<經 id="n1848">KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ (QUYỂN 1 ~ 2 0) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ Sa-môn Tử Tuyền ở Trường Thủy ghi. <卷>QUYỂN 1 Văn giải thích luận này bắt đầu từ ngài Thạch Bích nhưng Ngài Thạch Bích khi giải thích luận chương, cú rất rườm rà, vì mỗi lần trình bày một nghóa lý gì trong luận này thì trước ngài đều đặt câu hỏi, kế đó đua ra lời đáp để giải thích văn nghóa, sau cùng mới giải thích tỉ mỉ chồng chất nhiều mãi ra, mặc dầu không để mất lý thể chính của bản gốc nhưng có phần thái quá, khó có ai hơn được. Người muốn giảng luận này khi cần dùng, thấy chưa được thỏa đáng lắm. Nay giải thích theo văn này, chép và giữ lại những chỗ nghóa lý cốt yếu, còn những chỗ rườm rà thì bỏ bớt, và cũng có chỗ thay đổi thêm cho đúng với văn luận (Đại Thừa Khởi Tín). Khiến cho người học sau dể hiểu khỏi phải nhọc tâm khổ trí, nên mới nói rằng: Nên chép thì chép, nên bỏ thì bỏ. Do đó, mới đặt tựa đề cho bộ Luận này là “Khởi Tín luận Sớ Bút Tước Ký”. Sa-môn Tử Tuyền ở Trường Thủy ghi. Ở Trung Ấn-độ có ngài Ngu-la-vó-nễ, Hán dịch là Mã Minh. Sau khi Phật diệt độ khoảng sáu trăm năm, vì bẻ gãy ngọn cờ tà kiến, trồng cây báu chánh pháp, chỉ dạy thật giáo nên soạn ra bộ luận này, lấy tên là Đại thừa Khởi Tín, gồm có năm phần, đại khái chia làm ba: Phần đầu là phần Nhân Duyên tức phần Tựa, nói về nguyên nhân phát khởi luận này là do tám nhân duyên, chẳng phải trau chuốt mà không lợi ích. Một phần sau cùng là Khuyến tu lợi ích, tức phần Lưu thông. Khuyên ngay trong luận này sinh lòng tin mà tư duy tu tập, được lợi lạc lớn, dẫn đến lợi ích cho chúng sinh đời sau. Phần giữa có ba phần, tức là phần Chánh tông, gồm: Phần lập nghóa: Lược nêu cương yếu, lập nhất tâm pháp, trình bày môn nhị chủng, nêu lên ba đại nghóa, nhân quả xoay vần, tóm lược văn sau mà hiển phát căn bản. Phần giải thích: Do trước lược nêu nghóa lý chưa rõ ràng, cho nên giải thích rộng ra cho nghóa lý được sáng sủa, dễ hiểu. Phần Tín Tâm: Nói bốn thứ tin, năm thứ tu hành, giúp cho các chúng sinh tín căn thuần thục vào địa vị không lui sụt. Ba phần trên đây là nhân duyên dẫn khởi trước tiên, một phần sau là phần khuyến tu, do đó đều gọi là Chánh Tông. Đã biết văn luận này chia làm ba mục lớn thì nên biết chỗ giải của văn sớ vì sao trước sớ có tựa, là phần tựa. Khai chương trở xuống làm phần Chánh tông. Phần văn sau không chia chẻ, nói Hồi Hướng mà thiếu Lưu thông, đã thế thì không đủ ba phần, cho nên chia làm hai. ĐỀ MỤC LUẬN SỚù. Có hai: Nêu đề mục: Do đề mục là một bộ phận đại cương, không thể không biết, cho nên lược giải năm chữ trong đề tựa, có thể đối với năm thứ huyền nghóa của tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai thường mỗi khi giải thích đề kinh đều chia làm năm nghóa. Nay nói Đại là Thể; Thừa là Tông; Khởi Tín là Dụng; Luận là Giáo. Sở thuyên của luận này ngay năm chữ hợp đủ trong Thể, Tông, Dụng; tức là Danh. Đại nghóa là thể, ở đây có chung và riêng: Chung thì lấy nhất tâm làm thể, chủ ý của luận không ngoài chỗ này. Nghóa là Tín sở duyên, Giải sở liễu, Hành sở thú, Chứng sở nhập, Nhân sở cảm, Quả sở hiển. Cho nên trong luận đầu tiên là nêu việc lấy làm pháp thể. Văn nói: “Đại thừa, một pháp mà hai nghóa. Cái gọi là pháp nghóa là tâm chúng sinh, tâm này nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, nương tâm này trình bày nghóa Đại thừa”, đây là pháp chỉ thẳng gọi là Đại. Nghóa là ngang dọc vô ngại viên dung, ngay nơi thể mà thọ tên chẳng phải đối nơi tiểu tiết. Kinh Niết-bàn chép: “Chẳng do Tiểu không mà gọi là Đại không, Niết-bàn cũng vậy, không do Tiểu tướng gọi đại Niết-bàn”. Riêng là noi theo nghóa, gồm có ba thứ, đó là: Thể, Tướng, Dụng; tức là trước khai nhất tâm lấy làm ba nghóa, tức ba đức của Đại Niết- bàn, như văn sau nói: cái gọi là nghóa đó ắt có ba thứ: Thể đại: Nghóa là tất cả pháp chân như bình đẳng không thêm không bớt. Tướng đại: Nghóa là Như Lai tàng đầy đủ tánh công đức vô lậu. gian. Dụng đại: sinh ra tất cả nhân quả lành thế gian và xuất thế Cho nên một chữ Đại gồm cả ba. Thừa nghóa là Tông, tức từ nhân đến quả, lấy đó làm thể. Thừa là tên gọi ẩn dụ, nghóa là chuyên chở. Như thuyền xe ở thế gian có thể dùng chuyên chở đến phương xa; Đây là dụ cho Bồ-tát thừa. Đại pháp này vượt khỏi đồng dòng sinh tử, qua sông phiền não, đến làng Bồ-đề, lên bờ Niết-bàn. Nên văn sau nói: “Tất cả chư Phật đều nương thừa này, tất cả Bồ-tát đều nương pháp này đến đất Như Lai”. Trong đây, Năng thừa là Thỉ giác, Sở thừa là Bản giác. Năng sở ngthầm hợp; thỉ bổn không hai, gọi là Cứu cánh giác. Tức là chỗ đến tột cùng một tướng một vị, rốt ráo bình đẳng, không có ba thứ riêng khác, ở trong một thể mà nghóa có chia ra năng sở, đây cũng gọi là Nhất thừa, cũng gọi Vô thượng thừa. Khởi Tín nghóa là Dụng. Do luận này phá nghi ngờ mà chấp sinh chánh tín. Khởi tức là hiển phát. Tín là nhẫn lạc. Nghóa là đối với cảnh Đại thừa nhất tâm ba nghóa ở trước hiển phát tâm nhẫn lạc, gọi là Khởi Tín. Cho nên luận chép: “Vì muốn cho chúng sinh dứt nghi bỏ tà chấp, khởi Đại thừa chánh tín, khiến hạt giống Phật chẳng dứt”. Khi lòng tin này phát khởi, thì bên trong do bản giác làm nhân, bên ngoài do thầy dạy làm duyên; nhân duyên hòa hợp trong ngoài giúp nhau, nên sẽ hiển phát. Phần sau của luận chép: “Nhân duyên đầy đủ gọi là tự có năng lực huân tập”. Lại, vì nguyện chư Phật, Bồ-tát đồng từ bi che chở nên hay khởi tâm chán khổ, tin có Niết-bàn, tu tập gốc lành. Một pháp tin này là nguồn gốc của các điều lành, là bước đầu của muôn hạnh. Giải, hạnh, tu, chứng đều do đây. Chỗ chứng tột cùng gọi là đắc Niết-bàn. Nếu không có lòng tin kia thì đâu nói được việc này. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Tin là cội gốc của đạo, là mẹ sinh ra các công đức, nuôi lớn tất cả pháp lành, xé bỏ lưới nghi, ra khỏi sông ái, khai mở đạo Niết-bàn vô thượng”. Nhưng, trong luận này không chỉ khởi lòng tin, mà còn gồm cả giải hạnh. Nghóa là trong năm phần, thì phần hai và ba của văn luận là Giải, phần bốn và năm là Hạnh. Bởi đã bao gồm nhiều nghóa, nhiếp khắp các loài, vì muốn cho từ cạn đến sâu, thế nên chỉ nêu Khởi Tín. Luận nghóa là giáo, là lời của bậc Thánh nói ra, để dạy kẻ ngu thành trí, khiến phàm thành thánh. Luận là bàn luận. Nghóa là giả lập chủ khách, tự hỏi tự đáp, tuần hoàn nghiệm xét, thấu rõ chân tông, bàn bạc pháp nghóa như trên, để dạy bảo người học. Tuy nhiên, luận Hữu tông giải thích có khác với tông luận này. Đại só Mã Minh y lý thật giáo Đại thừa trong các kinh Pháp Hoa, Niết-bàn, Lăng-già, Tư Ích v.v… hơn một trăm bộ, mà soạn ra luận này, nghóa thật dồi dào, văn lại giản dị mà không pháp nào chẳng thu nhiếp, nên văn sau nói: “Luận này như thế, vì muốn gồm nhiếp nghóa vô biên đối với pháp rộng lớn sâu xa của Như Lai, nên nói luận này”. Lại nói: “Pháp Đại thừa như thế, là bí tạng của chư Phật, ta đã nói cả”. Lại nói: “Nghóa sâu xa rộng lớn của chư Phật, nay ta thuận theo tổng trì giảng nói, v.v…”. Song, văn luận này là chỗ chứng chân thật của Đại só, trong trí hậu đắc theo tông chỉ của kinh mà soạn ra. Người đời sau không biết do dây rút ngắn lại cho là giếng khô, nên thường nói lời chê bai không chân thật. Văn sau khuyên sinh lòng tin đều phải cố gắng. Văn, tư, tu đầy đủ công đức được sáng ngời. Nếu chẳng tin lại hủy báng thì chịu quả khổ nhiều kiếp, há chẳng cố gắng hay sao? Năm chữ như trên, tức Pháp, Dụ, Nhân, Quả; Giải, Hạnh, Lý, Trí; Năng hóa, Sở hóa; Năng thuyên, Sở thuyên, thảy đều đầy đủ, đều chứa đựng trong một bộ luận, nên lấy đây đặt tên. Sớ nghóa là giải thích, là quyết trạch. Nghóa là giải thích chỉ thú nghóa lý các pháp, phân biệt văn ngôn chương cú, giúp cho đều thông suốt. Nhưng sáu chữ trên, y theo sáu mà giải thích phân biệt, thành chung năm cặp: Cặp Năng thừa, Sở thừa đối: Nghóa là “Nhân” là Năng thừa, “Đại” là Sở thừa, Sở thừa là Đại, Đại của Năng thừa là Sở thừa của Đại. Tức gồm đủ cả ba là: Trì nghiệp thích, Y só thích, Y chủ thích. Cặp Năng khởi, Sở khởi đối: Đại thừa của Năng khởi, Tín là Sở khởi. Tức Khởi Tín của Đại thừa, là Y chủ thích. Cặp Năng tín, Sở tín: Tín là Năng tín, Đại thừa là Sở tín. Sở tín tức Đại thừa, Năng tín của Đại thừa, là Trì nghiệp thích và Y chủ thích. Cặp Năng thuyên, Sở thuyên: Đại Thừa Khởi Tín là Sở thuyên, Luận là Năng thuyên. Cặp Năng thích, Sở thích: Sớ là Năng thích, năm chữ trên là Sở thích. Cả hai đều là Y chủ thích. Tịnh là gồm, là cùng, là chung. Tự là tựa. Nghóa là lời nói đầu trình bày đại ý của một bộ luận, cũng gọi là huấn tự. Văn này trình bày đầu mối soạn sớ. Nói tên người chú thích: Chùa Tây Thái Nguyên, tức Chùa Sùng Phước ở Trường An. Vì trong nước có năm ngôi chùa đều tên là Thái Nguyên, do phân ra theo bốn hướng nên nói là phía Tây, Đông là Dương Châu, Nam là phủ Kinh Nam, Tây là Trường An, Bắc là Thái Nguyên (cũng gọi là Sùng Phước), giữa tức Đông Đô (nay là Phước Tiên), đều gọi là Thái Nguyên. Vì Ngài sinh ra ở Thái Nguyên, cũng ở nơi đây xả bỏ nhà cửa đã xây dựng. Bởi tôn kính chỗ Ngài sinh nên lấy đó đặt tên. Sa-môn, là tên gọi chung của chúng đệ tử Phật, Hán dịch là Cần Tức, nghóa là siêng tu giới, định, tuệ; dứt hoặc, nghiệp, khổ nên được tên gọi này. Pháp Tạng: Ngài họ Khang, là Tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, được sắc ban thụy hiệu là Hiền Thủ Đại sư, đức nghiệp sáng sủa, học rộng đa văn. Thuật: là nói chẳng phải biên soạn. Như Trọng Ni nói: “Thuật chứ chẳng phải là biên soạn, mà là nói thuật lại điều tốt đẹp của người xưa”, bởi tự mình khiêm nhường nói là thuật. Chùa Thảo Đường, ở núi Chung Nam. Tông Mật, Ngài họ Hà, thụy hiệu Định Tuệ Thiền Sư. Ngài học khắp hết nội ngoại đạo, thấu suốt xưa nay, đức dầy sự nghiệp lớn, thấy nghe khắp cả. Từ trước luận sớ có hai bản lưu hành khác nhau, cho đến người học không thể xem hết, trở thành thiếu sót, công phu khó tiến tới trước, nên nay soạn sớ văn tạo thành luận này. Phần sau luận có sớ, phần đầu luận có khoa mục, văn nghóa sáng sủa, chương đoạn đầy đủ p người học tìm ra manh mối, lại không mang nặng âu lo hay sao? <詞>PHẦN TỰA Có hai: A. TÔNG CHỈ TỰA CHUNG: Có hai: <詞>Đại ý tựa luận: Văn có bốn đoạn. Sở dó nêu ra bốn đoạn này vì tựa là ý của luận, Đại ý của luận không ngoài chỗ này, từ trước đến sau gồm nhiếp tất cả. Lập nghóa Nhất tâm pháp: Bốn câu đầu là nói về lập nghóa nhất tâm pháp. Văn nói: “Cái gọi Pháp nghóa là tâm chúng sinh. Tâm này nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, y vào tâm này hiển bày nghóa Đại thừa”. Văn giải thích nói: “Hiển bày chánh nghóa là y vào pháp nhất tâm có môn, nhị chủng hai môn này không xa lìa nhau”, đây là lời tựa. Phàm, là lời mở đầu, như nói: Phàm cội gốc hiếu đức từ dạy dỗ mà sinh ra. Lại nói, phàm là rộng, là lớn. Hoặc nằm ở câu giữa, câu sau đều là lời nói đầu. Hai chữ Chân tâm là chỉ cho pháp thể. Chân nghóa là phân biệt chân thật chẳng phải luống dối. Tâm là thật thể linh thiêng mầu nhiệm, thường nói về tâm có bốn: Tiếng Phạm là Càn-lợi-đà-da, Hán dịch là Nhục đoàn tâm, là quả tim của con người, nó có mầu sắc đỏ, hình dáng như hoa sen, trên có bảy cánh, là thuộc về Sắc pháp. Tiếng Phạm là Chất-đa, Hán dịch là Tập khởi, tức là thức thứ tám A-lại-da, vì hay nhóm tập các hạt giống khởi ra hiện hành. Duyên lự tâm, ở đây gồm cả thức Tâm vương thứ tám, do mỗi thứ hay duyên lự cảnh tự phần. Tiếng Phạm là Càn-lật-đà, Hán dịch là Kiên Thật tâm, nghóa là tâm Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh không sinh không diệt. Nay chính là nói tâm này. Cái gọi là chân thật là tâm phân biệt. Nếu nói lời chân thật thì chỉ là nhất tâm thấu suốt chân vọng. Do luận này thành lập pháp thể Đại thừa, tức là tướng chung của tâm. Đối với Nhất tâm mới mở ra hai môn. Nay tuy nói chân chính là dùng riêng để nói về chung. Tâm này nếu ở môn đầu gọi là Chân như, nếu ở môn thứ hai thì gọi là Bản giác. Nên biết chân tâm là chung, chân như là riêng. Liêu là vắng lặng, quách là rộng lớn. Không tức là trong đó chẳng có vọng nhiễm, tịch là tánh vắng lặng kia. Rộng (khoáng) là đức dụng vô biên, lớn là thể trùm khắp pháp giới. Nên văn sau nói: Từ xưa đến nay tất cả pháp nhiễm chẳng tương ưng là nghóa không của tâm này. Kinh nói: “Diệu giác vắng lặng trùm khắp pháp giới”, đây là nghóa vắng lặng. Lại kinh nói: “Giác tánh trùm khắp đầy đủ không bờ mé. Nên biết sáu căn trùm khắp pháp giới, cho đến tám mươi bốn ngàn môn Đà-la-ni trùm khắp pháp giới”, nghóa là rộng. Lại phần sau luận nói: Nhất pháp giới là thể pháp môn đại tổng tướng bình đẳng, nghóa là lớn, vì thanh tịnh bản nhiên trùm khắp pháp giới rỗng lặng thường trụ diệu đức vô biên nên do đó nói chân tâm vắng lặng rộng lớn. Kinh Hoa Nghiêm Sớ chép: “Rỗng lặng rộng lớn, sâu xa trùm khắp bao gồm muôn hữu” tức là nhất tâm. Hỏi: Hư không khắp pháp giới vừa vắng lặng, vừa rộng lớn, có khác gì với tâm? Đáp: Hư không lấy vô vi làm thể, nên nói rộng là Không, một bề lặng yên, nên nói là Tịch. Bởi kia thiếu đức dụng nên nghóa rộng không thành. Vì tâm sở bao gồm nghóa rộng lớn không chuẩn đích, đâu đồng với chân tâm rộng khắp thanh tịnh, trong đó không dung chứa vật khác, đức dụng vô biên tánh khởi thành tướng, linh thiêng rỗng rang, tinh túy sáng rỡ, vượt hơn ấn hư không in trên biển kia. Phần trên đây là trình bày đức tướng của tâm. Bặt lời v.v… trở xuống, là tâm sáng suốt lìa lỗi. Bặt là dứt bặt văn từ, ngôn là ngữ ngôn, tức cảnh Văn tuệ. Tượng, nghóa tương tựï như hình tượng, tức cảnh Tư tuệ. Hệ Từ nói: “bậc Thánh do thấy chỗ sâu xa trong thiên hạ mà nghó ra hình dung ảnh tượng mọi vật”, nên gọi là Tượng. Thuyên là dụng cụ bắt cá (cái nơm), thê là cái lồng nhốt thỏ. Hai ví dụ này là dùng ngôn tượng làm ví dụ. Nay nói về chân tâm không thể nghó, băng đường ngôn ngữ dứt, chỗ, tâm hành diệt, nên nói là bặt. Nghóa là tâm thể lìa ngôn ngữ nên chẳng thể do ngôn ngữ mà được, tâm thể lìa niệm nên chẳng thể dùng thức tình mà cầu. Miệng nói thì từ mất, tâm duyên thì lự quên. Văn sau nói: “Từ xưa đến nay lìa tướng nói năng, lìa tướng tâm duyên”. Lại nói: “Chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, rốt ráo không thể nói tướng”. Đây đều là tâm sáng suốt lìa lỗi. Thuyên thê là dụ cho ngôn tượng. Thê là lưới thỏ, dụ cho ngôn ngữ giữ được vật tượng. Thuyên là cái nơm bắt cá, dụ cho vật tượng giữ được ý. Nay pháp và dụ đồng nêu làm thành văn. Nhưng, nói thuyên thê là phân biệt chánh văn. Nên văn kia nói: “Ngôn ngữ sinh nơi vật tượng, nên có thể dùng ngôn ngữ để xem vật tượng. Vật tượng sinh từ ý, nên có thể dùng vật tượng để xem xét ý. Ý lấy vật tượng làm tột, vật tượng do ngôn ngữ mà chấp. Cho nên được ý quên vật, được vật quên lời”. Giống như lồng để bắt thỏ, được thỏ thì quên lồng. Nơm để bắt cá, được cá thì quên nơm. Vì vậy ngôn ngữ là lồng của vật tượng, vật tượng là nơm của ý. Còn ngôn ngữ thì chẳng được vật, còn vật thì chẳng được ý. Vật sinh từ ý mà còn vật tượng hay sao?. Chỗ còn đó chẳng phải vật tượng. Ngôn ngữ sinh từ vật tượng mà còn lời ư? chỗ còn đó chẳng phải là ngôn ngữ, trong đây nêu ra để tìm ngôn ngữ mà được vật tượng, tìm vật tượng được ý. Được ý phải quên vật tượng, được vật tượng phải quên ngôn ngữ. Nếu không thể quên thì không bao giờ được ý chỉ. Đây chính là theo người để nói khuyên người bỏ nơm. Nay văn chỉ theo bổn tánh thẳng đến pháp thể nói lìa ngôn ngữ và vật tượng, chẳng phải đứng về mặt khuyến tu, tuy mượn văn kia mà chẳng đồng ý kia. Nếu muốn gượng nói do từ văn tự thì e trái với ý chỉ văn. Từ Xung mạc trở xuống, là nói theo ngang dọc để hiển bày đức tướng của tâm. Xung, nghóa là sâu, đây là nói về bản tánh tâm thể thẳng rộng, tột ba đời thấu suốt không đáy. Nên kinh nói: “Pháp tánh sâu xa là hành xứ của chư Phật”. Lại nói: “Sâu xa thăm thẳm”. Mạc, là sa mạc. Đây là nói lên đức tướng của tâm ngang dọc cùng khắp mười phương, rỗng rang không bờ mé. Cho nên kinh nói: “Bổn tánh viên mãn trùm khắp các cõi mười phương”. Đây chính là tột ba mé mà ba mé không dời đổi, khắp mười phương mà không ngoài mười phương. Lại, Xung nghóa là cứng mềm đều được, Mạc nghóa là danh từ mắt khó nhìn đến. Bởi tâm tánh này tuy thể lìa tướng mà tùy duyên thành việc, tuy tùy duyên khởi mà bổn tánh không thay đổi. Đây là thể tùy duyên bất biến, không thể dùng trí hiểu, hiểu biết danh ngôn, danh mục, nên gọi là mạc. Kinh nói: “Không nhiễm mà nhiễm, khó có thể biết được, nhiễm mà chẳng nhiễm, khó có thể biết được”. Hy nghóa là không tiếng, Di nghóa là không sắc. Lão Tử nói: Nghe mà không tiếng gọi là Hy, nhìn mà không thấy gọi là Di. Đây là nói lại tướng sâu rộng. Vì sâu nên không nghe tiếng, rộng nên không nhìn thấy. Tâm thể này chỉ có chứng mới tương ưng, thấy nghe chẳng thể đến được, cho nên quên cảnh, đây cũng là tâm nói lìa lỗi. Quên là đối với pháp không ghi nhớ, cũng có nghóa bặt không. Cảnh là Lý sở chứng. Trí là Tâm năng chứng. Nói “Cảnh trí năng sở”, là bởi bỏ mê theo ngộ, đối nhiễm nói tịnh, đều thuộc về sinh diệt. Nay đây nói về nhất tâm chẳng nhiễm chẳng tịnh, đến chỗ tột cùng dứt mê ngộ còn không thể đặt tên gọi chân vọng, huống chi còn năng sở, cảnh trí ư!. Kinh Lăng-già nói: “Không có Phật Niết-bàn, cũng không Niết-bàn Phật, xa lìa giác sở giác”. Kinh Viên Giác nói: “Giác, sở giác chẳng lìa trần, do thể nhất tâm dứt bặt phàm thánh, dứt nhân quả, lìa tánh lìa tướng, cũng không có cái chẳng không”, đâu thể lại nói cảnh trí năng sở, nên nói quên. Kinh Lăng-nghiêm nói: “Trong tánh chân thường, tìm sự đến đi, mê ngộ, sinh tử v.v… không bao giờ được” tức ở là đây. Hiển bày môn Chân như: Từ Phi sinh diệt trở xuống, là hiển bày môn Chân như. Môn trước chỉ theo dứt đối đãi, bặt lời nói, lìa tánh tướng, nên nói vắng lặng, to lớn, sâu rộng, mênh mông. Môn này là y theo sinh diệt nói về chẳng sinh diệt Do đối với vọng mà lập chân, nên nói môn Chân như. Tức ở sau, phần văn lập nghóa, nói: “Tướng của tâm chân như nầøy tức chỉ cho thể Đại thừa”. Trong văn giải thích nói: “Tâm chân như tức thể pháp môn nhất pháp giới đại tổng tướng”. Bởi vì tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt, cho đến nói: “Cảnh giới lìa niệm chỉ chứng mới tương ưng”. Nên nay bài tựa của sớ nói: “Chẳng sinh diệt v.v…”. Chẳng là không, là chẳng phải. Nhưng, sinh diệt và chẳng sinh diệt cần phải theo ba tánh mà phân biệt. Vả lại, nói theo tự tướng của ba tánh, nghóa là pháp vọng biến kế một bề sinh diệt, tánh viên thành thật một bề chẳng sinh diệt. Pháp y tha gá nương tương đồng biến kế, tợ sinh tợ diệt. Tánh viên thành chẳng sinh chẳng diệt. Nếu nói thật thì ba tánh đều không sinh diệt. Tuy nhiên, chẳng có nghóa nào không đồng, sao lại nói biến kế tức không có pháp để sinh, không có pháp để diệt? như con rắn trên sợi dây. Y tha tức là sinh mà không sinh, tức diệt mà không diệt, như sợi dây trên gai. Viên thành tức Trung, không có hai pháp sinh diệt ở trước, như trên sợi gai không có dây không có rắn. Duy Thức Tụng chép: “Trước là tướng vô tánh, kế không tánh tự nhiên, sau là do xa lìa”. Chỗ chấp tánh ngã pháp và tánh Viên thành ở trước, tức là chân như, nên nói chẳng sinh diệt, nhưng ở đây chỉ nói viên thành ngay nơi thể chẳng sinh chẳng diệt, cũng không hòa hợp, với pháp sinh diệt. Kinh Viên Giác chép: “Tánh Như Lai vắng lặng, không hề có trước sau”. Văn sau nói: “Bởi vì tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt”. Lại nói: “Chẳng ở mé trước sinh, chẳng nơi mé sau diệt, rốt ráo thường hằng…” Đây là nói lên chân tâm bất biến. Bốn tướng… Bốn tướng có ba thứ: Bốn tướng sâu kín: Nghóa là một sát na có chín trăm sinh diệt, chỉ là hữu vi đều dời đổi; tức Sinh, trụ, dị, diệt. Bốn tướng quả báo: Tức Sinh, già, bệnh, chết. Trong kinh Niết- bàn gọi là bốn núi. Như Kinh Niết-bàn chép: “Có bốn núi lớn từ bốn phương ép lại, muốn hại người dân, phải có cách gì để thoát khỏi?. Vua Ba-tư-nặc nói: Nếu có bốn tướng đến thì không có chỗ nào để trốn tránh, chỉ nên chuyên niệm trì giới bố thí. Phật khen: Lành thay! Ta nói bốn núi tức là sinh, già, bệnh, chết của chúng sinh, thường đến với tất cả mọi người”. - Bốn tướng nhất kỳ: Nghóa là buổi đầu từ mê chân cho đến cuối cùng tạo nghiệp. Tám tướng sinh diệt gồm chung thành bốn tướng, đó là: tướng Sinh có một, tướng Trụ có bốn, tướng Dị có hai, tướng Diệt có một. Nếu khi ngược mê để dứt trừ thì ban đầu từ Sơ Tín dừng được tướng diệt, sau cùng đến Thập địa dứt được tướng sinh, như phần sau sẽ nói. Nay nói Chẳng dời đổi, tức là bốn tướng nhỏ nhiệm gồm cả hai. Do bốn tướng dời đổi nên có pháp hữu vi, tâm là tánh vô vi chẳng tạo tác không có dời đổi. Văn đoạn giữa lược nêu phần đầu và rốt sau để nhiếp khoảng giữa, nên nói chẳng sinh diệt. Không đến đi, nghóa là chân tâm nay không hướng mé trước mà đi, chẳng từ mé sau mà lại, cũng không trụ ở hiện tại. Trụ hiện tại tức là các pháp hữu vi. Luận Thành Duy Thức nói: “Trụ pháp này tạm có diệu dụng”, nay chẳng đồng kia nên nói là không. Ba đời, đời là thời hạn. Mạc là không. Dị là ba mé biến đổi. Tuy là pháp hay thay đổi mà chỉ hay thay đổi pháp hữu vi, khiến cho pháp hữu vi thay đổi, còn tâm chẳng phải là hữu vi nên chẳng thay đổi. Kinh Tịnh Danh nói: “Chỉ do số văn tự nên nói có ba đời, chẳng nói Bồ-đề có quá khứ, vị lai và hiện tại”. Trình bày môn sinh diệt: Từ chữ Chỉ do trở xuống, là nói về môn Sinh diệt, tức phần Lập nghóa ở sau. Văn nói; “Tâm sinh diệt tướng nhân duyên nầøy có công năng hiển bày tự, thể, tướng, dụng của Đại thừa”. Văn giải thích nói: “Tâm sinh diệt là nương Như Lai tạng mà có tâm sinh diệt”, bởi chẳng sinh chẳng diệt hòa hợp với sinh diệt, cho đến tâm thức phân biệt chẳng thể biết được, lấy dụng chân như tự tại làm nghóa. Nay lời tựa này văn có bốn câu, câu đầu và câu giữa nêu pháp sinh diệt, hai câu còn lại giải thích tướng sinh diệt. Câu đầu nói Chỉ, là lời mở đầu, do là lý do. Tánh này tuy vắng lặng rỗng suốt sâu xa trùm khắp, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch. Nhưng, chẳng trụ nơi một chỗ vắng lặng này, trong chỗ chẳng nhiễm, chẳng tịnh theo kia hay huân thành tất cả pháp. Theo nhiễm tức là chứng tướng sinh diệt, theo tịnh tức là Ba thừa thánh đạo, đều do chân như lấy vô trụ làm tánh, cũng do tánh này không trụ như nhiên. Kinh Tịnh Danh chép: “Từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Nơi gốc vô trụ này lập thành thế giới và các chúng sinh”. Chẳng đồng tông khác, nói thể chân như, một bề bền chắc cũng như đá ngọc, chẳng thọ huân tập, chẳng thể theo duyên. Nên nói A-lại- da là gốc nhiễm tịnh, thọ huân tập, mang giữ hạt giống. Từ phái ấy trở xuống, là dùng ví dụ để nói. Nước chia thành dòng gọi là phái, đường chia ra nhiều ngõ gọi là kỳ. Nay lấy kỳ phái hợp thành một ví dụ, cũng như một nguồn nước tùy theo các ngã sông mà phân dòng thành nhánh, chân tâm cũng vậy, tuy theo nhân duyên mà làm phàm hoặc thánh, phần sau nói rõ. Từ Trục mê (theo mê) trở xuống, chính là nói về tướng sinh diệt. Trục là tùy, nhậm là theo. Mê là bỏ giác hiệp trần, ngộ là bỏ trần theo giác. Nhưng mê ngộ kia đều phải đủ nhân duyên. Trong mê lấy vô minh làm nhân, cảnh giới làm duyên. Trong ngộ lấy bản giác huân tập bên trong làm nhân, thầy dạy bảo huân tập bên ngoài làm duyên. Nếu tùy nhân duyên trong mê tức chìm đắm trong sinh tử, tất cả pháp nhiễm hữu lậu khởi ra, tất cả pháp tịnh vô lậu biến mất. Nếu tùy theo nhân duyên mê ngộ tức bước lên đường giác, tất cả pháp tịnh vô lậu sinh khởi, tất cả pháp nhiễm hữu lậu dứt mất. Như văn sau nói: “Vô minh làm nhân sinh ba đời, cảnh giới làm duyên sinh sáu thô, tức đắm chìm trong năm đường, là do theo mê. Trong bản giác huân tập làm nhân, bên ngoài thầy dạy huân tập làm duyên, phát giải khởi hạnh liền vượt lên quả vị Phật, đó là theo ngộ. Mê và ngộ đều từ tánh mà ra, mê ngộ tuy khác nhưng không thể nghó bàn là một. Nên kinh nói: “Tánh từ vô thỉ đến nay nương theo tất cả pháp, do đây có các đường và quả chứng Niết- bàn”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói Pháp môn tánh khởi chính là nghóa này. Lại, kinh Niết-bàn chép: “Phật tánh theo dòng thành các vị, v.v…”. Trong kinh Lăng-nghiêm chép: “Thí như hư không, thể chẳng phải các tướng mà chẳng chống đối các tướng phát huy trong nó. Mặt trời chiếu rực rỡ thì sáng, mây che thì tối”. Đều hiển bày tự tánh chân như chẳng trụ, tùy duyên thành pháp. Nói về hai môn không hai: Từ Tuy lại v.v… trở xuống, nói rõ hai môn không hai, trên nói chân như sinh diệt nghóa ấy siêu nhiên, tuy hình tướng chẳng đồng nhưng lý trở về một, tuy hai mà chẳng hai. Môn này văn giải thích nói: “Lại nữa, hiển bày từ môn Sinh diệt tức vào môn Chân như, vì tìm cầu năm ấm sắc và tâm, cảnh giới sáu trần rốt ráo vô niệm. Cho đến nếu quán sát biết tâm vô niệm thì được thuận theo nương vào môn chân như”. Nay là lời tựa. Văn có ba: PHÁP. Có hai: Nói về không hai: Trong văn có bốn câu, hai câu trước là nói về sinh diệt chẳng ngại chân như, hai câu sau nói rõ chân như, chẳng ngại sinh diệt, chẳng ngại lẫn nhau tức nghóa không hai. Nay mở đầu nói Tuy lại là lời bao gồm, thâu tóm hai câu sau. Chữ hệ là nhiều, hưng là khởi, cổ là động, dược là hớn hở. Hệ là nhiễm tịnh nhiều đường, Hưng là thường sinh khởi, Cổ là thể chẳng thường trụ, Dược là tướng chẳng dừng lâu. Do nhân duyên nhiễm tịnh nhiều nên hưng khởi chẳng thường trụ. Do không dừng lâu nên niệm niệm sinh diệt không hề tạm trụ. Tuy chẳng tạm trụ mà thể kia bất biến. Tánh bất biến tức là nguồn tâm mà nguồn tâm không hề dấy động. Nên văn sau nói: “Tâm Giác mới khởi, tâm không có tướng sơ”. Kinh Viên Giác chép: “Giác liễu như hư không, bình đẳng chẳng động chuyển”. Lại văn sau nói: “Tuy niệm nhân duyên quả báo thiện ác, cũng tức là niệm tánh không thật có” nên nói không phải ban đầu. Từ “vắng lặng” v.v… trở xuống, hai câu là nói chân như chẳng ngại sinh diệt. Mật cũng là tónh. Tónh trong tónh nên nói là mật. Tónh thì tướng chẳng sinh diệt, mật thì thể bặt có không. Hư thì vô ngại viên thông, Ngưng thì tịch mà thường chiếu. Lại không có các hoặc, ồn náo phiền nhiễu nên nói là tónh, không có nghiệp dời đổi gọi là mật. Lìa sắc chất ngại gọi là Hư, chẳng tâm sinh diệt nên nói là ngưng. Tuy chân thể như thế mà dụng thường tùy duyên, dụng tùy duyên làm nghiệp làm quả, hình ảnh thiện ác khổ vui không khác nhau, nên nói không hề trái. Thường là từng, thừa là trái. Nghiệp nhân quả báo đều có cả thiện ác, lậu và vô lậu, tức chẳng động mé chân mà kiến lập các pháp. Kinh Tịnh Danh chép: “Không ngã, không tạo tác, không người thọ, nghiệp đã làm ra cũng chẳng mất”. Văn sau nói: “Tuy nhớ nghó các pháp mà tự tánh chẳng sinh”, tức niệm các quả báo thiện ác khổ vui chẳng mất chẳng hoại. Giải thích thành vô ngại: Từ Nên khiến cho v.v… trở xuống, là giải thích thành vô ngại. Hai câu trước giải thích chân như chẳng ngại sinh diệt, hai câu sau giải thích sinh diệt chẳng ngại chân như. Nói nên khiến là lời khởi đầu nhân trước khởi sau, cũng gồm cả hai câu dưới. Vì chữ Sử nghóa là sai khiến. Do trước chân như chẳng ngại sinh diệt nên khiến chân thể kia bất biến. “Nhậm vân tùy duyên khởi thành nhiễm tịnh”, hai chữ nhiễm tịnh không pháp nào chẳng nhiếp, từ xưa chẳng đồng chứ chẳng phải đến nay, nên nói thường khác nhau. Nhưng nhiễm tịnh này toàn tánh dấy khởi. Văn sau nói: “Thí như các thứ đồ nung đều đồng tánh tướng cát bụi, vô lậu vô minh như thế đều đồng tánh tướng chân như”. Chẳng xả trở xuống hai câu, là giải thích sinh diệt, vì chân như không ngại cho nên vô ngại, do đó khiến kia chẳng xả bỏ vọng duyên khác nhau tức là một tánh chân thật, vọng duyên khác nhau phàm thánh đều sạch, phàm thánh khác nhau mà thể là một. Trong một thể vốn không có phàm thánh nên nói” trí nhất”. Trí là lý, là bèn. Văn sau nói: “Tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên giác, Bồ-tát,chư Phật chẳng ở mé trước sinh, chẳng ở mé sau diệt, rốt ráo thường hằng”. Kinh Viên Giác chép: “Ở trong thật tướng thật không có Bồ-tát và các chúng sinh”. Lại nói: “Chúng sinh trong cõi nước đồng một pháp tánh”. DỤ: Như kia v.v… trở xuống, là Dụ. Trong đây có bốn câu, hai câu trước dụ chân như chẳng ngại sinh diệt, hai câu sau dụ cho sinh diệt chẳng ngại chân như. Kỳ là lời chỉ về pháp, du là như. Sóng động là dụ cho sinh diệt nhiễm tịnh khác nhau, Nước ướt là dụ cho chân như một thể chẳng khác. Sóng lấy động làm tướng, nước lấy ướt làm tánh. Câu đầu là nói ngược lại, lấy ví dụ trong môn sinh diệt, chân như nhiễm tịnh chẳng khác, nên nói sóng cũng không. Nên tức trở xuống, là thuận dụ. Vì chẳng khác nhau nên đối với một tâm mà nói về sinh diệt, nên nói tức nước. Chữ tức là dụ của văn trước, tánh bất biến mà duyên khởi nhiễm tịnh thường khác. Nước cũng không v.v… trở xuống, hai câu dụ cho sinh diệt chẳng ngại chân như. Câu đầu nói ngược lại, dụ trong môn chân như, nhất tâm và nhiễm tịnh chẳng khác, nên nói nước cũng không. Câu kế là thuận du,ï vì chẳng khác nhau nên đối với sinh diệt kia mà hiển bày chân như, nên nói tức sóng. Ví dụ này văn trước nói chẳng lìa duyên, tức chân phàm thánh là một. Kết thành không hai: Do đó v.v… trở xuống là kết thành không hai, hai chữ do đó là từ chỉ sự kết thành. Động tónh v.v… ba cặp là nói có chung riêng. Chung thì chẳng ra ngoài hai nghóa chân như, sinh diệt. Nghóa là động tục sinh tử tức sinh diệt, ngoài ra đều là chân như. Riêng thì động tónh là theo dụ, chân tục đế là theo sinh tử, Niết-bàn là theo nhiễm tịnh. Các pháp hai pháp này vốn chẳng tương ưng, là pháp tướng siêu nhiên. Nay lấy nhất tánh mà thông, khiến động tónh không khác nhau, chân tục chẳng khác, nhiễm tịnh đồng thể, là một không khác. Bởi tánh khởi làm tướng cảnh trí rõ ràng, tánh tướng dung thông, thân tâm rộng lớn. Nên văn sau nói: “Như nước trong biển lớn do gió mà dậy sóng, tướng gió tướng nước chẳng xa lìa nhau”. Lại Kinh nói: “Hai đế đều chẳng phải, cả hai thường trái nhau, chưa từng hợp”. Lại Kinh Đại Tập chép: “Hai cõi sinh tử và Niết- bàn bình đẳng, tức là cõi Phật”. Trong đây giao nhau thấu suốt cả hai, dung thông trùm khắp thấu suốt tất cả, chính hiển bày lời nói hai pháp không hai, thông suốt dung hòa bình đẳng thấu suốt cùng khắp, xem văn sẽ thấy. Tuy nhiên, bốn môn trên chỉ thú rất mầu nhiệm, vì phần đầu là nêu gốc để bày ngọn, khiến muôn hữu tinh tú đều ở nghóa thiên. Phần sau là nhiếp ngọn về gốc, các dòng đồng về tánh biển. Lúc co lúc duỗi, hoặc còn hoặc mất, pháp ấy đồng thời, nghóa không có trước sau. Do đó, A-tỳ nương vào chỗ chân chánh hoàn toàn nơi tự tâm của bậc Thánh, thân Tỳ-lô chẳng vượt ngoài một niệm của phàm phu, ý chỉ viên thật đều ở đây. Hỏi: Phần đầu tựa nói về nhất tâm, phần sau nói về hai môn không hai, cũng tức là nhất tâm. Vậy trước sau có khác gì nhau? Đáp: Nhất tâm ở phần đầu là tâm năng khởi, nhất tâm ở phần sau là tâm sở quy. Nhưng, trước sau thể đồng mà nghóa đầu cuối có khác. Chỉ do gốc nhất tâm vốn lìa danh bặt tướng, do kia mê ngộ mà muôn pháp theo đó sinh ra. Pháp sinh vốn không, tất cả chỉ do thức. Thức như huyễn mộng chỉ là nhất tâm. Do đó, luận y nơi pháp mà lập, sớ theo luận mà nói thứ lớp bốn môn, nên không trái nhau. Tông chỉ của luận này đều ở đây. Nguyên do soạn luận: Chỉ do trở xuống, nói về nguyên do soạn luận, có hai: Hiển bày ngược lại: Là muốn hiển bày Bồ-tát soạn luận, nói không nhờ vào luận. Lúc Như Lai còn tại thế, tức thời đại duyên tốt, căn cơ cao siêu thuần thục dễ điều phục, tức căn thắng hạnh thắng. Nghóa là Đức Thích-ca Mâu-ni khi thành đạo rồi, lúc chưa nhập Niết-bàn, pháp hóa lưu hành, thánh hiền khen ngợi, căn cơ người thuần thục, tánh hạnh nhu hòa, chẳng phải ở chỗ một Đức Phật gieo trồng các gốc lành, mà đã ở chỗ vô lượng kiếp lâu xa vun trồng gốc đức. Một phen nhận lãnh v.v… trở xuống là nói căn hạnh thắng tướng, chẳng cần nghe lại, nên nói một phen thừa nhận thánh chỉ, là nhận lãnh lời nói của Thế tôn. Tám âm bốn biện từ miệng vàng của Phật nói ra, do nghe được lợi ích, được vô sinh nhẫn, nên nói huyền khế. Lại, huyền là xa vậy. Chẳng cần tự thân nghe từ kim khẩu Phật, chỉ xoay vần truyền nghe, như nhân duyên Thân Tử nghe Mã Thắng, Mục-kiền-liên nhận lời chuyển giáo từ Xá-lợi-phất v.v… Căn tánh này còn chẳng nhờ kinh kết tập, huống là nhờ Bồ-tát soạn luận ư?. Nên luận sau nói: “Nếu Như Lai còn tại thế, chúng sinh lợi căn, người nói pháp nghiệp sắc tâm cao quý, dùng viên âm một phen giảng nói thì dị loại đồng hiểu, thời chẳng cần soạn luận”. Nói rõ: Đại Sư v.v… trở xuống, là nói rõ, có hai: Bày lầm nói mê. Có hai: Chỉ bày chung: Đại sư là chỉ cho người có đức nghiệp cao siêu tốt đẹp, đáng làm khuôn phép, tức Thiên Nhân sư, là một hiệu trong mười hiệu. Duyên hết thì thôi giáo hóa, ánh sáng mặt trời Phật bị che mờ, nên nói chìm mất, tức khi ấy duyên thiếu kém, bấy giờ ở ngã tư đường mờ tối mất ánh sáng, thế gian đều tăm tối, chánh pháp lùi dần nên nói là thiếu kém. Dị chấp v.v… trở xuống là nói căn hạnh đều kém, do điên đảo chấp trước nên nói là dị chấp. Mê loạn chánh lý nên nói là lẫn lộn (phân luân). Phân là loạn, luân là lý. Ở đây có ba loại kế chấp khác nhau nên gọi là dị: Phàm phu y nơi độn hoặc, chấp năm uẩn sắc tâm, cho là thường, lạc, ngã, tịnh. Ngoại đạo y nơi phân biệt trên năm uẩn kế chấp có ngã, hoặc ngay nơi uẩn chấp đoạn chấp thường, khởi lên sáu mươi hai kiến chấp. Tiểu thừa tuy phá ngã chấp mà khởi pháp kiến, chẳng biết chân thường mà chấp vô thường. Tùy theo kiến giải của mỗi bên mà lập tông phái của mình, chia làm hơn hai mươi bộ, phải quấy lẫn nhau. Như thế đều gọi là kiến chấp khác nhau. Hoặc hướng v.v… trở xuống là nó về tướng yếu kém. Chữ hoặc là từ ngữ bất định. Đây chỉ cho người căn tánh thấp kém, hoặc tùy theo sử lợi độn mà thành phàm ngoại, hoặc nghe theo giáo pháp quyền thiển mà thành Tiểu thừa. Phàm phu, ngoại đạo đều chẳng phải là chánh pháp của Phật, nên nói đường tà. Chỗ quy hướng của tông phái gọi là thú hướng. Đường nhỏ là đã lìa chấp ngã nên chẳng gọi là tà, nhưng chưa được pháp không nên chưa nói đại đạo. Hướng về lý nghiêng lệch, tâm chán cần lao, nên tìm đến Hóa thành mà chẳng cầu đảo châu báu. Chỉ tham tự lợi không thể độ người, chẳng đi đường lớn nên nói đường nhỏ. Chỉ bày riêng: Bèn khiến v.v… trở xuống, là chỉ bày riêng, có hai: Mê lý: Bèn khiến, là từ ngữ bỏ trước khởi sau. Do căn duyên trước thiếu kém, dị chấp rộn ràng nên khiến mê mất tâm bổn chân, đuổi theo vọng trôi lăn. Công đức pháp bảo sẳn có mà không chịu dùng. Thần châu viên giải bị cấu uế che lấp nên không hiện. Cô đơn nghèo cùng nơi đường sinh tử, mang vác ngoài cửa Niết-bàn. Trải qua nhiều kiếp trôi nổi, ba đức bí tạng đâu thể được vào. Hai ví dụ trên đây đều phát xuất từ kinh. Một là dụ nhà nghèo có kho báu. Có kho báu tức là dụ thứ năm trong chín dụ của kinh Như Lai Tàng. Văn kia nói: “Giống như nhà nghèo có một kho châu báu, của báu không thể tự nói tôi ở trong đây, chủ đã không tự biết lại không được ai nói cho biết nên không thể khai mở kho châu báu này”. Tất cả chúng sinh cũng giống như thế. Kho báu đại pháp tri kiến của Như Lai ở trong thân chúng sinh mà chẳng thấy chẳng biết, chỉ đam mê theo năm dục nên trôi lăn sinh tư,û chịu khổ vô lượng. Không có tiền tài gọi là cùng khổ. Hợp với pháp sẽ biết. Đứa bé không cha gọi là cô quạnh. Hai là dụ hạt ngọc trong chéo áo, tức là phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký trong kinh Pháp Hoa, rộng như kinh ấy nói. Mắc nợ sức lực gọi là tôi tớ, sai khiến gọi là tạo tác. Ngoài ra xem văn sẽ hiểu. Mê giáo: Từ lại thêm v.v… trở xuống. Nói lại thêm là do sau khi Như Lai diệt độ tuy không vâng thừa từ miệng vàng của Phật, nhưng có kết tập văn kinh, có thể do tìm lời mà thấy hình tượng, theo hình tượng mà được ý. Chúng sinh căn tánh tuy thấp kém, thường khởi dị kiến, nếu nghe đại pháp thì tự nhiên sẽ cải chánh. Nay không thể tìm dịch lập bày phu diễn lý viên thật, vì đã nghe nhiều tà kiến nên khó phân biệt. Bậc Thánh đã diệt, căn hạnh nhỏ nhặt, nên giáo viên thật bỏ đi không thực hành, nên gọi là da. Trong văn có bốn câu thì hai câu đầu là nói về đại giáo suy đồi, hai câu sau nói rõ về người mê khó sửa đổi. Giáo chẳng phải là tiểu đạo đưa đến vô thượng, nên nói là Đại thừa. Tột cùng viên thật chọn lựa khác nhau giữa quyền và thiển, nên nói là ý chỉ sâu xa. Lá Bối tức lá cây đa-la, cũng như loại thẻ trúc bạch ở xứ này, dùng để viết văn, có thể để mở ra để xem, thấy được lời dạy chân lý, đúng như lời dạy mà thực hành, bỏ mê về ngộ. Bởi nay do bỏ phế chẳng thực hành nên nói là chìm. Hai câu dưới nói người mê khó sửa đổi. Các loài tức phàm phu, ngoại đạo, Tiểu thừa v.v… ở trước, mỗi hàng đều có nhiều người nên nói các loài. Không có mắt chánh pháp, chẳng thấy Phật tánh, nên nói là bọn người mù. Rong ruổi là đuổi theo các đường, tức ngỏ hẹp đường tà. Đã không thể thành tựu ở nơi chánh đạo nắm lấy viên thừa, mà mê lầm ngày càng sâu, huân tập thành tánh. Uống thuốc không thấm, bệnh làm sao khỏi, trở lại không nhân, nên nói chớ trước lại. Khởi lòng Từ bi soạn luận: Bèn có v.v… trở xuống, là khởi lòng từ bi mà soạn luận, có ba: Thương xót khen ngợi Nhân pháp: Hai câu đầu là năng thán, nên nói là bèn. Nghóa là lúc Như Lai diệt độ rồi, khoảng sáu trăm năm sau, căn tánh con người tuy thấp kém nhưng chánh pháp vẫn còn, bậc Thánh thị hiện sinh ra để hưng khởi chân giáo của ta, nên nói Bèn có Đại só, tức là luận chủ Mã Minh, vốn đã thành Chánh giác hiệu là Đại Quang Minh, trụ ở Bát địa làm Bồ-tát Pháp thân phát đại tâm, tin đại pháp, giải đại nghi, tu đại hạnh, chứng đại đạo, hướng về đại quả, bởi chẳng phải tiểu lưu nên gọi là Đại só. Mã Minh, là vị Bồ-tát này lúc sinh ra và khi nói pháp cảm đến các loài ngựa thương cảm hí vang, nên mọi người do đó mà gọi Ngài bằng tên hiệu như thế. Như sau sẽ giải thích rộng thêm. Khải thử trở xuống, hai câu, là lời than của Ngài. Câu đầu là lời than giáo pháp, là tiếng than không lời. Nói cảm thương Phật pháp suy đồi là dụ. Trong giáo viên thật, người tìm hiểu lý lẽ đã ít lại phế bỏ không thực hành; như mành lưới lớn, mắt lưới đã mục làm sao bắt được cá trời, người? Không gạn lọc được kia thì bờ kia Phật do đâu đến được? lặng đi trong biển khổ không thể ra khỏi, đạo chẳng chịu hành chỉ do đây.Thương kia v.v… trở xuống, là thương người mê, thương tiếc cho kẻ chìm đắm trôi lăn. Đại só thấy lưới giáo pháp bị chìm đắm suy đồi không thể dựng lập, bọn mê lặn hụp không thể ra khỏi. Than ôi! Thương thay! Lẽ nào không cứu giúp hay sao? Nên kinh nói: “Ta dùng mắt Phật xem thấy chúng sinh trong sáu đường nghèo cùng không phước tuệ, vào đường hiểm sinh tử nối tiếp không xen hở, thậm chí chẳng cầu thế lực lớn của Phật và pháp dứt khổ, vì chúng sinh này nên khởi tâm đại bi”. Nói về ý soạn luận: Sắp muốn v.v… trở xuống, là nói lại ý soạn luận. Văn có sáu câu. Hai câu đầu nói về giáo hiển bày lý, hai câu kế phá tà về chánh, hai câu sau khiến mau được lợi ích. Nay phần đầu nói: Sắp là sẽ, là định. Muốn nghóa là mong cầu, Mở nghóa là khai phát. Liễu nghóa Đại thừa gọi là Thâm kinh. Thật tột viên lý nên nói là diệu chỉ. Khi Phật đích thân nói pháp, người lợi căn được vào, như người có mắt khi ánh sáng mặt trời chiếu soi thấy các thứ màu sắc. Sau khi Phật diệt độ, chúng sinh căn tánh mê độn, các A-diên-ca cũng ở nơi đường tối, thể của mờ tối gọi là hai chướng. Đại só nghó muốn phát huy chỉ thú viên thật giúp người mê kia dứt sạch vô minh mờ tối. Xưa Phật từng phá nay lại lặp lại, nên nói lại soi sáng. Hai câu kế là phá tà về chánh. Bác nghóa là đả phá. Tâm hành ngoài lý đều gọi tà kiến, chẳng phải chỉ không tin nhân quả mà thôi. Phàm phu, ngoại đạo, Nhị thừa v.v… đều gọi là Tà. Cho nên Ca-diếp nói: “Chúng ta từ trước đến nay đều gọi là người tà kiến điên đảo”. Vì đầu chúc xuống gọi là điên đảo, có chỗ nói điên là bệnh. Mâu tức là tròng con mắt, đây là nêu ví dụ. Như người mắt bị nhặm vọng thấy có hoa đốm lăng xăng giữa hư không, thấy có hai mặt trăng. Lại, điên là tâm cuồng, do tâm cuồng nên mắt nhìn thấy các vật đều chẳng đúng, nghóa là chẳng gần mà thấy gần v.v… Bọn tà kiến kia cũng giống như thế, đối với tánh không thấy có sinh tử, Niết-bàn, ở trong diệu minh mà vọng kiến thành phân biệt. Nẻo chánh là con đường Bồ-đề chân thật. Đi rồi trở lại gọi là trở về chúng sinh thấy mê, chẳng nương vào chánh đạo, đi theo năm đường, dù ra khỏi ba cõi cũng lạc trong hầm vô vi. Nay muốn giúp những người ấy chẳng theo vết khác, hướng về đường thẳng không có các khúc quanh. Hai câu sau là tổng kết thành lợi ích nhanh chóng. Ban đầu là ví dụ, kế đến là pháp. Nước từ chỗ ban đầu chảy ra gọi là nguồn, tức là người. Như người vượt lên dòng nước ngược đến tột nguồn nước gọi là trở về nguồn. Ở đây dụ cho hành giả đi ngược lại dòng sinh tử trở về bổn tế. Được bổn tế gọi là giác được nguồn tâm, nên văn sau nói: “Giác nguồn tâm gọi là Cứu cánh giác”. Nếu theo chỗ khác nói thì ba vô số kiếp tu tập hạnh nguyện rộng lớn mới thành chánh giác, như dòng nước chảy về nguồn. Nay nói khả tức chẳng lay động, nghóa là chỉ nơi sinh diệt, nói nhân duyên kia không có tự tánh, bốn tướng tự chẳng sinh, vốn là chân thật. Như luận ở sau nói: “Bốn tướng xưa nay bình đẳng, chỉ một giác tánh”. Lại nói: “Tất cả pháp đều là chân, vì đồng là như”. Kinh Viên Giác nói: “Biết huyễn tức lìa, chẳng khởi phương tiện. Lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp”. Nam Nhạc nói: “Nguồn đạo chẳng xa, tánh biển chẳng động”. Triệu Công cũng nói: “Đạo xa ư! Chạm việc liền chân. Bậc Thánh xa ư! Thể đó là thần”. Đây đều là nghóa chẳng động, như chỉ bày nước muôn dòng chính là nước cội nguồn, không riêng có hai. Như thế, một niệm khế chân thì gọi là Phật, đâu đợi nhiều kiếp xa cầu! Nghóa của lợi ích nhanh chóng, rõ ràng rất dễ hiểu. Chánh soạn các luận: Soạn quảng luận v.v… trở xuống, là chánh soạn các luận, có hai: Quảng luận: Nghóa là Cam Giá Luận. Trong bản giải thích kinh Lăng-già nghóa vị dồi dào tốt đẹp, nên đặt tên gọi này. Lại soạn luận Nhất Tâm Biến Mãn, luận Dung Tục Quy Chân, luận Chân Tâm Tam-muội, v.v… hơn một trăm bộ. Như Lai diệt độ mới sáu trăm năm, căn cơ con người lanh lợi, có khả năng thọ nhận rộng lớn, nên nói: “Đương thời lâu xa muôn loài chúng sinh”, tức bao gồm các loài lâu xa cho đến vị lai. Hễ là đương cơ đều được lợi ích này, Nên nói: Lợi ích các loài lâu xa. Lược luận: Từ đã nghe v.v… trở xuống, được chia làm ba: Nguyên do khởi xuất: Ký là đã, tức là lời định trước. Văn nhiều là Luận Cam Giá sáu trăm quyển, có chỗ nói một trăm quyển, xứ này không có luận này nên khó định được phải trái. Mạo là sâu xa, bởi câu văn đã nhiều, nghóa lại sâu xa, đời sau tuy có người căn tánh viên đốn mà tâm lực thấp kém, đối với bộ luận này văn nghóa rộng lớn không thể xem hết, chẳng phải nói căn cơ một bề quyền tiểu gọi là hiểu biết nông cạn. Do lược luận này chính là Đại thừa đốn căn khiến ngộ nhập. Văn sau nói: “Có chúng sinh bị Quảng luận văn rườm rà làm phiền phức, tâm ưa tổng trì văn ít mà thâu nhiếp nhiều nghóa”, y theo đây sẽ hiểu. Lại nói: “Vì muốn giải thích nghóa căn bản của Như Lai khiến các chúng sinh hiểu đúng chẳng lầm, vì khiến chúng sinh gốc lành thuần thục đối với pháp Đại thừa, giữ vững lòng tin không lui sụt”. Đây chính là vì người tin hiểu Đại thừa, mà tạo nhân duyên ngược lại để biết. Ở trong chỗ rộng lớn này chỉ là không tâm lực, nên gọi là hiểu biết nông cạn. Chính soạn luận: Thương đời mạt pháp v.v… trở xuống, là nói về soạn luận. Bi là tâm Bồ-tát soạn luận. Bồ-tát phát tâm, thể có ba thứ: Đại bi, đại trí, và đại nguyện. Bi thì độ sinh, Trí thì cầu chứng, Nguyện thì nhiếp khắp. Nay vì cứu khổ chúng sinh ban cho cái vui rốt ráo mà soạn luận này, nên cần phải có lòng bi. Luận sau nói: “Bởi vì khiến chúng sinh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo, chẳng phải vì cầu danh lợi cung kính của thế gian”. Đời mạt pháp v.v… là nói về thời gian, kẻ mê là nói về các loài. Do Phật diệt độ đã hai ngàn năm trăm năm, đối với giải thoát, trí tuệ, học rộng, thiền định v.v… đều không bền chắc, chỉ theo cái thấy mê vọng, khởi các tranh luận, như hạng người này. Thật đáng thương xót! Cho nên soạn luận này khiến kia được ngộ nhập. Chữ diệp là đời, luân là loài. Nói về công đức lợi ích: Có thể v.v… trở xuống, là nói về công đức lợi ích, có hai: Lược bao gồm rộng: Có thể là lời ấn thán. Luận chỉ có một quyển, gồm hai mươi bốn tờ, nên nói tóm lược văn cú. Pháp sở thuyên nghóa đầy đủ như cát sông, nên nói nghóa rất dồi dào. Đây thời nhiếp tất cả pháp tạng của chư Phật trong mười phương ba đời, nên văn sau nói: “Nghóa sâu xa rộng lớn của chư Phật, nay tôi thuận theo tổng trì nói”. Lại nói: “Đại thừa như thế, là bí tạng của chư Phật tôi đã nói hết”. Giải hạnh v.v…, giải tức hai phần: Lập nghóa và Giải thích. Vì sở thuyên giúp cho hiểu. Hạnh, là tu hành tín tâm, cùng Khuyến tu lợi ích, vì sở thuyên khiến khởi hạnh. Lại nói: “Đối với pháp chân như hiểu sâu hiện tiền chỗ tu lìa tướng”. Lại nói: “Biết tâm vọng động không cảnh giới trước, tu pháp xa lìa, v.v…”. Đều tức là nghóa gồm đủ, ý không riêng khác. Giải hạnh cả hai đầy đủ nên nói đều gồm. Đều tức là đầy đủ giải hạnh, gồm là trong giải có hạnh, trong hạnh có giải. Chân và mắt đầy đủ mới đến được ao mát mẻ. Căn duyên khéo léo: Từ Trung hạ trở xuống, là căn duyên khéo léo. Nghóa là người trung căn trở xuống đều nhờ luận này khai mở mà được ngộ nhập tri kiến Phật. Nếu nói theo quả vị thì Ngộ chính là ngay tin hiểu. Nhập chính là ngay hành chứng. Nếu y theo tông Thiên Thai thì gồm khai thị; gồm đối với bốn mươi vị của Viên giáo, tức trụ Hành tướng địa; theo thứ lớp phối hợp là Khai thị ngộ nhập. Nay dùng sâu chứa đựng cạn, nên nói Ngộ nhập. Nhưng ở đây nói trung hạ là chẳng phải đối đại để chỉ tiểu mà gọi là trung hạ. Bởi do căn cơ Đại thừa viên đốn tự có thượng, trung, hạ khác nhau. Đây là trung hạ căn trong Viên đốn. Như nghóa ba căn trong kinh Viên Giác chính là đồng với ở đây. Nay nói trung hạ ngộ nhập vì kính nhường bậc thượng căn mà Quảng luận bao gồm.  KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 2 GIẢI THÍCH RIÊNG NGHÓA MÔN: Từ Sắp giải thích v.v… trở xuống, là giải thích riêng nghóa môn, có hai: Huyền tự khai chương: Trong Huyền tựa khai chương có sáu, vì có liên quan đến lời tựa. Đó là gì?. Bậc Thánh khi đã soạn luận thì chẳng phải luống không. Vậy luận này phát khởi là có lý do gì? Cho nên có Nhân duyên khởi giáo. Tên giáo đã biết ngay nguyên do sở học của người giải thích gồm thâu ba tạng. Vậy theo pháp, theo nhân, làm sao nhiếp thuộc? Cho nên có thuộc về Minh tạng. Luận tạng đã chung cả Bồ-tát Đại tiểu, có quyền có thật, nếu không do nghóa cầu đâu biết được chỉ thú!. Luận này nói pháp giới hạn đến chỗ nào? Cho nên có Phần hạn hiển giáo nghóa. Đã biết nghóa giáo sở thuyên, đã biết chỗ chí tột, nhưng chưa rõ do các cơ nghi gì mà nơi đây được ngộ nhập? Cho nên có các căn cơ thuộc về Giáo. Sở thuyên, sở bị đã rõ ràng, nhưng, chưa biết năng thuyên lấy gì làm thể? Cho nên có Năng thuyên giáo thể. Giáo thể đã rõ từ giáo đến sở thuyên, tông là đối với việc gì lấy làm tông, rốt ráo thú hướng đến chỗ nào? Cho nên có tông thú Sở thuyên. Thông thường khi khởi giáo thì phải có đủ những điều ấy. Cho nên nay Huyền tự dừng lại ở sáu môn này, đó là: 1- Sở nhân của luận. 2- Sở nhiếp của luận. 3- Sở thuyên của luận. 4- Sở bị của luận. Sở y của luận. Tông quy của luận. Thế nhưng, ở bổn sớ phần khai chương có nêu đủ mười môn, sáu môn đầu giống như ở đây, chỉ nơi đây sau lại liệt bày thêm bốn môn nữa, đó là: 1- Giải thích đề mục luận. 2- Thời đại soạn luận. 3- Năm tháng phiên dịch. 4- Giải thích theo văn. Như thế có mười. Nay sớ này không y theo sự nêu ra kia, vì nghóa môn Huyền tự không muốn lẫn lộn với văn nghóa biệt giải, nên hợp chung bốn môn sau với phần giải thích theo văn. Do đó Huyền tự chỉ có sáu đoạn. Giải thích Văn: Biện giáo: (Sở nhân của Luận) Từ Nhất biện giáo trở xuống, là giải thích văn, chia làm hai: Nêu chung: Gạn giải thích mười đoạn, trong mười đoạn thì một câu đầu đều là gạn hỏi, các đoạn còn lại đều là giải thích. Nêu riêng: Nhất y v.v… trở xuống, là nêu riêng mười đoạn: Nương trí nào? Khởi thể luận đâu thể ở trước trí, vì không có trí thì không thể khởi luận. Trong Phật pháp trí là căn bản, trong sáu nhân, trí là sinh nhân. Do có trí nên có nghóa, do có nghóa nên lập lời nói. Cho nên trong mười đoạn này, trước là trách trí kia. Nghóa là nương v.v… trở xuống, là giải thích. Nhưng, trí của Bồ-tát có quyền có thật. Thật trí đến lý thông suốt đời vị lai, phù hợp chân thể gọi là rỗng khế nguồn tâm. Nguồn tâm tức chân lý vô tướng. Khế ngộ lý này nên gọi Vô sinh nhẫn, tức trí Căn bản. Quyền trí là đảm đang việc kiến lập Phật pháp, thành tựu chúng sinh, tùy theo căn tánh kia mà trao cho thuốc pháp, để được thực hành, gọi là biện tài Tùy cơ khéo léo. Nghóa là thuận theo căn dục bậc thượng trung hạ, nên gọi là Tùy cơ. Lời nói không sơ xuất quanh co, thành tựu muôn vật không bỏ sót gọi là Xảo. Xảo mà không có tướng xảo, không thể dùng lời nói bàn luận, nghó lường được, nên gọi là Diệu. Trí này phát ra ở miệng, nên gọi là Biện, biện này có bốn biện hoặc bảy biện. Bốn biện là bốn biện vô ngại, tức là vui nói pháp nghóa, lời lẽ lưu loát, cũng gọi là bốn trí vô ngại, chỉ ở tâm ở miệng, chỗ dụng khác nhau, nên được gọi là Trí biện, thể kia là một. Bảy biện gồm: Tiệp biện: Đối với pháp không phải suy nghó, khi cần nói ngay. Vô đoạn biện: Liên tục xoay vần mà không đuối lý. Tấn biện: Thấu suốt lý sự tâm không mê muội, lời nói nhanh nhẹn như thác nước. Tùy ứng biện: Thích ứng mọi thời cơ không khác nhau. Vô sơ mậu biện: Lời nói khế lý, không sai sót. Nghóa vị biện: Danh số lý sự đều vô lượng. Nhất thiết thế gian tối thượng diệu biện, biện này có năm đức: . Thâm sâu xa như sấm. . Thông suốt ở xa đều nghe. . Tiếng thanh nhã như tiếng hót chim Ca-lăng-tần-già. . Khiến cho chúng sinh thâm nhập tâm ái kính. Nếu có người nghe thì vui mừng không nhàm chán. Có đủ năm đức gọi là tối thượng. Bốn biện và bảy biện trên đây đều nhờ trí Căn bản chứng lý mà được, gọi là trí Hậu đắc.Tướng xảo diệu thứ lớp ở hai môn. Nhưng, Trí viên thông của bậc Thánh cần cả hai lý sự cùng soi chiếu, thiếu một thì chẳng phải Viên trí. Nay luận chủ ở giai vị Bát địa chánh chứng Vô sinh, vào môn Chân như, tức căn bản thật trí chiếu môn Sinh diệt. Tùy theo sự lượng kia mỗi mỗi quán sát, biết rõ căn cơ, thiết lập giáo hóa, ứng với căn cơ mà khéo nói, tức sau được Quyền trí. Hai trí Quyền và Thật theo dụng tuy có khác nhau, nhưng thể không hai. Vì nương một thể viên trí này mà kiến lập văn luận. Luận Thập Địa xưng tán nói có ba trí biện tài (ba thứ trí biện tài) là: trí Chân thật, trí Thể tánh, và Quả trí. Hai trí trước tức trí Căn bản và trí Hậu đắc, một trí sau tức dụng của trí Hậu đắc. Nghóa là nương thể tánh khởi nói lời khéo léo, nên nói là quả. Chỗ nói ở đây là gồm cả ba trí trước. Dùng pháp gì chỉ dạy người? Đã biết chỗ nương của luận chủ, phàm phu hữu lậu chẳng thể biết, chỉ nương hai trí vô lậu kiến lập. Phàm có ngôn ngữ thì đều chứa đựng chân lý, ứng hợp thời cơ thì sẽ không có lỗi. Như chỗ chỉ dạy kia là pháp môn gì mà khiến người tin hiểu tu đoạn nhập chứng như thế? Vì vậy ở đây gạn hỏi, sau sẽ giải thích về nhất tâm. Tuy nhiên, pháp thể của Đại thừa là chúng sinh và chư Phật nguồn tâm không hai, chẳng phân ra nhiễm tịnh, chân vọng khác nhau, mà nhiếp đủ tất cả các pháp, lặng lẽ bất động, sáng rỡ không mờ tối, nên gọi là Nhất tâm. Tâm thể này phi chân phi vọng mà năng chân năng vọng, cho nên khai mở hai môn. Môn là không bít lấp, rỗng không thông suốt, qua lại ra vào tự tại, mở đóng không ngăn ngại. Y theo tâm vô tướng mà lập môn chân như, y tâm cụ pháp mà lập môn Sinh diệt. Hai Môn này mở đóng tự tại lẫn nhau, đều lấy nhất tâm làm nguồn gốc, nên nói tâm Chân như và tâm Sinh diệt. Ba đại là nghóa của hai môn, sau sẽ chỉ bày. Nghóa là môn chân như chỉ cho Thể đại, môn Sinh diệt chỉ đủ cả ba đại. Nên luận sau nói: “Là tướng tâm chân như, tức chỉ cho thể Đại thừa. Vì là tướng nhân duyên tâm sinh diệt hay chỉ cho tự Thể, tướng, dụng của Đại thừa”. Bốn tín là tin Chân như và Tam bảo. Tin tâm có một, tin cảnh có bốn, thành bốn tín. Luận ở sau nói: “Một là tin căn bản, là ưa thích niệm pháp chân như, cho đến thường nhớ nghó gần gũi cận tu tập như thật mà thực hành”. Năm hành là hành pháp Bố thí, trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Chỉ quán. Thành tựu bốn thứ tín tâm từ trước đến nay, khiến thành tựu căn bản không lui sụt vào chánh đạo. Như sau có nói rộng. Chỗ nói ngang bằng là pháp tướng có nhiều, nay sớ chỉ nói từ một đến năm, số tăng lược bày mà không nói nhiều, nên nói là ngang bằng. Nếu nói đủ tức Hai giác, bốn vị, bốn tướng, bốn cảnh, ba tế, sáu thô v.v… không thể dẫn rộng. Tuy giải thích nêu tuy ít mà không pháp nào chẳng bao gồm, vì một môn Sinh diệt nói rõ đủ tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, các pháp này đều là pháp chỉ dạy. Tuy nói chung là chỉ dạy, nhưng nghóa chỉ dạy có khác. Nghóa là đối với các pháp trên chỉ dạy giúp cho tín, hiểu hành, đoạn, chứng v.v… phối hợp với văn sẽ thấy. Do đó trong chỗ giải thích gọi chung là chỉ dạy. Chỉ bày thế nào? Chỗ lược nêu ở trên chỉ là pháp chỉ dạy, chẳng hay dùng phương tiện gì để hiển dạy. Xảo là quyền xảo, tiện là phương tiện, đây là luận chủ dùng trí chỉ dạy. Nhất vị Đại thừa tức chân lý nhất tâm, không phân ra nhiễm tịnh, nhân quả, phàm thánh, có không, đồng khác v.v… nên nói Nhất vị. Đối với Nhị thừa gọi là Đại thừa. Pháp thể này dùng trí ngầm hợp, xa lìa các phân biệt, nên nói Nhất vị. Nếu nương theo ngôn thuyết chỉ bày thì chia ra làm hai là Nghóa và Pháp. Luận nói: “Đại thừa, nói chung có hai thứ: 1- Pháp, 2- Nghóa”. Nhưng khai pháp có hai môn, diễn nghóa làm Ba đại. Luận nói: “Nương pháp Nhất tâm có hai môn: 1- Môn Tâm chân như, 2- Môn Tâm sinh diệt”. Lại nói: “Cái gọi là nghóa phải có ba thứ”, đầy đủ như trước đã dẫn. Do đây trở xuống, là kết luận chỉ dạy. Nghiêng về quyền (quyền giáo), nghóa là luận chủ dùng trí Nhất thật chứng chân lý Nhất vị, vô phân biệt. Dùng năng lực phương tiện vì chúng sinh, khéo dùng phương tiện khéo léo mà khai mở nhất vị thành nhiều pháp môn. Nhiều mà không có tướng nhiều, không trái với nhất vị nên nói là khéo léo. Khai tức giảng một thành nhiều, thị là mở bày, giúp cho sinh hiểu. Lấy gì hiển bày? Ý trách thiện xảo ở trước, chính là triển khai nghóa môn kia khiến một thành nhiều, nay muốn làm cho nghóa lý này rõ ràng dễ thấy. Do phương tiện gì mà hiển được? Do lý do mà hiển rõ. Âm là âm thanh, tự là văn tự. Âm thanh mà không có tướng âm thanh, tự mà không có tướng văn tự, nên gọi là diệu thiện. Nghóa là luận chủ đối với quyền thật dùng trí vô ngại diễn bày thanh danh cú văn, thuộc về tánh lành vô lậu, chẳng giống phàm phu thuộc về vô ký. Kinh Tịnh Danh chép: “Nói là Pháp, là không nói không chỉ bày”. Đây chỉ là khai đạo lợi ích chúng sinh, không nương theo văn tự. Trong phẩm Thập Địa Kinh Hoa Nghiêm nêu thí dụ vẽ gió trong hư không v.v… đều là hiển bày thanh danh, cú văn, chẳng phải có chẳng phải không, đây đều là diệu âm, thiện tự. Thí là so sánh, dụ là để hiểu, tức lấy việc gần mà so sánh, khiến nơi pháp sâu xa được hiểu rõ. Ngài Vô Trước nói: “Dụ là nghóa thấy một bên, nghóa là chỗ thấy một bên hòa hợp với chỗ chưa thấy một bên”. Chánh thuyết gọi là dụ. Sư Tử Giác nói: “Thấy một bên nghóa tức là đã hiển bày rõ ràng, chưa thấy một bên là phần chưa hiển bày rõ ràng. Đem phần hiển bày rõ ràng cùng phần chưa hiển bày rõ ràng khiến nghóa bình đẳng”. Có chánh thuyết gọi là lập dụ. Tuy nhiên có hai thứ: 1- Pháp giống, 2- pháp khác. Pháp giống là hoặc ở chỗ ấy hiển nhân đồng phẩm quyết định có tánh. Nghóa là hoặc vật làm ra thấy kia vô thường, thí như chiếc bình. Pháp khác là hoặc ở chỗ ấy nói sở lập vô nhân trùm khắp chẳng phải có. Nghóa là nếu là thường kiến chẳng phải vật làm ra, như hư không v.v… Tuy nhiên, lìa mười lỗi mới làm chánh dụ. Dụ về pháp đồng có năm lỗi là: Pháp năng lập chẳng thành, pháp sở lập chẳng thành, cả hai đều chẳng thành, không hợp đảo thành hợp. Dụ về pháp khác có năm lỗi là: Pháp sở lập chẳng mất, pháp năng lập chẳng mất, cả hai đều chẳng mất, chẳng lìa đảo thành lìa. Tông là cái do pháp thành lập. Nhân là nhân do của Tông chủ. Do đó cùng với ví dụ trước đều là năng lập. Luận Nhân Minh chép: “Do nhân nơi tông dụ, thường nói khai mở các cõi”. Người hỏi (vấn giả) là người chưa rõ nghóa, cố nhiên tông đó có chỗ nương. Cho nên chỗ nương có Năng biệt, Sở biệt. Ở trên nương vào thể và lìa chín lỗi mới làm chánh tông. Nghóa là: Hiện lượng trái nhau, Tỉ lượng tương vi, Thế gian tương vi, Tự giáo tương vi, Tự ngữ tương vi, Năng biệt cực thành, Sở biệt cực thành, Câu cực thành, Tương phù cực thành. Nhân có ba tướng là: Biến thị tông pháp tánh, Đồng phẩm định hữu tánh và Dị phẩm biến vô tánh. Nhưng, nhân có hai thứ: Sinh nhân và Liễu nhân. Sinh nhân như hạt giống sinh mầm, Liễu nhân như đèn soi chiếu vật, hai nhân này mỗi nhân có ba thứ. Sinh nhân: Có ba: 1- Ngôn sinh nhân. 2- Trí sinh nhân. 3- Nghóa sinh nhân. Liễu nhân. Có ba: 1- Trí liễu nhân. 2- Ngôn liễu nhân. 3- Nghóa liễu nhân. Rộng như sớ (giải) kia. Nhưng, nhân này lìa mười bốn lỗi mới là chánh nhân, mười bốn lỗi là: Lưỡng câu bất thành, Tùy nhất bất thành, Sở y bất thành, Do dự bất thành, Cộng bất định, Bất cộng bất định, Đồng phẩm nhất phần chuyển dị phẩm biến chuyển, Dị phẩm nhất phần chuyển đồng phẩm biến chuyển, Câu phẩm nhất phần chuyển, Quyết định trái nhau, Pháp tự tướng trái nhau, Pháp sai biệt trái nhau, Hữu pháp tự tướng trái nhau, Hữu pháp sai biệt trái nhau. Nhưng, ba nhân này cùng lìa ba mươi ba lỗi đều là giảm thiếu, nay chẳng phải ý chính không thể vạch bày đầy đủ. Trong luận này tuy nói Tông, Nhân, Dụ mà chẳng đồng nhân, nói ba việc tập hợp thành Tỉ lượng. Nay trong văn hoặc nêu tông nghóa, hoặc nêu tông nhân, hoặc nêu tông dụ, hoặc nêu nhân dụ. Luận ở sau nói: “Một là pháp, hai là nghóa”. Pháp nghóa này chỉ là nói nhân, trước vạch bày, sau nói hữu pháp và pháp. Như Lập Lượng nói: “Nhất tâm là hữu pháp định, đầy đủ ba đại làm tông nhân, cho là có hai tướng chân như và sinh diệt”. Ơû đây chỉ nêu tông nhân kia mà không dẫn dụ. Có chỗ nói: “Chân như là hữu pháp định, không thể lập, không thể mất, nên làm tông nhân” Cho là tấùt cả pháp đều là chân, vì đều đồng như. Đây cũng chỉ nêu Tông nhân, còn lại có thể so sánh mà biết. Nếu lấy luận này đối năm tánh thì Tông theo Lập Lượng nói: “Một tánh chân như là hữu pháp định hay tùy duyên, nên làm Tông nhân”. Cho là nương pháp hữu vi sở y bình đẳng, đồng dụ như hư không, khiến cho phần sau kết hợp chỉ bày, nghóa là diệu âm ở trước, v.v… làm Năng hiển, pháp nghóa lý thú làm Sở hiển. Do ở trước dùng phương tiện khéo léo khiến nghóa lý rõ ràng dễ thấy. Hai đoạn trên đây tức là tướng khéo léo mầu nhiệm ở trước. Nương đâu làm cội gốc? Đây là gạn hỏi Bồ-tát soạn luận phải có y cứ, nếu không chỗ y cứ thì đồng với nói suông. Thánh ngôn của Phật là chí Giáo lượng, đạo lý chánh tức là Tỉ lượng, định lượng tức Hiện lượng. Chí giáo là tất cả người trí không chỗ nào chẳng xem qua. Đầy đủ năm thứ ngữ ngôn là lời thành thật. Y theo đây lập luận chắc chắn đáng tin. Không có luống dối nên lấy đó làm gốc. Lời bậc Thánh gồm cả Ba thừa, ngoài ra người khác có chỗ chẳng biết, bởi phân biệt nên nói là Phật. Trước nêu Tỉ lượng, vì theo luận theo kinh nên nói Tỉ lượng. Nghóa là mượn các tướng mà xét nghóa. Các tướng là nhân ba tướng, do kia làm nhân ở chỗ Tỉ lượng này so sánh có chánh trí sinh, rõ biết có lửa hoặc vô thường, v.v… Nay nói chánh đạo lý là gạn lọc tất cả nhân tà. Nếu nhân chẳng phải tông nghóa cũng thành tà. Do đây nên gọi là chánh đạo lý. Hiện lượng là vô phân biệt, nếu có chánh trí đối với sắc v.v…, nghóa lìa danh chủng, v.v… có chỗ phân biệt. Hiển hiện biệt chuyển nói là Hiện lượng. Ở đây có bốn loại: 1- Năm thức thân. 2- Năm câu ý. 3- Chư tự chứng. 4- Nhất thiết định tâm. Bốn thứ trên đây đều là Hiện lượng. Nói Định lượng là do bốn nghóa này duyên các cảnh sắc là quyết định, cũng có thể trong chánh đạo lý ở trước, đầy đủ bao gồm hai lượng là so sánh sinh hiểu và tự chứng biết, không hề lầm lẫn, đều là chánh đạo lý. Một câu định lượng chỉ chung ba lượng, đều là quyết định, lấy đây làm gốc đáng tin theo. Nương vào năng lực nào? Đây là vặn hỏi Luận chủ y kinh soạn luận, trên muốn khế hợp với bậc Thánh, dưới muốn lợi ích phàm tình, đến đời sau vì phá tà lập chánh, đời đời chẳng dứt, đèn nối đèn chẳng tận, là do tự lực hay nhờ năng lực người khác? Quy y Tam bảo, vì Tam bảo là ruộng tốt tốt lành trên hết cho tất cả chúng sinh. Có quy y là hay biện đại sự, sinh các phước trí, hay lìa sinh tử được vui Niết-bàn. Cho nên khi Phật diệt độ các đệ tử có soạn thuật văn gì đều quy y Tam bảo, là chỉ dạy người học hữu tông, chẳng tự chuyên mà xa lìa thành lỗi lầm, nay cầu xin oai lực che chở mà biên soạn, để đến đời sau mọi người đều tin nhận. Nhưng che chở có hai thứ: 1- Hiển gia: Nghóa là tự thân nói pháp. 2- Minh gia: Nghóa là tối tăm tăng thêm trí tuệ. Nay chung cả hai thứ này nói năng quy, sở quy. Như ở sau sẽ giải thích rộng. Là nghóa gì? Ở đây vặn hỏi đã nhờ oai lực của Tam bảo che chở mà soạn luận này, có nghóa gì mà ý kính mến như thế? Giúp giáo hóa: Trợ là phụ giúp, dương là phát huy, hóa là dạy bảo. Tức là phụ giúp Như Lai, phát huy pháp môn, dẫn dắt chúng sinh. Do chư Phật mười phương lần lượt làm thầy giúp đỡ, giúp đỡ lẫn nhau, làm cho đạo pháp lưu hành, chúng sinh thọ giáo. Nay Luận chủ thị hiện ở nhân vị y nơi tông kinh của thầy ta, Đức Mâu-ni mà luận, nên nói giúp giáo hóa. Dẹp tà hiển chánh, vì khi Như Lai còn tại thế, đối với người tà kiến Phật tự điều phục. Sau khi Phật diệt độ nếu có những hạng này, không người biết chế phục họ. Nay luận chủ vì dẹp bọn tà kia, không để tà giáo hưng thạnh, mà dựng lập chánh pháp của ta, giúp sinh chánh kiến. Trong luận phần sau sẽ hiển bày chánh nghóa đối trị tà chấp ấy. Hộ trì pháp để lại, pháp môn Phật đã nói cho đến sau khi Ngài diệt độ, gọi chung là pháp để lại. Nay soạn luận phát huy không để rơi rớt, gọi là hộ trì lần lượt mở mang truyền bá. Đèn nối đèn chẳng dứt, mãi cho đến kiếp sau gọi là trụ lâu ở đời. Báo ân Như Lai, giáo pháp Phật lưu lại mạc đích là truyền bá mở mang, lần lượt độ người, giúp đến đại quả. Nếu không truyền bá giảng nói là trái lại bổn hoài của Phật, tức là bội ân. Nếu hiển phát được diệu môn, chiếu soi Đại giáo, chịu nhọc nhằn mà được lợi ích, không dứt đại đạo, đây là thuận hợp tâm Phật, nhã xứng tông tổ gọi là báo ân. Trí Luận chép: “Dù cho đầu đội kinh trải qua số kiếp nhiều như bụi nhỏ, thân làm giường ngồi trải khắp Tam thiên, nếu không truyền bá lợi ích chúng sinh, cuối cùng vẫn không thể báo ân. Nếu có truyền giữ chánh pháp tạng, mở mang giáo lý độ chúng sinh, tu tập một niệm khế hợp chân như, đây là chân thật báo ân Như Lai”. Tuy nhiên, năm câu trên nói có hai ý: Mỗi việc tự nói riêng, một câu là một ý, nghóa là giúp cho Đức Phật mở mang giáo hóa, dẹp tà hiển chánh, v.v… Theo dấu vết chung của luận, từ một đến năm, lần lượt làm nguyên do cho nhau, tức giúp Phật mở mang giáo hóa là vì dẹp tà, vì dẹp tà là hiển chánh, cho đến báo ân Như Lai. Do nhân duyên gì? Ở đây gạn hỏi nguyên do như trên là việc gì? Khiến chúng sinh, là tất cả chúng sinh ba nhóm, năm tánh. Lìa tất cả khổ, lìa ba khổ, tám khổ, cùng hai thứ khổ sinh tử phần đoạn và sinh tử biến dịch. Được vui rốt ráo, là được vô thượng Bồ-đề giác pháp lạc, vô thượng Niết-bàn tịch tónh lạc. Một khi được là được mão, không còn có lỗi, vì khác vơái trời, người và người Nhị thừa, nên nói là rốt ráo. Lý do gì mà khởi? Đây là gạn hỏi tâm Bồ-tát soạn luận là do đâu mà khởi đại bi. Tức đồng thể vô duyên chẳng phải ái kiến, nên nói là đại v.v… Mẫn là thương xót, tức tâm năng bi; Vật là chúng sinh, tức cảnh sở bi. Phàm phu tham đắm sinh tử chấp thường lạc ngã tịnh, nên nói là mê. Người Nhị thừa yêu đắm Niết-bàn, bốn thứ vô thường v.v…, chẳng phải là chỗ chánh hướng mà thú lầm cho là chánh, nên nói là lầm. Soạn luận là vì chúng sinh khiến bỏ mê về ngộ, bỏ thiên vào viên. Được lợi ích gì? Đã vì chúng sinh mà soạn luận, vậy chúng sinh có sự giáo hóa này được lợi ích gì? Phần sau nói có bốn lợi ích. Tín là Thập tín. Văn tư tu tuệ là Tam hiền, Chứng nhập tức là Thập địa. Nhân mãn tức Cứu cánh vị. Đây là người chưa tin giúp họ tin, người chưa hiểu giúp cho hiểu, người chưa thực hành giúp cho thực hành, người chưa chứng giúp cho chứng, người chưa Niết-bàn giúp cho được Niết-bàn. Ban đầu từ phàm phu cuối cùng đến Đẳng Giác, lãnh thọ sự giáo hóa kia đều được lợi ích. Theo bổn sớ giải nói có sáu lợi ích là: 1- Tín. 2- Ba huệ. 3- Chứng. 4- Nhập. 5- Nhân mãn. 6- Đại đồng tiểu dị. Khai hợp cả hai đều chung, nhưng mười nhân trên ý nghóa nối tiếp, nếu không giản lược thì đâu khỏi lầm lẫn. Nay lấy chỗ cạn thấp làm ví dụ không để lầm lẫn. Ví như xây ngôi nhà lớn trước phải có hiểu biết, (hiểu biết khởi tạo, ứng hợp hai trí). Kế bày những thứ cần tạo, (mái nhà, tường, hành lang. Ứng hợp Tâm, Môn, Đại). Thứ ba là rõ hình tướng của ngôi nhà, (xà nhà hướng trái, ứng hợp phần ba đại). Thứ tư là đồ dùng để xây dựng, (cân, búa, mực, thước. Ứng hợp Diệu âm thiện tự). Thứ năm là có chuẩn đích xác thực, (nương kinh nghiệm, y theo thợ mộc, ứng hợp với ba lượng). Thứ sáu là nương nhờ âm công, (cúng bái thần linh, ứng hợp Tam bảo che chở). Thứ bảy là trên an lập chỗ tôn quý. (cha, mẹ, ứng hợp báo ân Phật). Thứ tám là dưới che chở đời sau. (con cháu gái trai, ứng hợp với chúng sinh) Thứ chín là nghó tình thâm sâu, (có ân có ái. Ứng hợp với đại bi thương xót chúng sinh. Thứ mười là đều được an ổn. (Thuận theo kia ẩn liền hợp. Ứng hợp Tín, Giải, Nhập, Chứng). Như trên phối hợp rõ ràng khác nhau, do đây mười đoạn văn này không có xen lẫn nhau. Lại, trong mười đoạn này có nhân, có duyên, có chung, có riêng. Chung thì nhân duyên chẳng phân, nghóa là mười đoạn này làm nhân chung, do duyên khởi soạn luận. Riêng thì đoạn thứ chín là nhân, đoạn thứ tám là duyên. Sáu đoạn trước là chỗ nương của nhân duyên. Đoạn thứ bảy và đoạn thứ mười là quả của nhân duyên. Lại trong mười đoạn này không ngoài bi trí. Nghóa là thứ nhất là trí, thứ chín là bi. Đoạn thứ hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy là tướng của trí. Đoạn thứ tám và mười, hai môn này là tướng của bi. Nhưng, trong luận văn tự có tám thứ nhân duyên, có giống có khác với ở đây. Đồng thì hai văn của sớ luận không ngoài hai thứ bi và trí. Dị thì trong luận chỉ nói thẳng chỗ hoài bão của mình vì pháp lợi sinh. Sớ thì tựa đầy đủ. Luận chủ dùng trí giáo hóa, mượn phương tiện khéo léo mở bày, nương nhờ năng lực hộ pháp, trên báo ân Phật, dưới hóa độ chúng sinh. Hỏi: Vì sao trong luận không trình bày đầy đủ? Đáp: Vì sớ trình bày ý khác, có thể vạch bày đầy đủ. Luận chủ đã nói rồi, chỉ nói về nguyên do. Nếu đồng trong sớ liền thành tự phạt, cho nên không trình bày đầy đủ nữa. <詞>- Thuộc về tạng nào trong các tạng: Hai, ba v.v… chẳng phải một, nên nói các tạng. Đều hay gồm nhiếp nên gọi là Tạng. Nghóa là luận này nói trong hai ba thuộc về tạng nào? Ba tạng là tạng Kinh, tạng Luật, tạng Luận. Ở đây nói theo giới, định, tuệ học, tăng sở thuyên cao quý mà lập. Nghóa là thuyên định tăng thắng, gọi là Kinh tạng. Nói giới tăng thắng, gọi là Luật tạng. Nói tuệ tăng thắng, gọi là Luận tạng. Nói tăng thắng là do mỗi tạng gồm chung cả hai tạng kia. KINH TẠNG: Tiếng Phạm là Dục-để Tu-đa-la, hoặc gọi Tu-đố-lộ-tố-lãm, Hán dịch là Khế Kinh, nghóa là khế với pháp nghóa sở thuyên, khế hợp sở hóa cơ tâm. Kinh là thấu suốt, sở thuyết nghóa lý không bị phân tán, nhiếp trì sở hóa căn cơ chúng sinh, không để bị điên đảo đọa lạc. Nên Luận Phật Địa nói: “Thấu suốt thâu giữ, cái gọi là ứng hợp pháp nghóa, cùng căn cơ bao trùm. Cho nên khế kinh tức là Tạng, là Trì nghiệp thích. LUẬT TẠNG: Tiếng Phạm là Tì-nại-da, hoặc nói là Tỳ-ni, hoặc Tỳ-na-da, Hán dịch nghóa là Luật, để rõ phép tắc trì phạm, mới có chế điều pháp như đây. Gìn giữ pháp này là luật pháp. Xưa dịch là Điều phục, nghóa là ba nghiệp chế phục lỗi lầm. Điều phục thì thông tạo tác, Chế phục thì chỉ rõ dứt ác. Hoặc dịch là Diệt, nghóa là thân ngữ ý ác thiêu đốt hành giả, nghóa đồng với lửa cháy, vì giới có công năng dập tắt. Hoặc nói Mát mẻ, vì dứt được tướng ác (của thân, miệng, ý) thiêu đốt. Đây là Sở thuyên, nên được gọi là Tạng điều phục, là Y chủ thích. LUẬN TẠNG: Tiếng Phạm là A-tỳ-đạt-ma, Hán dịch là Đối Pháp. Pháp là cảnh sở đối, nghóa là Niết-bàn vô vi và bốn chân đế. Đối tức tâm năng đối là Lý trí và Lượng trí. Hai đối này phân biệt pháp tướng tột diệu nguồn lý kia, rõ ràng như chỉ tay đối diện trước mắt, gọi là đối pháp, tức Tạng đối pháp, là Y chủ thích. Luận này thuộc về định kia, chẳng phải kinh, luật nên nói thuộc về Đối pháp tạng. Cũng luận Du-già chép; tất cả các kinh điển liễu nghóa tuần hoàn nghiên cứu. Ma-lý-ca y cứ theo đây gọi là nhiếp thuộc Đối pháp tạng, cũng là Phật nói. Hỏi: Luận này Bồ-tát soạn sau khi Phật diệt độ, vì sao được xếp vào Đối pháp Tạng ư? Đáp: Phật nói pháp có ba thứ: 1- Phật tự nói, 2- Vì người khác nói, 3- Vì thọ ký mà nói. Đây tức là thuyết nói sau cùng. Kinh Ma-da nói: “Phật thọ ký cho Ngài Mã Minh sẽ đốt đuốc chánh pháp, diệt cờ tà kiến, khéo nói pháp yếu”. Đã lãnh thọ huyền ký tức đồng với Phật nói, nên được xếp vào đây. Hỏi: Nếu nói huyền ký nên được nhập vào Luận tạng, vậy sau khi Phật diệt độ, tất cả Bồ-tát soạn luận đều được huyền ký hết chăng? Đáp: Bởi câu hỏi này nên nay giúp thêm một phen để hiểu lấy lời Phật nói. Tuy có luận nghị nhưng đều thuộc Kinh tạng, do mười hai bộ đều gọi là kinh, còn Bồ-tát soạn thì chỉ gọi là Luận. Hoặc y cứ kinh ấy, hoặc theo sự hiểu biết mà giải thích, sở nhiếp này cũng không trái với hai tạng kia. Đây là y theo người mà lập, nghóa là đối trong Ba tạng chỉ bày lý, hạnh, quả của Đại thừa, gọi là Bồ-tát tạng. Chỉ bày lý, hạnh, quả của Tiểu thừa, gọi là Thanh văn tạng. Luận Hoa Nghiêm và Nhiếp Đại thừa chép: “Vì thừa trên dưới khác nhau, nên có Thanh Văn và Bồ-tát tạng”. Nhưng nói theo người, thì người có ba thừa hợp chia ra ba tạng. Do người Duyên giác phần nhiều không nương giáo, ra đời không có Phật hoặc có Phật, tức thuộc về Thanh Văn, vì trong bốn pháp lý quả đồng, do đó chỉ lập hai tạng. Nếu y cứ giáo hạnh có khác nhau, cũng có thể chia thành ba tạng. Kinh Phổ Siêu Tam-muội và Luận Nhập Đại thừa chép: “Do theo nghóa riêng, chia làm ba tạng”. Nay y theo các Lu- ận Trang Nghiêm v.v… đối theo nghóa đồng, hợp thành hai tạng. Khai và hợp đều theo một ý. Tuy nhiên, trong ba tạng đều có đủ hai tạng, trong hai tạng đều có ba tạng. Lại theo pháp mà chia đây thành hai ba, rộng như Viên Giác Sớ đã nói thuộc về Bồ-tát tạng, vì là Đại thừa, chẳng nói Tiểu thừa có xếp vào đây. - Phạm vi của giáo nghóa. (Sở thuyên của Luận): - Nêu chung bày riêng: Giáo là nghóa năng thuyên tức sở thuyên, lấy nghóa sở thuyên trình bày giáo năng thuyên, tức biết đến chỗ tột phân chia của giáo này. Nói pháp thông hay cuộc, thông là Chung giáo, Viên giáo, Đốn giáo của Đại thừa. Do căn cơ rộng lớn, nên nói nghóa sâu xa. Cuộc tức Tiểu thừa và Đại thừa thỉ giáo. Do nói pháp cạn, vì căn cơ nhỏ hẹp. Lại sâu bao gồm cạn, nên gọi là Thông. Cạn chẳng đến được sâu, nên gọi là cuộc. Một quyển kinh bao gồm nhiều giáo, nên gọi là Thông. Một quyển kinh chỉ nói một giáo, nên gọi là cuộc. Do nghóa phân giáo, là do các nhà phân giáo phần nhiều theo thời mà phân giáo, nên có chỗ chưa đủ, bèn vạch ra để tranh luận. Chỗ trình bày như phần riêng đã có nói. Nay lấy nghóa riêng biệt nên không lầm lẫn. Đây là lấy nghóa làm năng phân, giáo làm sở phân. Được biết giáo nghóa có cạn sâu, nên nghóa sở thuyên có xa gần. <詞>- Theo chỗ trình bày giải thích riêng. Có hai: - Trình bày chung các giáo. Có năm: TIỂU THỪA: Chuyển chỗ từ căn nhỏ đến quả nhỏ, như xe dê xe nai chỉ có thể chở nhẹ không thể đi xa, nên nói là Tiểu. Chỉ nói v.v…trở xuống, là phần giải thích tướng, tức là nói lý sở thuyên, chữ chỉ là riêng, là duy. Ngã không, giáo này nói hễ có tạo tác gì đều nằm trong năng lực nhân duyên, không có chủ tể, nên nói ngã không, v.v… Dù nói ít, kinh A-hàm nói: “Không có già chết, không ai già chết”. Đã nói không có già chết, tức là nghóa pháp không. Tuy có thuyết này, mà trăm phần không được một, nên nói là nói ít. Chỉ là nêu lên mà thôi, lại không giải thích, nên không hiển bày rõ. Vì chẳng phải là ý chính của giáo, nên nay mong Đại thừa trình bày rõ nghóa, nên nói là Chỉ. Như ở sông nước ít, cũng nói là ít nước. Chỉ nương v.v… trở xuống, là sáu thức căn bản, sở y, tức sáu thức trước. Ba tông của giáo kia nói có khác, mà kinh bộ chẳng khác. Tâm sở hữu bộ có biệt tâm sở. Giác Thiên nói: Chỉ một ý thức theo sáu căn chuyển không có sáu cái riêng khác. Lập ra ba độc là tham, sân, si khiến hại vật rất sâu xa, tổn hại Pháp thân tuệ mạng, nên gọi tên là Độc. Nếu lấy ba thứ này làm năng huân, sắc tâm hiện tại làm sở huân, tạo nghiệp thọ sinh luân chuyển trôi lăn trong ba cõi, đây là cội gốc nhiễm. Nếu lấy ba thứ vô tham… làm năng huân, hiện tại sắc tâm làm sở huân, dứt bỏ phiền não, ra khỏi ba cõi, đây là cội gốc tịnh. Nhiễm và tịnh là do ba thứ này có hay không, dứt thì liền không có sở y, nên nói là chỉ. Chưa tột v.v… trở xuống, là kết thành chẳng liễu, chẳng đạt Như Lai tàng tâm vốn đầy đủ công đức vô lậu. Chưa tột nguồn tịnh pháp, không rõ căn bản vì không biết nhân hữu lậu. Chưa tột nguồn pháp nhiễm, giáo này còn không nói hai thức bảy và tám, huống chi không nói về pháp tánh? Nên nói là chưa tột. Thường tranh luận, sự phân tông hai mươi bộ đều không giống nhau, như người mù sờ voi lẫn lộn phải quấy, nên nói tranh luận. Nếu tột nguồn kia thì đâu thấy như thế. ĐẠI THỪA: Vận chuyển từ căn lớn đến quả lớn, như xe trâu chở nặng có khả năng đi xa, nên nói là Đại thừa. Bốn giáo ở sau tuy quyền thật có khác, đều vì chung đối với Tiểu thừa, nên gọi chung là Đại thừa. Ban đầu phân ra hai giáo, lại nêu hai tên, trong đây hai giáo đều nói một nghóa, nghóa là tướng không, chứ chẳng phải một giáo có hai tên. Chỉ nói trở xuống, nói về lý sở thuyên, tức các bộ Bát-nhã, nói về tâm cảnh nhiễm tịnh đều không. Trước là từ sắc tâm, sau cùng đến chủng trí đều là như huyễn, nên nói đều không. Bát-nhã nói: “Không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Cho đến không có trí cũng không có đắc, v.v…”. Lại Kinh nói: “Nếu có một pháp nào vượt hơn Niết-bàn, ta cũng nói là như huyễn mộng, v.v…”. Chưa tận v.v… trở xuống; là phân chia Đại thừa không rõ pháp lý, chẳng phải không chẳng phải có mà không mà là có. Đã chỉ nói không, nên biết chưa tận cùng. Kinh Pháp Cổ chép: “Tất cả kinh không là nói khác”. Trung luận nói: “Không là cửa đầu tiên của Đại thừa, nên nói là thỉ”. Lại nói: “Do có nghóa không nên tất cả pháp được thành tựu”. Chỉ nói v.v… trở xuống, tức phân giáo. Tất cả pháp tướng là nói pháp sở thuyên. Tuy nhiên, tất cả chẳng ngoài năm vị, một trăm pháp. Nghóa là: 1- Pháp Tâm có tám, 2- Pháp Tâm sở hữu có năm mươi mốt, 3- Pháp Sắc có mười một, 4- Pháp Bất tương ưng hành có hai mươi bốn, 5- Pháp Vô vi có sáu. Dù nói chân như vô vi là tánh các pháp cũng rơi vào số pháp tướng, nên nói: Chỉ nói có. Chẳng thành Phật trở xuống, chia làm bất liễu. Nghóa là Nhị thừa Định tánh và xiển-đề Vô tánh trong năm tánh, cùng phần thứ hai trong ba phần Bất định tánh, ắt không thể thành Phật, đã không thể thành nên nói là phần… - Chung giáo và Thật giáo: Là nêu tên, đây chỉ nói một giáo để đối hai giáo trước, nên đặt hai tên, chẳng đồng hai giáo trước có khác. Nói Như Lai trở xuống: là thuận theo minh duyên mà khởi, tức môn sinh diệt, luận sau nói: “Tâm sinh diệt là nương Như Lai tàng có tâm sinh diệt”. Bởi vì chẳng sinh diệt hòa hợp với sinh diệt. Chẳng phải một, chẳng phải khác gọi là thức A-lại-da, v.v …, tức trước nói: “Tánh bất biến mà duyên khởi”. Duyên khởi v.v… trở xuống, nghịch với minh tánh mà duyên, tức là môn Chân như. Luận nói: “Tâm chân như tức là thể nhất pháp giới pháp môn đại tổng tướng”. Nghóa là tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt, cho đến tất cả pháp không thể nói, không thể nghó, nên gọi là Chân như. Tức trước nói: “Chẳng bỏ duyên mà tức chân”. Đây là từ gốc khởi ngọn nên nói tùy duyên, ngọn tức đồng gốc nên nói vô tánh. Như đúc vàng làm các đồ dùng, đồ dùng tức là vàng. Định tánh, là tất cả chúng sinh ba nhóm năm tánh đều có Như Lai tàng tâm, sẽ đều thành Phật. Kinh Niết-bàn chép: “Hễ có tâm thì chắc chắn sẽ thành Phật”. Kinh Viên Giác chép: “Có tánh, vô tánh đều thành Phật đạo”. Ở trên đều là nói về pháp sở thuyên. Mới tận v.v… trở xuống, là chia làm liễu nghóa. Nói tột nguồn pháp, nên nói tận cùng. Đối trước chưa tột, do Chung đối với Thỉ nên nói là Chung giáo. Chẳng đồng pháp tướng nên nói thật lý phân giáo. Không liễu nghóa thuộc về quyền, trong đây liễu nghóa nên gọi là Thật giáo. ĐỐN GIÁO: Là nêu tên. Một lời nói thẳng, không có quanh co, chẳng trải thứ lớp, chỉ có bổn nguyên, nên gọi là Đốn. Đều chẳng v.v… trở xuống, là giải thích tướng. Chẳng nói pháp tướng, nghóa là biến kế và y tha. Sắc tâm giả thật pháp tướng tuy rộng mà không ngoài nơi kia. Đây đã chẳng gọi là đều, tức phân biệt với Phần giáo, chỉ nói pháp tướng. Chỉ nói về chân tánh, ở đây phân biệt Thỉ giáo, chỉ nói các pháp đều không, nay nói chẳng không mà diệu hữu, tức là tánh Viên thành thật. Tánh này sở y viên mãn, thành tựu phàm thánh, nhân quả bình đẳng, chỉ luận về pháp này nên nói chỉ nói. Hai câu này là lược nêu phân biệt, ở sau chỉ bày rộng. Cũng không v.v…, giải thích chẳng nói pháp tướng. Tám thức là nguồn của pháp tướng. Tất cả sự cao siêu, lấy thắng nhiếp liệt nên nêu ra đây. Tuy nhiên, thức như huyễn mộng chỉ là nhất tâm, nên nói cũng không. Trong đây nêu thức để hiển bày sở duyên. Quở trách giáo, là bác bỏ chỗ không thật kia. Triệu Công nói: “Danh không có vật là Công”. Kinh Viên Giác chép: “Kinh như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy mặt trăng liền rõ biết chỗ chỉ rốt chẳng phải mặt trăng”. Văn sau cũng nói: “Tất cả ngôn thuyết đều giả danh không thật, chỉ theo vọng niệm, không thật có”. Khuyên xa lìa, là khiến chẳng chấp trước vào giáo, khiến kia xả bỏ ngôn ngữ. Văn sau nói: “Từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự”. Tịnh Danh chép: “Cho đến không có văn tự ngôn ngư,õ là chân thật nhập pháp môn không hai”. Lại nói: “Đến tột nơi trí là chẳng chấp văn tự, lìa tánh văn tự tức là giải thoát”. Đạt - ma nói: “Pháp của ta dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tư v.vï…”. Giáo năng thuyên đã quên, nghóa sở thuyên cũng mất, nên quở trách răn dạy. Hủy tướng, vì “tất cả các tướng đều làluống dối”, đây là quên cảnh sở chứng. Quên tâm (dẫn tâm), vì “tâm sinh thì các pháp sinh”, đây là quên trí năng chứng. Kinh nói: “Huyễn trần diệt nên huyễn diệt cũng diệt”. Lại nói: “Cũng không có năng chứng”. Đây là vọng thức vọng duyên. Năng thuyên sở thuyên, Năng chứng sở chứng, tất cả đều quên. Văn sau nói: “Tất cả pháp từ xưa đến nay chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng không, tướng rốt ráo không thể nói được”. Chỉ một niệm v.v…, niệm sinh đã là phàm phu, tướng hiện tánh ẩn chẳng sinh, gọi là Phật tánh hiển thì tướng mất. Cho nên sát na lên Diệu Giác đồng Phật trong một ngày. Quán Sư nói: “Một niệm chẳng sinh mé trước sau dứt, thể chiếu riêng lập vật ngã đều như, lại không nhờ phương tiện khác, nên nói là Chỉ. Đây là giải thích chỉ nói chân tánh ở trước. Chẳng nương v.v… trở xuống, là kết thàng nghóa đốn. Đã một niệm thành Phật há lại lập địa vị ư? Địa vị đã chẳng còn, cái chẳng còn cũng là đốn ư?. Kinh Tư Ích nói: “Đắc chánh tánh các pháp, chẳng từ một địa vị đến một địa vị”. Kinh Viên Giác chép: “Biết huyễn tức lìa, chẳng nhờ phương tiện, Lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp”. VIÊN GIÁO: Trong giáo này thâu nhiếp bốn giáo trước, viên mãn đầy đủ tánh tướng đều dung, cõi nước, hạt bụi, mảy lông nhập vào lẫn nhau, tức là tông Hoa Nghiêm. Sở thuyết v.v… trở xuống, là Nhất chân pháp giới, nghóa là sở thuyết các pháp lý sự, tâm cảnh, nhân pháp, phàm thánh, nhiễm tịnh v.v… Tóm lại, không có một pháp nào lìa pháp giới, nên nói sở thuyết chỉ là pháp giới. Hoặc có thể câu này là nêu chung, ở phần sau đều là nêu riêng. Tánh biển viên dung, là Lý pháp giới. nghóa là lý tánh sâu rộng như biển, lý thể trùm khắp không có một pháp nào không dung nhiếp, nên nói viên dung. Duyên khởi: là Sự pháp giới,nghóa là các duyên sở tạo tâm cảnh, nhiễm tịnh, tình khí, nhân quả, lớn nhỏ, một nhiều v.v… đều khác nhau. Vô ngại: là Lý sự vô ngại pháp giới. Nghóa là duyên khởi sự pháp đều là chỗ thành tựu của lý. Duyên khởi vô tánh chẳng ngại lý, lý hay tùy duyên mà chẳng ngại sự. Cho nên được lý sự cả hai không có tướng chướng ngại, tức nhập lẫn nhau. Ở sau nói Sự sự vô ngại pháp giới, là các sự pháp, mỗi pháp tròn nhiếp ở lý, ngay nơi sự trong lý. không chướng ngại nhau, nên mỗi sự pháp được tướng tương nhập. Một tức tất cả, tất cả tức một. Một nhập tất cả, tất cả nhập một. Làm chủ bạn lẫn nhau, lớp lớp vỏ tận, như lưới châu sáng ở cõi trời, hổ tương nhập vào nhau, không ngại không cùng tận. Nhưng, sở thuyên của năm giáo trên không ngoài tánh tướng. Tánh tướng hướng về nhau phân biệt ứng thành sáu câu: Chỉ tướng chẳng phải tánh; là Tiểu thừa giáo. Chỉ nói pháp tướng không nói tánh. Chỉ tánh chẳng phải tướng; là Đốn giáo. Chỉ nói chân tánh hủy tướng dứt tâm. Tướng nhiều tánh ít; là Phần giáo, thường nói về pháp tướng, ít nói tánh. Tánh nhiều tướng ít là Chung giáo, thường nói pháp tánh, ít nói pháp tướng, dù có nói pháp tướng cũng không lìa tánh. Chẳng phải tướng chẳng phải tánh; tức Thỉ giáo. Chỉ nói các pháp đều không chưa hiển tánh chân như. Toàn tướng toàn tánh; là Viên giáo. Nói nhất tâm pháp giới toàn thể mà khởi thành pháp nhiễm tịnh, tức là toàn tướng. Khi nhiễm tịnh khởi, thể tánh không ẩn, toàn là chân như tức toàn tánh. Lại, trong năm giáo này và hóa pháp tứ giáo của tông Thiên Thai ngang nhau, chỉ khai hợp có khác mà đại để là đồng. Kia khai trước hợp sau, đây thì khai sau hợp trước. Bốn giáo là: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Nếu theo ở đây thì: Tiểu thừa giáo: Tức là Tạng giáo kia. Thỉ giáo: Ở đây có hai loại: Thỉ giáo: Chỉ nói các pháp đều không, tức là Thông giáo kia. Phần giáo: Chỉ nói tất cả pháp tướng, tức Biệt giáo. Chung giáo: Nói về Như Lai tàng tùy duyên thành các thứ nhiễm tịnh, duyên khởi vô tánh, tất cả đều như, tức nghóa Song chiếu trong Viên giáo kia. Đốn giáo: Chỉ nói về chân tánh, tức nghóa Song giá trong Viên giáo kia. Viên giáo: Nói về tánh tướng đều dung thông, tức nghóa già chiếcủa Viên giáo kia. Do sở thuyên ba giáo này chỉ là nhất tâm, đầy đủ tất cả pháp, tức kia là Viên giáo không thể nghì bàn trung đạo. Cho nên ba giáo này đều thuộc về Viên giáo thâu nhiếp. Đây tức hợp thông biệt kia làm một Thỉ giáo. Khai Viên giáo kia làm ba là: Chung giáo, Đốn giáo, và Viên giáo. Kia tức khai Thỉ giáo này làm hai là: Thông và Biệt, Hợp Chung giáo, v.v… này lại thành một Viên giáo. Tuy khai hợp có khác mà pháp chẳng khác.Nhưng, kia lại nói theo hóa nghi thì có bốn, theo thời mà luận thì có năm, nói rộng như kia. Nói Về NHIẾP Nhau: Từ Nếu đối với v.v…trở xuống là cùng nhiếp với luận, có hai: Nói Về PHẦN HẠN: Chỉ là Chung giáo, do có môn sinh diệt nên nói Như Lai tàng tùy duyên tạo A-lại-da, thành các nghóa nhiễm tịnh. Nên gồm ở nơi Đốn; do có môn Chân như mà hiển bày thể lìanói năng, vì nương ngôn ngữ để nói về đức.nhưng, tuy nói hai môn mà trong môn chân như chỉ lược nói pháp thể mà thôi, như kia nói mê ngộ là để phân biệt thánh phàm. Nói về nhiễm thì có: hai ngại, ba tế, năm ý, sáu thô. Nói về tịnh thì có: hai thân, ba đại, tư tín,năm hành. Nói đầy đủ nhiễm tịnh huân tập,nói rộng giai cấp bốn vị. Nói đoạn chứng, làm rõ giải hạnh, chỉ là tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, thảy đều nói trong môn Sinh diệt. Đã là rộng lược khác nhau, nên nói hai giáo chia ra kiêm chính. - Làm rõ tương nhiếp Nhau: Từ Hoặc sắp v.v… trở xuống, là nói tướng nhiếp. Năm duy trở xuống, lấy năm giáo làm năng nhiếp, luận này làm sở nhiếp. Ba nhiếp sau này, là Chung, Đốn, Viên. Nghóa là trong luận này nói Như Lai tàng duyên khởi là Chung giáo, nói môn chân như là Đốn giáo. Lại, môn Chân như là Lý pháp giới, môn sinh diệt là Sự pháp giới, Hai môn chẳng phải hai là Lý sự vô ngại pháp giới, Nhất tâm là Nhất chân pháp giới, đây tức là Viên giáo. Ba giáo sau nhiếp được luận này, nhưng cũng chỉ thuộc về một Đốn giáo. Nếu dùng lý để suy nghóa hẹp của Đốn giáo, chỉ nói chân tánh làm sao nhiếp được? Nếu nói do có nghóa chân như nên được nhiếp kia, thì luận này cũng có hai giáo trước, nghóa luận này cũng nên thuộc về hai giáo trước. Đây chỉ v.v… trở xuống, lấy luận này làm năng nhiếp, năm giáo làm sở nhiếp. Nhiếp bốn giáo trước, luận này có đầy đủ bốn nghóa trước. Chẳng nhiếp Viên, do trong bốn pháp giới chỉ có ba thứ, mà không nói rõ Sự sự vô ngại. Vì tông Viên Giáo đối với nghóa Sự sự vô ngại đã chẳng hoàn toàn, nên chẳng thuộc về kia. Nhưng lấy nghóa suy thì hợp với nhiếp kia, bốn thứ văn nghóa lý sâu kín gom lại chỉ là Nhất chân pháp giới. Nay nói về thể của nhất tâm, chính là Nhất chân pháp giới, là tông Viên giáo kia. Lại, kia nói Sự sự vô ngại là đều do chân như tùy duyên. Nếu biết chân như tùy duyên là lý do của Sự sự vô ngại kia, nên được xếp vào. Nếu hướng khoa trước về nghóa này thì văn trước nêu nói là chánh, chỉ Chung giáo gồm ở Đốn giáo và Viên giáo.  <卷>QUYỂN 3 Từ Theo pháp sinh khởi v.v… trở xuống, có hai: <詞>NÊU KHOA MỤC CHỈ BÀY CHUNG: Ý nói nhiễm, do pháp tịnh là nghóa nhiếp ngọn về gốc, nay nói từ gốc khởi ngọn, nên chỉ lấy nhiễm. Lược có năm lớp, nói rộng thì có mười bốn, nay trong mười bốn thứ gom lại thành năm, nên nói là lược. Đối các tông, tức năm giáo trước. Trước lấy năng thuyên làm môn, nên nói theo giáo. Ở Đây lấy sở thuyên làm môn, nên nói theo pháp. - Giải thích riêng theo Văn. Có hai: Nói về năm đoạn: Đoạn hai và ba trong năm đoạn là lược chia chân vọng, nên nói khai, nói minh v.v… Hai đoạn sau là theo vọng mà nói đầy đủ, hiển bày thứ lớp sinh khởi, nên nói là sinh. Nhất tâm làm nguồn gốc, chính là đây. Vì nhất tâm này là căn bản của tất cả pháp nhiễm tịnh, như nguồn nước là cội gốc của muôn dòng, lại không có pháp làm gốc của tâm, nên nói chỉ có gốc nhất tâm. Gốc tức là nguồn. Kinh nói: “Các pháp có sinh chỉ do tâm hiện, tất cả nhân quả, thế giới, cát bụi, nhân tâm thành thể”. Cả hai Pháp, dụ cùng hiển nên nói là cội nguồn. Kinh Hoa Nghiêm v.v… trở xuống, là phối hợp giáo, đây là tông Viên giáo. Bốn pháp giới, như trước đã nêu. Tuy, bốn thứ đều gọi là pháp giới mà nghóa giới khác nhau. Bởi lý pháp gọi là giới, giới là nghóa tánh. Nghóa là làm thể tánh cho cùng tất cả các pháp nhiễm tịnh. Sự pháp gọi là Giới, giới là nghóa giới hạn. Nghóa là mỗi sự pháp có giới hạn riêng biệt. Hai pháp giới sau đầy đủ nghóa tánh phần rất dễ biết, vì nghóa tuy có bốn mà thể là một, dứt bốn thành một, ngoài một không có bốn, nên nói gồm chỉ nhất chân. Nghóa là vắng vẻ v.v… trở xuống, tất cả muôn pháp đều do thể mà ra. Kia nói pháp giới,ở đây nói nhất tâm. Nghóa là nhất tâm này là tánh của Pháp, nên nói là pháp giới. Theo nghóa đặt tên thể vốn chẳng khác, nên lấy nhất tâm làm thể pháp giới. Hai câu đầu là trình bày đức tướng. Tịch là không có tiếng, liêu là không có sắc, Hư là trong đó không vọng nhiễm, Khoáng là rộng khắp mười phương, Xung là sâu, Thụ là gồm cả ba mé, Bao là dung thọ tất cả không ngoài, Bác là vào tất cả đều khắp. Bao gồm, v.v… trở xuống, là nói rõ gồm thâu muôn vật, là tất cả pháp, Vạn hữu không ngoài nhất tâm, cho nên tất cả toàn là tâm tánh, tâm tánh không ngoài, thảy đều nhiếp khắp. Đây chỉ cho ý do thể mà ra, không ở chỗ thâu nhiếp muôn vật, e còn thấy ngoài tâm, nên nói bao gồm. Nhưng trong các giáo đều nói muôn pháp nhất tâm, mà cạn sâu có khác, nay theo năm giáo mà nói lược. Ngu pháp Thanh Văn giáo: Giả nói nhất tâm, là pháp nhiễm tịnh thế gian và xuất thế gian, đều do tâm tạo nghiệp chiêu cảm. Gạn xét nghóa nhất tâm chẳng thành, nên nói giả nói. Đại thừa quyền giáo: Nói A-lại-da dị thục lấy làm nhất tâm, muôn pháp trong ba cõi chỉ do thức biến. Chung giáo: Nói Như Lai tàng lấy làm nhất tâm, vì các pháp thức cảnh đều như mộng. Đốn giáo: Dứt bặt nhiễm tịnh để nói nhất tâm, vì hiển bày thể lìa ngôn bặt các tướng, để phá các số nên giả gọi là Nhất. Viên giáo: Bao gồm muôn hữu lấy làm nhất tâm, vì sự lý gốc ngọn không riêng. Như trên đã nói, hai giáo trước cạn, ba giáo sau sâu. Trong ba giáo nghóa có cạn sâu mà thể chỉ là chân tánh. Nay nói tức là phần thứ năm. Chú thích môn này: luận này giải thích lý tột cùng là đó. Ở trên chỉ bày tức Nhất chân pháp giới của kinh Hoa Nghiêm, bởi kia do tánh tướng cùng dung nhau, nên gọi là Pháp giới. Ở đây theo khắc chỉ pháp thể, nên nói là nhất tâm. Ý chỉ của Viên, thật do đây mà khác. Thể bật có không: Triệu Công nói: “Muốn nói kia có, thì không hình dạng, không danh tự. Muốn nói kia không, thì thánh có linh tri”. Nên văn sau nói: “Chẳng phải có chẳng phải không v.v…”. Tướng chẳng sinh diệt, phi là chẳng phải, tướng la hữu tướng, vô tướng, tướng tức là Tánh. Luận chép: “Chẳng phải mé trước sinh, chẳng mé sau diệt”. Kinh Bát-nhã cũng nói: “Chẳng sinh chẳng diệt”. Chẳng phải cùng tột là cái ban đầu, chẳng phải không cùng tột là cái ban đầu. Đã chẳng phải là pháp hữu vi sinh diệt, thì không thể tìm cho tận cùng mé ban đầu. Nhưng không chỉ là vô thỉ mà còn là vô chung. Nay chỉ lược nêu nên nói Không có mé ban đầu. Đây là ngầm giải thích tướng chẳng sinh diệt trước. Do chẳng sinh nên vô thỉ, chẳng diệt nên vô chung. Đâu thấy trung biên: Biên là hai bên, trung là Trung đạo. Hai bên đã mất, Trung đạo không còn, nên nói là đâu thấy. Ở đây ngầm giải thích về thể bật có không ở trước. Có không là hai bên. Ở trước lược nêu nên chỉ nói có không, nay trình bày đầy đủ nên nói Trung đạo. Chú thích môn Chân như, chỗ nói của sớ kia tức là nghóa môn chân như ở đây, nhưng chỉ dùng nhân để phối hợp, chưa phải là chánh khai, đến phần sau sẽ nói. Mê đó v.v… trở xuống, tức trong phần tựa, nghóa là đuổi theo mê ngộ mà nổi chìm. Giải tức sơ ngộ, ngộ tức chứng nhập. Kinh nói: “Các cõi từ vô thỉ đến nay cùng tất cả pháp nương theo đây mà có các đường và chứng được Niết-bàn”, tức là nghóa này. Văn chú thích rất dễ hiểu. Y tâm khai môn, Luận nói nương pháp nhất tâm có hai môn. Môn chân như; trong đây có lìa ngôn ngữ và nương ngôn ngữ. Trong nương ngôn ngữ lại có hai thứ không và chẳng phải không, đầy đủ như phần sau nói. Phần Đốn giáo; trong môn này nói tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt, cho đến nghóa lìa lời bật nghỉ, v.v… chính là giáo này. Mật thuyết, như Tâm Kinh nói: “Tướng không của các pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt…”, v.v… là tướng chân như. Tuy nói tướng kia mà không hiển bày thể tánh chân như, nên nói mật thuyết. Lý thật chẳng khác nên nay phối hợp. Nương Như Lai tàng trở xuống, là toàn dẫn văn luận để nói về tướng sinh diệt, v.v… Chung giáo, nói pháp tột cùng chẳng đồng Thỉ giáo. Do trình bày môn đầu nên gọi là Chung giáo. Nay Luận Khởi Tín chính là nói nghóa này. Bởi Thỉ giáo v.v… trở xuống, là phân biệt trình bày. Trong thỉ giác cũng nói A-lại-da mà không nói chỗ thành của tạng tánh, nay nói chỗ thành của tánh chẳng phải phần kia. Kinh Mật Nghiêm nói: “Phật nói Như Lai tàng lấy làm ác tuệ A-lại-da, không thể biết Tạng tức là thức A-lại-da”. Môn sau là môn Sinh diệt, có hai nghóa. Luận nói: “Thức này có hai thứ nghóa thu nhiếp tất cả pháp, sinh ra tất cả pháp. Thế nào là hai?. Một là nghóa Giác, hai là nghóa Bất giác”. Y theo đây mà nói. Nghóa giác, luận nói: “Cái gọi là giác là tâm thể lìa niệm, lìa tướng niệm, đồng với cõi hư không, tức là Pháp thân Như Lai. Trong đó có Thỉ giác, Bản giác. Bản giác lại có tùy nhiễm và tánh tịnh khác nhau”. Đầy đủ như trong luận nói. Chú thích môn chân như ở trước, nạn hỏi gồm cả trước sau, hoặc nói môn chân như trước cùng nghóa giác này, vì sao chẳng nói khai nghóa sinh pháp, mà chỉ đối với môn sau và nghóa sau mà nói sinh khởi? Cho nên ở đây giải thích. Bất biến là chẳng tùy duyên, tướng tịnh là Bản giác, ngược dòng tức Thỉ giác. Ba nghóa trên đây đều không thể nói lý sinh khởi pháp nhiễm, vì nghóa chẳng thuận nên chỉ lấy nghóa sinh diệt và nghóa bất giác, tức có thể nói thứ lớp sinh nhiễm kia. Nên ở trước nói: “Nương pháp nhiễm từ gốc khởi ngọn, mà không nói pháp tịnh từ ngọn hướng về gốc”. Vì ở môn trước, nghóa trước chẳng nói sinh khởi. Nghóa bất giác, luận nói: “cái gọi là bất giác nghóa là không như thật biết pháp chân như là một, do bất giác tâm khởi mà có các niệm”. Trong ấy có cội gốc khác ngọn ngành. Ngọn ngành lại có ba tế, sáu thô v.v… như thứ lớp dẫn chứng, xem văn chú thích rất dễ hiểu. Nghóa sau, tức là bất giác. Nương bất giác này khởi tướng nghiệp, v.v… ba tế thuộc địa vị bổn thức đối lại sự thức ở sau, đối với Thô nên gọi là Tế. Luận nói: “Lại nữa, nương bất giác nên sinh ba tướng, tương ưng chẳng lìa với bất giác, v.v …”. Nghiệp tướng, theo động tác làm nhân được gọi là hai nghóa, luận nói: “Một là Vô minh nghiệp tướng. Do nương tâm động bất giác nên nói là Nghiệp. Giác thì bất động, động thì có quả khổ vì chẳng lìa nhân”. Chuyển tướng, là nghiệp tướng trước chuyển đến vị này để làm năng kiến. luận nói: “Hai là tướng Năng kiến, Do nương vào động, năng kiến chẳng động thì chẳng thấy”. Hiện tướng; do nương tâm năng duyên mà đắm khởi cảnh sở duyên, luận nói: “ba là Cảnh giới tướng. Do nương vào năng kiến mà cảnh giới vọng hiện, lìa cái thấy thì không có cảnh giới. Chú thích tự thể v.v…, là lấy Duy Thức nói có lậu thức, tự thể kia sinh chuyển dường như hai phần. Tương tựï tướng năng duyên gọi là Kiến phần. Tương tựï tướng sở duyên gọi là Tướng phần. Tuy văn khác mà nghóa đồng. Nay chú thích phối hợp tự thể, tức tự chứng phần. Tức Duy Thức, v.v… trở xuống, là phối hợp giáo. Đồng nghiệp tướng: kia nói các pháp sinh khởi chỉ nương A-lại-da làm cội gốc, nên gọi thức này là chủ tổng báo. Tất cả hạt giống căn thân khí giới đều do thức này biến. Nhưng ở đây nói riêng lấy làm sở huân, huân thành hạt giống sau mới khởi hiện hành đều nương vào thức này, nên nói cội gốc sinh khởi. Do kia v.v… trở xuống, là lý do phát xuất. Vì tông kia chưa nói nhất tâm là nguồn của môn Chân như và môn Sinh diệt, vì lưu ở Chung giáo mà nói. Nếu nói tột cùng rồi thì đâu phân quyền thật ư? Nên nói những kẻ do chẳng biết chân như tức tâm, bèn nói: “Không hay không biết, bắt động bất biến”. Nói thể không hay biết này cứng như đã ngọc không thể thọ huân, vì chẳng thể huân tánh. Đã không thọ huân thì đâu thể tùy duyên! Do đó chỉ chấp chân như bất biến mà chẳng chấp tùy duyên. Chỉ nói v.v…, đã không chấp chân như tùy duyên thành các nhiễm tịnh, nên nói A-lại-da làm gốc sinh diệt, do đó nói pháp sinh khởi là đồng nghiệp tướng. Dù chuyển v.v…, do kia nói chuyển thức thứ tám thành trí Đại viên cảnh, thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí, thức thứ sáu thành Diệu quan trí sát, năm thức trước làm thành trí Thành sở tác. Căn bản đã là sinh diệt thì thành trí cũng là hữu vi. Lý là vô vi thì chẳng được tương tức. Như vàng nấu chảy ở khuôn đều thành vật dụng, đâu được tức nhau, cho nên v.v… từ Nói pháp v.v… trở xuống, là tổng kết thành, rất dễ hiểu. Tối hậu, tức là Hiện tướng. Sáu thô là vị sự thức, đắm trước tướng ngoại trần kia hiển bày dính mắc, nên gọi chung là Thô. Luận chép: “Do có duyên cảnh giới lại sinh sáu thứ trí tướng”. Phân biệt cảnh giới là trí tướng. Vì có ngoại cảnh dẫn khởi nội tâm khiến kia phân biệt là tốt là xấu. Luận chép: “Một là Trí tướng, nương vào cảnh giới mà tâm khởi phân biệt”. Ái và chẳng ái lẽ ra sinh khổ vui, là do phân biệt ở trước bèn khởi giác tâm khổ vui. Luận nói: “Hai là tướng Tương tục, nương vào trí mà sinh giác tâm khổ vui, khởi niệm tương tục không dứt. Mê đắm khổ vui, chấp khổ vui trước cho là thật. Luận nói: “Ba là tướng Chấp thủ, nương vào cảnh giới duyên niệm nối tiếp, nắm giữ khổ vui tâm khởi mê đắm. Chấp danh tự: chấp lấy cho là thật, nghe tên tướng chung liền sinh giận vui. Luận chép: “Bốn là: tướng Kế danh tự, nương vào vọng chấp phân biệt giả danh nói là Tướng”. Tạo nghiệp, là tham sân thạnh hành phát động nơi thân miệng, gây ra các nghiệp thiện ác khác nhau. Luận chép: “Năm là tướng Khởi nghiệp, nương vào danh tự tìm danh chấp trước, gây ra các thứ nghiệp”. Thọ báo, nghiệp lụy đã thành dẫn đến quả khổ, như bị dây trói không được tự tại. Luận chép: Sáu là tướng Nghiệp hệ khổ, do nương nghiệp chịu quả không tự tại. Nhị thừa v.v… trở xuống, là đối với giáo có cạn sâu. Thứ ba, là ngã chấp câu sinh trong giáo của Nhị thừa dứt ngã này gọi là ngã không. Nên trời người, v.v…, vì trong giáo kia chỉ nói nghiệp duyên thiện ác, thọ báo, tốt xấu v.v… nên tạo nghiệp mà không biết nghiệp từ đâu sinh. Giới hạn nói pháp chẳng đến được thứ tư. Chỉ bày riêng: Nếu chấp v.v…. trở xuống, là chỉ bày riêng. Huyết mạch truyền trao, chỉ theo mê gốc nhất tâm, quanh co sinh khởi không dứt bặt nghóa, lại không ở một bên nói bản giác chân như, nên nói một bề v.v… Lược có tám thứ, nói rộng thì có mười bốn. Bởi do môn Chân như và nghóa giác chẳng phải thứ lớp sinh khởi, môn Sinh diệt và nghóa bất giác toàn thể là nghiệp tướng. Trí tướng, tướng Tương tục đều là pháp chấp. Chấp thủ, kế danh tự tướng v.v… đều là ngã chấp, vì theo nhau nên lược thành tám. - Sở bị của luận: Văn có ba: Nói chung về căn có được thu nhiếp: Từ Tất cả v.v… trở xuống, ở đây theo rốt ráo cùng chánh hợp Luận nên đều là bị. Kinh Niết-bàn chép: “Hễ có tâm thì chắc chắn sẽ thành Phật”. Kinh Viên Giác chép: “Có tánh không tánh, đồng thành Phật đạo”. Lại nói: “Thí như biển lớn không từ chối dòng nhỏ, cho đến muỗi mòng và A-tu-la uống nước kia đều được no đủ”. Kinh Kim Cương nói: “Người phát tâm Bồ đề khiến độ bốn sinh chín loại đều vào Niết-bàn vô dư”. Nếu kia chắc chắn không thành Phật thì đâu nhọc phát tâm này! Vì tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh, chỉ được nghe đều được lợi ích. Nghóa là người có túc duyên sâu được ngộ nhập, người túc duyên cạn được tin hiểu, không hề gieo trồng túc duyên cũng đều huân thành hạt giống viên đốn. Như ví dụ ăn kim cương trong Kinh Hoa Nghiêm. Bất đồng v.v… trở xuống, là phân biệt quyền giáo. Kia nói Nhị thừa Định tánh là tánh cố định không thể sửa đổi, huống chi ở địa vị vô dư, thân trí đều dứt, thì ai là người tu hành vô tánh? Nếu không có hạt giống lành kia, thì hạt giống lành đã không nương đâu được tu tiến? Cho nên ở đây phân chia đều chẳng phải sở bị. Nhưng kia chỉ đứng về mặt tức, nay theo thời gian lâu dài mà luận không thể thâu nhiếp hết, cũng là lưu lại trong Thật giáo mà nói. - Nói theo ba nhóm: Nhưng, tất cả v.v… trở xuống, là nói theo ba nhóm, có ba thuyết: Theo Tiểu thừa: Cho chúng sinh năm nghiệp vô gián là tà định, cho người Học, Vô học là chánh định, cho người hữu lậu, vô lậu là bất định. Theo Quyền giáo: Cho người vô chủng tánh là tà, cho Bồ-tát là chánh, cho người bất định tánh là bất định. Theo Chung giáo: Cho tất cả dị sinh là tà, Tam hiền là chánh, Thập Tín là bất định. Ở đây y theo thuyết sau. Luận này v.v… trở xuống: rất dễ hiểu. Cùng là tà định, chỉ được thấy nghe tự nhiên thành hạt giống, khi khác hiển phát sẽ đến giải thoát, như dụ buộc hạt ngọc trong chéo áo trong kinh Pháp Hoa, kinh Niết-bàn thì dụ trống độc, kinh Hoa Nghiêm thì có tám nạn, v.v… đều là lời siêu vượt. Lại nói: “Nếu có người chẳng sinh tín ưa, cũng thành gốc lành không luống uổng, cho đến rốt ráo nhập Niết-bàn”, ở đây nói tuy hủy báng đọa vào đường ác, mà do nghe qua lỗ tai cũng được tỉnh ngộ. Nên ở sau luận nói: “Vì khiến chúng sinh lìa tất cả khổ được vui rốt ráo” đều là ý này. Đều là chánh định, luận chép: “Vì muốn giải thích nghóa căn bản của Như Lai khiến các chúng sinh hiểu đúng không lầm”. Trong sớ xếp Tam hiền vào chánh định. Theo đây v.v… trở xuống, là nói theo Ngũ tánh, nhưng nói năm tánh quyền thật v.v… đều cùng trong giáo nghóa trước mà ra. Phân vì chưa rõ, theo kia định chấp có ba mà không có hai, nên nói là quyền. Nay nói bị giáo nên phải theo tánh, tánh tuy nói năm đều là sở bị, chẳng đồng với quyền tông định chấp có không. Chánh bị v.v… trở xuống, xem văn có thể biết. Gồm các tánh v.v… là người Nhị thừa và vô chủng tánh. Do người Nhị thừa thật không có định tánh, tuy quên phần đoạn nhưng có thân biến dịch, chỉ được nghe giáo ấy chắc chắn sẽ hồi tâm. Niết-bàn nói bốn quả và Duyên giác cực trì, trải qua tám ngàn bốn trăm sáu mươi hai vạn mười ngàn kiếp, như thứ lớp hồi tâm. Giống như người say lúc tỉnh có mau chậm, Tam-muội tỉnh rượu cũng giống như thế. Kinh Lăng-già nói: “Tam-muội say rượu cho đến kiếp bất giác, rượu tan rồi mới giác được thân Phật vô thượng”. Người không có tánh chỉ là không có tánh thiện, nếu nghe được giáo ấy thì hạt giống thiện tự thành, gặp duyên phát khởi sẽ được thành Phật. Kinh Lăng-già nói có hai thứ xiển-đề: 1- Bồ-tát đại bi. 2- Dứt gốc lành. Phật nói trong hạng thứ hai, mãi không được nhập, chỉ có Bồ-tát đại bi. Nên biết người dứt gốc lành nghe kinh được ngộ, sau sẽ được nhập. Trong Kinh Niết-bàn nói đầy đủ như thế. Luận này nói: “Chỉ dạy tu tập chỉ quán để đối trị tâm lỗi của phàm phu, Nhị thừa”. Trong đây nghóa bao gồm Định tánh và Vô tánh. Văn sau nói: “Đối trị lỗi tâm hạn hẹp của người Nhị thừa không khởi đại bi, xa lìa phàm phu không tu gốc lành”. Lại, không khởi đại bi há chẳng phải định tánh ư? Không tu gốc lành há chẳng phải vô tánh ư? Nên biết Thật giáo tuy nói năm tánh, nhưng chẳng phải nhất định năm đều là sở bị. - Chỉ bày riêng văn sau: Lại nhân v.v… trở xuống, là chỉ bày riêng văn sau. Nói riêng về sở bị, sở bị của một bộ luận không ngoài ba căn, nói có chung, riêng. Chung thì không phân ra luận văn, chỉ có người căn cơ thượng trung hạ, nương đây mà nhập chung. Riêng thì phần lập nghóa và Giải thích là thuộc thượng căn, phần Ngộ nhập tu hành tín tâm là thuộc trung căn, phần Khuyến tu lợi ích là thuộc hạ căn. Nhưng, bậc thượng căn không cần nghe pháp của trung, hạ căn, bậc hạ căn cần nghe pháp của thượng, trung căn, còn bậc trung căn y theo đó sẽ biết. Ở đây nói vẫn là riêng trong chung, nếu lại luận chính xác gồm theo địa vị mà phối hợp thì, trong phần Lập nghóa và phần giải thích là hiển bày chánh nghóa đối trị tà chấp. Thuộc Bồ-tát Tam hiền là thượng căn, ngộ nhập phân biệt phát thú đạo tướng, thuộc Thập tín mãn tâm là trung căn, tức phần tu hành tín tâm trở xuống của văn sau. Thuộc Thập Tín Trụ tâm nhập tâm là hạ căn. Lại, theo Thập tín vị tự có khác ba căn, nghóa là lấy Thập tín mãn tâm làm thượng căn, ở đây thì như trên đã phối hợp. Lấy Thập tín trụ tâm làm trung căn, ở đây nương theo trong phần thứ tư, bốn thứ tín tâm và bốn thứ tu hành ngộ nhập. Lấy Thập tín sơ tâm làm hạ căn, theo hạ căn này lại có ba thứ, nghóa là lấy bốn hạnh sau và chỉ quán ở trước. Đoạn luận này là thuộc hạ căn, ngộ nhập lấy một môn chỉ quán là thuộc trung căn, lấy một môn khuyên sinh tịnh độ là thuộc thượng căn. Một phần khuyến tu lợi ích gồm chung ba phần trước. Một phần nhân duyên nói về lý do luận khởi. Cho nên trong phần này chẳng riêng nói, thuộc như sớ ở sau phối hợp. <詞>- Sở y của luận: Nêu chung: Giáo thể Năng thuyên, nói chung giáo pháp của chư Phật cho đến luận này, lấy gì làm thể mà năng thuyên hiển bày vô lượng sự lý? Nay lấy bốn môn để lược giải thích. Giải thích riêng. Có bốn: - Tùy tướng: Nghóa là theo sáu trần, cảnh tướng phát xuất từ thể. Danh, cú, văn, là trên tiếng uẩn khúc tiêu biểu nói là giả chẳng thật, thuộc về Bất tương ưng hành. Luận nói: “Một tên, hai tên, nhiều tên gọi là Danh thân. Một câu, hai câu, nhiều câu gọi là Cú thân. Một chữ, hai chữ, nhiều chữ gọi là Văn thân”. Các pháp tự tánh Năng thuyên, là Danh thân. Danh thân là năng thuyên, các pháp tự tánh là sở thuyên. Như nói sắc, nói tâm, nói nước, lửa v.v… mỗi thứ nói tiêu biểu cho pháp tự tánh. Khác nhau là Cú thân. Cú thân là năng thuyên, các pháp khác nhau là sở thuyên. Như nói hình sắc, hiển sắc, chân tâm, vọng tâm, v.v… các pháp rõ ràng. Trong mỗi pháp đều có phân biệt. Nhị sở y: là Văn. Hai tức Danh, Cú. Văn tức là chữ. Do đây chung làm Danh Cú, là chỗ nương của hai pháp, cho nên Danh thì thứ lớp nêu bày, Cú thì thứ lớp an bố, Văn thì thứ lớp liên hợp. Những thân này là năng thuyên tiêu biểu cho nghóa lý, do đó chấp làm giáo thể. Chỉ do âm thanh: Hoặc chỉ v.v… trở xuống, là chỉ cho âm thanh. Thanh là lời nói của giáo chủ, âm là âm từ giảng nói của Phật. Tiêu biểu bình luận ngữ, âm ngữ, lộ ngữ, nghiệp ngữ v.v… nên nói là âm thanh. Lìa tiếng trở xuống, dùng Danh, Cú, Văn cả ba để giải thích. Tuy tự năng thuyên tiêu biểu cho nghóa lý, vẫn chỉ là tướng uẩn khúc trên tiếng từ giả mà kiến lập không có tự thể. Thanh là sắc pháp, sắc pháp là thật. Danh v.v… là Bất tương ưng hành. Phi sắc phi tâm là theo phần vị sắc tâm giả lập, cho nên là thật, ngoài ra là không giả. Sở dó nhiếp giả từ thật, chỉ là lấy âm thanh làm giáo thể, nên nói lìa tiếng không có Danh riêng … Luận Bà-sa chép: “Phật giáo lấy ngữ nghiệp làm thể. Chung bốn pháp: Giả thật v.v… trở xuống, là chung bốn pháp. Như hai thuyết trên đều có lý giáo làm định lượng, không thể nghiêng lấy một bên, nên nay thâu nhiếp tất cả. Do chỉ âm thanh thì chẳng phải nghóa năng thuyên, chỉ danh cú văn thì không tự thể riêng. Bốn pháp đều lấy ban đầu thành giáo thể, như nước cùng hành động mới bơi thuyền được. Trong hai thuyết này không thể vượt một, như người lênh đênh trên biển phát ra tiếng mà không thành câu, thì làm sao tiêu biểu cho sở thuyên. Nếu không có tiếng thì danh v.v… nương vào đâu, nên nay lấy cả hai. Luận Câu-xá nói: “Đức Mâu-ni nói pháp uẩn số có tám mươi ngàn. Thể kia (giáo thể), ngữ (âm thanh); hoặc danh (danh, cú), sắc (âm thanh), hành (danh, cú) đều thuộc về uẩn”. Khắp tất cả: Lại trùm khắp v.v… trở xuống, là trùm khắp tất cả, tất cả tuy nhiều mà không ngoài cảnh giới sáu trần, chỉ hay sinh hiểu đối với vật tức là giáo thể, đâu riêng đối với thanh, danh, cú, văn? Kinh Tịnh Danh chép: “Do có ánh sáng mà làm Phật sự. Do có Bồ-đề thọ, y phục, đồ nằm v.v… cho đến tám mươi bốn ngàn các thứ trần lao. Chúng sinh cho là nhọc mệt, chư Phật dùng pháp này mà làm Phật sự”. Kinh Lăng-già chép: “Này Đại Tuệ! Chẳng phải tất cả cõi Phật đều dùng ngôn ngữ nói pháp, có cõi nước Phật nhìn thẳng không chớp mắt, miệng không nói năng, cho đến có cõi nước Phật động thân gọi là nói pháp v.v…”. Vả lại, thế giới Hương Tích dùng cơm có mùi thơm mà ba vị hiển bày, cõi nước Cực Lạc nghe tiếng gió thổi cành cây mà thành chánh niệm. Tơ trúc có thể do chuyên tâm chạm mắt mà giữ đạo. Đã là nói, nín, nhìn, chớp mắt, v.v… đều nói, thì thấy nghe hiểu biết đều là nghe. Nếu được pháp khế thần thì đâu cần do nơi ngôn thuyết. Như trong kinh Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị thánh đối với mười tám giới, tánh bảy đại, v.v …, mỗi vị từ một môn mà được viên thông. Trong đây nói sáu trần cũng chỉ là theo cảnh, ngoài ra nêu rất dễ biết. Thiên Thai nói: “Tay không cầm quyển kinh mà thường tụng kinh, miệng không nói năng mà đọc tụng khắp hết các kinh điển, Phật chẳng nói pháp mà thường nghe phạm âm, tâm không suy nghó mà chiếu khắp pháp giới”. Đây đều là nghóa này. Môn Duy thức”, là theo vọng tâm để nêu ra thể, nay trước là theo cội gốc hình bóng đối nhau, đối với các giáo chung thành bốn câu: Chỉ cội gốc không hình bóng, tức Tiểu thừa giáo. Do không biết các pháp do thức hiện đều là hình bóng. Chỉ hình bóng không cội gốc, tức là Chung giáo. Do quả Phật không khác sắc thanh công đức, chỉ có như như và trí như như là còn. Chỉ lấy đại bi, đại trí làm duyên tăng thượng, khiến chúng sinh căn cơ thuần thục kia, trong tâm hiện sắc thinh của Phật nói pháp, cho nên Phật dạy chỉ là ảnh tượng trong tâm chúng sinh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “chư Phật không có pháp, Phật ở chỗ nào nói?”