải thoát hoàn toàn. Ngài dùng thắng trí ấy thuyết pháp, không khởi niệm tưởng diệt, cũng không có tâm phân biệt, trừ bỏ đoạn diệt các kiến thủ, không có các tưởng kiến ấy, tâm chí luôn bình đẳng. Do tâm chí bình đẳng nên pháp ngữ vi diệu của Ngài đều là thiện, không ác; âm thanh cũng không nhiễm ô. Thân Ngài đã thành tựu các việc ấy cũng không có tai hoạn, bệnh tật. Ngài đã thành tựu đức bình đẳng với tất cả các kiến sinh ra và với lời nói nên thành tựu được mạng căn. Do tâm thường trú trong hỷ lạc nên trong bất cứ thời nào cũng là toàn diệu, không phân biệt cao thấp. Phật là tối thượng, là bậc nhất trong tất cả chúng hội. Do vậy nên nói kệ: Phật, phước điền bậc nhất Vô số kiếp thanh tịnh Kẻ ngu không quán sát Rơi vào chốn mê mờ. Với người khéo tin theo Thọ sinh có thể diệt Nay trú niệm an ổn Về sau tất an lạc. Lại nói: Phật xuất hiện ở thế gian là vô cùng hy hữu, giống như hoa Ưu-đàm-bát cực hiếm, hết sức diệu kỳ. Ngài gánh vác tất cả khổ đau cho chúng sinh nên được ngợi khen là chưa từng có. Thế Tôn xuất hiện giữa thế gian tinh cần lao nhọc như thế. Vì có sự hy hữu ấy nên việc Ngài thị hiện giữa đời cũng rất đặt biệt, khác thường, không ai sánh bằng, vì đạo lớn mà Ngài sinh, không giống như Bích-chi-phật… sinh. Do Phật không phân biệt nên mới sinh như thế, giống như vầng thái dương xuất hiện không phân biệt hầm hố hay đất bằng đều soi chiếu tất cả. Vì có Đại trí tuệ như vậy nên Phật mới là phước điền cực tịnh chiếu soi, làm phát sinh và tăng trưởng lợi ích cho chúng chư Thiên như vậy. Các thiện hạnh đã đạt được như vậy nên Ngài xuất hiện tại thế gian truyền bá giảng dạy chánh pháp đem lại lợi ích cho muôn loại chúng sinh, đoạn trừ vónh viễn màn vô minh tăm tối ngăn che. Phật muốn lưu bố đạo giải thoát sinh tử ở thế gian để muôn loài theo đó tu tập và cũng muốn cho loại chúng sinh hữu hình đều được trang nghiêm. Khi ấy chúng sinh được thấm nhuần mưa pháp. Chúng hội bậc nhất đạt thành giải thoát tương ưng bởi do thấy chân lý nên các niệm ác vắng lặng. Phật nghó đến muôn loại chúng sinh nên thuyết pháp vị, làm cây cầu để cứu độ họ. Do vậy nên nói kệ: Nếu có chúng sinh nào Quán sát Đức Như Lai Đều phát tâm hoan hỷ Được xa lìa tai hoạn, Là chúng hội an lạc Hưởng phước vi diệu nhất Thẳng tới đạo Niết-bàn Tịch tịnh được giải thoát. Bấy giờ Đức Thế Tôn giảng về sự giải thoát của Ngài: Do tâm Ngài không tương ưng với ái dục, các triền cái nên gọi là giải thoát. Trong vô số kiếp từ vô thỉ Ngài luôn tinh tấn tu tập, không hề giải đãi nên được vô lượng, vô biên công đức thanh tịnh không tỳ vết, không đoạn trừ nhân duyên phân biệt của cảnh giới giải thoát, cũng không khởi tưởng chấp pháp, sở nguyện luôn đầy đủ và không có tâm ganh ghét, đoạn tận hoàn toàn các cấu nhiễm, vượt thoát các ràng buộc của nghiệp trần, nhờ trí nên không ở trong sinh tử cũng không xả bỏ sinh tử, có trí tuệ giải thoát khỏi mọi phân biệt, giống như trăng mùa thu soi sáng nơi tăm tối, làm cho tất cả đều được sáng bừng, lại chẳng khác dòng nước thấm nhuần cây cối làm chúng nở hoa theo đúng thời; cũng giống như dòng nước tuôn chảy, tùy theo dòng xoay chuyển mà sinh ra bọt nổi, cho đến cuối dòng đều tan mất. Thế Tôn cũng như thế, đã chứng Vô dư Niết-bàn, giải thoát dòng nước xoáy. Do vậy nên nói kệ: Phật hay diệt các ác Đạt giải thoát tối diệu Trừ tối, soi sáng khắp Như trăng sáng trời sao, Đêm ngày không thay đổi Thường trụ không lay động Đã được pháp giải thoát Trí tuệ chiếu thế gian. Lúc đó Đức Thế Tôn giảng về Tận trí của Ngài: “Ta đã chứng Phân biệt tận trí, đã trừ Khổ, Tập, đã chứng đắc Diệt và tu hành Đạo đúng như lời khen ngợi.” Những công hạnh tu tập của Ngài đều để xét tìm tận nguồn gốc và trị lành căn bệnh dâm, nộ, kiêu mạn, dùng trí bình đẳng để diệt trừ dâm dục. Đó là trí như thật không hư dối của Niết-bàn. Ví như có người đang chịu các khổ não không thể thoát được, cũng không thể trị dứt nguồn gốc của căn bệnh hiện tại nên luôn nhớ nghó đến cảnh giới vi diệu. Cũng như thế, tất cả chúng sinh đều nên tu tập đoạn trừ hết các kết sử và dứt tận ấm cái. Ví như vị lực só bị các căn bệnh không thể chịu được, chưa tìm ra phương thuốc nên không thể trị dứt bệnh được. Tai họa của dâm, nộ, si cũng như thế, chỉ dùng Tận trí mới khiến cho chúng sinh được hoan hỷ. Giống như một người luôn sợ chỗ hiểm nạn, bản thân có các thứ bệnh tật khổ não, gặp được một ao nước tắm trong sạch không có bụi nhơ, hai bên bờ ao có gió mát thổi đến, nhìn xuống tận đáy nước thấy cá, rồng bơi đùa; trời xanh trong vắt không một bóng mây che; hoa Ưu-bát, hoa Câu-văn-đà nở đầy khắp ao, cành lá hoa quả đều sinh trong nước, lại có các loại cây vi diệu mọc trong đó, nếu ai thấy được đều sinh tâm hoan hỷ. Do vậy người ấy ở trong ao ấy tắm rửa, tẩy trừ các khổ não, lại cũng không cảm thấy đói khát, sau khi tắm xong được hoan hỷ an lạc, trong ao tắm đó lại có luồng khí nhẹ từ đáy ao thổi lên. Trong lúc quan sát, người ấy hoặc ngồi hoặc nằm trong ao đó. Thế Tôn cũng như thế, những dâm, nộ, si đã tạo đều đã trừ hết; trong cội nguồn sinh tử, hiện ra ao tắm như vậy. Thế Tôn đã bạt trừ hết khổ não cho chúng sinh trong ba cõi, làm chiếc cầu để đưa họ sang bờ giải thoát như thế nào? Phật đã dùng đẳng kiến (cái thấy bình đẳng) giống như ao tắm mát mẻ; tâm chánh định bình đẳng thanh tịnh, ý chí bình đẳng kiên cố, không chuyển dời giống như các loài cá, rồng được giải thoát kia; từ dung Phật không có gì so sánh bằng, giống như hoa Ưu-bát, hoa Câu-văn-đà ngắm mãi không chán. Trí tuệ Phật như đám mây dày, Tam-muội của thế tục không để trong tâm, nên được đại chúng vây quanh. Nếu ai tắm trong ao ấy thì được hoan hỷ, nhẹ nhàng vô cùng. Tắm rửa trong ao tắm pháp, nếu uống nước trong đó thì các thứ dâm, nộ, si đều được trừ sạch hoàn toàn, cũng không gặp các tai họa hay đói khát. Người ấy thành tựu pháp như vậy. Thế Tôn lại dùng pháp ấy tuệ thí, đưa tất cả chúng sinh đến Niết-bàn, việc cần làm đã làm xong, tâm không sợ hãi, đạt đến chỗ giải thoát an ổn, tâm an lạc dẫn tới cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Và cũng khiến chúng sinh theo thiện pháp. Lúc bấy giờ Đức Phật Thế Tôn an tọa không động. Do vậy nên nói kệ: Ngày đêm Phật hoằng hóa Muốn khiến chúng sinh an Tâm giải thoát, hoan hỷ Vắng hẳn mọi khổ sầu. Phải sống mãi trong đời Họa tai luôn bức bách Cần theo Khổ tận trí Lìa dục đến với Đạo. Lúc ấy Thế Tôn dạy về Vô sinh trí mà Ngài đã thân chứng: Bậc đạt được Vô sinh trí là người đã hoàn toàn biết rõ: “Ta đã thấu đáo hoàn toàn Khổ; Khổ đã hết thì Tập cũng không còn; hiểu rõ Tập đã hết nên không còn phải tu tập để hiểu rõ chúng nữa; Ta đã tu tập Đạo viên mãn nên không còn phải tu Đạo nữa”. Hiểu rõ như vậy nên gọi là Trí vô sinh. Cho nên Trí vô sinh là trí đại công đức, là trí giác ngộ khởi lên khi đã diệt trừ hoàn toàn cội nguồn sinh tử. Giống như gieo lúa giống phải tùy thời tưới nước, nhờ đầy đủ nước đúng thời hạn cây mạ lớn dần tươi tốt, cỏ dại không sinh. Đức Thế Tôn cũng như thế, hạt giống của thức bị lửa trí tuệ thiêu đốt, nên mỗi thức dần dần chuyển thành trí vô dục, tận trừ mọi thức xứ (ý niệm phân biệt), cội nguồn của sinh tử và cũng không thường trụ trong các hành (tạo tác) đã qua. Ở trong trí ấy khởi lên tâm ô nhiễm là việc không thể có. Các ý niệm tạo tác (ý nghiệp) trong tâm cũng không còn tạo tác nữa. Do vậy nên nói kệ: Ai khởi Vô sinh trí Chư Phật đều ủng hộ Biết rõ nguồn gốc khổ Vượt khổ não, họa tai. Trí ấy không khiếp nhược Thanh tịnh không tỳ vết An tọa nơi đạo tràng Ý không sinh không diệt. Bấy giờ Đức Thế Tôn truyền giảng giới pháp, độ cho tất cả nhân dân trong các thành ấp, thôn xóm đều vâng giữ đầy đủ giới cấm. Người vi phạm là người không vâng giữ cấm giới, người diệt trừ tâm ác là người vâng giữ giới luật và thực hành theo Thập thiện hạnh (Mười hạnh lành). Ngài độ cho tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, đều có công đức như nhau. Ngài đã thành tựu các công đức như vậy. Ở trong chúng có công đức ấy, không ai có niệm loạn tưởng. Trong chúng có người siêng năng nỗ lực tu hành, theo thệ nguyện trước kia Ngài đều hộ trì cho họ đạt được kết quả. Với người không hoan hỷ thì Ngài đều khiến cho hoan hỷ. Với những người hoan hỷ do đã tạo các công đức trong các đời chư Phật quá khứ, Ngài nhắc lại để khuyến tấn họ tu hành. Bậc Vị Tằng Hữu ra đời, có công đức giải thoát, hàng phục ngoại đạo, đối với người biết tàm quý thì làm cho họ được an ổn. Do giữ gìn oai nghi phạm hạnh nên họ đều tận trừ các lậu hoặc ngay trong khi Phật thuyết pháp, tâm đoạn tận gốc rễ và cành nhánh lậu hoặc khiến chúng không còn sinh lại nữa, tất cả đều đạt đạo. Lời Ngài dạy khiến cho phạm hạnh được tồn tại lâu dài, trời người được an ổn. Lời Ngài giáo giới, chúng sinh đều thọ trì đọc tụng. Các Tỳ-kheo tùy theo chỗ phạm đều tránh xa. Sau khi giáo giới xong, Phật đã khuyến tấn đệ tử cần nỗ lực giữ gìn cấm giới như chim Khổng tước giữ gìn bộ lông, như loài trâu bảo vệ đuôi của nó. Do vậy nên nói kệ: Như Lai chế cấm giới Vì pháp mà truyền dạy Giữ giới vui đệ nhất Giống như đội mão trời. Nếu ai sống trong giới Được chánh định Tam-muội Chớ nên phạm giới pháp Như biển không vượt bờ. Lúc ấy, Đức Thế Tôn có tướng đầu vi diệu bậc nhất, kiên cố, không khuyết lậu, khiến chúng sinh ngắm nhìn mãi không chán, không ai có thể ngăn cản phá hoại được. Đầu Ngài đầy đặn như chiếc lọng tròn, tướng nhục kế của Ngài là tối thắng, tướng ấy không ai có thể thấy được cũng không ai có thể có được. Tóc và lông mày của Phật rất vi diệu, mọc rất khéo, phân biệt rất rõ ràng. Tóc ấy mịn màng, ánh lên sắc xanh biếc vô cùng kỳ diệu. Do vậy nên nói kệ: Thích, Phạm và nhân loại Đến chiêm ngưỡng Ngài sinh Phật ở trên tất cả Không ai thấy đảnh Ngài. Ngài vốn không khinh mạn Đản sinh dòng Thích vương Bởi do quả báu ấy Nên được tướng Đảnh thượng. Thuở ấy, tóc của Đức Thế Tôn rất vi diệu, rất đẹp, mỗi sợi tóc đều nhẹ và mềm mại, không so le cũng không rối loạn, đều bằng nhau và xoắn theo phía phải như đường xoắn của vỏ ốc, có đầy đủ các tướng lành. Các sợi tóc mềm nhẹ ánh lên ánh sáng rực rỡ trong lành, nhẹ chiếu soi, không ánh sáng nào sánh bằng, giống như loại tơ nhẹ và mềm nhất, không có gì có thể mềm nhẹ hơn, cũng không thể làm hư hoại được. Những ai thấy qua tướng ấy đều được phước an ổn bậc nhất. Tóc ấy lại có đầy đủ tất cả các loại hương công đức lành xông ướp. Có được tướng như vậy là do Ngài đã tu tập đầy đủ các hạnh, thành tựu trí tuệ Vô thượng Đẳng chánh giác. Do vậy nên nói kệ: Mềm nhẹ, không dài ngắn Tóc có sắc biếc xanh Dung nhan Phật thanh tịnh Như trăng sáng đêm thanh, Các làn hương thoảng xa Thưởng thức đều phân biệt Theo gió hương nhẹ tỏa Như mùi hương chiên-đàn. Vầng trán của Đức Thế Tôn như vầy: Bền chắc như kim cang, bằng phẳng, thẳng ngay cũng không có dấu nhăn gấp. Ai nhìn thấy đều sinh tâm hoan hỷ, ngắm mãi không bao giờ chán. Vầng trán ấy không có một vết dơ, không trắng cũng không đen, rất đầy đặn bởi vì hành nghiệp của Ngài không có khuyết lậu, ai thấy cũng hân hoan, không sinh ý tưởng ác hại. Mắt Thế Tôn thanh tịnh, không có tỳ vết, mọi người trông thấy đều được tất cả sự tốt lành. Như Lai đã tu tập viên mãn vô số trăm ngàn công hạnh nên về sau mới được tướng vầng trán lành ấy. Khi đó liền nói bài kệ: Rất vi diệu thanh tịnh Thoát hẳn các hạnh ác Trán Phật khó nghó bàn Như ngà voi trong sáng. Chính Ngài đã từng dạy Trán Như Lai tuyệt đẹp Thanh tịnh như hư không Ai thấy cũng hoan hỷ. Bấy giờ Đức Như Lai có tướng lông trắng giữa đôi chân mày, nơi phát ra ánh sáng rực rỡ nhất trên dung nhan của Ngài. Chòm lông ấy trắng tuyền như màu sữa trâu; như lụa the trắng nõn; như màu tuyết trắng; như mặt trời mới ló dạng; như hoa Câu-văn-đà. Sắc rất trắng không có gì sánh bằng; như ánh trăng mùa thu vô cùng trong sáng. Chòm lông ấy xoắn vòng theo phía phải, không quá cao cũng không quá thấp, không làm chướng ngại mắt. Ai thấy được tướng ấy sẽ không vướng phải các loại bệnh. Mỗi sợi đều dài bằng khuỷu tay. Chòm lông đó có ánh sáng cực kỳ vi diệu, không thể nghó bàn, bao nhiêu luồng ánh sáng từ đó phóng ra đều thâu về nơi phát xuất. Tất cả sự vi diệu ấy đều do công đức xưa kia Ngài đã tạo, giống như sự vi diệu của khuôn mặt. Thế Tôn ở trong đại chúng mà tuyên nói giáo pháp. Do vậy nên nói kệ: Phật tu vô số hạnh Nên được tướng lông trắng Đó là ruộng phước tốt Là quả báo bổn hạnh, Không thô cũng không tế Cuốn theo phải rất đẹp Bề dài bằng khuỷu tay Ba đời đều thấy rõ Tướng giữa mày Như Lai Thanh tịnh không tỳ vết Giống như núi An minh Đứng đầu trong các núi. Tự tại trong các pháp Làm chúng sinh thanh tịnh Cũng như tướng mặt tròn Tướng giữa mày tuyệt đẹp. Sắc ấy do hành tạo Giải thoát không gì hơn Đã diệt ý cấu uế Chúng sinh đồng thanh tịnh. Đức Thế Tôn có đôi mắt sáng trong, tuyệt đẹp như sắc hoa trăm cánh, mỗi cánh đều tách rời, không chỗ u tối nào mà không chiếu sáng; xanh biếc như màu trời, như sắc hoa Ưu-bát<註 n="19"/>19, hoa Văn-đà-la. Đôi lông mi của Ngài trắng tuyền bậc nhất, không có gì sánh bằng, như mắt chim ưng chúa không khác. Mắt Ngài ngắm nhìn thấy rõ ràng tất cả quốc độ ở bốn phương, cũng thấy và phân biệt rõ tất cả những loại vật có hình tướng trong các quốc độ ấy. Đôi mắt Ngài không có dục cũng không hiểm ác, không giận dữ cũng không tương ưng với giận dữ. Ngài quán sát những hành động thiện ác của chúng sinh trong các quốc độ đó, nếu có những việc vi diệu Ngài có thể thấy rất rõ ràng, cũng không có tâm sợ hãi hoảng hốt. Do tu hạnh từ bi nên Ngài luôn có cái nhìn yêu thương, không tà kiến, luôn hoan hỷ không nhàm chán trong việc hộ trì các thiện pháp, phân biệt rõ ràng chi tiết và truyền bá các pháp ấy cho tất cả chúng sinh trong mọi quốc độ. Đôi mắt Ngài không có bất cứ sự xấu xa nào, không giải đãi và có năng lực thấy biết như thế. Do vậy nên nói kệ: Mắt Phật đẹp, cực sáng Không có gì ngại chướng Đã tạo trăm phước đức Sau mới thành Như Lai. Thiện pháp rất thanh tịnh Cũng không có khổ não Sắc mặt như Thiên vương Là cam lộ xuất hiện, Pháp tướng cũng đầy đủ Cũng không có khổ họa Cũng như tấm gương sáng Hiện khuôn mặt ở trong. Chúng sinh nhìn thấy Ngài Ngắm mãi không nhàm chán Sau khi thành Chánh giác Diễn thuyết pháp cam lộ. Đức Thế Tôn có tướng mũi vi diệu như thế là do trong vô số trăm ngàn kiếp sinh ra, với tất cả các loại trí tuệ Ngài đều phân biệt rõ; ở trong chốn sinh tử, Ngài đã nhổ gai ái tình, lòng mong vượt đến bờ bên kia, muốn chặt đứt tất cả gai ái dục. Vì người thế gian nên Ngài siêng tu tập các khổ hạnh như thế, dùng tuệ để thí pháp hay lấy giới độ thoát cho người. Lời Ngài dạy từ xưa đến nay đều đầy đủ tất cả nghóa lý, không uế tạp, nhằm trị lành các ung nhọt, phiền não, giống như ánh quang của đống vàng là sáng bậc nhất. Tâm Ngài luôn vui thích mong đạt được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, không hề dối trá nên Ngài đã hiển bày, truyền dạy rộng tất cả hạnh tu thiết yếu mà Ngài đã tu tập. Do vậy nên nói kệ: Vi diệu không uế tạp Mũi Phật đẹp bậc nhất Giống như chim Anh vũ Nên chúng sinh quy mạng. Đối trước tôn nhan Ngài Mọi người đều kính ngưỡng Mũi Như Lai tối thượng Như hoa Lại-tần-đà. Đức Thế Tôn có bộ răng như sau: Không sứt mẻ, thẳng đều, không cao thấp, tợ như màu vỏ ốc, màu tuyết lại cũng như màu hoa Câu-văn-đà-la. Răng Ngài có đầy đủ các điều tốt đẹp, màu trắng tuyền, vô cùng trong sạch, có hào quang sáng, đều đã thoát khỏi các ác hạnh, giống như ngọc kim cương cứng chắc không thể bị phá hoại, làm hư hại. Răng của Như Lai có bốn mươi cái, hàm trên và hàm dưới đều có bốn răng cấm. Hàm răng trên có tướng bánh xe ngàn cây tăm. Do vậy nên nói kệ: Răng Như Lai thẳng đều Thuyết pháp rất vi diệu Đều đặn không dư thiếu Giống hoa Ba-đề-lặc, Sắc đẹp không thay đổi Mắt lành sáng trong ngần Răng vuông đủ bốn mươi Trong các đức của Ngài. Đức Thế Tôn có tướng lưỡi rộng, dài như thế là do Ngài chưa từng nói dối. Lưỡi Ngài có màu tươi đẹp, không thể hư hoại giống như hoa của cây A-thư-già (hoa Vô ưu), lại như cánh hoa sen rất trơn mịn, mềm mại. Ngài cũng không nói lời thô ác, thêu dệt, đã trừ bỏ các tai họa của dâm, nộ, si nên sinh vào chỗ tốt lành, vui sướng an lạc mà thành tựu cấm giới. Các lời Ngài dạy khiến cho mọi chúng sinh đều được giải thoát, lấy Pháp trí để tế độ kẻ bần cùng. Ngài đã được giải thoát đối với vị ngọt của dâm, nộ, si; tất cả đều do bổn hạnh của Ngài tạo ra. Tướng lưỡi của Như Lai vô cùng vi diệu, khi đưa lưỡi ra lưỡi ấy che trùm cả mặt. Do vậy nên nói kệ: Trăm phước đức tu tập Lưỡi Như Lai bậc nhất Răng môi đều ngay thẳng Thường nói pháp cam lộ. Nếm được tất cả vị Đồ ngon hay không ngon Đều phân biệt tinh tường Rõ ràng không lẫn lôïn. Đức Như Lai có những ngôn giáo như sau: Khi dạy về các pháp hữu lậu, tu thiện, âm thanh Ngài nói ra không thô lậu, ngôn từ và các đức khác đều đầy đủ vô lượng công đức. Khi dạy về các pháp hữu thường, vô thường, tâm chí Ngài không khiếp nhược; lời giảng lại vô cùng sâu xa vi diệu bậc nhất. Những lời Ngài giảng dạy hoàn toàn không gây ra phiền não, mọi nghóa lý đều tương ứng với duyên khởi trong quá khứ và hiện tại, khéo phân biệt pháp, tùy thời dùng phương tiện để giáo hóa chúng sinh, tuyệt không có lòng sân hận. Ngài tự trang nghiêm thân, tâm ý trú trong định làm vui, cúng dường bậc trí, khen ngợi người danh tiếng đều tùy theo từng tướng loại của chúng sinh, tợ như loài chim Hồng ưa thích vực sâu, ao nước. Nếu có chúng sinh gặp phải trăm ngàn khổ não Ngài đều cứu độ, làm cho tất cả muôn loài đều được hoan hỷ. Với chúng sinh đang ở trong vòng sinh, già, bệnh, chết, Ngài đều độ được giải thoát. Ngài không có tưởng mong cầu được hạnh tối thắng. Tâm Ngài tự tại không buộc ràng, thực hành các hạnh lành trong hiện tại nên đạt được hạnh giải thoát hy hữu. Cũng như người dùng thuyền qua biển không hề sợ hãi, Ngài đã vượt qua tất cả sinh tử nên được ca ngợi là Bậc Thiền Đức. Công đức Ngài vi diệu nên khi thọ mạng chấm dứt, tâm ý Ngài đạt đến cảnh giới Niết-bàn, được pháp cam lộ, diệt tận cội nguồn của tất cả sinh tử, giảng dạy hướng dẫn rõ các pháp thiện ác, người nghe không có tâm sợ hãi, như ánh sáng không ngăn ngại. Do vậy nên nói kệ: Lấy chánh pháp chỉ đường Cúng dường công hạnh Phật Dùng nhẫn làm sức mạnh Như nhụy nở hoa khai, Pháp cam lộ tròn đủ Người si ám não phiền Hưởng được pháp vị ấy Vượt thoát vùng sinh tử. Đức Thế Tôn có giọng nói như sau: Âm thanh trong các lời nói của Ngài có đầy đủ công đức, không thô lậu, giống như tiếng chim Yết-tỳ hết sức vi diệu, âm thanh