<經 id="n1843">ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHÓA SỚ (QUYỂN 1 ~ 2) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHÓA SỚ Chùa Tịnh ảnh, Sa-môn Tuệ Viễn soạn. <卷>QUYỂN 1 (Phần 1) Luận Đại Thừa Khởi Tín vì là bộ diệu luận trình bày chân lý sâu xa cùng tột, như đao bén trừ tà, bày ra chỗ nước cạn của vực sâu, dựng thẳng lá cờ tươi đẹp; cho nên chư Phật, Bồ-tát Pháp thân đều lấy pháp này làm thể; phàm phu Nhị thừa lấy lý này làm tánh; đổi phàm thành Thánh đều do đây, vì vậy Thế Tôn nêu lên pháp này vì cho là rất thù thắng. Vượt qua biển lớn, vượt núi Tu-di… trong cung điện Thập đầu La- sát thuộc thành Lăng-già trên núi Thiết vi Phật nói kinh này, tức nêu ra ba thừa kia không có phần, như luận chủ Pháp Hoa. Hỏi: Tại sao Phật nói pháp này trên núi Linh thứu. Đáp: Vì hiển bày pháp Nhất thừa rất thù thắng này nên tùy theo vị trí để hiển bày. Lại nữa, trong luận Thập Địa có hỏi: Tại sao nói pháp môn này ở bảo điện Ma-ni trên cõi trời Tha hóa tự tại? Đáp: Vì đề xướng pháp môn Thập địa cho là thù thắng, nên so sánh với pháp này thì thù thắng hơn. Ở đây cũng thế, một đời giáo hóa nói dạy tuy rất nhiều nhưng cốt yếu chỉ có hai phần, một là tạng Thanh văn, hai là tạng Bồ-tát. Dạy pháp Thanh văn gọi là tạng Thanh văn, dạy pháp Bồ-tát gọi là tạng Bồ-tát. Vì sao biết Phật dạy chỉ có hai loại? Vì có sự kiện, có văn tự ghi chép. Nói có sự kiện là, sau khi Phật diệt độ, Ca-diếp, A-nan ở thành Vương xá kết tập ba tạng gọi là tạng Thanh văn; Văn-thù, A-nan ở núi Thiết vi kết tập Đại thừa gọi là tạng Bồ-tát nên biết Phật nói pháp không ngoài hai loại này. Nói có văn tự là, kinh Niết-bàn chép: Trong mười hai bộ kinh, Bồ-tát chỉ hành trì bộ Phương quảng, còn lại mười một bộ của Thanh văn thọ trì. Trong luận Địa Trì cũng nói như thế. Đoạn sau lại nói Thanh văn Bồ-tát ra khỏi đường khổ, nói kinh. Kết tập kinh nghóa là kết tập hai tạng. Nói hạnh Thanh văn là tạng Thanh văn, nói hạnh Bồ-tát là tạng Bồ-tát, nên biết nói pháp không ngoài hai loại này. Cũng gọi là Đại thừa, Tiểu thừa; bán giáo mãn giáo; tên tuy khác mà nghóa chẳng khác. Trong hai tạng này mỗi loại có ba phần, là kinh luật luận. Ba tạng Tiểu thừa nghóa là: Như bốn bộ kinh A-hàm là tạng kinh, năm bộ giới luật là tạng luật, Tỳ-đàm Thành Thật là tạng luận. Ba tạng Đại thừa là: Như Niết-bàn, Hoa Nghiêm là tạng kinh, Thanh Tịnh Tỳ-ni Phương đẳng kinh… là tạng luật, Thập Địa, Địa Trì… là tạng luận. Nay luận này là tạng Bồ-tát trong hai tạng, thuộc về tạng luận thứ ba trong ba tạng, cũng gọi là tạng Ma-đắc-lặc-già, Hán dịch là Hạnh cảnh giới, cũng gọi là Ma-di, Hán dịch là Hạnh mẫu. Luận này nói lý tám thức làm thể, hành pháp làm tông. Các Bồ-tát… theo lý này khởi hạnh, theo hạnh thành tựu công đức, nên gọi là tạng Bồ-tát Ma-đắc- lặc-già. Gọi Đại nghóa là, nói chung là không thể vượt ra ngoài cho nên là Đại. Đã nói là rất tột, há lại có cái gì hơn, nên gọi là Đại. Gọi là Thừa có nghóa là chuyên chở. Thừa có hai loại, một là pháp, hai là hạnh. Nói pháp thừa nghóa là có công dụng chuyên chở người khác, không có nghóa tự chở, tức là lý pháp; nói hạnh thừa nghóa là tự chở và chở người nên gọi là thừa. Nay trong luận này nói đủ lý và hạnh nên có hai loại thừa. Tóm lại cũng gọi là Nhất thừa, không có thú hướng khác nên cũng gọi là Phật thừa. Vì là sở thừa của Phật nên chính là thừa này. Tên tuy khác mà thật (nghóa) kia không đổi, nên gọi là Đại thừa. Gọi là Khởi nghóa là thành lập, Tín là quyết định. Tín này có hai cách giải thích, một là ở địa vị Thập tín khiến khởi chân thường chứng tín; hai tức là cái mà Pháp sư Diệu nói là khuyến tín. Luận chủ là người chưa đủ tư cách nói lý cùng tột của pháp sâu xa, sợ người nghe không chấp nhận, tạo thành duyên phiền não, nên nói: Tôi nói pháp Đại thừa nên khởi lòng tin, không nên bài báng. Phần cuối luận lại nói: Nay tôi tùy phần tóm tắt xong, nên hãy kính tin. Nếu người tin được pháp này thì công đức vô lượng. Vì sao? Vì lý vô tận. Nếu người bài báng thì mắc tội nặng rất khổ. Trước sau ý giống nhau, đâu thể xem thường! Như trong luận Bồ-đề tâm, phẩm Khuyến Phát được đặt ở phần đầu, vì nói sáu Độ nên trước khuyên phát tâm tu hành. Ở đây cũng như vậy, vì nói lý sâu xa nên trước khuyên khởi lòng tin. Hỏi: Vì sao trước cần phải khuyên khởi lòng tin? Đáp: Vì lòng tin này chính là pháp đứng đầu để thể nhập Phật pháp. Kinh Hoa Nghiêm chép: Tin là nguồn gốc của đạo, là mẹ sinh ra các công đức. Trong luận này cũng chép: Lòng tin như tay, người có tay vào biển báu tha hồ nhặt lượm, người không tay dù gặp kho báu cũng không nhặt lượm được gì, lòng tin cũng vậy. Nếu người có lòng tin vào Phật pháp bảo, tùy khả năng tu hành được niềm vui giải thoát, nếu người không có niềm vui tuy gặp Phật pháp vẫn không được gì, nên phải khởi lòng tin. Gọi Luận, là từ ngữ để phân biệt khác với kinh, nếu nói chung thì tất cả đều là luận, nghóa là luận năm minh; tất cả đều là kinh, nghóa là năm kinh. Nói riêng thì nhữõng gì Phật nói gọi là kinh, nếu người khác nói mà được Phật ấn chứng cũng được gọi là kinh, như kinh Duy-ma-cật, kinh Thắng Man… Sau khi Phật diệt độ, nếu bậc Thánh tự soạn luận giải thích kinh Phật gọi là Luận, còn phàm phu soạn gọi là Nghóa chương. Nay luận này do Bồ-tát soạn sau khi Phật diệt độ nên gọi là Luận. Luận nghóa là vì chủ khách bàn luận nên gọi là luận, vì thế gọi là luận Đại Thừa Khởi Tín. Nói Bồ-tát Mã Minh soạn là nêu tên luận chủ, cũng như Long Thọ Luận Thích giải thích phướn động, cho nên Bồ-tát soạn luận này. Sau khi Phật diệt độ, trong thời chánh pháp cách Phật còn gần, người có lòng tin sâu dày nên không có chủ trương khác lạ xảy ra. Bảy trăm năm sau cách Phật đã xa, các thánh đệ tử diệt độ theo Phật, người có lòng tin cạn mỏng. Vì là đời suy nên các chủ trương khác lạ của ngoại đạo tranh nhau hưng khởi ở đời, nghóa là vị tiên Thanh Đồng nêu ra Kiến-đà luận hai mươi quyển, lấy quá khứ vô nhân làm tông; vị tiên Hoàng Đầu nêu ra luận Xiển-đà lấy tự nhiên làm tông và mười tám bộ như Vệ Thế Sư luận…. Bấy giờ có Sa môn Thích tử hiệu là Pháp Thắng để đối phá với luận ngoại đạo nên y cứ Tỳ-bà-sa quảng luận, Tây Phương sa-môn và Tát-bà-đa sao, nêu ra hai trăm năm mươi hàng kệ, soạn ra Tỳ-đàm bốn quyển. Tuy nhiên, vì người độn căn lòng tin cạn mỏng nên không thể thọ trì Tỳ-bà-sa quảng luận, bốn quyển nếu tóm lược thì không nêu được nghóa lý, cho nên phải nêu ra thêm. Trong Đạt-ma-đa-la quảng luận, y cứ Tây Phương sa-môn nghóa và Thí Dụ nghóa, thêm hai trăm năm mươi hàng kệ; phần Sớ Sao đã dùng Tạp Tâm luận mười một quyển. Cho nên luận, trước nói chỗ tột cùng, tóm lược chỗ khó, giải thích cho biết, vì quá rộng khiến người không hiểu, nay ta ở trong đó nói rộng, nói nghóa trang nghiêm. Hai luận chủ này đều nói về giáo nghóa Hữu tướng khiến các thừa khác thoái lui, lấy nhân duyên làm tông. Tuy nói Lý không nhưng đối với pháp vẫn chấp định tánh bất định pháp thể. Lại nữa, sau tám trăm chín mươi năm xuất hiện Ha-lê-bạt-ma, trước tuy soạn luận diệt tà đạo ngoại đạo, quán Hữu tướng nên không được thánh đạo. Theo Tỳ-bà-sa, nghóa Sa-môn và nghóa Đàm-vô-đức soạn luận Thành Thật hai mươi quyển. Trong Quảng Luận chỉ nói giáo nghóa Vô tướng, nói về hai thứ Sinh không và Pháp không, dùng quán Không để đắc đạo làm tông. Tuy ba luận chủ đều nói thông suốt, vẫn là việc danh tướng của sáu thức, chẳng phải nêu lên lý tột, mà những người đua nhau tu tập luận này lại chấp cho là rốt ráo, truyền bá sâu rộng ở đời, khiến đại ý Mâu-ni sắp bị khuất lấp. Cho nên Bồ-tát Mã Minh lại xuất hiện, thương xót chúng sinh bị kéo vào dòng phi nhân, cảm kích ý tột của Phật dạy dần dần mất đi nên y theo kinh Lăng-già soạn ra quyển luận Khởi Tín. Tuy văn tóm lược nghóa đều rốt ráo. Tám thức thường trụ làm thể, tu hành hội nhập làm tông. Huân tập sáu thức bảy thức luống dối cho nên tu sửa cho cùng tận, nhổ sạch các chấp trước của mọi người, nghiên cứu nguồn gốc. Giải thích thức thứ tám và chín là chân cho nên vắng lặng, chỉ dạy các mê lầm và chỗ thú hướng. Ý nghóa soạn luận là như thế. Trong luận này có ba chương nói về ba ý nghóa: Chương 1: Chí kính Tam bảo. Chương 2: Trình bày luận đã soạn. Từ “Luận nói có pháp”… trở xuống. Chương 3: Tổng kết hồi hướng. Hai bài kệ kết thúc. Vì sao có ba đoạn này? Vì muốn làm việc lớn thì không thể khinh lờn, nên trước phải quy kính Tam bảo. Kế là trình bày luận đã soạn. Soạn luận rồi nên có công đức, đều hồi hướng phát nguyện nên đoạn ba là tổng kết hồi hướng. <詞>Chương 1: CHÍ KÍNH TAM BẢO Chia làm ba: Bản đời Tấn nói Chí kính Tam bảo ở phần đầu các luận không giống nhau. Ý nghóa quy kính ở phần đầu quyển luận. Giải thích theo văn. <詞> 1. CÁC LUẬN QUY KÍNH KHÔNG GIỐNG NHAU: Các luận quy kính không giống nhau nghóa là, hoặc quy kính Tam bảo đầy đủ như luận Đại Trí và luận này…, hoặc chỉ quy kính Phật pháp như luận Thập Địa …, hoặc chỉ quy kính Phật như luận Địa Trì … Đây đều có chủ ý. Sở dó quy kính đầy đủ vì đầy đủ ruộng phước. Vì sao chỉ quy kính Nhân và Pháp? Nhờ Pháp mà thành tựu Nhân nên phải lễ Phật; Pháp nghóa là chân lý được giải thích nên phải quy kính Pháp. Vì sao chỉ quy kính Phật? Vì Phật là giáo chủ nên phải quy kính Phật, còn chẳng phải giáo