. Chỉ tùy theo tự tâm kia mà vì nói pháp như thế. Vừa là cội gốc vừa là 000hình bóng, tức Đại thừa quyền giáo. Cho là do Phật tự giảng nói, hoặc văn hoặc nghóa, đều là trí Diệu quan sát, chỗ hiển bày tương ưng tịnh thức, gọi là bổn chất giáo. Hoặc người nghe ở trên thức sở biến văn nghóa làm ảnh tượng giáo, chư Phật và chúng sin làm duyên tăng thượng, lẫn nhau mới có chỗ khởi giáo. Duy Thức nói: “Năng lực tăng thượng xoay vần hai thức thành quyết định”. Chẳng phải cội gốc chẳng phải hình bóng, tức là Đốn giáo. Chẳng những chỉ ngoài tâm, không có sắc thinh Phật, mà trong tâm chúng sinh hình bóng cũng không, vì tánh gốc lìa tướng gốc dứt, tức giáo của Vô giáo. Kinh Tịnh Danh chép: “Người nói pháp kia không nói không chỉ dạy, người nghe pháp kia không nghe không được”. Nay ở đây giải thích, tức câu thứ hai chỉ hình bóng chẳng phải cội gốc. Nói tịnh thức v.v…, trong đây thế nói dường như ở nơi cội gốc, hình bóng, đầy đủ một câu. Nhưng, ý nói rõ chỉ hình bóng chẳng phải cội gốc. Tuy nói tịnh thức hiện ra, mà ý hiển đại bi đại trí là duyên tăng thượng. Ở đây chỉ nói Phật vì chúng sinh làm duyên tăng thượng, mà chẳng nói Phật làm duyên tăng thượng, là mục đích chỉ hình bóng. Lại, tịnh thức Phật tức là chân tâm chúng sinh, Phật hiện tức chúng sinh hiện, cả hai đều là hình bóng. Dẫn chứng văn sẽ rõ, đâu thể thấy chỗ hiện tịnh thức làm duyên tăng thượng, liền khởi chấp cả hai cội gốc và hình bóng, đồng với quyền giáo. Phải lấy ý để nói chẳng nên do nơi văn cục, người học nên suy nghó ù! Văn sau nói đủ: “Tất cả các pháp chỉ nương vọng niệm mà cókhác nhau, nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng cảnh giới”. Cho nên phần sau tổng kết ý. Nói tự tâm, tức là vọng thức chẳng phải chân tâm. Văn sau nói: “Ba cõi luống dối, chỉ do tâm tạo, lìa tâm tức không có cảnh giới sáu trần”. Môn Quy tánh,” là theo chân tâm để xuất thể. Thức này v.v…, là trong môn trước đã thâu nhiếp ở cảnhkhác nhau, duy thức tâm năng biến, nay lại nhiếp thức tâm trước chỉ là nhất tâm. Nhất tâm tức tánh chân như, gọi là quy tánh, nên nói thức này không có tự thể. Kia giống như người ngủ mê nằm mộng thấy các thứ vật, vật không lìa mộng, mộng chẳng lìa người, tức tới lui suy tìm thể chân thật của giáo pháp tột cùng ở đây. Người xưa nói: “Tâm tức là Kinh” chính là nghóa này. Nói tất cả, tức các pháp sắc, tâm v.v… chẳng phải nay mới như vậy, nên nói: Từ xưa đến nay siêu vượt, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, nên nói cho đến, nhưng lìa ngôn thuyết thì chẳng có âm thanh trước, lìa danh tự thì chẳng có Danh, Cú, Văn trước, lìa tâm duyên thì chẳng có duy thức trước, nhất tâm chân như thành môn Quy Tánh này, cũng đồng Viên Giác sớ chép: “Sinh pháp vốn không tất cả duy thức, thức như huyễn mộng chỉ là nhất tâm”. Kinh Lăng nghiêm nói: “Kiến và kiến duyên tợ cảnh hiện tiền, vốn là giác minh của ông”. Môn Vô ngại, theo ba môn vô ngại để nêu ra thể. Ở sau là chính giải thích, Tâm là môn Duy thức, Cảnh là môn Tùy tướng, Lý là môn Quy tánh, Sự tức môn thứ nhất và thứ hai. Do đối lý thành câu nên lặp lại. Đồng một duyên khởi, ba môn trên đồng là nhất đại pháp giới duyên khởi. Nghóa là cảnh không tự là cảnh, mà do tâm nên có cảnh, tâm chẳng tự là tâm mà do cảnh nên có tâm, vọng chưa nương chân tức chẳng từ chân sinh, chân chưa theo vọng nên chẳng nương vọng mà hiển. Như thế thì cảnh là cảnh của tâm, tâm là tâm của cảnh; chân tức chân của vọng, vọng tức vọng của chân; Nương gá lẫn nhau, vay mượn lẫn nhau, hễ có thiếu khuyết gì thì chẳng bao giờ thành, nên nói đồng một duyên khởi. Dung nạp lẫn nhau v.v…, tức pháp giới không chướng ngại, nghóa là hoặc tâm hoặc cảnh, hoặc lý hoặc sự, một nhiều tức nhập, thảy đều vô ngại. Đây ắt động dừng ngang dọc đều là giáo thể. Lấy một “v.v… trở xuống là nguyên do khởi xuất, như tâm cảnh, lý sư ởï trên, đều được vô chướng ngại. Do tất cả pháp chẳng lìa hai môn, vì hai môn chỉ là nhất tâm, bởi quy tánh tức môn Chân như, hai thứ trước là môn Sinh diệt, hai môn chẳng hai tức là nhất tâm, vì do nhất tâm này dung chứa cả, được đồng nhất duyên khởi vô ngại tự tại. - Tông quy của luận. Có hai: Nêu chương, giải thích tên: Trước đã nói văn thể năng thuyên, ở đây nói nghóa thu sở thuyên. Trong nghóa đáng tôn, đáng trọng, đáng tôn thờ nên gọi là Tông; quy hướng tới lui nên gọi là Thú. Các bộ v.v…, như tông Pháp Hoa nói Nhất thừa, tông Niết-bàn nói Phật tánh, tông Hoa Nghiêm có pháp giới, tông Duy ma nói bất tư nghì giải thoát v.v… Song, tông có nhiều thứ, hoặc theo mục đích đối tương để rõ tông, tức chỗ tiêu biểu của ngôn ngữ gọi là Tông. Đây chỉ lấy nghóa nhất kỳ mà luận, như nói âm thanh là có pháp nhất định vô thường làm tông v. v… Hoặc theo người thực hành tu tập để nói tông, tức chỗ tôn sùng của tâm gọi là Tông, như mỗi việc tùy theo chỗ tu tập kinh luật luận, v.v… Nay nói chỗ tôn sùng của một bộ, là tông là chủ, nên gọi là Tông. Tông ở đây trở về với nghóa gì? Nghóa là giáp tin, hiểu, thực hành pháp này chắc chắn sẽ được chứng nhập, nên nói là sở quy của tông. Khai chương như trong văn. - Tùy tướng: Nêu tên: Trong Chánh biện, phần đầu là theo tướng chấp pháp, tức là nêu tê. Tông đối nơi sự pháp nên nói theo tướng, chấp pháp nhất định có thật nên nói là chấp pháp. Các sư Tiểu thừa; là Tông chủ. Căn bản là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, lần lượt chia thành hai mươi bộ. A hàm, là kinh y cứ, bằng với các kinh chánh pháp Niệm, Phật, Bổn Hạnh v.v… Vì tạo v.v… trở xuống, Luận là sở tạo, tức các luận Bà-sa, Câu-xá v.v… trong các môn, ở đây nêu bốn thứ: Chân không vô tướng: Tức sắc tức không, bệnh không cũng không nên nói chân không, lìa tất cả tướng nên nói Bát-nhã vô tướng, v.v… đối tám bộ và các kinh không như Trung Quán, v.v… đối các loại như Bách Luận, Luận Thập Nhị Môn. Duy Thức pháp tướng: Duy giá cảnh có thức phân biệt tâm, không có tất cả các pháp, chỉ do thức biến tông tướng pháp, nên gọi là Pháp Tướng Tông thuộc Duy Thức, v.v … là các loại Đối pháp, Bách pháp trong Duy thức. Như Lai tàng duyên khởi: Tức Như Lai tàng tâm tùy theo nhiễm tịnh mà thành các pháp, như các kinh Lăng - già, Thắng man, Mật Nghiêm v.v…, các Luận Khởi Tín, Phật Tánh, Bảo Tánh,v.v… Viên dung cụ đức: Viên nghóa là viên mãn tánh tướng biến khắp, dung là dung hòa lý sự vô ngại. Cụ đức là lớp lớp vô tận, một hạt bụi một mảy lông đều xứng tánh, đều bao gồm khắp, như trong Viên giáo ở trước đã nói. Chỉ luận này: Nay đây v.v… trở xuống, là chỉ cho Luận này. Thứ tư, tức Như Lai tàng duyên khởi tông, do sở thuyên của luận này nói về Như Lai tàng. Chẳng sinh chẳng diệt hòa hợp với sinh diệt, gọi là A-lại-da, vì rộng nói rõ các pháp duyên khởi nhiễm tịnh. Hội năm giáo: Nhưng đây v.v… trở xuống, là hội năm giáo. Nhưng chỉ có Phật nói mới thành giáo, có người còn gọi là Tông. Tông và giáo chẳng khác, do đó bổn sớ theo giáo mà biện. Vì nay đem kinh để phân biệt nên có rộng hẹp khác nhau. Một bộ kinh dung chứa nhiều giáo nghóa, như trong kinh Hoa Nghiêm nói đầy đủ mười điều ác và mười điều thiện tức Nhân thiên giáo; nói bốn đế, mười hai nhân duyên tức Tiểu thừa giáo; nêu đủ các địa vị tức Phần giáo. Tam Thiên Kệ nói: “Pháp tánh vốn vắng lặng, không lấy cũng không bỏû”. Tánh không tức là bất khả đắc tư lương của Phật, tức Thỉ giáo. Như tâm Phật cũng giống như thế, như Phật chúng sinh cũng vậy. Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không khác nhau, tức là Chung giáo. Khi mới phát tâm liền thành Chánh giác tức là Đốn giáo. Tất cả vô ngại tức Viên giáo. Ngoài ra trong các Kinh hoặc năm, bốn, ba, hai v.v… nhiều ít không nhất định. Tông đầy đủ các kinh, như một tông luận này có hơn trăm bản kinh Đại thừa. Theo những gì? Chỉ là các kinh liễu nghóa đều là tông này, v.v… lại, như nghóa không trong tất cả các kinh đều là tông Tam Luận. Ngoài ra đều mô phỏng theo đây. Trên đây đã nói chỉ theo tông giáo cùng nói nghóa rộng, nếu nói về nghóa hẹp thì như năm giáo trước, mỗi vị nói một nghóa không thông suốt nhau. Như một bộ Kinh chỉ nói một nghóa, đây gọi là giáo hẹp. Tông theo giáo nói cũng lại như thế, đây gọi là Tông hẹp. - Chỉ nói về luận này. Có hai: Chung: Nghóa Nhất tâm pháp, do trong luận này, nghóa lý sở thuyên tuy rộng nhiều, nhưng chỗ tột của tông đều hiển bày một tâm pháp ba nghóa đại, lấy làm tông kia. Pháp nghóa của tông này ý ở chỗ nào? Vì khiến sinh tâm tin hiểu đúng không lầm, y theo chỗ hiểu tu hành, hạnh thành nhập chứng, chứng được quả tột trở về nhất tâm này, nên nói là thú. Nhưng, nếu tin một vị lý không thì ưa chán đều dứt, nếu một bề tin pháp tướng thì thánh phàm cách xa, đây đều không thể khởi hạnh thú chứng. Nay khiến tin nhất tâm là gốc của phàm thánh, chỉ do mê ngộ mà có khác nhau, ắt có thể khởi tu thứ lớp chứng quả. Riêng biệt: Từ riêng v.v… trở xuống. Có hai: - Liệt nêu giải thích: Nói giáo, do dùng lời để nói nghóa, nghóa hiển thì lời mất, như nương bè qua sông, đến bờ phải bỏ bè, như văn sau nói đủ. Nên biết Như Lai phương tiện khéo léo, giả mượn lời nói để dẫn dắt chúng sinh. Chỉ thú kia: đều là lìa niệm trở về chân như. Lý sự, trước tông sau thú, hợp nói lý sự ở sau có phỏng theo đây. Nêu sự…, nói rộng nhiễm tịnh sinh diệt, đều là trở về lý chân như. Như từ…, văn nói: “Lại nữa, hiển bày từ môn Sinh diệt tức nhập môn Chân như”. Nghóa là suy tìm năm ấm sắc tâm, cảnh giới sáu trần… rốt ráo vô niệm. Cho đến nếu quán sát biết tâm vô niệm, thì được thuận theo nhập môn chân như. Do chân tục v.v… hướng về chân lý nhất vị tức tâm dứt bặt, quán cảnh tục muôn vạn khác nhau thì trí khởi, do đây thành hai môn Chỉ Quán. Văn sau nói: “Nói Chỉ nghóa là dừng (chỉ) tất cả tướng cảnh giới, thuận theo nghóa quán Xa-ma-tha. Nói Quán nghóa là phân biệt tướng nhân duyên sinh diệt, thuận theo nghóa quán Tỳ-bát-xá-na. Thành tín tức địa vị Thập Tín, duyên không lui sụt tức từ Tam hiền trở lên. Hàng Địa tiền tỷ quán chưa tạo chân như, mục đích là đăng địa, thân chứng thánh tánh. Bởi nhân v.v…, là chỗ tu hành mười Ba-la-mật của Địa thượng, mục đích là mong chứng quả Phật Bồ đề. - Kết chỉ bày: Năm thứ này v.v… trở xuống là tổng kết chỉ bày. Lý do, là: 1- Do giáo nên được nghóa. 2- Do sự trong nghóa nên hiển lý. 3- Do sự lý làm cảnh để thành hạnh chỉ quán. 4- Do chỉ quán nên được địa vị chứng nhập. 5- Do chứng nhập nên được quả. Ở đây lần lượt làm nhân cho nhau, từ cạn đến sâu, để truyền bá tông thú sâu xa của luận. Xong phần Nghóa Môn Huyền Tự. THEO VĂN CHÚ GIẢI. Trong đề luận. Có hai: Giải thích bốn chữ trước. Có bốn: Giải thích chung bốn chữ: Nói thường thể, chẳng giống quyền giáo. Giải thích chữ Đại, do phân biệt chữ Tiểu làm nghóa, ngoài Đại có Tiểu để phân biệt, thì há thành tựu đến chỗ tột đại ư? Nay do thể của tâm tánh không bờ mé, dứt các phân biệt so đo, chỗ tâm hành diệt, đường ngôn ngữ bặt, không có tên mà gượng gọi là Đại. Nhưng, chữ Đại có hai nghóa: Nghóa thường: Nghóa là dài suốt ba đời không trước không sau. Không có một pháp trước đó, chỉ cái này có trước các pháp nên nói là đại. Kinh Niết-bàn chép: “Cái gọi là Đại gọi là nghóa thường”. Nghóa trùm khắp: Nghóa là rộng khắp mười phương, tột cùng mười phương không có bờ mé. Kinh Niết-bàn chép“Cái gọi là Đại tánh kia rộng khắp cũng như hư không”. Bao gồm, Luận nói: “Tâm ấy nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất tế gian”. Lại, Kinh nói: “Tâm tánh tròn khắp bao gồm mười phương, v.v…”. Nếu Thể không trùm khắp thì đâu gọi là bao trùm? Nếu chẳng bao trùm thì đâu gọi là Đại? Do đó là nghóa bao gồm, là nghóa Đại. Vận tải v.v…, chữ Thừa có năm thứ: Trời, người, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, do đều có công năng vận tải nên gọi chung là thừa. Lại, nghóa có đại tiểu mà chuyên chở thì có xa gần. Nhân thừa: Ba quy y năm giới cấm chuyên chở chúng sinh vượt ra khỏi ba đường, sinh trong nhân gian, cũng như thuyền nhỏ vừa qua khe suối. Thiên thừa: Thượng phẩm mười điều lành và Bốn thiền tám định có công năng vận chuyển chúng sinh vượt khỏi bốn châu, đạt đến thượng giới, như thuyền vượt qua sông nhỏ. Thanh Văn thừa: Pháp môn Bốn đế. Duyên giác thừa: Pháp môn Mười hai nhân duyên, có khả năng chuyên chở chúng sinh vượt qua ba cõi đến Niết-bàn hữu dư, vô dư, thành A-la-hán và Bích-chi-phật, như thuyền lớn vượt qua sông lớn. Bồ-tát thừa: Do pháp môn bi trí sáu độ chuyên chở chúng sinh vượt khỏi ba cõi, và cảnh giới Nhị thừa, đến bờ Vô thượng bồ-đề đại bát niết-bàn bên kia, như thuyền lớn vượt qua biển lớn. Kinh Pháp Hoa chép: “Nếu có chúng sinh từ Phật, Thế tôn nghe pháp, tin nhận siêng năng tu hành tinh tấn, cầu trí Nhất thiết, trí Phật, trí Tự nhiên, trí Vô sư, tri kiến Như Lai, Lực vô sở uý. Vì thương xót nghó an vui vô lượng chúng sinh, làm lợi ích trời người, độ thoát tất cả, đó gọi là Bồ-tát Đại thừa. Cầu thừa này gọi là Thừa”. Đây chính do năng thừa có lợi độn, sở thừa có hơn kém, nên khiến chỗ vượt có rộng hẹp, chỗ đến có gần xa. Nay nói thừa, là phần thứ năm Bồ-tát thừa.Nhưng, chỗ nói ở trên là theo con đường thường, lấy sáu độ muôn hạnh làm thể sở thừa. Nay trong luận này nói về sở thừa, là thẳng theo Thể đại và Tướng đại. Văn sau nói: “Tất cả chư Phật đều do bổn thừa, tất cả Bồ-tát đều thừa pháp này đến đất Như Lai”, do đó cũng gọi là Phật thừa, Nhất thừa, Tối thượng thừa. Nay nói chung chỉ gọi là Đại, nói tuy chẳng khác mà nghóa kia khác nhau. Do văn này hướng về chỗ khác thường mà nói con đường thường. Lại nói phải đợi năng sở khế hợp nhau mới được gọi là thừa. Nay luận nói thẳng tâm chúng sinh lấy làm pháp Đại thừa, đâu được đợi đủ năng sở ư? Kinh Niết-bàn chép: “Phật tánh gọi là Nhất thừa”. Đại thừa trở xuống, là nêu sở tín để nói rõ năng tín. Nghóa là do có Nhất tâm Tam đại làm cảnh cao quý, duyên cảnh cao quý này mà phát tâm Nhẫn lạc gọi là khởi tín. Nếu không như thế, là tin pháp nào? Tin cái gì? Tin nương vào đâu làm bằng cứ mà phát khởi ư? Vì thế nên lấy tâm cảnh hợp nhau làm mục tiêu để phát khởi lòng tin. Đại thừa Khởi Tín, bởi Đại thừa làm cảnh sở duyên mà phát được tín tâm năng duyên, đây là duyên Đại thừa để khởi tín tâm nên chẳng khởi tâm khác. Sở duyên cao quý mà năng duyên thấp kém. Đại Thừa Khởi Tín là Y theo chủ mà được tên, ở đây theo cảnh để hiển bày tâm. Lại cũng v.v… trở xuống, là đối với tông để biệt hành. Nghóa là tin chung đại tiểu phân biệt lý kia. Nay khởi tin Đại thừa là chẳng phải khởi lòng tin khác, tức dùng riêng phân biệt chung, cũng là Y chủ thích. - Giải thích riêng Đại thừa: Lại đại v.v… trở xuống, là giải thích riêng Đại thừa. Theo nghóa …, Luận nói: “Nói nghóa đó hẳn có ba thứ, thế nào là ba? Thể đại: Bởi tất cả pháp chân như bình đẳng không thêm bớt. Tướng đại: Bởi Như Lai tàng đầy đủ vô lượng tánh công đức. Dụng đại: Sinh ra tất cả nhân quả lành thế gian và xuất thế gian”. Theo người, v.v…, Luận chép: “Tất cả chư Phật vốn có sở thừa, tất cả Bồ-tát đều thừa pháp này đến đất Như Lai”. Y theo bổn sớ nói: “Đối trong ba đại, thể tướng là sở thừa, dụng đại là năng thừa. Trong ba đại, chỉ nhất tâm chuyển, nên vừa là đại vừa là thừa”, là Trì nghiệp thích. - Giải thích riêng chữ Đại: Lại nương v.v… trở xuống, là giải thích riêng chữ Đại. Bảy thứ tương ưng, đây đều đứng về người mà nói cảnh. Tánh đại, do giáo pháp mà chư Phật nói rộng lớn làm sở duyên. Hành, là hai lợi hành: Tự lợi và lợi tha. Trí, là hai trí vô phân biệt: Ngã không và Pháp không. Tinh tấn, trải qua ba a-tăng-kỳ tu hành không chán nãn. Phương tiện, không trụ Sinh tử và Niết-bàn. Chứng đắc, công đức Phật địa đều viên mãn. Nghiệp: ứng hiện khắp mười phương giáo hóa chúng sinh. Sáu câu trên cũng như câu đầu đều nói về tánh đại. Nhưng trong bảy câu thì năm câu trước là nhân, hai câu sau là quả. Trong hai câu quả thì câu trước là Thể, câu sau là Dụng. Thể tức tướng trí tịnh, dụng tức tướng bất tư nghì nghiệp, cũng tức là hai cảnh sau trong bốn cảnh, các luận Trang Nghiêm, Du-già, Hiển Dương cũng đồng với thuyết này. hai: - Giải thích riêng Khởi tín: Khởi nghóa v.v… là trở xuống, là giải thích riêng Khởi Tín, có - Nói rõ: - Giải thích chữ Khởi: Do có bản giác là theo nhân duyên để nói về chỗ phát khởi, Pháp hữu vi khởi đều là năng lực nhân duyên. Nhân duyên thiếu sót lẫn nhau thì không thể nào thành lập. Nay tin sở khởi phải đầy đủ nhân duyên, Luận chép: “Tự có năng lực huân tập (Tự thể tướng huân), lại vì Phật, Bồ-tát từ bi nguyện hộ (dụng huân), khởi lên tâm chán khổ (tín tâm), mới tiến đến con đường Niết-bàn”. Thắng cảnh, như ở sau nói tin chân như và Phật, Pháp, Tăng. Vì tin chân như là gốc muôn pháp, Phật là Báo thân, Pháp là sáu độ muôn hạnh, Tăng là Bồ-tát Địa thựơng, cùng Tam bảo, Tứ đế rất cao quý. Tin ít có: vì cảnh sở tín cao quý khiến tâm năng tín rất ít có. Nếu tin Đức Thích-ca, Đức Di-lặc là Phật thì là dễ có, nay tin chân như trong tâm chúng sinh là phàm thánh nương thông suốt, mê thì sáu đường không cùng tận, ngộ thì Tam bảo không dứt, đây là khó có. Như tin Hoàng Hậu thì mang thai vua, cô gái nghèo mang thai bậc thán thì khó dễ đã nói. Năm câu trên là giải thích chữ Khởi. Giải thích chữ Tín: Từ khiến cho v.v… trở xuống, là giải thích chữ Tín. Ngọc lóng nước là nước trong xanh như hạt châu, nghóa là tâm chúng sinh như nước, tâm nghi như nước đục còn tâm tin thì như hạt châu. Hạt ngọc bỏ vào nước đục nước sẽ lắng trong, Tâm nghi đã phát khởi lòng tin thì tâm tất thanh tịnh. Duy Thức nói: “Đối với thật đức hay nhẫn sâu sẽ ắt được lạc dục, muốn tâm tịnh làm tánh”. Như hạt châu trong nước trong lắng nước đục được nước trong. Kinh Kim Cương cũng nói: “Tin tâm thanh tịnh sẽ sinh thật tướng”. Tin tức là tâm thanh tịnh. Thông và ngại: Vì sao v.v… trở xuống, là nói về thông và ngại. Ý hỏi rằng: Từ nhân đến quả có vô lượng hạnh môn, vì sao ở đây riêng nói về Tín? Lại Tín là pháp rất cạn, nếu hướngvề giải hạnh chứng quả thì chưa đủ làm chỗ nương, tại sao trong đề chỉ nói về chỗ này? Hạnh gốc, là đáp câu hỏi ở trước. Một pháp tin nà là lộng che dẫn vào đạo, hà sa pháp lành do đây mà khởi. Nếu không có tin thì đâu thể khởi hạnh mà đến chứng quả? Vì người sơ cơ, là đáp câu hỏi thứ hai, Sơ cơ tức Bồ-tát Thập Tín ở địa vị ngoại phàm mà chưa vào kiếp số, nay luận chính là nói về hạng này. Văn sau nói: “Chúng sinh nương vào đây chưa nhập nhóm chánh định nên nói tu hành tín tâm”, nhưng là bậc thượng căn sơ cơ. Căn cơ nếu kém v.v… trở xuống, là trước nhập Tiểu thừa dần dần đến Đại thừa tự tin tánh mình, đồng với văn của kinh Hoa Nghiêm, đều là nghóa chứng hạnh gốc. Chỗ luận đã rõ, ở đây không nói thêm, ngoài ra xem văn sẽ thấy được. - Giải thích chữ luận: Từ chữ Luận trở xuống, là giải thích chữ Luận. Nhưng chữ Luận có hai thứ, nghóa là: Giải thích và Tông. Giải thích luận tức là tùy theo chỗ hiểu mà giải thích theo kinh Phật, cũng như chương sớ là các Luận Trí Độ, Kim Cương, Pháp Hoa, v.v… đều là loại này. Tông luận tức là kiến lập tông kinh như Du-già, Duy Thức, Bà-sa, Câu-xá, v.v… Kiến lập v.v… trở xuống, đây là theo tông kinh mà giải thích chữ Luận. Nghóa là quyết định kiến lập hiển bày rõ ràng việc làm. Phép tắc, văn cú, ngôn từ, chia đoạn… nhằm giảng nói pháp nghóa sâu mầu trong kinh Phật cùng hành tướng lý thú. Nương quyết định” v.v… trở xuống, là tổng kết. Bởi Luận là nghóa phán quyết. Lại, luận v.v… trở xuống, là theo lý mà lập giải thích chữ Luận. Nghóa là biên tập giáo pháp thương lượng bàn luận, tự hỏi tự đáp, gạn bày vặn hỏi qua lại, khai mở đạo lý phát huy chân thú, giúp cho chánh lý thành lập tông dẹp phá tà. Hai câu trên đây trước là giải thích, sau nói về Tông. Hoặc có thể đầy đủ về tông luận mà chẳng giải thích chữ luận. Nhưng, trong năm chữ này có pháp có dụ, theo lý theo hạnh, thể dụng, tâm cảnh, nhân quả, giáo nghóa gom thành đề mục, như ở trước trong phần khai đề đã nói. Lại, năm phần văn trong bộ luận này cũng không ngoài năm chữ trong đề. Nghóa là trong phần giải thích hiển bày chánh nghóa đối trị tà chấp là Đại, phần Phân biệt phát thú đạo tướng là Thừa, phần Tu hành tín tâm là khởi Tín. Trước sau hai phần, nghóa ngay nơi luận, trong phần Lập nghóa thì chung cả bốn chữ Đại thừa Khởi Tín.  KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 4 CHỦ TẠO LUẬN SỚ Có ba: Giải thích Mã Minh: Sơ sinh v.v… là nghóa thứ nhất, Lại Thiện v.v… là nghóa thứ hai, Trung Ấn là nghóa thứ ba, đều là bao gồm, là cúi mình, ngoài ra đều như văn nói. Giải thích Bồ Tát: Nói đủ, v.v…, do Trung Hoa vào thời này tập tục không quý âm vận của nước Tần, nên giữ nguyên tiếng Phạm. Bởi chán rườm rà ưa giản lược, nên lại lược bớt chỉ còn hai chữ, do đó chỉ gọi chung là Bồ- tát. Cũng v.v…, là nêu nghóa trước, tức nêu ba nghóa Mã Minh ở trước. Sở cầu là Phật, Phật tức là giác. Sở độ là chúng sinh, chúng sinh là hữu tìn, ở đây toàn chấp cảnh sở cầu sở độ, để nói lên người năng cầu năng độ, tức bậc trí giác ngộ, thuộc về Hữu tài thích. Trí giác ngộ tức Trí thỉ giác. Thức tình lự tức sáu thức nhiễm, ở đây cũng hoàn toàn chấp trí giác sở hữu tình thức, mà đặt tên năng hữu, cũng là Hữu tài thích. Sở cầu là trí Phật, trí Phật tức là giác. Năng cầu là tự thân, tự thân tức hữu tình. Đây tức cầu Bồ-đề-tát-đỏa, lấy hơn để làm rõ kém, là Y chủ thích. Trong ba nghóa này, nghóa đầu là đứng về cảnh, nghóa kế là đứng về tâm, nghóa sau cùng gồm cả hai tâm và cảnh. Lại, ban đầu là theo bi trí, thứ hai là theo chân vọng, thứ ba là theo nhân pháp. Do đó theo tâm cảnh, bi trí, chân vọng, nhân pháp là để rõ lý Bồ-tát đều cùng tận. Luận Trí Độ chép: “Bồ-đề là trí huệ vô thượng, cũng gọi là Giác, cũng gọi là Đạo. Tát-đỏa cũng dịch là chúng sinh, hoặc gọi là tâm lớn, hoặc gọi là tâm mạnh mẽ”. Tiểu Phẩm nói: “Vì giác tất cả pháp không chướng ngại gọi là Bồ-tát, sẽ vì đại chúng làm bậc Thượng thủ gọi là Ma-ha-tát”. Đạo Hành chép: “Người này đối với tất cả pháp đều biết rõ nên gọi là Bồ-tát, ở trong trời đất là bậc cao quý nên gọi là Đại”. Giải thích chữ tạo: Chế tác là phân biệt chẳng phải soạn thuật. Phật diệt v.v.…, là nói thời gian soạn luận là vào 250 năm đầu, người giải thoát ít nên soạn luận này để giúp được chứng nhập. Ma-da v.v…, là y theo luận Đại thừa nói thì có sáu vị tên Mã Minh xuất hiện trước sau khác nhau: Kinh Thánh Đảnh Vương chép: “Phật thành đạo mười bảy ngày, có một ngoại đạo vặn hỏi Phật, tên là Mã Minh”. Kinh Ma-ni Thanh Tịnh chép: “Sau khi Phật diệt độ một trăm năm, có một Bồ-tát xuất hiện ở đời tên là Mã Minh”. Kinh Biến Hóa Công Đức chép: “Sau Phật diệt độ ba trăm năm, có một vị Bồ-tát xuất hiện ở đời tên là Mã Minh”. Như sớ đã dẫn chứng. Kinh Thường Đức Tam-muội nói: “Sau khi Phật diệt độ tám trăm năm, có một Bồ-tát xuất hiện ở đời hiệu là Mã Minh”. Kinh Trang Nghiêm Tam-muội nói: “Thời quá khứ có một Bồ- tát hiệu là Mã Minh”. Nói đủ có sáu nay, ở đây là nói phần thứ tư, nhưng theo Đại Luận nói thì Bồ-tát này thành đạo kiếp trước, hiệu là Phật Đại Quang Minh. Nay vì giúp giáo hóa nên thị hiện ở Bát địa, cha tên Lư-già, mẹ tên Cựu-da, còn gọi là Công Đức Nhật. Bồ-tát thì như chỗ khác đã nói rõ, các sớ đều như nhau. Chân đế v.v…, cũng gọi Câu-na-la-đà, Hán dịch là Thân Y. Lương Nguyên Đế v.v…, bởi vị Tam tạng này là do vua Lương Võ Đế vào năm Mậu Thìn niên hiệu Thái Thanh thứ hai, vua ở điện Bảo Vân ban sắc lệnh dịch kinh. Từ niên hiệu Thái Thanh năm thứ hai đến năm Giáp Thìn niên hiệu Thừa Thánh thứ ba, ở tại chùa Chánh Quán dịch các kinh Kim Quang Minh, Di-lặc Hạ Sinh, v.v… cùng Luận Khởi Tí, v.v… mười một bộ, hợp thành hai mươi quyển. Luận này vào ngày mùng mười tháng chín năm ấy do Lương Ấp, Anh Hiền, Tuệ Hiển, Trí Khải, v.v… cùng phiên dịch tại chùa Kiến Hưng ở Tuệ Châu, đồng thời dịch Luận Chỉ Huyền Văn hai mươi quyển. Gặp lúc Hầu Cảnh làm loạn bèn muốn đi thuyền trở về Tây, gặp lúc gió lớn nên quay về Quảng Châu, được sắc lưu trụ lại chùa Chế Chỉ thỉnh dịch kinh luận, từ niên hiệu Vónh Định năm đầu đời Trần đến năm Kỷ Sửu niên hiệu Thái Kiến năm đầu, lại dịch Phật luận A-tỳ-đàm và luận Câu-xá, v.v… Tổng cộng hai đời Lương và Trần dịch được ba mươi bốn bộ kinh luận, gồm một trăm mười bốn quyển. Hiểu rộng, đối các tạng, các bộ, v.v … đều rộng hiểu khắp, cùng các nghệ thuật, dị giải, lão luyện bén nhạy. Thần dị, hoặc trải tòa trên sông, hoặc ở ngay chỗ nắng nóng mà không đổ mồ hôi, v.v… Ngoài ra như văn sớ. Đại Châu, do Võ Hậu Tắc Thiên khi mới lên ngôi, vào ngày mùng chín tháng chín năm thứ hai đổi quốc hiệu là Đại Châu, đổi niên hiệu là Thiên Thọ năm đầu, nên nói Đại Châu Tắc Thiên. Giải thích người dịch, do bản dịch ở sau là chứng nghóa của sớ chủ, e dính mắc phàm tình nên giải thích bản khác. Quy mạng: Quy mạng Tam bảo: các luận đủ thiếu không giống nhau, có luận quy mạng đầy đủ như luận Trí Độ … Có luận chỉ quy y Phật, như luận Địa Trì, v.v … Có luận chỉ quy y Tăng như Luận Thập Địa, v.v … Có luận không hề quy y, như Luận Thập Nhị Môn, v.v … Đây là mỗi mỗi tùy theo ý tác giả. Nay luận này sở quy đều đầy đủ cả, văn sớ có hai: Trình bày Ý: Nhớ ân: Phật đại từ bi rủ lòng đem giáo pháp dạy bảo chẳng tự mở mang, truyền cho tăng chúng khiến ta không khổ, được an vui, tức biết Tam bảo đối với ta có ân đức lớn, vì cảm ân đức ấy mà quy mạng. Che chở: vì muốn soạn luận để dẹp tà hiển chánh nên trước quy y Tam bảo, thỉnh cầu thầm che chở, trợ giúp tăng thêm trí huệ khiến được sớm thông hiểu, nên nói là gia. Sợ kia bị ma quấy nhiễu việc làm khó thành tựu, nên mượn lấy oai lực phòng chướng duyên bên ngoài, nên nói là hộ. Sinh tín: luận chủ thị hiện cũng ở nhân vị, chủng trí chưa viên mãn nên luận văn nói e ít có người tin, do đó nương oai lực mà soạn người sẽ tin không nghi. Nghi thức, phàm đạo làm con muốn làm gì trước phải trình qua cha mẹ. Nay đệ tử muồn đem giáo pháp để lại để soạn luận văn, thì trước phải quy mạng Tam bảo vì làm nghi thức cho đời sau. Tôn thắng, tôn trọng Tam bảo là đầu mối phát xuất ra các vật, là ruộng phước của thế gian, phần đầu của luận nói về quy y, là tiêu biểu sự cao quý. Lợi ích chúng sinh, Phật Pháp Tăng hay làm lợi ích cho các loài, vậy lợi ích kia rất rộng phải chăng? Vì phàm phu ngu mê điên đảo không biết, nên phải quy mạng để nói lên lợi ích lớn đối với mọi loài. - Giải thích Văn: Từ Quy mạng v.v… trở xuống, có ba: Năng quy chí thành: Văn có hai: Giải thích Văn: Có hai: Sự tướng: Giải thích nương bốn chữ đầu cộng thành nghóa quy y, nghóa là quy y, quy đầu, quy thú, quy hướng. Ngự căn v.v… trở xuống, là đứng về mặt vận trì hạt giống sắc tâm không dứt công năng gọi là Mạng, do giữ mạng khiến căn không hoại, tức thuộc về pháp Bất tương ưng hành. Một thân v.v… trở xuống, mạng còn thì thân còn, mạng mất thì thân hoại, chỗ tôn trọng của người đời không ngoài chỗ này. Ở đây nêu v.v… trở xuống, đứng về mặt sở quy để nói năng quy. Mạng đáng trọng, vì là không hai. Phật đáng tôn, vì là vô thượng. Nay đem mạng đáng trọng quy về cảnh đáng tôn là rất thích đáng. - Giải thích Hạnh quán: Sớ Lại, quy y v.v… trở xuống là giải thích hạnh quán. Chúng sinh v.v… trở xuống là nói về nguồn mê. Tuy nói sáu căn gồm chấp sáu thức, đều từ một tâm lặng lẽ mà khởi. Do gốc là thuần nguyên nhất tâm, bởi quay lưng bèn thành sáu thứ căn thức. Thức không tự khởi do trần mà phát, niệm niệm rong ruỗi đâu thể tự phản chiếu, tức nghóa bỏ giác theo trần. Nên kinh Phật Đảnh nói: “Vốn là một tinh minh chia thành sáu hòa hợp”. Nay nêu v.v… trở xuống, là nói về nghóa trở về nguồn. Nhiếp chung sáu tình: tình tức là căn, do mạng hay nhiếp chung các căn. Nay nêu chung, nhiếp riêng nên chỉ nói quy mạng, vì mạng lúc trở về nhất tâm thì các căn đều theo đó mà hợp. Kinh nói: “Một căn đã trở về nguồn thì sáu căn đều giải thoát”. Lại nói: “Một chỗ thôi dừng sáu dụng đều chẳng thành tựu”. Tuy nhiên, ở trên đã nói chỉ là phân một làm nhiều, tức nghóa bỏ giác, nhiếp nhiều thành một tức là nghóa quy. Thật ra không có năng bối, sở bối, năng quy, sở quy. Nhất tâm v.v… trở xuống là bởi có giác chiếu là Phật, kham giữ gìn là Pháp, đầy đủ muôn đức hòa hợp không trái là Tăng. Trên nhất tâm mà hiện ba nghóa nên nói Nhất thể. dụng. <詞>- Nói chung về Thể: Sớ Nhưng hay v.v… trở xuống là nêu chung về thể, có hai: - Chung theo ba nghiệp: Thể năng quy tức thân miệng ý của ngài Mã Minh, nghiệp tức ba Muốn hiển bày v.v… trở xuống là giải thích đủ cả ba nghiệp, vì sớ có ba ý: Nói lên đức thù thắng của Phật. Gốc lành viên mãn. Vì đến quả kia. Dùng thân nghiệp quy y là nói lên có thiên nhãn để thấy, dùng khẩu nghiệp quy y là nói lên có thiên nhó để nghe. Dùng ý nghiệp quy y là nói lên có tha tâm để biết. Viên mãn v.v… trở xuống là xưa do ba nghiệp đều bất thiện, như mười chi sát sinh.v.v, nay đã quy y Phật tức ba nghiệp đều thiện, dùng thân kính lễ, miệng khen ngợi, tâm duyên theo, tức sát đạo dâm v.v… tự nhiên chẳng sinh. Nhân ba luân v.v… ba luân là quả, nghóa là thần thông, chánh giáo, ký tâm. Nhân là ba nghiệp thiện, là nhân của ba luân. Y chủ thích thì do nhân trong thân nghiệp quy y quả, được thần thông luân. Yù nghóa là như thiên nhãn, thiên nhó thông. Vì ở đây hay dẫn tà về chánh. Do nhân trong khẩu nghiệp quy quả, được Chánh giáo luân, nghóa là Túc mạng, lậu tận thông, ở đây hay quán sát căn cơ nói pháp, giúp cho được giải thoát. Do nhân trong ý nghiệp quy mạng, được quả Ký ba luân, nghóa là Tha tâm thông. Đây khiến người chưa tin sẽ tin, người chưa tu chứng sẽ tu chứng, hoặc cùng thọ ký v.v… đều gọi là Luân, vì hay dẹp phá hoặc chướng của chúng sinh. Hoặc kiến v.v… trở xuống là nói về nghi thức quy mạng, đây chính chẳng luận ba nghiệp trước sau chỉ tùy theo chỗ thấy nghe, ắt đối ba nghiệp quy y, đây có bốn câu, như sớ nêu phối hợp, nhưng ba câu trên là nói về một thời kỳ, số câu phối hợp thuộc khuôn phép. Nếu xét kỹ theo Phật tùy cơ e không có việc này. Như Phật được tự tại, há có thấy mà không nghe sao? Nếu theo căn cơ, như thấy thân Phật mà không nghe nói pháp, đâu chỉ đem thân làm lễ mà không có ý cung kính miệng khen ngợi hay sao? Như nghe nói pháp mà không thấy hình tướng, đâu chỉ dùng miệng khen ngợi mà không ý làm lễ hay sao? Lại, tuy không thấy nghe như người chuyên tâm niệm Phật há không có thân miệng sao? Huống chi là thân miệng do tâm sai khiến, ý nghiệp chẳng hành, thân khẩu chẳng động ư! Như đây phối hợp là nói về một thời hạn. TỔNG KẾT: Sớ Nay nói v.v… trở xuống, là tổng kết đều thuộc về ý nghiệp vì thân, miệng đều do ý sai sử, ý là cội gốc, hai thứ kia là ngọn. Huống là ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức, thật đáng coi trọng, nên chỉ nói ý nghiệp. Phần hạn sở quy: Luận: Tận mười phương v.v… là giới hạn về sở quy, sớ có hai: - Nói về phần hạn nơi chốn: Chẳng phải ngay đây v.v… là chẳng phải chỉ có nghóa là chẳng phải chỉ ở một phương Tam bảo mà là quy mạng khắp cả, ở đây giải thích mười phương. Mỗi phương v.v… trở xuống là giải thích chữ Tận, nhưng có hai ý, nghóa là mỗi phương không chỉ có một cõi, hai cõi, mỗi cõi không chỉ có một vị Phật, hai vị Phật thôi. Nói lên Tam bảo v.v… trở xuống là giải thích lý do. Trùm khắp, kinh nói: “Tỳ-lô-giá-na trùm khắp tất cả chỗ”. Đây là Pháp thân trùm khắp. Pháp thân là lý Báo thân là trí, lý trí không hai, nên Báo thân cũng trùm khắp. Pháp thân, Báo thân là thể Ứng thân là dụng, thể tức là dụng nên Ứng thân cũng biến khắp, hai thứ còn lại là nêu rất dễ hiểu. Ở đây theo sở quy rộng lớn: năng quy do sở quy mà trùm khắp, năng quy rộng lớn nên năng sở tương xứng, như lộng và dù. Phân biệt với tiểu: theo giáo mà giải thích, cũng chung cả năng sở. Do trong Tiểu thừa không tin có Phật ở phương khác, nên nay nói tận mười phương là phân biệt chỗ khác kia. - Nói về phần hạn Tam bảo: Nhưng, ba” v.v… trở xuống, là nói phần hạn của ba ngôi báu (Phật, Pháp, Tăng). Trụ trì, các tượng đúc vẽ tô v.v… là Phật, ba tạng giáo kinh luật luận là Pháp, năm chúng Tỳ-kheo v.v… hòa hợp là Tăng. Y theo pháp như thế mà trụ trì. Tướng riêng: năm giáo cạn sâu chẳng giống nhau, Phật có ba thân mười thân, Pháp là giáo, lý, hạnh, quả, Tăng có ba hiền mười thánh tám bậc thượng nhân. Do năm giáo khác nhau nên ba ngôi báu mỗi ngôi có khác. Thể chung: tuy bổn tánh quán hạnh dung thông có khác, nhưng đều lấy giác chiếu làm Phật, giữ gìn phép tắc làm Pháp, hoà hợp làm Tăng, đều là nói trên một pháp thể. Là phước v.v… trở xuống là giải thích chung nghóa ba ngôi báu, bởi có công năng sinh phước lợi nên lấy ruộng làm ví dụ, trọn đáng tôn đáng trọng nên dùng báu để khen ngợi. Do cả ba đều là quý báu nên nói ba ngôi báu. Đây là dùng số mà giải thích. Tuy nhiên, nói về ruộng có ba thứ: Ruộng kính: Tức cung kính ba ngôi báu sinh ruộng phước. Ruộng ân: Tức do báo đáp ân cha mẹ mà được sinh ruộng phước. Ruộng bi: Tức do lòng từ bi thương xót kẻ nghèo cùng tật bệnh nên sinh ruộng phước. Đây là theo thời gian mà nói riêng, nhưng cũng chẳng nhất định hạn cuộc. Như ba ngôi báu chẳng lẽ vô ân sao? Luận Trí Độ nói: “Khiến truyền pháp tu hành để báo ân Phật” là ý đầu tiên trong sáu ý của sớ, vì đền đáp ân đức. Lại, cha mẹ sao lại không cung kính ư? Như trong Luận Ngữ, Tử Du hỏi về việc hiếu. Tử Du nói: Người có hiếu thời nay là có khả năng nuôi dưỡng, đến như chó ngựa cũng đều có khả năng nuôi dưỡng, bất kính đâu khác gì ư! Người nghèo cùng, tật bệnh, há lại vô ân hay sao? Phật nhân chúng sinh mới được thành đạo, nên Hóa thân Phật gọi là ân đức. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Do chúng sinh mà khởi đại bi, do đại bi mà sinh tâm Bồ-đề, do tâm Bồ-đề mà thành chánh giác”. Lại nói: “Nếu không có chúng sinh thì tất cả Bồ-tát không bao giờ thành Vô thượng Chánh giác”. Cho nên Bồ-đề là do chúng sinh. Lại bi cảnh này đâu được không cung kính hay sao? Lễ Ký nói: “Không ai chẳng kính”. Hiếu Kinh nói: “Kính cha thì con được vui, kính vua thì thần được vui, cung kính một người mà ngàn người cùng vui, cung kính ít người mà nhiều người đồng vui”. Lại, trong Phật pháp cung kính tất cả thì đối với cha mẹ há lại không từ bi ư? Vả lại từ bi có công năng đem đến niềm vui. Hiếu kinh nói: “Phụng dưỡng thì đến được an vui”. Đối với ba ngôi báu há không có nghóa ban vui hay sao? Nếu cúng dường tức là nghóa này. Nên biết ba thứ ruộng phước đều có chung ba nghóa, nay nói theo nghóa riêng thì đối với ba ngôi báu gọi riêng là ruộng phước. Nay sở quy v.v… trở xuống, là tổng kết lược bao gồm tất cả. Đồng thể: do nay trong Pháp bảo thể đại và tướng đại chính là ba ngôi báu Đồng thể, nên nói bao gồm. Biệt tướng là chánh, đồng thể là gồm, ở văn có thể thấy, trong sớ không có phối hợp. Trụ trì: do giữ gìn Phật pháp cả hai đều thuộc về sắc, trong toàn dụng này thể đại là tánh, nên văn sau nói: “Tất cả pháp chân như bình đẳng không thêm bớt”. Lại, Tăng bảo kia chẳng lìa năm chúng, đây cũng thuộc về thể đại. Văn sau nói: “Chân như tự thể tướng ở tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật, không có thêm bớt”. Trong đây đồng thể lại nhiếp giữ gìn, cho nên không nói vậy. Sở quy Tam bảo: Luận: Tối thắng v.v… trở xuống là nói về Tam bảo sở quy, văn có ba: PHẬT BẢO. Trong sớ, có hai: - Lược phối hợp vượt hơn Tiểu thừa. Có hai ý: Quả Phật (ba thân, ba đức) vượt hơn quả Tiểu thừa (La-hán, Bích-chi-phật). Phật sở quy của Bồ-tát (Báo thân) vượt hơn Phật sở quy của Tiểu thừa (Hóa thân). Nhân siêu vượt cũng có hai ý: Quả Phật (Diệu giác) siêu vượt hơn nhân của Bồ-tát (Đẳng giác trở xuống). Chân ứng vô ngại (thân tự thọ dụng) siêu vượt chỗ thấy của thân tha thọ dụng của Bồ-tát. Tuy nhiên, nếu y cứ chỗ thấy của ngài Mã Minh hợp thành thân tha thọ dụng. Nay dùng ý nghiệp quy mạng, chẳng kẹt chấp ở nhãn kiến. Nhãn kiến tùy theo công lực kia, ý quy mạng thì tột đến chân thân, ngay nơi tự thọ dụng cũng như vậy. Ở trên, trong mỗi thứ có hai nghóa, nghóa trước là chánh. Nghiệp trở xuống, là nêu. Nghóa là từ ý trở xuống là giải thích. Ý nói chữ Nghiệp gồm cả thân miệng ý, như sớ phối hợp. Nói tối thắng cũng chung cả ba nghiệp. Nghóa là biết khắp, là ý nghiệp cao siêu, v.v… cũng có thể lợi tha cứu đời, ngoài ra là tự lợi, tức tự lợi lợi tha thảy đều viên mãn. Nếu phối hợp ba đức thì như thứ lớp là Trí đức, Đoạn đức và Ân đức. - Giải thích riêng: Sớ Biến tri v.v… trở xuống, có bốn: Nói về ý nghiệp của Phật: Chân trí v.v…trở xuống, cũng gọi Thật trí căn bản, Chánh thể trí… Trí này khi chứng lý tột mé chân như đều viên mãn tột cùng, nên nói biến tri, tức như Lý trí chứng chân nghóa. Tục trí trở xuống, cũng gọi là Quyền trí, trí Hậu đắc, v.v … Trí này phân biệt các pháp duyên sinh nhiễm tịnh đều rõ biết, nên cũng gọi là biến tri, tức như Lượng trí nghóa suốt cả tục. Lý lượng v.v… trở xuống, là tổng kết cả hai, nghóa là hai trí này lúc duyên hai cảnh, không trước không sau, cũng không đồng thời. Trí thể không hai cảnh cũng không hai trí. Không hai, thể kia chẳng khác mà dụng kia có khác, theo biết chân gọi là Chân trí, theo biết tục gọi là Tục trí. Cảnh không hai, nghóa là Sắc tức là Không làm chân cảnh, Không tức là Sắc làm tục cảnh. Do đó lúc chứng chân sẽ thông suốt cả tục, khi thông suốt cả tục rồi sẽ chứng chân, chứng chân suốt tục không trước không sau, huống chi không tâm ngoài cảnh làm sao có cảnh ngoài tâm? Tâm cảnh dung nhau là nhất pháp giới. Bởi gượng phân năng sở nên nói Trí cảnh. Rõ không năng sở mới gọi là trùm khắp không điên đảo, không điên đảo tức là chánh, vì lý như sự như. Nói về thân nghiệp của Phật: Sớ Sắc vô ngại trở xuống, là nói về thân nghiệp của Phật. Hoa Nghiêm v.v… tức trong phẩm Bất Tư Nghì nói mỗi căn trùm khắp tức là Đại, không hoại căn tánh tức Tiểu. Tánh là thể tánh, không hoại thể thấy nghe. Nghóa là mắt thấy tai nghe đối cảnh không lầm. Không tạp v.v…, chính lúc trùm khắp căn tướng rõ ràng, mỗi căn riêng biệt, không xen lẫn nhau. Nghóa là độ lượng thì không thấy bờ mé, nhìn xem thì không hề dời đổi. Bởi tột đến Phạm Thiên không thấy đảnh trượng sáu, trùm khắp pháp giới mà không khởi đạo tràng vắng lặng, Đại Tiểu vô ngại là như thế. Tương tác, mỗi căn đều có khả năng thấy nghe hiểu biết, chẳng phải như mắt của phàm phu chỉ thấy sắc. Rõ ràng, có nghóa là rõ ràng không loạn, đây tức là sự, tánh không tức là lý. Vì sắc sở kiến toàn tánh mà khởi sắc, chính lúc khởi là tánh khởi, đây là sự chẳng ngại lý. Bổn sớ lại nói: “Lý mầu thường vắng lặng mà không ngại nghiệp dụng rộng lớn”. Câu này tức lý không ngại sự, đây chính tánh khởi làm tướng, một nhiều duyên khởi mà vô biên. Tướng được tánh dung thông, ngàn muôn sai khác dính mắc mà không ngại. Kia cũng như cảnh trong gương, trăng đáy nước, suy nghóa sẽ biết. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Thân Phật không đến cũng không đi, chỗ có cõi nước đều thấy rõ”. Kinh Kim Cương chép: “Ba mươi hai tướng tức chẳng phải tướng”. Lại, trong luận phần sau nói: “Sắc tánh tức trí, trí tánh tức sắc”, trùm khắp tất cả chỗ, v.v… đều là nghóa này. Xoay tròn trở xuống, là chung cả hai ý. Trong một hội đều thấy mặt Phật. Trùm khắp các chỗ khác đều đồng thời thấy. Mười phương v.v… trở xuống, là theo nơi chốn mà hiển bày khắp không một chỗ nào chẳng có Phật. Phần nhiều căn cơ v.v… trở xuống, là đứng về mặt căn cơ mà giải thích nghi. Nghe nói mười phương đồng hiện sẽ cho rằng phân thân phó cảm. Nay nói phần nhiều căn cơ đốn ngộ cảm ứng, ứng tuy đồng thời mà thân Phật vẫn như nhiên bất động. Như một bóng mà ngàn muôn người cùng thấy, mỗi mỗi tùy theo người kia đi ở hướng Đông hay Tây mà thấy trăng đi theo, bóng trăng không hề phân biệt, Phật cũng giống như thế. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Thân Phật đầy khắp pháp giới, hiện khắp trước tất cả chúng sinh, tùy duyên phó cảm đều trùm khắp mà thường ngồi trên tòa Bồ-đề”. Nói về khẩu nghiệp của Phật, Sớ Thế gian v.v… trở xuống nói có ba: Sở cứu: Cứu ba thế gian, là: Trí chánh giác thế gian, chúng sinh thế gian và Khí thế gian. Chánh giác là năng hóa, chúng sinh là sở hóa, khí giới là hóa xứ. Vì khí giới là vô tình, chánh giác là Phật, chỉ có chúng sinh là sở cứu. Năng cứu: Sớ Đại bi v.v… trở xuống, là năng cứu. Ba duyên, nghóa là bốn tâm vô lượng đều đầy đủ ba duyên: Chúng sinh duyên: là duyên đối với chúng sinh như cha mẹ quyến thuộc. Pháp duyên: là duyên đối với chúng sinh đều là các pháp hợp thành. Vô duyên: là chẳng thấy chúng sinh và các pháp tướng. Nay tuy chỉ nói bi mà đầy đủ cả bốn tâm. Vô duyên v.v… trở xuống, là giải thích chữ Đại, đối với ba duyên thì đây là trên hết, nghóa là đồng thể với pháp tánh, gọi là Đại. Phật tánh v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Tạm cứu v.v… là hiển bày ngược lại, nghóa là tạm khởi tâm duyên ưa hành tuệ nhỏ. Thấy người nghèo khổ hoặc bố thí vàng lụa, giúp đỡ y thực. Thấy người bị ách nạn hoặc thí vô úy đến được an vui, không quên cái thấy về ngã nhân, chúng sinh, có tâm thân sơ, dày, mỏng, điều này sẽ không lâu dài. Chẳng phải chỉ không lâu dài mà ngước nhìn cũng không khắp. Vì thấy chúng sinh và ngã tướng mà sinh tâm mệt mỏi, cho nên Phật pháp quở là ái kiến. Hằng cứu v.v… là nói về thuận theo, nghóa là thấy chúng sinh vốn thành Phật đạo như ta không khác, cảm thương vì mê mờ điên đảo vọng chịu luân hồi, nếu xoay trở về nguồn nhất định sẽ thành Phật. Do đó, vì giáo hóa một chúng sinh nên ở cõi nước như bụi nhỏ trải qua vô luợng kiếp làm hạnh khổ khó làm. Đối với một chúng sinh mà còn như vậy, đối với nhiều chúng sinh cũng giống như vậy. Đây chẳng phải chỉ từ lâu hằng gồm cả, cứu độ cùng khắp nên nói Đại Bi. Văn sau chép: “Nghóa là phát nguyện tột đời vị lai hóa độ tất cả chúng sinh, không còn dư sót, đều khiến được rốt ráo Niết-bàn vô dư”, vì tùy thuận pháp tánh không đoạn dứt, pháp tánh rộng lớn trùm khắp tất cả, chúng sinh bình đẳng không hai, không nhớ kia đây, rốt ráo vắng lặng. Chung ngại: Sớ Nhưng, muôn, v.v… trở xuống, là nói về thông ngại, hoặc nói Phật có đủ vô luợng công đức, vì sao chỉ nêu Đại bi? Nên ở đây nêu chung. Muôn đức là ba minh, tám giải, năm mắt, sáu thông, mười lực, bốn vô Sở úy, mười tám pháp Bất cộng v.v…Đức của Phật vô lượng, nay nói muôn là nêu đại số. Vì công đức bổn tánh vô lượng nên quả đức hiển bày cũng vô lượng. Đại bi là lực v.v… theo kinh A-hàm nói, thông thường lực có sáu thứ: Trẻ thơ dùng tiếng khóc. Người nữ dùng tức giận. Vị vua dùng kiêu ngạo. Sa-môn dùng nhẫn nhục. La-hán dùng tinh tấn. Phật dùng tâm đại bi. Như Phật thành Chánh giác, binh ma kéo đến, Phật nhập định từ, ma liền tan biến. Huống chi đại từ bi là tâm thể của Phật, nên kinh nói: “Tâm Phật là đại từ bi”. Nay thỉnh che chở xứng hợp với lý. Kết đức thuộc về người: Sớ giả v.v… trở xuống, là kết đức thuộc về người. sớ là lặp lại văn luận. Lập lại, đức là công đức ba nghiệp nói ở trên, nghóa là biết khắp sắc vô ngại. Cứu đời là người. PHÁP BẢO. Luận Cùng kia v.v… trở xuống, sớ có hai: XUẤT THỂ: Bốn thứ tức Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Giáo cạn, năng thuyên thô hiển bày là giả danh. Lý sâu, Sở thuyên chỗ chứng trí chân thật. Phần hạnh: địa vị nhân công lực chưa rốt ráo. Quả viên mãn, Trí đức và Đoạn đức cả hai đều thành tựu. Nay chắp v.v…trở xuống, là bỏ chấp, hai câu đầu là nêu. Thế nên theo v.v… trở xuống, là phối hợp văn của luận, theo Phật để nói về pháp. Ngay nơi quả pháp mà trình bày về thân, v.v…”, thân là dụng đại, nương thể tướng mà khởi nguyên do. Phật chứng đắc hai đại thể và tướng sau mới khởi dụng. Đã là sở chứng tức ngay pháp lý. - Giải thích văn: Sớ Nêu v.v…trở xuống. Có hai: Giải thích văn nêu. Trong câu đầu của luận có hai: Giải thích riêng chữ Cùng: Giản lược ở trước, nói về pháp chẳng phải là Phật, như nói con và cha, tức biết cha và con không đồng nhau. Tập hợp, nói rõ Phật Pháp đều quy mạng, như nói mời con và cha, tức biết chẳng phải chỉ có một người. Giải thích chung. Sớ Ngay đây v.v… trở xuống, văn có hai: Chính giải thích văn: Nghóa chẳng phải một, Phật và Pháp cả hai khác nhau. Nghóa chẳng phải khác, Pháp này lìa Phật chẳng có tự thể riêng, tức là thể tướng của thân kia, nên biết Phật Pháp chẳng tức chẳng lý, lấy nghóa nhất tâm mà nói Phật Pháp. Chung cho vặn hỏi. Lấy dụïng, v.v… trở xuống. Chánh thông: Hỏi rằng: Đã nói thân kia thể tướng phối hợp thuộc về Phật, nghóa kia thì chấp nhận, nay tại sao lại nói Pháp bảo ư? Nên ở đây giải thích: Vì Phật có ba thân, trong dụng đại đã gồm Báo thân và Hóa thân, tức thuộc về Phật bảo. Hai đại thể và tướng chính là Pháp thân, phối hợp quy mạng Pháp bảo ở lý rất đúng. Chuyển giải thích: Sớ Do kia v.v… trở xuống là chuyển giải thích. Hoặc nói: câu này đã thuộc Pháp bảo, tại sao lại nói thân kia, thân kia há chẳng phải Phật ư? Nên ở đây giải thích: Nghóa là nương thể khởi dụng, dụng chẳng lìa thể. Nay y cứ dụng để nêu thể, tướng hội dụng trở về thể, nên nói thân kia, chẳng cho rằng đều thuộc Phật bảo. Giải thích văn. Sớ kế đến, v.v… trở xuống, có ba: Giải thích thể tướng. Có hai: - Trong thể, có ba: Giải thích pháp tánh: Câu trên giải thích thể đại, tức câu “hiển bày Pháp tánh chân như là giải thích chữ Thể trong phần nêu ở trên. Pháp tánh v.v… trở xuống là lược nêu ý, nghóa là hiển bày chân tánh bình đẳng trùm khắp, tình đồng vô tình cùng một thể, nhiễm tịnh nhân quả đồng là tánh này, nên nói trùm khắp. Chẳng trực v.v… trở xuống là giải thích. Nếu nói Phật tánh chỉ hạn cuộc ở quả không chung các pháp. Nếu nói Phật tánh thì không chỗ nào mà không bao gồm, không chỉ đối với Phật, tất cả pháp là sắc tâm nhiễm tịnh, v.v… tánh là chân tánh, tức là thể đại. Tức hiển bày v.v… trở xuống là tổng kết. Nhiễm là pháp thế gian, tịnh là pháp xuất thế gian, tình chung cả phàm phu và bậc Thánh, phi tình chung cả cõi tịnh và cõi uế, sâu thì tột cùng ba mé, rộng thì bao gồm mười phương, nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Pháp tánh biến khắp tất cả chỗ, tất cả chúng sinh và cõi nước ba đời đều không còn thừa, cũng không có hình tướng để được. Trí Luận v.v… trở xuống là dẫn chứng. Nay một phen theo tên dịch nghóa, nên có văn kia. Nếu biết ba tên mà một thể, tình và vô tình đều có Phật tánh, chỉ là một pháp chân như theo tướng khác tên, tên đã theo tướng có khác thì Pháp tánh là nói chung, Phật tánh là nói hạn cuộc. Vì Phật cũng là Pháp, vì Pháp cũng là Phật, Cho nên Phật tánh, Pháp tánh đồng mà chẳng đồng, nên luận Kim Ty nói: “Tuy thể đồng mà rốt ráo có chút khác”. Phàm có tánh danh phần nhiều ở trong phàm, không có tánh danh là phần nhiều chỉ chung cho cả phàm Thánh v.v… nên biết tên tuy khác mà thể vốn đồng. Kinh Viên Giác nói: “Cùng tất cả pháp đồng thể bình đẳng”. Văn của Luận sau nói: “Một là thể đại, nghóa là tất cả pháp chân như bình đẳng không thêm bớt”. Giải thích chân như.: Nói chân v.v… trở xuống. Đây nói v.v… trở xuống, là nêu ý, vì không trùm khắp nên gọi là chân như. Chân v.v… trở xuống là giải thích nghóa. Ngụy là trá ngụy, kim như vàng rồng, vọng là luống dối, ảnh như bản chất. Nay nói Phật tánh đều không có việc luống dối này gọi là chân. Không đổi khác, là quá khứ như hiện tại, trong sắc như trong thọ, chỗ nhiễm như chỗ tịnh v.v…Nên kinh nói: “Chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt”. Không có thay đổi nên gọi là Như. Lại, Chân chẳng thể mất, Như chẳng thể lập. Nên văn sau nói: “Không có thể mất”. Do tất cả pháp đều là Chân, cũng không thể lập. Vì tất cả pháp đều là Như, Phật tánh như thế nên gọi là Chân Như. Giải thích chữ Hải là ý nghi ý giải thích, như Sớ rất dễ hiểu. Pháp y theo suy nghó, nên nói chân như tùy duyên thành nhiễm tịnh. Nhiễm tịnh tuy thành mà chân như bất biến, tánh bất biến chẳng ngại nhiễm tịnh. Nhiễm tịnh muôn vàn sai biệt chẳng ngại một tánh, nên tánh tướng không hai. Do đó một chữ Hải lấy ví dụ chân như tùy duyên bất biến. Giải thích Tướng đại. Câu sau trở xuống là một câu Vô lượng công đức tạng, giải thích chữ Tướng trong phần nêu ở trước. Phật tánh là đứng về quả, Như Lai tạng là y cứ nhân, do thể không hai nên nêu cả hai. Tạng, là theo gồm nhiếp thân nên gọi là chứa nhóm, chỗ nhóm chỗ tụ đều là tánh công đức. Như văn sau nói: “Hai là tướng đại, Như Lai tạng đầy đủ tánh công đức”. Nghóa là tự thể có nghóa trí tuệ sáng suốt rộng lớn, nghóa chiếu khắp pháp giới, nghóa thức tri chân thật, cho đến nói nghóa không có thiếu. Nên gọi là Như Lai tạng, cũng gọi Như Lai Pháp thân. Thu nhiếp giáo hạnh: Sớ Hoặc đây v.v… trở xuống, là nêu hai câu đầu thu nhiếp giáo hạnh, tức chỗ phân biệt từ trước đến nay. Phần cạn, là theo nghóa bỏ hay lấy tiêu biểu không hề mất mát gì, là giáo hạnh đều có gồm nhiếp đều gọi là Tạng. Giáo bao gồm trở xuống, là giải thích. Giáo là tạng”, do hay bao gồm tạng kia, nói đức cao quý vô lượng sự lý, đây chính sở thuyên gọi là Đức, năng thuyên gọi là Tạng, là tạng của đức. Giáo và nghóa hai tướng không có pháp xả ly, nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Văn theo nghóa, nghóa theo văn”. Do đó giáo của năng thuyên gọi là Tạng, tức là đức tạng. Hành nhiếp v.v…, giải thích hành gọi là Tạng, do hành hay nhiếp tạng được sở thành, sở thành này gọi là Công, năng thành gọi là Tạng, là tạng của công. Nhưng hai pháp công và hành cũng không lìa nhau. Do tu tập gọi là hành, thành tựu gọi là Công. Nên hành của năng thành gọi là Tạng, tức công tạng. Văn sau nói: “Công đức của Như Lai đều nhân chỗ thành tựu hạnh huân của các Ba-la-mật”. Nên biết v.v… xuống, là kết luận, nhưng trong lý bao gồm tạng chỉ là tánh đức, trong quả bao gồm tạng gồm cả tu tánh đức, giáo bao gồm nghóa, đức hạnh nhiếp công đức. Bốn thứ này đều gọi là Tạng. Tuy chung bốn pháp nhưng chỉ có giáo và hạnh là gồm, lý và quả là chánh, nên khéo phân biệt. Giải thích lại ví dụ biển: Sớ Lại, biển v.v… trở xuống, là giải thích lại ví dụ về biển. Đây có bốn nghóa: Thể, tướng, cùng chia đôi. Hai câu trước dụ về thể, hai câu sau dụ về tướng. Thể thì cao sâu mà rộng lớn, tướng thì đầy đủ đức mà hiện pháp. Thể, tướng cũng đều đầy đủ bốn nghóa, nên hai pháp không lìa nhau, chỉ là một thể mà có hai tên. Đều đầy đủ bốn câu trăm phi, ở đây bốn chữ: Một, Khác, Có, Không được… nói ở trên nghóa là một chẳng phải một, vừa một vừa chẳng phải một, chẳng phải một chẳng phải chẳng một, là một khác trong bốn câu nêu ở đây, cộng thành mười sáu. Lại quá khứ, hiện tại, vị lai mỗi thời có mười sáu, cộng thành bốn mươi tám. Đã khởi, chưa khởi đều có bốn mươi tám, cộng thành chín mươi sáu, cùng bốn thứ căn bản thành trăm phi. Lỗi tuy vô lượng nhưng chung lại mà nói thì không ngoài bốn thứ: Một, khác, có, không, nên ở đây nói rõ trăm phi. Những thứ này đều không nhưng chẳng tạm thời như thế, nên nói hằng dứt. Văn sau nói: “Nên biết tự tánh chân như chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải chẳng phải tướng một, chẳng phải chẳng phải tướng khác, chẳng phải một khác cùng tướng, chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải chẳng phải tướng có, chẳng phải chẳng phải tướng không, chẳng phải có không cùng tướng, v.v… Nếu lấy mười câu này, mỗi câu sinh ra mười sử phiền não cũng thành trăm chẳng phải. Đó là đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, không thể dùng thức mà biết được. không thể dùng trí mà biết được, trong sâu càng sâu, nên nói sâu xa, luận Trí Độ nói: “Trí vượt qua biển lớn chỉ Phật mới tột cùng đáy sâu”. Bao gồm vật, như văn sau nói: “Tâm nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, các pháp tuy nhiều nhưng chẳng vượt ngoài thế gian, và xuất thế gian, đều nhiếp tất cả”. Đây tức trong lớn lại lớn. Như kinh Lăng-nghiêm nói: “Bên ngoài cho đến núi sông, hư không, mặt đất đều là vật trong chân tâm diệu minh”. Không đức thì không đủ, như ở trước dẫn chứng trong tướng đại. Văn tổng kết nói: “Cho đến không có thiếu gì, nghóa là nên đầy đủ” là lời nói đầy đủ. Không hình tượng thì không hiện, là theo duyên nhiễm tức hiện các hình tượng nhiễm như ba tế, sáu thô v.v…Theo duyên tịnh tức hiện các hình tượng tịnh, như mười lực, bốn vô úy v.v… Văn sau nói: “Như thật chẳng không tất cả cảnh giới thế gian hết thảy hiện ở trong đây, chẳng ra chẳng vào, chẳng mất chẳng hoại, v.v…”. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Sắc tâm các duyên và tâm sở sử, các pháp sở duyên chỉ do tâm hiện. Thân ông tâm ông đều là diệu minh chân tinh trong diệu tâm hiện ra vật”. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Thí như biển lớn sâu xa chạu báu không thể cùng tận, ở trong đó hiện hình ảnh chúng sinh, nhân duyên biển sâu công đức, tất cả đều vô tận. Trong Pháp thân thanh tịnh không hình tượng nào chẳng hiện”. Lại có tám thứ đặc biệt, mười tướng tốt đẹp đều dụ cho chân tánh. TĂNG BẢO: Luận Như thật v.v… trở xuống, Sớ có ba: Tướng chung: Phân biệt phàm thánh: Phàm là nội phàm, Tam hiền, Ngoại phàm là người Thập tín và những các vị chưa vào địa vị Thánh nào, mà chỉ mới mang hình thức đầu tròn áo vuông, cũng gọi là phàm phu tăng. Thánh là bốn quả Tiểu thừa, Thập bảo địa Đại thừa. Chỉ địa vị bậc thánh: là phát khởi trí vô lậu, dứt nhiễm chướng, chứng chân lý. Hàng Bồ-tát thì cao quý: hai hạnh tự lợi và lợi tha, trừ hai chấp, dứt hai chướng, chứng hai không. So sánh với tiểu thánh thì đây là người cao quý. Cho nên v.v… trở xuống, là kết luận phân biệt về đại, phân biệt Bồ-tát Địa tiền và phân biệt Tiểu thừa. Nếu y cứ chỗ trở về của Ngài Mã Minh mà hợp thành Cửu địa trở lên, nay theo Địa thượng đồng là chỗ như thật thực hành để trở về. - Chính giải thích: Sớ Là chứng v.v… trở xuống. Ngay câu này, có hai: Y bổn luận chứng lý: Khởi hạnh: Bồ-tát Địa thượng phát khởi trí vô lậu chứng lý chân như, chỗ phát khởi mỗi hạnh khế chân đều như thật. Thật: tức thật tướng, hạnh như ở nơi thật, gọi là như thật. Hạnh, văn sau tức văn bản giác trí tịnh theo nhiễm. Văn kia chỉ nói nương pháp lực huân tập, như thật tu hành đầy đủ phương tiện. Nay sớ theo văn phối hợp địa vị, nên có nói Địa Tiền, v.v… Địa vị viên mãn: vì địa vị viên mãn hành không còn, nên nói địa vị mà không nói hành. Nay nêu như thật do đồng với địa vị viên mãn nên nói trong đây nêu đồng ở sau. Y bảo tánh: Lại nương v.v… trở xuống: trước nói theo địa vị cao thì do Địa thượng đồng chấp địa vị viên mãn. Nay nói về mặt trí hạnh rộng thì do chính thể đồng chấp ở sau. Được rõ như lý: là nương môn chân như tu hạnh Chỉ, cũng là hạnh lìa tướng, cũng tức nghóa chứng chân, nên nói như thật. Biết đầy đủ v.v…, đây là theo môn sinh diệt tu hạnh quán, cũng là hạnh tùy tướng, cũng tức nghóa đạt tục, nên gọi là tu trùm khắp. Như văn sau nói: “Quán tất cả pháp tự tánh vô sinh, lìa vọng kiến chẳng trụ sinh tử, quán tất cả pháp nhân duyên hòa hợp nghiệp quả chẳng mất, khởi đại bi tu các phước đức, nhiếp hóa chúng sinh không trụ Niết-bàn, v.v…”. Đây đồng với kinh Tịnh Danh chép: “khéo phân biệt các pháp tướng ở đệ nhất nghóa mà vẫn bất động”. Nhưng hai thuyết này là y cứ vào vị và y cứ vào trí, vì đều nói theo nghóa Địa thượng. Nhưng y cứ vào luận chủ chỉ bày dấu tích về nhân địa thì hợp quy tất cả Thánh hiền. Do đó mà (văn luận) nói chữ “Đẳng”(v. v.) nghóa là nói cho đến suốt cả các hạ vị: Thánh đồng Hiền, Đại đồng Tiểu, tự nhiên phù hợp với lý tánh chân tâm rộng lớn, bao gồm cả lời nói đồng thể. Gồm cả văn trên: Sớ Lại, giải thích v.v… trở xuống làVăn có ba: Chính giải thích: Nêu đức để đặt tên người, như gọi người là Tam tạng, v.v… Tùy theo tu một hạnh v.v… là Bồ-tát này khi tu một hạnh đầy đủ tất cả hạnh, vì một hạnh này đúng như lý phát khởi, lý thể đầy đủ, thu nhiếp tất cả, nên nói là tập thành,v.v… Pháp giới, muôn hạnh này đã nương lý khởi, mỗi hạnh đều khế lý, lý trùm khắp, hạnh trùm khắp, nên nói là Đẳng. Đây nếu không phải dòng chân thì không thể nào khế chân được, tức nghóa (pháp giới) kia. Chỗ được chứa nhóm công đức: người có đức huấn luyện mà được, tức sự tu hành các pháp giới của Bồ-tát gọi là Đức. Vì Địa tiền từ lâu đã chứa nhóm công lực mà đến được Địa thượng. Công lực này làm nhân là năng đắc, thực hành thuộc quả là sở đắc. Nay nhân quả hợp luận, nên nói là công đức. Người có khả năng nhiếp đức: công đức nhiều ít thuộc về người, nếu không có người thì đâu nói đức, người có đức này thì người là tạng của công đức. Chính khen ngợi đức hạnh: trước chứa nhóm công lực thực hành mà được, tức như thực hành các pháp giới. Y cứ văn sau dẫn chứng rất dễ hiểu. Thông ngại: Sớ nhưng, Bồ-tát v.v… trở xuống. Hoặc nói: Câu này là thuộc Tăng, vì sao dùng văn trước chỉ nói Pháp bảo, nên có cách giải thích này. Như ở trước Giáo, Lý, Hạnh, Quả đều gọi là Pháp, nay hạnh này nên thuộc về Pháp bảo? Dẫn chứng nêu lên: Cũng như v.v… trở xuống, đây là dùng thể tướng trong phần Phật bảo ở trước, lấy công đức trong phần Tăng bảo ở sau, cộng thành Pháp bảo. Nếu khiến thể tướng trở về Phật, đức trở về Tăng thì đâu có Pháp bảo mà quy kính. Chung trên dưới, trên là Pháp, dưới là Tăng. Như thể tướng ở văn trước, ở trên là Phật, ở dưới là Pháp. Nên dẫn chứng nêu lên. <篇> KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 5 TRONG PHẦN THUẬT Ý. Có hai: Trình bày Ý: Sớ nêu ra hai ý là trên Chánh dưới Kiêm. Giải thích văn: Từ câu đầu trở xuống, có hai: Giải thích chung bài kệ: Có ba: Giải thích câu đầu: Vì các căn cơ, chỉ cho hai chữ Chúng sinh, là thuộc về hàng Bồ- tát. Chúng sinh gồm cả ba nhóm năm tánh, trong đó có Chánh và Kiêm. Như trong huyền đàm nói rõ, nên nói như trước. Giải thích hai câu giữa: Sớ kế đến v.v… trở xuống. Văn có hai: Giải thích câu trên: Nói về lìa lỗi, có hai: Chính giải thích câu này: Nói rõ lìa lỗi, lỗi tức nghi chấp. Do nghi v.v… trở xuống, là giải thích tướng nghi chấp. Mê chân, tuy có mà như không gọi là mê, văn sau chép: “Nói nghóa bất giác là không như thật biết một pháp chân như, tâm bất giác khởi mà có niệm (vọng chấp) kia v.v…”. Đã mê nhất chân, tức bỏ mất hai thứ Bồ-đề, Niết-bàn vô thượng lạc, nên nói mất niềm tin. Khởi vọng, vọng là năm uẩn sắc tâm, cho không thật là thật rồi sinh mê chấp, đây là do mê phát khởi, chấp tợ làm thật, từ sâu kín đến thô chấp lần lượt phát sinh. Nên kinh Viên Giác chép: “Vọng nhận bốn đại làm tướng tự thân, sáu trần duyên cảnh làm tướng tự tâm”. Đã khởi vọng thì ba khổ, tám khổ từ đây sinh ra, nên nói các khổ. Nên văn sau nói: “Động thì có quả khổ không lìa nhân”, tức Luận Thập Địa của Thiên Thân, giải thích Phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm. Xa lìa v.v…, tức nghóa mê chân mất an vui ở phần trước. Đầy đủ v.v…, tức nghóa khởi vọng có đủ các khổ ở trước. Hai câu kia tức mất chân lạc, đầy đủ vọng khổ. Đối với đây chẳng biết chẳng giác, nên gọi là điên đảo. Mất mà không biết, như kinh Pháp Hoa chép: “Chàng cùng tử đối với kho báu của mình mà cho là vật của người khác, tuy chủ giao phó mà không có ý hy vọng lấy được chừng một bữa ăn”. Kia tức hằng ngày sử dùng mà không biết. Đã bất giác, cũng như kinh Pháp Hoa nóivề nhà lửa, các con chỉ vui thích nô đùa, rõ ràng không có tâm muốn ra khỏi, cũng không biết thế nào là nhà lửa? Vì sao bị lại bị lửa đốt cháy? Chỉ rong ruỗi Đông tây tìm cha mà thôi. Nhưng ba thứ này không ra khỏi hai, vì điên đảo vô thể, chỉ đối với hai thứ trước không giác biết, liền thành điên đảo, hợp lại thành ba. Nên khiến v.v… trở xuống là kết luận trở về thánh ý, vì Bồ-tát quán các chúng sinh kia có lỗi như thế nên soạn luận. Đối chung văn sau. Sớ Cho nên giải thích v.v… trở xuống là Chánh nghóa, đã hiển bày nghi tình tự trừ hai thứ nhân, chân thường an vui đều hằng ngộ. Tà chấp, tuy phần nhiều đối trị xả bỏ, hư vọng, khổ nhờ đây lìa hẳn. Chỗ chứng đạo tướng của chư Phật Bồ-tát phân biệt cho biết, khiến phát tâm thú hướng, tức thành tín hạnh. Tuy nhiên, đoạn sau nhân đây phối hợp văn của luận nên chưa giải thích chính nghóa. - Giải thích câu dưới: Sớ Đã ở v.v… trở xuống là nói về hạnh thành tựu. Có hai: - Giải thích Đại thừa: Đã ở v.v…, ba câu ở trước thành câu hỏi dẫn khởi văn luận. Nghóa là ở nơi trở xuống, một câu này là dùng luận đáp. Do một trở xuống, là giải thích lý do. Trong hai câu này, câu đầu là xuất thể Đại thừa, thể của Đại thừa chỉ là nhất tâm làm gốc muôn pháp, đức tướng đầy đủ ứng hợp vô tận, nên nói ba nghóa. Câu kế là nói lý do khởi hạnh. Rốt ráo: nghóa quyết định vô thượng, nghóa là hoặc nói hoặc giải thích về hạnh, về chứng, đều lấy đây làm pháp quyết định rốt ráo. Căn bản, phân biệt chẳng phải pháp ngọn nghành, đều là chỗ nói căn bản của pháp môn. Lại tất cả pháp nhiễm tịnh v.v… từ đây sinh ra, nên văn sau nói: “Một là Tín căn bản, nghóa là pháp lạc niệm chân như…”. Lại nói: “Muốn giải thích nghóa căn bản của Như Lai khiến các chúng sinh hiểu biết chân chánh không lầm”. Ở đây tức đều lấy nhất tâm làm gốc, nếu ở đây khởi hạnh mới gọi là chánh hạnh. - Giải thích chánh tín: Sớ Chưa biết v.v… trở xuống là giải thích chánh tín, ban đầu cũng theo câu hỏi trước mà phát khởi. Lấy tín v.v… trở xuống, là giải thích lý do, các hạnh tuy nhiều đều lấy tín làm gốc. Mười một điều lành nằm trong địa vị thứ năm đều lấy tín làm đầu. Kinh Hoa Nghiêm chép: “mẹ sinh ra các Công đức chính là nghóa này”. Tức ngược lại v.v… trở xuống là kết luận phối hợp câu trước. Nghóa là dùng chánh ngược tà, dùng tín dứt nghi, là chánh đối nghịch. Giải thích câu sau: Sớ Sau một v.v… trở xuống, giải thích câu sau, khiến chúng sinh lìa lỗi chấp nghi cầu hạnh chánh tín, ý muốn cho chúng sinh tín đầy đủ nhập trụ thứ hướng chứng đại quả, tức hạt giống Phật không dứt. Tín đầy đủ là địa vị tột cùng của Thập tín. Nhập trụ tức địa vị Sơ Thập trụ của Tam hiền. Bất thoái, nói chung tức nhập Thập trụ trong Chánh định tụ. Tín đã thành cội gốc thì cội gốc sâu khó nhổ, nên nói không lui sụt. Nói riêng là địa vị thứ bảy trong Thập trụ, gọi là Bất thoái trụ. Có khả năng cầu quả Phật, tín đã không lui sụt quyết định thành Phật, chẳng đồng địa vị Thập tín tâm chưa quyết định, đã nhập Thập trụ thì hạnh nguyện dần dần thêm lớn, thành tựu công đức, chỉ tiến không lùi, có khả năng kham nhận hướng về Bồ-đề thì hạt giống Phật há dứt mất sao! Dẫn văn sẽ hiểu. Giải thích riêng dứt nghi: Lại giải thích v.v… trở xuống là giải thích riêng dứt nghi. Đây là nghóa của Hải Đông Sớ, nghóa này có ít nhiều cần thiết nên dẫn vào áp dụng. Nhiều đường v.v… là nghi Phật, nghi Pháp, nghi nhân, nghi quả. Nghi có vô lượng một nhiều, có không… nên nói là nhiều đường. Cầu Đại thừa: người quyết định cầu đến Đại thừa nên không có nghi. Chỉ có hai thứ nghi là: Nghi Pháp: Nghi rằng Pháp thể của Đại thừa là một là nhiều. Nếu Pháp thể một thì kia đây chẳng khác, ta tức Phật thì đâu cần cầu, chúng sinh vốn thành thì đâu cần độ, bi trí đã dứt thì nguyện cũng dừng. Ba thứ phát tâm do đó chẳng làm nên nói chướng đối với sự phát tâm. Pháp thể nếu nhiều thì kia đây thành khác, kia tự thành đạo, ta tự đắm chìm, làm sao phát tâm cầu được Phật đạo. Ta đã nhưt hế chúng sinh cũng như thế, đâu cần phát tâm độ khiến thành Phật. Lại nếu nhiều như kinh nói: “Các thế giới ở mười phương chỉ có một thừa. Tâm, Phật và chúng sinh cả ba không khác nhau”. Một tâm một trí vô úy cũng như vậy, làm sao hội thông? Vì thế do dự không thể phát tâm trên cầu dưới hóa. Nghi môn: Nghi rằng: Môn tiến đến hợp có vô lượng chưa biết ở đây nương vào những môn nào? Nếu muốn cho nương chung làm sao đốn nhập? Nếu chấp một hai thì cái nào phải, cái nào trái? Cho nên hướng đến chậm không thể tu hành. Lập nhất tâm v.v…, nghóa là pháp Đại thừa chỉ là nhất tâm, ngoài nhất tâm không còn pháp nào khác, chỉ do vô minh mê biển tự tâm phát khởi thành sóng sáu đường, sóng tuy phát khởi mà không ra ngoài biển nhất tâm. Theo tướng tức chẳng ngại trên cầu dưới hóa, theo tánh thì không ngại kia đây đồng thể, đại bi đại trí do đây phát khởi nên không nghi. Khai nhị môn v.v…, hạnh tuy vô lượng nhưng không ra ngoài hai môn, nương môn Chân như tu hạnh Chỉ, nương môn sinh diệt khởi hạnh quán. Nếu tu cả hai Chỉ và Quán thì muôn hạnh đầy đủ. Nhập hai môn kia các môn đều thông đạt, thế nên hiểu tâm nghi tự dứt sẽ tu hành, nên kinh Viên Giác chép: “Phương tiện thuận theo số kia vô lượng, dung nhiếp tròn đầy chỗ trở về mà tánh kia có khác nhau”. Cho nên có ba thứ, nương vào hai môn này tu Chỉ Quán cùng câu hành. Căn bản của Luận chính là chỗ này, lập pháp nhất tâm, khai ra hai chủng môn. - Nêu lợi ích khởi nói: Sớ Nhất tâm v.v… là trong luận cái gọi là đạo lý tuy nhiều, pháp nghóa chánh tông cũng không vượt ngoài. Trong phần Lập nghóa đặc biệt lấy đây làm căn bản. Luận Năng khởi v.v…, Pháp Đại thừa là năng khởi, Tín căn là sở khởi. Thể Đại thừa là pháp nhất tâm, nếu nương pháp này mà khởi tín gọi là tin Đại thừa, như trước trong khai đề đã nói. Đề mục v.v…”, tựa đề là Đại Thừa Khởi Tín, đây nói Khởi Tín Đại Thừa, chỉ là ngôn ngữ hai bên mà không khác nhau. Tin lý quyết định, trong môn chân như chỉ hiển bày lý, lý thể chân thật nên nói quyết định. Quyết định tức chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng có, chẳng không, rốt ráo bình đẳng không có thay đổi không thể phá hoại, vì tất cả pháp tánh bình đẳng không thêm bớt. Tin nghiệp quả, nghiệp quả gồm cả nhiễm tịnh, nếu vô minh làm nhân sinh ba tế, cảnh giới làm duyên sinh sáu thô, tức nhân quả nhiễm của thế gian không mất. Ngược dòng thỉ giác đổi chín tướng thành sáu địa vị, tức nhân quả tịnh thế gian không mất. Theo dòng ngược dòng quyết định có việc này, như bóng theo hình sẽ rõ lý, nên nói chẳng mất, mất là không. Tam bảo v.v…, Vì có hai đại thể và tướng tin pháp bảo chẳng hoại, vì có dụng đại nên tin Phật, Tăng không hoại, không hoại cũng là nghóa quyết định không mất. Nhưng, Sớ không nói tin nhất tâm, dùng hai môn ba đại tức là hình tướng của tâm, chỉ tin ở đây tức là tin tâm, không nói như vậy. Tín mãn Thập trụ, là từ ngoại phàm nội phàm đã lìa đạo mà tin thì quyết định chẳng mất chẳng hoại, nên nói thành căn không lui sụt. Năng trì v.v…, hay giữ gìn tín lực ở trước, tự phần chẳng lui sụt. Như trồng cỏ cây hễ gốc thành tựu thì sống. Sinh hậu v.v.., tin đã thành tựu tức hay sinh trưởng, về sau địa vị công đức dần dần cao siêu, dần dần tiến hành hướng về quả vị. Như cỏ cây thành gốc dần dần sinh hoa quả. Nhưng, Tín trong Đại thừa vần đủ, có sáu thí dụ: Như bàn tay. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Như người có tay, thò vào trong núi báu tự tại lấy của báu”. Có tín cũng như vậy, vào trong Phật Pháp tự tại lấy pháp tài vô lậu. Như sư tử cố gắng hét một tiếng tất cả các dây cột đều dứt hết. Như người phát một tín tâmthì tất cả hoặc chướng đều trừ diệt. Như sữa sư tử, nếu nhỏ một giọt vào trong sữa khác thì đều thành nước trong. Nếu người phát một tín tâm thì tất cả ác ma đều biến thành dòng pháp thanh tịnh. Như ở thế gian tài báu nuôi dưỡng sắc thân mạng sống, Tín tài nuôi dưỡng Pháp thân tuệ mạng, phần đầu của Thất tài là Tín tài. Như cội gốc kia, ở trước đã nói rõ. Như sức mạnh, có sức mạnh hay hàng phục được những thứ cứng. Tín lực mạnh mẽ có công năng dẹp các pháp ác bất thiện, trong năm lực có Tín lực. Nay nói căn: tức là phần thứ năm. Cần phải nói, bậc Thánh vì lợi ích dùng lý giảng nói pháp, nếu không nói thì trái với bổn thệ nguyện. Làm sao gọi là người đại từ bi cầu chánh giác? Pháp môn đã là nền tảng bỏ khổ hướng về đạo, chúng sinh mờ mịt trôi lăn đâu có dừng nghỉ. Luận: nêu lên. Sớ: Có nguyên do v.v…, là tiêu biểu khác thường, người phần nhiều noi theo. Nguyên do tức nhân duyên, phân nghóa đều đồng, nên sau không giải thích. Cương yếu, dây lớn gọi là Cương, giữ một sợi cương gọi là Yếu. Tông bổn, hễ làm việc gì đều phải y cứ cội gốc, nếu kia không gốc ngọn thì từ đâu sinh. Sắp muốn bày rộng nên lược nêu tông bổn, cần yếu đã lược là muốn phô trương cội gốc, xem rộng để thành lược, muốn sinh hiểu khai triển lược thành rộng. Nghóa là ở môn Chân như nói về lìa ngôn, y ngôn, nghóa không, nghóa bất không. Ở môn Sinh diệt nói nhiễm nói tịnh, nói nhân, nói quả, thuận dòng, ngược dòng, là gốc, là ngọn, khiến không lầm chân vọng, hiểu đúng không sai. Y giải khởi hạnh, phân biệt các pháp để hiểu không lầm, nghóa là cần khởi tu hành, vì hạnh thành tựu ở chỗ giải trước, do giải dắt dẫn chỗ thực hành khiến giải không thành tuệ khô, khiến hành không thành tà đảo, giải hạnh ngang nhau, có chỗ đến nên cần thực hành. Như người nghèo đến của báu: là ví dụ trong kinh Hoa Nghiêm. Văn khác nói: “Tự không có nửa đồng tiền, đối với pháp không tu hành, học rộng cũng thế” Ý nói, vốn có chỗ giải ý tại tu hành, đã không tu hành thì giải dùng để làm gì? Như người có mắt mà không chân, há đến được phía trước ư! Hành nghi, là bốn tín, bốn hành v.v… tức là khuôn phép tu hành. Nêu lợi ích khuyến tu, Phật nói kinh còn nhiều khuyến khích, Bồ- tát soạn luận chẳng được vậy sao! Nhưng, năm v.v… trở xuống, hợp năm làm ba, nếu y cứ đại khái có ba thuyết: Theo Luận chủ thì cho phần quy kính và thuật ý là chỗ nương hạnh khởi làm phần tựa, khoảng giữa năm phần là pháp khởi hạnh làm chánh tông, sau là một bài kệ hồi hướng là khởi nguyện lớn làm lưu thông. Đây tức đứng về một bộ luận trước sau đầu cuối mà đối ba phần. Nói theo pháp tức không chấp hai bài kệ trước sau, chỉ ở khoảng giữa năm phần để phân chia. Ban đầu là pháp khởi nhân duyên làm phần tựa, ba phần giữa là chính hiển bày chỗ nói làm phần chánh tông, phần sau cùng là khen ngợi công năng của pháp làm phần lưu thông. Theo pháp vì lợi ích căn cơ mà nói, ban đầu nêu chỗ làm, tâm là phần tựa, ở khoảng giữa ba phần chính thọ giải và hạnh làm phần Chánh tông, một phần sau nêu lợi ích khuyến tu làm phần lưu thông. Hai thuyết sau ở năm phần khoảng giữa, về năng bị sở bị, nhân pháp khác nhau, nay sớ nói về hai phần sau. Giả hỏi, một là tự tạo khởi câu hỏi giả làm người khác, hai là thật chẳng có nghi giả làm nghi. Do tự hỏi tự đáp, ý khiến pháp nghóa rõ ràng hiển hiện như ở đây hỏi. Vì giúp chúng sinh lìa khổ được vui: Sớ Môn này v.v…, Là nói về mục đích phát khởi của một bộ luận: chỉ vì muốn cho chúng sinh lìa khổ được vui, đây là ý nói về nhân duyên tướng chung (hình thức chung của các bộ luận). Lại, các Bồ-tát soạn luận đều vì giúp cho chúng sinh lìa khổ được vui, đây không chỉ là nguyên nhân phát khởi một bộ luận mà là nguyên nhân chung của tất cả các luận khác, cho nên nói tương chung gồm cả chính, đó là y cứ vào căn cơ “sở vi”, gồm bị cập căn cơ chính định, tà định, sở bị chiùnh định, thuộc về bất định nay đều hợp luận cả nên nói là chung. Biệt là đương cơ. Một là Tức hướng v.v… trở xuống bảy đoạn là vì căn cơ khác nhau, trong bảy đoạn thì đoạn hai và ba là chánh định, ngoài ra là nhóm bất định, nên nói là riêng. Hai là chỉ căn cơ hai nhóm chẳng phải bị tà định, nên nói là riêng vì khác nhau. Đoạn này chung vì tất cả đều khiến lìa khổ được vui rốt ráo. Kia là đứng về mặt pháp tức nhân duyên phát khởi tất cả văn luận, đứng về mặt căn cơ thì lợi lạc tất cả chúng sinh, cho nên nói là tổng tướng nhân duyên. Sớ Khổ khổ, khổ trên là (quả báo chung), khổ thân ở dưới là riêng, sự khổ khác nhau (khổ riêng). Đã thọ thân hữu lậu gọi là khổ, trên đó lại thêm các thứ ép ngặt gọi là khổ khổ, tức tám thứ khổ là sinh,già, v.v… Hoại tức việc vui đã Tàn. Hành tức niệm niệm dời đổi đều là khổ. Theo Luận Bảo Tánh xem ba cõi khổ là: cõi Dục khổ khổ, cõi Sắc hoại khổ, cõi Vô sắc hành khổ, nhưng trong cõi Dục đủ ba, cõi sắc gồm hai, vô sắc chỉ có hành. Phần đoạn, nghóa là ba cõi bốn loài thân có hình đoạn, mạng khi bị phần hạn tột cùng tức là mạng hết. Biến dịch, Nhị thừa, Bồ-tát dứt chướng phiền não, tuy lìa khổ thô của phần đoạn, vẫn có A-lại-da biến dịch hành khổ, vì bốn tướng chuyển biến dời đổi nên gọi là Biến dịch. Lại nhân dời đổi, quả dời đổi, nên gọi là Biến dịch. Vô thượng v.v…, chuyển diệt sinh tử phiền não được Bồ-đề Niết- bàn, hễ được thì được. Mãi mãi Luận nói rốt ráo không có lỗi. Sớ nói vô thượng đã là hoạ lớn diệt, hẳn vượt khỏi bốn dòng, nghiệp hoặc đều mất, rõ ràng tự được chẳng vui hay sao! Nhưng trên khiến lìa khổ là Bồ-tát đại bi, đây khiến được vui là Bồ-tát đại từ, đến được giác tâm đầy đủ. Luận thêm cung kính v.v… trở xuống; Sớ đứng về năng hóa, sở hóa hai thuyết ở văn rất dễ thấy. Vì giải thích nghóa căn bản Như Lai: Luận: Nghóa căn bản v.v… trở xuống, văn sớ có hai: Giải thích căn bản Như Lai. Có hai: Phối hợp chung văn sau: Cùng phần lập nghóa, là trọn một phần văn của luận này đều là sở khởi. Song trong phần này nếu được phối hợp văn dừng ở ba đại. Từ tất cả chư Phật v.v… trở xuống, là nói nghóa thừa kia, hợp là nhân duyên sở khởi thứ ba. Sớ Chẳng phải ngón tay; do lược nên như vậy. Hiển bày v.v…, từ đây là văn của phần đầu, nói hiển bày chánh nghóa là nương pháp nhất tâm có hai môn, cho đến nếu quán sát biết tâm vô niệm, tức được thuận theo nhập môn chân như. Đối trị v.v…, văn nói đối trị. Tà chấp; tất cả tà chấp đều nương vào ngã kiến, nếu lìa ngã thì không có tà chấp, cho đến do niệm tất cả pháp khiến tâm sinh diệt, không nhập thật trí, đây tức là nhân duyên năng phát khởi thứ hai. Như dẫn ba đoạn văn của luận làchỗ phát khởi. Vì muốn giải thích nghóa căn bản của Như Lai, nay các chúng sinh hiểu đúng không lầm, nên có văn này. Nói năng sở ở sau đều nêu theo đây. - Giải thích riêng: Sớ Do kia v.v… trở xuống; Có hai: Theo giáo pháp giải thích nghóa căn bản của Như Lai: Vì hai môn là căn bản của các pháp, lại nhất tâm là căn bản của hai môn. Trong văn kia là nói rõ nghóa này, Phật nói pháp môn tuy vô lượng, nếu căn bản không ngoà đây thì chính là Bồ-tát Mã Minh giải thích hóa thân, Đức Thích ca Như Lai nói pháp môn nghóa căn bản rất là sâu kín. Pháp Theo chứng giải thích nghóa căn bản Như Lai: Sớ Lại sinh v.v… trở xuống; Có hai: Giải thích Như Lai. Có hai: Chính giải thích: Khi mê bỏ giác theo trần, như đi tuy gọi là đi mà thể tánh bất động, nên thọ hợp thể như tức bản giác. Khi ngộ bỏ trần theo giác gọi là Như Lai, vì thể như ở trên có dụng tịnh phát khởi, trái nhiễm về tịnh gọi là Lai, tức nghóa Thỉ giác. Thể chân như một phen đến đi tùy duyên nên lấy bản giác gọi là Như, thỉ giác gọi là Lai, thỉ bổn không hai tức cứu cánh giác, cứu cánh giác tức Như và Lai hợp, chẳng khác thỉ bổn gọi là Như Lai. Như văn sau nói: “nếu người được vô niệm thì biết tâm tướng sinh trụ dị diệt, cho đến chẳng khác thỉ bổn, lấy bốn tướng đồng thời mà có đều không tự lập, xưa nay bình đẳng đồng một giác. Đây tức v.v… trở xuống tổng kết phân chia nên xoay bánh xe pháp. Luậnchép: “Chân đế gọi là Như, chánh giác gọi là Lai, chánh giác chân đế gọi là Như Lai”. Đây tức theo mặt tự thọ dụng báo thân, nên gọi là Như Lai, chẳng đồng văn trước nói theo hóa thân. Trong hai lối giải thích này, trước theo giáo là căn bản Như Lai, Y chủ thích. Vì người hay nói thù thắng ở đây theo chứng tức Y só thích. Tâm là căn bản sinh ra Như Lai, nên suy nghó sẽ hiểu. Hiển bày ngược lại: Sớ Các chúng sinh v.v… trở xuống, tuy có bản giác mà không thỉ giác, thì không được gọi là Như Lai, đây thì nghóa Như rộng, nghóa Lai hẹp, nên Tịnh Danh nói: “Tất cả chúng sinh đều Như, các Thánh hiền cũng Như, cho đến Di -lặc cũng Như”, mà không nói Lai. Lại trước Sơ địa tuy có thỉ giác, lấy tỉ quán tu hành chưa tạo chân lý, chưa được trí vô phân biệt không gọi là Như Lai. Từ Sơ địa trở lên tuy có trí này, vì chướng lụy chưa dứt nên quán tâm có khoảng cách, thỉ giác bản giác chưa được thầm hợp rốt ráo, cũng không có tên gọi. Ở đây đưa ra chỉ một hàng Diệu Giác, ngoài ra đều không thể như vậy. Nếu đứng về tánh đức thì không phân biệt. Kinh Viên Giác nói: “Chúng sinh xưa nay thành Phật”, lại nói: “Tất cả chướng ngại tức giác rốt ráo”. Nay nói về tu nên nói như vậy. Kết căn bản: Tổng kết căn bản, tức chỉ cho nhất tâm ở trước, là căn bản chứng pháp của Như Lai, vì Như Lai nương nhất tâm này mà thành tựu. Tín, Giải, Hành, Chứng đều nương vào tâm này, từ vi tế cho đến chấp trước không hề lìa, nếu lìa tâm được thành Phật thì không có việc đó. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nếu người muốn biết rõ chư Phật ba đời nên tánh quán pháp giới, tất cả chỉ do tâm tạo” nên gọi là Đẳng. Nhưng Như Lai tức nhất tâm, nhất tâm tức căn bản, ba nghóa một thể mới là nói tột. Chỉ y cứ pháp mà gọi là tâm, đối với ngọn hợp gốc, theo người mà nói tức hiệu là Như Lai. Tột thể thì nêu một thể làm ba, chẳng ba mà ba, chẳng một mà một, ba và một là một thể mới hội văn nhiệm mầu. Hiểu đúng không lầm: Giải thích đầy đu v.v… trở xuống, là hiểu đúng không lầm. Giải thích đầy đủ nghóa là trong đó nói hai môn chân như và Sinh diệt, hai giác bổn và thỉ, hai bất giác gốc và ngọn, hai thân, ba đại cho đến nghóa hai môn mà chẳng hai. Nghóa này tận cùng là hình tướng trên căn bản của nhất tâm. Tam hiền là gần chân, trước khác phàm phu, sau khác bậc Thánh nhân. Hiền là thiện, là thuận. Ba mươi vị này đều chứa nhóm điều hành mà thành, thuận theo chân lý nên được tên gọi kia. Tỷ quán, đã chưa thân chứng chân như, chỉ nương giáo so sánh nghó bàn, quán sát, cho nên thuận theo không trái nhau, nên nói tương ưng, tức tỷ quán này gọi là chánh giải. Trước Sơ địa thuộc địa vị Giải Hạnh là sinh chánh giải. Có hiển bày nghóa chánh của văn. Lìa điên đảo, vì chánh giải tương ưng thuận lý chân như, không có các tà, vì lìa điên đảo tức gọi là chẳng lầm. “Chẳng” là đối trị, “Lầm” là tà chấp. Khiến nhập bất thoái: Phân biệt v.v…, văn nói: “Phân biệt tướng phát thú đạo”. Nghóa là chỗ chứng đạo của tất cả chư Phật, tất cả Bồ- tát phát tâm tu hành đều thú hướng nghóa này, cho đến nếu tâm có cấu nhiễm thì Pháp thân chẳng hiện, Đây chính là phối hợp. Do kia v.v… trở xuống, là giải thích. Sở dó trở xuống, là đều nêu lên, Văn nói: “Như thế tín tâm thành tựu, người được phát tâm nhập nhóm chánh định rốt ráo, chẳng lui, sụt gọi là trụ trong hạt giống Như Lai tương ưng với chánh nhân”. Chung tâm, là một địa vị trong hàng Thập tín, có ba thứ tâm là Nhập, Trụ, Chung. Nhập là mới lìa dị sinh nhập địa vị Sơ tín. Chung là tín tâm thành tựu viên mãn, tức đệ Thập Tín. Trụ tâm tức khoảng giữa Bát tín. Thập tín đã như vậy, ngoài ra Tru,ï Hạnh, Hướng v.v… nêu lên đều như vậy. Thành thục là nói theo hiện tại Thập tín chung tâm. Không lui sụt nói là hướng về vị lai Thập trụ nhập tâm. Nay vì người tín thuần thục, theo văn phân biệt đạo tướng, nhập vào không lui sụt. Tu tập tín tâm: Bốn thứ tín tâm, văn sau nói: Lược nói tín tâm có bốn thứ, thứ ấy là? Tin căn bản pháp lạc niệm chân như. Tin Phật có vô lượng công đức, thường nghó gần gũi cúng dường cung kính, phát khởi gốc lành, nguyện cầu tất cả trí. Tin Pháp có đại lợi ích, thường nghó tu hành các ba-la-mật. Tin Tăng có khả năng chánh tu hành tự lợi lợi tha, thường ưa gần gũi chúng Bồ-tát cầu học hạnh như thật. Bốn thứ tu hành văn sau nói đầy đủ năm hạnh, đó là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Chỉ quán. Nên văn nói: “Tu hành có năm môn giúp thành tựu tín này”, v.v…. Lấy một môn Chỉ Quán là chỗ phát khởi riêng nhân duyên thứ sáu, nên nói bốn thứ. Do kia v.v… trở xuống, giải thích lý do. Văn kia nói: “Trong đó chúng sinh chưa nhập nhóm chánh định, nên nói tu hành tín tâm”. Thập tín trụ tâm; tuy có tám thứ khác nhau nhưng, không phân tích, chung làm trụ tâm. Thiếu ít, tức tín tâm chưa thuần thục, khiến theo văn này tu tập hạnh tín ở trước tiến đến viên mãn. Lìa chướng ra khỏi. Văn Sớ có hai: Gồm bốn đoạn: Văn có ba: Phân chung: Nói bốn thứ, tức chỉ cho bốn đoạn văn của luận ở phần sau, Sơ tâm tức nhập tâm. Thông và ngại: Sớ Vì trước v.v… trở xuống, là thông và ngại. Hoặc nói: Ba căn ở trước mỗi căn đều nhiếp một đoạn văn của luận. Làm sao lấy địa vị đầu của tín tâm dùng riêng bốn đoạn văn chung ở đây. Địa vị trước dần sâu hướng về địa vị ban đầu, nên gọi là căn thắng, tín căn muốn thành tựu dù gặp duyên ác cũng ít thoái lui, sụt nên nói khó lui, sụt nhưng cũng chưa một bề chẳng lui sụt nên nói khó. Như Đốc Tử nhập trụ vẫn tự lui sụt chuyển, huống chi Thập tín ư!. Căn kém, nghóa là mới từ dị sinh lên địa vị Tín, gốc lành cạn mỏng chẳng khác nơi lông nhẹ, gặp thiện khó tiến gặp ác dễ lui, nhờ nhiều phương tiện trợ giúp đạo lực, cho nên đầy đủ bốn. Phân riêng: Sớ: Trong bốn v.v… trở xuống, là phân riêng. Chỉ một hạng căn cơ thấp kémï này lại có khác thượng trung hạ, nay lấy phần thứ năm làm hạ căn, thứ sáu làm trung căn, thứ bảy làm thượng căn, thứ tám lời khuyến khích chung. Hỏi: y cứ thứ lớp ở trước đều từ hơn kém, vì sao ở đây lấy từ kém hướng đến hơn? Đáp: Thắng căn của Bồ-tát y cứ tôn ti để liệt nêu, địa vị lui sụt có tình niệm thấp kém mà cứu trước, là thứ lớp ở đây, Cho nên trước hiển bày trí Bồ-tát, chương sau là lòng từ của Bồ-tát. - Giải thích riêng văn này: Sớ Nay ban đầu v.v… trở xuống, làgiải thích riêng văn này. Văn này nói ngọn ngành người tu hành. Văn kia nói: “Lại nữa nếu người tuy tu hành tín tâm do từ đời trước đến nay thường có tội nặng nghiệp ác chướng, bị tà ma các quỷ làm não loạn, hoặc bị các việc thế gian trói buộc, hoặc bị bệnh khổ khuấy rối, có nhiều chướng ngại như thế, nên phải tinh tấn mãnh mẽ, ngày đêm sáu thời lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng Bồ-đề thường không dừng nghỉ, được khỏi các chướng nên gốc lành thêm lớn”. Nghiệp nặng, văn nói là tội nặng nghiệp chướng. Hoặc nhiều, văn nói: “Nhiều chướng ngại gốc lành khó phát khởi, tức ba chướng đã nặng thì điều lành không dễ sinh. Như dùi củi ướt thì đâu có lửa, phải nên do ánh sáng mặt trời xuất phát ngấm ngầm, tạm dùng dây mồi dẫn đến lấy mồi châm lửa, thì lửa kia mới có, Nên nói lễ sám v.v… Bên trong xa lìa v.v…, do lễ sám mà nghiệp nhẹ, nghiệp nhẹ nên bên trong không rối loạn, bên trong đã lìa thì hoặc loạn bên ngoài tự dứt, ma bên ngoài tức là báo chướng, nên biết bên ngoài có chướng não đều do bên trong có hoặc nghiệp. Nay người tu hành làm lành bị nhiều ngăn trở mà vì đạo không thay đổi, bởi chỗ cảm trong tâm, chớ ngờ ảnh cong chỉ tránh hình lõm. Nếu luận tu đối trị sẽ trước xa lìa. Tả Truyện nói: “Tâm không có đức nghóa là người ngu, miệng không bàn luận về trung tín là dối trá” nay chỉ chấp chung một bên là si ám. Tuệ giải chẳng sinh là ngu và dối trá. Tu tập chỉ quán: Chỉ Quán, văn nói: Làm sao tu hành môn Chỉ quán?. Cái gọi là Chỉ là dừng tất cả tướng cảnh giới thuận theo nghóa Quán Sa-ma-tha. Cái gọi Quán là phân biệt tướng nhân duyên sinh diệt thuận theo nghóa quán Tỳ-bát-xá-na, cho đến nếu chỉ quán chẳng đầy đủ thì không thể vào đạo Bồ-đề. Nói cả hai v.v…, văn kia nói: “Nếu người tu Chỉ đối trị phàm phu chấp đắm thế gian, hay xả bỏ kiến chấp yếu hèn của Nhị thừa. Nếu người tu quán đối trị Nhị thừa có lỗi tâm hạn hẹp chẳng khởi đại bi, xa lìa phàm phu chẳng tu các điều lành”. Khuyến sinh: Văn nói: “Lại nữa chúng sinh sơ học là pháp muốn cầu chánh tín, tâm kia yếu hèn, vì trụ ở thế giới Ta- bà này, tự sợ hãi không thể thường gặp chư Phật, đích thân thờ phụng cúng dường. Sợ hãi là tín tâm khó có thể thành tựu, ý muốn lui sụt. Cho đến thường siêng tu tập rốt ráo được sinh trụ chánh định”. Phương tiện cao quý, văn nói: “Nên biết Như Lai có phương tiện cao siêu nhiếp hộ tâm kia, nghóa làdùng nhân duyên chuyên ý niệm Phật, theo nguyện được sinh về cõi Phật ở phương khác, thường thấy Chư Phậ lìa hẳn đường ác…” Quán giải…, văn nói: “Nếu quán Pháp thân chân như của Đức Phật kia rốt ráo được sinh trụ chánh định, đã quán Pháp thân tức là tạo quán chân như, quán Phật thuần thục được phần tương ưng”. Hậu báo v.v…, vì chúng sinh gió nghiệp vô lượng, nay tuy phát tâm tu hành, nhưng sức kia kém yếu khó địch nổi ác mạnh, e báo thân này dứt nên đuổi theo nghiệp đoạ vào đường các,. Như người mắc nợ nhiều trước lôi dẫn đến quả báo này, mệnh chung chưa biết về đâu. Hoặc trải qua nhiều kiếp đi khắp ba đường, dù được thân người cũng gặp chướng duyên, bị oan bị bắt, hoặc làm thân mọi rơ,ï chịu khổ nghèo cùng, hoặc bị các bệnh trói buộc, sáu căn không đủ, hoặc việc Vua ép ngặt ở tại cung, hoặc tuổi nhỏ thì không hiểu biết, tuổi thanh niên thì hung dữ, mới biết ưa điều lành thì tuổi đã già. Tuy ngộ vô thường mà khó tiến hướng, huống gì là pháp chân như. Muốn gặp bạn lành đâu dễ, dù gặp duyên này căn tánh thường mờ ám, thường là người thượng trí mới dễ, ngộ pháp môn, dù phân biệt tuyên dương khéo khai mở ý người mà tập khí xấu lẫy lừng mặc tình dấy hưng khởi, chứa nhóm điều lành ít, điều ác mạnh thì khó thoát khỏi đọa lạc, lại bị luân hồi như kiến chạy vòng quanh, làm sao dứt được? Bồ-tát quán sâu điều này ôm lòng từ bi, nếu chẳng dùng phương tiện thì không thể cứu giúp. Nên luận nói: “Có phương tiện cao siêu nhiếp hộ tâm kia” Nên nói: E báo thân sau thay đổi, gặp duyên bị lui sụt. Vãng sinh v.v…, văn nói: “Như kinh nói nếu người chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc phương Tây, khi tu gốc lành hồi hướng nguyện cầu sinh về thế giới kia, thì sẽ được vãng sinh, thường thấy Phật không bao giờ lui sụt”. Ý này muốn cho chúng sinh chuyên ý niệm Phật, ưa cầu an vui, muốn sinh về cõi nước kia, tu được điều lành gì điều hồi hướng. Cho đến có người làm việc ác khi sắp chết dốc lòng mười niệm, cho đến một niệm thành tựu liền được vãng sinh, sinh về cõi nước kia rồi, thấy Phật nghe pháp, nhậm vận tu tiến thẳng thành tựu Bồ-đề, không có các duyên khiến kia bị lui sụt, nên nói khiến không lui sụt. Khuyên tu: Văn nói: “Đã nói phần tu hành tín tâm, kế đến nói phần khuyến tu lợi ích, như thế bí tạng Đại thừa của chư Phật ta đã nói chung. Cho đến nói vị lai Bồ-tát sẽ nương pháp này được thành chánh tín, vì thế chúng sinh nên siêng năng tu học”. Nêu tổn và ích kia, văn nói: “Nếu có chúng sinh muốn ở nơi cảnh giới sâu xa của Như Lai, được sinh chánh tín xa lìa phỉ báng, vào đạo Đại thừa nên trì luận này, tư duy tu tập rốt ráo sẽ đến được đạo vô thượng”. Cho đến nói: “Người này công đức không có bờ mé”. Là nêu phần lợi ích. Lại nói: “Có chúng sinh kia đối với luận này phỉ báng, chẳng tin tội báo, trải qua vô lượng kiếp, chịu khổ não dữ dội”. Đây là nêu tổn giảm. Tu Chỉ nên kính tin, đúng như lời dạy mà tu hành, xả thì không nên phỉ báng khỏi chiêu cảm quả khổ. Sách tấn chung, v.v…, y cứ chỗ phân chia ở trước, tức chỉ sách tấn ba căn tín vị, tu hành, sơ tâm. Nếu dùng lý để nói thì không ngại gồm cả Tam hiền ở trước trở xuống, sách tấn khuyến khích chung, thì trong tám nhân duyên, nhân duyên thứ nhất và thứ tám đều là tướng chung. Thứ nhất là chung lợi ích chúng sinh, thứ tám là khuyến tu sách tấn chung, sáu thứ giữa mỗi thứ có chỗ làm riêng, như trước phối hợp. TỔNG KẾT: Ban đầu nạn, luận có đầy đủ, v.v…, (trước nạn phá nhân duyên thứ hai, phát khởi nghóa Nhất tâm, Hai môn, Hai đế) như Kinh Thắng-man chép: “Tự tánh thanh tịnh tâm nhiễm, mà chẳng nhiễm khó có thể rõ biết, chẳng nhiễm mà nhiễm khó có thể rõ biết”. Đây há chẳng phải nghóa Nhất tâm, hai môn ư! Huống chi hai môn tức là hai đế chân và tục, kinh nào mà chẳng nói về hai đế, đâu nhờ luận chủ phát khởi nhân duyên thứ hai, như kinh Viên Giác nói về bốn địa vị Tín, v.v… há chẳng phải nghóa phân biệt đạo tướng hay sao!Huống chi kia ở địa vị tu hành nhập đạo từ nhân đến quả. Các kinh thường có nói, đâu cần nhân duyên phát khởi thứ ba ư! Như kinh Hoa Nghiêm chép: “Bồ- tát phát tâm cầu Bồ-đề chẳng phải không có nhân không duyên, đối với Phật, Pháp, Tăng sinh tâm tịnh tín, nên sinh tâm rộng lớn”. Đây há chẳng phải là tin Tam bảo hay sao! Huống chi khiến tin Tam bảo, kinh nào mà chẳng nói. Lại như kinh Hoa Nghiêm nói đủ hạnh Bồ-tát Thập địa thực hành mười Ba-la-mật, đâu chỉ hành thí, v.v… ư! Huống chi thí, giới, v.v… các kinh đều nói. Đâu dùng nhân duyên phát khởi thứ tư! Như trong kinh Phương Đẳng có nói đủ việc đạo tràng lễ sám, và trong hạnh nguyện Phổ Hiền nói mười hạnh nguyện. Đây đâu chẳng phải là phương tiện tiêu trừ chướng ư! Cũng không cần nhờ nhân duyên thứ năm. Lại như kinh Hoa Nghiêm chép: “Định tuệ cũng như thế, là chỗ nương nhờ của Bồ-tát. Định tuệ tức là Chỉ Quán”. Lại, trong kinh Tịnh Danh chép: “Phật Pháp thân từ Chỉ Quán sinh”. Đâu cần nhân duyên phát khởi thứ sáu ư! Như kinh A-di-đà Vô Lượng Thọ nói đủ việc vãng sinh tịnh độ, huống chi trong các kinh cũng thường dẫn nói, cũng không nhờ nhân duyên phát khởi thứ bảy kia. Như khuyến khích tu tiến khen ngợi cố gắng khỏi đọa lạc thì kinh có nói, đâu nhờ nhân duyên thứ tám. Như thế kinh Phật có nói, Bồ-tát lại nói, há chẳng phải rất quan trọng hay sao! Bồ-tát thấy việc nghóa thì làm không màng lợi ích cho mình, vả lại chỉ xem trọng kinh Phật nói, có nghóa lợi gì mà làm như thế ư! LƯỢC NÊU: Hoặc lợi hoặc độn, tức căn cơ không giống nhau, nghóa là căn cơ có lợi độn, ưa rộng ưa lược tức thực hành không như nhau. Hành là ý hành, chỗ muốn khác nhau, nhờ kinh tức lợi căn, tìm kinh liền hiểu không đợi giải thích. Nhờ luận tức độn căn, đối với kinh chưa hiểu phải đợi luận nói. Nếu kia nói ưa rộng ưa lược là chung cho kinh luận, có người ưa kinh rộng mà được hiểu, có người ưa kinh lược mà được hiểu, đối với luận cũng như vậy. Đây chính là đối với lợi độn mỗi thứ có sự ưa thích khác nhau. Nhưng căn không đồng nhau thì hạn cuộc trong kinh luận, đều gá vào một việc. Thực hành không giống nhau thì thông trong kinh luận, mỗi thứ ưa rộng lược. Nhưng đây chỉ đứng về mặt hiểu ý Phật hay chẳng hiểu ý Phật để nói về lợi độn, chẳng cần đứng về mặt giữ văn giữ nghóa. Giải thích kỹ lợi độn người trí nên suy nghó. Thọ hiểu riêng biệt, thọ là tin nhận giáo pháp, giải là khai ngộ ý chỉ Phật, gặp Phật tức có duyên với Phật thì từ Phật thọ lãnh sự giáo hóa sinh hiểu, có duyên với giáo thì gặp giáo thọ lãnh sự giáo hóa sinh hiểu. Đây chỉ nói về sinh ra hiểu hay chẳng sinh ra hiểu, nói có duyên hay không có duyên, cũng không nói về có thấy Phật, v.v… Luận nói kỹ như khi Phật còn tại thế, các vị A-la-hán, v.v… tự thân từ Phật nghe mà chứng đạo quả, đây là người có duyên gặp Phật. Như Thiên Thân, v.v… chỉ gặp giáo mà được khai ngộ, đây là người có duyên gặp giáo, nên nói duyên riêng. Nhưng nếu y cứ ý luận chỉ ở nơi kinh. Ở luận nói về thọ giải riêng, chẳng cần gặp Phật, v.v… mà nói. Vì chỗ hỏi trong luận trước, kinh Phật đã nói đâu cần là luận. Nay văn đã đáp chung câu hỏi ở rước, ở sau mới giải thích riêng. Ý luận nói: “Trong kinh tuy có nói, nhưng căn tánh lợi độn của chúng sinh khác nhau, ý thực hành ưa thích có khác, tin nhận giáo pháp khai ngộ thánh chỉ nhân duyên khác nhau. Nếu là căn lợi là người có nhân duyên với lời của Phật thì ưa kinh mà tin nhận, được ngộ thánh chỉ lại không cần nói. Nếu là độn căn lại không có duyên đối với kinh, chỉ có duyên ở lời của Bồ-tát, tức ưa soạn luận giải thích mới hiểu ý Phật, nên nói riêng. Cả ba Căn, Hạnh, Duyên đều khác nhau, đâu ngại soạn luận riêng ngoài kinh! Đâu chẳng phải văn này hay sao! Xong phần đáp chung. <詞>- Gặp phật ngộ không cần giấy mực: Phật lúc còn tại thế, Ngài chỉ nói mà thôi, sau khi Phật diệt độ, kết tập mới có kinh, đương thời còn không nhờ kinh, há cần soạn luận ư! Nói về Như Lai tức Đức Thích-ca vậy, “Cũng gồm cả chư Phật thời thắng” Lúc ấy không có thể định, chỉ có Phật ở thời kia, nên nói thời thắng. Căn thắng, chỉ chấp một loại, Phật còn tại thế thuận theo nói giáo có người chứng hiểu, nếu không gặp Phật thì chẳng ngộ, nhưng Phật khi còn tại thế nhiều người chứng ngộ, nay nói theo đây nên gọi là Thắng. Duyên thắng: thù thắng hơn Nhị thừa, Bồ-tát, nhưng nói giải ngộ của căn chẳng chấp nhân duyên giáo khởi, chỉ Phật là thắng duyên. Luận khác loại, chỉ cho ba thừa, năm thừa căn tánh khác nhau, nên gọi là khác loại. Hoặc có thể chung các đường, nhưng chẳng phải ý chánh. Luận đẳng giải, đẳng là bằng nhau, các loại khác đồng sinh hiểu, đây là nghóa sinh hiểu bằng nhau, chẳng cho là sự hiểu biết đồng nhau. Nhưng căn thắng và thời thắng ở trước, các khoa cùng phân biệt để thành bốn câu. Nghóa là thời thắng căn chẳng thắng, khi Phật còn tại thế, nhóm Tỳ-kheo sáu vị căn thắng thời chẳng thắng, như năm trăm năm sau người trì giới tu phước đều cáo quý, như Xá-lợi-phất, v.v… đều chẳng thắng. Tức Phật sau khi diệt độ không có người sinh hiểu, luận chẳng cần luận, y cứ đây gom lại thì chẳng cần kinh. Nhưng y theo chỗ hỏi của luận chỉ trách trong kinh đã nói, soạn luận là quan trọng chẳng can ngăn việc Phật còn tại thế. Nay ý đáp muốn nói lên sau khi Phật diệt độ căn hạnh khác nhau, đối với kinh luận chấp hiểu đều khác nhau. Nay trước nói rõ khi Phật còn tại thế căn duyên đều cáo quý còn không nhờ kinh đâu cần soạn luận, để nói lên sau khi Phật diệt độ căn duyên đều thấp kém, phải nhờ kinh, đối với kinh không rõ thì cần nhờ luận, lấy cao siêu để nói lên thấp kém. Cho nên kinh luận đối với mỗi căn cơ khác nhau, viên âm lưu khắp nhiều loài. Sau đây văn sớ có hai đoạn: Lược phối hợp ba nghiệp. Như văn. Giải thích riêng viên âm. Một âm trở xuống, có hai: Giải thích nghóa. Có hai: Nói theo giáo nghóa, có hai: Theo nói pháp sai biệt, hiển bày nghóa viên: Như Lai., v.v.., là Phật âm không khác nhau, nên nói là nhất âm. Nói pháp thành có khác nên nói viên âm, dẫn chứng rất dễ hiểu. Tùy loài nói âm, nói lên nghóa viên. Như Lai., v.v.., hợp nói nhất âm của Như Lai đồng tất cả âm, không có văn lược cho Phật âm là một, nên gọi là nhất âm, đồng kia mà khác ngôn ngữ nên gọi là viên âm. Dẫn chứng rất dễ hiểu. Tuy nhiên, trong sớ hai đoạn trước sau dẫn chứng tự phân ra rõ ràng, nay lại dẫn văn do chứng nghóa sau. Như kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền nói: “Phật vận dụng tất cả ngôn ngữ, âm thanh của Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát- bà cho đến cả Người và Phi nhân, mà nói pháp” Trong sớ không dẫn văn này làm chứng, vì trong văn này không nói nhất âm, đây chính nhất âm của Như Lai tùy loại đồng thời có sai biệt, chẳng như đoạn trước nói thuyết pháp có khác nhau. Kết thúc lý do: Lấy một v.v… trở xuống, là kết luận được lý do, vì tất cả âm tức nhất âm, nghóa là sai biệt tức không sai biệt. Nhất âm tức tất cả âm, nghóa là vô sai biệt tức sai biệt. Đại ý chấp vô sai biệt tức sai biệt, tức là viên, sai biệt tức vô sai biệt, vô sai biệt tức sai biệt, hai nghóa đồng thời không trước sau. Trong hai đoạn đều có nghóa này, viên dung vô ngại mới là khẩu mật của Như Lai, chỉ lấy văn, không câu chấp biên chép thành trước sau. Hiển bày tướng viên âm. Mỗi mỗi, v.v… trở xuống. Có bốn: Chánh hiển: Trùm khắp sinh giới là nghóa viên, thường không lẫn lộn là nghóa âm. Lại trùm khắp là sáu đường cảm nghe. Chẳng tạp là năm âm hưởng khác nhau. Lại trùm khắp là Ba thừa đồng nghe. Chẳng tạp là lãnh hiểu điều khác nhau. Phản hiển: Nếu âm v.v… trở xuống, là phản hiển, chẳng trùm khắp, v.v…, có chỗ chẳng nghe đâu thành nghóa viên. Viên là trùm khắp. Mất khác, v.v…, là không có chỗ tiêu biểu thì đâu thành nghóa âm. Như âm thanh tiếng chuông trùm khắp xa gần, như âm thanh tiếng trúc chỉ nghe cách một thước. Đây là viên âm chẳng phải nghóa lẫn nhau. Kết thành: Nay chẳng v.v… trở xuống, là kết luận thành tựu. Chẳng hoại khúc mà đồng trùm khắp, tức âm để thành tựu viên. Bất động trùm khắp mà sai vận, tức viên để thành tựu âm. Đó chính là trùm khắp mà khác nhau, tức khác nhau mà trùm khắp. Cho nên đều nghe tiếng, đều hiểu đúng. Khen ngợi: Đây là v.v… trở xuống, là khen ngợi. Chẳng phải thức, v.v…, trí vô lậu của Phật hiện viên âm, phàm phu hữu lậu đâu thể lường được, chỉ có thể kính tin không cần so lường, vì cảnh chẳng phải tâm thức. Cảnh chẳng phải thức, là không thể dùng thức để hiểu. Cảnh chẳng phải tâm nên không thể dùng trí để biết. Tư lương tức tướng thức biết, như trong kinh Hoa Nghiêm nói đủ mười ví dụ để nêu lên tướng viên âm của Như Lai, không thể dẫn chứng nhiều. - Nghe kinh được ngộ: Sớ: Tự lực, v.v… là chỉ tự mình hiểu lấy không nhờ vào luận, sớ giải thích, chỉ mở văn kinh ra xem mà tự hiểu. Kinh rộng, có hai ý: Trong Đại Bộ kinh hoặc tìm rộng các bộ, thấy được con đường nghóa lý của Phật nói rộng, trước sau mới hiểu, đây là người căn cơ kém cỏi. Đối với người nghe ít mà hiểu nhiều là ý thứ hai. Như văn nghóa trong sớ nói có hai trì, theo mỗi văn nghóa đều sẽ hiểu, đây chính là căn cơ cao siêu. Ở phần sau là nghe ít. Kinh lược, cũng có hai ý: Trong văn lược hoặc một câu, hoặc một bài kệ liền hiểu pháp lý sâu xa của Đức Như Lai không nhờ nói nhiều, đây là căn hạnh đều cao siêu. Không nhiều tâm lực, không hay xem rộng, chỉ đối với chút phần mà được hiểu rõ. Như trong sớ không có văn trì mà có nghóa trì, nay trong luận ý rộng lược đều lấy thuyết trước là chánh. Vì trong luận phần nói lược mà hiểu nhiều, trong rộng không nói chữ nhiều. Cho nên người ưa rộng là độn, người ưa lược là lợi, người trí nên suy nghó. Nói rộng về ngộ nhờ: Quảng luận, ở đây có hai ý: Đối với kinh chẳng hiểu, đối với luận mới hiểu, nhưng vẫn nhờ ở bộ rộng, hoặc tìm các luận mới hiểu ý Phật, đây là thấp kém. Ở đoạn sau văn ít mà nhiếp nhiều nghóa mới được hiểu, đây như sớ giải thích. Theo kia mỗi việc giải thích đều rõ, đây tức là căn cao quý ở thứ lớp của văn. Ban đầu nói về căn cơ tâm ưa tổng trì, cũng có hai ý: Nghe ít mà hiểu nhiều không nhờ nói nhiều Thần căn yếu kém không thể thừa thọ chỗ nói rộng, đầy đủ như văn sớ. Ý văn của luận ở trong rộng lược cũng đều chấp ý trước là chính, tức đối với kinh luận này được hiểu đều có lợi độn. Chỉ do lược mà nói là lợi, cần rộng mà nói là độn. Nếu lấy văn nghóa của hai trì trong bốn câu mà nói thì riêng là một ý. KẾT. Văn sớ: Tuy ít., v.v.., văn tuy một cuốn mà nghóa hà sa, kinh sở tông đều là thật giáo, ý chỉ sở thuyên đâu dung thô cạn, cho đến các luận Viên thật thiết yếu, nghóa lý không ngoài đây, nên nói tổng nhiếp. Như cảnh lý trí tức môn Chân như, vì lìa tướng ngôn thuyết tâm duyên, v.v… nên nói sâu xa. Như cảnh lượng trí tức môn sinh diệt, vì nhiễm tịnh muôn vàn sai biệt, thường bao gồm rộng, nên nói rộng. Không bờ mé, là cảnh lý trí sâu thẩm không bờ mé, cảnh lượng trí tức rộng khắp không bờ mé. Tướng không bờ mé đã thấy trong văn luận. Song hai môn này nhiếp hết tất cả nghóa kinh luận, chỉ là nói nhiễm, nói tịnh, phàm thánh, mê ngô, nhân quả, thiện ác, tất cả pháp danh tướng khác nhau, v.v… tức môn sinh diệt nhiếp tận. Nếu nói không nhiễm tịnh, bặt phàm thánh, dứt mê ngộ, lìa nghóa tánh tướng tức môn chân như nhiếp hết. Nên sớ Hải Đông nói: “Khai thị hai môn ở chỗ nhất tâm” Bao gồm chung lời rộng một trăm lẽ tám Ma-la (Ma-la là nói theo kinh Lăng-già, dùng một trăm lẽ tám câu để đáp lại một trăm lẽ tám câu hỏi của Bồ-tát Đại Tuệ. Câu trên là chân, câu dưới là tục, đồng hai môn này chỉ bày tánh tịnh ở tướng nhiễm. Thời Phổ Tông ở Du-xà có mười lăm chương (cái gọi là nước Du xà trong kinh Thắng-man, kia có mười lăm chương đại nghóa đều nói nhiễm mà chẳng nhiễm, đồng với nghóa chân như sinh diệt này). Còn tông Nhất Vị ở Hạc Lâm Kinh Niết Bàn) Chỉ thú không hai ở Linh Thứu (Kinh Pháp Hoa) Trống vàng (Kinh Kim Quang Minh) Đồng tánh (Kinh Đại Thừa Đồng Tánh) Tột quả của ba thân trong Hoa Nghiêm Anh Lạc, nhân sâu của bốn giai cấp. Đại Phẩm, Đại Tập là chỗ chí đạo khoáng đãng, Nhật Nguyệt Tạng là huyền môn của bí mật. Tất cả những vị trong đây đều là tâm can của các kinh điển, một phen thấu suốt chỉ luận này ư! Đã là tông của sâu kín thì nghóa lý vô biên, người có trí nên thỉnh cầu tu tập không nên biếng nhác. <篇> KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 6 PHẦN LẬP NGHÓA Chia làm hai: NƯƠNG LỜI ĐỂ HỎI. Văn sớ có hai: I. Giải thích pháp: Pháp thể Đại thừa, tức thể của Đại thừa ở trong tâm, gọi tâm là Pháp, trong đây nói pháp là thể Đại thừa. Thứ lớp v.v… trở xuống, là nói tâm là pháp thể, ở đây lần lượt giải thích thể ấy. Nay, nói rõ pháp thể Đại thừa, sợ có nhiều chữ Pháp, người có trí cần biết rõ. Nghóa là từ v.v… trở xuống, dùng ba nghóa giải thích nguyên do tên pháp. Hễ nói Pháp thì có hai nghóa: Nghóa giữ gìn tự thể và làm khuôn phép khiến người hiểu được. Nay một câu đầu tức nghóa ban đầu, nghóa là sẵn có tự thể chân thật bất biến, chẳng đồng y tha từ duyên giả lập không có tự tánh, vì từ vô thỉ đến nay giữ gìn không mất, nên luận ở sau nói: “Như thật chẳng không vì có tự thể đầy đủ vô lượng tánh công đức”. Hai câu sau tức nghóa khuôn phép làm cho người hiểu biết được. Lại pháp, là đối trí mà được tên, vì nhất tâm này là lý pháp giới, hay là khuôn phép ở trí khiến thành vô lậu vô phân biệt, đây là cảnh vô tướng vô duyên với trí, nên nói là đối trí. Ở sau luận nói: “Chỉ chứng mới tương ưng” lại hay hiển bày nghóa ba đại, không có một nghóa nào chăng từ pháp hiển bày, nên văn sau nói: “Nương tâm này nói lên nghóa Đại thừa”. Nghóa lý đã rõ, vật sẽ hiểu. Hai câu này đều là nghóa sau. Tông bổn pháp: nghóa là sở tông của một bộ luận, là căn bản nhiễm tịnh, hoặc tông tức là căn bản. Nghóa là theo nghóa sở y gọi là tông, hay lập muôn pháp gọi là bổn, nên phần sau của sớ nói: “Nương vào tông hiển bày nghóa lý khác nhau”. Lại, Tịnh Danh chép: “Nương gốc vô trụ lập tất cả pháp”. Luận ở trước nói: “Vì muốn giải thích nghóa căn bản của Như Lai”, tức là pháp này. Đại vị ở nhân, là trong luận này cái gọi là pháp thể đại khái phân chia xếp vào nhân vị. Văn nói: “Cái gọi là pháp là tâm chúng sinh”. Đã nói chúng sinh nên biết đại khái hợp ở nhân vị, chẳng đồng với Phật tánh viên giác, Cứu cánh giác, giải thoát Bất tư nghị, v.v… Đại vị ở quả: Nay theo chỗ nêu tánh đức trong nhân nói tâm chúng sinh. Chung cho nhiễm tịnh” Nếu theo danh chấp nghóa thì vị ở nhân, nếu nói về thể tánh thì chung cho nhân quả, nhân quả tức nhiễm tịnh, đây tức tâm thật thông ở nhân quả, vì nói chúng sinh phân chia tại nhân. Nhưng cũng có ở quả gọi là Tâm, ở nhân gọi là Giác, như kinh Viên Giác chép: “Là giác địa thanh tịnh của các chúng sinh”. Lại nói: “Tâm tất cả Như Lai mầu nhiệm viên giác,” nên nói chung cả nhiễm tịnh. Do đó, văn sau nói: “Tâm nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian”. Nhiếp pháp thế gian là chung cho nhiễm, nhiếp pháp xuất thế gian là chung cho tịnh. 2.Giải thích nghóa: Sớ Nghóa v.v.