<經 id="n157">KINH BI HOA Hán dịch: Đời Bắc Lương, Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, người Thiên trúc. <卷 id="32807818">QUYỂN 1 <卷 id="32807819">Phẩm 1: Chuyển Pháp Luân Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ngự tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá, cùng với đông đủ sáu vạn hai ngàn vị đại Tỳ-kheo Tăng đều là bậc A-la-hán, đã sạch các lậu, không còn phát sinh phiền não, đã được hoàn toàn tự tại, được tâm giải thoát, được tuệ giải thoát, giống như voi chúa đã thuần thục trọn vẹn, việc làm đã xong, đã rũ bỏ gánh nặng, được tự lợi, cắt đứt các trói buộc; với trí tuệ chân chánh giải thoát, tâm được tự tại đối với tất cả, đã đạt đến bờ bên kia, chỉ trừ Tôn giả A-nan. Các bậc Đại Bồ-tát này có đến bốn trăm bốn mươi vạn vị, Bồ-tát Di-lặc làm thượng thủ, đều được Đà-la-ni, nhẫn nhục, thiền định, hiểu rõ các pháp đều không, không có tướng nhất định. Các bậc Đại só như vậy đều là bậc không còn thoái chuyển. Bấy giờ, có Đại Phạm thiên vương cùng với vô lượng trăm ngàn các Phạm Thiên tử; Tha hóa tự tại Thiên vương cùng quyến thuộc bốn trăm vạn vị; Hóa lạc Thiên vương cùng với quyến thuộc ba trăm năm mươi vạn vị; Đâu-suất Thiên vương cùng quyến thuộc ba trăm vạn vị; Dạ-ma Thiên vương cùng quyến thuộc ba trăm năm chục vạn vị; Đao-lợi Thiên vương là Thích Đề-hoàn Nhân cùng quyến thuộc bốn trăm vạn vị; Tỳ-sa-môn Thiên vương cùng quỷ thần quyến thuộc mười vạn vị; Tỳ-lâu-lặc Thiên vương cùng Câu-biện-trà quyến thuộc một ngàn vị; Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương cùng các rồng quyến thuộc một ngàn vị; Đề-đầu-lại-tra Thiên vương cùng Càn-thát-bà quyến thuộc một ngàn vị; Nan-đà Long vương, Bà-nan-đà Long vương mỗi vị cũng cùng một ngàn quyến thuộc, các chúng hội này đều đã phát tâm hướng đến Đại thừa, đã tu hành sáu Ba-la-mật. Bấy giờ, cùng với đại chúng vây quanh, Thế Tôn thuyết pháp vi diệu để tất cả đại chúng dứt trừ bốn điên đảo, sinh ánh sáng pháp lành, được trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ bốn Thánh đế và muốn cho tất cả các Bồ-tát ở đời sau được vào Tam-muội, sau khi vào Tam-muội, vượt qua địa vị Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến khi chứng quả vị A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, không còn thoái chuyển. Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Vô Nghi Kiến, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Sư Tử Ý, Bồ-tát Nhựt Quang cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát thượng thủ như vậy mười ngàn vị, từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về hướng Đông nam một lòng vui mừng, cung kính chiêm ngưỡng và niệm lên rằng: –Nam-mô Liên Hoa Tôn, Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Nam-mô Liên Hoa Tôn, Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật hy hữu thay! Thế Tôn thành Chánh giác chưa bao lâu mà Ngài có thể thị hiện vô lượng các pháp thần túc biến hóa, khiến cho vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh được trồng căn lành, được không thoái chuyển nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc ấy, trong hội có vị Đại Bồ-tát tên là Bảo Nhựt Quang Minh, từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay hướng lên Đức Phật, thưa: –Kính bạch Thế Tôn, Bồ-tát Di-lặc, Bồ-tát Vô Nghi Kiến, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Sư Tử Ý, Bồ-tát Nhựt Quang, cùng mười ngàn vị Bồ-tát Ma-ha-tát thượng thủ như vậy, vì nhân duyên gì các vị bỏ việc nghe pháp, rời tòa đứng dậy, bày vai bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, bắt tréo tay rồi chấp lại, hướng về phía Đông nam một lòng vui mừng, niệm: “Nam-mô Liên Hoa Tôn, Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Nam-mô Liên Hoa Tôn, Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật hy hữu thay! Thế Tôn thành Chánh giác chưa bao lâu mà Ngài có thể thị hiện vô lượng các pháp thần túc biến hóa, khiến cho vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh được trồng căn lành”. Kính bạch Thế Tôn, Đức Phật Liên Hoa Tôn này cách đây gần hay xa? Đức Phật đó thành Phật đến nay thời gian đã bao lâu? Cõi nước đó tên là gì? Và dùng vật gì để trang nghiêm? Phật Liên Hoa Tôn vì sao thị hiện biến hóa nhiều cách, nơi mười phương thế giới, chỗ có chư Phật, Ngài thị hiện biến hóa vô lượng cách. Hoặc có Bồ-tát thấy được, riêng con không được nhìn thấy. Đức Phật bảo Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh: –Thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Những điều ông hỏi chính là châu báu, chính là hiền thiện, chính là biện tài, chính là khéo hỏi. Này thiện nam tử, ông có thể hỏi Như Lai về diệu nghóa như vậy là vì muốn được Như Lai giáo hóa cho vô lượng vạn ức na-do-tha chúng sinh, khiến họ đều được trồng căn lành, muốn được hiển bày vô số sự trang nghiêm ở cõi Liên Hoa Tôn, nên mới thưa hỏi như thế. Này thiện nam tử, nay Ta sẽ nói, ông hãy lắng nghe và suy nghó kỹ, khéo lãnh thọ và giữ gìn. Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh một lòng vui mừng vâng nhận và lắng nghe Phật dạy. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo với Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh: –Này thiện nam tử, ở phương Đông nam, cách đây một ức trăm ngàn cõi Phật, có thế giới của Phật tên là Liên hoa, trang nghiêm bằng vô số các loại xinh đẹp, dâng các hoa đẹp, hương thơm bay tỏa khắp nơi, cây báu trang nghiêm, lớp lớp núi báu với đất bằng lưu ly xanh biếc, có vô lượng Bồ-tát ở khắp trong cõi ấy. Âm thanh vi diệu về pháp lành nghe vang khắp nơi. Đất ở nơi đó mềm mại giống như Thiên y. Khi đi, chân đạp lún sâu xuống đất bốn tấc, nhưng khi giở chân lên thì đất trở lại như cũ và có các loài hoa sen mọc lên tự nhiên. Có cây bảy báu cao bảy do-tuần, trên nhánh cây đó tự nhiên có treo y ca-sa trời. Thế giới của Đức Phật kia thường nghe âm nhạc hay của chư Thiên. Trong tiếng hót ca của các loài chim ở cõi đó thường phát ra âm thanh với các diệu pháp như: Năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý. Nhánh, lá cây chạm vào nhau phát ra âm thanh hay hơn cả âm thanh của năm loại âm nhạc chư Thiên. Nơi mỗi gốc cây phát ra mùi hương thơm hơn cả hương thơm của chư Thiên. Hương thơm đó bay xa khắp một ngàn do-tuần. Ở khoảng giữa các cây có treo các loại chuỗi ngọc trời. Có lầu gác bằng bảy báu cao năm trăm do-tuần, ngang dọc bằng thẳng một trăm do-tuần. Có lan can làm bằng bảy báu bao bọc chung quanh. Bốn phía lầu gác đó có ao nước lớn dài tám mươi do-tuần, rộng năm mươi do-tuần. Bốn phía ao có bậc thềm đẹp làm bằng bảy báu. Trong ao nước đó có hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng; mỗi hoa sen cao lớn bằng thẳng bằng một do-tuần. Đầu đêm, có các Bồ-tát sinh trong đài hoa, ngồi kiết già cảm nhận sự an vui, hoan hỷ của giải thoát. Gần sáng, bốn phía có gió thơm dịu dàng chạm vào thân Bồ-tát. Gió đó có thể làm cho các hoa đang khép được nở ra và thổi bay rải khắp đất. Bấy giờ, Bồ-tát ra khỏi thiền định, lại cảm nhận sự an vui hỷ duyệt của giải thoát, bước xuống đài sen rồi lên lầu cao ngồi kiết già nơi tòa bảy báu, lãnh thọ diệu pháp. Bên ngoài hoa viên kia, bao bọc bốn phía là dãy núi bằng vàng ròng Diêm-phù-đề cao hai mươi do-tuần, dài rộng bằng thẳng đều ba do-tuần. Trên núi có vô lượng trăm ngàn châu báu, ánh sáng của ngọc châu lưu ly sắc biếc, ngọc châu lưu ly lớn sắc biếc, hỏa châu chiếu sáng xen lẫn nhau. Bấy giờ, Phật Liên Hoa Tôn dùng ánh sáng lớn và các ánh sáng báu hợp nhau tỏa chiếu rực rỡ nơi thế giới ấy. Cõi đó có ánh sáng vi diệu bậc nhất. Lại nữa, cõi đó không có mặt trời, mặt trăng, cũng không có ngày đêm, chỉ xem hoa khép lại và chim đậu nghỉ để biết thời gian. Trên núi báu đó có đài tốt đẹp bằng lưu ly xanh biếc cao sáu mươi do-tuần, ngang dọc hai mươi do-tuần. Bốn bên đài có lan can bằng bảy báu bao bọc xung quanh. Giữa đài, có tòa bằng bảy báu, trên mỗi tòa có một Bồ-tát đạt Nhất sinh bổ xứ ngồi nghe và lãnh thọ giáo pháp. Này thiện nam tử, thế giới của Đức Phật đó có cây Bồ-đề tên là Nhân-đà-la, cao ba ngàn do-tuần, thân cây to lớn năm trăm do-tuần, nhánh lá tỏa rộng một ngàn do-tuần. Dưới cây có hoa sen, lưu ly làm cành, cao năm trăm do-tuần, nơi mỗi hoa đều có một ức trăm ngàn cánh bằng vàng dài năm do-tuần, nhụy làm bằng mã não, tua bằng bảy báu cao mười do-tuần, hoa lớn bằng bảy do-tuần. Bấy giờ, sau đêm chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Đức Phật Liên Hoa Tôn ngồi trên hoa sen ấy, tòa hoa này lại có nhiều hoa sen bao bọc xung quanh. Có các Bồ-tát ngồi trên hoa đó chiêm ngưỡng vô số sự biến hóa của Phật Liên Hoa Tôn. Khi Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni thuyết việc này xong, Đại Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, Phật Liên Hoa Tôn dùng hình tướng gì để làm ra các việc biến hóa ấy? Cúi xin Thế Tôn dạy rõ. Đức Phật bảo Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh: –Này thiện nam tử, Phật Liên Hoa Tôn vào sau đêm chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài thị hiện vô số thần túc biến hóa. Thân Ngài biến hiện đến cõi Phạm thiên. Tướng nhục kế trên đảnh đầu phóng ra sáu mươi ức na-do-tha trăm ngàn ánh sáng chiếu nơi thế giới của các Đức Phật ở phương trên nhiều như số vi trần. Bấy giờ, Bồ-tát ở phương trên không thấy các sắc duyên với mắt ở phương dưới như là đại, tiểu Thiết vi và các núi nhỏ, chỉ thấy ánh sáng của Phật chiếu đến các thế giới nơi có các Bồ-tát được thọ ký, hoặc được Tam-muội Nhẫn nhục đà-la-ni, hoặc được Thượng vị Nhất sinh bổ xứ. Do ánh hào quang của Đức Phật nên ánh sáng của các vị Bồ-tát không hiện ra được. Đại chúng như vậy đều chắp tay hướng đến chiêm ngưỡng tôn nhan của Đức Phật Liên Hoa Tôn. Lúc ấy, đại chúng chỉ thấy ba mươi hai tướng quý báu và tám mươi vẻ đẹp lần lượt trang nghiêm nơi thân Ngài, thấy Phật Liên Hoa Tôn và thế giới của Ngài với vô số tướng trang nghiêm. Thấy như vậy rồi, tâm họ được vui vẻ. Khi ấy, trong các thế giới chư Phật, các vị Bồ-tát nhiều như vi trần trông thấy ánh sáng của Phật Liên Hoa Tôn biến hóa và thế giới của Ngài xong, mỗi vị đều rời bỏ cõi của mình, dùng sức thần túc cùng nhau đi đến gặp Đức Phật kia, lễ bái, vây quanh cúng dường, cung kính, tôn trọng và khen ngợi. Này thiện nam tử, lúc thấy các Bồ-tát, Đức Phật kia bèn hiện tướng lưỡi của mình che phủ khắp bốn cõi thiên hạ. Tất cả chúng sinh đi, đứng, ngồi… trong đó; hoặc có Bồ-tát vào thiền định và xuất thiền định, đến giữa đại chúng, lễ bái, vây quanh cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Đức Phật Liên Hoa Tôn. Thiện nam tử, sau khi thị hiện tướng lưỡi dài rộng như vậy, làm các việc biến hóa xong, Đức Phật ấy liền thâu nhiếp tướng lưỡi lại. Thiện nam tử, Phật Liên Hoa Tôn lại phóng ánh sáng từ nơi lỗ chân lông trên thân, mỗi lỗ chân lông phát ra sáu mươi ức na-do-tha trăm ngàn ánh sáng. Ánh sáng đó vi diệu, chiếu khắp mười phương, mỗi phương đều có thế giới của chư Phật nhiều như số vi trần. Trong thế giới đó, ở khắp mỗi nơi đều có Bồ-tát đã được thọ ký, được Tam-muội Nhẫn nhục đà-la-ni, hoặc được Thượng vị Nhất sinh bổ xứ. Thấy ánh sáng đó rồi, mỗi vị đều rời bỏ thế giới của Phật ấy, dùng năng lực thần thông cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật Liên Hoa Tôn, lễ bái, vây quanh cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Thiện nam tử, sau khi biến hóa xong, Đức Phật kia vì để giảng nói chánh pháp cho các Bồ-tát và đại chúng nên chuyển pháp luân bất thối, muốn cho vô lượng, vô biên chúng sinh được lợi ích lớn, được an vui lớn, vì thương xót thế gian, vì trời người cho nên muốn cho tất cả đều được đầy đủ pháp Đại thừa tối thượng.  <卷 id="32807820">Phẩm 2: ĐÀ-LA-NI Bấy giờ, Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, thế giới của Đức Phật kia làm sao có thể biết được sự khác nhau giữa ngày và đêm, âm thanh được nghe với tướng trạng gì? Các Bồ-tát kia làm sao để thành tựu được nhứt tâm và hành hạnh khác biệt gì? Phật bảo Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh: –Thiện nam tử, thế giới của Đức Phật kia thường thường được chiếu sáng bằng hào quang của Phật. Khi hoa khép lại cùng với chim đậu nghỉ, Như Lai, Bồ-tát vào các thiền định Sư tử du hý, tâm vui vẻ hưởng an lạc giải thoát, nên biết, khi ấy là ban đêm. Lúc có gió thổi, các thứ hoa rải trên đất, các loài chim chóc đua nhau ca hót, tạo thành những âm thanh vi diệu, trời mưa các thứ hoa, bốn phía gió thổi mang hương thơm dịu êm mềm mại, mịn màng trơn láng, Phật và Bồ-tát xuất thiền định, bấy giờ Đức Phật kia thuyết tạng pháp Bồ-tát cho đại chúng, muốn cho họ vượt qua bậc Thanh văn, Duyên giác thì biết đó là ban ngày. Thiện nam tử, chúng Bồ-tát ở thế giới của Đức Phật kia thường nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiếng tịch diệt, tiếng vô sở hữu, tiếng sáu Ba-la-mật, tiếng mười lực, sáu vô úy, tiếng sáu thần thông, tiếng vô sở tác, tiếng vô sinh diệt, tiếng vi diệu tịch tónh, tiếng nhân của tịch tónh, tiếng duyên của tịch tónh, tiếng đại từ, tiếng đại bi, vô sinh pháp nhẫn, thọ ký… Hoàn toàn là các vị Bồ-tát với diệu âm thanh tịnh và luôn luôn nghe âm thanh như thế. Thiện nam tử, âm thanh được nghe với tướng trạng như vậy. Thiện nam tử, ở cõi kia Bồ-tát đã sinh, hoặc đang sinh đều thành tựu ba mươi hai tướng. Thân thường có ánh sáng chiếu xa một do-tuần, cho đến khi thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không còn bị rơi vào ba đường ác. Các Bồ-tát kia đều thành tựu tâm đại từ, tâm đại bi, tâm mềm mỏng, tâm không ái trược, tâm điều phục, tâm tịch tónh, tâm nhẫn nhục, tâm thiền định, tâm thanh tịnh, tâm không chướng ngại, tâm không nhơ nhớp, tâm không dơ bẩn, tâm chân thật, tâm ưa pháp, tâm muốn cho chúng sinh đoạn trừ phiền não, tâm như mặt đất, tâm xa lìa tất cả ngôn ngữ thế tục, tâm ưa thích thánh pháp, tâm cầu thiện pháp, tâm xa lìa ngã, tâm tịch diệt xa lìa sinh-già-bệnh-chết, tâm thiêu đốt các phiền não, tâm tịch tónh cởi bỏ tất cả trói buộc, được tâm bất động đối với tất cả pháp. Thiện nam tử, các Bồ-tát kia được năng lực chuyên tâm, được năng lực phát khởi, được năng lực duyên, được năng lực nguyện, được năng lực vô tránh, được năng lực thấy tất cả pháp, được năng lực các căn lành, được năng lực các Tam-muội, được năng lực đa văn, được năng lực trì giới, được năng lực đại xả, được năng lực nhẫn nhục, được năng lực tinh tấn, được năng lực thiền định, được năng lực trí tuệ, được năng lực tịch tónh, được năng lực tư duy, được năng lực thông suốt tất cả, được năng lực niệm, được năng lực Bồ-đề, được năng lực phá trừ tất cả ma, được năng lực bẻ dẹp tất cả ngoại đạo, được năng lực phá diệt tất cả các phiền não. Như vậy, ở nơi cõi Phật kia, Bồ-tát đã sinh, đang sinh đều là bậc Bồ-tát chân thật, đã được cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, Thế Tôn, đã gặp các Đức Phật và trồng các căn lành. Các Bồ-tát kia dùng thiền vị làm thức ăn mà pháp thực, hương thực giống như Phạm thiên, không có đoàn thực hay tên gọi, không có những điều không tốt, cũng không có nữ nhân, khổ thọ, yêu, ghét, các phiền não khác và ngã, ngã sở, khổ não của thân tâm, ba đường ác,… và cũng không có các tên như trên, cũng không có những chỗ tối tăm, hôi thối, gai gốc bất tịnh, dơ xấu, núi gò, ụ mối, đống đất, cát, sạn, đá vụn và ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, lửa cháy, núi Tu-di, biển lớn, đại-tiểu Thiết vi, chỗ tối tăm giữa hai núi. Cũng không có mưa tuôn nước đục, gió dữ phá hoại và tám nạn xứ, cũng không có các danh từ này. Này thiện nam tử, thế giới của Đức Phật kia được chiếu sáng bằng ánh sáng báu của Phật và Bồ-tát. Ánh sáng đó vi diệu, thanh tịnh bậc nhất, tỏa khắp cả thế giới. Trong thế giới đó có chim tên là Thiện Quả, thường ca hót với âm thanh vi diệu nói về căn, lực, giác, đạo. Bấy giờ, Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh lại bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, thế giới của Đức Phật kia cao rộng bao nhiêu? Đức Phật đó trụ thế, tuổi thọ và thuyết pháp với thời gian bao lâu? Sau đêm thành Bậc Chánh Giác cho đến sau khi Phật đó diệt độ, pháp của Ngài trụ ở đời bao lâu? Các chúng Bồ-tát trụ ở đời bao lâu? Các Bồ-tát sinh ở thế giới kia có bị cách xa việc được thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng không? Thế giới của Đức Phật Liên Hoa khi Ngài chưa xuất hiện, tên là gì? Cõi đó từ khi thành hình cho đến khi Đức Phật, Thế Tôn ở quá khứ diệt độ thì đã trải qua thời gian bao lâu? Sau Ngài diệt độ, khoảng thời gian ở giữa đó là bao lâu thì Phật Liên Hoa Tôn mới thành đạo? Vì nhân duyên gì ở khắp mỗi nơi trong mười phương thế giới có chư Phật nhập Tam-muội Sư Tử du hý và thị hiện vô số thần túc biến hóa mà các Bồ-tát có vị được thấy, hoặc có vị không được thấy? Phật bảo Bồ-tát Bảo Nhựt Quang Minh: –Thiện nam tử, như Tu-di sơn vương cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, ngang dọc tám vạn bốn ngàn do-tuần; bấy giờ hoặc có người siêng năng tinh tấn, dùng năng lực huyễn hóa, hoặc năng lực thiền định phá núi Tu-di ra nát như hạt cải thì nhiều không thể tính toán được, trừ Phật, Thế Tôn với Nhất thiết trí ra thì không ai có thể biết được. Ví dụ một hạt cải là một Tứ thiên hạ, như vậy số Tứ thiên hạ có ở trong thế giới Liên hoa nhiều như là số hạt cải này. Các Bồ-tát ở khắp trong số thế giới đó, giống như các Bồ-tát trong thế giới an lạc ở phương Tây. Thiện nam tử, Phật Liên Hoa Tôn kia có thọ mạng và thuyết pháp ba mươi trung kiếp. Sau khi Ngài diệt độ, chánh pháp trụ đời đủ mười trung kiếp. Thiện nam tử, các Bồ-tát ở cõi kia đã sinh, đang sinh thọ mạng bốn mươi trung kiếp. Thiện nam tử, ngày xưa, thế giới của Đức Phật kia vốn tên là Chiên-đàn xảo diệu thanh tịnh, không giống như hiện nay. Bấy giờ thế giới đó không có Bồ-tát thanh tịnh như hiện nay. Thiện nam tử, trong quá khứ, thế giới Chiên-đàn có vị Phật đầu tiên xuất hiện ở thế gian hiệu là Nhựt Nguyệt Tôn, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, với tuổi thọ và thuyết pháp đến ba mươi trung kiếp. Lúc Phật sắp diệt độ, có Bồ-tát do nguyện lực nên đi đến cõi Phật khác. Ngoài ra, những vị còn ở lại nghó như thế này: “Vào giữa đêm nay, Nhật Nguyệt Tôn Như Lai sẽ vào Niết-bàn. Phật diệt độ rồi, chúng ta sẽ hộ trì chánh pháp trong mười trung kiếp. Ai có thể đối với chánh pháp này sau khi Phật diệt độ, kế tiếp chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam Bồ-đề?”. Khi ấy, có Bồ-tát tên là Hư Không Ấn, do bản nguyện cho nên Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai liền thọ ký: –Thiện nam tử, sau khi Ta diệt độ rồi, chánh pháp trụ ở đời đủ mười trung kiếp, qua mười trung kiếp, vào đầu đêm, khi chánh pháp diệt tận, ngay trong lúc ấy, ông sẽ thành Chánh giác hiệu là Liên Hoa Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bấy giờ các Bồ-tát Ma-ha-tát đã đến chỗ Phật Nhựt Nguyệt Tôn, dùng năng lực thiền định với vô số Sư tử du hý, tự tại cúng dường Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai. Sau khi cúng dường, họ đi nhiễu bên phải ba vòng và thưa: –Kính bạch Thế Tôn, chúng con nguyện muốn nhập Diệt tận định trong mười trung kiếp. Này thiện nam tử, bấy giờ Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai bảo với Hư Không Ấn Bồ-tát Ma-ha-tát: –Thiện nam tử, hãy thọ trì và hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni này mà quá khứ các Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã vì các Bồ-tát nhận quả vị Phật nên thuyết giảng như ngày nay. Hiện tại, chư Phật trong mười phương cũng vì các Bồ-tát nhận quả vị Phật nên thuyết giảng. Chư Phật, Thế Tôn trong vị lai cũng sẽ vì các Bồ-tát nhận quả vị Phật nên thuyết giảng. Đó là hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni. Đức Phật liền thuyết kệ tụng: –Xà lê, xà liên ni, ma ha xà liên, hưu sí, hưu sí tam bát đề ma ha, tam bát đề, đề đà a sất ế đa giá sất già sất đà la trác già. A tư ma già tư, ê lệ, di lệ đế lệ. Lưu lưu sí, ma ha lưu lưu sí, xà di đầu xà xi, xà di mạt sách thiên để, xá đa nỉ già đà nỉ a mậu lệ, mậu la ba, lệ xà ni ma la tư nỉ tỳ la bà nỉ, mục đế mục đế ba lệ thâu đề. A tỳ để, ba dạ vô chất nỉ, ba la ô ha la nỉ, đàn đà tỳ xà tỷ xà bà, lưu uất đam nỉ. Các kệ tụng này phá trừ tất cả các luận nghị của ngoại đạo, đưa vào pháp luân chân chánh, lại có thể ủng hộ người thuyết chánh pháp, mở bày, phân biệt pháp Tứ niệm xứ và giải thoát môn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ tụng: –Phật đà ba gia xá di, a ma ma nỉ ma ma ha giá thị pha đề ngạch đề niết đế la nỉ, lộ ca đề mục đế san đề đà lệ bà mạt ni. Bài kệ tụng này hiển bày phân biệt bốn pháp môn Thánh giải thoát. Đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng: –Ba sa đề, ba sa nỉ, đà lệ, đà la ba để, cúc để thử tỳ thủ bà ba để, nỉ để, tu ma bạt để sạn đề sí để ca lưu na uất đề xoa di, tỳ để ưu tỳ xoa tam bát nỉ, a la sí bà la địa, khư kỳ khư kỳ yết di a mậu lệ, mục la thâu đàn ni. Kệ tụng này hiển bày, phân biệt pháp môn Bốn vô sở úy. Bấy giờ Thế Tôn lại nói kệ tụng: –Chớ pha la, a già pha la, a niết pha la, niết la pha la tam mục đa a diên đà, y tỳ trì để tỳ trì, ô đầu đô la đâu lam a hưng tam thừa, y đề đa bà, a đỏa đa đỏa tát bà lộ già, a trà già, lệ tần đà, a phù tát lệ, đà đà mạn để tỳ xá già bạt đề a pha la ca pha lam. Bài kệ tụng này hiển bày, phân biệt, thủ hộ pháp môn Tam thừa. Phật lại thuyết kệ tụng: –Xà đà đa, an nỉ uất la, bà ba đa phiếu, y đàm pha lệ ni viêm pha lệ, tam mậu đàn na diên, tỳ phù xá, ba tha tô ma đâu, a miễn ma ngũ, a cưu ma đô tha đà bạt đế đạt xá bà la tỳ ba tha tha, tất xá thế đa, a ni ẩm ma để noa ma để, a lộ câu, a đề đấu noa, tát để mạt để. Kệ tụng này vốn là pháp mà chư Phật hiện tại tu tập và giảng giải, phân biệt pháp môn Tứ chánh cần. Đức Thế Tôn lại nói kệ tụng: –An nỉ, ma nỉ, ma nỉ, ma ma nỉ, giá lệ chí lợi đế, lệ lý xa lý đa tỳ, thiên đế mục đế úc đa lý, tam lý ni tam lý, tam ma tam lý xoa duệ. A xoa duệ, a xà địa, thiên đế. Xa mật trí, Đà-la-ni. A bạt già bà bà tư lại na ba đề, lại ma ba đề, xà na bà đề, nhó lưu bà để xoa kiêu ni đà xá ni, lộ già bà đề ba nỉ đà xá ni. Kệ tụng này giảng giải phân biệt pháp môn giải thoát bốn vô ngại biện. Đức Thế Tôn lại nói kệ tụng: –Nghiên bệ a bà bà nỉ đà xá ni. Thiền na lộ già đà đâu ba bà tán ni, tát bà nhân đề phù ma để thiên để. Tát bà tát bà, bà ma tát bà ba gia, bà xoa giạ ca lệ. Cụ ca lệ bà xà ni, lộ già sất đạt xá na tỳ bà. Kệ tụng này giảng giải phân biệt pháp môn giải thoát Như ý túc. Đức Thế Tôn lại nói kệ tụng: –A giá lệ, Phật đề đà đà ba giá lệ, na ny, càn noa tư đề cam tần đề, ny tiết đề tam bút tri. Ba lệ già tát lệ tô di chiến đề, chiến đề a giá lệ, a giá giá lệ, a ba lệ, tần chi bà ly, nỉ bà ly, bà giá giá ly, ba ba ly, a na giạ, a na giạ, a tỷ tư, câu câu sa bà tỳ nỉ ca nỉ, nỉ xà tư, già già nhi na do đế. Kệ tụng này giảng giải, phân biệt tất cả pháp môn giải thoát căn và lực. Đức Thế Tôn lại nói kệ tụng: –Phú bãi, chữu phú bãi, độ ma ba, lệ ha lệ, a bà di uất chi lệ, chi ca lặc sai a giạ mạt đâu. Đế đế lệ ma ma lệ thủ giá thi thi lệ. Lộ già tả ny xà na dạ xoa kỳ ê đế na giá giạ đế sa chiên đề na. Kệ tụng này giảng giải, phân biệt pháp môn giải thoát Thất Bồ-đề phần. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ tụng: –Giá già bà xà lệ, bà đế giá già lệ, giá da đà lệ, đà la giá, ca lệ đà lê, mậu lệ ê ê lệ lệ đà ly a lâu bà bạt đề, hưu hưu, giạ tha thậm bà ngạ tần bà lệ giạ đà kỳ ni, giạ tha ba lan giá, ly đề xa giạ tha bà na ly ly thí tác giá ni lệ ha la. Xà lưu giá tỳ ly, tỳ lê ny ly ha la, mạt ly, mạt già ny lệ ha la, ny la ny lệ ha la. Tam ma đề ni lệ ha la, Bát-nhã ni lệ ha la, tỷ mục đế ni lệ ha la, tỷ mục đế xà na đà lệ xá na, ny lệ ha la na xoa đế ni lệ ha la. Chiên đà ni, lệ ha la, tu lợi ny, lệ ha la ba đà xá dạ, lục đam đa đà a già độ a phù đà ny la phù đàm tam Phật-đà. A Phật-đà, y ha phù đà, chớ sỉ phù đà, ny ha ngã ma mậu lệ. A la phả đà đà la phả bán trà lệ, man đà lệ chớ sỉ lệ đa lưu ma, già già lân ny mậu tổ noa, tam bán mậu tổ noa, hàng già băng già ma sất ny, lưu bà na xá ny na xá bàn đà ny, sất sất đế, sất sất đổ ma do bà ê đăng già ma bà lệ ma lệ ha chớ ni, bà lệ ma lệ tần đề tỳ ly tỳ ly ưu sa ly, xá ha ny, đà la ny, bà bà để, bà lan na la dị, tỳ đầu ma bà la củ ma phạm ma giá lệ na nhân đề bà thi đề đề da la ni ma ê thủ la la ni, tam ma túc di a lam niệm di, y ca lặc xoa lợi sư giá ni giá la a chi. Chiên đà la tu lợi, tát bà tu la a bà lam phú na già trí đam bán trì đa, a giạ na, kiền trỉ diêm ba tư ca già đà lệ, a la đà ha ny, ma già la tỳ lộ ha ny, tất đàm mang đế, tỳ lộ ca mạn đế. Môn Đà-la-ni này, chư Phật, Thế Tôn thọ trì, giảng giải, phân biệt pháp môn giải thoát mười lực của Như Lai. Khi Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn giảng thuyết hiển bày rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni này, khắp ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động đủ sáu cách: trồi, sụp, nổi lên, chìm xuống, nghiêng tới, thụt lùi. Bấy giờ, có ánh sáng lớn vi diệu chiếu khắp mười phương, vượt qua hằng hà sa số các thế giới, với những nơi có núi Tu-di vương, Đại tiểu Thiết vi không làm trở ngại tầm nhìn, chỉ thấy thế giới bằng thẳng như bàn tay. Các nơi trong mười phương thế giới ấy, có các Bồ-tát được các thiền định, tổng trì nhẫn nhục, nhiều đến vô lượng. Các chúng này do thần lực Phật, biến mất khỏi chỗ mình và bỗng nhiên đến núi Kỳ-xà-quật ở thế giới Ta-bà, tới gần Đức Như Lai, đầu mặt lạy sát chân Phật, đem các phép thần túc tự tại mà các Bồ-tát đã đạt được cúng dường Đức Phật. Sau khi cúng dường, các vị theo thứ tự ngồi sang một bên, muốn được lãnh thọ và hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni. Có vô số chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc, đồng đi đến gặp Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi cũng đều theo thứ lớp ngồi sang một bên lãnh thọ và hiểu rõ tất cả các môn Đà-la-ni. Đại chúng này đều được thấy cõi Phật Liên Hoa và Đức Phật kia cùng với Đại Bồ-tát vây quanh. Bấy giờ, Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni thuyết giảng pháp môn hiểu rõ tất cả Đà-la-ni ấy, có bảy mươi hai hằng hà sa Bồ-tát Ma-ha-tát đạt được môn Đà-la-ni ấy. Ngay khi đó, họ được thấy chư Phật, Thế Tôn trong mười phương thế giới nhiều không thể kể xiết và thấy thế giới tịnh diệu của chư Phật. Các Bồ-tát này rất lấy làm lạ về việc chưa từng có ấy. Các Bồ-tát này với sức thiền định Sư tử du hý, được tự tại nên làm ra đầy đủ các thức cúng dường, đem cúng dường Phật. Bấy giờ, Phật bảo các Bồ-tát: –Thiện nam tử, nếu Bồ-tát tu pháp môn hiểu rõ tất cả Đà-la-ni này thì được tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni, bảy vạn hai ngàn môn Tam-muội, sáu vạn môn pháp tụ, được đại từ đại bi, hiểu rõ pháp Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, được Nhất thiết trí không còn chướng ngại. Môn Đà-la-ni này bao trùm tất cả pháp của Phật. Chư Phật hiểu rõ Đà-la-ni này rồi, vì các chúng sinh thuyết pháp vô thượng, trụ mãi nơi đời không nhập Niết-bàn. Này thiện nam tử, nên biết rằng, theo những điều ông thấy, tức là do sức oai thần của môn Đà-la-ni này nên khiến cho đại địa chấn động sáu cách và có ánh sáng thanh tịnh vi diệu chiếu khắp mười phương, vượt qua hằng hà sa số các thế giới của chư Phật. Ánh sáng đó chiếu đến chỗ nào thì có các Bồ-tát ở vô lượng thế giới đi đến hội này để thọ lãnh, hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni và cùng với vô lượng chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc ở cõi này tập họp. Lại có các Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Nhân và Phi nhân đều đến muốn lãnh thọ, hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni. Nếu Bồ-tát nào nghe và hiểu được các môn Đà-la-ni này sẽ chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam Bồ-đề, không bị thoái lui. Nếu người nào ghi chép thì cho đến khi đạt đến Vô thượng Niết-bàn, luôn luôn thấy Phật, nghe Pháp, cúng dường chúng Tăng. Nếu người nào thường đọc tụng, các nghiệp ác vónh viễn không còn, chuyển thân thọ sinh liền vượt qua Sơ địa, được trụ ở địa thứ hai. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành và hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni này thì tội ngũ nghịch cực ác đã tạo đều được tiêu diệt. Tái sinh lần thứ hai thì vượt qua Sơ địa, được trụ vào địa thứ hai. Bồ-tát nào không tạo tội ngũ nghịch thì ngay nơi thân này diệt hết và không còn những nghiệp nặng đã tạo, khi chuyển thân liền vượt qua Sơ địa, được trụ ở địa thứ hai. Người nào không thể đọc tụng, tu hành, ngay trong khi nghe pháp dùng các tơ lụa dâng lên cúng dường Pháp sư thì được chư Phật trong hiện tại nhiều như cát sông Hằng ở ngay nơi thế giới này khen ngợi, tán thán: “Lành thay! Lành thay!” và thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho vị đó. Bồ-tát này do nhân duyên cúng dường cho nên không bao lâu sẽ được chứng thành Phật, chỉ một đời sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu người cúng dường hương thơm, không lâu sẽ được hương Vô thượng định. Nếu người cúng dường hoa, không lâu sẽ được hoa Vô thượng trí. Nếu người dùng châu báu cúng dường Pháp sư, không lâu sẽ được quả pháp báu ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Này thiện nam tử, Bồ-tát nào hiểu rõ Đà-la-ni này thì được lợi ích rất lớn. Vì lẽ gì? Vì môn Đà-la-ni này có khả năng hiển bày, phân biệt tất cả các tạng pháp báu của Bồ-tát. Do giữ gìn tạng pháp này cho nên các Bồ-tát được pháp Vô ngại biện, bốn Thích ý. Thiện nam tử, sau khi Đức Nhật Nguyệt Tôn Như Lai vì Bồ-tát Hư Không Ấn mà thuyết môn Đà-la-ni xong thì đại địa chấn động sáu cách, cũng có vô lượng ánh sáng vi diệu chiếu khắp mười phương vô lượng, vô biên thế giới chư Phật, thấy các cõi Phật này đất bằng phẳng như bàn tay. Bấy giờ, trong hội có vô lượng Đại Bồ-tát thấy hết chư Phật, Thế Tôn trong mười phương nhiều không thể kể xiết. Khi ấy, khắp mười phương có vô lượng, vô biên Bồ-tát đều từ nơi thế giới của mình ẩn mất và bỗng nhiên đi đến thế giới Chiên-đàn gặp Phật Nhựt Nguyệt Tôn, lễ bái và vây quanh, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen và đều muốn lãnh thọ môn Đà-la-ni này. Thiện nam tử, bấy giờ Đức Phật kia bảo với các Bồ-tát: –Nay ta đã thọ ký cho các ông, hoặc là một đời bổ xứ và nhập Diệt tận định trong mười trung kiếp. Ngoài ra, các Bồ-tát khác đã đủ mười trung kiếp thì theo Đại Bồ-tát Hư Không Ấn nhận lãnh môn Pháp tạng Bồ-tát Đà-la-ni này, tùy theo pháp thọ trì mà được thấy chư Phật ở vô lượng thế giới mười phương. Nhờ được thấy Phật cho nên tâm họ được hoan hỷ, được các căn lành. Bấy giờ, trong chúng hội có các Bồ-tát đã được các sức Sư tử du hý tự tại, đem đầy đủ các thức cúng dường để cúng dường Đức Phật kia. Sau khi cúng dường, họ bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát Hư Không Ấn qua mười trung kiếp sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sẽ được chuyển pháp luân vô thượng? Phật bảo: –Các thiện nam tử, như lời các ông nói: vị Đại Bồ-tát Hư Không Ấn này qua mười trung kiếp được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và ngay sáng hôm ấy liền chuyển pháp luân. Khi Đại Bồ-tát Hư Không Ấn thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác xong, sau đêm ấy liền chuyển Chánh pháp luân, Bất thoái chuyển pháp luân, Vô thượng pháp luân. Trong hội có vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát trước đó đã theo Bồ-tát Hư Không Ấn ở trong mười trung kiếp nhận môn Đà-la-ni này được Bất thoái chuyển, còn một đời bổ xứ sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, nếu có Bồ-tát tu học không nhiều về môn Đà-la-ni này, ở trong tương lai được vượt Sơ địa, vào địa thứ hai, chẳng thoái lui nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì quyết định sẽ được môn Đà-la-ni này. Thuyết như vậy xong, Nhựt Nguyệt Tôn Như Lai vì các Bồ-tát thị hiện vô số các thần túc biến hóa. Thị hiện như vậy xong, Thế Tôn vì Đại Bồ-tát Hư Không Ấn thị hiện Tam-muội Na-la-diên và dạy: –Ông được định này sẽ liền được thân Kim cang. Đức Phật lại thị hiện tất cả ánh sáng của Tam-muội Trang nghiêm và dạy: –Thiện nam tử, ông tuy chưa chuyển chánh pháp luân, nhưng trong chiêm bao thấy vì các Bồ-tát thuyết pháp môn Đà-la-ni này, ngay khi ấy, ông liền được thân của Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, cũng sẽ phóng ra tất cả ánh sáng Tam-muội trang nghiêm này chiếu khắp vô lượng tất cả thế giới. Ở trong ánh sáng đó, được thấy vô lượng, vô biên chư Phật, lại được thị hiện Tam-muội Kim cang trường. Nhờ sức của Tam-muội Kim cang ấy cho nên chưa ngồi đạo tràng bên gốc cây Bồ-đề, chưa chuyển pháp luân mà ông có thể vì các Bồ-tát thuyết vi diệu pháp. Ông lại được thị hiện Luân tu Tam-muội, do sức Tam-muội ấy liền chuyển pháp luân. Khi chuyển pháp luân, có vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát được vào định. Nghe thuyết việc này xong, Đại Bồ-tát Hư Không Ấn tự biết sẽ chuyển pháp luân nên vui mừng hớn hở, cùng với vô lượng Bồ-tát cúng dường Phật. Sau khi cúng dường, mỗi vị vào trong các lầu gác. Bấy giờ, Đức Phật kia ngay trong đêm đó vào Vô dư Niết-bàn. Qua đêm ấy, các Bồ-tát đã cúng dường xá-lợi. Cúng dường xong, mỗi vị đều trở về lầu gác báu. Bồ-tát ở các phương khác, mỗi vị đều tự trở về thế giới của Phật mình. Bồ-tát nào còn một đời bổ xứ thì vẫn nhập Diệt tận định trong mười trung kiếp. Ngoài ra, các Bồ-tát nhờ Bồ-tát Hư Không Ấn thuyết diệu pháp, khi mãn mười trung kiếp thì được trồng căn lành. Lúc ấy, Đại Bồ-tát Hư Không Ấn bắt đầu từ đêm thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền ngay trong ngày sau chuyển chánh pháp luân, thị hiện vô số thần túc biến hóa, khiến cho trăm ngàn ức na-do-tha vô lượng chúng sinh được không thoái chuyển với quả Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật nói tiếp: –Ta nay ở nơi đây, khi thuyết môn Đà-la-ni này cũng có tám mươi na-do-tha trăm ngàn Bồ-tát được pháp Vô sinh nhẫn, bảy mươi hai ức chúng sinh đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thoái chuyển, bảy mươi hai na-do-tha trăm ngàn Bồ-tát được hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni, vô lượng, vô biên trời và người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, trong hội có Bồ-tát tên là Giải Thoát Oán Tắng bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, Đại Bồ-tát thành tựu được bao nhiêu pháp mới có thể tu tập và hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni này? Phật bảo Bồ-tát Giải thoát Oán Tắng: –Thiện nam tử, Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì có thể tu môn Đà-la-ni này. Những gì là bốn? Bồ-tát sống theo bốn thánh chủng này, đối với y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược thường biết đủ. Bồ-tát thành tựu bốn pháp như vậy thì có thể tu môn Đà-la-ni này. Lại nữa này thiện nam tử, Đại Bồ-tát thành tựu năm pháp thì có thể tu môn Đà-la-ni này. Những gì là năm? Tự mình giữ gìn cấm giới, nghóa là ưa thích hộ trì giới Biệt giải thoát, thành tựu hạnh oai nghi, phòng hộ giới pháp, tâm sinh sợ hãi đối với những lỗi nhỏ nhặt như Kim cang vụn, thọ trì tu học tất cả các giới. Thấy có người phá giới, khuyên răn khiến cho họ giữ gìn giới. Thấy người tà kiến, khuyên cho họ theo chánh kiến. Thấy người phá oai nghi, khuyên cho họ giữ oai nghi. Thấy người tâm tán loạn, khuyên cho họ định tâm. Thấy người ưa thích nơi Nhị thừa, khuyên cho họ an trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đại Bồ-tát thành tựu năm pháp như vậy thì có thể tu môn Đà-la-ni này. Lại nữa này thiện nam tử, Đại Bồ-tát thành tựu sáu pháp thì có thể tu môn Đà-la-ni này. Những gì là sáu? Tự tu tập, nghe nhiều thông suốt không trở ngại. Thấy người học ít, khuyên cho họ học nhiều. Bản thân mình không keo kiệt, bỏn sẻn. Thấy người keo kiệt bỏn sẻn, khuyên cho họ sống theo pháp không keo kiệt, bỏn sẻn. Tự mình không ganh ghét. Thấy người ganh ghét, khuyên cho họ sống theo pháp không ganh ghét. Tự mình không làm cho người khác sợ hãi, đem sự không sợ hãi cho người. Thấy người sợ hãi, làm việc bảo hộ cho họ, khéo nói lời dỗ dành an ủi làm cho họ được an ổn. Lòng không dua nịnh, không gian trá, thực hành Không Tam-muội. Đại Bồ-tát thành tựu sáu pháp như vậy thì có thể tu môn Đà-la-ni này. Đại Bồ-tát thành tựu pháp tướng này xong, ở trong bảy năm tóm lược tất cả kệ tụng Đà-tỳ-lê, ngày đêm sáu thời đem đầu mặt cung kính, lễ bái, nhất tâm tư duy niệm thân, thực hành Không Tam-muội, đọc tụng kệ tụng Đà-la-ni như vậy. Ngay khi đứng dậy, nghó khắp mười phương vô lượng thế giới của chư Phật, Bồ-tát Ma-ha-tát này qua bảy năm rồi liền hiểu rõ được tất cả môn Đà-la-ni ấy. Bồ-tát được môn Đà-la-ni này rồi, liền được con mắt Thánh thanh tịnh như vậy. Được mắt như thế rồi, thấy trong các thế giới nhiều như cát sông Hằng ở mười phương, nơi nào chư Phật, Thế Tôn cũng không nhập Niết-bàn, nơi nào cũng thấy các Ngài thị hiện vô lượng thần túc biến hóa. Khi ấy, Bồ-tát này thấy hết tất cả vô lượng chư Phật, do được thấy Phật nên liền được tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni, bảy vạn hai ngàn môn Tam-muội, sáu vạn môn Pháp tụ. Đại Bồ-tát được hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni này rồi, đối với chúng sinh được đại từ, đại bi. Lại có Bồ-tát Ma-ha-tát được pháp môn này rồi, đối với tội ngũ nghịch cực ác… đã tạo, khi chuyển thân liền được dứt hết; sinh lên Địa thứ ba xong, hết sạch tất cả nghiệp. Nếu không tạo tội ngũ nghịch thì được trụ Địa thứ mười. Ngoài ra, các nghiệp khác ngay nơi thân này liền vónh viễn được dứt hết. Qua xong một đời thì được đệ Thập trụ và không lâu liền được ba mươi bảy phẩm và Nhứt thiết trí. Thiện nam tử, sự hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni này tạo nhiều lợi ích cho các Bồ-tát như vậy, nếu Bồ-tát thường nhớ nghó đến Pháp thân của chư Phật thì được thấy các loại thần túc biến hóa. Thấy biến hóa xong, liền được vô lậu hoan hỷ. Như thế, nhờ hoan hỷ cho nên được thành tựu thần túc biến hóa, nhờ sức thần túc thì có thể cúng dường hằng hà sa số chư Phật ở các thế giới. Được cúng dường xong, cũng được lãnh thọ diệu pháp của chư Phật ấy. Nhờ nghe và lãnh thọ diệu pháp cho nên ngay khi ấy được Tam-muội Nhẫn nhục đà-la-ni và trở về đến thế giới của Đức Phật ấy. Thiện nam tử, môn Đà-la-ni này có thể tạo được những việc lợi ích lớn, giảm bớt các điều ác, tăng thêm các căn lành như vậy. Bấy giờ, có các Bồ-tát bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, chúng con gặp được chư Phật nhiều như cát của một sông Hằng trong quá khứ, nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Lại có Bồ-tát thưa thế này: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của hai sông Hằng nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Có Bồ-tát thưa: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của ba sông Hằng, nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Có Bồ-tát thưa: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của bốn sông Hằng, nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Có Bồ-tát thưa: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của năm sông Hằng, nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Có Bồ-tát thưa: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của sáu sông Hằng, nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Có Bồ-tát thưa: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của bảy sông Hằng, được nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Có Bồ-tát thưa: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của tám sông Hằng, nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Có Bồ-tát thưa: –Chúng con đã gặp được chư Phật nhiều như cát của chín sông Hằng nghe môn Đà-la-ni này, nghe xong liền chứng đắc. Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, khi con ở vào thời quá khứ cách đây mười hằng hà sa số kiếp, có một đại kiếp tên là Thiện phổ biến, ngay trong kiếp này thì thế giới Ta-bà vi diệu thanh tịnh, tất cả đều trang nghiêm. Bấy giờ có Đức Phật xuất hiện ở đời hiệu là Ta-la Vương, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Có vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Tỳ-kheo Tăng và có không kể xiết các Đại Bồ-tát cung kính vây quanh Ngài. Vì các đại chúng, Phật Ta-la Vương thuyết giảng cho mọi người hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni này. Từ nơi Đức Phật kia, con được nghe pháp này xong và tu học; học xong liền được tăng thêm sự hiểu biết rộng lớn, đầy đủ. Như vậy, trong vô lượng, vô biên kiếp có a-tăng-kỳ số Phật không thể kể xiết, ngay khi ấy tùy theo tuổi thọ của mình đem vô số Tam-muội Sư tử du hý tự tại mà các Bồ-tát đã đạt được để cúng dường vô lượng chư Phật như vậy. Ngay khi đó, ở chỗ của mỗi Đức Phật ấy, con được vun trồng vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp thiện căn không thể kể xiết. Trồng thiện căn rồi, con được vô lượng đại công đức tụ. Do thiện căn này cho nên con được vô lượng chư Phật thọ ký cho. Do bản nguyện cho nên con ở mãi trong sinh tử, do chưa đúng lúc cho nên không thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch Thế Tôn, xin nguyện Như Lai ngay hôm nay trao cho con quả vị Phật khiến con được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc: –Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời ông nói: khi Phật Ta-la Vương ở đời, ông đã được hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni này. Di-lặc! Ở nơi quá khứ trong mười đại kiếp, nếu có người nào muốn nguyện thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ngay khi đó, ông liền đáp ứng đầy đủ, làm cho họ nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vào Vô dư Niết-bàn. Di-lặc, ông ở lâu nơi sinh tử là do bản nguyện. Sở dó không thành Phật là do chưa đúng lúc. Di-lặc, vì ông, nay Ta trao quả vị Phật. Bấy giờ, sau khi Thế Tôn quán sát các đại chúng và các Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên, Long, Dạ-xoa, A-tu-la, La-sát, Càn-thát-bà, Nhân, Phi nhân…, liền nói kệ tụng này: –Đới só, phù di, đàn đà phù di, đàn ma đà phù di, già đế phù di, mật đế phù di, Bát nhã phù di, Tỳ xá la xà phù di, Bát đế tam tỳ đa phù di, A nậu ta bà phù di, a bà sai phù di, tam ma đa bát sai ma bát sai phù di, xà đế xoa duệ phù di, tam xoa xà tỳ xoa xà, ba la xoa xà, tỳ xá già đạt xá bà đế, tỳ xá đà đế la na, la già già, tam xoa xá bà đa. Tỳ ma đế thâu ba ê la la già ma. A tra xoa la, bà xá tăng già ma, y đế châu la thất đế di văn đà la, đà ha la bạt đế Bát-nhã phù đa. A đà già di đa bà đồ sa bàn đa, y la da ny la da, a hô tát tra, a thâu đà thâu a tha bà đế già lâu bà đế. Đế ê ma đề, bà a ca na ma đế. Bà ca na ma đế tam di đế tỳ xa bà địa, y đà bà la, y đà bà la, a la đa la, câu lưu sa đâu lâu sa lại ma la lưu tha đa lưu tha. Tát bà tha, tát bà tha giá ni lưu tha đề ha đa đa ê phả la. Bà hầu phả la tát bà phả la thế tra bà đề. Khi Phật thuyết các loại kệ tụng mười hai nhân duyên giải thoát này, có sáu mươi na-do-tha chư Thiên thấy được bốn Thánh đế. Đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng: –Đới phả lam, a già phả lam, la la phả lam, a lam phả lam, ni la hô la. Bà đa phiếu, thi đàm phả lam, ny lam phả lam. Nam mô đà lam, tỳ phù ngạ, Bát nhã giá già, a sất tỳ địa giá ca, xà ni giá ca. Khi Phật thuyết kệ tụng giải thoát này có một ức chư Thiên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều được Bất thoái chuyển. Đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng: –Bà tha, tô ma đô, a sất ma đô, a câu ma đô cưu đà bà câu, ma sỉ tha đà xá la. Tỳ bá bạt tha, y ha thế thiết đa tô nỉ ma, tô đế xí noa lợi huệ, a lộ câu quang minh, a đa đấu noa đại nhiên đà. Khi thuyết kệ tụng giải thoát này có sáu vạn bốn ngàn chư Long phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều được Bất thoái chuyển. Bấy giờ Thế Tôn lại thuyết kệ tụng: –A xoa tu bạt xoa, tu bà sa ba mạn đà na a la trụ bà già la chù, già la trà xoa, tất đàm ma đế tam mạn đa, ê a xoa bà lệ, ê tra ca lộ ma ha bà lệ, ô xà đà lộ, Đà la ni, ế già la xoa, câu đà xoa, câu bà xoa. Tỳ lộ bố, tỳ lưu ba, mục khư, thế đế hại sí. Thế đế bà lệ a tu lộ tỷ na, tu lộ ba ma đề. Khi thuyết kệ tụng giải thoát này có mười hai ức Dạ-xoa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều được Bất thoái chuyển. Đức Thế Tôn lại thuyết kệ tụng: –A thê ty, lệ ly, ni đế để, san đế để già đế nị na già di, a lam di, ba lam di, a đà di ma đà di, ma đế di, san ni a, thủ lệ, Đà-la-ni, a tỳ xá đa, tát đà, tát đề bà, tát na già, tát Dạ xoa, tát a tu la đề bà na già, ny lục đế lệ bà la, ny lục đế la tỳ mật đế bát nhã, bát lê bạt đa mạt đế, bà lợi la tỳ già đế đề, đế ba lợi ba la già đế đề đế la tỳ phất bà sí tỳ xà nỉ tỳ tát giá lợi bạn đa. A tỳ đà na bạn đa, thủ la bạn đà đáo la tỳ lê gia. Tỳ đà tỳ đa tỳ bạn để, tỳ sa bà nỉ, mạt già văn đà, tỳ xá bát lợi kiếm ma. Nỉ xoa ba la hô, ô ha la lô đề la ba đô. A tu la văn đà na già xoa. Văn đà, Dạ xoa văn đà, la lợi văn đà tỳ đề, tỳ đề di đa ty, đa đa ty, ô noa na bạn, bà khư đề, Đà-la-ni a tỳ xá đa đề xá thủ đà ni. Ba sí thâu đề, kỳ bà thâu đà ni, ba sí ba lợi yết ma, đế ma đế già đế phu đế già na ba đế. Bà la na phất đề xà da, giá gia thâu nhã đà giá ca, ty giạ. Thuyết kệ tụng giải thoát này rồi, có năm vạn sáu ngàn A-tu-la phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều được Bất thoái chuyển. Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Vô Sở Úy Bình Đẳng Địa: –Thiện nam tử, chư Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời rất khó. Diễn bày pháp này lại càng khó hơn. Pháp này chính là để huân tập cho sự tu hành về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Thiện nam tử, kệ tụng này có thể khiến cho Bồ-tát thành tựu oai đức của bậc Bồ-tát. Thiện nam tử, Như Lai khi thực hành đạo Bồ-tát bằng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, được bao gồm trong kệ tụng đây. Nhờ cúng dường vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức chư Phật, Thế Tôn, đối với chư Phật, Thế Tôn, hoặc thực hành việc bố thí, hoặc tu phạm hạnh, giữ giới thanh tịnh, hoặc siêng năng tinh tấn, hoặc tu nhẫn nhục, hoặc nhập Tam-muội, hoặc tu trí tuệ, tu tập tất cả nghiệp tịnh thuần thiện, cho nên nay Ta được trí Vô thượng. Thiện nam tử, xưa kia ở vô lượng a-tăng-kỳ ức na-do-tha kiếp, khi Ta tu Bồ-tát đạo, thân thường xa lìa vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, cho nên nay Ta được tướng lưỡi này. Thiện nam tử, do nhân duyên đấy cho nên những gì chư Phật, Thế Tôn thuyết ra đều chân thật không hư dối. Khi thị hiện vô số thần túc biến hóa xong, Đức Thế Tôn vào Tam-muội Biến nhất thiết công đức. Nhập Tam-muội xong, Ngài xuất tướng lưỡi dài rộng che khắp cả mặt, từ nơi lưỡi kia phóng ra sáu mươi ức ánh sáng. Ánh sáng vi diệu đó che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người, đều được nhờ ánh sáng đó. Những chúng sinh trong địa ngục, thân bị đốt cháy, do nhờ ánh sáng này cho nên trong giây lát được thanh tịnh mát mẻ, an lạc; ở ngay trước mặt các chúng sinh đó đều có Hóa Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm. Bấy giờ, những chúng sinh nhờ được thấy Phật nên đều được sung sướng, an vui. Mỗi loại chúng sinh tự nghó: “Nhờ ân vị này khiến ta được vui”. Chúng đối với các Hóa Phật, tâm được vui vẻ, chắp tay cung kính. Bấy giờ, Hóa Phật bảo các chúng sinh kia: –Này, các con hãy niệm “Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng”. Do nhân duyên này sẽ thường được an lành. Các chúng sinh ấy ở trước Phật quỳ thẳng, chắp tay, vâng lời Phật dạy và niệm: –Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng. Các chúng sinh ấy do nhân duyên căn lành này nên khi qua đời ở đây, hoặc được sinh lên cõi trời, hoặc sinh trong loài người. Hoặc có chúng sinh đang ở trong địa ngục rét lạnh, bấy giờ liền có một ngọn gió ấm áp, êm dịu thổi đến xúc chạm nơi thân, cho đến được sinh trong cõi trời, cõi người cũng như vậy. Chúng sinh trong loài ngạ quỷ bị đói khát bức bách, nhờ ánh sáng của Phật cho nên trừ được sự đói khát khổ não, nhận sự an vui sung sướng, ở trước mỗi chúng sinh ấy đều có một Hóa Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm. Do được thấy Phật cho nên chúng đều được an vui, sung sướng, đều nghó: “Nhờ ân vị này khiến ta được an vui”. Chúng đối với Hóa Phật, tâm được hoan hỷ, chắp tay cung kính. Bấy giờ, được Đức Thế Tôn khiến cho thấy được nhân duyên nghiệp ác của mình ở đời trước, các chúng sinh kia liền tự hối hận, trách mắng mình. Do nhờ căn lành này, chúng qua đời được sinh trong cõi trời, cõi người. Đối với chúng súc sinh cũng như vậy. Khi Đức Thế Tôn chỉ bày nhân duyên đời trước cho các chư Thiên thì có vô lượng, vô biên chúng sinh đi đến chỗ Phật, đầu mặt làm lễ và lui ra ngồi một bên, thọ lãnh diệu pháp. Bấy giờ có vô số chư Thiên và loài người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô số Bồ-tát Ma-ha-tát được Đà-la-ni Tam-muội nhẫn nhục. KINH BI HOA <卷 id="32807821">QUYỂN 2 <卷 id="32807822">Phẩm 3: BỐ THÍ LỚN (Phần 1) Bấy giờ trong hội có Đại Bồ-tát tên là Tịch Ý, sau khi chiêm ngưỡng vô số thần thông biến hóa của Như Lai xong, bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, do nhân duyên gì thế giới của chư Phật khác thì thanh tịnh vi diệu với biết bao sự trang nghiêm, xa lìa năm trược, không có các sự dơ xấu, trong đó chỉ có chư Đại Bồ-tát thành tựu vô lượng vô số công đức và thọ hưởng các diệu lạc. Cõi đó tên về Thanh văn, Bích-chi-phật còn chẳng có, huống gì lại có Nhị thừa? Nay Đức Thế Tôn của con do nhân gì, duyên gì mà ngay trong đời ác năm trược này, với thế giới dơ xấu chẳng sạch: mạng trược, kiếp trược, chúng sinh trược, kiến trược, phiền não trược, Ngài được thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và thuyết pháp Tam thừa cho bốn chúng? Do nhân gì, duyên gì Ngài không nhận thế giới thanh tịnh và không xa lìa đời ác năm trược? Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, Đại Bồ-tát do bản nguyện cho nên nhận cõi tịnh diệu, cũng do nguyện cho nên nhận cõi bất tịnh. Vì sao? Thiện nam tử, vì Đại Bồ-tát thành tựu đại bi nên nhận lấy cõi tệ ác, bất tịnh này. Ta do bản nguyện nên ở chỗ thế giới bất tịnh dơ xấu này mà thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, ông nay hãy lắng nghe, suy nghó kỹ, khéo lãnh thọ và hành trì đúng đắn, Ta sẽ nói. Khi ấy, các Bồ-tát vâng lời dạy bảo, lắng nghe. Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, Ta trong thuở xưa, trải qua hằng hà sa số a-tăng-kỳ kiếp, thế giới của Phật này tên là San-đề-lam. Bấy giờ, đại kiếp tên là Thiện trì, ở trong kiếp đó có Chuyển luân thánh vương tên Vô Tránh Niệm làm chủ bốn châu thiên hạ, có một đại thần tên là Bảo Hải. Vị đại thần này thuộc dòng Phạm chí, biết rành về việc xem tướng. Khi ấy, vua sinh một người con có ba mươi hai tướng tốt, trang nghiêm đẹp đẽ nơi thân, tám mươi vẻ đẹp thứ lớp trang nghiêm với trăm phước đức thành tựu một tướng, thường có ánh sáng chiếu xa một tầm. Thân tướng vị ấy đầy đặn như cây Ni-câu-lư, ngắm mãi một tướng không hề nhàm chán. Ngay khi sinh người con đó, có trăm ngàn chư Thiên cùng đến cúng dường. Nhân đó, vua đặt tên hiệu cho người con là Bảo Tạng. Sau khi khôn lớn, hoàng tử ấy cạo bỏ râu tóc xuất gia, mặc pháp phục, chứng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại lấy hiệu là Bảo Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; và chuyển pháp luân khiến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha các chúng sinh… sẽ được sinh lên cõi trời, người, hoặc được giải thoát. Tạo lợi ích cho các hàng trời, người như vậy rồi, Ngài cùng trăm ngàn ức na-do-tha đại chúng Thanh văn cung kính vây quanh, tuần tự du hành qua các thành ấp, xóm làng, lần đến một thành tên là An-châu-la, tức là chỗ trị vì của Thánh vương. Cách thành không xa có một khu rừng tên là Diêm-phù. Bấy giờ, Đức Như Lai cùng với vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha đại chúng Thanh văn nghỉ lại nơi khu rừng này. Khi ấy, nghe Phật Bảo Tạng cùng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng đại Thanh văn tuần tự du hành đến rừng Diêm-phù, Chuyển luân thánh vương suy nghó: “Nay ta nên đến gặp Phật để lễ bái, thân cận, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen”. Nghó như vậy rồi, lập tức với thần lực, Thánh vương cùng vô lượng đại chúng cùng nhau trước sau ra khỏi thành An-châu-la, đi tới rừng Diêm-phù. Đến bên ngoài rừng, Thánh vương theo như pháp, xuống xe đi bộ đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui ngồi một bên. Thiện nam tử, bấy giờ Bảo Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri liền vì Thánh vương thuyết giảng chánh pháp, với vô số phương tiện chỉ dạy làm cho được lợi ích, an vui. Thuyết pháp này xong, Phật liền lặng yên. Khi ấy, vua Chuyển luân liền từ chỗ ngồi đứng dậy, ra trước Phật quỳ thẳng, chắp tay, bạch: –Cúi xin Như Lai cùng các Thánh chúng nhận sự cúng dường y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược của con trong ba tháng. Thiện nam tử, khi ấy Như Lai lặng yên nhận lời. Biết Phật đã chấp thuận, vua đem đầu mặt đảnh lễ, nhiễu Phật ba vòng rồi vui mừng lui ra. Sau đó, vua Chuyển luân bảo với các vua nhỏ, đại thần, dân chúng cùng quyến thuộc của mình như sau: –Các khanh biết không, trẫm đã thỉnh Bảo Tạng Như Lai và đại chúng của Ngài, xin dâng cúng các thức cần dùng đều được yên ổn, suốt ba tháng đem những vật quý giá mà trẫm ưa thích để cúng dường và cung cấp đầy đủ các tôi tớ, nô bộc để hầu hạ. Trẫm xả tất cả, đem cúng dường Phật và các Thánh chúng. Lúc này các khanh cũng nên như vậy, xả tất cả các vật quý giá cúng dường và đem các tôi tớ, nô bộc hầu hạ để dâng cúng Phật và Thánh chúng. Mọi người nghe xong, lập tức nhận lời dạy, hoan hỷ phụng hành. Bấy giờ, đại thần coi về vật báu ở trong rừng Diêm-phù, dùng vàng ròng làm nền đất, ở trên đất đó xây lầu bảy báu, bốn cửa của lầu gác đó dùng bảy báu làm thành. Bảy hàng cây báu, trên cây đều có treo y báu và chuỗi anh lạc, vô số châu ngọc quý hiếm đẹp đẽ, lọng báu và các đồ dùng quý giá để trang trí. Lại có các thứ hương thơm, hoa trái đẹp báu cùng trang trí nơi cây. Dâng các thứ hoa, kết thắt các loại tơ lụa dùng để trải cùng khắp, treo các cờ lụa, ở trước lầu gác của Thánh vương treo kim luân giữa hư không, cách đất bảy thước. Ở sau chỗ Như Lai thì cho voi trắng báu giữ những cây bảy báu. Nơi cây đó lại có chôn châu, tơ lụa cùng vô số thứ anh lạc dùng để trang nghiêm, trên đó lại có bảy cái lọng báu đẹp. Sai ngọc nữ báu ở trước Như Lai đem bột Ngưu đầu chiên-đàn và hắc trầm thủy dâng cúng lên Phật, đem ngọc ma-ni báu đặt ở trước Phật. Ánh sáng đẹp đẽ của bảo châu Kim luân vương thường chiếu sáng khắp cả khu rừng Diêm-phù nên ngày đêm không khác nhau. Thân Như Lai Bảo Tạng thường thanh tịnh vi diệu sáng chói khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới. Sàng tòa cho mỗi vị Thanh văn đều làm bằng gỗ ngưu đầu chiên-đàn, mỗi chiếc sàng tòa Ngưu đầu chiên-đàn đó có một cái ghế nhỏ. Sau mỗi chỗ ngồi, có voi trắng báu giữ cây bảy báu. Vô số vật trang trí cũng giống như chỗ của Như Lai. Trước mỗi chỗ ngồi có ngọc nữ báu đem bột Ngưu đầu chiên-đàn và hắc trầm thủy dâng lên cúng dường. Ở trước mỗi vị Thanh văn đều có đặt để ngọc báu ma-ni. Trong khu rừng đó tấu lên vô số âm nhạc. Bên ngoài khu vườn có bốn thứ binh lính báu vây quanh hộ vệ. Thiện nam tử, sáng sớm, vua Chuyển luân này ra khỏi thành, đi đến chỗ Phật. Tới bên ngoài rừng, vua theo như pháp, xuống xe đi bộ đến gặp Phật, đem đầu mặt lạy sát chân Phật, đi nhiễu phía bên phải Phật ba vòng, tự rót nước và đích thân san sớt thức ăn ngon bổ thượng diệu dâng lên cúng dường Phật và đại chúng. Sau khi thọ thực, Phật và đại chúng thu xếp bát và súc miệng. Vua Chuyển luân tay cầm quạt báu, quạt cho Như Lai và các vị Thanh văn. Khi ấy có một ngàn người con của vua và tám vạn bốn ngàn các vua nhỏ… đều cùng cúng dường mỗi vị Thanh văn như vua Chuyển luân cúng dường Thế Tôn. Ngay sau bữa ăn, có vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh vào rừng Diêm-phù, thọ lãnh chánh pháp với Như Lai. Bấy giờ, trong hư không có vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chư Thiên dâng các hoa trời, trỗi âm nhạc trời để cúng dường Phật. Nơi hư không có Thiên y anh lạc và các thứ lọng báu tự xoay chuyển. Lại có bốn vạn thanh y Dạ-xoa ở nơi rừng Chiên-đàn vì Phật và đại chúng mà nhen lửa bằng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn để nấu chín thức ăn. Đêm đó, vua Chuyển luân đốt vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha ngọn đèn ở trước Phật và đại chúng. Thiện nam tử, bấy giờ vua Chuyển luân đầu đội một chiếc đèn, vai vác hai chiếc đèn, hai tay cầm bốn chiếc đèn, trên hai đầu gối, mỗi bên đều có một chiếc đèn, trên hai mu bàn chân có hai chiếc đèn, cúng dường Như Lai như vậy trọn đêm. Nhờ thần lực Phật, cho nên thân tâm nhà vua vui vẻ an lạc, không hề mệt nhọc. Giống như Tỳ-kheo vào Thiền thứ ba, vua Chuyển luân thánh vương hưởng thọ diệu lạc cũng như thế. Vua cúng dường như vậy trọn đủ ba tháng. Bấy giờ, một ngàn người con của vua và tám vạn bốn ngàn các vua nhỏ… vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha số người cũng đem thức ăn ngon bổ cúng dường mỗi vị Thanh văn… cũng như thức ăn thơm ngon bổ dưỡng của Thánh vương và cũng cúng dường trọn ba tháng. Ngọc nữ báu cũng đem vô số hoa hương cúng dường Phật như vua Chuyển luân cúng dường Phật. Ngoài ra, chúng sinh cúng dường hương hoa đến Phật cũng như ngọc nữ cúng dường Thanh văn. Thiện nam tử, ba tháng đã qua, vua Chuyển luân sai đại thần coi về kho báu dâng lên Như Lai vàng Diêm-phù-đàn, dâng ngọc anh lạc chạm đầu rồng vàng, tám vạn bốn ngàn bánh xe vàng quý, voi trắng, ngựa xanh, ma-ni châu báu, ngọc châu lấy lửa vi diệu tốt đẹp, thần báu giữ kho, chủ bốn binh báu, các vua nhỏ… ở nơi thành An-châu-la và các thành ấp nhỏ, cây áo bảy báu, chùm hoa đẹp báu cùng nhiều loại lọng báu. Chuyển luân thánh vương mặc áo đẹp, đeo vô số tràng hoa, anh lạc thượng diệu, xe đẹp bảy báu cùng vô số sàng tòa báu, người hầu cận bảy báu, lưới báu bao bọc, khóa bằng vàng Diêm-phù, dây bằng trân châu báu, giày dép thượng diệu, nệm chiếu mềm mại, ghế dựa vi diệu, đồ vật bảy báu, chuông trống âm nhạc, linh báu, loa ngọc, vườn rừng, cờ phướn, châu báu, đèn đuốc, chim thú bảy báu, kho chứa, cửa đẹp, vô số các thứ thuốc… những vật như vậy đều có tám vạn bốn ngàn cái, đem dâng lên cúng dường Phật và Thánh chúng. Sau khi cúng dường xong, vua bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, việc nước con quá nhiều nên không thể ở lâu, con xin sám hối, cầu mong Như Lai ở lại lâu trong vườn này và cho phép con được thường xuyên đi đến lễ bái, gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Ngồi ở trước Phật, mỗi người con của vua cũng đều thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng trọn ba tháng, xin được cúng dường đầy đủ những thứ cần thiết để Phật và chúng Tăng được yên ổn. Cúi xin Phật chấp thuận cho. Khi ấy Đức Như Lai lặng im nhận lời. Biết Như Lai đã nhận lời mời của các con rồi, vua Chuyển luân đem đầu mặt đảnh lễ Phật và Tỳ-kheo Tăng, đi nhiễu bên phải ba vòng rồi vui vẻ lui ra. Thiện nam tử, khi ấy trong số một ngàn người con của vua, thái tử đầu tên là Bất Tuần, cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng trọn ba tháng, dâng cúng các vật dụng được đầy đủ, yên ổn, y như Thánh vương đã làm. Hằng ngày, vua Chuyển luân đều đến gặp Phật, chiêm ngưỡng tướng hảo của Đức Thế Tôn cùng Tỳ-kheo Tăng, lắng nghe và thọ trì diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ đại thần Phạm chí Bảo Hải đi khắp cõi Diêm-phù-đề để gặp đàn ông, đàn bà, đồng nam đồng nữ, những người đang cầu xin những vật cần dùng. Làm người thí chủ lớn nhất, Phạm chí bảo: –Các người có thể quy y Tam bảo, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi sau đó sẽ nhận lãnh vật bố thí. Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề không có một người nào là không theo Phạm chí thọ Tam quy y, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi nhận được sự giáo giới của Phạm chí, mọi người đều nhận vật cần dùng. Bấy giờ, Phạm chí đã khiến cho năm trăm ức vô lượng chúng sinh an trụ nơi ba loại phước và phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thái tử Bất Tuần cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng mãn ba tháng, lại dâng lễ cúng dường tám vạn bốn ngàn anh lạc đầu rồng vàng, chỉ không có bánh xe vàng Thánh vương, voi trắng, ngựa xanh, ngọc nữ, thần giữ kho, chủ binh. Ngoài ra, còn có bánh xe vàng, voi, ngựa, đồng nam, đồng nữ, bảy báu, cây y phục bảy báu, chùm hoa bảy báu, các loại lọng báu, y phục đẹp đẽ, vô số các loại vòng hoa anh lạc thượng diệu, xe đẹp bảy báu, các loại sàng tòa báu, người giữ bảy báu, lưới báu bao bọc, khóa bằng vàng Diêm-phù, dây bằng trân châu báu, giày dép thượng diệu, nệm chiếu mềm mại, ghế dựa vi diệu, vật dụng bảy báu, chuông, trống, kỹ nhạc, linh quý, loa ngọc, vườn rừng, cờ phướn báu, châu báu và đèn đuốc, chim thú bảy báu, kho chứa, quạt báu, vô số thuốc quý… Những vật như vậy, mỗi thứ có tám vạn bốn ngàn cái, đem dâng cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Sau khi cúng dường xong, họ bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, những vật hiện có thật chẳng đáng vào đâu, con xin sám hối những việc thiếu sót. Vương tử thứ hai tên Ni-ma, cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng trọn ba tháng như thái tử Bất Tuần, các phẩm vật dâng cúng như đã nói ở trên. Vương tử thứ ba tên là Vương Chúng, vương tử thứ tư tên là Năng-già-la, thứ năm tên Vô Sở Úy, thứ sáu tên Hư Không, thứ bảy tên Thiện Tý, thứ tám tên Mẫn Đồ, thứ chín tên Mật Tô, thứ mười tên Nhu Tâm, thứ mười một tên Mông-già-nô, thứ mười hai tên Ma-xư-mãn, thứ mười ba tên Ma-nô-mạc, thứ mười bốn tên Ma-sai-thô-mãn, thứ mười lăm tên Ma-xà-nô, thứ mười sáu tên Vô Cấu, thứ mười bảy tên A-xà-mãn, thứ mười tám tên Vô Khuyết, thứ mười chín tên Nghóa Vân, thứ hai mươi tên Nhân-đà-la, hai mươi mốt tên Ni-bà-lư, hai mươi hai tên Ni-già-châu, hai mươi ba tên Nguyệt Niệm, hai mươi bốn tên Nhựt Niệm, hai mươi lăm tên Vương Niệm, hai mươi sáu tên Kim Cang Niệm, hai mươi bảy tên Nhẫn Nhục Niệm, hai mươi tám tên Trụ Niệm, hai mươi chín tên Viễn Niệm, ba mươi tên Bảo Niệm, ba mươi mốt tên La-hầu, ba mươi hai tên La-hầu-lực, ba mươi ba tên La-hầu-chất-đa-la, ba mươi bốn tên La-ma-chất-đa-la, ba mươi lăm tên Quốc Tài, ba mươi sáu tên Dục Chuyển, ba mươi bảy tên Lan-đà-mãn, ba mươi tám tên La-sát-lư-tô, ba mươi chín tên La-đa-thâu, bốn mươi tên Viêm Ma, bốn mươi mốt tên Dạ-bà-mãn, bốn mươi hai tên Dạ-xà-lư, bốn mươi ba tên Dạ-ma-khu, bốn mươi bốn tên Dạ-đọa-châu, bốn mươi lăm tên Dạ-phả-nô, bốn mươi sáu tên Dạ-bà-nô, bốn mươi bảy tên Nam-ma-châu-đế, bốn mươi tám tên A-lam-giá-nô… Như vậy, một ngàn người con của Thánh vương, mỗi người đều cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng tất cả những vật cần dùng như: y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược trong ba tháng, cũng giống như vô số các vật của thái tử thứ nhất dâng cúng và cũng mỗi thứ có tám vạn bốn ngàn cái. Nhân việc bố thí đó, mọi người đều phát tâm: hoặc nguyện được sinh làm vua trời Đao-lợi, hoặc cầu Phạm vương, Ma vương, Chuyển luân thánh vương, hoặc nguyện giàu có lớn, hoặc cầu quả vị Thanh văn. Trong số các vương tử này, chẳng có một người nào cầu Duyên giác, huống gì là cầu Đại thừa! Vua Chuyển luân muốn làm các việc bố thí như trên vì mong cầu sau này lại được làm vị Chuyển luân vương. Khi ấy Thánh vương và một ngàn người con cúng dường như vậy đủ hai trăm năm mươi năm, mỗi người đều hướng đến Phật và Tỳ-kheo Tăng sám hối những điều thiếu sót. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải đến chỗ Phật và bạch rằng: –Cúi xin Đức Như Lai và Tỳ-kheo Tăng nhận sự cúng dường y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược của con trọn bảy năm. Như Lai lặng yên nhận lời thỉnh cầu của Phạm chí. Thiện nam tử, Phạm chí cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng những vật cần dùng cũng như Thánh vương đã cúng dường. Thiện nam tử, Phạm chí Bảo Hải lại suy nghó: “Nay ta đã làm cho trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng ta không biết Chuyển luân thánh vương ngài nguyện những gì? Nguyện làm vua loài người, vua trời, nguyện làm Thanh văn, Duyên giác hay là cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Nếu đời sau chắc chắn thành Vô thượng Bồ-đề, ta sẽ độ những người chưa được độ, giảng giải cho người chưa được hiểu; đối với người chưa lìa sinh, lão, bệnh, tử, sầu bi, khổ não, ta đều làm cho họ được xa lìa; đối với người chưa được diệt độ, ta làm cho họ được diệt độ. Nếu chắc chắn như vậy thì khi ta nằm nghỉ sẽ có chư Thiên, Ma vương, các Rồng và Dạ-xoa cùng chư Phật, Thế Tôn, Thanh văn, Sa-môn, Bà-la-môn… vì ta mà hiện trong điềm chiêm bao, nói rõ chí nguyện mong cầu của Thánh vương là ngài cầu vua loài người, cầu vua trời, cầu Thanh văn, Bích-chi-phật thừa hay Vô thượng Bồ-đề?”. Thiện nam tử, ngay trong giấc ngủ, Phạm chí Bảo Hải thấy có ánh sáng, nhờ ánh sáng đó nên thấy được chư Phật, Thế Tôn trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương. Từ xa, chư Phật, Thế Tôn trao hoa xinh đẹp vi diệu cho Phạm chí, trong đài hoa xinh đẹp đó thấy có hình tượng vầng mặt trời, trên mặt trời đều có lọng đẹp bằng bảy báu, nơi mỗi vầng mặt trời đều phát ra sáu mươi ức ánh sáng. Các ánh sáng đó chiếu đến, nhập vào miệng Phạm chí. Phạm chí tự thấy thân mình lớn cả ngàn do-tuần, trong sạch hoàn toàn không có một vết nhơ, giống như vầng sáng. Thấy ở trong bụng có sáu mươi ức na-do-tha trăm ngàn Bồ-tát hiện đang ngồi kiết già nhập định chánh thọ ở trên hoa sen. Lại thấy vòng mặt trời vây quanh thân, ở trong các hoa phát ra các âm nhạc hay hơn nhạc trời. Này thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí lại thấy nhà vua kia bị máu dính nhớp cả thân, rảo chạy khắp bốn phía, đầu và mặt giống như đầu mặt heo, ăn vô số các thứ trùng. Ăn trùng xong, đến ngồi bên gốc cây Y lan. Có vô lượng chúng sinh đến ăn thân vua, chỉ còn lại các đốt xương dính mắc với nhau. Sau khi những đốt xương dính mắc với nhau bị tan rã thì trong giây lát trở lại thân hình như cũ. Lại thấy các người con của vua, có người với mặt heo, có người với mặt voi; hoặc mặt trâu, sư tử, cọp, chó sói, báo; hoặc mặt khỉ, vượn, bị máu dính đầy thân, mỗi người cũng ăn nuốt vô lượng chúng sinh và ngồi bên gốc cây Y lan. Lại có vô lượng chúng sinh đến ăn thân đó, cho đến chỉ còn xương vụn. Xương vụn lại tan ra và giây lát trở lại thân hình như cũ. Hoặc thấy vương tử lấy hoa Tu-mạn-na làm anh lạc, cỡi xe trâu nhỏ xấu, theo con đường không ngay thẳng, chạy nhanh về phía Nam. Lại thấy Tứ đại Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Đại Phạm thiên vương đi đến chỗ ấy bảo với Phạm chí: –Hãy lấy những hoa sen đang ở chung quanh ông, đem cúng dường một hoa cho Chuyển luân vương trước và sau đó trao cho vương tử mỗi vị một cái. Số hoa còn lại đem trao cho các Tiểu vương, tiếp theo, trao cho con của ông và những người khác. Phạm chí nghe dạy như vậy liền đem hoa sen phát hết cho mọi người. Thấy chiêm bao như vậy xong, Phạm chí bỗng nhiên thức giấc và ngồi dậy, nhớ lại những điều đã thấy trong giấc mộng. Ngay lúc ấy Phạm chí biết được và nghó: “Sự nguyện cầu của Chuyển luân thánh vương là thấp kém, ưa thích sinh tử, tham đắm theo cái vui ở đời và lại biết trong số các người con của vua có người với nguyện thấp hèn kém cỏi. Do các vương tử có phát tâm cầu Thanh văn thừa cho nên trong chiêm bao đã thấy họ lấy hoa Tu-mạn-na làm anh lạc, cỡi xe bằng trâu kéo, đi trên con đường không ngay thẳng, chạy nhanh về phía Nam. Vì duyên gì vào đêm qua, nơi giấc chiêm bao ta thấy ánh sáng lớn và thấy vô lượng thế giới trong mười phương, nơi nào nơi nào cũng có chư Phật, Thế Tôn? Bởi vì ta dạy cho vô lượng chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề, làm cho tất cả an trụ nơi ba loại phước. Do vậy, nên trong giấc chiêm bao ta được thấy ánh sáng và vô lượng thế giới trong mười phương, nơi nào nơi nào cũng có chư Phật, Thế Tôn. Bởi vì ta đã dạy khuyên tất cả chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và ta thỉnh Phật Bảo Tạng và Tỳ-kheo Tăng suốt bảy năm dâng cúng các thức cần dùng được an ổn, cho nên trong giấc chiêm bao ta thấy chư Phật trong mười phương trao cho ta hoa sen. Vì ta đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho nên trong giấc chiêm bao ta thấy chư Phật trong mười phương trao cho ta lọng báu. Như ta đã thấy hình tượng mặt trời trong đài hoa báu có vô lượng ánh sáng nhập vào trong miệng ta và thấy thân ta lớn đầy cả ngàn do-tuần. Và trên lọng bảy báu có trang sức bằng mặt trời và thấy trong bụng có sáu mươi ức trăm ngàn Bồ-tát ngồi kiết già nhập định trên hoa sen. Bấy giờ, Phạm thiên vương khuyên ta cung cấp cho mọi người các hoa sen. Những điềm mộng như vậy không phải là sự việc mà ta có thể hiểu được. Chỉ có Đức Như Lai mới có thể hiểu được những việc đó. Nay ta nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn để thưa hỏi Ngài: Vì nhân duyên gì ta thấy các việc như vậy?” Này thiện nam tử, sau đêm ấy, vào lúc sáng sớm, Phạm chí Bảo Hải liền đi đến chỗ Phật với thức ăn đã sắm sửa xong, tự tay rót nước rửa, san sớt những thức ăn ngon bổ thượng diệu dâng cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Sau khi Phật và chúng Tăng thọ thực, Phạm chí rót nước, thâu dẹp bình bát, liền ngồi trên một chiếc ghế thấp ở một bên Phật và muốn được nghe diệu pháp. Bấy giờ Thánh vương cùng với một ngàn người con và vô lượng, vô biên trăm ngàn đại chúng ra khỏi thành An-châu-la cùng nhau cung kính hướng về vườn Diêm-phù. Đi tới bên ngoài vườn, Thánh vương đúng như pháp xuống xe đi bộ đến chỗ Phật, đầu mặt lạy Phật và Tỳ-kheo Tăng, ngồi ở trước Phật, vì muốn được nghe pháp. Bấy giờ, Phạm chí như trong giấc chiêm bao đã thấy, bạch đầy đủ lên Phật. Phật bảo Phạm chí: –Trong giấc mộng, ông thấy có ánh sáng lớn khắp vô số thế giới như cát sông Hằng trong mười phương và được chư Phật, Thế Tôn ở trong các thế giới ấy trao hoa sen cho ông, ở trong đài hoa có tượng vầng mặt trời, có ánh sáng lớn nhập vào trong miệng là do trước kia ở trong hai trăm năm mươi năm ông dạy cho vô lượng chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề trụ vào ba loại phước. Ông lại khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hôm nay lại làm công việc bố thí to lớn là cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Vì lẽ đó, chư Phật trong mười phương thọ ký cho ông đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vô số chư Phật, Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng trong mười phương hiện đang thuyết pháp, trao cho ông hoa sen cọng bằng bạc, lá bằng vàng, nhụy bằng lưu ly, đài bằng mã não, trong đài hoa sen có tượng vầng mặt trời. Các việc như vậy đều là tướng thọ ký cho ông. Phạm chí, trong giấc chiêm bao, ông thấy nơi vô số thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, có chư Phật, Thế Tôn ở các thế giới đó hiện đang thuyết pháp. Các Đức Thế Tôn kia trao cho ông lọng đẹp bằng bảy báu, trên lọng có trang sức cao đến Phạm thiên. Ông ở đời sau, ngay trong đêm thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đã có danh tiếng lớn vang khắp nơi vô số thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, lên đến Phạm thiên và sẽ được tướng Vô kiến đảnh tối thượng, tức là cái tướng ban đầu thành đạo của ông. Ông chiêm bao thấy thân lớn, lại thấy vầng mặt trời tự vây quanh, tương lai ông sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô lượng chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề trước kia nhờ ông dạy bảo làm cho phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng sẽ đồng một lúc trong các thế giới nhiều như vi trần khắp mười phương thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mỗi vị mỗi vị đều phát ra lời khen ngợi này: “Ta ở đời trước nhờ Phạm chí Bảo Hải khuyên dạy phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho nên ngày nay chúng ta đều được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế Tôn ấy tức là chân thiện tri thức của ta”. Bấy giờ chư Phật, mỗi vị đều sai các Đại Bồ-tát cúng dường cho ông, các Bồ-tát ấy đem các loại Tự tại sư tử du hý thần túc biến hóa đã chứng đắc trước đây ở cõi Phật mình để cúng dường. Các Bồ-tát ấy làm vô số việc cúng dường xong, ở nơi đó nghe pháp, được Tam-muội Nhẫn nhục đà-la-ni. Các Bồ-tát này lãnh thọ pháp rồi đều trở về nước mình, đến chỗ Phật, Thế Tôn của mình khen ngợi các việc hiện có trong nước của ông. Phạm chí, điềm mộng như vậy đều là hình tướng thành đạo của ông. Phạm chí, trong giấc mộng ông thấy ở trong bụng mình có vô lượng ức chư Đại Bồ-tát ngồi kiết già nhập định trên hoa sen. Trong đời sau, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác xong, ông sẽ khuyến hóa vô lượng ức vạn trăm ngàn chúng sinh, khiến không thoái lui nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi ông nhập Vô thượng Bát-niết-bàn, vào đời vị lai có vô lượng chư Phật, Pháp vương, Thế Tôn trong mười phương thế giới sẽ khen ngợi tên tuổi ông. Các Ngài sẽ bảo: “Trong quá khứ nhiều như số vi trần đại kiếp, có Phật hiệu là…, chính Phật, Thế Tôn này đã khuyến hóa chúng ta an trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khiến không thoái lui. Vì vậy cho nên chúng ta ngày nay thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, làm vua chánh pháp”. Phạm chí, các điềm mộng như vậy đều là tướng trạng thành đạo của ông. Phạm chí, trong giấc mộng, ông thấy hình người mặt heo, cho đến mặt khỉ, vượn bị máu dính đầy thân, ăn nuốt vô số trùng xong, đến ngồi bên gốc cây Y lan, vô lượng chúng sinh đến ăn thân đó, cho đến chỉ còn lại xương vụn, giây lát lại thọ thân khác. Có những người ngu si tu theo ba việc phước mà chỉ thực hành bố thí, điều phục, hộ trì thân và miệng. Những người như vậy sẽ sinh vào Thiên, Ma, có cái khổ thoái lui. Nếu sinh trong loài người phải chịu sinh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não; khổ về thương yêu phải xa lìa, oán ghét phải gặp gỡ, khổ cầu mong không được toại ý, sinh trong loài ngạ quỷ chịu các khổ đói khát; sinh trong súc sinh vô minh tăm tối; có cái khổ bị chặt đầu; sinh trong địa ngục chịu vô số các thứ khổ. Muốn được xa lìa các khổ như vậy, cho nên họ an trú tu tập ba việc phước với nguyện cầu làm Thiên vương, Chuyển luân thánh vương; hoặc muốn làm thủ lãnh một Tứ thiên hạ, cho đến thủ lãnh bốn Tứ thiên hạ. Người ngu si như vậy, ăn tất cả chúng sinh, các chúng sinh này lại sẽ ăn trở lại. Người ngu si ấy, cứ vậy đi mãi trong vòng sinh tử không thể nào tính đếm được. Phạm chí, chiêm bao như thế tức là mãi nhận tướng mạo sinh tử. Phạm chí, trong giấc chiêm bao, ông thấy có các người lấy hoa Tu-mạn-na làm anh lạc, ngồi trên xe nhỏ xấu, dùng trâu để kéo, theo con đường không ngay thẳng chạy về phía Nam. Phạm chí, đó tức là tướng mạo của người an trú nơi ba việc phước, có thể tự điều phục làm cho được vắng lặng mà hướng đến Thanh văn thừa. Thiện nam tử, khi ấy Phạm chí Bảo Hải bạch với Chuyển luân vương: –Đại vương nên biết, thân người khó được, nay vua đã được làm người, vậy không còn khó. Chư Phật, Thế Tôn xuất hiện ở thế gian còn khó hơn hoa Ưu-đàm nở. Điều phục tâm mình để ưa việc lành và phát nguyện làm việc lành lại càng khó hơn nhiều. Lúc này, nếu đại vương lại nguyện được làm trời, người, tức là gốc khổ. Nếu muốn được làm chủ một Tứ thiên hạ hay hai, ba, bốn Tứ thiên hạ cũng là gốc khổ, bị xoay vần trong sinh tử. Nếu đại vương nguyện sinh làm trời, người đều là vô thường, không có tướng nhất định, cũng giống như làn gió thoảng qua. Người ưa nơi ngũ dục, tâm không nhàm chán, giống như đứa trẻ con nhìn mặt trăng trong nước. Nếu nguyện cầu ở trong chư Thiên để nhận cái vui buông lung, người đó sẽ luôn luôn bị đọa trong địa ngục, chịu khổ vô cùng. Nếu được sinh trong loài người thì chịu khổ thương yêu phải xa lìa, oán ghét phải gặp gỡ. Nếu được sinh lên cõi trời có cái khổ thoái lui. Lại sẽ luôn luôn có sự khổ thọ thai, có vô số khổ về đoạt mạng, ăn nuốt lẫn nhau, ngu si như đứa trẻ con, tâm không biết nhàm chán. Vì lẽ gì? Vì bị xa lìa thiện tri thức nên không phát nguyện tốt, không thực hành tinh tấn nên điều đáng được không được, điều đáng hiểu không hiểu, điều đáng chứng không chứng; ngu si như trẻ con không biết phân biệt. Chỉ có tâm Bồ-đề mới có khả năng xa lìa các khổ, không bị dục vọng sai khiến, lại mới sinh nhàm chán. Ở thế gian sinh tử, luôn luôn nhận chịu khổ não mà lại cam lòng ưa thích, khiến cho các khổ càng thêm tăng trưởng. Đại vương, hãy nên suy nghó về sinh tử có vô số những cái khổ như vậy. Ngày hôm nay đại vương đã cúng dường Phật và đã trồng căn lành, vì vậy cho nên đối với Tam bảo nên sinh lòng tin sâu xa. Đại vương nên biết, trước kia đại vương đã từng cúng dường chư Phật, Thế Tôn, tức là nguyên nhân làm cho đời sau được giàu có lớn. Ưa thích giữ gìn giới cấm tức là nguyên nhân làm cho đời sau được làm trời, người. Nghe pháp tức là nguyên nhân làm cho đời sau có trí tuệ. Đại vương nay đã được thành tựu những việc như vậy nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, vua bảo Phạm chí: –Nay ta không muốn đạt được Bồ-đề như thế. Tâm ta đang ưa thích sinh tử, vì vậy nên ta bố thí, trì giới và lãnh thọ diệu pháp. Phạm chí, đạt được Vô thượng Bồ-đề rất khó. Phạm chí lại bạch đại vương: –Đạo này thanh tịnh, phải nên nhất tâm nguyện cầu đầy đủ. Đạo này không ô trược vì tâm thanh tịnh. Đạo này ngay thẳng vì tâm không dua nịnh quanh co. Đạo này tươi đẹp, trong sáng vì xa lìa phiền não. Đạo này rộng lớn vì không chướng ngại. Đạo này dung nạp nhiều vì tư duy nhiều. Đạo này không sợ vì không làm các điều ác. Đạo này rất giàu vì hay Bố thí ba-la-mật. Đạo này thanh tịnh vì hay Trì giới ba-la-mật Đạo này vô ngã vì hay Nhẫn nhục ba-la-mật. Đạo này chẳng trụ vì hay Tinh tấn ba-la-mật. Đạo này không loạn vì hay Thiền định ba-la-mật. Đạo này khéo lựa chọn vì hay thực hiện Trí tuệ ba-la-mật. Đạo này chính là chỗ đi đến trí tuệ chân thật vì thực hiện đại Từ. Đạo này chẳng thoái lui vì thực hiện đại Bi. Đạo này hoan hỷ vì thực hiện đại Hỷ. Đạo này bền chắc vì thực hiện đại Xả. Đạo này không gai góc, đâm chích vì thường biết xa lìa tham dục, tức giận, phiền não. Đạo này là tâm an ổn vì không chướng ngại. Đạo này không tổn hại vì phân biệt được sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đạo này phá trừ ma vì khéo phân biệt ấm, nhập, giới. Đạo này lìa ma vì đoạn các trói buộc. Đạo này thù thắng vi diệu vì lìa chỗ tư duy của Thanh văn, Duyên giác. Đạo này biến khắp vì thọ trì tất cả chỗ của chư Phật. Đạo này hết sức quý báu vì có tất cả trí tuệ. Đạo này trong sáng thanh tịnh vì trí tuệ sáng suốt không có chướng ngại. Đạo này khéo thuyết vì là chỗ hộ trì cho thiện tri thức. Đạo này bình đẳng vì cắt đứt được thương ghét. Đạo này không có bụi trần vì xa lìa tức giận. Đạo này hướng đến thiện vì xa lìa tất cả những điều chẳng thiện. Này đại vương, đạo này như vậy nên có thể đưa đến chỗ an vui, cho đến Niết-bàn. Vì vậy, đại vương cần phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chuyển luân thánh vương đáp lời đại thần: –Phạm chí, ngày nay Như Lai xuất hiện ở đời, thọ tám vạn năm, mạng sống của Ngài có hạn. Ngài không thể vì tất cả chúng sinh mà đoạn trừ các nghiệp ác, khiến họ trồng các căn lành, trồng căn lành xong, lại đặt họ vào quả vị Thánh, như được Tam-muội Nhẫn nhục đà-la-ni, hay được làm Bồ-tát với căn lành thù thắng vi diệu, được chư Phật thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; hoặc được chút ít thiện căn ở trong hàng trời, người hưởng thọ các diệu lạc. Các chúng sinh này mỗi người tự nhận lấy quả báo lành hay chẳng lành. Phạm chí, đối với chúng sinh dù chỉ một người mà không có căn lành thì Như Lai cũng không thể nói pháp đoạn khổ cho họ. Như Lai Thế Tôn tuy làm ruộng phước nhưng nếu người không có căn lành thì Ngài không thể làm cho họ đoạn trừ các sự khổ não. Phạm chí, nay ta phát tâm thành Chánh giác, khi ta thực hành đạo Bồ-tát, tu tập theo Đại thừa, theo pháp môn Bất khả tư nghị giáo hóa chúng sinh để làm Phật sự, hoàn toàn không nguyện ở nơi đời ngũ trược, trong quốc độ dơ xấu phát tâm Bồ-đề. Nay ta thực hành Bồ-tát đạo, nguyện khi thành Chánh giác, trong thế giới của ta, chúng sinh không có các khổ. Nếu ta được cõi Phật như vậy thì mới thành Chánh giác. Thiện nam tử, bấy giờ Bảo Tạng Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri liền nhập Tam-muội. Tam-muội đó tên là Kiến chủng chủng trang nghiêm. Nhập Tam-muội xong, Ngài hiện thần túc biến hóa, phóng ánh sáng rực rỡ. Do năng lực của Tam-muội nên ở mỗi phương trong mười phương thế giới đều hiện ra ngàn cõi Phật nhiều như vi trần với vô số quang cảnh trang nghiêm tươi đẹp. Hoặc có thế giới Đức Phật đã Niết-bàn, hoặc có thế giới Phật vừa mới Niết-bàn, hoặc có thế giới trong đó Bồ-tát mới vừa ngồi nơi đạo tràng bên gốc cây Bồ-đề chiến thắng ma oán; hoặc có thế giới Phật mới thành đạo liền chuyển pháp luân. Có thế giới Phật thành đạo đã lâu mới chuyển pháp luân. Có thế giới toàn là các Đại Bồ-tát đầy khắp trong nước, không có tên Thanh văn, Duyên giác. Hoặc có thế giới Phật thuyết về thừa Thanh văn, Bích-chi-phật. Có thế giới không có Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác. Có thế giới năm trược dơ xấu. Có thế giới thanh tịnh vi diệu, không có các sự dơ xấu. Hoặc có thế giới nhỏ hẹp, xấu xí chẳng sạch. Có thế giới nghiêm tịnh, đẹp đẽ. Hoặc có thế giới mạng sống dài vô lượng; có thế giới mạng sống ngắn ngủi. Hoặc có thế giới với đại hỏa tai, có thế giới với đại thủy tai, có thế giới có đại phong tai. Có thế giới kiếp vừa mới thành, có thế giới đã thành tựu xong. Như vậy, được ánh sáng vi diệu chiếu soi khắp nơi nên vô lượng thế giới đều được hiện rõ. Bấy giờ, đại chúng đều thấy vô lượng thế giới thanh tịnh của chư Phật với vô số việc trang nghiêm như vậy. Lúc ấy, Phạm chí Bảo Hải bạch với Chuyển luân thánh vương: –Đại vương, hiện nay đại vương đã được thấy thế giới chư Phật với vô số quang cảnh trang nghiêm như thế, vậy đại vương nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn cầu cõi Phật nào tùy ý. Thiện nam tử, bấy giờ Chuyển luân vương hướng lên Phật, chắp tay bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, các Bồ-tát do nghiệp gì mà nhận thế giới thanh tịnh? Do nghiệp gì nhận thế giới uế trược? Do nghiệp gì mạng sống lâu dài? Do nghiệp gì mạng sống ngắn ngủi? Phật bảo Thánh vương: –Đại vương nên biết, các Bồ-tát do nguyện lực cho nên nhận cõi thanh tịnh, xa lìa năm ác trược. Lại có Bồ-tát do nguyện lực cho nên cầu sinh vào cõi năm ác trược. Thánh vương ở trước Phật lại bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nay con trở về trong thành, đến chỗ yên tịnh chuyên tâm suy nghó, sẽ lập thệ nguyện theo như quang cảnh cõi Phật xa lìa năm ác trược mà con đã được thấy để nguyện cầu về thế giới thanh tịnh trang nghiêm. Phật bảo: –Thánh vương nên biết, đã đến lúc! Thiện nam tử, bấy giờ Chuyển luân thánh vương đem đầu mặt lạy Phật và Tỳ-kheo Tăng, đi nhiễu bên phải ba vòng rồi lui ra, trở về thành, đến một nơi vắng vẻ trong cung điện của mình, ngồi ngay thẳng, nhất tâm tư duy tu tập vô số cách trang nghiêm về cảnh giới Phật của mình. Thiện nam tử, Phạm chí Bảo Hải lại thưa với thái tử Bất Tuần: –Thái tử cũng nên phát tâm thành Chánh giác như thái tử đã làm với ba việc phước, nghóa là: bố thí, điều phục, khéo hộ trì thân, miệng, ngoài ra đối với sự thực hành nghiệp lành thanh tịnh, tất cả nên cùng đem hồi hướng đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thái tử thưa: –Trước hết, tôi phải trở về cung điện, ở một nơi vắng vẻ, ngồi ngay thẳng tư duy. Nếu chắc chắn có thể phát tâm thành Chánh giác, tôi sẽ đi đến gặp Phật và ở trước Thế Tôn, quyết định phát tâm nguyện nhận vô số cõi Phật đẹp đẽ, thanh tịnh. Rồi thái tử đem đầu mặt lạy Phật và Tỳ-kheo Tăng, đi nhiễu bên phải ba vòng và trở về cung điện, ở tại một nơi vắng vẻ, ngồi ngay thẳng, nhất tâm tư duy tu tập vô số cách trang nghiêm về thế giới Phật của mình. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí lại nói với vị vương tử thứ hai như sau: –Thiện nam tử, nay vương tử nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy, một ngàn người con của vị Thánh vương ấy đều được giáo hóa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, Phạm chí lại giáo hóa tám vạn bốn ngàn vua nhỏ và chín vạn hai ngàn ức chúng sinh khác, làm cho họ đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả đại chúng đều thưa: –Phạm chí, hôm nay chúng tôi sẽ trở về chỗ hiện tại, ở tại một nơi thanh vắng, ngồi ngay ngắn, nhất tâm tư duy tu tập vô số cách trang nghiêm về thế giới chư Phật của mình. Đại chúng như vậy đều nhất tâm thanh tịnh trong thời gian bảy năm. Mỗi người ở nơi chỗ của mình nhất tâm ngồi ngay thẳng tư duy tu tập vô số cách trang nghiêm về thế giới Phật của mình. Thiện nam tử, sau đó, Phạm chí Bảo Hải lại nghó: “Ta đã giáo hóa vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh, làm cho đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; ta đã thỉnh Phật và đại chúng để cúng dường các sự cần dùng được an ổn trong thời gian bảy năm. Nếu đời sau, ta chắc chắn thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sự nguyện cầu của ta được thành tựu, ta sẽ khuyến hóa Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A-tu-la, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà… khiến họ luôn cúng dường đại chúng như vậy”. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí liền nghó đến Tỳ-sa-môn Thiên vương. Thiện nam tử, biết được những điều suy nghó trong tâm của Phạm chí, Thiên vương cho gọi trăm ngàn ức vô lượng Dạ-xoa cung kính cùng nhau đi đến chỗ Phạm chí và ngay đêm đó ở trước Phạm chí thưa: –Phạm chí, nhân giả muốn dạy bảo những điều gì? Phạm chí hỏi: –Ông là ai? Tỳ-sa-môn đáp: –Phạm chí, nhân giả có từng nghe đến Tỳ-sa-môn Thiên vương không? Chính là tôi đây. Nhân giả muốn dạy những gì? Phạm chí bảo: –Lành thay đại vương! Tôi đang cúng dường đại chúng này. Đại vương có thể giúp tôi cùng nhau cúng dường những vị đó không? Tỳ-sa-môn Thiên vương đáp: –Xin kính vâng theo điều Nhân giả đã dạy, xin tùy ý làm. Phạm chí lại thưa: –Đại vương, nếu đại vương có thể tùy theo ý tôi khiến cho các Dạ-xoa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đại vương nên tuyên dạy các Dạ-xoa người nào muốn được phước, người nào muốn được thành Chánh giác, ngày ngày có thể vượt qua biển lớn lấy Ngưu đầu chiên-đàn và trầm thủy cùng các thứ hương thơm khác với vô số các loại hoa đem đến nơi đây, cũng sẽ như tôi cúng dường Phật và Tăng chúng hàng ngày? Bấy giờ, nghe hỏi như vậy xong, Thiên vương bèn trở về chỗ ở, đánh trống nhóm họp Dạ-xoa, La-sát, bảo thế này: –Các khanh biết không? Cõi Diêm-phù-đề này có Chuyển luân thánh vương tên là Vô Tránh Niệm, có Phạm chí tên là Bảo Hải, tức là vị đại thần của Thánh vương đó, suốt bảy năm thỉnh Phật và Tăng dâng cúng các vật cần dùng được đầy đủ, an ổn. Các khanh đối với việc phước đức này nên sinh lòng tùy hỷ. Sinh lòng tùy hỷ xong, nhờ thiện căn, hãy phát tâm hồi hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, bấy giờ có trăm ngàn ức na-do-tha Dạ-xoa chắp tay thưa như sau: –Nếu Phạm chí Bảo Hải suốt bảy năm cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng các thức cần dùng đầy đủ, an ổn, chúng tôi xin tùy hỷ căn lành phước báo đó, do tùy hỷ theo căn lành này nên khiến cho chúng tôi được thành Chánh giác. Thiên vương lại bảo: –Các khanh lắng nghe, muốn được phước đức và thiện căn, có thể ngày ngày vượt qua biển lớn, vì Phạm chí kia mà lấy Ngưu đầu chiên-đàn và trầm thủy để nấu chín thức ăn dâng Phật và Tỳ-kheo Tăng. Bấy giờ, có chín vạn hai ngàn Dạ-xoa đồng một lúc thưa: –Thiên vương, từ nay cho đến bảy năm, chúng tôi sẽ thường lấy Ngưu đầu chiên-đàn và trầm thủy đem trao cho Phạm chí để nấu chín thức ăn dâng cúng Phật và Tăng. Lại có bốn vạn sáu ngàn Dạ-xoa cũng đồng lên tiếng: –Chúng tôi sẽ lấy các hương thơm vi diệu trao cho Phạm chí kia cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Lại có năm vạn hai ngàn các Dạ-xoa cũng đều đồng thanh thưa: –Chúng tôi sẽ lấy vô số các thứ hoa đẹp đem trao cho Phạm chí để cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Lại có hai vạn các Dạ-xoa cũng đồng thanh nói: –Chúng tôi sẽ lấy tinh chất của các vị ngon trao cho Phạm chí để trộn vào thức ăn đem cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Bấy giờ có bảy vạn Dạ-xoa cũng đồng thanh nói: –Chúng tôi sẽ đến để cùng làm thức ăn cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Thiện nam tử, Phạm chí lại nghó: “Tiếp theo, ta sẽ khuyến hóa Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương, Tỳ-lâu-la-xoa Thiên vương, Đề-đầu-lại-tra Thiên vương”. Khi Phạm chí nghó như vậy, ba vị vua kia liền biết ngay ý nghó đó nên đi đến gặp Phạm chí như trên cho đến trở về lại chỗ ở của mình. Tỳ-lâu-lặc-xoa cùng trăm ngàn ức na-do-tha Câu-biện-trà, Tỳ-lâu-la-xoa Thiên vương cùng trăm ngàn ức na-do-tha các rồng, Đề-đầu-lại-tra Thiên vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha các Càn-thát-bà, cho đến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng như vậy. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí lại nghó đến bốn vị thiên vương ở tầng trời thứ hai. Nhờ năng lực của Phật nên bốn thiên vương kia đều đến gặp Phạm chí và thưa: –Phạm chí, hôm nay Nhân giả muốn dạy bảo những điều gì? Phạm chí đáp: –Nay ta khuyên ông cùng các quyến thuộc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bốn vua trời thưa: –Xin kính vâng như điều Nhân giả đã dạy. Mỗi vị liền trở về chỗ của mình cùng với các quyến thuộc đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy cho đến cả ba ngàn đại thiên thế giới có trăm ức Tỳ-sa-môn Thiên vương phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trăm ngàn ức Tỳ-lâu-lặc-xoa vua trời, trăm ngàn ức Tỳ-lâu-la-xoa, trăm ngàn ức Đề-đầu-lại-tra đều cùng với quyến thuộc của mình phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, Phạm chí lại suy nghó: “Nếu trong đời sau chắc chắn thành Chánh giác, ta sẽ làm cho tất cả chư Thiên đều được phần phước đức này, cũng khuyên cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu ta ở đời sau, do căn lành này sẽ thành Chánh giác, Đao-lợi thiên vương sẽ đi đến đây gặp ta, Dạ-ma Thiên tử, Đâu-suất Thiên tử, Hóa lạc Thiên tử, Tha hóa tự tại Thiên tử cũng sẽ đến đây gặp ta”. Thiện nam tử, khi Phạm chí nghó như vậy xong, vua trời Đao-lợi, vua trời Dạ-ma, vua trời Đâu-suất, vua trời Hóa lạc, vua trời Tha hóa tự tại đều cùng đến gặp Phạm chí và nói: –Phạm chí, nay Nhân giả muốn khuyên chúng tôi những gì? Phạm chí hỏi: –Ông là ai? Năm vua trời đều xưng tên họ, lại hỏi Phạm chí: –Nhân giả muốn khuyên những gì? Cần sai bảo chúng tôi làm gì tại đại hội này? Phạm chí đáp: –Thiên vương nên biết: các ông ở trên trời có tòa báu đẹp, cung điện, lầu gác, có các cây báu và các cây y phục, cây thiên hương, cây hoa, cây quả, áo trời, tòa trời, mền nệm mềm mại với các thứ đồ dùng quý báu thượng diệu và dùng anh lạc, phướn trời, lọng trời, các cờ lụa… đủ các thứ xinh đẹp. Chư Thiên có vô số thứ âm nhạc, các ông có thể dùng các vật như vậy với vô số các thứ xinh đẹp, trang trí nơi vườn Diêm-phù này để cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Năm vua trời thưa: –Xin kính vâng theo điều Nhân giả đã dạy. Các vua trời, mỗi người đều tự trở về chỗ ở của mình. Vua trời Đao-lợi bảo với Tỳ-lâu-lặc Thiên tử, vua trời Dạ-ma bảo với A-trà-mãn Thiên tử, vua trời Đâu-suất bảo với Lộ-ê Thiên tử, vua trời Hóa lạc bảo với Câu-­đà-la Thiên tử, vua trời Tha hóa tự tại bảo với Nan-đà Thiên tử với lời thế này: –Nay khanh nên xuống cõi Diêm-phù-đề, dùng tất cả những vật ở cõi trời này để đem trang trí nơi vườn Diêm-phù kia. Treo các anh lạc, trải các sàng tòa như các thứ trang nghiêm của các vua trời, vì Như Lai cho nên xây lầu báu cao, làm như lầu báu ở cõi trời Đao-lợi đây. Nghe những lời dạy như vậy xong, các Thiên tử liền đi xuống cõi Diêm-phù-đề và ngay trong đêm ấy trang trí các thứ nơi vườn Diêm-phù, dùng các cây báu… cho đến cờ phướn trời xen nhau trang trí nơi đó. Vì Đức Như Lai nên họ xây lầu bảy báu như trên cõi trời Đao-lợi. Năm Thiên tử này dùng các vật báu cùng vô số thứ đem trang trí vườn Diêm-phù xong, liền trở về trên cõi trời, đến bạch với vua mình: –Đại vương biết cho, chúng tôi đã đi đến trang trí nơi vườn kia với những vật giống như ở đây không khác, vì Đức Như Lai nên xây lầu bảy báu, giống như lầu báu nơi trời Đao-lợi. Thiện nam tử, khi ấy Đao-lợi Thiên vương, Dạ-ma Thiên vương, Đâu-suất Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương, lập tức đi đến cõi Diêm-phù-đề gặp Phạm chí và nói: –Phạm chí, nay tôi đã vì Phật và chúng Tăng mà trang trí khu vườn này. Nhân giả có còn dạy điều gì nữa không, xin hãy cho biết ngay. Phạm chí bảo: –Mỗi người từ nơi cảnh giới của mình, dùng quyền lực mà tập họp chư Thiên lại đem lời của ta đến nói rằng: Trong cõi Diêm-phù-đề có đại Phạm chí tên là Bảo Hải, thỉnh Phật, Thế Tôn và vô lượng Tăng chúng dâng cúng các vật cần dùng được an ổn trong bảy năm. Đối với phước đức này, các khanh nên phát tâm tùy hỷ. Sinh tâm tùy hỷ xong, hãy phát tâm hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì vậy, các khanh nên đi đến chỗ Phật, gặp Phật, Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, cúng dường những vật cần dùng và lãnh thọ diệu pháp. Năm Thiên vương được nghe Phạm chí dạy xong, mỗi người đều trở về Thiên cung của mình. Đao-lợi Thiên vương là Thích Đề-hoàn Nhân liền nhóm họp chư Thiên lại và bảo với họ: –Các khanh nên biết, cõi Diêm-phù-đề có Chuyển luân thánh vương tên là Vô Tránh Niệm, có đại Phạm chí tên Bảo Hải, là vị đại thần của Thánh vương đó, thỉnh Phật, Thế Tôn và vô lượng ức chúng Tăng cúng dường những vật cần dùng suốt bảy năm. Trước đây ta đã vì Phật và Tỳ-kheo Tăng đem các báu vật đến trang nghiêm vườn Diêm-phù. Các khanh đối với nhân duyên căn lành này nên phát tâm tùy hỷ. Sinh tâm tùy hỷ xong, phát tâm hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng khiến cho Phạm chí đạt được ước nguyện. Thiện nam tử, bấy giờ trăm ngàn vô lượng ức na-do-tha Thiên tử ở Đao-lợi Thiên cung kính chắp tay thưa: –Chúng con ngày hôm nay đối với căn lành này xin phát tâm tùy hỷ. Do nhân duyên tùy hỷ này sẽ giúp cho tất cả chúng con đều được thành Chánh giác. Dạ-ma Thiên vương, Đâu-suất Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương… cũng đều nhóm họp chư Thiên lại và bảo họ rằng: –Các khanh nên biết, trong cõi Diêm-phù-đề có Chuyển luân thánh vương tên là Vô Tránh Niệm, có Phạm chí tên Bảo Hải là vị đại thần của Thánh vương đó, thỉnh Phật, Thế Tôn và vô lượng ức Tăng trọn bảy năm dâng cúng các vật cần dùng được an ổn. Trước đây, ta đã vì Phật và Tỳ-kheo Tăng lấy các vật báu cùng vô số thứ xinh đẹp để trang trí nơi vườn Diêm-phù kia. Các khanh đối với nhân duyên căn lành này nên phát tâm tùy hỷ. Sinh tâm tùy hỷ xong, phát tâm hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giúp cho Phạm chí đạt được ý nguyện. Thiện nam tử, bấy giờ bốn vua trời kia đều có vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Thiên tử cung kính chắp tay thưa: –Chúng con ngày hôm nay đối với căn lành này xin phát tâm tùy hỷ, do tâm tùy hỷ cho nên sẽ giúp cho tất cả chúng con đều được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ năm vị vua trời, mỗi vị đều bảo: –Các khanh hãy đi đến cõi Diêm-phù-đề gặp Phật Bảo Tạng và Tỳ-kheo Tăng, lễ bái, đi nhiễu, cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Thiện nam tử, khi đó năm Thiên vương ngay đêm ấy mỗi vị đem các Thiên tử, Thiên nữ, đồng nam, đồng nữ và trăm ngàn ức na-do-tha chúng quyến thuộc khác cùng nhau trước sau đi đến gặp Phật, đảnh lễ nơi chân Phật và Tỳ-kheo Tăng, theo Phật nghe pháp, cho đến sáng ngày họ bay lên trên hư không, rải vô số các thứ Thiên hoa, hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, Tu-mạn-na, Bà-sư-ca, A-đề-mục-đa-giá-chiêm-bà-già, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la… xuống trên đại hội như mưa và đánh nhạc trời để cúng dường. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải lại nghó: “Vào đời sau nếu ta chắc chắn sẽ thành Chánh giác, sự nguyện cầu được thành tựu, bản thân ta được lợi ích, ta sẽ giáo hóa các A-tu-la, làm cho tất cả đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Thiện nam tử, Phạm chí nghó như vậy xong, có năm A-tu-la vương đi đến gặp Phạm chí, cho đến vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha A-tu-la nam tử, nữ nhân, đồng nam, đồng nữ, như lời Phạm chí dạy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đi đến gặp Phật, lãnh thọ diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải lại nghó: “Vào đời sau, nếu ta chắc chắn thành Chánh giác, sự nguyện cầu thành tựu, bản thân ta được lợi ích, ta sẽ giáo hóa Thiên ma Ba-tuần khiến cho phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Thiện nam tử, khi ấy, biết được ý nghó của Phạm chí, ma Ba-tuần liền cùng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha nam tử, nữ nhân, đồng nam, đồng nữ đi đến gặp Phạm chí, kính vâng theo những lời dạy bảo phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến nghe pháp cũng y như trên. KINH BI HOA <卷 id="32807824">QUYỂN 3 <卷 id="32807825">Phẩm 3: BỐ THÍ LỚN (Phần 2) Phật lại bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí suy nghó: “Nếu đời sau ta thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chí nguyện thành tựu, bản thân ta được lợi ích, tiếp đó ta sẽ giáo hóa Đại Phạm thiên vương phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Khi ấy, Phạm thiên vương biết những điều suy nghó trong tâm của Phạm chí, đến gặp Phạm chí và thưa: –Nhân giả muốn dạy bảo điều gì? Phạm chí hỏi: –Ông là ai? Phạm vương thưa: –Con là Đại Phạm thiên vương. Phạm chí bảo: –Lành thay! Vua trời! Ông có thể trở về tập họp các vị trời, đem lời ta bảo với họ: Trong cõi Diêm-phù-đề có đại Phạm chí tên Bảo Hải, trong bảy năm thỉnh Phật, Thế Tôn và vô lượng Tăng chúng dâng cúng các thức cần dùng được an ổn. Ngày nay đối với phước đức này, quý vị nên phát tâm tùy hỷ. Tùy hỷ xong, hãy phát tâm hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nghe dạy như vậy xong, Phạm vương liền trở về trời tập họp các Phạm thiên, bảo với họ: –Các khanh nên biết, cõi Diêm-phù-đề có Chuyển luân thánh vương tên Vô Tránh Niệm, có đại Phạm chí tên Bảo Hải, là vị đại thần của Thánh vương đó, thỉnh Phật, Thế Tôn và vô lượng Tăng chúng suốt bảy năm dâng cúng các thức cần dùng được an ổn. Các khanh nên sinh tâm tùy hỷ với thiện căn này. Tùy hỷ xong, phát tâm hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sẽ làm cho Bảo Hải đạt được sở nguyện. Thiện nam tử, khi ấy vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha các Phạm Thiên tử cung kính chắp tay thưa: –Ngày nay đối với thiện căn này, chúng tôi xin phát tâm tùy hỷ. Do việc tùy hỷ này, sẽ giúp cho tất cả chúng tôi đều được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phạm thiên vương lại bảo: –Các khanh nên đến cõi Diêm-phù-đề gặp Phật Bảo Tạng và Tỳ-kheo Tăng lễ bái, hầu hạ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Thiện nam tử, khi ấy Phạm thiên vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha các Phạm Thiên tử cùng nhau đi đến chỗ Phật, đem đầu mặt lạy sát chân Phật và Tỳ-kheo Tăng, lãnh thọ diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí lại nghó: “Ta sẽ giáo hóa Đao-lợi Thiên vương, Dạ-ma Thiên vương, Đâu-suất Thiên vương, Hóa lạc Thiên vương, Tha hóa tự tại Thiên vương ở cõi thiên hạ thứ hai”. Do nhờ Phật lực cho nên chư Thiên ấy liền cùng đi đến gặp Phạm chí và thưa: –Nhân giả muốn dạy bảo những việc gì? Phạm chí hỏi: –Các ông là ai? Bắt đầu từ Đao-lợi Thiên vương cho đến Tha hóa tự tại Thiên vương,… từng vị trời đáp: –Tôi là… Phạm chí bảo: –Quý vị hãy trở về chỗ ở của mình, đem lời của ta nói với mọi người: Trong cõi Diêm-phù-đề có Chuyển luân thánh vương tên Vô Tránh Niệm, có Phạm chí tên Bảo Hải, tức là đại thần của vua đó, trọn bảy năm cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Quý vị nên tùy hỷ với nhân duyên căn lành này. Tùy hỷ xong, hãy phát tâm hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nghe xong, từ Đao-lợi Thiên vương cho đến Tha hóa tự tại Thiên vương đều tự trở về chỗ của mình, họp chư Thiên lại và bảo: –Các khanh nên biết! Trong cõi Diêm-phù-đề có Chuyển luân thánh vương tên Vô Tránh Niệm, có đại Phạm chí tên Bảo Hải, tức là đại thần của Thánh vương đó, trọn bảy năm cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Các khanh nên sinh tâm tùy hỷ đối với nhân duyên thiện căn này. Tùy hỷ xong, hãy phát tâm hồi hướng thành Chánh giác. Khi ấy, Thiên chúng cung kính chắp tay thưa: –Đối với thiện căn này, chúng tôi xin tùy hỷ, do sự tùy hỷ nên làm cho tất cả chúng tôi đều được thành Chánh giác. Các vua trời lại bảo thêm: –Các khanh nay nên đến gặp Phật, Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo Tăng, lễ bái, thân cận, cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán. Thiện nam tử, bấy giờ Đao-lợi Thiên vương cho đến Tha hóa tự tại Thiên vương, mỗi vị đều cùng vô lượng trăm ngàn ức Thiên tử, Thiên nữ, đồng nam, đồng nữ và các quyến thuộc khác cùng nhau đi đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật cùng Tỳ-kheo Tăng và lãnh thọ diệu pháp. Năm A-tu-la vương, Thiên ma Ba-tuần, Đại Phạm thiên vương ở cõi thiên hạ thứ hai cũng như vậy. Cõi thứ ba, thứ tư, thứ năm, cho đến tam thiên đại thiên thế giới, trăm ức Đao-lợi thiên, trăm ức Dạ-ma thiên, trăm ức Đâu-suất thiên, trăm ức Hóa lạc thiên, trăm ức Tha hóa tự tại thiên, trăm ức ngũ A-tu-la vương, trăm ức ma Ba-tuần, trăm ức Đại Phạm thiên vương và vô lượng ức trăm ngàn na-do-tha quyến thuộc đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhờ Phật lực cho nên họ cùng đi đến cõi thiên hạ thứ tư để gặp Phật, đem đầu mặt đảnh lễ Phật cùng chúng Tỳ-kheo Tăng và lãnh thọ diệu pháp. Bấy giờ đại chúng ở đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, không một chỗ nào là không có. Thiện nam tử, Phạm chí Bảo Hải lại nghó: “Ta đã giáo hóa được trăm ức Tỳ-sa-môn Thiên vương cho đến trăm ức Đại Phạm thiên vương và với thệ nguyện này ta đã được tự tại”. Lại nghó: “Nếu đời sau sẽ được thành Chánh giác, bản thân được lợi ích, chí nguyện được thành tựu, ta nguyện Phật, Thế Tôn vì đại chúng thị hiện vô số thần túc biến hóa. Nhờ thần lực khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới, nơi nào có súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục và người đời… đều được xa lìa tất cả khổ não, hoàn toàn thọ hưởng diệu lạc. Trước mỗi chúng sinh đều có một Hóa Phật khuyên chúng sinh kia phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Thiện nam tử, khi ấy vừa biết những suy nghó trong tâm của Bảo Hải, Bảo Tạng Như Lai liền nhập Tam-muội Vô nhiệt. Nhập Tam-muội này xong, Như Lai thị hiện thần túc biến hóa: nơi mỗi lỗ chân lông phóng ra vô lượng, vô biên ánh sáng, ánh sáng vi diệu đó chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, suốt đến địa ngục. Chúng sinh ở trong địa ngục nước đá đông lạnh gặp ánh sáng đó liền được ấm áp. Chúng sinh bị nóng bức, gặp được ánh sáng đó thì mát mẻ. Chúng sinh đói khát gặp được ánh sáng đó thì no đủ, thọ hưởng niềm vui vi diệu. Mỗi một chúng sinh đều có một Hóa Phật ở ngay trước mặt với ba mươi hai tướng tốt nơi thân và trang nghiêm bằng tám mươi vẻ đẹp. Thọ hưởng diệu lạc xong, các chúng sinh kia suy nghó: “Chúng ta nhờ duyên gì mà được xa lìa khổ não và được thọ hưởng diệu lạc này?”. Bấy giờ thấy Hóa Phật với ba mươi hai tướng tốt nơi thân và trang nghiêm bằng tám mươi vẻ đẹp như vậy, nên chúng sinh ấy tự nghó: “Kết quả này là nhờ ân đức của Bậc Đại Bi đây, khiến ta được xa lìa tất cả khổ não, thọ hưởng diệu lạc”. Khi ấy, chúng sinh đều rất hoan hỷ chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật. Hóa Phật bảo các chúng sinh: –Các con hãy cùng xưng niệm “Nam-mô Phật” và phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đây trở về sau không còn bị lại các khổ não, thường thọ hưởng diệu lạc tối thắng. Các chúng sinh kia liền xưng niệm: “Nam-mô Thế Tôn!” và phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do căn lành này nên chấm dứt tất cả điều ác và ngay trong khi đó liền qua đời và được sinh trong loài người. Chúng sinh trong chỗ nóng bức do nhờ ánh sáng ấy nên được mát mẻ, xa lìa khổ đói khát, thọ hưởng diệu lạc, cho đến được sinh trong loài người. Như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, loài người cũng như vậy, ánh sáng đó chiếu khắp các thế giới xong, trở lại nhiễu quanh thân Phật ba vòng và nhập vào trên đảnh. Khi ấy, có vô lượng, vô biên Trời, Người, Dạ-xoa, A-tu-la, Càn-thát-bà, Rồng, La-sát được bất thoái chuyển với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có vô số chúng sinh được Thiền định Nhẫn nhục đà-la-ni. Bấy giờ, người ở vùng Diêm-phù nghe vô lượng chư Thiên vì Phật, Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng mà đem vô số các thứ tốt đẹp trên cõi trời trang trí vườn Diêm-phù, ngoài thành An Châu như trang trí trên cõi trời, họ lại nghó: “Chúng ta hãy đến đó sẽ gặp Đức Như Lai và Tỳ-kheo Tăng, nhờ đó lãnh thọ giáo pháp”. Thiện nam tử, bấy giờ hàng ngày thường có vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ đi đến gặp Phật, đem đầu mặt lạy Phật và Tỳ-kheo Tăng, nhiễu quanh bên phải ba vòng, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi và muốn chiêm ngưỡng vườn Diêm-phù. Vườn đó có hai vạn cửa ngõ làm toàn bằng bảy báu, trước mỗi một cửa ngõ có trải năm trăm tòa bằng bảy báu, có năm trăm Phạm chí ngồi trên từng tòa đó. Nếu chúng sinh nào muốn vào vườn, các vị Phạm chí này liền khuyến hóa làm cho họ đều được quy y Tam bảo, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, rồi sau đấy mới cho vào vườn gặp Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, lễ bái, hầu hạ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Thiện nam tử, Phạm chí ấy trong bảy năm giáo hóa chư Thiên nhiều vô số, làm cho họ đều an trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phạm chí lại làm cho vô số Rồng, A-tu-la, Càn-thát-bà, La-sát, Câu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục và người đều an trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, bấy giờ sau bảy năm, Phạm chí đem tám vạn bốn ngàn Kim luân, chỉ trừ Thiên luân; tám vạn bốn ngàn voi trắng với bảy báu trang nghiêm, chỉ trừ voi báu; cho đến tám vạn bốn ngàn các loại âm nhạc, đem tất cả các loại như vậy dâng cúng Phật và Tăng. Trong bảy năm của Chuyển luân thánh vương không có các sự tham dục, như là: Không dục về sân hận, không dục về ngu si, không dục về kiêu mạn, không dục về quốc độ, không dục về con cái, không dục về ngọc nữ, không dục về ăn uống, không dục về y phục, không dục về hương hoa, không dục về xe cộ, không dục về ngủ nghỉ, không dục về tưởng vui, không dục về ngã, không dục về người khác… Như vậy, trong bảy năm vua không có một tâm dục nào, lại thường ngồi không nằm, không nghó tưởng về ngày đêm, không nghó tưởng đến sự mệt nhọc, cũng không nghó tưởng đến thanh, hương, vị, xúc. Trong thời gian đó, vua thường thấy trong mười phương, ở mỗi phương có nhiều vạn cõi Phật như số vi trần, thế giới của chư Phật đều thanh tịnh trang nghiêm, không thấy Tu-di và các núi nhỏ, Đại tiểu Thiết vi và chỗ tối tăm ở giữa hai núi đó, mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, cung điện của chư Thiên. Những chỗ thấy được chỉ toàn là cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Thấy những việc như vậy xong, vua tùy theo sở nguyện mà nhận lấy. Chuyển luân thánh vương trong bảy năm được thọ hưởng diệu lạc và thấy thế giới của chư Phật với vô số sự thanh tịnh trang nghiêm nên nguyện nhận cõi Phật thượng diệu thanh tịnh như vậy. Thái tử Bất Tuần, con của Chuyển luân thánh vương, cho đến một ngàn người con, tám vạn bốn ngàn các tiểu vương… và chín vạn hai ngàn ức chúng sinh đều trong bảy năm tâm không ham về dục, cho đến không tưởng nhớ đến hương, vị, xúc. Mỗi người ở một nơi vắng vẻ nhập định tư duy về các thế giới, ở mỗi mỗi phương trong mười phương có nhiều thế giới như số vi trần vạn cõi Phật và chỉ thấy những việc trang nghiêm đẹp đẽ ở các thế giới Phật, không thấy Tu-di và các núi nhỏ, Đại tiểu Thiết vi và chỗ tối tăm giữa hai núi đó, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cung điện chư Thiên, họ chỉ thấy cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm. Như chỗ họ đã thấy, tùy nguyện mà nhận lấy. Tất cả các đại chúng… đều được tu hành vô số pháp môn như vậy trong bảy năm, hoặc nguyện được cõi Phật thanh tịnh, hoặc nguyện nhận cõi Phật bất tịnh. Thiện nam tử, sau bảy năm, Phạm chí đem các thứ bảy báu dâng cúng Phật cùng Tỳ-kheo Tăng và hướng lên Phật chắp tay bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã khuyến hóa Chuyển luân thánh vương phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trở về chỗ ở ngồi yên lặng tư duy và không cho một người nào vào. Con lại khuyến hóa ngàn người con của vua đó phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vương tử ấy cũng đều trở về chỗ ở, ngồi yên tịnh tư duy, cho đến không cho một người nào vào. Tám vạn bốn ngàn tiểu vương, chín vạn hai ngàn ức chúng sinh cũng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều ở chỗ vắng vẻ, ngồi ngay thẳng tư duy, cho đến không cho một người nào vào. Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài làm cho Chuyển luân vương ấy… sau khi xuất định, đi đến gặp Phật, cùng với những người trước đây đã được Ngài khiến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giúp họ tập họp nơi chỗ Đức Phật, nhất tâm ngồi ngay thẳng, lãnh thọ thế giới thanh tịnh của Phật, không còn thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh giác. Nhờ Phật thọ ký xong, họ sẽ nhận cõi nước và tên họ. Thiện nam tử, bấy giờ Bảo Tạng Như Lai liền nhập Tam-muội Định vương. Nhập định này rồi, ngay trong miệng Ngài phát ra vô số sắc hào quang: xanh, vàng, đỏ, trắng, tía. Khi Chuyển luân vương… đang ở trong định, mỗi vị đều tự thấy ở trước mình có hóa Phạm vương thưa: –Các ông ngày nay có thể xuất thiền, đi đến gặp Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, lễ bái, hầu hạ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Các ông nên biết, Phạm chí Bảo Hải trong bảy năm mở pháp hội đã hoàn mãn, nay Phật, Thế Tôn sẽ du hành đến các cõi nước khác. Chuyển luân vương… nghe dạy như vậy liền xuất định. Bấy giờ, chư Thiên ở giữa hư không trỗi các âm nhạc, lập tức Thánh vương đi xe cùng với một ngàn người con, tám vạn bốn ngàn tiểu vương…, chín vạn hai ngàn ức người trước sau dẫn đường, ra khỏi thành An-châu-la, hướng đến vườn Diêm-phù. Đến bên ngoài vườn, vua theo như pháp xuống xe đi bộ tới chỗ Phật, đem đầu mặt đảnh lễ Phật và Tỳ-kheo Tăng rồi lui ngồi một bên. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí bạch với Thánh vương: –Cúi xin đại vương đem vật báu này cùng với vô số châu báu của tám vạn bốn ngàn thành An-châu-la mà đại vương đã cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng trong ba tháng trước kia, phước đức như vậy nên hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Một ngàn người con của vua, tám vạn bốn ngàn các tiểu vương, chín vạn hai ngàn ức người, tất cả đều được dạy bảo khiến đều hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Họ nói: –Đại vương nên biết, nhân việc bố thí này không nên cầu nơi Đao-lợi thiên vương, Đại Phạm thiên vương. Vì sao? Nay vua được phước báu, có vô số châu ngọc nhưng đều là vô thường không chắc chắn cố định, giống như làn gió thoảng. Vì vậy, nên cần phải đem các thứ này bố thí sẽ được quả báo khiến tâm tự tại, mau thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, độ thoát vô lượng, vô biên chúng sinh vào Niết-bàn.  <卷 id="32807827">Phẩm 4: NGUỒN GỐC CÁC BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 1) Bấy giờ, Bảo Tạng Như Lai lại nghó: “Như vậy là có vô lượng chúng sinh không còn thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta nay sẽ thọ ký cho từng người và cho họ thấy vô số cõi Phật”. Đức Thế Tôn liền nhập định. Định đó tên là Bất thất Bồ-đề tâm (Chẳng mất tâm Bồ-đề). Do diệu lực của định ấy nên có ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng, vô biên các thế giới, khiến cho tất cả Chuyển luân thánh vương và vô lượng chúng sinh đều được thấy vô biên thế giới của chư Phật. Lúc ấy, ở mười phương vô lượng, vô biên các thế giới khác, trong đó có các Đại Bồ-tát do nhờ ánh sáng và nhờ Phật lực, nên mỗi vị tự đi đến chỗ Phật, đem thần túc biến hóa mà mình đã đạt được cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu bên phải Phật ba vòng và ngồi ở trước Phật, muốn được nghe Như Lai thọ ký cho các Bồ-tát thành Phật. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải lại thưa với Thánh vương: –Đại vương, lúc này đại vương có thể phát nguyện trước tiên để nhận cõi Phật tốt đẹp. Thiện nam tử, nghe thưa như vậy, Thánh vương liền đứng dậy chắp tay quỳ thẳng hướng về Phật bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, con thật muốn được Bồ-đề. Trước kia, suốt trong ba tháng con đem các thức cần dùng cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Con hồi hướng căn lành này đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không nguyện nhận lấy cõi Phật bất tịnh. Bạch Đức Thế Tôn, trước kia trong thời gian bảy năm, ngồi ngay thẳng, con tư duy đến vô số cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm. Bạch Đức Thế Tôn, con xin phát nguyện cho con được thành Chánh giác, trong thế giới ấy không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tất cả chúng sinh sau khi qua đời không bị rơi vào trong ba đường ác. Chúng sinh trong thế giới đều có màu hoàng kim, người và trời không khác nhau, đều được sáu phép thần thông. Nhờ Túc mạng thông, họ biết được trăm ngàn vạn ức na-do-tha những việc ở kiếp trước. Nhờ Thiên nhãn thanh tịnh, họ thấy tất cả trăm ngàn ức na-do-tha thế giới khắp mười phương, trong đó có chư Phật đang thuyết pháp vi diệu ở mọi nơi. Nhờ Thiên nhó thanh tịnh, họ nghe tất cả trăm ngàn ức na-do-tha tiếng của chư Phật trong mười phương thế giới đang thuyết pháp. Do Tha tâm trí nên họ biết được vô lượng, vô biên ức na-do-tha tâm của chúng sinh trong các thế giới khắp mười phương. Nhờ Như ý thông nên trong một niệm họ đến khắp trăm ngàn ức na-do-tha thế giới chư Phật, qua lại cùng khắp, làm cho các chúng sinh đều hiểu được không có ngã, ngã sở, đều được bất thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nguyện cho thế giới của con không có người nữ và tên gọi về họ. Tất cả chúng sinh chỉ một lần hóa sinh thì được tuổi thọ vô lượng, trừ khi họ có thệ nguyện, không có tất cả các tên bất thiện. Thế giới ấy thanh tịnh không nhơ xấu, thường có hương thơm vi diệu của chư Thiên lan tỏa cùng khắp. Tất cả chúng sinh đều được thành tựu ba mươi hai tướng tốt để trang nghiêm cho mình. Tất cả Bồ-tát trong đó chỉ còn một đời bổ xứ, trừ thệ nguyện của họ. Nguyện cho thế giới của con, chúng sinh ngay trong thời gian một bữa ăn, nhờ Phật lực nên đến khắp vô lượng, vô biên thế giới gặp Phật trong hiện tại, lễ bái, hầu hạ, đem thần túc biến hóa đã đạt được cúng dường lên Phật và ngay trong khoảng bữa ăn trở về thế giới của mình, thường giảng thuyết tạng pháp của Phật, thân được sức mạnh như Na-la-diên. Những việc trang nghiêm nơi thế giới ấy, người có Thiên nhãn cũng không thể nói hết. Chúng sinh ở đó đều được bốn biện tài. Mỗi vị Bồ-tát ngồi bên một gốc cây, nhánh lá che khắp một vạn do-tuần. Thế giới thường có ánh sáng tịnh diêïu làm cho vô lượng cõi Phật ở các phương khác với vô số thứ trang nghiêm đều hiện ra trong đó. Các chúng sinh ở đấy cho đến khi thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không làm việc bất tịnh, thường được tất cả chư Thiên và phi nhân cung kính cúng dường, tôn trọng; cho đến thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và ở trong giai đoạn ấy thường được sáu căn thanh tịnh, ngay khi sinh ra liền được an vui vô lậu, thọ hưởng diệu lạc, tự nhiên thành tựu tất cả căn lành, vừa sinh ra được mặc ca-sa mới, liền được Tam-muội, Tam-muội đó tên là Thiện phân biệt. Do diệu lực của Tam-muội ấy họ đi đến cùng khắp vô lượng thế giới của chư Phật, gặp Đức Phật hiện tại để lễ bái, hầu hạ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen; cho đến thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đối với Tam-muội này không thoái chuyển. Có Bồ-tát theo như nguyện của mình đều tự trang nghiêm tu tập cõi tịnh diệu. Ở trong cây bảy báu, họ thấy tất cả chúng sinh nơi thế giới chư Phật ngay sau khi sinh được định Biến chí, do diệu lực của định này nên thường thấy chư Phật hiện đang ở trong vô lượng, vô biên các thế giới nơi mười phương, cho đến khi thành Chánh giác, không còn thoái chuyển. Nguyện trong thế giới của con, những chúng sinh đều được cung điện, y phục, anh lạc và vô số thứ trang nghiêm giống như cõi trời thứ sáu là Tha hóa tự tại. Trong thế giới không có núi, gò, ụ đất, Đại tiểu Thiết vi, Tu-di, biển lớn; cũng không có các tiếng phiền não chướng ngại, như: năm ấm, năm cái… Không có tên ba đường ác, tám nạn, không có tên cảm thọ khổ và tên không khổ không vui. Bạch Đức Thế Tôn, vào đời sau con sẽ luôn luôn hành đạo Bồ-tát, mong được thành tựu cõi Phật thanh tịnh như vậy. Bạch Đức Thế Tôn, vào đời sau làm những việc hy hữu như vậy xong, con mới thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thành Chánh giác, cây Bồ-đề cao lớn ngang dọc bằng thẳng một vạn do-tuần. Khi con ngồi nơi đạo tràng, bên gốc cây ấy, chỉ trong một niệm được thành Chánh giác và liền có ánh sáng chiếu đến vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha thế giới chư Phật, khiến cho tuổi thọ của con lâu dài vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha kiếp không thể biết hết, trừ Bậc Nhất Thiết Trí; làm cho thế giới của con không có Thanh văn, Bích-chi-phật thừa. Đại chúng nơi đó toàn là Bồ-tát nhiều vô lượng, vô biên không thể tính đếm, trừ Bậc Nhất Thiết Trí. Nguyện khi con thành Chánh giác xong, được chư Phật trong mười phương xưng dương tán thán danh hiệu của con. Nguyện khi con thành Chánh giác xong, ở vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp thế giới Phật khác, có chúng sinh nào được nghe danh hiệu của con mà tu các pháp lành, muốn được sinh về thế giới của con, nguyện cho họ sau khi xả bỏ thân mạng, nhất định được sinh về, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch, hủy báng Thánh nhân, phá hoại chánh pháp. Nguyện khi con thành Chánh giác xong, vô lượng, vô biên chúng sinh trong thế giới của chư Phật khác, có chúng sinh nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tu các căn lành muốn sinh về thế giới của con, khi họ lâm chung, con sẽ cùng đại chúng vây quanh ở trước người đó. Người đó được thấy con và sinh tâm hoan hỷ với con. Nhờ được thấy con nên họ xa lìa các chướng ngại, lập tức xả thân mạng, sinh đến cõi của con. Nguyện khi con thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác xong, các Đại Bồ-tát nào chưa được nghe pháp, muốn theo con nghe pháp thì đều được nghe như ý nguyện. Nguyện con thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác xong, ở vô lượng, vô biên, vô số thế giới khác, có các Bồ-tát nào được nghe tên con liền được bất thoái chuyển đối với đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được đệ nhất nhẫn, đệ nhị, đệ tam nhẫn. Có người nào nguyện muốn được Đà-la-ni và các Tam-muội, chắc chắn sẽ đạt được như nguyện của họ cho đến khi thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không còn thoái lui. Sau khi con diệt độ, trải qua các số kiếp có vô lượng, vô biên, vô số thế giới, trong đó Bồ-tát nào nghe tên con, tâm được tịnh tín, hoan hỷ vô cùng, lễ bái con, khen ngợi, thán phục và nói: “Vị Phật, Thế Tôn ấy khi còn Bồ-tát đã làm rất nhiều Phật sự lâu dài mới chịu thành Chánh giác. Các Bồ-tát kia được tín tâm hoan hỷ xong, quyết định sẽ được đệ nhất, đệ nhị, đệ tam nhẫn. Có người nào nguyện muốn được môn Đà-la-ni và các Tam-muội thì ước nguyện của họ đều đạt được hết, cho đến khi thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vẫn không thoái thất”. Con thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác xong, ở vô lượng, vô biên, vô số thế giới khác có các người nữ nào nghe tên con liền được tín tâm hoan hỷ đệ nhất, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến khi thành Phật không bao giờ còn trở lại thọ thân người nữ nữa. Nguyện sau khi con diệt độ, dầu trải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp, ở vô lượng, vô biên, vô số cõi Phật, trong đó có người nữ nào nghe đến tên con liền được tín tâm hoan hỷ đệ nhất, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến khi thành Phật không còn thọ thân người nữ trở lại. Kính bạch Đức Thế Tôn, lòng nguyện cầu của con là được cõi Phật như vậy, chúng sinh như vậy. Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu được thế giới và chúng sinh thanh tịnh như vậy, sau đó con mới thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, bấy giờ Bảo Tạng Như Lai bảo Chuyển luân thánh vương: –Lành thay! Lành thay! Đại vương, theo tâm nguyện sâu xa của ông nên ngày nay ông được nhận cõi thanh tịnh, tâm của chúng sinh ở trong cõi đó cũng thanh tịnh. Đại vương, như ông đã thấy, về phương Tây cách đây trăm ngàn vạn ức cõi Phật có thế giới tên là Tôn thiện vô cấu, thế giới đó có Đức Phật hiệu là Tôn Âm Vương, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Hiện nay, Ngài đang thuyết giảng chánh pháp cho các Bồ-tát. Ở thế giới đó không có tên Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng không có nói pháp Tiểu thừa, thuần nhất thanh tịnh một pháp Đại thừa. Tại đó, chúng sinh hoàn toàn do hóa sinh, cũng không có người nữ và danh từ về họ. Những công đức thanh tịnh trang nghiêm của cõi Phật kia đúng y như sở nguyện của đại vương và đại vương sẽ được cõi nước với vô lượng, vô biên sự trang nghiêm tươi đẹp như vậy. Do đã cứu giúp, điều phục vô lượng, vô biên chúng sinh nên nay đổi tên đại vương là Vô Lượng Thanh Tịnh. Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Vô Lượng Thanh Tịnh: –Phật Tôn Âm Vương kia qua một trung kiếp sẽ Bát-niết-bàn. Bát-niết-bàn xong, chánh pháp trụ ở đời đủ mười trung kiếp. Sau khi chánh pháp diệt, trải qua sáu mươi trung kiếp, cõi đó đổi tên là Di lâu quang minh, sẽ có Phật xuất hiện ở đời hiệu là Bất Khả Tư Nghị Công Đức Vương, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật này cũng giống như Tôn Âm Vương Như Lai với thế giới trang nghiêm đẹp đẽ như cõi Tôn thiện vô cấu. Đức Phật đó sống lâu sáu mươi trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ ở đời sáu mươi trung kiếp. Chánh pháp diệt rồi, trải qua một ngàn trung kiếp, bấy giờ thế giới vẫn tên là Tôn thiện vô cấu. Lại có Phật ra đời hiệu là Bảo Quang Minh, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới này và tuổi thọ có khác ít nhiều với cõi Di lâu nhưng chánh pháp trụ thế cũng như Phật Bất Khả Tư Nghị Công Đức Vương không khác. Sau khi chánh pháp diệt, thế giới bấy giờ đổi tên là Thiện kiên, lại có Phật ra đời hiệu là Bảo Tôn Âm Vương, đầy đủ tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới này trang nghiêm như trước không khác, Đức Phật thọ ba mươi lăm trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ ở đời đủ bảy trung kiếp. Chánh pháp diệt rồi, lại có vô lượng, vô biên chư Phật tiếp nối ra đời; về thế giới, thọ mạng, chánh pháp cũng đều như vậy. Hiện nay, Ta thấy tất cả các việc của chư Phật từ khi thành đạo cho đến lúc diệt độ là như vậy. Trong giai đoạn ấy, thế giới kia thường trụ không thay đổi, không có thành hoại. Đại vương, khi chư Phật như vậy đều diệt độ hết, lại trải qua một hằng hà sa vô số kiếp, vào đệ nhị số kiếp nhiều như cát sông Hằng, bấy giờ thế giới đổi tên là An lạc. Đại vương lúc ấy sẽ thành Phật, hiệu là Vô Lượng Thọ gồm đủ tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi Thánh vương nghe những lời này xong, bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, những vị sẽ thành Phật như vậy hiện nay đang ở đâu? Phật bảo: –Này đại vương, Bồ-tát như vậy đang ở tại đại hội này với số đông vô lượng không thể tính kể, đều từ thế giới của các Đức Phật khác trong mười phương tập họp đến đây để cúng dường Ta và lãnh thọ diệu pháp. Các Bồ-tát này đã được chư Phật quá khứ thọ ký thành Chánh giác. Lại được chư Phật hiện tại trong mười phương thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên các vị ấy sẽ thành Chánh giác trước. Này đại vương, các Bồ-tát ấy đã từng cúng dường vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật, vun trồng các căn lành, tu tập trí tuệ. Đại vương, vì vậy các Bồ-tát này thành Chánh giác trước đại vương. Chuyển luân thánh vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, Phạm chí Bảo Hải này thường hay khuyên con cùng các quyến thuộc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy, vị Phạm chí này vào đời vị lai trải qua thời gian bao lâu sẽ thành Chánh giác? Phật bảo: –Đại vương, Phạm chí này thành tựu đại bi cho nên trong đời vị lai, khi vị ấy gầm lên tiếng sư tử thì đại vương tự biết. Chuyển luân vương lại bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con được thành tựu như Phật đã thọ ký thì khi con đem đầu mặt lạy Phật, sẽ khiến cho các thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương chấn động đủ sáu cách, chư Phật trong đó cũng sẽ thọ ký Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho con. Thiện nam tử, Vô Lượng Tịnh Vương nói xong liền ở trước mặt Đức Phật, đem đầu mặt lạy sát đất. Bấy giờ, các thế giới Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều chấn động sáu cách, chư Phật trong đó liền thọ ký như sau: “Cõi San-đề-lam trong kiếp Thiện trì, lúc loài người thọ tám vạn tuổi, có Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng, có Chuyển luân thánh vương tên là Vô Lượng Tịnh làm chủ bốn thiên hạ, suốt ba tháng cúng dường Bảo Tạng Như Lai và Tỳ-kheo Tăng. Do thiện căn này nên qua vô lượng vô số kiếp xong, mới vào đệ nhị vô số kiếp như cát sông Hằng sẽ được thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, thế giới tên là An lạc, thân thường chiếu ánh sáng khắp nơi, bao trùm khắp vô số thế giới của chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương. Bấy giờ, vì đại vương, Bảo Tạng Như Lai thuyết kệ: Mười phương thế giới Đại địa chấn động Cùng các núi rừng Nhiều như Hằng sa Ngài hãy đứng dậy Được thọ ký rồi Làm thân trời, người Thắng pháp điều ngự. Thiện nam tử, nghe kệ xong, Chuyển luân thánh vương tâm rất hoan hỷ, liền đứng dậy chắp tay đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi nghe pháp cách Phật không xa. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải lại thưa với thái tử thứ nhất của Thánh vương: –Thiện nam tử, hãy đem vật báu này và các vật như trước, suốt ba tháng cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng với vô số châu ngọc quý, đem phước đức như vậy tập hợp lại mà hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại bảo thế này: –Thiện nam tử, làm việc bố thí này không nên cầu về Đao-lợi Thiên vương, Đại Phạm thiên vương. Vì sao? Những vật có được do phước báo đều là vô thường, không có tướng nhất định, giống như gió thoảng. Vì vậy, nên đem quả báo do bố thí làm cho tâm được tự tại, mau thành Chánh giác, độ thoát vô lượng, vô biên chúng sinh được vào Niết-bàn. Thái tử nghe những lời như vậy xong, thưa với Phạm chí: –Tôi xem thấy chúng sinh trong địa ngục có nhiều sự khổ não. Trong cõi trời người mà có tâm bất tịnh thì luôn luôn bị đọa trong ba đường ác. Thái tử lại nghó: “Các chúng sinh này vì gần gũi với ác tri thức cho nên bỏ mất chánh pháp, đọa trong chốn vô cùng tối tăm, từ bỏ các gốc lành, nhận vô số tà kiến…, bị chúng che lấp tâm tánh nên đi vào đường tà”. Nghó xong, liền bạch với Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, con dùng âm thanh lớn bảo cho các chúng sinh: Xin đem tất cả các thiện căn mà con có được, hồi hướng hết lên Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nguyện cho con khi thực hành đạo Bồ-tát, nếu có chúng sinh nào chịu các sự khổ não… thoái lui nơi chánh pháp, đọa trong chỗ tối tăm lớn, buồn rầu, cô độc, khốn khổ, không có người cứu giúp, không y phục, nhà cửa mà chúng sinh đó có thể nghó đến con, xưng niệm danh hiệu của con, thì chúng sinh đó được con nghe bằng thiên nhó, thấy bằng Thiên nhãn. Nếu những chúng sinh như thế không được thoát khỏi các khổ não này thì con quyết không thành Chánh giác. Thái tử lại bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, con lại sẽ vì chúng sinh phát nguyện thù thắng. Kính bạch Thế Tôn, nếu con có thể mau được tự lợi ích, nguyện cho Chuyển luân thánh vương trải qua đệ nhất hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp xong, vừa vào đệ nhị hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ thế giới tên là An lạc, đại vương thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, làm vua chánh pháp của thế giới trang nghiêm, chúng sinh thanh tịnh. Đức Phật, Thế Tôn này ở vô lượng kiếp làm Phật sự xong, việc cần làm đã làm xong, nhập Niết-bàn vô dư, cho đến khi Chánh pháp còn tồn tại, con ở trong đó tu đạo Bồ-tát, thường làm Phật sự. Chánh pháp của Đức Phật ấy diệt vào đầu đêm thì ngay cuối đêm đó con thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thái tử lại bạch Phật: –Cúi xin Đức Thế Tôn thọ ký cho con. Con xin nhất tâm cầu thỉnh chư Phật hiện tại như cát sông Hằng trong mười phương, cúi xin các Ngài thọ ký cho con. Thiện nam tử, bấy giờ Phật Bảo Tạng liền thọ ký cho thái tử thứ nhất. Thiện nam tử, ông thấy cõi trời, người và tất cả chúng sinh trong ba đường ác nên sinh lòng đại bi, muốn chấm dứt các khổ não cho chúng sinh, muốn đoạn trừ các phiền não cho chúng sinh, muốn khiến cho chúng sinh sống trong sự an vui. Vì vậy, thiện nam tử, nay sẽ đổi tên cho ông là Quán Thế Âm. Thiện nam tử, khi hành đạo Bồ-tát, ông đã khiến cho vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh được lìa khổ não; khi còn là Bồ-tát, ông đã tạo được Phật sự lớn. Thiện nam tử, sau khi Phật Vô Lượng Thọ Bát-niết-bàn, vào đệ nhị hằng hà sa… phần sau cùng của a-tăng-kỳ kiếp, trong phần đầu đêm, chánh pháp diệt hết; vào cuối đêm, cõi kia đổi tên là Nhứt thiết trân bảo sở thành tựu thế giới, có vô lượng, vô biên, vô số các thứ trang nghiêm, cõi thế giới An lạc không sánh kịp. Thiện nam tử, vào cuối đêm, bên gốc cây Bồ-đề, với vô số các thứ trang nghiêm, ông ngồi trên tòa Kim cang, chỉ trong một niệm thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hiệu là Biến Xuất Nhứt Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương, gồm đủ tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó sống lâu chín mươi sáu ức na-do-tha trăm ngàn kiếp. Phật Bát-niết-bàn xong, chánh pháp trụ thế sáu mươi ba ức kiếp. Bấy giờ, Bồ-tát Quán Thế Âm ở trước Phật, bạch: –Nếu nguyện của con được thành tựu thì ngay khi con đem đầu mặt kính lễ Phật sẽ được chư Phật hiện tại trong các thế giới như cát sông Hằng ở mười phương, từng vị thọ ký cho con, làm cho đại địa các thế giới như cát sông Hằng trong mười phương và các núi sông đều chấn động sáu cách, phát ra vô số âm nhạc, tâm của tất cả chúng sinh được xa lìa dục. Thiện nam tử, khi Bồ-tát Quan Thế Âm đem đầu mặt sát đất lạy Bảo Tạng Như Lai thì các thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều chấn động đủ sáu cách. Tất cả núi rừng đều phát ra vô số âm nhạc, chúng sinh nghe xong liền được lìa dục, trong đó chư Phật đều thọ ký như sau: “Cõi San-đề-lam trong kiếp Thiện trì, khi loài người sống tám vạn tuổi, có Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng, có Chuyển luân thánh vương tên Vô Lượng Tịnh làm chủ bốn thiên hạ. Thái tử của vua đó tên là Quán Thế Âm, cúng dường Bảo Tạng Như Lai và Tỳ-kheo Tăng suốt ba tháng. Do thiện căn này nên vào đệ nhị hằng hà sa, trong phần sau của a-tăng-kỳ kiếp, vị ấy sẽ được làm Phật hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai. Thế giới tên là Nhất thiết trân bảo sở thành tựïu”. Bảo Tạng Như Lai lại vì Bồ-tát Quán Thế Âm thuyết kệ: Đại bi công đức Hãy nên đứng dậy Nơi các cõi Phật Đất động sáu cách Chư Phật mười phương Thọ ký cho ông Sẽ được thành Phật Thật đáng vui mừng. Thiện nam tử, thái tử Quán Thế Âm nghe kệ xong rất vui mừng, liền đứng dậy trước Phật, chắp tay đảnh lễ sát chân Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe pháp. Thiện nam tử, khi ấy Phạm chí Bảo Hải lại thưa với vương tử thứ hai là Ni-ma: –Thiện nam tử, ông đã tạo nghiệp phước đức thanh tịnh, vì tất cả chúng sinh mà được Nhứt thiết trí, vậy nên hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, bấy giờ vương tử ngồi ở trước Phật, chắp tay bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, như trước đây trong ba tháng, con cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng và với sự thực hành nơi thân, khẩu, ý thanh tịnh của con, với phước đức như vậy, con xin hồi hướng lên Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không nguyện về thế giới bất tịnh dơ xấu, nguyện cho quốc độ và cây Bồ-đề của con như thế giới của Bồ-tát Quán Thế Âm, cây Bồ-đề báu với vô số các thứ trang nghiêm và thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại nguyện: Khi Đức Phật Biến Xuất Quang Minh Công Đức mới thành Phật đạo, con sẽ thỉnh Phật chuyển Pháp luân trước hết và tùy thuận theo thời gian thuyết pháp của Ngài, trong giai đoạn đó con thực hành đạo Bồ-tát. Sau khi Đức Phật ấy Niết-bàn, chánh pháp diệt hết, tiếp theo là con thành Chánh giác. Khi con thành Phật, với Phật sự đã làm nên trong thế giới của con có vô số các thứ trang nghiêm tốt đẹp. Sau khi con Bát-niết-bàn, chánh pháp trụ thế cùng các việc như vậy đều giống như Đức Phật kia không khác. Phật bảo vương tử thứ hai: –Này thiện nam tử, theo nguyện của ông là được nhận thế giới lớn lao, ông ở đời sau sẽ được thế giới đúng như nguyện của mình. Thiện nam tử, ông ở đời sau sẽ được thế giới lớn lao như vậy và thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nam tử, do nguyện nhận thế giới hết sức lớn lao của ông cho nên danh hiệu của ông là Đắc Đại Thế. Bấy giờ, ở trước Phật, Bồ-tát Đắc Đại Thế bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích thì khi con kính lễ Phật, sẽ làm cho thế giới của các Đức Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương chấn động sáu cách, mưa hoa Tu-mạn-na, trong đó chư Phật hiện tại đều thọ ký cho con. Thiện nam tử, lúc ấy Bồ-tát Đắc Đại Thế ở ngay trước Phật, đem đầu mặt lạy sát đất, thì vô số thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều chấn động sáu cách, trời mưa hoa Tu-mạn-na, trong đó chư Phật, Thế Tôn hiện tại đều thọ ký. Bấy giờ Bảo Tạng Như Lai vì Bồ-tát Đắc Đại Thế, thuyết kệ: Công đức bền vững Nay nên tinh tấn Rúng động đại địa Mưa hoa Tu-mạn. Chư Phật mười phương Thọ ký cho ông Đời sau sẽ thành Nhân Thiên Phạm Tôn. Thiện nam tử, Bồ-tát Đắc Đại Thế nghe bài kệ này xong, tâm rất hoan hỷ, liền đứng dậy, ở trước Phật chắp tay lạy sát chân Phật, cách Phật không xa ngồi nghe diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải lại nói với vương tử thứ ba là Vương Chúng: –Thiện nam tử, những phước đức và nghiệp thanh tịnh mà ông đã làm cho tất cả chúng sinh để được Nhứt thiết trí, hãy đem hồi hướng nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, bấy giờ vương tử thứ ba ngồi ở trước Phật, chắp tay bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, như trước đây trong ba tháng, con đã cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng những hạnh thanh tịnh về thân, khẩu, ý của con, phước đức như vậy con nay đem hồi hướng về đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nay nguyện của con là không thể thành Chánh giác nơi thế giới bất tịnh, cũng không nguyện mau thành Chánh giác. Khi con tu hành đạo Bồ-tát, nguyện cho chúng sinh được con giáo hóa trong vô lượng, vô biên thế giới của chư Phật trong mười phương đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được bất thoái với tâm Vô thượng Bồ-đề, được khuyến hóa tu tập theo sáu Ba-la-mật. Nguyện cho con trước hết đối với tất cả các cõi Phật nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương có chư Phật thành Phật đang thuyết pháp, khiến cho con khi ấy bằng Thiên nhãn thanh tịnh thấy khắp tất cả. Nguyện khi con là Bồ-tát có thể làm vô lượng Phật sự như vậy. Ở đời sau, con hành đạo Bồ-tát không có giới hạn. Đối với các chúng sinh đã hóa độ, con làm cho tâm họ được thanh tịnh giống như Phạm thiên. Chúng sinh như thế được sinh trong cõi của con và được vậy con mới thành Chánh giác, đem sự thanh tịnh như trên để trang nghiêm cõi Phật. Nguyện khiến cho tam thiên đại thiên thế giới với vô số cõi Phật trong mười phương làm một cõi Phật. Chung quanh thế giới ấy có tường báu lớn bao bọc. Kho chứa đựng đầy bảy báu, tường đó cao lớn đến cõi Vô sắc, đất bằng lưu ly xanh biếc, không có bụi đất, cát đá, gai gốc nhơ nhớp… Lại không có những tiếp xúc xấu, cũng không có người nữ và danh từ về họ. Tất cả chúng sinh đều do hóa sinh, không ăn bằng cách nhai nuốt…, dùng pháp hỷ Tam-muội làm thức ăn, không có thừa Thanh văn, Bích-chi-phật. Khắp trong nước đó chỉ có các Bồ-tát xa lìa tham dục, sân giận, ngu si và đều tu phạm hạnh. Ngay khi Bồ-tát vừa sinh xong, râu tóc tự rụng, mặc ba pháp y, muốn ăn uống liền có dụng cụ chứa quý báu ở trong tay mặt và tự nhiên trong bát có đầy đủ các thức ăn trăm mùi vị thượng hạng. Khi ấy, các Bồ-tát suy nghó: “Chúng ta không nên ăn thức ăn này, ta hãy đem đến cúng dường chư Phật, chúng Thanh văn và cấp thí cho những người bần cùng trong mười phương. Có các ngạ quỷ đang chịu khổ do đói khát thiêu đốt thân, ta hãy đến nơi đó cung cấp đầy đủ cho họ. Chánh chúng ta nên tu hạnh Pháp hỷ thực Tam-muội”. Nghó như vậy xong, các vị ấy được pháp Tam-muội của Bồ-tát. Tam-muội đó tên là Bất khả tư nghị hạnh. Được Tam-muội này xong, các vị ấy liền được thần lực vô ngại, đến nơi vô lượng, vô biên thế giới chư Phật trong hiện tại để cúng dường chư Phật và Tỳ-kheo Tăng, cấp thí cho kẻ bần cùng hạ tiện, loài ngạ quỷ. Làm việc bố thí xong, các vị ấy thuyết pháp cho họ. Ngay trong bữa ăn, các vị ấy qua lại khắp nơi và trở về quốc độ của mình, đem y phục, châu báu cùng các vật cần dùng cúng dường chư Phật cho đến ngạ quỷ cũng như vậy rồi mới tự dùng. Nguyện làm cho thế giới của con không có tám nạn, bất thiện, khổ não; cũng không có các việc thọ giới, phá giới, sám hối và các danh từ đó. Nguyện cho thế giới của con thường có vô lượng các loại châu báu cất chứa đầy kho. Cây áo châu báu mà mười phương thế giới chưa từng có, chưa từng thấy nghe, cho đến cả ức năm nói về danh từ của những loại đó cũng không thể hết. Nguyện nơi thế giới của con, các Bồ-tát muốn thấy sắc vàng, tùy ý được thấy; muốn thấy sắc bạc thì cũng tùy ý thấy. Ngay khi thấy sắc bạc thì không mất tướng sắc vàng. Ngay khi thấy tướng sắc vàng thì không mất tướng sắc bạc; pha lê, lưu ly, xa cừ, mã não, xích trân châu, vô số châu báu cũng tùy ý được thấy như vậy. Muốn thấy A-kiệt-lưu hương, Đa-già-lưu hương, Đa-ma-la-bạt, Chiên-đàn trầm thủy, Xích chiên-đàn và Ngưu đầu chiên-đàn, Thuần chiên-đàn thì tùy ý được thấy; muốn thấy trầm thủy cũng tùy ý thấy. Đang thấy trầm thủy thì không mất chiên-đàn. Đang thấy chiên-đàn thì không mất trầm thủy… Ngoài ra cũng như vậy, vô số các sự nguyện cầu đều thành tựu. Nguyện cho thế giới của con không có mặt trời, mặt trăng. Các Bồ-tát có ánh sáng rộng lớn tự nhiên phát ra theo sự mong cầu và có thể chiếu đến cả trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới. Nhờ ánh sáng này nên không có ngày đêm. Các hoa nở thì biết đó là phần ngày, các hoa khép lại thì biết đó là phần đêm. Thế giới có khí hậu điều hòa, không có lạnh, nóng và già, bệnh, chết. Nếu Bồ-tát nào chỉ còn một đời rồi sẽ sinh ở phương khác, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền đi đến cung trời Đâu-suất ở phương khác, sau khi qua đời thì thành Phật. Nếu con thành Chánh giác xong, không ở nơi cõi này nhận Bát-niết-bàn. Nếu khi con Bát-niết-bàn thì ở ngay giữa hư không. Nếu các Bồ-tát muốn gì thì tự nhiên có được. Chung quanh thế giới đó thường có trăm ngàn ức na-do-tha âm nhạc tự nhiên. Trong âm nhạc này không có tiếng dục tưởng mà thường phát ra tiếng sáu Ba-la-mật, tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ-kheo Tăng, tiếng Bồ-tát tạng, tiếng nghóa thâm sâu. Đối với các âm thanh đó, các Bồ-tát hiểu được tùy theo căn cơ từng vị. Kính bạch Đức Thế Tôn, khi con thực hành đạo Bồ-tát, nếu con được thấy trăm ngàn ức na-do-tha a-tăng-kỳ thế giới chư Phật với vô số trang nghiêm, vô số anh lạc, vô số tướng mạo, vô số trú xứ, vô số ý nguyện thì khiến cho thế giới của con cũng được thành tựu các việc trang nghiêm như vậy, chỉ trừ Thanh văn, Bích-chi-phật. Lại nữa, thế giới của con cũng không có đời năm trược, ba đường ác…, các núi Tu-di, Đại tiểu Thiết vi, đất cát, ngói đá, biển lớn, rừng cây, chỉ thuần có cây báu, hơn ở trên trời. Thế giới của con lại không có các loại hoa khác, chỉ có hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la như trên trời. Không có các thứ dơ xấu, thuần có hương thơm tỏa khắp trong nước. Các Bồ-tát chỉ còn một lần sinh, không có một người nào sinh ở cõi khác, chỉ trừ đến phương khác để thành Phật, như đến cõi Đâu-suất, khi qua đời sẽ thành Phật. Kính bạch Đức Thế Tôn, khi con hành đạo Bồ-tát, không có kỳ hạn cần phải thành tựu quả báo như vậy để làm thanh tịnh cõi Phật. Những vị Bồ-tát còn một lần sinh có khắp nơi trong đó. Các Bồ-tát này không một người nào là không được nhận sự giáo hóa từ nơi con rồi mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tu tập sáu Ba-la-mật. Như vậy, các Bồ-tát ấy đều bắt đầu nhờ con giáo hóa mà phát tâm tu tập, an trú vào sáu Ba-la-mật. Nếu chúng sinh trong cõi San-đề-lam này sinh vào cõi con thì tất cả những sự khổ não đều chấm dứt hết. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thực hành đạo Bồ-tát, cốt yếu phải thành tựu các việc hy hữu như vậy, sau đó vào đời vị lai mới thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nguyện cây Bồ-đề tên Tuyển trạch kiến thiện trân bảo chu vi tỏa rộng vừa một vạn bốn cõi thiên hạ, có hương thơm, ánh sáng lan khắp một vạn ba ngàn đại thiên thế giới. Dưới cây Bồ-đề có tòa Kim cang bằng vô số thứ châu báu, chu vi bằng năm cõi Tứ thiên hạ, tòa đó tên là Thiện trạch tịch diệt trí hương đẳng cận, cao một vạn bốn ngàn do-tuần. Tại tòa này, con ngồi kiết già và chỉ trong một niệm thành Chánh giác, cho đến Bát-niết-bàn, thường ở nơi đạo tràng, dưới cây Bồ-đề, ngồi nơi tòa Kim cang không hư hoại, lại sẽ hóa ra vô lượng chư Phật và chúng Bồ-tát, sai đến các thế giới của chư Phật khác để giáo hóa chúng sinh. Mỗi một Hóa Phật trong khoảng thời gian một bữa ăn vì các chúng sinh thuyết giảng pháp vi diệu, liền ngay trong khoảng bữa ăn khiến cho vô lượng, vô biên chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vừa phát tâm xong, liền không thoái chuyển nơi đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Hóa Phật và chúng Bồ-tát này thường làm các việc hiếm có như vậy. Khi con thành Chánh giác xong, nguyện: Ở các thế giới khác có các chúng sinh nào chiêm ngưỡng thân con và chúng sinh chiêm ngưỡng thân con với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thì chắc chắn họ được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đến Niết-bàn đều không xa lìa sự chiêm ngưỡng Phật. Nguyện cho chúng sinh trong thế giới của con đầy đủ sáu căn, không bị khiếm khuyết. Các Bồ-tát muốn thấy con thì tùy theo chỗ ở của họ, đi-đứng-nằm-ngồi đều được thấy con. Các Bồ-tát ấy phát tâm xong, lập tức thấy con ngồi nơi Bồ-đề đạo tràng, bên gốc cây. Trước đó, nếu đối với các pháp tướng có chỗ nghi ngờ, chưa được con giảng thuyết, thì ngay khi thấy con, họ liền được dứt hết nghi ngờ và hiểu được nghóa sâu xa của pháp tướng. Nguyện đời sau, tuổi thọ của con vô lượng, không thể tính kể, trừ Bậc Nhất Thiết Trí. Tuổi thọ của Bồ-tát cũng như vậy. Trong một niệm con thành Chánh giác xong, ngay trong một niệm có vô lượng Bồ-tát râu tóc tự rụng, mặc ba pháp y cho đến khi chứng Niết-bàn. Nơi khoảng thời gian đó không có một người nào râu tóc để dài và mặc y phục thế tục, tất cả đều mặc pháp phục Sa-môn. Bấy giờ, Phật bảo vương tử thứ ba: –Thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Ông là Đại trượng phu thuần thiện, thông tuệ, khéo hiểu, có thể phát nguyện lớn rất khó như vậy, làm các việc công đức hết sức sâu xa khó có thể nghó bàn, chỉ có trí tuệ vi diệu mới có thể làm được. Ông là thiện nam, vì chúng sinh nên tự phát nguyện tôn quý như vậy, nhận cõi nước tươi đẹp, vì thế nên danh hiệu của ông là Văn-thù-sư-lợi. Trong đời sau, trải qua hai hằng hà sa vô lượng, vô biên, vô số kiếp, vào vô lượng, vô biên, vô số kiếp thứ ba, ở phương Nam này có thế giới của Phật tên là Thanh tịnh vô cấu bảo trí. Cõi San-đề-lam này cũng nhập vào trong đó. Trong thế giới kia có vô số thứ trang nghiêm, ông ở trong đó sẽ thành Bậc Chánh Giác hiệu là Phổ Hiện gồm đủ tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Các chúng Bồ-tát đều thanh tịnh. Nguyện của ông được thành tựu đầy đủ như đã nói trên. Thiện nam tử, khi ông thực hành đạo Bồ-tát, đã vun trồng các căn lành nơi vô lượng, nơi vô lượng ức các Đức Như Lai, cho nên tất cả chúng sinh đều lấy ông làm thuốc. Tâm ông thanh tịnh, có thể phá tan phiền não, thêm các căn lành. Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi ở trước Phật, bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con được thành tựu, bản thân con được lợi ích, con xin nguyện vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười phương đều chấn động sáu cách, trong đó chư Phật hiện tại thuyết pháp thọ ký cho con. Con cũng nguyện cho tất cả chúng sinh nhận niềm vui hoan hỷ, giống như Bồ-tát vào Đệ nhị thiền với diệu dụng tự tại. Trời mưa hoa Mạn-đà-la đầy khắp thế giới, trong hoa thường phát ra tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ-kheo Tăng, tiếng sáu Ba-la-mật, mười lực, vô sở úy… đủ các tiếng như vậy. Nguyện khi con đảnh lễ Phật Bảo Tạng thì các tướng trạng như thế liền xuất hiện. Nói như vậy xong, Văn-thù-sư-lợi đem đầu mặt sát đất lạy Phật. Ngay khi ấy, vô lượng, vô biên, vô số thế giới trong mười phương đều chấn động sáu cách. Trời mưa hoa Mạn-đà-la giữa hư không, tất cả chúng sinh nhận niềm vui hỷ lạc giống như Bồ-tát vào Đệ nhị thiền với diệu dụng tự tại. Khi ấy, các Bồ-tát chỉ nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ-kheo Tăng, tiếng sáu Ba-la-mật, mười lực, vô sở úy, với các tiếng như vậy. Bấy giờ, thấy nghe việc này, các Bồ-tát ở phương khác rất ngạc nhiên, cho là việc chưa từng có, đồng bạch với Phật của mình: –Vì sao có điềm tốt này ứng hiện? Chư Phật đều bảo các Bồ-tát: –Chư Phật trong mười phương, mỗi vị đều vì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi mà thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do đó nên điềm lành này ứng hiện. Bấy giờ, Bảo Tạng Như Lai vì Văn-thù-sư-lợi nói kệ: Ý đẹp rộng lớn Hãy nên đứng dậy Chư Phật mười phương Thọ ký cho ông Ngay trong đời sau Thành đạo tôn thắng Đại địa thế giới Chấn động sáu cách Chúng sinh nhận đủ Các sự diệu lạc. Thiện nam tử, nghe kệ xong, Văn-thù-sư-lợi rất hoan hỷ, đứng dậy chắp tay lạy sát chân Đức Phật và ngồi cách Phật không xa để nghe diệu pháp. KINH BI HOA <卷 id="32807829">QUYỂN 4 <卷 id="32807830">Phẩm 4: NGUỒN GỐC CÁC BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 2) Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải thưa với vương tử thứ tư là Năng-già-nô,… cho đến phát nguyện cũng như ở trước. Đức Phật bảo Năng-già-nô: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, khi ông hành đạo Bồ-tát đã dùng trí tuệ Kim cang phá tan vô lượng, vô biên các núi phiền não của chúng sinh, làm xong Phật sự lớn như vậy rồi, sau đó mới thành Chánh giác. Thiện nam tử, vì thế nên hiệu của ông là Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức. Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức: –Thiện nam tử, ông ở vào đời sau, qua hằng hà sa số kiếp thứ nhất, vào hằng hà sa số kiếp thứ hai, về phương Đông, vượt qua mười vô số thế giới như số cát sông Hằng, có thế giới tên là Bất tuần. Thiện nam tử, ở nơi đó, ông sẽ được thành Phật, hiệu là Phổ Hiền, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới của Phật đó có đầy đủ các thứ trang nghiêm đẹp đẽ như ông đã nguyện. Thiện nam tử, khi Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho Đại Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức thành Bậc Vô Thượng Chánh Giác, trong hư không có vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha chư Thiên khen ngợi: “Lành thay! Lành thay!”, rồi mưa xuống hương thơm Ngưu đầu chiên-đàn, A-già-lưu, hương Đa-già-lưu, hương Đa-ma-la-bạt tinh và hương bột để cúng dường. Bấy giờ Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, con xin kính lễ chư Phật, Thế Tôn, xin nguyện ngay lúc ấy, trong vô số thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, có đầy hương thơm vi diệu của chư Thiên, các loại chúng sinh hoặc tại địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trên cõi trời, trong nhân gian, khi nghe được mùi thơm ấy thì thân tâm không còn các bệnh khổ não. Thiện nam tử, khi Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức thưa như vậy xong, lập tức lạy Phật thì hằng hà sa vô số thế giới trong mười phương đều có hương thơm vi diệu bao bọc chung quanh. Chúng sinh nào nghe được mùi hương đó thì thân tâm đều được xa lìa các khổ não. Vì Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức, Bảo Tạng Như Lai thuyết kệ: Tuệ Kim cang hay trừ Nay ông hãy đứng dậy Thế giới Phật mười phương Có hương thơm trùm khắp. Cho vô lượng chúng sinh Được an lạc hoan hỷ Vị lai ông thành Phật Vô Thượng Thế Gian Giải. Thiện nam tử, lúc ấy Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh Công Đức nghe kệ xong, tâm rất vui mừng, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải lại thưa với vương tử thứ năm là Vô Sở Úy, cho đến phát tâm cũng như ở trước. Vương tử thưa với Phạm chí: –Nay nguyện của con là không muốn thành Chánh giác ở thế giới bất tịnh này. Nguyện khi con thành Phật, trong thế giới đó không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đất ở đó toàn bằng lưu ly báu màu xanh biếc… nói rộng ra đều như các sự việc tốt đẹp ở thế giới Liên hoa. Vương tử Vô Úy bèn đem hoa sen dâng lên Phật Bảo Tạng và thưa: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, nhờ Phật lực, nay ở trước Phật, con nguyện sẽ được thấy vô số thiền định vi diệu. Lại nguyện trời mưa vô số hoa sen lớn như bánh xe đầy khắp vô số thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, nhiều như vi trần. Tất cả chúng sinh trong các thế giới ấy đều trông thấy mưa hoa sen. Thấy rồi, họ đều rất hoan hỷ. Thiện nam tử, vương tử Vô Úy thưa như vậy xong, nhờ Phật lực cho nên ngay khi ấy liền được thấy vô số thiền định vi diệu. Trời mưa vô lượng hoa sen lớn như bánh xe đầy khắp vô số thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương. Nơi các quốc độ của chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, tất cả đại chúng đều trông thấy sự việc này, thấy xong, họ rất hoan hỷ. Bấy giờ, Phật bảo vương tử Vô Úy: –Thiện nam tử, ông phát thệ nguyện lớn lao sâu xa nhận cõi Phật thanh tịnh như thế, lại có thể mau được thấy vô số thiền định vi diệu. Do nguyện không hư dối nên trời mưa vô lượng hoa sen như vậy. Vương tử Vô Úy bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, con nguyện cho các hoa này đều trụ giữa hư không, không còn rơi xuống đất. Phật Bảo Tạng bảo vương tử Vô Úy: –Thiện nam tử, nay ông đem các hoa sen ấn lên hư không một cách nhanh chóng, do đó, nên hiệu của ông là Hư Không Ấn. Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Hư Không Ấn: –Thiện nam tử, ông ở đời sau trải qua một hằng hà sa số kiếp rồi qua hằng hà sa số kiếp thứ hai, về phương Đông nam, cách cõi Phật này trăm ngàn vạn ức hằng hà sa thế giới, có thế giới tên là Liên hoa, ở đó ông sẽ thành Bậc Chánh Giác hiệu là Liên Hoa Tôn gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đại chúng toàn là các bậc Đại Bồ-tát, nhiều vô lượng không thể tính kể. Đức Phật đó sống lâu vô lượng, vô biên, tất cả các sở nguyện đều được thành tựu. Khi ấy, Bồ-tát Hư Không Ấn đem đầu mặt lạy Đức Bảo Tạng Như Lai và ngồi cách Phật không xa để nghe diệu pháp. Vì Bồ-tát Hư Không Ấn, Đức Thế Tôn thuyết kệ: Thiện nam tử nên biết Có người đã lợi mình Dứt phiền não trói buộc Luôn khiến đạt tónh lặng Những công đức làm được Nhiều như cát sông Hằng Trong vi trần thế giới Thành tựu không hề mất. Ông vào đời vị lai Thành tựu đạo vô thượng Như chư Phật quá khứ Hoàn toàn không sai khác. Thiện nam tử, Bồ-tát Hư Không Ấn nghe kệ xong rất vui mừng, hoan hỷ. Thiện nam tử, khi ấy, Phạm chí Bảo Hải thưa với vương tử thứ sáu là Hư Không,… cho đến phát tâm cũng như trên. Vương tử Am-bà-la bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nay nguyện của con là không muốn thành Chánh giác ở thế giới bất tịnh này… nói lược… như nguyện của Bồ-tát Hư Không Ấn. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, con nguyện trong vô số thế giới nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương tự nhiên có lọng đẹp bằng bảy báu làm toàn bằng kim cương che khắp nơi trên hư không. Lọng này có treo linh bằng bảy báu để trang trí. Lọng và linh báu đó thường phát ra tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ-kheo Tăng, tiếng sáu Ba-la-mật, sáu thần thông, mười lực, vô úy… Nơi thế giới đó, chúng sinh được nghe các thứ tiếng như vậy liền phát tâm thành Chánh giác. Phát tâm xong, lập tức họ được bất thoái chuyển. Trong linh báu phát ra tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, cho đến tiếng Vô sở úy, vang khắp các thế giới trong mười phương. Bồ-tát Hư Không Ấn nhờ Phật lực nên cũng nghe được. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện con được thành tựu, bản thân con được lợi ích, nay con nguyện được Tam-muội Tri nhật, nhờ sức Tam-muội nên tăng thêm tất cả các căn lành. Khi con được Tam-muội xong, cúi xin chư Phật thọ ký cho con thành Chánh giác. Nói lời nguyện này xong, nhờ Phật lực nên vương tử liền được Tam-muội Tri nhật. Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi vương tử: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nguyện của ông hết sức sâu xa, do nhân duyên công đức sâu xa đó, nên ngay khi ấy ở các thế giới nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương tự nhiên có lọng đẹp bảy báu làm toàn bằng Kim cương che khắp nơi trên hư không, có linh trang nghiêm bằng bảy báu, trong linh thường phát ra tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, cho đến Vô sở úy. Lúc ấy có trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh nghe các âm thanh ấy xong, liền phát tâm thành Chánh giác. Do đó nên hiệu của ông là Hư Không Nhật Quang Minh. Phật lại bảo Bồ-tát Hư Không Nhật Quang Minh: –Ông ở đời sau, trải qua vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng lần thứ nhất, rồi vào vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng lần thứ hai, về phương Đông cách đây hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Nhật Nguyệt, ở đó ông sẽ thành Bậc Chánh Giác hiệu là Pháp Tự Tại Phong Vương gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bồ-tát Hư Không Nhật Quang Minh nghe thọ ký như vậy xong, liền lạy sát chân Phật. Đức Thế Tôn vì Hư Không Nhật Quang Minh thuyết kệ: Thiện nam, hãy đứng dậy! Lành thay tự điều ngự Đem tịch tónh đại bi Đến tất cả chúng sinh. Độ thoát, chấm dứt khổ Cuối cùng được giải thoát Trí tuệ phân biệt rõ Đạt đến đạo Vô thượng. Thiện nam tử, Bồ-tát Hư Không Nhật Quang Minh nghe kệ xong, rất hoan hỷ, đứng dậy chắp tay đảnh lễ sát chân Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe diệu pháp. Bấy giờ, Phạm chí Bảo Hải lại thưa với vương tử thứ bảy là Thiện Tý… cho đến sự phát tâm cũng lại như trước. Vương tử bạch Phật: –Nay nguyện của con không muốn thành Chánh giác ở thế giới bất tịnh này. Con nguyện đời sau, trong thế giới của con không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, danh từ về nữ nhân và do thai sinh cùng các núi Tu-di, Đại tiểu Thiết vi, đồi, gò, cát đá dơ nhớp, không có gió độc, gai góc, rừng rú, cây cối, sông to biển lớn, mặt trời mặt trăng, ngày đêm, chốn tối tăm bẩn thỉu. Các loại chúng sinh không đại tiểu tiện, khạc nhổ xú uế, thân tâm không bị các việc không vui. Đất bằng mã não, không có các bụi bặm, chỉ hoàn toàn trang nghiêm bằng trăm ngàn vô lượng châu báu, không có các cỏ rác, chỉ có hoa Mạn-đà-la tươi đẹp và vô số cây báu để trang sức. Bên gốc cây báu có lọng báu đẹp. Lại có vô số y báu, tràng hoa, các âm nhạc, hương hoa, anh lạc báu, các loại như vậy trang trí như cây báu kia. Trong thế giới đó không có ngày đêm, dùng hoa nở và khép để biết thời gian. Các Bồ-tát ở trong hoa bằng vàng tự nhiên sinh ra và liền được vô số thiền định trang nghiêm vi diệu. Nhờ sức Tam-muội ấy nên các Bồ-tát được thấy chư Phật ở các thế giới nhiều như vi trần khắp mười phương và cũng nhờ Tam-muội này nên trong khoảng một niệm họ được đầy đủ sáu phép thần thông. Nhờ Thiên nhó nên nghe tất cả âm thanh của chư Phật hiện đang thuyết pháp ở các thế giới trong mười phương. Nhờ Túc mạng trí nên biết được những việc của vô số đời quá khứ như số vi trần trong một cõi Phật. Nhờ Thiên nhãn nên thấy tất cả những thứ vi diệu ở các thế giới của chư Phật trong mười phương. Nhờ Tha tâm trí nên ngay trong một niệm biết được tâm ý của các chúng sinh nhiều như số vi trần trong một thế giới Phật, cho đến khi thành tựu Chánh giác cũng không mất Tam-muội này. Lúc sáng sớm yên tịnh, bốn phía có gió trong lành thoảng nhẹ, thổi hương thơm vi diệu và rải các thứ hoa. Do sức gió nên các Bồ-tát ra khỏi Tam-muội, liền được năm lực như ý thông suốt. Do nhờ năng lực đó nên ngay trong khoảng một niệm, các Bồ-tát có thể đi đến các cõi Phật trong mỗi mỗi phương khắp mười phương, nơi vô số thế giới của chư Phật nhiều như vi trần trong một cõi Phật, cúng dường chư Phật hiện tại, xin lãnh thọ diệu pháp và ngay trong một niệm liền trở về thế giới cũ mà không hề trở ngại. Các Bồ-tát ở trong đài hoa của hoa Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, ngồi kiết già tư duy các pháp môn, muốn được thấy con (vị Phật tương lai) ở phương nào thì dù cho đang ngồi hướng về phía nào cũng được thấy. Người nào đối với giáo pháp sâu xa có chỗ nghi ngờ, nhờ thấy con (vị Phật tương lai) nên liền được hết nghi. Nếu có người muốn nghe diệu pháp hỏi nghóa, nhờ thấy con (vị Phật tương lai) nên liền được hiểu rõ, không còn nghi ngờ. Các Bồ-tát nào hiểu rõ không có ngã và ngã sở nên có thể xả bỏ tất cả thân căn, mạng căn, nhất định không thoái lui nơi quả vị Vô thượng Bồ-đề. Thế giới ấy không có tất cả các tên về bất thiện, cũng không có danh từ thọ giới, phá giới, hủy giới, sám hối. Tất cả chúng sinh đều có ba mươi hai tướng tốt, được sức mạnh như Na-la-diên cho đến khi thành Chánh giác. Tất cả mọi người có sáu căn đầy đủ. Nơi đó, chúng sinh ngay khi vừa mới sinh râu tóc tự rụng, mặc ba pháp y, phân biệt rành rẽ được Tam-muội cho đến thành Chánh giác không bị thoái lui nửa chừng. Tất cả các căn của các chúng sinh đều được hài hòa. Tất cả mọi người không bị khổ về già, bệnh. Như các Bồ-tát khi qua đời đều ngồi kiết già nhập Hỏa định, tự thiêu thân mình, sau khi thiêu xong, gió trong lành bốn phía thổi đến làm cho xá-lợi được rải tới các phương không có thế giới Phật. Ngay khi ấy, xá-lợi biến thành Ma-ni bảo châu, như bảo châu của Chuyển luân thánh vương. Chúng sinh nào được thấy và tiếp xúc với bảo châu ấy thì không còn bị đọa trong ba đường ác, cho đến được Niết-bàn, không còn bị các khổ, liền được xả thân sinh về phương khác, nơi đang có chư Phật, được lãnh thọ diệu pháp, phát tâm thành Chánh giác không thoái chuyển. Nếu khi qua đời, tâm chúng sinh ở nơi đó vẫn ở trong định không bị tán loạn, không bị các nỗi khổ về ái biệt ly… Sau khi qua đời không còn bị đọa vào tám nạn hay sinh về thế giới không có Phật… cho đến khi được thành Chánh giác, thường được thấy Phật, lãnh thọ diệu pháp, cúng dường chúng Tăng. Tất cả chúng sinh xa lìa tham dục, sân hận, ngu si, ân ái, ganh ghét, vô minh, kiêu mạn. Thế giới không có Thanh văn, Duyên giác. Đại chúng ở khắp trong nước đó chỉ thuần là các Đại Bồ-tát…, tâm họ hòa dịu không ái trược, kiên cố không thoái lui đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được các Tam-muội. Thế giới ấy chỉ có ánh sáng thanh tịnh. Các thế giới của chư Phật nhiều như vô số vi trần trong mười phương đều được nghe đến thế giới của con. Thế giới của con có hương thơm vi diệu bay khắp vô lượng thế giới của chư Phật như số vi trần trong mười phương. Chúng sinh trong thế giới của con thường được an lạc, chưa từng nghe tiếng về cảm giác khổ. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thực hành đạo Bồ-tát không có giới hạn nên con cần phải trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh như vậy, làm cho các loài chúng sinh ở khắp trong cõi nước đó đều được thanh tịnh, sau đó con mới thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, con thành Chánh giác xong sẽ phát ra vô lượng, vô biên ánh sáng chiếu khắp các thế giới của Phật như số vi trần khắp mười phương, làm cho chúng sinh ở những nơi ấy đều được thấy con với ba mươi hai tướng tốt. Ngay khi ấy, họ được sạch hết phiền não tham dục, sân giận, ngu si, ganh ghét, vô minh, kiêu mạn và phát tâm thành Chánh giác, được Tam-muội Nhẫn nhục đà-la-ni như đã nguyện. Nhờ thấy con, các chúng sinh ở chỗ rét buốt được ấm áp, an vui, giống như Bồ-tát khi vào Đệ nhị thiền, nhờ thấy con nên thân tâm được diệu lạc bậc nhất và phát tâm thành Chánh giác. Nếu người đó qua đời, chắc chắn sẽ sinh vào thế giới Phật của con, sinh xong liền không bị thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các hàng súc sinh, ngạ quỷ, chúng sinh trong địa ngục nóng đốt cũng được thọ hưởng như trên. Chư Thiên được thấy ánh sáng ấy gấp bội và tuổi thọ của con được lâu dài vô lượng, vô biên không thể tính kể, trừ Bậc Nhất Thiết Trí. Bạch Đức Thế Tôn, con thành Chánh giác xong, được chư Phật đang ở trong vô lượng, vô biên thế giới khắp mười phương khen ngợi. Ngoài ra, nếu các chúng sinh nào được nghe tiếng khen ngợi con như vậy mà nguyện làm việc lành thì mau được sinh vào nước của con. Sau khi qua đời, chắc chắn họ sẽ sinh vào nước con, chỉ trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phá hoại Tam bảo, hủy báng Thánh nhân. Bạch Đức Thế Tôn, con thành Chánh giác xong, chúng sinh ở nơi vô lượng, vô biên, vô số khắp mười phương nếu nghe tiếng con, phát nguyện muốn sinh về thế giới của con thì các chúng sinh ấy, khi gần qua đời, đều được thấy con cùng các đại chúng vây chung quanh. Ngay khi đó, con nhập Tam-muội Vô ế. Nhờ sức Tam-muội này nên con ở ngay trước mặt họ thuyết pháp. Nhờ nghe diệu pháp nên họ liền dứt trừ tất cả khổ não, tâm rất hoan hỷ. Tâm hoan hỷ nên được Tam-muội Bảo minh. Nhờ sức Tam-muội ấy nên tâm được chánh niệm và vô sinh nhẫn. Sau khi qua đời, chắc chắn sinh vào thế giới của con. Ngoài ra, ở các thế giới khác, chúng sinh nào không có bảy loại tài sản Thánh, không muốn tu tập thực hành ba thừa, không muốn sinh trong hàng trời, người, cũng không tu hành tất cả thiện căn và ba loại phước, làm việc phi pháp, nhớp nhúa, luyến ái, tham dục, chuyên thực hành tà kiến thì với chúng sinh như vậy con nguyện nhập Vô phiền não Tam-muội. Do năng lực của Tam-muội đó, nếu các chúng sinh kia khi qua đời, con cho đại chúng đứng ở trước mặt, vì họ thuyết diệu pháp, lại vì họ, con thị hiện tất cả những gì có trong cõi Phật, khuyến khích cho họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng sinh ấy nghe xong, sinh lòng tin vô cùng với con, được hoan hỷ, an lạc, liền phát tâm thành Chánh giác và làm cho chúng sinh ấy dứt trừ khổ não, dứt trừ khổ não xong, được Tam-muội Nhựt đăng quang minh, dứt trừ tối tăm si ám. Sau khi qua đời, họ liền sinh về thế giới của con. Bấy giờ Bảo Tạng Như Lai khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Ông có thể phát được nguyện lớn lao vi diệu như vậy. –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện con được thành tựu, bản thân con được lợi ích, con nguyện cho các thế giới của chư Phật như số vi trần trong mười phương đều có mưa hương thơm Ưu-đà-la-bà-la và hương thơm Chiên-đàn, hương thơm Ngưu đầu chiên-đàn cùng vô số hương bột thơm. Chúng sinh nào ở khắp mọi nơi nghe được mùi hương thơm này đều phát tâm thành Chánh giác, làm cho con ngày hôm nay được Tam-muội, nguyện rắn chắc như Kim cương. Nhờ năng lực của Tam-muội đó nên được trông thấy mưa các thứ hương thơm trong các thế giới ấy. Thiện nam tử, bấy giờ vương tử thưa như vậy xong liền được Tam-muội, tự thấy thế giới của chư Phật nhiều như số vi trần trong mười phương có các thứ hương thơm, hương Ưu-đà-la-bà-la, hương Ngưu đầu chiên-đàn, vô số hương bột và thấy ở mỗi phương đều có vô số chúng sinh cung kính phát tâm thành Chánh giác. Bảo Tạng Như Lai bảo vương tử: –Thiện nam tử, nguyện cầu của ông đã được thành tựu. Trời đã mưa các thứ hương thơm vi diệu, có vô số chúng sinh chắp tay cung kính phát tâm thành Chánh giác. Do đó hiệu của ông là Sư Tử Hương. Ông ở đời sau, trải qua một hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, ở phương trên cách đây bốn mươi hai hằng hà sa thế giới với vô số thế giới của chư Phật nhiều như vi trần, có thế giới tên là Thanh hương quang minh vô cấu, ở nơi đó ông sẽ được thành Bậc Chánh Giác hiệu là Quang Minh Vô Cấu Kiên Hương Phong Vương gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nam tử, lúc ấy Bồ-tát Sư Tử Hương đem đầu mặt lạy Bảo Tạng Như Lai sát đất. Như Lai vì Bồ-tát Sư Tử Hương mà thuyết kệ: Thầy trời, người hiện Nhận các cúng dường Vượt khỏi sinh tử Xa lìa khổ vướng. Dứt mọi trói buộc Và bao phiền não Đời sau sẽ được Người, trời tôn quý. Thiện nam tử, bấy giờ Bồ-tát Sư Tử Hương nghe kệ ấy xong, tâm rất vui mừng, liền đứng dậy chắp tay rồi ngồi ở cách chỗ Phật không xa để nghe diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải lại thưa với vương tử thứ tám là Mẫn Đồ…, cho đến phát tâm cũng như trên. Vương tử ở trước Phật, bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, nay nguyện của con là cần phải ở nơi thế giới bất tịnh này tu đạo Bồ-tát. Lại cần phải làm cho mười ngàn thế giới bất tịnh trở nên thanh tịnh, làm cho các thế giới đó được tươi đẹp, sạch sẽ giống như thế giới Thanh hương quang minh vô cấu. Con cũng sẽ giáo hóa vô lượng Bồ-tát, khiến cho tâm họ được thanh tịnh, hướng đến Đại thừa, làm cho thế giới của con được đầy đủ tất cả, sau đó con mới thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện khi con tu hành đạo Bồ-tát, quyết phải vượt hơn các Bồ-tát khác. Suốt bảy năm, con ngồi ngay thẳng, tư duy về công đức thanh tịnh của chư Phật, Bồ-tát và vô số công đức để trang nghiêm cõi Phật. Khi ấy, con liền được thấy vô số các pháp Tam-muội trang nghiêm và một vạn một ngàn Bồ-tát ở trong thiền định tinh tấn tu tập. Bạch Đức Thế Tôn, nếu đời vị lai, các Bồ-tát trong khi thực hành đạo Bồ-tát, cũng nguyện được tất cả Tam-muội như vậy. Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện được Tam-muội Xuất ly tam thế thắng tràng và nhờ sức của Tam-muội đó nên thấy tất cả thế giới của chư Phật vô lượng, vô biên trong mười phương và chư Phật hiện tại ở khắp nơi vượt khỏi ba đời và thuyết pháp cho chúng sinh. Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện được Tam-muội Bất thoái, nhờ sức Tam-muội đó nên trong một niệm thấy tất cả chư Phật, Bồ-tát và các Thanh văn như số vi trần cung kính vây quanh. Nguyện cho con được ở chỗ các Đức Phật ấy, được Tam-muội Vô y chỉ. Do sức từ Tam-muội đó nên cùng một lúc con hóa thân đến khắp các quốc độ của Phật nhiều như vi trần để cúng dường, lễ bái Phật như ở một cõi Phật. Nguyện cho mỗi thân của con dùng vô số châu báu, hương hoa, hương xoa, hương bột thơm đẹp thượng diệu, vô số âm nhạc trang nghiêm cúng dường các Đức Phật. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện mỗi thân con ở chỗ mỗi Đức Phật tu hành đạo Bồ-tát nhiều kiếp như số giọt nước trong biển lớn. Nguyện cho con được Tam-muội Nhất thiết thân biến hóa (Biến hóa tất cả thân), do năng lực từ Tam-muội này nên trong một niệm ở ngay trước từng Đức Phật, con biết được vô số thế giới của chư Phật giống như một cõi Phật. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện cho con được Tam-muội Công đức lực (Năng lực công đức), do sức của Tam-muội này nên ở trước từng Đức Phật đến khắp vô số chỗ chư Phật giống như một cõi Phật, rồi dùng lời tán dương vi diệu để tán dương chư Phật. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện cho con được Tam-muội Bất huyễn, nhờ sức của Tam-muội này nên trong một niệm thấy tất cả chư Phật đầy khắp trong vô lượng, vô biên thế giới ở mười phương. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện cho con được Tam-muội Vô tránh, nhờ sức của Tam-muội này nên thấy khắp các thế giới thanh tịnh vi diệu của chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện cho con được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, nhờ sức của Tam-muội này nên hóa làm thân ở trong địa ngục, vào địa ngục thuyết pháp vi diệu cho chúng sinh ở đấy, khuyên dạy khiến họ phát tâm thành Chánh giác. Các chúng sinh kia được nghe diệu pháp này xong, tức thì phát tâm thành Chánh giác và liền qua đời, được sinh trong loài người, sinh ở chỗ nào cũng đều được gặp Phật, được gặp Phật liền được nghe diệu pháp, lãnh thọ pháp xong được an trụ ngay địa vị Bất thoái chuyển. Đối với Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân…, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Dạ-xoa, La-sát, yêu tinh, quỷ hôi hám, quỷ tha ma, nô lệ, đồ tể hàng thịt, người buôn bán, dâm nữ, súc sinh, ngạ quỷ…, các chúng như vậy con cũng giáo hóa tất cả, đều làm cho họ phát tâm thành Chánh giác. Có các chúng sinh tùy theo chỗ sinh mà mang các hình tướng khác nhau, con phân thân theo như nghiệp chúng đã tạo, tùy theo đấy thọ sự khổ vui và các nghề nghiệp của chúng, nguyện cho con biến hóa ra các thân hình như vậy và tùy theo hành động của họ, giáo hóa dẫn dắt họ. Bạch Đức Thế Tôn, có những chúng sinh với các loại âm thanh khác nhau, nguyện cho con tùy theo vô số âm thanh đó mà thuyết pháp làm cho họ được hoan hỷ. Nhờ hoan hỷ, khuyên họ phát tâm an trụ vào đó, khiến không còn thoái lui nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, con cần phải giáo hóa số chúng sinh trong mười ngàn cõi Phật, làm cho tâm họ được thanh tịnh, không còn tạo các nghiệp phiền não độc hại, không để cho một người nào còn lệ thuộc vào bốn loại ma, huống là nhiều người. Nếu con trang nghiêm mười ngàn cõi Phật thanh tịnh như vậy, như thế giới Thanh Hương Quang Minh Vô Cấu của Phật Quang Minh Vô Cấu Tôn Hương Vương với vô số sự trang nghiêm vi diệu, sau đó con cùng các quyến thuộc mới đạt được ước nguyện như của Bồ-tát Sư Tử Hương kia. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện con thành tựu, bản thân con được lợi ích, con sẽ làm cho tất cả chúng sinh trong mười ngàn thế giới của chư Phật không còn các khổ, tâm được nhu hòa, tâm được điều phục. Người người ở khắp bốn thiên hạ đều thấy Phật, Thế Tôn đang thuyết pháp. Tất cả chúng sinh tự nhiên được vô số của báu, hương hoa, hương bột, hương xoa, vô số y phục và cờ phướn, đem tất cả cúng dường Phật. Sau khi cúng dường Phật, họ đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện cho chúng con nhờ được vô số năng lực từ Tam-muội vi diệu nên được thấy các việc như vậy và khi nguyện như vậy xong, liền như ước nguyện, được thấy tất cả. Bấy giờ Đức Thế Tôn khen A-di-cụ: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nay bốn phía thế giới của ông được bao bọc với một vạn cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm, đời vị lai ông sẽ giáo hóa vô lượng chúng sinh làm cho tâm họ được thanh tịnh, lại sẽ cúng dường vô lượng, vô biên chư Phật, Thế Tôn ở các thế giới ấy. Thiện nam tử, do nhân duyên này nên đổi tên ông là Phổ Hiền, vào đời vị lai trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng, về phương Bắc, cách thế giới này hơn sáu mươi hằng hà sa cõi Phật có thế giới tên là Tri thủy thiện tịnh công đức, ông sẽ ở đó thành Bậc Chánh Giác hiệu là Trí Cương Hống Tự Tại Tướng Vương, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nam tử, khi ấy Đại Bồ-tát Phổ Hiền lạy Phật Bảo Tạng. Đức Như Lai vì Đại Bồ-tát mà thuyết kệ: Đạo sư, hãy đứng dậy Đã được như sở nguyện Khéo điều phục chúng sinh Làm cho đều nhất tâm Vượt qua sông phiền não Và khỏi các pháp ác Đời sau làm đèn sáng Bậc thầy của trời, người. Thiện nam tử, lúc ấy trong chúng hội có mười ngàn người vốn có tâm biếng trễ, hiện tại cũng dốc tâm đồng thanh thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, đời sau chúng con sẽ thành Chánh giác ở cõi Phật nghiêm tịnh như vậy, đó là các thế giới do sự tu hành thanh tịnh của Bồ-tát Phổ Hiền. Bạch Đức Thế Tôn, chúng con cần phải tu đầy đủ sáu Ba-la-mật, nhờ đầy đủ sáu Ba-la-mật nên mỗi người đều thành Chánh giác ở nơi các cõi Phật. Thiện nam tử, khi ấy Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho mười ngàn người đó đều thành tựu đạo quả Chánh giác: –Thiện nam tử, khi Bồ-tát Phổ Hiền thành Chánh giác, các ông sẽ ở trong vạn cõi Phật mà Bồ-tát Phổ Hiền đã tu thanh tịnh, đồng một lúc thành Chánh giác. Có một ngàn vị Phật đồng một hiệu là Trí Xí Tôn Âm Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Lại có một ngàn vị Phật đồng hiệu Tăng Tướng Tôn Âm Vương. Lại có một ngàn vị Phật đồng một hiệu là Thiện Vô Cấu Tôn Âm Vương. Có một ngàn vị Phật đồng một hiệu là Ly Bố Úy Tôn Âm Vương. Có một ngàn vị Phật đồng một hiệu là Thiện Vô Cấu Quang Tôn Âm Vương. Có một ngàn năm trăm vị Phật đồng một hiệu là Nhật Âm Vương. Có năm trăm vị Phật đồng một hiệu là Nhật Bảo Tạng Tôn Vương. Có năm vị Phật đồng một hiệu là Nhạc Âm Tôn Vương. Có hai Đức Phật đồng một hiệu là Nhật Quang Minh. Có bốn Đức Phật đồng một hiệu là Long Tự Tại. Có tám Đức Phật đồng một hiệu là Ly Khủng Bố Xưng Vương Quang Minh. Có mười vị Phật đồng một hiệu là Ly Âm Quang Minh. Có tám vị Phật đồng một hiệu là Âm Thanh Xưng. Có mười một vị Phật đồng một hiệu là Hiển Lộ Pháp Âm. Có chín vị Phật đồng một hiệu là Công Đức Pháp Xưng Vương. Có hai mươi vị Phật đồng một hiệu là Bất Khả Tư Nghị Vương. Có bốn mươi Đức Phật đồng một hiệu là Bảo Tràng Quang Minh Tôn Vương. Lại có một vị Phật hiệu Giác Tri Tôn Tưởng Vương. Có bảy vị Phật đồng môït hiệu là Bất Khả Tư Nghị Âm. Có ba vị Phật đồng một hiệu là Trí Tạng. Có mười lăm vị Phật đồng hiệu là Trí Sơn Tràng. Có năm mươi vị Phật đồng một hiệu là Trí Hải Vương. Có ba mươi vị Phật đồng một hiệu là Đại Lực Tôn Âm Vương. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Sơn Công Đức Kiếp. Có tám mươi vị Phật đồng một hiệu là Thanh Tịnh Trí Cần. Có chín mươi vị Phật đồng một hiệu là Tôn Tướng Chủng Vương. Có một trăm vị Phật đồng một hiệu là Thiện Trí Vô Cấu Lôi Âm Tôn Vương. Có tám mươi vị Phật đồng một hiệu là Thắng Tôn Đại Hải Công Đức Trí Sơn Lực Vương. Có bốn mươi vị Phật đồng một hiệu là Vô Cấu Bồ-đề Tôn Vương. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Trí Giác Sơn Hoa Vương. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Công Đức Sơn Trí Giác. Có ba vị Phật đồng một hiệu là Kim Cang Sư Tử. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Trì Giới Quang Minh. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Thị Hiện Tăng Ích. Có một vị Phật hiệu là Vô Lượng Quang Minh. Có ba vị Phật đồng một hiệu là Sư Tử Du Hý. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Vô Tận Trí Sơn. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Bảo Quang Minh. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Vô Cấu Trí Tuệ. Có chín vị Phật đồng một hiệu là Trí tuệ Quang Minh. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Sư Tử Xưng. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Công Đức Thông Vương. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Vũ Pháp Hoa. Có một vị Phật hiệu là Tạo Quang Minh. Có một vị Phật hiệu Tăng Ích Sơn Vương. Có một vị Phật hiệu Xuất Pháp Vô Cấu Vương. Có một vị Phật hiệu Hương Tôn Vương. Có một vị Phật hiệu Vô Cấu Mục. Có một vị Phật hiệu Đại Bảo Tạng. Có một vị Phật hiệu Lực Vô Chướng Ngại Vương. Có một vị Phật hiệu Tự Tri Công Đức Lực. Có một vị Phật hiệu Y Phục Tri Túc. Có một vị Phật hiệu Đắc Tự Tại. Có một vị Phật hiệu Vô Chướng Ngại Lợi Ích. Có một vị Phật hiệu Trí Tuệ Tạng. Có một vị Phật hiệu Đại Sơn Vương. Có một vị Phật hiệu Viết Lực Tạng. Có một vị Phật hiệu Cầu Công Đức. Có một vị Phật hiệu Hoa Tràng Chi. Có một vị Phật hiệu Chúng Quang Minh. Có một vị Phật hiệu Vô Si Công Đức Vương. Có một vị Phật hiệu Kim Cang Thượng. Có một vị Phật hiệu Pháp Tướng. Có một vị Phật hiệu Tôn Âm Vương. Có một vị Phật hiệu Kiên Trì Kim Cang. Có một vị Phật hiệu Trân Bảo Tự Tại Vương. Có một vị Phật hiệu Kiên Tự Nhiên Tràng Có một vị Phật hiệu Sơn Kiếp. Có một vị Phật hiệu Vũ Ngu Lạc. Có một vị Phật hiệu Tăng Ích Thiện Pháp. Có một vị Phật hiệu Sa-la Vương. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Công Đức Biến Mãn Đại Hải Công Đức Vương. Có một vị Phật hiệu Trí Tuệ Hòa Hiệp. Có một vị Phật hiệu Trí Xí. Có một vị Phật hiệu Hoa Chúng. Có một vị Phật hiệu Thế Gian Tôn. Có một vị Phật hiệu Ưu-đàm-bát Hoa Tràng. Có một vị Phật hiệu Pháp Tràng Tự Tại Vương. Có một vị Phật hiệu Chiên-đàn Vương. Có một vị Phật hiệu Thiện Trụ. Có một vị Phật hiệu Tinh Tấn Lực. Có một vị Phật hiệu Tràng Đẳng Quang Minh. Có một vị Phật hiệu Viết Trí Bộ. Có một vị Phật hiệu Viết Hải Tràng. Có một vị Phật hiệu Diệt Pháp Sinh. Có một vị Phật hiệu Hoại Ma Vương. Có một vị Phật hiệu Chúng Quang Minh. Có một vị Phật hiệu Xuất Trí Quang Minh. Có một vị Phật hiệu Viết Tuệ Đăng. Có một vị Phật hiệu An Ẩn Vương. Có một vị Phật hiệu Viết Trí Ân. Có một vị Phật hiệu Tràng Nhiếp Thủ. Có một vị Phật hiệu Thiên Kim Cang. Có một vị Phật hiệu Chủng Chủng Trang Nghiêm Vương. Có một vị Phật hiệu Vô Thắng Trí. Có một vị Phật hiệu Thiện Trụ Ý. Có một vị Phật hiệu Nguyệt Vương. Có một vị Phật hiệu Vô Thắng Bộ Tự Tại Vương. Có một vị Phật hiệu Sa-lân-đà Vương. Có tám mươi vị Phật đồng một hiệu là Sư Tử Bộ Vương. Có năm mươi vị Phật đồng một hiệu là Na-la-diên Vô Thắng Tạng. Có bảy mươi vị Phật đồng một hiệu là Tụ Tập Trân Bảo Công Đức. Có ba mươi vị Phật đồng một hiệu là Quang Minh Tạng. Có hai mươi vị Phật đồng một hiệu là Phân Biệt Tinh Tú Xưng Vương. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Công Đức Lực Sa-la Vương. Có chín mươi vị Phật đồng một hiệu là Vi Diệu Âm. Có một vị Phật hiệu Viết Phạm Tăng. Có một vị Phật hiệu Đề-đầu-lại-tra Vương. Có một ngàn vị Phật đồng một hiệu là Liên Hoa Hương Trạch Xưng Tôn Vương. Có sáu mươi vị Phật đồng một hiệu là Quang Minh Sí Chử Vương. Có ba mươi vị Phật đồng một hiệu là Liên Hoa Hương Lực Tăng. Có hai vị Phật đồng một hiệu là Vô Lượng Công Đức Đại Hải Trí Tăng. Có một vị Phật hiệu Diêm-phù Âm. Có một trăm lẻ hai vị Phật đồng một hiệu là Công Đức Sơn Tràng. Có một vị Phật hiệu Sư Tử Tướng. Có một trăm lẻ một vị Phật đồng một hiệu là Long Lôi Tôn Hoa Quang Minh Vương. Có một vị Phật hiệu Thiện Thú Chủng Vô Ngã Cam Lộ Công Đức Vương Kiếp. Có một ngàn vị Phật đồng một hiệu là Ly Pháp Trí Long Vương Giải Thoát Giác Thế Giới Hải Nhãn Sơn Vương. Các Đức Phật trên đây đều có đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Các Đức Phật này đồng thành Chánh giác cùng một ngày một giờ, mỗi Ngài ở các thế giới đều sống đến mười trung kiếp. Các Ngài Niết-bàn cũng đồng một ngày. Bát-niết-bàn xong, chánh pháp sau bảy ngày liền diệt. Thiện nam tử, khi ấy mười ngàn người hướng về Phật Bảo Tạng làm lễ. Đức Thế Tôn vì mười ngàn người, thuyết kệ: Long vương hãy đứng Bền vững tự tại Nguyện tốt cao cả Thanh tịnh hòa hợp Các ông dụng ý Nhanh như gió mạnh Siêng năng tu học Sáu Ba-la-mật Đời sau sẽ thành Thầy của trời, người. Thiện nam tử, khi ấy mười ngàn người nghe kệ xong, rất hoan hỷ, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách chỗ Phật không xa để nghe diệu pháp. Thiện nam tử, Phạm chí Bảo Hải lại thưa với vương tử thứ chín là Mật Tô … cho đến phát tâm cũng như trước. Bấy giờ, vương tử ở trước Phật, bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, khi con tu hành đạo Bồ-tát, nguyện chư Phật ở các thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương sẽ làm chứng cho con. Nay ở trước Đức Phật con phát tâm thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện khi thực hành đạo Bồ-tát cho đến lúc thành Phật, trong thời gian đó không sinh tâm hối hận, cho đến lúc thành Phật thường giữ vững nhất tâm không thoái chuyển. Lời nói và việc làm như nhau, cho đến không có một người nào tới quấy nhiễu tâm con. Con lại không cầu Thanh văn, Duyên giác, không khởi tâm dâm dục, tưởng ác. Tâm đó không tương ưng với kiêu ngạo, nghi ngờ, hối hận… Lại cũng không có tâm tham lam, dâm dục, sát sinh, trộm cướp, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác, nói thêu dệt, tham lam, sân hận, tà kiến, ganh ghét, kiêu mạn, khinh khi, lừa dối. Con tu hành đạo Bồ-tát cho đến khi thành Chánh giác, trong khoảng thời gian đó cũng không sinh các pháp ác như thế. Trong từng bước đi, tâm và tâm sở thường nghó nhớ đến chư Phật, được thấy chư Phật, thỉnh nhận diệu pháp, cúng dường chúng Tăng. Con sinh đến nơi nào cũng thường nguyện được xuất gia, ngay khi xuất gia liền được thành tựu ba y phấn tảo. Thường ở bên gốc cây, ngồi một mình tư duy, trụ chốn lan-nhã, thường đi khất thực, không cầu mong lợi dưỡng, thực hành hạnh tri túc, thường giảng thuyết Chánh pháp, thành tựu vô lượng biện tài thông suốt, không phạm tội lớn, không dùng tướng của mình thuyết pháp cho người nữ. Nếu khi thuyết pháp, thường dùng tướng Không, tâm thường nghó đến pháp Không, chắp tay ngồi ngay ngắn, cũng không để lộ răng ra. Nếu có người tu học pháp Đại thừa, thì đối với người đó có ý tưởng như với Thế Tôn, cung kính cúng dường. Nghe người thuyết pháp cũng tưởng như được nghe Phật thuyết. Đối với các Sa-môn, Bà-la-môn ấy sinh tâm cung kính, cúng dường, tôn trọng. Trừ Phật, Thế Tôn, đối với các chúng, khi làm việc bố thí chẳng sinh tâm phân biệt: đây là phước điền, đây không phải là phước điền. Nguyện con đối với pháp thí của người, không sinh tâm ganh ghét. Nếu có chúng sinh bị hình phạt phanh thây, nguyện cho con được xả thân mạng để cứu giúp chúng. Nếu có chúng sinh phạm các tội, nguyện cho con dùng năng lực, lời nói và tiền của để cứu giúp họ, làm cho họ được giải thoát. Nếu có người tại gia, xuất gia tạo các tội lỗi, con nguyện không phơi bày với người khác. Đối với các việc tiếng khen, lợi dưỡng, thường xa lìa như tránh hầm lửa, đao kiếm, cây độc. Bạch Đức Thế Tôn, nếu các nguyện như vậy của con cho đến khi thành Chánh giác đều được thành tựu như hôm nay con đã phát nguyện ở trước Phật, thì khiến cho hai tay con tự nhiên có bánh xe trời một ngàn căm sáng chói như lửa cháy rực. Thiện nam tử, vương tử nói như vậy xong, trong hai tay của ông ngay khi đó có bánh xe một ngàn căm như đã nguyện. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con được thành tựu, bản thân con được lợi ích, thành Chánh giác, con sai bánh xe một ngàn căm này sẽ phát tiếng vang lớn khắp cõi Phật. Như Long vương Nan-đà, Long vương Ưu-ba-nan-đà phát âm thanh lớn đầy khắp thế giới, âm thanh của bánh xe đó cũng như vậy. Đó là âm thanh thọ ký cho Bồ-tát. Âm thanh chánh niệm trí tuệ, âm thanh tu học Không pháp, pháp tạng của chư Phật. Nếu có chúng sinh ở bất cứ nơi nào nghe diệu pháp âm này, lập tức dứt trừ được tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, keo kiệt, ganh ghét và được an tịnh, tư duy về trí tuệ sâu xa của chư Phật, phát tâm thành Chánh giác. Thiện nam tử, khi ấy, vương tử liền sai hai bánh xe đi nhanh như thần túc của chư Phật, bánh xe đó đến các thế giới ác không có Phật trong mười phương, vì các chúng sinh phát ra âm thanh thọ ký cho các Bồ-tát, phát ra âm thanh chẳng mất chánh niệm trí tuệ, phát ra âm thanh tu học pháp Không và Pháp tạng của chư Phật đã có. Bất cứ ở đâu, các chúng sinh nào nghe được pháp âm này thì lập tức diệt được tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, keo kiệt, ganh ghét và được yên tịnh, tư duy về trí tuệ sâu xa của chư Phật, phát Bồ-đề tâm thành Đẳng chánh giác. Bánh xe đó, trở về trước mặt vị vương tử trong thời gian rất ngắn. Thiện nam tử, Bảo Tạng Như Lai khen vương tử: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông thực hành đạo Bồ-tát đã phát nguyện tốt đẹp, cao cả, sai bánh xe ngàn căm đến nơi các thế giới ngũ trược không có Phật, làm cho vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ ức trăm ngàn chúng sinh được tâm không còn uế trược, tâm không não hại và khuyến hóa họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thế nên đổi tên ông là A-súc, ở đời vị lai sẽ làm Thế Tôn. Ông nên ở trước Phật như tâm ưa thích, nguyện nhận cõi Phật với vô số sự trang nghiêm. Bấy giờ, A-súc bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, theo ý nguyện của con là cõi Phật với các loại trang nghiêm như vậy, khiến cho thế giới của con đất toàn bằng vàng, bằng thẳng như lòng bàn tay, có vô số diệu bảo của chư Thiên đầy khắp trong nước đó. Không có các loại núi, gò, ụ đất, cát, đá vụn, gai góc… Đất ở đấy mềm mại giống như Thiên y, khi đi chân đạp lún sâu bốn tấc, giở chân lên đất trở lại bình thường, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cùng các thứ bất tịnh, nhơ nhớp, mà chỉ có hương thơm thanh cao vi diệu của chư Thiên và hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la đầy khắp trong nước ấy. Chúng sinh ở nơi đó không có già, bệnh, tất cả đều sống tự tại, không hề sợ hãi nhau, không bao giờ gây hại cho người khác, không bị chết yểu. Khi sắp qua đời, tâm họ không hối hận, tâm ổn định không tán loạn, chỉ có suy nghó về chư Phật Như Lai. Nếu qua đời thì họ không bị đọa vào đường ác, không sinh nơi đời ngũ trược, nơi không có Phật, cho đến thành Chánh giác thường được thấy Phật, thỉnh thọ diệu pháp, cúng dường chúng Tăng. Chúng sinh nơi đó ít tham dâm, sân hận, ngu si, luôn thực hành mười điều lành. Thế giới ấy không có các thứ nghề nghiệp, không có tội phạm và tên về tội phạm. Cũng không có thiên ma cùng các việc trở ngại cho chánh pháp. Chúng sinh đều có những thân hình tốt đẹp, cũng không phân biệt lớn nhỏ, cao thấp. Tất cả chúng sinh đều hiểu rất sâu xa về diệu lý không có ta và của ta. Cho đến trong mộng, các vị Thanh văn, Bồ-tát cũng không bị xuất bất tịnh. Chúng sinh thường ưa cầu pháp, nghe diệu pháp, không có một người nào sinh kiến chấp điên đảo, cũng không có ngoại đạo. Chúng sinh không có thân tâm mỏi mệt, đều được năm pháp thần thông, không bị các nghiệp đói khát khổ não. Tùy theo sự ưa thích, liền có vô số vật dụng quý báu đựng đầy thức ăn tự nhiên ở nơi tay. Có vô số thức ăn giống như của chư Thiên cõi dục. Không có các chất đờm giải khạc nhổ, đại tiểu tiện, nước mắt dơ nhớp. Cũng không nóng, lạnh, thường có gió thơm mát mẻ chạm thân. Hơi gió thơm vi diệu này tỏa khắp cả trời người mà chẳng cần các loại hương thơm khác. Gió thơm này tùy theo sự cầu mong lạnh ấm của chư Thiên đều làm cho được thỏa mãn. Lại có người cầu gió thơm hoa Ưu-bát-la, gió hương hoa Ưu-đà-sa-la, gió thơm Trầm thủy, gió thơm Đa-già-la, gió thơm A-già-la, vô số gió thơm theo sự mong cầu khi có ý muốn liền được đáp ứng, trừ hẳn cõi năm trược. Nguyện trong quốc độ của con có lầu bảy báu, trong lầu bảy báu đó có giường, tòa ngồi bằng bảy báu, nệm, chiếu, gối đỏ mịn màng, trơn láng, mềm mại như áo trời. Chúng sinh ở trong lầu báu này đều được vui vẻ với sàng tòa ấy. Bốn phía lầu có ao nước tốt đẹp với nước có đầy đủ tám công đức, chúng sinh tùy ý lấy dùng. Quốc độ đó có nhiều cây đa la bằng vàng, vô số hương thơm, hoa quả, đầy đủ y báu thượng hạng, vô số lọng báu được trang trí bằng châu ngọc, anh lạc. Các chúng sinh tùy theo ý thích mà lấy y phục báu đẹp ở ngay trên cây để dùng. Đối với hoa quả, hương thơm… cũng như trên. Bạch Đức Thế Tôn, nguyện cho cây Bồ-đề của con toàn bằng bảy báu, cao một ngàn do-tuần, chu vi thân cây lớn rộng một do-tuần, cành lá tỏa rộng một ngàn do-tuần, thường có gió nhẹ thổi vào cây Bồ-đề, liền phát ra âm thanh vi diệu nói về sáu Ba-la-mật, căn, lực, giác, đạo. Chúng sinh nào nghe âm thanh vi diệu này thì đều được xa lìa tâm dục. Nữ nhân nơi đó thành tựu tất cả các công đức vi diệu, giống như Thiên nữ trên trời Đâu-suất, không có các việc: bất tịnh, nói chia rẽ, keo kiệt, ganh ghét, tâm che giấu… của người nữ. Không cùng kết giao với đàn ông có tâm hữu lậu. Những đàn ông nào sinh tâm dâm dục, đi đến chỗ người nữ và nhìn họ bằng tâm luyến ái, thì ngay trong chốc lát bèn xa lìa tâm dục, phát sinh nhàm chán, lập tức trở lui, liền được Tam-muội thanh tịnh. Do năng lực của Tam-muội đó nên đối với mọi sự trói buộc của các ma, đều được giải thoát, không còn sinh lại tâm ái dục. Người nữ cũng như vậy, khi thấy người nam mà có tâm ái dục, liền có thai thì đều được xa lìa ý tưởng về dâm dục. Trong khi mang thai dù là trai hay gái thân tâm của người nữ cũng không có các việc khổ não, mà được thọ hưởng an lạc vi diệu như thân tâm của chư Thiên trên cung trời Đao-lợi. Người nữ mang thai bảy ngày bảy đêm thọ hưởng an lạc cũng như Tỳ-kheo vào Đệ nhị thiền. Trai hay gái ở trong thai không bị các thứ bất tịnh làm nhơ nhớp. Đủ bảy ngày, đứa bé được sinh ra và ngay khi sinh được thọ hưởng các an lạc với hương thơm vi diệu. Người nữ khi sinh cũng không có các đau đớn khổ cực, mẹ con cùng vào trong nước tắm rửa thân thể. Khi ấy, người nữ được chánh niệm, nhờ sức nơi chánh niệm nên được Tam-muội Ly dục thanh tịnh, nhờ sức của Tam-muội nên tâm thường định, được giải thoát khỏi các sự trói buộc của ma. Chúng sinh nào theo quả báo của nghiệp cũ nên trong vô lượng đời phải làm thân người nữ, do định lực này nên được lìa thân nữ, cho đến khi đắc Niết-bàn. Tất cả nghiệp nữ vónh viễn diệt sạch không còn thọ trở lại. Chúng sinh nào từ nơi vô lượng ức kiếp, theo quả báo của nghiệp cũ nên phải chịu khổ não trong bào thai đến vô lượng kiếp, nguyện cho con thành Chánh giác xong, họ nghe danh hiệu của con liền sinh hoan hỷ, hoan hỷ xong họ liền qua đời, ngay khi còn trong thai họ liền sinh về thế giới của con. Vừa sinh xong, vónh viễn không còn thọ thai nữa, cho đến thành Chánh giác. Chúng sinh nào có nhiều căn lành, liền được đến thế giới của con sinh trong hoa sen. Chúng sinh nào có ít căn lành phải ở trong thai, hoặc nhận thân người nữ mà được sinh trong cõi của con, thì sau đó mới được dứt hẳn việc sinh bằng thai. Các chúng sinh trong cõi của con đều thọ hưởng an lạc vi diệu. Gió thổi nhẹ, cây Kim-đa-la kia phát ra âm thanh vi diệu, đó là âm thanh khổ, không, vô ngã, vô thường… Người nghe âm thanh này được Tam-muội Quang minh, nhờ sức của Tam-muội ấy nên được các Tam-muội Không định sâu xa. Thế giới không có âm thanh và hình tướng về dâm dục. Bạch Đức Thế Tôn, con ngồi bên gốc cây Bồ-đề, ngay trong một niệm thành Chánh giác xong, nguyện cho thế giới của con không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng làm cho ngày đêm sai khác, trừ hoa nở, hoa khép. Con thành Chánh giác xong sẽ đem ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho các chúng sinh đều được Thiên nhãn, do Thiên nhãn nên thấy được vô lượng, vô biên thế giới của chư Phật trong mười phương, khắp nơi chư Phật, Thế Tôn đều đang thuyết pháp. Bạch Đức Thế Tôn, con thành Chánh giác xong, thuyết giảng chánh pháp, làm cho âm thanh ấy vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới, chúng sinh nào nghe được liền được Tam-muội niệm Phật. Các chúng sinh đi đứng, tới lui về phía nào cũng được thấy con. Hoặc đối với các pháp có sự nghi ngờ vướng mắc, nhờ thấy con nên họ liền được dứt hết nghi. Bạch Đức Thế Tôn, con thành Chánh giác xong, vô lượng, vô biên, vô số thế giới chư Phật trong mười phương bất kỳ ở đâu có chúng sinh nào học Thanh văn, học Duyên giác, học Đại thừa mà nghe đến tên con thì khi qua đời liền sinh về thế giới của con. Người nào học Thanh văn, nghe diệu pháp của con được quả A-la-hán với tám giải thoát. Người nào học Đại thừa, nghe diệu pháp của con thì được hiểu sâu Pháp nhẫn Đà-la-ni cùng với các Tam-muội, không thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được làm bà con với vô lượng Thanh văn, số đó vô biên không thể tính đếm, chỉ trừ chư Phật. Bạch Đức Thế Tôn, khi con đã thành Chánh giác, bất kỳ nơi nào con bước đến, chỗ con cất bước hạ chân liền mọc lên hoa sen vàng ngàn cánh, hoa đó vi diệu, có ánh sáng lớn. Con sẽ sai hoa ấy đến chỗ không có Phật để khen ngợi danh hiệu con. Có chúng sinh nào nhờ hoa này mà được nghe lời khen ngợi về danh hiệu con, liền sinh hoan hỷ, trồng các căn lành, muốn sinh về nước con, nguyện khi qua đời đều được sinh đến. Người xuất gia trong các đại chúng của con xa lìa dua nịnh, ganh ghét, gian trá, làm nhơ nhớp Sa-môn, tôn trọng chánh pháp. Đối với tiếng khen, lợi dưỡng, tâm không quý trọng, thường ưa khổ, không, vô thường, vô ngã, luôn siêng năng tinh tấn tôn trọng pháp, quy y Tăng. Các Bồ-tát nào được Bất thoái thì đều đắc Tam-muội Long vũ. Do năng lực nơi Tam-muội này nên thuyết Bát-nhã ba-la-mật cho chúng sinh, khiến lìa sinh tử, cho đến thành Phật. Trong khoảng thời gian đó, chúng sinh không quên hay bỏ mất những pháp đã được nghe. Bạch Đức Thế Tôn, con thành Phật xong, sống lâu ở đời mười ngàn đại kiếp. Sau khi Bát-niết-bàn, chánh pháp trụ thế đủ một ngàn kiếp. Bấy giờ, Như Lai khen ngợi Bồ-tát A-súc: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nay ông đã nhận thế giới thanh tịnh, ông ở đời sau trải qua vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng, vào vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng lần thứ hai, ở phương Đông cách đây mười ngàn thế giới Phật, có thế giới tên là Diệu lạc, với đầy đủ các thứ trang nghiêm như ông đã nguyện. Ông ở nơi đó sẽ thành Bậc Chánh Giác, cũng hiệu là A-súc gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi ấy, Bồ-tát A-súc bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện con thành tựu, bản thân con được lợi ích thì con sẽ giúp đỡ cho tất cả chúng sinh thuộc về ấm-giới-nhập trong thế gian đều được tâm Từ, không có tưởng về oán tặc và các uế trược, thân tâm an lạc, giống như các Bồ-tát Thập trụ… ngồi trên hoa sen kiết già nhập định. Do năng lực của định đó khiến tâm không chút cấu uế, các chúng sinh ấy được thân tâm an lạc cũng như vậy. Nay con kính lạy Phật, cúi xin đất nơi đây có ánh sáng màu vàng. Thiện nam tử, khi Bồ-tát A-súc đem đầu mặt kính lễ sát chân Phật, tức thì tất cả vô lượng chúng sinh thân tâm liền được thọ hưởng diệu lạc, đất ở đó cũng sáng chói màu vàng. Bấy giờ, Bảo Tạng Như Lai vì Bồ-tát A-súc mà thuyết kệ: Tôn ý, đứng dậy! Nay ông làm cho Tất cả chúng sinh Tâm không giận dư.õ Đối với chúng sinh Sinh tâm đại Bi Hai tay đều được Bánh xe ngàn căm Tịnh ý vị lai Làm Thiên Nhân Tôn. Thiện nam tử, nghe kệ xong, Bồ-tát A-súc rất vui mừng, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe diệu pháp. KINH BI HOA <卷 id="32807832">QUYỂN 5 <卷 id="32807833">Phẩm 4: NGUỒN GỐC CÁC BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 3) Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, khi ấy Phạm chí Bảo Hải lại thưa với vương tử thứ mười là Nhuyễn Tâm,… cho đến phát tâm cũng như trước, đều giống như nguyện của Bồ-tát A-súc. Vương tử này thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, con sẽ khiến cho tất cả chúng sinh tư duy được cảnh giới của chư Phật. Trong tay họ tự nhiên phát ra hương thơm Chiên-đàn, hương thơm Ưu-đà-bà-la, đem các hương thơm này cúng dường chư Phật. Bảo Tạng Như Lai khen vương tử: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nguyện của ông hết sức đặc biệt, thật hiếm có. Ông nguyện trong tay chúng sinh tự nhiên phát ra hương thơm Chiên-đàn, hương thơm Ưu-đà-bà-la, tư duy được tất cả cảnh giới của chư Phật và giữ ý niệm thanh tịnh. Do đó, nay đổi tên ông là Hương Thủ. Phật bảo Bồ-tát Hương Thủ: –Thiện nam tử, đời vị lai trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng, sau khi A-súc Như Lai Bát-niết-bàn, chánh pháp diệt xong, bảy ngày sau, khi ấy ông sẽ thành Bậc Chánh Giác, thế giới của Phật đó vẫn tên là Diệu lạc. Phật hiệu là Kim Hoa gồm đủ các tôn hiệu Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bồ-tát Hương Thủ lại thưa: –Nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, ngay khi con lạy Phật, khắp vườn Diêm-phù này sẽ mưa các hoa Chiêm-bặc. Thiện nam tử, khi Bồ-tát Hương Thủ ở trước Phật Bảo Tạng kính lễ sát đất thì khắp vườn Diêm-phù mưa hoa Chiêm-bặc như hương Thủ nguyện. Bảo Tạng Như Lai thuyết kệ: Công đức tôn quý Cõi thiện, đứng lên Như tâm đã nguyện Mưa hoa Chiêm-bặc Độ thoát vô lượng Tất cả chúng sinh Chỉ dạy đường lành Khiến được vô úy. Thiện nam tử, Bồ-tát Hương Thủ nghe kệ xong, tâm rất hoan hỷ, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách chỗ Phật không xa để nghe pháp. Thiện nam tử, Phạm chí Bảo Hải lại thưa với vương tử thứ mười một là Mông-già-nô,… cho đến phát tâm cũng như trên. Nguyện của vương tử cũng giống như nguyện của Bồ-tát Hương Thủ. Bấy giờ, vương tử Sư Tử đem cờ báu cúng dường Đức Bảo Tạng Như Lai. Phật khen ngợi vương tử Sư Tử: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nay ông đem cờ báu cúng dường nên tên hiệu của ông là Bảo Tướng. Phật bảo Bồ-tát Bảo Tướng: –Vào đời vị lai, trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng của thế giới Diệu lạc, sau khi Kim Hoa Như Lai Bát-niết-bàn, chánh pháp diệt xong, trải qua ba trung kiếp, thế giới Diệu lạc chuyển tên là Nguyệt thắng, vào thời gian đó, ông sẽ thành Bậc Chánh Giác hiệu là Long Tự Tại Tôn Âm Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới của Phật ấy trang nghiêm như thế giới Diệu lạc không khác. Bồ-tát Bảo Tướng bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích thì nay con lạy Phật, làm cho tất cả chúng sinh được chánh niệm giống như Bồ-tát đang trụ Tam-muội Vô siểm và tất cả chúng sinh được lợi ích lớn, sinh đại bi, phát tâm Bồ-đề. Thiện nam tử, khi Bồ-tát Bảo Tướng ra trước Phật Bảo Tạng kính lễ lạy sát đất thì tất cả chúng sinh đều được Tam-muội Vô siểm, được lợi ích lớn, sinh đại bi, phát tâm Bồ-đề. Bảo Tạng Như Lai vì Bồ-tát Bảo Tướng mà thuyết kệ: Thiện Ý đứng dậy Ở ngay trước Ta Vì các chúng sinh Phát thệ nguyện lớn Lợi ích tất cả Vô lượng chúng sinh Khiến tâm không nhơ Nên đời vị lai Được thành quả Phật Trời, người tôn kính. Thiện nam tử, Bồ-tát Bảo Tướng nghe kệ xong, tâm rất hoan hỷ, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe pháp. Khi đó, năm trăm vị vương tử nhóm Ma-xà-bà phát nguyện: –Nguyện được cõi Phật với những công đức trang nghiêm đều như cõi Tịnh độ của Đại Bồ-tát Hư Không Ấn đã tu tập. Khi ấy, Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho từng vị một thành Chánh giác, cùng một lúc ở mỗi nước khác nhau đều thành tựu đạo quả Vô thượng, như Đại Bồ-tát Hư Không Ấn. Lại nữa, có bốn trăm vị vương tử phát nguyện: –Nguyện nhận được cõi Phật tịnh diệu trang nghiêm giống như Đại Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh. Đức Bảo Tạng Như Lai cũng thọ ký cho từng vị một thành Bậc Chánh Giác cùng một lúc ở thế giới khác nhau đều thành tựu đạo quả Vô thượng như Đại Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh. Lại có tám mươi chín vị vương tử phát nguyện: –Nguyện nhận được Phật độ trang nghiêm như cõi Phật của Đại Bồ-tát Phổ Hiền đã tu tập. Bấy giờ, tám vạn bốn ngàn vị Tiểu vương, tất cả đều phát nguyện thù thắng khác nhau, mỗi vị tự nhận Phật độ với vô số trang nghiêm thượng diệu. Đức Bảo Tạng Như Lai lại thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho từng vị: vào đời vị lai ở các thế giới khác nhau, tám vạn bốn ngàn Tiểu vương ấy đồng một lúc thành tựu Vô thượng đạo. Chín mươi hai ức chúng sinh cũng đều phát nguyện nhận Phật độ với vô số thắng diệu trang nghiêm. Đức Bảo Tạng Như Lai đều thọ ký thành Bậc Chánh Giác cho tất cả: –Các ông vào đời sau, ở các nước khác nhau, đồng một lúc thành tựu đạo quả Vô thượng. Thiện nam tử, Phạm chí Bảo Hải có tám mươi người con, là anh em với Bảo Tạng Như Lai. Người con đầu tên là Hải Địa Tôn. Thiện nam tử, khi ấy Phạm chí Bảo Hải bảo với người con đầu của mình: –Nay con có thể nhận cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm không? Người con thưa: –Cúi xin Tôn giả rống tiếng sư tử trước. Người cha bảo: –Nguyện của ta sẽ nói sau cùng. Người con lại thưa: –Nguyện của con là nên nhận cõi thanh tịnh hay bất tịnh? Người cha bảo: –Nếu Bồ-tát nào thành tựu đại bi thì mới nhận thế giới bất tịnh. Vì sao? Vì muốn điều phục hoàn toàn những cấu uế của chúng sinh. Việc đó con hãy tự biết. Thiện nam tử, bấy giờ Hải Địa Tôn đến gặp Đức Bảo Tạng Như Lai, bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện thành Chánh giác, nếu khi loài người thọ tám vạn tuổi như thế giới của Phật hiện nay thì khi ấy con mới thành Chánh giác. Con lại nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của con ít tham dâm, sân hận, ngu si, nhàm chán thân tâm; thấy lỗi lầm của chúng, sợ hãi sinh tử và đến chỗ con xuất gia học đạo. Khi ấy, con thuyết pháp ba thừa cho các chúng sinh. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, cúi xin Đức Thế Tôn thọ ký cho con thành Chánh giác. Bấy giờ, Đức Bảo Tạng Như Lai bảo với Hải Địa Tôn: –Thiện nam tử, đời vị lai, trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có kiếp tên Biến phu Ưu-bát-la hoa. Thế giới của Đức Phật ấy sẽ có tên là Nguyệt Ái. Dân chúng thọ tám vạn tuổi, ông ở cõi đó thành Bậc Chánh Giác, hiệu là Bảo Sơn gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Hải Địa Tôn lại bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, thì xin chung quanh vườn Diêm-phù này sẽ mưa châu ngọc màu đỏ, tất cả cây cối tự nhiên phát ra âm nhạc vi diệu. Thiện nam tử, khi Hải Địa Tôn đảnh lễ Phật Bảo Tạng thì mưa châu ngọc đỏ chung quanh vườn kia. Tất cả cây cối tự nhiên đều phát ra vô số âm nhạc vi diệu. Vì đồng tử, Bảo Tạng Như Lai thuyết kệ: Sức lớn đã khởi Vô lượng trí tạng Thương xót chúng sinh Đem lợi ích khắp. Sở nguyện thanh tịnh Nay được thành tựu Sẽ vì chúng sinh Làm thầy trời, người. Thiện nam tử, Hải Địa Tôn nghe kệ xong rất hoan hỷ, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe pháp. Người con thứ hai của Phạm chí tên là Tam-bà-bà, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nay nguyện của con cũng giống như nguyện của Hải Địa Tôn. Bảo Tạng Như Lai lại bảo Tam-bà-bà: –Đời vị lai, ở thế giới Nguyệt Ái, trong kiếp Ưu-bát-la hoa, loài người thọ tới tám mươi ức tuổi. Nơi đó, ông sẽ thành Bậc Chánh Giác hiệu là Nhật Hoa gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Người con thứ ba được thế giới cũng như vậy. Khi loài người thọ hai ngàn tuổi, vị ấy thành Bậc Chánh Giác hiệu là Hỏa Âm Vương Như Lai… cho đến Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Người con thứ tư thành Phật hiệu là Tu-mạn-na. Người con thứ năm thành Phật hiệu là Trì Giới Vương. Người con thứ sáu thành Phật hiệu là Thiện Trì Mục. Người con thứ bảy thành Phật hiệu là Phạm Tăng Ích. Người con thứ tám thành Phật hiệu là Diêm-phù Ảnh. Người con thứ chín thành Phật hiệu là Phú-lâu-na. Người con thứ mười thành Phật hiệu là Thắng Diệu. Người con thứ mười một thành Phật hiệu là Bảo Sơn. Người con thứ mười hai thành Phật hiệu là Hải Tạng. Người con thứ mười ba thành Phật hiệu là Na-la-diên. Người con thứ mười bốn thành Phật hiệu là Thi-khí. Người con thứ mười lăm thành Phật hiệu là Nam-mô-ni. Người con thứ mười sáu thành Phật hiệu là Giác Tô. Người con thứ mười bảy thành Phật hiệu là Kiều-trần-như. Người con thứ mười tám thành Phật hiệu là Sư Tử Lực. Người con thứ mười chín thành Phật hiệu là Trí Tràng. Người con thứ hai mươi thành Phật hiệu là Âm Thanh. Người con thứ hai mươi mốt hiệu là Tôn Thắng Phật. Người con thứ hai mươi hai hiệu là Ly Thế Tôn Phật. Người con thứ hai mươi ba hiệu là Lợi Ích Phật. Người con thứ hai mươi bốn hiệu là Trí Quang Minh Phật. Người con thứ hai mươi lăm hiệu là Sư Tử Tôn Phật. Người con thứ hai mươi sáu hiệu là Tịch Tịnh Trí Phật. Người con thứ hai mươi bảy hiệu là Nan-đà Phật. Người con thứ hai mươi tám hiệu là Ni-câu-la Vương. Người con thứ hai mươi chín hiệu là Kim Sắc Mục Phật. Người con thứ ba mươi hiệu là Đắc Tự Tại Phật. Người con thứ ba mươi mốt hiệu là Nhật Lạc Phật. Người con thứ ba mươi hai hiệu là Bảo Thắng Phật. Người con thứ ba mươi ba hiệu là Thiện Mục Phật. Người con thứ ba mươi bốn hiệu là Phạm Thiện Lạc Phật. Người con thứ ba mươi lăm hiệu là Phạm Tiên Phật. Người con thứ ba mươi sáu hiệu là Phạm Âm Phật. Người con thứ ba mươi bảy hiệu là Pháp Nguyệt Phật. Người con thứ ba mươi tám hiệu là Thị Hiện Nghóa Phật. Người con thứ ba mươi chín hiệu là Xưng Lạc Phật. Người con thứ bốn mươi hiệu là Tăng Ích Phật. Người con thứ bốn mươi mốt hiệu là Đoan Nghiêm Phật. Người con thứ bốn mươi hai hiệu là Thiện Hương Phật. Người con thứ bốn mươi ba hiệu là Nhãn Thắng Phật. Người con thứ bốn mươi bốn hiệu là Thiện Quán Phật. Người con thứ bốn mươi lăm hiệu là Nhiếp Thủ Nghóa Phật. Người con thứ bốn mươi sáu hiệu là Thiện Ý Nguyện Phật. Người con thứ bốn mươi bảy hiệu là Thắng Tuệ Phật. Người con thứ bốn mươi tám hiệu là Kim Tràng Phật. Người con thứ bốn mươi chín hiệu là Thiện Nhân Phật. Người con thứ năm mươi hiệu là Thiên Minh Phật. Người con thứ năm mươi mốt hiệu là Tịnh Phạn Phật. Người con thứ năm mươi hai hiệu là Thiện Kiến Phật. Người con thứ năm mươi ba hiệu là Tỳ Lưu Ly Tràng Phật. Người con thứ năm mươi bốn hiệu là Tỳ-lâu-bác-xoa Phật. Người con thứ năm mươi lăm hiệu là Phạm Âm Phật. Người con thứ năm mươi sáu hiệu là Công Đức Thành Tựu Phật. Người con thứ năm mươi bảy hiệu là Hữu Công Đức Tịnh Phật. Người con thứ năm mươi tám hiệu là Bảo Quang Minh Phật. Người con thứ năm mươi chín hiệu là Ma-ni Châu Phật. Người con thứ sáu mươi hiệu là Thích-ca Văn-ni Phật. Người con thứ sáu mươi mốt hiệu là Âm Tôn Vương Phật. Người con thứ sáu mươi hai hiệu là Trí Hòa Hiệp Phật. Người con thứ sáu mươi ba hiệu là Thắng Tôn Phật. Người con thứ sáu mươi bốn hiệu là Thành Hoa Phật. Người con thứ sáu mươi lăm hiệu là Thiên Hoa Phật. Người con thứ sáu mươi sáu hiệu là Vô Nộ Phật. Người con thứ sáu mươi bảy hiệu là Nhật Tạng Phật. Người con thứ sáu mươi tám hiệu là Tôn Nhạo Phật. Người con thứ sáu mươi chín hiệu là Nhật Minh Phật. Người con thứ bảy mươi hiệu là Long Đắc Phật. Người con thứ bảy mươi mốt hiệu là Kim Cang Quang Minh Phật. Người con thứ bảy mươi hai hiệu là Xưng Vương Phật. Người con thứ bảy mươi ba hiệu là Thường Quang Minh Phật. Người con thứ bảy mươi bốn hiệu là Tướng Quang Minh Phật. Người con thứ bảy mươi lăm hiệu là San-ni-thâu Phật. Người con thứ bảy mươi sáu hiệu là Trí Thành Tựu Phật. Người con thứ bảy mươi bảy hiệu là Âm Vương Phật. Người con thứ bảy mươi tám hiệu là Sa-la Vương Na-la-diên Tạng Phật. Người con thứ bảy mươi chín hiệu là Hỏa Tạng Phật. Thiện nam tử, bấy giờ đứng trước Phật, người con út (thứ tám mươi) của Phạm chí tên là Ly Bố Não, bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, bảy mươi chín vị Phật ấy, lúc này đã được thọ ký ở thế giới Nguyện ái, trong kiếp Biến phu Ưu-bát-la hoa, khi tuổi thọ của loài người tăng lên sẽ thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, nay con ở trước Phật phát tâm thành Chánh giác, trong thời gian cuối cùng của kiếp Ưu-bát-la hoa sẽ thành Chánh giác. Khi ấy, giống như tuổi thọ của bảy mươi chín vị Phật, nguyện cho tuổi thọ của con cũng được như vậy. Số lượng chúng sinh được con độ cũng như số chúng sinh được bảy mươi chín vị Phật kia độ. Như pháp ba thừa của bảy mươi chín Đức Phật kia thuyết, con cũng thuyết pháp ba thừa như vậy. Như số lượng chúng đệ tử Thanh văn của bảy mươi chín Đức Phật, số chúng được con độ cũng như vậy. Trong kiếp Ưu-bát-la hoa những chúng sinh được bảy mươi chín Đức Phật kia giáo hóa cho được thân người nhưng chưa giải thoát thì vào kiếp vị lai, khi thành Bậc Chánh Giác xong, con sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh ấy cho trụ vào ba thừa. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện con thành tựu, bản thân con được lợi ích, cúi xin Đức Thế Tôn thọ ký cho con thành Chánh giác. Thiện nam tử, khi ấy, Phật Bảo Tạng khen ngợi Ly Bố Não: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nay ông vì vô lượng chúng sinh phát tâm đại bi. Thiện nam tử, đời vị lai trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, thời đó có kiếp tên Ưu-bát-la hoa, trong thời gian cuối cùng ông sẽ thành Bậc Chánh Giác hiệu là Vô Cấu Đăng Xuất Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cộng tuổi thọ của bảy mươi chín Đức Phật lại thì bằng nửa kiếp. Tuổi thọ của ông cũng được nửa kiếp và những nguyện trước đây của ông đều được thành tựu. Khi ấy, Bồ-tát Ly Bố Não lại bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, thì khi con kính lạy Phật, làm cho khắp cả thế giới này mưa hương thơm vi diệu của hoa Ưu-bát-la. Nếu chúng sinh nào nghe mùi hương ấy, thì thân tứ đại được thanh tịnh điều hòa, an ổn, tất cả bệnh khổ đều được khỏi hẳn. Thiện nam tử, nói như vậy xong, khi Bồ-tát Ly Bố Não đem đầu mặt lạy sát chân Phật thì thế giới của Đức Phật ấy mưa hương thơm vi diệu của hoa Ưu-bát-la cùng khắp. Chúng sinh nghe hương thơm ấy thì thân tứ đại được thanh tịnh điều hòa, dễ chịu, tất cả bệnh khổ được khỏi hẳn. Đức Bảo Tạng Như Lai thuyết kệ: Thiện tâm từ bi Đạo sư đứng dậy Chư Phật, Thế Tôn Thảy đều khen ngợi. Đoạn được phiền não Trói buộc bền chặt Vị lai sẽ thành Tịnh Trí Tuệ Tạng. Thiện nam tử, khi nghe kệ xong, Bồ-tát Ly Bố Não rất hoan hỷ, liền đứng dậy lạy Phật và ngồi cách Phật không xa để nghe pháp. Thiện nam tử, bấy giờ Phạm chí Bảo Hải có ba ức đệ tử cùng ngồi một chỗ ở ngoài cửa vườn dạy các chúng sinh khác thọ ba quy y, làm cho họ phát tâm thành Chánh giác. Thiện nam tử, khi ấy Phạm chí khuyên các đệ tử: –Các ông hãy phát tâm thành Chánh giác, nhận thế giới Phật này và ngay ở trước Phật, hãy nói ra những điều mong cầu của mình. Trong ba ức người ấy, có một người tên Thọ Đề, thưa: –Thưa Tôn giả, thế nào gọi là Bồ-đề? Thế nào gọi là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề? Thế nào gọi là Bồ-tát tu hạnh Bồ-đề? Thế nào gọi là chánh niệm về Bồ-đề? Vị thầy (Phạm chí) trả lời: –Đồng tử, như lời ông hỏi, Bồ-đề tức là sự tu tập bốn Vô tận tạng của Bồ-tát. Những gì là bốn? Nghóa là: Vô tận Phước đức tạng, Vô tận Trí tạng, Vô tận Tuệ tạng, Vô tận Phật pháp hòa hợp tạng. Thiện nam tử, đó gọi là Bồ-đề. Đồng tử, như lời Phật dạy: Pháp trợ Bồ-đề là pháp môn bảo vệ, giúp cho thanh tịnh để vượt sinh tử. Thiện nam tử, bố thí, xả bỏ tài sản là pháp trợ Bồ-đề để điều phục chúng sinh. Trì giới là pháp trợ Bồ-đề vì tùy theo nguyện mà được thành tựu. Nhẫn nhục là pháp trợ Bồ-đề để đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tinh tấn là pháp trợ Bồ-đề thành tựu để đầy đủ tất cả các việc. Thiền định là pháp trợ Bồ-đề để điều phục hoàn toàn tâm. Trí tuệ là pháp trợ Bồ-đề để biết rõ được tất cả các phiền não. Đa văn là pháp trợ Bồ-đề để được biện tài vô ngại. Phước đức là pháp trợ Bồ-đề vì là sự cần thiết của tất cả chúng sinh. Trí là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được trí vô ngại. Tịch diệt là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được tâm lành nhu nhuyến. Tư duy là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu việc đoạn trừ nghi ngờ. Tâm Từ là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được tâm không ngại. Tâm Bi là pháp trợ Bồ-đề vì giáo hóa chúng sinh không nhàm chán. Tâm Hỷ là pháp trợ Bồ-đề vì đối với chánh pháp sinh ưa thích. Tâm Xả là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được việc cắt đứt thương ghét. Nghe pháp là pháp trợ Bồ-đề vì diệt trừ năm thứ buộc ràng che phủ. Xuất thế là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được việc xả bỏ tất cả thế gian. A-lan-nhã tức là pháp trợ Bồ-đề vì diệt những điều bất thiện đã làm không cho sinh lại; giúp cho căn lành đã có thêm tăng trưởng. Niệm là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được việc hộ trì. Ý là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được việc phân biệt các pháp. Trì là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được việc suy nghó, bàn luận về tỉnh thức. Niệm xứ là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được việc phân biệt thân, thọ, tâm, pháp. Cần là pháp trợ Bồ-đề vì xa lìa tất cả pháp bất thiện, tu hành tất cả pháp thiện càng thêm rộng lớn. Như ý tức là pháp trợ Bồ-đề vì thành tựu được việc thân tâm nhẹ nhàng. Các căn tức là pháp trợ Bồ-đề vì việc bảo hộ các căn được thành tựu. Các lực là pháp trợ Bồ-đề vì tiêu diệt tất cả phiền não. Giác là pháp trợ Bồ-đề vì biết rõ các pháp chân thật. Lục hòa là pháp trợ Bồ-đề vì điều phục được chúng sinh, làm cho thanh tịnh. Đồng tử, đấy gọi là pháp môn Nhiếp thủ, giúp cho được thanh tịnh, vượt qua sinh tử. Thọ Đề lại thưa: –Tôn giả, như Phật đã dạy: quả báo về bố thí là được giàu có lớn, được quyến thuộc lớn; giữ gìn giới cấm được sinh lên cõi trời; học rộng nghe nhiều được trí tuệ lớn. Lại như Phật dạy: Đ”ạt được pháp tư duy thì vượt qua được sinh tử.” Vị thầy lại bảo: –Này đồng tử, nếu vì ưa thích sinh tử mà làm việc bố thí thì chỉ được giàu có lớn. Đồng tử, nếu kẻ thiện nam thiện nữ nào tâm hướng về Bồ-đề, vì để điều phục nên thực hành bố thí; vì tâm tịch tịnh nên trì cấm giới; vì tâm thanh tịnh không ái trược nên cầu đa văn; vì đại bi nên tư duy tu đạo. Ngoài ra, các pháp trí tuệ khác là phương tiện thành tựu, hỗ trợ sự mong cầu. Đồng tử, đây gọi là pháp trợ Bồ-đề. Tu hành như vậy tức là buộc niệm để được Bồ-đề. Đồng tử, hãy nên ưa thích Bồ-đề như vậy. Hãy chuyên tâm ước nguyện. Đạo thanh tịnh này không nhơ, khiến tâm luôn trong lặng. Đạo này là chánh đạo, không có dua nịnh, đoạn trừ các phiền não. Đạo này an ổn, có thể đưa đến thành Niết-bàn. Các ông hãy nên phát đại thiện nguyện nhận cõi Phật trang nghiêm, tùy theo ý mình mà nhận cõi Phật tịnh hay bất tịnh. Thiện nam tử, khi ấy đồng tử Thọ Đề ở trước Phật Bảo Tạng, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, con phát tâm thành Chánh giác, nếu chúng sinh trong thế giới bất tịnh này ít tham dâm, sân giận, ngu si, không phạm phi pháp, tâm không ái trược, không tưởng oán tặc, xả bỏ tâm keo kiệt, ganh ghét, xa lìa tâm tà kiến, an trụ nơi chánh kiến, lìa tâm bất thiện, cầu các pháp lành; lìa ba tâm ác, cầu ba nẻo thiện, nơi ba loại phước thành tựu căn lành, siêng năng tu tập pháp ba thừa thì bấy giờ con mới thành tựu đạo quả Vô thượng. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích thì khiến cho hai tay con tự nhiên xuất hiện rồng và voi mạnh màu trắng. Khi thưa như vậy xong, nhờ thần lực của Phật, trong hai tay của Bồ-tát liền hiện ra rồng và voi mạnh, toàn thân màu trắng, bảy chi chấm đất. Thấy việc như thế, đồng tử bảo rồng và voi: –Các ngươi hãy bay lên hư không gần đây, mưa nước thơm tám công đức để giác ngộ cho tất cả chúng sinh ở cõi này. Chúng sinh nào được gặp một giọt hay nghe hương thơm của nước mưa đó thì không còn năm thứ trói buộc, che lấp là: dâm dục, giận hờn, ham ngủ nghỉ, dao động, nghi ngờ. Đồng tử nói xong, thì rồng và voi chúa đi giáp vòng khắp hư không, như người lực só thiện xạ bắn mũi tên, rồng và voi này làm các việc như vậy, trở về đứng trước đồng tử. Thọ Đề thấy sự việc như thế thì rất hoan hỷ. Thiện nam tử, khi ấy Đức Bảo Tạng Như Lai liền bảo đồng tử: –Thiện nam tử, đời vị lai trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có kiếp tên Âm Quang Minh, thế giới của Phật ấy đổi tên là Hòa hiệp âm quang minh. Ở đó ông thành Bậc Chánh Giác, hiệu là Bảo Cái Tăng Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nam tử, bấy giờ Thọ Đề lạy sát chân Phật. Bảo Tạng Như Lai liền vì Thọ Đề mà thuyết kệ: Tâm ông thanh tịnh Vậy hãy đứng dậy Nay Ta thọ ký Khiến cho vô lượng Ức số chúng sinh Được đạo thanh tịnh Nơi đời vị lai Hướng dẫn trời người. Thiện nam tử, Thọ Đề nghe kệ xong rất hoan hỷ, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe pháp. Ba ức đệ tử, trừ một ngàn người, còn lại đều đồng thanh phát nguyện: Ở nơi thế giới này thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho tất cả thành Bậc Chánh Giác, cho đến Tỳ-bà-thi, Thi-khí, Tỳ-thi-sa-bà thành Bậc Chánh Giác sau cùng. Ngàn người còn lại đều đọc tụng ngoại điển Tỳ-đà. Trong đó, người được tôn trọng nhất tên là Bà-do-tỷ-nữu, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nguyện của con là được thành Chánh giác ở trong đời ngũ trược xấu ác thuyết pháp cho chúng sinh rất nặng về tham dục, sân giận, ngu si, nhiều phiền não ở cõi ấy. Khi đó, trong số một ngàn người lại có một người tên là Hỏa Man, thưa: –Vừa rồi, vì sao Tôn giả Bà-do-tỷ-nữu nguyện ở trong đời ngũ trược xấu ác thành Chánh giác? Vị thầy ấy đáp: –Bồ-tát này thành tựu tâm đại bi nên thành Chánh giác trong đời ngũ trược. Khi ấy, chúng sinh không có người cứu hộ, không có các niệm tốt, tâm thường bị phiền não quấy nhiễu, bị các tà kiến phá hoại; vị ấy ở nơi cõi đó thành Chánh giác mới có thể đem lại lợi ích lớn cho vô lượng chúng sinh, mới có thể cứu hộ, làm nơi nương nhờ, làm nhà cửa, đèn đuốc; lại độ thoát họ qua biển lớn sinh tử và dạy cho họ an trụ trong chánh kiến, ở nơi Niết-bàn, uống nước cam lộ. Đại Bồ-tát này muốn thị hiện đại bi nên nguyện nhận đời ngũ trược xấu ác như thế. Thiện nam tử, bấy giờ Đức Bảo Tạng Như Lai bảo Bà-do-tỷ-nữu: –Này thiện nam tử, đời vị lai, trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian sau cùng, ở phương Đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như vi trần, có thế giới tên Ca-sa tràng, ông ở cõi đó sẽ thành Chánh giác hiệu là Kim Sơn Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bà-do-tỷ-nữu lại bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, con xin đem đầu mặt kính lễ dưới chân Phật. Cúi xin Đức Như Lai đem hai chân với trăm phước trang nghiêm đặt trên đỉnh đầu con. Thiện nam tử, khi Bà-do-tỷ-nữu nói như vậy xong và kính lễ sát chân Phật Bảo Tạng, thì bàn chân với trăm phước của Như Lai đã đặt trên đỉnh đầu của ông. Đức Phật nói kệ khen ngợi: Bậc tâm đại bi Hãy nên đứng dậy Trí tuệ sắc bén Hành đạo Bồ-tát Vì quả Bồ-đề Cắt đứt trói buộc Của dây phiền não Đời sau thành Phật Lợi ích tất cả Vô lượng chúng sinh. Thiện nam tử, Bà-do-tỷ-nữu nghe kệ xong, rất hoan hỷ, liền đứng dậy lạy Phật, ngồi cách Phật không xa để nghe pháp. Thiện nam tử, khi ấy, đồng tử Hỏa Man ở trước Phật Bảo Tạng, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch: –Con nguyện ở thế giới này phát tâm thành Chánh giác, nếu có chúng sinh bị ba độc chi phối, không chuyên tâm trụ vào pháp lành, những người tâm bất thiện thọ bốn vạn tuổi, khi ấy con sẽ thành Bậc Chánh Giác. Bảo Tạng Như Lai bảo Hỏa Man: –Thiện nam tử, vào đời vị lai trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian sau cùng, thế giới Phật này sẽ có tên là Ta-bà. Vì sao tên là Ta-bà? Các chúng sinh ở đây chịu đựng ba độc và các phiền não cho nên cõi đó gọi là thế giới Nhẫn. Khi ấy có đại kiếp tên Thiện hiền, vì sao kiếp tên là Thiện hiền? Trong đại kiếp này có nhiều chúng sinh tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, có ngàn Đức Thế Tôn thành tựu đại bi xuất hiện ở đời. Thiện nam tử, vào đầu Hiền kiếp, loài người thọ bốn vạn tuổi, trong ngàn Phật, vị Phật đầu tiên thành Phật hiệu là Câu-lưu-tôn, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, vì chúng sinh thuyết pháp ba thừa, làm cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi sinh tử, đạt đến Niết-bàn. Thiện nam tử, bấy giờ đồng tử Hỏa Man đến trước Phật, lạy nơi chân Ngài, rồi ngồi sang một bên nghe pháp. Thiện nam tử, đồng tử thứ hai tên là Hư Không, ngồi ở trước Phật, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, con đời sau tiếp theo Câu-lưu-tôn Như Lai, khi loài người sống ba vạn tuổi sẽ thành Chánh giác. Đức Thế Tôn bảo đồng tử Hư Không: –Thiện nam tử, đời vị lai trải qua một hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng, vào giữa Hiền kiếp, có thế giới Ta-bà, tiếp sau Phật Câu-lưu-tôn, khi loài người sống ba vạn tuổi, ông sẽ ở cõi đó thành Chánh giác hiệu là Già-na-ca Mâu-ni gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, có danh tiếng lớn vang khắp thế gian. Bấy giờ, đồng tử Hư Không nghe thọ ký xong, đem đầu mặt lạy sát chân Phật rồi đi nhiễu bên phải ba vòng, đứng ở trước Phật, đem vô số hoa dâng lên Phật, chắp tay cung kính lễ bái, dùng kệ khen Phật: Hộ trì thân tâm Khéo nhập thiền định Dùng tiếng vi diệu Răn dạy điều hay Tâm Ngài thanh tịnh Không hề loạn nhơ Tuy dạy chúng sinh Chẳng hoại chánh pháp Danh tiếng sáng chói Luôn luôn chánh niệm, Trăm phước công đức Vô cùng rộng lớn Chỉ bày đạo tốt Cho các chúng sinh Dựng cờ Tiên Thắng Các núi công đức Đem lợi ích khắp Vô lượng chúng sinh, Khiến cho tất cả Công đức đủ đầy Lại cho chúng sinh Tịch diệt Đạo đế Thiêu đốt phiền não Như núi Tu-di Ở trong ba cõi Sinh tâm đại bi Và thọ ký cho Vô lượng chúng sinh. Thiện nam tử, bấy giờ đồng tử thứ ba tên Tỳ-xá-cúc-đa, ở trước Phật dùng giường bằng bảy báu, trên giường trải nệm chiếu giá trị ngàn vàng, ở đó đặt bình bằng vàng ròng đựng đầy bảy báu, bình rửa bằng vàng, cây gậy đẹp đẽ bằng bảy báu… cúng dường Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng. Làm việc cúng dường xong, đồng tử bạch Phật: –Kính bạch Đức Thế Tôn, con ở đời vị lai, trải qua một hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian sau cùng, vào Hiền kiếp, con nguyện thành Chánh giác. Bấy giờ tuổi thọ loài người giảm dần, chúng sinh mới sinh vào đời ngũ trược, rất nặng về tham dâm, giận hờn, ngu si, keo kiệt, ganh ghét, hành động theo tà kiến, theo tri thức ác, các căn bất thiện che lấp tâm họ, tâm không thực hành các căn lành, xa lìa chánh kiến, sống theo tà mạng. Sau khi Già-na-ca Mâu-ni Bát-niết-bàn, chánh pháp diệt xong, tất cả chúng sinh mù tối, không có mắt trí tuệ, không có thầy hướng dẫn, loài người thọ còn hai vạn tuổi thì con sẽ thành Chánh giác. Thiện nam tử, khi ấy Bảo Tạng Như Lai khen Tỳ-xá-cúc-đa: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông đã thành tựu trí tuệ vô thượng, sẽ ở đời ngũ trược, vào giai đoạn đầu, khi tuổi thọ loài người đủ hai vạn tuổi, họ mờ tối, không có mắt trí tuệ, không có thầy hướng dẫn, ông ở nơi đó thành Chánh giác. Nay hiệu của ông là Đại Bi Trí Tuệ. Phật bảo Bồ-tát Đại Bi Trí Tuệ: –Thiện nam tử, ông ở đời vị lai, trải qua một hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng vào giữa Hiền kiếp, khi loài người sống hai vạn tuổi, khi ấy ông thành Chánh giác hiệu là Ca-diếp gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thiện nam tử, bấy giờ Bồ-tát Đại Bi Trí Tuệ liền lạy Phật rồi lui đứng một bên, đem vô số hương hoa, hương bột, hương thoa cúng dường Đức Thế Tôn, dùng kệ khen Phật: Thế Tôn trong đời Lợi ích chúng sinh Làm cho chúng sinh Sinh tâm ưa thích Pháp môn Niệm, Định Tâm được chuyên nhất, Con nghe diệu âm Tâm rất hoan hỷ Trí tuệ phương tiện Đầy đủ tất cả Nên hay thực hành Giáo hóa chúng sinh Lại cùng vô lượng Vô biên chúng sinh Thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề Nhờ đó được thấy Thần túc trí tuệ Của Phật mười phương Thảy đều bình đẳng Chư Phật có được Công đức vi diệu Và cùng thị hiện Tu đạo Bồ-tát Thọ ký chúng sinh Thành Vô thượng đạo Nếu muốn xưng tán Không thể hết được Nên hôm nay con Cúi đầu kính lạy. Bấy giờ, Phạm chí Bảo Hải lại bảo đồng tử thứ tư Tỳ-xá-da Vô Cấu: –Thiện nam tử, ông có thể phát tâm thành Bậc Chánh Giác. Thiện nam tử, khi ấy Tỳ-xá-da Vô Cấu ở trước Phật, bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, con nguyện ở giữa Hiền kiếp của thế giới này cầu thành Chánh giác, không phải ở trong đời ngũ trược xấu ác như quốc độ của Phật Ca-diếp. Sau khi Đức Ca-diếp Như Lai Bát-niết-bàn, chánh pháp diệt xong, tuổi thọ loài người giảm dần xuống mười ngàn tuổi, các việc bố thí, điều phục, trì giới… thảy đều bị diệt hết. Các chúng sinh tâm lành giảm dần, xa lìa bảy loại tài sản của bậc Thánh; đối với ác tri thức cho là Thế Tôn; đối với ba loại phước, tâm hoàn toàn không học; xa lìa hạnh lành, siêng làm ba việc ác; bị các phiền não che lấp nên tâm không thấy được trí tuệ; đối với pháp ba thừa không muốn tu học. Trong cõi của những chúng sinh ấy, nếu con muốn thành Bậc Chánh Giác, còn không có người có thể làm ngăn ngại được, huống là khi tuổi thọ của loài người chỉ còn một ngàn tuổi. Cho đến lúc loài người thọ trăm tuổi, khi ấy trong chúng sinh danh từ pháp thiện còn không có, huống là có người làm việc thiện. Đời ngũ trược xấu ác, tuổi thọ của con người giảm dần cho đến chỉ còn mười tuổi, kiếp đao binh lại nổi lên, ngay khi ấy con sẽ từ cõi trời đến cứu giúp chúng sinh, chỉ dạy pháp lành, làm cho họ xa lìa các pháp chẳng lành, cho đến tu học theo mười điều thiện, xa lìa các phiền não của mười điều ác, khiến chúng sinh đạt được thanh tịnh, diệt đi năm thứ uế trược. Sau đó, tuổi thọ loài người tăng dần đến tám vạn tuổi, bấy giờ con sẽ thành Chánh giác. Khi ấy, chúng sinh ít tham dâm, giận dữ, ngu si, vô minh, keo kiệt, ganh ghét và con thuyết giảng pháp ba thừa dẫn dắt chúng sinh tu tập theo. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, cúi xin Đức Như Lai thọ ký cho con thành Bậc Chánh Giác. Bạch Đức Thế Tôn, nếu con không được thọ ký như vậy, ngày hôm nay con sẽ cầu Thanh văn hoặc cầu Duyên giác, nương nơi năng lực đó để mau giải thoát, vượt khỏi sinh tử. Phật Bảo Tạng bảo Tỳ-xá-da Vô Cấu: –Thiện nam tử, Bồ-tát có bốn việc biếng trễ, Bồ-tát nào có đủ bốn pháp như thế thì tham đắm sinh tử, ở trong ngục sinh tử chịu các khổ não, không thể mau thành Bậc Chánh Giác. Những gì là bốn? Hành động thấp kém. Kết bạn thấp kém. Bố thí thấp kém. Chí nguyện thấp kém. Thế nào là Bồ-tát hành động thấp kém? –Như có Bồ-tát phá giới, không khéo giữ nghiệp thân, khẩu. Đây gọi là hành động thấp kém. Thế nào là kết bạn thấp kém? –Bồ-tát có bạn bè thấp kém, gần gũi hàng Thanh văn và Bích-chi-phật, cùng tùy thuận với họ. Đây gọi là Bồ-tát bạn bè thấp kém. Thế nào là bố thí thấp kém? –Không thể xả bỏ tất cả những gì mình có. Đối với người nhận, có tâm phân biệt. Vì mong được lên cõi trời hưởng thọ diệu lạc cho nên làm việc bố thí. Đây gọi là Bồ-tát bố thí thấp kém. Thế nào là chí nguyện thấp kém? –Không thể nhất tâm nguyện nhận thế giới thanh tịnh vi diệu của chư Phật và thệ nguyện không phải vì nhằm giáo hóa tất cả chúng sinh. Đó gọi là Bồ-tát chí nguyện thấp kém. Bồ-tát có bốn pháp tiêu cực này thì ở mãi trong sinh tử chịu các khổ não, không thể mau thành Chánh giác. Thiện nam tử, có bốn pháp, Bồ-tát nào thành tựu thì có thể mau thành Bậc Chánh Giác. Những gì là bốn? Hay giữ gìn giới cấm trong sạch; hộ trì thân, miệng, ý; giữ gìn các pháp hạnh. Gần gũi người tu học Đại thừa và cùng giúp nhau tu học theo pháp. Có thể xả bỏ hoàn toàn những vật của mình, đem tâm đại bi bố thí cho tất cả chúng sinh. Nhất tâm thệ nguyện nhận vô số thế giới trang nghiêm của chư Phật, cũng vì nhằm giáo hóa cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát nào thành tựu bốn pháp này thì sẽ mau thành Chánh giác. Lại có bốn pháp, nếu Bồ-tát thành tựu thì có thể giữ được đạo Vô thượng Bồ-đề. Những gì là bốn? Siêng năng thực hành các Ba-la-mật. Cứu giúp tất cả vô lượng chúng sinh. Tâm không xa lìa bốn hạnh vô lượng. Tự tại với các thần thông. Đây gọi là bốn pháp mà Bồ-tát thành tựu thì có thể giữ được đạo Vô thượng Bồ-đề. Có bốn pháp khiến tâm không nhàm chán. Những gì là bốn? Thực hành bố thí. Nghe pháp. Tu hành. Cứu giúp chúng sinh. Bốn pháp như vậy khiến tâm không nhàm chán, Bồ-tát nên học. Có bốn Vô tận tạng, các Bồ-tát nên thành tựu. Những gì là bốn? Tín căn. Thuyết pháp. Nguyện được căn lành. Cứu giúp các chúng sinh bần cùng. Đó là bốn Vô tận tạng của Bồ-tát để sự tu tập được đầy đủ. Có bốn pháp thanh tịnh Bồ-tát phải thành tựu. Những gì là bốn? Trì giới thanh tịnh vì không có ngã. Thiền định thanh tịnh vì không chấp trước về chúng sinh. Trí tuệ thanh tịnh vì không chấp trước về tuổi thọ. Giải thoát tri kiến thanh tịnh vì không chấp trước về người. Đây là bốn pháp thanh tịnh. Nếu Bồ-tát thành tựu bốn pháp này thì mau thành Bậc Chánh Giác, chuyển pháp luân Hư không, chuyển pháp luân Bất khả tư nghị, chuyển pháp luân Bất khả lượng, chuyển pháp luân Vô ngã, chuyển pháp luân Vô ngôn thuyết, chuyển pháp luân Xuất thế, chuyển pháp luân Thông đạt, chuyển bánh xe pháp vi diệu mà chư Thiên, loài người không thể chuyển được. Thiện nam tử, đời vị lai trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng, ở đầu Hiền kiếp, sau khi năm trược diệt, tuổi thọ loài người tăng lên đến tám vạn tuổi, ngay thời đó ông sẽ thành Bậc Chánh Giác, hiệu là Di-lặc gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bấy giờ, đồng tử Tỳ-xá-da đảnh lễ Phật, lui đứng qua một bên, đem vô số hương hoa, hương bột, hương thoa cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng, nói kệ khen ngợi: Thế Tôn thanh tịnh Như núi vàng vòng Bạch hào giữa mày Trắng như ngọc kha Đúng lúc vì con Nói pháp vi diệu Thọ ký đời sau Con được thành Phật. Ai được thấy, nghe Mà không chấp nhận Tiên thánh Đại giác Công đức chiếu đời. Thiện nam tử, lúc ấy một ngàn đồng tử của Phạm chí Bảo Hải, chỉ trừ một người, tất cả đang đọc tụng ngoại điển Tỳ-đà, đều đã được khuyến hóa theo đạo quả Vô thượng Chánh giác, như Câu-lưu-tôn, Ca-na-già Mâu-ni, Ca-diếp, Di-lặc. Người thứ năm tên Sư Tử Quang Minh, cũng như trong số ngàn người ấy, chỉ trừ một người, ngoài ra đều nguyện sẽ thành Chánh giác trong Hiền kiếp. Trong chúng đó, người nhỏ nhất tên Trì Lực Tiệp Tật, cũng được Phạm chí Bảo Hải giáo hóa làm cho phát tâm thành Bậc Chánh Giác: –Thiện nam tử, nay ông chớ quán sát lâu dài mà xa lìa tâm cầu giác ngộ, hãy vì các chúng sinh mà phát tâm đại bi. Bấy giờ Phạm chí liền vì Trì Lực Tiệp Tật thuyết kệ: Ấm, giới, các nhập Ràng buộc chúng sinh Sợ già, bệnh, chết Đọa nơi biển ái. Nhốt trong ba cõi Nơi ngục đáng sợ Uống độc phiền não Gây hại lẫn nhau. Bị đọa lâu dài Trong biển khổ não Si tối không mắt Bị mất chánh đạo. Ở mãi sinh tử Thiện căn bị lấp Chúng sinh ba cõi Các khổ đốt cháy. Do lìa chánh kiến Sống trong tà kiến Luân hồi sinh tử Ở trong năm đường. Ví như bánh xe Không được dừng nghỉ Có các chúng sinh Mất con mắt pháp Tối tăm không thấy Không người cứu giúp. Ông nên cứu bằng Vô lượng trí tuệ Để lìa si hoặc Phát tâm Bồ-đề, Nên vì chúng sinh Làm thiện tri thức Thiêu hết ái kết Cởi trói phiền não, Nên vì chúng sinh Phát tâm Bồ-đề Người mất mắt pháp Bị si che lấp Cần cho thắng đạo Để xa lìa si Ngục hữu sinh tử Lửa lớn đốt cháy Cho pháp cam lộ Khiến được đầy đủ. Nay ông mau đi Đến ngay chỗ Phật Đầu mặt lạy chân Vì lợi ích lớn Ngay nơi chỗ Phật Phát nguyện diệu thắng Đã nguyện thắng diệu Khéo nhớ giữ gìn Ông ở đời sau Làm thầy trời người Cũng sẽ nguyện giúp Chúng sinh hết sợ Cứu độ tất cả Khiến đều giải thoát Cũng khiến đầy đủ Căn, lực, giác đạo Mưa pháp vũ lớn Thí nước trí tuệ Diệt lửa khổ não Của các chúng sinh. Thiện nam tử, khi ấy Trì Lực Tiệp Tật thưa: –Tôn giả, nay nguyện của tôi là không cầu quả báo sinh lên cõi trời, không cầu Thanh văn, Bích-chi-phật thừa, tôi chỉ cầu đạo quả Vô thượng Đại thừa, chỉ còn đợi suy nghó về thời gian, nơi chốn giáo hóa chúng sinh và phát nguyện hoàn thiện. Nay tôi tư duy các việc như vậy. Tôn giả, hãy đợi giây lát để nghe tiếng Sư tử rống của tôi. Thiện nam tử, khi ấy có năm người thị giả của Phạm chí Bảo Hải đang từ từ đi tới, họ tên là: Thủ Long. Lục Long. Thủy Long. Hư Không Long. Diệu Âm Long. Phạm chí bảo họ: –Nay các ông hãy phát tâm thành Chánh giác. Năm người thưa: –Tôn giả, chúng con hoàn toàn không có gì để cúng dường Phật và chúng Tăng, chưa vun trồng căn lành, làm sao phát tâm thành Chánh giác được? Thiện nam tử, khi ấy Phạm chí lấy chiếc vòng báu bên tai trái của mình trao cho Thủ Long, lấy chiếc vòng quý bên tai phải trao cho Lục Long, đem giường báu đang ngồi trao cho Thủy Long, đem gậy báu đang dùng trao cho Hư Không Long, đem bình sữa bằng vàng trao cho Diệu Âm Long và bảo: –Đồng tử, các ông có thể đem những vật này cúng dường Phật và chúng Tăng để phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. KINH BI HOA <卷 id="32807835">QUYỂN 6 <卷 id="32807836">Phẩm 4: NGUỒN GỐC CÁC BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 4) Bấy giờ, năm người liền đến chỗ Phật, đem vật vừa nhận được cúng dường Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng. Cúng dường xong, họ bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Như Lai thọ ký cho chúng con vào Hiền kiếp thành Chánh giác. Thiện nam tử, khi ấy, Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho năm người thành Chánh giác bằng lời dạy: –Thủ Long, ở đời sau, trong Hiền kiếp, ông sẽ thành Phật hiệu là Kiên Âm Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Sau khi Đức Kiên Âm Như Lai Bát-niết-bàn, Lục Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Khoái Lạc Tôn Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Sau khi Đức Phật Khoái Lạc Tôn Bát-niết-bàn, Thủy Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Đạo Sư Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Sau khi Phật Đạo Sư Bát-niết-bàn, Hư Không Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Ái Thanh Tịnh Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Sau khi Phật Ái Thanh Tịnh Bát-niết-bàn, Diệu Âm Long kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Na-la-diên Thắng Diệp Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Thiện nam tử, sau khi Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho năm người này vào Hiền kiếp thành Phật, Phạm chí Bảo Hải lại bảo Trì Lực Tiệp Tật: –Thiện nam tử, ông có thể nhận vô số thế giới trang nghiêm tịnh diệu. Tùy theo sự ưa thích, ông có thể phát nguyện ban cho tất cả chúng sinh pháp vị cam lộ, chuyên tâm siêng năng hành đạo Bồ-tát, cẩn thận chớ suy nghó về kiếp số dài lâu. Thiện nam tử, khi ấy Phạm chí đưa Trì Lực Tiệp Tật đến gặp Phật và bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, đời vị lai, trong Hiền kiếp có bao nhiêu Phật xuất thế sau Đức Như Lai? Phật bảo Trì Lực Tiệp Tật: –Thiện nam tử, trong nửa Hiền kiếp có một ngàn bốn trăm vị Phật xuất hiện ở đời. Trì Lực Tiệp Tật thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, trong Hiền kiếp kia, chư Phật Thế Tôn Bát-niết-bàn xong, Diệu Âm Long thành Chánh giác sau cùng, hiệu là Na-la-diên Thắng Diệp. Bạch Thế Tôn, con nguyện vào lúc đó tu đạo Bồ-tát, tu tất cả các hạnh khổ như: trì giới, bố thí, đa văn, tinh tấn, nhẫn nhục, ái ngữ, phước đức, trí tuệ, vô số trợ đạo. Chư Phật ở Hiền kiếp, khi sắp thành Phật, nguyện cho con được dâng cúng thức ăn uống trước tiên. Sau khi chư Phật Niết-bàn, con thâu nhận xá-lợi và dựng tháp cúng dường, hộ trì chánh pháp. Thấy người hủy giới, khuyến hóa họ giữ gìn giới luật. Người xa lìa chánh kiến, có tà kiến thì con khuyến hóa họ sống theo chánh kiến. Với người tâm tán loạn thì con khuyến hóa họ an trụ định tâm. Người không oai nghi thì con khuyến hóa an trụ nơi oai nghi của bậc Thánh. Nếu có chúng sinh muốn tu hành thiện căn, con sẽ chỉ dạy thiện căn cho họ. Sau khi các Đức Thế Tôn kia Niết-bàn, chánh pháp sắp diệt, bấy giờ con sẽ ở ngay trong thế giới đó, đốt đèn chánh pháp, hộ trì khiến không đoạn tuyệt; trong kiếp đao binh con sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh giữ giới, chẳng sát hại lẫn nhau, cho đến được chánh kiến, giúp chúng sinh thoát khỏi mười điều ác, an trụ trong mười điều lành, diệt các tối tăm, mở bày pháp thiện. Con sẽ diệt hết kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược. Nơi kiếp đói khát, con sẽ khuyến hóa tất cả chúng sinh tu tập Bố thí ba-la-mật, cho đến trí tuệ Ba-la-mật cũng như vậy. Khi chúng sinh an trụ vào sáu Ba-la-mật, dứt hết các sự đói khát, hắc ám, dơ nhớp, oán tặc, tranh giành và các thứ phiền não, con sẽ làm cho họ được tịch diệt, con sẽ giáo hóa khiến tất cả chúng sinh an trụ trong pháp Lục hòa, bốn nhiếp pháp và diệt trừ hết những tật bệnh, tối tăm. Vào nửa Hiền kiếp, sau khi một ngàn bốn trăm vị Phật ra đời, nhập Niết-bàn và lúc chánh pháp ấy diệt hết thì con sẽ thành Chánh giác. Như tuổi thọ và đệ tử Thanh văn của một ngàn bốn trăm vị Phật kia, tuổi thọ và đệ tử Thanh văn của con cũng lại như vậy. Như sự điều phục chúng sinh của một ngàn bốn trăm Đức Phật trong nửa Hiền kiếp, con nguyện cũng điều phục chúng sinh ở nửa Hiền kiếp, cả đến đệ tử Thanh văn của chư Phật trong nửa Hiền kiếp ấy, phá hủy cấm giới, rơi vào các tà kiến, đối với chư Phật không trung chánh, sinh tâm sân hận não hại, phá Pháp, hoại Tăng, phỉ báng Hiền thánh, hủy hoại chánh pháp, tạo tội nghịch ác. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thành Chánh giác, con sẽ vét sạch hết bùn nhơ sinh tử, làm cho họ được vào thành Niết-bàn, không sợ hãi. Sau khi con Bát-niết-bàn, chánh pháp cùng một lúc diệt hết theo Hiền kiếp. Nếu con Niết-bàn, Hiền kiếp và chánh pháp diệt hết thì xương, răng của con cùng với xá-lợi sẽ biến hóa làm hình tượng Phật với ba mươi hai tướng trang nghiêm nơi thân, trong mỗi tướng có tám mươi vẻ đẹp thứ lớp trang nghiêm khắp vô lượng, vô biên thế giới của chư Phật trong mười phương. Mỗi Hóa Phật dùng pháp ba thừa giáo hóa vô lượng, vô biên chúng sinh, khiến không thoái chuyển. Nếu thế giới kia, khi kiếp bệnh phát sinh, không có Phật pháp thì Đức Hóa Phật ấy cũng sẽ đến đó giáo hóa chúng sinh như đã nói ở trước. Các thế giới nào không có châu báu, con nguyện làm Như ý ma-ni bảo châu, mưa các châu báu, tự nhiên phát ra kho chứa toàn vàng. Các thế giới nào có các chúng sinh lìa các căn lành, bị các khổ trói buộc thân, ở đó con sẽ làm mưa hương Ưu-đà-sa, vô số các hương Ngưu đầu, Trầm thủy, làm cho chúng sinh hết các bệnh phiền não, các bệnh tà kiến, bệnh thân tứ đại, làm cho tâm ý họ siêng năng tu hành ba loại phước và khi qua đời được sinh vào cõi trời. Bạch Đức Thế Tôn, khi con hành đạo Bồ-tát, làm lợi ích cho chúng sinh như vậy; khi thành Chánh giác, con sẽ làm Phật sự lợi ích cho chúng sinh cũng như vậy; sau khi con Bát-niết-bàn, xá-lợi sẽ đến vô lượng thế giới đem lại, tạo lợi ích cho chúng sinh. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con chẳng thành tựu, bản thân con chẳng được lợi ích, con không thể làm Đại Y vương, không đem lại lợi ích cho các chúng sinh, thì con đã dối trá với chư Phật, Như Lai đang ở khắp vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương và các Ngài cũng không nên thọ ký cho con thành Chánh giác. Thế Tôn đối với vô lượng, vô biên, vô số chúng sinh được Phật thọ ký cho thành Chánh giác, con cũng không được thấy những vị đó, cũng không được nghe âm thanh Phật, Pháp, Tăng, âm thanh hành pháp thiện và thường bị đọa trong địa ngục A-tỳ. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con được thành tựu, bản thân con được lợi ích thì lúc này xin Như Lai khen ngợi con. Khi ấy, Phật liền khen ngợi Trì Lực Tiệp Tật: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông ở đời sau làm Đại Y vương, khiến các chúng sinh lìa các khổ não, do đó nên tên ông là Hỏa Tịnh Dược Vương. Phật bảo Hỏa Tịnh Dược Vương: –Vào đời sau, trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa đẳng a-tăng-kỳ kiếp, giai đoạn cuối cùng của Hiền kiếp, có một ngàn bốn trăm Đức Phật sắp thành Chánh giác, ông sẽ được dâng cúng thức ăn cho tất cả các Ngài như nguyện của ông ở trên. Sau khi Phật Na-la-diên Thắng Diệp Bát-niết-bàn, chánh pháp diệt xong, ông sẽ thành Chánh giác hiệu là Lâu Chí đầy đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, sống lâu nửa kiếp, có các đệ tử Thanh văn giống như đệ tử Thanh văn của một ngàn bốn trăm Đức Phật. Sự giáo hóa chúng sinh sau khi Bát-niết-bàn, chánh pháp diệt cùng với Hiền kiếp, xá-lợi, xương, răng hóa ra hình tượng Phật, cho đến… sinh vào trong cõi trời, cũng lại như trước đã nói. Bấy giờ, Bồ-tát Hỏa Tịnh Dược Vương bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện con thành tựu, bản thân con được lợi ích, cúi xin Như Lai đưa tay sắc vàng với trăm phước trang nghiêm xoa nơi đảnh đầu con. Thiện nam tử, khi ấy Bảo Tạng Như Lai đưa cánh tay với trăm phước trang nghiêm xoa trên đảnh đầu Hỏa Tịnh Dược Vương. Thiện nam tử, Bồ-tát Hỏa Tịnh Dược Vương được việc này xong, tâm rất hoan hỷ, liền lạy Phật, lui đứng một bên. Lúc đó, Phạm chí Bảo Hải đem y trời đẹp trao cho Bồ-tát Hỏa Tịnh Dược Vương và khen: –Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, nguyện của ông hết sức đặc biệt, hết sức kỳ lạ. Từ nay về sau không cần phải sách tấn ông nữa, ông thường được tự tại tu tập hạnh an lạc. Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, khi ấy, Phạm chí Bảo Hải suy nghó: “Ta đã khuyên vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na-do-tha chúng sinh, khiến họ an trụ nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta thấy các Đại Bồ-tát này, mỗi vị đều phát nguyện nhận cõi Tịnh độ, chỉ trừ Bà-do-tỷ-nữu. Các Bồ-tát khác trong Hiền kiếp này cũng xa lìa ngũ trược, trong đời cuối cùng ta sẽ đem pháp vị chân chánh ban cho chúng sinh. Ta cũng sẽ khiến cho các nguyện lành trang nghiêm, bền vững như sư tử rống, tất cả Bồ-tát nghe rồi rất lấy làm kỳ lạ, thán phục là việc chưa từng có. Lại khiến cho tất cả các đại chúng: Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân chắp tay cung kính cúng dường ta, làm cho Phật, Thế Tôn khen ngợi và thọ ký cho ta, khiến cho chư Phật ở khắp vô lượng, vô biên trong mười phương đang giảng thuyết chánh pháp mà khi nghe ta rống tiếng sư tử thảy đều khen ngợi, thọ ký cho ta thành Chánh giác và cũng sai sứ giả đi đến nơi, làm cho đại chúng đều được thấy. Nay ta phát thệ nguyện lớn sau cùng là thành tựu tất cả tâm đại bi của Bồ-tát, cho đến thành Chánh giác xong, nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu đại bi của ta đều sinh tâm thán phục. Sau này, nếu có Bồ-tát nào thành tựu đại bi cũng sẽ nguyện nhận thế giới như vậy. Trong thế giới này có chúng sinh nào không biết chánh pháp, mờ mịt, không có mắt trí tuệ, ở trong bốn dòng nước dữ, các Bồ-tát này sẽ cứu hộ và thuyết pháp cho họ. Cho đến khi ta đã nhập Niết-bàn, nơi vô lượng, vô biên các thế giới khắp mười phương trong hiện tại, chư Phật đều khen ngợi danh hiệu ta giữa các Bồ-tát và đại chúng và cũng thuyết về thiện nguyện của ta, làm cho các Bồ-tát kia dùng đại bi xông ướp tâm. Sau khi chuyên tâm lắng nghe việc này thì họ rất kinh ngạc, khen chưa từng có, làm cho từ bi đã có thêm rộng lớn. Như ta đã nguyện nhận cõi bất tịnh, các Bồ-tát đây đều như ta, nơi thế giới bất tịnh thành Chánh giác, cứu chúng sinh ra khỏi bốn dòng bạo lưu, giúp họ tu tập theo ba thừa, cho đến đắc Niết-bàn”. Thiện nam tử, sau khi tư duy về nguyện đại bi như vậy, Phạm chí Bảo Hải bày vai áo bên phải, đi đến gặp Phật. Bấy giờ có trăm ngàn vạn ức chư Thiên trong hư không tấu âm nhạc trời, mưa vô số hoa, tất cả đồng thanh khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Bậc đại trượng phu đang đi đến chỗ Phật để phát nguyện đặc biệt, muốn dùng nước trí tuệ diệt phiền não của chúng sinh trong thế gian. Bấy giờ, tất cả đại chúng cùng chắp tay cung kính, ở trước Phạm chí đồng thanh lễ kính và khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Bậc Đại trí tuệ tôn kính. Chúng con đang được lợi ích lớn, có thể lập các nguyện trọn vẹn kiên cố. Chúng con nguyện được nghe tôn ý bằng thiện nguyện của bậc Đại trí. Khi ấy, ở ngay trước Phật, Phạm chí vừa quỳ gối bên phải sát đất thì ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, vô số âm nhạc tự nhiên hòa tấu, chim bay, thú chạy vang lên âm thanh hòa nhau, tất cả cây cối trổ hoa sái mùa. Trong Tam thiên đại thiên thế giới, chúng sinh sống nơi đất đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc đã phát tâm, hoặc chưa phát tâm, chỉ trừ các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hạ liệt, ngoài ra, tất cả chúng sinh đều sinh tâm lợi ích lớn, tâm thuần thiện, tâm không oán tặc, tâm không uế trược, tâm từ, tâm hy hữu. Chúng sinh đang ở nơi hư không đều phát tâm hoan hỷ, dâng vô số hoa, vô số âm nhạc, cờ phướn, y phục để cúng dường, dùng âm thanh nhẹ nhàng, vi diệu, ca ngợi Phạm chí… Tất cả đều nhất tâm muốn nghe Phạm chí phát thiện nguyện. Đến như chư Thiên trên trời A-ca-ni-tra cũng xuống cõi Diêm-phù-đề, ở trong hư không dâng vô số hoa, hương bột, hương xoa, vô số âm nhạc, cờ phướn, y phục để cúng dường, dùng âm thanh nhẹ nhàng, vi diệu, tán thán, ca ngợi Phạm chí, nhất tâm, dốc sức đều muốn nghe Phạm chí phát thệ nguyện. Khi ấy, Phạm chí Bảo Hải chắp tay cung kính, nói kệ khen Phật: An trụ thiền định Như đại Phạm vương Sáng rực trang nghiêm Như Thiên đế Thích Bố thí tài sản Như Chuyển luân vương Giữ châu báu đẹp Như thần Chủ tạng Năng lực tự tại Như Sư tử vương Không thể lay động Như núi Tu-di Tâm luôn ổn định Như nước biển lớn Nơi tội không tội Tâm vững như đất Trừ các phiền não Như nước trong sạch Thiêu các kết sử Như ngọn lửa mạnh Không bị các chướng Như trận gió lớn Biểu hiện pháp thật Như Tứ thiên vương Tuôn mưa chánh pháp Như đại Long vương Tràn ngập tất cả Như mưa đúng thời Phá các ngoại đạo Như đại Luận sư Hương thơm tỏa khắp Như hoa Tu-man Diệu âm thuyết pháp Giống như Phạm thiên Trừ các khổ não Như Đại y vương Tâm bình đẳng khắp Như mẹ thương con Che chở chúng sinh Giống như cha lành Thân không thể hoại Như núi Kim cang Chặt đứt nhánh ái Giống như dao bén Vượt biển sinh tử Giống như thuyền trưởng Dùng trí vớt người Cũng như ghe thuyền Sáng chói trong lành Như trăng tròn đầy Nở hoa chúng sinh Như trời mới mọc Ban cho chúng sinh Bốn quả Sa-môn Như cây mùa thu Sinh các quả tốt Tiên thánh vây quanh Giống như phượng hoàng Ý nguyện sâu rộng Giống như biển lớn Bình đẳng mọi loài Giống như cây cỏ Rõ các pháp tướng Như xem tay không Sống đời bình đẳng Phẳng như mặt nước Thành tựu diệu tướng Đầy đủ đại bi Hay thọ ký cho Vô lượng chúng sinh Nay con điều phục Vô lượng chúng sinh Cúi xin Như Lai Thọ ký cho con Nơi đời vị lai Thành tựu thắng đạo Đại tiên Thế Tôn Trí tuệ vi diệu Xin dùng diệu âm Chân thật nói ra Con nơi đời ác Siêng tu các nhẫn Trừ giặc phiền não Cùng các kết sử Cứu độ vô lượng Tất cả chúng sinh Sống được an lạc Trong đạo tịch diệt. Thiện nam tử, khi Phạm chí Bảo Hải thuyết kệ tán thán Phật xong, tất cả đại chúng đều khen: –Lành thay! Lành thay! Đại trượng phu đã khéo tán dương Đức Như Lai Pháp vương. Phạm chí lại bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, con đã giáo hóa vô lượng ức chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các chúng sinh này nguyện nhận thế giới tịnh diệu, lìa cõi bất tịnh, đem tâm thanh tịnh trồng các căn lành, khéo hộ trì chúng sinh để điều phục họ. Đồng tử Hỏa Man… một ngàn bốn trăm người cùng đọc tụng ngoại điển Tỳ-đà, Như Lai đã vì số người này mà thọ ký cho họ trong Hiền kiếp sẽ được thành Phật. Có các chúng sinh làm nhiều việc tham dâm, sân si, kiêu mạn, sẽ được điều phục tất cả và an trụ trong ba thừa. Một ngàn bốn trăm Đức Phật này đã từ bỏ những phiền não sâu dày của chúng sinh như là: Đời ngũ trược xấu ác hay tạo tội ngũ nghịch, phá hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh nhân, thực hành tà kiến, lìa bảy tài sản của Thánh, bất hiếu với cha mẹ; đối với Sa-môn, Bà-la-môn không có tâm cung kính; làm những việc không nên làm, việc nên làm lại không làm, không làm việc phước, không sợ quả báo nơi đời sau; tâm không muốn thực hành ba loại phước, không cầu quả báo trên trời, trong loài người; thường tạo gây việc ác hướng đến ba bất thiện, xa lìa thiện tri thức, không biết gần gũi người trí tuệ chân thật; luân hồi trong ba cõi, ở nơi ngục sinh tử, trôi lăn theo bốn dòng dữ, chìm đắm nơi sông tro, bị si mê làm cho tối tăm, xa lìa các nghiệp lành, chuyên tạo nghiệp ác… Chúng sinh như vậy, thế giới của chư Phật không dung nạp, ruồng đuổi, nên đến tập họp ở thế giới này. Do xa lìa nghiệp lành, hành động theo nghiệp chẳng thiện, tập hợp những tội hết sức xấu xa của tà đạo lại như núi lớn. Khi ấy, thế giới Ta-bà trong Hiền kiếp, người sống một ngàn tuổi, một ngàn bốn trăm Đức Phật này không thành tựu đại bi, không nhận đời tệ ác như ở đây, khiến cho các chúng sinh bị luân chuyển trong sinh tử giống như máy xoay tròn không có người cứu độ, không nơi nương tựa, không nhà cửa, đèn đuốc, chịu các khổ não, bị các vị Phật kia rời bỏ, lại đều nguyện nhận lấy thế giới tịnh diệu, chúng sinh trong tịnh độ phải tự hoàn thiện bản thân trước, tâm thanh tịnh xong thì siêng năng tinh tấn trồng căn lành. Đã được cúng dường vô lượng chư Phật, lại được các vị ấy hộ trì. Bạch Đức Thế Tôn, có thật chư vị đó là như vậy không? Thế Tôn bảo với Phạm chí: –Đúng thật như đã nói. Thiện nam tử, các vị đó nhận vô số thế giới trang nghiêm theo sở thích. Ta tùy theo sự ưa thích ấy mà thọ ký. Phạm chí lại bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nay tâm con dao động như lá nơi cây hoa. Tâm rất lo buồn, thân tiều tụy. Các Bồ-tát ấy tuy phát đại bi, nhưng không thể nhận thế giới ngũ trược xấu ác này, để cho các chúng sinh kia rơi vào si ám tối tăm. Bạch Đức Thế Tôn, đời vị lai trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian cuối cùng của Hiền kiếp, loài người thọ một ngàn tuổi, bấy giờ con sẽ hành đạo Bồ-tát, ở mãi trong sinh tử nhận chịu các khổ. Nhờ năng lực nơi Tam-muội, nên Bồ-tát sẽ quyết không bỏ chúng sinh. Bạch Đức Thế Tôn, từ nay con thực hành sáu Ba-la-mật, điều phục chúng sinh. Như Phật dạy: “Đem tài vật bố thí, gọi là Bố thí ba-la-mật.” Bạch Đức Thế Tôn, khi con thực hành Bố thí ba-la-mật, nếu có chúng sinh đời đời theo con cầu xin vật cần dùng, tùy theo sự cầu xin, con sẽ cung cấp đủ thức ăn uống, y phục, vật dụng nằm, thuốc thang, nhà cửa, xóm làng, hương hoa, anh lạc, hương xoa thân, cung cấp thuốc men cho người bệnh, kẻ hầu hạ, cờ phướn, lọng báu, tiền tài, lúa gạo, lụa là gấm vóc, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, tiền của, trân châu, lưu ly, pha lê, kha bối, ngọc bích, san hô, vật quý, giống như vật quý, mão trời, cây phất đẹp. Đối với chúng sinh bần cùng, con phát tâm đại bi đem bố thí cho hết cả. Tuy làm việc bố thí như vậy, con không cầu quả báo trên trời hay trong nhân gian, chỉ nhằm điều phục, cứu giúp chúng sinh. Vì lý do này nên con xả bỏ hết tư hữu của mình. Nếu chúng sinh nào cầu xin quá nhiều, như là cầu xin tôi tớ, xóm làng, thành ấp, vợ con, nam nữ, tay chân, mũi lưỡi, đầu mặt, da thịt, máu xương, thân mạng…, cầu xin vô số vật như vậy, khi ấy con sẽ phát tâm đại bi đem các vật ấy bố thí, không cầu quả báo, chỉ vì điều phục, cứu giúp chúng sinh. Bạch Đức Thế Tôn, khi con Bố thí ba-la-mật, các Bồ-tát trong quá khứ Bố thí ba-la-mật không sánh kịp. Thời vị lai, các Bồ-tát phát tâm thành Chánh giác Bố thí ba-la-mật cũng không sánh kịp. Bạch Đức Thế Tôn, đời vị lai nếu có người muốn hành đạo Bồ-tát, con sẽ giúp họ Bố thí ba-la-mật như vậy, khiến không ngừng nghỉ. Khi con bắt đầu Trì giới ba-la-mật, vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên giữ vô số giới, tu các hạnh khổ như trong bố thí đã nói. Con quán vô ngã nên năm căn không bị năm trần làm thương tổn nhờ Nhẫn nhục ba-la-mật. Con hành Nhẫn nhục ba-la-mật cũng như đã nói ở trên. Quán pháp hữu vi, xa lìa các tội ác, thấy pháp vô vi vi diệu, vắng lặng, tinh tấn nên tu tập đạo Vô thượng không thoái lui. Đây là Tinh tấn ba-la-mật. Con hành Tinh tấn ba-la-mật như vậy thuận theo tất cả nơi chốn mà tu hành tướng Không, được pháp tịch diệt thì gọi đó là Thiền định ba-la-mật. Nếu hiểu rõ tánh các pháp vốn không sinh, nên không diệt, gọi đó là Bát-nhã ba-la-mật. Trong vô lượng ức a-tăng-kỳ kiếp, con siêng năng kiên cố tu tập Bát-nhã ba-la-mật. Vì sao? Đời quá khứ có Bồ-tát vì không chứng thành Chánh giác mà vẫn tu hành Bồ-tát đạo, siêng năng kiên cố tinh tấn tu tập Bát-nhã ba-la-mật. Đời vị lai có Bồ-tát vì chưa chứng thành Chánh giác nên hành đạo Bồ-tát siêng năng kiên cố, tinh tấn tu tập Bát-nhã ba-la-mật. Do đó, vào đời vị lai con sẽ tu Bồ-tát đạo, phát tâm thành Chánh giác, làm cho các pháp lành không đoạn tuyệt. Bạch Đức Thế Tôn, khi con mới phát tâm, đã chỉ dạy đại bi cho các Bồ-tát đời vị lai, cho đến Niết-bàn. Người nào được nghe tên pháp đại bi của con thì kinh ngạc cho là kỳ lạ và khen là việc chưa từng có. Do đó, đối với việc bố thí con không tự khen ngợi mình, không ỷ lại vào trì giới, không nhớ nghó đã nhẫn nhục, không ỷ lại tinh tấn, không đắm các vị ngọt của thiền. Trí tuệ có được không chấp vào ba đời. Tuy thực hành sáu Ba-la-mật như thế nhưng không cầu quả báo. Có các chúng sinh xa lìa bảy Thánh tài, bị vất bỏ vào thế giới không có Phật, tạo tội ngũ nghịch, hủy hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh hiền, thực hành đạo tà, tội ác rất nặng giống như núi lớn, thường bị đạo tà che lấp, cho nên nay con vì các chúng sinh ấy mà chuyên tâm trang nghiêm tinh tấn tu tập sáu Ba-la-mật. Con cũng sẽ gieo trồng căn lành cho từng chúng sinh. Trong mười trung kiếp, con nguyện vào địa ngục A-tỳ chịu vô lượng khổ, trong ngạ quỷ, súc sinh và quỷ thần bần cùng, người trong hạng ty tiện cũng như vậy. Nếu có chúng sinh hoàn toàn không có căn lành, mất chánh niệm, tâm cháy bỏng, con đều cứu giúp để điều phục, làm cho họ trồng căn lành. Cho đến Hiền kiếp, trong giữa chừng, con không ước nguyện thọ hưởng các diệu lạc trên trời, trong loài người, chỉ trừ một lần sinh ở cõi trời Đâu-suất, đợi lúc thành Phật. Bạch Đức Thế Tôn, con sẽ ở mãi trong sinh tử với số kiếp như vi trần trong một thế giới Phật, đem các vật cần dùng cúng dường chư Phật, vì từng mỗi một chúng sinh mà trồng căn lành. Đem vô số các thức cúng dường nhiều như vi trần trong một thế giới Phật, cúng dường vô lượng, vô biên từng Đức Phật trong khắp mười phương. Lại đối với vô lượng, vô biên các Đức Phật khắp mười phương được vô số công đức lành như vi trần trong một thế giới Phật. Ở trước mỗi Đức Phật giáo hóa vô số chúng sinh nhiều như vi trần trong một thế giới Phật, làm cho họ trụ vào đạo Vô thượng Bồ-đề; Thanh văn, Duyên giác cũng như vậy. Tùy theo nguyện của các chúng sinh mà chỉ dạy. Với thế giới nào chưa có Phật xuất hiện ở đời, nguyện làm Tiên nhân giáo hóa các chúng sinh, khiến họ hành theo Thập thiện, được năm thần thông, xa lìa các tà kiến. Nếu có chúng sinh thờ trời Đại tự tại, con nguyện hóa thân như trời Ma-hê-thủ-la để giáo hóa họ, làm cho trú vào pháp thiện. Nếu họ thờ phụng thần Tám tay, con cũng nguyện hóa làm thân trời Tám tay để giáo hóa họ, làm cho trụ vào pháp thiện. Nếu họ thờ phụng thần Nhật Nguyệt Phạm thiên, con cũng nguyện hóa làm thân Nhật Nguyệt Phạm thiên để giáo hóa, khiến họ trụ nơi pháp thiện. Nếu họ thờ phụng chim cánh vàng, cho đến thờ thỏ, con cũng nguyện hóa làm thân thỏ, thân chim để theo giáo hóa, dẫn dắt họ trụ nơi pháp thiện. Thấy chúng sinh đói khát, con sẽ đem thân máu thịt bố thí cho họ, giúp cho họ được no đủ. Nếu có chúng sinh phạm các tội, con sẽ đem thân mạng chịu tội thay để cứu giúp họ. Bạch Đức Thế Tôn, trong đời vị lai có các chúng sinh xa lìa các căn lành, thiêu đốt, tiêu diệt các căn lành, bấy giờ con vì các chúng sinh ấy mà siêng năng tinh tấn hành đạo Bồ-tát, chịu các khổ não ở trong sinh tử. Cho đến trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, vào đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, thời gian cuối cùng, lúc bắt đầu Hiền kiếp, đồng tử Hỏa Man thành Chánh giác tên là Câu-lưu-tôn Như Lai. Khi ấy, con sẽ giáo hóa những chúng sinh nào đã xa lìa các nghiệp thiện, thực hành nghiệp bất thiện, thiêu đốt tâm thiện, lìa bảy Thánh tài, tạo tội ngũ nghịch, phá hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh nhân, làm theo tà kiến, tội càng ác giống như núi lớn, thường bị đạo tà che lấp, bị vất bỏ vào thế giới không có Phật, con sẽ khiến cho họ phát tâm thành Chánh giác, tu tập Bố thí ba-la-mật, cho đến Bát-nhã ba-la-mật, trụ yên nơi địa vị Bất thoái chuyển, thành tựu quả vị Phật ở từng cõi Phật khắp mười phương thế giới nhiều như vi trần, chuyển bánh xe chánh pháp, khiến cho chúng sinh trồng các căn lành nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ra khỏi nẻo ác, an trụ nơi công đức trí tuệ và pháp trợ Bồ-đề. Nguyện cho khi ấy, con được thấy hết tất cả. Bạch Đức Thế Tôn, nếu có chư Phật ở bất cứ nơi nào sai các chúng sinh đến chỗ của chư Phật, nhận thọ ký thành Bậc Chánh Giác, khiến đạt được Tam-muội Nhẫn nhục đà-la-ni thì được tuần tự tiến lên quả vị Bồ-tát, được thế giới với vô số trang nghiêm. Mỗi vị được tùy ý nhận Phật độ thanh tịnh như đã nguyện. Những chúng sinh ấy đều do con khuyến hóa. Vào Hiền kiếp, khi Phật Câu-lưu-tôn xuất hiện ở đời, các chúng sinh này cũng ở nơi vô số thế giới chư Phật nhiều như vi trần khắp mười phương mà thành Chánh giác. Sự trụ thế và thuyết pháp của các vị ấy, ở bất kỳ nơi nào con cũng đều được thấy. Bạch Đức Thế Tôn, khi Phật Câu-lưu-tôn thành Phật, con đến gặp Ngài và đem đầy đủ thức cúng dường để cúng dường, thưa hỏi vô số pháp xuất gia. Đối với sự trì giới thanh tịnh, học rộng, nghe nhiều, chuyên tu Tam-muội, siêng năng tinh tấn, thuyết vi diệu pháp, chỉ trừ Như Lai, ngoài ra không ai có thể hơn con được. Bấy giờ, nếu có chúng sinh nào là hàng độn căn, không có các căn lành, bị đọa nơi tà kiến, hành đạo bất chánh, tạo tội ngũ nghịch, hủy hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh hiền, tội ác rất nặng giống như núi lớn; khi ấy con sẽ vì chúng sinh này thuyết giảng chánh pháp, cứu độ, điều phục. Sau khi mặt trời Phật lặn xong, tự nhiên con sẽ thực hành vô số Phật sự, kể cả thời Phật Già-na-ca Mâu-ni, Phật Ca-diếp… trụ thế, thuyết pháp, con cũng tự nhiên làm Phật sự như vậy. Đến khi loài người sống một ngàn tuổi, lúc ấy con khuyên các chúng sinh tạo ba loại phước. Qua một ngàn tuổi xong, con lại sinh lên cõi trời, vì chư Thiên giảng thuyết chánh pháp, làm cho họ được điều phục. Đến khi loài người thọ một trăm hai mươi tuổi, bấy giờ chúng sinh ngu si, ngang ngược, tự ỷ xinh đẹp, thuộc dòng sang quý, làm các việc buông lung, keo kiệt, ganh ghét, đọa đời ác năm trược tối tăm; rất nặng về tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, hành động phi pháp, muốn cầu tài sản phi pháp, thi hành tà kiến điên đảo, xa lìa bảy Thánh tài, bất hiếu với cha mẹ, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn không có tâm cung kính, việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, không thực hành việc phước, không sợ quả báo ở đời sau, không siêng năng tu tập ba loại phước, không thích ba thừa, đối với ba thiện căn không thể tu hành, chuyên làm ba điều ác, không tu mười pháp thiện, siêng làm mười điều ác, tâm thường bị bốn điên đảo che lấp, sống trong bốn việc phá giới, làm cho bốn ma thường được quyền lực, trôi lăn trong bốn dòng nước dữ, luôn bị năm thứ ràng buộc che tâm. Trong đời vị lai, chúng sinh như vậy sáu căn buông lung, thi hành tám pháp tà, vào núi tội lớn, bày ra các sự trói buộc, không cầu quả báo trên trời, trong loài người, bị các tà kiến khiến cho điên đảo, chạy theo đạo tà, gây tội ngũ nghịch, phá hủy chánh pháp, phỉ báng Thánh nhân, xa lìa các thiện căn, bần cùng, hạ tiện, không biết e sợ, không biết ân nghóa, mất chánh niệm, khinh chê pháp lành, không có trí tuệ, không chịu học hỏi, phá giới, dua nịnh; do tâm ganh ghét nên đối với vật đã có không phân chia cho người, không cung kính, khinh mạn lẫn nhau, thêm lười biếng, trễ nãi, các căn thiếu khuyết, thiếu thốn cơm áo, thân thể tiều tụy, gần gũi bạn ác, thất niệm khi trong thai; do chịu vô số khổ não nên thân sắc xấu xí, tiều tụy, nhìn nhau không biết xấu, không biết hổ, gây sợ hãi nhau cả trong từng bữa ăn; nghiệp thân, khẩu, ý tạo vô lượng, vô biên các nghiệp ác. Do hay làm ác nên được khen ngợi. Bấy giờ chúng sinh cùng chuyên tu tập hai thứ: đoạn kiến, thường kiến; tham đắm vào thân ngũ ấm mỏng manh không chắc thật. Đối với năm dục lạc sinh tham luyến sâu nặng, thường phát sinh tâm như giặc cướp, giận dữ muốn hại chúng sinh. Tâm thường nóng giận, khổ não, uế trược, thô lậu; đối với keo kiệt, tham trước, chưa được điều phục, không bỏ pháp quấy, không thể quyết định, sinh cạnh tranh nên sợ hãi lẫn nhau. Do tâm uế trược cùng giết hại nhau, xa lìa pháp thiện nên khởi tâm không lành, làm các nghiệp ác, không tin quả báo thiện, chẳng thiện. Tâm trái chống đối với các pháp lành. Pháp lành diệt, tâm sinh hoan hỷ, phát tâm chuyên làm pháp chẳng thiện, tâm không cầu pháp tịch diệt Niết-bàn, tâm không cung kính Sa-môn, Bà-la-môn trì giới; phát tâm mong cầu các trói buộc, phát lòng tin nơi lão, bệnh, tử, phát tâm thọ trì các phiền não, phát tâm giữ gìn pháp ngũ nghịch, khởi tâm dẹp bỏ cờ chánh pháp, sinh tâm dựng lập cờ các tà kiến. Thường sinh tâm khinh hủy, trái chống nhau, sinh tâm tranh giành nhau ăn uống. Mọi người cùng trái chống nhau, xâm hại nhau, giữ gìn tâm oán hận, não loạn. Đối với các dục xấu ác, tâm không hề nhàm chán. Đối với tài vật của người, sinh tâm ganh ghét. Đối với việc thọ ân không có tâm báo đền. Khởi tâm trộm cướp đối với các chúng sinh, khởi tâm chiếm đoạt đối với phụ nữ của người… Bấy giờ trong tất cả tâm của chúng sinh không có ý nguyện lành. Do đó nên thường nghe tiếng địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; tiếng tật bệnh, già, chết; tiếng não hại; tám nạn; tiếng gông cùm, xiềng xích trói buộc; tiếng xâm phạm não hại, đoạt tài vật của người; tiếng sân giận, khinh hủy, trách mắng; tiếng phá hoại sự hòa hợp của mọi người; tiếng binh giáp của nước giặc khác; tiếng đói khát, tiếng trộm cắp thóc lúa, vật quý trọng; tiếng tà dâm, vọng ngữ, cuồng si; tiếng nói hai lưỡi, lời ác, lời thêu dệt; tiếng keo kiệt, ganh ghét, bảo thủ; tiếng đấu tranh do đắm trước về ngã; tiếng yêu, ghét, vừa ý, không vừa ý; tiếng ân ái, biệt ly buồn khổ; tiếng oán ghét mà phải gặp gỡ gây khổ não; tiếng mọi người tôi tớ sợ nhau; tiếng ở trong thai hôi hám, nhơ nhớp; tiếng nóng lạnh, đói khát, mệt nhọc, tiếng cày bừa, trồng trọt mất mùa; tiếng vô số nghề nghiệp mệt nhọc; tiếng tật bệnh, hoạn nạn, khổ đau, ốm gầy, hao tổn… Bấy giờ chúng sinh thường nghe những tiếng như vậy, bỏ mất các thiện căn, xa thiện tri thức, thường sân giận. Chúng sinh như vậy đầy khắp cả thế giới Ta-bà, thế giới mà chư Phật ở phương khác từ bỏ. Do nghiệp nặng nên loài người ở trong Hiền kiếp thọ một trăm hai mươi tuổi. Chúng sinh do nhân duyên nghiệp báo nên ở thế giới Ta-bà chịu sự kém cỏi, bị xa lìa tất cả các căn lành. Đất ở thế giới Ta-bà có nhiều chất mặn, cằn cỗi, xấu xí, với đất, cát, đá vụn, núi gò, đồng đất, khe lạch, hang ngòi, ao rãnh hiểm hóc, muỗi mòng, rắn độc; trong đó đầy dẫy những chim thú ác, gió độc thô rít thường thổi lên, luôn rơi mưa đá, nước mưa có chất mặn. Do nước mưa này, các cây cối, cỏ thuốc, cây lớn sinh ra với thân cây, nhánh, lá, hoa, quả, trăm loại thực vật đều lẫn lộn chất độc với các vật thô rít, dơ xấu đều bị nhiễm chất độc trái thời này. Chúng sinh ăn xong càng thêm sân giận, thân sắc tiều tụy không tươi nhuận, không có lòng thương. Các chúng sinh phỉ báng Thánh nhân, mọi người không có tâm cung kính, thường sinh tâm khủng bố, não loạn, tàn hại lẫn nhau, uống máu, ăn thịt, lột da làm áo, cất giữ dao gậy, siêng làm việc sát hại. Tự ỷ hào tộc, tướng mạo xinh đẹp, đọc tụng ngoại điển, học cỡi ngựa, sử dụng thành thạo các thứ giáo, mác, cung tên, sinh tâm ganh ghét quyến thuộc của mình. Nếu các chúng sinh tu tập theo tà pháp thì chịu vô số khổ. Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện lúc ấy từ cõi trời Đâu-suất hạ sinh vào gia tộc là Tối Thắng Chuyển luân vương, ở trong thai của đại phu nhân bậc nhất nơi vương gia ấy để điều phục tâm vương gia. Có các chúng sinh dốc điều phục tâm họ, khiến tu nghiệp thiện nên ngay khi nhập thai, phóng ánh sáng lớn, ánh sáng đó vi diệu chiếu khắp thế giới Ta-bà, từ nền Kim cang lên đến cõi trời A-ca-nị-tra, khiến cho các chúng sinh trong thế giới ấy, hoặc tại địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc trên cõi trời, trong nhân gian, hoặc có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, hoặc phi hữu tưởng, phi vô tưởng đều nguyện được thấy ánh sáng vi diệu của con. Nếu ánh sáng chạm vào thân họ thì cũng nguyện biết được. Do thấy biết ánh sáng nên phân biệt được lỗi lầm sinh tử, siêng cầu Niết-bàn tịch diệt vô thượng, cho đến trong một niệm trừ sạch các phiền não. Đó là dạy chúng sinh bắt đầu vun trồng mầm mống Niết-bàn. Nguyện con mười tháng ở trong thai biết chọn lựa được tất cả pháp để thâm nhập tất cả pháp môn, đó là: Vô sinh môn, Không môn, Tam-muội môn và trong vô lượng kiếp đời vị lai thuyết giảng Tam-muội này với tâm hoàn toàn quyết định, không thể hết được. Nếu con ra khỏi thai, thành Chánh giác xong, con sẽ đưa các chúng sinh kia thoát khỏi sinh tử, làm cho các chúng sinh ấy đều được thấy con. Tuy ở trong thai mẹ đủ mười tháng, nhưng thật ra là ở trong Tam-muội châu báu, ngồi kiết già ngay thẳng, chánh định tư duy. Đủ mười tháng xong, con từ hông bên phải đi ra, đem tất cả công đức thành tựu năng lực Tam-muội. Do đó thế giới Ta-bà từ nền Kim cang lên đến trời A-ca-nị-tra đều hiện chấn động sáu cách. Trong đó, các chúng sinh hoặc ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trên cõi trời, trong loài người đều được tỉnh ngộ. Khi ấy, lại có ánh sáng vi diệu chiếu khắp thế giới Ta-bà, làm cho vô lượng, vô biên chúng sinh đều được tỉnh ngộ. Hoặc có chúng sinh chưa trồng căn lành, con sẽ khiến họ trồng căn lành. Đối với Niết-bàn đã trồng căn lành xong, con làm cho các chúng sinh này nẩy mầm Tam-muội. Từ hông bên phải của mẹ bước ra, khi chân đạp đất, con lại nguyện: thế giới Ta-bà từ nền Kim cang lên đến trời A-ca-nị-tra chấn động sáu cách, có các chúng sinh sống trên đất, trên nước, trong hư không thuộc noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh trong năm cảnh giới đều được tỉnh ngộ. Nếu chúng sinh nào chưa được Tam-muội, nguyện họ đạt được và làm cho an trụ nơi địa vị Bất thoái chuyển trong pháp ba thừa. Sau khi sinh xong, con đều khiến các chư Thiên, Phạm vương, Thiên ma, chư Thiên Đao-lợi và Nhật Nguyệt thiên, Tứ thiên vương thiên, chư Đại Long vương, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, thần tiên hóa sinh, Dạ-xoa, La-sát ở thế giới Ta-bà, tất cả cùng đến cúng dường con. Nguyện cho con sinh xong liền đi bảy bước. Sau khi đi đủ bảy bước, đem diệu lực của Tam-muội lựa chọn công đức ra thuyết giảng chánh pháp, khiến cho các đại chúng tâm hoan hỷ trụ vào ba thừa. Ở trong chúng hội ấy, có chúng sinh nào học về Thanh văn, nguyện hết đời này liền được giải thoát. Nếu có người tu học theo Duyên giác thừa, tất cả đều được Nhẫn nhục Nhật Hoa. Có người học Đại thừa được Tam-muội Chấp trì kim cang ái hộ đại hải. Nhờ sức của Tam-muội này nên họ đạt đến địa thứ ba. Ngay khi con mong sự tắm rửa, nguyện có Đại Long vương tối thắng đến tắm rửa cho con, chúng sinh nào thấy được liền trụ vào ba thừa, đạt được công đức như nói ở trên. Khi con làm đồng tử cỡi xe dê, có thể thị hiện vô số kỹ thuật, nhằm làm cho tất cả chúng sinh tỉnh ngộ. Ở trong cung điện cùng vợ con, thể nữ vui chơi theo năm dục, con thấy các lỗi lầm, nên nửa đêm vượt thành, cởi bỏ chuỗi báu và các vật tốt đẹp đang trang sức trên thân mình. Vì muốn phá trừ các phái ngoại đạo như Ni-kiền Tử… cung kính về y phục nên con mặc ca-sa đến bên cây Bồ-đề. Thấy con ở bên gốc cây Bồ-đề, tất cả chúng sinh đều phát nguyện: muốn con mau dùng tất cả công đức để thành tựu sức Tam-muội và thuyết pháp ba thừa. Ai nghe pháp này xong, đều sinh tâm tôn trọng hết mực đối với ba thừa, muốn siêng năng tinh tấn thực hành. Nếu người nào đã phát tâm Thanh văn thừa thì con làm cho họ thoát phiền não, chỉ cần một đời nhờ nơi con mà được điều phục. Nếu người nào đã phát Duyên giác thừa thì con làm cho tất cả đều được Nhẫn nhục Nhật hoa. Nếu người nào phát tâm Đại thừa thì được Tam-muội Chấp trì kim cang ái hộ đại hải. Do năng lực của Tam-muội này nên vượt đến địa thứ tư. Con tự nhận cỏ, trải tòa Kim cang bên gốc cây Bồ-đề, ngồi kiết già, thân tâm ngay thẳng, buộc niệm nơi Tam-muội A phả. Do năng lực của Tam-muội nên làm cho hơi thở ra vào an trú nơi nẻo vắng lặng. Khi tu định này, trong một ngày một đêm ăn nửa hạt mè, nửa hạt gạo, đem nửa hạt còn lại bố thí cho người khác. Con tu tập khổ hạnh lâu xa như vậy, từ thế giới Ta-bà lên đến trời A-ca-nị-tra, ai nghe tên con đều đến cúng dường. Con tu khổ hạnh như vậy, các chúng sinh ấy đều sẽ chứng minh cho con. Có chúng sinh nào trồng thiện căn nơi Thanh văn thừa, bạch Đức Thế Tôn, con nguyện khiến cho các chúng sinh ấy không còn tâm ác phiền não. Nếu chỉ còn một đời là giải thoát, cần phải đến gặp con, con sẽ điều phục, đối với Duyên giác, Đại thừa cũng như thế. Nếu có các chúng Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, ngạ quỷ, Tỳ-xá-gia, thần tiên đạt ngũ thông… đi đến chỗ con để cúng dường, con tu khổ hạnh như vậy, các chúng sinh ấy đều làm chứng cho. Nếu người nào đã học Thanh văn, Duyên giác và Đại thừa thì cũng như vậy. Nếu có chúng sinh trong bốn thiên hạ tu theo khổ hạnh ngoại đạo, ăn uống thô sơ, có các phi nhân đi đến gặp vị đó, nói: “Các ngươi không thể tu hết các hạnh khổ, cũng không được quả báo lớn, không phải là hy hữu. Trong địa phận của ta có vị Bồ-tát Nhất sinh thực hành khổ hạnh lại nhập thiền định vi diệu; thân - khẩu - ý nghiệp đều vắng lặng nhưng hơi thở vẫn vào ra, một ngày một đêm chỉ ăn nửa hạt mè, nửa hạt gạo. Khổ hạnh như vậy thì được quả báo lớn, được lợi ích lớn, giáo hóa rất nhiều, người khổ hạnh như vậy không lâu sẽ thành Chánh giác. Nếu ngươi không tin lời ta, hãy đi đến chỗ đó chiêm ngưỡng việc làm của vị ấy”. Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện các người này bỏ cách tu của mình, đi đến chiêm ngưỡng sự khổ hạnh của con, hoặc có chúng sinh đã học Thanh văn cho đến Đại thừa thì cũng như trên. Nếu có các quốc vương, đại thần, dân chúng, tại gia, xuất gia, thấy con tu khổ hạnh như vậy, đều đi đến chỗ con cúng dường. Hoặc có chúng sinh đã học Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa cũng như vậy. Nếu có người nữ thấy con tu khổ hạnh, đi đến chỗ con cúng dường. Các người nữ này được thọ thân phần, tức là thân nữ cuối cùng. Nếu có chúng sinh đã học Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa cũng như thế. Nếu có các loài cầm thú thấy con tu khổ hạnh cũng đến chỗ con, thì các loài cầm thú này qua đời ở đây không còn trở lại thân súc sinh. Nếu có người đã phát tâm Thanh văn thừa, chỉ còn một đời, phải đi đến gặp con để được điều phục. Nếu có người đã phát tâm Duyên giác cũng như vậy, cho đến loài ngạ quỷ, loài trùng nhỏ vi tế cũng như vậy. Con ngồi kiết già tu khổ hạnh lâu xa như thế, khi ấy có trăm ngàn ức na-do-tha vô lượng chúng sinh chứng minh cho con. Vô lượng chúng sinh này đã ở vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp vun trồng hạt giống giải thoát. Bạch Đức Thế Tôn, con tu khổ hạnh như vậy, trong quá khứ chưa từng có chúng sinh nào thực hành được. Ngoài ra, Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa ngoại đạo cũng không thể làm được các khổ hạnh như thế. Bạch Đức Thế Tôn, con khổ hạnh như vậy, chúng sinh đời vị lai cũng không có thể làm được. Ngoài ra, Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa ngoại đạo cũng không có thể khổ hạnh như vậy. Khi con chưa thành Chánh giác đã có thể làm Phật sự lớn, con nguyện phá trừ ma phiền não, nghóa là phá diệt ma vương và quyến thuộc của chúng. Thành Chánh giác xong, làm cho chúng sinh thứ nhất an trụ trong quả A-la-hán thắng diệu, tùy theo họ mà thọ thân với quả báo của dư nghiệp. Như thế, con khiến cho chúng sinh thứ hai an trụ A-la-hán. Thứ ba, thứ tư, dư nghiệp cũng như vậy. Con vì mỗi mỗi chúng sinh thị hiện vô lượng trăm ngàn thần túc, muốn làm cho họ an trụ trong chánh kiến, vì mỗi chúng sinh mà thuyết trăm ngàn vô lượng nghóa pháp môn, tùy khả năng lãnh thọ của họ mà khiến đạt được thánh quả. Dùng trí tuệ kim cang dứt trừ tất cả các núi phiền não của chúng sinh. Vì các chúng sinh thuyết pháp ba thừa, vì mỗi một chúng sinh nên đi qua trăm ngàn do-tuần mà không dùng thần lực, đến đó để thuyết pháp khiến an trụ nơi vô sở úy. Hoặc có những người muốn xuất gia trong pháp của con thì nguyện của họ không bị chướng ngại, nghóa là không bị yếu kém, thất niệm, cuồng loạn, kiêu mạn, sợ hãi, ngu si không trí tuệ, nhiều trói buộc, tâm tán loạn. Nếu có người nữ muốn xuất gia trong pháp con để học đạo, thọ đại giới thì được thành tựu theo nguyện lớn. Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di của con đều được cúng dường. Nguyện cho chư Thiên và các Quỷ thần được bốn Thánh đế. Các Rồng, A-tu-la và súc sinh khác thọ trì tám trai giới, tu phạm hạnh thanh tịnh. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thành Chánh giác xong, nếu chúng sinh nào sinh lòng sân hận với con; hoặc dùng dao gậy, hầm lửa và vô số các thứ khác muốn tàn hại con; hoặc khắp cả mười phương dùng lời mắng nhiếc, hủy báng, khinh chê; hoặc đem thức ăn độc cho con ăn, dư nghiệp như vậy con sẽ nhận hết. Khi con thành Chánh giác, những chúng sinh oán hại với con từ xưa, sinh tâm hãm hại, nói vô số lời ác, dùng các thức ăn có trộn các chất độc, làm thân con ra máu, những người như vậy đem tâm ác đi đến chỗ con, con sẽ dùng Tam-muội giới đa văn, tâm đại bi huân tập, Phạm âm vi diệu thuyết pháp cho họ, khiến cho những người kia nghe xong tâm liền thanh tịnh, trụ vào pháp thiện. Đối với các nghiệp đã tạo, họ lập tức xin sám hối, hoàn toàn không tạo trở lại, khiến cho tất cả được sinh lên trời, trong loài người, không có sự ngăn trở, sinh trong chư Thiên được giải thoát tốt đẹp, an trụ thắng quả, lìa các ác dục, sạch nghiệp, đoạn hẳn các dòng chướng ngại. Nếu chúng sinh có nghiệp dư tàn đều được dứt hết. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thành Chánh giác xong, tất cả các lỗ chân lông nơi thân hằng ngày thường xuất hiện các vị Hóa Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thứ tự trang nghiêm thân. Con sẽ sai đến thế giới không có Phật, thế giới có Phật và cõi ngũ trược. Nếu thế giới kia có người tạo tội ngũ nghịch, hủy hoại chánh pháp, hủy báng Thánh nhân, cho đến diệt mất các thiện căn, hoặc có người học Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa mà phá hủy các giới, tùy tội lớn thiêu đốt và tiêu diệt tâm lành, diệt mất nẻo thiện, đọa trong sinh tử, ở nơi đồng hoang vu, rừng chằm mà hành các đạo tà, bước lên núi tội. Chúng sinh như vậy có trăm ngàn vạn ức, nên mỗi Hóa Phật trong mỗi ngày đều thuyết pháp cho tất cả họ. Hoặc có người phụng thờ Ma-hê-thủ-la, tùy theo đó con hiện thân hình để thuyết pháp cho họ. Cũng ngay khi ấy có tiếng xưng danh hiệu của con để khen ngợi. Nguyện chúng sinh này nghe sự khen ngợi về con đều sinh tâm hoan hỷ, trồng các thiện căn, được sinh về thế giới của con. Bạch Đức Thế Tôn, nếu khi các chúng sinh này lâm chung, con không ở trước họ thuyết pháp, khiến cho tâm họ được thanh tịnh, thì vào đời vị lai con sẽ không thành Chánh giác. Nếu chúng sinh kia sau khi qua đời, bị đọa nơi ba đường ác, không sinh vào trong nước của con, không thọ thân người, thì vô lượng chánh pháp mà con hiểu biết sẽ diệt mất, các Phật sự không thành tựu. Với người thờ phụng Na-la-diên cũng vậy. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thành Chánh giác xong, nguyện cho người tạo tội ngũ nghịch ở thế giới phương khác, cho đến hành theo các đạo tà, bước lên núi tội, chúng sinh như vậy khi sắp qua đời đều được tập họp đông đủ, sinh vào thế giới của con, tùy theo tướng cũ mà thọ thân sắc hầu hết đều không tươi thắm, mặt mày xấu xí như Tỳ-xá-gia. Do thất niệm, phá giới, tạo nghiệp nhơ nhớp, nên đoản mạng…, các ác này làm tổn giảm thân mạng; của cải giúp cho đời sống thường bị thiếu hụt. Vì các loại chúng sinh này nên con ở nơi Tứ thiên hạ, trong thế giới Ta-bà, vào một lúc nọ, từ cõi Đâu-suất hạ xuống, thị hiện ở nơi thai mẹ, cho đến làm đồng tử học các kỹ thuật, xuất gia tu khổ hạnh, phá dẹp các ma, thành đạo Vô thượng, chuyển bánh xe chánh pháp, sau khi Bát-niết-bàn lưu lại xá-lợi, thị hiện vô số Phật sự như vậy khắp cả trăm ức các cõi Tứ thiên hạ. KINH BI HOA <卷 id="32807838">QUYỂN 7 <卷 id="32807839">Phẩm 4: NGUỒN GỐC CÁC BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 5) Bạch Đức Thế Tôn, khi con thành Chánh giác xong, sẽ dùng một loại âm thanh để thuyết pháp: Người nào học Thanh văn thừa, nghe Phật thuyết pháp, liền biết được tạng pháp Thanh văn. Người nào tu học Bích-chi-phật thừa, nghe Phật thuyết pháp liền hiểu được pháp Bích-chi-phật. Người nào tu học Vô thượng Đại thừa, nghe Phật thuyết pháp liền hiểu rõ pháp Đại thừa thuần nhất không xen tạp. Người nào tu tập pháp trợ Bồ-đề, muốn được Bồ-đề, nghe Phật thuyết pháp liền đem tài sản ra bố thí. Chúng sinh nào bị xa lìa các công đức mà mong cầu diệu lạc trên cõi trời, nơi cõi người, nghe Phật thuyết pháp, liền giữ được giới. Chúng sinh nào tâm ưa sân hận, sợ hãi lẫn nhau, nghe Phật thuyết pháp liền sinh tâm thân thiện, cùng giúp đỡ. Chúng sinh nào ưa tạo nghiệp giết hại, nghe Phật thuyết pháp liền được tâm từ bi. Chúng sinh nào thường bị keo kiệt, đố kî che tâm ý, nghe Phật thuyết pháp liền tu tâm hoan hỷ. Chúng sinh nào xinh đẹp, không bệnh, nên tham đắm sắc, sinh tâm buông lung, nghe Phật thuyết pháp liền được tâm xả bỏ sự tham đắm. Chúng sinh nào nặng đường dâm dục, buông lung, nghe Phật thuyết pháp liền tu tập quán Bất tịnh. Chúng sinh nào học Đại thừa, bị dao động, phiền não che lấp, nghe Phật thuyết pháp liền được pháp Thân niệm xứ. Chúng sinh nào thường khen ngợi mình có khả năng bàn luận việc lớn, trí tuệ sáng suốt lãnh hội nhạy bén, nghe Phật thuyết pháp liền hiểu rõ về mười hai nhân duyên thâm diệu. Chúng sinh nào sự hiểu biết cạn cợt, kém cỏi, lại tự cho mình có thể luận nghị, nghe Phật thuyết pháp liền được đầy đủ các pháp Đà-la-ni. Chúng sinh nào đi vào núi tà kiến, nghe Phật thuyết pháp, liền hiểu rõ các pháp là Không môn vi diệu. Chúng sinh nào bị các tri giác che tâm, nghe Phật thuyết pháp liền được hiểu rõ pháp môn Vô tướng. Chúng sinh nào bị các nguyện bất tịnh che lấp tâm tư, nghe Phật thuyết pháp liền hiểu rõ pháp môn Vô tác. Chúng sinh nào tâm không thanh tịnh, nghe Phật thuyết pháp thì tâm được thanh tịnh. Chúng sinh nào do nhiều duyên che tâm, nghe Phật thuyết pháp được hiểu rõ pháp, chẳng mất tâm Bồ-đề. Chúng sinh nào bị sân hận che tâm, nghe Phật thuyết pháp, liền hiểu rõ tướng chân thật, nên được thọ ký. Chúng sinh nào bị sự ỷ lại che tâm, nghe Phật thuyết pháp, hiểu rõ các pháp vốn không có chỗ ỷ lại. Chúng sinh nào bị ái nhiễm che tâm, nghe Phật thuyết pháp mau hiểu rõ các pháp thanh tịnh không nhơ. Chúng sinh nào quên mất tâm thiện, nghe Phật thuyết pháp hiểu rõ Tam-muội Nhật quang. Chúng sinh nào thực hành theo các nghiệp của ma, nghe Phật thuyết pháp mau được hiểu rõ pháp thanh tịnh. Chúng sinh nào bị tà luận che tâm, nghe Phật thuyết pháp liền được hiểu rõ thêm chánh pháp. Chúng sinh nào bị phiền não che tâm, nghe Phật thuyết pháp thì mau được hiểu rõ, xa lìa các thứ phiền não. Chúng sinh nào đi theo các nẻo ác, nghe Phật thuyết pháp liền quay trở lại đường thiện. Chúng sinh nào gần với pháp Đại thừa mà lại khen ngợi tà pháp là tốt đẹp, nghe Phật thuyết pháp liền từ bỏ pháp tà nên được chánh kiến. Có Bồ-tát nào nhàm chán sinh tử, nghe Phật thuyết pháp liền sinh tâm ưa thích sinh tử. Có chúng sinh nào không biết cảnh giới thiện, nghe Phật thuyết pháp liền hiểu được pháp của cảnh giới thiện. Có chúng sinh nào thấy người khác làm lành mà không ưa thích, sinh tâm ganh ghét, nghe Phật thuyết pháp liền được hoan hỷ. Có chúng sinh tâm trái ngược chống đối nhau, nghe Phật thuyết pháp liền được sáng suốt, vô ngại. Có chúng sinh nào hành theo các nghiệp ác, nghe Phật thuyết pháp, hiểu rõ quả báo của nghiệp ác. Có chúng sinh nào sợ hãi đại chúng, nghe Phật thuyết pháp, được hiểu rõ Tam-muội Sư tử tướng. Có chúng sinh nào bị bốn loại ma che tâm, nghe Phật thuyết pháp mau được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Có chúng sinh nào không thấy ánh sáng nơi quốc độ của chư Phật, nghe Phật thuyết pháp liền được hiểu rõ vô số Tam-muội Quang minh trang nghiêm. Có chúng sinh nào có tâm ưa ghét, nghe Phật thuyết pháp liền được tâm xả. Có chúng sinh nào chưa được ánh sáng nơi Phật pháp, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Pháp tràng. Có chúng sinh nào xa lìa trí tuệ lớn, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Pháp cự. Có chúng sinh nào bị si ám che tâm, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Nhật đăng quang minh. Có chúng sinh nào không có tài năng về giảng nói giáo pháp, nghe Phật thuyết pháp liền được vô số công đức ứng đối. Có chúng sinh nào xem xét các sắc hòa hợp nhau không bền chắc, giống như bọt nước, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Na-la-diên. Có chúng sinh nào tâm loạn không định, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Kiên lao quyết định. Có chúng sinh nào muốn chiêm ngưỡng đảnh Phật, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Tu-di tràng. Có chúng sinh nào xả bỏ bản nguyện, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Kiên lao. Có chúng sinh nào thoái thất các thần thông, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Kim cang. Có chúng sinh nào đối với Bồ-đề đạo tràng, sinh nghi hoặc, nghe Phật thuyết pháp liền được hiểu rõ đạo tràng Kim cang. Có chúng sinh nào trong tất cả pháp không có tâm chán, lìa, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Kim cang. Có chúng sinh nào không biết tâm của loài khác, nghe Phật thuyết pháp liền biết rõ tâm của loài khác. Có chúng sinh nào đối với các căn không biết rõ lợi, độn, nghe Phật thuyết pháp liền biết rõ là lợi, độn. Có chúng sinh nào đối với từng chủng loại của các loài, không hiểu ngôn ngữ của chúng, nghe Phật thuyết pháp liền được hiểu rõ về Tam-muội Âm thanh. Có chúng sinh nào chưa đắc Pháp thân, nghe Phật thuyết pháp liền được hiểu rõ, phân biệt các thân. Có chúng sinh nào không thấy thân Phật, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Bất huyễn. Có chúng sinh nào luôn phân biệt các duyên, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Vô tránh. Có chúng sinh nào có tâm nghi ngờ đối với việc Chuyển pháp luân, nghe Phật thuyết pháp nên đối với Chuyển pháp luân, tâm được thanh tịnh. Có chúng sinh nào phát sinh tà hạnh, không tin nhân quả, nghe Phật thuyết pháp liền được sáng suốt, hiểu rõ các pháp và tùy thuận nhân duyên. Có chúng sinh nào khởi thường kiến đối với một thế giới Phật, nghe Phật thuyết pháp liền phân biệt được hết vô lượng cõi Phật. Có chúng sinh nào chưa vun trồng các tướng thiện căn, nghe Phật thuyết pháp liền được vô số Tam-muội trang nghiêm. Có chúng sinh nào không thể phân biệt hết tất cả ngôn ngữ, nghe Phật thuyết pháp liền được pháp Tam-muội Giải liễu phân biệt chủng chủng ngôn âm (Hiểu rõ, phân biệt các loại ngôn ngữ, âm thanh). Có chúng sinh nào chuyên tâm cầu tuệ Nhất thiết trí, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Vô sở phân biệt pháp giới. Có chúng sinh nào đối với pháp bị thoái lui, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Kiên cố. Có chúng sinh nào không biết pháp giới, nghe Phật thuyết pháp liền được đại trí tuệ. Có chúng sinh nào xa rời bản nguyện, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Bất thất. Có chúng sinh nào hay phân biệt các đạo pháp, nghe Phật thuyết pháp liền hiểu được đạo pháp duy nhất, không còn sự phân biệt. Có chúng sinh nào mong cầu trí tuệ, muốn rộng lớn như hư không, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Vô sở hữu. Có chúng sinh nào chưa được đầy đủ các Ba-la-mật, nghe Phật thuyết pháp liền được trụ nơi Tịnh ba-la-mật. Có chúng sinh nào chưa được đầy đủ pháp bốn nhiếp, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Diệu thiện nhiếp thủ. Có chúng sinh nào phân biệt Tứ vô lượng tâm, nghe Phật thuyết pháp liền được tâm bình đẳng, siêng năng tinh tấn. Có chúng sinh nào chưa được đầy đủ ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Trụ bất xuất thế. Có chúng sinh nào tâm thất niệm và mất trí tuệ, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Đại hải trí ấn. Có chúng sinh nào nghi ngờ về Vô sinh pháp nhẫn, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội quyết định các pháp với một pháp tướng. Có chúng sinh nào quên mất pháp đã nghe, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Bất thất niệm (Chẳng mất niệm). Có chúng sinh nào không ưa thích đối với những người thuyết pháp, nghe Phật thuyết pháp liền được tuệ nhãn thanh tịnh, không có lưới nghi. Có chúng sinh nào không tin Tam bảo, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Công đức tăng trưởng. Có chúng sinh nào đói khát mưa pháp, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Pháp vũ. Có chúng sinh nào đối với Tam bảo dấy khởi chấp đoạn diệt, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Chư bảo trang nghiêm (Các báu trang nghiêm). Có chúng sinh nào không tạo nghiệp trí tuệ, không siêng năng tinh tấn, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Kim cang trí tuệ. Có chúng sinh nào bị các phiền não trói buộc, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Hư không ấn. Có chúng sinh nào chấp ngã, ngã sở, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Trí ấn. Có chúng sinh nào không biết công đức đầy đủ của Như Lai, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Thế gian giải thoát. Có chúng sinh nào nơi đời quá khứ chưa từng cúng dường Phật, nghe Phật thuyết pháp liền được vô số thần túc biến hóa. Có chúng sinh nào chưa được nghe nói về một thứ pháp giới trong vô lượng kiếp đến tận đời vị lai, nghe Phật thuyết pháp liền được hiểu thông suốt, tất cả các pháp đồng một pháp giới. Có chúng sinh nào đối với tất cả các kinh điển chưa chọn lựa được, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Chư pháp bình đẳng thật tướng. Có chúng sinh nào xa lìa pháp Lục hòa, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Giải liễu chư pháp (Hiểu rõ các pháp). Có chúng sinh nào không siêng năng, tinh tấn đối với pháp môn giải thoát bất khả tư nghị, nghe Phật thuyết pháp, ngay trong các thần thông liền được Tam-muội Sư tử du hý. Có chúng sinh nào muốn phân biệt hội nhập vào Như Lai tạng, nghe Phật thuyết pháp, hoàn toàn không nghe theo người khác, liền được phân biệt hội nhập vào Như Lai tạng. Có chúng sinh không siêng năng tinh tấn đối với đạo Bồ-tát, nghe Phật thuyết pháp liền được trí tuệ, siêng năng tinh tấn. Có chúng sinh chưa từng được thấy kinh Bản Sinh, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Nhứt thiết tại tại xứ xứ. Có chúng sinh hành đạo chưa xong, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội thọ ký. Có chúng sinh chưa được đầy đủ mười lực của Như Lai, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Vô hoại. Có chúng sinh chưa được đầy đủ Tứ vô sở úy, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Vô tận ý. Có chúng sinh nào chưa được đầy đủ pháp Bất cộng Phật, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Bất cộng pháp. Có chúng sinh nào chưa được đầy đủ tri kiến không ngu si, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Nguyện cú. Có chúng sinh nào chưa rõ biết tất cả môn nơi Phật pháp, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Tiên bạch vô cấu tịnh ấn. Có chúng sinh nào chưa được đầy đủ Nhất thiết trí, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Thiện liễu. Có chúng sinh chưa được thành tựu tất cả Phật sự, nghe Phật thuyết pháp liền được Tam-muội Vô lượng Bất tận ý… Các chúng sinh như vậy đối với Phật pháp đều được tin hiểu. Có các Bồ-tát tâm tánh ngay thẳng không dối trá, nghe Phật thuyết pháp liền được tám vạn bốn ngàn các pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp Tam-muội, bảy vạn năm ngàn môn Đà-la-ni. Có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ Đại Bồ-tát tu tập Đại thừa, nghe thuyết pháp này cũng được vô lượng công đức như vậy, an trụ nơi địa Bất thoái chuyển. Cho nên, các Đại Bồ-tát muốn được vô số trang nghiêm bền chắc, nên phát nguyện Bất khả tư nghị, tăng thêm tri kiến Bất khả tư nghị, để tự trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng trang nghiêm, với tám mươi vẻ đẹp kèm theo. Nhờ diệu âm trang nghiêm, nên các Bồ-tát tùy theo sở thích của các chúng sinh mà thuyết pháp, làm cho người nghe pháp được đầy đủ tri kiến. Do tâm trang nghiêm nên được các Tam-muội không thoái chuyển. Do niệm trang nghiêm nên không mất tất cả các pháp Đà-la-ni. Do tâm trang nghiêm nên phân biệt được các pháp. Do niệm trang nghiêm nên hiểu được các ý nghóa rất vi tế. Do tâm thiện trang nghiêm nên được thệ nguyện kiên cố, tinh tấn bền chắc, theo nguyện của mình đưa đến bờ bên kia. Do chuyên tâm trang nghiêm nên vượt qua các cấp bậc. Do Bố thí trang nghiêm nên đối với các thứ cần dùng có thể xả hết. Do Trì giới trang nghiêm nên khiến tâm lành trong trắng, thanh tịnh. Do Nhẫn nhục trang nghiêm nên đối với các chúng sinh tâm không chướng ngại. Do Tinh tấn trang nghiêm nên tất cả sự giúp đỡ đều được thành tựu. Do Thiền định trang nghiêm nên đối với tất cả pháp Tam-muội đạt được Tam-muội Sư tử du hý. Do Trí tuệ trang nghiêm nên biết rõ chỗ tập khởi của các phiền não. Do Từ trang nghiêm nên chuyên tâm nhớ nghó đến tất cả chúng sinh. Do Bi trang nghiêm nên có thể dứt hẳn tất cả khổ cho chúng sinh. Do Hỷ trang nghiêm nên tâm không nghi hoặc đối với tất cả pháp. Do Xả trang nghiêm nên lìa được tâm kiêu mạn, tâm không còn phân biệt cao thấp. Do các thần thông trang nghiêm nên được Tam-muội Sư tử du hý đối với tất cả pháp. Do công đức trang nghiêm nên có được tay giữ gìn kho tàng vô tận. Do trí trang nghiêm nên biết các tâm đang có của chúng sinh. Do ý trang nghiêm nên tạo phương tiện giúp tất cả chúng sinh được tỉnh ngộ. Do quang minh trang nghiêm nên được mắt trí tuệ sáng. Do các biện tài trang nghiêm nên khiến chúng sinh được lời lẽ ứng đối đúng nghóa pháp. Do Vô úy trang nghiêm nên tất cả các ma không thể làm hại. Do công đức trang nghiêm nên được công đức của chư Phật, Thế Tôn. Do pháp trang nghiêm nên được biện tài vô ngại, thường vì chúng sinh giảng thuyết diệu pháp. Do quang minh trang nghiêm nên được ánh sáng của tất cả pháp Phật. Do tỏa chiếu ánh sáng trang nghiêm nên có thế chiếu khắp thế giới chư Phật. Do tha tâm trang nghiêm nên được chánh trí không loạn. Do sự chỉ dạy trang nghiêm nên giữ gìn được giới cấm đúng theo lời nói. Do thần túc trang nghiêm nên được Như ý túc đạt đến bờ kia. Do thọ trì tất cả sự trang nghiêm của chư Như Lai nên được vào pháp tạng vô lượng của Như Lai. Do pháp tôn quý trang nghiêm nên được trí tuệ không tùy thuộc vào người khác. Do thực hành theo tất cả pháp thiện trang nghiêm nên được sự thực hành đúng như lời nói, muốn khiến cho chúng sinh ấy đều được tất cả các công đức lợi ích như vậy. Có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ Đại Bồ-tát tu tập pháp Đại thừa, do nghe con thuyết giảng một câu pháp nên có đầy đủ tất cả pháp thiện thanh tịnh. Do vậy, các Đại Bồ-tát đối với các pháp đạt được trí tuệ, không nghe theo người khác, thành tựu được ánh sáng của pháp lớn, thành Bậc Chánh Giác vô thượng. Bạch Đức Thế Tôn, nếu chúng sinh ở thế giới phương khác tạo tội ngũ nghịch, cho đến phạm bốn giới cấm nặng, thiêu đốt và tiêu diệt pháp lành, hoặc học Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa, nhưng do nguyện lực nên muốn sinh đến thế giới con, đã sinh đến rồi, vẫn còn tất cả các nghiệp bất thiện, thô bạo, tệ ác, tâm ngang ngược, khó điều phục, chuyên dua theo bốn thứ điên đảo tham đắm, keo kiệt. Các chúng sinh như vậy với tám vạn bốn ngàn nẻo tâm loạn, với căn tánh khác nhau, con sẽ vì những chúng sinh với căn tánh khác nhau đó mà giảng rộng về tám vạn bốn ngàn pháp tụ. Bạch Đức Thế Tôn, nếu có chúng sinh học Vô thượng Đại thừa, con sẽ vì họ mà giảng rộng đầy đủ sáu Ba-la-mật, là: Bố thí ba-la-mật…, cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Có chúng sinh nào học Thanh văn thừa, chưa trồng căn lành, nguyện cầu chư Phật làm thầy cho mình, thì con sẽ làm cho họ tu học theo ba pháp quy y, rồi sau đó khuyên bảo khiến họ tu học theo sáu pháp Ba-la-mật. Có chúng sinh ưa làm việc sát hại, con sẽ khiến họ không còn giết hại. Có chúng sinh chuyên làm việc tham ác, con sẽ làm cho họ không còn trộm cướp. Có chúng sinh tà dâm phi pháp, con sẽ giúp họ dứt bỏ tà dâm. Có chúng sinh cố vọng ngữ, phỉ báng, con sẽ dẫn dắt họ không còn vọng ngữ. Có chúng sinh thích thú việc cuồng si, con sẽ chỉ dạy khiến họ không còn uống rượu. Chúng sinh nào phạm năm việc này, con sẽ truyền dạy cho họ năm giới Ưu-bà-tắc. Chúng sinh nào không ưa thích các pháp lành, con sẽ làm cho họ thọ trì tám giới trong một ngày một đêm. Có chúng sinh ít thiện căn, sinh tâm ưa thích thiện căn, con sẽ tạo cho họ vào đời vị lai được xuất gia học đạo trong Phật pháp, sống theo mười giới, phạm hạnh thanh tịnh. Có chúng sinh tâm mong cầu các pháp thiện căn, con sẽ giúp họ được thành tựu phạm hạnh, đầy đủ đại giới, sống trong pháp thiện căn. Các chúng sinh như vậy, từ loại tạo tội ngũ nghịch cho đến keo kiệt, con vì những chúng sinh này, dùng vô số pháp môn, thị hiện thần túc, thuyết giảng các văn nghóa, mở bày chỉ dạy các ấm, giới, nhập, khổ, không, vô thường, vô ngã, khiến an trụ nơi Niết-bàn thiện diệu, an ổn, tịch diệt, không còn sợ hãi. Lại vì bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà thuyết pháp. Có chúng sinh cầu được nghe về luận nghị, con sẽ thuyết giảng các luận giải về chánh pháp, cho đến có người cầu giải thoát, con sẽ vì họ thuyết giảng luận giải về Không, Vô. Có chúng sinh tâm không ưa pháp thiện chân chánh, con sẽ vì họ thuyết giảng các việc phục vụ chúng Tăng. Có chúng sinh tâm ưa thích đối với pháp thiện chân chánh, con sẽ vì họ thuyết các pháp Tam-muội, Không định, chỉ bày nẻo giải thoát chân chánh. Bạch Đức Thế Tôn, con vì mỗi mỗi chúng sinh như vậy, cần phải đi qua trăm ngàn do-tuần mà không dùng thần túc, để chỉ bày vô lượng, vô biên, vô số phương tiện khiến họ hiểu giáo pháp, nên thị hiện thần túc cho đến Niết-bàn mà tâm không nhàm chán. Bạch Đức Thế Tôn, con nhờ sức của Tam-muội nên xả thọ mạng đã đạt được ở phần thứ năm để nhập Niết-bàn. Ngay khi ấy, con tự phân tán thân thể nhỏ như nửa hạt cải, vì thương xót chúng sinh nên cầu nhập Niết-bàn. Sau khi nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế một ngàn năm, tượng pháp trụ thế năm trăm năm. Sau khi con Niết-bàn, nếu chúng sinh nào dùng vật quý báu, âm nhạc cúng dường xá-lợi, cho đến lễ bái, đi nhiễu bên phải một vòng, chắp tay khen ngợi, dâng một cành hoa…, do nhân duyên đó, tùy theo nguyện họ đều không còn thoái chuyển đối với pháp ba thừa. Bạch Đức Thế Tôn, sau khi con nhập Niết-bàn, chúng sinh nào có thể giữ gìn kiên cố một giới như trong pháp con đã dạy, cho đến đọc tụng một bài kệ bốn câu, giảng nói cho người khác, làm cho họ nghe, sinh tâm hoan hỷ, cúng dường Pháp sư, dù cho chỉ dâng một cành hoa, lạy một lạy…, do nhân duyên đó, tùy theo chí nguyện của mình, trong ba thừa sẽ không còn thoái chuyển. Cho đến khi đuốc pháp tắt, cờ pháp ngã, chánh pháp diệt hết, xá-lợi của con vẫn ẩn trong đất, đến nền Kim cang. Bấy giờ, thế giới Ta-bà không có châu báu, xá-lợi của con biến làm Ý tướng lưu ly bảo châu, ánh sáng chiếu khắp từ nền Kim cang đến khắp cả thế gian, trên đến trời A-ca-nị-tra, mưa vô số hoa: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Ba-lợi-chất-đa, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa. Có ánh sáng thanh tịnh tỏa lớn như bánh xe, các loại hoa ấy với trăm cánh, ngàn cánh, hoặc trăm ngàn cánh; ánh sáng nơi hoa chiếu khắp và có hương thơm vi diệu thường lan tỏa mọi chốn, người xem không thấy nhàm chán. Ánh sáng đó tỏa chiếu nơi nơi không thể tính kể, hương thơm vi diệu vô lượng, vô biên, mưa thuần vô lượng các hoa như vậy. Ngay khi mưa, lại phát ra vô số tiếng vi diệu: tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ-kheo Tăng, tiếng Tam quy y, tiếng Ưu-bà-tắc giới, tiếng thành tựu tám giới, tiếng xuất gia mười giới, tiếng bố thí, tiếng trì giới, tiếng phạm hạnh thanh tịnh, gồm đủ đại giới, tiếng giúp đỡ các việc cho Tăng chúng, tiếng đọc kinh, tiếng thiền định tư duy, tiếng quán bất tịnh, tiếng theo dõi hơi thở ra vào, tiếng Phi tưởng phi phi tưởng, tiếng Hữu tưởng, tiếng Vô tưởng, tiếng Thức xứ, tiếng Không xứ, tiếng Bát thắng xứ, tiếng Thập nhất thiết nhập, tiếng Định tuệ, tiếng Không, tiếng Vô tướng, tiếng Vô tác, tiếng mười hai nhân duyên, tiếng Cụ túc Thanh văn tạng, tiếng học Duyên giác, tiếng Cụ túc Đại thừa sáu Ba-la-mật…, trong hoa đó phát ra các tiếng như vậy, chư Thiên nơi cõi Sắc đều nghe hết, từ xưa đã trồng các căn lành thì tự nhớ nghó; có những điều không lành, liền tự hối trách nên trở lại thế giới Ta-bà giáo hóa vô lượng chúng sinh trong thế gian, khiến cho đều được sống theo mười điều thiện. Chư Thiên nơi Dục giới cũng được lãnh thọ, không còn ái kết, tham ưa năm dục đã có, các tâm sở pháp đều được vắng lặng. Nếu xưa kia đã trồng các căn lành liền tự nhớ nghó, có điều chẳng lành, liền tự hối trách, nên hạ xuống thế giới Ta-bà giáo hóa vô lượng chúng sinh, làm cho tất cả được sống trong mười điều thiện. Bạch Đức Thế Tôn, các hoa này ở trong hư không sẽ hóa làm vô số châu báu, kim, ngân, lưu ly, châu ngọc ma-ni, ngọc kha bối, ngọc bích, vật báu, giống như vật báu, san hô, mã não, mão trời, vật trang sức quý báu… rơi xuống như mưa đầy khắp tất cả thế giới Ta-bà. Bấy giờ, tâm mọi người hòa thuận vui vẻ, không có các việc tranh giành, đói khát, bệnh tật, các độc hại của oán tặc, ác khẩu ở phương khác đến bị tiêu diệt tất cả, nên được sống yên tịnh. Thế giới bấy giờ có những sự an vui như vậy. Chúng sinh nào thấy các châu báu, hoặc xúc chạm, hoặc sử dụng, thì đối với pháp của ba thừa không bị thoái chuyển, các châu báu này tạo các lợi ích như thế xong lại ẩn vào đất, trở về chỗ cũ, ở nền Kim cang. Bạch Đức Thế Tôn, ở thế giới Ta-bà, khi kiếp binh đao khởi lên, xá-lợi của con sẽ hóa làm ngọc lưu ly xanh biếc từ đất hiện ra, lên đến trời A-ca-nị-tra, mưa vô số hoa: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Ba-lợi-chất-đa, cho đến trở lại ẩn nơi đất, tận nơi nền Kim cang cũng giống như trên. Bạch Đức Thế Tôn, như kiếp binh đao, kiếp đói khát, dịch bệnh nổi lên cũng lại như trên. Bạch Đức Thế Tôn, giữa đại Hiền kiếp, sau khi con Bát-niết-bàn, các xá-lợi này làm Phật sự như vậy, điều phục vô lượng, vô biên chúng sinh được Bất thoái chuyển nơi ba thừa. Như thế, sẽ ở trong vô số đại kiếp nhiều như vi trần trong thế giới của năm Đức Phật, điều phục vô lượng, vô biên chúng sinh, làm cho họ không thoái chuyển nơi ba thừa. Bạch Đức Thế Tôn, sau khi mãn một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, những vị ở nơi vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thế giới khác trong mười phương ra đời thành Phật, đều là nhờ khi con thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo hóa những vị ấy mới phát tâm thành Chánh giác, khiến chư vị được an trú vào sáu Ba-la-mật. Bạch Đức Thế Tôn, khi thành Chánh giác xong, con sẽ giáo hóa chúng sinh làm cho họ phát tâm thành Chánh giác, an trụ nơi sáu Ba-la-mật. Và sau khi con Niết-bàn, xá-lợi biến hóa để giáo hóa chúng sinh, giúp họ phát tâm thành Chánh giác. Các chúng sinh này trải qua một ngàn hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp ở trong vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương ra đời thành Phật, đều sẽ xưng danh hiệu con và khen ngợi con rằng: “Vào thuở quá khứ lâu xa có kiếp tên là Hiền, khi vào đầu kiếp, Đức Thế Tôn thứ tư tên là….., Đức Thế Tôn đó khuyến hóa chúng con đầu tiên phát tâm thành Chánh giác. Chúng con khi ấy tâm lành bị thiêu đốt, quen theo căn tánh chẳng lành, tạo tội ngũ nghịch cho đến tà kiến. Bấy giờ Đức Phật kia khuyến hóa chúng con, khiến được an trụ nơi sáu Ba-la-mật. Nhờ vậy liền được hiểu rõ tất cả môn Đà-la-ni, chuyển bánh xe chánh pháp, lìa sự trói buộc của sinh tử, làm cho vô lượng, vô biên trăm ngàn chúng sinh an trụ nơi thắng quả. Lại tạo cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh được làm chư Thiên, cho đến chứng quả giải thoát.” Nếu có chúng sinh cầu đạo Bồ-đề, nghe khen ngợi con xong đều hỏi Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, Đức Phật Thế Tôn kia thấy có những ích lợi gì mà thành Chánh giác ở đời năm trược xấu ác? Chư Thế Tôn ấy lập tức hướng đến thiện nam, thiện nữ cầu đạo Bồ-đề này, nói: –Phật Thế Tôn kia ngày xưa đã thành tựu đại bi mới phát tâm thành Chánh giác, với nhân duyên phát khởi bản nguyện ấy là làm cho thế giới trang nghiêm và vi diệu tốt đẹp. Người này nghe xong rất kinh ngạc, khen chưa từng có, liền phát nguyện tốt, sinh tâm đại bi đối với các chúng sinh, phát lời nguyện giống như con. Có thế giới nặng về năm trược, chúng sinh trong đó tạo tội ngũ nghịch cho đến sống với các căn bất thiện, con sẽ ở trong đó điều phục họ. Chư Thế Tôn kia do các người này mà thành tựu đại bi, phát các nguyện lành nơi đời năm trược, thọ ký tùy theo sự nguyện cầu của họ. Bạch Đức Thế Tôn, lại vì các người tu học Đại thừa, Phật Thế Tôn kia nói về nhân duyên mà xá-lợi con đã biến hóa: “Quá khứ lâu xa có Phật, Thế Tôn hiệu là…….., sau khi Bát-niết-bàn, kiếp đao binh, tật bệnh, đói khát khởi lên, bấy giờ chúng con ở trong kiếp đó bị các khổ não, xá-lợi của Phật ấy vì chúng con nên hiện ra vô số thần túc Sư tử du hý khiến chúng con được phát tâm thành Chánh giác, trồng các căn lành, siêng năng tu tập sáu Ba-la-mật như đã rộng nói ở trên.” Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, bấy giờ ở chỗ Phật Bảo Tạng, trước chư Thiên, đại chúng Nhân, Phi nhân, Phạm chí Bảo Hải liền thành tựu được tâm đại bi rộng lớn, phát năm trăm thệ nguyện xong, lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, nếu nguyện của con không thành tựu và bản thân con không được lợi ích, con không ở vào giai đoạn cuối cùng của Hiền kiếp trong đời vị lai với năm ác trược nặng nề, trong đó chúng sinh tranh giành lẫn nhau, si mê không có mắt, không thầy dẫn đường, không được dạy bảo, đọa vào tà kiến tối tăm, si ám, tạo năm tội nghịch ác… mà thành tựu sở nguyện và làm các Phật sự trong những điều kiện như đã nói ở trên, thì con nay bỏ tâm Bồ-đề và cũng không trồng các căn lành ở cõi Phật nơi phương khác. Bạch Đức Thế Tôn, nay con chuyên tâm như vậy, không đem thiện căn này để thành Chánh giác, cũng không nguyện cầu Bích-chi-phật thừa, cũng không nguyện làm Thanh văn thừa, Thiên vương, Nhân vương, tham ưa năm dục sinh trong chư Thiên, không cầu Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Dạ-xoa, La-sát, chư Long vương… Do thiện căn này, con không cầu các nơi như vậy. Bạch Đức Thế Tôn, nếu được giàu có lớn là do nhân bố thí. Nếu được sinh lên trời là do nhân giữ giới. Được trí tuệ rộng lớn là do nhân học rộng. Đoạn tuyệt phiền não là do nhân tư duy. Như Phật dạy, các việc như vậy đều là công đức lợi mình lợi người, có thể tùy theo sự nguyện cầu mà đều được hết. Bạch Đức Thế Tôn, nếu căn lành con thành tựu, bản thân con được lợi ích; các việc bố thí, trì giới, học rộng, nghe nhiều của con đều sẽ thành tựu, đem quả báo này đến cho tất cả chúng sinh trong địa ngục. Nếu có chúng sinh nào bị đọa địa ngục A-tỳ, với căn lành này con sẽ cứu độ khiến họ được sinh trong loài người, nghe Phật thuyết pháp liền được thông tỏ, thành A-la-hán, mau vào Niết-bàn. Các chúng sinh này nếu chưa hết nghiệp báo, con sẽ xả mạng sống, vào ngục A-tỳ chịu khổ não thay cho họ. Nguyện cho thân con nhiều như vi trần trong một thế giới Phật, mỗi một thân như núi Tu-di… Mỗi thân này đều biết khổ lạc, như khổ lạc của từng cảm giác ở thân con ngày hôm nay. Con thọ thân nhiều như số vi trần trong một thế giới Phật và chịu các loại quả báo thô ác khổ não như số vi trần trong một thế giới Phật hiện nay. Chúng sinh trong thế giới của mười phương chư Phật đã tạo ác ngũ nghịch, gây nghiệp bất thiện, cho đến bị đọa nơi địa ngục A-tỳ, hoặc về sau trải qua đại kiếp như số vi trần trong một thế giới Phật, chúng sinh trong vô số thế giới như vi trần của thế giới chư Phật ở mười phương, tạo ác ngũ nghịch, gây nghiệp bất thiện sẽ đọa địa ngục A-tỳ, con sẽ vì tất cả chúng sinh ở trong địa ngục A-tỳ ấy mà chịu thay các khổ, làm cho chúng không còn bị đọa trong địa ngục, được gặp chư Phật lãnh thọ diệu pháp, ra khỏi sinh tử, vào thành Niết-bàn. Nay con quyết sẽ thay thế cho các chúng sinh này, ở mãi trong địa ngục A-tỳ. Lại nữa, trong vô số thế giới nhiều như vi trần trong một cõi Phật khắp mười phương, có các chúng sinh đã tạo nghiệp xấu sẽ chắc chắn chịu quả báo đọa địa ngục thiêu đốt như: địa ngục A-tỳ, địa ngục Hỏa chích, địa ngục Ma-ha lư-man, địa ngục Bức bách, địa ngục Dây đu, địa ngục Tưởng và vô số súc sinh, ngạ quỷ, bần cùng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-gia, A-tu-la, Ca-lâu-la…, con cũng đều chịu thay cho chúng những đau khổ như trên. Bạch Đức Thế Tôn, nếu số chúng sinh trong các thế giới nhiều như vi trần trong một cõi Phật ở khắp mười phương đã tạo ra các nghiệp ác mà chắc chắn sẽ được thọ sinh vào loài người, bị đui, điếc, câm, ngọng, không có tay chân, loạn tâm, thất niệm, ăn uống bất tịnh…, thì con cũng sẽ thay thế cho chúng sinh này chịu các tội như đã nói ở trên. Lại nữa, nếu có chúng sinh phải đọa địa ngục A-tỳ chịu các khổ não, con sẽ mãi mãi thay thế cho các chúng sinh ấy chịu các khổ não. Như đối với chúng sinh thọ ấm, giới, nhập ở trong sinh tử với thân súc sinh, ngạ quỷ, bần cùng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-gia, A-tu-la, Ca-lâu-la… thì con cũng đều chịu các khổ não như trên. Bạch Đức Thế Tôn, nếu nguyện của con thành tựu, bản thân con được lợi ích, con được thành Chánh giác như đã nguyện ở trên, thì chư Phật hiện tại trong vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương đang thuyết pháp cho chúng sinh đều sẽ làm chứng cho con, do cũng được chư Phật thấy biết. Bạch Đức Thế Tôn, nay cúi xin Ngài thọ ký cho con thành Chánh giác, ở trong Hiền kiếp, khi loài người thọ một trăm hai mươi tuổi, con ra đời gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bạch Đức Thế Tôn, nếu con có thể chắc chắn thành tựu Phật sự như con đã nguyện, thì đại chúng này và chư Thiên, A-tu-la… hoặc ở trong hư không hay trên mặt đất, chỉ trừ Như Lai, tất cả đều cảm động rơi nước mắt, đều ở trước con làm lễ, khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Ngài đã thành tựu đại bi không ai sánh kịp, được chánh niệm thâm diệu, vì các chúng sinh mà phát lòng thương xót sâu xa, thệ nguyện bền chắc, hành động của ngài không do người khác chỉ dạy, do chuyên tâm đại bi che chở tất cả, ngài giáo dục những người bất thiện, ngũ nghịch. Chúng tôi biết rõ hết nguyện tốt đẹp của ngài. Khi ngài mới phát tâm thành Chánh giác, đã vì chúng sinh làm Đại lương dược, làm nơi quy y, nơi ủng hộ, làm nhà cửa… để cho tất cả chúng sinh được giải thoát, cho nên phát thệ nguyện này. Nay nguyện của ngài đã tạo nên lợi ích, Như Lai sẽ thọ ký cho ngài thành Chánh giác. Khi nghe nói như vậy xong, Chuyển luân thánh vương với vô lượng thanh tịnh, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cảm động rơi lệ, chắp tay hướng về Phạm chí, đầu mặt kính lạy và nói kệ: Nay nguyện của ngài Bền vững sâu xa Hy sinh vui riêng Vì các chúng sinh Phát tâm đại bi Vì dạy chúng con Các pháp chân thật Pháp tướng thù thắng. Bấy giờ, Bồ-tát Quán Thế Âm nói kệ khen ngợi: Chúng sinh nhiều tham đắm Nay ngài không vướng mắc Đối các căn cao, thấp Được tự tại từ lâu Nên tùy theo chúng sinh Khởi thệ nguyện đầy đủ Đời vị lai sẽ được Trí tạng Đà-la-ni. Bồ-tát Đắc Đại Thế nói kệ khen: Vô lượng ức chúng sinh Vì thiện nên nhóm họp Biết ngài đại từ bi Tất cả đều rơi lệ Tu tập các hạnh khổ Xưa nay chưa từng có. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói kệ khen: Tinh tấn thiền định Hết sức bền vững Trí tuệ thắng diệu Phân biệt hoàn toàn Ai đem hoa hương Cúng dường đến ngài Hôm nay được ngài Hoan hỷ nhận lấy. Bồ-tát Hư Không Ấn dùng kệ khen: Ngài vì chúng sinh Thành tựu đại bi Nơi đời ác, đục Bố thí tài sản Nghiêm trì các tướng Vi diệu đệ nhất Vì các chư Thiên Làm Thầy Điều ngự. Bồ-tát Kim Cang Trí Tuệ Quang Minh nói kệ khen: Tâm đại bi của ngài Rộng lớn như hư không Vì muốn giúp chúng sinh Nên thực hành Bồ-đề. Bồ-tát Hư Không Nhật nói kệ khen: Ngài đã thành tựu Công đức đại bi Trí tuệ thắng diệu Hiểu rõ pháp tướng Trừ Phật, Thế Tôn Không ai sánh bằng. Bồ-tát Sư Tử Hương nói kệ khen ngợi: Ngài đời vị lai Ở trong Hiền kiếp Nơi nhiều phiền não Được tiếng khen lớn Lại khiến vô lượng Các loài chúng sinh Dứt trừ khổ não Giải thoát hoàn toàn. Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ khen: Tất cả chúng sinh Tâm siêng tu tập Sinh tử đói khát Vào núi tà kiến Ăn nuốt lẫn nhau Không có tâm thiện Ngài vì đại bi Cứu độ tất cả. Bồ-tát A-Súc nói kệ khen: Thiêu đốt tâm lành Chuyên làm ác nghịch Vô minh che mãi Trong chốn tối tăm Không sao ra được Bùn lầy phiền não Ngài đã hộ trì Chúng sinh như vậy. Bồ-tát Hương Thủ nói kệ khen: Nay ngài thấy rõ Nơi đời vị lai Xem các sợ hãi Như cảnh trong gương Chúng sinh trong đó Hủy hoại chánh pháp Bị thiêu đốt hết Tất cả tâm thiện. Bồ-tát Bảo Tướng nói kệ khen: Nay ngài chỉ dùng Trí tuệ trì giới Thiền định, từ bi Trang nghiêm tâm mình Nên thường cứu độ Tất cả chúng sinh Kẻ đốt pháp lành Phỉ báng Thánh nhân. Bồ-tát Ly Khủng Bố Trang Nghiêm nói kệ khen: Nay ngài đã tu Vô lượng hạnh khổ Đều vì cứu hộ Chúng sinh đời sau Kẻ đốt tâm thiện Sống theo tà kiến. Bồ-tát Hoa Thủ nói kệ khen: Ngài với đại bi Trí tuệ tinh tấn Giữa đại chúng này Không ai sánh kịp Cho nên cứu hộ Các kẻ tà kiến Bị bức ép do Sinh, lão, bệnh, tử. Bồ-tát Trí Xưng nói kệ khen: Vô lượng chúng sinh Nhiều loại bệnh khổ Thường bị phiền não Gió độc thổi đến Nay ngài thường đem Nước đại trí tuệ Tiêu diệt các ma Phá thế lực chúng. Bồ-tát Địa Ấn lại nói kệ khen: Nay Ngài đã được Tinh tấn bền vững Diệt sạch phiền não Và được giải thoát Chúng con chí thấp Không thể bằng ngài. Bồ-tát Nguyệt Hoa nói kệ khen: Tu tập bền vững Dụng ý tinh tấn Nương tựa công đức Sinh lòng thương xót Cho nên đời sau Thường vì chúng sinh Đoạn tuyệt ba nghiệp Trói buộc ba cõi. Bồ-tát Ly Cấu Nguyệt lại nói kệ khen: Đạo Bồ-tát tu tập Đại bi là trên hết Lời nói không chấp tướng Cho nên con kính lễ. Bồ-tát Trì Lực lại nói kệ khen: Đời ác năm trược Nhiều bệnh phiền não Ngài muốn giác ngộ Phát nguyện bền vững Vì các chúng sinh Chặt gốc phiền não. Bồ-tát Hỏa Man nói kệ khen: Trí tuệ của ngài Cũng như kho báu Thệ nguyện phát ra Thanh tịnh vô cấu Tu hành đạt được Vô thượng Bồ-đề Chỉ vì chúng sinh Làm vua thầy thuốc. Bấy giờ, Bồ-tát Hiện Lực cảm động rơi lệ, ở trước Phạm chí làm lễ sát đất, chắp tay nói kệ khen: Ngài dùng đuốc sáng Đại trí tuệ này Vì các chúng sinh Trị bệnh phiền não Cũng vì chúng sinh Bần cùng thiếu thốn Diệt trừ tất cả Vô lượng khổ não. Thiện nam tử, bấy giờ ở trước Phạm chí, tất cả đại chúng Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, Nhân và Phi nhân đem đầu mặt làm lễ xong, đứng dậy chắp tay cung kính, nói vô số pháp khen ngợi. Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, khi ở trước Như Lai, Phạm chí Bảo Hải quỳ gối bên phải sát đất thì đại địa chấn động sáu cách. Tất cả thế giới trong mười phương nhiều như vi trần trong một cõi Phật cũng chấn động sáu cách. Có vầng ánh sáng lớn tỏa chiếu khắp thế gian, mưa vô số hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Ba-lợi-chất-đa, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa cùng vô lượng ánh sáng chiếu khắp mười phương, như trong một cõi Phật. Chư Phật hiện tại khắp nơi nhiều như số vi trần trong các thế giới tịnh hoặc bất tịnh giảng thuyết chánh pháp cho tất cả chúng sinh. Chư Phật này đều có Bồ-tát ngồi nghe pháp. Thấy đại địa chấn động sáu cách, ánh sáng tỏa chiếu rực rỡ, mưa vô số hoa, các Bồ-tát này bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vì sao đại địa nơi đây chấn động sáu cách, có ánh sáng rực rỡ và mưa vô số hoa? Bấy giờ, ở phương Đông cách đây nhiều thế giới như số cát một sông Hằng, có thế giới Phật tên là Tuyển trạch trân bảo, Đức Phật ở cõi này tên là Bảo Nguyệt gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, hiện đang cùng vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ các Đại Bồ-tát cung kính vây quanh, thuyết pháp Đại thừa. Có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Bảo Tướng, vị thứ hai tên Nguyệt Tướng, hướng về Phật Bảo Nguyệt, chắp tay cung kính bạch: –Kính bạch Đức Thế Tôn, vì sao đại địa chấn động sáu cách, có hào quang sáng rực và mưa vô số hoa? Đức Phật Bảo Nguyệt bảo hai Bồ-tát: –Thiện nam tử, ở phương Tây, cách đây nhiều thế giới như số cát một sông Hằng, có thế giới tên là San-đề-lam, có Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Tạng gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, hiện đang thọ ký cho vô lượng, vô biên chư Bồ-tát thành Chánh giác, nói về các quốc độ, chỉ dạy những cảnh giới Tam-muội thiện nguyện trang nghiêm trong thế giới của chư Phật và các kinh nói về Đà-la-ni. Trong đại hội kia có một Đại Bồ-tát tên Đại Bi, phát nguyện: “Nay con sẽ dùng tâm xông ướp đại bi nhận thọ ký thành Chánh giác, vì các Đại Bồ-tát nên thị hiện thiện nguyện. Do đó, trước hết nên làm cho vô lượng, vô biên các Bồ-tát phát thệ nguyện lớn, nhận vô số thế giới trang nghiêm để điều phục chúng sinh”. Sự thành tựu đại bi của vị Đại Bồ-tát này, đại chúng không ai sánh kịp, ở nơi đời năm trược điều phục kẻ tệ ác, nhiều phiền não, cứu giúp tất cả những kẻ ngũ nghịch, cho đến kẻ tu tập các căn chẳng lành, thiêu đốt tâm thiện. Các đại chúng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Nhân và Phi nhân kia không cúng dường Phật mà lại cùng nhau đến và cúng dường thân tối hậu của Bồ-tát Đại Bi, đem đầu mặt đảnh lễ, đứng dậy cung kính chắp tay nói kệ khen ngợi… Bấy giờ, ở trước Phật, Bồ-tát Đại Bi quỳ gối bên phải sát đất xin Phật thọ ký. Phật, Thế Tôn kia liền mỉm cười, khiến cho đại địa ở các thế giới nhiều như vi trần ở một cõi Phật trong khắp mười phương chấn động sáu cách, phóng hào quang lớn, mưa vô số hoa, thức tỉnh tất cả các Bồ-tát. Lại cũng chỉ dạy các đạo Bồ-tát. Phật, Thế Tôn kia khiến cho các Bồ-tát nhiều như vi trần ở mười phương đều tập họp đến và thuyết giảng pháp môn Vô úy, Tam-muội Đà-la-ni cho các Đại Bồ-tát này. Thế nên Đức Phật kia thị hiện vô số biến hóa như vậy. Thiện nam tử, hai Bồ-tát nghe việc này xong liền bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, Bồ-tát Đại Bi này từ khi phát tâm đến nay trải qua thời gian bao lâu? Thời gian hành đạo Bồ-tát là bao lâu? Khi nào sẽ ở đời năm trược xấu ác hàng phục, cứu giúp những chúng sinh phiền não sâu dày, luôn tranh giành với nhau, gây nhiều ngũ nghịch, thành tựu cho tất cả những kẻ không có thiện căn, thiêu đốt tâm thiện? Đức Phật kia bảo hai Bồ-tát: –Thiện nam tử, Bồ-tát Đại Bi ngày nay mới phát tâm thành Chánh giác. Thiện nam tử, ông có thể đến chiêm ngưỡng Phật Bảo Tạng, cung kính cúng dường, lễ bái, hầu hạ, nghe các kinh nói về pháp môn Vô úy, Tam-muội Đà-la-ni, gặp Đại Bồ-tát Đại Bi và thay Ta thưa: “Bảo Nguyệt Như Lai thành tâm thưa hỏi, dùng hoa Nguyệt quang tịnh này để ngài làm tin”. Lại khen Bồ-tát Đại Bi: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông mới phát tâm mà đã có thể thành tựu đại bi như vậy. Nay đã có vô lượng tiếng khen về ông đầy khắp vô số thế giới chư Phật trong mười phương như vi trần trong một cõi Phật, với lời nói: “Bồ-tát Đại Bi kia mới phát tâm mà đã có thể thành tựu đại bi như vậy”. Cho nên này Thiện nam tử, Ta khen ngợi ông: “Lành thay! Lành thay!”. Lại nữa, Thiện nam tử, ông vì các Bồ-tát đời vị lai thành tựu đại bi nên nói đại bi, không đoạn tuyệt thiện nguyện, dựng ngọn cờ pháp cho nên được khen: “Lành thay! Lành thay!”. Lại nữa Thiện nam tử, tiếng khen về ông sẽ vang đến tận đời vị lai, kéo dài đến vô số a-tăng-kỳ kiếp, nhiều như vi trần trong một cõi Phật và dạy cho trăm ngàn ức vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh an trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đến địa vị Phật không thoái chuyển, hoặc phát thiện nguyện, hoặc nhận Tịnh độ, cứu giúp chúng sinh, tùy theo họ để giáo hóa, lại làm cho họ ở đời vị lai được thọ ký thành Chánh giác. Chúng sinh như vậy đến đời vị lai, trải qua số kiếp như vi trần trong một cõi Phật, sẽ ở nơi số kiếp như vi trần một cõi Phật khắp mười phương, sẽ ở vô số thế giới chư Phật như vi trần một cõi Phật khắp mười phương được thành Chánh giác, chuyển bánh xe chánh pháp, lại sẽ khen ngợi Bồ-tát Đại Bi, cho nên dùng các pháp khen ngợi này để khen ngợi ông: “Lành thay! Lành thay!”.” Thiện nam tử, bấy giờ cõi kia có chín mươi hai ức các Đại Bồ-tát đồng thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, chúng con muốn đi đến cõi San-đề-lam chiêm ngưỡng Phật Bảo Tạng, lễ bái, cúng dường, cung kính, hầu hạ, nghe các kinh nói về Tam-muội Đà-la-ni, pháp môn Vô úy và muốn chiêm ngưỡng Bồ-tát Đại Bi. Đức Phật kia bèn đem các pháp tán thán cùng hoa Nguyệt quang tịnh đưa cho hai Bồ-tát và bảo phải biết đúng thời. Khi ấy, Bồ-tát Bảo Tướng, Bồ-tát Nguyệt Tướng nhận hoa Nguyệt quang tịnh của Đức Phật kia rồi cùng với chín mươi hai ức Đại Bồ-tát, nhanh như ánh điện chớp, ẩn mất ở thế giới kia và xuất hiện nơi cõi San-đề-lam, đến gặp Phật Bảo Tạng trong vườn Diêm-phù, lạy nơi chân Phật, đem vô số Sư tử du hý mà các Bồ-tát đã được để cúng dường Phật. Bấy giờ, hai Bồ-tát kia thấy Phạm chí Bảo Hải cung kính chắp tay khen ngợi đại chúng; thấy xong, liền suy nghó: “Nay đại só này phải chăng là Bồ-tát Đại Bi nên mới được Như Lai Bảo Nguyệt trao tặng hoa báu này?”. Hai Bồ-tát ở trước Phật liền quay về phía Phạm chí, lấy hoa dâng lên và thưa: –Như Lai Bảo Nguyệt trao hoa đẹp này cho Ngài làm tin và ba pháp tán thán… như đã nói ở trên. Như vậy, vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thế giới chư Phật ở phương Đông cũng sai vô lượng Đại Bồ-tát đến cõi San-đề-lam, đều dùng hoa Nguyệt quang tịnh và các pháp tán thán, ngoài ra như đã nói ở trên. Thiện nam tử, khi ấy ở phương Nam, cách đây bảy vạn, bảy ngàn, trăm ngàn ức thế giới Phật, có thế giới Phật tên là Bảo lâu sư tử hống, có Phật hiệu Sư Tử Tướng Tôn Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đang thuyết pháp Đại thừa cho các Bồ-tát, có hai Đại Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Kim Cang Trí Tướng, vị thứ hai tên Sư Tử Kim Cang Tướng. Hai Bồ-tát này bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vì sao đại địa chấn động sáu cách? Có ánh sáng lớn và mưa vô số hoa…, giống như các Bồ-tát ở phương Đông. Lại nữa, vô lượng, vô biên chư Phật ở phương Nam đều sai vô lượng Bồ-tát đến cõi San-đề-lam cũng như vậy. Bấy giờ, ở phương Tây, cách đây tám vạn chín ngàn, trăm ngàn ức thế giới, có thế giới tên An lạc, Đức Phật ở đây hiệu là Nhiếp Chư Căn Tịnh Mục Như Lai hiện đang thuyết pháp Tam thừa cho bốn bộ chúng. Có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Hiền Nhật Quang Minh, vị thứ hai tên Sư Tử Hống Thân. Hai Bồ-tát này bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì khiến đại địa chấn động sáu cách, có ánh sáng lớn tỏa chiếu và mưa vô số hoa? Ngoài ra như đã nói ở trên. Vô lượng thế giới ở phương Tây cũng như vậy. Bấy giờ, ở phương Bắc, cách đây chín vạn trăm ngàn ức thế giới, có thế giới tên Thắng chân bảo, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Thế Gian Tôn Vương Như Lai hiện đang thuyết pháp Đại thừa cho các Bồ-tát. Có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Bất Động Trụ, vị thứ hai tên Đắc Trí Tuệ Thế Gian Tôn Vương. Hai Bồ-tát này bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vì sao đại địa chấn động sáu cách? Ngoài ra như đã nói ở trên. Vô lượng thế giới ở phương Bắc cũng như vậy. Khi ấy, ở phương Dưới, cách chín vạn tám ngàn, trăm ngàn ức na-do-tha thế giới, có thế giới tên Ly ám vụ, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Ly Khủng Bố Vi Nhiễu Âm hiện đang thuyết pháp Tam thừa cho bốn chúng. Có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Nhật Tôn, vị thứ hai tên Hư Không Nhật. Hai Bồ-tát này bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vì sao đại địa đã chấn động sáu cách? Ngoài ra như đã nói ở trên. Thế giới phương Dưới cũng lại như vậy. KINH BI HOA <卷 id="32807841">QUYỂN 8 <卷 id="32807842">Phẩm 4: NGUỒN GỐC CÁC BỒ-TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ (Phần 6) Khi ấy, ở phương Trên, cách đây hai mươi vạn trăm ngàn thế giới, có một thế giới tên Diệu hoa, ở đó có Đức Phật hiệu Hoa Phu Nhật Vương Như Lai hiện đang thuyết pháp ba thừa cho bốn chúng. Có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Tuyển Trạch Tự Pháp Nhiếp Thủ Quốc Độ, vị thứ hai tên Đà-la-ni Diệu Âm. Hai Bồ-tát này đồng bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vì sao mặt đất nơi đây chấn động sáu cách, lại có ánh sáng lớn và mưa vô số hoa? Đức Phật ấy bảo hai Bồ-tát: –Này các Thiện nam, phương Dưới cách đây hai mươi vạn trăm ngàn thế giới, ở thế giới tên San-đề-lam, có Phật, Thế Tôn hiệu là Bảo Tạng Như Lai, mười hiệu đầy đủ…, Phật, Thế Tôn ấy đang thọ ký cho vô lượng, vô biên các Bồ-tát thành Chánh giác, thuyết giảng về các quốc độ, chỉ dạy về thế giới trang nghiêm của chư Phật, cảnh giới Tam-muội thiện nguyện, các kinh Đà-la-ni môn. Trong chúng hội đó có một Đại Bồ-tát hiệu là Đại Bi, phát nguyện: “Ta sẽ dùng đại bi xông ướp tâm để được thọ ký thành Chánh giác, vì các Đại Bồ-tát thị hiện nguyện lành. Do đó, trước hết làm cho vô lượng, vô biên các Bồ-tát phát thệ nguyện lớn, nhận vô số thế giới trang nghiêm để điều phục chúng sinh”. Đối với sự thành tựu đại bi của Bồ-tát này cả đại chúng không thể theo kịp. Ở nơi đời năm trược, Bồ-tát ấy điều phục các phiền não tệ ác, cứu độ tất cả những kẻ ngũ nghịch, kể cả những kẻ căn tánh chẳng lành đã thiêu đốt tiêu diệt tâm thiện. Các đại chúng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Nhân, Phi nhân… không cúng dường Phật, lại cùng nhau cúng dường vị Bồ-tát thành tựu đại bi. Sau đó, họ cúi đầu làm lễ, rồi đứng dậy chắp tay cung kính đọc kệ tán thán. Khi ấy, Bồ-tát Đại Bi ở ngay trước Phật, gối bên phải quỳ sát đất, nhận Phật thọ ký. Phật, Thế Tôn ấy mỉm cười. Vì nhân duyên đó nên khiến cho đại địa trong các thế giới nhiều như vi trần nơi một cõi Phật khắp mười phương đều chấn động sáu cách, phóng ra ánh sáng lớn và mưa vô số hoa, thức tỉnh tất cả các Bồ-tát và cũng chỉ dạy các đạo Bồ-tát. Phật, Thế Tôn ấy đã khiến cho vô số các Bồ-tát nhiều như vi trần nơi một cõi Phật khắp mười phương cùng đến nhóm họp, rồi vì các Đại Bồ-tát này mà thuyết các Tam-muội Đà-la-ni môn, pháp môn Vô úy. Thế nên, Đức Phật kia đã thị hiện vô số biến hóa như vậy. Thiện nam tử, nghe sự việc này xong, hai Bồ-tát ấy liền bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, Bồ-tát Đại Bi này từ khi phát tâm tu đạo Bồ-tát đến nay đã trải qua thời gian bao lâu? Thời gian hành đạo Bồ-tát ra sao? Và khi nào thì sẽ ở nơi đời năm trược xấu ác cứu giúp, điều phục những chúng sinh ở đấy, với các phiền não sâu dày cùng tranh giành lẫn nhau, làm nhiều điều ngỗ nghịch, tạo ra các căn bất thiện, thiêu đốt và tiêu diệt tâm thiện của chính họ như thế? Phật bảo hai Bồ-tát: –Này các Thiện nam, lúc này Bồ-tát Đại Bi mới bắt đầu phát tâm thành Chánh giác. Thiện nam, các ông có thể đến để chiêm ngưỡng Phật Bảo Tạng, cung kính cúng dường, lễ bái, hầu hạ, nghe thuyết các kinh Tam-muội Đà-la-ni môn, pháp môn Vô úy và chiêm ngưỡng Đại Bồ-tát Đại Bi. Các ông thay Ta thưa: “Phật Hoa Phu Nhật Vương có lời vấn an ngài, dùng hoa Nguyệt quang tịnh này để làm tin”. Lại khen: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông mới phát tâm mà đã thành tựu được đại bi như vậy. Ông đã được vô lượng tiếng khen khắp các thế giới nhiều như số vi trần một cõi Phật trong mười phương, với lời khen ngợi: “Bồ-tát Đại Bi mới phát tâm đã có thể thành tựu đại bi như vậy.” Thế nên, Thiện nam tử, nay Ta tán thán ông: “Lành thay! Lành thay!”. Lại nữa Thiện nam tử, ông vì các Bồ-tát đời vị lai thành tựu đại bi nên thuyết giảng về đại bi, dựng ngọn cờ pháp, không mất thiện nguyện, nên Ta lại tán thán: “Lành thay! Lành thay!”. Lại nữa Thiện nam tử, tận đời vị lai, tiếng khen về ông sẽ đến tận a-tăng-kỳ thế giới như vô số vi trần trong một cõi Phật, như là sự chỉ dạy cho vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến thành tựu Chánh giác, đạt đến quả Phật không còn thoái chuyển; hoặc phát thiện nguyện, hoặc chọn Tịnh độ, điều phục chúng sinh, cứu độ, tùy nguyện; lại làm cho họ vào đời vị lai được thọ ký thành Chánh giác. Chúng sinh này trong đời vị lai, trải qua các kiếp số như số vi trần nơi một cõi Phật, sẽ ở trong vô số thế giới nhiều như vi trần nơi một cõi Phật trong mười phương thành Chánh giác, chuyển pháp luân, lại sẽ tán thán ông, nên Ta đem ba pháp tán thán này để tán dương ông: “Lành thay! Lành thay!”