<經 id="n193">PHẬT BỔN HẠNH KINH (PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN) Hán dịch: Đời Tống, Sa-môn Thích Bảo Vân ở Kinh châu. <卷 id="50112178">QUYỂN 1 <詞 id="50112179">Phẩm 1: NHÂN DUYÊN Nay giảng pháp thô thiển Tâm Từ chuyên nghe nhận Yếu nghóa các kinh Phật Ngôn từ của Thánh sư Sách vở về truyện Phật Rất lợi ích cho đời Người nghe mừng khôn xiết Thấm nhuần đến mọi người. Tất cả các Đức Phật Trí Tiên thánh minh vương Từ tâm xưng danh hiệu Được phước không thể lường. Nên nay giảng an lành Ưu khổ dứt mất hẳn Nơi chốn nào Phật đến Thảy đều được yên ổn Nhiếp căn chuyên giữ tâm Mỗi người lắng lòng nghe. Nếu có người vâng làm Trừ sạch các nhơ bẩn Dùng nước pháp thanh tịnh Siêng rửa sạch tâm mình Vào ao sâu diệt độ Thọ sắc rất sáng trong. Năm dục như ngựa rong Đắm mê theo cuộc đời Quanh quẩn không ra được Bị năm dục lừa dối Rong ruổi nơi tối tăm Riêng xoay lăn năm đường Dùng cái giàn trí tuệ Khéo chế ngự tâm ngu Phải dùng roi vô thường Đánh ngựa dục chạy rong Bẻ gãy ý tham lam Khiến tâm bỏ nịnh hót. Dòng sông sâu sáu dục Đường ác rất mau chóng Phải dùng sức trí tuệ Đắp đê cho dày chắc. Ưa sinh tử khổ đau Chưa từng được nghỉ ngơi Do tâm không nhàm đủ Say mê nơi năm dục Có tám thứ thuốc thang Hòa hợp rất thần hiệu Chịu uống vị cam lộ Say mê liền tỉnh ngộ. Chúng sinh trong ba cõi Thấy ngược, tay chỉ dẫn Điên đảo trong năm đường Giống như người đánh cầu Vừa thoát khỏi mé khổ Trở lại đọa sinh tử Nay nghe Thánh minh dạy Nên dứt tâm mê lầm. Ánh sáng của từ bi Soi sáng khắp thế gian Ngu thấy nóng thì cháy Tâm si tự mê hoặc. Sinh tử như đầm rộng Hươu con lạc trong đó Nên uống dòng sữa pháp Dứt đói khát lâu ngày. Chúng sinh từ xưa nay Bị già chết lôi kéo Không thích thấy thuốc hay Còn mắng nhiếc thầy giỏi Hợp ba mươi bảy vị Các thứ thuốc thần hiệu Phải dùng phương tiện cầu Siêng uống để trừ bệnh. Trong đêm dài mệt nhọc Chúng sinh ngủ rất ngon Phải đánh trống cam lộ Thức dậy chớ ngủ nữa. Mặt trời Phật xuất hiện Pháp soi sáng mạnh mẽ Phải dùng mắt trí tuệ Siêng năng quán sát khắp. Tâm chúng sinh như nước Bị khuấy đục không trong Dùng pháp lắng khiến trong Giống như nước mùa thu. Chúng sinh khéo điều tâm Định ý, không lao chao Mau chóng được trở về Được vào biển Nê-hoàn. Các hình thể biến hóa Nơi sinh tử lâu xa Trời, người, ba đường ác: Địa ngục, quỷ, súc sinh. Nay nên bỏ luống dối Hình người gỗ dối lừa Nhập diệt thành Lưu ly Hợp thành một màu sắc. Có vua tên A-dục Cõi nước hưởng Vô ưu Làm kẻ địch sợ hãi Người theo thì kính yêu Dựng khắp trên đất này Tám mươi bốn ngàn tháp Trời, Rồng, Quỷ, Thần vui Tiếng vang khắp thiên hạ. Thời Kim cang lực só Nghe tiếng vang động này Phật pháp càng hưng thịnh Nhân đó nghó nhớ Phật Buồn cúi đầu chống má Nhớ thuở Phật ở đời. Các vị trời thưa hỏi Rằng: “Thưa Ngài buồn chi?” Nhìn thật lâu mọi người Sau đó mới than dài Nhớ thương, giọng buồn bã Cất tiếng đáp lời rằng: “Phật là Thầy của trời Đem lành dạy trời, người Nghó nhớ Phật, Thánh Tôn Cho nên tâm sầu muộn.” Các trời và người này Sinh sau không thấy Phật Sau khi Phật diệt độ Mới sinh lên cõi trời Mới nghe danh hiệu Phật Khắp người đều nổi ốc Nên đem tâm Từ kính Mà hỏi thần Kim Cang: “Thưa Ngài, Phật là ai? Có đức thiện diệu gì? Có sức trí tuệ gì? Có pháp cấm, luật gì? Hình mạo Ngài ra sao? Tự nghiêm sức thế nào? Cúi xin Ngài chiếu cố Giảng nói chúng tôi nghe!” Do lời sáng suốt ấy Khuyến khích thần Kim Cang Nói ra như hoa nở Mỉm cười vui vẻ nói: “Pháp sâu nhiệm đã hỏi Khó có thể nói vội Các Thánh chưa thể nói Riêng ta đâu bày được. Nếu như dùng tay chỉ Thì cả thế giới Phật Bốn biển, các ao, vực Hút một lần cạn hết. Nếu có thể nuốt chửng Núi Thiết vi, Kim cang; Dùng tơ rễ ngó sen Buộc treo núi Tu-di; Nếu như muốn gói gọn Hết cả cõi hư không; Nếu lại muốn tính biết Số chúng sinh mười phương; Những việc này còn dễ Nếu học thì làm được Muốn khen công đức Phật Thì không thể hết được. Xin nương oai thần Phật Khiến tâm không sai lầm Có đôi điều tuyên bố Khen đức lành của Phật. Nay những lời ta nói Như tiếng hót Anh vũ Để vui lòng các vị Nên chuyên tâm lắng nghe”.  <詞 id="50112180">Phẩm 2: KHEN NGỢI NHƯ LAI Nay muốn bay lên không Xét Phật không pháp ngoài Vừa muốn dùng lời khen Thì tâm chìm trong nghi Cánh lòng ta vừa chắp Sức yếu không thể mạnh. Tuệ không vô của Phật Bao trùm cả hư không Giả như có lực só Dùng sức bắn hư không Tên đi qua nhiều kiếp Cũng không đến mé không. Biết bao Hiền thánh đối Tuệ đại không của Phật Dùng vô lượng biện tài Khen chẳng hết Phật đức. Đã vượt bờ biển khổ Khô cạn sông ái dục Lấp vực sinh già chết Khai mở biển đại pháp Trời, người và ngoại đạo Không thể thấu nguồn ý Cho nên biển tuệ Phật Sâu xa không đáy, bờ. Tu-di, vua các núi Nơi các trời cư trú Phật đức vượt Tu-di Không thể thấy được đỉnh. Ma vương dâng ba nàng Định làm loạn đạo tâm Mê hoặc Ngài không được Phật từ giữ gìn được Mười tám ức Ma vương Biến hình muốn đánh Ngài Phật liền đưa cánh tay Như trời chiếu mây đỏ Dùng tay tướng trăm phước Chống đất thắng Ma vương. Chẳng dám chống Phật đức Như tối sợ ánh dương Các trời không hủy được Cờ “Cống cao” Ma vương Chỉ Phật bẻ gãy được Phật dựng cờ “Đại pháp” Các vua trần lao khác Sức mạnh ngậm hờn suông. Ngu si và tử ma Sai con cháu ra quân Ái sinh ra năm cái Trước che lấp thế gian Còn ôm lại lòng hại Biết bao loại biến hình Tức giận, ganh, bỏn sẻn, Phiền não, mạn, cống cao Thấy ngược, tham mong cầu Vua trần lao tà si Tệ hại phá hoại mạnh Vây quanh đòi chiến đấu Kết bày trận trần lao Thảy đều hiện vũ lực Đều phóng nỏ mạnh mẽ Hại trung phàm, kẻ ngu. Tên kia như rắn độc Lại có như lửa hừng Từ sau Phật Ca-diếp Không còn ai cự đương. Phật đức ngăn tên ấy Lửa càng cháy dữ dội Ngồi trên xe giới đức Mặc giáp nhẫn nhục chắc Ngồi trên ngựa tinh tấn Vào phá trận trần lao Dùng mũi bén chánh kiến Dùng nghó đúng làm tên Dùng nói đúng làm cánh Hạnh đúng làm lưỡi tên Dùng đường chánh làm cung Rút tên trong ống ý Giương cung lành rất nhanh Tên Phật là tứ đẳng Một phát diệt trần lao Rung động cõi tam thiên Lửa tuệ đốt dục trần. Giống như quân bị đốt Thí, giới, nhẫn, tấn, định Tuệ, tín và vững chắc Giữ chí không lay động Như các sông về biển. Đời trong, không trung sáng Mười phương đều được an. Tâm nhất định vững bền Suy nghó đời sinh diệt Để được tâm kim cang Phá vỡ núi trần lao Dùng mắt Phật quán thấy Cõi ba ngàn như gương. Ngoại đạo, các Thần tiên Tu lâu không thấy giác Nhất thiết trí không thầy Gọi là Thầy các thầy Cường tuệ Kim cang cứng Phá vỡ vỏ si dày, Ra khỏi ngục ngu tối Vượt hư không vô vi Trên trời ăn cam lộ Mà vẫn ăn lúa ngựa Không đắm mê vị trời Không nhàm chán lúa ngựa. Điều-đạt giận lăn đá La-vân đứng trước Ngài Đều nhìn bằng mắt Từ Thấy độc như chiên-đàn. Bị ngoại đạo phỉ báng Được trời, người ngợi khen Cả hai lòng chẳng động Như miệng thổi Tu-di. Danh khắp cõi ba ngàn Phật là thầy thế gian Luôn đứng mũi chịu sào Thản nhiên không buồn, vui Gặp thành, bại, lợi, hại Hoặc chê, khen, khổ, vui Tám pháp không nhiễm được Như hoa sen trong bùn. Vui trên trời, dưới thế Thấy đều là không thật Nhìn đời như trò huyễn Có tướng nhưng rỗng không. Chúng sinh ba đường ác Mở cánh cửa khó mở Ba đường ác không còn Dẫn người, trời vô vi, Trải qua vượt ba đời Trói Tu-la kiêu mạn Khuyến dẫn các gốc thiện Mưa Tam bảo xuống đời. Thuở xưa, vua Chuyển luân Tự tại khắp bốn phương Đối mình không tự theo Khỏi chết, đến vô vi Phật tu các thứ nghiệp Ngự trị thành pháp không Cứu thoát giặc trần lao Đem đến thành vô vi. Vầng dương chiếu ngày, không chiếu đêm Không chiếu cõi trời, ba đường ác Ánh Phật ngày đêm chiếu tam thiên Và soi tâm tất cả chúng sinh. Ánh mầu của Phật thường chiếu sáng Ngàn muôn vô số khó ví dụ Trăng sáng ngày rằm viên mãn lắm Chỉ soi đêm tối còn ngày không. Thiên đế tâm buồn khổ Thọ mạng hết, lâm chung Trở lại hết phước trời Đến chỗ Phật thấy đế. Trời, trăng mắt cõi thế A-tu-luân vây quanh Phật từ cứu thế gian Khiến không gặp tai ách Khói lo tưởng như lửa Dục lạc như uống thuốc Yêu đắm dụ như lửa Phật dùng nước pháp diệt. Ôm giận rất tàn hại Uống rượu tâm cuồng loạn Voi điên Ương-quật-ma Phật dùng từ hàng phục. Vô lượng sinh tử ràng buộc chắc Bọn giặc ngu si che tầm nhìn Phật dùng thuốc trí tuệ lời nói Quyết trừ giặc Uất-tỳ-ca-diếp. Trần cấu ba người này rất dày Dù Thanh văn như cát sông Hằng Cũng không làm động mảy lông họ Chỉ Phật độ khiến thấy đạo sáng. Dáng vẻ rất kiêu mạn Mặc lễ phục quý sang Bình-sa rất kiêu ngạo Thấy Phật cúi đầu lễ. Đầu như đội lửa cháy Nanh dài, mắt đỏ rực Nổi giận ném lửa đốt Phật hàng quỷ A-lạp. Rồng đầu đàn nổi giận Mưa hại nước Ma-kiệt Phật động đất lở núi Ra oai diệt rồng dữ. Phật như voi đầu đàn Vào ao sen sinh tử Dày xéo cỏ trần lao Đứng vững trong Nê-hoàn. Phật đưa qua sinh tử Như trâu bơi qua sông Chúng sinh qua đến nay Như bầy trâu theo đường. Phật như ao Bát giải Sự sống: hoa Phù dung Trời người như ong nhóm Ngửi hương thì lìa khổ. Các trời nghe nước biển Đáy có thuốc không chết Đem rồng chúa ở biển Quấn quanh núi Tu-di, Các trời A-tu-luân Khuấy biển đến ngàn năm Lập biết bao phương tiện Hết sức rất khổ nhọc Đem muôn món thuốc hay Làm thuốc đọng lên trên Gọi là thuốc không chết Tiếp đựng trong bình vàng. Nhưng uống chẳng sống mãi Không khỏi già, bệnh, chết Ý lầm giữ thuốc thần Xoay chuyển, không bờ bến. Phật dùng bảy giác ý Sức tuệ khuấy biển lớn Dùng diệt định bao vây Dẫn bằng sức tinh tấn Làm ra thuốc cam lộ Mãi an, dứt già, bệnh Diệt các khổ vui nhất Uống vào lìa sinh tử. Phật sáng như vầng dương chẳng loạn Đầy như trăng tròn nhưng không lạnh Vui hơn sáu trời mà tiêu dục Bừng như lửa hừng không thiêu đốt. Pháp rất nhiệm mầu, đức hạnh đủ Các lành ẩn chứa, gọi phước nhóm Gom nhóm điều lành của trời, người Khen ngợi Phật đức không nhàm đủ. Rực rỡ như trời, sáng như trăng Vui mắt như hoa, tiếng sấm vang Bước như voi chúa, nhẫn như đất Hơn khắp thế gian chỉ có Phật. Vô lượng lời khen mầu nhiệm đó Của bao Thánh chúng, biết bao đời Các Thánh cùng kiếp cũng không hết Huống ta ngu cạn muốn rốt ráo Như chẳng thuyền bè muốn vượt khơi. Các trời đều chắp tay Vui mừng thỉnh Kim Cang Nguyện Phật xuống Đâu-thuật Phật nhận lời giảng nói.  <詞 id="50112181">Phẩm 3: GIÁNG THAI Khi ở cung Đâu-thuật Dùng mắt trời nhìn khắp Thấy chúng sinh khổ não Nhớ lại lời thề xưa: Vốn nguyện an chúng sinh Nhiều kiếp khổ cầu Phật Đời đời gặp gian nan Không chán, gieo cội đức. Thờ kính là bậc nhất Từ phát tâm đến nay Đem vàng bố thí khắp Tay tuệ thí thành đức Các thí từ lúc đầu Người nghe liền nổi ốc Thân, chân, tay, đầu, mắt Vợ con rất thương yêu Sửa soạn các voi, ngựa Xe báu rèm chân châu… Nếu nhóm họp ở đây Đất cũng không chứa hết! Tiếng khuyên thí như sấm Như trời đổ mưa dầm Nhiều kiếp dùng nước tuệ Thấm nhuần các chúng sinh. Thí ao bơ, sông sữa Núi phước, tô như suối Nào mật, đường ngọt khối Bày đầy khắp trên đất Không trái ý người xin, Cho hết không từ ai Nước rửa tay người nhận Giống như nước bốn biển. Thờ minh sư, cha mẹ Tâm Từ đủ thức dâng Bố thí không giới hạn Thành thí độ vô cực. Sinh đâu cũng giữ giới Thà chết không phá giới Cạo tóc làm Sa-môn Tóc chất hơn núi cao. Sinh lên trời ngũ dục Gặp khi mạng lâm chung Chẳng động, phá giới cấm Đủ giới, độ vô cùng. Sinh được đấng tự do Chưa từng thí kẻ ác Cắt đầu, mắt, tay, chân Tâm định được nhẫn nhục. Tâm ngộ phát cầu Phật Tiến kịp chín kiếp qua Nên trước Di-lăïc thảy Mạnh mẽ vượt lên trước. Ham ưa pháp sâu mầu Do thân thọ nghóa tuệ Vào lửa, gieo xuống núi Kim đâm khắp cả thân Mười tám pháp trí tuệ Vâng làm không bỏ bê Hiểu rõ tất cả nguồn Trí độ không bờ bến, Thí, giới, nhẫn, tấn, định Trí tuệ, sông biển sâu Từ bi thương chúng sinh Thành vui mừng sáng lòa! Chân lông nhiều ánh sáng Sáng động Đâu-thuật cung Các trời hoài nghi nhóm Cung kính lễ Bồ-tát. Tức thời các thứ tiếng trống vàng Mặc tư phú và bảy giác trù Ai muốn cùng ta hàng thế gian Thì mới khách pháp hội cùng nhau Cho nên mời thỉnh hội khách pháp. Ánh từ Đâu-thuật chiếu bốn phương Khắp các cồn bãi cõi Diêm-phù Liền sắc quan hầu Khanh Nguyệt Mãnh “Ngươi biết đại quốc vương thế gian Nước nào thác sinh được Không trái phép tắc xưa Hạp gặp gỡ Bồ-tát.” Vâng theo lời Phật dạy Đáp rằng: “Xin Thánh, nghe Có tôn vương giàu có Có vua tên Thiẹân Cầu Làm chủ thành Vương xá Đứng đầu thành Ba-nại, Vua tên là Thiện Mãnh Vua nước Kiệt trăm tài Sào, vua nước Uất thiền Lưu Sinh vua Quang Diễm Lại vua tên Dũng Võ Con của vua Thiện Tý Lại tên vua Bạch Tuyết Tám vị vua này rất nổi tiếng Chẳng hay có thể thác sinh không?” Rằng: “Có vua nào nhơ không chánh?” Lại quán tất cả người chân chánh Nghó suy giây lát lại thưa: “Có! Dòng vua Chuyển luân khi hưng thịnh Vua cuối cùng tên là Sư Tử Con tên Bạch Tịnh trong họ Thích.” “Tốt thay! Vừa ý Ta Nên thác sinh làm con. Vua Bạch Tịnh trên hết Hoàng hậu bậc anh thư Ở trong các thành, ấp Ca-tỳ-la vượt trên. Nay Ta sinh xuống đó Đem thiện cho thế gian Dạy chúng sinh chánh pháp Mở gông cùm dục tham Phá tan ngục sinh tử. Mở bày nẻo vô vi Bày chúng sinh phương tiện Khiến thoát ngục sinh tử Các vị ai muốn vui Lìa khổ, diệt độ an Muốn tự mình thoát khổ Hãy cùng Ta xuống trần.” Tuyên nói xong pháp đó Liền rời cung Đâu-thuật Hiển hiện khắp nơi biết Voi trắng như núi bạc Bồ-tát cỡi voi chúa Như nhật chiếu mây trắng Các trời múa tấu nhạc Mưa khắp hoa đủ màu Hạt châu sáng mặt trời Ánh sáng chiếu cung vua. Khi giáng thần hạ sinh Hiện điềm rất nhiệm mầu. Bồ-tát giáng vào thai Như nhạn ở vực sâu Như mùa thu trăng tỏ Như voi ở ao hoa Vầng dương sáng rực rỡ Trăng ví dường châu sáng. Bồ-tát không thể dụ Chỉ đầy đủ phước lành Đã nhập thai hoàng hậu Đất rung chuyển sáu lần Giống như thuyền trên sông Tiếng sấm nổ trên không Biển, ao khẻ rung động Các dòng nước lắng trong. Các trời trên không trung Hoa giăng như trướng phủ Khen ngợi vui hớn hở Thần đất cười hân hoan Các hoa đều nở tươi Đất đai không gồ ghề Thần cây thấy các hoa Nở rộ như mắt nhìn Ma vương yêu tham dục Nên héo sầu tái tê. Hoàng hậu mơ màng chợt tỉnh mộng Các căn vắng lặng vui hớn hở Mắt nhìn bốn phía xem xét khắp Mặt ngọc vui mừng như hoa sen Tâu vua: “Xin hãy lắng lòng nghe Điều thấy trong mộng rất tốt lành Voi đầu đàn màu trắng sáu ngà Bỗng nhiên lại đến trước mặt thiếp.” Vua nghe mộng hoàng hậu Vừa mừng lại vừa nghi Liền mời Phạm chí đoán Nói điềm mộng đã thấy. Nghe rồi, thầy đoán mộng Suy nghó bèn tâu rằng: “Theo sách vở đoán mộng Xin lắng nghe kỹ càng Hoàng hậu mơ mặt trời vào bụng Nhân đó thọ thai sinh bé trai Như mặt trời chiếu khắp mặt đất Người này đức hạnh, chủ mười phương Mộng thấy trăng tròn và các sao Chiếu bụng hoàng hậu mà mang thai Sinh con Thánh đức xoay bánh vàng Chánh pháp trị vì cả bốn phương. Bà mơ thấy voi trắng Đi vào hông bên phải Bé trai không vết bẩn Trời, người cúi đầu lễ Tất cả thảy đều biết Đã sinh ắt thành Phật. Theo điển xưa, sấm Thánh Hậu mơ thấy voi trắng Sẽ sinh con Thánh quý Dạo bước chốn thần tiên Cứ theo quẻ mà đoán Ắt làm Thầy trời người, Chỉ có hai con đường Tại gia làm Thánh vương Xuất gia cạo râu tóc Thành Phật, Thầy các Thánh.” Mừng thầy đoán mộng kỹ Theo ý ban cho vàng Vương hậu nghe rất vui Tâu với vua việc lành: “Từ mộng ấy về sau Vui như uống cam lộ Trong tâm dứt điềm ác Chỉ ưa các điềm lành Không ưa áo quý báu Chỉ thích mặc đơn sơ Không ham quạt trân quý Ưa sương sạch, gió lành, Chán ngán cảnh năm dục Ưa thọ pháp chánh chân Sáu căn không còn đắm Sắc, thanh, hương, vị, xúc, Chẳng còn ưa cung thất Ý muốn dạo xem vườn.” Tâu vua như thế rồi Nhà vua liền đáp rằng: “Tùy ý thích của khanh.” Nhà vua cùng theo ra Cho đến các nhân dân. Vườn cây hoa mát mẻ Hậu thấy trong thân thể Như ánh trăng trên nước Ở thai không nhơ bẩn Xe lưu ly hoa vàng Mười tháng các căn đủ Nhìn như hạt châu sáng Bà biết lúc sinh đến Vào hoa viên ngoạn du Vườn hoa sạch tinh khôi Các Thần tiên vân tập.  <詞 id="50112182">Phẩm 4: ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH Bấy giờ sao Phí Vừa cùng trăng hợp Điềm lành ứng hiện Từ hông phải sinh Giống như mây tan Ngàn trăng hiện rõ Như tối lâu ngày Đuốc sáng chiếu tỏ. Phương Đông là đầu Cây rừng là tóc Hoa cỏ là lông Hoa sen là mặt Mắt là sen xanh Cây đỏ là môi Tu-di là vú Bốn biển là bụng Trung thổ là lưng Phương Nam là gối Tư là châu rủ Thường là chuỗi thơm Phương Tây là chân. Các báu trang sức Các vua Chuyển luân Làm vua nhiều đời Như số giọt nước. Lòng bàn chân Phật Bánh xe ngàn căm Thường đi “ấn xa”. Các Phật quá khứ Đức nghóa đã tu Nuôi sống muôn vật Giống như Mẹ hiền. Khó động lập tức Bỗng nhiên vang tiếng Lòng mừng hớn hở Vui vẻ ngắm nhìn, Liền đó hông phải Sáng rực chói ngời Át mặt trời sáng Như đom đóm thôi Khiến nhật mất sáng Không còn tinh quang. Ánh như hoa kết Hiện nhiều màu sắc Che lấp bốn phương Đầy khắp hư không Thí như mây tan Mặt trời chợt hiện. Khi ấy các trời Thấy ánh mặt trời Đều lấy làm lạ Bảo với nhau rằng: “Mặt trời giáng hạ Cây vàng hiện chăng?” Có thần đáp rằng: “Mặt trời Phật hiện.” Vua mặt trời nghi: “Ấy mặt trời gì? E rằng đoạt ta Cung điện mặt trời.” Bỗng thấy ghen ghét Ngàn ánh sáng kia. Phật quang rạng đất Trời chiếu hư không Ánh sáng Thái tử Vượt ngàn mặt trời Mặt trời khuất sáng Chẳng dám đương đầu. Khắp cả đất trời Như kiếp tận thiêu Đất trời mờ tối Như mới sáng sớm. Các thần đều vui Thần đất cổ vũ. Ánh sáng mưa rơi Thuốc lành cam lộ No đủ tất cả Dứt hết lo buồn, Biển động như cười Cây cối xào xạc Sen xanh dưới ao Như mở mắt nhìn Các cây rải hoa Để kính Thái tử. Các chim liệng hót Như tiếng tụng êm Các trời ưa lành Như hoa gặp trời Đều soi mười phương Ánh như sắc vàng. Thần kỳ vui mừng Hoa nở trái thời Vàng bạc, chiên-đàn Vụn như bụi trần Ý trời tạo hoa Tạnh không mây mưa Ánh sáng soi chiếu Cùng khắp mười phương. Châu sáng, bốc lửa Rồi chợt biến mất. Mặt trời không chiếu Những nơi đen tối Nhưng bỗng sáng lòa Tận ba đường ác. Trí thánh sáng suốt Tướng sáng dạy đời Phạm thiên, thần thảy Trong hoa lá sinh Lòng Từ khiêm kính Vừa tung rải hoa Tay mầu hoa sen Hai tay tiếp nâng Hết lòng yêu kính Mắt lành nhìn chăm, Dùng âm thanh Phạm Khen ngợi công đức Đều tự nghiêng mình Trán lễ chân Phật Cúi đầu cung kính. Trời đỉnh Tu-di Hiệu gọi Bá từ Tay cầm kim cang Dùng ngàn mắt lành Nhìn chăm không chán, Hoa trời lọng trắng Đủ thứ hoa báu Sáng như mặt trăng Che trên Thái tử Khen công đức Ngài: “Khổ nhọc nhiều kiếp Dùng đại phương tiện Đề cầu Phật đạo Nguyện rủ lòng Từ Chúng sinh đáng thương Xin vì cuộc đời Làm thầy không thỉnh.” Bảy sao Bắc đẩu Cũng được khen ngợi Hiện bảy Giác ý Tiêu bảy nhọc bẩn Nên đi bảy bước Như sư tử dậy Dấu chân in rõ Như bảy vì sao Bước đi khoáng đạt Không tâm nghi mạn Thần đất cúi xuống Tiếp đỡ bước chân. Dùng mặt trời sáng Chiếu khắp bốn phương Hiện pháp bốn Đế Như sư tử rống: “Ta đến kiếp này Thọ thân sau cùng Không còn phải ở Ngục tù bào thai. Nay sẽ thành Phật Đạo rất khó được Dẫn dắt tất cả Uống mật cam lộ.” Cỏ mềm tốt đẹp Các hoa nhiều mầu Như trời nối kết Trùm khắp mặt đất Thí như Thiên vương Ở ao trong mát Như hoa cây vàng Nhìn rất mầu nhiệm. Chúng sinh năm đường Chịu nhiều khổ sở Đều được ngừng nghỉ Thân an vui sướng, Các kết trói buộc Giam giữ rất bền Bấy giờ các kết Đều được giải thoát. Khi ấy, tiếng lớn Nghe khắp cõi Phật Các trời, quỷ, thần Vui mừng hớn hở Liền bay lên không Đến xem báu thánh. Các trời đầy dẫy Lấp kín không gian; Con của rồng chúa Như núi Tu-di Mắt như trời, trăng Rời khỏi biển khơi Đầu đội lọng mây Vội vã đến nơi Rưới mưa nước thơm Tắm gội Thái tử. Thiên tử An Tường Được trời, người đời Cung kính thờ phụng Làm cho thỏa nguyện Tự hóa thân mình Hiện thành bốn đầu Cỡi trâu cầm lọng Kính hầu Bồ-tát. Đồng nam Thiên tử Đầu đội mũ lông Uy lực vời vợi Hiệu Khổng Tước Tràng Đội mũ mặc giáp Vũ khí cầm tay Làm Đại quân sư Đại chúng đi theo Ủng hộ Bồ-tát Trong một do-diên. Vua trời Đại lực Tên Tỳ-sa-môn Trân bảo đầy dẫy Đức trùm khắp nơi. Trời hai mươi tám Thần và tướng quân Các quân theo đến Khí giáp chỉnh tề Cùng ức quỷ, thần Đến hầu Bồ-tát. Lại có vua trời Tên Tôn Tự Tại Cùng với vô số Hàng ức các trời Tay cầm cờ phướn Cùng đến nhóm họp Đem tâm cung kính Lễ chân Bồ-tát. Diêm vương ác hại Không có ai hơn Đuổi theo chúng sinh Dùng một pháp môn Vất bỏ kiến chấp Núi Thái, gậy ngục Với tâm thương yêu Đến lễ Bồ-tát. Vô số các trời Rồng, quỷ, thần vương Trên trời Tịnh cư Các trời thanh tịnh Cung kính chắp tay Như búp hoa sen Cúi dâng cung kính Khen ngợi thân Ngài Hoa trời sắc vàng Đài minh châu sáng Hoa phù dung xanh Thân lưu ly xanh Làm thành hoa ý Biết bao sắc mầu, Chiên-đàn thơm ngát Tung rải như mưa. Thiên nữ trên không Đến cùng họ hàng Trổi kỹ nhạc trời Ca ngợi công đức: Xưa kia tu hành Hằng ức gốc lành Quả báo thành thục Thấm nhuần chúng sinh. Vui mừng trổi nhạc Chư Thiên rải hoa Thân phát ánh sáng Rỡ rỡ ràng ràng Các trời khen ngợi Chúng sinh vui mừng. Nhờ ân đức Phật Trang nghiêm thế giới Chim vàng, các rồng Đều hòa hợp nhau, Trời, A-tu-luân Xóa bỏ oán hờn Theo trăng Bạch Tịnh Phát sáng trong lành Khắp vì cõi thế Diệt lửa ghét yêu.  <詞 id="50112183">Phẩm 5: PHẠM CHÍ XEM TƯỚNG Ngay lúc bấy giờ Các điều lành nhóm Tai ương tiêu tan Vui sướng vô cùng. Vua nhân vui ấy Ân xá, chúng dân Vui mừng đến nhóm Như các dòng trôi. Như trời Đế Thích Sinh con Cù-di, Như trời An Tường Sinh con đồng nam, Như Tỳ-sa-môn Sinh con Bảo bình Bồ-tát xuất thế Vua cũng vui mừng. Thân Ngài mềm mại Như trời mới sinh Nhũ mẫu nuôi dưỡng Như trẻ sơ sinh. Mời các cựu đức Người biết làm mẹ Vây quanh ủng hộ Chăm nom chẳng rời. Quang minh chiếu sáng Như Bậc Trung Tôn Các mẹ vội vàng Đến đền thờ trời Muốn Ngài bái yết. Hình tượng các trời Tượng trời đứng lên Co duỗi cao thấp; Tượng trời bằng bùn Bằng vàng, bằng đá Chắp tay cúi đầu Kính lễ Bồ-tát. Các mẹ sợ hãi Lòng đầy kinh ngạc Vì điềm lành này Hiệu Thiên Trung Thiên, Chưa thấu sự thật Thần đức Thái tử Vì nỗi sợ này Vội về cung tâu. Vua Bạch Tịnh nghe Kinh hoàng, sợ hãi Liền mời Phạm chí. Người giỏi xem tướng Vâng lệnh đến nơi Vua liền hỏi rằng: “Thưa các minh sư, Xem tướng con ta Sợ rằng con này Xúc phạm tượng trời Xin dứt giùm tôi Những nỗi ngờ vực.” Phạm chí vui mừng Thưa với vua rằng: “Nay phải vui mừng Không nên lo lắng Vương tộc lại thịnh Từ nay trở đi Vua Thánh chuyển luân Khắp đến bốn phương. Theo quẻ xét xem: Sinh từ hông phải Chắc chắn tôn quý Trí Thánh thông đạt Đứng trên các vua Như núi Tu-di Đứng đầu các núi Không có ai bằng, Trong các thứ báu Như ý đứng đầu Trong các dòng trôi Biển cả trên hết, Trong các ánh sáng Trời, trăng sáng nhất, Nay Thái tử đây Đứng trên các Thánh. Xét các sách xưa: Có vua Uy Nghi Từ cánh tay sinh Vua Luật bàn tay Vua Tình Tư Lực Sinh từ nách cha, Còn vua Vãng Cổ Sinh từ vế cha. Vua Chi-đà-kiệt Sinh từ đỉnh đầu, Những vì vua này Đều là Chuyển luân. Nay xem điềm sáng Tương ứng vua Thánh Hóa độ trời, người Dùng sức tuệ Thánh Danh hiệu Phổ Văn Trùm khắp mười phương, Như vua Đại Thánh Hiệu Chi-đà-kiệt Kim luân, voi trắng Ngọc nữ, ngựa tía Tôi Thánh minh châu Chúa binh bảy báu Dạo cõi trời, người Bốn thứ binh theo Sẽ vì người, trời Mở đường vô vi. Sẽ có ngàn con Tài lực mạnh mẽ Sẽ dùng chánh pháp Trị đời thái bình Bỏ nhà xuất gia Tiến cầu đạo thuật Chắc chắn thành Phật, Dùng tuệ hơn đời Đè nén thế tục Làm thầy các Thánh Theo quẻ đoán ra Chỉ hai đường ấy!” Vua hiện dáng vui Bảo Phạm chí rằng: “Tổ tông đến nay Vua Thánh đã dứt Vua cha cũng không Ngôi vua Chuyển luân Con sẽ nhờ đâu Tự làm vua Thánh!” Tuy vua như thế Phạm chí ngạc nhiên Đều cùng cất tiếng Giơ tay khen ngợi Giống như rồng lớn Tiếng sấm vang động Ở trên điện vua Mừng rỡ khen ngợi: “Xin vua chớ ngờ Không phải như vậy. Cha con đức khác Hạnh trước không đồng Chỉ tại đời trước Tu lập đức hạnh. Sách quẻ mời xem Vua nên đối chiếu Thánh tiên thuở xưa Hiền tài minh đạt So sánh bốn câu Như về phương thuốc Đến Y-lâu-tha Không thể đạt được Con là Tiên hiền Thông đạt hơn cha. Thánh vương đời xưa Sau không ai nối Đến đời cháu xa Mới có kẻ nối; Cận Thánh cũng thế Ngăn bờ sông biển Người trước không thể Như con người ấy Di thuật như vậy. Còn nhiều vô số Tiên nhân thuở trước Không thể đạt được Cháu con về sau Tài vượt hơn trước. Việc do đức xưa Chẳng phải do người. Đời trước đã tu Hợp với đức nay Tuy thời nay trái Người đức ở yên. Xem xét quẻ này Phù hợp điềm ứng Chắc chắn ở đời Làm vua Chuyển luân.” Vua bảo các ông Đại Phạm chí rằng: “Nay vì Thái tử Theo đức đăït tên!” Phạm chí im lặng Lòng nghó giây lát Tuân lời từ tốn Bạch với vua rằng: “Xét nay vận thời Lặng trong, hòa thuận Chim lành liệng hót Điềm ứng phát thanh, Đất rung rộn ràng Thời tiết điều hòa Gió mưa đúng lúc Đời được thái bình, Lửa hiện sáng ngời Trong suốt không khói. Các trời trên không Hiện thân chắp tay Mưa các thứ hoa Nhạc trời cùng tấu, Vua giáo hóa khắp Quốc phong thuần thục Cõi nước của vua Điềm lành đều đến Đặt tên Thái tử Hiệu là Cát Tài. Lòng vua mừng rỡ Ban thưởng Phạm chí Bò sữa sừng vàng Mấy trăm ngàn con. Vua lại vui mừng Xoa đầu Thái tử Lấy chuỗi diệu bảo Choàng quanh cổ con Tâm Từ chắp tay Khen đức con rằng: “Trước làm vua Thánh Sau mới xuất gia”.  <詞 id="50112184">Phẩm 6: A-DI PHÁ VỠ NGỜ VỰC Núi cao, ao hoa trái Vui sướng như cảnh trời Ít núi nào bằng được Nên gọi núi A-di. Ở lâu nơi núi ấy Già nua tóc kết kén Hình thể phơi dưới nắng Sống lâu hơn trăm tuổi, Thân thể như mây đen Tóc như màu bạc trắng Mắt sáng ngời thấu lý Hình như núi nhiều màu Trí tuệ như Phạm thiên Sáng như mặt trời, trăng Bốn lửa, nhật thứ năm Tự phơi tên A-di. Chợt nghe tiếng vang vọng Chim thú hót như nói Ông hiểu tiếng chim thú Hoài nghi ra khỏi động Thấy chư Thiên đang bay Vui mừng giữa không trung Ngẩng đầu hỏi chư Thiên: “Vì sao các vị vui?” Vị trời tên Pháp Lạc Đáp lời A-di rằng: “Thầy chưa nghe hay sao? Đời có điềm tốt lành Vua Bạch Tịnh sinh con Sẽ độ khắp chúng sinh Chắc chắn thành Phật đạo Làm Thầy của trời, người.” Nghe danh hiệu của Phật Hớn hở thân nổi ốc Liền bay lên hư không Xem đồng tử họ Thích, Nhân đã thấy điềm ứng Thần thông xét kỹ càng Trong khoảng thời gian ngắn Đã đến cửa cung vua. Là bậc Thánh thông tuệ Thông đạt, giới cấm cũ. Vua đem lòng yêu kính Mau chóng mời vào cung Nhường ngồi chỗ Thượng tọa Khiêm cung an ủi rằng: “Rủ lòng thương đoái tưởng Cúi mình vào nước hèn.” A-di biết ý vua Yêu kính, lễ nghóa mình Nhìn vua bằng mắt Từ Khiêm cung kính trình tâu: “Vua phải nên như vậy Mến khách bằng thượng lễ. Đại vương dùng pháp trị Ban ân xuống quốc dân Từ các vua đời trước Bố thí nhiều các thứ Của báu thật vô hạn Giới, trí tuệ dồi dào. Sở dó tôi đến đây Có tâm vui mừng nghe Nghe trời trên không nói: “Vua sinh con thành Phật” Tôi được nghe, vui mừng Biết tốt lành nên đến Cờ pháp rất đáng yêu Xem giống dòng Thích-ca”. Vua nghe nói lời ấy Kinh ngạc lẫn vui mừng Vội truyền đưa Thái tử Đến để gặp A-di. Ngài trên tay nhũ mẫu Ánh quang minh sáng ngời. Nhìn đức tướng Thái tử Như con thiên hậu bồng A-di không kềm được Bèn đến trước Thái tử Hai tay bồng trìu mến Như mây che mặt trời. A-di bồng trên tay Bồ-tát thêm ngời sáng Như trong khoảng núi tối Lò nấu vàng đang sôi, Mắt lành nhìn hồi lâu Trong mắt lệ ứa trào Thân Thái tử rực sáng Như mây đen mưa rào. Vua thấy A-di khóc Trong tâm rất lo sợ Sợ con không tốt lành Nghi ngờ bảo A-di Rằng: “Xin Ngài chỉ rõ Hơi thở tôi sắp dứt Nay thấy Ngài buồn khóc Làm kinh hãi lòng tôi. Được, không là mạng ta Một sớm bỗng nhiên mất Trước làm ta mừng rỡ Sau sao để âu lo? Cuối đời được con ấy Như khát lâu được nước Xin đừng làm ta oán Đừng khiến ta đương đầu Ta mới sinh ý nghó: Được con, dù không còn Còn con ta tại thế Thì ta chẳng lo buồn. Con ta dòng cây quý Giáng sinh nơi cung báu Lòng thành mách ta biết Đem tình thương con mình”. Mặt đầy như trăng tròn A-di nhìn Ngài kỹ Mi mắt ánh xanh biếc Lưỡi như cánh hoa sen Tóc tơ màu xanh biếc Che vầng trán rộng cao Hai má như sư tử Cằm đầy đặn làm sao! Tay dài, vai sư tử Bàn tay bánh ngàn căm, Lần lượt xem xong tướng Từ đỉnh đầu đến chân Thầy hết lòng yêu kính Cúi đầu lễ Thái tử Lệ tuôn như mưa rơi Lòng thảm não tâu vua: “Thái tử có đầy đủ Ba mươi hai tướng tốt Chắc chắn sẽ thành Phật Đem lành cho nhân thế!” Các trời nghe lời này Từ không tung rải hoa Đồng thanh khen “Hay lắm!” Vua bảo A-di rằng: “Thầy trước dựa quẻ đoán Là thành vua Chuyển luân Nay Thánh sư xem tướng Lại nói sẽ thành Phật”. Lời vua như đổ dầu Lửa càng thêm cháy mạnh Miệng A-di nói mau Nói ra lời quyết định Rằng: “Tôi xem tướng Ngài Dáng đẹp, ý diệt dục Hiện thân độ chúng sinh. Với dung mạo của Phật Nếu như không trung mưa Lớn như núi Kim cang Không động sợi lông Ngài Huống gì gian nan khác. Các lực só thế gian Các quỷ thần tệ hại Và vua A-tu-la Cả quan, quân thuộc hạ Đều cầm chày Kim cang Lớn như núi Tu-di Đến muốn đánh Thái tử Chày đập tan núi hết Thái tử không lay chuyển Phải hiểu biết như thế. Tôi không lo việc này Còn vui mừng là khác Tôi thương mình, lệ rơi Gặp Phật mà luống qua, Tuyên ban tuệ sáng ngời Thông ngàn lời nghóa sáng Phật nhân đó hiển bày Riêng tôi không cảm được. Đứng trong vô vi không Diệt độ như trăng trong Đời nhờ mát trừ nóng Riêng tôi sẽ cháy lòng. Phật thường cầm chày tuệ Kim cang đập trần lao Sẽ có thuốc cam lộ Riêng tôi chẳng được nếm. Phật như ngựa biển chúa Cứu người dạt biển khơi Riêng tôi lùi lại sau Quỷ dâm nuốt trôi mất. Tất cả nước trí tuệ Các trùng ý lành đủ Dòng sông trí tuệ trôi Tất cả uống hết khát, Các lành là gốc rễ Cành nhẫn, lá ý dừng Hoa chính là giác ý Thành quả ngọt Nê-hoàn, Thiền giải thoát chúng sinh Hương giới ngát cõi đời Cây Phật sẽ lớn lên Tôi bạc phước không thấy. Cửa ngu si rất chắc Ải ái ân vững bền Dùng chìa khóa pháp mở Cửa nhà tù tử sinh, Cả thế gian bốc cháy Do lửa dâm, nộ, si Dùng nước pháp dập tắt Như mây, mưa, lửa đồng, Đem tiếng còi tâm Bi Mười phương động vang rền Sẽ thí sửa pháp lành Trời, người uống không chán. Lưới giăng khắp cõi thế Căn bệnh nặng trần lao Dùng thuốc pháp tối thắng Để trị bệnh chúng sinh. Vực biển lớn của Phật Bãi báu của các Phật Độ người buôn sinh tử Đem báu cho họ đầy. Hạt cải sánh Tu-di Vũng chân trâu so biển Lửa đóm tranh mặt trời Vua Chuyển luân so Phật, Thông đạt hơn Phạm thiên Giác tuệ vượt Đế Thích Tướng tịnh hơn Phạm chí. Truyện vua xưa sách đời Tiên Thánh đại sư xưa Học sâu, chán cúng tế Nếu nghe Phật giáo hóa Vội bỏ chỗ tu trì Bình tắm, gậy, bện tóc Bỏ các oai nghi xưa Tâm cống cao liền xả Ngán ngẫm lễ đã tu. Ôi! Ngục tù già suy Khiến ta không kịp người Ta đã được năm thông Nay không thể gặp hầu Giờ ta muốn đốt sáng Định tuệ soi thế gian Nay ta sắp rũ diệt Thì sao mà chẳng buồn!” Liền gọi đệ tử đến: “Ngươi chớ lầm như ta!” Đem trao Thái tử lại A-di từ giã về.  <詞 id="50112185">Phẩm 7: NHẬP DỰ LUẬN Khi ấy Thích vương Đức ngày một tăng Báu đầy đất nước Vang danh trí tuệ Vàng báu chứa nhóm Các thứ Anh lạc Các lành trở về Như vực biển thu, Voi ngựa xe cộ Như xa giá trời Hiền thiện thuần tốt Tự nhiên đến nơi, Mía ngọt, đường phèn Bơ, sữa, nước uống, Lương thực, ngũ cốc Khí lực thêm lên. Tai ương trừ hết Kẻ thù khuất phục Thân thuộc thêm kính Đói, dịch tan biến Gió mát điều hòa Mưa thuận thấm nhuần Không trung quang đãng Tốt đẹp đầy dẫy Khắp toàn đất nước Ích lợi tốt tươi Các lành nhóm họp Không lành tan biến Nhờ đức Thái tử Hòa hợp tạo thành. Do hòa hợp đó Vang danh khắp nơi Các căn đầy đủ Tướng tốt dễ nhìn Như trăng mới mọc Mười lăm ngày qua. Các vua, trưởng giả Đều đến cống dâng Nai vàng, giá ngự Xe dê, chiên-đàn Ngà voi, vàng bạc Các báu hợp thành Đủ trân báu quý, Ngựa giỏi, voi tài Đồng tử kéo chơi Vui vẻ cười đùa Nhạn bằng bạc trắng Mỏ bằng san hô Theo tuổi ngài lớn Cống nạp cho vua Bộ cờ vàng báu Để dâng Thái tử. Ngài tuổi còn nhỏ Xử sự hơn người Nhẫn nhục hơn đất Nặng vượt Tu-di Sâu xa như biển Ý trùm hư không. Qua thời thơ ấu Sang tuổi tráng niên Theo đời học tập Mọi ngành kỹ thuật. Thái tử học giỏi Không phải nhọc nhằn Năm lên mười sáu Thể hình mạnh khỏe Văn võ đầy đủ Nghề vượt vương tôn. Vua thấy Thái tử Đức ngày khá lạ Mạnh trong anh em Như sư tử hùng, Vua chợt nhớ lại Lời của A-di Làm sao đừng khiến Bỏ đức lớn này Vào núi chịu khổ Tinh tấn học đạo. Tâm liền nghi hoặc Vời các quan bàn Tìm cách khiến con Không vào núi tu. Các quan vâng sắc Như tôi thiên đế Vâng lệnh vua triệu Nghó kế trình bày Suy nghó giây lát Cung kính tâu rằng: “Vâng chiếu chỉ vua Thái tử khó lưu! Biển có thể vượt Nhật có thể tối Trăng có thể mát Nguyện Ngài khó sai! Xin thưa đại vương Nên nghó tìm cách Nếu như tìm cách Việc khắc phục ngay. Giả như không được Không ân hận gì Việc rời phương tiện Thì khó làm nên. Nghe lời người xưa Nuốt khí nuôi thân Thân khổ nhọc mãi Còn da bọc xương, Nặng như núi Thái Bị gió dục thổi Ái, nhuế chao đảo Như gió thổi cây Làm đẹp nhà cửa Sắc, thanh, hương, vị… Hoa hương trang sức Dáng như Tiên nữ Niềm vui bậc nhất Mê say nữ lạc. Năm dục còn làm Mê hoặc Tiên só Ôi! Sắc, thanh, hương Vị, xúc êm ái Tâm đã vui mừng Năm tình tham đắm Dục là ngục tù Lưới lớn bền chắc Ràng buộc con vua Mới không lo lắng!” Vua tin điều này Liền vời gái đẹp Từ mười lăm tuổi Dung mạo đẹp đẽ Sáu mươi bốn điều Tư thái đầy đủ Đem số cô gái Sung cung Thái tử. Ngài tịnh tu lâu Cầm giáo hổ thẹn Giữa các thể nữ Như trăng giữa sao Thu hết ánh sáng Chẳng ưa năm dục Miệng không hề nói Lời không thuận lúc Mắt không thích thấy sắc Như người đói vẫn vui. Các kỹ nữ xấu hổ Như tối tránh sáng ngời. Vua cha nghe như vậy Chẳng ngủ yên trên giường Lại ra lệnh trong nước Những người tướng đẹp sang Ai có con gái đẹp Phải nhóm họp về cung Nếu ai trái kỳ hạn Thì trách phạt thật nặng. Lập xong nghiêm hạn đó Lấy ra nhiều Anh lạc Cho họ lấy tùy ý, Vào cung làm thể nữ Đủ các thứ trang sức Để dạo xem ao vườn Vô số cô gái đến Đều được ban Anh lạc. Đức Ngài như mặt trời Mắt không hề nhìn đến Tự giữ ý so lường Không bao giờ nhiễm ô. Thích nữ dòng Chấp trượng Dung mạo như Thiên nữ Tâm nhẫn nhục như đất Mặt sáng như trăng tròn Con cháu vua thánh xưa Tương ứng ngọc nữ báu, Đức rộng trùm thiên hạ Dứt lo như nhạc trời Mang nặng có trí tuệ Tướng đẹp dung mạo ngời Danh xưng là bậc nhất Cho nên hiệu Hàng Xưng. Mắt như cánh sen biếc Tay cầm hoa Ba-đàm Hai tay bưng hoa đẹp Vui mừng đến chỗ mẹ Chỉ mẹ thấy trang sức Ý muốn vào cung xem Muốn được gặp Thái tử Tâm tự nhiên luyến mến. Mẹ liền bảo cô gái: Rằng: “Thà chịu vua trách Không bao giờ cho đi!” Quyết xin mẹ cho đi Thưa với cha mẹ rồi Liền được phép ra đi. Dáng khiêm cung yêu kính Giã từ cha mẹ rồi Cùng người hầu sang đó Như sông Hằng ra khơi Đã vào trong cung vua Từ xa thấy Thái tử Năm trăm đời quá khứ Từng làm vợ Thái tử Nơi nàng đã sinh ra Bậc nhất trong người nữ Đời trước duyên đã định Nên nhìn chăm Thái tử Dáng vui mừng hiện rõ Như hoa sen trên nước Bước đi nhẹ, khoan thai Vắng lặng không tiếng động Giống như các dòng chảy Vào biển thì lặng im. Trong chúng có cô gái Làm hai bài tụng khen Âm vận rất hòa hợp Hợp lúc, thuận cảnh tình Rằng: “Cô gái đẹp đến Tay cầm hoa sen xanh Nhớ hạnh lành đời trước Nhờ hình tướng nhớ lại Quá khứ dâng danh hoa Cúng dường Phật Định Quang Cầm hoa đẹp khác thường Giống như trời Đao-lợi.” Bồ-tát bỗng nghe được Danh hiệu Phật Định Quang Trong tâm liền kinh động Đưa mắt nhìn khắp cùng Rồi liền lên tiếng bảo: “Đưa hoa trong tay đây!” Được lời, nàng hớn hở Như uống thuốc cam lộ. Theo lời liền dâng hoa Lên cúng dường Bồ-tát Hầu bên trái Bồ-tát Như sao sáng bên trăng. Thái tử thấy chuỗi ngọc Không hợp trang phục nàng Liền cởi chuỗi ngọc sáng Đeo vào cổ mỹ nhân. Bấy giờ chuỗi ngọc sáng Trang sức dáng mỹ nhân Đẹp đẽ không gì sánh Châu sáng thêm sáng ngần Giống như trời Đế Thích Ở nơi điện tía xanh Cũng như ngày mười lăm Các sao vây quanh trăng. Cả cung đều vui mừng Đều cùng nhau cất tiếng Bảo rằng: “Thật được phi! Ai cũng đều vui mừng!” Tiếng xưng tụng như vậy Giây lát đến tai vua Vua nghe rất vui mừng Ban thêm vật trân báu. Vua liền ra lệnh Cha mẹ nàng vào Ban cho trân báu Không thể tính kể, Vời Phạm chí giỏi Chọn tháng ngày lành Sửa đường rải hương Hoa đèn kết quanh Dùng dầu thần chú Lửa thần dồi dào Rửa tay Thái tử. Cha mẹ trao nàng Làm phi Thái tử Nữ nhân bậc nhất Ở bên Thái tử Như trời, trăng sao. PHẬT BỔN HẠNH KINH (PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN) <卷 id="50112186">QUYỂN 2 <詞 id="50112187">Phẩm 8: CÙNG CHÚNG THỂ NỮ DU CƯ Các thứ trang trí Giống như cung trời Xuân, hạ, thu, đông Bốn mùa đều khác, Theo mùa sửa sang Dạo chơi ao vườn Cũng như Thiên đế Thí an cây rừng. Thái tử nhân dạo Đến xem vườn ao Thể nữ vây quanh Như trăng giữa sao. Bấy giờ các cô Đêm ngày trổi nhạc Cười vui đùa cợt Hơn mấy năm sau Hoặc vì vui Ngài Lại làm thuật mới Hoặc hiện thân mình Thỉnh thoảnh viết tụng, Hoặc vẽ tranh ảnh Hoặc là khắc chạm, Hoặc dùng đất bùn Đắp nhiều bức tượng, Hoặc kết tràng hoa Dùng để trang sức, Hoặc ở trước mặt Hoặc có hương xoa, Hoặc dùng gương soi Hoặc lược chải đầu Vẽ đen mi mắt Tô đỏ môi son. Lại có thể nữ Lấy hoa ném nhau Hoặc là cười đùa Hoặc buồn than khóc Hoặc miệng ca vịnh Càng nghe càng thích Như ong, đom đóm Kêu ở trong hoa. Thể nữ xin tắm Thái tử bằng lòng Chỗ cây Vô ưu Có ao sen hồng Ánh sáng tô điểm Chiếu cây sắc vàng Như vàng trong lửa Rực rỡ cây rừng. Các cây nghiêng xuống Tung hoa cúng dường Chim hòa điệu hót Giọng nghe cảm thương; Gái cười, chim hót Tiếng vọng vang xa Năm âm cùng trổi Rung động cõi lòng. Thái tử xuống tắm Nước ngập đến lưng Thể nữ vây quanh Ao nước sáng bừng Giống như ngọc sáng Vây núi báu chúa Tướng mầu sáng rỡ Đẹp đẽ vòi vọi. Thể nữ trong ao Đùa vui đủ trò Hoặc hụp hoặc lặn Hoặc toé nước nhau Hoặc cùng hoa giỡn Dùng hoa ném nhau, Hoặc lặn xuống đáy Hồi lâu trồi lên Hoặc ở trong nước Hiện các thứ hoa Hoặc lặn dưới nước Chỉ đưa tay lên. Thể nữ trong ao Các hoa sáng rỡ Khiến các hoa sen Mất đi ánh sáng. Hoặc có nàng vịn Tay chân Thái tử Như đủ loại hoa Quấn quanh cột vàng. Các cô xoa hương Bị nước rửa trôi Chiên-đàn mộc mật Nước thành ao thơm Đùa giỡn như vậy Khó kể cho cùng. Sáu muôn thể nữ Vây quanh cạnh Ngài Thái tử ở giữa Như trời Đế Thích Ở ao trời tắm Cùng với Thiên nữ Ở đó đều ngồi Thuyền báu vàng bạc Trong ao dạo chơi. Như trời nương mây Thái tử lại ngự Trên thuyền bảy báu Phi ở cạnh bên Cùng nhau xuống ao. Màu thân vàng chiếu Soi xa một trượng Như trời trên thuyền Ai cũng kinh ngạc Cho mặt trời mọc Các hoa nở ra Ánh càng sáng chói Như vua mặt trời. Thái tử rời ao Thể nữ lại theo Tấu ca kỹ nhạc Làm nước giải lao Thể nữ uống rồi Nhảy múa vui chơi. Khi ngày vừa tối Ánh trăng sáng soi Muốn mê Thái tử Ý Ngài chẳng chao! Muốn khiến Ngài tham Ý Ngài chẳng đắm Đèn tuệ rất sáng Không thể diệt tan Như đèn ngọc sáng Chẳng hại thiêu thân. Chốc đà tối hẳn Thể nữ ngủ say Vợ Thái tử ngủ Mơ thấy lo biến Thấy Ngài xuất gia Bỏ cung thể nữ Đi vào núi rừng Các phi đuổi theo Buồn bã cầu khẩn: “Chớ ruồng bỏ nhau Đã thành chồng vợ Nay bỏ cho ai. Tôi nay tự xét Không lỗi lầm gì Xin Ngài cân nhắc Chớ bỏ nhau đi! Một mình vào núi Siêng tu các đức Sao lại bỏ thiếp Thật là nhẫn tâm. Người xưa xuất gia Cũng có phi đẹp Xin rủ lòng thương Hãy đợi chờ nhau.” Hơi thở dồn dập Thái tử vào rừng Lòng dạ cuồng loạn Lần từng cây rừng Gào với cây cối Rằng: “Ngươi không lo Riêng ta sầu não Hãy chỉ Thái tử.”û Ngước nhìn lên cây Thấy chim mỏ đỏ Nhìn chim than khổ: “Ta mất chỗ nương Tiếng ngươi giống người Để tiếng cho Ngài. Xin đem tiếng hót Dứt não lòng tôi.” Lại nhìn cây nói: “Sao ngươi không thương Ta mất chỗ dựa Quờ quạng mê man Chồng ta bỏ đi Nên sinh thương xót Cười làm sao được?” Hoa đều nở hết Thấy chim hai đầu Cùng bay song song Càng thêm sầu khổ Rơi lệ nói rằng: “Xin chỉ cho ta Người ôm nặng hờn Để ta thấy chàng Mất chàng ta chết! Hoa rơi trên mình Càng phiền lòng ta Chỉ ngươi chim tốt Chớ ghen ghét ta Tâm ta tán loạn Ưa thích kỹ nhạc Không hề xúc phạm Vì sao như thế? Bị gió lay động Cành cây lắc lư Giống như dùng tay Đấm vào thân ta. Chim thú cho thấy Chúng chẳng bỏ chồng Tiếng nước như mắng Ta chẳng đành lòng.” Ngài không trở lại Liền buồn than rằng: “Để lại mắt biếc Để lại ý hợp Để lại nụ cuời Để dáng hoa vàng Để lại bím tóc Ta thấy hoang mang.” Miệng nói chưa dừng Bỗng thấy Thái tử Ở trong rừng cây Liền đến nói rằng: “Vì sao bỏ nhau?” Nói xong bất giác Ôm chầm Thái tử Thẹn thùng hồi lâu. Thái tử hỏi rằng: “Vì sao như thế?” Liền kể điềm mộng Thái tử bảo rằng: “Đó không phải nàng Ta không hề đi Ai đi, ai lại Không có người đi Cũng không chỗ đến. Nàng hãy hiểu kỹ: Sắc như chùm bọt Ý như bong bóng Tưởng như lửa sáng Hành như cây chuối Thức như huyễn hóa Các căn vô lực Hình thể nhân nhau Giống như hoa hợp. Biết đời vô thường Thí như ngựa hoang Tôi, ta không có Cũng không bền chắc Hợp thì có ly Nàng nên biết rõ.” Thái tử tự nghó: “Nên ta ra đời.”  <詞 id="50112188">Phẩm 9: BIỂU HIỆN LO SỢ Vua thương Thái tử buồn Khuyên nên đi du ngoạn Mới ra khỏi cửa thành Mặt trời mọc mây tan Ngài ngự xe bảy báu Các đức tướng trang nghiêm. Tướng theo hầu sang trọng Như trăng và các sao Công đức thật đầy đủ Hình dung rất nhiệm mầu. Vua truyền khắp trong nước Dẹp đi già, bệnh, chết Kẻ nghèo cùng khốn khó Chớ để bày bên đường, Nơi nơi phải trang hoàng Nhiều lọng báu, cờ phướn Lầu gác, các phụ nữ Giống như thành Thiên cung Trang hoàng thật lộng lẫy Không ai không vui mừng. Nhân dân đều ca vịnh Cả nước tiếng vọng vang Như nước thu về biển Người chen lấn để xem Điểm trang và ăn mặc Chưa xong đã vội đi Hoặc chưa kịp sửa soạn Nghe tiếng đã chạy đi. Các lầu gác, lan can Đầy nghẹt người và người Hoặc đầu thân lơ lửng Giống như các hoa rũ Hoặc khom mình lễ bái Người người khen ngợi rằng: “Sẽ làm Thầy dẫn đường.” Tung các hoa hương, chuỗi Thấy vậy đều kinh ngạc Họ truyền bảo nhau là: “Đây là thần gì vậy?” Hoặc nói: Từ trời xuống Hoặc rằng: Chính Đế Thích! Hoặc: Ma vương, Phạm vương! Hoài nghi, mừng hớn hở Ca ngợi đủ mọi cách. Các trời thấy Thái tử Cùng tùy tùng ra đi Giống như trời Đế Thích Khi đi ra dạo chơi. Khi đó trời Tịnh cư Muốn giáng xuống điềm lành Như Phật xưa hiện điềm Khuyên xuất gia học đạo Trời liền hóa người bệnh Nằm thở bên lề đường Mắt vàng, sắc nhợt nhạt Khí thể, miệng khô khan Thân sưng, bụng phình trướng Rịn ra chất bất tịnh Trây trét khắp thân thể. Bồ-tát mắt nhìn qua Hỏi rằng: “Vật gì thế? Gớm ghiếc khó thể nhìn!” Người hầu liền đáp lại: “Uống ăn không giờ giấc Bốn đại không hòa thuận Đó gọi là người bệnh!” Bồ-tát lại hỏi rằng: “Xét ra chẳng chừa phần!” Kẻ hầu liền đáp lại: “Đúng vậy không chừa ai! Ở đời không ai khỏi Nguy ách về bệnh tật Bốn trăm lẻ bốn bệnh Là đại hoạn thế gian Ngài cũng không tránh khỏi Chỗ đại biến khổ nàn.” Thái tử dừng xa giá Lo rầu thảm thương than Nghe “bệnh” lòng đau đớn Như voi bị trúng tên Gặp bệnh lòng xúc động Lệnh người hầu quay xe. Lòng dạ đầy hoảng sợ Như trâu sợ sấm to Nghe tiếng sấm sợ hãi Hoảng hốt thân chẳng yên. Sau đó lại đi dạo Trời hóa làm người già Đầu như tơ trắng toát Da thịt khô nhăn nheo Run như cành trong nước Thân còng như cung trương. Thái tử thấy liền hỏi: “Đó gọi là người gì? Sinh ra là như vậy Hay có biến đổi chăng?” Người hầu nhân đó đáp: “Từ đầu thân thọ thai Khởi lên như chùm bọt Duyên khởi năm thể hiện Phân hiện thành sáu căn Sau đó mới sinh ra, Nhỏ uống sữa mẹ sống Lớn dần ăn ngũ cốc Lần theo đất mà đi Ban đầu nói như chim Thế rồi đứng, đi, chạy Thể mạo hình dung thành Các căn dần thành thục Cho nên gọi là già. Đó là sứ trời gọi Bày thức tỉnh chúng sinh Thân suy hết mừng, thảm! Như hoa bị sương độc Mặt như trăng bị khuyết Tâm như trời bị che Sức tráng niên khô kiệt Như nước rỉ cát khô Trộm chí, tư, tài, người. Vô hình đến như giặc Tâm não mất nghe biết Giống lửa đồng đốt đầm Đè nén như ép dầu Uống tinh khí của thân Hủy hoại thân đổi khác Đó được gọi là già.” Thái tử nhìn hồi lâu Bèn buồn bã than dài: “Ngọn núi lớn già, bệnh Nghiền mạnh nát chúng sinh Khắp đời gặp khổ nạn Ý thỏa thích sao đành Phải tìm cách thoát khỏi Như tránh bọn cướp hại.” Sau đó, lại du ngoạn Trời hóa thành người chết Họ hàng theo xe tang Xõa tóc kêu khóc vang Hỏi rằng: “Đây là gì? Trình ta cho thật lòng.” Bấy giờ những người hầu Tâu Ngài đầy đủ rằng: “Ngày qua đến già suy Đau đớn tinh cạn vơi Chiếc cửa bén tám tiết Cắt cứa cây sống đời. Chiếc búa sắc ngày tháng Ngày đêm thường đốn chặt Gặp gỡ gió vô thường Lướt theo lật ngã nghiêng Chia lìa với mẹ cha Riêng mình đi đường mê, Vợ con và anh em Không người thân nương cậy Không còn phương cách cứu Vây quanh mà than khóc Mến mộ buồn tiếc thương Khen đức lúc còn sống. “Ta cũng sẽ như thế!” Đều chết, Ngài đừng nghi “Ta cũng lìa người thân” Ngài chắc sẽ chia lìa! Cuộc đời bị chết buộc Làm sao yên nói cười? Vì không biết hổ thẹn Nên sống chết bao lần. Con đường dài đêm ngày Ngày tháng trôi không dừng Già, bệnh, chết rất độc Hàm răng, sắc lo buồn Bị lưỡi bốn mùa liếm Đi đêm chốn hiểm nguy Tất cả không ai khỏi. Chết như rồng nuốt chửng Làm tan nát khắp nơi Hủy diệt đến tận cùng Đều được như mong muốn Nuốt hết, thiêu cháy cùng Đuổi hết, bẻ gãy hết Không có gì ngăn chận Ngài nên hiểu là chết!” Nghe rồi sợ hãi nói: “Ở đời vui cười được Vàng đá cười đó chăng?” Thái tử lo âu bước Nhớ chết như nước sôi Giống như sư tử mạnh Ở rừng giặp lửa đồng Nghó muốn được lìa khỏi Lửa già, bệnh, chết hừng Thuận đạo niệm không quên Tìm cách để thoát khỏi. Trời hóa làm Phạm chí Hình tiều tụy hiện ra Mày râu dài, tóc rối Mặc áo da nai thô Tay cầm bình nước rửa Lại cầm gậy dò đường. Bồ-tát nhân đó hỏi: “Ngài tu pháp thuật gì?” Liền đáp lời Thái tử “Xin nghe điều tôi nguyện Không lo già, bệnh, chết Nơi đó gọi là trời! Nay ở đây gieo mầm Sinh thiên: Hoa to lớn Cầu an vui khoái lạc Sinh cõi trời manh nha.” Thái tử khen cho rằng: “Người này thấy kế sáng Bảo rằng trời khỏi hoạn Cũng là điều ta thích Tâm còn nghi một điều Là thường hằng mãi chăng? Nếu ắt thường an vui Nên nguyện sinh cõi trời.” Trời ở trên gọi lành Khen Thái tử tâm tịnh Trên trời tuy vui sướng Nhưng chết sẽ bị đọa Hưởng phước lành an vui Nhưng không còn dài mãi Phước hết liền bị đọa Phải chịu khổ ba đường. Mặt trời ngàn ánh sáng Phước hết đọa tối tăm Trăng tròn chiếu sáng rỡ Trăng lặn không còn sáng Phạm, Thích, vô số trời Tuy thật ngôi trời vinh Lại là vật đáng thương Thân quỷ đói ăn xin. Xưa vì Phật Bảo Đảnh Thắp đèn suốt bảy ngày Mới phát tâm cầu Phật Lập nguyện rất vững chắc Tức thời ma run rẩy Giống như là cây chuối Cũng làm cung điện chúng Chấn động không được an Được ba cõi tôn kính Nay không nên bỏ quên. Đối với vô số Phật Tu biết bao nhọc nhằn Xưa vì Thí An Phật Xây tháp lớn bảy báu Giống như núi Tu-di Đứng sững trên mặt đất, Dâng Định Quang bảy hoa Thọ ký sẽ thành Phật, Tung hoa vàng cúng Phật Suốt đời nguyện Đại thừa. Lại xây cất chùa miếu Dâng hoa sen cúng Phật Và vô số Phật khác Bày các báu, hoa hương Dùng hoa trời cúng dường Vô số Phật Năng Nhân, Lại cùng Phật Hiện Nghóa Trọn đời dâng hoa hương. Ca ngợi Phật Phương Diện Cho đến trong bảy ngày Cúng dường Phật Vô Hiện Trọn cả cuộc đời mình. Lại cúng Phật Đảnh Vương Y phục bằng bảy báu Bố thí Phật Vô Lậu Mong muốn làm Sa-môn. Vào thời Phật Lý Quang Vào đạo, giữ pháp tịnh, Lại thời Phật Vô Hạn Cạo tóc làm Sa-môn, Đối mấy ngàn Đức Phật Giữ siêng năng cung kính. Có đời gặp hổ đói Bố thí, cho vợ con Bỏ mắt, thân, da, thịt Tay, chân, lòng vẫn an Như thế không kể xiết Thí đầu có hàng ngàn Khi đang bố thí đó Ba ngàn cõi rung chuyển. Khoảng thời gian nói thế Hiện chết cõi trời đọa Người sau buồn luyến tiếc Xoay vần mến thương nhau, Dưới hiện tám địa ngục Đều có mười sáu ngục Bỗng vang lên tiếng lớn: “Khắp đời đều sẽ chết!” Theo đó lần tiến lên… Thích nữ tên là Nai Thấy Thái tử như trời Nói tiếng lớn như vầy: “Là cha, chẳng lo lắng Là mẹ rất an vui Chồng được như người ấy Vợ như được vô vi.” Như mây sấm từ trời Tiếng vào tai Thái tử Mới nghe tiếng vô vi Như mệt được nghỉ ngơi Các căn đã đầy đủ Như hiểu được trong lòng Lấy chuỗi báu của mình Xa ném vào cổ nàng. Vì nghe vui vô vi Không tà dục trong lòng. Tâm vui hướng vô vi Bỗng thấy hóa Sa-môn Uy nghi giới vắng lặng Cầm bát, mặc ca-sa Thái tử bảo người hầu Quay xe đến gặp nhau. Thái tử hỏi Sa-môn Liền lên tiếng tâu rằng: “Sáu căn không các lậu Lìa nhà, xa lìa nạn Núi rừng sống nhàn nhã Chỗ tịnh nghỉ qua đêm Xin ăn tự nuôi sống Ngài muốn học điều này. Tôi, được gọi Sa-môn Vì mong cầu giải thoát Ý yêu, ghét dứt hết Điều các căn, tâm tịnh Xả tôi, ta không chấp Bỏ tất cả các việc, Ngồi xe cộ của mình Tay cầm cung trí tuệ Lập nhiều các phương tiện Muốn trừ diệt ma binh. Nguyện không lửa, không đất Không nước, không gió mây Không trời, trăng, các sao Không hư vô, hết hoạn Không già, chết, lo buồn Cũng không buồn chia ly Cam lộ dứt trừ hẳn Tôi nguyện được chỗ này!” Nói lời này vừa dứt Trước Thái tử biến mất. Thái tử bước khoan thai Ánh sáng chói ngời đất Trở lại vườn du ngoạn Tâm vắng lặng an định Ý suy nghó bao điều Phương tiện các việc thiện.  <詞 id="50112189">Phẩm 10: DƯỚI BÓNG CÂY DIÊM-PHÙ-ĐỀ Vào lúc ấy, Bồ-tát Tâm buồn thảm trở về Về đến vườn du ngoạn Đức sáng như vua trời Đứng đầu các Tiên thánh Không bị nữ sắc mê. Bấy giờ thấy nông phu Đang ra công cày bừa Xén chết bao trùng đất Liền sinh tâm thương xót Như thương yêu con đỏ Bùi ngùi mà than dài. Cách cây đó không xa Kho tàng bỗng hiện ra Một do-tuần vuông vức Ánh bảy báu sáng lòa. Tướng hầu vui hớn hở Lấy vật báu, sách, vàng Trên khắc tên vua xưa Vật ấy, vua ấy làm Thái tử xem chữ khắc Biết vua Chuyển luân xưa Tám muôn bốn ngàn đời Xoay vần nhau truyền thừa. Ngài nhìn đống bảy báu Như nhìn thấy rắn độc Ngoái nhìn dáng hoa sáng Cúi mình lễ người xưa. Lệ tuôn rèm mi biếc Rơi đầy dáng mặt hoa Đưa mắt lành nhìn khắp Ngước nhìn trời bao la Tiếng Phạm âm buồn bã Bảo người đứng chung quanh: “Những người họ Thích xưa Kiêu mạn một đời hùng Bỏ nước ngôi báu trời Một mình đến phương nào? Thân nhọc nhằn khắp nơi Chứa nhóm nhiều vô số Kho báu trong đất nước Chữ xưa, không có chủ.” Tâm nghó đến vô thường Đến dưới gốc Diêm-phù Liền đưa tay vàng chói Đặt lên đùi sắc vàng Ngồi tư duy không động Gồm ý chuyên nhất định Quán sinh diệt hợp tan Đợi chứng nhất định trụ Như số cát các sông Chư Phật ý bất cộng. Sông chín não chảy đục Nhờ ngọc mà lắng trong Đối tất cả chúng sinh Tâm Từ trong khoảnh khắc Phước vô hạn vô lượng Tâm Từ thương chúng sinh Lại khởi tâm thương xót Muốn an các khổ nàn Xét kỹ thấy tất cả Bình đẳng đạt Sơ thiền. Bỏ các pháp ác dục Liền được niềm hân hoan Cho đến Thiền thứ tư Được vô lượng thanh tịnh. Khi ngày đã xế chiều Cây cối bóng ngã dài Chỉ bóng cây Diêm-phù Như lọng che Thái tử Như người biết ân dưỡng Theo báo đáp không màng Bóng chẳng lìa Thái tử Như báo đáp không rời. Vua họ Thích nghe vậy Vội đến như sư tử Thấy Thái tử dưới cây Như mặt trời trong mây Tình vui mừng hớn hở Ngạc nhiên không kể xiết Mắt lành nhìn rơi lệ Lễ chân, tiếng buồn than Dùng vô lượng ý kính Như thế, giờ lại lễ Nguyện đất nước có đức Đừng sinh tâm bỏ đi Khắp nơi mừng hớn hở Giống như cầu phước trời Mong chớ bỏ ngu mê Mất phước rơi tối tăm. Con là đức thế gian Làm rạng rỡ người trước Chỗ dựa của tất cả Người hùng trong họ Thích, Là thân mạng của ta Các Thiên nữ cõi dục Chúng sinh cõi Phạm thiên Tự tại ban lệnh khắp Đừng đoạt mạng chúng ta Giống như vua địch mạnh.” Vua yêu con bất giác Buồn thảm trở về cung Vua trở về không lâu Thái tử liền xuất định Nghe trên không có tiếng Trời thứ nhất thưa rằng: “Đạo Sư của trời, người Xin nghe chúng tôi nói: Xin Ngài hãy ra đời! Từ vô số kiếp nay Danh, sắc chia hai chi Trùm khắp trong năm đường Mầm gốc đến ba cõi Rất lớn và vững chắc Nay đem cày trí tuệ Lật gốc cây sinh tử Ái sâu: Ao, vực rộng Loạn tưởng như cá lội Mê che lấp kéo lôi Sóng ganh giận cuồn cuộn.” Trời thứ hai lại tâu: “Với ý kính thanh tịnh Thuyền nổi hãy nương tiến Vượt bờ biển trần lao.” Trời thứ ba tiếp lời: “Gieo giống núi kiêu mạn Hầm tà kiến sâu thẳm Ganh giận không có bờ Sông và hang bệnh, chết Chênh vênh và khúc khuỷu Dùng chày Kim cang tuệ Đập tan các núi khổ.” Nghe xong Ngài đứng dậy Như núi vàng sáng rực Bước hùng thật ung dung Tiếng vang như sấm động Mắt như lá sen xanh Khuôn mặt như trăng đầy Chán nhà ưa vô vi. Ý chỉ muốn lìa dục Như sư tử bị tên Đau đớn trở về cung Đến thẳng cung vương phụ. Trước điện vua Bạch Tịnh Quỳ chấp tay tự tâu: “Xin nghe con trình tấu Con muốn được xuất gia Tu theo hạnh Thánh xưa! Có hợp ắt có tan Đâu ai còn mãi được”. Vua nghe lời tâu lên Lòng như trăng nước động Nghẹn ngào không nói được Hồi lâu mới nói rằng: “Con chớ có ý này! Ra đi chưa phải lúc Tuổi trẻ sức sung mãn Không nên ở núi rừng Mà chính là lúc ta Bỏ ngôi vào đạo pháp. Con là người có đức Xứng đáng ngồi trên ngai Đất nước hy vọng con Làm vua Thánh chuyển luân Họ Thích vinh nhờ con Con không nên thiền vị.” Ngài dùng lời tha thiết Mà đáp lời vua cha: “Con xin cha bốn điều Bảo đảm cho con được: Khiến thân không tật bệnh, Già không đoạt tuổi trẻ, Chết là nạn cuộc đời Khiến không cướp mạng sống, Việc thành không hư hoại. Bốn sự việc như thế Nếu bảo đảm chắc chắn Con ở không lo lắng Không đi vào núi rừng Thảnh thơi cai trị nước!” Vua rằng: “Bốn việc này Không thể bảo đảm được Nhưng con phải ở ngôi Không thì, không thuận lý. Ở ngôi vẫn tu pháp Đến được đạo vô vi Mũ bảy báu đội đầu Y phục quý sáng thân Các vẻ đẹp tự nhiên Như vua trời cõi Dục Đều ngồi trên ngôi vua Đều đến chỗ giải thoát. Có vua tên Lực Thắng Có vua tên Bất Mê Có vua tên Thức Tri Có vua tên Vũ Lực Các ngài đều ở ngôi Đều được giải thoát diệt. Như thế nên ở lại Được cả hai không mất Được tự tại trong lòng Và đối với đất nước Không thể bị bỏ phế Ắt sẽ mau thành tựu. Ta nguyện đem ngự xa Ngũ phục trao cho con Tắm con, lọng báu che Rồi ta vào núi rừng.” Thái tử giữ khiêm kính Mà đáp lời vua cha: “Nếu không thể bảo đảm Xin cha chớ cản ngăn Dù nhà là vàng ròng Lửa cháy cũng phải tránh Kẻ trí không nên ngăn Gặp kiếp tai tránh lửa. Nên biết nhà vàng ròng Ở chung với tự tại Tuy ba lửa cháy nhanh Mà sao không bỏ chạy? Lại có ao tắm trong Hoa sen nở đầy khắp Có nhiều quả túc trùng Không thể bỏ đi sao? Tay cầm chiếc cung cũ Dùng sức mạnh lợi ích Bắn bằng tên bệnh khổ Phát ra trọn không mất, Rơi vào vòng túc đối Diêm vương thường săn bắt Ai ngu mà đứng chờ? Có thể nhằm bắn ta! Nếu có kẻ sợ không Tìm phương tiện trốn chạy Đến chỗ thấy hư không Sợ, không biết nẻo về. Như thế trong năm đường Vô thường khắp tất cả Muốn đến nơi Vô úy Vậy chẳng nên cản ngăn.” Đến đây vua họ Thích Im lặng không đáp nữa Tự thân dắt tay con Dẫn dụ muốn rời khỏi Liền ra lệnh các quan Thêm kỹ nhạc giữ chân. Lúc bấy giờ Thái tử Vào cung tự nghỉ ngơi.  <詞 id="50112190">Phẩm 11: XUẤT GIA Vào lúc này Thái tử Tâm sầu lo tiều tụy Lại đến chỗ vua cha Hết lòng xin xuất gia. “Nếu cha thấy thương xót Xin xem đời nhiễu động Có hợp nào chẳng tan Khó giữ được lâu dài, Xin cha cho con đến Chỗ núi rừng Tiên nhân Ở đó tu khổ hạnh Mở rộng đường giải thoát. Không còn nguyện nào khác Vượt lên trên nguyện này Nếu xét thấy thương xót Xin cha cho phép con.” Bấy giờ vua Bạch Tịnh Đưa tay màu cánh sen Cầm lấy tay Thái tử Giọng buồn gọi ngài đến Lệ rơi nhìn chăm chăm Hồi lâu rồi than dài Sau đó mới thốt lên Lời chua cay đau khổ: “Xin con hãy buông bỏ Chớ giữ mãi ý định Nay con chưa nên vậy, Núi rừng hãy chờ lúc Tâm hãy hưởng vinh hoa. Chưa từng trải cần khổ Bị các dục cướp đoạt Như xe không người lái Nay chính là ta đó. Núi rừng hãy chờ lúc Nên đem ngôi vua báu Đến lượt trao con rồi Nước thơm con tắm rửa Đem mũ báu tiến trao Ta mừng không lo lắng Vào núi rừng không lo Mong con nhận quán đảnh Tiến bước lên ngôi vua Trao cho, ngắm nhìn con Lòng ta thật hãnh diện.” Từ ân ái sinh ra Nước mắt chứa lâu ngày Lệ tràn mi thấm ướt Để lấp van người trước. Thái tử nghe lệnh vua như thế Dùng lời sâu sắc đáp vua rằng: “Con xét biết lòng vua thương xót Con cũng kính yêu quý trọng người Nếu muốn chạy khỏi ngôi nhà cháy Có người thân nào không cho ra Vì thân ái nên đều bị đốt Điều nào tốt đẹp? Nghó đi cha! Nay con muốn tránh lửa vô thường Kẻ trí không nên để bị thiêu Chỉ mong muốn cho khỏi bị đốt Xin cha cho con vào núi rừng. Ai không muốn ở gần thân thuộc Ở mãi bên nhau chẳng biệt ly Cùng những người thân thương mến nhau Thần chết không thắng thần chia lìa Vậy xin Thích vương hãy tha thứ Không phải là con không luyến thương Mà do vô thường không tự tại Cho nên ý quyết cầu Nê-hoàn. Tất cả các người thân đời trước Con có mặt, cha đều có mặt Nay con có ích gì cho họ Oan đối xưa như gió thoảng mây.” Vua sắc rằng: “Chưa phải lúc đi Nếu khi chết đến có thể tránh Lửa tuy chưa rực, có chỗ cháy Phải diệt sớm cho sau khỏi bi.” “Vương vị người đem ủy thác trao Kia không chỗ nhờ, không chỗ cầu Như mang đá nặng lội qua sông Vì vậy chẳng nên nhận ngôi vua.” Vua nghe Thái tử nói Lời lẽ rất thẳng ngay Lời con không thể đáp Không còn lý ngăn được Liền ra lệnh các quan Giữ Thái tử trong cung Tăng thêm các kỹ nhạc Chớ để ngài sầu thương. Sau đó không lâu Ngày đã về chiều Thái tử vào cung Như trăng vào mây Ngồi xem kỹ nhạc Như voi bị giam Nhàm chán kỹ nhạc Khước từ không xem Trong lòng phiền muộn Bèn bỏ đi nghỉ. Tỉnh giấc thức dậy Thấy thể nữ ngủ Chuỗi ngọc vung vãi Bỏ rơi nhạc khí Áo quần xốc xếch Bao điều bày phơi Nước miếng chảy ra Cổ ngực dơ bẩn Sấp ngửa, há miệng Trông thật khó coi. Hoặc có thể nữ Ôm nhạc khí ngủ Hoặc gối đầu nhau Hoặc riêng cúi mình, Hoặc có thể nữ Đứng thẳng mà ngủ Kẹp rơi tóc xõa Giống như đuôi công Hoặc có thể nữ Ngửa mặt mà ngủ Giống như vị quan Ngước nhìn các sao. Thấy như vậy rồi Thái tử không vui Nhìn kỹ thể nữ Rồi tự suy nghó Bùi ngùi thở than Rúng động trong lòng Trong cung mà tưởng Như gò mộ hoang. Các cô gái đẹp Tư dung mỹ miều Thái tử lo sợ Như voi gặp lửa. Dáng đẹp thể nữ Bị giặc ngủ trộm Quên mất ý tứ Nhạc khí lẫn lộn. Tánh người nữ yếu Thường hay mắc cỡ Bị con voi ngủ Chà đạp dày vò Như cây hoa đẹp Cành lá sum suê Chợt gặp voi đói Nhổ dập nát tan. Sinh tử nguy hại Xem thường phá khuấy Hiểm nguy dối trá Không bạn thân cũ. Họ hiện còn sống Hình thể như vậy Hoặc với thân ấy Không biết thẹn thùng Bỗng té xuống đất Vẻ đẹp mất tan Cái nạn ngủ nghỉ Mắt kia ngang tàng Khi đang ngủ nghỉ Hình thể khó coi Nếu phải chết đi Thân giống cái gì? Chính thân thể đó Chính các căn này Bị lọng ngủ che Đến nổi đổi thay Như mất cơ quan Không thể tìm lại, Thất thế thì nằm Như đống đất cỏ Từ lâu xa nay Si lực rất mạnh Phủ che tai mắt Khiến cho điếc, đui. Thân thể dơ bẩn Hiển bày thấy được Che lớp da mỏng Không thể hay biết. Tất cả thế gian Gặp đầy khốn ách Không nơi nương cậy Như bánh xe quay Duyên cấu trần lao Bị chìm đắm mãi, Như con voi lớn Chìm xuống vực sâu Ta nay không thể Liên lụy vào đó Mành lưới trần lao Tự đem buộc vây Cho nên ghét chúng Dục dơ năm ái Bỏ nơi hỗn tạp Riêng vào núi vắng. Vì gốc lành xưa Thôi thúc tỉnh giấc Thái tử quyết tâm Muốn ra sinh tử: Giờ Ta xuất gia Nay đã đến rồi Chẳng nên ở lâu Sinh tử đáng sợ Cho nên hôm nay Phải vào núi rừng. Dù biết sinh tử Khi cháy lửa bừng Ta tự quán sát Có thể kham nhận Bốn đại chưa rã Phải sớm trốn đi. Các trời, người biết Tâm Thái tử tịnh Khi đó Tịnh cư Liền xuống nhân gian Làm các thị vệ Ngủ say mê man Tức thời mở hết Các cửa cung thành. Mỗi khi mở cửa Như lúc bình thường Tiếng mở vang vọng Cách một do-diên Trời mở các cửa Vắng lặng không tiếng. Trời khuyên Thái tử Các thứ công đức Các trời hớn hở Tâm rất vui mừng Vì Thái tử hiện Các thứ điềm lành. Trời tung hoa thơm Liên tục không ngừng Trổi nhạc, ca vịnh Vang lừng hư không. Thấy điềm tốt lành Các trời khuyên giúp Tâm rất vui mừng Nhân đó nghó rằng: Người yêu dòng họ Không thể lìa bỏ Trâu mao quý đuôi Bị lửa thiêu đốt. Ngài liền ngồi dậy Ý đã quyết định Đối thể nữ đẹp Cung báu, ao tắm Giống như nhạn chúa Bỏ ao hoa sen, Thái tử cũng vậy Không hề đắm luyến. Lần này cuối cùng Ta cùng nữ nhân Lần này cuối cùng Ta ngủ lại cung. Hư không có thể Phá làm trăm phần Ta không hề đắm Ái dục cõi trần. Liền ra khỏi cung Như sư tử chúa Xé tan lưới chắc Một mình riêng bước Ngài xé lưới chắc Cũng giống như vậy. Ngài liền tìm cách Gọi Xa-nặc ra Dùng lời dịu ngọt Bảo Xa-nặc rằng: “Mau dẫn ngựa giỏi, Kiền-trắc lại đây!” Các trời mê hoặc Tâm ý Xa-nặc Nên chọn ngựa trắng Như ngựa đầu đàn Yên cương giá ngự Chuẩn bị trang nghiêm Giống như hạc trắng Lẫn trong mây chớp. Bấy giờ Thái tử Tay xoa đầu ngựa Dùng lời êm dịu Nói với ngựa rằng: “Ta có nguyện lớn Nhờ vả đến người. Đã sống cùng nhau Như bạn hiền thiện Chắc thích điều lành Khiến ta chẳng ngại. Muốn xông vào trận Vượt đến bờ kia Đây là lần cuối Phụng sự cho ta, Đêm nay nhờ ngươi Mang nặng lần cuối Sau này ta chẳng Nhọc nhằn đến ngươi Ta đây lần cuối Nhờ ngươi đưa thôi.” Thái tử nói rồi Liền lên lưng ngựa Như trời mới mọc Ở trên sườn núi Ngài trên ngựa trắng Uy đức vòi vọi Như trăng mùa thu Nương mây trắng bay. Bốn thứ quỷ thần Muốn cho chóng mau Tiếp nâng chân ngựa Khiến rất khéo léo Bốn vua tự cúi Đi trước dẫn đường Các trời tiếp bước Sáng như ban ngày. Trời, Rồng, Quỷ, Thần Và các Tiên thánh Đồng thanh khen rằng: “Hạnh nguyện vô ngại Sở dó xả bỏ Thiên hạ bốn phương Cung báu, thân thuộc Để nguyện chóng thành.” Thái tử liền ra Bên ngoài cung thành Chấn động rỡ ràng Vui tuyên nói rằng: “Tu-di núi chúa Còn có thể tan Miệng có thể thổi Làm cho sụp đổ Nếu ta không thể Chứng thành Phật đạo Quyết không về lại Thành nhuốm máu tanh.” Như luồng gió mạnh Thổi đùa mây nổi Chỉ trong giây lát Ra khỏi cõi Thích, Một thoáng nghó ngợi Tức thời đến nơi Như mặt trời chếch Núi Nhạc, non Tây Ngài liền xuống ngựa Vào trong núi rừng Lòng đầy mừng vui Việc lớn đã làm.  <詞 id="50112191">Phẩm 12: XA-NẶC Bồ-tát lòng Từ khắp Rèm mi màu xanh biếc Vừa rơi lệ vừa nói Hết lòng với Xa-nặc “Bỏ bao vàng, chuỗi ngọc Rút kiếm như rắn vung Tự cắt tóc trên đầu Trời kính mang tóc đi. Cỡi anh lạc báu trao Xa-nặc” Ý kính quỳ xa và bảo rằng: “Đem bảo châu này dâng chúa thượng Lòng thành khải tấu chớ lo lắng Có tâm sợ chết thật khổ lắm Mới làm Vương phụ mất chỗ nhờ Chưa về dưới gối đền ân dưỡng Đã khiến Mẹ hiền sinh cõi trời. Chưa tròn cha con Trả ân nuôi dưỡng Sợ chết đau khổ Vào non diệt ý Biết sinh tử ác Rất nhiều sự việc. Tính ta vốn điều Buộc lòng trái lệnh Như cha từ ái Mà thương xót ta Ta cũng từ kính Tôn trọng cha già. Nay ngươi, Xa-nặc Nên hiểu nghóa này Sao còn phiền lụy, Giải bày rộng rãi Thong thả dồi dào Những lúc vui sướng Bạn lành, họ hàng Rất là dễ được, Gặp khi hoạn nạn Bạn lành khó gặp Hay đem điều lành Giúp người gian nan, Hoặc có tôi tớ Chẳng mong ân ái Khổ nhọc phục dịch Không thể kham chịu. Như ngươi Xa-nặc Có thể chịu ân Hoạn nạn có khanh Cũng khó gặp được. Phàm người ở đời Trong lúc vui sướng Xa lánh người ngoài Về đấy làm bạn, Người gặp khốn đốn Trong lúc khổ nàn Cốt nhục sâu dày Cũng chẳng ngó ngàng. Ta xét trước đây Dòng họ Thích này Tiếng vang bốn cõi Phong tục nhà riêng Những người trước ta Vào núi rừng tu Các Thích tử cũng Không nên cười ta. Đem tài bố thí Rất nhiều người làm Không ai có thể Pháp lành thí khắp, Hay đem pháp lành Thí, cho rộng rãi Trong vô số kiếp Thật khó gặp gỡ. Như khanh, Xa-nặc Nay trở về nhà Tâu với vua cha Quyết đoán của ta: Người đời nhờ biết Dứt bỏ ái đắm Ái đắm đã dứt Thì không còn lo. Ta thấy khắp đời Đều chìm đắm cả Khổ não lo lắng Vực sâu, biển khơi, Sở dó bỏ nhà Muốn dứt già, bệnh Chẳng nên não nhau Thêm nhiều lo khổ. Người sống trên đất Thường theo đuổi người Khổ già, bệnh, chết Rất là tệ hại, Ai mở tâm được Tin chẳng lo sợ Vung dao ác tặc Đuổi người chạy đi. Nếu chẳng tự khuyên Mở ý xa lìa Gia đình thân tộc Ân ái đắm nhiễm Ắt sẽ gặp phải Hoạn nạn chia ly Chết không hề lựa Sang hèn, hiền ngu. Bà con ân ái hợp Ắt sẽ phải chia lìa Sau chẳng sớm cầu độ? Không còn chết chia lìa Nếu vua mang ý này: Con chưa đến lúc tu Làm lành đâu đợi lúc Mạng như đuốc gặp gió. Cạn tình với vua cha Xa quỳ, chắp tay tâu: “Thế gian gặp khổ lớn Không người nghó thoát khổ Con đã thoát già, bệnh Đạt được sự vui nhất Đế Thích hưởng năm dục Không bằng con thọ vui. Sở dó lìa thân tộc Mong sau được lợi lớn Muốn khiến mọi chúng sinh Diệt hẳn ghét, lìa yêu. Khanh biết ta vốn hiền Vua cha yêu ta lắm Xa-nặc hãy tìm cách Can vua, giải lo buồn.” Xa-nặc nghe lời dạy Ngạc nhiên, lòng buồn bã Sợ hãi run bần bật Tim như bị tên độc Mưa lệ rơi lả chả Quỳ thẳng, khóc than nói: “Vì sao dòng Chuyển luân Nay tiêu hết bởi Ngài Miệng Ngài thường hay nói: Cho đi, cho nữa đi! Nay lại đi ăn xin Sao chẳng thẹn với đời? Ngài tính nhu, thân đẹp Nay lại ăn mặc xấu Vốn như hoa sen nở Nay lại tướng lửa thui Giờ Ngài hãy mau bỏ Tâm kỳ lạ đó thôi! Rắn độc vào ở nhà Phải tìm đuổi nó ra! Nay không xét ý vua Chẳng nghó lòng vua buồn Chẳng lo vua phiền não Như ngày mất ánh dương, Chẳng nghó sẽ có việc Con đức hạnh dịu dàng Mong đúng thời mưa thấm Lại đổ lửa dòng Thích. Cha hiền từ như thế Đem lòng tốt nuôi Ngài Bỗng rời bỏ vua cha Như khinh thường, mất thiện. Dì nuôi dưỡng như mẹ Quan hệ như thân sinh Xin Ngài chớ bỏ quên Như tâm kẻ phản phúc. Các thân tộc như thế Và anh em, xóm làng Xin chớ bỏ hội ấy Như kẻ tiếc tài sản. Ngài giã biệt thành rồi Người trong nước buồn lo Như rồng gặp chim vàng Cả nước động như thế. Khi Ngài sinh khắp nước Tốt lành như cõi trời Nay Ngài bỏ vào núi Đau khổ như đọa ngục. Trước ban đức cho nước Như ngày đông trời ấm Sau ban lửa lo buồn Như lửa hạ lan ra. Ôi! Khổ thay! Vô đức Xét là trời làm mê Đem ngựa lại cho Ngài Khiến cả nước buồn lo; Đem nước mắt cho dân Lòng lo, miệng khẩn cầu Từ vua đến trai gái Mây lo sầu che phủ. Tiên sư dạy lễ nghi Phải thương khắp chúng sinh Buồn cha mẹ, nòi giống Mình giữ đạo gì đây? Voi ngựa cúng cả ngàn Nếu thương xót chúng sinh Ví như lường hai đức Phước lành nặng muôn ức. Nay vua cầu con quý Thân già nặng lo buồn Làm liều không suy nghó Như voi hoang mất con, Khóc thương mắt mờ đỏ Mất ngủ đổi dung nhan Nay vua buồn than thở Như chim núi mất con: “Ta còn sống làm gì Mất đi con thần đức Do con, bị phiền não.” Vua sẽ nói như vậy. Mặt vua đầy u thảm Nay sao nỡ trái đường Khi ngủ nghỉ tại cung Trướng báu nệm êm dịu Bao gối quý thêu đẹp Năm âm dỗ giấc nồng Nay gối tay, trải cỏ Chim hót ngủ sao yên? Nếu người nghe hỏi thế Dù tâm bằng kim cang Lòng họ cũng phải xé Huống bà con, người quen.” “Ngươi chớ bỏ chí ta Ngươi hầu ta lao nhọc Về đi! Ngựa Kiền-trắc! Ta ở lại núi rừng.” Ngựa nghe Thái tử nói Mắt rơi lệ như mưa Quỳ xuống đất hí thảm Lưỡi liếm chân thiết tha. Dùng tay, tướng trăm phước Thái tử xoa đầu ngựa Giống như hiểu bạn tốt Rằng: “Biết ngươi siêng mà!” Xa-nặc tâu Thái tử: “Đã quyết ý bỏ nước Chớ bắt tôi trở lại Xa Ngài sống làm gì, Nhớ Ngài tâm nóng bức Lòng nào trở về nhà? Bỏ Ngài chốn hoang vắng Làm sao tự vui riêng?” “Ngươi hãy dẫn ngựa về Có thể còn gặp Ta Việc thành sẽ về nước Không thành, nguyện chết khô.” Xa-nặc khóc trở về Dắt ngựa theo ven đường Ngoảnh nhìn không biết chán Dẫm đất cứng trở về. Ngài bỏ nhà xuất gia Nguyện đến chỗ bất động Muốn tất cả chúng sinh Đều kịp về nơi đó.  <詞 id="50112192">Phẩm 13: VUA BÌNH-SA THƯA HỎI Bấy giờ Xa-nặc Dẫn ngựa đi rồi Tâm ngài vắng lặng Bước đi khoan thai Như Sư tử chúa Xé tan các lưới Chuyên tâm một hướng Vui sống núi rừng. Thân hình vòi vọi Mắt sáng nhìn khắp Vào trong rừng cây Như trời vào mây Tuy bước một mình Đức như đại chúng Trong mang đầy lành Phước hiện ra ngoài. Vừa đi vừa tự nghó: Không nên mặc lụa là. Bỗng thấy Đế Thích hóa Thợ săn mặc ca-sa. Thái tử nhân đó nói: “Ngươi chớ mặc đồ này Áo lụa vàng ta đổi Lấy ca-sa của ngươi.” Thợ săn liền cởi trao Chân ca-sa mộc lan Đổi xong, hiện Đế Thích Bỗng nhiên bay lên trời. Thái tử mặc ca-sa Thân hình tươi sáng ra Như trăng thu tròn sáng Mây tía vây chung quanh. Rừng rậm có Phạm chí Ở ẩn học Thần tiên Thấy Thái tử đi đến Trong lòng đều ngạc nhiên, Ngắm nhìn kỹ Thái tử Không thể vẽ lại Ngài Hoài nghi một hồi lâu Tụ lại cùng bàn tán “Phải chăng là Bắc đẩu Thứ tám, ngoài bảy sao” Hoặc nói: “Ngủ trên ngựa Xuống đi xem thế gian.” Hoặc nói: “Nhìn thân Ngài Nhất định là đức thần Hoặc là vua mặt trời Hoặc vua mặt trăng xuống.” Trong số đó có một Phạm chí thông đạt nói: “Chắc không phải trời Phạm Tự xuống đến rừng này. Do Phạm chí chúng ta Giữ hành thuần thục nên Muốn nguyện cầu ta thỏa Nên đi đến rừng này.” Đã bàn luận như thế Đồng thanh bảo nhau xong Thân nặng nề Phạm chí Bỗng nhiên liền nhẹ tênh. Bồ-tát hỏi Phạm chí: Họ tu đạo thuật gì? Nên học hay không nên? Có một Phạm chí đáp: “Hay thay! Ngài đức mầu Ý quyết rất sâu xa Sức trai tráng trẻ đẹp Biết sinh tử dục nhơ Xin phải xem xét kỹ Đạo Nê-hoàn sinh Thiên Người ưa thích diệt độ Đó đáng gọi là người. Nếu lòng đã quyết định Bậc ưa thích vô vi Hãy mau mau đi đến Chốn rừng núi thanh tịnh Ở đó có vị tiên Tên là Vô Bất Đạt Ông được mắt nhìn kỹ Quán thấy gốc Nê-hoàn. Như nay ta quán sát Xét kỹ ý của Ngài Điều ông ấy tu học Phải chăng hợp ý Ngài? Mặt như vầng trăng tròn Lưỡi như cánh hoa sen, Chắc chắn sẽ uống hết Biển trí tuệ sâu xa.” Nhìn Bồ-tát cất bước Như vua trăng xuống trần Bấy giờ các Phạm chí Đều khen: “Chưa từng có!” Tâm đều sinh hớn hở Như biển sâu dậy sóng Trong lòng vui hớn hở Như đêm tối, trăng soi. Thái tử thấy bọn họ Sở học nhiều vô ngần Bộc lộ các thân hình Lòng thương xót mới than: “Sao ác thật quá lắm Bị ngu si mê hoặc Thế gian đáng thương xót Mê lầm buộc vào khổ.” Tâm nghó không tôi, ta Giống như voi đầu đàn Bỗng nhiên thấy sợ hãi. Ra khỏi rừng lửa hừng Ánh sáng màu vàng chói Chiếu ngời mé cây rừng Như mặt trời mùa thu Lướt đi trên mây xanh. Nhìn sông Hằng cuồn cuộn Chảy về biển mênh mông Dùng bầy ngỗng trời trắng Làm chuỗi ngọc trắng trong. Dùng thế sóng nhồi lớn Làm vòng xuyến ngọc báu Đến bên cạnh sông Hằng Giống như vua thần biển Dùng trăm phước đức tướng Trang nghiêm khắp thân Ngài. Vào ở trong sông Hằng Các dòng đều lắng trong Tất cả thần dưới sông Theo xuống nghinh tiếp Ngài. Trải qua trong chốc lát Như bầy nhạn đầu đàn Khi qua khỏi sông Hằng Biết nên đi đúng thời Bỏ đi ý cống cao Vào cung vua khất thực, Mặc y phục Sa-môn Ca-sa màu mộc lan Giữ các căn vắng lặng Bước đi đúng oai nghi. Thấy thể tướng Thái tử Công đức cao vời vợi Y vắng lặng đang mặc Màu hợp hạnh sạch trong, Nhân dân đều ngạc nhiên Trổi lên niềm vui mừng Ngắm kỹ thân Bồ-tát Đôi mắt nhìn không rời Nhóm lại xem Bồ-tát Tâm họ không nhàm chán. Công đức đời trước đủ Các tướng đều cụ túc Giống như hoa sen mầu Đủ màu ngàn loại bông Mọi người đều thưởng ngoạn Như ong nhóm hoa sen Chỗ đã do đích đến. Mọi người đều đi theo Như các căn của người Theo tâm chạy xoay vòng, Nhân đó truyền gọi nhau Khen ngợi công đức Ngài Lời rằng: Xem người ấy Của báu trong loài người. Ngắm kỹ đôi mắt Ngài Vẻ mặt đẹp tuyệt vời Ví như đống vàng báu Trong đó có báu xanh. Được ánh sáng bao quanh Tướng đức gom nhóm thành Dung mạo rất hòa hợp Tướng tốt đều đầy đủ Như thu hút mọi người Mọi mắt hướng theo Ngài Chăm chăm nhìn ngắm mãi Mà không thấy thỏa mãn, Giống như gặp bão tuyết Lạnh cóng như cắt da Mọi người tranh tới trước Như được sưởi lửa ấm. Các cô gái quý tộc Đều vội ra khỏi nhà Như trong đám mây nổi Rực rỡ phát ánh chớp Thí như cây Vô ưu Cành hoa lá sum suê Bị gió thổi oằn xuống Cúi lễ Đức Thích-ca. Đứa bé trên tay mẹ Miệng liền rời vú mẹ Mãi mê nhìn Bồ-tát Quên cả việc đòi bú. Người dân trong toàn thành Đều tranh nhau khen ngợi, Đều nói rằng đẹp quá Tốt quá, xinh xắn quá. Khi ấy có người nói Lại có người vội nói Như ăn bánh ngào mật Người ngon, kẻ không ngon Nhưng hình tướng Thái tử Nếu khen riêng một việc Một lời không nói đủ. Các đức khéo chứa nhóm Xét kỹ các biểu hiện Các lành đều hiển lộ Dùng trang điểm thân thể Người sướng mắt, thỏa lòng. Các hoa làm đẹp Ngài Thơm dịu cảm tâm người Giống như tiết dương xuân Rực rỡ và sáng ngời. Hạnh quả thời xa xưa Mà sao không lòng Từ! Dáng vẻ trời đầy đủ Không làm vua mặt đất Tài năng ai cũng rõ Mà đi xin người khác. Ai bố thí người đó? Tính ra không thể bàn. Bấy giờ vua nước ấy Hiệu là vua Bình-sa Ở trên cao quan sát Xa thấy Thái tử đi Ngài liền hỏi các quan: “Người đi kia là ai?” Dung mạo rất tươi sáng Mà mặc y màu xấu.” Quan theo hầu liền tâu Nói rõ dòng họ người Vua truyền quan hầu cận: “Xem đi về nơi nào?” Ăn xong, ở ngoài thành Lên núi Bàn tháp cao Ánh sáng chiếu rực rỡ Như mặt trời lên non. Bấy giờ vua Bình-sa Cùng tùy tùng theo lên Vua đến núi Bàn tháp Phục sức, hình dung đẹp Người hầu cầm lọng quý Bước sư tử khoan thai, Vua bèn xuống xe báu Bước từng bước lên núi Thấy Ngài ngồi một mình Các căn đều vắng lặng Ví như vầng trăng tròn Vằng vặc giữa vầng mây Như sắc tượng các pháp Bỗng nhiên hóa hiện ra, Ý rất đổi kinh ngạc Bèn bảo các quan rằng: “Người có hình mạo đó Dáng dấp rất dễ thương” Nay đây phải giữ gìn Trở thành đức lành lớn. Nay xem các lành đó Mềm mại mà dịu dàng Nhìn qua tướng tốt ấy Chỉ Phật mới có thôi!” Dứt bỏ tâm kiêu mạn Khiêm cung làm lễ Ngài Nhà vua nhân lúc đó Bèn hỏi han Bồ-tát Vua với ý thanh tịnh Ngồi lên tảng đá xanh Liền thưa hỏi Bồ-tát Nhân đó nói kệ rằng: “Tổ tiên của Thái tử Xuất từ vua mặt trời Đang lúc tuổi trai trẻ Hình dung chiếu sáng ngời Chẳng rõ duyên cớ gì Mà khởi phát ý này: Khất thực để tự cứu Chẳng chịu ngồi ngôi vua. Dáng đẹp rất rực rỡ Đã chứa lành nhiều rồi Giống như cây Diêm-phù Hoa lá đẹp sum suê Mặc áo ca-sa này Giống như dùng cỏ bọc Như hoa cây sợ tuyết Không dám phô vẻ đẹp. Thái tử nên phục sức Các vật báu cõi trời Nay y màu xấu này Lạ thường chẳng xứng đâu! Nếu có vật thanh khiết Có chút dơ bám vào Thì hiện ra lồ lộ Không cách gì bôi bỏ. Cánh tay dài rất đẹp Giống như cột vàng tía Nên trang sức bảy báu Nên cầm chiếc cung đẹp Có đôi tay như thế Chỉ dùng để bố thí Chẳng nên dùng tay ấy Theo người để xin ăn. Nếu Ngài giữ khiêm kính Chẳng nhận ngôi vua cha Nay ta rất yêu kính Mời Ngài đến nước hèn Hưởng của nước Ma-kiệt Có tất cả vinh hoa Nếu muốn khắp đất đai Kẻ hèn sẽ đỡ đần. Như đức tướng của Ngài Nhận cõi trời xứng hơn Chỉ dùng tay nắm giữ Cõi trời đâu nhọc gì? Như nay trời Đế Thích Còn ra làm tôi người Huống chi trên đất này Như các vua chúng ta. Ta không chán pháp lành Cũng không lo giữ nghóa Chưa phải lúc bỏ nhà Lòng ta có ngờ này: Như mới đầu trai trẻ Qua rồi chí yếu kém Đã điều phục các căn Như dàm ngựa dễ vần Tu tuệ, tự giữ giới Mặt mũi các hạnh lành Phát hiện hạnh đời trước Kịp gặp gốc thiện xưa, Qua thời gian lớn khôn Đó là Pháp đáng kính Tuổi cao ý đã điều Không đuổi theo các dục Vì vậy nên không thể Làm khổ cực thân thể. Nay đã được phước lành Nên thuận lý an hưởng Sáu căn nên hưởng dục Như nước đầy phải thoát, Sau đó mới đi tìm Pháp giải thoát cam lộ. Dung mạo Ngài sáng ngời Vượt qua ánh mặt trời Đức Ngài đã vượt khỏi Người đời và các trời Từ xưa chưa từng nghe Và cũng chưa từng thấy. Hình mạo Ngài như vậy Người xem đều ngạc nhiên Như nay thấy phong cách, Hành động của Thái tử Lại xét ý chí Ngài Mạnh mẽ và vững chắc Giống như đáy vực sâu Bầy cá lội dưới ấy Ở trên tuy không hiện Xem xao động biết ngay. Nay thấy các khuôn phép Tiềm ẩn trong thân này Quyết định soi sáng rỡ Chỉ bày ngôi Thánh vương. Sự nhiệm mầu như thế Người phước mỏng không có Danh hiệu thật tốt đẹp Không về, không là con. Dù khiến tâm nghi ngại Trở về thẹn tông môn Đã mặc áo Sa-môn Vì sao lại bỏ đi? Các đời vua trước kia Đến các vua sau này Tuổi trẻ chuộng ngôi vị Đến già đều bỏ nhà” Bình-sa nói việc đó. Dẫn nhiều việc so sánh Chua cay lại không thiếu Thân khiêm, lời kính bày Xem ra ý Bồ-tát Như núi Thái không lay Giữ lành nhìn lặng lẽ Tịnh tâm nghe đáp lời. PHẬT BỔN HẠNH KINH (PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN) <卷 id="50112193">QUYỂN 3 <詞 id="50112194">Phẩm 14: THUYẾT PHÁP CHO VUA BÌNH-SA Ý như mây tốt lành Sắp mưa xuống cam lộ Dùng lời lẽ sâu xa Tiếng trời Phạm trong trẻo Lại còn dùng tám thứ Âm hưởng rất dịu ngọt Và từ ngữ đẹp đẽ Thấm đượm vua Bình-sa Biết rõ đủ ý vua Chánh trực nên trong sạch Tâm Từ ái cung kính Đầy ắp ở trong lòng. Nay vua tuy đang ở Đời trược loạn, mạt suy Dùng thiẹân tự chế ngự Vượt trên vua cõi trời Thấy tịnh ý của con Trong lòng ý suốt trong Như ngày sương u ám Hoa nở biết trời mọc. Tuy làm ân cho người ngu Thì ân ấy cũng như không Thí chút lành cho người hiền Ân đó ngày càng thêm dày Nay thấy vua rất lạ lùng Chẳng hề mê đắm vương vị Phong tư kiêu ngạo che lấp Chủ đất kia đều mê hoặc Nếu người trí được tài sản Không cho của cải là trọng Thân tầm thường như hoa lửa Người trí từ thân chọn yếu. Chúng sinh lên trời Rất được lợi lớn Các chủ cõi đất Dùng chánh pháp trị. Vua của chánh pháp Thuận lý trị đời Tất cả dân chúng Đều theo chánh chân. Nếu có của báu Trước xét chỗ cần Nếu lại rời bỏ Sau không tâm hờn Giống như từ lạc Vớt lấy bỏ đi Nước còn đổ bỏ Cũng không tâm hận. Nghinh tiếp lẫn nhau Dùng lễ đối khách Ra ân trọng hậu Dùng nghóa bạn lành Nay tôi sẽ lấy. Ân bạn đáp đền Ý muốn can ngăn Mở lòng khéo nghe: “Tất cả chúng sinh Mạng như sương mai Nay tôi tất cả Đều vì đời sau Giống như lửa mạnh Được bơ càng nhiều Và đốt cây cỏ Không hề thỏa mãn. Tâm thương và ghét Bởi do ngu si Đều còn mê lầm Dẫu uống thuốc hay Bệnh tật già nua Ngọn lửa chết chóc Năm đường thiêu đốt Đắm không thoát lậu. Nay tôi đã biết Sức mạnh lửa hừng Nay muốn tìm cách Thoát khỏi họa này Cho nên rời bỏ Họ hàng, người quen. Ái dục như độc Vì sao không lìa? Tôi đã không sợ Các rắn độc này Mưa đá lửa dữ Bệnh nặng gió mạnh, Cũng lại chẳng sợ Giặc cướp vung đao Chỉ sợ ân ái Thường chịu sinh tử. Mê theo ái dục Không hề thỏa mãn Các trời cũng vậy Huống người thế gian. Tất cả thế gian Mong cầu không chán Như lửa đã cháy Cũng lại nhàm chán Đất đai được khắp Ngang bằng biển lớn Lại tham muốn vượt Muốn đến bờ kia Tất cả mong cầu Không hề thỏa mãn Giống như các dòng Trở về biển cả. Bảy ngày mưa báu Cho đến đầu gối Hàng phục khắp nơi Trên đến cõi trời, Tuổi thọ cõi trời Lâu bảy kiếp rưỡi Vua thánh Đảnh Sinh Dục không thỏa mãn Lại có vua thánh Hưởng phước lộc trời Khi ngôi trời thoái Sợ A-tu-luân Kiêu mạn liền thạnh. Tiên nhân đảm đương Trụ tà không chán Từ trời đọa xuống. Có vua Mãn Duy Lên đến cõi trời Được thể nữ trời Đem thân hình đến Phạm đến Thần tiên Tinh xá Kim bảo Vì tham diệt vong Liền hóa thành tro. Có vua Trọng Đảm Đem binh lên trời Lại từ cõi trời Đem Thiên nữ về Do Thiên nữ đó Tự phải chết đi. Chúng sinh như thế Không nhàm nên chết Nổi tiếng tệ ác Cung mạnh tên nhanh. Xả bỏ ngôi vua Vào rừng học Tiên Tâm không thích ứng Thân phải làm việc Giết hại kẻ khác Thân cũng chết đi. Cô gái tên Hiền Các vua tranh nhau Dấy các thứ binh Đối trận chiến đấu Do vì ái dục Sinh khởi tranh chấp Phải bỏ ái dục Như bỏ kẻ thù. Các dòng họ vua Ganh tị tàn hại Giết hết Sát-lợi Hai trăm mười người Liệt só thuở trước Tâm sân làm hại Nên bỏ tâm ác Như rắn lột vỏ. Nói nhạn nói hạc Do đó tranh chấp Đi đến giết hại Cho đến số ức Ngu si tranh chấp Khởi đầu việc nhỏ Phải bỏ ngu si Tự bỏ bệnh tối. Hai vua thuở trước Tranh chấp ao thơm Cống cao ôm giữ Giết hại lẫn nhau Dùng gậy sắt đập Bể nát cả đầu Phải bỏ kiêu mạn Như mây che phủ. Lại như liệt só Có sức mạnh nhanh Do vì tham ái Đoạt thể nữ người Vì do yếu đắm Đến nỗi phải chết Như sợ chết nên Phải bỏ yêu đắm. Hai A-tu-luân Do nữ sắc chết Vì tham nữ sắc Nghe tiếng phải chết. Trên không bay liệng Vương tử Tân Đầu Ham hai mùi ấy Đều phải tán mạng. Xưa vua Y Tương Vì mũi tham hương Phạm trời Cát tường Đến nỗi tiêu mạng, Xưa vua Ân Đầu Thân ưa mềm mại Tham đắm không chán Đầu vỡ mà chết, Họ đều do dục Sáu căn buông lung Như biển chứa dòng Không bao giờ chán. Miệng cá Ma-kiệt Còn có thể đầy Sáu căn thọ dục Khó mà đầy đủ Tham lam như vậy Còn dư khó kể Sáu căn chưa đủ Gặp nhiều gian nan Như vua đã nói Trước mặc sáu căn Đâu ai thỏa mãn Nên xét điều ấy. Vua đem lòng kính Các nước mời nhau Xét ra ngôi vua Cũng không thuần vui Toàn việc khiến người Được rất vui sướng Nhưng sau vui đó Chịu nhiều gian nan. Chiếc áo dày ấm Hợp rét mùa đông Đến khi hè nóng Trở lại thành nạn Người đói được ăn Cho là no vui Nếu buộc ăn nữa Ắt thành rất khổ; Như ao sen tốt Trong có túc trùng Như rừng cây hoa Sư tử ở trong Nhà bằng vàng báu Lửa cháy tơi bời Ngôi vua cũng vậy Mời nhau làm chi? Cá thấy đớp mồi Chẳng biết lưỡi câu Giống như dùng mật Bôi lên dao kiếm Chiếc ngai vua này Như cùm bảy báu Nhìn tuy vui mắt Thân tâm rất khổ Dáng dấp vương giả Ăn mặc như trời Cỡi xe đất nước Như lao ngục thôi. Làm vua trọng trách Nặng hơn núi Thái Khổ như ngựa đấu Người xem rất vui. Nước lửa, gió mưa Dịch bệnh, đói nghèo Trộm cắp, giặc cướp Nước địch xâm lăng Biên giới đồn thủ Xâm đoạt tổn hao Các gian nan ấy Riêng lòng vua đau Đêm ngày lo lắng Ngủ chẳng được an Nghó tìm phương cách Trừ hoạn nước non, Tâm ôm lòng nghi Chẳng tin thần dân Như đến nơi độc Được người cho ăn. Dù cho vua ấy Chủ vô số thành Nơi vua ấy ở Chỉ trong một thành Ngủ trong một cung Ngồi chỉ một ghế Vinh nhục vô kể Lo nhọc rất nhiều, Áo che một thân Ăn nuôi một thân Ra đi dạo chơi Chỉ ngồi một xe Vật vua ăn uống Tốn chẳng là bao Kỳ dư tạo vẻ Giúp cho kiêu sa Nhà vua chỉ dùng Tự tại làm vui. Vui đó cũng lại Lẫn nhiều khổ nguy Giống như ở chỗ Kiếm nhọn là xe Xử sự bất minh Tổn thương mình thôi! Ví như nhà đẹp Trang hoàng lộng lẫy Chứa nhiều rắn độc Đầy dẫy trong đó Ngắm thì khoái mắt Chạm vào độc hại. Tôi vì cớ đó Chẳng thích ngôi vua Cũng vì cớ đó Không nên thọ nhận. Sinh tử khó giữ Giống như huyễn hóa Đâu hay việc trước Rong ruổi về đâu? Tôi vì cớ đó Không nghe vua can Vua bảo “Bỏ nhà” Chưa phải là lúc Giờ nghe cho kỹ Tôi trả lời vua: Tha hồ uống ăn Chẳng chút lo toan Cái chết ập đến Bằng rất nhiều cách. Thuộc dòng Cam Giá Hiệu là Bạch Tịnh Vua nên biết đó Chính là vua cha Tôi muốn thoát khổ Nên bỏ ngôi vua Muốn tìm ra cách Lập ra pháp lành Không sợ diệt độ Mãi cầu bậc nhất Thường ra rời mãi Sinh già bệnh chết Muốn cầu cam lộ Chỗ giữ gìn được Cho nên chẳng nỡ Gặp gỡ các dục. Giống như thú hoang Khát nước đi tìm Nỗi khát mệt nhọc Chạy trong mê man Bỗng gặp thợ săn Đuổi theo bắn giết Chẳng thương thú khát Liền giết chết nó. Thế gian cũng vậy Tình cảnh đói nghèo Mê hoặc muôn mối Chẳng lo chết đến Tự vui, khoái ý Mặc tình uống ăn Không nghó làm việc Sẽ có bại hoại. Già đến bức mình Như cung giương mạnh Bệnh tật hại người Mau hơn tên nhanh Chết đến bức mạng Như thợ săn vậy, Ý ngu mê lầm Làm sao đợi lúc Hoặc đêm, hoặc ngày Khi thức, khi ngủ Dưới nước, trên khô Tất cả mọi người Chết không sống lại Vùn vụt rất mau. Giống như tánh nước Vào miệng Ma-kiệt Ánh sáng đèn pháp Sáng rực tuyệt vời Thêm lòng tinh tấn Cho thêm dầu mỡ. Người làm việc lành Vui vẻ qua đi Hành trang khi chết Đều đã đầy đủ Như dâng hoa đẹp Màu sắc tươi sáng Kẻ chí ưa lành Dâng lên tháp tượng. Nếu ngày sau thấy Hoa bị héo khô Đã được hoa mới Lòng tràn sướng vui Như người minh đạt Đi lại ít thôi. Điều hòa thân mạng Hợp với pháp lành Tự thấy thân mình Mục nát đến nơi Tự điều lo nghó Thường lấy làm vui Giống như giặc ác Phá ngục trốn đi Đến nơi hoang vắng. Trong cái đầm lớn Trong rừng lau sậy Hổ sói nhởn nhơ Mê lầm rong ruổi Bị nóng khát bức Theo sau năm kẻ Vác đao đuổi theo Kinh hoàng, sợ hãi Trốn chạy hiểm nghèo Trước bỗng lại có Voi say hung dữ Băng lên phía rtước Muốn giày xéo chết, Người kia không có Chiến cụ, gậy đao Không mang lương thực Không giày dép bao Nhìn quanh bốn phía Không nơi cậy nhờ Lòng dạ rối loạn Không còn biết chi. Giờ ta cố vì Nhà vua dẫn dụ Muốn ngài hiểu rõ Con đường tử sinh. Đại vương nên hiểu Sinh tử như thế Phải rõ chúng sinh Như giặc vượt ngục, Biết rõ đầm rộng Dụ cho ba đường Cọp, sói, thú dữ Biết là trần lao. Ruổi theo cực nhọc Nóng khát tiều tụy Thì nên biết đó: Ngu si, ghét, yêu. Kiếm bén trí tuệ Rộng “Thí” tư lương Lọng chánh pháp lớn Mang giày giới cấm Như só phu ấy Nghèo thiếu hạnh này Chẳng gieo đức ấy Dụ này như thế Trước có voi say Cuồng bạo hung ác Phải biết như vậy. Cái chết ở đời Vào lúc bấy giờ Không có chỗ nương Chỉ biết cậy trông Giữ giới, làm lành. Vua nên hồi ý Che chở nhân dân Cứu giúp nguy ách Giống như con đỏ Lòng Từ ban khắp Xem dân như con. Vua phải giữ nước Giống như giữ cung Như có sâu bọ Tìm cách diệt thôi Thân mau chóng trốn Không gặp mưa rơi Đại vương cũng phải Như vậy tránh đi Không gặp tướng ác Để tự cứu mình.”  <詞 id="50112195">Phẩm 15: KHÔNG ĐỒNG Ý A-LAN Bồ-tát như thế Mày rộng tay dài Khoan thai điềm đạm Như sư tử đi Đến A-lan hỏi Xuất ly tử sinh Ý muốn dứt bỏ Cửa ải tử sinh. Xa thấy A-lan Cùng với môn đồ Đang ngồi nhóm họp Giảng nói sách Phạm Bồ-tát đức trọng Ví như vua trời Nghinh tiếp thăm hỏi Cùng ngồi đàm luận. Ngồi trong chốc lát Nhìn nhau ý lành Lòng Từ Bồ-tát An ủi A-lan. A-lan đáp rằng: “Đức hóa đã lâu Sở dó xuất gia Vì không tôn vinh Xé toang lưới ái Mê đắm trói buộc Cường tráng mạnh mẽ Giống như voi lớn, Vất bỏ tôn hiệu Ngôi vua chuyển luân Ví như người trí Vất bỏ cơm độc Xưa vua Chuyển luân Không phải là lạ. Trẻ qua, già suy Bỏ nhà vào rừng Bèn trao ngôi vua Lại cho Thái tử Giống như hoa héo Chuyển trao cho người. Giờ ta còn nghi Ngài khỏe đẹp xinh Sáu căn ham muốn Chưa được đầy đủ Nên nhận rộng rãi Tự nhiên vinh lạc Bỏ hiệu đẹp này Ai chẳng nghi ngờ? Muốn biết Thái tử Xác thật việc này Ắt sẽ trở thành Pháp khí to lớn Dùng đức tinh tấn Tìm thuyền trí tuệ Sẽ mau vượt qua Biển lớn sinh tử”. Bấy giờ, Bồ-tát Nghe A-lan nói Mỉm cười hoan hỷ Mà trả lời rằng: “Việc ta chưa thành Nên ta đến đây Giờ ông tự giữ Việc chắc sẽ thành Giống như trong tối Bỗng thấy ánh sáng Như kẻ lạc lối Được người dẫn đường Như muốn qua sông Gặp người đưa đò Nên ta đến xin Tôn người làm thầy Rủ lòng đoái tưởng Xin được chỉ dạy Nhận làm đệ tử Xin thờ làm thầy. Khổ, già, bệnh, chết Phải độ từ đâu? Xin dùng lý đó Mà chỉ dạy cho”. Bấy giờ A-lan Là người dẫn đường Rằng: “Nghe cho kỹ Pháp Phạm chí ta: Sinh tử xoay vần Quanh quẩn trở lại Trên dưới đảo lộn Như bánh xe quay Có tám việc riêng Gọi là nội pháp Lại có mười sáu Các việc nghi loạn Do đó phải biết Người ấy ý mạnh Tất cả thế gian Nhân đây sinh diệt. Năm tính như vậy Thức đắm thứ sáu Ý là thứ bảy Do dự thứ tám Hễ có năm căn Lại có năm dục Lại còn phải biết Có sáu lầm loạn Nếu hiểu điều ấy Gọi là biết nghiệp. Xích tiên cho ngôi Đều cùng hay biết Phạm thiên hiệu là Nhất Thiết Phổ Tri Nếu xét biết thế Gọi nghiệp Nê-hoàn Gốc sinh tử thục Lôi kéo trói buộc Chỉ biết rõ đó Còn lại bất định. Bọn ta ở đây Tìm cách cầu giác Là Nê-hoàn ta Ngài muốn được giác Hoặc có người trí Gọi là Nê-hoàn Hoặc gọi Thiền báo Gọi đó Nê-hoàn Nay bảo nhau xong Ra nẻo sinh tử Hợp ý phải siêng Như bệnh tìm thuốc. Tiên xưa thù thắng Vị tên Tri Túc Vị tên Định Hành Bạo lâu lộ hình Bọn họ đều từ Đạo hành hằng ngày Lại nữa còn có Người cầu giải thoát.” Bấy giờ Bồ-tát Nghe lời ấy rồi Trong lòng ngẫm nghó Xét đầu mối việc Bồ-tát nhiều kiếp Trí tuệ giác được Biết lỗi ấy rồi Liền bảo Phạm chí: ‘Đã nghe ông nói Trí tuệ sâu xa Gọi là “nghiệp giác” Ra khỏi sinh tử Như ta đã biết Việc này không thế Như có hạt giống Ắt phải sinh sôi Các căn khác nhau Gọi đó giải thoát Nếu gặp được duyên Trở lại buộc ràng, Đất, nước, thời tiết Lại không hạt giống Làm sao sinh được Nhân duyên lẫn lộn Giống cùng duyên đối Gặp gỡ nhau rồi Ắt sẽ sinh lại. Ta biết như vậy Làm sạch nhơ bớt Tuổi thọ kéo dài Ý gọi giải thoát Bảo đó Nê-hoàn.” Bồ-tát không chịu Pháp của A-lan Bấy giờ lại đến Hỏi pháp Ca-lan Nói nghe tám ý Bồ-tát hiểu ngay Vi thức cố đắm Biết có lầm này Hiểu được ý kia Đó ắt trái pháp Vì vậy Bồ-tát Bỏ pháp Ca-lan. Khi ấy Ngài đến Sông Ni-liên-thiền Tu trì tịnh hạnh Tìm chỗ ngồi thiền Thân màu vàng ròng Ánh sáng chiếu soi Giống như hoa sen Sáng đến tận ngày. Ngày ăn hạt mè Nửa hạt gạo thô Ngày ngày càng giảm Thân thể khô gầy Máu trong thân cạn Mỡ thịt khô khan Khí lực suy yếu Hình thể mòn mỏi Chúng sinh khắp đời Không thể chịu đựng Khốn khổ như vậy. Suốt trong sáu năm Bồ-tát phơi lòng Thân hình như thế Mà chưa uống được Thuốc pháp cam lộ Tâm chợt lui sụt Đạo đức không thế Xưa, cõi Diêm-phù Nhớ lại ý lành Cũng không thể dùng Thân thể ốm gầy Và những việc ấy Mà tự thành đạo! Các trời trên không Khuyên nên ăn uống Sức khỏe đầy đủ Mới đắc đạo được Ý luôn tôn trọng Như núi Tu-di Ý mong cầu Phật Việc rất quan trọng Ý tuy vững chắc Cứng như kim cang Ăn uống không đủ Thân khó đảm đương. Hiểu như vậy rồi Bồ-tát đứng lên Ăn uống trở lại Nuôi dưỡng bản thân. Năm người hầu hạ Thấy Bồ-tát ăn Bèn bỏ ra đi Nơi khác cầu nhàn. Bấy giờ bèn nhận Cháo sữa cam lộ Của hai cô gái Hoan hỷ cúng dường Sau đó liền đến Cây đạo nhiệm mầu Khoan thai cất bước Quyết thoát sinh tử Nghiêm sức lồng lộng Công đức chứa nhóm Lấy chân chạm đất Liền rung chuyển mạnh. Bấy giờ Đại-lê Là Rồng đầu đàn Nghe tiếng chân chạm Làm đất rung chuyển Tâm sinh ngờ vực Tự suy nghó kỹ Lâu mới nghe được Tiếng rung chuyển này. Là người dẫn đường Thầy của các thầy Khi chân chạm đất Mới rung chuyển thế Thần đất vui mừng Nhún nhảy như múa Tiếng động êm êm Như là buông xả Bậc Thầy dẫn dường Sắp xuất hiện ra Đất rung ì ầm Hớn hở như cười. Vì tiếng rung chuyển Từ nước hiện lên Thân thể to lớn Như ngọn núi đen Các thứ châu báu Chuỗi ngọc nghiêm thân Giống như mây đen Có ánh chớp lóe Biến hóa nhiều đầu Trùm khắp không trung Thân phát ánh sáng Như khói lửa bừng Giống như mây nước Đến gần mặt trời. Rồng dùng thân ấy Lạy chân Bồ-tát Đứng lên cung kính Chắp tay khen rằng: “Con thấy Phật trước Lúc sắp ra đời Điềm lành ngày nay Như Phật thuở xưa Từ Phật Duy Vệ Cho đến Ca-diếp Mắt thấy sáu Phật Điềm Phật ra đời Nay vị thứ bảy Hiện điềm lành này Như xem tướng sáng Sáng tỏ cõi đời Hôm nay chắc chắn Được uống cam lộ. Nay thấy Ngài đi Bước đi từng bước Khi đất này ứng Chấn động nhẹ nhàng Ánh sáng khác thường Vượt hơn mặt trời Hôm nay điều nguyện Chắc được đầy đủ, Nhìn bầy chim xanh Bay vờn lấy nhau Như trong mây biếc Hiện ánh mặt trời Đem tiếng từ ái Kính thân Bồ-tát Hôm nay chắc chắn Sẽ thành Phật đạo. Hôm nay nhìn thấy Khí thuận gió lành Các dòng nước trong Trên không trong sáng Chim hòa điệu hót Tiếng hót dịu dàng Hôm nay Thập Lực Thành Nhất Thiết Trí. Xem thân Bồ-tát Như núi vàng chói Các thứ vật báu Dùng để trang điểm Nhìn thân Bồ-tát Tướng tốt tự nhiên Hôm nay chắc chắn Sẽ thành Phật đạo. Vầng viên quang tròn Ở ngay chính giữa Chói lòa như nhật Năm màu rực rỡ Như nay dứt bỏ U ám cõi đời Còn không lâu nữa Mặt trời Phật hiện. Rừng cây lay động Tung khắp hoa đẹp Tất cả các hoa Đồng thời nở ra Cây vô tâm cũng Nghiêng như có lòng Oằn xuống cúi chào Hôm nay ắt được Tất cả làm lễ Như ngó sen trắng Nở lúc không trăng Ánh mặt trời chiếu Thì hoa nở sen Nay Bồ-tát hiện. Ánh mặt trời Phật Lòng trời, người mở Như hoa mừng vui Như nay quan sát Tướng đã hiện rồi Rất khó gặp được Hoa Ưu-đàm nở Hoa đã khó gặp Phật càng khó hơn Hai điều khó gặp Nay hiện thế gian Bây giờ sẽ lấy Tên bén trí tuệ Làm trần lao sợ Vua, tướng, quân só Đã truy đuổi kịp Đến chỗ Phật xưa Hôm nay chắc chắn Được uống cam lộ Như nay quán sát Quyết định giới răn Nghiêm thân đẹp đẽ Tám mươi vẻ đẹp Đều soi các trời Hiện trong thân Ngài Hôm nay sẽ được Người, trời lễ bái”. Rồng Lê cứ thế Khen Bồ-tát rồi Qua suối vượt lên Đi đến cây đạo Xa thấy cây đẹp Như ở cõi trời Trang nghiêm không khác Cây trời ngày xưa. Mang cỏ Cát tường Đến để hiến dâng Bồ-tát liền hỏi: “Tên ngươi là gì?” Người thấy nói rằng: “Tên là Cát Tường!” Bồ-tát tự nghó: “Ta ắt cát tường.” Ngài liền theo đó Nhận cỏ dịu mềm Trải tòa Kim cang Cỏ đều ngay ngắn Ngồi kiết già phu Ý chí vững vàng Trong dùng tâm thức Xét kỹ quyết định: Không vượt cõi ma Các dục trần nhọc Ngồi đây không dậy Cũng chẳng uống ăn Dù cho bản tánh Bốn đại mất đi Trời, trăng rơi xuống Tu-di bay lên Các việc như thế Có thể đổi thay Chứ ta chẳng trái Bỏ thệ nguyện này. Phát thệ nguyện xong Các trời rất mừng. Bồ-tát nảy ý Muốn hàng Ma vương Như chẳng vừa ý Ngoại đạo, dị học Như làm trời, người Các Rồng khen ngợi Nguyện khiến chúng sinh Được sự khen ngợi Chúng sinh mười phương Được như mình nguyện.  <詞 id="50112196">Phẩm 16: HÀNG MA Bấy giờ Bồ-tát ngồi Trên chiếc tòa Kim cang Xây dựng tâm vững chắc Thế giới Tam thiên rung Địa thần mừng hớn hở Từng hồi rung chuyển mạnh Ma trời thấy đất rung Thắc mắc vì sao thế. Quan đứng đầu của ma Tên gọi là Ngôn Từ Tâm cung kính cúi mình Tâu với chúa ma rằng: “Xin nghe điều thần biết: Chứa công đức nhiều đời Thái tử vua Bạch Tịnh Cõi tịnh tu hạnh lành Nay sắp thành đại đạo Không vua trời, cõi Dục Muốn phá thành sở dục Ổ khóa của các cửa Ắt vượt trên cõi vua Sẽ độ các chúng sinh Mở rộng cửa Nê-hoàn Bánh xe chuyển cam lộ.” Vua ma nghe lời đó Ngồi yên lòng buồn rầu. Ba con gái đến hỏi Con cả tên Danh Ái Con thứ tên Chí Duyệt Con út tên Loạn Lạc Hỏi vua sao rầu ró. Vua đáp lời ba cô: “Kia có Tiên Đại Thánh Mặc áo giáp quyết định Tay cầm cung trí tuệ Tên vô thường bắn ta Muốn hàng cõi Dục ta. Nếu thắng, ở trên ta Thì cõi ta trống không Khiến người khinh chống ta. Như vua mạnh ở gần Bị nước địch xâm chiếm Nên nay các thân thuộc Các con, nữ lực só Hãy tìm mọi cách ngăn Hãy đến làm trở ngại Làm chí kia tiêu tan Như đắp đê ngăn nước.” Bấy giờ ba ma nữ Bèn đến chỗ cây đạo Muốn tỏ thế lực mình Của con gái người, trời Phơi bày vẻ kiều diễm Mê hoặc loạn tình người Muốn hoại ý chí Ngài Hiện hết sức quyến rũ Thân biến thành nhiều tướng Biến hóa thật mau chóng Giống như chớp trong mây Không phút giây nào dừng. Bồ-tát quán xét kỹ Da, tóc, chuỗi ngọc mang Y phục đẹp che phủ Giống như nhà chứa xương Tràn đầy nước thối bẩn Mở ra khiến người khinh Vậy sao lừa người đời? Bọc bằng da mỏng manh Kẻ ngu si mê hoặc Nhìn kỹ bọn ma nữ Hình thể già tiều tụy Như hoa bị sương pha. Vua ma thấy gái già Lòng giận như lửa bừng Lại gọi ma bên cạnh Bảo tập hợp đại quân Đến cố ngăn Thích tử: “Nay chưa động cõi ta Chưa được mắt nhìn kỹ Nên thường đến não loạn Nếu hôm nay thành đạo Thì có thể thắng ta Mau triệu gấp binh mã Ta sẽ tự xông pha.” Mũ báu, mặt trời sáng Nghiêm chỉnh đội trên đầu Lên đến đỉnh Tu-di Giáp kim cang mặc vào Như ánh mặt trời sáng Chiếu rọi đám mây thưa Xe kim cang ngàn bánh Mỗi bánh ngàn nan hoa Xe dùng ngàn thớt ngựa, Ma vương ngồi xe báu Rất thênh thang sáng loáng Như mặt trời trong lửa Cung hoa một do-tuần Tay cầm năm tên nhọn Lọng báu như trăng sáng Để mê hoặc thế gian; Lọng che mấy do-tuần Quanh treo linh bảy báu Cờ cao mở miệng lớn. Giống như cá Ma-kiệt Khi muốn nuốt nước biển Ma vương ra như vậy Các ma chúng cùng theo Có đến tám mươi ức Đi đến bên cây đạo. Bồ-tát ngồi trên hoa Giống như vua trời Phạm Đức vắng lặng đầy khắp Ánh sáng chiếu rực rỡ Như chứa vàng ngọc báu Ma cầm cung tay trái Từ ống vàng rút tên Liền nói với Bồ-tát: “Dòng Sát-lợi, đứng lên Tại vì sao sợ chết, Bỏ ngôi vị Đế vương? Tướng Ngài đẹp đẽ phải cầm cung Đáng hưởng vinh hoa ở thế gian Đường của vua xưa danh tiếng khắp Ngài đáng được hưởng sự khoái lạc Nên hưởng lộc đời đất nước hiến Khắp sai thiên hạ không chừa ai. Bắt đầu dòng Cam Giá Thánh vương Về hưởng vinh hoa bỏ khất cầu Nếu không đứng dậy, tự suy nghó Chớ tự trái với thệ nguyện xưa Năm mũi tên ta không thể kháng Phá xuyên mọi thuẫn rất bền chắc Mê người chẳng khác hoa tiết xuân Còn hơn cắt hoa để dưới nắng Yêu mến đời như trời đổ mưa Dục như chim công gặp mây mưa Dục làm thất chí, không hổ thẹn Giúp tăng ganh mạn, riêng lánh đời Ngoại đạo thuật cao, làm hung chú Được thắng nên họ riêng lánh đời, Dục đắm cả trời lẫn người đời Giác ngộ lời nói, bỏ ngủ nghỉ Sức khỏe vô song, thế lực mạnh Ái dục vô hình hoại các hình Hoặc dùng lửa ái đốt chết giới Vua xưa soi đó, mòn tiêu mất Danh tiếng tài sản của vua mất Hoặc dục trên đời huống gì nay.” Lúc ấy Ma vương nói lời này Không hề lay động ý Bồ-tát. Liền phát cung ra bắn tên mau Hiện các mê hoặc biến gái đẹp Thấy Bồ-tát ngồi chẳng nghiêng chao Vững bền như núi, nghi ngờ nói: “Thiên tử an tường như núi Vua Dùng tên nữ bắn liền rung động Hóa hiện bốn mặt để đón rước Hiện không tự khinh cùng gặp nhau Tưởng nay Thái tử chẳng biết tên Nếu con thất chí tên ta lạc Chẳng nên lấy dục hóa làm tên Chẳng cần lời cung kính hòa nhã Thì nên khinh rẻ, không nên kính Dùng thế đại quân mà khủng bố.” Ma vương khởi ý nghó binh chúng Kêu to thấu tận các cõi ma Tập họp biết bao nhiêu số thân Tạo nên sợ hãi động trời đất Việc quan trọng như các núi Tuyết Các vui tạo ra vẻ đáng yêu A-lạc, chủ ba hai cõi trời Làm trời Đế Thích ngồi trên voi Hóa thân ngàn mắt, mặc giáp ngọc Cầm chày Kim cang ngàn cạnh sắc Hợp theo vô số làm trời sợ. Tám ức binh voi theo nhau đến Xe bạc rất to trang hoàng đẹp Ngồi ngàn ngựa trắng, tướng theo trắng Giáp ngọc trắng lòa, mây trắng che Tự hóa thân mình có trăm đầu Dẫn các rồng trắng binh chúng lớn Mười hai muôn ức làm quân só. Chính thủy thần vương tên Hòa Luân Chốn đất kéo về các núi thẳm Các báu vàng, lưu ly cõi trời Minh châu trang sức đầu, thân thể Mặc giáp lưu ly hoa lúa vàng Tay phải cầm chiếc gậy Kim cang Ngồi ngàn sư tử các báu ròng Cỡi xe lưu ly màu như nhật Cùng vô số ức thần Dạ-xoa Quân Tỳ-sa-môn như nước dữ Vô Khốc, Uy Nộ và Tiên Thời Vũ Lập, Nhâït Nguyệt, thần Phong Hỏa Hoa Chiếu, Diệu Mã, Kiếm Kim cang Hiền Tài, Hậu Vụ và Chánh Hạnh Vô số các đại Thiên thần này Ngồi xe voi rồng và ngồi cọp Xe giá ngàn ngựa, ngàn sư tử Hoặc lại có chiếc xe ngàn hổ Hoặc lại có xe ngàn chim công Xe lừa, lạc đà, nghé, trâu, dê Hoặc ngồi xe mây, ngồi cây núi Hoặc ngồi trên rồng và rắn độc Hoặc miệng phun lửa, mũi phun lửa Mắt tai phun lửa, đầu lửa cháy Phun nhằm vật gì đều thành lửa Bốc cháy lẫy lừng như kiếp tận. Hoặc hóa như trời, hoặc như trăng Hóa như núi lớn có đôi cánh Hoặc hóa tối tăm như mây đen Ánh chớp, sấm rền, sáng rực rỡ Như thế vô số đầy không gian. Hoặc hóa voi đen như Tu-di Ngồi voi lớn này, cầm cung lớn Hướng về Bồ-tát muốn đốt cháy Hoặc hóa đầu heo, chân lạc đà Hóa đầu voi, gấu biến vô số Hóa thân rất lớn làm đầu voi Ngà chóa lên trời như núi hiểm. Hoặc hóa sư tử và đầu ngựa Hóa ra đầu hổ, cá Ma-kiệt; Hoặc hóa hai, ba, bốn năm đầu Sáu, bảy, tám, chín cho đến mười. Hoặc hóa trăm đầu, trăm cánh tay Trăm chân, trăm mắt thật đáng sợ Biết bao biến hóa đến ngàn đầu Ngàn mắt, ngàn tay, phát ra lửa Tiếng xe, tiếng ngựa, voi rống kêu. Trống va, ngọc chạm vang trời đất Hoặc cầm cung tên, kích, mâu, đao. Hoặc đội núi, cây, chày Kim cang Vũ khí trong tay chúng đều lao Núi, cây chày cứng cùng mưa đá Đức Bồ-tát biến hóa phát ra Các mưa báu hoa vàng, hoa bạc. Hóa gái đen thành như núi mây Cầm đồ yêu chú mê Bồ-tát Lại tự mê cuồng, không biết chi Phá khí cụ cầm, vật cúng tan Hoặc quỳ xuống đất, hét vang trời Hư không sấm động rung chuyển đất, Hoặc mang da rắn biết bao hình Mắt, tai, mũi, miệng tuôn ra rắn Lại cỡi lên nhau giận dữ tranh Hoặc có ngựa hí, hoặc sói tru Nhưng tâm Bồ-tát không tăng giảm Giống như lửa đóm tranh mặt trời. Có một vị trời bảo Ma vương: “Ngươi nhìn kỹ, bậc Tiên thánh này Trong thân soi hiện cả cung trời Nhật, nguyệt, năm sao và các sao Thiết vi, Tu-di, sông, biển, vực Phạm vương, Đế Thích, bốn vua núi Tất cả soi hiện thân Bồ-tát Giống như khắp đời hiện trong trăng”. Bấy giờ, vua ma càng thêm giận Phóng ngay vũ khí, lửa ái dục Đất trời bừng cháy không thể biết. Bồ-tát liền phóng Cam lộ quán Hóa ra mây mưa tắt lửa dục Ái liền sợ uy đức Bồ-tát Trời An tường đến, tà quỷ lui. Vua ma liền phát giận sân độc Như vời họa hại hóa hổ mang Trên đất khắp nơi đầy rắn độc Quấn quanh cây đạo bao khắp cùng Bồ-tát liền khởi tâm đại bi Hóa thành điềm lành, rắn thoái lui. Vua ma lại khởi tâm ngu si Bồ-tát tính duyên ngược đắc thắng. Vua ma lại bắn tên ganh tị Tên là ác khẩu hóa thành rồng Bồ-tát lại bắn tên đại bi Hóa làm chim vàng đuổi lui rồng. Vua ma lại khởi tâm kiêu mạn Phát tên Phạm thủ hóa thành voi Bồ-tát lại buông phát Thập lực Hóa thành sư tử, voi lui đi. Vua ma lại phóng vọng ngôn phát Tên là Điều hí, hóa thành gió Bồ-tát liền buông chí thành phát Bẻ gãy tên ma hóa thành núi. Vua ma lại phóng xan tham phát Phát tên Lậu ác hóa thành sương Bồ-tát liền buông tuệ thí phát Hóa mây mưa nhẹ thổi tan mù. Vua ma lại phóng ấm cái phát Tên là Thùy miên, biến thành mây Bồ-tát liền buông ngũ tịnh phát Hóa thành gió mạnh xua tan mây. Vua ma liền phóng phát tà kiến Hóa thành tăm tối che thế gian Bồ-tát liền buông chánh kiến phát Hóa thành mặt trời trừ tối ma. Bồ-tát mặc áo đại nhẫn nhục Đứng trên đất giới thật đầy đủ Đeo tràng hoa đẹp bảy giác ý Chuỗi châu tấn định rất nhiệm mầu! Tay cầm cung Từ, tên Phạm tịch Từ trong ống ý rút tên ra Vừa buông một phát đều được thắng Như A-tu-luân thắng người xưa. Ma biến nhiều thứ để gây sợ Tâm định Bồ-tát chẳng lung lay. Bấy giờ Tịnh cư thiên trên trời Vâng giữ pháp thành Phật quá khứ Thương, ghét của tâm đã bỏ hết Ở trên hư không thấy Bồ-tát Khi ấy các trời bảo vua Ma: “Xin ma Ba-tuần nghe cho kỹ Bảo cho Ba-tuần sao lại nhọc? Bỏ công uổng phí vậy sao đành! Bỏ đi ác ý, tâm vắng lặng Vì sao làm kinh hoàng Bồ-tát. Người ấy không ai lay động được Như dùng miệng thổi núi Tu-di Nên dùng từ ái, bảo vua ma Tự yêu, chớ xúc nhiễu Bồ-tát! Mọi vật còn bỏ được bản tính: Gió bỏ tánh động, lửa bỏ nóng Đất bỏ hầm sâu, nước bỏ ướt Tối không tránh sáng, nhật không soi Trăng còn có thể đi trên đất Tu-di bay bổng, biển thành bờ, Vô số kiếp xưa tu đức nghiệp Không bao giờ bỏ quyết tâm thề Như quyết định ấy, như tinh tấn Như ghét, như thương xót chúng sinh Pháp hội đông đầy các trời, người Được uống nước cam lộ chánh pháp Phát tâm cầu nguyện an chúng sinh Tự nhiên phát tâm thương thế gian Bổn nguyện không thành không đứng dậy. Mặt trời mọc, tìm tối sao được Bồ-tát đại bi thương thế gian Hoạn nạn trần lao bị xé tan Gom nhóm thuốc hay các thứ pháp Ba mươi bảy món chất cao thần Dục được khắp đời hòa thuốc thần. Này ma, ngươi làm chớ quấy ngăn Tất cả rơi vào đường mê hoặc Muốn dùng chánh dẫn không vững chắc Đời ngu tối tăm, bỏ bơ dầu Tất cả ngọn đèn sáng trí tuệ Lửa lớn trước sân Phật đã đốt Này ma chớ diệt, hãy lui ngay! Thấy thế gian này chìm mất hết Xuống biển trần lao không bến bờ Để độ tất cả người chìm đắm Vì sao ác trái với hạnh lành? Ban đầu phát căn lành vững chắc Xây dựng thân cây đại nhẫn nhục Cành nhánh ý chí rất to lớn Hoa giữ giới cấm rất tươi đẹp Cây đại trí tuệ nay sắp mọc Sẽ thành thục trái ngọt chánh pháp. Này ma ngươi chớ làm trở ngại Cây bền vững chắc sắp mọc lên Trước nay giống Phật trồng nhiều lắm Giờ đây là lúc nở bày ra Nay ngồi tòa này là xứng đáng Như các Phật quá khứ trước kia. Tòa ấy đức danh là Địa Tế Là nơi vô số ức người ưa Khắp cõi đất này không còn chỗ Ý rất tôn trọng, đáng vượt hơn”. Vua ma nghe vậy buồn rầu nói: “Bồ-tát nhìn tôi có sức mạnh Muốn thiêu trời đất cho tiêu hết Nuốt được Thiết vi khắp mặt đất”. Nhân đó Bồ-tát hỏi vua ma: “Tu tập hạnh gì được sức mạnh?” Đáp rằng: “Nhà tôi mở cửa lớn Danh đức vang khắp đâu cũng biết”. Rằng: “Cúng một đời đức lớn vậy Ba-tuần ngươi hãy nghe lời ta Ta thờ cúng trong vô số kiếp Khắp cõi đất này, trên hư không”. Ma nói: “Ta làm, ngươi biết rõ Ngươi làm ai chứng nhận cho đây?” Bồ-tát bảo: “Ma hãy lắng nghe Rồi ta minh chứng hạnh ta ngay!” Bấy giờ từ tay sáng Bồ-tát Phát ra mây đỏ chiếu sáng ngời Từ áo ca-sa xuất tay đó Bàn tay nhiệm mầu đã bày phơi Sự chứa nhóm hạnh lành đời trước Tay có bánh xe ngàn căm mầu Bảo vua ma rồi, tay chạm đất: “Hạnh ta ngươi biết, đất làm chứng?” Khi ấy, thần đất liền hiện thân Nói lớn rằng: “Tôi chứng, tôi chứng!” Bấy giờ, đất mở cửa cúng lớn Tiếng tăm bậc nhất đâu cũng nghe Lại được gọi là “Đa kim thí” Lại đem cho ngựa số vô vàn Thường được no đủ đầy đất này Lại mưa bảy báu no thế gian. Nơi đây đầu thí hàng ngàn cái Có chỗ cho: non nước, vợ con… Đây lột da cho, đây thí thịt Chỗ này cho máu, chẻ xương tủy Ở đất này thí vô số thân Cho đời các thân không trái nghịch”. Mặt đất làm chứng hiện trở lại Đất liền rung chuyển tiếng ầm vang Thế giới Tam thiên rung sáu cách Đánh tan ma chúa cùng ma quân Ngả nghiêng lẫn trốn, ngã đầy đất. Khắp cõi không trung lớn tiếng rằng: “Thái tử họ Thích đều thắng oán Đã thắng ma oán, các trần lao. Cờ lớn vua ma liền gãy đổ Ma lui, ma bại tiếng vang khắp”. Đã thắng vua ma, chứng định ý Định ý nghó sâu các Phật sự Đức nặng, thần đất không hơn được Tâm vui hớn hở, đất rung chuyển. Bồ-tát liền bảo thần đất rằng: “Động hay không động đều do ngươi Hãy định, chớ động trong giây lát Ta làm chỗ nương người không nương Lâu rồi ngươi gánh chịu vô số Người hại mẹ cha, kẻ dối vua Vượt mức khuynh tà, theo tội lỗi. Đào hết căn lành, làm việc ác Uống độc đảo kiến, rơi chỗ tối Khổ nguy gánh nặng, địa ngục phần Đã thắng việc này, lại nhẫn nhục Ta mới bỏ ngay khổ gánh nặng.” Bấy giờ, hiện quán các thiền na Đối với các thiền được rất tự tại Nhớ nghó lâu xa, việc mới làm Trải xem đời trước như hôm qua. Đến nửa đêm dùng mặt trời quán Nhìn rõ tất cả như gương sáng Soi sáng rõ chúng sinh năm đường Không hề chắc thật như cây chuối. Ngay trong đêm ấy đến canh ba Tư duy quán chiếu ý nhiệm mầu: Tất cả thế gian các khổ nhóm Sinh, già, bệnh, chết phải chia lìa Tối tăm che khuất đường xuất ly Không tránh hầm hố, cũng như mù? Bồ-tát suy tìm nguồn sinh tử Xét sự sinh diệt đều rõ ràng Tâm lại sinh niệm lại suy nghó: Già từ đâu đến, từ đâu chết? Lại sinh chánh niệm duyên theo sinh Nhân già có bệnh, do bệnh chết Hễ ai có đầu thì có khổ Như cây đã mọc tất phải đổ, Lại nghó nguồn gốc từ đâu có Biết các thứ lành, thọ duyên đối Thọ từ đâu sinh, từ ái có Xét nguyên nhân ái, từ giác biết Giác biết nguyên nhân từ xúc sinh Duyên theo xúc ấy có các căn Bởi do sáu nhập duyên danh sắc Duyên của danh sắc là nhân duyên Duyên như vậy từ dưới đến trên Do si sinh khởi nguồn sống chết. Si diệt rồi thì tất cả diệt Si, nguồn sinh tử đã tiêu rồi Biết rõ gốc khởi mười hai duyên Điều nên giác biết, giác biết kỹ Đường tám Hiền thánh là bậc nhất Trước đó chánh kiến như nhận xét Thấy không tôi, ta, hết ba cõi. Lửa tuệ đốt khô đầm trần lao Phân tách việc này rồi tự bảo Rằng: “Điều nên giác đã giác biết Ta đã bằng kịp Tiên thánh trước Chư Phật Thế Tôn thực hành đạo.” Đến đêm hôm ấy vào canh ba Mặt trời soi khắp đạo tràng bày Chúng sinh nghỉ ngơi, cảnh vắng lặng Nhất Thiết Trí thành Phật đạo trên “Ta đã bằng kịp Tiên thánh trước Chư Phật Thế Tôn thực hành đạo.’ Chứng xong cõi Phật cao nhất rồi Thế giới Tam thiên rung sáu cách Các trời chen chật đầy hư không Vui mừng tung hoa khắp mặt đất Vàng bạc, chiên-đàn vung khắp nơi Ý trời tạo hoa khắp nơi nơi. Tràn đầy khắp đất, không trung chật Từ không kết ái, mưa hoa trời Kỹ nhạc không trổi tự nhiên vang Các trời trổi nhạc khắp hư không Trời ứng vui mừng đời được hưởng. Thần đất, thần không đều hớn hở Thần lửa vui mừng tự nhiên cháy Sóng biển, vực sâu vang tiếng mầu, Các vị thần cây đều dâng hoa Tu-di, các núi đều làm lễ Khổ địa ngục ngừng, ngạ quỷ no Chúng sinh thương nhau hết thù hận. Thân Phật phát ánh sáng chánh pháp Bốn bên, trên, dưới khắp mười phương Biến hiện ra các thứ hình tượng Nên trước làm cho giác ngộ khắp Đường tám Hiền thánh bắt đầu hiện Như cờ không người dẫn các đường Đó có hoa mầu tên Chư giác Nói các giác lại hiện cây rừng Ba mươi bảy phẩm số khác nhau Đều tự hiện hình như nói nghóa Hoặc rất nhiều mầu trắng, xanh, vàng Ánh sáng như vậy, nói pháp âm Mặt trời Phật soi sáng thế gian Ánh sáng đó được xem xét kỹ. Phật liền thâu lại ánh sáng thần Không ăn bảy ngày, ngồi vui pháp Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ này: “Vui thay: Phước báo diệu nguyện thành Mau chóng chứng thành Tối thượng tịch An vui mãi mãi không còn khổ. Vua ma thấy vậy cùng tụ đến Mỗi mỗi hiện hình muốn phá ta Không bao giờ động tâm ta được Dùng sức công đức hàng phục ma”. PHẬT BỔN HẠNH KINH (PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN) <卷 id="50112197">QUYỂN 4 <詞 id="50112198">Phẩm 17: ĐỘ NĂM TỲ-KHEO Kính thuận Đức Phật Ý không sai biệt Ta thương các thầy Khiến lìa tội lỗi. Phật ở cõi thế Ban rải điều lành Tâm Từ bình đẳng Giống như con đỏ Kia có khinh mạn Những người hầu thầy Người ấy chịu tội Như trái lời cha. Bấy giờ, năm người Đồng thanh nói rằng: “Tu hành khổ nhọc Còn không chế lòng Tìm an, lui sụt Buông lung các căn Do đâu đắc đạo? Xin giải tỏ tường Cũng như có kẻ Ép cát tìm dầu Không bao giờ được Tốn sức uổng công, Như vắt sữa trâu Bỏ vú, vắt sừng Hành động lạ đó Chẳng được sữa đâu! Nhân ánh đèn sáng Xua tan tối tăm Chẳng dùng nước mài Làm sao dao bén Ngu si tăm tối Quá dày như thế Dùng đèn trí tuệ Sao trừ được đây! Giống như lửa mạnh Được gió thổi lên Đốt cháy củi khô Không bao giờ tắt”. Người tâm buông lung Mê đắm sáu dục Hạnh nhơ trần lao Không thể tổn diệt Lửa hừng tuy tắt Còn lại chút tàn Cũng không hề bỏ Tánh cháy của nó Ý tuy tinh vi Còn có dư thức Biết hữu, biết khổ Mới rõ đế này Nên cầu vô sinh Không già, không bệnh Lại không có chết Đất, nước, gió, lửa Không trước, không sau Không giữa, không lay Nghó tìm chỗ này Biết diệt, vượt khổ Tám đường Hiền thánh Có thể đến được Cho nên đạo giác Và các phương tiện, Không thể biết rõ Tám đường Thánh hiền Nên mê cõi thế Điên đảo xoay vần. Phải biết khổ đó Tuần tự tu hành Trước dứt gốc khổ Dục ân ái buộc Thêm siêng tu tập Tám đường Hiền thánh, Phải dùng Nê-hoàn Vắng lặng làm chứng Nên giác ngộ khổ Dứt đắm ái dục Lấy diệt làm chứng. Người tu đường Thánh Nhân đó lập hạnh Việc ấy đủ thành Bấy giờ Ta sẽ Mắt nhìn suốt thông Thấu đạt bốn Đế Đem bốn Đế này Vì năm người ấy Tâm minh mở bày Dùng chày Kim cang Trí tuệ chánh pháp Đập núi trần lao Của năm vị ấy. Ước tính lúc mới Rõ chánh pháp đế Tám muôn vị trời Liền được giải thoát Trời, Rồng, Thần, Quỷ Trên đất đều khen Quay bánh xe pháp Sao quá nhanh thế Khéo tu giới cấm Cắc căn quá dày Điều khiến vắng lặng Vòng khắp không chừa Siêng năng chí niệm Tụ tại trung ương Vì trời, người quay Bánh xe chưa quay Tiếng quỷ thần khen Lên đến cõi trời Khắp cùng cõi trời Cho đến cung Phạm Chư Thiên đều được Nghe âm thanh ấy Nhân đó phát tâm Đi đến chỗ Phật. Lúc sắp bắt đầu Quay bánh xe pháp Trời, Rồng, Người, Quỷ Thần biển đều mừng Liền mưa hoa trời Không thể kể xiết Chúng sinh được nhờ Từ khổ được an. Trời Phạm thỉnh Phật Quay bánh xe pháp Chúng sinh được độ Đến nay không dứt Các phước báo ấy Đều quy Phạm thiên Nên đã được hiệu “Phước Phạm” bậc nhất. Lúc bắt đầu quay Bánh xe chánh pháp Phật dùng cam lộ Cho năm người uống Nguyện cho chúng sinh Mau quay bánh xe Như Phật Thế Tôn Nói pháp độ người.  <詞 id="50112199">Phẩm 18: ĐỘ BẢO XƯNG Đã lâu vô số kiếp Chứa nhóm được gốc lành Điều nguyện xưa được thành Trước trao cho năm người Giống như việc thờ lửa Được dầu càng cháy mạnh Lửa Phật còn vượt hơn Ánh sáng soi cùng khắp. Ra khỏi vực năm đường Liền hóa độ năm người Trước cùng năm Sa-môn Đức lực thắng năm căn Phật như trăng tròn hiện Cùng với các đệ tử Như năm ngôi sao sáng Cùng vầng trăng ngao du. Ở thành Ba-la-nại Có con Đại trưởng giả Tánh nhân từ thương xót Tên gọi là Bảo Xưng Nhà ở như cung trời Người hầu như Thiên nữ Kỹ nhạc ngừng giây lát Xưng và các cô ngủ Phước đời trước theo đến Được uống thuốc cam lộ, Đời trước thấy thây chết Từ bi trong khoảnh khắc Việc thiện xưa theo đến Buồn bã, tỉnh ngủ ra Thấy các cô như chết Nhà ở như gò mả Lòng chàng buồn thê thảm Giơ tay buồn than rằng: “Nay ta gặp ách nạn Sống trong khổ hoạn lớn Tự nhiên sinh tâm lành Chỉ an vui vô vi Dục lạc khó giữ lâu Vui mừng tan phút chốc Theo đường nào chạy trốn Tự náu thân ở đâu? Không gặp lửa vô thường Nơi không có sợ hãi Ở đời, ai đáng nương? Ta phải nương vào đâu Ai sẽ được cứu vớt Từ bùn sâu ái dục?” Bấy giờ bỏ ái dục Từ từ rời giường báu Rồi mang giầy báu sang Giá trị trăm ngàn lượng Cửa nhà và cửa thành Nửa đêm tự nhiên mở Sáng tỏ như ban ngày. Lòng kia thấy ngờ vực Các trời ở trên không Từ ái nói khuyến khích: “Ngài mạnh dạn đến mau Chớ chậm chạp trễ nãi Cách nay không xa đâu Phật, Bậc Thầy thế gian Đang đứng đợi chờ nhau Như trâu mẹ tìm nghé Nay Ngài sẽ xây dựng Được lợi lớn vô cực. Dâm dục như bầy cá Lướt trong sóng mê hoặc Để vượt lên tinh tấn Lên bè cây bậc nhất Vượt qua các biển khổ Ắt hẹn ở hôm nay.” Lúc ấy chàng Bảo Xưng Bùi ngùi khóc cất bước Xa đưa tay hướng Phật Cất tiếng buồn than rằng: “Thưa Ngài con hôm nay, Khốn khổ già, bệnh, chết Xin cho con quy y Giúp con khỏi khổ ấy.” Phật dùng tiếng Phạm âm Mềm dịu từ xa gọi: “Ở nơi này có chỗ An tónh không khổ hoạn Có tám đường Hiền thánh Vắng lặng rất thanh tịnh Hãy mau đến chỗ Ta Ta làm chỗ quy y”. Bảo Xưng nghe lời này Lòng tràn đầy mừng rỡ Như gặp nắng sớm mai Đắm mình trong ao sạch Theo tiếng đến chỗ Phật Cúi lạy dưới chân Phật, Ví như cây hoa mầu Bị gió mạnh thổi ngã Thân trang sức anh lạc Tâm thản nhiên không đắm Túc phước nay đến rồi Rốt ráo chứng La-hán. Phật biết lòng Bảo Xưng Trong thẹn thân anh lạc Việc Sa-môn đều thành Nhân đó bảo ông ấy: “Trang sức trong thuần thiện Bậc nhất thắng các căn Đó gọi thành pháp Ta Chẳng cần nhờ ngoại phục Có nội tâm ngay thẳng Trong ngoài thuận tương ứng Cửa đạo đã mở rộng Không thể cậy ăn mặc”. Nhờ công đức Bảo Xưng Bốn người bạn được độ Mãn Thành cùng Vô Cơ Ngưu Tư và Thiện Dữ Giúp năm mươi đồng tử Được độ thoát các khổ. Đầu tiên bên Thế Tôn Có sáu mươi La-hán. Phật dùng tiếng Phạm thiên Bảo các đệ tử rằng: “Các ngươi đã thoát khổ Được yên ổn mát mẻ Chúng sinh chìm ái dục Chịu khổ đáng thương xót Các ngươi phải thương xót Đi các nơi hóa độ.” Phân bố, sai môn đồ Rồi một mình bước đi Bèn đến đầm Dã tượng Nhân đó tìm chỗ nghỉ Hiện thần quang sáng ngời Hàng phục rồng độc hại Hiện thần túc biến hóa Các thứ đẹp kỳ lạ. Phật đã hết kiêu mạn Lại hóa các kiêu mạn Đầu tiên độ Ca-diếp Người ở đầm Dã tượng, Sau đó thứ lớp độ Độ hai em Ca-diếp Môn đồ ba vị đây Ngàn người thành Vô trước. Phật cùng ba vị ấy Công đức thật vòi vọi Phép tắc và tuệ thí Cấm giới, oai nghi tốt Ngàn đệ tử theo chân Gọi Thầy trong các thầy, Thương xót vua Ma-kiệt Đi đến thành Vương xá Có người túc đức đang Thống lónh nước Ma-kiệt Dùng thiện ngự ngôi vua Đức lành hơn chúng sinh Nghe Phật, Bậc Đại Thánh Đến trong đất nước này Nghe liền sinh vui mừng Nghiêm chỉnh đi đón Phật Vua đích thân tự ra Cùng rất đông quân lính. Dung nghi vua Bình-sa Khác hơn trong các vua Như Đế Thích, các trời Đều ra khỏi cung trời Nghiêm oai nghi dẫn đường Khi đến gặp trời Phạm, Cùng các vị trọng thần Mới vừa ra khỏi thành Giữ đúng theo oai nghi Vua Chuyển luân ra ngoài Cùng bề tôi ra đi Trước sau đều dẫn đường Nghiêm sức hơn thế gian Nhiệm mầu không gì sánh Voi, ngựa, xe, tùy tùng Tiếng vang đến tận mây. Phụ nữ ra đường xem Phục sức như chói sáng Ra khỏi các cửa thành Ngã tư đường tắc nghẽn Như các hang trên non Nước mưa thu tuôn chảy. Bậc hùng trong các vua Đi gần đến chỗ Phật Phật phóng ánh sáng vàng Chiếu sáng giữa các cây Bằng oai thần Thế Tôn Khiến đầm sáng sắc vàng Vua ngạc nhiên vui mừng Quay bảo vị quan hầu: “Nghe tiếng, nhìn sắc vàng Nghi lễ rất tương ứng Ta nhìn ngắm kỹ càng Quả thật vật báu mầu Là biển cả trí tuệ Kho báu các điềm lành Xa ngắm trông hình dung Phật hiện bày tướng lành” Vua không kiềm vui mừng Liền bước xuống xe báu Như nhật ra khỏi mây Lặn xuống ở non Tây Năm uy nghi bỏ hết; Vua bước đến chỗ Phật Năm vóc lễ dưới chân Thật hết lòng cung kính Chắp tay ngước nhìn Phật Ý nhiệm mầu không chán Tâm mừng kính vô lượng Toàn thân đều nổi ốc Lễ xong về chỗ ngồi Nhất tâm nhìn kỹ Phật Hình dung càng đẹp hơn Giống như núi Tu-di Ba lần tự xưng hiệu Nhân đó bạch Phật rằng: “Nay chiêm ngưỡng thân Phật Lòng không hề biết chán Phật ra đời kỳ lạ Làm chỗ nương ba cõi Nay vui mừng hớn hở Tâm tình trụ an nhàn Mau bỏ ngôi Thánh vương Sớm tìm lấy chân đế Được trời, người kính trọng Thật đáng tuyên giáo pháp Độ mình đến an tịnh Chúng sinh nguyện tròn đầy Nay lễ dưới chân Phật Thân quy mạng Thế Tôn!” Vua ngồi ở trước Phật Lại tự kìm chế hơn Dán mắt nhìn Đức Phật Như ong hướng cây hoa Chăm chăm không động nổi Khao khát muốn nghe kinh. Phật dùng tám thứ tiếng Nói pháp rộng vua nghe: “Các căn và tâm ý Sáu tình duyên khởi sắc Sinh diệt, không ngừng nghỉ Giống như chùm bọt nước Sự sinh diệt các căn Vua nên biết cho kỹ. Như gieo giống xuống đất Chắc chắn sẽ nảy mầm Mầm nào sinh giống ấy Vua nên biết xét mầm Bóng nào thì hình ấy Các tình ý như thế Sự điên đảo sinh tử Tướng nhân duyên sinh diệt.” Vua nghe pháp sâu ấy Tâm liền sinh sợ hãi Thoát khỏi vực sinh tử Được mắt tuệ thanh tịnh. Mười hai ngàn thị vệ Đều mong được giải thoát Trên tám vạn vị trời Đều được thuốc cam lộ. Bấy giờ Phật Thánh Sư Dừng nghỉ khu vườn Trúc Lòng thương xót chúng sinh Ngày đêm phát ánh sáng. Tỳ-kheo tên Mã Sư Thuận oai nghi đứng dậy Lên tiếng bạch Đức Phật Muốn vào thành khất thực Phật cho phép ra đi Nếu chợt gặp dị học Phải dùng kệ Tứ đế Thứ lớp mà giải thích. Nghe lời Thánh Sư dạy Cung kính mà thực hành Vì thân bốn đại này Đi đến thành Vương xá Tâm vắng lặng mà đi Mắt nhìn không lìa trước. Ngoại học rất thông minh Tên gọi là Thọ Huấn Thấy oai nghi đẹp lạ Tâm cung kính đến hỏi: “Qua oai nghi vắng lăïng Chỉ nêu bày ý ấy Núi báu lạ nào đây? Vì vị thầy trên hết Ngài là viên ngọc gì Từ núi nào mà ra? Từ cây trí tuệ nào? Chỉ hoa tươi xinh đẹp Nhờ mặt trời nào đó Nơi ánh sáng chiếu ra Ao tuệ trong nào vậy Bèn sinh phù dung ấy? Thầy ngài dạy gì vậy Là ai được chỉ bày?”. “Có vua dòng Cam Giá Con vua dòng họ Thích Bỏ nhà tu thành Phật Là Bậc Thầy thế gian Ngài nên biết thầy tôi Thầy trời, người, Thánh hiền Tôi mới bắt đầu học Tuổi đạo còn rất trẻ Phật pháp thì sâu rộng Nói ra rất tinh vi Nay sẽ xin nói lại Lời dạy của Bậc Thầy: Hiểu khổ, biết gốc khổ Lại biết khổ diệt trừ Đó là đạo diệt khổ Thánh Sư thường giảng nói.” Ngài nghe bốn câu ấy Tâm liền ngừng dứt ngay Ưu-bà-thế lập tức Được mắt tuệ thanh tịnh, Nhân vì Mục-kiền-liên Lại nói khắp bốn câu Liền đó thấy dấu đạo Đều đi đến chỗ Phật Với năm trăm đồ chúng Cúi đầu kính lễ Phật Cất tiếng khen Sa-môn Oai nghi liền đầy đủ. Hai vị trước thấy đạo Đều chứng quả La-hán Một vị trí bậc nhất Một vị giỏi thần thông Hai vị hầu Thế Tôn Như tả, hữu hai tay Chung sức giúp Đức Phật Như vua giỏi, tôi hay. Có một người quý tộc Tên là Lạc Thọ Sinh Bỏ màu vàng đẹp đẽ Cạo tóc mặc ca-sa Nơi đồng hoang Đa tử Thấy Phật bày bổn hạnh Mới đầu được thấy Phật Bậc Thầy Nhất Thiết Trí Chắp tay để trên đỉnh Xa cúi đầu lễ Phật: “Phật là Thầy của ta Ta là đệ tử Phật.” Phật dùng tiếng trời Phạm Từ tâm bảo ông rằng: “Làng thay! Hiền minh só Vừa lúc gặp tốt lành” Phật thuận theo bổn hạnh Giảng nói pháp sâu mầu Tiêu diệt nhóm trần lao Tức thời được chứng quả. Cùng ba đệ tử Thánh Nhất thiết trí sáng ngời Như đêm rằm trăng tỏ Cùng ba sao sáng trời. Vừa từ nước Xá-vệ Phụng sứ đến Vương xá Của báu ưa bố thí Tên gọi là Tu-đạt Vừa nghe đến danh Phật Vui hớn hở vô cùng Toàn thân đều nổi ốc Đêm dài không ngủ được Nửa đêm đến chỗ Phật Liền đến được gặp Phật Năm vóc lễ chân Phật Lòng tràn đầy hân hoan. “Ngươi vì ưa đạo pháp Bỏ đi ngủ nghỉ ư? Đêm vui đến chỗ Ta Chắc chắn được báo tốt Giữ giới và trí tuệ Vinh dự sinh lên trời Vết nhơ của dâm dục Nói rộng ngần ấy pháp Như tấm nỉ sạch đẹp Nhuộm màu vào rất tươi”. Khi trưởng giả Tu-đạt Chịu vào ao Nê-hoàn Phát nguyện lâu cầu Phật Muốn Ngài sinh ra đời Độ thoát chúng sinh khổ Lời thệ nay đã trọn Từ sinh tử khổ ách Độ vô số chúng sinh Dẫn đi đường bằng phẳng Đến tận thành Nê-hoàn Như điều sở nguyện ấy Mỗi mỗi được theo ý. Người được độ từ xưa Đều uống vị cam lộ Thảy đều được yên ổn Chẳng rơi chốn nguy nan Người nghe xong tu học Sẽ vào thành Nê-hoàn.  <詞 id="50112200">Phẩm 19: QUẢNG ĐỘ Một mình độ tất cả Riêng là Thầy thế gian Dẫn dắt cả trời, người Hiệu Phật trời trong trời Đêm dài trong trần lao Sống lâu với người ngủ Đánh lên trống chánh pháp Để độ người đáng độ, Năm gò đã vun đắp Trong thành La-duyệt-kỳ Độ vương đệ Lê Hắc Cùng với tám muôn người Trưởng giả hiệu Dũng Mãnh Bỏn sẻn che mắt kia. Trước hóa độ Viêm Quang Và độ ông Kỳ-vực Ở trong thành Vương xá Thuộc nhà Ca-la-vệ Thế Tôn sáng hơn nhật Dùng lửa định đốt Phật Mưa pháp rửa sạch tâm Lửa ba cấu lẫy lừng Cơm độc và bụi tối Cùng lúc đều tiêu tan. Trong nước lớn Tỳ-đề Đạt só như Phạm thiên Độ Phạm chí nổi tiếng Tên là Phạm Ma Du, Vua nước lớn Hương Trì Mắt như cánh sen xanh Giải thích cho sáu pháp Giác ngộ Chánh kiến đế. Có núi tên Đạo thuật Hiển bày như núi vàng Tâm tịnh có trí tuệ Tắm gội giải thoát tục Có mười sáu Phạm chí Tên là Độ Bỉ Ngạn Và hơn sáu muôn người Đồng thời đều chứng đạo. Bấy giờ các ruộng phước Kéo đến ở trong nhóm. Lúc ấy, trong nhóm kia Có Phạm chí cao sang Danh lừng tên Hắc Xỉ Muốn làm lễ tế trời Xé lưới nghi cúng tế Đứng giữa con đường chính Bấy giờ núi Tùy-đề Trong hang động Đế Thích Phật ở trong động ấy Bất động như Thái sơn Nhạc trời vang vọng khắp Ca tụng Phật giác ngộ Đem cam lộ thanh tịnh Cho vua Đế Thích uống. Ôm hại nhiều tức giận Cơn gió nhanh dữ dội Trán bằng ngón tay nhỏ Mê hoặc chạy như điên Hại như vua Diêm-ma Phạm chí Ương-quật-ma Dùng thần túc điều hóa Kẻ hung bạo khó điều. Lại ở cõi An cư Phạm chí tên Giới Thận Bị dây nghi trói buộc Dứt bỏ sự nghi ngờ Cùng ba trăm đệ tử Từ khổ được giải thoát Cắt bỏ mọi trần lao Khiến cho không còn sót. Trên đầu lửa cháy bừng Trong miệng cũng phun lửa Dưới môi ngậm giận tức Ném vào lửa bừng cháy Toàn thân lửa hừng hực Giống như kiếp thiêu tận Dùng lời dập tắt lửa Quỷ thần A-lạp kia. Thân lớn như mây xanh Chớp sáng lòa loang lổ Thân cũng lớn như thế Trang sức chuỗi ngọc vàng Muốn hại phun khí độc Sấm chớp mưa đá dày Hiện thần lực phút chốc Diệt rồng độc không mầm. Ở trong thôn Đại trạch Hóa đồng tử Bang Thủ Trước độ Thiện Hôn Miên Dã thành hóa Thủ Thụ. Câu-thiểm-ni đã giúp Vô Úy và Linh Giả. Ở trong thành La-duyệt Hóa Phạm chí Vô Hiền Duy-da-ly đã độ La sát ăn thịt ác Quỷ thần dữ Diệp Nhó Đều hóa độ giải thoát. Sức sư tử đã xuống Hóa độ bốn ngàn người Hóa độ Kiếp-tân-nâu Và bốn ngàn đồng tử. Núi Súc phồn hoang vu Độ thái tử Đạo Đức Địa thời độ Bạch Chuyển Sở Sinh độ Tế Sứ Lui lại ở Song lâm Đến nghe ở Xá-vệ Độ Phạm chí Vô Úy Và vô số đại chúng Lại độ Ưu-ba-tiên Năm trăm tướng theo hầu Lại độ Thính Thọ thảy Và năm trăm Phạm chí. Hóa đệ tử Bất Lan Có năm trăm người buôn. Độ họ Thích năm trăm Đều cho làm Sa-môn Ở tại thôn Thanh lâm Hóa độ hai trăm người Vô Trì độ hai trăm Hội Đồng độ năm trăm, Lại ở thôn Ức truyền Hóa độ tám mươi người Ở Tử Mãn sáu trăm Tùy-đề năm mươi người. Các trời, bốn vua trời Sức mạnh giúp thế gian Thế lực như nước cuốn Sân hận như sóng tràn Do đó vượt chú giáo Nói cho bốn Thánh đế Cuối cùng được giải thoát. Đường Bát chánh lập ra Cho bậc Hiền só thảy Hai mươi tám quỷ thần Tướng quân hung tệ ác Quấy nhiễm hồn phách người Quỷ thần ở núi Tuyết Thụ Mao nhiều tức giận Thích Mao rất tệ ác Phật dứt sự sân hại. Nữ thần mẹ các quỷ Tên gọi là Thủ Khứ Ăn trẻ con còn ẵm Rất nhiều của thế gian Lại rất yêu con út Phật bắt nhốt trong bát Quỷ mẹ tìm mọi cách Cuống cuồng đến chỗ Phật Phật hỏi: “Ngươi thương con? Người đời cũng thương con! Nếu ngươi không giết hại Ta sẽ chỉ ngươi con!” Liền vâng dạy, thọ giới Không giết, giữ lòng Từ Cùng con quy y Phật Như sóng về biển sâu Dẫn rất nhiều nam nữ Quỷ nam, nữ cũng đông Các nam, nữ cháu, chắt Vô số đầy đầm hoang. Trong vườn cây Kỳ-đà Hóa độ mẹ con quỷ Và vô số chúng theo. Phật trao cho chánh pháp Sa-môn nước Tùy-đề Độ thoát bốn mươi người Sa-môn ở khắp nơi Lại độ ba trăm người. Độ Phạm chí Thốc Phát Và bốn ngàn đồ chúng Có Phạm chí Dũng Tiến Lại độ cả ngàn người. Như độ Xá-lợi-phất Vô số người tinh tấn Dùng cách độ Bàn-đặc Dịu ngọt dạy cũng nhiều. Lại như pháp An tường Độ vô số người lành, Cách độ La-tuần-nhu Độ những người bạc phước, Như cách độ Hiền Lương Độ vô số người sang, Như cách độ Xí Phương Độ vô số kẻ hèn, Như cách độ Ca-diếp Độ nhiều kẻ điều lương, Như độ Ca-lâu-đà Độ nhiều người buông lung, Như cách độ Thiện Trừ Hóa độ vô số người, Dùng cách độ quý tánh Cũng độ vô số người, Như cách độ Chiêm-ba Độ những người xem tướng, So sánh như Ca-diếp Hóa kẻ biết tiếp lời. Trong cửa thành Xá-vệ Gặp năm trăm dị học Phương tiện độ thoát chúng Bằng lửa bao chung quanh. Hiện thần túc biến hóa Độ Uất-trì Ca-diếp, Dùng uy thần hàng phục Phạm chí tên Khoái Đế Thẩm Đế cùng An Tiện Cả vua rồng Vô Miêu Cùng trưởng giả Ngôn Đàm Đều hóa độ nhanh chóng. Hoặc như Ương-quật-ma Buông dao được hóa độ Như độ vua Hương Trì Đón rước độ Phiền Ý. Dùng ngần ấy cách thức Tiếp độ Kỳ-đệ-nan Độ Phạm chí Nhân Đầu, Phật từ nhân hóa ra Biến hóa làm thân nai Tế độ người thợ săn. Năm trăm người họ Thích Hóa tên họ thành hoa. Hóa say như Úc-già Độ nghiêm sức như lụa Để độ người kiêu mạn Cứu những kẻ kiêu sa Độ Ca-diếp khó động Nghịch chẳng chịu thí kia. Dùng ngần ấy cách thức Đi điều độ chúng sinh Trường Xỉ cùng Hắc Tử Và tạo tác Kết Bình Quỷ thần ác các nước Phật đã giáo hóa rồi. Thượng thăng cùng Thâm Áo Và hình tượng Giang Thy Đến thần quỷ Lao Sơn Hóa độ Phổ Quảng sơn Độ quỷ Minh Châu Xỉ Quỷ Hoa Xỉ thứ hai Ngàn mắt và mắt xanh Pháp Độ cùng Xích Sắc Anh Nhó và Hoa Nhó Đại lực rất cống cao Ở trong hang núi sâu Hóa độ các quỷ thần. Phật đến nước Đại hống Độ các Ưu-bà-tắc Lập ra Bất hoàn đạo, Trăm năm mươi người phàm Có hai trăm năm mươi Chứng được Bất hoàn đạo Có cả năm trăm người Được đạo Tu-đà-hoàn Sở Hướng và Hỷ Thán Thân giả, Lạc Hoa Môn Thính Thiện Tính và Vụ Kết Thiện Lai, Sung Dật Xứng Mãn và Thiện Giác Trọng Ấn Quang mỉm cười Ngưu Thắng, Khiết Tường Cảnh Vị Phát, cùng Tuyền Tác Các La-hán như thế Năm trăm vị cùng hàng Nói lược mối manh ấy Đã độ nhiều không lường. Hoặc dạy lời mềm mỏng Hoặc dùng lời thô thiển Hoặc dùng cương nhu điều Phật hết lòng giáo hóa. Ông Điều-đạt buông lung Voi say ở Vương xá Phật giáo hóa người mê Voi say tên Tài thủ. Bấy giờ ngoài cửa thành Phật hiện sư tử mãnh Voi mắt lành nhìn Phật Được thọ ký thành Phật. Trong hang động Đế Thích Hàng phục trâu đực dữ Loài nhạn chốn hoang vắng Vì hạ sinh giống trời. Trong thành Bất cụ kia Hai cọp con mới sinh Được từ tâm của Phật Cùng hàng ngàn chim bay. Anh vũ và chim công Sói, beo cùng Duy-la Rắn độc, rùa, ba ba Chim sáo và Xa lập Bồ câu cùng chim quạ Và đến cả ểnh ương Bọn chúng được nương nhờ Đều được sinh cõi trời. Lõa hình xuống sông biển Bơi được đến bờ kia Mặt trời ngàn ánh sáng Có thể dùng tay che Các kinh Phật nghóa sâu Câu nhiệm mầu rôïng lớn Tất cả các Thánh sư Không có người hiểu hết! Vô số chư Thiên vui Vô lượng các Thánh thần Vô biên thần hư không Thần đất, núi vô vàn Vô số thần cây, nước Vô số trời và người Hóa độ vô số biên Nguyện đời trước đã đủ. Như Phật được đủ nguyện Thầy của Thánh, người, trời Người, trời cũng sung mãn Nguyện lành đã mong cầu. Cũng nguyện khiến tất cả Loài chúng sinh hữu hình Người tu học kinh này Giúp vào thành Nê-hoàn. Các trời, thần chấp nhạc Rồng, Quỷ, A-tu-luân Tất cả nghe kinh Phật Được uống thuốc cam lộ. Người gặp Phật được độ Thế gian nay vẫn có Các vị ấy giữ nước Tai họa tiêu trừ hẳn.  <詞 id="50112201">Phẩm 20: HIỆN ĐẠI THẦN BIẾN Vua trong các trời Cùng với các trời Thắng kẻ thù mạnh Các A-tu-luân Tiếng tăm, thế lực Đồn vang khắp nơi Ngồi giường yên ổn Lòng vui vô lượng Đem pháp nhiệm mầu Thuốc thần cam lộ Người trời tôn kính Rất tự no đủ Giống như Thiên đế Ngồi trên giường an, Phạm chí thấy Phật Ngồi yên như thế Tâm không hoan hỷ Không được nghỉ ngơi Nên sinh ganh ghét Trong lòng phiền não Nhân cùng nhóm họp Ở trong rừng cây Cùng bàn nghóa rộng Luận thuyết với Phật. Vì sao người ấy Riêng hiển trên đời Danh đức vang xa Vượt trên chúng ta Và đem người đời Vào đường Thánh hiền Khiến pháp Phạm chí Thành bị coi thường. Nếu danh đức ấy Càng lâu càng thêm Danh tiếng chúng ta Sẽ bị tiêu tan, Danh tiếng chúng ta Nếu bị tiêu vong Thì làm sao được Cúng dường an vui. Nên phải cố gắng Suy nghó tìm cách Chỉ dòng họ Thích Được kính cúng dường Nếu xô ngã được Chống được việc trên Thì sẽ mất hết Cúng dường, tiếng khen. Tất cả suy nghó Tìm lỗi xấu Phật Có người lên tiếng Chê bai dung nhan Có người khen ngợi Lời lẽ thanh tịnh Hoặc lại thán vịnh Tướng tốt của Ngài Những lời như thế Lẫn lộn không đồng Để mà xưng dương Công đức Thế Tôn. Bấy giờ, trong ấy Có vị Phạm chí Bảo mọi người rằng: “Nghe lời của ta: Lúc mẹ sinh Phật Từ hông phải ra Mẹ không còn nữa Vết thương vỡ da Khó động đại địa Rung chuyển sáu cách Nhạc trời nhiệm mầu Tự nhiên tấu vang Tự nhiên không trung Mưa các hoa trời Lúa vàng, lúa bạc Các thứ hương thơm Lúc đó mặt trời Sáng hơn ngày thường Hoa rơi giống như Màn trướng nhiều màu Các trời khua đánh Chuông báu, trống vàng Mây lành nhuần thấm Như rủ ân trạch Trời, trăng, đèn, đuốc Đều mất ánh sáng Khắp đời mừng rỡ Như được chỗ nương. Sinh ra ở giữa Rừng cây nhiệm mầu Lúc từ hông sinh Như trời ra mây Trong khoảng thời gian Rơi chưa tới đất Tay Thiên đế đỡ Cung kính đứng hầu Lúc Thái tử sinh Hiển bày những điềm Kỳ lạ như thế Không thể nghó bàn Trời đất vì đó Cảm động chứng tri. Từ đấy khắp đời Vang danh độ thế Cần cầu chút ít Giải thoát cho đời Khỏi bẩn trần lao Rắn độc hại người Đúng ra xứng với Ngôi vua chuyển luân Bỏ vui chẳng đoái Siêng cầu Nê-hoàn Chẳng bị mê hoặc Cái mà trẻ mê Nghó già, bệnh, chết Thương tổn tình ấy Bỏ nhà vào rừng Hạnh sạch, lòng dừng Tiếng tốt khen ngợi Người ấy ai hơn Đệ tử người ấy Theo tốt, làm lành Vì thế cho nên Được đời cúng dường Ca-diếp, Mục-liên Và Xá-lợi-phất Mà còn khuất phục Ai dám chẳng theo Ba vương xả bỏ Ngôi vua tốt đẹp Giữ oai nghi mầu Của vị Sa-môn. Ngoài ra vô số Người hiền lành tốt Theo về họ Thích Dạy bảo khuyên răn Phật ở cõi thế Đã được hài hòa Hoặc nhân đệ tử Hoặc dùng đức mình Nên tìm mọi cách Sớm khuất phục người Như “vua bệnh nặng” Nghó cách dứt trừ. Nay bọn tà kiến Vết xấu chưa hiện Người chưa giác ngộ Tóc để bù xù Cũng chưa khỏi cười Thân hình bôi tro Năm thể lõa lồ Lễ tiết như thế Hiện việc trẻ làm Không thể thắng được, Dùng lời khẩu biện Trao đổi luận đàm Tinh tế khéo léo Thì không sợ gì Hiền thiện đông đảo Cùng với Ca-diếp Trực tình chất trực Tên là Thẩm Đế Thân thể cường tráng Vòi vọi đáng sợ Sở học thông suốt Minh đạt hơn thầy Coi người thế học Khác gì cỏ hôi Lại tự kiêu căng Ý thường tìm địch Lời lẽ phục chúng Như vị khách say Được đến với Phật Đều lạy dưới đất Khác nào như voi Gặp sư tử mạnh. Ta còn một cách Có thể thắng Phật May ra dùng nó Hàng phục được Phật Nếu giờ có thể Chắc sẽ thắng nó Thì danh đáng nể Lại thêm lợi dưỡng Chỉ việc thỉnh Phật Xin hiện thần thông. Tính không háo thắng Lại ưa thẹn thùng Thường dạy đệ tử Không hiện thần túc Nếu không hiện biến Thì thua chúng ta”. Nghe vậy mừng rỡ, Lại cùng nhau khen Sau đó giải tán Trở về lều hang. Đêm ấy ma trời Đến với dị học Muốn dùng oai thần Khiến ý vui mừng Tất cả mọi người Đều đến hang kia Tự biến hình dáng Như đệ tử kia Tự gieo thân thể Dưới chân Bất Lan: “Con đây chính thật Đệ tử Thánh Sư” Lại còn đi đến Chỗ năm người khác Đi đến khắp cả Dối gạt sáu người. Dùng thần túc ấy Khiến họ ngạc nhiên Phạm chí vui mừng Cho chắc chắn thắng. Các Phạm chí thảy Vào lúc sáng sớm Nhóm họp nhau lại Đến cửa cung vua Tới trước măït vua Là quan Minh ti Bày tỏ đầy đủ Sứ vào tâu vua: “Các vị Phạm chí Đại Bà-la-môn Đều đã nuôi lớn Trí tuệ nhiều đời Nay đến ngoài cửa Xin gặp đại vương Như bậc Thiên tiên Đến cửa Đế Thích.” Vua nói: “Ta nghe! Các Phạm chí này Muốn tranh với Phật Bày công đức mình Ganh ghét với Phật Tướng tốt, đức lành Như A-tu-luân Ganh sáng mặt trăng.” Các quan tâu vua Bọn ấy nhóm họp Lớn tiếng reo hò Muốn cùng đối địch Giống như bầy gấu Trâu đực, hổ, voi Như bị sư tử Chận dưới hang rồi. Vua liền cho phép Các Phạm chí hiện Ngồi đó chờ đợi Kính lễ dung nhan Ý lành chiêm ngưỡng Từ tốn nói rằng: “Các thầy sao lại Khổ thân, nhọc lòng?” Các Phạm chí thảy Đưa tay phải lên Cùng lúc nói rằng: “Khải bạch Thiên vương Người trí tuệ đạt Ứng hầu đức vua Như bậc Thiên tiên Yết kiến Phạm thiên Phạm thiên lập vua Chỉ dùng một phép Ở tại thế gian Chứng minh việc người Chỉ việc lượng định Đúng pháp hay không? Lập nên ngôi vua Thì đã lo lường Từ xưa đến nay Chưa từng nghe thấy Thuở đời trước đây Còn chẳng như vậy. Nhìn các Phạm chí Các công đức lành Như đối nước vua Được phước cúng dường Nguyện theo ý ấy Có ý đến đây Giờ có nguyện nhỏ Tấu bạch vua trời: Xin muốn cùng với Sa-môn Cù-đàm Đều ở trước vua Sánh lực thần thông Ngài thân xem xét Người trí tuệ lớn Có thần lực lớn Công đức vượt hơn Sau đó có thể Hiểu biết rõ ràng Người được đắc thắng Vua thỉnh làm thầy”. Hồi lâu vua bèn Bảo các Phạm chí: “Hiền minh cạnh tranh Lý chẳng yên lòng Vàng còn trong quặng Tranh với vàng ròng Cho nên kẻ sáng Không nên cạnh tranh”. Bấy giờ Phạm chí Lại tâu vua rằng: “Xin vua soi xét Đối các nhân ấy Không còn phải tránh Những con dường ấy Đối pháp lành mình Siêng năng suy nghó Xả bỏ sách xưa Hang động đã ở Lại còn xả bỏ Phạm chí tiên sư Đột nhiên trở về Pháp luật Cù-đàm Giống như nước biển Vào miệng Ma-kiệt”. Nói sự lý ấy Và còn vô số Những lời lẽ hay Bức thiết trình tấu. Vua do đó nhìn Các quan đứng hầu Bèn giao việc này Cho Lê Sư Đạt Nhưng Lê Sư Đạt Từ tốn nói rằng: “Nay có một việc Xin đều lắng nghe Hiền dùng ý lành Cào gãi vết ghẻ Thì dùng lược mềm Dứt hết gốc bệnh, Sư tử hổ lang Hổ mang độc hại Lại cùng ngủ chung. Người trí phải tỉnh Nay Phật ngồi thiền Nhập thiền vắng lặng Các Ngài không nên Vô sự giác ngộ Giống như chim thước Tranh với chim vàng, Nước dấu chân trâu Sánh với biển xanh, Lửa con đom đóm Tranh sáng mặt trời, Đống tro bón ruộng Muốn sánh Tu-di, Muốn cùng ánh sáng Mặt trời cạnh tranh, Lại muốn sánh tròn Cùng với mặt trăng, Muốn cùng Đế Thích Cùng nhau chiếu sáng. Lại mời trời Phạm Hiển bày thần túc Các loài thấp kém Như quỷ đói đến Cùng với các ngài Muốn đấu thần lực. Các ngài thỉnh Phật Cũng giống như thế Người thông đạt nào Mà tin việc này Nay đây các ngài Có các đệ tử Khéo tự giữ gìn Đối dòng họ Thích Như cá Ma-kiệt Khi đã ngủ say Chớ nên gọi thức Dậy nuốt tôi đi!” Nhà vua cho phép Điều Phạm chí tâu Vua cho kỳ hạn Hẹn bảy ngày sau. Vua liền vội vã Đến gặp Như Lai Hướng về Đức Phật Thưa rõ việc này: “Con với pháp Phật Không hề nhàm chán Nghe nhận chánh điển Nhiệm mầu của Ngài Lòng ham các lành Không có dứt bặt. Nay suy xét kỹ Thế Tôn đức lành Ngài vô số kiếp Hạnh chứa như sông Công đức đời này Tràn đầy như biển Giống như ngày đêm Nổi mây mưa lớn Nước mới vào biển Càng dấy tràn thêm. Đức Phật, Thế Tôn Biển lớn vô lượng Các Phạm chí thấy To lớn tràn đầy Liền muốn dùng tay Tiếp lấy đổ hết. Tát nước biển đầy Muốn cho khô cạn. Các Phạm chí hẹn Ở vườn Kỳ thọ Vào bảy ngày sau Đấu lực thần thông Vua đã hứa khả Những điều họ tâu Bọn họ cùng con Đã kết thề sâu Thoái chí không mất Kính bạch Thế Tôn”. Ngu tình có lỗi Tội lớn như non Thể vua vốn trắng Người to lạ thường Khen oai đức Phật Bỗng nhiên nhỏ nhắn. Một đệ tử Phật Tên gọi Mục-liên Quỳ thẳng chắp tay Đến bạch Phật rằng: “Phật, trời trong trời Thầy các Thánh chúng Xin hãy vắng lặng Việc này giao phó Kẻ hèn khuất phục Bọn dị học này”. Như chim cánh vàng Đến các rồng biển Phật dùng Phạm âm Mà bảo họ rằng: “Vì họ mời Ta Nên Ta phải đến.” Vua nghe Phật hứa Vui mừng hớn hở Nhân đó lên tiếng Mà nói lời rằng: “Mọi người trên đất Và trên hư không Trời, Rồng, Thần, Quỷ Nghe lệnh ta truyền Các loài đắp đổi Phải bảo với nhau Núi to, biển lớn Không trung, trên trời Mời nhau hội lại Xem đức danh xưng Phải đến chớ nghi Các hội khắp đời!” Bấy giờ hội ấy Đã đến bảy ngày Nơi vườn Kỳ thọ Điềm lành ứng hiện Đem các nước hương Tưới vẫy, tắm gội Hoa màu đủ loại Rải khắp trên đất. Loài trông thấy được Hiện trong hư không Các trời lũ lượt Cùng các Thiên nữ Các cây báu mầu Hiện trong không trung Các cờ phướn báu Đầy khắp hư không Lọng phất, châu rủ Đủ các loại hương Anh lạc các trời Tràng hoa rợp mắt Các báu chứa nhóm Hiển hiện khắp nơi Của báu các trời Chất đầy không trung. Trên trời, dưới đất Ai cũng hớn hở Nên nhóm họp lại Xem thần biến hiện Người, trời tụ lại Như biển mênh mông Ví như nước thu Xuôi về biển Đông. Bấy giờ, có vị Trời tên Xứng Linh Xem hết các chỗ Đâu cũng vui mừng Từ trời đáp xuống Đầu lễ chân Phật Có tâm cung kính Bạch Đức Phật rằng: “Hôm nay con sẽ Khác hơn mọi khi Siêng năng thờ phụng Đức Phật, Thế Tôn Như có thuở trước Cho người điều lành Thì kia thêm báo Dùng lành đón họ Thế Tôn thương khắp Thêm cho thế gian Lần lượt vì họ Chúng sinh nương tựa. Như nay quan sát Phật trời trong trời Đức Phật ra đời Riêng chỉ vì con Tự nghó thân con Làm vua nước lớn Thân mình đời trước Làm việc lành, dữ Duyên này lại trải Trong gian nan nhiều Như từ cõi trời Đọa xuống địa ngục Chặt đến tận khuỷu Cả hai tay con Tiện đến đầu gối Của cả hai chân. Giống như hàng thịt Dùng cách mổ dê Ra từng chi thể Khiến đều tan rã. Khi ấy Thế Tôn Đến làm thầy con Nhờ Phật, Thế Tôn Lại thọ sinh mạng Khi Phật vì con Nói pháp nhiệm mầu Liền đó kiến lập Chứng A-na-hàm Riêng một mình con Thắng được dị học Dùng sức thần thông Hàng phục ngoại đạo.” Đích thân Thế Tôn Khen đệ tử ấy Dùng trí Nhất thiết Tiên liệu rõ ràng Nay phải phụng thờ Thêm chút nhọc nhằn Để cho đời sau Lấy làm việc nhớ Phạm chí về sau Nghe lời bàn này Không còn dám nữa Đòi đấu thần thông. Phật dùng thần túc Bỗng bay lên không Rồi trong khoảnh khắc Đến tận núi Tuyết Trong khe núi sâu Thấy cây đẹp kia Hương trời các báu Nhiệm mầu trang nghiêm Nhổ lấy cây lớn Tàng rộng do-diên Dùng tay nâng bổng Giống như lọng báu. Bấy giờ Đức Phật Ngồi trên tòa báu Thì các trời lấy Các thứ lụa trời Trang hoàng cây báu Thật rất đáng ưa Bấy giờ phát ra Vô lượng ánh sáng, Ví như mây tan Nhật bỗng hiện rõ Màu vàng rực rỡ Sáng màu bạch ngân Ánh sáng chói lọi Sáng khắp thế gian Tự nhiên hoa sen Từ đất hiện lên Hoa sen ngàn cánh Bằng các báu trời Cành hoa bằng chất Lưu ly xanh biếc Tòa cao ngà voi Trên đài hoa sen Bằng vàng cõi trời Lưới ngọc sáng lòa Là thí chủ Phật Đẹp không gì bằng. Phật bước khoan thai Lên tòa báu trời Ở trên hoa sen Như vua Phạm thiên Ánh sáng thân Phật Còn vượt hơn nhiều Trời, trăng, châu sáng Không thể so sánh. Tay phát ánh sáng Chiếu sáng thế gian Đèn trí Nhất thiết Sáng soi thế gian Giống như hoa sen Chẳng dính nước bụi. Chúng sinh nhìn Phật Vây nhiễu chung quanh Như ong vờn hoa Để mà hút mật Nhìn mãi mặt Phật Mà không thấy đủ, Sai sứ đến mời Các sư ngoại đạo Tâm trí chẳng muốn Đến trong chúng hội Thời Phật mới bảo Với trời và người Rằng: “Họ không chịu Đến trong hội này”. Bấy giờ thần thông Tất cả Thánh trí Duyên chúng sinh rốt Người đáng được độ Liền dùng mắt Phật Quán sát mười phương Muốn từ sinh tử Độ khắp chúng sinh Đất liền nứt ra Ngục khổ đều hiện Như há miệng lớn Muốn nuốt thế gian. Chúng sinh sợ hãi Trong tâm run rẩy Như thuyền khách buôn Gặp miệng Ma-kiệt Đức Phật liền gọi: “Đại Mục-kiền-liên Nói cho chúng sinh Các địa ngục này! Đau này như thế! Khổ ấy như vầy! Phạm các tội ấy Thì đọa ngục này!” Mục-liên trên không Lớn tiếng giãi bày Biến mười tám ngục Nói về tội báo Thời, chúng sinh đều Biết việc đã làm Phải đọa nơi ấy Hoặc sinh chỗ này. Tất cả chúng sinh Tâm đều hướng Phật Không nương nơi khác Chỉ quy Tam tôn. Chúng sinh chuyên tâm Một bề không động Bỗng dứt trói buộc Thế rồi biến hiện Nơi tòa báu Phật Bốn góc hóa hiện Mỗi góc bốn Phật Ngồi hoa sen báu Nhân đó chuyển biến Vô số chư Phật Ngồi hoa sen báu Đầy khắp hư không. Ánh sáng chư Phật Chiếu sáng mười phương Thân hoặc ra nước Như mưa trong mây Hoặc lại biến hiện Nước, lửa đều tuôn Tràn khắp không gian Hóa hiện như vậy. Bấy giờ Phật hiện Thần biến như vậy Đến trời hai tám Trời Vô kết ái Chư Phật đầy khắp Tam thiên thế giới Chúng sinh xa gần Thấy Phật tại chỗ Chư Phật Thế Tôn Ngồi trên hoa sen Sáng ngời thần đức Tất cả đầy đủ Công đức lồng lộng Giống như núi báu Bốn núi trang nghiêm Sáng rỡ ở đời. Như vua trời Phạm Khi từ hoa ra Ngồi trên hoa sen Oai nghi đầy đủ Chỉ Phật Thế Tôn Hàng phục ma binh Ngồi trên hoa sen Đức hơn trời Phạm. Tất cả chúng sinh Xoay vần bảo nhau: Từng ấy số kiếp Trăm ngàn muôn ức Vô số lượng kiếp Chứa nhóm công đức Kho Nhất thiết trí Hôm nay phát ra Giống như thuở xưa Vào lúc kiếp sơ Bốn loài chúng sinh Từ miệng Phạm ra Nay Phật xuất hiện Như trời Phạm xưa Từ miệng Phật ra Vô lượng Đức Phật. Từ xưa đến nay Chúng sinh nhớ nghó Cho thế giới này Chỉ có một Phật Nhờ ánh sáng Phật Nuôi dưỡng các lành. Vô số Đức Phật Là chỗ đời nương Đèn lớn của Phật Thắp sáng thế gian Ánh sáng soi suốt Chúng sinh ba cõi Thế gian không còn Ngu si tối tăm. Nhất thiết trí sáng Ngu si diệt hết Ánh sáng màu xanh Sáng rỡ hư không Ngồi ở trên hoa Sen báu ngàn cánh Phật hiện phước báo Đầy thế giới này Giống như biển lớn Bảy báu tràn đầy. Phật hiện chúng hội Đều mang tâm lành Liền dùng âm thanh Tiếng Phạm thanh tịnh Dịu dàng sâu xa Và các âm thanh Rộng vì chúng sinh Nói pháp mầu nhiệm: “Ba cõi như thế Vô thường mong manh Vô ngã, khổ, không Diệt, vô vi an”. Khi Phật nói pháp Sâu xa như thế Tiếng vang khắp cả Tam thiên thế giới Hàng ức chúng sinh Phát tâm đại đạo, Lại còn vô số Phát Duyên giác thừa Hàng ức chúng sinh Đạo tích được thành Ngoại đạo dị học Bỏ các tà kiến. Khi ấy Phật liền Thu lại uy thần Ở trước chúng hội Hiển nhiên lên trời Ở cung Đao-lợi Nói pháp mẹ nghe Đem thuốc cam lộ Cho người, trời uống. Sở dó Phật thắng Được các Phạm chí Thần thông biến hóa Oai đức tướng tốt Đầy khắp tất cả Các loài chúng sinh Đều uống thuốc pháp Cam lộ trong lành. Hôm nay ở đây Ông hiện thần thông Hóa độ vô lượng Vô số chúng sinh. Các Thiên thần ấy Nghe được danh Phật Nghó ân Đức Phật Giúp đỡ thế gian Kia nghe điều đó Tăng thêm công đức Duyên giống lành ấy Đối ruộng phước Phật Thoát được oan đối Khổ não sinh tử Nhân đó vào thành Nê-hoàn an vui.  <詞 id="50112202">Phẩm (17*): CHUYỂN PHÁP LUÂN (Phẩm này là một dị bản dùng để tham chiếu với phẩm 17: Độ Năm Tỳ-kheo ở đầu quyển IV) Nguyện thành, lòng vui mừng Hân hoan dưới cây chúa Ngồi nhìn cây bảy ngày Không ăn, đầy vui mừng Như vua mới lên ngôi Tuần xét kho báu mầu Kho mầu Phật cũng vậy. Trước xem xét các pháp Dùng mắt Phật nhìn khắp Thấy rõ hết thế gian Biết đời theo tà đạo Thuyết mê của Lục sư Pháp mầu nhiệm khó hiểu Người ngu hiểu Nê-hoàn Giác các giác bậc nhất Ý muốn vào vắng lặng. Trời Phạm thần diệu nhất Phương tiện thấy thẳng ngay Biết Phật đời trước thệ Phát tâm muốn xuống trần Dùng thiện làm ích đời Lời mầu thỉnh mưa pháp Mền dạ như mặt nhật Hiển hiện xuống cõi trần Liền đến trước Đức Phật Cúi đầu lễ chân Phật Đứng bên Phật rất sáng Như gió thổi cây vàng Mắt lành nhìn không chán Cung kính bạch Phật rằng: “Xin nhớ thệ quả cảm Thí cam lộ cho đời. Người đời như sen Hoa đẹp tuyệt trần Nở ngang mặt nước Hoặc khỏi mặt nước Chúng sinh kính ngưỡng Mặt trời Phật xuất Mong ngày tâm mở Như hoa trong ao Ngoài Phật Thế Tôn Không ai có thể Từ ngục sinh tử Vớt chúng sinh lên Cũng giống như vua Chuyển luân thuở xưa Cứu chúng sinh khổ Dùng mười hạnh lành Đã khuấy lên được Biển sâu trí tuệ Được loại thuốc pháp Cam lộ thần kỳ Muốn dùng trị dứt Bệnh khổ chúng sinh. Nên mở tuệ thí Chia thuốc cam lộ Ngài đã qua được Các biển khổ sâu Xin dùng thuyền pháp Độ các chúng sinh Như người đi buôn Chìm đắm biển khơi Tìm cách cứu giúp Như thuyền trưởng tài Bệnh khổ trần lao Rất là tệ ác Chúng sinh bệnh lâu Không gặp thầy giỏi Y Vương tối thượng Xuất hiện ra đời Nay nên trao cho Thuốc hay, pháp thần. “Tưởng khói” như mây Lọng che rất dày Lửa dâm hừng hực Đốt cháy trời, người Ngài đã no đủ Nên thương chúng sinh Xin dùng nước pháp Cho tất cả no. Ngài đã trừ diệt Tất cả ngu tối Lòng sáng trí tuệ Như cây đèn lớn Ngu tối che lấp Con mắt thế gian Xin ban đèn pháp Soi sáng tâm ngu. Ngài đã được uống Phật trước có dạy Dòng sông lời nói Như bậc Tiên xưa Xin từ miệng mầu Thương xót ban ra Lời nói thanh tịnh. Như nước sông Hằng Núi cống cao mạn Rất cao hiểm trở Dùng chày tuệ cứng Đập nát không còn Xin lại nguyện dùng Chày pháp tuệ này Đem cho chúng sinh Đập núi mạn nát. Tâm tính nhiễu động Nay đã điều phục Trói dùng dây tuệ Xem xét rõ ràng Nguyện ban cõi thế Ý điều thanh tịnh. Trí tuệ vững chắc Sợi dây trói buộc Người tâm nhân từ Ban cho lòng Từ Chúng sinh từ lâu Rơi vào đường tà Bậc thầy dẫn đường Nay đã ra đời Xin dẫn đời khỏi Đồng rộng sinh tử. Sau Phật Ca-diếp Đời đều tối tăm Chìm đắm mê hoặc Đêm dài trần lao Cúi xin Thế Tôn Đánh chuông trống lớn Chánh pháp vang lên Thức tỉnh giấc nồng”. Bậc Phạm thế gian Nhận lời Phạm thiên Âm tịnh nhiệm mầu Sẽ nói giáo pháp. Phạm thiên được nghe Hết sức vui mừng Lễ dưới chân Phật Rồi bay lên không. Bấy giờ các lành Pháp khí bậc nhất Hiệu là Phước điền Công đức thế gian Phật nhận tất cả Chúng sinh cúng dường. Bốn vua liền đến Hiến dâng bốn bát Đức Phật liền dùng Năng lực thần thông Hai tay ép lại Hợp thành một bát Bấy giờ liền nhận. Hai người đi buôn Trước thọ năm giới Làm Thanh tín só Nhân đó phát tâm Sẽ nói pháp rộng. Mắt Phật mới nhìn Người đáng được độ Thì A-lan mất Đã qua bảy ngày Thấy Uất-đầu-la Đã chết đêm qua Nhân đó lại nhớ Năm người thị giả Nay muốn vì họ Dứt tối đêm dài. Phật đến thành lớn Nước Ba-la-nại Uy nghi, khoan thai Như sư tử bước Việc làm đã xong Tướng tốt hiện rõ Tuy đi một mình Đức như đông đảo. Có một đạt só Tên là Ni-kiền Giữa đường gặp gỡ Hết sức ngạc nhiên, Xem tướng đoán mộng Biết được lành dữ Tám thứ sách đời Mình ông nổi tiếng Thấy đức tướng Phật Xem xét kỹ càng Khiêm tốn, cung kính Mềm mỏng bạch Phật: “Trong các đắm nhiễm Mà không đắm nhiễm Trong các căn động Vắng lặng không lay Nhìn thấy tướng mặt Trong tâm nghi ngờ Có lẽ không trí Minh đạt đầy đủ Nhìn kỹ tướng mặt Sáng đẹp trong suốt Chế ngự các căn Việc làm tự tại Quan sát nghi dung Việc làm đã xong Ai là thầy đó Xin nói thật lòng!” Bấy giờ Phật dùng Âm thanh thanh tịnh: “Trên trời, dưới thế Ta không có thầy Ta chẳng đến thầy Tự nhiên giác ngộ Ta chứng Phật đạo Ông sẽ biết được. Tự xưng là Phật Đã thắng được tà Ni-kiền như thế Nên giác đã giác Tất cả điều thắng Đều đã thắng xong Do điều thắng đó Thành Nhất thiết trí. Nay trước đi đến Thành Ba-la-nại Ta muốn ở đó Đánh trống pháp lớn Vì đời khổ não Xây dựng pháp lành Khắp mời nhóm hội Làm thượng khách pháp”. Chỉ an thân mình Đó không là lạ Cứu giúp khổ nhọc Một thân mình khổ Rộng vì chúng sinh Mà cầu điều lành Công đức người ấy Không thể tính lường. Nếu dùng một thân Vớt đưa đến bờ Nếu lại thấy kẻ Bị nước cuốn đi Không khởi tâm Từ Cứu người đang trôi Bọn đó không thể Xưng là đạo só. Nếu lại có được Kho tàng trân báu Không giúp người nghèo Vậy là không được. Tay cầm thuốc hay Người săn sóc bệnh Không cứu giúp bệnh Cho quà ích gì? Nếu thấy người mê Bị đi lạc đường Không chỉ đường chánh Không gọi Đạo sư. Nếu lại thấy người Bị rắn độc cắn Không cho họ chú Dùng người làm gì. Như tự đốt đèn Có chỗ soi thấy Do đó không thể Đặt ân ở đây! Phật dùng từ lành Giáo hóa mọi loài Nói pháp người nghe Không sinh cống cao Trong cây bảo đảm Chắc chắn có lửa Trong không có gió Trong đất có nước Chư Phật cũng vậy Ắt có đạo thánh Chứng được dưới cây. Ba-la-nại nói Tức thời khen lớn: “Sâu xa không bì.” Ni-kiền khen xong Thuận đường ra đi Tâm vui mừng bước Chốc chốc quay nhìn Mắt lành nhìn Phật Mà không thỏa mãn Phật thuận đường đi Đến Ba-la-nại Chim bay vui vẻ, Ở trong vườn nai Ánh sáng rực rỡ Sáng chói thế gian Như vua mặt trời Vào vườn Mê hoặc. Ức Bảo, Ý Hảo Biên Phương thứ ba Thứ tư Mã Thị Hiền Cư thứ năm Lúc ấy năm người Xa thấy Phật đến Cùng nhau bàn luận Nói với nhau là: “Người ưa nghóa đến Chính ông Cù-đàm Lui mất chí gốc Đạo thuật không thành Không đáng đón rước Cũng không lễ bái Thệ gốc đã mất Không nên cung kính”. Giao kết thế rồi Ngồi yên không động. Nói xong khoảnh khắc Phật liền đi đến Bỗng nhiên bất giác Làm trái giao kết Giống như thần đất Nâng cho đứng dậy Có người đón rước Người tiếp lấy y Người đỡ bình bát Người xếp chỗ ngồi Bằng hình thức ấy Phụng kính Thế Tôn Vẫn không bỏ được Lời đùa thế tục Nhân đó Phật bảo: “Đạo só không thế Trước Phật không nên Kiêu mạn bất kính”. PHẬT BỔN HẠNH KINH (PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN) <卷 id="50112203">QUYỂN 5 <詞 id="50112204">Phẩm 21: PHẬT LÊN CUNG TRỜI ĐAO-LỢI VÌ MẪU THÂN THUYẾT PHÁP Đem cam lộ chánh pháp Làm người đời no lòng Gieo hạt giống giải thoát Đều được hưởng quả báo. Công đức Phật như nhật Chánh pháp như ánh sáng Giới phẩm như nước trong Có ra từ suối trời Mẹ như sen báu mầu Và hoa rừng cây trời Sắp đến kỳ nở rộ Nên Phật lên Đao-lợi. Ánh mặt trời chiếu sáng Đêm trăng tỏ ngời ngời Phật soi trời thế gian Ngần ấy trang nghiêm đẹp Vua mặt trời nghó rằng: Vua mặt trời đến nơi Vì đời kính ý trời Cúi đầu lễ chân Phật. Vua mặt trăng nghi ngờ Bỏ chỗ thấy thật sáng Ánh sáng trăng tốt đẹp Quy về trăng tuệ người Vắng lặng hơn trời Phạm Chiếu dịu như Thiên đế Sâu xa hơn biển cả Bất động núi Tu-di. Cây các báu vua trời Tên là Thể trú độ Ngồi dưới vầng ánh sáng Núi vàng bóng cây báu Thấy mẹ hoàng hậu mầu Trồng quả phước thành thục Hoặc có nơi nên trồng Hoặc có nơi nên bỏ Dùng đức thanh tịnh Phật Mặt chiếu như châu sáng Người thấy tâm thanh tịnh Nước báu dưới nước trong. Khi ấy Phật Thế Tôn Dùng tiếng Phạm trong trẻo Mưa thuốc pháp cam lộ Đối Từ mẫu thuyết pháp: “Rơi vào khổ chia lìa Sinh thiên có họa ấy Tham cầu nhiều cũng chết Đó là khổ thế gian. Địa ngục nấu, thiêu đốt Quỷ đói khát cháy khô Súc sinh ăn nuốt nhau Năm căn khổ không yên Ở nơi chỗ thọ thân Các khổ thường theo Muốn rời các khổ não. Chỉ có diệt, vô vi Nên biết khổ ba cõi Như vết thương nhiễm trùng Còn hơn nung sắt áp Không thể trị vết thương Thế gian khổ như vậy. Biết nhân duyên khổ sinh Biết chỗ khổ kia diệt Biết lý do khổ tan Biết khổ năm ấm thạnh Biết lý do trần lao Biết chỗ trần lao diệt Diệt đó gọi vô vi. Cho nên đường diệt ấy Gọi là Bát Thánh hiền Các độc trần lao đó Đều cháy tiêu không còn Sinh tử rất đáng sợ Tiến lui không đáng nương, Như mặt nạ con hát Cởi ra rồi đeo vào. Hoặc uống cam lộ trời Lại uống nước đồng sôi Hoặc ăn cam lộ trời Lại ăn hòn sắt nóng Hoặc lại đến nhà trời Hoặc kéo xe sắt đốt Hoặc vua hoặc hành khất Quỷ đói rồi súc sinh Duyên trước đã chỉ định Chạy nhảy như đánh cầu Lên xuống khắp ba cõi Chọn từ có đến không.” Nghe nói pháp ấy rồi Người mẹ diệu vua trời Tám mươi tám lao kết Tâm người đều diệt hết Ý an trụ pháp mầu Lại khiến ba cấu sạch Đốt tan trần lao mạnh Hoàng hậu chứng tam đạo. Trong đại hội vô số Hoa sen cõi trời, người Đều nở ra cùng lúc Như hoa gặp mặt trời. Bấy giờ hoàng hậu dậy Với lòng đầy vui mừng Như vầng dương qua núi Ánh sáng càng sáng trưng Với lòng thương kính Phật Lễ chân rồi bạch rằng: “Xưa nay mẹ chưa từng Được con dâng trọng cống Vô số kiếp nhờ dắt Lòng chưa từng thỏa mãn Thiên dục chẳng đầy đủ Không như nay đầy đủ Biết đủ khiến ta đủ Dứt đắm không còn mê Nhất thiết trí Ta ngộ Không mầm dứt giống ngã. Bấy giờ vô số trời Nghe đại pháp nhiệm mầu Liền gieo giống đức lành Gieo giống Phật thanh khiết.  <詞 id="50112205">Phẩm 22: NHỚ XƯA Bấy giờ, Thiên Trung Thiên Thầy các trời, người đời Trong cõi nước Đại vương Quốc độ Ma-kiệt-đà Dừng chân ở vườn Trúc Nhớ lại đời xa xưa Ánh sáng càng tỏa đẹp Giống như đền lửa mạnh. Em Phật tánh nhân từ Tên gọi là A-nan Thấy ánh Phật rực rỡ Liền đi đến chỗ Phật Chắp tay quỳ gối phải Cung kính bạch Phật rằng: “Xin Đấng trời trong trời Giải quyết tâm con nghi Chưa từng thấy ánh sáng Như ánh sáng hôm nay Xin Đấng Nhất Thiết Trí Nói nguyên nhân sáng này”. Bấy giờ Đức Phật dùng Tám tiếng mầu bảo rằng: “Nay lắng nghe Ta nói Nhân duyên ánh sáng này Ta tự nhớ đời trước Thí vô số chúng sinh Cúng dường hàng ngàn Phật Đủ mọi thứ cần dùng Học vô số thánh điển Cúng tế nhiều vô vàn Đại thí nhiều vô kể Người thí khó kể hơn. Nhớ lại thời quá khứ Voi lớn như núi trắng Thế lực hơn kẻ địch Ta dùng để bố thí Hai con lòng yêu mến Dùng ban bố cho người Chân lông đều ra máu. Thời, Ta tên Thậm Ái Voi, ngựa, xe, con gái Các thứ đều bố thí, Thí tám muôn bốn ngàn Trâu đực vàng, sừng vàng Thúng vàng đựng lúa bạc Đã thỏa mãn bao dung. Ta tên là Tri Thời Đại thí mười hai năm Bà-la-môn tệ ác Đến xin đầu của ta Bấy giờ các vị trời Muốn cố ngăn Phạm chí Ta hiểu dụ các trời Chớ trái với bổn nguyện. Thời, vua tên Nguyệt Quang Ta tràn đầy sở nguyện Lại có Bà-la-môn Đến xin mắt của Ta Ta liền cho không trái Đôi mắt ta mến yêu Vì vua tên Thiện Mục Nhân đó phát nguyện lớn Nay đem mắt thí cho Nguyện sau thành tuệ sáng. Lại vào thời điểm khác Bồ câu bay đến Ta Bị chim ưng đuổi bắt Bay đáp trên gối Ta Ta cắt thịt trong thân Thỏa mãn theo ý chim Để đổi bồ câu khỏi Bị chim ưng ăn thịt. Ta đã vì người bệnh Cắt thịt trên thân mình Hăm mốt ngày ăn thịt Bệnh nặng kia đã lành. Lại vì vua Phổ Thí Tên là Đại Lực Só Xưa, trừ bệnh chúng sinh Nay diệt tan trần lao. Lại, thuở đời quá khứ Ta đem thân cho người Cho cả con yêu dấu Cho luôn người bạn đời Giao cho Ta người ác Bảo Ta phải sát hại Thời Ta tên Diễm Nguyệt Không giết chết mạng mình Còn lột da bố thí Quấn thân làm bấc đèn Đồng thời đốt bấc đèn Toàn thân đều bốc cháy. Vua tên Kiên Kim Cang Chịu đau không ai bằng Chỉ vì cầu một nguyện: Giở chân liền thành Phật Đem thân cho cọp sói Đất rung chuyển sáu cách Nhờ tâm mạnh mẽ ấy Nên vượt qua chín kiếp. Từng một lần khéo thí Chúa bốn biển, thế gian. Xưa làm vua Chuyển luân Danh hiệu là Đại Thiên Kiến lập phong giáo vua Trị bằng mười hạnh lành Xả bỏ cả bốn cõi Xuất gia tu tịnh hạnh. Lại vị vua Phổ Địa Danh hiệu là Tôn Đế Bấy giờ, trên đất lập Tám muôn bốn ngàn thành Vì các ngôi thành ấy Đặt để cảnh giới rồi Tám muôn bốn ngàn vua Đều cạo đầu bỏ ngôi. Từng vì vua Đa Cầu Ham muốn mê cuồng loạn Vượt qua cả biển lớn Tìm đất đai nhân dân, Thời, Ta làm Phạm chí Đại trí tên Thượng Độ Đem thuận lý dạy vua Khiến vua chánh ý chí. Từng làm voi đầu đàn Như mặt trời xinh đẹp Sáu ngà, rất đáng yêu Bóng loáng có ánh sáng Thợ săn tham ngà đẹp Bắn tên trúng vào tim Voi tự nhổ ngà cho Lòng không chút giận hờn. Vua Tịnh Thí săn bắn Nhân đến trong rừng sâu Chận hai con nai chúa Giấu ở trong hang sâu Vì nai mẹ có thai Nai chúa xin chết thay Súc sinh nơi hoang dã Lại không sợ tai nạn. Có nước bỗng giết hại Cha mẹ và người già Ta tuân phụng hiếu dưỡng Đào hang cứu mẹ cha Trời trên không hỏi nghóa Cha dạy Ta đáp lời: Dứt đảo kiến chúng sinh Giúp không đọa địa ngục. Trăn lớn ngăn người buôn Vây bọn họ vào trong Túc duyên Ta khi ấy Sinh làm sư tử chúa Sai voi dùng sức mạnh Đạp cho trăn chết ngay Cứu năm trăm người khách Yên ổn trở về nhà.” Lúc bấy giờ, Phật nói: “Kinh Sinh năm trăm chương Cõi Tam thiên đại thiên Đều rung chuyển sáu cách Có ức loài chúng sinh Đều phát tâm đại đạo, Lại có ức chúng sinh Đều chứng bốn đạo quả Kẻ hiền trí trên đời Không thể nói rằng lạ. Bồ-tát phát mạnh mẽ Thí xả thân mạng mình Theo ý người cầu xin Không bao giờ trái ý, Công đức được tự tại Muôn vật và thân mạng Gom thọ mạng ngắn ngủi Đó mới là điều lạ. Bị trần lao trói buộc Tâm ác đầy mê hoặc Dùng năng lực từ bi Ngăn cản tâm ác kia Bỏ được điều yêu thích Của báu và thân mạng. Chúng sinh có tài giỏi Đời có người tự tại Ngay khi ta làm ác Phải tự chế không làm, Ngày đêm làm các lành Để lòng mình nghỉ ngơi Nhờ đó tự khuyến tấn Chí nguyện trong Phật đạo.  <詞 id="50112206">Phẩm 23: ĐI ĐẾN DUY-DA-LY Đời thông suốt hết cả Sở nguyện đều thành tựu Thương xót các chúng sinh Như người thương con một Giống như vua Chuyển luân Dạy bảo ai chẳng theo Chán ngán năm thứ dục Muốn vào hang pháp tuệ, Thế Tôn cũng như thế Mở bày làm Phật sự Siêng nhọc rộng hóa độ Mọi việc đều rốt ráo Vào đời ác sinh tử Thuận theo sinh diệt kia Muốn vào Đại vô vi Dứt ý định, vắng lặng. Thời, thành Duy-da-ly Có quỷ hút tinh người Vào thành gây dịch bệnh Bức bách nhiễu hại đời. Bấy giờ Duy-da-ly Dịch mạnh như lửa hừng Vua, đại thần trong nước Nhóm họp, cùng luận bàn Lửa lớn của dịch khí Đang thiêu đốt muôn dân Đều cùng nhau nghó cách Làm sao trừ nạn này. Có trưởng giả Tài Minh Thanh tín bậc nhất thưa: “Thấy đời không còn ai Chỉ Phật đáng nương cậy.” Vua sai Thanh tín só Tài Minh làm người sứ. Trưởng giả, Thanh tín só Đều chắp tay hướng về Gieo năm vóc sát đất Cùng xa vọng bạch Phật: “Xin cứu giúp thế gian Nguyện cứu giúp đất nước Như người lạnh cần lửa Bệnh nặng xin thuốc hay Như tối mong ánh sáng Lạc lối được dẫn đường Chúng con cầu Thế Tôn Muốn xem vui người, trời”. Sứ đến chỗ Đức Phật Phật liền nhận lời mời Nay bỏ nhà giác biết Trời người nghó rối động Ở trên không trời bảo: “Với vua Vị Sinh Oán Vì sao không lo lắng Nay phải rời Đức Phật.” Vua nghe trời dạy bảo Trong lòng chợt kinh hãi Ý buồn rầu lên tiếng: “Tâm chúng sinh tối tăm Ai đem đá mài tuệ Đến mài tâm u tối? Tội lỗi của trần lao Oan trái ở đời trước Chúng sinh tội lỗi nhiều Ai sẽ cứu nhẹ được? Chúng ta bế tắc lâu Trong ngục tù sinh tử Ai sẽ đem chìa khóa Mở ngục cho chúng ta? Chúng ta lâu bộc lộ Lòng khát ái ánh dương Ai sẽ thí chánh pháp Trăng trong, ngọc giải khát?” Nhân đó vua ra lệnh Mau đến gặp Đức Phật Nhân thỉnh Phật ngày mai Vào cung thọ trai tăng Lệnh nhà bếp chuẩn bị Trăm món ăn thịnh soạn. Phật hứa ở trong cung Nhận vua thỉnh một tháng. Sửa sang bảy con đường Cho đến tận sông Hằng Đường bài trí màn trướng Trang sức như cõi trời Các hoa thơm nhiều màu Tung rải khắp mặt đất, Người nhóm như nước dâng Tràn đầy như biển cả Ngọc sáng dùng trang sức Màu sáng như trăng tròn. Vua phục sức ngồi xe Cung kính đến thỉnh Phật Không bao lâu Phật đã Đến bên bờ sông Hằng. Vua lại dâng lên Phật Năm trăm lọng bảy báu Vua người dâng năm trăm Vua rồng dâng một ngàn Vua trời dâng năm trăm Duy-da-ly năm trăm Vì che chở khắp trần Nên nhận dâng lọng báu Nhận hết các lọng báu Chỉ để một che dùng. Bấy giờ Đức Thế Tôn Cùng với chúng đệ tử Hai ngàn năm trăm vị Liền vượt qua sông Hằng Các vua Duy-da-ly Hết lòng yêu kính Phật Cung cấp mọi cần dùng Theo thứ lớp đến nước. Đức Phật liền đi vào Thành lớn Duy-da-ly Dùng tám âm thanh Phạm Thanh tịnh rất nhiệm mầu Phật nói một bài kệ: “Này, các loài chúng sinh Ở trên không, dưới đất Hãy thương xót chúng sinh Dùng nước từ thanh tịnh Mà vẩy tưới đất đai Bị nóng khát ép ngặt Được nước mát đủ đầy.” Từ mây lành của Phật Mưa xuống lời ngọt ngon Cả thành đều no đủ Dứt trừ nạn độc hại. Bấy giờ Đức Phật liền Đi ra ngoài cửa thành Phật cùng các Sa-môn Từ từ đi quanh thành Che chở hiện điềm lành Chú nguyện mãi an ổn Cả nước được che chở An vui không thể lường. Thời, trưởng giả Tài Minh Thỉnh Phật và đệ tử Thọ bữa cơm thịnh soạn Kính yêu hết mọi bề, Đức Phật giảng nói rộn Chánh pháp rất sâu xa Tiếng sư tử ban xuống Bốn ngàn người đắc đạo. Phật cùng chúng đệ tử Đi đến rừng Nại nữ Nại nữ vừa nghe tin Vội đến gặp Như Lai Đến cửa liền xuống xe, Anh lạc như mây sấm Mới vào vườn cây đẹp Giống như trời Cát tường Đi bộ khoan thai đến Như sông chảy theo dòng Dung nhan như ánh xuân Như khóm hoa phù dung Đem theo các Thiên nữ Dáng điểm tô ngời ngời Đi trong rừng cây ấy Làm động mắt trời, đất. Đức Thế Tôn nhìn thấy Mành lưới của vua ma Mắt nhìn sắc đẹp kia Phá hoại giới hạnh người Phật dùng âm thanh Phạm Bảo các thầy Sa-môn: “Giờ Nại nữ đến đây Các thầy hãy nhiếp tâm Chí các thầy giữ chặt Cung tinh tấn trong tay Dùng mũi tên chánh trực Dây cung tuệ căng ngay Đều mặc giáp định ý Tự cỡi xe giữ giới Đều đem ý từ quán Vào mắt chống sắc tà. Các thầy hãy xét kỹ Con gái thế nào đây? Người nữ đâu chính đáng Mượn bề ngoài mê hoặc Như đồng sắt mạ vàng Da mỏng như cánh ruồi Nếu không dùng phủ lên Đó chỉ là bị thịt. Nên phải biết rõ hơn Ghèn, nước mắt, nước mũi Nếu chẳng lau sạch đi Và chất bẩn trên thân Chẳng lấy nước rửa đi Máu mủ và phân dãi Dồn lại ở một nơi Nhìn đó mà suy gẫm Ý dục diệt không sinh. Các thầy tự quán sát Nhà xương đó đáng ghê! Dùng gân quấn ràng rịt Ngoài dùng thịt tô bồi. Quần áo phục sức che Như người vẽ tranh tường Hãy tự quán sát đó Chớ để nó mê hoặc. Thận trọng giữ tâm ý Về sau được lợi ích Trước không điều phục tâm Sau không thể điều phục, Theo tà mất đường chánh Mê hoặc lạc xoay vần Giống như ngựa quan huyện Luyện chạy vòng cuối cùng. Mắt ưa nhìn sắc đẹp Tâm theo mắt mê say Ngắm nhìn trong lẫn ngoài Ngu nhiễm, tuệ xa rời.” Thời, Phật đem lời này Răn các đệ tử trẻ Họ liền tự nhiếp tâm Một lòng nhìn Như Lai. Nại nữ xa thấy Phật Tướng đẹp đẽ sáng chói Vòi vọi giữa rừng cây Như nhật ra khỏi mây Tâm cung kính nhìn Phật Tâm thanh tịnh nhiệm mầu Như cây nhiều hoa quả Bị gió thổi quằn nghiêng Như thế lễ chân Phật Chắp tay tâm cung kính Lui về chỗ ngồi xuống Đức Phật bảo nàng ngay: “Tâm cô ham buông lung Cô tâm lành đến Ta Tin ưa pháp chân chánh Lợi này rất khó gặp. Người nam tin ưa pháp Đó không phải điều lạ Ý nam tuy sâu nặng Trần lao còn bớt nhe,ï Người nữ thường quanh quẩn Trong trần lao ái dục Ý hẹp hòi, khinh tháo Mê đắm sáu thứ dục. Tâm người nghó đến đạo Đó là đáng quý nhất Tất cả đời vô thường Không nên cậy ta đây! Bệnh tật lấn yên ổn Già hủy hoại dung nhan Cướp đoạt mạng sống người Ưa pháp không hoạn nạn Người nữ nhiều tham ganh Gặp không mừng, oán ghét Tâm người nữ mê đắm Không thích rời mình thích. Để chịu thân người nữ Ắt có hai não trên Vì những ý nghóa đó Ngươi phải siêng thờ pháp.” Tính Nại nữ yếu mềm Trong tâm rất hổ thẹn Được khuyên theo chánh pháp Hết dạ kính Thế Tôn Liền quỳ thẳng chắp tay Bước ra bạch Phật rằng: “Xin Phật rủ lòng thương Mai nhận con cúng dường.” Phật biết tâm nàng ấy Rất thanh tịnh vui mừng Nên im lặng nhận thỉnh. Cô bèn từ giã về Gieo năm vóc sát đất Cúi đầu lễ chân Phật Chán ghét thân người nữ Hổ thẹn quay trở về. Sau khi Phật nhận lời Nàng Nại nữ mời thỉnh Người dân Duy-da-la Đều đi đến chỗ Phật Ngựa trắng, lọng xe trắng Y phục đều lụa trắng Các trang sức đều trắng Uy nghi thật đáng nhìn Màu xanh, vàng, đỏ, đen Đủ loại khác biệt nhau Nghiêm sức đến chỗ Phật, Như các trời Đao-lợi Họ cũng đều thỉnh Phật Phật nói đã thọ thỉnh Phật nhận Nại nữ thỉnh Họ đành phải ôm hận. Bấy giờ Phật vì họ Nói rộng pháp nhiệm mầu Cam lộ không tổn giảm Diệt trừ các khổ hoạn Vì họ lược giải bày Pháp bốn Đế chân thật Vô số các Ly-kiền Đều uống thuốc cam lộ. Bấy giờ Phật sẽ đến Độ vô số Ly-kiền Và rồi từ giã họ Tâm đều mang chánh pháp Như độ người mạnh mẽ Khổ địa ngục thoát rồi Và vô số chúng sinh Đều gieo giống sinh Thiên.  <詞 id="50112207">Phẩm 24: TÁN THÁN PHẬT ĐỊNH QUANG Trồng trăm phước đời trước Ngàn núi cao không cùng Dòng sông của trí tuệ Rất sâu khó đo lường, Lời nói người gió thoảng Không thể làm chao động Ngồi định như núi Thái Nhưng không thể chuyển dời Giống như đám mây đen Chớp lóe sáng rạng ngời Cầm lọng đẹp bằng báu Xoay vần trên không trung. Thời, A-nan thấy vậy Điềm lành chưa từng thấy Tâm vui mừng hớn hở Quỳ thẳng bạch Phật rằng: “Các thứ hoa trời Rất đẹp nhiệm mầu Nếu như có tâm Đến cúng dường Phật Giống như rừng cây Gặp bầy ngựa hoang Như trên núi tuyết Nhiều cây hoa thơm. Mặt như màu hoa Sen có ngàn cánh Nước bẩn thế tục Không làm nhiễm dơ. Rất khó thấy nghe Như hoa Ưu-bát Xin Phật giảng nói Điềm lành hoa này.” Phật dùng tiếng Phạm Thanh tịnh nhiệm mầu Làm cho chúng sinh Giác ngộ đầy đủ Mở khắp Tam thiên Đại thiên thế giới Dùng tâm Từ hòa Bảo A-nan rằng: “Về thuở quá khứ Vô số kiếp xưa Vô lượng đức lành Trang nghiêm tướng tốt Giống như đuốc sáng Xua tan tối tăm Dùng chánh pháp sáng Dứt tối ngu si, Thuở ấy có Phật Hiệu là Định Quang Thầy của các Thánh Tam thiên thế giới, Tất cả trí tuệ Giống như biển lớn Tâm như hư không Không gì chướng ngại. Cội gốc “sáu độ” Sâu xa vững chắc, Thân cây “mười lực” Rất là cứng chắc Bốn điều không sợ Là bốn phía cây Có ba mươi hai Nhánh cây tướng tốt, Ba trí đạt khắp Chồi đốt nhiệm mầu Tám mươi tướng tốt Lá đẹp mềm mại Từ bi che bóng Rất là mát mẻ. Cành hoa giác ý Giới cấm đức thơm Lời nói nở hoa Hiện đài bốn đế Chứng bốn thứ đạo Quả rất thơm ngon. Trời người ưa pháp Giống như ong nhóm Để hút tinh túy Vị hoa cây Phật; Họ nghe hoa thơm Ăn quả cây ấy Vì vị giải thoát No đủ tràn đầy. Bởi đời quá khứ Nguyện cầu việc Phật Siêng tu chẳng trễ Hiện báo đời sau Hiện ra báo ứng Được uống thuốc pháp No đủ tất cả Nước mật cam lộ Đói khát lùi xa. Phát nguyện muốn tìm Ý từ bi lớn Nhân dó muốn đến Thành lớn Hoa nghiêm, Lúc vừa dở chân Đạp cửa cổng thành Bấy giờ thần đất Cung kính gánh vác Tam thiên đại thiên Thế giới của Phật Rung chuyển sáu lần Chấn động cả lên. Mưa hoa lấp đất Chấn động cả lên Chư Thiên đầy trời Trên không tấu nhạc Rền như tiếng sấm, Thiên nữ trên không Tấu nhạc đàn ca Khen Phật nhiều kiếp Tướng đẹp, công đức. Chim thú vui mừng Cùng nhau hót vang Chén bát chạm nhau Thành tiếng ca vang Phật cùng đệ tử Uy nghi khoan thai Như vầng trăng rằm Các sao vây quanh Trăm tướng phước đức Rực rỡ như tranh Luân tướng nhiệm mầu Ngàn nan hoa thành Chân đạp xuống đất Dấu vết như ấn Bánh xe ngàn căm Nhiệm mầu sáng rực. Điều ngự ngựa sáu căn Ngồi trên xe sáu độ Kiệu bố thí, giữ giới Rương từ nhà hoan hỷ Dùng định ý điều ngự Ngọn cờ lớn Bát chánh Bánh xe tuệ vắng lặng Lọng Tứ đẳng đại Từ Đội mũ Nhất thiết trí Chuỗi ngọc Giác ý ngời Đại bi rất mau chóng Thành ấp bày vô vi. Giảng nói pháp nhiệm mầu Để điều hòa chúng sinh Hành đạo rất tốt đẹp Ngàn mặt trời cùng mọc. Trời mới mọc sườn núi Trong ao hoa sen nở Thời, Phật Định Quang cũng Ngộ hoa tâm chúng sinh. Lúc ấy Phật nghó rằng: Chúng sinh không thấy suốt Hóa thành thể lưu ly Giúp chúng sinh thấy suốt; Mọi người xa thấy Phật Mỗi mỗi như nhìn gương Người nhóm họp đầy đường Động nước, rung bốn biển. Bấy giờ, có Phạm chí Người thông minh trí tuệ Dòng họ quý cao sang Danh hiệu là Thiện Tư Vừa nghe nói hiệu Phật Hớn hở mình nổi ốc Như bị móc giữ lại Đều lìa tục xuất gia Nhiều kiếp chứa công đức Gốc lành khiến đến nơi Giác ngộ Nhất thiết trí. Như hoa thấy ánh dương Khi gặp được ánh sáng Như trời ra khỏi mây Vua Kim Cang dòng Thánh Ngắm nhìn không thỏa mãn! Thấy Phật vui hớn hở Đức lực liền thanh tịnh. Nghó gặp Phật ra đời Lấy gì cúng dường Ngài Khi thấy người con gái Xách một bình nước thơm Có bảy cành sen xanh Như Thất giác tuệ đủ Nhờ phước đức đời trước Bình hóa thành lưu ly Thấy hoa mừng chắp tay Đến gặp nàng hỏi rằng: “Chỉ nhìn núi phước đức Đồ châu báu lạ lùng Riêng vì khắp chúng sinh Khổ ách độ trở về Kính, nhờn dứt cả hai Nguyện ta trở lại không. Đời trước đã cúng dường Nay ta cũng nên cúng Xin cô cho ta hoa Để ta dâng lên Phật, Giá bao nhiêu tùy ý Với Phật nay chưa tròn Xin cô giúp làm phước. Phát tâm tịnh hướng Phật Theo ý thỏa cầu xin Phật tựa ngọc Như ý Nguyện gì được tùy ý”. Cô gái bán bảy bông Mỉm cười đáp lại rằng: “Giá hoa này đắt lắm Liệu ngài mua được chăng?” Đáp rằng: “Tùy cô bán!” Rằng: “Mỗi hoa một trăm!” Rằng: “Cho ta hoa ấy Còn giá tùy ý cô!” Nhân nhìn bên trái nói E thẹn mà đáp rằng: “Tôi cũng muốn dâng hoa Lên cúng dường Đức Phật!” Ta khiêm tốn đáp lại: “Cô tự ra giá hoa Phật không nhận hư dưỡng Cô thành thật không dối!” Nàng đáp: “Sẽ cho hoa Nếu hứa làm chồng ta”. Đáp rằng: “Cô thói xấu Trái tâm nguyện cầu đạo”. Nàng chắp tay đáp rằng: “Không dám trái lòng ngài Nay sẽ lập thệ nguyện Bố thí chẳng dám trái?” Liền lấy giá ấy Cho năm cành hoa Giữ lại hai cành Để kết thệ nguyện. Bấy giờ Bồ-tát Được bảy cành hoa Rồi liền lập lên Quyết định nguyện là: “Như nay Đức Phật Cứu giúp thế gian Nguyện con đời sau Được đạo như Phật.” Phát xong nguyện lớn Liền tung hoa lên Hóa thành lọng hoa Ở trên hư không, Ánh sáng Đức Phật Chói như mặt trời Lọng hoa sen xanh Như mây lành nổi. Phật vừa đi tới Lọng cũng theo Ngài Phật sáng như nhật Lọng như mây xanh. Bồ-tát thấy biến Hớn hở vui mừng Năm vóc sát đất Tự lễ chân Phật, Tức thời xõa tóc Trải ra trên đất Phật dùng tâm Từ Bước đi trên tóc. Tướng chân chiếu sáng Như hoa sen hồng Ở trên tóc ấy Chân tóc sáng bừng Như trên sen xanh Nở hoa sen hồng. Đức Phật thương xót Dừng chân trên tóc Phật dùng Thánh đạt Tất cả tâm ý Biết rõ Bồ-tát Sức tâm mạnh mẽ, Thời Phật mỉm cười Ánh sáng năm mầu Từ trong miệng ra Biết bao màu sắc. Thị giả Đức Phật Quỳ thẳng chắp tay Bước đến bạch Phật: “Khi không nhân duyên Các Phật không cười Vì sao Phật vui? Cúi xin Thế Tôn Nói rõ việc ấy”. Phật dùng Phạm âm Âm vang như tiếng Sóng biển thanh tịnh Bảo thị giả rằng: “Như Ta ở đời Ra đời làm Phật Từ che muôn loài Giúp chúng sinh khổ, Người cũng sẽ thành Người dẫn thế gian Ở trong cõi khổ Trần lao lẫy lừng. Khi trăm tuổi thọ Trong họ Thích-ca Sẽ thành Phật đạo Hiệu là Năng Nhu”. Nhận xong lời quyết Vui mừng vô lượng Được sức vui mừng Bay bổng lên không Thân nhẹ, tâm mạnh Xuống lên như sóng. Như trăng tròn sáng Sóng biển lớn dậy Hư không có thể Hiện hình xuống đất Hoặc đất có thể Bay bổng lên không Bốn đại có thể Bỏ đi bản tính Lời quyết của Phật Không bao giờ đổi. Diện mạo Đức Phật Như trăng tròn đầy Miệng nói những lời Mát mẻ sáng suốt Diệt mất thế gian Cháy tiêu rất nóng Giống như mùa hạ Gặp đêm trăng rằm. Kinh sách ngoại đạo Trong rỗng, ngoài lừa Ngu mê lừa gạt Tất cả thế gian, Phật nói pháp sáng Thanh tịnh thái bình Vào thành Nê-hoàn Giống như về nhà. Vì các điều ấy Khen tặng hoa đẹp Tung rải khen ngợi Thân được ngợi ca, Hoa diệu ý trời Lúa thóc bạc vàng Tung rải trên Phật Phủ khắp mặt đất Chưa rơi xuống đất Hóa thành lọng hoa Che ở trên Phật Tới lui đều theo Như mặt trời sáng Hai mặt trời soi Sen xanh khắp nơi Như mây xanh nổi. Từ không trung xuống Niềm vui càng thêm Lại tự gieo mình Quy mạng Như Lai Tóc kia vẫn ở Dưới chân Thế Tôn Tự nhiên tung rải Phủ khắp mặt đất. Các ông nên biết Đâu phải ai khác Lúc ấy Thiện Tư Chính là Ta đây. Dùng tâm Từ kính Rải hoa cúng Phật Nay thành Phật rồi Làm Thầy mọi người Bởi nhờ Phật ấy Lọng hoa che Ta Phát khởi ý Ta Nhớ lại hạnh xưa Làm các điều lành Được báo như thế Không bao giờ mất Phải biết việc ấy! Bấy giờ ai nấy Chia phần tóc Ta Giành nhau nhận lấy Kẻ ít, người nhiều Bọn họ đều được Phật độ cho trước Vào thành vô vi Nê-hoàn vắng lặng. Thời, người được tóc Hơn bốn mươi người. Người nước Tùy-đề Sa-môn giữ giới Đều thành La-hán Đầy đủ sáu thông Lập nên pháp lành Nhiệm mầu bậc nhất. Như Phật quá khứ Hiệu là Định Quang Đầy đủ lời nguyện Phạm chí Thiện Tư Như kia mừng rỡ Bay lên hư không Thời Phật lại ban Cho trí tuệ lớn Chúng sinh nghe rồi Đều dốc lòng tin Tìm mọi phương cách Ban rải đức lành Bố thí giữ giới Trí tuệ siêng tu Di-lặc ra đời Hiển phước báo ấy.  <詞 id="50112208">Phẩm 25: HÀNG VOI Khi ấy Thế Tôn Đến thành Vương xá Làm phước chúng sinh Mặt đất chuyển động Chư Phật điềm lành Cảm biến lạ lùng Khi sắp vào thành Đều hiển hiện lên. Bấy giờ Điều-đạt Có tâm độc hại Biết Phật vào thành Liền hiện điềm lành Vội vàng tìm đến Vua A-xà-thế Dối trá dụ dỗ Xúi bảo ác nghịch: “Tôi sẽ giết Phật Ngài soán ngôi cha Cả hai huy hoàng Giống như trời, trăng.” Vua nghe theo lời ngụy Cho voi uống rượu say Voi điên vì say rượu Kêu rống như sấm rền Tức thời thả voi say Chạy nhanh về phía Phật, Như một cơn gió dữ Muốn dập tắt đèn Phật Giống như gió kiếp tận Muốn hoại diệt thế gian Khỏe như chim cánh vàng Giận như vua Diêm-la Tâm Phật vững không lay Không bị voi làm động Giống như núi Ma-la Chẳng bị gió biển lay. Xông đến trước mặt Phật Quỳ xuống lễ chân Ngài Nhiếp phục tâm sát đất Như bụi gặp mưa lớn Như từ trong mây đỏ Mặt trời chiếu sáng rỡ Rực rỡ như sao rơi Rớt xuống đỉnh núi lạ, Từ trong mây ca-sa Tay phải phóng ánh sáng Rọi sáng ngời voi lớn Như nhật chiếu núi đen Tay đức tướng sờ voi Voi tức thời tỉnh ngộ Giống như đuốc sáng hiện Đêm tối càng rút ngắn. Voi bàng hoàng tỉnh ngộ Ý liền được yên ổn Giống như chú thần tiên Trừ nọc rắn hổ mang Voi tức thời khắc phục Quỳ dưới chân Thế Tôn. Phật hiển hiện ánh sáng Như mặt trời ló dạng Thời, điều hóa voi say Dạy bảo gieo gốc lành Kẻ nên độ đã độ Liền trở về tinh xá. Bấy giờ, trong thành ấy Có một kẻ danh gia Tuổi trẻ tính mềm mỏng Chí thông minh lanh lợi Dốc tín, làm điều lành Yêu kính pháp giới luật Tôn trọng thầy, thờ Phật Tên gọi là Cao Độ. Điều-đạt tìm đến gặp Dụ bằng những ngôn từ: “Hãy chịu nghe lời ta Ắt hậu tướng sẽ chờ Tước vị cao hiển hách Vinh lộc tăng thêm nhiều Nếu nghe theo lời ta Về sau sẽ làm vua”. Thời, Hiền só Cao Độ Nghe Điều-đạt nói càn Liền dùng lời chánh pháp Đáp lời Điều-đạt rằng: “Hãy lắng nghe ta nói Khen ngợi đức thờ Thầy!” Tức thời quay lưng lại Hướng về phía Đức Phật Gối bên phải sát đất Chắp tay, tâm cung kính Cúi mình, đầu mặt lễ Cao Độ bèn khen rằng: “Đã độ đến cùng cực Vực biển các khổ não Đã được Thập Lực độ Cứu chúng sinh không mệt Ngày đêm không dừng nghỉ Dẫn người lập căn lành Bậc Thầy ta phụng thờ Hiệu là Phật Thế Tôn. Ta chẳng thờ Thầy khác Chỗ khác không nương được Nên không nghe lời khác Ông nên biết rõ đó”. Khi ấy Điều-đạt ác Trong tâm rất giận tức Hai bàn tay nắm chặt Cúi đầu bỏ ra về Tâu vua lời siểm mị Để gièm pha Cao Độ. Vua ra lệnh quan hầu Người có tâm hung ác Trao hắn chuỗi ngọc báu Giá mấy ngàn lượng vàng Rằng: “Ngươi phải bí mật Đem chuỗi báu này sang Ném vào nhà Cao Độ Chớ để người khác biết.” Đêm tối, tên đó đến Làm theo đúng lời vua. Người nhà ấy sáng sớm Được chuỗi ngọc báu kia Liền trao cho gia chủ. Gia chủ rất vui mừng Sai người mời chồng đến Đem chuỗi báu khoe chồng Cao Độ thấy chuỗi báu Rất sợ và than dài Dùng những lời chua xót Mà bảo vợ mình rằng: “Của được không này độc Đem ác gia hại người Điều-đạt tìm mọi cách Muốn hoại diệt ta thôi! Đêm qua ném chuỗi báu Vào trong nhà của ta.” Ông ngồi buồn giây lát Quan đến cửa rồi kia Chúng lấy chuỗi báu ấy Đeo vào cổ Cao Độ Lập tức tâu vua rằng Rằng: “Cao Độ trộm đây!” Vua ra lệnh các quan: “Xử phân theo phép nước”. Sai quan là tên ác Như sứ giả Thái sơn Mắt đỏ cầm binh trượng Hình dung như ngục tốt Đều mặc áo màu đen Máu tô đỏ thân mình. Tội chém đầu bị kết Sắp đến nơi hành hình Trống đánh vang như sấm Tiếng thổi ốc chấn động Buộc chuông trên búi tóc Ngựa, lừa đưa khỏi thành. Đến nơi ban thức ăn Cho người sắp hành hình Thời, Điều-đạt sai người Cho người nhà kia hay: “Hãy đến quy phục ta Sẽ giúp cho được sống.” Thân thuộc vây chung quanh Đều cất tiếng kêu gào Tiếng vang xa khắp chốn Khiến nơi xử Cao Độ Người tụ lại vô số Vang vọng đến thành kia. Đến nhà Nhất thiết trí An trụ tâm Đại từ Đi bằng giầy Đại bi Ngày đêm đi tìm kiếm Mê hoặc trong năm đường Lạc lối trong suối hang Như bà mẹ thương con Muốn cứu nghé đơn côi. Thời, Phật bảo A-nan: “Ông hãy đi vào thành Rao khắp mọi đường phố Lớn tiếng nói kệ này: Ngày hôm nay Cao Độ Xuất gia ra khỏi ngục! Làm Sa-môn bậc nhất Uống nước thuốc cam lộ”. Khi ấy, có Phạm chí Nghe được lời A-nan Về nói bạn đồng tu: “Cớ sao lại nói dối?” Người đạt trong Phạm chí Liền cất tiếng đáp rằng: “Lửa có thể thành nước Cam lộ thành thuốc độc Bốn đại lại có thể Bỏ bản tính của nó Lời dạy của Đức Phật Không bao giờ đổi thay!” Bấy giờ con Cao Độ Còn thơ dại đáng thương Níu cổ cha mình xuống Kêu khóc mãi không ngừng: “Xin cha rủ lòng thương Tự nguyện theo cọp sói! Điều chúng sinh quý trọng Chỉ mạng người khó được Nếu lệnh quan phải giết Xin chết thay cho cha! Không nên quy thú về Với Điều-đạt hung tàn.” Cao Độ chí mạnh mẽ Bảo với con mình rằng: “Nguyện bỏ thân mạng mình Không bao giờ lìa Phật.” Vợ ông vội chạy đến Xõa tóc buồn kêu khóc Máu lệ rơi lã chã Thấm ướt áo ngực nàng Kêu than khổ sở rằng: “Chồng tôi người nhân từ Đã cùng nhau ăn ở Vì sao bỗng chia lìa Xưa có thệ nguyện rằng Không bao giờ lìa nhau Nay hiện như xa lạ Giống như khách qua đường? Tại sao không thương tưởng. Thiếp chỉ có một con Xin đoái hoài tiện thiếp Thương xót con mồ côi Ngoài mặt giả vờ hướng Về Điều-đạt cứu mạng Trong lòng luôn dốc lòng Lén tôn Phật làm Thầy!” Hồi lâu Cao Độ nói Đáp lời vợ mình rằng: “Hãy nghe ta sẽ nói Quyết định trong tâm ta Cõi Tam thiên đại thiên Tối Tôn đáng nương cậy Ta đã tự quy Phật Vì sao lại sợ chết? Ta đã tự quy Phật Núi Tu-di các báu Sao lại quy thấp kém Nương tựa đống phân hôi? Ta đã tự quy Phật Ngửa đội ánh thái dương Thì sao lại phải bỏ Để theo lửa đóm thường? Ta đã tự quy Phật Loài vua chim cánh vàng Thì sao lại phải bỏ Về theo con quạ nhỏ? Ta vốn phát thệ nguyện Muốn uống nước biển cả Nay nước chân trâu này Ta sao hết khát được? Ta nay tự quy Phật Đức tướng tốt các pháp Làm sao đi đến với Kẻ làm ác thấp kém?” Vợ đáp lời chồng rằng: “Phải cứu giúp mạng sống Hiện chàng với Điều-đạt Hãy nhớ lại tình xưa”. Ông liền đáp lời vợ: “Thà gặp độc hại như Kiếm, mãng xà, rắn độc… Lửa oán đốt cháy rụi Nhưng vẫn còn tìm cách Thuốc hay trí tuệ trừ Không bao giờ gần gũi Bọn ác, tâm dơ bẩn Cùng bọn xấu ô nhiễm Hoại ý lành của người Phật dạy không theo chúng Kéo đến ngục Vô trạch”. Liền đem Cao Độ đến Nơi gò mộ rừng cây Liền phát tâm Từ bi Cấm giới ân cần Phật Ngục tốt bèn rút kiếm Định hành hình Cao Độ Kiếm bén không hại được Thân hiền só Cao Độ. Lính về tâu vua rằng: “Kiến bén không đả thương Thân hiền só Cao Độ”. Vua lệnh tìm cách khác Điều-đạt bèn thêm rằng: “Hãy xỏ vào chiếc gậy Trói lại bằng da sống Rồi dựng ở ven đường Hành hình theo lời bàn” Cao Độ lòng niệm Phật Phật như chim cánh vàng Bay đến bên gò mộ Phật dùng tám thứ tiếng Mà bảo Cao Độ rằng: “Nay Ta cứu ông khỏi Độc hại khổ ách này”. Lòng Từ bi của Phật Pháp cam lộ thanh tịnh Thứ lớp vì Cao Độ Giảng nói bốn Thánh đế Cao Độ liền chứng được Đạo quả A-la-hán Lập tức dùng sáu thông Nhẹ nhàng bay lên trời Trước mặt A-xà-thế Ở giữa cõi hư không Hiện các thứ thần biến Cả đại chúng đều thấy, Nói pháp mầu vua nghe Nói cho vua biết là: “Ta chính là Cao Độ Vua nên hối việc mình.” Vua nghe Cao Độ nói Lăn ra đất mê man Người đứng quanh vẩy nước Hồi lâu tỉnh dậy nghó: Đều chẳng đáng sợ hãi Kẻ thù, lửa dữ hừng Cũng không sợ quỷ mị Và rồng dữ hung ác Tâm như gươm kiếm bén Miệng nói lời như mật Lời cùng việc trái nhau Phải thuận bạn ác này! Điều-đạt vẻ ngoài thân Chính là kẻ thù ta Hiện như cờ chánh pháp Dẫn ta vào đường ác Tự thiêu khiến không còn Dùng hư vọng đốt ta. Chao ôi! Sao khổ quá Gặp phải bạn xấu ác! Ta làm bạn với nó Gạt cha soán đoạt ngôi Cho voi uống rượu say Thả ra hại Như Lai. Dạy ta điều ác nghịch Lăn đá hại thân Phật Nghe lời bạn xấu ác Trái nghịch Phật, Thánh Sư. Nhà vua liền buồn thảm Cúi dưới chân Cao Độ Xin dứt trừ tội nặng “Vì nương tựa bạn ác Ta từ nay về sau Sẽ làm đệ tử Phật Kính Phật làm bậc Thầy Xa lìa bạn xấu ác!” Phật dùng sức thần thông Điều phục voi say cuồng Hóa đôï vào đường chánh Gieo trồng gốc căn lành Như cứu hiền Cao Độ Khỏi nạn khổ cọc cây Uống thuốc hay cam lộ Các khổ độc dứt hết Vua nghe vậy vâng làm Dốc lòng hướng về Phật Vâng làm nhân duyên lành Đều khiến các khổ dứt.  <詞 id="50112209">Phẩm 26: MA KHUYÊN XẢ THỌ MẠNG Như nhật mới mọc Lộ ở sườn non Bóng tối tiêu tan Phóng ánh rực rỡ Chánh pháp chói lọi Phật, trời trong trời Sáng sạch không nhơ Ban dạy lời nói. Tâm ngu si tối tăm Như khe động thâm u Mặt trời sáng rực rỡ Xua hết nguồn tối mù Như trời trong không mây Ánh mặt trời chiếu khắp Chỗ Phật đến giáo hóa Ai cũng được cứu độ. Giống như núi vàng lớn Cúng tế đốt lửa lớn Như cá ghét ánh sáng Làm nước cạn trần lao, Vua trần lao cõi Dục Tên gọi là Tệ Ma Kéo đến chỗ Đức Phật Liền nói những lời này: ‘Xưa, Phật ngồi tónh tọa Bên sông Ni-liên-thiền Lúc ấy, Ta nói rằng: Những lời đầu tiên nhất Việc có thể làm được Việc ấy đã làm xong Đã có thể giác ngộ Đạt “Vô hữu dư” rồi. Sở nguyện đã đầy đủ Nay xả bỏ tuổi thọ. Khi ấy đáp lại ma Phật quyết định dạy rằng: “Vì nay Ta chưa có Bốn bộ đại đệ tử Vả lại chưa thông suốt Mắt trí tuệ mở mang Xây dựng bày Phật sự Chỗ đáng được tôn trọng Chẳng phải ít phương tiện Nên vôïi vàng đuổi kịp Tối tăm, chưa sáng sủa Ánh quang chưa chiếu sáng. Mặt trời chưa qua trọn Không thể lại lặn mất, Biển khơi, vũng nước chứa Rồng và A-tu-luân, Như người dùng mình trần Muốn vượt qua biển lớn, Như muốn dùng cánh muỗi Che mười phương hư không, Hoặc như con kiến nhỏ Muốn đấu cùng sư tử, Nếu lại có ý muốn Một lúc uống hết đi Vô lượng vũng nước lớn Cạn hết không còn dư; Hoặc muốn dùng hơi miệng Thổi núi báu Tu-di Cho tơi bời tan nát Đều trở thành bụi nhỏ, Vũng ao nước tràn đầy Núi Tu-di báu lớn Sư tử, biển, hư không Việc ấy có thể làm Ao công đức của Phật Tu-di, biển, hư không Mười phương trời, người đời Không có thể đo lường. Cho nên, lúc ấy Ta Nói với ma như thế. Nay chẳng cần khuyên Ta Khi quyết nói diệt độ Như nay tiện bày tỏ Chí sở nguyện tâm ngươi”. Nên theo đó mà nói Ma liền bạch Phật rằng: Các đệ tử của Phật Nay đều thành hiền lương Giữ giới cấm tinh tấn Sáng ngời thành La-hán Thân đứng ở trên đất Đưa tay bắt mặt trời Biến hiện thân to lớn Lớn đến trời Vô kết Từ trong sinh tử lớn Đoạt chúng sinh của ta. Ta ra khỏi giới, nhập Vô vi như về nhà Thế Tôn Nhất Thiết Trí Việc làm nào cũng xong Tiếng tăm như biển cả Vang đồn khắp mười phương Thế Tôn, Thánh không sánh Dùng mười lực của Phật Ngồi ở dưới cây đạo Mặc giáp nhẫn vững bền Dùng tay giữ vững chắc Chiếc cung cứng đại Từ Bắn ra tên trí tuệ Sắc bén thật nhanh chóng. Ta và mười tám ức Các tướng quân vua ma Vừa bắn một phát tuệ Đánh bại binh chúng ta Như liệt só đời xưa Một mình đấu đại quân Vừa bắn một phát nhọn Thắng Bàn Đạp đại quân, Ghét, yêu hai nhỏ lớn Đều diệt hết không còn. Voi say hàng phục tâm Khiến được điều phục hẳn Dùng long lớn đại pháp Che những người đáng độ Khiến tất cả chúng sinh Tránh được mưa trần lao, Hủy bỏ miệng tham ăn Tâm lấp đầy không chán Tính lăng xăng điên đảo Như đánh A-tu-luân, Dùng cày tuệ cứng chắc Trên hết và bậc nhất Cày những mảnh đất rộng Lật ra gốc ngu si Rồi đem cây đại pháp Chân chánh và nhiệm mầu Xuống trồng ở cõi thế. Hương hoa ngát chúng sinh Giáng hiện ở trong biển Sinh tử rộng mênh mông Dùng ý thân không vô Ngọc chánh pháp kêu vang Ở tại trong cõi Dục Bị buộc ràng trong ái Là bờ lũy sinh tử Rất vững chắc khó qua. Thế Tôn như lực só Mở cửa cho thoát ra Được an trụ cồn bãi Quý báu và vô lậu. Thế Tôn nằm nghỉ ở Ao trí tuệ rộng lớn Trong ao mọc đóa hoa Sen chánh pháp nhiệm mầu Hương thơm ngọt không sánh Cảm động tâm trời người Nhóm đến nhận dạy bảo Như ong hút mật hoa. Dùng hình tướng sư tử Mạnh mẽ của Phật-đà Nguyện điều phục khó phục Trần lao A-tu-luân Đã diệt hết thế gian Lực só của sinh tử Hơn khắp cả ba cõi. Thế Tôn là bậc nhất Có người dùng bú sữa Lớn lên của thế gian Có người dùng biến hóa Thần biến rất khéo léo Đối các trời, người đời Được tốt đẹp bậc nhất. Dùng hạnh lành của mình Riêng bày ở trên đời Nay chính là đúng lúc Xả thọ mạng thế gian.” Khi Phật nghe những lời Khuyến khích của vua ma Phật liền dùng tiếng Phạm Mà bảo vua ma rằng: “Nay ma sẽ vui mừng Ắt không còn lo âu Sau đây, chẳng bao lâu Ba tháng Ta xả thọ Nên bỏ lòng nôn nóng Nguyện ngươi đã thỏa rồi”. Nghe Phật nói thế ấy Vua ma rất mừng vui Tức thời ở trước Phật Liền lập tức biến mất. Bấy giờ Thế Tôn liền Định ý trong giây lát Giác ý cùng trí tuệ Sau đó liền tán ý Phóng xả thần thông trước Tuổi thọ dài vô hạn; Thánh dùng sức thần thông Tuổi thọ còn ba tháng Thế Tôn đã phóng xả Trường thọ dài vô hạn. Thần đất liền kinh hãi Rung chuyển mạnh sáu lần Bốn phương đều mưa rơi Sét đánh, lửa khắp nơi Giống như lúc kiếp tận, Tu-di mưa lửa đuốc Sét đánh mau liên tục Đầy khắp cả hư không Giống như lúc kiếp tận Mắt đất lửa thiêu đốt. Đức Phật trời trong trời Liền nói bài kệ rằng: “Như xe bị gãy trục Gằng sức chở thân này.” Bấy giờ A-nan thấy Điềm xấu ác lạ lùng Tâm hoài nghi rúng động Đến Phật hỏi duyên ấy. Thời, Phật bảo A-nan Rằng: “Ta xả thọ mạng Cho nên đất rung chuyển Nên hiện điềm xấu này.” Khi A-nan nghe Phật Dạy những lời như vậy Liền gieo mình xuống đất Như cây chiên-đàn đổ, Lỗ chân lông toàn thân Tất cả đều ra máu Lòng mang nặng đớn đau Mặt đầy máu nghẹn ngào Một là tôn làm thầy Hai là tình anh em Tình nghóa nặng chưa hết, Đau đớn tâm mê man Trìu mến nhìn Đức Phật Hồi lâu mới nói được Lời chua cay khổ sở Luyến mến đầy buồn bã: “Than ôi! Sao ác khổ? Vô thường quá mau chóng Ngọn đèn ánh sáng Phật Bỗng nhiên sắp hoại diệt Như trời lạnh được lửa Lúc nóng hạn gặp mưa Mệt được dù che nắng Ai chẳng mong nương tựa. Chúng sinh đáng thương xót Đang mê hoặc lạc đường Ở trong sinh tử lớn Ruộng hoang rộng vô biên Chỉ người con đường lành Xét kỹ biết đường chân. Thầy dẫn đường ba cõi Sao bỏ đời nhanh chóng? Thấy chúng sinh khắp đời Bị lửa ái thiêu đốt Quanh đường dài mỏi nhọc Hạn khát đã lâu rồi Ao ngọt làm nước giải Vị nước rất ngon mát Ao mát mẻ trên hết Bỗng nhiên sắp khô cạn. Ba đời quá khứ, lai Hiện tại đều thấu suốt Tâm vào pháp nhiệm mầu Khuôn mặt của trí tuệ Cõi Tam thiên thế giới Như nhìn gương sáng sạch Mắt đời bỗng mờ tối Còn nỗi đau nào hơn! Chúng sinh dốc lòng tin Rễ mầm mới sinh được Như có cái dần lớn Hay có cái đã thành Các giống loại như thế Khát cầu mây mưa Phật Những chồi vừa thành ấy Bỗng gặp hạn thiêu đốt. Thế Tôn bốn mươi thứ Lửa trí tuệ sáng làu Đỉnh lớn Nhất thiết trí Chiếu khắp cõi Tam thiên Chiếu hiện sáng rực rỡ Mắt tất cả chúng sinh Chúng sinh sao đáng thương Sẽ lại rơi vào tối? Biển sâu của tuệ giác Rộng lớn và sâu xa Phật riêng trước hóa độ Đoái thương xót chúng sinh Nay sắp bỏ thế gian Chúng con nương cạây ai? Như cha nghiêm, mẹ hiền Xa con vạn dặm trường Thương khắp mọi chúng sinh Bầu sữa lành rất đầy Nước sữa của chánh pháp Rất đầy đủ ngọt ngon, Đức Thế Tôn đại từ Như trâu mới sinh con Nay bỏ nghé cô độc Chúng con sắp hạn khô. Mê hoặc lâu lạc đường Trong năm hang âm u Chúng sinh đáng được độ Như nghé con cô đơn. Thế Tôn tìm khắp nơi Như mẹ hiền tìm con Nay ai sẽ tìm kiếm? Chúng con sao đáng thương Sầu này bỗng nhiên gặp Sau tiếp tục lại đến? Ngày đêm cùng đun đẩy Xoay vòng như bánh xe Ngày đêm như hai tay Phương tiện không dừng nghỉ Múc nước mạng vô thường Uống vào chẳng thỏa mãn. Tâm con mê man lắm Không hề hay biết gì! Lòng là nhóm kim cang Nhẫn được, không tan hoại Thường theo hầu Đức Phật Cũng như bóng với hình Hình bỗng nhiên sắp diệt Bóng sẽ nương vào đâu? Con nay sẽ lìa bỏ Đức Phật, trời trong trời Như thân lìa thọ mạng Tên mình cũng chẳng còn Oán đối vô thường trước Sao không theo đuổi con? Thọ đã rời thân ấy Sao khoảnh khắc còn đây? Ngài ở giữa chúng hội Từng lời nói như sau: Có ai chứng Đạo đế Bốn Thần túc đầy đủ Tuổi thọ đến một kiếp Hoặc có thể vượt hơn. Thần lực đạo của Phật Tự tại không chướng ngại Đời chỉ nương vào Phật Nay xin Phật trụ thế Vì thương xót chúng sinh. Mong sống lâu hơn kiếp Nguyện Ngài rủ lòng thương Thương xót các chúng sinh Mà kéo dài thọ mạng Người chưa độ còn nhiều.” Bấy giờ Phật Thế Tôn Thấy A-nan buồn khổ Quá tiều tụy như thế, Ngài rủ lòng an ủi Phật Thế Tôn đại Từ Nói lời thương tràn trề: “Ông quán kỹ tự nhiên Đời động, quy diệt tận Tất cả việc thế gian Nhất định phải như thế Cái gì có thành lập Nhất định phải hoại thôi Cái gì có thành lập Thì phải có đầu đuôi Không bao giờ phát tâm Cầu về thành Nê-hoàn. Ta trước vì các ông Giảng nói các giáo pháp Lời dạy người làm thầy Không còn giấu điều gì. Thân Ta như trụ lại Và sau khi độ đời Các ông siêng thờ pháp Dùng thân Ta làm gì! Cần nỗ lực tinh tấn Suốt đời giữ giới cấm Phương tiện cầu tuệ giác Gấp như cứu cháy đầu. Đạo phẩm để tu hành Gồm có ba mươi bảy Phải mau lập phương tiện Khiến tâm được giải thông, Cội gốc các điều lành Đều sẽ từ đó sinh Dùng diệt định giữ gìn Ràng buộc lòng voi say Dùng móc sắt trí tuệ Chế ngự khiến trở về, Dùng chánh đế quán kỹ Trói không cho buông lung Diệt tâm khiến định tónh Mắt từ bi trí tuệ Các ông phải nhờ đó Nhìn thấy pháp thân Ta. Kia có thấy được Ta Chính là thân chánh pháp Ta hiện tại ở đời Thường thấy Ta không rời Nay Ta vì các ông Cho đến đời tương lai Nguyện biến cây khổ độc Thành ra quả ngọt ngon. Trước phải siêng uống ăn Tinh túy hoa giác ý Chứng thành bốn đạo quả No đủ cõi thế gian Ngoài tục học Thánh hiền Đều không đợi giác rõ. Hậu Vân và Thượng Thể Khiết Trì cùng Ái Sinh Trời Ngã khiết an tường Lực Lự và vua trời Họ đều không đạt đạo Ta giúp các ông giác Họ đều không thể biết. Đầu mối ra khỏi đời Chỗ ngoại sư ngừng nghỉ Gặp mê hoặc lại rơi Chỉ có Phật Thế Tôn Vô ngại rất linh tuệ. Cho nên ở trong hữu Dứt sạch gốc trần lao Giống như thầy thuốc giỏi Có tám phương thuốc hay Ta đã riêng phân biệt Các loại thuốc hay này Người nặng về tham dâm “Quán ác lộ” là thuốc Dùng “từ” dứt tức giận Đem “tuệ” bỏ ngu si. Như trước kia A-nan Những điều ông bày tỏ Xin Phật thọ một kiếp Hoặc lâu hơn một kiếp Hãy quán Phật quá khứ Tùy theo hạnh đời trước Không trọn đời thượng thọ Thọ bốn trong năm phần Ta làm gì ở với Vỏ rắn này lâu hơn? Kéo mạnh không trở lại Duyên cừu oán hết rồi Nhà hư mục nghiêng ngả Hổ mang rất đáng sợ! A-nan chẳng nên vội Bỏ thân này trốn lánh? Người tìm nước trong lửa Tìm vàng ở trong sắt Từ cành hoa sen hồng Muốn được gậy Kim cang! Từ trong đồ xấu độc Muốn tìm thuốc cam lộ Cùng kẻ điên tìm kế Từ kẻ oán tìm thương Trong địa ngục tìm thuốc Trong nhà xí tìm thơm Muốn giáo huấn khỉ vượn Làm cho không lăng xăng Nhà mục nát, tường rêu Xây thành bằng cát ướt. Chùm bọt trên mặt nước Đèn trước gió đâu bền Như chén nung gặp nước Khó thể giữ lâu bền, Mỏng manh còn hơn thế Không mạnh chóng tiêu tan Phải giác biết như thế Sẽ được thân bốn đại. Sao thấy được chánh đế Mặc tình cho thân này Vì chúng sinh ngu si Thỏa mãn không lo buồn? Thấy người khác bị chết Chẳng nghó mình sẽ vậy Buông lung không cần thiết Hao tổn thọ mạng này. Không hề lập phương tiện Cầu gốc lành cho mình Nên giác biết như thế Thế gian đều vô thường Trời, đất, báu, đá núi Đều sẽ trở về diệt, Biển cả, vũng, ao nước Chẳng lâu đều khô cạn Núi Tu-di châu báu Cũng ắt sẽ sụp đổ. PHẬT BỔN HẠNH KINH (PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN) <卷 id="50112210">QUYỂN 6 <詞 id="50112211">Phẩm 27: ĐIỀU-ĐẠT VÀO ĐỊA NGỤC Phật, Bậc Thầy trời người Thân tâm đều thanh tịnh Thương người xuống sông tắm Mặc áo tắm đứng trông. Bấy giờ, Phật Thế Tôn Bèn xuống dòng sông trong Giống như vua mặt trời Tắm ở ao Thiên hoa, Cũng như cột kim cang Dùng báu mầu trang hoàng, Như Thiên sư điêu khắc Các tướng đều sáng đủ Thân hình Phật Thế Tôn Cũng xinh đẹp như thế. Do hạnh lành đời trước Thợ giỏi đã tạo thành Trăm tướng phước đức đủ Thiện đời trước in rõ, Hoặc như ngón tay đẹp Hoặc như phát âm thanh Để nói hạnh lành xưa. Hình tướng Phật như thế Trùng trên không, dưới nước… Nhìn đều sinh ngạc nhiên Đều tự bỏ hờn oán Đối nhau bằng tâm Từ Chẳng ăn thịt nhau nữa Mắt đắm nhìn Thế Tôn Ngắm ngài không thỏa mãn. Thời, Phật bảo A-nan: “Xem các loài vật ấy Đều cùng nhìn tướng Phật Tuy trùng thú không tuệ Không phân biệt lành, dữ Quán thân tướng Phật đẹp Như nhìn ảnh trong gương Đã gieo giống gốc lành”. A-nan bạch Phật rằng: “Thưa hãy xem Điều-đạt Đốt cháy bản thân mình Người họ Thích siêng tu Học pháp nương hư không Được vua A-xà-thế Thờ làm thầy trên hết Thọ ân sủng vô cùng Cung kính như hiền tài Không xét nhân do đâu Muốn biến thành kẻ ác?” Thời, Phật bảo A-nan: “Bố thí khắp, học rộng Tịnh hạnh, siêng tự giữ Tâm luôn nghó việc ác Chắc chắn không thể giữ. Tâm ác, quen các ác Quên mất hạnh lành ấy Tự nhơ cội gốc lành Người ngu được vinh lộc Tự rất lấy