chủ thì bỏ qua không kính lễ. <詞>. Ý NGHÓA KÍNH LỄ: Có sáu nghóa: Quy kính chỗ thọ ân, nương đó soạn luận. Thỉnh cầu che chở. Vì sinh lòng tin. Nghi thức kính lễ. Biểu tượng thù thắng. Vì chỉ dạy chúng sinh nhớ Phật Pháp Tăng. Quy kính chỗ thọ ân, nương đó soạn luận là nếu không có Phật nói kinh thì nay không có pháp được nói, nếu không có pháp kia thì soạn luận không có chỗ y cứ; nếu không có tăng truyền thừa thì không được nghe. Vì nương ba pháp này ngày nay luận mới phát khởi nên phải kính lễ. Thỉnh cầu che chở là nếu không có năng lực che chở thì làm sao nói được lý sâu xa như thế, phải có năng lực che chở của Phật mới nói được pháp này, như Bồ-tát Kim Cang Tạng khi muốn nói pháp môn Thập địa thì thêm bốn Vô ngại biện tài thành bốn mươi pháp, nên thời mạt pháp hung ác, truyền đạo và giáo hóa không dễ, nếu không có oai lực Tam bảo che chở thì không do đâu tự thông hiểu cho nên phải thành kính thỉnh cầu trợ giúp. Vì sinh lòng tin là luận chủ tự không đủ sức làm người soạn luận giải thích kinh, mọi người phần nhiều không tin, nên phải quy y lễ kính để chứng tỏ có sự truyền thừa, có phép tắc soạn luận người mới tin nhận, cho nên đảnh lễ. Nghi thức kính lễ giống như con hiếu, tôi trung ở thế gian, hễ có làm việc gì thì phải đến trình bày rõ ràng với vua và cha, Bồ-tát cũng như vậy, kính trọng Tam bảo hơn cha và vua. Nay khi muốn soạn luận giải thích kinh thì đâu thể không thành kính khải bạch việc soạn luận, cho nên phải quy y lễ kính. Biểu tượng thù thắng là như luận Thành Thật nói, Tam bảo là cảnh giới cát tường nên đầu luận của ngài Long Thọ nói để quyển luận thù thắng nên trước phải kính lễ Tam bảo. Chỉ dạy chúng sinh nhớ Tam bảo là như Tạp Tâm nói, vì khiến chúng sinh đối với Tam bảo phát tâm thú hướng mong cầu được tin hiểu, quán sát, cúng dường, quy mạng cho nên đảnh lễ Tam bảo. <詞>. GIẢI THÍCH THEO VĂN: Chia làm hai: Nói về chí kính Tam bảo. Hai đoạn kệ đầu. Nói ý nghóa soạn luận. Từ “Vì muốn khiến”… trở xuống một đoạn kệ. 1. Nói về chí kính Tam bảo. Chia làm ba: Nói về Phật bảo Gồm một đoạn kệ và một câu. Nói về Pháp bảo. Hai câu từ “Biển pháp tánh chân”… trở xuống Nói về Tăng bảo. Gồm một câu từ “Như thật tu hành”… <詞>Nói về Phật bảo: Chia làm hai: Một đoạn kệ nói về Ứng thân. Một câu nói về Pháp thân. Quy mạng là từ ngữ nói về tâm rất thành kính của Luận chủ. Trong chánh báo, mạng căn là quan trọng, cho nên đem toàn thể mạng căn mong muốn thuộc về Tam bảo gọi là quy mạng, là tiêu biểu cho tâm rốt ráo; như trong thân nghiệp Đảnh lễ chân Phật là những chữ giải thích về nghóa quy mạng. Tận nghóa là chẳng hạn cuộc. Mười phương là toàn thể mọi nơi, để nói kính lễ Phật bảo khắp mười phương, cho nên nêu phương hướng là lời nói có ý nương tựa, đây là nghóa không gian; nói theo nghóa thời gian thì nên nói là ba đời; còn thầm hiểu có nghóa là chung quanh, bên phải bên trái. Tối thắng là danh hiệu thứ nhất trong mười danh hiệu của Phật Ứng thân, chẳng giống mọi người nên gọi là Tối Thắng. Nương đạo như thật được thành Chánh giác há chẳng phải là Tối Thắng hay sao! Nghiệp biến tri là hai thứ phước đức và trí đức của Phật Ứng thân. Phước thành tựu nên được mọi người cúng dường (ứng cúng), chủng trí thành tựu nên gọi Chánh Biến Tri. Trong mười hiệu chỉ nêu ba hiệu. Trong kinh phần nhiều nêu ba danh hiệu này vì là thể của mười hiệu. Trong phẩm Tự, kinh Niết-bàn nói: Bấy giờ, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri sắp nhập Niết-bàn. Kinh Thắng Man cũng nói như thế. Đây là một câu khen ngợi công đức danh xưng của Phật Ứng thân. Một câu sau khen ngợi đức Sắc thân. Sắc là dùng ba mươi hai tướng trang nghiêm thân nên gọi là Sắc thân. Vô ngại là lời khen ngợi Phật khác với phàm phu. Sắc phàm phu là nghóa chất ngại, thân Như Lai Vô ngại nên nói là khác. Tự tại là khen ngợi Phật thù thắng. Chuyển luân thánh vương tuy có ba mươi hai tướng đại nhân nhưng không được tự tại, vẫn bị khổ vô ngã. Ứng Phật chẳng phải thế, tự tại vô cực. Đây là một câu khen ngợi Sắc thân. Một câu kế tiếp khen ngợi đức của ý nghiệp. Cứu thế nghóa là che chở cứu giúp, cứu giúp sinh thiện, tức là vì ban vui được vui cho nên đây gọi là Từ. Đại Bi là bi là che chở, bảo hộ để dừng ác; Bi có công năng nhổ sạch đau khổ. Ý nghóa Ứng thân Phật không ngoài hai hạnh này, một câu kệ này khen ngợi đức của ý nghiệp. Một câu kế là gồm kính lễ chân thân. Và kia là kính lễ Phật Ứng thân vì đã gồm kính lễ Phật chân thân nên gọi là và. Đối với Phật Ứng thân này, vì thể dụng khác nhau nên gọi là kia. Thân thể là chỉ cho Pháp thân Phật. Chứa nhóm muôn đức gọi là thân, pháp không nương nhờ pháp khác nên gọi là thể, cũng có thể là chỗ nương của dụng Ứng thân nên gọi là thân thể, tức là thể của Ứng thân. Tướng là Báo Phật. Tướng của pháp thể nên gọi là Báo Phật. Một câu này cũng nói về Pháp thân. Hỏi: Vì sao trong Ứng thân nói đầy đủ tất cả ba đức, trong Chân thân chỉ nói tổng quát? Đáp: Vì Ứng Phật chính là giáo chủ nên riêng khen ngợi rộng rãi, Chân thân chẳng phải chủ nên chỉ khen ngợi tổng quát thôi. Đáng lẽ nên luận giải như nhau. Nói về lý Ứng thân và Kính lễ Phật bảo đã xong. <詞>Khen ngợi Pháp bảo: Pháp tánh là Chân thân này có tự thể riêng nên gọi là pháp, vì đầy đủ hằng sa nghóa Phật pháp, vì chẳng đổi nên gọi là tánh. Vì lý thể là thường nên luận Đại Trí Độ nói: Tánh đá trắng là bạc, tánh đá vàng là vàng, tánh nước là ướt, tánh lửa là nóng, tất cả chúng sinh có tánh Niết-bàn nên nói là pháp tánh. Chân như là chân không, vì không luống dối nên gọi là chân, vì không có chỗ dựng lập nên gọi là như. Pháp này bặt đối đãi, vượt ngoài bách phi nên gọi là chân như; vì thế luận Thập Địa nói Tự thể xưa nay là không, tự thể này giống như pháp tánh ở đoạn trước, không giống như chân như. Biển là theo dụ mà đặt tên, chính ngay pháp không thể nói đến được nên nêu thí dụ thù thắng để so sánh, sâu xa khó dò đến đáy, giống như biển lớn. Cho nên trong Đại Kinh nói thí như biển lớn có tám việc không thể nghó bàn, Niết-bàn cũng vậy, câu này khen ngợi lý tánh, câu sau là nói chung về hạnh và giáo. Vô lượng là số lượng cùng tột. Đây chẳng phải là số vô lượng trong kinh Hoa Nghiêm, vì chẳng phải số lượng nên gọi là vô lượng. Công đức là chỗ được công dụng, nên gọi là công đức. Đức là được. Chỗ được do tu hành chẳng phải số lượng, nên gọi là công đức vô lượng. Đây là pháp hạnh. Tạng là giáo. Giáo có thể bao gồm cả pháp lý và pháp hạnh, gọi là tạng (kho tàng). Cho nên chánh văn gọi là Tam tạng giáo, cũng có thể gọi hạnh tạng; vô lượng công đức chứa nhóm gọi là tạng, pháp lý như biển, pháp hạnh như kho tàng, giáo pháp là không, vì sao không? Vì Giáo chẳng khác Thể, âm thanh làm thể cho nên không kính lễ. Hai câu này nói về Pháp bảo. <詞>Khen ngợi Tăng bảo: Như thật là dẹp tà giữ chánh. Tu hành là ở quả vị chưa đầy đủ, nghiên cứu tu tập tiến bộ hơn. Vân vân là loại này chẳng phải chỉ có một loại. 2. Nói ý nghóa soạn luận: Gồm một bài kệ. Chia làm hai: Dẹp tà, nửa bài kệ. Lập chánh, nửa bài kệ. <詞>Dẹp tà: Muốn khiến cho chúng sinh là vì người không vì mình, chỉ vì chúng sinh. Ý nghiệp soạn luận nên gọi là vì muốn. Vì pháp ác thành tựu nên thọ sinh nhiều chốn, gọi là chúng sinh. Một câu kế nói về chỗ dẹp trừ. Trừ nghi do dự gọi là nghi, dùng chánh tín đối trị gọi là trừ. Vì sao phải trừ? Vì các chúng sinh không được thánh đạo, sinh ra các mê lầm đều do nghi, nên cần phải trừ. Trừ là đuổi dẹp. Xả tà chấp vì các chúng sinh… do ngã kiến thành tà chấp. Nay nêu lên nghóa chân chánh nên xả tà chấp. Xả là lìa. Vì sao phải xả lìa? Vì ngã kiến là cội gốc các mê lầm, nếu không có ngã kiến thì các mê lầm không trụ. Hỏi: Nếu thế vì sao Tỳ-đàm nói Ngã kiến chẳng phải Hoặc? Đáp: Đây là theo chúng sinh cõi Dục, vì dùng ngã kiến khởi tu đạo hạnh nên nói như thế, chẳng phải là đạo lý. <詞>Dựng lập chánh pháp: Khởi Đại thừa chánh tín là, chánh có nghóa là chẳng quanh co, những chữ còn lại giải thích như đoạn trước. Vì sao phải khởi lòng tin này? Đoạn sau sẽ nêu lên ý nghóa. Vì hạt giống Phật không mất, dựng lập lòng tin cho người tu hành có để được quả Phật thường trụ, nên kinh nói sinh tín tâm là sinh vào nhà chư Phật, đã gieo trồng hạt giống Phật. Trong kinh Thắng Man có bốn hạng chân tử tức con chân chánh, hạng con chân chánh đầu tiên là việc này, tiếp nối địa vị Phật gọi là Chân tử. Đến đây đã xong chương một. ***** <詞>Chương 2. NỘI DUNG LUẬN NÀY. Chia làm ba: Phần 1. Phần tựa Phần 2. Phần chánh tông Từ “Phần Lập Nghóa” trở xuống Phần 3. Phần Truyền Trì đời mạt pháp Từ “Phần Khuyến Tu Lợi Ích” trở xuống. Phải có lý do nên trước nói về phần Tựa; vì phần Tựa đã nêu lên sự cần thiết soạn luận cho nên phần thứ hai là phần Chánh Tông. Bậc thánh soạn luận vì lợi ích chúng sinh, soạn luận đã trọn vẹn, khen ngợi sự thù thắng, khuyên tu học không để dứt mất, cho nên phần ba tiếp theo là phần Truyền Trì. <詞>Phần 1: PHẦN TỰA Chia làm hai: Nói kinh luận làm phần tựa không giống nhau. Giải thích theo văn. Phần tựa kinh luận không giống nhau: Không giống nhau là phần tựa của kinh và luận, tướng thì khác ý thì giống. Tướng khác nhau là phần tựa trong kinh thường có hai thứ: Tựa chứng tín. Tựa phát khởi Chứng tín là A-nan vâng lời Phật dạy, muốn truyền giáo pháp đến đời sau thì trước phải ghi Tôi nghe như vầy để làm bằng chứng đáng tin, gọi là phần tựa chứng tín. Phát khởi là Như Lai sắp nói pháp trước hiện các tướng để vời gọi chúng có duyên, nhóm chúng bắt đầu nói pháp, gọi là tựa phát khởi. Nhà soạn luận viết lời tựa thì chẳng như thế, không có hai phần tựa. Vì sao? Vì luận chủ là người tự ý soạn luận, không truyền lời Phật như A-nan truyền thẳng lời Phật nên không có câu “Tôi nghe như vầy” để làm chứng tín. Lại nữa, luận chủ không có hiện tướng rồi mới soạn luận, không giống cách nói pháp của Như Lai, cho nên không có phần tựa phát khởi, chỉ nói về ý nghóa soạn luận để làm phần tựa, cho nên phần tựa kinh và luận khác nhau. Ýù giống nhau là kinh và luận đầu tiên đều vì muốn nói chánh pháp nên gọi là giống nhau. Giải thích theo văn. Chia làm hai: Nêu chung Ý nghóa soạn luận Từ “Hỏi có nhân duyên gì” trở xuống. 