<經 id="n156">KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN Hán dịch: Mất tên người dịch – xếp vào bản Lục đời Hậu Hán. <卷 id="32807800">QUYỂN 1 <卷 id="32807801">Phẩm 1: Mở Đầu Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật ở tại thành Vương xá, trong núi Kỳ-xà-quật, cùng với các vị Đại Tỳ-kheo, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ làm đã xong, phạm hạnh đã lập, không còn phải chịu luân hồi sinh tử, tâm được tự tại cũng như đại định. Các vị ấy tên là Ma-ha Ca-diếp, Tu-bồ-đề, Kiều-trần-như, Ly-việt-đa-ha-đa, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử, Tất-lăng-già-bà-ta, Xá-lợi-phất, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nan, La-hầu-la…, là những người mà đại chúng đều đã quen biết. Bồ-tát Ma-ha-tát, có ba vạn tám ngàn người, đều là những bậc từ lâu đã vun trồng gốc đức; đã từng ở nơi vô lượng trăm ngàn muôn ức chư Phật, thường tu phạm hạnh, thành tựu đại nguyện, thông suốt tất cả trăm ngàn môn thiền định, đà-la-ni, thường đem lòng đại bi, tùy thuận làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, tiếp nối khiến cho ngôi Tam bảo luôn được hưng thịnh, không hề bị đoạn tuyệt, hay dựng cờ pháp, vì các chúng sinh, làm người bạn không mời mà tự đến để giáo hóa dẫn dắt; đã tới được bờ đại trí, tiếng tăm đồn khắp. Tên các bậc ấy là Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Diệu Đức, Bồ-tát Diệu Âm, Bồ-tát Điện Quang, Bồ-tát Phổ Bình, Bồ-tát Đức Thủ, Bồ-tát Tu-di Vương, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Đại Hương Tượng, Bồ-tát Trì Thế, Bồ-tát Việt Tam Giới, Bồ-tát Thường Bi, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Chí Quang Anh, Bồ-tát Viêm Xí Diệu, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Đại Lực, Bồ-tát Vô Lượng Tuệ, Bồ-tát Bạt-đà-hòa, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Sư Tử Tác, Bồ-tát Sư Tử Phấn Tấn, Bồ-tát Mãn Nguyện, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Di-lăïc, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử… cùng với trăm ngàn quyến thuộc hội đủ. Lại có vô lượng trăm ngàn các Thiên tử nơi Dục giới, mỗi người cùng với các quyến thuộc của họ, đều mang hương hoa vi diệu và trổi âm nhạc cõi trời, để cúng dường Phật. Tất cả các chư Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân…, mỗi bộ chúng cùng với trăm ngàn quyến thuộc đều lễ sát xuống chân Phật, rồi lui ra ngồi về một phía. Bấy giờ, đại chúng đều vây quanh Đức Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Một buổi sáng nọ, Tôn giả A-nan nương nơi thần lực Phật, vào thành Vương xá, theo thứ tự khất thực. Lúc ấy, ở trong thành, có một người con Bà-la-môn, rất hiếu dưỡng đối với cha mẹ, người con đó lại gặp lúc cảnh nhà suy sút, gia tài khánh kiệt, nên phải dắt mẹ già, cũng theo thứ tự xin ăn để nuôi mẹ. Nếu được thức ăn ngon, hoa quả tươi tốt, liền đem dâng cho mẹ, còn khi được những thức ăn không ngon, hay hoa quả khô héo thì mình ăn. Tôn giả A-nan thấy vậy, lòng sinh vui mừng, khen ngợi người con ấy: –Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện nam tử, cúng dâng cho cha mẹ, rất là hiếm có, thực khó ai sánh kịp. Có một kẻ Phạm chí, là đồ đảng của đám Lục sư, người ấy vốn rất thông biện; thấu suốt cả bốn bộ sách Vi-đà, biết được thời tiết, số mạng, bói toán, biết xem tướng tốt xấu, âm dương biến đổi, đoán trước được nhân tâm của mọi người và cũng là bậc thầy dẫn dắt nhiều người (đồ đảng của đám Lục sư), được họ tôn kính, vì cầu lợi dưỡng, nên thường chấp trước tà luận, hủy diệt chánh pháp, luôn mang lòng ganh ghét, hủy báng Phật, Pháp, chúng Tăng. Kẻ Phạm chí ấy bảo Tôn giả A-nan: –Thầy của ông là Cù-đàm và những người trong dòng họ Thích tự nói là hay, là tốt, có những công đức lớn lao, chẳng qua cũng chỉ có danh, không có thực. Thầy Cù-đàm của ông rõ đúng là người bạc phúc, nếu không như vậy, thì tại sao mẹ của ông vừa mới sinh ra ông ta được bảy ngày đã chết, để ông ta phải côi cút, như thế chẳng phải là người bạc phúc là gì? Cho đến khi khôn lớn, lại vượt thành xuất gia, làm cho vua cha phải khổ não, sinh ra buồn rầu, mê mẩn, ngã ngất ra đất, phải dùng nước lạnh rảy vào mặt, bảy ngày mới tỉnh, rồi cất tiếng kêu gào khóc lóc mà nói: “Con ơi, nước này là nước của con, ta chỉ có một mình con là chỗ nương cậy, làm sao ngày nay con lại nỡ bỏ ta trốn đi, vào ở nơi hang sâu núi thẳm.” Thầy Cù-đàm của ông thực là người bội bạc, chẳng biết ân nghóa, mới đành lòng dứt bỏ ra đi như thế! Cho đến phụ vương, đã vì ông ta mà tạo lập cung điện, cưới nàng Cù-di cho ông ta thành gia thất, nhưng ông ấy chẳng làm theo bổn phận của vợ chồng, khiến nàng phải sầu khổ, cho nên biết Cù-đàm là người bất hiếu. Tôn giả A-nan nghe nói như thế rồi, trong lòng sinh hổ thẹn, nên khất thực xong xuôi, trở về đến chỗ Phật, đầu mặt lễ sát xuống chân Phật, rồi lui ra ngồi qua một phía, chắp tay bạch Phật: –Lạy Đức Thế Tôn, trong Phật pháp, có sự hiếu dưỡng đối với cha mẹ không? Phật dạy: –A-nan, ai đã bảo, khiến Tôn giả hỏi Ta điều ấy, chư Thiên thần chăng? Nhân, Phi nhân chăng? Hay là chính Tôn giả đã tự đem trí lực của mình để hỏi Như Lai? Tôn giả A-nan bạch Phật: –Lạy Đức Thế Tôn! Không phải chư Thiên, Long, Quỷ thần, Nhân, Phi nhân hiện ra bảo con, mà do vừa rồi, lúc đi khất thực, ở giữa đường gặp đồ đảng của hàng Lục sư, là Tát-già Ni-kiền Tử, đã đem lời nhục mạ. Tôn giả A-nan bèn đến trước Phật thuật hết những sự tình như trên. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười. Từ trên trán của Ngài phóng ra hào quang năm sắc, chiếu sáng qua thế giới phương Đông, vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Thượng thắng, Đức Phật ở thế giới đó hiệu là Hỷ Vương, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước đó tên là Nghiêm thịnh, đất đai bằng phẳng, ngọc lưu ly làm đất, dây vàng giăng ở bên đường, có hàng cây bảy báu, đều cao và thẳng như một đường tên, hoa quả cành lá, thứ tự trang nghiêm, gió hiu hiu thổi, phát ra những thứ tiếng rất vi diệu, chúng sinh thích nghe, không bao giờ chán, khắp nơi đều có suối mát ao tắm, nước ao trong sạch, cát vàng rải khắp mặt đất, có nước tám công đức, đầy dẫy trong ao, bốn bên bờ ao, có các thứ hoa thơm vi diệu như: hoa Ba-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi, hoa Bạt-sư-ca, hoa có đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn như bánh xe, che phủ trên bờ ao; trong ao có các loài chim khác nhau, hòa hợp ca hót, phát ra những giọng tiếng nhiệm mầu, rất đáng ưa thích; có thuyền bảy báu, cũng ở trong ao đó, để cho các chúng sinh, tự tại dạo chơi. Ở mỗi khoảng rừng cây kia, có bày tòa sư tử, cao một do-tuần, cũng dùng bảy báu, trau dồi sửa sang, lại dùng Thiên y, trải trên tòa sư tử, đốt các thứ hương báu ở cõi trời và rải các hoa báu, khắp trên mặt đất. Đức Như Lai Hỷ Vương ngồi kiết già trên tòa ấy. Ở nước kia, có vô lượng ức ngàn Bồ-tát trước sau vây quanh Đức Như Lai Hỷ Vương, rồi lui qua một phía, chắp tay cung kính hướng về Đức Như Lai, đồng thanh nói: –Kính xin Đức Thế Tôn từ bi xót thương, chỉ bảo cho chúng con biết: vì nhân duyên gì, mà có hào quang sáng tỏa soi chiếu như thế, hào quang ấy lại có đủ các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, sắc tướng rực rỡ, thực khó ví dụ, từ phương Tây soi tới, soi cả nơi đại chúng đây, người nào được gặp ánh hào quang ấy, tâm ý thảy đều an lạc. Kính xin Đức Thế Tôn chỉ dạy, đoạn trừ mối ngờ cho chúng con. Phật dạy: –Các thiện nam tử, các ông nên nghe cho kỹ! Và để tâm suy nghó cho khéo, Ta nay sẽ vì các ông, phân biệt giải nói: Ở về phương Tây, cách đây vô lượng trăm ngàn thế giới của chư Phật, có một thế giới tên là Ta-bà, trong nước đó có Đức Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, có đại chúng vây quanh, nay Đức Phật ấy muốn vì các đại chúng, nói Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, vì Phật muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh; vì muốn nhổ sạch mọi tên độc tà nghi cho tất cả chúng sinh; vì muốn khiến cho những vị Bồ-tát mới phát tâm kiên cố nơi đạo Bồ-đề không bị thoái chuyển; vì muốn tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, chứng được rốt ráo đạo Nhất thừa; vì muốn cho các Đại Bồ-tát chóng thành tựu đạo quả Bồ-đề, báo đáp ân Phật; vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh nhớ nghó đến ân đức sâu dày; vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh vượt khỏi khổ bể; vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh hiếu dưỡng phụ mẫu, nên Phật phóng ra ánh sáng hào quang ấy. Bấy giờ trong đại chúng, có mười ngàn vị Bồ-tát, mỗi mỗi vị Bồ-tát, đều là bậc chỉ đạo của đại chúng, liền từ tòa ngồi đứng dậy để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch Phật: –Kính xin Đức Thế Tôn dùng sức thần gia hộ, khiến cho chúng con được đến thế giới Ta-bà, để thân cận cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai và muốn được nghe kinh điển rất vi diệu Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Phật bảo các Bồ-tát: –Thiện nam tử, các vị đến thế giới Ta-bà, nếu thấy Phật Thích-ca Mâu-ni, phải sinh lòng cúng dường cung kính, nghó tưởng khó gặp, bởi cớ sao? Vì Phật Thích-ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, làm những việc khổ hạnh khó làm, phát đại bi nguyện: “Khi Tôi được thành Phật, sẽ ở nơi cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai gốc; chúng sinh ở trong cõi đó, đủ mọi phiền não, ngũ nghịch, thập ác, Tôi sẽ tu hành thành Phật ở nơi đó để làm những việc lợi ích, đoạn trừ tất cả khổ não cho chúng sinh, khiến họ đạt được tất cả an vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót”. Bản nguyện của Phật là như thế, các ông nay đến chỗ Phật Thích-ca cũng như chỗ Ta, ở chỗ Phật Thích-ca Mâu-ni cũng như ở chỗ Ta không khác. Các vị Bồ-tát cùng đáp: –Chúng con xin y theo như lời của Đức Thế Tôn đã chỉ dạy. Mỗi mỗi vị Bồ-tát đều đem vô lượng trăm ngàn vạn ức các chúng Bồ-tát để làm quyến thuộc, trước sau vây quanh, đều đi đến thế giới Ta-bà, những quốc độ các vị Bồ-tát đi qua, đều phát khởi sáu thứ chấn động, bóng sáng lớn soi khắp, các vị Thần tiên ở trên hư không rải các thứ hoa như: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, phóng ra ánh sáng lớn, vận dụng thần túc khiến cảm động các thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Lại có vô lượng trăm ngàn vạn thứ nhạc ở trên hư không, không đánh mà tự hòa tấu. Các vị Bồ-tát ấy đi đến núi Kỳ-xà-quật, tới chỗ Đức Thích-ca Như Lai, đầu mặt lễ xuống chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi lui ra ngồi về một phía. Lúc ấy Đức Như Lai lại phóng một luồng hào quang, chiếu thẳng về phương Nam qua tám mươi vạn ức cõi nước của chư Phật, có thế giới tên là Quang đức, trong thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Tư Duy Tướng, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước tên là Thiện tịnh, đất đai bằng phẳng, lưu ly làm đất, dây vàng giăng bên vệ đường, có hàng cây bảy báu, đều cao và thẳng như một đường tên bắn, hoa quả cành lá thứ tự trang nghiêm, gió hiu hiu thổi, phát ra những thứ tiếng rất nhiệm mầu, chúng sinh thích nghe, không bao giờ chán; khắp nơi đều có suối chảy, ao tắm, nước ao trong sạch, cát vàng rải khắp mặt đất, nước đủ tám công đức đầy dẫy trong đó; bốn bên bờ ao có các thứ hoa, thơm tho nhiệm mầu như: hoa Ba-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi, hoa Bạt-sư-ca, có đủ các thứ mầu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn như bánh xe, che trên bờ ao; có những loài chim khác nhau, hòa hợp ca hót, phát ra những giọng tiếng vi diệu, rất đáng ưa thích; có thuyền bảy báu, cũng ở trong đó, để cho các chúng sinh tự tại dạo chơi. Ở nơi mỗi khoảng rừng cây, đều bày tòa sư tử, cao một do-tuần, cũng dùng bảy báu, để trau dồi sửa sang, lại dùng Thiên y, trải ở trên tòa; đốt mọi thứ hương trời báu và rải hoa báu của các cõi trời khắp trên mặt đất. Đức Như Lai Tư Duy Tướng ngồi kiết già trên tòa đó. Các vị Bồ-tát ở nước kia, có vô lượng ức ngàn, trước sau vây quanh Phật, rồi lui về một phía, chắp tay hướng về Đức Như Lai, đồng thanh nói: –Kính xin Đức Thế Tôn từ bi xót thương, nói cho chúng con được biết, vì nhân duyên gì, có ánh sáng hào quang ấy, lại đủ các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, những sắc tướng rực rỡ đó, thực là khó ví dụ, từ phương Bắc soi tới, soi cả đại chúng đây. Kính xin Đức Thế Tôn dạy bảo, đoạn trừ mối ngờ cho chúng con. Phật dạy: –Các thiện nam tử, các ông nên nghe cho kỹ và để tâm suy nghó cho khéo, ta sẽ vì các ông phân biệt giải nói: Ở về phương Bắc, cách đây vô lượng trăm ngàn thế giới của chư Phật, có thế giới tên là Ta-bà, trong đó có Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, có đại chúng vây quanh. Phật muốn vì các đại chúng, nói kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân; vì muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh; vì muốn nhổ tên độc tà nghi cho tất cả chúng sinh; vì muốn cho những vị Bồ-tát mới phát tâm kiên cố nơi đạo Bồ-đề, không bị thoái chuyển; vì muốn tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, được rốt ráo đạo Nhất thừa; vì muốn các vị Đại Bồ-tát chóng thành tựu đạo quả Bồ-đề, báo đáp ân Phật; vì muốn cho tất cả chúng sinh nhớ nghó đến ân đức sâu dày; vì muốn cho chúng sinh vượt qua bể khổ; vì muốn cho chúng sinh hiếu dưỡng đối với cha mẹ, do nhân duyên như thế, cho nên Phật đã phóng ra ánh sáng ấy. Bấy giờ trong đại chúng, có mười ngàn vị Bồ-tát, mỗi mỗi vị Bồ-tát đều là bậc thầy chỉ đạo của đại chúng, liền từ tòa ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ sát đấøt, chắp tay bạch Phật: –Kính xin Đức Thế Tôn đem sức thần gia hộ, khiến cho chúng con được đến thế giới Ta-bà, để thân cận cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai và muốn được nghe kinh điển rất vi diệu Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Đức Phật Tư Duy Tướng bảo các Bồ-tát: –Này thiện nam tử, các ông đến thế giới Ta-bà, nếu thấy Phật Thích-ca, nên sinh tâm cung kính cúng dường, nghó tưởng khó gặp, vì sao? Vì Đức Thích-ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, thường làm những hạnh khổ khó làm và phát đại bi nguyện: “Khi Tôi được thành Phật, sẽ ở trong cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai gốc, nơi đó chúng sinh đủ mọi phiền não, ngũ nghịch, thập ác. Tôi ở trong ấy thành Phật, để làm lợi ích cho chúng sinh, khiến đoạn trừ tất cả khổ, được tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót”. Bản nguyện của Phật là như thế, các ông nay đến chỗ Phật cũng như ở chỗ Ta không khác. Các chúng Bồ-tát đồng thanh thưa: –Chúng con xin theo như lời của Đức Thế Tôn đã chỉ dạy. Mỗi mỗi vị Bồ-tát, đều đem vô lượng trăm ngàn vạn ức các chúng Bồ-tát làm quyến thuộc, trước sau vây quanh, đi đến thế giới Ta-bà, những quốc độ mà các Bồ-tát trải qua đều hiện đủ sáu cách chấn động, các vị Thiên thần ở trên hư không, rải các thứ hoa như: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, phóng ra ánh sáng lớn, dùng thần túc làm rung động các thế giới nhiều như cát sông Hằng. Lại có vô lượng trăm ngàn vạn thứ âm nhạc của các cõi trời ở trên hư không, không đánh tự nhiên hòa tấu. Các vị Bồ-tát ấy đi đến chỗ Đức Như Lai tại núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lễ sát chân Phật, nhiễu Phật ba vòng, rồi lui về một phía. Đức Như Lai lại phóng ra ánh sáng lớn, soi thẳng về phương Tây, qua vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi nước của chư Phật, có thế giới tên là Tịnh trụ, Phật ở cõi đó hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Quang, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, nước tên là Diệu hỷ, cõi đất bằng phẳng, lưu ly làm đất, hoàng kim làm dây để giăng bên đường; có hàng cây bảy báu, đều cao và thẳng như một đường tên bắn, hoa quả cành lá thứ lớp trang nghiêm, gió hiu hiu thổi, phát ra tiếng rất vi diệu, chúng sinh thích nghe không bao giờ chán; chốn chốn đều có suối chảy, ao tắm, nước ao trong sạch, cát vàng rải khắp mặt đất, nước đủ tám công đức đầy dẫy trong ao, bốn bên bờ ao, có các thứ hoa, thơm tho mầu nhiệm như hoa Ba-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi, hoa Bạt-sư-ca, những thứ hoa ấy có đủ các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, lớn như bánh xe, che phủ trên bờ ao, dưới ao có các loài chim khác nhau, hòa hợp, ca hót, phát ra giọng tiếng vi diệu, rất đáng ưa mến, có thuyền bảy báu, cũng ở trong đó, để cho các chúng sinh tự tại du ngoạn. Ở nơi khoảng cây kia, có bày tòa sư tử, cao một do-tuần, cũng lấy bảy báu để trau dồi sửa sang, lại lấy Thiên y cõi trời trải trên tòa, đốt hương báu và rải các hoa báu cõi trời, đầy khắp mặt đất. Đức Nhật Nguyệt Đăng Quang Như Lai, ngồi kiết già trên tòa sư tử. Bồ-tát ở nước kia, có vô lượng ức ngàn, trước sau vây quanh, rồi lui về một phía, chắp tay cung kính, đối trước Đức Như Lai, đồng thanh nói: –Kính xin Đức Thế Tôn từ bi xót thương, nói cho chúng con biết vì nhân duyên gì mà có ánh sáng ấy, lại đủ cả các màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, rất là rực rỡ, khó có thể ví dụ được. Ánh sáng ấy từ phương Đông chiếu qua, soi sáng cả đại chúng đây, nếu người nào gặp được ánh sáng ấy, tâm ý thảy đều an vui. Kính xin Đức Thế Tôn chỉ dạy, đoạn trừ mối ngờ ấy cho chúng con. Phật dạy: –Các thiện nam tử, các ông nên nghe cho kỹ, nhớ nghó cho khéo, Ta sẽ vì các ông, phân biệt giải nói: Từ phương Đông cách đây vô lượng trăm ngàn thế giới của chư Phật, có thế giới tên là Ta-bà, trong thế giới đó có Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, có đại chúng vây quanh. Nay Đức Phật muốn vì các đại chúng nói Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, là vì muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh; vì muốn nhổ tên độc tà nghi cho tất cả chúng sinh; vì muốn khiến cho những vị Bồ-tát mới phát tâm kiên cố nơi đạo Bồ-đề, không bị thoái chuyển; vì muốn khiến cho tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, được rốt ráo đạo Nhất thừa; vì muốn các vị Đại Bồ-tát chóng thành tựu đạo quả Bồ-đề, báo đáp ân Phật; vì muốn cho tất cả chúng sinh luôn nhớ nghó về ân sâu nặng; vì muốn khiến cho chúng sinh vượt qua biển khổ; vì muốn khiến cho chúng sinh hiếu dưỡng đối với cha mẹ, vì nhân duyên như thế, cho nên Phật mới phóng ra ánh sáng ấy. Bấy giờ trong đại chúng, có mười ngàn vị Bồ-tát, mỗi mỗi vị Bồ-tát đều là bậc thầy chỉ đạo của đại chúng, liền từ tòa ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch: –Xin Đức Thế Tôn đem sức thần gia hộ, khiến cho chúng con được đến thế giới Ta-bà, để thân cận cúng dường Đức Thích-ca Như Lai và muốn nghe kinh điển vi diệu Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Quang bảo các vị Bồ-tát: –Các thiện nam tử, các ông đến thế giới Ta-bà, nếu thấy Đức Phật Thích-ca, nên sinh lòng cung kính, cúng dường, nghó tưởng khó gặp. Vì cớ sao? Vì Đức Thích-ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, hay làm những hạnh khổ khó làm, phát nguyện đại bi: “Khi Tôi được thành Phật, Tôi sẽ ở ngay trong cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai gốc, chúng sinh đủ cả phiền não, ngũ nghịch, thập ác. Tôi ở trong đó tu hành thành Phật, để làm lợi ích cho chúng sinh, khiến họ đoạn trừ tất cả khổ, được tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót một chúng sinh nào.” Bản nguyện của Phật là như thế, các ông nay đến chỗ Phật Thích-ca, cũng như ở chỗ Ta vậy. Các chúng Bồ-tát đồng thanh nói: –Chúng con xin theo như lời của Đức Thế Tôn đã chỉ dạy. Mỗi mỗi vị Bồ-tát đều đem vô lượng trăm ngàn vạn ức các chúng Bồ-tát làm quyến thuộc, trước sau vây quanh, đi đến thế giới Ta-bà. Những quốc độ Bồ-tát đi qua đều phát khởi sáu thứ chấn động, ánh sáng lớn soi khắp. Các vị Thiên thần ở trên hư không rải các thứ hoa như hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, phóng ra ánh sáng lớn, dùng thần túc làm rung động các thế giới nhiều như cát sông Hằng. Lại có vô lượng trăm ngàn vạn thứ âm nhạc của các cõi trời, ở trên hư không, không đánh mà tự hòa tấu. Các vị Bồ-tát ấy đi đến núi Kỳ-xà-quật, tới chỗ Đức Như Lai, đầu mặt lễ sát chân, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi lui về một phía. Bấy giờ, Đức Thích-ca Như Lai lại phóng ra ánh sáng năm màu, soi về phương Bắc, qua năm trăm vạn ức na-do-tha thế giới của chư Phật, có thế giới tên là Tự tại xưng vương, trong đó có Đức Phật, hiệu là Hồng Liên Hoa Quang, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, nước tên là Ly cấu, đất đai bằng phẳng, lưu ly làm đất, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, có hàng cây bảy báu, cao và thẳng như đường tên bắn, hoa quả cành lá thứ lớp trang nghiêm, gió hiu hiu thổi, phát ra tiếng mầu nhiệm, chúng sinh thích nghe, không bao giờ chán; chốn chốn đều có suối chảy, ao tắm, ao đó trong sạch, cát vàng rải khắp mặt đất, nước tám công đức đầy dẫy trong ao, bốn bên bờ ao có các thứ hoa thơm tho mầu nhiệm như: hoa Ba-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi, hoa Bạt-sư-ca, hoa có đủ màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, to lớn như bánh xe, che rợp trên bờ ao, trong ao nước kia, có các loài chim khác nhau, hòa hợp ca hót, phát ra giọng tiếng vi diệu, rất đáng ưa mến, có thuyền bảy báu, cũng ở trong ao đó để cho các chúng sinh tự tại du ngoạn. Ở những khoảng rừng cây kia, đều bày tòa sư tử, cao một do-tuần, cũng dùng bảy báu trau dồi sửa sang, lại lấy Thiên y trải trên tòa đó, đốt hương báu và rải các hoa báu cõi trời, khắp trên mặt đất. Đức Hồng Liên Hoa Quang Như Lai, ngồi kiết già trên tòa sư tử, các vị Bồ-tát ở nước đó, nhiều vô lượng ức ngàn, trước sau vây quanh, rồi lui về một phía, chắp tay cung kính, đối trước Đức Như Lai, đồng thanh nói: –Kính xin Đức Thế Tôn, từ bi xót thương, nói cho chúng con được biết vì nhân duyên gì mà có ánh sáng ấy, lại có đủ các màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, sắc tướng rực rỡ, khó có thể ví dụ được, ánh sáng ấy từ phía Nam chiếu qua, soi cả đại chúng đây, nếu ai được gặp ánh sáng ấy, tâm ý đều được yên vui. Kính xin Đức Thế Tôn đoạn trừ mối ngờ cho chúng con. Phật dạy: –Các thiện nam tử, nghe cho kỹ, nhớ nghó cho khéo, Ta sẽ vì các ông, phân biệt giải nói: Về phương Nam cách đây vô lượng trăm ngàn thế giới của chư Phật, có thế giới tên là Ta-bà, trong nước đó có Đức Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, có đại chúng vây quanh. Đức Phật muốn vì các đại chúng, nói Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, vì muốn lợi tạo ích cho tất cả chúng sinh; vì muốn nhổ tên độc tà nghi cho tất cả chúng sinh; vì muốn khiến cho các vị Bồ-tát mới phát tâm kiên cố nơi đạo Bồ-đề, không bị thoái chuyển; vì muốn khiến cho tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật được rốt ráo đạo Nhất thừa; vì muốn cho các vị Đại Bồ-tát chóng thành tựu đạo quả Bồ-đề, báo đáp ân Phật; vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh nhớ nghó đến ân đức sâu nặng; vì muốn khiến cho chúng sinh vượt qua bể khổ; vì muốn khiến cho chúng sinh hiếu dưỡng đối với cha mẹ, vì nhân duyên như thế, cho nên Phật phóng ra ánh sáng ấy. Bấy giờ trong đại chúng có mười ngàn vị Bồ-tát, mỗi mỗi vị Bồ-tát ấy đều là bậc thầy chỉ đạo của đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch: –Kính xin Đức Thế Tôn, đem sức thần gia hộ, khiến cho chúng con được đến thế giới Ta-bà để thân cận cúng dường Đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai và nghe kinh điển vi diệu Đại Phương Tiện Phật Báo Ân. Đức Phật Hồng Liên Hoa Quang bảo các Bồ-tát: –Các thiện nam tử, các ông đến thế giới Ta-bà, nếu thấy Đức Phật Thích-ca nên sinh tâm cúng dường cung kính, nghó tưởng khó gặp. Vì sao? Vì Đức Thích-ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, hay làm những việc khổ hạnh khó làm, phát đại bi nguyện: “Khi Tôi được thành Phật, Tôi nguyện sẽ ở trong cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai gốc, chúng sinh ở trong đó đủ mọi thứ phiền não, ngũ nghịch, thập ác, Tôi sẽ tu hành thành Phật ở trong nước ấy để làm lợi ích cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh đoạn trừ tất cả khổ, được tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót một chúng sinh nào”. Bản nguyện của Phật là như thế, các ông nay đến chỗ Phật ấy cũng như ở chỗ Ta vậy. Các chúng Bồ-tát đồng thanh thưa: –Chúng con xin theo như lời của Đức Thế Tôn đã chỉ dạy. Mỗi mỗi vị Bồ-tát đều đem vô lượng trăm ngàn vạn ức các chúng Bồ-tát làm quyến thuộc, trước sau vây quanh đi đến thế giới Ta-bà, những quốc độ Bồ-tát đi qua đều phát khởi sáu thứ chấn động, ánh sáng lớn soi khắp, Thiên thần ở trên hư không, rải các thứ hoa như: hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, phóng ra ánh sáng lớn, dùng thần túc làm rung động thế giới nhiều như cát sông Hằng. Lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức âm nhạc cõi trời, ở trên hư không, không đánh mà tự hòa tấu. Các vị Bồ-tát ấy đi đến núi Kỳ-xà-quật, tới chỗ Phật Thích-ca Như Lai, đầu mặt lễ sát chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi lui về một phía. Cho đến phương Đông nam, phương Tây nam, phương Đông bắc, phương Tây bắc, phương Thượng, phương Hạ, các chúng Đại Bồ-tát Ma-ha-tát trong các cõi nước của các Đức Như Lai ở mười phương, đều cùng với từng ấy trăm ngàn quyến thuộc đều đi đến chỗ Đức Thích-ca Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi, đồng thanh, nói lên trăm ngàn bài kệ, khen ngợi Phật, rồi lui ngồi về một phía. Khi ấy, thế giới Ta-bà biến thành thanh tịnh, không có các rừng rậm, các núi lớn, nhỏ, sông, ngòi, ao hồ, suối, khe mương, hố. Chúng sinh ở trong đó, nhân ánh sáng ấy, được trông thấy Phật, vui mừng chắp tay, đầu mặt lễ kính, lòng sinh luyến mộ, chăm chú không chớp mắt. Bấy giờ Đức Thế Tôn liền thu nhiếp ánh sáng soi chiếu ở khắp mười phương, nhiễu quanh thân bảy vòng, rồi trở lại vào nơi đỉnh môn của Ngài. Tôn giả A-nan, quan sát tâm của đại chúng, ai cũng đều nghi ngờ, Tôn giả vì muốn nêu rõ phương tiện mật hạnh của Như Lai, muốn mở mắt trí tuệ cho tất cả chúng sinh đời mai sau, vượt qua bể ái, đến bờ bên kia, vónh viễn an lạc và muốn khiến cho chúng sinh nhớ nghó đến ân sâu nặng của Cha mẹ, Sư trưởng, nên từ tòa đứng dậy, tề chỉnh y phục, để hở vai áo bên phải, quỳ gối chắp tay bạch Phật: –Lạy Đức Thế Tôn, A-nan từ khi hầu hạ Phật đến nay, chưa từng thấy Phật mỉm cười suông bao giờ, nay đây Phật mỉm cười ắt phải có ý gì? Xin Phật chỉ dạy, để đoạn trừ mối nghi ngờ cho đại chúng.  <卷 id="32807802">Phẩm 2: HIẾU DƯỠNG Bấy giờ trong đại chúng, bỗng có một đóa hoa sen bảy báu, từ nơi mặt đất hóa sinh, cọng bằng bạch ngân, lá bằng hoàng kim, đài sen bằng ngọc báu Chân-thúc-ca, riềm hoa bằng ngọc trân châu, thứ lớp trang nghiêm. Khi ấy, Đức Thích-ca Như Lai liền từ tòa ngồi đứng dậy, bước lên đài hoa sen báu kia, ngồi kiết già. Từ nơi thân thanh tịnh của Ngài hiện ra thân tướng của năm ngã, mỗi thân của năm ngã có một vạn tám ngàn hình loại khác nhau; mỗi mỗi hình loại hiện ra trăm ngàn thứ thân; trong mỗi mỗi thân lại có vô lượng thân, nhiều như cát sông Hằng, cho đến bằng cả số cát sông Hằng ở bốn phương…; trong mỗi mỗi thân lại hiện ra những thân nhiều như hạt bụi cả đại địa khắp bốn châu thiên hạ; ở trong số mỗi mỗi thân nhiều như những hạt bụi ấy lại hiện ra những thân nhiều như những hạt bụi trong ba ngàn đại thiên giới; ở trong mỗi mỗi thân nhiều như hạt bụi ấy lại hiện ra số thân nhiều như những hạt bụi nơi trăm ngàn ức thế giới chư Phật ở khắp mười phương, cho đến hiện ra những thân nhiều cùng tận cả cõi hư không pháp giới, không thể lấy tâm nghó, miệng bàn cho xiết được. Bấy giờ Đức Như Lai hiện ra những thân như thế rồi, bèn bảo với Tôn giả A-nan, các vị Đại Bồ-tát ở khắp mười phương và tất cả chúng sinh: –Các thiện nam tử, nay Như Lai biết cùng khắp một cách chân chánh, tuyên nói lời chân thực: Phật pháp vốn không có ngôn thuyết, Như Lai dùng phương tiện vi diệu hay dùng pháp không danh tướng ấy mà nói về danh tướng. Như Lai khi còn phải ở trong đường sinh tử, ở nơi tất cả loài chúng sinh, cũng đã chịu đủ mọi thân hình nhiều như những hạt bụi, không thể lấy lòng nghó, miệng bàn cho xiết được. Vì phải chịu thân như thế, cho nên tất cả chúng sinh, cũng từng đã làm cha mẹ của Đức Như Lai, Như Lai cũng đã làm cha mẹ của tất cả chúng sinh. Vì tất cả cha mẹ, nên Như Lai thường làm khổ hạnh khó làm, bỏ cả những sự khó bỏ như: đầu, mắt, tủy, não, quốc, thành, vợ con, voi, ngựa, bảy báu, kiệu cáng, xe cộ, y phục, ẩm thực, đồ nằm ngồi, thuốc thang, cấp cho tất cả, siêng tu tinh tấn, bố thí, trì giới, đa văn, thiền định, trí tuệ, cho đến đầy đủ tất cả vạn hạnh, luôn không dừng nghỉ, tâm không biết mệt mỏi, hiếu dưỡng đối với cha mẹ, biết ân trả ân, nên mới chóng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bởi thế, chính tất cả chúng sinh đã khiến cho Như Lai đạt đầy đủ bản nguyện. Vì vậy nên biết, tất cả chúng sinh có ân sâu đối với Phật. Vì có ân sâu như vậy, cho nên Như Lai không bỏ chúng sinh. Như Lai đem tâm đại bi thường tu tập theo phương tiện để cứu độ chúng sinh. Như Lai vì tất cả chúng sinh, hai mươi lăm nẻo sinh tử trong ba cõi mà không nghó đến công lao của mình. Thường tu hành Từ bi bình đẳng, Hỷ xả theo phương tiện, thấu suốt tất cả Chúng sinh không, Pháp không, Năm ấm không, như vậy chẳng có tâm thoái lui, chẳng có mất, chẳng có chìm đắm vào pháp không, pháp có. Vì tu phương tiện thật tướng nên chẳng bỏ hai thừa, thực hiện việc học tất cả phương tiện. Vì tu mọi phương tiện vi diệu sâu xa như vậy cho nên thấu suốt được thực tướng của các pháp, rồi tùy theo căn cơ của chúng sinh mà Phật nói Pháp trước, sau có khác. Nhưng vì chúng sinh mê muội điên đảo, lầm chấp thấy có ba thừa, bị ái dục che đậy, chìm đắm trong bể khổ, bị bốn đảo làm cho điên đảo: đối với các pháp hữu lậu, vọng tưởng phân biệt; đối với các pháp là vô ngã, vọng tưởng thấy có ngã; đối với các pháp là vô thường, vọng tưởng chấp cho là thường; đối với các pháp không phải vui, vọng tưởng chấp cho là vui; đối với các pháp là bất tịnh, vọng tưởng cho là tịnh. Sinh, lão, bệnh, tử, biến đổi hoại diệt, niệm niệm vô thường, năm cái, mười triền che đậy, luân hồi ba cõi, phải chịu sinh tử không có trước sau, cũng như vòng bánh xe. Bởi thế, Như Lai lập giáo cũng tùy theo căn cơ của chúng sinh mà chia ra có chín bộ, ba tạng cho đến mười hai bộ Kinh, sự hóa đạo, chia dòng, tùy theo lòng tin sâu cạn mà nói ra mọi kinh điển, biện duyên khác nhau, khiến cho chúng sinh có thể tỏ ngộ được thực tướng của các pháp mà chứng Niết-bàn giải thoát. Vì vậy, Như Lai, với thệ nguyện gốc là từ bi, mở bày các phương tiện lớn, chiêu tập tất cả chúng sinh hữu duyên ở mười phương, đều tụ họp trong đại chúng đây, diễn nói, chỉ bày kinh điển vi diệu này, là những lời dạy bảo ngàn đời, lưu truyền rộng rãi ở thời tượng pháp, khiến tất cả chúng sinh thường được đại an lạc. Cũng vì thế nên Như Lai thị hiện giáng sinh và nhập Niết-bàn; hoặc ở nơi cõi nước khác, xưng là Lê-xá-na Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; hoặc lên cõi trời Đâu-suất-đà, làm bậc Đạo sư cho chư Thiên; hoặc từ nơi cõi trời Đâu-suất, thị hiện giáng sinh xuống cõi Diêm-phù-đề, hiện sống lâu tám mươi tuổi, rồi vào Niết-bàn. Nên biết đó là Như Lai không thể nghó bàn; thế giới không thể nghó bàn; nghiệp báo không thể nghó bàn; chúng sinh không thể nghó bàn; thiền định không thể nghó bàn, ấy là sức thần lực không thể nghó bàn của Phật. Phật muốn khiến cho hết thảy chúng sinh đều giác ngộ được Phật tánh của mình, cho đến hàng chúng sinh thấp kém, căn trí ám độn cũng đều khiến được biết. Phật nhằm khiến cho tất cả chúng sinh nếu muốn được thấy Phật, liền được thấy ngay; còn những chúng sinh không đủ cơ duyên, thì dù có đối trước Phật vẫn không thấy được, cho đến các vị Thanh văn, Duyên giác, tuy có Thiên nhãn thông cũng không thể thấy. Lại nữa, Phật phóng ra ánh sáng lớn, chiếu xuống tận địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, những chúng sinh có duyên với Phật đều được thấy; còn các chúng sinh không đủ cơ duyên, thì dù có đối trước mắt cũng không thấy. Có khi Như Lai, hoặc chấp thuận, hoặc mặc nhiên, nên biết đó đều là phương tiện của chư Phật, Thế Tôn, không thể nghó bàn, không thể so lường, khó thể biết được. Vậy thì làm sao mà Tôn giả có thể hỏi Như Lai về những hạnh khổ khó làm, rất sâu xa vi diệu như thế, nhưng nay Tôn giả đã phát ra được lời hỏi ấy, thực là do lòng đại bi thương xót chúng sinh, muốn ngăn đóng ba nẻo ác, khai thông lối nhân thiên. A-nan, hãy nghe cho kỹ! Ta nay sẽ vì Tôn giả, lược nói về nhân duyên khổ hạnh hiếu dưỡng đối với cha mẹ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan, các vị Bồ-tát Ma-ha-tát và tất cả đại chúng: –Về đời quá khứ lâu xa, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có một nước nọ, tên là Ba-la-nại, trong nước đó có Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó sống lâu mười hai tiểu kiếp, chánh pháp ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng ở đời hai mươi tiểu kiếp. Trong thời tượng pháp, có một ông vua ra đời, tên là La-xà vương, làm vua nước Ba-la-nại, có hai vạn phu nhân, bốn ngàn đại thần, năm trăm thớt voi mạnh mẽ. Vua thống lãnh sáu mươi tiểu quốc, tám trăm khu vực. Vua có ba vị thái tử, đều làm vua ở các tiểu quốc. Đại vương La-xà ở nước Ba-la-nại, là người rất thông minh nhân đức, thường dùng chánh pháp trị quốc, không làm việc gì tổn hại cho muôn dân. Nhờ phúc đức của nhà vua, mà được gió hòa mưa thuận, lúa thóc luôn dồi dào, dân chúng an lạc. Bấy giờ, đại vương nước Ba-la-nại kia có một vị đại thần tên là La-hầu, khởi tâm ác nghịch dấy bốn thứ binh: tượng binh, xa binh, mã binh và bộ binh đến đánh nước Ba-la-nại, giết chết đại vương. Sau khi giết đại vương xong, lại đem bốn binh, đến đánh các tiểu quốc, giết chết thái tử thứ nhất, kế đó lại đi bắt thái tử thứ hai. Người em út, làm vua ở một tiểu quốc, hình thể của vua này rất đẹp đẽ, đoan nghiêm, tánh tình nhân hậu, nói thường mỉm cười và khi nói ra điều gì đều đem lại lợi ích, không tổn hại ý người, thường dùng chánh pháp trị nước, không tà quấy uổng hại muôn loài, nên cõi nước thịnh vượng an lạc, dân chúng đông đảo, của cải châu báu dư dật, gia kế sung túc, mọi người trong nước ai cũng ca ngợi công đức của nhà vua, tất cả chư Thiên, tất cả Thiên thần địa kỳ, cũng đều ái kính. Vua sinh hạ được một thái tử, tên là Tu-xà-đề, rất thông minh, nhân từ, hay làm việc bố thí. Thân hình của thái tử Tu-xà-đề, sáng láng như sắc hoàng kim, bảy chỗ nơi cơ thể đều đầy đặn cân đối, nhân tướng đầy đủ, tuổi mới lên bảy, vua cha rất yêu quý, không bao giờ tạm rời bên lòng. Lúc ấy, có vị thần coi cung điện, báo mộng cho đại vương biết: “Đại thần La-hầu, gần đây sinh tâm ác nghịch, âm mưu cướp ngôi vua, đã giết hại phụ vương La-xà, đồng thời phát động bốn binh, tầm nã bắt hai anh của đại vương. Kẻ phản nghịch ấy đã giết hai anh của đại vương và quân mã không bao lâu sẽ đến sát hại đại vương. Nay đại vương cần phải cấp thời trốn đi, để bảo toàn tánh mạng.” Đại vương nghe nói như vậy xong, trong lòng rất sợ hãi, dựng cả chân lông, thân thể dao động, lo giận áo não, nghẹn ngào phiền muộn, tâm can bấn loạn, vật vã ngã xỉu xuống đất, mãi hồi lâu mới tỉnh, rồi cất tiếng khẽ hỏi trên hư không: –Người là ai? Sao chỉ nghe thấy tiếng, mà không thấy hình, việc người vừa nói có đích xác không? Vị thần ấy liền báo cho vua biết: –Tôi là thần coi cung điện. Vua là người thông minh phúc đức, không gây tổn hại cho muôn dân, thường dùng chánh pháp trị nước, vì vậy, mà tôi báo cho vua biết. Đại vương nay nên cấp thời phải đi lánh nạn, nếu không họa hoạn khổ não không lâu sẽ tới nơi! Khi ấy, đại vương liền vào trong cung, tự suy nghó: “Ta nay phải cấp thời lánh nạn, qua một nước láng giềng khác, để tránh những tai họa sẽ xảy đến”. Lại nghó: “Nước láng giềng mà ta định đến đó, có hai con đường: một đường phải đi bảy ngày mới đến, còn một đường thì phải trải qua mười bốn ngày.” Suy nghó như vậy rồi, vua liền cho chuẩn bị lương thực trong bảy ngày và cho đem ra ngoài thành một cách hết sức cẩn mật. Xong xuôi, vua lại trở vào trong cung, gọi thái tử Tu-xà-đề, bế để ngồi trên đầu gối, mắt không lúc nào tạm rời, lại đứng dậy, có vẻ kinh hãi, rồi lại ngồi xuống. Bấy giờ, phu nhân thấy đại vương có sự bất an, tựa hồ đang có điều gì lo sợ, liền đến chỗ vua hỏi: –Đại vương hôm nay, hình như có sự gì lo sợ, nên có vẻ đứng ngồi không yên, thân thể bụi bặm lấp láp, đầu óc bơ phờ, mắt trong ngơ ngác, hơi thở không bình thường, tựa như có điềm mất nước, ân ái biệt ly, oan gia sắp sửa xảy đến, với những tướng trạng bất thường như thế, xin đại vương cho thần thiếp được biết? Vua bảo phu nhân: –Ta có việc hệ trọng, nhưng không phải việc mà phu nhân có thể biết được. Phu nhân liền tâu vua: –Tâu bệ hạ, thiếp cùng với bệ hạ, khác nào hai hình một thể, cũng như chim hai cánh, như thân thể với chân tay, như đầu với mắt. Đại vương ngày nay vì sao lại không cho thần thiếp được dự biết. Vua bảo phu nhân: –Phu nhân không biết sao! Đại thần La-hầu, gần đây sinh tâm ác nghịch, đã giết phụ vương, cướp ngôi vua và bắt giết cả hai anh. Nay bọn chúng đang cử binh mã, lần lượt sẽ đến đây bắt ta, nay ta muốn tránh mạng, để khỏi những tai họa ấy. Nói rồi, tức thời bế thái tử Tu-xà-đề, ra đi để lánh nạn. Phu nhân cũng tùy tùng theo sau. Bấy giờ, vua vì tâm ý hốt hoảng rối loạn, nên đi lầm phải con đường mười bốn ngày, con đường đó lại rất nguy hiểm: không có nước cỏ. Đi được vài ngày, thì lương thực đã hết. Bản ý trước đây chỉ chuẩn bị vừa số lương thực lộ hành cho một người trong thời gian bảy ngày, nay phải dùng cho ba người, hơn nữa lại đi lầm vào con đường tới mười bốn ngày, thì lương thực đã hết cả, mà đường đi phía trước còn xa vời vợi. Lúc đó, đại vương và phu nhân, cất tiếng khóc than: “Thực là xót xa đau đớn cho chúng tôi lắm! Chúng tôi từ khi sinh ra đời cho đến nay, chưa từng có bao giờ bị khổ sở như thế này, tại sao ngày nay lại phải chịu như thế, giờ đây đã đến lúc đường cùng, họa lại sắp sửa xảy ra!”