làm mừng Chỉ chuốc lấy tự sát Như con la có mang Do đó tự tiêu diệt, Cội gốc các điều lành Không còn mảy may thiện Cứu ra bỏ không đành Có thể giúp ra khỏi. Lòng ta thương chúng sinh Lòng Từ đối tất cả Lên núi, vào hỏa ngục Cứu những người khổ ách Không tiếc thân mạng mình. La-vân là con Ta Điều-đạt lăn đá hại Thương cả hai như nhau. Không lâu ở Vương xá Hạnh ác đã dẫy đầy Điều-đạt bị bệnh nặng Chữa trị bằng mọi cách Rồi lại bảo đệ tử: “Nay nên đem ta sang Chỗ vua nước Ma-kiệt Là bạn thân của ta.” Bấy giờ, các đệ tử Tìm cách cáng đưa ông Kiệu ba bậc ấy gãy Té rơi gối bị thương Lại thay kiệu ngồi khác. Kiệu đến cửa cung vua Đi đường gặp nhiều thứ Các điềm hiện chẳng lành; Trâu đực rống lên đón Vừa húc đất vừa đi Chân sau hất tung đất Bốc bụi bẩn lên người, Đàn quạ gọi ở trên Giống như tiếng nói người Rằng: “Mưu đồ của ông Chẳng làm người hài lòng”. Đến cửa liền tâu vua Vua ra lệnh cho quan: “Người ác gần cửa tử Lại đến mê hoặc nhau Hắn dùng ác đốt ta Trở lại tự thiêu đốt Như mưa đá hại vật Làm tiêu mất tất cả Trở lại tội chúng sinh Chúng ta không nên thấy. Người thân không màng đến Mọi người đã bỏ rơi Chống báng Phật Thế Tôn Vì tế trời Cát tường Nếu vào ngục Vô trạch Sợ liên lụy chúng ta. Có người kính trọng ta Các khanh tự yêu mạng Thì mau phải ra khỏi Ác lại gặp đây rồi. Ta thường khen Phật đức Theo cầu nguyện thầy trời Thề rằng nơi sinh ra Không ở chung bạn ác, Quan hầu lệnh thị vệ Mau đuổi những người tội.” Tâm Điều-đạt dua nịnh Khoe với các đệ tử: “Như ta tự suy nghó Chỉ Phật với ta thân Có thể cứu nạn vậy Ngoài ra không nhờ ai Mau đem ta đến Phật.” Lá rụng trở về cội Như hạt rơi đất mọc Đất nuôi dưỡng, cưu mang Các đệ tử cho rằng Thầy lầm lẫn vô cùng Có ác ý đối Phật Phạm các thứ tội lỗi. Điều-đạt nghi sợ nói: “Ta tuy trái phạm Phật Không hề bỏ người ác Vì người lành không nhờ.” Bấy giờ đệ tử hắn Thấy thầy như vậy thì Vì sợ Điều-đạt nên Vội lên kiệu ra đi. Chấn động thành Vương xá Mọi người tụ lại xem Thời, đuổi theo Điều-đạt Mới giải được hoài nghi Thấy Điều-đạt gặp nạn Nhan sắc rất tiều tụy Thường làm ác bất kể Nên nay gặp họa thôi. Như tàu biển sắp lật Vào miệng cá Ma-kiệt, Giống như cờ lớn đổ Sắp rơi trên mặt đất, Thí như mổ dê nhà Dụ phước trời đều ứng Điều-đạt nguy như thế Đi vào miệng cửa tử. Như nhật trùm bóng núi Mau dần che mặt đất Điều-đạt hành ấm xấu Theo đuổi phủ không khắp, Các người xem trong thành Thấy điềm ứng như thế Mọi người chuyền nhau nói: “Trên đất nặng oán thù Thường làm ác với Phật Mặt dày không thẹn ư? Làm sao mà gặp Phật? Trong có tráo trở đây Chứa nhóm sự hao tổn Vậy không nên nhìn coi.” Có người rất kinh sợ Hoặc có người xót thương Có người rơi nước mắt Có người đứng lặng nhìn Có người khen ngợi Phật Công đức tâm Từ bi Nên mới dung thọ được Kẻ độc ác như vầy. Đệ tử hắn mệt nhọc Dừng lại nghỉ, thở than Sự mang nặng đất ấy Làm sao kham nổi được. Vừa dừng lại giây lát Mọi người đã bao quanh Màu vẻ chết đã ứng Dần dần vì đó hiện Phút chốc đất chấn động Tiếng vang khắp cõi nước: “Ta chẳng thắng người ác Như giác ngộ cõi đời.” Bấy giờ, trong hư không Có tiếng sấm chấn động Lại có biết bao thứ Âm hưởng ác đáng sợ Các trời bảo thần đất: “Hạnh ác đã đến gần Nên đất động lên tiếng Bày duyên đối xấu ác Không thắng ác hạnh kia.” A-nan bạch Phật rằng: “Điều-đạt đã đến rồi Xin được gặp Thế Tôn!” Thời, Phật dùng tiếng Phạm Mà bảo A-nan là: “Điều-đạt tội rất nặng Không thể đến gặp Ta Dù gió tỳ-lam thổi Cũng không thể lay động Dù cho rồng dắt dẫn Rồng tuyệt nhiên không lay.” Phật nói lời quyết định: “Điều-đạt không gặp Ta” Tức thời run xuất hạn Nhan sắc liền biến xấu Giống như chim cánh vàng Muốn bắt rồng chúa ăn Vì chết đã tìm bắt Run rẩy không tự dừng Gặp sứ Diêm vương triệu Sợ hãi không biết gì, Đất nứt như miệng cá Trong đó lửa đỏ ngời Há miệng rất đáng sợ Như muốn nuốt Điều-đạt. Lửa cháy bốc như lửa Hừng hực liếm thiêu thân Bị lửa nóng trói buộc Lôi cuốn đến đường ác Giơ cao cả hai tay Lớn tiếng xưng danh Phật Gọi rằng: “Trời trong trời Chỗ chúng sinh cậy nương Thường có tâm thương xót Đối tất cả chúng sinh. Con tuy ngu, nhiều lỗi Nhân từ chẳng biến đổi Như núi chúa Tu-di Gió không thể thổi ngã Lòng Từ ái vô lượng Soi sáng đời xưng hô. Nếu được Ngài soi chiếu Mong đợi chút dừng nghỉ Để ngộ cõi Tam thiên. Lên tiếng Phạm âm vang Duyên tiếng mầu sâu này Được thoát khổ địa ngục Nguyện được Phật Thế Tôn Đất bụi bám chân Ngài Đem đội trên đỉnh đầu Hoặc sẽ được cứu giúp. Thế Tôn không tự đến Xin sai đệ tử khác Ca-diếp, A-na-luật Xá-lợi-phất, Mục-liên Cầu được các vị ấy. Còn hiền đệ A-nan Tình cốt nhục dòng họ Làm sao bỏ nhau được Anh em cùng khổ não Chúng Tăng cũng như vậy Từ vua đến các quan Người quen và họ hàng Chỉ trừ có kẻ ác Không bao giờ bỏ con Không ai rời một chút Như bóng mãi theo hình.” Người đông đầy mặt đất Các trời chật hư không Đều đứng xem Điều-đạt Lăn lóc trong khổ đau Giống như hai lực só Cùng giao đấu với nhau Lực só đối duyên trước Trong chúng bắt Điều-đạt Trời, người đồng thanh kêu: “Vinh Lộc nay ở đâu? Báo lành dữ rõ ràng Bị lửa kéo dắt đi.” Bấy giờ vô số người Bỗng sợ ác đối này Phật còn không cứu được Huống chi là người khác Xưng Phật cúi mình lễ Hết lòng tự quy y Chưa kịp nói nửa lời Liền bị lửa bủa vây Lửa như dáng Anh lạc Lan khắp cả thân thể Bỗng nhiên liền biến mất Như cá đói nuốt mồi Chợt đến ngục Vô-trạch. Bấy giờ quỷ ngục tốt Đầu cháy rất đáng sợ Sức mạnh, thân như núi Tâm độc, rất tức giận Vôïi vã liền tìm đến Lùng bắt mang đi mất, Như chim vàng bắt rồng Dùng dây sắt cháy nóng Trói ngược cả hai tay Lôi đi chửi thậm tệ Đem đến tâu Diêm-la Rằng: “Đây vật tệ ác Hung bạo ở thế gian Mang hờn ghen, nịnh hót Nghịch chánh lý, ác hung Nhớ ác, không phản tỉnh Không từ, chuyên làm ác Chủ tâm tìm hay dở Không thẹn, kết oán thù Độc chuyên quyền, cậy thế. Thác loạn vượt chân lý Chánh pháp nói phi pháp. Phi pháp nói chánh pháp Sông hay vắng lặng kia Thể báu tuệ tràn đầy Phật như núi Tu-di Y lăn đá muốn giết. Nước định ý thanh tịnh Các biển, vực Thánh hiền Vốn lặng trong lại sâu Hắn quậy dơ bẩn lên. Vô tội sinh oán sát Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Nhổ hết cội gốc lành Đều khiến không còn sót. Tối như đồng sương phủ Các lành ngày một tổn Ví như trăng lặn mất Tan chuyển vận tối tăm Chứa tội đất đã nuốt Nay đến miệng ác đối Vua nên xử tội ấy Tội nặng không thể tha”. Vua nghe ngục tốt tâu Phải dùng pháp xử đoán Vua nổi giận nhiếc mắng Cùng dạy bảo rõ ràng: “Ôi! Người dòng giàu sang Làm những việc thấp kém Con cháu vua Cam Giá Ngươi đã làm tan hoang. Phải chăng ngươi điên dại Gây ra tội lớn lao Không uống pháp cam lộ Tự nuốt độc hại kia Làm việc hung ác ấy Muốn cắn gậy ta ư? Muốn nuốt chày Thiên đế Hay muốn nắm hư không? Ngươi bị dục trói buộc Tính tháo lộng như gió Đem dục làm việc ấy Nên hết lòng làm ác. Ngươi muốn dùng bàn tay Mà che ánh dương Phật Lại muốn dùng ngón tay Nâng Tu-di của Phật Ngươi muốn uống biển cả Khiến cạn hết không còn Việc đến tự cột chặt.” Nói rồi sai ngục tốt Bèn làm việc đáng làm Quỷ tốt lớn tiếng thét Người tội đều kinh hãi Tự nói chuyền với nhau: “Nay kẻ làm ác đến Nhờ duyên vật ác này Sẽ lợi ích chúng ta Bao nhiêu thứ khổ đau Đều đến trong hội này Cùng trị vật ác độc, Lột da, đâm mài giã Thái thịt bỏ cối nghiền Tiêu tan thân thể ấy.” Quỷ tốt như nói trên Độc trị khiến đầy đủ Ép ngặt các khổ đau Quỷ ngục dùng lửa đốt Cây sắt banh miệng ra Đồng sôi rót vào miệng Phải nuốt hòn sắt nóng. Các địa ngục Đô hợp Ở trong đó khổ sở Đi đến ngục Vô trạch Gia hại Điều-đạt kia. Ngục Vô trạch thiêu đốt Cùng người tội phải chịu Tội riêng của Điều-đạt Tranh nhau mà hiện ra. Núi Kim cang đảo lộn Lửa trào càng nóng hơn Rớt trên đầu Điều-đạt Khiến thân nát như bụi, Núi như biết giận dữ Thường tự đứng, tự ngã Âm thanh như xướng họa Đập nát xương cốt kia. Người tội nghe tiếng ấy Đều sợ hãi kinh hoàng Bốn phía chạy tứ tán Không còn đất lánh thân Che mặt mày, vỗ đất La lớn, bảo nhau rằng: “Làm ác sao quá đổi! Khiến đều chịu khổ đau Điều ác nay đã đến Vác nặng rất ương đối Do chúng sinh ác này Làm chúng ta thêm đau.” Điều-đạt đau đớn quá Bảo các người tội rằng: “Đau đớn ở cùng khắp Đâu riêng một mình ta?” Các quỷ coi giữ ngục Đều mắng Điều-đạt là: “Hãy nghe tội ác ngươi Kẻ bạo ngược tàn độc Thuốc của Nhất Thiết Trí Tuệ pháp báu rất nhiều. Mười tám hang núi Phật Ao vực của từ bi Núi Phật mầu như thế Người dùng núi mà ném Vì thế mắc tội lỗi Các núi mưa trên ngươi.” Tự nhiên núi Kim cang Mưa trên đầu Điều-đạt Núi cao, chày cháy bỏng Rơi như mưa không dứt Làm thân hắn nát vụn Rồi sống lại như cũ Bấy giờ lại kêu la Kinh động trong địa ngục. Voi đá có trăm chân Như núi một do-diên Đen như mây mù tối Nhanh hơn gió kiếp tận Kêu thét như sấm động Điều-đạt thấy kinh hoàng Gào thét lớn thất thanh Liền nói lên lời này: “Các ngươi sao ác quá Dùng voi ép bức ta! Đến muốn khủng bố chết Nay đến dày xéo nhau”. Quỷ địa ngục hỏi hắn: “Biết đạp ngươi hay không? Ngươi dùng voi khủng bố Nên bị tội voi dày.” Trong giây lát lại có Quỷ ngục thân bằng sắt Hình dáng lớn như núi Mang chày sắt cháy hồng Một do-tuần vuông vức Đi đến chỗ Điều-đạt Dỡ năm trăm chày sắt Giáng xuống đầu Điều-đạt Giã nát thân Điều-đạt Giống như kiến con nhỏ. Quỷ ngục, giận mắng rằng: “Nói sao hết tội này Ngươi phá người đắc đạo Cô Liên Hoa là đầu Đã phạm tội lỗi này Nay chày giã đầu ngươi Lại có xe sắt cháy Trâu kéo thân than đỏ Tay chân buộc xe sắt Phân ra làm hai phần Đánh xe đi hai ngã Xé tan thân Điều-đạt Mỗi xe chia thân ấy Đau đớn không nói được. Quỷ địa ngục lại mắng: “Nay xe mới xé ngươi Phân ra làm hai mảnh Đúng ra xé thân ngươi Tám mươi sáu ngàn muôn Thánh chúng ngươi chê bai Chia rẽ làm hai bộ Nên nay xẻ thân ngươi.” Tiếng Điều-đạt vọng đến Ngục Hồng hoa xa xôi Cù-hòa-ly nghe tiếng Liền tìm đến mắng rằng: “Thà gặp lửa dữ đốt Kiếm bén độc bên trong Hổ mang, trăn, ác độc Đừng gặp bạn ác tà. Tìm phương tiện cứu giúp Có thể thoát tội này Bạn ác không phương tiện Nên địa ngục đành chịu Bị quỷ giữ ngục kia Không đợi đường giải thoát. Có bốn thứ phương tiện Thuật ấy lại không làm Tổn hại danh xưng Như ngày cạn nước Tiêu các hạnh lành Như lửa cháy đồng Hại trí tuệ sáng Như hoa gặp sương Bẩn hoại mùi hương Giới cấm tâm tịnh Che lấp ánh sáng tâm Như trăng lúc nguyệt thực. Điều-đạt gốc là bạn Đối ta bằng oán độc Ngục tốt gia độc trị Cất tiếng kêu đau đớn” Điều-đạt nghe tiếng hỏi: “Tiếng Cù-hòa-ly ư?” Ngục tốt mắng ngược lại: “Đó là lửa địa ngục Đã vào trong tội lỗi Lại phải hỏi làm gì? Do ngươi người bạn ác Cuồng đặt ngục Hồng hoa Vì tà đạo, phản nghịch Hầm gian nan phải sa. Ngươi là lái tàu ác Dắt vào dòng nước ngược Trước, sau quanh quẩn mãi Vónh viễn không lối ra”. Điều-đạt đau đớn nói: “Cù-hòa-ly đã đến Còn các bạn thân khác Đều đến địa ngục chăng? Bạn ác sao quá vậy? Dẫn ta vào đường ác Đến ở trong địa ngục Mà cũng dẫn ta theo.” Mục-liên, đệ tử Phật Thần thông được tự tại Xót thương ba đường ác Nhân đi gặp Điều-đạt Thấy vua A-xà-thế Vua cúi đầu cung kính Lễ chân Mục-kiền-liên Sau đó bèn hỏi rằng: “Được đi xem đường ác Nguyện xin thầy nói cho Việc thấy Điều-đạt ác Chịu thứ khổ đau nào?” Mục-liên đáp vua rằng: “Khổ đau Điều-đạt chịu Nỗi đau khổ đầy đủ Không thể nói hết đâu! Có tám địa ngục lớn Ngục có mười sáu thành Trăm hai mươi tám ngục Hợp chung các khổ ấy, Chỉ riêng ngục A-tỳ Dụ khổ các ngục này Khổ không an giây lát Nên gọi ngục Vô-trạch Chịu khổ rất tệ ác Thống khổ chồng chất lên Lụi đền trả tội khác Không bao giờ ngừng nghỉ. Mười sáu ngục lửa cháy Vây đốt thân người tội Bị các tên đau khổ Bắn trúng đích không chừa. Lúc ấy, vua Diêm-ma Trách Điều-đạt đủ điều Ngục tốt lại mắng nhiếc Thảy đều tâu với vua.” Vua nghe lòng bỗng sợ Toàn thân đều nổi ốc Kinh sợ hướng Mục-liên Chắp tay và cúi mình, Lòng vua liền héo rũ Như hoa gặp lửa hừng Mặt nước mắt ràn rụa Như hoa sen gặp mưa Vừa bi thương vừa sợ Hướng về Mục-kiền-liên Tự trách mình từ trước Làm nhiều việc bất thiện Nếu lòng biết hổ thẹn Tránh xa bạn ác rồi Nay ăn năn ngàn muôn Như roi thúc ngựa hay. Ý giống như dầu mè Gặp thơm thì bèn thơm Gặp hôi thì chịu hôi Tâm ông cũng như thế. Mục-liên tâu vua rằng: “Biết hối hận bậc nhất Hối trách bệnh đã thấm Thuốc hay Phật chữa khỏi.” Vua nghe ngài dạy bảo Rất sợ hãi địa ngục Xin nương nhờ Đức Phật Như bệnh theo thầy hay Lệnh lập lầu quán báu Trang hoàng bằng ngọc quý Như điện Thiện pháp trời Bốn bên có lan can Bốn phía thềm thang báu Bốn phía bốn ao tắm Hoa bằng bốn chất báu Các thứ đẹp nhiệm mầu. Ở trên có cây báu Các vua đều kỹ xảo Cung Đế Thích, Đao-lợi Như cây Trú độ trời Lập tòa cao bên dưới Như vua trời Đao-lợi Ở dưới cây Trú độ Tòa đại ngự Đế Thích Vua thỉnh Phật vào cung Phật ra như mặt trời Phát ngàn ánh sáng mầu Vua đích thân ra đón Cờ, phướn, lọng bốn báu Hoa hương các kỹ nhạc Đủ thứ báu nhiệm mầu Thành kính dâng lên Phật, Tức thời đánh tất cả Hai mươi ức cái trống Các trời đều tung hoa Như mưa che khắp đất. Phật tức thời đi đến Lên điện ngồi tòa cao Giống như vua trời Phạm Ngồi cung Phạm bậc nhất. Vua vô vàn ý kính Hình dung rất đẹp lành Như mặt cung điện trời Ở bên núi Tu-di Tay cầm bình nước vàng Rót rửa tay Như Lai Tay ngó sen của Phật Tướng bánh xe sáng ngời. Vua tự dâng thức ăn Món ăn ngon trăm vị Rất thơm ngon, thanh tịnh Như món ăn trời dâng. Phật cùng các đệ tử Sau khi thọ trai xong Súc miệng, rửa bình bát Thanh tịnh như ý Phật. Lầu quán, điện cao vời Chúng sinh nhiều vô số Như các trời ngắm Phật. Ở cung Trú độ thọ Vua trời lòng sầu thảm Cùng các trời đi đến Tự quán sẽ bị đọa Thọ thân trong thai lừa Vua sầu thảm như vậy Nhìn kỹ khổ địa ngục. Đại Quốc vương Ma-kiệt Cùng các vị thể nữ Phục sức rất đẹp đẽ Sáng chói như ánh chớp Theo bên vua mà đến Cung kính lễ Thế Tôn Hoặc cầm các hoa báu Hoặc cầm hoa vàng bạc Lúa vàng hoặc lúa bạc Đủ các thứ châu báu; Lại có các thể nữ Tay cầm đồ vàng bạc Đều đựng đầy nước thơm Và bình báu cát tường Chứa nước thơm dang tiếng Vẩy sạch đất bụi bặm Biết bao hoa nhiều màu Tung rải khắp mặt đất Đem y phục nổi tiếng Chuỗi ngọc báu đủ loại Đều cởi ra dâng cúng Chất gom đầy mặt đất. Vua cùng với đại chúng Gieo mình trước Như Lai: “Phật từ giúp chúng sinh Xin rủ thương loài ác.” Phật thấy các trời người Lòng đều sinh lo sợ Đại chúng số ngàn ức Đều mong muốn được độ Tức thời nói họ nghe Pháp yếu rất sâu nhiệm Nước cam lộ bốn đế Pháp quyết định giải thoát. Có sáu ức chúng sinh Hiểu đế thấy dấu đạo Vô số chúng sinh khác Đều phát tâm đại đạo.  <詞 id="50112212">Phẩm 28: HIỆN NHŨ BỘ LỰC Phật nhập vào Vô dư Diệt đau đớn của thân Cùng đệ tử La-hán Rời thành Duy-da-ly Đi qua các làng xóm Khoan thai theo thứ lớp Giác ngộ các chúng sinh Khiến trồng gốc đức lành Vì vô số chúng sinh Hiển bày hạnh lành xưa Độ thoát vô lượng số Khiến uống vị cam lộ. Lần đến thành Thành hữu Nơi Lực só sinh ra Cùng với các đệ tử Dừng nghỉ tại xứ ấy. Cách nơi ấy không xa Thành Câu-di-na-kiệt Trong cửa thành có núi Năm trăm Lực só nhóm Cùng họp lại bàn luận: “Núi này chướng ra thành Nên cùng họp sức dời Tỏ chúng ta mạnh hơn Để tiếng tăm đời sau Trùm khắp cả bốn phương Sức tinh tấn đầy đủ Không lúc nào đứt đoạn”. Bàn rồi bèn ra thành Đem voi, ngựa, trâu xanh Mang dây thừng, cây gỗ Cùng nhau đến dưới núi Lập ra đủ mọi cách Cột núi vào con vật Tay thì nắm dây kéo Dùng cây gỗ đẩy bồi Cùng nhau lớn tiếng hô Đồng thời xuất toàn lực Tiếng lớn vang cả nước Không thể lay động núi. Phật dẫn các đệ tử Thứ lớp đến chỗ này Các Lực só thấy Phật Tỏa ánh sáng màu vàng Như ngàn mặt trời mọc Ba mươi hai tướng mầu, Thấy Phật họ mừng rỡ Bỏ núi, đến chỗ Phật Cung kính làm lễ Phật Đi quanh phải ba vòng Phật nhân đó hỏi họ: “Vì sao các tráng só Nhóm họp ở đây thế?” Họ cùng bạch Phật rằng: “Chúng con sống ở đây Thuộc dòng họ Lực só Núi này cản cửa thành Chúng con cùng họp bàn Muốn dời ngọn núi ấy Khiến đường vào thành phẳng. Hầu để tiếng mai hậu Hiển bày sức Lực só Nên dùng voi, gia súc Và hết sức lực mình Đã tận dụng phương tiện Mà núi vẫn không lay”. Phật cùng với đại chúng Đi đến chân núi này Thu gọn lại y phục Dùng tay trái nhấc núi Để vào bàn tay phải Rồi ném lên hư không Lên mãi tận trời Phạm. Trong núi phát tiếng nói: “Thế gian đều vô thường Các pháp đều vô ngã Chỉ vô vi diệt khổ.” Núi từ trên hạ xuống Trở về tay phải Phật Phật dùng miệng thổi tan Nát vụn ra thành bụi Rồi lại gom nhóm lại Trở lại ngọn núi cũ Đem dời đến chỗ khác Bấy giờ các Lực só Thấy Thế Tôn Đại só Lòng vô vàn mừng rỡ Toàn thân đều nổi ốc Lòng thêm cung kính Phật Đến làm lễ chân Phật Quỳ xuống, chắp tay bạch: “Thưa Đấng Trời trong trời Sức lực dùng vừa rồi Là năng lực Nhũ bộ Là năng lực thần thông Hay định lực của đạo?” Phật bảo các tráng só: “Lắng nghe lời Ta nói Tay trái Ta nhấc núi Đặt trong bàn tay phải Ném lên hư không ấy Là năng lực Nhũ bộ Lên đến tận trời Phạm Trong núi phát tiếng nói Thế gian đều vô thường Tất cả đều vô ngã Riêng vô vi diệt khổ.” Lại chắp tay bạch rằng: “Xin Đấng Trời trong trời Hoan hỷ giảng nói lại Sức bú mớm cha mẹ Thì có hạn lượng thôi.” Phật bảo các Lực só: “Các ngươi có muốn nghe Sức Nhũ bộ Phật chăng?” Đáp rằng: “Dạ muốn nghe! Sức Nhũ bộ Thế Tôn”. Phật dạy: “Hãy nghe đây! Sức mười con trâu thường Bằng một con trâu xanh, Sức mười con trâu xanh Bằng một con trâu mao, Sức mười con trâu mao Bằng một con độc giác, Sức mười con độc giác Bằng một con voi thường, Sức mười con voi thường Bằng một voi sổ sinh, Sức mười voi sổ sinh Bằng một con tả tượng, Sức mười con tả tượng Bằng một con hương tượng, Sức mười con hương tượng Bằng một đại đức tượng, Sức mười đại đức tượng Bằng một voi ngà chày, Sức mười voi ngà chày Bằng sức một long tượng, Như sức mười long tượng Bằng lực só vai rộng, Mười lực só vai rộng Bằng sức một Thiên tiết, Mười lực só Thiên tiết Bằng một trời Só thừa, Ba trăm hai mươi só Bằng một lóng tay Phật. Sức bú mớm cha mẹ Sức bú mớm của Phật Trạng thái giống như vậy. Các Đức Phật quá khứ Và các Phật vị lai Và hiện nay như Ta Tất cả đều bình đẳng; Bình đẳng âm thanh xưng Bình đẳng lượng tướng tốt Bình đẳng phước báo ứng Bình đẳng giác trí tuệ Bình đẳng giới định ý Chỉ hai việc không bình Hình tướng và tuổi thọ”. Bấy giờ các Lực só Cúi đầu lễ chân Phật Chắp tay bạch Phật rằng: “Nay thấy sức bú mớm Cha mẹ của Thế Tôn Nguyện rủ lòng xót thương Giảng nói chúng con nghe Phước lực công đức Phật”. Phật bảo các Lực só: “Người muốn nghe, lắng tai!” “Thưa chúng con muốn nghe” Phật bảo các Lực só: “Khắp cả Diêm-phù-đề Sức phước đức chúng sinh Sánh với một phía thành, Sức Chuyển luân thánh vương Sức phước đức gốc lành Gấp thêm trăm và gấp ngàn Không được so sánh nhau. Vua Chuyển luân hai phương Vua Chuyển luân ba phương Vua Chuyển luân bốn phương, Thiết luân một phương hiện Đồng luân hai phương hiện Ngân luân ba phương hiện Kim luân bốn phương hiện Bánh xe có ngàn căm Bảy báu xen lẫn nhau Chiếu sáng như mặt trời. Sức phước đức hai phương Ví như trước đã bồi Vua phước lực ba phương Cũng dụ kiến hiểu vậy Phước lực vua bốn phương Dụ để chúng sinh hiểu, Sức phước đức chúng sinh Trăm lần, ngàn muôn lần Kể sức công đức ấy Không bao giờ ví được. Giả sử khiến bốn cõi Tất cả loài chúng sinh Đều là vua Chuyển luân Hợp sức phước đức này Tất cả sức công đức Của bốn vị vua trời Trăm ngàn, hàng ức muôn Không bao giờ ví được. Người khắp bốn vua trời Đều làm bốn vua trời So sánh sức phước đức Của vua trời Đế Thích Trăm ngàn, hàng ức muôn Không thể ví dụ được. Các vị trời Đao-lợi Đức như trời Đế Thích Không sánh vua trời Diệm Tất cả sức công đức Trăm ngàn muôn ức lần Không thể ví dụ được. Giả sử các trời Diệm Phước như vua trời Diệm Không sánh sức phước đức Của vị vua trời Gia. Nếu có sức phước đức Khiến các trời Đâu-thuật Đức như vua trời này Không sánh sức công đức Của vua trời Hóa lạc. Đức của vua Hóa lạc Không sánh sức phước đức Vua trời Ứng hóa thanh. Các trời Ứng hóa thanh Phước lực như vua trời Không sánh sức công đức Của Phạm thiên bậc nhất. Giả sử các trời Phạm Như Phạm lực bậc nhất Sức công đức không bằng Với vị trời Đại Phạm. Vô số không thể kể Không bằng sức công đức Của một vị Duyên giác Trăm ngàn muôn vạn ức Không thể nào ví dụ. Tam thiên đại thiên giới Tất cả loài chúng sinh Đức lực như Duyên giác Không bằng một Bồ-tát. Tất cả sức phước đức Loài chúng sinh mười phương Đều khiến thành Bồ-tát Sức phước đức đầy đủ Không được sức công đức Của một tướng Đức Phật Trăm ngàn muôn ức ức Không thể nào ví dụ. Chư Phật ở quá khứ Cùng chư Phật vị lai Và Ta trong hiện tại Đức lực đều bình đẳng Âm bằng, xưng lượng bằng Tướng bằng, phước đức bằng Các pháp báo ứng bằng Chỉ tuổi thọ không đồng.” Bấy giờ các Lực só Cúi đầu lễ chân Phật Quỳ thẳng, chắp tay bạch: “Bạch Đấng Trời trong trời Đã thấy sức bú mớm Nghe đủ sức phước đức Cúi xin được nghe lại Sức trí tuệ của Phật.” Phật bảo các Lực só: “Người thích nghe, lắng tâm Nay Ta sẽ nói đủ Sức trí tuệ của Phật. Cõi Diêm-phù-đề này Rộng bảy ngàn do-diên Hình đất có ba góc: Phương Tây Cù-da-ni Rộng tám ngàn do-diên Hình đất là vuông vức. Phương Đông Phất-vu-đãi Rộng chín ngàn do-diên Hình đất như trăng khuyết. Phương Bắc Uất-đơn-việt Rộng một muôn do-tuần Địa hình như trăng tròn. Địa vực bốn phương ấy Các cỏ cây, tre trúc Đều dùng để làm bút, Nước tất cả biển lớn Sâu rộng dài ba trăm Ba mươi sáu muôn dặm Dùng nước hòa làm mực. Núi Tu-di vào đất Dưới đến mé kim cang Cũng lại có ba trăm Ba mươi sáu muôn dặm Ngang mặt nước trở lên Cũng lại có ba trăm. Ba mươi sáu muôn dặm Bốn phương bốn báu thành Phương Bắc bằng vàng ròng Phương Đông bằng bạc trắng Phương Nam lưu ly xanh Phương Tây bằng thủy tinh Giống như núi Tu-di Đều khiến thành lụa trắng Viết hết bút cây cối Cạn hết nước các biển Ghi hết lụa trắng này Không tả hết trí tuệ Đệ tử Xá-lợi-phất Nhật nguyệt sáng soi chiếu. Ngàn cõi nước như thế Ngàn mặt trời, mặt trăng Bốn ngàn các địa vực Ngàn Đông, Tây, Nam, Bắc Ngàn núi chúa Tu-di Và bốn ngàn vua trời Ngàn Đế Thích Đao-lợi Ngàn vua trời Đâu-thuật Ngàn vua trời cõi Diệm Ngàn vua trời Hóa lạc Ngàn trời Hóa tự tại Và ngàn các vua trời Gọi là ngàn thế giới Ngàn thế giới như vậy Đó gọi là tiểu thiên, Ngàn ngàn tiểu thiên giới Gọi đệ nhị trung thiên, Đệ nhị trung thiên ấy Đủ số một ngàn ngàn Thì đó gọi tên là Cõi Tam thiên đại thiên. Giả sử cõi Tam thiên Đại thiên thế giới ấy Tất cả loài chúng sinh Tuệ như Xá-lợi-phất Đem sánh trí tuệ Phật Gấp trăm và gấp ngàn Muôn muôn ức ức lần Không thể tính, thí dụ Sức tuệ Phật như thế. Các Phật thời quá khứ Và các Phật vị lai Như Ta là hiện tại Tất cả đều bình đẳng Bằng âm, bằng danh xưng Bằng đức, bằng tướng hảo Bình đẳng các báo ứng.” Bấy giờ các Lực só Cúi đầu lễ chân Phật Chắp tay, bạch Phật rằng: “Bạch Đấng Trời trong trời Đã thấy sức bú mớm Nghe sức tuệ công đức. Cúi xin Ngài giải thích Sức thần túc của Phật.” Phật bảo các lực só: “Người thích nghe, lắng lòng.” “Thưa vâng, xin muốn nghe.” Phật bảo các tráng só: “Xưa lương thực thiếu thốn Người dân đều nghèo đói Các đệ tử khất thực Không thể tự nuôi thân Ngồi thiền ý không định Không thể tu pháp lành, Thời đệ tử Mục-liên Bèn tìm đến chỗ Ta Cúi đầu lễ chân Phật Rồi lui sang một bên Chắp tay bạch Phật rằng: “Nhớ xưa nghe Phật dạy Đất này đều ăn được Vì chúng sinh bạc phước Đất màu mỡ chìm xuống Sỏi, đá, cát nổi lên Như con nay biết rõ Đất màu mỡ ở dưới Chúng sinh đáng thương xót! Nay muốn lấy đất này Đảo trên đem xuống dưới Đảo dưới đem lên trên.” Ta liền quở Mục-liên: “Chớ nhọc làm việc ấy Chúng sinh này đời trước Không tu các gốc lành Không có công đức kia Xứng ăn đất màu mỡ.” Đệ tử Mục-kiền-liên Dùng tay trái nâng lên Đất Tam thiên thế giới Đặt trong bàn tay phải Mang để ở cõi khác Tất cả loài chúng sinh Không loài nào hay biết Cũng không tâm sợ hãi. Cõi Tam thiên đại thiên Thế giới như thế ấy Tam thiên thế giới này Đầy các loại chúng sinh Thần lực như Mục-liên So thần lực Phật thân Thì trăm ngàn muôn ức Không thể ví dụ được. Dù chúng sinh mười phương Thần lực như Duyên giác Thần lực các đệ tử Và thần lực Phật thân So sánh ý lực Phật Trăm, ngàn muôn ức lần Vô lượng không tính kể Không thể ví dụ được.” Bấy giờ, các Lực só Cúi đầu lễ chân Phật Chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch Đấng Trời trong trời Đã thấy sức bú mớm Sức thần túc phước tuệ Xin nói sức định ý Giải thích cảnh giới ấy” Phật bảo các Lực só: “Người thích nghe, lắng tâm.” “Thưa, chúng con xin nghe!” Phật bảo các Lực só: “Bốn phía núi Tu-di Các rồng bay lên không Đồng thời tuôn mưa lớn. Khắp cùng bốn thiên hạ Nước ở bốn phương ấy Đều chảy vào biển cả Phật đều phân biệt biết Các giọt nước mưa này: Trước rơi xuống nơi nào Vùng nào, làng xóm nào Nhà nào, vườn ruộng nào Cây nào, cành nhánh nào Hoa nào và trái nào? Vì chảy vào biển cả Của bốn phương vực này Tất cả nước đã có Sức định ý của Phật Đều phân biệt biết được Nguồn gốc các giọt nước Từ nơi nó đã sa. Đó là định ý Phật Sức thần rất nhiệm mầu. Các Phật đời quá khứ Các Phật đời vị lai Như nay Ta nói pháp Tất cả đều bình đẳng Bằng âm, bằng xưng lượng Bằng đức, bằng tướng tốt Bình đẳng pháp báo ứng Chỉ hai việc không bằng Hình thể và tuổi thọ. Tại sao lại không bằng? Lúc người đời sống lâu Vì thân người cao lớn Phật cũng tùy thế tục Sống lâu, thân cao lớn. Người đời mạt chết yểu Thân hình xấu, nhỏ con Nên các Phật ra đời Có hai điều không bằng.” Phật bảo các lực só: “Ta đã vì các ông Giảng nói giải thích đủ Sức bú mớm của Phật Sức phước đức, trí tuệ Sức thần thông định ý Các năng lực đã nói Vào chiều tối hôm nay Bị sức mạnh vô thường Sẽ kích phá hoại diệt. Những người như vậy thảy Thế gian là vô thường Tất cả loại có hình Đều là pháp chia lìa Diệt vong và tan hoại Có thành ắt có hoại Có sinh phải có chết Có nhóm phải có tan Có đứng phải có rơi.” Phật vì các Lực só Nhân đó nói yếu kệ: “Hữu vi là vô thường Sinh khởi là diệt tận Các hưng suy tự nhiên Siêng cầu an vắng lặng. Hữu vi là vô thường Sinh khởi là diệt tận Phật là Bậc Tối Tôn Tuổi thọ cũng chung tâïn. Đời sống ngắn ngủi ấy Như mộng bỗng trôi qua Buông lung không siêng tu Ngu này đáng thương xót. Như nước trên núi cao Chảy nhanh không trở lại. Mạng người cũng như thế Đã qua không trở lại. Như cung bắn tên rồi Đã đi không quy về Mạng người cũng như thế Đã đi không trở lại. Nguồn gốc của các khổ Phải siêng cầu diệt khổ Biết tám đường Hiền thánh, Uống cam lộ ngọt ngon.” Lúc Phật nói kệ xong Cõi Tam thiên đại thiên Đất rung chuyển sáu cách Vô số các vị trời Bỗng rời cung điện mình Đến đầy lấp không gian Mưa các hương hoa trời Bột vàng, bạc, chiên-đàn Chư Thiên trổi kỹ nhạc. Phạm thiên lễ chân Phật Chắp tay ở trước Phật Nhân đó nói kệ rằng: “Các Phật khó gặp gỡ Ý Chánh Giác khó có Như hoa Ưu-đàm-bát Phật lại còn khó hơn. Thích Sư Tử trên người Khỏe mạnh càng khó gặp Cùng các chúng trời người Nay chắp tay kính lễ.” Trời Đế Thích khi ấy Bước đến lễ chân Phật Quỳ thẳng ở trước Phật Nhân nói bài tụng này: “Khiến con được mắt tịnh Sáng soi đuốc pháp đây Đóng kín cửa đường tà Không sợ rơi đường ác, Thầy Đại Bi cõi thế Vì thương xót chúng sinh Nên cùng các chúng trời Ở trước chắp tay lễ.” Thời, sáu muôn vị trời Thấy đế được dấu đạo Lễ Phật, nhiễu ba vòng Rồi trở về cõi trời. Lúc ấy người trong hội Quy mạng Đấng Tam Tôn Phật pháp các Hiền thánh Từ đây đến cuối đời Giữ giới, tu mười lành Xuất gia, rời thế tục Thọï giới làm Sa-môn Thấy đế, chứng vắng lặng Trở về đạo Bất hoàn Hoặc thành Vô trước chân Hoặc phát ý Duyên giác Hoặc phát tâm Đại đạo Vô hạn không thể lường. Lại có loài chúng sinh Chưa từng có gốc lành Chỉ mới phát tâm đạo Vô số các chúng sinh Nhớ Phật, thầy trời người Siêng nhiếp thân, miệng, ý Nay sẽ về vô vi Thấy rồi! Quá kinh sợ! Tu hành lìa các khổ Thân người rất khó được Như cứu lửa trên đầu Nhân đó làm điều lành Siêng tu không biếng nhác Lìa khỏi các khổ não Được vô vi mát mẻ. PHẬT BỔN HẠNH KINH (PHẬT BỔN HẠNH TÁN TRUYỆN) <卷 id="50112213">QUYỂN 7 <詞 id="50112214">Phẩm 29: ĐẠI DIỆT Thời, Phật cùng đại chúng Đi đến rừng Song thọ Phật sai A-nan đến Song thọ bày giường nằm Thế Tôn liền lên võng Nằm nghiêng hông bên phải Mặt hướng về phương Tây Đầu hướng Bắc, gác chân. Thời Hiền giả Tu-bạt Tu nhân, dứt tháo tánh Muốn gặp Phật xin độ Đến thưa với A-nan: “Tôi biết Thầy trời người Sắp đến lúc Niết-bàn Nên nay đến khó gặp Biết rõ tất cả pháp Nay muốn xin làm lễ Làm sao dứt gốc khổ? Nếu nay không được gặp Như mặt trời vào tối Xin A-nan thông báo”. Tâm A-nan buồn phiền Liền bảo với Tu-bạt: “Giờ không phải lúc gặp” Phật dùng Nhất thiết trí Chiếu suốt người đáng độ Tướng mạo trăm phước đức Tâm Từ nhìn Tu-bạt Phật dùng lời êm dịu Bảo với A-nan rằng: “Hãy cho người đó vào Ta ra đời vì thiện”. Tu-bạt được thỏa nguyện Rất vui mừng hớn hở Liền đến chỗ Đức Phật Nhất định được giải thoát. Lúc bấy giờ, Tu-bạt Khiêm kính tôn Phật đức Cúi mình làm lễ Phật Từ tốn bạch Thế Tôn: “Thầy trước biết thế gian Rằng Ngài từ đắc đạo Mình đã được giải thoát Lại còn độ chúng sinh Nguyện gặp xin chỉ bày May ra được giác ngộ Nên đến lễ kính Ngài Chẳng dám xưng trí lực”. Phật thấy Tu-bạt đến Với lòng rất kính vui Đem đường Hiền thánh nói Diệt khổ, bày vô vi. Bấy giờ Tu-bạt nghe Tức thời được giải thoát Ý tà mê giác ngộ Liền được đạo, giải thoát Kiến chấp điên đảo xưa. Vì từ sinh tử mê Sáu mươi hai đảo kiến Bị thế tục nhận chìm Vị ấy hết không thừa. Bạch y được đắc đạo Lậu hết thành La-hán Vượt bờ, không lại qua. Biết Phật sắp ra đi Sinh yêu thương khắp đời Khát ái, cả hai diệt Diệt ý, các khổ kết Hiểu những điều Phật nói Lời dạy sâu chân chánh Để dứt tâm nhiễm đắm Tâm định không còn lậu, Biết sinh tử cõi thế Tu-bạt tư duy kỹ Cho thế gian đoạn diệt Nhãn kiến này trừ ngay. Đời vốn là diệt vong Ý biết như vậy rồi Thế gian có thường kiến Tà nghi chợt dứt bỏ Điều chấp giữ trước đây, Bỏ tà kiến điên đảo Nghe lời Phật chân thiện Mở từ tâm thọ trì. Nhân vì ở đời trước Các căn lành đã tu Nguyện vào thành Nê-hoàn Nên mau chóng giải thoát, Đã được lành vô vi Trừ tối, giác chánh chân Hiểu mãi pháp cam lộ Trừ hết các trần lao. Thời, thấy Phật Thế Tôn. Muốn bỏ vào vắng lặng Với lòng Từ nhìn Phật Trong tâm liền nghó rằng: “Đáng lẽ ta không nên Nhìn Phật xả thọ mạng Đuốc sáng khắp thế gian Chỗ chúng sinh nương tựa Ban lành cho tất cả. Con nguyện xả thân trước Xin Đấng Trời trong trời Ngưng xả thọ giây lát”. Thiện tâm phát vô lượng Năm vóc gieo xuống đất Cúi đầu lễ chân Phật Sinh tâm định như núi Tức thời liền chóng diệt Giống như mây lớn giăng Mưa cam lộ tuôn khắp Tắt ngấm lửa đồng nhỏ. Phật truyền bảo Tỳ-kheo Cúng dường thân Tu-bạt Đệ tử Phật sau rốt Độ vào thành Nê-hoàn. Nhân đó tựa hông phải Nằm lên trên giường đây Muốn xả bỏ thân Phật Đã hết số tuổi thọ. Lúc ấy vào đầu đêm Trăng sao dần bớt sáng Chim thú trong rừng lặng Phật bảo các đệ tử: “Các thầy kính trọng giới Như ngọn đèn tôn sư Sau khi Ta rời thế Thuận theo chớ trái phạm Nhiếp tịnh thân, miệng, ý Xả lợi cầu an ổn Ruộng vườn, chứa tôi tớ; Không kho lẫm, làm vườn Không trồng các cây cối Cũng chớ gây tổn thương. Không được vì thân mình Xây vách cao, tường nổi Không ngước xem lịch số Không hòa hợp thuốc thang Biết thời hạn, tiết thực Sửa mình, không mong kính. Không tự giấu lỗi xấu Không sống bằng bùa chú Không làm sứ cho vua Không xem tướng, tốt xấu. Sau các thầy sẽ đủ Y thực và thuốc thang Thường nhiếp tâm biết đủ Chịu khổ, giữ tiết hạn Các thầy chỉ siêng năng Vâng giữ giới cấm này Cội gốc giới Cụ túc Nê-hoàn đều chuyên chở. Từ đó sinh định tuệ Giới cấm đủ hài hòa Giữ gìn cho đầy đủ Trí tuệ càng tăng thêm. Dứt bỏ các trần lao Duyên này đến Nê-hoàn. Lời này ấn phong giới Vì người biết giữ giới Giới ấy đủ không thiếu Đầy đủ không sai sót Thì kia lành thanh tịnh Thoát trần lao vắng lặng. Người không có giới cấm