vang xa khắp bốn phương, mọi người nối tiếp nhau đều nghe được lời Ngài dạy. Ở trong các loại chúng sinh Ngài có năng lực ấy; Ngài không rời khỏi chúng nhưng muôn loài đều nghe được thanh âm thanh tịnh. Tất cả công đức đó đều do công hạnh xưa của Ngài tạo ra. Thanh âm của Ngài như tiếng Phạm âm, như tiếng hót của chim Loan phượng. Vào lúc đó, mọi người đều được nghe năm loại âm thanh thậm thâm vi diệu của Ngài. Có khi Ngài dùng lời dạy răn để hàng phục chúng ngoại đạo, như trường hợp cải hóa con rồng dữ làm cho nó thay đổi tập tánh cũ. Từ quá khứ xa xưa Ngài đã có sắc diện rất mỹ diệu, không bao giờ lộ vẻ khiếp sợ, yếu hèn như thế. Nếu dùng nhục nhãn xem xét cũng có thể thấy rõ. Tâm Ngài định tónh, không tham trước, không tương ưng với các vị ngọt của dục. Nội tâm Ngài luôn trụ trong định không nhàm chán cho là đủ, không xung động, cũng không tương ưng với sân hận. Đó đều là do quả báo công đức tu tập của Ngài mà có, cho nên nói: “Vị Sa-môn an lạc có tâm như vậy, y cứ theo tâm đó sẽ có năm loại âm thanh như thế. Đã từng nghe tiếng nước chảy xong lòng hoan hỷ, huống chi nay được nghe lời dạy Phật làm tăng trưởng lợi ích cho căn lành, chúng sinh nghe thanh âm của Ngài sinh tâm hoan hỷ, càng được lợi ích giải thoát”. Do vậy nên nói kệ: Thanh âm Phật nhu hòa Tâm Phật luôn tịnh lạc Khéo tin đến nghe pháp Công đức vô hạn lượng. Chúng sinh nghe pháp âm Từ bổn hạnh Phật xuất Có thể biết Phật âm Vượt năm trăm Khổng tước. Đức Thế Tôn có dung nhan như vầy: Vô cùng thanh tịnh, không có vết dơ, hết sức trang nghiêm, đẹp đẽ không gì sánh bằng. Đôi mắt Ngài lành đẹp, mọi người nhìn ngắm mãi không chán, trái tai thả xuống, môi có màu đỏ hồng như vàng ròng của cõi trời, răng trắng tinh vi diệu không gì hơn, khuôn mặt Ngài đầy đặn, không một vết dơ, cũng không sẹo lở. Gương mặt Ngài không có nét sầu lo hay khổ não, ai nhìn thấy cũng đều hoan hỷ, công đức ấy không thể kể hết. Do công hạnh tu tập trong quá khứ nên có được mùi hương thơm bậc nhất. Dung nhan Ngài như vầng trăng tròn trong lành, không uế trược, đáng tôn kính nhất. Khi Ngài ngồi kiết già thuyết pháp cho đại chúng, người ngồi trước hay sau đều thấy được mặt Ngài. Khi tọa thiền xong, việc đầu tiên của Ngài luôn là thuyết pháp cho đại chúng. Do vậy nên nói kệ: Muôn loài đều vui sướng Mong thấy sắc diện Phật Do ngắm diện Thế Tôn Như vầng sáng trăng rằm Được lợi vui đệ nhất Không ai bằng Như Lai Ngày rằm trăng tròn sáng Nên nói như diện Phật. Đức Thế Tôn có tướng đầu như sau: Do thiện sinh, kiên cố, trang nghiêm, đẹp đẽ không ai sánh bằng, không cao cũng không thấp, cân đối với thân, nhan sắc bậc nhất. Như sức của trời Na-la-diên<註 n="20"/>20, không thể diệt tận, nơi tướng đầu của Ngài phát ra quang sắc màu hoàng kim vô cùng mỹ diệu, cực kỳ trong lành, tất cả đều không chướng ngại. Do vậy nên nói kệ: Tròn đầy rất vi diệu Tích công hạnh nhiều đời Nên được tướng đầu kia Đứng đầu trong dòng Thích. Không gì làm xâm hại Nơi Như Lai phát ý Muôn loài trong ba cõi Tán thán đức tướng Phật. Đức Thế Tôn có tướng cánh tay như sau: Do thiện sinh, không ai sánh bằng tựa như núi Tu-di. Vai Ngài cũng đẹp vi diệu, không ai bằng, không cao không thấp, vô cùng mềm mại mịn màng giống như loại danh mộc bậc nhất Ta-lô, mềm mại vi tế, không thể bị tổn hại; lại tợ như hoa Chiêm-bặc mềm mại vi tế, không thô kệch. Trên cánh tay Ngài sinh ra các sợi lông mềm màu xanh biếc, mỗi sợi đều cuốn theo phía phải, rất mềm mại mượt mà, bất cứ ai thấy cũng đều khởi tâm hoan hỷ. Khi Ngài duỗi cánh tay cực diệu ấy ra là hàng phục loài ma, có địa thần chứng biết. Do vậy nên nói kệ: Như cây Thế-già-cưu Hàng phục các ma chúng Lại như chày Kim cang Cho nên quy mạng Phật. Là Đạo Sư ba cõi Là nguồn sáng chánh pháp Tâm Phật không hạn lượng Nên theo Bậc Tối Thắng. Đức Thế Tôn có tướng bàn tay như sau: Hết sức mềm mại, mịn màng, mỹ diệu không ai sánh bằng, cũng không ai phá hoại được, không sứt mẻ, tròn đầy như đỉnh núi cao. Lòng bàn tay Ngài có tướng Thiên bức luân (bánh xe ngàn căm), giữa các ngón tay có làn da mỏng dính liền, móng tay rất trắng sạch như mặt trời chiếu sáng, như hoa Ưu-bát đã nở tung, cánh hoa rất mềm mại. Khi Ngài thuyết pháp, chúng sinh đến nghe, không ai mà không được độ thoát, lời nói của Ngài luôn tùy thời, đúng với bổn hạnh. Khi Ngài mở bàn tay phát ra ánh sáng chiếu suốt. Nếu có chúng sinh nào tìm theo ánh sáng từ bi ấy đi đến đều được độ thoát. Ngài giảng dạy, phân biệt rõ để chúng sinh bỏ ác theo thiện, thuyết pháp về bổn hạnh tiền thân để họ luôn được từ bi, hoan hỷ và phát khởi lòng mong cầu trừ bỏ ác hạnh, tu tập các thiện hạnh. Ngài dạy chúng sinh: “Tất cả đều là khổ, chớ theo duyên trần cấu nhiễm, nên nhàm chán tai họa sinh tử”. Ngài khiến cho chúng sinh thanh tịnh, khởi lòng mong cầu trừ bỏ mọi sự huyễn hoặc. Xưa kia khi Ngài ngồi thiền, tất cả chúng ma cỡi trên các loại xe cộ do la, lừa, lạc đà, voi, ngựa, trâu bò, sư tử, chó, heo, dê kéo đến chỗ Ngài; hoặc mang đầu ngựa thân người và các thứ hình dạng khác, cầm đao, mang cung tên, đánh chuông, vỗ trống, làm đủ hình thức ma quái muốn đến hại Đức Phật. Lúc đó Đức Thế Tôn lấy ngón tay chỉ xuống đất, núi cao, rừng rậm, thành quách, khe suối, ao tắm, các nguồn nước đều hiện ra đầy dẫy trân bảo, hoặc hiện ra đầy vàng trong bát. Như vị lực só dùng tay gõ vào bát ấy liền phát ra âm thanh, tay Ngài đã vận chuyển bánh xe pháp hết sức vi diệu, không ai sánh bằng. Lúc bấy giờ, chúng ma cúi lạy Đức Phật xong liền nói bài kệ: Nghiệp thanh tịnh đệ nhất Chuyển pháp luân vô thượng Tay Như Lai vi diệu Rất đẹp không ai bằng. Tay Ngài chuyển pháp luân Pháp luân ở một chỗ Không thấy chỗ trụ xứ Không thấy người chuyển pháp. Khi Ngài chuyển pháp luân Thuyết pháp theo căn tánh Nhờ Ngài chuyển pháp luân Chúng sinh được an lạc. Đức Thế Tôn có thân tướng như sau: Thật cân đối ngay thẳng, không khuyết lậu, đầy đủ giới tướng, bộ ngực như ngực sư tử, công đức tròn đầy, toàn thân cân xứng, màu da như sắc hoa Ưu-bát, cũng không bại hoại. Khi Ngài kinh hành luôn nhiễu về bên phải. Thân Ngài không cao cũng không thấp, hết sức mềm mại, vi diệu. Lông trên da Ngài đều xoay theo phía phải, vi diệu gấp bội, không có gì sánh bằng, luôn tỏa ra mùi thơm như mùi hương của hoa Chiêm-băïc-ca. Ngài không trẻ cũng không già, trên thân Ngài không có điểm nào không cân xứng. Ngài không tương ưng với sân hận. Các căn trên thân đầy đủ, là thân hy hữu ở thế gian. Thân kim cang của Ngài rất kiên cố, rất vi diệu; hành tướng không chậm cũng không gấp, phân biệt rõ với chúng sinh. Bất cứ ai thấy thân tướng Ngài đều phát tâm hoan hỷ, ngắm mãi không chán. Thân Ngài cao bảy thước, sừng sững như núi An minh. Ở trong đại chúng, Ngài như voi chúa giữa đàn voi, là Bậc Đệ Nhất, giống như vua Na-la-diên, không có thứ gì có thể làm tổn hại. Do vậy nên nói kệ: Tu hành trong trăm kiếp Tối Thượng giữa chúng nhân Nay Ngài được sắc thân Không ai có thể sánh. Đã diệt dâm, nộ, si Vónh viễn không còn ác Cho nên nay đảnh lễ Sau khiến con như Phật. Nếu khởi dâm, nộ, si Liền tiêu diệt tức khắc Chiêm ngưỡng dung nhan Phật Thân con hết nạn khổ. Đức Thế Tôn có phần trên của bụng như sau: Trên dưới cân đối đẹp đẽ, vi diệu không ai bằng, không có chỗ nào không bằng phẳng, khiến mọi người nhìn thấy đều hoan hỷ. Do vậy nên nói kệ: Bụng trên Phật lành đẹp Bậc nhất không gì hơn Nếu có ai nhìn thấy Tâm không còn cấu phiền. Sinh lông mềm vi diệu Khi đứng ánh sắc vàng Lại không thọ các loài Quán sắc tối diệu ấy. Đức Thế Tôn có vùng bụng dưới thế này: Tròn đầy dần lên đến bụng trên, thon nhỏ tương xứng với thân, giống như bụng của loài nai, có ánh sáng lành thanh tịnh, không ai bằng. Do vậy nên nói kệ: Bụng Như Lai vi diệu Sắc đẹp không ai bằng Xem xét tất cả tướng Từng tướng đẹp khó lường, Phải biết tướng diệu ấy Được thế gian ngợi khen Về sau sẽ diệt độ Cho nên quy mạng lễ. Đức Thế Tôn có đôi chân như vầy: Bước đi an lành, đứng vững vàng, nghiêm trang, không dao động, vô cùng vi diệu. Ngón chân của Ngài dài, da mịn màng, có đầy đủ trăm phước tướng. Đó là do nhờ Ngài đã tu khổ hạnh nên sau mới được như thế. Ngài vì muốn độ thoát cho người thế gian nên đã đi đến đạo tràng. Những người nghe pháp âm của Ngài tợ như được nghe tiếng của Long vương, mắt dõi nhìn chăm chú, không di động. Ánh sáng công đức của Bậc Chánh Đẳng Giác gấp trăm ngàn lần áng quang vi diệu của ngọc anh lạc, ánh sáng ấy không có gì sánh bằng. Do công đức xưa nay của Ngài như thế, nên con cúi lạy dâng kệ: Niệm ái không xâm hại Nay cúi lạy chân Ngài Cũng lạy Như Lai đảnh Phật giải thoát chúng sinh. Nếu ai có niềm tin Đó là người tối thắng Chân Phật đẹp mịn, trắng Cho nên con quy mạng. Đức Phật có tướng pháp luân như vầy: Rất tròn, không tạp uế, cũng không thô lậu. Tướng ấy rất vi diệu, có hình bánh xe đủ ngàn căm đều đặn. Thân Ngài đầy đủ các căn. Do Ngài đã tạo các hạnh nghiệp lớn nên được tướng Chuyển luân thánh vương có bốn đức vang lừng: 1. Đầy đủ cảnh giới; 2. Tâm không khiếp nhược; 3. Có năng lực như A-tu-luân lấy tay che khuất ánh sáng của mặt trăng; 4. Khi Phật chuyển pháp luân liền có ánh sáng lớn xuất hiện. Giống như vào tiết xuân, không gian không bụi bặm, bầu trời cũng không có mây che, vào lúc nửa đêm, vầng trăng không bị mây che khuất, phóng luồng ánh sáng lớn, ánh sáng ấy cũng như thế. Chuyển luân thánh vương vốn không có tướng ấy của Đức Như Lai. Do vậy nên nói kệ: Người đời thọ trăm tuổi Thường lìa thế ra đi Phật có tướng chuyển luân Như hoa sen nở rộ Cũng như núi An minh Cao vượt là bậc nhất Xưa Như Lai gieo phước Tu tập nên được vậy. Trời Đế Thích rời cung Đến thỉnh: Nay đến thời Chư Thiên đồng tán dương Như Lai chuyển chánh pháp. Nếu ai biết tướng ấy Dẫu chỉ nhìn thoáng qua Đều có một tâm niệm Không ai hơn Đức Phật. Chí tâm Phật vững bền Phóng quang chiếu muôn nơi Như vầng dương soi sáng Độ tận khắp muôn loài. Đức Thế Tôn có tướng đi như thế này: Ngài bước chân phải chạm đất thì động tác ấy không chậm không mau, bước đi ngay thẳng cũng chẳng vội vàng, chẳng khác gì voi chúa bước đi vững vàng. Thân của Đức Thế Tôn không lay động giống như vị Thiên Na-la-diên. Đức Thế Tôn đối với người cao làm cho họ thấy mình là thấp, đối với người thấp chỉ cho họ thấy mình là cao. Những người có nhà nhỏ thì tự nhiên thành rộng lớn. Thân của Đức Như Lai chưa từng cúi xuống bởi do trong các đời trước Ngài không có tâm kiêu mạn. Các loại nhạc khí không đánh mà tự kêu, các loại côn trùng đều được an ổn, đều do đời trước Ngài đã tu hành Từ tâm. Do vậy nên nói kệ: Phật có đại thần diệu Vô úy có đức này Tướng đi sắc tốt lành Điều phục người ngang ngược. Nhờ Ngài bỏ kiêu mạn Tự ngộ Tối chánh giác Vi diệu không ái dục Nên được tướng đi đẹp. Đức Thế Tôn có dấu chân như vầy: Tướng bánh xe ngàn căm hiện ra rất vi diệu, các đức tướng ấy mỹ diệu đầy đủ, không ai sánh bằng. Ở trong nhân gian Ngài là đấng bậc nhất đem lại nhiều sự hoan hỷ. Tất cả đều do Ngài đã tạo phước trong trăm ngàn kiếp mà có. Ngài không có tâm thô lậu vì đã trừ bỏ dâm, nộ, si. Công hạnh trong quá khứ của Ngài không dối trá, không có các điều ác, không tương ưng với si mê, không tạo hạnh si mê. Ngài có danh tiếng như vậy, chí tánh ngay thẳng, làm mà không có tâm mong cầu, ý đã diệt mọi niệm nghi ngờ, trừ bỏ các niệm mong cầu nên việc làm không khuyết lậu, tâm không phân biệt, công đức trùm khắp, thành tựu trọn vẹn thập lực, trừ tất cả tai họa. Do vậy nên nói kệ: Phật có đức tướng ấy Do các hạnh đã làm Phân biệt tâm, nghiệp, hành Như mặt trời chiếu sáng Bánh xe hiện trên đất Tâm ý thấy rõ ràng Nên tự quy y Phật Như dấu chân in đất. Đức Thế Tôn có nụ cười như sau: Do nhân duyên xưa, Ngài đã tu tập hạnh yêu thương chúng sinh, nên mới có nụ cười như thế. Khi Đức Thế Tôn cười, ai nghe được liền sinh tâm hoan hỷ, nhu hòa, nhẹ nhàng, vi diệu, thanh tịnh bậc nhất; người nào thấy Phật mỉm cười tâm niệm vắng bặt trần cấu, được tâm thanh tịnh không tỳ vết. Đó là do Ngài tu hành không nói lời hư dối. Như loại hoa Ưu-bát, Chiêm-bặc có đầy đủ các thứ hương thơm, Ngài phân biệt rõ các pháp, truyền giảng pháp cam lộ khắp thế gian; lời pháp có đầy đủ ánh sáng trí tuệ, vi diệu bậc nhất. Khi ấy Đức Thế Tôn từ thân phóng luồng hào quang lớn màu hoàng kim giống như ba lớp núi cao vây quanh, hiện thân ở cõi trời Sắc cứu cánh. Những vị có niềm tin ở cung trời đó, vâng theo lời giáo giới của Như Lai, không hề trái phạm và dần dần truyền bảo lại cho nhau nên tất cả đều hoan hỷ đối với Đức Phật. Thế Tôn lúc ấy đã tạo bổn hạnh như thế. Do vậy nên nói kệ: Miệng thuyết ánh sáng giới Tỏa màu sắc vàng xanh Xuất từ thân Như Lai Trời người đều dâng cúng. Bạch hào tướng Như Lai Ba đời không ai sánh Đến trời Sắc cứu cánh Đều vân tập chỗ Phật. Đức Thế Tôn có hào quang như vầy: Đều là do công hạnh trong quá khứ của Ngài tạo ra nên phía sau thân Ngài có ánh sáng ấy. Ánh quang đó vô cùng đẹp đẽ, trong lành, là ánh sáng giải thoát tối thượng. Ai nhìn thấy hào quang từ thân Ngài cũng đều sinh tâm hoan hỷ. Thân Ngài có đầy đủ các loại ánh sáng của ngọc Anh lạc, các thứ bụi bặm, ô uế của La-hầu, A-tu-luân không thể làm chướng ngại vì Ngài đã giải thoát ngũ kết<註 n="21"/>21, trừ bỏ ngu si. Khi ấy, Đức Thế Tôn đã hiển bày, giảng dạy pháp cam lộ, khiến cho chúng sinh gặp được pháp vị ấy tự nhiên đạt được thần túc không thể nghó bàn. Do vậy nên nói kệ: Thân Ngài khéo giải thoát Không có gì ngăn ngại Đạt thập lực phóng quang Kẻ ngu không thể thấy. Như Lai có thần túc Thị hiện bằng chúng sinh Ánh quang vượt thái dương Nên cúi lạy tướng sáng. Đức Thế Tôn đắp y như sau: Không cao, không thấp, tùy thời đắp y để diệt trừ cỏ ô uế, nguồn gốc của sinh tử. Ngài không mặc y phục theo cảnh vui tươi nên đi đến chỗ nào mọi người đều hoan hỷ. Vì có thật quả như vậy nên y phục Ngài luôn tươi sáng. Tôn giả Nan-đà và các Tỳ-kheo ở bên Thế Tôn thấy Thế Tôn đắp y Tăng-già-lê, không gì có thể làm cho y của Ngài dơ được. Khi ấy Tôn giả Nan-đà khen là việc hy hữu nên đến bạch Đức Thế Tôn để muốn biết cách đắp pháp y. Đức Thế Tôn dạy: –Vì sao thế Nan-đà? Nếu chẳng phải Như Lai từ xưa đã rời khỏi vòng thế gian sinh tử triền miên thì làm sao Như Lai diệt trừ hoàn toàn vónh viễn các cấu uế dâm, nộ, si cho chúng sinh. Như Lai đã tùy theo căn tánh, sở nguyện của họ để dạy bảo nên mới thành tựu công đức như vậy; dù có gió bão thổi mạnh cũng không làm cho y Như Lai bay được, bụi trần cũng không làm ô nhiễm được. Do vậy nên nói kệ: Y Như Lai đã đắp Tự che cả thân hình Như sen không nhiễm bùn Y này cũng như vậy, Hoặc gió bão thổi lên Sức cuồng phong dữ dội Muốn y Như Lai động Đấng Thập Lực ai hơn? Khi Đức Thế Tôn đi khất thực như sau: Ngài không phân biệt kẻ ty tiện hay người giàu sang, đều khất thực bình đẳng, không có tà mạng, không cúi xuống làm các nghề trồng trọt, làm thuốc… để kiếm sống; không ngưỡng lên trời coi sao, bói quẻ để kiếm miếng cơm manh áo; không lấy lòng thí chủ để họ sai khiến mà kiếm miếng ăn, không dùng chú thuật huyễn hoặc xem bốn phương để kiếm ăn; không cày cấy làm kế sinh nhai. Bởi vì Ngài đi khất thực là để cứu độ chúng sinh nên không có ý mong cầu, tham trước sự ăn uống. Khi Đức Thế Tôn ăn, Ngài quán sát rõ việc ăn uống không phải vì để vui sướng, cho nên không bị nhiễm trước. Khi thọ nhận vật thực của tín thí, Ngài cũng không tham trước, không khởi ý dâm, nộ, si, cũng không mê hoặc vì Ngài đã diệt trừ tâm mê hoặc, xả ly tâm nhiễm trước, không tương ưng với tâm nhiễm trước; trú trong tâm xả nên dục ái không làm trở ngại được, luôn vui thích lấy thiền lạc làm món ăn, cũng không niệm ngã tưởng, hoàn toàn xả ly khổ, thấy rõ ngã là phi nghóa, thân này chắc chắn sẽ đoạn diệt nên hiểu rõ và xả ly ba việc. Ngài đã thanh tịnh, không có dâm, nộ, si, vì sao nay còn ăn uống? Vì Ngài muốn hiện rõ thân này là không bền chắc, là nơi chất chứa càng lúc càng nhiều bệnh tật. Nếu không còn hơi ấm, thân này sẽ chết cho nên Ngài không sinh loạn tưởng, tu tập phạm hạnh, truyền bá chánh pháp. Thân Ngài chỉ phải chịu các bệnh do hành nghiệp quá khứ, không tạo ra nghiệp bệnh mới. Đức Thế Tôn thọ nhận vật thực của tín thí vì muốn làm lợi ích cho người đời để họ được quả báo, thân họ được an ổn. Do vậy nên nói kệ: Khất thực khắp mọi nhà Muốn họ được chánh pháp Ngài ở nơi vườn quán Như loài ong hút hoa Không lựa ngon hay dở Không sinh ý khen chê Uống ăn không chướng ngại Vì thoát niệm tham cầu. Đức Thế Tôn có sàng tọa như vầy: Thường ngồi ở trong hang núi, nơi đất trống, ở vườn quán, cạnh dòng sông, khe suối, nơi có các loại hoa quả sum suê, vui thích không gì sánh bằng; nơi không có người, một lòng cầu giải thoát các điều ác, tâm không bị phiền não ngăn che; ở nơi không có người đặt chân đến. Ngài không có sự sợ hãi, lìa bỏ sự say đắm sắc, thường thích tịch tónh. Ngài thuyết pháp cho chúng sinh, nói rộng như trong Khế kinh. Do vậy nên nói kệ: Vườn rừng đầy hoa quả Rợp nở hoa Mạn-na Ý vui thích nhàn tịnh Chốn hoa lá biếc xanh Chí quyết cầu giải thoát Nên ngự vùng tịch thanh Thân trụ chốn tịnh nhàn Không tiếng không loạn tưởng. Khi ấy Đức Thế Tôn dùng cỏ trải trên mặt đất, tòa cỏ ấy không có một mảy bụi trần cũng không huy hoàng tráng lệ. Cỏ ấy vô cùng mịn màng, mềm mại, đẹp đẽ vi diệu. Nếu ai thấy được tòa cỏ ấy sẽ ngắm nhìn mãi không chán và đều y cứ theo đó quán sát, suy tư bằng niệm không phân biệt cao thấp. Danh sắc lục nhập luôn hiện ra không cùng tận, chỉ vì hàng phục chúng nên Ngài dùng cỏ trải trên đất. Khi trải cỏ để ngồi, lòng Ngài không có dục tưởng; khi lấy cỏ làm nệm, tâm Ngài cũng không có kết sử; thân tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh. Chư Phật trong quá khứ tạo công đức cũng không nhiếp thủ, không buộc ràng trong niệm ham cầu chứng quả, bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho muôn loài, tâm không phiền não, không sinh ra cỏ kết sử. Thân Ngài tề chỉnh, tâm không tán loạn, thân cận với chúng sinh mà không bị ấm cái ngăn che, chứng được Tam-muội, Thần thông. Khi nghỉ, Ngài đặt hông phải xuống đất nằm ngủ, không lâu sau đã đứng dậy kinh hành, tu tập. Ngài vì trú trong Vô giác tam-muội nên nằm hông phải sát đất, vì muốn hàng phục oán địch nên ngồi trên tòa Sư tử. Ngài thị hiện vận loại áo tơ mịn năm màu, hiện tướng không phải Sa-môn chân chánh để tu tập phạm hạnh mà không nhiễm trước hình sắc, thân cận với chúng sinh để cầu tâm giải thoát. Do vậy nên nói kệ: Chúng sinh không căn lành Nhờ công đức họ Thích Đã tạo tâm hạnh lành Tâm vốn tự giác tri. Lành thay! Pháp giải thoát Không có