. Nói rồi, giơ tay vỗ đầu, bụi đất lấm láp, vật mình xuống đất tự hối trách: –Chúng ta đời trước, gây nên những nghiệp ác gì? Hay là giết cha mẹ, hai bậc chân nhân La-hán? Hay là hủy báng chánh pháp? Hay là phá hoại hòa hợp Tăng? Hay là làm nghề săn bắn tàn hại chúng sinh? Đong đầy khảo vơi? Cướp đoạt của cải của chúng sinh? Hay là lạm dụng của cải của chúng Tăng? Làm sao ngày nay lại phải chịu những sự họa hoạn ấy? Giờ đây chính muốn dừng nghỉ một chút, lại sợ oán gia ập tới, nếu để chúng bắt được, quyết sẽ bị chết, không còn nghi ngờ gì nữa! Còn nếu tiến tới, thì lại bị đói khát bức bách, tánh mạng chỉ còn ngắn bằng hơi thở! Đại vương và phu nhân suy nghó về những sự khổ não như vậy rồi, thốt tiếng gào khóc, buồn rầu, ngã xỉu ra đất, hồi lâu mới tỉnh. Vua lại tự suy nghó: “Nếu không phương tiện lập kế, thì chắc chắn cả ba mạng người đều không tránh khỏi chết, chi bằng ta nay giết phu nhân, để lấy thịt nuôi sống thân Ta và bảo toàn tánh mạng cho đứa con này.” Nghó như vậy rồi, liền tuốt gươm toan giết phu nhân. Thái tử Tu-xà-đề thấy dị tướng như vậy, tay bên phải tức thời đỡ lấy gươm, nắm chặt tay vua cha, tâu: –Cha! Cha định làm gì thế, hả cha? Phụ vương buồn rầu, khóc lóc khẽ bảo thái tử: –Ta nay muốn giết mẹ con, để lấy thịt ấy nuôi sống cha và bảo toàn tánh mạng cho con, vì nếu không giết mẹ con, thì tất cả chúng ta cũng sẽ chết. Thân cha nay đây không biết sống thác lúc nào, nay cha vì muốn cho con sống, nên cha có ý định giết mẹ con! Thái tử Tu-xà-đề liền tâu với vua cha: –Nếu vua cha giết mẹ con, con cũng không ăn, vì chưa bao giờ và ở đâu lại có những người con dám ăn thịt của mẹ mình, đã chẳng dám ăn, tất nhiên con cũng sẽ chết. Vua cha ngày nay sao lại không giết con đi, để cứu sống mạng cho mẹ. Vua nghe con nói như thế, buồn rầu, vật vã, ngất xỉu ra đất, nói nhỏ với con: –Con cũng như con mắt của ta, chưa bao giờ và ở đâu lại có người tự khoét mắt mình, để rồi lại tự ăn. Ta nay thà bỏ thân mạng, trọn đời không bao giờ giết con để nuôi sống tánh mạng của ta cả. Bấy giờ, thái tử Tu-xà-đề thưa với cha mẹ: –Con nay xin nguyện đem thân mạng này cúng dường cha mẹ, cha mẹ ngày nay, nếu cắt thân mạng con một lúc, thì không được bao nhiêu ngày, máu thịt sẽ bị hôi thối. Vậy kính xin cha mẹ, đừng giết chết ngay và con nay chỉ xin cha mẹ một điều, mong cha mẹ đừng làm trái ý con, nếu trái ý con, sẽ không phải là cha mẹ hiền từ của con nữa. Vua cha bảo thái tử: –Cha mẹ sẽ không làm trái ý con, con muốn xin điều gì thì cứ nói ngay cho cha mẹ biết. Thái tử Tu-xà-đề thưa: –Con nay chỉ xin cha mẹ cho con một điều là: cha mẹ hãy thương con, có thể ngày ngày đem dao, xẻo thịt nơi thân thể của con, cắt chừng ba cân và chia làm ba phần, hai phần để dâng cha mẹ, còn một phần cho con ăn, để tự nuôi sống tánh mạng. Bấy giờ cha mẹ, liền theo như lời của con nói, ngày ngày cắt ba cân thịt và chia làm ba phần: hai phần chia cho cha mẹ, còn một phần cho con ăn, để tạm sống, chống đỡ thân mạng, mong đi được đến nơi đến chốn. Thời gian chưa được hai ngày, thịt ở nơi thân thể của thái tử đã hết, chỉ còn da dính với xương, tuy nhiên vẫn còn có một vài chút thịt dư chưa hết hẳn, vì quá kiệt sức, thái tử liền ngất ra đất. Khi ấy, cha mẹ liền ôm lấy thái tử, cất tiếng gào khóc, nói: –Con ơi! Cha mẹ thực là người vô dụng, ăn cả thịt con, khiến cho con phải đau đớn như thế này! Nay đường hãy còn xa, chưa đến được nơi đã định, mà thịt con cũng đã hết, tất nhiên đều sẽ bỏ thây cả ở đây! Thái tử Tu-xà-đề, nói nhỏ với cha mẹ: –Kính thưa cha mẹ, con dâng thịt của con để cúng dường cha mẹ, đã đi được tới nơi đây, tính ra đường trường chỉ có một ngày nữa là đến, mà thân thể con nay không còn làm sao cử động được nữa, chắc con sẽ bỏ tánh mạng ở đây mất, con sẽ không còn có thể theo cha mẹ cùng đi được, xin cha mẹ ngày nay, không nên nghó ngợi theo thói thường tình, để rồi cũng bị chết cả nơi đây. Con kính xin cha mẹ một điều, cha mẹ hãy thương xót con và xin chớ trái lòng con, cha mẹ hãy cắt nốt những chỗ thịt còn sót ở các lóng đốt này, tạm dùng nuôi sống cha mẹ cho qua ngày để đi đến được chỗ cha mẹ đã định. Bấy giờ, cha mẹ liền theo lời con, lại cắt nốt thịt còn dư ở các lóng đốt và chia làm ba phần: một phần cho con ăn, còn hai phần thì cho mình ăn. Ăn xong rồi cha mẹ liền từ biệt con để ra đi. Tu-xà-đề đứng dậy, trông theo cha mẹ cho đến khi khuất dạng mới thôi. Lúc ấy cha mẹ đều cất tiếng gào khóc thảm thiết, dõi theo đường mà đi. Khi cha mẹ ra đi cách một khoảng xa không nhìn thấy nhau được thì thái tử Tu-xà-đề, vì luyến mộ cha mẹ, mắt nhìn đăm đăm không rời, hồi lâu liền ngã xỉu ra đất. Hương vị của máu thịt tươi nơi thân thể của thái tử xông cả mười phương, các loài ruồi nhặng ngửi thấy, liền bâu lại, đậu khắp cả trên thân thể, để ăn hút, đau đớn nhức nhối, không thể nào kể xiết. Bấy giờ, thái tử thấy còn có chút ít thịt dư nơi thân mạng chưa hết, liền lập thệ nguyện: –Nguyện đời trước có điều gì oán ác, từ đây sẽ trừ sạch hết và từ ngày nay trở đi, sẽ không dám làm nữa. Nay tôi đem thân này để cúng dường cha mẹ tôi, nguyện cho cha mẹ tôi thường được mười một điều phúc đức: 1.Khi ngủ được an vui. 2.Khi thức cũng được an vui. 3.Không thấy ác mộng. 4.Chư Thiên thường ủng hộ. 5.Mọi người đều ái kính. 6.Không gặp phải những sự kiện tụng, liên can triều đình. 7.Không bị trộm cắp. 8.Không bị giặc giã. 9.Không bị mưu hại. 10.Không bị tiêu diệt. 11.Gặp việc gì, cũng đều được tốt lành. Và còn bao nhiêu những máu thịt sót lại nơi thân thể này, xin đem bố thí cho các loài ruồi muỗi… đều khiến cho được no đủ, khiến cho tôi đời sau được thành Phật, khi được thành Phật rồi sẽ đem thức ăn bằng giáo pháp, trừ trọng bệnh sinh tử đói khát cho tất cả chúng sinh. Khi thái tử Tu-xà-đề phát nguyện như thế rồi, trời đất bỗng phát khởi sáu thứ chấn động, mặt trời ẩn mất cả tinh quang, các loài cầm thú sợ hãi ruổi chạy tản mác khắp bốn phương, nước ở đại hải nổi sóng dữ dội, núi Tu-di khuynh đảo, dao động, mãi đến cõi trời Đao-lợi, cũng đều rung chuyển mạnh mẽ. Bấy giờ, vua Thích Đề-hoàn Nhân, liền đem chư Thiên ở Dục giới, đi xuống cõi Diêm-phù-đề, hóa làm những loài sư tử, hổ lang, trợn mắt, giậm chân, gào rống, chờn vờn nhảy nhót, như muốn lại vồ bắt để ăn thịt, thử xem thái tử có sợ hãi thoái tâm hay không. Thái tử Tu-xà-đề trông thấy các loài cầm thú ra oai, có vẻ rất dữ tợn, liền dùng lời nhỏ nhẹ, bảo: –Nếu các ngươi muốn ăn thịt ta, thì tùy ý mà ăn, chớ sao lại muốn làm ta sợ hãi như thế? Thiên đế Thích nói: –Ta không phải sư tử, hổ lang đâu, mà là Thiên đế Thích, muốn đến đây để thử ngươi vậy! Bấy giờ, thái tử thấy Thiên đế Thích, thì trong lòng rất vui mừng. Thiên đế Thích hỏi thái tử: –Nhân giả có thể bỏ được những việc khó bỏ. Nhân giả ngày nay đem cả thân thể xương thịt cúng dường cho cha mẹ, có những công đức như vậy là để nguyện sinh nơi cõi Trời, làm Ma vương, Phạm vương, Thiên vương, Nhân vương, hay Chuyển luân thánh vương? Tu-xà-đề trả lời Thiên đế Thích: –Tôi ngày nay chẳng nguyện sinh nơi cõi Trời, làm Ma vương, Phạm vương, Nhân vương, hay Chuyển luân thánh vương, mà tôi chỉ muốn cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, để độ thoát cho tất cả chúng sinh. Thiên đế Thích nói: –Ông thật là đại ngu! Đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, phải chịu cần khổ rất lâu, rồi sau mới thành. Ông nay làm sao lại có thể chịu đựng được những sự cần khổ ấy? Tu-xà-đề đáp: –Giả sử vòng sắt nung đỏ để ở trên đầu, nhưng trọn sẽ không vì những sự ấy, mà thoái chuyển đạo Vô thượng. Thiên đế Thích nói: –Nhân giả chỉ nói suông thì làm sao có thể tin chắc được? Tu-xà-đề liền lập thệ nguyện: –Nếu tôi nói dối Thiên đế Thích, thì thân thể tôi sẽ mãi mãi bị chia lìa, còn không như vậy, thì nguyện sẽ được bình phục như cũ, máu huyết trở lại trắng thành sữa. Thái tử phát nguyện vừa dứt lời, tức thì thân thể bỗng bình phục như cũ, máu huyết lại trở nên trắng như sữa, hình dung, thân tướng đẹp đẽ gấp bội lúc trước. Bấy giờ Thiên đế Thích liền khen ngợi: –Quý hóa thay! Quý hóa thay! Ta nay không thể bì kịp Nhân giả, Nhân giả quả là tinh tấn dũng mãnh, không bao lâu sẽ chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu khi chứng được đạo quả ấy, thì nguyện độ cho tôi trước. Khi đó, Thiên đế Thích ở trên hư không, liền ẩn chẳng hiện. Nói về vua và phu nhân đã đi tới được nước láng giềng. Lúc ấy, quốc vương nước kia liền ra rất xa để nghênh tiếp, cung cấp đầy đủ các thứ cần dùng xứng ý. Bấy giờ đại vương mới thuật rõ với vị quốc vương kia tất cả sự tình như trước: Nào là con tôi rất hiếu dưỡng, đem cắt cả thịt nơi thân thể để cúng dường cho cha mẹ… Quốc vương nước láng giềng kia nghe nói như vậy rồi, rất lấy làm cảm mến thái tử Tu-xà-đề: Hay bỏ được những việc khó bỏ, đem thân thể, huyết nhục cúng dường cho cha mẹ, hiếu dưỡng như thế thật là hiếm có! Vì cảm mến những đức hạnh từ hiếu như vậy, nên quốc vương kia tức thì phát khởi bốn đạo binh trở về cùng với đại vương để diệt trừ kẻ phản nghịch là đại thần La-hầu gian ác. Thế là, đại vương liền đem bốn binh, thuận đường trở về, đồng thời vua La-xà cùng với phu nhân cùng tìm đến chỗ thái tử Tu-xà-đề, nơi trước đây cha con đã từ biệt nhau, với một ý nghó: “Con ta đằng nào cũng đã chết rồi, nay ta sẽ thu nhặt hài cốt của con, đem về bản quốc”. Vì lòng thương con quá, nên vừa dõi theo đường tìm kiếm, vừa gào khóc rất thảm thiết. Nhưng bỗng từ xa trông thấy con, thân thể vẫn bình phục như trước, lại có phần đoan nghiêm, đẹp đẽ gấp bội lần, liền đến trước, bồng ẵm lấy con, trong lòng vừa thương vừa mừng, hỏi thái tử: –Con! Con vẫn còn sống! Thái tử Tu-xà-đề liền đem tất cả sự tình như trên kể cho cha mẹ nghe. Cha mẹ rất vui mừng, rồi cùng nhau dùng voi lớn làm phương tiện chuyên chở, trở về bản quốc. Vì thái tử Tu-xà-đề có phúc đức rất lớn, nên đánh lấy lại được nước và lập thái tử lên làm vua. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: –Phụ vương lúc bấy giờ, hiện nay là cha Ta, Duyệt-đầu-đàn; phu nhân lúc ấy, hiện nay là mẹ Ta, Ma-da phu nhân; còn thái tử Tu-xà-đề, nay chính là Ta, Thích-ca Mâu-ni Như Lai; còn Thiên đế Thích lúc đó, nay là ông A-nhã Kiều-trần-như này vậy. Khi Phật nói về sự hiếu dưỡng đối với cha mẹ ấy, trong chúng có hai mươi ức Bồ-tát, đều chứng được biện tài vô ngại, đem lại lợi ích cho tất cả. Lại có mười hai vạn Bồ-tát đều chứng được vô sinh pháp nhẫn. Lại có các vị Bồ-tát nhiều như những hạt vi trần ở khắp mười phương tới, đều chứng được Đà-la-ni môn. Lại có các vị Thanh văn, Duyên giác nhiều như số cát sông Hằng, như vi trần, đều lìa bỏ tâm Nhị thừa, hướng về Nhất thừa rốt ráo. Lại có các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nhiều như số vi trần, hoặc chứng được sơ quả, cho đến nhị quả. Lại có trăm ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có các chư Thiên, Long, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân, hoặc phát tâm Bồ-đề, cho đến phát tâm cầu đạo quả Thanh văn, Bích-chi-phật. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Bồ-tát vì tất cả chúng sinh, thực hành những khổ hạnh khó làm, hiếu dưỡng phụ mẫu, đem thân thể huyết nhục cung cấp cho cha mẹ, việc đó là như thế. Tất cả đại chúng, nghe Phật nói pháp, đều được những ích lợi thù thắng, vui mừng làm lễ Phật, rồi nhiễu quanh theo phía bên phải, lui trở ra. KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN <卷 id="32807803">QUYỂN 2 <卷 id="32807804">Phẩm 3: ĐỐI TRỊ Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng, cũng như vầng mặt trời chiếu sáng rực rỡ, che khuất cả các tinh cầu khác; cũng như đại long uốn khúc, liệng quanh nơi cõi thanh hư, huy hoàng xán lạn, uy quang chói lọi, sắc tướng khó ví dụ, trông đó thì mắt lóa; nghó đó thì ý loạn. Và cũng khác nào như ánh sáng của lửa con đom đóm, khi mặt trời mọc, liền ẩn khuất chẳng hiện; mặt trời, mặt trăng tuy có trăm ngàn ánh sáng, so với ánh sáng của Thiên đế Thích, cũng ví như một điểm mực đen; Thiên đế Thích tuy có ánh sáng thanh tịnh vi diệu, sánh với ánh sáng của vua Đại Phạm vương, cũng như sành sỏi sánh với ánh dạ quang của ngọc báu Ma-ni; Đại Phạm vương, tuy có trăm ngàn ánh sáng thanh tịnh vi diệu, sánh với ánh sáng của Như Lai, cũng khác nào như một điểm mực đen.Vì cớ sao? Vì ánh sáng tỏa tròn đến bảy thước của Đức Như Lai, soi chiếu khắp cả mười phương thế giới, tất cả chúng sinh ở trong đó, người nào gặp ánh được sáng ấy của Phật: người mù thì được trông thấy; người gù thì được ngay thẳng lại; người què quặt thì được tay chân lành lặn; người tà mê thì được thấy rõ con đường chân chánh sáng suốt. Tóm lại mà nói: mọi sự bất như ý, đều được như ý. Lúc ấy trong chúng hội, có bảy mươi vị Đại Bồ-tát từ tòa ngồi đứng dậy, đầu mặt lễ sát chân Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, rồi lui về một phía, đồng thanh nói ra trăm ngàn bài kệ, tán thán Đức Như Lai. Các vị Bồ-tát ấy tên là: Bồ-tát Bất Tư Nghị, Bồ-tát Ly Giác Âm, Bồ-tát Duy Niệm An, Bồ-tát Ly Cấu Xưng, Bồ-tát Vô Lượng Âm, Bồ-tát Đại Danh Văn, Bồ-tát Minh Bảo Kế, Bồ-tát Kiên Sư Tử, Bồ-tát Độc Bộ Thệ, Bồ-tát Xả Sở Niệm, Bồ-tát Cập Trí Tích, Bồ-tát Ý Thiện Trụ, Bồ-tát Vô Cực Tướng, Bồ-tát Tuệ Quang Diệu, Bồ-tát Tiêu Cường Ý, Bồ-tát Năng Ủng Hộ, Bồ-tát Chí Thành Anh, Bồ-tát Liên Hoa Giới, Bồ-tát Chúng Chư An, Bồ-tát Thánh Tuệ Nghiệp, Bồ-tát Vô Tư Nghị, Bồ-tát Tướng Công Huân, Bồ-tát Bảo Sự Nghiệp, Bồ-tát Tịnh Phạm Thí, Bồ-tát Xử Thiên Hoa, Bồ-tát Thiện Tư Duy, Bồ-tát Vô Hạn Pháp, Bồ-tát Danh Văn Ý, Bồ-tát Dó Biện Tích, Bồ-tát Tự Tại Môn, Bồ-tát Thập Chủng Lực, Bồ-tát Hữu Thập Lực, Bồ-tát Đại Thánh Mẫn, Bồ-tát Vô Sở Việt, Bồ-tát Du Tịch Nhiên, Bồ-tát Tại Ư Bỉ, Bồ-tát Vô Số Thiên, Bồ-tát Tu-di Quang, Bồ-tát Cực Trọng Tạng, Bồ-tát Nhân Siêu Việt, Bồ-tát Nhi Độc Bộ, Bồ-tát Uy Thần Thắng, Bồ-tát Đại Bộ Giới, Bồ-tát Dó Sơn Hộ, Bồ-tát Trì Tam Thế, Bồ-tát Hữu Công Huân, Bồ-tát Tuyên Danh Xưng, Bồ-tát Nhật Quang Minh, Bồ-tát Sư Tử Anh, Bồ-tát Thời Tiết Vương, Bồ-tát Sư Tử Tạng, Bồ-tát Thị Hiện Hữu, Bồ-tát Quang Viễn Chiếu, Bồ-tát Sơn Sư Tử, Bồ-tát Hữu Thủ Thí, Bồ-tát Mạc Năng Thắng, Bồ-tát Vi Tối Tràng, Bồ-tát Hỷ Duyệt Xưng, Bồ-tát Kiên Tinh Tấn, Bồ-tát Vô Tổn Giảm, Bồ-tát Hữu Danh Xưng, Bồ-tát Vô Khủng Bố, Bồ-tát Vô Trước Thiên, Bồ-tát Đại Minh Đăng, Bồ-tát Thế Quang Diệu, Bồ-tát Vi Diệu Âm, Bồ-tát Báo Công Huân, Bồ-tát Trừ Ám Minh, Bồ-tát Vô Đẳng Luân… đều ở trước Phật phát thệ nguyện: –Tất cả chúng con, sau khi Đức Thế Tôn diệt độ, xin dốc hộ trì Chánh pháp, lưu truyền ở khắp mười phương thế giới, khiến không đoạn tuyệt. Vì cớ sao? Vì chúng con ngày nay, được trông thấy sắc tướng nơi ánh sáng vi diệu của Đức Như Lai, không thể lấy tâm nghó miệng bàn được, ở trong ánh sáng ấy, đều được nghe Phật pháp, thật là chẳng thể nghó bàn, sau khi nghe pháp ấy rồi vónh viễn xa lìa những phiền não chướng trong nhiều kiếp, thân tâm trong sáng, rực rỡ như thiên kim và tất cả muôn loài cũng được nhờ ánh sáng soi chiếu ấy. Chúng con tự suy nghó về những công đức lợi lạc như vậy, nên đối với Đức Như Lai sinh tưởng như bậc Đại sư; sinh tưởng như bậc Đại từ phụ, thường nhớ nghó đến ân đức của Phật. Vì cớ sao? Chúng con được nghe Chánh pháp, không bao lâu sẽ được thành Phật, ngồi nơi đạo tràng, chuyển bánh xe chánh pháp, độ thoát cho tất cả chúng sinh, đều khiến cho chúng sinh được nghe chánh pháp, giải thoát sinh tử, chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ Đức Thích-ca Như Lai, bảo tất cả đại chúng: –Bảy mươi vị Bồ-tát Ma-ha-tát ấy, ở đời quá khứ lâu xa trong số vô lượng trăm ngàn vạn ức vi trần a-tăng-kỳ kiếp, đã từng cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức vi trần số chư Phật, nhiều như cát sông Hằng, ở chỗ chư Phật, thường tu phạm hạnh, cúng dường chư Phật, tâm không biết mỏi mệt, theo tâm Từ tu thân, khéo hộ trì Phật pháp, không bỏ tâm đại bi, thường ở trong mười phương, làm những việc lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nếu có chúng sinh nào, tới khi mệnh chung, được nghe tên hiệu của một vị Bồ-tát ấy, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến bảy mươi vị, xưng danh quy mệnh, người ấy sau khi mệnh chung, sẽ được vãng sinh về cõi nước của Phật, hóa sinh trong hoa sen, xa lìa dâm dục, không phải ở trong bào thai nhơ uế bất tịnh, thân thể của người ấy rất là trong sạch thơm tho mầu nhiệm, được mọi người đều cung kính yêu mến; vì được mọi người cung kính yêu mến, mà lòng sinh ra những sự hoan hỷ, vì hoan hỷ liền hay phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên đối với tất cả chúng sinh, hay khởi đại bi tâm; sau khi đã phát tâm từ bi rồi, kế sinh tâm làm những việc lợi ích cho chúng sinh, sinh tâm làm lợi ích cho chúng sinh rồi, lại phát tâm không bao giờ bỏ chúng sinh. Nhân tâm làm lợi ích cho chúng sinh, tâm tự lợi lợi tha, mà diệt trừ được tâm chướng ngại, đạt tâm tịch tónh, không phiền não hay gần gũi bạn lành, thường sinh tâm cung kính, tâm ý chuyên chú nghe pháp, nhớ giữ không quên, tâm suy nghó về nghóa lý vi diệu, tâm nghe ít mà hiểu nhiều, tâm không nguyện nghe nhiều mà không hiểu nghóa. Kế tin tự tâm là Chân như thực tướng; tin tự tâm là Như thực tướng nghóa. Khi đã tin tự tâm là Như thực tướng nghóa, kế sinh tâm Như thuyết tu hành; do sinh tâm Như thuyết tu hành rồi, kế sinh tâm không thoái chuyển, do sinh tâm không thoái chuyển, nên đối với chúng sinh, liền sinh những tâm đối trị: “Như tôi không muốn chết, tất cả ba cõi, hai mươi lăm nẻo sinh tử, loài có hình, không hình, loài bốn chân, nhiều chân, mãi đến loài bé nhỏ như loài kiến… phàm loài nào có tánh mạng đều không muốn chết như tôi.” Cho nên Bồ-tát, dù phải tan thân mất mạng, trọn không cướp đoạt thân mạng của kẻ khác. “Như tôi có tiền của, lụa là, y phục, chăn đệm, thức ăn uống, voi, ngựa, xe cộ, quốc thành, vợ con, thân thể tay chân, tôi thường cúng dường ủng hộ, nhưng tôi không muốn người khác xâm chiếm của tôi, tất cả chúng sinh cũng lại như thế.” Vì thế, Bồ-tát cho dù phải tan thân mất mạng, đối với y phục, của cải, thức ăn uống của chúng sinh, trọn không sinh tâm cướp đoạt. “Như tôi không muốn người khác dụ dỗ cướp đoạt chị em, thê thiếp có nhan sắc của tôi, tất cả chúng sinh cũng lại như thế”, cho nên Bồ-tát dù phải tan thân mất mạng, quyết không sinh ý nghó tà vạy, khởi tâm nhiễm ô đối với sắc đẹp của kẻ khác, phương chi còn làm những sự phạm dâm gian ác. “Như tôi không đối trước mặt thì khen ngợi, sau lưng thì chê bai, nói lưỡi đôi chiều, nói ác khẩu, để gia hại tôi, tất cả chúng sinh cũng lại như thế”, cho nên nếu Bồ-tát phải tan thân mất mạng, cũng trọn không nói dối, nói lưỡi đôi chiều, gây sự rối loạn giữa kẻ kia người này. “Như tôi không muốn bị roi gậy đánh đập tra khảo, tất cả chúng sinh cũng lại như thế”, vì thế Bồ-tát cho đến phải tan thân mất mạng, trọn không dùng roi gậy đánh đập chúng sinh. “Như tôi không muốn bị những cảnh khổ não: gông cùm, xiềng xích, trói buộc, tất cả chúng sinh cũng lại như thế”, cho nên Bồ-tát cho đến phải tan thân mất mạng, cũng trọn không dùng gông cùm, xiềng xích để trói buộc chúng sinh. “Như tôi không muốn người khác dùng sức mạnh uy thế, bức hiếp đè nén, không cho tôi được tự do trình bày sự thanh bạch của mình, tất cả chúng sinh cũng lại như thế”, vậy nên Bồ-tát dù phải tan thân mất mạng, trọn không đem những sự phi lý, để gia hại chúng sinh. “Như tôi được người cúng dường tôn trọng tán thán, khiến tôi vui mừng, tôi cũng sẽ thường bố thí cho chúng sinh: y phục, thức ăn uống, đồ nằm ngồi, thuốc thang và tất cả những thứ làm cho chúng sinh được an vui. Nếu tôi làm đại sự, hoặc Phật sự, Pháp sự, Tăng sự, nếu vì trí lực có hạn, không làm thế nào khiến thành tựu được, sinh ra lo buồn khổ não, nếu người có trí thấy tôi như vậy, biết rằng vì tôi kém phúc đức, nên không thể khiến cho việc ấy thành tựu được, liền bảo tôi: ‘Nếu ông cần dùng điều gì, tôi sẽ xin cung cấp, khiến ông được vừa lòng, để hoàn thành công việc ấy’. Tôi nghe lời nói đó thì lòng sinh vui mừng, cho nên tôi cũng sẽ thường khuyến hóa giúp đỡ mọi người làm việc thiện, lợi ích cho chúng sinh.” “Như tôi bị nhà vua, giặc cướp, nước, lửa, quan lại bức bách, trói buộc giam cầm, lòng sinh sầu não. Người có trí tuệ, thấy tôi gặp phải những sự khổ nạn như vậy, liền đến chỗ tôi, khéo léo khuyên nhủ: ‘Ông không nên sầu khổ, tôi sẽ vì ông, xin với nhà vua, hay các quan đại thần, hoặc cung cấp của cải, hoặc dùng các phương tiện khác khiến cho ông được giải thoát, không phải chịu những sự khổ nạn, suy não đó nữa’. Tôi nghe lời nói ấy, lòng sinh vui mừng. Vì thế, tôi thường siêng năng học hỏi về các ngành nghề kỹ xảo, đủ các tài năng xuất chúng như: Âm nhạc, ca múa, thiên văn, địa lý, toán số, chú thuật, học thuốc, lái xe, cỡi voi, cỡi ngựa, biết sử dụng áo giáp; cung tên, xuất trận, nhập trận, võ công hiển hách. Vì tôi có những ngành nghề đủ loại như vậy, nên tất cả mọi người: hoặc vua, hoặc đại thần… không dám trái nghịch ý tôi và tôi lại có đủ mọi thứ của cải giàu sang như: y phục, thức ăn uống, vàng ngọc, vòng xuyến, ngọc lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, châu báu, mai khôi, ngọc Ma-ni, voi, ngựa, xe cộ, kiệu cáng, đứa ở tôi đòi, cung nhân mỹ nữ, suối chảy ao tắm, đài quán làm bằng bảy báu, thứ thứ vi diệu như vậy, vô lượng trăm ngàn.” Bồ-tát tuy có mọi thứ uy vũ, ngành nghề xuất chúng, trăm ngàn kho báu, voi ngựa xe cộ, vô lượng mỹ nữ, đài quán thắng diệu, suối chảy ao tắm, tất cả năm dục, xứng ý như vậy, nhưng tâm không hề tham đắm, mà thường ít dục biết đủ, ưa thích những chỗ vắng lặng nơi núi rừng, tu tập thiền định, tuy cùng với chúng sinh, hòa quang đồng trần, có những tài sản xuất nhập, lợi tức sinh kế, nhưng trọn không làm điều gì ác, chỉ làm những việc lợi ích cho chúng sinh. Nếu có người nghèo cùng khổ não, tới xin Bồ-tát những thứ cần dùng, Bồ-tát đều cung cấp khiến được thỏa mãn như ý muốn của họ. Nếu Bồ-tát thấy có chúng sinh, ưa muốn cầu Phật pháp, lại tới chỗ Bồ-tát, thân cận cúng dường, cung phụng hầu hạ, như rửa chân, xoa bóp, giặt giũ, hong phơi, đưa cành dương, nước rửa, phất trần, trải giường tòa, cuốn gấp chăn gối, mỗi đêm ba thời, chập tối, giữa đêm, gần sáng, cung cấp đèn nến, bữa ăn sáng, trưa, chiều, dâng các món ăn như: Đát-bát-na, Bồ-xà-ni, Khư-đà-ni và các thứ nước uống như: nước hưng lợi sư, nước trái phức-lặc-xa, bồ đào, hắc thạch mật. Thừa sự như vậy, từ bảy ngày cho đến sáu mươi ba ngày, vì muốn cầu thỉnh Bồ-tát xin được nghe Phật pháp. Bồ-tát bấy giờ, tuy thấy người ấy cung cấp như vậy, nhưng tâm vẫn không vui mừng. Vì cớ sao? Vì Bồ-tát ở trong thời gian lâu xa, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, dốc cầu Phật pháp là vì tất cả chúng sinh, với một bản hoài tối thượng: tâm không tăng giảm, tâm từ bi, tâm trụ nơi bình đẳng. Hoặc khi Bồ-tát làm Chuyển luân thánh vương, thường đem pháp mười nghiệp thiện, dạy bảo cho tất cả chúng sinh, ai nấy đều theo ý của Bồ-tát, hoan hỷ phụng hành, sau khi mệnh chung, được sinh lên cõi trời, hưởng thụ những an lạc nhiệm mầu của ngũ dục, tôn nghiêm cao quý, vừa tâm thích ý, đứng ngồi ở nơi Thiên cung, ngựa xe dạo chơi ở thượng uyển, kỹ nhạc hân hoan, ăn uống vui vẻ. Nhưng vô thường chợt tới, già bệnh chết chóc, khiến trai gái già trẻ, sầu khổ ão não, cất tiếng kêu gào, đập ngực, bứt tóc, ăn uống không biết ngon, tâm ý cuồng loạn, vất vả. Người chết được chở trên xe, họ hàng khóc lóc tiễn đưa, đến khi mai táng xong rồi, thân thuộc họ hàng dìu dắt nhau về nhà, vì quá đau xót sầu khổ, nên có người hoặc bị mang bệnh, hoặc sinh ra điên cuồng, hoặc có khi bị chết. Người sống đã bị tổn hại lớn như thế, mà người chết cũng không lợi ích gì. Bấy giờ, Chuyển luân thánh vương, cùng với những người tháp tùng đi tuần hành khắp trong quốc giới, xem thấy các chúng sinh, phải chịu những sự khổ não như vậy, trong lòng rất thương xót, thốt ra lời nói: –Ta nay làm vua, cai trị quốc giới, tuy rằng đem pháp mười nghiệp thiện để nhiếp hóa tất cả chúng sinh, nên được hưởng những quả báo vi diệu của ngũ dục như vậy, nhưng vẫn không thoát khỏi được cảnh thống khổ về sinh, lão, bệnh, tử, vô thường hủy hoại, nên biết ta tuy dùng chánh pháp trị nước, cũng thành ra vô ích đối với mọi người, nếu như đã vô ích đối với mọi người như vậy, thì làm sao được gọi là Chuyển luân thánh vương? Làm sao được gọi là Đại từ phụ? Làm sao được gọi là Đại y vương? Làm sao được gọi là Đại đạo sư, vì đã là Đại đạo sư thì phải dẫn dắt chúng sinh đi theo con đường chân chánh, chỉ bày lối Niết-bàn giải thoát, khiến cho chúng sinh chứng được đạo Vô vi, thường được yên vui. Chúng ta ngày nay thực là danh chẳng xứng với hành. Ví như có người bị khát nước gần chết, chạy khắp Đông, Tây, tìm cầu nước uống, xa xa trông thấy một cái giếng khô, lòng sinh ra vui mừng, rồi tự nghó: “Thân ta ngày nay tưởng chừng phải chết, mà được sống lại. Vì cớ sao? Nếu như không gặp được nước, thì quyết không lâu sẽ bị chết khát, nay gặp được một cái giếng tốt như thế này, ắt sẽ có kỳ vọng được nước trong mát để uống, khỏi phải chết khát.” Nghó như vậy rồi, liền chạy đến bờ giếng, cởi bỏ áo, treo ở một chỗ, rồi xuống giếng lấy nước, nhưng không được nước, lại chỉ thấy những loài rắn độc, thạch sùng, bò cạp, cuốn chiếu, sành sỏi, gai gốc và các thứ cỏ tạp. Bấy giờ người khát nước kia trở nên thất vọng, đã không được nước uống, lại gặp nhằm những loài trùng độc phun nọc dữ, toan thoát ra khỏi giếng, nhưng vì bờ giếng lở nát, nên rớt xuống tới đáy, không khác nào ở trên núi cao trượt té xuống dưới đất. Giếng ấy sâu bằng một đường tên bắn, đã không có thang bậc, lại không có cả dây rợ gậy gộc, dầu có cố sức nhảy lên, cũng không thể lên nổi, kiệt cả hơi sức, rồi lại hoàn rớt xuống giếng, nên bị các loài rắn độc rỉa ăn, trong lúc tánh mệnh chưa đoạn tuyệt hẳn, liền nói: –Nếu ta biết trước, giếng này không có nước, mắt còn không muốn nhìn thấy, huống là tới đây để lấy nước, ngày nay mắc phải khổ độc như thế, là tại cái giếng này làm ta bị lầm vậy. Lúc ấy, Chuyển luân thánh vương thấy các hạng dân chúng, nhà cửa trai gái, ân ái chia ly, phải chịu khổ não, liền nói: –Thân ta ngày nay, ví như giếng không có nước, tuy có cái tên gọi là giếng, nhưng không có nước. Ta tuy dùng chánh pháp trị nước, khiến cho muôn dân có chỗ hướng về, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại lợi ích cho ai, đến nỗi dân chúng phải tan thân mất mạng, khổ não như thế. Ta nay tuy ở ngôi Chuyển luân thánh vương, bảy báu đầy đủ, dùng pháp mười thiện dạy bảo, dùng chánh pháp trị nước, khiến cho các chúng sinh được sinh nơi cõi người, cõi trời, thọ hưởng năm dục, an lạc thắng diệu, nhưng vẫn không thoát khỏi được những cảnh sinh, già, bệnh, chết, ân ái phân ly, oán ghét gặp gỡ, đau thương khổ não, khóc lóc thảm thiết, là lỗi tại ta, chứ đâu phải là lỗi tại chúng sinh! Vì sao? Chánh vì ta không có pháp xuất thế gian, để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tuy chúng sinh theo ta hỏi han lãnh thọ pháp thiện, mong được yên vui, mà thực không thể vượt qua được bể khổ sinh tử. Chuyển luân thánh vương lại tự nghó: Thân của ta đây, ngày nay ví như người không có trí tuệ, là người thí chủ đại ngu si. Khi ấy, người thí chủ gặp lúc trời làm đại hạn, bảy năm không mưa, cây cối bị khô héo hết, thời buổi đói kém, lúa gạo mắc mỏ, muôn dân đói khát, chỉ ăn rau thay cơm, uống máu ăn thịt, tàn hại nhau, nhưng sự thực thì đối với nhau họ có tội tình gì đâu! Hoặc đến nỗi cha ăn thịt con, hoặc con ăn thịt cha mẹ; anh em, vợ chồng con cái, ăn nuốt lẫn nhau. Lúc đó, người Đại thí chủ dạo đi xem xét, trông thấy chúng sinh, đói khát tiều tụy, gầy còm run rẩy, thân thể đen xấu, trên vai của các người đó, hoặc thấy mang gánh thuần là xác người chết, hoặc là đầu, tay, lóng tay, bắp tay, xương sống, xương sườn, bả vai, đầu gối, ngón chân, hoặc gan, mật, ruột non, ruột già. Đại thí chủ liền hỏi nhỏ: –Những vật mà ông mang gánh đó là vật gì? Người ấy đáp: –Những vật mà tôi gánh thuần là đầu, tay, cánh tay, lóng đốt… của người chết. Đại thí chủ hỏi: –Ngươi gánh những thứ… của người chết ấy để làm gì? Người ấy thưa: –Ông không biết sao? Trời làm đại hạn, thời buổi đói kém, thóc gạo mắc mỏ, muôn loài đói khát, ăn nuốt lẫn nhau, những vật mà tôi gánh đó, chính là thức ăn của tôi đấy. Bấy giờ, thí chủ nghe lời nói ấy rồi, trong lòng rất kinh hãi, dựng cả chân lông, ngã ngất ra đất, phải dùng nước lạnh rảy lên mặt, hồi lâu mới tỉnh. Rồi lại hỏi: –Tuy nhiên, đó là thức ăn của ông, nhưng là thịt của ai vậy? Người bị đói kia nghe lời hỏi ấy, liền cất tiếng òa khóc, đau đớn như đứt ruột, bảo với người thí chủ: –Thực là đau đớn! Quái lạ thay! Quái lạ thay! Không biết nói sao cho xiết! Đại thí chủ! Tôi nay tình thực thưa cho ông được rõ: những thứ thịt người mà tôi gánh đó có thể nói hoặc là cha, mẹ, hoặc là vợ con, anh em hay là họ hàng cốt nhục. Lúc đó, các người bị đói khát, ai nấy đều đem lòng thành thực tự nói nguyên nhân của những sự việc với Đại thí chủ, mà không có việc gì khác hơn là ngoài việc vì bị đói khát, cho nên họ mới phải ăn nuốt lẫn nhau như vậy. Bấy giờ, Đại thí chủ nghe nói như thế, bùi ngùi than thở, bảo với mọi người: –Các ngươi ngày nay không nên ăn thịt lẫn nhau, nếu cần dùng quần áo, thức ăn uống, thuốc thang… bảy ngày nữa, hãy tụ tập tất cả ở tại nhà ta, ta sẽ tùy theo sự cần dùng của các vị mà cấp cho tất cả mọi thứ như: quần áo, thức ăn uống, thuốc thang khi bệnh hoạn, thỏa mãn với ý muốn của mọi người. Ai nấy nghe rồi, lòng sinh vui mừng, ca ngợi: –Tốt lắm! Tốt lắm! Thực là một sự việc chưa từng có! Khi ấy thí chủ, trở về tới nhà, gọi vợ con và tôi tớ, tất cả đều hội họp, rồi vị thí chủ ở trước đại chúng, nét mặt vui vẻ, nói lời dịu dàng, bảo ban vợ con và các tôi tớ, nên phải để lòng nghe mình nói: –Các người có biết chăng! Hiện nay gặp lúc trời làm đại hạn, thời buổi đói kém, dân chúng chết chóc vô số, các người ở tại nhà này, kho tàng đầy dẫy, thóc gạo chứa chan, cần phải cùng nhau kịp thời gieo trồng ruộng phúc. Vợ con nghe rồi cùng khen ngợi: –Tốt lắm! Tốt lắm! Chúng tôi rất lấy làm sung sướng và xin vâng theo lời của thí chủ, thân mạng của chúng tôi đây còn chẳng tiếc, huống chi là kho tàng của cải, thức ăn uống. Bấy giờ, thí chủ lòng sinh vui mừng, nói: –Tốt lắm! Tốt lắm! Các ngươi thực là những người bạn đạo Vô thượng của ta! Các ngươi, mỗi người nên tự phân chia công việc tùy theo đó mà làm, nên làm ngay và làm mau, bảy ngày nữa quyết phải làm cho xong. Lúc ấy thí chủ phân chia các công việc đã xong xuôi, liền đi ra ngoài, chốn chốn xem xét, với ý định tìm một khoảng đất nào bằng phẳng rộng rãi, để làm nơi lập hội đàn bố thí. Sau khi đã tìm được chỗ đất thanh tịnh như ý muốn, ở đấy các thứ cát sỏi, gốc cây, gai gốc, đã được trừ sạch, các thứ giường tòa, chăn đệm trải bày la liệt, để làm chỗ cho đại chúng ngồi tươm tất. Năm trăm thớt voi, vận tải các thứ đồ ăn uống tới hội đàn bố thí. Các thứ đồ ăn uống ấy chất lên cao như núi, các thứ sữa, dầu mỡ, bánh thịt nhiều như nước ao, các thứ cỗ bàn yến tiệc, trăm vị đầy đủ và cả các thứ y phục, vòng ngọc, trâm xuyến, voi ngựa, bảy báu, không thiếu một thứ gì, đều được xếp đặt hết sức trang nghiêm, hoàn bị. Sau bảy ngày, khi mặt trời vừa mọc, cùng suốt thời gian ấy, khua chuông đánh trống, thổi tù và, cao tiếng xướng: –Tất cả đại chúng đều hội họp ở nơi hội đàn của Đại thí chủ đây. Bấy giờ, mọi người nghe tiếng xướng ấy, lòng sinh vui mừng, khác nào như ngưỡng mộ Hiền thánh. Sau khi nghe tiếng xướng ấy rồi, liền tìm đến đại hội đàn bố thí, tùy ý mà lấy: nào là y phục, chăn đệm, thức ăn uống, vòng ngọc, trâm xuyến, trăm thứ thuốc thang, voi ngựa, bảy báu, tùy theo sở thích, ai muốn lấy thứ gì thì tùy ý lựa chọn. Đại thí chủ nhìn thấy mọi người đều đã lãnh hết các thứ của cải đem đi rồi, lòng ông rất vui mừng, liền trở về nhà, để cùng với vợ con thọ hưởng những sự sung sướng thỏa thích của cảnh ngũ dục. Sau thời gian bố thí bảy ngày, bỗng nghe thấy người ngoài nói: –Những người trước đây nhận các thứ y phục, chăn đệm, thức ăn uống của thí chủ ấy, đều bị trúng độc mà chết, hoặc giả có người nào chưa chết, họ đều nói: “Lạ thay! Lạ thay! Đại thí chủ ấy có lòng thương xót, cung cấp những thứ cần dùng cho mọi người nào y phục, chăn đệm, thức ăn uống, tuy nhiên hiện thời, đã được qua khỏi sự đói khát, tánh mạng được toàn vẹn, nhưng sau đó vài ngày, đều bị trúng độc mà chết hết cả.” Đại thí chủ nghe thấy nói như vậy, sinh ra buồn bực áo não, hỏi vợ con: –Tại sao các người, khi nấu nướng các thức ăn uống, lại để cho thuốc độc nhiễm vào trong thức ăn, làm cho mọi người ăn nhằm mà bị chết như thế? Vợ con và các tôi tớ trong nhà đều thưa: –Thưa không phải như vậy đâu. –Nếu không như vậy, thì thuốc độc từ đâu mà có đây? Tất cả đều đáp lại: –Thưa chúng tôi không được rõ. Khi ấy, thí chủ liền vào trong nhà, lần lượt đi kiểm tra lại, thì thấy có một cái giếng nước đậy nắp, liền hỏi mọi người: –Đây là cái giếng gì đây? Gia nhân đáp: –Đây là cái giếng nước, trước đây khi thí chủ còn bé, thí chủ có nuôi ba con rắn độc ở trong đó, chính đây là chỗ ở của ba con rắn độc ấy, nên nước cũng là nước độc, nếu người nào uống lầm phải, đều bị chết mất mạng. Thí chủ xem xét rồi, liền hỏi các người tôi tớ: –Trước đây các ngươi có dùng nước nơi này để nấu thức ăn uống không? Các người tôi tớ nói: –Thưa vì công việc lúc ấy quá gấp rút, cho nên chúng tôi có gánh nước ở trong giếng này để nấu thức ăn và dùng làm nước uống. Đại thí chủ nói: –Lạ thay! Lạ thay! Ta thực là những kẻ ngu si không có trí tuệ, tại sao ta lại nuôi những loài rắn độc ở trong cái giếng này, để gây thành tai họa như thế? Rồi ông bảo cùng vợ con: –Phải lấp ngay cái giếng này đi và ba con rắn độc ở trong đó, các ngươi sẽ vì ta, lấy lửa đốt chúng cho chết hết, để tránh những tai họa về sau này. Thí chủ đã diệt trừ hết những thứ độc hại ở nơi giếng xong rồi, ông liền ra ngoài quan sát, thấy những người lãnh nhận sưÏ bố thí của ông, đều đồng thanh nói: –Ông thí chủ này đã cho chúng tôi thuốc độc, khiến chúng tôi có người đến nỗi phải tan thân mất mạng, nếu như chúng tôi biết trước trong những món ăn có chất độc như thế, quyết sẽ không bao giờ dám ăn cả. Vị Đại thí chủ kia, nghe mọi người nói như thế, trong lòng vô cùng áo não. Cũng vậy, Chuyển luân thánh vương, tuy dùng mười điều thiện để dạy bảo, khiến cho chúng sinh, được sinh nơi cõi người, cõi trời, dẫu được thọ hưởng năm thứ dục lạc thắng diệu, sung sướng hết mực, nhưng vẫn chưa thoát khỏi được cảnh sinh, già, bệnh chết. Bấy giờ, Chuyển luân thánh vương liền phát nguyện: –Ta nay quyết phải cầu Phật pháp vô thượng, là pháp xuất thế gian, khiến cho các chúng sinh, tán thán đọc tụng tu tập, để được xa lìa sinh tử, đạt đến cảnh Niết-bàn, giải thoát yên vui. Lúc đó, Chuyển luân thánh vương, vì dốc cầu Phật pháp liền cho truyền lệnh khắp cõi Diêm-phù-đề: Ai hiểu biết Phật pháp thì Đại Chuyển luân thánh vương xin cầu được học tập. Nhưng tất cả những nơi được lệnh của vua truyền đó đều nói là không có ai cả. Cuối cùng đến một nước nhỏ kia, có một người Bà-la-môn, là người hiểu biết Phật pháp. Khi đó, sứ giả liền đi ngay tới chỗ vị Bà-la-môn kia, hỏi: –Đại đức có hiểu biết về Phật pháp chăng? Đáp: –Hiểu! Sứ giả nghe đáp thế thì đầu mặt lễ xuống chân, thưa cùng với Đại sư: –Đại Chuyển luân thánh vương muốn thỉnh Đại sư chỉ dạy về Phật pháp cho nhà vua. Kính xin Đại sư thương xót nhận lời, tới chỗ Chuyển luân thánh vương kia để truyền dạy. Khi đó Chuyển luân thánh vương liền ra ngoài hoàng thành để nghinh đón, đầu mặt lễ xuống chân, hỏi han Đại sư đi đường có mệt nhọc lắm không? Rồi mới mời vào trong cung, ở trên chánh điện, Vua mời Đại sư ngồi nơi ngự tòa của mình. Người Bà-la-môn liền lên ngự tòa, ngồi kiết già. Đại vương thấy Đại sư đã ngồi xong và những thứ cần dùng đã được cung cấp đâu vào đấy rồi, vua chắp tay hướng về người Bà-la-môn, thưa: –Thưa Đại sư, ngài có hiểu biết về Phật pháp không? Người Bà-la-môn đáp: –Ta hiểu biết Phật pháp. Đại vương thưa: –Thưa Đại sư, xin người hãy vì tôi giải nói Phật pháp. Người Bà-la-môn nói: –Vua là người rất ngu si! Trước đây cầu học Phật pháp, ta đã phải chịu không biết bao nhiêu là sự cần khổ mới thành được. Nay đại vương đâu có thể nào lại muốn nghe một cách dễ dàng như thế? Đại vương thưa: –Vậy Đại sư muốn cần dùng những vật gì? Người Bà-la-môn nói: –Đại vương phải cúng dường cho ta. Vua nói: –Chẳng hay những thứ cúng dường ấy là những vật gì? Y phục, chăn đệm, thức ăn uống hay vàng bạc, châu báu? Người Bà-la-môn đáp: –Ta không dùng những thứ cúng dường ấy. Vua hỏi: –Nếu Đại sư không dùng những thứ cúng dường như thế, hay là Đại sư cần dùng voi, ngựa, xe cộ? Nước, thành, vợ con? Hay âm nhạc, ca hát? Người Bà-la-môn nói: –Ta cũng không dùng những thứ cúng dường như vậy, mà ta chỉ muốn nhà vua khoét trên thân thể của mình thành một ngàn cái lỗ, rồi đổ dầu đốt làm đèn đuốc để cúng dường cho ta, thì ta sẽ giảng nói Phật pháp cho, nếu không làm được như thế, ta sẽ bỏ đi ngay. Vua chưa kịp trả lời, thì người Bà-la-môn đã bước ra khỏi tòa ngồi, toan bỏ đi. Đại vương liền giữ lại và thưa: –Xin Đại sư hãy vui lòng ở lại đây trong giây lát, nay tôi vì trí tuệ nông cạn, công đức mỏng manh, xin cho tôi được suy nghó trong giây lát, tôi sẽ vâng lời cúng dường như lời Đại sư đã dạy. Chuyển luân thánh vương liền tự suy nghó: –Ta từ đời vô thỉ lại đây, đã bỏ vô số thân mạng, nhưng chưa từng có lần nào vì pháp bỏ mình. Thân này của ta rồi một ngày kia cũng sẽ phải hoại diệt, đâu có thể còn mãi được, ngày nay chính là lúc ta cần phải đem thân mạng này để cúng dường nhằm cầu pháp. Suy nghó như thế rồi, vua liền thưa Đại sư: –Thưa Đại sư, tôi sẽ xin làm ngay việc cúng dường như lời đã dạy bảo. Lúc ấy, đại vương liền vào trong cung, bảo với các phu nhân: –Kể từ đây ta sẽ vónh biệt các phu nhân! Các phu nhân nghe vua nói như thế, trong lòng rất kinh hãi, dựng cả chân lông, mà chẳng biết nguyên do tại sao lại có sự tình như thếù! Các phu nhân nhỏ nhẹ nói với vua: –Vua định sẽ đi đâu? Vua nói: –Thân ta ngày nay, ta muốn sẽ khoét làm một ngàn ngọn đèn để cúng dường Đại sư. Các phu nhân nghe vua nói như vậy liền vật vã ra đất, cất tiếng kêu gào, mê mẩn, hồi lâu mới tỉnh, rồi tâu với vua: –Tâu đại vương, ở đời không gì quý trọng bằng thân mạng, người ta cung phụng nuông chiều nó, tùy thời dưỡng, mà còn e chưa được hài lòng, nay vì lẽ gì mà vua lại hủy hoại ngọc thể như vậy? Vua là bậc trí tuệ mà in tuồng như kẻ điên rồ, lại như có ma quỷ gì ám hại? Vua nói: –Không phải như vậy đâu! –Nếu không phải như vậy thì sao vua lại chuốc lấy những sự khổ não như thế, để cúng dường người Bà-la-môn? Vua bảo các phu nhân: –Nay ta sở dó làm như thế là muốn vì tất cả chúng sinh mà cầu Phật pháp. Các phu nhân nói: –Nếu vua nói là vì tất cả chúng sinh, ngày nay tại sao lại chỉ thấy có mỗi một mình đại vương xả bỏ thân mạng? Vua bảo các phu nhân: –Thiên hạ ân ái đều sẽ phải biệt ly, vì thế ta nay đem thân mạng này để cúng dường, là ta muốn vì các người và tất cả chúng sinh ở trong nhà tối, đốt lên một ngọn đèn lớn trí tuệ, soi sáng giữa đêm trường sinh tử, vô minh tối tăm cho các người, khiến cho các người dứt trừ được cái họa khổ về sinh tử trong nhiều đời nhiều kiếp, vượt qua mọi chướng nạn, đến được cảnh Niết-bàn an lạc. Các người tại sao lại làm trái ngược với ý định của ta? Lúc ấy, các phu nhân nghe vua nói rồi, đều lặng thinh không dám đối đáp nữa, mà trong lòng thì rất sầu não, cất tiếng gào khóc, nức nở, tự bứt tóc, cào mặt, lại nói: –Đám chúng ta vì ít phúc, cho nên nay mất chỗ nương cậy. Vua có năm trăm thái tử, thảy đều đoan nghiêm, đẹp đẽ, thông minh, trí tuệ, nhân tướng đầy đủ, nên được vua rất yêu quý, chẳng khác nào con ngươi nơi mắt. Bấy giờ, đại vương bảo các con: –Ngày nay ta muốn làm việc cúng dường, ta e thân mạng này của ta không biết có qua khỏi được chăng, hay sẽ phải cách biệt các con, nếu thế thì cõi nước này, theo vương pháp, việc trị nước đã sẽ trao cho người con lớn nhất của ta. Các thái tử nghe vua cha nói như thế, thì cả tứ chi, gân cốt, mạch máu như muốn bứt ra, giống như người bị nghẹn không thể nuốt vào, lại chẳng thể khạc ra, rất đau đớn, nghẹn ngào tâu vua: –Vua cha ngày nay sao lại nỡ bỏ chúng con bị côi cút? Các thái tử nói thế rồi, người thì ôm lấy cổ của vua cha, hoặc cầm lấy tay chân, cất tiếng khóc lóc bi thảm: –Lạ thay! Lạ thay! Làm sao ngày nay chúng tôi lại bị mất sự che chở vónh viễn như thế này! Đại vương liền khuyên bảo các con: –Thiên hạ ân ái đều phải có lúc ly biệt. Các con tâu vua cha: –Thưa cha, tuy cha dạy bảo như vậy, nhưng vì tâm tình luyến mộ cha, chúng con làm sao có thể bỏ được! Đại vương ngày nay xin ban cho chúng con một điều sở nguyện là: chúng con xin đem thân mạng này dâng lên đại vương, để đại vương cúng dường cho người Bà-la-môn. Vua nói: –Các con còn trẻ, chưa thể biết được, chưa thể làm được những sự cúng dường ấy, như ta ngày nay đã thỉnh Đại sư từ phương xa tới đây, ta đã hứa cúng dường người, các con không được làm trái lời của ta. Phàm là người con có hiếu, tất nhiên không được làm trái ý của cha mẹ, tại sao ngày nay các con lại trái ý ta? Các thái tử nghe lời đó rồi, đều cất tiếng kêu gào, kinh động cả đến các vị thần kỳ và gieo mình xuống đất như núi Thái nghiêng đổ. Bấy giờ, đại vương lại từ biệt tất cả các vua nơi các tiểu quốc, rồi trở lại cung, đến trước chỗ Đại sư, cởi bỏ các thứ chuỗi ngọc, y phục trang sức trên mình, để ở một chỗ, ngồi ngay ngắn xong xuôi, rồi bảo các đại thần, các tiểu quốc vương, năm trăm thái tử, hai vạn phu nhân: –Các người hôm nay, ai sẽ vì ta mà khoét một ngàn lỗ ở nơi thân thể của ta? Phu nhân, thái tử và quần thần, đều đồng tâm thưa: –Thà lấy dao sắc, tự khoét hai mắt mình, chứ trọn không thể lấy tay mình khoét thân thể của vua được. Đại vương nghe thế, tâm sinh sầu não, tự nghó mình ngày nay thực là cô độc, trong số đông đảo này, không một người nào có thể giúp đỡ cho mình được sao? Bấy giờ, có một người Chiên-đà-la, tánh tình rất hung ác, ai cũng sợ hãi, nhân nghe thấy tiếng liền đi tới chỗ vua, bảo với thái tử: –Đừng nên lo buồn làm chi, tôi nay có cách làm cho sự việc của vua không thể thành tựu được. Việc ấy khi đã không thể thành tựu, tất nhiên vua sẽ lại cai trị đất nước như trước đây, không khác. Các thái tử nghe nói như thế đều sinh lòng vui mừng. Người Chiên-đà-la bèn đi đến chỗ vua, tâu với đại vương: –Đại vương hôm nay định làm gì vậy? Vua nói: –Ta định khoét mình làm một ngàn ngọn đèn, để cúng dường cho bậc Đại sư. Người Chiên-đà-la tâu: –Đại vương muốn khoét mình, tôi có thể vì đại vương mà làm được. Vua nghe nói, lòng rất vui mừng, bảo người Chiên-đà-la: –Nhà ngươi thực là người bạn đạo Vô thượng của ta. Lúc ấy, người Chiên-đà-la liền sấn đến chỗ vua, với dáng điệu quát tháo dữ tợn, nói lớn: –Đại vương nên biết, cái phép giết người, phải chém đầu, cắt cổ, chặt tay, chặt chân, cắt gân, đau đớn như thế, đại vương có thể kham chịu được không? Vua nghe lời nói ấy, lòng đầy vui mừng. Người Chiên-đà-la, tay cầm con dao lưỡi trâu, tới nơi thân thể của vua, trong khoảng chớp mắt đã khoét thành một ngàn lỗ. Khi đó, người Chiên-đà-la tưởng vua thoái tâm, nhưng thực ra thì vua rất bình tónh. Người Chiên-đà-la thi hành xong, liền quăng con dao xuống đất, rồi mà bỏ chạy đi nơi khác. Bấy giờ, đại vương nơi các lỗ bị khoét đã đổ dầu, dùng lụa làm bấc để đốt đèn. Đại sư Bà-la-môn trông thấy nhà vua làm việc ấy rồi, liền tự nghó: “Ta nay phải nên trước vì đại vương tuyên nói Phật pháp. Vì sao? Đại vương ngày nay, đã đốt mình làm đèn, e tánh mạng khó qua được, nếu như tánh mạng không qua được, thì ai sẽ nghe pháp?” Suy nghó như vậy, liền tâu với vua: –Tinh tấn dũng mãnh làm được những việc khó làm, tu hành khổ hạnh như thế, là vì muốn được nghe Phật pháp. Giờ đây đại vương hãy nghe cho kỹ, nhớ nghó cho khéo, nay tôi sẽ vì đại vương tuyên nói Phật pháp. Vua nghe lời nói ấy, lòng rất vui mừng, ví như người con hiếu thảo vừa mới mất cha mẹ, trong lòng rất sầu não, không biết nói sao cho xiết, nhưng bỗng thấy cha mẹ sống lại, nên lòng rất vui mừng. Vua nghe lời nói vừa rồi, cũng lại như thế. Lúc ấy người Bà-la-môn liền vì nhà vua mà nói một nửa bài kệ: Các pháp hưng, suy, Sinh tất có diệt. Tịch diệt là vui. Vua nghe pháp ấy rồi, trong lòng rất vui mừng, bảo các thái tử và đám đại thần: –Các người đối với ta, nếu ai có lòng thương yêu, nên phải vì ta, nhớ giữ gìn pháp ấy, ở khắp tất cả thành ấp thôn xóm, cho đến hang cùng ngõ hẻm, truyền nói ưu mệnh của vua: “Mọi người nên biết, Đại Chuyển luân thánh vương nhận thấy muôn dân và tất cả chúng sinh phải chìm đắm trong bể khổ, chưa được giải thoát, nên ngài sinh tâm thương xót, khoét mình làm một ngàn ngọn đèn để cầu một nửa bài kệ. Các ngươi ngày nay, nếu ai cảm ân đức đại từ bi của đại vương, nên hãy viết chép bài kệ ấy, hoặc đọc tụng, tu tập, suy nghó đúng nghóa lý, theo như lời dạy tu hành”. Mọi người nghe lời nói ấy rồi, tâm sinh vui mừng, đồng thanh khen ngợi đại vương: –Lành thay! Lành thay! Thực là bậc cha lành rộng lòng Từ bi, vì các chúng sinh tu khổ hạnh như thế, chúng ta phải nên chóng tới biên chép, hoặc trên giấy, hoặc trên vải, hoặc khắc trên đá, hoặc trên cây cối, sành sỏi cỏ lá, khe suối, đường lối và những chỗ nhiều người qua lại, cũng đều viết chép, khiến cho người nào được trông thấy, nghe thấy đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ đại vương liền đốt một ngàn ngọn đèn, cúng dường Đại sư, ánh sáng chiếu xa, khắp mười phương thế giới, trong ánh sáng của những ngọn đèn ấy, cũng phát ra tiếng truyền nói nửa bài kệ. Những người nghe pháp đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ánh sáng của một ngàn ngọn đèn ấy còn chiếu tỏa lên mãi tới cung trời Đao-lợi, làm át cả ánh sáng của chư Thiên. Lúc ấy vua cõi trời Đao-lợi, thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp Thiên cung, liền nghó: “Không biết vì nhân duyên gì mà lại có ánh sáng ấy?” Nghó vậy rồi, liền dùng Thiên nhãn xem xét nơi nhân gian, thì thấy vua Đại Chuyển luân, vì thương xót tất cả chúng sinh mà khoét mình thành một ngàn ngọn đèn, cúng dường Đại sư, để cầu Phật pháp, cứu độ cho tất cả muôn loài. Thiên vương suy nghó: “Chúng ta hôm nay phải đến nơi nhân gian để khuyến khích giúp đỡ, khiến cho nhà vua sinh tâm vui mừng.” Vua cõi trời Đao-lợi liền hiện xuống nhân gian, hóa làm người phàm, đi đến chỗ vua Đại Chuyển luân, hỏi nhà vua: –Đại vương khoét mình thành một ngàn ngọn đèn, tu khổ hạnh như thế, mong cầu một nửa bài kệ để làm gì vậy? Vua đáp: –Thiện nam tử, ta vì tất cả chúng sinh nên nay phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, người biến hóa kia liền trở lại thân của Thiên đế Thích, với ánh sáng rực rỡ oai nghiêm, bảo với nhà vua: –Đại vương cúng dường như vậy là để cầu làm Thiên vương, Ma vương hay Phạm vương? Chuyển luân thánh vương liền bảo Thiên đế Thích: –Tôi không cầu sự tôn quý ở cõi Trời hay cõi Người, mà chỉ muốn cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, để cứu độ cho tất cả chúng sinh. Người chưa được yên ổn sẽ khiến được yên ổn, người chưa được giải thoát sẽ khiến được giải thoát, người chưa được độ sẽ khiến được độ, người chưa đắc đạo sẽ khiến cho được đắc đạo. Thiên đế Thích nói: –Đại vương ngày nay thật là ngu si! Cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải khổ công siêng năng tu tập lâu dài mới thành tựu được, như vậy làm sao mà nhà vua có thể cầu đạo Vô thượng được? Vua bảo Thiên đế Thích: –Giả sử vòng sắt nóng quấn chặt lấy đầu tôi, tôi trọn không vì thế mà thoái tâm Bồ-đề. Thiên đế Thích nói: –Đại vương dẫu nói như vậy nhưng tôi vẫn chưa có thể tin được. Khi ấy, Chuyển luân thánh vương liền ở trước Thiên đế Thích lập thệ nguyện: –Nếu tôi không thực lòng cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để cứu độ chúng sinh, mà nói dối với Thiên đế Thích, thì một ngàn lỗ khoét trên thân thể này của tôi trọn không bao giờ lành, trái lại, nếu không như vậy, máu sẽ thành sữa và một ngàn lỗ ấy sẽ bình phục như cũ. Vua vừa nói lời ấy xong, tức thì một ngàn lỗ trên thân thể của vua liền được bình phục như cũ. Thiên đế Thích nói: –Lành thay! Đại vương quả thực là người có lòng đại bi và thực hành đại bi, tinh tấn khổ hạnh, như vậy quyết không bao lâu sẽ chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi thành Chánh giác rồi, xin ngài độ cho tôi trước. Lúc ấy, Thiên đế Thích bèn phóng ánh sáng, chiếu khắp toàn thân của vua, đồng thời trăm ngàn chư Thiên cùng lúc đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Năm trăm thái tử thấy thân thể của vua cha được bình phục như cũ, lòng rất vui mừng, liền ra trước vua, đầu mặt lễ sát xuống chân, rồi lui ra ngồi qua một phía, chắp tay hướng về vua cha, đồng thanh nói: –Thực chưa từng có! Vua cha ngày nay thực là người có lòng Từ bi, thương xót tất cả. Vua bảo các thái tử: –Nếu các con là người có hiếu thì phải nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các thái tử nghe lời nói ấy xong, lòng sinh vui mừng, vì cảm ân đức trọng đại của vua cha, nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hai vạn phu nhân, trăm ngàn thể nữ cũng lại như thế. Bấy giờ trong muôn dân, có những chúng sinh nhiều bằng số hạt cát của bảy mươi sông Hằng, đều phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, lại có vô lượng chư Thiên, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la già, Nhân và Phi nhân… được trông thấy và nghe thấy sự việc ấy, đều phát đạo tâm, rồi hoan hỷ lui ra.  <卷 id="32807805">Phẩm 4: PHÁT TÂM BỒ-ĐỀ Bấy giờ trong chúng hội, có một vị Đại Bồ-tát Ma-ha-tát, tên là Hỷ Vương, liền từ tòa ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay ngưỡng bạch Đức Như Lai: –Bồ-tát phải tri ân, báo ân như thế nào? Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương: –Thiện nam tử, ông hãy nghe cho kỹ: Bồ-tát muốn tri ân báo ân nên phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và chỉ dạy cho tất cả chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát Hỷ Vương hỏi: –Nếu phát tâm Bồ-đề, sẽ phải phát như thế nào? Và nhân đâu mà có thể phát được? Phật nói: –Thiện nam tử, Bồ-tát Ma-ha-tát, khi mới phát tâm Bồ-đề phải lập đại nguyện và nói như thế này: “Nếu khi tôi chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tôi sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được an trụ trong cảnh đại Niết-bàn, lại sẽ giáo hóa tất cả chúng sinh, thảy đều đủ Bát-nhã ba-la-mật.” Như thế gọi là tự lợi cũng gọi là lợi tha. Cho nên Bồ-tát khi mới phát tâm Bồ-đề, thời được gọi là Bồ-đề nhân duyên, chúng sinh nhân duyên, chánh nghóa nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp nhân duyên, thâu nhiếp tất cả cội gốc của pháp thiện. Vì thế Bồ-tát được gọi là bậc Đại thiện, cũng gọi là cội gốc lành của tất cả chúng sinh, do vậy mà Bồ-tát có thể phá trừ ba nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý… cho tất cả chúng sinh. Tất cả những thệ nguyện của thế gian, tất cả thệ nguyện của xuất thế gian, không có thệ nguyện nào bằng được thệ nguyện thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thệ nguyện như thế, thực không gì hơn, không gì trên được nữa. Bồ-tát khi mới phát tâm Bồ-đề, có năm việc: Một là tánh, hai là hạnh, ba là cảnh giới, bốn là công đức, năm là tăng trưởng. Bồ-tát nếu có thể phát tâm Bồ-đề, thì được gọi là Đại Bồ-tát, quyết định sẽ được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tu hạnh Đại thừa. Cho nên khi mới phát tâm Bồ-đề, tức có khả năng thâu nhiếp được tất cả pháp thiện. Bồ-tát Ma-ha-tát phát tâm Bồ-đề, tu hành mong đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nếu không phát tâm quyết không thể nào thành được, cho nên phát tâm là cội gốc của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ-tát Ma-ha-tát thấy chúng sinh phải chịu những sự khổ não thì lòng sinh thương xót, nên Bồ-tát, nhân tâm từ bi mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhân phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà hay tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo pháp, chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên phát tâm là cội gốc của đạo quả Vô thượng Bồ-đề, mới có thể hành trì được Bồ-tát giới. Cho nên phát tâm gọi là gốc, gọi là nhân, gọi là cành, gọi là lá, cũng gọi là hoa, lần lượt gọi là quả, cũng gọi là hạt. Bồ-tát phát tâm, cũng có người được rốt ráo, người không được rốt ráo. Người được rốt ráo thì mãi mãi cho đến khi chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trọn không bao giờ thoái chuyển. Còn người không được rốt ráo, là trong tâm đã có sự thoái chuyển. Thoái chuyển có hai thứ: một là thoái chuyển hoàn toàn, hai là thoái chuyển không hoàn toàn. Người thoái chuyển hoàn toàn, là người trọn không thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không thể suy tìm, tu tập pháp đó được. Người thoái chuyển không hoàn toàn, là người thường cầu phát tâm Bồ-đề, thường tu tập pháp đó. Phát tâm Bồ-đề có bốn thứ: Một là, nếu có thiện nam, thiện nữ nào, hoặc được xem thấy, nghe thấy những việc bất khả tư nghị của chư Phật, Bồ-tát liền sinh tâm cung kính và nghó: “Những sự việc của Phật, Bồ-tát là bất khả tư nghị. Nếu Phật, Bồ-tát chứng được sự bất khả tư nghị ấy, thì ta đây cũng quyết sẽ chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên ta dốc lòng nhớ nghó đạo Bồ-đề và phát tâm Vô thượng Bồ-đề”. Hai là, lại có người không được thấy những sự việc bất khả tư nghị của chư Phật, Bồ-tát, mà chỉ nghe thấy về tạng bí mật của chư Phật, Bồ-tát liền sinh tâm cung kính, tin tưởng, dốc cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và Ma-ha Bát-nhã, cho nên phát tâm Bồ-đề. Ba là, lại có người không được trông thấy những việc bất tư nghị của chư Phật, Bồ-tát, cũng không được nghe Pháp, mà do vì khi thấy Pháp bị diệt trong lòng nghó: “Phật pháp vô thượng có thể diệt trừ được vô lượng khổ não cho chúng sinh, làm ích lợi lớn lao cho muôn loài, chỉ có chư Phật, Bồ-tát mới hay làm cho Phật pháp được trường tồn bất diệt, ta ngày nay cũng phải nên phát tâm Bồ-đề, khiến cho các chúng sinh, xa lìa phiền não, thệ nguyện thân này của ta, dầu phải chịu mọi sự khổ não bức hại nào đi chăng nữa, ta quyết giữ gìn Phật pháp, khiến Phật pháp được trường tồn ở thế gian, cho nên ta phát tâm Bồ-đề”. Bốn là, lại có người không được thấy chư Phật, Bồ-tát, không được nghe Pháp, khi Pháp diệt cũng không được thấy, mà chỉ thấy tất cả chúng sinh ở trong đời ác trược, đủ mọi thứ phiền não, tham dục, giận tức, ngu si, không thẹn, không hổ, bỏn sẻn, ganh ghét, nghi ngờ, lười biếng, tà kiến chẳng có lòng tin… Thấy như thế rồi, liền nghó: “Trong đời ác trược này, chúng sinh chẳng chịu tu thiện, tâm Nhị thừa còn không phát, huống hồ là tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác! Ta nay phải nên phát tâm Bồ-đề, phát tâm Bồ-đề rồi, liền chỉ dạy cho tất cả chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Bấy giờ Bồ-tát Hỷ Vương lại bạch Phật: –Lạy Đức Thế Tôn, Bồ-tát tri ân, báo ân bằng cách tự phát tâm Bồ-đề và dạy bảo cho tất cả chúng sinh đều phát tâm Bồ-đề. Song Đức Như Lai thuở xưa khi còn phải sinh tử, thoạt đầu mới phát tâm Bồ-đề là do nguyên nhân gì? Phật dạy: –Thiện nam tử, về đời quá khứ lâu xa, kiếp số nhiều không thể tính được, khi Ta còn ở trong vòng sinh tử, do phiền não sâu dày, tạo nên những nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý, nên phải đọa lạc vào tám địa ngục lớn: Địa ngục A-ha-ha, địa ngục A-bà-bà, địa ngục A-đạt-đa, địa ngục Đồng phủ, địa ngục Đại đồng phủ, địa ngục Hắc thạch, địa ngục Đại hắc thạch, cho đến địa ngục Hỏa xa. Ta nhớ khi Ta phải bị đọa vào địa ngục Hỏa xa, Ta cùng với hai người bạn phải kéo một cái xe lửa, bốc cháy ngùn ngụt, quỷ đầu trâu tên là A-bàng ngồi ở trên xe, mắm miệng, nghiến răng, trợn mắt; miệng, mắt, tai, mũi đều phun ra khói lửa, thân thể to lớn, tay chân gân guốc, hình sắc đen tía, tay cầm gậy sắt, luôn luôn đánh đập. Mặc dầu Ta bị đánh đập đau đớn, nhưng vẫn cố sức kéo. Lúc đó hai người bạn của Ta, vì hơi sức yếu đuối, kéo không nổi, nên bị quỷ đầu trâu A-bàng lấy đinh ba bằng sắt, đâm vào bụng, lấy gậy bằng sắt đập vào lưng, máu phun ra như suối chảy, đau đớn khó nhẫn, những người ấy cất tiếng kêu gào rất thảm thiết, người thì kêu cha mẹ, người thì kêu vợ con. Nhưng dầu có kêu gào như thế, cũng chẳng có ích lợi gì với mình. Lúc ấy, Ta thấy những người bạn của Ta chịu sự khổ não như vậy, lòng sinh thương xót. Nhân lòng sinh tưởng thương xót ấy, cho nên Ta phát tâm Bồ-đề, vì những người chịu tội đó, mà khuyên bảo quỷ đầu trâu A-bàng: –Những người phải chịu tội đây, thực đáng thương xót, xin ông hãy rủ lòng nới tay, đừng nên đánh đập họ tội nghiệp. Lúc ấy, quỷ đầu trâu A-bàng nghe Ta nói như thế, lòng sinh giận tức, dùng đinh ba bằng sắt đâm vào cổ Ta, chết liền tại chỗ. Ta liền được thoát khỏi cái tội trăm kiếp phải đọa lạc nơi địa ngục Hỏa xa, chính vì lúc đó Ta phát được tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vậy. Phật bảo Bồ-tát Hỷ vương: –Người kéo xe lửa tức là thân Ta ngày nay, nhân phát tâm Bồ-đề, mà chóng được thành Phật. Thế nên biết: tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề, sự đó chẳng phải một, hoặc nhân lòng Từ bi, hoặc nhân lòng giận tức, hoặc nhân lòng bố thí, hoặc nhân lòng bỏn sẻn, hoặc nhân lòng vui mừng, hoặc nhân phiền não, hoặc nhân ân ái ly biệt, hoặc nhân sự oán ghét gặp gỡ, hoặc nhân gần gũi bạn lành, hoặc nhân nơi bạn ác, hoặc nhân được thấy Phật, hoặc nhân được nghe pháp…, cho nên biết: tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề, mỗi mỗi chẳng phải đồng nhất. Hỷ Vương nên biết! Bồ-tát Ma-ha-tát tri ân báo ân, sự đó là như thế. Khi Phật nói pháp ấy rồi, có một vạn tám ngàn người đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong tất cả đại chúng, có người được chứng quả Tu-đà-hoàn, cho đến A-la-hán, Thiên địa quỷ thần, Nhân và Phi nhân cũng phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Sau khi được nghe Phật nói Pháp, ai nấy đều vui mừng, đầu mặt làm lễ Phật, rồi cung kính nhiễu quanh theo phía bên phải và lui ra. KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN <卷 id="32807806">QUYỂN 3 <卷 id="32807807">Phẩm 5: LUẬN NGHỊ Khi ấy, Đức Như Lai lên cung trời Đao-lợi, vì mẹ là Ma-da phu nhân và các đại chúng, thuyết pháp trong thời gian chín mươi ngày. Trong chín mươi ngày ấy, nơi cõi Diêm-phù-đề, tất cả đều không biết Đức Như Lai ở chỗ nào. Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, thần thông đệ nhất, dùng hết thần lực để tìm kiếm khắp cả mười phương nhưng cũng chẳng biết. Tôn giả A-na-luật-đà, Thiên nhãn đệ nhất, xem xét tất cả mười phương, ba ngàn đại thiên thế giới, cũng chẳng thấy, cho đến cả năm trăm đệ tử, cũng chẳng biết Đức Như Lai ở đâu, nên ai nấy đều mang lòng buồn rầu mong nhớ. Vua Ưu Điền, vì luyến mộ Phật, nên dùng cây Ngưu đầu chiên-đàn, tạc làm hình tượng của Đức Như Lai, để lễ bái cúng dường cũng như Phật tại thế không khác. Bấy giờ Đại vương Ưu Điền mới triệu tập đám lục sư ngoại đạo, hỏi xem Đức Như Lai ở chỗ nào. Lúc ấy đám Lục sư liền tâu: –Đại vương nên biết: Đó chẳng qua là trò huyễn thuật của Sa-môn Cù-đàm, hóa làm như vậy, pháp huyễn thuật ấy không phải là chân thực. Đại vương cần rõ: trong bốn bộ kinh điển Vệ-đà của chúng tôi, cũng đã có nói trong khoảng một ngàn năm hay hai ngàn năm sau, sẽ có một người huyễn thuật ra đời. Sa-môn Cù-đàm chính là người đó vậy. Lúc ấy, Tôn giả A-na-luật-đà đi đến chỗ nhà vua, nói với vua: –Đại vương nên rõ: Đức Như Lai ngày nay hiện đang ở trên cung trời Đao-lợi, sau bảy ngày nữa sẽ trở về cõi Diêm-phù-đề. Vua nghe lời nói ấy, lòng sinh vui mừng, truyền lệnh cho khắp cả trong lãnh thổ, phải quét dọn, rưới nước, đốt hương, treo các cờ phướn và trang thiết mọi thứ như: cỗ bàn, hương hoa, kỹ nhạc để cúng dường Phật. Khi đó đám Lục sư thấy mọi người đều tụ họp, để trang trí, bày biện mọi thứ cúng dường như thế, mới hỏi: –Các ngươi trang trí bày biện mọi thứ cúng dường như vậy, là muốn để mời quốc vương hay vương tử? Những người ấy trả lời: –Không phải vậy đâu! Đám Lục sư hỏi: –Nếu không phải vậy, chắc là để mời các quan Đại thần, Bà-la-môn hay Cư só? Đáp: –Không phải vậy! Đám Lục sư lại hỏi: –Nếu không phải vậy, chắc là để hội họp họ hàng chăng? Đáp: –Cũng không phải vậy, mà đó là chúng tôi muốn thỉnh Phật để cúng dường. Đám Lục sư lại hỏi: –Phật là ai? Những người tụ họp trả lời: –Là Bậc Nhất Thiết Trí. Đám Lục sư lại hỏi: –Nhất Thiết Trí là gì? Đáp: –Là người cha lành của tất cả chúng sinh, các ông không biết sao? Vua Bạch Tịnh là dòng dõi hào quý đệ nhất, từ sơ kiếp đến nay, con cháu thuờng tiếp nối nhau làm vua Chuyển luân, nhưng gần hai đời nay, thì không làm vua Chuyển luân nữa. Tuy không làm vua Chuyển luân, mà chỉ làm vua cõi Diêm-phù-đề thôi. Trong ba anh em, người lớn nhất tên Tịnh Phạn, người thứ hai tên Hộc Phạn và người con út tên là Cam Lộ Phạn. Vua Tịnh Phạn sinh được hai người con trai, người con trưởng tên là Tất-đạt, người con nhỏ tên là Nan-đà. Vua Hộc Phạn lại sinh được hai người con, người con trưởng tên là Đề-bà-đạt-đa, người con nhỏ tên A-nan. Vua Cam Lộ sinh được một người con gái, tên là Cam Lộ Vị. Một bữa nọ, người anh cả là thái tử Tất-đạt-đa, ra ngoài thành du ngoạn trông thấy những cảnh lão, bệnh, tử, trong lòng bỗng sinh ra mối ưu tư, đến quên cả ăn uống. Thái tử thương xót cho nhân sinh, không luận là sang, hèn, giàu, nghèo, ai ai rồi cũng không thể thoát khỏi được những cảnh khổ ấy, nên trong một đêm nọ, Thái tử vượt thành xuất gia, ngồi tu bên gốc cây Bồ-đề, khổ hạnh trong sáu năm, sau đó Ngài chứng được Nhất thiết trí. Cho nên gọi Ngài là Bậc Nhất Thiết Trí. Ngài là bậc đã tự tu hành, giác ngộ thành Phật, đầy đủ mười lực, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, cho đến chứng được Nhất thiết chủng trí. Ngài sinh được bảy ngày thì Thánh mẫu mệnh chung, sinh lên cõi trời Đao-lợi. Ngày nay Phật lên cung trời Đao-lợi ấy, vì mẹ thuyết pháp trong chín mươi ngày, sau bảy ngày nữa, Phật sẽ trở về cõi Diêm-phù-đề này. Bấy giờ đám Lục sư nghe lời ấy rồi, sinh lòng ghen ghét, phiền muộn giận tức, liền tụ tập tất cả đồ chúng để cùng nhau bàn bạc: “Nếu Sa-môn Cù-đàm trở về cõi Diêm-phù-đề này, thì tất cả dân chúng đều sẽ bỏ chúng ta, cúng dường Cù-đàm, như vậy chúng ta sẽ bị cô độc thiếu thốn, e sẽ không thể nào sống được!” Đám Lục sư lại nghó: “Chúng ta hiện giờ cần phải đi đến những chỗ dân chúng đông đảo, nói lớn như thế này: –Các người nên biết: Sa-môn Cù-đàm quả thực là người không hiểu biết gì cả, chẳng khác nào đứa trẻ con. Gần đây ông ra khỏi dòng họ Thích, ngồi bên gốc cây Bồ-đề, tự nói đã chứng được Nhất thiết chủng trí, nên biết đó chỉ là lời nói hư vọng. Vì sao? Vì một hôm vua A-kỳ-đạt tới thỉnh Cù-đàm để cúng dường, nhưng những món cúng dường chỉ là lúa cho ngựa ăn, thế mà Cù-đàm cũng không hay biết gì cả, lại nhận lời thỉnh của nhà vua. Nên biết Cù-đàm quả thực không phải là Bậc Nhất Thiết Trí. Kế đến lại hỏi Tôn giả A-nan: –Thời gian an cư còn bao nhiêu ngày nữa? A-nan thưa: –Còn bảy ngày nữa. Lại hỏi tiếp Tôn giả A-nan: –Ở trong vườn Kỳ hoàn vì sao lại có nhiều những tiếng chim quạ như thế? A-nan thưa: –Vì chúng nó tranh nhau ăn. Lại nữa Cù-đàm vừa sinh được bảy ngày thì mẹ mệnh chung. Vì lẽ đó, nên biết Cù-đàm là người bạc phúc, cũng là người cực ác, do thế mà mẹ mất sớm. Cũng không phải là người con có lòng Từ hiếu, sớm tối phụng dưỡng cha mẹ, mà trái lại, còn bỏ cha mẹ đi vào chốn thâm sơn cùng cốc, nên cũng là người vô ân. Vua cha cưới nàng Cù-di cho ông, nhưng ông trọn không làm hết bổn phận của một người chồng đối với vợ, khiến cho di mẫu Kiều-đàm-di phải chịu những sự buồn khổ lớn, nên biết, Cù-đàm là người chẳng biết ân, chẳng biết nhớ ân. Đồ chúng của Sa-môn Cù-đàm không có tôn ty trật tự, vì năm trăm đệ tử đều xưng là đệ nhất. Thầy đã không có giáo pháp, đệ tử cũng không có đạo nghiệp tu hành! Cho đến trong số đồ chúng của Cù-đàm, gồm đủ hạng người như: Tỳ-kheo Đà Phiêu, là người chỉ biết trông coi tọa cụ cho Tăng chúng, cũng xưng là đệ nhất; thông minh trí tuệ như Xá-lợi-phất, cũng được dự vào trong số đồ chúng đó. Dốt nát như Tỳ-kheo Bàn Đặc cũng được dự vào trong số đồ chúng ấy. Lại như, cho đến Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la, là người thiểu dục, cũng được dự vào trong số đồ chúng kia; Liên Hoa Sắc, là một người con gái nhà thổ, là hạng đồi bại nhất trong thành Xá-vệ, cũng được dự vào trong số đồ chúng đó. Cho đến Quân Đề là một đứa trẻ con chưa hiểu biết gì cả, cũng được dự vào trong số đại chúng ấy. Rồi như ông Tu-bạt-đà-la là một người già cả, một trăm hai mươi tuổi đầu cũng được dự vào trong số đồ chúng đó. Lại như những người hào quý thuộc dòng họ Thích cũng được dự vào trong số đồ chúng ấy; và kẻ hèn hạ nhất, chỉ làm nghề hốt phân ở trong thành Vương xá cũng được dự vào trong số đồ chúng kia. Cho nên biết: trong giáo pháp của Cù-đàm thực là hỗn tạp, không có tôn ty trật tự, chẳng đáng được tôn kính. Cũng ví như một cơn gió lớn, thổi mọi lá cây tụ họp một chỗ, giáo pháp của Cù-đàm cũng lại như thế. Hơn nữa, đồ chúng của Cù-đàm nhận lãnh những sự cúng dường như y phục, thức ăn uống của mọi người, cũng ví như đàn chim đi kiếm nhặt những vật mà người thế gian đã liệng bỏ. Các ngươi ngày nay, lại thỉnh Sa-môn Cù-đàm làm gì?” Mọi người nghe đám Lục sư nói rồi, cũng ví như đại địa chẳng hề rúng động, đại chúng vì khát ngưỡng Đức Như Lai, nên dẫu nghe đám Lục sư nói như vậy, mà trong lòng vẫn rắn chắc như kim cương, không hề có thêm bớt, vẫn khát ngưỡng Đức Như Lai cũng như người bị khát trông mong được nước uống. Sau bảy ngày, Đức Như Lai từ Thiên cung trở về cõi Diêm-phù-đề, có vô lượng trăm ngàn chư Thiên tùy tùng. Đức Như Lai phóng ra ánh hào quang rực rỡ, thần lực cảm động, chư Thiên trổi lên trăm ngàn vạn thứ ca nhạc cõi trời để tán thán, cúng dường Phật, cho đến tất cả chư Thiên, tất cả Long thần, tất cả Quỷ thần, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la già, Nhân và Phi nhân… tất cả đại chúng thảy đều tụ họp rất đông, lễ bái cúng dường Phật. Bấy giờ, đại vương Ưu Điền cùng với đại chúng ra mãi xa vây quanh nghinh đón Đức Như Lai, đầu mặt lễ xuống chân Phật, rồi lui ngồi về một phía. Lúc đó đám Lục sư, cùng với đồ chúng tụ họp, lại khởi ý nghó: “Lũ chúng ta ngày này tai vạ sắp tới nơi, tuy đã ở trước mọi người, nói lên lời nói ấy mà không ai tin nhận, nay phải đến chỗ tất cả đại chúng trời, người, nói rõ sự việc như thế, để cho tất cả được biết một cách rõ ràng.” Đám Lục sư nghó như vậy rồi, liền cùng với đồ chúng tám ngàn người, cùng đi tới nơi đông đảo kia. Đến rồi lui ra ngồi qua một phía. Lúc ấy lại có một người con của Nhạc thần, tên là Thát-bà-ma-la, gảy đàn cầm bằng bảy báu, đi đến chỗ Đức Như Lai, đầu mặt lễ xuống chân Phật, rồi lui ra một phía, gảy đàn ca hát, phát ra tiếng rất vi diệu, hòa nhã, khiến cho tâm ý của đại chúng ai nấy cũng được vui vẻ, các bậc Thanh văn, Bích-chi-phật… nghe thấy tiếng đàn của Thát-bà-ma-la, bất chợt cũng phải động thân dậy múa, núi Tu-di là vật vô tri cũng phải nghiêng ngửa. Khi ấy, Đức Như Lai liền nhập “Tam-muội hữu tướng”, dùng diệu lực Tam-muội, khiến cho tiếng đàn vang xa khắp cả ba ngàn Đại thiên thế giới, trong tiếng đàn đó diễn nói đầy đủ các pháp như: khổ, không, vô thường, bất tịnh, vô ngã. Những chúng sinh buông lung, nghe được tiếng đàn vi diệu ấy, diễn nói đủ cả những sự hiếu dưỡng đối với phụ mẫu, tri ân báo ân trước kia, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp của Đức Như Lai, tất cả các chúng sinh ấy, đều dõi theo tiếng đàn đó, cùng đi tới cõi Diêm-phù-đề, tìm đến chỗ Phật. Đến rồi, đầu mặt lễ xuống chân Phật, rồi lui ra ngồi về một phía. Bấy giờ đại chúng chiêm ngưỡng Đức Như Lai, muôn người mắt không rời hình tướng Đức Thế Tôn. Đức Như Lai an trụ trong cảnh giới Tam-muội vắng lặng, còn tất cả đại chúng cùng đều yên lặng. Lúc ấy, trong đại chúng bỗng có một cái tháp bằng bảy báu, từ dưới đất vọt lên, dừng ở giữa hư không, có vô số cờ phướn treo trên tháp và trăm ngàn chuông báu, không đánh tự kêu, gió nhẹ thổi động, phát ra những thứ tiếng rất vi diệu. Tất cả đại chúng trông thấy bảo tháp ấy, từ dưới đất vọt lên, lòng sinh ra nghi ngờ: “Vì nhân duyên gì mà lại có bảo tháp ấy, từ dưới đất vượt lên như thế?” Các bậc Thanh văn như Tôn giả Xá-lợi-phất… dùng hết trí lực của mình để suy nghó, trù lượng, cũng không thể biết được. Những vị Bồ-tát Ma-ha-tát là người vốn trú ở thế giới Ta-bà này, đến như Bồ-tát Di-lặc cũng không thể biết được. Đám Lục sư, liền khởi ý nghó: “Vì nhân duyên gì mà có bảo tháp ấy? Nếu như có người hỏi, mà ta không biết thì làm thế nào có thể gọi ta là người hiểu biết tất cả được?”. Lại nghó tiếp: “Tại sao Sa-môn Cù-đàm lại không mau vì đại chúng diễn nói việc này?”. Bấy giờ, Đức Như Lai từ trong cảnh chánh định xuất khởi. Thích Đề-hoàn Nhân, vua cõi trời Đao-lợi, liền lấy Thiên y nơi cõi Trời trải lên tòa sư tử. Đức Như Lai liền lên tòa ấy, ngồi kiết già, khác nào như núi chúa Tu-di ở giữa đại hải. Bồ-tát Di-lặc quan sát tâm ý của đại chúng thảy đều nghi ngờ, tự mình cũng không rõ, nên liền từ tòa đứng dậy, đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ xuống chân, chắp tay đối trước Phật, bạch Phật: –Lạy Đức Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà có bảo tháp này, từ dưới đất hiện lên như thế? Phật bảo Bồ-tát Di-lặc: –Về đời quá khứ xa xưa, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, số nhiều không thể lấy tâm nghó, miệng bàn cho xiết được, khi ấy có một Đức Phật, hiệu là Tỳ-bà-thi, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ở đời, giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến họ luôn kiên cố nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi Phật diệt độ, vào đời tượng pháp, có một nước tên là Ba-la-nại, vua nước Ba-la-nại là một người rất thông minh, nhân từ, thường dùng chánh pháp trị quốc, khiến cho dân chúng không gặp phải những sự oan uổng. Vua cai trị và làm chủ cả sáu mươi tiểu quốc, tám trăm khu vực. Vua không có con cái, nên vua thường tự cúng dường, phụng sự các vị thần như: thần núi, thần cây, tất cả thần kỳ, trải qua mười hai năm, không hề biếng nhác, với hoài vọng mong cầu có được một người con để nối dõi vương nghiệp sau này. May thay! Bà phu nhân thứ nhất liền có thai, đầy mười tháng thì sinh hạ được môït người con trai, hình tướng đoan nghiêm tươi tốt, đẹp lạ thường. Sau khi sinh rồi, vua liền truyền cho triệu tập các quan đại thần và vua ở các tiểu quốc, để đến xem tướng và đặt tên cho thái tử. Vì thái tử, bẩm tánh không hay giận tức, nên đặt tên là Nhẫn Nhục. Thái tử Nhẫn Nhục, khi tuổi đã khôn lớn, hay ưa bố thí. Thái tử là một người rất thông minh, nhân từ, đối với các chúng sinh, luôn có một tấm lòng Từ bi, bình đẳng. Trong triều lúc đó có sáu vị đại thần, tánh tình hung bạo, gian dối, nịnh hót, thường hay gây ra những sự oan uổng một cách vô nhân đạo, cho nên dân chúng đều chán ghét. Sáu người đại thần này, tự biết những hành động của mình là trái quấy, nên thường mang lòng ganh tị, oán ghét thái tử. Bấy giờ Đại vương lâm bệnh nạêng, khổ não, tiều tụy, mạng sống không còn được bao lâu. Thái tử Nhẫn Nhục đến bảo các quan đại thần: –Vua cha bị bệnh nặng, nay phải làm thế nào để chạy chữa cho vua qua khỏi cơn bệnh hoạn này? Các quan đại thần nghe rồi, sinh lòng giận tức, bảo thái tử: –Tánh mạng của vua sẽ không kéo dài được lâu, dù cho có thuốc hay thế nào cũng không thể qua khỏi, vì thế nên biết, thọ mạng của nhà vua chỉ còn trong gang tấc. Thái tử nghe rồi, lòng sinh khổ não, ngất xỉu ra đất. Sáu quan đại thần ấy liền vào trong chỗ nhà vắng, cùng nhau bàn mưu tính kế: “Thái tử Nhẫn Nhục, nếu chúng ta không tìm cách trừ khử đi thì không bao giờ có thể sống một cách yên ổn”. Nghó mưu kế như vậy rồi, người đại thần thứ nhất nói: –Thái tử Nhẫn Nhục, theo tôi nhận thấy, thì không một sự việc gì có thể hãm hại được cả. Một quan đại thần khác lại nói: –Tôi có phương tiện, có thể trừ khử được rất dễ dàng. Sau khi đám đại thần, cùng nhau lập mưu, bàn kế xong xuôi, liền đi đến chỗ thái tử, nói với người: –Kẻ hạ thần đã đi cùng khắp sáu mươi tiểu quốc, tám trăm khu vực để tìm kiếm các thứ cỏ thuốc, nhưng trọn không kiếm được. Thái tử hỏi: –Những thứ cỏ thuốc mà đại thần tìm kiếm đó, phải là những thứ như thế nào? Đại thần tâu: –Thái tử nên biết: các thứ thuốc mà chúng tôi tìm kiếm đó, chính là con mắt và tủy của người nào mà từ khi sinh ra cho đến lúc qua đời không hề giận tức ai bao giờ. Nếu tìm được thứ thuốc ấy thì mới có thể bảo toàn tánh mạng cho nhà vua, nếu như không tìm ra, thì mạng sống của vua sẽ chẳng còn được bao lâu, mà khắp cả các nước chúng tôi không kiếm đâu ra được một người như thế cả. Thái tử nghe rồi, lòng sinh ưu não, sợ mình không biết có đủ đức tánh ấy không? Thái tử liền bảo với các vị đại thần: –Thân của ta nay phỏng có được như người đó chăng? Vì sao? Vì ta từ khi sinh ra cho đến nay, chưa từng giận tức ai bao giờ cả. Các đại thần tâu: –Chỉ có thái tử mới được như người đó mà thôi, nhưng sự việc ấy cũng khó khăn lắm. Vì sao? Là vì sự quý trọng nhất trong thiên hạ, không gì bằng thân mình. Thái tử bảo: –Không phải như các đại thần nói đâu! Nếu như phụ vương ta qua khỏi trọng bệnh, thì dù ta có phải bỏ trăm ngàn thân này đi chăng nữa, cũng chưa phải đã là khó, huống chi ngày nay, ta mới chỉ bỏ một cái thân nhơ nhớp này! Các đại thần tâu: –Việc đó là như thế, xin thái tử tùy ý định liệu. Bấy giờ thái tử Nhẫn Nhục lòng sinh vui mừng, tự nghó: “Nếu như thuốc ấy có thể chữa lành bệnh cho vua cha thì việc đó ta cần phải làm ngay.” Thái tử Nhẫn Nhục liền vào trong cung, đến chỗ mẹ, đầu mặt lễ xuống chân mẹ, chắp tay thưa: –Thưa mẹ, nay con muốn đem thân mạng của con, để làm thuốc chữa cho vua cha khỏi bệnh. Con e thân mạng con sẽ không thể nào sống nữa, cho nên con đến đây để vónh biệt mẹ, xin mẹ đừng lo buồn thương nhớ, để phải suy tổn đến ngọc thể. Người mẹ của thái tử nghe lời con nói rồi, sinh lòng buồn rầu, bấn loạn, quên mất cả bốn phương hướng, nghẹn ngào không nói ra lời. Bà ôm lấy thái tử, với một sắc thái buồn rầu, mê mẩn, phải dùng nước lạnh rảy vào mặt, hồi lâu mới tỉnh. Thái tử lại thưa cùng mẹ: –Thưa mẹ, mạng của vua cha chỉ trong giây phút, không còn được bao lâu nữa, nên cần phải làm ngay, để cho vua cha uống mới mong khỏi được. Bấy giờ, thái tử liền gọi các quan đại thần, các vua nơi các tiểu quốc tới, rồi ở giữa mọi người, thái tử tuyên cáo: –Thân ta ngày nay đây, xin vónh biệt cùng tất cả chư vị. Tức thì các đại thần liền gọi người Chiên-đà-la, chẻ xương lấy tủy và khoét cả đôi mắt của thái tử. Các đại thần liền hòa mấy thứ kia làm thuốc, dâng lên đại vương. Vua uống rồi, thân thể được bình phục. Sau khi bình phục, vua hỏi các đại thần: –Các khanh tìm đâu ra được thứ thuốc hay ấy, mà chữa cho ta lành bệnh tài như thế? Các đại thần tâu với vua: –Tâu đại vương, thuốc ấy là do thái tử Nhẫn Nhục chế biến, chứ chẳng phải sức của những kẻ hạ thần có thể làm được đâu ạ. Vua nghe nói như thế, tâm thần kinh sợ, dựng cả chân lông, khẽ hỏi các đại thần: –Thái tử Nhẫn Nhục hiện nay ở đâu? Đại thần tâu: –Thái tử hiện đang ở ngoài kia, thân thể của thái tử đã bị thương tổn, mạng sống sẽ không kéo dài được bao lâu. Vua nghe nói thế liền cất tiếng tiếng kêu than: –Lạ thay! Lạ thay! Vua tự vật ngã xuống đất, bụi dính đầy thân thể. Vua nói: –Như ta ngày nay thực là vô tình, tại sao ta lại có thể uống thứ thuốc bằng mắt và tủy sống của con ta như thế được! Vua liền đi đến chỗ thái tử, nhưng than ôi! Thái tử đâu còn sống được nữa! Vua cùng với phu nhân, các quan, dân, vô lượng đại chúng, trước sau vây quanh lấy thái tử. Mẹ của thái tử rất sầu não, bà gieo mình vào chỗ tử thi của con, khóc lóc, thảm thiếøt, rồi tự nói: –Không biết kiếp trước tôi có gây nên tội ác gì mà nay khiến con tôi phải chịu khổ não như thế này! Lúc ấy, vua cha và vua các tiểu quốc, liền lấy gỗ thơm bằng Ngưu đầu chiên-đàn, chất lên thành đống, để làm phép hỏa thiêu, lại xây tháp bằng bảy báu, để cúng dường thân cốt của thái tử. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc: –Thiện nam tử và đại chúng nên biết: Đại vương nước Ba-la-nại bấy giờ chính là cha Ta vua Duyệt-đầu-đàn ngày nay; người mẹ của thái tử lúc ấy nay chính là mẹ Ta, Ma-da phu nhân; còn thái tử Nhẫn Nhục chính là thân Ta. Bồ-tát đã từng ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, hiếu dưỡng đối với cha mẹ, nào là y phục, thức ăn uống, phòng xá, giường chõng, cho đến đem cả thân thể, xương tủy để cúng dường cho cha mẹ, việc đó là như thế. Do nhân duyên ấy, đến nay thành Phật, hiện giờ bảo tháp này từ dưới đất vọt lên. Chính là tại nơi đây, xưa kia Ta đã bỏ thân mạng, cốt tủy vì cha mẹ và cũng ở chính nơi này trước kia đã xây tháp cúng dường Ta, cho nên nay Ta thành Phật, tháp ấy liền hiện trước ta. Lúc ấy, trong đại chúng có vô lượng Người, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, nghe Phật giảng nói như thế, vừa thương, vừa mừng, nước mắt dàn dụa, rồi đồng thanh khen ngợi trăm ngàn công đức trong sự báo hiếu phụ mẫu của Đức Như Lai. Nhân đấy, mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có vô lượng trăm ngàn chúng sinh, phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Lại có vô lượng người chứng được quả vị Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán. Lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ-tát Ma-ha-tát, không lâu sẽ chứng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên biết: Đức Như Lai là bậc hiếu dưỡng chân thực đối với cha mẹ. Lại nữa, Bồ-tát vốn biết công đức của người mẹ, với bản nguyện là được sinh ra thân tướng của Như Lai, vì sinh ra thân tướng của Như Lai là đã viên mãn được bản nguyện, cho nên không nhận lãnh sự lễ kính của Như Lai. Do vậy, sau khi Như Lai sinh ra được bảy ngày thì Thánh mẫu mệnh chung. Bấy giờ đại chúng, đều đồng thanh khen ngợi công đức của Thánh mẫu Ma-da phu nhân: –Lành thay Đức Ma-da! Thánh mẫu đã sinh ra thân tướng của Đức Như Lai, khắp cõi trời, cõi người trong thế gian này, không ai có thể sánh được với công đức ấy của Thánh mẫu. Lúc này, Càn-thát-bà Ma-la, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, gối bên phải quỳ sát đất, quỳ mọp chắp tay, bạch Phật: –Lạy Đức Thế Tôn, Thánh mẫu Ma-da phu nhân, tu công đức gì, vì nhân duyên gì mà sinh thành được thân của Như Lai? Phật dạy: –Hãy khéo lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói: Về đời quá khứ lâu xa, kiếp số nhiều không thể tính kể xiết, bấy giờ có Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trải qua thời kỳ chánh pháp và tượng pháp đã diệt, khi ấy có một nước gọi là Ba-la-nại, cách kinh thành không xa có một quả núi, gọi là chỗ ở của các bậc Hiền thánh, vì có trăm ngàn Bích-chi-phật ở núi ấy và có vô lượng thần tiên đạt ngũ thông cũng ở trong đó, vì có nhiều bậc Tiên thánh ở đấy, cho nên người ta gọi tên núi là Thánh du cư sơn. Trong núi này, có một vị Tiên trú tại một cái hang về phía Nam, lại có một vị Tiên khác trú tại một cái hang về phía Bắc, giữa hai khoảng núi ấy có một cái suối, bên bờ suối có một hòn đá rất phẳng phiu. Bấy giờ, vị Tiên ở hang phía Nam thường hay đến giặt áo, rửa chân trên tảng đá ấy, xong xuôi thì trở về chỗ cũ. Sau khi vị ấy đi khỏi không lâu lại có một con hươu cái tới đó uống nước, dần dần uống cả những nước cáu ghét do giặt áo trên tảng đá đó. Uống rồi, lại quay đầu liếm chỗ tiểu tiện của mình. Vậy là con hươu cái nhân thế mà thọ thai. Khi đã đủ tháng, sắp sinh, theo phép của loài hươu, mỗi khi đến lúc sinh thì phải trở lại chỗ mình đã thọ thai trước kia, cho nên con hươu cái ấy lúc này đã trở lại bên bờ suối, ở trên tảng đá trước đây, kêu rống, vật vã và sinh được người con gái. Bấy giờ, vị Tiên ở hang phía Nam, nghe tiếng con hươu cái kêu rống, vật vã, nên thương xót, liền đến xem thì thấy con hươu cái ấy sinh được một người con gái. Lúc đó, con hươu cái đang dần dần liếm khắp thân thể của người con gái bỗng thấy vị Tiên đến, liền bỏ chạy đi chỗ khác. Vị Tiên thấy bé gái kia hình tướng đoan chánh, vẹn toàn, nên sinh lòng thương xót, liền lấy chiếc áo bằng cỏ bọc đem về hang, rồi ngày ngày kiếm trái cây, tùy thời nuôi nấng, cho đến khi khôn lớn. Năm mười bốn tuổi, nàng được cha rất yêu dấu, nên thường giao cho nàng công việc giữ lửa, khiến khỏi bị tắt. Nhưng bỗng một ngày nọ, vì không để tâm cẩn thận, nên lửa bị tắt mất, nàng bị cha trách mắng và bảo: –Ta từ khi trưởng thành đến giờ, chưa từng để cho lửa tắt, mà con ngày nay sao lại làm tắt như thế! Nay nơi hang phía Bắc kia có lửa, con phải đến đó đem về đây cho cha. Lộc nữ liền theo lời cha, đi đến hang phía Bắc, bước bước cất chân đều sinh ra hoa sen tươi đẹp, theo dấu chân của nàng, thành hàng ngũ đường lối trông rất có thứ tự, nàng đi đến hang phía Bắc, hỏi vị Tiên ở đó, xin lửa cho cha. Bấy giờ, vị Tiên kia, thấy người con gái ấy phúc đức như thế, dưới chân của nàng lại sinh ra hoa sen, liền bảo: –Nếu con muốn được lửa, hãy theo chiều bên phải, nhiễu quanh hang này của ta đủ bảy vòng, cho có hàng lối, thứ lớp, rõ ràng phân minh, thì ta sẽ cho con lửa. Vâng lời chỉ dạy, theo dấu chân của nàng cất bước, đều mọc lên những bông sen rất thơm tho, vi diệu và nàng nhiễu quanh hang của vị Tiên bảy vòng mới thôi. Vị Tiên ấy lại bảo nàng: –Nếu con muốn được lửa, con lại phải từ phía bên phải này đi trở về, thì ta sẽ cho con lửa. Nàng Lộc nữ vì muốn được lửa, nên cũng phải làm theo như lời của vị Tiên kia dạy mà đi. Sau khi người con gái ấy đi về chưa bao lâu, thì có vua nước Ba-la-nại, đem các đại thần, trăm ngàn vạn kẻ tùy tùng, trước sau vây quanh, ngàn xe vạn mã, vào rừng để du ngoạn và săn bắn hươu nai. Vua nước Ba-la-nại, một mình cỡi con danh tượng, đi đến chỗ vị Tiên ở hang phía Bắc, trông thấy hoa sen mọc quanh hang rất có hàng lối. Đại vương bèn sinh lòng vui mừng, khen ngợi: –Lành thay! Lành Thay! Đại đức thần tiên! Đại Tiên Đạo sư có phúc đức lớn lao như thế! Vị Tiên ở phía Bắc, liền tâu với nhà vua: –Đại vương nên biết: Hoa sen ấy chẳng phải sức của tôi có thể làm được! Vua hỏi: –Nếu không phải đại sư làm, thì ai làm? Vị Tiên tâu: –Tâu đại vương, đó là vị Tiên ở hang phía Nam, sinh được một người con gái, dung mạo đoan chánh, nhân tướng vẹn toàn, thế gian hiếm có, người con gái ấy mỗi khi đi, tùy theo dấu chân, cất bước tới đâu đều sinh ra hoa sen. Vua nghe lời nói ấy, lòng sinh vui mừng, bèn đến hang phía Nam. Trông thấy vị Tiên nọ, vua tỏ ra cung kính, liền đầu mặt lễ xuống chân. Bấy giờ, vị Tiên ở hang phía Nam liền ra hỏi thăm: –Đại vương đi đường xa xôi, có khỏi mệt nhọc lắm chăng? Nhà vua nói với vị Tiên ấy: –Nghe Đại tiên có người con gái, trẫm muốn cầu hôn được chăng? Vị Tiên liền tâu với vua: –Thân nghèo này chỉ có một người con gái ấy, hãy còn thơ ấu, chưa hiểu biết gì cả, từ hồi nhỏ đến giờ, thường ở nơi núi sâu, ăn trái cây, mặc áo cỏ, chưa từng quen biết những sự việc ở nhân gian, như thế thì làm sao vua có thể đoái thương được? Rồi vị Tiên ấy lần lượt thuật lại hết về hoàn cảnh ra đời của người con gái ấy là do súc sinh sinh ra như trên, để cho vua nghe. Vua nói: –Tuy vậy cũng không hề gì. Vua lại hỏi: –Lộc nữ hiện giờ ở đâu? Vị Tiên tâu: –Tâu đại vương, Lộc nữ hiện đang ở trong hang cỏ này. Đại vương nghe nói thế liền đi vào trong hang, trông thấy Lộc nữ lòng sinh vui mừng, liền sai lấy nước thơm tắm rửa cho nàng và đem các loại y phục đẹp đẽ, trăm thứ chuỗi ngọc, châu báu, để trang sức, xong xuôi thì cho cỡi voi quý, cùng với trăm ngàn người theo hầu, tấu nhạc ca hát, trở về bản quốc. Lúc đó Lộc nữ, vì từ khi sinh ra đến nay chưa từng thấy như thế bao giờ, nên trong lòng sinh sợ hãi. Bấy giờ, cha của Lộc nữ đứng nơi đỉnh núi cao, xa trông thấy con, nhìn mãi không thôi và tự nghó: “Ta nay nhìn theo con gái cho đến khi nào đi thật xa, không còn có thể trông thấy được nữa, lúc ấy ta mới trở về chỗ cũ.” Ông buồn rầu áo não, nước mắt tuôn trào: “Ta nuôi dưỡng đứa con gái này, hãy còn thơ ấu, chưa hiểu biết gì, mà nay đã phải cách biệt!” Ông lại nghó: “Ta nay nên ở lại chỗ này, không nên đi đâu, vì sao? Nếu như con gái ta trở lại đây, mà không thấy ta, tất sẽ sinh ra buồn rầu, khổ não.” Vị Tiên ấy cứ đứng trông chờ con mãi, nhưng mãi cũng không thấy con về. Bấy giờ, ông sinh lòng hối hận, nói: –Thực quả là loài súc sinh có khác! Ta nuôi nấng từ hồi còn bé, khiến cho được thành người, nay sinh lòng bội bạc, bỏ ta cô độc! Ông liền vào trong hang, tụng trì chú thuật, chú nguyện cho con gái: –Nếu như nhà vua ăn ở bạc đãi với con, tất không cần phải bàn đến, còn như vua lấy lễ tiếp đãi thì sẽ khiến không được toại nguyện. Bấy giờ, vua nước Ba-la-nại, sau khi trở về cung, liền phong Lộc nữ làm đệ nhất, gọi là Lộc mẫu phu nhân. Các vua nơi những tiểu quốc, trăm quan đại thần đều đến yết kiến. Vua thấy vậy, lòng rất vui mừng. Ít lâu sau, Lộc mẫu mang thai. Vua tự lo liệu, cung cấp cho phu nhân giường nằm, thức ăn uống,… không thiếu một thứ gì, lòng vua chỉ mong đến kỳ khai hoa nở nhụy, sẽ sinh hoàng nam để thừa kế ngôi vị. Nhưng tới lúc ngày đầy tháng đủ, lại sinh ra một bông hoa sen. Vì năng lực chú nguyện của vị Tiên kia, nên khiến nhà vua sinh ra giận tức, nói: –Quả thực là loài súc sinh sinh ra có khác! Vua liền bãi chức phu nhân còn bông hoa sen kia thì sai người đem liệng bỏ. Sau đó vài ngày, vua nước Ba-la-nại lại cùng với quần thần vào trong hậu viên du ngoạn, ngắm cảnh, hát xướng, đấu voi, ngựa, cùng với các người lực só, trong số này có một lực só bậc nhất, lúc rún rẩy nhẩy nhót, vì chân giẫm đạp xuống đất, nên đất đều rúng động và làm động cả ao hoa sen. Bên ao hoa sen này, có một tảng san hô rất lớn, phía dưới tảng san hô ấy, có một hoa sen, nổi trên mặt nước. Hoa sen màu hồng, tỏa ra ánh sáng mầu nhiệm. Vua trông thấy hoa sen