1. Nêu chung. Chia làm hai: Khuyên chung nên khởi lòng tin. Chia đoạn tổng quát. Từ câu “Có năm phần” trở xuống. Khuyên chung nên khởi tin: Luận viết là luận nói rằng, là lời Bồ-tát Mã Minh nói pháp. Hữu pháp là có pháp, là pháp được nói, nghóa là bảy thức, tám thức. Năng khởi là có thể khởi. Ma-ha-diễn là tiếng Ấn Độ, Hán dịch Ma-ha là đại, diễn là thừa. Nghóa chữ Đại thừa như đã nói ở đoạn trước. Tín căn là lòng tin, vì lòng tin là căn bản của các hạnh nên nói phải khởi lòng tin Đại thừa. Vì sao? Vì trong pháp này, tin nghóa là lòng tin Đại thừa, tức là nhân gần nhất, tối thắng nhất cảm ứng với Phật. Cho nên kinh nói lại có chánh nhân, như Tín Tâm Thủ-lăng-nghiêm… tin là chánh nhân của Báo Phật kia, Thủ-lăng-nghiêm cũng gọi là Phật tánh, tức là chánh nhân của Pháp thân Phật, vì vậy nói là cho nên nói, là tổng kết phần giải thích. Nêu lên chia đoạn tổng quát: Từ “Nói có năm phần” trở xuống. Phần nhân duyên…, là giải thích riêng những phần kia, chánh văn nêu lên rất dễ biết. 2. Thưa hỏi ý nghóa soạn luận: Chia làm hai: Phần chánh nêu ý nghóa Hỏi đáp giải thích tóm lược Từ câu “Hỏi trong Tu-đa-la” về sau. 1.Phần chánh nêu ý nghóa. Chia làm hai: Hỏi Đáp Hỏi: Có nhân duyên gì mà soạn luận này, là hỏi ý nghóa soạn luận. Giải đáp. Chia làm ba: Lược nêu Giải thích từng loại Từ “Thế nào là tám” trở xuống. Kết thúc phần giải thích. Từ “Có những duyên nhiễm như thế…” trở xuống. 2. Giải thích từng loại Chia làm hai: Nêu ý nghóa chung Nêu lên chỗ vì người Từ “Nhân duyên thứ ba” trở xuống. Nêu ý nghóa chung: Khiến chúng sinh lìa khổ là sở dó chúng sinh thường ở trong ba đường, thường chịu khổ là do mê lý. Đã không biết phải quấy cho nên làm điều ác, thường ở trong ba đường khổ, coi như nhà mình không có ngày ra khỏi, rất đáng thương xót. Cho nên Bồ-tát soạn luận này hiển bày chân lý tột cùng để chỉ rõ đúng sai, giúp cho lìa xa nẻo khổ. Được vui rốt ráo là sở dó chúng sinh không được an vui vì không biết điều lành là đáng làm, cho nên Bồ-tát nói các hạnh lành, khiến chúng sinh biết chỗ tu hành phải hướng đến là được vui Niết-bàn. Vì sao chẳng được cầu về chỗ an vui của trời người? Vì chẳng rốt ráo, vì đều là vô thường cho nên không mong cầu. Chẳng cầu danh lợi, sự cung kính của thế gian có hai nghóa: Theo Bồ-tát nên nói: Tôi chỉ vì muốn chúng sinh lìa khổ được vui, nghóa là tôi chẳng cầu danh lợi nên tránh được sự chê bai của người. Vì chúng sinh nên nói: Pháp của tôi nói chẳng khiến cho mọi người được sự cung kính của thế gian mà chỉ giúp cho tâm người chứng được Vô thượng Bồ-đề cho nên nói pháp này. Kế là nói về pháp được hiển bày. Vì muốn giải thích nghóa căn bản của Như Lai, tức là nghóa lý được nói chẳng phải không rốt ráo. Đoạn sau hiển bày ý nghóa vì muốn cho các chúng sinh hiểu rõ không lầm, hoặc cho tà là chánh, hoặc cho vọng là chân, hoặc chấp nghóa không rốt ráo cho là rốt ráo, đều là sai lầm. Nêu lên chỗ vì người: Chia làm ba: Người có gốc lành Người không có gốc lành chỉ dạy phương tiện tiêu trừ nghiệp chướng Từ “Chỉ dạy phương tiện tiêu trừ nghiệp chướng” trở xuống. Nói về phàm phu Nhị thừa Từ “Chỉ dạy tu chỉ quán” trở xuống. 1. Người có gốc lành: Chia làm hai: Lòng tin sâu dày. Lòng tin cạn mỏng. Chúng sinh thành tựu căn lành là người có chủng tánh này trở lên, thành bậc Hiền từng phần, ở vị chứng Tín. Vì sao biết được? Vì Phật tánh trong bốn câu là người có gốc lành. Chúng sinh gốc lành cạn mỏng là người Thập tín, có lòng tin rất sâu. Người không có gốc lành: Chỉ bày phương tiện, theo luận này phải lễ Phật, sám hối tội lỗi… Tiêu trừ nghiệp ác là nghiệp chướng. Khéo giữ tâm, đó là báo chướng. Xa lìa si mạn ra khỏi lưới tà là phiền não chướng. Si mạn là năm độn sử kia, lưới tà là năm lợi sử; ba chướng này đều tiêu trừ. Trong pháp Tiểu thừa chỉ chế phục phiền não, không thể trừ hai chướng kia; trong pháp Đại thừa ba chướng đều dứt. Lợi ích của phàm phu Nhị thừa: Chia làm hai: Giải thích tổng quát phàm phu Nhị thừa. Giải thích riêng. Giải thích tổng quát về phàm phu Nhị thừa: Tu chỉ quán, Chỉ là định, Quán là tuệ. Vì đối trị tâm sai lầm của phàm phu có lỗi chấp có, Nhị thừa có lỗi chấp không; vì phàm phu chấp có nên dạy tu định, vì Nhị thừa chấp không nên dạy tu tuệ. Giải thích riêng: Chia làm hai: Phàm phu. Nhị thừa. Phàm phu: Phương tiện chuyên niệm, đó là định. Sinh trước Phật lòng tin không lui sụt là được lợi ích không luống dối, như sinh về Tịnh độ thường được tạn mặt thấy Phật, thường nghe diệu pháp, lòng tin thêm lớn không hề lui sụt. Nhị thừa: Chỉ dạy lợi ích là thêm lớn trí tuệ. Vì thêm lớn trí tuệ không luống dối cho nên khuyên tu. Tổng kết ý nghóa: Trong tám nhân duyên cũng có thể hiểu nhân duyên thứ nhất là nêu chung, còn lại bảy nhân duyên là giải thích riêng. Trong phần giải thích riêng, một nhân duyên đầu là giải thích căn bản, là chương lìa khổ; bảy phần sau là giải thích riêng, là chương được vui. Chúng sinh muốn lìa khổ thì phải hiểu lý, chúng sinh được vui chính là do thực hành, cho nên lòng tin là đầu các hạnh lành. Các ý nghóa còn lại giống như đoạn trên. 2. Hỏi đáp: Chia làm hai: Hỏi Đáp - Chia làm ba: Lược nêu Giảng rộng Tóm kết 1. Lược nêu Gồm hai câu: Chỗ vì Chỗ nương Chúng sinh căn hạnh khác nhau là sự thọ nhận đạo lý của chúng sinh tâm khí khác nhau. Căn là nói việc đã qua, hạnh là y cứ hiện tại; căn xưa nguyện nay sâu cạn không giống nhau nên nói không đồng. Lãnh thọ hiểu biết khác nhau là thuở xưa Phật nói kinh là bậc chí thánh, ngày nay luận chủ là người chưa tròn đủ công hạnh nên nói duyên không giống nhau. Đã nói chỗ nương (Phật) không giống nhau, chỗ vì (chúng sinh) đều nhau thì làm sao không giảng rộng, không nói lại lần nữa. 2. Giảng rộng. Chia làm ba: Giải thích duyên thù thắng, chỗ vì cũng thù thắng. Giải thích sự suy kém. Giải thích căn cơ. Giải thích duyên thù thắng: Khi Phật còn tại thế là tiêu biểu cho thời gian thù thắng. Chúng sinh lợi căn là sự thù thắng của sở vi chỗ vì tức là người nghe thù thắng. Từ câu “Người năng thuyết” trở xuống là chỗ nương thù thắng. Sắc tâm nghiệp thù thắng nghóa là, Sắc là ba mươi hai tướng tốt của Phật tức thân nghiệp, Tâm là đại Từ, đại Bi của Phật tức là ý nghiệp. Nghiệp thù thắng, nghóa là dùng nhân nêu quả, vì nghiệp thù thắng nên chiêu cảm quả thù thắng. Phật một phen giảng nói viên âm, các loài đều hiểu như nhau, nghóa là khẩu nghiệp. Một âm thanh của Như Lai thì Đại thừa, Tiểu thừa đều hiển bày, tùy căn cơ mà đồng hiểu như nhau, Phật nói chẳng sai cơ. Đây là Phật nói pháp không luống dối. Hoa Nghiêm nói Như Lai nói pháp bằng một âm, chúng sinh tùy năng lực đều được hiểu là Như Lai dùng một âm thanh nói pháp, chúng sinh tùy khả năng đều hiểu được. Vì ba nghiệp đều thù thắng nên nói là duyên thù thắng, cho nên Thì không cần soạn luận là kết thúc phần giải thích về lợi căn. Nhưng vì độn căn nên cần soạn luận giảng kinh mới ngộ hiểu được, còn lợi căn khi nghe Phật nói pháp liền hiểu, thì không cần soạn luận. Giải thích sự suy kém: Nếu sau khi Như Lai diệt độ là tiêu biểu cho thời gian suy kém. Hoặc có chúng sinh là người nghe không đồng nhau. Hai cặp bốn cú nghóa là có năng lực và không có năng lực. Hai câu đầu là có năng lực, hai câu sau không có năng lực. Trong phần đầu, nghe rộng hiểu ít nghe ít hiểu rộng đó là một cặp. Từ câu “Hoặc có chúng sinh không do tự lực” trở xuống, là nói về người không có năng lực, trong đây có hai câu, đầu tiên vì không có năng lực nên nhờ nghe rộng mà hiểu được, trong câu sau vì không có năng lực nên nghe rộng mà không hiểu, và tâm chỉ thích nghe ít mà hiểu nhiều; đó là một cặp. Giải thích đương cơ: Từ “soạn luận như thế” trở xuống. Nói về đương cơ vẫn là hạng người thứ tư ở đoạn trên. Luận này văn ngắn gọn mà nghóa không đâu chẳng cùng tột cho nên nói Vì nhiếp chung pháp sâu xa rộng lớn vô biên nghóa của Như Lai. Chẳng phải lý Tiểu thừa nhỏ hẹp nên nói là rộng lớn, Phật mới là chỗ cùng tột nên nói là pháp sâu xa, lý không có bờ mé giới hạn nên nói là vô biên. Luận này phần kết thúc nêu lên ý nghóa soạn luận. Phần Tựa đầu tiên đã xong. <詞>Phần 2: PHẦN CHÁNH TÔNG GIẢI THÍCH Từ “Lập nghóa phần” trở xuống. Chia làm ba: Đoạn 1. Phần lập nghóa Đoạn 2. Phần giải thích Đoạn 3. Phần tin tâm tu hành Vì sao có ba đoạn này? Có hai nghóa: Thứ lớp nói