ai hơn Phật Nay đệ tử Như Lai Lấy cỏ trừ dục ái. Lúc bấy giờ Thế Tôn dạy biết rõ các căn như thế nào? Đức Phật dạy rằng trong quá khứ Ngài đã tu tập các căn ấy với các tính chất của chúng. Vì đạo nên Ngài khởi sinh căn ấy để hàng phục sự điên đảo của dục, yếu tố làm cho các căn thuận dòng tương ưng với sinh tử. Các căn ấy nương theo các duyên khác khởi lên hạnh bất tịnh. Các căn đó tham đắm thế gian và nhiễm trước dục lạc. Các căn ấy làm khởi lên các phiền não và làm cho tất cả kết sử lớn mạnh. Các căn ấy theo đuổi thân làm chúng sinh lưu chuyển mãi không bao giờ dừng nghỉ. Các căn ấy không thành tựu nghóa lớn giải thoát. Các căn ấy đầy mê hoặc, trải qua các cảnh giới. Các căn ấy giống như kiếm nhọn làm thương tổn thân thể. Các căn ấy gây ra khổ não, giống như ghẻ lở, làm chảy ra các kết sử. Các căn ấy giống như người bệnh, không có sức lực. Chúng không bao giờ nhàm chán, biết đủ, luôn mãi mong cầu. Các căn ấy không bao giờ dừng nghó, luôn luôn khởi ra các kết sử. Các căn ấy giống như thuốc độc, không cắt đứt được gốc khổ. Các căn ấy không nghe lời dạy bảo, cùng tương ưng với các điều ác. Các căn ấy không giấu kín, bị cảnh giới gươm đao trói buộc. Các căn ấy không được phòng hộ, có tính chất bất toàn. Các căn ấy không có tâm, trôi lăn theo cảnh giới. Các căn ấy không tu hành nên bị lửa dục đốt cháy mãi chạy theo các cảnh giới. Các căn ấy có các khổ não rong chơi theo các cảnh giới khác làm cho tất cả thân tâm khổ não. Do vậy nên nói kệ: Căn trong các cảnh giới Bị điều ác chế ngự Tâm thường bị thiêu đốt Tợ như hòn sắt nung. Như Lai dạy, lành thay! Đưa đến chỗ an ổn Họa các căn không còn Thiết gì các cảnh giới? Thế Tôn dạy biết rõ tâm như thế nào? Ngài dạy rằng tâm nương theo cảnh giới mà phát sinh và lớn dần. Tâm ấy loạn tưởng, không định giống như gió dữ. Tâm ấy không nhàm chán duyên ác nên gặp phải tai ương. Tâm ấy rong ruổi xa xôi giống như mộng tưởng. Tâm ấy tham đắm với cảnh giới giống như con khỉ. Tâm ấy chạy theo các thứ tham trước một cách tự nhiên giống như cánh con chim Khổng tước luôn theo bên mình. Tâm ấy rong chạy xa vời, suy tư về tiền tài sự nghiệp. Tâm ấy khởi lên các triền cái mê ám cũng như ngựa hoang không dừng nghỉ. Tâm ấy khó chế ngự vì luôn chạy theo các cảnh giới. Tâm ấy giống như vị vua thường làm theo ý mình. Do vậy nên nói kệ: Rất thâm diệu đệ nhất Tâm trí không hạn lượng Dạ-xoa, Tu-kiền-đạp Ba đời không tự giác. Tâm được tự tại rồi Tự nhiên có niệm ấy Thế gian không ánh sáng Như Lai chiếu pháp quang. Đức Thế Tôn đã giảng dạy nên giác ngộ về thế gian như thế nào? Ngài dạy rằng thế gian không phải là nơi để nương tựa vì luôn tham đắm tự thân. Tâm không nên nương tựa, tham đắm cảnh giới ở thế gian này. Trong thế gian này nghiệp ác luôn nương tựa các loại tà kiến như vậy. Những điều ấy được tạo ra một cách tự nhiên trong cõi thế gian. Người sống trong thế gian này thường rơi vào đường tà, trôi lăn trong ác đạo. Người thế gian sống trong cảnh ác như loài khỉ. Thế gian này bị ngũ ấm che lấp nên tối tăm, không ánh sáng. Thế gian này mù lòa tăm tối, không thể khởi lên con mắt trí tuệ. Thế gian này bị đói khát vì luôn khát ái không biết chán. Thế gian này bị các thứ kết sử trói buộc một cách mãnh liệt. Thế gian này có ít vị ngọt, giống như loài ong hút mật hoa. Không thể nương tựa vào thế gian này vì nó sẽ bị tan hoại. Thế gian này là cuộc viễn du, người đời cỡi xe mà đi. Thế gian này bị trói buộc, phải sống trong sinh tử. Thế gian này dẫn đến các thứ khổ não, sinh, già, bệnh, chết. Thế gian này chẳng vi diệu, chắc chắn phải tan hoại. Thế gian này không được cứu giúp, bảo vệ nên bị sự thống khổ bức bách. Thế gian này chẳng phải do ta làm ra, chắc chắn phải bỏ ta ra đi. Thế gian này là một bộ máy do các bộ phận xoay chuyển, nương nhau mà tồn tại. Trong cõi thế gian này, mọi hành nghiệp đều dẫn đến ác xứ. Thế gian này như trò huyễn hóa hiện ra sắc tướng. Thế gian này không có lợi ích, mọi vật sinh ra đều tan hoại. Thế gian này dễ duôi, cẩu thả, không phải là nơi để nương tựa. Thế gian này khó có cảnh giới giác ngộ. Do vậy nên nói kệ: Chúng sinh bị khổ não Nên quán đời không thật Lấy trí tuệ cầu đạo Cần thấy thân cận xứ. Từ nhỏ tăng lớn dần Niệm ái dục thân mạng Thân này chắc tan hoại Nên tịch diệt là vui. Đức Phật dạy ở trong đời này vượt khỏi con đường lầy lội như thế nào? Giống như hạt sen ở trong ao, mầm mộng sinh ra dần dần lớn lên trong nước, thân này cũng như vậy, khi chết theo thức vãng sinh, bị hành nghiệp hữu vi đã tạo vây quanh, nhờ gió lửa mà thành, bị tưới ướt bởi nước kiêu mạn. Sau khi chết, ở trong thân trung ấm mầm sống lại sinh ra. Giống như mầm sen sinh trưởng, cũng vậy, vì mầm sống đã sinh nên thân này chẳng đoạn diệt cũng chẳng thường trú. Giống như một người trước thấy mầm sen, cũng thế, chúng sinh bị trói buộc nên cho rằng thân này không đoạn diệt mà luôn trường tồn. Giống như mặt đất bị gió thổi, cũng vậy, thân tứ đại kiên cố nhận các khổ não và nương theo điều ấy nên tất cả chúng sinh đều cho đó là tự nhiên. Giống như loại hoa sen tự nhiên không hư hoại là do sinh ra mầm mộng vì vậy tất cả chẳng có gì là tự nhiên có. Tập hợp các ý nghóa đó để dụ cho thân tứ đại này khi bị gió thổi thì không còn tái tạo lại được nữa, do vậy cần phải xả ly đối với tất cả pháp. Giống như các bước phát triển của sự sinh trưởng kia, cũng vậy, pháp này tương tợ như hạt giống, mầm mộng của hoa sen và cũng như thế, tướng của Bậc Đại nhân thì không thể hủy hoại, những gì do chân tánh tạo ra giống như hạt sen sinh mầm mộng. Vì vậy trong vô số kiếp sống cũng không có sự sinh. Giống như mầm mộng kia khi sinh ra, không phải từ đâu mà đến, thân này cũng thế không đến không đi. Giống như khi hoa úa tàn thì không biết chỗ dừng nghỉ, thân này cũng vậy không có trụ xứ. Giống như mầm mộng kia đồng phát triển, dần dần nở hoa, thân này cũng vậy, không phân biệt cao thấp. Như mầm của hoa sen chắc chắn phải tăng trưởng dần dần, thân này cũng vậy, mầm mộng vốn đã sinh ra trong bào thai thì sẽ dần dần lớn lên. Giống như hoa sen lá xanh mơn mởn, thật đáng yêu, thân này cũng vậy các hành nghiệp đã tạo thật đáng yêu, đáng kính. Giống như khi hoa sen đã đến độ héo tàn, thân này cũng vậy, khi sắp chết, tóc, lông, móng, răng và năm căn đều sẽ rơi rụng, suy yếu; sáu tình suy hao, ý căn tán loạn, rời bỏ thân này tựa như hoa sen kia chắc chắn phải héo úa. Giống như dưới ánh sáng mặt trời, sắc hương của hoa rất đẹp, thơm, ong chúa hết sức vui thích bay lượn xung quanh, thân này cũng vậy, khi mới sinh ra, tứ đại như ánh sáng mặt trời chiếu soi, thai thành hình có sự nhận biết cùng loại với thức, vì vậy cùng kiêu mạn đồng nương nhau, khởi sinh niệm hết sức ái kính thân này; ở trong cảnh sinh tử đói khát cho dục là vui. Người ngu si luôn có tưởng điên đảo như vậy, thân này cũng thế, trong tất cả mọi thời không thoát khỏi già chết. Giống như hoa sen khi tàn úa không còn sức sống bị gió mạnh thổi phải rơi rụng tất cả, cánh nhụy hoa đều rời rã không có nơi để duyên theo, không có ong bu quanh, cũng không còn hương sắc, không còn làm người ta yêu thích, thân này cũng thế, ở trong cõi thế mạng sống dần dần suy giảm không còn sức lực. Người nào thọ mạng dài lâu thì các bộ phận trong và ngoài đều bị suy yếu, sức thanh tráng không còn, và đều phải tiêu hoại. Giống như hoa sen cánh rụng, nhụy tàn, cành khô héo, thân này khi ấy sẽ không còn răng tóc, không còn thấy, nghe, ngửi, nếm, không còn nhanh nhẹn, cũng không còn vui thích gì nữa. Khi thân già yếu, tánh kiêu mạn đều hết sạch, cũng không còn đắm trước vị ngon, vượt qua tình ý đam mê sắc dục; da mồi, mặt nhăn, không còn nét trai tráng. Bất cứ ai khi thân thể già yếu sẽ không còn yêu đắm các loại sắc bại hoại nữa. Loài người dù nam hay nữ đều do đắm trước nó nên bị nó làm hại. Giống như thân cây khô mục, không còn hương vị, tất cả bộ phận đều phải tan rã, thân này cũng vậy, khi mạng căn chấm dứt đều sẽ được chôn vùi trong lòng đất. Giống như hạt sen kia, sau khi đủ duyên lại sinh ra mầm mộng, thân tướng này cũng vậy, luôn luôn thọ hữu. Giống như cành hoa héo tàn kia, chúng sinh cũng như thế. Do vậy nên nói kệ: Cho nên phải bỏ hữu Cũng nên quán hoa ấy Như thân trong bào thai Cần siêng cầu tịch diệt. Muốn cầu mầm mộng sống Biết vui, không, vô hữu Muốn được đến bỉ ngạn Phải do tự ý cầu. Đức Thế Tôn dạy về biển có nghóa là gì? Nghóa ấy là độ chúng sinh đến bỉ ngạn là bậc nhất, tư duy để làm tăng trưởng công đức vô lượng, thanh tịnh không tỳ vết, có đại trí tuệ, giải thoát, không có tâm oán hận. Nhờ không lìa thiện căn, khéo giác quán nên được giải thoát là bậc nhất, danh tiếng đồn xa, trí tuệ trùm khắp, các loại hương thơm lan xa tợ như cội cây tươi tốt; đã tu tập đạt được thất giác ý, khéo phân biệt vô thường, khổ, không, vô ngã; phước trí đầy đủ, thường nhập Tam-muội, không có loạn tâm, khuyến trợ chúng sinh, làm cho họ phát tâm thiện, hay thành tựu tất cả các loại Tam-muội, là bậc Tối đệ nhất trong chúng Hữu học và Vô học, truyền bá chánh pháp chưa từng mệt mỏi, hóa độ một cách bình đẳng; nói lời chân chánh, nhu hòa, thanh tịnh không lỗi lầm, không có dâm, nộ, si, có công đức đứng đầu trong đại chúng, trải rộng lòng Từ đến tất cả chúng sinh khiến họ được an vui, tịch tónh; truyền dạy về các cảnh giới khiến tâm họ luôn được cung kính, được công đức vô cùng tận. Ngay từ quá khứ xa xưa, trong chín mươi mốt kiếp, Đức Thế Tôn dần dần thành tựu đức ấy, ngộ được tất cả nghiệp sâu xa, muốn cho tất cả chúng sinh đồng hưởng một vị ấy nên Ngài đúng thời thuyết pháp luôn phù hợp với căn tánh của họ. Ngài có đầy đủ mười lực và tất cả pháp đức quý giá, y cứ theo bốn món vô úy để đình chỉ và trú trong bốn đại; vì tất cả muôn loài thuyết pháp không lựa chọn cao thấp, đã độ đời bằng tám pháp (Bát chánh đạo), không có tâm tăng giảm. Do vậy nên nói kệ: Cho nên phải cầu độ Ân cần với Đạo Sư Biển Như Lai mênh mông Nên chắp tay lễ Phật. Ngài đã đạt giải thoát Phước đức thật vô cùng Chúng sinh thọ khổ, vui Nên cầu chỗ an ổn. Vì sao nói Như Lai là chiếc thuyền? Đó là nói các quả báo chắc thật do Ngài đã khéo tạo. Ngài đã tích tập các hạnh lành, không vi phạm, không thoái thất cũng không hề thiếu sót, đầy đủ các hạnh, chấm dứt vónh viễn các điều ác. Ngài dùng cấm giới làm pháp cam lộ tối thượng để phòng hộ thân, không chấp tưởng đoạn diệt hay thường trụ, đã an trú trong tịch tịnh, đã đạt được giải thoát hoàn toàn, thường yêu thích nhẫn, không khởi tâm sân hận, phân biệt năm căn, chánh kiến bình đẳng, không có dị tưởng; có đầy đủ các loại Tam-muội chánh định thanh tịnh, giải thoát Không, Vô nguyện, Vô tướng; tâm luôn biết tàm quý, không còn do dự. Đối với các loại pháp hành thiền định Tam-muội như thiền tịnh về tứ đẳng (tứ Vô thượng tâm), định vô sắc, Ngài đều phân biệt không hạn lượng, quán các pháp là bất tịnh, ô nhiễm nên được Nhẫn trí tối thượng luôn hiện tiền. Đối với dâm dục, Ngài tuệ quán, thấy rõ tất cả đều là bất tịnh nên thường có niệm xa lìa. Ngài dùng tâm chánh định vững chắc như kim cang để truyền bá chánh pháp, vì muốn cứu độ chúng sinh nên dùng vô số phương tiện. Ngài dùng tâm ý giác ngộ tương ưng với trí tu hành đạo giải thoát, không có tai họa, sinh, lão, bệnh, tử nhưng vì muốn cứu độ chúng sinh nên thọ thai. Công hạnh của Ngài đầy đủ trong suốt ba đời, không có gì có thể cản trở phá hoại. Ngài không ưa thích tất cả việc thế tục, quán tất cả tướng đều khởi tâm mong được xả ly. Ngài có tâm bất động, không tăng giảm như thế nên có năng lực độ thoát tất cả chúng sinh, lấy Thập lực làm thuyền bè cứu độ chúng sinh, đưa họ thoát khỏi đêm dài sinh tử đến bờ bên kia. Tâm Ngài luôn quán niệm cứu độ muôn loài mà không nghó đến thân mình. Ngài là bậc Thanh văn đệ nhất thể nhập, biết rõ ràng tất cả các pháp muội, đã tu tập nhiều pháp quán tưởng nên được cúng dường phan gấm, lọng hoa. Ngài dùng ba Tam-muội (Không, Vô tướng, Vô nguyện tam-muội) làm Pháp ấn, dùng chiên-đàn lạnh xoa thân, dùng năm phép thần thông quán thấy rõ, các loại sắc hương ở khắp nơi, lấy bốn Vô sở úy làm tù và, trống, chuông, đầy đủ không thiếu sót, tuệ quán vô thường, khổ, không, vô ngã, muốn được thoát ly khỏi biển sinh tử, hàng phục làm cho tan rã bè lũ ma quân, đạt đến Niết-bàn giải thoát. Ngài phân biệt tất cả pháp tướng, không thọ cũng không xả ly, viễn ly được thức xứ, tâm không còn niệm khổ, vui; đạt đến Niết-bàn. Ngài cỡi xe phước đức vì bốn bộ chúng làm cho họ được sự hoan hỷ tối thắng; dùng thuyền bè của thân, khẩu, ý thiện và Thập lực để chuyên chở chúng sinh đến với tất cả pháp lành, đạt được Niết-bàn. Do vậy nên nói kệ: Khổ hạnh vô số kiếp Nên tạo thuyền phước đức Khéo đến chốn an ổn Vì cứu hộ ba đời Tâm Ngài luôn hoan hỷ Thoát vượt bờ tử sinh Tất cả việc đã xong Diệt tận được an lạc. Đức Như Lai được gọi là vầng thái dương như vầy: Đó là nói Như Lai tu tập trọn vẹn thiền tứ Đẳng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) không thiếu sót, không có ác hạnh, khéo phòng hộ bằng tất cả giới, tiếng tăm vang dội khắp nơi nên muôn loài đều kính ngưỡng và khiến họ đạt được sự an lạc tịch tịnh, tâm họ được hoan hỷ. Trong vô số trăm ngàn kiếp, Ngài đã tu tập Khổ, Tập, Tận, Đạo, ngộ được Đệ nhất nghóa; dùng trí tuệ chiếu sáng, phá trừ màn tối ngu si, tiêu diệt khổ đau, du hóa trong chúng sinh khắp nơi làm cho họ đều thành tựu Thập lực, được tâm ý dũng mãnh vô úy. Trong ba ngàn đời Ngài đều phá ma, thương xót hộ trì cho người chưa được độ, trí không thể phá hoại. Lúc bấy giờ, đối với hạng người đó, Thế Tôn hiện ra như ánh sáng vầng thái dương, đầy đủ hạnh vô lậu, cỡi xe Đại thừa, hóa độ bình đẳng, không sợ hãi như gió lộng thổi buồm. Do các suy niệm hóa độ của Ngài đều tương ưng với chúng sinh trong hiện tại nên khi Thế Tôn lấy tâm đẳng chí (chánh định) hóa độ chúng sinh đều khiến họ đạt được trọn vẹn Tam-muội (chánh định). Ngài luôn suy tư đến tất cả muôn loài nên chúng sinh trong ba đời đều theo hộ vệ, đều vâng theo ý giáo của Ngài, không có lòng dục, nộ, si, kiêu mạn, trừ bỏ các kết sử; các chúng trời người đã tận trừ ngũ cái (năm pháp ngăn che các điều thiện) đều đem hoa đến cúng dường. Ngài giảng dạy giáo pháp làm họ sinh đức tin thánh thiện và đều khiến cho tâm họ tỏ ngộ, không có trần cấu, các kết sử không làm ngăn ngại. Đức Thế Tôn là ánh sáng của vầng dương như thế. Do vậy nên nói kệ: Đã đầy đủ trăm trí Toàn hảo với chúng sinh Hiện ánh quang ba đời Nên lạy bậc ánh sáng. Trăm kiếp vô số hạnh Diệt ngu si tối tăm Đã vượt qua bờ kia Nên lễ Đấng Tuệ Nhật. Vì sao có hình tượng hoa sen của Như Lai? Đó là nói về các công đức bậc nhất đã thành tựu của Ngài. Ngài do có đức tin nên đã vượt thoát khỏi ba cõi, trí tuệ bình đẳng thanh tịnh của Ngài phổ biến khắp muôn loài chúng sinh. Ngài nhờ sức mạnh tinh tấn nên được giải thoát, do tiêu diệt màn mây mù, vui trong thiền định nên được giải thoát, niệm giải thoát không có các tưởng, nhờ thiền quán nên chấm dứt các thứ tai họa ô uế, cũng không khởi lên dị ý, tu tập thành tựu trọn vẹn đầy đủ đẳng kiến và biết rõ như vậy, hương giới định của Ngài tỏa ngát bốn phương, dùng ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp muôn loại chúng sinh tợ như loài ong hút bao nhiêu loại mật đều phân biệt được; được giải thoát hoàn toàn khỏi tam hữu. Đối với tất cả chúng sinh có lòng tin tưởng, mong cầu, Ngài dùng các phương tiện để làm cho họ được an ổn, tuệ quán sâu xa không nhàm chán, tất cả căn không khuyết lậu. Ngài làm chấm dứt các tai họa dâm, nộ, si trong tâm chúng sinh, làm cho không còn bốc cháy nữa, trở thành vô cùng thanh tịnh, nhu thuận và được độ thoát. Do vậy nên nói kệ: Ngài sinh ra thanh tịnh Cúng dường hoa khó sánh Đủ vô số công đức Thật vi diệu tối thượng Muốn được vui tịch tónh Chúng sinh được thanh tịnh Giác ngộ, tỏ muôn loài Nên gọi Thường Hữu Thanh Những điều tán thán Ngài Cùng thế gian tương ứng Sắc vi diệu bậc nhất Hương lành thật vi diệu Tối Thượng giữa loài người Được thế nhân ngợi khen Nay con cúi đầu lạy Bậc Thánh vô nhiễm trước. Bậc Nhất Thiết Trí có hình tượng mây như vầy: Đó là nói trong chín mươi mốt kiếp Ngài đã tu tập tư duy và dùng thần lực chế ngự các pháp bất tịnh nên lời nói ra không có sai khác, sạch hết ái dục, không còn sầu lo; ở trong Tam-muội đến được bỉ ngạn; vì tất cả chúng sinh dùng tâm đại từ bi làm cho họ đạt được đầy đủ phước đức và khiến cho họ đạt được tịch tịnh; dùng quán tâm mà quán chúng sinh. Trong ba đời đối với nhân dân và các chúng A-tu-luân, quỷ thần, Ngài đều thực hành lòng Từ, làm cho họ được thanh tịnh, mát mẻ, được vào cửa giải thoát, đến nơi rốt ráo. Ngài lại dùng ánh sáng trí tuệ tẩy rửa làm cho thanh tịnh chúng nhân, từ người nam đến người nữ đều được thiện lợi. Ngài du hành hóa độ chúng sinh nên thành tựu các nhẫn nghiệp, được pháp thậm thâm, biết rõ căn tánh thiện của chúng sinh nên trồng căn lành. Với chúng sinh đói khát vị ngọt cam lộ, Ngài lo họ không được độ thoát, lấy pháp tu hành khiến chúng sinh giác ngộ tất cả hành hữu vi đều vô thường, khổ, không, tất cả pháp là vô ngã, Niết-bàn là vui đệ nhất, bình đẳng độ thoát sự khổ vui ấy, khéo phân biệt được đầy đủ ngôn ngữ. Ngài ở trong các chúng khen ngợi pháp lành, trồng gốc giải thoát; các pháp dâm, nộ, si, kiêu mạn đều lìa bỏ, dùng tâm kim cang vô úy, độ thoát tai họa cần khổ của chúng sinh. Trong các chúng khác Ngài trao truyền chánh pháp. Đối với những người có tánh hung tợn, Bậc Nhất Thiết Trí làm cho họ thương yêu tất cả. Ngài tuệ thí cho tất cả chúng sinh mà không đắm trước cho nên phải chắp tay đảnh lễ Bậc ban mưa pháp cam lộ. Do vậy nên nói kệ: Công đức hiện chói sáng Mây thập lực vô song Nên phát tâm hoan hỷ Bậc thuyết pháp trừ khát. Đã được Vô sở úy Là mây Nhất thiết trí Hàng phục chúng ngoai đạo Cho nên uống cam lộ. Đức Thế Tôn nói về ngọn lửa như vầy: Đó là nói tâm hạnh mong cầu của Ngài làm cho tất cả chúng sinh đang mong cầu hỷ lạc, giải thoát, đạt được bốn tâm bình đẳng, mọi sở cầu đều được thành tựu, đầy đủ Đệ nhất nghóa cùng tương ưng với trí, có được thần lực chánh định toàn biến, các thứ danh văn và các căn lực đều đầy đủ, có được sức Tam-muội thậm thâm, với trăm ngàn vô số loại căn, giới và trong tất cả pháp được tự tại. Bậc Tối Tôn ba đời có oai thần thập lực nên được tâm vô sở úy, là Bậc Giải Thoát Tối Thượng, là Bậc đã đạt được ánh sáng đệ nhất, không tịch đệ nhất. Do có đức như vậy nên Ngài truyền bá giáo pháp sâu xa, dạy bảo chúng sinh thực hành nhẫn nhục. Lời Ngài không có sân hận, êm dịu, không