ấy, lòng vui mừng, bèn hỏi quần thần: –Hoa sen như thế này, thực chưa từng có! Vua liền sai sứ giả xuống ao lấy lên. Hoa có đủ năm trăm cánh, dưới mỗi cánh hoa, có một đồng tử, mặt mày đoan nghiêm, hình dáng tốt đẹp lạ thường. Sứ giả liền tâu với vua: –Hoa sen này thực chưa từng có! Đại vương nên biết: hoa sen ấy có đủ năm trăm cánh, ở dưới mỗi cánh hoa lại có một đồng tử. Vua nghe lời sứ giả nói, lòng sinh kinh ngạc, dựng cả chân lông, khen ngợi sự thể làm sao lại có được như thế và hỏi Sứ giả: –Có thực quả như vậy chăng? Hoa sen ấy có phải do Lộc mẫu sinh ra chăng? Vua lại hỏi các người theo hầu: –Hoa sen trước đây do Lộc mẫu sinh ra, đem bỏ chỗ nào? Đáp: –Tâu đại vương, chính hoa sen ấy, lúc đó chôn phía dưới tảng san hô, bên bờ ao này. Vua biết rõ sự thực đó, chính hoa sen ấy là do Lộc mẫu phu nhân sinh ra. Vua tự vào trong cung, hướng Lộc mẫu phu nhân, ăn năn tự trách, nói: –Ta thực là người ngu si, không có trí tuệ, chẳng phân biệt được người hiền lương, nên làm những sự oan uổng, tàn ác, trái nghịch đối với phu nhân! Vua bày tỏ sự ăn năn hối hận với phu nhân xong, phu nhân lại được phục hồi địa vị cũ là phu nhân đệ nhất như trước. Vua rất vui mừng, cho triệu các quan đại thần, các vua ở những nước nhỏ và các Tướng sư người Bà-la-môn, tất cả đều hội họp. Vua cho bồng năm trăm thái tử, khiến các Tướng sư xem tướng cho các hoàng tử. Các Tướng sư đoán: –Những hoàng tử này đều là người rất có phúc đức, nếu ở tại gia, thì bốn bể sẽ được hưởng cảnh thanh bình, thịnh trị, quỷ thần hộ vệ; nếu xuất gia, quyết sẽ đoạn trừ phiền não, qua dòng ái dục, vượt bể sinh tử, chứng được pháp ba minh, sáu thông và đủ bốn đạo quả. Vua nghe lời các Tướng sư nói rất đỗi vui mừng, liền truyền lệnh khắp trong nước, tuyển chọn năm trăm nhũ mẫu, để trông coi cho các hoàng tử. Lộc mẫu phu nhân liền tâu với nhà vua: –Vua không phải lo việc, triệu các nhũ mẫu ở trong nước làm gì, vì trong vương cung đã có năm trăm phu nhân, các phu nhân ấy, thấy thần thiếp sinh những hoàng nam, nên dấy tâm ghen ghét, nay vua nên cho mỗi phu nhân một thái tử để nuôi nấng, cũng như con của các phu nhân vậy. Vua bảo phu nhân: –Năm trăm phu nhân thường mang lòng ghen ghét, não hại Lộc mẫu, nay Lộc mẫu muốn ta đánh bằng roi gậy, hoặc đuổi đi, hay xử tử để đền lại những tội ác của họ trước đây đối với phu nhân, ta sẽ không trái ý của phu nhân. Nhưng giờ phu nhân lại bỏ qua những sự oán hận ấy thì thực khó có ai sánh kịp! Lại còn mở cái ân huệ như trời, như đất: đem thái tử cho các phu nhân ấy nuôi… Bấy giờ, năm trăm phu nhân kia lòng rất vui mừng cùng nói với nhau: Lộc mẫu phu nhân đã cho chúng ta những sự an ổn, vui sướng, lại còn cho chúng ta thái tử nữa! Bấy giờ, vô lượng trăm ngàn đại chúng được nghe việc ấy, lòng sinh vui mừng và đều phát đạo tâm Vô thượng. Đại vương bảo phu nhân: –Thực chưa từng có! Ta cũng không sánh kịp phu nhân! Phu nhân nói: –Tham lam giận tức đều do ghen ghét, hãy lấy nhẫn nhục để trừ bỏ gian ác, lấy hòa thuận để thắng oán thù. Thần thiếp từ khi sinh cho đến nay, chưa từng tranh giành với ai, các phu nhân tự sinh não hại, ví như có người đi ban đêm, trông thấy gốc cây liền tưởng là giặc, hoặc tưởng là ác quỷ, nên sinh ra kinh sợ, chạy tản mác khắp bốn phương, hoặc trốn vào trong hang núi, hoặc vào trong nước, lửa, rừng rậm gai gốc, tổn thương đến cả thân thể, nhân vọng tưởng mà phải họa tai hại đến như thế! Tất cả chúng sinh cũng lại như thế: tự sinh tự tử, như con tằm vương tơ, lại tự quấn lấy mình, như con thiêu thân tự gieo mình vào đèn lửa, mà không phải do ai xua đổi chúng cả! Tất cả điều ác đều từ vọng tưởng sinh ra, các phu nhân cũng lại như thế, nên thần thiếp nay không muốn cùng tranh tụng với những người ít hiểu biết ấy. Năm trăm phu nhân liền đến trước Lộc mẫu phu nhân, ăn năn tự tạ, phụng kính Lộc mẫu như bậc Thánh hiền, như tình chị em và nuôi nấng các thái tử cũng không khác gì con của mình sinh ra. Năm trăm thái tử dần dần khôn lớn. Mỗi thái tử, sức có thể địch nổi ngàn người, các nước lân cận nếu gây sự phản nghịch không chịu tuân phục, tự các thái tử đến dẹp loạn mà không cần tới bốn binh. Vì thế, cõi nước được thanh bình, Thiên thần vui mừng hộ vệ, mưa gió thuận hòa, dân chúng an lạc. Lúc ấy, năm trăm thái tử, cỡi những con đại danh tượng, ra du ngoạn nơi rừng núi, đồng cỏ, tự tại vui thích vô lượng, cha mẹ luôn yêu dấu, khác nào con ngươi mắt của mình. Bấy giờ, năm trăm thái tử tuổi đã khôn lớn, nhân một hôm cùng nhau ngồi chơi bên bờ ao hoa sen, trông thấy hình dung của mình, ảnh hiện nơi đáy nước, bèn cùng bảo với nhau: “Tất cả các pháp chẳng khác nào như trò huyễn thuật, như hoa đốm trên không, như cảnh tượng thấy trong giấc chiêm bao, như bóng hình nơi đáy nước, thể tánh vốn không phải chân thực, chúng ta ngày nay cũng lại như thế! Tuy chúng ta ở vào địa vị cao sang tôn quý, sống trong chốn thâm cung, hưởng thụ năm sự dục lạc, trẻ trung đẹp đẽ, rốt cuộc cũng không thể nào giữ được lâu, vạn vật có thành tất phải có họai, người ta sinh ra rồi cũng phải chết, trẻ khỏe không được bao lâu, mà già nua sẽ tới, ăn uống không tiết độ, tất nhiên bệnh hoạn phát sinh, dù cho sống lâu đến trăm tuổi, rồi cũng phải chết.” Các thái tử tỏ vẻ lo buồn không vui, quên cả ăn uống, liền cùng nhau trở về cung điện, thưa với cha mẹ: –Thưa cha mẹ, thế giới đều là khổ, không có gì đáng vui, nay xin cha mẹ cho chúng con được xuất gia. Vua bảo thái tử: –Sinh, lão, bệnh, tử, không một ai có thể tránh khỏi, việc gì riêng các con phải sầu muộn. Các thái tử lại tâu với vua cha: –Sự sinh tử chẳng riêng con phải chịu nhọc nhằn, mà khắp cả năm ngả chúng sinh cũng đều phải chịu như thế. Vua biết không thể nào ngăn cản được chí xuất gia của các thái tử, nên cũng bằng lòng cho các thái tử xuất gia. Mẫu hậu bảo các thái tử: –Các con xuất gia, chớ nên bỏ ta đi xa, mà nên ở hậu viên, trong đó rất mát mẻ, cây cối tươi tốt, bốn việc cúng dường không thiếu. Lúc ấy, các thái tử liền thực hiện việc xuất gia và vâng theo lời Mẫu hậu đều ở nơi hậu viên. Sau khi xuất gia, mỗi thái tử đều chứng được quả vị Bích-chi-phật, như thế cho đến vị thái tử thứ bốn trăm chín mươi chín đều đạt được đạo quả. Chứng được đạo quả, các thái tử liền đến trước cha mẹ, báo cho cha mẹ biết: lợi ích của sự xuất gia, nay chúng con đã thành tựu. Lúc ấy, các Tỳ-kheo thân tự bay lên hư không, hiện đằng Đông ẩn đằng Tây; ẩn đằng Tây hiện đằng Đông; hiện đằng Nam ẩn đằng Bắc; hiện đằng Bắc ẩn đằng Nam, hoặc hiện làm nhiều thân hình lớn, đầy khắp trong hư không, rồi lại hiện làm một thân, một thân lại hiện làm vô lượng thân; hoặc hiện trên thân phun nước, dưới thân phun lửa. Sau khi các thái tử đã vì cha mẹ, hiện đủ thứ thần biến rồi, liền tự thiêu thân mà nhập Niết-bàn. Bấy giờ, Lộc mẫu phu nhân thâu nhặt thân cốt, xây bốn trăm chín mươi chín cái tháp ở trong hậu viên để cúng dường. Người con út, qua chín mươi ngày sau, cũng chứng được quả vị Bích-chi-phật, cũng vì cha mẹ, hiện đại thần biến. Hiện thân biến xong liền nhập Niết-bàn. Mẹ của thái tử cũng thu thập thân cốt, xây tháp cúng dường. Bấy giờ, Lộc mẫu phu nhân đốt các thứ hương thơm quý, trỗi các thứ âm nhạc mầu nhiệm, ngày ngày ở trong hậu viên cúng dường năm trăm tháp Bích-chi-phật. Phu nhân ở trước các tháp ấy, tỏ vẻ buồn rầu không vui và nói: “Ta tuy sinh năm trăm thái tử, thảy đều xuất gia mà không có một người nào phát tâm Bồ-đề.” Phu nhân liền lập thệ nguyện: –Ta cúng dường năm trăm Bích-chi-phật, gồm xây năm trăm tháp cúng dường công đức của xá-lợi, xin hồi hướng cho khắp tất cả chúng sinh, khiến ta đời sau, thà sinh một con mà phát tâm Bồ-đề, hiện thế xuất gia, chứng được Nhất thiết trí, còn hơn sinh nhiều con mà không phát tâm Bồ-đề. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Lộc mẫu phu nhân lúc ấy, nay là Ma-da phu nhân. Ma-da phu nhân do cúng dường năm trăm Bích-chi-phật và tu tập vô lượng nghiệp thiện, cho nên ngày nay được sinh thành thân của Như Lai. Khi Phật nói pháp ấy, có vô lượng trăm ngàn người, trời, chứng được Sơ quả, cho đến Tứ quả; có vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, đức Ma-da phu nhân về đời quá khứ, đã tạo hạnh nghiệp gì mà phải sinh trong loài súc sinh, làm thân Lộc nữ? Phật bảo Tôn giả A-nan: –Nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói về nhân duyên hành nghiệp đời trước của Đức Ma-da phu nhân. Về đời quá khứ lâu xa, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có một Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, ở đời giáo hóa. Sau khi Phật diệt độ, vào thời kỳ tượng pháp, lúc ấy có một nước nọ, gọi là Ba-la-nại, trong nước này có một người Bà-la-môn chỉ sinh hạ được một người con gái. Sau khi cha chết, để lại nàng cho mẹ nuôi nấng tới lúc khôn lớn. Nhà có một khu vườn cây trái, nên mẹ nàng thường để nàng ở nhà để trông coi, còn bà thì đi kiếm sống để nuôi thân và nuôi con. Ngày ngày theo thường lệ, bà vẫn đem thức ăn về cho con. Nhân một bữa nọ, vì sự chậm trễ của mẹ, chưa kịp đem thức ăn về cho nàng, hơn nữa, do sự đói khát bức bách, nên nàng sinh ra tức giận, nói: –Mẹ ta ngày nay, không biết vì lẽ gì mà không cho ta ăn, chẳng nhìn ngó đến ta, để ta như thế này? Vì quá phiền muộn, nên nàng nhắc đi nhắc lại đến ba lần như vậy, rồi lại còn tức giận, nói: –Mẹ ta ngày nay, không bằng loài súc sinh. Ta thấy loài súc sinh như con hươu, một khi con nó bị đói khát, lòng nó còn chẳng nỡ rời bỏ, nữa là mẹ ta! Nhưng thời gian không bao lâu, mẹ nàng đã đem thức ăn về cho nàng ăn. Đang lúc sắp ăn uống thì có một vị Sa-môn là Bích-chi-phật, từ phía Nam bay qua phía Bắc. Lúc ấy, người con gái Bà-la-môn thấy vị Tỳ-kheo kia thì sinh lòng vui mừng, liền đứng dậy, chắp tay, cúi đầu làm lễ, trải tòa thỉnh mời ngồi, rồi lấy những bông hoa tươi tốt, giảm phần ăn của mình, để cúng dường vị Tỳ-kheo. Vị Tỳ-kheo ăn xong rồi, lại vì người con gái ấy, mà thuyết pháp, chỉ dạy, khiến đạt được những sự lợi ích, vui mừng. Bấy giờ, người con gái đó liền phát nguyện: –Nguyện tôi đời sau, được gặp gỡ những bậc Hiền thánh, lễ bái, cúng dường, khiến cho tôi được nhan sắc tốt đẹp, tôn vinh cao quý, nếu khi dạo đi đến đâu, hoa sen sẽ mọc theo dấu chân đi. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Người con gái lúc bấy giờ, về sau là Lộc mẫu phu nhân, do cúng dường vị Bích-chi-phật một bữa ăn và hoa mà trong năm trăm đời, được hưởng phước báo phú quý cao sang, y phục, thức ăn uống, không thiếu một thứ gì, nếu đi tới đâu, lại có hoa sen mọc theo phía chân đi, vì có nhân duyên như thế, mà nay được gặp năm trăm vị Bích-chi-phật, lễ bái cúng dường, nhưng chỉ vì một lời nói ác, chẳng biết ân đức, hủy báng mẹ: “chẳng bằng loài súc sinh”, mà trong năm trăm kiếp phải sinh làm loài hươu. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Người ta sinh ra ở đời, họa từ trong miệng phát sinh, nên phải giữ gìn miệng hơn cả lửa mạnh vì lửa mạnh có đốt cháy, cũng chỉ đốt cháy một đời này, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy thì sẽ đốt cháy trong vô số kiếp; lửa mạnh đốt cháy chỉ đốt cháy được của cải nơi thế gian, còn như lời nói ác khẩu đốt cháy thì sẽ đốt cháy cả bảy thứ của cải của Thánh nhân. Vì thế A-nan, tất cả chúng sinh, họa từ trong miệng sinh ra. Vả lại, miệng lưỡi thực là cái búa sắc tự bổ mình, là cái họa để tự diệt mình. Khi Phật nói kinh này, có ngàn Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, biết giữ gìn tội lỗi của khẩu nghiệp, liền chứng được Sơ quả, lại có vô lượng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chứng được Sơ quả, cho đến Tứ quả, vô lượng nhân, thiên đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến tâm Bích-chi-phật. Tất cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp đều hoan hỷ vâng theo, rồi lễ Phật và lui ra.  Bấy giờ Đức Thế Tôn, cùng với Tôn giả A-nan, vào thành Vương xá khất thực. Khi trở về ngoài thành, thấy có một vũng nước rất lớn và sâu, nên người trong thành Vương xá thường đem những thứ đại tiểu tiện ô uế, đổ bỏ vào vũng nước ấy và khi trời mưa thì tất cả nước dơ dáy ở khắp các chốn cũng chảy dồn cả vào trong vũng đó. Lúc đó, ở trong vũng nước ấy, có một con đại trùng, hình thù giống như người, nhưng tay chân lại rất nhiều. Con đại trùng ấy xa trông thấy Đức Như Lai, liền ngoi đầu lên khỏi mặt nước, trông nhìn Đức Phật, mà nước mắt tuôn trào. Đức Như Lai thấy con vật đó rồi, tỏ vẻ thương xót không vui liền trở về núi Kỳ-xà-quật. Tôn giả A-nan trải tọa cụ. Đức Như Lai ngồi kiết già trên tọa cụ ấy. Lúc đó, Tôn giả A-nan quan sát tâm ý của đại chúng, liền hỏi Đức Như Lai: –Bạch Đức Thế Tôn, con trùng ở trong vũng nước vừa trông thấy đó, đời trước làm việc ác gì mà phải sinh sống trong vũng nước như thế? Với thời gian là bao nhiêu? Và đến thời nào mới được giải thoát? Phật bảo Tôn giả A-nan và đại chúng: –Các ông nên nghe cho kỹ, Ta sẽ vì các ông mà giảng nói việc ấy. A-nan, về đời quá khứ, vô lượng ngàn kiếp, bấy giờ có Đức Phật ra đời, giáo hóa chúng sinh đã đều khắp rồi và nhập Niết-bàn. Sau khi Phật diệt độ, ở trong thời tượng pháp, có một người Bà-la-môn, lập tịnh thất cúng dường Tăng chúng. Nhân có một người đàn việt thường dâng dầu tô để cúng dường chúng Tăng. Lúc ấy có vị Tỳ-kheo khách tới, vị Duy na thấy vậy, sinh lòng giận tức, không muốn tiếp vị khách kia, nên đem cất giấu tất cả những thứ dầu tô ấy. Khách Tăng mới hỏi: –Sao Thầy không đem dầu tô để cúng dường chúng Tăng? Vị Duy na đáp: –Vì ông là khách Tăng, còn tôi là cựu trụ, vì thế mà tôi không cúng dường. Tỳ-kheo khách nói: –Đó là đàn việt cúng dường cho chúng Tăng hiện tiền. Lúc ấy, người Duy na kia lộ vẻ hung ác đáng sợ, liền mắng khách Tăng: –Sao ông không ăn phẩn giải mà lại cứ theo tôi đòi dầu tô đó hoài vậy? Do lời nói ác độc ấy, cho nên từ đó đến nay, đã trải qua chín mươi ức kiếp, thường phải sinh trong vũng phân. Người Duy na lúc bấy giờ, nay là con trùng ở trong vũng nước kia. Do đời quá khứ, phát ra lời nói ác, hủy nhục chúng Tăng mà trải vô lượng kiếp cứ phải sinh vào nơi phân giải nhơ nhớp! Phật bảo các đệ tử: –Nên phải giữ gìn khẩu nghiệp hơn cả lửa mạnh. Đối với cha mẹ, chúng Tăng, phải đem lòng cung kính cúng dường, nói lời nhu hòa, khen ngợi, thường nghó đến ân đức của các vị đó. Chúng Tăng là ruộng phúc, đã ra khỏi ba cõi; còn cha mẹ là ruộng phúc tối thắng ở trong ba cõi. Vì sao? Vì trong chúng Tăng gồm có bốn quả, bốn hướng, mười hai bậc hiền só, người nào cúng dường các bậc ấy sẽ được hưởng phúc vô lượng, không những như vậy, nếu tinh tấn tu hành không thoái tâm, thì còn thành tựu Phật đạo nữa. Đối với cha mẹ, mười tháng cưu mang, ướt mẹ nằm, ráo nhường con, bú mớm nuôi dưỡng đến ngày lớn khôn, dạy bảo cho con biết nghề nghiệp, tùy thời nuôi dạy, lại cho đi xuất gia, tu hành được giải thoát, qua khỏi bể sinh tử, làm lợi ích cho mình và cho tất cả muôn loài. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Cha mẹ, chúng Tăng, là hai thứ ruộng phúc của tất cả chúng sinh, là diệu quả của cõi Nhân, Thiên, Niết-bàn giải thoát cũng do đó mà được thành tựu! Khi Phật nói kinh này, có vô lượng trăm ngàn chúng sinh, Nhân và Phi nhân, hoặc được Sơ quả, cho đến Tứ quả, hoặc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, tất cả ai nấy đều chắp tay lễ Phật, nhiễu quanh theo phía bên phải, vui mừng và lui ra.  Lại nữa, ở nước Ba-la-nại, có vị Thừa tướng Bà-la-môn, nhà rất giàu có, của cải châu báu, vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, voi, ngựa, trâu, dê, ruộng vườn, tôi tớ, không thiếu một thứ gì, đã quá tám mươi tuổi mới sinh được một người con trai, đẹp đẽ đoan nghiêm, nhân tướng vẹn toàn, cha mẹ rất vui mừng, mời các tướng sư, đến để xem tướng và đặt tên cho con là Quân Đề. Quân Đề lên bảy tuổi, cha mẹ rất yêu quý nên cùng nhau tìm đến chỗ Đức Như Lai ở núi Sát-đề-lợi-nhân-đề-la, xin cho Quân Đề được theo Phật xuất gia. Bấy giờ, Đức Như Lai với bốn chúng vây quanh, đang vì đại chúng chư Thiên, Long, Quỷ thần, giảng rộng về pháp thế gian và các pháp xuất thế gian. Lúc ấy, vị Bà-la-môn bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, con nay tuổi đã về già mới sinh được đứa con này, xin Đức Thế Tôn là Bậc Đại Từ, thương xót che chở cho tất cả, nay con xin đem đứa con này của con đến, mong được Phật độ cho xuất gia làm đệ tử Phật. Phật bảo: –Hay lắm Tỳ-kheo! Tức thì râu tóc tự nhiên rụng hết, áo ca-sa liền mặc vào mình. Rồi Phật vì Quân Đề nói pháp, chỉ bày dạy bảo, khiến đạt được những lợi ích, nên sinh lòng vui mừng, liền chứng đắc đạo quả ba minh, sáu thông và đủ tám thứ giải thoát. Lúc ấy Tôn giả A-nan quan sát tâm ý của đại chúng, đều thấy có sự nghi ngờ, nên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, để hở vai áo bên phải, chắp tay cung kính, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, Sa-di Quân Đề thời quá khứ đã tạo những công đức gì, tu hành nghiệp gì mà nay được gặp Đức Thế Tôn, lại được chứng đạo quả, sao mau chóng như thế? Phật bảo Tôn giả A-nan: –Sa-di Quân Đề, không phải mới ngày nay tu hành liền được như vậy đâu, mà do đời quá khứ đã từng cúng dường cha mẹ, chúng Tăng, tu tập các công đức vi diệu, nên nay gặp được thiện tri thức, lại chứng đắc đạo quả. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Kính xin Phật giảng nói cho đại chúng được biết. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Nghe cho kỹ, Ta sẽ nói cho ông và đại chúng được rõ: Về đời quá khứ, vô lượng ngàn năm, có Đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi, tại thế giáo hóa, đem lại lợi ích cho cõi trời, cõi người. Hóa duyên đã viên mãn, liền nhập Niết-bàn. Sau khi Phật diệt độ, trong thời chánh pháp, có một vị Tỳ-kheo tuổi trẻ, thông suốt cả ba tạng: tạng A-tỳ đàm, tạng Tỳ-ni, tạng Tu-đa-la. Diện mạo tốt đẹp, nhân tướng đầy đủ, giọng tiếng trong trẻo vi diệu, lại rất thông minh, biện luận, thuyết pháp đều giỏi, cho nên được nhiều người quen biết, lại được cả nhà vua và những người Bà-la-môn cung kính, cúng dường. Lúc ấy, có một vị Tỳ-kheo già, thân hình xấu xí, tướng người chẳng đầy đủ, hơn nữa giọng tiếng lại không được tốt, nhưng thường ưa đọc tụng, tán thán công đức của Tam bảo. Bấy giờ, vị Tam tạng Tỳ-kheo tuổi trẻ thấy vị Tỳ-kheo tuổi già, giọng tiếng không được tốt, liền sinh tâm hủy nhục, nói: –Giọng tiếng như thế chẳng khác gì tiếng chó sủa! Vị Tỳ-kheo già nói: –Sao ngươi lại hủy nhục ta như vậy? Ngươi có biết ta chăng? Vị Tam tạng Tỳ-kheo tuổi trẻ nói: –Tôi có biết ông, ông là vị Tỳ-kheo già Ma-ha-la, trong thời kỳ chánh pháp của Phật Tỳ-bà-thi, sao tôi lại không biết? Ma-ha-la nói: –Ta nay chỗ làm đã xong, phạm hạnh đã lập và không còn phải chịu thân sinh tử nơi đời sau nữa. Vị Tam tạng Tỳ-kheo tuổi trẻ nghe nói thế, lòng sinh ra kinh hãi, dựng cả chân lông. Lúc này Ma-ha-la, liền đưa tay bên phải phóng ra ánh hào quang lớn soi khắp cả mười phương. Tam tạng Tỳ-kheo trẻ liền cúi đầu lễ bái, cầu xin sám hối: –Tôi là người ngu si, không biết phân biệt Hiền thánh, nên gây ra nghiệp ác ấy, xin cho tôi đời sau, được gần gũi bạn lành, gặp gỡ Thánh sư, bao nhiêu phiền não đều được sạch hết, cũng như đại đức. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Tam tạng Tỳ-kheo trẻ tuổi ấy, vì một lời nói ác hủy mắng bậc thượng tọa, mà trong năm trăm kiếp, thường bị quả báo phải làm thân chó. Tất cả đại chúng, nghe Phật nói pháp, đều kinh sợ hãi hùng và cùng phát ra tiếng nói: –Gớm thay! Gớm thay độc họa nơi thế gian, không gì nặng hơn là ác khẩu! Bấy giờ vô lượng trăm ngàn người đều lập thệ nguyện, nói kệ: Giả sử vòng sắt nóng, Quấn tại đỉnh đầu tôi Trọn chẳng vì khổ ấy Mà phát lời ác độc. Giả sử vòng sắt nóng Ở tại đỉnh đầu tôi Trọn chẳng vì khổ ấy Mà hủy báng Thánh hiền. Phật bảo Tôn giả A-nan và Xá-lợi-phất: –Đối với các chúng sinh, là bậc Thiện tri thức, ngày đêm sáu thời thường dùng đạo nhãn, xem xét chúng sinh ở trong năm ngả, người nên hóa độ, cần phải đến mà hóa độ cho họ. Bấy giờ, khoảng giữa hai nước Ma-kiệt-đà và Xá-vệ có năm trăm người khách buôn, phải đi ngang qua một con đường rất nguy hiểm. Lúc đó, người chủ buôn, mang theo một con chó trắng. Người bạn của chủ buôn, vào lúc chập tối, có nấu thịt để làm thức ăn, tới khuya, con chó ấy ăn vụng hết. Sáng mai, người chủ buôn và bạn của ông ta, định lấy thịt ra để ăn, thì biết là chó đêm hôm qua đã ăn vụng hết sạch! Đang gặp lúc đói khát bức bách, nên họ sinh ra giận tức, liền cầm dao chặt hết bốn chân của con chó, quăng xác xuống hố rồi cùng nhau bỏ đi nơi khác. Con chó bị đau đớn, quằn quại dưới hố trông rất thảm thiết. Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất, vào chập tối, dùng đạo nhãn, từ xa thấy rõ sự thể ấy rồi, nên đến sớm mai, liền mặc áo, mang bát vào trong thành khất thực, xong xuôi Tôn giả liền đi thẳng tới chỗ con chó, đem thức ăn cho nó ăn, rồi lại vì nó giảng nói pháp, chỉ bày dạy bảo, khiến được những lợi ích, nên sinh lòng vui mừng. Con chó ấy nghe pháp rồi, hổ thẹn không vui. Sau bảy ngày tội hết, được thoát khỏi kiếp chó, sinh ra làm người. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Con chó lông trắng lúc ấy, nay là ông Sa-di Quân Đề này. Do đời quá khứ, hủy báng Hiền thánh, mà phải đọa lạc vào đường ác, nhưng vì biết ăn năn, hổ thẹn cải hối và phát thệ nguyện ấy, cho nên nay được gặp bạn lành, vì được gặp bạn lành mà được thoát thân kiếp chó, sinh ra làm người, được gặp Phật, giải thoát sinh tử, phiền não. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Nên phải nghó nhớ đến ân đức của cha mẹ, ân đức của Thiện tri thức. Cho nên người biết ân, thường nên phải trả ân. Thiện tri thức là nhân duyên lớn. Khi Phật nói pháp ấy, có vô lượng trăm ngàn chúng sinh, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến tâm Thanh văn, Bích-chi-phật. Tất cả đại chúng, nghe Phật nói pháp rồi đều vui mừng hớn hở, lễ Phật và lui ra. KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN <卷 id="32807808">QUYỂN 4 <卷 id="32807809">Phẩm 6: ÁC HỮU Bấy giờ đại chúng vây quanh Đức Thế Tôn, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán. Khi ấy, Đức Như Lai vui vẻ mỉm cười, rồi từ trên trán phóng ra một vầng hào quang lớn tên là Đại bi gồm bốn màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, chiếu khắp mười phương, trên tới cõi trời Sắc cứu cánh, dưới đến mười tám cửa Địa ngục. Khi tia hào quang chiếu vào thân thể đau đớn, khổ não của Đề-bà-đạt-đa, thì lập tức Đề-bà-đạt-đa được yên vui bình thản. Lúc ấy đại chúng đồng thanh ca ngợi Đức Như Lai: –Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đức Thế Tôn thật là một Đấng Đại từ, Đại bi, đối với kẻ oán, người thân, tâm thường bình đẳng. Đề-bà-đạt-đa lúc nào cũng mang lòng thâm độc, toan hãm hại Như Lai, vậy mà Đức Thế Tôn không những đã chẳng lo sợ, oán giận, mà còn rủ lòng thương xót, phóng hào quang Đại bi, chiếu vào Đề-bà-đạt-đa khiến được yên vui bình thản. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng: –Không phải chỉ ở kiếp này Đề-bà-đạt-đa thường mang lòng hại Ta, mà trong kiếp quá khứ xa xưa, Đề-bà-đạt-đa cũng thường muốn hại Ta, nhưng Ta cũng đều lấy lòng Từ bi mà tha thứ và cứu độ cho. Tôn giả A-nan nhận thấy tâm ý của đại chúng đều có chỗ nghi ngờ, nên từ chỗ ngồi đứng dậy, để hở vai áo bên phải, đầu gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, trong kiếp quá khứ Đề-bà-đạt-đa thường mang lòng hại Phật, việc đó như thế nào? Phật bảo Tôn giả A-nan: –Ông hãy nghe cho kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói rõ về việc đó. Ở thời quá khứ, cách đây vô lượng vô số ngàn năm, có một nước gọi là Ba-la-nại. Trong nước ấy có một vị Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Phật Tỳ-bà-thi ở đời giáo hóa được mười ngàn năm. Sau khi nhập diệt, chánh pháp của Ngài lưu truyền được mười hai ngàn năm, thì bắt đầu sang thời kỳ tượng pháp. Sau thời kỳ tượng pháp, nước Ba-la-nại có ông vua tên là Ma-ha-la-xà. Vua rất thông minh và nhân đức, lấy chánh pháp trị nước, không bức bách muôn dân. Vua làm bá chủ sáu mươi nước nhỏ, tám trăm thôn ấp; có năm trăm voi trắng và hai vạn phu nhân, nhưng không có con. Vua Ma-ha-la-xà mới làm lễ cầu đảo nơi các vị thần sông ngòi, núi rừng và cây cối để mong có con nối nghiệp. Cứ như thế ròng rã trong mười hai năm, thì hai bà phu nhân đệ nhất và đệ nhị đều mang thai. Được tin ấy, vua hết sức vui mừng, rồi tự tay chăm sóc các thức ăn uống, giường mùng cho hai vị phu nhân kia luôn được như ý. Sau mười tháng, phu nhân đệ nhất sinh ra thái tử, thân hình đầy đặn, tướng mạo khôi ngô và sắc diện đoan trang. Phu nhân đệ nhị cũng sinh được một trai. Vua thấy sung sướng vô cùng, liền triệu tập các quan văn, võ, các nhà tướng số và các thầy Bà-la-môn để xem tướng và đặt tên cho hai thái tử. Thầy tướng hỏi: –Khi sinh thái tử, có điềm gì khác lạ không? Vua đáp: –Bà mẹ của thái tử thứ nhất xưa nay tánh tình vốn xấu xa hay giận dữ, ghen ghét, tự kiêu, tự đại, nhưng từ khi sinh thái tử thì tánh tình khác hẳn: hòa nhã, vui vẻ, rộng lượng, khiêm tốn và lúc nào cũng tươi cười; gặp ai cũng dùng lời từ tốn thăm hỏi và thương yêu mọi người như mẹ thương con. Thầy tướng nói: –Đó là do phúc đức của đứa trẻ này khiến cho cha mẹ thay đổi như thế. Vậy nên đặt tên là thái tử Thiện Hữu. Thầy tướng lại hỏi: –Thế còn phu nhân đệ nhị khi sinh thái tử cũng có những điềm khác lạ chăng? Vua đáp: –Phu nhân đệ nhị xưa nay tánh tình vốn hiền hậu, vui vẻ, nói năng dịu dàng, ai cũng quý mến, nhưng từ khi mang thai thì tánh nết đột nhiên thay đổi: cáu kỉnh, oán hờn, ghen tî và hay chửi mắng. Thầy tướng nói: –Đó là do nghiệp báo của đứa trẻ này khiến cho bà mẹ thay đổi như thế. Vậy nên đặt tên là thái tử Ác Hữu. Từ đó hai thái tử dần dần khôn lớn. Đến năm mười bốn tuổi thì thái tử Thiện Hữu tỏ ra rất thông minh và nhân từ, hay bố thí cho những người nghèo khó, nên cha mẹ rất thương yêu, quý chuộng. Còn thái tử Ác Hữu thì tánh khí hung bạo, cha mẹ thường ít ưa chuộng, không muốn nhìn mặt, nên Ác Hữu mang lòng ganh ghét với anh, hay gây sự bất hòa, sinh tâm hờn giận và chỉ muốn làm hại anh. Một hôm, thái tử Thiện Hữu cùng với đoàn người tùy tùng ra ngoài thành du ngoạn. Thái tử thấy người cầy ruộng, lưỡi cầy đưa đến đâu thì côn trùng dưới đất chạy ra và lập tức bị những chim chóc mổ ăn. Thái tử thấy thế, bùi ngùi thương xót và vốn sinh trưởng trong thâm cung chưa hề thấy việc ấy, nên mới hỏi người tùy tùng: –Tại sao những con vật lại giết hại lẫn nhau vậy? Và tại sao người kia phải làm việc vất vả như thế? Người hầu cận đáp: –Sở dó thái tử có đất nước là nhờ ở muôn dân; muôn dân có là nhờ nơi sự ăn uống, sở dó có cái để ăn uống là nhờ ở sự cầy cấy, trồng trọt các thứ thóc lúa để nuôi sống con người. Nghe xong, thái tử trầm ngâm suy nghó và nói: –Khổ thay! Khổ thay! Đi được một khoảng đường nữa, lại thấy một đám người, cả đàn ông lẫn đàn bà đang dệt vải, mồ hôi nhễ nhại, trông có vẻ mệt nhọc, thái tử lại hỏi: –Những người kia làm gì thế? Tùy tùng thưa: –Thưa thái tử, họ đang dệt vải để may quần áo cho mọi người che đậy thân thể và ngừa sự rét mướt. Thái tử tự nghó: “Vì miếng cơm ăn, manh áo mặc mà con người phải vất vả như vậy”. Đi thêm một quãng nữa, lại thấy người ta đang lột da những con trâu, con ngựa và chọc tiết heo, dê, thái tử liền hỏi: –Đám người kia đang làm gì mà lại xâu xé những con vật như thế? Tùy tùng trả lời: –Họ là những người đồ tể, giết súc vật bán thịt để mưu sinh. Nghe xong, thái tử có vẻ kinh sợ và nói: –Lạ thay, sao người ta có thể bất nhẫn như thế được, cậy mạnh hiếp yếu, sát sinh để mưu sinh mà gây oan trái rồi đền trả nhau trong bao nhiêu kiếp. Đi tiếp một quãng đường nữa, lại gặp một đám người bẫy chim, bắt cá, hà hiếp kẻ vô cớ, người khỏe bắt nạt kẻ yếu, thái tử lại hỏi: –Những người kia làm gì vậy? –Thưa thái tử, họ đang bẫy chim, bắt cá để đổi lấy miếng cơm ăn manh áo mặc. Nghe xong, thái tử buồn rầu, rơi lệ, thương cho chúng sinh ở đời toàn tạo những nghiệp ác, để rồi phải chịu những quả khổ vô cùng. Thái tử thấy thế, lòng thương cảm không nguôi, liền sai xe quay trở về cung điện. Về cung, vua cha thấy thái tử có vẻ ưu tư, sầu khổ, mới hỏi nguyên do. Thái tử liền đem hết những việc đã được mục kích trong khi du ngoạn ngoài thành, thuật lại cho vua cha nghe. Vua nói: –Đó là những việc tự nhiên, không thể tránh được vậy con không nên buồn rầu, hại cho sức khỏe. Thái tử nói: –Nay con muốn xin Phụ vương một việc, Phụ vương có vui lòng cho con không? Vua nói: –Ta chỉ có con là người con duy nhất, ta rất yêu quý, vậy ý con muốn điều gì cứ nói, ta sẽ cho con được toại nguyện. Thái tử thưa: –Con muốn xin tất cả những kho tàng của cải và lương thực của phụ vương để bố thí cho tất cả mọi người. Vua trả lời: –Tùy ý con muốn, cha không hối tiếc. Bấy giờ, thái tử Thiện Hữu mới sai quan giữ kho mở các cửa kho và dùng năm trăm con voi lớn chở các thứ của báu ra bốn cửa thành truyền cho dân chúng khắp trong nước ai cần thức ăn, áo mặc và của cải, cứ tự ý đến lấy. Lúc ấy danh tiếng của thái tử lừng lẫy tám phương. Dân chúng khắp nơi kéo đến và chỉ trong một thời gian ngắn đã hết hai phần ba của cải trong các kho tàng. Viên quan coi kho liền vào tâu vua: –Tâu Bệ hạ, thái tử đã cho hết hai phần ba của cải trong các kho, xin Bệ hạ hãy nghó lại. Vua nói: –Không nên làm trái ý thái tử. Một lúc sau, các quan họp nhau để bàn bạc và cho rằng: Sở dó quốc gia được hưng thịnh là nhờ vào các kho tàng, nay kho tàng hết sạch của cải, thì quốc gia phải lâm nguy. Bàn xong, các quan lại vào tâu vua: –Tâu Bệ hạ, thái tử đã dùng hết hai phần ba của cải trong kho tàng, xin Bệ hạ can ngăn thái tử. Vua trả lời: –Trẫm không muốn làm trái ý con mình, vậy các khanh hãy từ từ tìm cách can ngăn thái tử. Hôm sau, thái tử Thiện Hữu vào kho thì không thấy quan giữ kho đến mà cửa kho thì khóa chặt. Thái tử sai người đi mời quan giữ kho, nhưng không gặp. Thái tử tỏ vẻ bực mình: –Sao viên quan coi kho lại dám làm trái ý ta? Hay phụ vương ta đã ra lệnh như vậy? Nói xong, thái tử sực tỉnh, liền tự nghó: “Người con hiếu thảo, không nên phá tán của cải của cha mẹ, ta hãy tự tìm lấy của báu để bố thí chúng sinh. Nếu ta không thể cấp dưỡng đầy đủ thức ăn, áo mặc cho tất cả chúng sinh được như ý, thì sao có thể gọi là con của một vị Đại vương?” Nghó như thế rồi, thái tử liền triệu tập các quan văn võ để thảo luận. thái tử hỏi: –Người ta làm nghề gì thì kiếm được nhiều của nhất? Vị đại thần thứ nhất thưa: –Ở đời, muốn giàu có trước hết phải cày cấy trồng trọt, vì mất ít vốn mà lại được nhiều lời. Vị đại thần khác lại nói: –Cái nghề đưa lại nhiều lợi tức nhất là nghề chăn nuôi, là vì súc vật sinh nở rất mau. Một vị đại thần nữa nói: –Ai muốn trở nên đại phú thì phải xuống biển tìm các thứ bảo vật. Nếu được viên ngọc báu Ma-ni thì tha hồ cấp dưỡng cho tất cả chúng sinh, khiến đều được đầy đủ như ý muốn. Thái tử Thiện Hữu nói: –Duy có cách ấy là hợp ý ta nhất. Lập tức thái tử cho các quan giải tán rồi vào cung tâu với vua cha: –Nay con muốn xuống biển tìm các thứ châu báu, xin phụ vương chấp thuận. Nghe lời nói ấy, như sét đánh bên tai, nhà vua nghẹn ngào nói với thái tử: –Giang sơn đất nước này và kho tàng của báu kia đều thuộc quyền sở hữu của con, tùy ý con sử dụng, hà tất phải xuống biển tìm châu báu? Con vốn sinh trưởng trong thâm cung, sống trên nhung lụa, nay phải dãi dầu sương gió, đói khát nóng lạnh, lấy ai săn sóc. Hơn nữa, giữa biển cả mênh mông, bao nhiêu tai nạn, nào ác quỷ, độc long, sóng dồn gió dập, nước xoáy đá ngầm, cá kình cá mập, ngàn vạn người ra đi chỉ một vài người đến đích. Nay con lại xin xuống biển thì việc ấy cha không thể cho được. Lúc ấy, thái tử Thiện Hữu liền phủ phục xuống đất tâu với vua cha: –Nếu cha mẹ không cho con được xuống biển tìm châu báu thì con sẽ bỏ mạng nơi đây chứ trọn không đứng dậy. Bấy giờ, nhà vua và phu nhân thấy như thế, thì chỉ đưa mắt nhìn nhau mà không nói nên lời. Một lúc sau mới khuyên giải thái tử: –Con hãy dậy ăn uống đi. Thái tử nói: –Nếu cha mẹ không cho con được toại nguyện, con nhất định sẽ nhịn đói đến chết. Vua cha và các phu nhân đều âu sầu khổ não, khóc lóc thảm thương, cứ như thế đến trọn một ngày mà thái tử cũng không ăn uống. Rồi hai ngày, ba ngày cho tới sáu ngày trôi qua, thái tử cũng không hề lay chuyển. Cha mẹ lo sợ quá nên đến ngày thứ bảy mới vỗ về, khuyên nhủ thái tử: –Con hãy dậy ăn uống đi! Cái thân này nhờ có ăn uống mới sống được, nếu không ăn uống thì tất phải chết. Thái tử nói: –Nếu cha mẹ nhất định không cho con xuống biển tìm châu báu thì con sẽ chết tại đây, không bao giờ đứng dậy. Bấy giờ, phu nhân đệ nhất tâu vua: –Con nó đã quyết chí như thế thì khó có thể lay chuyển được. Ta nỡ nào nhìn con bỏ mạng nơi đây? Vậy xin Bệ hạ rủ lòng thương mà cho con xuống biển may ra còn hy vọng phần nào trong muôn một, chứ nếu không cho thì chắc chắn con nó sẽ chết ngay thôi. Nhà vua thấy không thể nào ngăn cản nổi, nên đành phải bằng lòng. Thái tử Thiện Hữu bèn đứng dậy, vui mừng, lễ chân phụ vương. Các cung phi, thể nữ và trăm ngàn người xung quanh đều hỏi nhau: –Thái tử còn sống hay chết? Vua trả lời: –Hôm nay thái tử đã trở dậy, vui vẻ và ăn uống như thường. Vua hỏi thái tử: –Mục đích con muốn xuống biển để tìm của báu gì? Thái tử trả lời: –Tâu Phụ vương, con muốn tìm cho được viên ngọc báu Ma-ni để cấp dưỡng cho tất cả chúng sinh, khiến không còn thiếu thốn. Bấy giờ nhà vua mới truyền lệnh khắp trong nước: –Thái tử Thiện Hữu muốn xuống biển tìm ngọc báu Ma-ni, nếu ai chịu đi với thái tử thì khi trở về, ta sẽ ban cho của cải dùng trong bảy đời không phải thiếu thốn. Ta sẽ sắm đầy đủ thuyền bè và cung cấp lương thực đi đường. Khi nghe lệnh ấy, năm trăm người vui mừng tụ họp, rồi đến tâu vua: –Muôn tâu Bệ hạ, chúng tôi xin tình nguyện đi theo thái tử. Thời ấy ở nuớc Ba-la-nại, có một nhà hàng hải rất thông thạo các đường biển, nhưng đã tám mươi tuổi, nên mắt mờ kém. Vua nước Ba-la-nại tìm đến tận nơi nói với nhà hàng hải: –Trẫm chỉ có một người con, từ xưa chưa hề đi đâu, mà nay lại muốn xuống biển tìm ngọc báu, nên trẫm đến cảm phiền khanh cùng đi để hướng dẫn con trẫm. Nghe vua nói như thế, nhà hàng hải quá xúc động, cất tiếng khóc, rồi tâu vua: –Tâu Bệ hạ, giữa biển cả mênh mông, tất gặp rất nhiều gian khổ nguy hiểm, muôn ngàn người ra đi mà chỉ có một vài người đến đích, tại sao Bệ hạ lại để cho thái tử dấn thân vào con đường hiểm nghèo như vậy? Vua nói: –Thái tử quyết chí xin đi, trẫm đã nhiều ngày khuyên giải mà thái tử không nghe. Cho nên, vì quá thương con mà trẫm không dám làm trái ý thái tử. Nghe xong, nhà hàng hải tuân theo mệnh lệnh của vua để cùng đi với thái tử. Bấy giờ, thái tử Thiện Hữu chuẩn bị hành trang đầy đủ cho năm trăm người, rồi sai đám hầu cận chở ra bãi biển. Lúc đó, em thái tử là Ác Hữu tự nghó: “Xưa nay cha mẹ thường yêu quý Thiện Hữu hơn ta, nay Thiện Hữu lại đi ra biển tìm ngọc báu, nếu ngày kia ngọc được đem về, chắc chắn cha mẹ càng yêu quý Thiện Hữu hơn nữa mà ghét bỏ ta.” Nghó như thế rồi, thái tử Ác Hữu liền đến xin vua cha, cho phép cùng đi với Thiện Hữu xuống biển tìm châu. Vua nói: –Tùy ý con. Giữa đường nếu gặp tai nạn thì anh em phải che chở cho nhau. Lúc tới biển, thái tử Thiện Hữu dùng bảy cái neo, neo thuyền lại bảy ngày trước khi ra khơi. Mỗi buổi sáng, khi mặt trời vừa mọc, thái tử Thiện Hữu đánh một hồi trống nêu rõ: –Tất cả mọi người, ai muốn xuống biển thì cứ mặc nhiên, nếu ai còn quyến luyến cha mẹ, vợ con, anh em và các thú vui ở đời, thì hãy trở về chứ đừng vì tôi mà đi theo. Tại sao vậy? Vì giữa biển cả mênh mông, có nhiều tai nạn, trong muôn ngàn người đi thì chỉ một vài người đến đích. Trong khi tuyên bố như vậy, nếu tất cả mọi người đều giữ im lặng, thì nhổ một chiếc neo gác lên mạn thuyền. Ngày nào cũng làm như thế, cho đến ngày thứ bảy thì tất cả bảy chiếc neo đều được nhổ lên và bắt đầu giương buồm cho thuyền ra khơi. Nhờ phúc đức và lòng Từ bi của thái tử nên mọi người đã vượt qua biển cả mà đến được núi Trân bảo, bình an vô sự. Đến nơi, thái tử Thiện Hữu liền gióng một hồi trống rồi nói với mọi người: –Các vị nên biết, đường sá xa xăm, nay đã đến nơi, vậy các vị phải mau mau thu lượm lấy của báu mà trở về, càng sớm càng hay. Nhưng của báu ở đây rất nặng và quý giá, ở cõi Diêm-phù-đề không có vật gì sánh kịp, vậy các vị đừng có tham lam chở nhiều, sợ nặng quá khiến thuyền đắm giữa dòng, không về đến nơi thì thật là uổng công khó nhọc. Dặn dò xong xuôi, thái tử cùng mọi người chia tay, nói: –Các vị cứ yên tâm trở về, ta còn đi nữa để tìm cho được ngọc báu Ma-ni. Bấy giờ, thái tử Thiện Hữu và nhà hàng hải hướng đạo tiến lên, đi được bảy ngày thì đến một chỗ nước chỉ sâu tới đầu gối; lại đi bảy ngày nữa thì tới một chỗ nước sâu đến cổ; lại tiến thêm bảy ngày nữa, vượt qua một lớp phù sa thì đến một bãi biển, cát toàn bằng bạch ngân. Người hướng đạo hỏi: –Đất này bằng thứ gì? Thái tử đáp: –Đất này toàn bằng bạch ngân. Người hướng đạo lại nói: –Thái tử hãy nhìn xa ra bốn phía xem có dãy núi bạch ngân nào không? –Phía Đông nam có một dãy núi Bạch ngân xuất hiện. –Con đường này sẽ dẫn đến chân dãy núi ấy. Khi tới núi Bạch ngân rồi, người hướng đạo nói với thái tử: –Bây giờ ta nên đi đến vùng Kim sa. Nhưng lúc đó người hướng đạo cảm thấy mỏi mệt, kiệt sức, liền nói với thái tử: –Tôi thấy trong người yếu quá, chắc không bao lâu nữa tôi sẽ bỏ mạng nơi này. Vậy thái tử hãy hăng hái lên, từ đây về phía Đông chừng bảy ngày nữa, sẽ tới rặng Kim sơn, rồi từ Kim sơn đi bảy ngày nữa sẽ đến một nơi đất toàn bằng hoa sen xanh thắm. Lại đi thêm bảy ngày nữa, đất ở nơi ấy thuần là hoa sen đỏ, hồng. Lại đi qua nơi này thì đến một cái thành Thất bảo, nền thành toàn bằng hoàng kim, lầu gác bằng bạch ngân, những tấm bình phong bằng ngọc san hô đỏ, xa cừ, mã não xen lẫn với nhau, những lưới châu ngọc giăng mắc phía trên, bảy lần hào lũy toàn bằng lưu ly. Đó là thành của Long vương Đại Hải. Trong tai bên trái của vị Long vương ấy có một viên ngọc báu Ma-ni Như ý. Thái tử nên đến mà xin. Nếu được viên ngọc ấy thì có thể làm cho khắp cõi Diêm-phù-đề đầy đủ các thứ của báu, thức ăn, áo mặc, thuốc thang và ca nhạc vui tươi. Nói tóm lại, tất cả chúng sinh cần cái gì là tùy ý được thỏa mãn, cho nên gọi là ngọc báu Như ý. Nếu thái tử có được viên ngọc ấy thì chắc chắn mọi nguyện ước sẽ thành tựu cứu giúp chúng sinh. Nói xong, người hướng đạo trút hơi thở cuối cùng. Bấy giờ, thái tử Thiện Hữu ôm lấy xác người hướng đạo khóc thương thảm thiết. Người hướng đạo chết đi, thái tử đã mất một người tin cậy. Sau khi phủ cát vàng mai táng cho nhà hàng hải, thái tử Thiện Hữu đi nhiễu bảy vòng, làm lễ rồi từ biệt. Từ đấy, thái tử đi thẳng đến rặng Kim sơn, qua rặng Kim sơn thì thấy hoa sen màu xanh mọc khắp mặt đất. Dưới những bông sen, có nhiều rắn độc cũng màu xanh. Loại rắn đó có ba thứ độc hại: nó cắn cũng chết, chạm xát vào nó cũng chết, nó phun nọc độc cũng chết. Những con rắn độc này quấn lấy cuống bông sen, giương mắt le lưỡi nhìn thái tử. Lúc đó, thái tử Thiện Hữu liền nhập từ bi quán, rồi nhờ năng lực từ bi nên giẫm lên hoa sen lá sen mà đi thẳng tới cung điện Long vương, mà những rắn độc kia không hề cắn hại. Bốn bên cung điện của Long vương có bảy lớp hào lũy, trong các hào lũy ấy có rất nhiều rồng độc, mình quấn lấy nhau, giao đầu nhìn nhau mà giữ cửa thành. Khi thái tử Thiện Hữu đến ngoài cửa thành thì thấy toàn rồng độc. Thái tử liền vận dụng Từ tâm và tự nghó: “Nếu thân ta đây mà bị những con rồng độc kia sát hại, thì tất cả chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề đều sẽ mất lợi ích lớn”. Bấy giờ thái tử giơ tay phải lên, bảo những con rồng độc: –Các ngươi nên biết, ta nay vì tất cả chúng sinh, muốn được yết kiến Long vương. Ngay lúc ấy, tất cả các rồng độc liền tránh ra mở đường cho thái tử đi qua. Thái tử đi hết bảy lớp thành hào lũy có rồng canh giữ như vậy thì đến dưới cửa thành. Ở đây, thái tử thấy hai ngọc nữ, phục sức bằng nhung tơ, yểu điệu thướt tha. Thái tử mới hỏi: –Các người là ai? Ngọc nữ trả lời: –Chúng tôi là những tỳ nữ của Long vương, có bổn phận giữ cửa thành ngoài. Đoạn thái tử tiến vào cửa giữa, lại thấy bốn người ngọc nữ phục sức toàn bằng tơ lụa màu bạc trắng. Thái tử hỏi: –Có phải các tiểu thư là cung phi của Long vương chăng? Ngọc nữ trả lời: –Không phải. Chúng tôi chỉ là tỳ nữ của Long vương, có phận sự canh gác cửa giữa thành. Thái tử lại vào cửa trong, thấy tám nàng ngọc nữ, phục sức toàn bằng tơ lụa màu hoàng kim. Thái tử hỏi: –Các tiểu thư là người thế nào? Ngọc nữ trả lời: –Chúng tôi là tỳ nữ giữ cửa trong của Long vương. Thái tử nói: –Các tiểu thư hãy vì tôi vào báo cho Long vương Đại Hải biết là có thái tử Thiện Hữu, con vua nước Ba-la-nại, ở cõi Diêm-phù-đề muốn được yết kiến Long vương. Các ngọc nữ liền vào tâu Long vương. Long vương nghe xong lấy làm lạ, mới tự nghó: “Nếu không phải là con người có đầy đủ phước đức và thiện tâm thì không thể nào vượt qua được những khoảng đường xa xăm đầy nguy hiểm mà đến đây!”