pháp. Muốn nói pháp trước phải lập ra ý nghóa và tông chỉ nên trước phải có phần Lập nghóa. Đã quy định tông chỉ, phải phân biệt giải thích rộng nên tiếp theo là phần thứ hai giải thích. Ý nghóa nói pháp chẳng phải chỉ nói suông, như thuyết tu hành sẽ được lợi ích, cho nên nói pháp đã khắp thì tiếp theo là phần thứ ba Tin tâm tu hành. Chỗ vì người nói pháp Vì có ba căn cơ thượng trung hạ nên có ba đoạn. Vì người thượng căn nên nói phần Lập nghóa, vì người trung căn nên nói phần Giải thích, vì hạ căn nên nói phần Tín tâm tu hành. Hai bậc thượng căn, trung căn nói pháp có thể tin hiểu được, còn người hạ căn không giảng rộng làm sao tin hiểu được. Người thượng căn và trung căn khi nói lý pháp liền nhận hiểu được, người hạ căn không nhận hiểu được nên chỉ bày hành pháp khuyên phải tu hành mới được ngộ nhập. Vì hạnh yếu kém cho nên dùng hành pháp khiến cho ngộ nhập, không cần nói rộng. <詞>Đoạn 1. PHẦN LẬP NGHÓA: Chia làm ba: Nêu tên chương môn Phần chánh giải thích Tổng kết Nêu tên chương môn: Tiếp theo là phần Lập nghóa, là nêu chương môn. Lập là chế định, vì có ý nghóa sâu xa nên gọi là nghóa, vì lý Đại thừa cao tột, đâu có cạn cợt, nên nghóa lý sâu xa. Giải thích chủ yếu: Từ câu “Ma-ha-diễn” trở xuống, Chia làm hai: Lập hai chương môn Giải thích hai chương môn Lập hai chương môn Ma-ha là đại, diễn là thừa, nghóa này giống như đoạn trước đã giảng rộng. Cái gọi là pháp nghóa là, Tự thể gọi là pháp, Lý không nương nơi khác mà có nên gọi là tự thể. Hỏi: Muôn pháp không giữ tự tánh riêng, vì trong đức Lạc không có nghóa sinh diệt nên gọi là Thường. Tất cả đều như thế làm sao không nương nơi khác? Đáp: Muôn pháp một Thể không có Thể khác, cho nên Lạc Thể khác, không có Thường Thể nên gọi là không nương. Hỏi: Nếu thế thì vì dụng xúc chạm cứng chắc là dụng của cây cột, không khác dụng cây cột, thì chẳng lẽ cây cột này cũng không nương nơi khác mà có sao? Đáp: Không thể so sánh, vì cây cột không có Thể, do bốn phương nên tạm gọi là cây cột, là nghóa nương nơi khác mà có, hiển bày chân pháp. Trong đồng một Thể tùy theo nghóa mà chia ra muôn pháp. Nêu Thể của một vật tầm thường tức là Thể của muôn pháp kia cũng như thế. Toàn Thể trong một, toàn Thể trong muôn, đâu cần lấy Tha dụng làm mình, Tha thể làm mình. Trong chân pháp này, muôn nghóa làm duyên lẫn nhau, nhóm họp trong đồng một Thể, không xa lìa nhau nên kinh nói giống như cha mẹ, vì mỗi mỗi khác nhau nên gọi là vô thường. Có kia đây tức là vô thường. Vì Lý là một Thể, không có kia đây cho nên thường vắng lặng. Lại nữa, kinh nói rằng pháp ta nói chẳng phải một chẳng phải khác, thường trụ vắng lặng, chẳng giống như giả hợp một nên nói là chẳng phải một. Vì chẳng phải pháp như thật mỗi thể riêng biệt nên gọi là chẳng phải khác cho nên khác. Cái gọi là nghóa là tùy sự gọi là Nghóa. Tuy Thể đồng một vị mà tùy nghóa có muôn vàn sai khác, nhưng nghóa Thể không khác, không có một tánh vì tức là Như, nhưng đều là Tánh vì nghóa khác nhau. Hai điều này là lý tột cùng của Thể trạng. Giải thích chương môn: Chia làm hai: Chương giải thích Pháp Chương giải thích Nghóa 1. Chương giải thích pháp Chia làm hai: Giải thích chủ yếu Giải thích lý do Từ “Vì sao?” trở xuống. 1. Chủ yếu giải thích: Có ba câu: (câu 1): Nêu ra Pháp Thể (câu 2): Nói về dụng kia Từ “Tướng tâm chân như này” trở xuống (câu 3): Nói về nghóa dựng lập Từ “Nương như này” trở xuống. Nêu ra Pháp thể: Cái gọi là Pháp nghóa là phần lập lại chương trước. Nghóa là tâm chúng sinh là do pháp thọ sinh gọi là chúng sinh, đó là nói riêng về phàm phu. Nói chung thì do các pháp hòa hợp sinh gọi là chúng sinh, đây là nói chung cho bậc Thánh. Tâm là trong ba nhóm pháp kia, bỏ bớt sắc vô tác đó là Tâm Pháp. Tâm này là cái chân thật trong thân mạng nên gọi là Chân Tâm. Hỏi: Vì sao Tâm là Lý? Đáp: Lý chẳng do vật tạo nên gọi là Lý, chẳng phải là cây đá, sự suy tính của thần tri gọi đó là Tâm. Nói về Dụng kia: Tâm này thu nhiếp tất cả thế gian xuất thế gian vì như Lý này là Thể trong các pháp; do dụng quy về thể nên nói là thu nhiếp. Dụng tuy nhiều nhưng không ngoài nhiễm và tịnh; nhiễm là thế gian, tịnh là xuất thế gian. Nói về phần Lập nghóa: Vì Tâm này là Lý, nên y cứ theo đây mà nói về nghóa Lý. Hiển bày nghóa Đại thừa, tức là nói về nghóa Đại thừa kia. 2. Giải thích lý do: Từ “Vì sao …” trở xuống Vì Tâm này là Thể của các pháp thế gian, xuất thế gian, câu thứ hai đoạn trước giải thích điều này, dùng hai nghóa để giải thích là: Tướng tâm chân như này là thức thứ chín, vì thức thứ chín là Thể của các pháp kia, nên nói là tức Thể Đại thừa. Tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này là thức thứ tám, thức thứ tám là theo duyên chuyển biến, vì theo duyên nhiễm nên thuộc về tướng nhân duyên sinh diệt. Làm sao biết? Trong chánh văn nói “vì tức hiển bày thể, tướng, dụng của Đại thừa”. Dụng nghóa là chánh, Thể Tướng là nói thêm. Nơi nhất tâm bặt lời lìa duyên là thức thứ chín, tùy duyên chuyển biến là thức thứ tám, thì tâm pháp nói ở đoạn trên có hai nghóa này, vì là cội gốc tùy duyên của thức thứ tám, cội nguồn của các pháp thế gian và xuất thế gian, nên nói sẽ thu nhiếp. Đoạn trước chỉ nói tám thức, về sau trong phần giải thích lý do sẽ hiển bày rốt ráo hai thức nên nói là “thể dụng”. Thức thứ tám là nhiếp thể theo dụng nên nói là dụng, là tâm sinh diệt. Trong phần đầu nói có đủ hai dụng nhiễm tịnh, trong phần giải thích chỉ nói dụng theo nhiễm, nên kinh Thắng Man nói, có hai vấn nạn cần biết rõ là: Nghi tự tánh thanh tịnh tâm và nghi tâm kia bị nhiễm phiền não. Kinh kia nói tự tánh thanh tịnh, vẫn là tâm chân như này, xưa nay không hai. Dụng lớn là Dụng có hai thứ: Một là nhiễm, hai là tịnh. Trong hai dụng này mỗi thứ có hai loại. Trong nhiễm có hai loại là: Y trì dụng Duyên khởi dụng. Y trì dụng là chân tâm này có khả năng giữ gìn vọng nhiễm, nếu không có chân này thì không có vọng. Cho nên kinh Thắng Man nói nếu không có tàng thức thì không gieo trồng các khổ, bảy thức pháp không trụ, không có chán khổ ưa cầu Niết-bàn. Duyên khởi dụng là đối với Y trì dụng thì tuy ở trong nhiễm mà không tạo nhiễm, chỉ làm cội gốc thôi. Nay cùng với vọng khiến duyên tập khởi nhiễm, như nước theo gió tập khởi sóng mòi, cho nên không thêm không bớt. Sớ giải nói tức ngay pháp giới này mà luân chuyển năm đường gọi là chúng sinh. Dụng nhiễm như thế, dụng tịnh cũng có hai loại: Tùy duyên hiển dụng. Tùy duyên tác dụng. Hiển dụng là thể của chân thức vốn bị vọng che, tu hành đối trị về sau dứt vọng nhiễm. Tuy thể xưa nay thanh tịnh vì theo duyên nên được hiển bày gọi là mới tịnh (thỉ tịnh). Cho nên nói “Vì tánh tịnh, Pháp thân Phật vô tác nhân quả”, đây gọi là Hiển dụng. Hỏi: Nếu tu hành mới tịnh, vì sao lại gọi là nhân quả vô tác? Đáp: Tuy do tu mới hiển bày mà thể chẳng phải nay mới sinh, nên nói là vô tác. Hỏi: Nếu không phải nay mới sinh vì sao gọi là quả? Đáp: Tùy duyên nên gọi là quả, nếu nói theo thể thì chẳng phải nhân chẳng phải quả, vắng lặng một vị. Nhưng theo vọng mà nói chân, ở nhân gọi là nhân, ở quả gọi là quả, nên gọi là Nhân quả. Về tác dụng khi còn là phàm phu căn bản chỉ có lý thể, không có chân dụng chỉ có nghóa bản hữu, về sau tùy theo đối trị mới sinh chân dụng, cho nên nói vì phương tiện báo Phật hữu tác nhân quả, lại nói chỉ là một, trong Nghóa chia làm hai. Sinh ra tất cả nhân quả lành của thế gian và xuất thế gian tức thế gian là nghóa nhiễm dụng kia, xuất thế gian là nghóa tịnh dụng kia. Đây là nói chung về Lý Dụng, phần sau sẽ y theo người để hiển bày sở thừa căn bản của chư Phật là y vào thức này nên chư Phật được thành đạo, vì không có duyên nào khác, vì là sở thừa căn bản. Bồ-tát nương theo pháp này tu đến quả Phật tức thức này là chánh nhân, mà Bồ-tát tu hành được thành Phật đạo. Đó là dụng, từ đây trở xuống là duyên. <詞>Đoạn 2. GIẢI THÍCH RỘNG: Chia làm ba: Mục 1. Hiển bày chánh nghóa. Vì nói rõ chánh lý không có chút tà, nên lập chánh đã khắp thì phải dẹp tà. Mục 2. Đối trị tà chấp. Vì đã chỉ rõ phải quấy nên có sự hội nhập. Mục 3. Phát thú đạo tướng. Ý mỗi đoạn như thế, ba câu chỉ riêng cho ba đoạn. Mục 1.Hiển bày chánh nghóa: Từ “Hiển bày chánh nghóa” trở xuống. Chia làm hai: Nói về đề mục của chương Giải thích chánh nghóa Từ “Nương pháp nhất tâm” trở xuống. 2. Giải thích chánh nghóa: Chia làm hai: Giải thích sơ lược chung và riêng Giải thích rộng. Từ “Tâm chân như tức nhất pháp giới” trở xuống. 