. Thiện nam tử, khi ấy, ở cõi kia có vô lượng ức Bồ-tát đồng thanh thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, chúng con muốn đi đến cõi San-đề-lam để chiêm ngưỡng Phật Bảo Tạng, lễ bái, cúng dường, cung kính, hầu hạ, nghe các Tam-muội Đà-la-ni môn, pháp môn Vô úy cùng chiêm ngưỡng Bồ-tát Đại Bi. Lúc ấy, Đức Phật kia đem ba pháp tán thán và hoa Nguyệt quang tịnh trao cho hai Bồ-tát và bảo nên biết đúng thời. Hai Bồ-tát này liền nhận hoa báu rồi cùng với vô lượng ức chúng Bồ-tát tức thì biến mất nơi cõi đó và hiện đến trong vườn Diêm-phù, cõi San-đề-lam đảnh lễ, cung kính chiêm ngưỡng Phật Bảo Tạng. Bấy giờ, thế giới của các Đại Bồ-tát, người tu tập Đại thừa và học Thanh văn, Duyên giác thừa, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Ma-hầu-la-già…, các chúng như vậy số đông vô lượng, cùng khắp trong cả nước nhiều như lúa, mè, tre, lau, không thể tính kể, đem vô số các pháp Sư tử du hý của các Bồ-tát đã đạt được mà cúng dường Phật. Cúng dường xong, thấy Phạm chí Bảo Hải cung kính chắp tay tán thán sự cúng dường của đại chúng này, nên họ suy nghó: “Hay vị Đại só ấy chính là Bồ-tát Đại Bi nên mới được Hoa Phu Nhật Vương Như Lai trao tặng hoa báu này”. Hai Bồ-tát ở trước Phật, hướng về phía Phạm chí, dâng hoa và thưa: –Hoa Phu Nhật Vương Như Lai trao hoa đẹp này để ngài làm tin và ba pháp tán thán… như đã nói ở trên. Thiện nam tử, khi ấy mưa vô số các hoa, cũng rơi đến cả những thế giới không có Phật. Lại có vô số âm thanh vi diệu, hoàn hảo vang ra khắp nơi. Đó là: tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ-kheo Tăng, tiếng tịch tónh, tiếng Vô sở hữu, tiếng các Ba-la-mật, tiếng năng lực Vô sở úy, tiếng sáu thần thông, tiếng không có sự tạo tác, tiếng không sinh diệt, tiếng tịch diệt, tiếng đại Từ, tiếng đại Bi, tiếng Vô sinh nhẫn, tiếng thọ ký, tiếng thuyết giảng Đại thừa… Cõi kia có Bồ-tát do bản nguyện nên có đại thần lực, tu tập pháp sâu xa và được tự tại, vì chúng sinh nên ở thế giới kia nghe tiếng này xong, nhờ Phật lực, nhờ nguyện lực và nhờ Tam-muội lực, ở thế giới ấy, bằng năng lực thần thông như đại lực só co duỗi cánh tay, trong giây lát đến chỗ Phật Bảo Tạng, nơi vườn Diêm-phù, cõi San-đề-lam, đem đầu mặt lạy sát chân Phật, đem vô số pháp Sư tử du hý mà các Bồ-tát đã chứng được, cúng dường Phật và các đại chúng, rồi theo thứ tự mà an tọa, lãnh thọ diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ sau khi đem hoa Nguyệt quang tịnh cúng dường Bảo Tạng Như Lai, Phạm chí Bảo Hải bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Như Lai thọ ký cho con thành Chánh giác. Thiện nam tử, khi ấy, Bảo Tạng Như Lai liền nhập Tam-muội Điện đăng. Năng lực của Tam-muội này khiến cho tất cả núi rừng, cây cỏ, đất đai nơi cõi San-đề-lam biến thành bảy báu, chính mắt đại chúng đều trông thấy, tất cả đều ở trước Phật lãnh thọ diệu pháp. Tùy theo sự suy nghó mà họ thấy thân mình màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tía; hoặc thấy giống như gió, giống như lửa, giống như hư không, giống như ngọn lửa đang cháy rực; hoặc thấy giống như nước, giống như bọt nước, giống như núi lớn, giống như Phạm thiên, giống như Đế Thích, giống như hoa; hoặc thấy giống như Ca-lâu-la, rồng, sư tử; hoặc giống như mặt trời, mặt trăng, tinh tú; hoặc thấy giống như voi, giống như cáo đồng… cùng ngồi trước Phật lãnh thọ diệu pháp. Tùy theo sự suy nghó mà mọi người tự thấy thân hình của mình với những tướng trạng như vậy. Thiện nam tử, tùy theo sự suy nghó, những chúng sinh này lại thấy thân mình giống như thân Phật Bảo Tạng. Các đại chúng đang ở trước Phật bỗng thấy Phạm chí ngồi trên hoa sen bảy báu ngàn cánh. Tất cả đại chúng hoặc ngồi, hoặc đứng trên đất, trong hư không; tất cả các chúng sinh ấy, mỗi người tự thấy Bảo Tạng Như Lai ngồi ở trước mình, thuyết pháp cho riêng mình, nhưng chỉ có mỗi mình được thấy. Thiện nam tử, khi ấy Bảo Tạng Như Lai khen Phạm chí Bảo Hải: –Lành thay! Lành thay! Tịnh hạnh đại bi! Ông phát khởi đại bi tạo lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên chúng sinh, làm ánh sáng lớn trong thế gian. Phạm chí giống như ruộng hoa đang nở rộ, có vô số màu sắc, vô số hương thơm, vô số sự mềm mại, vô số lá, cành, cội rễ, vô số công năng, có thể làm thành các loại thuốc cần dùng. Hoặc có hoa sen đầy trăm ngàn do-tuần, hương thơm, ánh sáng cũng giống như các hoa. Hoặc có hoa lớn với đường kính bằng một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, ba trăm do-tuần, hương thơm ánh sáng giống như các hoa. Có hoa lớn với đường kính bằng một cõi thiên hạ, hương thơm ánh sáng cũng giống nhau không khác. Các loài chúng sinh nào mù lòa, nghe hương thơm của hoa này liền được thấy màu sắc, người điếc nghe được tiếng, cho đến những kẻ các căn thiếu khuyết cũng liền được đầy đủ. Chúng sinh nào khi có bốn trăm lẻ bốn bệnh phát ra, nghe hương thơm của hoa này liền được lành hẳn bệnh. Người nào bị mất niệm, tâm loạn, điên cuồng, phóng dật, cuồng si, thùy miên, nghe hương thơm của hoa này đều được tỉnh trí, nhất tâm. Trong ruộng hoa này cũng mọc hoa Phân-đà-lợi. Hoa này cứng chắc, giống như kim cương, cành bằng lưu ly, có trăm hạt, cánh hoa bằng vàng ròng, nhụy bằng mã não, râu hoa bằng xích trân châu. Hoa cao tám mươi bốn ức do-tuần, đường kính của hoa lớn đến mười vạn do-tuần. Hoa này có màu sắc, hương thơm tỏa khắp mười phương, đến vô số thế giới chư Phật nhiều như vi trần trong một cõi Phật. Chúng sinh ở đó, kẻ nào bốn đại không điều hòa, tật bệnh khốn đốn, các căn tổn giảm, mất niệm, tâm loạn, điên cuồng, buông lung, ham ngủ nghỉ, cuồng si, thấy ánh sáng và nghe hương thơm của hoa, tất cả các bệnh tật đều lành hẳn, được nhất tâm. Chúng sinh nào vừa mới qua đời, thân chưa hư hoại, được ánh sáng chiếu đến, xúc chạm, được hương thơm bay đến xông ướp, liền được sống lại như cũ, cùng với các thân quyến dạo chơi nơi khu vườn, cùng nhau vui hưởng năm dục. Nếu chắc chắn phải qua đời thì họ sẽ sinh lên cõi Phạm thiên, không sinh cõi khác, ở mãi cõi kia, sống lâu không lường. Phạm chí, ruộng hoa sen ấy tức là đại chúng của hội này. Giống như khi mặt trời mọc khiến các hoa nở rộ, mặt trời giác ngộ của Như Lai xuất hiện, nuôi dưỡng và phát triển ánh sáng với hương thơm vi diệu, diệt trừ các khổ cho tất cả chúng sinh. Thiện nam tử, nay Ta như mặt trời xuất hiện ở thế gian, khiến cho các chúng sinh nở hoa thiện căn, có hương thơm vi diệu và ánh sáng chiếu khắp, có thể diệt trừ vô số bệnh tật cho chúng sinh. Như Lai xuất hiện ở thế gian chính là đem ánh sáng đại bi che trùm khắp tất cả, làm cho các chúng sinh nở rộ căn lành, tăng thêm lợi ích, an trú vào ba loại phước. Thiện nam tử, ông đã giáo hóa vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh, làm cho họ an trụ nơi Chánh giác. Các chúng sinh này đi đến chỗ Ta, mỗi người tự phát vô số thiện nguyện, nhận thế giới Phật tịnh hoặc bất tịnh. Tùy theo sở nguyện của họ, nên Ta đã thọ ký. Thiện nam tử, Bồ-tát nào ở trước Ta, nguyện nhận Tịnh độ, dùng tâm thanh tịnh hoàn toàn tự điều phục, cứu giúp chúng sinh, trồng các căn lành thì vị ấy được gọi là Bồ-tát nhưng không phải là đại trượng phu hùng lực mạnh mẽ, không phải là Bồ-tát có đại bi sâu dày, vì chúng sinh mà cầu thành Chánh giác. Bồ-tát nào nguyện nhận cõi Phật thanh tịnh tức là Bồ-tát xa lìa đại bi. Lại nữa, người nào không nguyện đi vào Nhị thừa là Bồ-tát không có phương tiện và trí tuệ khéo léo, không có tâm bình đẳng. Bồ-tát nào phát thệ nguyện làm cho thế giới của mình xa lìa Thanh văn, Bích-chi-phật thừa, diệt gốc bất thiện, không có các người nữ cùng ba đường ác, thành Chánh giác xong, chỉ dùng Đại Bồ-tát làm đại quyến thuộc, thuyết pháp Đại thừa vô thượng, tuổi thọ vô lượng, trụ mãi nơi đời trải qua vô số kiếp, chỉ thuyết pháp vi diệu cho người có tâm thiện, điều phục thanh tịnh, thành tựu thiện căn thì vị ấy tuy được gọi là Bồ-tát nhưng không phải Đại só. Vì sao? Vì không có phương tiện thiện xảo và trí bình đẳng. Thiện nam tử, khi ấy, Bảo Tạng Như Lai duỗi cánh tay sắc vàng, từ năm đầu ngón tay phóng ra ánh sáng lớn, với vô lượng vô số trăm ngàn các màu sắc, chiếu khắp phương Tây, đi qua vô lượng, vô biên, vô số thế giới, đến thế giới tên Đại chỉ, dân chúng ở đó sống ba mươi tuổi, sắc diện xấu xí, hình dáng khả ố, đủ tất cả các căn bất thiện, thân cao sáu thước. Trong cõi đó có Phật hiệu Đại Bi Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn hiện đang thuyết pháp ba thừa cho bốn chúng. Thiện nam tử, bấy giờ đại chúng ở đây đều được trông thấy Phật, Thế Tôn ấy và đại chúng. Phật Bảo Tạng bảo đại chúng: –Trong vô lượng, vô biên, vô số kiếp về quá khứ, vào thời Phật Bảo Cái Quang Minh, Phật Đại Bi Quang Minh ấy bắt đầu phát tâm thành Chánh giác, khi đó cũng khuyến hóa vô lượng, vô biên ức na-do-tha chúng sinh an trụ nơi đạo Vô thượng, tùy tâm nguyện nhận vô số thế giới trang nghiêm, nhận đời năm trược xấu ác, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Phật Đại Quang Minh này cũng khuyên Ta phát tâm trụ vững nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, ở chỗ Phật Bảo Cái Quang Minh, Ta được khuyên phát nguyện trang nghiêm thành Chánh giác nơi đời năm trược xấu ác này. Phật ấy khen ngợi Ta: “Lành thay! Lành thay!” và thọ ký cho Ta thành Chánh giác. Như thế là Ta có bậc thiện tri thức ấy khuyên Ta thành Chánh giác. Thiện tri thức thắng diệu trượng phu kia khuyên Ta hãy nhận đời năm trược xấu ác này với quốc độ bất tịnh, nhiều các phiền não. Chúng sinh trong đó làm các việc nghịch ác, cho đến tạo ra các căn chẳng lành, thiêu đốt tiêu diệt tâm lành, đi mãi giữa đồng hoang sinh tử. Phật ấy khuyên Ta nên nguyện nhận và điều phục được các chúng sinh như vậy. Bấy giờ, trong vô lượng, vô biên thế giới khắp mười phương, chư Phật đều sai sứ đến chỗ vị trượng phu toàn thiện này để khen ngợi, tán thán và gọi danh hiệu là Đại Bi Nhật Nguyệt Quang Minh. Vị Đại Bi Nhật Nguyệt Quang Minh kia chính là thiện tri thức của Ta, đã tạo nên lợi ích rất lớn. Nơi thế giới Đại chỉ, Ngài thành Phật chưa bao lâu, vì các người ác và mạng ngắn này mà vận chuyển bánh xe chánh pháp. Đức Phật kia khi mới thành Chánh giác, vô lượng, vô biên chư Phật trong mười phương đều sai đệ tử đi đến gặp Ngài để cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Các Thế Tôn này đều do Phật Đại Quang Minh xưa kia khuyến hóa đầu tiên, khiến tu tập theo Bố thí ba-la-mật, cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Do biết ân ấy nên các Đức Thế Tôn này sai các Bồ-tát đến cúng dường. Phạm chí, ông có thấy không, các Đức Thế Tôn này đều ở thế giới thanh tịnh, sống lâu vô lượng, chỉ vì những người có tâm đã được điều phục thanh tịnh, thành tựu căn lành mà làm các Phật sự. Phật Đại Quang Minh lại ở đời năm trược, nơi thế giới bất tịnh này mà thành Chánh giác. Có chúng sinh tạo nhiều tội nghịch cho đến đủ các căn bất thiện, tuổi thọ ngắn ngủi, Ngài có thể ở trong đó giúp họ được tăng lợi ích, tạo vô lượng Phật sự, không bỏ Thanh văn, Bích-chi-phật thừa, thuyết pháp ba thừa cho các chúng sinh. Vị ấy (Phật Đại Quang Minh) là Bậc Trượng Phu toàn thiện, tất cả đại chúng không thể sánh bằng, làm được những việc tốt đẹp rất khó làm như thệ nguyện nhận cõi bất tịnh trong đời năm trược xấu ác; con người tạo nhiều tội nghịch cho đến đủ các căn bất thiện…, chúng sinh như vậy đều được Ngài cứu giúp, điều phục. Thiện nam tử, có Bồ-tát nào nhận thế giới thanh tịnh của Phật, xa đường ác và hàng Thanh văn, Duyên giác, giúp đỡ điều phục những chúng sinh có tâm thiện thanh tịnh và thành tựu thiện căn thì đó chỉ gọi là Bồ-tát giống như các thứ hoa khác, chứ chẳng phải gọi là Đại Bồ-tát như hoa sen trắng, vì chỉ làm Phật sự với chúng sinh có tâm thiện, đã được điều phục và vun trồng các căn lành. Này Phạm chí, nay ông hãy nghe bốn pháp không tích cực của Bồ-tát. Những gì là bốn? 1.Nguyện nhận thế giới thanh tịnh. 2.Nguyện làm Phật sự với những chúng sinh thanh tịnh mà tâm thiện đã được điều phục. 3.Nguyện sau khi thành Phật, không thuyết pháp Thanh văn, Bích-chi-phật. 4.Nguyện sau khi thành Phật, sống lâu vô cùng. Đây gọi là bốn pháp không tích cực của Bồ-tát. Bồ-tát này chỉ giống như các thứ hoa khác, không thể gọi Bồ-tát ấy như hoa sen trắng. Phạm chí, trong Thiên chúng này, chỉ trừ một mình Bà-do-tỷ-nữu nhận thế giới bất tịnh, cứu giúp điều phục kẻ nhiều phiền não. Này Phạm chí, trong Hiền kiếp có Bồ-tát nào nhận thế giới bất tịnh thì Bồ-tát đó có bốn pháp tinh tấn. Những gì là bốn? 1.Nguyện nhận thế giới bất tịnh. 2.Làm Phật sự giữa những người bất tịnh. 3.Thành Phật xong, thuyết pháp Tam thừa. 4.Thành Phật xong, nhận thọ mạng trung bình, không dài không ngắn. Đó gọi là bốn pháp tinh tấn của Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát như hoa sen trắng, không phải như các hoa khác, cũng gọi là Đại Bồ-tát. Phạm chí, ông đang ở trong vô lượng, vô biên, vô số ruộng hoa của đại chúng Bồ-tát này mà phát nguyện được thọ ký, vậy là ngay trước Phật, ông đã phát sinh ra Hoa sen trắng đại từ bi” để nhận lấy đời năm trược xấu ác với những chúng sinh nhiều nghịch tội, đã tạo ra tất cả các căn bất thiện và ở trong ấy để tùy thuận mà điều phục họ. Ông dùng âm thanh đại bi khiến cho chư Phật, Thế Tôn như số vi trần nơi một cõi Phật ở khắp mười phương sai sứ giả đến khen ngợi hiệu ông là Thành Tựu Đại Bi. Khen ngợi xong, lại dạy đại chúng này cúng dường ông. Lại nữa, này Đại Bi, vào đời vị lai, trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian sau cùng của đệ nhị hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, trong Hiền kiếp, ở thế giới Ta-bà, loài người sống một trăm hai mươi tuổi, bị trói buộc do già, bệnh, chết; đời sống tối tăm, không có thầy dạy bảo, tạo ra tất cả các căn chẳng lành, đi theo đường tà, vào sông phiền não, chuyên tạo tội ngũ nghịch, hủy hoại chánh pháp, phỉ báng Thánh nhân, phạm bốn giới trọng, ngoài ra như đã nói ở trên thì ngay nơi đời hỗn loạn phiền não như vậy, ông sẽ thành Phật gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xa lìa vòng sinh tử, chuyển bánh xe chánh pháp, phá tan bốn loại ma. Bấy giờ, ông có tiếng tăm lớn vang khắp vô lượng, vô biên thế giới chư Phật khắp mười phương, ông có đại chúng Thanh văn một ngàn hai trăm năm mươi vị. Tuần tự trong bốn mươi lăm năm, ông thành tựu vô lượng Phật sự như vậy, được đầy đủ những việc như ông đã nguyện. Khi ấy, vô lượng Tịnh vương này cũng thành Phật, sống lâu vô lượng. Tuy trong vô lượng, vô biên kiếp, những Đức Phật này cũng thành tựu Phật sự như Đức Phật trên không khác. Này bậc Trượng phu hiền thiện, sau khi ông Bát-niết-bàn, chánh pháp trụ ở đời đủ một ngàn năm. Sau khi chánh pháp diệt, các xá-lợi của ông tạo các Phật sự như ông đã nguyện, ở mãi nơi đời đem lại lợi ích cho chúng sinh như đã nói ở trên. Thiện nam tử, lúc ấy trong hội có một Phạm chí tên là Tướng Cụ Túc, thưa: –Thưa bậc Đại Trượng phu toàn thiện, trong vô lượng, vô biên, vô số kiếp đời vị lai, khi ngài làm Bồ-tát, sinh ở bất cứ nơi nào, tôi sẽ luôn luôn xin làm thị giả cho ngài, luôn đem tâm Từ dâng cúng các thức cần dùng, đến khi ngài chỉ còn một lần sinh, tôi sẽ làm cha ngài, sau khi ngài thành Phật, tôi sẽ làm đại thí chủ và ngài cũng sẽ thọ ký cho tôi đạo quả Vô thượng. Bấy giờ, có Hải thần tên Điều Ý thưa: –Thưa bậc Đại Trượng phu toàn thiện, từ nay trở đi, cho đến lúc ngài chỉ còn một lần sinh, ở bất cứ nơi nào, tôi nguyện sẽ thường làm mẹ ngài. Sau khi ngài thành Phật, cũng sẽ thọ ký cho tôi đạo quả Vô thượng. Lại có Thủy thần thưa: –Từ nay trở đi, cho đến lúc ngài chỉ còn một lần sinh, bất cứ ở nơi nào, tôi nguyện sẽ thường làm nhũ mẫu cho ngài. Khi ngài thành Phật, ngài cũng sẽ thọ ký cho tôi đạo quả Vô thượng. Có hai vị trời Đế Thích là Thiện Niệm và Bảo Niệm thưa: –Thưa bậc Đại Trượng phu toàn thiện, sau khi ngài thành Phật, chúng tôi sẽ làm đệ tử Thanh văn trí tuệ và thần túc của ngài. Lại có vị Đế Thích tên Thiện Kiến Túc, thưa: –Thưa Đại Bi, từ nay trở về sau, cho đến khi ngài chỉ còn một lần sinh, ở bất cứ nơi nào, tôi thường làm con của ngài. Có vị thần núi Tu-di tên Thiện Nhạc Hoa, thưa: –Đại Bi, cho đến khi ngài còn một lần sinh, tôi xin luôn làm vợ ngài. Sau khi thành đạo, ngài cũng sẽ thọ ký cho tôi đạo Vô thượng. Có A-tu-la vương tên là Hung Ức Hạnh, thưa: –Đại Bi, trong suốt vô lượng, vô biên, vô số kiếp, trong thời gian ngài làm Bồ-tát, cho đến khi ngài chỉ còn một lần sinh, trong thời gian đó, tôi sẽ làm kẻ tôi tớ phục vụ, dâng cho ngài các vật cần thiết. Sau khi ngài thành Chánh giác, chuyển bánh xe pháp, tôi liền hiểu pháp, được quả vị báu, uống vị cam lộ đầu tiên, cho đến diệt hết tất cả phiền não, chứng A-la-hán. Lúc ấy, có vô số Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A-tu-la, Ca-lâu-la, Nhân, Phi nhân… đều hướng đến chỗ Bồ-tát Đại Bi thệ nguyện: –Thưa bậc Đại Trượng phu toàn thiện, xin ngài nên rủ lòng điều phục, giáo hóa chúng con. Bấy giờ, có một Phạm chí lõa hình tên Loạn Tưởng Khả Úy, lại thưa: –Thưa bậc Đại Trượng phu toàn thiện, khi ngài ở vô lượng, vô biên, vô số kiếp hành đạo Bồ-tát, tôi sẽ theo ngài cầu xin các thức cần dùng, thường đến chỗ ngài cầu xin y phục, giường, ghế, ngọa cụ, phòng xá, nhà đất, voi, ngựa, xe cộ, quốc gia, thành phố, vợ con, đầu, mắt, tủy, não, da, thịt, tay, chân, tai, mũi, lưỡi, thân. Thưa bậc Đại Trượng phu hiền thiện, tôi sẽ làm người giúp đỡ ngài để ngài thực hành Bố thí ba-la-mật đầy đủ, cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Khi Phạm chí Đại Bi thực hành các đạo Bồ-tát này, tôi sẽ khuyên ngài thành tựu đầy đủ sáu Ba-la-mật. Khi ngài thành Phật xong, tôi nguyện làm đệ tử sẽ theo ngài nghe tám vạn pháp tụ. Nghe xong, tôi liền có thể biện luận, giảng thuyết về pháp tướng. Thuyết pháp tướng xong, ngài sẽ thọ ký đạo Vô thượng cho tôi. Thiện nam tử, Phạm chí Đại bi nghe xong, liền lạy sát chân Phật, lại bảo Phạm chí lõa hình: –Lành thay! Lành thay! Ông chính là bạn đạo vô thượng của ta. Ông từ vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số kiếp thường đến ta cầu xin các vật cần dùng như y phục, cho đến lưỡi, thân… khi ấy với tâm thanh tịnh, ta đem những vật của mình ra bố thí cho ông. Khi ấy, ông cũng không có bị chút tội nào cả. Thiện nam tử, Đại Bồ-tát Đại Bi lại thưa với Đức Bảo Tạng Như Lai: –Bạch Đức Thế Tôn, con từ vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số kiếp, khi làm Bồ-tát sống ở bất cứ nơi nào, có các khất só đứng trước con xin thức ăn hoặc dùng lời nhỏ nhẹ, hoặc dùng lời hung ác, hoặc khinh chê, hủy báng; hoặc nói lời chân thật. Bạch Đức Thế Tôn, khi ấy con không sinh một chút tâm niệm ác nào cả. Nếu như con có nổi giận, dù trong thời gian ngắn nhất, lại đem nhân duyên bố thí này để cầu phước báo đời sau, tức là con đã dối trá chư Phật trong hiện tại ở vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười phương và vào đời vị lai chắc chắn con sẽ không được thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, con phải đem tâm hoan hỷ cho người đến xin, nguyện cho người nhận không bị các tổn hại, cũng không bị trở ngại một chút nào đối với các căn lành. Nếu con khiến cho người nhận kia có một chút nào trở ngại, tổn hại căn lành, tức là đã dối trá với chư Phật hiện tại ở trong vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười phương. Nếu con dối trá chư Phật thì chắc chắn sẽ đọa địa ngục A-tỳ, không thể hoan hỷ thí cho y phục, thức ăn. Nếu người xin kia dùng lời êm dịu hoặc lời thô ác, hoặc khinh hủy, mắng nhiếc; hoặc bằng lời chân thật để cầu xin đầu, mắt, tủy não như vậy. Bạch Đức Thế Tôn, nếu khi ấy tâm con không hoan hỷ, cho đến có một niệm sân giận mà đem việc bố thí này cầu quả báo thì chính là dối trá chư Phật hiện tại nơi vô lượng, vô biên thế giới khắp mười phương. Vì lý do này, chắc chắn con đọa địa ngục A-tỳ. Con nói về Bố thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy. Thiện nam tử, khi ấy Đức Bảo Tạng Như Lai liền khen ngợi Phạm chí Bảo Hải: –Lành thay! Lành thay! Ông đã an trú hoàn toàn ở tâm đại bi nên mới phát thệ nguyện này. Thiện nam tử, bấy giờ tất cả đại chúng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Nhân và Phi nhân đều đến chắp tay khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Ngài đã an trú hoàn toàn ở tâm đại bi nên phát thệ nguyện này, được tiếng khen lớn, kiên cố tu hành pháp Lục hòa, làm lợi ích đầy đủ cho tất cả chúng sinh. Thiện nam tử, khi Phạm chí lõa hình phát thệ nguyện, cũng có tám vạn bốn ngàn người phát thệ nguyện như Phạm chí. Thiện nam tử, khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Bi cùng tám vạn bốn ngàn người như vậy rất hoan hỷ, đồng phát thệ nguyện, rồi chắp tay hướng về bốn phía nhìn khắp đại chúng và nói lên lời hy hữu: –Vào thời vị lai, khi chánh pháp diệt, đời năm trược xấu ác nhiều các phiền não, con ở trong đó phóng hào quang vó đại, làm thầy dắt dìu, đốt đèn chánh pháp nơi đời tối tăm. Các chúng sinh nào không có người cứu hộ, không có thế lực, không có Phật chỉ đường, khi con mới phát tâm Bồ-đề đã được các bạn đạo vô thượng ấy, nguyện cho những người này đời đời theo con nhận đầu, mắt, tủy não, da thịt, máu xương, tay chân, tai, mũi, lưỡi, thân này, cho đến y phục, thức ăn uống… Thiện nam tử, Phạm chí Bảo Hải bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu trong vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức kiếp ở đời vị lai, chúng sinh như vậy đến gặp con để nhận đầu, mắt, tủy não…, cho đến ẩm thực dù rất ít như là một sợi lông thì khi con đã thành Chánh giác, nếu họ không thoát sinh tử, không được thọ ký Tam thừa thì chính là con đã dối trá chư Phật hiện tại ở vô lượng, vô biên thế giới khắp mười phương và con không được thành Chánh giác. Thiện nam tử, khi ấy Đức Bảo Tạng Như Lai lại khen ngợi Bồ-tát Đại Bi lần nữa: –Lành thay! Lành thay! Này bậc Đại Trượng phu toàn thiện, ông có thể hành đạo Bồ-tát như vậy, như xưa kia Bồ-tát Tu-di Sơn Bảo ở trước Phật Thế Gian Quang Minh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, phát thệ nguyện và hành Bồ-tát đạo như vậy. Trải qua một hằng hà sa a-tăng-kỳ kiếp, về phương Đông cách đây trăm ngàn ức thế giới Phật, ở đó có thế giới tên Quang minh trí xí, loài người thọ một trăm tuổi, Bồ-tát ấy thành Phật ở đó và hiệu là Trí Hoa Vô Cấu Kiên Bồ-đề Tôn Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, trụ thế thuyết pháp bốn mươi lăm năm, làm các Phật sự. Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Đại Bi: –Phật ấy sau khi Bát-niết-bàn, chánh pháp trụ thế mãn một ngàn năm. Sau khi chánh pháp diệt, tượng pháp trụ thế cũng một ngàn năm. Đại Bi, Đức Phật Thế Tôn ấy, hoặc tại thế, hoặc Niết-bàn, ở khoảng giữa chánh pháp và tượng pháp có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sống phi pháp, phá giới cấm, thực hành tà đạo, phá pháp, nhận cúng dường không tàm quý, hoặc phá vật Chiêu-đề tăng, hoặc phá y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược của hiện tiền tăng; lấy vật của chúng Tăng làm vật của mình, tự đem cho người và cho kẻ tại gia. Thiện nam tử, những người như vậy đều được Phật, Thế Tôn kia thọ ký ở trong Tam thừa. Đại Bi, ở chỗ Như Lai kia, nếu có người xuất gia, khoác ca-sa của Ta chế ra, đều được thọ ký Bất thoái chuyển nơi Bồ-tát thừa. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di phạm bốn trọng cấm, Đức Phật kia đối với những người ấy vẫn có tưởng như Thế Tôn và trồng các căn lành, thọ ký cho họ được bất thoái nơi Tam thừa. Thiện nam tử, Đại Bồ-tát Đại Bi lại thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, nay con nguyện: khi con hành đạo Bồ-tát, nếu có chúng sinh nào con cần phải khuyến hóa, làm cho an trụ Bố thí ba-la-mật, cho đến Bát-nhã ba-la-mật, thì con khuyến hóa khiến trụ nơi căn lành, dù chỉ nhỏ như một sợi lông, cho đến khi thành Chánh giác vẫn không ngừng lại. Nếu có một chúng sinh nào thoái lui nơi Tam thừa thì chính là con dối trá chư Phật hiện tại ở vô lượng, vô biên, vô số các thế giới khắp mười phương và nhất định con không được thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, khi con thành Chánh giác xong, nếu có chúng sinh nào vào trong pháp con, khi xuất gia mặc ca-sa mà phạm trọng giới, hành tà kiến, khinh chê không tin Tam bảo, gây các tội nặng, những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ấy, nếu có một niệm sinh tâm cung kính tôn trọng Thế Tôn hay Pháp, Tăng. Bạch Đức Thế Tôn, chúng sinh này dù cho chỉ có một người thoái lui, không được thọ ký nơi Tam thừa thì chính là con dối trá chư Phật hiện tại ở vô lượng, vô biên, vô số các thế giới khắp mười phương và nhất định con không được thành Chánh giác. Bạch Đức Thế Tôn, sau khi con thành Phật, các chúng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Nhân và Phi nhân, nếu có thể đối với những người mặc ca-sa này mà cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, những người đó nếu được thấy một phần nhỏ ca-sa này thì được bất thoái nơi Tam thừa. Hoặc chúng sinh nào bị đói khát bức bách, hoặc quỷ thần bần cùng, các người hạ tiện, cho đến trong chúng ngạ quỷ, nếu được một phần nhỏ ca-sa, dù chỉ bằng bốn tấc, người đó liền được ăn uống đầy đủ, tùy sở nguyện mau được thành tựu. Có chúng sinh nào phản nghịch, chống nhau, tưởng nhau như oán tặc đưa đến tranh giành, hay có các Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Câu-biện-trà, Tỳ-xá-gia, Nhân và Phi nhân nào khi tranh giành nhau mà nhớ đến ca-sa này liền phát tâm từ bi, tâm mềm dịu, tâm không oán thù, tâm tịch diệt, tâm điều phục tốt. Người nào ở trong chỗ binh trận, hoặc đang bị xử xét về tranh tụng, đem một mảnh ca-sa này vào giữa nơi ấy để tự hộ thân, với sự cung kính, tôn trọng, cúng dường, thì những người kia không thể bị xúc phạm, phá hoại, quấy phá, khinh lờn, thường được thắng người và vượt qua các nạn này. Bạch Đức Thế Tôn, nếu ca-sa của con chế ra không thể thành tựu năm công đức của bậc Thánh như vậy, chính là con dối trá chư Phật hiện tại ở vô lượng, vô biên, vô số các thế giới khắp mười phương và nơi đời vị lai con không thể thành Chánh giác làm Phật sự, bị mất pháp thiện, nhất định không thể phá tan được ngoại đạo. Thiện nam tử, khi ấy Đức Bảo Tạng Như Lai lại duỗi cánh tay phải màu vàng ròng xoa đầu Bồ-tát Đại Bi, khen: –Lành thay! Lành thay! Này Đại Trượng phu, những lời ông nói là châu báu tột bậc, là đại hiền thiện. Ông thành Chánh giác xong, y phục ca-sa này có thể tạo lợi ích lớn, thành tựu năm công đức của bậc Thánh. Thiện nam tử, Đại Bồ-tát Đại Bi nghe Phật khen ngợi xong, tâm rất vui mừng, phấn khởi. Nhờ Đức Phật duỗi cánh tay sắc vàng với ngón thon dài, có màng lưới mềm mại giống như Thiên y xoa đầu Bồ-tát, nên thân hình vị Bồ-tát ấy liền thay đổi, trẻ như đồng tử hai mươi tuổi. Thiện nam tử, đại chúng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, Nhân, Phi nhân trong hội ấy đều chắp tay cung kính hướng về Bồ-tát Đại Bi dâng vô số hoa và âm nhạc để cúng dường Bồ-tát. Lại dùng vô số lời tán thán xong rồi đứng im lặng.  <卷 id="32807844">Phẩm 5: BỐ THÍ BA-LA-MẬT (Phần 1) Thiện nam tử, khi ấy Bồ-tát Đại Bi đem đầu mặt đảnh lễ Đức Bảo Tạng Như Lai xong, ở trước Phật, bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, có bao nhiêu kinh được gọi là các môn Tam-muội, môn trợ Bồ-đề pháp thanh tịnh? Thế nào là Bồ-tát vô úy, đầy đủ trang nghiêm nơi nhẫn? Thiện nam tử, Đức Phật ấy khen Bồ-tát Đại Bi: –Lành thay! Lành thay! Đại Bi, ông hỏi những việc rất đặc biệt. Đó chính là châu báu có thể đem lại lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên các Bồ-tát. Vì sao? Này Đại Bi, vì ông có thể hỏi Phật việc lớn như vậy. Đại Bi, ông hãy lắng nghe cho kỹ! Thiện nam, thiện nữ nào tu hạnh Đại thừa, có Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, nhập Tam-muội này thì có thể vào trong tất cả các Tam-muội. Có Tam-muội Bảo ấn, nhập Tam-muội này có thể ấn chứng các Tam-muội. Có Tam-muội Sư tử du hý, nhập Tam-muội này có thể du hý như Sư tử nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Thiện nguyệt, nhập Tam-muội này có thể chiếu soi các Tam-muội. Có Tam-muội Nguyệt tràng tướng, nhập Tam-muội này có thể giữ vững các cờ Tam-muội. Có Tam-muội Xuất nhất thiết tánh, nhập Tam-muội này có thể ra khỏi tất cả Tam-muội. Có Tam-muội Quán ấn, nhập Tam-muội này có thể thấy tất cả đảnh Tam-muội. Có Tam-muội Ly pháp giới, nhập Tam-muội này có thể phân biệt các Tam-muội. Có Tam-muội Ly tràng tướng, nhập Tam-muội này có thể giữ gìn tất cả các tràng Tam-muội. Có Tam-muội Kim cang, nhập Tam-muội này có thể làm cho tất cả Tam-muội không bị phá hoại. Có Tam-muội Chư pháp ấn, nhập Tam-muội này có thể ấn chứng tất cả pháp. Có Tam-muội Vương thiện trụ, nhập Tam-muội này có thể đối với các Tam-muội như vua an trụ. Có Tam-muội Phóng quang, nhập Tam-muội này có thể phóng ánh sáng chiếu các Tam-muội. Có Tam-muội Lực tấn, nhập Tam-muội này có thể đối với các Tam-muội tăng tấn tự tại. Có Tam-muội Chánh xuất, nhập Tam-muội này có thể chính thức ra khỏi các Tam-muội. Có Tam-muội Biện từ, nhập Tam-muội này có thể hiểu rõ tất cả vô lượng âm thanh. Có Tam-muội Ngữ ngôn, nhập Tam-muội này có thể vào tất cả các thứ ngôn ngữ. Có Tam-muội Quán phương, nhập Tam-muội này có thể xem thấy khắp tất cả các Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết pháp, nhập Tam-muội này có thể phá tất cả pháp. Có Tam-muội Trì ấn, nhập Tam-muội này có thể giữ các ấn Tam-muội. Có Tam-muội Nhập nhất thiết pháp tịch tónh, nhập Tam-muội này có thể khiến tất cả Tam-muội vào tịch tónh. Có Tam-muội Bất thất, nhập Tam-muội này không mất tất cả Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết pháp bất động, nhập Tam-muội này có thể khiến tất cả Tam-muội không động. Có Tam-muội Thân cận nhất thiết hải ấn, nhập Tam-muội này có thể gần gũi, cứu giúp tất cả Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết vô ngã, nhập Tam-muội này có thể làm cho các Tam-muội không có sinh diệt. Có Tam-muội Biến phú hư không, nhập Tam-muội này có thể che khắp tất cả Tam-muội. Có Tam-muội Bất đoạn nhất thiết pháp, nhập Tam-muội này có thể giữ gìn các Tam-muội làm cho không dứt mất. Có Tam-muội Kim cang trường, nhập Tam-muội này có thể sửa trị tất cả các trường Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết pháp nhất vị, nhập Tam-muội này có thể giữ tất cả pháp một vị. Có Tam-muội Ly nhạc ái, nhập Tam-muội này có thể xa lìa tất cả phiền não và trợ phiền não. Có Tam-muội Nhất thiết pháp vô sinh, nhập Tam-muội này có thể chỉ bày tất cả Tam-muội không sinh, không diệt. Có Tam-muội Quang minh, nhập Tam-muội này có thể chiếu soi tất cả Tam-muội, làm cho Tam-muội đó sáng rực. Có Tam-muội Bất diệt nhất thiết pháp, nhập Tam-muội này không phân biệt tất cả Tam-muội. Có Tam-muội Bất cầu, nhập Tam-muội này không tìm cầu tất cả pháp. Có Tam-muội Bất trụ, nhập Tam-muội này đối với các pháp không trụ pháp giới. Có Tam-muội Hư không ức tưởng, nhập Tam-muội này làm cho các Tam-muội đều như hư không và có thể thấy sự chân thật của nó. Có Tam-muội Vô tâm, nhập Tam-muội này có thể diệt tâm, tâm sở pháp trong tất cả các Tam-muội. Có Tam-muội Sắc vô biên, nhập Tam-muội này sắc sáng chói vô biên trong tất cả các Tam-muội. Có Tam-muội Tịnh đăng, nhập Tam-muội này có thể làm đèn sáng trong tất cả Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết pháp vô biên, nhập Tam-muội này có thể thị hiện vô lượng trí tuệ nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Điện vô biên, nhập Tam-muội này thị hiện trí tuệ nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết quang minh, nhập Tam-muội này có thể thị hiện môn Quang minh Tam-muội nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Chư giới vô biên, nhập Tam-muội này thị hiện vô lượng, vô biên trí tuệ nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Bạch tịnh kiên cố, nhập Tam-muội này được định Không đối với các Tam-muội. Có Tam-muội Tu-di sơn, nhập Tam-muội này có thể thị hiện hư không nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Vô cấu quang minh, nhập Tam-muội này có thể trừ các nhơ nhớp nơi Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết trung vô úy, nhập Tam-muội này thị hiện không sợ nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Nhạc lạc, nhập Tam-muội này đều được ưa thích đối với các Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết pháp chánh du hý, nhập Tam-muội này đối với Tam-muội chỉ bày không có tất cả các sắc. Có Tam-muội Phóng điện quang, nhập Tam-muội này thị hiện phóng ánh sáng nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết pháp an chỉ vô cấu, nhập Tam-muội này thị hiện trí tuệ không nhơ nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Vô tận, nhập Tam-muội này đối với các Tam-muội thị hiện không phải hết, không phải không hết. Có Tam-muội Nhất thiết pháp bất khả tư nghị thanh tịnh, nhập Tam-muội này thị hiện các hình tượng bất khả tư nghị (không thể nghó bàn) như trong gương nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Hỏa quang, nhập Tam-muội này làm cho trí tuệ rực rỡ nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Ly tận, nhập Tam-muội này nơi các Tam-muội thị hiện bất tận. Có Tam-muội Bất động, nhập Tam-muội này ở trong các pháp chẳng động, chẳng thọ nhận, không xem thường, đùa cợt. Có Tam-muội Tăng ích, nhập Tam-muội này đối với các Tam-muội đều thấy tăng ích lợi. Có Tam-muội Nhật đăng, nhập Tam-muội này phóng ánh sáng nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Nguyệt vô cấu, nhập Tam-muội này như mặt trăng chiếu sáng nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Bạch tịnh quang minh, nhập Tam-muội này được bốn biện tài nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Hữu tác bất tác, nhập Tam-muội này đối với các Tam-muội làm hay chẳng làm đều thị hiện trí tướng. Có Tam-muội Kim cang, nhập Tam-muội này được thông suốt tất cả các pháp, cho đến không thấy các chướng ngại như vi trần. Có Tam-muội Trụ tâm, nhập Tam-muội này tâm bất động, không nhận khổ vui, không thấy ánh sáng, trong tâm không có sân hận, lại cũng không thấy tâm tưởng như vậy. Có Tam-muội Biến chiếu, nhập Tam-muội này thấy tất cả ánh sáng nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Thiện trụ, nhập Tam-muội này có thể khéo được an trụ nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Bảo sơn, nhập Tam-muội này có thể thấy các Tam-muội giống như núi báu. Có Tam-muội Thắng pháp ấn, nhập Tam-muội này có thể ấn chứng tất cả các Tam-muội. Có Tam-muội Thuận pháp tánh, nhập Tam-muội này có thể thấy tất cả pháp thảy đều tùy thuận. Có Tam-muội Ly nhạo, nhập Tam-muội này được xa lìa say đắm đối với tất cả pháp. Có Tam-muội Pháp cự, nhập Tam-muội này trừ được các pháp tối tăm. Có Tam-muội Pháp vũ, nhập Tam-muội này có thể mưa pháp vũ, phá hoại sự chấp tướng nơi các Tam-muội. Có Tam-muội Đẳng ngôn ngữ, nhập Tam-muội này được con mắt sáng suốt đối với các pháp. Có Tam-muội Ly ngữ ngôn, nhập Tam-muội này đối với các pháp không còn có một ngôn từ. Có Tam-muội Đoạn duyên, nhập Tam-muội này dứt các pháp duyên. Có Tam-muội Bất tác, nhập Tam-muội này, trong các pháp không thấy có người làm. Có Tam-muội Tịnh tấn, nhập Tam-muội này thấy tất cả tự tánh thanh tịnh của các pháp. Có Tam-muội Vô chướng ngại, nhập Tam-muội này trong các pháp không có chướng ngại. Có Tam-muội Ly cương, nhập Tam-muội này thấy các Tam-muội đầy đủ, không còn thấy cao thấp. Có Tam-muội Tập tụ nhất thiết công đức, nhập Tam-muội này xa lìa tất cả pháp tập họp. Có Tam-muội Chánh trụ, nhập Tam-muội này đối với các pháp không thấy có tâm và tâm sở pháp. Có Tam-muội Giác, nhập Tam-muội này liền có thể giác ngộ tất cả các pháp. Có Tam-muội Niệm phân biệt, nhập Tam-muội này đối với các pháp được vô lượng biện tài. Có Tam-muội Trí giác thanh tịnh, nhập Tam-muội này thì đối với tất cả pháp được bình đẳng hay không bình đẳng. Có Tam-muội Trí tướng, nhập Tam-muội này có thể ra khỏi ba cõi. Có Tam-muội Trí đoạn, nhập Tam-muội này thấy các pháp chấm dứt. Có Tam-muội Trí vũ, nhập Tam-muội này được tất cả mưa pháp. Có Tam-muội Vô y, nhập Tam-muội này không thấy y chỉ trong các pháp. Có Tam-muội Đại trang nghiêm, nhập Tam-muội này trong các Tam-muội không thấy pháp tràng. Có Tam-muội Hạnh, nhập Tam-muội này có thể thấy các pháp hạnh đều tịch tónh vắng lặng. Có Tam-muội Nhất thiết hạnh ly nhất thiết hữu, nhập Tam-muội này hiểu rõ, thông suốt các pháp. Có Tam-muội Tục ngôn, nhập Tam-muội này có thể hiểu rõ lời tục. Có Tam-muội Ly ngữ ngôn vô tự, nhập Tam-muội này đối với các pháp liền hiểu rõ không có ngôn ngữ. Có Tam-muội Trí cự, nhập Tam-muội này hay chiếu sáng các pháp. Có Tam-muội Trí thắng tướng hống, nhập Tam-muội này đối với các pháp thị hiện tướng tónh. Có Tam-muội Thông trí tướng, nhập Tam-muội này thấy tất cả trí tướng nơi các pháp. Có Tam-muội Thành tựu nhất thiết hạnh, nhập Tam-muội này đối với các pháp thành tựu tất cả hạnh. Có Tam-muội Ly khổ lạc, nhập Tam-muội này nương tựa nơi các pháp. Có Tam-muội Vô tận hạnh, nhập Tam-muội này thấy các pháp không chấm dứt. Có Tam-muội Đà-la-ni, nhập Tam-muội này đối với các Tam-muội có thể giữ gìn pháp tướng không thấy chánh tà. Có Tam-muội Vô thắng ái, nhập Tam-muội này đối với các pháp không thấy thương ghét. Có Tam-muội Tónh quang, nhập Tam-muội này không thấy nhơ nhớp nơi pháp hữu vi. Có Tam-muội Kiên lao, nhập Tam-muội này không thấy các pháp. Có Tam-muội Bất kiên lao hữu mãn nguyệt tịnh quang, nhập Tam-muội này, đối với các Tam-muội có thể thành tựu đầy đủ các công đức. Có Tam-muội Đại trang nghiêm, nhập Tam-muội này thì nơi các Tam-muội đều thành tựu được vô lượng trang nghiêm. Có Tam-muội Nhất thiết thế quang minh, nhập Tam-muội này dùng trí chiếu sáng các Tam-muội. Có Tam-muội Nhất thiết đẳng chiếu, nhập Tam-muội này được nhất tâm đối với các Tam-muội. Có Tam-muội Tịnh vô tịnh, nhập Tam-muội này đối với các Tam-muội không thấy tịnh, chẳng tịnh. Có Tam-muội Vô trạch, nhập Tam-muội này không thấy các nhà cửa. Có Tam-muội Như nhó, nhập Tam-muội này đối với các Tam-muội không thấy làm, không làm. Có Tam-muội Vô thân, nhập Tam-muội này đối với các pháp không thấy có thân. Bồ-tát được các môn Tam-muội như vậy thì khẩu nghiệp thanh tịnh như hư không, đối với các pháp không còn thấy khẩu nghiệp, giống như hư không, không bị chướng ngại. Đại Bi, đây gọi là Đại Bồ-tát tu học các môn Tam-muội Đại thừa. KINH BI HOA <卷 id="32807846">QUYỂN 9 <卷 id="32807847">Phẩm 5: BỐ THÍ BA-LA-MẬT (Phần 2) Thiện nam tử, pháp môn Thanh tịnh trợ Bồ-đề của Đại Bồ-tát là những gì? Thiện nam tử, Bố thí tức là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì giáo hóa chúng sinh. Trì giới là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đầy đủ nguyện lành. Nhẫn nhục là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tinh tấn là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì siêng năng giáo hóa các chúng sinh. Thiền định là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì làm cho tâm được điều phục hoàn toàn. Trí tuệ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì có thể biết đầy đủ các thứ phiền não. Đa văn là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đầy đủ sự vô ngại đối với các pháp. Nhất thiết công đức là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì làm cho tất cả chúng sinh được đầy đủ. Trí nghiệp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được đầy đủ trí vô ngại. Tu định là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu được tất cả tâm nhu nhuyến, nhẹ nhàng. Tuệ nghiệp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì xa lìa tất cả các nghi hoặc. Tâm Từ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì tâm vô ngại đối với các chúng sinh. Tâm Bi là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì diệt hết các khổ cho chúng sinh. Tâm Hỷ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì ưa thích pháp. Tâm Xả là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì không còn yêu ghét. Nghe pháp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đoạn trừ năm sự ngăn che. Xuất thế là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì xả bỏ những gì mình có. A-lan-nhã là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì lìa mọi thứ bận rộn. Chuyên niệm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được Đà-la-ni. Ghi nhớ đúng là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì ý thức phân biệt. Tư duy là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đối với các pháp được hiểu rõ nghóa. Niệm xứ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì phân biệt hiểu rõ thân, thọ, tâm, pháp. Chánh cần là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì chấm dứt các pháp ác, tu tập các pháp thiện. Như ý túc là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thân tâm nhẹ nhàng. Các căn là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được đầy đủ căn lành của tất cả chúng sinh. Các lực là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì có thể phá diệt hoàn toàn các phiền não. Các giác chi là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đối với các pháp hiểu biết đầy đủ tướng thật. Chánh đạo là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì xa lìa tất cả các tà đạo. Thánh đế là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì đoạn diệt tất cả các phiền não. Bốn vô ngại biện là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì diệt trừ được các nghi hoặc cho chúng sinh. Duyên niệm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì được trí tuệ không do nghe từ nơi người khác. Thiện hữu là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì giúp cho thành tựu tất cả công đức. Phát tâm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu không dối trá với các chúng sinh. Dụng ý là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì phát xuất tất cả pháp. Chuyên tâm là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì tăng thêm pháp lành. Tư duy pháp lành là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu được các pháp đã nghe. Nhiếp thủ là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu việc giáo hóa các chúng sinh. Hộ trì chánh pháp là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì làm cho hạt giống Tam bảo không bị chấm dứt. Thiện nguyện là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì thành tựu thế giới Phật tươi đẹp, thanh tịnh. Phương tiện là pháp hỗ trợ cho Bồ-đề vì mau được thành tựu Nhất thiết trí. Thiện nam tử, đây là tất cả các pháp môn thanh tịnh trợ Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Thiện nam tử, bấy giờ Đức Bảo Tạng Như Lai nhìn đại chúng Bồ-tát khắp bốn phía rồi bảo Đại Bi: –Này Đại Bi, Bồ-tát dùng ngọc anh lạc vô sở úy trang nghiêm đầy đủ nơi pháp nhẫn như thế nào? Thiện nam tử, Bồ-tát nào thấy rõ Đệ nhất nghóa không còn si mê, nên tinh tấn không tham đắm nơi ba cõi. Không tham đắm nơi ba cõi là pháp Tam-muội vô úy của Sa-môn, như đưa tay giữa hư không, không bị vướng mắc. Lại quán sát các pháp không thấy có tướng. Đại Bi, đó gọi là Đại Bồ-tát trang nghiêm bằng ngọc anh lạc vô sở úy. Thiện nam tử, thế nào gọi là Đại Bồ-tát đầy đủ nhẫn? Khi Bồ-tát trụ vào pháp này, thấy được các tướng trạng của các pháp như vi trần và quán sát nghịch thuận về các pháp, hiểu rõ không có quả báo. Tu tập về Từ, không còn có ngã. Tu tập về Bi, không còn có chúng sinh. Tu tập Hỷ, không còn có thọ mạng. Tu tập Xả, không còn chấp có người. Tuy làm việc Bố thí mà không thấy có vật thí. Tuy tu hành Trì giới mà không thấy có tâm tịnh. Tuy thực hành Nhẫn nhục mà không thấy có chúng sinh. Tuy hành Tinh tấn mà không lìa tâm mong muốn. Tuy hành Thiền định mà không dứt trừ tâm ác. Tuy hành Trí tuệ mà tâm không có chỗ hành. Tuy hành Niệm xứ mà không thấy tư duy. Tuy hành Chánh cần mà không thấy sự sinh diệt của tâm. Tuy hành Như ý túc mà không thấy tâm vô lượng. Tuy hành Tín mà không thấy tâm không chướng ngại. Tuy hành Niệm mà không thấy tâm được tự tại. Tuy hành Định mà không thấy tâm nhập định. Tuy hành Tuệ mà không thấy tuệ căn. Tuy hành các Lực mà không có sự phá diệt. Tuy hành các Giác ý mà tâm không phân biệt. Tuy hành Chánh đạo mà không thấy các pháp. Tuy hành Định nghiệp mà không thấy chỗ tịch tónh của tâm. Tuy hành Tuệ nghiệp mà không thấy chỗ hành của tâm. Tuy hành Thánh đế mà không thấy thông đạt pháp tướng. Tuy tu niệm Phật mà không thấy vô lượng tâm hành. Tuy tu niệm Pháp mà tâm đồng pháp giới. Tuy tu niệm Tăng mà tâm không nơi trụ, giáo hóa chúng sinh mà tâm giữ được thanh tịnh. Tuy giữ gìn Chánh pháp mà đối với các pháp giới, tâm không phân biệt. Tuy tu Tịnh độ mà tâm bình đẳng giống như hư không. Tuy tu tướng hảo mà tâm không có các tướng. Tuy được nhẫn nhục mà tâm không sở hữu. Tuy trụ nơi Bất thoái mà thường tự mình không thấy thoái và bất thoái. Tuy hành đạo tràng mà hiểu rõ ba cõi không có tướng khác. Tuy phá trừ các ma mà chính vì lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Tuy hành Bồ-đề mà quán các pháp Không, không có tâm Bồ-đề. Tuy chuyển pháp luân mà đối với tất cả pháp không chuyển, đi không trở lại. Tuy thị hiện Đại Bát-niết-bàn, mà đối với sinh tử tâm luôn bình đẳng không khác. Bồ-tát như vậy được gọi là đầy đủ nhẫn. Khi giảng thuyết pháp này có sáu mươi bốn ức Đại Bồ-tát từ mười phương đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni để nghe kinh Bản Duyên Tam-muội Môn Thanh Tịnh Trợ Bồ-đề Pháp này. Nghe xong, tất cả các vị ấy đều được Vô sinh nhẫn. Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng: –Các ông nên biết: Trong đời quá khứ, khi Đức Bảo Tạng Như Lai thuyết giảng pháp này có bốn mươi tám hằng hà sa Đại Bồ-tát được Vô sinh nhẫn, Đại Bồ-tát nhiều như số vi trần trong bốn nơi thiên hạ đều trụ địa vị Bất thoái chuyển, một hằng hà sa Đại Bồ-tát lãnh hội được kinh Bản Duyên Tam-muội Môn Trợ Bồ-đề Pháp. Thiện nam tử, Bồ-tát Đại Bi nghe pháp này xong, tâm rất hoan hỷ, thân thể liền thay đổi, trẻ lại như người hai mươi tuổi, theo bên Như Lai như hình theo bóng. Thiện nam tử, lúc ấy Chuyển luân thánh vương và một ngàn người con, tám vạn bốn ngàn tiểu vương, chín mươi hai ức người đều cùng xuất gia, phụng hành giới cấm, tu học đa văn, Tam-muội nhẫn nhục, siêng năng tinh tấn. Thiện nam tử, khi ấy Đại Bồ-tát Đại Bi dần dần theo Phật học hỏi và lãnh thọ tám vạn bốn ngàn pháp tụ của Thanh văn, chín vạn pháp tụ của Duyên giác, thọ trì đọc tụng thông suốt. Đối với pháp tạng Đại thừa, mười vạn pháp tụ trong Thân niệm xứ, mười vạn pháp tụ trong Thọ niệm xứ, mười vạn pháp tụ trong Tâm niệm xứ, mười vạn pháp tụ trong Pháp niệm xứ đều được Bồ-tát Đại Bi thọ trì đọc tụng thông suốt. Đối với mười vạn pháp tụ trong mười tám giới, mười vạn pháp tụ trong mười hai nhập, mười vạn pháp tụ đoạn trừ tham dục, mười vạn pháp tụ đoạn trừ sân hận, mười vạn pháp tụ đoạn trừ si mê, mười vạn pháp tụ Tam-muội giải thoát, mười vạn pháp tụ các lực vô úy, các pháp Bất côïng, mười ức pháp tụ… như vậy, Bồ-tát Đại Bi cũng đều thọ trì đọc tụng thông suốt tất cả. Thiện nam tử, sau khi Đức Phật kia nhập Niết-bàn, bấy giờ Đại Bồ-tát Đại Bi đem vô lượng, vô biên, vô số các thứ hoa, hương bột, hương xoa, cờ phướn, lọng báu, châu ngọc, âm nhạc để cúng dường, chất vô số củi thơm làm giàn, hỏa táng thân Như Lai, thu xá-lợi, dựng tháp bảy báu cao năm do-tuần, chiều ngang và dọc đều bằng một do-tuần; đem vô số vô lượng, vô biên hoa hương, âm nhạc, cờ phướn, lọng báu để cúng dường trong bảy ngày; lại làm cho vô lượng, vô biên chúng sinh an trụ trong pháp Tam thừa. Thiện nam tử, qua bảy ngày, Bồ-tát Đại Bi cùng với tám vạn bốn ngàn người đồng xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc. Sau khi Phật Bảo Tạng Bát-niết-bàn, Bồ-tát Đại Bi đem tâm tùy thuận bình đẳng khiến cho chánh pháp rực rỡ suốt mười ngàn năm; lại làm cho vô lượng, vô biên, vô số chúng sinh tu tập theo pháp ba thừa, ba quy y, năm giới cấm, tám trai giới, mười giới Sa-di, tuần tự cho đến đầy đủ tịnh hạnh của bậc Đại Tăng; lại khuyến hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh tu tập nơi bốn hạnh vô lượng, thần thông phương tiện, quán sát năm ấm giống như giặc thù, quán các nhập và xứ như xóm làng hoang vắng, quán các pháp hữu vi do nhân duyên sinh, khuyến hóa giúp cho chúng sinh đạt được tri kiến, quán tất cả pháp như ảnh phản chiếu trong gương, như dợn nắng, như trăng trong nước, đối với các pháp biết không có ngã, không sinh, không diệt, Niết-bàn là vi diệu tịch tónh đệ nhất; lại làm cho vô lượng, vô biên chúng sinh trụ yên trong tám Thánh đạo. Sau khi thực hiện các Phật sự lợi ích lớn như vậy xong, Tỳ-kheo Đại Bi viên tịch. Khi ấy, có vô lượng, vô biên trăm ngàn người đem vô số vật cúng dường để cúng dường xá-lợi Tỳ-kheo Đại Bi. Như pháp cúng dường Chuyển luân thánh vương, đại chúng này cũng dùng vô số loại cúng dường như vậy để cúng dường xá-lợi Tỳ-kheo Đại Bi. Trong ngày Tỳ-kheo Đại Bi viên tịch, chánh pháp của Bảo Tạng Như Lai cũng diệt hết. Các Bồ-tát khác theo bản nguyện của mình nên sinh đến cảnh giới Phật, hoặc sinh nơi cõi trời Đâu-suất, sinh nơi loài Người, loài Rồng, Dạ-xoa hoặc A-tu-la, hay sinh trong các loài súc sinh. Thiện nam tử, sau khi Tỳ-kheo Đại Bi viên tịch, theo bản nguyện, ở phương Nam, cách đây mười ngàn cõi Phật, có thế giới Phật tên là Hoan hỷ, loài người trong đó sống tám mươi tuổi, tập trung tất cả các kẻ căn tánh bất thiện, ưa làm việc sát hại, sống theo các nghiệp ác, không có tâm từ bi với tất cả chúng sinh, bất hiếu với cha mẹ, cho đến không sợ quả báo ở đời sau. Do bản nguyện, Tỳ-kheo Đại Bi sinh vào nhà Chiên-đà-la của thế giới ấy, thân tướng cao lớn, tuấn tú, lực vững mạnh, oai phong, hùng dũng, chuyên cần học vấn, biện luận nhanh nhẹn, các việc như vậy đều hơn người. Dùng uy lực vững mạnh của mình ra lệnh cho mọi người, Đại Bi nói thế này: –Nếu ngươi có thể thọ giới không trộm cướp, cho đến xa lìa vô số tà kiến, thực hành chánh kiến, ta sẽ tha mạng cho ngươi, cung cấp cho ngươi đầy đủ đồ vật, tài sản cần dùng, không để thiếu thốn. Nếu không thọ giới, ta nhất định sẽ giết chết ngươi rồi mới ra đi. Khi ấy, mọi người quỳ thẳng, chắp tay thưa: –Nhân giả, ngài đã khiến cho chúng tôi hàng phục, theo lời ngài dạy, chúng tôi xin thọ trì; trọn đời không còn làm lại việc trộm cắp, cho đến chánh kiến cũng như vậy. Khi ấy, Cường Lực Chiên-đà-la đi đến gặp vua, đại thần và thưa: –Tôi đang cần các thứ vật dụng, tài sản như là: thực phẩm, y phục, vật dùng để nằm, y dược, hương hoa, vàng bạc, tiền của, hàng hóa, trân châu, lưu ly, ngọc kha bối, ngọc bích, san hô, hổ phách, vật báu, giống như vật báu… Nếu tôi được vô số vật này, sẽ đem bố thí cho chúng sinh. Quốc vương, đại thần liền cho người này đầy đủ các vật cần dùng. Nhân làm việc bố thí ấy, Chiên-đà-la đã giúp cho vua và đại thần sống trong mười điều thiện. Bấy giờ, tuổi thọ của loài người tăng thêm đủ năm trăm tuổi. Vua đó qua đời, các đại thần đưa Chiên-đà-la lên kế vị ngôi vua. Nhân đấy đặt danh hiệu là Công Đức Lực. Thiện nam tử, bấy giờ làm vua một quốc độ không bao lâu, lại nhờ có khả năng nên vua Công Đức Lực lại làm vua hai quốc độ. Như vậy, không bao lâu, tuần tự nhà vua được thành Chuyển luân thánh vương, làm vua cõi Diêm-phù-đề, sau đó giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến an trụ nơi giới bất sát, cho đến chánh kiến cũng như vậy. Tùy theo chỗ ưa thích của chúng sinh, vua khuyến hóa cho họ tu tập theo ba thừa. Khi vua Công Đức Lực giáo hóa vô lượng chúng sinh trong Diêm-phù-đề sống theo mười điều thiện, tu tập theo ba thừa xong, thì lớn tiếng xướng lên trong khắp cõi Diêm-phù-đề: –Nếu có ai cầu xin vật cần dùng, thực phẩm, cho đến muốn được các loại châu báu, đều đến nơi đây ta sẽ cấp cho. Khi nghe xướng như vậy, tất cả khất só trong cõi Diêm-phù-đề đều đến tập họp. Bấy giờ, vua Công Đức Lực cung cấp các vật dụng cần dùng cho họ đầy đủ theo ý muốn. Lúc ấy, có một Ni-kiền Tử tên Khôi Âm, đi đến gặp vua, thưa: –Những hành động bố thí vó đại của nhà vua đang làm là để cầu đạo quả Vô thượng Chánh chân, ngài nên cung cấp cho tôi những vật cần dùng được đầy đủ, đời vị lai vua sẽ thắp sáng đèn pháp. Vua hỏi: –Khanh cần những gì? Người kia đáp: –Tôi tụng trì chú thuật, muốn gây chiến với A-tu-la, đánh dẹp làm cho chúng nó sợ; và để được thắng lợi, tôi xin thưa vua: vật tôi cần dùng là da và mắt của người chưa chết. Nghe thưa như vậy, đại vương suy nghó: “Ta đã được làm Chuyển luân thánh vương với thế lực vô lượng như vậy rồi, đưa được vô lượng chúng sinh vào trong mười nẻo thiện và ba thừa, lại thực hiện vô lượng, vô biên việc bố thí lớn. Thiện tri thức này muốn giúp cho ta đem thân không bền chắc đổi lấy thân bền chắc”. Sau khi nghó vậy, đại vương liền bảo: –Xin ông phát tâm hoan hỷ, ta sẽ đem mắt thịt phàm phu này bố thí cho ông; nhờ sự việc ấy, khiến cho đời sau ta được tuệ nhãn thanh tịnh. Với tâm hoan hỷ, ta lột da cho ông, nhờ sự việc này làm cho ta sau khi thành Chánh giác được thân màu vàng ròng. Thiện nam tử, bấy giờ vua Công Đức Lực dùng tay phải móc lấy hai mắt bố thí cho Ni-kiền Tử, máu chảy khắp cả mặt, vua nói: –Chư Thiên, Long thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân… hoặc ở trong hư không, hoặc ở trên mặt đất, xin hãy cùng nghe ta nói: “Sự bố thí của ta hôm nay đều vì đạo Vô thượng Bồ-đề thanh tịnh Niết-bàn để cứu độ chúng sinh vượt bốn dòng nước dữ, khiến được an trụ vào Niết-bàn”. Lại bảo: –Nếu ta chắc chắn thành Chánh giác, tuy làm việc như thế này nhưng mạng sống hiện nay không thể bị hủy hoại, không mất chánh niệm, không hối hận, giúp cho các chú thuật Ni-kiền Tử được thành tựu. Lại bảo: –Ông đã có thể đến lột lấy da của ta. Thiện nam tử, khi ấy Ni-kiền Tử liền dùng dao bén lột lấy da vua và bảy ngày sau hoàn thành được chú thuật. Bấy giờ, trong bảy ngày, mạng sống của vua vẫn còn, nhưng vua không mất chánh niệm. Tuy chịu khổ cực như vậy nhưng vua không có một ý niệm hối hận nào cả. Thiện nam tử, ông nên biết, khi ấy Bồ-tát Đại Bi thời ấy đâu phải là người nào khác, mà chính là thân Ta. Nơi đời quá khứ, bắt đầu phát tâm thành Chánh giác ở chỗ Phật Bảo Tạng. Vừa mới phát tâm, Ta đã khuyến hóa vô lượng, vô biên chúng sinh an trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, đấy là lần đầu tiên Ta dốc sức tinh tấn. Khi ấy, Ta nhờ diệu lực của bản nguyện nên qua đời, sinh vào nhà Chiên-đà-la, nơi thế giới Hoan hỷ, là lần thứ hai Ta hết mực tinh tấn, mạnh mẽ. Ta sinh trong gia đình Chiên-đà-la, giáo hóa chúng sinh sống theo pháp thiện, dùng uy lực của mình cho đến sinh làm Chuyển luân thánh vương, diệt trừ sự tranh giành, uế tạp ở cõi Diêm-phù-đề, khiến được thanh tịnh, tăng thêm tuổi thọ. Đây là lần đầu tiên Ta xả bỏ thân, da và mắt. Thiện nam tử, do bản nguyện nên Ta qua đời ở thế giới kia và sinh trở lại nơi thế giới Hoan hỷ, trong gia đình Chiên-đà-la, cho đến được làm Chuyển luân thánh vương, dùng uy lực lớn khiến chúng sinh sống trong pháp thiện. Nơi thế giới ấy, Ta lại diệt trừ được các việc oán tặc, tranh chấp, cấu uế, làm cho tuổi thọ của chúng sinh được tăng thêm. Ngay khi Ta vừa xả bỏ tai, lưỡi…, làm các việc lợi ích lớn như vậy nơi các cõi thiên hạ trong Tam thiên đại thiên thế giới xong, do nguyện lực nên Ta trước sau luôn tinh tấn bền vững như vậy. Lại ở những đời năm trược xấu ác nhiều như cát sông Hằng, Ta luôn tạo lợi ích lớn, an trụ chúng sinh trong pháp thiện và ba thừa, diệt trừ mọi thứ oán tặc, tranh giành, uế tạp. Thiện nam tử, ngoài ra, thế giới thanh tịnh ở phương khác có chư Phật với bản hạnh khi cầu thành Vô thượng Chánh giác là không nói lỗi người khác, không nói lời thô ác đối với người khác, không dùng thế lực để biểu hiện sự khủng bố, không khuyến hóa chúng sinh vào Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa, cho nên sau khi chư Phật thành tựu viên mãn Chánh giác, được thế giới tươi đẹp thanh tịnh này, không có các danh từ tội lỗi, không có thọ giới, tai không bao giờ nghe lời thô ác, không có tiếng bất thiện, thường nghe tiếng chánh pháp, xa lìa tất cả các tiếng không vừa ý, được tự tại đối với tất cả chúng sinh, không có các danh từ Thanh văn, Bích-chi-phật. Thiện nam tử, trong hằng hà sa đại kiếp, ở hằng hà sa các quốc độ không có Phật, với đời năm trược xấu ác, Ta dùng nhân duyên là lời thô ác, muốn giết chết để khiến cho chúng sinh sợ hãi và sau đó khuyến hóa giúp họ an trụ vào pháp thiện và trong ba thừa. Dư nghiệp của họ như vậy nên khiến ra có thế giới tệ ác như vậy. Do dùng âm thanh bất thiện nêu bày khắp thế giới nên nay có chúng sinh bất thiện đầy khắp thế giới ấy. Bản nguyện của Ta là thuyết giảng pháp ba thừa, nhận thế giới Phật, điều phục chúng sinh…, sự việc ấy là như vậy. Như Ta đã nói, luôn tinh tấn tu tập hành đạo Bồ-tát nên nay được chủng tử ban đầu giống như thế giới của Phật. Hiện tại bản nguyện của Ta đã được như thế. Thiện nam tử, nay Ta sẽ nói sơ lược về việc Bố thí ba-la-mật của Ta xưa kia. Khi Ta thực hành Bố thí ba-la-mật, các Bồ-tát thời quá khứ khi hành đạo Bồ-tát cũng không thể làm được hạnh như vậy. Đời vị lai, người hành đạo Bồ-tát cũng không thể sánh kịp. Ta là Bồ-tát mà khi thực hành Bố thí ba-la-mật chỉ trừ tám vị thiện trượng phu thời quá khứ: Bồ-tát thứ nhất tên Nhất Địa Đắc, tại cõi Nhất thiết quá hoạn ở phương Nam này thành Bậc Chánh Giác hiệu là Phá Phiền Não Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi loài người thọ một trăm tuổi, Ngài ở đó thuyết pháp, sau bảy ngày nhập Bát-niết-bàn. Bồ-tát thứ hai tên Tinh Tấn Thanh Tịnh, ở quốc độ Viêm xí, nơi phương Đông, thành Bậc Chánh Giác hiệu là Bách Công Đức gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi loài người thọ một trăm tuổi, Ngài ở đó thuyết pháp. Đức Phật ấy trải qua một hằng hà sa đại kiếp làm Phật sự xong, nhập Niết-bàn vô thượng. Cho đến nay, ở nước không có Phật, xá-lợi của Phật đó làm các Phật sự giống như Ta không khác. Bồ-tát thứ ba tên Kiên Cố Hoa, siêng năng, tinh tấn tu tập các Tam-muội, dùng uy lực lớn làm việc bố thí. Vào đời vị lai, trải qua mười hằng hà sa đại kiếp, ở thế giới Hoan lạc nơi phương Bắc, thành Bậc Chánh Giác hiệu là Đoạn Ái Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Bồ-tát thứ tư tên Tuệ Xí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ, trải qua một đại kiếp, ở thế giới Khả úy nơi phương Tây, khi loài người thọ trăm tuổi, Bồ-tát ấy thành Bậc Chánh Giác hiệu là Nhật Tạng Quang Minh Vô Cấu Tôn Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nay ở trước Ta đang có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Nhật Quang, vị thứ hai tên Hỷ Tý. Vào đời vị lai, trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, ở quốc độ Khôi vụ thuộc phương Trên, kiếp tên Đại loạn, đời năm trược xấu ác, nhiều thứ phiền não, loài người thọ năm mươi tuổi, do bản nguyện nên Bồ-tát Nhật Quang ở trong đó thành Bậc Chánh Giác, hiệu là Bất Tư Nghị Nhật Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trong khoảng mười năm thực hiện đầy đủ mọi Phật sự và Bát-niết-bàn, ngay ngày Niết-bàn, chánh pháp cũng diệt. Sau đó, suốt mười năm không có Phật, tuổi thọ của loài người giảm dần xuống còn ba mươi tuổi, Bồ-tát Hỷ Tý do bản nguyện nên ở trong thời ấy được thành Bậc Chánh Giác hiệu là Thắng Nhật Quang Minh gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, cũng thực hiện đầy đủ mọi Phật sự trong mười năm rồi Bát-niết-bàn. Bát-niết-bàn xong, do bản nguyện, chánh pháp trụ ở đời đủ bảy mươi năm. Bấy giờ, ở trước Phật vừa được nghe thọ ký thành Chánh giác nên hai Bồ-tát rất hoan hỷ, cúi đầu kính lễ. Do hoan hỷ nên hai vị liền bay vút lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, chắp tay hướng Phật, đồng thanh đọc kệ: Ánh sáng Như Lai Vượt hơn nhật nguyệt Ngay trong đời ác Thuyết trí tuệ lớn Điều ngự bạch tịnh Không còn cấu uế Luận nghị vi diệu Phá dẹp ngoại đạo. Con vô lượng kiếp Tu định Vô tưởng Để cầu Bồ-đề Thắng diệu vô thượng Cúng dường chư Phật Nhiều như hằng sa. Phật thời quá khứ Chưa thọ ký con Thế Tôn ly dục Tâm được giải thoát Nơi đời tối tăm Giỏi làm Phật sự Giảng thuyết pháp cho Chúng sinh lạc đường Khiến thoát qua khỏi Dòng nước sinh tử, Nay nguyện của con Tự tại nơi đây Pháp Phật thanh tịnh Xuất gia tu đạo Tịnh giới giải thoát Làm đúng như lời Định tâm quán Phật Như bóng theo hình Không vì lợi dưỡng Chỉ cầu chánh pháp Được nghe pháp xong Uống vị cam lộ Cho nên Thế Tôn Thọ ký cho con Nơi đời vị lai Đắc đạo Vô thượng. Thiện nam tử, ngoài hai người chưa phát tâm ra, những vị đã phát tâm là: 1.Nhật Quang, 2.Hỷ Tý. Và trước đó có bốn vị: 1.