… trở xuống, văn có ba: Giải thích văn: Danh nghóa Đại thừa, nghóa là Đại thừa là danh, vì tên gọi theo nghóa mà đặt nên phải nói về nghóa, không có nghóa mà có tên gọi là sao? Danh và nghóa cả hai đều gạn lọc. Vì sao v.v…? Là gạn cả hai tên gọi và nghóa. Nghóa là theo nghóa nào mà được danh Đại thừa? Chẳng hay Đại thừa có nghóa gì? Do gạn cả hai nên chẳng nói tên gọi là gì, mà chỉ nói là vì sao? Một chữ làbao gồm cả hai mặt là do văn khéo léo. Phần sau giải thích ba đại rất dễ hiểu. Chuyện chở, có hai ý: Tự chuyên chở mình và chuyên chở người. Đã chuyên chở và đang chuyên chở. Nay trong luận này chỉ cho ý sau, nên văn sau nói: “Tất cả chư Phật vốn vào thừa này, tất cả Bồ-tát đều thừa pháp này mà đến đất Như Lai”. Trong hai ý này đều có đủ nghóa tự chuyên chở mình và chuyên chở người, do nghóa này gọi là Đại thừa. Kết ý: Cho nên v.v… trở xuống, như văn nói: “Cái gọi là Pháp nghóa là tâm chúng sinh” là trước hiển bày pháp thể, kế là nói nghóa phải có ba thứ, sau là hiển bày nghóa lý. Trong Đại thừa chỉ cho pháp nghóa, nay pháp nghóa trình bày không có sự thiếu sót, nên nói nghóa đầy đủ. Định pháp sở y: Sớ Y tông trở xuống là nhiễm tịnh tuy có cả hai nhưng chỗ hiển bày nghóa chỉ hạn cuộc ở tịnh. Thể, Tướng, Dụng cả ba đều chẳng đồng, nên gọi là sai biệt lìa chướng. Chỗ hiển bày ngược lại nhiễm nên được tên gọi là Tịnh. Nên phần Tướng đại ở sau, văn nói: “Tâm tánh chẳng động thì vượt hơn hà sa các công đức thanh tịnh, nghóa tướng thị hiện”. Trong Dụng Đại nói: “Dứt được vô minh, thấy bổn Pháp thân, tự nhiên có các thứ nghiệp dụng không thể nghó bàn”. Y cứ vào chỗ này nói chính thuộc ở thừa mà nói Đại vị, do Thể đại chung cho nhiễm tịnh nên nay phần nhiều chia ra ở quả. Lại, Thể đại tuy thông ở nhiễm, lấy tên kia cũng theo đó hiển bày. Nếu lúc tại nhân thì không có tên gọi Thể đại, đến lúc hiển bày Tướng Dụng mới đối hai thứ này để rõ tên Thể, do đó ba nghóa đều thuộc về tịnh. HIỂN BÀY NGHÓA CHÁNH: Từ khởi v.v… trở xuống, pháp thể tức khởi v.v… trở xuống là nói lên một đoạn chánh nghóa trong phần tổng. Văn nói: “Hiển bày chánh nghóa là nương pháp nhất tâm có hai chủng môn, cho đến hai môn này chẳng có tướng lìa”. Luận chép: Tâm chúng sinh, chúng sinh là năng y, tâm là sở y. Thể của sở y từ năng y để rõ tên, trước là kém, sau là hơn. Tâm chúng sinh là Y só thích. Văn sau nói: “Chúng sinh nương tâm ý, ý thức chuyển”. Sớ có ba: Chính giải thích nêu ra pháp thể: Trước nêu ra thể Đại thừa gọi là Pháp, pháp thể này gọi là Tâm, từ hẹp đến rộng, đây là tột. Như Lai tạng tâm, nghóa là tự tánh thanh tịnh tâm tại triền gồm nhiếp đầy đủ công đức Như Lai, gọi là Như Lai tạng. Như ở sau tự giải thích. Hòa hợp đầy đủ, v.v… trở xuống là nói về hình tướng của tâm. Hòa hợp tức môn Sinh diệt, do kia tùy duyên thành nhiễm tịnh. Chẳng hòa hợp tức môn Chân như, vì thể bặt tướng, nói lên sự bất biến. Do kia v.v… trở xuống là giải thích lý do. Tâm này đầy đủ hai nghóa trên: là ở địa vị chúng sinh mà nói, cho nên luận nói tâm chúng sinh. Hiển bày ngược lại: Nếu tại v.v… trở xuống là hiển bày ngược lại. Nghóa là lúc tâm này theo nhiễm thì gọi là hòa hợp với sinh diệt, nay ở địa vị Phật thuần tịnh không cấu, nên chỉ không sinh diệt là nghóa không hòa hợp. Do ban đầu v.v… trở xuống là nêu ra lý do. Hiển bày tướng không sinh diệt nên nói chỉ là chân như, tướng kia đã không, chỉ là nhất chân, vì sao nói hợp? Trung Luận nói: “Một pháp làm sao hợp”, văn sau hiển bày địa vị Phật nói: “Phá tướng thức hòa hợp, diệt tướng tâm tương tục, hiển hiện Pháp thân trí thuần tịnh”. Hiển bày nghóa: là nghóa ba đại, từ đây mới rõ. Tướng sinh diệt không thì chỉ hạn cuộc ở tịnh nên không hòa hợp. Thuận kết: Nay v.v… trở xuống, là thuận kết lại thành nghóa trước. Chúng sinh là tướng nhiễm, vì thể chân tùy duyên khởi, là tướng chúng sinh chẳng lìa thể gọi là hòa hợp. Tuy toàn thể khởi tướng mà thể không hề thay đổi, nên gọi là chẳng hòa hợp. Do đó tại triền đầy đủ hai môn. Luận: Pháp xuất thế gian v.v… trở xuống, văn sớ chia làm hai: Trình bày ý chung: Một câu đầu nêu ý chỉ, ngoài ra đều là chánh tựa. Thể là môn Chân như, tướng là môn Sinh diệt. Hai môn nhiếp nhau, chẳng lìa nhau, nên nói vô ngại. Nhiễm tịnh đồng nương: trong hai môn đều nhiếp cả nhiễm tịnh, môn Chân như là chung cho tướng nhiễm tịnh, môn Sinh diệt riêng hiển bày tướng nhiễm tịnh. Chung riêng tuy khác nhưng chẳng ngoài nhất tâm, nên nói đồng nương. Theo dòng nghóa là bất giác mê chân, cho đến tạo nghiệp chịu quả báo. Ngược dòng nghóa là thỉ giác ngược nhiễm đến Bồ-đề Niết-bàn. Mê ngộ tuy khác nhưng chỉ có tâm này chuyển. Kinh nói: “Từ vô thỉ đến nay tất cả pháp y chỉ tánh, do đây có các đường và quả chứng Niết-bàn “Do đó muôn pháp duy tâm, tâm tức là chủ, mê ngộ đều do tâm tạo. Giải thích riêng về tướng: Sớ Cho nên v.v… trở xuống, có hai: Giải thích theo môn sinh diệt: Bất giác nhiếp pháp thế gian, vì bất giác là pháp căn bản thế gian, tất cả pháp nhiễm đều ở đây mà thành, do đó chỗ thành của nhiễm đều thuộc về bất giác, thì Ba tế, Sáu thô, Năm ý, sáu nhiễm, v.v… là thuộc về pháp. Nên văn sau nói: “Nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm, vì tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác”. Nhiếp pháp thế gian, vì bản giác, thỉ giác là pháp gốc của thế gian, tất cả pháp tịnh đều do giác mà thành, cho nên chỗ thành của tịnh đều thuộc về giác, chỗ nhiếp của bản giác tức nghóa trí tuệ rộng lớn sáng suốt, nghóa chiếu khắp pháp giới, nghóa chân thật thức tri, v.v… Chỗ nhiếp của thỉ giác tức ba minh, tám giải, Lực vô úy, v.v… Nhưng ở đây tướng dụng có khác, phân hai thứ kia có khác nhau, nếu theo thể đồng thì chỗ nhiếp không khác. Đây vẫn v.v… trở xuống, là kết luận chỉ bày rất dễ hiểu. Giải thích theo môn chân như: Sớ: Nếu theo v.v… trở xuống Bao dung gồm nhiếp Nghóa là dứt hòa hợp bao gồm tất cả, khiến tướng nhiễm tịnh khác nhau kia không có chướng ngại. Nhiễm tịnh chẳng khác: Là xuất xứ từ tướng bao dung, nghóa là do một lý chân như bao dung tất cả, khiến nhiễm tức chẳng nhiễm, tịnh tức chẳng tịnh, tức nhiễm tức tịnh, lẫn làm một vị, nên nói chẳng khác. Văn sau nói: “Tất cả các pháp chỉ nương vọng niệm mà có khác nhau, nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới, cho đến chỉ là nhất tâm nên gọi là Chân như” Trong môn Sinh diệt này gọi là bao nhiếp, trong môn Chân như gọi là dung nhiếp. Bao nhiếp thì nhiễm tịnh đều còn, dung nhiếp thì nhiễm tịnh đều mất, đều mất nên một vị chẳng phân, đều còn nên rõ ràng sai biệt. Cho nên hai môn tuy đều nói nhiếp mà nghóa nhiếp khác nhau. Văn sau nói về thứ lớp sẽ rõ. Giải thích danh pháp kia: là nêu ý chỉ của văn này. Pháp tức là danh, trong văn này chính giải thích tâm này, là lý do được tên gọi là Pháp. Nghóa là nương v.v… trở xuống: Trong ba nghóa trước, theo nghóa thứ ba mà hiển bày nên gọi là Pháp, hai nghóa kia đều có văn của luận như trước đã dẫn chứng. Gạn chung nên lập ra nạn vấn. Sớ có hai ý: Ý thứ nhất, tâm đã thông nhiễm, chẳng hợp hiển bày được nghóa tịnh, kia giống như vàng còn lẫn trong khoáng đâu thê thuần là tướng vàng. Ý thứ hai, tâm đã là một, một thì thể hẹp. Nghóa Đại thừa là nhiều, vì nhiều nên thành rộng, đâu thể lấy hẹp mà chỉ bày cho rộng. Trong khai biệt, sớ có hai: - Trình bày chung giải thích ý: Đại thừa tuy tịnh: là lặp lại câu hỏi. Tướng dụng v.v… trở xuống, là phân biệt chính đáp. Đối nhiễm: Tướng đại thì ngược nhiễm thành tịnh, như nói: “Tâm tánh bất động tức có nghóa trí tuệ sáng suốt rộng lớn, dụng đại thì tùy duyên mà khởi, như nói tùy theo chúng sinh thấy nghe được lợi ích, nên nói là Dụng. Hai nghóa trên đây đều đối nhiễm mà thành, nên văn sau nói: “Nên biết pháp, nhiễm pháp tịnh đều đợi nhau”. Nay sinh diệt v.v… trở xuống, là nói về năng hiển. Đã có hai nghóa giác và bất giác nên noí bao gồm đủ nhiễm tịnh, vì có nhiễm nên hiển bày tịnh, tịnh đã không tự tịnh, đợi nhiễm để thành tịnh. Đâu ngại gì chung cho tâm nhiễm mà hiển bày nghóa tịnh ư! Đây là phần kết đáp. Vì bỏ v.v… trở xuống: xuất xứ từ lý do đối nhiễm, có người hỏi rằng: Vì sao cần đối nhiễm mới lập tịnh? Nên ở đây giải thích, văn sau nói: “Nếu lìa tâm bất giác thì không thể nói có được tự tướng chân giác”. Lại trong môn Chân như không có nhiễm thì tịnh cũng chẳng lập. Lại nói: “Nếu lìa nghiệp thức thì không thấy tướng, vì Pháp thân của Phật không có sắc tướng kia đây, lần lượt sẽ thấy. Tââm pháp tuy một, v.v… là lập lại câu hỏi. Mà có v.v… trở xuống, là phân biệt chính đáp. Chỉ bày thể Đại thừa: chân thật là mất tướng để nói lên môn chân thật, vì mất tướng mà tướng chẳng còn, chỉ trình ày thể. Chỉ bày đủ ba đại, nhận lý thành môn sự, vì nhận lý mà lý không mất, nên đủ cả ba. Nghóa Đại thừa v.v…trở xuống, là kết luận thành tựu chỉ bày đủ. Nghóa là trong nghóa ba đại này nhiếp đủ hai thân chân ứng của Như Lai, vượt hơn hà sa đức tướng diệu dụng. Tóm lại, tất cả công đức vô lậu đều không ngoài nghóa ba đại. Thể của ba đại chỉ là nhất tâm, cho nên nhất tâm có khả năng nói lên nhiều nghóa. Nêu chung, v.v…, là tất cả nghóa là một môn này. Nhất pháp giới.., v.v… nói đủ là tâm chân như, tức nhất pháp giới. Đại tổng tướng pháp môn thể: nghóa là tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt, cho đến nếu lìa niệm gọi là được vào. Cộng lại có mười ba hàng văn của luận, là chỗ khởi này. Tướng chân như: Tướng là nghóa tướng, như văn sau nói: “Lại nữa, chân như nương lời nói phân biệt có hai nghóa”. Nghóa tức là tướng, chẳng đồng với tướng trạng sinh diệt. Lại nữa, trở xuống cho đến cuối cùng môn này: gồm có mười hai hàng văn của luận, là chỗ khởi này, y cứ vào đây phối hợp, nếu nói môn chân như thì tâm chân như là chung, tướng chân như là riêng. Luận: là tâm v.v… trở xuống, sớ chia làm hai: - Giải thích hai câu trước: Có hai: Giải thích riêng ngay văn: Theo huân tập biến động: nghóa là theo chỗ tập nhân duyên nhiễm tịnh, khiến tâm thay đổi, chuyển động thành sinh diệt. Nêu chung, v.v…, bao gồm nghóa một môn ở dưới, ở trong hai chữ sinh diệt này, nên nói nêu chung. Nương Như Lai tạng, v.v…, nói đủ là tâm sinh diệt nương Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt, vì chẳng sinh diệt hòa hợp với sinh diệt, cho đến tánh nhiễm huyễn sai khác nhau, tất cả có bảy mươi chín hàng văn của luận, là chỗ khởi ở đây. Duyên do nghóa là lý do: Khởi v.v…trở xuống, nói đủ là “lại nữa, nhân duyên sinh diệt” nghóa là: Chúng sinh nương tâm, ý, ý thức chuyển. Nghóa này thế nào? Do nương thức A-lại-da nói có vô minh, cho đến không thể được thuận theo tất cả cảnh giới thế gian, các thứ biết. Cộng chung có bốn mươi chín hàng văn của luận là chỗ khởi ở đây. Trạng: hình trạng là cảnh biết của vọng thức. Phân biệt khác tướng chân như là nghóa tướng, tướng tức tánh. Chẳng phải cảnh giới của thức chỉ là chỗ chứng của trí. Khởi ở sau v.v…, nói đủ là “lại nữa phân biệt tướng sinh diệt” có hai thứ, hai thứ đó gồm: Một là, thô tương ưng với tâm, hai là, tế bất tương ưng với tâm. Cho đến si diệt nên tâm tướng diệt theo, chẳng phải tâm trí diệt? Cộng chung có mười bốn hàng, là chỗ khởi này. Tuy nhiên, trong phần lập nghóa này, căn bản mà lập nghóa bổn thì có tám chữ là: “Tướng chân như, tướng nhân duyên sinh diệt”. Trong phần giải thích ở sau có một trăm sáu mươi ba hàng, theo đoạn mà giải thích. Như trước phối hợp. Từ Bốn thứ huân tập v.v… trở xuống: tức là thông, nói về lý do phát khởi nhiễm tịnh, sinh diệt. Nếu gom tám chữ lại chẳng ngoài một chữ Tâm, lại lần lượt trong một trăm sáu mươi ba hàng văn của luận, để trở thành hơn một trăm bộ kinh Đại thừa. Ở đây nói lên trong tâm chứng ngộ được dụng tự tại của luận chủ. Phân biệt chung phần trước, vì sao v.v… trở xuống. Trước là lặp lại câu hỏi: Vì sao trong hai môn một là tức? Nên nói lập lại. Do chân v.v… trở xuống, là giải thích chẳng khởi, do chân như có hai nghóa: 1 - Nghóa bất biến. 2- Nghóa tùy duyên. Nay trong môn này chỉ theo bất biến để nói lên thể kia mà chẳng theo tùy duyên, nên nói chẳng khởi. Sở hiển tức là thể đại, năng hiển tức là môn này. Năng hiển là thuyên, sở hiển là ý chỉ, Chân như là một nghóa với thể, nên nói là Tức. Do đó v.v… trở xuống, nhân hiển bày là chỉ cho thể đại. Khởi động v.v… là nghóa tùy duyên, do tùy duyên nên thành môn Sinh diệt, nhiễm tịnh tức tướng sinh diệt. Tức nhiễm tịnh là lời nói của năng thị, ba đại là ý chỉ của sở thị, hai nghóa đều riêng, nên nói là Phân. Năng sở v.v… trở xuống là phân biệt khác với môn trước. Hoặc ví dụ hiển bày: nhất tâm như nước, chân như như ướt, sinh diệt như sóng, là tướng ướt của nước. Giải thích một câu sau: Có hai: Giải thích căn bản, văn có hai: Giải thích riêng ngay nơi văn: Bản giác tức chân như ở trước, đến trong môn này đổi tên là bản giác, vì đối trị nên gọi là bổn, đối bất giác nên gọi là Giác, tức bản giác này là tự thể của sinh diệt. Ở đây hiển bày sinh diệt không có tự thể riêng kia, hoàn toàn xem bản giác là tự thể. Nhân sinh diệt, có người hỏi: Nếu bản giác này là thể sinh diệt, bản giác tức chân như. Vì sao lại nói là tự thể sinh diệt? Cho nên ở đây giải thích, nghóa là tướng sinh diệt khi khởi thật nhờ chân như làm nhân, vì chân như không giữ tự tánh bị vô minh huân xông, thành các tướng nhiễm. Tuy thành tướng nhiễm mà thể kia bất biến. Do bất biến nên huân tập vô minh khiến chán lìa sinh tử, cầu Niết-bàn, dần dần khởi thỉ giác, thành pháp tịnh kia. Nhiễm tịnh như thế đều do chân như, vì vậy chân như là thể sinh diệt. Văn sau nói: “Nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt”. Lại nói: “Có chỗ cho rằng: do có pháp chân như huân tập vô minh”. Cho đến được Niết-bàn, thành nghiệp tự nhiên. Cũng biện thể: là môn chân như ở trước, đương thể là Thể, môn Sinh diệt này lấy chân như làm thể, nếu không có thể chân như, thì sinh diệt không bao giờ thành được. Trong môn này phải nói về thể. Ngược nhiễm v.v… trở xuống, là tức chỉ bày Tướng và Dụng. Tướng tịnh tức Tướng đại, nghóa là báo thân và hóa thân, v.v … trí tuệ sáng suốt rộng lớn. Nghiệp dụng tức Dụng đại. Do đó v.v…trở xuống, là nêu văn tổng kết chỉ bày. Vì trong môn Sinh diệt văn có hai đoạn: Trước là giải thích tâm pháp năng thị sinh diệt, tức tướng nhân duyên sinh diệt. Sau là nói về nghóa sở thị ba đại, tức Thể, Tướng, Dụng.Văn sau trình bày đầy đủ. Chung với phân biệt ở trước: Sớ: “Vì sao” v.v… trở xuống, chung cho khoa phân biệt câu văn ở trước, vặn hỏi bên ngoài, rất dễ hiểu. Sở dó v.v…trở xuống, là giải thích. Ở trước nói: Năng thị hiển bày lời nói và ý chỉ chẳng phải một. Nay nói: Tự thể hiển bày lời nói và ý chỉ chẳng khác. Môn này tuy tức năng sở có khác, nhưng chẳng cho rằng sở thuyên ở ngoài năng thuyên, nay nói lên chẳng phải ở ngoài, nên nói tự thể, đây tức sinh diệt là tướng chân như.Chân như là thể sinh diệt, thể tướng tuy khác mà chẳng lìa nhau. Kia giống như sóng và nước, tuy khác mà đâu có sóng ngoài nước. Nên biết nước là tự thể của sóng. Giải thích chỗ vặn hỏi. Sơ Hỏi chân v.v…trở xuống. Nghóa là ý lấy môn đối địch mà hỏi có thể hiểu ư? Trong đáp Chân như v.v… trở xuống là lập lại ý trước. Chẳng cần do khởi: chân như vốn tự lập, chẳng nhờ ở chỗ sinh diệt, tự tánh sẵn thường, đâu do cái khác mà có. Do không v.v…trở xuống: chính là giải thíc, nghóa là có khởi sẽ có tướng dụng, không khởi chỉ còn thể. Trong môn trước chỉ nói một. Sinh diệt v.v…trở xuống, là hai câu văn trước là lập lý. Khởi phải nhờ chẳng khởi: khác với môn trước. Nếu chân như chẳng khởi thì đâu có sinh diệt khởi động. Như không có nước thì đâu có sóng, nên nương nhờ mà có. Khởi bao gồm chẳng khởi trở xuống, chính giải thích. Nêu thể chân như thành sinh diệt, nay sinh diệt bao gồm ở nơi thể chân như. Giống như nước khởi thành sóng, sóng bao gồm ở nước. Do đó môn này chẳng chỉ ở tướng dụng, cũng chỉ bày thể, nên nói chỉ bày đầy đủ. Sớ Khởi v.v… trở xuống… Như luận nói: “Lại nữa, chân như tự thể tướng, tất cả phàm phu, thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật không thêm bớt” cho đến nghóa tự tại dụng của chân như, tức có sáu mươi bốn hàng văn của luận, chính là chỗ khởi này.“Thể đại” Sớ nói là chân tánh. Chân nghóa là phân biệt chẳng phải luống dối, hiển bày riêng viên thành. “Tánh là tự thể thường trụ, chẳng thay chẳng đổi, tức phân biệt các pháp tánh không. Không là tột cùng ba mé không đến không đi. “Quảng” là rộng khắp mười phương chẳng trong chẳng ngoài. Phàm là sáu đường khác nhau. Thánh là ba thừa khác nhau. Nhiễm là cõi uế tột cùng ở ba cõi. Tịnh là cõi tịnh cùng tận ở mười phương. Nhưng phàm thánh, nhiễm tịnh đều gồm quả báo. Nay nói về mặt riêng thì phàm thánh thuộc chánh báo, nhiễm tịnh đối y báo. Do các pháp tuy rộng mà chẳng ngoài chánh báo và y báo. Trong chánh báo không ngoài phàm phu, bậc thánh nhân, trong y báo không ngoài cõi tịnh, cõi uế, nêu bốn thứ này để nhiếp hết tất cả. Đều là chỗ nương: Bốn pháp trên đều là dụng làm chỗ nương cho thể chân như, nên Kinh Hoa Nghiêm chép: “Không hề có một pháp nào được lìa pháp tánh”. Văn sau nói: “Vô lậu vô minh như thế là các thứ nghiệp huyễn, đều đồng tánh tướng chân như”. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Tất cả thế giới nhân quả vi trần do tâm mà thành thể”, đã làm tất cả chỗ nương, tên thể đại do đây mà lập. Luận: Chân như bình đẳng là chân tánh ở trong tất cả pháp làm thể tánh bình đẳng. Như hình bóng trong gương, chẳng đồng các pháp vốn không, chẳng phải bình đẳng như bóng trong gương. Sớ: Theo dòng, v.v…là đứng về hai nghóa nhiễm tịnh mà nói lên chẳng thêm bớt ở văn sẽ thấy. Vì tánh chẳng nhiễm tịnh, nên nhiễm tịnh đều không. Bởi do v.v… trở xuống, là tổng kết thành nghóa trên, nói nhiễm tịnh là đứng về pháp, đầu cuối là đứng về thời gian, nghóa là theo dòng là đầu, ngược dòng là cuối. Phần sau của sớ có nói: “Lấy chúng sinh làm trước, lấy Phật làm sau, trước sau tức đầu cuốo. Hoặc tức đoạn này đứng riêng về mặt không gian, để nói về nghóa bình đẳng. Nhiễm tịnh chẳng thiếu là nói rộng khắp, vì thấy trong địa vị chúng sinh và Phật không thiếu sót. Đầu cuối chẳng đổi là nói thời gian: Vì quá khứ, vị lai không thay đổi, trước là đồng thời nói theo nhiều người, đây đứng nói theo một người khác thời, tuy một, nhiều, đồng, khác, thời gian, không gian mà nói riêng, nhưng đều nói lên nghóa chân như bình đẳng. Hai thứ: là như thật không và như thật chẳng không. “Không” là chẳng tương ưng với vọng nhiễm. “Chẳng không” là đầy đủ tánh công đức. Nay như nghóa sau, nên văn sau nói: “Cái gọi là chẳng không để nói lên pháp thể không, chẳng có vọng, tức chân tâm thường hằng, bất biến”. Pháp tịnh đầy đủ gọi là chẳng phải không. Chẳng khác: là mỗi đức tướng là thể tánh cho nên chẳng khác. “Phi” nghóa là tạng, là năng cụ, đức là sở cụ, tức nói có tánh, nên văn sau nói: “Như thế đầy đủ vượt hơn hà sa, chẳng lìa, chẳng đoạn, chẳng khác, Phật pháp không thể nghó bàn chẳng đồng tướng sinh diệt” Định ra sai biệt nên tánh tướng có khác, rất dễ thấy biết. Như nước có tám đức tức nước ao A-nậu có đủ tám công đức: 1 - Ngọt. 2- Lạnh. 3-Mềm. 4- Nhẹ. 5- Trong. 6- Chẳng hôi. 7- Uống vào chẳng làm tổn thương cổ họng. 8- Chẳng đau bụng. Là nghóa chẳng khác, hợp pháp rất dễ hiểu. DỤNG ĐẠI. Sớ có hai: Giải thích văn: Nghiệp hạnh theo nhiễm: theo nhiễm huyễn của chúng sinh kia, ma khởi hạnh lợi tha, tức là nghiệp không thể nghó bàn của Như Lai, nên nói nghiệp hạnh. Nếu cho ở trong môn theo nhiễm mà nghiệp hạnh trái nhiễm, là dụng đại này, e chẳng phải ý của văn, do kia chỉ là pháp tịnh năng hiển chưa thể liền cho là sở hiển, người học nên xét rõ. Báo thân tức chỗ thấy của Tam hiền trở lên, hóa thân tức chỗ thấy của người Nhị thừa, Thập tín trở xuống. Thô là hóa thân theo mỗi loài mà ứng, mỗi người thấy khác nhau, chẳng thọ tướng vui.Tế là báo thân của Phật thể bình đẳng, thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng tốt, chỗ dừng trụ nương vào quả cũng vô lượng, các thứ trạng nghiêm đầy đủ tướng vui. Thiện thế gian: năng lực gốc lành huân tập hữu lậu, khởi mười điều lành, v.v… ở đây chỉ cho hữu lậu chẳng vượt khỏi trời, người nên nói là thế gian.“Xuất thế là khiến chán sinh tử, ưa niết bàn, đây đều là vô lậu, vượt khỏi ba cõi, nên nói xuất thế.Trong đó tuy chung cả Nhị thừa, rốt ráo chỉ do Nhất thừa mà được diệt độ.Văn sau nói dụng đại để nói rộng về tướng kia. Hỏi về thông, ngại: Sớ Vì sao v.v… trở xuống. Do chẳng v.v… trở xuống là chính giải thích. Nếu nhân quả lành thì bên trong thuận chân như, bên ngoài đối trị các điều ác, pháp này nếu khởi từ nhân đến quả, có thể chiêu cảm được chỗ cao quý, được gọi là dụng tịnh của chân như. Do từ chân như bên trong huân tập phát khởi mà dụng báo và hoá phát khởi. Nay dụng đại nên phát khởi pháp này. Nếu nhân quả chẳng tốt, bên trong trái chân lý, ngoài bị thiên trị, nếu pháp này khởi từ nhân đến quả, thì chiêu cảm chỗ khổ, đâu gọi là dung tịnh, từ bất giác sinh nên trần lao phát hiện. Nên trong văn này không nói bất thiện. Nếu như vậy v.v… trở xuống là chuyển nạn vấn rất dễ hiểu. Giải thích rằng v.v… trở xuống, là giải thích trở lại: Tuy là pháp ác, do đó bất giác mê chân mà thành, nhưng pháp thành không lìa thể chân. Như nước khởi sóng mà không lìa tánh ướt. Văn sau nói: “Vì nương pháp chân như mà có vô minh”. Lại nói: “Do giác nên có mê, nếu lìa giác, tánh nó đều giác”. Do trái với v.v… trở xuống, tổng kết thành nghóa trước, rất dễ hiểu. Tuy nhiên, dụng đại này chính là quả của hai thân trên, ở sau sẽ nói đầy đủ. Nay sớ lấy điều thiện làm dụng chính là nghóa một bên, cũng tức là lấy sở sinh hiển bày năng sinh. Nhưng luận không nói diệt ác là do thiện khởi ác sẽ diệt. Nêu quả hướng về nhân thì chư Phật tức quả, bổn tức nhân. Do Các Như Lai gốc tu hành lúc ở địa vị nhân, không có pháp riêng để nương, chỉ lấy tâm này làm chỗ nương mà đến rốt ráo. Nêu nhân hướng về quả, ở văn rất dễ thấy. Trong đây Như Lai tức là chư Phật ở trước, đều nói về mặt tự thọ dụng báo thân, chẳng phải cho rằng Ứng và Hóa biết để thành chuyên chở. Chuyên chở tức là thừa, hai nghóa không khác, chỉ văn thay đổi. Hoặc có thể hai nghóa khác nhau, là thừa lấy chuyên chở làm nghóa. Nay đoạn trước là theo bổn thừa của Phật, mới có nghóa chuyên chở. Sớ nói: “Do hiểu thừa”, Nay văn là đứng về mặt từ nhân đến quả thì nghóa chuyên chở mới rõ. Luận nói: “Đến đất Như Lai”. Sớ nói: “Để thành chuyên chở”. Nhưng Phật là đã thừa, Bồ-tát là đang thừa và sẽ thừa. Trong đây đức bao gồm nghóa tự chuyên chở mình và chuyên chở người. Tức ban đầu v.v… trở xuống, là đưa ra thể năng thừa và sở thừa. Thỉ giác là năng thừa, tức chư Phật và Bồ-tát tuy viên mãn hay từng phần khác nhau, đều thuộc trí thỉ giác năng thừa. Bản giác là sở thừa, nếu theo văn này tức nhất tâm pháp ở trước làm sở thừa, để đối trị nên nói bản giác. Nếu theo ba đại, nói dụng đại là thể tướng năng thừa, hai đại kia là sở thừa. Nhưng, dụng tức thể thỉ giác, tướng tức đại giác, đại tức là Thừa, là Trì nghiệp thích. Tánh đại của Thừa: chứng bản giác là tánh đại của thừa, hoặc chứng cả hai bổn và thỉ. Do đó từ trước đến nay là nêu tông, chỉ nói pháp nghóa chẳng nói riêng Thừa. Nay thứ lớp nói theo ba đại, cũng không nêu đề mục riêng, trong phần giải thích ý cũng như thế. <詞>Phần giải thích: Trước tuy lược lập tông nghóa mà lý thú chưa rõ, nếu không giải thích văn rộng ra thì ý chỉ không sáng tỏ, làm sao khai mở được. Nay khiến cho hiểu để thấy được văn trước nên có phần này. Nêu lên: Sớ: Chỗ lập: tức trong phần trước nhất tâm pháp nghóa có sở lập hai môn ba đại, hiển bày rõ ràng mở bày khiến sinh chánh giải, do đó hiểu nghóa chân chánh, tức thành chánh giải. Dứt dị chấp: chẳng phải là đạo lý đúng, vọng sinh chấp trước là hoạn nghiêng lệch sâu xa, quyết nên dứt sạch. Thú hướng đến chánh: phát tâm hướng đạo, hình tưởng khác nhau, lên xuống chẳng đồng, nay nên phân biệt, khiến kia tu chứng không có mê hoặc xen lẫn. Đây chính là hiển bày chánh nghóa cho hiểu. Đối trị tà chấp là giúp cho từ bỏ phân biệt, đạo là giúp cho thực hành. Lại chánh nghóa là năng trị, tà chấp là sở trị - chánh nghóa là sở thú, đạo tướng là năng thú, đều là chánh nghóa. Văn sau có hai. Giải thích ở trên: nghóa là giải thích phần trước. Cái gọi là Pháp, là tâm chúng sinh, tâm ấy nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Trong khai môn nói về hai môn: là trên nhất tâm có hai nghóa, nghóa đầy đủ hay thông suốt ra vào, nên gọi là Môn. Hay thông là chân như sinh diệt thông suốt lẫn nhau. Lại, hai môn thông với nhất tâm. Thông nhất tâm chính là đoạn này lấy mỗi môn đều nói tâm. Thông suốt lẫn nhau do môn chân như có tùy duyên, chung cho sinh diệt, môn sinh diệt có thể không nên thông đến chân như. Nghóa ra vào là chúng sinh mê hoặc trôi lăn tức ra môn Chân như, vào môn Sinh diệt. Nếu giác ngộ tu chứng thì ra môn Sinh diệt, vào môn Chân như. Đã thành đạo rồi thì khước từ môn Chân như, vào môn Sinh diệt khai ngộ chúng sinh. Việc làm đã xong, dứt hóa về chân, tức khước từ môn Sinh diệt, vào môn Chân như, an trụ trong bí tạng. Sớ có hai. Giải thích nhất tâm có đủ hai môn. Có hai: Nêu: Một Như Lai tạng, do hai nghóa chẳng phân, nên nói một. Nếu nêu bày nói tức nhiễm tịnh, phàm thánh, có không, lý sự, v.v… đều là một, nghóa một này là nói lên chẳng hai, gượng gọi là một, chẳng phải pháp số. Kinh nói: “Một cũng chẳng một, là lìa các số. Giải thích: Sớ. Một là theo v.v… trở xuống. Có hai: Môn chân như. Có hai: Chính giải thích: Đứng về mặt thể… mà nêu lập. Chẳng nhiễm v.v… trở xuống, là giải thích dứt tướng ở trên. để nói lên thể một, nghóa là nhiễm tịnh, sinh diệt, động chuyển, v.v… đều thuộc về tướng, tiêu biểu ở đây đều không nên nói chẳng. Bình đẳng v.v… trở xuống, đứng về mặt thể để kết thành bình đẳng, đứng về ngang dọc kết thành không cao thấp. Như kinh nói: “ø pháp ấy bình đẳng không có cao thấp”. Nhất vị là đứng về mặt ví dụ mà tổng kết. Giống như biển lớn đồng một vị mặn. Tánh không khác nhau là đứng về mặt rộng mà tổng kết. Kinh Tịnh Danh chép: “Tất cả chúng sinh đều như”, tất cả pháp cũng như, chúng thánh hiền cũng như, cho đến Di lặc cũng như”. Lại, bình đẳng một vị dứt tướng. Tánh không khác nhau là đứng về mặt thể, nên nói đứng về thể dứt nghóa tướng. Dẫn chứng: Chúng sinh v.v…trở xuống: Đây là dẫn đoạn văn của kinh Tịnh Danh ở trước. Phần sau của văn kia là nói: “chư Phật biết tất cả chúng sinh rốt ráo vắng lặng là tướng Niết-bàn, chẳng còn diệt nữa, v.v…” Sớ nay lấy ý nên văn khác đôi chút, phần sau đều như đây. Môn sinh diệt: Hai là tùy theo v.v… trở xuống, có ba: Chánh giải thích: Giải thích tùy duyên, v.v… là nêu lập. Tùy theo v.v…trở xuống, là giải thích. Nghóa là do vô minh huân chân như, khởi tâm vọng, cảnh vọng, thành tất cả pháp nhiễm. Chân như huân vô minh thì diệt tâm vọng cảnh, vọng thành các pháp thanh tịnh. Rộng như, v.v… trở xuống, là giải thích. Nhiễm tịnh tuy thành v.v… trở xuống, là giải thích ngại. Hoặc nói: Đã theo huân động, làm sao nói chúng sinh như ư! Nên ở đây giải thích. Chính ở lúc động chỗ động, xưa nay nói chẳng động, chẳng phải tướng bất động nên nói Tánh. Nói lên chẳng phải tạm bất động nên nói hằng. Có chỗ nói: Tánh đã bất động, làm sao thành nhiễm tịnh cho được? Nên nói chính là do bất động trở thành nhiễm tịnh. Kia tức ngược lại thành nghóa trên. Nghóa là nếu tánh tự động đồng tướng sinh diệt, tức ngay lúc diệt không thể tự lập, còn không tự lập, đâu thể thành nhiễm tịnh, thật do bất động nên hay thành. - Kết chỉ bày: Cho nên bất động v.v… trở xuống. Nghóa là do lúc theo huân động tánh không hề thay đổi, trong môn sinh diệt được có chân như, nên nói bất động cũng ở môn động. Như trong môn Chân như chưa có sinh diệt nương chân như. Chân như không nương sinh diệt, lược như trước giải thích, rộng như văn sau. Cho nên v.v… trở xuống, là văn chỉ bày. Bản giác: là môn Sinh diệt, ban đầu nói: “Thức này có hai thứ nghóa, nhiếp tất cả pháp, sinh tất cả pháp, hai nghóa ấy gồm: Một là nghóa giác, hai là nghóa bất giác, v.v…” tức nghóa giác kia lại là chân như trong môn Sinh diệt, gọi là Bất động, chỉ vì trong môn này, riêng theo hình tướng đối đãi mà nghóa có thay đổi nên gọi là Giác. Văn trên, v.v… tức trong phần lập nghóa nói: “Tướng tâm nhân duyên sinh diệt, hay chỉ bày tự thể, tướng, dụng Đại thừa, Tự thể kia cũng tức là trong môn Sinh diệt, Chân như trong môn sinh diệt. Hai đoạn trên đây chính là trong động có nghóa bất động. Dẫn chứng: Thắng-man, v.v… trở xuống: chứng chung theo huân tập mà có động chuyển, trong động có nghóa bất động, chẳng nhiễm mà nhiễm, tức chân như thành sinh diệt. Nhiễm mà chẳng nhiễm tức trong động có bất động. Như Lai tạng tức chân như, bảy thức vô minh tức sinh diệt, thức A-lại-da hòa hợp hai thứ trên. Nghóa là chân như tùy duyên thành thức A-lại-da, do thành thức nên sinh chung với vô minh, cũng có thể Như Lai tạng tức A-lại-da. Chỉ do tướng chung tướng riêng mà có khác, nên nói Như Lai tạng tên thức A-lại-da. Kinh nói: “Phật nói Như Lai tạng lấy làm A-lại-da. Ác tuệ không thể biết tạng tức thức A-lại-da”. Cũng nói: “Như vàng và trang sức, lần lượt chẳng khác nhau”. Biển lớn như A-lại-da, sóng như bảy thức vô minh, nước tức Như Lai tạng. Vì từ vô thỉ đến nay chân vọng hòa hợp, không hề xả ly, nên nói thường không đoạn dứt “Như Lai tạng”, tức Sở huân tánh tịnh, luống dối ác tập tức nhiễm huyễn năng huân, thức tàng tức thành của A-lại-da. Nhân thiện bất thiện: nghóa là tánh này theo duyên thiện khởi các pháp thiện. Tánh tức là nhân thiện, theo duyên bất thiện khởi các pháp tánh bất thiện, tức là nhân bất thiện, theo thiện thọ tánh vui ở trong kia, theo ác thọ tánh khổ cũng tại trong đó, nên nói đều sinh với nhân (vui và khổ). Hoặc sinh, v.v… là tuần hoàn các đường sinh tử không cùng, tạng tánh ở trong đó tùy duyên mà biến thọ, nhưng thể tánh kia không hề đến đi. Kinh nói: “Sinh diệt đến đi vốn là Như Lai tạng”. Như khoác áo, v.v… như người nghệ só múa thay đổi y phục, thể là một người, ban đầu không hề thay đổi. Văn ấy nói: “Tâm như người đóng tuồng, ý như người đồng diển khoác áo, năm thức như âm nhạc, thọ tưởng như người xem. Như người đùa với sư tử, người vào sống với sư tử, người ra chết với sư tử”, nhân tịnh lúc vô minh, nên biết cũng như thế. Ngài Khuê Sơn nói: “Người vui vốn là một thân hình, đêm qua là quan, đêm qua là tôi tớ, khoác lên danh mục tuy đổi khác, trước sau chủ tớ rõ ràng không khác nhau”. Đây v.v… trở xuống là tổng kết chỉ bày, như chỗ dẫn chứng ở trên, đều nói chân như tùy duyên tạo sinh diệt, trong động có bất động. Nhiếp hai môn trở về tâm: Sớ Nhưng đây v.v… trở xuống. Nêu thể, v.v…, nghóa là chân như nêu thể thành sinh diệt, sinh diệt không tánh tức chân như. Cho nên khi sinh diệt hiện, toàn chân thể hiện. Khi Chân như hiển thì toàn sinh diệt hiển, nêu một mà gồm thâu tất cả, nên nói là dung thông. Do dung thông nên chân mà không có tướng chân, vọng mà không có tướng vọng, tướng chân vọng thể là một chẳng khác, nên nói bờ mé chẳng phân. Bờ mé đã chẳng phân, đâu lại còn ở thể tướng ư! Nên nói ví dụ sóng và nước không hai, hãy so sánh sẽ biết. Không hai chỗ: tức chỗ dung thông của chân vọng này có thật tánh, thật tánh này là chủ các pháp, tức là thật tánh trong các pháp. Lại tiêu biểu chẳng phải hai bên nên nói là Trung, lìa các tướng luống dối khác nhau nên gọi là Thật, hai câu này là đứng về trung và thật để giải thích Tâm. Kinh có nói trung thật lý tâm chẳng đồng ở sau đứng về mặt linh giám để giải thích tâm. Nghóa là thể hư không cũng không có hai bên, cũng chẳng phải tướng luống dối khác nhau. Nhưng chỉ mê độn mà không sáng rỡ, nay thật tánh này tự tại linh thông, giác liễu chẳng mê mờ, nên nói là chẳng đồng… Tổ Sư nói: “Trên thể vắng lặng tự có bổn trí, biết một chữ tri, là cửa của các điều mầu nhiệm. Đại khái ý nói: “Đối với tất cả pháp nhiễm tịnh đều dung thông, có tự thể chân thật, rõ ràng sáng rỡ gọi là Tâm. Đây là thể tướng chẳng hai, nên nói chỉ là một, trung, thật, thần giải nên nói là Tâm. Trong phần lập. Sớ có hai: Chính giải thích. Có hai: Đối văn trước. Có ba: Nêu ý chung: Bao gồm chung, riêng: là giải thích ý đoạn văn trước. Văn trước do chưa trình bày môn chưa giải bày, chỉ theo nhất tâm gồm chung mà nói, nên nói nhiếp chẳng nói mỗi thứ. Nay phân v.v… trở xuống, là nêu ý này, nghóa là nay trong văn của hai môn đã khai, trong mỗi môn, mỗi thứ đều tự nhiếp tất cả pháp. Nếu không nêu bày phân biệt thì sẽ cho rằng hai môn cùng nhiếp tất cả, thì có lỗi nhiếp pháp chẳng cùng tận, nên nói mỗi thứ đều. Giải thích riêng về tướng. Có hai: Theo hai môn mỗi môn thâu nhiếp giải thích. Có hai: Chính giải thích: Tướng chung, do môn chân như không phân ra nhiễm tịnh, tuy nhiếp nhiễm tịnh mà đều đồng tánh. Cái gọi là Tướng, là nghóa tướng. Vì trong môn này hiển bày nghóa nhiễm tịnh dung thông, nên nói tướng thông. Do các pháp nhiễm tịnh vào trong môn này đồng là một vị, lý chân như lại không khác nhau, nên nói chẳng khác nhiễm tịnh, v.v… Nên được v.v… trở xuống: là kết thúc, rất dễ hiểu. Hiển bày riêng, v.v…, theo dòng, ngược dòng, đều chẳng phải tướng ấy, công đức trần lao rõ ràng có khác, chúng sinh, chư Phật, phàm thánh rõ ràng, cõi tịnh cõi uế hơn kém chẳng giống nhau. Không chỗ nào không bao gồm: nghóa là tất cả tuy nhiều mà không ngoài nhiễm tịnh. Đã thuộc về nhiễm tịnh, nên luận nói nhiếp tất cả. Kết thành: Chung riêng, v.v… trở xuống là tổng kết thành tự, là tướng chung tướng riêng, hai môn tuy khác, pháp bị nhiếp lại không có khác, nên nói đều không có sót. Lại do v.v… trở xuống, là đứng về mặt hai môn nhliếp lẫn nhau mà giải thích. Trước đứng về mặt hai môn mỗi thứ nhiếp, chung riêng chẳng đồng môn này, mà nói nghóa nhiếp có khác.Môn đầu là tướng chung chỉ nói rõ dung nhiếp. Dung tức nhiễm tịnh chẳng khác, nên gọi là chung. Môn sau là tướng riêng chinh là nhiếp bao gồm. Bao gồm thì nhiễm tịnh khác nhau, nên gọi là riêng. Nay trong văn này không phân ra chung riêng, chỉ đối với một nghóa phải trái mà nói, liền thành nghóa hai môn nhiếp mỗi thứ. Nay văn nói khi sinh diệt gồm nhiếp tất cả, tức chân như nhiếp tất cả. Do sinh diệt không có tự thể, hoàn toàn tức là lý, nên nói trở lại nhiếp. Lại, lúc chân như nhiếp tất cả tức là sinh diệt nhiếp tất cả. Vì toàn sự là lý, chẳng riêng ở ngoài. Nay văn của sớ này vẫn còn thiếu nghóa sau, nên hợp lại nói: Chân như đã là các thứ pháp chân tánh, lìa chân tánh không có các pháp riêng, lại thuộc về môn sinh diệt. Nếu có văn này đối với nghóa mới đủ thành nhiếp lẫn nhau. Kia tức là môn sinh diệt khi thuộc về pháp, pháp của môn Chân như cũng ở trong sinh diệt, khi môn Chân như thuộc về pháp, pháp của môn sinh diệt cũng tự ở trong Chân như. Cho nên, nhiễm tịnh thuộc về chân như, tức là nhiễm tịnh thuộc về môn Sinh diệt, chẳng hai chẳng khác, nêu một gồm thâu hết, nên nói hai môn nhiếp lẫn nhau. Phần sau tổng kết nói: “Nhiếp nhau chẳng hai”. Hỏi: Sớ chủ vì sao không nói chân như thuộc về môn Sinh diệt? Đáp: Văn trước trong tướng chung đã bao gồm ý này nên không nói lại. Do đây v.v… trở xuống, là kết thành nhất tâm. Bởi hai môn nhiếp nhau, lý cùng dung chứa chẳng hai, do chẳng hai nên được gọi là nhất tâm. Kia tức thể của hai môn nhất tâm, chẳng riêng chẳng khác. Nếu nói theo nghóa riêng thì nhất tâm là chung và hai môn là riêng. Lại, ở trong riêng thì chân như là theo thể, sinh diệt là theo tướng. Nếu thể viên dung thì tánh tướng không hai, tức là nhất tâm. Nay hai môn đã nhiếp nhau thì hoàn toàn đoạt mất tất cả hai, chỉ là nhất tâm không còn pháp nào khác, nên nay kết thành là một tâm. - Hỏi chung: Sớ Hỏi hai môn v.v… trở xuống. Có hai: Chỉ bày nghóa hai môn: Hạn cuộc hỏi chung, câu đầu chỉ định nghóa trước, vì sao ở dưới dẫn văn chính để hỏi. Ý nói: Chân như đã thuộc về môn Sinh diệt, tại sao chẳng đồng chỉ bày ba đại kia, Sinh diệt đã thuộc về môn Chân như, vì sao chẳng đồng chỉ bày một đại kia. Nghóa chỉ bày đã sai, nhiếp pháp phải phân biệt, nhiếp pháp nếu đồng ý, chỉ bày nghóa nên đồng. Vì sao nhiếp pháp túc đồng chỉ bày nghóa, lại là biệt ư! Trong phần đáp, câu đầu chỉ định môn kia. Chẳng hoại v.v… trở xuống, là nói về hành tướn, nghóa là tướng nhiễm tịnh hoàn toàn giữ lý thành lý chẳng thể hoại, tưởng hoàn toàn lý cũng không thể hoại, vì chẳng hoại nên nhiếp hết sinh diệt thành nghóa cùng nhiếp. Do mất v.v… trở xuống: tức là lý, khiến cho tướng nhiễm tịnh đều mất hoàn toàn không còn. Do không còn, chỉ còn chân thể nên thành văn trước, chỉ bày thể. Sinh diệt v.v…trở xuống là chỉ định môn kia. Chẳng hoại v.v…trở xuống, là nói về lý: Trong sự do toàn lý mà thành sự, sự khởi mà lý chẳng hoại, nay thành nghóa nhiếp nhau, kia tức sự là năng nhiếp, lý là sở nhiếp. Do thành v.v… trở xuống là nói về sự lý đều còn, thành nghóa chỉ bày đầy đủ ở trước, thành sự nên chỉ bày Tướng và Dụng, thể chẳng mất nên chỉ bày ở Thể đại. Sớ: Hỏi trước v.v… trở xuống là tánh tướng còn mất khác nhau. Ý hỏi rất dễ hiểu, chỉ truy môn trước nghóa tướng chẳng còn, trước hỏi về môn sau lý chẳng mất. Trong phần đáp, bốn câu trước nói lên hai môn lý do còn mất. Mỗi thứ, một câu đầu là nguyên do, một câu sau là định nghóa. Sinh diệt, v.v…, Sự nương lý mà bày, lý là gốc của sự. Như sóng nhờ nước, nên văn sau nói: “Nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt”. Lý chẳng mất, lý nếu đã mất thì không sinh diệt. Như nước mất thì không có sóng. Nên luận chép: “Nếu chẳng có nghóa không, thì không có đạo, không có quả”. Chưa rõ, v.v.., chân lý sẵn có, chẳng nhờ duyên mà thành. Như nước chẳng nhờ sóng. Trong môn chân như thẳng nói chân như tức là nhất pháp giới đại tổng tướng, không nói nương sinh diệt có tướng mất. Tưởng chẳng còn thì đâu có mất, mất thì đâu còn. Nhập lý tự mất đâu còn sinh diệt. Như mặt nước đã phẳng lặng, thì sóng đâu còn, văn sau nói: “Do tất cả pháp đều như”. Tướng chẳng còn v.v… trở xuống: bốn câu ở trước chính là đáp tướng chẳng còn. Tướng còn thì có thể chỉ bày ở ba đại, chẳng còn chỉ hợp ở thể. Lý chẳng mất, v.v…, tướng sinh diệt khởi, lý lại chẳng mất. Chẳng phải chỉ bày đủ ba, đối với lý là thế nào? Cho nên v.v…trở xuống, là tổng kết đáp, chỉ bày cả hai rất dễ hiểu. Sớ: Không thể theo nhau là theo thuận. Sự lý riêng biệt, giống như nước, lửa. Nghịch thể trái tướng, đâu thể nhiếp nhau. Chưa dung chứa, v.v…, nếu phân hai riêng biệt có thể nói cảnh nhiếp lẫn nhau. Nay chỉ nhất tâm, cảnh thuộc pháp nào? Đây là hai thứ riêng biệt cũng không có nghóa nhiếp, nhất tâm cũng không có nghóa nhiếp. Luận: Không lìa nhau, ý nói chẳng phải một chẳng phải hai; chẳng phải một nên hai môn đều còn, chẳng phải hai nên chỉ là nhất tâm. Vì là nhất tâm nên không lìa nhau, vì chẳng lìa nhau nên nhiếp được cảnh. Tức ngược lại ý trách ở trước. Sớ: Do thể v.v… trở xuống, thể tức chân như, tưởng tức sinh diệt, chân như tùy duyên thành sinh diệt, sinh diệt không thể tức chân như, do đó trái ngược lời nói nên chẳng lìa nhau. Vàng đầy đủ, vàng dụ cho chân như, đầy đủ dụ cho sinh diệt, nghóa thu nhiếp nhau, tại văn có thể thấy. Bởi do v.v… trở xuống là tổng kết dụ, nêu pháp. Bởi là thật. Do là lý do. Thật do vàng đầy đủ, hai môn không hề có khác, nên nói nhất quỹ. Quỹ là ngay thẳng tức bằng nhau. Do chẳng khác nên nêu khi vàng trùm khắp thâu nhiếp đầy đủ, đầy đủ toàn thể là vàng, nêu lúc đầy đủ trùm khắp thâu nhiếp cả vàng, vàng toàn thể là đầy đủ. Nghóa này ở sau nêu lên pháp. Nghóa này đây tức nghóa không lìa nhau, lúc nêu chân như trùm khắp thâu nhiếp hết sinh diệt, sinh diệt toàn thể là chân như, khi nêu sinh diệt trùm khắp thâu nhiếp hết chân như, chân như toàn thể là sinh diệt. Pháp, dụ là đồng nhau, nên nói cũng như vậy, cũng như thế. <篇> KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 7 Sớ: Giải thích ở trên v.v… văn lập nghóa nói: “Vì sao? tướng của tâm chân như này tương tức thì hiện rõ thể của Đại thừa v.v…”, nay ở đây là chính giải thích. Khoa động tónh chẳng phải một chẳng phải khác. Thứ lớp là hai môn trước, cùng là nghóa chẳng lìa nhau, nói đốn để nạn vẽ thật nên thành trước sau. Quán trí cảnh, do thể chẳng phải là pháp danh tướng, cái gọi là nghó không đến được, nói nghó còn không đến được, đâu rơi vào thấy nghe! Chỉ tu lâu quán trí mới được tượng ưng. Sở dó nói: ý khiến dụng tâm như thế. Nên văn sau nói: “lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, cho đến nếu lìa niệm, gọi là được vào. Cũng như kinh Lăng -già chép: “Chân thật lìa văn tự, tu hành chỉ bày chân thật”,kế đến khoa sau nói: “Sinh tín cảnh” vì có hai thứ nghóa tướng không và chẳng không, đã dung ngôn thuyết nên người được nghe sinh tín tâm, cho nên nói cũng ý kiến sinh tín. Văn sau nói: “Nương lời nói phân biệt có hai thứ nghóa? Cũng như kinh Lăng- già chép: “Ngôn thuyết là biết thực hành phân biệt hơn với nghiệp ban đầu”. Sớ Giải thích nghóa chân như ở trên nói:” là tướng của tâm chân như”, nay giải thích hai chữ Chân như. Chỉ bày pháp. luận Tức là v.v…. trở xuống, sớ có hai: Giải thích câu trên, có hai: Giải thích chữ Nhất, có hai: Theo đương thể giải thích: Không hai chân tâm là thời gian và tâm, không gian rộng là chỗ nương của tất cả pháp bình đẳng, chỗ nương chính của phàm thánh chỉ là thể này, lìa thật tướng không có pháp riêng, nên nói không hai. Phân biệt chẳng phải là luống dối, sáng suốt chẳng mê mờ nên gọi là Chân tâm. Đây chẳng v.v…. trở xuống, là phân biệt. Hễ nói một, là nói về số đầu tiên, nay chẳng phải giống ở đây. Nghóa là như v.v…. trở xuống là nói về tướng một, là lý chân như rỗng thông viên dung, đối với tất cả pháp bình đẳng, thể chẳng khác nhau nên nói một. Đối hai giải thích. Lại đối v.v…. trở xuống. Ở đây chỉ đối hai thứ không và chẳng không ở sau để gọi là một. Ở sau chỉ đứng về mặt tướng, nay nói lên thể cũng chẳng phải toán số. Giải thích pháp giới: Nương sinh v.v…. trở xuống, giải thích pháp giới, pháp giới là các cõi thánh nương sinh tức là Bồ-đề, Niết-bàn, mười lực, bốn vô úy v.v…. là chỗ chứng chỗ được pháp của bậc thánh, nên gọi là thánh pháp. Kinh Viên Giác chép: “Pháp vương vô thượng có một môn Đà-la-ni, tên là Viên Giác, lưu xuất tất cả chân như thanh tịnh Bồ đề Niết- bàn và Ba- la- mật dạy bảo. Bồ-tát”. Nhân nghóa, pháp tức pháp giới của bậc thánh, tức là nhân, sinh ra thánh pháp nên nói pháp giới. Hỏi: Y cứ cái gọi là trước chân tánh là phàm thánh, nhiễm tịnh đều nương. Vì sao văn này nói riêng nghóa nhờ thánh pháp? Đáp: Ở đây chính là lấy hơn bày kém, chẳng cho rằng phân biệt với pháp phàm, bậc thánh còn nương, huống chi phàm mà chẳng nương! Đây là về Chung giáo nên tạo ra giải thích này. Nếu theo Viên giáo sự lý vô ngại tức nhau nhập nhau,hàm nhiếp lẫn nhau, là nhất chân pháp giới. Giải thích câu dưới. Sớ Trong hai môn v.v…. trở xuống. Có ba: Giải thích đại tổng tướng: Tướng riêng là môn Sinh diệt. Tướng chung là môn Chân như. Nhưng cũng v.v…. trở xuống là giải thích thành nghóa đại, nghóa là trong tất cả các pháp nhiễm tịnh trong tướng riêng, môn này thâu hết không còn sót, nên gọi là Đại. Kế là văn nói: “Tất cả pháp lìa tướng nói năng…” Đây là phân biệt chẳng phải riêng, nên nói chung. Thâu hết cả riêng nên nói Đại. Nhưng, trong luận nói tướng chung có bốn thứ: hạ, trung, thượng, thượng thượng. Hạ: Tất cả hữu lậu đều khổ. Lý có cả khổ vui gọi là tướng chung. Chẳng chung vô lậu nên gọi là Hạ. Trung: Tất cả hạnh vô thường, lý bao gồm ba đế gọi là tổng tướng, tuy chung vô lậu chẳng gồm vô vi nên gọi là Trung. Thượng: Tất cả pháp vô ngã, lý chung bốn đế gọi là tướng chung, vẫn là chân thuyên (chân đế) chưa cùng tột thật tánh (đệ nhất nghóa đế) nên gọi là Thượng. Thượng thượng: nghóa là chân như là thật tánh của tất cả pháp, khắp chung cả phàm thánh, tình và vô tình không chỗ nào không bao gồm, nên nói Thượng thượng. Chỗ luận nói rõ: nay ở đệ tứ, vượt hơn ba đệ trước, nên nói tướng chung. Giải thích chữ Thể: Một này trở xuống là toàn tạo sinh diệt tức sự pháp lý. Toàn tạo chân như tức sự pháp giới. Đã là một thể, chỗ làm tức khiến hai không chướng ngại, tức lý sự vô ngại pháp giới vậy. Cả hai đều nói tạo, sinh diệt tức theo duyên biến tạo, chân như tức chuyển đổi tên kia gọi là tạo, hai nghóa đều không nghóa năng sở nên nói là tạo. Giải thích pháp môn, phéùp tắc sinh v.v…. trở xuống. Phép tắc là khuôn phép. Vật là chúng sinh. Giải là trí giải. Nghóa là các chúng sinh bên trong có năng lực huân tập, ở trên thể pháp giới này sinh ra trí Thỉ giác, trí khởi phản chiếu thường nương theo phép tắc pháp giới mà tu, tức chẳng phải không, chẳng phải có, không có ngã, không có nhân… là phép tắc pháp giới, nương trí thỉ giác mà thực hành. Nên văn sau nói: “Thuận bổn tánh nên tu Đàn Ba- la- mật v.v….” Kinh Viên Giác cũng nói: “Lưu xuất Ba- la- mật v.v…. dạy bảo, Bồ-tát.Nhưng, pháp lại có nghóa giữ gìn, nay do văn thuận theo chỉ lấy nghóa này. Thánh trí, v.v…. là pháp thể rỗng thông do có công năng bao dung, thánh trí kia ra vào nên xứng với thọ môn. “Du” là ra vào. Nghóa là vào thì tự chứng, ra thì lợi tha. Phật và Bồ-tát đều có hai nghóa, nhưng chỉ hạn cuộc từ Sơ địa trở lên cho đến cứu cánh, chẳng chung địa vị phàm, nên nói là thánh trí. Do Địa tiền chưa phát vô lậu, chưa thể thân chứng, nên khoa trước nói quán cảnh trí. - Giải thích thành tựu: Luận Nghóa là v.v…. trở xuống. Giải thích pháp thể, luận nói: “Tâm tánh, tánh tức là thể”.Hiển bày ngược lại thì tâm tướng chẳng ngại sinh diệt, tức thuộc về môn sau. Theo vọng chẳng sinh, vọng theo chín tướng vô minh, vọng sinh mà tâm tánh chẳng sinh. Đối trị chẳng diệt, đứng về Thỉ giác ngược dòng ở địa vị thứ tư mà đối trị nhiễm, vọng diệt mà tâm tánh chẳng diệt, đây đứng về mặt vọng sinh vọng diệt, để nói lên tâm tánh chẳng sinh diệt. Tu khởi chẳng sinh, tu hành hiển bày khởi trí tuệ rộng lớn sáng suốt… và công đức sinh ở mười phương mà tâm tánh chẳng sinh. Ở chỗ nhiễm mà chẳng diệt, là ở chỗ sinh diệt cấu nhiễm, công đức mười phương diệt mà tâm tánh chẳng diệt. Đây là đứng về mặt tịnh sinh tịnh diệt, để nói lên tâm tánh chẳng sinh diệt. Thế gian chẳng phá, nói về chân như trôi lặn thế gian, thế gian có hoại mà chân như chẳng hoại. Chẳng hoại là nghóa bất biến, nên sớ ở sau nói: “Nơi nhiễm chẳng hoại”. Xuất thế gian chẳng cùng tận: nghóa là tu hành, chân như hiển phát xuất thế gian, thế gian cùng tận mà chân như chẳng cùng tận. Nên sớ ở sau nói: Trị đạo chẳng hoại. Bỏ vọng bày chân: ý khiến thể vọng tức chẳng cần đợi diệt. Như kinh nói: “Sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt không”. Luận có hai: Bỏ vọng: Sớ Vọng chấp v.v…., nghóa là nghe đoạn trước nói chân như là pháp môn tổng tướng, thể tức chân như, nêu thể tạo ra các pháp. Nếu như vậy thì, biết các pháp sinh diệt, tức là chân như sinh diệt. Vì sao nói tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt? Ý giải thích rằng: “Các pháp vốn không, làm sao nói sinh diệt? Như thấy hoa đốn giữa hư không vốn tự không có tự thể, nói cái gì là sinh diệt”. Hiển chân: Luận nói Nếu lìa v.v….trở xuống. Sớ Nghi v.v….trở xuống là gạn nguyên do kia rất dễ hiểu. Giải thích rằng v.v….trở xuống, là nói lên ý văn. Lại nếu v.v….trở xuống, là trái lại để giải thích thành tựu, đềurất dễ hiểu. Ai là người mắt bị nhặm: nên biết người thấy hoa đốm giữa hư không là mắt bệnh, nếu mắt thấy rõ ràng thì không thấy hoa đốm giữa hư không. Kinh Lăng-nghiêm nói: “Nếu không mắt không bị nhặm mà thấy hoa đốm giữa hư không thì đâu nói hư không trong trẻo mà gọi là mắt sáng! Nên biết người thấy các pháp gọi là phàm phu, người không thấy các pháp gọi là bậc Thánh. Bậc Thánh xứng với thật đã không thấy ở các pháp, nên biết các pháp là phàm phu vọng thấy, thật không sinh diệt. Các pháp đã không sinh diệt, chân tánh không hề lay động, cho nên trước nói chẳng sinh diệt. Luận: Cho nên v.v…. trở xuống, có ba: Nêu lên chỗ xa lìa: Sớ: là chỗ chấp v.v… trở xuống hai câu là giải thích hai chữ “cho nên”. Cho nên chỉ hai đoạn trước là nguyên do - chỗ chấp không tức là chỉ cho không có tất cả cảnh tướng ở trước. Chân tâm bất động tức là chỉ cho tâm tánh chẳng sinh diệt ở trước. Do đó nên được tất cả các pháp tức chân như. Nhưng, hai câu này lại đắp đổi nhau mà thành. Chính do chỗ chấp vốn không nên chân tâm bất động lại do chân tâm bất động nên được chỗ chấp vốn không kia giống như muôn tượng vốn không gương sáng chẳng động. Do đây v.v… trở xuống, là tổng kết chân thật, hai chữ do đây chỉ cho lý do ở trước. Tất cả v.v… trở xuống,là hiển bày chân như, tức giải thích văn sau trong luận về tất cả pháp. Trong đây hiển bày chân mà nêu tất cả pháp. Vì tánh kia không lìa nhau, nên tất cả các tướng tánh thành. Người đều chấp tướng do mê tánh, nay đứng về mặt tướng mà hiển bày tánh, khiến biết tướng là vô tướng. Chỉ một chân như, xúc cảnh đối duyên mặc tình hợp đạo, tao tác động hay tónh đều là pháp môn mầu nhiệm. Nhưng, trong luận này nói từ xưa, và nói rốt ráo ở sau, cùng giúp nhau thành cảnh mà nói. Nghóa là hai chữ “từ xưa” hướng về quá khứ, để nói lên nghóa chân, chẳng phải từ trước đến nay không lìa các tướng nói năng mà nay mới lìa. Do từ xưa đến nay tự lìa tướng, chấp cảnh vị lai “rốt ráo” như thế ở sau. Hai chữ rốt ráo là hướng về vị lai để nói nghóa như, chẳng phải chỉ ngày nay, bình đẳng, chẳng thay đổi, chẳng phá hoại, do tận mé vị lai rốt ráo bình đẳng chẳng biến đổi chẳng phá hoại, cảnh chấp quá khứ từ xưa đến nay liền tự Như. Lại hai nghóa này đều chung cho ba câu ở dưới mà chuyển. Lại nói tất cả pháp cũng chung rốt ráo ở sau mà chuyển suy nghó sẽ thấy. Chính hiển bày chỗ lìa. Luận lìa ngôn v.v… trở xuống, có hai: Lìa tướng vọng để bày chân: Sớ Đường ngôn ngữ dứt: Câu trên là âm thanh chẳng đến được, câu dưới là danh, cú, văn chẳng đến được. Âm thanh, danh cú văn đã không đến được thì ngay đó đường ngôn ngữ. Chẳng cảnh văn tuệ: Thanh, danh, cú, văn là sở văn. Ý ngôn phân biệt: ý ngôn tức là phân biệt. Do hình dáng của miệng gọi là ngôn, ở ý gọi là phân biệt, nay lấy chỗ phân biệt đồng với chỗ nói, nên nói ý ngôn. Người phát ra ngôn ngữ đều là việc trong ý. Thi tự nói: “Tình động ở trong mà hình ở ngôn ngữ”. Chỗ tâm hành diệt, do tướng là chỗ tâm hành, hành vẫn là duyên. Đã lìa bỏ tướng, tâm không sở duyên, sở duyên đã không, năng duyên cũng dứt, chân lý không tướng thì tư tuệ đâu đến được. Lìa luống dối,v.vv.., luống dối là vàng giả mà giống như vàng thật, vọng là bản chất như cảnh. Hễ có danh tướng, pháp ấy đều là luống dối. Nên kinh Kim Cương nói: “Tất cả tướng đều là luống dối”. Lại Kinh Lăng Nghiêm nói: “Huyễn vọng gọi là Tướng, do luống dối nên chẳng phải thật”. Nay đã lìa danh tướng, tức chẳng phải luống dối, nên gọi là Chân. Lìa khác v.v…., là có sai biệt, có đổi khác, có thể bị phá hoại. Nay đã trọn lìa nên gọi là Như. Lại nếu đứng về mặt dạy bảo. “Như” là tương tự. Pháp khác thì không tương tự, không tương tự tức chẳng phải Như. Nay đã không khác, không khác tức tương tựï, tượng tự tức nghóa như. Nên Ngài Khuê Sơn nói: “Thật thể này ở vị lai, thường như Quá khứ, ở trong sắc thường như trong thọ. Tướng như chân thật chẳng phải là tương tự vọng. Lần lượt giải thích. Thế nào là rốt ráo bình đẳng? Vì không có đổi khác, do đâu không có đổi khác? Vì không thể phá hoại, lại không thể phá hoại, vì không có đổi khác Không có đổi khác, vì rốt ráo bình đẳng. Lìa thế gian, thế là trôi nổi, gian là rơi vào trong đó. Vì sai biệt đổi khác phá hoại là pháp thế gian, nay đều trái ở đây nên nói là lìa. Chẳng phải cảnh tu tuệ: tu là định chẳng phải cảnh định. Phàm khổ, không, vô thường, bất tịnh v.v…. đều là chỗ duyên của định nên chánh trí tương ưng tức trí như, chẳng tức như trí, ngoài ra đâu thể sánh bằng. Văn sau nói: “Do lìa niệm cảnh giới chỉ chứng tương ưng”. Từ trên đến đây v.v… trở xuống, chính là chung hai đoạn văn trước sau. Nhưng biện v.v… trở xuống, là ý của đoạn, để đối lại chẳng phải cảnh ba tuệ. Lìa tướng khác để hiển bày như, luận Rốt ráo v.v… trở xuống. Sớ Tuy biến v.v…, ở nơi nhiễm đồng ở nơi tịnh. Nghóa là chân tánh của phàm phu đồng với chân tánh của Phật, cũng như không có nhà sạch, không có nhà dơ. Đây là y theo mghóa đồng thời nói theo chiều ngang. Ở duyên, nghóa là đối với duyên nhiễm tịnh của quá khứ như hiện tại, hiện tại như vị lai, giống như ngày hôm qua không, cùng ngày hôm nay không, nhiễm tịnh tuy tự thay đổi, chân như ở đây không đổi khác. Lại, duyên nhiễm là lấy tướng sinh làm đầu, tướng nghiệp trói buộc khổ làm sau. Duyên tịnh là lấy tướng giác diệt làm đầu, tướng giác sinh làm sau, trong đó chân như rốt ráo không thay đổi. Đây là y cứ theo nghóa khác thời, nói theo chiều dọc. Chẳng đồng hữu vi, là pháp không tạo tác, thể như hư không làm sao phá hoại? Ở nhiễm chẳng phá hoại v.v… theo dòng thì vọng nhiễm khởi mà chân thể không tổn giảm, ngược dòng thì vọng nhiễm hoại mà chân thể như cũ. Sớ kinh Viên Giác chép: “Ở dòng sinh tử viên ngọc chiếu ở riêng biển khơi, ở bờ Niết-bàn vầng trăng chiếu riêng trời xanh. Kết thể đặt tên: Luận: Chỉ là v.v…. trở xuống. Pháp thể, nhất tâm tức là pháp thể. Văn trước nói: “Cái gọi Pháp là tâm chúng sinh, các pháp đã không nên chỉ ở tâm. Như muôn tượng vốn không chỉ một gương soi”. Kinh Viên Giác chép: “Các huyễn diệt hết mà giác tâm chẳng động”. Nương nghóa đặt tên, đối với nhất tâm lìa nghóa luống dối, thay đổi để đặt tên Chân như. Sớ Nói giáo chẳng thật: do quyền lập ra có nhân duyên, ý mượn ngôn ngữ kia để khế ngộ vô ngôn. Lý không ngôn thuyết để chứng ngộ, giáo có ngôn thuyết không thể chấp trước, chấp thì thành nhận ngón tay quên mặt trăng. Luận Thập Địa chép: “Theo tiếng chấp nghóa có năm lỗi: sâu. Chẳng chánh tín: Nghe đã đuổi theo tiếng nên không hội được y Lui sụt mạnh mẽ: Do chẳng chánh tín thì không có thắng giải, nên không thể quyết định. Dối người khác: Do chẳng hiểu nên hoặc lấy sâu làm cạn, lấy cạn làm sâu. Phỉ báng Phật: Chấp phương tiện làm thật hoặc chấp sự mê lý, liền cho là Như Lai nói thành luống dối. Khinh pháp: Do hiểu lầm thành tánh nên nghe nhiều mà không tin nhận”. Giải thích lý do không thật, do tất cả cảnh giới đều từ vọng niệm sinh, niệm còn không có tự thể, huống chi là chỗ sinh pháp mà có thật ư! Nên văn trước nói: “Tất cả cảnh giới chỉ nương vọng niệm mà có khác nhau. Nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng cảnh giới”. Do đó tất cả lời nói đều là giả danh không có thật thể, tánh “không thật có”. Sớ: Sợ rằng các v.v… trở xuống, là bên ngoài dường như có thể thấy. Nay trở xuống, v.v… là dùng luận để giải thích. Nếu y cứ ý sớ từ tất cả lời nói v.v…. trở xuống, đều là giải thiùch bốn chữ ở trước, nên gọi là chân như, xem văn sẽ thấy. Tuy nhiên, ở đây giải thích văn nghi hợp thứ lớp văn trước, ở sau sẽ chú thích câu văn mới được dễ hiểu, người học nên biết. Không trái nhau, giả danh cùng lìa danh tuy nói khác mà nghóa đồng. Bởi do v.v…, hễ có danh đều là nương vào tướng, lập chân như không tướng chỗ lập tức là không, do biến kế sở duyên nên chẳng nhập vào chân thật. Nên từ Kinh Lăng- già v.v….trở xuống, dẫn chứng danh tướng đều là biến kế. Tướng từ tưởng mà có danh, danh nương tướng mà lập, chẳng có tường lìa nên gọi là Tướng. Danh tướng theo duyên này lại sinh vọng tưởng, tức tâm biến kế. Tuy nhiên, đoạn luận này là để cho kẻ ngu si cũng rõ được. Từ do tất cả v.v… trở xuống, hợp bốn câu là giải thích nguyên do trong tướng lìa bỏ ở khoa trước. Văn sớ chú thích từng tiết giải nghóa từng khoa đều rõ ràng, nay ngoài sớ lược thêm một ít để hiểu. Hoặc hỏi: Vì sao đối với thể chân như lìa tướng lời nói ở trước? Luận giải thích: “Do tất cả lời nói giả danh không thật”. Hai câu này chính là giải thích nguyên do lìa hai tướng lời nói và danh tự. Nghóa là tâm tánh chân thật không tương ưng với luống dối. Ngôn thuyết danh tự chỉ là luống dối giả có, kia không thật thể hợp, không hợp với chân, cho nên xa lìa. Chỉ tùy v.v… trở xuống, hai câu văn chung cả hai thế: 1- Giải thích nguyên do lìa tâm duyên tướng ở trước, do tướng tâm duyên chỉ là theo vọng niệm kia mà sinh, niệm không tự tánh tướng duyên làm sao có, nên nói chỉ theo vọng niệm không thật có. Nên chữ chung ở đoạn trước lấy chân thể vô niệm, niệm thì trái chân cho nên lìa. 2- Giải thích lý do giả danh không thật ở trước. Đây như sớ giải, người dịch nhọc phân biệt hai đoạn mà giải thích một đoạn, văn này là khéo lược. Từ nói chân như v.v… trở xuống, mới là giải thích nghi, nghi rằng: Trước nói lìa tướng ngôn thuyết để nói lên chân như vô tướng. Nay lại tổng kết nói, nên gọi chân như, đâu chẳng phải tướng nói năng? Nên văn này nêu rằng: Nói chân như cũng không có tướng. Người nghi lại nói: “Bày nói chân như chính là danh tướng, vì sao cho là vô tướng? Luận giải thích: “Nghóa là tột cùng ngôn thuyết, nương ngôn ngữ mà bỏ ngôn ngữ”. Ý nói: Chẳng cho rằng lập một tên gọi chân như này liền dính mắc vào tướng, do nhờ vào danh tột cùng này mà giả lập, để dứt tướng nói năng. Người có trí đến được đây hy vọng sẽ rõ, ngoài ra văn như sớ. Lập ra giới hạn của tên gọi, v.v…. trở xuống, đáp giải thích về nghi tựa. Xem văn sẽ biết. Các tên gọi bờ mé: như gạn tột cùng là bờ mé của sắc, nay chân như là tên gọi bờ mé, tên này sau lại không có tên, mười tên là: Tên pháp là ba khoa uẩn, xứ, giới. Tên người là năm mươi hai địa vị như Tín… Tên giáo là mười hai bộ kinh. Tên nghóa là chỗ hiển bày nghóa lý của uẩn, xứ, giới. Tên tánh là văn tự vô nghóa không có chỗ tiêu biểu, chẳng sinh giải nghóa. Tên lược là chúng sinh. Tên rộng là chúng sinh đều có tên khác nhau. Tên bất tịnh là phàm phu. Tên tịnh là sinh diệt tức chân. Tên rốt ráo là chân như. Nên kệ nói: Nhân pháp và giáo nghóa, Tánh lược và tên rộng, Bất tịnh, tịnh, cứu cánh, Mười tên cảnh khác nhau. Mất ở tên, là mất các tên, nếu không đặt tên tột cùng này thì không thể mất các tên, nêu lên như gõ khánh dứt ồn, nếu không có tiếng này thì không thể dừng các tiếng khác. Nếu còn v.v…., nếu còn tên chân như cũng đồng chẳng có tên mất. Tuy giả lập tên tột cùng là thể rốt ráo, còn mà chẳng mất đâu xứng với pháp thể. Phải biết tuy đặt tên chân như, tên tức không có tên, tên của không tên nên gọi là giả danh, tức là lìa tên. Kinh Tịnh Danh nói: “Lìa tánh văn tự tức là giải thoát”. Người học đến chỗ này tuy do tên mà sinh hiểu, sẽ quên tên mà chứng. Sớ Một là: v.v… trở xuống: đứng về mặt chân như tự thể mà giải thích, rất dễ hiểu. Diệu trí v.v…. đã không danh tướng thì chẳng phải chỗ duyên của tâm thức, chỉ có chân trí quán hạnh mầu nhiệm đến được. Nghóa là biến kế sở duyên là giả, giả cho nên mất; diệu trí sở chứng là thật, thật nên không thể mất. Kinh Viên Giác nói: “Các huyễn diệt hết, giác tâm bất động”. Trước thì năng sở đều quên, đây thì năng sở đều là chân Hai là: v.v… trở xuống, hội hiển bày sinh diệt vô tướng mà giải thích, ý nói rõ chẳng cho là lấy thể chân như mất pháp sinh diệt. Do đâu v.v…. trở xuống là gạn khởi văn sau. Do pháp v.v…. trở xuống là giải thích, có hai ý: Đứng về mặt chỉ chân không pháp mà giải thích, tức giải thích theo môn Chân như. Chỉ có chân như không còn pháp nào khác, tánh làm sao mất? - Từ Lại do v.v….trở xuống, là đứng về mặt có pháp không tánh mà giải thích, tức giải thích về môn sinh diệt. Tuy có nhiễm tịnh tự tánh vốn không, đâu cần lại mất. Trước như thể gương không có hình bóng, sau như hình bóng tức không. Người ngoại v.v…. trở xuống là giải thích theo môn chân như. Lìa vọng tình, là danh tướng đều mất. Tình có lý không, nếu khiến có thể lập thì đâu lìa vọng. Nên văn sau nói: “Do lìa cảnh giới niệm, chỉ chứng mới tương ưng”. Lại sinh diệt v.v…. trở xuống là giải thích theo môn sinh diệt. Sinh diệt không tánh, không tánh nên tức chân. Chân vốn tự lập nên nói chẳng đợi kia, tức chân như vốn lập, lại không cần đợi lập pháp sinh diệt để thành chân. Giống như sóng vốn tự là nước, đâu cần đợi lập để thành nước. Do đâu v.v…. trở xuống, theo trước gạn khởi văn sau. Vì chân v.v…. trở xuống: giải thích theo môn chân như. Chân chẳng luống dối, Như là chẳng biến chẳng đổi. Nay nếu mất thì thành hư vọng, có thể lập thì thành thay đổi, do trước chẳng lập mà nay mới lập. Lại sinh diệt v.v…. trở xuống là giải thích theo môn sinh diệt, do chân như từ xưa đến nay nêu thể thành sinh diệt, sinh diệt không tánh, thường tức chân như. Tánh tướng như thế không hề lìa bỏ, do lúc sinh diệt hiển bày tức thể như hiển bày. Kia là vốn tự hiển bày rõ ràng, đâu cần lập nữa. Lìa ngôn, không thể nói. Dứt suy nghó, là không nhớ nghó., vì văn trước nói: “Lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên”, nên ở đây tổng kết. Tuy nhiên, tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, chấp tướng mê tánh không thể ngay nơi vọng mà hiểu hơn, tuy thực hành suốt ngày mà chẳng tự biết. Nay chỉ bày chân mà đứng về sinh diệt. Người học Đại thừa,phải trọn ngày không ăn trọn đêm không ngủ để suy nghó việc này: Đâu từng không có phàm thánh khi nương chánh sắc không? Chỗ nào mà chân thể chẳng thường hiển hiện? Sao có một pháp chẳng phải tánh? Đâu có một pháp nào thể chẳng phải vắng lặng? Lại pháp không đâu thường được lìa chân tánh? Nếu hoặc chẳng đồng ở đây nói sẽ rơi vào đoạn thường thì không có việc đó. Cho nên trong luận, mỗi tiết trình bày chân, đều nói tất cả pháp. Luận nói: Nếu nghóa như thế v.v…. chỉ nghóa trên không thể nói,không thể nghó. Luận nói: Các chúng sinh v.v…. đã phát ngôn trái lý động niệm trái chân, các chúng sinh niệm niệm nối nhau chưa từng lìa niệm, muốn được không trái làm sao thuận theo? Muốn được khế chứng làm sao tạo nhập? Luận: Có thể nói, tức là lời nói ra. Niệm cũng giống như thế. Sớ: Niệm tức vô niệm v.v…., nghóa là khi biết niệm các pháp, vốn không có năng niệm sở niệm, chẳng cho là diệt. Đây khiến không do niệm, thể vốn dứt là vô niệm. Nên kinh Viên Giác chép: Đối với các vọng tâm cũng không dứt diệt. Chẳng diệt v.v…. trở xuống, giải thích cả hai tức niệm và vô niệm để lìa hai bên. Nếu diệt niệm cho dứt tức rơi vào chấp đoạn. Nếu không biết niệm tức không, thì rơi vào chấp thường. Nay đã không diệt lại biết tức không nên khỏi được lỗi kia. Đây nói quên, nói chẳng phải, chẳng lời, tức niệm vô niệm chẳng đúng, chẳng suy nghó. Kinh nói: Không lìa văn tự mà nói giải thoát, lìa tánh văn tự tức là giải thoát”. Văn sau nói: “Chúng sinh mê nên gọi tâm là niệm, tâm thật bất động. Nếu quán sát biết tâm vô niệm, tức thuận theo nhập môn Chân như. Đối với một v.v…. trở xuống là tổng kết lợi ích. Chỉ đối với một niệm không niệm, đã lìa hai lỗi. Hai lỗi đã không, chính là thuận theo pháp tánh Trung đạo, tức chẳng trái chân như. Lại cũng v.v…., trước là nói về mặt pháp thể, niệm tức vô niệm. Đây tức lúc khởi niệm dụng quán, quan sát năng niệm, sở niệm, đã khởi, chưa khởi, rõ ràng không thật có, nói cũng như thế, nên nói là “đẳng” v.v….? Tuy chưa lìa niệm, như thế khi quán niệm thô không khởi, niệm tế vẫn còn, nên nói chưa lìa. Như lửa tắt mà than vẫn còn. Mà thuận vô niệm, thường quán không có năng sở, khi quán như thế tức là thuận với vô niệm. Như văn sau nói: “Nếu có chúng sinh quán được vô niệm thì hướng về trí Phật”. Như trên v.v…., do từ trước đến nay cái gọi là”chỉ là phương tiện nhập lý”. Sớ trước trả lời phương tiện quán. Tức hay v.v…., do trước quán sát thuần thục, lại lìa năng niệm sở niệm này, khế hợp chân lý vô niệm, vì chân không có niệm tưởng năng sở. Nay đã lìa chỗ này thì sẽ khế hợp chân. Chánh quán, đây quán chân chánh và tướng chân như, nên như cái hộp và nắp. Lại chánh, là thánh. Ngay địa vị Sơ địa trở lên gọi là bậc thánh nhập lý. Phương tiện ở trước là trước Sơ địa. Khế nhập tức chứng nghó, do lìa niệm năng sở, được chứng chân như gọi là khế nhập. Duy Thức nói: “Nếu lúc đối với trí sở duyên, đều không có sở đắc, bấy giờ trụ Duy thức, lìa hai chấp tướng”. Tuy nhiên, điều ở trên nói chỉ đứng về mặt một phần được vô lậu chánh trí gọi là lìa niệm được vào. Nếu đứng về mặt rốt ráo lìa thì chỉ có bậc diệu giác mà thôi. Chỗ trí hành, chân như là sở hành của chánh trí, nói chẳng phải sở hành của điên đảo hoặc loạn. Kinh Hoa Nghiêm nói: Chân pháp tánh sâu xa, trí mầu thuận vào. Lại cũng v.v…. trước giải thích là theo sở quán niệm là không nay giải thích là theo năng quán cũng không. Quán tâm niệm, tâm này gọi là tri không có niệm năng sở. Nếu còn niệm kia, thì cũng chẳng phải vào chỗ lắng tâm là sai. Nên kinh Viên Giác chép: Lìa huyễn, cũng lại xa lìa, được không có chỗ lìa tức trừ các huyễn. Hà Trạch nói: Vọng khởi là giác, vọng diệt giác diệt, giác vọng đều diệt tức là chân như. Nhưng, thể như lìa niệm động tức trái chân. Nếu biết niệm là vô niệm, quán sát chẳng dứt, thuận theo như thế, trở lại có kỳ hạn vào. Mong những người tu hành siêng tu trí mầu. Tuy nhiên, y cứ hỏi đáp ở trước thì chỗ đáng niệm ở sau là cũng nói cả hai. Trong chánh quán chẳng nói ngôn thuyết tế, huống chi là thô. Tâm niệm nhỏ nhiệm còn phải xa lìa, ngôn ngữ thô cạn là còn ư! Giải thích tướng chân như, trước nói tâm là tướng chân như, nay trước đã giải thích hai chữ chân như từ đây về sau mới giải thích chữ Tướng. Nêu chung: Lại nữa, chân như. Hỏi: Đây đã nói tướng chân như,vì sao không nhắc lại tướng? Đáp: Vì từ trong vô tướng mà nói về tướng, tướng tức vô tướng chẳng khác pháp lìa ngôn. Lại, tướng tức là nghóa. Nay trong chân thể khai nói hai nghóa. Nói có hai thứ nghóa, đó là nghóa tức tướng. Một vị, trước nói nhất tâm, nhất pháp giới, nhưng đứng về mặt lý lìa các tướng gượng gọi là một, mà tướng một cũng không có được. Kinh Pháp Cú nói: “Sum la và muôn tượng là sở ấn của một pháp”. Một chẳng phải một, vì muốn phá các số. Chỗ nghe của trí cạn nên thấy một cho là một. May thay những người trí sâu bỏ những nhớ nghó mà thể nhập. Có hai, đã dùng ngôn thuyết phân biệt nên có tướng một và hai. Không thể theo ngôn ngữ, trước tuy hiển bày thể lìa ngôn ngữ mà không thể chấp là không nói vì có hai nghóa, nay tuy phân biệt hai nghóa mà không thể chấp là có tướng, vì tướng là vô tướng. Không khác lìa ngôn ngữ, cho nên không được theo ngôn ngữ mà chấp lấy. Chỉ vì v.v…. trở xuống là nếu không ngôn ngữ thì nương vào đâu để tin hiểu. Nếu có hai pháp thể thì hoàn toàn trái với chứng nhập dứt phân biệt, dẫn văn sẽ biết. - Nói lược: Sớ Không vọng nhiễm, do trong thật thể vốn chẳng cùng chín tướng, sáu nhiễm tương ưng, nên gọi là không, chẳng phải chân thể là không. Như thật không, như thật là chân tánh của không, là không vọng nhiễm, như thật không là thuộc về chủ thích. Như nói bình không, bởi vì trong bình không có vật, chẳng cho là thể của bình là không. Trong kinh Niết -bàn có ví dụ đầy đủ này. Luận Cứu cánh, là nghóa tột cùng, ý nói lời nói lập không cùng chỉ vì hiển bày chân thật. Bèn có thể v.v…., do vọng không làm năng hiển, chân thật làm sở hiển. Không do vọng không kia thì đâu biết chân thật này. Khác vọng không có tựu thể, vọng nhờ chân mà có, nguồn chân tự có, nên nói là khác. Hữu lưu, hữu là ba cõi, hai mươi lăm hữu. Lưu là bốn lưu, chín lưu. Do các cõi kia phiền não hay chìm đắm trong các loài nên gọi chung là lưu (dòng) tức căn, tùy,v.v.. gồm có hai mươi sáu sử. Luận này tức ba tế sáu thô, như thế phiền não rất nhiều không thể tính hết, nên nói hằng sa. Nếu theo chỗ nói của luận này tức vượt hà sa số, lý thật vô lượng, đâu dừng nơi hà sa. Nếu có số nhất định e chẳng rõ nghóa. Chỗ nói khác nhau: kia nói phiền não đây gọi là công đức, kia nhiễm đây tịnh, kia không đây có. Lìa nhau, thể vọng vốn không, chẳng thể theo nhau. Văn sau nói: “Tất cả pháp nhiễm phiền não đều là vọng có, tánh tự vốn không, chẳng hề tương ưng với Như Lai tạng”. Pháp vô thượng: tức nghóa trí tuệ rộng lớn sáng suốt. Pháp là chỗ chứng của Phật nên gọi là Vô thượng. Đây đều là đức của tánh, đức đều là tánh không có tướng lìa bỏ, nên nói theo nhau. - Lược nói: Sớ: Năng sở phân biệt, tức là tâm cảnh. pháp nhiễm tuy nhiều mối, chỉ thuộc ở đây. Luận nói tất cả mà sớ nói năng sở, ở dưới tức tâm cảnh, nói riêng nói tướng bị chấp, tức tướng cảnh giới, ở trong đó có sắc, hương, vị, xúc v.v…. khác nhau, nên nói sai biệt. Hay chấp chỗ thấy: tức trí tướng tương tục, v.v… ở trong đó phần thấy nghe hiểu biết khác nhau, gọi chung là năng chấp, tức v.v… trở xuống là phân biệt lìa thức. Đây về mặt quên cả hai tâm và giải thích cảnh. Lại do v.v… trở xuống là chỉ giải thích theo chỗ quên cảnh giới. Hai câu trước chỉ nói cảnh không, đây là xuất phát nguyên do cảnh không. Nghóa là phàm cảnh giới đều từ tâm niệm sinh, tâm niệm đã không cảnh từ đâu có. Nên văn trước nói: “Tất cả cảnh giới chỉ nương vọng niệm mà có khác nhau. Nếu lìa niệm thì không có tất cả cảnh giới”. Y cứ vào đây là tướng năng kiến trong bổn thức, vì cùng tướng trí sinh cảnh chấp cảnh công năng khác nhau. Bởi do v.v… trở xuống là giải thích chung ý văn. Tình có lý không: trong vọng tình thì có, trong chân lý thì không, giống như dụi mắt thấy hoa đốm giữa hư không. Lý có rồi v.v… trở xuống, trái ngược ở trước rất dễ thấy. Nên chẳng tương ưng, là tổng kết pháp vọng ở trước, trong lý đã không thì nói cái gì tương ưng? Đây là chối bỏ cho tình là tương ưng. Do từ vọng niệm sinh, nên lìa niệm thì không có tất cả pháp. Bốn câu, luận chép: Nên biết… v.v… trở xuống, có hai: - Bốn câu có không: Sớ Lìa vọng có, v.v… là người chấp có nên nói chẳng có, nếu không có chỗ chấp thì theo đâu mà nói chẳng phải vọng có, nói vọng có là nhiếp tất cả tướng. Mê lầm v.v… trở xuống, là chẳng rõ câu nói chẳng có, là mất tình chấp có, lại cho pháp thể là không, ở đây giải thích nói: Trên chỉ nói chẳng có, chẳng có mà ông lại chấp có. Chẳng phải đạo pháp liền ở nơi không, nên nói chẳng phải không. Cả hai chẳng phải là chân pháp, sẽ cho rằng chân như là chẳng có, là chẳng không, nên phá rằng: Chẳng phải chẳng có tướng, chẳng phải chẳng không tướng. Đây đều trên chữ chẳng phải là thuốc năng trị, ba chữ dưới là bệnh sở trị. Giải thích rằng v.v… trở xuống: xem kỹ sẽ hiểu. Trong đây, trước sau bốn chữ trong hai chữ trước thì chữ trên là chấp cho là, chữ dưới là nói cho là, hai chữ sau là nêu bày. Trở lại lập, v.v…., chấp câu thứ nhất câu thứ hai đồng thời có tướng có không, lập làm chân như. Chẳng chấp nhận cả hai, v.v…, nếu ta nói riêng chẳng phải chẳng, thì ông lại chấp cả hai tướng có và tướng không. Ta lấy hai chữ chẳng, là chẳng có tướng, chẳng phải không có tướng đồng thời chẳng bỏ, tại sao điên đảo chấp hai thứ có không. Nay luận nói: “chẳng có, không đều cùng”. Đều cùng tức có không đồng thời, nay đều chẳng bỏ. - Bốn câu một khác: Luận: Chẳng phải một v.v… trở xuống là bốn câu một khác. Sớ: Theo trước, v.v…, trước là đứng về mặt có không, đây là đứng về mặt một khác. Hai chỗ chấp khác nhau, ngoài ra đều chẳng khác. Chỉ như sớ trước phối hợp giải thích rất dễ biết. Nhưng, chấp v.v… trở xuống, là kết chung nhiếp riêng, nghóa là chúng sinh chấp lấy vô lượng vô biên, căn bản từ hai chấp này mà có bốn câu khởi. Do đó trăm phi là chỉ nói theo đây, nghóa thấy ở văn trước. Nên rộng v.v… trở xuống là dẫn chứng nêu lên. Đều chẳng chân thật, vọng chấp trước chẳng xứng với lý thật, đồng với hai chấp có không, một khác trong bốn câu này. Chỗ chấp khác nhau, Bốn hạng ngoài đều chấp một câu, có tức câu có là chỗ mất của câu đầu. Chẳng có tức câu không là chỗ mất của câu kế. Đều tức cùng là câu vừa có vừa không là chỗ mất của câu thứ tư. Chẳng phải là câu chẳng phải có chẳng phải không là chỗ mất của câu thứ ba này. Một phen nêu phối hợp ở đây. Theo thứ lớp phối hợp: như trên phối hợp là bốn câu. Nhưng chỉ một mặt đứng về chỗ phối hợp kia, chẳng phối hợp với luận này, đều là vọng chấp nên nói chẳng phải chân. Bốn tông ngoại đạo: Số luận ngoại đạo chấp có, v.v… tánh cùng các pháp là một, chính là tức đều có (câu), nên kia phá rằng. “Đây chấp chẳng phải chân”. Vì sao? Nếu các mầu như xanh, v.v… cùng sắc tánh là một thì nên như thể của sắc tánh kia đều đồng. Năm thứ vui, thanh cùng tánh thanh là một. Nên như của thể thanh tánh kia đều đồng. Nhãn, v.v… các căn cùng căn tánh là một, nên như thể căn tánh của kia đều đồng, nên như mỗi căn chấp tất cả cảnh, mỗi cảnh đối lại tất cả căn. Lại, tất cả pháp cùng có tánh là một, lẽ ra thể tánh của kia đều đồng. Ngoại đạo thắng luận nói có, v.v…, tánh và pháp chẳng phải một, nên chẳng phải câu có đây cũng chẳng phải chân. Vì sao? Nếu các mầu như xanh, v.v… khác với sắc tánh, thì nên như xanh, v.v… chẳng phải chỗ hành của nhãn (mắt). Thanh (tiếng), v.v… cũng giống như vậy. Lại tất cả pháp khác có tánh, nên như sừng thỏ, thể kia vốn không cho đến rộng phá. Ngoại đạo Vô tàm chấp có, v.v… tánh vừa một vừa khác với các pháp kia, nên ở câu vừa có vừa chẳng có, đây cũng chẳng chân. Vì sao? Vì nếu chấp có tánh v.v…. cùng sắc v.v…. là đồng lỗi với Số luận, cùng sắc v.v…. khác là đồng với Thắng Luận. Một khác hai thứ tánh tướng trái nhau, mà nói thể đồng, lý không thành lập, một lẽ ra chẳng phải một vì tức khác nên như khác, khác nên chẳng phải khác do vì một, cho đến rộng phá. Ngoại đạo tà mạng ngoại đạo chấp có v.v…. tánh chẳng phải một chẳng phải khác với các pháp kia, nên câu chẳng phải có chẳng phải chẳng có, đây cũng chẳng chân. Vì sao? Vì nói chẳng phải một chẳng phải khác này chỉ là ngăn, thiên lệch có tiêu biểu. Nếu nghiêng lệch có tiêu biểu nên không có hai chẳng phải. Nếu chỉ là ngăn nên không có chỗ chấp, có ngăn có tiêu biểu, lý trái lẫn nhau, không ngăn không tiêu biểu. Lời thành nói suông, cho đến rộng phá như thế. Thế gian khởi bốn thứ phỉ báng, nghóa là có chẳng có, chấp hai, chẳng chấp hai. Cứ như thế thứ lớp là tăng ích tổn giảm trái nhau hý luận. Cho nên chỗ chấp của thế gian chẳng thật. Nay đây v.v…. trở xuống, là phân biệt khác. Đây là một hạng xoay vần, chính bốn tông kia đều khác nhau. Lại ở đây là nói lên chân như, kia thì một bề đối trị chấp nên khác nhau. Đoạn sauv.v.., Nay ở đoạn văn trên chỉ chấp đều chẳng phải chân thật, là từ chẳng chấp đến nói vế ngoại đạo v.v…. trở xuống. TỔNG KẾT: Sớ: Vọng chấp trần sa, hiển bày nhiều vọng chấp, đã từ niệm sinh, đâu thuận với chân lý vô niệm, nên chẳng tương ưng. Tuy nhiên, trong văn này chỉ đứng về mặt tâm tổng kết, chứ không đứng về mặt cảnh. Vì tất cả cảnh giới đều từ tâm sinh, chỉ nói không tâm tức biết không cảnh, nên lược bỏ chẳng nói. Do đối trị v.v…. trở xuống, là thể như thật nói mặt không vọng gọi là không, chẳng cho rằng chân thể là không mà gọi là Không. Cũng có thể v.v…. trở xuống, chỉ chung đoạn văn tổng kết này đều giải thích nghi, e rằng nghe tự tánh chân như ở trước chẳng có tướng, liền cho rằng hoàn toàn không tự thể và pháp công đức, thành cái thấy đoạn diệt nên nay giải thích. Cho đến nói không là chân không có tướng vọng, chẳng không là tự tánh công đức thanh tịnh bản nhiên. Chính giải thích: Sớ Đoạn văn trước: nói thể không chẳng có vọng là hiển bày pháp chẳng không ở dưới. Nêu thể, thể là chỗ nương. Ở sau thường v.v…. các nghóa đều nói theo đây. Nên, thường, vì ba mé, bốn tướng không thể thay đổi. ba khổ tám khổ không thể hại. Sớ: Lấy hằng làm vui, vì không sinh, già, bệnh, chết nên gọi là hằng. Sinh, già này… chính là pháp khổ, nên nay ở đây trước theo hoặc nghiệp phối hợp bốn tướng. Nay theo quả báo nên phối hợp già chết, v.v…. Ngã nghóa là tự tại, vì đối trị chỗ trói buộc không tự tại. Do lìa nghiệp hạnh trói buộc, nên luân chép: chẳng biến đổi, chẳng biến đổi là lìa hạnh. Hạnh tức là nghiệp. Đã chẳng bị nghiệp trói buộc thì được tự tại nên nói ngã. Tịnh, nhiễm mà chẳng nhiễm. Đây chú thích hợp tại chữ Tịnh ở sau do nói đầy đủ, nên đều là tổng kết. Nghóa là ngoài bốn đức này, tất cả hà sa số công đức, hết thảy ở trong đó, nên nói đầy đủ. Tức như v.v…. trở xuống, chỗ nói trí tuệ sáng suốt rộng lớn chiếu khắp pháp giới, nên bổn sớ lấy tịnh pháp làm tịnh đức, không bao gồm nói đầy đủ. Tuy nhiên, chữ Pháp vẫn chung cả trên dưới. Lại nói văn thường hằng bất biến, chỉ thành một nghóa. Dù đây đều phối hợp tự là một đường. Nay giúp thêm một để giải thích thì khác với sớ. Thường hằng bất biến: nói lên chân thể ngang dọc ba mé không cùng - kia giải thích ở trước, vì có tự thể. Tịnh pháp đầy đủ, hiển bày tịnh đức rộng khắp mười phương không tận kia hiển bày ở trước, đều đủ vô lậu. Tự thể đã thường hằng bất biến lại đầy đủ vô lậu công đức. Pháp thể nếu như thế, há là không ư! Nên tổng kết chẳng phải không. Giải thích nghi: Sớ: Tình chấp về có, biến kế sở chấp các pháp sắc v.v…. là trong vọng tình có. Thế thì v.v…., tự tánh công đức của pháp thể chân thật tuy không thiếu bớt, nhưng không có một tướng để được, nên chẳng khác không. Giải thích không tướng v.v…., hễ có tướng là chỗ duyên của vọng niệm. Nay đã do tương ưng với chứng trí, nên biết không tướng. Kệ Duy Thức nói: Nếu lúc ở nơi trí sở duyên không có sở đắc, khi ấy trụ ở Duy thức, vì lìa tướng hai chấp. <卷>QUYỂN 8 - Giải thích tâm pháp sinh diệt: Giải thích khoa tâm pháp sinh diệt, vì trong phần lập nghóa nói: “tướng nhân duyên sinh diệt,của tâm này có công năng chỉ bày tự Thể, Tướng, Dụng, của Đại thừa”. Đây là giải thích về tướng nhân duyên sinh diệt của một bộ luận. Nhiễm tịnh sinh diệt: vì pháp nhiễm, pháp tịnh đều có sinh diệt. Nhiễm do thuận dòng là sinh, ngược dòng là diệt. Tịnh do ngược dòng là sinh, thuận dòng là diệt. Lại, lúc sinh pháp nhiễm là lúc pháp tịnh diệt, lúc sinh pháp tịnh là lúc pháp nhiễm diệt. Lại, sinh pháp nhiễm là vọng sinh, diệt là diệt hết; pháp tịnh sinh là hiện sinh, hiện diệt, là ẩn diệt. Tuy nói chung sinh diệt mà nghóa có khác. NÊU THỂ: Luận nói, Như Lai tạng, có đủ ba nghóa là nghóa ẩn che, nghóa gồm nhiếp và nghóa phát sinh. Trong Ẩn che lại có hai nghóa: Tạng của Như Lai gọi là Như Lai tạng: Tức phiền não là năng tạng, Như Lai là sở tạng. Tạng ở Như Lai, tạng của Như Lai là Y chủ thích. Như trong hộp có vàng gọi là hộp vàng, hộp chẳng phải là vàng. Nên Kinh Bát-nhã lý thú chép: Tất cả chúng sinh đều có Như Lai tạng, kinh Thắng-man và Kinh Như Lai tạng có nói đầy đủ như ở đây. Như Lai tự ẩn chẳng hiện, gọi là Như Lai tạng: Pháp thân không có tướng, không thể dùng trí biết, thức biết, như mắt kia thấy. Kia Như Lai tức tạng là Trì nghiệp thích, như trong Luận Phật Tánh nói. Trong gồm nhiếp lại có ba nghóa: Thể bao gồm dụng, nghóa là trong Pháp thân có thân tướng dụng, v.v… Thánh bao gồm phàm phu: Nghóa là tất cả chúng sinh đều ở trong trí Như Lai, cũng như trong Luận Phật Tánh nói. Nhân bao gồm quả: Nghóa là nhân vị đã gồm nhiếp công đức quả vị, ở đây lấy nhân làm tạng, tạng là quả Phật. Hai câu trước là Trì nghiệp thích, một câu sau là y chủ thích. Trong phát sinh: Nghóa là bậc Thập Địa chứng chân gọi là Tạng, thành tựu quả Phật gọi là Như Lai, cũng là Trì nghiệp thích. Nay luận trong sáu nghóa trừ nghóa thứ tư và thư sáu, ngoài ra đều chung. Sớ có hai: Chính giải thích: Nêu thể, nói có chung và riêng, riêng chỉ chấp sở y, tức Như Lai tạng là thể, chung thì gồm chấp năng y, tức Như Lai tạng và tâm sinh diệt cùng làm thể. Do pháp sinh diệt đều nương nơi đây, nay chung cả hai mà nói. Tuy nhiên, sau đây nói về nghóa sinh diệt và chẳng sinh diệt, nói năng y sở y, thật không có hai thể, chỉ có nghóa lý nương nhau mà không có pháp thể nương nhau. Như bất động v.v… trở xuống, là ví dụ để trình bày. Nên biết v.v… trở xuống, là pháp và hợp đều như văn, lời nói suy nghó ý khiến hợp sâu kín, khiến pháp như dụ đều không hai thể. Lăng-già trở xuống là dẫn chứng. Kinh nói: “Này Đại Tuệ! Như Lai tạng là luân chuyển nhân khổ vui, ý loạn tuệ ngu si, phàm phu không thể biết”. Kinh Thắng-man nói: “Thế tôn nương Như Lai tạng nên có sinh diệt, nương Như Lai tạng nên chứng Niết-bàn. Nếu Thế tôn không có Như Lai tạng thì không thể chán khổ sinh tử, cầu vui Niết-bàn”. Đúng như lời nói mà phân biệt: Đây hiển bày v.v… trở xuống, là đúng như lời nói mà phân biệt. Nương nước có sóng, ý hiển bày nước sở y hoàn toàn khởi thành sóng năng y khác nhau. Nương mẹ mà có con, chẳng phải hoàn toàn mẹ thành con. Năng sở riêng biệt, đây là nêu một pháp. Do ngang dọc luận chẳng phải, là nói về hai pháp rộng khắp. Do đây v.v… trở xuống, là xuất phát lý do, bởi chân sở y khởi thành vọng năng y, được có nghóa giác và bất giác. Vì có hai nghóa bèn lấy pháp vọng bất giác, để hiển bày ba đại trong nghóa giác. Như nước khởi thành sóng, động và ướt cả hai đều toàn vẹn. Do có động và ướt, liền hay lấy động để bày ướt. Nếu nói nương mẹ mà có con, mẹ chẳng ở trong con. Vì chẳng ở trong nên không thể dùng con hiển bày mẹ. Cho nên v.v… trở xuống, là tổng kết thành sở y của nghóa trên, tức Như Lai tạng. NÓI VỀ TƯỚNG. Sớ có hai: Giải thích nghóa hòa hợp. Có ba: Lược chỉ bày: Chẳng cho rằng, v.v…, ý nói: chân như khởi sinh diệt lại cùng sinh diệt hòa hợp với chân như, chẳng cho rằng có riêng một đoạn sinh diệt, từ ngoài mà đến hợp với chân như. Tâm sinh diệt: là chân của toàn vọng. Tâm Sinh diệt, là vọng cùa toàn chân. Đây là gốc ngọn nhiếp lẫn nhau. Chẳng cho rằng kết thành sáu thứ giải thích, tướng không hai, tâm tức là thể sinh diệt, tướng ẩn che này đều là một nên không có hai. Giải thích đầy đủ. Có hai: Chính giải thích: Tâm chẳng diệt là môn Chân như, tâm sinh diệt là môn Sinh diệt. Từ xưa giác khởi, v.v… là tột nguồn vọng, Bản giác khởi thành sinh diệt, chẳng cho rằng có riêng sinh diệt từ giác mà khởi, như nước khởi sóng, nghóa ấy không khác nhau, bản giác tức Như Lai tạng. Không hai thể: trước nói không hai tướng, ở đây nói không hai thể, ý nói rõ chỉ có một tướng, một thể. Vì tâm là thể của sinh diệt, sinh diệt là tướng của tâm, giác thành bất giác, bất giác và giác không có tướng lìa nhau. Dẫn chứng: Nên văn dưới v.v… trở xuống, có ba: Dẫn văn: Tức trong văn bản giác theo nhiễm. Giải thích ý: Trong đây v.v… trở xuống. Hợp pháp: Tâm cũng v.v… trở xuống. Thần giải: bản giác chẳng mờ, linh thông chiếu soi. Ngoài ra xem văn sẽ hiểu. Sớ Đây là, v.v… trở xuống là lạm phân biệt. Bất sinh diệt hợp với sinh diệt, nghóa là chân theo vọng chuyển làm môn trôi lăn, tức nghóa bỏ bối giác hợp trần. Chẳng phải là v.v…, dứt vọng về chân là môn toàn diệt, tức nghóa bỏ trần về giác. Nhưng trong hai môn này theo hợp thì thể ẩn tướng hiện, ngược hợp thì tướng mất thể rõ. Môn trước nói: “Tất cả pháp đều chân, đều đồng như”. Đây là ngược hợp. Môn này nói: “Nương Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt”, Lại nói: “Nương giác nên có mê…”, đây là theo hợp. Do đó trong sớ nghóa trước tức môn Sinh diệt, nghóa sau tức môn Chân như. Luận: Chẳng phải một khác: Có ba: Theo pháp nói lược: Sớ: Chân như”: tức chẳng sinh diệt ở trước, chẳng có chút xao động nên nói toàn thể. Đã toàn thể động thành pháp sinh diệt, đâu có khác. Tuy thành sinh diệt mà tánh chẳng thay đổi. Từ xưa đã như vậy, chẳng phải đến ngày nay, nên nói thường sinh diệt. Nghóa biến và chẳng biến khác nhau, nên nói chẳng phải một. Y kinh nêu ra thể: Kinh Lăng-già v.v… trở xuống, là lấy kinh làm bằng cứ từ thể xuất phát. Thức thứ bảy là thấy, nghe, ngửi, nếm; giác biết là mạt-na, ngoài ra xem văn sẽ biết. Y cứ nghóa giải thích rộng, môn khác v.v…. trở xuống, có ba: Giải thích lìa, có hai: Giải thích chẳng khác. Có ba, nhưng trong ba đoạn đều lấy chân như làm gốc, sinh diệt làm ngọn. Ban đầu lấy chẳng sinh diệt nói hướng đến sinh diệt, kế là lấy sinh diệt nói hướng về chẳng sinh diệt. Sau cùng tức hai môn đồng thời đồng chỗ mà nói. Kia chẳng khác: nghóa ở năng thành (hay thành) tức chỉ đồng đều, trong sáu chữ theo văn tường tận mà rõ hội. Hỏi: Luận nói: chẳng một chẳng khác. Sớ thuận hợp luận để rõ. Tại sao trước giải thích chẳng khác; sau giải thích chẳng phải một? Đáp: Luận thuận nương nghóa chân liền khởi vọng, trước nêu chẳng phải một, sau nói chẳng phải khác. Văn nói: “Nương Như Lai tạng mà có tâm sinh diệt, chẳng sinh chẳng diệt hợp với sinh diệt”. Đây chẳng phải nghóa một. Nhưng, sinh diệt này đã nương tâm thể chẳng có tướng lìa tánh, sau mới được nói chẳng khác. Văn của sớ đứng về mặt pháp giải thích rộng, khiến người sinh hiểu. Tóm lại, trước biết thể không hai, do không hai mới thành chẳng phải một. Ở đây nói đầy đủ pháp thuận, khiến ngộ vốn không có chân, chân khác nhau. Ngộ pháp này rồi mặc tình biện nghóa khác, tức chẳng mê gốc. Nên sớ ở sau nói: “Trong đó chẳng có chẳng phải trái chẳng phải khác”, để rõ chẳng phải một, cũng chính do chẳng khác nên thành ở chẳng phải một. Lấy gốc theo ngọn mà giải thích: Kinh Lăng-già chép: “Nhân Thiện và bất thiện”. Mười điều ác như sát sinh, v.v…. là bất thiện, không sát sinh, v.v… là mười điều lành. Tất cả thú sinh, là sáu đường bốn loài, trong đó gồm có thiện và bất thiện. Sinh diệt, nghóa xả ấm chấp ấm, đây là Như Lai tạng là chân như, thiện bất thiện, v.v… là sinh diệt. Đã nói Như Lai tạng làm nhân năng tạo tức chẳng khác. Lại, kinh Niết-bàn chép: “Thí như trên núi Tuyết có một vị thuốc, gọi là lạc vị (vị vui) vị kia rất ngọt, ở nơi rừng sâu, mọi người không thấy, có người nghe mùi hương biết trong đất kia sẽ có vị thuốc. Thời quá khứ có vua Chuyển luân, ở trong núi Tuyết vì loại thuốc này, nên nơi nơi chốn chốn làm ống trúc để lấy loại thuốc này, khi thuốc đến lúc chín, từ đất phát ra nhóm lại trong ống trúc, vị kia chánh chân. Sau khi Vua băng, thuốc này lạt, mặn, ngọt, đắng, cay, chua thành sáu vị khác nhau. Như thế mỗi vị tùy theo chỗ chảy kia mà có các vị”. Đây ví dụ như Phật tánh do phiền não mà phát ra các thứ vị, nghóa là sáu đường. Ở đây, Phật tánh là chân như, sáu đường là sinh diệt, đã nói Phật tánh theo mà thành, tức nghóa không khác nhau. Nhiếp ngọn, nhiếp ngọn v.v… trở xuống, có hai: Chính giải thích: Nay nghóa chúng sinh tức như: là dẫn trong Kinh Tịnh Danh, như ở trước dẫn chứng. Nhưng, chúng sinh là sinh diệt, như thế chân như đã nói là “tức”, nên biết chẳng phải khác. Niết-bàn, v.v…, văn nói: “Này người thiện nam! Ta nói trong các kinh, nếu người thấy mười hai nhân duyên tức là thấy pháp, thấy pháp tức là thấy Phật, thấy Phật tức là thấy Phật tánh. Vì sao? Tất cả chư Phật lấy đây làm tánh. Này người thiện nam! Quán mười hai nhân duyên có bốn thứ trí, được bốn thứ Bồ-đề. Cho đến nói: “Do nghóa này, mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh”. Đây tức Phật tánh là chân như, mười hai nhân duyên là sinh diệt, đã nói mười hai nhân duyên là Phật tánh, đâu có khác ư! Thập địa…, đây là ý Kinh Hoa Nghiêm, văn của KINH kia nói: “Này Phật tử! Bồ-tát lại nghó rằng: Tất cả ba cõi chỉ là nhất tâm, Như Lai ở đây phân biệt giảng nói có mười hai chi, đều ở nơi nhất tâm, như thế mà lập. Nay chỗ dẫn chứng của sớ là trong luận dẫn lại kinh kia. Nghóa đế đệ nhất, là luận giải thích. Tâm là thật tướng trung đạo nên nói là nghóa đế đệ nhất. Kia nói ba cõi là sinh diệt, nhất tâm là chân như. Chỉ một chữ hiển bày chẳng khác. Lại đây, v.v… trở xuống, tức trong văn thỉ giác. Bốn tướng là sinh diệt, nhất giác tức chân như. Đã nói bình đẳng mà đồng, muốn lấy gì làm khác. Nhưng nghóa chẳng khác này, sâu mà ẩn kín, khó có thể tin hiểu, ở đây rộng dẫn chứng kinh luận. Đối trước biện lại: Lại trước v.v… trở xuống, là đối trước nói lại, tức đối lại khoa trước để nói lên chẳng khác. Tức gốc ngọn: giải thích lại khoa trước, đây do ngọn thâu ở gốc, chẳng có gốc thì chẳng có ngọn, như dùng sóng nhiếp nước, không nước thì không sóng, lại đâu có nước và sóng là khác, nên nói chẳng khác. Sau tức, v.v…, nói lại khoa này, nghóa nhiếp ngọn trở về gốc, ở đây lấy gốc thâu ngọn, không ngọn thì chẳng có gốc. Như có nước thì có sóng, không sóng thì không nước, lại đâu có sóng và nước khác nhau. Trước chỉ ngọn sau chỉ gốc, đã không có hai tướng nên nói chẳng khác. Gốc ngọn bình đẳng: Trong Kinh Lăng-già nói: “Này Đại Tuệ! Như Lai tạng, tạng thức bổn tánh thanh tịnh, vị khách trần làm nhiễm nên bất tịnh, ta vì phu nhân Thắng-man và các Bồ-tát có tịnh trí sâu mầu, mà nói Như Lai tạng gọi là Tạng thức cùng bảy thức đều khởi, giúp người Thanh Văn thấy pháp vô ngã. Ta vì Thắng-man nói cảnh giới Phật, chẳng phải cảnh giới ngoại đạo, ở đây nói Như Lai tạng tức là chân như, chân như và gốc, bảy thức là sinh diệt, sinh diệt là ngọn. Đã nói kia đều, tức nghóa bình đẳng. Lại kinh cũng là kinh ấy khác chút ít với văn trước mà ý lại đồng, nói rõ rất dễ hiểu. Luận tức Luận Thập Địa. Chỉ chân bất sinh: là quả Phật vô sinh. Riêng vọng chẳng thành, vì không có chỗ nương, nhưng chỉ pháp chân thì dung chứa có, riêng pháp vọng thì hoàn toàn không. Nay dùng tướng đối trị đặt thuyết này. Đây là trở xuống, v.v… đều là tổng kết, cũng thông tổng kết ba môn tường tận. Giải thích chẳng phải một, bất nhất v.v… trở xuống, văn có bốn: Giải thích theo trước, có bốn: Giải thích nhiếp gốc về ngọn: Tức chân như ở Sinh diệt. Nhiếp ngọn về gốc tức sinh diệt ở Chân như, đã một sinh diệt một chẳng sinh diệt, thì đâu phải một nghóa, là ở tâm chẳng khác, nói về nghóa chẳng một. Dẫn chứng: Nương theo đây, v.v… trở xuống. Giải thích văn: Giải rằng v.v… trở xuống, giải thích ý văn dẫn chứng ở trên. Chẳng ở trong đó là không ở trong đó. Chẳng giống hai người cùng ở trong một ngôi nhà. Tức như hai cây thành rừng, hai cây đã phân, thì được nói một cây chẳng phải rừng. Thông ngại: Đây đứng về mặt v.v… trở xuống, là thông ngại. Hoặc hỏi: Nghóa đã chẳng phải một lẽ ra không hòa hợp, nên ở đây giải thích. Nghóa là ở trong hai nghóa, nêu nghóa này nói một bên, chẳng cho rằng hoại hòa hợp kia để thành chẳng phải một. Tức biết chính là nói đây lúc chẳng phải nghóa một, pháp kia vốn tự hòa hợp. Vì sao?: là gạn ý. Vì sao do chẳng hoại hòa hợp, lại hay chẳng ư! trong đây phần sau sẽ giải thích. Như Lai tạng, Nghóa là chẳng sinh diệt. Đã là chẳng sinh diệt tức sinh diệt, nên biết đây chẳng sinh diệt cùng tự bảy thức sinh diệt không hề chẳng hòa hợp, đối với hòa hợp mà nói chẳng phải một. Bảy thức, v.v…, nghóa là sinh diệt. Đã là sinh diệt tức chẳng sinh diệt. Nên biết sinh diệt này và Như Lai tạng chẳng sinh diệt, không hề chẳng hòa hợp mà trong đây nói chẳng phải một. Cái gọi là Tự, là nói lên chẳng khác bên ngoài, vốn chẳng lìa nhau, chẳng lìa nhau tức hòa hợp. Đây chỉ cho chỗ chẳng khác mà nói nghóa chẳng phải một, ai nói phá hòa hợp này ư! Giải thích trở lại chẳng phải khác, trong đây v.v… trở xuống, có hai: Nêu: Rất dễ thấy. Giải thích: Vì sao?, ý gạn nói: Chẳng trái chẳng khác, nghóa kia đã rõ, đâu có lý do nào để thành chẳng phải một? Nếu như, v.v… ý giải thích, nếu như lúc Như Lai tùy duyên mất tự thể chẳng sinh diệt, tức gồm tướng không sinh diệt do không có chỗ nương. Văn này trình bày hai pháp. Nếu khác có mất như ở đây thì không thành nghóa chẳng khác, nghóa kia đã không thành, nghóa chẳng một này cũng chẳng thành. Do hai nghóa đã mất thì đối với pháp gì để nói chẳng phải một ư! Cho nên v.v… trở xuống là nói nghóa chẳng khác. Nay do chẳng khác nên lúc sinh diệt khởi, chẳng mất bất sinh diệt, do chẳng mất nên sinh diệt còn. Hai nghóa đã còn thì nghóa chẳng phải một được thành lập, đâu không do chẳng khác, nên được thành chẳng phải một ư! Lại, cũng do nghóa chẳng phải một này, nên được thành nghóa chẳng khác kia. Vì chân khởi thành vọng, được nói có vọng mà chân vọng chẳng khác, nếu không khởi nói gì chẳng khác. Đoạn trước chỗ chẳng nói, v.v… là do chưa nói nghóa sau. Nêu thể nhiếp nhau: Lại đây v.v… trở xuống, là nêu nhiếp thể tướng, có hai: Nói biện rõ: Chân vọng v.v… trở xuống, đều xuất phát từ thể kia, như văn sẽ hiểu, ở đây do vô minh chẳng sinh diệt là chẳng có tướng thô sinh diệt. Chẳng phải chẳng sinh diệt, do có tướng tế sinh diệt trôi chảy nêu lên như Phi tưởng, phi phi tưởng xứ. Đây, bốn v.v… trở xuống: là nêu thể tướng. Vảû lại, nêu Như Lai tạng, ắt thâu các pháp, do tại triền mà gọi. Lại nêu A-lại-da, do vô minh động, chân vọng hòa hợp. Nếu nêu bảy thức, cũng do vô minh và tạng đều ở trong A-lại-da. Nếu nêu vô minh, vô minh không tự thể, nương giác mà có, cũng ở A-lại-da. Văn sau nói nương A-lại-da mà có vô minh. Lại, nói lúc vô minh diệt phá thức hòa hợp, do đó nêu một thì bị che lấp. Duyên khởi: Các pháp hòa hợp mới thành tướng nhất đại duyên khởi. Giải thích nghi ngờ: Trong đây v.v… trở xuống là giải thích nghi. Hỏi: Nếu như vậy làm sao dẫn chứng kinh trước, nói Như Lai tạng chẳng ở trong A-lại-da, nên đây giải thích chung, do nghóa nói như thế, chẳng có việc khác. Nghóa khác theo đây: nay văn nêu ví dụ, vả lại nói về mặt tánh ướt đối với sóng thì lấy ví dụ tạng tánh chỉ không sinh diệt đối với bảy thức, chỉ một nghóa sinh diệt, để nói về tức lìa, đối với hai nghóa kia lý cũng theo đây mà biết, nên nói suy nghó, văn trước nói: “Tùy theo mà nêu nghóa một, tức dung nhiếp tự thể”. Hỏi đáp thông ngại: Đã hỏi v.v… trở xuống, là hỏi đáp thông ngại, có hai câu hỏi đáp: Hỏi: Sao chỗ dẫn chứng ở trước văn kinh nói: “Như Lai tạng chẳng ở trong A- lại-da?”