làm thương tổn ai, diệt trừ tất cả kết sử nên hàng đệ tử hữu học và vô học trong bốn bộ chúng của Ngài đã khéo tu hành. Ngài đã chỉ dạy, truyền trao chánh pháp cần khổ như thế nên công đức của Ngài thật vô lượng, thành tựu trí tuệ, hướng đến Niết-bàn, được cúng dường, tôn trọng bậc nhất. Ngài làm tươi mát cho chúng sinh nên phải chắp tay đảnh lễ ngọn lửa của Phật. Do vậy nên nói kệ: Hay thiêu đốt cỏ cây Khó thể ngăn được lửa Lửa Phật vi diệu nhất Cho nên cần đảnh lễ. Lửa Phật đã trừ tận Không còn sinh khổ, vui Vì Phật có công đức Lưu truyền khắp thế gian. Bấy giờ Đức Thế Tôn trụ tại khu viên quán rất thanh nhã, thành tựu cấm giới. Nơi đó không có năm triền cái, cũng không có đá, cát ô uế, cũng không có núi non nên với tất cả các pháp căn bổn Ngài đều tự tại, tâm đại từ bi thanh tịnh, không có cấu uế; tâm Ngài vô cùng hỷ lạc, thẳng đến giải thoát. Ngài có công đức tư duy như thế nên thuần thục các hạnh, mọi việc làm đều có sức dũng mãnh, thành tựu căn bản thiện và đạt tâm bất động đối với pháp nhẫn; có cái nhìn bình đẳng không còn nghi ngờ, tám Hiền thánh đạo đều đầy đủ nên được các sự cúng dường. Ngài đã thực hành vô số hạnh không thể kể hết, thành tựu trọn vẹn các pháp giới, định thập lực không còn nghi ngờ; đã giải thoát khỏi ấm cái (phiền não ngăn che thiện pháp), được thanh tịnh theo thệ nguyện đã phát. Như một cội cây có cành, lá, quả tươi tốt đúng thời nở nhụy khai hoa, các pháp ấy sinh ra như trăm ngàn cội cây trong khu rừng Tam-muội đều đồng loạt đơm hoa, kết trái sinh tươi. Ngài thấy bình đẳng, không tà kiến, tự thân lạc trú trong thiền vô sắc, luôn từ bi hoan hỷ cứu độ chúng sinh. Ngài ngụ trong khu viên quán ấy phân biệt thất giác ý (thất giác chi), nội tâm an tịnh chứng đệ nhất quả Thanh văn, luôn biết tàm quý, thường niệm tuệ thí. Do Ngài mong cầu xuất ly nên có đám mây mát mẻ ấy. Ngài nỗ lực tận trừ các kết sử, dũng mãnh mong được giải thoát, công đức không thể hủy hoại; thiện pháp tập trung nơi Ngài. Ngài diệt trừ dâm, nộ, si cho chúng sinh để họ đạt được Vô sở úy như các vị A-nhã-câu-lân, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Ca-chiên-diên Tử, A-na-luật, Nan-đề, Kim-tỳ-la, Nan-đà, Ly Việt. Trong khu vườn Thanh văn, Ngài là vua của chúng Thanh văn, công đức không ai sánh bằng; Ngài là ao tắm thanh tịnh, ban bố các pháp thiện mà ba đời đều tán thán cho tất cả chúng sinh cho nên phải chắp tay đảnh lễ. Do vậy nên nói kệ: Ba đời hoằng thiện pháp Vì chúng sinh gieo mầm Hoa giác ý điểm thân Thành tựu quả giải thoát. Vua của chúng Thanh văn Sinh công đức toàn tịnh Luôn mong cầu giải thoát Tất đạt chốn an lạc. Đức Thế Tôn tuệ quán Không như sau: Ý đồng một sắc trải rộng vô biên nên gọi là Không, đoạn các ái dục tất cả đều không trụ, dùng quả báo của trí, thấm nhuần tất cả, không có các kết sử, cũng không có các triền cái, lấy Tam-muội chánh thọ độ các trần cấu, thấy rõ con đường quan trọng để giải thoát sinh tử. Như trăng thanh tịnh phát ra ánh sáng lành, Ngài đã tạo vô lượng công đức, ý nghiệp luôn chuyên nhất, trọn đời tu phạm hạnh, tâm thường hoan hỷ, mắt trí tuệ thanh tịnh nên cảnh giới cũng thanh tịnh. Do Ngài đã đoạn các kết sử nên không có tâm đắm trước; vì đã đạt tâm đại từ nên không trụ tất cả pháp; vì ý phân biệt rõ nên mọi việc làm đều được thành tựu; vì được cúng dường nên không nhiễm kết sử; do y cứ vào tâm ấy nên Ngài không bị tịnh hay bất tịnh làm nhiễm ô tâm; nương tựa chúng Thanh văn nên được các loại chim vây quanh; do chỉ quán đầy đủ nên có sự vi diệu không cùng tận; do Ngài an trụ trong rừng Tam-muội được nên các tinh tú xoay quanh; do dùng chánh pháp để hàng phục ngoại đạo nên khó có thể trù lượng. Cần quán như thế, giống như một người hoan hỷ vì hành nghiệp của mình đã thành tựu trọn vẹn, chắc chắn không còn tâm nghi ngờ, không thoái chuyển tâm giải thoát, giác ngộ. Do vậy nên nói kệ: Niệm hoan hỷ ái lạc Vắng bặt các trần cấu Nếu có bao nhiêu sắc Đều có thể phân biệt. Tâm bình đẳng độ sinh Con nay mong tán thán Ngài đã đến bờ kia Không có tâm hỷ lạc. Đức Thế Tôn có pháp luân như vầy: Ý Ngài an tónh, vắng lặng, đầy đủ căn, lực, giác ý không khuyết lậu, nên tất cả đều tự trang nghiêm. Ngài lấy các pháp tứ Thần túc tối thượng, tứ Ý đoạn (tứ Chánh cần) khéo trang nghiêm thân, miệng khéo thuyết giáo truyền bá, thông đạt thất giác ý, đẳng kiến nên được giải thoát; nhờ chỉ quán nên tâm không có si ái, đã đạt Tam-muội ấy nên được tâm Vô sở úy; vì rống lên tiếng rống sư tử nên không còn sợ hãi; biện tài vô ngại, được tín hoan hỷ, tinh tấn không có niệm giải đãi; đã qua mọi cảnh giới nên được trí tuệ giải thoát; dạo qua cảnh giới của ma mà không có dục ái; công đức đầy đủ, tiêu diệt các đường ác; với quả tam thừa vi diệu khéo thành tựu đệ nhất; diệt các chúng ma, tam dục<註 n="22"/>22 vónh viễn chấm dứt; các sự cầu lo khổ não vónh viễn chấm dứt không còn, cũng không có tâm hữu ái, cũng không có ngũ cái, cũng không có tâm ô nhiễm, cái gì nương nơi thân đều xả ly hết; trừ bỏ tâm nghi ngờ, không ám độn, si mê, có giác có quán cũng không kiêu mạn; tùy thời thuyết pháp, không điên đảo, có oai lực vónh viễn trừ hết tà kiến, đưa đến hoan hỷ, diệt trừ kết sử, hàng phục chúng ma. Do vậy nên nói kệ: Được mọi người cúng dường Độ muôn loài chúng sinh Che chở người cô thế Chuyển Pháp luân trước ma Pháp ấy thật tối thắng Trời người đều tán dương Danh tiếng Ngài vang lừng Bậc thuyết pháp tối thượng. Đức Thế Tôn nhờ loại Kim cang gì mà hàng phục được các ma? Là do lúc bấy giờ Thế Tôn cỡi xe cấm giới, mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn, có các lực nhẫn nhục, dùng đám mây lớn làm dù lọng thanh tịnh; lấy không kết sử, vô dục để phòng hộ tâm, luôn giữ cái nhìn bình đẳng; nhờ Tứ thiền mà tham ái và ngã mạn được giải thoát thanh tịnh, đẳng chí, đẳng ngữ đều được thanh tịnh; lấy trí biện tài và thần túc để trang nghiêm. Ngài tự giữ tâm ý chuyên nhất nên giải thoát hoàn toàn khỏi dâm, nộ, si; dùng giác ý, giải thoát làm ngọn đuốc sáng; đầy đủ tất cả pháp, không có tam ái; vượt thoát mọi kết sử, không sức mạnh nào có thể phá hoại; đến được biển Niết-bàn không có tai họa thế tục; dùng trí tuệ kim cang, lại dùng trí nghiệp diệt trừ các đường ác nên được giải thoát, đầy đủ Thập lực và Tứ vô sở úy. Xưa kia Ngài đã tu tập hàng phục các ma, việc làm ấy không hề tan hoại, tất cả các loại chúng hữu tình đều được độ thoát, diệt trừ các chúng ma mà không đắm trước. Do vậy nên nói kệ: Ma quân đến khủng bố Ý tinh tấn kim cang Hàng phục bè lũ ma Các chúng sinh có tưởng Nhờ hành Tam-muội này Và các trần cấu khác Kết sử đều đoạn trừ Nên cúi lạy Mâu-ni. Vì sao nói Đức Thế Tôn dùng mưa pháp để tưới ướt chúng sinh? Đó là vì Thế Tôn chuyển pháp luân bất tử, ở giữa tám bộ chúng tán thán pháp ấy, những pháp mà trong trăm kiếp Ngài đã tu hành cầu thiện hạnh. Ngài đã an trụ tâm Từ chuyển pháp thanh tịnh, kiên cố như thế; là pháp kiên cố của bậc Hiền thánh, là pháp từ trong tâm sở quán của Bậc xuất trần nên có đại oai thần, không đắm trước, lại do lực của nhẫn trí nên tất cả pháp ấy đều đưa đến cửa giải thoát kiên cố. Ví như ngọc anh lạc và các loại bảo vật quý giá, bổn nguyện của Ngài đã viên thành. Ngài phương tiện trụ ở tịnh xứ vi diệu phương Đông, ngồi trang nghiêm dưới tàng cây Bối-đa<註 n="23"/>23 hướng về phương Đông thiền quán, chư Thiên hiện ra đầy hư không. Khi ấy Đức Phật rất vi diệu, chư Thiên ở giữa hư không vô cùng hoan hỷ, tung rải hoa xuống cúng dường, tán thán. Khi Ngài thiền quán, chúng A-tu-luân và các thần tiên nghe đức của Ngài như vầy: “Thuở xưa Đức Phật đã tạo tràng hoa sen cực đẹp dâng cúng và tán thán Phật Định Quang, Phật Tùy Diệp, nên ở trong đại chúng tâm Ngài được tự tại bậc nhất.” Lúc đó Đức Thế Tôn Thích-ca Văn là Bậc Nhất Thiết Trí, được chúng chư Thiên hoan hỷ, tất cả đều do công đức xưa kia Đức Phật đã tạo. Như Chuyển luân thánh vương được tự tại đối với cảnh giới, Đức Thế Tôn cũng như vậy, ở trong các pháp vô lậu, Ngài đã được tự tại. Giống như Chuyển luân thánh vương ở trong cảnh giới tự tại, có thể làm chấm dứt sự đấu tranh của muôn loại chúng sinh, Đức Phật Thế Tôn cũng như thế, nếu có chúng sinh nào trong chúng Thanh văn có tâm hồ nghi đối với chánh pháp, Ngài làm cho đều đoạn trừ. Giống như vua Chuyển luân thánh vương có nhiều của báu có thể đem bốÏ thí cho tất cả những người nghèo khó, Đức Phật cũng như vậy, với những chúng sinh thiếu của báu Hiền thánh, Ngài liền đem Thất (thánh) tài mà tuệ thí cho. Giống như Chuyển luân thánh vương dẫn dắt chúng sinh, chỉ cho họ chánh pháp, Đức Thế Tôn cũng như thế, chỉ dạy cho chúng sinh đến đạo Niết-bàn. Giống như Chuyển luân thánh vương xuất hiện ở thế gian, những chúng sinh bị nhốt trong lao ngục đều được thả ra; Đức Phật Thế Tôn cũng như vậy, khi xuất hiện ở thế gian, chúng sinh ở trong lao ngục sinh tử đều được giải thoát. Do vậy nên nói kệ: Phật, Pháp Vương đệ nhất Không ai quý hơn Ngài Thương xót khắp chúng sinh Phật che chở ba cõi. Đáng thờ đáng cung kính Độ người chưa được độ Công đức Phật thậm thâm Giác ngộ người si ám. Đức Thế Tôn có thành trì như thế nào? Thành trì đó chính là thiền định, trí tuệ của bốn quả Hiền thánh. Ở trên nền đất giới định, tướng thiện lành, hạnh vô vi, lấy trí tuệ làm thành quách, lấy Tam-muội để đuổi quân địch, lấy cửa giải thoát làm cửa thành, lấy đẳng kiến (cái thấy bình đẳng) làm đường, lấy niệm làm tường vách, lấy tâm định tónh làm hào, lấy ngũ căn làm nhà, lấy thiền làm phòng ở, lấy tàm quý tự ngăn che và chỉ đường, lấy thần túc du hành không bị chướng ngại, lấy hoa giác ý để tự trang sức, lấy quả chân thật làm bước đi, lấy quả thứ nhất của hiền thánh để tự vui thích, rất an ổn, dạy bảo chúng sinh khiến họ đều được tế độ như Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên vàvô số chúng đệ tử có tâm thiện. Ngài thường du hành giáo hóa đầy đủ điều lành, khiến chúng sinh được giác ngộ. Ngài ở trong ao đó tắm rửa, lấy giới làm hương xoa thân, lấy trí tuệ biện tài làm pháp phục để trang nghiêm thân, lấy Tam tam-muội (Không, Vô tướng, Vô nguyện) làm món ăn, lấy pháp vị làm nước uống, đầy đủ bảy món báu. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì đại chúng Hữu học và Vô học đang vây quanh, muốn cho họ đến Niết-bàn, đến chỗ vô úy, cũng không thoái chuyển, vô dục; đối với chúng sinh Ngài làm cho họ có đầy đủ pháp lực Vô sở úy, khi thọ các ấm không đắm trước trần cấu. Do vậy nên nói kệ: Các ác đã chấm dứt Giới pháp Phật chế đặt Khiến chúng sinh thanh tịnh Pháp Đấng Thập Lực tuyên Ở trong thành của Phật Luôn sợ sinh, già, bêïnh Không đến được Niết-bàn Đều do chúng sinh khổ. NHỮNG KINH DO TĂNG-GIÀ-LA-SÁT TẬP THÀNH <卷 id="50112222">Quyển 3 Bấy giờ Đức Thế Tôn nói về đạo tích như thế nào? Khi đó Thế Tôn dạy về đạo tích như vầy: Giống như con đường lớn của vua đi gọi đó là vương lộ, đối với tinh tú thì gọi là đường đi của tinh tú. Đạo tích ấy cũng thế, con đường đi đến Niết-bàn nên gọi là đạo lộ Niết-bàn. Đó là con đường chắc thật đưa đến đẳng kiến (chánh kiến), đẳng chí (chánh định), đẳng ngữ (chánh ngữ), đẳng mạng (chánh mạng), đẳng phương tiện (phương tiện bình đẳng) không khuyết lậu, đẳng niệm (chánh niệm) vô lượng, đẳng tam-muội, sắc không đổi khác. Duyên theo đạo tích ấy, nếu gặp sắc, không khởi ý dâm dục cũng không có trần cấu, vónh viễn không khởi kết sử nữa, không ái trước với sắc, cũng không có các gai nhọn (niệm dục), do tâm mong cầu diệt ái nên cũng không vướng bùn lầy, vì muốn trừ bỏ tà kiến nên đầy đủ đẳng kiến, vì diệt hoàn toàn các kết sử nên chúng không còn khởi lên nữa, do có quả vi diệu ấy nên hiện các thứ nghóa, vì muốn trừ bỏ tâm vọng cầu cho nên không có các tưởng, vì muốn cầu sự an lạc của con đường thoát ly sinh tử nên các quả thành tựu, vì không chấp vào con đường đưa đến giải thoát nên bình đẳng độ chúng hữu tình, vì Ngài đã trải qua con đường ấy nên đó là đạo lộ duy nhất, không có đạo lộ thứ hai, là duyên đưa tất cả chúng sinh đến được Đệ nhất nghóa xứ. Khi đã một lần tự thệ nguyện đến với đạo thì gọi là Nhất nhập. Lúc ấy, Đức Thế Tôn đã dùng đệ nhất biện luận để ngộ đạo. Do tự thân Ngài ngộ được nên con đường đó không bại hoại, nhờ đã tu tập các nghiệp tối thắng nên Ngài không có loạn tưởng, đã được quả báo, được các căn lành, có năng lực giác ngộ cho chúng sinh nên Thế Tôn đã dạy về con đường đó đưa chúng sinh đến giải thoát. Do vậy nên nói kệ: Hưng khởi cho muôn loài Bằng đạo pháp cam lộ Phật có công đức này Là Đệ nhất thế gian. Con nay đã tự được Đủ giới cấm trong lành. Thuyết pháp vì Thiên nhân Cho nên con đảnh lễ. Đức Thế Tôn biết nay cần phải giáo hóa Ương-quật-man. Vào thời bấy giờ Thế Tôn không cần biện luận với hạng người ác tri thức, mà họ lại tự giác đến với đạo. Chỉ còn có một người, khi anh ta đi đến đâu là máu chảy ngập đường, mọi người đều biết tiếng, chim quạ, chim Thứu các nơi đều bay theo anh ta để ăn thịt xác chết. Bước đi của Ương-quật-man nhanh như gió. Khi anh ta dỡ chân lên, mọi loài cầm thú đều kinh hoàng bay chạy trốn. Lúc ấy Ương-quật-man ở trong vườn Xà-lê nhìn ngó khắp nơi chẳng thấy ai, chỉ thấy Đức Thế Tôn có thân tướng vô cùng đẹp đẽ, trang nghiêm, tỏa ánh sáng màu vàng tía, lưng Ngài thẳng đứng, thân thể rất nhẹ nhàng, nghiêm trang, cất bước đi rất thong thả. Ương-quật-man vội dùng hết sức đuổi theo sau Đức Phật. Khi ấy Thế Tôn vẫn bước đi thong thả nhưng anh ta không thể nào đuổi kịp. Bấy giờ Thế Tôn liền biến mặt đất trở thành hầm hố gai góc. Chính do điều này nên Ương-quật-man không thể đuổi kịp Ngài. (Có thuyết nói: “Chân Ngài bước nhẹ trên mặt đất nên anh ta không thể theo kịp Đức Thế Tôn”. Cũng có thuyết nói: “Ngài hóa thân tứ đại thành vô sắc nên mắt anh ta không thể thấy được”. Hoặc có thuyết nói: “Công đức của Phật không thể nghó lường, dù sức của Ương-quật-man có bằng sức của voi dữ cũng không thể địch nổi. Bởi vì oai lực của Phật không thể nghó bàn, giả sử có trăm ngàn con thần long có sức mạnh của thần Na-la-diên cũng không thể đến gần Đức Như Lai được”.) Khi ấy Ương-quật-man khen ngợi: –Thật là việc chưa từng có. Rồi thưa với Đức Phật: –Ý đó của Ngài thật là kỳ diệu. Ngay khi ấy tâm Ương-quật-man không còn ý tưởng giận dữ, giết hại, liền suy nghó: “Đây là ân đức của ai? Vị ấy chắc hẳn là Bậc Thần nhân. Trong đời ác thế này ta lại gặp được điều tốt lành, thật giống như đói khát mà được ăn uống và tâm ta lại sinh ra ý niệm yêu thương. Thế nhưng ta không thể chạy theo kịp Ngài. Vị ấy chắc chắn là Bậc Thiện tri thức. Nay ta đã quá mệt mỏi nên đứng lại.” Từ xa anh ta nói với Thế Tôn: Hãy vì thân của con Bậc thế gian khó gặp Nay con thấy đức Ngài Xin dừng lại giây lát. Đức Thế Tôn bảo rằng: –Tự ngươi không dừng, lại bảo Ta dừng lại. Khi ấy Ương-quật-man thưa với Đức Phật: Chính Sa-môn không dừng Tôi đứng, bảo không đứng Sao bảo tôi không dừng Xin Thế Tôn nói rõ. Bấy giờ Đức Phật bảo: Không làm ác là đứng Luôn trì giới, giúp người Như đệ tử Ca-diếp Cho nên ngươi không dừng. Do có chút ít hạnh nghiệp xưa kia nên các ý niệm ác trong tâm Ương-quật-man như tâm sát hại vónh viễn đoạn trừ. Anh ta liền buông kiếm, cởi bỏ các binh khí đang mang, đứng sang một bên, thưa với Đức Phật: Nay Ngài là Thầy con Được gặp Bậc Thánh Sư Con xin làm đệ tử Quyết không phạm giới cấm. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo rằng: –Thiện lai Tỳ-kheo. Rồi Ngài nói kệ: Giống như lòng đại dương Cũng sinh khói lửa nóng Ai chưa được hàng phục Nay nên nghe Ta dạy: Ai đã khéo hàng phục Thanh tịnh được độ thoát Đã là đệ tử Ta Như vậy không thọ hữu. Kẻ mọi người hãi kinh Và các thần, yêu quái Nơi ở của quỷ thần Bậc Thắng Nhân đến đó. Bấy giờ quỷ A-la-bà nghe quỷ Yết-đà-phi thuật lại bài kệ trên liền bừng bừng tức giận, sắc mặt biến đổi, lửa sân hận nổi lên, mắt đỏ ngầu như đồng đỏ, thét gào như tiếng sấm vang, giận dữ vô cùng, lắc đầu, bậm môi, toàn thân rúng động, hét lớn: –Ở thế gian này, ta không thấy ai có thể đến chỗ ở của ta được. Nhưng rồi lòng y sinh hồ nghi: “Tại sao người ấy lại đến được chỗ ta?”. Lúc đó, hai vị quỷ thần tên Bà-đa và Lê-hê-ma-phi-đà là thượng thủ trong chúng (hai vị quỷ thiện) liền bảo vị đại quỷ thần kia: –Ngài chớ nên nói lời ấy. Đức Phật Thế Tôn có thể hàng phục người chưa hàng phục. Người có thể làm cho chúng sinh đạt được đạo vô thượng, khiến cho chúng sinh hữu hình được ủng hộ. Ngài làm như vậy là không phù hợp với phước điền. Nay ngài nói lời thô ác ấy là không phù hợp với Thế Tôn. Khi ấy quỷ A-la-bà càng tức giận bừng bừng hơn nữa, hơi thở dồn dập giống như lửa nóng, trông rất hung ác, rời khỏi ma giới đến chỗ Thế Tôn. Do tâm tràn ngập giận dữ nên thân thể y trở thành đen đúa, sắc mặt thay đổi không giống lúc bình thường, há miệng nhe bốn chiếc răng, tóc vàng cháy như màu vàng ròng xõa xuống tận đất, máu trong người ứa ra, chảy ướt đẫm làm ô uế thân hình, khoác trên thân bằng các loại da sư tử, da voi, da trâu; vòng hoa lớn trên đầu y tựa như vòng lửa lớn nóng bức, tay cầm dao kiếm san bằng mặt đất, phá non, dời núi rừng, chặt cây để đi; hoặc kéo mây lớn che khuất ánh sáng mặt trời, từ hư không làm mưa sấm tuôn nước xuống, tiếng sấm vang rền khắp nơi, đến chỗ Đức Phật muốn làm hại Ngài. Các loại cây cối đều bị thiêu rụi, đen cháy. Quỷ vương tay cầm bánh xe tạo ra sấm sét liên hồi, lòng căm hận giận dữ quán sát Như Lai. Đại quỷ A-la-bà đã hiện ra các loại biến hóa như thế để mong hại Như Lai. Bấy giờ Đức Phật nói kệ: Chúng sinh lòng sợ hãi Tâm Ta không di động Ta đạt pháp giải thoát Không còn tâm hoảng kinh. Ở trong lửa không sợ Ta cũng không sợ nước Kẻ tâm đầy niệm ác Làm sao hại được Ta? Khi ấy quỷ A-la-bà nghe bài kệ của Thế Tôn nói xong liền tự suy nghó, biết rằng không thể đến gần nơi của Bậc Vô Úy để phá hoại, nên tuôn xuống một trận mưa đá lên Như Lai, nhưng tất cả hạt mưa đá không rơi xuống đất mà mỗi hạt mưa đều tản ra chỗ khác, hoặc có hạt mưa nào rơi trên thân Như Lai đều hóa thành những bông hoa Mạn-đà-la. Lúc bấy giờ đại quỷ vương được thấy năng lực của Như Lai liền khen là chưa từng có, khởi tâm hoan hỷ, đến chỗ Đức Phật bảo: –Sa-môn mau ra ngoài. Đức Thế Tôn liền đi ra. Khi ấy vị đại quỷ ấy muốn thử Thế Tôn, nên lại nói: –Sa-môn hãy vào lại. Nhưng Thế Tôn vẫn không có tâm oán hận, liền trở vào trong. Ngài ra vào như vậy đến ba lần, như trong Khế kinh đã rộng nói. Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ: Chư Phạm thiên, Đế Thích Không động sợi lông Ta Huống chi sức của ngươi Làm sao hại Ta được? Nay ngươi bỏ sân hận Có điều nghi cứ hỏi Có điều do dự gì Ta sẽ tuần tự giảng. Lúc đó đại quỷ kia liền hỏi: –Con người vì sao là tối thượng…? Như trong Khế kinh đã rộng nói. Thế Tôn liền giảng dạy. Ngay trong thời pháp, quỷ vương ở chỗ Đức Phật phát tâm hoan hỷ, nói kệ: Chưa từng thấy có người Như vị Sa-môn ấy Ai bỏ được đại hải Lấy vũng nước chân trâu Ngài đã vì thân con Mà nói pháp chân thật Ai không uống vị này Sẽ bỏ qua diệu pháp. Ngài như vị lực só Thấy người bị đắm chìm Cứu kẻ đó thoát nạn Đưa đến bờ vô vi. Sắc đẹp không ai bằng Được người trí tôn ngưỡng Chính do có nghóa này Nên nói ra pháp ấy. Con nay quy y Phật Tam bảo là tối tôn Vì vậy người nguyện cầu Tất cả được tế độ. Nghe như vầy, đại thần Ngũ Địa ở thành La-duyệt thuộc nước Ma-kiệt, là người có thế lực lớn, hay cứu giúp người dân, có tài sản sung túc, đất đai phì nhiêu. Tất cả bậc hiền nhân trong nước không ai bằng ông; ăn toàn các thức ăn thượng vị, ba việc (ăn, mặc, ngủ) đầy đủ, cũng không có các phiền não, tợ như khu vườn Hoan hỷ của trời Đế Thích, là bậc nhất trong các cõi trời. Lúc bấy giờ Đức Phật Thế Tôn là Bậc Tối thắng, không ai sánh bằng. Khi ấy Điều-đạt luôn ôm lòng sân hận đối với Thế Tôn, không ngớt làm các việc phi pháp. Do sân hận, Điều-đạt leo lên núi Kỳ-xà-quật, nơi có nhiều viên quán, cây cối rậm rạp, suối khe trong mát, tay cầm đá dự tính ném vào Đức Phật. Khi Như Lai đi tới, ông liền ném đá. Lúc đó viên đá kia không hiểu vì sao bỗng nhiên có năng lực tự kềm chế từ từ rơi xuống đất. Do Điều-đạt làm việc phi nghóa nên tất cả chúng quỷ thần đã giữ viên đá lại không muốn cho nó rơi xuống đất. Quỷ Kim-tỳ-la, đang ở trong núi Kỳ-xà-quật cũng dùng sức của mình giữ viên đá lại. Thấy viên đá sắp rơi xuống, vị quỷ ấy thầm nghó: “Đây chính là nghiệp ác. Tuy nhiên chúng Dạ-xoa của ta phải lấy thân mình để hứng lấy viên đá kia để Đức Thế Tôn được hoàn toàn an lạc. Vậy ta nên làm việc ấy”, liền nói bài kệ: Tâm thanh tịnh không uế Nên khởi theo việc nghóa Nay ta thà mất mạng Không để hại Thế Tôn. Bấy giờ Điều-đạt liền dùng đá ném Đức Thế Tôn. Vị quỷ ấy ở trên núi dùng tay đỡ lấy viên đá, có một mảnh rơi xuống trúng Như Lai làm cho ngón chân Ngài chảy máu. Do việc làm ấy nên Điều-đạt chịu vô lượng tội, thọ lấy quả báo phải rơi vào địa ngục. Ngay khi viên đá rơi xuống đất, các vị trời ở cõi Tam thập tam thiên rải hoa cúng dường Đức Phật với tâm niệm không, giải thoát. Lúc bấy giờ hoa tung xuống đầy khắp hư không. Đức Phật trụ ở giảng đường Thọ hóa, dưới cội Trú đạt thọ ở cõi trời thứ Ba mươi ba, phát ra một luồng ánh sáng chiếu khắp nơi; ánh sáng ấy không có lòng kiêu mạn, thương yêu tất cả chúng sinh. Khi Phạm chí Phả-la-đọa dùng năm trăm việc để chửi mắng hay khi Tôn giả Xá-lợi-phất và chúng Tỳ-kheo khất só tán thán, lúc ấy Như Lai dù bị hủy nhục vẫn không vì việc đó mà buồn, hoặc được khen ngợi vẫn không lấy đó làm vui. Khi đó Ngài nói kệ: Chịu khổ, tâm không dời Như An minh bất động Định ý, thật vững vàng Cho nên lễ bậc Thánh. Phật vì các chúng sinh Tạo công đức vô lượng Như cha hiền yêu con Có ai không lễ bái. Từng nghe như vầy: Đức Thế Tôn ở tại nước Ma-kiệt. Bấy giờ Thế Tôn đầy đủ vô lượng công đức, đến giờ đắp y ôm bát cùng đại chúng có các căn vây quanh, nội tónh nhất tâm, không chút não loạn, bước đi vững vàng, thong thả hướng dẫn vô số các vị Tỳ-kheo, sắp đi vào thành. Ngay lúc bấy giờ đức vua nước Ma-kiệt có một con voi tên Đàn-na-ba-la, thân hình rất đẹp, trên đầu nổi lên ba ngấn thịt, tiếng rống trong trẻo, vang dội, ý dục hoành hành, khó ai có thể chế ngự được. Mỗi khi nghe tiếng lạ hay tự quay đầu nhìn thấy bóng của chính mình, nó đều sinh giận dữ, điên cuồng. Không ai có thể quản thúc nên nó càng hoành hành theo ý thích. Khi chiến đấu nó không mất sức, cũng không hề yếu đi chút nào. Bấy giờ Thế Tôn liền đi vào thành. Trong thành ấy có đầy đủ lầu gác, tường hào để ngăn chận quân địch. Đông đảo nhân dân trong thành có người buồn lo, hoặc có người vui mừng đều sợ Như Lai bị hại, nên muốn chạy đến gần Đức Phật. Khi ấy Đề-bà-đạt-đa cho con voi uống rượu say rồi thả ra. Sau khi thả voi ra, Điều-đạt liền nói kệ: Tự xưng có sức thần Và thân có mười lực Hôm nay đã đúng thời Bị tiêu diệt ở đây. Bấy giờ Thế Tôn không hề sợ hãi, liền nói kệ: Có ngàn Y-la-bát (Long vương) Cũng không thắng được Ta Huống chi trùng nhỏ này Muốn hại Bậc Cao Tột. Ngay khi ấy tâm Ngài không loạn tưởng liền nói tiếp bài kệ: Sức mạnh của vô dục Chúng sinh có dục tâm Ta đã trừ dục báo Tâm không hề loạn tưởng. Lại nói tiếp bài kệ: Nay chỉ Ta phá hoại Voi lớn rất kiên cố Nay Ta hàng phục nó Bậc Vô Thượng ngàn đời. Lúc ấy con voi Đàn-đà-ba-la nhìn kỹ thấy sắc thân Như Lai bỗng trở thành màu đen, lại thấy Ngài thành một con voi có cánh, có đuôi, thân hình to lớn đồ sộ, nên chạy đuổi theo Đức Phật. Bấy giờ các Tỳ-kheo nhờ thần lực và theo lời dạy của Như Lai nên tránh con voi ác liền chạy ra xa chỗ Đức Phật. Chỉ có Tôn giả A-nan là còn đứng sau Như Lai, vì Tôn giả trong vô số đời luôn theo cạnh Đức Phật nên hôm nay tuy không tự nhớ việc tiền thân nhưng vẫn không xa rời Ngài. Khi đó voi Đàn-na-ba-la bị lửa sân hận thiêu đốt dữ dội thân tâm nên muốn hại Đức Phật. Như trong Khế kinh đã rộng nói, lúc ấy lửa sân hận trong tâm nó từ từ lắng xuống. Đức Phật dùng bàn tay có tướng bánh xe hết sức vi diệu, tối thượng đặt lên đầu voi với lòng Từ bi, không có tâm sân hận. Con voi nghe Thế Tôn dạy liền rơi nước mắt, gục đầu, mặt trên chân Như Lai, lấy lưỡi liếm chân Ngài, không di động. Tâm nó lúc ấy rất run sợ, toàn thân bỗng nhiên không còn chút sức lực nào. Một lúc sau Thế Tôn dùng lời Bậc Thánh nói kệ: Tâm không dục, kiêu mạn Thế Tôn không trần cấu Khi phát tâm Từ bi Chắc chắn sinh Thiên xứ. Bấy giờ Thế Tôn dùng thanh âm ấy làm cho con voi càng hoan hỷ, sắc mặt vui tươi. Nó liền cúi đầu dùng trán và vòi chạm vào chân Như Lai rồi quay về. Đông đảo nhân dân thấy việc ấy cho là việc chưa từng có. Do voi đã được hàng phục khiến lòng họ rất vui mừng không còn tâm sợ hãi, đều vui vẻ, phát tâm kính tín Đức Phật. Khi đó Thế Tôn liền nói kệ: Tâm như núi bất động Càng phải thắng giận hờn Lấy đó thắng kẻ thù Như rồng Y-la-bát, Có công đức như vậy Sức lực không ai bằng Bậc Hùng Sư giữa đời Tất cả nên cúi lạy. Như thế khắp muôn loài Sẽ không có si tâm Ba cõi phục danh Phật Giác ý không ai bằng. Chúng sinh được như thế Cũng không còn họa sân Tâm ý đã toàn tịch Đức kiên cố vang xa Trí sáng như ngọc châu Tâm tịnh không đắm trước Đầy đủ cả mười lực Cho nên phải đảnh lễ. Lúc bấy giờ, quốc vương xứ Ma-kiệt tâm ý tịch tịnh, mọi việc làm đều đã thành tựu tợ như vầng nguyệt trên không, không vướng bụi trần. Vua có bảy món báu đều là châu ngọc quý giá, không có trần cấu, sáng ngời như vật báu của Long vương Y-la-bát. Vua đi đâu đều có mây bay theo sau, có các loại ngọc anh lạc để trang nghiêm thân. Những ai đã nghe danh vua tưởng như con voi thần ấy du hành, luôn kính trọng tôn quý cũng không hồ nghi. Bốn loại binh chủng theo hộ vệ và nhân dân cũng tự vây quanh nhà vua. Đức vua ở trên lưng con voi ấy đốt lửa, voi liền lấy vòi quấn giữ lấy đuốc. Bấy giờ Thế Tôn đang ngự trong thành La-duyệt-kỳ. Đức vua muốn được diện kiến Đức Phật nên liền đi đến chỗ Ngài. Từ xa Thế Tôn cũng đã thấy nhà vua đang thống lónh vô số quan lính và nhân dân vây quanh đi đến. Lúc ấy vua suy nghó: “Ta từ xa đến đây cần phải tự giữ mình”. Nghó thế rồi, vua liền truyền triệu Kỳ-bà đến bảo: –Ngươi không hại ta chứ? Bấy giờ nhà vua trong khoảnh khắc đi đến nơi, nhìn thấy nhan sắc vô cùng rạng rỡ, tươi đẹp, khác hẳn mọi người của Đức Phật như hoa trái tươi tốt, cũng không dính bụi bặm, tam nghiệp thanh tịnh cụ túc giống như ong chúa. Khi ấy ở trong tinh xá, các Tỳ-kheo Tăng im lặng trước sau vây quanh Đức Phật không một tiếng động. Nhà vua muốn từ xa ngắm Đức Phật; sau khi ngắm rất kỹ, vua quay lại phía Kỳ-bà bảo: –Vật ở ngay giữa đỉnh đầu Ngài gọi là gì? Lúc đó Kỳ-bà tâu với vua: –Đó gọi là nhục kế. Nhà vua lại hỏi: –Nhục kế ấy tự nhiên có hay chẳng phải tự nhiên mà có? Kỳ-bà tâu vua: –Tướng ấy là do thành quả công hạnh của Đức Phật đã gieo, chứ không phải ngày nay mới tạo ra. Vua lại hỏi: –Lại do quả báo gì mà Ngài thành Bồ-tát? Có phải là Ngài đã chọn chỗ sinh, thọ thai, tu hành, thành thân Phật đều do công hạnh quá khứ… như trong Khế kinh đã rộng nói. Lúc đó vua liền nói bài tụng: Tợ như mặt trời sáng Dẫu có bao tướng đẹp Không gì hơn nhục kế Huống chi các tướng khác. Nhan sắc Ngài hòa duyệt Bậc Năng Nhân vô úy Đã phóng ánh sáng này Chiếu khắp mười phương cõi. Nói xong, nhà vua liền đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật bảo Kỳ-bà: –Tại sao nhà vua lại nói lời ấy? Kỳ-bà tâu với vua: –Ở đây nếu đại vương có thể điều phục được tánh kiêu mạn thì đại vương sẽ được sinh vào chỗ giàu sang. Người có tánh kiêu mạn phải sinh đến chỗ ty tiện. Khi ấy nhà vua tự định tónh, suy tư lời ấy, rồi cất tiếng nói: –Đây là ruộng phước, ta nên thực hành theo nghiệp này chăng? Nhưng ta là bậc tôn quý, sao lại phải hướng đến vị ấy lễ bái? Vị ấy không có phục sức, còn ta thì mặc áo vua, đội mão trời. Tuy nhiên thân vị ấy rất trang nghiêm, tâm vị ấy đã định tónh, các tướng đầy đủ, không có xấu xa thô lậu. Tướng của vị ấy rất vi diệu giống như ngọn núi không thể chuyển dời. Nói xong, nhà vua sinh tâm hoan hỷ, toàn thân rung động đi vào cửa tinh xá. Do khởi lên tâm giải thoát nên mọi dục niệm của vua đều không còn, vua cúi đầu mặt sát đất lạy dưới chân Thế Tôn, thưa: –Giống như Thế Tôn đã thành tựu tất cả, thân tâm đoan chánh, đẹp đẽ, cúi mong Đức Phật và chư Tỳ-kheo Tăng hãy khiến cho thái tử Ưu-đà-da-ba-đà-la của con cũng được như vậy. Sau đó nhà vua liền thưa hỏi pháp nghóa. Đức Phật giảng dạy, vua nghe xong hoan hỷ, và nói bài kệ: Như biển không bờ ngăn Gió thổi nên nước động Bậc Thánh Tôn bất động Ngài là Đấng Thượng Nhân. Đế Thích, chúng Phạm thiên Tất cả đến đảnh lễ Con nay xin tôn kính Tự quy y Thế Tôn. Bấy giờ Phạm chí Xà-đề­-tô-ni giống như hoa trắng tinh muốn cỡi xe ngựa cùng các đệ tử vây quanh, rời nước Xá-vệ, đến thi tài với Đức Phật nên mới đến chỗ để xe, đánh xe ngựa ra đi. Đến chỗ Đức Phật, ông liền xuống xe, đi bộ vào trong vườn, ngồi xuống một bên cùng Đức Như Lai thong thả đàm luận nghóa lý. Lúc đó Phạm chí thấy trong chỗ ở của Thế Tôn không có vật gì và thấy sắc diện của Như Lai hết sức vi diệu không ai sánh bằng, cũng không có nét khiếp nhược, có tướng của Chuyển luân thánh vương. Phạm chí đưa mắt ngắm thân tướng của Đức Phật, suy tư, biết rõ như thế. Vị ấy biết rõ pháp của Thế Tôn thậm thâm vi diệu, phạm hạnh của Ngài cũng cao tột, có đại công đức như thế nên được người trí khen ngợi. Đức Phật nói: –Ái dục không bền chắc, là không, là hư vọng. Vị Phạm chí liền hỏi: –Vì sao Thế Tôn biết được, là do tu tập phạm hạnh mà biết hay chẳng phải tu tập phạm hạnh mà biết và có các căn vững vàng, trí tuệ không thể lường được như vậy? Bấy giờ Thế Tôn bảo: –Nếu Ta nói tất cả lời thì lời ấy cũng không có khuyết lậu, chẳng phải không có sức mạnh và không có các hành bởi Ta đã tu phạm hạnh rất thanh tịnh, không tỳ vết. Nếu có người lập lại lời Ta nói thì phải hỏi lại rằng: “Như trong Khế kinh đã rộng nói, nghóa ấy như thế nào?” Phạm chí Xà-đề-thư-ni lại hỏi Thế Tôn: –Sao gọi là khuyết? Sao gọi là lậu? Sao gọi là hành? Sao gọi là chẳng phải không có sức mạnh? Sao gọi là các hạnh rất thanh tịnh, có phạm hạnh ấy không ai sánh bằng? Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo: –Này Bà-la-môn, khi đó ông nên suy tư như vầy, tâm luôn mong cầu xúc ái, thọ lạc, nếu có phạm hạnh thì khi mắt quán sắc sẽ tự giác ngộ hiểu rõ khổ, lạc. Như thế là phạm hạnh, người sơ học nên cầu phạm hạnh như vậy. Nếu khởi lên ý tưởng đắm trước thì gọi là khuyết. Chấp vào các điều ấy gọi là lậu. Ý giác tri gọi là có sức mạnh. Tâm thanh tịnh, dong ruổi trong ái dục nên khởi lên ý bất tịnh, gọi là cấu uế của phạm hạnh. Cho nên phạm hạnh được nói rộng như trong Khế kinh. Này Bà-la-môn, theo chỗ quán niệm của Ta, thân này là tấm da bao phủ mọi thứ bất tịnh bên trong, ý tưởng đi tìm chọn lựa, yêu thích hình sắc đáng yêu trong thân của Ta đã chấm dứt. Ta lại dùng mắt để quán sắc hay sao? Hơn nữa, này Bà-la-môn, Ta xem xúc (cánh lạc) cũng không có hành, há lại có lạc xúc tức là tâm nhiễm dục mê đắm lạc xúc, thọ lãnh sự trơn mịn ấy sao? Này Bà-la-môn, Ta quán tất cả pháp đều là vô thường, há lại sinh ý nhiễm đắm theo tham dục vô độ sao? Này Bà-la-môn, Ta cũng không quán các pháp ấy là nam hay nữ, Ta đều phân biệt rõ, làm sao phải khởi lên dục tưởng với người nữ rồi chạy theo mê đắm họ. Lại nữa, này Bà-la-môn, nếu tâm không có dục tưởng với người nam, lại không tương ưng với tướng của người nữ, luôn chánh trực mà khởi lên dục tưởng được sao? Này Bà-la-môn, cũng như tâm đã vượt khỏi mọi hữu hạn, được giải thoát sinh tử, an lạc, sao phải nhớ lại những việc đã tạo từ trước? Sau đó, này Bà-la-môn, nếu có chúng sinh có tâm bất chánh muốn diệt trừ phiền não khổ đau nên xuất gia học đạo, dùng tâm ấy thệ nguyện tu phạm hạnh thì do có bảy việc nên không tương ưng với phạm hạnh không khuyết lậu, cũng không có các hành… nói rộng như trong Khế kinh. Lại nữa, này Bà-la-môn, chúng sinh luôn có tâm loạn tưởng, mê đắm không lìa ái dục. Các chúng sinh ấy cần phải quán như thế nào? Nếu họ có các niệm tưởng thanh tịnh, luôn thấy rõ thân này là chỗ chứa đầy vật hôi thối thì dục tâm liền hết. Này Bà-la-môn, giống như có người lấy nước hòa với sữa thì người ấy biết rõ trong nước có sữa, tâm nhiễm đắm, hòa theo ái dục cũng như thế. Lúc đó cần quán sát để thấy rõ thân này do gân cốt nối liền, bên trong chứa đầy vật hôi thối, vậy có gì để tham luyến. Này Bà-la-môn, cũng như muốn cho trẻ con uống thuốc, trước tiên cho nó uống vị ngọt rồi sau mới cho uống thuốc đắng. Tâm này cũng vậy, vì nhiễm đắm ái dục nên khởi ra dục tưởng, chịu đựng vô số trăm ngàn loại khổ do dục đưa đến. Giống như trâu con mới chết, trâu mẹ thấy bộ da của con nên vú có nhiều sữa (khi trâu con mới sinh bị chết, người ta lấy bộ da độn cỏ theo hình của trâu con để trước trâu mẹ, trâu mẹ nghó rằng con đang sống nên bầu sữa không cạn), tâm ái dục cũng như thế. Đã trải qua các cảnh giới sinh tử vậy mà khi quán sát tướng mạo lại ngay lập tức khởi lên ý nhiễm trước. Này Bà-la-môn, giống như người đói khát mộng thấy được đồ ăn ngon ngọt, khi ăn xong liền vui mừng nhảy nhót, nhưng người đó vẫn hoàn đói khát. Tâm ái dục cũng vậy, những kẻ ngu si tham đắm dục lạc cũng như người nằm mộng ấy không khác. Tâm họ hòa hợp với ái dục nên họ không thể nào hướng theo thiện hạnh, hoặc khởi dục tưởng với người nam, người nữ, hoặc có các dị tưởng khác. Bấy giờ liền nói bài kệ này: Đó chẳng phải chân pháp Sao lại tham dục, sân Phạm chí nên khéo quán Gốc khổ khó nhổ sạch. Thân cận đạo giải thoát Nên đoạn ý ái dục Tu tập tám Thánh đạo Mới đến được thiện xứ. Lúc bấy giờ có năm người từ xa trông thấy Như Lai, liền bảo nhau: –Vị ấy đang đi tới đây. Trước đây vị ấy tu tập khổ hạnh nhưng nay không còn tu tập nữa. Vị ấy có kiến văn quảng bác nhưng không có tâm kham nhẫn với các việc khó và các giới cấm, tâm ý phóng túng, uống ăn tùy thích; đã tinh cần tu tập khổ hạnh nhưng do tâm mê hoặc nên chưa thể thành đạo… nói rộng như trong Khế kinh. Khi ấy Thế Tôn suy nghó: “Những người ngu si mê hoặc này thật đáng thương, suy nghó thật nông cạn. Do thế không có tâm cung kính đối với Như Lai”. Sau khi Thế Tôn đi đến chỗ họ, Ngài ngồi xuống tại một chỗ sạch sẽ. Do nhân duyên gì mà Ngài đến? Là vì Ngài muốn điều trị căn bệnh của họ. Khi ấy Thế Tôn bảo với năm vị ấy: –Vì sao các ngươi nói lời ấy? Sau đó Ngài cùng họ đi khất thực và giảng nói pháp thậm thâm cho họ. Lúc ấy cả năm người không ai hiểu được lời Ngài dạy vì pháp ấy rất khó có thể nhận thức, hiểu rõ được. Lúc ấy họ thưa với Thế Tôn: –Ngài vốn sáu năm tinh cần, khổ nhọc học đạo, mỗi ngày ăn một hạt mè hay một hạt lúa mà còn không đắc đạo. Huống chi ngày nay Ngài ăn uống tùy thích các thứ ngon ngọt, mặc y phục quý giá, tự phóng tâm theo dục để nuôi dưỡng tấm thân mà còn tự tiện nói là đã đắc đạo sao? Thế Tôn liền bảo: –Này các Tỳ-kheo, các ông nghó thế nào? Các ông hãy quán sát xem sắc diện của Như Lai có biến đổi không? Các căn và tâm của Ta đều vắng lặng, dung mạo đoan chánh. Sắc diện của Ta hiện nay như vậy so với trước kia chẳng lẽ không khác nhau sao, không thù thắng hơn trước sao? Các vị ấy đáp: –Dung mạo của Ngài như hiện nay thật đoan chánh không ai sánh bằng. Đức Thế Tôn bảo: –Nếu xưa kia Ta không đạt được pháp cam lộ ấy thì có ai trong Tam thiên thế giới này có thể đạt được pháp cam lộ. Ta cũng từng nghe các vị trời, A-tu-luân ở trong biển lớn, tận đáy núi Tu-di mà được pháp cam lộ. Sự giác ngộ của Ta cũng vậy, Ta ở trong ba ngàn thế giới này, dùng tâm dũng mãnh mà đắc pháp trí cam lộ. Sự giác ngộ ấy là tối diệu, tối thắng, là việc hy hữu ở thế gian. Trong trăm ngàn kiếp, Ta đã tu tập các công hạnh, tâm định tónh vi diệu nhất, xa lìa danh sắc, giải thoát tự tại, thể đạt pháp vị cam lộ thậm thâm. Ta đã vì chúng sinh mà nói pháp ấy, vô cùng siêng năng, khó nhọc chưa từng sinh tâm mệt mỏi. Vì tất cả kết sử nên Ta không khởi trần lao, vì muốn khai mở tâm trí nên Ta ở trong thai mẹ, vì sự sinh tử ấy nên tu tập tìm ra tận cội nguồn sinh tử, vì không diệt nên không thể tận, vì hữu thường nên pháp ấy là vô lượng, vì không buồn lo, sầu muộn nên luôn an lạc, vì muốn diệt trừ các kết sử nên không tạo nghiệp mới. Chư Phật đều khen ngợi các công đức đã thành tựu của Ta. Nhưng Ta đã tinh cần tu tập khổ hạnh là vì tất cả muôn loài chúng sinh, nên nay Ta thuyết pháp. Bấy giờ Thế Tôn từ thân tỏa ra vầng sáng rộng bảy thước, dung sắc như núi An minh, được ba đời tôn trọng; Bậc Nhất Thiết Trí đã thuyết pháp không chướng ngại. “Này các Tỳ-kheo; như thế chính là gốc của khổ, như thế là thành tựu quả Vô thượng Chánh giác…” như trong Khế kinh đã rộng nói. Lúc ấy trời người đều tán thán Thế Tôn, ánh quang minh chiếu sáng vô cùng tận. Khi ấy ánh dương quang bị che khuất do chư Thiên xuất hiện. Các vị ấy hoặc thân mặc y phục vi diệu, hoặc vận thiên y khi đến chỗ Đức Thế Tôn, đều cởi các loại mão trời với nhiều sắc màu khác nhau xuống, hoặc cởi các chuỗi ngọc Anh lạc bỏ xuống đất; tất cả đều đang khát ngưỡng pháp vị cam lộ của Đức Phật. Lúc đó họ liền nói kệ: Thế Tôn, Bậc Vô Sinh Lợi ích chúng trời, người Nên uống vị cam lộ Quyết không còn đói khát. Hôm nay Đấng Thập lực Khi sinh đời ngợi khen Uống pháp vị thâm diệu