1. Giải thích sơ lược chung và riêng: Chia làm bốn: Nêu chung số lượng Nêu ra hai chương Giải sơ lược Giải thích Từ “Nghóa này thế nào” trở xuống. Nêu số lượng chung: Nương pháp nhất tâm là bỏ bớt hai nhóm sắc vô tác khác, chỉ còn nhóm nhất tâm nên nói “Nhất tâm”. Vì nương theo đây để nói ý nghóa nên gọi là nương. Có hai chủng môn là nói số lượng nghóa nương theo. Nêu ra hai chương: như. Từ câu “Thế nào là hai” trở xuống. Tâm chân như là thức thứ chín hoàn toàn chân thật nên gọi là chân Tâm sinh diệt là thức thứ tám tùy duyên thành vọng nhiếp thể theo dụng. Nhiếp thuộc về tâm sinh diệt, cũng có một vị sư nói là thức thứ sáu, thức thứ bảy sinh diệt. Hỏi: Hoàn toàn là vọng chẳng đúng, như vậy sinh diệt đều chẳng đúng. Vì sao? Vì vọng là nói theo dụng, sinh diệt là nói theo pháp thể, tùy theo dụng mà thành. Vì pháp thể chân nên chẳng phải sinh diệt, cho nên kinh nói Thể thường trụ kia, bất nhiễm mà nhiễm. Hỏi: Chân vọng trái nhau nên không có lý hòa hợp nhau vì sao nói nhất tâm? Đáp: Bên nghóa theo vọng thì trọn ngày thành vọng mà không ngại chân, bên nghóa toàn chân thì trọn ngày muốn cho chân mà không ngại vọng. Như cột trụ, bên nghóa Thật pháp thì toàn diệt không có nối nhau chuyển biến; bên nghóa giả danh thì hoàn toàn chuyển không có nghóa diệt, nhưng chẳng ngại nhau. Hữu vi đối với hai nghóa chuyển diệt còn không chướng ngại nhau, huống chi chân tâm có hai nghóa (mà chướng ngại) nhau ư?. Hỏi: Vì sao như theo vọng mà nói chân, chân và vọng duyên hợp khởi đều gọi là tâm sinh diệt? Đáp: Nói cả hai môn đều nhiếp chung tất cả pháp, là có hai nghóa: Trong tâm chân như đều nhiếp tất cả pháp xuất thế gian, trong tâm sinh diệt đều nhiếp tất cả pháp thế gian, nên gọi là “nhiếp chung”. Trong tâm chân như đều nhiếp tất cả pháp thế gian xuất thế gian, trong tâm sinh diệt cũng vậy. Vì sao? Vì tuy chân như không tùy duyên nhiễm tịnh sở y, thể các pháp như bóng y theo hình, nên nói là nhiếp chung. Trong tâm sinh diệt, theo tịnh duyên là chuyển lý thành hạnh, theo nhiễm thành vọng nên nói “là nhiếp chung”. 4. Chuyển qua giải thích: Ở đây có nghóa thế nào? Vì sao cả hai môn đều nhiếp tất cả pháp? Vì một tâm có hai nghóa nên nói là hai môn, vì không lìa nhau; nên ng- hóa có hai phần, chẳng phải là thể khác, nên nói “không lìa”. 2. Chương giải thích riêng: Chia làm ba: Chi 1. Chương giải thích tâm chân như Chi 2. Chương giải thích tâm sinh diệt Từ “Tâm sinh diệt là” trở xuống. Chi 3. Theo thể dụng chân như để nói về hiện tại vị lai Từ “Lại nữa, chân như tự thể tướng là” trở xuống. Vì sao? Vì tâm chân như môn vẫn là tướng tâm chân như trong phần Lập Nghóa ở đoạn trước. Tâm sinh diệt môn vẫn là tướng nhân duyên tâm sinh diệt ở đoạn trước. Nghóa tâm thể này chúng sinh hiện có, nghóa dụng ở vị lai, cho nên phần ba nói về Hiện tại Vị lai. Chi 1.Giải thích tâm chân như: Chia làm hai: Nói về chân như thể một Hai nghóa Không hữu trong chân như. Từ câu “Kế đến chân như là” trở xuống 1. Nói về thể chân như: Chia làm hai: Chân như bặt lời Phương pháp thú nhập chân như. Từ “Hỏi rằng” trở xuống. 1. Chân như bặt lời: Chia làm bảy: Nói về thể chân như Nói về thể vọng pháp. Từ “Tất cả các pháp chỉ nương vọng” trở xuống. Pháp chân như có Thể, không có tướng Từ “Cho nên tất cả pháp” trở xuống. Vọng pháp có Tướng, không có thể Từ “Vì tất cả lời nói là giả danh” trở xuống. Nhân lời dẹp lời Từ “Nói chân như là” trở xuống. Tên gọi Thể chân như Từ “Thể chân như này” trở xuống. Tổng kết dứt bặt tên gọi. Từ “Nên biết tất cả pháp” trở xuống. Trong đây chủ yếu nói về chân như, cũng gồm nói vọng pháp là pháp đối đãi sắp nói về chẳng phải chánh tông. 1. Nói về thể chân như: Chia làm hai: Nói chung nghóa của thể Chủ yếu nêu lên thể kia Từ “Nghóa là” trở xuống. Nói về thể: Tức nhất pháp giới là nhất tâm, khác với các pháp kia nên nói là Pháp giới, cũng có thể đối đãi với vọng, y cứ theo chân như là một. Đại tổng tướng là Tâm có khả năng bao gồm hằng sa Phật pháp, nắm giữ hết các pháp nên thành Tổng tâm”thì há chẳng lớn hay sao? Cho nên nói là Đại tổng tướng. Nói chung, các pháp đều có nghóa Tổng và Biệt nhưng Tâm Nhất Tổng thì Tâm là năng tri, Pháp là sở tri nên gọi là Tổng. Vì nương tâm này sinh ra các thứ pháp nên gọi Pháp môn thể, đây là tướng chung. Chủ yếu nêu ra thể kia: Từ “Nói về thể” trở xuống. Đoạn trên nói về thể của các pháp. Vì sao cho là Tâm tánh chẳng phải sắc vô tác? Vì sao các pháp lấy tâm làm thể? Không sinh diệt nên thường vắng lặng: Không lui sụt gọi là thường Không sinh diệt gọi là Hằng Tâm chân như này không sinh diệt nên là Thể của các pháp. 2. Thể của vọng pháp. Chia làm hai: Giải thích xuôi Giải thích ngược Từ “Nếu lìa tâm niệm” trở xuống. Giải thích xuôi: Tất cả các pháp là vọng pháp sinh tử chẳng phải một nên gọi là tất cả pháp. Như trống rỗng chẳng phải không có nên gọi là pháp. Chỉ nương vọng niệm mà khác nhau tức là vô minh là vọng niệm kia. Vì có vô minh mê chân như thì có sinh diệt, như hoa đốm trong hư không do mắt bị nhặm nên có, mắt lành thì không. Chúng sinh cũng như vậy do vô minh mắêt lòa nên sinh diệt chẳng phải có mà vọng chấp là có, khởi các thứ nghiệp, chịu các thứ khổ. Nếu vì khởi duyên tu biết thuốc giúp trị hết bệnh mắt kia, mới biết vọng không thật có, chợt thông suốt hội chân, nên sư Tăng Triệu nói Sở dó chúng sinh luân hồi sinh tử đều do mê đắm dục lạc, nếu tâm dừng tham muốn thì không bị sinh tử nữa. Giải thích ngược: Nếu lìa tâm niệm, nghóa là bảy thức là tâm niệm, thì không có tất cả tướng cảnh giới là cảnh giới sinh tử. Vì có vọng niệm thì có cảnh vọng, nếu không có vọng niệm thì cảnh vọng sinh tử do đâu mà hiện được. Nên đoạn văn sau nói tâm sinh pháp sinh tâm diệt pháp diệt, ba cõi luống chỉ do một tâm tạo ra. Hỏi: Vì sao ở đoạn trên nói thức thứ tám là Thể sinh tử, bây giờ lại nói vọng tâm là Thể? Đáp: Thể gần thì đúng là vọng tâm, nếu nhân xa thì nói là chân thức cũng đúng. Hỏi: Ngay cả pháp giới này khi luân chuyển trong năm đường thì gọi là chúng sinh, thế nào là nguyên do xa? Đáp: Tìm nguồn gốc của vọng thì đúng là chân thức mà thể chẳng phải vọng, nên gọi là nguyên do xa. Chân như kia thể có tướng không: Chia làm ba: Kết thúc phần trước Nói về không có tướng Nói về có thể Kết thúc phần trước: Cho nên là kết thúc phần tâm tánh ở trước. Phần tụng ở trước giải thích thành bất sinh bất diệt nên bặt tướng diệu hữu. Nói về không có tướng: Chia làm hai: Không có tướng khác Không có tự tướng Từ “Rốt ráo” trở xuống. Không có tướng khác: Tất cả pháp là hằng sa pháp trong chân như. Từ xưa đến nay là chẳng phải dứt bặt tướng, để tiêu biểu đã từ lâu đến nay vẫn thanh tịnh. Lìa tướng nói năng là vì không có hình tượng nên không thể dính mắc lời nói, thể chẳng phải là có tướng sinh tử, cho nên là chỗ lời nói không đến được. Lìa tướng danh tự nghóa là chẳng phải là pháp gọi là sinh tử, nên kinh Niết-bàn nói, Niết-bàn không có tên, gượng đặt tên Niết-bàn. Lìa tướng tâm duyên là chẳng phải cảnh giới pháp trần ý thức sở đối. Hai câu trước nghóa là chẳng phải cảnh thân thức, hai câu sau là chẳng phải cảnh ý thức. Sáu thức đều chẳng phải cảnh sở đối. Không có tự tướng: Rốt ráo bình đẳng là không có hơn kém. Không có thay đổi là nói kia chẳng phải sinh tử biến dịch. Không thể phá hoại là nói kia đã dứt sinh tử phần đoạn. Dứt hẳn hai thứ sinh tử, tánh bình đẳng lìa nên gọi là không có tự tướng. Nói về có thể: Chỉ là nhất tâm là nêu lên chân thể kia, ngoài tâm không có pháp nào để được nên nói là Nhất tâm, không có Tướng mà có Thể. Nên gọi chân như là tổng kết phần giải thích. Nói về vọng pháp có tướng không có thể: Chia làm hai: Nói về có Tướng Không có Thể Từ “Không thật có” trở xuống. Nói về có tướng: Là tất cả nói năng vì ngôn thuyết làm rõ Thể, trái với đoạn trên là lìa ngôn thuyết. Giả danh không thật là trong pháp sinh tử dùng danh từ để gọi tên, chắc chắn dành cho pháp kia không được gọi pháp nào khác, nên có tên gọi mà chẳng có thật, theo tên gọi mà tìm cầu thì không thể được, cho nên không thật, trái với lìa tướng danh tự. Chỉ theo vọng niệm mà sinh là vì vọng nên có cảnh sở duyên, cảnh giới sinh tử chỉ do vọng mà sinh, tương ưng không bỏ, trái với lìa tướng tâm duyên ở trên. Không có thể: Vì không thật có là Thể của sinh tử, người mê thì không thể có lý ngộ giải, hoàn toàn không thể được nên nói là “không thể được”. Nhân lời dẹp lời: Chân như cũng không có tướng lại một lần nữa nêu lên lời nói ở đoạn trên. Cái gọi là cùng tột của ngôn thuyết, nghóa là đường ngôn ngữ bặt, yên lặng không hiển bày. Lý kia dứt bặt danh ngôn nên gọi là cùng tột để tiêu biểu. Nhân lời dẹp lời là đoạn trước nói lời tột, vì sợ dính mắc Lý Thể nên dẹp lời một lần nữa. Giải thích tên gọi: Vì sao Luận chủ gọi là chân như? Vì tâm pháp này không có vọng nên gọi là chân, nên nói Thể chân như này chẳng thể trừ dẹp vọng pháp có thể dẹp trừ, vì các pháp đều chân nên không thể dẹp, vì vậy cùng gọi là chân. Trong tâm pháp này, hằng sa Phật pháp không có sự khác nhau, nên gọi là Như, không giống như định tánh khác nhau kia đây của sinh tử, nên nói cũng không thể dựng lập. Trước nói chân nên không thể dẹp trừ, đáng lẽ có thể Có. Để giải thích điều nghi này nên nói cũng không thể dựng lập. Vì sao không thể dựng lập? Vì tất cả pháp đều giống Như. Hỏi: Đã chẳng phải Như nên mới nói giống Như phải không? Đáp: Lý Như chỉ một vị, theo sự sai biệt mà nói không có tướng, nên nói vì đều giống Như. Tổng kết: Nên biết tất cả pháp không thể nói năng, không thể nghó bàn là trong pháp vọng lời nói tâm niệm đều không tương ưng. Đến đây nói về Thể chân như đã xong. 2. Nói về phương pháp thú nhập: Chia làm hai: Hỏi Đáp 1. Hỏi Chia làm hai: Nhận lãnh ý đoạn trước Nói về ý nghóa câu hỏi Từ “Các chúng sinh” trở xuống. Nhận lãnh ý đoạn trước: Nếu có nghóa như thế nếu đoạn trên nói bặt ngôn lìa niệm thì ở đây nhận lãnh ý đoạn trước. Ý nghóa câu hỏi: Trước nêu lên người tu hành, sau nói rõ câu hỏi. Các chúng sinh… là nêu lên người tu hành. Chia làm hai: Phương pháp tu hành. Hỏi phương pháp chứng nhập. Làm sao thuận theo là hỏi phương pháp tu hành, phải tu hành lý chân như thế nào để được thuận theo. Mà có thể chứng nhập được là hỏi phương pháp chứng nhập. Bặt lời lìa niệm, vì sao lại có thể chứng nhập chân như. 2.