Địa Đắc, 2.Tinh Tấn Tịnh, 3.Kiên Cố Hoa, 4.Tuệ Xí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ. Cộng lại, có tám người, trong đó có sáu Bồ-tát ban đầu đã được Ta khuyến hóa làm cho phát tâm thành Chánh giác. Thiện nam tử, nay ông hãy lắng nghe nhân duyên của thời quá khứ, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước. Bấy giờ thế giới này tên Vô cấu Tu-di, loài người thọ trăm tuổi, có Phật ra đời hiệu Hương Liên Hoa, sau khi Phật ấy Bát-niết-bàn, trong đời tượng pháp, lúc đó Ta làm Chuyển luân thánh vương Đại Cường Lực, hiệu Nan Thư Hoại, là vua cõi Diêm-phù-đề, có ngàn người con được ta khuyến hóa, khiến đều phát tâm thành Bậc Chánh Giác Vô Thượng. Sau đó, cũng trong đời tượng pháp, họ theo pháp của Phật Hương Liên Hoa xuất gia tu tập, phát huy rực rỡ giáo pháp của Phật để lại, chỉ trừ sáu người con không chịu phát tâm Bồ-đề, xuất gia học đạo. Khi ấy, Ta luôn luôn bảo: –Các khanh nay muốn cầu gì? Vì sao không phát tâm cầu đạo Vô thượng, xuất gia tu hành? Sáu người con thưa: –Không nên xuất gia. Vì sao? Nếu ở thời gian cuối cùng của đời tượng pháp mà xuất gia thì không thể hộ trì và thành tựu giới tụ, xa lìa bảy Thánh tài. Do không hộ giới, khi qua đời sẽ bị rơi trong bùn nhơ sinh tử, đọa vào ba đường ác, không được sinh lên cõi trời, trong loài người. Vì vậy, chúng con không thể xuất gia tu hành. Thiện nam tử, lúc ấy Ta lại hỏi: –Vì sao các khanh không phát tâm cầu đạo Vô thượng? Sáu người con đáp: –Nếu có thể cho chúng con cõi Diêm-phù-đề, sau đó chúng con sẽ phát tâm thành Chánh giác. Thiện nam tử, nghe như vậy, Ta rất vui mừng, suy nghó: “Ta đã chỉ dạy người cõi Diêm-phù-đề thọ trì ba quy y, giữ gìn tám trai giới, tu tập theo ba thừa. Nay Ta sẽ phân cõi Diêm-phù-đề này ra làm sáu phần cho sáu người con khiến họ phát tâm cầu đạo Vô thượng, sau đó, Ta sẽ xuất gia tu hành”. Sau khi suy nghó như vậy, Ta bèn phân cõi Diêm-phù-đề làm sáu phần cho các con, rồi đi xuất gia. Sáu vị vua này lại chống đối nhau, không hòa thuận, cướp bóc, gây chiến tranh, tạo mọi gông cùm xiềng xích tác hại lẫn nhau. Bấy giờ, khắp cả cõi Diêm-phù-đề lúa mạ không mọc, dân chúng khổ cực, mưa nắng không đúng mùa, cây cối không trổ hoa trái, cỏ thuốc không mọc; muôn dân, các loài cầm thú thảy đều bị đói khát, thân như bị lửa cháy thiêu đốt. Khi ấy, Ta lại suy nghó: “Lúc này Ta nên từ bỏ thân thể, đem da và máu thịt của mình bố thí cho chúng sinh, giúp cho họ được no đủ”. Nghó như vậy xong, từ chỗ ở nơi A-lan-nhã, Ta đi đến thế giới của loài người. Giữa đường có ngọn núi tên Thủy ái hộ, Ta ở tại núi này nói kệ phát nguyện: Như Ta tự bỏ Thân mạng của mình Vì tâm đại bi Không cầu quả báo Chỉ vì lợi ích Người và chư Thiên Nguyện làm núi thịt Thí cho chúng sinh. Nay Ta đã bỏ Thân tướng đoan nghiêm Không cầu Đế Thích Thiên ma, Phạm vương Chỉ vì lợi ích Trời, người vị lai Đem thân máu thịt Cho các chúng sinh. Chư Thiên, Long, Thần Nhân và Phi nhân Kẻ ở núi rừng Hãy nghe Ta nói Vì các chúng sinh Ta phát đại bi Tự đem máu thịt Cung cấp cho họ. Thiện nam tử, ngay khi Ta phát nguyện như vậy xong thì các cõi trời đều rúng động. Đại địa, núi Tu-di, biển lớn, đều chấn động sáu cách. Trời, người, đại chúng thảy kêu gào thương xót. Bấy giờ, Ta ở núi Thủy ái hộ tự gieo mình xuống, do nguyện lực nên thân liền hóa thành núi thịt cao một do-tuần, chiều ngang và dọc đều bằng một do-tuần. Bấy giờ, thú chạy, chim bay, muôn dân… bắt đầu cùng nhau lần lượt uống máu, ăn thịt Ta. Do bản nguyện của Ta nên vào khoảng giữa đêm, thân càng thêm to lớn, cho đến cao tới một ngàn do-tuần, ngang dọc cũng đều bằng một ngàn do-tuần, tự nhiên ngay nơi thân mọc ra những đầu người đầy đủ tai, mắt, mũi, miệng, môi, lưỡi. Mỗi cái đầu đều kêu lên thế này: –Này các chúng sinh, mỗi người hãy tùy ý đến lấy mà dùng. Uống máu, ăn thịt, lấy đầu, mắt, tai, mũi, môi, lưỡi, răng… Sau đó đều phát tâm thành Chánh giác, hoặc phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Các khanh nên biết, vật này thật là vô cùng tận, ăn vào dễ tiêu, sống lâu không chết yểu. Người có trí sáng, uống máu, ăn thịt, lấy đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, thì hoặc phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật thừa, hoặc phát tâm thành Chánh giác, hoặc cầu giàu vui trong loài người, trên trời. Do bản nguyện nên đến vạn năm, thân ấy không tổn giảm. Người và quỷ thần, chim bay, thú chạy trong cõi Diêm-phù-đề, tất cả đều được đầy đủ. Trong vạn năm, Ta đã bố thí mắt như số cát một sông Hằng, đã bố thí máu như nước bốn biển lớn, đã xả bỏ thịt như ngàn núi Tu-di, đã bỏ lưỡi như núi Đại Thiết vi, đã bỏ tai như núi Thuần-đà-la, bỏ mũi như núi Tỳ-phú-la, bỏ răng như núi Kỳ-xà-quật; bỏ thân, da như đất… trong ba ngàn đại thiên thế giới. Thiện nam tử, ông nên biết, trong vạn năm xưa kia Ta đã xả bỏ vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thân, trong từng mạng sống của mình đã dùng máu thịt cung cấp cho vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến họ đều được no đủ mà không có một chút ý niệm hối hận nào. Lúc ấy, Ta lại nguyện: –Nếu Ta nhất định thành Chánh giác, sở nguyện thành tựu, bản thân được lợi ích, ta ở cõi Diêm-phù-đề này trong một vạn năm, tự đem máu thịt cung cấp cho tất cả vô lượng chúng sinh. Như vậy, trong hằng hà sa vạn năm, ta làm núi máu thịt lớn như núi Vô cấu Tu-di khắp cả ba ngàn thế giới. Mỗi một thiên hạ trong vạn năm, Ta tự đem máu thịt, đầu, mắt, tai… cung cấp cho chúng sinh. Cho nên Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Nhân và Phi nhân, tất cả hàng súc sinh, dù ở hư không hay ở trên đất, cho đến loài ngạ quỷ cũng đều được no đủ. Sau đó, Ta khuyến hóa thảy đều tu tập theo pháp Tam thừa, hoặc trong một thế giới Phật này, đã làm cho chúng sinh được đầy đủ xong, cho đến khắp mười phương thế giới năm trược xấu ác nhiều như cát sông Hằng, ta lại xả máu thịt, đầu, mắt, tai, mũi… cung cấp cho chúng sinh đều được đầy đủ. Như vậy, như trong một hằng hà sa đại kiếp, Ta tự xả bỏ thân mạng để bố thí cho chúng sinh. Nếu nguyện Ta không thành, bản thân Ta không được lợi ích, tức là dối trá vô lượng, vô biên chư Phật Thế Tôn trong mười phương, vì các chúng sinh mà chuyển pháp luân, Ta chắc chắn không được thành Chánh giác, bị ở mãi nơi sinh tử, hoàn toàn không được nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tỳ-kheo Tăng, tiếng Ba-la-mật, tiếng Vô sở úy, cho đến tất cả các tiếng nói về thiện căn. Nếu Ta không thể thành tựu được việc xả thân bố thí đầy đủ cho chúng sinh thì thường đọa địa ngục A-tỳ. Thiện nam tử, thuở xưa, những nguyện của Ta phát ra như vậy, đều được thành tựu. Ở mỗi một cõi thiên hạ, Ta xả thân máu thịt cung cấp cho chúng sinh, khiến được no đủ. Tuần tự, trong các thế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương, Ta đều xả thân máu thịt cung cấp cho chúng sinh, luôn khiến họ đều được đầy đủ. Thiện nam tử, ông nên biết, Ta lúc bấy giờ vì Bố thí ba-la-mật nên tuần tự xả thân bố thí như vậy. Nếu đem mắt đã bố thí gom lại thì đầy cả cõi Diêm-phù-đề và cao đến trời Đao-lợi. Thiện nam tử, đây gọi là Như Lai nói sơ lược sự việc xả thân Bố thí ba-la-mật. Lại nữa Thiện nam tử, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp như thế, bấy giờ thế giới này chuyển tên là Nguyệt điện, cũng ở đời năm trược xấu ác, thời ấy, Ta làm Chuyển luân thánh vương, là vua cõi Diêm-phù-đề, hiệu là Đăng Quang Minh. Ta cũng dạy vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ người an trụ trong các pháp thiện như nói ở trên. Làm việc này xong, dạo nơi vườn rừng xem đất đai, thấy có một người bị trói, Ta liền hỏi: –Người này phạm lỗi gì? Đại thần tâu: –Những người làm ruộng thâu được lúa mạch phải phân làm sáu và nộp quan một phần. Người này không tuân theo pháp vua, không chịu đem nộp lúa cho nên bị trói. Lúc ấy, Ta ra lệnh thả ra và từ nay về sau không cần bắt buộc nộp. Đại thần tâu: –Thế trong dân chúng sẽ không có một người nào phát tâm hoan hỷ theo nghóa vụ của mình mà đem nộp lúa cả. Như vậy, sự chi dụng, ăn mặc của các con vua, quyến thuộc, quý nhân, thể nữ trong hậu cung, tất cả đều phải cố lấy từ những người bên cạnh, vì không có một người dân nào đem nộp với tâm thanh tịnh. Ta nghe như vậy rất ưu sầu, tự suy nghó: “Cõi Diêm-phù-đề này sẽ đem cho ai? Ta có năm trăm người con, trước đã khiến chúng phát tâm cầu đạo Vô thượng, sẽ phân đất này làm năm trăm phần chia đều cho các con. Ta sẽ xuất gia, đến chốn A-lan-nhã tu các pháp tiên, học phạm hạnh thanh tịnh”. Suy nghó xong, Ta liền phân đất này làm năm trăm phần chia đều cho các con, rồi xuất gia nơi rừng cây Uất-đầu-ma ở bờ biển phía Nam, ăn các trái cây. Ta tu học lần lần đạt được năm thần thông. Thiện nam tử, khi ấy ở cõi Diêm-phù-đề có năm trăm người buôn vào biển lớn muốn tìm châu báu. Có một thương chủ tên là Mãn Nguyệt, người này nhân có phước đức từ đời trước nên được như nguyện, đến nơi bãi lấy rất nhiều các thứ châu báu xong, muốn trở về cõi Diêm-phù-đề. Lúc ấy, thần biển lớn tiếng khóc lóc, rất nhiều rồng nổi giận, muốn hại thương nhân, có một Long vương tên Mã Kiên, là Đại Bồ-tát, do bản nguyện nên sinh trong loài rồng, phát tâm từ bi cứu hộ các thương gia, giúp họ được yên ổn vượt qua biển lớn, đến bờ bên kia. Sau đó, Long vương trở về nơi bản xứ. Bấy giờ lại có một La-sát đại ác đuổi theo thương nhân như bóng theo hình, muốn làm hại. La-sát ác này ngay trong ngày đó nổi gió bão lớn, khiến các thương nhân hoảng hốt nên bị lạc đường, hết sức sợ hãi, gào khóc thất thanh, kêu gọi chư Thiên Ma-hê-thủ-la, thần đất, thần nước, thần lửa, thần gió; lại gọi cha mẹ, vợ con, quyến thuộc xin cứu giúp cho họ. Thiện nam tử, ngay khi ấy dùng Thiên nhó thanh tịnh nghe được âm thanh đó, Ta liền đến nơi, dùng tiếng êm dịu vỗ về, an ủi họ: “Chớ sợ hãi, ta sẽ chỉ đường giúp cho các ngươi trở về cõi Diêm-phù-đề được an ổn”. Thiện nam tử, ngay khi ấy Ta dùng lụa trắng quấn cánh tay, đem dầu rưới lên đó, đốt để làm đuốc và phát lời nguyện chân thật: –Ta trước kia nhờ ở rừng Uất-đầu-ma, trong ba mươi năm chuyên tinh tu hành Tứ vô lượng tâm, vì các chúng sinh ăn trái cây, khuyến hóa tám vạn bốn ngàn các Rồng, Dạ-xoa, Thần… được Bất thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do căn lành này, nay Ta đốt cánh tay để chỉ đường, giúp cho các thương gia trở về cõi Diêm-phù-đề được an ổn. Cánh tay cháy sáng đến bảy ngày bảy đêm nên các thương nhân được an ổn trở về cõi Diêm-phù-đề. Thiện nam tử, khi ấy Ta lại phát thiện nguyện: –Nếu cõi Diêm-phù-đề không có các châu báu và nếu Ta chắc chắn thành Chánh giác, bản thân được lợi ích thì Ta sẽ làm thương chủ trong mỗi thiên hạ có bảy lần mưa vật báu. Ta lại vào biển lớn lấy ngọc như ý khiến cho nơi mỗi thiên hạ lại mưa vô số vật báu xen lẫn nhau, tuần tự như vậy khắp cả thế giới này, cho đến vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ các thế giới trong mười phương cũng như vậy. Thiện nam tử, thuở xưa các nguyện Ta đã phát đều được thành tựu. Trong một hằng hà sa đại kiếp, Ta làm thương chủ giàu có vô cùng. Nơi hằng hà sa đời năm trược xấu ác, trong một ngày có bảy lần mưa vô số châu báu, tạo lợi ích cho vô lượng chúng sinh như vậy. Sau khi giúp cho tất cả đều được đầy đủ châu báu, Ta lại khuyến hóa họ tu học theo ba thừa. Thiện nam tử, ông nên biết đó là Như Lai xả bỏ các châu báu để được nhân duyên thiện căn của các tướng. Lại nữa Thiện nam tử, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp như vậy, thế giới Phật này chuyển tên là Võng, kiếp tên Tri cụ túc, dân chúng nơi đời năm trược đó sống năm vạn tuổi. Do bản nguyện, Ta sinh xuống cõi Diêm-phù-đề, trong nhà Bà-la-môn tên là Tu Hương, đọc tụng văn tự ngoại điển Xiển-đà. Khi ấy, chúng sinh phần nhiều chấp vào thường kiến nên xem nhau như giặc, luôn tranh giành nhau. Ta dùng uy lực mạnh, vì các chúng sinh mà thuyết giảng năm thọ ấm giống như oan gia, nói rõ về thuyết mười hai nhập như xóm làng hoang vắng, thuyết tánh mười hai duyên luôn sinh diệt, chỉ dạy pháp sổ tức quán, làm cho họ tu học. Ta lại bảo: –Nay quý vị có thể phát tâm đem thiện căn đã làm mà hồi hướng thành Chánh giác. Ngay khi ấy, Ta tự nhiên được ngũ thông của bậc Thần tiên. Có vô lượng, vô biên, vô số người thọ trì lời Ta dạy nên đều được Ngũ thông. Lại có vô lượng, vô biên chúng sinh diệt trừ oán thù, xa lìa tranh giành và muốn xuất gia, ăn rau, trái cây, hạt cỏ, ngày đêm tu tập Tứ vô lượng tâm. Hết kiếp Dục ấy, các vị đó, mỗi người đều phân tán đi khắp cõi Diêm-phù-đề giáo hóa chúng sinh, làm cho xa lìa mọi tranh chấp, diệt trừ oán hận, khiến đều được vắng lặng. Họ làm cho khắp nơi không còn bị hạn hán, bão tố, lụt lội… Đất nơi đó được màu mỡ, lúa thóc được mùa, thức ăn uống ngon, nhiều. Sau khi kiếp Dục hết, chúng sinh lại bị vô số bệnh khổ bức bách. Thiện nam tử, bấy giờ Ta lại suy nghó: “Nếu không thể trừ bệnh cho chúng sinh, Ta chắc chắn không thành Chánh giác. Vậy phải trừ diệt phiền não cho các chúng sinh. Ta nên dùng những phương tiện gì để dứt trừ? Chỉ có tập họp tất cả đại chúng chư Thiên ở các cõi Đao-lợi, Thích thiên, Phạm thiên, Tứ thiên vương… và các Thiên tiên, Long tiên, Nhân tiên, hỏi về các phương thuốc, tập họp các cỏ và vô số chú thuật để chữa bệnh”. Suy nghó xong, Ta liền dùng thần thông đến Thích thiên, Phạm thiên, Tứ đại vương thiên và chỗ của các Trời, Thần, Rồng, Người, Tiên, nói: –Xin các vị cùng đến tập họp ở núi Tỳ-la. Nghe xong, đại chúng liền tập họp và cùng nhau trì tụng chú thuật Tỳ-đà. Chú này có năng lực xua đuổi tất cả quỷ thần ác, ủng hộ chúng sinh. Ta dùng các phương thuốc để trị liệu những bệnh đàm ấm, phong hàn, nóng lạnh… khiến cho vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ người được xa lìa các khổ não. Thiện nam tử, khi ấy Ta lại phát nguyện: –Như Ta đã làm cho vô lượng, vô biên chúng sinh trong một thiên hạ này được trí tuệ sáng, tu học theo pháp ba thừa, đóng ba cửa ác, mở đường nơi cõi trời người, trừ các bệnh khổ, khiến được hoan hỷ. Lại nữa, tuần tự Ta làm cho vô lượng, vô biên, vô số người được trí tuệ sáng, cho đến được vui sướng. Do duyên lành của quả báo ấy, khiến nguyện của Ta được thành tựu, bản thân mau đạt lợi ích. Như Ta đã vì vô lượng, vô biên, vô số người trong một thiên hạ này mà đóng ba đường ác, mở đường nơi cõi trời người, vì các người bệnh mà thỉnh các Trời, Rồng, Người, Thần, Tiên tập họp ở núi Tỳ-la tụng chú Tỳ-đà, giúp cho vô lượng, vô biên, vô số người được hết bệnh, hưởng thọ an lạc. Như vậy, Ta làm lợi ích cho tất cả vô lượng chúng sinh ở khắp nơi trong thế giới Võng tu học theo ba thừa, đóng ba đường ác, mở đường vào cõi trời người. Ta lại cũng vì những người bệnh trong thế giới này mà thỉnh chư Thiên, Long, Thần, Tiên, Người tập họp ở núi Tỳ-la, tụng chú Tỳ-đà, khiến vô lượng, vô biên, vô số người đều được hết bệnh, hưởng thọ an lạc; cho đến hằng hà sa các thế giới với đời năm trược xấu ác khắp mười phương cũng đều được Ta cứu giúp như vậy. Thiện nam tử, khi ấy ở thế giới Võng cho đến đời năm trược xấu ác nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, các nguyện mà Ta đã phát đều được thành tựu. Thiện nam tử, ông nên biết, khi Như Lai còn là Bồ-tát, luôn tăng trưởng trí tuệ, tu Bồ-tát đạo nên gọi là Như Lai bảo hộ chủng tử thiện căn của ba nghiệp thân, miệng, ý. KINH BI HOA <卷 id="32807849">QUYỂN 10 <卷 id="32807850">Phẩm 5: BỐ THÍ BA-LA-MẬT (Phần 3) Phật bảo Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, sau đó trải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp, cõi này đổi tên là Tuyển trạch chư ác, đại kiếp tên Thiện đẳng cái, cũng đời năm trược xấu ác. Về phương Đông, cách đây năm mươi bốn cõi thiên hạ, cõi Diêm-phù-đề kia tên là Lư-bà-la, do nguyện lực nên Ta sinh vào nơi đó và làm Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn cõi thiên hạ, hiệu là Hư Không Tịnh, chỉ dạy các chúng sinh tu tập theo mười điều thiện và ba thừa. Lúc ấy, Ta bố thí cho tất cả chúng sinh không có sự phân biệt. Có vô số những người ăn xin theo Ta xin các vật quý báu như vàng bạc, lưu ly, pha lê, tiền tài, hàng hóa, ngọc lưu ly xanh lớn, ngọc ma-ni đỏ… Vật quý báu thì ít mà người xin quá đông nên đại thần thưa không đủ. Ta hỏi đại thần: –Châu báu này có từ đâu? Đại thần tâu: –Đó là do Long vương hiện ra. Tuy có các vật báu này nhưng chỉ để cúng dường Thánh vương, không thể có đủ để cho tất cả mọi người đến xin như thế. Khi ấy, ta phát thệ nguyện rộng lớn: –Thời vị lai, trong đời năm trược xấu ác, loài người thọ trăm tuổi, dày đặc phiền não, chắc chắn ta thành Chánh giác. Nếu nguyện của ta được thành tựu, bản thân được lợi ích thì ta làm Đại Long vương, hiện ra vô số kho châu báu nơi thế giới Tuyển trạch chư ác này. Khắp mọi nơi trong tứ thiên hạ, mỗi một thiên hạ ta đều có bảy lần thọ thân, mỗi thân hiện ra vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kho châu báu, mỗi kho báu ngang dọc đều bằng một ngàn do-tuần. Các kho tàng ấy đều có đầy vô số châu báu, cung cấp cho chúng sinh như đã nói ở trên. Như trong một thế giới này, Ta luôn thể hiện sự tinh tấn, tuần tự như vậy, ở khắp cả hằng hà sa các quốc độ không có Phật, với đời năm trược xấu ác khắp mười phương, nơi mỗi thiên hạ, mỗi một Phật độ, Ta đều bảy lần thọ thân… như đã nói ở trên. Thiện nam tử, khi Ta phát thiện nguyện như vậy thì có trăm ngàn ức chư Thiên ở trong hư không mưa vô số hoa và khen ngợi: –Lành thay! Lành thay! Ý muốn bố thí cho tất cả, nay đại vương đã được như nguyện. Thiện nam tử, khi ấy đại chúng nghe chư Thiên gọi vua Hư Không Tịnh hiệu là “Bố thí tất cả” nên cùng bảo với nhau: –Chúng ta nên đến gặp nhà vua để cầu xin vật khó cho. Nếu vua có thể cho, mới được gọi là “Bố thí tất cả”. Nếu không, sao có thể được gọi là “Bố thí tất cả”? Bấy giờ, mọi người đều đi đến gặp vua để xin phu nhân, xin thể nữ và thái tử… trong hậu cung. Nghe họ xin xong, vua Chuyển luân rất vui mừng, theo sự cầu xin mà cung cấp cho tất cả. Mọi người lại bảo nhau: –Thê tử đều dễ cho, không phải là việc khó. Nay chúng ta nên theo vua xin thân thể, tay chân… Nếu vua cho thì mới có thể được gọi là chân thật cho tất cả. Lúc ấy, mọi người đến gặp đại vương. Trong chúng đến xin này có một người trẻ tuổi tên Thanh Quang Minh, thọ trì giới luật của loài chó, đến trước Chuyển luân vương thưa: –Đại vương, nếu ngài là người bố thí cho tất cả, cúi xin ngài cho tôi cõi Diêm-phù-đề này. Ta nghe xong rất vui mừng, liền đem nước thơm tắm rửa cho người đó, cho mặc y phục mềm mại hảo hạng, làm lễ quán đảnh và cho kế thừa ngôi vị Thánh vương, rồi đem cõi Diêm-phù-đề trao cho người đó. Ta lại phát nguyện: –Như Ta đã bố thí cõi Diêm-phù-đề, do sự việc này, Ta sẽ thành Chánh giác, nguyện cầu được thành tựu, bản thân được lợi ích. Dân chúng trong cõi Diêm-phù-đề này sẽ vâng lời, tôn kính người này làm vua; lại khiến vị Chuyển luân vương ấy sống lâu vô cùng. Ta thành Chánh giác xong, sẽ thọ ký cho họ: chỉ còn một đời sẽ được thành Phật. Có Bà-la-môn tên Lư Chí đến xin Ta hai chân, nghe xong, Ta rất hoan hỷ, liền đem dao bén tự chặt hai chân cho người kia. Cho xong, Ta phát nguyện: –Nguyện vào đời sau Ta sẽ được chân là Giới vô thượng. Có Bà-la-môn tên Nha, đến xin Ta hai mắt. Nghe xong Ta rất hoan hỷ, liền móc hai mắt cho người kia. Cho xong, Ta phát nguyện: –Nguyện vào đời sau Ta sẽ được đầy đủ năm loại mắt vô thượng. Không bao lâu, có Bà-la-môn tên Tịnh Kiên Lao đến xin Ta hai tai. Nghe xong, Ta rất hoan hỷ, liền tự cắt tai cho người kia. Cho xong, Ta phát nguyện: –Nguyện đời sau Ta sẽ có được tai đầy đủ trí tuệ vô thượng. Sau đấy, có Ni-kiền Tử tên Tưởng, đến xin Ta nam căn. Nghe xong, Ta rất hoan hỷ, liền cắt cho ngay. Cho xong, Ta phát nguyện: –Nguyện Ta vào đời sau thành Chánh giác, được tướng Mã âm tàng. Lại có người đến xin máu thịt của thân Ta. Nghe xong, Ta rất hoan hỷ, liền cho ngay. Cho xong, Ta phát nguyện: –Nguyện Ta vào đời sau được đầy đủ tướng thân màu vàng ròng vô thượng. Sau đấy, có Bà-la-môn tên Mật Vị, đến xin Ta hai tay. Nghe xong, Ta rất hoan hỷ, dùng tay phải cầm dao cắt tay trái và nói: –Tay phải này Ta không thể tự cắt, khanh hãy tự cắt lấy. Cho như vậy xong, Ta phát nguyện: –Nguyện Ta vào đời sau sẽ được tay thành thật vô thượng. Thiện nam tử, cắt tay chân như vậy xong, thân thể đổ máu, Ta lại phát nguyện: –Nhân việc bố thí này, Ta chắc chắn thành Chánh giác, nguyện của Ta được thành tựu, bản thân được lợi ích thì phần thân còn lại này cũng có được người nhận nữa. Nếu không phải bậc Thánh thì không hiểu được ý nghóa này. Các vị tiểu vương và các đại thần đều bảo: –Than ôi! Phải chăng là quá ngu muội! Vì lẽ gì tự cắt thân thể, tay chân, khiến cho trong một lúc mà các chi phần nơi thân thể bị mất hết, còn lại cục thịt này thì có giá trị gì? Bấy giờ, các đại thần liền đem thân Ta ra ngoài thành, để giữa nghóa địa rồi cùng trở về. Khi ấy, có vô số ruồi muỗi đến hút máu Ta. Loài chim ưng, chồn, hổ, sói… đều đến ăn thịt Ta. Lúc ấy, mạng sống Ta chưa dứt hẳn, tâm rất hoan hỷ, Ta lại phát nguyện: –Hiện nay Ta xả bỏ tất cả tay chân và các phần thân thể của mình để bố thí, không sinh một ý niệm tức giận và hối hận. Nếu nguyện của Ta thành tựu, bản thân được lợi ích, sẽ khiến cho thân này thành núi thịt lớn, để các chúng sinh uống máu ăn thịt đến đây tùy ý ăn uống. Ta phát nguyện như vậy xong, liền có các chúng sinh cùng nhau đến ăn uống. Do diệu lực của bản nguyện, thân Ta chuyển biến cao lớn cả ngàn do-tuần, chiều ngang, dọc đều bằng năm trăm do-tuần, cung cấp máu thịt cho chúng sinh mãn ngàn năm. Ngay khi ấy, Ta xả bỏ lưỡi, giúp cho các loài hổ lang, chim ưng, chim điêu thứu… được no đủ. Do nguyện lực nên lưỡi Ta mọc lại như cũ, nếu gom lại thì lớn như núi Kỳ-xà-quật. Làm việc bố thí này xong, Ta lại nguyện: –Nguyện Ta vào đời sau được thành tựu đầy đủ tướng lưỡi dài rộng. Thiện nam tử, khi Ta qua đời ở cõi Diêm-phù-đề, do bản nguyện nên sinh vào loài rồng, làm Đại Long vương tên là Thị Hiện Bảo Tàng. Ngay đêm sinh ra, Ta hiện ra trăm ngàn ức na-do-tha vô số kho báu và tự lệnh: –Hiện nay, trong thế giới này có nhiều kho báu, ở đó gồm đầy đủ các vật báu quý lạ như kim, ngân cho đến ngọc báu ma-ni. Nghe truyền như vậy, các chúng sinh này đều tự do đến lấy các vật báu tùy ý dùng. Dùng đầy đủ xong, mọi người đều thực hành mười điều thiện, phát tâm thành Chánh giác, hoặc phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Vào thời gian ấy, Ta sinh trở lại bảy lần, làm Long vương, sống lâu bảy vạn bảy ngàn ức na-do-tha trăm ngàn năm, hiện ra vô lượng, vô biên, vô số kho báu cho các chúng sinh, khiến vô lượng, vô biên, vô số người tu học theo ba thừa, khuyên họ thực hành đầy đủ mười đường thiện đạo. Sau khi đem vô lượng châu báu cho chúng sinh được đầy đủ, Ta lại phát nguyện: –Nguyện vào đời vị lai Ta sẽ được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt. Như vậy, nơi cõi thiên hạ thứ hai, Ta cũng bảy lần sinh làm Đại Long vương như trên. Khắp nơi khắp chốn trong các thế giới, Ta đều thực hiện vô lượng lợi ích như vậy. Khắp vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương, mỗi một cõi thiên hạ, mỗi một cõi Phật, Ta cũng sinh lại bảy lần làm Đại Long vương, sống lâu bảy vạn bảy ngàn ức na-do-tha trăm ngàn năm, hiện ra vô lượng, vô biên, vô số kho báu và cũng tạo mọi lợi ích như trước. Thiện nam tử, ông nên biết, đó là khi làm Bồ-tát, Như Lai đã hết sức tinh tấn cầu nhân duyên để được ba mươi hai tướng. Thiện nam tử, sự tinh tấn của Như Lai khi hành Bồ-tát đạo, trừ tám vị trượng phu kể trên, trong đời quá khứ, hoàn toàn không ai có thể sánh kịp. Nếu quá khứ đã không có ai, nên biết rằng các Bồ-tát đời vị lai cũng không ai có thể hành động siêng năng sâu xa như Ta đã làm. Thiện nam tử, lại trải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp, thế giới này chuyển tên là San hô trì, kiếp tên Hoa thủ. Bấy giờ, vào đời năm trược không có Phật, ở đó Ta làm Thích Đề-hoàn Nhân tên Thiện Nhật Quang Minh, quan sát cõi Diêm-phù-đề thấy các chúng sinh chuyên làm việc ác, Ta liền hóa thành hình dáng Dạ-xoa đáng kinh sợ, xuống cõi Diêm-phù-đề đứng trước mọi người. Thấy Ta, mọi người đều rất sợ hãi, hỏi Ta muốn gì thì hãy nói. Ta đáp: –Chỉ cần ăn uống, chứ không cần gì khác. Họ lại hỏi: –Muốn ăn những gì? Ta đáp: –Chỉ cần giết người để ăn máu thịt. Nếu các ngươi có thể trọn đời giữ giới bất sát, cho đến chánh kiến, phát tâm thành Chánh giác, hoặc phát tâm thành Thanh văn, Duyên giác thì Ta sẽ không ăn nuốt các ngươi. Thiện nam tử, khi ấy Ta thường biến ra những hóa nhân đòi cung cấp việc ăn uống. Thấy Ta như vậy, chúng sinh càng thêm sợ hãi, nên đều thọ trì giới bất sát cho đến chánh kiến trọn đời, hoặc phát tâm thành Chánh giác, hoặc phát tâm theo Thanh văn, Bích-chi-phật thừa. Sau khi khuyên tất cả chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề tu hành mười điều thiện, trụ vào Tam thừa xong, Ta lại phát nguyện: –Nếu Ta chắc chắn thành Chánh giác, nguyện của Ta được thành tựu, bản thân được lợi ích thì Ta sẽ khuyến hóa người trong Tứ thiên hạ này làm theo mười điều thiện. Cho đến khắp trong thế giới ấy, ở bất cứ chỗ nào trong Tứ thiên hạ, Ta đều dùng tướng mạo như vậy khiến cho các chúng sinh thực hành mười điều thiện. Ta khuyến hóa khắp một thế giới như vậy phát tâm tu tập theo ba thừa xong, cho đến trong vô lượng, vô biên vô số đời năm trược xấu ác, các quốc độ không có Phật khắp mười phương cũng được như thế. Thiện nam tử, khi ấy, Ta phát nguyện xong, thành tựu tất cả, nơi thế giới San hô trì hóa làm hình dáng Dạ-xoa đáng sợ để điều phục chúng sinh, khiến họ tu tập theo mười điều thiện và trụ trong ba thừa. Như vậy, trong vô lượng, vô biên vô số đời năm trược xấu ác, nơi các quốc độ không có Phật khắp mười phương, Ta hóa làm hình dáng Dạ-xoa để điều phục chúng sinh, khiến tu hành theo mười điều thiện, trụ trong ba thừa. Thuở xưa, Ta đã dùng phương tiện khiến chúng sinh sợ hãi để họ thực hành mười điều thiện, tu tập theo ba thừa. Do nghiệp quả từ nhân duyên này nên nay Ta được ngồi bên cội cây Bồ-đề, khi sắp thành Chánh giác, còn bị Thiên ma Ba-tuần cho các chúng ma đến chỗ Ta nhằm phá hoại, làm rối loạn đạo Bồ-đề của Ta. Thiện nam tử, Ta lược thuyết về Bố thí ba-la-mật của Ta khi còn hành Đại Bồ-tát là như vậy. Thiện nam tử, pháp nhẫn của các Đại Bồ-tát rất sâu xa, Tổng trì giải thoát, Tam-muội vi diệu, lúc ấy Ta chưa được, chỉ có hai thân: ngũ thông và hữu lậu. Khi Ta làm việc lớn như vậy, khiến cho vô lượng, vô biên, vô số người an trụ nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; vô lượng, vô biên, vô số người an trụ Bích-chi-phật thừa; vô lượng, vô biên, vô số người an trụ Thanh văn thừa và lại được cúng dường chư Phật như vô số vi trần một thế giới Phật. Công đức đạt được nơi mỗi cõi Phật nhiều như những giọt nước trong biển lớn. Cúng dường vô lượng Thanh văn, Duyên giác, Sư trưởng, Cha mẹ, Thần tiên đạt năm phép thần thông cũng như thế. Xưa kia, khi làm Bồ-tát, Ta tự đem máu thịt cung cấp cho chúng sinh, tâm đại bi của Ta như vậy các A-la-hán ngày nay đều không có tâm này.  <卷 id="32807852">Phẩm 6: MÔN NHẬP ĐỊNH, TAM-MUỘI Bấy giờ, Phật dạy Đại Bồ-tát Tịch Ý: –Thiện nam tử, ngày nay, ta dùng Phật nhãn thấy chư Phật Thế Tôn đã Bát-niết-bàn trong thế giới khắp mười phương nhiều như số vi trần nơi một cõi Phật đều do xưa kia được Ta khuyến hóa khi mới bắt đầu phát tâm thành Chánh giác, thực hành Bố thí ba-la-mật, cho đến Trí tuệ Ba-la-mật; chư Phật đời vị lai cũng như vậy. Thiện nam tử, nay Ta thấy vô lượng, vô biên, vô số chư Phật Thế Tôn ở thế giới phương Đông hiện đang chuyển bánh xe chánh pháp cũng là nhờ xưa kia Ta khuyến hóa đầu tiên, khiến cho phát tâm thành Chánh giác, tu hành sáu Ba-la-mật. Chư Phật ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới cũng như vậy. Thiện nam tử, ở phương Đông, cách đây tám mươi chín ức thế giới chư Phật, có thế giới tên Thiện hoa, Đức Phật ở cõi ấy tên là Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, hiện đang thuyết pháp cho chúng sinh. Đức Phật ấy xưa kia cũng nhờ Ta khuyến hóa mới bắt đầu phát tâm thành Chánh giác, tu hành Bố thí ba-la-mật, cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Ở phương Đông lại có thế giới Diệu lạc, trong đó có Phật hiệu A-súc Như Lai. Lại có thế giới Diêm-phù, trong đó có Phật hiệu Nhật Tạng Như Lai. Lại có thế giới tên Nhạc tự tại, trong đó có Phật hiệu Nhạc Tự Tại Âm Quang Minh Như Lai. Lại có thế giới tên An lạc, trong đó có Phật hiệu Trí Nhật Như Lai. Lại có thế giới tên Thắng công đức, trong đó có Phật hiệu Long Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên Thiện tướng, trong đó có Phật hiệu Kim Cang Xưng Như Lai. Có thế giới tên Giang hải vương, trong đó có Phật hiệu Quang Minh Như Lai. Có thế giới tên Bất ái nhạc, trong đó có Phật hiệu Nhật tạng Như Lai. Có thế giới tên Ly cấu quang minh, trong đó có Phật hiệu Tự Tại Xưng Như Lai. Có thế giới tên Sơn quang minh, trong đó có Phật hiệu Bất Khả Tư Nghị Vương Như Lai. Có thế giới tên Tụ tập, trong đó có Phật hiệu Đại Công Đức Tạng Như Lai. Có thế giới tên Hoa quang minh, trong đó có Phật hiệu Quang Minh Ý Tướng Như Lai. Có thế giới tên Hòa xí thạnh, trong đó có Phật hiệu An Hòa Tự Tại Kiến Sơn Vương Như Lai. Có thế giới tên Thiện địa, trong đó có Phật hiệu Hòa Tượng Như Lai. Có thế giới tên Hoa trú, trong đó có Phật hiệu Nhãn Tịnh Vô Cấu Như Lai. Thiện nam tử, như vậy, vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chư Phật đang ở phương Đông vì các chúng sinh mà chuyển bánh xe chánh pháp. Khi các vị ấy chưa phát tâm thành Chánh giác, đầu tiên do Ta khuyến hóa khiến cho phát tâm, lại còn dẫn đường đưa họ đến khắp các trú xứ của chư Phật, Thế Tôn trong mười phương, đến chỗ nào cũng tu hành theo Bố thí ba-la-mật, cho đến Bát-nhã ba-la-mật và được thọ ký thành Chánh giác. Bấy giờ, ở phương Đông, thế giới Thiện hoa có Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương, nơi tòa Sư tử và đại địa chấn động sáu cách, có ánh sáng lớn, cùng mưa vô số hoa sen quý đẹp. Các Bồ-tát thấy việc như vậy, rất kinh ngạc vì việc chưa từng có ấy, liền bạch Phật: –Kính bạch Thế Tôn, vì sao tòa Sư tử của Như Lai chấn động như vậy? Chúng con từ xưa đến nay chưa từng thấy việc này. Phật bảo các Bồ-tát: –Thiện nam tử, về phương Tây cách đây tám mươi chín ức thế giới chư Phật, nơi quốc độ tên Ta-bà, có Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai, đang thuyết pháp Bản Duyên cho bốn bộ chúng. Khi Phật, Thế Tôn ấy làm Bồ-tát, đầu tiên khuyến hóa Ta phát tâm thành Chánh giác, lại dắt dìu Ta đến chỗ chư Phật. Trước hết, khiến cho Ta tu hành Bố thí ba-la-mật cho đến Trí tuệ Ba-la-mật. Khi ấy, tùy chỗ Ta đã đến, lần đầu tiên Ta được thọ ký thành Chánh giác. Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn kia chính là chân thiện tri thức của Ta, đang ở phương Tây thuyết kinh Bản Duyên cho bốn bộ chúng. Tòa Sư tử Ta đang ngồi bị lay động là do diệu lực từ thần túc của Đức Như Lai kia. Thiện nam tử, trong các ông, ai có thể đến thế giới Ta-bà để thưa hỏi Đức Phật kia mọi sự hành hóa có được nhẹ nhàng, an lạc hay không? Khi ấy, các Bồ-tát đều bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, các Bồ-tát ở thế giới Thiện hoa này đều được thần thông. Đối với các Bồ-tát đạt công đức tự tại thì vào sáng sớm hôm nay được thấy ánh sáng lớn này, ánh sáng đó đều từ thế giới của chư Phật đến đây. Khi ấy, đại địa liền chấn động sáu cách, mưa vô số hoa. Thấy như vậy xong, có vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Bồ-tát muốn dùng thần lực đến thế giới Ta-bà để chiêm ngưỡng Phật Thích-ca Mâu-ni cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và muốn thưa hỏi, lãnh thọ tất cả môn Đà-la-ni, nhưng đều không biết thế giới Ta-bà của Phật Thích-ca Mâu-ni ở phương nào? Đức Phật kia liền duỗi cánh tay phải sắc vàng, trên đầu năm ngón tay phóng ra vô số ánh sáng vi diệu, ánh sáng vàng đó liền chiếu đến tám mươi chín ức quốc độ chư Phật, đến thế giới Ta-bà. Bấy giờ, các Bồ-tát nhờ ánh sáng ấy nên được thấy thế giới Ta-bà với đông đảo các Đại Bồ-tát khắp nơi. Lại có chư Thiên, Long, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già… khắp trong hư không. Thấy việc như vậy xong, họ bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nay con đã được thấy thế giới kia, biết phương hướng nơi cõi ấy, thấy các đại chúng trời người đầy khắp trong đó. Đức Thích-ca Như Lai cũng nhìn thấy chúng con, Ngài đang thuyết pháp vi diệu. Đức Phật kia dạy các Bồ-tát Đại só: –Thiện nam tử, Đức Thích-ca Như Lai thường dùng Phật nhãn thanh tịnh vô thượng, thấy khắp tất cả, không sót một nơi nào. Thiện nam tử, chúng sinh ở thế giới Ta-bà, trên đất liền hay trong hư không, tất cả đều nói: “Đức Thích-ca Như Lai chỉ thấy riêng tâm của con, chỉ thuyết pháp cho con”. Thiện nam tử, Đức Thích-ca Như Lai kia dùng một âm thanh thuyết pháp cho vô số loài khác nhau. Chúng sinh tùy theo căn cơ của mỗi loài mà được lãnh hội, không phải dùng nhiều âm thanh khác nhau thuyết giảng cho nhiều loài. Chúng sinh nơi cõi kia nếu thờ Phạm thiên, thấy thân Như Lai giống như Phạm thiên và được nghe pháp. Nếu thờ Ma thiên, Thích thiên, Nhật Nguyệt, Tỳ-sa-môn thiên, Tỳ-lâu-la-xoa, Tỳ-lâu-bát-xoa, Đề-đầu-lại-tra, Ma-hê-thu-la,… tám vạn bốn ngàn các loại như vậy, tùy theo sự thờ phụng của mình đều thấy hình tượng đó và được nghe pháp, sinh ý tưởng cho rằng đã giảng nói riêng cho mình. Bấy giờ trong hội có hai vị Bồ-tát: Vị thứ nhất tên La Hầu Điện, vị thứ hai tên Hỏa Quang Minh. Khi ấy, Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương bảo hai Bồ-tát: –Thiện nam tử, nay các ông có thể đến thế giới Ta-bà, nhân danh Ta, thưa hỏi Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn: “Mọi sự hành hóa của Ngài có được nhẹ nhàng, lợi lạc chăng? Khí lực có được an ổn không?”. Hai Bồ-tát liền bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, con thấy tất cả thế giới của Phật ấy, đại chúng vân tập đầy kín khắp trên đất và trong hư không, không còn một khoảng trống. Nếu chúng con đi đến, sẽ đứng chỗ nào? Phật bảo: –Này các Thiện nam tử, đừng nói rằng thế giới kia không có chỗ đứng. Vì sao? Vì nơi đó rộng rãi vô biên. Đức Phật ấy có công đức vô lượng, không thể nghó bàn. Do bản nguyện và tâm bi rộng lớn nên khiến cho vô lượng các loài chúng sinh được vào pháp Phật lãnh thọ ba quy y, sau đó thuyết pháp ba thừa cho họ. Ngài lại thuyết ba loại giới luật, chỉ bày ba cửa giải thoát, lại độ vô lượng, vô biên chúng sinh thoát ba đường ác, an trụ trong ba đường toàn thiện. Thiện nam tử, vào lúc nọ, sau khi Đức Thích-ca Như Lai vừa thành đạo chưa bao lâu, vì muốn điều phục các chúng sinh nên Ngài ngồi kiết già trên tòa, trong hang Nhân đài sa-la, núi Tỳ-đà, suốt bảy ngày bảy đêm nhập Tam-muội Chánh thọ, hưởng pháp lạc. Bấy giờ, thân Phật đầy khắp hang này, không có chỗ trống, dù chỉ bằng bốn tấc. Qua bảy ngày, trong mười phương thế giới có mười hai na-do-tha Đại Bồ-tát đến thế giới Ta-bà đứng ở triền núi kia muốn được thấy Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, thưa thỉnh lãnh thọ diệu pháp. Thiện nam tử, bấy giờ ngay nơi chỗ ở, Đức Như Lai dùng đại thần túc khiến cho hang đó rộng rãi thênh thang, chứa được tất cả mười hai na-do-tha Đại Bồ-tát. Các Bồ-tát vào bên trong đều thấy hang rộng rãi trang nghiêm, có các Bồ-tát đem thần túc Sư tử du hý tự tại để cúng dường Phật. Mỗi vị Bồ-tát đều ngồi nghe pháp nơi bảo tọa do Phật hóa hiện. Thiện nam tử, với thần lực của Đức Phật kia như vậy, các Bồ-tát này được nghe pháp xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, đem đầu mặt đảnh lễ Phật, nhiễu bên phải ba vòng, mỗi người tự trở về thế giới Phật của chính mình. Họ vừa đi khỏi, hang ấy liền trở lại như cũ. Thích Đề-hoàn Nhân, chủ cõi trời thứ hai của bốn cõi thiên hạ, tên Kiều-thi-ca sắp qua đời và chắc chắn sẽ bị đọa trong đường súc sinh. Rất sợ hãi về việc này, Kiều-thi-ca cùng tám vạn bốn ngàn vị nơi cõi trời Đao-lợi cùng nhau đi đến hang Nhân đài sa-la để gặp Như Lai. Dạ-xoa Vương Nhãn, là thần của hang đó, đang đứng ở bên ngoài. Nhờ Phật lực nên Đế Thích suy nghó: “Ta sẽ sai Càn-thát-bà Tử là Bát-giá-tuần đến gặp Phật trước, dùng âm thanh vi diệu khen ngợi Đức Như Lai, sẽ khiến cho Thế Tôn ra khỏi định”. Thiện nam tử, Thích Đề-hoàn Nhân suy nghó như vậy xong, liền sai Càn-thát-bà Tử là Bát-giá-tuần khảy đàn cầm lưu ly, âm thanh ấy vi diệu, đặc biệt khác lạ, phát ra năm trăm điều khen ngợi Như Lai. Thiện nam tử, khi Bát-giá-tuần đang tán thán Phật thì Như Lai lại chuyển nhập vào trong Tướng tam-muội. Do diệu lực của tam-muội, thế giới này tạo ra đại thần lực khiến các Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc đều đến tập họp. Người nào ưa nghe âm thanh vi diệu, tùy ý được nghe và rất hoan hỷ. Người nào ưa nghe lời tán thán Phật, nghe tán thán xong cũng rất hoan hỷ, đều đối với Như Lai phát tâm cung kính tôn trọng. Chúng sinh nào ưa nghe âm nhạc liền được nghe, nghe xong đều hoan hỷ. Lúc đó, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai xuất định. Các đại chúng đứng ở cửa hang Sa-la, riêng Thích Đề-hoàn Nhân đến gặp Phật, đảnh lễ sát chân, lui đứng qua một bên, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay con sẽ ngồi nơi nào? Phật bảo: –Kiều-thi-ca, quyến thuộc của ông nên tập họp vào hết. Ta sẽ khiến cho hang Nhân đài sa-la này hết sức rộng rãi để dung nạp tất cả mười hai hằng hà sa số đại chúng quyến thuộc này đều được an tọa. Bấy giờ, giữa đại chúng, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai dùng một âm thanh vi diệu diễn thuyết chánh pháp, khiến cho tám vạn bốn ngàn chúng sinh với căn cơ khác nhau đều ưa thích nghe giảng. Trong chúng, những người nào học Thanh văn thì được nghe pháp Thanh văn và có chín mươi chín ức chúng sinh được quả Tu-đà-hoàn. Những người nào tu học Duyên giác thừa thì được nghe pháp Duyên giác thừa. Những người nào tu học pháp Đại thừa thì thuần nghe Đại thừa. Đại chúng do Càn-thát-bà Tử Bát-giá-tuần dẫn, đều có mười tám na-do-tha vị được bất thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người nào chưa phát tâm thì phát tâm Vô thượng Bồ-đề, hoặc phát tâm Duyên giác, hoăïc phát tâm Thanh văn. Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân hết sợ hãi, sống thêm một ngàn tuổi, được quả Tu-đà-hoàn. Thiện nam tử, Đức Thích-ca Như Lai với thần lực có thể tạo nên các sự việc rộng lớn vô lượng, vô biên như vậy; âm thanh thuyết pháp cũng như thế, không một người nào lường được giới hạn nơi âm thanh của Phật ấy. Phương tiện của Đức Phật ấy là vô lượng, vô biên để giáo hóa chúng sinh, không ai có thể biết được hết phương tiện như vậy. Thiện nam tử, sắc thân của Đức Phật kia cũng vô lượng, vô biên, không người nào có được thân như Ngài và thấy được đảnh của Ngài. Thiện nam tử, nếu cả đại chúng muốn vào trong bụng Phật thì cũng đều được tiếp nhận. Đã vào bụng rồi, người nào muốn có một chỗ trống thêm nữa ở trong bụng cũng không thể có, vậy mà bụng của Như Lai vẫn không tăng giảm. Nếu có các loại chúng sinh cùng nhau muốn qua lại trong một sợi lông, đều không bị trở ngại, cho đến dùng Thiên nhãn cũng không thể thấy được bờ mé của lỗ chân lông, nhưng lỗ chân lông của Ngài cũng không thêm hay bớt. Đức Phật Thế Tôn kia có thân lớn vô lượng, vô biên đến như vậy. Thiện nam tử, thế giới của Đức Phật kia cũng rộng lớn vô lượng, vô biên. Thiện nam tử, giả sử chúng sinh nơi các thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương thì thế giới kia cũng dung nạp được hết. Vì sao? Vì ban đầu khi mới phát tâm thành Chánh giác, Đức Phật kia đã phát vô lượng, vô biên thệ nguyện. Thiện nam tử, không những chỉ là chúng sinh trong các thế giới nhiều như số cát nơi một sông Hằng, mà chúng sinh nơi các thế giới nhiều như số cát một ngàn sông Hằng trong mười phương thì thế giới kia cũng dung nạp được mà hình tướng của thế giới ấy vẫn như cũ, không thêm không bớt. Thiện nam tử, Đức Thích-ca Như Lai khi mới phát tâm thành Chánh giác, muốn được đầy đủ Nhất thiết trí nên Ngài phát đại thệ nguyện, do đó ngày nay được thế giới vô lượng, vô biên. Thiện nam tử, Đức Thích-ca Mâu-ni dùng bốn pháp này, chư Phật Thế Tôn không thể sánh kịp. Thiện nam tử, nay ông đem hoa Nguyệt quang minh vô cấu tịnh này đến thế giới Ta-bà ở phương Tây như đã thấy và nhân danh Ta thưa hỏi Phật: “Mọi sự hành hóa có được nhẹ nhàng, lợi lạc; sức khỏe có được an ổn không?”. Bấy giờ, Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương lấy hoa Nguyệt quang minh vô cấu tịnh trao cho hai Bồ-tát và bảo: –Các ông hãy nương nơi diệu lực từ đại thần thông của Ta mà đi đến thế giới kia. Khi ấy, trong chúng hội có hai vạn Bồ-tát bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Chúng con sẽ nương nơi thần lực của Phật đi đến thế giới kia để chiêm ngưỡng Đức Thích-ca Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Phật bảo: –Thiện nam tử, các ông nên biết đúng thời. Khi ấy, hai Bồ-tát cùng hai vạn Đại só nương theo thần lực của Phật, trong khoảng một niệm, từ cõi Thiện hoa tức thì hiện đến núi Kỳ-xà-quật ở thế giới Ta-bà, tới trước Như Lai, quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, về phương Đông cách đây tám mươi chín ức thế giới Phật, có thế giới tên Thiện hoa, trong đó có Phật hiệu Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương, hiện đang có vô số đại chúng Bồ-tát vây quanh, khen ngợi vô lượng công đức của Thế Tôn. Đức Phật kia nói: “Thế giới Ta-bà có Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai, đang vì đại chúng chuyển bánh xe chánh pháp. Khi làm Bồ-tát, Đức Phật, Thế Tôn ấy đã khuyên Ta phát tâm Bồ-đề đầu tiên. Do đó, khi ấy Ta liền được phát tâm Vô thượng đạo. Ta phát tâm xong, Ngài lại khuyên ta tu tập sáu Ba-la-mật, cho đến việc Như Lai dùng bốn pháp này mà chư Phật, Thế Tôn không thể sánh kịp”. Vì vậy, Đức Phật kia đã sai chúng con đem hoa Nguyệt quang minh vô cấu tịnh này cúng dường Đức Thế Tôn, thưa hỏi Đức Như Lai: Mọi sự hành hóa có được nhẹ nhàng lợi lạc, khí lực luôn được an ổn chăng? Thiện nam tử, thế giới Diệu lạc ở phương Đông có Đức A-súc Như Lai, tòa Sư tử nơi Ngài ngồi cũng chấn động sáu cách. Có vô lượng các đại chúng Bồ-tát thấy việc này xong, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, vì sao tòa Sư tử của Như Lai đang ngồi lại chấn động như vậy? Như đã nói ở trên, tất cả chư Phật nơi phương Đông cũng như vậy. Bấy giờ, vô lượng, vô biên, vô số các Đại Bồ-tát ở phương Đông đều đến thế giới Ta-bà này, dâng hoa Nguyệt quang minh vô cấu tịnh, chiêm ngưỡng Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng khen ngợi. Thiện nam tử, vô lượng chư Phật ở phương Đông cũng như vậy, đều sai các Bồ-tát đến khen ngợi Ta. Thiện nam tử, Ta đang thấy: về phương Nam, cách thế giới này trải qua một hằng hà sa quốc độ của chư Phật, ở đó có thế giới tên Ly chư ưu, trong đó có Phật hiệu Vô Ưu Công Đức Như Lai hiện đang thuyết pháp. Lại có thế giới tên Diêm-phù quang minh, trong đó có Phật hiệu Pháp Tự Tại Sư Tử Du Hý Như Lai. Lại có thế giới tên An tu-di, trong đó có Phật hiệu Đạo Tự Tại Ta-la Vương Như Lai. Lại có thế giới tên Công đức lâu vương, trong đó có Phật hiệu Sư Tử Hống Vương Như Lai. Lại có thế giới tên Trân bảo trang nghiêm, trong đó có Phật hiệu Bát Tý Thắng Lôi Như Lai. Lại có thế giới tên Chân châu quang minh biến chiếu, trong đó có Phật hiệu Trân Bảo Tạng Công Đức Hống Như Lai. Lại có thế giới tên Thiên nguyệt, trong đó có Phật hiệu Hỏa Tạng Như Lai. Lại có thế giới tên Chiên-đàn căn, trong đó có Phật hiệu Tinh Tú Xưng Như Lai. Lại có thế giới tên Xưng hương, trong đó có Phật hiệu Công Đức Lực Ta-la Vương Như Lai. Lại có thế giới tên Thiện thích, trong đó có Phật hiệu Diệu Âm Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên Đầu lan-nhã, trong đó có Phật hiệu Ta-la Thắng Tỳ Bà Vương Như Lai. Lại có thế giới tên Nguyệt tự tại, trong đó có Phật hiệu Quang Minh Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên Thiện lôi âm, trong đó có Phật hiệu Diệu Âm Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên Bảo hòa hiệp, trong đó có Phật hiệu Bảo Chưởng Long Vương Như Lai. Lại có thế giới tên Thùy bảo thọ, trong đó có Phật hiệu Vũ Âm Tự Tại Pháp Nguyệt Quang Minh Như Lai. Như vậy, vô lượng, vô biên, vô số chư Phật hiện tại ở phương Nam đều là những vị xưa kia khi còn là Bồ-tát, Ta đã khuyến hóa họ mới được phát tâm Bồ-đề. Tòa Sư tử của các Thế Tôn này cũng đều bị chấn động. Chư Phật kia cũng đều khen ngợi công đức Ta, cũng sai vô lượng, vô biên, vô số các Đại Bồ-tát đem hoa Nguyệt quang minh vô cấu tịnh đến núi Kỳ-xà-quật, nơi thế giới Ta-bà để chiêm ngưỡng Phật, lễ bái, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, thứ lớp rồi lui ngồi qua một bên nghe pháp. Thiện nam tử, nay Ta lại thấy về phương Tây, cách đây bảy vạn bảy ngàn trăm ngàn do-tuần thế giới Phật, ở đó có thế giới tên Tịch tónh, trong đó có Phật hiệu Bảo Sơn, hiện đang thuyết pháp vi diệu cho bốn chúng. Lại có Phật Thắng Quang Vô Ưu, Phật Âm Trí Tạng, Phật Xưng Quảng, Phật Biến Tạng, Phật Phạm Hoa, Phật Thế Tấn, Phật Pháp Đăng Dõng, Phật Thắng Âm Sơn, Phật Xưng Âm Vương, Phật Phạm Âm Vương. Như vậy, vô lượng, vô biên, vô số chư Phật, Thế Tôn ở phương Tây đều là những vị xưa kia khi còn là Bồ-tát, Ta đã khuyến hóa cho, họ mới được phát tâm Bồ-đề. Tòa Sư tử của các Thế Tôn này cũng đều chấn động. Chư Phật kia cũng đều tán thán công đức của Ta và sai vô lượng, vô biên vô số các Đại Bồ-tát đem hoa báu Nguyệt quang minh vô cấu tịnh đồng đến núi Kỳ-xà-quật, nơi thế giới Ta-bà này để chiêm ngưỡng Phật, lễ bái, cúng dường, cung kính tôn trọng, ngợi khen, thứ lớp lui ngồi qua một bên nghe pháp. Phương Đông bắc, cách đây trăm ngàn na-do-tha thế giới Phật, ở đó có thế giới tên Vô cấu, trong đó có Phật hiệu Ly Nhiệt Não Tăng Tỳ-sa-môn Ta-la Vương Như Lai, có hai Bồ-tát: Vị thứ nhất tên Bảo Sơn, vị thứ hai tên Quang Minh Quán. Lại có Phật Hoại Chư Ma, Phật Ta La Vương, Phật Đại Lực Quang Minh, Phật Liên Hoa Tăng, Phật Chiên-đàn, Phật Di Lâu Vương, Phật Kiên Trầm Thủy, Phật Hỏa Trí Đại Lực… vô lượng chư Phật Như Lai như vậy, cho đến phương Bắc, bốn phía, trên dưới cũng đều như thế. Khi ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai dùng đại thần lực vì muốn dung nạp đại chúng, khiến cho thân của tất cả những vị đến dự họp biến nhỏ như hạt cải, đầy kín hư không và mặt đất, khắp thế giới Ta-bà không còn một khoảng trống dù như sợi lông. Bấy giờ, các chúng sinh không thấy nhau, lại cũng không thấy các núi Tu-di sơn vương lớn nhỏ, chỗ tối tăm giữa hai núi Đại tiểu Thiết vi vây quanh, trên đến cung điện chư Thiên, dưới đến nền Kim cang, chỉ trừ một mình Phật, Thế Tôn. Lúc ấy, Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai lại nhập tam-muội Biến hư không đoạn chư pháp định ý, khiến cho vô lượng hoa Nguyệt quang tịnh đều nhập vào các lỗ chân lông trên toàn thân. Tất cả đại chúng đều được thấy. Bấy giờ, chúng sinh đều không nhớ đây là sắc thân của Phật, mà chỉ thấy có vườn đẹp trong lỗ chân lông, nơi vườn đẹp đó có các cây báu, cây đó lại có vô số cành lá, hoa quả sum suê, trang trí bằng vô số y báu, cờ phướn lọng trời, mão trời quý đẹp, ngọc trân châu, chuỗi báu anh lạc, giống như thế giới An lạc ở phương Tây. Thấy xong, đại chúng lại suy nghó: “Ta nên đến vườn kia dạo xem”. Lúc ấy, chỉ trừ chúng sinh trong ba đường ác và cõi trời Vô sắc, ngoài ra tất cả đại chúng đang có mặt đều theo lỗ chân lông vào ngồi nơi từng khu vườn trong thân Như Lai. Khi Như Lai xả bỏ thần túc, đại chúng đều được thấy trở lại tướng trạng như cũ, nên bảo với nhau: –Như Lai đang ở nơi nào? Lúc ấy, Bồ-tát Di-lặc bảo đại chúng: –Các ông nên biết, ta cùng các ông đều đang ở trong thân của Như Lai. Khi thấy hết cả trong, ngoài thân Như Lai, đại chúng này mới biết cùng vô lượng đại chúng khác đang tập trung trong thân Như Lai, nên bảo nhau: –Chúng ta vào đây bằng chỗ nào? Ai dẫn đường cho chúng ta vào được trong này? Bồ-tát Di-lặc lại bảo: –Lắng nghe, lắng nghe! Như Lai đang hiện bày diệu lực đại thần thông biến hóa, vì tạo lợi ích cho đại chúng nên Ngài sắp thuyết pháp. Quý vị hãy nhất tâm ghi nhớ. Nghe như vậy, đại chúng đều quỳ thẳng, chắp tay vâng theo lời dạy để nghe. Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng tất cả pháp môn để diễn thuyết diệu pháp. Tất cả pháp môn là những gì? Ra khỏi bùn nhơ sinh tử, vào Bát thánh đạo, được thành tựu đầy đủ Nhất thiết trí. Thiện nam tử, có mười tâm chuyên cần phát Bồ-đề để có thể vào môn này. Những gì là mười? Muốn khiến cho chúng sinh đều được giải thoát, tùy hỷ hồi hướng. Phát tâm đại bi giúp đỡ chúng sinh. Nhằm hóa độ người chưa được độ. Tinh tấn sửa sang thuyền pháp vô thượng. Muốn giải thích cho người chưa được hiểu, giúp họ quán sát đúng đắn thoát khỏi điên đảo, vọng tưởng. Muốn rống tiếng Sư tử vô sở úy trang nghiêm để quán tánh các pháp vô ngã. Muốn đi đến bất kỳ thế giới nào, tâm vẫn không phân biệt. Học trọn vẹn các pháp đồng với mười ví dụ. Muốn được thế giới quang minh trang nghiêm, sửa sang giới pháp khiến cho thanh tịnh. Thành tựu trang nghiêm mười lực của Như Lai, đầy đủ tất cả Ba-la-mật. Thành tựu trang nghiêm bốn Vô sở úy, làm đúng như đã nói. Trang nghiêm mười tám pháp bất cộng, pháp đã được nghe đều không bị sót mất, không phóng dật. Đó gọi là mười pháp chuyên tâm, phát Vô thượng Bồ-đề thì có thể vào tất cả hành môn này, được bất thoái nơi đạo quả Vô thượng Bồ-đề, hành môn Vô tướng, hành môn Trí đạo, tất cả pháp không có ngã, tâm không tư duy, không sinh, không diệt. Đây gọi là địa Bất thoái chuyển của Bồ-tát. Do vậy, nên chẳng phải thoái, chẳng phải bất thoái, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải định, chẳng phải loạn. Khi Phật thuyết pháp này, tám mươi ức hằng hà sa Đại Bồ-tát đang ở trong bụng của Như Lai được pháp Bất thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh giác. Lại có vô số Đại Bồ-tát được các pháp Nhẫn tam-muội thâm diệu, đều từ lỗ chân lông nơi thân Như Lai ra ngoài, rất kinh ngạc, tán thán việc chưa từng có, liền đến ngay trước Phật, đầu mặt sát đất kính lạy Phật. Lạy xong, bỗng nhiên họ đều tự trở về thế giới Phật của chính mình ở mười phương, nghe lại âm thanh của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã diễn thuyết, cách vô lượng, vô biên, vô số thế giới chư Phật trong mười phương mà không bị các chướng ngại. Tuy trở về cõi kia, các Bồ-tát này đã tiếp thu lời Như Lai giảng dạy với câu văn, ý nghóa không hề giảm bớt, như nghe ở gần bên hay ở trước Phật. Thân cũng như vậy, đầy khắp vô lượng các thế giới trong mười phương, có vô lượng, vô biên, vô số Thanh văn, Bồ-tát ra vào lỗ chân lông thứ nhất không bị trở ngại. Đại chúng ở lỗ chân lông thứ hai cũng vậy và tuần tự như thế cho đến tất cả các lỗ chân lông khác, đại chúng cũng ra vào không trở ngại. Khắp mười phương thế giới cũng như vậy. Bấy giờ đại chúng từ lỗ chân lông của Đức Thích-ca Như Lai đi ra đều cúi đầu lạy Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng, đứng trước Phật, dùng vô số âm thanh tán thán Phật. Lúc ấy, chư Thiên Dục giới, Sắc giới mưa vô số hoa, hương bột, hương thoa, cờ phướn, anh lạc, âm nhạc vi diệu cúng dường Như Lai. Khi ấy, trong hội có một Bồ-tát tên Vô Úy Đẳng Địa, ở trước Phật quỳ thẳng, chắp tay bạch: –Bạch Đức Thế Tôn, kinh lớn này sẽ đặt tên là gì? Phụng trì như thế nào? Phật dạy Bồ-tát Vô Úy Đẳng Địa: –Kinh này nên đặt tên là Giải liễu nhất thiết Đà-la-ni môn (Thấu triệt tất cả môn Đà-la-ni), cũng gọi là Vô lượng Phật, cũng gọi là Đại chúng, cũng gọi là Thọ Bồ-tát ký (Thọ ký cho Bồ-tát), cũng gọi là Tứ vô sở úy xuất hiện ư thế (Bốn Vô sở úy xuất hiện ở đời), cũng gọi là Nhất thiết chư tam-muội môn (Tất cả các môn Tam-muội), cũng gọi là Thị hiện chư Phật thế giới (Thị hiện thế giới của chư Phật), cũng gọi là Do như đại hải (Giống như biển lớn), cũng gọi là Vô lượng, cũng gọi là Đại bi Liên hoa (Hoa sen Đại bi). Đại Bồ-tát Vô Úy Đẳng Địa lại bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng thông suốt kinh này, giảng thuyết cho người khác, cho đến chỉ một bài kệ, thì được bao nhiêu phước đức? Phật bảo Bồ-tát Vô Úy Đẳng Địa: –Trước đây Ta đã nói về phước đức đạt được, nay Ta sẽ vì ông lược nói lại việc đó: Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này, đọc tụng thông suốt, giảng nói cho người khác, dù chỉ một bài kệ, trong năm mươi năm sau, cho đến có thể biên chép một bài kệ thì công đức đạt được hơn các Bồ-tát hành hóa sáu Ba-la-mật trong mười đại kiếp. Vì sao? Vì chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Dạ-xoa, La-sát, Rồng, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Câu-biện-trà, Ngạ quỷ, Tỳ-xá-gia, Nhân và Phi nhân nào có tâm sân giận, nghe kinh này xong liền được hoan hỷ, dịu dàng, thanh tịnh… xa lìa các bệnh phẫn nộ, oán hận, các sự tranh giành; tiêu diệt tất cả các tai họa của bão tố, lụt lội; người bệnh được lành, đói khát được ăn no, thọ hưởng các sự an lạc, cùng được hòa thuận, có thể làm cho người sân giận được nhẫn nhục, người sợ hãi không còn sợ hãi, cảm nhận sự an vui, khiến cho người có phiền não xa lìa phiền não, có thể giúp cho tất cả căn lành tăng trưởng, cứu độ chúng sinh ra khỏi cảnh giới ác, chỉ dẫn rõ về con đường giải thoát của ba thừa, được pháp Nhẫn tam-muội đà-la-ni môn thâm diệu, làm lợi ích lớn cho chúng sinh, có thể ngồi tòa Kim cang nơi Bồ-đề đạo tràng, phá trừ bốn loại ma, chỉ dạy tất cả pháp trợ Bồ-đề, chuyển pháp luân, khiến cho người không có Thánh tài được đầy đủ, khiến cho vô lượng, vô biên chúng sinh được vào thành trì dứt mọi sợ hãi. Do nhân duyên có thể thọ trì, đọc tụng thông suốt kinh này và nói lại cho người khác, dù chỉ một bài kệ, cho đến trong năm mươi năm cuối cùng vào thời mạt thế mà người nào có thể biên chép một bài kệ thì cũng được vô lượng, vô biên phước đức. Do đó, Ta thuyết giảng kinh này và kinh lớn này sẽ phó chúc cho ai? Ai là người có thể ở trong năm mươi năm cuối vào đời mạt thế hộ trì pháp này? Ai là người có thể tuyên thuyết kinh này cho các Bồ-tát Bất thoái ở khắp mọi nơi được nghe? Lại nữa, ai là người có thể vì những người làm việc phi pháp, tham dục, tà kiến, ác kiến không tin quả báo thiện ác, mà diễn giải giáo pháp này? Khi ấy, đại chúng đều biết tâm của Phật, có một Đại tiên Dạ-xoa tên Vô Oán Phất Túc đang ngồi giữa chúng, Đại Bồ-tát Di-lặc liền rời chỗ ngồi đứng dậy, đưa vị Dạ-xoa này đến gặp Phật. Như Lai bảo Đại tiên Dạ-xoa: –Ông sẽ nhận kinh này, cho đến trong năm mươi năm cuối thời mạt thế, vì hàng Bồ-tát Bất thoái cho đến người không tin quả báo thiện ác mà diễn thuyết giáo pháp này. Bấy giờ Dạ-xoa bạch Phật: –Thời quá khứ, trong tám mươi bốn đại kiếp, do bản nguyện nên con làm Tiên Dạ-xoa, tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, con giáo hóa vô lượng, vô biên, vô số người tu tập theo Tứ vô lượng tâm. Lại khiến cho vô lượng, vô biên chúng sinh được bất thoái chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Kính bạch Đức Thế Tôn, nay con sẽ vì tất cả chúng sinh đời vị lai trong năm mươi năm cuối cùng mà làm người ủng hộ những ai thọ trì kinh này, cho đến chỉ được nghe bài kệ bốn câu do người khác nói lại cũng đều đọc tụng thông suốt; lưu truyền khắp mọi người, khiến không bị đoạn tuyệt. Phật nói kinh này xong, Bồ-tát Tịch Ý, đại chúng chư Thiên, Càn-thát-bà, Nhân, Phi nhân… đều rất vui mừng, cúi đầu làm lễ, rời tòa, lui ra. <節>LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH <節>TẬP 10 <節>BỘ BẢN DUYÊN <節>1 <大>卐 <節>Tổng giám tu: Thích Tịnh Hạnh <節>Ban thực hiện: <節>- Ban dịch thuật <節>- Ban biên tập <節>- Ban nhuận văn <節>- Tổng biên tập <節>- Các tổ vi tính v.v… NƠI XUẤT BẢN VÀ PHÁT HÀNH LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH ~~~卐~~~ I. Địa chỉ liên lạc: Xin gởi về hộp thư: * GIẢNG ĐƯỜNG LINH SƠN P.O. BOX 8-264, Taipei – Taiwan, 100, R.O.C Hoặc địa chỉ: * THÍCH TỊNH HẠNH 7F. 21, Sec.1, Chung – Hsiao, W.Road, Taipei-Taiwan, 100, R.O.C TEL: 886-2-2381-4434 / 2361-3015 / 2361-3016; FAX: 886-2-2314-1049 E-Mail:linhson@linhson.org.tw Web site: www.linhson.org.tw II. Địa chỉ ủng hộ dịch Kinh hoặc thỉnh Kinh: Ủng hộ dịch và in Đại Tạng Kinh hoặc thỉnh Kinh, dùng ngân phiếu hay chuyển băng, xin gởi về địa chỉ dưới đây: * Dùng CHECK hoặc MONEY ORDER, Xin đề: LI KUANG LIEN, gởi theo hộp thư: P.O. BOX 8-264, Taipei – Taiwan, 100, R.O.C * Nếu gởi ngân khoản xin đề: CITIBANK, N.A., NO.117,2F, SEC.3, MIN-SHENG E. ROAD, TAIPEI-TAIWAN, R.O.C ACCOUNT NUMBER: 51362724 BENEFICIARY: LI KUANG LIEN * Nếu Quý vị nào muốn trực tiếp gởi vào ngân khoản tại Hoa Kỳ xin đề: LI KUANG LIEN BANK OF AMERICA N. BRANCH: 2177 N. ACCOUNT: 21774-09981 - Mỗi một ngân phiếu, ngân hàng sẽ trừ chi phí thủ tục là 10.00 USD - Xin Quý vị đề rõ ngân phiếu tên người lãnh là: LI KUANG LIEN - Trên ngân phiếu xin Quý vị viết cẩn thận, ngân hàng không chấp nhậ ngân phiếu đã bị bôi xóa. * Xin Quý vị chú ý: Nếu số ngân khoản trong ngân hàng đã chuyển tiền rồi, xin Quý vị đem giấy làm thủ tục ở ngân hàng có đề số tiền gởi tên người và địa chỉ, đánh Fax hoặc E-mail đến địa chỉ liên lạc trên, để nhận được giấy cảm tạ hoặc biên nhận, cũng như để tiện ghi vào sổ công đức và liên lạc, chứ ngân hàng không cho biết chi tiết. <大>卐 Sa môn THÍCH TỊNH HẠNH Mẫu bìa mạ vàng: Nguyễn Đồng (California) <釋 n="1">1. Một lối đánh bạc ngày xưa.