Thì không phải Sa-môn Vì lập giới cấm địa Thành Sa-môn khéo mầu. Đã đầy đủ tịnh giới Tâm không theo các dục Cố gắng giữ tâm trụ Nhẫn nhục, không khởi sân, Như trâu đành bỏ cỏ Buông lung nghó theo tà Sai mất giới cấm tịnh Điên đảo rất suy hao. Nếu gặp phải giặc dữ Một đời thân chịu khổ Nếu chạy theo các dục Đời này và đời sau Chịu đủ các khổ độc, Cho nên chớ theo dục Kẻ mừng khi được dục Sau ắt gặp khổ to. Người không nên sợ hãi Lửa hừng hực đốt cháy Chớ sợ hổ mang độc Và giặc ác hung bạo Hại đoạt mạng con người Phải sợ ý ngu si Như ngu thấy núi mật Không nghó nạn nát thân. Như voi say không móc Nhảy nhót như khỉ vượn Tâm ngày đêm theo dục Không theo các pháp mầu Người không dứt tâm ấy Chân chẳng được nghỉ ngơi. Đã điều phục được tâm Chẳng tà lệch Nê-hoàn. Được ăn như uống thuốc Không nên nghó chán ưa Có được thức ăn ngon Cũng cho thân khỏi đói. Cũng như ong hút hoa Lấy tinh vị của hoa Xin ăn nên vừa phải Không để mất kính tin Không phiền người ưa thí Chớ nên chứa để nhiều Kẻ cho nhiều thì chán Chứa của nhiều thì mệt. Các thầy ngày đêm siêng Phương tiện nên gắng lên Chớ buông lung ngủ nghỉ Tổn hao mạng khó được Khắp đời bị chết thiêu Ai suốt đêm ngủ yên Kẻ thù luôn vây hãm Khủng bố đâu yên được. Nên bỏ cấu trần lao Được ngủ yên đêm dài Trần lao che yên ngủ Tỉnh ngủ diệt trần lao. Hổ thẹn là y phục Chuỗi ngọc móc giữ voi Người không tâm hổ thẹn Các đức lành bỏ đi Người có tâm hổ thẹn Đó mới gọi là người Mặt dày không biết thẹn Thì đó là súc vật. Nếu cắt rời chi thể Tâm cũng không rối loạn Cũng không trái giới cấm Miệng chửi mắng tục tằn Thì giới là nhẫn nhục Sức mạnh giới là đây. Không nhịn lời thô tục Không được rốt giải thoát Mất tên pháp nhuế hoại Lòng lành vui kẻ thù Không nên thuận tâm độc Phải dừng lại cho mau Kẻ thù của các lành Không gì qua tức giận Mau mau đừng bị dụ Hoại giới, hủy lòng nhân. Tại gia nhiều ái đắm Tội lỗi sân không nặng Giữ giới sân càng nặng Như nước lạnh ra lửa Cạo tóc mặc pháp y Ôm bát đi khất thực Oai nghi gương cho đời Không nên có tâm sân. Mạn tăng thì lành giảm Người tại gia còn vậy Huống xuất gia lìa đắm Người điều phục tâm định Pháp trung bình chánh chân Không hề có tà ngụy Chánh pháp tạo việc lành Tà ngụy là dối lừa. Chứa của, Thánh buồn lo Ít muốn là lìa khổ Cho nên đệ tử Ta Ít cầu thêm các lành. Các thầy phải biết đủ Đó là tâm an định Biết đủ, nhân gian vui Kẻ tham, sinh khổ nàn Giàu, tham lam thành nghèo Nghèo, biết đủ thành giàu Tham rong ruổi không chán Người biết đủ được thương. Người muốn cầu giải thoát Không nương chỗ ồn náo Trời Đế Thích sẽ xuống Kính lễ Bậc độc cư Các thầy bỏ thân ái Khổ thân ái dừng ngay Bỏ nhà luyến thân ái Như voi già sa lầy. Người ý chí tinh tấn Mọi việc không nghi nan Tính nước tuy mềm mại Chảy hoài xuyên thủng đá Kéo lửa mà ngưng nghỉ Không thể được lửa đâu! Siêng kéo thì tìm lửa Tinh tấn gặp lửa mau Nên phải lập tinh tấn Hướng về cửa Nê-hoàn. Tà trái đạo vô vi Các thầy chớ nên làm Giữ chí không lầm loạn Các tà không được vào. Bạn Sa-môn giữ chí Thất chí mất các lành Chí mặc giáp trượng đủ Địch đâu thể thắng được Lòng chuyên mặc giáp đức Trần lao không thể thắng. Người chuyên tinh định ý Hiểu rõ đời tử sinh Cho nên phải định ý Định ý, khổ không sinh, Như muốn qua dòng nước Nương cầu nổi bắc sang Muốn qua tất cả khổ Định ý, thuyền bậc nhất. Nếu các thầy lìa tuệ Nay cố bày thế pháp Có vậy thì được độ Pháp ngoài thì không thích Không gọi là bỏ nhà Giáp, thuốc hay lợi khí Thuyền bè qua sông nước Tuệ đưa qua sinh tử. Cho nên thường nghe pháp Phải theo lời dạy pháp Bậc tuệ có chánh kiến Người không tuệ tối tăm. Tâm chạy theo trần lao Sẽ không được giải thoát Người xét muốn cầu độ Siêng dứt bỏ trần lao Sa-môn phải điều tâm Dứt bỏ tâm buông lung Tâm vua trời điều lạc A-tu-luân thì không. Ta dạy các thầy thiện Các thầy phải siêng tu Lập ra nhiều phương tiện Để giúp đến Nê-hoàn. Giữa núi non vắng lặng Nhà rảnh rang rừng sâu Ở đó tu định ý Ta đi không hận lòng. Thầy thuốc đem hết thuật Hòa hợp nhiều thuốc thang Người bệnh uống được khỏi Thuốc không uống tại mình; Đạo Sư dẫn đường chánh Người theo không lo lắng Người sai lầm bị tổn Chẳng đoái hoài các nạn. Ta đã vì các thầy Giảng nói bốn Chánh đế Kẻ còn nghi thì hỏi Nay là lúc hỏi han.” Lúc Phật lệnh như vậy Đệ tử lặng không thưa A-na-luật nghó biết Ở giữa đại chúng thưa: “Mặt trời có thể lạnh Trăng có thể nóng lên Bốn đế chân chánh này Không bao giờ sai chạy. Khổ đế, khổ bức bách Duyên ái thì khổ sinh Lời các Phật nói ra Diệt tận đế, diệt ái Tám đường chánh cam lộ Vắng lặng là Nê-hoàn. Biết chúng Sa-môn này Phật cuối cùng đã độ Người chưa độ trong hội Trẻ già mới vào đạo Phật nói sơ La-hán Như đường tối sáng lòa Họ đã được giải thoát Ra khỏi vòng sống chết Họ đều mang bi hận Thầy diệt sao quá nhanh.” Phật nghe lời chánh đế Của Na-luật như vậy Muốn kiên định ý chúng Từ bi nói lời này: “Giả sử có kiếp thọ Rồi cũng sẽ cùng tận Ta đem lành ban đủ Sống lâu để làm gì? Trên trời và dưới thế Kẻ đáng độ đã độ Nửa độ, nửa bày đạo Chuyển giáo pháp được trụ. Các thầy phải tự chế Không cần nhớ nghó ta Chỉ siêng nói phương tiện Không gặp khổ chia lìa, Dùng đèn tuệ trừ tối Biết đời không bền chắc Rũ trọn lòng vui vẻ Giống như hết hoạn nạn. Người trí thoát hung suy Xa lìa kẻ tệ ác Bỏ được hai họa ấy Thì đâu có âu lo? Các thầy siêng tu thiện Tất cả rồi sẽ chết Ta vào thành Nê-hoàn Bây giờ đã đến lúc Bấy giờ hành xả thọ Là lời cuối của Ta”. Lúc ấy Phật tư duy Thiền ly dục bậc nhất Xuất thiền bậc nhất rồi Tư duy thiền đệ nhị Trải bốn thiền như thế Như thế trải qua khắp Qua lại trong chín thiền Thuận nghịch tận đầu mối. Thế Tôn, Trời trong trời Trở lại thiền bậc nhất Ra khỏi thiền bậc nhất Trở lại đến Tứ thiền Khi Phật tư duy kỹ Nghịch thuận trải thiền quán Lại từ đây xuất thiền Ý Ngài hơi chấn động Sau đó xả thọ hành Chợt vào thành Nê-hoàn. Phật vừa xả thọ hành Đất rung chuyển sáu cách Không trung có đuốc lớn Như kiếp tận lửa cháy Bốn phương lửa cháy lớn Giống như A-tu-la Đốt trời, rừng, cây, đầm Gọi là Ái Tận Lạc Mưa đá to cõi ấy Chớp sáng như phun lửa Khắp đời như lửa lớn Sấm rền rất đáng sợ Gió bụi mù nổi lên Cây gãy, núi băng đổ Giống như gió kiếp tận Gãy đổ nát vô hạn. Mặt trời không ánh sáng Trăng sao đều tối đen Nhật nguyệt đều không sáng Giống như bị phủ bùn Đông, Tây không phân biệt Không biết được ngày đêm Thế gian tối trùm khắp Sông nước chảy ngược dòng. Phật nằm bên Song lâm Buồn cảm hoa rơi rụng Sông ngòi nước đều nóng Giống như nồi nước sôi Song thọ vì đó héo Nghiêng che thân Thế Tôn. Vua rồng năm đầu lớn Đau buồn thân buông dài Hoặc buồn bã nhìn Phật Khóc lóc mắt đều đỏ Tức thời phun hơi nóng Xông hơi độc không lường Đốt nóng cổ họng ấy Như nhả hoạn trong lòng Thấy đời đều vô thường Tự ngăn, trở ưu sầu Tự ý vua theo đến Niệm Phật ngăn khóc gào. Các vua trời Tịnh cư Hiểu đạo, tâm điều định Lặng yên không khóc gào Thương đời hoặc sinh diệt Thần Chấp lạc bậc nhất Thần Đại lực Long vương Thiên thần Ái trọng pháp Bi cảm chật hư không Khắp nơi buồn che kín Thảm thương chướng khắp cùng Tiếng lớn của các loại Đầy khắp cả thế gian. Ma đã được toại nguyện Cùng ác binh vui mừng Vũ điệu như sấm động Đủ loại tiếng lớn vang Kêu to truyền lệnh rằng: “Cường địch chúa ta vong Từ nay ai có thể Vượt qua cảnh giới này.” Cây Phật đức gãy đổ Như voi lớn gãy ngà Như núi cao sụp đổ Trâu lớn sừng rơi rồi. Nay Phật xả thọ mạng Các trời, người thế gian Không còn chỗ quy ngưỡng Mất cây nương như vậy. Như hư không không nhật Như nước mất kho tàng Như ao hoa phủ sương Các hoa đều tổn thương, Thế Tôn xả thân mạng Lặng ẩn vào Nê-hoàn Tất cả loài hữu hình Không khỏi mất tinh vinh.  <詞 id="50112215">Phẩm 30: THÂN VÔ VI Khi ấy từ không trung Cung báu trời chiếu sáng Dùng xe ngàn voi chở Lơ lửng ở trên trời Lòng kính chăm nhìn Phật Thân hình xả thọ nằm Cảm động mà buồn than Liền nói lời giã từ Rằng: “Ở nơi sinh tử Tất cả đều vô thường Mới sinh ra hưng thịnh Rồi suy tổn diệt vong Quanh quẩn tìm vui sướng Các nỗi khổ liền sinh Đều diệt hết các khổ Vui vô vi bậc nhất Các thứ củi sinh tử Đốt cháy không còn dư. Lửa tuệ, khói danh đức Cùng khắp trời, thế gian Nước vô thường chợt đến Diệt ánh sáng của Phật Giống như lửa đồng mạnh Chợt gặp trận mưa lớn.” Lại có đấng Thiên tiên Tâm mẫn thiện điều lương Cư trú cung Tịnh cư Thanh tịnh dứt các dục Nhìn Phật rất ái kính Gào khóc như mây mưa Lòng nặng như Tu-di Liền nói lời như vầy: “Thế gian không hề có Người sinh mà không tử Xưa nay chưa từng có Người sinh mãi còn hoài Thượng, trung, hạ thông suốt Nhất định ai cũng hay Ngài còn không được khỏi Thì ai được sống hoài. Ngài dẫn đường cõi thế Dứt tà, bày đường chân Mắt tuệ là bậc nhất Nhìn đời khắp dưới trên Đời tuệ diệt như vậy Sẽ lại trụ đường tà Giống như mù không mắt Lạc mất đường bằng phẳng”. Đệ tử có mắt trời Tên là A-na-luật Lòng yêu ghét đã hết Dứt sinh tử, trần lao Thấy Phật đã diệt độ Thế gian sẽ tối tăm Các căn đều vắng lặng Liền khen lời như vầy: “Ở trong đại sinh tử Tuệ nghóa không được thông Thế gian như hơi sương Giây lát không còn hiện Chày vô thường cứng chắc Đâïp Tu-di báu Phật Bỗng nhiên đổ nát hết Nay rơi xuống mặt đất. Thế gian sao khinh bạc Không một chỗ đáng nương Lao xao không vững chắc Xao động hợp lại tan Pháp khắp đời diệt vong Không tôi ta, như mộng. Phật Sư Tử hàng phục Voi trần lao tự ngã Chưa đuổi kịp dấu đạo Sao không sợ việc ấy? Xem đời không chỗ nương Như chùm bọt sương mai. Phật hiệu Thiên Nhân Sư Trụ lớn bằng kim cang Bỗng nhiên ngã xuống đất Sức lực ở tại đâu? Sáu giống sinh năm nhánh Một mầm năm thứ quả Đều tưới ba cây này Ý nhọc bền khó chặt, Voi sức mạnh của Phật Bỗng hủy cây trần lao Tan nát không còn nữa Sau đó tự đổ nhào.” Thiên Mục cầm kim cang Vua trời mong trời mưa Thiết lập ra chánh pháp Dứt khổ ấy mát mẻ Đức xưng càng rộng lớn Trùm khắp cả thế gian: “Thầy các bậc Thánh hiền Vắng lặng mà diệt ẩn Đức danh vang cùng khắp Thấm nhuần pháp nhiệm mầu. Giống như mưa mùa thu Nước sông về tràn đầy Thiên Sư thương cứu giúp Tự ý vua về theo Trao cho đạo vô vi Ẩn thân như trời lặn Nổi mây giáng mưa ấy Thu đông mưa tuyết sương Cháy hừng hực lửa mạnh Sao còn bị diệt vong? Như tế xong lửa tắt Nay lửa thầy các trời Diệt tan lặng không sáng Thế gian còn tăm tối Dứt hy vọng giải thoát Trái bổn nguyện mất vui Đức lành tốt lưu truyền Vang khắp cả mười phương. Mang bốn tâm Đại từ Thương chúng như con đỏ Ai cũng được lành ấy Vì sao vắng lặng diệt? Được đạo mầu không đắm Sở sinh của các Phật Các pháp lành vô ngại Vắng lặng mà tự giác Dùng thân túc nhẹ nâng Biết thân là khổ nàn Do vậy phải mau chóng Xả thân an vô vi Trừ hết tâm u tối, Như ánh sáng mặt trời Dứt bỏ tâm dâm cấu Như mưa bụi đất trôi Không còn gặp các khổ Không bị phiền não bức. Đã độ rộng vô biên Biển sâu không đáy bờ Xuất hiện ra nơi đời Dứt các khổ độc hại Xót thương cõi thế gian Mong cầu được vắng lặng. Các tướng đẹp rực rỡ Lặng như vua Phạm thiên Trí tuệ lớn đầy đủ Làm Thầy của trời, người Dùng lành chuyển chúng sinh Dứt trần lao lìa ác, Ngày đêm thêm các lành Như mặt trăng mới mọc Thường nuôi lớn các lành Đức xưng rộng khắp nơi Khi tại gia đã hiểu Huống gì xuất gia rồi. Thuở xa xưa đã thệ Sẽ chiến đấu trần lao Xót thương kẻ nghèo hèn Thệ nguyện đã tràn đầy Phật dùng tâm bình đẳng Ăn không từ vị dở Cũng không hề tham đắm Đối với các vị ngon. Tuệ thí khó xả bỏ Người không thể xả bỏ Không nhận lấy của người Cũng không cầu lợi ích Tướng tốt đại danh xưng Tự nhiên như tiếng vang Rộng chọn các ý lành Quyết định đối đức lành Nên hiện tướng mạo đẹp. Người thấy dứt ba cấu Nói ra thành pháp luật Nuôi lớn lành chúng sinh Dùng tướng sáng nhịn nhục Kẻ oán là trần lao Chứa công đức vô lượng Cũng không khỏi vô thường. Nhiều đời chứa công đức Được báo không hạn lượng Quyết định được chánh đạo Như củi hết lửa tắt Chỉ chúng sinh đường lành Chặt hết rừng trần lao Chế ngự được tất cả Sự trói buộc sinh tử. Bỏ tám thắng, năm đường. Nhìn thấy rõ ba đường Chặt ba xét rõ ba Nhân được ba mắt tịnh, Ẩn một biết rõ một Đợi một đến bảy lớp Tan hết không còn dư Là thệ đối vô ngại Đem cam lộ cho đời Lời nói dứt giận dữ Dùng lành thấm chúng sinh Người khó ngộ ở đời. Thường trồng các gốc lành Không đem ác cho người Dựng cao cờ Chánh pháp Đối tất cả thế gian, Vườn Nai chuyển pháp luân Khắp thế gian vui mừng Thành tựu các giải thoát Dứt bỏ các tự ái. Thấy điều chưa từng thấy Khắp hợp với thanh tịnh Biết những việc khó biết Các pháp chưa từng biết, Dạy đời là vô thường Nơi sinh đến có khổ Dạy đời là vô ngã Không mê hoặc dài kia, Dựng cờ phướn Chánh pháp Xô ngã núi cống cao Giống như cột bảy báu Đổ ngã khi cúng tế. Mặt hủy lòng không hận. Không vui với lời khen Chán sinh Thiên thọ phước Phương tiện cầu bất sinh Tự vượt biển sinh tử Lại độ thoát tất cả Tự dùng tuệ để giác Lại giác ngộ chúng sinh. Như mây nhuần khi giác Như hoa lá núi rừng Kiến giải như nhật xuất Rồi trao cho chánh kiến Tuy sinh ở thế gian Nhưng không nhiễm việc đời Từng trải đường hiểm đời Nhưng không cùng chung đường. Tâm không hề phạm lỗi Được đạo lành còn diệt Khắp đời gặp gian nan Không chỗ nương, đáng thương Ngu si che mắt họ Không hề được đoái hoài, Không nghó lập phương tiện Cầu ra khỏi sinh tử Khổ sinh, già, bệnh, chết Ép bức đời không khỏi Chỉ Phật cứu được khổ Trao cho uống cam lộ. Thuở xưa binh Thiên ma Không thể thắng Thiên sư Tự nhiên sức vô thường Vô thường chợt thắng sư! Tai Thế Tôn nghe được Tiếng Tam thiên thế giới Sức thần túc thăng giáng Cho đến trời Phạm cư, Biết tâm niệm chúng sinh Cho đến ngục Vô trạch Các sinh tử khởi diệt Đều xét đế thấy rõ. Thiên Sư từ mới sinh Xoay vần khắp các nẻo Nhớ rõ như mắt thấy Tận cội nguồn tử sinh Đầy đủ tuệ sáu thông Có đủ giác quyết định Nay đều vứt bỏ hết Bỏ thân còn thọ hành. Ái đời theo sinh tử Ai nói pháp khiến dứt? Người đời ngu không trí Ai sẽ đem tuệ giác? Như xe không người lái Thuyền bè không kẻ chèo Bệnh nặng rời thầy thuốc Làm sao tự giữ gìn? Như lời không thành tín Không giác ý cầu trí Vương giả mất nghi vệ Làm lành không nhẫn nhục Đã lìa bốn việc ấy Công kia không hiển bày. Nay Phật bỏ cõi thế Không giúp việc khó thành Như tháng năm, tháng sáu Trời trong, không gió mây Nắng quá thiêu rụi cỏ Cho đến các côn trùng. Những chúng sinh đáng độ Nay sẽ đều gặp nạn Thế Tôn xả thọ mạng Sao mà đau khổ quá!” Thời, các trời buồn bã Thương xót nói lời này Dâm, nộ, si giảm bớt Khen thầy dứt sinh tử Đệ tử chưa giải thoát Thì bi thiết khóc gào. Người đã được giải thoát Nghó kỹ sự hưng suy Tiếng tăm vang các nước Các lực só Câu-di Buồn bã vội vàng đến Nhóm trong rừng Song thọ Bi thương tự gieo mình Khen các công đức Phật Tiếng than rất đau buồn Như ngỗng gặp diều hâu. Đến thấy Phật mất sáng Vắng lặng không biết gì Họ đồng thanh gào khóc Oằn oại như cá cạn. Thấy Phật nằm yên nghỉ Chi thể đều duỗi ngay Như vua Chuyển luân mất Các nước đều than khóc Nhân dân nhiều vô số Ra thành đến chỗ Phật; Đủ già trẻ, bé lớn Tâm buồn đau cuồng loạn Hoặc xé rách y phục Đau đớn miệng cắn răng Hoặc tự bứt đầu tóc Cào cấu cả mặt mày. Lại có vô số người Áo não tự gieo mình Đấm ngực mà kêu trời Khen Phật đức vô lượng: “Than ôi! Thầy trời người Nơi chúng sinh nương tựa Sao bỏ đi nhanh chóng? Dứt hẳn không còn mong!” Đại chúng buồn than khóc Không còn sức chịu đựng Vua của các lực só Đau đớn gào than rằng: “Thầy giác ngộ thế pháp Đã nằm không còn dậy Giống như đại quân bãi Cờ lớn không còn hiện Việc phải làm đã làm Nên giác Phật đã giác Ở đời giống như mắt Nay bỗng chợt nhắm mãi. Phật là cầu độ khổ Để giúp người qua sông Cầu lớn bỗng bị gãy Lấy gì qua khổ đau? Ánh tuệ Phật chiếu sáng Lòng tỏ, tinh tấn ngời. Xưa mặt trời Phật hiện Làm sáng khắp đất trời Nay ánh sáng tiềm ẩn Ở núi lớn vô vi Thế gian rồi lại sẽ Chìm vào mãi tối tăm.” Hoặc buồn bã nói sảng Hoặc sầu muộn nhìn chăm Hoặc khóc đến tắt tiếng Hoặc úp mặt dưới đất Chúng sinh ôm nhiều não Tướng gào khóc không đồng Nhưng ai cũng luyến mộ Đau đớn lòng nóng bỏng, Rồi xe kiệu trang trí Bằng bảy báu, ngà voi Các lực só nâng Phật Đặt lên kiệu báu này. Hương hoa đủ thứ quý Biết bao thức diệu kỳ Các lực só kêu khóc Cúng dường xá-lợi Phật. Các thiếu nữ quý tộc Thân đẹp, tay mảnh mai Tay cầm màn bảy báu Đẹp đẽ như lụa trời Lọng báu xen châu sáng Hoặc cầm báu rủ châu Hoặc cầm quạt bằng báu Cúng dường xá-lợi Phật. Các lực só nâng kiệu Kêu khóc mắt đỏ hoe Trên không tiếng sấm vang Vui xứng tai vừa ý. Trời tung các hoa ý Liên tục như mưa sa Hoa trời rơi xuống đất Tươi như vừa nở ra. Các trời chật hư không Các báu cúng dường Phật Nói những lời buồn khổ Khen ngợi công đức Phật. Các thần nữ Chấp nhạc Vẩy nước thơm chiên-đàn Tung y báu, Anh lạc Cúng dường xá-lợi Phật. Các lực só nâng kiệu Rước đến tận trong thành Trời người cung kính lễ Theo luyến mộ, khóc than. Cờ phướn báu bằng lụa Trang hoàng thành quách kia Hương hoa và kỹ nhạc Cúng dường xá-lợi Phật. Cúng dường nâng kiệu báu Theo cửa Tây ra thành Đến Tây thành liền qua Đáy nước dòng sông báu Lên dưới cội Cam thọ Dùng các thứ gỗ thơm Chất thành giàn củi lớn Và nhiều loại hương thơm Hoa hương biết bao loại Và các thứ trạch hương. Mọi người đều cầm đuốc Châm giàn hỏa thiêu Phật Ba lần đốt giàn hỏa Lửa không chịu bừng lên Mọi người đều nghi hoặc Không biết được nguyên nhân. Đại Ca-diếp không xa Nhớ thương đến thăm Phật Do vậy mà lửa đốt Cùng thổi không bùng lên. Khi Ca-diếp vội đến Kính lễ Đức Phật xong Khi ấy giàn hỏa Phật Liền tự nhiên cháy bừng, Trần lao không tổn Phật Nay bị lửa cháy thiêu Cơ thể tuy cháy hết Xương như cũ không tiêu. Bấy giờ các lực só Đem sữa rưới tắt lửa Dùng nước thơm rửa xương Bình vàng đựng xá-lợi, Như Thiên đế ngày trước Muốn đốt núi Kim cang Do ông công đức lớn Nên lửa không thể đốt Nay dù lửa thật dữ Không thể đốt xương Phật. Các lực só xoay vần Nói dụ này bảo nhau: “Bốn tâm bình đẳng sinh Dập tắt lửa dâm dục Xương Phật mát mẻ lặng Lòng chúng ta cháy tiêu. Các trời, thần, lực só Không thể thắng thân Phật Nay bỗng gặp vô thường Chúng ta gánh vác làm Sức Phật mạnh không sánh Tiếng vang khắp mười phương Tại sao phải hoảng hốt?” Đầy ở trong bình vàng Phật sáng như mặt trời Chưa từng có cống cao Gặp phải lửa vô thường Chỉ để lại xương thần Dùng chày tuệ Kim cang Đập vỡ núi trần lao Gặp khổ không xả nhẫn, Tâm vững chắc không động Nhổ hết các gốc khổ Dứt, không còn thọ thân Thân nhiệm mầu như vậy Mãi mãi ở trong lửa. Nơi lực só thường đến Lực phục khiến người khóc Người nào đến quy phục An ủi làm người vui Giả sử gặp gian nan Đủ sức không than khóc Tự nghó công đức Phật Kêu khóc nhận xá-lợi. Có sức mạnh vũ dũng Chí tự đại tinh ròng Kêu khóc trở vào thành Dứt cống cao, khiêm nhượng Phướn lọng bày đại điện Làm tòa cao bảy báu Đặt xá-lợi lên đó Mọi người lễ cúng dường.  <詞 id="50112216">Phẩm 31: TÁM VUA CHIA XÁ-LỢI Các lực só bi cảm Ở tại trên điện vua Cúng dường xá-lợi Phật Như thế qua nhiều ngày Bảy vua các nước gần Mỗi vua sai sứ sang Đều cùng đồng một lúc Đến họp nhau dưới thành. Họ thông báo lệnh vua Cho các lực só nghe Họ giải bày cung kính Xin được chia xá-lợi. Các lực só đáp rằng: “Phật diệt độ nước tôi Tự cúng dường xá-lợi Không thể chia người khác.” Bấy giờ sứ các nước Nghe rồi đến phản đối. Lực só giữ xá-lợi Lại ỷ sức mạnh mình Nếu sứ không chịu về Thì sẽ dùng uy lực Trong tâm đều cống cao Không chịu chia xá-lợi. Các sứ về phục mạng Các vua đều sinh tâm Tức thời dấy binh chúng Đến thành kia rất mau Dùng vô số binh chúng Bao vây thành Lực só. Quân tiến vào thành ấy Như mưa dồn sóng dữ. Nhân dân vào thành chống Ai cũng đều sợ hãi Dân chúng rất đông đúc Thành không thể dung chứa. Quân lính vua bảy nước Tiếng voi rống, ngựa hí Chấn động cả thành quách Dân chiến đấu như sóng. Bấy giờ quân bảy vua Đều ở bộ phận mình Tinh luyện rất mạnh mẽ Chiến só và ngựa voi… Bấy giờ vua bảy nước Ra sức bày trận đồ Bốn thứ binh chiến đấu Bộ binh, voi, ngựa, xe. Lực só cũng bố trận Trên thành để chống cự Sửa sang lại hào rãnh Lấp kín các cửa thành Liền bèn đều xây dựng Cờ quân trận đại hành Các thường dân trong nước Ai cũng đều sợ hãi. Bấy giờ vua bảy nước Bàn nhau đồng một lòng Cùng với vô số binh Đủ khí giới bén nhọn Giống như bảy ngôi sao Đồng xuất hiện trong đêm, Binh chúng của bảy vua Cùng lúc đến dưới thành Người đông bụi vàng dậy Che kín cả mắt người Mùi thối của voi chết Nghẹt mũi không thở được, Tiếng trống, còi vang dậy Điếc tai không còn nghe, Trẻ em và phụ nữ Đều hoảng sợ, thất sắc. Đối hỏa công, đối địch Nước đồng, sắt đang sôi Đội mũ trụ, mặc giáp… Trang bị chờ chiến đấu Voi ngựa đều mặc giáp Đội chiến trận chỉnh tề Lực só thà mất mạng Không chịu chia xá-lợi Dù thành có bị diệt Vẫn chiến đấu ngoan cường. Các Lực só một dạ Quyết định đánh không lui Đều đứng ở trên thành Từ lầu chắn cách địch Thấy các vua ngoài thành Quân binh nhiều vô số Thế quân có uy thế Đồng thời reo hò vang, Tiếng hò reo cùng lúc Tiếng vang cả đất trời Rút kiếm múa sáng ngời Lấp lánh như mặt trời Hoặc lao đi mạnh mẽ Nhắm thành vội đến nơi Quân ngoài thấy lực só Chuẩn bị tự sửa soạn Quyết định muốn chiến đấu Không có ý thoái lui Họ đều cùng giã biệt Vợ con để lên đường. Vợ con các chiến só Đều sợ hãi trong lòng Lại có các cha mẹ Tâm rất yêu thương con Thấy con mặc áo giáp Sắp sửa ra chiến trường Đều rơi lệ kêu khóc Chú cây, thỉnh thần kỳ. Con thấy cha mẹ buồn Tâm đều sinh nghi ngờ. Hoặc có các phụ nữ Lặng lẽ lòng buồn bã Hoặc giữ cung tên chồng Khóc ngăn không cho đi Thấy vợ con kêu khóc Lòng quả cảm hăng say Họ giật lấy cung tên Quyết chiến đấu không nghi. Các Lực só tự cậy Ý quyết muốn chiến đấu Như chứa rắn trong bình Lòng giận dữ lẫy lừng Tâm ý đều quyết định Hẳn muốn đánh không nghi. Bảy vua cùng bày bố Đối trận sẽ đương đầu Đều sửa soạn chiến đấu Dùng lính bốn thứ binh Binh voi và binh ngựa Xa binh cùng bộ binh. Có Phạm chí quý tộc Tên là Hương Thảo Tánh Tuệ rộng lớn, nhân từ Can ngăn các vua rằng: “Xem uy thế các vua Kiếm bén, lợi khí đầy Muốn hàng phục địch mạnh Diệt hết cả thành này. Người trong thành tự giữ Không dễ dàng thắng được Các Lực só trong thành Đều cùng đồng một lòng Như nay lại vây hãm Ý hẳn muốn chiến thắng. Cúi xin các đại vương Thu về lại thiên uy. Xét trong thành ấy có Người làm lành điều lương Các vua đều chung nhau Tội gì chuốc thêm phiền Dùng sức mạnh chiến đấu Phần thắng không riêng ai. Như khi bị vây hãm Phương tiện thắng địch ngoài Rắn độc tự cứu mạng Vào hang sâu ẩn mình Vô cớ thọc hang sâu Chết hoặc bị nọc độc! Tự biết có uy thế Có thể làm chúng sợ Nhóm họp vào thành trốn Vững chắc tu giữ mình Tuy vốn sức yếu kém Vào thành sức thành mạnh Như đèn lửa sắp tắt Thêm củi dầu lại cháy. Nếu trong thành kia có Bậc thần chân giữ giới Dùng giới đức lớn ấy Địch ngoài tự tiêu tan. Như xưa vua Trọng Oán Dốc hết sức toàn quân Vua Thanh Minh có đức Thắng kẻ địch bên ngoài, Các vua đời quá khứ Dùng sức mở cõi bờ Tình kia muốn buông thả Tiếng tăm mình vang xa Vua ăn lộc chợt mất Như trâu uống nước băng. Các vua đều đã qua Vậy nên phải nghó kỹ Lý chân chính thế gian Lập phương tiện hòa đồng Được xá-lợi là quý! Dùng sức tên thắng địch Sinh thù nghịch lại phiền Dùng hòa thuận dễ thắng Không bao giờ sinh phản. Tuy nói là ngu dại Thật không thể nhận nạp Các vua tuy sức mạnh Tiêu diệt được địch yếu Nhưng đã kính trọng Phật Phụng pháp là trên hết. Nay nên nhớ nghó Phật Thực hành hạnh nhẫn nhục.” Bấy giờ Phạm chí kia Đều thể nhận biết được Lời hòa thuận chân chánh Tâm Từ ngăn các vua Các vua đều hồi tâm Tâm mạnh mẽ sôi sục. Bấy giờ các vua bèn Thuận đáp Phạm chí rằng: “Lời nói thật đúng lúc Hòa thuận biết phương tiện Nay đã nói lý lành Đôn hậu và trước sau Ông nên biết chúng tôi Sức tâm ngộ pháp lành Trong tâm có mong cầu Không nhọc việc thế tục Hoặc dùng nguyện, dùng sức Hoặc dùng tức giận hờn Đã tranh nay chiến đấu Cả hai sẽ đối đầu. Nay ý của chúng ta Chỉ cầu công đức Phật Cầm gậy tìm xá-lợi Không tham tài bảo nước. Xưa kia các liệt só Cống cao tự đại gây Chiến tranh ở rừng tiên Tử thương khó kể xiết, Phật dạy khắp thế gian Diệt trần lao tự đại Thì sao chẳng vì Phật Yêu mạng mỏng manh chi? Xưa kia các tiên đế Mê đắm sắc hiền nữ Bị hiền nữ mê hoặc Khởi binh chinh phạt nhau Các vua chết vô số, Phật dạy răn thế gian Dứt bỏ ý tham dâm Sao ta chẳng vì Phật Yêu mạng mỏng manh chi? Trước đây có huynh đệ Ngu ganh khởi tranh giành Trở lại chém giết nhau Chết hết không còn ai, Phật xuất hiện ở đời Dứt trừ tâm ngu ganh Thì sao không vì Phật Mà tiếc mạng không tranh? Xưa, lực só Thủ Tý Ôm hiềm, kết sân giận Liền dùng đến võ lực Muốn diệt các dòng vua, Phật xuất hiện ở đời Dứt bỏ hết nhuế hại Chúng ta vì Đức Phật Yêu mạng này làm chi? Xưa kia, Hoa Thượng Tử Hiệu là Thập Đầu Thần Khư khư đắm sắc dục Duyên tan mất thân mạng, Phật xuất hiện thế gian Mở tất cả kết buộc Chúng ta vì Đức Phật Tiếc mạng này làm gì? Xưa kia những kẻ ngu Ngu giành nước có trùng Vì hắn ngu si quá Muốn trùng giết hại nhau, Phật xuất hiện ở đời Dứt tất cả ngu si Chúng ta vì Đức Phật Ngu yêu thân làm gì? Xưa nay ngu không đạt Giành các vật hôi nhơ Không một chút bền chắc Hại nhau không tính kể, Phật ra đời trừ loạn Chúng ta vì Đức Phật Sẽ đấu với Diêm-la Đâu giống đời đánh nhau Tâm chúng ta bền vững Không vì nghi chiến đấu! Xin phiền ngài vào thành Đến chỗ các lực só Hết lòng tìm cách để Đem ý ta trần tình Việc này xin giao ngài. Nếu nhất định chiến đấu Chúng ta mài tên bén Quyết tâm sẽ giao chiến. Nghe ngài nói pháp lành Lời nói thật chánh chân Nơi tâm liền hư mất Tâm ác độc giận sân Như rắn độc bị chú Độc hại diệt không còn.” Lúc bấy giờ, Phạm chí Vâng giáo lệnh các vua Liền đi vào trong thành Đến chỗ các lực só Xin gặp các lực só Quý trọng người có thế Liền dùng ý khiêm nhường Nói giáo lệnh các vua: “Binh các vua ngoài thành Đều sửa soạn khí giới Đội mũ sắt, mặc giáp Sáng rỡ như mặt trời Phát tâm đồng lên tiếng Phải dùng hết võ lực! Ý mạnh như sư tử Giương mắt hướng nhìn thành San sát cùng phô trương Cung, tên mạ vàng báu Ý mạnh không mệt mỏi Ngày đêm không cởi giáp Tâm bỗng chợt nhớ về Pháp từ minh của Phật Nên dùng nghóa nhường nhau Chứ không sợ đánh nhau Không vì tranh đất đai Kéo đến dưới thành này! Không tham lam tự đại Đến không vì giận hờn Vì kính công đức Phật Mà đến thành này vậy. Khách vì nghóa lành đến Người chủ nên kính đãi Phật là thầy tất cả Chúng ta đồng kính thờ, Muốn cúng dường xá-lợi Nên họ đến thành này Cũng vì pháp huynh đệ May được chia xá-lợi Khiến chúng sinh khắp nơi Thảy đều được cúng dường. Người sẻn tiếc tài sản Thì không lấy làm xấu Người sẻn tiếc pháp lành Đó mới đáng hổ thẹn, Nếu yêu tiếc tài vật Sẽ bị gọi nhơ xấu Dứt sẻn tiếc làm lành Được Thánh hiền khen ngợi. Nếu nhất định các ngài Không chịu chia xá-lợi Thì nay nên rời thành Để cùng khách đấu tranh Ở trong thành đóng cửa Không xuất chiến phân tranh Thì đó không phải vua Không quý, không dũng só. Ý các vua ngoài thành Đều hướng về đây nói Bọn họ có tâm tốt Nghóa tình hai bên bằng, Lại có ý riêng tư Muốn hướng về các vua Mong các ngài lóng nghe Xin nói pháp chân chánh Xin các ngài chớ nên Nhất định chiến đấu nhau Xưa nay trong chiến đấu Không lợi, không nghóa nhân. Phật, Thầy trời thường khen Đức nhẫn nhục bậc nhất Nay vì sao các ngài Giận bừng bừng đòi chiến Vì sáu dục gây chiến Vì của báu tranh giành? Nếu vì vậy mà tranh Sự lý còn thông cảm Vì lý do phước đức Và pháp lành ngợi khen Nếu cùng gây oán hờn Thì nghóa này phải xét! Thường dùng tâm Từ bi Tính điều hòa yên ổn Đạo giáo Phật, Thầy trời Lòng Từ hộ chúng sinh Còn giết hại chúng sinh Mà kính thờ Thế Tôn Thì không có nghóa lợi Việc này không nên vậy. Các ngài nên mở ý Chia xá-lợi các vua Pháp lành nên truyền bá Nhân kia không làm trước Nếu có thể làm được Thì không có chiến tranh Sẽ được hai nghóa lành Phước đức và tiếng tăm. Kia có, chỉ mình thấy Rời chánh, theo đường tà Người lành tìm mọi cách Phải dắt vào đường chánh Các vua tìm nhiều cách Muốn xây dựng pháp lành Muốn dẫn dắt thế gian Đến con đường người trời. Thế Tôn thường khen ngợi: Các thí, thí pháp hơn Hễ đến là làm thầy Chỗ khen của người trời. Xem khắp các thế gian Không ít người thí tài Người đem pháp bố thí Thì khi có, khi không Pháp thí được khen rộng Yên ổn khắp thế gian.” Các chúng lực só ấy Nghe lời pháp lành này Trong lòng thấy hổ thẹn Lặng nhìn nhau đăm đăm Rồi dùng lời ái kính Nói với Phạm chí rằng: “Ngài bày phương tiện khéo Thân yêu kính mọi người Vì Phạm chí không dối Siêng xây dựng pháp lành Hàng phục được chúng tôi Vào đường người làm lành, Như cỡi ngựa không điều Không cho vào chiến trường Bèn có thể theo ý Như thầy đã mở bày Rất thương, rất kính tin Chúng ta đáng theo vậy Chợt bỏ lời khéo can Trung thứ, chính thực ấy Việc bại gặp gian nan Về sau hối không kịp.” Tức thời lấy bình vàng Đem chia xá-lợi Phật Làm tám phần riêng biệt Sao cho thật đều nhau. Bấy giờ các lực só Lấy một phần trong đó Trao bảy phần còn lại Cho bảy vị quốc vương. Khi ấy các lực só Đãi các vua như khách Các vua được xá-lợi Buồn vui trở về nước. Lúc đó vua bảy nước Mỗi vị ở nước mình Cho quân xây tháp thần Cao đến tận chân mây. Phạm chí Thảo Hương Tánh Muốn xây tháp chỗ mình Liền xin các lực só Chiếc bình đựng xá-lợi. Các Phạm chí trong nước Xin tro than Thế Tôn Cùng nhau gom nhóm lại Cung kính xây tháp thần. Các vua ban đầu xây Tám tháp thần xá-lợi Ở cõi Diêm-phù-đề Đức vòi vọi như núi, Phạm chí đã xây dựng Tháp bình vàng thứ chín Là tháp tro than Phật Đủ mười thứ nguy nga. Vô số các vị trời Các vua, các Phạm chí Đều ngày đêm siêng năng Ca ngợi lễ tháp Phật Hoa hương, phướn lọng báu Bày biện cúng dường tháp Trang hoàng tháp tốt đẹp. Như hương xông sườn núi Các làng, nước gần bên Vô số người nhóm họp Hoặc vui buồn kêu khóc Lễ bái, kính tháp thần Họ cùng theo luyến mộ Nhớ thương công đức Phật. Đau khổ buồn đắng cay Mất hẳn sao khổ quá? Ban điều lành cho đời Chỗ chúng sinh tựa nương Dẫn lối người lạc đường Bệnh nặng thầy thuốc hay. Nắng xuân cho người lạnh Ao mát cho người nóng Che chở cho ba cõi Bỗng nhiên vắng lặng rồi! Ba cõi mất che chở Không chỗ nương, đáng thương! Sẽ quên mất đường chánh Theo tà gặp gian nan Đời mất chánh nghiêng tà Trôi dạt ba đường ác Đời còn ai sức mạnh Chế ngự được khiến về? Các chúng sinh thế gian Bị ngu si che mắt Lửa tham dâm, giận tức Bị kiến chấp thiêu đốt, Mọi chúng sinh trên đời Bị bệnh nặng trần lao Thế Tôn tâm Từ khắp Thầy thuốc hay ba cõi. Mặt trời Phật sáng chói Khi Ngài mới xuất hiện Phát ánh sáng rực rỡ Soi Tam thiên thế giới Mở bày khắp cõi đời Hoa sen của trời, người Giống như hoa các ao Nhờ ánh trời mà nở. Các trời và người đời Cùng các đại quốc vương Buồn khóc than, luyến tiếc Nhìn tháp khen Phật đức: “Ôi! Bậc che chở đời Thầy từ bi bậc nhất! Chợt bỏ lại chúng sinh Ra đi sao nhanh quá! Ánh sáng mặt trời Phật Bỗng nhiên sao vụt tắt Sương ngu phủ kín đời Sẽ từ đâu thấy rõ? Ai thương dẫn chúng sinh Bày con đường chánh đế Để đến thành Nê-hoàn Vắng lặng không lo sợ?”  Khi lực só Mật Tích Rộng vì các trời người Lần lượt nói pháp này Tuyên dương đức hạnh Phật Các trời nghe lời nói Bỗng khắp mình nổi ốc Suy nghó lý đã nói Nhớ nghó công đức Phật. “Chứa nhóm gốc các lành Vô hạn, không thể lượng Khó mà tính số kiếp Đã chứa nhóm hạnh lành, Hành sáu độ vô cực Như ao sâu, biển cả Các báu đức tướng, tuệ Sung mãn và đầy tràn. Nay trong hiền kiếp này Ngàn Bồ-tát ra đời Giả sử các La-hán Tuệ như Xá-lợi-phất Trọn kiếp khen Phật đức Cũng không thể nào hết Huống ta trí nông cạn Bày kiến văn hạn hẹp. Thời, người trời trong hội Nghe ngài nói pháp xong Trong lòng chợt tỏ ngộ Như tận mặt thấy Phật. Mọi người đều cảm thương Bùi ngùi luyến nhớ Phật Chí nguyện theo Đại thừa Dốc lòng tâm vững chắc Cúi đầu quy mạng Phật Rồi bỗng nhiên bay đi. <卷 id="50112217">