Đáp. Chia làm hai: Đáp phương pháp tu hành Đáp phương pháp thú nhập Từ “Nếu lìa niệm” trở xuống. Nếu biết tất cả pháp là nêu chung các pháp. Tuy nói không có năng thuyết để nói là Tuy nói là nương tướng kia để nói, năng thuyết là lời của luận chủ, khả thuyết là pháp được nói kia, nếu có hai thứ này (năng sở) thì chẳng phải là lời nói xả bỏ. Có lời nói thì không được thuận lý mà nghe, là Văn Tuệ. Tuy nghóa là nương tướng mà nói Cũng không có năng niệm để niệm là người tu hành gọi là năng niệm, phương pháp tu hành gọi là khả niệm (để niệm). Nếu có năng hành sở hành thì không thành, đó là hai thứ Tư tuệ và Tu tuệ. Nương lời hiểu lý, xả bỏ lời này không dính mắc, thì hội nhập lý chân như. Giống như ở thế gian nương bè qua biển, nếu cứ bám vào bè mãi, thì đâu thể lên bờ; đã qua biển rồi, thì bỏ bè lên đất liền. Việc tu hành cũng giống như thế. Đây gọi là thuận theo là kết thúc lời đáp về phương pháp tu hành. Nếu lìa niệm là việc tu hành từ trước đã thuần thục gọi là Đắc nhập, tạm được dứt niệm gọi là tu hành, chắc chắn lìa niệm gọi là đắc nhập. Hỏi: Nếu lìa niệm, thì đó có phải người tu hành hay không? Đáp: Là người tu hành trên hết, vì hội lý là đại hạnh, nên trong kinh nói, phước của người Thanh văn tu hành trong vô số kiếp không bằng phước trí của Bồ-tát trong một niệm. Gọi đắc nhập là phần kết thúc lời đáp. 2. Hai nghóa không hữu trong chân như: Chia làm ba: Nêu chung chương môn Kể rõ các chương Giải thích riêng Nêu chung chương môn: Lại nữa, chân như đã nói ở đoạn trên, muốn nói lại lần nữa nên nói lại nữa. Nương lời nói mà phân biệt là trong chỗ chân thật không được phân biệt nói hai nghóa Có, Không, nhưng nương danh tướng nói năng thì được tạm nói Không, Có cho nên nói “nương lời nói”. Có hai nghóa là hai nghóa Có, Không. Kể rõ các chương, giải thích sơ lược: Từ “Thế nào là hai” trở xuống. Vì có thể hiển bày lý thật rốt ráo là tuy nói nghóa Không mà đều là chân không là thể của các pháp, lại cũng không nhiễm, nên rốt ráo chân thật. Vì có tự thể đầy đủ tánh công đức vô lậu là trong tâm thể này vẫn thường đầy đủ các pháp trong lặng tròn đủ như trong vọng tâm đầy đủ tất cả tánh phiền não, tâm kia cũng thế, đầy đủ tất cả tánh công đức Tam-muội, trí tuệ, thần thông, giải thoát, đà-la-ni… nên nói là Bất không. Giải thích riêng: Từ “Cái gọi là Không nghóa là” trở xuống. Chia làm hai: Giải thích Không môn Nói về bất không 1. Giải thích Không môn: Chia làm ba: Nêu chung thể không Giảng rộng tướng kia Từ câu “Nên biết chân như” trở xuống. Kết thúc phần giải thích ở trước. Từ “Nên nói là Không” trở xuống. Nêu chung về thể không: Cái được gọi là Không là nói về tên gọi. Từ xưa đến nay không tương ưng nhiễm pháp là chủ yếu nêu lên Thể Không. Vì lý vô tướng nên chẳng phải chỗ tương ưng với pháp nhiễm, nhiễm là ngoài lý, vì vọng mà sinh khởi. Theo chân mà nhìn vọng thì xưa nay vốn không vọng, đâu thể vọng lập là tương ưng với chân như? Đem vọng đối đãi với chân thì không có và có vật đều tương tự vọng. Vì không có mà dường như có vật nên gọi là không, chẳng phải có lý Không này riêng. Nghóa này thế nào? Muôn pháp đều là chung, riêng chẳng chướng ngại nhau, tức là Thể Không. Chân không này vọng pháp chẳng phải vậy, vì thật có thể thành giả, giả không thể thành pháp thật được, nên nói “không tương ưng pháp nhiễm”. Lìa tướng các pháp khác nhau vì không có tâm luống dối là giải thích vì sao không tương ưng với nhiễm pháp trong đoạn trước. Cho nên pháp nhiễm có những khác nhau về cao thấp hơn kém chẳng đồng. Chân pháp thì chẳng phải như vậy. Lý có không kia đây, bình đẳng một vị nên gọi là lìa. Nói theo căn bản thì sở dó pháp nhiễm có khác nhau là vì vọng tâm, sở dó pháp chân không có sai biệt là vì không có vọng tâm, nên nói vì không có tâm niệm luống dối. Hiển bày Thể Không đã xong. Nói về tướng không: Nghiên cứu trong kinh có sáu loại: Có, không đối đãi để nói về tướng không Một, khác đối đãi để nói về tướng không Tự, tha đối đãi để nói về tướng không Lớn, nhỏ đối đãi để nói về tướng không Kia, đây đối đãi để nói về tướng không Theo tâm niệm chúng sinh để nói về tướng không Trong luận này chỉ có hai câu trước, một câu cuối, bỏ ba câu. Vì sao? Vì có nghóa so sánh, cho nên luận chủ không nói đủ như trong kinh. Trong sáu câu này, năm câu đầu có đầy đủ năm câu, một câu cuối kết thúc bác bỏ sự cạn cợt. Nên biết tự tánh chân như là muốn nương tướng hiển bày nên chỉ lược nói. Chẳng phải tướng Có là câu thứ nhất. Chẳng phải như hư không có nên nói “chẳng phải có”. Chẳng phải không có, là câu thứ hai, vì chẳng phải như cái không có độc lập, riêng biệt. Hai câu này nêu lên chỗ không có kia chẳng giống như pháp có, không ở thế gian. Cho nên vật gì Chẳng phải chẳng có tướng là câu thứ ba, vì pháp thanh tịnh tròn đủ. Chẳng phải chẳng không tướng là câu thứ tư, vì chân như trong lặng. Hai câu này hiển bày chỗ có kia. Nhưng, vì hợp tướng có không có thể nắm giữ là câu thứ năm Chẳng phải cùng có hai tướng có không. Đó là hiển bày pháp tướng rốt ráo, còn năm câu sau cũng giống như thế. Chẳng phải tướng Một là y theo pháp môn chân thật, chẳng phải khiến cho chỉ có một cái Nhất tướng, nên gọi là chẳng phải tướng Một. Vì không chấp tánh, như một pháp Thường muôn pháp đều Thường, ngoài muôn đức không được thể Thường. Còn lại cũng đều như vậy. Chẳng phải tướng Khác là chẳng phải khác nhau nên chẳng phải tướng Khác, muôn đức đều đồng một Thể, nên chẳng phải là Thể riêng khác. Chẳng phải không phải một là có thể không có một tánh mà đều là tánh. Nghóa Thuờng nói suốt ngày là Thường, chẳng phải là nghóa Lạc, ngoài ra đều giống như vậy. Chẳng phải chẳng Khác là nghóa Thường nghóa Lạc chẳng phải Một, nên gọi là chẳng phải không khác. Chẳng phải tướng Một Khác là dẹp trừ cả hai. Chẳng phải tự tướng là lìa tướng lìa tánh. Nói lìa tướng nghóa là như đề hồ trong lặng đầy bình mà không có các tướng xanh vàng đỏ trắng… Cũng như vậy, tâm thức chúng sinh không có các tướng lớn nhỏ, dài ngắn; chân pháp cũng vậy nên gọi là lìa tướng. Nói lìa tánh có nghóa là không chấp lấy tánh khác, ngoài muôn pháp thể Thường chẳng thật có nên gọi lìa tánh; cho nên nói “chẳng phải tự tướng”. Chẳng phải tha tướng là vì không có tướng sinh tử. Hỏi: Là không có lẫn nhau phải chăng? Đáp: Chẳng phải thế, không có lẫn nhau nghóa là, trong ngựa không có trâu nên gọi là ngựa không. Không có tha tướng nghóa là trong pháp chân như vì tìm tướng pháp sinh tử không thật có, nên gọi là Không. Chẳng phải không phải tự tướng là tuy trong muôn pháp không giữ tự tướng riêng, mà không có nghóa sinh diệt, vì là Thường tức là tướng Thường vậy. Còn lại cũng giống như vậy. Chẳng phải chẳng phải tha tướng là Thường đối đãi với Lạc, chẳng phải là tướng Thường nên gọi là chẳng phải chẳng phải tha tướng. Chẳng phải có chung hai tướng tự tha là dẹp cả hai. Chẳng phải tướng lớn là nói theo phương diện giả thật. Trong tục đế giả thì lớn thật thì nhỏ vì có chung riêng khác nhau; chân pháp không phải như thế, không có tướng hơn kém khác nhau, bình đẳng một vị. Lại nữa, trong tục đế, vì thật có thể thành giả, giả không thể thành thật pháp. Chân pháp không phải như vậy. Trong một pháp Thường đều có chung có riêng khác nhau, nắm giữ Lạc thành Thường gọi đó là chung, ngược lại tức nơi Thường thành Lạc, gọi đó là riêng. Vì sao như thế? Vì Vô Thường là không thành Lạc được, chẳng phải nhất định tướng chung là lớn, tướng riêng nhất định là nhỏ. Chẳng phải chẳng lớn là vì Hằng là tướng chung. Chẳng phải không phải tướng nhỏ là vì Hằng là tướng riêng. Chẳng phải không phải chung hai tướng lớn nhỏ là dẹp cả hai. Muôn pháp đều có nghóa chung nghóa riêng, chung riêng không chướng ngại nhau, là chân thật không trong chân pháp này. Hỏi: Vọng pháp giống như trong một cây trụ, nhìn bốn góc là giả, nhìn cái nhà là thật. Nên trong một cây trụ tướng chung và riêng không chướng ngại nhau, vì sao lại cho rằng chỉ chân pháp tướng chung và riêng mới không ngại nhau? Đáp: Không thể so sánh. Trong chân pháp cho Lạc thành Thường, ngược lại tức trong Thường để thành nghóa Lạc; trong pháp vọng không thể cho cây trụ thành bốn góc được, nên có chướng ngại. Hỏi: Khi cho Lạc thành Thường, là thành nghóa riêng hay thành nghóa chung trong Lạc. Đáp: Thành nghóa riêng. Hỏi: Nếu thế, riêng vẫn thường thành chung, chẳng phải chung thành riêng ư? Đáp: Tuy nghóa như thế, mà vì Lạc thành Thường bấy giờ cái Thường chung khiến Thường, cũng là riêng trở thành nghóa Lạc. Chung chẳng khác riêng, riêng chẳng khác chung nên nói không chướng ngại. Tướng kia đây là theo tâm cảnh môn, chẳng phải trong tục. Vì cảnh khác tâm nên chẳng phải đây, nên chẳng phải tướng này; vì tâm khác cảnh nên chẳng phải tướng kia. Tuy là một thể tâm là năng tri, pháp là sở tri nên nói chẳng phải không phải tướng này, chẳng phải không phải tướng kia, (chẳng phải không phải tướng này, chẳng phải không phải tướng kia.) câu thứ năm dẹp cả hai, giống như trước. Trong tục tất cả không Thường nên trong câu sáu nói chung là “vọng tâm chẳng phải chỗ tương ưng”. Cho đến là sáu câu trong kinh, luận chủ lược bớt ba câu đến câu sáu mới có nên nói “cho đến”. Nói chung, vọng tâm phân biệt của tất cả chúng sinh đều không tương ưng, vì không hình tướng. Kết thúc phần giải thích ở trước: Nên nói Không là chủ yếu kết thúc phần giải thích ở trước. Tiếp theo là giải thích phần kết. Tại sao không là nếu lìa vọng tâm thật chẳng thể Không, vì chân pháp trong lặng, mà vật do vọng tâm tạo thì không thể trong lặng, nên nói là Không. 