. Đáp: Ý nói Chân và vọng hợp mới gọi A-lại-da, kia như A-lại-da đều không có tự thể, lại nói theo nghóa thì hai pháp chân vọng đều ở trong ấy. Do đó, A-lại-da là chung, chân vọng là riêng. Chỉ hợp nói ở trong chung, không được nói ở trong riêng. Nay đã phân ra động tónh nên nghóa chung của A-lại-da chẳng thành, không ở trong đó nên nói chẳng ở trong A-lại-da. Ý hỏi: Nay A-lại-da đã chung động tónh, lẽ ra hợp cũng ở môn chân như, vì sao chỉ ở môn Sinh diệt. Đáp: Nói chỉ ở môn Sinh diệt ý tự nhiên nêu nên biết chẳng o83 môn Chân như. Vì A-lại-da khởi tónh để thành động, thể chẳng lìa nhau nên tónh theo động ở trong môn này. Chẳng phải ngay, v.v…, ý nói chẳng động, còn tại môn động, huống gồm cả động tónh. Đâu do v.v… trở xuống là gạn giải thích rất dễ hiểu. Nên theo mà suy nghó: ý giúp biết rõ chẳng ở môn Chân như, A- lại-da tuy có nghóa tónh, nhưng chẳng ở môn Chân như. Vì tónh này là tónh theo động, chẳng đồng với tónh chẳng khởi ở môn Chân như. Thể tónh tuy đồng, nghóa tónh có khác. A-lại-da đã dính mắc ở tướng động tónh, nên chẳng ở môn Chân như. Do môn này chỉ có tónh, nên sớ lược chẳng nói nghóa này, nên nói theo mà suy nghó. Hợp giải thích hai nghóa. Lại nếu v.v… trở xuống, có hai: Ngăn một khác: Là tông tướng, vô tướng. Người học có thất ý, trong hai nghóa này mỗi nghóa đều có một lỗi. Lìa đây v.v…, ở trước nói: “Nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt”, sau nói: “Vô minh diệt mà trí tánh chẳng hoại”. Hiển hòa hợp. Lại nếu v.v… trở xuống, có ba: Giải thích. Không hòa hợp, v.v…, là nêu như bài kệ trong luận nói rằng: Pháp nhiễm người nhiễm là một, pháp một làm sao hợp? Pháp nhiễm người nhiễm là khác, pháp khác làm sao hợp? Ở đây do chẳng phải nghóa một khác thành nghóa hòa hợp. Dẫn chứng: Như kinh v.v… trở xuống, có ba: Nêu cả hai dụ: Nêu cả hai ví dụ, tức như văn kinh Lăng-già nói. Giải thích riêng hạt bụi và bùn: Như bùn v.v… trở xuống. Chẳng phải kia thành, chẳng phải hạt bụi kia thành bùn. Nên không khác nhau, hạt bụi lúc chưa hòa nước nên gọi là bùn, đã thành bùn rồi nên gọi là hạt bụi. Tổng hợp pháp: Như thế v.v…. trở xuống là tổng kết do pháp hợp. Tạng thức chẳng phải nhân, chẳng phải không, nhân chân tướng. Nếu đã thành khác thì tạng thức chẳng nhân chân tướng mà thành. Như ở trước bùn chẳng do hạt bụi. Như vậy, vì sao nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt. Tạng thức lẽ ra cũng phải diệt, do không có nghóa hòa hợp, nên văn sau nói: “Phá tướng thức hòa hợp?”. Nay nói diệt, chỉ không một phần sinh diệt, cho nên chẳng phải chân tướng diệt. Văn sau nói: “vọng tâm diệt, Pháp thân hiển hiện”, lại nói: “Tâm tướng diệt theo, chẳng phải tâm trí diệt”. Nghiệp tướng diệt: Là nêu tế nhiếp thô. Giải thích chỗ dẫn chứng kia: Giải thích rằng v.v… trở xuống. Xem văn rất dễ hiểu. Tổng kết thành: Nay đây v.v… trở xuống. Đặt tên. Sớ có hai: Giải thích ý luận: Đây sinh, v.v… trở lại nghóa một đoạn của văn trước. Gọi là đây v.v… trở xuống, hợp hai nghóa kia để tổng kết tên gọi này. Nói rộng danh tướng: Hoặc nói v.v… trở xuống, có hai: Đối với hai luận sư (Chủ soạn luận và sớ giải) để nói về danh (tên của tám thức): Sở Hạ, là nói xứ này (Trung Hoa), tiếng nói (của mỗi địa phương) như Ngô, Sở, Hoa, Hạ biến chuyển khác nhau. Ở Tây vực (Ấn-độ), tiếng nói của năm xứ Thiên -trúc cũng giống như vậy, nên chỉ kia (Ấn- độ) đồng với đây (Trung Hoa). Nói: “A-lại-da hay A-đà-na, v.v…,” đều do tiếng nói có nặng nhẹ khác nhau (nên dịch âm vận có khác). Không mất, tức chánh văn và Phạm văn đối địch. Tạng thức lấy danh nghóa ở dưới. Dịch là Tạng, là hội cả hai tên ở sau. Do ngã kiến kia thuộc về Tạng, khiến từ vô thỉ nối tiếp chẳng dứt, nên nói chẳng mất, là lấy danh nghóa trên. Tuy ít chẳng đồng danh nghóa ở dưới, nên chẳng khác. Như Phật tánh là giác, là biết, rõ ràng phân minh, v.v… - Giải thích nghóa theo ba tạng: Sở nhiếp v.v… trở xuống là đứng về mặt ba tạng để giải thích nghóa. Trong đó có chấp tạng, nghóa năng tàng, sở tạng, theo thứ lớp giải thích. Nghóa là các v.v… trở xuống: là nêu. Sở dó v.v… trở xuống, là giải thích. Tương tự một: nghiệp tướng mới khởi chưa phân ra vương, sở và cảnh bên ngoài, thật chẳng phải một mà dường như một. Tương tự thường, sinh diệt nhỏ nhiệm dường như thường mà chẳng phải thường. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Tinh minh của ông lặng lẽ không xao động gọi là thường hằng”. Ở thân không phát ra sự thấy, nghe, hiểu, biết, vì tinh túy chân thật không dung chứa vọng, nên nói dường như thường. Những người ngu: là tất cả dị sinh. Không hai không trí, do dường như thật tức pháp chấp xác định rõ ràng chấp trí tướng không đổi, tức hai thức thứ sáu và thứ bảy là tâm năng chấp, ngã bên trong tức ngã chấp, đối với tự thân mà sinh chấp, vì chấp thân khác và các pháp đều có tự tánh, cũng gọi là ngã. Nên ở đây phân biệt rằng tự bên trong vậy. Ngã kiến v.v… trở xuống là tổng kết làm nghóa tạng. Nhiếp tức là chấp, đã là chỗ chấp của ngã kiến nên gọi là Tạng, chấp tức Tạng. Do đó v.v… trở xuống, là xuất phát lý do. Hai thứ ngã kiến là Nhân và Pháp. Hằng chẳng khởi vị tức đệ Bát địa. Theo Duy thức nói, thức này có ba giai vị. Địa vị ngã ái chấp tàng: gồm tất cả dị sinh, Nhị thừa, hữu học và Bồ-tát Thất địa trở xuống đều khởi ngã chấp. Chấp kiến phần thứ tám làm ngã, thức thứ tám gọi là A-lại-da. Đây gọi là chấp tàng. Địa vị nghiệp thiện ác khác nhau, tức gồm tất cả chúng sinh đến Thập địa mãn tâm, Nhị thừa, Vô học, v.v… do nhân thiện ác chiêu cảm quả vô ký, quả khác ở nhân gọi là Thức dị thục. Địa vị nối nhau chấp giữ: Tức chung tất cả địa vị nhân quả, do thức thứ tám chấp giữ hạt giống các pháp không để mất gọi là A-đà-na. Nghóa A-đà-na dịch là Chấp giữ. Nay nói địa vị chẳng khởi tức Bát địa trở lên. Do lìa chỗ chấp của ngã kiến, không gọi là A-lại-da, nên mất tên kia. Nhưng phân biệt, v.v… trở xuống: là địa vị lúc nhập quán, có tạm chẳng khởi, nên nói là hằng. Nhưng chẳng mất thức thể, nên nói là mất tên. Lại năng tạng v.v… trở xuống là nghóa sở tạng: Nghóa là thức này là thể tạng ở căn thân hạt giống thế gian. Do căn thân, v.v… là tướng phần của thức này. Như hạt châu trong pho tượng, chẳng giống như thân ở trong thất. Nếu tìm thức A-lại-da chỉ ở trong sắc tâm, muốn tìm hạt châu ma ni chỉ ở trong xanh vàng. Lại các pháp năng tàng v.v… trở xuống, là nghóa năng tàng. Nghóa là căn thân các pháp đều ẩn ở trong thức thể, như hạt ngọc trong pho tượng, muốn tìm tất cả tượng, gồm ở trong ma-ni. Nhưng chỉ lấy nghóa trước làm năng sở lẫn nhau. Luận nói: v.v… trở xuống, là dẫn Duy thức chứng thành rất dễ hiểu. Khoa nói: Giải thích tâm sinh diệt ở trên. Do trong phần lập nghóa nói là tướng nhân duyên tâm sinh diệt, nay lại giải thích tâm sinh diệt. Luận hai thứ nghóa v.v… trở xuống, sớ chia làm hai: Giải thích khai số, có hai: Nêu lên giải thích ý: Ít nạn: do đây trong một thức có hai nghóa bao gồm nhiều pháp. Bên ngoài bao la muôn tuợng, bên trong năng sở đều thành. Còn thì sinh tử không bờ mé, phá thì sẽ được Niết-bàn. Nếu không phân biệt, thì làm sao rõ biết. Hành tướng u ẩn, nên gọi là Nạn. Nhưng trí sâu kia ở đây có thể rõ. Lại, nói ít là chút ít, là bao gồm kiểm nghiệm chung trước sau của luận để giải thích ý này, nhưng cũng chỉ bằng môn Sinh diệt. Y nghóa giải thích đủ, vì sao? V.v… trở xuống. Có ba: Theo chân vọng khai hợp để giải thích nghóa, căn có bảy: Khai chân vọng thành bốn nghóa: Nhưng Chân và vọng đều nương nhất pháp giới mà nói tâm. Bởi tâm này xưa nay có thể, có dụng, tức thể ở dụng thì tịch nhiên vắng lặng, tức dụng ở thể rõ ràng giác biết. Do từ vô thỉ mê lầm, ở chỗ vắng lặng ràng buộc căn thân, trần cảnh, ở chỗ giác biết thì phân biệt tán loạn duyên lự. Nên Triệu Công nói: “Pháp thân ẩn nơi hình tướng, chân trí ẩn trong duyên lự. Tuy nhiên, hình tướng duyên lự xưa nay thể không, vắng lặng giác biết xưa nay bất biến. Chân thật bất biến vốn tự tùy duyên, vọng nơi thể không, xưa nay thành sự, chẳng có nhân tạo tác pháp cũng như thế. Chúng sinh thân tâm hiện nay nếu như thế, tức đối với nghóa này để nói nghóa nhiễm tịnh duyên khởi, nay chẳng nêu riêng. Nhất tâm: bao gồm tại trong chữ Chân, do không có hai thể. Bất biến, chưa từng chẳng vắng lặng, chưa từng chẳng hay biết. Nên luận nói: “Có chỗ cho rằng tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt” Lại nói: “Chẳng tương ưng tất cả pháp nhiễm.” Lại nói: “Có chỗ nói giác là tâm thể lìa niệm, v.v… hư không giới”. Tùy duyên, là theo nhiễm thuận dòng mà thành chín tướng. Văn nói: “Nương Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt, v.v…” Theo tịnh ngược gốc thành bốn địa vị, nên văn sau nói: “Giác biết niệm trước khởi ác, dừng được niệm sau chẳng để kia khởi”. Thể không: pháp biến kế tình có lý không, nên luận nói: “Tất cả các pháp chỉ do vọng niệm mà có khác nhau.” Lại, nương pháp khác tướng có tánh không, nên luận nói: “Cho nên tất cả pháp như bóng trong gương” không thật có. Thành sự: thành việc nhiễm thì ba cõi nương chánh, thành việc tịnh thì ba thừa do nơi quả. Như điều nói ở dưới là chín tướng hai thân. Đây là tùy duyên như giấc mộng, thành sự như mộng thấy vật. Thể không cùng giấc mộng, thấy vật vốn không, bất biến như trong thân như nhiên. Gom bốn nghóa thành hai môn. Chân này, v.v… trở xuống: Nghóa đầu tức trong chân bất biến, trong vọng thể không, do đây hai nghóa thành môn Chân như. Môn này nhiếp vọng thì vọng thể không, nhiếp chân thì chân bất biến. Nhiễm tịnh bình đẳng nhất tướng vô tướng, nên có môn này. Nghóa sau tức trong chân tùy duyên, trong vọng thành sự, do đây hai nghóa thành môn Sinh diệt, môn này nhiếp chân thì chân tùy duyên, nhiếp vọng thì vọng thành sự, tức thành tướng nhiễm tịnh, các pháp khác nhau nên có môn này. Khai sinh diệt thành bốn nghóa: Đây tùy v.v… trở xuống, đây là trong môn Sinh diệt, chân vọng đối nhau, tự tha luận lẫn nhau, liền thành bốn nghóa. Song trong chân trái với tha thuận với tự, tức là trong vọng trái với tự, thuận với tha. Trong chân trái với tự, thuận với tha tức là trong vọng trái với tha, thuận với tự. Chỉ vì môn khác nhau mà nghóa là một, hành tướng trái thuận thấy ở văn sau. Khai bốn nghóa thành tám nghóa: Vô minh v.v… trở xuống, có ba: Chỉ bày tám nghóa: Vô minh v.v… trở xuống, nói về bốn nghóa trong vọng. Chỉ bày tánh, v.v… ngược dòng đối nhiễm hiển bày công đức chân tánh. Như ở sau nói: “Bất giác niệm khởi thấy các cảnh giới, nên nói là vô minh. Tâm tánh chẳng khởi tức nghóa trí tuệ sáng suốt rộng lớn”. Cho đến nếu tâm có động, có đủ nghóa vọng nhiễm nhiều hơn hà sa. Tâm tánh chẳng động thì có nghóa các tướng tịnh công đức, thị hiện nhiều hơn hà sa, lại nói tánh vốn không nhỏ hẹp, thuận tu đàn độ. Biết danh nghóa, vọng tâm phân biệt thuận lúc sinh diệt, thuộc về vô minh, gọi là dụng nhiễm, nếu thuận chân như thì gọi là Dụng tịnh. Nên văn sau nói: “Do có bất giác tâm vọng tưởng, nên biết được danh nghóa vì đó nói chân giác. Nếu lìa tâm bất giác thì không có tự tướng chân giác để nói”. Lại nói: “Pháp nhiễm vô minh thật không có dụng tịnh, chỉ do chân như huân tập nên có dụng tịnh”. Ẩn chân: chân lý bình đẳng, vọng tâm khác nhau. Khi vọng hiện khác nhau, chân bình đẳng liền ẩn. Văn sau nói: “Nghóa tâm nhiễm gọi là phiền não ngại, làm chướng trí căn bản chân như.” Nghóa vô minh: gọi là trí ngại, làm chướng nghiệp chướng tự nhiên ở thế gian. Nên thành vọng tâm: do chỗ khởi của vô minh huân tập, luận nói: “Vì có nhân pháp nhiễm vô minh huân tập chân như, do huân tập nên có vọng tâm, v.v…” Lại nói: “Nghóa vô minh huân tập có hai thứ. Căn bản huân tập vì thành tựu nghóa nghiệp thức. Chỗ khởi kiến ái huân tập, vì thành tựu nghóa phân biệt sự thức”. Chân như v.v… trở xuống, nói trong chân có bốn nghóa. Hiển bày chân đức, ngược dòng ngược nhiễm, hình đối pháp vọng để hiển bày chân đức này. Tức phần sau theo nhiễm tướng trí tịnh trong bản giác. Văn nói: “Nương pháp lực huân tập, như thật tu hành đầy đủ phương tiện, phá tướng thức hòa hợp diệt tướng tâm nối tiếp, hiển bày Pháp thân trí thuần tịnh”. Khởi dụng tịnh: vô minh là vọng, thường khởi dụng nhiễm. Vì chân có năng lực huân tập, khiến kia ngược dòng thuận tánh chân như, nên nói dụng tịnh. Sau nói: “Tự thể tướng huân tập là từ vô thỉ đến nay có đủ pháp vô lậu, có đủ nghiệp không thể nghó bàn, tạo tánh cảnh giới. Nương hai nghóa này thành thường huân tập, khiến cho chúng sinh chán khổ sinh tử ưa cầu Niết-bàn”. Lại nói: “Do có pháp chân như, huân tập vô minh, cho đến được Niết-bàn, thành nghiệp tự nhiên, v.v…” Chân ẩn: tức ở trước nói chân như tùy duyên thành thức A-lại-da, đã thành thức rồi ẩn ở trong thức, do kia ẩn gọi là Như Lai tạng, đã thấy tất cả văn trên. Vọng hiện” chân thể đã ẩn, tướng vọng tức hiện, là tướng cảnh giới. Sau nói: “Chẳng rõ pháp chân như nên bất giác niệm khởi, hiện cảnh giới vọng”. Hợp đối bốn giác: Trên đây v.v… trở xuống là hợp đối với bốn giác. Nhưng giác này và bất giác chỉ lấy tướng chân vọng khác với môn, mỗi thứ có bốn nghóa nên khai thành tám. Nay đối với chân vọng, mỗi thứ phân ra thể dụng… hai hai theo nhau nêu chỉ có bốn. Như sớ có bốn đoạn. Hai đoạn trước đứng về mặt tịnh phân thể dụng kia. Đoạn đầu hợp hai, thuận thể thành bản giác. Kế lại do v.v… trở xuống, hợp hai thuận dụng thành thỉ giác. Sau lại do v.v… trở xuống hai đoạn là nhiễm mà phân chia thể dụng kia. Đoạn đầu hợp hai, thuận thể thành căn bản bất giác. Kế Lại do trở xuống, hợp hai thuận dụng thành bất giác chi mạt. Là do hai, hai hợp luận chính thành nhiễm tịnh, mỗi thứ phân ra thể dụng, nên hợp tám thứ trước thành bốn nghóa. Kết chỉ rộng lược, đây sinh v.v… trở xuống: nhưng tám môn rộng thì đã tột, bốn môn lược thì chưa tột. Do thứ lớp lại có hai làm một. Nói bốn nghóa, tức bốn nghóa trái thuận ở trên, chẳng chấp bốn giác này làm bốn, lấy đây tổng kết chỉ văn trên. Gom tám nghóa thành bốn môn: Đứng về mặt v.v… trở xuống. Nói phân tướng, nghóa là giới hạn của pháp tướng. Do tất cả duyên tịnh phần hạn pháp tướng thuộc ở hai giác, tất cả duyên nhiễm phần hạn pháp tướng thuộc về hai bất giác. Lại trong đó thể của pháp tịnh thuộc về Bản giác, dụng của pháp tịnh thuộc về Thỉ giác. Thể của pháp nhiễm thuộc bất giác căn bản. Tướng của pháp nhiễm thuộc bất giác chi mạt, nên hợp tám thứ trước để thành bốn. Gom bốn môn thành hai nghóa: Nếu bổn v.v…trở xuống: Nghóa làø Thỉ giác là ngọn, chẳng lìa gốc bản giác. Nên văn sau nói: Thỉ giác tức đồng bản giác. Lại nói: Thật chẳng khác thỉ giác, cho đến bình đẳng thành một giác. Bất giác chi mạt chẳng lìa căn bản bất giác. Văn sau nói: “Nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm, vì tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác. Nhưng, Bản giác Thỉ giác chỉ là khác thể dụng. Hai bất giác căn bản, chi mạt chỉ là khác thô tế, đây được lìa thể có dụng, lìa tế có thô nên chỉ có hai. Hợp hai nghóa thành một môn, nếu bao dung v.v… trở xuống, do gốc từ một môn sinh diệt, lần lượt khai thành nghóa tám môn, cho đến y cứ gốc để nói ngọn. Nay lại thâu gom thành môn Sinh diệt, thì đó là nhiếp ngọn về gốc. Theo giới hạn các thức để kết thành: Lại nếu v.v… trở xuống, là đứng về mặt giới hạn các thức để kết thành. Các thức, v.v…, tức bổn thức và sự thức. Nhưng hai thức này giới hạn hành tướng đều chẳng phải tướng. Do bổn thức là thể, sự thức thuộc dụng. Nay lấy hai bổn là thể, nên phân ở thể, do A-lại-da từ vô thỉ nối tiếp đầy đủ giác, bất giác. Hành tướng thuận nhau, nên hai bổn đều ở trong đó. Văn sau nói: “Do Như Lai tạng không có mé trước, tướng vô minh cũng không có ban đầu”. Ngoài hai, v.v…, khi thỉ giác ngộ mới có sáu thô nương gá cảnh mà sinh ra, hành tướng thô phù nên ở thô phân. Cho nên hai tướng này ở trong thức sinh khởi, đây là nhiếp bốn giác về hai thức. Nếu về bản giác v.v… trở xuống là nhiếp sự thức trở về bổn thức. Do thể dụng chẳng hai, như sóng và nước. Cho nên bốn nghóa đều chẳng lìa bốn thức. Đây tức là đồng một môn Sinh diệt ở trước. Trước là nói theo môn, nay là nói theo thức. Nên nói v.v… trở xuống là tổng kết do rộng thành tám, nhiếp thành hai. Hai nghóa đều từ trong một thức xuất phát. Nên nay luận nói: “Thức này có hai nghóa”. Theo hỏi đáp thông ngại để nói về khác: Hỏi: Đây v.v… trở xuống, có hai: Nói về khác có hai nghóa: Ý hỏi rất dễ hiểu. Trong phần đáp, trước phân biệt chính đáp. Ban đầu nói nhất tâm có hai nghóa, tức nương nhất tâm pháp có hai thứ nghóa môn. Tùy duyên là môn Sinh diệt, bất biến là môn Chân như. Nay đây v.v… trở xuống là nói một thức có hai nghóa, tức chỉ theo môn Sinh diệt, không bao gồm môn Chân như. Trong đây, lý tịnh tức nghóa giác, sự nhiễm tức nghóa bất giác, tức nghóa sinh diệt chẳng sinh diệt hòa hợp ở trước. Rộng như ở trước giải thích. Không hai tướng tức nghóa hòa hợp chẳng khác ở trước. Nhiễm tịnh, v.v… tức là nghóa chẳng phải một. Đó là v.v… trở xuống, phân thành rộng hẹp rất dễ hiểu. Nói về khác, có hai: Hỏi ở đây v.v… trở xuống: Ý hỏi rằng: Nếu nói đồng thì phải đều gọi là Chân như, chẳng như thế thì đều gọi Bản giác. Vì sao trước sau đặt tên riêng? Nếu nói khác, tại sao lại luận riêng. Trong phần đáp đứng về mặt thể dứt tướng. Như ở trước nói: Tâm chân như tức là thể nhất pháp giới pháp môn đại tổng tướng, cho đến lìa tướng nói năng, danh tự tâm duyên. Bản giác, v.v…, là chỗ chỉ bày Tướng đại trong văn. Bổn v.v… trở xuống là giải thích lý do, là công đức bổn tánh tức giác. Nay lược để đặt tên, là bản giác. Đứng về mặt rộng để nói lên tướng, gọi là tánh công đức. Do đây v.v… trở xuống là tổng kết phân biệt chỗ khác nhau. Nghóa là tên của bản giác không nói trong môn Chân như, mà trong môn Sinh diệt, do đứng về mặt ngược vọng mà lập. Cho nên v.v… trở xuống là dẫn chứng điều mà pháp chỉ bày, chứng thành nghóa trước. Luận: Sinh ra tất cả pháp, Sớ có ba: Đối môn trước để thông mỗi nghóa: Hai thứ trên v.v… trở xuống: nạn ngoài đoạn văn. Do đây v.v… trở xuống: giải thích chung nghóa hẹp, như trước đã thấy. Do bao gồm trở xuống: nói nhiếp tất cả, tất cả tuy nhiều không ngoài nhiễm tịnh. Nay có nghóa giác nên nhiếp tịnh, có nghóa bất giác nên nhiếp nhiễm, nên nói tất cả pháp. Chẳng nói v.v… trở xuống là nói chẳng đồng hai môn. Do tướng nhiễm tịnh gồm hết mới thành tất cả. Nay nghóa giác nhiếp tịnh chẳng nhiếp nhiễm, nghóa bất giác nhiếp nhiễm chẳng nhiếp tịnh, đó là hai nghóa cộng nhiếp tất cả thì có thể được, mỗi thứ nhiếp tất cả thì không thể được. Trong nếu một tâm hai môn, thì mỗi môn đã tự nhiếp nhiễm tịnh, do đó mà khác nhau, nên không nói mỗi thứ. Phân biệt văn trước: Lại trên v.v… trở xuống là phân biệt văn trước để do giải thích nghóa sinh, trước là văn hỏi. Do chân v.v… trở xuống là giải thích chung. Không có nghóa năng sinh, Văn nói: Vì tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt. Cho nên bất giác v.v… trở xuống, là mặt thuận theo dòng, sinh ra các pháp nhiễm, tức ba tế sáu thô, v.v… Do bản giác v.v… trở xuống, là theo ngược dòng. Sinh ra các pháp tịnh, tức bốn vị, hai thân. Nương đây v.v… trở xuống là kết chung. môn? Dưới bốn v.v… trở xuống là dẫn chứng chỗ nói. Hỏi: Môn này đã có nghóa sinh, vì sao lúc đầu không nói trong hai Đáp: Văn trước lấy sinh diệt và chân như đồng chỗ để nêu bày nên không tiện nói. Nay ở đây nói riêng, nên được nói là sinh. Thuộc về nói nghóa: Chẳng phải ngay đây v.v… trở xuống. Giống như vàng làm thành đồ trang sức, đồ trang sức không lìa vàng. Nước sinh ra sóng, sóng chẳng lìa nước, tức nghóa tạng này trong ba tạng. Đứng về tịnh, v.v…, Giác là pháp tịnh, trong đó có thỉ có bổn. Tức lúc theo dòng thể (bản giác) ẩn, dụng (thỉ giác) phế bỏ thì diệt. Khi ngược dòng thể hiển dụng khởi làm sinh. Luận: Có chỗ nói v.v… trở xuống, có hai: Hiển bày thể giác: Nghóa là tâm v.v… trở xuống, là nêu. Sớ Lìa ở nơi, v.v… Tâm thể chân thật vốn tự sáng rỡ, niệm tướng luống dối từ xưa đến nay mê mờ. Nếu tâm có niệm ấy là mê mờ, gọi là bất giác. Tâm đã lìa niệm thì không mê mờ, chỉ một cái biết sáng suốt, gọi là Giác. Lại nói thể lìa, nên biết vốn không. Do vốn không nên gọi là Bản giác. Luận: Lìa tướng niệm v.v… trở xuống: là giải thích. Tướng là nghóa tướng, tức hai nghóa ở sau. Hai nghóa này chính là tướng Bản giác, tức Tướng đại. Chữ “Đẳng” nghóa là đồng nhau, nghóa là nghóa Bản giác đồng với hư không. Sớ: Chẳng phải chỉ, v.v…, là giải thích chữ Tướng, tức nghóa trí tuệ rộng lớn sáng suốt. Do mỗi nghóa xứng với thể mà khắp, chẳng khác chẳng hai, đều đồng hư không, nên nói đồng với hư không. Văn này là nghóa của Hải Đông sớ, nên ở đây dẫn chứng để dùng. Hai nghóa như chỗ phối hợp ở sau. Ngang khắp ba đời, nếu nói trùm khắp thì là nói chung cã phàm thánh, nếu nói chung thì hợp với ba mé. Nay chỗ khác, là do ba mé, phàm thánh có thông lẫn nhau nên khi nêu ba đời thì trong mỗi mé phải đủ phàm thánh. Phàm thánh đều như, nên nói rộng khắp ba đời. Khi nêu phàm thánh, mỗi phàm thánh đu cảû ba đời, đầu cuối đều như vậy, nên nói ngang dọc chung cả phàm thánh. Bởi muốn khác với thường nói rộng mà chẳng nói ngang dọc, nên có lời này để nói lên đều trùm khắp. Tại triền, v.v…,. đây tuy nói về mặt ngang dọc, lời nói dường như chưa tột, nhưng lý cũng bao gồm thâu nhiếp. Nghóa là tại triền sẽ đủ tính khí, xuất chướng sẽ thâu nhiếp thân, hai đều không hai. Hội thể đặt tên: Luận Tức là v.v… trở xuống, Như Lai là ứng thân, Pháp thân là chân thân. Pháp thân Như Lai là Y só thích. ý nói tâm thể và Pháp thân không hai, nên nói tức là. Lại, lìa chân thân không ứng thân, ứng thân tức là chân thân, nên nói tức là. Pháp thân Như Lai đều đồng chân thân, vì đứng về mặt nhân để nêu pháp, gọi là Pháp thân Như Lai, cũng nghóa tức là. Hai câu trên đều là Trì nghiệp thích, do đó chữ Tức chung cả ba dụng. Nhưng một dụng đầu là chính, hai dụng sau là gồm cả, người học nên biết. Nói bình đẳng, v.v…, Thánh phàm chân tính viên mãn không hai. Sớ: Muốn rõ, v.v…, muốn hiển bày bản giác tại triền nên nêu Pháp thân xuất triền. Đây là đứng về mặt quả để nói bày nhân, tuy tên nhân quả có khác mà thể chân thật không hai nên luận nói tức là. Luận: Nương đây, là nương thể đặt tên. Nghóa là tâm thể vắng lặng không có thay đổi. Từ xưa đến nay đáng làm khuôn phép, nên gọi là Pháp, là thể nương tụ nên gọi là Thân. Nay nương thể này mà đặt tên giác để nói lên Pháp thân, chẳng phải một bề bất động vắng lặng, không hay không biết. Lại, hiển bày giác này chẳng phải là pháp hữu vi sinh diệt, nên đứng về mặt Pháp thân để lập. Đây tức trên một thể vắng lặng nên gọi là Pháp thân, vì chiếu soi nên gọi là bản giác. Cái gọi là nương; chỉ là nương vào nghóa, chẳng đồng với cỏ cây nương gốc có mầm phân ra năng sở. Cũng chẳng đồng nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt, có tâm chân vọng. Đây chính là một thể chân thật, chỉ đối với thể này nghóa chiếu cũng vậy, gọi là Bản giác. Sớ: Đã là, v.v…, lý của Pháp thân trong giáo Ba thừa đồng chấp nhận bất sinh bất diệt là pháp sẵn có, đã gọi pháp này là giác thì có thể làm bổn. Không tánh v.v… trở xuống, là dẫn chứng, Bản giác là nghóa Pháp thân. Do trong tông này lý trí không khác, tức trí của lý gọi là bản giác, tức lý của trí gọi là Pháp thân. Như hạt ngọc sáng không hai không khác, chẳng đồng quyền tông là không, là khác.  <卷>QUYỂN 9 - GIẢI THÍCH TÊN BẢN GIÁC: Sớ có hai. Theo văn giải thích riêng: Ý gạn rằng: Hai là phản trái thành nạn mà thật không hai. Bổn sớ nói: “Tiến lùi thành nạn”. Do đối v.v…, ở sau nói: “Nên biết pháp nhiễm, pháp tịnh đều đối đãi nhau” Nay đây đứng về mặt đối lại ở chỗ mới phát sinh, lập làm cái sẵn có. Vì thỉ giác từ lúc tu mới phát sinh, tánh bản giác vốn tự sẵn có. Do đó đối lại Thỉ để lập Bổn. Lại do, v.v… trở xuống, đứng về nghóa riêng để giải thích, trước đối với Thỉ gọi là Bổn. Nay ở chỗ phát sinh Thỉ mà gọi là Bổn, vốn Thỉ giác kia là gốc phát sinh, nhân bên trong huân tập, bên ngoài nhờ năng lực của duyên, sáng rỡ mà có nên gọi là Thỉ. Sinh ở Thỉ nên gọi là Bổn. Nếu không có chỗ phát sinh thì cũng không gọi là Bổn. Như người nữ sinh con mới được gọi là Mẹ. Nói về nguyên do tên gọi giác: Do đến, v.v… trở xuống: ở đây nói chỉ nguyên do tên gọi giác. Do thỉ bổn đã hợp thì không hai tướng, không hai tướng nên chỉ là một giác. Văn sau nói: “Cũng chẳng khác thỉ giác”. Do bốn tướng xưa nay bình đẳng đồng một giác”. Lại đây v.v… trở xuống là đứng về mặt riêng để giải thích nghóa riêng. Đoạn trước là nói lý do Nhất giác. Đây là nói lý do Thỉ giác. Ý nói đoạn này văn luận là nói về Thỉ giác. Vì nương Bổn khởi Thỉ, Thỉ lại đồng Bổn, nên gọi Thỉ giác. Do thỉ được giác vô niệm gọi là chân thỉ giác. Ở trước tuy cũng tên thỉ giác, vì chưa lìa niệm vẫn gọi là bất giác, hoặc lập tướng tương tự theo phần giống tên, đến đây niệm hết đã giác tướng ban đầu, nên gọi Thỉ giác. Nên biết ngay đây đợi hợp nguồn tâm bản giác, nên gọi là cứu cánh giác. Tướng trí tịnh đều đồng Thỉ giác. Hỏi đáp trái nghóa: Hỏi: Nếu v.v… trở xuống là hỏi đáp trái ngăn. Khác chẳng thành thỉ, do trước nói: “Là chỗ thành của bổn, nên dung đồng bổn thể mới gọi Thỉ giác”. Đồng chẳng thành thỉ, do trước nói: “Khi đến nguồn tâm, thỉ bổn không hai, bình đẳng một tướng, không có đối đãi nhau. Đồng khác cả hai đều lập, tại sao nói đối lại thỉ để lập bổn? Ở đây hỏi nhân thứ lớp trong văn của sớ từ trước đến nay. Ý đáp, ngày xưa bất giác mà nay mới giác. Nếu tột thể kia cùng bổn chẳng khác, là theo nghóa đối đãi của môn Sinh diệt, gọi là Thỉ và Bổn. Hình vốn bất giác: hình vốn giác nên đặt tên là thỉ, hình bất giác nên đặt tên là giác. Nếu đến nguồn tâm đã thuộc môn chân như, chẳng đồng nạn vấn ở trước. Mà thật là thỉ giác, v.v.., không có hình duyên nhiễm bất giác đối đãi, nên không gọi là Giác; với bình đẳng chẳng khác bổn, nên không gọi là Thỉ. Chỉ gọi là Chân như, không gọi là Bản giác thỉ giác. Do đó trong môn chân như chỉ hiển bày ở thể, không hiển bày ở tướng dụng. Thỉ giác: Sớ Nói khởi, v.v… là nói về Thỉ giác, Văn tuy ở sau mới nói, nhưng cũng không ngoài sự uyển chuyển tìm tòi nguyên nhân nguồn gốc của bản giác. Do mê bản giác mới có vọng niệm, vọng niệm tức là bất giác. Trước nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt, sau nương giác nên có mê v.v… Như nương người chẳng ngủ mà có người ngủ. Luận: Nương bất giác mà có thỉ giác, như nương người ngủ mới có người thức. Sớ có ba. Giải thích riêng văn: Bản giác, v.v.., sau là nói: “Do có pháp chân như nên luân tập vô minh, do huân tập nên khiến vọng tâm chán khổ sinh tử, cầu vui Niết- bàn,…” Rốt ráo đồng bổn v.v.., ở sau nói: “Mà thật không khác Thỉ giác, xưa nay bình đẳng đồng một giác.” Văn sau dẫn chứng: Tức trong văn bản giác theo nhiễm, đây là bản giác lìa nhiễm mới được tịnh, gọi là thỉ giác. - Nói chung về ý luận: Văn này v.v… trở xuống là mói chung về ý luận, như người thích ngũ mới thành người ngủ, người ngủ thành người thức, ở đây nói lần lượt thành lập. Thỉ giác đồng bổn v.v… trở xuống là nói lần lượt dứt hẳn. Như người thức đồng người ưa thích, do đồng người ưa thích tức không có người ngũ, không có người ngủ tức không có người thức, không có người thức tức không có người ưa thích, không có người ưa thích nên bình đẳng, bình đẳng cũng không thật có. Nói bình đẳng: thỉ bổn chẳng khác, lại nói có hai ý: Thỉ giác và bản giác bình đẳng, thỉ tức bổn, Bản giác bình đẳng với bất giác, bất giác tức bản giác. Bổn thỉ bất giác rốt ráo không khác nhau, vốn tự bình đẳng. Lại, sai biệt bình đẳng cũng lại bình đẳng. Lìa ngôn ngữ: muốn nói thể thỉ giác đồng bổn, muốn nói bản giác không có chỗ đối. Muốn nói thể bất giác không có chỗ đối, nói thể bất giác tức giác. Lời nói không đến được, nên nói lìa ngôn ngữ. Do lìa ngôn ngữ nên không có tướng để được. Chỗ tâm hành diệt, nên nói dứt suy nghó. Đây là dứt hẳn đồng môn chân như. - Kết thúc chỉ bày: Cho nên v.v… trở xuống là tổng kết chỉ bày. Viên dung, viên nhiếp cả nhiễm tịnh, dung thông giác và bất giác trở về một thể thanh tịnh rỗng rang, không còn hệ lụy, ở giữa mê và giác không trụ trước vào một bên nào, nên nói là không nương. Huống chi có ba thân khác nhau: Vì ba thân do thỉ bổn mà thành, thỉ bổn đã không lập, thì đâu có ba thân khác nhau, ở đây phân biệt quyền giáo quyết định nói ba thân sau biệt, ở trong đó có chia ra vi và vô vi, riêng khai với ba thường khác. Chỉ theo v.v… trở xuống là giải thích nghi. Hoặc nói v.v… trở xuống là nói nghiệp tướng không thể nghó bàn duyên huân tập gương báo thân, ứng thân. Lại nói: “Vô minh tất cả có nghiệp không thể nghó bàn, hay hiện thân ở khắp mười phương làm lợi ích chúng sinh. Đây đâu chẳng phải là dụng của báo hóa, vì sao nói không có ba thân? nên ở đây giải thích. Chỉ đứng về mặt căn cơ thấy có khác, gọi là thân báo hóa. Nếu đứng về mặt quả thật không có thân để nói. Văn sau tức dụng đại của chân như, văn nói: “chư Phật, Như Lai chỉ là Pháp thân là thân trí tướng, là pháp nghóa đế bậc nhất không có thế đế để thấy, chỉ theo chúng sinh thấy nghe được lợi ích, nên nói là dụng. - Khoa thỉ giác: Cũng có thể ở trước lược nói về thể thỉ giác, nay nói rộng tướng Thỉ giác, sau thỉ chẳng khác bổn, tức kết tướng đồng thể. Nêu nhân quả. Sớ: Tâm nhiễm, tức sáu tâm nhiễm. Tánh tịnh, tức Như Lai tạng. Do tịnh như thành nhiễm, nên nói tịnh làm nguồn nhiễm. Sau nói: “Tâm này xưa nay tự tánh thanh tịnh, mà có vô minh vì vô minh làm nhiễm mà có tâm nhiễm kia”. Tướng thô, tức hai tướng chuyển thức và hiện thức và sáu thô, v.v… Chuyển và niệm cũng là thô trong tế, đều là tướng thô. Tướng sinh tức nghiệp tướng, vọng trong đó rất tế, do thô từ tế mà sinh, nói tế làm nguồn thô. Nên văn sau nói: “Tế trong thô, thô trong tế là cảnh giới Bồ-tát, tế trong tế là cảnh giới Phật”. Tuy nhiên, nói nguồn tâm, trong sớ có hai giải thích, đầu tiên là giải thích Y só thích, kế là giải thích Y só thích, trì nghiệp thích. Hoặc có thể tâm tịnh tức nguồn, là trì nghiệp thích. Đây giải thích cùng sớ ban đầu giải thích, đều tột chỗ sở chứng, kế là giải thích của sớ là tột chỗ dứt. Hai chữ nguồn tâm này chung nơi chân vọng. Chữ Giác tức là thỉ giác, Thỉ giác đến nơi tướng sinh, tướng sinh đủ để dứt trừ. Thỉ giác đến nơi tánh tịnh, tánh tịnh đủ để thầm hợp. Văn sau nói: “Giác (thỉ giác) tâm (tánh tịnh) mới khởi (tướng sinh) tâm (thần hợp). Không có tướng ban đầu (dứt trừ) để xa lìa niệm vi tế (chỗ dứt ở trên) được thấy tâm tánh. Tâm tức thường trụ (chú thích hợp ở trên) gọi là giác rốt ráo (năng sở đã hợp, đặt riêng tên này). Con đường thỉ giác viên mãn: con đường tức nghóa nhân đến trong địa vị này, nhân viên mãn thành quả, bổn thỉ chẳng khác, gọi là cứu cánh giác, tức Phật địa. Chẳng rõ v.v…, có chỗ ngăn cách của tướng sinh. Kim cương, v.v…, Kim cương dụ cho định Vô gián, trở lại cho đến tất cả dị sinh, tức văn sau theo phần tương tự và bất giác, v.v… Ở đây rốt ráo là Quả, chẳng rốt ráo là Nhân. Sớ: Ba tướng trước, là diệt, dị, trụ. Giác ba tướng này rồi gọi là chẳng rốt ráo. Một tướng sau tức tướng sinh, tột tướng này gọi là rốt ráo. Đây đứng về mặt ngược dòng nên tướng sinh ở sau, nếu đứng về mặt thuận dòng thì tướng diệt ở sau. Khoa hiển bày bốn vị: Ở đây đồng bốn quả: Viên giác, phàm hiền, thánh. Hoặc khai làm năm vị là Tư lương, Gia hạnh, Thông đạt, Tu tập, Rốt ráo. Hoặc bao gồm ba, nghóa là Tín hạnh, Tịnh tâm, Rốt ráo. rộng tức năm mươi hai vị, sớ có ba: - Trình bày chung ý văn. Văn có bảy: Lược nêu đại ý: Thô thì tướng diệt, tế thì tướng sinh, trung gian hướng về thô chung lẫn nhau. Nương tế hiển bày v.v…, nương gá bốn tướng trần lao ở trên, để làm rõ phần hạn công lực của thỉ giác, là đối với thô tế sở giác, nói chỗ cạn sâu của năng giác. Giản trạch bốn tướng, nhưng đây v.v… trở xuống là ý hiển bày chân tâm theo vô minh huân, từ tế đến thô, từ hoặc đến nghiệp. Nương hoặc nghiệp trên đây nói làm bốn nghóa chính là một thời kỳ của bốn tướng. Chẳng đứng về mặt v.v…, trong một sát-na tuy có bốn tướng, chẳng phải nay mới phân biệt chỗ giải thích. Giải thích nghóa bản giác. Nay do v.v… trở xuống, có hai: Nêu lên: Như văn. Giải thích văn. Có hai: Chung: Có ba: Trình bày chung khởi vọng, có hai: Trình bày nguồn gốc, chữ cúc là tột cùng, chữ Phù là lời nói mở đầu. Nghóa là tột cùng nguyên do bốn tướng này, vốn do tâm mê mà thành, hoặc hai chữ đều là phát ngữ. Tâm tánh v.v… trở xuống là trình bày chỗ mê tâm thể, tức môn chân như, như văn trước nói: “Bởi vì tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt, cho đến lìa tâm duyên tướng”. Mà có v.v… trở xuống là nói do mê thành Sinh diệt, tức môn sinh diệt. Như trước nói: “Nương Như Lai tạng có tâm Sinh diệt, v.v…” Dẫn chứng: Kinh nói v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Ban đầu là Niết-bàn, như ở trước dẫn chứng. Lại, kinh tức Pháp thân chẳng thêm chẳng bớt. Kinh ấy nói: “Ngay nơi Pháp thân này vượt hơn hằng hà sa. Vô biên phiền não trói buộc từ vô thỉ đến nay thuận theo lượn sóng thế gian, trôi nổi qua lại trong sinh tử, gọi là Chúng sinh, nay sớ lược dẫn đại khái. Dưới đây v.v… trở xuống, tức bản giác theo nhiễm trong văn. Phối hợp chung bốn tướng: Nay v.v … trở xuống, như văn. Dẫn luận giải thích thành: Phật tánh v.v… trở xuống là dẫn luận giải thích thành, luận kia nói mỗi hữu vi đều là chỗ dời đổi của bốn tướng, để dẫn chứng luận một thời kỳ của bốn tướng. Riêng: riêng, v.v… trở xuống, có hai: Lược phối hợp văn sau: Về địa vị v.v…, tức đem bốn tướng giác này, đối với văn sáu nhiễm ở sau. Tức biết bốn tướng này riêng mỗi tướng thành nhiều ít khác nhau. Như văn sau nói: “Một, chấp tương ưng nhiễm, nương Nhị thừa giải thoát và địa vị xa lìa của tín tương ưng”, tức là văn này như người Nhị thừa quán trí Bồ-tát sơ phát tâm giác ở nơi tướng, niệm khác, niệm không khác. Văn sau nói đủ: Hai, chẳng đoạn tương ưng nhiễm, nương địa vị tín tương ưng, phương tiện tu học dần dần xả được tâm địa tịnh lìa rốt ráo”. Cho đến “Năm là tâm năng chẳng tương ưng nhiễm, nương địa vị tâm tự tại để xa lìa”. Bốn nhiễm trên đây tức là văn này nói: “Bồ-tát Pháp thân giác ở nơi niệm trụ, niệm không có tướng trụ, v.v…”. Lại, văn sau nói: “Sáu là, nghiệp căn bản chẳng tương ưng nhiễm, nương địa vị tột cùng của Bồ-tát được vào địa vị Như Lai, có thể xa lìa”. Tức là văn này như Bồ-tát địa tận, đầy đủ phương tiện, một niệm tương ưng giác tâm ban đầu khởi, tâm không có tướng ban đầu. Do đây đối với kia đủ thấy bốn tướng nghóa riêng biệt, chỉ vì kia đứng về mặt tịnh trí trái nhiễm, một mặt ở nói theo con đường phiền não, nên không nói ở tướng diệt. Văn nay đứng về mặt giác khởi đầu cuối. Luận có đủ nên nói chung bốn tướng. Theo Hải Đông sớ phối hợp. Sinh tướng có ba là ba tế; Trụ tướng có bốn bốn hoặc cửa là ý thức; Dị tướng có sáu, tức sáu phiền não căn bản, diệt tướng có bảy tức thân ba, miệng bốn. Nhưng, chỗ nói pháp thể kia có đồng, chỉ khai hợp có khác. Nay sớ ngay nơi luận mà nói, vì phải yếu thuận tông, nên không bỏ gần mà lấy xa. Giải thích rộng: Tướng sinh v.v… trở xuống, có bốn: - Nghiệp tướng: Nghiệp tướng, là nêu tên. Nghóa là do v.v… trở xuống là giải thích tướng Do vô minh v.v… trở xuống là tổng kết thành. Tiêu biểu ở đây trước không, nên gọi là tướng sinh, Sâu xa, v.v… trở xuống là khen ngợi riêng. Văn sau v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Tức nhân duyên sinh diệt trong văn. Tức văn sau v.v… trở xuống là nhiếp loại. Một chữ Tức đầu là nghiệp tướng, chữ “Tức” sau là nghiệp căn bản chẳng tương ưng nhiễm, tức thứ nhất là nghiệp thức. Đây, v.v… trở xuống là đều tổng kết. Chỉ do cái gọi là môn khác nhau mà pháp thể là một, nên đều thu nhiếp. Vì môn khác nhau, chín tướng là nói về bất giác. Năm ý sáu nhiễm là nói về nhân duyên sinh diệt, chỉ năm ý là nhân duyên sinh, sáu nhiễm là nhân duyên diệt. Do nghóa khác, là danh tự khác nhau, và chỗ nói cũng riêng. Do thể đồng nên nhiếp thông. Các đoạn sau nêu, giải thích, tổng kết, nhiếp, nêu lên ở đây. - Trụ tướng: Trụ tướng v.v… trở xuống, là trụ tướng. Đây hai, v.v…, ba tế trở lên là ba thứ tâm bất tương ưng, thuộc về bổn thức. Đây cả hai đều ở, v.v…, đây là tế trong thô, thuộc về sự thức. Vô minh, v.v…, tổng kết thành. Rõ ràng chẳng đổi, nên gọi là trụ vững chắc. Hai tướng sau là Chuyển tướng và Hiện tướng. Hai tướng đầu là Trí tướng và Tương tục tướng. Bốn tướng sau là Chuyển thức, Hiện thức, Trí thức và Tương tục thức. Bốn tướng giữa tức là Tâm năng kiến chẳng tương ưng nhiễm, chỗ hiện sắc chẳng tương ưng nhiễm, phân biệt trí tương ưng nhiễm và chẳng đoạn tương ưng nhiễm. - Dị tướng: Nói Dị v.v… trở xuống là tướng khác. Đây ở, v.v…, hai tướng này là thô trong thô, thuộc về sự thức. Vô minh, v.v…, vọng thô mê hoặc hiển bày hay phát tham sân ở thân miệng khác nhau, nên gọi là tướng dị. Văn sau v.v… trở xuống là nhiếp loại. Hai tướng giữa là chấp thủ kế danh tự tướng, một tướng đầu là chấp tương ưng nhiễm. Để hợp hai tướng thành một nhiễm, Ý thức là thức của ý. - Diệt tướng: Nói diệt v.v… trở xuống là tướng diệt. Diệt ở trước khác tâm, mê hoặc đến tột cùng vào trong nghiệp đạo. Như tướng diệt của Tiểu thừa là diệt tâm hiện tại, khiến nhập quá khứ. Do vô minh, từ vi tế đến chấp trước, khởi mê hoặc tạo nghiệp, do nghiệp đã thành nên tâm chiêu cảm quả, việc một thời kỳ đã xong, nên gọi là khắp. Do hết khắp nên nói tướng diệt, chẳng cho rằng từ đây không khởi phiền não. Như người mưu tính việc, duyên đầy đủ việc xong, gọi là khắp hết. Do quả v.v… trở xuống, có người hỏi rằng: Bốn tướng sinh v.v… đối với chín tướng đã thuộc tám tướng trước, tại sao không nhiếp nghiệp hệ khổ tướng? nên ở đây giải thích. Ý nói rằng: Nhân chưa tạo là không tạo, đã tạo là chuyển diệt, tức nghóa có thể dứt. Nếu đến rồi quả báo sẽ lãnh thọ, tức không thể dứt. Như đã đến địa ngục chắc chắn phải lãnh thọ. Nên Phật khiến biết khổ dứt tập, không để dứt khổ, là ý này vậy. Nay trong văn bỏ qua chẳng nói. Tổng kết lời trước: Nói thứ sáu, tức là thô sau cùng trong sáu thô. Cho nên v.v… trở xuống là tổng kết ý nói ở trước. Chỉ một giấc mộng là dụ cho tâm. Như có một người (chân như) ngủ say (vô minh) nằm chiêm bao (nghiệp tướng), thấy (chuyển tướng) các thứ việc (hiện tướng) khởi tâm phận biệt (trí tướng) niệm niệm không xen hở, (tương tục tướng), ở trong chiêm bao khởi chấp trước sâu việc trái thuận (chấp thủ) là thiện là ác, là thân là sơ (kế danh tự). Đối với thiện, ở nơi thân thì các thứ nhân ái lợi lạc. Đối với ác, đối với sơ thì các thứ lấn hiếp tổn giảm (khởi nghiệp). Hoặc có báo ân thọ vui, hoặc gặp trả thù chịu khổ (nghiệp hệ khổ tướng). Bổng dưng thức giấc, mọi việc trên đều mất. Nên biết việc này chỉ là một tâm chiêm bao, đều do các pháp. Chín tướng hưng khởi đều nương vào năng lực này, như nương vào giấc ngủ có các việc chiêm bao. Kinh nói v.v… trở xuống, là dẫn chứng, tức kinh Thắng-man. Kinh ấy chép: “Bạch Đức Thế tôn! như thế năng lực vô minh trụ địa, đối với hữu ái trong bốn trụ địa, vô minh trụ địa có năng lực rất lớn”. Đại luận chép: “Thí như mặt đất có năng lực cao siêu, đảm nhận giữ gìn bốn thứ, nên gọi là Trụ địa. Bốn thứ gồm: Một là biển lớn. Hai là các núi. Ba là cỏ cây. Bốn là chúng sinh. Vô minh cũng giống như vậy. Ở trong trụ địa thứ năm, đây là khó trừ nhất, nên biết năng lực rất lớn. Văn sau là văn cuối đều tổng kết chín tướng. Y cứ lý dung nhiếp: Tuy lại v.v… trở xuống: trước là một đoạn văn của văn trước. Nghóa là tế chẳng phải thô, hoặc chẳng phải nghiệp, pháp chấp chẳng phải ngã chấp, bổn thức chẳng phải sự thức, địa vị trước khác địa vị sau, nên nói giai cấp (thứ lớp). Nhưng kia, v.v… trở xuống, nhiếp thô tế khác nhau kia lấy làm một niệm, nói một niệm có hai ý: 1/ Chỉ là một niệm vô minh. 2/ Một niệm sát-na. Như một người bỗng gặp kẻ thù liền bị giết sát hại (khởi nghiệp). Như cho là người họ Trương hay người họ Vương. (Kế danh tự) quyết định nói đối với ta có mối thù (chấp thủ), tâm ác không xen hở (tương tục), phân biệt là thù chẳng phải thân (trí tướng). Kia vì chỗ thấy (hiện tướng) đã làm việc hay thấy (chuyển tướng), tâm niệm khởi động (nghiệp tướng), tức trong một niệm tám tướng đầy đủ. Nhưng, trong hai nghóa thì chỉ cho nghóa trước. Cũng có thể một niệm tức là nhất tâm. Văn sau nói: “Một niệm tương ưng” tức một niệm của vô niệm. Nghóa là thô v.v… trở xuống là xuất phát nguyên do, có người hỏi rằng: Đã có thô tế, trước sau khác nhau, vì sao nói là một niệm?. Nên ở đây giải thích: tuy có thô tế, v.v… khác nhau mà do một tâm tạo tác, đâu có tâm tại tướng diệt mà trong tướng sinh không tâm. Nếu nói không thì sinh nương vào đâu? Cũng không thể chia một tâm này để ứng với bốn tướng. Tâm đã không thể phân, lại không có trước sau, làm sao bốn tướng có trước sau được? Như ngoài có một giấc chiêm bao, các việc là việc chiêm bao, tuy nhiều mà không có trước sau. Nên nói v.v…. trở xuống, là dẫn chứng, như văn cuối của thỉ giác nói: “Thật không khác Thỉ giác, do bốn tướng có đồng thời, đều không tự lập, xưa nay bình đẳng đồng một giác. Giải thông hàng phục vặn hỏi: Nhưng chưa v.v… trở xuống là giải thông hàng phục vặn hỏi. Có người hỏi rằng: bốn tướng đã đồng thời tại sao giác có trước sau? nên ở đây giải thích. Đạt nguồn tâm v.v… trở xuống là nói bốn tướng đồng nương vào tâm mới được biết đồng thời. Như người trong mộng nói mộng, dần dần biết, hoặc thức giấc mới được tỉnh ngộ. Kia là được mất do người, không nên nghi pháp. Kinh nói v.v… trở xuống là dẫn chứng. Thỉ v.v… trở xuống, chuyển sang giải thích chỗ dẫn chứng đều rất dễ hiểu. Kết thành thỉ giác. Đã nhân v.v… trở xuống. Có hai: Thuận dòng giải thích sở giác: Sở giác tức bất giác. Nhớ các thứ mộng tức phiền não chướng, chuyển đến tướng diệt tức nghiệp chướng. Ngủ say v.v… trở xuống, tức là báo chướng, chướng ngăn che khác nhau chẳng hay biết, từ vô thỉ đến nay chưa từng giác ngộ, nên nói là ngủ say. Ba cõi là ý Báo, sáu đường là chánh báo. Trong sáu nẽo này thường qua lại, nên gọi là Thú (đường). Ngược dòng để nói năng giác: Nay nhân v.v… trở xưống là đứng về mặt ngược dòng để nói năng giác. Năng giác tức thỉ giác, có hai: Nói về nhân duyên khởi giác: Bản giác huân, là nhân bên trong huân. Năng lực giác thầm huân sâu kín không thể lường, gọi là không thể nghó bàn. Bản giác là thể huân khiến chán cầu là dụng, đây là thể dụng bên trong nhân. Lại nhân v.v… trở xuống là nói năng lực huân của duyên bên ngoài. Chân như là thể, chỗ lưu giáo pháp là dụng. Đây là duyên bên ngoài của thể dụng. Nhiếp luận dịch vào đời Lương nói: “Từ Pháp giới thanh tịnh xuất phát ra chánh thể, trí chánh thể này lưu xuất ra trí hậu đắc, trí hậu đấc lưu xuất ra tâm đại bi, tâm đại bi lưu xuất mười hai phần giáo”. Pháp giới thanh tịnh tức là chân như. Y cứ nơi gốc mà nói, nên nói chân như lưu xuất ra giáo pháp. Văn huân: do văn tuệ huân được chân, lưu xuất giáo, ngược lại nhờ tánh giác khiến kia có sức lực, là bản giác lưu xuất giáo pháp, trở lại là huân mà bản giác. Hiển giác khởi công dụng: Do thể v.v… trở xuống, hiển giác khởi công dụng. Tức chỉ cho năng lực huân trong ngoài ở trước, sinh khởi thỉ giác. Thể đồng tức thể duyên bên ngoài cùng thể nội nhân không hai tướng, tức chân như đồng bản giác. Dụng dung khắp tức bên ngoài duyên giáo pháp và bên trong chán cầu, hai tướng thông hòa, chẳng chống trái nhau. Lãnh thọ văn huân, chính hiển bày tướng đồng dung thông, nếu không đồng dung thông tức không lãnh thọ, do kia lãnh thọ nên hai tăng ích bên trong huân tập tánh giác, khởi hiểu về thỉ giác, sức hiểu biết tăng, sức vô minh yếu kém, được ngược dòng dần dần hướng về nguồn tâm. Thỉ dứt tướng diệt v.v… trở xuống là nói về nghóa dần dần hướng về. Từ địa vị Sơ Tín dứt làm ác, kế đến nói ngã không, dần dần dứt pháp chấp giác đến bổn thức rõ tột tướng sinh, tơ trần đã hết, chỉ còn giác chiếu. Nên nói sáng rỡ đại ngộ. Tức mộng vô minh dứt thành giác rốt ráo. Giác liễu, v.v.., nguồn tâm thường lặng, vốn tự bất động, tướng động đã không đối lại cái gìhai mà nói là Tịnh? Sau nói: “Giác tâm mới khởi, tâm không có tướng ban đầu”. Lại nói: “Thí như người lầm phương Đông cho là phương Tây, thật chẳng chuyển đổi, v.v…” Bình đẳng: tâm không hai tướng trở lại nói tướng bình đẳng cũng lại bình đẳng, hoặc tức gốc ngọn bình đẳng, tự tha bình đẳng. Tóm lại, các pháp đối đãi thảy đều bình đẳng. Như kinh v.v… trở xuống, tức kinh Hoa Nghiêm chép: “Thí như người nằm mộng, thấy có người bị té xuống sông lớn, vì muốn cứu người nên phát tâm mạnh mẽ, tìm cách vớt họ lên. Do tìm cách nên liền thức giấc. Đã thức giấc rồi thì những việc xảy ra trong mộng đều dứt, Bồ-tát cũng như vậy. Thấy chúng sinh thân ở trong bốn dòng, vì cứu độ nên phát tâm mạnh mẽ, rất mực tinh tấn. Do tinh tấn mạnh mẽ nên đến được Bất động địa. Đã đến đây rồi tất cả đều dứt, hành tướng và hạnh tướng đều chẳng hiện ở trước. Ý kia, nói Bồ-tát này từ có tướng vô công dụng, nhập địa vị vô tướng vô công dụng, được Vô sinh nhẫn, chẳng thấy ta và chúng sinh, Bồ-đề, Niết-bàn. Hai hành đều dứt vì dược pháp vô phân biệt. Nay đây ở địa vị rốt ráo, Thỉ giác đồng bổn không có tướng để giác, bình đẳng bình đẳng. Địa vị tuy khác nhau mà đại ý chẳng khác, nên nói đại ý như đây. - Giải thích riêng: Kế đến là chín v.v… trở xuống. Văn có hai: Chỉ bày: Xem văn sẽ biết. Chính giải thích. Luận có bốn: Tướng chung: Gạn hỏi tướng, ý hỏi: Rốt ráo và chẳng rốt ráo, giác về nhân pháp nghóa ấy thế nào? Do theo văn nêu chung mà gạn khởi. Thập Tín tức ngoại phàm phu. Hễ nói phàm phu là chung cả Địa tiền. Nay đây đã dứt ác, chẳng phải người mê mờ điên đảo chưa giác ngộ phiền não. Lại, chẳng phải Thập trụ trở lên, chính là ở trong nhóm Bất định, nên nói Thập Tín. Tướng sở quán: Chỗ quán tướng. Sớ: Chưa nhập v.v… trở xuống là nói chỗ giác tướng diệt chưa nhập địa vị tín. Khi mê mờ điên đảo làm các việc chỉ là theo ác. Thân có ba việc: sát, đạo, dâm; Miệng có bốn điều ác: Nói dối, nói thêu dệt, nói lời độc ác, nói hai lưỡi. Chẳng rõ nghiệp này thì nhất định chiêu quả khổ, do chẳng biết nên làm ác lẫy lừng. Đây là không biết nhân quả, không biết tội phước. Nay nhập v.v… trở xuống là nói về công dụng năng giác. Tin nghiệp duyên thiện ác, thọ báo tốt xấu như tiếng vang, như bóng theo hình, thì sẽ không sai lầm. Giác tướng diệt: Mới biết hoạ của tướng này, như văn luận. Chỉ nói giác biết khởi ác mà không nói tướng diệt, nên sớ đối lại. Nói về lợi ích: Sớ Chẳng làm ác v.v…, niệm trước tuy khởi chỉ là mê lầm, sau dừng chẳng sinh hoàn toàn chẳng phải nghiệp đạo. Đất ý đã dừng tức thân miệng ý chẳng làm. Kết quán: Sớ Hay biết v.v…, chỉ biết nghiệp thiện ác không mất, chẳng biết không ngã không tạo, do đó tuy giác mà tức là bất giác. Ngay địa vị này sau sẽ giải thích. Địa vị sau đã biết mê lầm, địa vị này chỉ biết ở nghiệp. Mê lầm và nghóa giác đối ngược thể tướng, nghiệp và thỉ giác vẫn chẳng trái ngược, nên chỉ gọi là Dừng. Dị tướng: Năng quán Sớ: Thập giải, là tên khác của Thập Trụ. Kia gọi là phát tâm, đây gọi là phát ý, danh nghóa đều đồng. Một chữ Đẳng ý bao gồm Cửu trụ và hành tướng, nên nói sau. Lưu hoặc: hàng phục mà chưa dứt nên chẳng chứng, mục đích là lợi sinh. Nghóa là vị Bồ-tát này nhận được cái chân thật sẵn có, đạt vọng vốn không, thuận theo chân như, tu Duy Thức quán, hàng phục cả hai chướng, không khởi hiện hạnh, chỉ lưu lại hạt giống. Nếu theo tông Pháp Tướng, do năng lực nhỏ nhiệm của Chỉ Quán, chẳng dứt phiền não. Nếu theo kinh Niết-bàn thì Bồ-tát Địa Tiền nương giáo khởi hạnh không thề nghó bàn, nghiệp tướng chẳng khởi. Do năng lực bi nguyện tự giúp, hoặc nhuận nghiệp thọ thân sinh tử giáo hóa sáu đường, chính là ở nghóa này. Hoặc Duy Thức nói: “Sơ địa trở lên sức bi của Bồ-tát thêm lớn, có nghóa lưu hoặc”. Nay trong sớ này ở địa vị Tam hiền mà luận lưu hoặc, đây là thật giáo của Bồ-tát Tông Pháp Tánh. Căn tánh lanh lợi lúc mới phát tâm liền hay đốn liễu bổn tánh, đạt vọng thể không, thuận tánh tu hành các Ba-la-mật, thú hướng về lý mau chóng, đối với mê hoặc được tự tại, nên đối với hành Tam hiền gọi là Lưu. Được tự tại: nhập vào quán này hàng phục mê hoặc, dụng quán bằng nhau nên đồng một vị. Hỏi: Vì sao văn luận không nói thẳng Nhị thừa mà nói quán trí là nghóa gì? Đáp: Do Nhị thừa nghiêng về quán nhân không, Bồ-tát quán cả hai đều không, mà phân biệt đại tiểu. Nay chỉ ở dụng nhân không mà quán, là nói chỗ đồng được hợp luận. Đây chỉ đối với lực dụng quán trí phần đồng với Bồ-tát, mà chẳng hoàn toàn đồng, như nói thẳng Nhị thừa e thành lầm lỗi, ở đây chẳng đồng mà đồng nên nói quán trí. Sở quán: Sớ: Hai thứ, là chấp thủ kế và danh tự tướng. Phân biệt: đối với thân chấp ngã, ở ngoài chấp sở. Trong đó bao gồm đầy đủ trọn sinh phân biệt, nên nói kiến ái. Tuy nhiên, trong sáu căn bản trừ ngã kiến là kiến hoặc, ngoài ra đều là ái, như thường thấy trong luận. Ở đây hai, tức Nhị thừa, Tam hiền đồng giác tướng này, đều rõ biết ngã chấp. Nói về bổn v.v… trở xuống: nói về nhân duyên phát khởi dị tướng sở giác. Nghóa là lúc trí chưa khởi niệm vô minh hòa hợp với dị tướng, khởi các phiền não lẫy lừng chẳng dừng, khác với cái biết của bất giác. Mà nay v.v… trở xuống là nói công dụng năng giác. Nghóa là trong niệm vô minh, mới hiểu rõ niệm thô nên nói giác sâu kín, là nghóa khác trong niệm giác. Lợi ích: Sớ Đã khác v.v… đối với vô minh đúng như lý chiếu soi rõ thể của nhân ngã không có được gì nên nói niệm không có tướng khác. Đây là nghóa ngã không. Kết quán: Luận Do xả, Văn này có hai thứ: Một là kết quán, hai là giải thích ở trước, nêu hai tướng ở sau nên biết. Sớ Do nơi v.v… do giác ngãkhông nên không khởi phiền não ngã chấp, nên nói xả phân biệt thô, v.v… Mà vẫn, v.v… do chưa thể giác được pháp chấp, đây chính là nói Nhị thừa, Tam hiền đều gọi là Tương tự giác. Do đây v.v… trở xuống, là giải thích nguyên do, Bồ-tát chưa chứng phần bổn là tự Nhị thừa đối với thừa gọi là Nhập chứng. Do hướng về Đại thừa chỉ được Ngã không, chưa chứng Pháp không, cũng gọi là chưa chứng, nên đồng tương tự giác. Đây là hướng về Sơ địa chứng chân, nên gọi là tương tự. Trong phần hỏi dẫn chứng ở trước làm lời vặn hỏi rất dễ hiểu. Trong phần đáp, trước là buông. Nếu v.v… trở xuống, là đoạt, nghóa là nương giác mà có bất giác, bất giác là mê hoặc, bấc giác cũng giác là đối lại với mê hoặc, chuyển y bất giác mà tạo nghiệp. Nghiệp và nghóa giác cách nhau một lớp, nên chẳng đối nghịch. Do đối nghịch nên gọi là tương tự giác, chẳng đối nghịch nên gọi là Bất giác. Kia giống như gương bụi để trong hộp, hộp và gương chẳng đối nghịch, nghóa này cũng rõ. Tướng trụ. Có bốn: Năng quán: Sớ sơ địa v.v…, nghóa là Bồ-tát Thập địa đều chứng chân như, nương pháp chân như làm tự thể, gọi là Bồ-tát Pháp thân thừ Thập địa mãn tâm liền thành Chánh giác, trong đây chỉ nêu trước Cửu địa. Sở quán: Luận nói Giác niệm trụ v.v…, do Bồ-tát này ở trong niệm vô minh, thứ lớp giác bốn thứ tướng Trụ. Nghóa là Sơ địa giác tương tục, Nhị địa đến Thất địa, giác tướng trí, Bát địa giác tướng hiện, Cửu địa giác tướng chuyển. Bổn tướng này gọi là Trụ, nên nói giác ở Niệm trụ. Lợi ích: Sớ Tuy biết v.v…, ý nói địa này nối nhau tuy mất, Nhị địa đến Lục địa tướng trí vẫn còn, tại quán thì không xuất khỏi quán trở lại có. Tuy nhiên chẳng cố ý mà mặc tình như thế. Do đó đều sinh mê hoặc tu đạo. Nay luận nói không có tướng Trụ, chỉ đứng về mặt khi ở quán và địa vị sau mà nói. Lại cũng có thể văn này bỏ hành tướng Địa tiền mà nói. Ý nói khi ở Địa tiền tín giáo tu quán, biết tất cã pháp chỉ là thực hiện, không khởi niệm thô phân biệt chấp trước. Đây tức đã lìa tướng dị ở trước, nhưng chưa thân chứng pháp không. Đến sau khi xuất quán mà đối với pháp nhiễm tịnh, còn khởi pháp chấp phân biệt, tức là tướng tương tục. Nếu đến Sơ địa thân chứng cảnh giới duy tâm, xa lìa hai chấp phân biệt phiền não, tướng giác nối tiếp cho đến thấy tướng Niệm không có tướng Trụ. Nay luận không có tướng Trụ, chỉ chung cho địa vị sau mà nói. Nói kia v.v… trở xuống, là nói nhân duyên sinh khởi tướng trụ sở giác. Nghóa là khi chưa giác niệm vô minh hòa hợp với tướng trụ này vững chắc, mà trụ rồi không sửa đổi. Nay cùng v.v… trở xuống, là nói công dụng của năng giác. Nghóa là đối với niệm vô minh chiếu soi pháp ngã và năng sở, tâm cảnh, có không, đạo lý, rõ ràng không tự thể, tức huyễn tâm phân biệt thành trí vô phân biệt, nên nói niệm không có tướng trụ. Kết quán: Sớ Khác trước v.v…, là phân biệt trước sau khác nhau. Trước nói “phân biệt chấp trước thô”, nay chỉ nói: “phân biệt” nên khác trước. Sau nói: “Niệm nhỏ nhiệm”, nay nói: “Niệm thô”, nên khác sau. Bốn tướng này v.v… trở xuống là nói trước Cửu địa, chỗ giác bốn thứ tướng trụ nhiều ít khác nhau, như ở trước phối hợp. Ở đây Bồ-tát do đối với niệm vô minh đều phần kia, dùng sức thỉ giác lìa bốn tướng trong niệm này. Nhưng trước lìa sau, sau gồm lìa trước. Nay ý riêng mỗi thứ chỉ có một tướng. Văn sau tức trong nghóa sáu nhiễm nhân duyên sinh diệt, giải thích rộng như kia. Ngủ mê trong tướng sinh: nay lại đối với ý chung mà chỉ tướng sinh. Nếu nói theo biệt thì Sơ địa còn bốn tướng trí, v.v.…, Nhị địa đến Thất địa là ba tướng hiện, v.v…, Bát địa chuyển sinh hai tướng, Cửu địa sinh một tướng. Do đó theo trí lực kia chỗ giác nhiều ít khác nhau, nên gọi là Tùy phần. Tướng sinh: Năng quán Sớ Học tột, Thập địa mãn tâm là địa vị hữu học tột cùng. Đạo phương tiện: là phương tiện chứng quả Phật, muôn hạnh đã viên mãn nên gọi là Viên mãn, ở đây nói về hạnh mãn. Đạo Vô gián: từ đây tương ưng thường không xen hở, con đường- không đứt quãng, bên trong lấy đây làm chỗ ban đầu, nên luận nói nhất niệm. Đây là niệm của vô niệm, cũng tức một niệm thỉ giác hợp bổn. Đây nói về trí viên mãn. Đối với pháp luận nói: Đạo rốt ráo, nghóa là định kim cương dụ. Đây có hai thứ là: thuộc phương tiện đạo và thuộc Vô gián đạo. Nhưng theo văn của luận thường nương chỗ phối hợp, tức hai câu này là nêu vô gián giải thoát. Do dứt đường vô gián, chứng đường giải thoát. Từ giác tâm v.v… trở xuống, đến lìa niệm sâu kín, là giải thích con đường Vô gián. Được thấy tâm tánh v.v… trở xuống, là giải thích con đường giải thoát. Xem văn sẽ hiểu. Sở quán: Luận Giác tâm sơ khởi là Thỉ giác. Giác tướng mới khởi của tâm thể kia tức là tướng sinh, khởi là sinh. Lợi ích: Sớ Căn bản v.v… trở xuống là nói chỗ khởi nhân duyên sinh tướng sở giác. Nghóa là lúc mê từ vô thỉ, căn bản vô minh chuyễn tịch khiến động, vi tế tối sơ gọi là tướng sinh. Do hòa hợp với vô minh nối nhau chẳng diệt, dần đến chấp trước thô. Khởi mê lầm tạo nghiệp trôi lăn vô cùng. Địa vị trước tuy giác tướng thô, đến địa vị này niệm nhỏ nhiệm mới hiện. Nay chính v.v… trở xuống là nói công năng của năng giác. Nghóa là trong tâm chân tịnh chiếu soi năng khởi, có không, đạo lý ở trong tâm tịnh rõ không thật có. Tâm thể chân tịnh vốn tự bất động, nên nói xưa nay vắng lặng. Do vốn vắng lặng nên không có tướng ban đầu. Đây tức Thập địa Trụ tâm vẫn có niệm sâu kín, cho đến mãn tâm mới không có niệm sâu kín. Giống như v.v… trở xưống là ví dụ nói có thể thấy. Ba tướng v.v… trở xuống là đối với trước nói có khác. Tuy nhiên, địa vị giác nghiệp không đáng luận bàn. Vả lại, trong địa vị thứ ba có một tướng chưa cùng tận. Đã ở trong niệm, giác niệm, chưa được nói tâm, chỉ ở trong niệm vô minh không có tướng trụ. Ở đây chỉ tột cùng tâm thể rỗng rang, chỗ còn chân tịnh, không còn có pháp nào khác, nên đặc biệt nói tâm. Kết quán: Sớ Trong niệm rất sâu kín, văn sau nói: “vô minh huân tập khởi thức, cho đến Bồ-tát địa rốt ráo không thể biết tột cùng, chỉ Phật mới rõ cùng tột. Tướng sinh: phối hợp thuộc trong bốn tướng. Do ở chín tướng là nghiệp, đối với bốn tướng gọi là Sinh. Nay ở địa vị bốn cần phối hợp vào. Lại vì trong luận không có tướng sinh, như địa vị phàm ở trướccũng không nói tướng diệt, sớ cùng phối hợp: Tướng này v.v…, ở trước trong các địa vị chỉ nói vì xả, vì ly v.v… mà không có chữ Viễn (xa), nay do nghiệp tướng rất sâu kín, lại không có chỗ nhỏ nhiệm làm tướng gốc này. Đã giác liễu lại không sót thừa, mới xứng nghóa xa lìa. Chân tánh hiện: do vọng che nên chân tánh chẵng hiện. Do chẵng hiện nên không thấy tánh. Nay đã lìa vọng, tánh liền hiện tiền, do hiện tiền nên được thấy tánh. - Đối trước nói khác: Ba tướng trước v.v… trở xuống là đối với trước nói có khác. Sau nói “Tất cã chúng sinh chẳng gọi là giác, vì từ xưa đến nay không hề lìa niệm. Đã có niệm thì niệm là chỗ chướng, đâu được nói thấy tâm tánh!”. Kinh Nhân Vương nói: “Trước từ Phục Nhẫn đến Đảnh Tam- muội, chiếu nghóa đệ nhất chẳng gọi là thấy”. Cái gọi thấy là Tát- Bà- Nhã. Ba tướng trước trở xuống, là trình bày địa vị trước. Nghiệp thức là gốc sinh diệt, trước chưa lìa thì đâu thể gọi là thường trụ. Nay sinh v.v… trở xuống, là nói về địa viị này. Trước chỉ trong mộng biết mộng, nay mộng niệm đều dứt cho là Đại giác, mới gọi là thường trụ. Luận Phật Địa nói: “Như giác đại mộng”, tức là nghóa này. Luận: Giác rốt ráo: đây là tổng kết tên gọi. Có năm nghóa gọi là rốt ráo. Một là: Đoạn cứu cánh, tức lìa bỏ niệm vi tế ở trước, hai là: Chứng cứu cánh, tức thấy tâm thường trụ đều là hạnh mãn trí viên ở trước, nên thành bốn. Bốn việc đã đầy đủ, tức địa vị cứu cánh, là ở trước nói Bồ-tát địa tận. Trước chưa v.v… trở xuống, tức trình bày địa vị trước. Đã nói mong đến thì biết chưa đến. Nay tức v.v… trở xuống, là nói địa vị này có thể biết, lại không còn chỗ tiến nên gọi là rốt ráo, nhưng bệc Thập địa mãn tâm và Đẳng giác, Diệu giác, nói nghóa chia làm ba. Nếu tột thể kia thì không có ba khác nhau. Cho nên văn này và ở sau hướng về nhau xuất phát lẫn nhau chẵng nhất định. Trong đây dứt bốn tướng, chỉ nói Bồ-tát địa tận dứt ở tướng sinh lại là rốt ráo. Như trong văn sau nói: “Vô minh này khởi thức, cho đến Bồ- tát địa rốt ráo chẳng thể biết hết, chỉ có Phật mới rõ tột”. Lại nói: “Căn bản nghiệp nhiễm y nơi Bồ-tát địa tận được vào địa Như Lai, mà hai xa lìa, lại không rõ pháp “Nghóa giới”, từ Tín địa tương ưng quán sát hoăïc dứt, cho đến đất Như Lai hai lìa rốt ráo. Nên biết Thập địa quán tướng sinh, chỉ một sát na giác vô sinh liền là địa vị Phật, nghóa nói có trước sau. Theo kinh Anh Lạc nói: “Giác thì chiếu tịch, diệu giác thì tịch chiếu”, nay thấy tánh thường trụ tức là chiếu tịch, gọi là rốt ráo giác, tức là tịch chiếu. Đây tức trong một địa vị. Tịch chiếu có hai nghóa mà phân ra hai giác, chẳng có hai thể. Dẫn chứng kinh: Sớ: Ở nhân, do trong nhân chưa thể đích thân quán chân lý vô niệm, chỉ hai quán đạo lý vô niệm. Đây là nói theo Địa tiền, tuy nhiên do vô niệm là địa vị Phật., nên năng quán này trí hướng đến địa vị Phật. Cũng có thể chữ Trí chung đối với sở quán, Vậy là hướng về trí Phật. Sau dịch rằng: “Quán tất cã vọng niệm vô tướng là chứng được trí tuệ Như Lai”. Do đó trở xuống, nói rõ ý dẫn kinh. Trong kinh đã nói quán vô niệm là hướng về trí Phật, nên biết quả Phật quyết định vô niệm. Đây là v.v …, chúng sinh là nhân, Phật tức là quả, quán vô niệm tức là nghóa vọng về, vọng về tức hướng về. Giải thích lại: Sớ: Đoạn trên v.v…, nghe nói giác tâm sơ khởi sẽ cho rằng chân tâm thật có chỗ khởi. Nay mới giác, ở đây gọi là giác tướng ban đầu. Nay muốn giái thích ra, nên ở đây viết lại. Chẳng cho rằng, v.v …, khi mê cho rằng sở giác vốn không, chỉ là nhất tâm đâu có tướng ban đầu. Đây cũng nêu địa vị trước, đều không có tướng sở tri mới thành. Biết khác trụ, v.v…, là hỏi: Đã v.v… trở xuống là theo nạn khởi ở trước, là ở sau chỉ bày luận để đáp. Như giác v.v… trở xuống là đứng về mặt ví dụ để giải thích ý. Giác tâm v.v… trở xuống là hợp hiển bày văn của luận đều có thể biết. Nêu mất: Sớ: Là ở trước v.v… trở xuống là giải thích hai chữ “cho nên”. Tức hiển v.v… trở xuống là giải thích ngoài văn. Kim cương đã trở lại, vô gián đạo ở trước các địa vị Bồ- tát cùng các tướng dị sinh, nên nói tất cả. Chưa lìa v.v…, vì niệm tướng sinh dứt mới được gọi là giác, nên biết ba địa vị trước đều gọi là bất giác, huống chi là dị sinh!. Tuy nhiên v.v… trở xuống, đối lại trước giải thích thành. Do trước nói tùy phần giác và tương tự giác là theo bốn tướng vô minh trong mộng khác nhau, mỗi pháp đồng một tướng mà luận nên có nghóa giác. Do phân cạn sâu nên có tùy phần riêng. Nay theo vô minh ngủ say tức chẳng riêng biệt đều gọi là bất giác. Mộng tuy có khác nhau mà ngủ say đâu có khác. Vô minh tức tướng sinh. Ở đây hiển bày v.v …, hiển bày vô minh tức là chỗ ban đầu của các pháp. Do đó là đều mối năm trụ phiền não, là phần đầu chứa mười hai nhân duyên. Nên ở sau nói: “Nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm”. Đã là năng sinh thì biết không có trước ở đây, kia là vô thỉ thuộc tha nhiễm, vô minh của vô thỉ, do y só mà được tên gọi. Lại vô minh v.v… trở xuống là đứng về mặt đương thể giải thích vô thỉ. Nghóa là vô minh này không có mé ban đầu, do nương chân thì vô thỉ tức vô minh, do trì nghiệp mà được tên. Nên văn sau nói: “Như Lai tạng không có mé trước, tướng vô minh cũng không có cái ban đầu”. Hiển được: Sớ: Nếu đến v.v…, đây là trình bày thỉ giác. Giác đến nguồn tâm tự thấy vô niệm, cũng biết tất cã chúng sinh đều chuyển thành tâm tịnh. Bốn tướng khác nhau, tuy nói biết bốn tướng, cho đến biết chúng sinh đồng là một tâm xưa nay thành Phật. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Lúc Như Lai thành Chánh giác, thấy khắp tất cả chúng sinh đều thành Phật”. Giải thích rằng…, Phật được vô niệm, biết niệm vốn không, chúng sinh tuy hiện tại ở trong niệm, Phật biết niệm kia cũng tức vô niệm. Đây tức Phật vô niệm và chúng sinh có niệm, nghóa giống nhau, nên nói đồng nhau. Do niệm tức vô niệm, được vô niệm kia, mới biết niệm bốn tướng. Đây tức chúng sinh và Phật hướng về nhau mà nói các nghóa. Lại giải thích v.v… trở xuống, bốn tướng hướng về nhau để rõ các nghóa. Ý nói bốn tướng đều là chuyển tâm tịnh kia được thành tựu. Chỗ thành tựu bốn tướng đã mỗi tướng không có tự thể, đâu chẳng tức là một tâm tónh ư! Tâm tónh tức vô niệm, đã mỗi tướng đều tức vô niệm, cho nên bình đẳng. Do bình đẳng nên được vô niệm, mà biết như trong một hạt châu hiện bốn sắc tượng, thấy thể của chân hoàn toàn được biết. Nhưng, ở trước có niệm tức vô niệm là nghóa đồng nhau. Bốn tướng này mỗi tướng đều tức vô niệm, là nghóa đồng nhau. Trên đây trước giải thích theo Hải Đông sớ, y vào đại luận giải thích nghóa là đứng về mặt tột nguồn tâm, do đã được vô niệm thì biết tất cả chúng sinh, sinh trụ dị diệt. Tuy nhiên, y cứ văn của luận chỉ nói biết tướng tâm, lại không nói chúng sinh. Nay y cứ thẳng vào văn của luận, lại giúp giải thích một phen. Nghóa là khi được vô niệm này, đã biêt tướng ban đầu không chỗ khởi, thượng tự nhất tâm xưa nay vô niệm. Do đó biết bốn tướng đều rõ ràng tức là nhất tâm. Tướng của tâm vốn không hề khới, chẳng cho rằng có riêng sinh trụ dị diệt từ tâm mà khới. Vì sao? Do mỗi tướng đều đồng, tướng ban đầu tức là vô niệm, nên nói do vô niệm, v.v… Vô niệm chỉ là một, nên nói giống nhau. Kế đến văn nói: “Bốn tướng đồng thời cùng nhất giác, nhất giác tức vô niệm”. Sau dịch rằng: “Nếu vọng niệm dứt, thì biết tâm tướng sinh trụ dị diệt, thảy đều là không tướng”, tức phù hợp với giải thích ở đây, người có trí nên xét cho tường tận.  KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 10 Nêu lập. Luận Nêu lập. Sớ: Tuy được vô niệm, là giác được thỉ giác vô niệm. Vốn không khởi, tức bốn tướng vốn vô niệm. Đâu còn đối đãi, v.v..do nhân bất giác mà có thỉ giác, nay bất giác đã không thì thỉ giác cũng dứt (đâu còn đối đãi). Giải thích: Thành luận: Bốn tướng đồng thời có là do chuyển được tâm tónh kia đã thành nhất niệm. Nhất niệm vốn vô niệm nên bốn tướng không có tự tánh, nên nói đều không tự lập. Sớ có ba: Chính giải thích: Như nương một dòng nước mà có ngàn lượn sóng, sóng không có tự thể riêng, đều đồng một dòng nước. Nhưng chưa v.v… trở xuống, đối lại trước biện có khác, ban đầu là chỉ ngày xưa. Nay đã v.v… trở xuống là hiển bày nay, đều rất dễ hiểu. Hỏi đáp thông ngại, Sớ hỏi v.v… trở xuống, có hai: Hỏi đáp: Trong phần hỏi gồm cả vặn hỏi, đều có thể tường tận. Nói xong: giải thích ở trước. Chỉ một v.v… trở xuống là giải thích lại. Chỗ người mộng tức kim cương trở lại và tất cả phàm phu. Đại giác tức địa vị Phật, tất cả như ở trước nói, văn rất dễ hiểu. Dẫn chứng: Nhiếp luận v.v… trở xuống, có hai: Dẫn Nhiếp luận: Hai câu trước là nêu ví dụ, hai câu sau là hợp với pháp, vì trong khoảnh khắc ngủ say thành nhiều năm mộng. Như có thuyết nói: “Trong khoảng một giấc mộng mà trải qua ba đời, thọ thân sinh tử”, nghóa là ở đây. Trong đây v.v… trở xuống là chỉ dẫn ý văn. Ý rằng: “Trải qua mộng dài không ngoài khoảnh khắc, không mé sinh tử, không khỏi sát na”. Luận kia nói sát na tức ở đây nói vô niệm, chỉ kia đồng đây. Dẫn Kinh Lăng-già: Lăng-già v.v… trở Xuống, có ba: Chính dẫn: Xem văn rất dễ hiểu. Giải thích văn: Ý nói: “Sát na sinh tức vô sinh, vì không có tự tánh”. Nếu chẳng v.v… trở xuống là nói rõ ngược lạ, nghóa là nếu sát-na chẳng phải vô sinh, tức có tự tánh, đã có tự tánh tức thì không trôi lăn, nay đã trôi lăn tức biết không có tự tánh, cho nên vô sinh. Cho nên v.v… trở xuống là tổng kết. Vì sát-na tức Vô sinh, bổn khế hợp vô sinh nên thấy sát-na. Đây là nêu bốn tướng ở trước. Các niệm tức vô niệm, cho nên được vô niệm mới biết bốn tướng chỉ là nhất tâm. Dẫn chứng trở lại: Tịnh danh v.v… trở xuống là dẫn chứng trở lại. Bất sinh v.v…, ý nói: “pháp vô thường không tự tánh, do không tự tánh nên chẳng sinh diệt.”. Đây và kinh Lăng-già văn khác mà nghóa đồng. Bảy thức v.v…, cũng tức trôi lăn vô tánh, là Nghóa bốn tướng vô niệm. Kinh Viên Giác chép: “Biết là hoa đốm giữa hư không thì không trôi lăn, cũng không có thân tâm chịu sinh tử kia”. Chính là văn kinh Lăng-già nói: “Năm thức thân chẳng trôi lăn”. Nay nói: Bảy thức là do Sớ viết lầm như vậy. Như Lai tạng v.v…, Do có thật thể chẳng thể mất nên chỗ sinh diệt tức Như Lai tạng. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Sinh diệt đến đi vốn là tánh mầu nhiệm chân như của Như Lai tạng”. Tổng kết đại ý: Sớ đây v.v… trở xuống, là tổng kết đại ý, ý chỉ của văn rất dễ hiểu. Nhưng, bốn địa vị trước và dẫn kinh trở xuống đến đoạn sau, đồng với kinh Viên Giác nương địa vị tiệm chứng quên tâm đốn chứng, ở đây nói rõ đầy đủ. Ý khiến đốn ngộ tiêm tu tự nhiên thành địa vị, kia giống như học bắn cung,đường bắn của mũi tên có gần có xa (tiệm và đốn). Người học bắn phải chú ý nhắm đúng đích mà bắn. Kinh Lăng Nghiêm cũng chép: “Lý tức đốn ngộ, nương ngộ đều biết; sự chẳng đốn trừ nhân thứ lớp tận”. Do đó nếu không nói địa vị tiệm thì làm sao biết thứ lớp? Nếu không nói môn đốn thì trọn khó vào được. Do đó nói đầy đủ để dự bị tu hành. Bản giác theo nhiễm: Ở trước cũng lược nói là thể, Văn nói: “Tâm thể lìa niệm”, cho nên đoạn này là tướng, Văn nói: “Sinh hai thứ tướng” nên bốn cảnh sau là nói thể và tướng, Văn nói: “Giác thể tướng”. Nêu chung: Sớ: Đây hai v.v… trở xuống, do bản giác chẳng hợp nên nói sinh, nay duyên theo nhiễm trở lại tịnh mà hiển bày. Có nghóa sinh, đây là hiển bày nên gọi là sinh, chẳng phải sáng tạo mà có sinh. Văn sau chép: Hiển hiện Pháp thân v.v… Sinh rồi chẳng lìa. Thật ra tức là nay nói nghóa giống nhau. Kia giống như gương sáng, ở trong bụi hay ra khỏi bụi, thể kia cũng chẳng có khác. Gạn bày: Sớ: Nói rõ bổn v.v…, tự theo dòng mà trở về nguồn, từ cấu nhiễm mà thanh tịnh, cũng tức tự ẩn mà hiển, giác chỗ bất giác từ lâu bị nhiễm trần, trở lại nơi gốc chân, nên nói trở về tịnh. Nói rõ trở về v.v…, xưa do tướng ẩn mà bỏ dụng, nay do tướng hiển mà hưng khởi, dụng giống như gương sạch bụi soi hiện hình bóng. Đây v.v… trở xuống là nói chung hai tướng được gọi là nguyên do theo nhiễm. Nhưng, tướng trí tịnh tự lìa nghiệp thức, các duyên nhiễm chẳng thành, nên không thể trình bày, văn sau nói: “Nếu lìa tâm bất giác thì không có tự tướng chân giác để nói. Nếu nghiệp tướng không thể nghó bàn lìa các duyên nhiễm của chúng sinh cũng không thành, nên không thể cảm ứng. Văn sau nói: “chư Phật, Như Lai chỉ là Pháp thân trí tướng nghóa đế đệ nhất, không có cảnh giới thế đế, xa lìa tạo tác, chỉ theo chúng sinh thấy nghe được lợi ích, nên nói là Dụng. Do đó cả hai thứ này đều gọi là theo nhiễm. Trước là nhân: Sớ: Chân như v.v… nghóa là ở bên trong là lý pháp, ở bên ngoài là giáo pháp. Tuy trong ngoài không đồng mà đều gọi là pháp, do đó trong luận nói chung là Pháp. Đây tại v.v…, chỉ do năng lực huân tập duyên giáo tu hành, từ địa vị Sơ tín đến Thập Hồi hướng. Tư lương v.v… là Thập tín Tam hiền tu phước trí đầy đủ làm tư lương thành Phật, cũng gọi là thuận phần giải thoát. Bốn gia hạnh: Thiện gia hạnh, tức Noãn, Đãnh, Nhẫn, Thế đệ nhất, đây ở sau giai vị Tam hiền, trước giai vị Thập địa, gia công dụng hạnh để cầu kiến đạo, cũng gọi là thuận quyết trạch phần thiện. Bốn gia hạnh này nương vào bốn tầm tư, bốn như thật quán, quán danh nghóa, danh nghóa tự tánh, danh nghóa khác nhau giả có thật không. Như hai địa vị Noãn và Đảnh đồng tu bốn quán tầm tư, Nhẫn và Thế đệ nhất đồng tu bốn quán như thật. Địa vị Noãn tu sáng được định phát xuống tầm tư, quán không có sở thủ. Địa vị Đảnh tu sáng thêm lớn định, phát lên tầm tư, quán trở lại không có chỗ chấp. Địa vị nhẫn tu ấn thuận với định, ấn trước thuận sau, phát xuống trí như thật. Đây có ba phẩm: Hạ phẩm ấn không có chỗ chấp (sở thủ), Trung phẩm thuận không có năng thủ, Thượng phẩm ấn không có năng thủ. Nói trí như thật, như thật biết khắp các tên của bốn pháp lìa thức chẳng có. Nếu Sở thủ không thì năng thủ cũng không. Địa vị Thế đệ nhất nương định vô gián phát lên trí như thật, hai ấn hai không, lại lìa sở thủ trừ được biến kế, lìa năng thủ trừ y tha khởi, hai ấn hai không, được Viên thành thật. Giống như dính mắc tướng không thì chẳng phải là chân Duy thức, kia tụng rằng: Hiện tiền lập chút vật. Cho là Duy thức tánh. Do vì có chỗ được. Chẳng thật trụ Duy thức. Đăng địa trở lên: sơ địa kiến đạo, nhị địa trở lên tức là tu đạo, do hai địa này chứng chân khởi hạnh, trở lại khế hợp ở chân. Chẳng đồng trước sơ địa duyên giáo mà tu, nên nói như thật. Do trước Sơ địa là giáo đạo, đây là chứng đạo. Kim cương v.v…, ở đây địa vị định là phương tiện đạo trong hai thứ đạo, nghóa này thấy ở văn trước. Sau là quả: Sớ: Do trước v.v…, tức hành phương tiện làm năng phá, tướng sinh diệt làm sở phá. Lại, phương tiện đạo làm năng hiển, tánh bất sinh diệt làm sở hiển. Đây căn v.v…,” do chưa đến trước địa vị này, vô minh căn bản và tâm chân tịnh thường hòa hợp nhau thành thức tướng. Nay đến địa vị này, vô minh đã hết chỉ ở nhất tâm, thể chiếu riêng lập, hợp với cái gì! Trong Luận nói: “Một pháp làm sao hợp”. Tức hiển bày v.v…, ở đây trong sớ ý có nói, nay văn của luận cách câu hiển phát. Nghóa là phá tướng căn bản vô minh sinh diệt của thức hòa hợp bên trong, tức hiển bày bản giác Pháp thân bất sinh diệt, diệt các tướng nghiệp nối nhau trong tâm nhiễm thành báo thân thỉ giác thuần tịnh viên trí. Nay lại nói đoạn đầu về nghóa hiển bày Pháp thân, Pháp thân tức bản giác, ẩn hiện mà được tên. Nay nêu cả hai, là đối lại thỉ giác ở sau. Tức đối với v.v…, do tâm sáu nhiễm đều nương vô minh hòa hợp với chân, mà được nối tiếp. Nay vô minh đã hết hòa hợp chẳng thành, tâm nhiễm nương vào đâu mà được nối tiếp, nên đều diệt theo. Tuy nhiên, các tâm nhiễm đều là tướng vọng mà thể chân, tướng diệt mà thể chẳng diệt, nên nói tâm thể bất diệt. Nên khiến v.v…, so sánh vô minh hòa hợp tâm nhiễm nối tiếp, khiến bản giác bỏ mất theo dòng. Nay đã phá vô minh tâm nhiễm diệt, không có chỗ câu lụy, tâm này được trở về nguồn tịnh. Kia giống như chàng cùng tử trở về nhà, hạt ma ni lau sạch bụi. Thành thuần tịnh viên trí, không lẫn lộn nên thuần, lìa nhiễm nên tịnh, không thiếu nên viên mãn, thức diệt nên trí. Thành ứng thân thỉ giác, chữ ưng này là bình thanh. Nghóa là thỉ giác tương ưng với bản giác, tức báo thân. Tam Tạng Chân Đế cũng gọi báo thân là ứng thân. Nhưng, thỉ giác này cùng bản giác ở trước đều là năng thành. Ứng thân này cùng Pháp thân trước đều là sở thành. Ý cho rằng phá thức tướng mà còn tánh, tánh tức bản giác. Bản giác là Pháp thân năng thành, tướng tâm diệt mà trí tịnh. Trí tức thỉ giác, thỉ giác là báo thân năng thành. Đây đều nói nghóa năng thành sở thành. Nhưng, đoạn văn này là nghóa của Hải Đông sớ. Khuê Sơn tham mà dụng. Thạch Bích mất chiếu soi, tạo hiểu ứng hóa sâu mà không thể được. Do nghiệp tướng không thể nghó bàn ở sau mới là thân ứng hóa. Như trên đã giải thích nghóa ba thân không đủ như vậy, trong văn liền thành thiếu hoặc thừa, thừa một hóa thân, thiếu một báo thân. Người có trí nên xét kỹ. Nhưng ở đây trở xuống, Thỉ đồng với Bổn. Thỉ giác là dụng của bổn, do có nhiễm nên dụng của bản giác khởi để đối trị. Nay nhiễm đã dứt dụng trở về thể, chuyển tên kia là viên tịnh trí. Đoạn đức: ngoại trừ trí thuần tịnh, văn khác đều là đoạn đức. Thức và tâm tướng là pháp phải dứt, Pháp thân là chỗ hiển bày của sự dứt kia. Một tướng sau tức là ân đức, tức đầy đủ ba đức. Nếu nói theo đây, ứng thân ở trước là thuộc về văn của báo thân lý rất thuận. Trước hỏi, sớ: ý hỏi v.v…, trước nói: “Nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt, cũng nói hòa hợp không có tướng lìa bỏ”. Nay sinh diệt đã diệt chân cũng diệt, vì sao lại nói diệt tâm nối nhau, hiển hiện trí thuần tịnh của Pháp thân? Đây đứng về môn tướng tức, dùng tướng tánh. PHÁP. Có ba: Giải thích lời hỏi: Sớ ý nói v.v…, trước nói tâm thành thức chỉ là tâm tướng thành thức. Nay nói thức diệt cũng là tâm tướng diệt. Ở đây sinh và diệt đều đứng về mặt tâm tướng, không đứng về mặt tâm thể mà nói diệt tâm nối nhau, hiển bày Pháp thân. Đây là đáp theo chẳng phải một môn tánh tướng chẳng tức. Chuyển câu hỏi: ý nói: “Nếu đã khởi diệt chẳng liên hệ đến tâm thể, thì chân vọng rõ ràng vì sao ở trước nói: “Chuyển tâm tịnh kia thành khởi diệt?”. Đây đứng về mặt tánh tướng nghóa lìa nhau làm chuyển nạn. - Giải thích chuyển câu hỏi: Luận Vô minh v.v…trở xuống. Sớ Như đây v.v…, ý nói trước tuy nói tướng diệt, chỉ là nghóa dung nhiếp tướng trở về tánh, nên nói là diệt. Do thức tướng này chẳng lìa giác tánh, chân vọng vốn không có tự thể riêng, mà vặn hỏi rằng: Lìa chân có vọng ư? Đây lá đáp theo tánh tướng nghóa chẳng lìa. Kết cả hai. Luận Chẳng có thể hoại, là kết cả hai, thành hai nghóa trước. Câu trước tổng kết, nghóa sau, tướng chẳng lìa tánh, được thành chuyển tâm tịnh kia làm sinh diệt. Câu sau tổng kết nghóa trước, tâm tướng là vô minh, được thành diệt tâm nối nhau, hiển hiện Pháp thân. Sớ: Chẳng một khác v.v…, bản dịch ở sau nói: “Tướng và bản giác chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng thể hoại, chẳng phải chẳng thể hoại…” Môn sinh diệt đầu đã có giải thích rộng. Nay lại cho kia nghóa chẳng một chẳng khác, thành trong văn này nghóa chẳng hoại, chẳng phải chẳng hoại, đây là đứng về mặt nghóa mà nêu chung. Nếu nương v.v… trở xuống, dẫn kinh giải thích riêng vô minh là minh, nên không thể hoại, hoại thì hoại ở thể minh. Kinh Niết-bàn có nói: “Minh và vô minh phàm phu cho là hai, người trí liễu đạt tánh kia không hai, tánh không hai tức là thật tánh”. Nếu đứng về mặt v.v…, vì thức tướng chẳng phải tâm thể, do đó nhờ dứt vô minh mà được Bồ-đề. Vô minh diệt v.v… trở xuống, tổng kết thành nghóa để hoại. Đây là nói về văn trước nói diệt, là tâm nối tiếp, hiển bày Pháp thân. Như kinh Chánh Pháp Niệm nói: Nước và sữa trong một bình, ngỗng đầu đàn uống hết sữa chừa lại nước. Diệt mê lầm y theo mà biết, người đời cho rằng dứt hết mê lầm sau mới chứng chân, lại không biết thể của mê lầm vốn là chân, bất giác của toàn giác. Như người mê cho hướng Đông là hướng Tây, sau mới thấy hướng Đông, người ấy rất là ngu. DỤ. Sớ Chân theo vọng chuyển, tức tâm tịnh ở dưới do gió vô minh mà động. Luận: Tướng nước tướng gío không có tướng lìa bỏ, ướt là tướng nước, động là tướng gió. Chỗ động toàn ướt, chỗ ướt toàn động là không có tướng lìa bỏ, cũng có thể tướng nước là sóng động. Tướng gió cũng là sóng động. Do nước và gió đều là dụng kia làm tướng, nên nói không có tướng lìa bỏ. Lấy ví dụ tất cả pháp nhiễm nương chân mà khởi, do ngu si mà phát. Pháp nhiễm hướng chân là tướng chân. Nếu hướng về si là tướng si. Như sau nói: “Do tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác” Lại nói: “Đều đồng tánh tướng chân như” nên ở đây sớ dụ chân vọng nương nhau, tức ở dưới tâm không có tướng xả ly với vô minh”. Chân thể bất biến, tức ở dưới tâm chẳng có tánh động. Do tâm tánh vắng lặng, vốn chẳng động tác. Do chẳng giữ tự tánh theo vô minh nên thành khởi diệt. Như nước tánh ướt, vốn không dao động, do gió nên có động. Dứt vọng bày chân, tức ở dưới vô minh diệt nối tiếp thì diệt mà tánh trí chẳng hoại. Đây nói v.v.., là ý nói rõ. Nếu tự tánh chân là pháp động, khi tướng thức diệt, chân tánh lẽ ra diệt, nay không diệt, nên biết chẳng phải tự tánh động. Như tánh nước kia, nếu tự tánh động, khi tướng sóng diệt, tánh ướt lẽ ra diệt, nay đã không diệt, nên biết chẳng phải tự tánh động. HỢP: Sớ Nước theo gió động, tức ở trước biển lớn do gió nên sóng động. Lấy nước v.v… trở xuống, văn ví dụ có thể biết. Huống là. Nên nói: “Do tâm không thể tự sinh, phải nhờ vô minh để thành nước v.v… vô minh không thể tự hiện tướng vọng, phải nhờ tâm mới hiện tướng vọng. Vô minh tướng động tức tâm động, tướng không có tự thể riêng. Nên ở trước nói: “pháp nhiễm hướng chân”, là tướng chân, nếu hướng vô minh là tướng vô minh”. Gió nước nương nhau, tức ở trước nói tướng nước, tướng gió không có tướng lìa nhau. Nhưng ở trong đây đều không có nghóa hình tướng, trong dụ không nói, nay ở trong sớ đứng về mặt pháp hiển bày dụ. Dùng ướt v.v… trở xuống, là nói rõ dụ. Tâm pháp v.v… trở xuống là nói pháp đều có thể thấy. Nếu y cứ theo thì toàn đoạt cả hai nghóa đều mất. Nay ở ngoài sớ riêng giúp giải thích một phen. Nói tâm và vô minh đều không có hình tướng. Cũng là nói theo mặt chân vọng mỗi thứ lúc trụ ở địa vị của mình. Nêu nghóa này, phải phải bày tướng chân vọng không lìa nhau. Do chân vốn không có hình tướng, ở tâm nhiễm mà nói tướng kia. Vô minh cũng không có hình tướng, lại chỉ tâm nhiễm để làm tướng kia. Đây tức khi trụ tự địa tuy không có hình tướng mà chân vọng hòa hợp cùng hiện tướng nhiễm. Do pháp nhiễm này cũng là tướng chân như, cũng là tướng vô minh, nên nói không có tướng lìa bỏ. Như cha mẹ cùng sinh một đứa con, đứa con này cũng là con của cha, cũng là con mẹ. Hỏi: Vì sao? Trong dụ trước chỉ nói tướng gió tướng nước không có tướng lìa bỏ mà không nói đều không có hình tướng ư? Đáp: Vì trong văn trước chỉ dụ nghóa không có tướng lìa bỏ, không dụ nghóa không hình tướng. Vì nước lúc không dậy sóng cũng có tướng, gió cũng như thế. Chỉ giữ phần dụ nên chẳng nói không hình tướng. Hỏi: Trong dụ nói tướng gió tướng nước, trong pháp nói đều không hình tướng, pháp dụ đâu giống ư? Đáp: Trong dụ nói về mặt sở khởi cộng tướng, nên đều nói tướng. Trong pháp đứng về mặt năng sở tự tướng mà nói, nên nói đều không. Tuy không có tướng, tự tướng mà có tướng, cộng tướng. Pháp dụ là giống nhau. Nhưng, trong dụ đã khởi, nên nói là tướng. Trong pháp là chưa khởi, nên nói đều không. Lại trong dụ nói về mặt hợp, thì nói là tướng. Trong pháp nói về mặt khai, nên nói đều không. Nhưng, nay pháp dụ là ý chính, chỉ nói rõ tướng vô minh và tánh giác là nghóa không có tướng lìa bỏ, không hiển bày nghóa không hình tướng, nên trước trong dụ mà không ví dụ. Trong hợp tuy có nói không hình tướng, ý chính cũng phải nói không lìa nhau. Người có trí nên xét cho kỹ. Chẳng phải là người dưới lấn lướt người trên. Tánh nước chẳng động, tức ở trước nước chẳng phải là tánh động, gió dừng thì hiển bày nước. Tức ở trước nói: “Nếu gió dừng, tướng động mất mà tánh ướt chẳng hoại”. Ngoài ra, mỗi thứ phối hợp riêng rất dễ biết. - Nêu chung để luận: Nương trí tịnh v.v…, là nương chân khởi ứng. Như nương vào gương sáng hiện các sắc tương, nghóa là tâm bản giác theo nhễm, mới được thuần tịnh, nương trí lực này hiện thân ứng hóa, cùng chúng sinh kia làm lợi ích. Nên luận Thật Tánh nói: “Làm sao thành tựu lợi ích tự thân? Là được giải thoát, lìa bỏ phiền não chướng trí chướng, được Pháp thân thanh tịnh vô chướng ngại. Thế nào là lợi ích cho người? đã được thành tựu lợi ích tự thân, đã từ vô thỉ đến nay, tự nhiên nương hai thứ thân Phật kia, cũng thị hiện hạnh lực, tự tại ở thế gian, đó gọi là thành tựu lợi ích cho người khác. Tha thân tức là ứng thân. Nên Duy Thức nói: “Trí Đại viên cảnh năng hiện, năng sinh ảnh của thân trí. Sớ là cùng v.v… Tất cả tuy nhiểu nhưng không ngoài sáu cảnh, nên ở đây nêu. Thật tánh v.v… trở xuống là dẫn chứng luận giải thích nghóa. “Hư không chẳng có tướng” tức là ở trước chỗ nương của chân thân chỉ là như như và trí như như, trùm khắp tất cả không khác nhau. Như hư không là thắng trí, tức hay cảnh căn cơ ứng hóa, chán sinh tử cầu Niết-bàn, nên nói thắng trí, ở đây có hai loại: Địa thượng cảm ứng, ứng thân thù thắng (sơ địa trở lên). Trước sơ địa cảm, ứng thân thấp kém, tạo ra sáu căn cảnh như sáu thứ hiển bày đầy đủ. NÓI RIÊNG: Sớ có hai: - Giải thích chung văn trên: Nói lên nghiệp đức, như ở sau nói: “Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, chỗ trụ nương quả, cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm”. Nghiệp căn, như ở sau nói: “Theo chỗ ứng kia, thường giữ gìn được không hủy không mất”. Đây là ngang dọc đều nương chân giác được vô lượng không dứt. Thắng năng, như kinh Pháp Hoa chép: “Người do thân Phật được độ thì hiện thân Phật mà nói pháp cho họ nghe” Có cảm nên kia ứng, không cần gia công. Như trăm sông do một mặt trăng trên trời soi bóng. Pháp lực gốc lành từ bi cũng như đây, nên nói là tự nhiên. Sớ: Bốn thứ hiển bày v.v… trở xuống là lợi ích cao siêu, hoặc thấy hình mà phát tâm, hoặc nghe pháp để khởi hạnh, cho đến tri giác, công sức cũng không tổn phí, nên nói không luống uổng. Ba câu trên đây, vẫn là chỉ riêng văn này. Như đây v.v… trở xuống là giải thích nghóa chung ở trên. Báo hóa v.v…, báo là chỗ thấy từ Sơ địa trở lên, cũng gọi là ứng thù thắng. Hóa là trước Sơ địa, chỗ thấy cũng gọi là ứng hạ liệt, hai thứ thân này, đều là dụng trí tịch hiển bày chân như. Vô thỉ v.v…, tức ở trước thường không đoạn dứt, văn sau tự hiển bày. - Hỏi đáp giải thích ngại: Hỏi, địa được v.v… trở xuống. Có hai: Hỏi: Ý nói: “Ban đầu được tướng trí tịnh để tự lợi, mới khởi nghiệp không thể nghó bàn để lợi tha”. Trên nói: “Do nương trí tịnh tạo cảnh giới cao quý, nếu như vậy lợi tha có cái ban đầu, thì đâu nói là không có ban đầu? (vô thỉ) Đáp. Có ba: Giải thích theo một vị Phật: Do vô minh v.v… trở xuống, như văn. Nói bản giác thường khởi dụng, có hai ý: Nói theo mặt nội huân, tức nghóa tự thể tướng huân tập. Văn sau nói: “Từ vô thỉ đến nay đầy đủ pháp vô lậu, có đủ nghiệp không thể nghó bàn, tạo tánh cảnh giới” Nương hai nghóa này thường luôn huân tập… Nói theo mặt ứng hóa, ứng hóa chẳng khởi, chỉ do vọng nhiễm che đậy, chẳng cho rằng bản giác không có ứng dụng này, cũng chẳng cho rằng tâm vững chắc khiến không khởi. Đây là lỗi ở vọng, đâu trách được giác. Dụng của Bản giác cũng như âm thanh của tiếng sáo cao vút, lả lướt như rồng bay phượng múa, như dụng của gương sáng trưng, như kéo sắc bén cắt vải. Âm thanh tao nhã, gương dụng sáng trưng, thì còn phải lo gì bụi trần làm nhiễm được mà chảng phát triển ư? Giải thích theo đồng chư Phật, dùng một v.v… trở xuống, chung cho chư Phật trong mười phương ba đời, đều do thỉ giác đồng bản giác, được ứng dụng không trước sau. Đứng về chúng sinh mà giải thích. Đây, bản giác v.v… trở xuống. Do chân tâm của chúng sinh, chân tri của Phật không khác nhau. Phật ứng dụng tức là chúng sinh ứng dụng, dụng tức thể khởi, nên nói không hai. Nếu nói về phương diện Phật thì dụng thuộc về Phật. Nếu nói về phương diện chúng sinh thì thuộc chúng sinh. Tóm lại, cũng giống như bóng mặt trăng hiện hiện ra ở dưới đáy nước trong đầm. Chỗ hiện ấy vừa là trăng, vừa là bóng của trăng, vừa là bóng của đầm. Văn sau sẽ giải thích rộng. Nêu chung, Sớ: Do không v.v… trở xuống, có hai: Nêu cả hai dụ hư không và gương: Nếu y cứ ý luận, chỉ nói tướng giác có bốn nghóa, vì mỗi nghóa đều trùm khắp pháp giới, nên nêu hai ví dụ. Lấy hư không dụ trùm khắp, lấy gương sạch dụ cho bốn thứ. Nói đủ hai ví dụ: Nếu nêu riêng ví dụ về không thì không hiển bày bốn nghóa. Nếu nêu riêng ví dụ về gương thì không hiển bày trùm khắp. Nên nêu cả hai ví dụ, hiển phát lẫn nhau, chẳng biết hư không cũng có bốn nghóa. Nay nói theo gương, nên nói đều có. Giải thích riêng bốn nghóa trong dụ gương: Một, không v.v… trở xuống, văn có hai: Lược phối hợp với không: Đây đối với chân thể vốn không vọng nhiễm. Như văn nói: “Do từ xưa đến nay tất cả pháp nhiễm không lìa nhau”. Giống như ở gương chỉ có tánh sáng, nên nói là không. Bóng hiện trong gương chỉ là hình tượng, tướng kia vốn không có, cũng thành nghóa không. Chẳng chẳng không v.v…, tuy không vọng nhiễm nhưng có tự thể và tánh công đức. Nếu không có tự thể kia, lấy gì để hiện vật. Ngoài ra cả hai có thể thấy, bốn thứ này thứ lớp phối hợp với bốn nghóa. Trong đây nêu cả hai mà sau giải thích riêng, do hư không theo gương hiển hiện. Chỉ giải thích nghóa của gương, tự nương hư không, do mỗi nghóa đều có trùm khắp như hư không, thế nên nêu riêng. Phân biệt: Trong bốn thứ trở xuống, phối hợp có năm cặp: Tánh tịnh đối lìa cấu. Nhân ẩn đối quả hiển. Hư không đối thể dụng. Thể đối tướng. Hư không đối gương. Một và ba có nghóa hư không, nhưng nói hư không tuy đồng mê mà nghóa không chẳng đồng. Lấy cặp thứ nhất đứng về mặt nhân không có thể vọng làm hư không. Cặp thứ ba y cứ quả lìa tướng vọng làm hư không. Cặp thứ hai và bốn có nghóa gương, nghóa cũng khác nhau. Cặp thứ hai lấy gốc ngọn hiện vật làm gương, cặp thứ tư lấy tùy thời soi chiếu vật làm gương. Nhưng cặp thứ thứ nhất và ba chẳng phải không có nghóa gương. Cặp thứ hai và thứ tư đều là nghóa không. Nay chỉ giữ phối hợp càng thêm cao siêu. Ngoài ra như bổn văn. Giải thích riêng. Có bốn: Gương không., có ba: Nêu tên: Sớ: Vốn không v.v…, do xưa nay không lìa nhau, chẳng nói giống theo nhau. Chưa dứt thì có, dứt rồi thì không, nên nói là vốn không. Cũng chẳng chưa chẻ khiến cho thành không, nên gọi là vốn không. Nói về tướng: Luận: Xa lìa v.v… trở xuống. Hai câu đầu là hiển bày nghóa không. Không pháp v.v… trở xuống, là một câu, nói trở lại chỗ không. Sớ Đối văn pháp và du, hiển bày rõ ràng rất dễ biết. Kết tên, luận nói chẳng giác chiếu v.v… trở xuống, sớ có hai: Giải thích. Có hai: Đứng về vọng không có công chân chiếu: Trước là nói pháp trái lý, lý có giác chiếu, vọng đã trái lý tức không giác chiếu. Đã không có dụng chiếu thì trong lý đâu thể dung nạp vọng kia! Do đó, văn trước sau xa lìa. Như gương v.v… trở xuống là ví dụ hiển bày. Như gương vốn có dụng chiếu vật bên ngoài, trái với gương thì không có dụng chiếu. Đã không có dụng chiếu trong gương đâu thể dung nạp vật kia, do chiếu và không chiếu chẳng hòa hợp, giống như nhà của người có lòng nhân đâu dung chứa kẻ bất nhân đến ở, do tánh tướng trái nhau. Đứng về chân: Sau, đứng về mặt chân, dụng của giác không vọng, trước là pháp, kế là dụ đều thể biết. Kinh Viên Giác chép: “Không biết giác minh” tức là nghóa này. Nhưng, trong hai nghóa này, tuy nơi chân, nơi vọng đều nói về phương diện không có năng chiếu. Hỏi: Vọng thuộc vô minh dung chứa không có năng chiếu, chân tánh sáng suốt giáo lý đều thành, vì sao nói không chiếu? Đáp: Nay nói chân không có chiếu, chỉ không có chiếu năng sở, chẳng phải không có tánh sáng suốt chiếu, như kinh Lăng-nghiêm chép “Tánh giác thì sáng, vọng là minh giác”. Nay đây chỉ không vọng là minh giác chiếu. Trong sớ ở sở hiển năng, chẳng cho rằng chỉ là không có nghóa chiếu, người trí nên xét kỹ. Thông ngại: Đây đứng về mặt v.v… trở xuống là thông là ngại. Hỏi rằng: Kế đến nói tất cả cảnh giới đều hiện trong đây. Tại sao ở ây nói không thể hiện? Cho nên ở đây giải thích, biến kế tình có lý không. Y tha tướng có tánh không, nên biết ở đây nói không thể hiện là vọng không có tự thể. Ở sau nói hiện là có tướng hư không. Kia kế đến nói: Nhất tâm thường trụ v.v…, tức nói y tha không thật có. Chỉ có viên thành đầy đủ nghóa của ba tánh. Trong gương, luận nói về gương, có hai: Nêu danh nêu thể, Sớ: Nhân hiện pháp, vì thứ kế nói: “Hiện cảnh giới”. Nhân huân bên trong, kia kế là nói: “Huân xông chúng sinh”. Cũng có thể v.v… trở xuống là nói trở lại. Kia nghóa nhân thì thông mà nghóa huân hạn cuộc. Do hiện pháp và huân tập đều gọi là Nhân. Hiện pháp chẳng phải nghóa huân tập. Có tự thể: khác với vọng không có tự thể. Và công đứ: khác Hằng sa phiền não. Vọng thì chẳng những chỉ không có công đức mà gồm cả không có chân, tự thể thì không phải chỉ có tự thể mà gồm cả có công đức. Như văn trước nói: “Do có tự thể đầy đủ vô lượng tánh công đức”. Giải thích riêng hai nhân, có hai: Nhân hiện pháp, có hai: Giải thích: Sớ Ngoài tâm v.v… luận sau nói: “Ba cõi luống dối, e chỉ do tâm hiện, lìa tâm không có cảnh giới sáu trần”. Minh tâm v.v…, đợi vô minh huân mới biến các pháp. Nếu tự xuất phát, vô minh dứt, lẽ ra xuất phát vô cùng, thì tu dứt đâu có lợi ích. Nên biết không đợi pháp vô minh thì không xuất phát. Lìa tâm v.v…, tuy nói đợi huân mới xuất phát, chẳng cho rằng riêng có tự pháp bên ngoài mà vào làm năng huân. Đó là tâm bất giác, thuộc về năng huân, năng huân đã chẳng phải ngoài tâm, vật hiện ra đâu được lìa chân, nên chẳng phải ở ngoài người. Lại các pháp này toàn tâm mà thành, chẳng cho rằng các pháp từ trong tâm mà ra, hiện ở bên ngoài. Đây chẳng phải như người từ trong nhà đi ra gọi là Hiện. Lại chẳng có các pháp riêng từ bên ngoài đến. Vào trong tâm này mà hiện bóng kia. Đây chẳng phải như hình đối diện gương mà hiện tượng kia. Do tâm không có trong ngoài, hai câu này lạm phân biệt. hai câu sau là hiển bày. Như Sớ có nói, bởi không mất không hoại thường trụ nhất tâm, nên nói là Hiện. Tuy lại v.v…, tâm cảnh rõ ràng nhiễm, tịnh vẫn y nhiên. Các pháp duyên tập v.v… trở xuống, pháp dụ rất dễ thấy. Đây là tánh khởi làm tướng nên không mất, tướng đồng ở tánh nên không hoại. Luận: Thường trụ nhất tâm, có hai ý: Do tất cả pháp thường nương nhất tâm mà trụ, được không ra không vào, không mất không hoại. Các pháp đương thể thường trụ, chỉ là nhất tâm. Ngoài nhất tâm không có một pháp để ra, vào, mất, hoại, nên kinh nói: “Tướng thế gian thường trụ”. Trong hai nghóa này nghóa trước là chánh, do ở sau có luận tự giải thích thành. Văn sớ rất dễ biết. Giải thích thành: Sớ: Giải thích thành: Đồng thể, ý nói thế nào? Vì các pháp thường nương nhất tâm mà trụ nên ở đây giải thích: Do pháp là tánh chân thật, đây là lấy hai câu này chuyển giải thích nghóa trước, y cứ sớ chỉ bày phối hợp như ở đây giải thích. Nay sớ bỏ tựa của văn trước giải thích thành ý đoạn này. Nghóa là trước sau giải thích lẫn nhau đều được. Ở đây, ngược lại sẽ rõ. Nhân huân tập: Có hai: Nói lên thể lìa nhiễm. Sớ Do tánh v.v… trở xuống là thuận giải thích văn. Chẳng trực v.v…, trở xuống là riêng trình bày ý, trước là pháp, kế đến là dụ. Nếu không v.v… trở xuống, ngược lại để tổng kết thành, đều rất dễ biết. Giải thích nghóa nhân, luận nói Do trí v.v… trở xuống. Sớ: Do bổn v.v… trở xuống là đứng về mặt bổn tịn, nay tịnh nói về bất động. Lại tuy v.v… trở xuống là đứng về mặt hiện nhiễm chẳng nhiễm mà nói bất động. Cũng trước là pháp, sau là dụ, rất dễ hiểu. Đây bổn v.v… trở xuống là giải thích câu đầu của luận, tức ở sau nói nghóa trí tuệ sáng suốt rộng lớn, sau tổng kết rằng: “Cho đến không có thiếu nghóa”. Lại cùng v.v… trở xuống là giải thích câu sau của luận, tức nghóa tự thể tướng huân tập, như ở trước dẫn chứng. Thắng-man v.v… trở xuống là dẫn chứng kinh luận, ta biết Đạo đế là nhân xuất thế, nhân là nghóa huân tập. Trong phần ba, luận có hai: Nêu tên nêu thể, Sớ: Chân như v.v…. trở xuống là giải thích ngay văn này. Trước tại v.v… trở xuống là khoa phân biệt trước sau. Tánh tịnh là nghóa đầu, chẳng không là nghóa thứ hai. Như Lai tạng là hai nghóa kia tại triền, gọi chung là Như Lai tạng. Chỉ do không, chẳng không khác nhau. Nay nói “chẳng không v.v…” đồng với nghóa chẳng không ở trước. Pháp thân, khác với nghóa Như Lai tạng ở trước mà thể đồng. Kia ẩn đây hiển. Trước nói: “Nương vào Pháp thân mà nói bản giác”. Sau nói: “Gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai”. Nhưng Pháp thân chỉ thuộc cảnh thứ ba, một cảnh sau là báo hóa thân. Bảo tánh v.v… trở xuống là dẫn chứng. Đồng tướng v.v… chung cả phàm thánh. Thắng tướng: cao quý ở nhân. Nhưng tịnh ban đầu tức hai ng- hóa trước, tịnh sau tức hai nghóa sau. “Xuất pháp thể” tức là pháp của hai nhân trước. Trước nói: “Như thật chẳng không v.v…”. Nay nói lìa chướng, nên chỉ bày lại. Giải thích: Luận: Xuất phiền v.v… trở xuống là nói rõ. Sớ: tâm nhiễm thô tế, là bốn thô ba tế. Như văn sau nói:” nghóa tâm nhiễm” gọi là phiền não ngại. Chỗ nương vô minh, căn bản chi mạt là chỗ nương pháp của sáu nhiễm. Như văn sau nói: “Nghóa vô minh gọi là trí ngại”. Tâm tịnh ra khỏi chướng, khỏi hai ngại ở trước. Ngại là chướng. Hai chướng đã ra khỏi nghiệp thức, mất tâm không có chỗ hợp, nên nói lìa. Lìa hòa hợp v.v… là ba đoạn của sớ, tức trái với hòa hợp, phiền não, trí ngại ở trước, thành ba chữ thuần, tịnh, minh, ở đây. Như sớ rất dễ hiểu. Nhưng, ba chữ này, chữ “Thuần” là chung, chữ Tịnh, Minh là riêng. Nghóa là “thuần tịnh”, “Thuần minh”. “Thuần tịnh” là nghóa tịnh viên mãn, phân biệt khác với Bồ-tát, là phần tịnh. “Thuần Minh” tức nghóa giác viên mãn, phân biệt khác Bồ-tát là phần giác. Đây sáu nhiễm dứt, là thuần tịnh. Hai giác viên mãn là thuần minh. Lại ba chữ này tức ba đức tròn đầy. Nghóa là như thứ lớp Pháp thân, giải thoát, Bát- nhã. Đầy đủ ba điểm này để thành đại bát-nhã. Trong phần bốn. Có hai: Nêu tên bày thể: Luận: Duyên huân v.v…, duyên tức duyên bên ngoại vì các chúng sinh mà tạo duyên bên ngoại phát khởi gốc lành. Nên tập huân, huân là nương huân, huân thành tập khí phát khởi gốc lành, nên nương pháp để xuất ly, nương thể tướng để khởi dụng. Chính giải thích tướng kia: Luận Biến chiếu v.v…, tức nói về pháp này xuất ly hoặc nhiễm, thành ba luân không thể nghó bàn. Biến chiếu tức ý luân soi xét căn cơ thị hiện tức thân miệng thiết lập giáo hóa. Do đây làm sức duyên huân tập khiến tu gốc lành. Tức kia v.v… trở xuống, có hai: Giải thích chung văn trên: Cùng kia v.v…, nghóa là làm duyên riêng với nhị thừa thập tín. Làm duyên bình đẳng với tam hiền thập địa. Như ở sau trong dụng huân tập có nói. Phân biệt trước sau: Hỏi trước trở xuống là phân biệt trước sau, có hai: Biện hai nghóa khác: Ý hỏi rất dễ hiểu. Trong đáp: Trước ở nơi v.v…, ý nói hai tướng trước cùng hai cảnh này, pháp thể không hai vì môn có khác, nghóa là hai tướng ở trước lấy trí làm môn, cho rằng đều nói về mặt thỉ giác, hai cảnh sau lấy lý làm môn cho rằng đều nói về mặt pháp thể. Lại trước nói về tướng, cho rằng sinh ra hai tướng. Ở đây nói về tánh, hai thứ đều nói về pháp. Lại trước đứng về mặt đối nhiễm nói tướng tịnh, nói rằng trí tịnh… Ở đây đứng về mặt tự tánh, hiển bày đại nghóa nên nói có bốn thứ đại nghóa cùng hư không. Lại trước lấy hiển làm môn, đây lấy ẩn làm môn. Sở dó có hai thuyết này, e có người nói: “Khi hiển mới tịnh, khi ẩn chẳng tịnh. Nên do đây nói hai ẩn. Trở lại, nói hai hiển, nên có pháp xuất ly duyên huân tập. Lại trước nói về hai hiển. Do chấp văn cuối của Thỉ giác, lại cũng tức là nghóa thỉ giác, cũng tức là chỗ ẩn khó tin, vả lại ở chỗ hiển mà mở bày. Ngoài ra, y theo nghóa dễ biết. Kết đồng một thể: Nhưng, pháp v.v… trở xuống là tổng kết đồng một thể. Ở đây nói vì môn tuy khác mà thể kia là một, nên ở đây tổng kết đồng. Chỉ nay v.v… trở xuống, cảnh tức là pháp. Vì chỗ chứng, chỗ duyên là thỉ giác, nên nói là cảnh. Lại do đối với thể nên nói là Dụng, đối với nhân nên gọi là Duyên, kia đều không ra khỏi thân chân ứng. - Bất giác. Bất giác: là nghóa thứ hai trong thức A-lại-da, bất giác, vô minh. Là tên riêng của vô minh, cũng gọi là si, cũng gọi là mê không biết. Đây đứng về mặt pháp nhiễm để nói nghóa tâm sinh diệt. Nhưng, sinh là vọng sinh, diệt là tán diệt. Trong đây ba đoạn cũng là danh đầu tiên là: Thể, kế là Tướng, kết tướng đồng thể. Pháp: Sớ: Chẳng rõ như lý…, như lý bình đẳng vốn chỉ một tướng chẳng khác bất giác. Nay đã không biết như lý, nên nói chẳng rõ, chẳng rõ tức vô minh. Do vô minh nên vọng sinh dị tướng. Kinh Thủ-lăng- nghiêm chép: “Trong không đồng khác bỗng nhiên thành khác”. Như người mê phương chính, chẳng rõ chính là phương Đông. Nghiệp tướng v.v…, vì luận nói: “Khởi niệm, khởi tức động, động tức nghiệp tướng”. Trong kinh cũng gọi là khởi. Văn nói: “Khởi là thế giới tónh thành hư không, hư không là đồng, thế giới là khác”. Phương tà, trước tuy mê phương chính kia, vả lại không rõ là phương Đông, nay ở phương Đông cho là phương Tây, nên nói phương tà. Trước là mê chân, đây là khởi tương tự. Do vô minh căn bản có hai nghóa mê chân và chấp vọng. Nay luận đoạn này trở xuống là ba tế, chính là nghóa ban đầu. Sau nói biết tướng là nghóa chấp vọng. Cũng tức nghóa bỏ giác theo trần trong kinh Lăng- nghiêm. Kinh nói: “Mê mất bổn diệu, viên diệu minh tâm, bảo minh diệu tánh, lầm nhận trong mê? Đây đều nói đủ hai nghóa. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Đối với đệ nhất nghóa không rõ gọi là vô minh”. Đây là mê chân. Kinh Viên Giác nói: “Vọng nhận bốn đại duyên lự làm thân tâm v.v…”. Đây là chấp vọng. Nhưng, mê chân thì chấp vọng, chấp vọng thì mê chân. Hai kinh này đều nêu một nghóa. Tà không lìa chánh: phương Tây là phương Đông, bất giác là giác. Dụ: Luận: Nương chỗ mê phương, nương phương Đông nên mê làm phương Tây, nếu lìa chính phương Đông thì không có tà phương Tây, cũng như nương nước khởi sóng, nếu lìa nước thì không có sóng. - Hiển giác: Sớ: Nghóa ban đầu, tức văn nói: “Do có bất giác cho đến vì nói chân giác”. Nghóa sau, tức văn nói: “Nếu lìa bất giác v.v…”. Đây là giải thích chi tiết văn luận. Bởi do v.v… trở xuống là nói về ý kia. Nương chân v.v… trở xuống, là trình bày ý đầu. Như nương vào vật dụng bằng vàng mới hiển bày được vàng. Ngược lại thì không thể. Theo vọng v.v… trở xuống là hiển bày ý sau. Như vàng theo đồ dùng, trở lại vàng đợi đồ dùng hiển bày, ngược lại cũng không thể được. Đây chính là trước nương vào giác nên mê thì là chỗ tổn của vọng, nay nương mê hiển bày giác thì là chỗ lợi ích của vọng. Nhưng, đại ý của luận nói về bất giác và giác đều là đợi nhau. Vì nói lên sinh diệt, nhiễm tịnh, không có tự tướng, đều không thật có. Trong đây, ban đầu nói do có tâm vọng tưởng bất giác là vô minh khởi vọng tưởng Phật, do đây phân biệt hay biết danh nghóa nên có nói năng, nói ở chân giác, là nói tên chân giác đợi ở vọng lập, nếu lìa bất giác thì không có chân giác. Tự tướng để nói: là trái lại nói về chân giác là đối đãi với bất giác, nếu không đối đãi thì không có tự tướng. Đối đãi cái khác đâu thành tự tướng. Tự tướng đã không, tha cũng chẳng lập, là nói lên nghóa nhiễm tịnh không thật có. Sau dịch rằng: “Nhưng, bất giác kia tự không có thật tướng, không lìa bản giác. Lại đối đãi với bất giác để nói chân giác. Bất giác đã không, chân giác cũng mất”. Như văn sau nói: “Nên biết tất cả pháp nhiễm pháp tịnh đều do đối đãi, không có tự tướng để nói. Kinh Viên Giác nói: “Nương huyễn nói giác cũng gọi là huyễn trí”. Luận cũng nói: “Nếu thế đế cho cái dứt bặt không có cái mảy may mà cho là có thật, thì nghóa đế đệ nhất kia cũng nên cho là thật mới phải”, đó là nghóa lý ở đây. <篇> <卷>QUYỂN 11 CHI MẠT. Sớ nói có hai: Nêu lên: Giải thích: Trong phần giải thích có hai, phần đầu sớ văn quyển mười một lập lại nghóa tướng dụ hợp rõ ràng, tìm văn dễ hiểu. Nhưng, ở đây ẩn dụ cũng chưa hoàn toàn giống nhau. Nếu lấy gốc ngọn so sánh, thì chẳng qua thí dụ trong mộng, đã thấy văn ở trước. Đều do năng lực vô minh, như văn sau nói: “Nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm”. Vô minh làm nhân, v.v…, kinh Lăng-già nói: “Vọng tưởng làm nhân, cảnh giới làm duyên, hòa hợp sinh ra”. Trong sớ lấy đây để chia văn của luận. Trong kinh nói vọng tưởng tức vô minh, vô minh sinh ba tế. Văn sau tức lần lượt phát sinh lẫn nhau, nay chỉ nói trên căn bản, nên nói vô minh làm nhân. Nêu chung: Sớ: Tướng chẳng lìa thể, chín tướng như nghiệp v.v..chẳng lìa thể bất giác. Vì tướng tức thể, thể tức tướng, nên chẳng lìa nhau. Ngọn chẳng lìa gốc, là ngọn của ba tế, sáu thô chẳng lìa cội gốc bất giác vô minh. Do ngọn tức gốc, gốc tức ngọn, nên chẳng lìa nhau. Nương vô minh khởi tâm vọng: tức bất giác sinh ba tướng. Văn sau nói: “Do nương vô minh mà có A-lại-da”. Nương vọng tâm, khởi vô minh: do nương thức A-lại-da nói có vô minh. Kia giống như nương nước có sóng. Tướng sóng đã khởi cũng không lìa nước, do nghóa đó nên nói tương ưng, chẳng phải nói nghóa tương ứng theo tâm vương tâm số. Do ba thứ này là bất tương ưng nhiễm. Giải thích riêng: Trong phần giải thích riêng có ba, mỗi thứ đều có nêu tên, sở y, giải thích, người giảng nên biết rõ. Nghiệp tướng: Nêu tên: thể. Luận: Vô minh nghiệp tướng, ý tiêu biểu hai thứ này không khác Sở dó biết, v.v… trước nói dứt nghiệp tướng, liền thấy tâm tánh thành cứu cánh giác. Chỉ ở trên nghóa mà nói nương tướng hiển bày thể không khác khác. Nay nêu cả hai. Lại phân biệt bản giác tùy nhiễm nghiệp tướng, nên nói vô minh nghiệp tướng hiển bày giác, bất giác đều có nghiệp tướng, mà chân vọng khác nhau. Sở y. Luận Do nương v.v… trở xuống. Sớ vô minh Căn bản, do đó chỗ nương là ngay ở căn bản. Như mộng nương vào giấc ngủ. Giải thích: Luận nói Tâm động v.v… trở xuống, sớ có hai: Giải thích riêng văn luận, luận có hai: Nghóa động tác: Sớ: Động tác là nghóa nghiệp, là nghiệp dụng vô minh. Tám tướng sau cũng là động tác, cũng là nghiệp dụng vô minh. Nhưng, ở trên nghóa riêng để lập tên kia, chỉ cái tối sơ ban đầu khởi dụng nên gọi là Nghiệp. Nêu trái lại, v.v…, như không ngủ thì không có mộng. Thỉ giác, tức rốt ráo. Nghóa Nhân:. Luận nói Động thì v.v… trở xuống. Sớ: Làm nhân là nghóa nghiệp, trong chín thứ, thì tám thứ trước đều được gọi là Nhân. Sở dó không nói Nghiệp, cũng ở trên nghóa riêng, nay đây tướng ban đầu làm gốc khổ, nên gọi là Nghiệp. Như được v.v… trở xuống, là hiển bày trái lại, do tịnh là nhân an vui, nhiệm mầu, ngược lại biết động niệm tức là nhân khổ. Nhân động quả khổ v.v…, vì một niệm khởi động thì đầy đủ bốn tướng nhỏ nhiệm, quả khổ của bốn tướng chẳng lìa nhân động của một niệm. Y cứ trong đây tức là A-lại-da hành khổ. Nếu nói theo trước rõ, thì bốn tướng có đồng thời, nên bốn tướng thuộc về chín tướng. Phần đoạn thô khổ cũng ở trong đó. Cho nên thứ lớp nói v.v…, văn không gấp chép, nghóa có nương nhân. Nếu nói trên thời gian thì một niệm bất giác không có trước sau. Có nói rằng: Một niện bất giác, năm uẩn đều sinh, tức là nghóa ấy. Nói về hành tướng: Đây tuy v.v… trở xuống là thông rõ hành tướng, đây chính là ngay trong chín tướng tế trong tế, chưa có chuyển, hiện, tâm, cảnh khác nhau, nên nói một tướng năng sở chẳng phân, v.v… “Tức nay đối với, v.v…”, tự thể tức tự chứng phần. Như không tướng v.v… trở xuống là dẫn chứng. Tướng là tự thể, cảnh giới là sở duyên. Nên biết v.v… trở xuống, biết kia đồng với đây. Chuyển tướng. Sớ: Nói nương ở trước, v.v…, chuyển giống như khởi, cho thấy rằng đây là nghiệp tướng khởi ở trước. Nhưng tướng khác đều có nghóa khởi. “Chẳng gọi là Chuyển”, cũng đứng về nghóa riêng. Như nương vào giấc mộng mà có tâm mộng. Nếu nương v.v… trở xuống, đứng về mặt biển quả thì đó là tánh biển tịnh bất động, là không thấy có kia đây. Nên biết có cái thấy ấy chỉ là nương vào tánh động, như không có mộng thì không có tâm mộng. Như thế v.v… trở xuống là trong địa vị một tướng này để nói chẳng nói nguyên do cảnh giới. Do nhỏ nhiệm, vả lại nói (năng biến) hay thấy để làm chuyển tướng. Nhưng, cảnh giới này là hướng xuống hiện tướng. Vì trong luận chia ra năng kiến sở kiến, mỗi thứ làm một tướng. Nay đây thấy tướng do bên trong phát, chẳng gá nơi cảnh mà sinh, nên gọi là chuyển. Nương vào tướng này mà khởi do duyên, lại lập hiện tướng. Cho rằng ở đây trong năng kiến lại tự có cảnh sâu kín riêng, người học nên biết. Nhiếp luận v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Ý thức tức thức thứ sáu trí tướng.“Cảnh ba đời”, là các pháp hữu vi.“Chẳng phải cảnh ba đời”, là các pháp vô vi. Đây đều là cảnh sở duyên của ý thức.“Có thể biết”, là ý thức thô phù niệm duyên năng sở, thật do hiện nay phân biệt chấp hiểu. Do có các cảnh ba đời là có thể biết. “Thức này v.v…”, là thức thứ tám. Do không có cảnh để biết. Đã không có cảnh để biết, nên chỉ ở trên kiến phần năng duyên để nói về thức này. Như nói mười hai nhân duyên, duyên ban đầu không thể biết. Ở đây cũng giống như thế, Duy Thức cũng nói: “Không thể biết chỗ chấp thọ”. Đã nói v.v… trở xuống, là tổng kết ý. Hiện tướng. Sớ: Nương trước v.v…, như nương tâm mộng mà có cảnh mộng. Giải thích trái lại, nên nói: “Bậc Thánh lìa cái thấy đã không có cảnh này, nên biết cảnh này nhất định từ cái thấy mà sin, như không có tâm mộng thì không có cảnh mộng”. Nhưng, ba tướng trên đều giải thích trái lại để thành. Đây là chỗ biết cảnh giới của Bồ-tát Bát địa trở lên, chẳng phải chỗ biết của kẻ hạ lưu. Do đó bậc Thánh không thấy các tướng. So sánh, quyết trạch trái lại để nghiệm khiến nghóa rõ ràng, rất đáng thấy, rất đáng tin. Sớ: Tức phân biệt sự thức v.v…. trở xuống, có hai: - Dẫn kinh phân biệt. Có hai: Dẫn kinh chỉ bày phối hợp: Sự tức là cảnh phân biệt sự thức, nên gọi là thức Phân biệt sự. Kinh Lăng-già…, nói đủ là biển tạng thức thường trụ (bổn thức), cảnh giới gió làm động (hiện thức), các sóng thức lăn tăn mà chuyển sinh (sự thức). Hỏi đáp giải thích ngại. Hỏi v.v… trở xuống. Có ba: Hỏi: Mạt-na, nói đủ là Càn-lợi-sắt-tra-da-mạt-na, Hán dịch là Nhiễm ô. Ý nói tương ưng với bốn hoặc, nên nói nhiễm ô. Suy lường thường xét gọi là ý, tức thức thứ bảy, ý hỏi rất dễ biết. Đáp. Có ba: Đáp sáu và tám theo nhau, có hai: Năng chấp theo sở chấp nên chẳng nói: “Chấp tương ưng”, là hạt giống thức thứ bảy ở trong thức thứ tám. Kiến phần thức thứ tám là chỗ chấp của thức thứ bảy, nên nói là tương ưng. Huống chi là hai thức làm cội gốc lẫn nhau ư! “Du-già” v.v… trở xuống, dẫn chứng rất dễ biết. Sở y theo năng y nên chẳng nói: Lại do v.v… trở xuống. Là bên trong nương, v.v…, do thức thứ bảy và thức thứ tám nương nhau. Thức thứ sáu nương thức thứ bảy và tám. Năm thức trước nương thức thứ sáu, bảy, tám và nương đồng cảnh, cho nên có kệ rằng: Năm, bốn, sáu có hai, Bảy, tám một đều nương, Chỉ nói nương vào năng, Ắt biết sẽ có sở. Nên lược chẳng nói. Đáp do nghóa bất tiện: Hai do v.v… trở xuống, có hai: Nghóa không hòa hợp nên chẳng nói: Vô minh, trước nói vô minh hòa hợp với chân thành A-lại-da là ba tướng. Mạt-na chỉ một bề sinh diệt không có nghóa hòa hợp. Nếu nói hòa hợp thì tự thành A-lại-da. Nếu không hòa hợp thức từ đâu sinh. Nghóa đã bất tiện muốn nói cũng chẳng đến được. Nghóa không duyên bên ngoài: Lại do v.v… trở xuống. Nên chẳng nói: “Mạt-na không duyên bên ngoài”, vì năm thức trước chỉ duyên trần bên ngoài. Thức thứ tám duyên căn thân, hạt giống và khí thế gian bên trong. Thức thứ sáu duyên chung tất cả. Thức thứ bảy chỉ duyên kiến phần của thức thứ tám. Nay sáu thô đều duyên cảnh bên ngoài cho nên không nói. Đáp chấp trong ngoài: Cũng có thể v.v… trở xuống. Đây đứng về mặt ngã, ngã sở, cũng thuộc thức thứ sáu, thứ tám, không nói thức thứ bảy. Ý nói, thức thứ bảy chính là chấp ngã, ngã sở. Nay chỗ phân hai là không thể đáng nên nói. Dẫn chứng, Lăng-già v.v… trở xuống, có hai: Dẫn kinh có thể biết. Giải thích nghóa. Trong kinh v.v… trở xuống. Hiện thức là phối hợp giải thích rất dễ biết. Sở dó v.v… trở xuống là nói nghóa sự thức. Đã nói phan duyên cảnh ngoài, chẳng phải thức thứ sáu thì thức nào? Do đó luận nương kinh mà nói, lại chẳng nói thức thứ bảy. Nên biết v.v… trở xuống là tổng kết hội kia đây. Nhưng, ở trên phần nhiều nói rõ nghóa trong luận nầøy mà không nói thức thứ bảy. Phải khác với Ngài Nguyên Hiểu nói ở sau là trí tướng, tức thức thứ bảy. Nên văn kia nói: “Nói trí tướng là thức thứ bảy, cái ban đầu trong thô, ban đầu có tuệ sở phân biệt ngã trần, nên gọi là trí tướng”. Thường, kinh nói sáu thức và tâm pháp trí. Nay trí tướng tức tâm pháp trí. Nếu nói đầy đủ là duyên nơi bổn thức chấp cho là ngã, duyên chỗ hiện cảnh chấp cho là ngã sở. Nay ở trên thô mà hiện, nói nương cảnh giới tâm khởi phân biệt. Lại, cảnh giới này chẳng lìa hiện thức. Giống như hình bóng chẳng lìa mặt gương. Thức thứ bảy này trực tiếp bên trong chấp ngã, ngã sở, mà không chấp riêng ngoài tâm có trần, ngoài ra có chỗ nói trở lại duyên thức kia. Hỏi: Làm sao biết được thức thứ bảy Mạt-na chẳng phải chỉ duyên thức, mà cũng duyên sáu trần? Đáp. Ở đây có hai lối giải thích: 1- Nương tỷ lượng. 2- Nương Thánh ngôn lượng. Tỷ lượng: Lượng nói: “Ý căn là có pháp, phải đồng cảnh với ý thức, là tông”. Nhân nói: “Chẳng cùng chỗ nương nên đồng dụ như nhãn sánh đồng với căn, khác dụ như ý diệt phải theo thứ lớp, ba chi không có lỗi, nên biết ý căn đi khắp sáu trần”. Thánh ngôn lượng: Kinh Kim Cổ chép: “Nhãn căn lãnh thọ sắc, phân biệt ở tướng, cho đến ý căn phân biệt tất cả các pháp”. Ý căn của Đại thừa tức là Mạt-na, nên biết duyên khắp tất cả. Lại, trong mười thứ phân biệt của Luận Đối Pháp nói: “Tướng phân biệt, nghóa là chỗ ở của thân, có nghóa là chỗ thọ dụng”. Kia thứ lớp như đây. Như các sắc, căn, khí thế gian, các sắc cảnh làm tướng. “Tướng hiển bày phân biệt”, là sáu thức thân và ý, như ở trước nói chỗ chấp tướng mà hiển hiện. Trong đây năm thức chỉ hiện sắc đồng với trần. Ý thức và ý thông hiện sắc căn và khí thế giới, các sắc cảnh giới. Giả sử Mạt-na chẳng duyên sắc, căn, khí thế giới; thì hay hiện phân biệt, chỉ nên chấp sáu thức, mà ngôn ngữ và ý nên biết thông suốt duyên trở lên đều do sớ kia lược. Nay đây ý sớ nói không có thức thứ bảy, chính là nhiếp cảnh không có trái. Bình thường ý thức không duyên bên ngoài, nên có nhiều nghóa. Nêu chung: Luận nói: Do có v.v…, sáu tướng này tuy lần lượt mỗi tướng có chỗ nương, nay cũng chỉ chấp căn bản mà nói, nên nói nương cảnh. Kinh Lăng-già nói: “Gió cảnh giới động, các thứ sóng lăn tăn chuyển sinh”, là nghóa ở đây. - Trong một: Luận: Nương vào cảnh giới, ở đây chỉ cho bên ngoài do cảnh duyên dẫn khởi, căn bên trong phát sinh, nên nói tâm khởi. Sớ: Ở trước v.v…, không biết bên trong phát sinh cho là bên ngoài đến. Kinh Lăng-già nói: “Bên ngoài thật không có sắc, chỉ tự tâm hiện”. Người ngu không hiểu biết vọng phân biệt hữu vi, không biết các thứ cảnh giới bên ngoài đều từ tự tâm. Người trí đều biết rõ cảnh giới tự tâm hiện. Pháp khởi v.v…, theo tâm vương kia lại khởi tâm sở. Phân biệt nhiễm tịnh quyết định như đây nên gọi là Trí. Thể là biệt cảnh (cảnh riêng), tâm sở trong tuệ, nên nói tuệ sở. - Trong hai: Sớ Nương trước v.v… Đối với cảnh vừa ý đáng yêu tâm cùng hỷ đều gọi là lạc thọ giác. Đối với cảnh trái ý không đáng yêu, tâm cùng sân đều gọi là khổ thọ giác. Chẳng khổ tức vui, chẳng vui tức khổ. Cảnh trái thuận đã nối tiếp thì tâm khổ vui đâu dứt. Nói để biện thô nên chẳng nói bỏ kia mà thật có, chỉ ở giữa khổ và vui. Tự tương tục, là ngay nơi tướng chẳng dứt. Lại hay v.v… Do tự tương tục, lại hay phát khởi phiền não, thấm nhuần các nghiệp đã thuần thục, khiến nghiệp thọ báo chưa thuần tương tục thành thuần thục, do đó dẫn dắt giữ gìn, khiến kia sinh tử không dứt. Đây tức khiến đời sau bốn tướng nối tiếp không dứt. Rộng như v.v… trở xuống, là nhân duyên sinh diệt giải thích trong năm ý. - Trong ba: Luận Trụ trì v.v…, nghóa là ở trên cảnh khổ vui, giữ gìn vững chắc không có thay đổi, chấp giữ không bỏ. Sớ: Trên đều v.v…, là chỗ nương của tướng chấp thủ nên đáp đầy đủ. Đây là v.v… trở xuống, chỉ một câu này là tướng thứ ba. Do không biết cảnh trái thuận như hoa đốm giữa hư không, không rõ tâm khổ vui như huyễn hóa, chấp cho là thật, chắc chắn không đổi, nên nói là chấp sâu. - Trong bốn: Nương trước v.v… trở xuống, cảnh vốn chẳng thiện, do thuận theo tình của mình, liền cho là thiện. Cảnh cũng chẳng ác, do trái với tình của mình liền cho là ác. Hơn nữa tướng thiện ác đã tự chẳng thật, huống chi là văn tự kia khởi tự tâm điên đảo, đâu chẳng là giả ư! Vì sao? Vì ta người ở đây lấy thiện làm ác, lấy ác làm thiện, cả hai bất định. Tăng Triệu nói: “Vật không có thật ở nơi tên, tên không được cộng ở nơi vật”. Do tên này nên không đợi mắt thấy tướng trái thuận, tai nghe tên thiện ác, liền sinh hỷ nộ, nên gọi là kế danh tự. Kinh Lăng-già v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Nghóa thấy ở văn trước. Từ trên đến đây v.v… trở xuống là phối hợp ba chướng. Từ đây trở lên thẳng đến vô minh căn bản, tột cùng tên là hoặc. Nếu y theo kinh Phật Danh nói: “Độc đầu vô minh là phiền não”, thì khai riêng vô minh để làm chỗ nương của phiền não. Kia thật vô minh là si, chính là căn bản sáu hoặc. Nếu hợp với luận đều gọi là phiền não. Khai hợp tuy khác đều là môn hoặc. Từ đây trở xuống tức là nghiệp khổ, kia thì ba chướng tức ba đường. Trong năm: Chấp tướng v.v…, nghóa là đối với ngã chấp tham sân ái kiến, phát động thân miệng của bảy chi, tạo nghiệp thiện ác, bất động, vô lượng khác nhau. Ở trong đó tuy có thiện và bất động, nhưng đều là hữu lậu không ra khỏi ba cõi. Ba cõi không an, giống như nhà lửa, nên đều là nhân khổ. Trong sáu: Sớ: Chiêu quả rõ ràng, là nhất định như vậy. Kia có hai nghóa: 1- Chẳng được chẳng thọ. 2- Thiện chẳng làm khổ, ác chẳng làm vui. Sách có chép: “Trời gây tai vạ còn có thể tránh, tự mình gây tai vạ thì không thể tránh”. Kinh Niết-bàn chép: “Chẳng phải ở trên hư không, chẳng phải ở dưới biển, chẳng phải vào trong núi đá, một địa phương nào có thể thoát được, mà không phải chịu quả báo”. Nên nói rõ ràng. Ba cõi trôi lăn không dừng nghỉ, nói là tuần hoàn. Tử đây sinh kia không thể thoát khỏi, nên nói là trói buộc lâu dài, như kiến bò miệng chén, như tằm kéo kén, cuối cùng rồi cũng trở lại chỗ ban đầu, không được tự tại. Kinh Chánh Pháp Niệm chép: “Như dây cột chim bay, tuy xa mà giật thì liền trở lại, nghiệp lôi kéo chúng sinh cũng giống như thế”. Nếu chẳng giác ngộ thì không bao giờ có kỳ hạn giải thoát, nay ở đây nói là trói buộc lâu dài,. Giải thích: Sớ Ba tế v.v…, pháp nhiễm tuy nhiều nhưng không ngoài hoặc nghiệp nhân quả của ba cõi. Nay lấy ba tế, sáu thô mà nhiếp, không đâu chẳng tận, như pháp nhiễm đều do vô minh căn bản mê chân mà khởi, nên nói nên biết. Chuyển giải thích: Sớ Ý hỏi rất dễ biết. Văn đáp liền giải ý luận. Nghiệp khí tức tướng khác nhau, tướng này đều là phần khí nghiệp dụng bất giác. Nhưng, bất giác này là tên chung của chín tướng. Chín tướng là tên riêng của bất giác, nên kinh Viên Giác chép: “Thân tâm các tướng đều là vô minh”, tức là nghóa này. Phân biệt cả hai đồng và khác, hướng về nói giác và bất giác, nhiễm tịnh cách xa. Lại nói nương giác nên mê nhưng chẳng lìa bản giác. Nếu nói kia khác thì tại sao nương giác nên mê? Nếu nói kia đồng, tại sao nhiễm tịnh chẳng giống nhau? Lại, nếu quyết định là đồng, quyết định là khác, thì đều không có môn nào để tiến tu. Đồng thì thánh phàm là một, ưa chán đều dứt. Khác thì nhiễm tịnh khác đường, mê ngộ cách hẳn. Do mê mờ hai môn về ý chỉ chẳng tức chẳng lìa, nên có mê lầm này. nhưng đối với tông tướng và vô tướng đều mất ý, mỗi tông rơi vào một bên. Nay giải thích vén lên cho thấy sự mê lầm kia. Dụ. Sớ nói Nhiễm tịnh v.v…, nhiễm tức bất giác ba tế sáu thô; tịnh tức nghóa giác hai tướng bốn cảnh, lấy đây làm sở dụng. Duyên chân như là môn bổn tướng, có thể thông với hai pháp làm tánh. Lại chân như không tướng, lấy hai pháp này làm tướng, đây thì hai tướng đồng nương một tánh, một tánh đồng sinh hai tướng. Do đó chữ đồng tánh tướng đều dùng. Dục nhiễm tịnh, khí hữu tình thô. Ngoài ra, văn rất dễ hiểu. Hợp. Sớ: hai tướng này, tức nghóa vô lậu vô minh ở trên. Như văn sau nói mà chẳng thật có, từ phân biệt sinh. Nên kinh chép: “Huyễn vọng gọi là tướng”. Nhưng, một ví dụ về huyễn, các giáo thường dẫn chứng. Lấy ví dụ nhiễm tịnh thể kia chẳng thật. Bởi Ngũ Thiên thuật này hơi nhiều, thấy nghe đã kỹ, pháp lý dễ rõ. Nay nương người xưa giải thích nghóa này. Dụ, pháp lược khai có năm thứ. Năm dụ như cột một chiếc khăn huyễn tạo thành một con ngựa: Pháp thuật nhà ảo thuật. Chỗ huyễn ấy là ngựa. Ngựa có tức là không. Ngu si chấp là thật. Năm pháp: Chân tánh, Thức tâm, Y tha khởi, Ngã pháp tức không và Mê chấp ngã pháp. Lại không có tự thể riêng, kinh nói: “Chân tánh kia là diệu giác minh thể tịnh tướng, tức trí tịnh không thể nghó bàn nghiệp”. Và hai cảnh sau, đã thấy ở văn trước, văn sau tức trong tâm huân tập. Nhưng, ba tế sáu thô này tuy là tướng nhiễm, vì nói theo nghóa bất giác, nên không trích dẫn, nay dẫn riêng văn sau, ý muốn chứng minh nhiễm này là tướng chân như. Văn nói: “Pháp chân như thật không có nhiễm, chỉ do vô minh huân tập, nên có tướng nhiễm”. Nêu chín tướng ở trước, ban đầu nêu, sau tổng kết, đề đứng về mặt bất giác, chẳng nói đều là tướng chân như. Do đó văn sớ trích dẫn chính là ngay đây. Trích dẫn: Sớ: Nương đây v.v…, chúng sinh tức là bất giác, bất giác không thể tức là chân như, lý chân như tức tánh Niết-bàn, tánh tự vắng lặng, đâu diệt còn nữa. Diệt độ Niết-bàn tức kia đây mới nói. Tịnh Danh v.v… trở xuống, là văn của chương Di-lặc. Như ở trước dẫn chứng. Đại Phẩm cũng nói: “Dứt tất cả kiết sử, nhập Niết-bàn, là pháp thế tục chẳng phải nghóa đệ nhất. Vì sao: Vì trong hư không chẳng có đoạn diệt, cũng chẳng có chỗ diệt. Các pháp rốt ráo không, tức là Niết-bàn”. Nương đây v.v…. Bồ-đề là tiếng Phạm, đời Tần dịch là Giác, Giác là bản giác và thỉ giác. Hai giác đã là chân như Bồ-đề, đâu do tu mà được. Nên kinh Đại Phẩm chép: “Do nghóa gì gọi là Bồ-đề? Nghóa “không” gọi là Bồ-đề. Như nghóa pháp tánh, nghóa thật tế, nghóa bình đẳng là Bồ-đề”. Đây là đối với chúng sinh nói bất giác tức chân như, xưa nay Niết-bàn, chư Phật giác cũng là chân như, nên Bồ-đề không có tu tạo. Đã nói do tu tạo, nên biết là đối với quả mà được. Sớ chép: “chư Phật, do sẵn có nên đâu cần tu tạo sau mới được!”, nên nói không có tu tạo. Lại trước v.v… trở xuống, lại dùng hai chữ chân như giải thích hai đoạn này. Xưa đã vào: kinh Viên Giác chép: “Mới biết chúng sinh xưa nay thành Phật”. Nên nói từ xưa đến nay. Lại, tất cả chúng sinh tức cứu cánh giác, nên nói không phải mới được. Nhưng, từ xưa đến nay nhập, cũng không phải mới được. Nghóa đồng mà văn khác. Chỉ lấy như làm Niết-bàn, chân làm Bồ-đề là riêng biệt. Bởi bấy giờ con người phần nhiều cho rằng Niết-bàn là tướng trói buộc, nên nói bất giác tức Niết- bàn xưa nay. Chấp Bồ-đề là do tu pháp mà sinh, nên nói tanh giác tức chân cũng chẳng phải mới được. Do đó tướng tức vô tướng, nên đứng về mặt bất giác mà nói Niết-bàn, chẳng phải do tu sinh, vốn tự sẳn có, nên đứng về mặt chân tánh mà nói Bồ-đề. Hướng về Niết-bàn v.v…, Niết-bàn phải là do tu, trí rõ chỗ hiển bày, vì bất giác tức như, như tức Niết-bàn, đâu đợi liễu nhân mới hiển bày rõ. Nên văn trên nói: “Từ xưa đến nay đã vào Niết-bàn”. Hướng về Bồ-đề v.v…, Bồ-đề phải là sinh nhân tạo tác. Vì Bồ-đề là giác, giác tánh tức chân như, không đợi tạo mới sinh, đây không hề chẳng có, lại đâu phải do tạo!. Nên ở trên nói: “Bồ-đề không phải mới được”. Nhưng y cứ sớ ở trước nói: “Bồ-đề của chư Phật chẳng phải tu”, tức cho hai câu này là nói về mặt Bồ-đề. Nay lại phân do tu hay tạo tác để hướng về hai chỗ mà nói. Lại giống như một phen giải thích riêng. Người học nên biết. Ở trước đã là pháp sẳn có, chẳng hợp nói được, vì thể như thật thường bất biến, nên chẳng đồng pháp vọng, không thật có để được. Đây pháp không được vốn là chân thật. Sớ: Nghi rằng v.v… trở xuống, có hai: Trình bày nghi: Văn hiển bày dễ biết, nhưng nếu văn đoạn này tại khoa chú thích ở dưới thì văn ấy rất tiện. Giải thích theo văn. Có hai: Chính giải thích: Sớ Pháp tánh v.v…, kinh Lăng-già chép: “Trong chân thật không có vật, làm sao khởi phân biệt?”. Lại, kinh nói: “Pháp thân chân Phật giống như hư không”, đây đều không có sắc. Lại nghi v.v… trở xuống, là nạn hỏi về chân. Chuyển giải thích: Luận: Mà có v.v… trở xuống là giải thích chuyển sang vặn hỏi. Sớ: “Kia thấy”, v.v… trở xuống là biển quả của Phật chỉ có đại định, trí, bi mà không có sắc tướng. Chúng sinh thấy sắc tướng do nghiệp thức của họ hiện, thuộc về tướng vô minh khác nhau. Văn sau nói: “Chỉ tùy theo chúng sinh thấy nghe được lợi ích, nên nói là Dụng”. Chẳng đây v.v… trở xuống là đứng về mặt lìa tướng mà giải thích. Nên văn sau nói: “chư Phật, Như Lai chỉ là thân Pháp thân trí tướng nghóa đế đệ nhất, không có thế đế để thấy” Đã nói Pháp thân trí tướng nghóa đế đệ nhất, ở trong đây đâu có các sắc tánh chẳng không ư! Lại cũng v.v… trở xuống là giải thích về mặt tánh đức. Kia là chân thiện diệu sắc tức tướng của tánh. Tuy gọi là sắc, cũng chẳng có tướng để thấy. Luận nói: Trí sắc do bổn v.v… trở xuống. Trước nói: “Do lìa cảnh giới niệm chỉ chứng mới tương ưng”. Sau nói: “Pháp thân chư Phật không có sắc tướng kia đây, xâm lấn lẫn nhau. Luận: Dị tướng v.v… trở xuống, có hai: Dụ: Trước tướng đồng thì nói theo sinh diệt hướng về chân như, do tướng hướng chánh mà nói kia đồng. Nay tướng khác, chỉ đối với một môn sinh diệt nhiễm tịnh, tự tướng hướng về để thành khác. Hợp: Sớ nói riêng v.v.., do thể pháp tịnh vô lậu là tánh giác, tánh giác không khác nhau, chỉ theo vô minh nên hiện khác nhau. Do kia v.v… trở xuống là nói bổn tánh vô minh tự khác nhau, nếu không khác nhau thì không thể mê lý bình đẳng. Văn sau là từ văn thể tướng chân như huân tập. Các pháp hữu lậu tức thông suốt chỉ bày bản giác thỉ giác, tu tánh công đức. Nói thẳng về tánh, là khắc định nói về mặt chân thể, là trong môn trước chỗ chỉ bày thể chân như. Chỉ theo v.v… trở xuống, là đối với nhiễm tịnh khác nhau để nói tịnh khác nhau, tức tánh bản giác được chỉ bày ở môn sau. So sánh như một mặt trăng hiện muôn bóng dưới các dòng nước, trăng vốn không sai khác, do theo nước mà bóng có sai khác. Văn sau là phần văn nói về Tướng đại. Lại do v.v… trở xuống là nói về nghóa thỉ giác, do trị các pháp nhiễm tham, sân v.v… thành vô lậu tịnh hạnh như bố thí ba-la-mật v.v… Và trên mặt quả, nghóa của đức “như” là Mười lực, bốn vô úy v.v… Trước thì đối đãi nhiễm sai biệt để thành sai biệt. Đây thì đối trị nhiễm sai biệt để thành sai biệt. Cũng có thể trước Tướng sau Dụng. Lại, do theo chúng sinh sai biệt để thành sai biệt. Trước đã hỏi đáp nên ở đây thiếu sót, đủ ba nghóa này nên nói theo nhiễm khác nhau. - Giải thích pháp tùy nhiễm đều như huyễn: Như thế v.v… trở xuống là giải thích pháp nhiễm tịnh đều là nghóa như huyễn. Do pháp đối đãi vốn chẳng lập. Như kinh nói:: “Nếu có một pháp cao hơn Niết-bàn, ta cũng nói là như mộng huyễn v.v…” Kinh Kim Cương cũngnói: “Tất cả tướng đều luống dối”. Nhưng điều nói trên nghóa có đồng khác, tức hai môn chân như và sinh diệt nghóa chẳng lìa nhau. Đứng về môn chân như thì khác mà đồng. Nếu được ý chỉ nhất tâm của hai môn, thì ở đây không có mê hoặc. Nêu chung: Luận: Nhân duyên sinh diệt, vì trong phần lập nghóa nói: “Là tâm sinh diệt tướng nhân duyên”. Ở trong đó tâm đã được giải thích như trên. Nay giải thích hai chữ “Nhân duyên”. Nhưng, nhân duyên là nhà của sinh diệt, nên nói sinh diệt. Sớ, có hai: Giải thích một đoạn văn: Đoạn văn trước do nêu, nghóa là đoạn văn trước là chỗ tông trong phần lập nghóa. Nêu là chỗ giải thích văn của luận sau đây. A-lại-da v.v… trở xuống, một phen lặp lại nhân duyên có công năng sinh ba tế. Tâm thể tức chân như, trong đó chỉ chấp một nghóa tùy duyên, do không giữ được tự tánh. Căn bản v.v… trở xuống: vì tự mê chân giác nên chẳng chấp chi mạt (ngọn ngành). Lại, ở dây chỉ ngay nơi nghóa thành sự, mà chẳng chấp thể không. Vô minh v.v… trở xuống, một phen lặp lại nhân duyên có công năng sinh ra sáu thô. Nhưng, hai lần lặp lại về nhân duyên, chính chỗ nói của kinh Lăng-già về huân biến không thể nghó bàn và chấp giữ các thứ trần, vọng tưởng huân từ vô thỉ, rộng như ở sau nói. Ở đây hai lần lập lại chỉ có ba pháp. Nghóa là chân như chỉ cho nhân, cảnh giới hạn cuộc duyên. Vô minh thì hướng về chân làm duyên, hướng về cảnh làm nhân. Tổng kết văn có thể biết. Giải thích văn nêu: Các thức v.v… trở xuống, là giải thích văn nêu. Tuy nhiên, ở đây đứng về mặt tâm nên nói các thức. Nếu nói năm ấm hòa hợp trong đó sinh thì kia gồm cả sắc tâm. Mà không v.v… trở xuống, như sóng không có tự thể riêng, chỉ nương vào nước. Văn trên nói: “Nương Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt…”. Tự tướng tâm v.v…, tức trước không giữ tự tánh là nhân sinh diệt. Hay nương v.v…, chỉ do đối với pháp trên nhân mà lập tên có khác ý, cùng ý thức tức là chúng sinh không có tự thể riêng; tức trước các thức sinh diệt tu tập mà sinh. Lại, chúng sinh là chung, các ý là riêng. Chung riêng tuy khác mà thể kia là một, đều từ tâm khởi lấy tâm làm chỗ nương. Nhưng ở đây năng sở nương khởi, vì tâm, ý, ý thức hướng về nhau phân biệt, không có hạn cuộc, suy nghó sẽ thấy. Kinh Lăng già cũng nói: “Nói Tàng thức tên là tâm (thức thứ tám), tánh tư lương tên là ý (thức thứ bảy), hay biện các cảnh tướng tên là Thức (thức thứ sáu)”. Nay tâm này là Như Lai tạng, ý là năm thức trước, ý thức chỉ cho thức thứ sáu, nên không đồng với kia. Trong phần hỏi của Sớ: Tâm này v.v… trở xuống, đã nói chúng sinh nương vào tâm thể mà có các ý khởi, tướng ấy thế nào? Luận: Do nương v.v… trở xuống, sớ có hai: Giải thích văn: Là trên…, vì A-lại-da là chung, giác và vô minh là nghóa riêng trong chung. Nay đã nói vô minh nương A-lại-da mà có, nên biết chỉ giữ nghóa giác làm chỗ nương. Văn luận đứng về mặt chung giữ riêng, nói rộng về A-lợi-da. Trong sớ giải thích ra nghóa biệt, nên nói ở trên chỗ nói tâm tức chẳng giữ tự tánh chân như, ngoài ra văn rất dễ biết. Muốn rõ v.v…, đây chỉ cho nhân duyên thứ nhất lặp lại ở trước. Trên chung dưới. Hoặc hỏi rằng: “Trước nói nương tâm có các ý chuyển?”. Ở đây gồm nói cả: “Vô minh nghóa thế nào?”, nên nay giải thích. Hỏi đáp: Trên nói v.v… trở xuống, có hai: Hỏi: Nêu điều được nói ở trước, tại sao nương giác cho nên mê? Lại nói, “Nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt”, nay ở đây lại nói nương A-lại-da mà có, đâu đồng với trước nói? Đáp. Có hai: Chính đáp. Có ba: Trên mặt mê chân chấp tương tự mà giải thích. Cùng vô minh làm chỗ nương, như gió động nước thành sóng, gió trở lại nương vào sóng. Trước nói: “Nương bất giác sinh ra ba tướng”, tương ưng chẳng lìa bất giác kia. Vì sao v.v… trở xuống là giải thích lại nghóa trước. Nương mê, là nương vô minh mê chân mà có A-lại-da, chân và vọng đều dường như một, dường như thường, tức nghóa mê chân. Kinh nói: “Mê gốc tròn sáng là sinh luống dối”. Mê tương tự, v.v…, nương A-lại-da có vô minh. Mê dường như một là thật một, mê dường như thường là thật thường. Kinh nói: “Đã lập vọng sở, sinh ra vọng năng” tức nghóa chấp vọng, tức hai nghóa này, một thức mà chỗ luận trước sau xuất phát lẫn nhau, nên chẳng trái nhau. - Giải thích nghóa chung riêng khác nhau: Hai, nói rằng v.v… trở xuống: là giải thích nghóa chung riêng khác nhau. Theo gốc, v.v.., là theo chân thể, nói theo chiều dọc vì Giác là gốc, nương vào gốc mới sinh ra ngọn. Nay theo, v.v… trở xuống là nói vị đều thế (đô vị) là y cứ chung cả chân và vọng là nói theo chiều ngang. Như gió động nước thành sóng, gió và nước đều ở trong sóng. - Giải thích theo chưa khởi và đã khởi: Ba là nói rằng, giải thích theo mặt chưa khởi, đã khởi. Chưa khởi v.v…, từ khi chưa có A-lại-da mà nói. Thành tựu v.v…, là đã có A-lại-da mà nói. Kết đáp: Tuy nhiên, ở đây, v.v… trở xuống. Ý nói: “Nếu chỉ chấp nghóa đầu thì dường như có lỗi chân trước vọng sau, cũng có ngộ sau có lỗi trở lại mê, cùng đồng phái Số Luận nói về Minh sơ sinh giác. Nếu chỉ chấp nghóa sau thì dường như các pháp không do mê chân mà thành, chỉ từ bổn thức kiến lập thì có lỗi chân vọng có thể riêng biệt, cũng đâu khác gì tông Pháp Tướng ư! Nay lấy nghóa sau khởi lỗi trước, lấy nghóa trước khởi lỗi sau, nên nói lẫn nhau. Lấy hai nghóa hỗ tương, dùng tướng ẩn hiển thành, như văn thêu dệt nên nói thêu dệt lẫn nhau. Trong phần nói lược, Sớ: Nương tương tự khởi mê, tức nương vọng tâm khởi vô minh chi mạt. Nương mê khởi tương tự, tức do mê chân tánh thành vọng tâm này. Trôi chảy nhỏ nhiệm tương tự như bất động, tương tự không sai biệt, nên nói tương tự một, tương tự thường”, kinh Lăng-nghiêm gọi là “cái bóng sáng của vọng giác” chính là nghóa này. Đây hai v.v… trở xuống là giải thích có trước sau, hoặc khi không có lúc trước sau; như hỏi đáp ba nghóa trước, chỉ nói về mặt một thức một thời, nên không thể tạo trước sau khac nhau. Ngoài ra như văn rất dễ hiểu. Nương đây v.v…, nghóa là nương tâm khởi nghiệp thức, cho đến nương trí thức khởi tương tự, sinh ở ý thức. Đây là sau y chỉ trước, trước năng sinh sau, thứ lớp y chỉ và sinh lẫn nhau. Trong đó năng sở nương hướng về nhau sinh trước sau, có thông có cuộc, như văn rất dễ hiểu. Nhiếp luận v.v… trở xuống: dẫn chứng rất dễ biết. - Trong một: Sớ Tâm chẳng tự khởi v.v…, tâm chẳng có tánh động, tánh tuy không động mà tùy duyên nên động. Do không giữ tự tánh, tức trong bốn cảnh nghóa chẳng xuất phát, như nước không tự làm sóng, phải nhờ sức gió. Do đây, khỏi có lỗi ở chỗ vô cùng. Nói về tướng khởi, vì giác nên chẳng động, chẳng động thi không có tướng. Bất giác nên động, động thì tướng khởi. Khởi động là nghiệp: trong hai nghóa không nêu. Là nghóa nhân, cũng bao gồm trong ấy, vì động thì có quả khổ. - Trong hai: Sớ: Nương thức v.v… trở xuống, là giải thích văn này rất dễ hiểu. Chuyển thức có hai v.v… trở xuống, là đối với ở sau nói có khác. Chỗ động của vô minh, ở đây theo bên trong khởi thuộc Bổn thức, ngay đối với ba tế gọi là Chuyển thức. Nếu chỗ động của cảnh giới kia, đây là khởi theo bên ngoài, thuộc về Sự thức, ngay nơi sáu thô gọi là Trí thức. Ở trên như suối làm cho sóng tràn lên, ở đây như gió làm cho sóng vỗ. Chỉ lấy chỗ bình thường để nói về chuyển thức chỉ chấp bảy thức trước. Nay ở đây điều nói lại trong bổn thức, e rằng có lạm xem, nên ở đây phân biệt. - Trong ba: Sớ: có công năng hiện công, tức chuyển thức trước có công năng hiện tướng, ở đây vì có công năng nên gọi là Hiện thức. Do kia v.v… trở xuống, là giải thích hành tướng. Văn sau nói: “Do có vọng tâm tức huân tập vô minh, chẳng rõ pháp chân như nên bất giác niệm khởi hiện cảnh giới vọng, hiện chung tất cả hữu lậu, các pháp sắc tâm vô lậu, chẳng riêng năm trần”. Nếu nương v.v… trở xuống là dẫn luận để đối biện. Năm căn tức năm sắc căn như nhãn, v.v… và chỗ nương của căn. Hạt giống tức ba tánh hạt giống thiện, ác và vô ký. Khí thế gian tức núi sông, đất đai. Đây đều là tướng phần của thức thứ tám. Nhưng, tướng phần này đều là thức thứ tám chấp thọ. Chấp là nghóa nhiếp, nghóa trì. Thọ là lãnh lấy làm cảnh, lãnh sinh giác thọ. Ở trong đó hạt giống có đủ ba nghóa: - Nhiếp làm tự thể. Giữ khiến không mất, lãnh lấy làm cảnh. Căn thân có đủ hai nghóa, thiếu nhiếp làm tự thể nên khí giới chỉ một, chỉ lãnh lấy làm cảnh. Duy Thức nói: “Không thể biết chỗ chấp thọ, khí thế gian lượng chỉ duyên chấp thọ”. Nay đây v.v… trở xuống, có người hỏi: “Nếu như vậy vì sao trong đây chỉ nói hiện năm trần?”, cho nên ở đây giải thích. Do đối với chỗ dẫn dắt của sự thức, nên đối với tất cả trong đó lệch nêu năm câu này. Luận nói: “Cho đến tức hiện ý ở đây”. Chẳng như v.v… trở xuống: ở trên nghóa tương tựï chẳng dứt, để giải thích thường tại tiền. Như thức thứ sáu ở năm trần vô tâm tức có đoạn diệt. Duy Thức nói: “Ý tức thường hiện khởi, trừ sinh lên cõi trời Vô tưởng và vô tâm, hai thứ này nhất định phiền não và mê mờ dứt. Lại thức thứ bảy khi nhập định Diệt tận, tuy nói tịnh phần chẳng dứt, lại có nói tận cùng là bảy, là đứng về mặt phần nhiễm cũng thành nghóa đoạn, lại thành chỗ huân bốn nghóa như trong Duy Thức nói: “Nếu pháp trước sau một bề nối tiếp hay giữ tập khí chính là chỗ huân”. Ở đây phân biệt chuyển thức thứ bảy trước như tiếng gió… Đã nói như tiếng gió thì kia chẳng nối tiếp mà có đứ quãng. Lại là v.v… trở xuống là đứng về mặt nghóa trước để giải thích thường tại tiền. Ý nói chữ “tiền” là trước. Vì khi mê trước lúc các pháp bổn hữu vi, lại không có pháp trước ở đây. Mạt-na không có nghóa này nên phân biệt. Đây là phân biệt riêng thức thứ bảy. Nhưng văn phân biệt thức thứ sáu, bảy ở trước là ý của Hải Đông, một nghóa sau là ý của sớ này, nên nói “lại”. Nếu nói nêu câu đầu, phân biệt kế đến, chỉ phân biệt thức thứ sáu. “Lại là v.v… trở xuống, mới phân biệt thức thứ bảy Hải Đông không có một ý sau, làm sao nương câu để tụng văn? Người học nên biết. Trong bốn: Phần te,á là pháp chấp câu sinh, mê do tâm cảnh thấy từ bên ngoài đến khởi tâm sâu kín, phân biệt nhiễm tịnh nên nói chẳng nói. Trong năm: luận có hai: Nói rõ bổn tướng. Sớ: Cũng giới hạn: đây là pháp chấp phân biệt thô đối với câu sinh, nên trừ chữ Vi, chỉ nói giới hạn. Trong đây hai thức đều gọi là tế, vì tế trong thô, nên đồng là pháp chấp. Riêng hiển bày công năng. Luận nói Trụ trì v.v… trở xuống, có hai: Khởi lên nhuận hoặc: Trụ trì, v.v…, trụ là lưu tru, trì là giữ gìn; nghóa là lưu trụ giữ gìn không để cho mất nghiệp. Sớ: Do đây v.v… là vô minh từ quá khứ phát ra nghiệp hành hạt giống chưa thành thục. Do có thức này phát ái chấp phiền não tươi nhuần, khiến cho thành thục, có khả năng vì đời sau chiêu cảm có quả, có tức nghiệp chủng biến dị. Nếu không v.v… trở xuống, như trồng cây ở chỗ đất không có nước thì cây sẽ chết. Kết nghiệp đợi quả không tham thì tan bại. Kinh nói: “Nước ái do nhuận nghiệp”. Lại nữa v.v…, là nhuận nghiệp đã thuần thục, khiến thọ quả báo. Thiện ác, khổ vui, tự nhiên tương ưng không trái nhau. Như con dấu in vào vật, nên gọi là không khác. Lại hiện tại tức hiện báo, vị lai tức hai báo đời sau. Như thế v.v… trở xuống, là giải thích chung đoạn trước, để tổng kết tên gọi kia, đây là nhuận nghiệp quá khứ chưa thuần thục, khiến thành nghiệp hiện tại đã thuần thục, nhuận nghiệp hiện tại đã thành thục, khiến chiêu cảm quả báo vị lai, như thế xoay vần không đoạn dứt, vì không đoạn dứt nên nói là nối tiếp. Nhưng, các nhuận nghiệp kia tức là nghóa khiến tha nối tiếp. Sinh khởi niệm lực. Luận hay khiến v.v… trở xuống. “Đã trải qua” là quá khứ trở xuống, tức vị lai. Ở trên nói ngay tướng tương tục tức là hiện tại. Hiển bày đây v.v… trở xuống: Sớ có hai: Giải thích văn: Do thức này sinh khởi phân biệt thô, nhớ nghó ba đời, cùng trí tướng ở trước sâu kín khác nhau, chẳng phải pháp phân biệt thì là cái gì? Thông ở trước chỉ bày lặp lại: Trên đây v.v… trở xuống. Có hai: Kết thuộc thức này: ý văn rất dễ hiểu. - Gồm chung năm phần trước. Lại là v.v… trở xuống. Công năng ba tế, do thức thứ tám hay huân tập hạt giống khở hiện hành. “Hai công năng sau”, ở trong đó chỉ đứng về mặt phân biệt chẳng dứt mà phân hai khác nhau. Nhiếp Luận nói: “Ý thức duyên cảnh ba đời, v.v…” tức là nghóa này. Thuận kết: Trong sớ Là trước, ở đây giải thích hai chữ “cho nên”. Nên nói v.v…, tức ba cõi chẳng ngoài năm ý. Năm ý chỉ nương nhất tâm, nên nói ba cõi do tâm tạo. Vì trong hiện thức có đầy đủ căn thân, hạt giống, khí thế gian. Nên kinh Lăng-già nói: “Từ ở cõi Vô sắc cho đến còn địa ngục, đều hiện làm chúng sinh, đều chỉ do tâm tạo”. Hiện tương tự gọi là hư, y tha khởi pháp như gai trên dây, tương tựï có tướng kia rốt ráo thể chẳng thật. Trá hiện gọi là ngụy, biến kế sở khởi như dây trên rắn, tướng rốt ráo không phân biệt vọng hiện. “Chỉ tâm tạo”, như: dây, rắn không có tự thể, không lìa gai. Nên kinh Thập Địa tức phẩm Thập Địa trong kinh Hoa Nghiêm chép: “Biết rõ ba cõi do tâm mà có, mười hai nhân duyên cũng giống như thế, tất cả đều do tâm tạo, nếu tâm diệt thì sinh tử dứt”. Phần kết: Sớ: Lìa kia v.v… là tâm khởi thành thức, nương thức có trần, cuối cùng cội gốc kia chỉ do tâm tạo, nên kinh nói: “Do tâm sinh nên các thứ pháp sinh”. Khuê Sơn nói: “Sinh pháp vốn không, tất cả do thức, thức như huyễn mộng chỉ là nhất tâm”. Tuy nhiên, ba cõi, sáu trần đều thuộc về các pháp sắc tâm. Cho nên tổng kết thuận, tổng kết ngược đều trở về nhất tâm. Hỏi. Sớ Hiện có, ý nói: Nếu là do tâm thì không được có cảnh. Vì tâm không có tướng chẳng thể thấy, đã có chỗ thấy thì làm sao do tâm được? Đáp. Có hai: - Không trần: Sớ: Do tất cả v.v… trở xuống, ý nói: Tất cả pháp từ tâm khởi, chỗ khởi không có thể tức là nhất tâm. Kinh Lăng-già nói: “Tâm cũng chỉ là tâm, phi tâm cũng là tâm khởi các thứ, các sắc tướng thông đạt đều là tâm. Lại nghi v.v… trở xuống, là tùy chỗ đáp. Do khởi nghi này, ý nghi rằng: “Đã là nhất tâm chân tịnh, do đâu lại khởi tạo các pháp?”. Trong kinh Lăng-nghiêm, các ngài Mãn Từ, Viên Giác, Cang Tạng đều đồng ý này. Do vọng, v.v…, kia giống như mắt trong chẳng thấy hoa đốm giữa hư không, chỉ do mắt nhặm thì thấy tướng hoa đốm. Vọng niệm tức căn bản vô minh. Lại cũng v.v… trở xuống, là ý riêng trong nghi trước. Chẳng tiếp tục thứ lớp khởi, ý văn rất dễ biết. Ở trước giải thích về mặt y tha, ở đây là về mặt biến kế. Giải thích rằng v.v… trở xuống, ý nói: Như thấy hoa đốm giữa hư không, là do mắt ông bị nhặm, như kinh Lăng-già nói: “Như người ngu không biết đó là dây, vọng chấp cholà rắn, chẳng rõ tự tâm hiện vọng phân biệt cảnh bên ngoài. - Hiển duy tâm. Luận Tất cả v.v… trở xuống, Sớ: Cảnh do v.v…, như bóng là do gương hiện, nên phân biệt bóng là phân biệt gương. Kinh Lăng-nghiêm nói: “Tự tâm chấp tự tâm, phi huyễn thành pháp huyễn”. Không trần Duy Thức, như Duy Thức tụng nói: “Duy Thức không cảnh giới, do không trần vọng thấy, như người mắt bị bệnh thấy các việc như lông, mặt trăng”. Luận Tâm chẳng thấy tâm, ý nói: Tâm là nhất tâm chẳng được tự thấy, nên biết có chỗ thấy đều là vọng. Kinh Lăng-già nói: “Như dao không tự cắt, như tay không tự xúc chạm. Tâm không thấy tâm, việc ấy cũng như thế. Đã trần v.v…, ý nói: Trần cảnh nếu còn thì sẽ có tâm duyên, cảnh trần đã chẳng có, dù có tâm cũng chẳng tự duyên. “Thức chẳng sinh”, ý nói: Do có trần, kéo theo thức kia sinh. Đã không có trần cảnh thì thức chẳng sinh. Nên kinh nói: “Do pháp sinh nên các thứ tâm sinh”. Nay pháp đã chẳng sinh, tâm cũng không sinh. Đã không có cái khác để thấy cũng không thể tự thấy, chỗ thấy không, hay thấy cũng không thành. Năng sở đều lặng, tâm không tâm tướng là năng duyên vắng lặng, cảnh không cảnh tướng tức sở duyên vắng lặng. Kinh Lăng-già nói: “Năng kiến và sở kiến, tất cả đều không thật có”, đại ý trong đây muốn hiển bày nhất tâm vốn không có năng sở, năng sở đều văng lặng mới là chân tâm. Cũng chẳng mất khiến vắng lặng mà vốn tự vắng lặng. Nhiếp luận v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Nói đủ là: “Các pháp được nói do thức hiện, không có pháp ít hay chấp pháp ít”. Cũng có thể văn của luận từ “Tất cả”, v.v… trở xuống, là lần lượt giải thích nghi. Nghi rằng: Là pháp đã không, vì sao phân biệt? Giải thích: “Phân biệt tất cả tức tự tâm phân biệt? Lại nói: Nếu như thế tức nên thấy tâm. Giải thích: “Tâm chẳng thấy tâm”, ngược lại nói phân biệt đều là luống dối. Lại nghi: Vì sao tâm chẳng thấy tâm? Giải thích: “Không có tướng để được”, đây là tâm không tướng nên chẳng thể thấy tâm, ngoài tâm không còn có một pháp, nên biết có thấy gì đều là vọng thấy, Năng sở đã vắng lặng chỉ còn nhất tâm, tức môn pháp không ở sau là nói lên chân tánh, nên kinh nói: “Các huyễn diệt hết, giác tâm bất động”.  KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 12 Kết văn. Có hai: Chính kết: Sớ: Căn bản vô minh.v.v… là phân biệt chẳng phải chi mạt. Do nương năng lực vô minh mà giữ gìn, gá nghiệp thức tâm mà an trụ. Nên văn sau nói: “Vì có nhân pháp nhiễm vô minh, nên huân tập chân như. Vì huân tập nên có vọng tâm. Do có vọng tâm tức huân tập vô minh. Do chẳng rõ pháp chân như nên niệm khởi bất giác, hiện cảnh giới vộng, nên nói do đây mà thành. Hiện thức.v.v… các sáu thô ở sau đều là nơi cảnh giới sắc tâm hiện nay, nên tất cả cảnh do đây mà trụ giữ. Nếu vô minh v.v…, do nương vô minh nên có vọng tâm, do nương vọng tâm nên hiện cảnh giới vọng. Vì thế hễ vô minh chưa dứt thì tâm, cảnh chẳng diệt, như gió chưa dừng thì lượn sóng chưa mất. Lìa tâm không có tự thể, đều từ tâm khởi, chẳng từ ngoài đến. Ngay nơi tâm không có tự thể, pháp sở khởi đồng nan khở, hai ý ví dụ về gương, như pháp rất dễ biết. Giải thích thành tựu. Luận Duy tâm v.v… trở xuống. Có hai: Giải thích: Sớ Luống dối hiện, vọng niệm huân chân khởi các pháp luống dối, cũng có thể văn này là tổng kết lý do các pháp không có tự thể ở trước. Trong đây có hai ý: - Duy tâm, - chỗ vọng. Như ở trước dụ về gương và bóng (tượng),thể đồng gương, thể chẳng thật. Do đây các pháp không có tự thể để được. Chuyển giải thích. Luận Do tâm v.v… trở xuống, sớ có hai: Giải thích văn, có ba: Lược nêu ý: Nghiệm ngược lại v.v…, giải thích trái lại văn trên về nghóa tâm hiện. Pháp đã theo tâm sinh diệt nên biết pháp từ tâm sinh, sinh phát đều là luống dối. Giải thích riêng văn: Trong đây v.v… trở xuống, là giải thích riêng. Ban đầu nói vềõ nghóa sinh, tức chỉ đoạn văn của luận ở trước. Đây là hiển bày ý sau, chẳng cho rằng tâm là năng sinh, pháp là sở sinh. Vì chân tâm theo huân toàn thể thành động mà tạo ra các pháp, như vàng phát sinh các vật dụng nên gọi là Sinh. Nếu vô minhv.v… trở xuống, là nói lên nghóa diệt, tức văn sau nói nhân diệt nên duyên duyệt, đây là nói rõ ý sau. Nói tâm thể này trở về nguồn gốc hiển bày riêng tánh tịnh, nên nói tâm diệt. Đây chỉ cho trong tâm không có vọng động, hay vằng lặng, nên gọi là Diệt. Thế nên sớ nói: “Nguồn tâm trở về tịnh nên nói là diệt”. Đây là đứng về chân tâm mà nói về nghóa sinh diệt. Nếu nói theo vọng tâm thì nghiệp thức và chuyển thức gọi làTâm. Đây thì vọng tâm ở trong chân tâm, hoặc sinh hoặc diệt mà chân tâm chẳng sinh diệt. Như văn trước chỉ bày: “Tâm tương tục diệt mà trí tánh chẳng hoại, như tướng sóng diệt mà tánh ướt chẳng mất”. Ở trên đứng về chân và vọng tuy đều có nghóa sinh diệt, cuối cùng nói thật mà luận đều là vọng có sinh diệt, chân không có sinh diệt. Tổng kết: Tâm đã v.v… trở xuống,là tổng kết. Giải thích văn trên nghóa không thể được. Trên nói tất cả pháp như bóng trong gương không có tự thể để được, nên ở đây tổng kết thành. Giải thích ngại: Hỏi: Trên nói v.v… trở xuống,là giải thích về ngại. Ý nói rằng: Trước nói chín tướng sinh diệt, sau là tổng kết nói: “Nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm, vì tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác”. Nay văn lại nói: “Do tâm luống dối, tâm sinh pháp sinh, tâm diệt pháp diệt”. Hai đoạn văn không cách xa nhau, vì sao chẳng đồng ư? Sau đáp ý rằng: Trước nói sinh diệt là nói về mặt bất giác,tổng kết lỗi thuộc về vô minh, do công ở bất giác. Nay sau đây nói rõ ý của văn này. Văn này nói đũ chân như làm nhân, vô minh làm duyên, do đây đạo lý nhân duyên hòa hợp, thành tựu các pháp sắc tâm. Đã thuộc nhân duyên, nên khiến nghóa của các pháp không có tánh, nói rõ có thể thấy. Lý chân như tùy duyên không trụ, rõ ràng sáng rỡ. Cho nên sau tổng kết có nói rõ gốc nhân hòa hợp. Chân như tùy duyên thành nghóa hòa hợp, nay tổng kết thuộc tâm, chính là đây. Như nước mới động, cộng ở nơi gió. Trong văn trước tổng kết thuộc vô minh. Động không có thể riêng thì hoàn toàn thuộc về nước. Trong văn này tổng kết thuộc tâm, nên không thể nói sóng không có thể riêng mà chỉ thuộc nơi gió. Pháp lý cũng như vậy, như ví dụ sẽ biết. Nói về thô: Sớ Đây sinh v.v… trở xuống, là nói ý này về thức là chỗ sinh thức nối tiếp thứ năm ở trước, nên gọi là sinh khởi thức, nhưng không khác thể, chỉ đứng về mặt thô tế mà phân hai riêng, nên nói đồng là một thức. Nếu ở trên tế mà luận cũng tức là trí thức ở trước. Do đồng nương chỗ khởi cảnh giới, nay không chỉ ra đây mà nghiêng chỉ về tương tục, vì ý thức tự là chỗ nương. Chỉ trước v.v… trở xuống, đối với trước biện có khác do thức nối tiếp là pháp chấp phân biệt, hướng về ngã chấp kiến ái, đây gọi là tế hoặc. Lại, đứng về mặt năng sinh y chỉ nghóa một bên mà nói là ý. Trong đây v.v… trở xuống,là nói nghóa này. Nghóa là nương vào tướng tế sinh khởi ở trước. Ở đây thức phân biệt thô, thức này nhân ngã tương ưng tham sân, kiến ái, thô ác, phiền não. Văn sau nói: “Thức này nương kiến ái phiền não, nghóa tăng trưởng”, tức đứng về mặt chỗ khởi nghóa mà nói, nên nói từ môn trước khởi, tức là chấp thủ, kế danh. Do đó trong phân biệt mà phân biệt thô nên gọi là ý thức. Thức của ý, là nương chỗ khởi của năm ý. Bổn sớ nói: “Nương thức của ý - là y chủ thích”. Phân biệt chẳng phải thánh, tức người Nhị thừa và Bồ tát trước Sơ địa. Hai hạng này đã xa lìa được ý thức, nên đứng về mặt phàm phu để nói về thô. Lại do năm ý cũng gọi là ý thức, e rằng có sự xen lạm. Đây đứng về mặt nhân (người) mà phân biệt, kia thật năm ý gọi là Thức, là Trì nghiệp thích, nên chẳng đồng ở đây. Không đối trị v.v…, nghóa là vô thỉ giác quán tuệ. Người Nhị thừa, Tam hiền quán được nhân không, đã không chấp trước, nên biết phàm phu chấp trước rất sâu nên không có quán tuệ. Kia giống như bệnh nặng đã không uống thuốc thì không hết bệnh được. Mê lầm thể. Luận nói: Chấp ngã sở, chính giải thích tướng chấp trước. Do chấp ngã ngã sở nên gọi là sâu. Sớ: Ngoài tâm chấp cảnh, đây là pháp chấp thuộc tướng trí vàa tướng tương tục ở trước. Cũng lại v.v…, đây là thức này thuộc ngã chấp tức uẩn. Nghóa là phàm phu chấp ngã, chỉ chấp chung tự năm uẩn làm chủ tể, lìa uẩn tức thần ngã mà ngoại đạo chấp. Nhưng, có ba tông: Chấp của số luận: Ngã thể thường mà lượng biến khắp, giống như hư không. Chấp của số thắng luận: ngã thể thường mà lượng bất định, tùy thân co duổi, giống như da trâu. Chấp của số vô tâm: Ngã thể thường, giống như cát bụi, nên đối với căn môn như thế rất nhiều, nên nói các thứ. Nương duyên: Sớ Chỉ duyên cảnh điên đảo, như chấp khổ làm vui, bất tịnh chấp là tịnh, vô ngã chấp là ngã, vô thường chấp là thường v.v…., nên nói cảnh điên đảo. Chẳng rõ chánh lý, nghóa là không biết vô ngã v.v… nên kinh Kim cương nói: “Phàm phu tham đắm việc kia”. Đặt tên Sớ: Luận này v.v…., ở trong một ý thức, phân ra năm thức như nhãn…, gồm bổn (gốc) thành sáu, để đối lại sáu trần. Nhưng, thức trí nối tiếp ở trước cũng duyên sáu trần, do kia không tương ưng với ái kiến nên thuốc ý trước. Nên trước nói: “Sáu thô thuộc ý thức”. Nương sáu căn v.v…., nghóa là nương sáu căn bên trong phát ra sáu thức, duyên sáu trần bên ngoài. Kia tức nhóm duyên bên trong lay động hướng về bên ngoài rong ruỗi. Đã lấy một làm sáu tức nghóa phân ly. Như kinh Phật Đãnh nói: “Vốn nương một tinh minh chia thành sáu hòa hợp”. Lại hay v.v… trở xuống, lấy ý thức này duyên khắp tất cả, chung cho ba lượng, giả thật đều duyên. Như ở trước nói: “Khiến cho việc hiện tại, đã qua, bỗng nhiên nhớ nghó, việc vị lai bất giác vọng nghó”. Trong ngoài, trong là căn, ngoài là trần v.v… các pháp sắc tâm, cũng tức chấp ngã, ngã sở. Sở y: Sớ Thấy một chỗ, là một số trong Ngũ trụ địa. Đây là phân biệt ba cõi thô hoặc mê lý khởi, đồng ở chỗ kiến đạo mà dứt, gọi là đạo hoặc. Dục sắc có ba ái, tức ba cõi đều sinh tế hoặc mê sự lý, chỗ trừ dứt ở trong địa vị Tu đạo, gọi là Tu đạo hoặc. Do đây v.v…., nghóa là do kiến ái phiền não này huân ở thức thứ tám, khiến hạt giống trong thức thứ tám kia có tăng ích thêm lớn, tức khởi hiện hành. Sáu thúc trênv.v… trở xuống, là nhiếp loại. Nhưng, chấp thủ kế danh chính ở ngay thức này, một tướngkhởi nghiệp là chỗ sinh ra báo nghiệp chung riêng này, là tạo thức này. Nay nói về mặt sở tạo theo năng tạo, cũng là thuộc về thức này, nên nói theo nhau vào. Trong sáu nhiểm hợp hai tướng này, lấy làm một nhiểm, chính lá ngay thức này. Nêu khen ngợi: Có hai: Nói về đoạn văn trên: Sớ: Đoạn văn trên v.v…, ở trên nói: “năng lực vô minh bất giác tâm động, nghóa là tâm hoà hợp với vô minh, khởi thành các nghiệp ba tế. - Y theo địa vị riêng khen ngợi. Luận Phi phàm v.v… trở xuống. Có ba: Không phân ra phàm tiểu: Sớ Không phân ra Phàm phu, Tiểu thừa v.v…, phàm phu còn không biết được ý thức, huống ba tế này ư? Người Nhị thưà mới biết phần thô trong sự thức, còn không biết phần tế, chính cho tâm tế là Niết bàn, do đó chỗ khởi thức của vô minh, chẳng phải cảnh giới kia. Ở trong Ngũ trụ địa chỉ biết bốn địa trước là chỗ tăng trưởng của ái kiến trước. Nếu căn bản vô minh là trụ thứ năm, chẳng phải là chỗ giác kia. BỒ TÁT PHẦN TRÍ. Luận Là nương v.v… trở xuống: Sớ: Thập Tín…, là Bồ tát này tuy ở địa vị ngoại đạo phàm phu mà tin giáo, rõ biết chỗ sinh của bốn thức nhân duyên không có tự tạnh, quyết định không có tự thể, chỉ là chân như, mới thành chánh tín. Ở sau nói Bồ tát Thập tín tin chân như và tu Tam-muội chân như sẽ thành hạnh chánh tín. Nhân, qua thế gian, nhân là vô minh, quả là ba tướng bổn thức, thể tức chân như Tam hiền v.v…, khác với địa vị Tín ở trước, khác với địa vị Chứng ở sau, nên nói quán sát. Tỷ quán, chưa được thân chứng chỉ độ lượng quán sát, tức tương tựï giác. Luận nói chứng Pháp thân tức Sơ địa trở lên, cứu cánh là Thập địa, cho đến nói xếp vào Bát địa, theo Phân giác nên chẳng thể biết hết. Nhưng Sơ địa đứng về mặt phá chấp, nói là biết ít. Nếu nói về mặt thức thì, Bát địa mới giác thức hiện tướng này. Chỉ có phật biết tột cùng: Luận nói Chỉ Phật v.v… trở xuống. Sớ Bốn tướng đều rõ. Vì trước giác, sau bất giác. Sau giác thì trước năng giác. Cho nên ở đây nói chung bốn tướng, nên trước nói: “Nếu được vô niệm thì biết tâm tướng sinh, trụ, dị, diệt. Gạn bày: Sớ: Duyên khởi ly mẫu. Chân như làm nhân, vô minh làm duyên khởi tánh các thức, kia là tánh khởi làm tướng, là lý thú mầu nhiệm, không thể nghó bàn, nên nói diệu lý, ý hỏi rất dễ hiểu. Ngay nơi là nhiểm. Sớ: Tức A- lại- da, tâm thể là nghóa giác kia, không thể nghó bàn biến, duyên tức căn bản vô minh, là nghóa bất giác, tức không thể nghó bàn huân. Luận: Nhiễm tâm là các thức như nghiệp…., do ở chỗ không thể huân biến mà huân biến, không nhiễm mà nhiễm, tức tự tánh tâm thể ở trước chẳng phải là pháp nhiễm, vì không giữ được tự tánh, nên theo huân thành nhiễm. Văn sau nói: “Pháp thật chân như không ở trong nhiễm, chỉ do vô minh huân tập mà có tướng nhiễm”. Thường tịnh: Sớ: Tức nhiễm v.v…., tuy theo huân thành nhiễm mà thể kia thường tịnh. Như gương hiện nhơ mà thể nó bất động. Kia do bất động mà được tùy duyên, chính là do tùy duyên mà nói lên bất động. Kết khó lường: Luận: Chỉ Phật biết v.v…, là muốn nói kia tịnh thì chín tướng rõ ràng, muốn nói kia nhiễm thì môt vị không thay đổi. Nếu Phật chẳng biết thì ai biết? Tự tánh tâm khó biết, do tùy duyên thành nhiễm, chỗ nhiễm khó rõ được, vì ngay nhiễm mà thường tịnh, nên nói trí sâu xa, tức từ Bát địa trở lên, dùng giác chuyển hiện ít phần mà biết. Nhưng, từ Sơ địa cũng biết được chút ít. Do chứng chân, nên trước nói: “Nếu chứng Pháp thân thì biết được chút phần”. Nói về bất biến: Luận: Thườngvô niệm, vô niệm tức nghóa giác, đã thường là giác thì không bất giác, không bất giác nên gọi là Bất biến. Sớ Tuy nêu v.v….., nếu đường ác không tạo, quỉ bằng dây, không làm rắn. Chỗ hướng Đông không phải là phương Tây, nhân duyên khởi thể, tức tự tánh tâm tịnh ở trước, là duyên khởi thể này, nên nói tâm tánh. Đây hiển bày v.v… trở xuống, sớ có hai: Giải thích tâm bất tương ưng: Ở đây nói thể của vô minh,ban đầu là khởi sâu kín, chưa phân rõ tương ưng tâm vương, tâm sở. Lại vô minh này là mê hoặc của toàn tánh nên thêm chữ Tâm. Cũng có thể mê hoặc này là pháp không tương ưng cùng chân tâm. Như trước nói: “Từ xưa đến nay tương ưng với vọng nhiễm. Nay do biết như thật, bổng nhiên sinh khởi. Đây nói là do căn bản vô minh. Giải thích bỗng nhiên niệm khởi: Chỉ đây v.v…. trở xuống là giải thích bỗng nhiên niệm khởi, có ba: Giải thích nghóa này: Giải thích nghóa này, là các pháp nhiễm từ bốn khởi thỉ, nên trên mặt bỗng khởi là để tiêu biểu cho kia trước tiên. Dẫn kinh làm chứng bốn thành tựu: Như trẻ thơ v.v… trở xuống. Trước sử, tức sử vô minh. Không pháp khởi: ý nói lên vô minh, khiến không có pháp bên ngoài riêng là hay khởi gốc vô minh Hội kia đồng dây: Đó thì v.v… trở xuống. Có hai: Chính hội: Như văn. Kết thúc phân biệt: Đây đứng về mặt v.v… trở xuống, tổng kết phân biệt. Ý nói bỗng nhiên không có trước, chẳng có bổng nhiên cái ban đầu. Nói không trước: là do vô minh này rất nhỏ nhiệm, lại không có pháp trước ở đây. TRước tức ban đầu. Do không có gốc ban đầu khởi nênnói bổng nhiên. TRong sớ nói: “Vì khởi không có ban đầu. Tăng Triệu nói “Như gương bỗng có bụi, như hư không chợt có mây”, tức là nghóa này. Trong phần nêu Luận: nói Tâm nhiễm v.v…, do ở trên nói:”Vì vô minh nhiễm nên có tâm nhiễm kia”. Nay giải thích tất cả này có sáu thức khác nhau chẳng đồng. Nhưng đây v.v… trở xuống: sớ có hai”: Trình bày ý: Thứ lớp nghịch phối hợp. Do trước nói theo dòng sinh khởi, từ tế đến thô là thuận. Kế là nói ngược dòng dứt trừ, từ thô đến tế là nghịch. Trước chấp lý gần là trước, nay chấp dễ dứt là trước. Do đâyv.v… trở xuống là phối hợp nhiễm bậc nhất. Vì người Nhị thừa và Tam hiền đồng dứt thô tế này. Liền nhờ v.v… trở xuống, đem nghóa dứt trừ ở trước trình bày ở đây, khỏi phải giải thích nữa, rất là giản tiện. Giải thích văn. Luận phân ra sáu đoạn: Đoạn 1. Có hai: Chướng Sớ Là sáu v.v… trở xuống: y cứ dụng mà chia tên, hợp không nói ở đây. Nay đây lại đối, là nhiếp chung loại ở trước, đây là hai tướng trong chín tướng. Chỉ thô v.v… trở xuống là giải thích tên khác này, chấp cảnh bên ngoài tương ưng với cảnh, bêntrong khởi kiến ái chấp ngã, ngã sở. Nhiễm ô kia v.v… trở xuống, giải thích chung tên này, tịnh hạnh tức trí chân như căn bản. Trí này có hai: 1- Trí nhân không. 2- Trí pháp không. Trí này không khởi, do tâm nhiễm có công năng làm chướng nên gọi là nhiễm ô. Nếu dần dần tu quán, quán thành trí khởi thì trái với tâm nhiễm, nên gọi là Trị. Đây là thể tướng trái nhau, nên thành nghóa đối trị. Nhưng, do đối trị giác gọi là nghóa nhiễm. Nếu y cứ ý luận thì trên mặt tịnh đối với bổn giá, để rõ nhiễm kia v.v… Văn trước nói: “Là tâm tự tánh thanh tịnh mà có vô minh”, là chỗ nhiễm của vô minh mà có tên gọi kia. Hỏi: Chướng và nhiễm có gì khác nhau không? Đáp: Thể tuy không khác, nhưng danh nghóa thì có khác. Chướng thì lập giác đối trị, như văn sau nói: “Làm chướng trí chân như căn bản “, Nhiễm thì lập giác đối trị. Như văn trước dẫn chứng là tâm tự tánh thanh tịnh. Đối trị. Luận nói Nương Nhị thừa v.v… trở xuống. Sớ: Vô học, v.v…, đây là bốn trụ phiền não như kiến v.v… Hàng Bích- Chi, La- hán đều có lìa. Sớ: Thập giải v.v… trở xuống, có hai: Đứng về mặt Tam hiền để nói địa vị tu hành, có hai: Chính nói lên hành vi: Y cứ ở đây Bồ- tát Tam hiền đồng đượcï tên gọi này, vì đều không lui sụt. Dẫn luận chứng thành: Nên địa v.v… trở xuống là dẫn luận chứng thành. Luận Vô Trước tức luận Kim Cương, ba địa vị của luận kia là Tín hạnh địa, Tịnh tâm địa và Cứu cánh địa. Đối với Nhị thừa để trình bày dứt hoặc, sớ: Bồ tát này v.v…. trở xuống, có hai: Nêu kém để nói vềõ thô hoặc, có hai: Tiêu biểu khác phàm phu, Tiểu thừa: Được nhân không, do Bồ- tát này được quán ở đây, điều phục hiện hành chẳng đồng phàm phu. Nhưng đối với hạt giống không dứt bỏ hết, chẳng đồng với người Nhị thừa. Nói phiền não, tên khác là hạt giống, nghóa là theo đuổi hữu tình, ngủ say nơi tạng thức. Nay trong luận này là nói về mặt hiện hành, gọi là xa lìa, chẳng đứng về mặt hạt giống. Nhiếp luận v.v… trở xuống là dẫn chứng, trên tâm thì hiện hành. Hai ý, lưu hoặc này nhuận ở nghiệp, thọ thân phần đoạn, tu tập các trí dứt sở tri chướng, tức là tự lợi. Gom cả rủ lòng đứng về mặt quần phẩm nhiếp tha lợi ích, tức lợi tha. Nếu không lưu hạt giống mê hoặc tức đồng Nhị thừa, khỏi ba cõi, hai lợi ích đều mất. Nên kinh Viên Giác nói: “Bồ tát thị hiện ở thế gian lấy chẳng ái làm gốc, chỉ vì lòng từ bi khiến họ xả ái, giả mượn tham dục mà vào sinh tử. Hỏi: Bồ tát đã lưu lại hạt giống mê hoặc, sau khởi hiện hành thọ thân phần đoạn, đâu khác gì phàm phu? Đáp: Trước dẩn kinh Viên Giác đủ nói chỗ khác kia. tuy lưu lại hạt giống mê hoặc thọ thân phần đoạn, vì có trí nên không khởi lỗi, nhờ phần đoạn này làm chỗ nương, rộng tu các trí và hạnh đại bi, chẳng hề khiến đây khởi nghiệp mới. Như pháp cấm xà, tuy không làm cho chết, cũng không cắn người. Nhiếp Luận nói: “Phiền não nép phục chẳng khởi, như sự nguy hại của độc chú, lưu hoặc (phiền não) đến hoặc dứt (sở tri), chứng trí nhất thiết của Phật. Phân biệt định ra quyền thật: Sớ ở Đây đứng về mặt v.v…. trở xuống. Sơ địa v.v… trở xuống, là nói về mặt đốn ngộ. Nghóa là Bồ- tát này khi ở trước Sơ địa, dùng hai thứ không và quán hàng phục hai chướng, phân biệt đến địa vị Kiến đạo, các thứ hiện đều dứt, từ địa vị này trở đi nếu trí tăng liền điều phục phiền não, hiện hành đến địa vị Phật mới dứt. Nếu bi tăng nên ý khiến sinh tột đến Bát địa, hiện hành mới hàng phục lưu hoặc phiền não, để giúp sức nguyện lực giáo hóa lợi ích chúng sinh, khiến luận này nói về mặt một bề ngang dọc lúc sinh khởi, và đến khi dứt từ thô đến tế, nên ở trước Sơ địa, đã trừ ngã chấp câu sinh phân biệt. Đến khi Đăng địa chỉ dứt pháp chấp phân biệt. Nhị địa trở lên chỉ dứt pháp chấp câu sinh, không còn phiền não chẳng đồng giáo kia nói rộng hai chướng hạt giống ở trong thức thứ tám. Bởơ3 quyền thật giáo có khác, cùng đây hướng về nhau, tính đến một a- tăng- kỳ, người học cần biết, cần rõi giáo kia. Nhưng người trí có thể lấy một bên thông, khởi hạnh cần nương liễu nghóa. Các học giả nên xét cho kỹ. Nói như các luận: tức Du- già, Duy thức v.v…. nói rộng. Bày thắng để dứt chấp nhỏ nhiệm. Nay đây v.v… trở xuống, có ba: Nói rõ: Vì là thật giáo của Bồ tát, từ Sơ chánh tín liền được chân như sẳn có, vô minh vốn không thuận thao vô niệm. Ở trước Sơ địa hay tu pháp Tam-muội không chân như, tự nhiên khiến pháp chấp kia chẳng sinh, hàng phục vô minh, tương ưng với chân, nên nói phần đoạn. Chỉ hàng phục nên gọi là đoạn. Dẫn chứng: Nên luận nàyv.v… trở xuống, là dẩn chứng. Chẳng rõ nghóa nhất pháp giới tức vô minh. Dưới nói pháp thẳng v.v… ba tâm trụ, bốn phương tiện, và sáu độ như thí…., đều là đây. Kết ý: Nay chỉ v.v… trở xuống, là tổng kết ý. Đây là đứng về mặt chấp nhân, chẳng đứng về mặt nhân nói chấp, nên không nói. Đoạn 2: Có hai. Chướng: Sớ Chỉ chấp v.v… trở xuống, tức là pháp chấp nối nhau sinh khởi chẳng dứt, trước nói nối tiếp, nay nói chẳng dứt, nghóa ấy là một. Đối trị: Luận nói Nương tín v.v… trở xuống Sớ: Thập giải v.v… nghóa là từ trong địa vị Tam hiền quán sát tầm tư phần đoạn nhiễm này, thẳng đến Sơ địa mới có thể hoàn toàn lìa được. Tu Duy thức quán tức ở địa vị tư lương, tu hạnh thuận phần giải thoát. Tầm tư phương tiện tức ở địa vị gia hạnh tu tập hạnh thuận phần quyết trạch. Sơ địa tức địa vị Kiến đạo, trí vô lậu thiêu đốt phiền não. Thông đạt Phật pháp gọi là Hoan hỷ địa. Ba vô tánh, là biến kế tướng vô tánh, y tha không tánh tự nhiên, viên thành không có tánh ngã, pháp, biến kế ở trước. Nên Duy thức nói: “Ban đầu tức tướng không tánh, kếù đến không có tánh tự nhiên, sau do xa lìa chỗ chấp tánh ngã pháp ở trước”. Biến mãn chân như: tức biến hành chân như. Cái gọi là biến, Duy thức nói: “Là hai không mà chân như này nói, không có một pháp mà chẳng còn”. Cái gọi là chứng, do trí vô phân biệt khế hợp lý vô phân biệt, năng sở cả hai đều quên, nên Duy thức tụng nói: “Nếu lúc ở chỗ duyên trí đều không có sở đắc, bấy giờ trụ Duy thức, lìa hai chấp tướng”. Pháp chấp v.v…, do tu tập Duy thức quán đến thành tựu trí vô lậu này, tướng phần đượchiện hành, do đây chấp phân biệt được trừ hẳn. Đoạn 3: Chướng: Sớ Do hay v.v… trở xuống, là giải thích tên. Có thể biết “Pháp chấp tu hoặc”. Phần câu sinh trong chướng sở tri. Hoặc do tu đạo mà dứt gọi là tu hoặc. Bát địa v.v… trở xuống, là giải thích nguyên do được lìa nhiễm này. Nếu thiếu nhiễm này thì không lên Thất địa, huống chi đến Bát dịa, nên đến môn Thất địa đều dứt nhiễm này. Vì hai địa v.v… trở xuống, là giải thích tên gọi Nhị địa. Nghóa là thiện pháp nhiếp luật nghi chúng sinh ba nhóm đầy đủ xa lìa nhơ cấu phá giới sâu kín, gọi là ly cấu địa.Theo kinh Hoa nghiêm chép: “Thập địa thứ lớp tu mười ba-la-mật”. Đây là giới ba-la-mật, cac địa khác đều giữ giới. Vì nói về mật tăng trưởng thù thắng. Do thất v.v… trở xuống, giải thích tên gọi Thất địa,vô tướng là tên gọi Bát địa, phương tiện là tên gọi Thất địa. Nghóa là tạo phương tiện với vô tướng địa. Kia là phương tiện của Vô tướng. Vì Bát địa trở xuống, là chuyển giải thích, rất dễ hiểu. Đoạn 4: Chướng: Sớ: Căn bản v.v… trở xuống, do vô minh tâm động thành nghiệp chuyển hiện tướng tức cảnh giới. Nghóa này trước đã nói nhiều. Sớ chỉ nêu trước sau. Đối trị: Sớ: Do bát địa v.v…., vì sắc tự tâm sinh, tâm làm biến sắc. Do đó mà trên đầu sợi lông chứa đựng cả một biển nước số nhiều như cát sông Hằng, mà dung biển cả, núi Tu- di nhét vào trong hạt cải. Sắc tâm chẳng ngại nhau, tự tha không phân cách. Kinh Bổn Nghiệp chép: “Có chỗ cho rằng vô tướng đại tuệ, phương tiện đại dụng, không có sắc tâp, vô minh cũng dứt, việc trăm muôn kiếp, việc vô lượng cõi Phật. Do một niệm tâm nhất thời thực hành, hiện hình như Phật, hiện hình tất cả chúng sinh, trong một tâm niệm nhất thời thực hành, vì là (diệu hành) vô công dụng. Khoảng ba đời tự tại, nghóa là Bồ-tát này quán ba thứ sắc thô tế đều thông đạt, trí vô phân biệt nhậm vận nối nhau, tướng dụng phiền não không thể làm xao động. Vì sắc v.v… trở xuống, nêu địa vị sau để giải thích ngược lại. Ý nói: “Thất địa trở xuống chưa dứt được hiện thức, sắc không tự tại, nay được tự tại, bởi đã dứt được hiện thức. Nhưng Thất địa quán đoạn đến Bát địa, dứt trước sau đều như vật,người học nên biết. Đoạn 5: Đối trị: Sớ Khéo biếtv.v… trở xuống, đối với tha tâm được tự tại. Mười thứ rừng rậm, kinh Hoa Nghiêm nói: “Vị Bồ tát này dùng trí tuệ như thật biết chúng sinh”. Tâm ưa rừng rậm, phiền não, nghiệp, căn, giải, tánh, ưa muốn, phiền não, thọ sinh tập khí nối tiếp, nhóm tâm khác nhau, mỗi mỗi đều gọi là rừng rậm. Các pháp này ẩn rậm như rừng, nên lấy làm dụ. Kinh Tịnh Danh nói: “Khéo biết chúng sinh qua lại thú hướng và tâm sở hành”. Đây là khen Bồ tát Cửu địa. Kinh Bổn Nghiệp nói: “Tất cả hạnh công đức đều thành tựu, tâm tập diệt rồi, vô minh cũng dứt”. Lại do v.v… trở xuống, nói trongï tâm mình được tự tại. Mười bốn vô ngại trí, theo kinh Hoa Nghiêm thì: “Có bốn mươi trí vô ngại “. Bốn là: Pháp, nghóa, từ. lạc thuyết. Mười là, ngài Thế Thân chia làm mười thứ: Tự tướng, đồng tướng, hành tướng, thuyết tướng, trí tướng, vô ngã tướng, nghiệp tướng, nhân tướng, quả tướng, trụ trì tướng. Mỗi tướng đều có mười, thành ra bốn mươi. Rộng như kia nói. Có ngại v.v… trở xuống, tổng kết chỗ lìa nhiễm. Khởi tức chẳng tự tại, như trước trong kinh nói tâm tập đã dứt. Đoạn 6: TRụ: Luận nói Bồ tát tận địa, tức Bồ- tát ở cứu cánh địa. Như trước nói: “Cho đến Bồ tát cứu cánh địa”. Có bản phần nhiều nói nghóa tận địa; cũng có tại chẳng giống chữ Địa, tại nghóa thuận ở sau. Do trước sau đều tổng kềt nói: “Địa”. Đây là địa thứ mười. Như Lai là Diệu giác. Kia thì từ Cửu địa quán dứt, Phật địa mới hết hẳn. Vô cấu địa tức Như Lai địa và Thập địa chung tâm không hề khác nhau. Nhưng trong kinh Bổn Nghiệp cho Đẳng giác là Vô cấu địa, ở đây khai riêng. Nay nói õ Diệu giác, Đẳng giác hợp thành một địa vị. - Nói về vô minh: Như sáu nhiễm ở trên, chỉ là chỗ khởi pháp của vô minh, nay đã phân phối các địa vị nhân quả, nói về dứt đã xong. Nhưng trên nói không thấu đạt nhất pháp giới gọi là Vô minh, chưa biết ở đây người này nương vào địa vị nào lại mà xa lìa ư? Nên nay nói rõ. Sớ: Căn bản vô minh, đây là trên dưới nói tự tánh tâm thanh tịnh, vì vô minh nhiễm nên có tâm nhiễm kia, nên biết vô minh là chỗ nương của tâm nhiễm, tâm nhiễm là chỗ khởi của vô minh. Trên nói là tướng trí tịnh. Nhưng trong sáu nhiễm mỗi thứ có hai phần, một phần thuộc về vô minh, một phần thuộc về tâm nhiễm; đều có nghóa hòa hợp và nối tiếp. Chỉ ổ trên mặt hòa hợp với trước mê chấp chẳng đổi, tức là vô minh. Đứng về mặt chuyển khởi, sau nối tiếp chẳng dứt, tức là tâm nhiễm. Do đo,ù trước Sơ địa lại có nghóa dứt vô minh. Nay nói về Sơ địa mới lìa, do đứng về mằt phá pháp chấp nói nghóa dứt, không trái các thuyết, nêu lên địa vị này. Nay vô minh v.v… trở xuống là nói vềõ lúc sinh khởi, nghóa nói có trước sau, lấy trong luận nghóa nhân duyên hòa hợp, nếu lúc dứt trừ thì không có trước sau. Vì năng y sở y không lìa nhau. Giải thích tương ưng: Trong sáu nhiễm ở trên có tương ưng và bất tương ưng, nghóa này chưa nói nay mới nói, gồm có hai: NÊU: Sớ Đều là tâm thô v.v…, do sáu nhiễm trước duyên tướng chung riêng, hành tướng thô hiển bày. Nương cảnh v.v… trở xuống, đã nương cảnh sinh thì tương ưng với cảnh. Luận nói Nghóa là tâm v.v… trở xuống, có hai: Đứng về mặt pháp mà nói về khác nhau: Sớ Tâm nghóa là v.v… trở xuống: Là giải thích về mặt tâm vương tâm sở. TÂm vương tức sáu thức tâm vương ở trước, tâm sở tức sáu địa vị tâm sở như biến hành v.v… Nhưng trong sáu thức tâm sở nhiều ít khác nhau. Nay trong luận này gọi chung là niệm pháp, cũng có thể văn này nêu lên một phen che lấp nên nói niệm pháp, là một trong các biệt cảnh. Ca chiên v.v… trở xuống, là dẫn chứng, tức chỉ bày chung tâm sở đều gọi là tâm sở niệm pháp. Nhưng trong luận, tâm vương, tâm sở tương ưng, gồm có năm nghóa: 1- Đồng chỗ nương căn. 2- Đông duyên một cảnh 3- Đồng một hành tướng, nghóa là đồng tạo xanh v.v… 4- Đồng một tâm, tâm vương tâm sở đồng một thể. 5- Đồng một lúc, tâm vương tâm sở đồng một sát-na. Do đó nên được tương ưng. Giải thích theo tâm cảnh: Lại tâm v.v… trở xuống, giải thích theo tâm cảnh, rất dễ hiểu. Chỗ nương v.v…., thức nương cảnh này mà dẫn sinh, lại là chỗ phân biệt của thức kia. Do có nhiễm tịnh làm chỗ nương nên khởi tâm vương tâm sở khiến tương ưng. Do cóù cảnh này làm chỗ phân biệt, bèn cùng nhau phân biệt làm tương ưng. Nói về tương ưng: Luận chép Mà biết v.v…. trở xuống: Nếu tâm vương v.v… trở xuống, giải thích theo tâm vương tâm sở là đồng nghóa. Như sư theo việc kia khác,tuy nói tâm vương tâm sở tương ưng, lý phải nói theo mặt cảnh. Biết đồng v.v…, thể này có hai, do tương ưng nên gọi là Đồng. Chỗ duyên đồng: đây chỉ một cảnh do hướng về tâm vương, tâm sở nên gọi là Đồng. Ở đây, năng sở đều gọi là Đồng, mà nghóa đồng có khác. Lại đối với v.v… trở xuống, là giải thích nghóa đồng theotâm cảnh, ở đây tức tâm theo cảnh gọi là Đồng, đồng là tương ưng. Luận: Bất tương ưngv.v… trở xuống, có hai: NÊU: Sớ vô minh, vì trước nói: “Chẳng thấu đạt nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng, gọi là vô minh v.v….”, nên nay chỉ bày. Giải thích: Luận Tức tâm v.v… trở xuống. Sớ có hai: - Giải thích theo tâm vương tâm sở: Luận có hai: Hiển bày không khác nhau: Sớ Tức đây v.v… tâm là chân tâm, do động nên thành bất giác, bất giác và giác một thể không khác, nên nói Tức, giác và bất giác còn không khác, huống chi có tâm vương, tâm sở ư? Nói về sự tương ưng: Luận: Bất đồng v.v… trở xuống,sớ có hai: Giải thích, ngược lại nghóa trước: Đã không v.v… như riêng chỉ một người thì đồng với ai, nên nghóa không tương ưng. Giải thích lại: Do đây v.v… trở xuống, có ba: Giải thích: Trước nói bất giác tức tâm động. Nay nói tâm nhiễm tức bất giác, có khác ở đây. Dẫn chứng: Văn trên v.v… trở xuống,tướng đã lần lượt tức động, không động vốn là tâm tính. Phân biệt: Chẳng phải v.v… trở xuống, ở đây nói: “Chẳng tương ưng” vì tâm nhiễm tức bất giác, chẳng cho rằng có tâm vương tâm sở tương ưng, mà nói: “Chẳng lìa”,vì tương ưng và chẳng lìa hai nghóa có khác nhau. Văn sau dẫn chứng là trong văn “Tướng sinh diệt” ở sau. Văn này cả hai chứng hai nghóa: Một nghóa chứng chẳng lìa nhau, nghóa thứ hai chứng chẳng tương ưng, ở trong sẽ thấy. - Giải thích theo tâm cảnh giải thích theo: Hai cũng v.v… trở xuống, có hai: Giải thích nghóa trước: Nghóa là Vô minh này v.v.., ý nói: Tâm nhiễm tức vô minh, vô minh là bất giác, bất giác nương vào giác, giác tức bổn tâm, đều không có cảnh bên ngoài tương ưng, nên nói tức tâm bất giác. Đây nói tức tâm cũng tức bản giác chân tâm. Cũng có thể chung ở nơi hai tâm chân và vọng. như văn rất dễ thấy. Phân biệt tương ưng: Đã không có cảnh làm tướng đối đãi thì dùng phương tiện nào để nói tương ưng? Chỉ bày trái ngăn: Đây Bất tương ưng v.v… trở xuống. Do Tướng tông nói thức thứ tám có tâm sở biến hành, lại tương ưng với khí thế giới ngoại cảnh. nhưng chẳng nói có nghóa giác, cho nên hòa hợp. Như nói riêng, tìm lại xem xét văn kia chưa thấy chỗ phát xuất. Nay lược hợp chỗ nói của hai tông. Như tông Pháp Tướng nói: “Thức thứ tám hay duyên theo ba cảnh. Do kia chỉ y cứ vào địa vị hiện tại thành tựu, nói rộng tám thức, chẳng nói về căn bản, lý do ban đầu khởi, chỉ nói “Pháp tất cả chúng sinh như thế”, đều có đủ tám thức. Từ tự chúng sinh đều hay duyên lự tự phần cảnh giới, vì đồng là nghóa thức liễu biệt, nêu duyên theo cảnh. Lại nói thức này từ tự chủng sinh. Tuy từ tự chủng mà nhờ cảnh làm duyên sở duyên mới được sinh khởi phải duyên cảnh. Tuy duyên cảnh sâu kín khó biết, nhưng chẳng đồng bảy thức trước chấp ngã, chấp pháp. Nay trong luận này nói rộng các thức mê chân mà thành, từ tế đến thô chẳng nói chủng sinh. Thức thứ tám chỉ có công sinh cảnh mà không có nghóa duyên cảnh. Do từ vô minh bên trong huân tập sinh khởi, chẳng phải cảnh giới bên ngoài dẫn dắt khiến sinh. “Kinh nói là sinh diệt trôi chảy” là ở đây từ bên trong khởi. Do đó nên không có nghóa duyên cảnh. Nay nếu giải thích kia đồng với ở đây thì tông kia đã nói thức này duyên cảnh sâu xa khó biết, nên biết bí mật đồng với ý ở đây nói. Do tông kia nói từ chủng sinh đồng với thức phần, không được chẳng duyên cảnh giới. Lại nếu hội đây đồng kia mà nói, luận này nói sáu thức duyên cảnh tức là phần công dụng sâu kín của thức thứ tám. Do ở cảnh giới, huân bổn thức kia khởi phân biệt này. Ở đây thì bổn thức có nghóa duyên cảnh. Vì là thô nên ngăn cách làm sự thức, không gọi là thức thứ tám. LạÏi tông kia nói thức thứ tám tâm vương có tương ưng năm tâm sở biến hành. Như chính lúc duyên cảnh phải có tác ý, nhắc nhở tâm kia dẫn tâm hướng về cảnh. Vì hướng về cảnh nên căn, cảnh và ba thức phân biệt đổi khác, khiến tâm xúc tác với kia. Do xúc cảnh bốn thứ hòa hợp lãnh nạp nghịch thuận, do lãnh nạp nên đối với cảnh chấp hình tượng, bày ra các việc danh ngôn. Do chấp hình tượng, khiến tâm kia tạo tác rong ruổi. Năm thức này đều do duyên cảnh mà được như vậy. Thức thứ tám có năm tương ưng. Nay trong luận không nói duyên cảnh này, cũng không có tâm sở tương ưng, nên chẳng đồng với kia. LaÏi, trong tông kia chẳng nói lý do sinh khởi cũa thức thứ tám từ chân khởi vọng, chỉ nói theo địa vị hiện tại thành tựu nên không có nghóa giác. Nhưng cũng nói có hạt giống sẳn có Bồ-đề từ vô thỉ, mà chẳng tức là bản giác chân như. Do chưa thấu đạt nên ẩn mật mà nói. Nay trong luận nói rõ nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt, do mê giác mà thành bất giác. Tuy thành bất giác nhưng tánh giác vẫn bất biến nên có nghóa giác. Vì nương thật giáo nói về tướng nên không đồng với kia. Nếu kia đã nói có nghóa giác. Làm sao nói chỗ cạn sâu của hai giáo này. Người học nên biết. Nêu tâm nhiễm ở trên v.v….. là nêu tâm sáu nhiễm ở trên và vô minh. Đối với cảnh sở chướng gom thành hai ngại. Do tất cả chướng nhiễm chẳng lìa hai thức. Có chỗ cho rằng phiền não và lý do biết. Nay đối với hai chướng tâm nhiễm và vô minh phân biệt làm sao thâu nhiếp. Nên ở đây nói. Nêu lập luận, có hai: Hoặc chướng. Có hai: Nêu pháp đặt tên: Sớ: tâm sáu nhiễm v.v…, mỗi việc chấp trong một phần nghóa nối tiếp, nên lấy một phần này khuấy nhiễu động loạn chẳng vắng lặng, nên gọi là phiền não. Hiển bày nghóa ngại, luận nói: Làm chướngv.v… trở xuống, sớ có hai: Giải thích văn: Chiếu tịch v.v… trở xuống, giải thích tên làm chướng trí, lại có tên chân trí, chứng thế trí, thật tri. Do chứng lý như thật, gọi là như lý trí (trí như lý), sinh hậu đắc gọi là trí căn bản. Văn trên v.v… trở xuống, là xuất phát thể chướng trí. Tâm nhiễm v.v… trở xuống là giải thích thành tướng ngại đều rất dễ hiểu. Thông ngại: Nay đây v.v… trở xuống. Hoặc hỏi rằng: Như các chỗ nói nương hai chấp khởi hai chướng, thì đâu khác với đây? Lại ở trước chỉ phối hợp bốn thô trước trong sáu thô với hai chướng, vì sao trong đây sáu nhiễm đều gọi là phiền não? Nên ở đây giải thích. Kia nương hai chấp khởi hai chướng, nương năm ý trên khởi chướng sở tri, trong ý thức khởi phiền não. Nay ở đây thì lấy tâm nhiễm chỗ nương vô minh làm sở tri, nương vào tâm nhiễm làm phiền não, cho nên chẳng đồng. Nên biết nói hai chướng nếu hai chấp tức thì hạn cuộc. Ở đây nương tâm nhiễm mà nói hai chướng thì thông,cho nên nói khác với ở đây. Trí chướng, Vô minh v.v… trở xuống, có hai: Nêu pháp đặt tên: Sớ: Căn bản vô minh, nếu chấp một phần trong các thức, cũng gom vào ngọn. Lấy ngọn từ gốc nên soạn luận này. Hiển bày nghóa ngại, Luận: Làm chướng v.v… trở xuống, Sớ có hai: Giải thích văn: Hậu đắc v.v… trở xuống, giải thích tên trí sở chướng. Lại có tên thiên trí, tục trí, quyền trí… Vì trí căn bản chứng chân như, sau mới được khởi, gọi là trí hậu đắc. Như sự lượng kia mà biết tên trí như lượng. Tức trên v.v… trở xuống là xuất phát thể trí sở chướng. Vì vô minh v.v… trở xuống là giải thích tướng ngại kia. Từ sở chướng mà được tên, là ngại của trí, thuộc về y chỉ thích. Chẳng đồng phiền não tức ngại là Trì nghiệp thích. Thông ngại: Ở đây nói v.v… trở xuống, có người hỏi: Ở đây nói tự nhiên, có khác gì với tự nhiên của ngoại đạo có khác gì? Cho nên ở đây giải thích. Bởi vô tâm ứng vật xoay vần hiện hóa thành tự nhiên chẳng đồng với tự nhiên không có nhân quả của ngoại đạo. Kia nói đồng mà nghóa có khác. Trong phiền não: Sớ Trước hỏi v.v…. đứng về mặt thô tế để thành lời vặn hỏi. Chỉ hợp pháp tế chướng pháp tế, pháp thô chướng pháp thô, mới là thích nghi. Vì sao không như vậy? Hai nhiễm trước. Do nhiệp tướng sâu kín chưa phân năng sở, muốn thành nghóa ngại, nạn thấy trái nhau, nên nay nghiêng về mặt chuyển tướng hiện tướng, để đáp lại lời vặn hỏi kia. Tuy không nói mà ý cũng gần nhiếp. Vì nương tâm động nói hay thấy, có dùng lấy ý mà biết. Ba nhiễm trước là trí phân biệt, Ba nhiễm trước đều là sự thức nên nương cảnh mà khởi. Do đây v.v… do lý trí không có năng sở, tâm nhiễm có năng sở, trái nghịch thể tướng thành nghóa ngại. Trí ngại: Sớ Chỗ mê pháp tánh: đây là chân tức tục, thường tình không khởi, không khởi tức chân, nên nói pháp tánh. Văn trước nói: “Tất cả pháp lìa tướng nói năng, cho đến không có đổi khác, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm,v.v..”. Chẳng liễu v.v… chính là giải thích nghóa nghịch. Pháp tánh tịch tónh mà vô minh khởi động, động tónh trái nhau, nên thành nghóa nghịch. Giải thích v.v…, bổn sớ nói: “Do ở trong mê chân lý, thức bên ngoài thấy trần, đối với cảnh như lượng không thể thuận theo các thứ biết”. Như người động cho rằng trời đất quay cuồng, không thể biết được như thật. Nhưng, trước đứng về mặt thô tế mà vặn hỏi, nay đứng về mặt trái nhau mà cùng chung giải thích. Nên văn sau nói: “Văn sau chép: “Vô minh đốn hết gọi là trí nhất thiết chủng”. Như luận phần sau có giải thích. <篇> <卷>QUYỂN 13 Nói về Tướng sinh diệt, trong phần lập nghóa nói: “Là tướng nhân duyên của tâm sinh diệt”. Trong sinh diệt và nhân duyên như ở trên đã giải thích. Nay phân biệt chữ “Tướng” nên nói lại nữa, nhưng tướng là do nhà sinh diệt cho nên gồm nói. Lược hiển: Sớ: Tướng sinh diệt, phân biệt suy nghó nhiễm tịnh trong ba đời, nhân ngã, kiến ái, tham sân lẫy lừng, nhìn vào đó sẽ phân biệt được, nên nói là Tướng. Pháp Vô tâm: Chữ “Pháp“ chung cả số và cảnh, là pháp tâm sở sử và pháp, tâm sở duyên, trước đã giải thích rất dễ hiểu. Sinh diệt cũng như dòng nước chảy là nói giống như giòng nước chảy ngầm, nên khi nhìn tưởng như yên lặng không chảy. Nên kinh Thâm Mật chép: Thức A-đà-na rất sâu lắng, còn tất cả hạt giống, thì giống như thác nước chảy mạnh. Vì nối tiếp nhau nên không biết nó là vô thường. Nhưng, trong luận nói là tương ưng với tâm v.v… là do nhận xét về nghóa luận quá dể dãi là ở có một chữ “với” (tương ưng với tâm); hoặc là do các người dịch khi dịch mài giũa chữ nghóa không được kỹ lưỡng. Sau dịch chỉ nói: Một là tâm tương ương với thô, hai là tâm tương ương với tế, lời nói đó thật rõ ràng dể hiểu. Đối hiển: Sớ Đều gọi là thô, trí phân biệt, v.v… đều do cảnh bên ngoài khởi. Lại thô là tham sân, kiến ái, chấp ngã, ngã sở, chấp chặt càng sâu. Nói về cảnh giới phàm phu, là chỗ giác bên trong của phàm, là cảnh giới phải dứt bỏ, kia thật cũng là cảnh giới Nhị thừa. Nay văn lược chẳng nói. Thập địa v.v…, từ Sơ địa đến Thập địa, giác tế trong thô. Bát địa, Cửu địa là giác thô trong tế, nay chung ý chỉ nói Bồ-tát địa. - Nói thuận về sinh duyên: Trong đây tuy có nghóa nhân, vì hướng về chân như cũng là duyên. Từ vi tế đến chấp trước, hiển bày ở sinh khởi, nên nói là nói thuận. Duyên chung: Sớ: Do căn bản v.v…, ở trước nói: “Do bất giác nên sinh ra ba tướng”. Lại nói: “Do duyên cảnh giới, lại sinh sáu tướng”. Như thế, tuy là thứ lớp sinh, nhưng lấy vô minh làm gốc. Nhân riêng, sớ có ba: Lược hết văn kia: Do mỗi người tự chọn ra nhân thân thuộc kia, nên nhân sinh ba tế, duyên sinh sáu thô, rất dễ hiểu. Dẫn kinh giải thích rộng: Trong đây v.v… trở xuống. Có ba: Nêu ý chỉ thiếu đủ: Trích dẫn kinh: Văn nói: Không thể nghó bàn huân biến, nhưng nếu một bề có thể huân có thể biến, tức đồng với ý ấy… là có thể nghó bàn, tức là chỗ thấy của phàm phu. Nếu một bề không thể huân biến, tức như đá ngọc, cũng có thể nghó bàn, liền đồng chỗ nói của quyền giáo. Nay đều chẳng phải hai nghóa này nên nói là không thể nghó bàn. Giải thích rộng nghóa kinh. Có hai: Hai nhân trong tế. Có ba: Giải thích: Giải thích rằng v.v… trở xuống. Nói không thể huân, vì tự tánh tâm thanh tịnh từ xưa đến nay không tương ưng với vọng nhiễm. Lại, pháp vô minh bổn tánh luống dối. Nay vì pháp luống dối mà huân tánh động, thể của tónh là chỗ không thể huân mà huân. Nói huân thì không huân, là tuy huân chân như mà tánh chân như bất động. Lại thể vô minh này hoàn toàn là một tướng giác chẳng khác. Vì sao lấy làm năng huân sở huân. Tuy không năng sở mà hiện pháp rõ ràng, nên nói chẳng huân mà huân. Nói không thể biến mà biến, chân như nghóa là không thay đổi, vốn chẳng biến đổi mà bị huân vô minh thành biến động, tướng biến động là nghiệp tướng, v.v… Lại biến là bất biến, tuy động thành tướng thức, mà tánh tịnh không thay đổi. Tuy tánh không thay đổi mà toàn thể hiện động. Như nước thành sóng mà tánh ướt bất biến. Tánh ướt tuy bất biến mà toàn thể động, nên nói bất biến mà biến. Trích dẫn kinh chứng minh là đồng: Kinh Thắng-man trở xuống. Chẳng nhiễm, tức ở trước chẳng thể huân và không thể đổi khác. Mà nhiễm, tức ở trước năng huân và đổi khác. Kết thúc thuộc tâm bất tương ưng: Nhưng ở đây v.v… trở xuống. Vì năng huân là vọng của vô minh, sở huân là tâm chân như, tâm và vô minh đều không hình tướng nên ẩn sâu kín. Do hay khởi nhân duyên ẩn sâu kín, khiến chỗ khởi hiện thức, hình tướng cũng tế. Ba thứ này đều gọi là tế. Ở trong đây v.v…, vì nêu tế thì chưa có thô, mà nêu thô thì sẽ có tế. Lại, hiện thức này là tên khác của A-lại-da, tự bao gồm ba tướng. Giải thích hai nhân trong thô: Chấp các thức trần. Có hai: Giải thích: Biển tâm động kia, tức biển tâm A-lại-da. Sóng thức là trí tướng… Nên kinh nói: “Cảnh giới gió làm động các sóng thức sinh”. Luận ở sau nói: “Do có cảnh giới vọng duyên pháp nhiễm”, tức huân tập tâm vọng, khiến niệm kia mê đắm, v.v… Vọng niệm tập khí v.v…, tức vô minh chi mạt là mê dường như thật. Vô minh này lúc ban đầu hòa hợp với chân thì gọi là căn bổn, cho đến sau thành thức nương ở trong thức chuyển gọi là chi mạt. Nên ở đây gọi là vọng niệm tập khí. Trần nầy, v.v…, trong có vô minh, ngoài có cảnh giới nhân duyên đầy đủ sự thức sinh. Kết thúc thuộc tâm tương ưng: Do vọng v.v… trở xuống, kết thúc thuộc tâm tương ưng. Bên trong huân là bất giác chi mạt, bên ngoài huân là chỗ hiện của sáu trần. Do sinh khởi nhân duyên thô hiển bày, sự thức sinh khởi cũng lại nói rõ về mê đắm. So sánh kinh luận: Sớ Trong kinh v.v… trở xuống. Được sinh v.v…, nếu không có vô minh huân tập trọn không tự sinh. Nếu không có chân như làm chỗ nương thì không bao giờ tự trụ. Đây là ba tế theo vọng sinh thì đã nương chân mà trụ. Sự thức, v.v…, nếu không có cảnh giới bên ngoài giúp huân thì không bao giờ tự sinh. Nếu không có A-lại-da làm chỗ nương thì không bao giờ tự trụ. Đây là sự thức sinh theo cảnh bên ngoài, thì đã nương bổn thức mà trụ. Kia giống như lượn sóng không có gió thì không bao giờ tự sinh, không có nước thì không bao giờ tự trụ. Thế nên nương gió mà sinh, nương nước mà trụ. Nay đây v.v… trở xuống là nói về ý luận. Sinh duyên, do vô minh và cảnh giới là bổn thức, sự thức sinh khởi duyên, nghóa là bổn thức sinh khởi lấy vô minh làm duyên. Sự thức sinh khởi lấy cảnh giới làm duyên, chỉ nói hai thứ sinh duyên, không nói hai thứ sinh nhân, nên nói Chẳng luận nương trụ, nương trụ tức là nhân, ngoài ra, văn rất dễ hiểu. - Nói nghịch về nghóa diệt: Dứt trừ vọng nhiễm, lý hợp từ thô đếntế. Nay ngược lại ở đây nói nghịch. Bởi về đạo lý chẳng đối trị người, nên phải phân biệt. Sớ: Được đối trị v.v…, do vô minh làm nhân, sinh ra cảnh giới ba tế là một trong ba. Lại làm duyên mà sinh sáu thô, nhân đã diệt rồi, duyên ở chỗ nào? Cho nên diệt theo. Nay nương v.v… trở xuống, e có lạm phân biệt. Nghi rằng: “Sinh diệt là niệm niệm sát-na sinh diệt” nên nay phân biệt. Nói trước sau, theo dòng lấy nhiễm thứ sáu làm đầu, nhiễm ban đầu làm sau cùng. Ngược dòng lấy nhiễm đầu làm đầu, nhiễm thứ sáu làm sau cùng. Khởi thì sáu nhiễm rõ ràng, nhiều kiếp trôi lăn. Dứt thì một niệm đều dứt bặt rốt ráo tịch thường. Lại khởi dứt tức trước sau. Chẳng đồng sát-na trong niện trụ sinh diệt. HỎI: Sớ: Nếu cảnh giới v.v…, do ở trên nói: “Nương Như Lai tàng có tâm sinh diệt”, nay lại nói: “Tâm diệt”. Nếu tâm diệt, tức tạng tánh diệt, đây tức trên tên chung để vặn hỏi về thể riêng, là nghi tâm thể tương ưng diệt. Nếu thể diệt, trong Bát địa liền hợp thành Phật. Lấy vô tâm làm chỗ nương, nên ba tế mất, mất thì không thể dứt, chẳng thành làm sao đối đãi. Nếu nói v.v…, do nương tâm thể có từ vô minh. Tâm thể đã thường, vô minh cũng thường. Nên hay nương ba tế thì không thể diệt. Đây nghi tâm bất tương ưng thường không được diệt. ĐÁP: Luận về tâm tướng diệt, v.v…, đây đứng về mặt thể tướng để giải thích chung. Sớ: Tướng thô, v.v…, vọng tướng khác nhau nên nói thô tế. Chân tâm không khác nhau nên chỉ có một. DỤ: Luận có hai: Lập chung gốc dụ: Sớ: Dụ vô minh v.v…, trước nếu thể của tâm nghi diệt thì ba tướng vô minh không được nối tiếp. Nay nêu ví dụ gió, nước nương nhau để hiện bày tâm thể chẳng diệt, được ba tướng nối tiếp chẳng dứt. Như gió nương nước mà có sóng. Đây chỉ bày v.v… trở xuống: nói về vô minh nương chân mà hiện sinh diệt. Văn trước nói: “Tâm và vô minh đều không có hình tướng”. Nói riêng về tướng dụ: Luận nói nếu nước v.v… trở xuống, có hai: Dụ tâm tương ưng: Sớ: Ở đây chỉ bày v.v…, thuận với chỗ nghi, cũng là vừa lặp lại và giảng rộng ra. Do cảnh v.v… trở xuống, chính là giải thích điều nghi. Vì lúc cảnh diệt tâm tướng tương ưng tuy diệt, mà tâm thể chẳng diệt, do chẳng diệt nên ba tế nối tiếp. Đây như gió mạnh diệt, sóng thô dứt, chẳng phải thể nước diệt. Nhưng khắc định mà nói chỉ có hai tướng. Vì cảnh giới tức là hiện tướng. Nay đã diệt mà nói ba tế là bởi nói chung. Bởi v.v… trở xuống là xuất phát nguyên do kia, vì trước nói: “Nhân diệt nên duyên diệt”, chẳng cho rằng duyêndiệt nên nhân diệt. Ý nói: “Thô không bao gồm tế, thì tế đâu còn”. Huống là tâm thể chẳng mất làm sao lại nghi dứt mất? Do đó v.v… trở xuống là tổng kết đáp lời hỏi. Đây tức tâm tướng tương ưng, tuy diệt theo cảnh mà tướng tế không diệt. Dụ tâm bất tương ưng: Luận nói Chỉ gió v.v… trở xuống. Sớ Chẳng tónh tâm v.v…, vì nước chẳng phải tánh động, sóng diệt mà nước chẳng diệt, tâm chẳng phải tánh động, nên nhiễm diệt mà tâm chẳng diệt, đây như gió nhẹ diệt nên sóng nhỏ diệt, cũng chẳng phải nước diệt. Luận nói Vô minh cũng như vậy v.v… trở xuống, ban đầu hợp chung dụ.