Đã được giải thoát giới. Bấy giờ Thế Tôn dạy: –Các vị phải thực tập quán sát chân lý về khổ như sau: Sự khổ đau khi mới thọ thai là từ đâu sinh ra? Là vì khi đó chúng sinh mãi ở trong chỗ u tối không thấy được ánh sáng cho nên nói sinh là rất khổ. Khi quán nỗi khổ đau của tướng sinh này là sự đau khổ triền miên, khó thể nào kham nhẫn nổi, luôn là khổ nghiệp nên cần nỗ lực tu tập thoát khỏi nó. Lại có nỗi khổ do lòng mong cầu, ý không nhàm chán và biết đủ; tâm luôn mong cầu mà không được nên sinh ra khổ, hy vọng mà không thành nên khổ. Tâm suy nghó nhiều phương cách, mong muốn giữ gìn tất cả những gì mình yêu thích không bị mất, đến khi chúng lần lượt mất đi thì sinh ra đau khổ, tâm tràn đầy phiền não. Ta đã giải thoát nỗi khổ ấy. Lại có khổ nạn do tranh đấu với người trong, kẻ ngoài. Khi thân quyến, họ hàng bị chết, tài sản bị mất, tâm tiếc nhớ không nguôi cho nên gọi là khổ. Tâm không lìa ái dục, bị các kết sử sai khiến cho nên sinh ra khổ. Dục là khổ bậc nhất. Do tâm chưa diệt trừ dục nên sinh ra sân hận là khổ. Do không diệt trừ ác nghiệp nên ngu si là khổ bậc nhất. Vì không có ánh sáng trí tuệ chiếu soi nên sinh tâm kiêu mạn là khổ. Do ý cuồng phóng nên sinh niệm tự cao tự đại là khổ. Vì không có ý kính trên nhường dưới nên kết bạn luôn bị khổ, vì tâm tham luyến, cố chấp nên ái là rất khổ. Đắm trước vị ngọt của dục không dứt nên bị tham lam, tật đố làm khổ. Vì tâm không khai mở, không giữ giới nên khổ. Do tâm luôn thay đổi hối hận cho nên sở kiến là khổ. Vì không ngộ chân lý nên tâm tư buộc ràng, tham luyến sắc tự thân là khổ. Vì tâm không có chỗ nương tựa nên khổ. Vì tâm cầu quả báo nên khổ. Các loài thảo mộc và tứ đại tạo thành thân này, chúng cùng nhau trói buộc, sinh ra các nhân duyên, sự khổ của tứ đại bên trong thân này thật vô cùng quái dị; do các ấm tự nhiên níu kéo nên sinh ra khổ. Các ấm là khổ; chúng sinh do không lìa các sở y (năm ấm) nên thân này là khổ; chạy theo sắc bên ngoài nên bị nó hành hạ, khổ đau. Do thân này bị thiêu đốt nên bị lạc thống (thọ) làm khổ, do khổ mà sinh. Do duyên theo cảnh giới nên sinh chấp tưởng không khổ không lạc nên khổ. Tưởng là khổ bậc nhất. Do chúng sinh có hành nên thức là rất khổ. Thân này duyên vào năm ấm mà sinh. Đến khi già thì các căn suy yếu nên bệnh là rất khổ. Bốn đại không hòa hợp nên chết là rất khổ, lại phải thọ lãnh thân hình khác. Gặp điều mà mình oán ghét là khổ. Tâm muốn gần gũi với nhau hay mong muốn điều gì mà không được thì vô cùng đau khổ. Nói tóm lại thân ngũ ấm là khổ vì phải chịu gánh nặng, bị đọa vào ác xứ. Cõi địa ngục là khổ vì bị thiêu đốt thân hình; cõi súc sinh là khổ do các loài ăn nuốt lẫn nhau; cõi ngạ quỷ là khổ, vì bị đói khát bức bách thân thể; thân người là khổ vì có đủ các loại việc làm phi pháp; cõi trời là khổ vì khi hết phước chắc chắn phải bị đọa lạc, tùy theo cảnh giới mà đọa vào ba đường ác. Dục giới là khổ vì bị ái dục trói buộc; Sắc giới, Vô sắc giới cũng như vô hữu trí, tất cả đều là khổ. Như vậy là ba nỗi khổ bức bách chúng sinh đều nhiếp trì trong đó. Bấy giờ do thân hành, ý hành, hoặc chỉ do tâm hành mà tạo khổ. Những gì do hành tạo ra đều là khổ. Các sự khổ đau như thế không bao giờ dừng nghỉ, nối tiếp duyên với nhau sinh khởi không cùng tận. Các vị cần biết rõ sắc thân như thế là do ngu si tạo ra. Bậc Tu-đà-hoàn đã dùng trí tuệ hiểu rõ ràng nguồn gốc sinh tử. Bậc Tư-đà-hàm chỉ còn một ít như mảy lông ý niệm sinh tử, khổ đau. Bậc A-na-hàm thì trừ hết. Đến quả vị A-la-hán thì chấm dứt hoàn toàn đau khổ, dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp thế gian. Lúc đó Đức Thế Tôn, Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác vì che chở cho tất cả muôn loài chúng sinh liền nói kệ: Vô số trăm loại hạnh Thường tạo nghiệp khổ não Vì ôm giữ sắc thân Nay cần phải tuệ quán Sắc thân vốn vô thường Hiểu nó vốn là không Tự nhiên an lập pháp Cần luôn tự giác tri. Lúc bấy giờ Thế Tôn lại giảng: –Vì sao lại sinh ra sự khổ ấy? Đó là do cảnh giới của tự tướng (các căn đều duyên theo cảnh giới riêng biệt), cả năm căn đều có đủ đặc tính ấy. Nếu cảnh giới tự tướng (thức xứ) của vị ấy tương ưng với trí hồi chuyển (trí giác ngộ ly trần) thì sẽ được thuần tịnh. Kẻ ngu si không hiểu rõ, không tương ưng với trí tuệ gặp người lợi căn lại cho là mù lòa tăm tối. Đức Thế Tôn cùng các bậc Thanh văn vốn đã tạo công hạnh, tu tập các căn lành hòa hợp, tương ứng với trí tuệ, thẩm sát, thấu tỏ hoàn toàn chân lý của khổ. Cần phải quán sát nỗi khổ sinh tử ấy như thế nào? Biết chân lý về khổ nên quán tất cả đều là vô thường, tâm luôn kiên trì, không xả bỏ, chuyên nhất như thế, ở trong khổ mà quán khổ. Pháp quán ấy rất vi diệu. Quán không đối với khổ nên tâm vượt thoát khổ là sự vi diệu đầu tiên. Khi quán khổ là không thì tâm tự nhiên thấy rõ khổ đau đều là pháp nhân duyên sinh. Quán khổ là vô ngã nên do trí quán mà thành tựu đức tin. Đầu tiên có tâm tôn thờ pháp nên khéo tăng trưởng lợi ích, luôn luôn tìm cầu pháp môn tu tập để đạt đẳng trí mà không mong đợi có công đức, rừng Tam-muội không khuyết lậu, vónh viễn đoạn tạân với trần lao bên ngoài, cũng không đắm trước; vì dùng tâm nội quán nên trừ bỏ hết trần cấu. Khi đó, vị ấy không có tâm chán ghét đối với tất cả cảnh giới khổ, nội tâm dứt trừ niệm hữu ái, không sợ hãi, cũng không cuồng phóng, loạn tưởng; sắc diện hòa nhã, an vui, tự quán cảnh giới; ở trong cảnh giới ấy đạt được trí tuệ, thắp lên ngọn đèn sáng lớn cho ba cõi, đoạn tận mọi kết sử, niệm dục hại cho chúng sinh trong cõi ác; vì chúng sinh nên không có tâm phân biệt, cũng không giải đãi; có trí phân biệt chương cú, đạt được pháp giải thoát. Do Như Lai đã giải thoát hoàn toàn sinh tử nên lưu chuyển trong bốn cảnh giới. Như Lai vì muốn chiếu sáng cho chúng sinh nên tinh cần tu tập tất cả mọi khổ hạnh mà không trụ pháp nào, tâm cũng không điên đảo. Bậc đã trừ bỏ mọi điên đảo rất khó suy lường. Do vậy nên nói kệ: Khi thấu tỏ khổ đau Niệm thanh tịnh vô cùng Không dục, rất tươi sáng Được người đời ngợi khen. Trí quán khổ như thế Thân tâm đều an lạc Thế Tôn, Đấng Thập Lực Cứu chúng sinh ở đời Nếu ai trì giới Phật Lợi ích luôn tăng trưởng. Giữ chí như Kim cang Tích quán tất cả không Nếu nhổ gốc rễ ái Sẽ không còn khổ sầu Nên lễ Bậc Định Tâm Đấng Tối Thắng Vô Thượng. Vì sao cần phải quán sát Đức Thế Tôn? Đó là vì Thế Tôn có trí tuệ vô lậu như vầy: Thế Tôn có năng lực quán thấy tất cả xứ sở, Ngài vì đời nên quán thấy thế gian đầy ánh sáng. Việc Ngài ở thế gian tu khổ hạnh đều phải quán sát rõ ràng. Đối với Thế Tôn, chính Ngài đã dùng tâm Từ bi quán chúng sinh, muốn cho họ được an ổn nên tinh cần tu tập vô lượng khổ hạnh. Theo việc tu khổ hạnh của Ngài như thế, cần tự quán thấy rõ các pháp hạnh khác của Ngài. Cần thấy rõ Đức Như Lai ở trong đại chúng đã thuyết pháp vi diệu, khiến cho chánh pháp nghóa được truyền bá khắp nơi, chúng sinh đều hiểu được pháp. Nếu ai có pháp nhãn thanh tịnh sẽ quán thấy pháp thân của Thế Tôn không có chúng sinh tưởng. Nếu đã quán như thế cũng không thuyết cấm giới. Từng nghe Tôn giả Ưu-ba-tư cùng người đệ tử tên Bát-ma-ca, du hành đến nước Ma-thâu-la. Khi đến đó, Bát-ma-ca ôm y cầm bát, … như Khế kinh đã nói rõ. Mọi người chưa bao giờ thấy một Sa-môn nên không hiểu được oai nghi của vị ấy. Vị ấy đi vào thôn của các cô dâm nữ. Một dâm nữ thấy vị Tỳ-kheo ấy trẻ đẹp, trang nghiêm, thân không trần cấu, lòng rất vui mừng, dục vọng khởi lên mãnh liệt. Khi vào nhà dâm nữ, vị Tỳ-kheo quán kết sử như thế nên không muốn tạo ra ràng buộc. Do tâm chuyên chú vào pháp giải thoát niệm uế trược nên liền đắc đạo quả. Bấy giờ vị Tỳ-kheo cất tiếng nói kệ: Dục giống như thuốc độc Dục là hạnh bất tịnh Dục là sắc dâm hoại Đưa người vào đường ác. Nói kệ xong, vị Tỳ-kheo liền quay gót bỏ đi. Nàng dâm nữ lúc ấy ý dục bừng cháy, liền dùng chú thuật Chiên-đà-lê để ràng buộc vị Tỳ-kheo. Nàng đọc chú Chiên-đà-lê với mục đích như thế. Bấy giờ nhờ chú Chiên-đà-lê thân của nàng trở nên xinh đẹp. Nàng hóa ra một khu nhà lộng lẫy nằm trên đường vị Tỳ-kheo trở về. Nàng ngắm nhìn khu nhà ấy, thầm nghó: “Nơi đây thật không khác gì cung điện của trời Đế Thích; nhà cửa cao rộng, không gì sánh bằng; đồ nằm ngồi rất đẹp, có vô số tấm thảm trải trên sàn; trên chiếc giường nằm kia, chăm nệm được thêu rất tinh xảo, đẹp đẽ. Trên đất có các loại kỳ hoa dị thảo đang tỏa hương thơm mọc đầy chung quanh và vô số hoa sen xanh thơm ngát mọc ở giữa”. Sau khi suy nghó như thế, nàng liền kết thần chú, nói với vị Tỳ-kheo: –Nơi đây thật vô cùng tươi xinh, đẹp đẽ, chúng ta hãy cùng nhau hoan lạc. Khi ấy Tỳ-kheo Bát-mặc bảo: –Ta xem xét kỹ nơi này lại quán thấy khác. Chiên-đà-lê hỏi: –Khác như thế nào? Bát-mặc liền nói kệ: Ta quán xem quả thật Dục là khổ đêï nhất Chết phải vào địa ngục Chịu vạc sôi khổ não. Lúc ấy Chiên-đà-lê nói: –Thôi đi! Này vị Tỳ-kheo, đừng nói với tôi lời ấy! Tỳ-kheo Bát-mặc nói: –Lời nàng nói thật là ngu si, muốn làm mê hoặc ta. Ta không thuận theo ý của ngươi đâu. Chiên-đà-lê thấy vậy liền hóa làm một hầm lửa lớn không có bụi bặm. Khi ấy Tỳ-kheo Bát-mặc bảo: –Ta đã thấy hầm lửa ấy. Chiên-đà-lê liền nói: –Nếu không muốn gần gũi nữ nhân, vậy thì hãy nhảy vào hầm lửa này mà chết đi. Khi ấy vị Tỳ-kheo suy nghó: “Ngọn lửa ấy tuy rất đáng sợ nhưng nếu ta tránh ngọn lửa ấy mà gần gũi với dục thì dục còn cháy dữ hơn ngọn lửa lớn. Nếu ta phạm dục về sau phải bị tội báo vô lượng. Thà hôm nay ta nhảy vào hầm lửa ấy mà không phạm dục. Vả lại Thầy ta thần thông không ai bằng, làm sao ta có thể trái lời thầy dạy? Do vậy ta thà nhảy vào lửa mà chết chứ quyết không phạm dục mà sống. Ta đã bỏ cả hai việc, cớ sao nay lại phạm vào giới cấm mà chư Phật ba đời đã tạo lập? Vì thế ta sẽ nhảy vào hầm lửa mà chết”. Suy nghó như thế rồi, vị Tỳ-kheo muốn đem y Tăng-già-lê và bình bát cho người khác. Chiên-đà-lê thấy thế liền hỏi: –Ngài dùng y bát này để làm gì? Tỳ-kheo Bát-mặc đáp: Nay chúng đồng phạm hạnh Nhận y bát ta cho Các vị khi tụ tập Nhớ lời ta bảo nàng: “Tỳ-kheo tên Bát-mặc Gặp chỗ ách nạn ấy Nhảy hầm lửa mà chết Tâm không nhiễm ái dục”. Cho đến… hai người ấy đồng xuất gia học đạo, nói rộng như trong Khế kinh. Lúc ấy họ nói kệ: Người tu thiện tuy ít Nghó nhớ mãi không quên Tâm cũng không thọ dục Vì muốn độ muôn loài Cửa pháp lại rộng mở Thế Tôn rất vi diệu Tạo công đức ra sao Bậc trí tùy thời thuyết. Vì sao khi Thế Tôn đi đứng qua lại đều biết rõ nguồn gốc sinh khởi của thân? Đó là vì trong lời dạy bình đẳng của Ngài có hai loại công đức: Thân công đức và tâm giác ngộ. Đó là hai loại gió. Bậc có hình thể thân như gió là bậc Tỉnh thức, biết rõ các ái niệm sinh ra trong tâm, giống như đóa hoa tươi đẹp, tinh khiết đang nở. Giống như gió, tâm của vị ấy đã giải thoát nên mọi việc làm đều rất thù thắng. Giống như tuyết tạo thành nước, tâm của vị ấy cũng như vậy, nhiếp trì các cảnh giới trong và ngoài; khi có luồng gió mát thổi, tâm ý biết rõ, gìn giữ tất cả (chủng tử) mà không phá hoại. Thân ấy có sáu căn nhận biết cảnh, bị bốn đại bên ngoài sai sử, căn lực bị bốn đại trói buộc. Khi có gió nhẹ thổi, trí tuệ dần dần sinh, cũng như khi thân Thế Tôn cất chân lên đều do công đức của bổn hạnh, không mất tướng Phạm hạnh đã tu tâïp từ xưa. Xương gót chân khi bước tới bước lui đều có lửa bốc lên; tất cả khớp xương gấp lại hay duỗi ra, mạch đập nhanh hay chậm đều theo ý muốn. Lại nữa, khi quan sát mắt nhắm, mở tùy ý; các căn trong thân đều an lạc, thân dần dần nóng lên theo bước chân thân đi lại. Hoặc lại khi ăn nuốt, các khớp xương cong hay thẳng, mở hay đóng đều do hình thể tạo ra, và theo ý muốn của tâm ý. Thân ấy y cứ vào phong ấm mà trừ bỏ, luồng gió điên đảo cũng thổi làm răng, môi suy yếu. Tất cả pháp chủng tử đều do ý tạo nhưng phong ấm trong thân là mạnh hơn cả nên mọi người đều có lời nói và tiếng vang như vậy. Lời họ nói không có phước đức vì sao lại không bị trói buộc? Còn lời Ta nói có động cơ là thân bên ngoài đang có sự tan hoại, bên trong thân có các tâm hành. Khi thân tâm không tạo tác liền được an lạc, liền được trưởng dưỡng, giống như bậc trí nhìn chiếc xe biết ngay sức chở của nó. Thân này đã duyên với pháp hào quý như vậy. Khi thân này duyên với trần nên có các tưởng. Do vậy nên nói kệ: Thân này rất kỳ đặc Hiểu thân không, vô trí Xoay vần nương tựa nhau Bộ máy rất trọng yếu. Không khởi ý xúc nhiễm Thân ý đã nương nhau Có các việc như vậy Huyễn hoặc rất vi tế. Bấy giờ Thế Tôn tu tập phạm hạnh, vì sao thanh tịnh không loạn, không theo người khác để học, du hành một mình không bạn lữ? Đối với loài người, Ngài có công đức oai nghi hết sức vi diệu, không đắm trước với tất cả chúng sinh, những nghiệp đã làm không ai bì kịp, vô số chúng sinh đều nương tựa vào tất cả pháp vi diệu. Vì tự thân Ngài ngộ pháp nên không gì có thể phá hoại trí tuệ toàn giác của Ngài, thành đạo lớn giải thoát theo ý muốn; quả vị chắc thật, có đầy đủ các công đức. Chúng Thanh văn tụ hội quanh Ngài đều có tất cả công đức, tất cả đều vi diệu. Trong chúng hội lúc bấy giờ, Thế Tôn là bậc có tướng tốt, có các đức vi diệu bậc nhất. Ngài trừ tối tăm cho đời mà không nhiễm đắm; cả ba đời đều không nhiễm đắm, đoạn các kết sử, được tâm đại từ bi, không loạn tưởng. Ngài đã vượt qua chốn lo âu sợ hãi, đến chỗ an ổn. Tâm Ngài đã hàng phục mọi ý niệm sinh tử. Ngài tự chứng ngộ và truyền trao, giảng dạy giác ngộ cho thế gian. Do vậy nên nói kệ: Phạm hạnh rất vi diệu Thành tựu đức từ bi Nếu ai nghe Ngài dạy Trời người đều lễ bái. Trọn lòng theo chánh pháp Nhất định được an lạc Chắc chắn thành Hiền thánh Nên chắp tay lễ Phật. Bấy giờ Thế Tôn, Bậc Chánh Giác Vô Thượng có tâm nhẫn nhục rất vi diệu, trừ các kết sử cũng không còn đắm trước. Sự giác ngộ của Ngài vượt thắng gió, lửa không thể đốt cháy. Ngài cũng đạt đức thù thắng vô úy, làm cho chúng sinh muôn loài giải thoát khỏi gánh nặng, có công đức thậm thâm không thể nghó bàn, giống như chúa sơn lâm không có tâm khiếp nhược. Sắc diện luôn hòa duyệt, vì chúng ngoại học nên đã tu tập không đắm trước, giống như hoa sen không bị ô nhiễm. Do tự thân nương tựa pháp nên tự tu tập diệt trừ phiền não, có năng lực biết rõ mọi tâm ý mong cầu của chúng sinh. Do bạt trừ các kết sử nên pháp ấy rất vi diệu, Ngài đã trải qua vô lượng kiếp đều vâng giữ diệu pháp. Trong tất cả chúng sinh, nếu có ai tự phát nguyện mong cầu diệu pháp thì nên kính lạy Bậc Phước Điền tối thượng, bậc Quân vương tối thắng hay bảo hộ nhân dân. Công đức của Ngài thật khó thấy, vì nghóa ấy rất thậm thâm. Giống như xả bỏ các pháp ô uế, mặt trăng là bậc nhất; phân biệt các pháp, Tỳ-sa-môn là bậc nhất; trong tất cả thanh âm hào hùng, tiếng rống của sư tử là bậc nhất; trong tất cả những vị có tâm tăng thượng cầu học, vì muốn trồng ruộng lúa tốt nên xả bỏ tất cả phước nghiệp, Thích Đề-hoàn Nhân là bậc nhất; với tất cả thế gian công đức của Phật là bậc nhất; con đường Niết-bàn mà Ngài đã chỉ bày cũng là tối thắng. Lòng Từ hộ, sự giải thoát khỏi các trói buộc cho tất cả chúng sinh của Thế Tôn thật là vi diệu. Do vậy nên nói kệ: Công đức của Như Lai Tung rải khắp tất cả Sống trong dòng họ Thích Như biển toàn báu vật. Phật pháp đã giảng truyền Sung mãn khắp ba cõi Muốn đến được giải thoát Phải theo học Như Lai. Lúc bấy giờ, trong cõi người Thế Tôn là Bậc Hùng Sư đã đạt Nhất thiết trí, nhan sắc luôn hòa duyệt. Công đức thuyết pháp của Ngài không ai sánh bằng. Pháp ngữ của Phật có đủ bốn loại công đức: lời nói rất trong lành, xa lìa sự thô ác; thân tâm chánh trực, đầy đủ các trí; mắt luôn khởi lên sự thanh tịnh, phân biệt các pháp, xưng dương công đức. Pháp ấy kẻ trí khó biết như mưa cam lộ, khó có thể cản trở phá hoại. Ngài có đầy đủ mười lực, dũng mãnh siêu việt thế gian, trí quán rõ thú hướng của tất cả chúng sinh nên đến cứu độ. Ngài đã tu tập Tứ đẳng tâm, đại từ bi, thiền định, giải thoát chưa từng thiếu sót, cũng không nhiễm vị ngọt của ái dục, luôn quán niệm trước khi thọ thực, đạt tâm vô sở úy, hàng phục các chúng khác. Giống như khi sư tử, nai chúa kêu rống, mọi loài ai nghe tiếng ấy đều bỏ chạy tứ tán, loài ở trong hang chạy về hang, loài ở trong lỗ chạy về lỗ, loài chim bay vút lên không, pháp ngữ của Ngài cũng như vậy. Khi nghe tiếng vô thường những kẻ phàm phu ưa thích trường thọ đều ôm lòng sợ hãi, do kiến chấp với thân nên đều bỏ chạy trốn, tựa như rồng, voi nghe tiếng rống của sư tử, bất giác hoảng hốt giật đứt dây cương, xiềng xích bỏ chạy. Chư Thiên cõi Sắc giới có tâm mong cầu thọ mạng dài lâu cũng như vậy, nghe dạy về vô thường, do say đắm dục lạc nên đều sinh tâm luyến ái. Thế Tôn như sư tử, nai chúa, tâm Ngài hoàn toàn không sợ hãi. Ngài đã thành tựu đạo quả không thoái chuyển. Ai thấy Ngài cũng đều hoan hỷ, được tâm chỉ quán vi diệu, có trí biết rõ công đức của Ngài. Do vậy nên nói kệ rằng: Giống như sư tử rống Muôn loài nghe kinh hãi Dùng trí phân biệt pháp Mỗi pháp có tên riêng, Cõi sinh tử hãi hùng Công đức Phật thậm thâm Cho nên lạy Sư tử Sư tử, vua tối thượng. Bấy giờ Thế Tôn là Voi chúa ở nhân gian, có đầy đủ tất cả trí tuệ, tất cả thân phần trên thân của Ngài đều tương xứng với đầu. Đó gọi là đầu trí tuệ. Nhân trí tuệ mà có niệm, niệm là đầu, nương vào chỉ quán là bụng, lấy tâm tịch tịnh giải thoát để hướng dẫn nên Ngài không có thầy mà tự nhiên thành tựu đầy đủ; lấy tín căn làm diệu pháp, dùng tín lực để buộc tâm, dùng năng lực phòng hộ thanh tịnh như vậy làm răng, trừ bỏ đường ác; tâm tàm quý là sự giàu có nên nhờ đó có thân vi diệu. Pháp thân Phật viên mãn, không có tâm ác hại nên Ngài tu tập phạm hạnh đến cội nguồn cứu cánh, tâm dũng mãnh bất thoái cầu tìm pháp môn tu tập. Tất cả các kiếp sống của Ngài đều vi diệu, giống như núi An minh không ai hơn được công đức của Ngài. Ngài tu tập thiền định giống như dao bén, tâm ý tự tại thể đạt bảy pháp giác chi, vô thường, khổ, không; hành quán tất cả pháp đều là vô ngã, Niết-bàn là Diệt tịnh. Ngài đã hành trì theo diệu pháp nên đạt Thập lực uy dũng, ai thấy Ngài cũng đều hoan hỷ. Vì đã tu tập diệt trừ tâm kiêu mạn nên Ngài được quả giải thoát, tỏ ngộ chánh pháp, không còn nghi ngờ, đắm trước với ý nghiệp đã tạo. Ngài đã ăn quả cam lộ giải thoát; người đã ăn quả cam lộ sẽ được lợi dưỡng, trừ bỏ các uế trược, được món ăn cũng không dự trữ. Trong chín mươi mốt kiếp, Ngài đã khéo tự hàng phục nên bây giờ có tâm định tónh, không loạn động. Do vậy nên nói kệ: Hòa duyệt, không loạn tưởng Định ý rất thanh tịnh Cúi lạy vô lượng đức Bậc Tượng Vương, Thắng Nhân. Công đức độ muôn loài Tận trừ các sắc tưởng Mắt sạch không cấu trần Lạy Bậc Tối Thắng Giác. Đức Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã có công đức như vậy, tự giác tri như vậy, sự thậm thâm rất vi diệu, không ai sánh bằng như vậy. Ngài đã ở trong thế gian, tự giác ngộ các pháp. Giả sử có người phỉ báng Ngài: –Nếu vị ấy có tánh còn tương ưng với thanh trần thì như thế vẫn còn tâm hữu dư (phiền não). Hoặc như có kẻ bảo: –Nếu có các Sa-môn xuất gia hoặc Bà-la-môn thông minh biệt tuệ, hoặc ở trên cõi trời, hoặc thiên ma ở Dục giới, hoặc Phạm thiên ở cõi Sắc giới vi diệu thuyết pháp như vậy, ta cũng không thấy tướng của họ, cũng không có nhân duyên như họ đã nói. Hoặc những vị trời ở Vô sắc giới, vì sao họ chẳng phải Bậc Đẳng Chánh Giác mà cũng nói như vậy? Như Khế kinh đã rộng nói, họ đều được Đức Phật thuyết pháp, đưa đến chỗ an ổn mà tự vui thích, chính vì Bậc Đẳng Chánh Giác đã đến chỗ vô úy, như các Bậc Vô Trước khác. Thế Tôn rất mầu nhiệm; tâm Ngài không đắm trước, không dao động, không bị lệ thuộc, lôi cuốn theo danh xưng mà chuyển pháp luân thanh tịnh. Pháp mà Đức Thế Tôn thanh tịnh đang chuyển vận chính là tám đạo phẩm của hiền thánh. Nếu có người hỏi: “Ngài ở nơi đâu chuyển pháp luân?” Cần trả lời rằng: “Ngài ở trong chúng ấy chuyển vi diệu pháp, ở ngay trong chúng ấy cất tiếng sư tử rống không sợ hãi chứ không trụ Không xứ để chuyển pháp luân”. Lại nói thêm rằng: “Vì muốn hàng phục chúng kia nên trước tiên Ngài không sợ hãi”. Kinh viết “Các lậu chưa hết”, nghóa ấy thế nào? Đó là nói ai còn chướng lậu trong tâm thì còn các niệm sợ hãi. Nếu đoạn tận thì trí tuệ được đầy đủ. Lại nữa trong kinh viết “Ta đã nói đạo pháp lần thứ hai, lần thứ ba”. Điều này có ý nghóa gì? Đó là vì Ngài xác chứng chân lý. Ngài vì chúng sinh nguyện cầu nên nói như thế để làm cho tâm họ thâm nhập pháp, đến lần thứ ba, thứ tư thì tâm thông tỏ pháp hoàn toàn. Người tu tập có mười hạng. Người nào đã tu hành ở trước mọi người không sợ hãi. Nếu ai không có tâm cung kính, kẻ như vậy không có oai nghi nên ở trong đại chúng ôm lòng sợ hãi. Lại nữa, có hạng người tuy có tâm cung kính, có trí tuệ sáng suốt như thật, có oai nghi, nhưng vẫn còn tâm sợ hãi. Lại có hạng người tuy có tâm cung kính với mọi người, ở trong chúng tâm không sợ hãi nhưng với giáo nghóa lại ngu si. Có hạng người tuy có tâm tôn thờ, cung kính cúng dường nhưng không siêng năng tu tập. Có hạng người tuy siêng năng tu tập nhưng cũng không được dài lâu nên trong tâm vẫn sợ hãi. Có hạng người tuy tu hành dài lâu nhưng ý không muốn cho mau có kết quả nên trong lòng vẫn còn sợ hãi. Có hạng người tuy có ý mong cầu đắc quả nhưng lại không thân cận bậc hiền trí, do đó trong tâm vẫn lo sợ. Có hạng người tuy thân cận bậc Thánh nhưng không thật lòng nương tựa nên tâm niệm vẫn lo sợ. Có hạng người tuy ý nương theo pháp thiện nhưng tự thân không thực hành pháp thiện ấy nên ở trong chúng vẫn có tâm sợ hãi. Hoặc có hạng người có tâm truyền bá thiện pháp nhưng không có phương tiện thiện xảo nên ở trong chúng vẫn có tâm sợ hãi. Đức Thế Tôn khi còn là Bồ- tát, tôn thờ thầy dạy và đại chúng, làm lọng báu kiên cố cho ba cõi. Từ thuở Phật Định Quang đến nay, Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác đã trải qua vô số kiếp tu tập hết sức thanh tịnh, không tỳ vết, không chỗ tối tăm nào mà Ngài không rọi ánh hào quang đến. Nhờ tâm giác ngộ ấy nên Ngài có thân tướng và sở hành thành tựu như vậy. Vì nương theo con đường ấy nên suốt chín mươi mốt kiếp Ngài đã lập hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn khởi trí tuệ siêu việt nên được giác ngộ, đạt danh hiệu Phật. Do tương ứng với trí tuệ nên tâm ý Ngài hoàn toàn giác ngộ. Ngài y cứ theo ý thiện ấy nên tất cả mọi việc làm đều thành tựu; tâm hoàn toàn không đắm trước. Ngài là Bậc Vô Nhiễm đệ nhất. Ngài cũng không có tâm sợ hãi, do vậy nên Thế Tôn là Bậc Thường Trụ vónh viễn trong Chánh định tam-muội. Ngài là Bậc Thắng Trí, là Bậc Tối Thượng giữa vô lượng chúng sinh ở thế gian. Cần quán sát như vậy. Nếu có ai nạn vấn, Ngài giảng dạy rõ ràng không do dự, văn tự đầy đủ, không thiếu sót. Do vậy nên nói kệ: Như bậc Sư tử chúa Muốn đến viên quán kia Muôn thú đều sợ hãi Chạy trốn khắp Đông, Tây Bậc Vô Trước cũng vậy Dũng mãnh trước chúng nhân Chẳng vui trong sinh tử Truyền pháp độ trời, người. Bấy giờ Thế Tôn quán tất cả người thế gian giống như cây cỏ. Cần hiểu ý đó như thế nào? Người mới sinh ra có năm hạnh, giống như cây cỏ bên ngoài. Có năm loại gì trong thân? Lại nữa, vì sao Thế Tôn dạy thân ấy nối kết nương nhau phát triển, sinh ra các thứ trói buộc với khổ đế mà cần phải đoạn trừ? Bên ngoài cũng sinh ra năm chủng hạnh. Thế Tôn đã quán nguồn gốc khổ đều do nương theo bên ngoài mà sinh ra. Vậy quán khổ đau sinh ra trong tâm như thế nào? Có kinh nói rằng: “Ở trong nội thức xứ… nên có sự quán ấy”. Như vậy là tâm duyên với cảnh ngoài, tùy theo chủng loại mà sinh ra. Trong kinh lại nói: “Như mặt trời, mặt trăng không đồng thời hiện ánh sáng, chúng đều nương nhau”. Có thuyết nói: “Nương theo cảnh ngoài cũng sinh khổ đau”, nghóa ấy thế nào? Đáp rằng: “Thân chúng sinh hiện tại nếu không nương vào việc thọ thực để sinh trưởng an ổn sẽ bị nước trôi, bị lửa cháy, hoặc bị gió thổi, giống như cây cối từ đất sinh ra, tùy theo gió mà lay động. Theo đó mà biết rõ. Thân tiếp xúc, lỗ tai nghe tiếng, lúc đó sinh ra nhận thức, biết rằng: “Đó là vật trơn mịn”. Nếu mãi duyên theo ngoại cảnh, kẻ ấy chẳng phải là người trí vậy. Như thế loạn tưởng là kết quả sinh ra do ngoại cảnh. Tất cả đều do nội tâm quán sát, duyên với ngoại cảnh. Trong chúng có vị nói: “Nếu vậy thì tuyệt đối không tư duy sắc tưởng sao?” Không nên quán như vậy. Như khi quán sát tứ đại, cảnh giới như thế nào đều quán sát đúng như thế. Tuy nhiên khi mắt nhìn một cảnh thì nhãn thức lại sinh biết bao quả; do lấy thức làm đầu nên sinh cái biết sai lầm. Đối với lý này lại có ý kiến nói rằng: “Ngoại cảnh cũng sinh tạo bao nhiêu quả”. Giống như màu sắc nửa xanh nửa vàng, giống như đồng một gốc cây mà lại sinh bao nhiêu quả củ, mùa thu thì không có quả, hoặc tùy thời mà sinh quả. Đó là quá trình sinh diệt của cây kia. Cũng như thế, thân chính là cội gốc, căn là cành lá, giống như cảnh giới Tam-muội cho nên thức sinh ra quả là chính. Nên giác tri như thế, lấy con mắt dụ như cội cây kia. Lại hỏi: “Nếu thức của mắt có năng lực nhiếp thọ sắc, nhưng nhãn căn lại chính là sắc, vậy thì làm sao được?”. Như đã nói đó là nói về sự quán chiếu. Cái nhìn của mắt rất vi diệu. Khi mắt nhìn, cảnh sắc hiện ra đúng như thật. Nhưng khi cảnh sắc tái hiện trong tâm thì đó gọi là thức sinh ra chủng tử rồi dần dần tăng trưởng. Ngay trong cái nhìn ấy, các chủng tử sinh ra mà thành quả. Ví như tùy thời mà cây bị héo, quả của cây ấy không có sở nhân… để có quả. Đó là do tâm cấu nhiễm. Do vậy, Thế Tôn đã dạy: “Nhãn thức có năng lực biết rõ tất cả” và “Nhãn thức không ở khoảng giữa (căn và trần), giống như mắt duyên với sắc kia nên sinh ra quả ấy. Như vậy là do duyên với ý thức mà có cội cây sinh tử. Nhãn thức ấy là dẫn đầu”. Trong kinh có viết: “Giống như khi bào thai lớn dần, nhãn thức trong thai nhi được sinh ra. Do vậy mà có nhãn thức”. Trong kinh có viết: “Nếu không có thân căn, nhãn thức không tồn tại mà mất đi. Tuy nhiên nhãn căn không thể tạo ra nhãn thức. Vì sao vậy? Hoặc là vì trong tâm có sẳn các chủng tử xưa mà không phải do căn nương theo ngoại cảnh sinh ra, hoặc là có quả đồng ảnh. Thế nhưng vì sao nói tất cả các chủng tử đều do thân căn tạo ra? Là vì các chủng tử trong quá khứ không thể nương vào căn mà có. Cây cỏ nếu không có gốc rễ sẽ bị úa tàn. Lại nữa nên biết, ngoại cảnh sắc là vô tình, nhưng nội tâm là hữu tình”. Trong kinh có viết: “Tại sao có tình, có tưởng lại có thật quả? Giống như khi mắt nhìn thấy đóa hoa thật ở bên ngoài, chủng tử (hình ảnh đóa hoa) trong tâm cũng như vậy. Chính vì vậy mà nói thật quả hiện ra không chướng ngại trong tâm các loại hữu tình hoặc các loài có tưởng.” “Vì sao cần phải có niệm?” Trong kinh nói như vậy, nghóa ấy thế nào? Hoặc có chỗ nói: “Chủng tử ấy có đặc tính vô trụ”. Đáp rằng: Giống như tâm vô trụ liền có sự thanh tịnh, không phân biệt sự sai lầm ngoại sắc nên có nhân duyên ấy. Trong kinh lại nói: “Thân tứ đại tăng thượng, có quả như cảnh sở y”. Chủng tử ấy chẳng giống như vậy. Lại nữa nên biết, hành nghiệp đã tạo không nương theo ngoại cảnh mà hiện ra, giống như khi tâm không có ý niệm với chủng tử có tên gọi là “cây”, nên khi mắt nhìn thấy cây thì gọi nó chẳng phải là cây. Trong kinh có viết: “Tại sao đất đó nắm giữ tất cả không bị tan hoại? Vì đất đó cũng có khí ấm, nếu nương tựa vào đất thì có tướng kiên cố. Khi bị gió thổi thì có thể biết được điều ấy. Tâm này cũng vậy. Tuy nhiên cây cối thảo dược trên đất lại có tính vô thường, đoạn tuyệt, tan hoại. Phải luôn luôn quán sát như vậy. Với các pháp nhân duyên vô thường, khổ, không, vô ngã cũng quán như thế. Tuy vậy khi quán không với ngoại cảnh thì không nên có tâm chấp thủ, với chúng sinh cũng như vậy, khi nội quán vô ngã cũng như thế. Huống chi chấp thủ với các tư tưởng. Các tư tưởng ấy đều là ở bên ngoài giống như hạt giống khi gặp ẩm thấp liền sinh cây. Thân chúng sinh cũng vậy. Những gì do ý căn sở tạo cũng giống như pháp mà thân tâm nương tựa đều là pháp vô thường. Các pháp đó đều là pháp không nên nương tựa, giống như tuổi thọ là nhờ hơi ấm, mạng căn và thức. Thân này cũng vậy, không có bắt đầu và kết thúc.” Quán chí tánh chúng sinh Bên ngoài đến cỏ cây Là không, không thật quả Với pháp nên phân biệt. Pháp ấy vốn tan hoại Với thân luôn tư duy Để diệt trần lao kết Năm căn vónh viễn diệt. Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp tu khổ hạnh tinh cần nên nhàm chán thân thể, tâm vui thích trụ nơi tịch tịnh, thờ lửa không giải đãi, được đồ chúng vây quanh. Y Tăng-ca-lê của ngài cũ rách, tóc và móng tay rất dài. Các căn thuần thục, nội tâm đã hàng phục dâm. Các pháp tu kinh hành, quán niệm ngài đã biết rõ, thích ở chỗ an nhàn, danh tiếng đồn xa, cho nên Tôn giả được tâm đại từ bi, vượt hơn các bậc tôn đức khác, được người trời cúng dường. Ngài là bậc đại phước điền nên mọi người càng thêm cung kính lễ bái. Những ai gặp khốn đều được ngài độ thoát, được ngài giảng dạy chánh pháp nên vượt khỏi sinh tử. Ngài đem lại sự hoan lạc, ủng hộ che chở chúng sinh như thờ cha mẹ không khác. Tâm hạnh cúng dường của Ngài như ngọn núi bất động. Lúc bấy giờ, Tôn giả với tâm vô cùng hoan hỷ, muốn nhìn thấy, chiêm ngưỡng Như Lai, muốn được đến chỗ độc cư an nhàn vắng vẻ và vì muốn được nghe pháp lạ nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi Tôn giả đầu mặt lạy dưới chân Thế Tôn rồi ngồi qua một bên. Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn khen ngợi đức tính thiểu dục, liền bảo Tôn giả Đại Ca-diếp: –Này Ca-diếp, ông tuổi cao, thân thể suy yếu, không còn khỏe mạnh như lúc thiếu niên nữa. Thân già yếu thì không còn khả năng chịu đựng, dần dần suy yếu, ý chí mạnh mẽ không còn như trước, không thể đắp chiếc y bá nạp quá nặng. Ta nghó hiện nay tuổi ông đã cao, khó có thể vận chiếc y nặng đó. Có các trưởng giả mang y đến cúng dường thì hãy nên thọ nhạân. Khi ấy Tôn giả Đại Ca-diếp với tâm tưởng vô cùng cung kính đối với Như Lai, liền từ tòa ngồi đứng dậy, quỳ thẳng bạch Đức Thế Tôn: –Sinh tử lâu dài đều có nghóa không chân thật, thọ nhận niềm vui ấy chính là khổ nên tâm con thường sầu lo. Với các vị quý tộc trưởng giả, con cũng không thích đến nhà họ, tự thân con đã ở nơi không tịch và khen ngợi đức tính không tịch, tự mình thiểu dục và khen ngợi đức tính thiểu dục. Tuy thế, xin Đức Thế Tôn và chư Thiên chứng tri, nay con đối với quả đời này hoặc có lực hay không có lực, con đều có thể đầu đội, vai mang. Huống chi nay thân con không có dâm, nộ, si; tâm kiêu mạn đã hết sạch, thanh tịnh không tỳ vết, xuất ly thế gian, không tương ưng với thế gian. Con đã được những điều như vậy, hôm nay vì sao con lại phải bỏ y phục thô xấu này? Bấy giờ đức Thế Tôn bảo: –Vì sao ông lại tu tập pháp đó… nói rộng như trong Khế kinh. Lúc ấy Tôn giả Đại Ca-diếp thưa: –Vì hai nghóa nên con thường trú ở nơi tịch tónh và hay khen ngợi đức nhàn cư. Một là con tự ở trong pháp ấy mong được an lạc, hai là vì người đời sau nên làm gương sáng, truyền bá đức như vậy để họ theo đó siêng tu khổ hạnh. Đức Thế Tôn liền bảo: –Lành thay, lành thay! Này Đại Ca-diếp, ông phải thường ưa thích sự nhàn cư… Nói rộng như trong Khế kinh. Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ: Người được tự tại gì Mà lại tu khổ hạnh? Thanh tịnh không phiền não Như trăng sáng giữa sao Như nay không còn nghi Ông có đức lớn ấy Nên giữ vững chánh pháp Trừ sạch mọi nhiễm ô. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất tự nương nơi trí tuệ rất thậm thâm, không ngằn mé, như biển rộng không bờ, có năng lực luận bàn cùng kẻ ngoại học và đều hàng phục tất cả, xưng dương thiện pháp, mà không làm mất lòng đối phương. Đối với ái dục, ngài đã được giải thoát, ý đã biết rõ sinh tử, đã chấm dứt nguyên nhân làm luân hồi trong các thú. Lúc bấy giờ Tôn giả đi đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt lạy dưới chân Đức Phật thưa: –Tâm con đã thông suốt, có niềm tin bất động đối với chân lý. Trước đây con đã từng theo các chúng ngoại đạo dị học. Nay con đến đây là muốn được uống nước cam lộ để trừ tất cả trói buộc, ý của con cũng không đắm trước đối với chỗ ở của mình. Xin Đức Thế Tôn vì con mà nói pháp nghóa giải thoát để trừ tai hoạn khổ não. Thế Tôn thuyết nghóa như vậy xong, các kẻ phàm phu đều ôm lòng sầu lo, học giả cũng sầu muộn, lo lắng, nhưng những vị có đức tin đều muốn được nghe. Khi ấy Thế Tôn tư duy trong giây lát rồi bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: –Các hành này đều là hữu vi. Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất, bậc luôn thích ở chỗ không tịch, lạc trú trong pháp, đảnh lễ pháp, nhiễu quanh ba vòng, đứng ngay thẳng quán sát thân tướng của Như Lai, rồi đi vào thôn Na-la-đà, lấy cỏ trải trên đất, nhập vào tam-muội Sư tử phấn tấn. Sau khi đã nhập vào định ấy, Tôn giả theo phương tiện nhập diệt của Như Lai nhập Niết-bàn ngay tại đó. Sa-di Quân Đầu, người luôn theo cung phụng, hầu hạ Tôn giả Xá-lợi-phất để tu tập và cùng Tôn giả chuyển pháp luân vô thượng, hành Phật sự, là bậc Thanh văn lớn, mọi người đều cúng dường, đem xá-lợi, bình bát và ba pháp y của Tôn giả Xá-lợi-phất dâng lên Như Lai rồi đến chỗ Tôn giả A-nan thưa: –Vị thầy mà con tôn thờ nay đã diệt độ! Tôn giả A-nan hỏi Sa-di Quân Đầu: –Thầy của ông là ai? Tên là gì? Thưa: –Thầy của con tên là Ưu-ba-đề-xá, nay đã nhập Niết-bàn. Đó chính là Tôn giả Xá-lợi-phất. Khi ấy Tôn giả A-nan nghe lời ấy xong, ôm lòng sầu lo, bị lưới ngu si bao phủ, bị tâm ý thương nhớ Tôn giả Xá-lợi-phất mê hoặc, không còn hay biết gì nữa. Một lát sau, khi cơn sầu muộn đã lắng đọng, Tôn giả bèn dẫn Sa-di Quân Đầu đi đến chỗ Đức Phật, thưa lại đầy đủ lời trên với Đức Thế Tôn: –Hôm nay thân con thật không an lạc bởi vì con vừa nghe tin Tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn, nói rộng như trong Khế kinh. Thế Tôn bảo: –Thân trì giới của vị ấy mà lại mất sao? Và những pháp được Ta giác ngộ vị ấy cũng đem theo mất sao? Đó chỉ là Tứ ý chỉ (bốn thần túc)…, nói rộng như trong Khế kinh. Thế nhưng, này A-nan, các hành không thể bảo trì lâu dài được, tất cả đều phải tan hoại. Này A-nan, các hành là vô thường, không tồn tại mãi mãi, nhưng không phải vì vậy mà không quán sát thiện hạnh. Này A-nan, các hành không phải là vật có thể nương tựa. Này A-nan, nó làm khởi lên khổ, vui, ôm ấp tưởng điên đảo. Này A-nan, hành là vô ngã, không được tự tại. Này A-nan, các hành khó có thể xả bỏ, thường thọ hữu giáo. Này A-nan, các hành có sự nguy hại, đều là không tịch. Này A-nan, nên xa lìa các hành, vì nó khởi lên các tưởng khổ lạc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Sa-di Quân Đầu: –Ngươi hãy đem các vật của Tôn giả Xá-lợi-phất để trong bàn tay của Ta. Sa-di Quân Đầu liền dâng lên cho Đức Phật. Lúc ấy Thế Tôn duỗi cánh tay màu vàng ròng rất mềm dịu nhận lấy. Khi Thế Tôn nhận xá-lợi, Ngài rất thanh tịnh, không tỳ vết, tâm ý hoan hỷ, ai thấy cũng vui mừng, đem để ở chỗ kín đáo. Ngay khi ấy Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo: –Này các Tỳ-kheo, các ông hãy đảnh lễ xá-lợi của Tôn giả Xá-lợi-phất, rồi mọi người hãy tán thán để mọi người khắp nơi được nghe tên của vị ấy. Vị ấy là bậc tối tôn, tối diệu trong hàng Thanh văn. Chỉ còn lại xá-lợi này, ngoài ra tất cả thân của vị ấy đều đã biến mất. Các loài hữu tình đều muốn niềm vui ấy, Tôn giả đã hiện thần túc trừ bỏ thân cấu trược. Lại nữa, vị ấy lại có ánh sáng trí tuệ trùm khắp tất cả. Nếu ai đang mang sắc thân này, phải nên lễ bái trí tuệ của Tôn giả. Vị ấy có danh xưng, có năng lực làm sung mãn tất cả thế gian. Đó là Tôn giả Xá-lợi-phất. Tôn giả ở trong ba cõi thân được tự tại, được hương lành huân ướp, cho nên cần phải lễ bái vị có công đức như vậy. Tôn giả có nhiều công đức thắp sáng trí tuệ cho đời. Các ông nên học tập để được giải thoát đến bờ bên kia. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cũng sắp xả bỏ thọ mạng. Khi đó mặt đất chấn động lớn, bốn phương sấm chớp nổi lên, chư Thiên đứng đầy kín hư không ca xướng kỹ nhạc, có một luồng ánh sáng lớn chiếu sáng khắp nơi, mây và sương mù bao phủ đất trời, làm cho lửa cháy vẫn không thấy ánh sáng, vang lên lời truyền như thế này đi khắp nơi: “Bậc Nhất Thiết Trí sắp sửa diệt độ”. Vào lúc sáng sớm, Tôn giả A-nan từ tòa đứng dậy, đi đến chỗ Thế Tôn, đầu mặt lạy dưới chân Ngài rồi đứng qua một bên thưa hỏi Đức Phật: –Do nhân duyên gì khiến cho mặt đất chấn động mạnh, mà tâm Thế Tôn vẫn không dao động? Đức Thế Tôn liền bảo: –Này A-nan, có tám nguyên nhân khiến cho mặt đất chấn động mạnh. Lại nữa, này A-nan, nếu có vị Thanh văn đệ nhất Bát-niết-bàn, Đức Như Lai cũng sẽ nhập Bát-niết-bàn, nên có điềm lành như vậy. Tôn giả A-nan bạch Đức Phật: –Hôm nay Đức Thế Tôn cũng sẽ xả bỏ thọ mạng sao? Thế Tôn đáp: –Đúng vậy, này A-nan, Ta cũng sẽ xả bỏ thọ mạng. Vừa nghe xong, Tôn giả A-nan ngã quî xuống đất… nói rộng như trong Khế kinh, thưa với Thế Tôn: –Chính con nghe từ kim khẩu Như Lai nói rằng: “Nếu có các Tỳ-kheo tu tứ thiền thần túc, có thể sống ở đời một kiếp cho đến vô số kiếp”… nói rộng như trong Khế kinh. Khi ấy Thế Tôn tâm ý không lay động, giáo huấn A-nan như vầy: –Thế nào A-nan, chẳng phải Ta đã hai, ba lần bảo với ông rồi sao? Bấy giờ Tôn giả A-nan biết Thế Tôn không bao giờ nói hai lời, nên Tôn giả đứng lặng im, nội tâm giống như ghe thuyền bị vỡ đắm trong biển lớn không làm sao có thể đến bờ bên kia được. Tôn giả thưa với Thế Tôn: –Từ thuở Đức Tùy Diệp Thế Tôn đến nay, trong cảnh giới của Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ấy nhân dân đều có thọ mạng dài lâu. Nay trong cảnh giới này, Như Lai đã tu hành rất tinh cần, khó nhọc, tinh cần truyền bá chánh pháp không hạn lượng. Nhưng hiện nay thọ mạng của chúng sinh còn quá ngắn, Thế Tôn vẫn chưa hoàn tất việc giáo hóa chúng sinh? Khi ấy Thế Tôn bảo: –Nay ông làm thế nào để thế gian được hòa bình, thịnh vượng, không có sự sợ hãi khổ nạn? Khi có vị Pháp vương xuất thế, vị Chuyển luân thánh vương lấy pháp để giáo hóa cai trị, cây cối thảo dược không sao kể hết, tất cả kẻ bị giam cầm trong lao ngục, đều được phóng thích. Lại nữa, trong cảnh giới địa ngục, nếu như có bậc Chuyển luân thánh vương xuất hiện thì những ai bị giam hãm trong lao ngục đều được giải thoát, không bị các khổ ách. Ngài có ân từ đối với chúng sinh ấy. Vì sao nói là Ngài có ân từ đối với chúng sinh? Tôn giả A-nan thưa với Đức Phật: –Bậc Đệ nhất Pháp vương là Đấng Vô Thượng, xuất hiện ở thế gian. Những ai gặp nguy ách khổ não, Ngài có năng lực làm cho họ giải thoát khỏi khổ não. Đức Phật dạy: –Này A-nan, cũng như thời thái bình có bậc Chuyển luân thánh vương, thời Đức Phật Tùy Diệp xuất thế cũng như vậy, những kẻ bị giam cầm trong lao ngục kiên cố đều được độ thoát. Này A-nan, nay Ta xuất hiện ở thế gian có thọ mạng rất ngắn. Các chúng sinh ấy, do sinh trong kiếp đao kiếm; ác kiếp ấy có các kết sử sâu dày, chưa thể lìa khỏi kết sử ấy. Họ nương theo các loại tà kiến nên bị tà kiến trói buộc, do có dục phi pháp nên bị dục trói buộc, nên bị sinh ngay vào các đường ác ở thế gian như vậy. Do cuộc đời ác trược, rất ít được giáo hóa, nên họ cần phải siêng tu hạnh này. Này A-nan, xưa kia, khi chưa đắc đạo Ta mang thân là khỉ. Ta đã không tiếc thân mạng, khiến cho đồng loại của Ta đều được độ thoát, không ai mà không được độ. Lại nữa, khi xưa lúc Ta làm thân sư tử Ta đã giúp cho đoàn đoàn thương nhân vượt qua đường hiểm nạn, Ta đã tu tập phạm hạnh rất dài lâu. Bấy giờ, này A-nan, trong các cảnh giới Ta sinh đến không có chúng sinh nào không thấm nhuần ân đức của Ta. Này A-nan, lúc Ta làm thân người ở tại nước Ma-kiệt đã cứu độ mọi người; lại khi Ta làm chim Thanh tước đã độ thoát vô số thương nhân; Ta lại làm đại Tiên nhân độ thoát vô số Phạm thiên. Ngay lúc tám tuổi, Ta đã phát thệ nguyện, ý không thoái chuyển, thân mặc áo cỏ, tinh cần tu tập khổ hạnh, ở nơi nhàn tịnh để tu hành, đều được hộ trì. Thế nào A-nan, khi Ta ở tại cõi thế gian mê hoặc, bị khô hạn không mưa này, Thích Đề-hoàn Nhân liền cho đổ mưa. Lúc ấy, này A-nan, khi chưa sinh, Ta đã thương yêu chúng sinh như con một. Lại nữa, này A-nan, Ta vì tất cả chúng sinh nên trong một kiếp thay họ chịu nỗi khổ đau trong địa ngục, vì các chúng sinh mà chịu sự khổ não như vậy. Lại nữa, này A-nan, nay thân của Ta do cha mẹ sinh ra, không có kẻ oán thù nào có thể hại thân Ta được, hoàn toàn không thể có việc đó. Thân Ta là Kim cang tam-muội, có trí phân biệt các loại Tam-muội. Sau khi Ta diệt độ, nếu ai cúng dường xá-lợi dù nhỏ bằng hạt cải thì công đức ấy cũng lớn vô cùng. Lúc đó Thế Tôn liền nói kệ: Xưa tâm phát đến nay Sở hành là bậc nhất Đạt quả Vô thượng nhân Không ai so sánh được, Với cha mẹ vợ con Giữa đời luôn tự tại Dẫu thân thọ theo ý Mạng chung cần bỏ thân. Thế Tôn liền bảo Tôn giả A-nan: –Này A-nan, nay ông hãy vì Như Lai đến giữa hai cây Ta-la… nói rộng như trong Khế kinh. Bấy giờ Tôn giả A-nan, vâng lời Phật dạy, liền suy nghó: “Hôm nay Đức Thế Tôn Niết-bàn thật sao?”. Lòng Tôn giả tróu nặng đau khổ, buồn phiền nhưng không dám trái lời Phật dạy, sợ hãi đi đến chỗ giữa đôi cây ấy. Đó đều là do túc mạng theo đuổi, nên Tôn giả mới cần khổ như vậy, muốn trình bày ý nghó của mình nhưng lại nghi ngại phải làm sao để trình bày suy nghó đó. Sau khi làm xong, Tôn giả liền thưa với Đức Phật: –Con đã làm xong. Khi ấy Thế Tôn đi đến chỗ đó. Lúc Thế Tôn vừa cất bước muốn đi, tâm ý của Tôn giả A-nan như bị thiêu đốt mãnh liệt, khởi sinh ý niệm này: “Đây là huyễn mộng hay là sự thật?”. Tôn giả suy tư, do dự như vậy xong, nội tâm liền trở lại định tónh, suy nghó: “Đó gọi là vô thường. Chúng sinh xoay chuyển, không thoát khỏi tai họa ấy”. Lúc bấy giờ Thế Tôn chậm rãi đi đến giữa hai cội cây, khoảng không phía trên có chư Thiên đứng đầy kín; có vị xướng nhạc ca hát, sắc diện không thay đổi; có vị thì than khóc, rơi lệ. Lúc đó nhiều vô số các vị A-tu-luân có lòng cung kính và mong muốn nghe pháp, cất tiếng nói kệ: Bậc Tôn Quý đệ nhất Vì muôn loài chúng sinh Pháp Phật cũng vô thượng Nay Ngài sắp Niết-bàn. Khi ấy Thế Tôn đi đến an tọa giữa hai cội cây. Chúng chư Thiên ở chỗ ấy cùng bảo nhau: –Bậc Nhất Thiết Trí ở tại thế gian ác loạn này sắp diệt độ. Vì sao Ngài lại bỏ tất cả muôn loài mà diệt độ? Liền nói kệ rằng: Vì pháp nghóa thậm thâm Mau đạt pháp cam lộ Thế Tôn có lực ấy Nhưng nay sắp diệt độ. Như bánh xe Kim cang Chúng sinh đều tán thán Bánh xe có thể hư Thân Thế Tôn khó hoại. Lúc đó Đức Thế Tôn ngự giữa hai cội cây, sức tinh tấn vô cùng kiên cố, vững vàng, hoàn toàn trú tâm nội quán về vô thường, thấy rõ kẻ tuổi trẻ thanh tráng đều phải theo luật vô thường chết đi, chư Phật Thế Tôn cũng diệt độ, tai họa ấy thật là khổ não, liền nói kệ này rằng: Tư duy kỹ vô thường Có thân, có luân chuyển Thân vui trong trói buộc Nhận các họa khổ não. Trong chúng hội ấy có vị nói kệ: Khởi thủy sinh là khổ Do ấm mà có danh Không sinh thì không hoại Có ai thoát nạn này? Trong chúng lại có người nói kệ vì nguồn gốc mà khởi sinh vô thường. Xưa kia khởi niệm giác Tất cả niệm đều thành Ngài có sắc như thế Chư Phật không thường tru.ï Rồi họ suy nghó: “Hôm nay chúng ta nên tu nghiệp gì? Nay Thế Tôn thuyết bài pháp ấy lần cuối cùng. Vì vậy chúng ta cần phải chuyên tâm khẩn thiết lắng nghe, chúng ta cũng không thể giữ được Bậc Phước ấy mà nên phát tâm hoan hỷ”. Bấy giờ, ở trong vườn Bà-la, tất cả chư Thiên đều đảnh lễ Đức Thế Tôn, tung xuống vô số hoa Mạn-đà-la. Tất cả đều than khóc, rơi lệ nói bài kệ này: Ai quán sát Như Lai Ngày đêm không giải đãi Khi Ngài sắp diệt độ Bỏ thân tứ đại này Ngài có đức cần khổ Chưa từng ngược chánh pháp Để vượt biển sinh tử Nay phải bỏ ấm, nhập. Lúc bấy giờ, khi Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, Ngài bảo các Tỳ-kheo: –Này các Tỳ-kheo, ai có nghi vấn gì, hãy đến hỏi ngay. Cho đến câu: Vì sao tất cả hành đều không tịnh, không thường. Thưa Tôn giả A-na-luật, Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn thật sao? Khi đó các vị Mật tích Kim cang lực só đứng sau Đức Như Lai quan sát nhan sắc, gân cốt chi tiết trong người của Ngài, thấy tất cả đều kiên cố, Thế Tôn có thể kham nhẫn được, cũng còn đủ sức để thuyết pháp vi diệu. Họ liền khóc lóc mà nói kệ: Vô cấu không tỳ vết Thế gian mất lọng che Thân sắc như vàng tía Nay Ngài sắp bỏ thân. Giống như ở thế gian Tuổi già thì phải chết Thích-ca Văn, họ Thích Vô tưởng tịch diệt mãi. Trong chúng có vị nói: –Thôi đi! Thôi đi! Đừng nói lời đó. Rồi vị ấy lòng đầy ảo não, cất tiếng bảo: –Tôi nhớ rằng Thế Tôn từ cõi trời Đâu-thuật giáng thần, sinh xuống nhân gian, nhớ Ngài có ngàn vạn chư Thiên, nương công đức của Ngài mà họ đều mặc áo xanh, có sức oai thần uy không thể phá hoại; có năm trăm vị đạt được quả bất thoái chuyển; lại có mười hai vị đại quỷ thần, ai thấy cũng đều hoảng sợ, đều muốn đến hộ vệ Như Lai. Họ tư duy như thế, bèn nói: “Mỗi chi thể của Đức Như Lai đều phát ra ánh sáng, bảo chúng tôi hãy truyền lệnh cho chư Thiên rằng: “Bảo thần hộ thế đến đây”. Các thần hộ thế đều nói rằng: “Chúng tôi xin hoan hỷ tôn thờ cúng dường như khi Ngài còn ở trong thai, trong khi mộng mị cũng không xa lìa.” Chúng ta ở trong thế gian là chúng sinh bị nhiễm trước sâu dày, do đó mà có tưởng khổ, vui; có tưởng cha và mẹ, có tưởng tất cả thế gian đều là vi diệu, vô thượng; do hộ thế tạo ra nên tưởng có anh em; vì thọ nhận của tín thí nên tưởng là phước điền; vì tâm không tà vạy nên tưởng tâm đã được chế ngự; muốn vượt qua vòng (sinh tử) nên tưởng có bậc Thuyền sư; vì bất khả đắc nên tưởng có được của báu; vì được tâm đại từ bi nên tưởng là che chở được thế gian. Như thân kim cang của tôi ngày nay, không thể phá hoại thành trăm mảnh được. Có chỗ nói: “Thân này chắc chắn phải có quả báo. Vì sao vậy? Vì cúng dường Như Lai vậy”. Bấy giờ Mật Tích Kim cang lực só liền nói: –Các vị nghó sao về việc này? Khi Thái tử cỡi xe ngựa ra khỏi thành. Con ngựa ấy khi trở về bảy ngày không ăn rồi sinh lên cõi Tam thập tam thiên. Huống chi nay chúng ta tôn thờ vâng học theo lời dạy của Như Lai; có vị nghe, có vị đọc tụng, tất cả đều học tập để độ thoát vô lượng chúng sinh. Nếu đã có được biển châu báu thì chúng ta phải mong cầu chứ? Khi ấy có hai vị Hiền thánh trong chúng lực só Mật Tích Kim cang luận thuyết nói kệ: Ở chốn Thần long này Kim cang hiện trong biển Phải hộ trì thế nào Pháp âm Sư tử ấy. Rồi họ suy tư, lại nói kệ: Giống như biển sâu kia Không ai hơn Phật lực Tu tinh tấn giữa đời Đức lớn không bờ bến. Bấy giờ Thế Tôn chuyển pháp luân ở nước Ba-la-nại. Khi Ngài sơ chuyển pháp luân đã đem lại rất nhiều lợi ích cho chúng sinh. Ngài tọa hạ an cư tại đó làm lợi ích cho Quốc vương nước Ma-kiệt. Năm hạ thứ hai, thứ ba và thứ tư, Ngài thuyết pháp ở đỉnh núi Linh thứu, hạ lần thứ năm ở Tỳ-thư-ly, hạ thứ sáu thuyết pháp ở núi Ma-câu-la cho mẹ Ngài nghe, hạ thứ bảy ở cung trời thứ ba mươi ba, hạ thứ tám ở cõi quỷ thần, hạ thứ chín ở nước Câu-khố-tỳ, hạ thứ mười ở trong núi Chi-đề, hạ thứ mười một lại ở cõi quỷ thần, hạ thứ mười hai ở tịnh xứ của Ba-già-đà, hạ thứ mười ba lại ở cõi quỷ thần, hạ thứ mười bốn, Đức Phật đi trở về chốn cũ, nhập hạ tại khu lâm viên của thái tử Kỳ-đà và trưởng giả Cấp Cô Độc ở nước Xá-vệ. Hạ thứ mười lăm ở trong một thôn của dòng họ Thích, thuộc nước Ca-duy-la-vệ, hạ thứ mười sáu cũng ở nước Ca-duy-la-vệ, hạ thứ mười bảy ở thành La-duyệt, hạ thứ mười tám cũng ở thành La-duyệt, hạ thứ mười chín ở trong núi Cha-lê, hạ thứ hai mươi Ngài trở lại an cư tại lại thành La-duyệt, hạ hai mươi mốt lại ở trong núi Cha-lê. Rồi Ngài lại an cư nhập hạ liên tục bốn năm tại cõi quỷ thần, không đi nơi khác. Sau đó, trong suốt mười chín năm, Ngài tọa hạ an cư ở nước Xá-vệ. Như vậy Đức Như Lai đã tọa hạ an cư lần cuối cùng trong thôn Tỳ tướng tại nước Bạt-kỳ. Đức Thế Tôn đã vượt qua hang sâu ái dục như thế. Các pháp hạnh của chư Phật xưa kia như truyền ánh sáng trí tuệ cho hạng lợi căn, Ngài đều đã trao truyền pháp hạnh đến khắp nơi cho những người có chí tánh nhu hòa khiến họ đều được độ thoát. Ngài tiếp theo độ hạng trung căn, rồi độ cho hạng hạ căn, khiến họ dần dần được quả Tu-đà-hoàn, cùng diễn thuyết cho những kẻ ngoại học. Đức Thế Tôn đã độ tất cả, bấy giờ liền nhập Niết-bàn. Khi ấy Ngài nói kệ: Vì muốn độ ngoại học Đại giác không ai bằng Tự giác ngộ, độ người Không chìm trong vực thẳm Vượt qua các lạc thú Lợi ích dần tăng trưởng Bấy giờ sinh hoan hỷ Đều đến được bỉ ngạn. Như nay Ngài thanh tịnh, không chút ô uế, những chỗ sinh ra luôn là thiện xứ, việc làm đã thành tựu, cũng không có tâm khinh mạn, do các công đức đều đã được thành tựu, do cảnh giới ấy nên thành tựu được tương ứng. Sinh ra vì lòng lân mẫn nên sự nghiệp cứu tế bạt trừ khổ ách cho chúng sinh đều được thành tựu, đều đưa họ đến giải thoát. Ngài đã thành tựu như thế. Nếu sinh ở nhà giàu sang thì gia đình ấy được thành tựu, do sắc thân Ngài vi diệu nên thân quyến đều thành tựu; vì việc làm đầy đủ nên thành tựu quả giải thoát; vì tâm có hạn lượng nên mọi việc làm đều thành tựu; vì đã đoạn trừ các loại kết sử nên thành tựu hạnh hàng phục; vì đã hưng khởi hạnh nghiệp nên thành tựu thệ nguyện; vì đã trồng các công đức hy hữu nên giới đức và pháp hạnh đều thành tựu; nhờ thành tựu oai nghi nên thành tựu các công đức luật nghi; nhờ diễn thuyết bốn ý chỉ nên thành tựu oai nghi; do phân biệt ngôn giáo nên cảnh giới thành tựu; nhờ trí tuệ hưng khởi nên thành tựu chúng hội vân tập; do đã xả các hữu nên thành tựu đầy đủ các giới luật; nhờ tâm trí chuyên nhất cũng không dựa vào thiền nên thành tựu Tam-muội như thật; do phân biệt cảnh giới ấy nên thành tựu trí tuệ; vì đã đoạn trừ các kết sử nên thành tựu giải thoát; nhờ đoạn trừ tâm niệm ngu si nên thành tựu giải thoát kiến tuệ (Tuệ giải thoát tri kiến); nhờ tập hợp các công đức nên thành tựu tất cả; nhờ đã được tịch diệt nên thành tựu chỉ quán. Vì vậy con đảnh lễ Đấng Thập Lực. Do vậy nên nói kệ: Sắc thân khó nghó bàn Tuệ giác của Thế Tôn Ba đời đều tán thán. Bậc giải thoát hoàn toàn Tịch tịnh giữa thế gian Vónh viễn không khởi diệt Bậc thông tuệ đệ nhất Mọi pháp đều tự tại. Nghe rằng: Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn một trăm năm, Bậc Nhất Thiết Trí đã thị hiện truyền dạy tại thế gian. Lúc ấy tại thành Khi-la-lê, nước Ma-kiệt, có một vị vua tên là A Thúc, uy đức lẫy lừng, giống như vị vua cõi Trời không khác. Vua có đại oai đức, thông minh trí tuệ tuyệt đỉnh, có thể luận nghị với bất cứ ai, xem dân như con ruột. Buổi tối lúc sắp đi ngủ, vua liền suy nghó: “Nay nguyện ta đã thành cũng không còn mong cầu gì, vậy nên chăm sóc cho nhân dân. Nay ta nên làm phương tiện gì? Làm việc gì? Nên hưng khởi việc gì để mọi người dân trong đời được nhờ vào oai đức của ta? Vua suy nghó như thế xong liền đi ngủ, ở trong giấc mộng liền nghe bài kệ: Quán sát thật vi diệu Ba đời đều kính thờ Ngài rộng thí xá-lợi Bậc Tối Thắng diệt độ. Khi nghe lời ấy xong, vua liền tỉnh giấc. Khi đã tỉnh rồi, vua liền than: Lành thay! Bậc Chúng Hựu Sau khi nhập Niết-bàn Xá-lợi, trời truyền trao Chúng con phải tôn phụng. Tai tôi đã được nghe lời khẩu truyền rằng: Bấy giờ nhà vua liền triệu tập tất cả chúng quần thần đến để hỏi nghóa của bài kệ ấy và hỏi: –Ta nên dùng điều gì để cảm hóa nhân dân? Quần thần và nhân dân, mỗi người đều trình tâu, có người nói nên cúng dường xá-lợi của Như Lai, có người nói nên thờ cúng trời thần. Lúc ấy nhà vua liền bảo: –Nên dùng lời thành kính để ủng hộ pháp ấy. Đêm qua trong giấc mộng ta có nghe lời ấy, suy nghó xá-lợi của Phật hết sức quý giá. Vì thế gian này, chúng ta nên chăm lo, hộ trì cho mọi người thế gian. Tự mình đã được phước mà khi chúng sinh đã được độ thoát thì công đức ấy thật vô lượng. Ta cần phải tu tập oai nghi, ban bố ân từ để làm cho mọi người đều thấy được ánh sáng. Ở trong mộng, ta đã nghe lời nói ấy. Rồi vua nói kệ: Nếu nghe pháp âm kia Tuệ biết rõ đạo tràng Ngài là Thích Sư Tử Nên cúng dường xá-lợi. Ngay lúc ấy nhà vua lại mời các Tỳ-kheo đến để hỏi ý nghóa bài kệ ấy. Các vị Tỳ-kheo bảo: –Lấy chánh pháp để chỉ giáo. Nhà vua lại nói với các Tỳ-kheo: –Điều mà chư Hiền đã nói, cũng là điều trong giấc mộng trẫm đã được nghe. Chắc là đời trước trẫm đã trồng gốc đức. Khi ấy nhà vua thọ bát quan trai giới trong tám ngày, mặc áo bằng vải trắng, đánh chuông, gõ trống, tấu kỹ nhạc, khảy đàn cầm, đàn sắc, đánh trống, thổi tù và, đốt các thứ hương, ở trong thành La-duyệt lòng mong được xá-lợi. Các Tỳ-kheo liền thưa với vua: –Chúng tôi được nghe truyền trong thành này có quyển sách bằng vàng và đã được thấy hình dạng của quyển sách ấy. Theo những lời truyền dạy của các bậc tiền nhân nên mới thấy được sách ấy. Nhà vua suy nghó giây lát liền nói: –Theo sách ấy chắc chắn phải được quả báo vi diệu. Trẫm thật rất muốn mở tráp đồng để xem lời văn trong đó. Nhà vua liền mở tráp đồng, thấy có quyển sách bằng vàng và xem lời văn trong sách. (Quyển sách đó do vua A-xà-thế ghi chép lời huyền ký của Đức Phật là có vua A Thúc ra đời). Nhà vua thấy sự chứng nghiệm ấy liền cùng mọi người đọc bản văn này: “Trong thành La-duyệt của nước Ma-kiệt, có một vị trưởng giả tên là Ba-la-mật-đa-la. Vị ấy có một người con trai tên là Tỳ-xà-da-mật-đa-la. Vị trưởng giả thứ hai tên là Ba-tu-ba-đà-la có một người con trai tên là Ba-tu-đạt-ma. Hai người con của hai trưởng giả này đang vui chơi ở đầu ngã tư đường. Trong khi họ đang vui chơi, vị trưởng giả tử Tỳ-xà-da-mật-đa-la trong lòng hoan hỷ, lấy tay hốt đất dâng cúng (Đức Phật), lại có tâm hoan hỷ giúp đỡ những người khác (làm việc ấy). Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn một trăm năm, Tỳ-xà-da-mật-đa-la sẽ xuất hiện ở thế gian. Nhờ công đức lấy đất cúng dường cho Đức Phật, nên làm một vị vua tên là A Thúc sinh trong dòng họ Một-da”. Khi nhà vua đọc bản văn này xong liền hoan hỷ khen là chưa từng có. Vua lại ra lệnh cho quần thần đọc quyển sách bằng vàng ấy, thì cũng như vua đã đọc không khác. Lời ký bảo rằng: Nhà vua sẽ thống lónh toàn thể nhân dân của thế giới này, nhưng không khen ngợi Ba-tu-đạt-ma. Khi ấy nhà vua cất lời tán thán: –Lành thay! Bậc Đại Phước Điền, con chỉ làm một chút bố thí mà được công đức to lớn, tâm con được hoan hỷ. Có kinh viết lời vua nói: –Ta sẽ lấy xá-lợi của bảy tháp, phân bố rộng rãi để hóa độ thế giới. Lúc ấy ở trong hư không vua nghe tiếng nói của thần thánh: –Lành thay! Nhà vua thật là bậc trí tuệ chưa từng có, đã hoan hỷ thọ trì xá-lợi của Phật. Rồi nói bài kệ này: Nên phát tâm hoan hỷ Đức lành không thể bàn Nên rộng truyền công đức Đem xá-lợi giáo hóa. Vị Thiên vương liền tuôn xuống vô số loại hoa như mưa để cúng dường xá-lợi Phật. Khi ấy vua cho xây dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp, hoàn thành trong một ngày. Vua bảo với các quần thần: –Đức Phật có ngôn giáo chân đế như vậy, được thế gian khen ngợi. Nay trẫm vì Đức Phật đã diệt độ phân bố xá-lợi cho thế giới. Tâm trẫm cũng không có các kết sử, thân thanh tịnh như vàng ròng, lại cũng như tuyết trắng. Trẫm quán thấy đất này chưa từng khởi lên điều ác. Đức Phật cũng như thế, Ngài đã thấy đất này che chở muôn loài nên truyền trao giáo pháp với trí không lay động. Ngài ở trong hang cốc trên đỉnh núi cao chót vót, vô cùng tịch tịnh. Huống chi trẫm phải thống lónh tất cả, chúng sinh nên cần quán tất cả đất này đều là phước điền, quán sát muôn loài chúng sinh có đủ mười lực nên đã dựng chùa tháp không có tăng giảm. Bấy giờ xá-lợi của Đức Thế Tôn có tất cả chủng loại, mỗi hạt xá-lợi tạo ra vô số loại luận. Khi ấy nhà vua nói: –Do sức mạnh của vô số Kim cang tam-muội ấy, Thế Tôn dẫu xương cốt phân rã mà tự được xả, an tịnh. Trẫm phải làm sao để độ chúng sinh? <卷 id="50112223">