2. Chương giải thích bất không: Cái gọi là Bất Không là nêu lên tiêu đề. Chia làm ba: Giải thích nghóa bất không Dứt chấp Từ “Cũng không có tướng” trở xuống. Chấp chứng Từ “Chỉ chứng” trở xuống. Giải thích nghóa bất không: Đã nghóa là pháp kia Thể Không vì không có vọng, tức chân không thường trụ. Chẳng phải chỉ một tâm, hằng sa pháp thanh tịnh đầy đủ không thiếu nên gọi là Bất không. Nhưng đã có pháp thanh tịnh tròn đủ dường như có tướng, nên kế là phần dứt chấp. Dứt chấp: Cũng không có tướng để nắm giữ, tuy có Thể mà chẳng phải có Tướng. Vì sao? Vì không tướng nên gọi là cảnh giới vô niệm. Chấp chứng: Vì chỉ chứng mới tương ưng. Người chẳng tu chứng thì lời nói không thể đến, người tu chứng mới biết. Tóm lại, thể chân thức này chỉ là pháp giới hằng sa Phật pháp đồng thể theo duyên nhóm họp thành tựu lẫn nhau, chẳng lìa chẳng thoát, chẳng dứt chẳng khác, vì các pháp đồng thể do duyên nhóm họp. Vì thành tựu lẫn nhau nên không có một pháp nào chấp tự tánh riêng, tuy không chấp tự tánh mà đều giữ tự tánh. Chẳng giữ tự tánh tức là môn như như nhất thật, mà đều là tánh tức pháp giới môn chân thật Thường, Lạc, Tịnh… Thể tánh thường nhiên xưa nay không đổi nên gọi là Thường vắng lặng.  ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHÓA SỚ <卷>QUYỂN 1 (Phần 2) Chi 2. Môn giải thích tâm sinh diệt: Chia làm hai: Lược nêu thể ấy Nói rộng nghóa ấy Từ “Thức này có hai” trở xuống. Lược nêu thể ấy: Tâm sinh diệt là hiển bày tên gọi. Nương Như Lai tàng là thức thứ tám. Có tâm sinh diệt là thức thứ bảy. Ở đây nói nương là đồng thời nương nhau như bóng nương hình. Hai câu này nói lý do có vọng, trong vọng này theo vọng lưu chuyển gọi là thức thứ tám. Ba câu tiếp theo là nêu lên thể kia. Cái được gọi là Bất sinh bất diệt là thể kia thường trụ, tùy duyên thành vọng mà thể chẳng phải vô thường, như đoạn trên đã nói. Câu này chính là đã nêu lên thể thường. Hòa hợp với sinh diệt là tùy duyên khiến thành vọng mà hòa hợp như một. Một câu này nói về nghóa theo vọng. Chẳng phải Một là tánh thường trụ, chẳng phải khác là vì khiến hòa hợp, hai câu này nói về tướng tùy duyên. Cả ba câu phân biệt rõ ràng thức thứ tám. Gọi thức A-lại-da, đây là tiếng Ấn Độ, Hán dịch là Vô thất một thức nghóa là thức không mất, dù ở trong sinh tử tánh vẫn không mất nên gọi là vô thất một. Theo nghóa đặt tên gọi là Tông thức (thức căn bản), là chỗ vọng nương nên gọi là tàng thức. Có đủ tất cả các tịnh pháp nên trong kinh luận có các tên gọi như thế, chẳng phải một tên, nhưng chẳng phải là cách phiên dịch đúng và sát. Nói rộng nghóa ấy: Chia làm ba: Tiết B 1. Nói về nguồn gốc hiểu biết và mê lầm ấy Tiết B 2.Nghóa chân vọng nương giữ Từ “Tướng nhân duyên sinh diệt là” trở xuống. Tiết B 3. Nói về công năng huân tập nhiễm tịnh kia. Từ “Lại nữa, có bốn pháp” trở xuống. Tiết B 1.Nói về nguồn gốc hiểu biết và mê lầm ấy: Chia làm ba: Nêu số lượng, giải thích sơ lược Chương so sánh Từ “Tại sao” trở xuống. Chương giảng rộng Từ “Cái gọi là nghóa giác” trở xuống. Nêu số lượng, giải thích sơ lược: Thức này có hai ý nghóa là nêu số lượng, năng nhiếp năng sinh tất cả pháp là giải thích sơ lược. Vì là nguồn gốc của sinh tử Niết-bàn, nên gọi là nhiếp sinh nghóa. Chương so sánh: Giác là hiểu biết, chẳng phải sự hiểu biết là dụng do tu tập sinh, nên gọi là hiểu biết. Đây chính là chỗ khác với cây đá… cho nên tâm thần là biết. Lại nữa, trái với vô minh mờ tối nên gọi là biết. Bất giác là mê hoặc, bảy thức vô minh là Bất giác. Chương Giảng rộng: Chia làm ba: Giải thích giác Giải thích bất giác Từ “Cái gọi là nghóa Bất giác” trở xuống. Phân biệt giống, khác. Từ “Lại nữa, giác và bất giác” trở xuống. Sở dó phân biệt vì trong một thể có hai nghóa giác và bất giác trái nhau. Cho nên phần III phân biệt giống và khác. Lại nữa, cũng có thể y cứ vào ba câu trong chánh văn để giải thích rộng. 1. Giải thích giác: Nghóa chữ Giác, là bất sinh bất diệt trong phần giải thích sơ lược ở trên. Nghóa Bất giác là nghóa sinh diệt trong câu “hòa hợp với sinh diệt” đã giải thích sơ lược ở đoạn trên. Giống và khác là chẳng phải một chẳng phải khác trong phần giải thích sơ lược ở đoạn trên. Chia làm ba: Nêu ra nguồn gốc sinh tử của tám thức kia Nêu ra nguồn gốc quả Phật của tám thức kia Từ “Lại nữa, bản giác tùy nhiễm” trở xuống. Nêu chung về lý thể Từ “Lại nữa, tướng giác thể” trở xuống. 1. Nêu ra nguồn gốc sinh tử của tám thức kia: Chia làm ba: Hiển bày giác thể Nói về rốt ráo, chẳng phải rốt ráo Từ “Lại nữa, vì giác nguồn tâm” trở xuống: Rốt ráo là hạnh chân chiếu, chẳng rốt ráo là hạnh duyên chiếu. Tổng kết chân vọng Từ “Cho nên tất cả chúng sinh” trở xuống. 1. Hiển bày thể giác kia: Chia làm hai: Bản giác là thể chân chiếu Thỉ giác là dụng chân chiếu Từ “Thỉ giác là” trở xuống. 1. Bản giác kia là thể chân chiếu Chia làm hai: Nêu ra thể Giải thích tên gọi Từ “Nương Pháp thân này” trở xuống. 1. Nêu ra thể Chia làm hai: Chủ yếu nêu ra thể Giải thích ý nghóa Từ “Tướng lìa niệm là” trở xuống. Chủ yếu nêu ra thể: Cái gọi là nghóa giác, là nêu tên. Có nghóa là tâm thể, là thức thứ tám, chẳng phải sắc vô tác, là cái chân thật trong các tâm nên gọi là thể. Lìa niệm, nghóa là cảnh giới dứt bặt danh tướng, vì vượt ngoài vọng tưởng nên gọi lìa niệm. Giải thích ý nghóa: Tướng lìa niệm, nghóa là hiển bày tên gọi. Bằng cõi hư không, ng- hóa là chẳng phải là hư không rộng lớn. Đây là pháp tánh chân thật như hư không. Hư không rộng lớn là việc không có, tuy hiện nay không có tướng sinh diệt nhưng cuối cùng cũng không còn nên gọi là vô thường, chẳng lẽ lý chân thức cuối cùng cũng hoại diệt như hư không hay sao? Trong lý pháp có chân không, chân hữu, nhưng tâm chẳng phải ngoài Không, Không chẳng phải ngoài tâm. Vì tâm chẳng ngoài Không nên bằng cõi hư không khắp tất cả chỗ, không chẳng ngoài tâm nên tịnh pháp trong lặng, nên nói là “chân không”. Hỏi: Có pháp thì phải hoại diệt, hư không rộng lớn chẳng phải pháp vì sao lại hoại diệt? Đáp: Vì đối đãi với có nên chẳng thể không hoại diệt. Như lý nghiên cứu lời nói thì do nhân cảm, khi lực của nhân không còn cuối cùng cũng không còn. Vật do nhân cảm đó, có hay không đều giống nhau, há có thể chẳng có không hoại diệt hay sao. Hỏi: Nếu không có thường, vì sao kinh Niết-bàn nói trong các pháp thường, hư không là trên hết? Đáp: Trên hết trong kinh ấy chính là pháp tánh hư không hiện tôi đang nói. Thế nào là trên hết? Hạnh thể chư Phật đều vốn có, nên Bất diệt Thường. Lý pháp tánh vì bất sinh bất diệt vắng lặng là Thường, nên gọi là trên hết. Đâu thể nói hư không rộng lớn là tối thượng trong cái Thường của Phật. Hư không rộng lớn trôi lăn không có, còn Thường của Phật thì có đầy đủ. Lời nói các ông cho đom đóm là trên hết trong các loại ánh sáng. Hỏi: Làm sao biết hư không rộng lớn hoạïi diệt ư? Đáp: Văn-thù-sư-lợi đã hỏi việc này trong luận Bồ-đề. Phật bảo: Hư không rộng lớn hoại diệt là chỗ thấy của Phật nhãn. Văn-thù bạch Phật: Nếu chẳng có hư không, thì các Bồ-tát… nương vào đâu để ở mà tu hành? Phật bảo Văn-thù: Nương vào pháp tánh hư không mà trụ, đây là trên hết. Đoạn văn này chỉ chứng mới biết, chắc chắn hư không rộng lớn là pháp hoại diệt, đã nói hoại diệt thì biết nó là vô thường. Pháp giới, nghóa là các pháp sai biệt không giống nhau, đó gọi là giới. Tướng Một, nghóa là Tâm là tướng Một. Tức là Pháp thân bình đẳng của Như Lai, nghóa là chẳng phải chỉ là lý Pháp thân trong thân chúng sinh. vì chư Phật lấy cái này làm gốc của Thể nên nói “tức là”. 