<經 id="n190">KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa, người Ấn độ. <卷 id="48706215">QUYỂN 1 <詞 id="48706216">Phẩm 1: PHÁT TÂM CÚNG DƯỜNG (Phần 1) Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Như Lai ngự tại tinh xá Trúc lâm, nơi chim Ca-lan-đà thường ở, thuộc thành Vương xá, cùng tất cả năm trăm vị đại Tỳ-kheo. Bấy giờ, Đức Như Lai trú trong hạnh Phật, không có phiền não, cho nên gọi là Bậc Chiến Thắng, chứng Nhất thiết trí, thực hành Nhất thiết trí, biết Nhất thiết trí, sống trong hạnh chư Thiên, Phạm hạnh và Thánh hạnh, tâm được tự tại, y như các Đức Thế Tôn muốn thực hiện các hạnh, hết thảy đều được thực hiện. Ngài ở trong bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư só, nữ cư só, nhận nhiều sự cúng dường cung kính, tôn trọng. Lại ở trong các hàng: Quốc vương, đại thần, tể tướng, ngoại đạo, Bà-la-môn, Sa-môn… Đức Phật luôn luôn được bốn sự lợi dưỡng: Đồ ăn uống, y phục, giừờng chiếu, thuốc thang. Mọi thứ đều được đầy đủ, tốt đẹp, không ai sánh bằng! Trí tuệ của Ngài là bậc nhất, danh tiếng vang khắp mọi nơi, tuy thọ lợi dưỡng mà tâm không mê đắm, cũng như hoa sen chẳng nhiễm nước bùn hôi. Âm thanh thuyết pháp của Thế Tôn được ngợi khen là hết sức siêu việt, ở trong thế gian không ai hơn. Đầy đủ mười hiệu: Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… như vậy. Ngài thường xuất hiện trong các loài người và trời: Thiên ma, Phạm thiên, Đế Thích, Sa-môn, Bà-la-môn, do thần thông biết tất cả căn cơ, biết rồi mới thuyết diệu pháp. Ngài du hành trong thế gian, tất cả các thời, đều dùng lời nói khéo léo, trước, sau và giữa đều thiện, ngôn từ lưu loát, ý nghóa sâu xa, tinh diệu. Ngài không thiếu một tướng tốt nào, phạm hạnh thanh tịnh, tuyên dương chánh pháp. Bấy giờ, khi trời vừa tảng sáng, Tôn giả Mục-kiền-liên sửa y, bưng bình bát, sắp vào thành khất thực, Tôn giả đứng một mình thầm nghó: “Hiện còn quá sớm, chưa tới giờ khất thực, ta sẽ đến cõi trời Tịnh cư”. Tôn giả Mục-kiền-liên nghó như vậy rồi, ví như khoảng thời gian lực só duỗi cánh tay, nơi thành Vương xá, tôn giả liền ẩn thân rồi bỗng nhiên xuất hiện nơi cung điện của chư Thiên cõi trời Tịnh cư. Vào lúc ấy, vô lượng chư Thiên cõi trời Tịnh cư vừa thấy Tôn giả Mục-kiền-liên từ từ đi đến, liền rất vui mừng, mọi người nói với nhau: Chúng ta ngay bây giờ nên cùng đến nghinh đón Tôn giả. Rồi họ cùng nhau đến chỗ Tôn giả Mục-kiền-liên, đầu mặt đảnh lễ sát chân Tôn giả, lui đứng một bên, bạch: –Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên, thật hy hữu! thật hy hữu! Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên, ở trong thế gian khó thấy, khó gặp! Đó là chư Phật, Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp siêng tu các hạnh. Rồi nói kệ: ỞÛ trong trăm ngàn kiếp, Siêng cầu đạo Bồ-đề Qua nhiều kiếp đến nay, Quý nhất trong chúng sinh, Thế gian khó được gặp, Đó là Phật, Thế Tôn. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, ở cõi trời Tịnh cư, nghe bài kệ này rồi, toàn thân rúng động, lông tóc dựng ngược, suy nghó: Thật hy hữu thay, không thể nghó bàn, khó thấy khó gặp! Đó là Đức Thế Tôn, Như Lai, Chánh Đẳng Chánh Giác, thế gian khó gặp, trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp chỉ xuất hiện một lần. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ở cõi trời Tịnh cư, vì hàng chư Thiên nói vô lượng giáo pháp, chỉ dạy vô lượng pháp nghóa thanh tịnh, diễn giải các pháp trọng yếu, sâu xa, khiến chư Thiên đều sinh tâm vui vẻ. Tôn giả giáo hóa chỉ bày các giáo pháp quan trọng rồi, liền ẩn thân trở về cõi Diêm-phù-đề, trong khoảng thời gian nháy mắt, như lực só co duỗi cánh tay, Tôn giả đi đến thành Vương xá theo thứ tự khất thực, rồi trở về tinh xá Trúc lâm. Thọ trai xong, thâu cất y bát, rửa chân, tôn giả liền đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi chân Thế Tôn, lui ra ngồi một bên, rồi hướng về Đức Phật trình bày mọi sự việc vừa qua: Thưa Thế Tôn, sáng sớm này trên đường đi tới thành Vương xá khất thực, nhân vì còn sớm nên con đi đến cõi trời Tịnh cư. Chư Thiên nói với con thế này: Như Lai, Thế Tôn ở trong thế gian thật khó thấy, khó gặp… Tôn giả bạch Đức Phật đầy đủ sự việc như trên. Thưa Đức Thế Tôn, con chưa từng nghe những lời nói như vậy, thật khó nghó bàn. Đó là vấn đề chư Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp chỉ xuất hiện một lần. Đức Phật bảo Tôn giả Mục-kiền-liên: –Này Mục-kiền-liên, chư Thiên nơi cõi trời Tịnh cư nhìn không rộng, thấy không xa, do vì trí tuệ họ còn cạn cợt hạn chế, nên chỉ có thể biết những việc trong vòng trăm ngàn kiếp. Tại sao vậy? Này Mục-kiền-liên, nhớ về quá khứ, Ta đã từng ở nơi vô lượng vô biên chư Phật vun trồng các căn lành, cho đến cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ về thời quá khứ khi làm Chuyển luân thánh vương, gặp được ba mươi ức Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Thích-ca Như Lai cùng chúng Thanh văn, Ta luôn vâng theo lời chỉ dạy, cung kính, tôn trọng, cúng dường bốn sự đầy đủ, là: Y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc thang. Lúc đó chư Phật đã thọ ký cho Ta: Ông ở đời vị lai sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Thế Gian Giải, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ về quá khứ làm Chuyển luân thánh vương, gặp tám ức chư Phật đều đồng một tôn hiệu, là Nhiên Đăng Như Lai cùng chúng Thanh văn. Ta cung kính, tôn trọng thực hành bốn sự cúng dường, là: Y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc thang cùng lọng phướn, hoa hương. Lúc đó chư Phật đều đã thọ ký cho Ta: Ông sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Thế Gian Giải, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ làm Chuyển luân thánh vương, gặp ba ức chư Phật đều đồng một tôn hiệu, là Phất-sa Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường luôn được Ta thực hiện đầy đủ. Lúc đó chư Phật đều đã thọ ký cho Ta: Ông sẽ thành Phật… như nói ở trên. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, gặp chín vạn chư Phật đồng một tôn hiệu, là Ca-diếp Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ…, cho đến câu: đều thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật… như nói ở trên. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, gặp sáu vạn chư Phật đồng một tôn hiệu, là Đăng Minh Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hiện đầy đủ…, cho đến câu: đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật… như nói ở trên. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, từng cúng dường một vạn tám ngàn chư Phật đều đồng một tôn hiệu, là Ta-la vương Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hiện đầy đủ, sau đó mới xuất gia, và suy nghó: Ở đời vị lai Ta sẽ thành Phật, giữ gìn cấm giới. Lúc đó chư Phật đều thọ ký cho Ta, cho đến thành Phật… như nói ở trên. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, từng cúng dường một vạn Đức Phật, đều đồng một tôn hiệu, là Năng Độ Bỉ Ngạn Như Lai cùng chúng Thanh văn. bốn sự cúng dường đều được Ta thực hiện đầy đủ, cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường một vạn năm trăm ngàn Đức Phật, đều đồng một tôn hiệu, là Nhật Như Lai và chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu: Đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường hai ngàn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Kiều-trần-như Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường sáu ngàn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Long Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường một ngàn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, tên là Tử Tràng Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường năm trăm Đức Phật, đồng một tôn hiệu, là Liên Hoa Thượng Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ… cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường sáu mươi bốn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Loa Kế Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ… cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường cho một Đức Phật, hiệu là Chánh Hạnh Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được ta thực hiện đầy đủ. Đức Phật này cũng đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thế Gian Giải. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, đã từng cúng dường tám vạn tám ngàn ức Bích-chi-phật, nào phướn lọng hương hoa, bốn sự cúng dường đều được đầy đủ. Cho đến Đức Phật thuở ấy, sau khi diệt độ, Ta lại xây tháp cúng dường như trước, nên đã thọ ký cho Ta: Ông sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, có một Đức Phật hiệu là Thiện-Tư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Ở nơi Đức Phật này, Bồ-tát Di-lặc lần đầu tiên phát tâm trồng các căn lành, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy Bồ-tát Di-lặc thân làm Chuyển luân thánh vương, tên là Tỳ-lô-giá-na. Này Mục-kiền-liên, bấy giờ nhân loại thọ tám vạn tuổi. Này Mục-kiền-liên, hội thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật Thiện Tư có chín vạn sáu ngàn ức người chứng quả A-la-hán. Hội thuyết pháp thứ hai có tám vạn bốn ngàn ức người chứng quả A-la-hán. Hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn hai ngàn ức người chứng quả A-la-hán. Này Mục-kiền-liên, Chuyển luân thánh vương Tỳ-lô-giá-na, kia cúng dường Đức Phật Thiện Tư và chúng Thanh văn, cung kính tôn trọng, nào phướn lọng hoa hương, tứ sự luôn đầy đủ. Này Mục-kiền-liên, Chuyển luân thánh vương Tỳ-lô-giá-na, thấy Đức Như Lai này có đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân và tám mươi vẻ đẹp, cùng chúng Thanh văn, cõi nước Phật trang nghiêm, với số tuổi thọ mạng, liền phát tâm Bồ-đề, tự nói: Thế Tôn ít có! Ta nguyện vào đời vị lai sẽ thành Phật đầy đủ mười tôn hiệu cũng như Đức Như Lai Thiện Tư ngày nay, được đại chúng Thanh văn, người trời cung kính, vây quanh nghe Phật thuyết pháp, kính tin, thọ trì vâng giữ, giống nhau không khác. Bồ-tát Di-lặc lại nói: Ta nguyện vào đời vị lai; vì tất cả chúng sinh tạo nhiều lợi ích, ban cho họ sự an lạc, thương xót tất cả trời người trong thế gian. Này Mục-kiền-liên, Bồ-tát Di-lặc phát tâm Bồ-đề trước Ta trên bốn mươi kiếp, rồi Ta sau này mới phát đạo tâm, trồng các căn lành, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, có một Đức Phật tên là Thị Hối Tràng Như Lai. Này Mục-kiền-liên, lúc ấy Ta làm Chuyển luân thánh vương tên là Lao-cung ở trong quốc độ của Đức Phật này. Lần đầu tiên phát tâm Bồ-đề, trồng các căn lành, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ Ta cúng dường Đức Phật Thế Tôn này và chúng Thanh văn mãn một ngàn năm. Thuở ấy Ta đem năm trăm bộ y phục tuyệt đẹp, cung kính tôn trọng lễ bái, tán thán cúng dường, tứ sự đều được đầy đủ. Cho đến sau khi Đức Phật này vào Niết-bàn, ta lại xây tháp cao một do-tuần, rộng nửa do tuần, dùng bảy thứ báu trang nghiêm để thờ xá-lợi. Bảy thứ báu đó là: Vàng, bạc, pha lê, lưu ly, xa cừ, xích trân châu và mã não để trang hoàng. Lại đem các thứ cờ phướn lọng báu, chuông rung, hoa hương, đèn đuốc để cúng dường. Này Mục-kiền-liên, Ta bày biện các thứ cúng dường như vậy rồi, ngày đêm siêng năng tinh tấn phát nguyện rộng lớn: Vào đời vị lai Ta sẽ thành Phật, có những chúng sinh bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, ở trong tộc họ không biết kẻ lớn người nhỏ, kẻ xa người gần, không tâm kính tin, không tin nghiệp báo, nhân duyên ba đời, không tin hiện tại có Thánh nhân, không hành động theo đúng pháp, chỉ làm theo lòng tham dục, sân hận, ngu si, đầy mười điều ác, chỉ tạo nghiệp tạp nhiễm, không một điều lành, Ta nguyện sinh vào thế giới ấy, sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thương xót tất cả chúng sinh đó, thuyết pháp giáo hóa làm nhiều điều lợi ích cứu giúp họ, dùng sức từ bi cứu vớt họ ra khỏi bể khổ, đặt vào nơi an lạc. Rồi vì loài người và loài trời ở thế giới này, thuyết giảng nhiều Phật pháp. Này Mục-kiền-liên, chư Phật Như Lai vì chúng sinh mà tu tập những khổ hạnh ít có như vậy. Này Mục-kiền-liên, chư Bồ-tát đều có bốn tánh hạnh vi diệu. Bốn tánh hạnh đó là gì? Một là Tự tánh hạnh; hai là Nguyện tánh hạnh; ba là Thuận tánh hạnh và bốn là Chuyển tánh hạnh. Này Mục-kiền-liên, thế nào là Tự tánh hạnh? Nếu chư Bồ-tát, bản tánh từ xưa đến nay hiền lành, chất trực, vâng lời cha mẹ, tin kính Sa-môn, Bà-la-môn, ở trong tộc họ biết rõ kẻ lớn người nhỏ, kẻ gần người xa, biết rồi cung kính vâng thờ không thiếu sót, làm đủ mười điều lành, lại thực hành nhiều nghiệp thiện khác. Như vậy gọi là Tự tánh hạnh của Bồ-tát. Thế nào là Nguyện tánh hạnh? Nếu chư Bồ-tát phát nguyện thế này: Ta ở vào thời kỳ nào đó sẽ thành Phật, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười tôn hiệu. Như vậy gọi là Nguyện tánh hạnh của Bồ-tát. Thế nào là Thuận tánh hạnh? Nếu chư Bồ-tát thành tựu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Sáu pháp đó là gì? Là Bố thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Như vậy gọi là Thuận tánh hạnh của Bồ-tát. Thế nào gọi là Chuyển tánh hạnh? Như Ta cúng dường Đức Thế Tôn Nhiên Đăng, nhờ nhân duyên này, Ta đọc tụng kinh điển, hiểu biết Phật pháp. Như vậy gọi là Chuyển tánh hạnh của Bồ-tát. Này Mục-kiền-liên, đó là bốn thứ tánh hạnh của Bồ-tát. Bấy giờ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ, đã chứng Phật quả, sống trong hạnh Phật, đại khái như đã trình bày ở trên. Khi Đức Phật thọ trai rồi, nhập định trong bảy ngày, nghó về chư Phật, Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác về thời quá khứ. Sau bảy ngày, lúc ấy Tôn giả A-nan đến đảnh lễ nơi chân Đức Phật, lui về ngồi một bên, bạch: –Thưa Đức Thế Tôn, Đức Như Lai thật hiếm có! Thân thể thanh tịnh, sắc diện tươi sáng, oai nghiêm. Như từ trước con đã từng chiêm ngưỡng, nhưng ngày nay tôn nhan càng tươi sáng khác thường, tăng thêm bội phần. Các căn của Thế Tôn hết sức vắng lặng, không biết Ngài nhập vào pháp chánh định nào, hay nghó về những pháp tướng gì? Bấy giờ, Đức Như Lai bảo Tôn giả A-nan: –Này A-nan, đúng như lời ông hỏi, Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc ở trong định nghó về chư Phật Như Lai nơi đời quá khứ, đã chứng đắc thần thông hết sức tự tại, muốn trụ một kiếp hay dưới một kiếp; hoặc nghó đến trí tuệ của trăm ngàn ức chư Phật, mà trí tuệ của Ta không hề bị ngăn ngại. Vì sao? Do vì Ta đã chứng đắc đầy đủ trí tuệ của chư Phật, qua đến bờ giải thoát. Này A-nan, Ta chỉ trong thời gian một bữa ăn, hoặc trụ trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, muốn trụ nơi định lâu hay mau, tùy ý tự tại không có cực nhọc. Vì sao? Vì Ta đã chứng được chánh định của chư Phật, qua đến bờ giải thoát. Trong các pháp Tam-muội, Tam-muội này là hơn hết. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Ta nhớ nơi thời quá khứ, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Đế Thích Tràng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, hay vì tất cả chúng sinh làm nơi nương tựa, làm căn nhà Từ bi, khéo đem tình thương ban bố cho muôn loài, khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt đến chốn an lạc. Đức Phật này gồm đủ oai đức lớn, vô lượng thánh chúng vây quanh trước sau. Này A-nan, Đức Như Lai Đế Thích Tràng này có năm trăm ức chúng Thanh văn, tất cả đều chứng quả A-la-hán, thọ mạng năm ngàn tuổi. Đức Phật Đế Thích-tràng này thọ ký cho một vị Bồ-tát kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Thượng Tràng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thượng Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tràng Tướng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tràng Tướng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Hỷ Tràng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Hỷ Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thập Tràng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thập Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nan Phục Tràng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Nan Phục Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Minh Đăng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Minh Đăng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Minh Đăng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Minh Đăng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Kiến Lập Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Kiến Lập này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Kiến Lập Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Kiến Lập này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Tiên Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Long Tiên này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Tỷ Oai Đức Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Tỷ Oai Đức này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thánh Sở Sinh Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Thánh Sở Sinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Diệu Thắng Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Diệu Thắng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tiên Thắng Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Tiên Thắng này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Ấn Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Phổ Ấn này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Dự Tướng Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Dự Tướng này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thượng Tộc Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thượng Tộc này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tự Cảnh Giới Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tự Cảnh Giới này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Đẳng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Đẳng này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Câu-lưu-tôn Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Câu-lưu-tôn này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Quang Minh Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Đại Quang Minh này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Ly Ưu Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Ly Ưu này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Xả Hồng Thủy Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Xả Hồng Thủy này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Lực Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Đại Lực này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chí Bỉ Ngạn Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Chí Bỉ Ngạn này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhật Như Lai. Này A-nan, Đức Nhật Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tịch Diệt Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tịch Diệt này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Chấn Thinh Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Đại Chấn Thinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tự Vương Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tự Vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Bảo Vương Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Bảo Vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Túc Vương Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Túc Vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vi Diệu Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Vi Diệu này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phạm Âm Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Phạm Âm này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Công Đức Sinh Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Công Đức Sinh này có bảy mươi ức đệ tử Thanh văn, tất cả đều chứng quả A-la-hán. Thọ mạng của Đức Phật này đủ bảy vạn tuổi. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế đủ ba ngàn năm. Này A-nan, Đức Như Lai Công Đức Sinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Quán Như Lai. Đức Phật Long Quán chứng đạo Bồ-đề rồi, vì tất cả chúng sinh trụ ở đời một kiếp. Này A-nan, Đức Như Lai Long Quán này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Úy Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Úy Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Long Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiên Đức Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thiên Đức này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thân Phần Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thân Phần Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Tỷ Nguyệt Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Tỷ Nguyệt này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhân Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Nhân Thượng này có một ngàn sáu trăm đệ tử Thanh văn, đều là A-la-hán. Này A-nan, Đức Như Lai Nhân Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tử Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tử Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đa-già-la-thi-khí Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Đa-già-la-thi-khí này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Liên Hoa Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Liên Hoa Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Kiều-trần-như Như Lai. Này A-nan, có một trăm Đức Phật đồng danh hiệu với Đức Phật Kiều-trần-như này, đồng trụ trong kiếp Tiểu liên hoa, mỗi Đức Phật Kiều-trần-như đều có ba trăm ức chúng đệ tử Thanh văn, thảy là bậc A-la-hán. Mỗi Đức Phật này đều trụ ở đời ba trăm năm. Sau khi các Đức Phật diệt độ, chánh pháp cũng trụ thế ba trăm năm. Này A-nan, Đức Như Lai Kiều-trần-như cuối cùng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chiên-đàn Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Chiên-đàn này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Minh Đăng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Minh Đăng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Lợi Ích Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Lợi Ích này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Đức Như Lai. Đức Phật Thiện Đức dùng Phật nhãn quán sát tất cả chúng sinh vì lòng thương xót họ không muốn cho Phật chủng bị gián đoạn, nên Ngài trụ thế một ngàn kiếp. Đức Phật Thiện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác này có ba mươi hai ức na-do-tha chúng đệ tử Thanh văn, đều là bậc A-la-hán. Đức Như Lai Thiện Đức này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Minh Tinh Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Minh Tinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Hộ Thế Tri Túc Như Lai. Đức Phật Hộ Thế Tri Túc này trải qua vô lượng na-do-tha kiếp sau đó mới thành Phật. Này A-nan, Đức Phật Hộ Thế Tri Túc này có hai mươi ức chúng đệ tử Thanh văn, đều là A-la-hán. Này A-nan, Đức Như Lai Hộ Thế Tri Túc này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thi-khí Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Thi-khí này thành Phật vào kiếp Liên hoa. Trong số kiếp này có sáu mươi hai Đức Phật đồng hiệu là Thi-khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, kế tiếp nhau thành Phật. Này A-nan, Đức Như Lai Thi-khí sau cùng, sau khi chứng quả Bồ-đề lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Xuất Sinh Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Xuất Sinh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác ấy, vì lòng thương xót tất cả chúng sinh, nên trụ ở đời giáo hóa mãn hai ngàn kiếp. Này A-nan, Đức Như Lai Xuất Sinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Mục Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Mục này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thương Chủ Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thương Chủ này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Sinh Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Thiện Sinh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ mạng rất ngắn, chỉ trụ ở đời một ngày. Ở trong khoảng thời gian ấy đã giáo hóa tám vạn bốn ngàn chúng Thanh văn, tất cả đều chứng A-la-hán. Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Sinh ấy lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phạm Đức Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Phạm Đức này có ba mươi hai ức chúng đệ tử Thanh văn đều là bậc A-la-hán. Đức Phật Phạm Đức ấy sau khi nhập diệt, chánh pháp trụ ở đời mãn ba vạn năm. Này A-nan, Đức Như Lai Phạm Đức này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thanh Liên Hoa Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thanh Liên Hoa này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Kiến Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Thiện Kiến Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác này có ba ngàn ức chúng đệ tử Thanh văn, đều là bậc A-la-hán. Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Kiến này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Kiến Chân Đế Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Kiến Chân Đế này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Căn Như Lai. Này A-nan, Đức Căn Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tử Sắc Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tử Sắc này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vị Tha Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vị Tha này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nam-đẩu-túc Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Nam-đẩu-túc này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Sa-la Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Sa-la này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chủ Lãnh Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Chủ Lãnh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Chủ Lãnh Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Đại Chủ Lãnh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Trí Thắng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Trí Thắng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706217">QUYỂN 2 <詞 id="48706218">Phẩm 1: PHÁT TÂM CÚNG DƯỜNG (Phần 2) Này A-nan, Đức Như Lai Phổ Hiền này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nguyệt Như Lai. Này A-nan, Đức Nguyệt Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phân-đà-lợi Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Phân-đà-lợi này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Cấu Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Cấu này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chứng Ngã Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Chứng Ngã này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Vũ Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Đại Vũ này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Úy Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Úy này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tự Quang Minh Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tự Quang Minh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Lực Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Đại Lực này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhật Như Lai. Này A-nan, Đức Nhật Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thu Quang Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thu Quang này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhiệt Quang Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Nhiệt Quang này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tướng Như Lai. Này A-nan, Đức Tướng Như Lai này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Tỷ Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Tỷ này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thắng Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thắng Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tướng Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tướng Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Ta-la vương Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Ta-la vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thân Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Thân Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Xử Úy Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Xử Úy này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Hóa Như Lai. Này A-nan, Đức Hóa Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tịch Định Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Tịch Định này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thắng Vương Như Lai. Này A-nan, thuở Đức Phật Thắng Vương thành tựu đạo quả Bồ-đề nhằm vào đời Hiền kiếp, có ba trăm Đức Phật đồng một hiệu Thắng Vương. Này A-nan, Đức Phật Thắng Vương cuối cùng lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhất Thế Sự Kiến Như Lai. Này A-nan, Đức Phật Nhất Thế Sự Kiến này có ba ức chúng đệ tử Thanh văn, đều là A-la-hán. Này A-nan, Đức Phật Nhất Thế Sự Kiến này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Ưu Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Vô Ưu này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Long Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Diêm Phù Thượng Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Diêm Phù Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Ni-câu-đà Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Ni-câu-đà này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Quảng Tín Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Quảng Tín này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Cứu Thoát Như Lai. Này A-nan, Đức Như Lai Cứu Thoát này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thắng Thượng Như Lai. Này A-nan, chư Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác này, mỗi mỗi vị theo thứ lớp chuyển tiếp thọ ký, cho đến vị Phật cuối cùng là Thắng Thượng, chính Ta đã vâng thờ, cúng dường tất cả chư vị. Thế Tôn nói kệ: Các Đấng Như Lai này Đại Sư Tử Thích-ca Dùng mắt Phật thanh tịnh Nhìn thấy khắp tất cả. Trí Như Lai như vậy Hạnh Phật khó nghó bàn. Tất cả hàng trời người Đều không thể biết được. Nhân quả và trí Phật Tướng các pháp rõ ràng. Riêng cảnh giới chư Phật Phàm phu không thể biết. Bao nhiêu danh hiệu Phật Thể hiện hạnh chư Phật. Có tướng oai đức lớn Dùng mắt Phật thấy khắp. Như có người trí tuệ Muốn cầu đạo Bồ-đề Nên niệm danh hiệu Phật Chẳng bao lâu thành Phật. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, con đã từng nghe những gì từ kim khẩu của Phật nói ra, con gắng tâm ghi nhớ chẳng quên, đó là trí tuệ của chư Phật thông suốt, không bị chướng ngại, không ai sánh bằng… Bạch Thế Tôn, phải chăng trí tuệ của Như Lai thật sự nhận biết như vậy? Thế Tôn bảo A-nan: –Trí tuệ của Như Lai biết rõ tất cả. Cho nên sự hiểu biết của Như Lai không có chướng ngại. Như Lai muốn tạo ra cảnh giới rộng hẹp, nghó đến trí tuệ của chư Phật, mức độ rộng hẹp ấy đều được tùy ý. Bấy giờ, Tôn giả A-nan lại bạch Phật: –Thưa Thế Tôn, cũng như Tôn giả A-ni-lô-đậu dùng Thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy được một ngàn thế giới. Còn như Thế Tôn nói: “Ta thấy vô biên thế giới”, nghóa này như thế nào? Lúc ấy Đức Phật im lặng. Tôn giả A-nan lại hỏi như vậy, cho đến lần thứ ba, sau đó Đức Phật mới trả lời. Đức Phật bảo: –Này A-nan, ông chớ đem trí tuệ của hàng Thanh văn để so sánh với trí tuệ của Như Lai! Vì sao? Ta nay dùng Thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt nhân gian, thấy trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật ở phương Đông, có các vị Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề, trồng các thiện căn. Hoặc thấy trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật ở phương Đông có vô lượng Bồ-tát được thọ ký. Hoặc thấy trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật ở phương Đông có chư vị Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát. Hoặc thấy vô lượng Bồ-tát gần gũi nơi chư Phật, tu hạnh thanh tịnh, sau sinh lên cung trời Đâu-suất, giáng thần nhập vào thai mẹ. Hoặc thấy Bồ-tát đản sinh từ hông bên phải của Thánh mẫu. Hoặc thấy Bồ-tát sống cuộc đời đồng tử. Hoặc thấy Bồ-tát ở trong cung thị hiện thú vui năm dục. Hoặc thấy Bồ-tát bỏ ngôi Chuyển luân thánh vương, xuất gia tu đạo giải thoát. Hoặc thấy Bồ-tát hàng phục bốn thứ ma. Hoặc thấy Bồ-tát ngồi bên gốc cây Bồ-đề chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hoặc thấy Bồ-tát chứng đạo Bồ-đề rồi, thọ hưởng an vui giải thoát. Hoặc thấy có Bồ-tát thiền tọa tư duy hai thứ phân biệt. Hoặc thấy có Bồ-tát khi chuyển pháp luân. Hoặc thấy Bồ-tát khi vì chúng sinh xả bỏ thân mạng, sắp vào Niết-bàn vô dư. Hoặc thấy Bồ-tát sau khi nhập Niết-bàn, thời kỳ Chánh pháp và Tượng pháp trụ ở đời của mỗi vị xa gần, nhiều ít, lâu mau. Này A-nan, Ta thấy hằng hà sa số chư Phật thành đạo trong các cõi nước Phật ở phương Đông như vậy, sau khi các ngài diệt độ, thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp đều qua hết. Như những nước của chư Phật ở phương Đông, các phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương phụ và phương trên phương dưới cũng lại như vậy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan: –Này A-nan, Ta nhớ thuở xa xưa trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, không thể dùng số để tính toán, không thể dùng lời nói để trình bày, lúc ấy, có một vị Chuyển luân thánh vương tên là Thiện Kiến, thống lãnh bốn phương, đem chánh pháp trị đời, dân chúng dưới sự cai trị của Chuyển luân thánh vương này đều được giàu có, an vui. Nhà vua không dùng các thứ hình phạt đánh đập, cũng không sát hại; chấm dứt cảnh binh đao, đem chánh pháp dạy dân. Này A-nan, kinh thành của vua Thiện Kiến đang ở tên là Diêm-phù-đàn. Thành này mặt Đông Tây rộng mười hai do tuần, bề mặt Nam Bắc rộng bảy do tuần. Này A-nan, thành Diêm-phù ấy thanh tịnh trang nghiêm, đẹp đẽ lạ thường, đều dùng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, lưu ly và pha lê trang trí. Ngoài thành lại có bảy lớp bờ thành khác, mỗi thành đều cao bảy tầm, dày ba tầm, có bảy lớp lan can bao quanh, đều được chạm trổ tinh vi, đẹp đẽ hết mực, ít có thành nào sánh bằng, cũng dùng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê cấu trúc. Hoặc lan can bằng vàng ròng, trụ cột bằng vàng ròng, bệ cửa sổ bằng bạc trắng. Hoặc lan can bằng bạc trắng, trụ cột bằng bạc trắng, bệ cửa sổ bằng vàng ròng. Hoặc lan can bằng pha lê, trụ cột bằng pha lê, bệ cửa sổ bằng lưu ly. Hoặc lan can bằng lưu ly, trụ cột bằng lưu ly, bệ cửa sổ bằng pha lê. Trong mỗi thành của bảy lớp thành này đều có bảy lớp hàng cây Đa-la báu, trong thành hàng bao quanh. Những cây này hoa quả phơi bày, cành lá sum suê, tươi tốt, thu hút người xem. Thân và rễ của nó đều bằng bốn thứ báu là vàng ròng, bạc trắng, lưu ly, pha lê. Cây Đa-la bằng vàng, rễ thân bằng vàng, cành lá bằng bạc, hoa quả bằng vàng. Cây Đa-la bằng bạc, rễ thân bằng bạc, cành lá bằng vàng, hoa quả bằng vàng. Hoặc cây Đa-la bằng pha lê, rễ thân bằng pha lê, cành lá bằng lưu ly, hoa quả bằng lưu ly. Hoặc cây Đa-la bằng lưu ly, rễ thân bằng lưu ly, cành lá bằng pha lê, hoa quả bằng pha lê. Những cây Đa-la này đều có lưới giăng, trong khoảng không nơi lưới giăng ấy đều có treo linh báu. Những lưới treo và linh này, đều làm bằng bảy thứ báu, đó là: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, pha lê. Ở bên ngoài những thành ấy, có bảy lớp hào vây quanh. Hào đó rất sâu, chứa đầy nước có đủ tám đặc tính ưu việt. Mặt hào phẳng lặng, trong hào có rất nhiều loài hoa quý, đó là: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen trắng lớn trải khắp trên mặt nước. Dưới đáy những hào này rải bằng cát vàng. Giáp vòng chung quanh bờ hào có lưới bằng bảy báu giăng bủa khắp nơi. Này A-nan, thành Diêm-phù ấy, bốn mặt đều có mười sáu cửa. Các cửa thành đều làm bằng bốn chất liệu quý báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê và lưu ly. Cửa bằng vàng thì cánh cửa bằng bạc, cửa bằng bạc thì cánh cửa bằng vàng. Hoặc cửa bằng pha lê thì cánh cửa bằng lưu ly, hoặc cửa bằng lưu ly thì cánh cửa bằng pha lê. Các cửa thành này, mỗi mỗi cửa đều có một vọng đài canh gác, trước thềm nơi mỗi tầng lầu cao vút đều treo những bức lưới bằng bảo châu. Đài này cũng dùng bảy thứ báu trang hoàng tinh xảo đẹp đẽ, khiến người xem vô cùng thích thú. Những cửa thành ấy đều có bảy lớp bình phong làm bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, đứng yên không lay động, trước khi mở hay đóng cửa, bức bình phong tỏa ra ánh sáng rực rỡ, dịu dàng dễ chịu. Các cửa thành này, bên ngoài trông thấy suốt từ xa. Như khi muốn mở thì có gió thổi cửa tự mở, lúc muốn đóng lại có gió thổi cửa tự đóng. Bảy lớp bình phong này khi gió thổi mở ra, cửa cửa tương xứng đều trông thấy thông suốt lẫn nhau. Khi muốn đóng cửa gió thổi tự đóng, bảy bình phong tự khép kín trở lại. Này A-nan, bên trong thành Diêm-phù-đàn này có một ao lớn tên là Hoan hỷ. Ao này mặt Đông Tây rộng một do-tuần, mặt Nam Bắc rộng nửa do tuần. Bốn bờ ao có bốn bức tường gạch chạy dài ngay thẳng, tường được tô điểm bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, pha lê, lưu ly đẹp đẽ, trông rất vừa ý. Bốn mặt ao đều có đường đi được lát bằng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê và lưu ly, nền đường thẳng, phẳng, trông rất vừa ý. Vàng ròng lót đường thì bạc trắng làm thềm bệ. Bạc trắng lót đường thì vàng ròng làm thềm bệ. Lưu ly lót đường thì pha lê làm thềm bệ. Pha lê lót đường thì lưu ly làm thềm bệ. Trên vệ đường đều có vọng gác cũng được trang hoàng bằng bảy thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách và lưu ly hết sức đẹp đẽ. Bốn phía bờ ao đều có lan can, cũng dùng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê, lưu ly tổng hợp tạo thành, ngay ngắn chỉnh tề, hài hòa. Mặt ao phía Đông, lan can làm bằng vàng ròng, mặt ao phía Nam lan can làm bằng bạc trắng, mặt ao phía Tây làm bằng lưu ly, mặt ao phía Bắc làm bằng pha lê. Lan can làm bằng vàng ròng thì trụ làm bằng vàng ròng, bệ cửa sổ làm bằng bạc trắng. Lan can làm bằng bạc trắng thì trụ làm bằng bạc trắng, bệ cửa sổ làm bằng vàng ròng. Lan can làm bằng pha lê thì trụ làm bằng pha lê, bệ cửa sổ làm bằng lưu ly. Lan can làm bằng lưu ly thì trụ làm bằng lưu ly, bệ cửa sổ làm bằng pha lê. Này A-nan, ao Hoan hỷ ấy có bảy hàng cây Đa-la bao bọc chung quanh, khoảng giữa các cây đều có lưới bằng bảy báu trang nghiêm bủa giăng. Khoảng giữa nơi các lưới đều có treo chuông rung báu. Bên ngoài hàng cây Đa-la có bảy lớp hào bao bọc, đều đặn, ngay ngắn. Trong ao Hoan hỷ có các loài hoa: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Trên bờ ao lại có các loài hoa sống trên đất, như: Hoa Chiêm-bà, hoa A-đa-mục-đa, hoa Bà-lợi-sư và hoa Kiền-đà bà-lợi-sư. Ao ấy chứa đầy nước có đủ tám đặc tính ưu việt, khi các loài chim khát nước, uống vào đều được bình yên. Đáy ao rải toàn cát vàng. Lưới bằng bảy thứ báu phủ khắp trên mặt ao, từng mắc lưới mềm mại, đẹp đẽ này đều treo các chuông rung quý. Này A-nan, thành Diêm-phù ấy, đường sá đều bằng phẳng, ngay thẳng, hai bên vệ đường đều có cây Đa-la; nơi tàng cây Đa-la xen lẫn lưới giăng, khoảng giữa các mắc lưới đều treo chuông rung bằng bảy báu. Gió thoảng thổi động, các chuông rung bảy báu này phát ra âm thanh vi diệu khiến cho mọi người đều muốn nghe, tâm sinh hoan hỷ, giống như người đời trổi nhạc ngũ âm. Này A-nan, tất cả dân chúng trong thành Diêm-phù này đều thuần lương, chánh trực, họ cùng thích vui đùa, không bao giờ tranh cãi. Nghe tiếng chuông reo bỗng nhiên hoan hỷ, ca múa vui chơi, lại không mơ tưởng về một âm nhạc nào khác. Này A-nan, thành Diêm-phù ấy thường có nhiều thứ nhiều loại âm nhạc vi diệu, như là: tiếng chuông, tiếng trống, tiếng linh, tiếng ốc, tiếng đàn cầm, tiếng đàn sắt, đàn không hầu, tiếng còi, tiếng sáo, tiếng đàn tỳ-bà, tiếng đàn tranh, tiếng địch, đại thể là tất cả những âm thanh như vậy. Lại có vô lượng tiếng chim hót lảnh lót, như tiếng chim Sáo, chim Anh võ, chim Khổng tước, chim Câu-sí-la, chim Mạng mạng… vô lượng vô biên các loài chim như thế, phát ra âm thanh lạ thường, không lúc nào ngừng nghỉ. Trên mặt đất đều tung rải các thứ hoa đẹp, như là: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và loại hoa sen trắng lớn, cùng các loài hoa được trồng trên đất liền. Này A-nan, trong thành ấy không có những việc bất như ý, bức xúc làm khổ não. Tất cả tiện nghi đều đầy đủ, không có thiếu thốn, vật dụng dư giả, đồ ăn uống cũng vậy, đầy đủ các hương vị. Mọi nơi chốn nhà cửa đều đông đúc, không bỏ đất hoang, dân chúng với cuộc sống thịnh vượng, oai đức hiện rõ. Sự sinh hoạt trong thành này giống như thành A-la-ca của vua Tỳ-sa-môn ở phương Bắc không hơn không kém. Này A-nan, trong thời gian này có một Đức Phật ra đời tên là Bảo Thể, đầy đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… Này A-nan, Đức Phật Bảo Thể trước khi chưa thành đạo, lúc còn là một vị Bồ-tát, thường thích tu hạnh thanh tịnh. Dân chúng trong thành này cũng ưa tu hạnh thanh tịnh. Lúc đó, Đức Phật Bảo Thể ở ngoại ô thành Diêm-phù-đàn, vào một buổi sớm mai sắp vào xóm làng thôn ấp trong thành để khất thực, tức thì có ngàn vạn vô lượng chư Thiên giáng hạ xuống chỗ Đức Như Lai Bảo Thể, vây quanh hộ vệ cúng dường. Khi Đức Bảo Thể sắp vào thành, chân Ngài vừa bước đến cửa thành, thời dân chúng trong thành hết thảy đều nhờ oai lực thần thông của chư Thiên hộ trì, cho nên họ đều phát tâm cúng dường Đức Phật Bảo Thể. Nào quét dọn phẩn uế, rưới nước hoa và dùng hồ thơm tô trên mặt đất, trên mặt đường đầy những hoa quý, khắp mọi nơi đều đặt lư xông hương thượng diệu, đốt các thứ hương vô giá, các thứ cờ, lọng, phướn rợp cả mặt đường. Vô lượng vật dụng cúng dường như vậy để cúng dường Đức Phật Bảo Thể. Thuở ấy, có một chàng trai thôn quê ở ngoài thành cùng với một người trong thành sắp kết hôn. Khi chàng ta vào thành, thấy quang cảnh thành ấp sao hôm nay trang nghiêm đẹp đẽ khác lạ, ít có trong đời, từ nhỏ đến giờ mắt chưa từng mục kích, trong tâm hết đỗi kinh ngạc, nên hỏi người trong thành: Thành này hôm nay tổ chức lễ hội gì? Người trong thành trả lời cho kẻ thôn quê: –Ở đây có Đức Như Lai xuất thế, tên là Bảo Thể Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong chốc lát, Ngài sẽ vào thành khất thực. Vì lý do đó nên đường sá trong thành đều được quét dọn rưới nước hoa, trang trí đẹp đẽ. Họ lại còn trình bày rõ ràng cho chàng trai nông thôn này về công đức vô lượng vô biên của Như Lai, cũng tán dương công Đức Phật gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… lại ca ngợi công đức của Pháp bảo và xưng tụng công đức của Tăng bảo. Chàng trai được nghe nói về công đức của Tam bảo, nên vui mừng vô lượng, bèn suy nghó: “Đức Thế Tôn Bảo Thể Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác là Bậc ít thấy ở đời, ta nay nên đến chỗ Đức Phật ấy.” Suy nghó như vậy rồi, chàng trai liền cùng với những người nơi các xóm làng, thành ấp chen nhau đến chỗ Đức Phật Bảo Thể. Khi đến nơi, lại suy nghó: “Nếu Như Lai là Bậc Nhất Thiết Trí tất biết được tâm ta, Ngài nên đối với ta bày tỏ lời an ủi chỉ dạy trước.” Bấy giờ, Đức Phật Bảo Thể biết được tâm niệm của người nông thôn kia, nên trước nói lời an ủi, khiến người ấy vô cùng hoan hỷ. Thỏa mãn được ý nguyện của mình, anh ta liền thỉnh Đức Như Lai qua ngày hôm sau xin cúng dường và Đức Phật đã im lặng nhận lời. Người nông thôn ấy được Đức Như Lai nhận lời thỉnh cầu của mình nên rất vui vẻ, vội trở về nhà để sắm các thức ăn uống. Lúc này, trời Tứ Thiên vương, trời Phạm vương và Đế Thích… cùng đại chúng chư Thiên, đem theo các thứ phẩm vật nơi cõi trời đến chỗ của Đức Như Lai dâng hiến, cúng dường. Khi ấy người nông thôn về đến nhà, đêm đó lo sắm sửa các thức ăn uống cao lương mỹ vị. Mọi thứ sắm đầy đủ rồi, vào sáng hôm sau, cho người quét dọn nhà cửa sạch sẽ, lấy hồ thơm tô lên mặt đất, lại dùng nước thơm rưới khắp mọi nơi, kế đến rải các thứ hoa tươi đẹp và trần thiết tòa ngồi, mọi việc chu toàn, liền cho người đi thỉnh Thế Tôn. Người nhà đến bạch Phật: –Bạch Đức Như Lai, đã đúng giờ, xin Ngài quang lâm đến tệ xá của chúng con. Sáng sớm hôm ấy, Đức Phật Bảo Thể đắp y, mang bình bát, cùng một ngàn ức chúng Tỳ-kheo Thanh văn, trước sau vây quanh cùng đến nhà thí chủ. Đến nơi, chư vị Tỳ-kheo theo thứ lớp an tọa. Thí chủ thấy Đức Thế Tôn cùng đại chúng an tọa xong xuôi, liền tự tay mình bưng lấy các thứ ăn uống thượng diệu dâng cúng Đức Như Lai và bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Phật và chư Tỳ-kheo tăng tùy ý thọ dụng. Đến khi Đức Phật và đại chúng thọ trai xong, vật dụng cúng dường dùng không hết, người chủ thầm nghó: “Thức ăn trăm vị này, Đức Phật và đại chúng dùng không hết, quyết định là do oai đức từ thần lực của Như Lai, khiến cho đồ ăn dư dật. Đồ ăn còn lại quá nhiều, ta nay có thể mời số người đến chiêm ngưỡng Như Lai hiện có, thết đãi họ những thức ăn này, như vậy thì tâm ta mới hoàn toàn vui vẻ”. Rồi lại nghó tiếp: “Pháp Phật không thể nghó bàn, thật ít có, ít có thay! Nhờ đại lực từ oai thần của Đức Phật Bảo Thể, khiến cho quyến thuộc của ta không mời mà họ tự đến giúp đỡ. Ta cũng chưa từng nhờ cậy một người nào, lại không tốn nhiều công sức, mà mọi sự việc cùng một lúc đều được chu toàn”. Khi Đức Phật Bảo Thể thọ trai xong, tùy theo căn cơ của thí chủ mà thuyết pháp, khiến người nghe hoan hỷ, sinh tâm chưa từng có. Đức Như Lai lại đưa người ấy hội nhập với Chánh pháp, cả đại chúng nghe pháp thảy đều vui mừng, có người chứng được đạo quả. Rồi Đức Phật rời khỏi nhà trai chủ trở về tinh xá. Khi người nông thôn, lãnh hội được giáo pháp rồi, tâm rất vui mừng, phát lời thề rộng lớn: Nguyện đời vị lai ta cũng giống như Đức Như Lai Bảo Thể, chứng đức đầy đủ tất cả pháp! Lại nguyện: Ta ở trong đại chúng thuyết pháp như vậy, khiến cho thính giả nghe một cách hoan hỷ. Cũng như hôm nay, Đức Thế Tôn Bảo Thể giáo hóa chúng Tỳ-kheo an vui tu tập không khác. Sau khi người nông thôn đem tâm chí thành tôn trọng cung kính cúng dường Như Lai rồi, theo Phật về tinh xá, cạo bỏ râu tóc xả tục xuất gia, được trao giới Tỳ-kheo. Bấy giờ Đức Như Lai Bảo Thể vì chúng sinh trụ thế thuyết pháp, hạnh nguyện viên mãn mới nhập Niết-bàn. Sau khi Phật vào Niết-bàn, vô lượng vô biên đại chúng trời, người làm lễ trà-tỳ thân Phật, lại đem vô lượng vật dụng quý giá đến chỗ hỏa táng thiết lễ cúng dường. Lúc ấy, Tỳ-kheo nông thôn vừa nghe Như Lai nhập Niết-bàn, nên hết sức buồn rầu, thầm nghó: “Ta nay phải đi đến chỗ làm lễ trà-tỳ, hoặc đến đó sẽ được phép lạ chăng?” Thầy Tỳ-kheo ấy vội vã đến chỗ làm lễ trà-tỳ, vừa đến nơi, liền được viên ngọc quý lạ, nhưng viên ngọc ấy không được sạch, vì bị bao phủ một ít bụi. Bấy giờ Tỳ-kheo lau sơ viên ngọc thử xem, liền biết nó là viên ngọc chân lưu ly thanh tịnh, giá trị đến vài trăm ngàn lượng vàng. Viên ngọc ma-ni để chỗ nào thì ở đó ban đêm cũng sáng như ban ngày, tất cả phòng xá, đền đài đều được soi tỏ. Lúc này trời người thâu xá-lợi của Phật rồi, xây tháp phụng thờ. Tỳ-kheo nông thôn thầm nghó: “Ta nay nên dùng viên ngọc ma-ni thay cho chiếc bình bằng ngọc, đem đặt trên đỉnh của bảo tháp.” Suy nghó như vậy rồi, khi đến bảo tháp, vị ấy lại nghó: “Viên bảo châu ma-ni của ta giá trị đến trăm ngàn lượng vàng, ta nay đem nó đặt trên bảo tháp, vì Đức Như Lai là Bậc Thầy tôn quý của ta. Dù ánh sáng của viên ngọc ma-ni tỏa chiếu trên ngọn bảo tháp vô lượng ngàn năm, mà vị Tỳ-kheo đó lại còn thắp sáng vô lượng ngọn đèn để tôn kính cúng dường tháp báu đủ một ngàn năm. Mãn thời gian ấy, tâm thường không lãng quên, luôn giữ chánh định niệm Phật. Vị Tỳ-kheo do trì giới thanh tịnh, lại thêm cúng dường bảo tháp của Như Lai, nên sau khi mạng chung ở trong sinh tử, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn kiếp thọ hưởng phước lạc cõi trời, người, chưa từng rơi vào đường ác. Này A-nan, sau khi vị Tỳ-kheo ấy trải qua trăm ngàn vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, lại gặp một Đức Phật ra đời hiệu là Năng Tác Quang Minh Như Lai. Vị Tỳ-kheo ấy cúng dường Đức Phật rồi xuất gia giữ gìn giới cấm, phạm hạnh thanh tịnh như trước. Lại phát tâm: “Nguyện nơi đời vị lai, nhờ công đức này, ta đời đời kiếp kiếp không sinh vào cõi ác.” Lúc đó, Đức Phật Năng Tác Quang Minh biết được sở nguyện của vị Tỳ-kheo kia, liền thọ ký: –Này nhân giả, ông ở đời vị lai, trải qua trăm ngàn vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, sẽ thành Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là Nhiên Đăng. Đức Phật Nhiên Đăng khi còn là Bồ-tát, thân sau cùng sinh vào cung trời Đâu-Suất, giáng thần xuống nhân gian, nhập vào hông bên hữu nương gá mẫu thai, ở trong thai mười tháng, rồi nhất tâm chánh niệm, khi sắp đản sinh liền phóng hào quang chiếu sáng khắp cõi nước Phật. Một hôm, sắp đến lúc đản sinh Bồ-tát, Thánh mẫu thưa với Đại vương: –Xin Đại vương biết cho, ý của thần thiếp muốn ra lâm viên dạo chơi, thưởng ngoạn. Nhà vua nghe phu nhân nói như vậy, liền lệnh cho đại quan giữ nội thành, các trưởng giả hào phú, các thương gia và cư só: –Phu nhân ta ngày nay muốn ra lâm viên dạo chơi, thưởng ngoạn, ngay nơi tư gia các khanh đều trang hoàng nghiêm chỉnh, đường sá trong thành phải sạch sẽ, những nơi nào dơ nhớp hoặc sỏi gạch gồ ghề cần phải dọn sạch, dùng các thứ nước hoa, hồ thơm rưới tô khắp trên đường, và đem hoa thơm tươi đẹp rải khắp các nơi đó. Mọi chốn đều đặt bình bằng ngọc, xông các thứ danh hương. Lại bày biện các bình ngọc đựng đầy nước thơm, trong bình cắm các thứ hoa quý, như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Không nơi nào là không trưng bày những cây chuối, tùy theo lớn nhỏ cao thấp, treo trên đó các cờ phướn đủ màu sắc, mỗi mỗi cây cờ, lá phướn đều tua tủa vô số mành lưới bằng bảy báu, chuỗi trân châu anh lạc, nơi từng mắt lưới đều có treo chuông rung bằng chất liệu quý như những vì sao xuất hiện vào ban đêm nơi cõi trời Tịnh cư. Lại khắp mọi nơi đều treo những tấm gương bằng ngọc sáng như vầng nhật nguyệt, hoặc giăng những rèm đủ màu sắc rực rỡ, hoặc vô số những dải lèo bằng vàng, bạc bủa giăng khắp. Đường sá nơi thành này đều được trang hoàng với tất cả những thứ hết sức đẹp đẽ trang nghiêm như vậy, giống như thành Kiền-thát-bà của Thiên thần. Vương phu nhân ngồi trên kiệu báu, có kỹ nhạc mở đường âm thanh vang dội, cùng một ngàn tùy tùng bao quanh hầu hạ trước sau chật ních cả lối đi. Từ cung điện, Thánh mẫu ung dung chậm rãi bước ra, đưa mắt quan sát bốn bề, oai đức tôn nghiêm, so trong hội không ai sánh bằng! Đoàn người hướng về khu lâm viên, đến nói lại từ từ đi về phía sông. Lúc đến bên bờ liền xuống thuyền, thuyền lướt nhẹ tới giữa dòng, bỗng nhiên thấy một ngọn đèn sáng lớn, cao, rộng ngang dọc mười hai do tuần. Trong ánh sáng ấy, thấy rõ một bãi cỏ gấu cao chừng bốn ngón tay, thân cỏ mềm mại màu trắng tươi, giống như lông chim Ca-da-lân-đề, tỏa ra mùi hương ngào ngạt dường như mùi hương hoa Chiêm-bà-ba-lợi-sư. Trong lâm viên có nhiều loại cây quý nơi cõi trời, cõi người, những hoa lạ trái ngon đua nhau đơm, kết đầy khắp. Lúc ấy, Bồ-tát thánh mẫu ngửa mặt nhìn lên hư không, từ từ đưa tay phải vói lấy cành cây, cành ấy tự nhiên rũ xuống, vương phu nhân liền dùng tay nắm lấy, ngay lúc đó ngang hông bên phải đản sinh một vị đồng tử, dung mạo khả ái, quý danh là Nhiên Đăng. Khi Đồng tử Nhiên Đăng đản sinh, ngài tự nhiên chắp tay, hào quang sáng chói chiếu khắp cõi nước Phật này. Trên trời chư Thiên rải vô lượng các loại hoa để cúng dường, như hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Lại tung rải vô lượng bột hương chiên-đàn, đầy khắp chu vi mười hai do tuần, cùng thả xuống vô số nhạc khí của chư Thiên, không người sử dụng mà tự nhiên phát ra vô lượng âm thanh ca nhạc, tán thán. Lồng trong âm thanh này có tiếng nói: Làm ngọn đèn sáng vô lượng! Làm ngọn đèn sáng vô lượng! Thích hợp với tên tốt của Bồ-tát này, nên gọi là Nhiên Đăng. Đức đại só Nhiên Đăng các căn hoàn hảo, đầy đủ tướng tốt, không hề suy giảm, xấu xí. Trải qua ngày tháng đến tuổi trưởng thành, đồng tử ở nơi lầu son thọ hưởng mọi thú vui của năm dục, chợt sinh ý nghó: Cảnh ái dục của thế gian có tính chất hư huyễn, tạm thời, thay đổi trong chốc lát, chẳng bao lâu sẽ hoại diệt. Suy nghó như vậy rồi, liền xa rời cung điện, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục, sống cuộc đời xuất gia. Sau khi Ngài xuất gia cầu đạo Bồ-đề, đến ngồi bên gốc cây lần lần tu tập Chánh giác. Chứng quả Chánh giác rồi, Ngài dùng Phật nhãn quán sát tất cả thế gian, liền khởi suy niệm: Có ai là người đầu tiên đến nghe chánh pháp. Ngài thấy thế gian không có người để giáo hóa. Lại quán sát đến lần thứ ba, cũng thấy thế gian không có người nghe pháp và người để được hóa độ. Đức Phật Nhiên Đăng trụ thế trải qua ba ngàn năm, độc nhất không có pháp lữ, sau khi trải qua ba ngàn năm tọa thiền, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác thầm nghó: Các chúng sinh này mãi tham đắm nơi năm dục, luôn phóng dật, đam mê không biết nhàm chán, Ta nay phải dốc sức giáo hóa khiến họ thức tỉnh. Suy nghó như vậy rồi, từ thành Đăng chú, Ngài bay lên trụ trong hư không, hóa hiện một thành tên là Diêm-phù-đàn. Trong thành, Ngài biến hóa ra những ngôi nhà bằng lưu ly, bên ngoài thành hiện bảy lớp hàng cây Đa-la bằng bảy báu. Sự cấu trúc của hóa thành cũng dùng bảy thứ báu để trang nghiêm như nói ở trên. Thành này ngang dọc đông tây nam bắc đều năm ngàn do-tuần, vật dụng trang hoàng trong thành giống như cõi trời Đao-lợi. Dân chúng ở đây tuổi thọ đến ba ngàn năm. Tất cả chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề, từ xa trông thấy dân chúng nơi cõi hóa thành kia thọ hưởng hoan lạc, mặc tình buông lung theo thú vui năm dục. Những gì chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề thấy, nghe, hiểu biết về thành kia, thảy đều tỏ ra ham thích. Đức Phật Nhiên Đăng trải qua ba ngàn năm như vậy, ngài lại suy nghó: Ta nay có thể dùng thần thông biến hóa khiến cho người cõi Diêm-phù-đề sinh tâm nhàm chán cảnh năm dục. Ngay khi đó, tất cả dân chúng ở hóa thành bỗng thấy bốn mặt thành lửa bốc cháy ngùn ngụt, trong lòng kinh hãi, lo sợ tìm nơi ẩn náu, lại không có người giúp đỡ, muốn tìm đường trốn thoát mà không ai che chở. Cũng vào lúc này, chúng sinh cõi Diêm-phù-đề lại thấy bốn bức tường của hóa thành nơi Đức Phật Nhiên Đăng đang ngự phát hỏa cháy ngùn ngụt, họ càng lo sợ cùng bảo nhau: Ôi thôi! Thành kia tự nhiên lửa bốc cháy cùng khắp mọi nơi, chẳng mấy chốc sẽ bị tiêu diệt. Nói xong, họ lại nguyện: Nguyện hóa thành kia giáng hạ xuống nơi đây, hoặc thành này dời đến hóa thành kia, để chúng ta dập tắt những ngọn lửa đó. Khi ấy, tất cả chúng sinh cõi Diêm-phù-đề căn cơ đã thuần thục, đúng lúc được Đức Phật giáo hóa, nên ngay lúc ấy, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Nhân và Phi nhân v.v… xuất hiện nơi hóa thành, bảo dân chúng Diêm-phù-đề: Tại sao hóa thành này tự nhiên bốc cháy? Cùng lúc đó, trước mặt hóa thành bỗng nhiên xuất hiện ba cầu thang: Cầu thang thứ nhất bằng vàng, cầu thang thứ hai bằng bạc và cầu thang thứ ba bằng pha lê. Khoảng giữa hai cầu thang có xen lẫn những hàng cây Đa-la bằng ngọc quý. Những cây Đa-la này phát ra những âm thanh vang dội: Này các người, tất cả hãy mau tập trung về một chỗ. Nếu tâm các người muốn thấy Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài chẳng bao lâu sẽ giáng xuống cõi Diêm-phù-đề. Lúc này, tất cả dân chúng của cõi Diêm-phù-đề đều tập họp nơi cầu thang, thấy Đức Phật Nhiên Đăng từ trong hóa thành tiến ra bước xuống cầu thang. Khi ấy Tứ Thiên vương, Phạm vương, Đế Thích… vây quanh hộ vệ trước sau. Chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề được thấy Đức Phật Nhiên Đăng thảy hết sức hoan hỷ, mỗi người đều thầm nghó: Trước kia chúng ta mong muốn được thấy Như Lai, ngày nay chúng ta đã được chiêm ngưỡng. Họ lại sinh tâm niệm: Nếu chúng ta đến trước Đức Phật thưa hỏi việc này: Hóa thành kia vì cớ gì lửa bốc cháy như vậy? Đức Như Lai chắc chắn sẽ vì chúng ta mà giải thích. Khi Đức Phật đã bước chân xuống đất, tất cả dân chúng cõi Diêm-phù-đề mỗi người đều nghó: Riêng ta đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật và tự nói: Ta là người trước tiên đảnh lễ nơi chân Phật. Đức Phật Nhiên Đăng an tọa nơi tòa Sư tử xong xuôi, liền vì chúng sinh thuyết pháp; ca ngợi pháp bố thí, trì giới, ly dục để được chứng pháp dứt sạch các lậu tận, nói về lợi ích của công đức xuất gia, giảng giải ba mươi bảy pháp trợ đạo thanh tịnh. Đức Như Lai thấy dân chúng cõi Diêm-phù-đề này nghe Phật thuyết pháp tin tưởng vui mừng, thọ lãnh, tâm sinh hoan hỷ, tâm ý thuận hòa không có chướng ngại. Đức Như Lai lại vì họ mà giảng nói các pháp, như tiền thân của Đức Phật. Ngài thuyết pháp hợp với căn cơ của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Những pháp đó là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Ngày nay, Đức Thế Tôn cũng lại vì chúng sinh cõi Diêm-phù-đề mà thuyết giảng đầy đủ bốn chân lý này. Thuở đó, Đức Phật Nhiên Đăng thuyết pháp, ngày đầu tiên giáo hóa độ thoát sáu trăm ức người, đều trừ hết các lậu dứt sạch phiền não, chứng quả A-la-hán, tâm được tự tại. Ngày thứ hai giáo hóa năm trăm ức người, ngày thứ ba giáo hóa bốn trăm ức người, ngày thứ tư giáo hóa ba trăm ức người, ngày thứ năm giáo hóa hai trăm ức người, ngày thứ sáu giáo hóa một trăm ức người, ngày thứ bảy giáo hóa năm mươi ức người, tất cả đều chứng đạo quả A-la-hán. Cho đến trong tuần lễ thứ hai, Ngài giáo hóa độ thoát một trăm ức người, cuối cùng, trong tuần lễ thứ ba lại độ được bảy mươi lăm ức chúng sinh, tất cả đều được lợi ích, tâm ý sáng suốt, diệt sạch phiền não, thành bậc A-la-hán. Đức Phật Nhiên Đăng trụ thế một kiếp cùng với chư vị đệ tử Thanh văn, vì chúng sinh nơi thế gian làm những điều lợi ích. Này A-nan, chư Phật theo thứ lớp thọ ký cho nhau. Đức Phật Nhiên Đăng ban đầu trồng các thiện căn, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân, vì giáo hóa chúng sinh nên trụ thế một kiếp. Này A-nan, lúc Đức Phật Nhiên Đăng còn là vị Bồ-tát, ở trên thuyền tuy thọ nhận thú vui năm dục, nhưng ở trong thế gian luôn sinh tâm nhàm chán, suy nghó như thế, lại cũng phát tâm: “Ta có thể ngồi trên thuyền để vượt qua sông, đến bờ bên kia.” Ngay khi đó, liền hiện ra một đóa hoa sen xanh thật lớn, đồng tử Nhiên Đăng bước vào trong hoa này, ngồi kiết già, hoa sen tự nhiên khép kín thành đóa hoa sen búp. Lúc ấy đám thể nữ tìm kiếm không biết đồng tử ở đâu, liền về tâu lại với Đại vương. Nhà vua cho người đi tìm khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc đều không biết đồng tử ở chỗ nào. Cho đến tìm bốn phương phụ cũng không rõ là ở đâu. Bồ-tát Nhiên Đăng do sức thần thông nên có oai đức lớn, ngồi kiết già trong hoa sen trên thuyền mà mọi người không thấy, khi ấy chứng được năm thần thông, phi hành nơi hư không, cho đến khi ngồi bên cội cây Bồ-đề chứng quả Nhất thiết trí, rồi chuyển pháp luân, độ thoát được sáu mươi tám ức trăm ngàn người, thảy đều ở nơi thế gian giáo hóa chúng sinh. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706219">QUYỂN 3 <詞 id="48706220">Phẩm 1: PHÁT TÂM CÚNG DƯỜNG (Phần 3) Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở thành Xá-vệ bảo Tôn giả A-nan: –Này A-nan, chư Phật và Bồ-tát ngày đêm thường nói: Tất cả các pháp có bốn thứ thâu tóm để nhiếp hóa chúng sinh. Bốn pháp thâu nhiếp đó là gì? Một là Bố thí, hai là Ái ngữ, ba là Lợi ích và bốn là Đồng sự. Tôn giả A-nan bèn rời tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch áo vai bên hữu, đầu gối hữu quỳ sát đất chắp tay bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, thuở xưa ngài cúng dường bao nhiêu Đức Phật để cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Ngài ở nơi Đức Phật nào vun trồng các thiện căn, vì đời vị lai cầu đạo Bồ-đề? Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Hãy chú ý lắng nghe, khéo suy nghó ghi nhớ, Ta nay sẽ vì ông kể các danh hiệu chư Phật mà Ta đã từng vun trồng thiện căn trong quá khứ: Này A-nan, Ta nhớ thuở xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nơi Đức Phật này, Ta trồng thiện căn, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Thế Vô Tỷ. Lúc ấy Ta trồng các thiện căn, cúng dường Đức Phật, cầu đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Liên Hoa Thượng. Lúc đó Ta trồng các thiện căn, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Tối Thượng Hành. Lúc đó Ta trồng các thiện căn nơi Đức Phật ấy, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời, hiệu là Đức Thượng Danh Xưng. Ta lúc đó trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta lúc đó trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Đế-sa. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Phất-sa. Ta lúc ấy trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Kiến-nhất-thiết-lợi. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Thi-khí. Ta lúc ấy trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-sa-môn. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Câu-lưu-tôn. Ta bấy giờ trồng các thiện căn cho đến tu tập phạm hạnh, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Câu-na-hàm Mâu-ni. Ta lúc ấy trồng các thiện căn, dốc tu tập phạm hạnh, cùng cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Ta bấy giờ trồng các thiện căn cho đến dốc tu tập phạm hạnh, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan, Ta ở luôn trú nơi xứ của Bồ-tát Di-lặc trồng các thiện căn, cầu vào đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi nói kệ: Chư Phật oai đức lớn, Lìa dục chứng Niết-bàn. Phật Thích-ca Mâu-ni Cúng dường khắp tất cả. Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, Như Lai cúng dường chư vị Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đó, đã đem những gì để cúng dường và trồng những thiện căn gì để cầu vào đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Ta nhớ về đời quá khứ trải qua vô lượng kiếp có vị quốc vương tên là Hàng Oán, thuộc dòng Sát-đế-lợi thừa kế ngôi vị đế vương. Nhà vua đầy đủ phước đức, tuổi thọ rất lâu, dung mạo đoan nghiêm, tiếng tốt vang khắp mọi nơi. Này A-nan, vua Hàng Oán đóng đô nơi một thành lớn tên là Liên hoa. Nhà vua ở trong thành này cai trị dân chúng, xây dựng cung điện. Thành này mặt Đông, Tây rộng mười hai do tuần, mặt Nam, Bắc rộng bảy do tuần, đất đai phì nhiêu, mưa thuận gió hòa, lúa thóc dồi dào, không một ai nghèo khổ. Dân cư đông đúc khắp chốn, không một nơi nào bỏ hoang. Vườn hoa, rừng cây hoa quả sum suê. Mặt nước sông suối, ao hồ thường phẳng lặng. Hai bên đường, phố xá tấp nập, người buôn bán qua lại không ngớt. Giống như thành A-la-ca của trời Tỳ-sa-môn ở phương Bắc, bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc của thành Liên hoa này cũng dùng đủ các thứ trang nghiêm không khác. Này A-nan, trong thành của vua Hàng Oán có một vị Đại Bà-la-môn thuộc loại hào phú, tên là Nhật Chủ, sức lực dũng mãnh cường tráng, của cải châu báu, rất nhiều tôi tớ, voi ngựa, trâu dê, tất cả đều dư dật không thiếu món chi. Trong kho tàng của ông ta toàn là các thứ vật báu đặc biệt như: Vàng ròng, bạc trắng, ngọc báu, trân châu, trân bảo, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, giống như vua Tỳ-sa-môn ở phương Bắc. Này A-nan, lúc ấy, Đại Bà-la-môn Nhật Chủ đặc biệt được nhà vua đem tâm ái mộ, kết làm bạn thân, gắn bó mật thiết. Này A-nan, một hôm, vua Hàng Oán có một sự việc, đem giao cho Bà-la-môn Nhật Chủ, ra lệnh phải giải quyết cho hợp lý. Bà-la-môn Nhật Chủ theo đúng như pháp giải quyết xong, lại hợp ý với nhà vua, nên đối với vị Bà-la-môn ấy, vua Hàng Oán càng sinh tâm hoan hỷ bội phần, chia đôi đất nước, phong cho Bà-la-môn Nhật Chủ làm vua một nửa kia để cai trị muôn dân. Đại vương Hàng Oán, lại còn xây dựng cho vua Nhật Chủ một thành riêng tên là Diên chủ. Bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc, đường sá, ngã tư, thành quách đều được trang hoàng đẹp đẽ giống y như thành Liên hoa. Này A-nan, vua Nhật Chủ này có một phu nhân tên là Nguyệt Thượng. Bồ-tát Nhiên Đăng khi rời cõi trời Đâu-suất giáng thần xuống cung vua Nhật Chủ, nhập vào hông bên phải của phu nhân Nguyệt Thượng, khi ở trong thai vẫn thân ngồi yên ngay ngắn, kế đến là đản sinh, thành đạo, thuyết pháp giáo hóa muôn người, đều được chứng quả A-la-hán. (Nhân duyên như trên có nói trong kinh Bản Hạnh phần Bồ-tát Nhiên Đăng). Đức Phật Nhiên Đăng tuần tự du hóa qua lại trong hai thành này, thuyết pháp độ sinh. Phụ vương Nhật Chủ thường dùng bốn sự để cúng dường, luôn cung kính, tôn trọng Đức Phật, được Phật ca ngợi. Này A-nan, sự việc dần dần truyền đến tai vua Hàng Oán. Nhà vua nghe nơi thành Diên chủ, trong cung vua Nhật Chủ, đại phi thứ nhất phu nhân Nguyệt Thượng vừa sinh một đồng tử tên là Nhiên Đăng, dung mạo tuấn tú, thân như vàng ròng, đầy đủ tướng tốt, thế gian không ai sánh bằng. Đồng tử được đem đến tướng sư Bà-la-môn nổi tiếng trong nước để đoán xem tướng mạo như vậy thì về sau sẽ như thế nào? Tướng sư trả lời: Vị đồng tử này phước đức trang nghiêm, nếu ở tại gia sẽ là Chuyển luân thánh vương, làm chủ cõi đại địa thống lãnh bốn châu thiên hạ, đầy đủ bảy thứ báu: Một là xe báu bằng vàng, hai là ngọc báu như ý, ba là ngọc nữ báu, bốn là voi báu, năm là ngựa báu, sáu là quan báu thống lãnh quân lính, và bảy là quan báu coi giữ kho tàng. Lại có một ngàn Thái tử tướng mạo đều đoan nghiêm, đầy đủ tướng trượng phu, có tài đánh đuổi giặc thù, oai thế vang khắp chốn, bốn biển núi rừng đâu đâu cũng hàng phục. Quốc gia an ninh, mưa thuận gió hòa, năm thứ lúa thóc tươi tốt, dân chúng an lạc, không có cảnh khổ não tật bệnh, không dụng binh chinh phạt, đem chánh pháp trị dân. Còn nếu đồng tử xuất gia thì sẽ thành Phật đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác…, danh tiếng vang khắp mọi nơi. Này A-nan, Đồng tử Nhiên Đăng bỏ tục xuất gia, cho đến thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và chuyển pháp luân danh tiếng vang khắp mọi nơi, đúng như lời tướng sư đã tiên đoán. Lúc ấy, vua Hàng Oán thầm nghó: “Đức Thế Tôn ít có! Rất khó có cơ duyên xuất hiện ở đời, lâu lâu mới nghe danh hiệu một lần, nhưng lại khó được chiêm ngưỡng.” Đại vương Hàng Oán liền sai sứ mau đến kinh thành của vua Nhật Chủ tỏ lời thế này: –Ta nay nghe lời khẩu truyền: Đại phu nhân của nhà vua sinh hạ được một đồng tử hết sức đoan nghiêm, đầy đủ các tướng tốt… Ta nay muốn thỉnh Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đến thành Liên hoa là kinh đô của ta, để thọ dụng phẩm vật cúng dường, Nếu nhà vua đồng ý để Đức Phật đến thì cả hai nước đều được lợi ích. Còn như không thuận theo yêu cầu này thì ta sẽ cử bốn binh chủng trang bị đầy đủ đến chinh phạt. Sứ giả nhận sắc lệnh như vậy rồi, liền đi đến thành Diên chủ là kinh đô của vua Nhật Chủ, tâu lên nhà vua đầy đủ những lời như vậy. Vua Nhật Chủ vừa nghe qua lời tâu này, lòng ưu sầu tấm tức, trong dạ mang lấy sự việc chẳng vui. Nhà vua liền triệu tập quần thần, đối trước bá quan trình bày đầy đủ sự việc. Đại vương Hàng Oán có ý như vậy, các khanh suy nghó là ta nên phúc đáp như thế nào? Quần thần đồng tâu vua Nhật Chủ: –Đại vương nên biết, đối với sự việc ấy, chúng ta nên đến thưa hỏi Đức Phật Nhiên Đăng xem thử Ngài dạy ra sao. Vì Đức Nhiên Đăng Như Lai Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác luôn sẵn lòng đại Từ bi. Vua Nhật Chủ bảo quần thần: –Ta cũng có suy nghó như vậy. Liền khi ấy nhà vua cùng quần thần đích thân đến nơi Đức Phật Nhiên Đăng đang ngự thưa hỏi sự việc. Đức Phật an ủi nhà vua: –Phụ vương an tâm, chớ nên kinh hãi sợ sệt, chẳng nên sinh tâm ưu sầu. Vì sao? Ta nay cũng sắp du hóa đến nước đó để hóa độ dân chúng, vì Thế Tôn thương xót tất cả chúng sinh. Lúc ấy, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cùng vô lượng vô số trăm ngàn chúng Tỳ-kheo tùy tùng đồng du hành đến nước vua Hàng Oán để hóa độ chúng sinh. Trước khi Đức Phật du hóa, vua Nhật Chủ cúng dường cung cấp Đức Như Lai Nhiên Đăng, bốn sự cúng dường đầy đủ không có thiếu hụt, rồi đi theo sau tiễn đưa Đức Phật đến tận biên giới của mình. Nhà vua nhiễu quanh ba vòng đảnh lễ dưới chân Phật, bùi ngùi rơi lệ trở về hoàng cung. Lúc nghe tin Đức Phật Nhiên Đăng cùng vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo Thanh văn, đều là bậc A-la-hán đồng đến thành Liên hoa, vua Hàng Oán rất đỗi vui mừng, ra lệnh sửa sang đường sá nghiêm chỉnh, nơi nào nhơ bẩn đều được tẩy trừ, trưng bày bố trí nghiêm trang…, cho đến mọi thứ đều như thành Càn-thát-bà. Vua Hàng Oán ban sắc lệnh, loan báo cho tất cả dân chúng trong thành và cách ngoài thành mười hai do tuần đều biết không được tự do buôn bán các thứ tràng hoa thơm, nơi nào có hoa để nhà vua mua lấy, sắp đem cúng dường Đức Phật Nhiên Đăng. Lúc ấy Đại vương Hàng Oán đem bốn đại hùng binh đầy đủ oai thế, xuất phát từ hoàng thành đi nghinh rước Đức Phật Nhiên Đăng.  <詞 id="48706221">Phẩm 2: QUYẾT ĐỊNH ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 1) Bấy giờ ở phía Nam Tuyết sơn của nước này có một vị Phạm chí tên là Trân Bảo, xuất thân từ dòng Bà-la-môn thanh tịnh, từ bảy đời tổ tiên đến nay chưa có ai làm những việc tầm thường nhơ bẩn, chưa từng có một kẻ nào dám chê bai hủy báng. Dòng họ này đều được những nhà trí thức ca ngợi, lại được các bậc Đạo sư cung kính, đầy đủ ba hạnh, hay dạy tất cả luận Phệ-đà, bốn luận Phệ-đà đều uyên thâm. Lại thông hiểu cả: Xiển-đà luận, Tự luận, Thinh luận, Khả tiếu luận, Chú thuật luận, Thọ ký luận, Thế gian tướng luận, Thế gian tế tự chú nguyện luận… Đầy đủ tướng đại trượng phu, được sinh từ nhà đạo đức, lại có năm trăm người cũng thuộc dòng dõi đạo đức làm đệ tử hầu hạ cung phụng bên người. A-nan phải biết Bà-la-môn Trân Bảo lúc ấy chính là Bồ-tát Di-lặc ngày nay. Năm trăm đệ tử… thuở ấy tùy tùng theo thầy học, đọc tụng tế tự, chú thuật v.v… Trong năm trăm vị đệ tử này có một người thuộc dòng Bà-la-môn tôn quý tên là Vân, là người đứng đầu trong chúng, đầy đủ đức hạnh, theo học thầy từ thuở thiếu thời, đến năm lên mười sáu tuổi, hình dung tuấn tú khả kính, lại là người được sinh trong dòng họ đạo đức, cha mẹ thanh tịnh, cho đến tổ tiên bảy đời không có tỳ vết, không ai dám chê cười gia tộc này. Lại đầy đủ tướng đại trượng phu, thế gian không ai sánh bằng, sắc thân như vàng ròng, đầu tóc cũng vậy, tiếng nói trong trẻo như âm thanh của Phạm thiên, luôn luôn ở bên Tiên nhân Trân Bảo thọ học, đọc tụng chú thuật. Thông minh lanh lợi được pháp chân chánh, vừa nghe qua liền hiểu, biện luận rõ ràng câu văn rành mạch. Tất cả chú thuật kỹ nghệ khéo léo, những gì Bà-la-môn Trân Bảo có, người đều thông suốt. Đồng tử Vân sau khi am hiểu xong rồi, bạch với Tôn sư: –Bạch Đại sư Hòa thượng, con đã thông suốt đạo đức học thuật nơi Hòa thượng rồi, ý con muốn trở về nhà. Hòa thượng Phạm chí trong tâm luyến mộ đồng tử Vân không muốn xa lìa, nên nói với đồng tử: –Này Đồng tử phạm hạnh, ta có một bộ luận tên là Tỳ-đà, luận này của chư tiên đời xưa để lại, tất cả ngoại đạo Bà-la-môn chưa từng nghe biết, huống lại được xem. Ta nay đem luận ấy dạy cho ngươi. Đồng tử thưa: –Cúi xin Hòa thượng vì con chỉ giáo. Phạm chí liền dạy cho những chú thuật bí yếu, đồng tử cũng thọ lãnh tất cả. Lại bạch Phạm chí: –Con nay đã hiểu tường tận chú thuật của Hòa thượng, con còn phải làm gì nữa? Phạm chí lại bảo đồng tử: –Ta là người thừa kế dòng dõi Bà-la-môn, lại có pháp bảo gia truyền, nếu có đệ tử theo thầy học tập, quyết định phải báo ân, đem tất cả tài vật dùng vào việc hiến dâng. Đồng tử thưa: –Hòa thượng vì con giảng dạy pháp bảo gia truyền, sẽ lấy vật gì báo ân? Hòa thượng ngày nay ý muốn những gì? Phạm chí bảo: –Này đồng tử, ngươi muốn báo ân ta, ngươi có thể đem các vật dụng như: tàng lọng, giày da, gậy vàng, cây nạng vàng, bình vàng, bát vàng, áo quần và năm trăm tiền vàng cúng dường cho ta. Đồng tử thưa Phạm chí: –Thưa Đại sư Hòa thượng, con không có những vật dụng như đã nói ở trên để cung phụng Hòa thượng. Xin Hòa thượng cho con rời khỏi nơi đây để đi khắp bốn phương tìm kiếm. Khi nào có được, con lập tức trở về cúng dường Hòa thượng. Phạm chí bảo: –Nếu ngươi biết vậy, sẽ tùy ý đến nơi nào ngươi muốn. Đồng tử Vân liền đảnh lễ dưới chân thầy, nhiễu quanh ba vòng rồi từ biệt ra đi. Lúc ấy đồng tử nghe có một nơi cách Tuyết sơn năm trăm do-tuần có một thành tên là Thâu-la-ba-xa. Trong thành này có một dòng họ Đại Bà-la-môn tên là Tế Tự Đức. Đối với những người cư trú trong thành này, ông ta là người giàu có bậc nhất, tài sản rất nhiều. Đại Bà-la-môn Tế Tự Đức sắp vì sáu vạn Bà-la-môn khác tổ chức hội Vô giá suốt một năm, sắm đủ sáu vạn đồ vật để cúng dường. Mỗi một người là một tàng lọng, một cây nạng, một đôi giày da, một bình bát, một bộ quần áo và tiền bạc v.v… vật dụng cần thiết cho bản thân thảy đều đầy đủ. Đặc biệt vì một vị Thượng tọa Bà-la-môn, tạo những vật dụng bằng vàng: Một tàng lọng tuyệt hảo, một đôi giày da thượng hạng, một cây gậy toàn bằng vàng, một cây nạng bằng vàng, một bát vàng, một bình vàng, một bộ quần áo. Giá trị mỗi thứ trăm ngàn lượng vàng, năm trăm tiền vàng, một ngàn con trâu cái, mỗi con trâu cái có một con trâu nghé. Mỗi con trâu cái vắt được một đấu sữa, trên sừng của nó đều bịt vàng, năm trăm đồng nữ đều dùng chuỗi anh lạc trang sức. Trong số nữ nhân này có một đồng nữ tên là Thiện Kỹ là người đứng đầu. Hội Vô giá này chỉ còn một ngày nữa là mãn đủ một năm, lúc đó đồng tử Vân từ dưới Tuyết sơn ung dung tiến về phía thành Thâu-la-ba-xa nơi hội Vô giá đang tổ chức. Sáu vạn Bà-la-môn trong hội từ xa trông thấy đồng tử, liền cao giọng xướng lên: –Hay thay! Nơi đây khéo tổ chức hội Vô giá, hôm nay Phạm thiên tự nhiên đến đây thọ sự cúng dường của hội này. Đồng tử Vân nói với sáu vạn Bà-la-môn kia: –Các người chớ kêu ta là Phạm thiên, ta là người nhân gian, thật chẳng phải Phạm thiên. Các người Bà-la-môn lại hỏi: –Ngài là đấng gì? Đồng tử Vân nói: –Các ông có lẽ không nghe, ở phía nam Tuyết sơn có một vị Phạm chí tên là Trân Bảo, mọi kinh điển ngài đều thông đạt, dạy dỗ năm trăm đệ tử. Trong chúng của ngài có một vị thượng túc tên là Vân, tuổi vừa mười sáu, trí tuệ thông minh tài đức vẹn toàn, so với thầy không kém. Hơn thế nữa, giọng nói của người như tiếng Phạm thiên, các ông có nghe chăng? Các Bà-la-môn đều đáp: –Có nghe. Đồng tử Vân nói: –Chính là tôi đây. Các Bà-la-môn sau khi biết rõ rồi, lại càng vui mừng cất tiếng hô to: –Lành thay! Lành thay! Khéo lập hội Vô giá này, được đồng tử Vân đến thọ cúng dường. Khi ấy con gái của Bà-la-môn Tế Tự Đức, dung nhan kiều diễm cùng với một số đồng nữ ở trên lầu cao, từ xa trông thấy đồng tử Vân hình dung tuấn tú, ít có người thứ hai. Nàng vui mừng hướng về bốn phương trời lễ chư Thiên chư Thần, trong tâm thầm khấn vái: “Nguyện đồng tử luận nghị đệ nhất này, biện luận hơn vị cựu Thượng tọa Bà-la-môn trong hội, để ta xa lìa kẻ bất thiện đó, chẳng cùng với người bất thiện đó kết tóc trăm năm.” Khi đồng tử tiến vào trong hội, nhiễu quanh Thượng tọa Bà-la-môn ba vòng, rồi đến trước vị Thượng tọa Bà-la-môn dùng lời thân mật vấn an sức khỏe, lại hỏi: –Nhân giả trì tụng luận gì? Sáu vạn Bà-la-môn đáp lời đồng tử Vân: –Nhân giả chớ hỏi Thượng tọa chúng tôi trì tụng luận gì? Vì sao? Vì Thượng tọa chúng tôi có thể trì tụng hết thảy các luận, chú thuật, các pháp Bà-la-môn của chúng tôi. Đồng tử hỏi: –Trong hàng Bà-la-môn, ngài là bậc Thượng tọa, tuy đã đọc tụng các pháp y phương, kỹ nghệ của Bà-la-môn các ngài. Nhưng học thuật Bà-la-môn của thầy trò ta riêng có một pháp đặc biệt, chúng ta cần phải học hỏi lẫn nhau. Các ngài có biết luận tên là Tiên Hữu chăng? Sáu vạn Bà-la-môn, mỗi người đều đáp: –Chúng tôi chưa từng nghe tên luận, huống nữa là có! Huống nữa là đọc! Đồng tử nói: –Trong số giáo pháp mà thầy ta đã dạy cho ta, có một luận Tỳ-đà tên là Tiên Hữu, ta cũng tụng được. Các Bà-la-môn trong đại hội thưa: –Xin ngài vì chúng tôi mà giảng thuyết, chúng tôi rất thích nghe. Đồng tử Vân ở trước Thượng tọa sửa chỗ đứng, rồi dùng giọng nói trời Phạm thiên tụng luận Tiên Hữu Tỳ-đà này. Lúc ấy, sáu vạn chúng Bà-la-môn trong hội vui mừng hớn hở, đồng thinh xướng: –Rất hợp tâm chúng tôi! Rất hợp ý chúng tôi! Họ rất sung sướng thưa với đồng tử: –Ngài đồng tử, từ ngày hôm nay, ngài vì chúng tôi làm bậc Thượng tọa, ngồi vị trí hàng đầu của chúng tôi, nhận lấy phần nước uống ngon nhất của Thượng tọa chúng tôi, nhận lấy thức ăn trước tiên của Thượng tọa chúng tôi. Thế là đồng tử đã đẩy Thượng tọa kia xuống hàng hạ tọa, liền thăng tòa, thọ dụng nước uống trước nhất, thọ dụng thức ăn trước nhất, các thức ăn uống đều hợp ý. Sau mỗi bữa ăn, những đồ cúng dường tùy ý cần dùng, đúng như pháp của hàng Thượng tọa mà thọ lãnh, những đồ nào đối với đồng tử không cần dùng thì ngài không thọ lãnh. Lúc đó, Đại Bà-la-môn Tế Tự Đức thầm nghó: “Ta nay thiết lập hội Vô giá này chẳng đúng theo Thánh pháp? Hay là tất cả bao nhiêu phẩm vật cúng dường không đúng theo Thánh giáo? Tại sao tất cả vật bố thí trong hội thí này không được đồng tử Vân thọ nhận đầy đủ như ý ta mong muốn?” Đại Bà-la-môn Tế Tự Đức quỳ mọp thưa đồng tử Vân: –Thưa đại đức Đồng tử, xin Ngài thọ nhận tất cả vật bố thí này của tôi, chớ để cho hội thí của tôi chẳng được trọn vẹn. Đồng tử Vân nói với Bà-la-môn Tế Tự Đức: –Này Đại Bà-la-môn, hội bố thí của ngài rất tốt, đầy đủ các thứ, không thiếu một vật gì, nhưng hôm nay ta chỉ nhận lãnh những gì ta cần, còn những vật gì ta không cần, dầu ta có nhận lãnh cũng vô ích. Lúc ấy vị cựu Thượng tọa Bà-la-môn kia trong tâm thầm nghó: “Ta từ lâu mong được sự bố thí như thế, quyết tâm muốn được thọ lãnh trước. Tại sao hôm nay ta bị đồng tử này đến đẩy ta xuống hàng hạ tọa, đoạt lấy lợi dưỡng của ta. Như ta từ khi sinh ra cho đến nay, có tất cả bao nhiêu công đức trì giới tinh tấn, được quả báo khổ hạnh. Do quả báo này, đời đời kiếp kiếp ta cùng với đồng tử thường gặp lại nhau. Nhưng vì đồng tử chiếm đoạt lợi dưỡng của ta, ta không bao giờ bỏ oán thù này.” A-nan nên biết: –Đồng tử Vân lúc ấy là thân Ta, còn Bà-la-môn Tế Tự Đức lúc ấy nay là Đàn-đà-ba-ni, còn vị Thượng tọa Bà-la-môn lúc ấy nay tức là Đề-bà-đạt-đa. Này A-nan, do vì nhân duyên đó, Đề-bà-đạt-đa là người ngu si, thuở xưa cùng Ta đời đời kiếp kiếp luôn luôn tạo oán thù không bao giờ xa lìa. Bấy giờ đồng tử Vân đem những vật bố thí có được, mang về Tuyết sơn để cung phụng Phạm chí. Người trải qua bao nhiêu xóm làng thôn ấp, thành phố các nước. Lúc nghỉ lúc đi quan sát cảnh vật, như vậy lần lần cuối cùng tiến đến thành Liên hoa. Khi đặt chân vào thành này thấy phong cảnh trang nghiêm tốt đẹp lạ thường, không tài nào tưởng tượng hay diễn tả được, như đã nói ở trên. Đồng tử liền nghó: “Vì lý do gì thành Liên hoa ngày hôm nay trang nghiêm không thể tưởng tượng hay diễn tả được. Hoặc có người sắp tổ chức hội Vô giá ở thành này chăng? Hoặc lại tế tự các vị tinh tú trên trời chăng? Hoặc tạo điều an lành tốt đẹp gì chăng? Hoặc tổ chức làm phước chăng? Hoặc nhằm tiết lễ hội Bà-la-môn chăng? Hoặc dân chúng trong thành này nghe danh tiếng Ta đa trí học rộng, họ cho rằng Ta đến đây cùng các vị Bà-la-môn nghị luận chăng? Hoặc lại cung kính lễ bái Ta, nhưng tại sao không có một người đoái tưởng đến Ta?” Khi ấy Ta liền hỏi một người trong thành: –Thưa nhân giả, tại sao thành này trang hoàng đẹp đẽ tuyệt vời như vậy? Người trong thành trả lời: –Này đồng tử đại trí, ngài không nghe sao! Đức Thế Tôn Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng mấy chốc sẽ đến thành này thuyết pháp giáo hóa dân chúng. Vì nhân duyên này, Đại vương Hàng Oán ra lệnh dân chúng mỗi nhà phải trang hoàng. Tất cả mọi người muốn tạo phước nghiệp, mới trần thiết tất cả các thứ trang nghiêm như vậy. Vì họ quyết định cúng dường Đức Như Lai Nhiên Đăng. Này A-nan, Ta lúc đó thầm nghó: “Trong giáo pháp của Ta có nói: Người nào có đủ ba mươi hai tướng tốt thì có hai quả báo: Một là, nếu ở tại gia quyết định sẽ làm Chuyển luân thánh vương. Hai là, nếu xuất gia tu học Thánh đạo, quyết định sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, danh tiếng vang khắp mọi nơi, oai đức tự tại. Ta không nghi ngờ lời nói này.” Này A-nan, Ta thuở ấy lại sinh tâm niệm: “Ngày nay, trước hết Ta nên dừng lại nơi đây, cúng dường lễ bái Đức Thế Tôn Nhiên Đăng, cầu đời vị lai chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, rồi sau đó mới báo ân thầy Phạm chí.” Ta lại thầm nghó: “Sẽ đem những vật gì để cúng dường Đức Phật? Đem sự nghiệp gì để gieo trồng các thiện căn?” Tâm Ta lại suy nghó: “Chư Phật Thế Tôn không chuộng cúng dường bằng tiền tài, chỉ đem pháp cúng dường mới được Thánh nhân khen ngợi. Ta nay chưa có pháp cúng dường, không lẽ đứng nhìn. Ngay bây giờ Ta có thể đi mua các hoa đẹp thượng hạng đem về dâng cúng Đức Phật, nguyện đời vị lai thành Phật đạo.” Nghó rồi, liền khi ấy đến một cửa hàng bán hoa, nói với người chủ: –Nhân giả có thể bán hoa này cho Ta không? Người bán hàng bảo Ta: –Nhân giả đồng tử, người không nghe sao! Đại vương Hàng Oán ban sắc lệnh xuống dân chúng những nơi nào có tràng hoa không được bán cho ai hết. Vì sao? Vì nhà vua tự mua lấy để cúng dường Phật. Ta nghe qua người bán hoa nói như vậy, lại đi đến các gian hàng của những người bán hoa khác nài nỉ mua hoa. Họ đều trả lời như người bán hoa trước. Như vậy Ta rảo khắp mọi nơi mà mua hoa không được, Ta lén tìm hỏi những người ở hai bên vệ đường. Bỗng thấy một tỳ nữ mặc áo xanh đi múc nước tên là Hiền Giả, người giấu bảy cành hoa sen xanh trong bình đựng nước, từ phía trước đi lại. Ta thấy người này rồi, tâm sinh vui mừng, liền nói với tỳ nữ: –Nàng mang hoa này muốn dùng vào việc gì? Ta nay đưa cho nàng năm trăm tiền vàng, nàng có thể trao cho Ta bảy cành hoa sen xanh trong bình chăng? Tỳ nữ lại nói: –Này nhân giả đồng tử, ngài chẳng nghe sao? Đức Thế Tôn Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác ngày nay sắp vào thành, Ngài đã nhận lời thỉnh của vua Hàng Oán chủ cõi nước này. Nhà vua đối với Đức Phật sinh tâm tôn trọng, lại muốn vun trồng các công đức, nên truyền lệnh trong nước cách thành phạm vi mười hai do tuần, nơi nào có dầu thơm tràng hoa, không một ai được phép giấu bán. Nếu có bán thì chỉ một mình nhà vua được mua để đích thân đem cúng dường Đức Phật. Vì gần nhà tôi có một người bán tràng hoa tên là Oán Thù, người này có một người con gái lén nhận của tôi năm trăm tiền vàng, người liền giấu cho tôi bảy cành hoa này. Tôi đã trái lệnh của nhà vua, được hoa này tự muốn cúng dường Thế Tôn Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thật tình tôi không thể bán cho ngài được. Ta lại nói với tỳ nữ: –Thiện nữ đã trình bày nguyên do được hoa, Ta nay đã biết vậy, nàng có thể lấy năm trăm tiền vàng, cho Ta năm cành hoa sen xanh còn hai cành thuộc về nàng. Tỳ nữ liền hỏi: –Nhân giả đồng tử, ngài lấy hoa này sẽ dùng vào việc gì? Ta đáp: –Như Lai xuất hiện ở đời khó thấy, khó gặp. Ta nay gặp được, muốn mua hoa này dâng lên Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác để trồng các thiện căn, vì đời vị lai cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tỳ nữ nói với Ta: –Tôi xem đồng tử hình dung trong ngoài thân tâm dũng mãnh, tinh tấn ham mộ giáo pháp, ngài sẽ thành đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Đồng tử, ngài chịu hứa với tôi, trong khoảng thời gian ngài chưa chứng Thánh đạo, đời đời kiếp kiếp tôi sẽ là vợ ngài. Nếu khi ngài đắc đạo, tôi sẽ cạo tóc xuất gia học, cầu quả A-la-hán, làm đệ tử của ngài, tu hạnh Sa-môn. Nếu được như vậy, hôm nay tôi sẽ trao cho ngài năm cành hoa sen này, không được như vậy thì tôi chẳng trao. Ta lại nói với tỳ nữ: –Này thiện nữ, ta ngày nay thuộc dòng Bà-la-môn chủng tộc thanh tịnh, thông đạt bốn luận Tỳ-đà. Trong luận Tỳ-đà của ta có dạy: Nếu người nào muốn cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hành đạo Bồ-tát, người này nên đối với tất cả chúng sinh sinh tâm thương xót, sinh tâm làm cho họ an lạc, có ai đến cầu xin vật gì không nên lẫn tiếc, cho đến cầu xin thân mạng cũng phải bố thí cho họ, huống nữa các thứ yêu quý như vợ con, và ngoài ra như của cải không được tham lam bỏn sẻn. Này thiện nữ, ta nay phát nguyện cầu quả vị Bồ-đề vì muốn đem lại an lạc cho tất cả chúng sinh. Giả sử có người đến xin vợ con, ta cũng bố thí. Tâm luyến ái của nàng nếu làm trở ngại hạnh Bồ-tát, thì tâm nguyện cắt xả của ta không thành, lại ở bên nàng tạo vô lượng tội lỗi. Nàng nếu phát nguyện, có thể ở trong lúc đó đối với tất cả tài sản bảo vật đang có, khi ta bố thí không được cản ngăn thì ta sẽ hứa: Nàng cùng ta kết thành phu phụ. Tỳ nữ nói với Ta: –Này đồng tử, giả sử có người đến với ngài xin thân tôi, tôi cũng không sinh tâm bỏn sẻn huống nữa là họ xin con trai, con gái và các của cải khác. Ta nói với nàng: –Nếu nàng được như vậy, ta sẽ theo như sở nguyện của nàng, sẽ hứa ở đời vị lai cho nàng làm vợ. Lúc ấy, tỳ nữ nhận nơi Ta năm trăm tiền vàng, liền cầm năm cành hoa sen xanh trao cho Ta, còn hai cành nữa nhờ Ta thay nàng dâng cúng Đức Phật. Nàng còn nói với Ta: –Nơi nào ngài muốn trồng thiện căn, hãy đem hai cành hoa này rải trên đó, sẽ nguyện ngài cùng tôi đời đời sống với nhau không bao giờ xa cách. Khi đó, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác từ ngoài tiến vào thành Liên hoa. Ta cầm bảy cành hoa sen trông thấy Đức Phật từ xa hướng đến, dần dần tiến gần, xem thấy thân Phật đoan chánh khả kính, hào quang trong sáng chiếu khắp thế gian, các căn điều phục, tâm ngài vắng lặng an trụ chẳng động, sáu căn lặng yên như nước ao lưu ly, đi đứng oai nghi giống như voi chúa. Lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức đại chúng chư Thiên vây quanh trước sau, mỗi người đều rải vô lượng các thứ hoa trời và vô lượng bột hương chiên-đàn cõi trời, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen trắng lớn lên trên Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác tôn trọng cúng dường. Bấy giờ, Đại vương Hàng Oán chuẩn bị bốn binh chủng đầy đủ oai phong, xuất phát từ cửa thành để nghinh đón Đức Phật Nhiên Đăng. Lúc ấy nơi hoàng thành tụ tập vô lượng vô biên chúng sinh: Người, A-tu-la, Trời, Rồng, tám bộ chúng quỷ thần… Họ đem theo bột hương và các thứ hoa để rải trên Đức Phật Nhiên Đăng, tuyệt nhiên không có một hoa nào rơi xuống mặt đất, đều trụ trong hư không trên đảnh Đức Phật làm thành bảo cái lớn. Khi Đức Phật đi đứng thì bảo cái này cũng di chuyển theo. Khi thấy Đức Phật Nhiên Đăng, Ta sinh tâm chánh tín, sinh tâm kính trọng, đem bảy cành hoa sen xanh rải trên Đức Phật, phát lời thệ nguyện: “Ở đời vị lai khi ta thành Phật, như Đức Như Lai Nhiên Đăng đắc pháp hôm nay, và ở trong đại chúng giống nhau không khác.” Hoa của đồng tử rải, trụ trong hư không, cánh hoa hướng xuống, cuống hoa xoay lên, ngay trên đảnh đầu Đức Phật, thành chiếc lọng hoa theo Đức Phật đi, đứng. Ta thấy sức oai đức thần thông như vậy, tâm kính tín lại tăng bội phần. Này A-nan, lúc đó, vô lượng vô biên dân chúng đều đem y phục tuyệt hảo vô giá trải trên mặt đường, như là: Y ca-thi-ca mịn mỏng, y bằng dạ trắng mịn, y bằng vải gấm mỏng, y bằng lông thú mềm mại tốt đẹp và chăn bằng tơ tằm thêu đủ màu sắc. Vì sắp cúng dường Đức Phật Nhiên Đăng nên trải phủ kín mặt đất. Này A-nan, Ta thấy vô lượng vô biên dân chúng đem áo quý giá trải kín trên mặt đất, riêng Ta chỉ có một tấm da nai, Ta đem nó trải trên mặt đường, chỗ đất mà tấm da nai của Ta phủ lên, dân chúng chê trách oán ghét, họ cầm tấm da nai của Ta vứt thật xa. Ta nghó: “Ôi thôi! Đức Thế Tôn Nhiên Đăng có thể không thương xót ta chăng? Thầm nghó như thế rồi, Phật biết được ý ta, nên Ngài thương xót đến Ta. Đức Phật Nhiên Đăng dùng sức thần thông, biến một vùng đất trên mặt đường thành một vũng lầy, dân chúng thấy đường lầy lội đều lánh đi ngõ khác, không một ai đi qua đoạn đường lầy này. Lúc ấy, Ta thấy đường đi như vậy, liền lướt đến chỗ đó, thấy đường bùn lầy rồi, liền thầm nghó: “Như thế này làm sao Đức Thế Tôn qua được. Nếu Ngài lội qua đoạn đường lầy này thì chân Ngài sẽ dính bùn nhơ bẩn, ta nay có thể đem nhục thân bất tịnh này làm chiếc cầu lớn bắc qua vũng bùn để Đức Phật bước lên thân Ta mà qua.” Lúc đó Ta liền xõa tóc phủ khắp chỗ đất tấm da nai, úp mặt xuống làm chiếc cầu lớn cho Đức Phật đi qua. Tất cả dân chúng chưa được bước qua, chỉ một mình Đức Phật là người trước tiên đi trên tóc Ta. Ta đã cúng dường Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác như vậy. Lại phát sinh ý nghó: Chân của Như Lai Nhiên Đăng và chúng Thanh văn này đi trên tóc và thân Ta qua khỏi đoạn đường bùn này. Lại phát nguyện: “Nguyện đời vị lai khi ta thành Phật có oai đức thế lực làm bậc Đạo sư cho trời người, như Đức Như Lai Nhiên Đăng ngày hôm nay không khác.” Lại nguyện: “Nếu ngày hôm nay không được Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký, ta nguyện trọn đời không ra khỏi vũng bùn này.” Đang khi đồng tử trải thân tóc thì cõi đại địa chấn động theo sáu cách. Nghóa là: Phía Đông vọt lên phía Tây lặn xuống, phía Tây vọt lên phía Đông lặn xuống; phía Nam vọt lên phía Bắc lặn xuống, phía Bắc vọt lên phía Nam lặn xuống; chính giữa vọt lên chung quanh lặn xuống, chung quanh vọt lên chính giữa lặn xuống. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706222">QUYỂN 4 <詞 id="48706223">Phẩm 2: QUYẾT ĐỊNH ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 2) Bấy giờ, Đức Như Lai Nhiên Đăng Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác biết tâm niệm ta, Ngài cùng một trăm ngàn vị đại Tỳ-kheo và ngàn vạn ức chúng Thiên, Long đồng hướng đến chỗ ta, chân Đức Phật bước ung dung trên tóc và thân ta như đại long vương, Ngài đưa mắt nhìn hai bên rồi bảo chư vị Tỳ-kheo: –Này các Tỳ-kheo, các người không được cùng Ta đi chung một lối, không một người nào được phép bước trên thân và tóc của đồng tử, chỉ trừ một mình Như Lai mới có thể bước đi trên thân và tóc người này mà thôi. Tại sao? Đây là tóc và thân của vị Bồ-tát. Lúc ấy Đức Phật Nhiên Đăng nói với Ta: –Hay thay! Hay thay! Này Đồng tử, ngươi đã phát đại tâm rộng lớn như biển, sở nguyện của ngươi vì tất cả chúng sinh làm những điều lợi ích, vì tất cả chúng sinh đem lại niềm an lạc. Này Đồng tử, ngươi đã phát đại nguyện mong cầu đem lại lợi ích an lạc cho tất cả thế gian, thương xót vô lượng vô biên chúng sinh, làm bậc đạo sư cho cõi người cõi trời như vậy. Tâm ngươi tinh tấn đại dũng mãnh mới được đầy đủ những pháp như vậy. Chí nguyện ngươi như kim cang, không tiếc thân mạng. Do vậy hôm nay ngươi đem thân nâng đỡ gót chân Như Lai đi qua. Ngươi ở đời vị lai cho đến không lẫn tiếc thân mạng, huống nữa là tài sản khác. Này Đồng tử, ngươi cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây là việc làm đầu tiên, ngươi đã phát nguyện rộng lớn như vậy, nên bố thí tất cả những gì ngươi có. Này Đồng tử, việc bố thí đó, ngươi không được cầu phước báo thế gian ở đời vị lai, chỉ cầu đạo xuất thế Vô thượng Bồ-đề. Chớ sinh tâm tham lam thấy tài sản của người không được chiếm đoạt, giữ gìn cấm giới đừng để hủy phạm, không được tạo tác việc ô nhiễm, không được cầu danh, không được khen ngợi mình chê bai người, cho đến người ta có hủy báng, ngươi phải nhẫn nhục. Ví dầu có người đến đánh đập chưởi mắng cột trói giết hại, ngươi phải nhẫn nhục nhận lấy tất cả. Cho đến gặp trường hợp họ phân thây ra từng mảnh, đối với kẻ oán thù như vậy, ngươi cần phải nhẫn nhục sinh tâm từ bi, không được sát sinh, không được cướp đoạt thân mạng và tài sản của người khác. Đối với tài sản người khác ngươi nên luôn luôn xa lánh. Đối với việc kinh doanh mưu lợi của mình cũng nên biết vừa đủ. Đừng gần gũi vợ con thê thiếp của người khác, đối với thê thiếp của mình cũng không nên tham đắm quá độ. Cho đến trọn đời không được nói dối, không được nói chuyện phải trái của người khác, không được tranh chấp nhau khiến người thân thuộc trở thành xa lạ. Thấy người gây sự chia rẽ, thường đem lời hòa hợp giải hòa. Không được nói lời cộc cằn thô lỗ, thường dùng lời nói dịu dàng êm đẹp, không được nói lời phù phiếm, chỉ nói lời có lợi ích. Nói đúng thời, nói đúng pháp, nên thực hành chánh kiến, phải tránh xa tất cả tà đạo. Này Đồng tử, nếu ngươi có thể làm được những điều ấy, thì chí nguyện sẽ được viên mãn. Đối với tất cả chúng sinh, nên sinh tâm tưởng thương xót như con một, giữ gìn khẩu ý chớ có dua nịnh, phải là người tôn trọng cúng dường chúng sinh. Chớ ngạo mạn khiến tâm buông lung, thường ở trong thiền định vắng lặng, quán pháp vô ngã. Chớ đoạn giống Bồ-đề đời vị lai. Ngươi phải làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh như vậy. Này Đồng tử, nếu có thể hoàn tất tất cả những việc ấy, thì tự nói: “Ta có thể làm được”. Khi ấy Ta liền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, con có thể làm được. Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đã biết tâm ta, Ngài liền mỉm cười. Tỳ-kheo thị giả của Ngài liền rời chỗ ngồi sửa sang y phục, trịch áo vai bên hữu, quỳ xuống bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì Ngài mỉm cười? Đức Phật Nhiên Đăng bảo Tỳ-kheo thị giả: –Này Tỳ-kheo, ông có thấy Đồng tử cầm bảy cành hoa cúng dường Ta, cúi thân trải tóc làm chiếc cầu bắc qua vũng bùn để Ta đi qua đó hay không? Do vì nhân duyên đó, Đồng tử này trải qua a-tăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, đầy đủ mười hiệu: Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác… như Ta không khác. Này A-nan, thuở ấy Ta nghe Đức Phật Nhiên Đăng vì Ta trao một lời thọ ký quyết định rồi, thân tâm nhẹ nhàng, bỗng nhiên bay bổng lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, Ta chắp tay đem tâm thanh tịnh hướng về Đức Phật đảnh lễ. A-nan, Ta lúc đó toàn thân khoan khoái không thể tự kiềm chế được. Này A-nan, Đức Phật Nhiên Đăng dạy Ta: –Ông hãy nhìn về các thế giới phương Đông. Khi ấy Ta liền nhìn thấy hằng hà sa số chư Phật các cõi nước phương Đông, tất cả chư Phật đều Vì ta trao lời quyết định thọ ký: “Này Đồng tử, ngươi sẽ trải qua a-tăng-kỳ kiếp ở đời vị lai sẽ thành Phật tên là Thích-ca Mâu-ni đầy đủ mười hiệu.” Chư Phật các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương phụ và trên dưới cũng lại thọ ký như vậy. Này A-nan, Ta lúc ấy từ hư không hạ xuống đứng yên trên mặt đất, đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn Nhiên Đăng, rồi lui về đứng một bên, sinh khởi ý nghó: “Ta ngày hôm nay có thể ở nơi Đức Phật Nhiên Đăng cầu xin xuất gia.” Liền bạch Phật: –Cúi xin Thế Tôn cho con xuất gia thọ giới Cụ túc, con ở bên Phật tu phạm hạnh. Đức Phật bảo ta: –Này Đồng tử, nay đúng lúc ngươi được cạo bỏ râu tóc sống hạnh xuất gia. Vừa cạo bỏ râu tóc xong, thì vô lượng chư Thiên đến nơi đống tóc làm lễ cúng dường. Mười ức chư Thiên mỗi người nhận được một sợi. Này A-nan, từ khi Ta chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đến nay, chưa thấy một chúng sinh nào không cúng dường chư Phật mà được an lạc bao giờ. Này A-nan, Ta lúc ấy vẫn còn đầy đủ các phiền não trói buộc, tham dục, sân hận, ngu si chưa dứt hết, mà vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh lấy tóc Ta, họ giữ gìn cúng dường vẫn được giải thoát. Huống lại ngày hôm nay Ta đã lìa tham, sân, si, kẻ nào ở bên Ta tạo các công đức mà không được giải thoát, điều ấy không bao giờ có. Này A-nan, do đó tất cả chúng sinh cần phải phát tâm cúng dường chư Như Lai. Này A-nan, Ta thuở ấy đến nay khi còn ở trong phiền não, tu hạnh Bồ-tát không rời tâm tinh tấn dũng mãnh, thường bố thí, thường vun trồng công đức. Do Ta tạo các thiện nghiệp như vậy, ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp làm Phạm vương, Đế Thích, hoặc trăm ngàn lần làm Chuyển luân thánh vương. Do nhân duyên thiện căn đó mà ngày nay thành Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân vô thượng tối diệu. A-nan, Ta do sức phước đức trí tuệ, hiện tại được tất cả dòng tôn quý vua quan, Bà-la-môn, trưởng giả, cư só, Sa-môn, học giả tin lấy lời nói của ta, theo giáo pháp ta tu hành. A-nan, ông xét lời nói của Ta hoàn toàn không thay đổi, y như lời Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho Ta, dạy bảo Ta. Ta căn cứ vào đó tu hành, ngày nay chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ: Dù cõi trời sụp đổ Quả đất bị biến hoại Tất cả các chúng sinh Vẫn được thân thường trụ Núi Diệu cao tan vỡ Nước bể cả cạn khô A-nan người phải biết Chư Phật không hai lời. Khi Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, lại bảo A-nan: –Chư Phật Thế Tôn thường có hạnh thế này: Giả sử có vô lượng vô biên quang minh vì chúng sinh thu lại một tầm, từ trong một tầm này vì chúng sinh lại hiện vô lượng vô biên quang minh. Vì sao? Vì chư Phật sợ chúng sinh không biết thời gian: Ngày đêm, một tháng, nửa tháng, một năm, nửa năm, e sợ quên mất bốn thời tám tiết xuân hạ thu đông. Này A-nan, Đức Phật Nhiên Đăng đầy đủ mười hiệu, có hào quang là do nghiệp nhân tạo thành. Hào quang thường chiếu sáng không có khi nào tối tăm, do đó Đức Phật có hiệu là Nhiên Đăng. Ngài luôn luôn có ánh sáng chiếu khắp trời đất, là do nhân duyên như đã nói ở trên. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ có Đức Như Lai xuất hiện ở đời tôn hiệu Nhất Thiết Thắng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta dùng hoa bằng vàng rải trên mình Đức Phật phát lời thệ nguyện: “Con nguyện ở đời vị lai được thân vi diệu đầy đủ các tướng tốt như Đức Phật ngày hôm nay.” Lúc ấy, Đức Phật biết được tâm niệm ta, ngài mỉm cười. Tỳ-kheo thị giả của Phật sửa y phục bạch Phật… cho đến Đức Phật Thắng-Nhất-Thiết bảo vị thị giả ấy: –Này Tỳ-kheo, ông có thấy kẻ đem hoa vàng rải trên thân Ta chăng? Tỳ-kheo thị giả đáp: –Dạ vâng, bạch Đức Thế Tôn con có thấy. Đức Phật bảo Tỳ-kheo thị giả: –Người này trải qua một ức kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni đầy đủ mười hiệu: Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác… Này A-nan, Ta được Đức Phật Nhất Thiết Thắng thọ ký rồi Ta không bỏ tâm dũng mãnh tinh tấn, lại tu các phước nghiệp tăng trưởng bội phần. Ta nhờ nhân duyên thiện nghiệp này, trong vô lượng kiếp sinh trên cõi Phạm thiên, Đế Thích và làm Chuyển luân thánh vương. Có một thuở nọ Ta làm vua tên là Thiện Kiến, thành quách, cửa thành, vọng gác, phòng xá cung điện của nhà vua làm toàn bằng vàng ròng. Vườn hoa, rừng cây, dòng suối ao hồ đều dùng vàng tô điểm. Do nhân duyên rải hoa vàng thuở nọ mà ngày nay Ta chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân vô thượng thanh tịnh. Này A-nan, Ta nhớ thuở xưa có Đức Phật xuất hiện ở đời tên là Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta đem hoa bằng bạc rải trên mình Đức Phật, phát nguyện cũng như vậy… Cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Ông có thấy người này đem hoa bằng bạc cúng dường ta hay không? Tỳ-kheo đáp: –Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Người này trải qua mười vạn kiếp ở đời vị lai sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta nghe lời thọ ký như vậy rồi, chẳng bỏ tâm dũng mãnh tinh tấn, lại tạo các công đức gia tăng bội phần. Ta nhờ phước báo thiện nghiệp này, trải qua vô lượng kiếp làm Phạm thiên, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Lại ở đời quá khứ Ta đã từng làm vua tên là Đại Thiện Kiến, đô thành của Ta là Câu-thi-la, vọng gác, dinh thự, cửa sổ của thành này đều làm bằng bạc. Vườn hoa, rừng cây, dòng sông, suối, ao v.v… đều dùng bạc để tô điểm. Cho đến ngày hôm nay ta thành Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân vô thượng cũng do nhân duyên đó. Này A-nan, từ xưa đến nay có pháp như thế này: Phàm chư Bồ-tát khi sơ sinh, đi bảy bước khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc không có người nâng đỡ. Đức Phật Liên Hoa Thượng khi sơ sinh ở trên hoa sen, hai chân Ngài bước trên đất thì chỗ đất nào bước đến đều có hoa sen hóa sinh. Đi bảy bước khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, nơi chân Phật đặt đến đều có hoa sen, nên tôn xưng danh hiệu Ngài là Liên Hoa Thượng. Ngay lúc ấy vô lượng vô biên trăm ngàn vạn chúng: Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ma-hầu-la-già, người cùng phi nhân… đồng một lúc hô to vang vọng khắp nơi: Đại Bồ-tát này gọi là Liên Hoa Thượng. Do vì người trời xướng lên lời như vậy nên Đức Phật này hiệu là Liên Hoa Thượng. Này A-nan, Ta nhớ về thời quá khứ, có Đức Như Lai xuất hiện ở đời tôn hiệu là Tối Thượng Hành Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc ấy Ta đem một nắm lúa bằng vàng rải trên mình Đức Phật… Cho đến khi Đức Phật này nói với thị giả: –Người này sau khi trải qua một ngàn kiếp sẽ chứng quả Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta nghe lời thọ ký rồi, không bỏ tâm tinh tấn, thiện nghiệp tăng trưởng. Do quả báo công đức nhân duyên đó, nên trong vô lượng kiếp làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Lại đã từng làm một Chuyển luân thánh vương tên là Đảnh Sinh, trong cung điện ta lúc bấy giờ trải qua bảy ngày mưa bằng lúa vàng lên tới đầu gối, tràn ngập khắp mọi nơi. Cũng do nghiệp thiện cúng dường Đức Phật Tối Thượng Hành nắm lúa vàng thuở ấy mà ngày nay ta chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Đức Như Lai Tối Thượng Hành khi sắp vào xóm làng thành ấp để khất thực, chân Ngài bước trên không cách mặt đất sáu thước. Lúc ấy các chúng Trời, Người, Rồng và Phi nhân v.v… cao giọng xướng: “Đức Phật Thế Tôn này tên là Tối Thượng Hành. Do vì nhân duyên đó, tôn hiệu Ngài là Tối Thượng Hành. Này A-nan, Ta nhớ về thời quá khứ, có Đức Phật xuất hiện ở đời tôn hiệu là Thượng Danh Xưng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta lúc ấy cúng dường Đức Thế Tôn và chư vị Tỳ-kheo Tăng một căn nhà và Ta nguyện rằng… cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Người này ở đời vị lai mãn năm trăm kiếp sẽ chứng quả Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta nghe lời thọ ký rồi, không bỏ, nhân duyên tinh tấn tạo các thiện nghiệp, nên trải qua vô lượng kiếp làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Lại do phước báo đó, ta có khi làm Chuyển luân thánh vương tên là Thiện Kiến. Lúc đó nhóm thợ xây dựng của trời Đế Thích giáng hạ vì Ta kiến lập một cung điện tên là Nhất thiết thắng. Cũng do nhân duyên phước báo thiện nghiệp đó, mà ngày nay Ta thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Ta nhớ về thời quá khứ, có Đức Phật xuất hiện ở đời tôn hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cùng với Ta đồng một danh hiệu, dòng họ, cha mẹ, danh tự, thọ mạng tất cả đều đồng với Ta. Ta đem một nắm hoa Tô-ma-na rải trên Đức Phật này (Ngài Ca-diếp-di nói đem một nắm vàng) phát lời nguyện… cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Người này về đời vị lai trải đủ một trăm kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta được thọ ký rồi, không bỏ tâm tinh tấn, tăng trưởng công đức. Do đó trong vô lượng kiếp làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương đều do sức nhân duyên thiện nghiệp này. Ta dùng ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề phần trang nghiêm pháp thân. Nay Ta thành quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Ta nhớ thời quá khứ có Đức Phật ra đời tôn hiệu là Đế-sa Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta đem một nắm bột chiên-đàn rải trên mình Đức Phật… cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Người này trải qua chín mươi lăm kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta nhận lời thọ ký rồi, không bỏ tâm tinh tấn, tăng trưởng công đức. Do đó trong vô lượng kiếp Ta làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Cũng do sức nhân duyên thiện nghiệp này, Ta được danh hiệu Tối Thượng Giới Hạnh Thanh Tịnh Cụ Túc. Cũng do nhân duyên quả báo thiện nghiệp này, Ta được danh hiệu là Tối Thượng Tri Kiến Công Đức Cụ Túc (Ngài Ca-diếp-di nói: Ta nhờ sức nhân duyên nơi nghiệp thiện được hiệu Tối Thượng Giới Hạnh Công Đức và cho đến được hiệu Tối Thượng Tri Kiến Công Đức, tiếng khen vang khắp mọi nơi). Nay Ta đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ có Đức Phật ra đời tôn hiệu là Phất-sa Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc ấy Đức Phật ngự trong hang núi nhiều ngọc quý. Thấy Đức Phật, Ta sinh tâm hoan hỷ, đứng chắp tay co một chân trải qua bảy ngày đêm đọc kệ ca ngợi Đức Phật: Trong trời đất không ai như Phật, Mười phương thế giới chẳng ai bằng. Tất cả những người trong thế gian, Không ai so sánh bằng Đức Phật. Này A-nan, Ta đọc kệ ca ngợi Đức Phật rồi phát nguyện… cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Người này trải qua chín mươi bốn kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta lúc đó được thọ ký rồi, chẳng bỏ tâm tinh tấn, tăng trưởng công đức ở trong vô lượng kiếp làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Cũng do sức nhân duyên thiện nghiệp đó, Ta được bốn thứ biện tài, không có người nào biện luận hơn Ta, hàng phục được ta. Ta nay đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ có Đức Phật ra đời tôn hiệu là Kiến Chân Lý Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta lúc bấy giờ đem các thứ hoa rải trên mình Đức Phật (Ngài Ca-diếp-di nói Đức Phật này hiệu là Kiến Nhất Thiết Lý)… cho đến Đức Phật nói với thị giả: –Người này trải qua chín mươi ba kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta được Phật thọ ký, không bỏ tâm tinh tấn, tăng trưởng các công đức. Do đó ở trong vô lượng kiếp làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Cũng do nhân duyên đó Ta được tiếng khen “đầy đủ giới hạnh tối thượng”. Cho đến được danh hiệu Đầy Đủ Tất Cả Giải Thoát Tri Kiến, chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ có Đức Phật ra đời tôn hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ Ta đem một nắm đậu xanh rải trên mình Đức Phật, cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Người này trải qua chín mươi mốt kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, đầy đủ mười hiệu. Ta được Phật thọ ký rồi, không bỏ tâm tinh tấn, tăng trưởng các công đức. Do đó ở trong vô lượng kiếp làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Cũng do năng lực nhân duyên thiện nghiệp đó, lại có khi Ta từng làm Chuyển luân thánh vương tên là Đảnh Sinh thống lãnh bốn châu thiên hạ, được trời Đế Thích nhường nửa tòa ngồi. Cũng do quả báo đó mà ngày nay Ta đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ có Đức Phật ra đời tôn hiệu Thi-khí Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc đó Ta đem y vô giá đắp trên mình Đức Phật và chúng Thanh văn rồi phát nguyện như trên, cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Người này trải qua ba mươi mốt kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta được Phật thọ ký rồi, không bỏ tâm dũng mãnh tinh tấn, thường bố thí tạo các phước nghiệp. Ta do những nhân duyên thiện nghiệp đó, ở trong vô lượng kiếp làm Phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Ngày nay lại được các thứ y phục, như là: Y ca-thi-na, y bằng gấm đẹp, y bằng tơ bông, y bằng tơ tằm, y câu-trầm-bà. Ngày nay Ta đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân vô thượng. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ có Đức Phật ra đời tôn hiệu Tỳ-xá-phù Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ Ta đem các thức ăn uống một trăm vị cúng dường Đức Phật và chúng Thanh văn, phát nguyện như trước, cho đến Đức Phật bảo thị giả: –Người này sau khi trải qua ba mươi kiếp sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta được thọ ký rồi, không bỏ tâm dũng mãnh tinh tấn, thường bố thí tạo các phước nghiệp. Ta nhờ nhân duyên thiện căn như vậy, ở trong vô lượng kiếp làm Đại phạm vương, Đế Thích và Chuyển luân thánh vương. Ngày nay được thức ăn một trăm vị, cho đến đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân vô thượng thanh tịnh. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ ở bên Đức Phật Câu-lưu-tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tu hành thanh tịnh, cầu đời vị lai chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ ở bên Đức Phật Ca-na-ca Mâu-ni Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tu hành thanh tịnh, mong cầu đời vị lai chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ ở bên Đức Phật Ca-diếp Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tu hành thanh tịnh, mong cầu đời vị lai chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan, Ta nhớ đời quá khứ ở bên đức Bồ-tát Di-lặc đem những phẩm vật tốt đẹp của bốn thứ cúng dường, ca ngợi tôn trọng cung kính tự ý cúng dường, mong cầu đời vị lai chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan, Ta nhớ thuở quá khứ dùng vô lượng các thứ cúng dường, mang đến cúng dường hiến dâng cho vô lượng chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn trong quá khứ, để cầu đời vị lai chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan, thuở xưa trải qua một trăm a-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, như vậy tuần tự trải qua thời gian một trăm ức kiếp, có Đức Phật xuất hiện ở đời hiệu là Nhất Thiết Thắng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, như vậy tuần tự trải qua thời gian năm trăm kiếp có Đức Phật ra đời hiệu là Tối Thượng Danh Xưng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, như vậy tuần tự trải qua một trăm kiếp, có Đức Phật ra đời hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, như vậy tuần tự trải qua chín mươi bốn kiếp có Đức Phật ra đời hiệu là Phất-sa Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, như vậy tuần tự trải qua chín mươi ba kiếp có Đức Phật ra đời hiệu là Kiến Nghóa Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, như vậy tuần tự trải qua chín mươi mốt kiếp, có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, như vậy tuần tự trải qua ba mươi mốt kiếp, có Đức Phật ra đời hiệu là Thi-khí Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đồng trong kiếp này có Đức Phật ra đời hiệu là Thần Văn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này A-nan, trong hiền-kiếp này Đức Phật đầu tiên ra đời là Câu-lâu-tôn-đà; Đức Phật thứ hai ra đời là Câu-na-hàm Mâu-ni; Đức Phật thứ ba ra đời là Ca-diếp; Đức Phật thứ tư ra đời là Thích-ca Mâu-ni, chính là thân Ta ngày nay còn đang trụ ở đời. Này A-nan, Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Đức Phật Nhất Thiết Thắng ra đời, sinh trong nhà Đại Sát-lợi vương. Đức Phật Liên Hoa Thượng ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Đức Phật Tối Thượng Hành ra đời, sinh trong nhà Đại Sát-lợi vương. Đức Phật Đức Thượng Danh Xưng ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời, sinh trong nhà Đại Sát-lợi vương. Đức Phật Đế-sa ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Đức Phật Phất-sa ra đời, sinh trong nhà Đại Sát-lợi vương. Đức Phật Kiến Chân Nghóa ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Đức Phật Tỳ-bà-thi ra đời, sinh trong nhà Đại Sát-lợi vương. Đức Phật Thi-khí ra đời, sinh trong nhà Đại Sát-lợi vương. Đức Phật Thần Văn ra đời, sinh trong nhà Đại Sát-lợi vương. Đức Phật Câu-lâu-tôn-đà ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Đức Phật Ca-diếp ra đời, sinh trong nhà Đại Bà-la-môn. Này A-nan, nay Ta sinh trong nhà Đại vương thuộc dòng Sát-đế-lợi. Này A-nan, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ mạng tám trăm bốn ngàn vạn ức tuổi, trụ ở đời làm lợi ích chúng sinh trong thế gian (Sư Ni-sa-tắc nói như vậy. Sư Ca-diếp-di lại nói Đức Phật Nhiên Đăng và chúng Thanh văn trụ thế thọ mạng một kiếp làm lợi ích thế gian.) Này A-nan, Đức Như Lai Nhất Thiết Thắng, trụ thế tám vạn ức năm, lợi lạc tất cả chúng sinh thế gian. (Sư Ni-sa-tắc nói như vậy. Sư Ca-diếp-di nói Đức Phật Nhất Thiết Thắng trụ ở đời một kiếp lợi lạc thế gian). Đức Phật Liên Hoa Thượng trụ ở đời tám vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Tối Thượng Hành trụ ở đời tám vạn năm, làm lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Thượng Danh Xưng trụ ở đời sáu vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trụ ở đời tám vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Đế-sa trụ ở đời sáu vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Phất-sa trụ ở đời năm vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Kiến Chân Nghóa trụ ở đời bốn vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Tỳ-bà-thi trụ ở đời tám vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Thần Văn trụ ở đời sáu vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Câu-lâu-tôn-đà trụ ở đời bốn vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni trụ ở đời ba vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Đức Phật Ca-diếp trụ ở đời hai vạn năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Này A-nan, nay Ta chứng quả Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, trụ ở đời tám mươi năm, vì lợi ích chúng sinh trong thế gian. Rồi Ngài nói kệ: Có Phật dùng thần thông Trụ thế thọ cúng dường, Hoặc thần thông và nghiệp Hết rồi, nhập Niết-bàn. Này A-nan, Đức Phật Nhiên Đăng có hai trăm năm mươi vạn ức đại chúng đệ tử Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ, giáo pháp trụ ở đời trải qua bảy vạn năm. Mười năm cuối cùng, các hàng Tỳ-kheo không còn tâm kính tín, ưa kinh doanh thế sự, thích tạo các nghiệp sinh tử mà không có tâm biết hổ thẹn. Giáo pháp có chỗ nào nghi ngờ không biết học hỏi lẫn nhau, ai ai cũng ngã mạn cho mình hiểu biết, sinh tâm kiêu mạn lẫn nhau, thường nhóm họp làm điều phi pháp, kết bạn với bọn ác tri kiến bất thiện, cùng nhau quây quần ăn uống chơi bời. Do những hạng ngu si này làm những điều trái đạo lý nên khiến cho Tam bảo sớm biến mất trên thế gian, tất cả kinh điển đều tiêu diệt. Đức Phật Nhất Thiết Thắng có một vạn bốn ngàn đại chúng đệ tử Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ ở đời chỉ một thời gian ngắn ngủi. Đức Phật Liên Hoa Thượng có bảy vạn chúng Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ chánh pháp trụ ở đời trải qua mười vạn năm. Đức Phật Thượng Hành có sáu vạn chúng Thanh văn nhóm họp, sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ ở đời bảy vạn bảy ngàn năm. Đức Phật Đức Thượng Danh Xưng có hai vạn chúng Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ ở đời năm trăm năm. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có một ngàn hai trăm năm mươi chúng Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ ở đời năm trăm năm, tượng pháp cũng trụ thế năm trăm năm. Đức Phật Đế-sa có sáu vạn ức Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ thế trải qua hai vạn năm. Đức Phật Phất-sa có vô lượng ức chúng Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp, tượng pháp, pháp trụ, pháp diệt như trên. Đức Phật Kiến Nhất Thiết Nghóa có ba mươi hai ức na-do-tha chúng Thanh văn nhóm họp. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ thế một thời gian ngắn chẳng bao lâu. Đức Phật Tỳ-bà-thi có ba hội thuyết pháp độ chúng Thanh văn: Đại hội thứ nhất độ mười sáu vạn tám trăm ngàn người; đại hội thứ hai độ mười vạn người; Đại hội thứ ba độ tám trăm ngàn người. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ thế trải qua hai vạn năm. Đức Phật Thần Văn chỉ có hai hội độ chúng Thanh văn: Hội thứ nhất độ bảy vạn người; Hội thứ hai độ sáu vạn người. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ thế trải qua sáu vạn năm. Đức Phật Câu-lâu-tôn-đà có bốn vạn chúng đệ tử Thanh văn. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ ở đời trải qua năm trăm năm. Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni có ba trăm vạn Thanh văn nhóm họp. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ ở đời hai mươi chín ngày. Đức Phật Ca-diếp có hai vạn chúng Thanh văn nhóm họp. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp trụ ở đời bảy ngày. Này A-nan, Ta chứng quả Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác có một ngàn hai trăm năm mươi Thanh văn nhóm họp. Sau khi ta diệt độ, chánh pháp trụ ở đời năm trăm năm, tượng pháp cũng trụ ở đời năm trăm năm. Ta nay lược nói kệ: Bố thí và số năm Dòng họ cùng thọ mạng, Số Thanh văn mỗi hội Chánh pháp cùng tượng pháp. Tất cả chư Thế Tôn Trụ thế và diệt độ Mâu-ni dòng họ Thích Lược nói như vậy xong.  <詞 id="48706224">Phẩm 3: DÒNG VUA THỜI HIỀN KIẾP (Phần 1) Bấy giờ, Đức Phật ngự tại tinh xá Trúc lâm thuộc thành Vương xá, là chỗ chim Ca-lan-đà thường ở, cùng với năm trăm chúng đại Tỳ-kheo. Khi ấy Đức Phật y theo pháp chư Phật… Cho đến ở trong phạm hạnh thanh tịnh bảo các Tỳ-kheo: –Này các Tỳ-kheo, hãy lắng nghe và nhớ lấy, y theo lời Thế Tôn dạy. Các Tỳ-kheo bạch: –Bạch Thế Tôn, chúng con hoan hỷ đem tâm kính tín phụng trì. Phật bảo các Tỳ-kheo: –Thuở ban sơ trong hiền kiếp này, sau khi cõi đại địa kiến lập xong, có một vị hết sức giàu có thông minh, đức hạnh hơn người, làm vị Đại thủ lãnh trong dòng Chuyển luân thánh vương tên là Chúng-tập-trí. Phân định ngôi vị xong rồi, lúc đó dân chúng mới thưa với vị địa chủ ấy: –Vị đại địa chủ của chúng tôi, hãy vì chúng tôi mà làm người trị phạt những kẻ gian ác, thưởng kẻ hiền lương. Xin Ngài phát lúa giống và chia ruộng cho chúng tôi, chúng tôi mỗi người đều canh tác. Chúng tôi sau khi thu hoạch xong, sẽ cắt lấy một phần dâng nạp cho nhân giả. Vị địa chủ nhận lời thỉnh cầu của dân chúng, theo đúng như pháp lý, căn cứ lẽ công bằng mà cai trị, kẻ nào gian ác thì trị phạt, người nào hiền lương thì được khen thưởng. Dân chúng có ruộng và lúa giống đều gia tâm chăm sóc, sau khi lúa chín rồi tùy phần thọ hưởng. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: –Dân chúng lúc ấy cứ như vậy hòa hợp sum vầy đoàn kết, cùng nhau phò trì vị nhân giả được tôn xưng làm địa chủ. Do vì đại chúng hội ý suy tôn, cho nên gọi vị này là “Đại chúng Bình đẳng”. Vị địa chủ này cai trị dân chúng đúng như pháp, khiến cho dân chúng hoan hỷ một lòng ái mộ, chung cùng đoàn kết, ngài vì mọi người làm vị phân xử cho nên gọi vị địa chủ này là vua. Lại nữa dân chúng chăm sóc tất cả ruộng nương, khi lúa chín nhà vua thu lấy một phần trên mảnh ruộng mà nhà vua đã phân chia cho dân chúng, nên gọi vị vua này là Sát-lợi vương. Sát-lợi vương tức là điền chủ. Các ông phải biết, do nhân duyên này, đấy là thời kỳ tối sơ của kiếp ban đầu lập nên nhà vua. Đức Phật bảo chúng Tỳ-kheo: –Khi dân chúng đã lập nên nhà vua rồi, sau đó nhà vua sinh một người con tên là Chân Thật làm vị Chuyển luân thánh vương. Chuyển luân thánh vương là vị đại địa chủ thống lãnh bốn châu thiên hạ, bảy thứ báu tự nhiên có, sinh hạ một ngàn Thái tử, đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, oai đức dũng mãnh xua đuổi giặc thù. Khi Chuyển luân thánh vương còn tại thế cai trị dân chúng, thì cõi đại địa và biển cả không có gai góc, gò nổng cao thấp, ngũ cốc được mùa, dân chúng an lạc, không có sự sợ sệt hay gian nan, không dùng thế lực quân đội vũ khí mà các nơi tự quy phục. Chuyển luân thánh vương cai trị dân chúng đúng như chánh pháp. Này các Tỳ-kheo, trong một ngàn người con của vua Chân Thật, vị trưởng tử tên là Ý Hỷ, còn có tên là Tự Dụng. Người con này cũng lên ngôi Chuyển luân thánh vương, có bảy thứ báu, một ngàn người con, cho đến cõi đại địa, cai trị dân chúng… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con thứ nhất trong một ngàn người con của vua Tự Dụng tên là Trí Giả, mọi người gọi là Thọ Giới. Vị Trí Giả này cũng nối ngôi cha làm Chuyển luân thánh vương, đầy đủ bảy báu, một ngàn người con, cho đến cõi đại địa, cai trị dân chúng… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con lớn nhất trong một ngàn người con của vua Trí Giả, tên là Đảnh Sinh, cũng nối ngôi cha làm Chuyển luân thánh vương, cho đến cõi đại địa, như pháp cai trị giáo hóa dân chúng… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con lớn nhất trong một ngàn người con của vua Đảnh Sinh tên là Đại Hải, cũng nối ngôi cha làm Chuyển luân thánh vương…, như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con lớn nhất trong một ngàn người con của vua Đại Hải tên là Cụ Túc, mọi người gọi tên khác là Vi Phu, kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con đầu trong một ngàn người con của vua Cụ Túc tên là Dưỡng Dục kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con đầu trong một ngàn người con của vua Dưỡng Dục tên là Phước Xa kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con đầu trong một ngàn người con của vua Phước Xa tên là Giải Thoát kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, người con đầu trong một ngàn người con của vua Giải Thoát tên là Thiện Giải Thoát kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Thiện Giải Thoát có người con tên là Tiêu Diêu kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Tiêu Diêu có người con tên là Đại Tiêu Diêu kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Đại Tiêu Diêu có người con tên là Chiếu Diệu kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Chiếu Diệu có người con tên là Đại Chiếu Diệu kế tiếp lên ngôi vua,… như nói ở trên. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706225">QUYỂN 5 <詞 id="48706226">Phẩm 3: DÒNG VUA THỜI HIỀN KIẾP (Phần 2) Này các Tỳ-kheo, vua Đại Chiếu Diệu có người con lại trùng tên Ý Hỷ, kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Ý Hỷ có người con tên là Thiện Hỷ kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Thiện Hỷ có người con tên là Mãn Túc kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Mãn Túc có người con tên Đại Mãn Túc kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Đại Mãn Túc có người con lại trùng tên Dưỡng Dục kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Dưỡng Dục có người con lại trùng tên Phước Xa kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Phước Xa có người con tên là Nhân Thủ Lãnh kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Nhân Thủ Lãnh có người con tên là Hỏa Chất kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Hỏa Chất có người con tên là Quang Diễm, kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Quang Diễm có người con tên là Thiện Thí Quan kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Thiện Thí Quan có người con tên là Không Quan kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Không Quan có người con tên là Thiện Kiến kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Thiện Kiến có người con tên là Đại Thiện Kiến kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Đại Thiện Kiến có người con tên là Tu-di, kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Này các Tỳ-kheo, vua Tu-di có người con tên là Đại Tu-di kế tiếp lên ngôi vua,… như đã nói ở trên. Chuyển luân thánh vương thống lãnh các cõi đại địa, biển lớn trong bốn châu thiên hạ, đầy đủ bảy thứ quý báu,… cho đến cai trị dân chúng đúng như pháp. Này các Tỳ-kheo, các vị vua này đều là Chuyển luân thánh vương, trong thời quá khứ tu tập đầy đủ vô lượng phước đức, trồng nhiều căn lành. Do quả báo ấy đều được thống lãnh tất cả cõi đại địa trong bốn châu thiên hạ, thọ hưởng phước lạc, thọ mạng khôn lường, không thể tính toán. Này các Tỳ-kheo, các ông phải biết, ta sẽ kể dòng họ con cháu đời đời nối tiếp nhau của các Chuyển luân thánh vương, và con cháu truyền thừa, chỗ ở, tên tuổi, thứ lớp nhiều ít của các tiểu vương. Nay ta vì các ông nói tổng quát chủng tộc các vua, các ông hãy lắng nghe. Này các Tỳ-kheo, vua Đại Tu-di cai trị dân chúng, từ trước cho đến sau, con cháu đời đời nối nhau, gồm có một trăm lẻ một tiểu Luân-vương, lần lượt đều đóng đô ở thành Bao-đa-na cai trị dân chúng, thọ hưởng phước lạc, vị vua cuối cùng trong số một trăm lẻ một vị vua đó tên là Sư Tử Thừa. Con cháu của vua Sư Tử Thừa đời đời nối tiếp nhau, gồm sáu mươi mốt tiểu Chuyển luân vương, lần lượt đều đóng đô tại thành Ba-la-nại, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua cuối cùng trong sáu mươi mốt vị vua này tên là Nữ Thừa, con cháu của vua Nữ Thừa đời đời nối tiếp nhau gồm có năm mươi sáu tiểu Chuyển luân vương, lần lượt đều đóng đô tại thành A-du-xà cai trị dân chúng, thọ hưởng phước lạc. Vị vua cuối cùng trong năm mươi sáu tiểu Chuyển luân vương này tên là Nghiêm Xí Sinh. Con cháu của vua Nghiêm Xí Sinh đời đời nối tiếp nhau gồm tất cả một ngàn tiểu Chuyển luân vương. Lần lượt đều đóng đô tại thành Ca-tỳ-lê-da cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số một ngàn vị vua này tên là Phạm Đức. Con cháu vua Phạm Đức đời đời nối nhau, gồm có hai mươi lăm Chuyển luân vương, lần lượt đóng đô tại thành A-tư-đế-na-phú-la cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số hai mươi lăm vị vua này tên là Tượng Tướng. Con cháu vua Tượng Tướng đời đời nối nhau gồm có hai mươi lăm tiểu Chuyển luân vương, lần lượt đều đóng đô tại thành Đức-xoa-thi-la, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số hai mươi lăm vị vua này tên là Hộ, con cháu của vua Hộ đời đời nối tiếp nhau gồm có một ngàn hai trăm tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều lần lượt đóng đô tại thành Xa-da-na, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua cuối cùng trong số một ngàn hai trăm vị vua này tên là Năng Hàng Phục, con cháu của vua Năng Hàng Phục đời đời nối tiếp nhau gồm có chín mươi tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều lần lượt đóng đô tại thành Ca-na-cưu-xà, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua cuối cùng trong số chín mươi vị vua này tên là Thắng Tướng, con cháu của vua Thắng Tướng đời đời nối tiếp nhau gồm có hai ngàn năm trăm tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều lần lượt đóng đô tại thành Chiêm-ba, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số hai ngàn năm trăm vị vua này tên là Long Thiên, con cháu vua Long Thiên đời đời nối tiếp nhau gồm có hai mươi lăm tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều lần lượt đóng đô tại thành Vương xá, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua cuối cùng trong số hai mươi lăm vị vua này tên là Tác Xà, con cháu vua Tác Xà đời đời nối tiếp nhau gồm có hai mươi lăm tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều lần lượt đóng đô ở thành Câu-thi-na-kiệt, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số hai mươi lăm vị vua này tên là Đại tự tại thiên, con cháu vua Đại tự tại thiên đời đời nối nhau gồm có hai mươi lăm tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều lần lượt đóng đô tại thành Am-bà-la-kiếp, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số hai mươi lăm vị vua này lại trùng tên Đại tự tại thiên, con cháu vua Đại tự tại thiên đời đời nối tiếp nhau gồm có hai mươi lăm tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều đóng đô ở thành Đàn-đà-phú-sa, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số hai mươi lăm vị vua này tên là Thiện Ý, con cháu vua Thiện Ý đời đời nối tiếp nhau gồm có hai mươi lăm tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều đóng đô tại thành Đa-ma-bà-phả-lê-đa, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số hai mươi lăm vị vua này tên là Vô Ưu Man, con cháu của vua Vô Ưu Man đời đời nối tiếp nhau gồm có tám vạn bốn ngàn tiểu Chuyển luân vương, tất cả đều lần lượt đóng đô tại thành Mị-di-la, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số tám vạn bốn ngàn vua này tên là Tỳ-nữu-thiên, con cháu vua Tỳ-nữu-thiên đời đời nối tiếp nhau gồm có một trăm lẻ một vị vua, đều lần lượt đóng đô tại thành Tỳ-bao-đa-na, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua sau cùng trong số một trăm lẻ một vị vua này lại trùng tên Đại tự tại thiên, con cháu vua Đại tự tại thiên đời đời nối tiếp nhau gồm có tám vạn bốn ngàn vị vua, tất cả lần lượt lại đóng đô tại thành Mị-da-la, cai trị dân chúng thọ hưởng phước lạc. Vị vua cuối cùng trong số các vị vua đó tên là Ngư Vương. Các Tỳ-kheo phải biết, các tiểu Chuyển luân vương ấy, đều đầy đủ phước đức, đều trồng các căn lành, hưởng thọ đầy đủ các phước báo thế gian không ai sánh bằng. Đất liền và biển cả, hết thảy núi non đều thuộc phạm vi thống lãnh cai trị của nhà vua. Này các Tỳ-kheo, các Chuyển luân vương, mỗi vị đều có các tiểu vương, ta sẽ trình bày: Ngư Vương có người con tên là Chân Sinh. Tổ phụ vua Chân Sinh từ trước đến đây đều tu tập các thiện căn, được nối nhau làm vua, do phước báo hết nên mất ngôi vua. Người đương thời thấy chính sách cai trị vô đạo của nhà vua, không có phước đức, họ cùng nhau bàn luận: Ông vua này hết sức ti tiện thấp kém trong mọi người, là kẻ bạc đức trong mọi người, là người đáng thương hại trong mọi người, là người đáng lật đổ. Do đó người đương thời tặng biệt hiệu là ông vua Khả Quật. Ông vua Khả Quật có người con tên là Bình Đẳng Hành. Con của vua Bình Đẳng Hành tên là Ám Hỏa. Con của vua Ám Hỏa tên là Diễm Xí. Con của vua Diễm Xí tên là Thiện Thí. Con của vua Thiện Thí tên là Hư Không. Con của vua Hư Không tên là Giới Hạnh. Con của vua Giới Hạnh tên là Vô Ưu. Con của vua Vô Ưu tên là Ly Ưu. Con của vua Ly Ưu tên là Trừ Ưu. Con của vua Trừ Ưu tên là Thắng Tướng. Con của vua Thắng Tướng tên là Đại Tướng. Con của vua Đại Tướng tên là Thai Sinh. Con của vua Thai Sinh tên là Minh Tinh. Con của vua Minh Tinh tên là Phương Chủ. Con của vua Phương Chủ tên là Trần. Con của vua Trần tên là Thiện Ý. Con của vua Thiện Ý tên là Thiện Trụ. Con của vua Thiện Trụ tên là Hoan Hỷ. Con của vua Hoan Hỷ tên là Đại Lực. Con của vua Đại Lực tên là Đại Quang. Con của vua Đại Quang tên là Đại Danh Xưng. Con của vua Đại Danh Xưng tên là Thập Xa. Con của vua Thập Xa tên là Nhị Thập Xa. Con của vua Nhị Thập Xa tên là Diệu Xa. Con của vua Diệu Xa tên là Bộ Xa. Con của vua Bộ Xa tên là Thập Cung. Con của vua Thập Cung tên là Bá Cung. Con của vua Bá Cung tên là Nhị Thập Cung. Con của vua Nhị Thập Cung tên là Diệu Sắc Cung. Con của vua Diệu Sắc Cung tên là Tội Cung. Con của vua Tội Cung tên là Hải Tướng. Con của vua Hải Tướng tên là Nan Thắng. Con của vua Nan Thắng tên là Mao Thảo. Con của vua Mao Thảo tên là Đại Mao Thảo. Con cháu đời đời tiếp tục nối nhau đến đời Đại Mao Thảo gồm có một trăm lẻ tám vị vua, tuần tự đều đóng đô tại thành Bao-đa-na, cai trị giáo hóa dân chúng thọ hưởng phước lạc. Trong một trăm lẻ tám vị vua này, vị vua cuối cùng là Đại Mao Thảo. Nhà vua không con, thầm nghó: “Các tiểu vương của dòng họ ta từ trước đến nay, khi thấy râu tóc mình bạc, mỗi vua đều làm lễ quán đảnh cho con mình lên làm vua, riêng lấy một châu giàu có bậc nhất dùng vào việc bố thí, rồi sau đó cạo bỏ râu tóc, trao ngôi vua cho con xuất gia hành đạo. Còn ta ngày nay không có con, biết lấy ai kế nghiệp vương vị sau này, ai là người có khả năng phát triển dòng họ ta! Hoặc ta ngày nay lại đoạn dòng giống các vua.” Rồi lại nghó tiếp: “Nếu ngày nay ta không xuất gia hành đạo, thì đoạn mất hạt giống của tất cả Hiền thánh.” Suy nghó như vậy rồi, lúc đó Đại Mao Thảo liền đem ngôi vua phó thác cho các vị đại thần. Mọi người cùng nhau tiễn đưa nhà vua ra khỏi thành. Nhà vua cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, sống cuộc đời xuất gia, trì giới thanh tịnh, chuyên tâm dũng mãnh, chứng được bốn quả thiền, đầy đủ năm phép thần thông thành ông vua Tiên, thọ mạng rất lâu, đến tuổi già yếu, da nhăn, lưng còng, tuy phải nhờ gậy nhưng vẫn không thể đi xa được. Khi các đệ tử của vua Tiên sắp đi xa khất thực, họ phải dùng cỏ tốt mềm mại lót trong một chiếc lồng, đặt vua Tiên vào đấy treo trên cành cây. Tại sao làm như vậy? Vì chúng đệ tử sợ các loài độc trùng và thú dữ đến làm hại thầy mình. Một hôm, sau khi chúng đệ tử đi khất thực hết rồi, có một tên thợ săn rảo đi trong núi, xa xa trông thấy vua Tiên ngỡ là chim bạch hạc, liền trương cung bắn. Khi vua Tiên bị tên bắn nhằm, có hai giọt máu chảy xuống đất liền mạng chung. Các hàng đệ tử khất thực trở về, thấy thầy mình bỏ mạng vì mũi tên, lại thấy trên đất có hai giọt máu. Lập tức hạ lồng xuống, đặt thầy trên mặt đất, chất củi làm lễ trà-tỳ, thâu hài cốt xây tháp. Lại đem bao nhiêu hương hoa quý giá, tôn trọng tán thán cung kính cúng dường. Lễ cúng dường xong, lúc ấy từ hai giọt máu trên mặt đất mọc lên hai cây mía, mầm mía từ từ cao lớn. Đến khi mía già, ánh sáng mặt trời rọi vào, thân mía nứt làm hai, một cây xuất hiện một đồng nam, còn cây kia xuất hiện một đồng nữ, cả hai thân hình đoan chính khả ái, ở đời không lúc có được đứa trẻ thứ hai! Khi ấy, các đệ tử của vua Tiên nghó: “Thầy mình còn tại thế không có con, nay hai đồng tử này thuộc dòng họ của vua Tiên, ta nên nuôi dưỡng chăm sóc, rồi báo tin cho quần thần biết.” Các vị đại thần nghe việc này rất đỗi vui mừng, cùng vào rừng đón hai đồng tử trở về nội cung. Cho mời thầy tướng đại Bà-la-môn, đến xem tướng và đặt tên cho đồng tử và đồng nữ. Thầy tướng tâu với quần thần: –Đồng tử này sinh ra từ cây mía già nứt ra do ánh sáng mặt trời chiếu vào, nên tên thứ nhất là Thiện Sinh; lại do từ cây mía sinh ra, nên tên thứ hai là Cam Giá Sinh; lại do ánh mặt trời chiếu vào cây mía mà sinh, nên cũng có tên là Nhật Chủng. Còn đồng nữ cũng cùng một nhân duyên ấy, nên đặt tên là Thiện Hiền, lại còn gọi là Thủy Ba. Quần thần lấy Cam Giá là họ sinh ra đồng tử. Tuy đồng tử còn đang tuổi ấu thơ, quần thần làm lễ quán đảnh suy tôn lên ngôi vua. Còn đồng nữ Thiện Hiền, khi đến tuổi trưởng thành, đủ khả năng hầu hạ nhà vua, quần thần tấn phong làm đệ nhất phu nhân của nhà vua. Bấy giờ vua Cam Giá có đệ nhị thứ phi dung nhan đoan chánh, sắc đẹp tuyệt vời, sinh hạ bốn hoàng tử: Người thứ nhất tên là Cự Diện, người thứ hai tên là Kim Sắc, người thứ ba tên là Tượng Chúng và người thứ tư tên là Biệt Thành. Còn chánh phi Thiện Hiền chỉ sinh được một hoàng nam tên là Trường Thọ, hình dung đoan chánh dễ thương, thế gian ít ai sánh bằng, nhưng thiếu tướng căn bản, không đủ điều kiện để làm vua. Khi ấy chánh phi Thiện Hiền nghó: “Vua dòng Cam Giá có bốn người con: Cự Diện v.v… Anh em chúng nó cường tráng, ta nay chỉ có một người con, tuy cực kỳ đẹp đẽ, thế gian không có người thứ hai nhưng nó không có tướng phần làm vua”, nên bà ta mới suy tính: “Vua Cam Giá ngày nay ở gần bên ta, hết sức sủng ái ta, tâm vua buông lung phóng đãng vô cùng say đắm. Ta ngày nay phải dùng cách trang điểm tột bậc của một người vợ, nghóa là đem các thứ thanh khiết thoa ướp thân thể, tắm gội bằng nước nóng hương thơm, khiến mùi thơm ngào ngạt phưởng phất, tóc chải dầu trạch lan, mặt đánh son phấn, tràng hoa, chuỗi anh lạc, trang điểm đủ các thứ, khiến vua Cam Giá một khi ở bên ta, sinh tâm quá đam mê ái luyến. Nếu đúng như ý định, ở nơi vắng vẻ ta sẽ thỉnh cầu ý nguyện.” Theo sự suy tính ở trên, bà ta trang điểm tự thân vô cùng tuyệt đẹp, rồi đến nơi vua ngự. Nhà vua vừa thấy chánh phi đến, sinh tâm phóng dật yêu mến vô cùng. Chánh phi đi đến lúc hai người nằm ngủ, mới khẽ bạch Đại vương: –Thưa Đại vương biết cho, hôm nay phi đến với Đại vương thỉnh cầu một việc, xin Đại vương thuận ý. Nhà vua nói: –Này đại phi, tùy ý khanh ta không phản đối, theo ước muốn của phi, ta sẽ chấp thuận. Chánh phi hỏi lại nhà vua: –Nhà vua nếu không có gì e ngại tùy thuận theo ý của phi, xin Đại vương sau này không nên đổi ý. Nếu như Đại vương đổi ý, thì phi chẳng cần phải ở nơi đây để thỉnh cầu. Nhà vua đáp: –Ta hoàn toàn chiều theo ý của ái khanh, nếu sau này có đổi ý, thì đầu trẫm sẽ vỡ thành bảy mảnh. Chánh phi tâu: –Thưa Đại vương, bốn đứa con của Đại vương: Cự Diện v.v…, xin Đại vương đuổi chúng nó ra khỏi nước, để con ruột của thiếp là Trường Thọ lên kế nghiệp ngôi vua. Vua Cam Giá bảo chánh phi: –Bốn đứa con này của ta nó không phạm lỗi, không bức hiếp lấy của người, không tội vạ gì. Đâu được đối với kẻ vô tội vạ đuổi đi xa khỏi nước. Chúng có những gì không tốt, mà không cho chúng ở trong biên cương quốc gia ta cai trị? Vương phi lại thưa: –Đại vương trước đã có lời thề, sau này có đổi ý thì đầu Đại vương vỡ thành bảy mảnh. Đại vương bảo chánh phi: –Thôi ta giữ đúng lời thề trước đã hứa với khanh. Nếu khanh cho là phải thì cứ mặc tình tùy ý. Qua ngày hôm sau, trời vừa rạng sáng, vua Cam Giá triệu tập bốn người con, ra sắc lệnh: Này bốn đồng tử, ngày hôm nay các con không được ở trong lãnh thổ của ta cai trị, cần phải đi xa, ra ngoài nước mà ở. Bốn đồng tử quỳ gối chắp tay tâu phụ vương: –Tâu Đại vương biết cho, bốn chúng con không có tội lỗi, không có sai lầm, không làm điều phi pháp lấy tiền của người khác, lại không tạo các ác nghiệp. Không biết tại sao Đại vương lại đuổi chúng con ra khỏi nước? Nhà vua bảo các con: –Ta vẫn biết các con thật không tội lỗi, không hiếp người lấy của, như đã nói ở trên. Việc này không phải ý của ta. Sự xua đuổi này là ý của chánh phi Thiện Hiền, người yêu cầu ta, vì ta không muốn trái ý người nên đuổi các con ra khỏi nước. Mẹ bốn vương tử nghe vua Cam Giá sắp đuổi con mình ra khỏi nước, vội vàng đến nơi bệ rồng tâu Đại vương: –Thần thiếp vừa nghe Đại vương sắp đuổi bốn con thiếp ra khỏi nước, việc ấy có đúng như vậy chăng? Đại vương đáp: –Đúng như vậy. Các cung phi cũng đều đến tâu với vua: –Thưa Đại vương, xin cho chúng tôi đều được đi theo các vương nhi. Đại vương đáp: –Tùy ý các phi cứ đi. Bấy giờ các phi đàn em lại tâu vua: –Chị và các cháu chúng tôi ngày nay đi ra khỏi nước, chúng tôi cũng xin đi theo. Đại vương đáp: –Mặc ý các khanh. Các đại thần, công khanh, phụ tướng cũng tâu vua: –Ngày nay Đại vương đuổi bốn vương tử ra khỏi nước, quần thần chúng tôi cũng xin đi theo. Đại vương đáp: –Mặc ý các khanh. Các quan cai quản voi ngựa nhà vua cũng xin đi theo. Đại vương đáp: –Tùy ý các khanh. Các tướng bắn cung, bắn nỏ, tướng cai quản ngục tù, các quan coi súc sinh: trâu, dê v.v… cùng các con của họ. Các quan chủ kho tàng, binh tướng, lính tuần hành, tráng só và các tướng thiện xạ, tôi trai tớ gái và các con của họ nghe tin vua Cam Giá sắp đuổi bốn vương tử ra khỏi nước. Họ cùng nhau đến tâu với vua: –Xin Đại vương cho chúng tôi đồng theo hầu bốn vương tử, dầu đi đến phương nào. Nhà vua đáp: –Tùy ý các người. Các thợ làm đồ tre, thợ thuộc da, thợ ngói, thợ đồ gốm, thợ mộc làm nhà, thợ nấu rượu và đồ ăn uống, thợ hớt tóc, thợ giặt nhuộm áo quần, thợ hàng thịt, thầy thuốc coi mạch hốt thuốc, người đánh cá… các thợ trong nước nghe nhà vua sắp đuổi bốn vương tử ra khỏi nước, đồng đến nhà vua thưa hỏi có đúng như vậy không? Nhà vua đáp: –Đúng như thế. Tất cả các thợ tâu: –Xin cho chúng tôi cùng đi. Nhà vua đáp: –Tùy ý các ngươi. Vua Cam Giá ra lệnh các vương tử: –Này các vương tử, từ nay trở đi, khi nào các người muốn kết hôn, không được ở phương xa kết hôn với dòng họ khác, nên trở về trong gia tộc mình lấy vợ, đừng để dòng họ Cam Giá bị đoạn tuyệt. Các vương tử bạch phụ vương: –Chúng con giữ đúng như lời phụ vương dạy. Các vương tử nhận lệnh phụ vương rồi, mỗi người đều đến chỗ mẹ mình với các dì, chị hoặc em của mẹ mình và số nô tỳ, dùng lạc đà chuyên chở tài sản hướng về phương Bắc đến dưới chân Tuyết sơn, dừng nghỉ nơi đây một thời gian ngắn. Dưới chân núi có một dòng sông lớn tên là Bà-kỳ-la-di, đoàn người vượt qua sông, lên đến tận đỉnh Tuyết sơn, ở nơi đây dạo chơi một thời gian khá lâu. Lúc này bốn vương tử ở trên đỉnh núi săn bắn cầm thú dùng làm thức ăn. Đi lần về phía trước, đến mặt Nam Tuyết sơn, thấy sông rộng mặt nước phẳng lờ, nơi đây không có các thứ: hầm hố, gò nổng, đồi núi, hang hóc, ghềnh thác, kênh rạch, gai góc, bụi bặm và sạn sỏi v.v… Vùng đất này chỉ sinh các loài cỏ xanh tươi mềm mại trong sạch, ai cũng ưa thích. Rừng cây thì hoa quả sum suê trải một lớp dày đặc, giống như chòm mây đen, phản chiếu một màu xanh tươi sáng. Cây rừng mọc khắp mọi nơi, cây này cách cây kia một khoảng nhỏ. Các cây đó là: Ta-la, Đa-la, Na-đa-ma-la, A-tuyết-tha, Ni-câu-đà, Ưu-đàm-bà-la, Thiên niên táo, Ca-lê-la v.v… đều tỏa ra cành lá che ánh nắng mặt trời. Lại có rất nhiều hoa đẹp, đó là: Hoa Đề-mục-đa, hoa Chiêm-ba, hoa A-thâu-ca, hoa Ba-đa-la, hoa Bà-lợi-sư-ca, hoa Câu-lan-na, hoa Câu-tỳ-đà-la, hoa Đàn-nô-sa-ca-lợi-ca, hoa Mục-chân-lân-đà, hoa Tô-ma-na v.v… Tất cả các loài hoa, hoặc có thứ đang nở, hoặc có thứ đang búp, hoặc có thứ chớm nở hoặc có thứ đã tàn. Lại có vô lượng trái cây, như là: Am-bà-la, trái Diêm-phù, trái Lăng-câu-xà, trái Ba-na-bà, trái Trấn-đầu-ca, trái A-lê-lặc, trái Tỳ-hê-lặc, trái A-ma-lặc v.v… Tất cả các thứ trái cây hoặc vừa kết nụ, hoặc vừa ửng chín, hoặc có trái đã chín muồi đều có thể ăn được. Lại có vô lượng các loại thú rừng, như là: Y-nê-da, hươu, nai, trâu nước, Na-la-ca, trâu rừng, bạch tượng và sư tử v.v… Lại có vô lượng các loại chim, như là: Anh-võ, Câu-sí-la, Sáo, Khổng tước, Ca-lăng-tần-già, Mạng-mạng, Giao thanh, Gà rừng, Bạch hạc, Giá-ma-ca Lan-ma v.v… và các loài chim khác nữa. Lại có vô lượng ao nước, mỗi ao lại có các loài hoa, như là: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen trắng lớn trải khắp trên mặt các ao. Bốn bờ ao đều có các thứ hoa rủ xuống trên mặt nước. Nước ao trong sạch không có vẩn đục, chứa đầy nước như vậy, không cạn, không sâu, dễ lội dễ đi, bốn phía bờ ao đủ các thứ cây. Trong ao lại có các loài thủy tộc như: Cá, trạch, rùa, ba ba, ốc, trai. Các loài chim nhỏ ở trên mặt nước như: Chim le, chim nhạn, ngỗng, vịt, cò trắng, cồng cộc, uyên ương… Nhưng tại chỗ này, xưa kia có một vị Tiên cư ngụ tên là Ca-tỳ-la. Bốn vương tử quan sát cảnh trí rồi, cùng nhau bàn luận: –Chúng ta có thể ở nơi đây xây thành cai trị. Sau khi các vương tử xây dựng nơi ăn chốn ở xong rồi, nhớ đến lời phụ vương dạy: “Nên tìm người trong họ mà kết hôn”. Nhưng ở đây không tìm được người trong họ làm vợ, nên mỗi vương tử lấy các dì cung phi lớn hay nhỏ hơn mẹ mình, y theo lễ cưới kết thành vợ chồng. Một là giữ đúng lời phụ vương dạy, hai là dòng họ Thích không xen lẫn dòng máu khác. Một ngày nọ, vua Nhật Chủng Cam Giá triệu một quốc sư đại Bà-la-môn đến hỏi: –Này đại Bà-la-môn, bốn vương tử của ta hiện nay đang ở đâu? Quốc sư đáp: –Tâu Đại vương, ngài phải biết các vương tử đã đem theo các dì lớn hơn hay nhỏ hơn mẹ mình, dùng lạc đà chở người và vật ra khỏi nước đi xa về phía Bắc, đến nay đã sinh hạ hoàng nam ái nữ, diện mạo khôi ngô thùy mị. Khi ấy vua Cam Giá vì lòng yêu thương các vương tử, ý nghó muốn gặp, trong lòng hoan hỷ mà khen ngợi: –Các vương tử có khả năng biết cách dựng nước, có tài trị dân. Các vương tử vì vậy lập họ mình là Thích-ca, vì Thích-ca ở dưới gốc đại thọ cành lá um tùm, do đó gọi là Xa-di-kỳ-da. Do nơi đây là chỗ ở trước kia của tiên Ca-tỳ-la, nhân đó mà lập tên thành là Ca-tỳ-la-bà-tô-đô. Sau này bốn vương tử của vua Cam Giá chết hết ba người, chỉ còn lại một vương tử tên là Ni-câu-la (nhà Tùy dịch là Biệt Thành) làm vua, đóng đô tại thành Ca-tỳ-la cai trị dân chúng, thọ hưởng phước lạc. Vua Ni-câu-la sinh được một người con tên là Câu-lô, cũng đóng đô tại thành Ca-tỳ-la của phụ vương, cai trị dân chúng. Vua Câu-lô lại sinh được một người con tên là Cù-câu-lô kế vị làm vua, cũng đóng đô tại thành của phụ vương cai trị dân chúng. Vua Cù-câu-lô lại sinh một người con tên là Sư Tử Giáp, lại ở tại thành của phụ vương cai trị dân chúng. Vua Sư Tử Giáp sinh bốn người con: Người thứ nhất tên là Duyệt-đầu-đàn vương (nhà Tùy dịch là Tịnh Phạn vương). Người thứ hai tên là Thâu-câu-lô-đàn-na (nhà Tùy dịch là Bạch Phạn). Người thứ ba tên là Đồ-lô-đàn-na (nhà Tùy dịch là Hộc Phạn). Người thứ tư tên là A-di-đô-đàn-na (nhà Tùy dịch là Cam Lộ Phạn) và một người con gái tên là Cam Lộ Vị. Vị vương tử thứ nhất của vua Sư Tử Giáp kế vị lên ngôi vua, cũng đóng đô tại thành của phụ vương cai trị dân chúng hưởng cảnh phước lạc. Lại có một thành cách thành Ca-tỳ-la chẳng bao xa tên là Thiên tý. Thành Thiên tý có một trưởng giả dòng họ Thích giàu sang, tên là Thiện Giác. Trưởng giả này có nhiều của cải, ngọc ngà châu báu, tài sản dẫy đầy, đầy đủ oai đức, tự nhiên tùy ý muốn, không thiếu thốn một vật gì. Nhà cửa giống như cung điện Tỳ-sa-môn không khác. Vị trưởng giả này sinh được tám người con gái: Người con đầu tên là Ý, người thứ hai tên là Vô Tỷ Ý, người thứ ba tên là Đại Ý, người thứ tư tên là Vô Biên Ý, người thứ năm tên là Kế Ý, người thứ sáu tên là Hắc Ngưu, người thứ bảy tên là Sấu Ngưu, và người thứ tám tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề (nhà Tùy dịch là Đại Tuệ hay là Phạm Thiên). Nàng Phạm Thiên này là người nhỏ tuổi nhất. Ngày sinh ra nàng, các thầy tướng danh tiếng Bà-la-môn xem tướng nàng nói: Người con gái này, nếu về sau lấy chồng sẽ sinh được quý tử, nhất định sẽ làm Chuyển luân thánh vương, đứng đầu trong bốn châu thiên hạ, bảy thứ báu tự nhiên có, đầy đủ một ngàn con, cho đến câu: không dùng hình phạt trị dân. Các con gái của trưởng giả Thiện Giác trải qua năm tháng lớn khôn, đến tuổi cập kê. Tịnh Phạn vương nghe trong nước của mình có một nhà họ Thích, hết sức giàu sang, sinh hạ được tám nàng con gái, dung nhan đoan chánh ít ai sánh bằng. Cho đến nhà vua nghe thầy tướng nói người con gái út sẽ sinh quý tử. Tịnh Phạn vương nghe như vậy rồi, nói: Nay ta sẽ cầu người con gái đó làm vợ, để dòng họ Cam Giá ta làm Chuyển luân thánh vương, con cháu tiếp nối khỏi phải tuyệt diệt. (Vấn đề này thì luật gia nói như vậy, nghóa là nói Đại Tuệ là mẹ Bồ-tát Tất-đạt-đa. Còn căn cứ vào văn kinh A-ba-đà-na thì nói Vua Thâu-đầu-đàn là cha ta, phu nhân Ma-da là mẹ ta. Như đem lời nói trong kinh A-ba-đà-na phối kiểm văn các kinh khác, thì ý của kinh A-ba-đà-na là đúng). Vua Tịnh Phạn liền sai sứ giả đi đến nhà trưởng giả Thiện Giác xin cưới nàng Đại Tuệ làm phu nhân (Ba-xà-ba-đề nhà Tùy dịch là Căn bản sự sinh hoạt). Thiện Giác nói với sứ giả: –Lành thay sứ giả! Ngài thay lời tôi hỏi giùm Đại vương: Tôi có tám người con gái, đứa con thứ nhất tên là Ý cho đến đứa thứ tám tên là Đại Tuệ, vì cớ gì Đại vương cầu hôn đứa nhỏ nhất? Đại vương nếu có thể đợi chừng nào ta gả xong bảy đứa con lớn, sau đó ta sẽ đưa Đại Tuệ về làm phi cho Đại vương. Vua Tịnh Phạn sai sứ giả nói với trưởng giả: –Trẫm nay không thể đợi bảy người chị, mỗi người có chồng xong, rồi sau đó mới cưới Đại Tuệ về làm vợ, mà tám người con gái của trưởng giả ta đều cưới hết. Thích Thiện Giác báo Đại vương: –Nếu như vậy ta sẽ thuận lời Đại vương, tùy ý rước đi. Vua Tịnh Phạn liền sai sứ giả cùng một lúc rước luôn tám mỹ nữ về hoàng cung. Sau khi về hoàng cung rồi, nhà vua chọn lấy hai nàng làm phi. Hai nàng ấy, người thứ nhất tên là Ý và người thứ tám tên là Đại Tuệ, còn sáu nàng kia thì phân chia cho ba Vương đệ, mỗi người hai nàng làm thê thiếp. Vua Tịnh Phạn thâu nạp hai chị em nàng Ý vào nội cung, mặc tình vui chơi, thọ hưởng dục lạc. Nhà vua sống đúng luật nước, cai trị bốn phương.  <詞 id="48706227">Phẩm 4: THÁC SINH CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT (Phần 1) Bấy giờ, Bồ-tát Hộ Minh từ nơi Đức Phật Ca-diếp, giữ gìn cấm giới, phạm hạnh thanh tịnh, sau khi mạng chung ở trong chánh niệm, vãng sinh lên cung trời Đâu-suất. Tại sao như vậy? Hoặc có chúng sinh, khi lâm chung, bị thứ gió đao phanh thây từng mảnh, chịu sự đau khổ. Hoặc có chúng sinh, khi lâm chung hơi ấm thọ mạng sắp dứt, hơi thở khò khè chẳng an. Do những trạng thái đó, ta biết họ rất đau khổ, mất hẳn bản tâm, không nhớ những hành nghiệp trong quá khứ, họ không thể chuyên tâm chánh định vắng lặng. Các Bồ-tát thì không phải như vậy, ngày sắp lâm chung chánh niệm tư duy, duyên vào phước nghiệp mà lúc thọ sinh biết mình sinh vào cõi nào. Bồ-tát có các pháp lạ ít có như vậy. Các Bồ-tát còn có một pháp, sau khi mạng chung nhất định sinh lên cõi trời, hoặc cao, hoặc thấp, không nhất định là sinh vào cõi trời nào. Nhưng Bồ-tát còn một đời nữa bổ xứ, thì nhất định sinh vào cõi trời Đâu-suất-đà, tâm sinh hoan hỷ, trí tuệ đầy đủ. Sao vậy? Vì các tầng trời dưới còn nhiều phóng dật, còn các từng trời trên sức thiền định mạnh, trong định vắng lặng u nhàn, lấy trạng thái này làm vui, không cầu đến việc tái sinh. Hơn nữa, họ không vì tất cả chúng sinh phát khởi lòng đại Bi. Bồ-tát không phải như vậy, chỉ vì giáo hóa chúng sinh, mà sinh lên cung trời Đâu-suất. Chư Thiên các cung trời dưới muốn nghe pháp, thì lên cung trời Đâu-suất nghe pháp; chư Thiên các cung trời trên, ai là người vì muốn nghe pháp, thì cũng có thể giáng xuống cõi trời Đâu-suất-đà nghe Phật pháp. Bồ-tát này cũng sinh ở cõi trời Đâu-suất, chư Thiên ở cung trời Đâu-suất gọi Bồ-tát là Hộ Minh. Chư Thiên truyền nhau kêu là Hộ Minh. Hiệu Hộ Minh vang đến cõi trời Tịnh cư, cho đến đỉnh trời Sắc cứu cánh. Khi ấy, tất cả chư Thiên đều xướng lên: Bồ-tát Hộ Minh đã sinh vào nội viện cung trời Đâu-suất. Tin này vang đến cõi trời Đao-lợi ở phía dưới, cho đến cõi trời Tứ Thiên vương và lại thấu đến các cung A-tu-la, họ cùng nói với nhau: Bồ-tát Hộ Minh đã sinh vào cõi trời Đâu-suất-đà. Dưới nhất cho đến cung A-tu-la và cõi trời cao nhất cõi Sắc là Sắc cứu cánh, tất cả đều kéo về cung trời Đâu-suất, nhóm họp tại cung Bồ-tát Hộ Minh để nghe pháp. Sau khi Bồ-tát Hộ Minh đã sinh vào cung trời Đâu-suất rồi, các cung điện của chư Thiên ở cõi trời Đâu-suất-đà được chiếu sáng rực rỡ, cảnh trí tự nhiên trang nghiêm, lại xuất hiện vô lượng vô biên các thứ kỳ diệu, đều do sức oai thần công đức của Bồ-tát Hộ Minh. Vua cõi trời Đại phạm và các vua A-tu-la đầy đủ oai đức, tất cả đều tụ tập tại nội viện cung trời Đâu-suất, vây quanh trước sau đức Bồ-tát Hộ Minh. Lại có vô lượng vô biên chúng sinh sinh vào cõi trời Đâu-suất, vừa thấy năm thứ dục lạc tuyệt vời tâm sinh ái nhiễm mất hết chánh niệm, không còn nhớ bản hạnh và nghiệp nhân đời quá khứ của mình. Còn Bồ-tát Hộ Minh sinh cõi trời Đâu-suất, dầu có thấy năm thứ dục lạc thù thắng tuyệt vời, tâm không mê hoặc, chưa từng đánh mất chánh niệm bản nguyện, cho đến vì chúng sinh giáo hóa. Ngài sống trong cõi trời Đâu-suất, mãn số thọ mạng kiếp trời trải qua đủ bốn ngàn năm, vì chư Thiên cõi này mà thuyết pháp giáo hóa, chỉ dạy pháp tướng, khiến chư Thiên sinh tâm hoan hỷ. Ngoài ra những chúng sinh khác cũng sinh trong cõi này, hoặc do đời trước tạo nghiệp nhân không thanh tịnh, cho nên tuy sinh trong đó nhưng bị chết yểu, không đủ số thọ mạng cõi trời. Bồ-tát Hộ Minh trong đời quá khứ tu tập nghiệp nhân thanh tịnh và giáo hóa chúng sinh, nên hưởng đủ số thọ mạng cõi trời Đâu-suất. Vì vậy chư Thiên khen ngợi: Ít có! Ít có thay! Không thể nghó bàn! Hơn thế nữa, ngài lại có những điều không thể nghó bàn, nghóa là khi Bồ-tát hưởng hết số thọ mạng cõi trời này, tự nhiên hiện năm tướng suy thoái. Năm tướng suy thoái đó là gì? –Một là hoa trên đầu héo. –Hai là dưới nách ra mồ hôi. –Ba là áo quần dính bụi dơ. –Bốn là trên thân mất hào quang. –Năm là không thích ngồi nơi tòa của mình. Khi chư Thiên cõi trời Đâu-suất thấy Bồ-tát Hộ Minh xuất hiện năm tướng suy thoái, họ la to: –Ôi thôi! Ôi thôi! Họ cùng nhau nói: –Khổ thay! Khổ thay! Đức Bồ-tát Hộ Minh chẳng bao lâu nữa sẽ rời cung trời Đâu-suất này, mất đi oai thần, chúng ta làm sao có thể sống yên ổn. Lúc ấy chư Thiên cõi trời Đâu-suất chỉ nghe tiếng khóc. Tiếng khóc này nối nhau vang đến chư Thiên Cứu cánh cõi trời Thủ-đà-hội trên đảnh Sắc giới. Mọi người đều than: –Ôi thôi! Buồn thảm thay! Đức Bồ-tát Hộ Minh ngày nay năm tướng suy thoái xuất hiện, chẳng bao lâu sẽ phải đọa lạc. Từ cung trời Đâu-suất cho đến cung điện A-tu-la, khắp nơi đều nghe tiếng than thở: “Ôi thôi! Chẳng bao lâu sẽ đọa lạc”. Âm thanh này vang khắp mọi nơi. Chư Thiên cõi trời Sắc cứu cánh thuộc Sắc giới và chư Thiên cõi Tha hóa tự tại thuộc Dục-giới nghe tiếng than thở này, đều giáng xuống cung trời Đâu-suất. Chư Thiên cõi trời Thời phần, Tứ Thiên vương nghe tiếng than thở này tất cả đều tụ tập lên cung trời Đâu-suất. Như vậy cho đến Long vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-đà-la, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, La-sát, tất cả chư Thiên Địa cư, chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc, đồng bay lên cõi trời Đâu-suất tập họp tại một chỗ, cùng nhau nói: –Ngày nay chúng ta thấy Thiên tử Hộ Minh, sắp rời cung trời Đâu-suất giáng sinh vào cõi nhân gian. Thời gian năm tướng suy thoái xuất hiện của Thiên tử trên cung trời Đâu-suất ứng với mười hai năm ở nhân gian. Khi ấy, chư Thiên cõi trời Thủ-đà-hội đều thầm nghó: “Thuở xưa ta từng chứng kiến Bồ-tát bổ xứ từ cung trời Đâu-suất hạ sinh vào nhân gian, cùng với hoàn cảnh này không khác.” Chư Thiên này hôm nay thấy Bồ-tát Hộ Minh xuất hiện năm tướng suy thoái, quyết định sẽ biết Bồ-tát giáng sinh xuống cõi Diêm-phù-đề, liền to tiếng đồng hô lên: –Này các người cõi trần gian, hãy trang hoàng nghiêm chỉnh cõi Diêm-phù-đề, Bồ-tát chẳng bao lâu nữa, sẽ từ cung trời Đâu-suất này đản sinh vào cõi Diêm-phù-đề, các ngươi phải quét dọn chỉnh đốn, Đức Phật sắp hạ sinh. Trong lúc này trên cõi đất Diêm-phù-đề có năm trăm vị Bích-chi-phật đang tu tập đạo hạnh trong một khu rừng. Năm trăm vị Bích-chi-phật này vừa nghe chư Thiên hô to như vậy, cùng nhau đằng vân hướng về thành Ba-la-nại. Khi đến trên hư không thành Ba-la-nại rồi, mỗi vị đều thị hiện năm phép thần thông, vọt lên hư không, từ thân phun ra khói lửa, kế đến nói kệ và cuối cùng xả bỏ thọ mạng nhập vào Niết-bàn. Bấy giờ Bồ-tát Hộ Minh thấy đại chúng chư Thiên, cho đến các vua hộ thế Phạm thiên, Đế Thích cùng với các loài Rồng, Tỳ-xá-xà v.v… Quán sát xong rồi, tâm ý thản nhiên, không có chút xáo động sợ sệt lo âu, đem lời dịu dàng bảo đại chúng chư Thiên: –Này các nhân giả, các ngài phải biết: Như thân ta ngày hôm nay xuất hiện năm thứ suy thoái, thì chẳng bao lâu ta sẽ từ biệt Đâu-suất, hạ sinh vào nhân gian. Phạm vương, Đế Thích, tất cả chư Thiên thưa: –Tôn giả Hộ Minh, như ngài đã thấy năm thứ suy thoái xuất hiện nơi thân, Tôn giả chắc chẳng bao lâu sẽ rời khỏi cung trời Đâu-suất hạ sinh vào cõi nhân gian. Ngài có thể nhớ biết hạnh nguyện thuở trước của ngài hay chăng? Khi vô lượng trăm ngàn đại chúng chư Thiên thốt ra lời nói này rồi, thì toàn thân run rẩy, cả người lông tóc dựng ngược, tâm rất sợ hãi, chắp tay đảnh lễ Bồ-tát Hộ Minh. Bồ-tát Hộ Minh bảo đại chúng chư Thiên: –Nay ta quyết định không có ngần ngại, nay đã đến lúc, vậy các ông phải nghó đến cơn vô thường, phải liên tưởng đến các việc khủng bố trong đời vị lai. Các ông nên quán sát thân thể nhơ nhớp này, tâm các ông ưa đắm nó, do đó các tham dục cùng nhau trói buộc các ông ở trong vòng sinh tử không thể nào thoát ly. Cái hình hài hôi thối này rất đáng nhàm chán xa lìa. Tất cả các ông hãy chắp tay quán sát, thân thể ta và thân thể chúng sinh, đều chưa thoát khỏi pháp vô thường này. Như vậy các ông chớ buồn vì ta, chớ khổ vì ta. Chư Thiên thưa: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, cúi xin ngài đem lòng từ bi che chở tất cả chúng sinh. Xin ngài cũng không nên sinh tâm tưởng nào khác, chỉ nghó đến nhân duyên bản nguyện đời quá khứ. Sinh thân của ngài trong ức kiếp cũng đã từng thọ nghiệp của trời, người, là nhờ nhân duyên tạo thiện nghiệp trong đời quá khứ. Ngài nhớ lại các pháp hạnh thiện căn mà ngài đã thực hiện, đối với chúng sinh sinh tâm từ bi. Bồ-tát Hộ Minh nói với chư Thiên: –Các ông phải biết, tất cả chúng sinh ở trong thế gian đối với y báo của họ, nếu họ muốn cảnh giới nào thì sinh về cảnh giới ấy chưa từng trái nhau, huống nữa là ta. Hơn nữa, tất cả chúng sinh đều ở trong vòng sinh tử ân ái, biệt ly, làm sao thoát được! Chư Thiên liền ca ngợi: –Ít có thay! Ít có thay! Không thể nghó bàn về Tôn giả Hộ Minh, ngài có thể ở trong cảnh giới vô thường, khi sắp xả bỏ thọ mạng, tâm được biện tài, hoàn toàn sáng suốt thông đạt, chí nguyện không thay đổi. Lại nữa, thưa Tôn giả Hộ Minh, tất cả chư Thiên khác, khi thấy năm tướng suy thoái xuất hiện, tâm họ lo rầu, mất cả chánh niệm. Bồ-tát Hộ Minh lại nói với chư Thiên một lần nữa: –Các Bồ-tát khi còn một đời nữa là bổ xứ, thiện căn các ngài tăng trưởng, biết ở trong các cõi, sinh các công đức, tâm định vắng lặng. Các khổ đến bức xúc, các ngài không sinh buồn khổ, không buông xuôi, bỏ cảnh khổ mà đi, có thể ở bên chúng sinh phát khởi tâm đại Bi. Chư Thiên thưa: –Đúng thế! Đúng thế! Thưa Tôn giả Hộ Minh, tất cả chúng sinh ở trong thế gian trồng các công đức, được sinh lên cung trời này, khi họ hết phước ở cõi này, liền trở lại hạ sinh. Bồ-tát Hộ Minh bảo chư Thiên: –Ta vì lý do ấy, thấy chúng sinh trong cõi trời, người có nhiều tội lỗi. Ta nay rời cung trời Đâu-suất sinh xuống nhân gian, vì diệt sạch các khổ cho tất cả chúng sinh trong thế gian này. Bấy giờ ở trong chúng hội có một Thiên nữ, ái mộ lưu luyến Bồ-tát Hộ Minh, lại nói riêng với một Thiên nữ khác: –Chúng ta có thể đến cõi Diêm-phù-đề, xem Đấng tôn quý của chúng ta, sẽ thị hiện vào nhà nào. Thiên nữ kia lại nói: –Tôi nay cũng muốn sống ở Diêm-phù-đề. Tại sao? –Đấng tôn quý chúng ta sắp đản sinh vào cõi đó. Do vậy nay tôi cũng nguyện sinh vào đấy. Rồi hai nàng Thiên nữ cùng bàn với nhau: “Ta cũng chẳng vì vị tôn quý này mà sinh vào nhân gian, vì sao? Đấng tôn quý của chúng ta đến cõi Diêm-phù-đề, thì có vô lượng vô biên chúng sinh trồng các thiện căn, ở trong giáo pháp Ngài, họ tín thọ thực hành lời giáo hóa. Lại có vô lượng vô biên chúng sinh đến cõi này tu các phước nghiệp.” KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706228">QUYỂN 6 <詞 id="48706229">Phẩm 4: THÁC SINH CUNG TRỜI ĐÂU-SUẤT (Phần 2) Bấy giờ, Bồ-tát Hộ Minh biết trong chúng hội của chư Thiên nơi cung trời Đâu-suất, có một Thiên tử tên Kim Đoàn, từ trước tới nay đã từng đến cõi Diêm-phù-đề nên Ngài hỏi Kim Đoàn: –Này Thiên tử Kim Đoàn, ông đã từng đến trong cõi Diêm-phù-đề, có lẽ ông biết rõ xóm làng thành ấp và chủng tộc các nhà vua ở nơi đó, vậy Bồ-tát còn sinh một lần nữa thì nên sinh vào nhà nào? Thiên tử Kim Đoàn thưa: –Bạch Tôn giả, tôi biết rất rõ việc này, xin Tôn giả khéo lãnh hội, tôi sẽ trình bày. Bồ-tát Hộ Minh nói: –Hay lắm! Kim Đoàn nói: –Cõi Tam thiên đại thiên này có một Bồ-đề đạo tràng thuộc nước Ma-già-đà trong châu Diêm-phù-đề. Đây là nơi chư Phật thuở xưa thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tôn giả Hộ Minh, trong nước này có dòng sông Hằng. Phía Nam dòng sông có một dãy núi tên là Tỳ-xà-la, còn có một tên khác là Bàn-đồ Bà-tỳ Phú-la Kỳ-xà-quật, nơi đây là chỗ các Tiên nhân đời trước tu tập. Dãy núi này cùng với dòng sông liên kết nhau bao quanh lấy dải đất. Thế núi oai hùng trải một màu xanh biếc giống như khối ngọc ma-ni, phía trong núi có một làng tên là Sơn nhiêu. Lại cách núi chẳng bao xa có một đại thành tên là Vương xá, thuở xưa có vị vua tu tiên tên là Ưu-đồ-ba-lê trị vì ở thành này, chủng tộc ấy luôn luôn làm vua, chánh phi thuộc dòng họ Đại vương Thiện Kiến, sinh hạ một Thái tử tên là Bà-hề-ca, hiện đang kế nghiệp vua cha Ưu-đồ-ba-lê cai trị nước Ma-già-đà. Ngài giáng sinh đến cõi Diêm-phù-đề, có thể làm trưởng tử của vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy có phần ưu điểm, nhưng phụ vương và mẫu hậu không thanh tịnh, đô thành đóng nơi biên địa, địa thế đồi núi gồ ghề không bằng phẳng, toàn là hầm hố, sỏi đá cát sạn, các loài cỏ dại gai góc um tùm, ít thấy ao hồ và những dòng sông lớn, không thấy hoa viên và vườn cây ăn quả. Do vậy ông nay có thể quan sát các vương tộc khác được chăng? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, nơi thành Ba-la-nại thuộc nước Ca-thi, hiện nay vị vua đang trị vì hiệu là Thiện Trượng Phu, là con của vua tiên Thiện Quang. Tôn giả có thể nhận Thiện Trượng Phu làm phụ vương được chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy có ưu điểm như vậy, nhưng vua Thiện Trượng Phu nước Ca-thi bị thâm nhiễm bốn pháp tà kiến. Vậy ông có thể quán sát dòng vua khác làm cho ta thác sinh được không? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, nước Kiều-tát-la có kinh đô là Xá-bà-đề, vị vua cai trị thành này là Kỳ-la da. Quốc vương đại quốc Kiều-tát-la có thân hình to lớn khỏe mạnh hơn người, dân chúng đông đúc. Tôn giả có thể làm con vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy có ưu điểm như vậy, nhưng nhà vua nước Kiều-tát-la là con cháu nhiều đời của Ma-đăng-già, cha mẹ sinh ra vị quốc chủ này thuộc dòng thấp kém, không được thanh tịnh. Vì từ xưa đến nay không phải dòng dõi làm vua, nhà vua tiểu tâm hạ tiện, ý chí không cao thượng, kho tàng nhà vua ít của cải. Tuy có bảy báu: Vàng, bạc, lưu ly, mã não, trân châu… nhưng chẳng được nhiều. Do vậy, ngày nay ông có thể vì ta tìm các dòng vua khác để làm chỗ ta thác sinh được không? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, vua nước Bạc-tha đóng đô tại thành Câu-thiểm-di tên là Thiên Thắng, con của vua này tên là Bá Thắng. Vua Bá Thắng có nhiều voi, ngựa, bảy báu và đầy đủ bốn binh chủng. Tôn giả có thể làm con vị vua này được chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy có ưu điểm như vậy, nhưng mẫu hậu vua Bá Thắng nước Bạt-tha không phải là người hiền lương, ngoại tình sinh ra Bá Thắng, nên Bá Thắng không phải thuộc dòng vua chánh thống. Bá Thắng lớn lên làm vua lại tuyên truyền tà thuyết đoạn kiến. Do vậy, ông có thể quán sát dòng vua khác để làm nơi ta thác sinh chăng? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Nước Kim cang có kinh thành tên là Tỳ-da-ly, lúa gạo dư dật, dân chúng no ấm, an vui, cảnh đẹp tuyệt vời, giống như cung trời không khác. Vua đóng đô ở thành này là con của Thọ Vương, thuộc chủng tộc thanh tịnh, không một ai dám chê bai, kho tàng nhà vua có nhiều vàng bạc ngọc ngà châu báu và các vật quý giá, không thiếu một vật gì. Tôn giả có thể làm con vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Ưu điểm này thật quả nhiên như vậy. Nhưng dân chúng nước này tâm tánh cang cường, mỗi người tự sống theo ý riêng của mình, tự cho mình là hơn mọi người, hết sức kiêu căng ngã mạn, nghênh ngang tự thị cống cao, chẳng chịu hòa đồng với mọi người, sống hỗn độn nào khác súc sinh, không biết kẻ lớn người nhỏ, tôn ty trật tự lễ nghi. Tự cho mình là thông minh, tự nói mình là hiểu biết. Tuy trong nước có vua chúa mà không chịu phục tùng, nói rằng lẽ tự nhiên pháp ấy là vậy, chẳng cần cầu học người khác. Do vậy, ông nay có thể quán sát dòng vua các nước khác để làm chỗ ta thác sinh được chăng? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, con vua Minh Đăng ở thành Ưu-xà-da-na thuộc nước Ma-ba-bàn-đề tên là Mãn Túc, hiện đóng đô ở thành này. Vua Mãn Túc có một thân thể cường tráng oai hùng, rất nhiều tùy tùng, có sức mạnh dẹp tan giặc thù. Tôn giả có thể làm con vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh nói với Kim Đoàn: –Tuy có ưu điểm như vậy nhưng quốc vương này không có một pháp khả dó làm mô phạm cho việc cai trị. Chánh sách cai trị độc ác khắc nghiệt, không tin nhân quả. Do vậy, ngày nay ông có thể quán sát các vương tộc khác, để làm chỗ ta thác sinh được chăng? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, có một Đại vương đóng đô tại thành Ma-đầu-la trong cõi Diêm-phù-đề này tên là Thiện Tý. Nhà vua có một người con tên là Tự Tại Kiện Tướng. Tôn giả có thể đến làm con nhà vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy có ưu điểm như vậy, nhưng quốc vương này sinh trong nhà tà kiến. Vì lý do Bồ-tát bổ xứ không được thị hiện trong nhà tà kiến, ông có thể quán sát dòng họ vua khác, để làm nơi ta thác sinh được chăng? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, có dòng vua Bàn-nữu ở thành Bạch tượng, thân thể dũng mãnh oai hùng, hình dung tuấn tú khả ái thế gian không ai sánh bằng, có sức mạnh đánh dẹp giặc thù các nước láng giềng. Tôn giả có thể đến làm con vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy được ưu điểm như vậy. Dù chủng tộc nhà vua Bàn-nữu thanh tịnh, nhưng con của vua hỗn tạp rối loạn. Vì sao? Vị trưởng tử của nhà vua tên là Du-địa-sư-hy-la, là con của pháp vương Phạm thiên; người con thứ hai của nhà vua tên là Tỳ-ma Tư-na, là con của vị Phong Thần; người con thứ ba của nhà vua tên là Át-thuần-na, là con của Đế Thích. Lại có hai người con khác mẹ: Người thứ nhất tên Na-câu-la, người thứ hai tên Ta-ha-đề-bà. Hai người này là con của tinh tú A-du-na. Vì lý do đó, hôm nay ông có thể quan sát dòng họ các nhà vua khác để làm chỗ ta thác sinh được chăng? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Thưa Tôn giả Hộ Minh, nay cõi Diêm-phù-đề này có thành Mị-di-la. Nhà vua dòng Mị-di-la tên là Thiện Hữu, rất nhiều voi, ngựa, trâu, dê, tất cả nhu cầu cho đời sống hết thảy đều được đầy đủ. Kho tàng chứa đầy vô lượng các thứ báu như: Vàng, bạc, ngọc ngà, chưa từng thiếu một vật gì. Nhà vua thường siêng tu các pháp hạnh. Tôn giả có thể đến làm con vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy thực tế nhà vua Thiện Hữu có đầy đủ các pháp ưu điểm như thế nhưng nhà vua tuổi cao, quá già yếu, lại không có khả năng chỉnh đốn việc nước để cho quốc gia hưng thịnh; hơn nữa nhà vua đông con. Do vậy, ông nay có thể tìm các vương tộc khác để làm chỗ thác sinh chăng? Thiên tử Kim Đoàn lại bạch thế này: –Những vị vua vừa kể trên đây, có vị thuộc các nước văn minh, cũng có vị thuộc các nước nghèo nàn lạc hậu. Thưa Tôn giả, nay có vua Nguyệt Chi cai trị một quần đảo trong biển Tỳ-nữu, cha mẹ đều thuộc dòng dõi Bà-la-môn, đều tu tịnh hạnh, thông thạo các pháp tế tự chư Thiên, uyên thâm bốn luận Tỳ-đà. Tôn giả có thể đến làm con vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh bảo Kim Đoàn: –Tuy nhà vua này có ưu điểm như vậy nhưng ta đản sinh để xuất gia thành đạo, cốt yếu phải sinh trong dòng dõi nhà vua, không muốn sinh trong nhà Bà-la-môn. Vì lý do đó, nay ông chỉ tìm dòng dõi nhà vua để làm chỗ ta thác sinh. Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Tôi vì Tôn giả quán sát các cung điện, xóm làng, thành ấp của các nhà vua thuộc các nước trong Diêm-phù-đề này và sự cai trị, công nghiệp của các nhà vua ở trên đất nước mỗi vị. Quán sát như vậy, cho đến giờ này vô cùng mỏi mệt khổ não, tinh thần mê muội, ý chí rối loạn, không tài nào tiếp tục quán sát các chỗ khác được nữa, dầu cho có quán sát thì miệng không thể nào diễn tả hết được! Bồ-tát Hộ Minh nói với Kim Đoàn: –Sự thật đúng như lời ông nói. Nhưng ông hãy vì ta cố gắng tìm một nhà vua thuộc dòng thanh tịnh, có thể làm chỗ cho ta thác sinh. Thiên tử Kim Đoàn lại bạch: –Tôi vì Tôn giả lo lắng quán sát mọi nơi tâm sinh mỏi mệt, bỗng nhiên quên mất một vương tộc. Bồ-tát Hộ Minh liền hỏi: –Nhà vua ấy tên gì? Kim Đoàn bạch: –Có một vương tộc nguyên từ trước đến nay được dân chúng thảo luận đồng ý suy cử, dòng họ Cam Giá này đời đời làm Chuyển luân thánh vương, con cháu đời đời nối nhau làm vua, cho đến vị vua đóng đô tại thành Ca-tỳ-la-bà-tô-đô, thuộc dòng họ Thích tên là Sư Tử Giáp. Con vua Sư Tử Giáp lên ngôi hiệu là Thâu-đàn-đầu, danh tiếng vang khắp tất cả trời người trong thế gian. Vậy Tôn giả có thể đến làm con vị vua này chăng? Bồ-tát Hộ Minh nói với Kim Đoàn: –Hay lắm! Hay lắm! Này Thiên tử Kim Đoàn, ông khéo quán sát lựa chọn nhà vua này, ý ta cũng định sinh trong nhà ấy, những gì ta nghó cũng giống như lời ông nói. Này phải biết, ta quyết định sinh vào nhà ấy làm con vua Thâu-đàn-đầu. Này Kim Đoàn, ông phải biết, gia đình của Bồ-tát bổ xứ thác sinh phải là gia đình đầy đủ sáu mươi công đức. Sáu mươi công đức đó là gì? Dòng họ này từ xưa đến nay phải là dòng họ thanh tịnh tốt đẹp. Nhà này thường được chư Hiền thánh gia tâm ủng hộ. Nhà đó không làm tất cả các điều ác. Người sinh trong nhà đó hết thảy đều được thanh tịnh. Dòng họ nhà đó phải chân chánh, không bị xen lẫn dòng máu họ khác. Con cháu nhà đó nối nhau làm vua phải là trưởng tử, không cho gián đoạn. Nhà đó làm vua từ xưa đến nay không có gián đoạn. Tất cả các vua sinh trong nhà này từ trước đến nay phải là người trồng nhiều căn lành. Người sinh trong nhà này thường được chư Thiên, Hiền thánh ca ngợi. Người sinh trong nhà này đầy đủ oai đức lớn. Hết thảy vợ con trong nhà này đều tiết hạnh đoan chánh. Nhà này sinh nhiều con trai trí tuệ dũng mãnh. Người trong nhà này tâm tánh nhu hòa. Người sinh trong nhà này không lẳng lơ mất nết. Người sinh trong nhà này không có tâm nhút nhát. Người sinh trong nhà này chưa từng có tâm khiếp nhược. Người sinh trong nhà này thông minh đa trí. Người sinh trong nhà này giỏi nhiều nghề nghiệp. Người sinh trong nhà này đều sợ tội lỗi. Người sinh trong nhà này không làm các nghề xảo trá thế gian, trong việc mưu sống cũng không tham lam của cải. Người sinh trong nhà này thường nhiều bạn bè. Người sinh trong nhà này không lấy việc sát hại động vật để nuôi lấy thân mạng. Dòng họ nhà này thường biết ân nghóa. Dòng họ nhà này thường tu khổ hạnh. Người sinh trong nhà này không bị người khác cảm hóa. Người sinh trong nhà này không ôm lòng oán hận. Người sinh trong nhà này không ngu si. Người sinh trong nhà này không có tâm sợ sệt chạy theo người khác. Người sinh trong nhà này không có tâm hiếu sát. Người sinh trong nhà này không có tội lỗi. Người sinh trong nhà này đi khất thực được nhiều vật thực. Người nào đến nhà này khất thực, không ai là không được cung cấp. Người sinh trong nhà này ý chí kiên cường không ai hàng phục được. Phép tắc nhà này được đưa ra làm mẫu mực cho mọi người. Nhà này thường ưa bố thí cho chúng sinh. Nhà này chú trọng xây dựng luật nhân quả. Người sinh trong nhà này là kẻ dũng mãnh trong thế gian. Nhà này thường hay cúng dường tất cả Tiên nhân, Thánh hiền. Nhà này thường hay cúng dường Thần linh. Nhà này thường hay cúng dường chư Thiên. Nhà này thường hay cúng dường bậc Đại nhân. Nhà này trải qua nhiều đời không có oán thù. Nhà này tiếng tốt, oai thế vang lừng khắp nơi. Nhà này là bậc tối thượng trong tất cả các nhà khác. Người sinh trong nhà này từ đời trước đến nay đều thuộc dòng Thánh hiền. Người sinh trong nhà này đối với các dòng Thánh, thuộc dòng Thánh bậc nhất. Người sinh trong nhà này thường thuộc dòng Chuyển luân thánh vương. Người sinh trong nhà này thuộc dòng họ có oai đức lớn. Người sinh trong nhà này có vô lượng quyến thuộc hộ vệ chung quanh. Người sinh trong nhà này quyến thuộc không tan rã. Người sinh trong nhà này có quyến thuộc nhiều hơn quyến thuộc người khác. Người sinh trong nhà này đều hiếu dưỡng từ mẫu. Người sinh trong nhà này đều hiếu dưỡng phụ thân. Người sinh trong nhà này đều cúng dường chư Sa-môn. Người sinh trong nhà này đều cúng dường chư vị Bà-la-môn. Người sinh trong nhà này có rất nhiều ngũ cốc. Người sinh trong nhà này có nhiều vàng bạc, xa cừ, mã não, tất cả tài sản không thiếu một vật gì. Người sinh trong nhà này có nhiều tôi trai tớ gái, voi, ngựa, bò, dê. Người sinh trong nhà này chưa từng làm thuê cho kẻ khác. Người sinh trong nhà này đối với tất cả sự vật trong thế gian, hết thảy đều được đầy đủ, không thiếu một vật gì. Này Kim Đoàn, phàm Bồ-tát bổ xứ ở trong thai mẹ, thì người mẹ đó phải có đủ ba mươi hai điều kiện mới có khả năng nhận lãnh việc Bồ-tát ở trong thai. Ba mươi hai điều kiện đó là gì? Người mẹ đó được sinh trong nhà đạo đức chân chánh. Người mẹ đó tứ chi thân thể vẹn toàn. Người mẹ đó đức hạnh vẹn toàn. Người mẹ đó được sinh trong nhà tôn quý. Người mẹ đó phải là bậc mẫu mực. Người mẹ đó thuộc chủng tộc thanh tịnh. Người mẹ đó hình dung đoan chánh không ai sánh bằng. Người mẹ đó địa vị và đức hạnh phải tương xứng. Người mẹ đó hình dung trên dưới cân đối. Người mẹ đó chưa từng sinh sản. Người mẹ đó có công đức lớn. Người mẹ đó tâm thường nghó đến điều vui. Người mẹ đó tâm thường tùy thuận tất cả việc thiện. Người mẹ đó không có tâm tà vạy. Người mẹ đó ba nghiệp thân khẩu ý được điều phục. Người mẹ đó không có tâm sợ sệt. Người mẹ đó học rộng nhớ dai. Người mẹ đó rất giỏi về nữ công. Người mẹ đó không có tâm dua nịnh. Người mẹ đó không có tâm dối gạt. Người mẹ đó không có tâm sân hận. Người mẹ đó không có tâm đố kî. Người mẹ đó không có tâm bỏn sẻn. Người mẹ đó không có tâm bồng bột. Người mẹ đó có tâm khó có thể lay chuyển. Người mẹ đó có tướng mạo rất tốt. Người mẹ đó tâm thường giữ tính nhẫn nhục. Người mẹ đó có tâm biết hổ thẹn. Người mẹ đó ít dâm dục, sân hận, ngu si. Việc làm của người mẹ đó không trái với nữ hạnh. Người mẹ đó có hạnh chiều chuộng chồng con. Người mẹ đó phát sinh các hạnh công đức đều được đầy đủ. Người mẹ như vậy, mới có khả năng thọ nhận hậu thân của Bồ-tát bổ xứ. Khi Bồ-tát muốn nhập vào thai Thánh mẫu, phải chọn ngày Quỷ tú. Sau đó mới thác sinh vào thai mẹ. Trước khi Thánh mẫu mang thai Bồ-tát bổ xứ, cần phải tu Bát quan trai rồi sau đó Bồ-tát mới giáng thần vào thai. Bồ-tát Hộ Minh lại nói: –Ngày nay ta thọ thân này, chẳng phải vì tiền tài và thú vui năm dục ở thế gian. Ta thọ sinh một đời này ở nhân gian, chỉ vì thương xót chúng sinh khổ não mà đem lại sự an vui cho họ. Trong chúng hội, có một Thiên nữ bảo với một Thiên nữ khác: –Đức Bồ-tát Hộ Minh là bậc tôn quý của chúng ta, nhất định sẽ giáng sinh vào cõi nhân gian, ngài sẽ rời bỏ chúng ta và cung điện này, tại sao ta còn thích ở nơi đây? Thiên nữ thứ hai liền đáp: –Làm sao! Biết làm sao! Chúng ta không biết làm gì bây giờ để đến được cõi nhân gian, quan sát tường tận nơi Bồ-tát thác sinh là nhà nào! Thiên nữ thứ ba đưa ra ý kiến: –Ngày nay chúng ta nguyện xả bỏ tuổi thọ cõi trời này để đến thọ sinh vào cõi Diêm-phù-đề. Vì sao? Vì chúng ta cũng nguyện đến đó, cùng sinh một lượt với Bồ-tát Hộ Minh của chúng ta. Thiên nữ thứ tư nói: –Chúng ta không nên luyến tiếc cảnh giới này. Vì sao? Vì Đức Bồ-tát Hộ Minh, Đấng tôn quý của chúng ta còn xả bỏ tuổi thọ cõi này để sinh xuống nhân gian, huống nữa là chúng ta. Lại một Thiên nữ khác bạch Tôn giả Hộ Minh: –Ngày nay ngài giáng sinh vào cõi Diêm-phù-đề, cúi xin Đại-só chớ quên chúng tôi. Bồ-tát Hộ Minh bảo các Thiên nữ: –Các người chớ quá sinh khổ não, ta trước đây đã vì các người nói tất cả cảnh giới đều là vô thường, như thân cây chuối không có bền chắc, như mượn đồ của người, dùng rồi phải trả lại cho chủ, chẳng phải vật sở hữu của mình. Giống như sóng nắng, như trò huyễn thuật, như bọt nước. Tất cả cảnh giới dối gạt người ngu si, họ cho là thường trụ. Bấy giờ trong đại chúng có một Thiên tử, tâm buồn rầu áo não, than thở: –Xét như lời dạy của Bồ-tát, tất cả cảnh giới đều là vô thường chẳng thật. Lạ thay! Vậy thì chúng ta cần gì phải đam mê nơi đây? Chúng ta ngày nay thấy Bồ-tát Hộ Minh, thân thể có đầy đủ công đức như vậy. Ngài sinh vào cung trời Đâu-suất này, chứa nhóm phước đức như vậy, đàng hoàng ngay thẳng như vậy, trang nghiêm đẹp đẽ như vậy, mà Bồ-tát lại xả bỏ, giáng sinh vào trần thế. Lạ thay! Tại sao riêng chúng ta sống nơi cảnh giới vô thường này? Khi ấy, có một Thiên tử thứ hai đáp: –Hay thay, Thiên tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Y như lời ông đã nói. Rồi người nói kệ: Đại Bồ-tát Hộ Minh thuở trước Đã từng sinh trong cõi hữu hình. Từ nô tỳ, voi ngựa, ngọc ngà, Đến quý nhất vợ con đều xả. Hoặc lại cắt thịt xương thân thể, Đầu, mắt, tủy, máu, da đều thí. Xin như vậy thảy đều toại ý Trăm ngàn lần Bồ-tát đều cho. Bấy giờ, trong đại chúng có một Thiên tử khác nói kệ: Than ôi! Thân chúng ta, Sinh ra trong Thiên giới. Hiện đang lo sa đọa, Như người sợ tử thần. Có ai trong thế gian, Hưởng phước không cùng tận? Thế giới vô thường này, Có sinh đều phải diệt. Bồ-tát Hộ Minh bảo chư Thiên: –Này chư Thiên, tất cả các pháp thế gian, sinh tử biệt ly là căn bản, các ông chẳng nên vì ta mà khổ não buồn rầu. Vì sao? –Ta từ xưa đến nay không phạm các ác nghiệp. Nay các ông muốn ta sống lâu ở nơi đây, hoàn toàn không thể được. Ta trong đời quá khứ sống gần gũi Phật Pháp Tăng, trồng các thiện nghiệp, thường phát đạo tâm, mong cầu đại nguyện, nên ngày hôm nay ta được phước báo, sẽ chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Lẽ ra các ông phải hoan hỷ, tại sao lại sinh khổ não? Chư Thiên nghe lời này rồi, nói với nhau: –Chư Thiên chúng ta thấy rõ Đại só Hộ Minh, quả nhiên chẳng bao lâu ngài sẽ giáng sinh vào cõi nhân gian. Và họ đồng xướng lên: “Tôn giả Hộ Minh! Ngài chẳng bao lâu sẽ sinh vào cõi nhân gian, thì bao nhiêu oai đức và phước lợi của cung điện chư Thiên cõi trời Đâu-suất này sẽ đi theo ngài. Ngài sẽ thọ lấy thân tứ đại cuối cùng ở nhân gian, chư Thiên chúng tôi sẽ biết phụng thờ ai?” Bồ-tát Hộ Minh bảo chư Thiên: –Thân ta trước khi chưa xuất hiện năm tướng suy thoái, ta đã vì các ông giảng nói các pháp nhân duyên vô thường, các ông cần nhất tâm ghi nhớ các pháp ấy, chớ nên lãng quên. Ta nay từ biệt nơi đây sinh đến nhân gian, sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu. Các ông có thể phát nguyện thọ thân ở dưới trần gian, sau khi sinh vào đó rồi, các ông sẽ được giải thoát tất cả khổ não. Sau khi Đức Bồ-tát Hộ Minh đã quán sát gia tộc để làm nơi thác sinh rồi, cõi trời Đâu-suất ngay khi đó xuất hiện một cung điện tên là Cao tràng, cao rộng bằng sáu mươi do tuần, Bồ-tát luôn luôn ở trong cung điện này, vì chư Thiên mà thuyết giảng các pháp trọng yếu. Bồ-tát an tọa trong cung điện này rồi, liền bảo chư Thiên tử cõi trời Đâu-suất: “Này chư Thiên, các ông nên tập họp nơi đây, thân ta chẳng bao lâu nữa sẽ giáng sinh xuống trần gian, ta nay muốn nói một pháp Minh môn, gọi là “Cửa ngõ phương tiện để vào thật tướng các pháp”, là lời giáo hóa tối hậu để lại cho các ông. Nếu các ông nhớ tưởng đến ta thì khi các ông nghe pháp môn này nên sinh tâm hoan hỷ. Đại chúng chư Thiên cõi trời Đâu-suất-đà nghe lời nói này rồi, tất cả quyến thuộc chư Thiên, ngọc nữ đều tập họp nơi cung điện. Bồ-tát Hộ Minh thấy đại chúng chư Thiên tề tựu xong, liền vì họ mà thuyết pháp. Ngay lúc đó lại hóa hiện một cung điện khác ở trên cung điện Cao tràng, cao lớn rộng rãi che phủ cả bốn châu thiên hạ, nguy nga tráng lệ, ít có cung điện nào bì kịp. Cung điện dùng toàn bảy báu trang hoàng, oai nghiêm lộng lẫy, tất cả cung điện cõi trời Dục không thể sánh bằng. Chư Thiên Sắc giới thấy cung điện này, tâm họ liên tưởng cung điện của mình không khác nào gò mả. Trong quá khứ, Bồ-tát Hộ Minh đã tu các hạnh, trồng các thiện căn, thành tựu vô lượng phước nghiệp, đầy đủ các công đức, nên khi ngài an tọa trên tòa sư tử cao rộng trang nghiêm, tòa này được dùng vô lượng các thứ quý báu phối hợp trang hoàng, vô lượng vô biên các loại y cõi trời trải trên tòa ấy, với vô lượng vô biên các lư bằng ngọc quý, xông các danh hương tỏa lên mùi thơm ngào ngạt vi diệu và các hoa thơm rải trên mặt đất. Tòa được trăm ngàn vạn ức trân bảo trang hoàng nên hào quang làm sáng rực cả cung điện. Phía trên và dưới cung điện được bủa giăng những mành lưới bằng ngọc quý, xen lẫn các chuông rung bằng vàng, phát ra những âm thanh vi diệu. Đại cung điện quý báu này lại có hàng ngàn vạn tàn lọng và những tua màu sắc sặc sỡ, tỏa ra ánh sáng khắp bốn bên. Lại với vô lượng vô biên trăm ngàn ngọc nữ, mỗi người đem theo những nhạc cụ bằng bảy báu, phát ra những âm thanh tán thán Bồ-tát trong quá khứ đã trồng vô lượng vô biên công đức. Bốn vua Hộ Thế, với trăm ngàn vạn ức Thiên chúng hộ vệ hai bên cung điện, và hàng ngàn vạn chúng trời Đế Thích lễ bái cung điện này, ngàn vạn chúng cõi trời Phạm thiên cũng đồng lễ bái cung điện này, lại có trăm ngàn vạn na-do-tha chư vị Bồ-tát hộ trì cung điện này, cung điện này cũng được trăm ngàn vạn na-do-tha chư Phật mười phương đồng hộ niệm. Bồ-tát Hộ Minh đã trải qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp tu hành các hạnh Ba-la-mật, được thành tựu phước báo như vậy, nhân duyên đầy đủ, công đức luôn luôn tăng trưởng, hết thảy đều được trang nghiêm như vậy. Bồ-tát ngồi trên tòa sư tử cao lớn vi diệu này, bảo tất cả đại chúng chư Thiên: –Này chư Thiên, Ta nay ở nơi đây sắp thác sinh vào nhân gian, đối trước chư Thiên ta cần trình bày rõ ràng một trăm lẻ tám pháp Minh Môn, để lại cho chư Thiên nghiên cứu học tập, rồi sau đó ta mới hạ sinh. Này chư Thiên, các ông phải chú ý lắng nghe và ghi nhớ vào tâm khảm một trăm lẻ tám pháp Minh môn, mà ta sắp nói đây: Chánh tín: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm chánh tín bền vững không bị thoái chuyển. Tịnh tâm: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm không vẩn đục. Hoan hỷ: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm được an ổn Yêu thích: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm được thanh tịnh. Thân thanh tịnh: Pháp Minh môn này giúp hành giả giữ ba nghiệp của thân thanh tịnh. Khẩu thanh tịnh: Pháp Minh môn này giúp hành giả dứt bốn điều ác nơi miệng. Ý thanh tịnh: Pháp Minh môn này giúp hành giả dứt ba độc nơi ý. Niệm Phật: Pháp Minh môn này giúp hành giả quán Phật thanh tịnh. Niệm Pháp: Pháp Minh môn này giúp hành giả quán Pháp thanh tịnh. Niệm Tăng: Pháp Minh môn này giúp hành giả đắc đạo kiên cố. Niệm thí: Pháp Minh môn này giúp hành giả bố thí, tâm không mong cầu quả báo. Niệm giới: Pháp Minh môn này giúp tất cả nguyện của hành giả đều được đầy đủ. Niệm thiên: Pháp Minh môn này giúp hành giả phát tâm rộng lớn. Niệm từ: Pháp Minh môn này làm cho hành giả sinh bất cứ ở đâu, thiện căn cũng được thù thắng. Bi: Pháp Minh môn này giúp hành giả không sát hại chúng sinh. Hỷ: Pháp Minh môn này giúp hành giả trong tâm không còn chứa điều chẳng vui. Xả: Pháp Minh môn này giúp hành giả nhàm chán, xa lìa ngũ dục. Quán vô thường: Pháp Minh môn này giúp hành giả quán sự ưa đắm trong tam giới là giả tạm. Quán khổ: Pháp Minh môn này giúp hành giả đoạn tất cả các điều ham muốn. Quán vô ngã: Pháp Minh môn này giúp hành giả không còn chấp ngã. Quán tịch tónh: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm ý không loạn động. Hổ thẹn: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm được bình thản. Xấu hổ: Pháp Minh môn này giúp hành giả diệt các ác bên ngoài. Thật: Pháp Minh môn này giúp hành giả không dối gạt người, trời. Chân: Pháp Minh môn này giúp hành giả không tự dối mình. Pháp hành: Pháp Minh môn này giúp hành giả tùy thuận các pháp mà thực hành. Tam quy: Pháp Minh môn này giúp hành giả khỏi sa ba đường ác. Tri ân: Pháp Minh môn này giúp hành giả thiện căn được tồn tại. Báo ân: Pháp Minh môn này giúp hành giả chẳng phụ bỏ người ta. Không dối mình: Pháp Minh môn này giúp hành giả chẳng tự khen mình. Vì chúng sinh: Pháp Minh môn này giúp hành giả không chê bai người khác. Vì pháp: Pháp Minh môn này giúp hành giả thực hành đúng chánh pháp. Biết thời: Pháp Minh môn này giúp hành giả ăn nói đúng lúc. Kiểm thúc ngã mạn: Pháp Minh môn này giúp hành giả trí tuệ đầy đủ. Chẳng sinh tâm ác: Pháp Minh môn này giúp hành giả và người khác được bảo vệ. Không chướng ngại: Pháp Minh môn này giúp hành giả không tâm nghi hoặc. Tin một cách rõ ràng: Pháp Minh môn này giúp hành giả thấu triệt đệ nhất nghóa. Quán bất tịnh: Pháp Minh môn này giúp hành giả không còn tâm dục nhiễm. Không đấu tranh: Pháp Minh môn này giúp hành giả không có tâm thù oán kiện tụng. Không si mê: Pháp Minh môn này giúp hành giả không còn sát sinh. Ưa thích nghóa các pháp: Pháp Minh môn này giúp hành giả cầu được nghóa các pháp. Muốn rõ các pháp: Pháp Minh môn này giúp hành giả rõ được các pháp. Cầu đa văn: Pháp Minh môn này giúp hành giả quán đúng thật tướng các pháp. Phương tiện chân chánh: Pháp Minh môn này giúp hành giả hành động chân chánh. Biết danh sắc: Pháp Minh môn này giúp hành giả trừ được các chướng ngại thân và tâm. Trừ nguyên nhân kiến chấp: Pháp Minh môn này giúp hành giả được giải thoát. Không tâm oán thân: Pháp Minh môn này giúp hành giả đối với kẻ oán người thân đều sinh tâm bình đẳng. Ngũ ấm tạm bợ: Pháp Minh môn này giúp hành giả biết được nguyên nhân đau khổ. Các đại bình đẳng: Pháp Minh môn này giúp hành giả đoạn các pháp hòa hợp. Sáu nhập: Pháp Minh môn này giúp hành giả tu theo chánh đạo. Vô sinh nhẫn: Pháp Minh môn này giúp hành giả chứng được tịch diệt. Quán thân thể: Pháp Minh môn này giúp hành giả biết các pháp tịch tónh. Quán cảm thọ: Pháp Minh môn này giúp hành giả dứt được các cảm thọ. Quán tâm tưởng: Pháp Minh môn này giúp hành giả biết tâm như huyễn hóa. Quán các pháp: Pháp Minh môn này giúp hành giả trí tuệ sáng tỏ. Bốn thứ siêng năng chân chánh: Pháp Minh môn này giúp hành giả dứt các điều ác, làm các điều lành. Bốn thứ đầy đủ như ý: Pháp Minh môn này giúp hành giả thân tâm nhẹ nhàng. Tín căn: Pháp Minh môn này giúp hành giả chẳng chạy theo lời nói kẻ khác. Tinh tấn căn: Pháp Minh môn này giúp hành giả khéo chứng các trí. Niệm căn: Pháp Minh môn này giúp hành giả khéo tạo các thiện nghiệp. Định căn: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm được thanh tịnh. Tuệ căn: Pháp Minh môn này giúp hành giả hiện tại nhận định rõ các pháp. Tín lực: Pháp Minh môn này giúp hành giả thoát khỏi ma lực. Tinh tấn lực: Pháp Minh môn này giúp hành giả không thoái chuyển. Niệm lực: Pháp Minh môn này giúp hành giả không loạn tưởng đến pháp khác. Định lực: Pháp Minh môn này giúp hành giả dứt trừ vọng niệm. Tuệ lực: Pháp Minh môn này giúp hành giả lìa hai chấp có-không. Niệm giác chi: Pháp Minh môn này giúp hành giả có trí hiểu các pháp đúng như thật. Trạch pháp giác chi: Pháp Minh môn này giúp hành giả phân biệt các pháp một cách rõ ràng. Tinh tấn giác chi: Pháp Minh môn này giúp hành giả có điều kiện tốt đưa đến sự hiểu biết. Hỷ giác chi: Pháp Minh môn này giúp hành giả chứng các định. Trừ giác chi: Pháp Minh môn này giúp hành giả hoàn tất bổn phận. Định giác chi: Pháp Minh môn này giúp hành giả biết các pháp bình đẳng. Xả giác chi: Pháp Minh môn này giúp hành giả nhàm chán xa lìa các pháp. Chánh kiến: Pháp Minh môn này giúp hành giả dứt các lậu nghiệp, chứng Thánh đạo. Chánh phân biệt: Pháp Minh môn này giúp hành giả đoạn tất cả phân biệt và vô phân biệt. Chánh ngữ: Pháp Minh môn này giúp hành giả biết tất cả danh tự, âm thanh, ngữ ngôn một cách rõ ràng, không thật như tiếng vang. Chánh nghiệp: Pháp Minh môn này giúp hành giả không tạo nghiệp xấu và thọ quả báo xấu. Chánh mạng: Pháp Minh môn này giúp hành giả diệt trừ các ác đạo. Chánh hạnh: Pháp Minh môn này giúp hành giả đến được bờ giải thoát. Chánh niệm: Pháp Minh môn này giúp hành giả không suy nghó các pháp khác. Chánh định: Pháp Minh môn này giúp hành giả tâm không tán loạn, được vắng lặng. Tâm Bồ-đề: Pháp Minh môn này giúp hành giả không bỏ Tam bảo. Y ỷ: Pháp Minh môn này giúp hành giả không thích pháp Tiểu thừa. Chánh tín: Pháp Minh môn này giúp hành giả hiểu được chỗ cao xa của Phật pháp. Tăng tấn: Pháp Minh môn này giúp hành giả thành tựu các thiện căn. Bố thí: Pháp Minh môn này giúp hành giả luôn luôn giáo hóa chúng sinh tham lam để thành tựu trang nghiêm cảnh giới chư Phật. Giới luật: Pháp Minh môn này giúp hành giả giữ giới luật thanh tịnh, giáo hóa những kẻ phá giới, vượt khỏi các nạn trong ác đạo. Nhẫn nhục: Pháp Minh môn này giúp hành giả không còn các tâm: sân hận, tự cao, a dua, nịnh bợ… mà giáo hóa các chúng sinh có những tật xấu đó. Tinh tấn: Pháp Minh môn này giúp hành giả làm các điều lành, giáo hóa những kẻ giải đãi. Thiền định: Pháp Minh môn này giúp hành giả thành tựu các thiền định và thần thông để giáo hóa những kẻ tán loạn. Trí tuệ: Pháp Minh môn này giúp hành giả bỏ được tánh bảo thủ và những tư tưởng vô minh hắc ám để giáo hóa hạng người ngu si. Phương tiện: Pháp Minh môn này giúp hành giả tùy thuận hoàn cảnh và trình độ của chúng sinh mà thị hiện giáo hóa để các Phật sự được thành tựu. Tứ nhiếp pháp: Pháp Minh môn này giúp hành giả tiếp nhận chúng sinh vào đạo Bồ-đề, rồi sau đó dạy Phật pháp cho họ. Giáo hóa chúng sinh: Pháp Minh môn này giúp hành giả không chịu hưởng cảnh vui mình có được, mà giáo hóa chúng sinh không biết mỏi mệt. Tiếp nhận chánh pháp: Pháp Minh môn này giúp hành giả dứt trừ các phiền não của chúng sinh. Chứa nhóm phước đức: Pháp Minh môn này giúp hành giả làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tu thiền: Pháp Minh môn này giúp hành giả đầy đủ mười lực. Tịch định: Pháp Minh môn này giúp hành giả thành tựu đầy đủ Tam-muội của Như Lai. Nhận thức sáng suốt: Pháp Minh môn này giúp hành giả thành tựu trí tuệ một cách viên mãn. Thực hiện được biện tài vô ngại: Pháp Minh môn này giúp hành giả thành tựu được pháp nhãn. Thực hiện được tất cả các hạnh: Pháp Minh môn này giúp hành giả thành tựu được Phật nhãn. Thành tựu tổng trì: Pháp Minh môn này giúp hành giả khi nghe tất cả Phật pháp đều có khả năng thọ trì. Chứng được vô ngại biện tài: Pháp Minh môn này giúp hành giả làm cho chúng sinh được hoan hỷ. Thuận nhẫn: Pháp Minh môn này giúp hành giả thuận hiệp với tất cả pháp của chư Phật. Chứng Vô sinh pháp nhẫn: Pháp Minh môn này giúp hành giả được Phật thọ ký. Địa vị Bất thoái chuyển: Pháp Minh môn này giúp hành giả đầy đủ các pháp của chư Phật trong quá khứ. Trí từ một Địa đến mười Địa: Pháp Minh môn này giúp hành giả được Phật quán đảnh, thành tựu Nhất thiết trí. - Địa quán đảnh: Pháp Minh môn này giúp hành giả từ khi sinh ra cho đến khi xuất gia, thẳng đến thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi Bồ-tát Hộ Minh nói các pháp phương tiện này rồi, lại bảo tất cả chư Thiên: –Chư Thiên phải biết, một trăm lẻ tám pháp Minh môn này lưu lại cõi trời, các ông cần phải thọ trì, tâm thường ghi nhớ, chớ nên xao lãng. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706230">QUYỂN 7 <詞 id="48706231">Phẩm 5: GIÁNG SINH VƯƠNG CUNG Bồ-tát Hộ Minh đợi mùa đông qua rồi, mùa xuân tươi đẹp bắt đầu đến, bầu trời quang đãng, khí hậu ấm áp điều hòa, ngàn cây nội cỏ đua nhau khai hoa nảy lộc, phát triển mơn mởn tươi tốt khắp trên mặt đất. Bồ-tát chọn đúng vào lúc sao Quỷ tú, thuyết giảng những pháp trọng yếu cho chư Thiên, khiến họ đều sinh tâm hoan hỷ ngưỡng mộ, nỗi vui mừng tràn ngập tâm can, không thể tự kiềm chế. Ngài khuyên chư Thiên tu những pháp môn này, nên xa lánh các pháp hữu vi sinh, lão, bệnh, tử để cầu Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Đại só Hộ Minh sắp hạ sinh, dung nhan như Sư tử chúa, tâm ngài an ổn, không có rối loạn, không có lo âu sợ sệt, quán sát chư Thiên rồi lại bảo: –Này tất cả chư Thiên phải biết, đây là lần cuối cùng Ta thọ thân tối hậu, khi rời Đâu-suất sinh xuống nhân gian, Ta nhất tâm chánh niệm, còn bao nhiêu chư Thiên khác khi xả bỏ thân mạng cõi trời, mất đi thú vui ngũ dục họ hết sức đau khổ, quên mất chánh niệm. Bồ-tát khi hạ sinh không phải như vậy, vì đầy đủ các pháp lạ không thể nghó bàn. Khi Bồ-tát Hộ Minh xả bỏ cõi trời sinh xuống nhân gian, chư Thiên thương nhớ Bồ-tát đồng thanh than khóc: –Ôi thôi, đau đớn thay! Ôi thôi, đau đớn thay! Chúng ta đã mất đi Bồ-tát Hộ Minh, chúng ta từ nay trở đi vónh viễn không được nghe chánh pháp, giảm bớt các công đức lợi lạc, trái lại, tăng trưởng cội gốc sinh tử. Liền khi đó có vị trời cõi Tịnh cư bảo đại chúng cõi trời Đâu-suất: –Các người chớ thấy Bồ-tát Hộ Minh ngày nay sắp giáng sinh mà ôm lòng sầu não. Vì sao? Vì Ngài hạ sinh quyết định chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; sau khi Ngài thành Phật sẽ trở lên cung trời này vì các ông mà thuyết pháp, cũng như chư Phật: Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-xá-phù, Ca-la-ca-tôn-đà, Ca-na-ca Mâu-ni và Ca-diếp trong đời quá khứ, đều từ cõi trời này sinh xuống trần gian, rồi các Ngài dũ lòng thương xót, đều trở lại cung trời này thuyết pháp tiếp độ chư Thiên. Ngày nay, Đức Bồ-tát Hộ Minh sau khi thành đạo cũng trở lại cõi trời này giáo hóa tiếp độ các ông, như chư Phật quá khứ. Vào đêm Bồ-tát Hộ Minh sắp giáng sinh xuống trần gian, hoàng hậu tâu với vua Tịnh Phạn: –Tâu Đại vương biết cho, ngay từ đêm hôm nay thần thiếp muốn thọ trì tám điều giới cấm trai pháp thanh tịnh. tám điều đó là: Không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dật, không nói dối, không nói lời gây chia rẽ, không nói lời thô lỗ, không nói lời thêu dệt. Lại nguyện không tham lam, sân hận, ngu si, không sinh tà kiến, sống theo chánh kiến. Những giới cấm trai pháp như vậy, ngày nay thiếp nguyện thọ trì ghi nhớ vào lòng, luôn luôn siêng năng gìn giữ, đối với tất cả chúng sinh phát khởi lòng Từ bi. Vua Tịnh Phạn liền đáp: –Như những gì trong tâm Hậu muốn, tùy ý Hậu thực hiện. Ta từ nay cũng chẳng lâm triều để luôn luôn gần kề bên Hậu. Rồi nhà vua nói kệ: Vua thấy mẹ Bồ-tát, Đứng dậy cung kính chào. Xem như mẹ, chị, em, Không móng tâm ái dục. Khi Bồ-tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất giáng sinh, Ngài nhất tâm chánh niệm, ung dung nhập vào hông bên phải bà Ma-da, Đệ nhất phu nhân của Đại vương Tịnh Phạn. Bồ-tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất hạ sinh, Ngài chánh niệm phân minh nhập vào thai mẹ. Ngay lúc đó, tất cả cõi thế gian: Trời, Người, Ma, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn… đều được chiếu sáng. Những chỗ tối tăm của thế giới bên ngoài, dù mặt trời, mặt trăng có công năng chiếu soi mạnh mẽ cũng không thể nào soi sáng được những chỗ tăm tối ấy. Sức mạnh ánh sáng mặt trời, mặt trăng không thể sánh bằng hào quang của Bồ-tát, vì hào quang của Ngài soi khắp những chỗ tối tăm như vậy. Tất cả những chúng sinh ở trong ấy đều nói với nhau: Tại sao trong đây bỗng nhiên thấy có chúng sinh? Ngay lúc này, quả đất sáu thứ chấn động, nghóa là: Phương Đông vọt lên, phương Tây lặn xuống; phương Tây vọt lên, phương Đông lặn xuống; phương Nam vọt lên, phương Bắc lặn xuống; phương Bắc vọt lên, phương Nam lặn xuống; chung quanh vọt lên chính giữa lặn xuống, chính giữa vọt lên chung quanh lặn xuống. Như vậy cho đến mười tám tướng biến động: Khởi, giác, hống… tất cả đều xuất hiện. Kế đến lại có một ngàn núi lớn Tu-di chuyển động, một ngàn núi lớn Ni-dân-đà-la, một ngàn núi lớn Trì oai đức, một ngàn núi lớn Khư-la Già-đà, một ngàn núi lớn Tỳ-na Da-ca, một ngàn núi lớn Mã đầu, một ngàn núi lớn Di-ni Đà-la, một ngàn núi lớn Thiện kiến, một ngàn núi lớn Thiết vi, một ngàn núi lớn Đại thiết vi. Những núi lớn như vậy hết thảy đều chấn động, và tất cả bao nhiêu núi nhỏ khác hoặc vụt lên hoặc lặn xuống, hoặc cao vút tỏa ra những làn khói dày đặc. bốn ngàn biển lớn và các ao hồ ba đào nổi dậy cuồn cuộn nối nhau. bốn sông lớn: Hằng hà, Tân-đầu, Tư-đa và Bác-xoa cùng các sông khác đều chảy ngược dòng. Tất cả rừng rú, cây cối, dược thảo, hoa màu đều phát triển tươi tốt. Dưới cho đến chúng sinh trong địa ngục A-tỳ, Nê-lê… đều nhờ hào quang này mà được an vui. Trước tiên việc hiện những điềm lành này đều có lý do: Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất bắt đầu hạ sinh, phóng hào quang rực rỡ chiếu khắp thế gian, những nơi tối tăm đều được sáng tỏ. Hiện tượng này ám chỉ ngài sau khi thành Phật, đem ánh sáng trí tuệ Tứ đế chiếu soi tâm trí tối tăm của tất cả chúng sinh. Khi Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất bắt đầu hạ sinh, đại địa sáu thứ chấn động, mười tám tướng biến động, và các núi lớn tỏa ra những đám khói dày đặc, bốn ngàn biển cả ba đào nổi dậy. Hiện tượng này ngụ ý Như Lai vì chúng sinh ở đời vị lai độc ác, chìm trong bùn lầy phiền não nhơ bẩn; Ngài nguyện sau khi thành Phật sẽ vớt họ đem đặt trên bờ giải thoát Niết-bàn. Khi Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất bắt đầu hạ sinh, nước các sông đều chảy ngược. Hiện tượng này tiêu biểu Như Lai vì chúng sinh độc ác ở đời vị lai, chìm đắm trong dòng phiền não; Ngài nguyện sau khi thành Phật, thuyết pháp độ thoát tất cả chúng sinh, khiến họ ngược dòng sinh tử trở về nơi bản tâm. Khi Bồ-tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất bắt đầu hạ sinh, tất cả cỏ cây dược thảo tòng lâm đều tăng trưởng, tươi tốt sum suê. Hiện tượng này tiêu biểu ngài vì chúng sinh độc ác ở đời vị lai, chưa trồng căn lành khiến họ trồng căn lành. Đối với chúng sinh đã trồng căn lành thì khiến họ giải thoát. Khi Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất bắt đầu hạ sinh, tất cả chúng sinh trong địa ngục A-tỳ đều được an vui. Ngài nguyện sau khi thành Phật sẽ độ tất cả chúng sinh thoát khỏi cảnh khổ não, hưởng cảnh an lạc. Vì những lý do đó nên hiện lên những điềm lành như vậy. Lại nữa, khi Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất sinh xuống trần gian, gá vào mẫu thai bằng hông bên phải còn ra những chúng sinh khác khi đầu thai vào bụng mẹ thì bằng đường sinh dục. Hiện tượng tốt này để tiêu biểu sau khi ngài thành Phật, vì tất cả chúng sinh giảng nói pháp thanh tịnh, khiến họ bỏ tà về chánh. Từ cung trời Đâu-suất Bồ-tát Hộ Minh chánh niệm giáng thần, nhập nơi hông bên phải và trụ trong thai tạng thánh mẫu Ma-da, đệ nhất Phu nhân của vua Tịnh Phạn. Ngay đêm đó, hoàng hậu Ma-da trong giấc ngủ, mộng thấy một con voi trắng đầu đỏ, sáu ngà bằng vàng từ hư không đi xuống, khi đến nơi, voi quỳ mọp bảy chi sát đất, rồi đi vào hông phải của bà. Sáng hôm sau hoàng hậu thức dậy, đem sự việc tâu lên nhà vua: Bạch Đại vương phải biết, đêm vừa rồi thần thiếp nằm ngủ thấy mộng như vậy… Ngay khi bạch tượng chui vào hông phải, thần thiếp cảm thấy khoái lạc vô cùng, từ xưa đến nay chưa từng có. Và từ nay về sau thần thiếp không còn thích hưởng cảm giác lạc thú thế gian. Tâu Bệ hạ, trong nước có vị thầy đoán mộng nào giỏi, hãy nhờ họ đến bàn giải điềm lành này? Khi ấy, vua Tịnh Phạn gọi quan Cung giám Nội-thị đến bảo: Người mau mau ra ngoài thành đọc sắc lệnh bảo con của quốc sư Đại-na-ma cấp tốc tìm mời tám vị thầy Bà-la-môn bàn mộng danh tiếng, đó là: Tế Đức, Quỷ Tú Đức, Tự Tại Đức, Tỳ-nữu Đức, Phạm Đức và ba người con của vị đại lão Ca-diếp lập tức về triều cho ta. Sứ giả đáp: –Tâu Đại vương, y như lời Hoàng thượng dạy, hạ thần không dám chậm trễ. Sứ giả phụng mệnh nhà vua đến trước ngọ môn cao giọng tuyên bố: Có ai ở trước thành đi về nhà Bà-la-môn quốc sư Đại-na-ma không? Ngay khi ấy có một bộ hành họ Bà-đà tên là La-da-na (nhà Tùy dịch là Ốc Thất) đang đi thẳng về nhà Bà-la-môn, đáp sứ giả quan Cung giám Nội thị: –Ta đây. Sứ giả truyền lệnh: –Đại vương ra lệnh Quốc sư tìm mời tám vị bốc sư Đại Bà-la-môn, các vị đó là: Tế Đức, các con của Ca-diếp… Quốc sư Đại-na-ma nhận lệnh nhà vua do sứ giả Ốc Thất mang đến, liền mời tám vị bốc sư bàn mộng Đại Bà-la-môn. Con của Quốc-sư cùng tám vị này đồng vào nội cung. Đại vương Tịnh Phạn bảo các bốc sư: –Đêm vừa rồi, phu nhân Trẫm trong giấc ngủ thấy điềm chiêm bao lạ thường thế này… Đó là điềm lành gì? Có gì dẫn chứng cụ thể? Các bốc sư bàn mộng Bà-la-môn nghe nhà vua thuật xong đầu đuôi câu chuyện, đều biết rõ điềm chiêm bao ấy. Trong đó vị bốc sư giỏi nhất trả lời: –Tâu Đại vương, giấc mộng đó là điềm rất tốt, xin Đại vương chú ý lắng nghe, thần sẽ kể đầy đủ điềm lành của giấc mộng. Theo như sự hiểu biết của chúng thần, qua sự nghiên cứu các kinh sách của chư Thiên, Thần tiên đời quá khứ để lại có dạy: Người mẹ nếu mộng thấy, Mặt trời vào hông phải, Người ấy sinh quý tử, Chắc làm vua Chuyển-luân. Người mẹ nếu mộng thấy, Mặt trăng vào hông phải, Người ấy sinh quý tử, Ông vua trên các vua. Người mẹ nếu mộng thấy, Voi trắng vào hông phải, Người ấy sinh Thánh tử, Ba cõi rất tôn sùng. Lợi ích cho chúng sinh, Oán thân đều bình đẳng. Ở trong biển phiền não, Cứu vớt ngàn vạn người. Bấy giờ bốc sư bàn mộng Bà-la-môn tâu Đại vương: –Giấc mộng của Đại phu nhân là điềm rất lành, ngày nay Đại vương nên lấy làm hân hạnh là đại phu nhân nhất định sẽ sinh Thánh tử. Thánh tử này quyết định sẽ thành Phật, danh tiếng vang khắp mọi nơi. Đại vương Tịnh Phạn nghe bốc sư Bà-la-môn đọc bài kệ này, tâm rất hoan hỷ, vui mừng vô lượng không sao diễn tả hết. Rồi thết đãi vô lượng sơn hào hải vị, trăm thứ thức ăn uống, bánh bột quả phẩm… Các vị Bà-la-môn mặc tình thưởng thức, ăn uống no nê. Sau đó, nhà vua đem vô lượng tiền của ngọc ngà, phẩm vật quý giá ban thưởng các bốc sư. Sau khi đại vương Tịnh Phạn nghe bốc sư bàn giấc mộng hoàng hậu rồi, ngài nói: –Sau điềm chiêm bao tốt đẹp này, ta phải cho người lập hội Vô già ở ngoài bốn cửa thành Ca-tỳ-la, cùng ngã tư các đường lớn, đường nhỏ, tất cả các đầu đường hẻm đi vào thôn xóm, hễ bất cứ một ai đến cần xin việc gì, tất cả đều được bố thí. Cần thức ăn cho thức ăn, cần đồ uống cho đồ uống, cần y phục cho y phục, cần hương thơm cho hương thơm, cần tràng hoa cho tràng hoa. Phấn, sáp, y phục, giường, chiếu, mền, chăn, trâu, dê, voi, ngựa, xe cộ… Người nào cần vật gì thì cho vật đó. Tất cả những việc bố thí đó đều là việc làm lợi ích cho Bồ-tát trong thai nên phải thiết hội cung cấp như vậy. Bấy giờ trong nước có một vị Tiên nhân tên là A-tư-đà, lấy sự xả bỏ ngũ dục làm nền tảng, lập ra các thuyết đối lập với các ngoại đạo khác. Người có thần lực oai đức vô cùng, đầy đủ năm phép thần thông, thường lên cung trời Đao-lợi hội họp với chư Thiên một cách tự tại. Tiên nhân này thường tu tập Tiên đạo trong khu rừng tên Tăng trưởng gần làng Hằng-hà-đát nằm trong thành Giá-bàn-đề thuộc Nam Ấn độ. Tất cả dân chúng nước Ma-già-đà quý trọng cung kính tôn thờ Tiên nhân A-tư-đà là bậc A-la-hán. Tiên nhân có được bao nhiêu hiểu biết đều đem dạy cho mọi người cùng biết. Thuở ấy, thành Giá-bàn-đề có một đồng tử đang độ thiếu nhi, tuổi vừa lên tám tên là Na-la-đà, được thân mẫu dẫn đến Tiên nhân cầu làm đệ tử. Đồng tử giữ trọn đạo thầy trò, tôn trọng cung kính cúng dường, vâng thờ thầy không chút xao lãng. Tiên nhân cùng với đồng tử ở trong rừng Tăng trưởng, thầy ngày đêm tinh tấn nhiếp tâm thiền tọa, còn đệ tử Na-la-đà đứng sau lưng cầm quạt đuổi ruồi muỗi hầu thầy. Khi Bồ-tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất chánh niệm giáng thần xuống cung điện vua Tịnh Phạn, nhập vào hông bên phải rồi trụ trong thai hoàng hậu Ma-da, ngay khi đó thân Ngài phóng hào quang rực rỡ chiếu khắp tất cả thế giới trời, người. Lại cõi đại địa này sáu thứ chấn động cùng hiện mười tám điềm lành. Tiên A-tư-đà thấy việc lạ thường chưa từng có, như: Ánh sáng khác thường, quả đất sáu thứ chấn động. Tâm ông rất kinh hãi, toàn thân lông tóc dựng ngược, rồi tâm nghó miệng nói: –Nay quả đất này vì nguyên nhân gì có hiện tượng chấn động? Và hậu quả của sự chấn động này sẽ ra sao? Liền khi đó tiên A-tư-đà trụ trong chánh định, chánh niệm tư duy trong giây lát. Người biết được nguyên nhân, trong tâm sinh hoan hỷ, hớn hở vui mừng vô hạn không thể kiềm chế được, xướng lên thế này: –Đại thánh ít có, không thể nghó bàn! Bậc Đại thánh sẽ xuất hiện trong thế gian. Bồ-tát ngay từ khi rời cung trời Đâu-suất, liền giáng thần nhập vào hông bên phải hoàng hậu Ma-da. Ngay khi Thánh mẫu thọ thai, có một Thiên tử tên là Tốc Vãng, đến các địa ngục cao giọng loan báo: –Này các người ở trong địa ngục, tất cả phải biết, ngày nay Bồ-tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất giáng thần, nhập vào thai tạng Thánh mẫu Ma-da. Vậy các người mau mau phát thệ nguyện, nguyện sinh vào cõi nhân gian. Chúng sinh trong địa ngục nghe lời kêu gọi này, có một số chúng sinh từ trước đã trồng thiện căn, lại cũng tạo các nghiệp tạp nhiễm khác, do vì ác nghiệp mạnh hơn nên hiện nay đang đọa địa ngục. Những hạng chúng sinh này họp mặt nhìn nhau, tỏ vẻ nhàm chán muốn rời khỏi địa ngục, cộng vào đó, nhờ hào quang Bồ-tát nên thân tâm được an vui, lại được nghe lời kêu gọi: “Mau mau bỏ thân địa ngục, lập tức sinh vào loài người ở trong thế gian” của chư Thiên. Tất cả chúng sinh ở đời quá khứ đã trồng các căn lành ở cõi Ta-bà này, ngày nay đều thác sinh nơi bốn cửa thành kinh đô Ca-tỳ-la. Khi Bồ-tát Hộ Minh đã trụ vào trong thai Thánh mẫu rồi, chư Thiên các cõi trời Đế Thích, Tứ Thiên vương, Đề-đầu-lại-tra, Tỳ-lưu-lặc-xoa, Tỳ-lưu-bát-xoa, Tỳ-sa-môn… cùng nhau bàn luận. Họ nói: –Các nhân giả phải biết, Bồ-tát Hộ Minh đã rời cung trời Đâu-suất, giáng thần vào thai tạng Thánh mẫu Ma-da, ngày nay chúng ta phải chăm sóc bảo vệ, không để các loài khác: hoặc người, hoặc phi nhân… tìm phương tiện làm não loạn Bồ-tát. Bồ-tát là bậc duy nhất có oai đức rất lớn, nay chư Thiên chúng ta mới đủ khả năng hộ vệ, người thế gian không thể làm được. Đây là việc chưa từng có của Bồ-tát. Như Lai có đủ bốn thứ hộ vệ không được thiếu sót. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Chúng sinh ở thế gian khi đầu thai vào bụng mẹ có ba trường hợp xảy ra: 1.Hoặc có chúng sinh khi đầu thai vào bụng mẹ không chánh niệm, thời gian ở trong bào thai cũng không chuyên tâm chánh niệm, và khi mở mắt chào đời cũng không chánh niệm. 2.Hoặc có chúng sinh khi đầu thai vào bụng mẹ sinh tâm chánh niệm, thời gian ở trong bào thai cũng chuyên tâm chánh niệm và khi mở mắt chào đời cũng chánh niệm. 3.Hoặc có chúng sinh khi đầu thai vào bụng mẹ sinh tâm chánh niệm, trong thời gian ở trong bào thai cũng chuyên tâm chánh niệm, nhưng khi chào đời không chánh niệm. Bồ-tát Hộ Minh này, khi nhập thai chánh niệm, thời gian trụ thai chánh niệm và khi ra khỏi thai cũng chánh niệm. Đây là việc chưa từng có của Bồ-tát, nên Ngài sau khi thành Phật, tâm luôn luôn ở trong định, biết được căn tánh chúng sinh, ứng cơ thuyết pháp giáo hóa. Đây là lý do xuất hiện điềm lành chưa từng có ở trên. Bồ-tát khi ở trong thai Thánh mẫu, thường trụ hông bên phải, chưa từng di chuyển. Còn các chúng sinh khác khi ở trong thai mẹ vị trí không nhất định, hoặc có lúc nằm hông bên phải, hoặc có lúc nằm hông bên trái. Do vậy, người mẹ chịu nhiều nỗi khổ đau. Bồ-tát ở trong thai, an tọa hông bên phải, không có di chuyển, nên khi Thánh mẫu đi đứng nằm ngồi không làm tổn thương đến thai nhi, đây là việc làm chưa từng có của Bồ-tát, nên ngài sau khi thành đạo Vô thượng, thực hành các pháp Bồ-đề, tất cả đều được thành tựu. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát khi ở trong thai được điều đại vô úy, không kinh hãi lo âu sợ sệt, chất độc không làm hại, bao nhiêu thứ bất tịnh như mũi dãi, máu mủ và các loại đàm không làm nhơ bẩn thai nhi, còn các chúng sinh khác khi ở trong thai mẹ bị nhiễm đủ các thứ nhơ bẩn. Ví như viên ngọc lưu ly, được gói trong chiếc Thiên y để nơi bất tịnh, nhất định không bị nhiễm ô. Cũng vậy, Bồ-tát ở trong thai đối với tất cả các thứ bất tịnh không bị ô nhiễm. Đây là việc chưa từng có của Bồ-tát, nên Ngài sau khi thành Phật rồi, đối với tất cả các pháp thế gian không đam mê say đắm. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát ở trong thai mẹ, Thánh mẫu sinh tâm hoan hỷ an lạc, thân không mệt mỏi. Các chúng sinh khác khi đầu thai vào bụng mẹ, hoặc chín tháng hoặc mười tháng, làm cho thân thể người mẹ nặng nề mỏi mệt chẳng an. Còn Bồ-tát ở trong thai, Thánh mẫu hoặc ngủ hoặc thức, đi đứng nằm ngồi đều được an lạc, thân không đau đớn. Đây là việc chưa từng có của Bồ-tát, nên sau khi ngài tu đạo Bồ-đề, mau chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đủ các phép thần thông, thành Bậc Nhất Thiết Trí. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát khi ở trong thai mẹ khiến Thánh mẫu thọ các cấm giới, tâm luôn luôn phụng trì, giữ gìn các giới hạnh. Còn các chúng sinh khác khi ở trong thai mẹ khiến người mẹ làm các hạnh tạp nhiễm. Bồ-tát ở trong thai mẹ khiến Thánh mẫu giữ gìn giới cấm, phạm hạnh thanh tịnh. Đây là việc chưa từng có của Bồ-tát, nên ngài sau khi thành Phật, đối trong chúng Thanh văn là bậc trì giới hơn hết, danh tiếng vang khắp trong thế gian, họ ca ngợi: Sa-môn Cù-đàm là người giữ giới bậc nhất, trong thế gian không ai sánh bằng. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát khi ở trong thai mẹ khiến Thánh mẫu không sinh tâm ái tưởng nhiễm dục, không bị lửa dục bức bách; trái lại, Thánh mẫu thường tu hạnh thanh tịnh. Còn các chúng sinh khác, khi đầu thai vào bụng mẹ làm cho người mẹ chẳng bao lâu sau, tâm ái dục cường thịnh tăng gấp bội phần. Còn Bồ-tát khi ở trong thai mẹ, khiến Thánh mẫu dầu có nằm bên người chồng cũng vẫn nhàm chán xa lìa, không mống ý hành dâm dục; huống nữa là đối với các người đàn ông khác. Đây là điểm đặc biệt của Bồ-tát, nên ngài sau khi thành Phật, đối với nhãn căn khéo giữ gìn hàng phục, không sinh ác pháp, khéo che chở huân tập các thiện pháp… Như vậy cho đến nhó, tỷ, thiệt, thân và ý căn đều khéo hàng phục các ác pháp, khéo huân tập các thiện pháp,… khiến mọi người tu tập theo lời chỉ dạy để đoạn sạch tập khí cũ. Đây là lý do xuất hiện điềm lành nói ở trên. Bồ-tát ở trong thai khiến Thánh mẫu không ham các thức ăn cao lương mỹ vị. Còn các chúng sinh khác khi ở trong thai, khiến người mẹ thèm ăn uống đủ các thứ, không biết no đủ. Bồ-tát khi ở trong thai, khiến Thánh mẫu không bị các thứ lạnh, nóng… cho đến đói khát bức bách bản thân. Đây là đặc điểm của Bồ-tát, nên ngài sau khi thành Phật biết được bốn cách ăn. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát khi ở trong thai khiến Thánh mẫu phát tâm tu tập các cấm giới, ưa thích bố thí. Còn các chúng sinh khác khi ở trong thai mẹ, khiến người mẹ tham lam bỏn sẻn, không thích bố thí. Bồ-tát ở trong thai, khiến Thánh mẫu thường ở trong nhà, trí tuệ sáng suốt, tâm ưa làm việc bố thí. Đây là điểm đặc biệt của Bồ-tát, nên sau khi ngài thành Phật, thiết lập giáo pháp bố thí. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát ở trong thai khiến Thánh mẫu khởi lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh; đối với loài hàm thức có mạng căn đều được thương tưởng. Còn các chúng sinh khác khi ở trong thai, khiến người mẹ thiếu oai đức, không lòng nhân từ, thường làm những việc độc ác, ăn nói thô lỗ, mắng chửi người khác. Bồ-tát khi ở trong thai, khiến Thánh mẫu đối với chúng sinh luôn luôn khởi tâm đem lại nhiều điều lợi ích an lạc. Đây là điểm đặc biệt của Bồ-tát, nên sau khi thành Phật, Ngài đem tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát khi ở trong thai khiến Thánh mẫu dung nhan xinh đẹp, tướng mạo khả ái, vẫn y như trước khi thọ thai. Còn các chúng sinh khác khi ở trong thai, khiến người mẹ thân thể ốm gầy, không đầy đủ sức khỏe như xưa, khí lực suy giảm bội phần. Bồ-tát khi ở trong thai, khiến Thánh mẫu thường sinh tâm hoan hỷ, giới hạnh trang nghiêm, đầy đủ oai đức, sắc thân hết sức tốt đẹp, hàm chứa một sắc thái vi diệu tuyệt vời. Đây là điểm đặc biệt của Bồ-tát nên sau khi Ngài thành Phật, cảm thọ thân màu vàng ròng, các tướng trang nghiêm. Ai thấy thân tướng tôn nghiêm như vậy mà không chiêm ngưỡng! Đây là lý do xuất hiện điềm lành ở trên. Bồ-tát khi ở trong thai, nếu Thánh mẫu muốn thấy thai nhi thì liền được thấy, Bồ-tát ở trong bào thai thân thể mập tròn, các căn đầy đủ, giống như thấy bóng trong gương. Thánh mẫu thấy rồi vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, không sao kềm chế được. Còn các chúng sinh khác khi ở trong bụng mẹ, bị màng bào thai và hoạt dịch bao phủ, nên không thấy được. Bồ-tát khi nhập vào thai Thánh mẫu, liền khi đó thân thể mập tròn, năm chi đầy đủ, năm căn vẹn toàn. Đây là điểm đặc biệt của Bồ-tát. Bồ-tát khi ở trong thai, khiến Thánh mẫu thấy chúng sinh, hoặc nam hoặc nữ bị quỷ thần bắt bớ. Nếu Thánh mẫu nhìn thấy bệnh nhân nào, thì tất cả yêu quái quỷ thần ở nơi bệnh nhân ấy đều xa lánh, tinh thần được bình phục như cũ. Nếu cơ thể từ trước đã có các bệnh như: Tê liệt, vàng da, kinh phong, ho đàm, lác ngoài da, ung nhọt, phù thủng, ghẻ lở, khô gầy, ung thư, ghẻ nước, ung bướu, nóng lạnh… hoặc các bệnh: Tai, mắt, mũi, họng và các bệnh thuộc tâm thần. Tất cả các bệnh như vậy làm bệnh nhân đau khổ. Nếu người nào có cơ duyên gặp được Thánh mẫu Ma-da, Ngài sẽ dùng tay phải xoa trên đầu, các bệnh đều tiêu trừ, bệnh nhân đều được an lạc. Nếu bệnh nhân đau nặng không đến gặp Thánh mẫu được, thì Ngài dùng bàn tay phải vuốt lên trên lá cây ngọn cỏ, đưa cho thân nhân cầm về bảo bệnh nhân: Hoặc nhai nuốt, hoặc đặt trên thân thì tất cả các bệnh tật đều khỏi, thân thể nhẹ nhàng an lạc. Bồ-tát khi ở trong thai, có vô lượng vô biên oai thần, thế lực và những điểm đặc biệt như vậy.  <詞 id="48706232">Phẩm 6: ĐẢN SINH DƯỚI CÂY Vô ưu (Phần 1) Thánh mẫu Ma-da mang thai Bồ-tát gần được mười tháng, thời gian trước lúc lâm bồn, thân phụ của hoàng hậu Ma-da là trưởng giả Thiện Giác cho sứ giả đến thành Ca-tỳ-la (Sư Ma-ha Tăng-kỳ nói: Trưởng giả Thiện Giác, thân phụ của phu nhân Ma-da đến thành Ca-tỳ-la) tâu lên đại vương Tịnh Phạn, lời sớ nói: “Theo sự hiểu biết của thần thì Đại phu nhân của Đại vương hiện mang Thánh thai, oai đức rất lớn, nhưng sau khi sinh rồi, con gái của thần đoản mạng, chẳng bao lâu sau sẽ từ bỏ cõi trần, ý của thần muốn rước Ma-da trở về bên nhà cha mẹ an nghỉ trong vườn Lâm-tỳ-ni, để cha con gần nhau hưởng thú hoa viên, tận tình phụ tử. Cúi xin Đại vương chớ nên ngăn cản, xin ngài cảm thương, cho người đưa hoàng hậu Ma-da về nhà cha mẹ, sau khi sinh sản mọi sự được bình yên, thần sẽ lập tức đưa Hoàng hậu và Thái tử trở lại hoàng cung cho Đại vương”. Đại vương Tịnh Phạn nghe lời tâu của sứ giả rồi, liền lập tức ra lệnh xuống các ty sở: Trên con đường từ thành Ca-tỳ-la đến thành Đề-bà Đà-ha phải dọn dẹp tất cả đồ dơ uế, cây cỏ gai góc, sỏi sạn gò nổng đều được sửa sang bằng phẳng. Dùng nước thơm rải trên mặt đất, đem đủ các hoa thơm quý giá rải trên mặt đường. Còn về phần trang sức cho hoàng hậu Ma-da thì dùng các dầu thơm, tràng hoa quý giá, các loại chuỗi anh lạc để trang điểm. Đủ các loại nhạc trổi lên những âm thanh vi diệu. Tất cả thể nữ trong cung đều tập họp hộ vệ tiễn đưa, oai phong thế lực của hoàng hậu như một đại vương. Trước khi sắp khởi hành, vua Tịnh Phạn cho sứ giả đến báo tin cho trưởng giả Thiện Giác để chuẩn bị nghinh tiếp. Bấy giờ, hoàng hậu Ma-da ngồi trên thớt voi trắng lớn, trên lưng voi được chư Thiên trải một bức trướng quý giá. Hoàng hậu an ngự trên bức trướng này hướng thẳng về quê nhà. Nói về việc hoàng hậu Ma-da đến nội thành Đề-bà Đà-ha: Trước khi hoàng hậu sắp vào thành, ngay khi đó đại vương Tịnh Phạn sắp đặt sẵn một vạn con voi tốt khỏe mạnh, đều dùng yên bằng vàng và bảy thứ ngọc quý trang điểm trên thân, đẹp đẽ lạ thường để chuẩn bị đưa hoàng hậu. Lại sắp đặt sẵn một vạn con ngựa khôn ngoan khỏe mạnh, đồng một sắc lông màu xanh, đầu và bờm toàn một sắc đen như quạ, đuôi chúng dài sát đất. Mỗi ngựa được trang điểm: dàm miệng, dây cương, yên, bàn đạp và tất cả các dây buộc vào mình đều làm bằng vàng ròng; trên những vật này được điểm những viên ngọc quý. Lại có một vạn cỗ xe hảo hạng và xe tứ mã, chung quanh xe được treo phướn lọng cùng những bức rèm rũ xuống, xen vào đó những chuông rung quý đồng hòa tấu những âm điệu véo von. Tất cả chuẩn bị đầy đủ như vậy, đều để tùy tùng hộ tống hoàng hậu Ma-da. Lại có hai vạn lực só dũng mãnh, mỗi người có sức mạnh bằng ngàn người, oai hùng tráng kiện, có thân hình cân đối tốt đẹp tuyệt vời, có tài năng đánh dẹp giặc thù hung hãn. Mỗi lực só được trang bị: Thân mặc áo giáp, có kẻ tay cầm cung tên, có kẻ tay cầm đao côn, có kẻ tay cầm đấu luân và các thứ giáo mác… vô số chiến cụ, tùy tùng hộ tống hoàng hậu. Đặc biệt hơn nữa, lại có một vạn phi tần, cổ đeo chuỗi anh lạc, sắc phục lộng lẫy, ngồi trên một vạn chiếc bảo xa, hầu hạ chung quanh hoàng hậu. Lúc ấy đại vương Tịnh Phạn ra lệnh nghiêm ngặt, bảo đại thần thái giám gia tăng sự phòng vệ tốt hơn, chẳng cho thường dân và những người đi đường gần sát bên xe hoàng hậu, cả các phi tần cũng không được lẫn vào kề bên. Chỉ có đồng nữ mới được kề cận bên xe hầu hạ tiễn đưa hoàng hậu. Theo thứ lớp như vậy, hoàng hậu Ma-da ngự trên bạch tượng ở trung tâm đoàn người. Một vạn phi tần mỗi người ngồi trên một bảo xa đồng hộ vệ hai bên, tả hữu trước sau nối nhau, mà hoàng hậu Ma-da là người trên hết. Ngoài ra, lại có một vạn lực só mặc áo giáp đều ngồi trên một vạn con voi tốt, tùy tùng hoàng hậu hộ vệ hai bên tả hữu trước sau, theo nghi lễ hầu một Thiên tử đi kinh lý. Lại có một vạn lực só đi bộ, thân mặc áo giáp, tay cầm đủ các thứ binh khí: Kích, giáo, mác… hộ vệ hoàng hậu Ma-da. Lại có vô lượng voi ngựa gầm hý kêu vang. Lại có vô lượng trống lớn hình đầu rồng, vô lượng trống nhỏ… tất cả các nhạc khí trổi lên âm thanh vi diệu. Quang cảnh tưng bừng, hoành tráng, trang nghiêm oai đức như vậy, hoàng hậu Ma-da cùng đoàn người hướng về thành Đề-bà Đà-ha, là nơi quê nhà thân phụ của hoàng hậu. Ngay lúc đó đại thần trưởng giả Thiện Giác cùng với quyến thuộc đem theo vô lượng thứ tốt đẹp, ra khỏi cửa thành, dẫn đoàn người hướng về phía trước để nghinh rước hoàng hậu Ma-da, con gái của mình. Nói về thuở ấy, đại thần Thiện Giác có người vợ tên là Lam-tỳ-ni, Lam-tỳ-ni nói với chồng: –Thưa phu quân dòng họ Thích, như ngài đã biết, các hệ phái thuộc dòng họ Thích khác đều có rừng hoa quả riêng, họ tự do tiêu dao thưởng ngoạn, cho đến ở ngay trong đó hưởng cảnh lạc thú vui chơi. Đức lang quân ngày nay có thể lập một Hoa lâm viên thanh tịnh, để chúng ta cùng nhau hưởng cảnh lạc thú vui chơi trong đó chăng? Khi ấy Thiện Giác, thân phụ của hoàng hậu Ma-da, quán sát cảnh trí giữa hai thành Ca-tỳ-la và Đề-bà Đà-ha, có một vùng đất ở gần trong thành Đề-bà Đà-ha, vì người vợ mà lập một Đại lâm viên, lấy tên vợ đặt tên vườn là Lam-tỳ-ni. Hoa lâm viên này cây cối hoa quả tốt tươi, trên thế gian không có vườn nào sánh bằng. Trong vườn có nhiều kỳ hoa dị thảo, trái cây muôn màu làm tăng vẻ đẹp của quang cảnh. Ngoài ra, lại có nhiều dòng nước, khe suối, hồ ao, xen lẫn dưới những hàng cây tươi tốt. Rải rác khắp trong vườn, đâu đâu cũng đầy dẫy các thứ bảo châu ma-ni. Ngày mùng tám tháng hai một mùa xuân nọ, nhằm lúc sao Quỷ tú, đại thần Thiện Giác cùng con gái của mình là hoàng hậu Ma-da, đánh xe về hướng hoa viên Lam-tỳ-ni để ngoạn cảnh, tham quan chốn đại Cát tường này. Sau khi đến Hoa lâm viên, hoàng hậu Ma-da từ trên xe báu bước xuống, trước tiên dùng các chuỗi anh lạc trang điểm trên thân, kế đến dùng đủ thứ nước hoa thoa trên thân và y phục, rất nhiều thể nữ đàn ca múa hát hầu hạ chung quanh. Hoàng hậu ung dung tản bộ thưởng ngoạn khắp mọi nơi, từ vườn hoa này đến đám cây nọ, cứ như vậy tuần tự rảo bước giáp vòng. Trong vườn này có một cây đặc biệt tên là Ba-la-xoa, thân cây sừng sững, trên dưới đều nhau, cành lá sum suê tỏa đều bốn phía, màu lá nửa lục nửa thanh hòa lẫn với màu tím biếc, thành một màu tổng hợp giống như màu lông nơi cổ con công, hết sức mềm mại như chiếc áo lông khổng tước. Hoa có một mùi thơm đặc biệt, ngửi vào trong lòng lâng lâng dễ chịu vô cùng. Hoàng hậu chậm rãi tiến đến dừng chân dưới tàng cây này. Do oai đức của Bồ-tát, lúc ấy có một cành cây Ba-la-xoa tự nhiên mềm mại cong xuống chấm sát đất, giống như chiếc móng xuất hiện trong hư không tỏa ra màu sắc kỳ diệu. Thánh mẫu Ma-da liền khi đó từ từ đưa cánh tay phải vin lấy cành cây Ba-la-xoa đang rũ xuống, rồi đưa mắt nhìn lên hư không. Ngay khi Thánh mẫu chân đứng trên đất, tay vin cành Ba-la-xoa thì trên hư không có hai vạn chư Thiên ngọc nữ đồng giáng xuống đứng chung quanh chắp tay bạch Thánh mẫu: Nay Bà sinh Thái tử, Luân hồi Ngài vượt qua. Thầy cả cõi trời người, Quyết định không có hai. Chư Thiên thường nương tựa, Cứu vớt khổ chúng sinh. Thánh mẫu chớ lo âu, Chúng tôi đồng hộ vệ. Bấy giờ Bồ-tát thấy Thánh mẫu Ma-da đứng trên đất, tay đang vin lấy cành cây, Ngài ở trong thai chánh niệm từ tòa đứng dậy. Còn bao nhiêu người mẹ của chúng sinh khác, khi sắp lâm bồn khắp cơ thể đau nhức bức bách, do vậy buồn khổ lo sợ, đứng lên nằm xuống chẳng yên. Còn Thánh mẫu Ma-da mang thai Bồ-tát, vui vẻ thản nhiên điềm tónh, thân tâm cảm thấy an lạc. Đang khi Thánh mẫu Ma-da đứng trên đất tay vin cành cây Ba-la-xoa thì Bồ-tát liền xuất sinh. Đây là điều kỳ lạ chưa từng có của Bồ-tát. Sau khi Ngài thành Phật, không có một chút mỏi mệt cực nhọc đau khổ. Ngược lại, Ngài nhổ tất cả rễ phiền não, chặt đứt cội gốc vô minh, như dứt ngọn cây cau không bao giờ mọc trở lại. Vô tướng vô hình, không có một pháp nào làm nhân duyên sinh ra đời sau. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Đối với tất cả chúng sinh, khi ở trong thai mẹ thì luôn luôn bị đổi dời, đến lúc mở mắt chào đời lại càng bức bách đau khổ. Bồ-tát chẳng phải vậy, khi nhập vào thai theo hông bên phải, thời gian ở trong thai cũng an tọa hông bên phải không chút đổi dời, cho đến lúc đản sinh cũng theo hông bên phải của Thánh mẫu mà thị hiện, hoàn toàn không có một chút khổ đau nào ép ngặt. Do vậy, đây là việc lạ lùng chưa từng có của Bồ-tát. Sau khi Ngài thành Phật, tận đời vị lai tu hành hạnh thanh tịnh, không có chút sợ sệt, thường được an vui, không có đau khổ. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Đầu tiên Bồ-tát chánh niệm nhập vào thai Thánh mẫu theo hông bên phải. Khi đản sinh ngài phóng đại quang minh, chiếu khắp các cõi thế gian: Trời, Người, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn… đều được thấy nhau, nên mỗi loài cùng nói với nhau: “Tại sao hôm nay bỗng nhiên có chúng sinh”. Đây là việc kỳ lạ chưa từng có của Bồ-tát. Ngài sau khi thành Phật xé tan màn vô minh hắc ám, để phát sinh ánh đại trí tuệ thanh tịnh. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Bồ-tát nhiếp tâm chánh niệm sinh từ hông bên phải của Thánh mẫu. Khi ấy thân thể Thánh mẫu vẫn bình thường như cũ, không chút đổi thay, không bị thương tổn, không chút khổ đau vì Bồ-tát đản sinh đem lại nhiều lợi ích. Do nhân duyên này, thân Thánh mẫu không bị đau khổ, ba nghiệp thân khẩu ý không chút phiền não. Ví như có một chúng sinh thân hình to lớn khỏe mạnh, ý chí dũng mãnh, lăn lộn trên mặt đất tự đánh đập lấy thân mình, đối với quả đất nào có hề hấn gì. Như vậy Bồ-tát đản sinh, chánh niệm từ hông bên phải của Thánh mẫu xuất sinh, do vì nhân duyên đó mà thân Thánh mẫu không chút tổn thương. Ngay trong lúc này có một phụ nữ chắp tay thưa hỏi Thánh mẫu: –Thưa Hoàng hậu có oai đức lớn, trong khi ngài sinh con có đau đớn gì không? Thánh mẫu đáp: –Nhờ nhân duyên oai đức thần lực của Đại nhân sơ sinh này, khiến thân thể ta không thấy đau đớn, hiện giờ không có gì thay đổi. Đây là điều hết sức kỳ lạ chưa từng có của Bồ-tát. Ngài sau khi thành Phật, tu hạnh thanh tịnh không phạm một mảy may tội lỗi, hoàn toàn trong sạch không chút tì vết. Đây là lý do xuất hiện điềm lành nói trên của Như Lai. Bồ-tát từ lúc ra khỏi thai Thánh mẫu, không có chút khổ não, an ổn chậm rãi mà xuất hiện, tất cả các thứ ô uế nhơ bẩn như: Phân, tiểu, đàm dãi, hoạt dịch, máu mủ… đều không ảnh hưởng đến thân thể Bồ-tát. Còn các chúng sinh khác khi ra khỏi thai mẹ, mang theo lẫn lộn đủ các thứ ô uế hôi tanh. Bồ-tát không phải như vậy, không giống như các loài chúng sinh khác, tất cả các thứ ô uế không ảnh hưởng vào thân, ngài chuyên tâm chánh niệm, an ổn từ thai mẹ xuất sinh. Ví như viên bảo châu lưu ly Như ý gói trong chiếc áo Ca-thi-ca, cả hai đều không ảnh hưởng lẫn nhau. Thật sự đúng như vậy, Bồ-tát khi ở trong thai Thánh mẫu, nhất tâm chánh niệm an ổn xuất sinh một cách thanh tịnh, đối với tất cả các thứ ô uế như: Máu, mủ, phẩn, tiểu hôi tanh hoàn toàn không làm ô nhiễm được. Đây là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát. Sau khi Ngài thành Phật, thời kỳ trụ trong thế gian đối với các pháp ô trược của cuộc đời này, ngài không bao giờ bị ô nhiễm. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Bồ-tát khi từ thai Thánh mẫu xuất sinh, khi ấy trời Đế Thích là người đầu tiên dùng chiếc Thiên y Kiều-thi-ca mềm mại, bao phủ hai bàn tay để nâng đỡ thân Bồ-tát sơ sinh. Đây là việc đặc biệt chưa từng có của Bồ-tát. Ngài sau khi thành Phật, là vị giáo chủ khai sáng đạo Vô thượng Bồ-đề tại cõi Ta-bà này. Vua trời Đại phạm là người đầu tiên thỉnh Như Lai thuyết pháp. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Bồ-tát khi đản sinh từ hông phải của Thánh mẫu, có bốn vị Đại thiên vương nâng đỡ Bồ-tát sơ sinh hướng về trước mặt Thánh mẫu Bồ-tát, thưa: –Hoàng hậu ngày nay đáng vui mừng, ngài đã sinh con tác thành thân loài người, chư Thiên còn hoan hỷ ngợi khen huống nữa là loài người. Đây là điều đặc biệt chưa từng có của Bồ-tát. Ngài sau khi thành Phật, có vô lượng vô số hàng Phật tử xuất gia Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và vô số chúng Phật tử nam nữ tại gia, đều hướng về Như Lai lãnh hội giáo pháp. Y như lời ngài chỉ dạy chẳng dám trái phạm. Đây là lý do xuất hiện điềm lành nói trên của Như Lai. Khi Bồ-tát xuất sinh rồi, Ngài đứng dưới đất ngước nhìn hông bên phải của Thánh mẫu Ma-da, nói: –Thân hình này của Ta từ nay về sau, không ở trong hông Thánh mẫu nữa, chẳng vào trụ trong thai. Là thân cuối cùng của Ta, Ta sẽ thành Phật. Đây là điều quá ư đặc biệt của Bồ-tát. Ngài sau khi thành Phật, tuyên bố: –Ta nay đã dứt hết nhân duyên sinh tử, Phạm hạnh viên mãn, bổn phận đã được hoàn tất, không thọ thân đời sau. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706233">QUYỂN 8 <詞 id="48706234">Phẩm 6: ĐẢN SINH DƯỚI CÂY Vô ưu (Phần 2) Bồ-tát Hộ Minh khi sinh ra không cần người nâng đỡ, tự bước đi về bốn phương, mỗi phương đi bảy bước. Đầu tiên ngài đi về phương Đông, dưới mỗi bước đi có hoa sen lớn xuất hiện nâng đỡ bàn chân, rồi dừng lại ở bước thứ bảy, mắt chăm chăm nhìn về phía trước, miệng cất tiếng nói không giống như lời nói của trẻ sơ sinh, ngôn từ chính xác, đúng thể kệ văn: Ở trong thế gian, Ta được tối thắng, Ta từ hôm nay, Thoát khỏi sinh tử. Các phương khác cũng lại như vậy. Việc Bồ-tát khi sơ sinh không có người nâng đỡ, tự bước đi về bốn phương, mỗi phương đi bảy bước là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi Ngài thành Phật, chứng được bảy pháp trợ Bồ-đề đạo. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh quán sát bốn phương, nên sau khi Ngài thành Phật, đầy đủ bốn pháp Vô úy. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh tự xướng lên: “Ở trong thế gian ta được tối thắng”, nên sau khi Ngài thành Phật, tất cả trời người trong thế gian đều tôn trọng cung kính phụng thờ. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh tự xướng lên: “Ta đã đoạn sinh tử, đây là thân tối hậu”, nên sau khi ngài thành Phật, lời nói việc làm đi đôi. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, quyến thuộc vội vã đi tìm nước khắp bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Nhưng không một nơi nào có nước. Liền khi đó nơi vườn Lam-tỳ-ni xuất hiện hai ao nước, một lạnh một nóng, Thánh mẫu tùy ý lấy nước hai ao này mà sử dụng. Lại trên hư không cũng xuất hiện hai vòi nước, một nóng một lạnh, lấy nước hai vòi này tắm thân Bồ-tát sơ sinh. Đây là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi ngài thành Phật, thành tựu hai pháp Chỉ, Quán, xa lìa mọi sự ham muốn, không phải cực nhọc khổ sở mưu cầu của cải, mà của cải tự nhiên đầy đủ. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, chư Thiên đồng nâng đỡ chiếc giường bằng vàng để cho Bồ-tát ngồi. Tuy Bồ-tát sơ sinh mang lấy thân người, nhưng chư Thiên hộ vệ tắm rửa Bồ-tát. Đây là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi ngài thành Phật, có tòa ngồi bằng bốn thứ hoa sen nâng đỡ Như Lai. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, phóng hào quang chiếu sáng, che lấp tất cả những ánh sáng đã có từ trước. Đây là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi Ngài thành Phật, không có giáo pháp của một ai có thể biện luận hơn Như Lai. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, trên thân phóng hào quang, át cả ánh sáng mặt trời, giống như ánh sáng ban ngày che ánh sáng các vì sao. Đây là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi Ngài thành Phật, trong chúng đệ tử Thanh văn, Ngài là người được sự cúng dường trên hết, là người có danh tiếng hơn hết. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, tất cả cây cối dược thảo, cùng lúc trăm hoa khoe sắc. Đây là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi Ngài thành Phật, đối với chúng sinh chưa tin hiểu Phật pháp, Ngài khiến họ tin hiểu. Đối với chúng sinh đã tin hiểu Phật pháp, Ngài khiến họ tăng trưởng. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, chư Thiên thượng giới cầm chiếc lọng trắng, cán bằng vàng, to bằng bánh xe. Đây là điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi Ngài thành Phật, do không sân hận nên được giải thoát, không ham muốn mà được nhiều lợi ích, không cần cù khổ nhọc mà được nhiều của cải. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, chư Thiên trên hư không tay cầm chiếc quạt trắng cán làm bằng ngọc quý, đồng đứng quạt hầu Bồ-tát. Khi Bồ-tát sơ sinh, bầu trời trong tạnh không gợn chút mây, không chút bụi mù, chỉ nghe tiếng sấm vang rền. Khi Bồ-tát sơ sinh, trên bầu trời không có các thứ mây mù, chỉ có làn mưa phùn bằng nước thơm thanh tịnh, đủ tám đặc tính ưu việt, khiến cho chúng sinh an lạc. Khi Bồ-tát sơ sinh, bốn phương hư không thổi đến làn gió, nhẹ nhàng mát mẻ dễ chịu, tất cả tám phương bầu trời quang đãng, không một gợn mây, không một làn khói hay bụi bặm. Khi Bồ-tát sơ sinh, trên hư không không thấy có người nào ca xướng, mà tự nhiên nghe giọng Phạm âm vi diệu. Khi Bồ-tát sơ sinh, trên hư không tự nhiên phát sinh các âm nhạc và giọng hát của chư Thiên, cùng các loại hoa, hương thơm của cõi trời tự nhiên rơi xuống, hoa dù gặp ánh nắng mặt trời mà vẫn không bị khô héo. Các việc trên đây là những điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Bồ-tát, nên sau khi ngài thành Phật, vì tất cả chúng sinh thế gian, dùng đủ thứ trí tuệ, hiện vô lượng thần thông thanh tịnh, biến hóa vô cùng. Trong thế gian không ai sánh bằng, Như Lai là người trên hết. Đây là lý do xuất hiện điềm lành trên của Như Lai. Khi Bồ-tát sơ sinh, chư Thiên ở trên hư không dùng vô lượng các hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn cùng các thứ hoa quý khác, lại cũng đem theo các thứ hương thơm vi diệu cùng các tràng hoa quý giá đồng rải trên mình đức sơ sinh. Các hoa hương rải rồi đều tan biến, chư Thiên lại tiếp tục rải các thứ mới khác. Khi Bồ-tát sơ sinh, có năm trăm ngọc nữ chư Thiên cầm các hoa trời đều ướp dầu thơm, đồng hướng đến đứng trước mặt Thánh mẫu Ma-da hiến dâng, rồi nói lời vấn an: Thánh mẫu khéo sinh Bồ-tát, ngài có mỏi mệt gì không? Khi Bồ-tát sơ sinh, có năm trăm ngọc nữ chư Thiên cầm phấn sáp hương thơm cõi trời, đồng hướng đến đứng trước mặt Thánh mẫu Ma-da hiến dâng, rồi nói lời vấn an: Thánh mẫu khéo sinh Bồ-tát, ngài có mỏi mệt gì không? Khi Bồ-tát sơ sinh, có năm trăm ngọc nữ chư Thiên mang theo y phục quý giá của cõi trời, đồng hướng đến đứng trước mặt Thánh mẫu Ma-da hiến dâng, rồi nói lời vấn an: Thánh mẫu khéo sinh Bồ-tát, ngài có mệt mỏi gì không? Khi Bồ-tát sơ sinh, có năm trăm ngọc nữ chư Thiên mang theo đủ thứ chuỗi anh lạc và các chuỗi ngọc quý giá khác, đồng hướng đến đứng trước mặt Thánh mẫu Ma-da hiến dâng, rồi nói lời vấn an: Thánh mẫu khéo sinh Bồ-tát, ngài có mỏi mệt gì không? Khi Bồ-tát sơ sinh, có năm trăm ngọc nữ chư Thiên mang theo đủ các thứ nhạc cụ quý giá của cõi trời, đồng hướng đến đứng trước mặt Thánh mẫu Ma-da hiến dâng, rồi nói lời vấn an: Thánh mẫu khéo sinh Bồ-tát, ngài có mỏi mệt gì không? Khi Bồ-tát sơ sinh, cõi đại địa này xuất hiện mười tám điềm lành và sáu thứ chấn động, tất cả chúng sinh đều cảm thấy an lạc. Ngay khi đó, không có một chúng sinh nào sinh tâm tham lam, sân hận, ngu si, ngã mạn và khiếp nhược. Lại không có một chúng sinh nào tạo tác nghiệp ác. Tất cả người bệnh đều được lành, người đói được ăn, người khát được uống, tất cả đều được no nê đầy đủ, không có thiếu hụt. Chúng sinh mê muội được tỉnh ngộ, kẻ cuồng dại được minh mẫn, kẻ mù lòa được thấy, kẻ điếc được nghe, người tật nguyền thân hình được trọn vẹn, kẻ nghèo được của, kẻ bị gông cùm trong lao ngục thì được phóng thích, chúng sinh trong địa ngục thì được ngừng sự khổ đau tra tấn, loài súc sinh được khỏi sự khủng bố, loài ngạ quỷ được no đủ. Khi Bồ-tát xuất sinh hông bên phải của Thánh mẫu, có vô lượng vô biên những điều hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu như vậy.  <詞 id="48706235">Phẩm 7: TỪ VƯỜN HOA TRỞ VỀ THÀNH (Phần 1) Bấy giờ, có một đại thần quốc sư thuộc họ Bà-tư-tra tên là Ma-ha Na-ma cùng các Quốc sư Bà-la-môn, cùng đi về vườn Lam-tỳ-ni. Khi vừa mới đến, còn đứng trước ngõ hoa viên, Quốc sư Bà-tư-tra nói với các vị Quốc sư kia: –Các ngài xét xem vì cớ gì cõi đại địa này chấn động như vậy? Giống như ta ngồi thuyền lướt trên mặt sóng, ánh sáng mặt trời mặt trăng đều biến mất, giống như trạng thái những vì sao giữa ban ngày, chỉ còn lại hình bóng. Tất cả những thảo mộc cùng theo đó đua nhau khoe sắc. Trên bầu trời trong sáng, hoàn toàn không một gợn mây che, chỉ nghe có tiếng sấm vang rền. Lại trên không trung lặng yên trong sáng, chỉ có làn mưa nhẹ thơm tho ngào ngạt, tự nhiên đầy đủ tám thứ hương vị tuyệt vời. Lại từ tám phương phát sinh làn gió trong mát lạ thường, khí hậu thuần hòa. Tất cả bầu trời các phương đều trong sạch, hoàn toàn không có một làn khói, một gợn mây hay bụi bặm làm mù mịt. Lại trong hư không không thấy bóng người, mà tự nhiên nghe giọng Phạm âm thanh thoát, đồng thời cũng nghe các điệu âm nhạc, ca hát, ngâm vịnh của chư Thiên, và trên hư không, những đóa hoa trời thơm nức rơi lả tả, tuy gặp ánh nắng mặt trời mà không khô héo. Lúc ấy, có một Quốc sư đáp lời đại thần Bà-tư-tra: –Việc này tuy vậy, nhưng không lấy gì làm lạ. Vì cớ sao? Vì tánh quả đất là như vậy, có điều gì là chẳng lành? Lại có một Quốc sư khác nói: –Nay cõi đại địa này xuất hiện sáu thứ chấn động, hư không chói sáng che át cả ánh sáng mặt trời cũng như ban ngày nhìn tinh tú. Lại nữa, các thứ hoa trời, tuy gặp ánh nắng mặt trời mà hoa vẫn tươi như cũ, không chút đổi thay. Đây là những điều hết sức kỳ lạ. Đang khi đại thần Bà-tư-tra cùng các Quốc sư luận bàn, có một nữ nhân từ vườn Lam-tỳ-ni vội vã chạy thẳng ra ngõ, thấy đại thần Bà-tư-tra cùng các vị Quốc sư khác, nàng liền dừng lại, nỗi vui mừng hớn hở, không sao giữ được vẻ mặt bình thường, thưa đại thần Bà-tư-tra và các vị Quốc sư Bà-la-môn: –Này các hàng Thích chủng, mau mau trở về hoàng cung nơi nhà vua đang ngự. Đại thần Bà-tư-tra và các Quốc sư nghe nữ nhân nói như vậy, với nét mặt vô cùng hoan hỷ không giữ được vẻ tự nhiên, nên hỏi: –Nàng nay bảo ta trở về Hoàng cung nơi Đại vương đang ngự, vậy hãy nói cho ta nghe rõ đầu đuôi sự việc, rồi sẽ vì nàng tâu việc hoan hỷ gì? Hay việc nghi ngờ khủng bố bất an gì? Nữ nhân đáp: –Này các vị thuộc dòng họ Thích, ta nay sẽ báo cho các ngài biết một tin mừng đem lại sự hoan hỷ vô cùng. Quốc sư Ma-ha Na-ma và các Quốc sư khác hỏi: –Điều hoan hỷ đó là gì? Nữ nhân đáp: –Quốc đại phu nhân vừa sinh một Đồng tử, hình dung tuấn tú khả ái, thế gian không ai sánh bằng. Đồng tử chính là chân Thiên tử. Do vì thân Đồng tử tỏa ra hào quang trời và mọi nơi chư Thiên đều rải hoa. Bấy giờ đại thần Quốc sư nghe lời nói này, tâm rất đỗi hớn hở, vui mừng tràn ngập cả tâm can, không giữ được vẻ tự nhiên, liền khi ấy đại thần cởi chuỗi anh lạc làm bằng đủ thứ ngọc quý thưởng cho nữ nhân, vì nàng đã đem lại cho ông ta tin vui này. Cởi tặng rồi sau lại thầm nghó: “Nữ nhân này là mỹ nữ ở trong cung nhà vua, Đại vương thấy được, ngài đem lòng yêu mến, mà nay ta cởi chuỗi anh lạc đang đeo trên thân tặng cho nàng, sau này không khỏi tai vạ”, nên ông ta lấy lại chuyển tặng cho một Quốc sư khác, khi tặng rồi ngài phát nguyện: “Ta đem chuỗi tặng cho Quốc sư, được bao nhiêu công đức sẽ hồi hướng về nữ nhân này. Sao vậy? Vì ta nhận được tin vui từ nơi nàng.” Lúc ấy đại thần Ma-ha Na-ma nói với một Quốc sư Bà-la-môn khác: –Này Đại Bà-la-môn, người nay có thể về hoàng cung, nơi Đại vương đang ngự, tâu lên ngài tin vui này. Đại thần Ma-ha Na-ma đã phái một Quốc sư Bà-la-môn về triều rồi, ông ta trở lại gạn hỏi nữ nhân: –Vừa rồi nàng nói Quốc đại phu nhân sinh được Đồng tử, chính là Thiên tử hay giống như Thiên tử phóng hào quang cõi trời? Nàng còn có thấy những gì lạ chăng? Nữ nhân đáp: –Cúi xin đại thần lắng nghe, tướng mạo Đồng tử sơ sinh này vượt hơn người thường, có oai đức lớn, đến nỗi hoàng hậu Ma-da khi đang đứng, Đồng tử tự nhiên từ hông phải của Lệnh bà xuất sinh, mà nơi hông, ngực, thắt lưng hoàng hậu không tỳ vết tổn thương gì cả. Khi Đồng tử xuất sinh, chư Thiên đem chiếc áo Ca-thi-ca mềm mại tuyệt đẹp đắp trên thân Đồng tử, rồi nâng Đồng tử hướng về Thánh mẫu, Ngài nói thế này: –Quốc đại phu nhân nên tự lấy làm hân hạnh, vui mừng gấp bội phần. Vì sao? Ngày nay Đại phu nhân đã sinh Thánh tử. Ngay từ sau khi Đồng tử xuất sinh, Ngài ngước nhìn hông Thánh mẫu rồi nói: –Ta từ ngày nay sắp đi, không trở lại thọ sinh trong thai Thánh mẫu nữa, đây là thân tối hậu của ta. Từ nay trở đi ta sẽ thành Phật. Đồng tử đứng ngay trên đất không có người nâng đỡ, liền đi bảy bước, mỗi bước chân đều hiện hoa sen, đôi mắt không nháy, nhìn thẳng về phía trước không chút sợ sệt. Đầu tiên ngài đứng hướng mặt về phương Đông, cất tiếng trong trẻo, sử dụng từ ngữ câu văn hết sức chính xác, chẳng phải lời nói như những hài nhi bình thường khác, rồi ngài nói thế này: –Đối với tất cả chúng sinh trong thế gian, ta là người trên hết, ta sẽ cứu giúp chúng sinh nhổ cội rễ phiền não sinh tử! Vì thân Đồng tử thanh tịnh, nên ngay chỗ Đồng tử đang đứng, từ trên hư không hiện hai vòi nước, một nóng một lạnh, chư Thiên lại dùng một chiếc giường bằng vàng, thỉnh Đồng tử an tọa trên đó rồi dùng nước hai vòi tắm Đồng tử. Sau khi Đồng tử xuất sinh, trên thân ngài phóng hào quang rực rỡ, át cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Chư Thiên thượng giới cầm chiếc lọng trắng cán bằng vàng ròng to bằng bánh xe che trên hư không. Lại có chư Thiên tay cầm quạt trắng, cán làm bằng các ngọc quý đứng quạt hầu Đồng tử. Lại trên hư không, tất cả nhạc khí không người sử dụng tự trổi lên đủ các âm điệu. Lại nghe vô lượng vô biên tiếng ca hát, ngâm vịnh. Lại khắp mọi nơi rải đầy các thứ hoa hương, tuy gặp ánh nắng mặt trời mà hoa vẫn tươi tốt như thường, không chút thay đổi. Đại thần Ma-ha Na-ma nghe lời trình bày như vậy, liền tự suy nghó: “Thật hy hữu! Thật hy hữu! Đời ác trược này cảm đến Đại só xuất hiện trong thế gian. Ta nay cần phải đích thân trở về hoàng cung tâu lên Đại vương Tịnh Phạn những gì hy hữu mà ta đã nghe.” Đại thần Ma-ha Na-ma chọn một tên có tài đánh xe, lựa bốn con tuấn mã chạy như gió đóng vào chiếc bảo xa, khởi hành từ ngoài cửa hoa lâm viên Lam-tỳ-ni trực chỉ về thành Ca-tỳ-la. Khi đến hoàng thành, đại thần chưa kịp yết kiến đại vương, vội vàng đem hết sức mình đánh trống Hoan hỷ. Bấy giờ Đại vương đang ngự trên bảo điện, đang cùng các đại thần bàn bạc việc dân việc nước, quần thần khanh tướng, bá quan văn võ thứ lớp trước sau ngồi chầu hai bên tả hữu, ai ai cũng đều nghe tiếng trống Hoan hỷ. Nhà vua kinh ngạc nói với quần thần: –Này các khanh, kẻ nào bỗng nhiên đánh trống Hoan hỷ của dòng Cam Giá, tiếng trống vang rền, ắt phải dốc toàn sức mạnh. Liền tức khắc có quan thủ môn vội vã đến trước Đại vương tâu: –Tâu Đại vương, quan đại thần của Đại vương họ Bà-tư-tra tên Ma-ha Na-ma, từ bên ngoài ngõ vườn Lam-tỳ-ni đánh xe tứ mã phi như gió về tới ngọ môn vội vã bước xuống xe, đem hết sức người đánh trống Hoan hỷ của Đại vương, người chỉ nói: “Ta nay cần gặp Đại vương”. Ngoài ra không nói một lời nào khác. Đại vương Tịnh Phạn bảo quần thần: –Chắc có tin vui gì đây, các khanh nên mau mau gọi Ma-ha Na-ma họ Bà-tư-tra, quan đại thần của dòng họ Thích cấp tốc đến yết kiến ta. Quần thần vâng lệnh, bạch Đại vương: –Hạ thần chúng tôi xin y giáo lệnh. Rồi vội vã đi gọi Ma-ha Na-ma, vị đại thần dòng họ Thích, thúc giục mau đến yết kiến Đại vương. Khi đại thần Ma-ha Na-ma nhận được sắc lệnh của nhà vua, liền đến trước bệ rồng cao giọng tâu: –Chúc Bệ-hạ tôn vinh muôn thuở, nay hạ thần vừa nhận được tin vui, dường như trong người tăng thêm sức lực. Đại vương Tịnh Phạn nghe lời tâu như vậy, hỏi Ma-ha Na-ma, vị đại thần của dòng họ Thích: –Này vị đại thần của họ Thích, vì cớ gì khanh vội vã đánh xe như gió từ Lam-tỳ-ni về đây, đem hết sức người đánh trống Hoan hỷ? Đại thần Ma-ha Na-ma tâu Đại vương: –Phu nhân của Đại vương đang khi dạo chơi trong hoa viên Lam-tỳ-ni nơi thành Thiên tý, hoàng hậu ở dưới tàn cây Vô ưu hạ sinh Đồng tử, thân như vàng ròng, tướng mạo đoan chánh, phóng quang rực rỡ như chư Thiên không khác. Đại vương Tịnh Phạn lại gạn hỏi cặn kẽ về tướng hảo và sự diễn tiến như thế nào? Đại thần diễn tả: –Từ khi hoàng hậu đứng trên đất cho đến… hông bên phải của Thánh mẫu không có tì vết tổn thương gì cả. Đồng tử sinh ra tự đứng trên đất, chư Thiên đem áo Ca-thi-ca cõi trời đắp kín trên mình Đồng tử. Đồng tử nhìn lên hông Thánh mẫu rồi nói: “Ta sẽ thành Phật, nhổ sạch cội rễ khổ não sinh tử cho chúng sinh”. Đại thần trình bày tiếp: –Nào việc tắm Đồng tử, nào việc Đồng tử phóng hào quang che lấp cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, nào việc cây cối dược thảo đua nhau khai hoa khoe sắc, nào việc chư Thiên ở trên hư không, cầm quạt trắng lọng trắng che và quạt hầu Đồng tử, nào việc ở trong hư không nghe vang rền tiếng sấm, trời như mưa phùn, làn gió mát dịu từ bốn phương thổi về, nào việc trên hư không chẳng thấy bóng người mà tiếng nhạc Phạm âm trổi dậy, trống không đánh tự nhiên kêu, hoa trời rải xuống tốt tươi, dầu có gặp ánh nắng mặt trời mà không bị héo… Đại thần trình bày theo thứ tự một cách đầy đủ những sự việc như đã nói trên cho nhà vua nghe. –Xin Đại vương biết cho, vì hạ thần nghe thấy những việc hy hữu như vậy, trong lòng hết sức vui sướng; do đó hạ thần liều lónh đánh trống Hoan hỷ. Hạ thần đã trình bày đầy đủ, dám xin Đại vương thấu rõ cho. Kế tiếp, đại thần đem các hoa trời mà chư Thiên cúng dường Đồng tử dâng lên Đại vương. Đây là bằng chứng cụ thể cho lời trình bày trên. Đại vương Tịnh Phạn nghe qua rồi bảo đại thần: –Khanh đã mang đến cho ta tin vui vô tận, và trình bày sự việc một cách tường tận, nay khanh muốn cầu mong những gì, ta sẽ ban cho một cách đầy đủ theo sở thích của khanh, không bao giờ trái ý. Đại thần Bà-tư-tra tâu: –Hạ thần nhờ ân của Đại vương nên không thiếu một vật gì. Đại vương Tịnh Phạn lại bảo: –Đúng theo lời khanh yêu cầu, nhất định ta sẽ ban cho. Đại thần lại tâu: –Xin Đại vương hoan hỷ, hạ thần đã nhờ ân của Đại vương nên không thiếu một vật gì. Đại vương lại bảo đại thần: –Khanh nay chớ phụ lòng tốt của ta, khanh phải nên cần và cần những gì, ta sẽ ban cho. Lúc đó, đại thần Bà-tư-tra bạch: –Tâu Đại vương, nếu như ngài quyết định hoan hỷ, thì hạ thần này sẽ xin một điều: “Cúi xin Đại vương cho phép hạ thần luôn luôn được gần bên Thái tử để làm người hầu hạ, cung cấp mọi sự cần dùng cho Thái tử”. Vì sao? Vì Đồng tử này ngày nay đã sinh ra, quyết định sẽ kế nghiệp dòng Cam Giá Nhật để cho con cháu nhiều đời về sau của Chuyển luân thánh vương khỏi phải tuyệt diệt. Vua Tịnh Phạn đáp: –Được, tốt lắm. Tùy ý khanh muốn. Vua Tịnh Phạn bảo quần thần: –Này các Đại-thần, cần phải ghi chép theo thứ tự thật đầy đủ những lời trình bày của đại thần Bà-tư-tra, theo phép nước đây là điều lành nhất, không được ghi chép thiếu sót. Đại vương Tịnh Phạn bảo quốc sư Ma-ha Na-ma, vị đại thần của dòng họ Thích: –Khanh đã đến làm quan nước ta, ta đã sinh được Thái tử như vậy. Ngày nay khanh còn vì Thái tử tôn quý này mà nguyện làm người hầu hạ nuôi nấng Thái tử. Sau đó, đại vương Tịnh Phạn dùng oai thần thế lực của một đại vương, cùng với đại thần Ma-ha Na-ma, bá quan văn võ đứng chầu hai bên tả hữu như hình bán nguyệt trông thật oai hùng. Rồi vua tôi đồng hướng về vườn Lam-tỳ-ni chuẩn bị rước Bồ-tát sơ sinh. Trên đường đi, bỗng nhiên vua Tịnh Phạn bảo Ma-ha Na-ma và các đại thần: –Này các khanh, ta nghe tin sinh Thái tử và các việc hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu như vậy, lòng ta nửa mừng nửa lo! Đại thần Ma-ha Na-ma lại tâu Đại vương: –Đáng lẽ Đại vương rất lấy làm hoan hỷ hân hạnh, sao lại lo âu. Vì sao? Vì chư Thiên sinh ra, có những hiện tượng hết sức hy hữu không thể nghó bàn như vậy. Đại vương lẽ nào không nghe: “Thuở xưa có một Bà-la-môn tên là Đa-sắc-tra-ca được sinh ra từ bông hoa, sinh ra khôn lớn, không theo thầy thọ học, tự nhiên thông hiểu bốn bộ kinh Tỳ-đa.” Đại vương có lẽ nào không nghe: “Thuở xưa có một ông vua tên là Nhất Đảnh Sinh, sinh ra từ đảnh đầu của phụ thân, sau khi sinh ra rồi, lại giống như một hài nhi bình thường khác, lần lần khôn lớn làm vua thống lãnh bốn châu thiên hạ.” Đại vương, lẽ nào ngài không nghe: “Thuở xưa có một ông vua tên là Tỳ-ca, sinh ra từ lòng bàn tay người cha, không phải sinh ra từ bụng mẹ.” Đại vương, lẽ nào ngài không nghe: “Thuở xưa có một ông vua tên là Lưu Bà sinh ra từ bắp vế của người cha.” Đại vương, lẽ nào ngài cũng không nghe: “Ở đời quá khứ có một ông vua tên là Ca-truy-bà, sinh ra từ cánh tay của người cha.” Lại nữa, Đại vương lẽ nào ngài không nghe: “Tổ tiên của Đại vương từ xưa đến nay gọi là vua Cam Giá, sinh ra từ thân cây mía.” Các vị vua như vậy tuy sinh ra trong nhân gian, nhưng có những điều không thể nghó bàn. Đại vương Tịnh Phạn lại bảo Ma-ha Na-ma, vị đại thần của dòng họ Thích: –Này đại thần Ma-ha Na-ma, các vị vua đời trước đều là bậc đại thông minh có oai đức lớn, Đồng tử của ta ngày nay sao dám so với các ngài! Đại thần Ma-ha Na-ma với lòng hoan hỷ tâu Đại vương: –Xin Đại vương phải biết, Thái tử ngày nay nhất định sẽ vượt hơn các vị vua đời trước. Đại vương Tịnh Phạn hỏi: –Có ưu điểm gì siêu việt chăng? Đại thần thưa: –Hạ thần đem so sánh lối sinh của các vị vua thuở trước với lối xuất sinh của Thái tử ngày hôm nay khác nhau trời vực. Đại vương lại nói: –Khanh chớ cười trẫm. Vì lý do gì? Người cha nào lại không muốn con của mình vượt hơn những người khác: Hoặc học rộng, thấy xa, hoặc thông minh, hoặc đạo đức, hoặc đủ nhân cách lễ nghóa, hoặc có tài chánh trị chăn dân, hoặc đủ đức tánh siêng năng tinh tấn. Chỉ có bao nhiêu việc như vậy, cũng đủ làm cho lòng người cha vui sướng lắm rồi. Khi Đại vương Tịnh Phạn dứt câu tâm sự với đại thần Ma-ha Na-ma, thì đoàn người đã từ từ gần đến hoa lâm viên Lam-tỳ-ni. Khi đến ngoài cửa hoa lâm viên, đại vương cho sứ giả vào báo tin cho hoàng hậu: –Hoàng hậu đầy phước đức khéo sinh hạt giống Thánh, Hậu nên cho người bố trí, trang hoàng nơi Thái tử hạ sinh một cách hết sức trang nghiêm tốt đẹp, ta muốn thấy dung nhan Thái tử. Tuy thuở trước Thái tử còn ở trong thai, ta đã từng thấy hiện các điềm lành hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu. Nhưng nay tâm ta nhớ tưởng đến con, muốn đến nhìn tận mặt. Vậy nên Hậu cho người trang hoàng cấp tốc. Quốc đại phu nhân Ma-da được tin Hoàng thượng giá lâm, lập tức cho người chuẩn bị đầy đủ mọi sự được tốt đẹp trang nghiêm, theo lễ nghi một Thái tử yết kiến vua cha. Mọi việc đâu đó xong rồi, liền cho sứ giả phụng thỉnh Hoàng thượng: –Đã đến lúc xin cung nghinh Hoàng thượng giá lâm viên nội. Khi vua quan đã đến dưới tàn cây Vô ưu, có một tỳ nữ hai tay bồng Thái tử đến yết kiến Đại vương, tỳ nữ tâu: –Hôm nay Đồng tử xin đảnh lễ Phụ vương. Đại vương nói: –Không được phép như vậy, ngươi phải đưa Đồng tử sang lễ thầy Bà-la-môn của ta trước, rồi sau mới yết kiến ta. Tỳ nữ bồng Đồng tử đến đảnh lễ các Quốc sư Bà-la-môn. Các vị Quốc sư Bà-la-môn chăm chú nhìn dung nhan Đồng tử trong giây lát rồi tâu Đại vương: –Nhân đây chúng tôi xin chú nguyện: “Cầu chúc Đại vương tôn vinh muôn thuở!” Nhân thấy tướng siêu việt của Thái tử, xin cầu nguyện: “Hạt giống dòng vua họ Thích đâm chồi nảy lộc, luôn luôn tươi tốt sum suê. Thái tử của Đại vương nhất định sẽ thành Chuyển luân thánh vương”. Đại vương Tịnh Phạn lại hỏi các vị quốc sư Bà-la-môn: –Lý do gì quốc sư biết chắc như vậy? Quốc sư lại tâu Đại vương: –Theo sự hiểu biết của chúng tôi qua luận Tỳ-đà-la, thấy các tướng tốt của Đồng tử phù hợp trong luận. Việc này hoàn toàn chân thật. Đại vương lại hỏi: –Nếu đúng như vậy, thì dòng họ Thích của ta sẽ làm Chuyển luân thánh vương, dòng họ Cam Giá ta sẽ được phát triển. Tại sao các nhà vua hiện tại đối với phước đức này, siêng năng tinh tấn tu hành khổ hạnh đều không được đầy đủ? Nhưng ta ngày nay sinh được Đồng tử có đầy đủ phước đức ấy, giống như các vị vua trong kiếp ban sơ thuở trước, oai lực dũng kiện, phước đức đầy đủ không khác. Vậy thì dòng họ ta sẽ được hưng thịnh, giống như các Chuyển luân vương kiếp ban sơ. Hoàng hậu Ma-da thấy Đại vương Tịnh Phạn cùng các Quốc sư Bà-la-môn vẻ mặt tươi cười, liền thưa hỏi Đại vương: –Xin Đại vương chỉ cho thần thiếp biết tướng mạo như thế nào là Chuyển luân thánh vương? Ôi thế nào là điều lành? Xin Đại vương vì thần thiếp nói sơ lược nét chính yếu, khiến tâm thiếp cùng được hân hoan. Đại vương Tịnh Phạn xoay lại hỏi quốc sư Bà-la-môn: –Này nhân giả Đại sư, xin quốc sư vì trẫm giải thích tướng mạo Chuyển luân thánh vương. Quốc sư Ma-ha Na-ma và các vị đại Bà-la-môn đồng giải thích cho Đại vương và Hoàng hậu: –Xin Đại vương và Hoàng hậu chú ý lắng nghe, chúng tôi sẽ trình bày tường tận. Chúng tôi được thừa hưởng các luận của chư Thánh đời trước truyền lại, trong luận dạy: Chuyển luân thánh vương phải đầy đủ các công đức một cách tự tại. Như khi Thánh vương đi giáo hóa trị dân, thì Chuyển luân thánh vương bay bổng trên hư không một cách tự tại như đi trên mặt đất. Trong quốc gia của Thánh vương, chỗ nào hạn hán, tùy theo ý muốn thì trời liền mưa, nơi nào dân chúng độc ác, sân si, tật đố, ganh tị, ôm lòng hận thù… Nhờ oai đức của Thánh vương, thì dân chúng trong nước tâm được hoan hỷ. Chuyển luân thánh vương có đầy đủ bảy thứ báu, đó là: Bánh xe vàng, ngọc thần, voi thần, ngựa thần, ngọc nữ, quan chủ kho tàng và chủ binh lính. Chuyển luân thánh vương thọ mạng lâu dài, hoàn toàn không hoạnh tử, ít bệnh, ít buồn phiền, tướng mạo tuấn tú khôi ngô, thế gian không ai sánh bằng. Tất cả dân chúng trong nước ai cũng kính mến vua giống như con một, Thánh vương đem tâm thương yêu bảo hộ dân chúng hơn cha mẹ thương con đỏ. Đại vương lại hỏi quốc sư Bà-la-môn: –Này đại Bà-la-môn, theo lời nhân giả nói, hễ ai làm Chuyển luân thánh vương đều có những phước đức như vậy? Lúc ấy, Thánh mẫu hoàng hậu Ma-da lại thưa cùng Đại vương Tịnh Phạn: –Tâu Đại vương, những việc như vậy chưa đủ lấy làm lạ. Tại sao? Vì Đồng tử của chúng ta ngày nay, sinh trong dòng họ Cam Giá thuộc giai cấp vua chúa thì đối với việc ấy có gì là lạ. Đại vương lại nói: –Này Hoàng hậu, thật là hy hữu! Chuyển luân thánh vương ít khi xuất hiện trong nhân gian, chỉ có oai đức của Thánh vương mới có quả báo tốt đẹp đặc biệt như vậy, theo trẫm, trẫm cho rằng hết sức lạ lùng! Bởi vì tất cả các vị Thánh vương trong quá khứ, không có một vị nào có trường hợp đặc biệt như Đồng tử. Chẳng hạn như dòng Cam Giá Nhật của trẫm sinh hạ các vua: Từ Ni-câu-la, Kiêu-câu-la, Cù-cù-la, hoặc phụ vương ta là Sư Tử Giáp, cho đến thân ta ngày nay, không một ai có hiện tượng đặc biệt như vậy. Chắc phải có một nguyên nhân gì, nên Đồng tử mới có điều đặc biệt như vậy? Quốc sư Ma-ha Na-ma cùng các vị quốc sư Bà-la-môn lại tâu Đại vương: –Xin Đại vương phải biết, những việc đã có từ trước, hoặc sau này cũng có thể xuất hiện thì chưa đủ lấy làm lạ. Đại vương lẽ nào không nghe: Thuở xưa có một vị vua tên là Da-da-đề có đầy đủ các công đức, thân phụ tên là Bà Lưu, nhà vua có một người con tên là Bất Lưu, Bất Lưu có một người con tên là Truân-đầu-ma-la, Truân-đầu-ma-la có một người con tên là Ca-xoa-phước, Ca-xoa-phước có một người con tên là A-la-kỳ-bất, A-la-kỳ-bất có một người con tên là Mạn-đế-lệ-da-ni, Mạn-đế-lệ-da-ni có người con tên là Nhân-la-bà-tỳ-la, Nhân-la-bà-tỳ-la có một người con tên là Đầu-sơ-ban-na. Những vị vua như vậy có đầy đủ oai đức, nhưng không được làm Chuyển luân thánh vương. Đầu-sơ-bàn-na là vị vua cuối cùng của các vị vua này, sinh một người con tên là Bà-la-đà, chỉ có Bà-la-đà mới làm Chuyển luân thánh vương. Lại nữa, trong kiếp ban sơ thuộc thời quá khứ, có một người thuộc dòng Sát-đế-lợi tên Ma-ha Tam-ma-đa từ Thiên giới giáng sinh, nhưng chẳng được làm Chuyển luân thánh vương, các vị vua sau đó chuyển tiếp kế vị, cho đến vua Đảnh Sinh mới được làm Chuyển luân thánh vương. Vua Đảnh Sinh thống trị cho đến cõi trời Đao-lợi, con cháu nhiều đời về sau của tổ phụ cũng tiếp tục làm vua, nhưng phước đức giảm dần, không được làm Chuyển luân thánh vương. Đại vương Tịnh Phạn lại nói với quốc sư đại Bà-la-môn: –Lời nói của quốc sư rất đúng. Vì sao? Trẫm cũng muốn con trẫm được như vậy, cũng nguyện con trẫm được y như lời quốc sư nói. Rồi nhà vua tự thầm nghó: “Ta nay rước Đồng tử về triều, không biết dùng xe kiệu gì đây?” Nhà vua vừa nghó xong, thì có đoàn thợ thiện xảo ở cõi trời Đao-lợi của vua Đế Thích làm thành một chiếc kiệu bảy báu, nhà vua thấy chiếc xe xuất hiện không phải do sức người làm nên, hết sức trang nghiêm đẹp đẽ, tuyệt hảo vô song. Đại vương lập tức ra lệnh khẩn cấp sửa sang, chỉnh đốn thành Ca-tỳ-la, quét dọn tất cả các thứ gai góc, sỏi đá cát sạn, dơ uế, những nơi gồ ghề đều được san bằng, mọi nơi đều được sạch sẽ, không còn một cái gì tồi tệ làm mất vẻ mỹ quan. Thành Ca-tỳ-la được trưng bày đủ các thứ tốt đẹp, giống như thành Càn-thát-bà. Trong thành tổ chức trình diễn đủ các trò vui, tất cả nhạc công, kỹ nữ đàn ca múa hát. Những trò ảo thuật: hoặc biến thành viên ngọc, hoặc phun ra nước, hoặc hóa trang giả làm phụ nữ… Tất cả những trò vui như vậy đều tập họp về nội thành. Khi ấy họ biểu diễn đủ cách: Hoặc có người phóng mình lên hư không, hoặc có kẻ rung chuông, hoặc có người đánh trống, hoặc có kẻ mang giày dép đứng trên đầu cây gậy, hoặc có người đi lộn ngược, đầu đội đất chân đạp trời, hoặc có kẻ giồi cầu xoay thành vòng tròn, hoặc có người chạy trên dây giăng ngang qua hư không, hoặc có người phóng lao, hoặc có người múa kiếm, hoặc biểu diễn tiếng hét lớn la to, hoặc thổi còi bằng ngón tay, hoặc trò đùa vung tay áo… vô số những trò chơi như vậy. Bấy giờ, bốn vị Đại Thiên vương Hộ thế đều ẩn hình chư Thiên, hiện thân thiếu niên Bà-la-môn đầu búi tóc, hình dung đoan chánh khả ái, vai khiêng chiếc kiệu bằng ngọc để rước Bồ-tát sơ sinh về thành. Trời Đế Thích cũng ẩn bổn thân hóa làm đồng niên Bà-la-môn, đầu búi tóc, hình dung đoan chánh, thân mặc áo vàng, tay trái cầm chiếc bình vàng, tay phải cầm chiếc gậy ngọc đi tiên phong để dọn đường, miệng hô to: Này tất cả lữ hành nên tránh xa hai bên đường, nhường lối cho Đấng Tối thắng đi, ngài sắp trên đường về hoàng cung (bốn câu trên đây, trong bản tiếng Phạm lặp lại hai lần để nói lên sự quan trọng). Lúc ấy, vua trời Đại phạm cõi Sắc lặp lại bài kệ ca ngợi Bồ-tát: Chư Thiên, nhân loại không bằng Phật, Mười phương thế giới cũng như vậy. Mọi người trần thế tôi trông thấy, Không có một ai như Đức Phật. Trước khi Bồ-tát sắp rời vườn Lam-tỳ-ni nơi thành Thiên tý để về thành Ca-tỳ-la, chư Thiên rưới nước quét dọn đường sá. Lại có năm trăm ngọc nữ chư Thiên, mỗi nàng tay cầm một bình vàng đựng đầy nước hương thơm, đi theo thứ tự về phía trước Bồ-tát để rưới nước trên mặt đường. Kế đến lại có năm trăm ngọc nữ chư Thiên, mỗi nàng tay cầm chổi đi phía trước Bồ-tát để quét dọn đường sá. Kế đến lại có năm trăm ngọc nữ chư Thiên, mỗi nàng tay bưng lư hương làm bằng các ngọc quý, xông các danh hương cúng dường Bồ-tát, đi phía trước để dẫn đường. Kế đến có năm trăm ngọc nữ chư Thiên tay bưng bình vàng đựng đầy hương kỳ diệu, đi trước Bồ-tát để dẫn đường. Kế đến lại có năm trăm ngọc nữ chư Thiên, mỗi nàng tay cầm cây quạt làm bằng lá Đa-la rất đẹp, đi phía trước Bồ-tát để dẫn đường. Kế đến lại có năm trăm ngọc nữ chư Thiên, mỗi nàng tay cầm lông đuôi chim công phe phẩy, đi phía trước Bồ-tát để dẫn đường. Kế đó lại có năm trăm ngọc nữ chư Thiên, mỗi nàng tay cầm nơm làm bằng lá Đa-la, đi phía trước Bồ-tát để dẫn đường. Kế đến lại có năm trăm ngọc nữ chư Thiên, mỗi nàng tay cầm ghế xếp, đi phía trước Bồ-tát để dẫn đường. Lại có năm ngàn Thiên nữ đều cầm chuông vàng luôn luôn rung động, phát ra âm thanh kiết tường, đi trước Bồ-tát để dẫn đường. Lại nữa, có hai vạn năm ngàn hương tượng, đều dùng yên, dây đai, bàn đạp bằng vàng, với một tấm giáp vàng phủ lên thân. Tất cả những gì trang điểm trên mình hương tượng cũng đều bằng vàng. Lại nữa, một mành lưới bằng vàng từ trên rủ xuống, chung quanh hương tượng, đoàn voi như thế tuần tự đi sau Bồ-tát. Lại có hai vạn con ngựa quý, lông mình xanh biếc, bờm và đầu đen tợ như quạ, lông đuôi chấm đất. Các thứ: Dàm, dây cương, yên, bàn đạp, dây đai được trang sức bằng vàng. Ngoài ra bên trên còn rũ xuống một lớp lưới trời bằng vàng, đoàn ngựa theo thứ tự đi sau Bồ-tát. Lại có hai vạn chiếc bảo xa, đều là xe tứ mã, trên mỗi xe dùng phướn, lọng, mành lưới làm bằng vàng cõi trời rủ xuống theo thứ lớp đi sau Bồ-tát. Lại có bốn vạn tráng só đi bộ rất dũng mãnh, một người địch lại ngàn người, đều là hảo tướng trượng phu, ý chí khí khái, có tài đánh dẹp giặc thù, thân mặc áo giáp, có kẻ tay cầm cung đao, có kẻ tay cầm thiết luân, hoặc có kẻ tay cầm dáo mác, theo thứ lớp hộ vệ đi sau Bồ-tát. Lại có vô lượng vô biên đại chúng chư Thiên cõi Sắc, có đại oai đức thế lực đi bên phải hộ vệ Bồ-tát. Lại có vô lượng vô biên đại chúng chư Thiên cõi Dục, có đại oai đức thế lực đi bên trái hộ vệ Bồ-tát. Lại có vô lượng vô biên Long-vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-hầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà, La-sát, Tỳ-xá-giá… xuất hiện bán thân khắp hư không, tay cầm đủ thứ hoa quý lạ tùy tùng hộ vệ Bồ-tát. Lại có vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Thiên vương, Thiên thần khắp cả hư không, vui mừng hớn hở không sao kềm chế được nên tự cất tiếng kêu to, hoặc thổi còi bằng ngón tay, hoặc múa, hoặc ca, phát ra những âm thanh tuyệt diệu lạ thường, hoặc có kẻ vung tay áo, hoặc có kẻ vung tay chân biểu diễn những trò vui nhộn. Hoặc đem theo phấn hương, sáp thơm, tràng hoa, chuỗi anh lạc, hoa Mạn-đà-la… Mỗi người tự bưng trên tay từ hư không rải xuống trên mình Bồ-tát, rồi lại rải lên mình tất cả chư Thiên. Do oai đức thế lực của Bồ-tát, nên không nghe có hơi người, tất cả người trần gian tuy thấy sắc tướng chư Thiên nhưng không sợ hãi, cũng không phóng dật. Khi ấy, tất cả quyến thuộc dòng họ Thích đem bốn thứ binh chủng: Xa binh, mã binh, tượng binh và bộ binh vây quanh trước sau tả hữu tùy tùng hộ vệ Bồ-tát. Đoàn người tràn ngập cả thành Ca-tỳ-la. Vua Tịnh Phạn đem hết oai đức thế lực của một Đại vương, ra lệnh đánh vô lượng trống, nào trống lớn trống nhỏ, lại thổi vô lượng vô biên tù và. Vô lượng vô biên những nhạc khí như vậy, phát sinh vô lượng âm thanh vi diệu khác nhau để tỏ lòng vui mừng đón rước Bồ-tát vào thành Ca-tỳ-la. Thuở ấy, cách thành Ca-tỳ-la chẳng bao xa có một đền thờ Thiên thần, vị Thần linh nơi đền thờ này tên là Tăng Trưởng, nơi đây luôn luôn có vô số nam nữ thuộc dòng họ Thích quỳ lạy lễ bái cầu nguyện, thường được mọi sự như ý. Bấy giờ Đại vương Tịnh Phạn muốn đưa Bồ-tát đến đền thờ này nên bảo quần thần: –Ta nay đưa Đồng tử đến lễ bái Đại Thiên thần. Khi nhũ mẫu bồng Đồng tử đến trước đền thờ, liền xuất hiện một nữ Thiên thần tên là Vô úy, từ nơi tượng nữ Thiên thần chính giữa điện thờ bước xuống nghinh tiếp Đồng tử Bồ-tát, chắp tay cung kính đảnh lễ, đầu mặt sát chân Bồ-tát và nói với nhũ mẫu: –Đồng tử là Bậc tối thắng trong chúng sinh, không nên xúc phạm đến Ngài (hai câu này bản tiếng Phạn lập lại hai lần), chẳng nên để Đồng tử quỳ gối lễ bái ta, mà ta phải lễ bái Đồng tử. Vì sao? Vì ai nhận sự lễ bái của Đồng tử thì đầu người đó sẽ vỡ làm bảy mảnh. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706236">QUYỂN 9 <詞 id="48706237">Phẩm 7: TỪ VƯỜN HOA trở VỀ THÀNH (Phần 2) Bấy giờ ở thành Ca-tỳ-la có năm trăm đại thần thuộc dòng họ Thích đều là quyến thuộc của Bồ-tát, mỗi người trở về nơi tư thất lập một tinh xá chờ rước Bồ-tát vào an nghỉ. Ngay khi Bồ-tát vừa vào cửa thành, mỗi vị đại thần đều đứng trước ngõ tư gia của mình, với tấm lòng đầy hoan hỷ chắp tay cung kính tác bạch: –Cúi xin Đấng Trời trong các hàng trời, quang lâm tinh xá chúng tôi. Hoặc bạch: –Cúi xin Bậc Thủy thủ vó đại vượt qua biển sinh tử, quang lâm tinh xá chúng tôi. Hoặc bạch: –Cúi xin Bậc Thân kim sắc thanh tịnh trong chúng sinh, quang lâm tinh xá chúng tôi. Hoặc tác bạch: –Cúi xin Bậc Ban tất cả hoan hỷ, quang lâm tinh xá chúng tôi. Hoặc kính bạch: –Cúi xin Bậc Tiếng tốt vang khắp mọi nơi không chút tì vết, quang lâm tinh xá chúng tôi. Hoặc kính bạch: –Cúi xin Bậc Tối tôn không ai sánh bằng, quang lâm tinh xá chúng tôi. Lúc ấy, đại vương Tịnh Phạn đem lòng thương xót năm trăm vị đại thần quyến thuộc này, nên đưa Đồng tử tuần tự vào viếng thăm tất cả các tinh xá rồi sau mới về nội cung. Chính trong ngày đản sinh Bồ-tát, lại có: - Năm trăm Đồng tử dòng họ Thích cũng đồng sinh, mà tôn nhan của Bồ-tát là tốt đẹp nhất. - Năm trăm Đồng nữ dòng họ Thích cũng đồng sinh, mà nàng Da-du-đà-la là người đẹp nhất. - Năm trăm nô bộc của họ Thích cũng đồng sinh, mà Xa-nặc sinh trong cung vua là bậc nhất. - Năm trăm tỳ nữ của dòng họ Thích cũng đồng sinh, mà con của người hầu hạ Thái tử ở trong cung vua là bậc nhất. - Năm trăm bạch mã khỏe tốt cũng đồng sinh, mà con ngựa Kiền-trắc trong chuồng ngựa nhà vua là bậc nhất. - Năm trăm hương tượng chúa khỏe mạnh đều sáu ngà, sắc trắng như tuyết bỗng nhiên xuất hiện trước cửa cung điện. - Năm trăm kho vàng lớn đang ẩn tàng bỗng nhiên xuất hiện chung quanh bốn mặt thành Ca-tỳ-la. - Năm trăm hoa lâm viên tuyệt hảo xuất hiện trên bốn mặt thành Ca-tỳ-la, khắp mọi nơi trong vườn đều có dòng suối, ao tắm, hoa quả… tất cả đều do oai đức thế lực của Thái tử. - Năm trăm thương gia, cũng trong ngày đó mang theo nhiều của cải ngọc ngà châu báu đến thành Ca-tỳ-la. - Năm trăm vua chư hầu, cũng trong ngày đó cho sứ giả mang năm trăm tàn lọng và năm trăm bình bằng vàng, đến chỗ Đại vương thưa: Bầy tôi chư hầu đem lễ mọn phụng hiến Đại vương để chúc mừng Thái tử. Các vị Bà-la-môn, Sát-đế-lợi và các vị Trưởng giả, tất cả năm ngàn người, mỗi người đều đem theo mỹ nữ đến hiến dâng lên đại vương Tịnh Phạn. Lúc bấy giờ mọi nhu cầu của nhà vua đều được đầy đủ. Khi ấy vua Tịnh Phạn suy nghó: “Ta nay sinh Thái tử sẽ đặt tên gì?” Rồi lại nghó tiếp: “Ngày sinh ra Thái tử, mọi sự lợi ích tự nhiên được thành tựu. Vậy ta nay có thể lấy sự việc này đặt tên cho Thái tử là Thành Lợi.” Đại vương truyền mở kho lấy trăm ức lượng vàng cúng dường cho Thái tử Thành Lợi để gọi là lễ đặt tên. Rồi nhà vua nói kệ: Ngày ấy trong cung vua, Mọi sự đều phong phú. Nay đặt tên Thái tử, Quý danh là Thành Lợi.  <詞 id="48706238">Phẩm 8: TƯỚNG SƯ XEM TƯỚNG (Phần 1) Đại vương Tịnh Phạn cho mời tất cả tướng sư danh tiếng về triều để bàn giải, nhà vua bảo: –Này các tướng sư, các khanh phải quan sát thật tường tận tướng kiết hung của Thái tử, rồi bàn giải xem thử có điều gì tốt xấu đối với hoàng tộc ta chăng? Các tướng sư Bà-la-môn vâng lệnh nhà vua, chú tâm quán sát hình dung Thái tử, rồi y vào sách vở của Thánh hiền đời trước để lại cùng nhau bàn luận, sau khi bàn luận nhất trí lại tâu nhà vua: –Tâu Đại vương, ngày nay hoàng tộc được nhiều lợi ích. Vì sao? Vì Thái tử sinh trong hoàng cung là bậc Đại tôn quý của chúng sinh, có đầy đủ oai đức. Đại vương phải biết, Thái tử có ba mươi hai tướng Đại Trượng phu, hễ trong thế gian ai có ba mươi hai tướng này, nhất định thọ nhận được một trong hai phước báo. Hai phước báo đó là gì? Một là nếu ở tại gia thì hưởng phước lạc thế gian, làm Chuyển luân thánh vương thống lãnh bốn châu thiên hạ, hộ trì đại địa, đầy đủ bảy báu, cho đến không dùng binh đao, quân đội áp đặt dân chúng, mà dân chúng mọi nơi, từ đất liền cho đến ngoài biển cả đều tự nhiên sống y như chánh pháp. Hai là nếu bỏ vương vị xuất gia học đạo sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tiếng tốt vang khắp mọi nơi trong thế gian. Đại vương nghe rồi lại gạn hỏi các tướng sư: –Trên thân Thái tử có những gì gọi là ba mươi hai tướng Đại Trượng phu? Tướng sư Bà-la-môn thưa: –Ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, đó là: 1.Dưới lòng bàn chân Thái tử bằng phẳng đầy đặn, bước đi vững vàng. 2.Chính giữa lòng bàn chân Thái tử đều có hình dáng bánh xe ngàn căm, rõ ràng, trong sạch, dễ cảm. 3.Ngón tay Thái tử thon dài. 4.Gót chân Thái tử tròn đẹp. 5.Lưng bàn chân Thái tử tròn đầy. 6.Tay chân Thái tử mềm mại. 7.Giữa kẽ ngón tay ngón chân Thái tử có màng lưới mỏng. 8.Bắp chân Thái tử như chân nai chúa. 9.Thái tử đứng thẳng người, hai tay dài quá gối. 10.Thái tử có tướng Mã âm tàng. 11.Mỗi lỗ chân lông trên làn da Thái tử mọc một sợi lông hình xoắn ốc. 12.Lông trên thân Thái tử rất đẹp. 13.Làn da của Thái tử mịn như bông gòn. 14.Lông trên thân Thái tử màu vàng. 15.Thân thể Thái tử hoàn toàn trong sạch. 16.Miệng Thái tử bên trong sâu đẹp, bên ngoài vuông vức như nụ cười. 17.Hai gò má của Thái tử vuông vức như gò má sư tử chúa. 18.Hai ống chân Thái tử thon dài. 19.Thân thể Thái tử, trên dưới, hai bên cân đối như cây Ni-câu-loại. 20.Bảy chỗ trên thân Thái tử đầy đủ, tốt đẹp. 21.Thái tử có bốn mươi răng. 22.Các răng Thái tử đều, bằng và khít nhau. 23.Các răng Thái tử không thưa, không mẻ, không lòi xỉ. 24.Các răng Thái tử trắng sạch. 25.Thân Thái tử trong sạch, thuần một màu vàng ròng. 26.Tiếng nói Thái tử như tiếng Phạm vương. 27.Lưỡi của Thái tử rộng dài, rất mềm mỏng, màu đỏ tươi. 28.Những thức ăn đưa vào lưỡi đều biến thành thượng vị. 29.Tròng mắt màu xanh biếc. 30.Hai hàng lông mi của Thái tử như lông mi trâu chúa. 31.Sợi lông trắng giữa hai hàng lông mày của Thái tử mềm mại trong sáng óng ánh, xoắn ốc về phía phải. 32.Nhục kế trên đảnh đầu Thái tử nhô lên, cao rộng bằng phẳng đẹp đẽ. Tâu Đại vương, đó là ba mươi hai tướng Đại Trượng phu của Thái tử. Nếu ai đầy đủ ba mươi hai tướng này, thì người ấy sẽ hưởng một trong hai phước báo: Tại gia và xuất gia như đã nói trên. Đại vương nghe lời trình bày của các tướng sư, vui mừng hớn hở tràn ngập tâm can, không sao giữ được vẻ tự nhiên, vội thết đãi món ăn trăm vị để cho tướng sư mặc tình thưởng thức. Rồi đem đủ các thứ y phục thượng hạng và của cải châu báu cung cấp cho các tướng sư Bà-la-môn. Khi đó trong thành Ca-tỳ-la, nhà vua tổ chức hội bố thí Vô già khắp các ngã tư và các đầu đường đi vào thôn xóm, hễ ai cần vật gì thì cung cấp cho vật ấy: Cần đồ ăn thì cung cấp đồ ăn, cần đồ uống thì cung cấp đồ uống, cần y phục thì cung cấp y phục, cần của cải thì cung cấp của cải, cần xe cộ thì cung cấp xe cộ… Nhà vua nguyện đem bao nhiêu công đức này hồi hướng về làm lợi ích cho Thái tử. Nhắc lại lúc Bồ-tát nhiếp tâm chánh niệm, xuất sinh từ hông bên phải của Thánh mẫu Ma-da tại vườn Lam-tỳ-ni, thuộc thành Thiên tý. Ngài phóng đại quang minh soi khắp cả thế giới, quả đất sáu thứ chấn động và xuất hiện mười điềm lành. Bấy giờ, chư Thiên, Thần tiên cõi Địa cư thấy những hiện tượng lạ này, rất đỗi vui mừng không thể tự kềm chế, cất tiếng hoan hô: “Ngày nay Bồ-tát đản sinh trong vườn Lam-tỳ-ni dưới cõi Diêm-phù-đề, ngài đem lại đại an lạc cho tất cả người trời trong thế gian, ngài làm ngọn đuốc lớn, chiếu tan bóng tối hắc ám vô minh của tất cả chúng sinh”. Lúc ấy, bốn vị Thiên vương nghe tiếng tán thán của chư Thiên thần tiên dưới cõi trời Địa cư. Cõi trời này họ cùng nhau truyền miệng, vui mừng vung múa, cất tiếng hô to: “Bồ-tát đản sinh, đem lại ánh sáng an lạc cho tất cả chúng sinh thế gian”. Chư Thiên cõi trời Đao-lợi nghe tiếng tán thán từ cõi trời Tứ-thiên cũng rất đỗi vui mừng. Như vậy cho đến chư Thiên cõi trời Dạ-ma nghe tiếng tán thán từ cõi trời Đao-lợi. Cho đến cõi trời Đâu-suất nghe tiếng tán thán từ cõi trời Dạ-ma. Chư Thiên cõi trời Hóa lạc nghe tiếng chư Thiên cõi trời Đâu-suất. Chư Thiên cõi trời Tha hóa tự tại nghe tiếng tán thán từ cõi Hóa lạc. Lần lượt chuyển tiếp cho đến cõi Phạm thiên Sắc giới nghe tiếng tán thán của chư Thiên từ cõi Tha hóa tự tại. Chư Thiên cõi trời Phạm chúng nghe tiếng tán thán từ cõi Phạm thiên. Chư Thiên cõi trời Phạm phụ nghe tiếng tán thán từ cõi trời Phạm chúng. Chư Thiên cõi Đại phạm nghe tiếng tán thán từ cõi trời Phạm phụ. Chư Thiên cõi Quang thiên nghe tiếng tán thán từ cõi trời Đại phạm. Chư Thiên cõi trời Thiểu quang nghe tiếng tán thán từ cõi trời Quang thiên. Chư Thiên cõi Vô lượng quang nghe tiếng tán thán từ cõi trời Thiểu quang. Chư Thiên cõi Quang âm nghe tiếng tán thán từ cõi Vô lượng quang. Chư Thiên cõi Tịnh thiên nghe tiếng tán thán từ cõi Quang âm. Chư Thiên Thiểu tịnh nghe tiếng tán thán từ Tịnh thiên. Chư Thiên Vô lượng tịnh nghe tiếng tán thán từ cõi Thiểu tịnh. Chư Thiên cõi Biến tịnh nghe tiếng tán thán từ cõi Vô lượng tịnh. Chư Thiên cõi Quảng thiên nghe tiếng tán thán từ cõi Biến tịnh. Rồi từ cõi Quảng thiên đến cõi trời Thiểu quảng, từ cõi Thiểu quảng đến cõi trời Vô lượng quảng, từ cõi trời Vô lượng quảng đến cõi trời Quảng quả, từ cõi Quảng quả đến cõi Nhiệt thiên, từ cõi Nhiệt thiên đến cõi trời Vô nhiệt, từ cõi trời Vô nhiệt đến cõi trời Vô tỷ, từ cõi trời Vô tỷ đến cõi trời Thiện hiện. Từ cõi trời Thiện hiện như vậy lần lượt tiến đến cõi trời Sắc cứu cánh chỉ trong thời gian chớp nhoáng. Tất cả chư Thiên đều xướng lên: –Ngày nay Bồ-tát đản sinh nơi thế gian, Ngài đem lại cho trời người an lạc vô biên. Ngài làm ngọn đèn lớn chiếu phá màn vô minh hắc ám cho chúng sinh. Bấy giờ Tiên nhân A-tư-đà đang tịnh tu tại cung trời Đao-lợi, thấy chư Thiên cõi trời này vui mừng hớn hở không giữ được vẻ bình thường, hoặc vung múa y phục, hoặc cất tiếng ca ngợi vang dội như đã nói trên. Tiên nhân hỏi chư Thiên: –Này các nhân giả Đại đức cõi trời Đao-lợi, ngày nay tại sao các ngài vui mừng hớn hở tràn ngập tâm can, không thể kềm chế được, đến nỗi miệng hoan hô, tay vung múa áo mũ? Chư Thiên cõi Đao-lợi đáp: –Này Tiên nhân A-tư-đà, Đại đức không nghe sao! Ngày nay nơi nhân gian, dưới cõi Diêm-phù-đề, ngay phía bắc Tuyết sơn, có một kinh đô thuộc dòng họ Thích tên là Ca-tỳ-la, đặt dưới sự thống trị của Đại vương Tịnh Phạn, đệ nhất Phu nhân của nhà vua sinh một Thái tử dung mạo cực kỳ tuấn tú, khả ái tuyệt vời, thân như vàng ròng, đầu tròn như chiếc lọng, mũi cao tròn thẳng, hai tay dài quá gối, hình thể đoan nghiêm, sáu căn hoàn hảo, bất cứ một bộ phận nào trên cơ thể cũng đều tuyệt đẹp, giống như pho tượng vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng Đại Trượng phu và tám mươi vẻ đẹp. Này Đại tiên, Thái tử ở trong thế gian, đối với tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn… chứng được các phép thần thông, quyết định sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi Ngài thành Phật, nhất định sẽ chuyển pháp luân Vô thượng thanh tịnh, tuyên dương chánh pháp: Sơ thiện, Trung thiện, Hậu thiện, đều là pháp môn bí mật, nghóa lý thâm diệu, thanh tịnh Phạm hạnh. Tất cả chúng sinh do trong khi nghe thuyết pháp: Hoặc có chúng sinh còn nghiệp sinh thì dứt hẳn nghiệp sinh. Hoặc có chúng sinh nào còn thọ cảnh già nua, thì dứt cảnh già nua. Hoặc chúng sinh nào còn thọ bệnh tật, thì dứt hẳn không còn bệnh tật. Hoặc chúng sinh nào còn thọ cảnh đau khổ chết chóc, thì dứt hẳn cảnh đau khổ chết chóc. Tất cả ưu sầu khổ não đều được đoạn trừ, tiêu diệt tận gốc rễ. Tiên A-tư-đà nghe rồi sinh tâm kính tín, liền ẩn thân nơi cung trời Đao-lợi, hiện xuống nhân gian nơi rừng Tăng trưởng. (Lúc bấy giờ lại có một thuyết cho: Phía Nam nước Ấn Độ thuở ấy, có một thành tên là Ưu-thiền-da-ni, cách thành này chẳng bao xa có một núi tên là Tần-đà, trong núi này lại có một ngọn núi tên là A-tư-đà, lúc ấy có một Tiên nhân tu trong núi A-tư-đà, người đời lấy tên núi đặt tên Tiên nhân là A-tư-đà). Khi Tiên nhân từ trời Đao-lợi giáng xuống núi này có đem theo một thị giả tên là Na-la-đà. Từ núi này hai thầy trò ẩn thân bay trong hư không đến thành Ca-tỳ-la, khi gần đến thành, Tiên nhân hạ xuống đứng suy nghó: Ngày trước ta đến thành này, nghe các vị Quốc sư và các thầy Bà-la-môn tiên đoán: “Đại vương sẽ sinh được Đồng tử Bồ-tát, Đồng tử này là bậc Đạo sư của trời người. Ta chẳng nên xem thường, lẽ nào ngày nay ta hiện thần thông vào thành Ca-tỳ-la. Tại sao? Vì thành Ca-tỳ-la ngày nay chẳng giống như thành Ca-tỳ-la thuở trước. Vậy hôm nay nếu vào thành, để tỏ lòng tôn kính Đồng tử như thờ bậc Thánh tối tôn, ta cần phải có một cung cách khác.” Tiên nhân A-tư-đà và thị giả Na-la-đà đồng đi bộ theo một lối nhỏ vào thành Ca-tỳ-la, trong tâm chỉ nghó muốn thẳng đến cung vua Tịnh Phạn nơi ngài đang ngự. Khi đến trước cửa cung nhà vua, Tiên nhân mới thấy khắp mọi nơi trong thành Ca-tỳ-la, dân chúng đông đúc náo nhiệt, hầu như không có một nơi nào vắng bóng người, họ tổ chức quang cảnh nội thành thật trang nghiêm để tỏ lòng kính mừng Thái tử Bồ-tát. Mọi người thấy Tiên nhân A-tư-đà đi bộ vào thành bằng một con đường nhỏ hướng thẳng về cửa cung, họ liền đổ xô về phía Tiên nhân, và rất ngạc nhiên, không biết lý do gì ngài xuất hiện nơi đây? Mà không dám thưa hỏi. Cũng trong lúc này nơi thành nội: Hoặc có người đứng trước cửa nhà mình, hoặc có người đứng nơi cửa sổ, hoặc có người tựa lan can, hoặc có người đứng trên đài cao, hoặc có người đứng trên lầu, họ đều đưa mắt về phía Tiên nhân cùng nói với nhau: “Thuở trước vị Tiên nhân này đến thành Ca-tỳ-la, vận sức Đại thần thông, đằng vân đến vương cung Đại vương Tịnh Phạn, không biết vì lý do gì ngày nay lội bộ đến vương cung?” Đại tiên A-tư-đà đến trước cửa cung nhà vua rồi, nói với người giữ cửa: –Ta là Bà-la-môn kỳ cựu từ trước còn lại thuộc hàng tổ phụ, và đây là Đồng tử Na-la-đà vừa lên tám tuổi là đệ tử của ta, ngày nay ta già nua lại đi bộ đến đây như kẻ thiếu niên tuổi độ đôi mươi, người có thể vì ta vào tâu giùm với Đại vương Tịnh Phạn? Người giữ cửa thưa: –Y như lời Tôn giả dạy, tôi xin phụng lệnh. Rồi tên giữ cửa tiến thẳng vào nội cung, khép nép bước đi chậm rãi, tiến đến trước mặt Đại vương kính cẩn tâu mọi sự. Nhà vua nghe qua, tâm hết sức kính ngưỡng, vui vẻ vô cùng, liền đứng dậy bảo người giữ cửa: –Người mau mau đưa Tiên nhân đến đây không được chậm trễ. Người giữ cửa trở lại chỗ Tiên nhân thưa: –Bạch Đại tiên, thật đúng lúc, xin mời ngài vào trong cung. Đại tiên A-tư-đà nghe rồi liền cùng thị giả Na-la-đà đồng vào cung vua Tịnh Phạn. Đại vương Tịnh Phạn từ nơi chánh điện trông thấy Đại tiên A-tư-đà chậm rãi bước vào, khi gần đến, Đại vương đứng dậy tiến đến cung kính nghinh tiếp Đại tiên, Đại vương đưa hai tay xuống dưới nách Đại tiên dìu người đến bảo tòa tốt đẹp cao quý nhất mời an tọa, an tọa xong nhà vua lễ bái Đại tiên và thưa: –Trẫm nay cung kính lễ bái Tôn giả. Đại tiên đáp lễ, liền cầu chúc: –Xin cầu nguyện Đại vương thường được an lạc. Đại vương hỏi: –Bạch Đại tiên, ngày nay ngài cần những gì mà cực nhọc từ xa đến đây? Ngài cần y phục chăng? Hay cần vật thực chăng? Hay cần những nhu cầu gì khác? Xin ngài cứ nói, trẫm đây sẽ cung cấp đầy đủ, hoàn toàn không trái ý. Tiên nhân A-tư-đà lại tâu: –Xin Đại vương biết cho, ngày nay hạ thần đến đây, không thiếu thốn một vật gì. Không phải cầu y thực, tôi không cần một vật gì cả. Ngày nay tôi đến đây chỉ vì muốn chiêm ngưỡng dung nhan tối thắng của Thái tử, cúi xin Đại vương cho tôi được gặp Thái tử Thiện thắng của ngài. Đại vương đáp: –Xin Tôn giả Đại tiên thông cảm đợi cho chốc lát, vì hiện giờ Đồng tử đang nằm ngủ trên bảo tọa còn ngon giấc, dường như chưa thức dậy. Tiên nhân A-tư-đà liền tâu: –Xin Đại vương chớ nên nói lời như thế, chớ nói rằng Bồ-tát còn đang ngủ. Vì sao? Vì chúng ta tuy đang thức mà cũng như người ở trong mộng. Còn Thái tử của Đại vương đã trừ diệt sự hôn trầm ngủ nghỉ từ lâu, lẽ nào ngày nay Ngài còn ngủ nghỉ. Ngày đêm Ngài luôn luôn lo đem lại sự an lạc lợi ích lớn lao cho chúng sinh mà thường ở trong định đó thôi. Khi đại vương biết gần đến giờ Đồng tử thức dậy, liền vào nội cung ra lệnh: –Rưới nước quét dọn sạch sẽ, rồi dùng dầu thơm và hoa tươi rải trên mặt đất. Phòng xá cung điện đều được trang trí: Lư hương xông các danh hương đặt khắp mọi nơi, lại treo các phướn lọng bằng lụa cùng các dây lèo tua tủa, với những tràng phan bằng ngọc quý, hoặc treo các chuỗi anh lạc, mành lưới bằng trân châu, những chuông rung bằng vàng treo úp xuống, xen lẫn các thứ bảo vật giống như ánh sáng mặt trời mặt trăng và các vì sao nhấp nháy, lại treo những y phục quý giá, giống như chư Thiên mang chuỗi anh lạc và cầm hoa bay trên hư không, lại treo vải nhiều màu sặc sỡ: Đỏ, vàng, hồng, tía… Dùng bao nhiêu thứ tốt đẹp như vậy trang trí cung điện hết sức trang nghiêm, giống như thành Càn-thát-bà. Nhà vua cho mời các vị tôn túc, kỳ hào, trưởng lão có đầy đủ oai đức, thuộc hai bên nội ngoại dòng họ Thích đồng vân tập nội cung, còn Đại vương thì đứng một bên với Ma-da phu nhân. Lúc ấy Ma-da bước đến chỗ Đồng tử, tới nơi Hoàng hậu dùng tay nâng đầu Đồng tử xoay về hướng Đại tiên nhưng do oai đức Đồng tử, nên thân Đồng tử tự xoay trở lại, chân vẫn hướng về Đại tiên. Đại vương thấy vậy lại phụ giúp Hoàng hậu xoay thân Đồng tử cho đầu hướng về phía Đại tiên để tỏ lòng lễ bái người. Nhưng cũng do oai thần của Đồng tử tự xoay trở lại, chân vẫn hướng về phía Đại tiên. Đại vương Tịnh Phạn cũng xoay như vậy đến ba lần mà vẫn không được. Đại tiên A-tư-đà ngồi từ xa trông thấy oai thần thế lực của Đồng tử, đồng thời ánh thường quang của Đồng tử chiếu khắp cõi đại địa, tôn nhan đoan chánh khả kính, thân toàn một màu vàng, đầu tròn như chiếc lọng, mũi cao tròn thẳng, tay duỗi dài quá gối, các lóng đốt ngay thẳng cân xứng, hoàn toàn tốt đẹp, Tiên nhân liền đứng dậy bạch: –Xin Đại vương chớ xoay đầu Thánh Đồng tử hướng về phía tôi. Tại sao? Vì đầu của Đồng tử lễ dưới chân tôi thì không đúng phép, đầu tôi phải đảnh lễ dưới chân Đồng tử. Tiên nhân lại nói tiếp: –Ít có thay! Ít có thay! Bậc Đại nhân xuất thế. Thật hết sức hy hữu! Bậc Đại nhân xuất thế. Khi tôi ở trên cung trời Đao-lợi, nghe chư Thiên nói về Đồng tử, quả Đồng tử này đúng như lời chư Thiên nói không khác. Lúc ấy, Tiên A-tư-đà chỉnh đốn y phục, trịch áo vai bên phải, đầu gối bên phải quỳ sát đất, đưa hai bàn tay bồng lấy Đồng tử để trên đầu rồi trở về chỗ ngồi. Tiên nhân ngồi xuống, hai bàn tay từ từ đưa Đồng tử từ trên đầu mình đặt trên hai đầu gối. Quốc đại phu nhân Ma-da thưa cùng Đại tiên A-tư-đà: –Xin Nhân giả tôn sư để cho Đồng tử lễ dưới chân Đại tiên. Tiên A-tư-đà đáp: –Thưa Quốc đại phu nhân, xin lệnh bà chớ nói lời ấy. Nay Đồng tử không nên lễ tôi, mà tôi cùng tất cả trời, người trong thế gian phải lễ bái sát dưới chân Đồng tử. Lúc ấy đại vương Tịnh Phạn cho người mang nhiều thứ trân bảo quý giá cúng dường Đại tiên A-tư-đà. Đại tiên lấy nước rửa sạch hai tay để nhận vật cúng dường của nhà vua. Tiên nhân nhận lấy đồ cúng rồi, lại đem hiến dâng cho Đồng tử. Đại vương bạch Đại tiên: –Thưa Tôn giả, trẫm đem vật này cúng cho Tôn giả, cúi xin ngài mẫn nạp, tại sao ngài lại cúng cho Đồng tử? Đại tiên A-tư-đà đáp: –Nay Đại vương cúng thí cho hạ thần, hạ thần cúng dường Đồng tử, Đấng tối thắng. Đại vương lại bạch: –Trẫm biết Đại tiên là ruộng phước vô thượng nên đem cúng dường cho Đại sư, xin thọ nhận. Đại tiên lại đáp: –Tâu Đại vương, hạ thần may gặp được nhân duyên tối thắng, nên đem cúng dường cho Đồng tử. Đại vương Tịnh Phạn bạch: –Thưa Tôn giả Đại thánh, nay trẫm không hiểu được ý của Tôn sư. Đại tiên lại đáp: –Đại vương phải biết, ngày nay hạ thần đem hết thân tâm quy phục Đồng tử. Đại vương hỏi: –Vì nhân duyên gì, xin Đại tiên giải thích cho. Đại tiên A-tư-đà giải thích: –Xin Đại vương chú ý lãnh hội, hạ thần sẽ vì Đại vương trình bày đầy đủ một cách mạch lạc. Đại vương phải biết, trước đây hạ thần đang tịnh tu, hành đạo tại cung trời Đao-lợi, bỗng nhiên một hôm nọ, thấy chư Thiên cõi trời này vui mừng hớn hở tràn ngập tâm can không tự kềm chế được, họ vui đùa nhảy múa, tung áo mão tươi cười hớn hở. Lúc ấy hạ thần hỏi chư Thiên: –Thưa các nhân giả, vì sao mà các ngài vui đùa hớn hở không thể tự chế, vung áo mão nhảy múa vui chơi như vậy? Chư Thiên Đao-lợi đáp: –Này Đại đức Tiên nhân, sao ngài chẳng biết, nay phía Bắc dưới chân Tuyết sơn nơi trần thế, có một kinh thành thuộc dòng họ Thích tên là Ca-tỳ-la. Vị vua đóng đô ở thành này tên là Tịnh Phạn, vị Đại đệ nhất Phu nhân của nhà vua sinh được một Đồng tử, hình dung tuấn tú khả ái, thân như vàng ròng, đầu tròn, mũi thẳng, hai chân đầy đặn, tay dài quá gối, chẳng khác nào pho tượng bằng vàng, đầy đủ ba mươi hai tướng Đại nhân và tám mươi vẻ đẹp, ai ai cũng thích chiêm ngưỡng. Đồng tử nhất định sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành Phật, Ngài sẽ chuyển Pháp luân vô thượng thanh tịnh. Tướng mạo của Đồng tử như vậy, quyết định thành Phật không nghi. Ngày ấy Đồng tử dùng thần lực biết căn tánh tất cả chúng sinh: Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Tùy mỗi chúng sinh Ngài giảng các pháp tướng… cho đến lược nói các thứ khổ não, những chúng sinh có thể giải thoát đều được giải thoát. Này Đại vương, hạ thần nghe nói như vậy, nên mới đến đây quán sát dung nhan Đồng tử hư thật thế nào. Đại vương Tịnh Phạn lại nói: –Thưa Đại tiên, nếu thật vậy, ngài đã thương xót đến trẫm và Đồng tử, đem đến cho trẫm nhiều điều lợi ích, không còn gì phải ưu tư. Nhưng Đồng tử lại có pháp gì vượt qua bốn chủng hạnh, vượt qua bốn hạnh này mới là Bậc tối thắng. Nay Đồng tử đã sinh ra trong nhân gian, làm sao tương lai sẽ đắc đạo Vô thượng? Đại tiên A-tư-đà lại tâu: –Xin Đại vương phải biết ở khắp nơi, tất cả những vị Bà-la-môn, có tài năng vượt trội nào cũng được nhiều người biết đến. Đại vương lại hỏi: –Trẫm nay ở trước Đại tiên, xin ngài vì trẫm giải thích rõ ràng, trẫm nay muốn nghe. Đại tiên A-tư-đà đáp: –Tâu Đại vương, như hạ thần này được thừa hưởng kinh luận của chủng tộc Bà-la-môn để lại, như trong bốn kinh Tỳ-đà có nói: Ở đời quá khứ, có một vị Bà-la-môn tên là Củ Dương, lại có một vị Bà-la-môn khác tên là Bạt-ca-lợi, lại có một Bà-la-môn khác tên là Bạt-già-bà, lại có một Bà-la-môn khác tên là Mạt-đàn-địa, lại có một Bà-la-môn khác tên là Ca-tra Ra-lî, lại có một Bà-la-môn khác tên là Ban-thích Thi-khí. Các vị Bà-la-môn này đều học phép kế toán của vua A-tu-la hết sức uyên thâm. Lại có Tiên nhân tên là A-đế Lợi-da, lại có một ông vua tên là Bát-ra-ma-đàn-na, lại có ông vua tên là Xà-na-ca. Những người này đều được pháp diệt khổ về thân. Đại vương phải biết, các vị ấy như vậy! Nay Đồng tử tuy sinh trong nhân gian mà vượt lên trên mọi người, được pháp hơn người. Này, lại nữa Đại vương, thuở quá khứ có một vị vua tên là Bà-già-la, có thể chạy qua trên ngọn sóng to như núi nơi biển cả; tổ phụ của nhà vua vô cùng khó khăn còn không thể vượt qua, mà chính bản thân nhà vua qua được. Này Đại vương, những vị như vậy tuy sinh trong nhân gian mà có oai đức lớn, do oai đức này mà các vị vượt lên trên trời, người. Đại vương Tịnh Phạn nói với Tiên nhân: –Đúng như lời Tôn sư nói, trẫm đây không phải không tin, nhưng tâm trí trẫm nhỏ hẹp, nghe nói như vậy lòng sinh kinh sợ. Đại tiên nói: –Có lẽ trong tâm Đại vương còn hồ nghi điều gì chăng? Xin Đại vương cứ bày tỏ, hạ thần sẽ sẵn sàng giải thích. Đại vương bạch: –Thưa Đại tiên, trẫm thật hoài nghi, như thuở xưa có các vị vua: Điều-phù, Đa-la-cầu, Tri-ly-bà, Đạt-ly-ba. Các vị vua chưa từng được thấy, chưa từng được biết các pháp giải thoát cho chúng sinh. Tại sao Đồng tử trẫm lại thấy được, biết được việc này? xin Đại tiên nói rõ nguyên nhân. Tiên A-tư-đà lại đáp: –Hạ thần cũng biết Đại vương nghi hoặc như vậy, không phải không có lý do. Vì sao? Vì Đại vương chỉ nghe người ta nói, rồi dùng tâm nhận định suy tính chấp lấy, tự sinh nghi ngờ. Phàm sự hiểu biết các vua đời trước hay đời sau, hoàn toàn nhất định không giống nhau. Này Đại vương, Vương tử, Phụ vương và Tiên vương hơn kém không đồng. Đại vương không nên chấp lấy một dòng họ nào cho là dòng họ thù thắng, cũng không nên lấy một người nào cho là siêu việt, cũng không được cho kẻ sinh trước là hơn, người sinh sau là kém, vì có kẻ sinh sau hơn người sinh trước. Này Đại vương, ví như khi rạng đông, trước tiên ta chỉ thấy ánh tán quang của mặt trời xuất hiện, rồi sau đó mặt trời mới mọc. Xét về ánh sáng lúc rạng đông chưa được sáng tỏ, sau khi mặt trời ló dạng, ánh sáng mới chiếu sáng khắp cõi đại địa, làm sáng tỏ tất cả chỗ tối tăm không bỏ sót một nơi nào. Bạch Đại vương, người trong thế gian cũng vậy, có lúc con cháu giỏi hơn cha ông. Đại vương bạch Đại tiên: –Thưa Đại đức Tôn sư, ngài khéo dùng thí dụ để chứng minh làm cho tâm trẫm sáng tỏ, diệt mọi nghi ngờ, sinh tâm an ổn, Đại tiên Tôn sư khéo nhiếp thọ trẫm. Đại tiên A-tư-đà tâu: –Tâu Đại vương, xin ngài phải biết, hạ thần nay quá già yếu, ngày tàn của cuộc đời chẳng bao lâu! Ngày nay Đồng tử còn tuổi thơ ấu, rồi trải qua năm tháng trưởng thành, sức lực đầy đủ, khi đó Đồng tử xuất gia vào trong rừng núi tu tập. Hận vì hạ thần tuổi già, không còn sống để chiêm ngưỡng Tôn nhan ngày Ngài thành đạo. Vua Tịnh Phạn lại bạch Tiên nhân: –Này Tôn sư Đại tiên, ngày nay Đồng tử nhất định xuất gia sao? Tiên nhân đáp: –Tâu Đại vương, điều này không còn gì để nghi ngờ nữa. Lúc đó Đại vương đưa mắt nhìn vào mặt Quốc sư. Tiên nhân hiểu ý hỏi: –Trong tâm Đại vương muốn nói gì chăng? Đại vương nói: –Này Tôn giả Đại tiên, các Quốc sư Bà-la-môn này từng nói với trẫm: Mai sau Đồng tử sẽ làm Chuyển luân thánh vương. Tiên A-tư-đà lại tâu: –Tâu Đại vương, đúng y như lời của hạ thần nói, hoàn toàn không có giả dối, những gì hạ thần nói ngày hôm nay đều là lời nói chí chân thành thật. Đại vương nghe lời khẳng định như vậy liền bạch: –Này Đại đức Tôn sư, nếu quả đúng như vậy lại càng khiến cho tâm trẫm thật u sầu, tim như dao cắt, ruột gan rối loạn! Đại tiên lại tâu: –Đại vương là bậc trí tuệ không nên nói lời như vậy, ông bà tổ tiên nhiều đời của Đại vương ở trong quá khứ đã trồng nhiều thiện căn nhân duyên công đức phước nghiệp, nên ngày nay Đồng tử mới thác sinh vào vương cung, để đưa chúng sinh qua đến bờ giải thoát. Đâu chỉ vì cai trị dân chúng, quốc gia an lạc mới là con của Đại vương. Đại vương lại nói: –Theo ý trẫm cũng vậy, nhưng phải như thế này: Ngày nay Đồng tử phải nối nghiệp Đế vương, thay sự ưu lo cho trẫm mà gánh vác trọng trách quốc gia, trẫm đến tuổi già, xuất gia vào núi sẽ tu Tiên đạo cổ truyền. Đại vương lại nói: –Này Tiên nhân Đại tiên, ý trẫm muốn Đồng tử ngay từ hôm nay mãi cho đến về sau không bao giờ lìa xa trẫm, ngài có cách gì chăng? Tiên nhân A-tư-đà lại tâu: –Tâu Đại vương, hạ thần luôn luôn quyết định không bao giờ nói những lời cản trở xuất gia như vậy. Đại vương Tịnh Phạn lại nói: –Xin Đại sư để ý nghe cho, trẫm ngày nay sẽ dùng mọi cách khiến cho Đồng tử ta, ngay từ nay còn ấu thơ cho đến lúc trưởng thành không bao giờ tạm xa lìa ta, huống nữa là xuất gia. Tiên A-tư-đà liền hỏi: –Tâu Đại vương, ngày nay ngài căn cứ vào nhân duyên gì mà nói như vậy? Đại vương lại đáp: –Này Tôn sư phải biết, tất cả các tướng sư Bà-la-môn trong nước trẫm đều nói: Nếu Đồng tử này ở tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương. Do nhân duyên ấy mà trẫm mới nói lời như vậy. Tiên A-tư-đà lại bạch: –Xin Đại vương phải biết, các tướng sư đó đều là Đại vọng ngữ. Vì sao? Những tướng thù thắng như vậy không phải là tướng Chuyển luân thánh vương. Nay Đồng tử đều có đầy đủ một trăm tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp tuyệt vời hết sức rõ ràng. Đại vương hỏi: –Bạch Đại-tiên, tám mươi vẻ đẹp của Đồng tử là những tướng như thế nào? Tiên nhân A-tư-đà tâu: –Đại vương phải biết, ngày nay Đồng tử có tám mươi vẻ đẹp, hạ thần xin kể đầy đủ như sau: Lòng bàn tay có vằn kim cang. Móng tay mềm mỏng. Móng tay sắc đỏ hồng như lá đồng mỏng. Móng tay đều ướt mịn. Màu sắc ngón tay tuyệt đẹp. Các ngón tay thẳng. Các mắt cá không lòi ra. Hai đầu gối tròn trịa, rất trơn láng. Đi đứng ung dung, bước đi chậm rãi. Đi như sư tử chúa đi. Đi như trâu chúa đi. Đi như ngỗng chúa đi. Đi bộ chậm rãi thong thả như vòng tai. Đi bộ chậm rãi dường như đứng yên. Thân mình ngay thẳng. Thân thể mềm mại. Thân thể trơn láng. Làn da trên thân không nhám. Trên thân tỏa ra mùi thơm đặc biệt. Làn da trên thân không ai đẹp bằng. Làn da trên thân đầy đặn. Đốt lóng trên thân phân minh rõ ràng. Làn da trên thân tươi sáng giống như vua trời Đại phạm. Làn da trên thân không nhăn. Làn da trên thân trong sạch, không có đen nám. Thân không có các bệnh. Thân thể tròn đầy bậc nhất. Bảy nơi trên thân đều toàn vẹn. Trên thân đầy đủ các vẻ đẹp. Khắp trên thân đều đoan chánh. Các cơ quan bài tiết trên thân đều thanh tịnh. Thân được tối thắng không dơ bẩn, các lông trong sạch. Trên thân không bài tiết đồ dơ bẩn mà tiết ra các chất thanh tịnh. Thân luôn luôn có hào quang rộng một tầm. Eo thắt lưng hõm như chiếc cung. Da bụng không nhăn. Rún sâu kín rất đẹp. Rún tròn trịa không méo lệch. Rún giống như bánh xe. Rún xoáy về bên hữu rõ ràng. Bàn tay không nhám không rít. Bàn tay mềm dịu như bông gòn. Đường nét trong lòng bàn tay sâu đậm. Chỉ bàn tay như bức họa rõ ràng, mềm mại mịn sạch. Chỉ bàn tay không rối rắm. Bàn tay đường nét phân minh thứ lớp. Cổ tay rộng dài. Đầu như xương mắt cá. Môi, miệng đỏ như quả Tần-bà-la. Vẻ mặt trầm tónh. Lưỡi dài mỏng, đỏ như lá đồng. Tiếng nói nghe xa nhưng trong trẻo. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706239">QUYỂN 10 <詞 id="48706240">Phẩm 8: TƯỚNG SƯ XEM TƯỚNG (Phần 2) Tiếng nói âm điệu trầm bỗng trong trẻo, vang rất xa. Bốn răng cửa lớn trội. Vành răng sắc bén. Răng không thiếu, không mẻ. Mũi tròn thẳng như chim Anh võ. Lông mi đều nhau, kín đáo. Trái tai dày, thòng dài. Tai không cong méo. Tai không nhám rít. Con mắt không suy giảm. Mắt không tật bệnh. Các căn tịch định. Khuôn mặt đẹp đẽ không ai hơn. Tóc thuần một màu xanh biếc. Tóc mướt óng. Tóc không nhám rít. Tóc mọc dày mà không rối. Tóc dài đều đặn. Tóc không thưa, không loang lỗ. Tóc xoáy thành búi nhỏ. Tóc xoắn về phía bên hữu theo hình chữ Vạn. Nhục kế trên đầu nổi lên hình đỉnh núi. Xương sọ và xương trán bền chắc. Đảnh đầu dùng sức người hay phi nhân không thể đập vỡ được. Đảnh đầu vòi vọi, rất cao, mắt người không trông thấy. (nguyên bản thiếu ba vẻ đẹp). Tâu Đại vương, nếu người nào thân thể đầy đủ ba mươi hai tướng Đại Trượng phu, lại có tám mươi vẻ đẹp như vậy, thì người này nhất định sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành Phật sẽ chuyển Pháp luân Vô thượng tối diệu. Đại tiên A-tư-đà vì Đại vương kể tám mươi vẻ đẹp, rồi lại suy nghó: “Nay Đồng tử này chẳng bao lâu sẽ xuất gia tu tập chứng thành Phật quả, rồi chuyển Pháp luân tối thắng vi diệu”. Đang khi suy nghó, tự phát sinh trí tuệ liền biết được: “Ba mươi lăm năm sau kể từ nay trở đi, Đồng tử này sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, rồi chuyển Pháp luân vô thượng tối thắng”. Lúc đó, do Tiên nhân chuyên tâm chánh niệm, lại thấy các căn của cơ thể mình suy thoái, rồi tự quở trách, thốt lời ta thán: –Ôi thôi! Ta ngày nay sống ngoài giáo pháp của Đồng tử, chẳng được nghe lời giáo hóa của Ngài. Quán tưởng như vậy, rồi buồn khóc thành tiếng! Nghẹn ngào nức nở, nước mắt ràn rụa trên mặt. Vua Tịnh Phạn thấy Tiên nhân kêu khóc áo não, cầm lòng không được nên cũng buồn thương cất tiếng khóc òa. Hoàng hậu Ma-da thấy cảnh như vậy sụt sùi rơi lệ, tất cả đại thần quyến thuộc dòng họ Thích cảm xúc đều cất tiếng khóc vang, tất cả kẻ lớn người nhỏ trong cung đều buồn khóc, nước mắt như mưa. Đại vương Tịnh Phạn nước mắt nước mũi đang ràn rụa cả mặt mày, bạch Tiên nhân A-tư-đà: –Này Đại đức Tôn sư, ngày đản sinh Đồng tử, trong hoàng tộc Thích cũng sinh năm trăm đồng tử, rồi nhà vua kể sơ lược cho đến năm trăm đồng nữ, năm trăm tôi trai, năm trăm tớ gái, năm trăm ngựa tốt, năm trăm voi trắng sáu ngà đồng ngày đó tập trung trước cửa cung điện, năm trăm kho tàng tự nhiên xuất hiện, năm trăm hoa viên cũng tự nhiên xuất hiện khắp bốn mặt thành Ca-tỳ-la, năm trăm thương gia mang của cải từ phương xa đến thành Ca-tỳ-la, rồi lại có các vua lân bang đều đến quỳ lễ và hiến dâng năm trăm tàn lọng và năm trăm bình bằng vàng, rồi các vị Trưởng giả, Bà-la-môn, Sát-đế-lợi đem hiến dâng một vạn đồng nữ để cho ta sử dụng. Này Đại tiên Tôn sư, ngày sinh ra Đồng tử, đối với tất cả những gì trong tâm ta mong muốn đều được thành tựu một cách viên mãn. Khi ấy ta mời các vị tướng sư Bà-la-môn danh tiếng trong nước tập trung về hoàng cung để bàn giải tướng kiết hung. Các Quốc sư sau khi quan sát dung mạo Đồng tử, họ đều vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, không thể kềm chế được. Duy nhất chỉ một mình Tôn sư ngày nay thấy Đồng tử lại buồn khóc rơi lệ là lý do gì? Làm cho trẫm và quyến thuộc sinh tâm lo sợ, xin Đại sư vì trẫm giải bày. Hay là Đồng tử ta gặp tai họa chẳng lành gì chăng? Tai họa tự thân Đồng tử phát sinh hay từ ngoài đưa đến? Đại tiên A-tư-đà thấy Đại vương Tịnh Phạn nước mắt loang lổ trên đôi gò má buồn rầu lo lắng, liền tâu Đại vương: –Tâu Đại vương, ngày nay ngài chẳng nên buồn rầu áo não. Vì sao? Vì hạ thần chẳng phải thấy Đồng tử có tai họa biến đổi gì, cũng chẳng phải thấy các khổ não trên nhục thân, hay những việc chẳng lành từ bên ngoài đưa đến cho Đồng tử. Xin Đại vương phải biết: Đồng tử tuổi thọ lâu dài, có oai đức lớn, thân thể đoan chánh đáng kính yêu, thân như vàng ròng, đầu tròn như tàn lọng, mũi thẳng như ống đồng, da thịt hồng hào, thân hình cân đối, đẹp như tượng vàng, thân có ba mươi hai tướng Đại Trượng phu. Đại vương, Đồng tử lại thêm tám mươi vẻ đẹp vi diệu, những tướng như vậy không phải tướng Chuyển luân thánh vương. Đại vương, những tướng như vậy đều là tướng chư Phật và Bồ-tát. Bạch Đại vương, do hạ thần thấy tướng Đồng tử như vậy, quyết định Đồng tử sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, rồi ngài sẽ chuyển Pháp luân Vô thượng thanh tịnh. Vì tất cả chúng sinh trời, người ở thế gian, ngài thuyết pháp Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện, cho đến thuyết các pháp Phạm hạnh thanh tịnh. Nếu ai nghe được giáo pháp này, kẻ nào lẽ ra bị sinh thì chấm dứt sinh, kẻ nào thọ cảnh già yếu thì đoạn cảnh già yếu, kẻ nào thọ tật bệnh thì hết tật bệnh, kẻ nào gặp cảnh chết chóc thì khỏi chết. Tất cả những lo buồn khổ sở của chúng sinh đều được giải thoát. Bạch Đại vương, hạ thần tự hận mình tuổi già sức yếu, mạng sống chẳng bao lâu, vào lúc ấy không còn để chiêm ngưỡng tôn nhan Đấng Vô Thượng, mất lợi ích lớn lao này, do vậy ngày nay hạ thần buồn khóc là hận cảm thấy mình bị thiệt thòi, chẳng phải Đồng tử có điềm chẳng tốt. Rồi vì Đại vương, Tiên nhân nói kệ: Ta tự hận mắc điều trái ngược, Tuy đời này may gặp được ngài, Nhưng tuổi già các căn suy thoái, Xả báo thân còn chẳng bao lâu, Đâu gặp được ngày Ngài thành đạo. Ta sẽ mất đi lợi ích lớn Uổng một đời pháp chẳng được nghe! Nghó như vậy nửa mừng nửa tủi. Dòng Đại vương hưng thịnh từ đây. Ngài đản sinh, trời, người hưởng phước, Đời ác trược khổ não dày vò, Ngài khiến tất cả đều an lạc. Này Đại vương, vô lượng vô biên chúng sinh khi bị lửa phiền não tham, sân, si thiêu đốt, Ngài sẽ rưới nước pháp cam-lồ vi diệu để dập tắt ngọn lửa phiền não. Khi vô lượng vô biên chúng sinh độc ác rơi vào đầm tà kiến, bị mê hoặc không thấy con đường chân chánh, Ngài sẽ làm vị Hướng đạo sư, chỉ cho con đường tốt rộng rãi bằng phẳng, đi thẳng đến cảnh Niết-bàn. Khi vô lượng vô biên chúng sinh đau khổ, bị giam cầm trong lao ngục phiền não, Ngài sẽ chỉ cho phương pháp tháo mở gông cùm phiền não. Đối với vô lượng vô biên chúng sinh ngu muội ở trong đêm dài tăm tối, bị màn mây che lấp mắt mù, Ngài sẽ vì họ làm phát sinh con mắt đại trí tuệ. Đối với vô lượng chúng sinh thấm độc ô nhiễm, do bị tên độc phiền não bắn nhằm, Ngài sẽ giúp nhổ mũi tên để khỏi đau khổ. Nay hạ thần tuổi đã xế chiều, thân tâm suy bại, nghó đến lúc đó tủi hận không được nghe pháp, vì vậy hạ thần kêu khóc rơi lệ. Tâu Đại vương, thí như hoa Ưu-đàm, vô lượng vô biên ngàn vạn ức năm mới nở một lần. Chư Phật cũng vậy, vô lượng vô biên ngàn vạn ức kiếp mới xuất hiện ở thế gian, rất là khó gặp. Tâu Đại vương, nay Đồng tử quyết định sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, quyết định sẽ chuyển Pháp luân vô thượng, hạ thần bị thiệt thòi không còn để dự vào thời kỳ đó, nay tuy gặp được ngài mà cũng như cách biệt, nghó vậy mà sinh buồn khóc. Tâu Đại vương, chúng sinh lúc ấy được lợi ích lớn, được phước nghiệp lớn. Nếu chúng sinh nào thấy được Đại thánh Đồng tử ở địa phương nọ, thiền tọa dưới gốc cây Bồ-đề hàng phục bốn ma, những chúng sinh đó sẽ được nhiều lợi ích, cuối cùng được Phật độ thoát. Tâu Đại vương, Đại thánh Đồng tử sau khi thành đạo, Ngài lần lần hướng về nước Ba-la-nại, thuyết vô thượng diệu pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, được chứng đạo quả thù thắng. Tâu Đại vương, Đồng tử trang nghiêm thanh tịnh cõi Diêm-phù-đề này, tất cả Thánh nhân Bà-la-môn đều vâng lời dạy bảo của ngài, được chứng quả A-la-hán. Hạ thần nghó như vậy mà buồn khóc. Tâu Đại vương, những chúng sinh đó đã đủ thiện duyên sinh ra làm người, lại may sinh trong thời gian gặp Phật, được nhiều lợi ích, được nhiều phước nghiệp. Kể cả chư Thiên cõi trời Đao-lợi, ngồi trên lầu bảy báu từ Thiên giới giáng xuống, vây quanh Đức Phật nghe thuyết pháp và có vô lượng chúng sinh lễ bái Thế Tôn. Tâu Đại vương, ngài đã trồng nhiều thiện căn nên ngày nay mới được làm thân người, ngài hưởng vô lượng tài lợi và pháp lợi. Khi nhà vua thấy được con mình thành đạo, ở trong trời người thuyết diệu pháp, chừng đó sẽ chứng minh cho lời thần nói, không còn phải nghi ngại.  <詞 id="48706241">Phẩm 9: TIÊN A-TƯ-ĐÀ HỎI ĐIỀM LÀNH Đại vương Tịnh Phạn luôn ở bên Tiên nhân A-tư-đà nghe những lời như vậy, sinh tâm hết sức vui mừng, hoan hỷ bội phần, được điều chưa từng có, khắp thân lông tóc dựng ngược, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, đầu gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Tiên nhân đảnh lễ dưới chân rồi lui về đứng một bên, đem hai mươi bộ y phục thượng hạng cúng dường cho Tiên nhân. Tiên A-tư-đà chọn lấy một bộ mình mặc vừa và chỉ nhận một bộ đó thôi, còn bao nhiêu hoàn lại cho nhà vua và thưa: –Xin Đại vương thông cảm cho, hạ thần là kẻ xuất gia Bà-la-môn, oai đức chẳng bao nhiêu, hơn nữa tu hạnh “Thiểu dục vô cầu” nên cần phải biết vừa đủ. Đại vương là vị Quốc chủ, còn phải ban thưởng rất nhiều chỗ khác, mà của cải dù sao cũng có giới hạn. Như hạ thần này mặc tình thọ dụng thì mình và người không khác. Tâu Đại vương, những điềm lành hy hữu của Đồng tử trong thời gian trước khi đản sinh còn ở trong thai, lẽ ra cũng vô lượng vô biên. Cúi xin Đại vương, có bao nhiêu điềm lạ xin ngài kể hết, đó là đại bố thí, hạ thần sau khi nghe rồi, tâm sinh vui mừng hớn hở tràn ngập tâm can, không thể tự kềm chế được, như vậy là hạ thần nhận được tài bảo vô giá. Đại vương Tịnh Phạn bạch: –Thưa Thánh sư, xin hãy lắng nghe, trẫm sẽ vì Thánh sư thuật lại đầy đủ mọi việc, từ những sự việc hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu trong khi Đồng tử còn ở trong thai, cho đến những hiện tượng kỳ lạ trong lúc đản sinh. Kính bạch Đại tiên, trẫm nhớ một hôm nọ, hoàng hậu Ma-da nằm ngủ trên bảo sàng ở trên lầu cao, sau khi thức dậy bình tónh đến thưa với trẫm: “Xin Đại vương nghe cho điềm chiêm bao của thần thiếp. Nay thiếp đến tâu với Đại vương: Đêm vừa rồi, trong giấc mộng, thần thiếp thấy một con voi trắng sáu ngà, thân trắng, đầu đỏ, sáu ngà bịt vàng, thân thể cân đối tốt đẹp, từ phương Bắc trên hư không giáng xuống đứng trên đất, quỳ mọp bảy vóc sát đất, rồi nhập vào hông bên phải của thần thiếp. Liền sau đó cảm thấy khoái lạc, cảm giác khoái lạc này không có trong thế gian, không thể nào diễn tả được, và hiện giờ đối với các lạc thú trong thế gian, thần thiếp không cảm thấy vui thú, lại cũng nguyện không cùng với Đại vương thọ lạc, tất cả ngũ dục thần thiếp đều nguyện xa lìa.” Bạch Đại tiên Tôn sư, lúc đó trẫm cho mời nhiều vị Bà-la-môn có tài bàn mộng, uyên thâm các kinh điển của các Thánh nhân đời trước để lại. Khi sắc lệnh ban ra cùng khắp trong nước, các Bốc sư tề tựu đông đủ, rồi trẫm mới trình bày mọi việc: Đại phu nhân của trẫm đêm vừa rồi mộng thấy các việc… như đã kể trên. Hậu quả điềm mộng sẽ như thế nào? Xin các vị bốc sư vì trẫm giải bày tường tận. Các bốc sư Bà-la-môn căn cứ vào các kinh điển nói về bàn mộng của các Thánh hiền đời trước mà tâu với trẫm: “Tâu Đại vương, ngày nay rất đáng vui mừng, vì điềm chiêm bao này hết sức tốt đẹp, hết sức an lành, Đại Phu nhân nhất định sẽ sinh quý tử, danh tiếng Thái tử sẽ vang khắp mọi nơi, là Bậc tối tôn trong thiên hạ không ai sánh bằng.” Trẫm nghe lời bàn của các Bốc sư Bà-la-môn như vậy, liền thết đãi cao lương mỹ vị và cung cấp tài vật quý giá cho các vị Bà-la-môn này. Lại một mặt khác, các ngã tư đầu đường, các ngõ hẻm đi vào thôn xóm trong thành đều lập hội Vô già, có bao nhiêu tiền của đều bố thí, ai cần ẩm thực cung cấp ẩm thực, cho đến những vật dụng cần thiết cho cuộc sống, hễ ai cần vật gì, tùy theo đó mà cung cấp một cách đầy đủ. Trẫm đem công đức này hồi hướng cho bản thân Đồng tử. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, có bốn vị Thiên vương đứng bốn góc cung điện để hộ vệ Thánh mẫu. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, Thánh mẫu có cảm giác khoái lạc, thân thể khoan khoái, không một chút mệt mỏi bệnh tật. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, Thánh mẫu luôn luôn giữ gìn tám pháp trai giới, điều phục các căn, không có sân hận. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, Thánh mẫu không có tâm ái dục, cũng chưa từng bị tâm dục bức xúc, thân khẩu chỉ tu các Phạm hạnh thanh tịnh. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, Thánh mẫu không có các khổ về lạnh, nóng, đói, khát… bức xúc. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, có bao nhiêu tiền bạc của cải châu báu, ai cần thứ gì Thánh mẫu đem tâm rộng rãi bố thí một cách hoan hỷ, không có hối tiếc. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, Thánh mẫu thân hình đoan chánh dễ mến, trong thế gian không có người thứ hai, trước khi thọ thai, hình dung tươi đẹp, sau khi thọ thai lại càng tăng gấp bội phần. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, lúc nào Thánh mẫu muốn thấy Đồng tử, liền thấy Đồng tử trong thai tạng, thân thể hồng hào mập tròn, các căn đầy đủ đẹp đẽ dễ thương giống như thấy bóng trong gương. Thánh mẫu thấy rồi nỗi vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, không thể tự kềm chế. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, bất cứ một bệnh nhân nào đến gần Thánh mẫu, Thánh mẫu xoa đảnh đầu bệnh nhân, hay xoa lá cây cỏ đưa bảo bệnh nhân áp lên mình, họ đều được hết khổ, thân không bệnh tật, đều được an lạc. Đại sư, khi Đồng tử còn ở trong thai, có vô lượng vô biên các việc hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu như vậy. Này Đại sư, một hôm nọ trưởng giả Thích Thiện Giác, thân phụ Thánh mẫu Ma-da cho sứ đến tâu với trẫm: “Đại vương biết cho, con gái của hạ thần mang thai Thánh nhi là Bậc tối thắng trong thế gian, oai đức rất lớn, nhưng sau ngày khai hoa nở nhụy rồi, con gái của hạ thần chẳng bao lâu chắc chắn mạng chung, nay ý của hạ thần muốn rước Phu nhân của Đại vương về nghỉ trong vườn Lam-tỳ-ni, để cha con cùng thưởng ngoạn, hy vọng việc này sẽ được Đại vương chuẩn tấu. Cúi xin Đại vương tổ chức tiễn đưa Hoàng hậu hết sức trang nghiêm”. Trẫm nghe qua lời tâu của sứ giả, liền ban sắc lệnh trên con đường từ thành Ca-tỳ-la đến thành Thiên tý, phải cho dọn quét các thứ dơ bẩn, gai góc, sạn sỏi… rồi rưới nước hương thơm, đem các hoa đẹp rải trên mặt đường, tất cả đều phải được sạch sẽ trang nghiêm. Và cũng ra lệnh sắm sửa xa giá để tiễn đưa Phu nhân Ma-da, rồi cho tỳ nữ dùng các thứ hương thơm, tràng hoa tuyệt đẹp để trang điểm cho Thánh mẫu, dùng oai thần thế lực của một Đại vương, cho tất cả thể nữ trong cung hầu hạ trước sau, chung quanh đại bạch tượng của Hoàng hậu, trổi các âm nhạc, đoàn người tiễn đưa hướng về thành Thiên tý của trưởng giả Thiện Giác. Thánh mẫu Ma-da đại phu nhân xa xa trông thấy đoàn người đến nghinh tiếp, phái đoàn đón rước đem theo vô lượng vô biên các món tốt đẹp. Ma-da được phái đoàn nghinh tiếp, rước tận vào hoa viên Lam-tỳ-ni tiêu dao thưởng ngoạn. Một hôm nọ, Thánh mẫu Ma-da đến hoa viên Lam-tỳ-ni thưởng ngoạn cùng với đoàn thể nữ nội cung, tùy tùng hộ vệ tả hữu trước sau, đưa Phu nhân từ bạch tượng xuống, Hoàng hậu ung dung bước đi tuần tự đó đây thưởng thức hoa kiểng, khi đến cây Vô ưu, Thánh mẫu chậm rãi đưa cánh tay phải vịn lấy cành cây đứng nghỉ. Khi ấy Đồng tử ở trong thai tạng, thấy Thánh mẫu đưa tay vin lấy cành cây rồi, ngài đứng dậy chuyên tâm chánh niệm, xuất sinh từ hông bên phải của Thánh mẫu mà thân Thánh mẫu không chút đau nhức, cũng không có một lằn vết gì làm thương tổn. Khi Bồ-tát đản sinh từ hông bên phải Thánh mẫu, thân phóng hào quang sáng chói chiếu sáng khắp thế gian. Những việc hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu của Đồng tử, từ khi ở trong thai cho đến khi xuất sinh là như vậy. Đại sư, Đồng tử từ khi còn ở trong thai không lo lắng ưu sầu, cho đến khi từ trong thai chậm rãi đứng dậy xuất sinh, thân thể trong sáng sạch sẽ, các thứ ô uế như phẩn, tiểu, máu, mủ, đàm dãi… không ảnh hưởng đến thân. Đại sư, khi Đồng tử ở trong thai xuất sinh, tất cả chư Thiên dùng áo Ca-thi-ca quấn kín thân Đồng tử, bồng bế giữ gìn, hướng đến trước mặt Thánh mẫu thưa: “Đại đức phu nhân, nay ngài nên vui vẻ vì đã sinh được Thánh tử, là Bậc Tôn Quý trong loài người.” Đại sư, Đồng tử sơ sinh không ai nâng đỡ, đứng ở trên đất, mỗi phương đều đi bảy bước, nơi mỗi bước chân đặt xuống đều hiện hoa sen, mắt sững nhìn thẳng mỗi phương không chút sợ sệt. Đứng nhìn phương Đông, bỗng nhiên cất tiếng nói, không giống như tiếng oa oa của một hài nhi, mà ngược lại, là lời nói chính xác, âm điệu rõ ràng, câu văn hoa mỹ: “Tất cả thế gian chỉ Ta là hơn hết, chỉ Ta là tối thượng, Ta nay sẽ đoạn rễ sinh, lão, bệnh, tử”. Đại sư, ngay nơi chỗ đản sinh, bỗng nhiên xuất hiện hai ao nước, một nóng một lạnh để tùy ý Thánh mẫu tắm rửa, lại trên hư không từ Thiên giới xuất hiện hai vòi nước, cũng một nóng một lạnh như trên để tắm Đồng tử. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, xuất hiện một chiếc giường bằng vàng ròng để làm tòa Đồng tử ngồi tắm. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, trên thân phóng hào quang sáng chói, che lấp tất cả ánh sáng ngọn lửa rực rỡ và tất cả ánh sáng khác. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, trên thân Đồng tử phóng hào quang sáng chói, che lấp cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, mặt trời mặt trăng lúc đó giống như những vì sao giữa ban ngày. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, tất cả cây cối thảo mộc, không phải thời tiết, cũng đâm chồi nảy lộc, ra hoa kết quả tươi tốt sum suê. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, chư Thiên ở trên hư không tay cầm lọng trắng, cán bằng vàng ròng che trên mình Đồng tử. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, chư Thiên ở trên hư không tay cầm quạt trắng, cán bằng ngọc ma-ni quạt hầu Đồng tử. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, bầu trời trong suốt không một gợn mây, mà trong hư không, mưa phùn bằng nước thơm thanh tịnh, có đầy đủ tám đặc tính vi diệu. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, tất cả các phương không nổi lên các thứ gió lạnh buốt, hay nóng bức làm người khó chịu, mà các phương trong sạch, không chút khói mây hay khí trời ảm đạm, chỉ có làn gió mát mẻ dễ chịu. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, trên hư không không thấy bóng người, mà văng vẳng âm thanh tiếng trời Đại phạm trong trẻo. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, ở trên hư không không thấy bóng người mà lại nghe vô lượng âm thanh ca nhạc, ngâm vịnh vi diệu, lại rải vô lượng hoa hương, hoa này dù gặp ánh nắng mặt trời vẫn tươi đẹp không hề héo úa. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, ở trên hư không tất cả chư Thiên rải các thứ hoa trời thật đẹp, nào hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen trắng lớn; lại rải vô lượng các thứ phấn thơm, vô lượng tràng hoa hết sức tốt đẹp lạ thường. Tất cả những thứ như vậy đều rải trên mình Đồng tử, rải rồi tự nhiên biến mất, rồi lại rải tiếp tục. Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, bỗng nhiên trên hư không xuất hiện vô lượng ngọc nữ chư Thiên, đem theo các thứ hoa thơm, cho đến các thứ dầu thơm, phấn sáp, y phục tuyệt đẹp của cõi trời, các nhạc khí chư Thiên, đồng ca múa xướng hát hòa với tiếng nhạc, từ từ hướng về đứng trước Thánh mẫu Ma-da thưa lời vấn an Ngài khéo sinh Đồng tử, không biết có mỏi mệt gì không? Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, cõi đại địa sáu thứ chấn động và xuất hiện mười tám điềm lành. Lại nữa, Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, tất cả chúng sinh trong thế giới cõi Tam thiên đại thiên này, cùng một lúc thọ hưởng an vui. Lại nữa, Đại sư, khi Đồng tử xuất sinh, tất cả những điều an lành tốt đẹp, lợi ích lớn lao, tùy tâm nguyện của trẫm đều được thành tựu, không có một điều gì là chẳng viên mãn. Lại nữa Đại sư, khi ấy Quốc sư đại thần của trẫm, họ Bà-tư-tra, tên Ma-ha Na-ma đến tâu: “Chúc Đại vương tôn vinh muôn thuở, vừa rồi Quốc đại phu nhân sinh một Đồng tử hình dung thanh tịnh tuyệt vời.” Kế đến lại có người vào tâu: “Chúc Đại vương, bậc thường tối thắng hơn tất cả, gia tộc hưng thạnh. Vừa rồi quyến thuộc trong dòng họ Thích sinh tất cả năm trăm đồng tử.” Kế đến lại có người vào tâu: “Chúc Đại vương tất cả mọi việc luôn luôn được đầy đủ. Ngày nay quyến thuộc dòng họ Thích sinh năm trăm đồng nữ.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Tâu Đại vương, trong một ngày, nội cung sinh đến năm trăm tôi trai.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Tâu Đại vương, trong một ngày, nội cung sinh đến năm trăm tỳ nữ.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Tâu Đại vương, có năm trăm con ngựa tốt mới sinh.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Tâu Đại vương, có năm trăm hương tượng thân trắng như tuyết, đều sáu ngà, bỗng nhiên xuất hiện ngoài cửa cung.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Tâu Đại vương, có năm trăm kho vàng ẩn tàng tự nhiên xuất hiện.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Nơi thành Ca-tỳ-la này tự nhiên có năm trăm lâm viên bỗng nhiên xuất hiện.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Có năm trăm thương gia, đem theo nhiều tiền của bảo vật từ các phương xa đến thành Ca-tỳ-la.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Các vua chư hầu đem theo năm trăm lọng trắng và năm trăm bình bằng vàng đến phụng hiến, đều sai sứ vào tâu: Chúng tôi đều chờ giáo lệnh Đại vương, y theo sắc chỉ mà thi hành.” Kế tiếp lại có người vào tâu: “Chúc Đại vương luôn luôn tối thắng, các dòng thuộc Sát-đế-lợi và trưởng giả Bà-la-môn đem hiến một vạn phụ nữ để nhà vua tiện sử dụng trong cung.” Bạch Đại sư, khi trẫm muốn rước Thái tử về thành, trong tâm suy nghó: ”Ta phải làm chiếc xe gì đây để rước Đồng tử về thành Ca-tỳ-la một cách yên ổn, ngay lúc ấy có một chiếc kiệu bằng bảy báu hết sức đẹp đẽ của chư Thiên, được trang hoàng bằng các thứ ngọc quý, ai cũng ưa thích, không phải do sức người làm ra, bỗng nhiên xuất hiện trên hư không. Bạch Đại sư, bấy giờ trẫm suy nghó: ”Ai là người khiêng chiếc kiệu này?” Vừa nghó như vậy, tự nhiên bốn phương xuất hiện bốn vị Thiên tử, cùng nhau đến khiêng chiếc kiệu bảy báu đi trên hư không, cách mặt đất chẳng bao nhiêu. Khi rước Đồng tử về cung rồi, trẫm suy nghó ngày nay phải đặt tên gì cho Đồng tử? Trẫm lại nghó ngày sinh ra Đồng tử, tất cả sự lợi lạc tự nhiên được đầy đủ, nên đặt tên cho Đồng tử là Tất-đạt-đa. Bạch Đại sư, trẫm lại cho mời tất cả các tướng sư tài giỏi trong thành về trong cung, trẫm cho người bồng Đồng tử đến trước các tướng sư rồi bảo: –Này các tướng sư Bà-la-môn, các người phải quán sát tướng mạo Đồng tử thật kỹ lưỡng, có những tướng lạ gì? Các tướng sư cùng nhau quán sát tướng Đồng tử và bàn luận, rồi họ tâu với trẫm như thế này: –Tâu Đại vương, ngài sẽ được lợi ích rất lớn, do vì Đồng tử có đại oai đức, đầy đủ ba mươi hai tướng đại Trượng phu, lại sinh trong cung Đại vương. Nếu người nào đầy đủ ba mươi hai tướng này thì người ấy sẽ làm một trong hai việc: Nếu ở tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương thống lãnh bốn châu thiên hạ, đầy đủ bảy báu, cho đến không dùng binh đao cai trị mà chỉ dùng chánh pháp giáo hóa dân chúng. Nếu người này xuất gia tu học Thánh đạo, quyết sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, danh tiếng vang khắp trong thế gian. Bạch Đại sư, lúc ấy trẫm thết đãi thức ăn trăm vị cho tất cả tướng sư Bà-la-môn, mặc tình họ thưởng thức, và cung cấp vô số y phục tự do thọ dụng. Bạch Đại sư, bấy giờ các ngã tư đường lớn và các đầu đường đi vào thôn xóm trong nội thành đều tổ chức hội Vô già, bố thí tất cả của cải, ai cần đồ ăn uống thì cung cấp đồ ăn uống… Đem bao nhiêu công đức bố thí này đều hướng về cho Đồng tử. Bạch Đại sư, từ khi Đồng tử còn ở trong thai cho đến khi xuất sinh, có tất cả những điềm tốt hết sức kỳ lạ, quá ư hy hữu như vậy. Trẫm nay trình bày đầy đủ cho Đại sư rõ dùng làm vật cúng dường, xin phụng hiến Đại sư, nguyện ngài hoan hỷ nạp thọ. Tiên nhân A-tư-đà ở bên cạnh vua Tịnh Phạn nghe các điều hết sức đặc biệt, hy hữu như vậy, tâm rất vui mừng không thể tự chế, từ tòa đứng dậy cáo biệt Đại vương ra về. Khi ra khỏi cung, đi bộ tận đến ngoài ngọ môn, Đại tiên dùng tay phải nắm lấy cánh tay trái của thị giả Na-la-đà, vọt lên hư không ẩn thân bay về phương Nam, hạ xuống làng A-bàn-đề thuộc Nam Ấn độ. Một hôm nọ, Tiên nhân nói với đệ tử Na-la-đà: –Này Đồng tử Na-la-đà, con phải biết ngày nay có Đức Phật xuất hiện trong thế gian, con phải xuất gia ở bên ngài học đạo, tu tập Phạm hạnh thì chẳng bao lâu sau con sẽ được vô lượng vô biên lợi ích an lạc. Rồi Tiên nhân lại nghó: “Ta sau khi xả báo thân, để lại bao nhiêu lợi dưỡng và tiếng tốt ở đời, thì Đồng tử Na-la-đà này thừa hưởng, do nhân duyên lợi dưỡng và tiếng tốt ở đời mà Đồng tử Na-la-đà mất hết đạo hạnh, trễ nãi biếng nhác không còn chánh niệm, đánh mất lòng tin, đối với Tam bảo không biết thế nào là Phật, thế nào là Pháp, thế nào là Tăng. Do vì danh dự và lợi dưỡng sẽ làm tổn hại tự thân của Đồng tử”. Lúc ấy Tiên nhân A-tư-đà lại nhiếp tâm tư duy quán tưởng: “Thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn, không biết ngài thành đạo ở nơi nào? Và chuyển Pháp luân Vô thượng thanh tịnh ở đâu? Tiên nhân tư duy như vậy trong chốc lát, tâm được sáng suốt biết một cách rõ ràng: Thái tử sau này sẽ thành quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tại nước Ma-già-đà, và chuyển Pháp luân tại nước Ba-la-nại. Ta ngày nay nên đem Đồng tử Na-la-đà đến nước Ba-la-nại xây dựng một tinh xá, sau khi xếp đặt xong, ở nơi đấy ta sẽ vì đệ tử, ngày ba thời, đêm ba thời thuyết danh hiệu Phật: Này Na-la-đà, có Đức Phật xuất hiện ở đời, ông phải xuất gia ở bên Phật, siêng tu Phạm hạnh, chẳng bao lâu sau ông sẽ được vô lượng vô biên lợi ích an lạc. Nói như vậy ba lần”. Tiên nhân A-tư-đà tư duy như vậy rồi, đem Đồng tử Na-la-đà đến nước Ba-la-nại, vì đệ tử mà Tiên nhân xây dựng một tinh xá, khi mọi việc hoàn tất, ngày đêm sáu thời Tiên nhân nói thế này: “Này Na-la-đà, nay có Đức Phật ra đời, ông phải xuất gia ở bên Ngài học đạo… Chẳng bao lâu sau ông sẽ được vô lượng vô biên lợi ích an lạc”. Cứ như vậy mỗi ngày đêm sáu thời, mỗi thời nói ba lần. Do Tiên nhân A-tư-đà dùng phương tiện như vậy, nên sống ở đời thêm một thời gian khá lâu rồi sau mới lâm chung. Sau khi Tiên A-tư-đà lâm chung, đệ tử của ngài là Đồng tử Na-la-đà ở trong thế gian thọ hưởng nhiều lợi dưỡng và danh dự của thầy để lại. Do vì Na-la-đà tham đắm lợi dưỡng danh vọng thế gian nên không còn chánh định, không cầu tinh tấn, do vì tham cầu lợi dưỡng không biết nhàm chán nên tâm không còn chánh định, đánh mất lòng tin, hoàn toàn không biết thế nào là Phật, thế nào là Pháp, thế nào là Tăng! Sau khi Tiên A-tư-đà lâm chung, Đại vương Tịnh Phạn nói với các Quốc sư Bà-la-môn: –Các Quốc sư phải biết, Thái tử trẫm ngày nay đã sinh trong vương cung, theo như lời thọ ký của Tiên A-tư-đà thì chẳng bao lâu nữa nhất định Thái tử xuất gia tu Thánh đạo, rồi chứng Thánh quả, lời thọ ký này chân thật không thay đổi, chắc chắn như vậy. Này các Quốc sư, Vương tộc ta nếu lập Thái tử lên kế vị, sẽ có gì bất lợi chăng? Các Quốc sư Bà-la-môn tâu: –Tâu Đại vương, ngày nay ngài chẳng nên ôm lòng lo nghó như vậy, cứ y theo lời thọ ký của chúng tôi thì Thái tử quyết định sẽ làm Chuyển luân thánh vương, đúng như lời chúng tôi nói không sai. Đại vương Tịnh Phạn nói: –Này các nhân giả Đại sư, lời nói của các khanh ngày hôm nay không phải lời nói của Thánh sư A-tư-đà, lời nói của các khanh sai lầm chẳng thật. Các Quốc sư Bà-la-môn lại tâu: –Nếu lời thọ ký của Tiên nhân không hư dối, hoàn toàn đúng sự thật, xin Đại vương ngay từ bây giờ cho đến lúc Thái tử khôn lớn, ta phải áp dụng các kế hoạch để phát triển thú vui ngũ dục, xem thử Thái tử ưa thích những gì, rồi lần lần tăng thêm điều ưa thích đó. Như vậy chắc chắn Thái tử sẽ ưa thích ở tại triều thọ hưởng thú vui, không khởi ý vào sơn lâm tu hành khổ hạnh. Đại vương Tịnh Phạn lại hỏi các Quốc sư Bà-la-môn: –Kế hoạch ấy phải thực thi như thế nào? Các Quốc sư lại trả lời: –Tâu Đại vương, ngài phải biết các Tiên nhân đời trước, hoặc uống nước sương, hoặc ăn hoa quả hay rễ dược thảo, y phục bằng vỏ cây, tu hạnh “thiểu dục tri túc”. Các vị này vẫn còn ưa đắm thế tục, một khi họ đã bước vào lạc thú thế gian, đôi khi còn hơn cả người thường là khác, huống nữa là Thái tử ngày nay tập gần gũi các thú vui thế tục, tự nhiên sẽ thâm nhiễm vào các căn, cộng với thế lực nhà vua đầy đủ oai đức, buộc Thái tử luôn ở trong cung điện thì làm gì có chuyện xả tục xuất gia! Đại vương lại nói: –Theo lời các Quốc sư trình bày, sự thực là như vậy, các phương pháp mà các Quốc sư nói, đó là sự thực trong thế gian, trẫm có thể thực hiện được. Nhưng theo lời thọ ký của Tiên A-tư-đà, chắc chắn không phải là lời nói hư huyễn, cho nên trong tâm trẫm vẫn còn sinh nghi ngờ. Đại vương Tịnh Phạn đang lo lắng việc áp dụng phương pháp cho Thái tử trong tương lai, dù tâm nhà vua còn do dự, nhưng vẫn lập tức triệu tập quần thần cùng hoàng gia Thích chủng để nghe sắc lệnh: –Ta ra lệnh các khanh, khi Thái tử đến tuổi khôn lớn, các khanh chớ đem lời thọ ký của Tiên A-tư-đà nói với Thái tử. Vì sao ta cấm như vậy? Vì Thái tử nếu nghe được lời nói ấy, tâm sinh hoan hỷ không bỏ chí xuất gia. Đại vương Tịnh Phạn lại long trọng tuyên bố trước quần thần: –Chư quần thần, này các khanh, vì Thái tử ta, trong nước có bao nhiêu tù nhân đang bị giam cầm xiềng xích, đều phóng thích để họ được tự do, cho đến các loài cầm thú chim muông đều được buông thả. Rồi lại bảo các quốc sư Bà-la-môn: –Này các Đại sư, nếu biết có bao nhiêu Bà-la-môn tinh tấn, hoặc trăm, hoặc ngàn vị, mời tập trung về một địa điểm, tùy theo ý thích của mỗi người, ta đây đều cung cấp đầy đủ. Hoặc trong nước có bao nhiêu đền thờ chư Thiên hay các miếu thờ thần linh, ta đều ra lệnh trùng tu, rồi y theo nghi lễ mà cúng tế, để đem công đức này cầu cho Thái tử được nhiều phước đức. Các quốc sư Bà-la-môn vâng lệnh nhà vua đi khắp bốn phương chiêu tập được ba vạn hai ngàn vị Bà-la-môn chia từng ngày mời vào nội cung, nhà vua có bao nhiêu của cải đều đem ra phân phát, cung cấp, trải qua bảy ngày đêm như vậy. Nhà vua nguyện đem công đức này hướng về cầu cho Thái tử được nhiều phước đức. Có bài kệ nói: Tâm vua Tịnh Phạn rất vui mừng, Vì sinh Thái tử nhiều phước đức, Tất cả quần thần đồng nhóm họp, Tù nhân trong nước đều ân xá. Thái tử đản sinh, vua toại ý, Ân cần muốn tạo các pháp lành. Trăm ngàn bò sữa cùng bê con, Sừng vàng móng bạc dùng tô điểm, Bò tơ khỏe mạnh lông sắc mượt, Mỗi mẹ kèm theo chú bê con, Da thịt mập phì nhiều sữa tốt, Mỗi con vắt được sữa mười thăng. Với số bảo châu vô số kể, Của tiền, lúa vải đầy tạp vật, Cung cấp tất cả Bà-la-môn, Nguyện vì Thái tử tăng phước đức. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706242">QUYỂN 11 <詞 id="48706243">Phẩm 10: DI MẪU NUÔI THÁI TỬ Sau khi Thái tử đản sinh vừa được bảy ngày, Thánh mẫu Ma-da không còn oai lực của chư Thiên hộ trì, lại không còn cảm giác diệu lạc như khi Đồng tử còn ở trong thai, thân thể ốm gầy, sức lực yếu đuối, rồi bà từ trần. Hoặc có Sư nói: “Thọ mạng của phu nhân Ma-da chỉ sống đến ngày thứ bảy thì mạng chung. Tuy nhiên, đây là việc thường lệ xưa nay, khi các vị Bồ-tát đản sinh đủ bảy ngày thì Thánh mẫu mạng chung. Vì sao? Vì chư Bồ-tát xuất gia tuổi còn thơ ấu, các Thánh mẫu thấy việc như vậy nên trong lòng lo âu buồn rầu mà bỏ mạng.” Sư Tát-bà-đa lại nói: “Thánh mẫu thấy tướng Bồ-tát sơ sinh thân thể đầy đặn, đoan chánh khả ái, trong thế gian ít có người thứ hai, thấy việc hết sức đặc biệt, quá ư hy hữu như vậy, vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, do vì không dằn được cảm xúc vui mừng nên mạng chung.” Quốc đại phu nhân từ trần, thần thức bà liền sinh lên cung trời Đao-lợi, hưởng nhiều điều tốt đẹp lạ thường. Một hôm Thánh mẫu cùng với vô lượng vô biên thể nữ chư Thiên, tả hữu trước sau vây quanh hộ vệ, và mỗi ngọc nữ mang theo vô lượng các thứ cúng dường như hoa Mạn-đà-la… trên con đường từ Đao-lợi đến thành Ca-tỳ-la, khắp mọi nơi đều có rải hoa để tỏ lòng cúng dường Bồ-tát, từ trên hư không nhẹ nhàng hạ xuống trần gian nơi cung vua Tịnh Phạn. Thánh mẫu đến vương cung rồi, nói với vua Tịnh Phạn: –Đại vương phải biết, ta được thiện lợi là do khéo sống trong nhân gian, thuở trước ta mang thai chúng sinh thanh tịnh, đó là Đồng tử của Đại vương, suốt trong mười tháng thọ cảm giác khoái lạc, nay ta sinh lên cung trời Đao-lợi, lại thọ khoái lạc như trước không khác, khoái lạc khi mang thai so với khoái lạc cảnh trời Đao-lợi hôm nay hoàn toàn giống nhau. Xin Đại vương từ nay trở đi chớ vì ta mà sinh tâm nhớ nhung buồn khổ, và cũng từ nay cho đến đời vị lai ta không còn tái sinh. Khi ấy, Ma-da hiện thân cõi trời mà nói kệ ca ngợi Đồng tử: Tâm bình đẳng không có oán thân, Thân dũng mãnh siêng năng tinh tấn. Lý chân như thật tế khéo tu, Chánh niệm định trước sau tỏ rõ. Thân sáng tỏ giống tợ vàng ròng, Khéo điều phục các căn tịch tịnh. Thánh tử ta thuyết pháp vô song. Thiện tâm đảnh lễ Đấng Tối Thắng. Ma-da nói kệ xong, bỗng nhiên không xuất hiện, ẩn thân trong hư không trở về Thiên cung. Sau khi Quốc đại phu nhân từ trần, Đại vương Tịnh Phạn liền tập trung các vị kỳ đức hoàng thân quốc thích vào trong cung thảo luận: –Này các quyến thuộc cùng hàng quốc thích, nay Thái tử còn là hài nhi mà mẹ mất sớm, sự bú mớm không biết nhờ đâu? Sẽ đem Thái tử phó thác cho ai nuôi nấng dạy dỗ để đời sống được bình thường? Ai là người theo dõi thời tiết, chăm sóc y phục hợp thời? Ai là người tận tụy chăm nom sức khỏe Thái tử, để sự khôn lớn được tốt đẹp? Ai là người có tâm thương mến Thái tử như con ruột của mình, để bồng bế dìu dắt hầu hạ? Phải là người có tâm thương yêu tận tụy và hoan hỷ. Lúc ấy có năm trăm phụ nữ mới về làm dâu hoàng gia họ Thích. Những cô dâu mới này đều tâu: –Tôi có khả năng nuôi dưỡng Thái tử, tôi có khả năng chăm sóc Thái tử. Các vị trong hoàng tộc lại nói: –Tất cả những cô dâu này còn đang lứa tuổi xuân xanh, sức khỏe dồi dào, tâm đam mê sắc dục, nên không thể y theo thời tiết nuôi dưỡng, lại cũng chưa trải qua kinh nghiệm tâm lý người mẹ nuôi con. Chỉ có Ma-ha Ba-xà-ba-đề này, chính là dì ruột của Thái tử, do quan hệ tình thương ruột thịt, mới có khả năng nuôi dưỡng Thái tử, lại cũng đủ tư cách hầu hạ Đại vương. Bấy giờ, tất cả hoàng gia, ai ai cũng đều tán thành ý kiến này, rồi mọi người trong hội đồng khuyến thỉnh Ma-ha Ba-xà-ba-đề làm dưỡng mẫu cho Thái tử. Đại vương Tịnh Phạn bồng Thái tử trao cho di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề và dặn dò: –Do vì nàng là dì ruột của Thái tử, lại là phu nhân hiền hậu của ta, như vậy, người phải nuôi dưỡng và chăm sóc Thái tử cho thật tốt, tắm rửa, y phục phải hợp thời tiết để cho Thái tử chóng lớn khôn. Rồi nhà vua chọn thêm ba mươi hai tỳ nữ trợ giúp vào việc chăm sóc nuôi dưỡng Thái tử: tám người lo việc bồng bế Thái tử, tám người lo việc tắm rửa Thái tử, tám người lo việc bú mớm Thái tử, tám người giúp vui cho Thái tử. Vua Tịnh Phạn có hai người con: Một là Thái tử Tất-đạt-đa, hai là Nan-đà. Vua Bạch Phạn cũng có hai người con: Người thứ nhất tên là Nan-đề-ca, người thứ hai tên là Bà-đề-lị-ca. Vua Hộc Phạn cũng có hai người con: Người thứ nhất là A-nan-đa, người thứ hai là Đề-bà-đạt-đa. Vua Cam Lộ Phạn cũng có hai người con: Người thứ nhất tên là A-ni-lô-đậu, người thứ hai tên là Ma-ha-na-ma. Em gái vua Tịnh Phạn tên là A-di-đa-chất đa-la (Nhà Tùy dịch là Cam Lộ Muội) có một người con tên là Để-sa. Bấy giờ, Ma-ha Ba-xà-ba-đề, di mẫu của Thái tử bạch vua Tịnh Phạn: Thần thiếp xin y theo lệnh Đại vương dạy, không dám trái ý. Ma-ha Ba-xà-ba-đề vâng lệnh nhà vua nuôi dưỡng Thái tử, giống như mặt trăng từ đầu tháng đến giữa tháng, ngày càng tròn đầy trong sáng; nuôi dưỡng Thái tử ngày càng khôn lớn cũng lại như vậy. Lại giống như cây Ni-câu-đà trồng chỗ đất phì nhiêu, lần lần tăng trưởng thành đại thọ, Thái tử ngày nay lớn khôn cũng lại như vậy. Từ khi Thái tử đản sinh cho đến ngày nay, cung điện Đại vương Tịnh Phạn ngày càng tăng thêm rất nhiều tài lợi: Vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu, súc vật… không thiếu một vật gì. Có bài kệ nói: Ngũ cốc và của cải, Vàng bạc cùng y phục. Làm ra hoặc chẳng làm Tự nhiên được đầy đủ. Đồng tử và Từ-mẫu Sữa, tô lạc thường nhiều. Từ mẫu mà ít sữa, Đều luôn luôn căng đầy? Trong thời gian đó nếu có ai oán hận nhà vua, thì tự nhiên chuyển đổi tâm tánh, chuyển oán thành ân, sinh tâm bình đẳng, đồng tâm hiệp lực, nhất tâm nhất ý, cùng nghó cùng làm. Thuở ấy mưa thuận gió hòa, không có các thiên tai như mưa đá… làm nhiễu hại dân chúng, ra công sản xuất thì ít mà thu hoạch lại nhiều, đồng ruộng lúa mạ, tất cả hoa màu, dược thảo rừng cây, vườn cây ăn quả, tùy màu sắc mỗi loài hoa càng thêm tươi thắm, hương thơm bát ngát, tùy theo hương vị, mỗi loại trái cây càng thêm ngon ngọt đậm đà. Tất cả hoa mầu đều già chín đúng mùa, không bao giờ trễ hạn. Hết thảy đều nhờ oai đức của Thái tử. Ở trong thành, tất cả những người có thai đều được sinh sản an ổn. Dân chúng không có các tật bệnh hoạnh ương, cũng không có chết yểu, đều nhờ oai đức của Thái tử. Tất cả Trưởng giả, cư só, dân chúng những vùng lân cận, mỗi người tự an phận mình, không có cảnh mưu cầu cướp giựt lẫn nhau, không có chuyện người này lấy của người kia, hay người kia bị bắt buộc đem của đến dâng cho người này. Dầu có người gặp nhân sự gì đó, cần ít nhiều tiền của thì đi vay mượn, người cho mượn lẽ ra phải cho nhiều mà lại cho ít, người mượn không sinh tâm niệm: “Tại sao ta cần chừng này mà họ chỉ cho chừng ấy”. Dân chúng trong thành các vùng lân cận đều tôn kính lẫn nhau, hiếu dưỡng phụ mẫu, kính thờ sư trưởng, cũng do nhờ oai đức của Thái tử. Cũng như thuở xưa y theo chánh pháp mà sinh hoạt, tất cả vua tôi só thứ đều hành động đúng theo chánh pháp, đều tu Thập thiện, đầy đủ các hạnh, trong nước không có nạn khủng bố, ngũ cốc được mùa, không có cảnh cơ hàn khốn khổ, hết thảy đều tốt đẹp. Ngay cả quốc nội của Đại vương Tịnh Phạn, dân chúng không đói khát, cũng không có nạn khủng bố, ngũ cốc được mùa, tất cả mọi người đều y theo chánh pháp mà sinh hoạt, thường ưa bố thí vun trồng công đức, xây dựng lâm viên, làm việc đại nghóa như: Đào ao, vét giếng, mương, kênh, khe rãnh, tất cả đều được thành tựu tự nhiên. Các đền thờ Thiên thần, am miếu thuộc các nơi nha, cuộc, tỉnh, phủ cũng được tự nhiên hưng thịnh. Tất cả dân chúng không có tai nạn hoạnh ương, đều được an vui giống như Thiên giới, mọi sự đều do oai đức của Thái tử, nên những việc như vậy không có gì là không thành tựu. Tóm tắt qua bài kệ: Dân chúng đều trọng pháp Lòng bỏn sẻn không còn, Đều sống theo chánh pháp. Không sát bởi lòng từ, Giải trừ được nạn đói, Thực phẩm rất dồi dào. Mọi người đều vui sướng, Hưởng thụ như chư Thiên. Bấy giờ Đại vương Tịnh Phạn đợi ngày sao Chẩn qua rồi, chọn ngày sao Giác vì Thái tử mà làm các chuỗi anh lạc và các tư trang bằng ngọc quý giá như: Vòng đeo cổ tay cổ chân, các vòng trang điểm trên đầu, các tràng hoa đeo ngang cổ, chuỗi anh lạc bằng các ngọc quý có đường nét nổi bật, các vòng ngọc nơi cánh tay hay nơi thắt lưng, dây thắt lưng bằng vàng, chuông rung bằng vàng, lưới ngọc, các ngọc ma-ni dùng điểm trên giày ống dép da, mũ ngọc giống như chư Thiên, hết sức đẹp đẽ, lạ thường. Lại có năm trăm thân quyến họ Thích vì Thái tử mỗi người làm một xâu chuỗi anh lạc thật đẹp, làm xong đồng đến vua Tịnh Phạn thưa: –Lành thay Đại vương! Những chuỗi anh lạc chúng tôi làm trong bảy ngày đêm, cúi xin Đại vương thâu nhận trang sức cho Thái tử để chúng tôi khỏi bỏ công vô ích. Vào một buổi sáng ngày Quỷ tú, Đại vương cùng Quốc sư Bà-la-môn Ưu-đà-da-na là thân phụ của Tỳ-kheo Ưu-đà-di, cùng với năm trăm vị Bà-la-môn khác đồng xướng lên: –Ngày nay hết sức an lành! Rồi cùng nhau đưa Thái tử đến một hoa viên tên là Vô cấu thanh tịnh trang nghiêm, xưa nay người ta quý trọng vườn này như bảo tháp. Thuở ấy trong hoa viên lại có vô lượng vô biên trăm ngàn du khách, nào đàn ông, đàn bà, thanh niên nam nữ, rủ nhau tập họp chờ xem dung nhan Thái tử. Nhà vua lại sắm một cỗ xe lớn chở đầy các thứ: Chuỗi anh lạc, vàng, bạc, y phục, thực phẩm, mỗi thứ đều đầy ắp trên xe. Xe này đi trước Thái tử để tổ chức đại hội bố thí Vô già nơi các ngã tư đường lớn và các đầu đường đi vào thôn xóm nơi thành Ca-tỳ-la, ban tổ chức cao giọng tuyên bố: –Hễ ai cần những gì, ở đây đều cung cấp đầy đủ. Lại nữa, có tám ngàn nhạc cụ cùng nhau hòa tấu đủ các âm điệu, lại trên hư không tự nhiên rải vô lượng vô biên các loại hoa tuyệt đẹp. Lại có vô lượng trăm ngàn mỹ nữ được trang sức với vô lượng chuỗi anh lạc, hoặc ở trên lầu, hoặc ở trên đài cao, hoặc nơi vọng gác, hoặc ở trên bờ thành, hoặc có nàng tựa vào tường, hoặc ở cửa sổ từ các lầu trên thành, hoặc nơi các tòa nhà đồ sộ hay cao ốc, tay cầm sẵn các hoa quý, chờ Thái tử đi gần đến sẽ tung rải để tỏ lòng đón rước. Lại có tám ngàn ngọc nữ chư Thiên trang điểm thật đẹp, tay cầm chổi đi phía trước Thái tử quét dọn đường sá. Tất cả quyến thuộc Thích chủng đều đi hai bên Đại vương Tịnh Phạn, theo thứ lớp đi phía trước Thái tử. Lúc đó Ma-ha Ba-xà-ba-đề ngồi trên chiếc kiệu quý giá, hai tay bồng Thái tử đặt trên đầu gối mình. Dùng vô lượng vô biên các thứ quý giá trang hoàng đâu đó hoàn chỉnh, rồi cùng nhau đưa Thái tử đến hoa viên. Bấy giờ, Quốc sư thân phụ của Ưu-bà-di cùng với năm trăm vị Bà-la-môn, mỗi người đều dùng vô lượng vô biên lời cầu nguyện an lành ca ngợi Thái tử, rồi đem chuỗi anh lạc đeo trên mình Thái tử. Do thân tướng Thái tử, tất cả chuỗi anh lạc bị ẩn khuất, không còn phát sinh ánh sáng, mờ tối giống như đống mực. Các chuỗi anh lạc lại không còn sức phản chiếu ánh sáng, cũng không còn trong suốt, chẳng khác nào như cục than hầm để bên đống vàng Diêm-phù-đàn quý giá. Đúng y như vậy! Như vậy! Chuỗi anh lạc trang sức trên mình Thái tử, giống như đom đóm ở giữa ban ngày nắng chói, không thể hiện được ánh sáng. Tất cả bao nhiêu chuỗi anh lạc để gần bên Thái tử, không tài nào thể hiện chiếu sáng được cũng lại như vậy. Mọi người thấy Thái tử có những việc hết sức đặc biệt quá ư hy hữu như vậy, đều hô to lên: –Hoan hô! Hoan hô! Ít có thay! Ít có thay! Họ hớn hở vui cười, người người vỗ tay reo hò ca hát, vung múa y phục. Lúc ấy ở trên hư không hoa viên có một Thiên thần tên là Ly cấu, ẩn trong không trung nói kệ: Giả sử cõi đất này, Thành ấp và xóm làng, Núi sông và cây cối, Đều thành vàng Diêm-phù, Ánh sáng sợi lông Phật, Đầy đủ tướng oai đức. Che khuất như khối mực Đầy trang nghiêm, trăm phước Diệt ánh sáng anh lạc. Ngài đủ các tướng này, Quả báo rất tối thắng, Chẳng cần ngọc trang sức. Thiên thần đọc kệ tán thán, kế đến dùng vô lượng vô biên thiên hoa rải trên mình Thái tử, rồi trở về Thiên cung. Bấy giờ, thân bằng quyến thuộc dòng họ Thích đem đầy các thứ: Giường làm bằng ngà đủ các màu sắc, các loại thuốc, bột chiên-đàn vô giá và các thứ bột hương khác… để hiến dâng cho Thái tử sử dụng và trang điểm trên thân. Lại đem các đồ chơi như: Xe nai làm bằng vàng ròng, các loại ghe thuyền, các giống thú ngoài đồng cho đến ngựa con làm bằng ngọc quý giá để Thái tử mặc tình chơi đùa. Những đồ chơi như vậy, đủ cho Thái tử chơi trong tám năm. Thái tử được nuôi dưỡng qua năm tháng dần dần khôn lớn, tuyệt nhiên không giống như những đứa trẻ khác, như: Không tiểu dãi dơ bẩn, không có các thứ phẩn uế, không có kêu khóc ê oa, không co giật, cũng không đòi ăn uống… nên các dưỡng mẫu luôn luôn vui lòng. Một hôm, Đại vương Tịnh Phạn nghó: “Thái tử có hình dung tuấn tú, trong thế gian ít có được người thứ hai nhưng chưa biết sức lực Thái tử mạnh yếu thế nào. Nay ta sẽ thử xem ra sao?” Rồi nhà vua tổ chức một cuộc tiệc dành riêng cho Thái tử và các đồng tử cùng trang lứa trong hoàng gia. Đồng thời nhà vua cũng cho tập trung một số bạch tượng con cùng dự tiệc với các đồng tử. Nhà vua dùng một bát bằng vàng ròng chạm trổ thật đẹp, đựng đầy các viên thực phẩm tuyệt diệu, lại dùng vàng ròng làm dây xích, xiềng bát vàng đặt trước mặt các đồng tử. Rồi Đại vương ra lệnh các đồng tử hãy tranh thức ăn với các chú voi con. Các đồng tử tranh không lại các chú voi con nên bị chúng đoạt mất phần ăn. Sau cùng đến lượt Thái tử, nhà vua cũng tuyên bố: –Thái tử phải giữ lấy phần ăn của mình, không thì sẽ bị bạch tượng con đến cướp lấy. Thái tử liền dùng hai tay bưng lấy bát vàng đưa nhẹ lên, dây xiềng vàng liền đứt, khiến chú voi con bị đẩy lui không tranh lại sức với Thái tử. Sau đó Đại vương Tịnh Phạn vì Thái tử sắm nhiều xe dê để trong nội cung cho Thái tử vui chơi, mỗi con dê được trang hoàng: Yên làm bằng vàng ròng, đủ các ngọc quý và chuỗi anh lạc trang nghiêm trên thân, lại phủ bên ngoài một mành lưới bằng vàng. Mỗi khi dạo chơi trong cung cho đến các hoa viên, Thái tử thường ngồi trên các xe dê này. Và các hoàng thúc Cam Lộ Phạn…, các hoàng thích khác đều vì con của mình, trang nghiêm các xe giống như xe Thái tử, cũng để cho các đồng tử cỡi xe tùy ý dạo chơi.  <詞 id="48706244">Phẩm 11: TẬP HỌC KỸ-NGHỆ Khi Thái tử tuổi vừa lên tám, Đại vương Tịnh Phạn nhóm họp bá quan, quần thần tể tướng, rồi ngài hỏi: –Ngày nay trong nước trẫm, các khanh có biết ai là người trí tuệ bậc nhất, ai là người đầy đủ tài năng thông thạo các ngành nghề, đủ khả năng làm thầy dạy lịch sử, văn học và tất cả các kinh luận cho Thái tử? Quần thần tâu: –Xin Đại vương biết cho, hiện giờ có Đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la rất giỏi các kinh luận, là kẻ tài năng trong thiên hạ, người có thể dạy các kinh luận cho Thái tử. Đại vương liền cho sứ giả triệu đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la về triều, rồi Đại vương lại bảo: –Này Tôn giả Đại sư, khanh có thể vì trẫm dạy tất cả sách vở kỹ nghệ, kinh luận cho Thái tử được không? Tỳ-xa-bà Mật-đa-la đáp: –Kẻ hạ thần này xin phụng mạng Đại vương, có thể làm được việc này. Đại vương hết sức vui mừng, rồi chọn ngày lành tháng tốt, cùng các vị Đại đức kỳ cựu trong hoàng tộc, sắp đặt đầy đủ các lễ nghi. Lại triệu tập năm trăm đồng tử xếp hàng theo thứ lớp trước sau hai bên tả hữu, trông buổi lễ thật trang nghiêm. Ngoài ra có rất đông nam đồng tử tùy tùng, hộ vệ Thái tử đồng đến học đường. Đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la từ xa trông thấy Thái tử có oai đức thế lực quá lớn, nên hoảng hốt đứng dậy cúi mình lễ dưới chân Thái tử. Lễ rồi đứng dậy, Đại sư thấy mọi người đưa mắt nhìn mình nên sinh tâm hổ thẹn. Đang khi ấy trên hư không xuất hiện một Thiên tử tên là Tịnh Diệu, từ cung trời Đâu-suất cùng với vô lượng vô biên chư Đại vương Thiên thần thường ủng hộ bên Thái tử, ẩn thân trong hư không nói kệ: Các nghề trong thế gian, Cùng các thứ kinh luận, Thái tử đều biết rõ, Ngài dạy cho mọi người. Bậc Tối Thắng chúng sinh, Vì tùy thuận thế gian, Quá khứ đã học tập. Nay giả theo thầy học, Bao nhiêu trí xuất thế, Các đế cùng các lực, Các pháp nhân duyên sinh, Sinh ra và tiêu diệt. Biết hết trong một niệm, Danh sắc hiện chẳng hiện, Như trên đều chứng biết, Huống nữa là văn tự. Thiên tử nói kệ, lại dùng các thứ hoa rải trên mình Thái tử rồi liền trở về cung trời Đâu-suất. Khi ấy Đại vương Tịnh Phạn dùng vô số ngọc ngà quý giá cung cấp cho các Bà-la-môn, lại dọn đủ thức ăn trăm vị thết đãi họ. Rồi ngài đem Thái tử phó chúc cho Đại sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la, chỉ để lại các dưỡng mẫu, còn bao nhiêu trở về vương cung. Đây là buổi học đầu tiên của Thái tử, dùng gỗ ngưu đầu chiên-đàn loại tốt nhất làm bảng viết, bốn học cụ đều làm bảy báu, dùng các loại hương thơm đặc biệt của chư Thiên thoa trên mặt bảng. Rồi Thái tử cầm bảng đến trước Quỹ phạm sư Tỳ-xa-bà Mật-đa-la thưa: –Ngày nay Tôn giả Quỹ phạm dạy cho tôi sách gì? (Bản Phạn vốn thiếu một đầu sách). Sách của Phạm Thiên (Nay chính là sách mười bốn âm của Bà-la-môn) hay sách Khư-lô-sắc-tra (dịch Lô Thần). Hoặc sách của Tiên nhân Phú-sa Ca-la (Tùy dịch: Liên hoa), hoặc sách A-la-ca (Tùy dịch: Tiết phần), hoặc sách Mộng-già-la (Tùy dịch: Kiết tường), hoặc sách Da-mị-ni (Tùy dịch: sách nước Đại Tần), hoặc sách Ương-cù-lê (Tùy dịch: sách ngón tay), hoặc sách Da-na-ni-ca (Tùy dịch: Đà Thừa), hoặc sách Ta-già-bà (Tùy dịch: Trâu cái), hoặc sách Ba-la-bà-ni (Tùy dịch: lá cây), hoặc sách Ba-lưu-sa (Tùy dịch: lời nói ác), hoặc sách Tỳ-đa-đồ (Tùy dịch: Thây chết đứng dậy), hoặc sách Đà-tỳ-đồ-quốc (Tùy dịch: Nam Thiên-trúc), hoặc sách Chỉ-la-đê (Tùy dịch: người lõa hình), hoặc sách Độ-kỳ-sai Na-bà-đa (Tùy dịch: xoay bên hữu), hoặc sách Ưu-già (Tùy dịch: Rực rỡ), hoặc sách Tang-khư (Tùy dịch: Kế toán), hoặc sách A-bà-vật-đà (Tùy dịch: Ngược), hoặc sách A-nậu-lô-ma (Tùy dịch: Thuận), hoặc sách Tỳ-da-mị-xa-la (Tùy dịch: Tạp), hoặc sách Đà-la-đa (Núi Điểu-tràng-biên), hoặc sách Tây Cù-da-ni (Nhà Tùy không dịch), hoặc sách Kha-sa (Sớ-lặc), hoặc sách Chỉ-na-quốc (Đại Tùy), hoặc sách Ma-na (Đấu-thăng), hoặc sách Vị-đồ-xoa-la (Chữ trung), hoặc sách Tỳ-đa-tất-để (Xích), hoặc sách Phú-số-ba (Hoa), hoặc sách Đề-bà (Trời), hoặc sách Na-già (Rồng), hoặc sách Dạ-xoa (Tùy không dịch), hoặc sách Càn-thát-bà (Âm thanh cõi trời), hoặc sách A-tu-la (không uống rượu), hoặc sách Ca-lâu-la (Chim cánh vàng), hoặc sách Khẩn-na-la (Phi nhân), hoặc sách Ma-hầu-la-già (Rắn lớn), hoặc sách Di-già Giá-ca (Tiếng các thú), hoặc sách Ca-ca-lâu-đa (Tiếng chim), hoặc sách Phù-ma-đề-bà (Trời địa cư), hoặc sách An-đa Lê-xoa Đề-bà (Trời trên hư không), hoặc sách Uất-đa-la Câu-lô (Bắc Tu-di), hoặc sách Bô-lâu Bà-tỳ Đề-ha (Đông Tu-di), hoặc sách Ô-sai-ba (Cử), hoặc sách Nị-sai-ba (Ném), hoặc sách Ta-già-la (Biển), hoặc sách Bạt-xà-la (Kim cang) hoặc sách Lê-già Ba-la-để-lê-già (Qua lại), hoặc sách Tỳ-khí-đa (Đồ ăn thừa), hoặc sách A-nậu Phù-đa (Vị tằng hữu), hoặc sách Xa-ta Đa-la Bạt-đa (Như phục chuyển), hoặc sách Già-na-na Bạt-đa (Toán chuyển), hoặc sách Ưu-sai Ba-bạt-đa (Cử chuyển), hoặc sách Ni-sai Ba-bạt-đa (Trịch chuyển), hoặc sách Ba-đà Lê-khư (Túc), hoặc sách Tỳ-câu Đa-la Ba-đà-na-địa (Từ hai câu Tăng thượng), hoặc sách Da-bà-đà Thâu-đa-la (Thêm mười câu trở lên), hoặc sách Vị-đồ-bà Sái-ni (Trung lưu), hoặc sách Lê-sa-da Ta-đa-ba Di-tỷ-đa (Khổ hạnh của chư Tiên), hoặc sách Đà-la-ni Ty-xoa-lê (Quán đất), hoặc sách Già-già-na Ty-lệ-xoa-ni (Quán hư không), hoặc sách Tát-bổ-sa-địa-ni Sơn-đà (Hạt quả tất cả thuốc), hoặc sách Sa-la-tăng-già Hà-ni (Tổng lãm), hoặc sách Tát-bà-lâu-đa (Tất cả tiếng)… Thái tử trình bày tên các sách rồi, lại thưa hỏi Quỹ phạm sư: –Thưa Tôn sư, có sáu mươi bốn tên sách như vậy, không biết Tôn sư dạy cho tôi sách nào? Tỳ-xa-bà Mật-đa-la nghe Thái tử kể tên sách, trong lòng hoan hỷ vui mừng hớn hở, nhưng thầm nghó hổ thẹn, dẹp bỏ được tánh cống cao ngã mạn, đến trước Thái tử đọc kệ ca ngợi: Bậc trí tuệ thanh tịnh ít có, Khéo tùy thuận các pháp thế gian. Chính thân ngài uyên thâm các luận, Lại trở vào lớp học của ta. Sách như vậy ta chưa từng học, Nhưng Thái tử lại thông tất cả. Đại đạo sư cho cả trời người Nay ta lại theo ngài học hỏi. Bấy giờ có năm trăm đồng tử của quần thần thuộc dòng họ Thích đồng vào lớp học với Thái tử. Họ tập viết và tập đọc các mẫu tự, do oai đức của Thái tử cộng với thần lực của chư Thiên, nên trong khi năm trăm đồng tử tập đọc các mẫu tự, lại lồng vào đó những âm thanh khác, như: Khi năm trăm đồng tử đọc chữ A thì phát ra tiếng “Các hành vô thường”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Y thì phát ra tiếng “Tất cả các căn đều phòng hộ”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ưu thì phát ra tiếng “Tâm được tịch định”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Yết thì phát ra tiếng “Các pháp lục nhập phải chứng biết”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ô thì phát ra tiếng “Phải ra khỏi biển lớn phiền não”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ca thì phát ra tiếng “Phải thọ các nghiệp báo đã tạo”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Khư thì phát ra tiếng “Dạy nhổ tất cả cội gốc phiền não”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Già thì phát ra tiếng “Mười hai nhân duyên rất khó vượt qua”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Hàng thì phát ra tiếng “Các vô minh che lấp dày đặc phải trừ sạch”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Nga thì phát ra tiếng “Khi Như Lai thành Phật, đối với chúng sinh sợ sệt ở các phương khác, ngài bố thí vô-úy”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Giá thì phát ra tiếng “Cần phải chứng biết bốn pháp chân lý”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xa thì phát ra tiếng “Phải biết ngày nay có bao tâm mê hoặc tà vạy dua nịnh đều phải trừ diệt”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xà thì phát ra tiếng “Phải vượt qua biển sinh tử”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xã thì phát ra tiếng “Phải xô ngã, và bẻ gãy cây cờ ma phiền não”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Nhã thì phát ra tiếng “Phải dạy bốn chúng thuận tu giáo pháp”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Tra thì phát ra tiếng “Tất cả chúng sinh phàm phu khắp tất cả mọi nơi kinh sợ lời nói vô thường này”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Trá thì phát ra tiếng “Cần phải nhớ nghó chữ Trá này, nếu các căn thuần thục không còn đắm các pháp, tức được chứng biết”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Đồ thì phát ra tiếng “Phải chứng được bốn pháp Như ý túc, tức bay được trên hư không”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Trà thì phát ra tiếng “Làm hoa búp hoan hỷ, như lời nói chữ Trà, tiêu diệt các hành và mười hai pháp nhân duyên vô thường hiển hiện”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Noa thì phát ra tiếng “Người đắc đạo khi thọ lợi dưỡng, không có một vi trần phiền não nào không tiêu diệt mà thọ sự cúng dường của kẻ khác”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Đa thì phát ra tiếng “Nên hướng về khổ hạnh”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Tha thì phát ra tiếng “Phải quán như thế này: Tâm của tất cả chúng sinh như chiếc búa, các cảnh giới bên ngoài như tre gỗ”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Đà thì phát ra tiếng thế này: “Phải đồng tu hạnh bố thí và khổ hạnh”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Tha thì phát ra tiếng “Phải có tiếng pháp”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Na thì phát ra tiếng “Cần phải dùng ẩm thực để sống”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bá thì phát ra tiếng “Chân như thật đế”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Phả thì phát ra tiếng “Phải thành đạo, chứng diệu quả”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bà thì phát ra tiếng “Mở tất cả các trói buộc”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bà thì phát ra tiếng “Không còn thọ thân đời sau”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ma thì phát ra tiếng “Tất cả sự khủng bố của sinh tử đáng sợ”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Da thì phát ra tiếng “Vì người diễn nói rõ tất cả các pháp môn”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ra thì phát ra tiếng “Phải có Tam bảo”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ La thì phát ra tiếng “Đoạn các ái”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Bà thì phát ra tiếng “Đoạn tất cả chủng tử căn bản của thân”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Xa thì phát ra tiếng “Chứng được chỉ quán”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Sa thì phát ra tiếng “Phải biết sáu cõi”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Ta thì phát ra tiếng “Phải chứng các trí”. Khi năm trăm đồng tử đọc chữ Hà thì phát ra tiếng “Phải đánh tan các phiền não”. Khi năm trăm đồng tử xướng các tự mẫu, do sức oai thần của Thái tử cùng với sự hộ trì của chư Thiên; do đó mới phát ra âm thanh diễn tả các pháp môn vi diệu bí mật sâu xa như vậy. Rồi sau đó, Đại vương Tịnh Phạn nhóm họp các quần thần cùng thảo luận: –Này các khanh, tất cả quần thần ai biết ở đâu có võ sư võ thuật cao cường, có tài sử dụng các binh khí, trí lược hơn người, có thể làm thầy dạy Thái tử Tất-đạt-đa ta. Quần thần tâu: –Đại vương phải biết, ở xứ này có chàng Sằn-đề Đề-bà (Nhà Tùy dịch: Nhẫn Thiên) con của Thiện Giác thuộc dòng họ Thích, người võ nghệ cao cường, thông thạo hai mươi chín kỹ năng, kỹ thuật tinh vi, động tác uyển chuyển nhẹ nhàng, song hết sức lanh lẹ và rắn chắc, người có thể làm thầy dạy Thái tử. Hai mươi chín kỹ năng đó là: Phóng lên lưng voi, vọt lên xe, lao qua hầm, nhảy lên ngựa, bắn tên giỏi, chạy nhanh, ý chí kiên cường, thân cử động nhẹ nhàng lanh lẹ. Nhận định thận trọng, có tài huấn luyện, có tài dùng móc câu điều khiển voi, hiểu biết rành rẽ, thi hành chu đáo, vãi lưới bắt voi, lại khéo nuôi dưỡng súc vật, xử đoán nghiêm minh, có tài chỉ huy mã binh, lão luyện am tường địa thế núi sông, tay nắm chắc chắn, chân đứng vững vàng, chải đầu búi tóc, bền vững chắc chắn, có thể phá có thể mở, có thể xẻ có thể bửa, bắn không lạc đích, có tài trương cung sắt vô song, xa nghe âm thanh bắn tên liền trúng, bắn nhằm tên vết thương rất sâu. Sáng suốt thông minh, lời nói tao nhã, biện luận mẫn tiệp, hiểu biết rõ ràng, sách lược đa mưu, bàn cổ luận kim, tùy thời uyển chuyển. Bao bí quyết võ thuật, sử dụng binh khí người đều thông đạt, nên chỉ một mình Sằn-đề Đề-bà mới có khả năng dạy tất cả võ thuật sử dụng binh khí cho Thái tử. Đại vương Tịnh Phạn nghe lời nói này, hết sức vui mừng, liền ra lệnh quần thần mời Nhẫn Thiên (Sằn-đề Đề-bà). Khi Nhẫn Thiên đến, nhà vua ra lệnh: –Khanh có thể dạy tất cả võ thuật sử dụng các binh khí cho Thái tử Tất-đạt-đa chăng? Nhẫn Thiên đáp: –Kẻ hạ thần này có thể đảm trách. Đại vương lại nói: –Nếu khanh chấp nhận, phải dạy con ta đạt được kết quả hết sức tốt đẹp. Lúc ấy, vua Tịnh Phạn vì Thái tử cho lập một hoa lâm viên tên là Cần cù, để cho Thái tử du ngoạn vui chơi, hoặc luyện tập võ nghệ. Cùng lúc ấy, có năm trăm quần thần hoàng gia cũng vì con mình đều lập hoa viên để cho các đồng tử dạo chơi, hay tập võ nghệ trong hoa viên của mình. Bấy giờ võ sư Nhẫn Thiên đem Thái tử và năm trăm đồng tử vào hoa viên Cần cù để dạy cách thức sử dụng các binh khí. Khi võ sư Sằn-đề Đề-bà đem các thứ binh khí để chuẩn bị dạy cho Thái tử, Thái tử thấy rồi đều không sử dụng, nói với Nhẫn Thiên: –Võ sư hãy dạy các thứ binh khí này cho năm trăm đồng tử, còn ta biết rồi chẳng cần tập học. Nhẫn Thiên liền vì năm trăm đồng tử dạy cách sử dụng các binh khí ấy. Các đồng tử học chẳng bao lâu, mỗi người đều được thành tựu hai mươi chín kỹ năng một cách thông thạo. Hai mươi chín kỹ năng đó là: Nhảy vọt lên xe, ngựa và voi trắng, cho đến chỉ thế lực trương cung sắt… năm trăm đồng tử đối với các pháp này đều thành tựu một cách hết sức lão luyện, trí tuệ sáng suốt, sử dụng lanh lẹ. Nhẫn Thiên lại dạy các kỹ thuật mà một vị vua cần phải có, hết sức siêu việt, như các sách kế toán, hiểu biết sử dụng toán số, điêu khắc ấn loát, phân biệt rõ các âm: “Cung, thương, luật, lữ”, ca múa vui chơi, cách nói năng hoạt bát, hoặc chế tạo các vòng cong bằng ngọc quý kỳ lạ, nhuộm các màu sắc y phục, hội họa tranh ảnh, hay các việc hòa hợp hương liệu, hoặc hoa tay viết chữ chân chữ thảo, hoặc sáng tác văn chương, hoặc có thể nhào lộn trên lưng bạch tượng, hoặc xoay tròn trên yên ngựa, yên lạc đà, hoặc có thể uốn quanh nơi đầu, cổ, đuôi, chân ngựa voi và lạc đà một cách tài tình. Tất cả những kỹ thuật như vậy, năm trăm đồng tử đều được điêu luyện. Hoặc ở trên xe cũng có tài sử dụng các binh khí như múa đao, phóng lao, trương cung bắn tên sử dụng đều được toại ý, hai khuỷu tay vung múa một cách uyển chuyển, sức đánh thích hợp với búa đao, khi tấn khi thoái, nắm lấy ống chân, chụp lấy cánh tay, có tài ném đá, có tài chạy nhanh, cho đến các môn võ thuật tay có khí cụ, và nghe tiếng bắn tên, liền trương cung sắt, bắn lại như mưa, Thái tử đối với tất cả các thứ này đều cho qua không học, lại nói: –Ta đã am tường các loại ấy, võ sư chẳng cần phải dạy. Nhẫn Thiên muốn dạy các pháp yếu của một vị vua, như là: Xem thiên văn, pháp cúng tế, xem tướng tốt xấu, suy tìm những việc đã qua, khéo quở trách lời nói sai lầm, biết rõ tiếng các loài cầm thú, thông đạt thinh luận, tạo tác các nghề, giải đáp nguyên nhân các nghề, các môn chú thuật. Ngoài ra còn mười thứ danh tự, các pháp chánh trị của bậc tiền bối… Tất cả các kinh điển, Nhẫn Thiên đều đem dạy cho Thái tử cùng các đồng tử hoàng gia. Đối với những kẻ khác, học các kinh luận này phải trải qua nhiều năm tháng, mà có người thành công, có người không thành công. Các kinh luận và kỹ thuật ấy, đối với Thái tử chỉ học trong bốn năm là thành công một cách dễ dàng. Ngoài ra các đồng tử hoàng gia cũng thông đạt một cách tự tại. Lúc ấy Nhẫn Thiên liền làm kệ ca ngợi Thái tử: Thái tử còn tuổi thơ, Học tập rất dễ dàng, Chẳng dùng nhiều trí lực, Chốc lát tự thông đạt. Thời gian học tập ít, Hơn kẻ học nhiều năm. Kỹ năng ngài học qua, Tài giỏi hơn mọi người. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706245">QUYỂN 12 <詞 id="48706246">Phẩm 12: DU NGOẠN Thuở Thái tử còn tuổi thơ ấu sống trong cung vua, chỉ biết dạo chơi vui đùa, không quan tâm về việc học tập. Đến năm lên tám tuổi mới bắt đầu rời cửa cung đến trường học tập, trải qua bốn năm học tập văn chương, kinh luận và tất cả võ thuật cũng như cách sử dụng binh khí nơi hai Đại sư văn võ: Tỳ-xa-bà Mật-đa-la và Nhẫn Thiên. Đến năm Thái tử mười hai tuổi, đối với tất cả môn văn võ, ngài đều uyên thâm quảng bác, thông thạo một cách điêu luyện; rồi từ đó mặc tình đuổi theo thú vui thinh sắc thế tục. Một hôm nọ, Thái tử dạo chơi, vui thú trong nghệ thuật bắn tên nơi lâm viên Cần cù, còn năm trăm đồng tử hoàng gia cũng đang du hý trong vườn của họ. Bỗng nhiên có một bầy nhạn bay qua trên không, lúc ấy đồng tử Đề-bà-đạt-đa trương cung bắn nhằm một chim nhạn, chim nhạn mang luôn mũi tên sa vào vườn Cần cù. Thái tử thấy chim nhạn bị thương còn dính mũi tên rơi nằm trên mặt đất, ngài dùng đôi bàn tay nhẹ nhàng nâng lấy chim nhạn, rồi ngồi xếp bằng, để chim trên bắp vế, dùng bàn tay có vằn chữ vạn hình tròn, trơn láng mềm mại mịn màng chứa đầy phước đức vi diệu, dịu dàng như tàu lá chuối non, tay trái giữ lấy chim nhạn, tay phải từ từ nhổ mũi tên, rồi dùng tô mật băng lấy vết thương. Lúc ấy, đồng tử Đề-bà-đạt-đa cho người đến thưa Thái tử: –Bẩm Thái tử, đồng tử Đề-bà-đạt-đa của chúng tôi vừa bắn trúng một con chim nhạn sa vào vườn của ngài, xin ngài vui lòng trao chim nhạn cho Đề-bà-đạt-đa, không được giữ lấy. Thái tử bảo người hầu cận của Đề-bà-đạt-đa: –Như chim nhạn chết thì ta trao lại cho chủ ngươi, nếu chim còn sống thì điều đó hoàn toàn không được. Đề-bà-đạt-đa lại cho người qua đòi một lần nữa, thưa: –Dù chim nhạn sống hoặc chết, nhất quyết phải trả lại cho ta, do vì tay ta có tài bắn trúng chim trước, rồi sau đó chim mới rơi nhằm vào vườn Thái tử, tại sao người ngang nhiên giữ lại? Thái tử bảo: –Sở dó ta giữ lấy chim nhạn như vậy, là do ta trước đã phát tâm Bồ-đề, tất cả chúng sinh thảy đều được ta tiếp độ, huống nữa là con chim nhạn này mà không thuộc về của ta hay sao! Vì lý do này mà hai người đi đến tranh chấp, nhà vua liền cho triệu tập các vị trưởng lão kỳ đức trí thức trong hoàng tộc để xử đoán. Lúc ấy có một chư Thiên cõi trời Tịnh cư biến dạng làm vị trưởng giả kỳ túc lẫn vào trong hội đưa ra ý kiến: –Người nào nuôi dưỡng chim nhạn thì người đó tiếp nhận chim nhạn, còn kẻ nào bắn chim nhạn thì người đó dó nhiên xa cách chim nhạn. Tất cả các vị trưởng lão kỳ đức trong hội đều tán thành, đồng thanh hô lên: –Đúng như vậy, đúng như vậy, y như lời nhân giả vừa nói. Đây là nguyên nhân đầu tiên đưa đến mối oán thù giữa Thái tử và Đề-bà-đạt-đa. Lại một hôm nọ, Đại vương Tịnh Phạn và Thái tử cùng các đồng tử hoàng gia đi du ngoạn vùng thôn dã ở ngoại ô để xem mức sinh hoạt của dân chúng. Lúc ấy trong cánh đồng có một nông dân thân thể sạm nắng, hết sức cực nhọc chăm lo từng luống cày, với đôi trâu trên vai mang chiếc ách đi trước, được buộc bởi dây dàm choàng qua dưới cổ, mỗi khi trâu chậm bước thì chiếc roi trên tay bác nông phu quất mạnh vào thân, dưới ánh nắng mặt trời ngày càng trưa, nóng như thiêu như đốt, miệng trâu thở hổn hển, mồ hôi tuôn chảy, người và vật đều bị bức xúc bởi cơn đói khát, lại thêm thân thể ốm gầy, da bọc lấy xương, và dưới những luống cày vừa mới lật lên đều có những loài trùng dế… xuất hiện, người vừa cày qua khỏi thì bầy chim đáp xuống tranh lấy miếng mồi. Thái tử thấy trâu cày quá ư mệt mỏi lại thêm roi vọt đánh đập, chiếc ách đè nặng nghiến trên vai, và sợi dây dàm choàng qua cổ cọ xát làm cho lở da nát thịt, máu chảy ròng ròng. Lại thấy bác nông phu cày ruộng trần mình thân đầy đất bụi, lại thêm ánh nắng mặt trời thiêu đốt nên làn da đen sạm, cộng với cảnh mạnh được yếu thua của loài chim quạ bay đến giành ăn từng miếng mồi. Thái tử thấy vậy tâm rất ưu sầu, giống như có người thấy thân quyến của mình bị kẻ khác bắt trói dẫn đi, sinh tâm rất âu sầu khổ sở. Thái tử thương tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Thái tử sinh lòng đại Từ bi, liền từ trên lưng ngựa chúa Kiền-trắc nhảy xuống, ung dung tản bộ nhưng trong tâm thầm nghó: “Tại sao chúng sinh lại có những việc như vậy?” Rồi lại than: –Ôi thôi! Ôi thôi! Tất cả chúng sinh chịu rất nhiều sự đau khổ, các khổ đó nào là sinh, lão, bệnh, tử và biết bao nhiêu sự khổ não khác, mà chúng sinh xoay vần trong đó không chịu thoát ly. Tại sao không mong cầu xả bỏ các khổ? Tại sao không nhàm chán các khổ để mong cầu trí tuệ tịch tónh? Tại sao không nghó đến việc thoát khỏi các nguyên nhân sinh, lão, bệnh, tử? Ta nay làm sao tìm được chỗ vắng vẻ để tư duy những điều khổ não! Đại vương Tịnh Phạn và các đồng tử sau khi tham quan sự sinh hoạt nơi đồng nội, rồi cùng nhau trở về nghỉ mát trong một hoa lâm viên. Trong lúc ấy Thái tử một mình tản bộ đó đây, mắt luôn luôn quán sát tìm một nơi yên tónh, chợt trông thấy xa xa có bóng cây Diêm-phù, thân cây trơn láng, cành lá sum suê tươi tốt thu hút mọi người. Thái tử, liền bảo các người hầu cận: –Tất cả các người đều đi nơi khác cách xa ta, ta chỉ muốn đi một mình. Khi đám người hầu cận đi khuất, Thái tử lần lần hướng về đại thọ, đến nơi ngài lấy cỏ làm tòa, rồi ngồi trên đó lắng tâm tư duy: “Chúng sinh bị khổ sinh già bệnh chết, rồi phát tâm từ bi, tâm được an định, lúc đó liền xả bỏ các dục vọng và tất cả các pháp bất thiện trong thế gian, liền dứt lậu nghiệp dục giới, chứng được Sơ thiền. Thân ta cũng có các pháp như vậy, nếu chưa vượt qua các pháp này, thì chưa thoát khỏi vòng luân hồi.” Đang khi Thái tử ở dưới gốc cây tư duy như vậy, có năm vị Thần tiên phi hành trên hư không một cách tự tại, các vị này có đại oai đức, có thế lực lớn, thông hiểu các luận Tỳ-đà, biết rành các phép thuật. Họ đang đằng vân từ phương Nam đến phương Bắc định vượt qua khu rừng này, nhưng khi gần đến trên tàng cây Diêm-phù thì không thể vượt qua được. Các Thần tiên cùng nhau thảo luận: –Chúng ta thuở trước xuất hiện các phép thần thông, bay qua một cách tự tại, cho đến bay tới cung Tỳ-sa-môn của Đại Thiên vương, hoặc thành A-la-ca-bàn-đa cũng có thể bay qua được, ta cũng từng bay qua trên các nơi có nhiều ác thần Dạ-xoa, mà chính trên cây này chúng ta cũng đã từng bay qua lại vô số lần không mất thần thông, không có gì chướng ngại, mà ngày nay do sức oai lực gì khiến chúng ta thoái mất thần thông không thể bay qua được? Các Tiên nhân này liền quán sát cây Diêm-phù, thấy Thái tử ngồi dưới tàng cây, oai quang sáng rực chói lọi, khó có thể thấy một cách rõ ràng. Thấy như vậy rồi, họ suy nghó: “Người ngồi là ai? Phải chăng là vua trời Đại phạm chủ cõi nhân gian? Hay là trời Ngật-sa-na chủ thế giới cõi Dục? Hay trời Đế Thích? Hay Tỳ-sa-môn chủ kho tàng lớn? Hay Nguyệt Thiên tử, Nhật Thiên tử? Hay vị ấy là Chuyển luân thánh vương? Hoặc là Phật xuất thế? Mà có oai đức quá lớn như vậy!” Bấy giờ vị thần trông coi khu rừng nói với các Tiên nhân: –Này các Tiên nhân, người này chẳng phải là Đại phạm chủ cõi thế gian, cũng chẳng phải Ngật-sa-na chủ cõi Dục, cũng chẳng phải Đế Thích và Tỳ-sa-môn chủ kho tàng, cũng chẳng phải Thiên tử chưởng quản mặt trời mặt trăng. Vị Đồng tử này là Thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn thuộc dòng họ Thích. Này các Tiên nhân phải biết, bao nhiêu oai đức của tất cả vua trời Đại phạm, chúa trời Ngật-sa-na, Đế Thích, vua Tỳ-sa-môn chủ kho tàng, Nguyệt Thiên tử, Nhật Thiên tử và Chuyển luân thánh vương… so với oai đức một mảy lông của Thái tử Tất-đạt-đa, không bằng một phần mười sáu. Do thần thông của các ông có hạn, các ông muốn bay qua trên rừng cây này hoàn toàn không thể được. Các Tiên nhân nghe vị thần hộ lâm nói như vậy liền từ hư không hạ xuống, đứng trước mặt Thái tử nói kệ tán thán: Tiên nhân thứ nhất nói kệ: Lửa phiền não thiêu đốt thế gian, Ngài sinh ra ao nước pháp mầu, Khi chứng đắc pháp mầu vi diệu, Lửa phiền não hoàn toàn tiêu diệt. Tiên nhân thứ hai nói kệ: Hắc ám vô minh lấp thế gian, Ngài làm đuốc tuệ tỏa hào quang, Nhiệm mầu pháp tuệ là như vậy, Soi sáng kẻ mù khắp trần gian. Tiên nhân thứ ba nói kệ: Đồng nội ưu sầu trong đầm rộng, Ngài làm thuyền lớn khéo vượt qua, Pháp thuyền mầu nhiệm là như vậy, Thoát ra ba cõi cứu chúng sinh. Tiên nhân thứ tư nói kệ: Đây phiền não ràng buộc thế gian, Phương tiện Ngài khiến cho giải thoát, Do pháp nhiệm mầu là như vậy, Cởi mở mọi ràng buộc thế gian. Tiên nhân thứ năm nói kệ: Bao nhiêu trọng bịnh ở thế gian, Ngài đại lương y đều chữa khỏi, Pháp được nhiệm mầu là như vậy, Chữa lành tất cả bệnh trầm kha. Năm vị Tiên nhân đều nói kệ ca ngợi Thái tử, kế đến đầu mặt đảnh lễ sát đất, nhiễu quanh bên hữu ba vòng rồi cùng nhau đằng vân mà đi. Khi ấy, Đại vương Tịnh Phạn không thấy Thái tử ở đâu, trong tâm buồn rầu lo ngại chẳng yên, liền hỏi quan cận thần: –Bỗng nhiên Thái tử con ta vắng bóng, không biết hiện giờ ở đâu? (Câu này bản tiếng Phạm lặp lại hai lần). Bấy giờ quần thần bôn ba chạy tìm Thái tử, đi khắp Đông, Tây, Nam, Bắc mà chẳng thấy Thái tử ở đâu cả. Sau đó có một đại thần xa xa trông thấy Thái tử thiền tọa tư duy dưới tàng cây Diêm-phù, lại thấy bóng mát của tất cả tàng cây trong rừng đều di chuyển theo ánh nắng mặt trời, chỉ riêng tàng cây của Thái tử đang ngồi là bóng mát không di chuyển. Đại thần thấy Thái tử có việc quá ư đặc biệt không thể nghó bàn như vậy, nỗi vui mừng tràn ngập châu thân không thể tự chế, vội vã chạy nhanh về chỗ Đại vương, quỳ gối trình bày đầy đủ những việc mình đã mục kích. Rồi nói kệ: Thái tử Đại vương hiện nay đang, Đoan thân ngồi dưới cội Diêm-phù, Nhập chánh định kiết già quán tưởng, Tỏa hào quang sáng tợ mặt trời, Đây chân thật bậc Đại Trượng phu. Bóng tàng cây đứng yên không chuyển, Nguyện Đại vương giá lâm quan sát, Thái tử ngồi tướng mạo thế nào, Giống Đại phạm, Thiên vương không khác, Cùng Đế Thích, vua trời Đao-lợi, Sức oai thần sáng tỏ chói lòa, Chiếu cùng khắp rừng cây rực rỡ. Đại vương Tịnh Phạn vừa nghe, liền đi thẳng đến cây Diêm-phù, xa xa trông thấy Thái tử ngồi kiết già dưới tàng cây, ví như trong đêm tối thấy khối lửa khổng lồ đỏ rực trên đỉnh núi, ánh sáng chói lọi chiếu sáng khắp mọi nơi; do công đức vó đại mới phát sinh ánh sáng chói lọi như vậy, ví như giữa bầu trời mây đen nghịt, bỗng xuất hiện ánh trăng vằng vặc của đêm thu, cũng như căn nhà đen tối bỗng xuất hiện ngọn đèn sáng lớn. Khi nhà vua thấy việc quá ư đặc biệt, trong tâm lấy làm kinh ngạc, toàn thân rúng động dựng chân lông, rồi Đại vương chí thành đảnh lễ đầu mặt sát đất dưới chân Thái tử, vui mừng hớn hở thốt lời thế này: –Hay lắm! Hay lắm! Thái tử ta có oai đức lớn và nói kệ tán thán: Như đêm tối lửa hồng đỉnh núi, Tợ trăng thu vằng vặc bên mây, Thấy Thái tử tư duy an tọa, Toàn thân ta dựng ngược tóc lông. Đại vương Tịnh Phạn nói kệ tán thán rồi, lại đảnh lễ dưới chân Thái tử và tiếp tục nói kệ: Ta nay lại cúi thân đảnh lễ, Dưới chân thiên bức rất nhiệm mầu. Ta từ lúc sơ sinh mới gặp, Thái tử bỗng ngồi lặng tư duy. Lúc ấy có một tốp thiếu nhi vác dụng cụ đi săn theo sau Đại vương, chúng cười nói ồn ào. Có một đại thần quở trách bọn thiếu nhi: –Này các cháu, các cháu không được nói chuyện ồn ào. Đám thiếu nhi lại hỏi: –Tại sao ông không cho chúng tôi tự do nói chuyện? Vị đại thần trả lời qua bài kệ: Ánh mặt trời chói chang gay gắt, Không tài nào di chuyển bóng cây, Ánh hào quang một tầm vi diệu, Ai sánh kịp bậc phước đức này, Dưới tàng cây tư duy an tọa, Như Tu-di sừng sững an nhiên, Nhập sâu vào nội tâm cảnh giới, Vì thích bóng cây không xả bỏ.  <詞 id="48706247">Phẩm 13: TRANH TÀI KẾT HÔN (Phần 1) Trải qua năm tháng Thái tử đã trưởng thành, tuổi vừa mười chín, nhà vua vì Thái tử cho xây dựng cung điện thích hợp thời tiết ba mùa: Thứ nhất là cung điện ấm áp để Thái tử sử dụng khi trời giá lạnh của tiết mùa đông, thứ hai là cung điện mát mẻ để Thái tử sử dụng vào mùa hạ nóng bức, và cung điện thứ ba để Thái tử nghỉ ngơi trong hai mùa xuân, thu. Cung điện nghỉ tránh mùa đông giá thì xây cất theo xứ ấm, cung điện nghỉ mát tránh mùa hạ thì xây cất theo xứ mát mẻ, còn cung điện nghỉ trong hai mùa xuân, thu thì xây cất theo xứ khí hậu ôn hòa thích hợp, không lạnh không nóng. Lại sau mỗi cung điện đều có một hoa viên, có khe ngòi đắp đập ngăn nước dẫn vào các ao hồ, và trong mỗi ao hồ đều thả các loại hoa quý như: hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Lại có vô số người hầu hạ phục dịch cùng mua vui cho Thái tử, quan chức các ty đều phái người đến phục vụ, người thì đấm bóp, người thì xoa dầu, có người kỳ rửa khi Thái tử tắm, khi Thái tử tắm gội có người dâng nước nóng hương thơm, có người lo việc nhuộm tóc, chải đầu và búi tóc cho Thái tử, có người phụ trách việc xông hương y phục, có nhiều người đứng cầm ngưu hoàng, tràng hoa và y phục nhiều màu sặc sỡ, toàn bằng loại Ca-thi-ca, luôn luôn đứng khom lưng cúi đầu hầu cận bên Thái tử, khi nào Thái tử cần thì liền đến dâng. Phụ vương Thái tử là Thâu-đầu-đàn, nếu mặc áo trong bằng Ca-thi-ca thì áo ngoài bằng chất khác, còn y phục của Thái tử thì trong ngoài đều là Ca-thi-ca. Các đồng nam, đồng nữ hầu hạ hai bên Thái tử, cùng người phục dịch, họ đều dùng thứ cơm thơm ngon, các thứ nước thịt, hoặc tái giấm hoặc nấu canh, họ đều chọn lựa các thức ăn đặc biệt: Cơm canh thơm ngon, sơn hào hải vị, trăm thứ trân tu cùng các thứ bánh trái thượng hạng… dâng lên Thái tử. Vô số những thức ăn như vậy, luôn luôn thay đổi hằng ngày. Ngày đêm đều cung cấp toàn là thức ăn mới lạ vừa làm. Ngày đêm đều dùng lọng trắng che trên mình Thái tử vì khi dạo chơi ban đêm thì sợ sương gió mưa phùn, còn ban ngày thì sợ bụi bặm và nắng chiếu vào thân Thái tử. Đại vương Tịnh Phạn thấy Thái tử đã đến tuổi trưởng thành, trong tâm lại lo nghó đến lời tiên đoán của Tiên nhân A-tư-đà, nên tập hợp các đại thần kỳ cựu, nói: –Này các vị thân tộc, có lẽ các ngài đã từng biết khi Thái tử ta sơ sinh, lúc ấy ta mời các tướng sư Bà-la-môn và Tiên nhân A-tư-đà, họ đều dự đoán: Nếu Thái tử tạo gia thì làm Chuyển luân thánh vương, còn nếu xuất gia thì thành đạo Vô thượng. Mà ngày nay tuy chúng ta đã tạo các điều kiện để cho Thái tử khỏi xuất gia, mà ta vẫn còn lo sợ! Các vị thân tộc thưa cùng Đại vương: –Tâu Đại vương, ta nay mau lập gia đình cho Thái tử, để Thái tử vui chơi với thể nữ, thì chắc chắn người sẽ không xả tục xuất gia. Liền nói kệ: A-tư-đà dự đoán Quyết định không có sai. Hoàng tộc khuyên cưới vợ Hy vọng khỏi xuất gia. Rồi lại nghó: “Phương pháp này có thể làm cho dòng họ Thích ta hưng thịnh, khiến cho các nước chư hầu sinh tâm kính nể, không dám xem thường.” Đại vương lại hỏi các vị quý tộc trong hoàng gia: –Các ngài quán sát xem thử có nàng con gái nào trong dòng họ Thích, có thể sánh đôi với Thái tử Tất-đạt-đa ta chăng? Năm trăm vị kỳ đức trong dòng họ Thích đều nói: –Con gái tôi có thể sánh đôi với Thái tử. (Câu này bản tiếng Phạm lặp lại hai lần, nay bản nhà Tùy dịch giảm bớt). Đại vương Tịnh Phạn suy nghó: “Nếu ngày nay ta không cùng Thái tử trao đổi việc trăm năm, bỗng nhiên đơn phương rước dâu về, nếu Thái tử không bằng lòng người con gái ấy thì có thể đưa đến việc ly hôn; còn nếu bàn thẳng với Thái tử thì sợ Thái tử tánh e dè không chịu nói. Ta nay do dự không biết tính lẽ nào đây!” Ngài lại suy nghó tiếp: “Ta có thể đem nhiều ngọc quý làm món quà vô ưu đưa cho Thái tử, rồi bảo Thái tử tặng cho các nữ nhân, trong khi ấy ta cho người bí mật theo dõi Thái tử, xem thử cặp mắt Thái tử sẽ chú ý đến nàng con gái nào, rồi sau đó ta mới cưới nàng ấy vì làm vợ Thái tử.” Sau khi suy nghó như vậy, Đại vương tiến hành theo kế hoạch, cho người làm các món đồ vô ưu bằng những thứ ngọc quý. Đó là những thứ nữ trang bằng vàng, bạc… Khi làm xong, nhà vua đích thân đứng nơi cửa thành Ca-tỳ-la, tay rung chuông, miệng ban sắc lệnh: “Bảy ngày sau kể từ hôm nay, Thái tử ta muốn gặp mặt tất cả nữ nhân trong dòng họ Thích; sau đó Thái tử sẽ trao tặng cho các người món quà vô ưu bằng các ngọc quý giá đẹp đẽ. Vậy tất cả mỹ nhân nội thành hãy tập trung về trước cửa cung điện.” Mãn ngày thứ sáu, bước sang sáng ngày thứ bảy, Thái tử ra trước cửa cung ngồi nơi dịch đình. Khi ấy tất cả nữ nhân trong thành đều dùng chuỗi anh lạc trang sức hết sức lộng lẫy, cùng nhau tề tựu trước cửa cung, trong tâm họ trước là muốn chiêm ngưỡng dung nhan Thái tử, sau là nhận tặng vật vô ưu bằng ngọc quý giá. Tất cả mỹ nhân khắp bốn phương nội thành tuần tự đi ngang qua trước mặt Thái tử, do oai đức của ngài, tất cả mỹ nhân không một ai dám nhìn chính diện, chỉ cúi đầu nhận tặng vật rồi chân vội bước nhanh. Khi Thái tử đã trao hết tặng vật, lại còn một mỹ nữ đến sau cùng tên là Da-du-đà-la, con gái của vị đại thần dòng họ Thích tên Ma-ha Na-ma thuộc họ Bà-tư-tra, nàng được nhiều tỳ nữ hầu hạ trước sau, hộ vệ chung quanh từ từ tiến đến. Từ xa, nàng nhìn Thái tử với cặp mắt trong sáng, đẹp đẽ hiền hòa nhưng đầy mãnh lực nên đôi mắt nàng không nháy, nhìn thẳng vào mặt Thái tử không một chút e ngại thẹn thùng, như người bạn cũ đã từng quen biết từ lâu. Khi đã đến gần, nàng thưa Thái tử: –Hôm nay Thái tử tặng cho tôi vật gì? Thái tử đáp: –Nàng đến quá muộn nên các tặng vật đã hết sạch. Nàng ta lại thưa: –Thưa Thái tử, tôi có tội lỗi gì mà ngài khi dễ không tặng bảo vật cho tôi? Thái tử đáp: –Ta không có tâm khi dễ một ai, do vì nàng đến trễ, không đúng lúc ta tặng bảo vật mà thôi! Khi ấy Thái tử cởi chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay, giá trị gấp trăm ngàn vạn lần so với các tặng vật khác, trao cho Da-du-đà-la. Da-du-đà-la lại thưa với Thái tử: –Tôi đến với Thái tử để chỉ nhận có bấy nhiêu vậy sao? Thái tử nói: –Đối với tất cả chuỗi anh lạc đang đeo trên thân ta, tùy ý nàng muốn lấy thứ gì thì lấy. Nàng lại tâu: –Tôi nay đâu lại cởi lấy đồ trang sức của Thái tử, mà chỉ có thể trang sức cho người thì có. Nói những lời như vậy rồi nàng liền lui về, tâm không được vui. Đoạn nói về nguyên nhân Da-du-đà-la không vui. Vào một hôm nọ sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Tôn giả Ưu-đà-di bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, vì cớ gì ngày xưa ngài ở trước cửa cung điện đem tất cả chuỗi anh lạc quý giá trên thân tặng cho Da-du-đà-la, mà không làm cho tâm nàng sinh hoan hỷ? Phật bảo Ưu-đà-di: –Này Ưu-đà-di, ông phải chú ý lắng nghe, Ta sẽ nói lý do đó: Da-du-đà-la không chỉ một đời này được Ta cho nhiều chuỗi anh lạc mà nàng chẳng vui, nhưng đã trải qua nhiều đời như vậy. Do vì trong quá khứ Ta đã gây một nhân duyên nhỏ làm cho nàng sân hận, tuy Ta đã đem rất nhiều châu báu tặng cho nàng mà nàng vẫn không hoan hỷ. Ưu-đà-di hỏi: –Bạch Thế Tôn, sao lạ như vậy? Việc này như thế nào? Xin Ngài kể cho con nghe. Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Ưu-đà-di: –Ta nhớ thời quá khứ cách đây vô lượng kiếp tại thành Ba-la-nại thuộc nước Ca-thi. Vị vua thuở ấy đem tà kiến điên đảo cai trị dân chúng. Nhà vua hạ sinh một Thái tử, Thái tử lỡ phạm một ít lỗi lầm, nhà vua quá khắt khe đuổi Thái tử ra khỏi biên cương. Thái tử cùng vợ lang bạt đó đây, lần lần đến một đền thờ Thiên thần, lấy nơi đây làm chỗ ẩn náu. Một hôm, tất cả lương thực Thái tử mang theo đều hết sạch, nên Thái tử phải đi săn bắn, mà thậm chí bắt các loài rắn rít… để độ nhật. Một hôm, Thái tử đi săn, gặp một con kỳ đà, người rượt theo giết được, liền lột bỏ lớp da, lấy thịt cho vào trong nồi nước bắc lửa nấu, thịt kỳ đà sắp chín, mà nước trong nồi lại gần khô cạn, lúc ấy Thái tử bảo vợ: –Thịt chưa chín lắm mà nước lại cạn khô, nàng nên đi múc nước thêm. Sau khi người vợ đi múc nước, Thái tử ở nhà vì cơn đói cào ruột, không thể chờ vợ về được, nên đã ngon miệng ăn hết thịt kỳ đà không thừa còn một miếng. Khi người vợ múc nước trở về, hỏi chồng: –Thịt trong nồi biến đâu cả? Thái tử đáp: –Kỳ đà bỗng nhiên sống lại, hiện giờ nó chạy đi mất. Người vợ không tin, trong tâm thầm nghó: “Cớ gì bỗng nhiên như vậy? Kỳ đà đã bị nấu chín làm sao chạy được?” Nàng không tin, ý cho rằng người chồng quá đói nên ăn hết thịt, trở lại gạt mình là kỳ đà sống lại chạy mất. Rồi từ đó nàng ôm lòng oán giận chẳng vui. Sau đó vài năm phụ vương băng hà, các đại thần rước thái tử về triều làm lễ quán đảnh tấn phong lên ngôi cửu ngũ. Sau khi thái tử lên làm vua, có bao nhiêu tài vật vô giá, ngọc ngà y phục quý giá đều trao cho chánh phi. Chánh phi nhận lễ mà sắc mặt vẫn không tươi vui như trước. Nhà vua mới hỏi: –Trẫm đã đem vô lượng bảo vật tặng cho ái phi, vì cớ gì mà sắc mặt ái phi không hoan hỷ tươi vui? Vẫn như cũ không thay đổi? Lúc ấy phu nhân trả lời qua bài kệ: Đại vương tối thắng nghe Thuở xưa đi săn bắn, Thiếp theo cầm tên đao, Vua bắn kỳ đà chết, Lột da nấu sắp chín, Sai thiếp múc nước thêm, Ăn thịt không để dành, Dối thiếp nói nó chạy. Phật bảo Ưu-đà-di: –Ông phải biết, nhà vua lúc đó là ta ngày nay, vương hậu lúc ấy là Da-du-đà-la ngày nay. Thuở ấy ta xúc phạm đến nàng một việc nhỏ, rồi nhiều đời sau đó ta đem vô số của cải quý giá cho nàng để mong cầu hòa hợp mà nàng vẫn ôm lòng sầu hận chẳng vui, cho đến ngày hôm nay cũng vậy, ta đem nhiều lụa là vàng bạc ban cho nàng mà tâm nàng vẫn không hoan hỷ. Nói về việc Đại vương Tịnh Phạn âm thầm cho người theo dõi Thái tử. Mật sứ chăm chú theo dõi đôi mắt Thái tử nhìn vào đối tượng nào. Khi Thái tử cùng nữ nhân nói chuyện với nhau thì mật sứ để ý nên biết một cách tường tận. Mật sứ liền trở về tâu Đại vương: –Bạch Đại vương phải biết, trong số nữ nhân này, có người con gái của Ma-ha Na-ma, đại thần của Đại vương, là người đến sau cùng. Thái tử cùng nàng ta nói chuyện trao đổi qua lại trải qua thời gian khá lâu, bốn mắt nhìn nhau, đôi môi mỉm cười, vẻ mặt cả hai tươi vui, kẻ đối người đáp trò chuyện trông có vẻ đắc ý. Đại vương nghe lời diễn tả của mật sứ như vậy, trong tâm suy nghó: “Có phải Thái tử muốn cầu hôn với nàng ấy chăng?” Rồi nhà vua chọn ngày lành tháng tốt cho mời quốc sư Bà-la-môn đến bảo: –Khanh làm vị sứ đến nhà đại thần Ma-ha Na-ma của dòng họ Thích mà đọc thánh chỉ thế này: “Trẫm biết khanh có người con gái, nay có thể cùng với Thái tử của trẫm kết nghóa trăm năm”. Quốc sư nhận sắc lệnh của Đại vương rồi, liền đến nhà Ma-ha Na-ma, vị đại thần của dòng họ Thích, nói với đại thần: –Xin đại thần Ma-ha Na-ma nghe Thánh chỉ… (như trên). Đại thần trả lời Quốc sư: –Theo phép tương truyền chọn nhân tài kén rể của dòng họ ta như thế này: “Nếu chàng trai nào thắng tất cả những người khác, ta sẽ gả con gái về làm vợ chàng trai ấy. Nếu chàng trai nào không tài năng thì ta không gả con gái”. Thái tử của Đại vương sinh trưởng trong thâm cung, ham đắm thú vui chưa từng học tập, không có nghề nghiệp tài năng, đối với các nghề như: Bắn cung, thiên văn, địa lý, trương cung, cử tạ… hết thảy đều trống không. Ngày nay vì cớ gì ta đem con gái gả cho kẻ bất tài không nghề nghiệp như vậy. Quốc sư nghe nói như vậy, liền trở về hoàng cung đem bao nhiêu lời của đại thần Ma-ha Na-ma trình lên vua Tịnh Phạn một cách trung thực. Nhà vua vừa nghe qua tâm sinh buồn rầu áo não, suy nghó thế này: “Lời nói của đại thần Ma-ha Na-ma đúng như lý, đối với ta nói lời thành thật không một chút dối trá khinh khi.” Tuy suy nghó như vậy, mà trong lòng âm thầm ôm lấy nỗi bực tức, buồn rầu đau khổ, ngồi bất động không còn biết cảnh vật chung quanh, giống trạng thái người đang thiền tọa tư duy. Khi ấy Thái tử thấy gương mặt Phụ vương thất sắc, mang đầy vẻ buồn rầu áo não không vui, giống như người đang tịnh tọa tư duy không khác liền nhẹ nhàng bước đến khẽ hỏi Phụ vương: –Tâu Phụ vương, hôm nay không biết lý do gì khiến phụ vương một mình ngồi sững, trông vẻ mặt kém vui như vậy? Đại vương nghe Thái tử hỏi lời như vậy liền bảo: –Con chẳng cần hỏi ta việc như vậy! Thái tử lại hỏi lần thứ hai. Nhà vua vẫn im lặng. Thái tử hỏi như vậy đến ba lần, rồi ngài tha thiết tâu: –Xin Đại vương nói cho con biết để tâm con khỏi nghi ngờ. Khi ấy Đại vương Tịnh Phạn thấy Thái tử thiết tha hỏi ba lần như vậy, nên nhà vua đem mọi việc nói với Thái tử một cách chán nản. Thái tử hiểu ý liền thưa Phụ vương: –Xin Phụ vương cho con cùng tất cả nhân tài trong thành Ca-tỳ-la so tài đủ các bộ môn có được chăng? Đại vương nghe vậy, trong tâm hết sức vui mừng niềm hớn hở tràn ngập châu thân không kềm chế được, liền gạn hỏi Thái tử: –Hay thay Thái tử! Con thật muốn so tài phải không? Thái tử đáp: –Xin Đại vương nghe cho, con nay thật muốn như vậy. Xin Đại vương chỉ cần tập trung gấp tất cả các vương tử trong dòng họ Thích để cùng con thi đủ các bộ môn. Đại vương Tịnh Phạn liền ban sắc lệnh, cho người xuống tận các ngã tư đầu đường nội thành Ca-tỳ-la, rung chuông cao giọng đọc sắc lệnh: “Từ nay đến ngày thứ bảy, nơi dinh thự nhà vua, Thái tử Tất-đạt-đa muốn thi thố tài năng; nếu ai là người tài giỏi, tất cả hãy tập trung cùng nhau so tài thử xem”. Sáu ngày trôi qua, đến rạng ngày thứ bảy, năm trăm đồng tử thuộc dòng họ Thích mà Thái tử là người dẫn đầu cùng nhau hội họp, rồi đoàn người kéo ra khỏi thành, tìm một khoảng đất rộng lấy làm nơi các đồng tử thi thố tài năng. Bấy giờ đại thần Ma-ha Na-ma cho trang sức nàng Da-du-đà-la thật kiều diễm, là bậc tuyệt thế giai nhân, rồi đại thần cao giọng tuyên bố giữa thí trường: “Kẻ nào thông thạo các nghề, là bậc đứng nhất trong thiên hạ, sẽ cùng đứa con gái yêu dấu của ta kết làm phu phụ”. Lúc ấy Đại vương cùng các vị kỳ cựu trưởng đức là đoàn người đi trước tiên, và sau đó có vô số bá quan văn võ, thứ dân, nam nữ lão ấu… tất cả đều tập trung nơi thí trường là một khoảng đất rộng mênh mông, họ cố ý quan sát sự thi tài của Thái tử với các đồng tử trong hoàng gia, xem thử ai là người tài năng bậc nhất. Đầu tiên là cuộc thi văn chương. Các đồng tử hoàng gia học văn chương tỏ ra hào hứng, họ cùng với Thái tử thi nghề văn. Các vị trong dòng họ Thích cùng nhau thảo luận: Bây giờ ta nên mời đại sư Tỳ-xa Mật-đa làm vị chủ khảo, rồi ra lệnh cho chủ khảo: Đại sư nên quán sát cuộc thi văn chương của các đồng tử trong hoàng tộc, chấm vị nào đứng nhất trong các môn, hoặc xem ai viết chữ đường nét linh hoạt, ai viết nhanh, ai viết chữ đẹp và ai là người uyên thâm nhiều môn kinh điển. Khi đó, đại sư Tỳ-xa Mật-đa biết trước Thái tử đối trong các kinh điển, là người giỏi nhất không ai hơn. Rồi đại sư vui vẻ tươi cười nói kệ: Tất cả nhân gian và Thiên giới, Càn-thát, Tu-la, Ca-lâu-la. Bao nhiêu văn tự và kinh điển, Thái tử xem qua đều am tường. Tất cả đồng tử cho đến ta, Chẳng biết kinh điển tên như vậy. Mọi người đều rõ, ta xem thử, Biết chắc các ông không sánh lại. Bấy giờ đồ chúng họ Thích tập họp đồng đến trước vua Tịnh Phạn thưa: –Bạch Đại vương, ngày nay chúng tôi biết Thái tử của Đại vương đối với môn văn chương kinh điển, là người giỏi vượt trên hết. Kính bạch Đại vương, bây giờ xin cho thi môn toán số, mới biết ai là người thông minh hơn hết. Nhà vua nghe qua liền chấp nhận. Lúc bấy giờ, trong hội trường có một đại sư hết sức giỏi toán số tên là Át-thùy-na, đối với tất cả môn toán số trong thế gian, là người uyên thâm bậc nhất. Các vị trong dòng họ Thích cho mời đại sư Át-thùy-na đến và nói: –Xin Tôn giả vui lòng làm vị chủ khảo trong môn thi toán số. Đại sư hãy quán sát thật tốt, xem trong số các đồng tử ai là người giỏi toán số bậc nhất. Trước tiên Thái tử ra một bài toán, rồi bảo một đồng tử trong hoàng gia rành toán nhất giải bài toán này, khi ấy đồng tử không giải ra; lại hai đồng tử cùng giải cũng không ra, rồi ba đồng tử giải cũng không ra, cho đến mười đồng tử giải cũng không ra, rồi cho đến hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi… một trăm đồng tử đồng giải mà cũng không ra, cho đến hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm đồng tử cùng tính một lúc mà vẫn không làm ra. Khi ấy Thái tử nói thế này: –Này các người, bây giờ ta sẽ giải bài toán này cho. Khi ấy có một đồng tử xướng lên: –Bài toán của Thái tử đang làm không thể tính được. Thái tử lại nói: –Hai người các ông đồng giải làm cũng không ra. Thái tử lại nói tiếp: –Cho đến một trăm người các ông đồng một lúc tính cũng không ra, rồi ngài lại nói: Các ông dựa vào quy tắc nào mà cùng với ta tranh đề toán sai đúng như vậy? Nhưng tất cả các đồng tử đồng một lúc đều tính, rồi nói rằng: ta sẽ làm được. Rồi tất cả năm trăm đồng tử đồng xướng nhất loạt: –Thái tử đồng một lượt làm bài toán này với chúng tôi. Thái tử lúc bấy giờ thong thả chậm rãi suy tính kỹ càng theo thứ lớp mà làm, đối bao nhiêu số như trong đề, từ số đầu tiên Thái tử đặt bút cho đến số cuối cùng Thái tử ngừng bút, không có một số nào sai lầm hay sửa chữa. Tất cả đồng tử hoàng gia nỗ lực cùng làm mà không bằng một phần vạn của Thái tử Tất-đạt-đa. Lúc ấy, Quốc đại toán sư trong tâm rất lấy làm kinh ngạc, hết sức vui mừng mà nói kệ: Biết nhiều, lanh lợi thật đại tài! Nói, làm phân biệt không lẫn sai. Thích tử năm trăm khoe toán giỏi, Nỗ lực tranh tài không tranh lại. Trí ngài thông minh tâm nghó đúng, Tính toán lanh lẹ rất cao sâu. Này các toán sư trong thiên hạ, Phải biết môn toán rất mênh mông, Im hơi lặng tiếng chớ đặt điều. Không nên so tài cùng Thái tử, Ngài đã uyên thâm thuật tính toán, Tranh tài cao thấp chỉ có ta. Bấy giờ, mọi người dòng họ Thích đều hoan hỷ, thấy việc chưa từng có, rời khỏi tòa chắp tay đảnh lễ Thái tử Tất-đạt-đa và đồng thanh ca ngợi: –Thái tử Tất-đạt-đa thật sự đại thắng! Đại thắng! Rồi lại bạch Đại vương Tịnh Phạn: –Hay thay! Đại vương, ngài được lợi ích tốt đẹp rất lớn, ngài khéo ở trong nhân gian, đã sinh được Thái tử thông minh trí tuệ đầy phước đức như vậy! Có tài ăn nói lưu loát, giọng nói đầy truyền cảm khôn ngoan như vậy! Đại vương vui mừng tươi cười nói với Thái tử: –Hay thay! Thái tử, hôm nay người có thể cùng với đại toán sư Át-thùy-na là bậc trí tuệ tài giỏi toán số ở thế gian so tài chăng? Thái tử đáp: –Bạch Đại vương, con có thể cùng với Đại sư tranh tài. Đại vương nói: –Nếu được, thì tùy ý Thái tử. Lúc ấy Đại kế toán Át-thùy-na hỏi Thái tử: –Thưa Nhân giả, ngài có biết tính các số trên số ức chăng? Thái tử đáp: –Tôi biết rõ cách tính các số này. Toán sư Át-thùy-na lại nói: –Ngài biết như thế nào? Xin trình bày cho tôi nghe. Thái tử đáp: –Hễ bắt đầu vào việc tính số ức, xin các người để ý lắng nghe, ta nay sẽ nói: Một trăm trăm ngàn bằng một Câu-trí (số nhà Tùy là ngàn vạn), một trăm Câu-trí bằng một A-do-đa (số nhà Tùy là mười ức), một trăm A-do-na bằng một na-do-tha (số nhà Tùy là một ngàn ức), một trăm Na-do-tha bằng một Ba-la-do-tha (số nhà Tùy là mười vạn ức), một trăm Ba-la-do-tha bằng một Đát-ca-la (số nhà Tùy là một ngàn vạn ức), một trăm Đát-ca-la bằng một Tần-bà-la (số nhà Tùy là mười triệu), một trăm Tần-bà-la bằng một A-sô-bà (số nhà Tùy là một ngàn triệu), một trăm A-sô-bà bằng một Tỳ-bà-sa (số nhà Tùy là mười vạn triệu), một trăm Tỳ-bà-sa bằng một Uất-tằng-già (số nhà Tùy là một ngàn vạn triệu), một trăm Uất-tằng-già bằng một Bà-ha-na (số nhà Tùy là mười kinh), một trăm Bà-ha-na bằng một Na-già-bà-la (số nhà Tùy là một ngàn kinh), một trăm Na-già-bà-la bằng một Đế-trí-bà-la (số nhà Tùy là mười vạn kinh), một trăm đế-trí-bà-la bằng một Tỳ-bà-sa Tha-na-ba-nhã-đế (số nhà Tùy là ngàn vạn kinh), một trăm Tỳ-bà-sa Tha-na-ba-nhã-đế bằng một Ê-đâu Hề-la (số nhà Tùy là mười kỳ), một trăm Ê-đẩu Hê-la bằng một Ca-la-bô-đa (số nhà Tùy là một ngàn cai), một trăm Ca-la-bô-đa bằng một Ê-đô-nhân Đà-la-đà (số nhà Tùy là vạn cai), một trăm Ê-đô-nhân Đà-la-đà bằng một Tam-mạn-đa-la-bà (số nhà Tùy là ngàn vạn cai), một trăm Tam-mạn-đa-la-bà bằng một Già-na-na Già-ni-đa (số nhà Tùy là mười bổ), một trăm Già-na-na Già-ni-đa bằng một Ni-ma-la-xà (số nhà Tùy là một ngàn bổ), một trăm Ni-ma-la-xà bằng một Mục-đà-bà-la (số nhà Tùy là mười vạn bổ), một trăm Mục-đà-bà-la bằng một A-già Mục-đà (số nhà Tùy là một ngàn vạn bổ), một trăm A-già Mục-đà bằng một Tát-bà Bà-la (số nhà Tùy là mười nhương), một trăm Tát-bà Bà-la bằng một Tỳ-tát-xà-ba-đế (số nhà Tùy là một ngàn nhương), một trăm Tỳ-tát-xà-ba-đế bằng một Tát-bà Tát-nhã (số nhà Tùy là mười vạn nhương), một trăm Tát-bà Tát-nhã bằng một Tỳ-phù-đăng-già-ma (số nhà Tùy là ngàn vạn nhưỡng), một trăm Tỳ-phù-đăng-già-ma bằng một Bà-la Cực-xoa (số nhà Tùy là mười giản). Áp dụng vào các toán số như vậy, ngay cả núi Tu-di muốn tính biết bao nhiêu cân, lượng, thù, phân đều có thể tính được cả. Từ số này trở lên lại có pháp toán số tên là Đà-bà-xà Già-ni-dân-na, trên số này lại có phép toán số tên là Xa-bàn-ni, trên phép toán số này lại có phép toán số tên là Ba-la-na-đà. Trên phép toán số này tên là Y-tra, trên số này lại có phép toán số tên là Ca-lâu-sa Tra-ty-đa, lại trên số này có phép toán số tên là Tát-ba-ni-sai-ba, đến số này có thể tính số cát sông Hằng… Nó gồm thâu tất cả các số khác. Trên số này có toán số tên là A-già-sa-bà, con số này có thể tính số cát một sông Hằng, hoặc tính số cát trăm ngàn vạn ức sông Hằng, tất cả đều thuộc trong số này. Mà trên số này lại có phép toán số tên là Ba-la-ha-nậu Tỳ-bà-xa. Đại sư toán kế Át-thùy-na nói với Thái tử: –Những số như vậy tôi biết rồi, còn con số để tính số vi trần lại là số như thế nào? Nay Thái tử cũng cho tôi biết. Thái tử đáp: –Này tất cả thính giả chú ý lắng nghe, ta sẽ nói toán số đó: Hơn bảy Vi trần bằng một Song trần, hợp bảy Song trần bằng một Thố trần, gồm bảy Thố trần bằng một Dương trần, hợp bảy Dương trần bằng một Ngưu trần, hợp bảy Ngưu trần bằng một Cơ, hợp bảy Cơ thành một Sắc, hợp bảy Sắc thành một Giới tử, hợp bảy Giới tử thành một Đại mạch, hợp bảy Đại mạch thành một Chỉ tiết, hợp bảy Chỉ tiết thành một Bán xích, hợp hai Bán xích thành một Xích, hai Xích thành một Trựu, bốn Trựu thành một Cung, năm Cung thành một Trượng, hai mươi Trượng thành một ức, tám mươi ức thành một Câu-lô-xá, tám Câu-lô-xá thành một do-tuần. Ở trong số này có ai biết bao nhiêu vi trần thành một do-tuần (theo số nhà Tùy tính được ba trăm tám mươi bốn lý một trăm ba ngàn bộ). Đại sư toán kế Át-thùy-na nói với Thái tử: –Thưa Đại đức Nhân giả, tôi còn không biết những số như vậy, hiện nghe ngài nói tâm tôi còn mê muội, huống là kẻ ngu si kém trí ít học. Tuy vậy, xin Thái tử vì bọn chúng tôi nói có bao nhiêu vi trần thành một do-tuần. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706248">QUYỂN 13 <詞 id="48706249">Phẩm 13:TRANH TÀI KẾT HÔN (Phần 2) Bấy giờ, Thái tử nói với nhà toán học lớn Át-thùy-na: –Các ông hãy lắng nghe, số vi trần trong một do-tuần có nhiều ít không nhất định. Số vi trần lần lần chứa đầy trong một a-sô-bà, như vậy lại có một na-do-tha, lại nữa, hai mươi trăm ngàn ức na-do-tha, sáu mươi ngàn ức, ba mươi hai ức, năm trăm ngàn, một trăm ngàn. Những số vi trần như vậy tính tổng cộng gồm đủ một do-tuần. Như vậy, theo thứ lớp tuần tự mà tính, thì do-tuần có lớn nhỏ không nhất định. Cõi Diêm-phù-đề này cao rộng ngang nhau bằng bảy ngàn do-tuần; cõi Tây Cù-da-ni rộng tám ngàn do-tuần; cõi Đông Phất-bà-đề rộng chín ngàn do-tuần; cõi Uất-đơn-việt rộng mười ngàn do-tuần. Đây là số do-tuần cõi Tam thiên đại thiên thế giới cao rộng như vậy. Căn cứ vào thứ lớp do-tuần lớn nhỏ khác nhau như vậy, ta có thể tính được hoặc bao nhiêu trăm do-tuần, hoặc bao nhiêu ngàn do-tuần, hoặc bao nhiêu trăm ngàn do-tuần. Lại tùy theo mỗi loại do-tuần có bao nhiêu số vi trần, tính tổng cộng có thể biết. Vì sao người ta không biết được số vi trần trong cõi Tam thiên đại thiên thế giới? Do vì con số này vượt lên trên tất cả con số thế gian, nên họ cho con số này không thể đếm được, không thể tính biết được. Nhà toán học lớn Át-thùy-na và tất cả các vị tôn tộc của dòng họ Thích vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân không thể kềm chế được, họ cởi vô lượng vô biên chuỗi anh lạc và tất cả y phục, chỉ để lại trên thân một bộ, còn bao nhiêu đều đem hiến dâng cho Thái tử, đồng thời ca ngợi: –Hay thay! Hay thay! Sự hiểu biết của Thái tử quá cao xa. Trong các phép toán số theo thứ lớp như vậy, Thái tử lại là bậc Tối thắng, nghóa là đối với tất cả sách toán số, trí hiểu biết của ngài quả là uyên thâm không ai sánh kịp. Các vị trong dòng họ Thích nói tiếp: –Chúng ta ngày nay đã biết Thái tử đối với tất cả sách toán số là người bậc nhất không ai sánh bằng, kế tiếp theo đây xin ngài thi môn võ nghệ bằng cách sử dụng các binh khí, để xem ai là người đứng nhất, ai là người trên hết. Lúc ấy các vị tôn tộc trong hoàng gia suy cử một đại thần trong dòng họ tên là Sa-ha Đề-bà giữ chức vụ chủ khảo cuộc thi võ, và nói với đại thần chủ khảo: –Đại đức tôn quý khéo dụng tâm xem trong số đồng tử, vị nào đứng đầu về môn võ thuật. Các môn thi gồm có: sử dụng vũ khí, nghe âm thanh, bắn xa, bắn trúng đích, và sức mạnh giương cung… Bấy giờ, nơi thí trường đồng tử A-nan-đà để một chiếc trống sắt cách xa hai Câu-lô-xá làm mục tiêu để bắn. Đồng tử Đề-bà-đạt-đa để một chiếc trống sắt cách xa bốn Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn. Cho đến đồng tử Nan-đà để một chiếc trống sắt cách sáu Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn. Vị đại thần họ Bà-tư-tra tên là Ma-ha Na-ma để một trống sắt cách xa tám Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn. Tuần tự theo thứ lớp, mỗi đồng tử đều để trống sắt hoặc xa hoặc gần làm mục tiêu bắn. Còn Thái tử Tất-đạt-đa để chiếc trống sắt rất dày cách xa mười Câu-lô-xá làm mục tiêu bắn. Lúc ấy đồng tử A-nan-đà trương cung bắn chiếc trống cách xa hai Câu-lô-xá, mũi tên vừa trúng mặt trống cách xa điểm đích và không xuyên qua được. Đồng tử Đề-bà-đạt-đa bắn chiếc trống sắt cách xa bốn Câu-lô-xá, mũi tên găm vào mặt trống mà không xuyên qua được. Đại thần Ma-ha Na-ma bắn chiếc trống sắt cách tám Câu-lô-xá, mũi tên cũng găm vào mặt trống nhưng cách đích không bao xa và cũng không xuyên qua được. Các đồng tử họ Thích, mỗi người đều để trống sắt hoặc xa hoặc gần làm mục tiêu bắn, các mũi tên của họ đều trúng mặt trống mà không xuyên qua được. Bấy giờ đến lượt Thái tử Tất-đạt-đa, khi sắp bắn có vị quan dâng chiếc cung cho Thái tử, Thái tử tiếp lấy, rồi dùng tay đè nhẹ thanh cung và kéo dây cung xem thử mạnh yếu thế nào, ngay khi đó cung bị gãy và dây bị đứt, nên Thái tử hỏi cả hội trường: –Ai biết trong nội thành này có chiếc cung nào tốt, đủ sức cho ta sử dụng khỏi phải giới hạn? Đại vương Tịnh Phạn hết sức vui mừng, liền đáp: –Hoàng gia mình có. Thái tử thưa: –Tâu Đại vương, ngài nói có, nay chiếc cung ấy ở đâu? Đại vương đáp: –Tổ phụ của Thái tử quý danh là Sư Tử Giáp. Ngài có một chiếc cung hiện giờ đang để nơi Thiên miếu, ngày đêm luôn luôn hương hoa thờ cúng. Nhưng chiếc cung này, tất cả quyến thuộc họ Thích trong nội thành không một ai trương được dây cung, huống nữa là trương ra để bắn. Thái tử thưa: –Xin Đại vương mau mau cho người đến thỉnh mang về đây. Liền sau đó có sứ giả mang chiếc cung đến, trước tiên trao cho các đồng tử hoàng gia, họ cầm lấy mà không một ai kéo dãn được dây cung, huống nữa là trương cung để bắn. Kế tiếp đó, đại thần Ma-ha Na-ma cố dốc toàn sức mạnh mà cũng không kéo dãn được dây cung, huống nữa là trương cung để bắn. Cuối cùng sứ giả mới dâng cho Thái tử. Thái tử cầm lấy chiếc cung, rồi an tọa trên đất thân không lay động, chỉ dùng một ít sức, tay trái cầm lấy thanh cung, tay mặt nắm lấy dây cung, các ngón tay vừa kéo nhẹ dây cung, phát ra âm thanh vang dội khắp cả thành Ca-tỳ-la, lúc ấy tất cả dân chúng nội thành đều kinh hãi, họ hỏi nhau: “Tiếng gì vậy?” Hoặc có kẻ nghe người khác nói lại: “Thái tử Tất-đạt-đa đang sử dụng chiếc cung của Tổ phụ Sư Tử Giáp, ngài vừa trương dây cung nên phát ra âm thanh như vậy.” Đại vương Tịnh Phạn thấy vậy, đem vô lượng vô biên bảo vật tặng cho Thái tử. Thái tử giương cung lên, tay phải cầm mũi tên dùng sức mạnh như thần, kéo dây cung đưa mũi tên đến giữa ngực rồi mới buông tay. Mũi tên vượt qua các chiếc trống của ba người: A-nan-đà, Đề-bà-đạt-đa và đại thần Ma-ha Na-ma, bay thẳng đến chiếc trống sắt cách mười Câu-lô-xá, xuyên qua cả hai mặt trống, rồi mũi tên biến mất trong hư không. Lúc ấy chư Thiên ở trên không trung nói kệ ca ngợi: Đấng Thiện Tối thắng ở cõi này, An tọa trên tòa Phật quá khứ, Ma-già-đà tất cả dân chúng, Nay thấy tài bắn tên tuyệt diệu. Sức trí tuệ lục độ viên thành, Các giặc thù thảy đều hàng phục, Ấm, Thiên ma, phiền não tiêu trừ Sẽ được nhân thường lạc ngã tịnh, Chân thật đạo Bồ-đề bất thoái, Khổ sinh tử rễ kia dứt hẳn, Khổ già bệnh ưu sầu quét sạch, Trí nhiệm mầu chứng đắc Niết-bàn. Chư Thiên nói kệ xong, đem các loại hoa trời vi diệu rải trên mình Thái tử, rải rồi bỗng nhiên ẩn thân trong hư không. Lúc ấy chúa trời Đế Thích ở trong hư không, bắt lấy mũi tên Thái tử đem về cung trời Đao-lợi, ở đây đặt ngày lễ cho mũi tên, thường vào những ngày lễ chư Thiên nhóm họp dùng hương hoa cúng dường, cho đến nay chư Thiên còn ngày lễ mũi tên này. Bấy giờ mọi người thuộc dòng họ Thích lại nói: –Thái tử Tất-đạt-đa có tài bắn tên rất xa, đã vượt lên trên tất cả mọi người, xin Thái tử thử bắn thân cây, xem tên nào xuyên qua được. Lúc ấy cách thí trường chẳng bao xa, bỗng nhiên xuất hiện hàng cây Đa-la. Trong số năm trăm đồng tử này, hoặc có người bắn một mũi tên xuyên qua được một thân cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua hai cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua ba cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua bốn cây Đa-la, hoặc có người bắn xuyên qua năm cây Đa-la. Lúc bấy giờ Thái tử cầm mũi tên bắn xuyên qua bảy cây Đa-la, mũi tên sau khi xuyên qua cây thứ bảy, lại chạm vào mặt đất gãy làm một trăm đoạn. Các vị trong dòng họ Thích lại làm hình con heo bằng sắt. Trong số các đồng tử có người bắn xuyên qua một con heo sắt, hoặc có người bắn mũi tên xuyên qua hai con, hoặc ba con, hoặc bốn con, hoặc năm con. Còn Thái tử cầm mũi tên bắn xuyên qua bảy con heo sắt, khi mũi tên xuyên qua con thứ bảy rồi găm sâu trong lòng đất, chỗ đất mũi tên găm vào phá thành cái giếng, cho đến ngày nay dân chúng còn gọi chỗ ấy là “Giếng mũi tên”. Quyến thuộc trong hoàng gia đặt bảy cái chum bằng sắt, rồi đựng đầy nước. Trong số các đồng tử có người dùng mũi tên đầu nung đỏ để bắn, mà mũi tên chỉ xuyên qua một chum, hoặc có đồng tử bắn xuyên qua hai chum, hay xuyên qua ba chum, hay xuyên qua bốn chum, cho đến xuyên qua năm chum. Còn tên lửa nung đỏ của Thái tử bắn một phát xuyên qua bảy chum sắt đầy nước; khi mũi tên qua khỏi chum thứ bảy, xuyên qua cánh rừng cây Đại-ba-la cách đó chẳng bao xa, khi mũi tên qua rồi rừng này liền thiêu hủy trong nháy mắt. Các vị quyến thuộc trong dòng họ Thích lại nói: –Đối với nghệ thuật bắn tên, Thái tử là người giỏi hơn tất cả. Nay lại xin tiếp tục thi chặt cây, mà chỉ được chặt một nhát. Trong số các đồng tử, có người tay cầm thanh kiếm chỉ đưa qua một nhát thì cây đứt làm hai đoạn, hoặc có người chặt một nhát ngã hai cây, hoặc ngã ba cây, hoặc ngã bốn cây, hoặc ngã năm cây. Đến lượt Thái tử tay cầm thanh kiếm chặt một nhát, thì bảy cây Đa-la đứt một lượt, bảy gốc cây Đa-la tuy đứt mà thân cây chưa ngã. Các đồng tử hoàng gia hô reo lên: –Thái tử không thể chặt đứt một cây nào cả! Liền khi ấy chư Thiên cõi trời Tịnh cư Sắc giới, hóa làm ngọn gió mạnh thổi ngã bảy cây Đa-la. Kế đến đồng tử Nan-đà ôm một bó trúc, mà ruột cây trúc đã luồn sẵn những thanh sắt, đến dâng lên trước mặt Thái tử. Thái tử thấy bó trúc rồi, không cho là trong ruột có sắt, nên không cần phải dùng sức mạnh, tay trái nắm lấy thanh gươm chặt một nhát bó trúc liền đứt làm hai, giống như cánh tay lực só cầm thanh đao chặt một cây trúc hay chặt một mũi tên. Đúng như vậy! Đúng như vậy! Thái tử chặt bó thanh sắt được luồn trong cây trúc, cho là bó trúc, tay trái cầm thanh gươm để nhẹ, thanh gươm liền lướt qua bó thanh sắt. Bấy giờ các vị trong dòng họ Thích nói: –Thi chặt cây, Thái tử là người vượt lên trên hết. Bây giờ tiếp tục thi cỡi voi, với kỹ thuật nhảy lên nhào xuống, xem thử ai là người có tài năng. Trong số các đồng tử, có người từ trước vòi voi nhảy vọt lên lưng, hoặc có đồng tử từ dưới chân nhảy vọt lên lưng, hoặc có đồng tử từ dưới đuôi nhảy vọt lên lưng. Trong khi đang nhảy lên có người tay cầm thiết bản to lớn, hoặc có người cầm thiết luân, hoặc có người cầm thiết bài, hoặc cầm dáo mác, trường kiếm. Tay tả cầm khí giới nhảy lên. Khi lên rồi tay phải tiếp lấy ném xuống đất. Còn Thái tử khi nhảy lên lưng voi, hoặc đứng hoặc chạy, hoặc hai chân khi thì đứng lên hai ngà, khi thì đạp trên đầu, tay tả nắm các khí cụ, hoặc thiết bản, hoặc thiết luân, hoặc thiết bài, hoặc dáo mác cho đến trường kiếm. Tay tả cầm lấy thì tay phải phóng xuống đất, hay tay phải cầm lấy thì tay tả phóng xuống đất. Tất cả đồng tử trong hoàng gia không tài nào sánh kịp, lại nói: –Ta nay cùng nhau thi cỡi ngựa. Trong số các đồng tử, có người cầm mác hay cung tên, từ nơi một con ngựa nhảy qua cỡi con ngựa thứ hai, vừa cỡi vừa khai mác, múa kiếm, hoặc bắn tên điểm đích bằng vòng chiếc nhẫn, có người bắn trúng đích, có người bắn không trúng đích. Hoặc có đồng tử phóng mình qua hai con ngựa cỡi con thứ ba, cho đến bắn trúng đích hay bắn không trúng đích. Hoặc có đồng tử lao mình vượt qua ba con ngựa cỡi con ngựa thứ tư, bắn trúng đích hay không trúng đích. Hoặc có đồng tử lao mình qua bốn con ngựa, rồi cỡi con ngựa thứ năm, bắn trúng đích hay không trúng đích. Lúc bấy giờ Thái tử tay cầm mác, tay cầm cung tên, phóng mình qua sáu con ngựa, cỡi trên con ngựa thứ bảy, vừa cỡi vừa bắn tên cho đến mục tiêu bằng đầu sợi lông, sợi tóc đều trúng. Như vậy hoặc ở trên xe theo thứ lớp biểu diễn đủ các nghệ thuật, hoặc nhào trên hư không… nhẹ nhàng một cách tài tình. Hoặc thi âm thanh, hoặc thi ca múa, hoặc thi trào phúng, hoặc thi trò đùa hài hước, hoặc thi nhuộm y phục, hoặc thi nghề kim hoàn làm các đồ bằng ngọc quý giá… hoặc thi vẽ cảnh cây lá, hoặc thi hòa hợp các hương thơm, hoặc thi trò Bác dịch, hoặc thi trò: Xu bồ, vi kỳ, song lục, hoặc thi phóng lao, hoặc ném xa, nhảy vọt qua khỏi hầm… Tất cả các nghệ thuật như vậy đều biểu diễn một cách đầy đủ. Đối với tất cả các môn thi, Thái tử đều đứng nhất. Các vị trong dòng họ Thích nói: –Chúng ta ngày nay đều biết Thái tử đối với các nghề, người hoàn toàn đại thắng. Nay ta nên đấu sức với nhau, xem thử ai là người thắng cuộc. Lúc ấy Thái tử lui về ngồi một bên, còn các đồng tử sắp hai hàng song song cùng nhau đấu sức, theo thứ lớp như vậy có tất cả ba mươi hai ban. Đồng tử nào đấu xong lui về đứng nghỉ một bên. Kế đến đồng tử A-nan-đà bỗng nhiên đến đứng trước mặt Thái tử, định đấu sức với ngài, nhưng nhờ oai đức và thần lực Thái tử, ngài vừa đưa tay nắm lấy Nan-đà, Nan-đà không tài nào ngăn được, liền bị ngã nhào xuống đất. Tiếp đó đồng tử Đề-bà-đạt-đa tiến đến trước mặt Thái tử với cử chỉ đầy tự cao ngã mạn, vì chưa từng so sức với Thái tử lần nào. Nay cùng Thái tử đấu sức, ý muốn ngang hàng, rồi người giương thân dõng dạc lao mình chạy quanh thí trường, rồi chạy nhanh hướng về phía Thái tử, ý định lao mình vào đánh. Bấy giờ, Thái tử không hấp tấp cũng không chậm chạp, ngài từ từ dụng tâm, tay phải tóm lấy thân đồng tử Đề-bà-đạt-đa đưa lên cao khỏi mặt đất, đi chung quanh thí trường ba vòng, rồi xoay tròn thân Đề-bà-đạt-đa trên hư không; Ngài khởi lòng từ bi để hàng phục tâm cống cao ngã mạn của Đề-bà-đạt-đa, không muốn sát hại, nên Thái tử từ từ thả nhẹ Đề-bà-đạt-đa nằm trên mặt đất, để cho thân thể khỏi bị thương tích. Thái tử lại nói: –Chao ôi! Này tất cả các ông, ta chẳng cần đấu sức từng người một, tập trung tất cả các người cùng một lúc đến đấu với ta. Lúc ấy tất cả đồng tử sinh tâm kiêu mạn, nên cùng một lúc tất cả đồng tử vội vã chạy đến muốn đánh Thái tử, với những cú đấm chuẩn bị sẵn. Nhưng tất cả không sao đánh được dưới oai đức và sức mạnh của Thái tử, họ không chống cự lại, đều té nhào xuống đất. Mọi người trong dòng họ Thích đều lấy làm ngạc nhiên, nói với nhau: –Ít có thay! Ít có thay! Từ sinh ra cho đến ngày nay Thái tử chưa từng học tập bao giờ, mà nay lại thể hiện đủ các thứ tài nghệ như vậy. Lúc ấy tất cả khán giả trong thí trường, thấy sự việc chưa từng có như vậy, đồng thanh hô