. Nghó như thế rồi, Long vương bèn ra tận cửa để đón rước thái tử Thiện Hữu vào cung. Cung điện của Long vương toàn bằng lưu ly, giường nằm, tòa ngồi làm bằng bảy báu, ánh sáng chói ngời, nhìn vào lóa mắt. Long vương mời thái tử Thiện Hữu ngồi, rồi cùng chuyện trò. Nhân đó, Thái tử thuyết pháp cho Long vương nghe, nói về công đức của sự bố thí, trì giới và phúc báo ở cõi người, cõi trời. Nghe xong, Long vương Đại Hải rất vui mừng, mới hỏi: –Thái tử đã vượt qua bao nhiêu trùng dương đến đây, mục đích là muốn tìm vật gì? Thái tử nói: –Tâu đại vương, tất cả chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề chỉ vì miếng cơm ăn, manh áo mặc mà phải chịu khổ vô cùng. Nay tôi không quản đường xa, vượt qua bao gian khổ và hiểm nghèo, đến đây mục đích chỉ để xin viên ngọc báu Như ý trong tai bên trái của đại vương mang về cấp dưỡng cho tất cả chúng sinh, khiến họ đều được ấm no, đầy đủ. Long vương nói: –Xin Thái tử hãy ở lại đây bảy ngày để tôi có dịp được cúng dường. Thái tử Thiện Hữu nhận lời mời của Long vương. Sau bảy ngày, Long vương đưa viên ngọc báu Ma-ni biếu Thái tử. Nhận ngọc rồi, Thái tử từ biệt Long vương để trở về cõi Diêm-phù-đề. Lúc đó Long vương Đại Hải sai các Long thần tiễn Thái tử bay trên hư không mà đi, nên chẳng bao lâu đã đến bờ cõi Diêm-phù-đề. Khi tới nơi, thái tử Thiện Hữu gặp em là Ác Hữu, mừng rỡ hỏi han: –Những người đồng hành hiện nay ở đâu? Thái tử Ác Hữu đáp: –Thưa anh, thuyền của chúng em bị đắm và tất cả mọi người đều chết, duy còn em, nhờ bám chặt lấy một tử thi dạt vào đây nên mới sống sót, của báu mất hết, không còn một vật gì. Thái tử Thiện Hữu nói: –Ở đời có của báu nào đáng quý trọng hơn cái thân ta? Của báu tuy mất nhưng em được sống sót, thế là quý lắm rồi. Thái tử Ác Hữu nói: –Không phải thế. Người ta chẳng thà chết trong cảnh giàu có còn hơn là sống trong cảnh nghèo khổ. Thiện Hữu nói: –Ai nói như vậy? Ác Hữu trả lời: –Em đã từng đến chỗ tha ma và được nghe ma quỷ nói như thế. Thái tử Thiện Hữu bản tánh thật thà, mới đem chuyện mình có được ngọc quý nói thực với Ác Hữu: –Tuy em mất hết của báu nhưng đừng có lo, anh đã được viên ngọc báu Ma-ni Như ý của Long vương đây rồi. Ác Hữu hỏi: –Thế anh để ở đâu? Thiện Hữu trả lời: –Anh kết trong búi tóc. Nghe xong, Ác Hữu sinh lòng ganh ghét, lo buồn, áo não, liền tự nghó: “Xưa nay, cha mẹ ta thường thiên vị, thương yêu Thiện Hữu hơn ta, nay Thiện Hữu lại được ngọc báu Ma-ni đem về, thì chắc cha mẹ sẽ thương yêu gấp bội mà ghét bỏ ta như thấy gai gốc.” Nghó như thế rồi, Ác Hữu mới nói với anh: –Được viên ngọc ấy thì quý lắm. Giữa khoảng đường này, phải nên giữ gìn cẩn thận. Bấy giờ Thiện Hữu, giơ viên ngọc ở trong búi tóc ra, đưa cho Ác Hữu xem và dặn: –Khi nào em mệt mà ngủ thì anh canh giữ; nếu anh mà ngủ thì em phải trông chừng. Lúc Thiện Hữu ngủ, đến lượt Ác Hữu giữ ngọc thì Ác Hữu liền dùng hai thanh tre nhọn đâm vào mắt anh rồi cướp ngọc mà chạy. Bấy giờ, Thiện Hữu tri hô lên và gọi em bảo: –Ác Hữu! Ác Hữu! Kẻ cướp đến đâm vào mắt anh mà lấy ngọc. Nhưng không thấy Ác Hữu trả lời. Thiện Hữu càng lo sợ, buồn rầu và kêu lớn: “Có lẽ em ta đã bị cướp giết mất rồi”. Tiếng kêu thảm thiết động đến quỷ thần. Lúc đó thần cây thương tình, đến báo cho Thiện Hữu biết: –Em nhân giả là Ác Hữu, chính là kẻ cướp đã đâm vào mắt ngươi để đoạt lấy viên ngọc mà đi rồi. Nay nhân giả còn gọi Ác Hữu làm gì cho tốn hơi mệt sức. Nghe thần cây nói thế, thái tử Thiện Hữu buồn bã nghẹn ngào, sầu đau khổ não. Nói về thái tử Ác Hữu, khi cướp được viên ngọc báu rồi, trở về bản quốc, ra mắt phụ vương, dâng viên ngọc quý, tâu: –Tâu phụ vương, con nhờ có phúc đức mà được sống sót, thái tử Thiện Hữu và những người đồng hành vì bạc phúc nên đã bỏ mạng ngoài khơi. Vua và các phu nhân nghe Ác Hữu nói như thế liền cất tiếng than khóc, vật vã buồn rầu đến nỗi ngất lăn ra đất. Đám hầu cận chung quanh lấy nước lạnh rửa mặt cho vua, hồi lâu mới tỉnh. Lúc đó vua và phu nhân hỏi Ác Hữu: –Làm thế nào mà con có thể đem được viên ngọc này về? Nghe vua hỏi, Ác Hữu thấy lòng quặn đau, đứt từng khúc ruột, không nói nên lời, bèn đem viên ngọc chôn ở trong vườn. Còn về phần thái tử Thiện Hữu, sau khi bị đâm vào hai mắt trở nên mù lòa, đi lại phải dò dẫm, không còn biết đường lối nữa. Đang lúc đau khổ, lại thêm đói khát, cầu sống cũng khó, mà mong chết cũng không được. Cứ thế lần mò đi mãi. Một ngày kia, đến nước của vua Lợi-sư-bạt. Vua Lợi-sư-bạt trước đã hứa với vua nước Ba-la-nại sẽ gả con cho thái tử Thiện Hữu. Vua Lợi-sư-bạt dùng một người chăn bò tên là Lưu Thừa để chăn dắt một đàn bò gồm năm trăm con. Hôm ấy, vì quá mỏi mệt, lại không thấy lối đi, nên thái tử Thiện Hữu mới ngồi xuống giữa đường. Lúc đó, đàn bò giành nhau chạy tới, con đầu đàn liền đứng lại, án ngang Thiện Hữu khiến cho những con khác không thể giẫm phải. Sau khi đàn bò qua hết, con đầu đàn mới đi. Nhưng nó đi được vài bước thì quay đầu trở lại, rồi lấy lưỡi liếm vào hai mắt của thái tử để nhổ hai thanh tre nhọn ra. Bấy giờ, người chăn bò từ phía sau đi tới, thấy Thiện Hữu ngồi giữa đường, bèn hỏi: –Ông là ai? Thiện Hữu tự nghó: “Nếu ta thuật lại tất cả các việc đã xảy ra, thì chắc chắn em ta sẽ bị khổ.” Nghó xong, liền trả lời người chăn bò: –Tôi là một kẻ mù lòa, đi ăn xin. Nhưng người chăn bò thấy kẻ ăn mày này có một tướng mạo khác thường, mới bảo: –Nhà tôi gần đây, mời ông hãy vào, tôi xin cấp dưỡng. Rồi người chăn bò đưa Thiện Hữu về nhà, sắp các thức ăn uống đầy đủ và dặn mọi người trong nhà: –Các người hãy săn sóc, hầu hạ người này cũng như săn sóc ta vậy. Cứ như thế, được hơn một tháng thì người nhà bắt đầu chán ngán và nói với nhau: “Nhà mình không được dư dật, làm thế nào có thể cung phụng người mù này mãi được.” Nghe những lời nói ấy, Thiện Hữu cảm thấy buồn bã, thao thức suốt đêm, đến sáng hôm sau, liền nói với người chủ nhà (người chăn bò): –Nay tôi muốn đi. Người chăn bò hỏi: –Có điều gì không được vừa ý mà ông muốn đi. Thiện Hữu trả lời: –Không có điều gì cả, vì thực tình tôi không dám làm phiền ông mãi. Nếu ông có lòng thương tôi, xin ông làm ân cho tôi một cây đàn tranh, rồi đưa tôi đến một thành, ấp, hoặc thôn, xã nào có đông dân cư để tôi lần hồi kiếm ăn. Người chủ nhà đành phải theo ý muốn của Thiện Hữu và sau khi đã mua cho Thiện Hữu một cây đàn tranh, bèn dắt Thiện Hữu đến thành vua Lợi-sư-bạt, nơi đông dân chúng nhất, rồi trở về nhà. Thiện Hữu có tài gảy đàn tranh, âm thanh trầm bỗng, du dương khiến cho ai nghe cũng phải say mê, ngây ngất. Do đó, tất cả mọi người kẻ ít người nhiều, gom góp để cung cấp cho Thiện Hữu đầy đủ cơm ăn áo mặc, không phải đói rách. Không những thế, Thiện Hữu lại còn dư dật để cấp dưỡng cho năm trăm hành khất trên khắp các nẻo đường trong thành vua Lợi-sư-bạt đều được no đủ. Nhà vua có một khoảnh vườn trái cây xanh tươi tốt, thường bị chim chóc phá tán. Người coi vườn mới bảo Thiện Hữu: –Nếu ông vui lòng đuổi chim chóc cho tôi, tôi sẽ cấp dưỡng cho ông đầy đủ. –Tôi là người mù, làm sao đuổi chim chóc được? Người coi vườn nói: –Tôi đã có cách. Tôi sẽ buộc những chiếc khánh nhỏ vào lưới, rồi giăng lên ngọn cây, ông ngồi bên gốc cây, khi nào nghe tiếng chim kêu, thì ông chỉ việc giật những đầu dây là đủ. Thiện Hữu trả lời: –Như thế thì tôi có thể làm được. Rồi người coi vườn dắt Thiện Hữu đến ngồi bên gốc cây, dặn dò xong thì đi. Trong khi ngồi rổi, Thiện Hữu lấy đàn dạo chơi cho khuây khỏa. Lúc đó công chúa con vua Lợi-sư-bạt cùng các thị tỳ vào vườn thưởng ngoạn. Nghe tiếng đàn văng vẳng, công chúa nhìn về phía gốc cây thì thấy một người mù. Công chúa đến nơi, hỏi: –Ông là ai? Thiện Hữu trả lời: –Tôi là một kẻ hành khất mù lòa. Công chúa nghe rồi, sinh lòng thương mến, không muốn xa lìa. Vua sai người ra tìm nhưng công chúa nhất định không về, lại bảo thị tỳ: –Hãy về mang cơm ra đây cho ta. Người hầu đem cơm đến, công chúa cùng người mù ăn uống xong, rồi về tâu vua: –Xin phụ vương cho con được chung sống với người mù này, cho được mãn nguyện của con. Vua Lợi-sư-bạt nói: –Con là người điên hoặc bị ma ám hay sao mà lại đi sống chung với một người mù? Con không biết rằng trước đây cha mẹ đã hứa gả con cho thái tử Thiện Hữu, con vua nuớc Ba-la-nại sao? Hiện nay Thiện Hữu xuống biển tìm châu báu chưa về, mà con lại đòi làm vợ người mù là lẽ gì? Công chúa trả lời: –Mặc dầu thế, nhưng thà chết thì thôi, chứ con nhất định không thể xa lìa được. Nghe con nói một cách quả quyết như thế, nhà vua cũng không muốn làm trái ý con, đành phải sai kẻ hầu đưa người mù về một căn phòng vắng vẻ rồi đóng cửa lại. Lúc đó, công chúa mới đến chỗ người mù, nói: –Chàng biết không, nay thiếp muốn cùng chàng kết nghóa vợ chồng! Thiện Hữu nói: –Nàng là con gái nhà ai mà muốn cùng tôi kết duyên chồng vợ? Công chúa trả lời: –Thiếp là con vua Lợi-sư-bạt. Thiện Hữu nói: –Nàng là công chúa con vua mà tôi chỉ là một kẻ hành khất mù lòa, làm sao ăn ở với nhau được? Công chúa trả lời: –Thiếp sẽ hết lòng cung kính và phụng dưỡng chàng, không dám trái ý. Sau khi sống chung với nhau được ba tháng, một hôm, công chúa có việc cần phải đi mà không cho chồng biết, mãi đến chiều mới về. Khi đến nhà, Thiện Hữu trách: –Nàng lén lút ra ngoài mà không cho tôi biết. Đi mãi đến giờ mới về! Công chúa trả lời: –Thiếp không lén lút. Thiện Hữu nói: –Lén lút hay không, ai mà biết được. Công chúa buồn rầu, khóc lóc sướt mướt, mới thề rằng: –Nếu thiếp có hành động lén lút thật, thì xin cho hai mắt chàng cứ mù như thế mãi, bằng không thì xin cho một mắt của chàng trở lại sáng tỏ như xưa. Vừa thề nguyện xong, thì một mắt của Thiện Hữu bỗng chớp chớp rồi mở bừng như xưa, xanh biếc, sáng quắc, như một vì sao lấp lánh giữa khoảng trời xanh. Bấy giờ, được thấy công chúa, công chúa mới hỏi: –Thế nào, chàng có tin thiếp không? Thiện Hữu mỉm cười, công chúa nói tiếp: –Chàng thật vô ân. Thiếp là con gái của một vị Đại vương, chàng chỉ là một người hèn hạ, thiếp đã hết lòng phụng sự mà chàng không tin thiếp. Thiện Hữu nói: –Nàng không biết tôi là ai? –Chàng là một người hành khất, chứ còn ai? Công chúa trả lời. –Không phải. Tôi là thái tử Thiện Hữu, con vua nước Ba-la-nại. Công chúa nói: –Chàng thật ngu si, điên rồ, sao chàng dám nói như thế? Thái tử Thiện Hữu, con vua Ba-la-nại xuống biển tìm châu báu chưa về, chàng dám nhận mình là Thiện Hữu, ăn nói càn dỡ thiếp không tin được. Thiện Hữu nói: –Tôi từ thuở nhỏ đến giờ, chưa từng nói dối. Công chúa nói: –Dù thật hay dối, ai mà tin được. Thiện Hữu nói: –Nếu tôi nói dối nàng thì một mắt còn lại của tôi cứ mù mãi mãi, còn nếu tôi nói thật thì khiến cho mắt đó bình phục như trước. Nàng hãy chứng kiến lời nói của tôi. Vừa nói dứt lời, thì mắt kia của Thiện Hữu trở lại sáng tỏ như xưa, không khác. Khi hai mắt Thiện Hữu bình phục thì diện mạo sáng láng, thân hình đầy đủ, đẹp đẽ tuyệt vời, không ai sánh kịp. Công chúa thấy thế, lòng sinh vui mừng, như thấy Hiền thánh, nhìn khắp thân thể mắt không muốn chớp, vội vàng vào cung tâu với phụ vương: –Tâu Phụ vương, chồng con đây chính là Thiện Hữu. Vua nói: –Con là người si mê, điên cuồng, bị ma quỷ ám ảnh nên mới dám nói thế. Thái tử Thiện Hữu xuống biển tìm châu chưa về, nay con lại nhận kẻ hành khất kia là Thái tử. Công chúa trả lời: –Tâu Phụ vương, con không dám nói dối. Xin phụ vương hãy dời gót ngọc đến xem. Nghe con mình nói chắc như thế, nhà vua cũng muốn ra xem thực hư thế nào. Quả nhiên, khi nhìn thấy, nhà vua nhận ngay ra thái tử Thiện Hữu. Lòng thấy bối rối, nhà vua tự nghó: “Nếu vua nước Ba-la-nại được biết chuyện này, sẽ trách ta không ít.” Nghó rồi liền xin lỗi thái tử Thiện Hữu, nói: –Quả thật trẫm không biết. Thái tử Thiện Hữu nói: –Xin phụ vương hãy vì con mà ban thưởng cho người chăn bò. Vua Lợi-sư-bạt liền lấy vàng bạc, lương thực và y phục thưởng cho người chăn bò và cho luôn cả năm trăm con bò. Người chăn bò mừng rỡ và khen ngợi không xiết. Lại tự nghó: “Ân nghóa của ta đối với thái tử Thiện Hữu không đáng bao nhiêu mà thái tử đền đáp trọng hậu như thế này, thật ta không xứng đáng!” Nghó rồi, đứng giữa công chúng nói to lên: –Ở đời, hễ gây nhân thì nhận quả. Mà quả báo của sự bố thí thật lớn lao không thể nghó bàn. Lúc đó không biết bao nhiêu người thấy thế lòng sinh vui mừng, sung sướng và đều phát tâm bố thí để cứu khổ tất cả, cầu chứng đạo quả thành Phật. Bấy giờ trên hư không, các Thiên thần khen ngợi, tán thán đại chúng và nói: –Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đúng như vậy! Lại nói về thái tử Thiện Hữu, khi chưa xuống biển tìm châu báu, lúc ở trong cung có nuôi một con chim nhạn trắng. Khi mặc áo lúc ăn cơm, uống nước kể cả lúc đi đứng nằm ngồi, chim và thái tử không rời nhau. Một hôm Mẫu hậu đến chỗ chim nhạn và nói với chim: –Khi thái tử còn ở nhà, thường thương yêu chăm sóc ngươi, nay thái tử xuống biển chưa về, không biết sống chết thế nào, vậy ngươi có thương nhớ thái tử không? Nghe Mẫu hậu nói, chim nhạn cất tiếng kêu ai oán, thảm sầu, rồi làm ra hiệu như muốn được đi tìm thái tử. Bấy giờ Mẫu hậu viết thư buộc vào cổ chim nhạn. Nhạn vỗ cánh tung bay, lượn trên không một vòng qua cung điện, rồi nhắm thẳng phía biển bay đi. Mẫu hậu thấy thế, sinh lòng tin tưởng, chắc chắn phen này sẽ được biết tin tức con mình, sống chết ra sao. Chim bay ra biển, tìm khắp đó đây, không thấy thái tử, mới quay trở về đất liền. Khi bay qua nước vua Lợi-sư-bạt, thì xa trông thấy thái tử đang ngồi ở trước cung điện nhà vua, chim liền đáp xuống, đến trước thái tử, líu lo vui mừng. Thái tử cầm lấy phong thư, cung kính mở ra, đọc xong mới biết, phụ vương và mẫu hậu đêm ngày than khóc, nhớ thương thái tử, đến nỗi hai mắt mờ đi. Thái tử liền viết thư thuật lại cho phụ vương và mẫu hậu biết tất cả những sự việc đã xảy ra, rồi lại buộc vào cổ chim nhạn, khiến đem về dâng cho phụ vương và mẫu hậu. Chim nhạn sung sướng băng mình theo gió, không lâu đã về đến nước Ba-la-nại. Phụ vương và mẫu hậu được thư của Thái tử, vui mừng khôn xiết. Xem thư xong, mới biết thái tử bị em là Ác Hữu hãm hại để đoạt lấy ngọc báu Ma-ni. Trong cơn đau đớn, khổ não, nhà vua liền hạ lệnh bắt thái tử Ác Hữu, gông cùm, giam vào ngục tối, rồi sai sứ sang nói với vua Lợi-sư-bạt: –Sao Bệ hạ cứ giữ Thái tử khiến chúng tôi phải buồn khổ? Vua Lợi-sư-bạt vội vàng cho người sắp đặt xe ngựa, hành trang, rồi cử một đoàn hộ tống, kéo cờ xí, nổi âm nhạc tiễn đưa thái tử và công chúa về nước Ba-la-nại. Được biết tin thái tử trở về, phụ vương và mẫu hậu vô cùng sung sướng, cỡi voi lớn, khởi ca nhạc, đốt trầm hương, treo cờ xí, ra tận ngoài xa đón rước thái tử. Dân chúng trong nước, lớn, bé, già trẻ, nghe tin thái tử trở về bình an, đều vui mừng khôn xiết, cùng ra đón rước. Khi tới nơi, thái tử Thiện Hữu đến trước cha mẹ, cúi đầu đảnh lễ phụ vương và mẫu hậu, vì mắt đã mờ nên cả hai bậc sinh thành không rõ hình dung của thái tử, bèn lấy tay sờ vào người thái tử, hỏi: –Người có phải là con ta, thái tử Thiện Hữu đây không? Cha mẹ thương nhớ con và lo buồn quá mới đến nỗi thế này. Thái tử Thiện Hữu làm lễ, thăm hỏi cha mẹ xong, mới quay lại cảm tạ các quân thần và muôn dân trong nước, rồi cho họ giải tán. Bấy giờ thái tử Thiện Hữu tâu phụ vương: –Em con là Ác Hữu hiện giờ ở đâu? Vua trả lời với thái tử Thiện Hữu: –Con không nên nhắc đến con người độc ác ấy nữa. Hiện nay nó đang bị giam trong ngục tối, không thể buông tha được. Thái tử Thiện Hữu nói: –Xin phụ vương hãy phóng thích Ác Hữu cho anh em con được gặp nhau. Thiện Hữu xin vua cha ba lần, vua mới bằng lòng cho mở cửa ngục và đưa Ác Hữu tới. Lúc đó Ác Hữu, tay chân bị xiềng xích, cổ phải mang gông, đến gặp Thiện Hữu. Thiện Hữu thấy thế, liền xin cha mẹ cho phép được tháo gông cùm, xiềng xích cho em, rồi ôm lấy Ác Hữu dùng lời thân mật, thương yêu hỏi han: –Em có mệt nhọc lắm không? Em đã mang hộ viên ngọc vô giá về cho anh, hiện giờ để ở đâu? Hỏi như thế đến ba lần, Ác Hữu mới nói: –Chôn ở trong vườn ấy. Thái tử Thiện Hữu sai người ra vườn đào lấy viên ngọc, rồi đến trước cha mẹ, quỳ xuống, thắp hương và chú nguyện: –Nếu ngọc này nếu thật là ngọc báu Như ý thì hãy làm cho hai mắt cha mẹ ta trở lại sáng tỏ như xưa. Vừa chú nguyện xong, thì mắt của nhà vua và hoàng hậu liền bình phục. Lúc đó cha mẹ được nhìn thấy mặt con, lòng vô cùng sung sướng, xiết bao vui mừng. Sáng sớm hôm sau, nhằm ngày mười lăm, thái tử Thiện Hữu tắm rửa sạch sẽ, thay y phục mới, lên trên lầu cao, thắp hương lễ bái viên ngọc báu Như ý, phát nguyện: –Ta vì tất cả chúng sinh ở cõi Diêm-phù-đề, đã phải chịu bao nhiêu cay đắng khổ nhục mới cầu được viên ngọc báu vô giá này. Ta xin nguyện: Tất cả chúng sinh, nhờ ngọc báu Ma-ni này, từ nay không còn phải thiếu thốn, khổ sở nữa, mà đều được đầy đủ yên vui. Bấy giờ, một cơn gió lớn từ phương Đông thổi đến, đánh tan mây mù, bầu trời trở nên quang đãng; tất cả những vật nhơ bẩn, rác rưới hôi thối ở cõi Diêm-phù-đề đều cùng tan biến theo làn gió cuốn. Rồi nhờ sức vi diệu của viên ngọc báu Ma-ni, một trận mưa trút xuống khắp cõi Diêm-phù-đề. Tất cả các sông ngòi, ao, hồ, hào, rạch, đều tràn ngập thóc gạo và các thứ mỹ vị thơm ngon. Sau lại mưa xuống các thứ y phục thượng hảo và khuyên vàng, vòng xuyến. Sau cùng là mưa xuống vàng bạc, bảy báu và các loại nhạc cụ tinh xảo. Nói tóm lại, mọi thứ chúng sinh cần dùng đều được sung túc. Bồ-tát vì phát tâm đại từ bi, tu hạnh Bố thí ba-la-mật cấp dưỡng cho tất cả chúng sinh, khiến đều được đầy đủ yên vui, là như thế đó. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Vua nước Ba-la-nại bấy giờ nay là phụ vương của Ta; mẫu hậu nay là thân mẫu Ta, Ma-da phu nhân; thái tử Ác Hữu nay là Đề-bà-đạt-đa, còn thái tử Thiện Hữu nay chính là Ta, Thích-ca Như Lai. Này Tôn giả A-nan, ở kiếp quá khứ, Đề-bà-đạt-đa thường mang tâm ác hại Ta như thế mà Ta vẫn lấy lòng Từ bi nhẫn nhục, cứu khổ ban ân, huống chi ngày nay Ta đã thành Phật. Khi Phật nói pháp này, có trăm ngàn người chứng được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán. Lại có trăm ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, cho đến vô lượng trăm ngàn chúng sinh đều phát tâm Thanh văn và tâm Bích-chi-phật. Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, kinh này nên gọi là gì và chúng con phải phụng trì như thế nào? Phật nói: –Kinh này gọi là Kinh Phật Báo Ân Phương Tiện Cấp Túc Nhất Thiết Chúng Sinh. Đại chúng nghe Phật nói rồi đều vui mừng, làm lễ và lui ra.  Lại nữa, Đề-bà-đạt-đa tuy được theo Phật xuất gia, nhưng lòng ganh ghét sâu nặng, chỉ cầu danh lợi, nên dù có đọc tụng rất nhiều kinh điển, nhưng cũng không thoát được tội khổ trong địa ngục A-tỳ. Đề-bà-đạt-đa kết bạn thân với thái tử A-xà-thế, hai người rất gắn bó và tin cậy nhau. Một hôm, Đề-bà-đạt-đa bảo thái tử A-xà-thế: –Anh hãy lên làm vua đi và tôi sẽ làm Phật. –Việc đó không thể được vì vua cha hãy còn. –Anh phải tìm cách giết vua cha và tôi sẽ toan mưu hại Phật, rồi sau, anh lên làm tân vương, tôi sẽ làm tân Phật, cùng chung giáo hóa chúng sinh, thế có khoái không? Thái tử A-xà-thế nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa mới về giết cha, rồi lên làm vua nước Ba-la-nại. Bấy giờ Đề-bà-đạt-đa nói với vua A-xà-thế: –Nay tôi muốn hại Phật để lên làm Phật. –Phật có nhiều thần thông, biết trước việc chúng ta đã nghó rồi, vậy làm thế nào giết được? Hơn nữa, Phật luôn có các vị đại đệ tử ở bên cạnh như Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên và A-nạâu-lâu-đà… –Đại vương hãy cố giúp tôi. Thái tử A-xà-thế hỏi: –Giúp bằng cách nào? Đề-bà-đạt-đa trả lời: –Đại vương phải ra lệnh cấm, không ai được cúng dường thức ăn, áo mặc cho các Tỳ-kheo. Lúc đó vua A-xà-thế truyền lệnh: –Nếu ai cúng dường thức ăn, áo mặc cho các Tỳ-kheo sẽ bị chặt chân tay. Khi ấy, Phật và các đệ tử đang ở trong núi Kỳ-xà-quật. Sau khi lệnh nhà vua được truyền đi, không ai dám cúng dường Phật và các vị đệ tử đi khất thực đều trở về không, cứ như thế cho đến bảy ngày. Thời gian này, Tôn giả Xá-lợi-phất và các vị đại đệ tử phải dùng thần thông, đến các phương khác để khất thực. Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa nói với vua A-xà-thế: –Nay các vị đại đệ tử đều đi vắng, chỉ có một mình Như Lai ở nhà, đại vương hãy cho người đến thỉnh Phật vào cung cúng dường. Một mặt cho năm trăm con voi đen hung dữ uống rượu thật say, nếu Phật nhận lời mời mà vào thành, lúc đó thả đàn voi say ra cho chúng giày chết. A-xà-thế vương nghe theo kế ấy, liền cho người đến thỉnh Như Lai. Phật nhận lời mời của nhà vua rồi cùng năm trăm vị La-hán tiến vào thành Vương xá. Lúc đó, A-xà-thế sai thả năm trăm con voi say ra, chúng hung hăng xông đột, thôi thì cây gãy, tường xiêu, cất tiếng gầm thét, nhắm thẳng phía Như Lai mà chạy tới. Năm trăm vị La-hán sợ hãi quá bèn bay lên hư không, quyện quanh phía trên Phật, còn Tôn giả A-nan thì bám chặt lấy Như Lai, lo sợ không thế nào thoát được. Như Lai liền vận dụng sức từ bi, giơ tay phải lên, rồi từ năm đầu ngón tay, phóng ra năm con sư tử lớn, há miệng gầm rống, khiến năm trăm con voi say kia, kinh hoàng, ngã vật ra đất. Bấy giờ đại chúng vây quanh Như Lai, tiến vào cung. Vua A-xà-thế liền ra đón rước, thỉnh Phật an tọa, rồi cầu xin sám hối, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, đó không phải là lỗi tại tôi, mà chính tại Đề-bà-đạt-đa. Phật nói: –Đại vương, Ta cũng biết thế, không những ở kiếp này Đề-bà-đạt-đa muốn hại Như Lai mà từ nhiều đời quá khứ cũng thường mang tâm ác hủy hại Như Lai như vậy, nhưng nhờ sức từ bi, Như Lai đều được an toàn. Vua A-xà-thế chắp tay bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, trong kiếp quá khứ, Đề-bà-đạt-đa hủy hại Như Lai, việc đó như thế nào? Phật bảo A-xà-thế: –Hãy nghe cho kỹ! Ta sẽ vì Đại vương mà nói rõ việc ấy. Cách đây không biết bao nhiêu kiếp, có một ông vua chỉ thích ăn thịt chim nhạn. Nhà vua sai một người chuyên đi thả lưới bắt chim. Lúc ấy, một đàn năm trăm chim nhạn từ phương Bắc bay qua phía Nam, con đầu đàn rủi ro sa lưới. Người đánh bẫy vui mừng, từ trong khóm lá chạy ra vồ lấy chim. Khi đó, một con nhạn khác, kêu than thảm thiết, quanh quẩn không bay đi. Người đánh bẫy liền giương cung bắn, không những không sợ cung tên, mà con nhạn ấy còn đáp xuống rồi lăn vào con nhạn đầu đàn. Còn bầy nhạn trên không cũng bồi hồi lui tới, nhất định không bay đi. Người đánh bẫy thấy con nhạn kêu than thảm thiết, miệng trào ra máu, mới tự nghó: “Loài chim muông mà còn biết thương mến nhau, đến nỗi không tiếc thân mạng như thế này, sao ta lại có thể nhẫn tâm giết hại chúng được?”. Nghó như thế rồi, liền mở lưới thả chim nhạn ra. Sau khi được thả, hai con nhạn cất tiếng kêu vui mừng, vỗ cánh bay lên, rồi cùng với bầy nhạn trên không, quấn quít lấy nhau mà bay đi. Người đánh bẫy trở về tâu vua: –Tâu Bệ hạ, hôm nay thần bẫy được một con nhạn đầu đàn, lẽ phải đem về dâng Bệ hạ, nhưng một con nhạn khác, kêu than thảm thiết đến trào máu miệng, không sợ cung tên, bồi hồi không đi. Thần thấy cảnh ấy, mủi lòng, thương xót, liền thả chúng ra. Khi được thả ra, nhạn liền ca hót vui mừng, rồi cùng bầy nhạn, quấn quyện với nhau mà bay đi. Nghe xong, nhà vua tỏ vẻ buồn thảm, tự nghó: “Loài chim thú mà còn biết thương yêu, che chở nhau như thế.” Nghó rồi, liền phát Từ tâm và từ đó nhà vua không hề ăn thịt nhạn và không sai bắt chim nữa. Đại vương nên biết, vị vua lúc đó, nay chính là Đại vương vậy; người bẫy chim bấy giờ, nay là Đề-bà-đạt-đa; con nhạn kêu thương thảm thiết đến trào máu miệng, nay là A-nan; bầy nhạn trên không nay là năm trăm vị La-hán, còn con nhạn đầu đàn lúc ấy chính là thân Như Lai. Hôm nay đây, A-nan thấy lòng thương xót, lưu luyến Như Lai cũng như xưa không khác, còn năm trăm vị La-hán thì bay lên hư không cũng như bầy nhạn xưa. Đề-bà-đạt-đa lúc nào cũng muốn làm hại Như Lai, nhưng nhờ sức từ bi, Như Lai thường được an ổn. Khi Phật nói pháp ấy, thì trăm ngàn người chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, hoặc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến phát tâm Thanh văn và tâm Bích-chi-phật.  Lại nữa, Đề-bà-đạt-đa tâm ác không dứt, chỉ muốn tìm cách hại Phật, mới tự nghó: “Nay ta phải nuôi móng tay cho dài, khiến cho thật sắc, lấy thuốc độc nhét vào trong, rồi đến chỗ Như Lai, giả vờ vào lễ chân Phật, lúc đó dùng mười móng tay cào cấu nơi chân Phật, cho thuốc độc ngấm vào thì chắc Phật phải chết.” Nghó xong, Đề-bà-đạt-đa nhất định làm theo kế ấy. Ít lâu sau, Đề-bà-đạt-đa đến chỗ Như Lai, vào lễ chân Phật, rồi cào cấu thật mạnh, nhưng thuốc độc biến thành cam lộ, nên thân Như Lai không hề đau đớn. Lại nữa, Đề-bà-đạt-đa vẫn chưa toại nguyện, rồi lại tự nghó: “Hôm nay Như Lai đang ngồi dưới chân núi Kỳ-xà-quật, ta hãy lên đỉnh núi, lấy một tảng đá lăn xuống để giết Phật.” Nghó xong liền lên đỉnh núi, lăn đá xuống làm cho ngón chân Như Lai bị thương, nhưng Như Lai luôn lấy lòng Từ bi, coi kẻ oán, người thân đều bình đẳng. Lại nữa, ở đời quá khứ xa xưa, cách đây không biết bao nhiêu kiếp, bấy giờ có một vị Phật ra đời, hiệu là Ứng Hiện, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sau khi Đức Phật ấy nhập diệt, trong đời tượng pháp, có một vị Tỳ-kheo, ngồi thiền định một mình trong rừng. Tỳ-kheo thường có con rận, sợ nó xúc não trong khi ngồi thiền, mới giao ước với rận: –Lúc ta ngồi thiền, ngươi phải lặng lẽ, nằm yên một chỗ, không được xúc não. Con rận tuân theo. Một lúc sau có con vắt đến bên, hỏi con rận: –Sao mà thân thể chú béo tốt thế kia? Rận đáp: –Tôi sống nhờ ông chủ đây, ông thường tu thiền định và bảo tôi ăn uống có giờ giấc, tôi làm theo nên thân thể mới được béo tốt, đẹp đẽ như thế này. –Tôi cũng muốn làm theo chú, có được không? –Tùy ý bác. Thế là con vắt bám chặt lấy vị Tỳ-kheo đang ngồi thiền mà hút máu. Lúc đó vị Tỳ-kheo thấy lòng phiền não, liền cởi áo ra và đốt ngay đi. Phật nói: –Vị Tỳ-kheo tọa thiền lúc đó, nay là Phật Ca-diếp. Con vắt là Đề-bà-đạt-đa, còn con rận là thân Ta. Xưa kia, vì lợi dưỡng mà Đề-bà-đạt-đa muốn làm hại Ta, cho đến ngày nay Ta đã thành Phật, cũng vì ham danh lợi mà Đề-bà-đạt-đa làm cho thân Phật chảy máu, nên mặc dầu đang còn sống mà phải bị đọa vào địa ngục. Đề-bà-đạt-đa thường mang lòng thâm độc, hủy hại Như Lai, nếu nói cho đầy đủ việc đó thì cùng kiếp cũng không hết được. Thế mà lúc nào Ta cũng đem lòng Từ bi, thương xót Đề-bà-đạt-đa, vì chính Ta thường gặp Đề-bà-đạt-đa nên mới chóng chứng đạo quả Bồ-đề. Do nhớ ân sâu dày ấy nên Ta thường đem lòng yêu mến xót thương và tha thứ. Bấy giờ Đức Như Lai liền sai Tôn giả A-nan đi đến Địa ngục, để thăm hỏi Đề-bà-đạt-đa xem chịu khổ thế nào. A-nan phụng mệnh ra đi. Khi đến ngoài cửa địa ngục, A-nan nói với viên cai ngục là ngưu đầu A-bàng: –Xin gọi hộ tôi Đề-bà-đạt-đa. –Tôn giả muốn hỏi Đề-bà-đạt-đa nào? Chư Phật ở quá khứ đều có Đề-bà-đạt-đa. –Tôi muốn gọi Đề-bà-đạt-đa của Phật Thích-ca Mâu-ni. Bấy giờ A-bàng vào báo cho Đề-bà-đạt-đa biết là có A-nan đứng ngoài, hiện muốn được gặp. Đề-bà-đạt-đa liền ra và nói với A-nan: –Mời A-nan hãy vào. Như Lai vẫn còn thương nhớ đến tôi ư? –Như Lai cho tôi đến hỏi thăm ông có thể chịu được những nỗi thống khổ ở đây không? –Tôi ở trong địa ngục A-tỳ này, cũng như một vị Tỳ-kheo đã thể nhập được cái thú vui ở cõi trời Tam thiền. Phật nói: –Các bậc Đại Bồ-tát, tu các phép phương tiện dẫn để tiếp dắt chúng sinh, thì dù có phải chịu sinh tử và các nỗi thống khổ cũng không lấy thế làm lo. Nếu ai bảo Đề-bà-đạt-đa thực là kẻ ác nhân, phải đọa địa ngục A-tỳ, thì người đó không hiểu. Bấy giờ, Đức Như Lai liền vì đại chúng mà nói rõ mật hạnh vi diệu và các pháp đại phương tiện của Đề-bà-đạt-đa. Khi ấy vô lượng trăm ngàn Bồ-tát chứng Pháp nhẫn vô sinh, vô lượng trăm ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và vô lượng trăm ngàn người chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán.Từ trên hư không, Thiên thần mưa các thứ hoa, rải khắp đại chúng, trỗi kỹ nhạc trời, phóng ánh sáng lớn, rồi ca ngợi: –Quý hóa thay, Đức Như Lai nói pháp chưa từng có! Khi ấy tất cả đại chúng nghe Phật nói pháp xong, vô cùng vui mừng, cúi đầu làm lễ lui ra. KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN <卷 id="32807810">QUYỂN 5 <卷 id="32807811">Phẩm 7: TỪ BI Bấy giờ, đại chúng vây quanh Đức Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng tán thán. Khi ấy, Đức Như Lai vì muốn cứu chúng sinh thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi, tiêu trừ năm thứ phiền não và mười điều ràng buộc, khiến tất cả chúng sinh đều được giải thoát vào cảnh Niết-bàn yên vui nên Ngài mới mở lòng Từ bi sâu xa mà chỉ bày hai thứ ruộng phúc: một là ruộng phúc hữu vi; hai là ruộng phúc vô vi. Đó là Cha mẹ cùng với Sư trưởng và chư Phật, Pháp, Tăng các vị Bồ-tát. Nếu chúng sinh hết lòng phụng dưỡng cúng dường, sẽ được phúc báo và có thể tiến đến thành tựu đạo quả Bồ-đề. Lúc ấy Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất, các vị đại đệ tử và các hàng Bồ-tát: –Các ông nên biết, chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ vào Niết-bàn. Khi nghe Phật nói như thế, Tôn giả Xá-lợi-phất cảm thấy thân thể rụng rời, đau đớn như cắt, buồn rầu, thương xót quá đến ngất đi và ngã xuống đất. Người xung quanh lấy nước lạnh rảy vào mặt, hồi lâu mới tỉnh. Tôn giả liền đứng dậy, chắp tay, đọc bài kệ ca khen ngợi công đức của Phật: Phật như nhạc cõi trời Nghe không bao giờ chán Phật sắp vào Niết-bàn Tất cả đều mất lợi. Bể sinh tử năm ngả Ví như vũng bùn nhơ Bị ái dục ràng buộc Ngu si không xa lìa. Kiếp xưa tu chánh đạo Bố thí không phân biệt Từ chặng mày phóng quang Soi tỏ không hạn định Mắt tựa ánh trăng rằm Chiếu sáng mười phương cõi Khiến chúng sinh trông thấy Tất cả đều vui mừng. Nói trăm ngàn kệ tán thán Phật xong, Tôn giả Xá-lợi-phất cúi đầu lễ chân Đức Thế Tôn, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, rồi nói với đại chúng và Thiên, Long, Quỷ thần, Nhân, Phi nhân: –Này các thiện nam tử, lạ thay! Cõi thế gian này trở thành hư không, khổ thay! Cõi thế gian này tan biến. Đau đớn thay, con mắt của thế gian này không còn nữa! Cây cầu diệu pháp nay sắp hư hoại, cây đạo cao tột nay sắp gẫy nát, cột phướn diệu bảo nay sắp nghiêng ngả; mặt trời Phật pháp sắp lặn, núi đại Niếøt-bàn gần ngày sụp đổ! Đại chúng nghe rồi, lòng sinh sợ hãi, vô cùng kinh ngạc. Mặt trời mờ tối, núi non nghiêng ngửa, đại địa rung động. Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất đứng giữa đại chúng, nói bài kệ: Tôi thấy thân tướng Phật Như núi vàng chói lọi Tướng đẹp, đủ uy đức Danh thơm còn muôn thuở. Nên siêng tu tinh tấn Để ra khỏi ba cõi Lựa chọn mọi nghiệp lành Niết-bàn vui hơn hết. Đọc bài kệ ấy để an ủi đại chúng rồi, Tôn giả Xá-lợi-phất vận dụng thần thông bay lên hư không, hóa thành một ngàn voi báu, đứng quyện lấy nhau, hướng một ngàn đầu ra ngoài; mỗi con voi có bảy ngà, trên mỗi ngà có bảy cái ao, trong mỗi ao có bảy bông sen, trên mỗi đài sen có bảy vị Hóa Phật, mỗi vị Hóa Phật đều có Tôn giả Xá-lợi-phất đứng hầu bên cạnh; mỗi một Tôn giả Xá-lợi-phất phóng ra những luồng ánh sáng lớn, chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới để chiêu tập những chúng sinh có duyên với Phật pháp. Khi những chúng sinh đó đến rồi, Tôn giả Xá-lợi-phất lại hiện ra thân lớn, chật cõi hư không, sau thì biến thân nhỏ lại mà nhảy xuống đất; hoặc lửa trong thân bốc cháy bừng bừng, hoặc nước trong mình phun ra cuồn cuộn, tràn ngập hư không. Sau khi đã hiện ra trăm ngàn vô số các thứ thần biến như thế, Tôn giả từ trên hư không xuống, đến chỗ đại chúng, thuyết pháp để chỉ dạy những điều lợi ích, yên vui, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề. Lại có trăm ngàn người chứng được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán và hàng ức triệu người phát tâm Thanh văn và tâm Bích-chi-phật. Sau khi làm vô lượng những việc lợi ích ấy rồi, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với đại chúng: –Tôi sẽ không yên lòng nhìn Đức Như Lai vào Niết-bàn. Nói xong, Tôn giả liền bay lên hư không, dùng lửa thần thông tự đốt cháy mình mà chứng nhập Niết-bàn trước. Khi ấy, đại chúng nhìn Tôn giả Xá-lợi-phất, mắt không muốn chớp, lòng sinh thương tiếc, vật vã khóc than, mặt trời lu mờ, đại địa chuyển động. Rồi trăm ngàn đại chúng, thu lượm xá-lợi, xây tháp cúng dường, lại vây quanh tháp của Tôn giả Xá-lợi-phất, tưởng niệm, sầu thương, lòng sinh mê man, quên mất chánh niệm. Bấy giờ, Đức Như Lai dùng diệu lực từ bi hóa ra Tôn giả Xá-lợi-phất đứng giữa đại chúng. Thấy thế, mọi người đều cùng vui mừng, những nỗi buồn khổ tiêu tan và tất cả đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc đó, Tôn giả A-nan, nhờ thần lực của Phật, biết rõ trong lòng mọi người đều có chỗ ngờ vực, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại áo để hở vai bên phải, đầu gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, tại sao Tôn giả Xá-lợi-phất lại vội vàng nhập diệt trước Đức Thế Tôn, khiến cho đại chúng buồn rầu, đau khổ như vậy? Phật bảo Tôn giả A-nan và đại chúng: –Chẳng những ngày nay Tôn giả Xá-lợi-phất mới nhập diệt trước Như Lai, mà ở những kiếp quá khứ xa xưa cũng không nỡ thấy Ta nhập diệt trước. Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, trong những kiếp quá khứ Tôn giả Xá-lợi-phất đều nhập diệt trước Phật, việc đó như thế nào, xin Đức Thế Tôn nói cho chúng con rõ. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Các vị hãy nghe cho kỹ: Cách đây một a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có nước tên là Ba-la-nại, vua nước ấy tên là Đại Quang Minh, thống lãnh sáu mươi tiểu quốc và tám trăm thôn xã. Vua Đại Quang Minh vốn có Từ tâm, bố thí tất cả, không trái ý người. Cùng thời ấy, có một ông vua nước nhỏ, là lân bang thường mang lòng oán ghét. Vua Đại quang Minh, hàng tháng cứ đến ngày trai, dùng năm trăm con voi, chở các thứ châu báu, của cải, áo mặc, thức ăn đến một ngôi chợ lớn và ngoài bốn cửa thành để bố thí cho mọi người. Những nước thù địch và những kẻ oán ghét thấy vua Đại Quang Minh bố thí tất cả, không trái ý người, liền đua nhau đến lấy các thứ thức ăn, áo mặc, vàng bạc, châu báu đem đi. Khi ấy, ông vua nước nhỏ láng giềng kia nghe thấy đức bố thí của vua Đại Quang Minh, càng sinh lòng ghen ghét. Ông liền triệu tập quần thần để xem có thể đến nước Ba-la-nại xin cái đầu của vua Đại Quang Minh. Trong đám quần thần không ai dám lãnh sứ mạng đó. Vua lại truyền lệnh, nói: “Nếu người nào dám sang nước Ba-la-nại để xin đầu của vua Đại Quang Minh thì sẽ được thưởng một ngàn cân vàng”. Lúc ấy có một người Bà-la-môn xin đi và yêu cầu nhà vua cấp đủ lương thực cho cuộc hành trình. Nước ấy cách nước Ba-la-nại hơn sáu ngàn dặm, nhà vua cung cấp đầy đủ hành trang và giục người Bà-la-môn lên đường. Khi người Bà-la-môn đi đến ranh giới nước Ba-la-nại, thì đất liền chấn động, chim muông sợ hãi, bỏ chạy tứ tán, mặt trời bị che lấp, mặt trăng thì lu mờ; các vì tinh tú mất vị trí thường, cầu vồng đỏ, đen, trắng, ngày đêm thường hiện sao băng. Tất cả suối, hồ, ao, giếng trong xứ đều cạn; hoa quả, cây cối tốt đẹp xanh tươi đều trở nên khô héo. Khi người Bà-la-môn đến thành Ba-la-nại, đứng ở ngoài cửa, thần giữ cửa liền bảo người canh gác: –Người Bà-la-môn đại ác này từ phương xa đến, muốn xin đầu của vua Đại Quang Minh, ngươi chớ cho vào. Người Bà-la-môn phải ở ngoài cửa thành mất bảy ngày, không thể vào được. Một hôm, y nói với người gác cửa: –Tôi từ phương xa tới đây, muốn được yết kiến nhà vua. Người gác cửa liền vào tâu vua: –Tâu Bệ hạ, có một người Bà-la-môn từ phương xa đến, muốn được bệ kiến, hiện đang ở ngoài cửa. Vua nghe thấy thế, tức tốc ra đón tiếp, như con được gặp cha. Vua chào mừng trước rồi hỏi: –Đường xá xa xôi, nay nhân giả mới đến, nhân giả có mệt mỏi lắm không? Vị Bà-la-môn đáp: –Tôi ở phương xa, nghe biết công đức nhà vua, luôn bố thí không trái ý người. Thanh danh của Bệ hạ xa gần đều ca ngợi, thật không ngoa. Bởi thế không quản đường xa, vượt qua sông núi đến đây, tôi muốn xin Bệ hạ một vật. Vua nói: –Tôi là người sẵn sàng bố thí tất cả, nhân giả muốn cần gì, xin cứ cho biết. Người Bà-la-môn nói: –Thực thế sao? Tôi đến đây chỉ để xin cái đầu của Bệ ha chớ không cần một vật gì khác. Vua nghe nói thế, liền tự nghó: “Từ vô thỉ kiếp đến nay, ta đã bỏ bao nhiêu thân mạng, nhưng chưa từng bao giờ vì pháp vong thân, cứ lăn lộn trong vòng sinh tử, uổng công, mệt trí. Nay cái thân này, đã nguyện cùng chúng sinh cầu đạo Bồ-đề, nếu không cho thì trái với bản nguyện của ta, còn nếu không bố thí thân này, thì nhờ vào duyên gì để chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”. Tự nghó thế rồi, vua liền nói với vị Bà-la-môn: –Được lắm, nhưng hãy cho tôi suy xét một chút để tìm người phó thác ngôi vua, dặn dò phu nhân và thái tử. Sau bảy ngày, tôi sẽ dâng đầu biếu nhân giả. Bấy giờ, nhà vua vào cung báo cho các phu nhân biết ý định đó và tìm lời an ủi họ: –Ở đời, hết thảy ân ái đều phải có ngày xa lìa, con người có sống thì có chết; sự nghiệp có thành thì có bại. Vạn vật tươi thắm trong mùa xuân, nhưng thu, đông thì tàn tạ. Phu nhân và thái tử nghe những lời ấy xong, bèn nghẹn ngào hỏi nhà vua: –Đại vương vì lẽ gì lại nói như vậy? Vua đáp: –Có người Bà-la-môn từ phương xa đến đây để xin đầu của ta và ta đã hứa cho họ rồi. Phu nhân và thái tử nghe xong, vật vã than khóc, đầu tóc rối bù, y phục rách nát, rồi cùng tâu vua: –Tâu đại vương, thân mình là vật đáng quý nhất trên đời, tại sao đại vương lại có thể bỏ cái khó bỏ để cho người khác? Lúc ấy năm trăm vị đại thần hỏi người Bà-la-môn: –Ngươi dùng cái đầu máu mủ hôi thối ấy làm gì? Người Bà-la-môn đáp: –Tôi chỉ cần xin đầu, hỏi tôi làm chi? –Ngươi đến nước ta, ta phải hỏi và ngươi phải trả lời. Người Bà-la-môn cũng muốn nói thật, nhưng lòng sợ hãi, sợ các đại thần giết chết. Năm trăm vị đại thần bảo người Bà-la-môn: –Ngươi đừng sợ hãi, chúng ta sẽ vì Đại vương mà tha cho ngươi. Người Bà-la-môn nghèo hèn kia! Ngươi lấy cái đầu đầy máu mủ làm gì? Chúng ta mỗi người sẽ làm một cái đầu bằng bảy thứ châu báu để đổi cho ngươi và cho ngươi tất cả các thứ cần dùng trong bảy đời, ngươi sẽ không phải thiếu thốn. Người Bà-la-môn nói: –Tôi không cần dùng các thứ đó. Bấy giờ các vị đại thần không được thỏa nguyện, lòng sinh khổ não, cất tiếng than khóc mà tâu vua: –Nay đại vương nỡ nào vì một người Bà-la-môn, mà vónh viễn xa lìa Tổ quốc, muôn dân, phu nhân và thái tử? Nhà vua nói: –Nay ta vì các ngươi và tất cả chúng sinh mà xả thân bố thí. Lúc ấy có một vị đại thần thấy nhà vua đã quyết định xả thân bố thí cho người Bà-la-môn, liền tự nghó: “Ta nay làm sao có thể ngồi nhìn đại vương bỏ thân mạng như thế?”. Nghó vậy rồi liền vào một căn phòng vắng vẻ, dùng dao tự sát. Khi đó, nhà vua đi vào vườn sau, gọi người Bà-la-môn đến, bảo: –Nhân giả từ phương xa đến để xin đầu ta, ta vì lòng Từ bi thương xót nên không làm trái ý. Ta nguyện đời sau được đầu trí tuệ để bố thí cho mọi người. Nói xong, vua chắp tay lễ bái mười phương, nguyện: –Kính lạy chư Phật mười phương, rủ lòng thương xót, chư Đại Bồ-tát, uy thần ủng hộ, khiến con được thành tựu nguyện này. Nguyện rồi, vua bảo người Bà-la-môn cắt đầu. Người Bà-la-môn nói: –Nhà vua có sức mạnh thế kia, nếu khi đau đớn, không chịu nổi, sinh hối hận mà quay lại giết tôi thì sao? Vậy nhà vua hãy dùng tóc tự quấn mình vào cành cây cho tôi cắt đầu. Nhà vua nghe nói, sinh lòng thương xót và tự nghó: “Người kia già yếu, nếu không cắt được đầu ta, sẽ mất lợi lớn”. Liền theo lời thỉnh cầu, lấy tóc tự trói mình vào cây, rồi bảo người Bà-la-môn: –Người hãy cắt đầu đặt vào tay ta, ta sẽ trao cho người. Lúc ấy, người Bà-la-môn, tay cầm dao, tiến lại gốc cây. Tức thời thần cây lấy ngón tay ấn vào đầu người Bà-la-môn, khiến người này té ngất, bất tỉnh. Vua Đại Quang Minh bảo thần cây: –Sao ông không giúp tôi, lại gây khó khăn để cản trở pháp lành? Thần cây nghe Vua nói thế, lòng thấy khổ não, bèn nói to lên: –Lạ thay! Khổ thay! Bầu trời xanh ngắt mà lại mưa máu, trời đất rúng động, mặt trời mờ tối. Lúc đó người Bà-la-môn liền cắt đầu nhà vua, đem về nước láng giềng. Bấy giờ, năm trăm năm vị thái tử và quần thần, lo tẩm liệm phần thân còn lại của vua Đại Quang Minh, xây tháp cúng dường. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Vị Đại thần đệ nhất lúc bấy giờ thấy vua Đại Quang Minh đem đầu bố thí, mắt chẳng nỡ nhìn, nên đành tự sát, nay chính là Tôn giả Xá-lợi-phất, còn vua Đại Quang Minh nay chính là Ta, Thích-ca Như Lai. Bồ-tát tu tập khổ hạnh như thế, nguyện vì chúng sinh, nhớ ân chư Phật, nên được siêu thoát, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Tôn giả Xá-lợi-phất, được biết Như Lai, sắp vào Niết-bàn, mắt chẳng nỡ thấy, nên nhập diệt trước, cũng như xưa kia chẳng nỡ thấy Ta xả thân bố thí, việc đó không khác. Trong khu vườn ấy, nơi gốc cây kia, Ta đã từng bỏ đủ một ngàn cái đầu của ngôi vua Chuyển luân để bố thí, huống chi là đối với các chi thể khác, khi không làm vua, Ta cũng đã từng hy sinh cả thân thể, chân tay để bố thí nữa. Khi Phật nói về nhân duyên tu khổ hạnh đó, vô lượng trăm ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; hàng trăm người đạt quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, vô lượng trăm ngàn người phát tâm Thanh văn, tâm Bích-chi-phật. Tất cả đại chúng, chư Thiên, Long, Quỷ thần, Nhân và Phi nhân, nghe Phật thuyết pháp đều vô cùng vui mừng, cúi đầu đảnh lễ và lui ra.  