“Nếu tâm” v.v… trở xuống là hợp riêng dụ. Mỗi câu lấy dụ đối lại có thấy. Đây là lúc nhiễm thô diệt, nhiễm tế chẳng diệt. Bồ-tát Bát địa chưa được thành Phật, lúc vô minh dứt, nhiễm tế mới tập, nên được từ đây trở lên tu chứng quả Phật, lý tột cùng sáng sủa. Luận nói Chúng sinh, tức chúng sinh nương nghiệp tướng chuyển tướng, đây là từ Bát địa trở lên đều nương nghiệp tướng, chuyển tướng, được gọi là chúng sinh. Khiến tâm thể đã diệt, chúng sinh không nương, nên dứt mất. Lại, chuyển tướng, nghiệp tướng tức là chúng sinh. Như trước nói: “Chúng sinh nương tâm, ý, ý thức chuyển”. Sớ: Nay do v.v… trở xuống là tổng kết thành hai môn nhất tâm. Vì trước luận sinh khởi, phải nói theo môn Sinh diệt. Nay đứng về mặt diệt mê hoặc chung quy phải hội nhập nhất tâm. Nếu không như thế thì đó là nghóa sinh diệt, hằng không nhập vào nhất tâm, thì cần phối hợp. Thể tức trí, tướng tức si. Bất giác v.v…, đồng với cứu cánh giác trí tịnh ở trước. Pháp tướng xuất ly nghóa các cảnh. Bản giác, thỉ giác chẳng hai, chỉ ở nhất tâm. Nên kinh nói: “Sinh diệt diệt rồi, tịch diệt hiện tiền”. Trước quên nhất tâm mà thành chín tướng, nay diệt chín tướng để về nhất tâm. Đâu chẳng phải đều từ pháp giới trôi chảy, đâu chẳng phải đều trở về pháp giới này! - Nhiễm tịnh nương nhau: Nhiễm tịnh nương nhau, là nương giữ, tức nghóa nương nhờ. Nghóa là pháp nhiễm pháp tịnh tự không thể sinh. Do mượn giữ thế lực lẫn nhau kia để làm duyên nương nhờ mới được sinh. Lại, nhờ là nghóa giúp ích, là nương giúp lẫn nhau khiến sinh nhiễm tịnh. Vì khoa trước chỉ nói về nhiễm tịnh, ngay nơi nghóa sinh diệt, mà chưa nói rộng hành tướng pháp nhiễm, pháp tánh sinh khởi. Nay, ý nói nhiễm tịnh nương nhờ lẫn nhau giúp ích lẫn nhau sinh tất cả pháp. Như nhiễm trợ giúp tịnh, tịnh nhờ ở nhiễm, thì pháp tịnh theo dòng sinh các pháp nhiễm. Tịnh giúp ở nhiễm, nhiễm nhờ ở tịnh, thì pháp nhiễm ngược dòng sinh các pháp tịnh. Vốn tuy trái nhau, ngược lại thành thuận nhau, pháp nhiễm pháp tịnh nương nhờ lẫn nhau. Sớ, văn có hai: Trình bày ý: Hổ là lẫn nhau, huân là kích phát, cũng tức là ng- hóa sinh. Nghóa là nhau sinh kích phát lẫn nhau, khiến nhiễm tịnh không dứt, lẫn nương nhau mà huân, tên khác mà nghóa đồng. Tướng sinh, tức huân tập lẫn nhau. Chẳng dứt, chỉ nói trong một thời kỳ, kia thật là pháp tịnh tức chẳng dứt, pháp nhiễm tức chẳng dứt, nghóa dứt chẳng dứt, như chỗ nói ở sau. Năng sinh, v.v…, tức môn sinh diệt, ban đầu nói: “Thức này có hai nghóa, thu nhiếp tất cả pháp, sinh ra tất cả pháp”. Khoa trước đã nói về nghóa nhiếp, tức văn nói về hai giác. Nay đây nói về nghóa sinh, nên nói giúp nhau. Hỏi: Vì sao trước nói nghóa nhiếp, sau nói nghóa sinh? Đáp: Nghóa nhiếp là chính, cho nên trước nói nghóa sinh là chỗ nhân nghóa nhiếp kia, nên đặt ở sau. Sở dó trong phần lập nghóa tuy nói năng nhiếp, không nói năng sinh, vì e rằng có nghi từ không mà sinh, sinh rồi mới nhiếp. Nay ý nói thức A-lại-da chưa phải ban đầu chẳng sinh, chưa phải ban đầu chẳng nhiếp. Nhiếp và sinh rốt ráo chẳng trước sau. Hoặc có thể nghóa nhiếp chẳng hạn cuộc văn trước, chỉ bằng một môn Sinh diệt này, ở trong đó có tất cả nhiễm tịnh. Lấy nghóa hai giác mà nhiếp đến tận cùng. Gạn nêu: Sớ: Đây là v.v… trở xuống, có người hỏi rằng: Trước nói chân như là mất tướng hiển bày tánh môn, chẳng phân ra nhiễm tịnh, nay tại sao văn không nói chân như là pháp tịnh ư? Nên ở đây giải thích, vì chân như này là nghóa tùy duyên trong môn sinh diệt. Có ba nghóa nên gọi là Tịnh, chẳng phải nói nghóa bất biến ở môn trước. Bổn tịnh, v.v…, tánh tịnh giải thoát, ở đây chung phàm thánh không hề nhiễm. Thỉ tịnh, v.v…, lìa chướng giải thoát, đây chỉ hạn cuộc Thánh, dứt nhiễm mới tịnh. Trong đây nói cả hai thể tướng, do có tướng nên có thể, có thể thì chưa có tướng. Lại, tướng tịnh gồm cả thể tịnh, thể tịnh thì chưa có tướng tịnh. Nhiếp luận v.v… trở xuống là dẫn chứng. Nói đủ chỗ thành lập cảnh là mười ba-la-mật. Chân như có mười công đức có khả năng thành mười ba-la-mật. Giải thích: Mười công đức là mười chân như sở chứng của bậc Thập địa. Nghóa là biến hành, v.v… mới sinh chánh hạnh, tức là chỗ khởi mười ba-la-mật hạnh của bậc Thập địa, do trong chân như có mười thứ công đức này hay khởi mười thứ chánh hạnh mà thuận theo. Như văn sau nói: “Do biết thể của pháp tánh không san tham, thuận theo bổn tánh nên thực hành bố thí ba-la-mật. Ở đây chẳng đồng với Tướng tông chối bỏ công đức chân như làm chỗ thành lập, lại gồm cả chứng có nghóa năng huân sở huân. Tịnh duyên v.v…, báo thân, ứng thân có khả năng làm duyên tịnh với chúng sinh. Nay trong ba tướng, tướng giữa là tướng trí tịnh, sau tức tướng bất tư nghì nghiệp. Lại, trong bốn cảnh, ban đầu là hai cảnh trước, kế đến là cảnh thứ ba, sau là cảnh thứ tư. Lại, hai cảnh trước là tự thể tướng huân tập. Một tướng sau là dụng huân tập, cũng gọi là trong ngoài nhân duyên huân tập. Sáu nhiễm, v.v…, trước nói: “Nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm, vì tất cả pháp nhiễm đểu là tướng bất giác”. Chung cho tự thức, tức trí tướng. Do giúp huân vô minh chi mạt, khiến niệm nối tiếp khởi đối với ngã chấp, tạo nghiệp thọ quả báo. Nghiệp thức giúp huân vô minh căn bản, khiến khởi chuyển thức, hiện thức. Nay y cứ v.v… trở xuống là nói nêu tế nhiếp thô, chỉ nêu nghiệp thực tế, tự nhiếp sự thức thô. Chỗ duyên sự thức, do sáu trần này huân biển tâm động, khởi các sóng thức, thêm lớn niệm, chấp sinh các lỗi. Đây ba v.v… trở xuống, có người hỏi rằng: Trong bốn nghóa này, vì sao nhiễm nói đủ ba, tịnh chỉ nói một? Nay ở đây giải thích: Vì pháp nhiễm bổn tánh tự khác nhau, mượn nhân gá duyên mới được sinh, phải nói ba nghóa. Một vị pháp tịnh tuy phân ra thể dụng, dụng lại đồng thể không khác nhau. Mượn gá nhân duyên, trong ba thứ này vô minh là nhân, vọng cảnh là duyên, vọng tâm là nhân duyên, chỗ sinh hởi bổn thức sự thức, mỗi mỗi có nhân duyên, như trước nói rộng. Thể dụng không khác nhau, chỉ bên trong huân làm thể, bên ngoài huân làm dụng. Khi dụng hợp thể, chẳng riêng bên ngoài đến dung hợp đồng một vị, nên Phật trong tâm chúng sinh, lại giáo hóa chúng sinh chính mình, nên nói “một thứ”. Trong dụ: Luận nói như thế gian, nếu hướng về pháp hợp thì có hai thuyết: Y áo dụ cho nhất tâm, mùi hương dụ cho nhiễm tịnh, do mùi hương có vừa ý, không vừa ý. Do y áo vốn không có mùi thơm mà phải xông, có mùi thơm dụ chung cho nghóa nhiễm tịnh huân tập. Do tịnh vốn không nhiễm mà huân có nhiễm, nhiễm vốn không tịnh mà huân có tịnh. Chỉ chấp sáu đại để thông ý, chẳng phân biệt dụ phối hợp ý sau làm chính. Trong hợp, luận nói có hai: Nhiễm huân tịnh: Sớ: Vô tướng v.v…, đây đứng về mặt chân giải thích chữ Tướng. Tướng có chín tướng. Song trước chín tướng là tướng bất giác. Do đứng về mặt nghóa giúp sinh mà nói. Nay đây nói lào1ướng chân như, nói theo căn bản thì đó là nguồn của vô minh bất giác kia, cũng là tướng chân như, như ở trước nói: “Vô lậu như thế, các thứ nghiệp huyễn vô minh đều đồng tánh tướng chân như”. Lại hiển bày v.v… trở xuống là đứng về mặt vọng giải thích chữ tướng. Do vọng có khác nhau, có thể thấy có thể phân biệt mà không có tự thể, lại tự chẳng thể ngược dòng trở về tịnh, nghóa dụng cũng không, nhưng chẳng phải không có dụng nhiễm. Nay về mặt ngược dòng gọi là không dụng, đã không có dụng này, chỉ nói là tướng. Đây đứng về mặt v.v… trở xuống là nói lên ý rất dễ hiểu, nhưng, hai pháp nhiễm tịnh này mỗi pháp đều có tướng dụng. Vả lại mê chân chấp vọng khởi hoặc tạo nghiệp, đâu chẳng phải là dụng nhiễm? Pháp tướng trí tịnh xuất li nghóa cảnh trí tuệ rộng lớn, sáng suốt, v.v… đâu chẳng phải tướng tịnh? Nay trong văn này ý ở lược ảnh, nên mỗi thứ nêu một nghóa. Văn của sớ chỗ giải thích vả lại là một lần. Chỗ huân ác tập v.v…, tức kinh Lăng-già như chỗ nói ở trước. Nhưng theo tông khác, ở trong đó năng sở huân đều phân biệt với chân như, đó là vững chắc bí mật và chẳng sinh diệt. Nay đây thật giáo về mặt không thể nghó bàn huân biến, nên có nghóa này. Tịnh huân nhiễm: Luận nói Vô minh v.v… trở xuống. Sớ: Đây là v.v…, do sinh diệt là môn nắm cả lý thành sự, tướng nhiễm tịnh còn, nên có nghóa huân tập. Nếu chân như mất tướng, hiển bày tánh môn thì bao dung sinh diệt thành một thể chân, không có chỗ đối địch, nên chẳng có nghóa huân. Do đây, v.v…, nếu lúc thuận dòng trái chân như tức là dụng nhiễm. Nay do bản giác huân tập khiến ngược dòng thuận chân, chính gọi là dung tịnh. Kia giống như bọn phản nghịch đã bị hàng phục rồi, chính đem tấm lòng phụng sự vua. Xưa trái thì làm bọn phản nghịch, nay thuận thì làm trung thần. Đây giải thích v.v… trở xuống, tức kinh Thắng-man, như trước đã dẫn chứng. Ý nói sở dó hay sinh chán hoặc mong cầu, bởi năng lực huân của chân như. Kẻ thù bị quy phục: Chính là nói về chủ giáo hóa. Niết-bàn v.v… trở xuống là dẫn chứng. Bởi v.v… trở xuống là tổng kết trở về. Nay ý hai nghóa tức giác bất giác. Nghóa giác tức chân như, bất giác tức vô minh. Vô minh bao gồm tâm vọng, cảnh vọng. Trong đây v.v…, giác và Phật, chỉ cho phạm âm đời Đường có khác, gốc đối với ngọn, tánh đối với tướng. Tánh tướng, gốc ngọn văn khác mà nghóa đồng. Trong riêng: Trước nói về nhiễm huân, y cứ lý hợp như vậy. Do trước thành pháp nhiễm, mới trái nhiễm thành tịnh, không hề có trước tịnh sau thành pháp nhiễm. Nếu trước nói tịnh sau nói nhiễm, thì có lỗi vọng khởi vô cùng, cũng có lỗi ngộ sau lại mê, nên trước nói nhiễm. Trong hỏi: Sớ Mỗi phần có hai, nhiễm đều có. Huân tập, tự bên trong thuận khởi, niệm sau nối tiếp niệm trước. Tâm thể: Ở đây chung nhiễm tịnh. Nhiễm huân thì huân tâm thể chân, tịnh huân thì huân thể vô minh. Giúp huân: Theo bên ngoài phản kích, niệm trước dẫn khởi niệm sau. Thứ lớp như văn nói: “Vô minh huân chân như khởi lên vọng tâm, tức là huân tập vọng tâm, trái lại huân vô minh, khiến thêm lớn mê mờ điên đảo, khởi chuyển thức, hiện thức, v.v…” tức là trợ giúp huân. Ngoài ra đều nêu theo đây. Tâm tức nghiệp thức, cảnh là hiện tướng, các hoặc là ái kiến, v.v… Trong lược: Luận nói có hai: Nêu chung năng sở huân thể: Trong môn này tức vô minh là năng huân, chân như là sở huân. Nếu ở môn sau tức chân như là năng, vô minh là sở. Cũng có thể v.v…. trở xuống là nghóa riêng, do vô minh vốn không có tự thể, đơn cử nói chẳng được. Muốn nương phải nhờ chỗ nương chân thể. Chân thể tức chỗ vô minh vốn khởi. Như muốn nói sóng phải nhờ nước. Tuy là nêu cả hai ý chấp vô minh, hoặc ý hiển bày vô minh, y tha khởi chẳng thật có tự thể. Xưa nay là không, hoặc ý hiển bày nguyên do nhiễm tịnh huân xông lẫn nhau. Nếu vốn chống đối thì không thể huân. Như Tướng Tông nói: “Vô minh chân như đối địch thể có khác, cho nên chân như vũng chắc như đá ngọc không thể thọ huân”. Nói riêng về nghóa huân tập: Luận nói Do có vô minh, v.v… trở xuống, có ba: Vô minh huân chân như: Sớ: Căn bản v.v…, nương chân nên chẳng phải ngọn ngành. Kinh Bổn Nghiệp chép: “Mê nghóa đế đệ nhất khởi gọi là sinh mê hoặc”, tức là vô minh này. Huân tập, phải nói là “tập huân”. Do đối với v.v… trở xuống là giúp huân. Nếu không như thế thì đâu thành giải thích? Luận nói Do huân v.v… trở xuống, là công vô minh huân tập chân như tuy là pháp tịnh, bị pháp nhiễm vô minh huân mà khởi vọng tâm. Như kinh Lăng-già nói: “Huân biến không thể nghó bàn là do hiện thức, v.v…”. Vọng tâm huân vô minh: Luận nói Do có vọng tâm v.v… trở xuống. Chẳng rõ v.v… trở xuống, cũng là công vọng tâm huân tập. Chẳng rõ là nghóa mê chân. Bất giác, là nghóa khởi vọng, vì chẳng rõ chân như không tướng mà vọng hiện tướng kia. Như người có mắt đẹp, bị hơi nóng ép ngặt nên mắt bị nhặm. Do có bệnh làm mờ, mắt bệnh này liền thấy có hoa đốm trong hư không, nên nói “vọng hiện cảnh giới”. Sớ: Do đây v.v… trở xuống, là phản kích, nên nói “giúp huân”. Thêm lớn mê mờ: đã vô minh thì không rõ, lại bị vọng tâm giúp sức, càng thêm chẳng hiểu rõ, như giặc gặp người ác, tâm trộm càng sâu, bèn thành việc trộm. Vọng tâm huân cảnh giới: Luận nói Do có cảnh vọng v.v… trở xuống. Khiến kia v.v… trở xuống là công huân tập cảnh vọng. Do bên ngoài huân cảnh, khiến trong tâm khởi niệm phân biệt nối tiếp, chấp trước kế danh, gây ra nghiệp thiện ác, chịu quả báo ba cõi. Ba cõi không an nên gọi là khổ. Như người ác vì tài vật, v.v… kéo lôi, nên lén làm việc trộm cắp, cho đến bị phơi bày rõ ràng, chịu hình phạt trong ngục tù. Sớ: Sau hai nghóa đồng, v.v… do đây hướng đến kia đều gọi là nghiệp khổ. Nương hoặc v.v… trở xuống, giải thích tên nghóa đồng ở trên, ba lớp trên nối tiếp nhau, nghóa là vô minh huân chân như khởi vọng tâm, vọng tâm huân vô minh hiện cảnh giới, cảnh giới huân vọng tâm khởi niệm mê đắm, tạo nghiệp chịu quả báo. Đây là việc duyên nhiễm đầy đủ tột cùng chín tướng, nên dừng ở đây. Từ sau hướng về trước, chấp thế của văn kia truy tìm nên thứ lớp trái ngược. Ba lớp trước là từ gốc đến ngọn để lược nêu, từ ngọn hướng về để giải thích rộng. Trong huân cảnh: Luận nói thêm lớn niệm huân, tức là do huân tập khiến niệm thêm lớn, ở sau đều nêu đây. Sớ: Trí tướng, do ngoại cảnh có sự trái thuận huân tập nên dẫn khởi nội tâm ưa các niệm ác, gọi là trí tướng. Do cảnh chẳng dứt nên niệm cũng chẳng dứt, gọi là tướng nối tiếp, “Giống như hình tượng có đẹp xấu”, bởi tính chất tốt xấu. “Âm hưởng không dứt”, bởi do tiếng nối nhau. Pháp chấp phân biệt, chẳng cho rằng đối với câu sinh để nói phân biệt, chỉ bày chung trí và tương tục, đều gọi là phân biệt. Do hai tướng này phân biệt nhiễm tịnh, niệm niệm chẳng dứt. Đây là tâm phân biệt chẳng phải hoặc phân biệt, người học tự nên biết. Trong vọng tâm huân: Luận nói Hay thọ, v.v… hợp là làm cho A- la-hán, v.v… chịu khổ sinh tử. Văn luận nói trái ngược. A-la-hán, Hán dịch là Vô Tặc, tặc là ngã chấp phiền não. Đây không có mê hoặc, Bích-chi-Phật, Hán dịch là Duyên giác, Duyên giác tức là chân. Sớ: Mê đối với vô tướng, do nghiệp thức này ngược lại trợ giúp vô minh, thêm lớn sự không rõ kia, đối với lý vô tướng vọng sinh có tướng, bèn chuyển thức hiện thức, khiến kia năng huân, cộng thành A-lại-da. Lìa sự thức…, có toàn phần khác nhau. Nếu Bồ-tát trước Sơ địa và người Nhị thừa, chỉ lìa ngã chấp phần thô trong sự thức. Sơ địa mới lìa một phần trong tế. Nhị địa đến Thất địa thì hoàn toàn lìa hai phần thô tế trong sự thức. Nếu phần đoạn khổ chỉ đứng về mặt thô mà dứt, thì được xa lìa. Do không hoặc nghiệp thì không thọ sinh, nên không có tám khổ như sinh, già…. Biến dịch hành khổ, ba tế sinh diệt, niệm niệm trôi chảy, nên luận nói ở trên: “Động thì có quả khổ chẳng lìa nhân”. Nhưng ở đây A-lại-da… chín loại đầu có khổ sâu kín. Nay nói riêng người ba thừa riêng thọ, vì đứng về mặt lìa khổ thô, tế mới hiện mà nói, thì tất cả phàm phu hai khổ đều có. Hiền thánh ba thừa có tế không có thô. Phàm phu tuy có khổ tế, vì khổ thô kia đều chưa hay biết, do đó không nói bậc thánh đã lìa khổ thô mới Chính giác biết. Nay đứng về mặt nghóa một bên giác biết nói chỗ có của ba thừa. Như người bệnh nặng không biết các thứ xâm lấn, khi bệnh dứt mới biết cái đau nhỏ nhiệm. Nhưng Bồ-tát hồi tâm Thập tín đến đây liền thọ biến dịch. Nếu thẳng đến Bồ-tát đứng về mặt Chung giáo mà nói, ở lúc trước Sơ địa tức thọ biến dịch. Thỉ giáo tức từ Sơ địa trở lên mới thọ biến dịch. Sơ địa thì trí thêm lớn, Bát địa thì bi thêm lớn. Bi trí bình đẳng là địa thứ năm, sáu, bảy. Nếu Nhị thừa chưa hồi tâm, diệt khổ nương pháp sau liền thọ thân biến dịch. Do sự thức, v.v…, trước là nghiệp thức huân căn bản vô minh trụ địa, khiến khởi chuyển thức, hiện thức, cộng thành A-lại-da, khiến bậc thánh Ba thừa biến dịch khổ tế. Đây là trí thức huân chi mạt vô minh hiện hành, khiến khởi nối tiếp, chấp thủ, kế danh, tạo nghiệp chịu quả báo, cộng thành sự thức, khiến chúng sinh trong sáu đường thọ khổ thô phần đoạn. Trong vô minh huân: Sớ: Là căn bản v.v…, tức trước nương bất giác sinh ra ba tướng. Luận chẳng nêu đầy đủ, chỉ nêu một. Cũng có thể vô minh huân chân, chỉ thành nghiệp thức. Nghiệp thức huân vô minh mới khởi chuyển thức, hiện thức. Nên chỉ nêu một. Nghóa là chi mạt v.v…, nhưng nay sự thức tự từ cảnh khởi, cảnh giới chẳng mất, bởi duyên vô minh chi mạt niệm niệm năng lực huân tập chân như. Làm sao huân tập? Chỉ là đối với cảnh chẳng rõ là không, chấp nhất định có thật gọi là huân tập. Do định chấp nên khởi các tướng sau. Đây tức chấp mê trước làm năng thành, năng thành tức bất giác chi mạt, sau khởi làm sở thành, sở thành tức sáu thô sự thức. Như ở trước nói việc ngủ mộng, tâm cảnh đã đầy đủ, ở trong mộng chấp trước, chẳng rõ là mộng. Như vô minh của năng thành. Phân biệt cảnh trước như sự thức của sở thành. Nhưng chẳng rõ vọng tức là huân chân thành tựu lẫn nhau. Dẫn văn sẽ biết. Chỉ mạt v.v… trở xuống, giải thích nói chỗ khởi trên. Nghóa là căn bản vô minh là năng khởi. Đối với căn bản ở trên để chỉ rõ chi mạt. Trong phần nói rõ: Luận chép: Có chỗ cho rằng v.v…, chân như là năng huân, vô minh là sở huân. Chân như ngay nơi thể chân thật không có thỉ bổn, chẳng nhờ nhân khác, nên chẳng đồng ở trước nêu chỗ nương. Do huân tập v.v… trở xuống, nói về công chân huân. Vô minh tuy là theo dòng pháp nhiễm, bị pháp tịnh chân như huân, thì sẽ ngược dòng thuận chân, khởi ưa chán. Biết chỗ ái ngày xưa là khổ nên chán, chỗ trái có vui nên ưa. Như người ác trước bị người thiện cố dụ, sau thành hạnh quân tử. Do đây v.v… trở xuống, vọng tâm là năng huân, chân như là sở huân. Sớ: Huân ngược lại, vọng tâm vốn là pháp theo dòng, nay ngược lại có sức chân lợi ích. Lại là trợ giúp huân ngược lại từ bên ngoài, nên tăng thêm thế lực. Chân như vốn tự có năng lực, hay huân vọng tâm khởi chán cầu này. Nay lại bị dụng tịnh giúp sức, lại tăng thêm sức kia thành trí Thỉ giác. Như người ác trái lại để làm lành, đối với người lành đều có hỏi han, hoặc thêm can ngăn. Do đó người lành hoặc nhờ hỏi han mà tăng thêm hiểu biết, hoặc nhờ can ngăn mà dứt lỗi, luyện sâu nhân hạnh để tu đức nghiệp. Xưa gọi là tập huân, nay mới gọi là giúp huân. - Khoa công năng: Do trước sức huân trong ngoài, bèn thành tín, giải, hạnh, chứng để đến quả tột. Văn có hai: Hạnh trước sơ địa: Luận nói Tin tánh mình v.v…, một câu đầu là biết chân. Hai câu kế là đạt vọng. Nghóa là biết chân sẵn có, thông hiểu vốn không. Người hành thật giáo sơ tâm hợp như vậy. Đây là tin hiểu chân chánh trong chương đầu của kinh Viên Giác. Một câu sau là nương giải tu hành. Sớ: Thập Tín, sơ tâm nhập đạo trước tin là căn bản, khác với môn quyền giáo chỉ tin Tam bảo và giới. Văn sau nói: “Một là tín căn bản, có chỗ cho rằng pháp lạc niệm chân như, lấy tín làm cửa đầu của muôn hạnh”, nên phải nói tín. Lại, do chân như là cội gốc của muôn hạnh, nên tin tánh của mình. Tam Thánh Viên Dung Quán chép: “Tin hoặc chẳng tin pháp giới, tin tức tà giải”. Địa vị Thập giải tức Thập trụ. Giải chuyển nghiệp nói biết tâm vọng động tướng giải hiện, nói không có cảnh giới trước chỉ là chưa thể dứt trừ. Nhưng, chẳng những hàng Thập trụ mới có địa vị trước, đâu không có giải này ư? Văn của sớ phối hợp tín rất gần ở trước. Hỏi: Bồ-tát ở địa vị tín làm sao được tướng giải nghiệp? Đáp: Do tin chân như vắng lặng của mình bất động không có Nhất tướng, biết tướng tâm động, cảnh thật là vọng, tánh vốn là không. Nếu không hiểu như thế thì đâu xứng với người sơ tâm của Thật giáo ư! Luận nói Tu pháp xa lìa, pháp là pháp hạnh, do pháp hạnh này phá tâm cảnh, nên gọi là xa lìa. Sớ: Nương giải thành hạnh, tức địa vị Thập trụ đầy đủ, tiến đến địa vị Thập hạnh. Có giải mà không có hạnh thì giải kia sẽ đơn côi, phải nương chỗ giải mà tu hạnh. Tầm tư v.v… tức hạnh của sở hạnh. Tín hiểu chẳng cạn thì hạnh kia sẽ sâu. Như xe lớn đi qua vết bánh xe đâu nhỏ. Nhưng, trong đây nói chung Thập Hướng và Bốn gia hạnh. Nghóa là hai địa vị Noãn, Đảnh, dùng bốn quán tầm tư, quán sở chấp danh v.v… bốn pháp, giả có thật không, tức sở chấp không xa lìa cảnh. Chợt thế đệ nhất thành bốn trí như thật, ấn sở chấp không. Quán năng chấp không, tức tâm xa lìa. Rộng như trước nói. “Nay nói đẳng” là giống như thật quán. Duy thức, v.v…, rõ biết các pháp chỉ nương vọng niệm mà có khác nhau, hành hạnh này mà thuận theo. Nên tụng rằng: Duy thức không cảnh giới Do không trần vọng thấy Như người mắt bị nhặm Thấy việc như lông, trăng… Đây là chỗ tu trong địa vị tư lương. Hạnh địa thượng: Luận nói Do như thật v.v… trở xuống. Sớ: Kiến đạo v.v…, là địa vị thông đạt lìa bất đoạn nhiễm tương ưng, chứng một phần chân như gọi là Tịnh tâm địa. Nếu theo các chỗ nói thì hành bố thí ba-la-mật dứt được dị sinh tánh chướng và hai thứ ngu. Nghóa là chấp trước ngã pháp ngu, ác thú tạp nhiễm ngu, chứng biến hành chân như, trụ Hoan hỷ địa. Tu đạo: là Nhị địa đến Đẳng giác. Vì trong giai vị này thứ lớp hành giới hạnh ba-la-mật, ngoài ra chẳng phải không tu mà tùy theo khả năng nên nói muôn hạnh. Rộng như chỗ nói của kinh Hoa Nghiêm, lấy đây tu hành đối trị chẳng nhiễm, xứng thuận bổn tánh khiến thể hiển hiện, nên nói hiển chân. Sớ: Không tướng năng sở, chính đồng với kiến đạo của Duy Thức tụng nói: “Nếu lúc ở chỗ duyên trí đều không sở đắc, bấy giờ trụ Duy Thức, lìa hai chấp tướng. Nhưng, ở đây tu đạo chứng chân khởi hạnh, nhất như Sơ địa đều không năng sở, nên nói chẳng chấp. Ba kỳ, chung cho chỗ luận Tam Hiền ở trước. Nếuc hỉ chấp từ Nhị địa trở đi, thì chỉ có hai. Nghóa là Nhị địa đến Bát địa là một tăng kỳ. Bát địa đến quả Phật là một tăng-kỳ. Nhưng, nghóa ba kỳ có dài ngắn. Rộng như giải thích ở sau. Nhưng đoạn này văn luận ở ngoài sớ phối hợp riêng, thì lấy tự tin vào tánh mình làm địa vị Thập tín, biết tâm vọng động không có cảnh giới trước làm Thập trụ, tu pháp xa lìa làm Thập hạnh. Do như thật biết v.v… trở xuống, là Thập Hướng, Gia hạnh, chẳng chấp chẳng niệm là Kiến đạo. Cho đến năng lực huân tập lâu xa là Tu đạo. Nay lại nói như thế, một địa vị tín đối với văn có rộng hẹp. Nay nếu đối lại, chỉ từ ban đầu đến tu pháp xa lìa, đều là địa vị Tín. Vì ở địa vị này, chẳng có lòng tin cũng tu hành được. Như tên gọi Thập tín và luận nói ở sau. Tu năm hạnh v.v…, từ Do như thật v.v… trở xuống, đến hạnh tùy thuận, chung đối với Tam hiền. Trong hai câu trước vẫn là truy giải của địa vị tín ở trước, người trí nên biết rõ. Quả, luận có hai: Dứt hoặc trái nhiễm: Sớ: Vọng tâm dứt, tức nghiệp thức chuyển thức. Do không có vô minh làm năng huân, nên vọng cảnh dứt. Do không có vọng tâm làm năng huân, nên đều dứt hoặc. Chỉ bày chung văn vô minh ở sau rồi. Trên đây lần lượt nghóa diệt hoặc trái nhiễm. Như ở trước trong phần trái của luận nói về nghóa diệt. Nói rộng ba thứ nhiễm, tức sau ba thứ bất tương ưng nhiễm sẽ hiểu. Sớ: Chứng lý thành đức, tức ở sau Niết-bàn là dứt, nghiệp dụng là ân. Một chữ “đắc” thuộc trí năng chứng, là trí đức. Đây đều tu hành trái nhiễm thanh tịnh, nên luận dùng hai câu nhân…, chỉ là trở lại đoạn văn trái nhiễm, truy đây để rõ chỗ đức hiển bày. Sớ: Tâm nhiễm tức chung sáu nhiễm, do vô minh dứt nên ba tâm nhiễm như nghiệp… dứt, cảnh giới diệt,… ba tâm nhiễm như trí v.v… tận. Tất cả tâm tướng chẳng ngoài sáu nhiễm, nên nói đều tận. Ở trên nói: “Nhân diệt nên tâm bất tương ưng dứt, duyên diệt nên tâm tương ưng dứt. Tâm thể chuyển nương, do tâm thể tại triền nương chín tướng, v.v… gọi là sinh tử. Nay chín tướng đã dứt, sinh tử đã hết, tâm thể vắng lặng gọi là Niết-bàn. Nói nghóa kia nương thật không có năng sở. Lại nghóa chữ “chuyển” gồm hai thế, đó là chuyển diệt sinh tử và chuyển đắc Niết-bàn. Chuyển diệt thì không có pháp để diệt, mà tương tợ diệt chuyển thì không có pháp nào là chân được. Chuyển nương có nhiều nghóa, như có chỗ nói phân biệt. Nghiệp dụng: nương thể Niết-bàn vắng lặng, tùy cơ cảm hiện đều lợi ích, vô tâm mà ứng. Luận nói: “Nghiệp tự nhiên, tâm và lời nói không đến được”. Sớ: Nói không thể nghó bàn, đây là ngược lại vọng cảnh ở trước nên được Niết-bàn (tâm sáu nhiễm đều là phiền não ngại), ngược lại vô minh ở trước thành nghiệp tự nhiên (Vô minh là trí ngại). Nhưng hai thứ nhân quả này, bốn địa vị phàm, hiền, thánh, quả, đều đầy đủ. Đây đều là bên trong huân chân như, bên ngoài giúp vọng tâm, khiến chân có sức. Ban đầu từ phàm phu, sau cùng đến quả vị, khởi nghiệp thanh tịnh. Ý thức, là thức của ý. Luận: Phàm phu, tức Thập Tín trở xuống chẳng rõ Duy Thức mà tu hành. Do thức này v.v… trở xuống là nói thức sở y. Do thức thô này vốn là chỗ khởi cảnh giới làm duyên, không biết các pháp vốn nương hiện thức mà sinh. Do không biết lại chấp là thật. Phàm phu v.v… trở xuống là nói người năng y. Người Nhị thừa không biết thức thứ bảy và tám, cùng phần tế sự thức, chỉ tu ngã không quán trí. Phàm phu thuần chuyên tu hành không biết đạo lý Duy thức, chỉ nương thức thô, khởi tâm chán ưa, mà cầu quả Phật, chẳng thể quên tướng. Do đây đồng chỗ với người Nhị thừa mà nói. Do đây v.v… trở xuống là nói phân chia được đạo. Tác ý, tác ý phát thú Phật đạo tức tâm ưa chán. Từ lâu sau, v.v…, do tâm thú hướng không thôi, dần dần hiểu rõ đạo lý Duy thức, như thật tu hành lại được thành đạo. Do dụng tâm lâu sẽ hội, không được nhanh chóng, nên nói lâu sau. Bồ-đề là đạo vô thượng. Luận nói: “Bồ-tát Thập tín trở lên rõ Duy thức”. Sớ có hai: Giải thích: Thức lượng v.v…, tất cả cảnh giới do thức hiện, cảnh giới sở hiện mỗi mỗi như thức. Được thức nhiễm là cảnh nhiễm, thức tịnh là cảnh tịnh, v.v… Đã biết do thức hiện, thì chẳng chấp pháp là nhất định thật, chấp trước chỉ là luống dối, nên nói xả bỏ kia… Rõ duy tâm: có trí để rõ các pháp không tánh, tâm tướng cũng không, chỉ một chân như, chẳng sinh vọng chấp, niệm niệm tương xứng với lý, nên được nhanh chóng hướng về Niết-bàn. Thông ngại: Hỏi v.v… trở xuống. Hỏi: Vọng tâm đều huân, tức tâm, ý, ý thức đều huân chân như, khiến kia có năng lực, bèn chán khổ sinh tử. Ưa cầu Niết-bàn, tu hành ngược dòng. Ý huân v.v…, là năm ý, ba ý trước thuộc thức A-lại- da, đây là người Ba thừa đều có A-lại-da huân lý chân. Tại sao Bồ-tát phát tâm mạnh mẽ mau hướng về Niết-bàn, người Nhị thừa, phàm phu chẳng đồng vết này mà rất lâu xa ư! huân đã là đồng phát tâm hợp, vì sao không như vậy. Đáp: Đáp v.v… trở xuống, có hai: Chính là đáp: Phàm phu bất giác, do chẳng nghe giáo Đại thừa, chẳng gặp bạn lành chân chánh, đối với các pháp chẳng biết là do A-lại-da biến ra. Lại không biết thức năng biến, chân vọng hòa hợp không có tự tánh, nên nói là bất giác. Giúp giữ sức, nghóa là nương ý thức phân biệt, thấy có sinh tử, Niết-bàn ngoài tâm, từ đây khởi tâm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, giúp huân chân như, chân như giữ gìn năng lực năng huân, do đó phát tâm tu hành. Chẳng đạt bổn: do không thể hiểu tự tâm thì sinh hai vọng tưởng là: đạo trước mắt mà tìm ở xa, và Phật ở bên trong mà tìm bên ngoài. Hiểu không chánh hành cũng lâu mới biết, nên hướng bồ-đề không thể mau chóng, nên nói “lâu xa.” Nói bổn: đã biết các pháp do tâm hiện, không hề thuận theo thức phân biệt thô, chấp pháp ngoài tâm, nghó bỏ sinh tử, riêng cầu Niết-bàn. Tuy tu các hạnh mà không làm những gì đáng làm. Tuy độ chúng sinh mà không thấy có chúng sinh đáng độ. Nên kinh nói: “Rõ tâm và cảnh giới, thì vọng tưởng chẳng sinh”. Đây là nói bổn thức mà tu hành. Đã không quên duyên, bên trong soi chiếu xứng thuận bổn tánh, mau được hợp đạo, nên nói thân lại gần. Như “Thuận tánh tu đàn, v.v…” ở sau. Trước nói: “Tự tín tánh mình, biết tâm vọng động không có cảnh giới trước.” Tu pháp xa lìa… tức là hạnh này. Hỏi: Trong năm ý thì hai ý sau cũng là sự thức. Bồ-tát đã nương đây huân tập mà khởi tu hành, đâu khác gì phàm phu, Nhị thừa ở trước. Đáp: Trước chỉ biết sự thức, không biết bổn thức, không biết sự thức nên chỉ giác tâm từ cảnh sinh, nương đây tu hành nên thành lâu xa. Đây thì hai thức đều biết đáng biết. Tuy tâm duyên cảnh, đạt cảnh do tâm, nên đối với sự thức mà chẳng tín dụng, nương đây tu hành nên thân mà gần. Kết đáp: Đây đứng về mặt v.v… trở xuống, chỗ nương tức bổn thức, sự thức và chân như. Do người Ba thừa, mỗi việc đều nương thức kia, huân tập chân như kia mà khởi hạnh. Giúp nhau, vốn nhờ chân như huân vọng tâm, khiến khởi chán cầu. Nhưng sau vọng tâm huân chân như khiến tu hạnh này. Đây là nếu nương sự thức huân chân như, chân như lại nương hạnh của sự thức, Nếu nương bổn thức huân chân như, chân như trở lại trợ giúp hạnh của bổn thức, nên đó là giúp nhau. Chỉ duyên thức có khác bên trong khởi bên ngoài pháp, nên khiến hạnh khác nhau, bên trong chiếu bên ngoài cầu. Nhân mau chậm tự mà được. Trong chứng phát tâm: Văn nói: Là Bồ-tát phát tâm tướng. Có ba thứ tâm tướng nhỏ nhiệm. Thế nào là ba? Một là chân như; hai là tâm phương tiện; ba là tâm nghiệp thức” Rộng như ở sau nói. Luận: Nói thể tướng hợp luận, v.v… như hạt châu và ánh sáng chẳng lìa nhau, ở sau cũng như thế. Chính hiển: Luận có hai: Nói về huân tập: Sớ: Bất không là bất không Như Lai tạng, do có tự thể vốn đầy đủ hà sa tánh đức. U ám là mờ tối. Vật tức chúng sinh. Kia giống như hạt ngọc giấu trong chéo áo, chiếu sáng mà người nghèo đâu biết. Như vàng ròng quấn quanh áo rách, hành giả đâu lường, nên chẳng thể rõ. Tác dụng thầm huân, phân biệt khác dụng xuất triền ứng hóa. Luận nói Tánh cảnh giới v.v… đây là thể huân để nói lên thể tướng không hai. Trong phần nêu, trước là thể sau là tướng. Trong phần giải thích, trước tướng sau thể, làm sao huân tập để có thể làm cảnh giới, dẫn dắt trí sinh kia tức là nghóa huân. Chẳng trực tiếp v.v… trở xuống là tùy trước. Cũng chính v.v… trở xuống là giải thích. Trước là bổn giac huân khiến khởi trí. Trí tức thỉ giác. Đây là đối trí thành cảnh sở quán, cảnh cũng là bản giác. Ở đây thì tướng bản giác làm tâm năng huân, thể làm cảnh sở quán. Trên một thể nghóa chia hai riêng biệt. Như trước nói pháp có đối trí hiển bày nghóa. Nói về công năng: Luận nói nương đây v.v… trở xuống. Sớ: Tâm cảnh, do chỗ phát của tâm, do chỗ dẫn của cảnh, tuy chia hai pháp thể, chỉ bản giác không có hai riêng khác, cũng gọi là thể tướng. Có năng lực: vọng tâm yếu kém, bản giác thế mạnh, sức huân mạnh mẽ. Xưa theo dòng thì vọng có sức mạnh mà chân yếu kém. Nay đã ngược dòng thì công huân chân mạnh, mà thế vọng tâm suy. Luận Tự tin thân mình v.v…, nói theo người thì nên nói thân mình, do tự chân như của mình huân vọng tâm có thế lực, bèn hay phản chiếu, tin chân như trong thân mình và Phật chẳng khác, chỉ do vọng hoặc che mờ nên không thể hiển hiện. Nay thẳng phát ba tâm, tu năm hạnh như thí…, để đối trị vọng hoặc, giúp thể hiển hiện. <卷>QUYỂN 14 Hỏi. Có ba đoạn: Chỉ theo quyết định ở trước: Luận chép: ắt có chân như v.v…, hễ là hữu tình thì đều có đủ bản giác viên mãn không hai. Do đều đầy đủ nên đều hợp nghóa huân nên nói đồng đều. Nói lên điều nghi: Luận nói vì sao v.v… trở xuống. Hiện tại v.v… là nói chiều ngang, hiện nay thấy có ít người tin, nhiều người không tin. Luận nói Vô lượng, v.v… là hợp nói trước sau khác nhau vô lượng, người dịch văn khác hẳn không tột cùng. Vị lại, v.v…, là nói theo ngang dọc, hướng về vị lai phát khởi tín tâm, mau chậm khác nhau nên nói trước sau, lại có dày mỏng, tiến lùi, tà chánh v.v… khác nhau, nên nói khác nhau vô lượng. Đây là rộng thì có không sai biệt, dọc thì trước sau khác nhau. Nói trước sau cũng chung cho quá khứ. Bên trong huân, v.v…, huân là vừa tin cũng vừa hợp, chẳng có hợp ở nơi khác nhau như thế. Kết thành câu hỏi: Luận nói Đều nên v.v… trở xuống. Một thời, có hai ý: Phân biệt có tin không, phân biệt khởi trước sau. Tự biết có pháp chân như là tin hiểu. Khuyên tu phương tiện là hạnh. Đồng nhập Niết-bàn là chứng. Nói một thời phải hiểu ba câu này mà chuyển. Chấp khác nhau, nghóa là chấp có tin, không tin, trước sau khác nhau, liền nghi chân như cũng có nhiều loại khác nhau. Đáp: Luận có hai: Nêu chỗ nghi: Vốn một, phàm thánh một thể bình đẳng không hai. Kinh Tịnh Danh nói: “Tất cả chúng sinh đều như, các bậc thánh hiền cũng như, cho đến Di-lặc cũng như”. Một câu này thông suốt chỗ nghi. Ở sau giải thích riêng chỗ chấp. Giải thích chỗ chấp: Luận nói Mà có v.v… trở xuống. Có ba: Nói về chỗ nương căn bản khác nhau: Sớ Căn bản, v.v…, đã là pháp vọng sinh diệt, pháp như thế chẳng được bình đẳng, chúng sinh đầy đủ ở đây, mỗi mỗi khác nhau, chẳng đồng một thể chân như bình đẳng, nên nói là dày mỏng. Trước sau cũng giống như thế, dày là tin chậm, mỏng thì tin nhanh. Tin dày mỏng, tiến lùi, v.v… lệ theo mà biết. Chẳng phải kia: lỗi ở vô minh có dày mỏng, chẳng phải chân như có khác nhau. Đứng về mặt năng y, hai chướng khác nhau: Luận nói hơn hà sa v.v… trở xuống, có hai: Sở tri chướng: Những thứ như trên, ý nói những việc trên phiền não nhiều hơn hà sa. Lại về mặt pháp môn sở chướng đã nhiều, mê hoặc nặng, chướng thành vô lượng, nên nói những thứ trên như hà sa; nhiều bằng với cát bụi, nghóa ấy đã rõ. Sớ: Vô tri: mê tục đế trong môn sự pháp, do không thể biết chân chánh, không thể biết cùng tận. Phần thô: sở dó biết trong đó có hai phần: Mê lý là tế, mê sự là thô. Thiên Thai gọi là trần sa, Tiểu thừa gọi là bất nhiễm ô vô tri, nay ở đây phân ra. Phiền não chướng: Luận nói Ngã kiến v.v… trở xuống. Sớ: Tứ trụ, tức phần thứ hai trong sáu thô, tại sao không nói đối với năm ý? Do năm ý là chỗ nương của chúng sinh, không biết tứ trụ là sở hữu của họ. Nay chấp hai thứ này chính là chướng. Tin tâm và các trí quán nên nghiêng nêu. Văn sớ cũng như vậy, vì sao hai chướng đều gọi là phiền não? Do hai thể của hai chướng này tánh đều luống dối loạn động, chẳng phải vắng lặng, gọi chung là phiền não. Tổng kết cả hai câu hỏi xong: Luận nói Như thế v.v… trở xuống. Sớ: nói Đều nương v.v… trở xuống: nếu y cứ sinh khởi thì thứ lớp mà sinh. Nay ở đây nói rộng nên đều nương vô minh. Chẳng phải một tức là hai chướng làm trước sau lẫn nhau thì các phần thiên lệch tăng trưởng có khác nhau. Phật rõ v.v…, đây lại tùy theo phần kia, chưa thể biết cùng tận, chỉ có Phật mới chứng tột cùng, nên mới biết được. Sớ ở trước nói: “Nếu đến nguồn tâm được vô niệm thì biết khắp tất cả chúng sinh, nhất tâm động chuyển bốn tướng khác nhau. - Trong lập lý: Sớ: Nếu riêng v.v…, là trái chỗ vặn hỏi. Nhưng nay v.v… trở xuống là thuận thông nghóa kia. Cho đến v.v…. trở xuống là tổng kết đáp. Nên trên v.v… trở xuống là dẫn chứng: đều rất dễ thấy. Trong dụ: Luận nói Cây dụ cho chúng sinh; tánh lửa dụ cho bản giác; người biết dụ cho Phật; phương tiện là việc mồi lửa dụ cho bi nguyện nói pháp; đốt cây tức trước có lửa sinh, lửa dụ cho phát tâm tu hành, đốt cây dụ cho dứt phiền não. Trong đây nếu không đến được vì chẳng nhờ ngôn ngữ, chính là nói lên thiếu duyên. Trong pháp: Luận Là duyên, tức từ bi nguyện độ, nói pháp dắt dẫn giáo hóa, chính là dùng mồi lửa. Nhập Niết-bàn, hợp với trên lửa phát cháy hết cây, khói bay than diệt. Ở trên trong phần dụ, tuy văn không hiển bày, nói đốt cây, là bao gồm nghóa này. Trong nhân thiếu: Luận nói Chưa có sức huân, như cây ướt mà dùi lửa, tuy có tánh lửa mà lửa chẳng phat sinh. Chướng cũng như vậy, tuy có bản giác mà nghe pháp cũng không ngộ hiểu. Không thể rốt ráo v.v…, cũng có nghe pháp tin nhận, tạm thời phát tâm, nhưng ít có trọn vẹn, không thể lâu dài, như ở sau nói. Có người thấy sắc tướng Phật, hoặc cúng dường chúng tăng, hoặc nhân người Nhị thừa, hoặc học ở người khác phát tâm đều không quyết định, hoặc lui sụt về phàm phu, Nhị thừa. Đây như cây ướt khi đốt trở lại thì có hơi nóng, nhưng không thể phát ra lửa đốt cây. Như ở thế gian pháp rất nhiều, trong đó tu hành thú hướng, hạng người này thật khó có. Bởi bên trong năng lực huân tập yếu ớt, hoặc chướng lại sâu nặng, để dụ cho pháp loại, rõ ràng thấy được. Trong rõ được: Luận nói Nhân duyên đầy đủ, như cây khô dùi lửa. Chư Phật, đây là phân biệt khác với Nhị thừa v…. để nói lên gặp thiện tri thức chân thật. Nhưng đoạn văn này có hai thứ nghóa gia thêm: Lấy từ bi v.v… là thầm gia thêm, do thầm che chở nên khởi tín tu hành. Từ do tu v.v… trở xuống, là nói lên sự che chở, là hiện thân nói pháp, do nói lên sự che chở nên thực hành tiến lên chứng quả. Ở trong đó một câu tu điều lành thành thục là truy trước khởi sau. Nhưng văn ví dụ ở trước là dụ cho ý thầm che chở của đoạn đầu. Nếu văn dụ hiển bày che chở của đoạn sau, thì lẽ ra nên gia thêm để quạt rơm cỏ, để nêu lên gió, khiến cây đều hết sạch. Sớ: Tự phần khai phát tâm kia, mới tu hạnh lành. Đây tự nhờ năng lực nhân duyên ở trước, nên nói tự phần. Tiến thù thắng, nếu nêu ra cội gốc kia, cũng là năng lực huân trong ngoài ở trước. Nay nói về mặt ngọn thì đều là tự phần ở trước, lại xét một lớp, nên gọi là thắng tiến. Chỉ bày nghóa v.v…, là chỉ bày nghóa cho hiểu, dạy thực hành để hành được đại pháp lợi ích, nên sinh pháp hỷ. Đây là địa vị tự phần ngay nơi tín, thắng tiến ngay nơi hạnh giải. Hướng tức Thập Hồi Hướng, đạo tức hạnh Địa thượng, Niết-bàn tức quả Phật. Nhưng, bạn lành và người tu hành gặp nhau thật khó. Vả lại, như thế gian có người muốn phát tâm, thì không gặp thiện tri thức chân thật; có thiện tri thức thì không thấy người phát tâm. Đường cảm ứng giao nhau thật là không dễ. Như trong kinh Niết-bàn dụ về cây kim hạt cải, cùng trong Pháp Hoa dụ rùa và cây. Đây đều nói lên bạn lành khó gặp. Nay hành giả tình cờ gặp duyên, nghe pháp giải ngộ, há chẳng nghó sớm trồng cội đức mà không sao! Mà không cầu tiến sao! Đâu chẳng nghó đời sau bị nghiệp trước kéo lôi, há được như đời nay gặp bạn cáo quý ư! Thật nên cố gắng. Liệt nêu: Sớ Là ở nơi v.v… trở xuống, đứng về mặt năng ứng mà nói sai biệt. Phàm phu, Tiểu thừa là căn cơ, vì căn cơ kia hiện hình khác nhau, nghóa là do Phật và Bồ-tát ứng hiện. Thân được độ, tức hiện thân kia v.v… tùy theo căn cơ có muôn duyên không thể y cứ theo một. Do sự thức kia từ cảnh mà khởi, không rõ duy tâm, chỗ nào cũng phân biệt, tình lượng khác nhau, đây thì sai biệt tại Phật. Đã là sai biệt, huống chi mỗi mỗi có hơn kém khác nhau, thích nghi khác nhau. Đây là khác nhau ở căn cơ. Duyên tức thuộc Phật là duyên khác nhau. Song do căn cơ khác nhau bèn khiến ứng có khác nhau, chẳng cho rằng thân Phật có tướng khác. Như gương sáng là một mà bóng khác do hình. Tam hiền v.v… trở xuống, xuất phát thể duyên khác nhau. Sau Bồ- tát Thập trụ lại hiện tám tướng giáo hóa lợi ích chúng sinh. Huống chi là địa vị kia há chẳng rõ ư! Vì các v.v… trở xuống là đứng về mặt năng hóa hiển hiện bình đẳng. Bồ-tát ban đầu từ địa vị tín, sau cùng đến Thập địa. Nghiệp thức gồm cả hiện thức, chuyển thức, chỉ hiện một thân Phật, không có Ba thừa khác nhau, nên nói chỉ hiện. Do Bồ-tát này hiểu sâu cảnh giới duy tâm, chẳng ngoài chấp định tướng, nên hiện thân Phật bình đẳng, làm duyên với kia, đây tức bình đẳng về Phật. Nên văn sau nói: “Do đồng thể trí lực theo đó ứng thấy nghe mà hiện tác nghiệp”. Cũng có thể v.v… trở xuống là đứng về mặt sở hóa hiển hiện bình đẳng. Đồng phát đại tâm, đồng tin Đại pháp, đồng giải đại nghóa, đồng tu đại hạnh, đồng không lui sụt, nên đều bình đẳng. Đây là bình đẳng về căn cơ. Nên văn nói: “Nương vào Tam-muội mới được bình đẳng thấy các thân Phật”. Trì nghiệp, y só, cũng đồng nói ở trước. Nghóa là Sơ địa v.v… trở xuống là xuất phát duyên thể, là Bồ-tát Đăng địa trở lên. Do trí vô phân biệt, chứng lý bình đẳng, biết tất cả chúng sinh chân như bình đẳng chẳng khác, nên hiện thân Phật bình đẳng ứng với chúng sinh. Cảm dụng nhân: Sớ: Căn cơ muốn người: người này căn cơ ưa muốn tu tiến, tức những người cầu Ba thừa. Bên ngoài duyên thể, tức Bồ-tát Tam hiền trở lên và Phật đều tạo ra duyên này. Khi tu hành, là khi mới khởi chán cầu tu tập gốc lành, trong đó có khác phát tâm cầu đạo quả Ba thừa. Luận Cho đến được Phật, có hai nghóa: Trong đó có La-hán, Bích- chi, nên nói cho đến; trong đây chỉ nói từ lúc mới phát tâm, sau cùng đến thành Phật, trong khoảng đó trải qua kiếp số gặp duyên bên ngoài không thể đầy đủ thời tiết, nên siêu vượt mà nói “cho đến”. Đồ dùng là dụ. Lớn nhỏ vuông tròn mỗi thức có phân lượng, Ba thừa hơn kém có thể do hai loại này, thì thọ cơ khí của đạo. Khai chung: Luận: Cha mẹ, v.v…, như Đức Thích-ca độ Tôn giả La-hầu-la là sức của cha. Lại độ những người như mẹ, con, cháu, v.v… quyến thuộc là các năng lực do người thân, như Tịnh Đức và Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn cùng nhau giáo hóa vua Diệu Trang Nghiêm, cũng do năng lực quyến thuộc. Nghóa là những người kia nên do loại này hóa độ, Phật vì họ hiện thân cha mẹ… ngoài ra ý lược nêu đồng. Luận: Cấp sử v.v…, tức cung cấp bôn ba. Kinh Niết-bàn chép: “Vinh hoa tự quý, ta ở chỗ người kia làm tôi tớ, rong ruỗi cung cấp hầu hạ”. Kinh Tịnh Danh chép “Thấy cần cung cấp hầu hạ, hiện làm tôi tớ, vui mừng làm kia vừa ý, mới phát tâm đạo “. Luận: Tri hữu, là biết nghe bạn lành. Như Ngài Thu Tử hoá độ Tôn giả Mục Kiền Liên, như mài dũa ngọc, mài thành đồ dùng. Luận: Kẻ thù, như chưa sinh oán vương, con giết cha mẹ, khiến kia được chứng quả. Như không chán ngôi vua để làm việc giết hại, khiến mọi người đều được môn giải thoát. Luận về bốn nhiếp: Bố thí, khiến người khác phụ thuộc mình. Ái ngữ, vì người khác nói pháp huân thành hạt giống tịnh. Lợi hành, theo chỗ kia hành làm phương tiện lợi ích khiến gốc lành thành thục. Đồng sự, vượt ác mà hòa hợp đồng với ác để dứt ác kia, gặp thiện đồng thiện mà thăng tiến cho điều lành kia. Dùng bốn việc này tùy theo căn cơ mà dắt dẫn, nhiếp khiến vào đạo. Trong năm hạng, chỉ thứ tư là nghịch phương tiện, ngoài ra đều thuận. Nhiếp riêng: Luận nói Vô lượng hạnh duyên, nếu can hệ đến chủng tâm đều xứng đáng, tùy thời phương tiện khéo vạch bày đầy đủ, không thể nói số, nên nói vô lượng. Như kinh Pháp Hoa nói Quán Âm, Diệu Âm hóa hiện, v.v… tức là việc này. Biện dụng nhân: Luận nói Do khởi v.v… trở xuống, là năng huân. Chúng sinh v.v… trở xuống, là sở huân. Thêm lớn, gốc lành là lợi ích. Gốc lành là tín tâm lần chuyển, sinh ra cành lá hoa quả giải, hạnh, chứng… nên nói thêm lớn. Hoặc thấy là hoặc thấy hình kia, hoặc thấy thần biến. Như trước việc hiện hình khác nhau kia, khiến người ấy thấy vui mừng, sinh thiện phá ác nhập lý, cho đến một, hai, ba, bốn lợi ích, v.v… Kinh Tịnh Danh nói: “Hoặc có sợ hãi, hoặc vui mừng, hoặc sinh nhàm chán xa lìa, hoặc dứt nghi ngờ.” Hoặc nghe: hoặc nghe giáo hóa kia cần khiến nhập đạo, hoặc nghe chỗ tụng kinh giáo kia tìm văn sinh hiểu, trở thành văn tuệ, hoặc nghe nói công đức tự tha mà phát tâm lành. Theo căn khai duyên: Luận nói Hai duyên gần xa, do chướng có dày mỏng, bèn khiến bên trong huân có năng lực không có năng lực, do bên trong huân, ngoài gặp duyên lành, phát khởi gốc lành, bèn có hơn kém. Do hơn kém khiến căn có thuần thục hay chẳng thuần thục. Do đây thành lợi căn, độn căn, nên nhập đạo có mau chậm. Theo mỗi việc khai: Luận nói thêm lớn hạnh duyên, chư Phật làm duyên vì khiến người Ba thừa mỗi vị tăng hạnh của mình để nhập chánh quán. Sớ: Hạnh phương tiện, tức phương tiện chánh quán, kiến đạo trở xuống là chỗ tu các hạnh, đều là phương tiện nhập lý. Luận nói duyên Thọ đạo, người Ba thừa nhập kiến đạo trở lên, thân chứng chân như gọi là thọ đạo, đây cũng len6chư Phật làm duyên giúp kia chứng nhập. Sớ: Bốn nhiếp, là chư Phật, Bồ-tát làm duyên, giúp người hành kia thực hành bốn pháp nhiếp để lợi tha. Ba không, v.v…, là ba môn giải thoát: Không, Vô tướng. Vô nguyện; cũng là vì kia làm duyên khiến trụ nơi ba môn giải thoát để tự lợi, chẳng cho rằng chư Phật muốn vì chúng sinh làm duyên, trước phải trụ trong lý ba không. Hai thứ duyên này đều là y só thích. Nhưng, hai duyên này nếu y cứ ý theo luận, lý hợp các địa vị khắp chung nhân quả. Như trước chưa nhập tín, không tin nhân quả, Tam bảo, chân như, gọi là chưa thọ đạo. Phật, Bồ-tát, v.v… do làm duyên khiến kia tin nhận mới trao đạo khí, gọi là duyên thọ đạo. Đã nhập Tín rồi, chỗ hành tu mười thứ tin tâm cũng nhờ duyên kia, khiếnhành thêm lớn, gọi là tăng trưởng hạnh duyên. Như chưa nhập Thập giải, Thập địa, Phật địa, v.v… gọi là chưa thọ đạo. Nhờ năng lực duyên kia mà được thọ giải nhập chứng, được Niết-bàn, v.v… đều gọi là Thọ đạo. Nếu từ địa vị giải trở lên, tu hành trước Sơ địa, kiến đạo trở đi tu hạnh Sơ địa trở lên, Phật v.v… làm duyên khiến kia thêm lớn, gọi là tăng trưởng hạnh. Như Bồ-tát Bát địa được vô tướng vô công dụng, thôi nhập Niết-bàn, chẳng tiến lên Cửu địa. Phật vì họ nên hiện thân bảy thứ khuyến khích, sau phát hạnh tiến nhập mau chóng, há chẳng phải tăng trưởng hạnh duyên ư! Cho đến thành tựu Chánh giác, cũng nhờ chư Phật làm duyên. Thọ đạo thêm lớn hoặc trước hoặc sau, cả hai đều chung. Hỏi: Đây là duyên khác nhau như văn của sớ ở trước chỉ phối hợp phàm phu, Nhị thừa. Vì sao cho đây là Tam hiền trở lên ư? Đáp: Nếu như sớ phối hợp, tại sao luận nói ở trước là: “Từ sơ phát tâm khi mới cầu đạo, cho đến được Phật pháp trong đó hoặc thấy hoặc niệm ư! Nên biết duyên khác nhau này chung cho các địa vị phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát. Hỏi: Một duyên bình đẳng như sớ, chỉ phối hợp Tam hiền trở lên, trong địa vị tín ở trước được có duyên này chăng? Đáp: Nếu theo ý luận cũng có thể chung ở trước, do văn sau nói: “Có chỗ cho rằng chúng sinh nương vào Tam-muội mới được thấy chư Phật bình đẳng”. Như địa vị Thập Tín chính tu Tam-muội chân như. Ở trong đó người thấy đâu chẳng phải là duyên bình đẳng ư! Nên biết duyên khác nhau ở trước chẳng đứng về mặt định trong chỗ thấy, chỉ là tùy loại tùy nghi hiện thân mười cõi, v.v… nên gọi là khác nhau. Nếu nương Tam-muội thấy thân Phật bình đẳng. Trong sớ văn trước lại nương thức huân tập để nói về hai duyên, cũng một phen đi qua như vậy, người học nên biết. - Thực hành bình đẳng: Sớ tâm bình đẳng v.v…, chín loài đều độ cả, chẳng phân biệt. Luận nói tự nhiên huân tập, có hai: Do gốc bi nguyện: Thường huân bản giác, không hề lìa bỏ. Vô duyên từ: Thường huân xông chúng sinh, nhiếp lấy chẳng khởi tác ý đối đãi, nên nói “Tự nhiên”. Sớ: Thường dùng, không gây ra diệu dụng có cảm ứng. Luận nói Đồng thể trí, nghóa là trí này đồng với thể chân như, lại biết tất cả phàm thánh, nhiễm tịnh đồng một chân, đây là trí Căn bản. Sau nói: “Mà hiện tạo nghiệp”, tức trí Hậu đắc. Sớ: Giải thích thành thường dụng, cũng là giải thích thành nguyên do bình đẳng. Do tánh chân như bình đẳng không dứt không tận, nên độ khắp thường không lìa bỏ. Như đây v.v… trở xuống, trong thuyết tín thành tựu phát tâm đại nguyện bình đẳng phương tiện. Luận: Tùy ứng thấy nghe, là tùy theo địa vị Bồ-tát kia, Chỗ ứng thấy, mỗi mỗi thấy thân Phật và tịnh độ. Đáng ứng nghe: mỗi mỗi nghe nói pháp chỉ giáo lợi ích vui mừng. Hiện tạo nghiệp, là hiện hóa thân lớn nhỏ của nghiệp dụng. Đây là hiện thân nói pháp đều khởi duyên huân dụng, nên sớ nói: “Nói về tướng dụng kia” cũng có thể trong văn đều nguyện độ thoát là tâm bậc nhất. Độ thoát là giúp cho được diệt độ giải thoát. Tất cả chúng sinh là tâm rộng lớn. Thường hằng chẳng bỏ là tâm thường. Đồng thể trí là tâm chẳng điên đảo. Do có trí nên không có tướng nhân ngã trở lên, đều nói lên duyên thể bình đẳng. Hai câu sau nói lên tướng dụng kia. - Đối cơ: Luận nói Tam-muội, đời Tần dịch là Chánh thọ là chẳng thọ các thọ tức Tam-muội niệm Phật. Bình đẳng thấy Phật tức Pháp thân Phật. Do nương Tam-muội thấy sắc thân Phật, do chẳng chấp sắc tướng phân chia, đây là đồng Tam-muội chân như. Sớ: Không có kia đây v.v…, là giải thích bình đẳng ở trước, rất dễ hiểu. Trong nêu: Luận nói: Thể dụng huân tập v.v… trở xuống, lược chẳng nói tướng, cùng thể không hai. Do chỗ khởi hạnh hướng đến, huân thể dụng để biện tương ưng. Giải thích: Sớ: Nói về hạnh kém…, ý thức và năm thức đều là vọng tâm năng sở phân biệt, chưa xứng với chân như bình đẳng, chỉ nương sức tín tu tiến mà thuận theo. Phàm phu chưa nhập địa vị Tín. Bồ-tát tức Thập tínTam hiền trở lên, nghóa này chính là chỗ nói ở trên về vọng tâm huân chân như. Luận: nói chưa được v…., do chưa được tâm vô phân biệt, chưa tương ưng với thể chân như. Vì như thế trước Sơ địa chưa quên năng sở phân biệt, tức hạnh sở khởi chưa hợp với thể năng huân. Sớ: Chánh thể trí, tức tâm vô phân biệt, chính là hội lý trí gọi là chánh thể trí. Thể tức nghóa hội hợp. Chánh thể tức là trí. Do trì nghiệp đặt tên. Nếu dùng chánh thể làm chân như, tức y chủ thích. Thể Pháp thân chính là chân như. Chỉ vì nói theo người thì nên nói Pháp thân, hoá thân, v.v… Nói theo pháp thì nên nói thể dụng, chân như, v.v… Luận: Chưa được nghiệp tự tại, do chứng chân như sau có khởi hạnh, hạnh tột cùng là diệu dụng chân như bình đẳng, mỗi hạnh đều từ chân khởi, đều xứng như lý, là nghiệp dụng chân thể, nên nói nghiệp tự tại. Nay ở địa vị này chưa được hạnh này, không được tương ưng với dụng. Đây là chỗ khởi hạnh, chưa hợp với dụng năng huân. Do dụng năng huân từ chân thể khởi, nghiệp tự tại cũng từ chân khởi, nếu hai dụng hợp, đồng là một thể, gọi là tương ưng. Trước Sơ địa thiếu hạnh này nên nói “chưa được”. Nếu đến Sơ địa trở lên thì được tương ưng, liền cùng người Tam hiền tạo duyên năng huân. Hỏi: Nếu vậy thì tại sao trước nói Tam hiền khởi dụng, với Tiểu thừa…? làm duyên bên ngoài Đáp: Trước nói chỉ là nương vào nguyện lực và năng lực Tam- muội, khởi duyên sai biệt, thật chưa có ai 2ng tự nhiên làm duyên bình đẳng như vậy. Sớ: Chứng chân trí hậu đắc, chứng chân sau khi khởi trí, hoặc có thể trí này cũng chẳng phải chân. Do trở lại duyên lự chân tạo tướng kiến đạo. - Trong phần hai: Luận nói Bồ-tát Pháp thân, Sơ địa trở lên cho đến Thập địa đều gọi là Pháp thân, do được trí bình đẳng chứng lý chân như, lấy pháp chân như làm thân. Sớ: Như lý: Hạnh sở khởi hợp với thể năng huân, tức Pháp thân trên là sở hợp. Nghóa là Bồ-tát này lấy pháp làm thân, vì nhân pháp chẳng khác. Tuy nhiên như lý thì tức là tên khác của chánh thể ở trước, trí hay chứng lý chân như, là Y chủ thích. Luận: Cùng chư Phật, đã được tâm vô phân biệt thầm hợp với lý, nương chân khởi hạnh khắp tu tất cả, tự lợi lợi tha hợp trí dụng Phật, hai dụng một thể gọi là tương ưng. Nhưng đoạn luận này hướng về văn trước có chỗ khác nhau, do văn trước nói chưa tương ưng thì chánh thể hậu đắc cùng nêu một năng một sở. Nay đoạn văn này đối trước nêu năng, đối sau nêu sở, bởi văn khéo lược hiển bày lẫn nhau mà thôi, chớ không có ý riêng khác, văn sớ thuận giải thích bổ túc nghóa thành đầy đủ, giúp lý kia được rõ ràng. Sớ: Trí Như lượng, là tên khác của Hậu đắc, như khí lượng của các chúng sinh, như phần lượng của tục đế kia, thảy đều rõ biết. Chứng chân v.v…, Y chỗ chứng chân lý làm phép tắc nên hạnh thực hành đều khế hợp chân như, nên nói là pháp lực. Chỉ có tín lực, Địa tiền chưa chứng chân, chỉ tin thuận duyên chân tu hành, nên chẳng phải pháp lực. Địa Thượng gọi là chân tu, Địa Tiền gọi là duyên tu, tức là nghóa này. Bát địa trở lên, y theo hạnh vô công dụng để giải thích tự nhiên. Các thuyết tự phát tâm tu hành từ trước đến địa này đã trải qua hai vô số kiếp, từ đây về sau nhân vận tương ưng, như thuyền xuôi dòng không nhọc chống chèo, vẫn còn phải trải qua một vô số kiếp mới đến quả Phật. Nay xem kỹ ý của đoạn luận này, chẳng cần phải phối hợp riêng Bát địa mới nói tự nhiên. Chỉ là Bồ-tát Địa thượng chứng chân khởi hạnh, đều y theo pháp lực, đều là tự nhiên, chưa hẳn phải đến Bát địa, người học nên rõ. Luận: Huân tập chân như, chứng chân khởi hạnh lại huân chân như, vì sao có vô minh mà chẳng dứt bỏ ư? Như mặt trời chiếu sáng lại soi chiếu mặt trời, đâu có ở trong mờ tối mà có thể chống cự ư? Sớ: Vọng diệt hạnh thành, nghóa là chín tướng đã diệt, muôn hạnh thành tựu. Vì muôn hạnh thành tựu nên đức đầy khắp hà sa. Do chín tướng diệt nên bụi trần dứt sạch. Hỏi: Bồ-tát Địa thượng cũng có bốn ý như trí thức, v.v…, thế sao lại nói tương ưng mà khác Địa tiền? Đáp: Thức tương tục là pháp chấp phân biệt, Sơ địa đã dứt nên được trí vô phân biệt tương khế với lý. Trí thức tuy còn mà chỉ là câu sinh chẳng chướng kiến đạo. Lại, xuất quán thì có mà nhập quán thì không, huống chi từ Nhất địa trở lên đã dứt trừ từng phần, đến Thất địa dứt sạch. Hai thức thô đã dứt, hai trí Diệu quan và Bình đẳng đã thành, nội chứng ngoại hiện có gì ngăn ngại? Tuy dẹp thức ba tế, lấy Diệu trí làm chính, chẳng trái tương ưng, cho nên trong luận chỉ nói được tâm vô phân biệt, chứ không nói thức ba tế. Do đây chẳng đồng địa tiền sự thức hiện hành mà chưa tương ưng, trong sớ chẳng nói, nên văn lược bớt. Nhiễm tịnh tận chẳng tận, ở trênnói nhiễm tịnh đều có công năng, huân tập lẫn nhau thành thế gian và xuất thế gian, chẳng hay rốt ráo cái nào hơn cái nào kém? Pháp nào có tận, pháp nào chẳng tận? Nếu đều chẳng tận thì uổng công tiến tu. Nếu đều là tận thì thành đoạn diệt. Hoặc nói một tận một không tên thì là tận pháp nào, cho nên ở đây nói rõ. Đầu, văn luận nói: Lại nữa, pháp nhiễm cho đến chẳng dứt, chưa nhập địa vị trước Thập tín, thì chín tướng lẫy lừng, sáu nhiễm nối tiếp, hoặc nghiệp chứa nhóm báo ứng xoay vần, sóng trần sa kiếp đâu thể cạn dứt. Cho nên trước nói: Tất cả chúng sinh chẳng gọi là giác, do từ xưa đến nay niệm niệm nối tiếp chưa từng lìa niệm, nên nói “vô thủy vô minh”. Lại, văn sau nói: Do Như Lai tạng không có mé trước, nên tướng vô minh cũng không có ban đầu. Tuy nhiên cũng không có người ngộ rồi lại mê. Kinh nói: Giác mê mê diệt, giác chẳng sinh mê. Như cây thành tro, tro không trở lại thành cây. Cho nên biết không có cái sơ khởi. Từ đầu cho đến thành Phật phải có dứt trừ, nhờ năng lực huân tập trong ngoài khởi tâm chán cầu, mới nhập Thập Tín. Nếu dừng nghiệp cũng tự chưa thể dứt trừ hoặc nghiệp. Từ địa vị Tam hiền mới là giác trừ, thẳng đến địa vị Phật mới được dứt hết. Nên biết chữ Dứt là thông suốt cả các địa vị. Các địa vị tức dần dứt trừ từng phần, địa vị Phật dứt sạch hết các đoạn. Nay do lược bớt các địa sau nên nói cho đến. Lại nói: Đắc Phật rồi dứt, dứt rồi mới được thành Phật, chẳng phải thành Phật rồi mới dứt, bởi văn của luận cô đọng. Văn sau nói: “Vô minh đốn dứt gọi là nhất thiết chủng trí. Trước nói: Xa lìa niệm nhỏ nhiệm, nên được thấy tâm tánh”. Lại nói: Phá thức hòa hợp, diệt tâm nối tiếp, hiển hiện Pháp thân, v.v…”. các văn chẳng phải một, đây đều là nghóa dứt vọng thành Phật. Nên biết pháp luống dối không thể rốt ráo, nên nói có sau cùng. Kế, văn sớ: Chánh hiển, cũng là nêu vậy, trong đây đối chung nhân duyên thể dụng, gọi chung là pháp tịnh. Luận: Thường huân tập, tức nhân thể tướng huân tập bên trong. Tâm vọng diệt, do chân huân có sức mạnh nên giảm được vô minh, khởi hạnh đối trị, vọng tâm liền diệt, thành thục trí tịnh viên. Pháp thân hiển hiện: tức phá tướng thức hòa hợp sinh diệt bên trong, hiển thể chẳng sinh diệt này, Như Lai tạng tại triền đến đây hiển hiện, gọi là Pháp thân. Tức ở trước nói cứu cánh giác, tướng trí tịnh, pháp xuất li cảnh, đắc Niết-bàn, v.v… Khởi dụng huân tập, Pháp thân đã hiện, tức khởi nghiệp dụng tự nhiên, ứng hóa chúng sinh, đây là nghóa dụng huân tập, liền thành hai duyên sai biệt và bình đẳng. Tức trước nói nghiệp tướng không thể nghó bàn, duyên huân tập cảnh, thành nghiệp tự nhiên… Cho nên không dứt, vì ba thân đều thường, chẳng dứt tức nghóa thường, nay trong thật giáo này chỉ nói hai thân tướng tức vô ngại, đâu được chẳng thường? Nhưng nay khoa này chỉ nói có ban đầu, cũng là nói một lần theo nghóa dụng huân. Nếu theo thể tướng huân tập, thì không có ban đầu, nên văn nói: “Do pháp chân như thường huân tập”. Lại trước nói: “Từ vô thỉ đến nay đầy đủ pháp vô lậu, đầy đủ tánh nghiệp không thể nghó bàn tạo tác cảnh giới”. Nay hình đối pháp vọng, quyền tạo khoa này, không thể định chấp, đều chẳng liễu nghóa, văn sớ rất dễ hiểu. Biện chỉ bày nghóa. Sớ có hai: Trình bày ý: Pháp trước, tức chỉ khoa tâm pháp sinh diệt trước. Đã nói về pháp nhiễm tịnh và sinh diệt khác nhau. Pháp sinh diệt này có hiển bày đối với công năng ba đại, nên nay chỉ ra. Hỏi v.v… trở xuống, đầy đủ như trong phần lập nghóa. Giải thích tông chỉ, thuyên là năng thuyên, tức hiển bày liễu nghóa. Văn nói: “Thuyên là đầy đủ”, nghóa là nói đầy đủ lý sự. Nay môn Chân như này, môn là năng thuyên, thể là sở thuyên. Đã lấy môn làm chân như, chân như tức sở thuyên tông chỉ. Cho nên môn và thể không hai không khác. Pháp nghóa khác nhau, tức pháp nghóa một tâm ba đại. Đây đều như trong phần Lập nghóa đã nói. Trong thể: Luận Tất cả, là chung cả phàm thánh. Phàm phu là sáu cõi phàm, tức tất cả dị sinh. Thanh văn v.v… trở xuống, là cõi bốn thánh. Đây là nói lên chân như bình đẳng từ phàm đến Thánh, hoặc đại hoặc tiểu, hoặc nhân hoặc quả đồng một thể không khác, ở phàm mê không hề bớt, ở Thánh ngộ chẳng hề thêm, nhân quả đại tiểu rõ ràng. Lại, nhiễm khởi chẳng thêm, chướng hết chẳng bớt. Dụng ẩn chẳng bớt, đức hiển chẳng thêm. Tuy nhiên thể đại thiên thông tình khí. Kinh nói: “Tất cả nhân quả thế giới vi trần nhân tâm thành thể”. Nay nói nghiêng về thành tựu hữu tình. Sớ: Hơn kém, nghóa là chư Phật cao quý nhất, phàm phu thấp hèn nhất, trung gian cùng so sánh chung cả hơn kém. Chân thể, v.v…, tánh đức chánh nhân kia như hư không. Tuy làm đến cam địa có khác, mà trong ấy hư không đâu có khác. Tâm Kinh nói: “Tướng không của các pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng cấu chẳng tịnh, chẳng thêm chẳng bớt” Phàm vị: nói pháp thể này chẳng phải, nghóa là đối với phàm vị trước, từ không mà có, cũng chẳng ở sau Phật vị, từ có mà không. Tuy nhiên, nếu nói cho tột thì thật ra phàm vị và chân như không có mé trước, chẳng phải phàm phu tức có mé trước, chân tánh không có mé trước, Phật vị cũng như vậy” Văn sau nói: “Do Như Lai tạng không có mé trước, tướng vô minh cũng không có ban đầu”. Lại nói: “Do Như Lai tạng không có mé sau, chỗ chứng Niết-bàn cùng tương ưng không có mé sau. Nhưng ý luận chưa hẳn nói theo địa vị, mà chỉ nói cùng tột quá khứ, chẳng có mé trước mà sinh khởi, tận ở vị lai cũng không có mé sau mà diệt tận. Mé (tế) là nói về thời gian, nhưng xem văn luận dường như chẳng phải không có mé trước sau, chỉ là chân thể chẳng ở trong mé trước mé sau mà sinh khởi, do đây nên văn sớ có lời giải thích này, người có trí nên xét kỹ mới hiểu được ý. Nói thường hằng, nghóa là một, trong sớ phối hợp riêng, cũng có nghóa là một phen qua lại. Đều hiển v.v…, cũng có thể chẳng thêm chẳng bớt chẳng sinh chẳng diệt, đều là nói lên lý do thường hằng. Lại, chẳng sinh chẳng diệt mới là chẳng thêm chẳng bớt, rốt ráo thường hằng. Nếu có sinh diệt thì có thêm bớt, chẳng phải thường hằng. Một câu này là nói lên chẳng cấu chẳng tịnh. Nghóa là tại triền chẳng nhơ, xuất chướng chẳng sạch. Nếu chẳng như thế, thì có biến dị đâu thể nói thường hằng. Lại, do như nên chẳng thêm bớt, chân nên chẳng sinh diệt. Câu sau là tổng kết. Trong ba nghóa này tức là văn trước nói “rốt ráo bình đẳng, không có biến dị, chẳng thể phá hoại”, như thứ lớp mà đối trị. Chung: Nói từ xưa v.v…, là nói lên không có ban đầu, nên nói “từ xưa đến nay”. Chọn lựa chẳng phải ngoài thể nên nói “tự tánh”. Rõ ràng không kém thiếu nên nói “đầy đủ”. Ý bao gồm nên nói “tất cả”. Công năng đức nghiệp nên nói “công đức”. Riêng: Nói Đại trí v.v…, ở đây có chung và riêng. Chung thì trí tức là tuệ, quang tức là minh, lại trí tuệ là quang minh. Riêng thì do theo nghóa nên gọi là trí tuệ, do chấp tướng nên nói quang minh, trí tức là thể, tuệ tức là dụng, quang là tướng của thể, minh là dụng của tướng. Như hạt ngọc ma-ni thể có ánh sáng, do tự ánh soi nên nói là quang, chiếu vật nênnói minh. Suốt khắp phàm thánh nên gọi là Đại, y pháp hiển bày nên nói là Nghóa. Lại, nói về tự thể thì khi hiển bày thể tướng chẳng hai chẳng khác. Sớ: Bản giác trí minh là chỉ theo ý chung. Nói Biến chiếu v.v…, tức thỉ giác. Pháp giới có hai là lý và sự.Thỉ giác chiếu lý tức trí như lý, thỉ giác chiếu sự tức trí như lượng. Lý lượng đồng xen nên nói là biến. Sớ: Bản giác, là nói theo thể, tức bản giác kia hiển chiếu nghóa biên gọi là Thỉ giác, thể của Thỉ giác vốn là Bản giác. Luận: Chân thật, v.v…, y theo căn sở rõ phát cảnh nghóa biên, gọi là thức tri, liễu như lý sự lìa hẳn các lỗi nên nói là chân thật. Sớ: Không đảo, tức lìa bốn đảo và các chấp khác. Nói Tự tánh, v.v…, chẳng nương duyên khác nên nói là tự tánh, ở triền chẳng nhiễm nên nói thanh tịnh tại triền, đối với các pháp chính gọi là tâm. Sớ nói: “Lìa nhiễm chỉ được nghóa một”. Nói Thường lạc, v.v…, Thường nghóa là cùng tột ba mé mà không thay đổi, Lạc là đối với các khổ mà không can hệ, Ngã là ở trong sáu đường mà chẳng bị ràng buộc, Tịnh là đối với chín tướng mà không nhiễm. Đây là bốn đức của tự tánh Niết-bàn. Sớ: Tròn đủ, các đức tuy nhiều nhưng đều chẳng ngoài bốn đức này. Do bốn pháp này thu nhiếp tất cả các đức. Nói mát mẻ, v.v… là không bị các hoặc làm cho nóng bức nên nói mát mẻ, ở đây nói lên Bát- nhã. Không bị quả báo sinh diệt nên nói bất biến, đây là Pháp thân. Không bị nghiệp trói buộc nên nói tự tại, đây là giải thoát. Tức lìa ba chướng thành ba đức. Sớ nói “không dời đổi” cũng chính chỉ cho một trong ba đức, văn này nghóa lý chẳng khác với câu trên, sao lại cho rằng mát là nghóa Tịnh, mẻ là nghóa Lạc, bất biến là nghóa Thường, tự tại là nghóa Ngã. Nay chỉ lìa các thuyết ba bốn cho nên thành hai đoạn. Kết: Nói hơn hà sa, trên chỉ lược hiển bày, chẳng thể chép đủ. Chẳng lìa, hễ nêu bất cứ một đức nào đều toàn nhiếp chân tánh và tất cả đức, xem văn sớ sẽ hiểu. Nói chẳng dứt, vô thỉ vô chung. Sớ chép: “Tương tục là vô chung”. Nói chẳng khác, ở trên nói chẳng lìa sợ e cho là như cây chẳng lìa đất, tay chẳng lìa cánh tay, nên nói “chẳng khác”. Chẳng khác là chân như tức đức, đức tức chân như. Sớ nói: Lời nói Đồng vị cũng là giải thích tóm lược. Nói Chẳng thể nghó bàn, tức một tánh mà nhiều nghóa, nhiều nghóa mà toàn một tánh, chẳng thể do định lượng mà được, chỗ tâm hành diệt đường ngôn ngữ dứt, sớ nêu lên một nghóa để bày rõ. Nói Phật pháp, Phật là giác, ý nói công đức ở trên hoàn toàn là pháp của bản giác. Kinh Kim Cương nói: “Tất cả pháp đều là Phật pháp”. Sớ: Chỉ Phật v.v…, giải thích chữ Phật theo Thỉ giác, nghóa là Phật là tột cùng Thỉ giác, pháp là các công đức trước, nói lên các pháp này chẳng phải nhân vị mà hiểu rõ pháp của Phật. Pháp sở giác: ở đây theo Bản giác giải thích chữ Phậ, Phật tức là pháp, nghóa như trước giải thích. Luận cho đến, vượt hơn hà sa kia nên nói cho đến, đầy đủ tức không chỗ thiếu. Ý nói: “Cho đến hơn hà sa số nghóa lý đều đầy đủ không hề thiếu sót”. Sớ: Như đây v.v… trở xuống, là do tu hiển tánh, đây là hiển bày ngược lại. Đã chứng v.v… trở xuống là thuận giải thích như văn. Như trong biển có của báu mà người ngoài chẳng biết. Lội biển: đã đến được đáy đâu thể chẳng tin! Trong đặt tên: Nói Như Lai tàng, có đủ ba nghóa: 1- Nghóa che đậy. 2- Nghóa gồm nhiếp. 3- Nghóa sinh ra. Rộng như ở trước nói. Khi ẩn, giống như hai nghóa trước và sau. Ẩn nên gọi là tàng. Đây là Như Lai tự ẩn chẳng hiển. Lại, nhân địa sinh ra quả địa công đức nên gọi là Tàng. Nói Pháp thân Như Lai, nếu lấy Ứng thân làm Như Lai, tức Y só thích. Nếu lấy chân thân làm Như Lai, tức Trì nghiệp thích. Tuy nhiên thân kia, cũng có ba nghóa: Nghóa thể: Tự thể chân như nhậm trì chẳng mất. Nghóa y: Là sở y của Báo thân và Ứng thân kia. Nghóa chứa nhóm: Là chỗ chứa nhóm tất cả công đức. Duy Thức nói: “Thể y, nghóa, tụ chung gọi là Thân”. Khi hiển v.v…, tức nghóa sau. Nghóa là muôn đức gọi là Pháp, y chỉ gọi là thân. Nhưng đức này có tu tánh. Nếu nói theo tu thì thuộc Báo Ứng, thành nghóa y chỉ. Nếu nói theo tánh, thì là nghóa chứa nhóm. Thể kia một nghóa, ngay trong thể ở đoạn trước, ở đây chẳng nói. Hỏi: Pháp thân đã thuộc vô vi, chẳng phải chứa nhóm, sao lại nói chứa nhóm? Đáp: Công đức đã là không nhiều mà nhiều, đâu ngại tụ là không tụ mà tụ. Đây đều là nói nghóa, tròn đủ không trệ ngại, chẳng phải thật pháp chứa nhóm có thể phân biệt được. Hỏi: Nói “Trên nói chân như”, nghóa là trong môn trước nói: “Từ trước đến nay lìa tướng nói năng, lìa tướng tên gọi, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không có biến dị, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi Chân như”. Vì sao v.v… trở xuống, đối trước chánh là vặn hỏi. Trước nói lìa tướng bình đẳng, nay nói công đức sai biệt, trước sau tuần hoàn, nghóa kia như thế phải chăng? Đáp: Trình bày: Nói tuy thật v.v… trở xuống, vẫn còn hiện văn tướng sai biệt. Mà không v.v… trở xuống, chẳng trái nghóa bình đẳng trong môn trước. Đều đồng một vị: “đều” là đồng, tức chỉ cho pháp sai biệt ở trước. Đồng: Các pháp không tánh chỉ một chân như. Một vị dụ cho minh, như nước tám công đức một vị không khác nhau. Nhất chân như: nói pháp, trong sớ pháp dụ cũng là minh. Gạn giải thích: Sớ: Chẳng thể phân biệt, không có phân biệt luống dối. Chẳng phải sở phân biệt: đã không có tâm luống dối, tức lìa tướng sở phân biệt. Văn trước nói: “Tâm diệt nên các thứ pháp diệt”. Không có năng sở, do tâm cảnh trước đều mất, được sai biệt tức không sai biệt, đồng một chân như. Lược: Sớ: Kia đã v.v…, đã thì năng sổ đều mất, khiến một thể không hai, như tướng khác nhau ở trước, nương vào đâu mà kiến lập? Do y, v.v…, trước nói là tâm sinh diệt tướng nhân duyên chỉ bày tự thể tướng dụng Đại thừa”. Năng hiển đã nhiều, sở hiển cũng rộng, đều là dụ hà sa. Lại nêu v.v… trở xuống là giải thích nêu gốc để rõ ngọn, rất dễ hiểu. Đối hiển: Luận có ba: Nêu chỗ mê lý: Sớ: Chỗ mê lý là nghóa lý chân như đầy đủ trong môn Chân như. Phối hợp riêng: Nói mà có v.v… trở xuống, có ba: Nêu riêng tám thứ: Vô minh đối với trí tuệ: Nói Vọng tâm, tức ở trước nói không biết đúng như thật, bất giác khởi niệm, tức ở trước nói bất giác tâm động, gọi là nghiệp tướng. Thấy cảnh giới tức chuyển tướng, hiện tướng ở trước. Ba tướng này tức là thức A-lại-da vô minh. Lại, chữ “Thấy” nghóa rộng cũng chung bốn thô, nên sớ nói thô tế. Sớ: Nương chân v.v… trở xuống là tướng sinh diệt. Nghóa đầy đủ ở trước. Sắp muốn v.v… trở xuống là giải thích ý. Vì Tịnh do nhiễm mà được, nên phải rõ. Môn chân như không nhiễm nào có thể đối đãi, nên không có nghóa chỉ bày. Ở đây môn sinh diệt nhiễm tịnh đã phân, nên phải đối ngược lại để nói lên tướng đại. Các câu có nêu rõ ràng, theo văn sẽ thấy. Làm sao hiển bày: là đoạn văn vặn hỏi để khởi văn sau. Nói Tâm tánh chẳng khởi: là chẳng khởi niệm. Sớ: Đã khởi v.v… trở xuống, trước nói: “Tất cả chúng sinh không gọi là giác, do niệm niệm nối tiếp, không hề lìa niệm”. Hiển bày ngược lại, vô niệm tức gọi là trí giác. Thấy cạn cuộc đối với chiếu khắp: Nói nếu tâm khởi. Sớ: Vọng thấy chẳng khắp, như người thấy hướng đông chẳng thấy hướng tây, xa gần, trong ngoài, sáng tối cũng giống như vậy. Nên kinh nói: “Cái thấy của chúng sinh không hơn gang tấc”. Do còn tâm năng kiến nên đối với các cảnh có chỗ chẳng thấy. Chân chiếu tròn sáng: do không thấy nên không chỗ nào chẳng thấy, nên Triệu Luận chép: “Bát-nhã vô tri mà không chỗ nào chẳng biết”. Người Sơ địa được gọi là Kiến đạo, do không còn thấy năng sở. Vọng kiến đối với chân tri: Nói Nếu tâm có v.v… trở xuống. Chẳng phải chân thức biết, động thì không như thật biết nên chẳng phải chân. Sớ: Ngược lại v.v…, do tâm không động thì chỗ biết chân thật, chân thật là lìa luống dối. Từ đây trở xuống đến “chẳng tự tại”, mỗi câu văn ban đầu, ứng hợp đều có nói. Nếu tâm có động: nhưng ở cuối câu đầu lại nói “tâm tánh không động, v.v…”, tức tùy câu mà đối ngược, văn luận còn lược, chỉ nêu vọng hay đối. Vô tánh đối với hữu thể: Nói Không có tự tánh. Sớ: Vọng nhiễm không tự thể, nương chân vọng động, đâu có tự thể. Tâm tịnh: là tâm không động. Lìa duyên độc lập, thể độc lập xưa nay không nhiễm. Đây là không đuổi theo duyên sinh, không nhân cảnh khởi, nên nói “tự tánh tâm thanh tịnh”. Điên đảo đối với chân thật: Nói Chẳng thường v.v… trở xuống. Sớ: Bốn đảo, tức vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Tâm động nên khởi sắc tâm đối với hữu lậu. Sắc tâm hữu lậu tự tánh chẳng thường, v.v… phàm phu chấp cho là thường, v.v… nên thành bốn thứ điên đảo. Ngược lại, v.v…, do chẳng động nên sắc tâm chẳng khởi. Do chẳng khởi nên chỉ tánh chân như thường trụ thanh tịnh tự tại an vui, nên thành bốn đức. Nóng bức đối với mát mẻ: Nói nóng bức. Sớ: Các hoặc, do tâm động khởi các loại tham, sân, v.v …, phiền não lẫy lừng nên thành nóng bức. Nên nói…, tâm chẳng động tức là chân như, chân như không mê hoặc thì chẳng nóng bức, đã không nóng bức nên gọi là mát mẻ. Biến dịch đối với ngưng nhiên: Nói Suy biến. Sớ: Vọng nhiễm thay đổi: do tâm động khởi nơi chín tướng, chín tướng là Sinh, trụ, dị, diệt, già, bệnh, chết … nên thành suy biến. Hiển bày ngược lại v.v…, tâm chẳng động tức là chân như, trong chân như vốn không có chín tướng sinh diệt thay đổi, nên nói bất biến. Trói buộc đối với tự tại: Nói chẳng tự tại. Sớ: Nghiệp quả v.v…, do tâm động khởi nghiệp chịu báo đọa trong năm đường, gọi là trói buộc. Chân như tự tại, tâm chẳng động tức là chân như, trong chân như không có nghiệp trói buộc, nên nói tự tại. Trên nói, v.v…, trong đoạn này đều nêu lên vọng nhiễm, do đối đãi nói lên tịnh đức ở trước. Văn luận lược không nêu đầy đủ. Nên nay trong sớ lược chỉ bày ba nghóa sau. Nêu chung các pháp: Nói cho đến v.v… trở xuống. Nói cho đến, đã hơn hà sa không thể nói đầy đủ, nên nói “cho đến”. Đối nghóa này: Hà sa pháp nhiễm tâm động cho nên thành, khi tâm chẳng động, các công đức tịnh đều nhiều hơn số cát sông. Các tịnh v.v…, tức thức biết chân thật, trở xuống các nghóa, v.v… Sớ: Mỗi một v.v…, do tâm tánh động và không động, ngược lại nói các pháp nhiễm tịnh. Nay phải xét lại văn. Do tâm động ở trước, không động ở sau. Chỗ nói lên các pháp nhiếp tại khoảng giữa, trong đó lại thiếu mục tịnh đức. Vì muốn mỗi thứ riêng đối khiến người dễ hiểu, nên nói: “Nếu tâm có động” thì không tự tại, tâm tánh không động thì được tự tại.” Như văn sớ ở trước, theo đoạn “trình bày ngược lại”. Nếu lại chấp lấy ngôn ngữ, nên lại nói “nếu tâm có động thì là trói buộc, tâm tánh không động thì gọi là giải thoát. Chỗ khác đều mô phỏng theo đây, không thể nói đủ. Nhưng tám cặp trước, ở hai đoạn đầu mỗi đoạn đứng về nghóa nói riêng “khởi niệm khởi thấy”, đây cũng chẳng ngoài nghóa tâm động. Nếu muốn mỗi thứ nêu nghóa riêng, chân thật hiểu biết, v.v… cũng có nghóa riêng, nên nói: “Tâm khởi phân biệt, chẳng phải chân thức biết, tâm lìa phân biệt tức là nghóa chân thật thức biết”. Cho đến “Nếu tâm khởi nghiệp thì không tự tại, v.v…” nên biết nghóa tâm động là chung, ngoài ra đều là riêng. Hiển bày riêng đầy đủ: Nói nếu tâm v.v… trở xuống. Sớ: Vọng tâm v.v…: Nếu thấy có pháp ngoài tâm, sinh ra sự tìm cầu, thì không bao giờ tìm cầu được. Ngược lại, nếu cho là thiếu, thì cũng có thể có một pháp nào đó ở ngoài tâm mà có. Ấy nên nghó tức là nói: Trong tánh công đức có chút gì thiếu, giống như có xin của cải người người khác, vì biết rằng nhà mình không có. Tịnh đức v.v…, do tâm tánh không ngoài, tất cả công đức đều đầy đủ, thì sẽ quên chấp mà khế hợp, không thể khỡi tâm mà cầu. Nên biết có sở chấp đều là luống dối, do từ phân biệt sinh. Ở đây ý hiển bày khác Quyền tông, cái gọi là quả Phật công đức vô lậu đều do tu mà sinh. Nay đây Luận tông chỉ tức ngay nơi tu hiển bày, vốn tự có. Vàng ròng tạo ra vật tượng, có thể lấy làm ví dụ. Kết được tên: Nói gọi là v.v… trở xuống, cả hai đứng về mặt nhân quả, như ở trước có nói.  KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝÙ <卷>QUYỂN 15 Bi hạnh: Nói gốc Phật ở nhân, vì khi bồ-tát thực hành các hạnh, trước đều lấy từ bi làm gốc, lấy lợi tha làm đầu, để nhiếp hóa chúng sinh. Các ba-la-mật v.v… trở xuống, nghóa là dùng các độ để nhiếp, khiến nương tựa vào chính mình, giáo hóa khiến theo điều lành, dùng bố thí nhiếp nghèo cùng, trì giới nhiếp phá giới, v.v… Đây chung cả tự lợi và lợi tha. Kinh Duy-ma nói: “Ban cho của cải vô lượng nhiếp các dân nghèo, giữ giới thanh tịnh nhiếp các phá giới, dùng hạnh nhẫn điều thuận nhiếp các tức giận, dùng đại tinh tấn nhiếp các sự biếng nhác, nhất tâm thiền định nhiếp các ý loạn, dùng tuệ quyết định nhiếp các vô trí”. Nguyện lớn: Sớ: Tâm rộng lớn: tức câu “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” trong bốn thệ nguyện rộng lớn, cũng như trong kinh Kim Cương Phật bảo người phát tâm Bồ-đề phải độ khắp bốn sinh chín loài. Đức Di-lặc giải thích cũng nói “tâm rộng lớn”. Tâm lâu dài: ở đây đồng hạnh nguyện trong kinh Hoa Nghiêm. kinh nói: “Cõi chúng sinh cùng tận, hạnh ta mới cùng tận. Do cõi chúng sinh không cùng tận nên hạnh nguyện này của ta cũng không cùng tận”. Trên là nói về nơi chốn rộng, nên nói “các cõi chúng sinh”, đây là nói về mặt thời gian, nên nói “tận ở vị lai”. Phương tiện: Sớ: Bi sâu: thấy chúng sinh như cha mẹ, v,v… cũng chưa bằng thấy đồng với thân mình, thấy đồng với thân mình mới là sâu xa. Trí sâu, rõ chỉ do tâm, biết các chúng sinh vốn vô tánh nên vốn là vô niệm, từ xưa đến nay Niết-bàn không đợi diệt. Tiểu thừa quyền giáo không thể quên tướng này, bởi duyên trí cạn. Nay, Bồ-tát Thật giáo ngược lại, nên nói là “sâu”. Gồm ở trên: Nghóa là gồm cả bi sâu. Chẳng điên đảo: chúng sinh vốn đồng với thân ta, đồng là đều vô tướng. Bởi thấy khác tướng thì thành điên đảo, nay đều trái với đây. Nguyên do lâu xa, gồm giải thích nguyên do rộng lớn, văn sớ lược thiếu. Nếu không thể rõ đồng thân ta mà quên tướng kia, thì đâu thể như đây độ khắp mãi ư? Gạn nguyên do: ý nói vì nghóa gì được như thân ta, mà lại chẳng chấp tướng chúng sinh? Nương môn Chân như v.v…, vì trong môn này nói lên tất cả pháp đều là tức Chân, trọn đồng với Như. Cho nên được thân ta thân người bình đẳng không hai, thì đâu thể chẳng thương xót mà muốn độ ư? Lại, đã đồng một chân thì đều là vô tướng, vậy ai là năng độ, ai là sở độ, nên không chấp tướng chúng sinh kia, tuy nhiên ở đoạn văn này, hãy chính chắn tìm ý kia. Hai câu Chỉ chấp lấy tất cả v.v… trở xuống. Đoạn trước là giải thích ngăn chia lý do rộng dài. Theo mà cũng chẳng chấp v.v… trở xuống, nêu gốc đại trí. Đoạn sau là gạn giải thích chỉ hiển bày lý do chẳng chấp tướng, xem kỹ sẽ thấy. - Nói về quả. Có ba: Nêu lại nhân trước: Luận: Trí đại phương tiện, nói có chung riêng, chung thì phương tiện tức là trí, lại có hai nghóa: Trí thuận theo xuất ly đều là phương tiện. Đây chung cho Kim cương vô gián trở xuống, chẳng phải chỉ Địa tiền, cho nên địa vị Thập địa sau gọi là phương tiện đầy đủ. Kinh Viên Giác cũng nói: “Tuy có nhiều phương tiện, đều gọi là Trí thuận theo”. Trí này là phương tiện đại bi, nếu không có trí làm phương tiện, thì chẳng phải đại bi mà rơi vào ái kiến. Nên trước nói chúng sinh mà chẳng chấp tướng chúng sinh, trong sớ giải thích là trí sâu. Tuy nhiên, có khi nhân trí mà khởi bi, biết rõ chúng sinh đồng với thân ta cho nên muốn độ. Hoặc nhân bi mà khởi trí, chẳng biết nguyên do mà học phương tiện. Kia thật có hai thuyết, phải trái gồm thông. Biệt thì chứng chân gọi là trí, hệ tục là phương tiện, là tên khác của căn sau. Chính là dứt vô minh căn bản, thấy Pháp thân; công đức của trí này khởi nghiệp không thể nghó bàn giáo hóa lợi ích chúng sinh, là năng lực phương tiện. Nay luận này ý đầy đủ ở chung riêng. Rõ quả tự lợi: Sớ: Quả tự lợi, đồng tướng trí tịnh. Quả vị Pháp thân tức là bản giác trong nhân Vì nêu nhân bày quả nên nói “thấy bổn Pháp thân”, vì trước nêu quả bày nhân, nên nói “nương Pháp thân nói bản giác”; cùng với đây hiển bày lẫn nhau. Nói quả lợi tha. Có ba: Nói về dụng sâu xa: Sớ: Nghiệp dụng, tức nghiệp tướng không thể nghó bàn, mầu nhiệm khó hiểu, tâm và ngôn ngữ không đến kịp. Chẳng nên dụng mưu tính trước mà sau khởi giáo hóa; nên nói “Sâu xa chẳng tác ý, v.v…” Nhiếp luận, v.v…, nói đủ là: “Nếu quả Phật là trí vô phân biệt, là chỗ hiển bày lìa phân biệt, thì chư Phật đâu được nương chúng sinh mà làm việc lợi ích, như lý không điên đảo, vô công dụng mà làm việc”, cho nên nói kệ rằng: Như ma-ni trống trời Nghóa “Không” thành việc mình Chẳng phân biệt như thế Các thứ Phật sự thành. Đây là nói lên ba nghiệp của Như Lai vô công dụng mà làm các việc, đều không thể nghó bàn. Ma-ni là tiếng Phạm, Hán dịch là Ly cấu, cũng dịch là Tăng Trưởng, xưa dịch là Như ý, ở đây dụ cho hai nghiệp thân ý của Như Lai. Nếu theo chỗ đối kia thì hiện hình tượng khác nhau, tức dụ cho thân nghiệp của Phật, hoặc theo nơi người phát xuất các vật, tức dụ cho ý nghiệp của Phật. Trống trời là vật sở hữu của Thiên đế, khi Tu-la kéo quân đến thì âm thanh của trống kia tự nhiên phát ra tiếng, nói là giặc đến, giặc đi nói là giặc đi, đây dụ cho khẩu nghiệp của Phật. Hai vật này tuy có công dụng ấy mà không thể nghó bàn, đây dụ cho ba nghiệp tự nhiên của Phật. Thành tự sự, hiện hình tượng, phát ra tiếng, mỗi thứ tùy theo dụng kia mà phân biệt sự nghiệp, cũng có thể lấy hạt ngọc hay trống tự việc của nó, chỉ dụ thân miệng đều không suy nghó, đồng dụ cho ý nghiệp. Nói lên dụng rộng lớn: Sớ: Xứng lý dụng, do dụng tức thể, thể khắp dụng khắp đều không có nơi chốn. Nếu không như vậy thì đâu gọi là dụng chân như! Dụng mà thường tịch. Có hai: Hiển bày: Nói: Lại cũng v.v…, trước không có tướng chúng sinh sở hóa, đây không có tướng ứng dụng năng hóa, hướng về văn trước nên nói lại cũng. Dụng thường tịch, tuy hiện các thứ thân mà chẳng động mé chân tự tánh, tuy nói các thứ pháp thường trụ lý vô ngôn. Gạn giải thích: Sớ: Ba thân, nay tuy nêu chung ý trách hóa thân, hóa thân là tướng dụng. Luận nói “Pháp thân là thân trí tướng”, hợp làm chân thân, lý trí không hai. Đệ nhất, v.v…, đứng về mặt khoa nhị đế mà phân biệt. Ý nói vô tướng cho nên chẳng phải thế đế, là vô vi nên lìa tạo tác. Sớ: Phế cơ, chẳng phải đối chúng sinh mà nói. Diệu lý tức Pháp thân, bổn trí tức thân vô tướng. Không ứng hóa: hễ có tướng đều thuộc về thế đế. Do từ căn cơ cảm duyên mà sinh, nay đã bỏ căn cơ, nên nói “lại không”. Chỉ tùy…, có cảm ứng kia, đuổi theo duyên sinh, duyên không tự tánh. Dụng thì thường tịch, nên nói vô dụng. Đây có hai nghóa được nói là vô dụng. Thuộc nhân: Nhân tức bi trí, nhưng có thân sơ. Sơ tức trí, thân tức bi. Nương trí khởi bi, nên luận nói: “Từ trí hậu đắc xuất phát tên đại bi, nếu không nhờ kia giáo hóa thì không bao giờ khởi. Như Nhị thừa không có bi. Phàm phu không có trí, làm sao giáo hóa? Thuộc duyên: Tức căn cơ thuần thục của chúng sinh. Nếu không có duyên kia giáo hóa cũng chẳng khởi. Vì trong mười phương có hay không, Phật ở đời, hai nghóa tướng kia phải có nhân duyên đầy đủ. Đã thuộc nhân duyên thì đâu thể giáo hóa mà được! Như sóng v.v… trở xuống, là dụ. Nên dụng v.v… trở xuống, là hợp. Tịch tức là thể, nên Đỗ Thuận nói: “Dụng tức lượn sóng trào dâng, toàn chân thể để vận hành. Thể thì gương trong nước lặng”, nên tùy duyên mà hội tịch. Niết-bàn, v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Thân này là hoá thân. Đẳng, văn kia nói đủ là: “Nay thân này của ta tức là thân thường, Pháp thân kim cương chẳng hoại”. Do ba thân đều có nghóa thường, nên lại nói Pháp thân để lạm phân biệt sợ người không hiểu tướng Pháp thân, nên nêu ví dụ, giống như kim cương chẳng thể hoại. Như như tức Pháp thân, trí tức báo thân. Riêng còn: Pháp thân, báo thân hợp. Lập lại đoạn văn như như tiêu biểu không hai. “Gọi là Pháp thân”, nhiếp trí trở về như, đứng về mặt bổn mà đặt tên gọi. Nhưng kinh Niết-bàn là nhiếp dụng trở về thể. Nhiếp luận tức chẳng hiện bày chân thân, tuy ngôn thuyết chẳng đồng mà ý nghóa không khác. Sớ: Tuy chân tự tánh v.v…. trở xuống, kinh nói: “Pháp thân Phật chân, giống như hư không, ứng vật hiện hình như trăng trong nước, tịch mà thường dụng”, chính là nghóa ấy. Ứng thân: Nói có hai: Đứng về mặt thức mà nêu người:. Sớ: Phàm phu…, Nhị thừa mê ở bản giác. Phàm phu tức từ Thập tín trở xuống là tất cả phàm phu. Địa vị Tín tuy tin chân như, đã biết Duy thức. Nhưng sự thức thô kia nói lên lanh lợi, xoay vần phân biệt pháp ngoài tâm. Nay thấy, v.v…, cảnh chung nhiễm tịnh, tuy thấy là Phật vẫn thuộc cảnh tịnh, cũng cho rằng ngoài tâm. Cũng có thể, v.v…, trước lấy sự thức làm chỗ nương, nay lấy sự thức làm chỗ giác. Nói sở giác, chỉ cho biết là có, chẳng cho rằng giác đoạn. Nhưng chỗ nương tức là chỗ giác rốt cuộc chẳng khác. Nương thức thô này, v.v…, kia giống như gương sáng đối vật hiện hình tượng khác nhau, đâu có vật xấu mà hiện bóng đẹp! Đây tức đẹp xấu do vật, mà gương thì không hề có tốt xấu. Mục ứng thân do đây mà lập. Giải thích nguyên do thấy thô: Sớ: Mê duy tâm, Phật từ trong tâm hiện, ngược lại thấy từ ngoài tâm đến, chẳng biết do thức nên nói mê tâm. Luận: Chấp sắc v.v… trở xuống, là mê cảnh. Do mê duy thức hiện, chấp thấy ngoài tâm thật có cảnh giới, chẳng biết là không nên chấp phân biệt. Không thể biết hết, v.v… chẳng biết như tâm kia không phân biệt, chỉ có thấy phân biệt, cho nên chẳng tận cùng. Sớ: Chẳng đạt v.v… trở xuống, văn có ba: Lược mất văn kia: Chẳng đạt là sắc từ tâm sinh, vốn không có tự thể, vốn là tự tâm, tâm không phân biệt, khiến cho các sắc cũng không phân biệt. Nay phàm phu, Nhị thừa chẳng đạt nghóa này nên thấy từ ngoài đến, mà tạo phân biệt chấp trước. Rộng bày hỏi đáp. Sớ: Hỏi: Thân Phật v.v… trở xuống, chung có mười bốn: Vặn hỏi thân Phật, phàm thức khó phân: Thức chúng sinh, do luận nói: “Chẳng biết chuyển thức hiện”, ý nói thân Phật là chuyển thức hiện, mà phàm phu, Tiểu thừa chẳng biết. Nay ý hỏi rằng: Chuyển thức hữu lậu thuộc ở chúng sinh. Ứng thân vô lậu tự thuộc nơi Phật, tại sao thân tịnh chỉ là thức nhiễm, há chẳng phài phàm thánh, nhiễm tịnh chẳng phân ư! Đáp vốn cùng dòng mà khác mê ngộ. Đáp: Chúng sinh v.v… cho đến không hai là nêu gốc. Chúng sinh là vọng, do đối với vọng nên nói chân tâm. Chư Phật là tướng để đối với tướng nên nói thể kia bình đẳng, nói lên không thêm bớt. Không hai, một thể chẳng phân. Nghóa là chân tâm của chúng sinh tức là thể của chư Phật, không có tăng giảm, chẳng phân hai riêng biệt. Chỉ chúng sinh v.v… trở xuống giải thích chưa hiển bày dụng. Do có năng lực vô minh khiến cho thể chân như ẩn, chỉ hiện pháp nhiễm khởi ra chín tướng. Chân tức không sức lực, không thể hiện dụng tịnh ứng thân. Như nước bị gió làm kích động, chỉ dậy sóng mà không thể hiện hình tượng. Do kia v.v… trở xuống, xuất phát nguyên do dụng hiển. Trong huân vọng tâm, như văn trước nói: “Do có pháp chân như, tức huân tập vô minh, khiến vọng tâm kia chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết- bàn…”. Nay văn nói chung, nên nói “huân vọng tâm”. Chán, cầu kém, phàm phu, Nhị thừa tuy có chán cầu mà chưa thể khởi duy tâm đại hạnh mạnh mẽ tinh tấn, nên chỗ hiện dụng chỉ là ứng thân thô mà lại hiển. Chán, cầu tăng: bậcTam hiền trở lên cho đến bậc Thập địa. Chỗ thấy báo thân dần dần nhỏ nhiệm, do tùy theo chán cầu tăng thắng biện. Chán, cầu dứt: vô minh hết, chỗ chứng tột cùng. Thỉ giác, v.v…, không có vọng để đoạn, thỉ giác đồng bản giác, không có húng sinh để độ, hóa thân trở về Pháp thân. Bình đẳng, thỉ bổn bình đẳng, chân ứng bình đẳng. Nên nói trở lại, “không hai không khác cũng giống như thế.” Chưa đến v.v… trở xuống là tổng kết đáp. Đã là thân Phật thô tế đều do chán ưa, hơn kém. Đây cũng chẳng phải nghóa Duy thức, cho nên luận nói: “Chuyển thức hiện”. Nạn chân khởi thức hiện tướng trái nhau. Sớ Hỏi: Nếu y cứ, v.v… trở xuống là ý nói: Trên nói theo dòng mê chân, nên chẳng khởi dụng. Ngược dòng ngộ lý cho nên khởi dụng. Nên biết dụng này từ chân khởi, đâu được luận nói “chuyển thức hiện”. Đáp theo dòng, ngược dòng giúp nhau. Sớ: Đáp: Chuyển thức v.v… trở xuống. Nương đây, v.v…, luận nói: “Do nương vào hay thấy, nên cảnh giới vọng hiện”. Thức này, v.v…, chuyển thức là chân tâm theo dòng mà thành, tánh tướng chẳng lìa nên nói hòa hợp, hòa hợp tức thức A-lại-da. Lìa chân chẳng lập: vọng phải nương vào chân, như sóng nương nước. Nên luận nói: “Tất cả tướng tâm thức đều là vô minh, tướng viên mãn chẳng lìa tánh giác. Lại nương giác cho nên mê. Nếu lìa tánh giác thì không đâu chẳng giác”. Lìa vọng chẳng hiển: do dụng chẳng tự khởi phải nhờ duyên. Đây có hai nghóa: 1- Nói về măt tự thể: Nghóa là chúng sinh sẳn có chân như là thể của dụng. Nếu không có vọng tâm làm chỗ huân duyên thì chân dụng này đâu thể khởi. Khởi đâu do có vọng tâm làm chỗ huân. Nên ngay lúc hiển chân tâm có công lực kia, khiến kia chán cầu, dần dần tự biết mà hiện tướng dụng. 2- Nói theo thể của Phật: Nghóa là dụng ứng hóa của Phật. Nếu chẳng phải chúng sinh làm duyên, cũng không do đâu khởi, khởi cũng vô dụng. Kia đây đưa ra thật là do vọng. Nếu lìa vọng thật không có tướng dụng, nên môn Chân như chỉ hiển bày tự thể, cho đến biển quả cũng mất, đồng một giác. Nên văn sau nói: “Không có sắc tướng kia đây đắp đổi nhau mà thấy”, kế đến sớ ở trước nói: “Dụng trở về thể, bình đẳng không hai”. Nên chấp, v.v…, như người mắt sáng không thấy hoa đốm trong hư không. Người hoàn toàn mất ánh sáng, cũng không thấy hoa đốm giữa hư không. Người dụi mắt mới thấy hoa đốm giữa hư không, nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Như người dụi mắt thì chỗ thấy chẳng phải trong, cũng chẳng phải ngoài, thế gian thấy chư Phật nên biết cũng giống như thế”. Nạn tâm Phật, ngoài Phật có sai biệt. Sớ Hỏi: Nếu y cứ v.v… trở xuống. Ý nói: “Nếu ở trước nói: “Thể chân như nhờ vọng duyên mà khởi dụng”. Đây tức chúng sinh tự chân tâm mình có dụng thô tế, đâu được nói là báo hóa thân của Phật khác ư! Đáp tâm thể, Phật thể không khác nhau. Sớ Đáp: Chúng sinh v.v… trở xuống. Phật thể v.v…, ý nói chân tâm chúng sinh đã tức là chân thể của chư Phật. Nên biết ứng hóa mà chúng sinh khởi, tức là ứng hóa của chư Phật. Đây tức trước chỉ đồng thể. Hoa Nghiêm v.v… trở xuống, là dẫn chứng. Nghóa một là thể, thể chân như không khác nhau. Đã từ v.v… trở xuống là tổng kết đáp dụng đồn, y cứ ở trước đáp hỏi hợp rằng: Đâu được chẳng phải là do chân tâm của chúng sinh ứng hóa ra. Văn sớ chỉ tổng kết Pháp thân, Pháp thân tức chân tâm của chúng sinh, nên còn lược. Nói về sự tự nghóa một mà văn khác. Sớ Hỏi: Nghóa nếu, ý nói: “Nếu nói Pháp thân Phật khởi dụng, tức là dụng của chân tâm chúng sinh. Đây là từ Phật khởi dụng, trở lại tự giáo hóa, vì sao lại nói năng lựcbi nguyện của Phật huân khắp khởi dụng. Đáp văn khác trở lại đồng một nghóa. Sớ Đáp: Tức đây v.v… trở xuống. Ý nói: Bi nguyện của Phật tức là bi nguyện của chân tâm chúng sinh, không hai không khác. Nếu nói theo Phật thì gọi là bi nguyện. Nếu nói về mặt chúng sinh thì tức là bi nguyện của chân tâm. Nghóa là không v.v… trở xuống là giải thích thành. Chân tâm tức là tánh bi nguyện, tánh là thể của Phật. Thể Phật khởi dụng, nên gọi là bi nguyện của Phật. Giống như một vật vốn thuộc về đại gia, nam nữ đều dùng, nói là mình có. “Tánh khởi”: tánh chung kia đây, dụng đâu có nào thành hai. Nạn tâm Phật chẳng khởi hóa dụng. Sớ Hỏi: chúng sinh v.v… trở xuống. Do trước nói: “Chân tâm chúng sinh tức đồng thể với Phật, chư Phật ứng hòa tức là dụng chúng sinh”. Ý nói: Chân tâm chúng sinh đều có, vì sao chư Phật khởi lên hóa dụng, chúng sinh không thể khởi ư? Đáp chưa khởi chán cầu trái với dụng. Sớ Đáp: Chưa có v.v… trở xuống, như trước trong phần đáp thứ hai đã có nói rõ. Hỏi: Chẳng thể huân khiến phát tâm. Sớ: Hỏi: Đã v.v… trở xuống. Như ở trước nói: Lý do chúng sinh sinh khởi chán cầu, đều do năng lực bản giác bên trong huân. Nếu sẳn có bản giác, vì sao chẳng đồng với chư Phật khác sớm huân khởi chán cầu? Đáp dẫn nhân duyên trước thiếu sót lẫn nhau. Sớ Đáp: Vô minh v.v… trở xuống. Rộng như ở trước, tướng tự thể huân tập trong phần hỏi đáp đã nói. Nạn chân Phật đâu nhờ tu nhân. Sớ: Hỏi: Nếu chân tâm v.v… trở xuống. Ý nói: Nếu từ hạnh sinh, thì xưa chưa là Phật. Đâu được trước nói chân tâm chúng sinh đồng thể chư Phật mà nói về thân ứng hóa ư? 1 4- Đáp nhân quả vô tánh mà đồng nguồn. Sớ Đáp: Đây đứng về … trở xuống. Ý nói: Chỗ nói từ hạnh sinh chỉ là bản giác theo dòng thành nhiễm. Thỉ giác ngược dòng thành tịnh, nên nói có hạnh. Như khắc định về chân tâm kia thì rốt ráo không khác với Phật thể, đây là nhân quả, mê ngộ đều không khác nhau. Nay sớ một bề thỉ giác đồng bản giác. Nói lên không khác nhau, là lấy quả nêu nhân. Đối nói về quyền thật: Sớ: Từ trên đến đây v.v… trở xuống. Thật giáo như ở trên đã nói. Nếu nói về quyền giáo thì chúng sinh và chư Phật làm duyên tăng thượng lẫn nhau, nên văn ở tự thức mà hiện ảnh tượng. Nay văn sớ này lại nói về mặt chúng sinh, nên nhờ Phật bi trí làm duyên tăng thượng, tự thức có thấy hạt giống Phật làm nhân duyên, nhờ Phật hiện hóa thân làm bản chất. Tuy nhiên, ở tự thức biến khởi ảnh tượng mà thấy ở Phật, chỉ ảnh tượng này là tự thức hiện, nên nói Duy thức. Nếu bản chất kia tự nhiếp trở về thức Phật, chẳng thuộc về chúng sinh. Nếu như đây nói trở lại ngoài tự thức, tự có bản chất Phật riêng, đâu thành tất cả duy tâm, chẳng đồng với ứng hóa mà văn này nói, chỉ là tự tâm hiện. Dù nói do bi nguyện của Phật, đây cũng là tự tâm không hai không khác. Nên nay dẫn kia để đối biện, phải biết quyền thật có khác, ngoài ra như sau chỉ bày nói. rộng Đứng về mặt thức nêu người: Nói: Địa cứu cánh, tức địa thứ mười, chẳng phải Diệu giác. Thuận nghiệp thức, nghóa là nghiệp tướng lần lượt hiện các cảnh giới, đó là cảnh từ thức sinh. Bồ-tát Thập trụ, v.v… đạt sâu lý này, nương đây tu hành nên thấy báo thân Phật. Nói Sơ phát ý tức tín thành tựu phát tâm. Cũng có thể từ Sơ Tín trở đi, gọi là Sơ phát tâm. Trong đây chỉ là nương tâm Tam-muội mà thấy, tức ở trước duyên bình đẳng. Y báo, chánh báo: Y chánh báo, trong đây văn có ba đoạn. Nghóa là từ ban đầu đến “vô lượng tướng tốt”, tức là chánh báo. Từ “chỗ trụ” đến “trang nghiêm” là y báo. Từ “theo chỗ” v.v… trở xuống là nói chung hai báo, hiển bày tướng vô biên vô tận. Chánh báo: Văn sớ: Thân không phân chia, vô lượng tức không có giới hạn, nên kinh nói: “Sắc Như Lai vô tận”. Nương thân có tướng: sắc tức là thân, nương sắc thân kia có tướng lớn. Nương tướng có đẹp: tức nương tướng lớn lưu xuất ra tướng nhỏ. Đây là thân khác tướng, tướng đều mầu nhiệm đẹp đẽ. Nhưng tướng v.v… trở xuống, ý giải thích hiện tướng đẹp. Khải Công cũng nói: “Tiêu biểu đức gọi là tướng, vừa ý gọi là đẹp”. Nếu không công đức thì không kính trọng. Nếu không kính trọng thì không nhớ nghó. Lấy niệm Phật: là lợi ích sâu nên hiện tướng. Nếu người đời hay biến đổi thường tình kia, tâm nhớ nghó sắc đẹp thế gian, mà nhớ nghó tướng Phật thì đạo gần. Nhưng ta chưa thấy đức đẹp bằng sắc đẹp. Hễ dùng tâm bi trang nghiêm thân: trong năng lực thân Phật khiến mầu nhiệm đẹp đẽ, nếu không tốt đẹp thì không ưa thích, nếu không ưa thích thì không gần gũi, không gần gũi thì không nghe pháp, cho đến giải thoát. Ý Phật ở đây nên thị hiện tướng tốt kia. Trí Độ luận nói: “Người xấu nói pháp mầu, người nghe không vui mừng”. Tăng Triệu nói: “Vì tôn hình nên thị hiện tướng đẹp như vậy”, há là tâm tục trang sức được ư! Y báo: Sớ: Năng, v.v …, Y báo, Chánh báo tương xứng đều rộng lớn. Do thân, trụ vô lượng cõi trang nghiêm là xứng đáng. Tướng trang nghiêm công đức vô biên đầy đủ trong các kinh, ở đây không thể dẫn chứng hết. Pha-chi-ca, Hán dịch là thủy ngọc, hoặc dịch là thủy châu. Nói chung vô tận. Có hai: Về không gian nói lên sự vô biên: Nói chỗ nào cũng v.v… trở xuống, ở đây nói chánh báo tức căn căn vô biên, y báo tức trần trần trùm khắp. Vô cùng tận, tức do không có bờ mé. Sớ: Do đây v.v… trở xuống, là giải thích cái thấy không có phần hạn, sở dó Bồ-tát thuận lý Duy thức, nói sắc duy tâm không có phân chia. Do đây giải thích, chỗ thấy tướng xứng tâm quán kia, đều cùng khắp pháp giới dung nhau tự tại. Địa thượng trở lên thân chứng lý này không còn nghi ngờ. Tuy nhiên, trong đó tùy trí lực kia mà chỗ thấy có hơn kém, cạn sâu khác nhau. Như ở sau luận nói: “Trước Sơ địa thấy ít phần, nếu được tâm tịnh chỗ thấy mầu nhiệm, cho đến Bồ-tát địa tận thấy rốt ráo”. Nay nói theo mặt thông chẳng phân hơn kém, văn sau tự biết. Về thời gian nói lên vô tận: Sớ: Theo kia v.v… trở xuống, nếu thường có căn cơ cảm Phật, Phật tức là thường trụ. Nếu chẳng thấy, chẳng phải kia là đồ vật, công lỗi ở căn cơ, chẳng ở nơi Phật. Như trăng ở trong chậu, chẳng hiện do chậu bị vỡ. Như ở sau là nói chẳng phải ba tai: nước, gió, lửa. Như thứ lớp làm hoại sơ, nhị, tam thiền. Vả lại, đệ tứ thiền chưa ra khỏi ba cõi còn không thể hoại, gọi là bất động địa. Huống chi là quả báo của Phật vượt ngoài ba cõi, nương chân mà trụ mà hoại được ư! Nên kinh Pháp Hoa nói: “Thường ở núi Linh Thứu và các chỗ trụ khác. Khi chúng sinh thấy kiếp hết lửa lớn thiêu đốt. Ta ở cõi này an ổn, trời người thường đầy đủ”. Nếu y theo kinh Hoa Nghiêm thì: Không có một pháp nào chẳng phải là thân Phật Tỳ-lô-giá-na, không có một hạt bụi nào chẳng phải là biển thế giới Hoa Nghiêm”. Nay ý đồng ở kia, nên y báo chánh báo, đều nói vô lượng…” Tổng kết quả do nhân: Ý khiến chúng sinh tu nhân vui chứng quả vui. Đây có thứ lớp với khoa trước, chính là đồng phần một phần hai trong bốn phần của kinh Hoa Nghiêm. Theo luận Địa Trì, chủng nhân Thập tín, Thập trụ trở đi, giải phương tiện, phần được của Sơ địa. Bát địa trở lên viên mãn nối tiếp, được Phật địa rốt ráo. Nói Như thế cho đến thành tựu là tổng kết quả do nhân. Một câu đầu tổng kết hai quả y báo và chánh báo ở trên. Đều nhân v.v… trở xuống gồm có ba nhân, các ba-la-mật, v.v… là hai nhân duyên và liễu, gọi chung là giúp nhau huân không thể nghóa bàn huân là chánh huân tập. Đầy đủ v.v… trở xuống, là giải thích tên gọi. Do quả báo là đáp lại nhân làm nghóa. Y báo, chánh báo ở trên đều vô lượng, là lúc đáp lại nhân vô lậu không thể nghó bàn huân tu. Nên sớ nói: “Vô chướng ngại”, nghóa là y báo, chánh báo chẳng ngại nhau, đại tiểu nhập lẫn nhau, căn căn trần trần đều khắp pháp giới, hiện vô tận lẫn nhau. Đây có sáu câu, nghóa là trong y báo hiện y báo, trong y báo hiện chánh báo, v.v… nên nói “vô ngại”. Việc không thể nghó bàn: thời gian không bờ mé, không gian chẳng cùng tận, không hoại các tướng, mỗi mỗi trùm khắp cao quý thanh tịnh, há nghó bàn mà đến được ư! Mười độ, đó là: Thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, nguyện, lực, trí. Hành sâu, đều thuận theo tánh, như ở sau nói: “Đối với pháp chân như hiểu sâu hiện tiền, chỗ tu lìa tướng…”. Hai nhân, là sinh nhân và liễu nhân. Tức duyên nhân và liễu nhân đều gọi là sinh nhân, chánh nhân tức liễu nhân, chỉ khai hợp có khác như vậy. Lạc tướng v.v…, quả báo đã cao quý, nhân ắt tương xứng với tu, nhân tu đã mầu nhiệm thì được quả đâu thể thô, nên lạc tướng gọi là quả báo. Lập lại đoạn văn “phân biệt” nói rộng hai thân ở trước theo chỗ thấy khác nhau. - Ứng thân: Sớ: Phân biệt phàm khác tiểu, ở đây lại nói phàm phu một loài thấy, chẳng luận Nhị thừa. Kia tức người Thập tín về trước là dị sinh, phàm phu. Chân voi đen, kinh Quán Phật Tam-muội Hải chép: “Quán tướng tốt của Phật, như người cầm gương soi mặt mình, nếu sinh nhơ ác, tâm bất thiện, thì thấy Phật thuần mầu đen, giống như người cháy. Trong chúng Thích tử năm trăm người, thấy sắc thân Phật giống như người màu tro. Trong chúng Tỳ-kheo có một ngàn người, thấy sắc thân Phật như người mầu đất đỏ. Trong chúng Ưu-bà-tắc có mười sáu người, thấy sắc thân Phật như chân voi đen. Trong chúng Ưu-bà-di có hai mươi bốn người, thấy sắc thân Phật giống như mực đen. Như kinh ấy nói là câu thứ ba. Năm trăm Thích tử, xưa vào thời Tượng pháp của Đức Phật Tỳ- bà-thi có con của trưởng giả tên Nhật Nguyệt Đức, có năm trăm người con chẳng tin Phật pháp, gặp lúc đều bị bệnh, người cha liền dạy cho xưng danh hiệu Tam bảo. Vâng lời cha dạy, ba lần xưng chưa xong thì mỗi người đều qua đời. Do xưng danh hiệu Phật nên sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương. Thọ mạng cõi trời hết, do nhân tà kiến rơi vào đại địa ngục, bị khổ ép ngặt, nhớ lời cha dạy họ bèn xưng danh hiệu Phật. Nhờ niệm Phật nên từ địa ngục được sinh lên, vào nhà nghèo cùng, như thế từ Phật Thi-khí cho đến Phật Ca-diếp ra đời, chỉ nghe danh hiệu Phật mà không thấy thân Phật. Nhờ nghe danh hiệu sáu vị Phật như thế, nên sinh vào dòng họ Thích, túc nghiệp nhân duyên, thấy sắc Phật mầu tro. Phật dây xưng danh hiệu bảy vị Phật và danh hiệu Phật Di-lặc và xưng tên cha, rơi lệ sám hối mới thấy tướng tốt mầu vàng của Như Lai, bèn thành A-la-hán”. Lại có một ngàn vị Tỳ-kheo ở trong thời Mạt pháp của Phật Nhiên Đăng, xuất gia học đạo với Hòa-thượng mà sinh tâm bất tịnh. Vị sư kia đã được quả A-la-hán, về sau các đệ tử tùy theo thọ mạng ngắn ngủi, khi sắp qua đời, không có chỗ nương cậy, sư bảo nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật Nhiên Đăng, nhờ năng lực lành đều được sinh lên cõi trời. Do nghiệp đời trước luống ăn của tín thí, nên rơi vào loài ngạ quỉ, trải qua bốn mươi tám ngàn năm, sau lại đọa vào súc sinh, trả tội súc sinh xong rồi sinh làm kẻ nghèo cùng. Lại do đời trước có năng lực xuất gia xưng Nam-mô Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong tám ngàn đời thường được gặp Phật ở đời, mà mắt không thấy, cho đến ngày nay gặp Phật Thích-ca, thấy thân Phật như đất đỏ, chỉ cao bằng năm thước. Lúc ấy, Đức Thế Tôn liền hiện trên ngực chữ “Đức”, bảo Tỳ-kheo đọc, đọc rồi sám hối liền thấy Phật sắc vàng và được thọ ký, thứ lớp thành Phật. Lại, trong chúng Ưu-bà-di có mười sáu người, xưa từng ở cõi Diêm-phù-đề mong làm vua, do thuận theo bạn ác, chẳng phải pháp mà nói pháp, đoạ vào ngục A-tỳ. Do có nghe pháp khiến được gặp Phật mà thấy Thế tôn như chân voi đen. Phật dạy sám hối, thấy được Phật sắc vàng, bèn thành A-la-hán. Trong thời tượng pháp của Phật Bảo Cái Đăng Vương, có một Tỳ-kheo ôn bát khất thực vào nhà dâm nữ, các dâm nữ cho cơm đầy bát và cười nói: “nhan sắc ông thật xấu xí, giống như mực đen, thân đắp y giống như kẻ ăn xin”. Tỳ-kheo nghe vậy liền quăng bát lên hư không, hiện thần thông và bỏ đi. Những người nữ này thấy vậy ân hận phát nguyện. Do nhân duyên bố thí cho ăn, nên trong hai ngàn kiếp thường không đói khát. Do ác khẩu mắng nhiếc Tỳ-kheo và nhân duyên dâm dục nên rơi vào địa ngục Hắc ám. Do năng lực phát nguyện, đời trước nên nay được gặp Phật mà thấy thân Phật giống như mực đen, Phật dạy sám hối bèn thành A-la-hán. Bốn chúng như thế mỗi vị đều có cái thấy khác nhau chẳng đồng, do tự nghiệp nên quán sắc thân Phật có hơn kém như thế. Thân ba thước, tức chỗ thấy của Câu-sự-la-trường. Đề-vị v.v…, Phật ở dưới cây bồ-đề mới thành Chánh giác, Đề-vị đi qua do căn có thuần thục và năng lực Phật ngăn lại nên xe ngựa không tiến tới được. Đề-vị cho là thần kỳ núi rừng huyễn tạo, bởi thế nên thấy Phật cho là thần cây, bèn dùng kệ khen hỏi Phật rằng: Dung nhan rất đặc biệt Giống như núi vàng tím, Chẳng hay con nhà ai? Thuộc về chủng tộc nào? Chưa biết ở đâu chứng? Nhân gì đến nơi đây? Ngày chẳng ăn bao nhiêu Chưa biết Ngài cần gì? Phật dùng kệ đáp rằng: Ta là vua Kim luân Con trong dòng Thánh đế Chán tục như đàm dãi Xuất gia chứng bồ-đề Thành đạo nay bảy ngày Không người cho ta ăn. Đề-vị liền dâng mật lên Phật, nghe pháp được chứng quả Tu-đà- hoàn. Nếu theo đây nói thì do Đề-vị trước chưa biết Phật nên nghi là thần cây, chẳng cho rằng thấy tướng thần cây. Người trí nên xét kỹ. Nhị thừa v.v.., kia thật là Thanh văn, tức thấy Phật là tướng Tỳ- kheo già. Duyên giác thấy Phật là Bích-chi. Tuy nhiên, đây cũng chưa phải tướng xuất thế, do chẳng phải là tướng vui. Báo thân: Có ba: Trụ thượng phần thấy kém, có bốn: Nói rõ năng kiến cạn sâu: Nói thấy chút phần, ý nói dùng báo thân thấy chút phần. Do Bồ-tát này dùng sức tin sâu, nhập Tam-muội chân như, biết được Nhất tướng pháp giới, chỗ thấy báo thân biết thân không có tướng, giới hạn đến đi, nên sau dịch rằng: “Hạnh đầu của Bồ-tát thấy trong phẩm Dụng”. Sớ: Thấy lý chân như, do nhập tương tự quán thấy lý chân như, bèn thấy tướng báo thân không có đến đi, do tâm ảnh hiện, không lìa chân như. Nói về giới hạn của sở kiến: Nói: Không đến đi, chẳng đồng với phàm, tiểu thấy Phật sinh trong cung vua, diệt tại Song Lâm, có tướng đến đi. Sớ: “Tánh vô phân biệt”, không có tướng đến đi, lìa tướng giới hạn, biết sự tức lý không thể phân biệt. Như bóng tức gương không có định lượng. Nhưng chữ phân biệt hợp thành chữ giới hạn. Văn sau nói: “Bồ-tát này vẫn tự phân biệt”. Văn sau y theo đây. Giải thích lý do không có giới hạn. Luận Chỉ nương tâm hiện, rõ cảnh do thức. Chẳng lìa chân như, biết tướng là tánh. Sớ có hai: Lặp lại nạn giải thích chung: Giải thích không v.v… trở xuống: là vặn hỏi. Có người hỏi rằng: Theo Nhiếp Luận nói, Bồ-tát từ Sơ địa trở lên mới thấy Báo thân, sao nay văn nói trước Sơ địa cũng thấy ư? Nêu lại đoạn này. Kia y theo v.v… trở xuống, là giải thích chung, luận ấy nói đứng về mặt chứng tương ưng. Nay luận nói Bồ-tát này phát thẳng … ba tâm, tu bốn phương tiện như vô trụ…, thuận theo chân như, không chấp sắc tướng. Tuy chẳng thân chứng nên thấy, mà tin hiểu đạt sâu duy tâm, nên thấy lạc tướng. Tuy thấy lạc tướng cũng không đồng từ Sơ địa trở lên tự thân thấy sự mầu nhiệm. Nên văn trước chỉ nói:”Biết sắc tướng kia không đến đi, v.v…”. Kết hội giải nói lại: Tức chẳng v.v… trở xuống. Nếu nói hoàn toàn thấy tức trái nhau, đã nói thấy từng phần, đủ để thông hiểu. Như sớ rất dễ hiểu. Phân biệt Địa thượng: Nói Nhưng đây v.v… trở xuống, giảng từ Sơ địa trở lên. Do Bồ-tát này tuy được duy tâm vẫn chưa biết dứt sự thức. Sự thức đã còn, phân biệt chẳng quên, chẳng đồng từ Sơ Địa trở lên được vô phân biệt, chứng mới tương ưng. Địa thượng phần thấy tâm thắng tịnh: Luận: Nếu được v.v… trở xuống, Sơ địa trở lên thấy từng phần. Thắng tịnh tâm, v.v…, là tên Sơ địa, tương ưng với chứng vượt hơn Sơ địa ở trước, nên nói “vi diệu”. Từ Nhị địa đến Thập địa, dần dần lại nhỏ nhiệm, nên nói “chuyển thắng”. Địa tận: là bậc Thập địa. Nhưng nói “càng cao quý” cũng chung cho trí năng kiến. Do trí dụng cao quý nên chỗ thấy cũng cao quý. Sớ: Dần tế, v.v… mười thứ thân cõi báo ứng khác nhau. Sau sau cao siêu hơn trước trước, nên nói dần tế. Tâm sau của kim cương tức đạo giải thoát. Dụng trở về thể: đứng về mặt năng kiến thì Thỉ giác trở về Bản giác. Đứng về mặt sở kiến thì Báo thân trở về Pháp thân. Cõi tha thọ dụng trở về cõi pháp tánh. Dụng trở về thể thì không có chỗ thấy, nên nói “là rốt ráo”, trái lại là chưa rốt ráo. Hai chữ “tột nguồn” mỗi chữ chung hai nghóa. Nghóa là dứt hết nguồn vọng nhiễm tức tướng sinh hết. Chứng tột nguồn chân như tức Pháp thân hiện. Nhưng lại xét rõ trong luậnnày thấy nói rốt ráo, ý nói trong địa thứ mười chỗ thấy báo tướng tột cùng sâu kín. Ngoài ra, không còn tướng nào thù thắng hơn, nên nói rốt ráo. Chẳng cho rằng tướng tận cùng gọi là rốt ráo. Nếu như sớ giải thích thì chưa dám vâng mạng. Do kế đến văn nói:”Nếu lìa nghiệp thức thì không có tướng thấy”. Đây văn mới tạo tướng tận chứng cùng mà giải thích. Người trí nên xét rõ. Rốt ráo vô kiến: Nói Nếu lìa v.v… trở xuống, có hai: Nói về không thấy: Do ở địa vị Phật không còn có tướng Báo thân để thấy, do lìa niệm nhỏ nhiệm, chỉ ở nhất tâm thì đâu thể thấy. Giải thích nguyên do: Nói do các v.v… trở xuống là giải thích lý do. Pháp thân vô tướng, niệm kia đây dứt, nhất chân bình đẳng, thì đâu có tướng thấy. Đắp đổi như vậy. Hỏi: Nói vì sao hiển sắc?. Báo Ứng thuộc về sắc, Pháp thân đã lìa sắc, tại sao hiện sắc Báo Ứng, như hư không chẳng phải sắc nên không thể nào hiển sắc? Đây có thể luận này. Đáp: Luận Đáp v.v… trở xuống, có hai: Giải thích Pháp thân năng hiện. Có hai: Nêu: Pháp thân là sắc thể, ý nói Pháp thân tuy chẳng phải là sắc mà là thể Báo, Hóa nên có khả năng hiện sắc, tức đồng hư không thể chẳng phải các tướng mà chẳng chống trái các tướng phát huy ở trong đó. Sớ Nói chung, y cứ văn cũng nên như vậy. Giải thích: Nói Có chỗ cho rằng v.v… trở xuống, có hai: Nói chung chẳng hai: Sắc tâm chẳng hai, tánh và tướng đồng một mối, như thể và dụng. Sớ Là kia v.v… trở xuống, pháp dụ rất dễ hiểu. Nói riêng về nghóa tương tức: Luận: Sắc tánh v.v… trở xuống. Có hai: Sắc tức tâm: Do tánh sắc tức trí. Sắc báo, hóa đối duyên mà thánh, tự không có tánh kia, tức do bản giác Pháp thân trí làm thể tánh, thể Pháp thân đã không hình tướng, vì dụng theo thể nên khiến báo, hóa cũng không có hình tướng. Do không hình tướng nên gọi là trí thân. Trí thân tức Pháp thân. Nên luận Kim Cương cho rằng:Pháp thân là trí tướng thân, hóa than là dị tướng thân”. Văn sớ rất dễ hiểu. Tâm tức sắc: Nói Trí tánh v.v… trở xuống. Tức sắc, là trí Pháp thân, đã làm sắc thể, khi sắc báo, hóa, hiện tức là toàn thể khởi dụng. Tức báo, hóa này khi biến tất cả, liền là Pháp thân trùm khắp tất cả chỗ. Sớ: Như nước v.v…, nói thể ở khắp trong dụng, có chỗ báo, hóa tức có Pháp thân. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp tánh trùm khắp tất cả mọi nơi, tất cả chúng sinh và cõi nước, ba đời đều không còn thừa, cũng không có hình tướng để được”, tức nói lên đoạn trước, như sóng hoàn toàn ở tại nước. Sớ: Chẳng nói, v.v… là lược bớt. Giải thích sở hiện: Nói: Theo tên hay hiện, có hai ý: Theo kia mỗi tâm khác nhau, mà hiện vô lượng y báo, chánh báo khác nhau. Tất cả các sắc đều theo tâm tánh chân như mà hiện, khiến cho y báo, chánh báo không phân chia. Do tâm không phân biệt vô lượng Bồ- tát và báo thân, đứng về mặt thời gian ứng thì kia chẳng đồng, nói về mặt không gian thì mỗi địa có khác, nên đều vô lượng. Trang nghiêm: chung cho Phật, Bồ-tát cùng y báo, là nghóa tướng tốt châu báu trang nghiêm, rộng như kinh Hoa Nghiêm nói. Mỗi thứ sai biệt: y báo, chánh báo khác nhau, thân tướng có khác. Đều không phân biệt: chánh báo thì các căn tròn khắp, y báo thì mỗi trần khắp đủ. Chẳng ngại nhau: nói lên sự sai biệt ở trước mà không phân biệt. Nếu có ngại nhau thì có phân biệt chẳng thành trùm khắp. Lại, ngại nhau thì hoại tướng của các căn v.v… Nay do chẳng hoại tướng mà cùng trùm khắp, đều không phân biệt, bất động biến mà đều khác, nên mỗi mỗi khác nhau, nên nói “mà chẳng ngại nhau”. Đây chẳng v.v… trở xuống là ngăn nghi. E thường tình nghe điều này phân biệt muốn biết mà không thể biết liền sinh nghi, nên ở đây ngăn dứt. Như tự Tiểu thừa còn không biết cảnh giới Bồ-tát, huống chi phàm phu mà lường được công đức của Như Lai ư! Do chân như v.v… trở xuống, là xuất phát lý do. Đã là dụng của chân như thì đâu thể dùng tâm thức hữu lậu mà biết được, ở đây nói lên không thể nghó bàn. Sớ: Do kia v.v… trở xuống, rất dễ hiểu. Ở trong v.v… trở xuống, là giải thích lại văn Bồ-tát. Ban đầu đứng về mặt năng hóa, sở hóa giải thích. Theo kinh Hoa Nghiêm thì đầy đủ có mười thân khác nhau, đâu chỉ Bồ-tát ư! Cũng có thể v.v… trở xuống, là giải thích về mặt sở hóa, nhưng trước chánh sau gồm. Đốn phó: phần nhiều căn cơ chóng cảm ứng, Phật cũng chóng đến, nên báo thân cũng vô lượng. Đây là căn cơ cảm ứng vô ngại. Do mỗi một v.v… trở xuống, giải thích mỗi thứ sai biệt ở trước của văn sau rồi. Do như kế đến ba câu là giải thích ba câu, đối văn rất dễ thấy, tức đại, tiểu vô ngại. Ngoài ra, văn rất dễ hiểu. - Hội tương nhập thật: Từ trên đến đây trước nói từ môn chân như khởi môn sinh diệt. Nay thì hội sinh diệt nhập ở vào chân như. Trước thì từ gốc khởi ngọn. Đây thì nhiếp ngọn về gốc, đều từ pháp giới có ra, đều trở về pháp giới, tức hai môn chẳng hai. Cũng đồng Trí Luận chép:”nếu chẳng có nghóa không thì tất cả pháp chẳng thành”. Lại nói: “Trước phân biệt các pháp, sau nói rốt ráo không”. Nhưng nói tuy khác pháp nhưng chính đồng thời. Văn có thể chép gấp nên thành trước sau. Lại nếu chẳng phân biệt, đâu biết đây là không, nên kế đến nói rõ. Nêu nói: Tức nhập v.v…, chẳng phải sắc diệt không, chẳng bỏ duyên. Nên kinh Tịnh Danh nói: “Minh, vô minh là hai. Vô minh thật tánh tức là minh. Ở trong kia bình đẳng không hai, đó là nhập pháp môn không hai”. Năm ấm, ba khoa đầu gồm nhiếp tất cả pháp hữu vi. Ấm là ngăn che, hay ngăn che chân lý không để hiển hiện; cũng gọi là uẩn, chứa nhóm bao gồm pháp hữu vi. Năng tạo sở tạo, cả hai đầy đủ tám pháp, đều là sắc ấm nhiếp. Thọ, tưởng, hành, thức, các tâm, tâm sở gọi là bốn uẩn, đều thuộc về Tâm. Quán sắc: Sớ: Trước quán sắc v.v…, đứng đầu năm uẩn, đầu tiên hiện, nên kinh Đại Bát-nhã cũng nói trước. Cảnh từ tâm khởi v.v…, như trước nói: “Tất cả các pháp chỉ nương vọng niệm mà có khác nhau…”. Lại nói: “Do tâm năng kiến nên cảnh giới vọng hiện. Lìa cái thấy thì không có cảnh giới”. Đã lìa cái thấy không cảnh giới, vì sao có thể niệm? Đây là nói về mặt sở niệm. Chẳng thẳng v.v…, e cho rằng tâm sinh ra cảnh, cảnh ở trong tâm, ngoài tâm đã không, trong tâm lẽ ra có, nên có ra quán này để dứt mê hoặc kia. Trước thì v.v…, do tâm lìa căn bản của sắc, nên đứng về mặt tâm mà cầu sắc. Nếu nương văn này chính là quán sắc, chưa phải quán tâm. Như nhân suy ra ngã không, gạn cầu uẩn pháp. Dụ: Nói phương chẳng chuyển, phương Đông chẳng hề tạm chuyển làm phương Tây, chỉ người mê cho là tướng Tây. Kinh Viên Giác nói: “Thí như người mê chỗ bốn phương dời đổi. Phương Đông dụ cho chân tâm, Tây dụ cho năm ấm, v.v… chẳng chuyển dụ cho vô niệm”. Pháp: Sớ Đã diệt v.v…, đứng về mặt ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai suy tìm tánh động không được. Như phương Đông suy ra tướng Tây không được. Trước nói: “Giác tâm mới khởi, tâm không có tướng ban đầu, v.v…” Kết: Luận Biết tâm vô niệm, giác biết chân tâm vốn bất động. Sớ: Phương tiện, năng sở đều quên. Chánh quán là tâm cảnh cả hai mất. Hỏi: Trước nêu chỗ quán thông ở tâm sác, vì sao tổng kết chỉ đứng về mặt tâm? Đáp: Tâm tế sắc thô, gốc ngọn khác nhau, quán sắc không thì chưa được vào, quán tâm không thì chắc chắn sẽ vào. Nhưng ở đây văn hội tướng, nay lại xét rõ, chỉ có thể từ ban đầu đến môn chân như là nêu. Từ cái gọi là v.v… trở xuống, là giải thích. Tổng kết văn như khoa của sớ. Trong phần giải thích Pháp, Dụ, Hợp. Trong pháp ban đầu đến vô niệm là chánh quán sát. Suy cầu tức là quán sát. Năm ấm, v.v…, là sở quán năm ấm, nêu chung khoa đầu. Sắc tâm v.v… trở xuống, chỉ bày riêng về pháp thể. Sắc chung cho căn cảnh, tâm chung cho vương và sở, sáu trần nêu sở duyên. Rốt ráo vô niệm, đây tức chánh quán sắc tâm sinh diệt, trở về chân như vô niệm. Niệm chung cho năng sở nay đều vắng lặng, gọi là Không. Chẳng suy cầu khiến cho không, vốn là tự không, nên nói rốt ráo. Nay nói “suy cầu”, do trước chưa biết khiến biết. Đây tức quán tâm và sắc chung. Do tâm v.v… trở xuống, là giải thích lý do, vì sao sắc, tâm, cảnh giới đều vô niệm ư! Do đây đồng là chân tâm hiện. Chân tâm lìa tướng, nên nói “vô hình”. Do vô tướng nên cầu không thật có. Tâm hiện còn không thật có, chỗ hiện uẩn khắp há là còn ư! Như ở trước luận nói: “Tâm chẳng thấy tâm, không có tướng để được” là biết nói về vô niệm. Đã sớm biết sắc tâm đều cùng tận, chẳng cho rằng văn sau đầu tiên mới quán tâm. Người trí nên xét kỹ. <篇> <卷>QUYỂN 16 ĐỐI TRỊ TÀ CHẤP: Trái với chân gọi là Tà, chấp trước gọi là Chấp, tướng hình gọi là Đối, công kích gọi là Trị. Nghóa chính ở trước là năng trị, nay tà chấp là sở trị. Chính nghóa đã bày, tà chấp tự mất, nay nói giải thích tướng kia. Chánh nêu: Nói tất cả v.v… trở xuống. Nói ngược lại: Nếu lìa v.v… trở xuống, là nói ngược lại. Do ngã là căn bản khởi, nên nói “nương ngã mà có, lìa ngã thì không”. Nêu lên: Sớ tướng chung, v.v…, chẳng có thế gian phân biệt năm uẩn khác nhau, chỉ có tướng chung chấp trước làm chủ tể. Nhưng tướng ngã kia có ở bốn tướng: Tướng chúng sinh: Là các duyên quá khứ hội hợp mà sinh. Tướng thọ giả: Là hiện tại một thời kỳ thọ mạng chẳng dứt duyên. Tướng nhân: Là vị lai trong thọ sinh các đường. Tướng ngã: Là chỉ chung ba đời. Nên nay nói: “Ngã là tướng chung chủ tể”. Đây là v.v… trở xuống, lạm phân biệt. Đây là mặt tu học theo Đại thừa. Phàm phu sơ tâm nghe giáo Đại thừa chẳng hiểu ý chỉ Phật, chạy theo vọng tâm của mình mà phán xét Thánh điển, tập để thành tánh, nên tạo cái thấy này, chẳng phải ngoại đạo. Kia có ba tông, chỗ chấp khác nhau, như trước đã nói, nay chẳng phân loại ra đây. Chấp tất cả,.v.v…, chấp các pháp như sắc… mỗi thứ lớp có thể tánh thật. Nên Nhiếp Luận chép: “Nếu chấp pháp thể là có, gọi là pháp ngã chấp, v.v…” Do người Nhị thừa nương hai thô sự thức, tu hành chỉ rõ trong pháp vô ngã, chẳng biết pháp thể hoàn toàn là không. Như trước nói: “Thấy từ ngoài đến chấp sắc phân biệt, v.v…” Ở nơi cảnh nhiễm tịnh chấp có tự tánh, nên gọi là pháp chấp. Kia giống như dụi mắt còn hoa đốm trong hư không đâu có diệt. Luận: Vì sao v.v… trở xuống, sớ có hai: Đứng về mặt nghóa mà nói chung: Năm chấp này khác nhau thế nào? Chỗ hỏi ngoài văn. Đứng về mặt quả, đối ới Pháp thân của Như Lai khởi chấp chung nhân quả, đều nương chỗ chấp của Như Lai tạng, tánh Như Lai tạng chung cho nhân quả. Lại, trong năm chấp, hai chấp đầu thường tụ tập Đốn giáo, Không giáo, và chỗ chấp thiền học thất ý của Nam tông. Hai câu kế thường là tụ tập Đại thừa pháp tướng và chỗ chấp thiền học thất ý của Bắc tông. Một chấp sau cũng chỉ là chỗ chấp của ngoại đạo, tà kiến. Như văn của khoa, ở sau sẽ thấy. Hỏi đáp giải thích tên: Hỏi: Ở đây v.v… trở xuống, hỏi đáp giải thích tên. Ý hỏi rằng: Chân như là pháp, ở đây sinh chấp hợp là pháp chấp, vì sao trái lại gọi là chấp nhân ngã? Ở đây một mặt đứng về mặt sở chấp để thành nạn. Một là nói rằng v.v… trở xuống là hiểu về mặt năng chấp, đây đứng về mặt có nhân ngã mà tạo chấp này, chẳng đứng về mặt sở chấp mà đặt tên. Hai là nói rằng v.v… trở xuống là hiểu về chỗ chấp pháp. Bản giác là nhân: Do trong đó chỗ chấp pháp có một phần nghóa giác chiếu, thuộc về trí nên gọi là nhân, chấp này làm ngã nên gọi là Nhân ngã. Lý thật, là nói về mặt thể tịch, tức ngay ở chỗ quán thuộc ở ở pháp. Chấp sự không làm pháp thể, đây là cái không trống rỗng của thế gian, là chỗ thức biến do sắc hiển bày, chẳng phải là lý sở chứng của Ba thừa, nên nói “sự không”, chấp sự không này chân pháp thể chân thật. Chấp duyên: Nói Pháp thân như hư không, Kinh Kim Cổ chép: Pháp thân chân Phật giống như hư không”. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Thân tướng Phổ Hiền như hư không”. Kinh Tịnh Danh chép: “Chẳng mê đắm thế gian như hoa sen, thường khéo nhập hạnh ở chỗ vắng lặng, đạt các pháp tướng vô quái ngại, cúi đầu như hư không chẳng có chỗ nương”. Lại kinh nói: “Hư không chẳng có ở giữa, một bên. Thân chư Phật cũng như thế, chẳng sinh chẳng diệt, kính lễ vô sở quán”. Văn này rất nhiều, không thể dẫn đủ. Chấp tướng: Sớ: Tướng ngại, v.v…, nghóa là chúng sinh chấp nhất định Phật có ba mươi hai sắc tướng, thấy có đến đi, chấp sắc tướng phân biệt chất ngại. Mê ý, v.v…, ý Phật lấy nghóa không, có, vô tướng, vô ngại, dụ cho đồng thể Pháp thân, chẳng nói hư không là Pháp thân. Kia mê dụ làm pháp, pháp dụ chẳng phân rất là cạn cợt. Lập: Nói Tướng không: Lấy rỗng không vô ngại làm tướng. Vọng pháp là sở biến của vọng thức, là sắc sở đối, cho nên sinh trong biển Đại giác cũng giống như một bọt nước, bởi vậy mà một người phát chân về nguồn, thì cả hư không mười phương đều tan mất, thật là vọng pháp. Sớ: Tình có là vọng tình thấy có, lý hợp là vọng. Nói Thể không chẳng thật, có hai ý: 1- Nói trong chân thể chẳng có cái “vọng không” chẳng thật này. 2- Nói “thể không” tự không, vốn chẳng thật. Sớ: Lý không chánh đáng, nghóa trước bao gồm nghóa sau. Giải thích: Luận: Đối sắc, có cùng sắc pháp cùng đối đãi, nên lìa sắc hiển bày gọi là hư không. Nếu không nhờ sắc hiển bày thì hư không sẽ chẳng có được. Có thể thấy tướng: vì hư không một khi hiển sắc nên chỗ có sắc thì thấy chẳng có hư không, chỗ không sắc thì thấy có hư không. Khi có khi không cũng giống như vậy. Khiến tâm sinh diệt, khi có thì thấy có tâm sinh, thấy không tâm diệt. Khi không thì thấy không có tâm sinh, thấy có tâm diệt. Đã dẫn được tâm sinh diệt thì đâu như Pháp thân. Nếu là Pháp thân thì chẳng được khiến tâm sinh diệt. Sớ: Đối đãi nhau v.v…, giải thích đối sắc ở trước cho nên có. Vọng niệm duyên: giải thích ở trước là có thể thấy tướng. Chẳng phải Pháp thân, Pháp thân khác ở đây. Không có chỗ không v.v… không có lúc không, cũng không một tướng để được, còn không có thể dùng trí biết, há dung chỗ duyên niệm ư! Nay đã là chỗ vọng niệm đến được, nên chẳng phải Pháp thân. Nói Nếu không sắc v.v… trở xuống, là hiển bày thể không. Do sắc năng hiển còn không thật có, lý không sở hiển lẽ ra là không. Kinh Lăng-nghiêm cũng nói: “Tánh không chẳng có hình, nhờ sắc mà hiển phát”. Lại nói: “Sắc tướng đã không, cái gì làm rõ chất không”. Văn sớ rất dễ hiểu. Kết: Sớ: Tổng kết tình có, cũng là giải thích lý do không sắc, tức nghóa ở trước nương chuyển tướng mà có hiện tướng, nhưng ở đây là giải thích. Nói tất cả cảnh giới, tức sắc, nhiếp cả không. Sớ: Tổng kết lý không: cũng là chuyển giải thích, hoặc gọi là giải thích ngược lại, tức ở trước nói “tâm chẳng khởi, cảnh giới diệt theo, cho đến được Niết-bàn, v.v…” Nên biết hư không chỉ là một phần vọng tướng trong chân tánh. Nên kinh Lăng Nghiêm nói: “Hư không sinh trong Đại giác, như mặt biển phát ra một còn bọt. Biện pháp đồng dụ, v.v…, tức nhân liền chấp dụ, chẳng nói ý chánh. Nếu y cứ ý luận, chỉ về mặt có ngăn tình chấp, lấy đó làm dụ, chẳng cho rằng tiêu biểu ở thể chân như trrùm khắp. Nên trước nói: “Lặng lẽ đâu phải hư không”. Kế là nói: “Tánh trí rộng lớn chẳng phải hư không, v.v…” người có trí nên xét kỹ. - Chân chẳng phải vọng: Sớ: Đâu đồng, v.v…, có hai nghóa: Rốt ráo chẳng phải rốt ráo và Giác biết chẳng phải là giác biết. Nên Viên Giác sớ chép: “Biển ấn vượt khỏi hư không kia”. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Thân Như Lai chẳng phải hư không, có vô lượng công đức pháp mầu viên mãn”. Hỏi: Ở trên nói chánh nghóa làm năng trị, tà chấp làm sở trị. Trước đã bày chánh nghóa, văn này chỉ nên chỉ rõ tà chấp, vì sao lại có văn năng trị, há chẳng trùng ư? Đáp: Chánh nghóa của văn trước tuy là năng trị, do chưa thể ở nơi chấp đối hiển. Nay trong đoạn văn này nêu riêng chấp tướng. Cho rằng chánh nghóa ở trước đối phá riêng. Ở đây do tà chấp này hiển bày được nghóa chân chánh ở trước. Cũng do nghóa trước rõ được chấp luống dối này, nên phải nêu riêng văn đối trị. Chỉ như đoạn văn đối trị này, tức trước nói: “Tất cả các pháp chỉ chạy theo vọng niệm mà có khác nhau”. Lại nói: “Chẳng có tướng, chẳng không tướng”. Lại nói: “Nương Pháp thân này gọi là bản giác”. Lại “Tướng trí tịnh cảnh pháp xuất ly”. Lại “Lấy Pháp thân làm trí thân, v.v…” đều là văn năng trị này. Chấp duyên: Nói Niết-bàn không, kinh Viên Giác chép: “Sinh tử, Niết-bàn giống như giấc mộng đêm qua”. Chân như không, v.v… kinh Lăng-nghiêm chép: “Nói vọng hiển các chân, vọng chân đều là vọng”. Lại nói: “Không là chẳng khởi diệt, chẳng thật như hoa đốm giữa hư không…” Sớ: Đại phẩm, nói đủ là: “Khi năm trăm vị thiên tử lặng yên nhớ nghó vì sao nói Niết-bàn cũng như mộng, Thiện Hiện biết các vị trời nghó như thế nên bảo rằng: Nếu có pháp hơn Niết-bàn ta cũng nói là như huyễn như mộng. Vì sao? Vì xưa đến nay vốn tự không”. Chấp tướng: Sớ: Chẳng biết, v.v… vốn vì phá tâm có chấp, nên nói là không. Không là ý nói nghóa lìa danh lìa tướng, chẳng phải không có tự thể viên thành thật, đầy đủ tánh công đức. Vì chẳng rõ ý Phật nên cho rằng đồng pháp biến kế. Đối trị: Nói tự thể chẳng không, tức trước nói như thật chẳng phải không, do có nghóa tự thể và thể đại thêm bớt ở trước, v.v…” Đầy đủ công đức: tức ở trước chỗ chỉ bày tướng đại. Nghóa trí tuệ rộng lớn, sáng suốt, v.v… là văn đối trị này. Chấp duyên: Nói thể đầy đủ, v.v…, kinh Viên Giác chép: “Đấng Pháp vương vô thượng có môn đại đà-la-ni tên là Viên Giác, phát ra tất cả chân như thanh tịnh, Bồ-đề Niết-bàn và Ba-la-mật, v.v… Viên Giác là tên khác của Như Lai tạng. Trong các kinh đều có, không thể dẫn đầy đủ. Chấp tướng: Nói chẳng hiểu, v.v…, đây là nói lên khiến sinh tin hiểu, chẳng đồng hai thứ trước giá thuyên, di chấp, nên nói chẳng hiểu mà chẳng nói là phá chấp trước. Ở sau đều như vậy. Đối trị: Nói nương nghóa chân như mà nói, ở đây đứng về mặt chân tánh hiển bày công đức. Chân thể vốn một nghóa mà có khác nhau. Đã đối với một thể nói nghóa công đức là khác nhau mà không khác nhau. Sớ: Hai mà chẳng hai, nói ở trên chép: “Tuy thật có nghóa các công đức này mà không có tướng khác nhau, đồng một vị chỉ một chân như, dùng vô phân biệt lìa tướng phân biệt, v.v…”. Nói do sinh diệt, ở đây đối pháp vọng hiển bày công đức, đã đối vọng để hiển bày, ở đây cũng khác nhau tức không khác nhau. Sớ: Chẳng hai mà hai, như trước nói: “Nếu là tâm khởi thấy thì có tướng chẳng thấy. Tâm tánh lìa thấy tức là nghóa soi chiếu khắp pháp giới, v.v…” Như trên, v.v…, tức văn năng trị. Chấp duyên: Nói các pháp chẳng lìa chân như, kinh Viên Giác chép: “Tất cả chúng sinh các thứ huyễn hóa đều sinh từ diệu tâm Viên Giác của Như Lai”. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Tất cả ba cõi chỉ là nhất tâm”. Lại nói: “Không hề có một pháp nào được lìa pháp tánh”. Chấp tướng: Sớ: Tùy duyên, v.v…, ở đây nói chân như theo vô minh duyên thành pháp thế gian. Do chẳng sáng suốt cho rằng trong chân thể vốn có nhiễm này. Quyết định: Sớ: Tịnh đức diệu hữu, tức Bất không Như Lai tạng, đại để đồng trong văn đối trị phần thứ hai ở trước, rộng như trong phần tướng đại đã nói. Vọng nhiễm lý không: có hai ý: Trong chân lý không có vọng nhiễm này, tức Không Như Lai tạng. Y cứ tự tánh vọng đạo lý cũng không. Văn trên nói: “Do tất cả pháp đều từ tâm khởi vọng niệm mà sinh”. Lại nói: “Tất cả pháp như bóng trong gương, không thật có. Vọng không nhập chân”: tức không tương ưng. Văn trên nói: “Từ xưa đến nay tất cả pháp nhiễm chẳng tương ưng, do thể vọng vốn không lấy gì nhập chân như tương ưng với chân? Phá rộng ra: Nói không có việc đó, nếu vọng thật có, khi chứng không thì phải dứt chứng. Đã trừ diệt nên biết vọng vốn chẳng thật có. Do chân thể khi chứng rốt ráo chẳng không. Có người thấp kém nghe nghóa tánh đầy đủ không thể hiểu sâu lý thú, liền cho rằng bổn tánh có đủ mười cõi sắc tâm, pháp lậu vô lậu. Khi khởi dụng đều đối với bổn pháp tự thể mà khởi, gọi là dụng của toàn thể. Rõ như trong thức thứ tám chứa đựng hạt giống không khác (ở đây đồng đoạn trước chấp tánh tức đồng sắc tâm). Lại nói chân tánh trừ vô minh có nghóa khác nhau (tức đồng đoạn này chấp pháp tánh vốn có nhiễm). Thường thường vẽ vời ở văn, nghi lầm hậu sinh trở lại phỉ báng văn, lại cho là phương tiện. Bồ-tát huyền ký biết ngày nay nên dùn đây để đối trị, lành thay Đại só từ bi cứu độ sâu xa biết bao! Nếy Đại só (Luận chủ) thản nhiên không đổi ý nghó đến các mê tình thì đâu thể đóng được cửa tà kiến, con đường địa ngục A-tỳ kia lại càng gần. Thương thay! Cái mê tình ấy cũng đã sống đả phá bác bỏ, như đã thấy ở các chương khác (của luận này). Chấp duyên: Sớ: Đều hai pháp, nghóa là văn đối trị chấp duyên, chấp tướng, cả hai đều nói lên hai pháp sinh tử, Niết-bàn. Y theo văn sẽ thấy. Nói có sinh tử, Niết-bàn, đây là văn trong kinh Thắng-man đã dẫn ở trước. Lại kinh nói: “Từ vô thỉ đến nay tánh làm chỗ nương của các pháp, do đây có các đường và chứng quả Niết-bàn”. Chấp tướng: Nói chẳng hiểu, v.v…, ý Phật nói: Như Lai tạng là chỗ nương căn bản của mê ngộ. Mê thì sinh tử, ngộ thì Niết-bàn. Nhưng sinh tử không có ban đầu, Niết-bàn không có cùng tận. Chẳng đạt lý này bèn thành cái thấy trước sau. Văn sau hiển bày đầy đủ, cũng đồng câu hỏi thứ ba trong ba câu hỏi của Viên Giác Cương Tạng. Văn nói: “Nếu các chúng sinh xưa nay thành Phật, sau khởi vô minh, tất cả chúng sinh vì sao lại khởi tất cả phiền não”. Cũng như phần thứ tư trong kinh Lăng-nghiêm nói, ở đây thì sinh tử, Niết-bàn đều có trước sau. Sớ: Ngoại đạo v.v…, nghóa là Số Luận Sư. Do kia nương định Phi tưởng phát thần thông thế tục, ứng nới tà đạo, biết việc quán khứ tám vạn kiếp. Lỗi ở đây chẳng biết cho sinh tử đều không, biết vị lai tám muôn kiếp việc tử đây sinh kia, sau cũng chẳng biết. Kia chấp tánh mờ mịt là thường, tử đây sinh các pháp thế gian. Mờ mịt khó biết, nên gọi là minh tánh (tánh minh sơ) làm sao mà sinh? Nghóa là từ minh sơ sinh giác; từ giác sinh ngã tâm; từ ngã tâm sinh năm duy lượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc; từ năm duy lượng sinh năm đại là đất, nước, gió, lửa, không, từ năm đại sinh mười một căn là năm tri căn: mắt, tai, mũi miệng, thân, và năm căn tác nghiệp là tay, chân, miệng, đại, tiểu tiện căn và tâm bình đẳng căn. Bấy giờ, gọi là sinh tử thành. Chấp một thần ngã làm chủ thọ dụng. Ngã suy tư thắng cảnh, minh tánh khắp sinh làm ngã thọ dụng. Ngã thọ dụng nên làm cảnh trói buộc không được giải thoát. Nếu ngã không suytư minh tánh chẳng khắp, thần ngã giải thoát gọi là Niết-bàn. Đây có hai mươi lăm đế, minh tánh làm cái ban đầu năng biến khởi. Sinh tử không có cái ban đầu: Nói vô minh vô thỉ, tức trước nói “nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt, v.v…” Lại nói: “Tất cả chúng sinh chẳng gọi là giác, do từ xưa đến nay không hề lìa niệm”. Nên nói vô thỉ vô minh đều là văn năng trị. Sớ: Nhân vương, v.v…, kinh kia ở phẩm thứ nhất nói: “Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh phiền não chẳng ra khỏi ba cõi, chư Phật Ứng, Hóa, Pháp thân cũng chẳng ra khỏi ba cõi”. “Ba cõi không chúng sinh Phật hóa chỗ nào? Cho nên ta nói, ngoài ba cõi có riêng một cõi chúng sinh” là trong kinh đại Hữu của ngoại đạo nói, chẳng phải chỗ nói của bảy Đức Phật. Kinh Đại Hữu, Thắng Luận Sư nói có sáu câu: Thật, đức, nghiệp, đại hữu, đồng dị và hoà hợp. Trong sáu câu này, tánh đại hữu kia hay có tất cả pháp lìa tất cả pháp có tự thể riêng. Niết-bàn không có mé sau: Niết-bàn không có mé sau, tức ở trước nói: “Có chỗ cho rằng tâm tánh chẳng sinh chẳng diệt”. Lại nói: “Chẳng có mé trước sinh, chẳng có mé sau diệt”. Lại nói: “Pháp thân hiển hiện khởi dụng không dứt, v.v…” đều là văn năng trị. Chấp duyên: Nói nhân vô ngã, chỗ nói trong tạng Tiểu thừa. Do căn chẳng nhạy bén, chỉ là phân biệt trong uẩn không nhân, khiến chứng nhân không. Chấp tướng: Nói chẳng rốt ráo, chưa nói pháp khoao 1.Giáo gọi là nửa chữ, nhưng có nhiều nghóa gọi là chẳng rốt ráo. Hạnh chỉ hành tự lợi, chưa thể lợi tha. Trí chỉ được trí sinh không, chẳng được trí pháp không. Dứt chỉ dứt phiền não chẳng dứt hiểu biết. Chứng chỉ chứng lý sinh không, chẳng chứng lý pháp không. Được chỉ được Niết-bàn hữu dư, vô dư, chẳng được Niết-bàn vô trụ xứ. Thấy năm ấm, tuy đối với uẩn không thấy tướng nhân mà thấy uẩn, v.v… là pháp thật. Đã chấp ấm có pháp thật, nên thấy ba cõi chẳng an giống như nhà lửa, mong cầu xuất ly như cứu lửa cháy đầu, hướng về chỗ vắng lặng an vui. Đối trị: Nói: Năm ấm tự tánh chẳng sinh, v.v…, tức môn Chân như. Trước nói: “Tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng nói năng, tên gọi, tâm duyên, rốt ráo bình đẳng”. Lại nói: “Tất cả pháp tức tánh chân thật…” Lại đồng tướng, văn nói: “Tất cả chúng sinh xưa nay thường trụ, nhập vào Niết-bàn”. Văn sau lại nói: “Do tin tất cả pháp từ xưa đến nay tự Niết-bàn”. Nên trong văn thật hội, tương nhập đều là năng trị. Rốt ráo lìa: Trước y cứ bệnh trạng kia tùy bệnh cho thuốc, nên đối với không nói có, đối với có nói không, chưa thể rốt ráo. Nay thì đủ đứng về mặt chân lý tất cả đều mất. Đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành dứt, bình đẳng một vị mới gọi là rốt ráo. Tức là đối trị phù hợp ở chỗ nương lời nói chân như, rốt ráo phù hợp ở lìa lời nói chân như. - Hiển bày chung: Nói nhiễm tịnh không tự tướng, sở dó được gọi là nhiễm là do đối lập với tịnh. Nên biết tướng nhiễm chẳng có tự tướng, tướng tịnh cũng giống như vậy. Ngoài ra gốc ngọn có không, chúng sinh Phật, cho đến thế, xuất thế, v.v… phỏng theo đây mà biết. Nên kinh Tịnh Danh chép: “Nếu thấy thật tánh cấu tức tướng không tịnh. Thuận theo tướng diệt là nhập pháp môn không hai”. Sớ: Nhân đối đãi, v.v…, nếu pháp nhiễm thì do đối đãi tịnh mà thành, tức pháp tịnh trở lại đối đãi nhiễm. Như thế lần lượt rơi vào lỗi không cùng. Không có nhân đối đãi, v.v…, nếu vốn không có nhiễm làm nhân để đối đãi thì đâu có tịnh làm chỗ pháp thành. Đối đãi nhau hay không đối đãi nhau ở sau hoặc hỏi rằng: Các nhiễm tịnh này lẽ ra lúc ở mê chưa được lìa ở nơi tướng đối đãi, ngộ rồi mới được tướng đối đãi tức không đối đãi? Cho nên ở đây giải thích rằng: “Pháp thể vốn như vậy, chẳng cho là do ngộ mới được như thế. Do pháp nhiễm tịnh vốn lìa nói năng phân biệt rốt ráo bình đẳng, đâu cần đối đãi ngộ mới không ư! Như ở sau tự giải thích. - Loại cầu: Sớ: trình bày phi tâm ở đây trình bày một câu chẳng phải trí, v.v… Trên nêu chung phi sắc phi tâm, nay đây là phi trí, v.v… chỉ bày lại nghóa phi tâm. Trình bày phi sắc ở trên, như trước đã thấy. Cũng có thể câu này ngược lại nghóa phi sắc ở trước. Nghóa là phi sắc, tâm, trí, thức, v.v… tức do nhiếp hết tất cả các pháp đối đãi đều không của thế gian, xuất thế gian, nay e nghe nói không này, nên liền chấp không, rơi vào đoạn kiến. Nay thì ngược lại, có không đều dứt, lại là ngược lại đối trị ở trước, trong đó lìa pháp năng trị sở trị, có không đều chẳng chấp. Trước thì lấy thuốc trị bệnh, đây thì thuốc bệnh đều dứt, rốt ráo lìa, nghóa ở đây trình bày. Luận Rốt ráo không thể nói tướng, là tổng kết. Ở đây có hai ý: 1- Theo thời: Nghóa là nói tướng sắc tâm chẳng do tạm thời không thể nói, ở tận vị lai rốt ráo cũng không thể nói. 2- Theo pháp: Chẳng cho rằng pháp thể không có tự thể tạo tướng sắc tâm, nói tất cả tướng một khác, phàm thánh, nhân quả, sinh tử, Niết-bàn rốt ráo không thể nói. Môn chân như ở trước chép: “Tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng nói năng, lìa tướng tên gọi, v.v…” Nay tức tướng tận trở về như, hợp với bổn thể, nhập môn Chân như. Chính hội phục nghi: Hòa hợp ý Phật để giải thích nghi ngờ thưa hỏi. Ở đây nghi chẳng trình bày, chỉ có văn giải thích, điều phục mà chẳng nói nên gọi là Phục nghi. Sớ: Lìa tánh vốn không. Bổn tánh đã không đâu có tướng, như văn trước hỏi, nên kinh nói: “Tất cả các tướng đều là luống dối” Các thứ nói năng, tức ở trước văn trình bày chánh nghóa. Giả nói, v.v…, như nhờ bè qua sông, ý chẳng ở bè. Do đây cõi chúng sinh đều do văn, tư, tu nhập Tam-ma-địa, phải dùng âm thanh làm Phật sự. Nên kinh nói: “Chân giáo thể cõi này, thanh tịnh ở âm thanh”. Muốn được Tam-ma-đề, thật do nghe mà vào. Lại kinh chép: “Tổng trì không văn tự, Phật dùng văn tự để nói pháp. NÓI Ý: Nói lìa niệm trở về như, v.v…, ý khiến lìa niệm tà chấp có không ở trước, trở về với chân như. Trí Luận nói: “Niệm tưởng quán đã dứt, pháp ngôn thuyết đều diệt. Người khéo léo như thế thì thấy được Bát-nhã”. Giải thích thành: Nói khiến tâm sinh diệt, tâm thông với chân vọng, chỉ nương luận chủ, trì nghiệp nói có khác. Thật trí tức bản giác, hay nhập tức thỉ giác. Bậc Thập địa trở xuống không được nhập, bởi duyên có niệm. Nên văn kinh ở trước nói: “Tất cả chúng sinh chẳng gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm sinh diệt không hề lìa niệm”. Phân biệt phát thú đạo tướng: Trước tuy chánh nghóa đã rõ, tà chấp đã hết, ngay nơi luận kiến giải tạm không lệch lạc hẹp hòi. Nhưng đối với phát tâm thú cầu tu chứng thứ bậc có khác nhau, chưa thể hiểu rõ tất cả. Nếu dừng mà không tiến thì kiến giải ở trước làm gì? Có giải mà không thực hành như đèn chiếu vật ở trong gió không rõ ràng. Cũng như có mắt mả không có chân, thì đâu đến được phía trước. Hoặc tiến thì biết lại đến đâu, nên ở đây phân biệt cho biết, biết rồi thì tiến, thì khỏi xen lạm bậc thượng lưu kia, và tự khinh để lui sụt. Từ đây trở xuống là giải thích trong phần lập nghóa, chỗ lập nghóa thừa. Nêu ý giải thích tên: Trong văn chỉ có nêu chương giải thích tên, mà không nói nêu ý, e rằng chữ chương lầm chữ ý, người có ý nên xem kỹ. Sớ: Giác đạo, tức chỗ chứng quả Bồ-đề, quả Phật Viên thông nên gọi là Đạo. Nói phát tâm: là phát ba thứ tâm. Tu hành tức ban đầu từ địa vị Tín, sau cùng đến Kim Cương, trở lại chỗ hành tự lợi, lợi tha, các ba-la- mật, mỗi mỗi đều thú hướng đến địa vị trên. Sớ: Muốn rõ, v.v…, thông ý tựa kia, nói về tức phân biệt. Chủng loại khác nhau: giải thích một chữ Tướng, tức phát tâm cùng hạnh đều có khác nhau, nên gọi là Tướng. Như phát tâm về thời gian có Chân (tín thành tựu phát tâm), Ngụy (học người khác mà phát tâm) phát tâm về không gian có cạn (Tín thành tựu phát tâm). Sâu (chứng phát tâm, giải hạnh phát tâm, chung cho cạn sâu), cho nên thực hành thì sẽ biết. Nêu: Nói phát ba thứ tâm, nghóa có chung riêng, chung thì gọi chung là phát thú, nên nêu rằng: Nghóa phát tâm tu hành thú hướng. Riêng thì hai thừ trước là phát khởi, một thứ sau là khai phát. Lại, tâm là sở phát, người và Bồ-đề là năng phát. Nghóa là người năng khởi phát, Bồ-đề là hay dẫn phát. Ở đây người có nội huân làm nhân duyên, gốc lành làm duyên tăng thượng, Bồ-đề làm cảnh sở duyên. Do các duyên này mà phát tâm kia. Đây là do năng hướng về sở, gọi là phát tâm. Lại theo vị khác nhau có nghóa năng sở phát thú, đến văn sẽ nói. Gạn nêu: Sớ: Thập tín, v.v…, đây tức Thập Tín mãn tâm nhân làm năng phát, trực, v.v… ba tâm làm sở phát. Lại, Thập Tín mãn tâm làm năng thú, địa vị Thập trụ làm sở thú. Hai địa vị xuất nhập đồng thời, nghóa như trước nói. Giải pháp không: tức ở sau nói: “Do biết pháp tánh lìa san tham, cho đến không vô minh, v.v…” biết tức giải. Thuận hạnh Thập độ: sau nói thuận tánh tu hành Đàn ba-la- mật, cho đến Bát-nhã ba-la-mật, v.v… năng sở phát thú nêu trên rất dễ hiểu. Sơ địa, v.v…, ở đây lấy hai địa cho đến quả Phật, nói về nghóa năng sở phát thú, v.v… hai thứ trước khoa sau sẽ phân biệt hơn kém. Tương tự, do có tâm phân biệt gọi là Tương tự giác. Chân thật: do được trí vô phân biệt tức Tùy phần giác. Chung đứng về mặt chứng chân thật. Nhưng trong ba thứ này: Bao gồm tín trụ, bao gồm hạnh hướng và bao gồm quả địa. Ba thứ tâm này từ nhân đến quả, tất cả hạnh vị đều đầy đủ. Hỏi: Nói nương vào những người nào? đứng về mặt địa vị người nào nói nghóa phát tâm? Tu những hạnh gì? Do thực hành hạnh nào mà được phát tâm? Đáp: Y cứ ý đáp ở sau, tức nương vào người Thập tín, tu tinh tấn, niệm, v.v… mười thứ thuận hạnh. Mười ngàn kiếp đầy đủ đến Thập tín mãn tâm thì sẽ phát. Sớ: Trước tin, v.v…, tức nói trong đây đáp, trước sau là ý hai khoa. Người năng tu: Sớ: Nhiều môn: nghóa là Tiểu thừa và quyền thật khác nhau. Đã thấy ở văn trước. Trong ba môn này nay chấp Thật giáo, nói nghóa tâm tụ như sớ phân biệt. Pháp sở tu: Nói tín nghiệp quả báo: Nghiệp chung cho thiện ác, quả chung cho khổ vui. Quả đáp được nhân nên gọi là báo, đây là nói chung, chẳng đối với mặt chung riêng. Thập thiện: tức mười thứ chẳng sát, v.v…., chẳng cho rằng mưởi thứ tin tâm. Nếu mười thứ tín…, văn sau mới phối hợp. Sớ: Nghóa là có v.v… trở xuống, văn huân chung ở thầy dạy. Nội huân gồm thể tướng. Gốc lành, nếu y theo quá khứ trở lại nhờ sức huân mà thành. Nay hướng về hiện tại. Vả lại gọi là điều lành đời trước, mà nói về mặt nhân gọi là căn. Năng tín v.v… trở xuống, tức nghóa dừng diệt tướng. Xưa tuy có thiện phát nhưng huân, gốc lành rất kém mới thành hạt giống kia, chưa thể khởi tín cần cầu các hạnh. Nay trở lại tập, trở lại huân, và nhờ sức bạn, ba việc này mới khởi được. Đây là do gốc lành xưa mà thành, ngày nay mới khởi được. Chính đồng kinh Pháp Hoa dụ về hạt châu nơi chéo áo. Phần phước đức, phần tức nghóa nhân. Hạnh mười điều lành này ban đầu thành phước hữu lậu thế gian, sau thành phước vô lậu xuất thế, cũng tức một phần trong phước đức, do phước có vô lượng, cũng tức phân chia phước đức, nói lên chẳng phải trí tuệ. Nói chán sinh tử, v.v…, tin hiểu dần thêm, hay biết ba cõi chẳng an giống như lửa cháy. Sở dó nhàm chán, biết quả Bồ-đề của Phật là rất mát mẻ, cho nên cầu. Sớ: Bồ-đề phần, cũng như trước nói. Hai phần này đều trên phần phước đức đến quả thành tựu. Như thứ lớp là ba đức trí, đoạn, ân. Nhân hạnh: Việc ưa chán, tình động ở nhân này khởi hạnh, nên gọi là hạnh nhân. Hỏi: Tu nhân mười điều lành đã là hạnh kia, tại sao gọi là hạnh nhân? Đáp: Hướng về hạnh sau là xuất thế, nên lấy điều lành thế gian làm nhân, đây là hạnh hữu lậu thế gian, và hạnh vô lậu xuất thế làm nhân. sao? Hỏi: Chán sinh tử cầu Bồ-đề, há chẳng phải là hạnh xuất thế hay Đáp: Tuy có tâm này mà chưa có việc kia, nói chán cầu này chỉ là việc lành, chưa tương ưng với lý quán, chẳng gọi là chánh hạnh. Nhưng y cứ văn này, vẫn ở trước tín, chưa nhập Thập tín. Vả lại, là Thập tín tạo phương tiện. Như ở đời người khởi tâm chán cầu muốn làm việc lành, đâu phải là người Thập tín ư? Nên sớ chép: “Trên làm việc lành hành nhân là nghóa này. Kế đến nói: “Tu hành tín tâm mới chính là địa vị Thập Tín”. Nói được gặp, v.v…, Phật tức y cứ địa vị hợp là ứng thân. Ở trong đó tùy theo căn cơ hóa hiện chẳng nhất định một thứ. Nay chỉ nói Phật nói theo bổn. Cũng có thể lệch nêu do hình Phật được độ mà nói gần gũi, kính thờ cung cấp cúng dường. Cũng có thể nhân thừa, nghóa là tự thân được vâng thọ lời dạy bảo của Phật. Đã là hiện thân nghe pháp yếu, tức nghe pháp sinh hiểu, tu hành tín tâm. Sớ: Hạnh duyên, tức trong dụng huân tập duyên khác nhau. Nghóa là y cứ, v.v… do trước nói: “Nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu”, nên không thể thiếu. Thập tín tâm, nghóa là tín, tấn, niệm, định, tuệ, thí, giới, hộ, xả, nguyện. Ở địa vị này khởi đủ bốn thứ tín tâm, thực hành năm diệu hạnh, tu tập Tam-muội chân như, nhập dần dần sâu, cho đến thành thục, có khả năng nhập Sơ trụ. Hạnh thành: Nói một muôn kiếp, đứng về mặt lợi độn căn khoa phân biệt có bốn trường hợp: Lợi căn chẳng tinh tấn. Lợi căn tinh tấn (hai kiếp số này đều không định được). Độn căn tinh tấn, rất chậm là một muôn kiếp. Độn căn chẳng tinh tấn, đây chính khốn cùng chẳng học thì đâu thể nói về kiếp số ư? Nay trong luận này lấy trường hợp thứ ba, nên nói một muôn kiếp. Kinh Bổn Nghiệp nói: “Bồ-tát Tín Tướng này một ngàn kiếp thực hành mười giới pháp, nên xuất Thập tín tâm, nhập địa vị Sơ trụ”. Lại so với kia nói: “Nếu ba kiếp, hai kiếp, ba kiếp tu pháp mười điều lành, vừa thoái vừa xuất. Nếu gặp bạn lành kính tin Phật pháp, hoặc một kiếp, hai kiếp mới nhập Trụ”. Sớ: Hạnh thành, Bổn Sớ nói: “Khi viên mãn hạnh thành”. Thời nghóa là một ngàn kiếp. Hạnh là Thập Tín mãn tâm cho đến xuất tâm. Nói chư Phật, Bồ-tát, tức ở trước chỗ gặp Phật, Bồ-tát, v.v… Trong đây đã dạy khiến phát tâm, vẫn ở chỗ gặp Phật ở địa vị Tín, hoặc hóa hoặc báo. Sớ: Đứng về mặt thắng duyên, tức Phật và Bồ-tát thấy chúng sinh khổ, chánh pháp diệt đều là duyên tốt. Phật và Bồ-tát đã rũ lòng dạy bảo sao lại không phát tâm? Chúng ta thường gặp người phước mõng trí kém, có lời khuyến dụ còn tự phát tâm, huống chi Phật và Bồ-tát tự thân dạy bảo ư? Hoặc quán tất cả chúng sinh giống mình không khác, chỉ do mê chân chấp vọng, luống thọ luân hối, nên khởi đại bi tâm muốn cứu độ khắp. Tự thẹn sức mình việc nhỏ trái với nguyện, vả lại phát tâm thú cầu quả Phật, đầy đủ thần dụng mới có khả năng cứu gíup. Nên kinh Thập Địa nói: “Thấy các chúng sinh cô độc không bạn, sinh tâm thương xót”. Ở đây như người thấy dân cực khổ, thuế nặng việc nhọc nhiều, chân chánh khiến chẳng hành, không biết chỗ kêu oan. Tự nghó không có sức lực làm sao đối trị. Do đó mà tiến đức tu nghiệp cầu tiến cử giữ chức quan, bỏ thu thuế dân nghèo, khiến trên dưới không oán do chính trị. Hoặc thấy Phật pháp sắp diệt, chúng sinh không chỗ nương, vì muốn che chở, lại ít đạo lực nên phát tâm tu hành để mong chứng nhập, theo sức dụng kia mới cứu giúp được. Nhưng phàm nói pháp, Phật chỉ dạy mục đích là hoằng hóa thông suốt. Nếu bỏ phế không hành tức là nghóa diệt, chẳng phải như lửa của Tần Thỉ Hoàng thiêu đốt thầy trò. Chính như trong tựa nghóa làm đắm chìm kinh sách. Hành diệt, là không người tu. Nên Trí Luận chép: “Pháp diệt là tu hành diệt”. Nay chỗ che chở cũng chỉ giáo hạnh, tức biên chép đọc tụng, tùy khả năng giải thích. Khuyến khích hậu học khiến đèn sáng nối tiếp, sáng rỡ vô cùng, đó là hộ giáo. Nếu tự mình tu tiến gắng sức hữu duyên, khiến hạt giống Phật chẳng dứt, là hộ hạnh. Nếu lại tường tận hai pháp lý, quả cũng có nghóa diệt. Nhưng cùng tướng giáo hạnh ở trên do đó mà diệt. Do không giáo nên không hạnh, không hạnh nên không chứng, không chứng nên không quả. Bốn thứ này tuy đều gọi là diệt mà nghóa diệt khác nhau. Nghóa là giào hạnh tuy đoạn diệt mà lý pháp chỉ ẩn diệt. Quả đứng về mặt tánh tướng gồm cả hai nghóa. Kinh Niết-bàn chép: “Có hai nhân duyên giúp chánh pháp tồn tại lâu dài là: “Bên trong có Tỳ-kheo trì giới, bên ngoài có đàn việt cúng dường”. Lại nói: “Di pháp của Đức Thích-ca từ đó diệt hẳn, các Tỳ-kheo, v.v… chẳng phải thiếu thốn cúng dường khiến Phật pháp diệt. Lại nhờ bốn việc đầy đủ sinh tâm kiêu mạn buông lung, ma trời được dịp làm hại”. Đức Tha-ca di chúc pháp dù là hằng diệt, nếu hoặc phát tâm thú hướng quả Phật, đâu chỉ trì giới, nên Phật pháp kia không do đâu thấy diệt. Nay trong luận nói hoặc tức nghóa bất định. Trong ba thứ tùy theo ngay một việc mà phát được tâm. Thắng duyên v.v… trở xuống là nói Bồ-tát này muôn kiếp tu hành khí dụng chẳng cạn, nhân duyên phát thú đâu chỉ ba thứ này, nên nay lược mà nêu. Do thực hành hai lợi, trong duyên có vô lượng không thể chép đủ, cho ên nói lược. Ở trong đây v.v… trở xuống, phối hợp tự tha, bởi do sự chỉ dạy của người khác và xuất phát tự tâm mình, cả hai khác nhau. Cũng đồng v.v… trở xuống là phối hợp chỗ phát tâm. Trực tâm: ở sau nói: “Một là trực tâm chánh niệm pháp chân như, nương thân giáo nên phát được tâm, chánh niệm chân như lìa bỏ hôn trầm, trạo cử, v.v… tất cả tà khúc, gọi là Trực. Thâm tâm, vì muốn hộ pháp phải phát tâm đầy đủ tu muôn hạnh, đủ các công đức tức thành tâm này. Ngoài ra, đồng tâm đại bi, như văn rất dễ thấy. Kết thành: Sớ Chẳng rơi vào phàm tiểu, v.v…, nên Luận Thập Địa nói khiến hộ trì hai hạnh, là hộ hạnh phiền não và hạnh Nhị thừa. Nếu người Thanh Văn nghe trách hạnh phàm phu lại rơi vào hạnh Nhị thừa. Nghe quở trách hạnh Nhị thừa lại rơi vào hạnh phàm phu, chẳng chịu thực hành Trung đạo. Nay được tín tâm thành tựu, nên chẳng rơi rớt. Tập chủng tánh, trong kinh Bổn Nghiệp, từ nhân đến quả xếp vào sáu tánh. Nghóa là Thập trụ tập chủng tánh, Thập Hạnh tánh chủng tánh, thập hồi hướng đạo chủng tánh, Thập địa thánh chủng tánh, Đẳng giới tánh và diệu giác tánh”, đây là ba tánh đầu. Thuận nội huân: ngược lại thuận với thể tướng chân như, ở đây phân biệt Sơ địa trở lên tương ưng tâm vô phân biệt. Nay đây trước Sơ địa chỉ thuận theo gọi là tương ưng. Vì chưa được tâm vô phân biệt. Chắc chắn sẽ được quả, do trụ chánh nhân quả Phật. Nghóa là Bồ- tát này nhập nhóm chánh định tương ưng với chánh nhân của Phật. Đã thuân nhân kia chắc chắn được quả, nên nói vào hạt giống Như Lai, hạt giống tức là nhân. Nhân bên trong: Luận gốc lành kém mỏng, căn cơ yếu kém. Do xưa huân tập hạt giống lành không thể nhiều. Sớ: Hoặc nặng, tham sân lẫy lừng không thể chế phục. Nói gặp Phật, ở đây chung cả sau khi diệt thấy hình tượng Phật cũng được cúng dường. Sớ: Đảo cầu, ưa tu năm giới, chỉ mong quả báo trời, người. Trời, người chẳng lìa sinh tử, chính là chỗ nhàm chán mà ngược lại cầu, nên gọi là đảo. Đứng về mặt quả nói nhân, nên luận nói: “Hạt giống”. Khác với cầu, nghóa là sợ hãi sinh tử, ưa quán Bốn đế, mười hai nhân duyên, cầu quả Nhị thừa. Tuy ra khỏi ba cõi mà chưa thể rốt ráo không đồng đường với ba đời chư Phật, nên nói khác. Nói tiến lùi, v.v…, như ở sau tự nói, nhưng đoạn văn này từ đầu đến cúng dường, hợp lại đều là đức mỏng. Do gốc lành là cội đức, ngoài ra đức là hạnh kém, nên biết rõ. Duyên ngoài: Nói có người cúng dường cho đến Rơi vào đất Nhị thừa, đều nói về cầu Đại thừa, là tướng tiến lùi. Sớ: Khi chưa viên mãn: do nói về mặt độn căn tinh tấn. Dùng sắc thấy Phật, đã do sắc, âm thanh cầu là người hành tà đạo, không thể thấy Như Lai”. Trước nói: “Không biếtchuyển thức hiện” nên thấy từ ngoài đến, chấp sắc phân biệt. Hoặc thấy Như Lai bằng hình tượng tô vẽ, v.v… Trụ tướng cúng tăng, không thể đạt được ba luân thể không trụ mà thực hành bố thí. Theo giáo yếu kém: ở đây cùng với trước khởi hạt giống Nhị thừa khác nhau. Trước thì nhân kém, đây thì duyên kém. Học theo dấu vết người khác, chỉ theo kia mà hành, tự không phân biệt, học ngoài dấu vết người khác, không tự soi chiếu tâm. Đây là thấy người khác lui sụt mà lại lui sụt, hoặc trong tâm tự lui sụt. Đây v.v…, tổng kết phân biệt. Do bi trí là tâm thể Bồ-đề, phàm phu nương hạnh đầu tiên phát tâm Bồ-đề, trước phải có trí rõ chân tánh sẳn có, vô minh vốn không, cầu dứt vô minh vốn không, cầu chứng chân tánh sẵn có. Kế đến phải đầy đủ từ bi, tận thời vị lai độ chúng sinh ở các thế giới. Tuy nhiên, sau do nguyện cần phải chế phát không muốn tạm bỏ, không đến chỗ lao nhọc. Ở đây ba thứ đầy đủ mới là hạnh đầu của Đại thừa chân chánh. Đã chẳng đồng kia nên nói “là chẳng đúng”, nhưng trong đây nói phát tâm là Tín vị sơ tâm, mới phát tâm cầu đạo, chẳng đồng tín mãn phát tâm Nhập trụ. Như người thực hành đầu tiên phát tín tâm Đại thừa, đây vẫn ở địa vị ban đầu của tín. - Tổng kết thành: Nói duyên ác, năm dục và nhị thừa. Lui sụt, mất chỗ phát tâm chẳng nhập tín vị, lui sụt phàm phu địa, đây do ngũ dục làm duyên ác. Nên kinh nói: “Trăm ngàn muôn người phát tâm Bồ-đề, hoặc một hoặc hai đến ở nơi quả Phật. Ngoài ra rơi vào Nhị thừa”. Lại kinh noí: “Bồ-tát phát đại tâm, thời gian nhiều mà được quả rất ít. Nhưng ở đây trước sau hơn kém hướng về nhau, mỗi trường hợp có bảy việc. Lại bảy việc kém là: Địa vị thứ lớp kém (Thập tín sơ tâm) Nội huân kém (không sức lực) Gốc lành kém (rất mỏng) Thời hạn kém (chưa trải qua vạn kiếp) Duyên bên ngoài kém (do sắc tướng thấy Phật) Khởi hạnh kém (nhân, thiên, nhị thừa) Rốt ráo kém (thoái lui vào phàm phu, nhị thừa) Bảy việc cao quý là: Địa vị thứ lớp cao quý (địa vị Thập tín mãn tâm) Nội huân cao quý (có sức lực) Gốc lành cao quý (từ lâu trồng cội đức) Thời hạn cao quý (Trải qua một muôn kiếp) Duyên bên ngoài cao quý (gặp Phật thọ giáo) Khởi hạnh cao quý (thẳng sâu nơi từ bi…) Rốt ráo thù thắng (chánh định chẳng lui sụt). Lặp lại: Nói phát những tâm gì? Trước nói chỉ là nhân duyên hay phát, chưa biết chỗ phát tâm tạo hành tướng gì, nên ở đây gạn hỏi lại - Nêu gạn hỏi lại: Sớ: Hướng… lý, v.v… thể chân lý diệu lý lìa có, không, một, khác, phàm thánh, nhiễm tịnh, v.v… tất cả tướng tà kiến, biên kiến. Nếu muốn tạo thẳng cần phải chánh niệm, chánh niệm tức chánh tuệ, chánh tuệ tức tuệ tâm. Đây là lý không riêng khác, hướng tâm sẽ thẳng. Nên kinh Chiêm Sát nói: “Chân như thành hạnh người tâm ngay thẳng. Như rắn tánh hạnh cong vạy, vào ống tre thì thẳng. Tam-muội điều tâm cũng giống như thế”. Trong đây chánh niệm tức Tam-muội chân như. Hai bổn hạnh: đây trực tâm cùng chung hai hạnh làm gốc. Nghóa là niệm chân như chẳng đầy đủ công đức vô lậu, tất cả chúng sinh đồng có tánh này, đều ngay đây thành Phật. Do biết đầy đủ đức nên khởi được hạnh tự lợi. Do biết tánh đồng nên khởi được hạnh lợi tha (chỗ hạnh nương gốc). Lại do niệm chân như chẳng có mé trước sinh, chẳng có mé sau diệt, nên khiến hai hạnh rốt ráo không mệt mỏi chán nản (hạnh chẳng dứt gốc). Lại như tánh này lìa nói năng phân biệt, rốt ráo bình đẳng, khiến cho hai hạnh lìa tướng thành nhân vô lậu (hạnh tương ưng gốc). Nên nhất tâm này chung làm hai gốc. Nói tập, v.v…, nhạo là mong muốn, chuyên chú, quyết định. Do đó biết chẳng giống hiếu, (tốt đẹp), hiếu chẳng giống nhạo. Sớ: Đầy đủ muôn đức, sáu độ muôn hạnh tất cả đều tu. Chỗ tu hành một độ ngược lại với vọng niệm. Do hiển bày tánh trên có hà sa công đức, như dùng trí tuệ phá ngược vô minh hiển bày thánh tánh trên nghóa trí tuệ rộng lớn sáng suốt, là biết tu hành. Bởi vì hiển đức, nên đứng về mặt sở thành để hiểu tu hành. Theo đây thì không chỉ ở thâm tâm, cũng được gọi là tâm rộng lớn. Do muôn hạnh tu đầy đủ(rộng), nên đều gom vào nguồn tâm (sâu). Nay luận nêu lấy về chiều dọc nên gọi là “sâu xa”. Giải thích về chiều ngang nên gọi là “tất cả”. Ý lấy hai văn cùng hiển bày. Nên nay văn sớ cũng gồm cả hai nghóa. Nếu có sâu mà không rộng (gạn bày một hạnh của lý), hoặc là rộng mà không sâu (nhiều hạnh lành thế gian) đều chẳng phải là hạnh Đại thừa, nay đây gồm nói để thành đại hạnh của Bồ-tát. Bổn hạnh tự lợi, thân tâm ưa nguyện, nếu không ưa nguyện thì đâu thể hành. Có thể lấy đó để nói lẫn nhau. Cứu khổ rộng chúng sinh, là tâm rộng lớn, ba cõi độ khắp không thân không oán. Giúp được Bồ-đề, là tên bậc nhất. Vượt khỏi trời, người và Nhị thừa. Nếu không như vậy thì đâu gọi là đại bi, nhưng cứu khổ chúng sinh chính là đại bi, khiến được Bồ-đề, là đại từ. Do Bản giác là quả an vui, từ bi ban cho an vui. Nay luận chỉ nêu đại bi cứu khổ, phải có đại từ ban cho an vui. Nên sớ gồm cả mà giải thích. Nếu không có tâm này đâu thể độ thoát, nên nói “bổn hạnh”. Diệu hạnh v.v… trở xuống là nói lược nhiếp rộng, văn tuy có ba thứ mà nghóa bao gồm tất cả. Lý sự gồm cả hạnh tự lợi lợi tha, nhiếp không đâu chẳng tận. Do đây v.v… trở xuống là phối hợp các hạnh. Ba nhóm giới: là trực tâm tức giới nhiếp luật nghi, chánh niệm chân như lìa các lỗi. Thâm tâm tức giới nhiếp thiện pháp. Bi tâm tức giới nhiếp chúng sinh. Ba đức, là trực tâm thành đoạn đức, tức Pháp thân. Thâm tâm thành trí, tức Bát-nhã. Bi tâm thành ân đức, tức giải thoát. Ba thân, tức như thứ lớp phối hợp pháp, báo, hóa. Là kia, tức chỉ người Tín thành tựu phát tâm, trở lại tự tâm mình hướng về ba chỗ gọi là Hồi hướng. Thật tế, chân như tức là chân thật tế. Bồ-đề: do tất cả hạnh lành đều lấy đại bi làm đầu, nên chúng sinh có thể biết. Theo đây thì trong ba hạnh, hạnh đầu là hạnh lìa tướng, hai hạnh sau là hạnh tùy tướng. Lìa tướng là chung, tùy tướng là riêng. Nói tuy có trước sau, hạnh là đồng thời. Vì một hạnh trước có đủ hai hạnh sau. Tuy quán không mà muôn hạnh siêu nhiên. Hai hạnh sau đồng một hạnh trước. Tuy là thấy có mà nhất chân lặng lẽ. Nếu hoặc thiếu khuyết lẫn nhau, tức Nhị thừa dứt không, phàm phu hữu lậu. Đầu và sau giúp nhau mới là diệu hạnh Trung đạo của Đại thừa. Do đó các hạnh tuy nhiều mà ba hạnh này đều nhiếp hết. Lại có ba pháp, Tam bảo, ba Bồ-đề, ba Niết-bàn, v.v… Tất cả ba pháp ở đây phối hợp. Kinh Tịnh Danh chép: “Ở đây lấy hạnh làm Tịnh độ”. Nên kinh nói: “Trực tâm là tịnh độ của Bồ-tát”, khi Bồ-tát thành Phật, chúng sinh chẳng dua nịnh được sinh về cõi nước kia. “Thâm tâm là tịnh độ của Bồ-tát”, Bồ-tát khi thành Phật đầy đủ các công đức, chúng sinh đầy đủ công đức được sinh về cõi nước kia. “Bốn tâm vô lượng là tịnh độ của Bồ-tát”, khi Bồ-tát thành Phật, thành tựu từ, bi, hỷ, xả, chúng sinh sẽ sinh về cõi nước của Phật đó.  KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝ <卷>QUYỂN 17 Hỏi: Nói trên nói dưới, dẫn lời nói trước để làm tông nghóa, tức ở trước nói: “nghóa giác: là tâm thể lìa niệm. Lìa tướng niệm: Đồng cõi hư không, không đâu chẳng khắp, một tướng pháp giới, v.v…”. Lại, trong môn Chân như và thể tướng chân như trong đó đầy đủ. Vì sao v.v… trở xuống, đối để thành nạn. Vốn ý nói: Chân như chúng sinh tức đồng thể Phật, chỉ niệm chân như thì sẽ được đạo, đâu có dụng riêng lại tu các hạnh ư? Đáp: Đây là chỉ cho dùng trực tâm chẳng được nói ngay hai tâm sau: Dụ: Nói Ma-ni, v.v…, thể báu tuy tịnh mà tướng chẳng tịnh, nên phải đối trị. Chính hợp: Nói Chân như, v.v…, đứng về mặt thể tuy xưa nay vắng lặng. Đứng về mặt tướng hiện tại có trần lao. Nếu không khởi hạnh đối trị, thì không nhờ đâu được dồng chư Phật. Nên biết Phật và chúng sinh chỉ đồng thể mà tướng chẳng đồng. Tướng chúng sinh thì sáu nhiễm lừng lẫy. Tướng chư Phật thì các điều lành nhóm họp khắp cả. Khoảng cách giữ trời với đất đâu thể hùa theo. Nên Viên giáo của tông Thiên Thai nói đủ về “sáu tức”. “Tức” nên chân như bình đẳng, “Sáu” nên hạnh vị vốn có khác nhau. Đâu đồng mờ mịt chỉ chứng lý mà thôi.Nên tu tiến để xả bỏ trần hoặc. Nếu kia chỉ niệm thì chưa khỏi chìm đắm vào “không”. Chỉ quán phải nương nhau mới là Phật pháp. Vì dụ đầy đủ đáng nên suy nghó. Gượng giải thích: Nói do cấu v.v…, nghóa là chúng sinh từ vô thỉ đến nay bỏ giác theo trần, tất cả pháp đối với sắc thinh v.v… khởi tham sân… vô lượng phiền não, các pháp cấu nhiễm, nay đã giác biết lỗi lầm, nên khởi đối trị. Cấu sở trị rất nhiều, thiện năng cấu chỉ một. Kia giống như bệnh có nhiếu thuốc chẳng phải một thứ, nên tu tất cả hạnh. Kinh Kim Cương cũng nói: “Do vô ngã vô nhân, tu tất cả pháp lành thì được A-nậu Bồ-đề…” Thuận chân: Nói tự nhiên, v.v…, các hạnh bất thiện đã trái chân lý, tất cả hạnh thiện thật nên thuận chân. Sớ: Bên ngoài trái v.v…, như hạnh bố thí, ngoài trái với sẻn tham, trong thuận với không sẻn tham. Cho đến Bát-nhã, ngoài trái với vô minh, trong thuận với thể minh. Hiển bày lại phương tiện, do trước đáp câu hỏi rằng: “Chẳng dùng phương tiện huân tu thì không bao giờ được tịnh”. Nay ở đây nói lại chỗ tu phương tiện. Trước chỉ phát tâm chưa hành việc kia. Nay nói sao thì hành vậy, trước là tâm năng khởi, đây là hành sở khởi. Nên ở trước sớ nêu đều nói bổn hạnh. Nên biết văn trước chỉ nói về tướng phá tâm, ở đây nói về tướng tu hành. Nêu số: Luận nói phương tiện, nói chung có bốn thứ: Tiến thú phương tiện. Quyền xảo phương tiện. Tu hành phương tiện. Tập thành phương tiện. Văn này chính ngay nơi phương tiện một và ba, gồm cả hai và bốn. Sớ: Chú văn có ba, như kế đến là hạnh sở khởi của ba tâm trước, trước sau đối nhau, như văn rất dễ thấy. Khoa đầu Chẳng trụ đạo có hai ý: Chẳng giống như không, đạo tức là nhân. Nhân hạnh vô trụ, nên văn của Bổn sớ nói là: “Hạnh vô trụ”. Đạo là tánh chân như, bổn tánh này vô là trụ. Hai ý hợp lại luận mới đồng ý chỉ của luận. Bởi tánh vốn vô trụ, nên hạnh cũng vô trụ mà thuận theo bổn tánh. Nói một là v.v… trở xuống là nêu tên, hành phương tiện tức là căn bản, để rõ khoa này làm căn bản cho hai hạnh lợi ích ở sau. Luận: Nghóa là quán v.v… trở xuống, chính là chỉ bày, ở sau đều mô phỏng theo đây. Sớ: Người trí, v.v… nếu thấy các pháp có sinh diệt thì thành vọng thức của phàm phu, là trụ sinh tử. Nên biết trái với đây mới xứng với trí. Cũng tức nghóa nương chân như bất biến, là tu hạnh chỉ. Nói nhân duyên, v.v…, nếu hòa hợp với nhân duyên nhiễm, thì quả khổ nghiệp ác chẳng mất. Nếu nhân duyên tịnh hòa hợp tức quả vui của nhân lành chẳng mất. Đây là nhiễm, ác, v.v… chỉ cho ba đường; Tịnh, thiện chung cho cả trời, người, Nhị thừa và Phật đạo. Khởi đại bi: tức nhân duyên gần hòa hợp quả báo thiện ác, nên có thể trái mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, mới khởi đại bi cảm ứng muốn cứu giúp. Tu phước, là tu thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định để nhiếp hoá chúng sinh. Nghóa là bố thí nhiếp nghèo cùng; trì giới nhiếp phá giới, v.v… dùng năm hạnh này làm môn phước đức. Đây là giáo hóa chúng sinh mà tu phước đức. Do lợi tha mà tự lợi. Nên kinh TịnhDanh chép: “Các loài chúng sinh là Tịnh độ của Bồ-tát, v.v…” Chẳng trụ v.v… trở xuống, nếu trụ Niết-bàn thì một bề vắng lặng, đã nói giáo hóa chúng sinh tu phước, nên biết chẳng trụ cũng chẳng nương nghóa chân như tùy duyên, là tu hạnh quán. Do tùy v.v… trở xuống là nói pháp tánh xưa nay chẳng thật có nên nay chẳng trụ sinh tử. Xưa nay chẳng phải không nên nay chẳng trụ Niết-bàn. Lại, do tánh bất biến nên chẳng trụ sinh tử, tùy duyên nên chẳng trụ Niết-bàn. Cho đến phàm thánh, đoạn thường, một khác, v.v… các pháp hai bên không thể nói hết, lìa hai bên này mới gọi là tùy tánh. Nay do tức trí của bi làm bổn hạnh tự lợi. Do tức bi của trí làn bổn hạnh lợi tha. Lại, đoạn văn này tức lấy nghóa đồng một tâm ba quán. Nghóa là quán pháp vô sinh, tức là Không quán, Quán chân đế. quán nhân duyên hòa hợp tức Giả quán, quán tục đế. Thuận theo pháp tánh tức Trung quán quán nghóa đế đệ nhất. Tức ba mà một, tức một mà ba, chẳng ngang dọc cùng quán biệt đế đều giống như vậy. Đoạn đức: Sớ: Phải dứt hai ác, ác đã sinh thì dứt, chẳng cho tiếp tục; ác chưa sinh thì dứt, chẳng để sinh khởi. Chỉ trì: thì nói về mặt pháp ác nên chỉ gọi là trì, tác gọi là Phạm. Nói Tàm quý, là hai tâm sở trong mười một món thiện. Tàm: Nghóa là tôn quý tăng thượng, sùng trọng người hiền thiện, xấu hổ tội lỗi, dứt các hạnh ác. Quý: Nghóa là quở trách nhàm chán tăng thượng, khinh chống bạn ác, xấu hổ tội lỗi, dứt các nghiệp ác. Hối lỗi, tiếng Phạm là Sám-ma, Hán dịch là Hối lỗi, nghóa là phát lồ tội trước, sửa đổi lỗi xưa để nay tiến tu. Trong đây, dứt tất cả pháp ác, năm chữ này chung cho cả đã sinh và chưa sinh, ngoài ra đều hạn cuộc ở nơi đã sinh. Là điều ác đều dứt nên nói là “tất cả”. Văn này nói: ác đã sinh khiến chẳng thêm, người chưa sinh điều ác tự nhiên chẳng sinh. Nói do tùy v.v… trở xuống là nói nguyên do. Bổn tánh lìa lỗi, khởi lỗi thì trái. Nay đã dứt nên phải thuận lý. Lỗi dứt, tánh bày gọi là Pháp thân. Pháp thân là đoạn đức. Nay trong sớ lấy khoa này đặt tên. Trí đức: Sớ: Siêng tu hai thiện, thiện đã sinh, tu cho thêm nhiều, thiện chưa sinh thì tu cho phát sinh. Nên văn nay nói: “Phát khởi thêm lớn” là nêu hai nghóa. Tác trì, nghóa là nói theo pháp lành, tác gọi là trì, chỉ gọi là phạm. Nói cúng dường, có ba thứ: Tài, pháp và quán hạnh. Lễ bái, Tam tạng Lặc-ma nói có bảy thứ: Ngã mạn lễ. Xướng hòa lễ: Hai lễ một và hai này chẳng đúng nghi thức. Cung kính lễ: Kính từ tâm phát ra thân miệng, năm vóc chấm đất. Vô tướng lễ: Thâm nhập pháp tánh, lìa tướng năng sở. Khởi dụng lễ: Quán thân và Phật đồng một duyên khởi như huyễn như ảnh, khắp cùng thân tâm lễ khắp tất cả. Nội quán lễ: Chỉ trong thân lễ, còn Pháp thân chân Phật chẳng duyên Phật khác. Thật tướng lễ: Hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc phàm, hoặc Phật đồng một thật tướng. Nếu thấy Phật đáng lễ cũng là tà kiến. Quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như vậy, gọi là lễ kính bình đẳng, nên Ngài Văn-thù có bài kệ rằng: Vì chẳng sinh chẳng diệt, Kính lễ không sở quán. Y theo chỗ hỏi lìa cấu tuệ, lễ pháp Phật trải qua gồm có tám thứ: 1 - Cúng dường. 2- Khen ngợi. 3- Lễ Phật. 4- Sám hối. 5 - Khuyến thỉnh. 6- Tùy hỷ. 7- Hồi hướng. 8- Phát nguyện. Trong tám ý này, ý chính là lễ Phật. Ngoài ra bảy thứ kia đều làm duyên cho lễ Phật. Nghóa là cúng dường, khen ngợi là lễ Phật. Khuyến thỉnh tùy hỷ là ý lễ Phật. Câu thứ bảy là hồi lễ các công đức hướng đến ba chỗ. Câu thứ tám là chỗ hy vọng vạch bày ý tựa. Nhưng tám thứ này, mỗi thứ hay rất chướng san tham, cảm ứng tiền tài (công đức) giàu có. Khen ngợi trừ ác khẩu, được biện tài vô ngại, lễ Phật trừ ngã mạn được thân tôn quý. Sám hối trừ ba chướng, được y báo chánh báo đầy đủ. Khuyến thỉnh trừ hủy báng pháp, được học rộng trí tuệ. Tùy hỷ trừ ganh ghét, được nhiều quyến thuộc. Hồi hướng trừ kém yếu, hành thiện rộng lớn. Phát nguyện trừ lui sụt, tổng trì các hạnh. Nay trong văn này có phát nguyện, nhưng thiếu hồi hướng, ảnh ở trong văn. Về duyên tu hành, về mặt duyên tốt Tam bảo tu nhập chánh hạnh. Ái kính bốn câu, rất dễ biết. Nếu nói theo Nho giáo thì: “Mẹ chỉ cho ái, vua chỉ cho kính, cha gồm cả ái và kính”, nên Hiếu Kinh nói: Giúp ở việc cha, vì việc mẹ mà ái đồng. Giúp nơi việc cha, vì việc vua mà kính đồng”. Nên mẹ chấp ái kia mà vua thì chấp kính kia, gồm cả là cha. Nhưng ở đây nói theo phần nhiều, nay tâm vì việc cha mà kính nói Tam bảo, nên gồm cả ái vàkính. Nói thuần hậu, tâm trịnh trọng mà không tạp loạn, cũng có bốn trường hợp: Thuần mà chẳng hậu: Nghóa là tạm thời thành khẩn. Hậu mà chẳng thuần: Là lâu dài lẫn lộn. Đều thuần hậu: Hết đời vẫn không làm trái. Chẳng đều thuần hậu: Không có tư tưởng bền chặt. Nay là lấy câu thứ ba. Nói tín tăng, v.v…, từ địa vị Thập tín đổi nhập chánh định, đây là năng lực nội nhân tu hành. Lại do v.v… trở xuống, năng lực ngoại duyên giúp đỡ, cũng có thể câu trước là sinh trí được lợi ích, trường hợp sau là diệt chướng được lợi ích. Tiêu nghiệp v.v…, ở trước lễ bái khen ngợi, v.v… mỗi trường hợp đều trừ chướng, đã phối hợp như trước, lại thực hành điều thiện. Như trong phần thứ tư ở sau nói. Nói do tùy v.v… trở xuống là nói ý. Tánh vốn lìa si chướng kia, nay dùng tu trí dứt chướng há chẳng thuận tánh hay sao? Ở đây hạnh thành tựu tức nói lên báo thân. Báo thân tức trí đức, chính là khoa này. Hạnh lợi tha: Nói phát nguyện. Phát nghóa là sách tấn, khích lệ, kết ý. Nguyện là mong cầu ưa muốn. Nhưng có bốn thứ. Cốt yếu đứng về tâm kia nên gọi là thệ nguyện. Nay đoạn văn nằy là một trong bốn đoạn. Ngoài ra, ba đoạn phát nguyện kia đã ở văn trước, nghóa là hay dừng phương tiện, tiêu chướng, lìa si, tức vô biên phiền não thệ nguyện dứt. Phát khởi gốc lành tăng trưởng phương tiện, tức vô lượng pháp môn thệ nguyện học. Hành hai pháp này đều là Bồ-đề, tức Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Sớ: Tâm lâu dài: độ tận là thời kỳ không giới hạn kiếp số, nên ở tận mé vị lai. Tâm rộng lớn, không có phân biệt, tức sinh tâm chín loài đều độ. Tâm đệ nhất, siêu việt cảnh trời, người và Nhị thừa, khiến được vui vô thượng vắng lặng. Nói do tùy pháp tánh v.v… trở xuống, thứ lớp giải thích nguyên do ba tâm trước. Hai câu đầu giải thích tâm lâu dài, nghóa là pháp tánh thường trụ vô thỉ vô chung, nên nay độ chúng sinh tận đời vị lai, không có mệt mỏi nhàm chán mà thuận theo. Chẳng niệm v.v… trở xuống, hai câu là giải thích tâm bậc nhất, nghóa; là tánh vốn không phân biệt kia đây, thường vắng lặng, nên nay hóa độ khiến chiêu cảm Niết-bàn vắng lặng rốt ráo, là thuận theo tánh. Nhưng hai đoạn sau, văn giải thích lý do, chỉ ban đầu là nêu pháp tánh, sau tổng kết lời tựa mà chẳng lần lượt mỗi đoạn nêu tổng kết nói thuận theo, v.v… người dịch khéo lược. Sớ: Hai minh v.v… trở xuống, chỉ cho hai đoạn sau, y theo văn sẽ biết. Cũng thường tâm, ý nói văn này có nói rốt ráo vắng lặng, nên gọi là Thường. Nhưng cùng với lâu dài thật có xen lạm nhau. Người trí nên hiểu cho kỹ. Phát tâm lợi ích: Do trước thực hành các diệu hạnh phát tâm ở trước, nên được vào sơ trụ, thấy được Pháp thân, khởi dụng lợi ích. Bày đức cao quý: Sớ: Nương nhân không mà thấy, do nhân không được tự tại. Nếu về mặt pháp không thì chỉ thấy tương tự, chưa phải là chứng, gọi là chút phần. Nếu nương vào không, đây tức đã chứng, chỉ chưa được pháp không nên gọi là chút phần, ở đây là gồm nói, chẳng phải ý chính ở đây. Phát tâm trụ trong đó, làm việc này: theo năng lực bi nguyện kia, tạo ra tám tướng thành đạo, lợi lạc chúng sinh, nay đồng nghi thức hóa duyên của Đức Thích-ca. Đây như kinh Hoa Nghiêm nói, song trong khoa này có khác tự lợi lợi tha, tường tận có thể thấy. Nếu trước sau hướng về nhau mà nói, do Phật, Bồ-tát dạy bảo nên phát trực tâm, hành hạnh vô trụ. Do hộ pháp nên phát tâm sâu xa, thực hành hạnh tự lợi. Do đại bi nên phát đại bi tâm, thực hành hạnh lợi tha. Lại do hạnh tự lợi được thấy Pháp thân; do hạnh lợi tha mà nói tám thứ. Trong lỗi nhỏ nhiệm: Sớ: Chưa chứng, v.v…, chỉ tương ưng tỉ quán, chưa lìa phân biệt. Nguyên do khác, ở đây nói về đời trước tạo nghiệp thế gian, nhân chung cho thiện ác, nghiệp cũ kia chẳng quên. Nói khổ nhỏ nhiệm, có hai ý: Biến dịch hành khổ. 2- Theo nghiệp có khổ phần đoạn. Do được tự tại chẳng đồng phàm phu, nên nói khổ nhỏ nhiệm. Đổi ngắn v.v…, thân biến dịch là nguyện và trí giúp nhau. Không phân định ký hạn, khiến cho thân thô thành chất tế, đổi mạng ngắn làm năm dài, nên gọi là Tự tại. Lưu hoặc v.v…, do có nguyện lớn lưu giữ phiền não chẳng dứt, nhuận sinh thọ báo. Do có e ngại trí, hay tự tại tùy ý dài ngắn, không bị hoặc nhiễm, chẳng đồng phàm phu bị phiền não sai sử không thể dứt. Đây chưa gọi là Pháp thân nên khác từ Sơ địa trở lên. Do kia v.v… trở xuống, là vì chẳng phải nghiệp trói buộc, nên khác với phàm phu. Do có v.v… trở xuống, vì khác với bậc Thánh ở trên, khác với phàm phu ở dưới, nên là địa vị Hiền. Chung cho quyền giáo: Sớ: Anh lạc trở xuống là dẫn nêu giáo. Trước Thất trụ lui sụt: thứ bảy gọi là Bất thoái trụ, nhưng văn kinh chỉ nói Tịnh mục, v.v… đều đến Trụ thứ sáu, gặp duyên ác tri thức nên lui sụt, mà chẳng nói gặp nhân duyên hành tướng kia, đối đãi nêu xem xét tiếp tục nhập. Nay giải thích v.v… trở xuống là nói ý giải thích thông suốt. Nay trong luận nói “chưa nhập chánh vị” chung cả hai ý. 1- Chưa nhập Sơ Trụ. 2- Chưa đến Thất Trụ. Địa vị chánh nhân chẳng lui sụt, nên nói chánh vị, ý trước là chính. Khen ngợi thực hành: Sớ: Ở dưới bất kiến, nghóa là đối với quả báo của người Nhị thừa, phàm phu chẳng sinh mê đắm. Nói nếu nghe, v.v…, như kinh Pháp Hoa chép: “Phật đạo rất lâu xa phải siêng năng chịu khổ mới thành tựu”. Sớ: Ở trên chẳng yếu hèn: đối với Bồ-đề, Niết-bàn có tâm siêng năng mạnh mẽ, tu các hạnh khổ chẳng sợ. Giải thích nguyên do: cũng giải thích lý do bất biết, do biết tự tánh Niết-bàn chẳng phải từ ngoài được, mau chậm do mình, đâu định thời gian kiếp số. Tuy nghe nói mà không khiếp sợ. Đây là do ở trên chẳng khiếp sợ, ở dưới bất biến, cho nên trong sớ chỉ giải thích nguyên nhân chẳng khiếp sợ. Do đây trong hai đoạn văn đều có nói chẳng khiếp sợ. Đây tức v.v… trở xuống, y cứ theo đây chẳng bác bỏ kia. Đây nói kia thật chẳng phải quyền thuyết. Nêu chung: Nói giải hạnh v.v…, nghóa là nương địa vị tu hành viên mãn, phát sâu giải hạnh, nhập địa vị Thập Hướng, chẳng đồng địa vị Tín ở trước, nên nói “càng thắng”. Thời thắng: Sớ: Gần Sơ địa, từ Sơ trụ đến Sơ địa là một tăng-kỳ. Nay Thập Hồi Hướng và Sơ địa gần nhau, là gần chân. Chung: Sớ: Giải: giải riêng chân như, nên nói “thân giải”. Phân biệt hiển bày rõ ràng không còn mờ mịt, nên nói “hiện tiền”. Lại hơn trước nên nói “sâu”; do khác sau nên nói au6iải”. Hạnh, chân như vô tướng thuận theo chân như, chỗ hạnh thực hành mỗi hạnh đều vô tướng. Như kinh Kim cương nói:Chẳng trụ sắc bố thí, chẳng trụ thanh, hương, v.v… bố thí. Các hạnh đều rõ ràng, nên nói lìa tướng. Riêng: Nói không sẻn tham, sẻn nghóa là vật gì cũng giữ cho mình, mà không cho người. Tham là mong muốn tiền tài của người khác, để đem về cho mình.Biết trong pháp tánh vốn không có việc này, nên sớ nói “giải”. Nói Đàn ba-la-mật, nói đủ là Đàn-na, Hán dịch là bố thí. Ba-la- mật, Hán dịch là đến bờ kia. Bờ kia tức Niết-bàn, Niết-bàn là lý chân như. Nay lìa tướng thực hành bố thí tương ưng với lý, là nghóa đến bờ kia. Ngoài ra đều mô phỏng theo đây. Nhưng lấy của mình cho người gọi là thí. Chỉ thuận không sẻn, do đây cũng thuận nghóa không tham. Vì sao vật của mình còn cho người, vật của người kiên quyết không giữ, dùng sâu để so sánh cạn. Nghóa là lìa v.v… trở xuống là nói chỗ lìa tướng. Ba luân tức bố thí, người thọ vật bố thí, thông đạt ba thể tướng này không thật có gọi là “lìa”. Nếu lìa tướng thì nhân thành vô lậu, quả chứng Bồ-đề. Do có nghóa vận chuyển nên gọi là Luân. Lại dứt trừ được tất cả hoặc chướng nên có nghóa chuyển dẹp trừ, gọi là Luân. Bởi mười v.v…. trở xuống, làgiải thích nguyên do lìa tướng. Được pháp không, chỉ về mặt thâm nhập quán này chưa phải là chứng đắc. Nhưng ở đây là nói theo giáo đạo. Nếu kia thật nói ở địa vị Thập tín, thì liền thâm nhập. Nhưng ở sau Tín tâm tu Tam-muội chân như, há chẳng phải pháp không hay sao? Chỗ nương phát tâm, giải là Thập Trụ, hạnh là Thập Hạnh. Đây là Thập Hồi Hướng làm năng y, trụ hạnh làm sở y. Lại Trụ Hạnh làm năng phát, Thập hồi hướng làm sở phát. Nghóa là nương giải hạnh này phát tâm hồi hướng. Do cấu v.v…. trở xuống,là giải thích nguyên do thuận chân. Nghóa là sẻnv.v… là chướng, thường trái với tánh. Tánh vốn không sẻn v.v…, thường chẳng hợp với chướng, nên thực hành hạnh bố thí. Ngoài ra trái với các chướng như sẻn…, trong thuận tánh không có sẻn.v.v… Nói năm dục là năm cảnh:sắc, thinh, hương, vị, xúc. Năm cảnh này khiến cho chúng sinh khởi tâm ham muốn, nên ở trước nói: “Dó có cảnh giới vọng duyên pháp nhiễm, nên huân tập vọng tâm, khiến kia nhớ nghó mê đắm, tạo các thứ nghiệp, chịu tất cả khổ ở thân tâm”. Lại kinh Vô Thường nói:”Thường cầu ở cảnh dục, chẳng thực hành việc lành. Đối với cảnh sinh ham muốn nên gọi là lỗi, lỗi tức là nhiễm, biết trong pháp tánh vốn không nhiễm này. Thi, nói đủ là Thi-la, Hán dịch là Giới, Giới là phòng lỗi dứt ác, tức lìa lỗi năm dục. Nói Sân não là do người khác xúc não sinh tức giận, cũng có thể do phiền não mà sinh giận, giận tức bực bội, nóng bức là khổ. Biết tánh vốn không khổ này. Sằn-đề, Hán dịch là Nhẫn nhục. Nhẫn nhục cảnh kia tức lìa phiền não tức giận. Nói Lười biếng v.v…, là chấp thân tâm trở thành lười biếng. Nay tánh đã tịnh chẳng thấy thân tâm, thì đâu còn lười biếng, nên nói là “lìa”. Tỳ-da-ly, Hán dịch là Tinh tấn. Tinh là tinh thuần nhất tâm không lẫn lộn, tấn là tiến hướng mãnh mẽ không lui sụt, tức lìa lười biếng. Nói về thường định đứng về mặt hiển thể mà nói., không loạn là đứng về mặt lìa lỗi mà nói. Thiền, nói đủ là Thiền-na, Hán dịch là Tónh lư, tức định tuệ, định là không loạn. Nói Lìa vô minh…, nói trong bản giác vốn không có bất giác. Bát- nhã, Hán dịch là Trí tuệ. Trí tuệ tức là sáng suốt, sáng suốt tức lìa không sáng suốt, tức là tuệ của định. Nên đây và phần thứ năm là tự tánh định tuệ vốn là một pháp chỉ về mặt thể dụng, nghóa phân ra có khác. Nhưng theo kinh Hoa Nghiêm chép: “Bồ-tát thập địa thứ lớp thực hành hạnh mười ba-la-mật, do kia sau đã chứng chân, như thật tu hành”. Trong đây sáu độ là tùy thuận theo tu hành, cạn sâu có khác. Nêu địa y: Địa Y, do văn nói chứng cảnh giới nào? Có chỗ cho là Chân như. Đây tức chân như là chỗ nương của bậc Thập địa. Nhưng“địa”; là đứng về mặt dụ để nói về tên. Do dụ chân trí sinh ra Thánh pháp. Nay đứng về mặt chân như là chỗ nương của trí, nên gọi là “địa nương”. Nói Chứng phát tâm v.v…, Bồ-tát Thập địa này tuy dứt chướng có phân nhiều ít, hành hạnh có cạn sâu khác nhau. Theo thứ lớp địa kia, mỗi Địa đều chứng là chỗ chứng kia, đồng một chân, chỉ có khác phần viên mãn mà không có tự thể khác nhau. Nên ở đây nêu chung chân như làm chỗ chứng cảnh giới. Kinh Hoa Nghiêm trong phẩm Thập Địa, cũng nói giống như ở đây. Nên có nêâu ra bài kệ rằng: Đạo đại tiên Như Lai, Mầu nhiệm khó thể biết. Chẳng niệm lìa các niệm, Cầu thấy chẳng thể được. Sớ: Căn bản là căn bản trí chứng lý chân đế, là chân kiến đạo. Nói Do nương v.v…., hoặc hỏi rằng: Chân như lìa tâm duyên tướng. Lại nếu chứng,thì lìa năng sở, vì nói chân như làm cảnh giới ư? Nên ở đây giải thích. Sớ: Nương chuyển tướng khởi, tức chuyển thức này đứng về mặt hiện cảnh thì gọi là hiện thức, nhưng không có khác thể. Chỉ y cứ nghóa thứ lớp nói nương nhau. Đây tức nương tâm năng kiến có cảnh sở kiến. Ở trước luận nói: “Do nương năng kiến, cảnh giới vọng hiện”. Chứng bổn trí, trí và lý thần hợp, tâm và thần hợp với trí, một tướng một vị bình đẳng bình đẳng, thật không có năng và sở khác nhau. Nên có bài tụng rằng: Hoặc khi ở chỗ duyên, Trí đều vô sở đắc, Bấy giờ,trụ Duy thức, Lìa hai thứ chấp tướng. Nay chỉ v.v… trở xuống, đối với đây giải thích lại. Ý nương chuyển thức gọi là cảnh giới, ở đây có hai nghóa: Về mặt Bồ-tát chưa lìa nghiệp thức vẫn thấy có tướng nhập quán, tuy cùng trí không phân biệt tương ưng không phân biệt năng sở, xuất quán thì tương ưng với thức này. Đứng về mặt trên thức này mà nói lúc trước chứng, lấy làm cảnh giới. Về mặt trí hậu đắc, tưởng thấy đạo bên trong, nặng về suy nghó duyên chân, khởi biến ảnh tượng, bắt chước chính lúc chứng nói chân làm cảnh. Đây chỉ tương tự cảnh, chẳng cho là thật có, nhưng cũng không lìa chuyển thức hiện. Sớ: nêu cả hai trong hậu đắc trí, nghiệp thức chưa cùng tận. Nhưng đến chỗ giải thích tướng, chỉ đứng về nghóa nghiệp thức chưa cùng tận mà nói, nên nói “chuyển hiện vẫn còn”. Sinh Khỏi nghóa thứ hai: Do hậu đắc v.v…. trở xuống là ra khỏi nghóa đệ nhị. Có người hỏi rằng: Như trên nói nghiệp thức chưa cùng tận tức là khai mạng. Trong trí hậu đắc tại sao phân biệt? Nên ở đây giải thích, ý nói rõ khi căn bản thật chứng, chỉ là một chân tâm tướng kiến đạo không phân biệt năng sở. Nếu trong trí hậu đắc lấy tâm năng kiến ngược lại duyên chỗ chứng. Do có tâm năng duyên này liền có ảnh tượng chân như, ngay nơi tình làm cảnh giới sở duyên. Tượng tuy chẳng thật trở lại tương tự chân như. Chỉ nói theo nghóa này, trong trí hậu đắc nương vào chuyển thức gọi là ảnh. Như người uống nước, khi đang uống chưa thể nói được cái thể lạnh nóng của nước như thế nào, khi uống rồi mới nói được. Khi nói tuy không diễn tả được hình thể (nóng lạnh) như thế nào cho đúng mà chỉ diễn tả một cách mường tượng như nước mà mình đã uống. Mà thật v.v…., chân như là sở chứng, trí là năng chứng. Năng sở không hai mới là Pháp thân. Do Pháp thân vốn đầy đủ lý trí, lý trí vốn không hai. Đây tức trụ lý duy thức lìa hai chấp tướng. Nói về dụng: Sớ Hậu đắc, quyền trí đạt tục, ra khỏi giả giáo hóa chúng sinh. Trong một: Nói Một niệm đến vô dư thế giới, nếu theo kinh Hoa Nghiêm thì: “Bồ-tát Sơ địa có khả năng đến trăm thế giới Phật, Bồ-tát Nhị địa đến ngàn thế giới Phật. Cho đến Thập địa thì nhiều không thể nói, không thể nói A-tăng-kỳ thế giới”. Đây là do phân theo địa vị kia, hơn kém hẳn đồng. Nay trong văn này ý thông ở luận Thập Địa, nên nói vô dư mà thông suốt. Sớ: Thỉnh pháp, ở thế giới kia có người nào đó, hoặc trong chúng kia có người nào đó khích lệ mình làm trước tiên, là người dẫn đầu trong chúng, thỉnh Phật nói pháp. Chẳng cầu thọ thỉnh ngôn từ hay đẹp”, Hễ thỉnh nói pháp, thành thật ở chỗ nói lên ý nghóa tu hành, khiến trong hội chúng kia như chỗ nghe mà nhiếp giữ suy nghó rồi thực hành. Gồm cả mong mỏi lần lượt xa lợi ích chúng sinh, há tại nghe ngôn từ mà thôi ư? Tức như kinh Viên Giác, mười hai vị Bồ-tát mỗi vị tự thân thưa hỏi, đều nói nguyên vì hội này và vì đời mạt thế. Trong hai: Sớ: Gấp v.v…., nghóa là có một hạng chúng sinh căn tánh yếu hèn, nghe nói Phật đạo ất lâu xa phải chịu siêng năng khổ nhọc mới được thành ựu, liền sinh lui sụt, không chóu tu tiến. Cho nên Bồ-tát vì cái chúng sinh này, thị hiện siêu vượt địa vị, chẳng trải qua nhiều kiếp chứng được quả Phật,khiến kia suy nghó, đồng phát tâm tiến hướng. Như Đức Thích-ca sáu năm tu hành liền thành chánh giác, là nêu ở đây. Lại như Thiện Tài một đời, Long Nữ một niệm, v.v… Dài v.v…. vì có một hạng chúng sinh cũng muốn tiến thú cho rằng quả Phật dễ dàng thành tựu, nhân biếng nhác xoay vần không hể siêng năng mãnh mẽ. Nếu lại thị hiện quả siêu việt kia, chuyển khiến biếng nhác trọn không hề thành tựu. Cho nên Bồ-tát vì hạng chúng sinh kia nói: “Ta trong vô lượng kiếp tu hành mới thành Phật đạo”. Do đây thệ nguyện đốc thúc không đễ cho biếng nhác, khiến kia siêng năng tu tiến. Kinh Pháp Hoa chép: “Bồ-tát Trí Tích nói: Ta thấy đức Thích-ca Như Lai làm hạnh khó làm trong vô lượng kiếp, chứa nhóm công đức cầu đạo Bồ-đề, chưa hề dừng nghỉ”, chính là đây. Nhưng, trong phần nhanh gấp nói để chỉ bày, trong phần dài hạn chỉ nói “người nói v.v….”. Nhanh gấp trong một đời có thể khiến cho hiện thấy, dài hạn nhiều kiếp chỉ nói cho biết. Tổng kết, căn khí đã nhiều, phương tiện chẳng phải một, miệng không thể nói. Tâm không thể lường, nên nói “vô số…” Kinh Pháp Hoa nói: “Phật biết chúng sinh có các thứ ham muốn, tham tâm mê đắm. Theo bổn tánh kia dùng các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ, phương tiện nói pháp, như thế mục đích đều vì được nhất Phật thừa, trí nhất thiết chủng, là các chúng sinh từ Phật nghe pháp, rốt ráo đều được nhất thiết chủng. Trong ba nói: Chủng tánh căn đẳng, đẳng là ngang bằng, đồng là nhất thừa chủng tánh, chẳng phải tánh tánh ba thừa, năm thừa. Căn là năm căn như Tín v.v…. có thượng, trung, hạ. Nay đồng là thượng căn, chẳng phải trung căn,hạ căn. Hai thứ này là nói theo xưa nên sớ nói: “nhân đẳng”. Sớ nói: “hạnh đồng”, đồng phát tâm Bồ-đề, hành hai hạnh lợi ích. Nếu đứng về mặt từ Sơ địa trở lên thì đồng, được hạnh trí vô phân biệt. Như thứ lớp thực hành mười hạnh ba-la-mật. Nhưng ở đây nói phát tâm là chung cho cả địa vị trước. Chứng đẳng, đẳng chứng lý hai không, nếu đứng về mặt từ Sơ địa trở lên thì đồng chứng biến hạnh chân như, cho đến Thập địa đồng chứng nghiệp tự tại sở nương chân như… Nói Không có pháp siêu vượt, đây là nói Bồ-tát nhân hạnh chứng… đẳng đã đồng, lại không có pháp riêng siêu việt cao quý có thể làm hạnh chứng. Cũng có thể đây là đồng địa vị, tức Tam hiền, Thập Thánh đều phải trải qua, nên không có siêu vượt. Do tất cả v.v…. trở xuống, là thời đồng. Luận sớ dễ hiểu, y cứ theo đây cũng tương tự thông rõ lý do các thứ đồng ở trên, tường tận rát dễ thấy. Đại ý luận nói: “Nếu một loại chủng tánh căn khí Bồ-tát, thì phát tâm tu hành đoạn chứng vị, kiếp số thứ lớp trước sau không hề khác nhau. Cái gọi là A-tăng-kỳ, nếu theo kinh Bổn Nghiệp thì: “Trước hết dùng áo của người ở cõi trời Đao-lợi, cứ ba năm tảng đá vuông mỗi cạnh bốn mươi dặm một lần, mòn hết là một Tiểu kiếp. Kế lấy áo của người ở cõi trời Phạm thiên, phất trên tảng đá vuông mỗi cạnh dài tám mươi dặm mòn hết là một Trung kiếp. Sau cùng, lấy áo của người ở cõi trời Tịnh cư phất trên tảng đá vuông mỗi cạnh dài tám trăm dặm, mòn hết là một Đại kiếp”. Kinh A-hàm có khác với kinh này. Lại, trong Kiếp chương có bài tụng: Phong tai là đếm một Cho đến không thể biết Thời gian dài tột cùng Gọi một tăng-kỳ kiếp. Nghóa là lấy phong tai này để làm số đếm, đếm số cho đến không thể đếm. Lại nếu khi đếm tâm bị cuồng loạn, mà số đếm này vẫn không thể đếm được, gọi là một tăng-kỳ. Nếu lấy đây để tính ba A-tăng-kỳ mới thành Phật đạo, thì trong trăm ngàn muôn người không có một người phát tâm tu tiến. Dù có sợ ba đường khổ chỉ tu giới thiện cõi trời, cõi người. Hoặc có lo sợ sinh tử trong ba cõi cũng chỉ tu hạnh Nhị thừa, đâu dám hy vọng quả Phật tu hạnh Bồ-tát. Nếu như hiểu theo (kiếp số) dài lâu này, là có sự mất mát rất lớn. Nay hợp thông thì đặc biệt khác với kia. Vì sao? Vì theo tiếng Phạn là kiếp-ba, Hán dịch là thời phận. Đại kiếp, tiểu kiếp, thời gian dài, thời gian ngắn xuống đến sát-na, đều gọi là thời phận. A-tăng-kỳ, Hán dịch là vô số. Nói vô số cũng không nhất định lâu hay gần. Như người trải qua năm mà không thấy tướng thời gian trải qua của một năm, liền gọi là thời gian vô số. Qua một ngày không thấy tướng của thời gian một ngày, cũng nói là thời gian vô số. Khi tu hành, phân ý cũng đồng với đây. Nghóa là ban đầu từ địa vị hoàn toàn là phàm, phát tâm tu tiến pháp cũng thế, trải qua thời gian vô số mới được thân chứng chân như, gọi là kiến đạo, là thời kỳ vô số thứ nhất. Từ kiến đạo trở đi, dần dứt hai chướng câu sinh. Pháp cũng giống như thế. Lại, trải qua thời gian vô số mới được chẳng nhờ công dụng, tự nhiên tương ưng đến địa thứ tám là thời kỳ vô số thứ hai. Từ đây xoay vần tiến hướng, tiêu mất các hệ lụy. Pháp cũng giống như thế. Lại trải qua thời kỳ vô số mới được thành Phật, là thời kỳ vô số thứ ba. Kia là thời kỳ vô số là quyết định có, nhưng dài ngắn không thể quyết định. Nếu ở đây mà hiểu, mới có người tu hành. Huống chi thể thời gian không nhất định, do tâm mà hiện. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa suốt sáu mươi tiểu kiếp. Bấy giờ nhũng người trong hội nghe cho là chừng khoảng như bữa ăn”. Luận lại giải thích nói: “Trải qua kiếp số, hoặc nói năm, hoặc ngày tháng v.v….” Lại, Nhiếp Luận chép: “Nằm mộng cho là năm dài, thức rồi thấy trong khoảnh khắc”. Thến nên thời gian vô lượng mà thâu lại chỉ trong một sát-na. Trong bốn: Nói Chúng sinh thế giới kháv nhau, hoặc phân tình khí, hoặc chỉ hữu tình,chung cả hai ý. Do thé giới và chúng sinh mỗi phép có vô lượng khác nhau. Chỗ thấy v.v…, mỗi chúng sinh kia căn cơ chủng tánh ưa muốn khác nhau, nên thị hiện thành nghiệp dụng, cho đến hiện thân nói pháp, mỗi trường hợp tùy theo chúng sinh thấy nghe khác nhau. Nên như Phẩm Quán Âm, Diệu Âm nói. - Tướng phát tâm: Sớ: Chỗ nương của hai trí v.v…., hai thứ cội trí này từ chỡ thức kia hiển sinh, nên nói là Nương. Chẳng cho rằng hiện nay làm thể cho hai trí. Hỏi: Hai trí là tịnh, A-lại-da là nhiễm,vì sao trí tịnh nương nhiễm thức mà sinh? Đáp: Do có tâm nhiễm. Ngược lại tâm nhiễm này được thành trí tịnh. Nếu vốn không nhiễm tịnh cũng không sinh, nên trước nói: “Do có tâm bất giác vọng tưởng, hay biết danh nghóa vì nói cảnh giới. Nếu lìa tâm bất giác thì không có tự tướng chân giác đã nói. Nói rộng như trong hai tướng bản giác và theo nhiễm. Lại A-lại-da là nhiễm tịnh hòa hợp trí tịnh nương sinh. Nên không nghi ngờ. Lại, nếu cái gọi là tùy tướng, nghóa là A-lại-da vốn có hạt giống hai trí, từ vô thỉ đến nay lấy bổn thức làm chỗ y chỉ, nên nói “chỗ nương”. Lý thật…, đã nói A-lại-da là hợp chung cả ba tế, nay chỉ nói nghiệp thức, mục đích là nêu tế nhiếp thô, nêu gốc nhiếp ngọn. Cũng có thể hiện tướng Bát địa mới dứt hết, chuyển tướng đến Cửu địa mới hết. Tận tướng đến Thập địa mới tận. Nghiệp tướng thì chung cả hiện tướng và chuyển tướng. Nêu chung, đây tức các Bồ-tát không chỗ ẩn khuất. Đây chẳng v.v…. trở xuống, hoặc hỏi: Hai trí là tịnh từ nay chưa được, nay mới khai phát để gọi là tướng phát tâm. Nghiệp thức sinh diệt có từ vô thỉ đến nay,vì sao gọi là tướng phát tâm? Nên ở đây giải thích. Ý nói Bồ-tát này chứng chân, cũng đạt được tục, cũng có Sơ địa. Do chứng chân nên phân biệt khác trước Sơ địa. Do có sinh diệt chẳng đồng địa vị Phật. Kia giống như luyện vàng, sắc sáng dần dần lộ ra, quặng thô đã loại quặng tế vẫn còn. Khi muốn bày ra vàng ròng, phải dùng máy phân lọc ra xem có bao nhiêu phần là vàng và bao nhiêu phần là quặng. Vàng thì chẳng đồng với quặng thô, cũng khác với vàng ròng, nên nói chung là vàng đã lộ ra, ở đây cũng giống như thế. Trong chung: Sớ: Hiện báo, tức do thân này thành Chánh giác, tức thân tự thọ dụng công đức viên mãn. Nói Chỗ sắc cứu cánh, đảnh của cõi sắc là bờ mé sắc. Thân rất cao lớn, là sắc thân người ở cõi trời Cứu Cánh, cao khoảng một vạn sáu ngàn do-tuần. Thân Tự Tại Thiên Vương cao khoảng ba mươi hai ngàn, dụ-thiện-na. Bồ-tát Thập địa thị hiện làm thân Tự Tại Vương tăng gấp bội, nên nói rất cao lớn. Sắc thân lớn đâu hơn cõi trời này. Sớ: Hậu báo v.v…., nương báo thể ở trước mới sinh khởi thân này, tức thân tha thọ dụng công đức cũng viên mãn. Nhưng, kia nhân cùng tột quả hiển bày, chỉ nói nghóa hai tướng. Khi không có trước sau hiện, hai báo sau cũng lại đổng thời. Thí như đêm đã qua liền sáng, đâu phân trước sau! Ma-ê-thủ-la Hán dịch là Đại Tự Tại. Chỗ trí, người trí khởi tất cả trí. Trong kinh nói: “Ma-ê-thủ-la trong một niệm biết được trong cõi tam thiên có mưa rơi”. Vì sao? v.v…. trở xuống, là hỏi đoạn văn. Nhất nghóa v.v…. trở xuống, là giải thích chung. Thập vương v.v…., kinh Nhân Vương nói: “Bồ-tát Thập Tín là vua Thiết Luân, là vua một cõi Diêm Phù Đề, Bồ-tát Thập Trụ là vua Đồng Luân, là vua hai tầng trời trở xuống. Bồ-tát Thập Hạnh là vua Ngân Luân, là vua ba tầng trời trở xuống. Bồ-tát Thập Hướng là vua Kim Luân, vua bốn tầng trời trở xuống. Bồ-tát Sơ Địa là vua Diêm- Phù- Đề, vua của trăm cõi Phật, Bồ-tát Nhị địa là vua Đao Lợi, vua của ngàn cõi Phật, Bồ- tát Tam địa là vua Tát Dạ Ma, vua của muôn cõi Phật, Bồ-tát Tứ địa là vua Đâu Xuất, vua của ức cõi Phật. Bồ-tát Ngũ địa là vua Hóa Lạc, vua của trăm ức cõi Phật. Bồ-tát Lục địa là vua Tha Hóa, vua của ngàn ức cõi Phật, Bồ-tát Thất địa là vua Sơ Thiền, vua của vạn ức cõi Phật, Bồ-tát Bát địa là vua Nhị Thiền, vua của trăm vạn ức cõi Phật. Bồ-tát Cửu địa là vua Tam Thiền, vua của trăm vạn ức a-tăng-kỳ cõi Phật. Bồ-tát Thập địa là vua Tứ Thiền, vua không thể nói không thể nói hết các cõi Phật. Như Lai là vua Pháp Giới, vua vô lượng cõi Phật”. Nói tất cả pháp môn tức kinh kia, trừ Phật có mười ba Pháp sư, gồm tín mười bốn và Phật mười lăm. Nay sớ không nói trước Sơ địa và địa vị quả, nên chỉ nói mười vị vua. Đệ thập v.v…. trở xuống, là nói thân sau cùng của Bồ-tát, thị hiện tướng thành Phật ở cõi trời kia, tức chuyển thân Bồ-tát Thập địa để làm thân Phật. Nếu theo chân thật thành Phật, chỉ nên như trước nói, công đức thành tựu viên mãn, tức không nơi chốn cũng không thể thấy. Nay vì ứng với Bồ-tát Thập địa nên thị hiện thân cõi trời kia mà nói thành Chánh giác. Ngoài ra nghóa như trong phần biệt nói: “Do Bồ-tát này khi thị hiện thành Phật, ở đệ Tứ thiền trên đảnh trời Sắc Cứu Cánh Tự Tại, có cõi Diệu Tịnh ra khỏi ba cõi. Bồ-tát Thập địa ngay lúc sinh, ngồi trong hoa sen báu lớn, ngang dọc trăm muôn tam thiên đại thiên thế giới. Ở ngoài hoa sen có mười tam thiên đại thiên thế giới, số như cát bụi, ngồi nơi hoa sen nhỏ, lấy làm quyến thuộc, mỗi hoa có Bồ-tát ngồi trên đó, là đại Bồ-tát phát ra mười thứ ánh sáng. Nghóa là từ chân trở xuống phát ra trăm muôn A-tăng-kỳ tia sáng, chiếu soi tất cả địa ngục trong các thế giới ở mười phương. Cho đến đảnh thứ mười phát ra rất nhiều tia sáng, chiếu các thế giới ở mười phương tất cả chư Phật, ánh sáng bao quanh mười vòng rồi trụ trong hư không, thành đài ánh sáng mây lưới, cao rộng trang nghiêm thanh tịnh. Trong ánh sáng đều có mưa báu, hương báu, châu anh lạc đầy đủ các thứ trang nghiêm, cúng dường chư Phật, ánh sáng nhập vào dưới chân chư Phật. Bấy giờ chư Phật cùng phát ra ánh sáng trắng dài, chiếu đến các đại Bồ-tát. Ánh sáng kia liền nhập vào đảnh của đại Bồ-tát. Lại phát ra ánh sáng A-tăng-kỳ quyến thuộc, chiếu đến các quyến thuộc Bồ-tát ngồi trên hoa sen nhỏ. Ánh sáng kia đều chiếu trên đảnh các Bồ-tát rồi tức thời được vô lượng Tam- muội của chư Phật, liền được vô lượng trí tuệ của chư Phật, được địa vị Phật”. Xếp vào số Phật. Lại có năm y ùở cõi trời kia: Do người Nhị thừa chấp tám tướng hóa thân thành chân Phật, không tin riêng có bậc thánh. Lại không biết tức tâm là Phật. Tin trong đệ tứ thiền kia là chỗ bậc Thánh sinh ra. Nay lại cùng Nhị thừa ở cõi trời Đao-lợi kia. Nhiếp chỉ bày khiến biết tám tướng chẳng phải chân, nên ở cõi trời này. Vì ba tai chẳng đến được nên phải ở cõi trời này. Vì cõi dục sắc chất thô nặng, có cõi Vô sắc không có sắc chất. Là cái không trong cõi trời này là tiêu biểu lìa có và không, khế hợp với Trung đạo, nên ở tại cõi trời này. Là Thiên vương Ma-hê-thủ-la, mặt có ba mắt chẳng ngang chẳng dọc, tiêu biểu chứng ba đức. Niết-bàn cũng giống như thế, nên ở tại cõi trời này. Là hạ giới tuệ nhiều định ít. Thượng giới tứ không định nhiều tuệ ít. Cõi trời này định tuệ bình đẳng, nên ở cõi trời này. Vì Thiền dịch là Tónh lự. Tónh phân biệt ở dưới, tuệ phân biệt ở trên. Kệ nói: Cõi Dục và Vô sắc Phật chẳng thành ở đó Trơì cõi Sắc trung, thượng Lìa dục được Trung đạo. BIỆT: Trước chỉ trực tiếp nói rõ địa vị đức viên mãn. Đây thì nói rõ hai tướng trí viên mãn, và nói lên vô minh mau hết.v.v… tức là nói trong tâm tướng trước hai tâm viên mãn, nhất tâm dứt trừ. Sớ: Thỉ giác v.v…., đây là tuệ thỉ giác cùng thỉ giác nguồn tâm lúc đầu kế hợp, gọi là một niệm. Đây đứng về mặt rốt ráo tương ưng phát một niệm ban đầu, chảng phải tạm thời tương ưng cho là một niệm. Lại một niệm trước này thuộc về thân, một niệm sau đây thuộc về quả. Đây giống như sắc hừng đông vào lúc sáng sớm. Vô minh, vô minh chưa hết đã có mà không biết. Nếu hết Vô minh thì không chỗ nào chẳng chiếu. Tức trí tuệ rộng lớn sáng suốt chiếu soi khắp pháp giới, tất cả pháp chủng loại có bao nhiêu đều biết tất cả. Nên nói: “Trí nhất thiết chủng”. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Phiền não chẳng sinh gọi là“Trí nhất thiết chủng”. Nếu nói đủ thì được ba thứ trí: 1- Trí nhất thiết. 2- Trí đạo chủng. 3- Trí nhất thiết chủng. Tông Thiên Thai nói: “Nhân tu một tâm ba quán, quả được một tâm ba trí”. Nghóa là tu quán không được trí nhất thiết, tu quán giả được trí đạo chủng, tu quán trung được trí nhất thiết chủng. Nay trong luận này nương môn chân như tu Xa-ma-tha, tức là quán Không, quả được trí Nhất thiết. Nương môn sinh diệt tu Tỳ-bát-xá-na, tức là quán giả, quả được trí Đạo chủng. Lấy hai môn này song song làm Thiền-na, tức là quán Trung, quả thành trí Nhất thiết chủng. Nay luận nêu Trung thành tựu để xếp vào Không, Giả, chỉ nói trí Nhất thiết chủng. Cũng có thể v.v…., nghóa là huệ thỉ giác này khi đến nguồn tâm. Đứng về một bên dứt hoặc gọi là đạo Vô gián. Đứng về bên chứng lý gọi là đạo Giải thoát. Tức hiển bày v.v…., nghóa là trước ba tướng phát tâm trong chân tâm, kia có nghiệp hệ lụy. Giống như Bồ-tát đến đây nghiệp thức hết hẳn không còn, chỉ riêng chân còn lại,không có hệ lụy, nên gọi là Phật. Trên đều v.v….trở xuống, đồng hai báo lợi ích ở trên đã nêu ở trước. Đây không cần giải thích riêng. Hiển bày phương tiện trên, tức tướng phát tâm ở trước trong trí hậu đắc, đến đây viên mãn. Hỏi: trước sau đều nói tự nhiên, thì nhân quả làm sao phân biệt được? Đáp: Trước là hữu tâm tự nhiên, bởi còn đeo mang nghiệp thức, đây là nói vô tâm tự nhiên, chỉ còn có “chân” mà thôi, rất rõ ràng dễ hiểu được. Lại cũng v.v…. trở xuống, xếp vào loại văn trước. Trước là nói theo pháp, đây là nói về mặt nhân, lý không khác nhau. Đây là v.v…. trở xuống, giải thích lý do nhiếp loại, vì văn trước là bản giác theo nhiễm. Nay hiển bày địa vị quả cũng tức bản giác theo nhiễm. Hai văn đã đồng, nên tương ưng nhiếp thật kia. Cũng đồng hai cảnh sau trong bốn cảnh. Tuy đứng về mặt tánh tịnh theo nhiễm là môn có khác nhau, mà pháp thể không khác nhau. <篇> KHỞI TÍN LUẬN SỚ BÚT SẢO KÝÙ <卷>QUYỂN 18 Hỏi. Có hai: Trình bày nghi: có thể tự hiểu. Lập câu hỏi: Sớ: Chẳng trực v.v…, ý nói: cảnh đã biết có nhiều vô lượng, dù có tâm cũng rất khó biết, huống chi dứt hẳn tâm tưởng, thức năng liễu biệt cũng không có, mà gọi là trí nhất thiết chủng ư? Lập lý: Sớ: Ý nói v.v…, đáp ý trong tựa chung, tức trở lại chỗ hỏi, nghóa ở thứ lớp sau. Luận: Tất cả v.v… trở xuống, lập chánh lý có hai: Vốn là chân tâm, nên luận nói: “Tất cả cảnh đồng” Nghóa là các pháp do tâm không ngoài cảnh giới. Nay chứng nguồn tâm, là hợp lại rõ biết, thật không nghi ngờ. Xưa nay vô niệm, nên luận nói: “Lìa bỏ tưởng niệm”. Nghóa là: xưa là nguồn tâm, nay thì lìa niệm, chỉ là chân thật. Nay lấy lìa vọng mới rõ. Ở đây không còn nghi. Cho nên văn sau của luận chỉ ngược lại hai ý này là mất, hợp hai ý này là được. Sớ: Cảnh tuy v.v… trở xuống là giải thích ý trước. Chân tâm v.v… trở xuống là giải thích ý sau. Đều rất dễ biết. Nhưng trong luận này là lập lý, chưa hiển bày có thể rõ, có thể biết. Trong sớ cốt yếu viên mãn đầy đủ, nên tổng kết nói rõ biết. Nếu trong thể này biết ý chỉ của luận, văn sau dứat theo, tự nhiên không lầm, nhưng lại tùy theo sự giải thích làm sáng tỏ rõ ràng. Hiển mất: Văn luận trong đây có hai, trái lại chánh lý ở trước, thành chẳng biết mất. Mê gốc chân tâm: Luận nói Vì chúng sinh, các pháp xưa nay duy tâm, chúng sinh mê gốc Duy tâm, vọng thấy có cảnh. Do vọng kiến có hạn lượng, bèn khiến cảnh có phân hạn, do đó không thể biết khắp? Đây là đối lại xưa nay Duy tâm phần thứ nhất ở trước, để nói lên mất kia. Sớ: Thấy có hạn v.v…, Cảnh không có hạn, chỉ tâm năng thấy là có hạn, luận nói: “Tâm có phần hạn, chẳng nói cảnh có phân hạn. Vọng khởi tưởng niệm: Luận nói: Vì do vọng khởi, nghóa là một chân tâm xưa nay không vọng, thường trụ pháp tánh. Do chúng sinh vọng khởi tượng niệm, trái với không vọng, không xứng với chân tánh, do đó không thể biết khắp” Đây là đối lại phần thứ hai lìa vọng niệm ở trước để nói lên mất kia. Sớ: Hai giải thích thành v.v…, theo luận thì hai đoạn này chung, là đối lại giải thích ở trước thành nghóa mất. Không chỉ văn này, tường tận rất dễ hiểu. Tức nói rõ v.v…, bổn tánh lìa niệm, vọng khởi niệm, tức là trái chân, do trái chân nên không thể biết rõ. Nói chẳng rõ biết là thông suốt đoạn trước, nghóa tức hiển bày. Nói chư Phật v.v… trở xuống, cho đến tánh các pháp, tức cả hai ngược lại lỗi trước. Hợp câu đều chính là lý. Văn có hai đoạn: Trái với trước rõ được. Có hai: Hiển chung: Nghóa là chung trái lại lỗi trước để nói chỗ nói được kia. Nói chư Phật cho đến bất biến: lìa thấy là trái lại chỗ nói “mất” do vọng khởi tưởng niệm ở trước. Hợp câu đầu lìa niệm mà được lìa tướng. Nên trái lại chỗ nói “mất” do vọng thấy cảnh giới ở trước, hợp câu đầu nhất tâm mà được, đã hợp chánh lý tức là biết khắp, nên nói “không chỗ nào chẳng trùm khắp.”. Sớ: Không vọng v.v…, giải thích lìa thấy ở trước. Lìa thấy hay lìa tướng, là nói về nghóa một. Kết riêng: Nói tâm chân thật v.v… trở xuống. Kết lìa kiến: Một câu đầu, đã lìa vọng kiến tức là nhất tâm, tâm tức chân thật, văn sớ rất dễ thấy. Nói Tức là các pháp tánh, tổng kết lìa tướng ở trước, đã lìa vọng tướng, chỉ là ở tánh, tánh đều trùm khắp. Đã không có hai lỗi “mất” thì thành hợp lý “được”, chính lý đã hợp thì chẳng biết đối đãi cái gì? Do đó, trong khoa nói: “Nêu là nói về “được”. Nhưng đây v.v… trở xuống là giải thích nghóa pháp tánh, do vốn nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt, sinh diệt là pháp, Như Lai tạng là tánh. Nay từ môn sinh diệt nhập môn chân như, nên lìa thấy tướng tức hiển bày pháp tánh. Tánh tức bản giác, trong phần lập nghóa chỉ bày tự thể. Theo nghóa kết tên: Nói Tự thể hiển chiếu v.v… trở xuống. Sớ: Tất cả v.v… trở xuống, phụ giải thích rất dễ hiểu. Nêu trên v.v…, Dẫn nhân để chứng quả, tức văn trong phần dụng đại. Trước tức pháp nhân tâm hiện quả, nay tức quả tâm hiện nhân. Nhân quả tuy khác, tâm thể là một. Nên kinh Kim Ty nói: “Y báo chánh báo ở A-tỳ, hoàn toàn ở chỗ tự tâm tột cùng của bậc thánh. Cõi Tỳ-lô Pháp thân chẳng vượt ngoài một niệm của hạ phàm”. Bởi do v.v… trở xuống là giải thích lý do. Thể Phật và chúng sinh đồng không hai tướng. Giống như cha con có chung một gương. Nếu khi gương chiếu con, con ở trong gương cha, cũng tại ở trong gương mình. Nếu khi chiếu cha, cha tại ở trong gương con, cũng tại ở trong tự gương mình. Gương là một thể, thuộc về hai người. Mỗi người thành tự gương mình chiếu nhau hiện nhau, không có khác thể, để dụ cho chân tâm chúng sinh và Phật đều đầy đủ. Tuy nói đều có mà lý không thể phân. Sớ nói: “Không hai” là ý này. Hoa Nghiêm v.v… trở xuống là dẫn chứng ba thứ không khác nhau. Nghóa là tâm chúng sinh tức tâm Phật, tâm Phật tức tâm chúng sinh. Lại chúng sinh là chúng sinh trong tâm Phật, Phật là Phật trong tâm chúng sinh, do chúng sinh và Phật tướng đồng một tâm, thể không khác nhau. Do đồng thể v.v…, ý nói: Chẳng chỉ tâm thể chiếu soi pháp mà thôi, lại khởi đại thần dụng, lợi lạc chúng sinh. Kia tức nương vào tướng trí tịnh khởi nghiệp tướng không thể nghó bàn. Nương cảnh pháp xuất ly tạo nghóa cảnh duyên huân tập. Trong phần hỏi của luận ghi: Nếu các v.v… trở xuống cho đến sinh, là đoạn văn trước. Tất cả v.v… trở xuống đều được lợi là vạch bày quyết định, đều rất dễ hiểu. Phần nhiều chẳng thấy, chẳng phải hoàn toàn không thấy, nên nói “phần nhiều”. Lại nghe người nói sẽ thấy thân họ, thấy thân chưa phải là nghe pháp. Nay hạn cuộc chỗ nêu, nên chỉ nói chẳng thấy, còn không được thấy huống chi được nghe. Đáp. Có ba: Pháp: Luận: Chư Phật v.v… trở xuống là y cứ điều hỏi trước. Tức hỏi báo, hóa. Nay đứng về thể Pháp thân trùm khắp nên báo, hóa tức là dụng của thể, cũng trùm khắp tất cả. Y cứ bổn gốc mà nói, chỉ nói “Pháp thân”. Sớ: trùm khắp tâm chúng sinh, luận nói: “Tất cả chỗ”, nói tất cả là ý nói tình, khí. Cũng như kinh Hoa Nghiêm chép: “Pháp tánh trùm khắp ở tất cả chỗ, tất cả chúng sinh, và cõi nước (hiển bày riêng hữu tình và khí thế gian) cũng không có hình tướng để được (mất dấu vết). Theo đây thì không chỉ trùm khắp tâm chúng sinh. Nay sớ theo câu hỏi, nên chỉ nói: “trùm khắp tâm chúng sinh”. Chỉ có v.v…, ở đây nói công năng lỗi ở căn cơ, Phật không ứng riêng. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Bồ-tát trăng mát mẻ, đi trong rốt ráo không, nước tâm chúng sinh tịnh, ảnh Bồ-đề liền hiện”. Văn trên v.v…, tức trong dụng đại bảy lần hỏi đáp, nói rộng nghóa kia. Dụ: Nói Chúng sinh v.v… trở xuống, là dụ, nên lại hợp rằng: “Thân chư Phật giống như sắc tượng”. Luận nêu một khía cạnh nên không nói đủ. Hợp: Nói như thế v.v… trở xuống, là hợp. Sớ: Nói về không v.v…, ý nói: Luận cho rằng cấu chỉ là cấu chướng thấy Phật, tức là không có căn cơ. Thiện Tinh v.v… trở xuống là dẫn nêu. Người này sinh vào thời đức Phật, là đệ tử Phật, thường thấy thân Phật. Nhưng có phiền não hiện hành, do khởi ác đọa vào địa ngục, như kinh Niết-bàn nói. Nói Pháp thân chẳng hiện v.v… trở xuống, văn sớ có ba. Đứng về luận này để nói năng hiện: Nhưng y cứ nghóa hợp để nói báo, hóa chẳng hiện. Mà nói Pháp thân chẳng hiện là do nói theo gốc. Như nói gương chẳng hiện, nghóa là không hiện hình tượng. Ở đây đồng với kinh Viên Giác nói: “Do vắng lặng, tâm các Đức Như Lai trong các thế giới ở mười phương hiển hiện trong đó” Tâm là Pháp thân, đều nói theo gốc. Lại ứng hóa cũng gọi là Pháp thân. Kinh Bổn Nghiệp nói: “Pháp thân có hai thứ. Một là, pháp tánh Pháp thân, hai là, ứng hóa Pháp thân” Nghóa là pháp thế đệ nhất trong dòng nước, từ thật tánh sinh trí, thật trí là Pháp thân. Tên pháp gọi là tự thể. Tập hợp tạng gọi là Thân. Tất cả gốc lành chúng sinh, cảm ứng Pháp thân thật trí này, nên hiện ứng vô lượng Pháp thân. Có chỗ cho là có mười thứ thân. Dẫn luận khác để nói chẳng hiện: Sớ Như Nhiếp luận v.v… trở xuống, dẫn luận khác để nói chẳng hiện, có ba: Dẫn bổn văn, mười hai sâu xa: 1- Thọ sinh sâu xa. 2- An lập số. 3- Hiện Đẳng Giác. 4- Lìa dục. 5- Uẩn. 6- Thành tựu. 7- Hiển hiện. 8- Thị hiển Đẳng Giác, Niết-bàn. 9- Trụ. 10- Tự thể. 1 1- Dứt phiền não. 1 2- Không thể nghó bàn. Nay nói hiển hiện là câu thứ bảy, phải bỏ chữ kia thay vì để chữ hiển hiện, văn tức thuận. Ngoài ra như thứ lớp giải thích. Dẫn văn giải thích: Giải thích rằng v.v… trở xuống là dẫn văn giải thích. Đây cũng làvăn của luận, nay sớ theo chỗ dẫn liền giải thích, ban đầu là nêu. Mà thế gian v.v… trở xuống là nêu thí dụ: Như sau giải thích dụ ở trước. Như thế v.v… trở xuống là hợp pháp Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ. “Mềm mại” chẳng phải là lỗi lầm thô ác thì giới như nước trong bình, như thiền định. Giới giúp định, nên lấy làm ví dụ. Lỗi lầm, như bình bị vỡ. Do có phá giới như cấu, nên nước định không dừng, mặt trăng Phật không hiện. Trong kinh Hoa Nghiêm nói đồng như đây. Hội ý văn: Sớ Trong đây v.v… trở xuống là hội ý văn. Ban đầu là lặp lại đoạn văn trước. Là lỗi trở xuống. Chính hiển ý. Do phân tán v.v… trở xuống, xuất phát nguyên do. Như A-nan chỉ ưa học rộng, không hề tu định, tuy chẳng trợ ngại việc hầu hạ Đức Như Lai, nhưng lại bị Duy-ma quở trách. Cũng vì không có định, mà không dứt được kiết sử. Lại như các Bồ-tát tuệ nhiều định ít, người được thấy Phật vô hạn. Đều là hàng này. Kia nhiếp v.v… trở xuống là đối biện ý chỉ của hai đoạn văn. Đây luận v.v… trở xuống là nói ý luận này, đều rất dễ biết, nghóa này cũng ở trong phần nhân duyên đã nói. <詞>Phần tu hành tín tâm: Tu, nghóa là học tập. Hành, nghóa là tiến hướng thực hành năm thứ, như sau tự nói rõ. Tín tâm, sinh ý nhẫn lạc, cảnh có bốn thứ. Cũng như v.v… trở xuống, là giải thích. Đến nay ý v.v…, nay đứng về đề luận để phối hợp. Nếu theo chỗ lập trong phần lập nghóa, tức cùng phân biệt phát thú đạo tướng, đều ngay nơi nghóa thừa. Nêu ý: Sớ: Người thù thắng, tức ở trước nói phát ba thứ trực tâm, v.v… thực hành bốn hạnh bất trụ, v.v.. hội nhập chánh địnhbốn hành. Người yếu kém tức ở trước nói thấy sắc tướng của Phật, hoặc là hạng phát tâm trời người, Nhị thừa, liền lui sụt. Do tứ tín v.v…, ý chẳng khiến tin sắc tướng Phật, tăng v.v… khởi hạnh thấp kém trời, người, Nhị thừa. Lại nương v.v…, Tín đã thành tựu viên mãn, nên như văn trước nói phát ba thứ trực tâm v.v… tu hành bốn hạnh vô trụ, nhập vào Thập Trụ cho đến được lợi ích, lại phát tâm giải chứng v.v… Đây là ở trước là phân biệt lui suit. Nay là dạy bảo tu hành. Nêu số: Sớ: Bốn bất hoại tín, tin bốn việc kia đều không thể hoại, chẳng hoại tức thường trụ. Do cảnh sở tín không thể hoại, khiến tâm năng tín cũng không thể hoại. Năng sở tương xứng đều gọi là chẳng hoại. Nên kinh nói: “Diệu Tín thường trụ”. Nêu lên giải thích: Sớ: Chỗ làm thấy chư Phật, đứng về nhân hiển bày căn bản. Nghóa là Phật nhân vào địa vị gốc ở chân như mà khởi tin hiểu. Lại nương pháp tắc chân như tu hành, cho đến chứng tột cùng chân như mới được thành Phật. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Do các Như Lai tôn trọng pháp, như thuyết tu hành sinh ra chư Phật” Đây là nghóa một bên, nên nói chân như là thầy chư Phật. Kinh nói: “Thầy chư Phật, có chỗ cho là Pháp” Do pháp thường nên chư Phật cũng thường, đã là thầy chư Phật nên gọi là căn bản. Các hạnh v.v… trở xuống là đứng về pháp nói lên căn bản. Nghóa là tất cả hạnh môn đều từ chân khởi. Nên kinh Viên Giác chép: “Pháp vương Vô thượng có môn Đại-đa-la-ni tên là Viên Giác, cho đến lưu xuất các Ba-la-mật, dạy bảo Bồ-tát v.v…” Sở dó trước nêu trực tâm vì bổn hạnh hai lợi ích, là biết hạnh chẳng phải chân lưu xuất thì không do đâu khế chân. Đâu có hạnh nào khế chân mà chẳng từ chân khởi, đây chính là căn bản các hạnh tín. Hỏi: Vì sao chẳng đứng về Tăng hiển bày căn bản. Đáp: Về phương diện Phật, khi hiển bày đã nhiếp tăng. Nhân địa vị tín hiểu phép tắc tu hành tức là Tăng bảo. Nay Văn sớ tuy có hai nghóa gồm cả ba. Đứng về mặt năng sinh Tam bảo gọi là căn bản. Lại là căn bản chỗ tin trong pháp. Do Tông của Chung giáo chỉ do chân pháp này mà muôn duyên khởi, khởi từ chân như hợp duyên nhập thật, nhập vào chân như. Bồ-tát phát tâm trước duyên chân như, khởi tin phát giải, tu hành khế chứng trở về chân, ở chỗ tin trong pháp làm căn bản. Tin nếu chẳng tin chân như, thì gọi là tin tà. Nên Luận Bảo Tánh nói “Chẳng tin chân như, có năm thứ mất. Nghóa là tự khinh mình, khinh người khác, chấp nhân và chấp pháp khởi ác kiến. Nên biết trái với đây là năm thứ được, do đó phát tâm trước khiến có tin này. Chẳng trực v.v…, chẳng những khởi tín, cũng chính ưa quán, ưa quán tức hành, nhưng hạnh này tức hạnh tín, hành thành tín mới là thật tín. Hỏi: Tại sao tin tướng chân như? Đáp: Chẳng tin tất cả pháp là tin tướng chân như. Vì trong lý chân như vốn không. Nếu thấy các pháp là có, là tin các pháp chẳng tin chân như, nay chẳng tin các pháp là tin chân như, cũng có thể ưa niệm quán sát mới gọi là Tín. Như người thế gian khuyến khích người kia làm, người kia thuận theo sự khuyến khích mới gọi là Tin. Nếu không như vậy thì đâu phải là tin? Nên tin thì chỗ nói lý thuận, thuận thì thầy trò giúp nhau mà thành đạo. Cho nên lấy ưa niệm giải thích thành tín kia. Nói Tin Phật v.v…, là tin báo thân. Nghóa là thân, ngữ, ý nghiệp, pháp môn biện tài, sắc tướng đầy đủ, y báo trang nghiêm, nên nói vô lượng công đức. Luận nói ở trước: “Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng đẹp, chỗ trụ quả y báo cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm”. Thường niệm v.v…, do tin Phật có công đức, nguyên thành thân này có đầy đủ tất cả trí. Do nguyện cầu mà suy nghó cung kính, cúng dường, khởi các gốc lành, tu nhân Phật. Nói tin pháp v.v…, đây là hành pháp, pháp này dứt trừ chương san tham, phá giới, v.v… là lợi ích lớn. Thường niệm, tức sáu độ bố trí, trì giới…, do tin có lợi ích, lại siêng năng thực hành. Nói Tin tăng v.v…, Đây là đại Bồ-tát tăng đăng địa trở lên, nên nói chân chánh như thật tu hành, v.v… Thường ưa…, phân biệt chẳng phải Nhị thừa, nên nói Bồ-tát. Giản trạch chẳng phải trước Sơ địa, nên nói như thật tu hành. Nhưng thường có bốn tín. Nghóa là tin Tam bảo và giới, đây là tin trong nhân thừa, thiên thừa. Nay bốn tín tức là trong giáo chung thật, chẳng do nhân như và giáo khác nhau, cũng chính là Tam bảo cạn sâu có khác. Hỏi: Trước nói người gốc lành cạn mỏng, cũng gặp Phật thấy tăng cầu pháp, có khác gì ở đây? Đáp: Trước do chưa tin chân như, thấy Tam bảo đều không xứng thật, do đó gặp duyên liền thành lui sụt. Nay do trước tin chân như, được chỗ tin Tam bảo đều đúng như thật, do đó tăng tiến khiến tin thành tựu viên mãn. Đây là tin chân như là cội gốc Phật, tin Phật là chỗ thành tựu, tin pháp là chỗ nương, tin tăng là chỗ học, lại bốn thứ này tức là giáo, lý, hạnh, quả. Như ba thứ trước thứ lớp là lý, quả, hạnh. Tin tăng là giáo, tăng hay chuyển giáo để kia cầu học. Sớ: Đều hai v.v…, Luận tường tận rất dễ biết. Nêu số: Sớ: Có tín…, tin nếu không hành thì chẳng thật tin, do tin là nghóa thuận, thuận mà hành, chính là tin chân thật. Sẽ biết hành này là hạnh thành tín. Tin tức là tin hành. Ở đây tin là quyết định không lui sụt, như trước nói chỗ lui sụt, không thể như vậy. Gạn khởi: Sớ: Chỉ quán v.v…, do các kinh luận đều nói sáu độ, trong đây chỉ có năm, vì hai độ sau khi tu không được lìa nhau. Ban đầu tu là chỉ quán, tu thành là định tuệ, chỉ có thời gian khác mà chứng không khác. Hỏi: Tại sao chỉ quán hợp lại tu? Đáp: Nếu chẳng tu cả hai đều thành tà. Kinh Niết-bàn chép: “Định nhiều tuệ ít không thấy Phật tánh, tuệ nhiều định ít thấy tánh chẳng rõ ràng, định huệ đồng học thấy Phật tánh rõ ràng”. Lại các chỗ nói: “Chẳng thấy Phật tánh, vô minh tà kiến từ đây sinh”. Nên nay hợp lại tu, để khỏi có hai lỗi, sau tự giải thích. <詞>THÍ: Nói tất cả đến tìm cầu, tức người thọ trí, chẳng đồng bậc thiện đức, hạn cuộc bảy hạng người, nên nói tất cả. Tức chẳng lựa chọn oán thân, già trẻ, bệnh khỏe, cao thấp, nghèo cùng, xa gần… Tất cả, v.v… trở xuống, là vật bố thí. Nói Theo sức lực, dường như có hai ý: Tùy theo năng lực nghèo giàu. Tùy theo năng lực xả bỏ hay bố thí. Nếu theo năng lực kia, ắt chẳng gượng vì khỏi sinh phiền não. Do từ v.v… trở xuống, tức ý hành bố thí. Tự xả bỏ san tham, theo tánh hành bố thì, là hạnh tự lợi Khiến kia vui mừng, cứu giúp ban cho chúng sinh là hạnh tha, nên biết Bồ-tát tuy nêu một hạnh, nhưng hai lợi ích gồm trong đó. Đây là do bố thí nhiếp nghèo cùng. Sớ: Giúp tài thí, vật giúp thân, cũng gọi là ngoại tài. Vật ngoài thân nên cũng gọi giúp chúng sinh, tài giúp sinh mạng. Theo kinh chánh pháp Niệm nói mười hai thứ bố thí như cấu. Đối với chúng sinh, bố thí không bình đẳng. Vì nhân duyên nam nữ dâm dục bố thí. Vì có sự sợ hãi mà bố thí cho vua để cầu cứu. Do tâm ngu si bố thí như ngoại đạo làm trai hội chẩn tế, v.v… Không biết nghiệp quả chỉ biết học theo người khác bố thí. Người xin nài nỉ rồi mới cho. Biết người khác có của bố thí, nên cho khiến tin, rồi sau đó làm tổn hại. Bố thí của rồi dặn phá hòa hợp, chung làm bạn với mình, rồi sau đó lại làm cho suy não. Lấy của cho nam nữ khiến thành thân thiện với họ, sau lại làm cho phản lại nhau. Mua những vật rẻ tiền, đến ngày trai hội lại bán với giá đắt, mua ít lời nhiều. Vì tiếng khen mà bố thí. Vì vợ con nghèo đói mà cho (để sau cầu cho được giàu có). Lìa mười hai thứ này thì gọi là tịnh thí. Trừ đây lại có mười hai thứ đầy đủ bố thí, không thể nói nhiều. Kinh Ưu-bà-tắc giới nói, Bồ-tát thực hành bố thí nên lìa năm pháp. Khi bố thí không chọn là có đức hay không có đức. Khi bố thí không nói thiện ác. Khi bố thí không lựa chủng tánh. Khi bố thí không khinh người cầu xin. Khi bố thí không ác khẩu. Lại có ba việc, bố thí rồi không được quả báo cao siêu mầu nhiệm. Trước phát tâm nhiều, sau lại cho ít. Chọn lựa vật xấu bố thí cho người. Đã làm bố thí rồi tâm sinh hối hận. Lìa ba việc này, được quả báo cao quý mầu nhiệm. Nói Ách nạn sợ hãi ép ngặt là người thọ thí. Theo sức mình kham nhậm, chỗ sức bố thí, hết sức rồi thì không hối tiếc. Bố thí vô úy: chính là hạnh bố thí. Cũng là ý hành thí. Hoặc kẻ có tội bị dây trói buộc, hoặc tai nạn lửa, nước, hoặc tai ương cọp sói, hoặc sợ hãi kẻ thù. Như thế tất cả chúng sinh, hễ có các việc sợ hãi, đều che chở khiến được an vui, không có sợ hãi. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp: tức người thọ thí: Ba thừa, năm thừa hoặc thưa hoặc hỏi, đều gọi là cầu pháp. Theo rồi v.v… trở xuống là pháp sở thí. Người không có khả năng không hiểu biết, không thể nói với họ được, đối với người có khả năng hiểu mới nói với họ được, mới khỏi lầm người, cũng khỏi vu nạn. Khổng tử nói: “Biết nói là biết, không biết nói là không biết, dó là biết” Lại nói: “Học rộng thì thiếu nghi, cẩn thận lời nói thì các việc khác ít lỗi lầm”. Phương tiện nói, phải dùng các thứ lời lẽ khéo léo, dẫn dắt khuyến khích khiến kia tin nhận, không được quá thẳng thắn khiến kia phỉ báng. Nên kinh Pháp Hoa nói: “Có nan hỏi cũng không sân thuận theo giải thích cho họ nghe”. Chẳng nên v.v… trở xuống là nói về ý hành thí. Chẳng tham danh lợi v.v…, là ngược lại nói về lỗi kia, luận ở trước nói: “Có chỗ cho rằng vì khiến chúng sinh, lìa tất cả khổ được vui rốt ráo, chẳng cầu danh lợi cung kính thế gian”. Chỉ niệm v.v… trở xuống, thuận nói về việc ấy. Tự đã như vậy, khiến người khác cũng như vậy. Theo Trí luận chép: “Phật nói trong các bố thí, bố thí pháp là bậc nhất”. Vì sao? Về tài thì có hạn lượng, pháp thí thì vô lượng. Tài thí là quả báo cõi Dục, pháp thí là quả báo ra khỏi ba cõi. Tài thí không thể dứt được hoặc lậu, pháp thí thanh tịnh qua được bờ kia. Tài thí chỉ cảm ứng được trời người, pháp thí thông suốt cảm ứng được quả Ba thừa. Tài thí người trí kẻ ngu đều có khả năng, pháp thí người trí mới có khả năng. Tài thí chỉ cho người năng, thí được phước, pháp thí chung cho lợi ích năng sở. Tài thí người ngu cất chứa để thọ, pháp thí chỉ hạn cuộc ở người thông minh. Tài thí chỉ lợi ích cho sắc thân, pháp thí lợi ích tâm thần. Tài thí tăng thêm bệnh tham, pháp thí dứt trừ ba độc. Do đây so sánh thì pháp thí là bậc nhất, mong các học giả xét kỹ mà thực hành. <詞>GIỚI: Nói có chỗ cho rằng v.v… trở xuống, như thứ lớp là mười điều lành kia tức lìa ác, thân ba, miệng bốn, ý ba. Chẳng sát sinh, khắp bao gồm côn trùng loài vật, chẳng chỉ ở người. Chẳng trộm cắp, một cây kim, một ngọn cỏ, chẳng phải chỉ trộm năm đồng tiền trở lên. Chẳng dâm dục, chạm xúc thân thể thì phạm, chẳng nói đạo và cùng phi đạo. Chẳng nói lưỡi đôi chiều, gây xốc hai đầu. Chẳng nói lời độc ác: không xét lời nói. Chẳng nói dối là nói gạt. Chẳng nói thêu dệt: thêm thắt lời nói. Những câu này đều không, nên đều nói là: “chẳng”. Tham nghóa là ác dục, tật là ganh ghét. Khi là xâm phạm. Trá là hư ngụy. Siễm là giả mạo. Khúc là trái lý. Ganh ghét, xâm phạm, sân nhuế thuộc về sân. Siễm khúc thuộc về tham. Tà kiến cũng gọi là ác kiến. Tức năm kiến như thân kiến, biên kiến v.v…. Nay nói tà, là một trong năm kiến. Những thứ này đều không nên gọi là xa lìa. Nhưng Bồ-tát đem lòng từ bi thương xót chúng sinh nên lấy giới bất sát làm đầu. Tiểu thừa do nhàm chán sinh tử nên lấy giới dâm làm đầu. Chỉ thú có khác nên giáo nghi chẳng đồng. Nếu theo gốc mười điều lành là nhân duyên trời, người. Nay Bồ-tát tu hướng về đạo quả thì khác. Theo kinh Hoa Nghiêm thì có năm hạng người đều tu mười điều lành cảm vời quả khác nhau. Nghóa là phàm phu, Thanh Văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật. Kinh Tịnh Danh nói: “Trì giới là Bồ-tát ở cõi tịnh khi thành Phật hành đạo mười điều lành, mãn nguyện chúng đến sinh sinh cõi kia” Thập thiện là Bồ-tát cõi tịnh độ. Bồ-tát khi thành Phật mạng sống không chết yểu, phạm hạnh rộng lớn, nói lời thành thật, dùng lời mềm mỏng với quyến thuộc chẳng xa lìa, khéo hòa sự tranh cãi, nói lời lợi ích. Không ganh ghét, không sân nhuế, chính là thấy chúng sinh về sinh cõi nước kia. Nên biết mười điều lành chẳng khác, tu tâm khác nhau. Nhưng hành mười diều ác, chuẩn theo luận Câu-xá nói, mỗi mỗi cảm vời ba thứ quả: 1/ Dị thục. 2/ Đẳng lưu. 3/ Tăng thượng. Dị thục rát dễ biết, lược nói chỉ có hai thứ. a- Quả Đẳng lưu: Tuổi thọ ngắn ngủi. b- Quả Tăng thượng. Trong phần trộm cắp: 1/ Tài vật thiếu thốn. 2/ Thường gặp sấm xét, mưa đá. Trong phần tà hạnh: 1/ Vợ chẳng trinh tiết. 2/ Có nhiều bụi bặm. Trong phần nói dối: 1/ Bị nhiều phỉ báng. 2- Nhiều thứ nhơ uế. Trong phần nói lưỡi đôi chiều: 1/ Thân bạn chẳng hòa hợp. 2- Chỗ ở hiểm khác. Trong phần lời nói độc ác: 1- Thường nghe tiếng ác. 2- Ruộng phần nhiều bị gai góc, cấy lúa chẳng được. Trong phần nói lời thêu dệt: 1- Nói không nghiêm túc. 2- Thời gian hầu thay đổi Trong phần tham: 1- Khiến tham lẫy lừng. 2 – Khiến cho thiếu quả. Trong phần sân: 1 - Khiến sân lẫy lừng. 2 - Khiến quả thô sơ Trong phần tà kiến: 1- Khiến si lẫy lừng. 2 - Khiến không có quả. Những câu này câu đầu đều thuộc Đẳng lưu, câu hai thuộc về Tăng thượng. Sớ: Nhiếp luật nghi, đây mười giới như sát v.v… là luật nghi ác. Dừng không làm là thành pháp lành. Nhiếp thủ không bỏ thì gọi là giới. Nói xuất gia v.v…, giới luật nghi ở trước chung cho tại gia và xuất gia, pháp giới lành này chỉ ở người xuất gia. Vì chiết phục v.v… trở xuống, ý ở chỗ yên tónh. Nếu ở trong cõi người khó dứt phiền não, cần thoát tục lìa trần cấu ở nơi rừng sâu. Nên kinh Di Giáo nói: “Ở chỗ yên tónh tư duy diệt gốc khổ, nhớ nghó pháp đủ thọ chớ để quên mất”. Trong kinh Nguyệt Tạng có nói rộng như đây: “Đức Thích-ca Như Lai bỏ cung vua đến núi tuyết, nhân tu hành sáu năm quả viên mãn muôn đức”. Ít muốn, v.v…, thấy được nghó bàn nên nói là biết dủ. Tài không muốn được, nên nói ít muốn. Đầu-đà, Hán dịch Đẩu Tẩu, nghóa là phải dũ phiền não nghiệp báo trong ba cõi, cho nên có mười hai thứ. Nghóa là: Y có ba, thực có ba và chỗ ở có sáu. Sáu chỗ là: Ở chỗ vắng vẻ. Nghóa là xa lìa các phố thị nhộn nhịp, ở chỗ vắng vẻ, thân xa lìa nên tâm không ham muốn, được các điều lành có lợi ích. Ngồi thẳng không nằm: Hoặc đi hoặc đứng, tâm động khó nhiếp, cũng không được lâu, nên thường ngồi. Nếu khi muốn nghỉ hông không đụng tới chiếu. Ngồi dưới gốc cây: Nghóa là thuận theo Phật pháp. Như Phật thành đạo, xoay bánh xe pháp, nhập Niết-bàn đều ở dưới gốc cây, trị được lòng tham phòng xá, dễ nhập đạo. Ngồi nơi nghóa địa: Nghóa là trong nghóa địa thường có tiếng khóc bi ai, thây chết bừa bãi, vô thường bất tịnh, quán đạo dễ thành. Ngồi ngoài trời: Nghóa là cây như phân nửa nhà, mê đắm vẫn sinh. Lại mưa ướt chim kêu ô uế bất tịnh, nếu ở ngoài trời, ánh sáng chiếu khắp, khiến tâm thông minh lanh lợi, quán không dễ thành. Ngồi ở chỗ có cỏ: Nghóa là tùy tâm mà được ngồi trên cỏ kia, lìa chỗ đắm trước không não hại người khác. Trong ba thực. Có ba. Thường đi khất thực, nghóa là nương theo pháp khất thực, phải chế phục sáu căn, không mê đắm sáu trần, cũng không phân biệt tướng nam nữ, được và chẳng được, hoặc ngon hoặc không ngon, chẳng sinh ái luyến. Nếu có người thỉnh thọ thực, hoặc được thỉnh chẳng được thỉnh tham hận dễ sinh. Nếu đồng chúng tăng thọ thực, chỗ phân chia khiến người tâm sinh tán loạn, chẳng nhập đạo. Thọ thực có tiết lượng: Nghóa là nhớ nghó trong thân có tám muôn vi trùng, trùng được thức ăn này đều được an ổn. Nay ta dùng thức ăn để nuôi các trùng này, sau khi được đạo dùng pháp để nhiếp kia. Lại tuy ăn một bữa, tham lam tột cùng, ráng ăn thật no bụng là ngăn bỏ hành đạo, nên theo chỗ được ăn ba phần, chỉ ăn hai phần thôi, thân sẽ được nhẹ nhàng, gọi là ăn có tiết lượng. Ngồi ăn với một oai nghi. Nếu ăn nhiều lần sẽ mất nữa ngày công phu (tu hành), chẳng vì ham nuôi dưỡng thân này, nên dứt thường ăn. Tức trong luật tứ phần không làm pháp cho ăn thêm. Trong kinh Đầu-đà nói: “Giữa ngày và cuối ngày không được uống nước gạo”. Trong ba y: Chỉ chứa ba y: Nghóa là người tại gia ưa chứa các thứ y phục, còn ngoại đạo khổ hạnh thì trần truồng (không có y phục). Nay đệ tử Phật nên bỏ cả hai sự thái quá, chỉ giữ ba y. Lại xa lìa cầu nhiều và chấp giữ. Y phấn tảo: Lượm vật phẩn tảo kết lại thành y. Lấy đây để che hở chống lạnh để lìa lòng tham, tránh được giặc, không có nạn cướp mất mạng. Y lông thú: Hoặc ba y, hoặc y dư, tất cả đều dùng lông thú mà làm, không chứa thêm y (ngoài ba y). Nhưng, mười hai thứ này là hạnh biết đủ. Kinh Niết-bàn, Trí luận, Du-già, đều nói về nghóa này. Nên biết người xấu san tham, ham muốn nhiều. Người xuất gia không nên làm, phải nên răn bảo sâu xa. Cho đến v.v…, tội nhỏ huống là tội lớn. Ý nói: Tội nhỏ còn phải sinh sợ hãi, tội lớn đâu được an nhiên. Nói siêu việt nên nói cho đến. Định làm đã sợ, làm rồi thì hãi. Sợ đọa vào khổ nên hổ với trời, thẹn với người, nên nói tàm quý. Lại “thẹn”: nghóa là sùng trọng bậc hiền thiện, “hổ” là khinh chống bạo ác. Cải hối là sữa đổi lỗi xưa, riêng tu thiện nghiệp. Hối hận chỗ tạo trước ân hận tại tâm. Chẳng được khinh giới, như Giới Bồ-tát nói: “Trong mười giới trọng, phạm tội nhỏ như cát bụi, cũng không được phát tâm Bồ-đề. Mất địa vị Tỳ-kheo, địa vị vua chúa, cho đến địa vị Phật. Trong hai kiếp ba kiếp, đọa vào ba đường, không nghe danh tự cha mẹ, Tam bảo”, huống chi phạm đủ cả mười giới. Nên lời tựa Giới nói: “Chớ khinh tội nhỏ màcho là không có tai ương, một giọt nước tuy nhỏ, dần đầy thùng to. Sát-na tạo tội tai ương đọa vào Vô gián. Nên trong kinh Niết-bàn có dụ về phao nổi. Nên biết Phật chế giới đâu được khinh mà hủy phạm. Sớ: Giới nhiếp pháp lành, nương vào giới này thì tất cả pháp lành tự nhiên nhiếp lấy. Tâm hộ giới, là cẩn thận, gắng tạo tâm giữ giới theo thứ lớp chẳng lúc nào không giữ. Trong trắng như hạt ngọc, không phạm mảy may. Giới Nhiếp chúng sinh: trong kinh Niết-bàn nói là giới dứt sự chê bai của thế gian. Nghóa là hạnh chẳng phải luật nghi và thọ cất chứa vật phi pháp, bị người chê bai phỉ báng, tức sinh tội cho người khác. Tội người khác sinh vốn ở ruộng của mình, nên phải giữ gìn. Hộ trì tức chẳng phí báng, chẳng phỉ báng tức tự nhiên phát tâm, phát tâm tức lãnh thọ giáo hóa, lãnh thọ giáo hóa tức thành nghóa nhiếp thủ. <詞>NHẪN: Sớ: Người khác chẳng lợi ích: cũng gọi là chịu oán, bị hại phải nhẫn nhịn. Nghóa là bị kẻ thù não hại, người kia làm những việc chẳng lợi ích đối với mình, mà mình vẫn nhẫn chịu khổ kia, không có tâm trả thù. Tuy nhiên, không báo oán có hai ý: Vì muốn mở oán kết: Như trong luật, vua Trường Sinh có bài kệ rằng: Lấy oán báo oán Oán chẳng hề dừng Chỉ có không oán Oán kia tự dứt. Trong luận Trí Độ cũng nói như thế. Vì chứng quả Phật: Do có trí tuệ biết cảnh kia đây rỗng không không thật có. Nhẫn được việc kia, nghi có người nổi sân liền hiện cùng làm bạn, hòa hợp với họ, do đó được chứng vô thượng Bồ-đề. Đây như luận Du-già nói: “Nếu khi người tu hành gặp người khác làm khổ, nên nghó ba suy nghó, năm tưởng, để nhẫn việc kia. Ba suy nghó là: Suy nghó tự trách nghiệp dẫn đến tai ương: Nghóa là nếu Bồ- tát gặp người khác làm khổ, nên nghó như vầy: “Nay ta vì nghiệp trước ứng hợp hại người khác, nếu nay không nhẫn sẽ tăng thêm nhân khổ, liền chẳng ái luyến thân mình, để tự thành khổ trói buộc, cho nên phải nhẫn”. Suy nghó tánh đều là hành khổ: Lại thân tánh mình và người đều là hành khổ, kia không biết nên khởi tâm giết hại thân ta, ta đã biết, đâu làm cho khổ của người kia thêm lớn nữa, thế nên phải nhẫn. Suy nghó dẫn kém sánh hơn: Người Nhị thừa tự lợi còn không làm khổ người khác, ta đã lợi tha phải nên chịu đựng khổ này. Trong năm tưởng: Tưởng thân thiện. Tưởng do pháp Tưởng vô thường Tưởng có khổ Tưởng nhiếp thọ. Trong sách Luận ngữ (của nhà Nho) cũng nói: “Lấy trực để trả oán, lấy đức để trả oán”. Nay đồng lấy “Trực” để trả oán, giống như câu: “Hãy cho những người oán ghét mình nhất những điều sung sướng nhất”. Tức là lấy “Đức” để trả oán. Lòng nhân từ cùng với Bồ-tát hơn và kém thật quá rõ ràng. An nhiên chịu đựng khổ, đối với cảnh trái thuận, an nhiên chịu đựng khổ, tâm niệm luôn bất động. Của cải vinh hoa tô điểm cho mình, bất luận nhiều ít, tất cả những việc để tô điểm cho mình, đều gọi là danh lợi. Tổn hao xâm lấn: đây cũng bất luận nhiều ít, chỉ gọi tất cả việc tổn hao của mình, là suy tổn. Vượt hơn lỗi hủy phạm, ở đây như phạm lỗi nhỏ nói là lớn. Vượt hơn đức để khen ngợi, như có chút điều lành, khen khiến cho rộng ra. Nương thật mà khen ngợi, như có một đức, cũng nói một đức. Nói theo lỗi thật: như có một lỗi cũng nói một lỗi. Ép ngặt xâm tổn thân hình, như bị đánh đập, lạnh, nóng, đói, khát, muỗi mồng v.v… Tất cả chẳng được yên, hết gọi là khổ về tâm thần. Thích vui, là mát mẻ, no ấm, thấy nghe hương vị,… tất cả việc thích thú, đều gọi là vui. Có thuyết nói: được tài gọi là lợi, mất tài gọi là suy. Bàn chuyện xấu là hủy phá, bàn chuyện tốt là khen. Đối diện bàn việc tốt là xưng, đối diện nói chuyện xấu là tánh. Khổ vui tức hai thọ. Cùng đây nói đều là một ý. Đối với trần tài, khen ngợi, khen ngợi, an vui, nhẫn không vui mừng. Đối với suy, hủy, trách, khổ, nhẫn không sân. Cho nên trong luận gọi chung là Nhẫn. Nhưng, cảnh giới tuy nhiều, nhiếp chung không ngoài hai thứ trái thuận. Lại trong hai thứ này đều có bốn nghóa, thâu tận hai lần bốn hợp nói để thành tám gió. Nghóa là tám gió hay kích động biển tâm của chúng sinh khởi sóng phiền não tham sân. Nên khiến cho nhẫn, thì tám gió không thể động. Tuy nhiên, ở trong đó trái thì dễ nhẫn, thuận thì khó nhẫn, chẳng chỉ khó nhẫn, cũng khó đề phòng. Như giặc và con phá trộm tiền tài trong nhà, đề phòng khó dễ, lấy đây so sánh mà biết. Nên Tông Thiên Thai nói: “Vì hai thứ giặc mạnh yếu không thể an nhẫn, không sinh thánh trí đâu do hiện tiền” Như khiến văn của quân tử tam só, tam truất, không hỷ, không giận, huống thực hành hạnh Bồ-tát, đâu được đối với cảnh trái thuận mà chẳng nhẫn ư! Lại có pháp nhẫn chắc chắn, chỉ đối với cảnh nhẫn pháp thể vô sinh, do tâm hiện, nói vắng lặng, chỉ một chân thật tức là nhẫn này. <詞>TINH TẤN: Nói các việc lành, trước ba sau hai tất cả pháp lành. Tâm không biếng nhác lui sụt, thân do tâm nên chỉ nói tâm. Giải: Nghóa là biếng nhác, không thể nhanh nhẹn. Lui sụt nghóa là thoái đọa giữa đường mà bỏ dở. Sớ: Siêng năng là không lười biếng, mạnh mẽ là không lui sụt. Đây tức đối với việc có nghóa nên mạnh mẽ tinh tấn. Như Tử Lộ hỏi Khổng Tử: “Quân tử còn mạnh mẽ ư! Khổng Tử đáp: “Vì còn có nghóa, quân tử có dõng mà vô nghóa là loạn. Tiểu nhân có dõng mà vô nghóa là đạo tặc”. Lại nói: “Thấy việc nghóa chẳng làm không gọi là Dũng”. Mong các hành giả xét kỹ ý nghóa “Dũng”. Tướng mạnh mẽ, Kinh Tịnh Danh chép: “Thí như thắng kẻ thù, mới được gọi là Dũng”. Khó hoại, ý chí vững chắc không yếu hèn, quyết định giữ vững. Kinh Thi nói: “Tâm ta đâu phải là đá mà không thể chuyển được, tâm ta đâu phải là chiếu mà không thể cuốn được”. Sở dó như vậy, vì biết sinh tử quyết định là khổ, vì biết quả Phật chắc chắn là vui, vì biết chúng sinh và thân mình không khác để độ, do thiên hóa bất biến mà lo nghó kia, muôn cảnh thuận chung nơi đạo kia. Cho đến tán thân mất mạng, không bỏ tâm Bồ-đề. Nên luận Bảo Tạng nói: “Người quyết trở về không nề mệt nhọc, người quyết chiến đấu không màng cái chết, người quyết học không nghó đến thân, người quyết vì đạo chẳng xem trọng việc kia” Đây là khó hoại. Không đủ, tu các hạnh lành ý không thỏa mãn. Tiêu biểu khác người Nhị thừa được ít cho là đủ, tức muốn mà không tham. Do niệm v.v… trở xuống là giải thích ý luận, rất dễ biết, ở đây đồng Duy thức trong phần luyện ma thứ hai trong ba luyện ma (mài dũa). Có bài kệ Vô tánh cho rằng: Ở đường ác trải qua nhiều kiếp Không lợi cần khổ còn vượt được Hành ít hạnh khổ được Bồ-đề Đại lợi không nên sinh lui sụt. Nói cho nên v.v…, Từ xưa chẳng tu thân tâm thường khổ não, nếu như nay không tu, y trước là khổ não. Do đó phải ghi khắc mình, tự tạo tu hành không lười biếng. Tức người lành làm việc lành, chỉ một ngày không đủ, nên kinh Di Giáo nói: “Các thầy Tỳ-kheo nếu siêng năng tinh tấn thì việc không khó, cho nên các thầy thường siêng năng tinh tấn. Thí như dòng nước nhỏ thường chảy thì có thể xuyên qua đá. Nếu tâm hành giả thường biếng nhác, thí như dùi lửa chưa nóng mà đã nghó, dù muốn được lửa lửa cũng khó có thể được, cho nên phải tinh tấn”. Nhưng, đoạn văn này cũng có thể, ban đầu chính là nói rõ, từ “ngay niệm” trở xuống là phương tiện, đối với phần đầu giải thích ngược lại, phần sau là thuận, tổng kết văn tường tận sẽ thấy. - Trong chứng: Luận: Nếu người: Đây là Thập tín sơ tâm của phẩm sau. Sớ: Nghiệp chướng: cũng có phiền não chướng, nay chỉ nêu thô. Nói Tà ma…, Tà: là ngoại đạo. Ma: là thiên ma. Các loài quỉ là loài kinh sợ, như ở sau nói. Sự việc, tất cả việc, việc tư ở thế gian, đếm số kia rất nhiều, nên nói là “các thứ”. Sớ: Ngoài cảm báo chướng, do bên trong có nghiệp chướng, nên trước nói gốc lành huân tập liền thấy thân Phật. Nay nói rõ nhân duyên nghiệp ác chính là thấy ma quỉ. Sẽ biết cảnh bên ngoài đều do nội tâm. Như hình thẳng thì bóng ngay, nguồn nhơ thì dòng đục. - Trong đối trị: Sớ: Nói chung rõ trừ chướng, theo trong phẩm Hạnh Nguyện kinh Hoa Nghiêm, cũng là riêng trừ một chướng, tức chướng ngã mạn. Cùng văn sớ này đều là một ý, “Như người” v.v… trở xuống là giải thích ví dụ rất dễ biết. Nói thành tâm: do khi các chướng khởi tâm đều mạnh mẽ dữ dội. Nay dứt bỏ phải do thành tâm bền bỉ. Nên Trí Luận chép: “Thân tinh tấn là tiểu, tâm tinh tấn là đại. Bên ngoài tinh tấn là tiểu, bên trong tinh tấn là đại. Gióng như trời nắng chang làm tan nước đá, gió mạnh thổi được cây ngã. Nếu có chí thành sẽ cảm động đến trời đất, cảm được quỷ thần, khiến việc không trái nguyện. Sám hối, vạch bày tội trước, sửa đổi lỗi xưa tu từ nay. Sớ: Dứt nghiệp ác, là ba chướng, bốn chướng. Được y báo chánh báo đầy đủ. Nói khuyến thỉnh, trong đó có thỉnh xoay bánh xe pháp khác thỉnh Phật trụ thế. Nay nói thông suốt thì chỉ nói “khuyến thỉnh”. Sớ: Trừ chướng phỉ báng pháp, được trí tuệ học rộng. Nói Tùy hỷ, ba thừa, bốn loại chỗ có chút điều lành, đều nên thuận theo vui mừng. Sớ: Trừ chướng ganh ghét, được quyến thuộc đông nhiều. Nói hướng về Bồ-đề, cũng hợp lại hồi hướng mé thật và chúng sinh, ý bao gồm hai thứ này. Sớ: Trừ chướng vui ba cõi, thành điều lành rộng lớn. Luận: Thường không dừng bỏ: niệm niệm nối tiếp không có bỏ dở. Sớ: Năng trị gọi là hạnh, bốn hạnh này đều không phế bỏ, nên sở trị tức bốn chướng trên đều thoát khỏi. Nói gốc lành thêm lớn, nghóa là tín tâm tiến dần, không có lui sụt. Tổng kết lợi ích v.v… trở xuống: rất dễ hiểu. Một câu đầu là trước do mê mờ điên đảo không biết tội phước, vọng gây ra mười điều ác. Nay do sám hối xong nên không gây lỗi mới, nên nói “chỉ trì”. Khuyến thỉnh, tùy hỷ v.v… là hạnh lành, nên làm phải làm, gọi là “tác trì”. Nói rộng như kinh Hạnh Nguyện. <篇> <卷>QUYỂN 19 CHỈ QUÁN: Điều này được nêu trong Phẩm Thập Tín Sơ Tâm. - Trong chỉ: Sớ: Trước do v.v…, ở đây nói rõ chưa tu hành về trước. Nay do v.v… trở xuống: nói về tu chỉ. Vì thỉ giác giác biết cảnh giới các trần, chỉ do thức hiện, không ngoài tướng cảnh giới, trần cảnh đã lặng, phân biệt chẳng sinh, là tâm cảnh đều dừng. Liền phá trần tướng là cảnh dừng, không phân biệt là tâm dừng. Tâm cảnh đều quên, tâm vắng lặng thường hiện. Đây đồng nghóa với vô niệm của Thiền Tông. Nghóa là tất cả thiện ác không thể nghó lường. Nói tự dứt niệm tưởng ở sau. Kinh Viên Giác nói: “Nên chánh niệm xa lìa các huyễn”. Phương tiện: Là phương tiện tu chỉ. Nên bâc tiên đức nói: “Hướng về trước vắng lặng, muôn cảnh đều mất. Sau khi phát tuệ tất cả đều như”. Chỉ nay v.v…, ý muốn hiển bày riêng (Nghóa chỉ và quán riêng, nên nêu cả hai tiếng Phạn và Đường. Chánh tu gọi là Xa-ma-tha. Trước tu phương tiện gọi là chỉ. Quán cũng y cứ theo đây. Bởi cả hai trở xuống là muốn nêu ra ý (giải thích) riêng. Đã nói rằng thuận theo, là biết rằng chưa phải “chánh chỉ”, bởi cái “chỉ tức quán” này mới là “chánh chỉ”, cái “quán tức chỉ” mới là “chánh quán”. Nay đã một bề là chỉ thôi, vậy tức là phương tiện chỉ, chưa gọi là chỉ hành được, cho nên mới gọi là thuận theo Xa-ma-tha. Hỏi: Hành này là chỉ, vì sao nói quán? Đáp: Chính lúc tu phải liên kết cả hai Chỉ và Quán. Nếu chỉ chẳng quán không gọi là chỉ chân chánh. Quán nếu không có chỉ thì không gọi là quán chân chánh. Cho nên chính tu chỉ cũng gọi là quán. Trong kinh Viên Giác gọi là Tónh Quán. Tuy cũng gọi là quán, nay nói chỉ đứng về mặt tướng nên quán đối với chân như. Chân không không tướng, hướng về tức tâm dứt, tâm dứt thì thành nghóa chỉ, cũng tức là quán không. - Trong quán: Nói Nghóa quán, đây là quán Chỉ, cũng tức là quán Giả. Trong kinh Viên Giác gọi là quán Huyễn. Sớ có ba: Giải thích nghóa: Nương vào môn sinh diệt, trước nương môn chân như, mất tướng, dứt tâm, chiếu mà thường tịch nên gọi là chỉ. Nay đứng về môn sinh diệt quán các pháp tướng, theo dòng, ngược dòng, nhiễm tịnh, nhân quả, phàm thánh, sắc tâm khác nhau chẳng đồng. Tịch mà thường chiếu nên gọi là quá. Đây tức hay khác phân biệt các pháp tướng. Trước tức đối với nghóa đệ nhất bất động. Dẫn chứng: Như Du-già trở xuống là dẫn chứng, có hai: Chính dẫn văn kia: Bồ-tát địa, luận kia có mười bảy địa, đây là trong văn Bồ-tát địa. Không có chỗ phân biệt tức nhân trí Căn bản. Trí tuệ mấu nhiệm, thế tục tức là nhân của trí Hậu đắc. Hội giải thích nghóa kia: Nên biết v.v… trở xuống. Giải thích thành nguyên do song vận: Nhưng hai môn v.v… trở xuống. Nghóa là nương vào nhất tâm khai hai môn. Nương hai môn này tu chỉ quán, chỉ quán liên kết mới được khế tâm, khế tâm mới gọi là chân chỉ quán. Nên Tông Thiên Thai nói: “Pháp tánh vắng lặng gọi là chỉ, tịch mà thường chiếu gọi là Quán”. Đây là do tu chỉ quán khế tánh chỉ quán. Ý chỉ song tu đâu không rõ ư!. - Trong cùng: Luận hai nghóa, tức ở trước dừng tất cả cảnh giới, quán nhân duyên sinh diệt. Chẳng tướng xả ly: Nhưng đây chỉ quán ban đầu là phương tiện. Khi hành giả tu tuy chưa hiện cả hai, bên tu tập này phải giúp nhau mà thực hành, không thể một mình liên kết tướng lìa bỏ. Sớ: Có hai thể, hai thứ này làm thể với mười độ, kia giống như nước lắng trong mới soi tượng được hình. Do hai môn khai ở nhất tâm, đâu được chẳng đều là định tuệ! Văn trên có nói đầy đủ. Trong duyên bên ngoài. Sớ: Nhàn cư…, không làm mọi việc gọi là nhàn, không ồn náo gọi là tónh. Ý khiến tâm vắng lặng nên phải lìa phố thị ồn náo. Nếu muốn lìa ồn nào, nên bỏ làng xóm, ở nơi A-lan-nhã. Phồn trần không hợp chỉ, nếu muốn dễ thành thì ở đây có ba chỗ để tu thiền định: Chỗ núi sâu không bóng người. Cần ở chỗ A-lan-nhã, lìa nơi làng xóm, gần nhất là ba dặm, tức từ nơi thả trâu mà không nghe thấy tiếng trâu kêu. Không có các phố thị ồn náo. Chọn những nơi này không còn ở đâu hơn. Xa nhà người tại gia, ở trong già-lam thanh tịnh, đều gọi là chỗ nhàn tónh. “Tịnh giới” cũng giống như đựng thức ăn ngon phải dùng đồ sạch. Nếu giới không sạch thì định sẽ chẳng sinh. Nếu biết người này trước đã phá giới thì phải y pháp sám hối, khiến giới (được trong sạch) như trước. Vì giới bất tịnh, tức có nghiệp chướng, khiến tu chỉ chẳng thành, sẽ cảm ứng các việc bệnh tà ma, làm xâm tổn nhiễu loạn. Y thực, v.v…, Y đầy đủ lấy làm căn bản có ba: Bậc thượng: Như Đại só ở núi Tuyết (Phật) được bất cứ một y nào để che thân mà thôi. Bậc trung: Như Ngài Ca-diếp có ba y phẩn tảo, chẳng chứa nhiều y. Bậc hạ: Cõi nước lạnh nhiều và năng lực nhẫn chưa thành tựu, nên cho ba y. Ngoài ra có một trăm lẻ một thứ giúp thân. Thực đầy đủ, ở đây có bốn thứ: Bậc thượng: Bất cứ được món gì ăn cho khỏi đói mà thôi. Bậc trung: Thường thực hành hạnh đầu-đà, thọ pháp khất thực. Bậc hạ: Ở chỗ A-lan-nhã nhận đàn việt dâng thức ăn. Bậc hạ hạ: Tăng thường ăn và thọ thỉnh. Ngoài những thứ này, nếu chứa để nhiều, sẽ thêm lớn lòng tham, làm trở ngại cho việc tu đạo. Nay người cần y thực, nếu thiếu một thứ thì tâm có suy lường, không do đâu được định. Thiện tri thức, có ba: 1/ Đủ khả năng giúp đỡ. 2/ Khuyên bảo lẫn nhau. 3- Dạy bảo pháp môn tu hành. Như đỉnh ba chân thiếu một không thể được. Dứt các việc duyên, có bốn: 1/ Sinh nhai. 2/ Việc người. 3/ Kỹ nghệ khéo léo. 4/ Học hỏi đọc tụng. Chỉ cần làm một trong bốn việc này thì có sự ngăn trở, khiến không được định. Chân ngay thẳng v.v…, co một chân ngồi bán già, chân phải đè lên chân trái làm tòa hàng phục ma. Lấy chân trái đè lên chân phải làm tòa cát tường. Nếu hai chân đè lên nhau là toàn già (kiết già). Ngồi như thế khiến tướng nghi thẳng đẹïp, như Trí luận nói rộng. Nên có kệ rằng: Thấy ngày ngồi kiết-già, Ma vương còn kinh sợ, Huống chi người nhập đạo Vững mình không nghiêng động. Nới dây y, sợ ngồi lâu hơi thở mạnh bất an, không để rơi rớt, nghi tướng chẳng đẹp, hoặc sợ gió lạnh. Y cứ vào thượng, ngăn gió che khí khỏi bị tâm thần tán loạn. Nhưng muốn ngậm miệng thì trước phải thở hơi từ trong bụng ra. Khi thở ra há miệng thở hơi ra. Thân tưởng trăm mạch chỗ chẳng thông. Giáo đều mở thông, hơi thở ra cho hết. Song ban đầu ngậm miệng, giữa mũi trong đó có khí trong sạch. Khi ngậm miệng, chỉ được lưỡi răng để vừa chạm nhau. Mắt không nhắm hoàn toàn, mở hoàn toàn thì trạo cử, nhắm hoàn toàn thì mê mờ, chỉ làm sao cho trừ ánh sáng bên ngoài mà thôi. Chỉ Quán hai quyển: Tức kia ban đầu học Tọa Thiền Chỉ Quán. Bổn chỉ có một quyển nên khai thành hai. Kia có mười môn để tu chỉ quán: Đủ duyên: Lược như sớ có nói. Quở trách dục: Nghóa là năm dục như sắc, thanh, hương…., “Cái gọi là quở trách”, biết rõ năm dục này não hoặc chúng sinh, do đây chịu khổ chẳng được giải thoát. Sâu sinh nhàm chán, xa lìa, chẳng còn đuổi tìm phan duyên, gọi là quở trách. Bỏ triền cái: Nghóa là tham dục, ngủ nghỉ, sân, trạo, hối, nghi. Cái gọi là bỏ, đó là giác biết năm dục này che đậy tâm tánh chúng sinh không được giải thoát. Như mặt trời, mặt trăng bị khói mây làm mờ không được chiếu rõ, nay đều xa lìa tức gọi là bỏ. Điều hòa: Điều hòa ăn uống không đói không no, điều hòa ngủ nghỉ chẳng ít chẳng nhiều, điều hòa thân chẳng khoan chẳng gấp. Điều hòa hơi thở chẳng yếu chẳng mạnh. Điều hòa tâm chẳng nổi chẳng chìm. Khiến năm việc nầøy điều hòa đúng chỗ. Phương tiện hành: Nghóa là dục, tinh tấn, niệm, tuệ, nhất tâm. Do hay có ý chí ưa tu thiền định, ra khỏi thế gian, ngày đêm siêng năng tiến đến các pháp lành. Niệm đời vô thường đáng khinh đáng rẻ, thiền định, trí tuệ đáng quý đáng trọng. Đối với pháp hữu lậu và vô lậu biết phân biệt tướng khổ vui hư thật, nhất tâm quyết định tu hành chỉ quán. Bởi thế gọi là hạnh phương tiện. Chính tu chỉ quán: Trong đó có khi ngồi tu, hoặc gặp duyên đối cảnh tu, đều như văn kia. Phát được gốc lành: Tức đồng văn sau hiện báo mười lợi ích, v.v… Biết được việc ma: Như văn sau nói. Trị bệnh: Trước phải biết chỗ bệnh phát khởi, phát khởi có bốn thứ: từ bốn đại khởi, từ năm tạng khởi, chỗ tạo của quỉ thần và chỗ cảm nghiệp nhân. Đã biết bệnh rồi, thì dùng chỉ quán trị hai thứ trước, dùng chú lực trị loại thứ ba, tu phước sám hối trị loại thứ tư. Chứng quả: Tức nhập trụ bất thoái, đều như kia nói, lược biết đại khái, nếu cần thấy đầy đủ, nên tìm bổn văn. Điều tâm, tâm tức là ý, điều phục tâm ý khiến thú hướng chân chánh. Mạt thế v.v… trở xuống: tướng xuất phát bất chánh, nhưng giới, định, tuệ học và các hạnh tạp phần nhiều có là tai hoạ. Bồ-tát Giới Sớ chép: “Trong Phật pháp con người phần nhiều ở trên bốn địa vị mà khởi hạnh. Nghóa là ba học và tạp hạnh. Một là theo Giới học, có hai loại: Giả bộ: Nghóa là tuy chẳng phá giới tánh mà chẳng ngay thẳng, nương tà sư nghó kế giả hiện oai nghi, làm hoa mắt thế gian để cầu danh lợi, vốn không có chút tâm để cầu ra khỏi. Giả bộ uy nghi lừa dối người khác, đều là người không có đức, đây là giặc Sa-môn và cũng là giặc oai nghi, như Kinh Ca-diếp và Bảo Tích có nói. Thức cạn: Nghóa là tánh chẳng có trí sâu xa, ỷ giới hạnh mình sẽ là ra khỏi, lăng tổn người khác thừa mau giới chậm, nghe các pháp không liền sinh sợ hãi, đây là kẻ thù trong Phật pháp, xuất phát từ kinh Phật Tạng. Hai là theo Định học, cũng có hai loại: Tham cuống (tham rồ dại): Nghóa là tánh ưa danh lợi, ở lâu trong núi mà tâm thiếu yên tónh, hiện được tướng định làm hoa mắt người đời, lấy đại danh văn ức chế người khác không có tướng này, đều là quấy. Đây là giặc a-lan-nhã, xuất phát từ kinh Hoa Thủ. Tà mạn: Nghóa là tánh chẳng phải học rộng, nương trong núi tu tập thiền định, được năng lực quỉ thần che chở thấy được tâm định, đã giác biết là bất thiện, liền nương vào đây khởi kiêu mạn, nghó rằng sẽ có tiếng tăm lừng lẫy, lăng tổn người khác, đều là quấy, hủy tổn Phật pháp, đây thật là bè lũ giặt cướp nguy hiểm. Xuất phát từ luận Khởi tín và kinh Hoa Thủ. Ba là theo Tuệ học, cũng có hai loại: Về cạn: Nghóa là tánh thấp kém, nghe tụng học không thứ lớp. Vì danh lợi ngập lòng, gấp lên tòa giảng nói theo những điều hiểu biết của mình mà ức đoán chê bai xưa nay, chỉ cần danh lợi mà không có ý gì khác, tự ỷ lại không tu hành, khinh khi giới định. Đây là kẻ cướp hủy báng Phật pháp, phải vời lấy khổ lớn. Xuất phát từ phẩm Ma Nghiệp trong kinh Hoa Nghiêm. Về Sâu: Tuy đối với văn nghóa ba tạng của Nhị thừa rất ít thông suốt, chưa hiểu được ý Phật, nên khi truyền pháp, chỉ khen ngợi danh lợi để khuyên bảo người hậu học, chê bai xưa nay, để chứng tỏ mình là hơn hết, cậy mình cho là người có đức sinh tâm kiêu mạn, lấn át người khác, huống chi lại ngay từ pháp sinh ra bệnh, thì không còn cách nào mà cứu chữa được nữa. Thật lạ thay! Từ trong nước sinh ra lửa, thì còn lấy gì mà dập tắt được. Như vậy, thì thật là ten cướp nguy hiểm làm hại Phật pháp, xuất phát từ kinh Phật Tạng, Thập Luân, v.v… Bốn là theo Hành Tạp, cũng có hai loại: Về hành phước: Nghóa là tánh chẳng ngay thẳng, làm mưu kế giả dối, tôn sùng những sự phước lạ kỳ, làm hoa mắt thế gian đều mưu cầu quà biếu cho nhiều, ít thì hô cho nhiều, dùng kế sách này để sinh sống, thỏa dạ mong cầu,cậy có những cái nay khởi tâm kiêu mạn, lăng tổn người khác không có lợi dưỡng, đều do làm quấy, lợi dưỡng đã như vậy, tiếng tăm cũng thế. Đây là tên cướp nguy hiểm hủy báng Phật pháp. Xuất phát từ kinh Ca-diếp. Đứng về các hạnh khác: Nghóa là tánh chẳng phải tuệ ngộ, theo học được một pháp gì liền giấu kỹ, rồi đem sở học ấy làm hoa mắt người khác để cầu danh lợi, bài bác người khác tu đều chẳng rốt ráo. Đây cũng là người ngu thuộc tên cướp nguy hiểm làm hại Phật pháp. Người tu hành nếu dính mắc một lỗi gì trên đây, nên phải hiểu sâu cảnh giới. Lìa đây v.v… trở xuống, là nói ý này đều rất dễ hiểu. Lìa cảnh: Sớ: Đều là việc định, gồm sổ tức ở trước v.v… chẳng phải chỉ cho năm thứ này. Mười nhất thiết xứ, tức thanh v.v… có bốn, Không v.v… có năm, và thức nữa là mười. Nói nhất thiết xứ, quán mỗi pháp đều trùm khắp tất cả chỗ, do đây cũng gọi là “quán mười biến xứ”. “Cũng có thể v.v…” nghóa là chẳng nương tâm tán loạn, khi mắt thấy sắc, cho đến ý biết pháp, v.v… Nghe sáu trần là tai mũi, giác là lưỡi thân, biết tức là ý. Nhiếp sáu lược tận, nay nêu năng chấp sở. Ở đây v.v… trở xuống, giải thích ý, do đưa ra những thứ này vì Duy thức hiện, không có tự thể riêng. Đã biết ngoài tâm không có trần, đâu hợp đem ngoài tâm mà gá, nếu không như vậy thì đâu gọi là tu Chỉ? Trở lên chỗ duyên các định, đều là chỗ lập bày trong giáo quyền, tiểu, tạm khiến chế tâm dần phát vô lậu. Nay thật giáo này, đều chẳng lập nương, tức cho thẳng xe báu chẳng cho xe ngựa xe dê. Nói: Tất cả v.v… trở xuống, có hai: Trong dứt trừ vọng tưởng: Chính trừ: Sớ: Ngoài tâm đều trừ, đây có hai nghóa: Trừ thấy nghe hay biết bên ngoài, lại có tâm tưởng, theo những niệm gì đều dứt trừ hết. Trừ ở trước về sổ tức, vòng móc mười biến xứ, cảnh ngoài mà quán tưởng, thảy đều chẳng nương. Vì nay tâm tâm hướng về lý, nên chọn bỏ việc tưởng, nên nói đều dứt trừ. Chỗ mất v.v…, nương huyễn nói giác cũng gọi là huyễn, nếu nói có giác vẫn chưa lìa huyễn. Nói không giác cũng giống như thế, nên cũng phải trừ. Đây tức tâm huyễn diệt nên huyễn diệt cũng diệt. Ngoài ra văn rất dễ hiểu. Giải thích thành: Nói do tất cả v.v… trở xuống. Sớ: Thuận theo pháp tánh: dù nói tất cả pháp, nhưng ý ở chân tánh. Do tất cả pháp đều chân, đều đồng Như, rộng như môn chân như nói, đây tức lìa tướng tâm duyên. Chuyển giải thích v.v…, khoa này như văn chỉ bày. Bởi do v.v… trở xuống, giải thích ý văn này. Trước nói pháp tánh vốn không có tưởng, thật do tưởng thể tự không, vốn tự chẳng sinh, nay tức không diệt, đây bởi vốn không, chẳng phải phân tích khiến không. Đây chính v.v… trở xuống là giải thích ý chỉ của văn, chẳng cho rằng đợi khi vô niệm, mới chẳng sinh chẳng diệt, do chỗ niệm niệm sinh tức là vô sinh, khi niệm niệm diệt tức là chẳng diệt. Như kinh nói: “Mới sinh tức có diệt chẳng vì người ngu nói”. Lại kinh nói: “Ngay chỗ phát sinh, theo chỗ đó đã có sự diệt tận”, dụ rõ rất dễ thấy. Phân biệt trở lại: Nói cũng chẳng v.v… trở xuống. Sớ: Nếu tâm v.v…, ởtrước ngược lại buông. Ý nói: Ngoại cảnh nếu thật có tự thể, ép tâm chẳng duyên thì không bao giờ được, do chẳng có tự thể chẳng duyên, nên sau được lấy tâm trừ tâm, đây tức buông thì kia có thể dứt trừ. Nhưng, một chữ “Thừa” lại văn này đã tường tận, ba chữ “Tợ, thừa, và không” chỉ có thể nói đã ép khiến chẳng duyên, có thể được sau lấy tâm trừ tâm, nghóa mới hiển rõ, kể lại rõ ràng. Nay đã v.v… trở xuống là nói rõ. Đã biết không cảnh tâm tự chẳng sinh, đâu được phóng tâm duyên bên ngoài, sau lại trừ mất, há chẳng tự nhọc ư! Như người khiến con làm quấy, lại khiển trách kia, thì đâu có việc ấy. Nói: Nếu tâm v.v… trở xuống, trụ chánh niệm có hai: Chánh hiển: Sớ: Ban đầu tập, v.v…, ở đây có khác với trước, trước tức chẳng phóng tâm duyên theo bên ngoài, đây chính là xoay vần rong ruổi. Ngoại cảnh do tâm, vốn không có cảnh giới vọng khởi phan duyên, gọi là bất chánh. Nay thì quán cảnh không có cảnh, biết tâm không có tâm, chỉ một thật tướng, ngoài thật tướng không còn có pháp khác, ngay lúc này phân biệt chẳng sinh, nên gọi là chánh niệm. Lìa tướng: Luận: Tức lại v.v… trở xuống, là lìa tướng. Sớ: Duy tâm tịch, tướng duy tâm này cũng không thật có. Trước tức lìa năng sở phân biệt, chỉ một thật tướng gọi là Chánh niệm. Nay tức chánh niệm cũng không có tự tướng. Do hễ có tướng đều là luống dối. Kia cũng chẳng biết cái biết có vắng lặng, cũng chẳng tự biết cái biết tự tánh vẫn rõ ràng, nên chẳng đồng với cây đá. Trong các oai nghi, tức đồng với tông Thiên Thai trải qua duyên đối cảnh tu. Nghóa là trải qua sáu duyên: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, làm, đối với sáu cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Vả lại, nếu muốn đi liền tự suy nghó nay vì sao đi. Có lợi thì đi, không lợi thì không đi, nhưng vào lúc đi, rõ biết tâm đi và đi tất cả việc đều không thật có, không thể được nên vọng niệm tự dứt gọi là tu chỉ. Tức quán pháp không thật có, mỗi nhân duyên đều là vắng lặng, gọi là tu quán. Trụ v.v… nêu lên ở đây. Lại lúc thấy sắc tu chỉ quán, thấy tất cả sắc như tượng trong gương, trăng đáy nước, đều không thật có, chẳng sinh tưởng niệm phân biệt, gọi là tu chỉ. Sắc v.v… nhân duyên, có rốt ráo vắng lặng gọi là tu quán. Thinh v.v… nêu lên ở đây. Hoặc chỉ, hoặc quán, đều thuận theo pháp tánh, vì pháp tánh thường tịch thường chiếu. Nhưng, tông Thiên Thai tu chỉ, tự phân ra ba chỉ, quán cũng như thế. Vì đứng về ba đế ba cảnh mà tu. Nay trong văn này đứng về hai môn chân như, sinh diệt mà tu chỉ quán, đều thuận nhất tâm tức là song tu. Nhưng tu tức là dứt phân biệt hai bên, là chỉ quán Trung đạo nghóa đế đệ nhất, ngoài ra, văn rất dễ biết. Chỉ thành tựu: Sớ: Chỉ thành, chỉ là ở trước thành phương tiện, chưa phải tức chỉ của quán. Phụ tâm: Do từ lâu tập nên theo tâm thành chỉ, do theo tâm nên tức thành Tam-muội, tức Tam-muội Chân Như. Tam-muội Chân Như mới phải tức chỉ của quán. Xa-ma-tha: Tiếng Phạm là Tam-muội, Hán dịch là Chánh định. Hoặc nép phục, v.v…, nép phục bốn trụ, thấy tu phiền não chưa thể đoạn, nên nói hoặc nép phục. Nhưng đây cũng có nghóa vô minh nép phục. Luận nói nép phục sâu ý bao gồm ở đây. Đây là ngay địa vị tín, nếu lại tăng tiến mau nhập Sơ Trụ, nên nói tín mãn nhập trụ. Nhập trụ tức Bất thoái. Trong hiển bày chướng: Sớ: Đối với lý do dự, đối với nghóa lý sâu xa, chẳng phải bất địch, nên không thể nhập. Như kinh Viên Giác nói tu hai mươi lăm luân rằng: “Một niệm nghi hối thì không thể nhập”. Xiển-đề, là A-xiển-đề, Hán dịch là Vô tín. Ở đây tức một bề cho là chẳng đúng, nên chẳng đồng nghi hoặc. Ngoại đạo là tông tu tập pháp tà, phỉ báng chánh đạo. Ở đây chẳng phải chỉ không tin, lại thêm lỗi này cho nên khác trước. Năm tội nghịch: Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng và làm thân Phật chảy máu. Bốn tội trọng là sát, đạo, dâm, vọng. Hỏi: Văn sớ ở trước nói; “Có nghiệp chướng, chỉ nên sám hối”. Nay tại sao dứt trừ? Đáp: Ở đây nói trừ, là về mặt chẳng sám hối, sám hối thì sẽ được nhập, chẳng đồng Tiểu thừa có định nghiệp. Nên kinh Niết-bàn nói: “chưa nhập nghiệp ngã pháp thì quyết định, nếu nhập ngã pháp thì chẳng quyết định”. Nương vào ngã, đây hoặc nương vào ngã nên chẳng tu, hoặc tu mà còn ngã, cũng không thể nhập. Nên kinh Viên Giác nói: “Người tu đạo không trừ ngã tướng, nên không thể nhập giác thanh tịnh”. Buông lung: hoặc tham mà buông lung nên chẳng tu, hoặc tu mà chẳng siêng năng, cũng không được nhập. Người học chẳng đến được, vẫn e là có lỗi, Huống là loại này ư! Là sáu v.v… trở xuống, chẳng cho rằng đầy đủ sáu chướng này mới chẳng được nhập. Trong sáu chướng, chỉ có một chướng, là làm chướng đạo không được Tam-muội. Trong phần hiển bày chỗ cao quý: Nói Pháp thân chư Phật và thân chúng sinh không hai. Có ba ý: Ý chấp Pháp thân chúng sinh. Pháp thân trôi lăn trong năm đường, gọi là Chúng sinh. Tướng không của chúng sinh tức Pháp thân. Ở đây trong ba ý, ý đầu và sau là chính. Kinh Tịnh Danh chép: “Như tự quán thân thật tướng, quán Phật cũng như vậy. Bình đẳng tức không hai, không hai tức nhất tướng”. Nói Tam-muội Nhất hạnh, tức Tam-muội Chân Như. Nghóa là trụ cảnh chân như, gọi là Tam-muội chân như. Do chân như không có tướng khác, chỉ có hạnh tạo pháp này gọi là Tam-muội Nhất Hạnh. Đây chính do cảnh một, khiến trí hành cũng một. Ở trước tức từ cảnh mà được tên. Đây là chung ở pháp hạnh. Trong khoa nói năng sinh, thật ra là nghóa nói năng sinh. Trong phần hai: Sớ: Nhất tướng pháp giới, là cảnh sở duyên. Duyên nhiều pháp giới, duyên nhiều là tâm năng duyên. Dừng tâm xét lý thầm hợp với cảnh. Pháp giới chư Phật, là chỗ chứng pháp môn của chư Phật Như Lai, hà sa vô lượng cách biệt khác nhau. Nhưng cũng mỗi mỗi chẳng khác pháp tánh. Nhập Tam-muội này, đều được biết không có khác nhau. Do chân như này…, do chân như là tất cả pháp căn bản, tu Tam- muội này cũng cùng tất cả Tam-muội làm căn bản. Nói nếu người v.v…, Tam-muội này đã là căn bản. Nếu người này nhập năng sinh trưởng tất cả Tam-muội. Vì gốc từ ngọn sinh, nêu các Tam-muội từ đây thành. Nói về việc ma: Tiếng Phạm ngữ Ma-la, Hán dịch là sát, nghóa là cướp đoạt của cải công đức, giết mạng trí tuệ của người tu hành. Nói sự: là do công đức trí tuệ như Phật, làm việc độ chúng sinh khiến nhập Niết-bàn. Ma chẳng như thế, làm việc thường phá hoại gốc thiện của chúng sinh khiến trôi lăn trong sinh tử, vì ma ưa sinh tử, nên ba cõi chúng sinh tất cả thuộc về ma. Nay người tu hành có ý chí muốn ra khỏi ba cõi, lại phát thệ nguyện rộng lớn, độ khắp chúng sinh. Ma sợ giảm ít quyến thuộc, nên đến quấy nhiễu, khiến kia thoái đọa. Người tu hành phải phân biệt rõ biết mà hàng phục. Nhưng có bốn thứ ma khác nhau: 1/ Ma phiền não. 2/ Ma uẩn. 3/ Ma chết. 4/ Ma quỷ thần. Ba thứ trước là ở bên trong, do bên trong nên tu để hàng phục, ma quỷ ở bên ngoài nên phải phân biệt. Trong phần một: Sớ: Chướng ngại, chướng ngại người nhập đạo, ngại khiến lui sụt. Đôi dịch tinh mị đều như ở sau nói. Ba thứ, là ma, quỷ, thần: Trái với hữu tình năm trần hoặc lớn hoặc nhỏ làm sợ hãi muôn mối, nên khiến cho thất chí. Thuận với năm trần hữu tình, đối nam hiện nữ, đối nữ hiện nam, làm cho kia sinh nhiễm. Bình đẳng năm trần, chọn bỏ hai thứ trước, tức là cảnh này. Vì ba thứ ma, quỷ, thần đều có khả năng thực hiện việc trái, thuận, bình đẳng. Trong phần đối trị. Sớ có hai: Chính giải thích ý chỉ của luận: Tất cả v.v…, như ở trên chỗ hiện chỉ là một số cảnh. Nên trước nói: “Nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng cảnh giới”. Lại nói: “Tâm sinh thì các thứ pháp sinh. Tâm diệt thì các thứ pháp diệt, v.v….”. Lại đây v.v… trở xuống, nghóa duy tâm. Phương tiện giáo, còn không thể biết, há ngoại ma kia hiểu được lý này. Đại Luận chép: “Con ruồi đậu được trên tất cả vật, chỉ không thể đậu trên sắt nóng. Nếu ruồi đậu trên sắt nóng thì thành lửa. Ma hay duyên tất cả cảnh giới, không thể duyên thật tướng, nếu ma duyên thật tướng thì ma cũng thành thật tướng”. Thông mất: Tất cả sự thấy nghe chỉ dùng pháp này mà đối trị. Như cam lồ cõi trời các bệnh đều trị được. Kinh Viên Giác nói: “Trừ chỗ nghe kia, tất cả cảnh giới đều không thể giữ”, đây đều là thông mất. Ra khỏi đối trị: Môn diệt v.v… trở xuống, có hai: Lược nói, có ba: Trị ma: Các cỏ thuốc đều có công năng: Bát-nhã là loại kim cương Ma-ha. Chú là các đà-la-ni, số kia chẳng phải một. Mặc niệm: sợ kia nghe mà hiểu khiến chú không có năng lực, như trao thuốc cho uống, không thể khiến cho biết. Quỷ Đôi Dịch: Kinh Thiền Bệnh chép: “Trưởng giả La-tuần-du Khi con mới xuất gia, Phật Ca-diếp dạy quán sổ tức, chỗ an tónh thấy một con quỷ mặt như đàn Tỳ-bà, có bốn mắt, hai miệng, giơ tay phát ra ánh sáng, dùng tay vỗ vào người từ hai nách trở xuống và phân thân kia, miệng nói đôi dịch, đôi dịch, như vòng lửa tròn tương tự như ánh sáng chớp, hoặc diệt hoặc sinh, hoặc tạo hình chuột, hoặc tạo tiếng ngựa, hoặc tạo tiếng quỷ rên rỉ, hoặc xì xào, các thứ não loạn khiến người tu hành phát cuồng. Phật nói: “Quỷ này vào thời Phật Câu-na-hàm Mâu- ni, có một Tỳ-kheo sắp chứng đến sơ quả, phạm tà mạng nên bị chúng tẫn xuất, nổi sân rồi chết đi, tự thề làm quỷ não loạn bốn chúng, đôi dịch là do miệng nói. Lạp- kết-chi: Thiền Kinh nói: “Đây là Thi quỷ khởi”. Nói thâu: có thể nói đây là loài quỷ ưa lấy trộm xác chết, hoặc là từ ngữ này liên kết tiếng Phạm ở sau. Vả lại, cả hai (từ này) còn tồn tại, thì không thể cho là trộm, hay hạ lạp được mà thấy kinh chỉ nói: “Các lạp-kiết-chi, tay cầm gậy thiết bạng, v.v.. Giới luật tức giới của Thanh Văn và các bộ văn luật, ba quy y và năm giới cấm có thể biết được. Ít nam nữ v.v…, tức thuận theo tình cảnh, nghóa là tạo cha mẹ, anh em, hình tượng chư Phật… Thân đáng sợ, hoặc là hình cọp sói, sư tử, quỉ la-sát… Các thứ hình tượng đáng sợ, để làm cho người tu hành sợ hãi. Như Thiền sư Ngôi thấy quỷ, hoặc thấy không đầu, Sư nói: “Lành thay! Người không có đầu thật là một tai họa rất đau đớn!”, hoặc không có bụng và năm tạng, v.v… Sư đều lấy những câu nói đùa cợt để châm biếm cac loài quỉ này. Lại thấy hiện ra người nữ trẻ tuổi. Sư nói: “Bần đạo thân như cây khô, tâm như tro lạnh”, không còn đủ sức để đọ với cái túi da xú uế ấy được. Quỷ này liền bay lên hư không mà biến mất. Nên vẫn còn có bài kệ tụng rằng: Biển lớn có thể khô Tu-di có thể nghiêng, Nhưng Bậc Thượng nhân kia Ý chí thật vững chắc. Tê giác, có thuyết nói tương tự như trâu, sắc màu xanh một sừng, nặng ngàn cân, răng móng rất bén, chiết phục được ngàn hổ. Cho đến, hoặc phần nhiều từ giờ mão đến, là thỏ, nai. Từ giờ thìn đến là rồng, phụng, cá v.v… Giờ kỷ tức là rắn, giun, trạch. Giờ ngọ tức ngựa, lừa, lạc đà v.v… Giờ mùi đến là dê, ưng, chim cắt v.v… Giờ thân đến là khỉ, vượn v.v… Giờ dậu đến là gà, chim tró. v.v.. Giờ tuất là cẩu, sói, sâu, v.v… Giờ hợi đến là heo, v.v… Giờ tý đến là chuột, dơi, yến. Giờ sửu đến là trâu, tê giác, v.v… Hiện hình: Nói Trước là hiện hình, như Tổ Ưu-ba-cúc-đa thấy ma hiện hình Phật có tám chúng đi theo, bất giác lễ bái, v.v… Nếu nói v.v… trở xuống, là nói pháp Đà-la-ni, là giá trí. Nghóa là giữ thiện ngăn ác, nhưng có nhiều chữ, một chữ, không chữ. Chỗ ma nói, nên chỉ hai câu trước, do không biết duy tâm không thế nói chữ không được. Bình đẳng đến vô nguyện, tức ba môn giải thoát. Nói lên nghóa không: Không oán trở xuống, là nói lên nghóa không, rất dễ biết, ma này chỉ nói được mà không thể chứng. Tông Thiên Thai nói: “Ma nói được không giả trung riêng khác nhưng không thể chứng”. Đắc thông: Luận Trước là ma được thông, được năm thông hữu lậu. Khiến người tu hành cũng được thông này. Trong đây quá khứ là túc mạng, vị lai là thiên nhãn, hiện tại là tha tâm. Ở trước hiện hình tức là thần cảnh, do chẳng hiển bày thiên nhó, bao gồm ở trong kia. Biện tài vô ngại là khởi biện. Trong phần khởi hoặc: Ban đầu là khởi hoặc: Do chánh định khiến người dứt hoặc, ma định khiến người khởi hoặc. Vì người tu hành gốc lành cạn mỏng, tu Tam-muội dẫn đến tướng tà này, kế là từ Hoặc xả rồi v.v… trở xuống, là tạo nghiệp. Trong phần y cứ định: Ban đầu là y cứ định, từ Được tự nhiên v.v… trở xuống, là đắc thiền. Tự nhiên ăn uống v.v… là thiền duyệt thực, hoặc đối với sự ăn uống thượng diệu của nhân gian. Trong phần này: Ban đầu là thật khác nhau. Nhan sắc v.v… trở xuống, là nhan sắc thay đổi, sớ có hai: Nương riêng chỉ chung: Phân biệt chung: Hỏi: như v.v… trở xuống là đứng về khoa phân biệt chung, có hai: Hỏi: Đời trước v.v…, như ở trước nói. Tam hiền trở lên cho đến Phật hay tạo duyên sai biệt với nhị thừa, phàm phu, nên nay trong định hiện thấy nghe đã đồng, đâu biết tà chánh? Đáp: Có hai: Khen ngợi khó hiểu: Rơi vào lưới tà, lấy tà làm chánh, nên kinh Lăng-nghiêm nói: “Nếu có thắng giải thì rơi vào các tà”. Lui sụt gốc lành, lấy chánh làm tà. Do vì chấp, nếu xả cả hai đều có lỗi, cho nên rất khó. Như đạp lửa phải chịu nóng, thấy của báu mà không lấy, cả hai đều có lỗi, có lỗi nên không có ngày tiến lên. Phân biệt: Nay vả lại v.v… trở xuống, có bốn: Nêu nương pháp xưa: 1-Thâm nhập thiền định. 2- Chớ đổi ý chí xưa. 3- Quán sát gốc ngọn kia. Dẫn kinh làm chứng: Như kinh v.v… trở xuống. Ba thứ để thử v.v…, nếu đốt mà vẫn thuần túy, đánh vẫn vững chắc, mài mà không mỏng thì được gọi là chân. Cộng sự: nếu tạm hội tụ phải cùng nhau theo việc. Theo việc thì thể tánh kia có tình. Tình thì dễ biến, tánh thì chẳng đổi, nên có thể biết, nếu như chưa nói thì ở lâu sẽ thấy. Người nhân nghóa thì ở lâu mà tiếng thơm khắp. Người chẳng nhân nghóa thì không thể ở lâu. Mà lại chưa nói, nên dùng phương tiện khéo léo quán sát thấy lý do kia. Quán chỗ lý do kia, sát chỗ an lập kia, tự nhiên sẽ thấy tà hay chánh. Nương pháp chính phân biệt: Nay mượn ý này v.v… trở xuống là nương pháp phân biệt, trong kinh có ba ví dụ để nghiệm người tu hành chân thật hay luống dối. Văn nói: “Người tu hành cũng giống như vậy”, nên công sự có ba cách thử. Văn này sẽ nghiệm ở cảnh định, chẳng đồng ý kinh, nên nói: “Mượn đây, v.v…” chỉ mượn dụ kia chẳng chấp pháp. Quán bất tịnh, tùy theo chỗ tu lúc ban đầu quán gì? Hoặc sổ tức hoặc bất tịnh, v.v… Nay ở đây thiền xuất phát cảnh giới kia, tức khi nương gốc tu tập thì nghiệm được tà chánh. Hợp hiển: Như đốt v.v… trở xuống là hợp hiển bày. Kinh ví dụ có hai: Dụ: Chỉ nêu một ví dụ, ngoài ra trình bày cho biết, cho nên không nói. Hợp: Trong đây v.v… trở xuống. Ví dụ định…, y cứ nghóa thuận, hợp có thể biết. Tổng kết: Do đây v.v… trở xuống. Ba thứ nghiệm…, đã dùng định, đá, mài là thực hành đánh đập, thiêu đốt tuệ, tà chánh, sắt vàng sẽ rõ. Đối trị: Nói do là nghóa, chỉ cho năm cặp trước. Sớ Nương tự v.v…, theo chỗ có năng lực trí tuệ của mình, quán cảnh giới kia chẳng vọng lãnh thọ. Nên quán thật tướng các pháp, không tà chẳng phá, do biết cảnh giới duy tâm vốn tự chẳng sinh, không hề tin nhận, vọng có chấp trước, rơi vào lưới tà. Nếu không v.v…, do theo cảnh giới kia, nếu chấp trước tâm tức là tán loạn. Do tâm loạn nên mất ở chánh thọ. “Chánh thọ” chẳng thọ các thọ. Nay đã thọ tức gọi là mất, do mất chánh tức rơi vào tà, không có nghi ngờ. “Tà chẳng liên hệ chánh” vì là pháp tà Luống dối: chánh pháp chân thật, nếu lập chân thật, luống dối tự hoại. Do người tu hành, trụ sâu Tam-muội chân như, nên kia tự nhiên lui sụt. Nếu chấp v.v…, ma hiện cảnh mục đích là khiến người chấp trước, tâm niệm vừa khởi liền đọa vào kia không nghi ngờ. Nếu thâm nhập duy tâm thì tà liền diệt, tức chánh liền còn. Cho nên, v.v…, chẳng chấp trước tức hồi tà về chánh, chấp trước thì biến chánh thành tà. Tuy nhiên, Tông Thiên Thai trị ma chẳng lìa hai thứ. 1/ Chỉ trị: nghóa là phàm thấy tất cả ngoại cảnh tốt, xấu v.v… thảy đều biết luống đối, chẳng ưa chẳng sợ, cũng chẳng chấp bỏ, cũng chẳng phân biệt, dứt tâm lặng lẽ, kia tự nên diệt. 2/ Quán trị: Nghóa là nếu thấy, v.v… chỗ nói như trên, các thứ cảnh ma dùng chỉ chẳng đi, tức ngược lại quán tâm năng thấy, chẳng thấy nơi chốn, kia đâu thể não hại. Như thế khi quán, phải nên diệt lui, nếu chậm chậm không đi, chỉ nên chánh niệm chớ sinh sợ hãi, chẳng tiếc thân mạng chánh tâm bất động. Biết cõi ma như cõi Phật, như một như vô hai như. Cõi ma không chỗ xả, cõi Phật không chỗ chấp, tức Phật pháp tự hiện, cảnh ma tự diệt. Nay trong luận này trước là quán trị, nên nói: “trí tuệ quán sát”. Từ Nên siêng năng chánh niệm v.v… trở xuống, là chỉ trị. Hai trị chỉ và quán đều chẳng chấp. Trí Độ v.v…, do sinh tâm chấp cảnh, cảnh liền thành ma, cảnh làm mê hoặc tâm kia tức là việc ma Vả lại, các pháp như sắc v.v…, chấp thì thành cảnh trần, chẳng chấp thì thành cảnh diệu. Nay quán tất cả đều là thật tướng. Ngoài thật tướng không có các pháp. Cho nên người thấy có pháp đều là ma. Huống chi trong định mà thấy cảnh giới, đâu chẳng phải là ma!. Kệ rằng, v.v…, như trong kinh nói: “Có một vị Tỳ-kheo, ma muốn mê hoặc, trải qua bảy ngàn năm rồi, ma chẳng được dịp. Vì sao? Vì Tỳ- kheo chẳng khởi tâm”. Kia giống như thất kín, gió không thể vào. Gió được vào là do lỗ hổng. Ma được dịp khuấy phá là do khởi niệm. Từ ngay v.v… trở xuống là chỉ bày văn của luận ở trước, vì đối đối ba thứ thử. Do định tónh mà mài và nương hai gốc tu, trị. Do đây v.v… trở xuống là giải thích lý do. Có người hỏi: Y theo luận chánh niệm mà nói, chỉ là định kia, vì sao có được nương gốc tu trị ư? Nên ở đây giải thích. Trước nói: “Chẳng nương hơi thở, hình sắc, đất nước, gió lửa v.v…” Đây là chọn bỏ các việc quán tưởng. Lại nói: “Là chánh niệm, nên biết duy tâm không ngoài cảnh giới” tức là tâm này cũng không có tự tướng để được”. Lại nói: “Tập lâu thuần thục tâm kia được trụ. Do tâm trụ, dẫn dẫn nhạy bén, thuận theo được nhập Tam- muội chân như…” Nên biết thâm nhập định này tức là nương gốc tu trị, lại không có pháp khác để làm gốc tu. Hỏi: Y cứ ở trước nói chỉ là cảnh ma, đến nay văn tổng kết chỗ lìa kia. Vì sao nói lìa nghiệp chướng? Đáp: Đây có hai nghóa: Người tu hành bên trong có nghiệp chướng nên bên ngoài chiêu cảm cảnh ma. Nếu lìa nghiệp chướng thì không có việc ma. Nay nói theo gốc thì nên nói nghiệp chướng. Nếu rơi vào lưới ma thì thành nghiệp chướng. Do ma ưa sinh tử khởi ái kiến, tham đắm danh lợi cung kính thế gian. Do đó tạo nghiệp nên thành nghiệp chướng. Nay lìa việc ma tức là lìa nghiệp chướng. Trong bốn tà: Sớ: Ngã kiến, v.v…, mê ba hoặc này gọi là si, tức ngã si, v.v… là bốn câu hoặc câu sinh trong mạt-na, do là câu sinh, nên nói thường tương ưng đều thuộc về vô minh trụ địa nên gọi là Sử. Chẳng giảm phiền não v.v…, tu định vốn để dứt trừ phiền não, đã không dứt trừ đâu dùng định làm gì?. Như uống thuốc mà bệnh càng nặng thì biết chẳng đúng thuốc. Y cứ, là nghóa cậy nhờ, y cứ. Không thể nhờ cậy mà thực hành. Trong chánh: Sớ: Chẳng đắm vị: chẳng đồng với ngoại đạo có kiến ái, ở đây chỉ bày chung hai câu sau. Quên tâm cảnh, là dứt năng sở, là không có tướng mê đắm vị. Xuất định v.v…, vốn chẳng do biếng nhác mà nhập định, do đó khi xuất định cũng được như thế, chẳng đồng ngoại đạo có ngã mạn. Tham, sân v.v…, ý vốn dứt hoặc, nên được dần mỏng, chẳng đồng ngoại đạo tham danh lợi v.v… Như uống thuốc trừ bệnh, đó là thuốc hay, đã biết thuốc hay không đáng thì không uống. Trong chân: Nói nếu các, v.v…, ý văn nói ngược lại: Sớ là thuận giải thích. Phải nương, v.v…, do chân như là tánh Như Lai, nên tu Tam-muội này, mới là hạt giống Như Lai. Như người sinh trong nhà của vua, sẽ nối nghiệp vua. Ở đây cũng như thế. Trừ đây v.v…, Kinh Lăng-nghiêm nói: “Một cửa của mười phương Như Lai đi đến con đường diệu trang nghiêm? Lại nói: “Bạc-già-phạm mười phương từ một con đường đến Niết-bàn”. Thập trụ trở đi, nghóa là ban đầu trong sáu thứ chủng tánh, tức tập chủng tánh. Địa vị bất thoái, bất thoái có bốn: 1- Tín, 2- Vị, 3- Chứng, 4- Hạnh. Nay tức là vị. Trong luống dối: Sớ: Tứ thiền, tức cõi sắc vừa tónh vừa lự, nên gọi là Thiền. Bốn không tức cõi Vô Sắc có tónh có lự, nên chỉ nói định. Bất tịnh tức quán năm thứ thân: nghóa là hạt giống trụ chỗ tự thể tự tướng rốt ráo bất tịnh. Rộng như ở sau nói. An-bát, tiếng Phạm là An-na-bát-na, Hán dịch là hơi thở ra, hơi thở vào. Hai loại trên là hai thứ trong năm pháp quán dừng tâm. Đẳng: lại đồng ba thứ sau và bốn vô lượng, sáu diệu môn, mười lục Đặc thắng thông minh thiền, v.v… tất cả việc định. Chấp cảnh tướng, do định phi lý, chỉ duyên các tướng hơi thở kia, chẳng xứng với chân như, chẳng ra khỏi ba cõi, gọi là định thế gian. Nhưng, Tông Thiên Thai nói các thiền định chung, có ba: Thiền thế gian. 2- Thiền xuất thế gian. 3- Thiến xuất thế gian thượng thượng. Thiền thế gian. Có hai thứ: Thiền vị thế gian: Tức Bốn thiền, bốn vô lượng, bốn không định. Thiền tịnh thế gian: Tức sáu diệu môn, mười sáu đặc thắng thông minh thiền. Thiền xuất thế gian. Có bốn: Thiền quán: :à chín tưởng, tám bối xả, tám thắng xứ, mười Nhất thiết xứ. Thiền luyện: Là chín định thứ đệ. Thiền huân: Là Tam-muội sư tử phấn tấn. Thiền tu: Tức Tam-muội siêu vượt. Thiền xuất thế gian thượng thượng. Có chín: a- Tự tánh thiền. b- Nhất thiết thiền. c- Nam thiền. d- Nhất thiết môn thiền. e- Thiện nhân thiền. f- Nhất thiết hành thiền. g- Trừ não thiền. h- Thử thế tha thế thiền j- Thanh tịnh tịnh thiền. Hành tướng rộng như thứ lớp thiền môn. Lược như thứ lớp pháp giới. Người học phải biết nên xét văn kia. Nói Đắm vị, v.v…, chẳng đồng Tam-muội chân như, chẳng trụ kiến tướng và đắc tướng. Sớ: Đều được, v.v…, Người ba thừa và phàm phu ngoại đạo đều tu định này. Song phàm phu phần nhiều đắm vị, ngoại đạo thì chấp dị kế. Chỗ tu tuy đồng mà tâm tu có khác, đắc quả đều sai biệt. Nếu lìa, v.v…, nên trước nói trong phần duyên về thiện tri thức, cần giáo thọ thiện tri thức, nên biết tà chánh, do xê xích mảy may mà cách xa ngàn dặm. Phàm đối với bạn lành há cô phụ ân ư! Nên trong kinh Pháp Cú lớp lớp hiển bày khen ngợi. Tuy nhiên người tu hành thiền định chẳng dễ, muốn am tường đầy đủ môn kia, phải khắp xem xét các giáo. Do Tông Thiên Thai có ba thứ chỉ quán, nói các thiền hành tướng tu chứng, rộng ở văn kia. Nay lược nương vào người mới học thiền quán mà nói rõ phát tướng tà chánh. Phát tướng tà định, hoặc thân tuy lay động, hoặc khi thân nặng như có vật đè, hoặc thân nhẹ muốn bay, hoặc nặng nề ngủ mê, hoặc ngâm lạnh, phơi nóng, thấy các cảnh khác lạ, hoặc tâm kia che mờ, hoặc khởi các ác giác, hoặc niệm bên ngoài có thiện phân tán, hoặc vui mừng hớn hở, hoặc lo sầu buồn bã, hoặc biết ác xúc chạm thân, khắp mình nổi ốc, hoặc rất vui say mê. Các thứ tà pháp như thế và thiền đều phát xuất, gọi là tà ngụy. Tà định này nếu người mê đắm, tức tương ưng với chín mươi lăm pháp của quỷ thần, phần nhiều ưa thất tâm điên loạn. Hoặc các quỷ thần, v.v… biết có người mê đắm pháp kia, liền gia thêm thế lực khiến phát tà định sâu. Trí tuệ biện tài thần thông cảm động người đời, người thấy cho là được đạo quả, đều tin phục mà trong tâm điên đảo, chuyên hành pháp quỷ, người này qua đời, nếu không gặp Phật và thiện tri thức che chở thì lại rơi vào đường quỷ thần. Nếu sinh trở lại thì thường làm việc ác, liền rơi vào địa ngục. Hành giả khi tu chỉ quán, nếu chứng các thiền như thế, có các tướng tà ngụy này, thì liền bỏ. Nếu biết luống dối không đắm không mê, thì phải diệt ngay. Nếu khởi niệm mê đắm, thì rơi các quần tà. “Phát tướng thiền chân chánh”. Nếu trong lúc ngồi phát ra các thiền, không có như ở trên nói về các pháp tà v.v… Theo lúc phát thiền chân chánh, thì biết tương ưng với định, nội tâm rỗng không thanh tịnh vui mừng, lặng lẽ vui sướng không bị che mờ, tâm lành khai phát, kính tín thêm lớn, trí soi xét rõ ràng, thân tâm mềm mỏng, rỗng lặng mầu nhiệm, chán hoạ thế gian, vô vi vô dục, ra vào tự tại, đó là phát tướng thiền chân chánh. Hai thứ tướng này như người làm việc chung với người ác, thường xúc não nhau. Nếu làm việc chung với người lành thì càng lâu càng thấy cái đẹp kia. Ở đây cũng như thế. Hành giả nên quán sát sâu, phải cần có bạn lành giáo thọ. Nêu chung: Sớ: Đời sau, v.v…, vọng dứt, tập trừ, chứng chân, khởi giáo hóa, đức khắp pháp giới ứng dụng vô cùng. Trong nhiếp hộ: Sớ: Do tu v.v…, hơi giống với kinh Kim Cương nói, người trì kinh, vì tri kiến hộ niệm Như Lai. Như đời vua con tu đức tiến nghiệp kham nối nắm địa vị quốc vương, cũng vì chỗ báo của vua cha. Là chỗ niệm Phật, lý hợp như thế. Nên nói là pháp ứng. Trong duyên ác: Sớ: Lìa thiên ma ngoại đạo v.v…, như chỗ đối trị ở trên. Do biết thật tướng các pháp, chẳng sợ mê hoặc. Chín mươi lăm thứ ngoại đạo, như kinh Hoa Nghiêm nói, có chín mươi sáu ngoại đạo. Nghóa là sáu vị giáo chủ ngoại đạo mỗi vị có mười sáu học pháp. Một pháp tự học, ngoài ra học chín mươi lăm thứ. Mỗi giáo mười lăm đệ tử. Thầy trò hợp luận nên thành số này. Nay bớt một, như các chỗ nói. Trong hoặc nghiệp: Nói sâu xa: tức trí tuệ mầu nhiệm, Bát-nhã đạt sâu thật tướng. Nay đã nhập sâu định này nên không phỉ báng. “Tội nặng mỏng dần” đã đạt tánh tội tánh phước, chẳng trong, ngoài, khoảng giữa, tâm ngã tự không, tội phước không chủ, Tam-muội dần sâu, tội kia dần bớt, nên nói là “mỏng”. “Nghi” nghóa là đối với lý còn do dự. Giác quán: nghóa là từ ngữ gia hạnh, nay đạt các pháp duy tâm không ngoài cảnh giới, bên trong lìa tâm tư, đối với lý quyết định, đâu có chỗ nghi ư, nên đều dứt trừ. Trong hạnh thành: Sớ: Đối với lý tăng thêm lòng tin, Tín muốn thành căn ắt việc làm thêm lớn, dần dần nhập chẳng lui sụt, nên không nhiếp được. Biết pháp như huyễn, nên không có chỗ yếu hèn, rắn dây chẳng độc, ác quỷ không tâm, đâu có chỗ yếu hèn ư! Nên văn sau nói: “Nếu tu chỉ, hay xả bỏ cái thấy yếu hèn của người Nhị thừa. Đã không yếu hèn thì chẳng đồng Nhị thừa”. Chẳng hoại, biết người khác như mình nên được nhu hòa, nhu hòa nên chẳng kiêu mạn, chẳng kiêu mạn nên người tức chẳng phiền não, chẳng phiền não nên chẳng hoại, là hành chẳng hoại. Không thêm vị thế gian, người đời không học pháp này, tức ái kiến sâu chắc tham đắm thế gian. Nay đã biết ba cõi ngụy, sáu căn dối người, đâu thể tham mà vui ư! Chẳng vui tức lìa ái, lìa ái thì bớt phiền não. Văn sau nói: “Nếu tu chỉ là đối trị phàm phu mê đắm thế gian”. Được thiền định: thành Tam-muội Chân như. Luận: Duyên bên ngoài tức nêu chung sáu trần. Âm thanh tức chỉ bày riêng chỗ đối với tai. Kinh Lăng-nghiêm chép: “Thuần âm thanh không trần, căn cảnh viên dung không có năng đối, sở đối” Lại nói: “Chẳng tự quán âm, dùng quán để quán, khiến cho chúng sinh quán âm thanh kia, liền được giải thoát” Đây là đồng các pháp không hành, trải qua pháp môn nhập trí tuệ âm thành, đâu có chỗ động!. Nay đối với sáu trần, chỉ nêu thinh trần. A-hàm nói như thế để làm trái với Thiền, nhưng văn sớ trên đều đối với phần 1-2… ở sau. Chú, lấy đây giải thích ngay nơi văn của khoa giúp cho dễ hiểu, chẳng cho rằng rất gần với trước.  <卷>QUYỂN 20 Trong quán: Nói tâm lặng chìm, do chân như vô tướng, hướng tức tâm dứt phân biệt chẳng khởi, nên nói lặng chìm. Như đây người Nhị thừa chấp không là chứng. Do trầm tịch nên thành hai lỗi, như ở sau nêu giải thích. Nói hoặc khởi v.v… trở xuống, là hiển bày lỗi. Sớ nói: Thứ nhất là quán pháp tướng, trong đó có khổ, vô thường, vô ngã, bất tịnh khác nhau. Do thấy bất tịnh nên chẳng ái, khổ nên không thể chịu đựng, vô ngã nên không tự tại, vô thường nên không thể giữ. Do đó chán sâu thế gian nên cầu ra khỏi, ưa tu các điều lành để dự bị cho tương lai. Sớm hưng khởi, đêm ngủ không dám biếng nhác. Thứ hai là quán tinh tấn, tâm sao siêu đã phát, niệm niệm tinh tấn, thì có công phu nên sẽ thành tựu. Thứ ba là quán đại bi: Nghóa là thấy các chúng sinh chìm trong biển khổ, không có phước tuệ, không biết gốc khổ, đam mê sinh tử, chẳng cầu ra khỏi, nên ý khởi đại bi thương xót. Kinh Pháp Hoa chép: “Thấy chúng sinh trong sáu đường nghèo cùng không phước tuệ, vào con đường hiểm trở, sinh tử cùng khổ, nối tiếp chẳng dứt, chẳng cầu thế lực lớn của Phật và pháp dứt khổ, nên vì chúng sinh mà khởi tâm đại bi. Thứ tư là quán đại nguyện: Tâm bi đã phát, dùng nguyện theo thời kỳ cần yếu, chẳng phân biệt oán thân, hơn, kém, đều giúp cho thoát khổ, mau được Niết-bàn. Cõi chúng sinh cùng tận, nguyện ta mới cùng tận, nên sẽ thành tựu. Sớ: Bốn cảnh chẳng thường, nghóa là chẳng bác bỏ bốn cảnh kia là chỗ chấp thường tình. Vô thường: Nói tất cả hữu vi, trừ sáu vô vi, ngoài ra đều là hữu Bốn địa vị đều là hữu vi không được dừng lâu” Các pháp đã sinh, sinh rồi liền diệt, như sương như chớp, không tồn tại lâu. Giới Kinh nói: “Sắc trẻ không dừng, giống như ngựa chay, mạng người vô thường hơn cả sông núi. Ngày này tuy còn sáng suốt cũng khó giữ gìn”. Kinh Vô Thường chép: “Dù cho núi cao vời vợi khi kiếp tận đều tan hoại, biển lớn sâu không đáy, cũng có ngày khô cạn. Đất đai và mặt trời mặt trăng đến lúc đều trở về chỗ chung tận, không hề có một việc gì chẳng bị vô thường. Quán khổ: Nói t ất cả tâm hành v.v…, như trong kinh nói: “một niệm có chín mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm sinh diệt, đã mau sinh mau diệt, thật là khổ. Nên trước nói: “Động thì có quả khổ chẳng lìa nhân”. Nhưng khổ, khổ nghóa là ép ngặt. Có năm khổ và tám khổ các thứ khác nhau. Nói lược thì chẳng ngoài ba thứ, đó là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Trong ba khổ thì hành khổ rất chung, chẳng phải chỉ năm đường đều có, mà đến ba thừa cũng đều đủ. Nay đứng về nghóa chung, nên nêu một. Vô ngã: Luận: Hoảng hốt như mộng, nhớ pháp quá khứ hoảng hoảng hốt hốt, dường có mà không, như còn như mất, dù có nói năng cũng không thật có, nên nói như mộng, chẳng những quá khứ, hiện tại cũng vậy. Nên kinh Tịnh Danh chép: “Là thân như mộng do luống dối mà thấy”. Sớ: Khó truy, chẳng cho rằng có thể, mà cầu chẳng dễ, nên nói khó truy. Do toàn thể tự không, chỉ có lời nói nên nói không thể. Nói như điện chớp, nên niệm các pháp, trước thuộc quá khứ, sau thuộc vị lai, ở trong khoảng giữa, nên nói như điện chớp. Kinh Tịnh Danh nói: “Thân như điện chớp, niệm niệm chẳng trụ”. Sớ: Sát-na, là bờ mé của thời gian. Chẳng trụ, kinh nói: “Mới sinh liền có diệt tức chẳng phải người ngu nói” Lại kinh nói: “Khoảng niệm niệm sát-na, sát-na không dừng trụ. Nói như mây v.v…, mây bay thì trời xanh, đâu từng có pháp gốc sinh cõi chân, đâu thấy từ chỗ nào. Do lúc sinh không có chỗ đến, nên lúc diệt cũng không có chỗ đi. Kinh Tịnh Danh nói: “Là thân như mây, trong khoảnh khắc biến diệt”. Sớ: Duyên tập v.v…, gồm duyên hay tụ tập, cũng không có chỗ đến, đều đồng như mây. Nhưng đoạn văn này chính là quán không. Khoa này nói: “vô ngã” phải đối phá bốn đảo như thường v.v… Nên ba đời đã không thì chẳng có pháp, pháp còn chẳng thật có, đâu còn ngã ư, cho nên nói vô ngã. Trong phần này (Bất tịnh): Nói bất tịnh v.v…, Kinh Tịnh Danh nói: “Là thân bất tịnh nhơ uế đầy khắp”, nhưng có năm thứ: Hạt giống bất tịnh: Do tinh cha huyết mẹ mà thành. Chỗ ở bất tịnh: Trụ ở giữa sinh tạng và thục tạng. Tự thể bất tịnh: Ba mươi sáu vật chung hòa hợp. Ba mươi sáu vật là tướng bên ngoài có ba mươi bốn thứ phối hợp, đó là: tóc, lông, móng, răng, đờm, dãi, nước mắt, nước mũi, mồ hôi, tiện lợi.. Thân khí do hai mươi sáu vật mà thành, đó là; da, da ngoài, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mở la, mỡ dầy, não, màng. Trong đó bao gồm mười hai thứ nhơ uế: đó là tì, vị, tim, phổi, gan, ruột, mật, dạ dày, xích cầu, bạch cầu, sinh, tạng thục tạng. Tự tướng bất tịnh: chín lỗ thường chảy ra các thứ nhơ uế. Rốt ráo bất tịnh, khi chết không thể kham nên hình hài như thế, lại đâu đáng vui. Sớ: “Dứt bốn đảo” Thường, lạc, ngã, tịnh, là chỗ chấp của phàm phu. Bốn thứ điên đảo, nay lấy bốn thứ quán vô thường…, mỗi thứ đối trị. Như dùng bốn thứ thuốc trị bốn bệnh. Trong đại bi: Nói như thế…, do ngộ tự thân vô thường như vậy, nên nhớ nghó chúng sinh cũng giống như thế, vô minh mê mờ không tự hay biết, nên khởi đại bi, chín loài nên nói “tất cả”. Từ Vô thỉ v.v… trở xuống là tột cùng nguồn khổ, bởi vô minh tạo ra. Văn trước nói: “Do có vô minh nhân pháp nhiễm nên huân tập chân như, do huân tập nên có vọng tâm, cho đến tạo nghiệp, chịu tất cả khổ ở thân tâm. Đã thọ v.v… trở xuống là nói ba đời đều khổ. Khó bỏ v.v…, vô minh chưa hết, trước không thể khỏi. Kinh Pháp Hoa chép: “Tất cả chúng sinh bị sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não, thiêu đốt. Cũng do năm dục, tài, lợi mà chịu các thứ khổ. Lại do tham name tìm cầu nên hiện chịu các khổ, sau chịu khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh lên cõi trời, và nhân gian sẽ bị nghèo cùng khốn khổ, khổ thương yêu mà chia lìa, khổ ghét mà gặp mặt, v.v… các thứ khổ như thế, chúng sinh chìm đắm trong đó. Vui vẻ dạo chơi không hay, không biết, không sợ, không hãi, cũng không sinh nhàm chán, chẳng cầu giải thoát”. Sớ: Không có tâm nhàm chán v.v…, ngược lại biết nhàm chán, xoay lưng với khổ, thì có bờ mé. Nên văn trước nói: “Pháp nhiễm sau khi Phật được thì có dứt”. Kinh Thập Địa chép: “Có vô số thân đã diệt nay diệt” Như thế sinh diệt không thể ở chỉ khổ cái cơ quan, trôi lăn theo sinh tử không thể ngược lại. Phát sâu tâm từ, chúng sinh và tánh mình không có hai nguồn, chân lạc sẵn có mà xoay lưng chẳng cầu, vọng khổ vốn không mà ái luyến chẳng bỏ, mê đầu nhận bóng, luống ở đây thật cay đắng. Hành giả quán sát sẽ sinh tâm từ bi cứu giúp. Trong nguyện lớn: Sớ: Do bi lập nguyện, suy nghó cái khổ của chúng sinh trong ba đời, khó lìa bỏ. Mạnh mẽ lập nguyện, mong muốn tâm được liên kết, đầy đủ niềm vui đức hạnh, khổ khắp độ kia. Thể nguyện: nếu có phân biệt thì không thể độ khắp thường độ, liền thành điên đảo, không xứng với pháp tánh. Do pháp tánh lìa phân biệt, nhưng đây cũng là tâm chẳng điên đảo. Tâm lâu dài, trong ba câu đầu là bên trong tu cội đức. Nếu tự không có đức hạnh thì đâu thể giáo hóa người. Trước vật kia phải bén thì việc kia mới khéo. Nên sớ Hoa Nghiêm chép: “Sông có châu mà không khô, núi có ngọc mà thêm thấm nhuần, bên trong không cội đức, bên ngoài đâu thể nói”. Lại kinh Tịnh Danh chép: “Nếu tự có trói buộc hay mở trói buộc cho người thì không có việc đó. Nếu tự không trói buộc sẽ hay mở trói cho người”. Một câu sau chính là lâu dài. Tâm rộng lớn: văn nói: “Tất cả chín loài bốn sinh đều nhiếp hết, nên thành rộng lớn. Câu đầu tức là phương tiện năng độ. Nếu không có phương tiện thì đâu khiến phát tâm, Cho nên phải dùng phương tiện bọt nước hòa với khéo léo, khiến tất cả giáo hóa theo đó. Tâm bậc nhất, cao thì ra khỏi cảnh người, trời, Nhị thừa. Lại không vượt hơn ở đây, nên gọi là bậc nhất. Nay xét trong văn đầy đủ có bốn nguyện, nghóa là lìa phân biệt tức thệ dứt phiền não, khắp tu các hạnh tức thệ học pháp môn. Tân vị lai tức thệ độ chúng sinh. Khiến được Niết-bàn tức thệ thành Phật đạo. Đã khiến kia được năng lực trở về nơi mình, tức là tự mình hy vọng chứng. Trong tinh tấn: Nói do khởi v.v…, đã phát tâm mong muốn như thế, nên làm việc mà không biếng nhác. Đây là do suy nghó không lợi ích không chỉ như ở nơi học, nên tất cả pháp lành siêng năng mà làm. Nếu có thể không chỗ nào mà chẳng tu, không giờ nào mà chẳng làm, siêng năng mạnh mẽ không có tâm biếng nhác, không nhàm chán, xả bỏ thì tự nhiên thành tựu tự lợi và lợi tha. Trong phần kết quán: Nói nếu các v.v…, nghóa là ngồi yên chỉ chuyên vào chỉ. Nếu đứng dậy thì các oai nghi phải nên suy nghó, quán sát việc lợi hại, nhớ nghó muốn lấy, bỏ. Sớ: Thuận lý, tất cả pháp lành thuận lý chân như. Văn trước nói: “Nếu người tu hành tất cả pháp lành tự nhiên thuận trở về pháp chân như. Do các hạnh lành, bên ngoài trái vọng nhiễm, bên trong thuận với chân như, bên ngoài trái với vọng nhiễm, bên trong thuận chân như, nên nói thuận lý, tức là môn tác trì. Trái lý: tất cả pháp ác, các luật nghi ác, bên trong trái với pháp tánh, bên ngoài chiêu vời các quả báo khổ, nên hay không nên làm, tức môn chỉ trì. Nêu chung: Nói nếu hành v.v…, đây là trong bốn nghi, sáu duyên đều phải chỉ quán song tu, định tuệ cùng liên kết. Sớ: Động tónh riêng tu, tuy nói riêng tu, nên siêng tập song tu và liên kết. Văn trước nói: “Tuy trước chỉ sau quán, thứ lớp riêng khác. Nhưng đến lúc tu, đâu được lìa nhau”. Do văn không phiền chép, nên thành trước sau. Nay trong văn này nói “đều” cũng là trở lại nói văn trước, sợ người khi tu mỗi người đều tự tập, nên khuyến đều phải chỉ quán song hành. Do nhân song hành, quả mới đều liên kết. Như có chân không có mắt, có mắt không có chân, đều không đến được hồ mát mẻ, chỉ có riêng chiếc xe đi (mà không có người lái) thì đâu khỏi bị lật. Nên kinh nói: “Tâm địa còn quả địa giác không hai không khác, mới gọi là trước sau không lìa nhau”. Trong tức chỉ: Nói lự tánh bất sinh, trong luận nói: “Các pháp chẳng tự sinh cũng chẳng từ cái khác sinh, chẳng chung, chẳng phải không có nhân, nên biết là bất sinh”. Nay nêu một thứ trong bốn thứ, nên nói tự tánh. Đây là vô ngã, vô tạo, chẳng có người thọ. Trở xuống là nghiệp thiện ác cũng chẳng mất. Chẳng có nghóa: biến kế hoàn toàn không nên nói chẳng có. Y tha chẳng mất nên chẳng nói không. Nếu nói không thì rơi vào lỗi đoạn, vì chẳng đồng với sừng thỏ rốt ráo không. Luận: Tức niệm nhân duyên v.v…, Kinh nói: “Các pháp nhân duyên sinh, các pháp nhân duyên diệt”, lại nói: “Nhân duyên hòa hợp luống dối có sinh, v.v…”. Sớ: Chẳng không nghóa, y tha rõ ràng nên nói chẳng phải không. Biến kế hoàn toàn không nên chẳng nói có. Nếu nói có tức rơi vào lỗi thường, vì chẳng đồng với vọng tình có sở đắc. Hai thứ này, tánh tướng có khác. Chẳng hai, thể dụng thường cùng nhau. Đây thuận v.v…, có hai nghóa. Thuận giáo: Tức chỗ dẫn này là lỗi của Phật thánh. Thuận lý: nghóa là chẳng động mé chân vì tánh bất biến. Kiến lập các pháp là tánh tùy duyên. Một pháp mà hai nghóa, nên nói là “tức”. Sớ trước nói: “Tánh bất biến mà duyên khởi nhiễm tịnh thường khác nhau”. Bởi do, v.v…, Kinh nói: “Pháp thân trôi lăn trong năm đường, gọi là chúng sinh”. Trong luận nói: “Do có nghóa không nên tất cả pháp được thành”. Nên hay v.v… là đứng về cảnh tu tâm để thành hạnh quán. Cảnh tức mất mà còn, tâm cũng ngay nơi chỉ thành quán. Nhưng đoạn trước tức môn Chân như, đoạn sau tức môn Sinh diệt. Hai môn chẳng hai, chỉ là nhất tâm, nên được chỉ quán song tu liên kết. Trong tức quán: Luận: Tuy niệm nhân duyên…, tức nghóa chẳng không ở trước. “Mà cũng” v.v… trở xuống, là nghóa chẳng có ở trước. Sớ: Chẳng phân phối: do trước rõ sau, văn sớ có hai: - Chính giải thích ý chỉ của văn nên tựa sớ nói: “Chẳng xả bỏ duyên mà tức chân phàm thánh đến một”, đây chính là tùy duyên mà bất biến. Bởi do v.v…, Kinh nói: “Tất cả chúng sinh đều như”, văn trước nói: “Do tất cả pháp là tánh chân thật”. Nên hay v.v… trở xuống, cũng đồng với văn trước. Đứng về cảnh tu tâm để thành hạnh chỉ, cảnh tức còn mà mất, tâm cũng tức quán thành chỉ. Phối hợp trở về hai môn trái với trước, rất dễ thấy. - Chỉ bày chung về tâm dụng: Khi nói v.v… trở xuống là chỉ bày chung tâm dụng. Nói có trước sau v.v…, văn không phiền chép. Nói chẳng đốn giáo nên quán cùng chỉ trước sau mà nói. Nếu ở mé tâm của người tu hành, cần chỉ quán dung thông không trước không sau, nghóa là ngay nơi chỉ mà tu quán, tịch mà thường chiếu. Ngay nơi quán mà tu chỉ, chiếu mà thường tịch. Thể tịch chiếu tức là nhất tâm, nhất tâm gọi là thật tánh, nên nói pháp tánh vắng lặng gọi là Chỉ, tịch mà thường chiếu gọi là Quán. Trong đây chẳng những chỉ quán không hai, mà còn tâm cảnh như một. Nghóa là do trí vô duyên duyên cảnh vô tướng. Do cảnh vô tướng cùng trí vô duyên, cảnh trí như một. Như nước và nước, chỉ một thật tướng, không còn có pháp nào khác, mới gọi là chỉ viên đốn, quán Tam-muội chân như. Trong đối chướng: Sớ: Trị hai lỗi v.v…, phàm phu chẳng biết tự tánh các pháp vô sinh, thấy có nhân, pháp mà khởi tham ái, ưa trụï thế gian. Nay tu con đường chỉ khiến biết cội pháp, chẳng như thế nay liền không diệt, tự nhiên thấy ba cõi luống dối, như hoa đốm giữa hư không chẳng mê đắm. Nhị thừa được thấy pháp vô ngã đối với khổ chẳng sợ, đâu muốn mau giữ vắng lặng Niết-bàn ư! Do chỉ v.v… trở xuống là giải thích lý do, rất dễ hiểu. Chính là trị Nhị thừa: do Nhị thừa một bề chìm trong không, lấy không làm chứng. Kinh sợ sinh tử, chỉ cầu tự lợi không khởi lợi tha, chẳng thành Phật pháp. Nay tu con đường quán, biết tất cả pháp nhân duyên hòa hợp luống dối có sinh, nhân duyên chia lìa luống dối gọi là diệt. Biết bệnh biết thuốc tức khởi các huyễn. “Do trừ huyễn” là biến hóa các huyễn mà khai mở các huyễn. Đây là tự nhiên lìa cái thấy hạn hẹp, mà khởi đai bi cứu giúp cùng khắp. Nếu phàm phu được hay biết vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, mà tu các hạnh lành, dùng môn tu quán, chẳng hoại duyên pháp, trừ được chướng kia. Tổng kết: Sớ: chẳng phải chẳng ưa thế gian, ý nói: “Chẳng ưa thế gian mới tu pháp lành. Đây là chỉ thành ở quán. Chẳng phải chẳng sợ v.v…, ý nói: “Chẳng sợ sinh tử mới khởi từ bi. Đây chính quán thành ở chỉ. Ở đây giống như lấy dây quấn vào với nhau dường như trái nhau, nhưng rốt ráo lại thuận nhau. Nên kinh Tạp A-hàm chép: “Phật ngự nước Cù-sư, A-nan hỏi Thượng tọa: Nếu Tỳ- kheo ở chỗ vắng dưới gốc cây suy nghó, nên dùng pháp gì để siêng năng tu tập? Thượng tọa đáp: Nên dùng hai pháp. Có chỗ cho là: Chỉ quán. A-nan thưa: Phần nhiều đã tu tập, làm thế nào được thành tựu? Thượng tọa đáp: Tu tập Chỉ, cuối cùng thành quán. Tu tập quán rồi, sau thành Chỉ, chỉ quán đồng tu được các giải thoát. A-nan lại hỏi: năm trăm vị Tỳ-kheo cũng làm theo lời. A-nan vui mừng hỏi Phật, Phật ấn khả bảo rằng đúng vậy. Chỉ quán cần nhau v.v…, cũng như dây quấn lại với nhau mới dùng. Kinh Niết-bàn nói: “Bồ-tát Nhị thừa tu chẳng ngang bằng, chẳng thấy Phật tánh, vô minh tà kiến từ đây sinh, vô thượng Bồ-đề do đó mà khó vào. Nếu tu tập đầy đủ, chẳng xa lìa nhau, thì sẽ chóng đến biển Tát Bà Nhã”. Kinh Niết-bàn chép: “Định huệ cùng học rõ thấy Phật tánh”. Kinh Pháp Hoa cũng nói: “Như chỗ đắc pháp kia, sức định tuệ trang nghiêm”. Dùng đây độ chúng sinh tự chứng đạo vô thượng. Do đó Bồ-tát, thực hành các môn tuy nhiều, nhưng nhiếp chung không qua định tuệ. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: “Thí như có lực vương, định tuệ cũng như thế là chỗ nương cậy của Bồ-tát”. Tông Thiên Thai đối với chỉ quán ý sâu ở đây. Nên kia nói: “pháp chân Niết-bàn vào trong các đường”. Luận kia cần yếu không gì hơn chỉ quán. Chỉ là môn ban đầu tổng kết hành phục. Quán chính yếu là dứt hoặc chỉ là khéo giúp nuôi dưỡng tâm thức. Quán là diệu thuật soi chiếu thần giải v.v… Nếu người thành tựu hai pháp định tuệ, đây là tự lợi lợi tha. Pháp đều đầy đủ. Nay người học trôi chảy đâu thể nghiêng về một bên mà tu tập. Như Tông Thiên Thai nói: “Nếu khi hành giả tu chỉ quán như thế, sẽ biết rõ tất cả các pháp đều do tâm sinh. Nhân duyên luống dối chẳng thật nên là không. Do biết không tức chẳng thật có tất cả các pháp danh tự, tướng mạo. Bấy giờ, trên chẳng thấy quả Phật để cầu, dưới chẳng thấy chúng sinh để độ, đó gọi là từ giả nhập vào quán không, cũng gọi là quán Hai đế, cũng gọi Tuệ mẫn, cũng gọi trí nhất thiết. Nếu trụ quán này, thì rơi vào Thanh văn, Bích Chi, Phật địa. Nên trong kinh Pháp Hoa, người Thanh Văn tự khen rằng: “Nếu chúng ta nghe cõi nước Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh, tâm không hỷ lạc. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều vắng lặng, không sinh, không diệt, không lớn, không nhỏ, vô lậu, vô vi, tư duy như thế chẳng sinh hỷ lạc. Nên biết nếu thấy vô vi nhập chánh vị, thì không thể nào phát tâm Tam Bồ-đề. Đây là định lực nhiều, nên không thấy Phật tánh. Nếu Bồ-tát vì độ tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả Phật pháp, không nên chấp đắm vô vi. Bấy giờ nên tu từ không nhập quán giả, tức ngay tâm tánh mà quán đến. Tuy lúc không đối duyên, cũng có khả năng sinh ra tất cả pháp. Giống như huyễn hóa tuy không thật chứng, cũng có các tướng thấy, nghe, hiểu, biết khác nhau chẳng đồng. Khi hành giả quán như thế, tuy biết tất cả pháp vắng lặng, đối với Không tu các thứ hạnh. Như trong hư không trồng cây, cũng hay phân biệt các căn tánh ham muốn của chúng sinh, tánh ham muốn vô lượng thì nói pháp vô lượng. Nếu thành tựu vô lượng biện tài, tức là làm lợi ích chúng sinh trong năm đường, đó gọi là từ không nhập quán giả, cũng gọi là Pháp nhãn. Cũng gọi là trí đạo chủng, trụ trong quán này sức trí tuệ nhiều. Tuy thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng. Bồ-tát tuy là thành tựu hai quán như thế, nhưng giống như phương tiện chẳng phải chánh quán. Nên kinh Anh Lạc chép: “hai quán trước là phương tiện, nhân quán hai không được nhập Trung đạo là quán nghóa đế đệ nhất. Cả hai chiếu hai đế, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên lưu nhập vào biển Tát-bà-nhã. Bồ-tát muốn trong một niệm, đầy đủ tất cả pháp, nên tu Trung đạo chánh quán. Nếu quán đế tâm tánh chẳng phải không chẳng phải giả, mà chẳng hoại pháp không giả. Nếu chiếu rõ như thế, thì tâm tánh thông đạt hai đế Trung đạo, tròn sáng chiếu soi. Nếu tự tâm thấy hai đế Trung đạo, tức thấy tất cả các pháp hai đế Trung đạo, cũng không chấp hai đế Trung đạo. Do tánh quyết định không thật có, đó gọi là Trung đạo chánh quán. Như Trung Luận nói: “Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghóa Trung đạo”. Kệ này chẳng những là phân biệt chánh quán, mà còn gồm nói môn quán hai thứ phương tiện ở trước. Nên biết trung đạo chánh quán tức là Phật nhãn, tức là trí nhất thiết chủng. Nếu trụ quán này tức là năng lực định tuệ bình đẳng, thấy Phật tánh rõ ràng, tức là an trụ Đại thừa. Bước đi ngang bằng chân chánh, kia mau như gió. Vào biển Tát-bà-nhã tức hành hạnh Như Lai. Do Như Lai trang nghiêm mà tự trang nghiêm, được sáu căn thanh tịnh, vào cảnh giới Phật, đối tất cả pháp không có đắm nhiễm, tức tất cả chư Phật đều hiện ở trước, thành tựu Tam-muội niệm Phật, an trụ định Thủ-lăng-nghiêm, khắp hiện sắc thân, đến được cõi Phật mười phương, giáo hóa chúng sinh, trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, cúng dường chư Phật mười phương, thọ trì tất cả pháp tạng chư Phật, đầy đủ tất cả các ba-la-mật, tức nhập địa vị đốn ngộ đại Bồ-tát, tức cùng làm bạn với phổ Hiền, Văn-thù, tức thường trụ trong thân pháp tánh, được chư Phật mười phương khen ngợi, thọ ký được tám tướng thành đạo, ở trong cõi nước mười phương, rốt ráo tất cả Phật sự, đầy đủ hai thân chân và ứng, đó gọi là Bồ-tát sơ phát tâm trụ. Nhưng, chỗ nói ở trên, nương vào kinh nói hành tướng ba quán, dường như thành có khác nhau. Nếu ở người tu hành, tức cần trong ba trí, nhất tâm mà được, chẳng ngang dọc lập sai biệt, là tu viên mãn. Quán không của Tông Thiên Thai tức môn chỉ này. Quán giả tức môn quán, quán trung tức đều liên kết cả hai, đại khái như thế. Trong phòng sự thoái lui: Nói chúng sinh, là phẩm thượng của Thập tín sơ tâm. Yếu hèn, v.v…, nghóa là đối với sự sinh tử khởi phát giác ngộ. Hoặc nghiệp tức từ vô thỉ chứa nhóm tụ tập. Hành thiện thì mới tu học, cảnh mạnh tâm yếu, chướng nặng, sức mỏng. Đối với sự quán tâm, đâu không yếu kém. Sa-bà, Hán dịch là Kham Nhẫn. Đầy đủ năm trược thật không đáng ở. Kinh nói: “Đời ác trược này, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đầy rẫy”, phần nhiều là những loài bất thiện hội tụ. Chỉ có Phật Như Lai kham nhẫn trụ, nên cũng có thể tu hành nhẫn nhục thù thắng hơn các phương khác. Chẳng thể thường gặp v.v…, vì trong cõi nhơ uế, tuy có Phật ra đời, nhưng chẳng trụ lâu, đã vào diệt độ. Nhiều kiếp qua suông không có Phật. Hành giả hoặc sinh trước Phật, hoặc sinh sau Phật đều không được gặp. Do không gặp nên không thể cúng dường, gần gũi, thọ nhận thánh chỉ. “Lo rằng, v.v…” Giống như con mồ côi chưa được làm người trưởng thành, đã mất chỗ nương cậy, đâu không lo âu lao nhọc, đâu không có sự mất mát ư? Người tu hành cũng giống như thế không có Phật làm thắng duyên, nội tâm lại yếu kém, huống chi cảnh nhơ uế, năm trược lẫn lộn, tâm trên cầu thật là khó tiến, lui sụt thánh đạo. Trong Thánh ý: Nói phương tiện thù thắng, tức mười sáu môn quán niệm Phật Tam-muội, và nguyện lực của Phật… Tùy nguyện, như kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh chép: “mười phương đều có Tịnh Độ, nếu người muốn sinh sẽ được tùy nguyện vãng sinh”. Trong dẫn kinh: Nói Tu-đa-la, v.v…, tức kinh A-di-đà vô lượng Thọ Đoan Tướng và Quán Kinh v.v… Như kinh Tiểu Di-đà chép: “Từ phương Tây trải qua mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc, là vui tột cùng nên gọi là Cực lạc, có Đức Phật hiệu là A-di-đà”. A-di-đà: Hán dịch là vô lượng. Ánh sáng, tuổi thọ, đệ tử, cõi nước đều trang nghiêm vô lượng. Cõi nước ấy công đức trang nghiêm thân Phật mầu nhiệm đặc biệt, khó có thể nghó bàn. Rộng như trong văn kinh, không thể nói hết. Nhưng hễ vãng sinh” gồm có chín phẩm. Do hành mà có hơn kém, vãng sinh có lên xuống, hoa khai có chậm mau, thành đạo có trước sau. Phẩm Thượng thượng, phát ba tâm, đó là tâm chí thành, tâm sâu xa, tâm hồi hướng, đầy đủ giới hạnh, đọc tụng Đại thừa, một ngày cho đến bảy ngày thì được vãng sinh. Đích thân Phật và Bồ-tát đến đón rước, Bồ-tát Quán Âm cầm đài kim cương, v.v… Đến trước hành giả, người kia nương đây theo sau Phật. Trong thời gian bung ngón tay liền sinh về cõi nước kia, được thấy Phật nghe pháp khai ngộ, trong chốc lát đã đến khắp mười phương, ở trước chư Phật lần lượt được thọ ký, trở về bổn quốc, được vô lượng trăm ngàn môn Đà-la-ni. Cho đến phẩm hạ hạ, là năm tội nghịch mười điều ác, đầy đủ các thứ bất thiện, vì nghiệp ác nên bị rơi vào địa ngục, trải qua nhiều kiếp, khi sắp qua đời, gặp thiện tri thức dạy xưng danh hiệu Phật, trong niệm niệm trừ tội năng sinh tử trong tám mươi ức kiếp, đầy đủ mười niệm ngồi hoa sen vãng sinh. Phật và Bồ-tát cùng đến đón rước, sinh trong hoa sen ở ao kia, đủ mười hai đại kiếp hoa sen mới nở, Quán Âm, Thế Chí nói pháp cho nghe, nghe pháp vui mừng, trừ diệt tội chướng, phát tâm Bồ-đề. Muốn biết đủ nên xem trong kinh ấy. Hỏi: Theo kinh Tùy Nguyện Vãng Sinh thì ở mười phương đều có tịnh độ, vì sao chỉ nói riêng về phương Tây? Đáp: Vì nhân dễ duyên mạnh hơn các phương khác. Nhân dễ, là mười niệm làm nhân. Duyên mạnh: nguyện lực của Đức Phật kia, vì trong nhân Đức Phật kia có bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớn. Trong đó nói: “Nếu có chúng sinh muốn sinh về nước ta, mười niệm thành tựu, không được vãng sinh thì ta nguyện không thành Phật” đều có lý do nên chỉ nói riêng về Tây phương, đầy đủ như kinh Đoạn Tướng. Thường thấy Phật: Nói sinh về cõi kia. Nếu quán Pháp thân, nay đứng về nhân tu. Sớ: Ba vị, trong khoa phân biệt người vãng sinh, chính là nói nơi sẽ sinh về. Nếu trong quán kinh nói đủ chín phẩm, Tông Thiên Thai chia: Thượng có ba phẩm là ban đầu từ Tập chủng sau đến Bồ-tát giải hạnh. Trung có ba phẩm là Thập Tín trở xuống, do trì giới, hiếu dưỡng, v.v… mà cầu vãng sinh. Hạ có ba phẩm là thời nay phàm phu gây ra các tội ác nặng, khi sắp qua đời gặp bạn lành khuyến khích, mới nguyện vãng sinh. Phẩm Thượng thượng thấy Phật nghe pháp liền chứng Vô sinh, là người có hạt giống đạo. Địa vị thượng, trung phẩm là ngay chủng tánh. Phẩm Thượng hạ là ngay nơi hạt giống huân tập: 1/ Được đạo có mau chậm. 2/ Chỗ nương có hơn kém. Được đạo có mau chậm, là phẩm thượng thượng như trước vãng sinh rồi liền chứng Vô sinh. “Thượng trung” sinh rồi bảy ngày sau được không lui sụt, trải qua một Tiểu kiếp được Vô sinh nhẫn. Thượng hạ, qua hai mươi mốt ngày, đi khắp mười phương, trải qua ba tiểu kiếp được trăm pháp minh môn, trụ Hoan hỷ địa. Nương có hơn kém, ban đầu ở đài Kim Cương, kế đến đài vàng, tím, sau hoa sen vàng. Nay sớ đứng về ba địa vị chỉ nói sáu phẩm trước trong chín phẩm. Địa vị đầu tức hạng ba phẩm trung kia. Địa vị thứ hai là phẩm thượng hạ kia. Địa vị thứ ba là thượng trung, phẩm thượng thượng. Do đó trong khoa phân biệt nghóa không lui sụt, nên phân tích ở đây. Duyên không lui sụt, do kia tuổi thọ lâu dài, lại không có người nữ, không có ba đường, không lạnh nóng, không đói khát, không oán thân, không già bệnh, chỗ mong muốn tùy theo tâm, thường làm bạn với Thanh Văn, Đại Bồ-tát,…, thường thấy Phật nghe pháp, nước, chim, cây, rừng đều giảng nói khổ, không, vô thường, vô ngã, niệm Phật niệm pháp. Do đó nghiệp lành tự nhiên thêm lớn, trần lao xoay vần tiêu trừ, thẳng đến Bồ-đề, lại không lui sụt. Kinh Di-đà chép:“Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sinh cõi Phật Di-đà, đều được không lui suit đối với đạo Vô thượng, Chánh đẳng, Chánh giác”, cách xa như trời đất so với người tu hành cõi nhơ uế này. Giống như hai người cùng đến chỗ phía trước. Một người thì đi bộ, một người thì đi xe. Như thế, sự khó dễ của hai người ta có thể thấy rõ. Hai cảnh kia đây tu hành khác nhau, cũng giống như thế. Nhưng nay có người không xét lợi hại, không xét nhân duyên hơn kém ở hai cỏi kia, miệng nói không mà làm thì có, khác nào đếm của báu cho người khác, mà mình vẫn yên phận chịu nghèo. Thường bàn luận về lý cùng tột, thì cho là không có cảnh phương Tây. Chìm đắm mê mờ lý “không” kia, hủy báng giáo tín, thật là kẻ hèn đối với đời sau, trái với phương tiện của bậc tiên giác. Cậy mình là phải, có gì là phải, còn bảo ta quên tình (chấp) thì quên cái tình (chấp) gì? Khen thì mừng, chê thì giận, mê hoặc còn thêm lắm, hoàn toàn không biết còn chân ngã để hội nhập bản giác. Sao không nghó xa mà tin cõi An dưỡng là nơi cởi giày để đặt chân lên nơi đó? Ta rất lấy làm thương xót mà không thể thôi không nói. Phật ký v.v…, Kinh Lăng-già chép: “Tỳ-kheo Long Thọ trụ Sơ Hoan hỷ địa, phá chấp có không, vãng sinh cõi an lạc. Hai địa vị sau: tức Thập Tín viên mãn và người Tam hiền. Do quán Pháp thân chân như, siêng năng tu tập, nguyện sinh về cõi kia tức là ba phẩm trung, thượng trong chín phẩm. Ngược lại, biết địa vị đầu tín hạnh chưa viên mãn, tức có thể đối với thường thấy Phật ở trước, cuối cùng văn không có lui sụt. Nhưng luận này nói: “Nếu quán Pháp thân chân như, rốt ráo được sinh”, đây là quán rồi mới sinh trụ chánh định. Nên biết không thể làm cho sinh, sau mới quán mà hiểu. Người có trí nên xét cho kỹ. <詞>- Phần khuyến tu lợi ích: Khuyến tu lợi ích là phần lưu thông. Đã bày pháp nghóa, rộng chỉ tu hành. Căn cơ viên đốn ắt nương theo đây mà ngộ nhập. Nay nêu chung ở trước nói, khuyến khích khiến thọ trì, văn, tư, tu tập được lợi ích. Trong văn có nói tướng lợi ích của ba tuệ, vẫn nêu lỗi không tin hủy báng. Nay chỉ nói khuyến tu lợi ích. Nghóa là nêu sâu bao gồm cạn, chẳng nói văn, nhờ khuyến khích mà tu, nên tự không nghi ngờ phỉ báng, do đó chỉ nói khuyến tu lợi ích. - Kết trước sinh sau: Luận: Như thế v.v…, chỉ chỗ nói pháp ở ba phần trước. Nghóa là: Nhất tâm, Nhị môn. Hai giác, hai bất giác. Bốn vị, hai tướng. Ba tế, sáu thô. Năm ý, sáu nhiễm. Hai ngại, bốn huân tập. Ba đại, hai thân. Hai kiến, Ba tâm. Bốn phương tiện, sáu độ. Ba tâm tướng, Bốn tín, Năm hạnh, v.v… Đều có nói rõ. Nhưng, ở đây các pháp đều là trong pháp nghóa Đại thừa khác nhau, nên nói: “Đại thừa là như thế”. Bí tạng chư Phật, tức ba đức sâu xa của đại Niết-bàn, là chỗ chứng của Phật, chẳng phải nhân địa vị hay cùng tột nên gọi là bí, bao gồm nhiều chỗ mà không chứa nhóm nên gọi là tạng. Bí tạng này có đủ ba pháp, nghóa là Ma-ha Bát-nhã, giải thoát và Pháp thân, nên gọi là đức. Tuy có ba tên mà không có ba thể. Như mặt của vị trời có ba mắt, chẳng ngang dọc khác nhau, chẳng phải một hai ba mà một hai ba, nên gọi là Bí tạng. Nhưng, ở trên nói pháp nghóa khác nhau, do ba pháp này thường thâu nhiếp đều cùng tận, chính là nghóa này. Như trên nói nhất tâm là nêu chung thể bí tạng, đầy đủ nghóa Ba đại, hai môn chẳng lìa hai đế chân và tục. Trong chân mất tướng tức không là Bát-nhã, hiển bày thật là Pháp thân, sinh diệt là tục đế, chính là giải thoát. Trong hai giác thì bản giác là Pháp thân, thỉ giác là Bát-nhã, bổn thỉ không hai là giải thoát. Trong bốn vị, theo mỗi vị đều có trí năng chứng là Bát-nhã, lý sở chứng là Pháp thân, lìa sở chướng là giải thoát. Trong hai tướng, tướng trí tịnh là Pháp thân Bát-nhã, nghiệp tướng không thể nghó bàn là giải thoát. Trong bốn cảnh, cảnh như thật không là Pháp thân, cảnh nhân huân tập là Bát-nhã, hai cảnh sau là giải thoát. Lại, ban đầu là Pháp thân, hai là Bát-nhã giải thoát. Trong hai thứ sau, ba là, Pháp thân Bát-nhã, bốn là giải thoát. Trong chín tướng, bảy tướng trước thuộc phiền não, là Bát-nhã, tạo nghiệp là giải thoát, thọ báo là Pháp thân. Năm ý, sáu nhiễm, hai ngại nhiếp vào chín tướng, có thể do ý mà được. Trong bốn huân tập, nhiễm huân mới lìa vô minh, cảnh giới vọng tâm khởi thành hoặc nghiệp, trôi lăn sinh tử. Như chỗ phối hợp chín tướng. Trong tịnh huân, chân như là Pháp thân, huân khởi thỉ giác là Bát-nhã, lìa sở chướng tức giải thoát. Trong ba đại, thể là Pháp thân, tướng là Bát-nhã, dụng là giải thoát. Trong hai thân, chân thân thuộc về Pháp thân Bát-nhã, ứng thân là giải thoát. Đối trị tà chấp là Bát-nhã, thấy được không tức giải thoát, chánh lý sở hiển tức Pháp thân. Trong ba tâm, trực tâm tức là Pháp thân, thâm tâm tức Bát-nhã, đại bi tâm là giải thoát. Trong sáu độ, mỗi độ đều có ba thứ, như nói: Do biết là Bát-nhã, pháp tánh là Pháp thân, vốn không san tham là giải thoát. Trong bốn tâm tướng, chân tâm là tức Pháp thân Bát-nhã, phương tiện và nghiệp thức tâm là giải thoát. Trong bốn tín, tin chân như là Pháp thân, tin Phật là Bát-nhã, tin pháp và tăng là giải thoát. Trong năm hạnh thì bốn hạnh trước là tức giải thoát, chỉ là Pháp thân, quán là Bát-nhã. Hoặc mỗi hạnh đều có đủ ba thứ. Do phá này, thâu nhiếp tất cả đều hết. ba pháp này, thâu nhiếp hết tất cả. Ba pháp này chẳng lìa nhất tâm ở trước. Đây là pháp của tất cả Phật mười phương ba đời, đều thuộc về luận này, gọi là Bí tạng, ta đã nói chung. - Nêu lợi ích: Nói cảnh giới sâu xa của Như Lai, là nhất tâm, hai môn, ba đại. Nhất tâm là pháp sâu xa. Ba đại là nghóa sâu xa. Hai môn là lý sự sâu xa, đều là cảnh sở chứng của Như Lai. Chánh tín, do đây là Thật không tin các pháp. Đã sinh chánh tín, nên lìa phỉ báng, lìa phỉ báng nên nhập đạo đại thừa. Đạo nghóa là nhân, chung cho quả Phật. Trì luận này: giáo là môn Đại thừa, muốn nhập Đại thừa thì phải trì giáo hoặc đọc hoặc tụng, gọi chung là Trì. Chỗ thấy nghe biết gọi là văn tuệ. Sớ: Tư tuệ, là tư duy nghóa kia. Tu tuệ, như thuyết tu hành. Luận Rốt ráo, ban đầu do nghe, tư duy, sau được quả Phật. Lại một phen được thì được hẳn, nên nói rốt ráo. Quả Phật viên thông gọi là Đạo. - Trong nghe được lợi ích: Nói nếu người v.v…, có hai ý: Chỉ nên chẳng khiếp sợ như thế. Vào lúc khác sẽ được Như Lai thọ ký. Như Phật Bảo Tạng nói: Đức Thích-ca Như Lai, thời gian sau sẽ được Đức Như Lai Nhiên Đăng thọ ký. Hành cảnh như nghóa này được thọ ký, phần cuối chương Thanh Tịnh Tuệ trong như kinh Viên Giác chép: “Nếu người nghe pháp môn này chẳng sinh kinh sợ, gọi là tịnh giác tùy thuận. Các ông nên biết các chúng sinh như thế đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Hằng hà sa chư Phật, trồng các cội đức, Phật nói người này thành tựu nhất thiết chủng trí”. Nghóa đồng ở đây. Lại như kinh Pháp Hoa chép: “Sau khi Như Lai diệt độ nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù cho một câu, một bài kệ, một niệm tùy hỷ, ta cũng thọ ký cho đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. - Trong tư duy được lợi ích: Nói giả sử là thật không có người này, chỉ giả thiết lập. Tam thiên đại thiên thế giới, Câu-xá nói: “Bốn đại châu, mặt trời mặt trăng, Tô-mê-lô, Dục thiên, Phạm thế, gấp một ngàn lần gọi là một tiểu thiên thế giới. Tiểu thiên này gấp ngàn lần gọi là một Trung thiên. Thiên này gấp một ngàn lần gọi là Đại thiên. Đều đồng một phen thành hoại, phối hợp cũng sẽ biết. Mười điều lành, giáo hoá người khiến thực hành mười điều lành, chiêu cảm quả báo sinh lên cõi trời, tuy số rất nhiều, chẳng lìa, chẳng thành vô lậu. Nếu tư duy pháp này là nhân thành Phật, rốt ráo khiến được Phật đạo vô thượng. Thời gian tuy không nhiều mà công đức thì không thể ví dụ được, đâu thể đem điều lành thế gian mà so sánh được. Trong nhiều đức: Nói thọ trì, lãnh thọ pháp nghóa, giữ gìn ở tâm, trong khoảng bữa ăn tán tâm suy nghó, công đức không thể ví dụ, huống chi một ngày một đêm định tâm quán sát, bấy giờ hạnh thù thắng lâu dài, được công đức thật như ở đây nói, không thể do suy nghó mà nói được. Trong so sánh: Nói dù khiến v.v…, trong đây so sánh văn cao siêu tuy không nhiều, nghóa thì rất rộng. Do người có khả năng khen ngợi là bậc Vô thượng đại giác, đầy đủ tất cả trí, có biện tài vô ngại. Hễ khen ngợi điều gì đều rốt ráo, nay không khen ngợi riêng một vị Phật mà nêu tất cả chư Phật mười phương, người cao quý mà lại nhiều. Lại chẳng phải ít thời gian, vẫn mỗi việc ở trong vô lượng vô số kiếp khen ngợi lâu dài, chẳng cho rằng phần nhiều Phật ở trong lâu dài, công đức khen ngợi kia khiến được bờ mé, mà lại nói cũng không thể cùng tận. Nên biết văn nghóa dồi dào ở nơi giáo. So sánh văn cao siêu các chỗ này thật là tận cùng. Trong lý do: Nói vì sao?, quả nhân vô lượng, kiếp số vô biên, đối với thời gian như vậy, trải qua chỗ Phật khen ngợi chẳng bằng kịp, là có nguyên do gì? Nghóa là pháp tánh v.v… trở xuống là giải thích tánh vô biên. Công đức như tánh cũng lại vô biên. Nhờ do tu tập luận kia, tức là thâm nhập chỗ được của pháp tánh. - Trong hủy báng: Sớ: Tội nặng: thọ trì nếu phước nhiều mà hủy báng, thì phải vời lấy tội nặng. Theo kinh Đại Bát-nhã nói: “Chúng sinh phỉ báng chánh pháp bị đọa vào địa ngục A-tỳ, trong vô lượng kiếp, gặp cảnh này hoại, thì nương các cõi địa ngục khác, như thế lần lượt trải khắp mười phương, trở lại chỗ cũ, do tội chưa hết. Nay nói vô lượng khổ lớn, chính là loại này. Cũng như kinh Pháp Hoa chép: “Phỉ báng kinh, người kia khi chết đi bị đọa vào địa ngục A-tỳ suốt một kiếp, kiếp hết lại sinh. Như thế lần lượt đến vô số kiếp, ra khỏi địa ngục, phải đọa vào súc sinh, v.v… Dứt hủy báng, cũng là khuyến tin phải tội như thế, cho nên phải dứt. Kinh Thắng-man nói: “Nếu tự có trí thì tự hiểu. Nếu chẳng hiểu thì kính mong Như Lai, chẳng phải cảnh giới của ta. Nếu được như thế, thì đâu có tai ương ở đời sau ư! Nói do sâu v.v… trở xuống, hoặc hỏi: Do nghóa gì người không tin hủy báng bị tội như thế? Nên ở đây giải thích. Cũng như kinh Pháp Hoa nói: “Dứt hạt giống Phật chịu tội báo này. Do một v.v…. trở xuống, lại hỏi rằng: Chỉ phỉ báng luận này, vì sao lại nói dứt hạt giống Tam bảo, thành hại mình người? Nên ở đây giải thích. Sớ: Quả người được Niết-bàn v.v…, đây là nói về người, hiển bày bày lẫn nhau. Theo lý thì một phen được đều được, chẳng chứng riêng. Như Bát-nhã Tâm Kinh nói: “Bồ-tát Tát-đỏa nương Bát-nhã được Niết- bàn, chư Phật ba đời nương Bát-nhã được Bồ-đề”. Ở đây cũng như thế. Pháp bảo v.v…, vì trong luận nói Như Lai là Phật bảo, Bồ-tát là Tăng bảo, nếu không tin pháp này thì không có Bồ-tát tu hành, tức tăng bảo dứt mất. Nếu không tu hành, thì không chứng Bồ-đề Niết-bàn. Pháp bảo này bị dứt mất, nếu không chứng quả thì không có Như Lai. Phật bảo này bị dứt mất, Tam bảo bị dứt mất đều do không tin mà phỉ báng, cho nên mắc tội, trải qua vô lượng kiếp chịu khổ lớn, cho nên biết tội lớn không gì lớn hơn báng pháp. Trong phần kết khuyên, nói về quá khứ tức dòng Thích-ca, hiện tại tức thuộc loại Mã Minh, vị lai tức là hành giả hiện nay. Trong kinh Lăng-nghiêm, ngài Văn-thù khen ngợi pháp viên thông của Quán Âm rằng: Các Đức Như Lai ở quá khứ đã thành tựu pháp môn này, các Bồ- tát hiện tại đều nhập Viên thông, người tu học ở vị lai sẽ nương vào pháp này, ta cũng từ trong đó mà chứng, chẳng phải chỉ có Quán Thế Âm, chẳng có khác đường. Kinh nói: “Đây là một cửa vào niết-bàn của các đức Phật nhiều như cát bụi”. Lại nói: “Là một cửa vượt lên diệu trang nghiêm của các Đức Như Lai trong mười phương. Trong phần tổng kết: nói chư Phật, chư Phật là người năng chứng, năng thuyết, sâu xa, v.v… trở xuống là nói về pháp sở chứng sở thuyết. Trong đây, sâu rộng, v.v… là chỉ chung cho ba đại. Sâu là nói theo chiều dọc, Đại là nói theo chiều ngang, cả hai đều dứt bặt đối đãi, cho nên nói là rất sâu rộng. Nghóa là sâu trong sâu, chứ chẳng phải cái sâu đối với cạn, cho nên nói sâu xa; Là đại trong đại, chứ chẳng phải cái Đại đối với nhỏ, nên nói là rộng lớn. Có chỗ nói ba chữ sâu rộng lớn là riêng đối với ba nghóa Thể, Tướng, Dụng. Sâu là Thể đại, là thật tướng chân pháp, nhân vị chẳng thể cùng tận được, chỉ có Phật mới có cùng tận rốt ráo, cho nên Đại luận nói: Dùng trí đo biển lớn, chỉ có Phật mới cùng tận nguồn đáy. Lại kinh Pháp Hoa chép: Sâu xa vững chắc không ai đến được, đây là y cứ quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, bất sinh bất diệt, nên nói là sâu. Rộng là dụng đại, nghóa là Diệu dụng còn hơn số cát sông, âm thầm cảm ứng không có dừng nghỉ, không có cùng tận. Dụng vô tận này mỗi dụng đồng với giác tánh, không có bờ mé, không có phần hạn, cho nên kinh Lăng-Nghiêm chép: Ta dùng bất sinh bất diệt hợp với Như Lai tạng là tâm vốn mầu nhiệm, trùm khắp pháp giới, cho nên trong đó một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiên nhỏ, đạo tràng bất động, có công năng dung chứa khắp các cõi nước trong mười phương, ngồi trong hạt bụi mà xoay bánh xe Đại pháp, v.v… cho nên nói là Rộng. Đại là tướng đại, tướng là tướng nghóa, tức là nghóa trí tuệ rộng lớn sáng suốt, nghóa chiếu khắp pháp giới ở trước nói, v.v… vượt hơn hằng sa tánh đức vô lậu và thể chân như, không lìa, không dứt, không khác, không thể suy n ghó bàn luận, chẳng phải sâu, chẳng phải rộng mà là sâu mà là rộng, cho nên được gọi là Đại. Cái gọi là “rất” là chung cho ba chữ, nghóa là rất sâu, rất rộng, rất lớn, đều dứt bặt đối đãi. Ba pháp này có công năng gồm nhiếp tất cả Phật pháp, cũng nhiếp tất cả chúng sinh, gồm nhiếp tuy nhiều nhưng đều không lìa Nhất tâm. Nhất tâm là chỗ chứng cùng cực của chư Phật. Cho nên ở trước luận chép: Muốn giải thích nghóa căn bản của Như Lai, giúp cho các chúng sinh hiểu đúng không sai. Nay luận chủ dùng ít lời, thuận theo pháp này mà nói lược, lời nói tuy lược mà lý đều đầy đủ, cho nên nói là thuyết tổng trì. Vì vậy văn trước nói: như thế luận này là muốn gồm nhiếp vô biên nghóa của pháp rộng, lớn, sâu của Như Lai, cho nên phải nói luận này. Nói đúng như pháp tánh, pháp tánh trùm khắp, tròn đầy không bờ mé, công đức soạn luận đúng như tánh rộng lớn, cũng không có bờ mé. Pháp tánh rất sâu, cũng không có cùng tận, công đứcsoạn luận đúng như tánh rất sâu, cũng không có cùng tận. Pháp tánh vô lậu, lìa các ô nhiễm, công đức soạn luận đúng như tánh vô lậu, chẳng cấu chẳng nhiễm. Pháp tánh vô vi, xa lìa tạo tác, công đức soạn luận đúng như tánh vô tác, chẳng phải tướng hữu vi, không thể phá hoại, tận đ61n vị lai. Công đức như thế vô lượng vô tận, vô lậu vô vi, muốn lợi ích gì, do dây luận chép: Lợi ích khắp tất cả thế giới chúng sinh, nhưnh lợi ích chúng sinh không ngoài hai thứ: một là giúp cho lìa khổ, nghóa là lìa hai thứ sinh tử phần đoạn và biến dịch; hai là giúp cho được vui, nghóa là được hai thứ vui vô thượng là bồ-đề và niết-bàn. Vì chúng sinh có ba thừa, năm tánh, bốn sinh, chín loài khác nhau bất đồng, cho nên nói tất cả. Nay hồi hướng công đức đúng như tánh, khắp thấm nhuần lợi ích. Khiến các chúng sinh kia tùy theo căn thánh của mình đều được lợi ích, cuối cùng được đến giác đạo rốt ráo vô thượng.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 160