to: –Hoan hô! Hoan hô! Hoặc la lên nhiều âm thanh vang dội, đồng thời tung chuỗi anh lạc và y phục cùng nhau vui mừng. Lúc ấy, vô lượng chư Thiên trên hư không, đồng thinh nói kệ ca ngợi: Các thế giới khắp cả mười phương, Có bao nhiêu dũng só anh hùng, Sức mỗi người đều như Điều-đạt, Chẳng sánh bằng sợi lông Thái tử, Đức Vó nhân oai lực vô biên, Vung cánh tay đụng nhằm đều ngã, Sức oai thần Thánh giả không lường. Làm thế nào các ông sánh lại, Ví như núi Tu-di sừng sững, Cùng Thiết vi lớn nhỏ vững bền. Với mười phương núi non tất cả, Ngài đụng vào biến thành tro bụi, Chất sắt cứng cùng ngọc Kim cương, Cho đến cả bao nhiêu ngọc quý, Gặp sức ngài thảy đều tan nát, Huống đánh nhằm đồng tử các ông. Chư Thiên nói kệ rồi, lại đem đủ các thứ hoa rải trên mình Thái tử, rồi liền lập tức ẩn thân biến mất trong hư không. Như vậy đối với tất cả các kỹ nghệ, theo thứ tự đã so tài, Thái tử đều chiến thắng vượt lên trên tất cả. Lúc ấy Đại vương Tịnh Phạn mới biết bao nhiêu kỹ năng của Thái tử đều thắng vượt lên trên tất cả mọi người, tự mắt mình trông thấy, tâm mình chứng biết, nên vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, vô cùng thỏa mãn không thể kềm chế được. Vì lòng tôn kính, liền ra lệnh cho người về nội cung, dùng chuỗi anh lạc trang trí bạch tượng thật trang nghiêm, mọi việc phải chu đáo, và Đại vương nói: –Bạch tượng này để đưa Thái tử, đứa con yêu quý của ta về hoàng cung. Đại bạch tượng để rước Thái tử về nội thành, khi ra cửa thành gặp đồng tử Đề-bà-đạt-đa từ ngoài thành trở về, thấy bạch tượng trang nghiêm, liền hỏi kẻ quản tượng: –Voi này sẽ đem cho ai và sẽ đi về đâu? Kẻ quản tượng trả lời: –Bạch tượng này ra khỏi thành để đón Thái tử về nội cung. Lúc ấy Đề-bà-đạt-đa tỏ vẻ mình thuộc dòng hào tộc tôn quý, hết sức ngã mạn, lại ỷ vào sức mạnh của mình, nên ngang dọc tự thị không kiêng nể một ai, lại thêm tánh đố kî với Thái tử, nên đồng tử ở phía trước cách voi chẳng bao xa, chạy đến tay trái nắm lấy vòi, tay phải đập vào trán voi, rồi quật mạnh, voi liền té nhào lăn trên đất ba vòng rồi tắt thở. Thây voi to lớn nằm lấp cả cửa thành, cản trở người qua lại, ra vào chẳng được, nên trên đường lần lần chật ních cả người. Điều-đạt qua rồi, tiếp theo sau là đồng tử Nan-đà muốn bước vào thành, thấy bạch tượng chết nằm ngay ngang cửa, thây voi to lớn bít cả lối đi, dân chúng qua lại không được, đồng tử liền hỏi các người chung quanh, ai gây ra sự việc thế này? Đám đông người đáp: –Bẩm đồng tử, đại bạch tượng này bị đồng tử Đề-bà-đạt-đa giết chết, người dùng tay trái nắm vòi, tay phải đập vào trán, quật mạnh voi liền té nhào lăn xuống đất ba vòng rồi tắt thở. Nan-đà suy nghó: “Đồng tử Đề-bà-đạt-đa thử sức mạnh mình, đã làm cho bạch tượng chết. Nhưng xác voi quá to lớn, chảy nước làm nhơ nhớp cửa thành, cản trở người qua lại, nên đồng tử dùng tay phải nắm lấy đuôi voi kéo tới cách xa cửa thành chừng độ bảy bước.” Đi tiếp sau Nan-đà là Thái tử Tất-đạt-đa. Khi vào gần cửa thành, Thái tử thấy bạch tượng chết nằm trước cửa thành, ngài hỏi người đi đường: –Ai giết con bạch tượng này? Người đi đường đáp: –Đồng tử Đề-bà-đạt-đa đập vào trán… voi chết. Thái tử lại hỏi: –Còn ai kéo voi ra khỏi cửa thành? Các người đều đáp: –Đồng tử Nan-đà dùng tay phải nắm lấy đuôi voi kéo khỏi cửa thành chừng khoảng bảy bước. Thái tử nói: –Hay thay! Nan-đà, người làm điều phước thiện. Rồi Thái tử suy nghó: “Hai đồng tử tuy đã thi thố sức lực của mình, nay thân voi quá to lớn, sau khi tan ra mùi hôi thối bay vào làm ô nhiễm thành này.” Suy nghó như vậy rồi, tay tả nhấc thân voi, tay hữu đỡ phía dưới thân, đưa thân voi lên cao ném ra ngoài thành, vượt qua bảy lớp thành lũy, xác voi rớt xuống cách thành chừng khoảng một Câu-lô-xá, chỗ đất thân voi rớt xuống phá thành một hầm lớn. Cho đến ngày nay, dân địa phương còn tương truyền gọi trũng đất này là “hầm voi rớt”, tức do tích này mà ra vậy. Lúc ấy có vô lượng vô biên trăm ngàn dân chúng đồng thanh xướng lên: –Ít có thay! Ít có thay! Sự việc như thế này thật hết sức kỳ lạ. Mỗi người đều nói: –Hay thay! Hay thay! Đại nhân lực só thật là kỳ lạ ít có ở đời, chưa từng thấy nghe. Rồi nói kệ ca ngợi: Điều-đạt quật chết bạch tượng rồi, Nan Đà kéo khỏi thành bảy bước, Thái tử tay nâng bổng trên không, Như cầm hòn đất ném ngoài thành. Đại thần Ma-ha Na-ma thấy Thái tử đầy đủ tài năng trí tuệ, đối với tất cả các môn văn chương, võ nghệ, kỹ thuật… đều là người chiến thắng vượt lên trên thiên hạ, liền thưa Thái tử: –Xin Thái tử nhận sự sám hối của tôi, vì trước đây tôi đã cho Thái tử là kẻ không có tài năng thiện xảo, đối với các nghề đều không biết, khiến tâm tôi nghi ngờ không gả con gái, giờ này tôi đã thấu rõ, mong ngài cùng con gái tôi kết nghóa trăm năm. Rồi Thái tử chọn ngày lành tháng tốt, cho người lấy của riêng sắm sửa một cách chu đáo, dùng oai quyền thế lực của một Đại vương để nghinh rước nàng Da-du-đà-la, Thái tử dùng chuỗi anh lạc trang sức trên thân cùng với năm trăm thể nữ tùy tùng rước nàng về nội cung, cùng nhau vui chơi hưởng thú ngũ dục. Do vậy có kệ nói: Da-du là con gái đại thần, Tiếng trùm cả nước xa gần biết, Thái tử chọn ngày cưới làm vợ. Nghinh rước về triều nơi cung điện, Thái tử cùng nàng hưởng lạc thú, Mải mê dong ruổi nào biết chán, Vui cùng Xá-chi đại phu nhân. Một hôm nọ, sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Tôn giả Ưu-đà-di bạch Phật: –Thưa Thế Tôn Như Lai, tại sao thuở trước Thái tử còn tại triều, khi muốn cưới nàng Da-du-đà-la làm vợ, không dùng thế lực của một nhà vua, hay thế lực của một dòng họ cao sang, không dùng thế lực giàu sang phú quý, không dùng hình dung tuấn tú sắc diện khôi ngô mà cưới nàng, lại chỉ thi thố tài năng trong các kỹ nghệ mà cưới nàng làm vợ? Đức Thế Tôn bảo Ưu-đà-di: –Này Tôn giả Ưu-đà-di, ông phải chú tâm lắng nghe, chẳng chỉ một đời này ta cưới nàng Da-du-đà-la không dùng thế lực của một dòng họ vua chúa đầy quyền uy cao sang, cho đến không dùng hình dung tuấn tú khôi ngô để cưới nàng, mà chỉ dùng tài năng trong các kỹ nghệ để cưới nàng, cho đến thuở xưa cũng vậy. Tôn giả Ưu-đà-di thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, việc này như thế nào? Xin Ngài nói cho con nghe. Đức Phật bảo Tôn giả Ưu-đà-di: –Này Tôn giả, Ta nhớ thuở quá khứ trải qua vô lượng kiếp, lúc ấy tại nước Ba-la-nại, có một thợ rèn rất tinh xảo. Người có một đứa con gái dung nhan khả ái, thân hình đoan chánh, khuôn mặt đầy đặn, trong thế gian ít có người thứ hai, rất được nhiều người yêu mến. Cùng thuở ấy tại thành Ba-la-nại có một trưởng giả, sinh hạ một đồng tử hình dung đẹp đẽ khả ái như nàng con gái nói ở trên không khác. Một hôm, con trai trưởng giả tình cờ bắt gặp nàng con gái của người thợ rèn từ bên trong cửa sổ trên lầu cao, đưa mắt ra ngoài ngắm nhìn phong cảnh, chàng công tử thấy rồi đem tâm yêu mến, trong tâm chàng luôn luôn mang hình bóng của nàng, nên vội vã trở về nhà thưa cùng cha mẹ: –Kính thưa song thân, người thợ rèn tài giỏi kia có người con gái, con đem tâm thương mến muốn cưới nàng ta về làm vợ. Vợ chồng trưởng giả đáp: –Nay con không nên cưới con gái của người thợ rèn, vì làm như thế ô nhục gia môn của ta. Cha mẹ sẽ tìm một tiểu thơ của một trưởng giả, của một đại thần hay của một cư só khác, cưới làm vợ cho con. Chàng ta trả lời: –Con quyết định không cưới con gái của các nhà đó về làm vợ, ý con chỉ muốn cưới con gái nhà thợ rèn; nếu không cưới được nàng ta làm vợ, con chắc phải tự tử kết liễu cuộc đời không cần phải sống. Lúc bấy giờ vợ chồng trưởng giả hết sức lo rầu, sợ đứa con yêu quý tự sát, liền cho sứ giả mời người thợ rèn đến nhà, rồi nói: –Ta nghe người có đứa con gái, nay có thể gả về làm vợ con trai ta chăng? Bác thợ rèn đáp: –Thưa ông bà trưởng giả, nay tôi không đồng ý cho con gái tôi kết hôn với kẻ trong tay không nghề nghiệp. Ông bà trưởng giả lại đáp: –Nhân giả sẽ chọn người giỏi tài nghệ gì để phối hợp hôn nhân, mà chẳng lo sợ con gái mình cơ hàn khổ sở thiếu thốn áo cơm hay sao? Thợ rèn lại đáp: –Tuy biết như vậy, nhưng nay tôi chỉ muốn tìm người đồng nghiệp. Nếu chàng trai nào có nghề nghiệp tài giỏi, tôi sẽ gả con gái, giả sử người này không giàu có của cải, tôi chỉ trọng tài giỏi nghề nghiệp, tùy theo khả năng họ sắm sửa, tôi liền gả con gái cho họ. Ông bà trưởng giả nghe nói như vậy, đem mọi việc như trên nói lại cho con mình nghe. Nhưng lúc ấy con trai trưởng giả đã cùng nàng con gái kia tâm ý hòa hợp, lại thêm chàng giỏi công nghệ, chuyên tâm chú ý, có tài làm kim. Rồi một hôm chàng ta chế tạo nhiều cây kim, dùng dầu mỡ đánh bóng, sáng láng hết sức đẹp đẽ, gom các kim thành một bó lớn đựng trong ống tre, mang đến nhà thợ rèn tài giỏi kia, khi chàng đến gần cổng làng, đứng nơi đầu đường rao kệ bán kim. Kệ rằng: Không nhám, sắt trơn láng, Đánh bóng ánh trong sạch. Sản phẩm người thợ khéo, Có ai mua kim này? Lúc ấy nàng con gái của bác thợ rèn kia, đang ở bên trong cửa sổ trên lầu cao, nghe con Trưởng giả rao kệ bán kim, nàng ứng khẩu thành kệ đáp: Quái lạ! Kẻ điên cuồng, Người thật không tâm ý, Bỗng nhiên đến thợ rèn, Mà rao muốn bán kim. Con trưởng giả nói kệ đáp: Mỹ nhân thật dễ thương, Ta thật chẳng điên cuồng, Ta thật người xảo trí, Có tài làm kim tốt. Cha nàng đến gặp ta, Hiểu rõ việc thế này, Chắc nàng làm vợ ta, Lại đưa vô lượng của. Nàng con gái của người thợ rèn tài giỏi, nghe chàng ta nói như vậy, vội vã đến trước cha mẹ thưa: –Thưa cha mẹ, con vừa nghe bên ngoài có người to tiếng rao kệ bán kim… như trên, muốn đến gặp cha mẹ trình bày nghệ thuật làm kim tinh xảo. Vợ chồng thợ rèn tài giỏi lập tức cho người kêu người bán kim đến, khi vào đến nơi, ông ta hỏi: –Tốt thay! Này đồng tử, người thật biết rành nghề làm kim phải không? Đồng tử đáp: –Thưa hai bác, con có thể làm được. Thợ rèn lại hỏi: –Ông cho ta xem kim thử thế nào? Đồng tử trút từ nơi ống tre ra một cây đưa cho thợ thiếc và nói: –Xin bác xem nào! Thợ rèn thấy kim, liền khen ngợi: –Hay thay! Đồng tử, người có tài làm kim, có tài khoan lỗ. Đồng tử nói với người thợ rèn: –Thưa bác, có loại kim khác không phải như kim lấy ra từ ống tre, nó tốt hơn kim ấy nhiều. Đồng tử liền đưa ra một cây kim khác cho thợ rèn xem, thợ rèn xem rồi lại ca ngợi: –Có tài khoan trôn kim rất tốt. Đồng tử lại nói: –Thưa bác cây này chưa tốt, còn có cây khác tốt hơn. Lần thứ ba này đồng tử lại đưa ra một cây kim khác cho người thợ rèn. Người thợ rèn cũng như bao lần trước dùng lời tốt đẹp ca ngợi: –Có tài khoan trôn kim rất tốt. Đồng tử lại nói: –Thưa bác, cây kim đó chưa phải cây kim tinh xảo, lại có một cây khác tốt hơn. Lần thứ tư đồng tử lại đưa một cây kim khác cho thợ rèn xem. Người thợ rèn xem rồi dùng lời khen ngợi: –Rất khéo chế tạo! Có tài khoan lỗ hết sức tốt đẹp. Đồng tử lại nói: –Thưa bác, cây kim đó cũng chưa phải là cây kim tốt. Rồi đồng tử lại đưa một cây khác cho thợ rèn xem. Người thợ rèn xem rồi, lại dùng lời khen ngợi: –Chế tạo rất khéo, trôn kim rất tinh vi. Đồng tử lại nói: –Thưa bác, kim đó chưa phải sản phẩm tuyệt hảo. Rồi đồng tử lại đưa ra cây kim thứ sáu cho thợ rèn xem. Người thợ rèn xem rồi, lại khen: –Đây mới thật là cây kim tối hảo, tối diệu, trôn kim hết sức sắc sảo. Đồng tử gom tất cả các cây kim để theo từng loại trên bàn tay, rồi bỏ vào trong nước mà kim đều nổi. Người thợ rèn thấy việc hy hữu, chưa từng thấy, chưa từng nghe như vậy, vui mừng hớn hở. Rồi nói kệ khen đồng tử: Ta chưa từng nghe thấy, Khéo tạo kim như vậy. Nay đem tâm hoan hỷ, Gả con gái cho người. Lúc ấy Đức Phật bảo Tôn giả Ưu-đà-di: –Này Tôn giả phải biết, con trai Trưởng giả thuở ấy là thân ta ngày nay; con gái của thợ rèn tài giỏi ấy nay là nàng Da-du-đà-la. Ngay lúc ấy ta cưới nàng làm vợ không dùng thế lực nhà tôn quý, cũng không dùng thế lực dòng họ cao sang, cho đến cũng không dùng hình dung đoan trang tuấn tú, chỉ kiểm tra tài khéo léo mà được vợ. Ngày nay cũng lại như vậy, đối với Da-du-đà-la, ta cũng không dùng dòng họ tôn quý hay dung nhan tuấn tú khôi ngô; chỉ dùng việc tranh tài kỹ nghệ mà được nàng.  <詞 id="48706250">Phẩm 14: MẶC THƯỜNG PHỤC ĐƯỢC VỢ (Phần 1) Thuở ấy, tất cả các đồng tử trong dòng họ Thích hình dung tuấn tú đoan trang, đẹp đẽ lạ thường rất dễ yêu mến, thế gian ít ai sánh bằng, mọi người nhìn không biết chán. Tất cả đều tinh thông kỹ thuật không ai sánh lại. Những môn đó là kinh thư, hội họa, kế toán, điêu khắc, nghe tiếng, các môn bắn giỏi… Tất cả đều hiểu biết rành rẽ, trí tuệ xảo thuật, thông minh sáng suốt. Trong số các đồng tử này, Thái tử Tất-đạt-đa là người đứng nhất. Đồng tử Nan-đà là người thứ hai và thứ ba là Đề-bà-đạt-đa. Chỉ có ba người này, ngoài ra không ai hơn được. Khi ấy trong thành Ca-tỳ-la, có một đại thần họ Đàn-đồ tên là Ba-ni, vị đại thần này hết sức giàu có, rất nhiều bảy báu, ngũ cốc, tiền bạc lụa là, tài sản đầy dẫy chất đầy như núi, đúng như pháp mà được, không do sự mưu cầu phi nghóa. Người vật, tôi trai tớ gái, sứ giả lo việc ngoại giao, kẻ nội gia lo quản thủ, nào trâu ngựa voi dê, tất cả mọi thứ đều dư dật, lại có vô lượng vô biên vàng bạc, lưu ly, ma-ni, trân châu, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách. Tất cả những vật như vậy đều theo ý muốn, không thiếu một thứ gì. Khung cảnh trang trí trong nhà giống như cung điện Tỳ-sa-môn không khác. Thuở ấy đại thần có một tiểu thư tên là Cù-đà-di, dung nhan đoan chánh khả ái, dáng người không cao không thấp, không mập không gầy, làn da không đen không trắng, không thô kệch, không mảnh khảnh, tuổi đang độ thanh xuân, được xem như quốc bảo. Đại vương Tịnh Phạn biết đại thần Đàn-đồ-ba-ni thuộc dòng họ Thích ở trong nước của mình, có một tiểu thư quốc sắc như vậy. Nhà vua biết rồi, chọn ngày lành tháng tốt ra lệnh các Quốc sư Bà-la-môn làm sứ giả đến nhà đại thần Ba-ni nói như thế này: “Trẫm nghe đại thần có một tiểu thơ, tên là Cù-đà-di, ngày nay tiểu thơ có thể cùng Thái tử trẫm kết nghóa phu thê”. Lúc ấy phụ thân của Nan-đà cũng nghe đại thần Đàn-đồ-ba-ni có người con gái rất đẹp, mà Đại vương muốn hỏi làm vợ cho Thái tử Tất-đạt-đa. Ông nghe như vậy, nhưng cũng cho người đến nói với đại thần Đàn-đồ-ba-ni: “Cù-đà-di con gái của đại thần, có thể cùng Nan-đà con trai của ta kết nghóa trăm năm. Nếu đại thần không đồng ý, ta quyết sẽ làm cho ông bị tổn hại.” Đồng tử Đề-bà-đạt-đa cũng nghe đại thần Đàn-đồ-ba-ni có người con gái sắp làm vợ Thái tử Tất-đạt-đa. Tuy biết vậy vẫn cho sứ giả đến nhà đại thần Đàn-đồ nói: “Nàng Cù-đà-di con gái của đại thần, nay có thể kết hôn với ta, nếu đại thần không gả, ta sẽ gây đại họa cho người.” Khi ấy đại thần Đàn-đồ-ba-ni suy nghó: “Ba đồng tử họ Thích đều khôi ngô tuấn tú đẹp đẽ khả ái vô song, văn võ song toàn, đối với các kỹ năng đều tinh xảo, mà Thái tử Tất-đạt-đa là người đứng thứ nhất, kế đến là Nan-đà và thứ ba là Đề-bà-đạt-đa. Ta chỉ có một đứa con gái, nay nếu gả cho Thái tử, thì ta sẽ bị hai đồng tử kia oán thù; nếu gả cho Nan-đà thì ta sẽ bị Thái tử và Đề-bà-đạt-đa hiềm khích; còn nếu gả cho Đề-bà-đạt-đa, thì ta sẽ bị Thái tử và Nan-đà gây điều oan nghiệt!” Đại thần ôm lòng ưu sầu áo não, sắc mặt chẳng vui, ngồi yên tư duy tự nghó, ta phải giải quyết bằng cách nào đây! Nàng Cù-đà-di thấy cha mình ngồi lặng thinh trông vẻ thiểu não, nàng bước đến gần bên đại thần thưa: –Ôi! Vì cớ gì hôm nay trông cha không được vui, ngồi có vẻ ưu sầu? Đại thần đáp: –Cù-đà-di con gái yêu quý của cha, con không nên hỏi việc này, vì chẳng phải việc con cần biết. Nàng lại hỏi lần thứ hai. Đại thần cũng trả lời: –Chẳng phải việc con cần biết. Nàng lại hỏi lần thứ ba, cho đến lặp lại lời hỏi đến lần thứ tư, rồi nàng tiếp tục thưa: –Cha ơi! Xin cha nói cho con biết, chẳng nên giấu con. Lúc ấy đại thần Đàn-đồ-ba-ni vì sự ân cần nài nỉ, hỏi đến lần thứ tư của con gái mình, nên ông ta nói: –Này Cù-đà-di, con đã hỏi cha ba lần, nay đến lần thứ tư, con phải lắng nghe, ta sẽ nói cho con biết: “Ngày nay Đại vương Tịnh Phạn sai sứ đến nói: ‘Trẫm nghe đại thần có một tiểu thơ, có thể cùng Thái tử trẫm kết nghóa phu thê’. “Rồi sau đó đồng tử Nan-đà cũng sai sứ đến nói: ‘Cù-đà-di con gái của đại thần, có thể cùng ta kết nghóa trăm năm, nếu đại thần không đồng ý, ta sẽ làm cho người tổn hại.’ “Cuối cùng đến đồng tử Đề-bà-đạt-đa cũng cho sứ đến nói: ‘Nàng Cù-đà-di con gái của đại thần, nay có thể kết hôn với ta, nếu đại thần không gả, ta sẽ gây đại họa cho người.’ “Ba sứ giả đều yêu cầu con làm vợ cho chủ họ, cha nghe qua hết sức buồn rầu và suy nghó: ‘Nếu gả con cho Thái tử, thì hai đồng tử kia oán thù…cho nên cha ngồi yên buồn rầu suy nghó.’” Nàng Cù-đà-di thưa với cha: –Thôi, không có gì cha phải sầu não, con sẽ dùng trí tuệ xử lý việc này, sẽ chắc chắn chọn một người làm chồng con. Tuy nhiên cha phải dễ dãi cho con được tự do trong việc chọn lựa người bạn đường trăm năm của con. Đại thần Đàn-đồ-ba-ni nghe con mình nói như vậy, nên trước tiên tâu lên cho nhà vua biết, rồi sau đó mới ở nơi đầu đường ngã tư trong thành Ca-tỳ-la, đại thần tay rung chuông, miệng cáo bạch: –Kể từ nay cho đến ngày thứ bảy, có người con gái tên là Cù-đà-di thuộc dòng họ Thích, muốn tìm người bạn đời, vậy xin loan báo cho tất cả thanh niên khắp nội thành, ai muốn cưới nàng làm vợ, mãn ngày thứ sáu bước sang ngày thứ bảy, hãy tề tựu về trước cửa cung. Được tin này qua ngày thứ bảy, năm trăm đồng tử Thích chủng, mà Thái tử Tất-đạt-đa là người đứng đầu, đều vân tập nơi cửa cung. Lúc này Đại vương Tịnh Phạn cùng các vị đại thần kỳ cựu trong hoàng gia cùng với vô số dân chúng, nam nữ lão ấu, đều tề tựu trước cung điện nhà vua. Khi ấy những kẻ hầu hạ Thái tử cùng với những người hầu hạ các đồng tử khác, cùng ngắm sắc đẹp nàng Cù-đà-di, họ thảo luận với nhau, không biết nàng sẽ chọn đồng tử nào làm chồng. Ngày thứ sáu đã qua, bước sang rạng ngày thứ bảy, tiểu thư Cù-đà-di tờ mờ sáng dùng nước trong sạch tắm gội, rồi dùng các thứ hương vi diệu thoa lên thân với y phục nhiều màu sắc tuyệt đẹp, với các chuỗi anh lạc và các tràng hoa thơm trang điểm trên thân, nàng đem theo nhiều tỳ nữ hầu hạ hai bên, lại có nhũ mẫu và các vị cung giám có trách nhiệm hướng dẫn, theo thứ lớp trước sau chậm rãi tiến vào cửa cung. Còn đồng tử Nan-đà và Đề-bà-đạt-đa, đều là bậc đứng đầu trong năm trăm đồng tử hoàng gia, cả hai sáng sớm ngày thứ bảy dùng nước nóng hương thơm tắm rửa, thoa vào mình bằng các loại dầu thơm, cũng như nàng Cù-đà-di nói ở trên. Chỉ có một mình Thái tử Tất-đạt-đa không trang sức, ăn mặc bình thường, chỉ đeo vòng tai và ba tràng hoa bằng vàng trang điểm trên đầu. Lúc ấy nhũ mẫu hỏi nàng Cù-đà-di: –Con muốn chọn đồng tử nào làm chồng? Cù-đà-di tuần tự đưa mắt quán sát một lượt năm trăm đồng tử, rồi trả lời: –Thưa mẹ, mẹ phải biết các đồng tử này có rất nhiều chuỗi anh lạc trang điểm trên thân, giống như phụ nữ. Theo ý nữ nhân của con thì người thanh niên trang điểm như vậy là tướng khiếp nhược, không phải tướng đại trượng phu của nam nhi; đây là kiểu phục sức lộng lẫy của phụ nữ để mê hoặc đàn ông. Bậc nam nhi không cần trang điểm trên thân như vậy, tướng đại trượng phu có đồ phục sức của nó. Thân Thái tử Tất-đạt-đa tự có oai quang không cần dùng chuỗi anh lạc tô điểm, chẳng cần dùng vật bên ngoài trang điểm dung nhan, nội thân tự nhiên đầy đủ vẻ tướng đại trượng phu, ý con muốn chọn Thái tử Tất-đạt-đa làm chồng. Lúc ấy tay mặt của nàng Cù-đà-di cầm tràng hoa Tu-ma-na đi qua một vòng trước mặt đại chúng, rồi cuối cùng nàng hướng về Thái tử Tất-đạt-đa, đến nơi nàng đứng nghiêm chỉnh, hai tay kính cẩn nâng tràng hoa từ từ đeo vào cổ Thái tử, rồi đưa tay choàng lấy cổ mà nói: Này Thái tử Tất-đạt-đa, ngày nay thiếp cầu Thái tử làm người bạn trăm năm. Thái tử đáp: –Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời nàng vừa nói! Rồi Thái tử lấy một tràng hoa Tu-ma-na đeo vào cổ Cù-đà-di và nói: Ta nay nhận nàng làm vợ, nàng nay nên làm vợ ta. Khi ấy Đại vương Tịnh Phạn thấy việc hy hữu như vậy, rồi vui mừng hớn hở tràn ngập tâm can, không thể chế ngự được. Bấy giờ vô số người yêu mến Thái tử ở trong đại chúng, hoặc nhảy tung lên cao, hoặc đứng co một chân xoay tròn, hoặc tung chuỗi ngọc hay áo mão, ca múa vui vẻ, đều cao giọng xướng lớn tiếng: Hoan hô! Hoan hô! Còn năm trăm đồng tử kia cùng quyến thuộc hầu hạ của họ, xúm xít cùng nhau với vẻ mặt thiểu não âu sầu, không một ai có vẻ mặt tươi vui, họ cúi đầu hổ thẹn, ôm lấy tâm tư chán nản giải tán ra về. Lúc ấy Thái tử Tất-đạt-đa hết sức toại ý, có bao nhiêu của cải ngọc ngà quý báu, cùng bao nhiêu mỹ phẩm khác, đều sắp đặt đầy đủ để làm sính lễ. Lại dùng rất nhiều chuỗi anh lạc tuyệt vời trang điểm cho Cù-đà-di, rồi cho năm trăm thể nữ hầu hạ chung quanh để rước nàng vào nội cung, cùng nhau mặc tình thọ hưởng thú vui. KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP <卷 id="48706251">QUYỂN 14 <詞 id="48706252">Phẩm 14: MẶC THƯỜNG PHỤC ĐƯỢC VỢ (Phần 2) Sau khi Phật thành đạo, Tôn giả Ưu-đà-di bạch Phật: –Con chưa rõ, cúi xin Thế Tôn chỉ dạy, thuở trước khi ngài còn tại gia, ngài có nhân duyên gì với nàng con gái dòng họ Thích Cù-đà-di, khiến nàng ta bỏ năm trăm đồng tử khác chỉ chọn lấy một mình ngài làm chồng với nỗi lòng hân hoan như vậy? Đức Phật bảo Ưu-đà-di: –Này Tôn giả Ưu-đà-di, ông phải lắng nghe, chẳng phải một đời này nàng Cù-đà-di không ưa thích các đồng tử mà chỉ ưa thích ta, cho đến trong đời quá khứ cũng vậy. Tôn giả Ưu-đà-di liền bạch Phật: –Cúi xin Thế Tôn vì con nói việc này, con rất muốn nghe. Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Ưu-đà-di: –Ta nhớ thuở quá khứ dưới chân núi Tuyết sơn, có vô lượng vô biên các đàn thú, cùng nhau quây quần đi kiếm mồi, trong bầy thú này có một con cọp cái, thân hình cân đối ít có con nào khác sánh bằng, khoác lên mình một bộ lông óng ánh tuyệt đẹp, trong bầy thú không có con nào sánh lại. Hổ cái ở trong vô số loài thú muốn tìm một con đực kết nghóa bạn đời. Các thú đực biết vậy đều nói: Người gọi thì ta đến, người gọi thì ta đến. Lại có các con thú khác cùng nhau thảo luận: Các người phải chờ đợi không được tranh giành, để xem thử con hổ cái này chọn ai làm chồng, người đó sẽ là vua của chúng ta. Lúc bấy giờ trong bầy thú có một con trâu chúa, hướng đến trước mặt hổ cái nói kệ cầu hôn: Người đời đều lấy phẩn của ta, Trát tô lên đất cho sạch sẽ. Hiền thục đoan trang vì cớ ấy, Cần phải lấy ta làm phu quân. Hổ cái nói kệ trả lời: Vai cổ của người thật cao lớn Chỉ giỏi kéo xe và cày ruộng. Thân hình xấu xí không biết phận! Bỗng dưng lại muốn làm chồng ta. Tiếp theo lại có một đại bạch tượng đến trước hổ cái nói kệ cầu hôn: Bậc đại tượng vương nơi núi Tuyết Sức ta chiến đấu thắng mọi loài. Thế lực oai hùng to như vậy, Nay nàng nào ngại kết hôn nhân. Hổ cái nói kệ đáp: Ngươi nếu thấy nghe sư tử chúa Kinh hồn rớt mật bôn ba chạy, Tung phân vãi tiểu cút một hơi Tư cách nào đâu tác phu chủ. Lúc ấy, trong đàn thú có một con sư tử chúa, hướng đến trước mặt hổ cái nói kệ cầu hôn: Người nay quán sát dáng mạo ta, Phần trước nở nang thân sau thon, Sống đời ngang dọc tại sơn lâm, Lại hay bảo vệ nòi giống khác. Chúa tể các loài chính là ta, Không có một ai dám địch lại, Hễ ai thấy mặt và nghe tiếng, Thảy đều bỏ chạy chẳng dám nhìn. Ta nay dũng mãnh sức như thế, Oai thần vó đại khó nghó bàn, Như vậy thục nữ nên phải biết, Nàng nay có thể làm vợ ta. Hổ cái đối trước sư tử chúa nói kệ trả lời: Hết sức dũng mãnh thật oai thần, Thân thể hình hài đều đoan chánh, Như vậy ta nay chọn được chồng, Hết lòng tôn thờ và quý trọng. Con sư tử chúa trong các loài thú thuở ấy, là thân ta ngày hôm nay; hổ cái lúc ấy, nay là nàng Cù-đà-di; còn bầy thú kia nay là năm trăm đồng tử. Lúc ấy hổ cái ghét các thú khác không ưa thích, nghe sư tử nói kệ liền xin làm vợ; đến ngày nay cũng vậy, nàng Cù-đà-di bỏ năm trăm đồng tử dòng họ Thích vì không ưa thích họ, chỉ nhận lấy ta làm chồng. Bấy giờ Đại vương Tịnh Phạn vì Thái tử chia thể nữ làm ba hạng để hầu hạ trong khi Thái tử an nghỉ: Hàng cung nữ thứ nhất, gồm các thể nữ hầu hạ Thái tử lúc đầu hôm. Hàng cung nữ thứ hai, gồm các thể nữ cung phụng Thái tử lúc nửa đêm. Hàng cung nữ thứ ba, gồm các thể nữ hầu hạ Thái tử lúc cuối đêm. Hàng cung nữ thứ nhất, có tất cả hai vạn thể nữ đứng hầu hạ chung quanh, mà nàng Da-du là người đứng đầu. Hàng cung nữ thứ hai, người đứng đầu là Ma-nô-đà-la (nhà Tùy dịch là Ý Trì, các Sư khác lại nói: Phi Ý Trì này chỉ nghe tên, trong hiện tại cũng như quá khứ không thấy các sự tích). Hàng cung nữ thứ ba, nàng Cù-đà-di là người đứng đầu. Tổng cộng số thể nữ hầu hạ Thái tử là sáu vạn người. (Có Sư khác lại nói, tất cả số thể nữ hầu hạ Thái tử gồm có mười vạn người, chia làm ba cung. Trong đó hai vạn thể nữ thuộc giai cấp Sát-đế-lợi dòng họ Thích, tám vạn còn lại đều gồm con gái các dòng họ khác). Đại vương Tịnh Phạn nhớ lại lời tiên đoán của Tiên nhân A-tư-đà, nên ở nội cung lại lập thêm một cung điện đặc biệt hết sức nguy nga, cao vút vượt lên trên các cung khác, tựa hồ như đám mây lơ lửng trong đêm trăng thu, được cấu trúc bằng các loại đá quý quá sức tưởng tượng. Lan can, lối đi đều hết sức bằng phẳng ngay ngắn không nghiêng lệch. Vì sao? Vì nhà vua sợ Thái tử dạo chơi mọi nơi, thấy điều bất như ý xảy ra. Cung điện thích hợp mọi thời tiết, để Thái tử ở trong đó vui chơi thọ hưởng khoái lạc. Đại vương lại ra lệnh các thể nữ trong cung phải tạo đủ âm thanh xuất sắc, mỗi loại nhạc cụ phải đến hàng ngàn cái. Số nhạc cụ trong cung gồm có: Một ngàn đàn không hầu, một ngàn đàn tranh, một ngàn đàn cầm năm dây, một ngàn tiểu cổ, một ngàn đàn trúc, một ngàn trương cầm, một ngàn đàn tỳ bà, một ngàn trống cơm, một ngàn trống lớn, một ngàn ống địch, một ngàn ống sênh, một ngàn chụp chõa, một ngàn ống tiêu, một ngàn kèn loa, một ngàn ống sáo, một ngàn tù và. Tất cả nhạc khí như vậy, mỗi loại phát ra một ngàn âm thanh khác nhau, hòa hợp với một ngàn giọng hát cùng với một ngàn điệu múa khác nhau. Ngày đêm trong cung điện, tiếng ca hát hòa lẫn âm nhạc cùng điệu múa luôn luôn tiếp tục không bao giờ dứt, giống như từ đám mây lớn phát ra âm điệu trầm bổng du dương. Như vậy, Thái tử ở giữa trăm ngàn thế nữ tuyệt thế giai nhân luôn luôn hầu hạ kề bên, với sự hầu hạ cung phụng, cung cấp đủ mọi thứ, mặc tình thọ hưởng khoái lạc. Tất cả thế nữ dùng đủ thứ chuỗi anh lạc trang sức trên thân, lại dùng các vòng xuyến bằng vàng bạc bảy báu, đeo nơi cổ tay để tạo ra những âm thanh vi diệu, giống như vua trời Đế Thích vui chơi với ngọc nữ chư Thiên. Cùng nhau ca múa vui đùa, duyên dáng thùy mị, giọng nói ngọt ngào, cùng nói cùng cười, choàng nhau ca hát, đưa mắt tỏ tình, hoặc nghiêng mình liếc nhìn bốn phía, hoặc ngoảnh cổ nhìn lại sau lưng, khéo tô son kẻ mặt, uyển chuyển trông thật kiều diễm, phục sức toàn hàng the lụa đủ năm màu sặc sỡ. Bốn bên Thái tử đều là tuyệt thế giai nhân, có sức hấp dẫn quyến rũ vô cùng, làm cho Thái tử thích thú vui chơi, chẳng cần phải viễn du thưởng ngoạn cảnh vật bên ngoài, giống như trời Đế Thích vui đùa với ngọc nữ chư Thiên. Đúng như vậy! Như vậy! Thái tử ở trong lòng mỹ nữ thọ hưởng ngũ dục, thậm chí trong số thế nữ có những nàng rất rành tâm lý trong thú vui ngũ dục, đã làm cho Thái tử mải mê vui đùa, không còn thì giờ nghó đến việc du ngoạn ngoài thành. Đại vương muốn tăng thêm phước đức cho Thái tử, thành lập pháp tu khổ hạnh, bài trừ tất cả ác pháp tà kiến, làm tất cả việc lành, như bố thí của cải, tu các pháp khổ hạnh, tạo đủ các phước nghiệp, để đem các thiện căn này hồi hướng cho Thái tử được tăng trưởng công đức, nguyện Thái tử đừng xuất gia. Do vậy có kệ nói: Đại vương tăng phước cho Thái tử, Bởi lời tiên đoán A-tư-đà. Điều phục khổ hạnh bỏ điều tà, Thường cùng trí nhân ngồi suy nghó. Như vậy, Thái tử ở trong cung Phụ vương mặc tình vui chơi thọ hưởng khoái lạc. Chỉ riêng một mình Thái tử hưởng đủ năm thứ dục lạc, thời gian dần dà trôi qua đã mười năm chưa từng ra khỏi thành. Thuở ấy về phương Nam có một quốc gia tên là Ma-già-đà, Đại vương cai trị nước này thuộc họ Thiên-liên-ni tên Tần-bà-sa-la, trong tâm luôn luôn lo sợ giặc thù xâm chiếm, nên thường nhóm họp quần thần cùng nhau thảo luận, Đại vương tuyên bố: –Này chư quần thần, khi các khanh ra vào đi về, nên thường quan sát trong ngoài cảnh giới quốc gia, chớ để một kẻ nào đến chiến thắng ta, nếu họ chiến thắng, e họ đoạt mất vương vị. Liền khi đó quần thần phái hai người đi tuần canh biên phòng quốc gia. Khi hai người này nhận sắc lệnh nhà vua, liền đi quan sát trải qua từ trong nước cho đến địa đầu biên giới các lân bang, sự tuần hành đã gần giáp vòng, lúc ấy hai quan tuần biên giới nghe có người nói: –Từ đây hướng về phương Bắc có một dãy núi hùng vó, thế núi cao vút tên là Tuyết sơn, dưới chân núi có một dòng họ Thích-ca là một chủng tộc hùng mạnh, rất nhiều quyến thuộc giàu có cao sang đầy đủ oai thế, cao quý nhất trong thiên hạ, vừa sinh được một Đồng tử, khi sinh ra xuất hiện nhiều điềm lành, hình dung tuấn tú khôi ngô, đầy đủ ba mươi hai tướng đại Trượng phu và tám mươi vẻ đẹp. Ngày sinh ra Đồng tử có nhiều quốc sư Bà-la-môn đến xem tướng, họ tiên đoán: “Đồng tử này có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp phân minh rõ ràng, ngày nay nếu Đồng tử ở tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương, thống trị bốn châu thiên hạ, đem mười pháp lành giáo hóa dân chúng, vô số bảy báu, không dùng thế lực quân sự mà các nước quy phục; còn nếu xuất gia sẽ thành Phật đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… Rồi Ngài sẽ thuyết diệu pháp phạm hạnh thanh tịnh cứu độ chúng sinh.” Sau khi hai quan tuần hành đi giáp vòng rồi trở về triều, đến trước Đại vương Tần-bà-sa-la tâu đầy đủ mọi việc từ đầu… đến thuyết diệu pháp phạm hạnh thanh tịnh cứu độ chúng sinh, như đã nói ở trên. Do vậy hai vị ấy xin Đại vương, trên từ vua quan, dưới cho đến ấu niên phải mau mau khởi binh tiêu diệt Đồng tử, để dứt hậu hoạn đến chiếm vương vị của Đại vương. Vua Tần-bà-sa-la nước Ma-già-đà nghe lời tâu như vậy rồi, liền bảo hai sứ giả: –Hai khanh chớ nói lời như vậy, vì sao? Nếu đúng như lời hai khanh nói, dầu cho Đồng tử kia nhất định làm Chuyển luân thánh vương, đem chánh pháp cai trị giáo hóa dân chúng, ta chừng ấy tùy tùng tuân phục kính thờ, nương oai thần của ngài ta hưởng cảnh an vui, an ổn cai trị dạy dân; nếu Đồng tử xuất gia sẽ thành Phật, ngài đem lòng từ bi thương xót cứu độ chúng sinh, chừng ấy chúng ta thọ giáo pháp làm đệ tử Thanh văn. Nay ta xét hai nhân duyên quả báo phước đức, không nên khởi tâm hưng binh sát hại Đồng tử. Bấy giờ, Đại vương Tịnh Phạn, đối với cung điện của Thái tử, cho xây dựng thêm thành lũy chung quanh chỉ chừa một cửa, mang tên là thành Dã thú, cánh cửa thành được đặt một chốt máy, khi mở hay đóng cửa, phải dùng đến năm trăm người cùng nhau hợp lực mới mở hay đóng cửa được, tiếng động đóng mở cửa vang dội nửa do tuần. Lớp thứ hai của cung điện cũng chỉ có một cửa và cũng có chốt máy để mở hay đóng, khi mở đóng phải cần đến ba trăm người, tiếng mở đóng cửa vang dội một Câu-lô-xá. Cho đến tọa điện của Thái tử ở trong cùng của cung điện cũng chỉ có một cửa và cũng đặt chốt máy, khi mở đóng cần đến hai trăm người, ở thế gian không có cửa nào sánh bằng, tiếng đóng mở cửa vang dội đến nửa Câu-lô-xá. Bên trong, bên ngoài ba cửa đều có rất nhiều tráng só, thân mặc áo giáp dũng mãnh tinh nhuệ, tay cầm nhiều loại binh khí khác nhau, như: Cung tên, búa, mác, trường kiếm, chóa ba, côn sắt, thiết luân, đấu luân, dáo, xà mâu… đứng phòng vệ cẩn mật, trông thật oai hùng. Vì nhà vua sợ Thái tử xa lìa thê thiếp, vượt thành xuất gia, trốn vào trong rừng núi tu hành.  <詞 id="48706253">Phẩm 15: TIẾNG KÊU GỌI LÌA BỎ NĂM DỤC TRÊN HƯ KHÔNG Bấy giờ, trên hư không có một Thiên tử tên Tác Bình, thấy Thái tử đã trải qua mười năm trong cung thọ hưởng thú vui ngũ dục, nên suy nghó: “Bồ-tát Hộ Minh đã buông thả nhiều năm trong cung điện, thọ hưởng thú vui ngũ dục, nhất định tham đắm ngũ dục, tâm tình phóng dật sa ngã hoang mê, thời gian một trăm năm mau chóng, nó chẳng đợi người, Bồ-tát Hộ Minh nay phải tỉnh giác, sớm xa lìa ngũ dục, xuất gia tầm đạo, nay ta trước chẳng chỉ các cảnh giới phải nhàm chán xa lìa, thì chắc chắn Thái tử đam mê, chưa chịu tỉnh ngộ phát tâm Bồ-đề. Ta nay phải tán trợ công đức xuất gia, để ngài thành tựu quả Bồ-đề, nên nửa đêm Thiên tử Tác Bình nói kệ: Mình bị trói muốn mở trói người, Như kẻ mù dẫn đám tối mắt. Mình khỏi trói mới mở trói người, Như kẻ sáng mắt mới dẫn đường. Hay thay Tôn giả nay tráng kiện, Mau phải xuất gia nguyện viên thành. Đem lại lợi ích cõi trời, người, Hành giả nếu chẳng lìa ngũ dục, Lục trần chìm đắm cảnh khó qua, Chỉ có xuất thế thành đại trí, Mới hay lìa bỏ ngũ dục này, Do vậy nhân giả nay nên tránh, Phiền não chúng sinh nhiều đau khổ, Nhân giả nên làm đại lương y, Ban nhiều thần dược phép nhiệm mầu. Mau đến Niết-bàn bờ giải thoát, Bóng tối vô minh cảnh tối tăm, Lưới tà quấn chặt lấy chúng sinh, Mau thắp ngọn đèn đại trí tuệ, Sớm giúp tỏ mắt được trời người. Thiên tử Tác Bình ở trên hư không nói kệ này rồi, do oai thần nhân duyên khuyến phát, cảm thông đến sức phước đức thiện căn đời trước của Thái tử, khiến cho tất cả tiếng ca hát và âm nhạc của thể nữ trong cung chẳng thuận với thú vui ngũ dục, lại phát ra Âm thanh tín giải vi diệu diễn tả cảnh Niết-bàn, tự nhiên phổ ra lời kệ: Pháp thế gian vô thường Thí như mây phát chớp. Tôn giả nay đúng lúc, Nên bỏ tục xuất gia. Tất cả pháp vô thường, Như đồ ngói bình chén, Như đồ mượn của người, Như đất khô đem đắp, Chẳng bao lâu lại sập, Như vách bùn mùa hạ, Như cát hai bờ sông, Duyên sinh chẳng mấy chốc, Như lửa của ngọn đèn, Sinh ra rồi lại diệt. Như gió chẳng tạm dừng, Vùn vụt chẳng đứng yên. Luôn luôn không chân thật, Ví như lõi cây chuối. Huyễn thuật dối mắt người, Tay không phỉnh con nít. Tất cả pháp sinh ra, Đều do nhân duyên hiện, Mỗi pháp do nhân duyên, Kẻ ngu không hiểu biết. Ví như người se dây, Tay, cây làm nhân duyên. Như hạt nảy mầm non, Bỏ hạt mầm chẳng có, Lìa nhân duyên chẳng thành, Chẳng thường chẳng vô thường. Các pháp do si sinh, Pháp chẳng trụ vô minh. Vô minh chẳng phải pháp, Xưa nay tánh vắng lặng, Pháp sinh diệt vô thể, Như ấn in thành dấu. Chẳng pháp chẳng lìa pháp Các hành cũng như vậy. Như mắt chẳng lìa cảnh, Nhờ mắt cảnh sinh thức, Ba thứ chẳng lìa nhau, Ba thứ cũng chẳng thật. Pháp tịnh, pháp bất tịnh, Do thức phân biệt sinh. Phân biệt điên đảo thành, Tất cả do thức hiện. Nếu có người trí tuệ, Tìm kiếm gốc sinh thức, Biết nó không trụ xứ, Biết ngã như huyễn mộng, Hai củi cọ ra lửa, Nhân thứ ba là tay, Nếu không ba nhân này, Thì không thể có lửa. Nếu người trí suy tìm, Lửa cũng không xứ sở. Tìm lửa khắp mọi nơi, Chẳng thấy nơi xuất hiện. Tất cả ấm, giới, nhập, Do nghiệp tham, si sinh. Chúng sinh nhân hòa hợp, Chân như không chúng sinh. Nhân yết hầu, môi, lưỡi Mà phát ra tiếng nói Tiếng không phải yết hầu Cũng không lìa duyên ấy. Do các duyên hòa hợp Phát tiếng theo ý muốn Tiếng không ở tại ý Cũng không có hình sắc Chỗ sinh và chỗ diệt Người trí tìm chẳng được, Sở quán đều vắng lặng Tiếng nói như âm vang. Nhân gỗ, nhân các dây Trí người, ba duyên hợp, Đàn không hầu phát tiếng Ba chỗ tìm không thấy. Nếu người có trí tuệ Tìm chỗ có tiếng đàn Tìm khắp các phương hướng Không thấy chỗ của tiếng. Do nhân và các duyên Các pháp sinh như vậy. Người thông hiểu đúng đắn Nên quán Không như thế. Ấm, nhập và các giới Trong ngoài đều vắng lặng Tìm Ngã khắp mọi nơi Như hư không vô hình. Tướng các pháp cũng vậy Ngài nơi Phật Định Quang Xưa kia đã chứng biết Nay vì trời người dạy Vì phân biệt điên đảo Bị lửa dục thiêu đốt, Nên nổi mây từ bi Tuôn mưa pháp cam lộ. Nhớ xưa trải ức kiếp, Bố thí và trì giới, Ngài đắc đạo Vô thượng Thánh tài ban thế gian Ngài nhớ đời quá khứ Thánh tài cho kẻ nghèo Vì dùng Thánh tài nhiếp Điều Ngự không tham tiếc Ngài xưa trì tịnh giới, Dù nghèo, không trộm cắp Nguyện mở cửa cam lộ, Vì chúng sinh thuyết pháp. Nhớ lại hạnh thuở xưa Nên đóng cửa địa ngục, Khéo mở đường giải thoát, Tâm nguyện thành giới hạnh. Quá khứ tu nhẫn nhục Nghe tiếng người mắng chửi, Vì lập hạnh nhẫn nhục Quán các pháp đều không. Vì nhớ lại hạnh xưa Thế gian sân hận nhiều Dạy trụ hạnh nhẫn nhục Đừng bỏ nguyện lực ấy. Ngài xưa hành tinh tấn Chứng đắc trí vô ngã Ở trong biển phiền não Đưa chúng đến bờ kia. Nhớ chí nguyện thuở xưa Nhổ bốn khổ cho người Ra sức đại tinh tấn Độ thoát các ách nạn. Quá khứ tu tập thiền Vì dứt các phiền não Người chưa điều phục căn Dạy cho họ điều phục Ngài nghó lại quá khứ, Thương người còn phiền não. Các tuệ đều vắng lặng, Điều phục căn loạn động. Ngài xưa tu trí tuệ, Nguyện phá bóng vô minh. Thương kẻ bị vô minh, Mở bày mắt chân thật. Ngài nghó lại thuở xưa, Phiền não phủ chúng sinh. Chiếu ánh sáng thanh tịnh, Trí tuệ ngài tối thắng. Vì thương các chúng sinh, Phương tiện dạy giải thoát. Lửa sinh lão bịnh đốt ba cõi, Đói khát bức xúc chưa từng nghỉ, Ngài vì thế gian làm cầu lớn, Đưa người về đến bờ giải thoát. Chúng sinh lưu chuyển biển phiền não, Ví như mọt nọ trong ống tre, Ba cõi luân hồi tợ mây thu, Qua lại lên xuống không thôi dứt, Cũng như ảo thuật nơi sân khấu, Giống dòng nước chảy ngoài khe núi, Chúng sinh lão bịnh chẳng khác nào. Hoặc sinh trời, người, ba đường ác, Si dục các cõi chẳng tự do, Lăn lóc năm đường không hay biết, Ví như thợ gốm xoay vòng lửa, Ngũ dục nơi nơi buộc lấy mình. Ví như chim trời sa vào lưới, Như thú mắc bẫy người thợ săn. Kẻ tham tiền của không biết đủ, Như cá đớp mồi dính lưỡi câu, Cạnh tranh phẫn nộ kết oán thù, Tiêm nhiễm phiền não thọ các khổ. Tai họa ngũ dục như dao bén, Cũng như bình đẹp chứa độc dược, Cần nên xa tránh như phẫn uế, Tham lam luyến ái mất chánh tâm, Nguyên nhân tiếp tục sinh các cõi, Ái dục tăng trưởng chưa từng dứt. Cảnh giới sáu trần phừng phực cháy, Khác nào cỏ khô gặp đống lửa, Chóng tỉnh xa lìa sớm xuất gia. Người trí quán sát cảnh ngũ dục, Đáng sợ dường như hầm lửa lớn, Cũng như khối thịt trên dao thớt. Người chìm đầm lầy cũng như vậy, Như lưỡi liếm mật trên dao bén, Như đụng đầu rắn và giặc thù, Thánh nhân quán dục cũng như vậy. Như tên như mác như dao kiếm, Như thịt trúng độc chẳng dám ăn, Tất cả oán thù, dục trên hết, Ngũ dục giống như trăng đáy nước, Như bóng trong gương, vang hang núi, Như cảnh sân khấu của huyễn sư, Như trong cảnh mộng thấy vui buồn, Kẻ trí thấy dục cũng như vậy. Các pháp thế gian giả dối luôn, Sợ sệt không thể được tự tại, Thí như sóng nắng nào có thật, Cũng giống bọt nước nổi trên sông. Các việc như thế do phân biệt, Người trí quán sát như vậy cả. Phàm người đời đang tuổi thanh xuân, Thể lực dồi dào ưa ngũ dục, Đến lúc tuổi già râu tóc bạc, Bị chúng phụ bạc như sông khô. Giàu sang phú quý nhiều phóng dật, Những người như thế đầy tham dục, Về sau hết của khổ bần cùng. Không được thản nhiên bỏ ngũ dục, Như cây nặng tróu quả cùng hoa, Mọi người đua nhau đến tranh hái. Người thích phung phí cũng như vậy, Bị người đến lấy không chán nhàm. Đến lúc tuổi già của hết sạch, Khất cầu người khác chẳng ai cho, Giàu sang sắc đẹp thân tráng kiện, Người thích kết giao cùng chơi bời Của hết đi xin người chẳng đoái, Tuổi già lưng gù tay chống gậy. Như cây bị ngã không ai thích, Đáng sợ như vậy cảnh già nua, Ngài mau xuất gia cầu Chánh giác, Sau khi thành đạo vì người nói, Già bịnh ốm gầy hại chúng sinh. Như dây sắn bám quanh đại thọ, Thân già sức yếu hết siêng năng, Khô gầy bại hoại như cây mục, Cảnh già đoạt mất vẻ đẹp xinh, Nhan sắc tươi hồng hóa nhăn nheo, Già biến hoa tươi thành hoa héo. Dục lạc cướp vui khiến mất vui, Già chiếm sức lực đưa đến chết, Các bệnh hiện như nai sa hầm, Ngài thấy thế gian trăm thứ bệnh, Mau dùng phương tiện pháp giải thoát. Giống như trời đông mưa bão tuyết, Cây nhào cành gãy thân tả tơi, Người đời già bịnh nhiều thứ hiện, Các căn suy thoái cũng thế thôi, Già đến khiến người kho lẫm hết, Người đời sợ già hơn các khổ, Mạng chung thần thức quỷ dẫn đi. Như mặt trời lặn không còn thấy Mạng chung làm người rời ân ái, Khiến người ghét sợ chẳng muốn nhìn, Chỉ muốn cùng người ân ái hiệp, Bỗng như lá rụng vào dòng nước, Chết đến khiến người không tự chủ. Thần thức như cỏ bị nước trôi, Thác sinh cõi khác không bạn hữu, Theo nhân tác nghiệp thọ báo thân, Quỷ bắt nuốt hồn vô lượng chúng. Như cá Ma-kiệt nuốt tàu buôn, Như chim cánh vàng nuốt rồng lớn, Như lửa hồng đốt đầm cỏ khô, Khổ não như vậy bức xúc người. Đại só thuở trước phát nguyện lớn, Nhớ lại bản nguyện nay đã đến, Nên phải xả dục kíp xuất gia. Nhớ xưa tu bố thí, Giới nhẫn và tinh tấn, Thiền định cùng trí tuệ, Vì người chẳng vì mình. Đến kiếp này nguyện mãn, Xuất gia gấp cứu người. Ngài xưa thí của quý, Vàng bạc và anh lạc, Thường lập hội Vô già, Tùy theo nhu cầu thế. Xin con ngài cho con, Muốn cháu ngài cho cháu, Xin vợ ngài cho vợ, Xin vua ngài nhường ngôi, Xin của không trái ý. Khi xưa ngài làm vua, Tên là Đại Văn Đức. Lại vua đầy phước đức, Tên Ni-dân-đà-la. Lại vua A-tư-đà, Lại vua tên Sư Tử, Tất cả hàng vua này, Bố thí ngàn của quý. Xưa lại có Đại vương, Tên Thường Tư Chư Pháp Lại vua đầy phước đức, Tên là Chân Thật Hạnh, Các vua tư duy pháp. Thuở xưa có Đại vương, Siêng năng tên Văn Nguyệt, Lại sinh một vương tử, Quý danh Phước Nghiệp Quang Bao nhiêu ân đức lớn, Cho đến biết ân nghóa. Ngài xưa làm Đại vương, Quý danh Nguyệt Sắc Tiên Lại tên Kiện Mãnh Tướng, Rồi tên Thật Tăng Trưởng, Lại tên Cầu Thiện Ngôn, Rồi tên Hữu Thiện Ý, Lại tên Điều Phục Căn, Tất cả vua như vậy, Đức hạnh rất tinh tấn, Xưa nay ngài thực hiện. Ngài xưa làm Đại vương, Quý danh là Nguyệt Quang. Kế đến tên Thắng Hạnh Rồi đến tên Liên Thố, Kế đến tên Phương Chủ Rồi đến tên Kiện Thí, Kế đến Ca-thi vương, Rồi đến Bảo Kế vương. Hàng Đại vương như vậy, Tức ngài không ai khác. Bao nhiêu của quý giá, Đến xin đều tùy thuận. Thuở nọ ngài thí của, Nay xin ban pháp tài. Ngài xưa ở quá khứ, Gặp Phật như Hằng sa. Chư Phật Thế Tôn đó Ngài đã từng cúng dường Vô lượng đồ cúng dường, Hiến dâng không lẫn tiếc. Chí cầu đạo không ngừng, Mong chúng sinh giải thoát. Nay chính thật đúng lúc, Xuất gia chớ ở nhà. Phật ngài gặp đầu tiên, Tôn hiệu Bất Không Kiến. Đem hoa Tỳ-xa-ca, Hoan hỷ cúng dường Phật. Quá khứ có Đức Phật, Hiệu Tỳ-lô-giá-na, Một đời vui chiêm bái. Quá khứ có Đức Phật, Danh hiệu Vi Diệu Âm, Đem một A-lê-lặc, Cúng dường Đức Thế Tôn. Quá khứ có Đức Phật, Danh hiệu Bạch Chiên-đàn, Ngài đứng trước Đức Phật, Lặng yên cúng cọng cỏ. Quá khứ có Đức Phật, Danh hiệu là Liên Thố, Khi sắp vào đại thành, Ngài rải nắm bột hương. Kế Phật hiệu Pháp Chủ, Khen Đức Phật thuyết pháp, Nghe pháp ưa thảo luận. Ngài khen vô lượng lời, Tôn trọng thường cúng dường. Kế đến gặp Đức Phật, Tôn hiệu Phổ Thị Hiện, Thấy Phật ngài ca ngợi. Kế đến có Đức Phật, Tôn hiệu Xí Thạnh Phần, Do vì ngài hoan hỷ, Chiêm ngưỡng thân Đức Phật, Lại đem tràng hoa vàng, Cúng dường Đức Phật này. Nay nên nhớ lại Phật Chớ để tâm lãng quên, Kế đến có Đức Phật, Tôn hiệu Quang Tướng Tràng, Cầm một nắm đậu xanh. Cúng dường Đức Phật này. Quá khứ có Đức Phật, Tôn hiệu là Trí Tràng, Ngài cầm hoa Thâu-ca Hiến dâng cúng dường Phật. Kế đến có Đức Phật, Tôn hiệu Điều Phục Xa, Ngài thấy Đức Phật rồi, Đứng trước Phật khen ngợi. Tiếp Phật hiệu Bảo Thắng. Trước Phật thắp nhiều đèn Cúng vô lượng diệu dược. Phật hiệu Nhất Thế Thắng Thường cúng chuỗi trân châu. Kế gặp Phật Đại Hải, Cúng dường các hoa sen. Đến Phật Liên Hoa Tạng, Cúng dường tàng lọng lớn. Hầu hạ Phật Sư Tử, Từng cúng tòa cỏ mềm. Nơi Phật Sa La vương, Cúng dường các đồ dùng. Đến trước Phật Phu Hoa, Cúng dường sữa hảo hạng. Nơi Phật Da-du-đà, Cúng hoa Câu-đà-la. Thấy Phật Thật Kiến rồi, Hoan hỷ cúng ẩm thực. Xưa Phật hiệu Trí Sơn, Cúi thân lễ Đức Phật. Có Phật hiệu Long Đức, Dâng con mình cho Phật. Phật Cao Phi Không Hành, Thường cúng bột chiên-đàn. Kế Phật hiệu Đế-sa, Ngọc quý cùng hoa đỏ. Từng cúng dường Phật này, Gặp Phật Đại Trang Nghiêm. Đem hoa hương Chiêm-bặc, Cúng dường Đức Phật này. Từng gặp Phật Quang Vương, Đem ngọc quý cúng dường, Xưa gặp Phật Thích-ca, Đem nhiều hoa bạc tốt. Cúng dường Đức Phật này, Kế thấy tướng Đế Thích, Thấy rồi ca ngợi khen. Xưa Đức Phật tên là, Quảng Đại Nhật Thiên Diện, Cầm nhiều hoa tốt đẹp, Cúng dường Thế Tôn này. Kế tiếp lại có Phật, Danh hiệu là Thắng Tôn, Đem nhiều hoa bạc tốt, Trang nghiêm trên thân Phật. Thuở xưa có Như Lai, Tôn hiệu là Long Thắng, Thắp đèn cúng dường Phật. Nơi Như Lai Phú-sa, Từng cúng dường nỉ trắng, Nơi Phật Dược Sư Vương, Đem bảo cái cúng dường. Phật hiệu Đại Mâu-ni, Lại có tướng Sư Tử, Thế Tôn công đức lớn, Đem lưới ngọc cúng dường. Có Phật hiệu Ca-diếp, Cúng dường nhiều âm nhạc. Xưa Phật hiệu Giải Thoát, Cúng dường nhiều bột hương, Phật Thế Tôn Bảo Tướng, Cúng dường bằng hoa trời. Chư Phật A-sô-bà, Cung thỉnh ngồi kiệu voi. Vua thế gian kính Phật, Đem tràng hoa cúng dường, Phật Thế Tôn Thi-khí, Đem vương vị cúng dường. Có Phật hiệu Nan Hàng, Đem nhiều hoa cúng dường, Nơi Phật Đại Nhiên Tôn, Đem thân mình cúng dường. Trước Phật Liên Hoa Thượng, Cúng dường chuỗi anh lạc, Trên mình Phật Pháp Tràng, Rải các hương hoa tốt. Nơi Thế Tôn Nhiên Đăng, Cúng năm hoa sen xanh. Các Đức Phật như vậy, Ngoài ra còn vô lượng, Khó nói, khó nghó bàn, Trong các kiếp quá khứ, Ngài đã từng cúng dường, Lại đem vô lượng thứ, Đồ cúng dường tối diệu, Cúng chư Phật quá khứ, Không sinh tâm mỏi mệt. Nay nghó cúng dường kia, Suy tưởng Phật quá khứ, Vì thương các chúng sinh, Phát lòng từ giải thoát, Tỉnh ngộ chớ mê đời. Ngài ở trong quá khứ, Nơi Đức Phật Nhiên Đăng, Cúng dường Đức Phật rồi. Sớm chứng Vô thượng sinh, Và chứng năm thần thông, Lại chứng Thuận pháp nhẫn. Rồi Tôn giả sau đó, Cúng nhiều Phật hơn trước. Vô số a-tăng-kỳ, Các kiếp số như vậy, Các kiếp đó qua rồi, Chư Phật cũng diệt độ. Số thân Ngài thuở xưa, Thọ trong các kiếp ấy, Dòng họ và tên tuổi, Tất cả đều diệt hết. Các pháp biến chẳng thường, Tướng thế gian thay đổi, Mau bỏ cảnh giả dối, Nên mau sớm vượt thành. Sinh lão bệnh tử theo, Nạn ấy thật đáng sợ. Cũng như kiếp lửa đến, Đốt cháy sạch thế gian, Lửa vô thường cũng vậy, Đốt sạch tất cả kiếp. Các khổ não như thế, Làm sao được tạm dừng, Nên quán các chúng sinh, Chìm trong tối phiền não, Ngu si không mắt tuệ, Không thể tự biết được, Phát tâm đại tinh tấn, Công đức được viên mãn, Vì tất cả chúng sinh, Nên xuất gia kẻo trễ. Khi ấy, tất cả thể nữ trong cung ca hát trổi nhạc, trong các tiếng ca nhạc này lại diễn các pháp âm, muốn cho Thái tử nhàm chán dục lạc thế gian, tâm sinh giác ngộ.  <詞 id="48706254">Phẩm 16: THÁI TỬ DẠO CHƠI GẶP NGƯỜI GIÀ Thiên tử Tác Bình muốn Thái tử ra khỏi thành hướng đến hoa lâm viên, để mục kích việc tốt xấu mà phát tâm nhàm chán thế gian, lần lần khuyến khích rời bỏ cung điện. Bấy giờ các thể nữ trong cung ca múa xướng hát, lần lần sinh mỏi mệt, muốn ca ngợi quang cảnh hấp dẫn nơi Lâm viên, nên họ xướng lên: –Thánh tử lắng nghe, quang cảnh hoa lâm viên rất hấp dẫn, nào là mặt đất phủ bằng một lớp cỏ non xanh tươi mềm mại, cây cối cành lá rậm rạp, hoa quả sum suê tươi tốt khoe sắc, lôi cuốn du khách; lại đủ các loại chim quý ca hát líu lo âm thanh vi diệu, nào là: Hồng nhạn, khổng tước, anh võ, chim sáo, câu-si-la, uyên ương… Thái tử nghe tiếng ca hát như vậy, ý muốn du ngoạn nên bảo người đánh xe: –Nay khanh nên mau mau chuẩn bị xe cộ, trang hoàng thật đẹp đẽ trang nghiêm, ta nay muốn đến thắng cảnh Hoa lâm viên thưởng ngoạn mảnh đất an lành. Người đánh xe nghe lời ấy rồi, liền tâu Thái tử: –Hạ thần xin tuân giáo lệnh không dám trái ý. Rồi vội vã đến yết kiến Đại vương Tịnh Phạn: –Xin Đại vương biết cho, Thái tử ngày hôm nay muốn đến thắng cảnh Hoa lâm viên thưởng ngoạn mảnh đất an lành. Đại vương Tịnh Phạn liền ban sắc lệnh, tất cả mọi nơi trong thành Ca-tỳ-la rưới nước quét dọn sạch sẽ, tẩy trừ các thứ phẫn uế, sỏi sạn ngói đá, những nơi gồ ghề hầm hố phải san bằng, rồi dùng nước thơm rưới lên không cho nổi bụi, tiếp dùng hồ thơm tô lên mặt đường, sau đó dùng các loại hoa rải khắp trên các đường, mọi nơi đều xông các danh hương vi diệu, ngã tư đầu đường khắp mọi nơi đều đặt những bình nước cắm đầy các thứ hoa, nơi nơi trưng bày các cây chuối, giữa các cây chuối treo các phan lọng, đầy đủ các màu sắc sặc sỡ, lại dùng các tràng phan bằng nhung lụa cùng các vật quý giá treo trên những cây chuối tăng thêm vẻ trang nghiêm, lại dùng các chuỗi anh lạc trân châu cũng treo nơi mỗi cây, và dùng lưới bảy báu mỗi mắt lưới có những chiếc chuông rung phát ra âm thanh vi diệu; hoặc dùng bảy báu làm hình mặt trời mặt trăng và hình chư Thiên được gắn thêm các chuỗi anh lạc, xen vào các mành lưới; lại treo đuôi trâu trắng và các loài thú khác. Theo sắc lệnh nhà vua đã ban ra, tất cả nội thành Ca-tỳ-la dọn dẹp các thứ không đẹp mắt, trưng bày các thứ quý giá tốt đẹp, trang hoàng thành phố hết sức tráng lệ như thành Càn-thát-bà. Nội thành trang hoàng xong rồi nhà vua lại ra lệnh chỉnh trang viên lâm, dọn dẹp các thứ ô uế… Cho đến treo các chuông rung bằng chất liệu quý, như trang hoàng nội thành nói ở trên. Trong lâm viên có những cây mang tên nam nhi thì dùng các chuỗi anh lạc nam nhi để trang hoàng; cây mang tên nữ nhi thì dùng chuỗi anh lạc loại phụ nữ để trang sức. Lại cho người đánh trống rung chuông loan báo khắp nội thành: Ngày nay Thái tử sắp ngự giá, nên tất cả những người già bệnh hay thây chết, các người đui điếc hay câm ngọng, sáu căn không đầy đủ, nói chung tất cả những điều không tốt đẹp, không vừa ý, tuyệt đối không được xuất hiện ngoài đường, chớ để khi Thái tử đi qua trông thấy. Bấy giờ, người đánh xe trang hoàng xe ngựa, đâu đó đều được chu toàn, rồi đến tâu Thái tử: –Nay tất cả xa-giá đều được chu toàn, chính là lúc khởi hành, xin Thái tử ngự giá xuất thành đến thắng cảnh hoa viên thưởng ngoạn mảnh đất an lành. Thái tử từ tòa đứng dậy, ung dung tiến đến tay xe bước lên bảo xa, với tư cách oai thần của một Đại vương, thế lực hùng hậu trông thật oai vệ, phát xuất từ cửa thành phía Đông, hướng về phía thắng cảnh Hoa lâm viên để thưởng ngoạn mảnh đất phước lạc. Lúc ấy Thiên tử Tác Bình ở trước Thái tử trên đường tiến về hoa viên, biến thành một ông già rách rưới, lưng còng, đầu gục xuống phía trước, răng rụng miệng móm, tóc trắng như tuyết, hình dung tiều tụy, da dẻ sần sùi đen sạm, da bọc lấy xương không còn một chút thịt, dưới cổ da dùn thòng xuống như yếm con bò, thân thể khô gầy chỉ nhờ vào sức cây gậy, hơi thở khó khăn, thở ra thành tiếng, nên lúc nào cũng nghe tiếng khò khè trong cổ họng như tiếng kéo cưa, tay chân run rẩy, tuy nhờ cây gậy làm điểm tựa nhưng vẫn nghiêng qua ngã lại, đi đứng chẳng vững, tướng mạo quá già nua như vậy, lụm cụm xiên qua ngả lại, đi đồng chiều trước mặt Thái tử. Thái tử thấy ông già thân thể run rẩy, các tướng suy yếu có dấu hiệu không tốt, đi lòm khòm một cách khó khăn trước mặt… như trên đã nói… Thái tử thấy vậy liền hỏi quan ngự giá: Người này là người gì mà da bọc lấy xương, nhăn nheo đen đủi, cặp mắt đỏ ngầu, mũi dãi loang lổ hết sức xấu xí? Tại sao người này xấu tệ không giống một ai? Lại thêm đôi mắt sụp vào, răng rụng, miệng móm, so với mọi người hết sức kỳ lạ, không có cái gì có thể coi được.. Liền nói kệ hỏi người đánh xe: Người đánh xe giỏi nay nghe rõ: Kẻ trước mặt ta là người gì? Thân hình không thẳng đầu hói tóc Sinh đã vậy, hay già mới có. Bấy giờ Thiên tử Tác Bình dùng thần lực khiến người đánh xe trả lời: –Bạch Thái tử Đại Thánh, theo thế gian, người như thế gọi là già. Thái tử lại hỏi: –Trong thế gian, như thế nào là già? Người đánh xe liền tâu: –Thưa Thái tử, phàm gọi là già thì người ấy bị sức bức xúc của tình cảnh người lớn tuổi, cơ thể bị suy thoái, các giác quan lần lần bị hư hoại, không còn cảm giác hiểu biết như lúc trẻ, khí lực bạc nhược, thân thể tiều tụy; là lúc con người bước sang giai đoạn khổ sở, bị thân tộc xua đuổi, không biết lấy gì sinh sống, cũng không biết nương tựa vào đâu, vả lại những người nầy chẳng sống được bao lâu, mai chiều thâm nặng sẽ kết liễu. Vì tất cả những lý do như vậy nên gọi là già nua. Rồi người đánh xe vì Thái tử mà nói kệ: Cảnh già thật là đại khổ não, Cướp đoạt sắc đẹp và thú vui, Giác quan suy thoái tâm lú lẫn, Thân thể sinh hoạt không chủ động. Thái tử nghe bài kệ này, liền hỏi người đánh xe: –Cảnh già này là chỉ theo quy luật riêng của một người nào khiến như vậy, hay tất cả tướng thế gian đều như vậy? Người đánh xe trả lời: –Thưa Thái tử phải biết, cảnh già này không phải quy luật riêng cho một người nào mà tất cả chúng sinh trong thế gian đều phải chịu. Thái tử lại hỏi: –Thân ta ngày nay, rồi cũng sẽ chịu quy luật già này chăng? Người đánh xe đáp: –Thưa Thái tử, đúng như vậy, như vậy. Sang hèn tuy khác nhau, nhưng cái gì đã sinh ra, đều không thoát khỏi quy luật này, ngay thân chúng ta ngày nay vẫn đầy đủ tướng trạng già nua, nhưng chưa hiện ra mà thôi. Thái tử lại hỏi người đánh xe: –Nếu thân này của ta không tách khỏi quy luật già, chưa vượt qua tướng suy thoái xấu xí ấy, ta nay chẳng cần đến Hoa lâm viên ngao du thưởng ngoạn, hãy lập tức hồi giá trở về nội cung, ta sẽ tư duy xem nên dùng phương pháp gì để thoát khỏi cảnh khổ này. Người đánh xe đáp: –Theo lời Thái tử dạy, hạ thần không dám trái lời. Liền đánh xe quay về nội cung. Thái tử trở về nội cung, ngồi trên bổn tọa chánh niệm tư duy: “Ta cũng sẽ già, chưa vượt qua được quy luật ấy, tại sao ta buông lung phóng dật”. Lúc Đại vương hỏi người đánh xe: –Ngươi hầu Thái tử ra đi từ nội cung cho đến Hoa lâm viên, dạo chơi quan sát phong cảnh, Thái tử có được đẹp mắt vừa lòng, vui vẻ hay không? Người đánh xe quỳ gối đáp: –Tâu Đại vương, xin ngài biết cho, Thái tử ra đi du ngoạn mới đến giữa đường, ra lệnh dừng xe hồi giá, chưa đến Hoa lâm viên. Đại vương lại hỏi: –Tại sao Thái tử giữa đường trở về, không đến viên lâm? Quan ngự giá đáp: –Tâu Đại vương, xin ngài biết cho, Thái tử muốn đến hoa viên thưởng ngoạn vui chơi, nhưng mới đến giữa đường bỗng thấy một ông già nơi vệ đường, tay chống gậy, thân người run rẩy, té xuống ngồi dậy, không thể đi đứng vững vàng. Thái tử thấy người già này rồi, liền ra lệnh hồi giá trở về nội cung, ngài ngồi kiết già chánh niệm tư duy. Đại vương Tịnh Phạn thầm nghó: “Ít có thay! Ít có thay! Hình tướng ông già như vậy. Lời thọ ký Tiên nhân A-tư-đà quyết định chân thật, e Thái tử nhất định xuất gia, ta nay nên vì Thái tử tăng thêm thú vui ngũ dục, nếu Thái tử gần gũi nhiều ngũ dục, thỏa mãn tâm mắt, tham đắm hoang mê, không xả tục xuất gia, thì đúng với tâm ta.” Liền khi ấy Đại vương vì Thái tử Tất-đạt-đa tăng thêm các thú vui ngũ dục cho thật nhiều, để tâm Thái tử say đắm không còn nghó đến chuyện xuất gia. Có kệ nói: Trong cung thọ hưởng nhiều dục lạc, Xuất thành dạo chơi gặp người già, Hồi giá về cung tâm lo nghó, Than ôi ta chưa thoát cảnh già! Đại vương nghe qua lời ngự giá, Tâm lo Thái tử bỏ vương triều, Tăng thêm ngũ dục cùng thể nữ, Khiến mê ân ái nối nghiệp vua. Thuở ấy, Thái tử ở trong cung, đầy đủ năm thứ ngũ dục, mặc tình thọ hưởng thú vui, không còn nghi vấn cảnh già mà chỉ riêng mình Ngài là quý trọng hơn cả. <節>LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH <節>TẬP 12 <節>BỘ BẢN DUYÊN <節>3 <大>卐 <節>Tổng giám tu: Thích Tịnh Hạnh <節>Ban thực hiện: <節>- Ban dịch thuật <節>- Ban biên tập <節>- Ban nhuận văn <節>- Tổng biên tập <節>- Các tổ vi tính v.v… NƠI XUẤT BẢN VÀ PHÁT HÀNH LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH ~~~卐~~~ I. Địa chỉ liên lạc: Xin gởi về hộp thư: * GIẢNG ĐƯỜNG LINH SƠN P.O. BOX 8-264, Taipei – Taiwan, 100, R.O.C Hoặc địa chỉ: * THÍCH TỊNH HẠNH 7F. 21, Sec.1, Chung – Hsiao, W.Road, Taipei-Taiwan, 100, R.O.C TEL: 886-2-2381-4434 / 2361-3015 / 2361-3016; FAX: 886-2-2314-1049 E-Mail:linhson@linhson.org.tw Web site: www.linhson.org.tw II. Địa chỉ ủng hộ dịch Kinh hoặc thỉnh Kinh: Ủng hộ dịch và in Đại Tạng Kinh hoặc thỉnh Kinh, dùng ngân phiếu hay chuyển băng, xin gởi về địa chỉ dưới đây: * Dùng CHECK hoặc MONEY ORDER, Xin đề: LI KUANG LIEN, gởi theo hộp thư: P.O. BOX 8-264, Taipei – Taiwan, 100, R.O.C * Nếu gởi ngân khoản xin đề: CITIBANK, N.A., NO.117,2F, SEC.3, MIN-SHENG E. ROAD, TAIPEI-TAIWAN, R.O.C ACCOUNT NUMBER: 51362724 BENEFICIARY: LI KUANG LIEN * Nếu Quý vị nào muốn trực tiếp gởi vào ngân khoản tại Hoa Kỳ xin đề: LI KUANG LIEN BANK OF AMERICA N. BRANCH: 2177 N. ACCOUNT: 21774-09981 - Mỗi một ngân phiếu, ngân hàng sẽ trừ chi phí thủ tục là 10.00 USD - Xin Quý vị đề rõ ngân phiếu tên người lãnh là: LI KUANG LIEN - Trên ngân phiếu xin Quý vị viết cẩn thận, ngân hàng không chấp nhậ ngân phiếu đã bị bôi xóa. * Xin Quý vị chú ý: Nếu số ngân khoản trong ngân hàng đã chuyển tiền rồi, xin Quý vị đem giấy làm thủ tục ở ngân hàng có đề số tiền gởi tên người và địa chỉ, đánh Fax hoặc E-mail đến địa chỉ liên lạc trên, để nhận được giấy cảm tạ hoặc biên nhận, cũng như để tiện ghi vào sổ công đức và liên lạc, chứ ngân hàng không cho biết chi tiết. <大>卐 Sa môn THÍCH TỊNH HẠNH Mẫu bìa mạ vàng: Nguyễn Đồng (California