Lại nữa, ở nước Ma-già-đà có năm trăm tên giặc, thường đón đường cướp phá, hà hiếp kẻ vô tội, làm cản trở sự đi lại. Vua nước Ma-già-đà bèn sai quân đi bắt. Họ lùa chúng vào rừng, đến một nơi hiểm trở và bắt trọn ổ cướp, rồi móc mắt, xẻo mũi, cắt tai chúng. Lúc đó, năm trăm tên giặc, thân thể đau đớn, sắp chết đến nơi. Trong số năm trăm tên ấy, có một người là đệ tử Phật. Người này bảo đồng bọn: –Chúng ta chẳng còn sống được bao lâu nữa, tại sao không chí thành xưng niệm danh hiệu của Phật? Bấy giờ, năm trăm người, đồng thanh hô to lên: –Kính lạy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni! Trong khi ấy, Đức Phật từ núi Kỳ-xà-quật, dùng sức thần thông đến núi Càn-đà. Gió lớn nổi lên, rung chuyển cây cối, bụi chiên-đàn cuốn theo làm mờ mịt hư không. Gió liền thổi tới khu rừng, nơi bọn giặc ngộ nạn, thu nhặt những mắt, mũi, tai… của họ và làm cho bình phục như cũ. Khi bọn giặc được hoàn lại đôi mắt, hết các thương tích, máu biến thành sữa, thì cùng bảo nhau: –Chúng ta nhờ ân Đức Phật mà thân thể được yên ổn. Nếu muốn báo đền ân Phật, chúng ta phải mau mau phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nói xong, tất cả đều đồng thanh hô to lên: –Những người chưa được yên vui, ta sẽ khiến cho được giải thoát, những người chưa được độ, ta sẽ độ cho; những người chưa đắc đạo, ta sẽ khiến cho được vào Niết-bàn.  Lại nữa, những phương tiện về từ bi và sức uy thần của Đức Như Lai thật khó nghó bàn. Khi Đức Phật ở nước Xá-vệ, lúc ấy trong núi Quật có năm trăm người thường đón đường cướp phá, làm mọi điều phi pháp. Bấy giờ, Đức Như Lai dùng sức phương tiện, hóa làm một người cỡi con voi lớn, mình mặc áo giáp, lưng đeo cung tên, tay cầm giáo nhọn. Con voi trang sức bằng các thứ bảy báu; đồ trang sức của người ấy cũng toàn bằng bảy báu, lộng lẫy, sáng chói; một mình đi vào con đường hiểm trở, đến núi Quật. Lúc đó, ở trên núi, năm trăm tên cướp trông thấy người kia từ đằng xa, liền bảo nhau: –Chúng ta làm giặc đã lâu, chưa từng thấy người nào như thế. Tên đầu đảng mới hỏi đồng bọn: –Các anh thấy gì? –Chúng tôi thấy một người cỡi con voi lớn, y phục lộng lẫy, yên cương của voi toàn bằng bảy thứ báu, tỏa ra ánh sáng chiếu rực trời đất, mà lại chỉ có một mình, đang từ đằng xa đi đến. Nếu ta bắt được, thì y phục và đồ tư trang của người ấy dùng đến bảy đời cũng không hết. Tên đầu đảng nghe xong, lòng vui mừng và khẽ bảo đồng bọn: “Cẩn thận, chớ bắn vội! Chúng ta hãy từ từ bao vây cả phía trước, phía sau, rồi cùng xông ra một lượt mà bắt.” Bấy giờ năm trăm tên cướp đồng thanh hô to, bảo người kia hãy đứng lại. Người kia dùng diệu lực từ bi, rủ lòng thương xót, liền giương cung bắn. Năm trăm tên cướp lần lượt bị tên, thương tích đau nhức, không thể chịu nổi, đều cùng té nhào, lăn lộn kêu khóc, rồi ngồi dậy nhổ tên ra, nhưng tên cứ dính chặt, không sức nào nhổ nổi. Bọn cướp sợ hãi và nói với nhau: –Hôm nay chúng ta tất phải chết. Từ xưa đến nay chưa từng gặp người nào khó chống cự như người này. Rồi cùng đọc bài kệ: Ông là người thế nào Có sức chú thuật này Hiện phép Long, Thần, Quỷ Một tên bắn năm trăm. Đau khổ không thể tả Chúng tôi đều quy y Xin vì nhổ tên độc Thuận theo không dám trái. Người kia liền nói bài kệ đáp: Vết thương không đau mấy Tên bắn chẳng quá mạnh Người khỏe không thể nhổ Chỉ nghe nhiều là khỏi. Nói kệ xong, người kia liền hiện lại thân Phật, phóng hào quang lớn, chiếu khắp mười phương. Tất cả chúng sinh trông thấy ánh sáng đó, thì người mù trở lại sáng, người gù đứng thẳng được, người què được tay chân lành lặn, kẻ mê lầm thấy chánh đạo. Nói tóm lại mọi sự không vừa ý, đều được toại nguyện. Khi ấy, Đức Như Lai thuyết pháp cho năm trăm người nghe, chỉ dạy những điều lợi lạc. Năm trăm người nghe pháp đều vui mừng, thương tích bình phục, máu trở thành sữa, liền phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, đồng thanh đọc bài kệ: Chúng ta phát tâm rồi Làm lợi ích chúng sinh Phải nên thường cung kính Thuận theo học chư Phật. Nhờ Phật sức từ bi Cứu khổ, lòng yên vui Nên phải nhớ ân Phật Bồ-tát và bạn lành. Sư trưởng và cha mẹ Cùng mọi loài chúng sinh Oán, thân lòng bình đẳng Ân đức không có hai. Bấy giờ trên không trung, chư Thiên ở cõi Dục và Kiều-thi-ca, liền tuôn mưa hoa, tấu nhạc cúng dường Như Lai cùng hiện xuống đồng thanh đọc kệ: Con nhờ phúc đời trước Được sáng sủa nghiêm sức Cúng dường các thứ quý Lợi ích cho hết thảy. Thế Tôn rất khó gặp Diệu pháp khó được nghe Nhờ vun trồng cõi phúc Nay được gặp Như Lai. Chúng con nhớ ân Phật Đều cùng phát đạo tâm Con nay được thấy Phật Nếu có nghiệp thiện gì Xin vì mọi chúng sinh Hồi hướng đạo Vô thượng. Nói kệ xong, các vị trời đi nhiễu quanh Phật trăm ngàn vòng, cúi đầu đảnh lễ rồi bay lên hư không, biến đi.  Lại nữa, sức từ bi, phương tiện của Đức Như Lai thật khó nghó bàn. Một lần, tại nước Tỳ-xá-ly, có người Bà-la-môn chấp theo tà kiến, tham đắm kiêu căng. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đến nhà nói pháp khuyên nhủ, nhưng người ấy không chịu tin hiểu, cứ cố chấp theo tà thuyết. Người này giàu có, của báu vô số, nhưng lại không con. Người ấy tự nghó: “Một mai chết đi, của cải mất hết”. Nghó như thế rồi, liền đến thần miếu và các thần cây để lễ bái cầu tự. Sau chín mươi ngày, người vợ mang thai. Chín tháng mười ngày, sinh được con trai, thân hình đẹp đẽ, tướng mạo khôi ngô, cha mẹ rất yêu mến, mọi người cũng quý trọng. Khi được mười hai tuổi, một hôm cùng các bè bạn đi chơi, giữa đường bị con voi say đạp chết. Cha mẹ hay tin, vật vã than khóc, lòng phát điên cuồng, mình mẩy lấm láp, bứt tóc, rứt tai, cất tiếng than: “Sao mình bạc phúc thế này, có sống cũng như chết!” Sau tìm đến nơi con chết, ôm lấy xác con kêu gào thảm thiết, tỉnh rồi lại mê, tâm trí cuồng loạn, khỏa thân mà đi. Lúc đó may sao, được thấy Đức Như Lai. Phật dùng sức từ bi, hóa làm người con. Cha mẹ thấy vậy, vội đến ôm lấy, vui mừng khôn xiết, tâm hết cuồng loạn, tỉnh táo như trước. Bấy giờ, Phật mới nói pháp cho nghe, nghe xong đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.  Lại nữa, diệu lực từ bi, thiện căn của Như Lai không thể nghó bàn. Một lần, vua Lưu Ly xuất bốn thứ quân đi đánh nước Xá-duy, bắt những người họ Thích đem đi rồi đào hố chôn vừa tới nách, không cho cử động. Hơn bảy ngày sau, Đức Như Lai dùng sức từ bi biến chỗ đất đó thành một cái ao. Nước ao trong mát, đủ tám công đức. Trong ao có các thứ hoa thơm ngát, như hoa Ba-đầu-ma, hoa Phân-đà-lợi, to bằng bánh xe, đủ các màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Lại có các loài chim, cùng hòa tiếng hót. Những người họ Thích thấy thế, sinh lòng vui mừng, liền phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi họ đã phát tâm Bồ-đề, vua Lưu Ly cho năm trăm con voi đen uống rượu thật say, đóng móng sắt vào chân, buộc kiếm nhọn vào ngà, rồi gióng một hồi trống, thả đàn voi ra, giày đạp những người họ Thích khiến thân thể họ tan nát, xương da rã rời, ngổn ngang trên mặt đất. Nhưng nhờ sức từ bi của Phật, nên thân tâm họ đều được yên vui nên mới phát tâm Bồ-đề. Nhờ phát tâm Bồ-đề đối với chúng sinh đều sinh tâm bình đẳng; vì sinh tâm bình đẳng nên không mang lòng sân hận; vì không sân hận nên sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Khi sinh lên cõi trời rồi, nhờ có Thiên nhãn, thấy đủ căn duyên, liền nói với nhau: –Nhờ từ ân của Phật, chúng ta mới được sinh thiên. Cung điện toàn bằng bảy báu, y phục lộng lẫy, thân tướng rực rỡ, ca nhạc tuyệt vời, tất cả đều nhờ thần lực của Đức Như Lai mà có. Vậy nên chúng ta phải phát tâm đại bi làm lợi ích cho chúng sinh. Bất cứ nơi nào có Phật pháp, hoặc ở thành, ấp, làng mạc, hoặc trong rừng núi, hay cung điện, nhà cửa, hễ có người đọc tụng, biên chép, giải bày nghóa lý, thì người ấy được mọi sự cung cấp hỗ trợ, đầy đủ như ý, không bao giờ thiếu thốn. Nếu có xảy ra chiến tranh, bệnh tật, đói khát, thì chúng ta phải ngày đêm ủng hộ những người ấy, tâm không xa lìa. Lúc mọi người phát nguyện như thế rồi, thân tướng trở nên tươi sáng, chói lọi, rực rỡ hơn trước bội phần, họ đều vô cùng vui mừng, bay trên hư không mà đi.  Lại nữa, sức từ bi, phương tiện của Đức Như Lai không thể nghó bàn. Sau khi đánh phá nước Xá-duy và hãm hại những người họ Thích rồi, vua Lưu Ly bắt những con gái dòng họ Thích, chọn những người có nhan sắc và tài năng, gồm năm trăm người, bắt họ xếp hàng, gẩy đàn, thổi sáo, múa hát, mà trở về nước mình. Khi về tới nước mình các phu nhân và cung nữ của vua Lưu Ly đều lên ngồi trên chánh điện nói với mọi người: “Hôm nay chúng ta sung sướng vô cùng”. Những người con gái họ Thích hỏi vua Lưu Ly: –Tại sao hôm nay các vị ấy bảo là sung sướng? Vua đáp: –Vì ta đã thắng kẻ thù. Những người con gái họ Thích nói: –Nhà vua không thắng đâu. Thật ra thì cả bốn thứ binh của nhà vua cũng không thể địch lại được một người họ Thích chúng tôi. Nhưng vì chúng tôi là đệ tử của Phật, không tranh giành với ai, nên để nhà vua thắng đó thôi. Nếu chúng tôi mà chống cự thì nhà vua đâu phải trước sau phải kéo quân sang nước Xá-duy ba bốn lần, mà luôn thoái lui. Lần thứ nhứt, khi nhà vua mang quân đến, những người trong dòng họ Thích chúng tôi đã cùng bảo nhau: “Ông vua Lưu Ly này không biết đến ân nghóa, sinh lòng tàn ác. Nếu chúng ta cùng ông giao chiến thì không phân biệt được người hiền, kẻ ngu, đen trắng không rõ. Vậy chúng ta chỉ nên làm cho ông ta sợ hãi mà rút lui thôi”. Nói xong liền phát thệ nguyện: “Mọi người chúng ta đều phải bắn, nhưng không được để cho mũi tên gây nên thương tích.” Rồi xuất bốn đạo binh ra chống cự vua Lưu Ly. Cách bốn mươi dặm, giương cung mà bắn. Những mũi tên theo nhau bay đi vun vút và đều trúng đích. Thấy thế, vua Lưu Ly hoảng sợ, liền mở đường chạy lui. Hơn chín mươi ngày sau, vua Lưu Ly lại cử binh đi đánh dòng họ Thích. Lúc đó, những người họ Thích họp lại bàn: “Lưu Ly là con người tàn ác, không biết hổ thẹn, lại kéo quân đến muốn rước lấy họa hoạn hay sao?” Nói xong cũng tuyên thệ: “Hôm nay chúng ta cùng nhắm áo giáp mà bắn, đừng để cho người bị thương”. Thế rồi mọi người đều giương cung bắn, khiến cho áo giáp và những đồ binh khí của địch tan tành, gẫy nát, chỉ còn người không. Khi ấy, vua Lưu Ly trong lòng sợ hãi, liền triệu tập các quần thần bàn bạc. Vua nói: “Hôm nay, chúng ta sợ khó toàn tánh mệnh”. Trong số có một vị Đại thần đệ nhất tâu: “Những người họ Thích đều là đệ tử của Phật, giữ giới bất sát, tu hành từ bi, nếu không thì thân mạng của chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ bị tiêu diệt”. Vua nói: “Nếu thật như thế, thì ta hãy tiến lên”. Lúc đó, những người họ Thích khoanh tay đứng nhìn. Quân mã của vua Lưu Ly xông đến gần bức hiếp. Trong số dòng họ Thích, có một người Bà-la-môn bảo những người họ Thích: “Tai họa đã đến nơi, sao lại thản nhiên đứng nhìn như vậy?” Họ đáp: “Chúng tôi không tranh giành với ai cả, nếu đánh nhau với kẻ kia thì không phải là đệ tử của Phật”. Bất mãn với những lời nói đó, người Bà-la-môn xông ra vòng chiến, đánh nhau với quân mã của vua Lưu Ly; bắn một phát, giết bảy người và chỉ trong khoảng thời gian ngắn, số tử thương đã tăng lên rất nhiều, khiến bốn đạo binh của vua Lưu Ly phải tìm đường rút lui. Bấy giờ, những người họ Thích lại nghó: “Chúng ta không làm bạn với kẻ ác nhân này”. Nghó xong, liền họp nhau đuổi người Bà-la-môn ấy đi. Sau khi đuổi người Bà-la-môn đi rồi, thì vua Lưu Ly lại xuất quân đánh nước Xá-duy và vì thế nên nhà vua mới thắng. Nghe xong, vua Lưu Ly sinh lòng hổ thẹn, liền sai bọn Chiên-đà-la xẻo tai, mũi, cắt chân tay của những người con gái họ Thích, rồi cho xe chở đến vùng gò mả mà vứt bỏ. Sau khi bị cắt chân tay; những người con gái họ Thích lăn lóc kêu gào, khóc than thảm thiết, đau đớn, khổ cực. Biết rằng cái thân tàn chẳng còn sống được bao lâu, họ bắt đầu gọi đến cha mẹ, anh em chị em, hoặc kêu trời, la đất, đau đớn không cùng. Trong số những người con gái này, có một người thuộc loại hiểu biết nhất bảo những người kia: –Này các chị em, tôi đã từng theo Phật, được biết trong lúc tai nạn nguy cấp, nếu người nào phát được một niệm Phật, dốc lòng quy kính, thì được yên ổn và đúng như ý nguyện. Lúc đó, năm trăm người con gái họ Thích đồng thanh, chí thành niệm: –Kính lạy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác! Rồi lại cùng xướng to lên: –Đau đớn thay! Than ôi, Đấng Bạc-già-phạm! Khi xướng như thế, thì ở giữa không trung, nhờ sức uy thần và thiện căn của Đức Như Lai, một áng mây đại từ bi nổi lên, rồi tiếp theo là những giọt nước đại từ tuôn xuống thân thể của những người con gái họ Thích. Nhờ những giọt mưa ấy, mà tai mũi, chân tay hoàn lại như cũ. Cảm thấy vô cùng sung sướng, những người con gái họ Thích đồng thanh hô to lên: –Lạy Đức Từ Phụ Như Lai, Đức Thế Tôn không gì hơn. Ngài là phương thuốc thần diệu của thế gian. Đối với chúng sinh trong ba cõi, Ngài thường cứu khổ, ban vui, bởi thế nên ngày nay chúng con mới được thoát nạn. Rồi họ bảo nhau: –Chúng ta phải nghó đến ân của Phật và phải nhớ báo ân Phật. Nhưng họ lại nghó: “Nên lấy gì để báo ân Đức Phật? Thân của Như Lai là thân kim cương, thường còn không mất, không đói khát, sắc tướng mầu nhiệm, tất cả đều đầy đủ; trăm ngàn phép định, năm căn, năm lực và bảy món trợ đạo không thể nghó bàn; ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, phước tuệ trang nghiêm, thường ở cảnh đại Niết-bàn, coi chúng sinh như con, oán thân bình đẳng, không mong báo đáp. Ngày nay chúng ta muốn báo ân Phật thì chỉ nên xuất gia, giữ gìn giới cấm và hộ trì chánh pháp”. Suy nghó thế rồi, liền cầu y bát, trở về bản quốc, tìm đến nơi tinh xá của Tỳ-kheo-ni xin được xuất gia. Lúc ấy, đám lục quần Tỳ-kheo-ni thấy những người con gái họ Thích, tuổi hãy còn trẻ, đều có nhan sắc thì tự nghó: “Tại sao họ lại có thể bỏ những cái khó bỏ để đi xuất gia? Ta nên đem những sự vui thích ở đời nói cho họ nghe và bảo họ khi nào luống tuổi hãy xuất gia, như thế chẳng thú lắm sao? Nếu họ hoàn tục, tất sẽ đem y bát dâng cho ta”. Suy nghó thế rồi, đám lục quần Tỳ-kheo-ni bèn đến chỗ những người con gái họ Thích và đem những việc trên nói cho họ nghe. Những người con gái họ Thích nghe xong, lòng thấy khổ não. Và họ tự nghó: “Đây là nơi yên ổn, sao lại có sự việc đáng sợ như vậy, chẳng khác nào trong thức ăn ngon ngọt mà pha lẫn thuốc độc. Những điều mà đám Tỳ-kheo-ni kia vừa nói cũng lại như thế. Trong những thứ dục lạc ở đời có nhiều nguy hại, chúng ta đã biết rồi, tại sao lại còn tán dương những thứ đó và khuyên chúng ta trở về để đắm theo năm dục?” Nghó xong liền òa lên khóc và ra khỏi phòng Tăng. Bấy giờ có một vị Tỳ-kheo-ni tên là Hoa Sắc hỏi những người con gái họ Thích: –Tại sao các em lại khóc? –Vì không được như ý nguyện. –Các em nguyện điều gì? –Chúng tôi muốn xuất gia mà không được chấp thuận. –Các em muốn xuất gia thì ta sẽ độ cho. Những người con gái họ Thích nghe rồøi, lòng sinh vui mừng, nói với Tỳ-kheo-ni Hoa Sắc: –Bạch Hòa thượng, chúng con khi còn tại gia, gặp nhiều thống khổ, họ hàng ly tán, lại bị xẻo mũi, cắt tai, chặt hết tay chân, đau đớn khôn cùng. Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni Hoa Sắc bảo các đệ tử: –Những nỗi khổ não của các người đâu đáng kể. Khi ta còn tại gia đã phải gánh chịu không biết bao nhiêu khổ cực. Những người con gái họ Thích liền quỳ xuống, chắp tay xin Thầy nói lại căn nguyên của các nỗi khổ lúc còn tại gia cho nghe. Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Hoa Sắc mới vào đại định, dùng sức thần thông phóng hào quang lớn, chiếu khắp cõi Diêm-phù-đề, chiêu tập những người có duyên với Phật pháp, cả Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Nhân và Phi nhân. Rồi giữa đại chúng, vị ấy tự nói: –Khi ở tại gia, ta là người nước Xá-vệ, cha mẹ gả ta cho người phương Bắc. Theo phong tục nước ấy, người đàn bà sau khi mang thai, gần ngày sinh nở phải về nhà cha mẹ mình. Cứ như thế, vài năm một lần, sau lại mang thai. Có một kỳ gần đến ngày sinh, hai vợ chồng ta về nhà cha mẹ, đi được nửa đường thì gặp một con sông, nước sông tràn đầy, chảy xiết, đường sá vắng tanh, lại nhiều giặc cướp. Khi tới sông, thì trời vừa sẩm tối, không thể qua được, đành ngủ lại trên bờ sông. Vào khoảng canh một thì bụng chuyển đau, ta liền ngồi dậy và không bao lâu sinh được một cháu trai. Trong đám cỏ trên bờ sông có một con rắn độc, thấy mùi máu tươi, nó mới tìm đến, nhưng chưa tới chỗ ta nằm. Trong khi đó thì chồng ta và người đầy tớ đang ngủ ở giữa đường. Rắn đến chỗ người đầy tớ và cắn chết ngay, rồi lại nơi chồng ta, vì ngủ không biết, nên cũng bị nó cắn chết. Lúc ta hô: “Rắn! Rắn!”, không thấy chồng ta trả lời. Sau khi cắn chết chồng ta và người đấy tớ rồi, nó lại cắn luôn cả trâu, ngựa. Sáng hôm sau, ta thấy thân thể của chồng sưng phồng, thối nát, xương thịt tan rã, ngổn ngang trên đất. Ta đau buồn sợ hãi quá đến nỗi ngất đi rồi vật vã than khóc, đập đầu, bứt tóc, thân hình lấm láp, tỉnh rồi lại mê, qua mấy ngày liền, đau buồn khổ thương như vậy. Một mình ở lại bờ sông cho đến khi nước sông rút bớt, ta mới cõng đứa con nhỏ sau lưng, còn đứa hài nhi mới sinh thì bọc vào trong áo, lấy thắt lưng buộc chặt rồi ngậm ở nơi miệng mà lội qua sông. Khi đến giữa dòng, ta quay lại nhìn đứa con lớn còn ngồi trên bờ, thì thấy một con cọp dữ đang hồng hộc chạy tới. Ta vừa cất tiếng tri hô, bỗng đứa hài nhi rơi theo dòng nước. Ta vội cúi xuống mò tìm, đứa hài nhi đã chẳng thấy thì đứa con nhỏ trên lưng, vì không tay giữ, cũng lại té xuống sông và bị dòng nước cuốn đi. Trong khi đó thì đứa con lớn trên bờ bị cọp ăn thịt. Nhìn cảnh ấy, lòng ta tan nát, đứt từng khúc ruột, máu trào ra miệng, kêu gào, than khóc; chỉ trong một buổi sớm ta đã phải chứng kiến biết bao cảnh tang tóc! Khi lên đến bờ sông, ta liền ngã lăn bất tỉnh. Một lúc sau, ta thấy một đám người đi đến. Trong đám người đó, có một ông Trưởng giả là bạn của cha mẹ ta. Ta vội hỏi thăm tin tức về cha mẹ, thì được người Trưởng giả cho biết, nhà cha mẹ ta vừa bị cháy đêm trước và cha mẹ đều bị chết thiêu. Được biết tin ấy, ta lại chết ngất, hồi lâu mới tỉnh. Vừa đúng lúc đó, có năm trăm tên cướp ào đến chận đường cướp phá đám ông Trưởng giả kia. Bấy giờ, tên tướng cướp bắt ta dẫn đi, rồi ép ta làm vợ, giao cho ta giữ cửa, khi bị người đuổi, gặp lúc nguy cấp, phải mở cho mau. Ít lâu sau, một hôm, chồng ta cùng bọn giặc đi cướp giật, bị các tài chủ trong làng, hợp lực đuổi bắt, phải bỏ chạy về. Lúc đó, trong nhà ta vừa sinh con, chồng ta đứng ngoài gọi hai ba lần, nhưng không ai mở cửa. Bấy giờ, y tự cho rằng ta muốn hại y. Nghó rồi, y liền trèo tường mà vào và hỏi tại sao ta không mở cửa? Ta nói là vì mới vừa sinh nở nên không kịp ra mở cửa. Thấy thế, tên tướng cướp mới nguôi giận và bảo ta: “Người ta hễ có thân thì tất có con. Vì ngươi sinh đẻ mà suýt nữa nguy hại cho ta. Đứa con này có ích gì, đem giết cho mau!”. Nhưng lòng ta thương xót, không nỡ đem giết. Bấy giờ tên tướng cướp rút dao chặt hết chân tay đứa trẻ rồi bảo ta phải ăn cho hếøt, nếu không chịu ăn, y sẽ chém đầu. Vì quá sợ hãi nên ta phải ăn, sau khi ăn xong, y hết tức giận. Sau đó chồng ta tiếp tục đi cướp phá. Một hôm bị nhà vua bắt được, đem ra trị tội. Cái phép trị giặc cướp là phải xử tử và người vợ của tội nhân cũng bị chôn theo chồng. Lúc ấy, ta mặc toàn đồ quý giá, mang nhiều chuỗi báu anh lạc. Có kẻ tham lợi, ban đêm đến đào mả để lấy của báu và bắt ta đem đi. Nhưng ít lâu sau, nhà vua cho người đi dò xét và ta lại bị bắt. Sau khi bắt được ta, nhà vua theo luật mà xử như trị tội giặc. Phép trị giặc là xử tử và người vợ của tội nhân cũng bị chôn theo. Nhưng chôn không được kỹ, nên đêm đến các loài hổ lang ra bới lên để ăn tử thi, nhờ thế mà ta thoát chết. Khi ra khỏi mả, hồn ta mê man, mặc dầu cứ đi mà không biết đi đâu. Dọc đường ta gặp nhiều người, ta liền nhờ họ chỉ cho một nơi yên ổn, để diệt trừ mọi nỗi lo âu sầu muộn. Bấy giờ, có một vị Trưởng lão thuộc dòng Bà-la-môn, rủ lòng thương xót, nói với ta: “Lão từng nghe nói, trong giáo pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, có nhiều yên vui, không còn khổ não.” Được nghe xong, ta thấy vui mừng vô hạn, liền đến chỗ Sư trưởng Đại Ái Đạo, tức Tỳ-kheo-ni Kiều-đàm-di cầu xin xuất gia. Sau khi xuấøt gia, ta cứ lần lượt y theo giáo pháp mà tu tập, cho đến khi chứng được đạo quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thông và tám môn giải thoát. Các người thấy chưa? Khi còn ở tại gia, ta đã phải trải qua những nỗi khổ đau như vậy. Nhưng cũng nhờ thế mà ngày nay ta mới chứng được đạo quả. Những người con gái họ Thích nghe xong, lòng rất vui mừng, chứng được pháp nhãn. Đại chúng nghe rồi, đều cùng phát tâm cầu đạo Vô thượng. Bấy giờ, dì của Phật là Tỳ-kheo-ni Kiều-đàm-di bảo các vị Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di ni, Ưu-bà-di và tất cả phụ nữ: –Phật pháp là lợi ích lớn. Chỉ trong biển giáo pháp của Đức Như Lai mới có đầy đủ các công đức và ba thứ quả báo. Tất cả chúng sinh đều có phận trong đó. Thế mà Đức Như Lai lại không cho phụ nữ chúng ta được dự vào Phật pháp là vì lẽ gì? Là vì phụ nữ chúng ta phần nhiều hay ngờ vực, chấp trước, không có lòng hỷ xả. Cũng vì chấp trước nên mới tạo không biết bao nhiêu nghiệp trói buộc, đến nỗi bị ngu si và ái dục che lấp mất chân tâm, do đó mà phải chìm đắm mãi trong bể khổ sinh tử, mặc cho bao lớp sóng ái dục dập vùi. Vì tà kiến và tham ái làm chướng ngại, nên mới sinh ra kiêu ngạo, lười biếng, bởi thế thân này không thể đạt đến đạo quả Vô thượng Bồ-đề, không thể có được ba mươi hai tướng tốt. Trong đường sinh tử, không được làm Chuyển luân thánh vương, dùng pháp Thập thiện, để giáo hóa chúng sinh; cũng không thể đạt đến ngôi Phạm vương cùng tột, không thể kiến lập Chánh pháp và khuyến thỉnh chư Phật chuyển bánh xe Pháp để cho tất cả chúng sinh đều được lợi lạc. Bởi thế nên Đức Như Lai không cho nữ nhân được làm đệ tử. Thiên ma Ba-tuần, các loại tà kiến và tất cả ngoại đạo chuyên làm điều ác, chấp theo tà thuyết, phá hoại chánh pháp, diệt Phật, Pháp, Tăng. Vì vậy Đức Như Lai không cho nữ nhân dự vào Phật pháp. Ta vì tất cả phụ nữ, ba lần thỉnh cầu Đức Như Lai cho được xuất gia, tu học Phật pháp, mà Phật không thuận. Vì không được như nguyện, lòng ta buồn tủi, giận cho thân người phụ nữ, bất giác lệ tràn mí mắt, ta mới thất thểu bước ra khỏi tinh xá Kỳ hoàn. Lúc đó, ta gặp Tôn giả A-nan. Tôn giả hỏi tại sao trông ta buồn khổ như vậy. Ta liền thuật lại cho Tôn giả nghe là ta muốn xuất gia tu theo Phật pháp, nhưng cầu xin đến ba lần mà Đức Như Lai cũng không chấp thuận, bởi thế nên ta buồn khổ. Bấy giờ Tôn giả A-nan bảo ta đừng lo, Tôn giả hứa sẽ xin Đức Như Lai chấp thuận cho ta vào Phật pháp. Nghe lời Tôn giả A-nan nói vậy lòng ta sung sướng vô cùng. Khi ấy Tôn giả A-nan vào bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, con muốn cầu xin Thế Tôn chấp thuận cho một việc. Phật bảo A-nan: –Ông muốn xin điều gì, cứ nói. A-nan thưa: –Bạch Đức Thế Tôn, Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã chăm nom nuôi nấng sắc thân của Thế Tôn, đến ngày nay Thế Tôn đã thành Phật. Nếu kể đến công lao của Di mẫu đối với Như Lai, thì Như Lai phải mang ân Di mẫu rất nhiều. Thế mà, tất cả chúng sinh Như Lai còn cho dự vào Phật pháp, huống chi là Di mẫu, nỡ nào Như Lai không thuận? Phật bảo Tôn giả A-nan: –Đúng như lời ông nói. Không phải Ta không biết đến ân sâu của Di mẫu đối với Ta, nhưng Ta không muốn cho nữ nhân dự vào Phật pháp. Nếu ta cho nữ nhân ở trong Phật pháp thì sau năm trăm năm, chánh pháp của Ta sẽ suy đồi. Bởi thế mà Ta không muốn để nữ nhân dự vào Phật pháp. Bấy giờ Tôn giả A-nan cúi đầu đảnh lễ, rồi quỳ gối, chắp tay lại bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, con tự nghó chư Phật thời quá khứ đều có đủ bốn bộ chúng, chỉ có một mình Đức Thích-ca Như Lai là không có đủ. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Nếu Di mẫu quý chuộng Phật pháp, phải hết sức tinh tấn, tu tập phép Bát kính, ta sẽ ưng thuận cho được xuất gia sống trong Phật pháp. Lúc đó Tôn giả A-nan lễ Phật, đi nhiễu ba vòng rồi lui trở ra. Tôn giả liền đến báo cho ta biết là Đức Như Lai đã theo lời cầu xin của Tôn giả mà bằng lòng cho ta được xuất gia, phụng trì Phật pháp. Được biết tin ấy, lòng ta vui mừng vô hạn và bạch Tôn giả A-nan: –Quý hóa thay, Tôn giả A-nan! Tôn giả đã hết lòng thỉnh cầu Đức Như Lai, khiến cho tôi được toại nguyện. Rồi Tôn giả nói lại cho ta nghe pháp Bát kính mà Đức Như Lai đã ân cần dạy bảo. Nghe xong, nửa mừng nửa tủi, ta tự nghó: “Thân ta đây là cái thân vô thường, nay được đổi lấy cái thân quý báu; mạng sống ta đây, niệm niệm hằng biến diệt, không nhất định, nay được đem đổi lấy mạng quý báu; thân mạng, của cải của ta đây đều do nhân duyên giả hợp mà có, không phải chân thật, nay được đem đổi lấy của báu vónh viễn bất diệt.” Khi nghó đến những công đức và lợi ích như thế, ta liền sinh lòng chí thành cung kính cúng dường Tôn giả A-nan và bạch: –Đại đức A-nan, xin Tôn giả đừng lo. Tôi sẽ trọn đời tuân theo giáo pháp mà Đức Như Lai chỉ dạy. Dù có phải bỏ cả thân mạng chăng nữa, tôi cũng không dám vi phạm. Bấy giờ Đức Như Lai mới nói pháp Bát kính vi diệu cho ta nghe. Lúc đó, ta vận dụng lòng đại bi, vì tất cả nữ nhân đời vị lai mà bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, nếu sau này, trong đời xấu ác vẩn đục, có thiện nữ nào đối với Phật pháp, sinh lòng kính mến, thì xin Thế Tôn cũng nhận cho được dự vào Phật pháp. Khi ấy, Phật bảo ta: –Quý hóa thay! Nếu sau này có những thiện nữ, biết hộ trì Phật pháp, theo thứ lớp mà tu tập, giữ giới, bố thí, học rộng, tu các pháp thiện, tại gia hay xuất gia, thọ Tam quy hoặc trì Ngũ giới, hay giữ đủ các giới, tu các pháp Lục độ và các pháp trợ đạo, ta sẽ cho được tùy ý mà tu tập và cũng đạt được ba thứ quả báo ở cõi người, cõi trời và đạo quả Vô thượng. Nghe Phật nói thế, lòng ta vui sướng vô cùng, ta liền bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, nếu nữ nhân chúng con mà được ba thứ quả báo ấy, thì chính là nhờ ân Phật. Phật nói: –Đừng nghó như thế, Như Lai không hề có ân đối với chúng sinh, Như Lai không bao giờ kể có ân. Nếu kể ân tức là phá bỏ tâm bình đẳng của Như Lai. Nên biết rằng, đối với chúng sinh nếu Như Lai còn kể có ân hay không ân, thì Như Lai không có tâm bình đẳng. Vì sao vậy? Vì nếu chúng sinh nào đem lòng hủy hoại Phật, Như Lai không giận, hoặc có chúng sinh lấy hương chiên-đàn mà ướp vào thân Như Lai, Như Lai cũng không mừng. Như Lai đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳng, không còn phân biệt oán, thân. Aân là ân của Tôn giả A-nan, chớ không phải của Như Lai. Là vì nhờ có Tôn giả A-nan mà nữ nhân mới được vào Phật pháp. Vậy nên đời sau, các Tỳ-kheo-ni và tất cả những người thiện nữ thường phải hết lòng ghi nhớ ân của Tôn giả A-nan, nhắc nhở danh hiệu, cung kính, cúng dường, tôn trọng tán thán, đừng để dứt mất. Nếu không thể làm được như thế luôn luôn, thì đêm ngày sáu thời, cũng phải để tâm ghi nhớ. Bấy giờ, Sư trưởng Kiều-đàm-di bảo các vị Tỳ-kheo-ni và tất cả mọi thiện nữ: –Chúng ta phải nên dốc lòng quy kính Đại sư A-nan. Nếu thiện nữ nào muốn cầu sự yên ổn và quả báo tốt đẹp, cứ đến ngày mùng tám tháng hai, hoặc mùng tám tháng tám, mặc áo sạch sẽ, dốc lòng thọ trì pháp Bát trai giới, ngày đêm sáu thời siêng tu tinh tấn, thì Đại sư A-nan sẽ dùng sức uy thần, tùy nguyện giúp đỡ, khiến được như ý. Nghe pháp xong, đại chúng đều vui mừng, nhiễu quanh bên phải và lui ra. KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN <卷 id="32807812">QUYỂN 6 <卷 id="32807813">Phẩm 8: ƯU-BA-LY Bấy giờ, đại chúng vây quanh Đức Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng tán thán. Lúc đó Tôn giả A-nan nhận thấy trong tâm của đại chúng đều có điểm ngờ vực, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, tại sao Đức Thế Tôn lại nhận cho Ưu-ba-ly, là người hạ tiện, theo Phật xuất gia? Việc đó là sự hủy nhục cho hàng đệ tử Phật, lại khiến cho các dòng Vương tôn quý tộc sinh lòng bất kính, do vậy mà tổn mất phúc điền và cũng khiến cho con vua Bạch Tịnh là Tỳ-kheo Nan-đà sinh lòng khinh mạn? Phật bảo Tôn giả A-nan và đại chúng: –Các ông nghe cho kỹ! Các ông có thể nói Như Lai không có lòng bình đẳng, không có tâm đại bi, không có năm trí, không có chánh định, nhưng các ông không được nói rằng Ưu-ba-ly là người hạ tiện, tu tập hạnh hạ tiện, nguyện hạ tiện và tinh tấn hạ tiện. Các ông có thể nói Như Lai còn phiền não, thay đổi không thường, nhưng các ông không được nói Ưu-ba-ly là người hạ tiện đi xuất gia. Như Lai dùng trí nhận biết đúng khắp, mà nói những lời chân thật, vậy các ông nên tin theo lời Phật. Như Lai khi thấy rõ được sự sinh tử là tai họa mà một mình giác ngộ thành Phật, thì Ưu-ba-ly cũng theo Phật xuất gia, chứng được ba minh, sáu thông và đầy đủ các môn giải thoát, các chúng cõi trời, người đều sinh lòng ngưỡng mộ. Ưu-ba-ly là người giữ luật vào bậc nhất, hộ trì chánh pháp xứng đáng lãnh nhận sự cúng dường, khiến cho chúng sinh thành tựu được ba thứ diệu quả, nghóa là: quả báo ở đời này, đời sau và nhiều kiếp sau nữa. Bởi thế, các ông nên biết, Ưu-ba-ly là một vị Bồ-tát đại bi, có những công hạnh kỳ đặc vi diệu. Ở những kiếp quá khứ với vô lượng trăm ngàn vạn ức các cõi Phật. Ưu-ba-ly đã từng vun trồng các cội công đức, trong giáo pháp của Phật Thích-ca Mâu-ni, Ưu-ba-ly cũng là người trì luật thứ nhất. Khi nghe Phật tán thán mật hạnh của Tôn giả Ưu-ba-ly, Tỳ-kheo Nan-đà mới khởi tâm cung kính, liền đứng dậy đến lễ Tôn giả Đại Kiều-trần-như và lần lượt các vị đệ tử khác. Nhưng khi đến trước Tôn giả Ưu-ba-ly thì Nan-đà chỉ cúi đầu, rồi ngẩng lên và chắp tay đứng nhìn. Lúc đó, Đức Như Lai vì Nan-đà nói kệ: Nan-đà, phải nên biết Chớ khinh người nghèo cùng Đừng cậy mình giàu sang Xuất gia không phân biệt. Nan-đà nghe Phật chỉ dạy những điều lợi lạc, sinh lòng vui mừng, liền sửa lại y phục, rồi cúi đầu lễ chân Tôn giả Ưu-ba-ly. Lúc ấy trời đất đều rung động. Nan-đà thấy mình khoan khoái, nhẹ nhàng tức thì chứng được đạo quả A-la-hán mà vào địa vị của bậc Vô học. Bấy giờ Phật bảo Tôn giả Ưu-ba-ly: –Ông hãy thuyết pháp, nói rõ sự sai khác về Tam bảo, pháp Tứ đế, về tại gia, xuất gia, về thất chúng… nghóa là ông hãy nói về Tam quy, Ngũ giới cho đến tất cả các giới, về giới làm lợi ích chúng sinh, giới diệt trừ phiền não, giới điều trị thân tâm, giới thiền định và giới vô lậu…, để làm cho ngôi Tam bảo được hưng thịnh. Bấy giờ Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, nhờ sức uy thần của Như Lai tiếp dẫn, hộ niệm, con xin hỏi Thế Tôn một vài điều không hiểu. Nói xong, ngài tự suy nghó: “Thế nào là Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng? Tam bảo nếu không có bản chất thì làm thế nào phân biệt mà nói được? Pháp, Tăng cũng khác nhau, vậy nếu quy y Tam bảo thì phụng hành thế nào? Còn Tam quy nếu chỉ là một thì không thể nói có ba, nếu nói Tam quy thì tại sao lại có bảy chúng khác nhau?” Tự suy nghó thế rồi, Tôn giả Ưu-ba-ly mới bạch Phật: –Bạch Thế Tôn, nương nhờ về đâu mà gọi là quy y Phật? Khi ấy Đấng Đại Giác Thế Tôn bảo Tôn giả Ưu-ba-ly: –Phật là người đã giác ngộ, thấu suốt cả hai phần “tánh” và “tướng” của tất cả các pháp. Lại nữa, tất cả chúng sinh đang mê muội trong ba cõi, Phật đã đạt được đạo nhãn, tự mình đã thức tỉnh, lại thức tỉnh cho những chúng sinh còn mê muội kia, bởi thế mới gọi là giác. Phật đã thấu suốt tất cả mọi pháp và có thể thuyết minh về tất cả các pháp. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: –Thế nào gọi là Phật thuyết giảng về tất cả các pháp? Phật tùy thời cơ, thích ứng với chúng hội mà thuyết, hay chỉ thuyết cho từng nhóm người thôi? Phật đáp: –Phật theo căn tánh của chúng sinh và tùy thời cơ mà thuyết các pháp. Sau này các đệ tử kết tập Pháp tạng sẽ chia ra từng bộ loại một. Khi Phật thành đạo, vì các đệ tử mà nói ra giới luật, có giới khinh giới trọng, hữu tàng và vô tàng, kết tập thành Luật tạng. Khi Như Lai nói về nhân quả, tội phúc, các thứ ràng buộc, phiền não và các nghiệp nơi thân, khẩu, ý thì kết thành Luận tạng. Như Lai vì hàng trời, người, tùy thời thuyết pháp để khuyên họ tu tập, nói ra bộ Tăng nhất A-hàm. Sau lại vì những chúng sinh thông minh, nói các pháp cao sâu, gọi là Trung A-hàm, để cho những người có lợi căn theo đó mà tu tập. Sau nữa, nói các phép tọa thiền cho những người tu thiền định học tập, nên mới thành bộ Tạp A-hàm. Sau hết, vì phá trừ tà kiến của ngoại đạo mà nói ra bộ Trường A-hàm. Tất cả bốn bộ loại đó, sau kết tập thành Kinh tạng. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu Phật đã nói tất cả các pháp, thì tại sao một hôm Phật ngồi bên gốc cây, bốc một nắm lá hỏi các đệ tử là lá trong tay Phật nhiều hơn hay là lá trên cây nhiều hơn? Các đệ tử đều trả lời lá trên cây nhiều hơn. Lúc đó Phật bảo các đệ tử rằng, tất cả các pháp Phật đã thấu suốt cũng nhiều như lá trên cây. Còn các pháp Phật đã nói chỉ là lá trong bàn tay mà thôi. Vậy làm sao có thể nói là Phật đã thuyết tất cả pháp? Phật trả lời: –Tất cả các pháp đều có “biệt tướng” và “tổng tướng”. Như Lai nói đã thuyết tất cả các pháp là nói về phần “biệt tướng” chứ không phải “tổng tướng”. Không phải Như Lai không nói được phần “tổng tướng”, nhưng nếu Như Lai nói phần “tổng tướng” thì chúng sinh không thể lãnh hội hết được. Các ông nên biết Như Lai đã thấu suốt tất cả các pháp, nhưng mới chỉ nói về phần “biệt tướng” của các pháp chứ chưa nói đến phần “tổng tướng”. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu Phật biết mà có thể nói được, thì các vị Thanh văn, Duyên giác, căn cứ vào chỗ hiểu biết cũng có thể nói được. Vậy tại sao các vị đó không thể xưng là Phật? Phật đáp: –Không thể được. Là vì Phật biết và nói đầy đủ cả hai phần “tánh”, “tướng” của các pháp; còn các vị Thanh văn, Duyên giác, tuy cũng biết và nói được, nhưng không thể nói hết “tánh”, “tướng” của các pháp. Lại nữa, Phật hiểu thấu và có thể đặt tên cho các pháp, nhưng Thanh văn, Duyên giác thì không thể làm được. Lại nữa, Phật chứng được vô biên pháp và có thể nói mãi không cùng, nhưng hàng Nhị thừa thì không thể làm được. Lại nữa, có pháp “cộng” và “bất cộng” tức điều mà hàng Nhị thừa đạt được thì Phật cũng có, nhưng điều mà Phật có thì Nhị thừa chưa đạt được. Điều mà Thanh văn đã chứng được thì Tam thừa đều biết; điều mà Duyên giác đã chứng được thì Thanh văn và Bồ-tát cũng đều biết. Nhưng điều mà Phật đã chứng thì hàng Nhị thừa không thể biết được, chỉ Phật tự biết mà thôi. Lại nữa, tráp lớn thì nắp phải lớn, pháp lớn thì pháp tướng cũng vô cùng. Trí của Phật là trí không có bờ bến, cho nên Phật mới có thể thấu suốt và thuyết minh được tất cả các pháp, còn trí của hàng Nhị thừa là trí có hạn, nên Nhị thừa không thể thấu suốt được “tánh”, “tướng” của tất cả pháp. Lại nữa, Phật đã chứng được cái trí biết như thực, nghóa là đối với “tánh”, “tướng”, của pháp, Phật đều hiểu rõ như thực, còn hàng Nhị thừa hiểu các pháp chưa được hoàn toàn, chưa thấu suốt đến căn nguyên của “tánh” và “tướng”, bởi thế không thể nói là đã chứng được trí biết như thực. Căn cứ vào những nghóa nói trên, nên biết hàng Nhị thừa không thể xưng là Phật. Hơn nữa, chữ Phật không thể dùng tiếng mà truyền được, cũng không thể lấy nghóa mà hiểu được. Còn thế nào gọi là Thế Tôn? Là người có thể biết hết các pháp đối trị. Lại nữa, ở thế gian ngôn ngữ bất đồng, nên người đời không thể hiểu được nhau, nhưng Phật thì hiểu biết tất cả, nên gọi Phật là Thế Tôn. Lại nữa, như Sắc Tỳ-kheo nói, Nhị thừa phàm phu tự nói đã chứng được các pháp, hoặc ưa nơi tónh mịch, hoặc thích thiền định, hay các pháp khác, nhưng giữ bí mật. Phật thì không thế, Phật chứng được các pháp, đều rủ lòng Từ bi mà nói cho người khác nghe. Lại nữa, vì Phật đã diệt trừ được tham, sân và si, nên gọi là Thế Tôn. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nhị thừa cũng đã phá trừ được tham, sân, si, tại sao lại không thể xưng là Thế Tôn? Phật trả lời: –Không thể được, vì hàng Nhị thừa đối với tâm Đại thừa còn có khi thoái chuyển, Phật thì không bao giờ thoái chuyển. Thoái chuyển có ba: một là, đã chứng quả mà còn thoái chuyển; hai là chưa chứng quả mà đã thoái chuyển; ba là đã đến chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển. Đã chứng quả mà thoái chuyển là nói ngôi Thanh văn đã chứng được quả thứ ba mà còn có khi thoái chuyển. Chỉ có quả thứ tư là A-la-hán thì mới không còn thoái chuyển. Còn như Trung thừa, nếu đã tu tập đủ trăm kiếp, đã thấu suốt được mười hai nhân duyên, thành Bích-chi-phật, cũng không còn thoái chuyển nữa. Nhưng nếu là Hạ thừa, chứng quả thứ ba mà thành Bích-chi-phật, thì vẫn còn thoái chuyển. Còn như Phật đã chứng quả rồi, thì không bao giờ thoái chuyển. Chưa chứng quả mà thoái chuyển là nói những người của ba thừa, chưa chứng được quả mà đã thoái chuyển; nếu tu ba nghiệp của Tỳ-kheo mà lười biếng, hoặc tu tập các pháp không chăm chỉ, thì gọi là chưa chứng quả đã thoái chuyển. Đã tới chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển là nói những người đã chứng được các pháp, mà không ứng dụng hiện tiền, như mười lực của Phật và mười trí của Tiểu thừa, mà chỉ ứng dụng một; hay phải tụng mười vạn lời kinh, mà không tụng, đều gọi là đã đến chỗ ứng dụng mà thoái chuyển. Thanh văn chưa chứng quả mà thoái chuyển; Duyên giác và Độc giác cũng có khi chưa chứng quả mà thoái chuyển, nhưng Phật thì không bao giờ thế. Đối với tất cả hạnh tu tập, không bao giờ Phật biếng nhác. Nhị thừa đã đến chỗ ứng dụng mà còn thoái chuyển, chứ Phật thì nhất định không thế. Như trong mười lực mà chỉ dùng một, bỏ chín, nên gọi là thoái chuyển. Hoặc như tụng hai mươi vạn lời kinh, mà người phàm sức yếu, phải tụng một, hai ngày mới xong, nhưng Phật có thể tụng xong ngay. Thập lực cũng vậy, dùng là dùng liền, không bị ngăn lại. Cho nên Phật không có sự không dùng mà bỏ. Lại nói, Phật không có sự không dùng mà bỏ như khi mặc áo Nê-hoàn tăng, không phải thời không mặc. Như khi ở trong pháp của thế gian, khi làm bất cứ việc gì đều vì lợi ích của chúng sinh mà làm. Việc gì có lợi thì làm, không có lợi thì bỏ, chứ không phải không làm được, bởi thế Phật không có sự không dùng mà thoái chuyển. Tuy Phật hiểu suốt các pháp mà nói không nhất định là vì ý Phật sâu xa, không thể nghó bàn được. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Tại sao Thanh văn đã chứng đến quả A-na-hàm còn thoái chuyển? Nhưng chứng quả A-la-hán thì không thoái chuyển? Phật đáp: –Quả A-na-hàm đã từng được, cho nên thoái chuyển, còn quả A-la-hán thì chưa từng được, cho nên không thoái chuyển. Cũng như người đang đói mà được ăn cỗ ngon, không bao giờ quên, ý nghóa quả A-la-hán cũng vậy. Lại nữa, A-la-hán lấy nhẫn nhục làm đạo vô ngại, lấy trí tuệ làm đạo giải thoát, còn A-na-hàm lấy trí tuệ làm đạo vô ngại và cũng lấy trí tuệ làm đạo giải thoát, cho nên còn thoái chuyển. Lại nữa, A-la-hán lấy sự hiểu biết như thực làm đạo, cho nên không thoái chuyển, còn A-na-hàm thì lấy tư duy làm đạo, cho nên còn thoái chuyển. A-na-hàm còn phải diệt hết vọng tưởng và trừ sạch tham, sân, si, ái, tà kiến, vô minh, nên còn bị tư duy bức bách. Nhưng A-la-hán thì tìm hiểu đạo như thực, nên không bị bức bách, vì đạo như thực không có bức bách. Thấy rõ được phần “vọng” tức thấy lý “chân”. Như không cần tư duy nên không bị bức bách và vì thế không thoái chuyển. Lại nữa, cái trí tìm hiểu của A-la-hán lớn mạnh như rường cột, chống đỡ mọi vật, nên không thoái; còn cái trí tư duy của A-na-hàm nhỏ, yếu, cho nên còn thoái. Lại nữa, A-la-hán dùng tâm nhẫn nhục và trí tuệ để diệt trừ chín phẩm Tư hoặc ở dục giới, bảy mươi hai phẩm Kiết phược ở Sắc giới, cho nên không còn thoái chuyển. Căn cứ vào các nghóa nói trên, nên biết Nhị thừa không thể xưng là Thế Tôn, mà chỉ có Phật mới được xưng là Thế Tôn. Lại nữa, Phật đã dứt hết tập khí, nhưng Nhị thừa chưa đoạn hết. Chẳng hạn như Ngưu Ty Tỳ-kheo thường nhai như bò, là vì năm trăm kiếp trước phải đọa làm kiếp bò, bây giờ mới được làm người, nhưng cái tập khí nhai như trâu vẫn chưa hết. Hoặc như vị Tỳ-kheo kia, tuy đã chứng quả A-la-hán, nhưng thường thích soi gương, là vì những kiếp trước phải làm thân kỹ nữ. Lại như một vị Tỳ-kheo kia, thường hay bám lấy bao lơn mà đánh đu, nhảy, nhót, là vì trong những kiếp trước bị đọa làm loài khỉ. Bởi thế Nhị thừa không được xưng là Thế Tôn. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Phàm đầu nơi các kinh thường có câu: “Chính tôi được nghe…” là lời của Tôn giả A-nan nói khi Phật còn ở đời thuyết pháp, Tôn giả được nghe như vậy. Nhưng khi hai mươi năm sau khi Phật thành đạo, Tôn giả A-nan mới theo Phật xuất gia. Như vậy, trong hai mươi năm Phật thuyết pháp, Tôn giả A-nan không được nghe. Thế mà, tại sao sau khi Phật nhập Niết-bàn, lúc kết tập Pháp tạng, lại nói: “Chính tôi được nghe…”. Phật trả lời: –Khi Tôn giả A-nan theo Như Lai xuất gia, có xin bốn điều như sau: -Điều thứ nhất, xin Phật đừng cho con áo cũ của Phật. -Điều thứ hai, xin Phật đừng bảo người khác mời con đi phó trai; con vì cầu pháp, vì cung kính Phật mà theo hầu bên Phật, chứ không phải vì cơm áo. -Điều thứ ba, sớm tối, các vị Tỳ-kheo muốn được thấy Phật thì cứ việc vào, chứ con không phải vào bạch trước. -Điều thứ tư, trong hai mươi năm Phật thuyết pháp, con không được nghe, xin Phật nói lại hết cho con nghe. Theo điều nguyện thứ tư, Như Lai phải truyền nhờ chư Thiên nói lại cho Tôn giả A-nan nghe. Cũng có khi Như Lai dùng tâm Tam-muội truyền cho Tôn giả A-nan; cũng có khi A-nan nghe lại từ các vị Tỳ-kheo khác. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi: –Phật thuyết pháp trong hai mươi năm, làm thế nào có thể nói lại hết được? Phật đáp: –Như Lai dùng Trí phương tiện thiện xảo, cho nên trong một câu có thể diễn ra vô lượng pháp và trong vô lượng pháp có thể chỉ tóm tắt trong một câu. Nhờ lợi căn, Phật chỉ nói qua phần chính yếu của tám vạn pháp là Tôn giả A-nan thông hiểu hết cả. Như một cái cây gồm có gốc, thân cây và cành, lá, gọi là một cây, Phật vì chúng sinh, trước sau nói pháp, gọi là một Tạng, như thế gọi là tám vạn pháp. Lại nói, Phật ngồi ở một nơi nói pháp, gọi là một Tạng, như thế là tám vạn pháp. Lại như mười sáu chữ, là nửa bài kệ, ba mươi hai chữ là một bài kệ, như thế cũng gọi là tám vạn pháp. Lại như một bài kệ dài hay ngắn, có bốn mươi hai chữ, cũng là một bài kệ, như thế cũng gọi là tám vạn pháp. Lại như nửa tháng một lần tụng giới, cũng gọi là một Tạng, như thế cũng là tám vạn pháp. Lại như Phật tự nói, có tám vạn trần lao, thì có tám vạn pháp tạng để đối trị, cho nên gọi là tám vạn pháp tạng. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi: –Tại sao Kinh, Luận không lấy Phật làm đầu, mà chỉ có Luật tạng là lấy Phật làm đầu? Phật trả lời; –Vì Luật là hơn hết và chỉ có Phật mới chế ra Luật mà thôi. Còn trong Kinh cũng có khi các đệ tử thuyết pháp, cũng có khi Thiên, Long, Bát bộ, do Phật hỏi mà nói pháp, chẳng hạn như Thích Đề-hoàn Nhân tự nói rằng bố thí là đệ nhất, vì ông đã nhờ công đức bố thí mà được làm vua cõi Trời, được mọi điều như ý và Phật cũng cho như thế là phải. Lại cũng có khi Phật hóa thành các vị Hóa Phật thuyết pháp. Nhưng Luật thì không thế. Tất cả luật nghi đều do Phật thuyết, vì thế nên lấy Phật làm đầu. Lại nữa, Kinh thì tùy nơi thuyết pháp mà có quyết định, Luật thì không thế. Nếu phạm luật trong nhà thì không được kết tội ngay, mà phải ra ngoài để kết tội. Nếu ở nhà người bạch y làm điều gì phạm luật, phải ra trước chúng Tăng để buộc tội; nếu ở trong làng xóm mà phạm luật, cũng phải ra trước chúng Tăng để buộc tội; nếu trong năm chúng xuất gia mà làm điều phạm luật, thì phải ra trước các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mà buộc tội, bởi thế cho nên lấy Phật làm đầu… Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Tam quy lấy gì làm tánh? Phật trả lời: –Tam quy lấy chỗ người khác dạy làm tánh, hoặc không theo người dạy làm tánh. Nghóa là: khi thọ Tam quy, quỳ gối, chắp tay, miệng theo người xướng, mà đọc Tam quy, thế là cả thân, khẩu đều theo người dạy, bởi vậy lấy chỗ người dạy làm tánh. Nếu dốc lòng chí kính, tự mình xướng hiệu Tam quy, không theo người khác, thế gọi là lấy chỗ không theo người khác làm tánh. Lại nữa, Tam quy lấy thân, khẩu, ý, tức tam nghiệp, làm tánh. Hoặc Tam quy là Ngũ ấm thiện; lấy Ngũ ấm thiện của chúng sinh làm Tam quy. Lấy Tam bảo làm chỗ quy hướng, chỗ quy hướng là nói theo nghóa cứu hộ. Ví như người có tội đối với nhà vua, chạy sang nước khác để cầu cứu. Vua nước ấy nói: “Nếu nhà ngươi muốn được che chở, thì không được ra khỏi nước ta và không được trái lệnh ta”. Chúng sinh cũng vậy, vốn thuôïc dòng ma, có tội sinh tử, quay về Tam bảo để cầu sự cứu hộ. Nếu thành tâm tin tưởng nơi Tam bảo, không tin chỗ khác, không trái lời Phật dạy, thì Ma vương tà ác chẳng làm gì được. Ngày trước có một con chim bồ câu bị một con chim cắt đuổi, bay đến núp sau bóng Tôn giả Xá-lợi-phất, nhưng vẫn thấy sợ hãi. Sau nó bay đến núp nơi bóng Như Lai thì thấy thản nhiên, không còn sợ; dù cho bể lớn có thể dời đi, nhưng con chim đó thì bất động. Sở dó thế là vì Phật có đức đại từ, đại bi, còn Tôn giả Xá-lợi-phất chưa có được lòng đại từ bi; Phật đã hết tập khí, nhưng Tôn giả Xá-lợi-phất vẫn còn. Phật đã tu hạnh Bồ-tát trong ba a-tăng-kỳ kiếp, Tôn giả Xá-lợi-phất mới tu tập khổ hạnh trong sáu mươi kiếp. Do đó, chim bồ câu núp bóng Tôn giả Xá-lợi-phất vẫn còn sợ hãi, mà núp bóng Phật thì thản nhiên không còn sợ. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu nói quy y Tam bảo thì diệt trừ được tội ác, lòng được yên vui, thì sao Đề-bà-đạt-đa cũng quy y Tam bảo, tín tâm xuất gia, thọ giới cụ túc, mà còn phạm tội tam nghịch, đến nỗi phải bị đọa vào địa ngục A-tỳ? Phật đáp: –Nói cứu hộ là cứu những người còn có thể cứu được mà thôi. Tội ác của Đề-bà-đạt-đa quá sâu nặng, hơn nữa, lại vì định nghiệp nên khó cứu nổi. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu người tội nặng mà Phật không thể cứu được thì người không có tội, không cần Phật cứu. Vậy tại sao lại nói Tam bảo có sức cứu hộ? Phật đáp: –Đề-bà-đạt-đa tuy quy y Tam bảo, nhưng tâm không thành thật, không đủ Tam quy, thường ham danh lợi, tự cho mình là người hiểu biết tất cả, cạnh tranh với Phật, cho nên Tam bảo dù có sức lớn, cũng không thể cứu nổi. Như vua A-xà-thế, tuy phạm tội nghịch, đáng phải bị đọa vào địa ngục A-tỳ, nhưng nhờ lòng chí thành, biết cầu Phật ăn năn, nên giảm tội A-tỳ, chỉ phải đọa vào địa ngục Hắc thằng, cũng như những tội nhân khác, chỉ trong bảy ngày đều được thoát tội. Đó là nhờ sức cứu độ của Tam bảo. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi: –Nếu tội của Đề-bà-đạt-đa không thể cứu được thì tại sao có Kinh nói: “Nếu người nào quy y Phật, không phải sa vào ba đường ác”, là nghóa gì? Phật trả lời: –Nhờ có quy y Tam bảo nên dù phải vào địa ngục A-tỳ, nhưng Đề-bà-đạt-đa cũng bớt phần khổ cực và cũng có lúc được tạm nghỉ. Lại như có người ở trong rừng núi, hay chỗ hoang vắng đáng sợ, nếu họ tưởng niệm đến công đức của Phật, thì sự rùng rợn sẽ tiêu tan. Như thế thì sự quy y Tam bảo không phải là vô ích. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Trong Tứ đế thì Tam bảo thay thế cho đế nào? Trong hai mươi hai căn thì Tam bảo thay cho căn nào? Trong mười tám giới, Tam bảo thay cho giới nào? Trong mười hai nhập, năm ấm, Tam bảo thay cho nhập nào, ấm nào? Phật đáp: –Trong Tứ đế thì Tam bảo thay cho Diệt đế và một phần Đạo đế. Trong hai mươi hai căn, Tam bảo thay cho ba căn, tức là căn chưa biết, căn biết rồi và căn muốn biết. Trong mười tám giới, Tam bảo thay cho ý căn giới, ý thức giới và pháp trần giới. Trong mười hai nhập, Tam bảo thay cho ý nhập và pháp nhập. Trong năm ấm, Tam bảo thay cho năm ấm vô lậu. Trong Tứ đế, Phật bảo thay cho phần Đạo đế, Pháp bảo thay cho Diệt đế và Tăng bảo cũng thay cho một phần Đạo đế. Trong hai mươi hai căn, Phật bảo thay cho căn muốn biết; Pháp bảo vì là Diệt đế vô vi nên không thay cho căn nào. Còn Tăng bảo thay cho ba căn vô lậu. Trong mười tám giới, Phật bảo thay cho một phần ý căn giới, ý thức giới và pháp trần giới; Pháp bảo thay cho một phần pháp trần giới; Tăng bảo thay cho một phần ý căn giới, ý thức giới và pháp trần giới. Trong mười hai nhập, Phật bảo thay cho một phần ý căn nhập và pháp trần nhập; Pháp bảo thay cho một phần pháp trần nhập, Tăng bảo cũng thay một phần ý căn nhập và pháp trần nhập. Trong năm ấm, Phật bảo thay cho một phần năm ấm vô lậu, Pháp bảo thì không thay cho năm ấm, vì năm ấm thuộc về hữu vi, còn Pháp bảo thuộc về vô vi. Tăng bảo thay cho một phần năm ấm vô lậu. Hỏi: –Quy y Phật là quy y Phật Thích-ca Văn hay quy y Phật cả ba đời? Phật trả lời: –Quy y Phật ba đời, vì Pháp thân của Phật cùng một thể, cho nên quy y một Đức Phật tức là quy y chư Phật ở ba đời. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu nói quy y chư Phật ba đời, thì tại sao các người ở cõi trời, mỗi người đều tự xưng là đệ tử của một Đức Phật trong bảy vị Phật. Chẳng hạn, người thì nhận mình là đệ tử của Phật Ca-diếp, người thì nhận mình là đệ tử của Phật Câu-lưu-tôn… Như vậy, thì chỉ nên nói là quy y một Đức Phật, chứ không nên nói là quy y chư Phật ba đời. Phật trả lời: –Không nên nói thế. Vì sao? Vì trong Kinh Tỳ-sa-môn nói: “Thiên vương Tỳ-sa-môn quy y Tam bảo, là quy y chư Phật ở quá khứ, hiện tại và vị lai”. Theo nghóa đó thì phải nói là quy y chư Phật ba đời. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu thế thì như các người nơi cõi trời kia đều tự nhận mình là đệ tử của một Đức Phật, nghóa ấy như thế nào? Phật đáp: –Không thể căn cứ vào lời chư Thiên nói mà cho là nghóa nhất định được. Chư Thiên nhận là quy y một Đức Phật, nhưng thật ra thì quy y chư Phật ở ba đời, song chỉ lấy một vị Phật đã xuất hiện nơi thế gian để chứng minh thôi. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Quy hướng vào đâu gọi là quy y Phật? Phật đáp: –Quy y Phật nghóa là quay về với cái bản tánh chân như, đầy đủ trí tuệ công đức của mình. Ưu-ba-ly hỏi: –Như vậy thì quy y Sắc thân hay quy y Pháp thân? Phật trả lời: –Quy y Pháp thân chứ không quy y Sắc thân. Đừng tưởng Sắc thân là Phật; nó chỉ là cái thân hư vọng mà thôi. Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu Sắc thân là hư vọng, không phải Phật, thì tại sao Đề-bà-đạt-đa làm cho thân Phật chảy máu, lại mắc tội nghịch lớn? Phật trả lời: –Sắc thân tuy là giả dối, nhưng là chỗ nương tựa của Pháp thân, nghóa là Pháp thân phải nương tựa vào Sắc thân; cho nên làm hại Sắc thân tức là làm hại thân Phật, vì thế mà phạm tội đại nghịch. Ưu-ba-ly hỏi: –Nương tựa vào đâu gọi là quy y Pháp? Phật đáp: –Đoạn trừ tất cả dục vọng để hướng về Niết-bàn, thế gọi là quy y Pháp. Ưu-ba-ly hỏi: –Như thế thì quy y sự vô dục của chính mình hay quy y sự vô dục của người khác? Phật trả lời: –Quy y sự vô dục của chính mình và cả sự vô dục của người, gọi là quy y Pháp. Ưu-ba-ly hỏi: –Quy y Tăng là quy y vào đâu? Phật đáp: –Quy y Tăng là hướng về ruộng phúc tốt lành, nghóa là hướng tới quả vị Thanh văn hữu học và vô học, đầy đủ công đức. Thế gọi là quy y Tăng. Ưu-ba-ly hỏi: –Thế thì quy y Tục đế Tăng hay quy y Đệ nhất nghóa Tăng? Nếu quy y Đệ nhất nghóa Tăng thì vì lẽ gì khi Phật trao truyền Tam quy cho hai người lái buôn là Đề-vị và Ba-lợi, Phật lại dặn họ: “Sau này có Tăng, các ngươi phải nên quy y.” Sao Phật không nói: “Đệ nhất nghóa Tăng thường ở thế gian, các ngươi phải nên quy y”? Phật trả lời: –Vì Tục đế Tăng là chỗ nương dựa của Đệ nhất nghóa Tăng, cho nên Như Lai mới nói sau này có Tăng, họ phải quy y. Và Như Lai nói thế cũng là vì muốn tôn trọng Tục đế Tăng. Phật tự nói: Tất cả trong chúng thì Phật là đệ nhất. Giống như từ sữa mà có ra lạc, từ lạc có ra tô, từ tô có ra đề hồ, đề hồ là chất đặc biệt hơn hết. Chúng đệ tử Phật cũng lại như vậy. Nếu có chúng Tăng tập họp ở trong đó thì bốn phương bốn hướng được ruộng phúc vô thượng. Cho nên trong tất cả chín mươi sáu loại thì Tăng là tối tôn tối thượng không ai bì kịp. Vì vậy nói sau này có Tăng hai vị ấy nên quy y. Chớ làm tổn thương nghóa chân chánh. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Phật cũng là Pháp, Pháp cũng là Pháp, mà Tăng cũng là Pháp, như thế là chỉ có một Pháp, chứ không có gì sai khác? Phật trả lời: –Tuy là một Pháp, nhưng theo nghóa mà nói thì có khác nhau. Chẳng hạn, nói về Tam bảo thì Vô sư trí, quả vị Vô học và tất cả công đức là Phật bảo; Diệt đế vô vi là Pháp bảo. Công đức, trí tuệ, của quả vị Thanh văn hữu học và vô học là Tăng bảo. Nói về Pháp, thì Trí vô sư và Pháp vô học là Phật bảo; Diệt đế vô vi, không phải pháp hữu học, cũng không phải pháp vô học, là Pháp bảo. Thanh văn hữu học và vô học là Tăng bảo. Nói về căn thì Phật là căn vô tri, Pháp thì không căn, Tăng là ba căn vô lậu. Nói về Tứ đế thì Phật là một phần của Đạo đế, Pháp là Diệt đế, Tăng là một phần Đạo đế. Nói về quả Sa-môn thì Phật là Sa-môn, Pháp bảo là quả Sa-môn; Tăng là Sa-môn, Pháp bảo là quả Sa-môn. Nói về Bà-la-môn thì Phật là Bà-la-môn, Tăng cũng là Bà-la-môn, Pháp bảo là quả Bà-la-môn. Nói về phạm hạnh thì Phật là phạm hạnh, Pháp bảo là quả phạm hạnh, Tăng là phạm hạnh, Pháp bảo là quả phạm hạnh. Nói về nhân quả thì Phật là nhân, Pháp bảo là quả, Tăng là nhân, Pháp bảo cũng là quả. Nói về Đạo quả thì Phật là Đạo, Pháp bảo là quả, Tăng là Đạo, Pháp bảo cũng là quả. Phật lấy Pháp làm thầy, Phật do Pháp sinh ra, Pháp là mẹ của Phật, Phật nương vào Pháp mà trụ. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Phật lấy pháp làm thầy vậy tại sao trong Tam bảo lại không xưng Pháp trước? Phật đáp: –Pháp tuy là thầy, nhưng nếu không có Phật thì Pháp không được mở rộng, bởi vậy thường nói: “Đạo do người mở mang”, cho nên Phật đứng đầu Tam bảo là thế. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Bạch Thế Tôn, nếu khi thọ Tam quy, xưng Pháp trước rồi sau mới xưng Phật, có được không? Phật trả lời: –Nếu người không hiểu biết, đọc không theo thứ tự, họ không mắc tội, cũng thành Tam quy được. Nhưng nếu người hiểu biết, mà cố tình đọc sai thứ lớp thì phải mắc tội và không thể thành Tam quy được. Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu chỉ xưng Phật và Pháp, mà không xưng Tăng, có thành Tam quy không? Hoặc xưng Pháp và Tăng mà không xưng Phật, có thành Tam quy không? Hay chỉ xưng Phật và Tăng mà không xưng Pháp, có thành Tam quy không? Phật đáp: –Tất cả đều không thành Tam quy, vì không đủ Tam bảo. Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu không thọ Tam quy mà thọ ngay Ngũ giới, có được không? Hoặc không thọ Tam quy mà thọ ngay Bát giới , có thành không? Hay không thọ Tam quy có được thọ Thập giới chăng? Nếu không bạch Tứ Yết-ma, có được thọ giới Cụ túc không? Phật trả lời: –Tất cả đều không được. Nếu muốn thọ Ngũ giới, trước phải thọ Tam quy. Thọ Tam quy xong, mới được thọ Ngũ giới. Sở dó phải nói tên của năm giới là vì muốn cho người thọ biết rõ tên các giới, cũng như bạch bốn lần Yết-ma rồi mới được thọ giới Cụ túc. Còn phải nói đến bốn Y, bốn Đọa và mười ba Tăng tàn, cũng là vì muốn cho người thọ giới biết rõ. Thọ Tam quy xong, nói đến giới sát,… bấy giờ mới được giới. Nếu một giới giữ được thì năm giới cũng có thể giữ được, bởi thế nói một giới mà gồm được cả năm giới. Hơn nữa, trong năm giới phân biệt rõ ràng, nên tự ý phát nguyện thọ cả năm giới. Nói thọ năm giới rồi sau được giới, song trong tất cả thuyết nói trên, đều phải thọ Tam quy rồi mới thọ Ngũ giới, như thế mới đúng nghóa. Giống như đã bạch Tứ Yết-ma thọ tám giới thọ mười giới hay năm giới như trước đã nói. Ưu-ba-ly hỏi: –Như một người Ưu-bà-tắc trước đã thọ Tam quy rồi sau nếu muốn thọ năm giới, tám giới hoặc mười giới, thì có cần phải thọ lại Tam quy nữa không? Phật đáp: –Không cần phải thọ Tam quy nữa cũng được các giới, vì trước đã thọ Tam quy rồi. Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu trước không thọ Tam quy mà bạch ngay Tứ Yết-ma, thì có được giới Cụ túc không? Phật đáp: –Nếu thọ năm giới, tám giới và mười giới, thì trước cần phải thọ Tam quy rồi sau mới thọ các giới đó, mới thành giới. Nhưng nếu thọ giới Cụ túc thì cần phải bạch Tứ Yết-ma mới thành được giới, chứ không cần phải thọ Tam quy trước. Là vì công đức của giới Cụ túc rất sâu dầy, nếu không nhờ nhiều duyên sức khác thì không thành được giới. Cho nên Tam quy không đủ mà phải có ba vị Hòa thượng và bảy vị Tôn chứng, bạch Tứ Yết-ma mới thành được giới Cụ túc. Còn như năm giới, tám giới và mười giới ít công đức, cho nên, nếu thọ Tam quy là được thành giới, không cần nhiều duyên sức khác như giới Cụ túc. Ưu-ba-ly hỏi: –Tại sao khi thọ giới Cụ túc rồi chỉ nói đến bốn tội Đọa và mười ba tội Tăng tàn, mà không nói đến các giới khác. Phật đáp: –Hai đoạn giới này là những giới nặng nhất, nếu phạm một giới, khó trở lại thanh tịnh được. Tuy có thể trở lại thanh tịnh được nhưng cách sám hối rất khó. Người phạm giới này phải hành pháp Ba-lợi-bà-sa và Ma-na-đỏa, sau phải đối trước hai mươi vị Tăng mà sám hối mới được thanh tịnh. Những giới đó rất khó giữ, còn các giới khác thì dễ giữ, cho nên không cần nói. Bởi thế chỉ nói đến hai đoạn bốn Đọa và mười ba Tăng tàn, mà không nói đến những đoạn khác. Ưu-ba-ly hỏi: –Giới Ba-la-đề-mộc-xoa này là Vô lậu giới hay Thiền giới? Phật đáp: –Không phải Vô lậu giới, cũng không phải Thiền giới. Nếu có Phật ra đời thì mới có giới Ba-la-đề-môïc-xoa, nếu không có Phật ra đời thì không có. Nhưng Thiền giới và Vô lậu giới thì dù có Phật ra đời hay không, lúc nào cũng có cả. Giới Ba-la-đề-mộc-xoa phải do người dạy, còn Thiền giới và Vô lậu giới không do người dạy. Giới Ba-la-đề-mộc-xoa phải có người truyền, còn Thiền giới và Vô lậu giới không cần người truyền. Bất luận lúc ngủ hay thức, tâm thiện, tâm ác, hay tâm không thiện, không ác, lúc nào cũng có giới Ba-la-đề-mộc-xoa, nhưng Thiền giới và Vô lậu giới thì chỉ trong tâm Thiền định và tâm Vô lậu mới có, ngoài ra trong các tâm vọng niệm thì không có. Giới Ba-la-đề-mộc-xoa chỉ có ở cõi Dục, còn giới Vô lậu và Thiền giới thì ở cõi Dục cũng như cõi Sắc, đều thành tựu cả. Giới Ba-la-đề-mộc-xoa chỉ đệ tử Phật mới có, nhưng Thiên giới thì không những đệ tử Phật mới có mà cả đệ tử ngoại đạo cũng có. Ưu-ba-ly hỏi: –Trong năm giới của Ưu-bà-tắc, thì giới nào là tánh tội, giới nào là tội cấm? Phật trả lời: –Bốn giới: sát sinh, trộm cắp, tà dâm và nói dối là tánh tội, còn giới uống rượu là tội cấm. Vì uống rượu mà có thể phạm bốn giới kia, cho nên đặt thành giới thứ năm. Uống rượu là nguồn gốc của sự buông lung, càn rỡ, có thể dễ phạm vào bốn giới khác. Như trong thời Đức Phật Ca-diếp, có một người Ưu-bà-tắc, vì say rượu mà phạm gian với vợ người khác, bắt gà của người ta mà giết, đến khi người ta hỏi tại sao thì chối là không làm gì cả. Vì say rượu, có thể trong một lúc phá cả bốn giới. Lại vì say rượu, có thể gây nên bốn tội nghịch nữa, duy có tội phá hòa hợp Tăng là không thể gây được mà thôi. Tuy không phải là nghiệp của nhiều đời, nhưng vẫn phải chịu quả báo cuồng loạn, vì uống rượu nên tâm hồn trở nên mê man, rối loạn, cũng như người điên. Lại cũng vì say rượu mà bỏ mất chánh nghiệp, như: ngồi thiền, tụng kinh hoặc giúp đỡ công việc trong chúng. Do đó, uống rượu tuy không phải là tánh tội, nhưng cũng không khác gì tánh tội. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Trong năm giới của Ưu-bà-tắc thì chỉ đối với chúng sinh mới là giới cấm, không được phạm, hay đối với các loài không phải là chúng sinh, như Thiên, Long, Quỷ, Thần… cũng là giới cấm, không được phạm? Lại nữa, đối với chúng sinh có thể giết hại, có thể trộm cướp, có thể tà dâm, có thể nói dối, thì mới là giới cấm, không được phạm. Còn đối với Thiên, Long, Quỷ, Thần, không phải là chúng sinh, không thể sát hại, không thể trộm cướp, không thể tà dâm, không thể nói dối, cũng là giới cấm, không được phạm sao? Phật trả lời: –Đối với chúng sinh thì có bốn giới đầu, đối với loài không phải là chúng sinh, thì có giới cấm thứ năm. Nhưng, nếu nói rộng ra, thì dù chúng sinh có thể giết hại, không thể giết hại, có thể trộm cướp, không thể trộm cướp, có thể tà dâm, không thể tà dâm, có thể nói dối, không thể nói dối, tất cả đều có giới cấm, không được phạm. Dưới từ địa ngục A-tỳ, trên từ cõi trời Phi phi tưởng và trong ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến Như Lai, tất cả mọi loài có sinh mệnh, đều có giới cấm, không được phạm, vì ngay lúc thọ giới, tất cả không được sát hại, không được trộm cướp, không được tà dâm, không được nói dối. Bởi vậy, tất cả chúng sinh đều có giới cấm. Cho nên, phàm thọ giới pháp, trước phải nói các giới cho người ta nghe, chỉ bày, giải thích cho người ta hiểu, để lượng sức mình xem có lãnh thọ được không, nếu được họ sẽ sinh lòng khao khát, do đó mới phát tâm tinh tấn mà tu trì. Còn phép thọ giới, thì tất cả chúng sinh đều có bốn giới và bốn giới này lại khác nhau, nên thànhh mười hai giới. Chẳng hạn, không được giết hại, không được trộm cướp, không được tà dâm, không được nói dối, mà nếu phạm vào bốn giới đó, đều do ba nguyên nhân: một là vì tham, hai là vì sân; ba là vì si. Như vậy thì ai ai cũng có mười hai điều ác và nếu làm trái lại với mười hai điều ác ấy, thì thành được mười hai giới thiện. Tất cả mọi loài chúng sinh đều như thế, ví thử một trăm vạn hay ngàn vạn vị A-la-hán được vào Niết-bàn, thì từ vị La-hán đầu tiên cho đến vị La-hán cuối cùng, đều do công đức trì giới mà được thành tựu đạo quả. Nhưng đừng tưởng rằng các vị La-hán đã chứng quả thì các giới cũng không còn nữa đâu. Chẳng hạn đã thọ giới “không uống rượu” thì trọn đời không uống rượu và khi thọ giới đã phát nguyện, dù khắp trong ba ngàn thế giới có các thứ rượu, cũng không bao giờ uống. Giả sử không còn ai làm rượu chăng nữa, thì giới đó vẫn thường được trì, mà không bị bỏ mất. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Một người trước khi thọ giới, đối với tất cả nữ nhân không phạm giới dâm, nhưng sau lại lấy vợ thì có phạm giới dâm không? Phật đáp: –Không phạm. Là vì đối với tất cả nữ nhân không được tà dâm, nhưng đây là vợ mình, thì không phải tà dâm, nên không phạm giới đó. Lấy nghóa ấy mà suy ra, thì tất cả đều thế. Tám giới, mười giới, chúng sinh hay Thiên, Long, Quỷ, Thần, được giới cũng thế. Trong hai trăm năm mươi giới, thì hết thảy chúng sinh đều được bảy giới. Trong bảy giới này, phân biệt về nghóa, thì có hai mươi mốt giới. Thí dụ: chúng sinh nào thân tạo ba điều ác và miệng tạo bốn, thành bảy điều ác, thì khi tạo những điều ác đó phải có đủ ba yếu tố: một là vì tham, hai là vì sân và ba là vì si. Do ba yếu tố đó mà gây nên bảy điều ác, cho nên ba bảy thành hai mươi mốt giới ác. Nếu làm trái lại hai mươi mốt giới ác ấy thì thành được hai mươi mốt giới thiện. Một chúng sinh được hai mươi mốt giới tướng như thế thì tất cả chúng sinh khác cũng vậy. Lấy đó mà suy, thì trong một lúc có thể được vô lượng giới, nhưng không thể phạm hết các giới trong một lúc, song có thể xả tất cả giới trong một lúc. Nói về phép phá giới, nếu phá bốn giới nặng thì kể như mất giới, nếu phá giới rồi, sau thọ lại, cũng không được giới. Chẳng hạn như đã phá một giới nặng trong Bát trai giới, sau lại thọ tám giới, năm giới, mười giới, hoặc hai trăm năm mươi giới, thiền giới và giới vô lậu, hết thảy đều không được. Nếu trong năm giới mà phá hết bốn giới nặng rồi, sau có thọ tám giới, mười giới, giới Cụ túc, giới vô lậu hay thiền giới, đều không thành giới. Nếu phá cả năm giới rồi, muốn xả năm giới để thọ mười giới thì lại không thể được nữa. Nếu đã phá và xả năm giới, tám giới, mười giới, Cụ túc giới, Vô lậu giới và Thiền giới, hết thảy đều không được. Nếu đã phá những giới nặng trong mười giới và giới Cụ túc, muốn được giới lại nên xả giới để thọ lại, thì cũng như trong năm giới đã nói ở trên, nghóa là không được. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Thiền giới, Vô lậu giới và Ba-la-đề-mộc-xoa, trong ba giới đó thì giới nào hơn hết? Phật đáp: –Ba-la-đề-mộc-xoa hơn hết. Là vì nếu Phật có ra đời thì mới có giới này còn Thiềøn giới và Vô lậu giới thì thời nào cũng có. Chỉ có loài người mới được thọ trì Ba-la-đề-mộc-xoa giới, còn Thiền giới và vô lậu giới thì người cũng như Trời đều được cả. Đối với tất cả chúng sinh, phải sinh lòng thương xót, mới được thọ Ba-la-đề-mộc-xoa giới, còn Thiền giới và Vô lậu giới thì không do lòng Từ bi cũng được. Sở dó duy trì được Phật pháp, là nhờ có bảy chúng; đạo quả của Tam thừa còn mãi ở thế gian, không bao giờ dứt, đều là nhờ lấy Ba-la-đề-mộc-xoa làm gốc. Thiền giới, Vô lậu giới thì không thế, cho nên trong ba cõi, Ba-la-đề-mộc-xoa giới là tôn quý hơn hết. Khi sắp thọ giới, bạch Tứ Yết-ma rồi là giới tướng đã thành tựu. Một niệm về giới tướng lúc ban đầu gọi là thiện nghiệp, cũng gọi là đạo nghiệp. Nhưng nếu có một niệm ban đầu rồi, sau mới có giới tướng, thì chỉ là thiện nghiệp thôi, chứ chưa phải là đạo nghiệp. Là vì một niệm về giới tướng lúc đầu, có đầy đủ hai phần “tư” và “nguyện” vì thế nên gọi là Tư đạo nghiệp. Trước lấy giới làm nhân, sau giới tướng tự nhiên phát sinh, cho nên gọi là thiện nghiệp mà không phải là đạo nghiệp. Chẳng hạn như một niệm về giới đầu tiên, có “giới tướng”, “giới tánh” rồi sau lần lượt sinh ra các giới, nhưng chỉ có giới tánh mà không có giới tướng, cho nên một niệm về giới lúc đầu, cũng gọi là giới, cũng gọi là hạnh lành, hoặc gọi là luật nghi. Sau đó, các giới tiếp tục phát sinh, thì cũng theo nghóa ấy. Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Trong ba đời, thì đời nào được giới? Phật trả lời: –Ở hiện tại, chỉ một niệm là được giới, còn quá khứ và vị lai là pháp, chứ không phải chúng sinh, cho nên không được giới, hiện tại một niệm là chúng sinh, cho nên được giới. Ưu-ba-ly hỏi: –Vậy thì ở trong tâm thiện mà được giới, hay trong tâm bất thiện, hoặc trong tâm vô ký, hay trong vô tâm mà được giới? Phật đáp: –Tất cả các thứ tâm ấy đều được cả. Trước hết phải lấy thiện tâm mà làm lễ Tăng, thỉnh cầu thầy Hòa thượng xin thọ đại giới, quỳ gối chắp tay, bạch Tứ Yết-ma xong, thiện tâm vẫn tiếp tục, đến khi giới tướng được thành tựu, như thế gọi là trong thiện tâm mà được giới. Nếu lúc đầu lần lượt theo các pháp, thường sinh thiện tâm mà nghe lời truyền giới, nhưng đến khi bạch Tứ Yết-ma, thì lại phát khởi tâm tham dục, tâm sân hận và các niệm bất thiện, nếu trong lúc ấy mà thành tựu các giới tướng, thì gọi là trong tâm bất thiện mà được giới, là vì phải nhờ sức thiện tâm mới được giới chứ không phải nhờ sức tâm bất thiện. Nếu lúc đầu, lấy thiện tâm mà nghe lời giảng dạy về giới luật, nhưng khi bạch Tứ Yết-ma lại buồn ngủ và nếu trong lúc ngủ ấy mà sinh các giới tướng, thì gọi là trong tâm vô ký mà được giới. Nếu lúc đầu lấy tâm thiện mà nghe lời truyền giới, nhưng đến khi bạch Tứ Yết-ma lại vào định Diệt tận, nếu ngay lúc đó mà thành tựu các giới tướng, thì gọi là trong vô tâm mà được giới vậy. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Nếu người tại gia không thọ năm giới mà khi xuất gia, thọ ngay mười giới như thế có thành giới không? Phật trả lời: –Nếu như thế thì một lúc được hai loại giới: được giới Ưu-bà-tắc và được giới Sa-di. Nếu không thọ năm giới, mười giới, mà thọ ngay hai trăm năm mươi giới thì một lúc được ba loại giới. Ưu-ba-ly lại hỏi: –Nếu thọ hai trăm năm mươi giới mà đồng thời được ba loại giới, thì hà tất phải theo thứ lớp trước thọ năm giới, kế thọ mười giới rồi mới thọ hai trăm năm mươi giới? Phật đáp: –Tuy có thể đồng thời được ba loại giới đấy, nhưng muốn được thấm nhuần Phật pháp, tất phải theo thứ lớp, trước thọ năm giới để điều phục lấy mình, khiến cho lòng tin tăng dần, kế thọ mười giới, thiện căn lại càng thêm sâu, sau mới thọ hai trăm năm mươi giới. Nếu theo thứ lớp như thế thì thâm nhập được Phật pháp, lòng tin vững bền, khó có thể thoái chuyển, cũng như khi đi vào bể lớn, dần dần tới chỗ thật sâu, vào bể Phật pháp cũng lại như thế. Nếu một lúc mà thọ ngay hai trăm năm mươi giới, thì không những đã mất thứ lớp mà lại còn phá uy nghi nữa. Hơn nữa, cũng có người chỉ thọ năm giới mà được đạo quả, cũng có người do thọ mười giới mà được đạo quả. Bởi những sự khác nhau ấy, cho nên Như Lai mới đặt ra thứ tự. Nếu trước thọ năm giới, kế thọ mười giới, thì trong lúc thọ mười giới cũng thành tựu hai loại giới, nghóa là năm giới và mười giới. Thọ mười giới rồi, sau thọ đến hai trăm năm mươi giới, thì trong lúc thọ hai trăm năm mươi giới cũng thành tựu được ba loại giới, nghóa là năm giới, mười giới và Cụ túc giới. Như trong phép thọ giới của bảy chúng, thì duy chỉ có giới bạch Tứ Yết-ma là phải lần lượt ba thời mới được giới, còn sáu loại khác thì chỉ thọ một thời cũng được giới chứ không cần phải theo thứ lớp ba thời. Như một lúc thọ được ba loại giới, khi muốn xả giới, nếu nói: “Tôi là Sa-di, không phải Tỳ-kheo”, thì mất giới Cụ túc, chỉ còn hai loại giới, nghóa là Ngũ giới và Thập giới. Nếu nói: “Tôi là Ưu-bà-tắc không phải Sa-di”, thì mất mười giới, chỉ còn năm giới. Nếu nói: “Tôi xả hết các giới tại gia, xuất gia. Tôi chỉ là người Ưu-bà-tắc quy y mà thôi”, thì đồng thời mất hết ba loại giới, nhưng Tam quy vẫn còn. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu khi thọ giới, theo thứ lớp được ba loại giới, thì khi xả giới cũng phải theo thứ tự: chẳng hạn trước đã thọ giới Ưu-bà-tắc, sau xuất gia thọ Thập giới, có phải xả Ngũ giới trước không? Phật trả lời: –Không phải xả, chỉ mất danh Ưu-bà-tắc và tại gia, chứ không mất Ngũ giới. Mất danh Ưu-bà-tắc, được danh Sa-di, mất thứ lớp tại gia, được thứ lớp xuất gia. Ưu-ba-ly hỏi: –Sa-di khi thọ giới Cụ túc, có mất thập giới và ngũ giới không? Phât đáp: –Chỉ mất danh và thứ lớp, chứ không mất giới. Mất danh Sa-di, được danh Tỳ-kheo; mất thứ lớp Sa-di, được thứ lớp Tỳ-kheo, trước, sau vẫn là ba loại giới, nhưng tùy thời mà thay đổi tên gọi. Cũng như lá cây, mùa xuân, mùa hạ thì xanh, mùa thu thì vàng, mùa đông thì trắng, màu sắc có khác nhưng lá cây vẫn một. Giới cũng như thế, thường là một giới, nhưng tùy thời mà có những tên gọi khác nhau. Hay cũng như sữa, để lâu thành váng sữa và sau thành sữa đặc, tùy thời có khác, nhưng vẫn là sữa. Giới cũng vậy, tuy là có ba loại khác nhau, nhưng giới vẫn là một. Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Phàm thọ giới Ưu-bà-tắc, nếu người không đủ sức thọ cả năm giới, mà chỉ thọ một giới, hai giới hay bốn giới thôi, như thế có được không? Phật trả lời: –Không được. Ưu-ba-ly lại hỏi: –Nếu không được, thì tại sao lại có kinh nói “Thiểu phần Ưu-bà-tắc”, “Đa phần Ưu-bà-tắc”, “Mãn phần Ưu-bà-tắc” nghóa đó là thế nào? Phật đáp: –Nói như thế là để minh định cái công đức trì giới nhiều hay ít, chứ không phải nói phép thọ giới như thế được. Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Năm giới chỉ thọ trì trong một ngày, hai ngày hay mười ngày, như thế có được không? Phật trả lời: –Không được. Phật chế giới đều có hạn định, nếu thọ năm giới, phải giữ trọn đời; nếu thọ tám giới, phải trì một ngày, một đêm, bởi thế không được. Phàm giới bạch Tứ Yết-ma, đều có thượng, trung, hạ. Năm giới là giới hạ phẩm; mười giới là giới trung phẩm, hai trăm năm mươi giới là giới thượng phẩm. Trong năm giới, cũng có ba phẩm, nếu phát tâm nhỏ mà thọ giới thì được giới hạ phẩm; nếu phát tâm vừa mà thọ giới, thì được giới trung phẩm; nếu phát tâm lớn mà thọ giới, thì được giới thượng phẩm; mười giới, hai trăm năm mươi giới đều có ba phẩm, cũng như trong năm giới nói trên. Nếu phát tâm nhỏ mà được năm giới rồi, sau phát tâm vừa hay tâm lớn mà thọ mười giới, thì trước cũng được năm giới, chứ không thêm, không hơn. Từ giới thứ sáu cho đến giới “Quá giờ không ăn” nghóa là ngoài năm giới, thì gọi là được “năm giới tăng thượng”. Nếu trước phát tâm nhỏ mà được năm giới, thì cũng vẫn được năm giới hạ phẩm mà thôi. Lại như trước phát tâm nhỏ mà thọ năm giới, sau phát tâm vừa và tâm lớn mà thọ hai trăm năm mươi giới, thì trước cũng chỉ được năm giới, không thêm, không hơn. Ngoài năm giới ra, các giới khác cũng thế, nếu khi thọ giới mà tâm thêm lên, thì được giới tăng thượng. Lấy đó mà suy, thì giới Ba-la-đề-mộc-xoa không phải dễ được. Theo thứ tự mà nói, thì năm giới là hạ phẩm, mười giới là trung phẩm, hai trăm năm mươi giới gọi là thượng phẩm. Theo nghóa đó mà suy, thì cũng có thể là: Nếu phát tâm lớn mà thọ năm giới, thì được giới thượng phẩm; nếu phát tâm vừa mà thọ mười giới, thì được giới trung phẩm; nếu phát tâm nhỏ mà thọ hai trăm năm mươi giới thì được giới hạ phẩm. Căn cứ vào đó thì biết rằng, tùy ở tâm, có lớn, vừa, nhỏ, mà được giới cũng có thượng, trung, hạ không giống nhau, không nhất định. Nếu thỉnh thầy Hòa thượng, mà trong lúc thọ mười giới, Hòa thượng không đến thì cũng được giới. Nếu trong khi thọ mười giới, mà thầy Hòa thượng chết, hoặc biết tin đã chết, thì thọ giới không được; nếu chết mà không biết thì thọ giới, được giới. Nếu trong lúc bạch Tứ Yết-ma thọ giới Cụ túc, mà thầy Hòa thượng vắng mặt, thì không được thọ giới; là vì không đủ Tăng số; nếu đủ Tăng số và có người thay mặt cho Hòa thượng, thì được thọ giới. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Người Ưu-bà-tắc thọ năm giới, có được buôn bán không? Phật trả lời: –Được buôn bán, nhưng không được làm năm nghề sau đây: 1.Không được lấy việc buôn bán súc sinh làm nghề nghiệp. Nếu trước khi thọ giới, nhà có nuôi súc vật, được phép bán đi, nhưng không được bán cho nhà đồ tể. 2.Không được làm nghề buôn bán cung, tên, dao, kiếm, súng, đạn. Trước khi thọ giới, nếu có các thứ đó thì được bán đi. 3.Không được làm nghề bán rượu. Trước khi thọ giới, nếu có rượu thì được đem bán. 4.Không được ép dầu, sát hại côn trùng. Vì cách ép dầu ở nước Thiên trúc và nước Kế tân là: giã nhỏ hạt gai, đem chôn xuống đất mấy ngày, khi nào sinh ra nhiều trùng mới đem ra ép, để được nhiều dầu. Nhưng nếu xứ nào không làm theo cách ấy, thì ép dầu không phạm giới. 5.Không được làm nghề nhuộm năm sắc lớn, vì phải giết nhiều sâu bọ. Cách nhuộm màu sắc ở các nước Lạc-sa… phải giết nhiều côn trùng, bởi thế cấm làm nghề nhuộm. Ưu-ba-ly lại hỏi Phật: –Phép thọ Bát quan trai, không được ăn quá ngọ. Nhưng không ăn quá ngọ là giới thứ chín, vậy tại sao không nói là Cửu quan trai, mà gọi là Bát quan trai? Phật đáp: –Phàm phép ăn chay là lấy sự không ăn quá ngọ làm thể. Tám giới cùng giúp đỡ cho thành cái “thể” của phép ăn chay, mà gọi là Trai pháp Bát chi, cho nên nói Tám giới mà không gọi là Chín giới. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Người thọ Bát quan trai giới, trong bảy chúng, họ thuộc chúng nào? Phật trả lời: –Tuy không thọ giới trọn đời, nhưng vì họ giữ giới trong một ngày một đêm; thì cũng có thể gọi là Ưu-bà-tắc. Ưu-ba-ly lại hỏi: –Ngoài bảy chúng ra, có giới Ba-la-đề-mộc-xoa không? Phật đáp: –Có Bát trai giới đó. Lấy đấy mà suy, thì nếu thọ Bát trai giới, không thuộc vào bảy chúng. Phép thọ Bát trai giới, chỉ nói không sát sinh trong một ngày, một đêm thôi, ngoài ra không cấm. Cho nên đừng lầm lẫn với giới tướng trọn đời. Ưu-ba-ly hỏi: –Phép thọ Bát trai giới, có được thọ một lúc trong hai ngày, ba ngày cho đến mười ngày không? Phật trả lời: –Phật đã chế ra giới một ngày, một đêm, thì không được quá hạn. Nếu có sức thọ được thì một ngày xong rồi, lại lần lượt thọ lại, cứ như thế tùy sức nhiều hay ít, chứ đừng tính số ngày. Phàm thọ Bát trai pháp là phải theo người khác dạy, mới được thọ. Ưu-ba-ly hỏi: –Theo người nào mà thọ? Phật trả lời: –Theo người trong năm chúng xuất gia mà thọ. Đã thọ tám giới, mà đánh đập chúng sinh thì không được thanh tịnh. Tuy ngay hôm thọ giới, không đánh đập nhưng hôm sau mà đánh đập chúng sinh, cũng không được thanh tịnh. Nói tóm lại, nếu thân, khẩu, ý làm những việc trái uy nghi, tuy không phạm giới, nhưng cũng mất thanh tịnh. Nếu thân, khẩu thanh tịnh, nhưng tâm lại khởi lên những ý tưởng tham dục, sân hận và não hại, thì cũng không được thanh tịnh. Nếu thân, khẩu, ý ba nghiệp đều thanh tịnh, nhưng lại không tu sáu niệm thì cũng mất thanh tịnh. Thọ tám giới rồi, siêng tu sáu niệm, mới được gọi là trai pháp thanh tịnh. Như làm đến vua cõi Diêm-phù-đề, giàu có tự tại, vàng bạc, của báu không thiếu thứ gì. Tuy có những công đức như thế, nhưng nếu đem chia ra làm mười sáu phần, thì công đức của vua Diêm-phù-đề không bằng một phần công đức giữ Bát quan trai giới được hoàn toàn thanh tịnh. Nếu người muốn thọ pháp Bát trai nhưng trước khi thọ, làm những điều phóng túng, như ham mê sắc dục, đàn địch, ca hát, ăn thịt uống rượu và bày mọi trò vui, phóng tâm làm những việc ấy rồi, sau mới thọ Bát trai giới, như thế bất luận trước sau đều không thành trai giới. Nếu người trong tâm không định thọ giới Bát trai, mà làm các việc phóng túng ấy, sau gặp thiện tri thức dạy cho, liền thọ Bát trai giới, thì bất luận trước sau đều thành được trai giới. Nếu người muốn thọ Bát trai giới, mà gặp nhiều việc khó khăn, chướng ngại, không được tự tại, nhưng sau giải quyết xong các việc khó khăn, rồi thọ Bát trai giới, thì bất luận trước sau đều thành trai giới. Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu người muốn thọ có hạn, thí dụ chỉ thọ trai pháp ban ngày mà không thọ trai pháp ban đêm, hoặc chỉ thọ trai pháp ban đêm mà không thọ trai pháp ban ngày, như thế có được tám giới không? Phật trả lời: –Không được. Là vì Phật đặt ra trai pháp, cho thọ một ngày đêm đã có hạn định như vậy, không được làm sai. Ưu-ba-ly hỏi: –Nếu không được, thì tại sao trong luận Bì Cách nói: “Ức Nhó ở chỗ đồng không mông quạnh, thường thấy các loài quỷ đói chịu mọi tội khổ; hoặc ban ngày hưởng phúc, ban đêm chịu tội; hoặc ban đêm hưởng phúc, ban ngày phải chịu tội. Sở dó như thế là vì trước kia, khi họ làm người, ban ngày thì thọ giới pháp, ban đêm thì làm việc ác, hoặc ban đêm thì thọ giới pháp, ban ngày lại làm các hạnh chẳng lành”, thì nghóa ấy ra sao? Phật đáp: –Phàm làm nhân duyên kiếp trước, thì không thể căn cứ vào lời nói đó được. Luận Bì Cách không phải là Kinh Luật, cho nên không thể căn cứ vào đó để định nghóa xác thực được. Điều ấy có khi là Tôn giả Ca-chiên-diên, vì muốn độ cho Ức Nhó mà biến hiện như thế để hóa độ Ức Nhó, chứ không phải sự thực. Khi thọ trai rồi nếu muốøn xả trai, không cần phải cầu năm chúng để xả. Khi muốn xả, chỉ cần đến nói một người là hôm nay xả trai, thế là trai đã được xả rồi. Nếu nói đến năm ngả, thì chỉ có loài người mới được giới Ba-la-đề-mộc-xoa, còn bốn ngả khác không được. Chẳng hạn chư Thiên cõi trời thì vì đắm đuối ham vui quá nên không được giới. Như trước kia, một hôm vì một đệ tử lâm bệnh, nên Tôn giả Đại Mục-kiền-liên phải lên cung trời Đao-lợi để tìm thầy thuốc Kỳ-bà xuống chữa. Khi lên tới nơi, Tôn giả Mục-kiền-liên thấy chư Thiên cõi trời đang vui chơi trong vườn Hoan lạc. Lúc đó, Mục-liên dừng lại bên đường nhưng không ai để ý đến cả. Sau Kỳ-bà ngoảnh lại trông thấy Mục-liên, liền giơ tay chào, rồi cỡi xe thẳng tới. Mục-liên tự nghó: “Người này trước kia vốn là đệ tử của ta. Nay được hưởng phúc báo ở cõi trời và vì quá đắm say thú vui nên không còn nhớ nữa”. Nghó xong, liền dùng sức thần thông để chặn xe lại. Kỳ-bà xuống xe, làm lễ Mục-liên. Bấy giờ Mục-liên dùng mọi lời để trách móc. Kỳ-bà thưa: “Bạch Tôn giả Mục-liên, vì trước kia ở cõi người, tôi vốn là đệ tử của Đại đức, bởi thế mới giơ tay chào hỏi, chứ Tôn giả có thấy chư Thiên làm như thế không? Phàm đã sinh lên cõi trời, tâm người nào cũng đắm theo dục lạc, không được tự tại, cho nên mới thế”. Bấy giờ, Mục-liên hỏi Kỳ-bà: –Tôi có người đệ tử lâm bệnh, nên chữa trị theo cách nào? Kỳ-bà đáp: –Nên nhịn ăn là tốt hơn hết. Lại một hôm Tôn giả Mục-liên khuyên vua Thích Đề-hoàn Nhân, nói: –Phật ra đời khó gặp, tại sao Thiên chủ không luôn luôn gần gũi để cúng dường và cầu nghe chánh pháp? Thiên đế Thích muốn lãnh hội ý của Tôn giả Mục-kiền-liên, nên sai một người sứ đến. Nhưng gọi hai ba lần mà người này không lại, vì họ có một người vợ và một nàng ca kỹ, ham mê tình dục, nên tuy là người cõi trời mà không tự cắt đứt được. Nhưng cuối cùng, thì không thể dừng được mà phải đến. Khi tới nơi, Thiên đế Thích mới hỏi nguyên do tại sao đến chậm, người ấy cứ thực tình thưa bày, nghóa là vì quá say mê các thú vui, nên không đến ngay được. Nhân thế, Thiên đế Thích mới nói với Tôn giả Mục-liên: –Người ấy chỉ có một vợ và một nàng ca kỹ mà còn vui chơi đắm đuối, không tự dứt được, huống nữa là vua cõi trời, có rất nhiều cung điện, vô số Thiên nữ, các món thức ăn cõi trời, trăm mùi thơm ngon, trăm ngàn ca kỹ, ham mê, đắm đuối, nhìn về phía Đông, quên mất phía Tây, thì tự dứt sao được? Cho nên tuy biết rằng Phật ra đời là khó được gặp, chánh pháp khó được nghe, nhưng vì các thú vui trói buộc, mất hết tự tại, biết làm sao được? Phàm phép thọ giới là phải dùng tâm dũng mãnh, nguyện cắt đứt mọi duyên, sau mới được giới. Các người ở cõi trời, lòng ham đắm dục lạc thì nhiều, sức thiện tâm lại yếu ớt, thì do đâu mà được giới? Các loài ngạ quỷ thì đói khát khổ sở, thân tâm bị thiêu đốt; các loài ở địa ngục thì chịu mọi sự hình phạt, đau đớn ê chề, tâm ý não loạn, cũng không nhờ đâu mà được giới. Còn các loài súc sinh thì nghiệp chướng sâu dày, ngu si tăm tối, không hiểu, không biết, nên cũng không thọ được giới. Tuy có nhiều chỗ trong kinh nói là Rồng cũng thọ Trai pháp, nhưng đó chỉ nói về thiện tâm, nghóa là thọ tám giới trong một ngày, một đêm thì được công đức thiện tâm, chứ không được tám giới, là vì nghiệp chướng. Nếu nói về bốn cõi thiên hạ, chỉ có ba cõi thiên hạ là Diêm-phù-đề, Câu-da-ni, Phất-bà-đề và những người trên Hải Châu, khoảng giữa ba thiên hạ là được giới pháp. Như ở Câu-da-ni, thì Phật sai Tân-đầu-lư đến để truyền bá đạo pháp, thành lập bốn bộ chúng. Ở châu Phất-bà-đề cũng có Tỳ-kheo thi hành Phật sự và cũng có bốn bộ chúng. Duy chỉ cõi Uất-đơn-việt là không có Phật pháp và dó nhiên là không có giới. Vì ở đây phúc báo sung sướng quá và con người lại ngu si, nên không nhận lãnh được Phật pháp. Lại nữa, có bốn hạng người là: người nam, người nữ, hoàng môn và nhị căn. Trong bốn hạng ấy, chỉ có hai hạng: người nam, người nữ là được giới, còn hai hạng kia là hoàng môn và nhị căn, thì không được giới. Nhưng trong những hạng người nam và người nữ, nếu người nào giết cha mẹ, giết A-la-hán, làm cho thân Phật chảy máu, phá hoại chúng Tăng, làm nhơ Tỳ-kheo-ni, dứt hết căn lành và những kẻ giả mạo làm Tăng, những kẻ không thể độ, tất cả những người như thế đều không được giới. Nói rộng ra thì phàm đã mến chuộng Phật pháp, bất luận là Trời, Rồng, Quỷ, Thần, hay ở cõi Uất-đơn-việt, hoặc hoàng môn, nhị căn, tất cả những loài phi nhân ấy, đều được thọ Tam quy vậy. Ưu-ba-ly hỏi: –Chư Phật ba đời, độ cho chúng sinh được thọ giới đều nhau hay hơn kém nhau? Phật đáp: –Không đều. Phàm nói đến giới, thì chỉ có các loài chúng sinh và phi chúng sinh mới được giới mà một vị Phật ra đời, hóa độ cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh vào cõi Niết-bàn vô dư. Đến Đức Phật sau ra đời, thì tất cả các chúng sinh ấy đều không được giới. Như thế đủ biết, chư Phật chỗ được giới, đều không giống nhau. Chẳng hạn, như Phật Ca-diếp, độ cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh vào cõi Niết-bàn vô dư và Ngài cho hết thảy chúng sinh đó đều được giới. Nhưng đến Phật Thích-ca Văn, thì những chúng sinh ấy đều không được giới. Tuy nhiên, tất cả chư Phật đều có ba việc như nhau: Một là chứa góp công hạnh như nhau. Hai là Pháp thân như nhau. Ba là độ chúng sinh như nhau. Hết thảy chư Phật đều đã tu hạnh Bồ-tát qua ba a-tăng-kỳ kiếp, đều đã đầy đủ năm phần pháp thân, mười lực, Tứ vô sở úy, mười tám pháp bất cộng và cũng đã độ cho vô số a-tăng-kỳ chúng sinh vào cõi Niết-bàn vô dư. Ưu-ba-ly hỏi: –Trong kinh thường nói, một Đức Phật ra đời, độ cho chín mươi na-do-tha chúng sinh vào Niết-bàn vô dư, nay lại nói vô số a-tăng-kỳ chúng sinh, là nghóa thế nào? Phật trả lời: –Trong kinh nói, một Đức Phật ra đời, độ chín mươi na-do-tha chúng sinh là chỉ nói nhờ Phật mà từng ấy chúng sinh được độ. Còn có những chúng sinh, tự mình theo Phật mà được độ, hoặc nhờ các đệ tử của Phật mà được độ, hay nhờ giáo pháp của Phật mà được độ. Cho nên nói chín mươi na-do-tha chúng sinh là chỉ do nhờ chính Phật mà được độ. Nói tóm lại, hoặc nhờ Phật, nhờ đệ tử hay nhờ giáo pháp mà vô số a-tăng-kỳ chúng sinh đã được độ vào cõi Niết-bàn vô dư. Chư Phật ba đời đều có ba việc giống nhau, nhưng cách độ sinh, đắc giới thì khác nhau vậy. Ưu-ba-ly hỏi: –Các loài chúng sinh và chẳng phải chúng sinh đều được thọ ác luật nghi giới phải không? Phật đáp: –Chỉ có chúng sinh mới được thọ ác luật nghi giới, còn chẳng phải chúng sinh thì không được thọ. Nói một cách khác, chỉ có các loài có thể giết hại, được thọ ác giới, còn loài không thể giết hại, thì không được thọ, nhưng cũng có thể nói, chúng sinh hay sát hại hay chúng sinh không thể giết, đều được thọ ác giới. Chẳng hạn như người đồ tể giết dê, thường mang lòng giết chóc, ý lúc nào cũng nghó đến việc giết dê, giả sử có người ở cõi người hay cõi Trời không làm nghề giết chóc, nhưng vì phải lưu chuyển trong vòng thọ sinh, cũng có khi phải đọa làm kiếp dê. Cho nên tất cả chúng sinh đều có thể thọ ác giới. Trong mười hai ác luật nghi cũng vậy. Mười hai ác luật nghi là: 1.Nghề đồ te.å 2.Nghề bán nem. 3.Nghề nuôi heo. 4.Nuôi gà. 5.Bắt cá. 6.Săn bắn. 7.Bẫy chim. 8.Bắt trăn. 9.Bẫy rồng. 10.Làm nghề coi ngục. 11.Làm giặc. 12.Làm nghề đánh giặc thuê. Đó là mười hai nghề ác luật nghi. Như người làm nghề nuôi tằm cũng là người không xa lìa ác luật nghi. Có ba thời xả ác luật nghi giới: một là lúc chết; hai là lúc thọ luật nghi giới; ba là lúc thọ Tam quy. Thời thứ nhứt bỏ được ác giới; thời thứ hai và thứ ba thì được thiện giới. Ưu-ba-ly hỏi: –Khi người ta tạo ác giới, thì lúc nào xả thiện giới mà được ác giới? Phật đáp: –Lần đầu tiên nói: “Tôi là người đồ tể”, thì bỏ mất thiện giới. Lần thứ hai, thứ ba nói: “Tôi là người đồ tể”, liền được ác giới. Nói cách khác, tùy lúc bỏ thiện giới mà được ác giới. Nếu người tu thiện giới, tuy chưa nói mình là đồ tể, nhưng vì ham lợi, cùng với đồ tể làm việc giết hại, thì lúc ấy cũng phạm thiện giới rồi. Muốn bỏ thiện giới mà cầu ác giới thì chỉ tự mình phát thệ là được, chứ không cần theo người khác dạy cho. Nếu muốn thọ ác luật nghi giới trong một ngày, hai ngày, cho đến mười ngày, hoặc một năm, hai năm cứ tùy theo chỗ tâm mình muốn lâu hay chóng thì đều được cả, là vì các pháp ác thuận theo dòng sinh tử, cho nên cứ tùy theo việc làm là được, chứ không như thiện luật nghi giới. KINH ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN <卷 id="32807814">QUYỂN 7 <卷 id="32807815">Phẩm 9: THÂN CẬN Phật nói: –Các bậc Đại Bồ-tát biết ân, báo ân, tu tập các phương tiện, làm lợi ích chúng sinh, phải nên tùy thời thích nghi mà hiển bày Phật pháp. Bấy giờ Phật bảo các vị Bồ-tát: –Này các thiện nam tử, cách đây đã lâu, có một vị Phật ra đời, hiệu là Vô Di Vương, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài ra đời để tiếp dẫn cho những kẻ có duyên với Phật pháp và khi độ hết những người ấy rồi Ngài liền vào Niết-bàn. Sau khi Ngài nhập diệt, trong thời chánh pháp, có một người Bà-la-môn, hết sức thông minh, thọ trì năm giới, ủng hộ Phật pháp. Một hôm người Bà-la-môn, nhân có duyên sự, phải đi đến một nước khác, mà con đường này lại có nhiều giặc cướp. Cùng đi với người Bà-la-môn, còn có năm trăm người nữa. Khi đến quãng đường hiểm trở, họ liền tạm trú lại. Nơi đây thường có một bọn cướp gồm đến năm trăm tên, ẩn núp để cướp giật những khách bộ hành. Khi thấy đoàn người Bà-la-môn dừng lại, tên tướng cướp liền mật sai một người đi dò xét rồi hẹn giờ cùng xông ra. Nhưng trong đám cướp ấy lại có một người, trước kia là bạn thân với người Bà-la-môn và vì chỗ thân thiện, nên mới tới bảo người Bà-la-môn: –Ông bạn nên biết, canh một đêm nay sẽ có cướp đến. Tôi sợ lúc đó lộn xộn sẽ làm tổn hại đến ông, nên mới đến báo trước cho ông hay. Vậy ông nên tìm cách một mình lánh xa đi, đừng để các bạn ông biết. Nghe xong, người Bà-la-môn nghẹn ngào, đau đớn. Muốn đem việc đó nói cho mọi người đồng hành biết, nhưng lại sợ họ giết hại người kia. Nếu họ giết hại, họ sẽ phải đọa vào ba đường ác, chịu khổ vô cùng. Mà nếu cứ im đi thì bọn cướp sẽ hại đồng bạn. Nếu bọn cướp giết hại những người đồng hành, chúng cũng sẽ phải sa vào ba nẻo ác, chịu các tội khổ. Thật là khó nghó! Sau một lúc phân vân, người Bà-la-môn tự quyết định: “Ta phải dùng phương tiện làm lợi ích cho chúng sinh, dù phải đọa vào ba đường ác, cũng là vì chúng sinh mà chịu khổ, chứ không phải vì bản thân.” Nghó xong, người Bà-la-môn liền cầm dao giết người kia đi, khiến các bạn đồng hành đều được bình an. Khi ấy, mọi người sửng sốt, đồng thanh hỏi: –Xưa nay, ông vốn là người cao quý, hiền lương, tại sao hôm nay lại làm một việc cực ác như vậy? Lúc đó, người Bà-la-môn quỳ gối, chắp tay, lòng sinh hổ thẹn, nói: –Lẽ ra tôi không được làm ác, nhưng vì lợi ích của chúng sinh và của các bạn, mà hôm nay tôi phải giết người. Đồng bạn lại hỏi: –Ông tự ý giết người, chứ có lợi lạc gì cho chúng tôi đâu? Người Bà-la-môn nói: –Đây là một tên cướp, định mưu hại các bạn. Vì các bạn mà tôi phải giết y, để các bạn được bình an trở về. Còn tội khổ phải đọa địa ngục tôi sẽ xin chịu. Bấy giờ năm trăm người, vừa mừng vừa sợ, đồng thanh nói: –Ở đời không gì hơn mạng sống, không gì đáng sợ hơn cái chết. Thế nên, tất cả chúng sinh đều sẵn sàng bỏ cả vàng bạc, của báu, cho đến quốc thành, thê tử, hoặc cơm ăn, áo mặc để đổi lấy mạng sống. Nói xong, liền tự nghó: “Người Bà-la-môn này, vì làm lợi ích cho chúng sinh, đã không sợ các nỗi thống khổ trong ba đường dữ. Ngày nay chúng ta nên ghi nhớ ân sâu và sẽ dốc báo đền ân ấy.” Nghó như thế rồi, tất cả đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong khi ấy, bọn cướp cũng đến và đồng thanh nói: –Xưa nay ông là người cao quý, hiền lương, tại sao có thể làm một việc đại ác như thế này? Người Bà-la-môn nói: –Thật tôi không nên làm việc cực ác ấy, nhưng vì lợi ích của chúng sinh, cũng vì tánh mạng của các ông nữa mà tôi phải làm. Bọn cướp lại hỏi: –Việc ông giết người có lợi ích gì cho chúng tôi? Người Bà-la-môn bảo bọn cướp: –Ta đã biết trước là các ngươi hiện ở đây, nhưng ta cứ mặc nhiên, không báo cho nhà vua và bạn của ta biết, bởi thế nên tánh mạng của các ngươi mới được toàn vẹn. Nghe xong, bọn cướp tự nghó: “À ra vì thế mà cuộc đời của chúng ta được bình an”. Nghó rồi liền chắp tay nói với vị Bà-la-môn: –Quý hóa thay, bậc Đại só! Người tu hành nguyện đại bi. Xin dạy cho chúng tôi biết, chúng tôi phải làm gì để đền đáp ân cao cả ấy? Người Bà-la-môn nói: –Các ngươi muốn trả ân ta, thì chỉ có cách là: Các ngươi hãy cải tà quy chánh, làm ăn lương thiện và mau phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ bọn cướp, vì muốn báo ân, liền phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Bồ-tát siêng tu tinh tấn, muốn trang nghiêm đạo Bồ-đề, muốn đền đáp ân Phật, thì phải nhớ nghó đến tất cả chúng sinh, như thương nhớ con ruột của mình. Tôn giả nên biết, người Bà-la-môn lúc ấy có phải là ai khác đâu, chính là Như Lai đây. Nhờ thế mà sau chín kiếp tu hành, Như Lai đã chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.  Lại nữa, Bồ-tát tu các phương tiện, biết ân, đền ân. Khi Như Lai ở tinh xá Trúc Lâm, có một Tỳ-kheo mắc bệnh lở lói, khắp cả thân thể máu mủ thường chảy, ai cũng sợ hãi, không dám thân gần. Vị Tỳ-kheo này, ở trong một căn phòng dột nát, cách xa đại chúng. Bấy giờ Như Lai dùng sức thần thông che mắt mọi người, không cho ai biết, Như Lai một mình đến chỗ vị Tỳ-kheo có bệnh, trông nom săn sóc, lấy nước rửa ráy. Nghó như thế rồi, Như Lai bèn cho tất cả chư Thiên ở cõi Dục biết. Vua Thích Đề-hoàn Nhân cùng với trăm ngàn quyến thuộc vây quanh trước sau, đứng giữa không trung, mưa mọi thứ Thiên hoa và khởi các loại Thiên nhạc. Lúc đó, vua cõi trời Đao-lợi nâng một chiếc bình bách phúc trang nghiêm, trong đựng đầy nước đại bi thanh tịnh, đến trước dâng lên Như Lai, cúi đầu đảnh lễ, rồi đứng qua một bên. Như Lai liền giơ cánh tay đầy đủ phúc đức lên, thì ngay lúc ấy, từ năm đầu ngón tay nhỏ bé phóng ra những tia sáng lớn, chiếu khắp các cõi trời. Khi chư Thiên nơi cõi trời theo ánh sáng ấy mà cùng đến hội họp rồi, Như Lai mới tới chỗ người Tỳ-kheo có bệnh. Đến nơi, Như Lai liền phóng ra một luồng hào quang từ đỉnh đầu, chiếu vào vị Tỳ-kheo bị bệnh. Khi gặp được ánh sáng ấy, vị Tỳ-kheo bị bệnh cảm thấy hết đau đớn, liền ngồi dậy cúi đầu quy mạng. Lúc đó Như Lai dùng tay phải đỡ lấy nước từ Thiên đế Thích và rửa đầu cho vị Tỳ-kheo bệnh, còn tay trái thì xoa vuốt mình mẩy. Tay Như Lai đưa tới đâu thì những vết lở lói trên mình Tỳ-kheo đều khỏi đến đấy. Sau khi bình phục, vị Tỳ-kheo vui mừng khôn xiết, liền cất tiếng niệm: –Kính lạy Đức Thích-ca Mâu-ni! Đấng Đại Từ Phụ, Đấng Vô Thượng Y Vương! Con nay đã hết thân bệnh. Xin Như Lai rủ lòng thương xót, cho con pháp dược để trừ hết bệnh hoạn của cả thân, tâm. Bấy giờ Như Lai bảo vị Tỳ-kheo bệnh: –Như Lai vẫn nhớ trọng ân của ngươi. Nay Như Lai muốn đền đáp ân ấy. Nghe xong, vị Tỳ-kheo bệnh vô cùng kinh ngạc và vui vẻ. Như Lai liền chỉ dạy cho những điều lợi lạc hoan hỷ. Vị Tỳ-kheo vui mừng và ngay lúc ấy, chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thông và tám môn giải thoát. Khi ấy, Thiên đế Thích và các quyến thuộc, cùng vô lượng Thiên chúng đều nghi ngờ, liền hỏi: –Tại sao Đức Như Lai đã hạ thân vàng ngọc để rửa những vết ung nhọt, đầu máu mủ của người Tỳ-kheo bị bệnh, mà lại bảo là báo ân, việc đó ra sao? Xin Như Lai vì chúng con mà phân biệt giải thích? Phật bảo Đế Thích và chư Thiên: –Các ông hãy nghe cho kỹ tôi sẽ vì các ông mà nói các việc kiếp trước. Này Đế Thích, ở đời quá khứ, cách đây vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có một ông vua độc ác, vô đạo, thường hay áp bức, ức hiếp dân lành một cách phi lý để đoạt của cải. Ông vua độc ác này có một bày tôi thân tín, tên là Ngũ Bá. Nhà vua cho Ngũ Bá toàn quyền trừng phạt những người phạm pháp, hoặc thi ân hay gia uy là tùy ở Ngũ Bá, nhưng nếu có lợi lộc lo lót, thì phải chia cho nhà vua. Vì vậy Ngũ Bá thường hay đánh đập phạm nhân; ai có nhiều tiền của hối lộ thì tha, ai không có tiền lo lót thì đánh đập có khi đến chết và coi đó là việc rất thường. Một hôm, có một người Ưu-bà-tắc phạm chút lỗi nhỏ, được giao cho Ngũ Bá tùy ý trừng phạt. Nhưng Ngũ Bá vốn biết người Ưu-bà-tắc này là một người hiền lành, phúc hậu, nên không nỡ đánh đập, bèn tha cho, do đó người Ưu-bà-tắc được thoát nạn và vui mừng khôn xiết. Kiều-thi-ca nên biết: Ngũ Bá lúc bấy giờ, nay là vị Tỳ-kheo bị bệnh và người Ưu-bà-tắc nay là Như Lai. Cho nên, Bồ-tát trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ân tuy nhẹ nhưng cũng lo đền đáp, cho đến khi thành Bậc Chánh Giác mà lòng thường không quên. Lúc đó, Thiên đế Thích và vô lượng Thiên chúng hết sức vui mừng, có bốn vạn tám ngàn chư Thiên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Phát tâm xong rồi, bèn tấu thiên nhạc cúng dường Như Lai và đoạn trở về cõi trời. Phật bảo Tôn giả A-nan: –Nếu người thiện nam, thiện nữ biết ân, muốn báo ân, thì phải làm bốn việc sau đây: 1.Phải gần gũi bạn hiền. 2.Phải dốc lòng nghe pháp. 3.Phải suy nghó về nghóa lý. 4.Phải đúng như pháp mà tu hành. Lại có bốn việc nữa sau đây: 1.Theo pháp chứ không theo người. 2.Theo nghóa, không theo chữ. 3.Theo trí, không theo thức. 4.Theo Kinh liễu nghóa, không theo Kinh không liễu nghóa. Làm theo tám việc ấy gọi là biết ân. Nếu lại làm theo tám pháp sau đây mà không nhiễm đắm gọi là báo ân: 1.Lợi. 2.Suy. 3.Hủy. 4.Khen. 5.Tán thán. 6.Chê bai. 7.Khổ. 8.Vui. Lại nữa, nếu làm theo bốn việc sau đây thì gọi là biết ân và báo ân: 1.Thấy những kẻ độc ác, lòng sinh thương xót, là nhân duyên để tu tập lòng Từ. 2.Thấy những người đau khổ, mắt không thể rời, là nhân duyên để khởi tâm Bi. 3.Thấy Sư trưởng, Cha mẹ và những bậc có đức, tâm tánh vui vẻ, là nhân duyên để khởi tâm Hỷ. 4.Thấy những người thù oán, lòng không giận tức, là nhân duyên để tu tập tâm Xả. Bấy giờ Tôn giả A-nan sửa lại y phục, đến trước Phật, bạch: –Bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn mới phát tâm Bồ-đề, đã biết ân, báo ân mà làm theo bốn việc kể trước như thế nào? Phật bảo Tôn giả A-nan: –Ở đời quá khứ, cách đây vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có một vị Phật, hiệu là Tỳ-bà-thi, là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Só, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài ra đời để giáo hóa cho chúng sinh có duyên với Phật pháp. Những người có duyên với Phật pháp sau khi được giáo hóa xong, Ngài mới vào Niết-bàn. Thời kỳ chánh pháp và tượng pháp của Phật diệt rồi, có một nước gọi là Ba-la-nại, dân chúng giàu có, đất đai phì nhiêu. Vua dùng chánh pháp trị nước, không ức hiếp dân lành. Trong nước có một dãy núi tên là Tiên thánh sơn. Trên núi thường có năm trăm vị Bích-chi-phật và rất nhiều Thần, Tiên chứng đắc năm phép thần thông. Lại có vô số cầm thú, trong số này có con sư tử tên Kiên Thệ, lông vàng chói lọi, mạnh khỏe lực lưỡng, bệ vệ uy nghiêm, khi cất tiếng rống, chim đang bay phải rơi xuống, các thú rừng đều sợ hãi, tìm nơi ẩn núp. Một hôm, sư tử Kiên Thệ đến chỗ khe núi, thấy một vị Bích-chi-phật, thân tướng uy nghi, thanh tịnh. Kiên Thệ thấy, thì lòng vui mừng, không sợ. Rồi từ đó, cứ ngày ngày đến gần để nghe vị Bích-chi-phật tụng kinh, thuyết pháp. Bấy giờ có người thợ săn, thấy sư tử Kiên Thệ mình vàng óng ả thì hết sức mừng rỡ, liền tự nghó: “Nếu mình bắt được con sư tử kia, lột da đem dâng nhà vua chắc sẽ được ban thưởng rất nhiều, bảy đời không phải thiếu thốn! Nhưng sư tử Kiên Thệ là chúa Sơn lâm, cung tên khó có thể bắn nổi và bẫy sập cũng khó bắt được. Vậy ta phải lập mưu để bắt. Kiên Thệ thường kính mến và gần gũi vị Sa-môn Bích-chi-phật, ta phải giả dạng làm Sa-môn, giấu cung tên có tẩm thuốc độc dưới lớp ca-sa, rồi từ từ tiến đến ngồi bên gốc cây kia. Kiên Thệ thấy ta tất sẽ lại gần, lúc đó ta sẽ giương cung bắn, thì chắc trăm phần là được”. Nghó như thế rồi, liền trở về nói với người nhà: –Tổ tiên ta đã trải mấy đời làm nghề săn bắn, mà ta chưa từng nghe nói có con thú nào lại có bộ lông vàng chói như thế, huống nữa bây giờ ta được thấy, thì phải bắt cho bằng được. Nói xong, y lập tức cạo đầu, khoác áo ca-sa như đã định trước, rồi trở vào trong núi, ngồi bên gốc cây. Khi thấy người Tỳ-kheo giả mạo kia, sư tử Kiên Thệ sinh lòng vui mừng, tiến ngay lại gần, liếm chân Tỳ-kheo. Lúc đó, người thợ săn giương cung bắn ngay. Bị trúng tên độc, sư tử gầm thét, kêu rống, muốn vồ lấy gã thợ săn mà xé tan thân xác, nhưng lại nghó rằng: “Đó là một vị Sa-môn, mặc áo hoại sắc là hình dáng tiêu biểu của chư Phật, Hiền thánh. Nếu ta định giết thì chẳng khó gì, nhưng nếu giết người tức là phá hoại cái tướng tiêu biểu của chư Phật, Hiền thánh”. Nghó như thế rồi, liền nuốt giận chịu khổ. Sau một lúc lâu, vì thuốc độc chạy khắp thân thể, sư tử cảm thấy đau đớn, khó nhẫn, lại định cấu xé người thợ săn. Nhưng lại nghó rằng, nếu giết thì không khó, nhưng chư Phật, Hiền thánh sẽ quở trách, hơn nữa người đời sẽ không phân biệt được thiện ác. Đây là một kẻ xấu ác, mang lòng thâm độc, âm mưu hại ta, nếu ta không nhịn được thì cũng không khác gì kẻ kia. Người tu hành nhẫn nhục, ai cũng kính mến, kẻ không nhẫn nhịn, ai cũng ghét bỏ, vì thế mà càng thêm phiền não thì sinh tử thêm lên, sinh tử càng tăng thì phải sinh vào những nơi nạn xứ; sinh vào nơi nạn xứ, thì xa lìa bạn lành, xa lìa bạn lành thì không được nghe chánh pháp, không được nghe chánh pháp càng sinh hoài nghi, hoài nghi càng nhiều thì phải xa lìa đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thế ta không nên làm ác. Nghó như thế rồi, liền nói kệ: Đối người mặc áo pháp Xin tự nguyện bỏ mình Trọn không khởi tâm ác. Đối với người xuất gia Xin tự nguyện bỏ mình Trọn không khởi tâm ác. Nói kệ xong, liền ngã xuống tắt thở. Lúc đó, trời đất rúng động, cầm thú sợ hãi bỏ chạy tứ tán, trời xanh mưa máu, mặt nhật lu mờ. Bấy giờ tên thợ săn mới cởi bỏ áo pháp, cầm dao lột lấy da sư tử đem về. Khi về tới nhà liền mang đến dâng lên vua. Vua thấy tấm da của sư tử thì vui mừng, mới nói với quần thần: –Ta chưa từng nghe thấy có giống thú nào mà lông lại vàng chói như thế. Vậy mà hôm nay mắt lại được thấy, thế mới lạ. Vua mới hỏi người thợ săn dùng cách nào mà có được tấm da ấy. Người thợ săn tâu vua: –Nếu Bệ hạ có tha cho hạ thần, thì hạ thần mới dám tâu. Nhà vua nói: –Cho phép nhà ngươi cứ theo ý mà nói. Người thợ săn bèn thuật lại đầy đủ câu chuyện cho vua nghe. Nghe xong, vua thấy lòng nghẹn ngào, đau đớn, nói chẳng nên lời, liền triệu tập tất cả quan đại thần và các tiểu vương lại mà tuyên bố: –Các khanh nên biết, ta từng được nghe các bậc trí giả nói rằng, nếu có con thú nào lông mình thuần sắc vàng óng, tức là vị Bồ-tát hóa thân, vì hết thảy chúng sinh, mở lòng Bồ-đề mà làm việc đại lợi ích. Tại sao ngày nay, tên thợ săn độc ác này dám dùng quỷ kế để giết hại một vị Bồ-tát? Nay nếu ta đem quan tước, bổng lộc, voi, ngựa, của báu, cơm áo, tiền tài và tơ lụa mà ban thưởng cho kẻ ác này, thì tức là ta đã hùa với y mà làm việc vô đạo. Nói xong liền đem người thợ săn ra chém đầu. Rồi đem bộ da sư tử vào trong núi, tìm lấy xác chết bọc lại và dùng ngưu đầu chiên-đàn chất lên thành giàn mà hỏa thiêu. Xong xuôi thì thu lấy xá-lợi, xây tháp cúng dường. Phật bảo Tôn giả A-nan và đại chúng: –Các thiện nam tử, sư tử Kiên Thệ bấy giờ, nay là Như Lai, Thích-ca Văn Phật vậy. Bồ-tát thân cận bạn lành như thế cho đến mất cả thân mạng mà không khởi tâm ác. Vì sao vậïy? Là do biết ân và báo ân. Bởi thế Bồ-tát thường được gần gũi thiện hữu tri thức và chóng thành tựu được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thiện nam tử, Bồ-tát siêng tu, gần gũi thiện tri thức, cầu nghe chánh pháp, cho đến một câu, một bài kệ hoặc một nghóa để diệt trừ tất cả phiền não trong ba cõi. Khi Bồ-tát dốc lòng cầu lời Phật dạy, vì khao khát phép mầu, nên chẳng tiếc thân mạng, dù có phải đứng trên sắt nóng, bị lửa thiêu đốt cũng không lấy thế làm lo. Bồ-tát vì một câu kệ còn chẳng tiếc thân mạng, huống chi cả mười hai bộ Kinh. Vì một câu kệ mà đến thân mạng còn không tiếc, huống chi là những báu vật khác. Là vì cái lợi nghe pháp làm cho thân tâm được yên vui, sinh ra tín tâm chân chánh. Được thấy người thuyết pháp, cũng như thấy cha mẹ, lòng không dám khinh lờn. Vì chúng sinh mà dốc lòng nghe pháp, chứ không phải vì lợi lộc; vì tạo lợi ích cho chúng sinh chứ không phải vì tư lợi. Vì chánh pháp mà không sợ mọi nạn khổ, cho đến đói khát, nóng lạnh, hổ lang, thú dữ và những việc giặc giã, trộm cướp, tất cả đều không sợ. Trước phải điều phục lấy mình, diệt trừ tận gốc các phiền não, rồi sau mới nghe pháp. Khi nghe pháp, lòng không rối loạn, cung kính người nói pháp, tôn trọng pháp, thế gọi là Bồ-tát biết ân, báo ân. Thế nào gọi là Bồ-tát dốc lòng nghe pháp? Nghe pháp có bốn điều: 1.Tâm thành tín. 2.Tâm chuyên chú. 3.Tâm cung kính. 4.Tâm thiện. Sở dó Bồ-tát dốc lòng nghe pháp, cần cầu mười hai bộ Kinh, là vì nhớ nghó đến ân sâu nặng của Phật, muốn cho chánh pháp của Phật được lưu hành khắp nơi, muốn cho Phật pháp trường tồn mãi mãi; muốn cho thế gian tin ở Phật pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề. Thế là Bồ-tát vì nghó đến vô lượng chúng sinh ở mười phương, vì đền đáp ân sâu dày của Phật, cho nên dốc lòng nghe pháp, cần cầu mười hai bộ Kinh. Tại sao Bồ-tát lại cần cầu Phật pháp? Là vì muốn khiến cho chúng sinh, phát sinh lòng tin, cho nên Bồ-tát cần cầu Phật pháp. Tại sao Bồ-tát phải tìm hiểu Nhân luận? Là vì muốn hiểu thấu mọi tội lỗi, muốn phá trừ các tà thuyết của ngoại đạo, muốn biết phương tiện để điều phục chúng sinh, muốn phân biệt rõ ý nghóa của lời Phật dạy để đối trị những lời nói của thế gian. Bởi thế Bồ-tát phải tìm hiểu Nhân luận. Tại sao Bồ-tát phải tìm hiểu Thanh luận? Là vì muốn cho lời nói được thanh tịnh trang nghiêm. Nếu lời nói không thanh tịnh thì không thể giải thích rõ ràng mọi ý nghóa, vì muốn hiểu biết tất cả mọi nghóa lý để làm cho chánh pháp khỏi bị tổn hại; để diệt trừ lòng kiêu mạn của người khác và phá tan mọi tà kiến. Vì muốn biết phương tiện để điều phục chúng sinh, bởi thế mà Bồ-tát phải tìm hiểu Thanh luận. Tại sao Bồ-tát phải tìm hiểu các phương thuốc? Là vì muốn khiến cho chúng sinh thoát khỏi bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh, xa lìa các điều ác; vì thương xót tất cả chúng sinh, vì muốn cho chúng sinh phát sinh lòng tin tưởng để tránh mọi khổ đau, cho lòng được yên vui. Khi lòng đã được yên vui thì thường nhớ nghó đến tâm đại bi cứu độ chúng sinh của Phật. Bởi thế mà Bồ-tát phải tìm hiểu mọi phương thuốc. Tại sao Bồ-tát phải tìm hiểu các học thuật thế gian? Là vì muốn tạo lợi ích cho chúng sinh một cách dễ dàng. Là vì nếu hiểu suốt các học thuật thế gian thì rất dễ phá trừ lòng kiêu mạn của mọi người để điều phục họ, khiến cho họ sinh lòng chánh tín, trừ bỏ các tà kiến và chấp trước. Bởi thế mà Bồ-tát phải tìm hiểu các học thuật thế gian. Nếu Bồ-tát nào không chịu cầu học năm việc ấy thì không thể chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề. Vì muốn đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề mà Bồ-tát phải cầu năm việc ấy. Bồ-tát ghi ân, trả ân là vì chúng sinh mà nói. Nhưng nói việc gì? Và nói bằng cách nào? Nói việc gì là nói về mười hai bộ Kinh. Còn nói cách nào là phải thông thạo năm việc kể ở trên. Vì muốn chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề cho nên phải nói theo hai cách: 1.Nói pháp theo thứ lớp; 2.Nói pháp theo thanh tịnh. Nói pháp theo thứ lớp là: Trước phải nói bố thí, kế nói trì giới… cho đến trí tuệ. Nếu muốn ghi ân, đền ân, thì phải suy nghó đúng nghóa lý, rồi như pháp mà tu hành. Thế gọi là nói pháp theo thứ lớp. Nói pháp thanh tịnh là: Nếu người nghe thì ngồi mà người nói lại đứng thì không nên nói pháp. Nếu người nghe cố tìm những lỗi của pháp và của người nói pháp, thì cũng không nên nói pháp. Nếu người nghe căn cứ vào người nói mà không căn cứ vào pháp, thì cũng không nên nói pháp. Nếu người nghe chấp theo chữ mà không y theo nghóa, thì cũng không nên nói pháp, cho đến người nghe không y theo Kinh liễu nghóa thì cũng không nên nói pháp. Tại sao vậy? Là vì những người ấy không biết cung kính chư Phật, Bồ-tát và pháp thanh tịnh. Nếu người nói pháp biết tôn trọng pháp và những người nghe pháp cũng biết quý kính, dốc lòng nghe pháp, không sinh tâm khinh nhờn, thế gọi là nói pháp thanh tịnh. Lại nữa, nói pháp theo thứ lớp là nói tất cả về các pháp. Nói tất cả về các pháp nghóa là nói mười hai bộ Kinh cho đến một câu, một bài kệ hay nửa bài kệ, trong đó tùy theo lời nói, ý nghóa và phương pháp để tùy cơ theo phương tiện trình bày, chỉ giáo, đem lại lợi ích cho mọi người. Cũng có khi cần phải dùng lời quở trách, có lúc nên nói thẳng, cũng có khi cần phải thí dụ, cứ tùy chỗ nên nói, hoặc nói gần gũi cho người nghe dễ hiểu, cứ tùy theo chỗ người muốn nghe, dùng phương tiện mà nói pháp, thế gọi là Bồ-tát biết ân và đền ân, theo thứ lớp mà nói pháp. Nói pháp thanh tịnh là: các bậc Đại Bồ-tát đối với những việc oán ghét phải tu tập lòng Từ. Khi đã được lòng Từ rồi, dùng mọi phương tiện để nói pháp cho những người xấu ác, những người buông lung cho đến những kẻ tham đắm dục lạc, tâm ý phóng túng và cả những người nghèo khổ, khiến cho họ đều cùng được tỉnh ngộ, đừng vì khen mình chê người, đừng vì chuyện ăn uống, lợi lộc và danh vọng. Thế gọi là Bồ-tát biết ân và đền ân mà nói pháp thanh tịnh. Theo đúng như pháp mà tu tập các điều thiện, diệt trừ ba nghiệp ác, đầy đủ sự thanh tịnh, ghi ân đền ân để trang nghiêm đạo Vô thượng Bồ-đề. Nếu các bậc Đại Bồ-tát muốn nhớ ân để trả ân thì phải suy nghó về giáo nghóa, học rộng, nghe nhiều để thông suốt tất cả, để nêu cao ngọn đuốc Phật pháp. Nếu muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, thì phải tu các pháp bố thí, trì giới…, lại phải cúng dường những người nói pháp, không tìm lỗi của pháp và của người nói pháp, không mang lòng ác hại, đem sự yên vui cho mọi người, thế gọi là biết ân. Sau khiến cho cả mình và người được hưởng phúc báo ở cõi người và cõi trời, cho đến khi chứng được đạo quả Niết-bàn, thế gọi là báo ân. Lại nữa, Bồ-tát phải theo bốn phép để tu hạnh nhẫn nhục, diệt trừ lòng bất nhẫn, trang nghiêm đạo Bồ-đề: Khuyên tất cả chúng sinh tu hạnh nhẫn nhục. Tự mình nhẫn và dạy người khác nhẫn để xa lìa sự sợ hãi, thế gọi là biết ân. Nhờ sự nhẫn nhục nên không sinh lòng giận hờn, không làm hại ai, không phải chịu khổ não nên không ân hận. Sau khi bỏ thân này, được hưởng phúc báo ở cõi người và cõi trời, cho đến chứng được đạo quả Niết-bàn, thế gọi là báo ân. Này các thiện nam tử, Bồ-tát lại theo bốn việc mà siêng tu tinh tấn để diệt bỏ sự biếng trễ, trang nghiêm đạo Bồ-đề: Khuyên tất cả chúng sinh vì đạo Bồ-đề mà siêng tu tinh tấn. Xa lìa mọi phiền não, tăng trưởng các pháp lành cho thân được yên vui, thế là tư lợi. Bồ-tát tinh tấn, không làm phiền chúng sinh, đánh đập, chửi rủa, thế là lợi tha. Bỏ thân này rồi, được hưởng phúc báo ở cõi người, cõi trời, mình được yên vui, cho đến được đạo Bồ-đề, thế là được đạt quả báo lớn lao. Lại nữa, Bồ-tát theo bốn việc mà tu phép định để dứt trừ tâm tán loạn, trang nghiêm đạo Bồ-đề: Khuyên tất cả chúng sinh vì đạo Bồ-đề mà tu Thiền định. Đời này được yên vui, thân tâm vắng lặng, thế gọi là biết ân. Vì thân tâm vắng lặng, nên không làm phiền chúng sinh, thế gọi là biết ân, đền ân. Bồ-tát bỏ thân này rồi, được thân thanh tịnh, yên ổn vui vẻ, chứng được Niết-bàn. Thế là Bồ-tát theo bốn việc mà tu Thiền định. Lại nữa, Bồ-tát biết ân, đền ân, cũng phải theo bốn việc mà thành tựu trí tuệ để diệt trừ vô minh, trang nghiêm đạo Bồ-đề: Dùng pháp Tứ nhiếp dạy bảo chúng sinh, vì đạo Bồ-đề, tu hành trí tuệ. Vì hiểu thấu “tánh”, “tướng” của các pháp, nên mình được yên vui, thế là tự lợi. Có thể giúp chúng sinh về các việc thế gian và xuất gian, thế là lợi tha. Có thể tiêu trừ được hai chướng là phiền não và trí tuệ phàm phu, thế là được quả báo lớn. Như vậy gọi là biết ân, đền ân. Đó là Bồ-tát theo bốn việc mà tu trí tuệ không thể nghó bàn. Lại nữa, Bồ-tát dùng trí tuệ kiếp trước, biết được các việc kiếp trước, hiểu suốt các nghiệp của chúng sinh, dù thiện hay ác, cũng đã đến ngày được hưởng một duyên lành. Cho nên Bồ-tát, vì muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, đã dùng đại phương tiện, từ cung trời Đâu-suất, đầy đủ thọ mạng, có ba điều tối thắng: 1.Thọ mạng hơn hết. 2.Đẹp đẽ hơn hết. 3.Danh thơm hơn hết. Khi mới giáng sinh, phóng ra những tia sáng lớn, chiếu khắp mười phương và đã biết trước giờ phút ra đời ngay từ khi mới thọ thai. Lúc vừa sinh ra, đã đi bảy bước, không phải dìu dắt và tự nói: “Kiếp này là kiếp sau chót của Ta.” Bấy giờ, chư Thiên, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già dâng các thứ hoa, hương vi diệu trỗi ca nhạc và treo phan, phướn cúng dường. Bồ-tát có ba mươi hai tướng đẹp đẽ trang nghiêm, không ai hơn được; thân thể khỏe mạnh, khí lực đầy đủ, dùng sức từ thiện dẹp chúng ma quân. Khi lên bảy tuổi, không học thế sự mà hiểu biết tất cả, học không cần thầy, tự tu mà chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi thành đạo, Phạm thiên khuyến thỉnh chuyển bánh xe pháp tế độ chúng sinh. Khi nhập đại định thì dù cho sấm sét cũng không lay chuyển. Các loài thú vật thường đến gần gũi, mến như mến cha mẹ; súc vật dâng các thức ăn vì Phật hiểu lòng mình. Linh thần tuôn mưa, tắm gội thân thể, cây rủ cành lá, che rợp khắp người. Trong sáu năm tu khổ hạnh, Ma thường tìm kiếm mà không thấy một lỗi lầm. Thường ngồi thiền định, thành tựu tâm niệm, khéo hiểu biết các giác quan có lúc khởi, lúc diệt. Đó là điểm bất khả tư nghị của Bồ-tát giống với chúng sinh. Còn điểm khác với chúng sinh, là Bồ-tát làm lợi ích cho tất cả mọi loài, như người điên được thấy Như Lai thì trở lại bản tâm, người mù được thấy, người điếc được nghe, người sinh ngược trở lại thuận và những tánh tham, sân, si đều diệt trừ. Đó là chỗ bất khả tư nghị của Bồ-tát khác với chúng sinh. Lại nữa, tuy cũng sinh ra như chúng sinh, nhưng chỗ hành động của Như Lai không thể nghó bàn: Như Lai thường nằm nghiêng về bên phải như Sư tử vương, dù cỏ hay lá cũng không làm động loạn được, gió cuốn, bão táp mà y phục không lay động. Khi bước chân đi, như Sư tử vương và Bạch nga vương. Nếu lúc muốn đi, bao giờ cũng bước chân phải trước, những chỗ đi qua đều bằng phẳng không còn cao thấp. Khi ăn xong, không còn sót một hạt cơm ở miệng. Đó là chỗ “Cộng sinh” bất khả tư nghị của Như Lai. Lại nữa, tuy cũng sinh như chúng sinh, nhưng Như Lai có ba mươi tướng không thể nghó bàn: 1.Bàn chân bằng phẳng. 2.Bàn chân có ngàn xoáy ốc. 3.Ngón tay dài và nhỏ. 4.Gót chân đầy đặn. 5.Ngón tay có nhiều vân. 6.Chân tay mềm mại. 7.Bụng tròn trónh, đầy đặn như bụng Kim sắc lộc vương. 8.Mắt cá chân bằng phẳng. 9.Tay dài tới đầu gối. 10.Tướng âm tàng, như tượng mã vương. 11.Mình tròn trặn, đầy đặn như cây Ni-câu-đà. 12.Lông trong mình đều nghiêng lên phía trên. 13.Lông đều xoáy theo bên phải. 14.Thân mình sắc vàng. 15.Thường chiếu sáng cách thân tám thước. 16.Lớp da mịn màng, không dính bụi bặm. 17.Bảy chỗ đầy đặn, bằng phẳng. 18.Nửa mình trên như mình sư tử. 19.Cánh tay tròn lẳn. 20.Xương ngực bằng phẳng. 21.Thân hình vạm vỡ. 22.Trong miệng có bốn mươi răng. 23.Răng nhỏ khít và rất đều. 24.Răng trắng như ngà. 25.Hàm vuông như hàm sư tử. 26.Khi ăn thấy hương vị thượng hảo. 27.Đỉnh trên trán nhô lên thành tướng nhục kế. 28.Lưỡi dài và rộng. 29.Tiếng như tiếng Phạm âm. 30.Sắc mắt xanh biếc. 31.Mắt như mắt ngưu vương. 32.Khoảng giữa lông mày có một sợi lông dài và trắng. Như thế cho đến tám mươi vẻ đẹp không thể nghó bàn. Mỗi mỗi tướng tốt lại có vô lượng trăm ngàn vẻ đẹp huyền diệu. Mỗi một tướng tốt đều là kết quả của sự tu tập diệu hạnh của Bồ-tát từ lúc mới phát tâm Bồ-đề kiên cố cho đến khi được thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Phật lại nói: –Như Lai đã từng trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp dốc lòng tu trì tịnh giới, cho nên nay mới được tướng bàn chân bằng phẳng. Nhờ sự cúng dường Cha mẹ, Hòa thượng, Sư trưởng và các bậc có đức, cho nên được tướng ngàn xoáy ốc dưới bàn chân. Đối với chúng sinh không mang lòng làm hại, không có ý tưởng cướp đoạt. Hễ thấy Cha mẹ, Hòa thượng, Sư trưởng và những bậc có đức thì ra đón chào, sửa đặt tòa ngồi, cung kính lễ bái, dẹp bỏ lòng kiêu mạn, nhờ thế mà nay được tướng ngón tay dài và nhỏ. Có đủ ba hạnh kể trên, nên được tướng gót chân đầy đặn. Nhờ dùng Tứ nhiếp pháp giúp đỡ chúng sinh, nên được tướng ngón tay có nhiều vân. Dùng các thứ dầu thơm tắm gội cho Cha mẹ, Sư trưởng và các bậc có đức, nhờ thế mà được tướng chân tay mềm mại. Nhờ công tu tập các pháp lành không biết chán mỏi, nên được tướng bụng tròn trặn, đầy đặn. Nghe pháp vui vẻ, thích nói lại cho người khác nghe và ưa làm việc đạo, nhờ thế mà được tướng mắt cá chân bằng phẳng. Nhờ ba nghiệp thanh tịnh, khám bệnh cho thuốc, phá trừ lòng kiêu ngạo, ăn uống có chừng mực, nên được tướng tay dài bằng gối. Thấy người ta chia rẽ, dùng lời nói khéo khiến cho người ta đoàn tụ với nhau. Biết tự tu hổ thẹn, lại dạy người tu, nhờ thế mà được tướng âm tàng như tượng mã vương. Tự mình tu sạch ba nghiệp, lại dạy người khác tu, nếu chúng sinh nào đau ốm thì tìm cách chạy chữa, do thế mà được tướng thân tròn mình lẳn. Nhờ lòng vui vẻ nghe pháp, lại hay nói lại cho người khác nghe, mà được tướng lông trong mình đều hướng lên phía trên. Suy nghó ý nghóa sâu xa của các pháp, ưa tu các pháp lành, cúng dường Cha mẹ, Sư trưởng và những bậc có đức; nếu đi dọc đường gặp pháp, hoặc tăng phòng đều cúng dường, giữa đường nếu có gạch đá, gai gốc hay vật bẩn thỉu thì dọn đi, nhờ thế mà được có tướng lông trong mình đều xoáy về bên phải. Nếu đem thức ăn hoặc đồ châu báu cho người thì không bao giờ sinh lòng sân hận, nhờ thế mà được hai tướng: một là sắc da vàng, hai là thường có ánh sáng và lại được tướng da mịn màng, không dính bụi nhơ. Thường giúp cho người những thứ cần dùng, nhờ thế mà được tướng bảy chỗ đầy đặn. Tự mình dẹp bỏ tánh kiêu mạn, biết điều hòa tánh tình, tùy theo sở thích của mọi người, như pháp tu hành để diệt các điều bất thiện và tăng trưởng các pháp lành, nhờ thế mà được tướng nửa mình trên như thân sư tử, tướng cánh tay tròn lẳn và tướng xương ngực bằng phẳng, tướng ngón tay nhỏ, tướng thân hình đầy đặn. Nhờ không nói lưỡi hai chiều và làm cho những người tranh giành phải hòa thuận mà được tướng có bốn mươi răng, tướng răng khít không kẽ hở, tướng răng bằng nhau, đều đặn. Nhờ tu các nghiệp từ bi, thiện lạc mà được tướng răng trắng như ngà. Thấy người thiếu thốn, vui vẻ giúp đỡ, đón thưa, nhờ thế mà được tướng hàm vuông như hàm sư tử, coi tất cả chúng sinh như một người con, vì thế mà được tướng ăn thức gì cũng thấy mùi vị thượng hảo; thường bố thí chúng sinh pháp vị vô thượng, gặp người hay quên thì cho trí nhớ, tự mình giữ năm giới, lại dạy người cũng tu tập lòng Từ, hay bố thí pháp cho mọi người, nhờ nhân duyên ấy mà được tướng nhục kế, tướng lưỡi dài rộng, cứ như thực mà nói pháp cho mọi người vui mừng, nói những lời êm ái, dịu dàng, không đúng giờ không nói, do đó mà được tướng tiếng Phạm âm. Chứa góp lòng thương, coi tất cả chúng sinh như cha mẹ, nhờ nhân duyên ấy mà được sắc mắt xanh biếc và tướng mắt như mắt Ngưu vương, thấy những người có đức, thành thật tán thán, do đó mà được tướng bạch hào. Đó là ba mươi hai tướng, tuy có những nhân duyên khác nhau, nhưng nhân duyên chính là cái nhân “trì giới” và “tinh tấn”. Tại sao vậy? Vì nếu không chịu trì giới và siêng tu tinh tấn, thì đến thân người còn chẳng được làm, nói chi đến ba mươi hai tướng tốt? Lại nữa, phàm đã làm việc thì lòng nhất định không hối hận, nhờ thế mà được tướng bàn chân bằng phẳng. Và khi làm việc thì dốc lòng làm, do đó mà được tướng ngàn xoáy ốc dưới bàn chân, tướng ngón tay có nhiều vân, tướng bảy chỗ bằng phẳng tướng da mịn màng, tướng thân thẳng và tròn, tướng lưỡi dài rộng. Thường tu các pháp thiện và dạy người khác tu, cho nên được tướng ngón tay dài nhỏ; tướng tay chấm gối; tướng thường phát ra ánh sáng cách xa tám thước và tướng răng khít không thưa hở. Nhờ công tu sạch ba nghiệp nên được các tướng khác. Lại nữa, đối với chúng sinh, sinh tâm thuần thiện, nhờ nhân duyên ấy được tướng tay chân mềm mại, da thịt mịn màng, bụi nhơ không bám. Vì theo thứ lớp và thời tiết mà tu tập các pháp lành, cho nên được tướng thứ hai, thứ ba và thứ tư. Ưa làm điều lành, lòng không chán nản, nhờ nhân duyên ấy mà được tướng thân sắc vàng; tướng thân thường sáng; tướng răng trắng; tướng giữa khoảng lông mày có sợi lông trắng. Nếu nghe người ta ca ngợi đức tánh của mình không sinh lòng kiêu mạn, giấu giếm việc lành không cho người khác biết, nhờ nhân duyên ấy mà được tướng mã tàng. Phàm tu các việc lành đều hồi hướng cho đạo Bồ-đề, vì thế mà được tướng lông trong mình đều hướng lên phía trên và đều xoay theo bên phải; tướng trong miệng có bốn mươi chiếc răng; tướng khi ăn thấy mùi vị thượng hảo. Nhờ nhân duyên siêng tu tinh tấn, nên được tướng hàm vuông như hàm sư tử; tướng nửa thân trên như mình sư tử. Dốc lòng thương nhớ tất cả chúng sinh, như mẹ thương con, nhờ nhân duyên ấy mà được tướng răng nhỏ và bằng phẳng, tướng mắt xanh biếc như mắt Ngưu vương. Nhờ tu tập các pháp lành không biết chán nản, cho nên được các tướng khác. Các bậc Đại Bồ-tát, khi dựa vào tịnh hạnh mà tu ba mươi hai tướng tốt, khi các nghiệp đã được thanh tịnh, tuy có ba mươi hai tướng tốt như thế nhưng chưa đầy đủ, chưa được hoàn toàn trong sáng. Bồ-tát còn phải tu theo mười hai hạnh để thấu suốt đầy đủ tất cả các pháp của Phật. Tuy vô lượng tướng của chúng sinh không giống nhau, có thượng, trung và hạ không thể nghó bàn. Bởi thế Phật nói, trong ba mươi hai tướng, đem công đức tích chứa góp hợp của tất cả chúng sinh mà so sánh thì mới chỉ bằng cái tướng mảy lông của Như Lai. Tất cả các lỗ chân lông đều có công đức, chứa góp hòa hợp mà thành một vẻ đẹp, rồi tập hợp công đức của tám mươi vẻ đẹp, tăng gấp trăm lần mới thành một tướng. Duy chỉ có hai tướng Bạch hào và Nhục kế thì phải tập hợp tất cả các tướng khác, tăng đến ngàn lần mới thành được hai tướng đó. Do đem hòa hợp tất cả công đức, đem hết công đức của ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp tăng lên ngàn vạn ức lần mới thành được cái tướng Lôi âm của Như Lai, mà âm vang xa thẳm đến vô lượng, vô biên thế giới của chư Phật nhiều như vi trần cũng đều nghe thấy. Vì làm lợi ích cho chúng sinh mà Bồ-tát tu hạnh đại từ bi, nhớ ân đền ân, tu tập các pháp sâu xa mầu nhiệm khó thể nghó bàn và các tướng tốt vi diệu như thế. Trong mỗi tướng có thể làm lợi ích cho vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh, khiến cho họ đều phát tâm Bồ-đề, lần lượt tu tập, đầy đủ công đức, cho đến thành được ba mươi hai tướng tốt đẹp. Khi có đủ các tướng tốt đẹp rồi, đều khiến đi đến gốc cây Bồ-đề, hàng phục ma quân, chứng thành Phật quả, quay bánh xe chánh pháp, độ cho chúng sinh qua khỏi bể khổ, ngu si, sinh tử mà lên bờ giác ngộ, giải thoát yên vui để thành tựu công việc lợi ích cho tất cả muôn loài. Phật bảo Tôn giả A-nan, tất cả đại chúng và các bậc Đại Bồ-tát: –Các thiện nam tử, các vị những ai có thể luôn nhớ ân của Phật, hộ trì chánh pháp, biên chép đọc tụng kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân sâu xa vi diệu này? Ai có thể ở đời ác trược sau này, phát tâm đại tinh tấn thọ trì ủng hộ đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Ai có thể hộ pháp, truyền bá Kinh này để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh? Bấy giờ trong đại hội có một vạn tám ngàn vị Đại Bồ-tát, đều từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, để hở vai áo bên phải, đầu gối bên phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, trong đời ác trược sau này chúng con đều có thể thọ trì ủng hộ đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; đều có thể hộ trì chánh pháp và giáo hóa chúng sinh. Lúc đó Bồ-tát Sư Tử lại nói: –Bạch Đức Thế Tôn, con cũng có thể dùng mọi phương tiện để giúp đỡ chúng sinh. Bồ-tát Kim Cang nói: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu chúng sinh sắp sa vào ba đường dữ con có thể ngăn lại, khiến cho khỏi bị đọa. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: –Bạch Đức Thế Tôn, nếu chúng sinh cầu tu các pháp thiện, con có thể khiến cho tất cả đều đầy đủ như ý. Bồ-tát Trí Tràng nói: –Con có thể cho chúng sinh được trí lớn. Bồ-tát Pháp Tràng nói: –Bạch Đức Thế Tôn, con có thể lấy pháp mà bố thí khắp cho chúng sinh. Bồ-tát Nhật Quang nói: –Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện đem sự yên vui mà bố thí chúng sinh. Bồ-tát Nguyệt Quang nói: –Bạch Đức Thế Tôn, con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến tu phước đức. Bồ-tát Thiện Hộ nói: –Bạch Đức Thế Tôn, con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến không buông lung. Bồ-tát Vô Tận Ý nói: –Bạch Đức Thế Tôn, con có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho thấy rõ “tánh”, “tướng” của pháp giới vô tận. Bồ-tát Nguyệt Thượng nói: –Bạch Thế Tôn, con có thể bố thí chúng sinh điều yên vui không gì hơn. Như thế các vị Bồ-tát lần lượt tự lập thệ nguyện vi diệu để trang nghiêm đạo Bồ-đề, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vì muốn nhớ ân Phật và muốn đền đáp ân Phật, nên chư Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ sát đất, chắp tay bạch Phật: –Xin Đức Thế Tôn đem Kinh này giao phó cho hàng Bồ-tát chúng con. Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật: –Bạch Đức Thế Tôn, kinh này nên đặt tên là gì và phụng trì như thếø nào? Phât bảo: –Kinh này gọi là kinh Nhiếp Chúng sinh Thiện Bản, cũng gọi là Đại Phương Tiện, cũng gọi là Vi Mật Hạnh, cũng gọi là Phật Báo Ân. Phật bảo Tôn giả A-nan và các bậc Đại Bồ-tát: –Các vị phải theo đúng lời dạy mà tu hành. Khi Phật nói phẩm Chúc lụy này, có bảy vạn hai ngàn vị Thanh văn phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Tất cả chư Thiên, Long, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi Nhân và đại chúng nghe Phật thuyết pháp, đều vui mừng vâng làm. <卷 id="32807816">