2. Giải thích tên gọi: Chia làm hai: Đặt tên Lý do, giải thích tên Từ “Vì sao” trở xuống. pháp. Đặt tên: Nương vào Pháp thân này gọi là bản giác, nghóa là tên nương vào Giải thích tên gọi: Vì sao? Nghóa là nói lý do đặt tên Bản giác. Đối đãi với nghóa thỉ giác mà nói, nghóa là sau khi tu tập mới bắt đầu có diệu dụng nên gọi là Thỉ giác. Thỉ giác này vốn không có, nay mới có, vì đối đãi với thỉ giác nên gọi là Bản giác. Chia làm hai: M 1. Thể che đậy là đồng. Bản giác ẩn hiện thành khác nhau. Tàng thức ở trong nhiễm gọi là ẩn, tàng thức ở quả gọi là hiện, chẳng phải trước là nhiễm sau nhờ đối trị mà thành pháp tịnh, nên kinh Thắng Man nói ẩn là Như Lai tàng, hiển là Pháp thân. Đây là nghóa của Thể chẳng phải nghóa của Dụng. M 2. Giải thích nghóa. Vì sao đồng một Bản giác lại gọi là Thỉ giác? Vì nương bản giác mà có bất giác, tâm bị vô minh che khuất cái chân thật, nhưng y Bất giác khởi hiểu biết do duyên chiếu, đối trị các hoặc rồi mới hiện ra nên gọi là Thỉ giác. 2. Nói về nghóa kinh rốt ráo chẳng rốt ráo: Chia làm ba: Giải thích chung hai nghóa Giải thích tướng ấy Từ “nghóa này thế nào” trở xuống. Dẫn kinh chứng minh Từ “Cho nên Tu-đa-la kinh” trở xuống. Giải thích chung hai nghóa: Vì giác nguồn tâm gọi là rốt ráo, nghóa là hiểu biết do chân chiếu, vì tu thành Phật nên gọi là rốt ráo giác. Chẳng giác nguồn tâm nên chẳng phải rốt ráo, nghóa là trong tâm duyên trí hiểu biết hết, vì đã diệt nên chẳng phải rốt ráo giác. Giải thích rộng tướng ấy: Chia làm hai: Giải thích bất giác Giải thích rốt ráo giác Từ “Được thấy tâm” trở xuống. Giải thích bất giác: Trong đây y cứ bốn địa vị để nói về “tuy giác mà không gọi là giác.” Phàm phu niệm trước khởi ác, niệm sau chẳng khởi không gọi là giác, đây là địa vị thứ nhất. Bốn tướng của niệm trước đã mất, mà đến niệm sau mới giác ngộ, vì không giác biết nên vẫn không gọi là giác, như Nhị thừa và Bồ-tát Sơ phát tâm là địa vị thứ hai. Giác biết tướng khác của niệm, tướng chẳng khác của niệm, nghóa là giác biết tướng khác trong bốn tướng, vì giác ít nên cũng không gọi là giác. Sơ phát ý: Nghóa là chủng tánh. Lại cũng có thể là dị tướng, vô dị tướng, nghóa là ngoài tâm có tâm khác, hoặc trong đó không có tướng khác nên gọi là niệm tướng khác. Tu quán thế nào? Có ba cách hiểu: Quán sinh không: Quán sát chỉ là ấm, vì vô ngã vô nhân. Quán Pháp không: Quán pháp hư giả vì không có tự tánh. Quán Như: Quán sát các pháp chẳng phải có chẳng phải không. Thế nào là quán pháp chẳng phải có chẳng phải không? Thấy tất cả pháp dường như huyễn hóa vì có pháp huyễn nên không pháp là có, có tức chẳng phải có; không pháp huyễn nên có pháp là không, không tức chẳng phải không; cho nên nói huyễn có huyễn không này là chẳng phải có không, cũng không có chẳng phải có chẳng phải không để được; lại cũng tức là nói, vì chẳng phải có chẳng phải không này là có không, nên tướng có không cũng không thật có; tới lui tìm cầu cũng không có pháp để chấp. Cảnh giới đã như thế, tâm tưởng cũng vậy. Trong ba cách quán này, hai cách quán đầu là của Nhị thừa, một pháp sau là cách quán của Bồ-tát, nếu nói chung ba thừa thì đều quán ba pháp này, do quán này mà xả bỏ tướng phân biệt chấp trước thô. Đây là mười sử bổn mạt nắm giữ tánh vô minh và tướng chấp danh tự, nên văn sau nói về chấp tương ưng nhiễm Nhị thừa và Bồ-tát Tín Địa dứt hẳn, chủng tánh của Bồ-tát là Tín địa. Như Bồ-tát Pháp thân nơi tướng trụ của niệm và không trụ của niệm, là địa vị thứ ba từ Sơ địa trở lên, khi trụ tướng trong bốn tướng, ngộ tướng trụ không trụ của tất cả pháp. Tu quán thế nào? Có ba cách: Quán Vọng tướng: Quán sát tướng ba cõi luống dối chỉ từ tâm khởi, như nằm mộng thấy có tưởng, không có tưởng. Ngoài tâm rốt ráo không có pháp để được. Quán Vọng tưởng: Quán tâm vọng tưởng hư cấu không có tự thể nương chân tâm mà có, như sóng nương nước, như lầm đường nương vào phương hướng. Quán Chân thật: Quán tất cả pháp chỉ là chân thật do duyên khởi hợp thành. Ngoài chân rốt ráo không có một pháp nào để khởi vọng tưởng. Đã không có một pháp để khởi vọng tưởng thì tâm vọng tưởng cũng không thật có. Do cách quán này nên xa lìa tướng niệm thô phân biệt, nghóa là sự giác biết của thức phân biệt sự, vì trong Sơ địa sáu thức hiểu biết mê lầm thảy đều dứt sạch. Vì sao? Vì kinh Lăng Già nói: “Bồ- tát Sơ địa được hai mươi lăm Tam-muội, lìa hai mươi lăm hữu. Hai mươi lăm hữu là thân phần đoạn trong ba cõi, vì xa lìa kia nên gọi là xả trừ sáu thức, kinh Niết-bàn cũng nói như thế, nên thuộc về xuất thế gian. Lại nữa, luận Đại Trí Độ nói Bồ-tát nhập vào Sơ địa là sinh vào nhà Bồ-tát, xả bỏ nhục thân, được thân pháp tánh. Đây cũng là lìa sáu thức kia. Nếu nói về tập khí thừa thì Thập địa mới hết sạch. Hỏi: Nếu sáu thức hết khi ở Sơ địa, từ Sơ địa trở lên thì không còn sáu thức hay sao, vậy làm sao thấy biết nghe hiểu? Đáp: Tuy không có sáu thức sự tướng vẫn có bảy thức duyên chiếu Pháp thân vô lậu và cùng với các chân thức như nhãn thức, nhó thức… duyên khởi Pháp thân, nên dùng cái thấy nghe hiểu biết này. Hỏi: Nếu dùng thấy nghe hiểu biết của duyên chiếu Pháp thân thì khác với sáu thức trước thế nào? Đáp: Sáu thức trước là sự thức, phân biệt sự tướng, chấp pháp ngoài tâm. Thấy nghe… của duyên chiếu Pháp thân biết ngoài tâm không pháp, tất cả đều từ tự tâm sinh khởi như chỗ thấy trong mộng. Nơi vào tâm tướng phân biệt soi biết có khác. Hỏi: Sự thấy nghe của chân thức và cái biết của duyên chiếu có gì khác nhau? Đáp: Bảy thức thân duyên chiếu nghóa là trong pháp do vọng tưởng duyên khởi chỉ duyên phân biệt mà biết. Lại nữa đối với chân pháp phân biệt duyên pháp không thể lìa duyên. Pháp thân chân thật là xa lìa tâm vọng tưởng, chiếu rõ pháp giới thanh tịnh, hiển bày nguồn tự tâm gọi là thấy nghe, chẳng phải cái biết phân biệt. Như Bồ-tát Địa tạng đầy đủ phương tiện, là địa vị thứ tư, là hàng Mãn Tâm của Thập địa. Mới khởi tâm không có tướng ban đầu, nghóa là khi sinh tướng đầu tiên trong bốn tướng, ngộ tất cả pháp từ xưa đến nay vốn bất sinh. Tu quán thế nào? Có hai cách: Quán dứt tướng: Sinh tử Niết-bàn vốn là chỗ khởi theo vọng của chân thức, chứng thật tướng trở về nguồn thì xưa nay không có vọng. Vọng tưởng đã không có, chẳng lẽ lại có pháp tướng sinh tử Niết-bàn theo vọng được ư? Đó là quán dứt tướng. Quán Thật tánh: Quán chân thức kia là thể Như Lai tàng, chỉ là pháp giới hằng sa Phật pháp đồng thể duyên tập, thành tựu lẫn nhau, không lìa không thoát không đoạn không khác. Vì các pháp đồng thể duyên tập, thành tựu lẫn nhau nên không có pháp nào giữ tự tánh riêng. Tuy không có một tánh mà đều là tánh không có chấp tánh, tức là pháp môn Như Như Nhất Thật. “Mà đều là tánh” tức là pháp giới môn Thường, Lạc, Ngã, Tịnh… chân thật, Thể tánh thường nhiên xưa nay không đổi gọi là quán thật tánh. Xa lìa niệm vi tế, nghóa là thức bảy duyên trí, vì vô minh diệt duyên trí liền diệt. Hỏi: Người tu tập được hiểu biết vì sao hoại diệt? Đáp: Vì là hiểu biết luống dối không thành Phật được. Hiểu biết nên dứt mê lầm, vì Thể là hiểu biết luống dối nên cuối cùng diệt vong. Vì sao biết được hiểu biết cũng diệt theo? Vì phẩm Tứ Tướng trong kinh Niết-bàn nói: Ví như trong bình có hình dáng nam nữ lớn nhỏ, thảy đều châm đầy dầu đốt đèn, dầu hết ánh sáng cũng tắt theo, cây đèn vẫn còn tại đó. Hợp với thí dụ trên thì dầu hết là dụ phiền não hết, ánh sáng dụ trí tuệ; trí tuệ tuy đã diệt vẫn còn Pháp thân. Đoạn văn này trình bày như thế. Cuối cùng trong tâm đều diệt hết gọi là chẳng phải rốt ráo giác. Giải thích rốt ráo giác: Thấy được tâm tánh, gọi là chân thức, tâm là thường trụ, thuộc về thỉ giác. Rốt ráo giác, nghóa là vì giác nguồn tâm, cuối cùng được giác viên mãn. Dẫn kinh chứng minh: Chia làm hai: Chứng chẳng phải rốt ráo giác Chứng rốt ráo giác Từ “Lại nữa tâm khởi” trở xuống. Cho nên kinh nói, đó là kinh Lăng Già nói. Không có niệm năng quán, nghóa là bảy thức duyên trí gọi là niệm, không có niệm bảy thức là hướng về trí Phật. Đây là tu chứng bậc trung bậc thượng, chẳng phải rốt ráo giác. Lại nữa tâm khởi, nghóa là chân tâm thỉ giác, không có sơ tướng tức là vô niệm. Vì khi khởi thỉ giác, tất cả vọng pháp không thể biết mà nói biết, nghóa là vô niệm gọi là Biết, đây là chứng rốt ráo giác. 3. Tổng kết. Chia làm hai: Kết thúc bất giác Kết thúc nghóa giác ở trước Từ “Vì vô niệm…” trở xuống. 1. Kết thúc về bất giác: Chia làm hai: Kết luận phàm phu bất giác ở trước Kết luận ba quả trước chẳng phải rốt ráo giác. Từ “Nếu được vô niệm” trở xuống. 1. Kết luận phàm phu bất giác ở trước: Chia làm ba: Tổng kết Cho nên tất cả chúng sinh chẳng gọi là giác. Giải thích lý do Vì xưa nay niệm niệm không hề lìa. Niệm là niệm phân biệt chấp trước. Kết thúc lần nữa. Nên gọi là vô minh vô thỉ. Vì xưa nay không lìa nên gọi là vô thỉ. 2.Kết luận ba quả vị trước: Nếu được vô niệm thì biết tâm sinh trụ diệt. 2.Kết luận nghóa giác ở đoạn trước: Chia làm hai: Kết thúc phần thỉ giác ở trước Kết thúc phần bản giác ở trên Từ “Bốn tướng có cùng một lúc” trở xuống. Kết thúc phần thỉ giác ở trước: Vì vô niệm, thật không có Thỉ Giác nào khác. Vì niệm bất giác che đậy, khi hiển bày thì gọi là Thỉ Giác. Như đoạn trên, Thỉ Giác tức đồng với Bản Giác, vì khác với Bản Giác thì không có Thỉ Giác. Kết thúc bản giác: Vì bốn tướng có cùng một lúc, nghóa là như ý nghóa các nhà Tỳ- đàm thì bốn tướng đều có cùng một lúc, dụng thì có trước sau. Nếu theo luận Thành Thật thì bốn tướng không phải có cùng một lúc mà có trước sau. Ở đây giống như ý một số luận sư. Đều không tự có, nghóa là như những việc thấy trong mộng không có thật thể. Xưa nay bình đẳng vì đồng một tánh giác, đó là bản giác. Từ trước đến đây nói rõ về cội gốc sinh tử đã xong. 2. Cội gốc quả Phật: Chia làm hai: Giải thích chung Giải thích riêng Từ “Vì sao” trở xuống. Giải thích chung: Lại nữa bản giác tùy nhiễm phân biệt sinh hai tướng, nghóa là hai loại Pháp và Báo. Đồng một tánh giác mà tùy nhiễm ẩn hiện gọi là Pháp; trong chân thức này vốn không có nghóa hiện sinh, gọi là Báo. Không lìa bản giác kia, nghóa là trong một thể có hai nghóa nên gọi không lìa nhau. Giải thích riêng: Chia làm hai: Lập hai chương môn Giải thích hai chương Lập hai chương môn: Tướng tịnh trí, nghóa là Pháp thân Phật tánh không thêm không bớt, xưa nay trong lặng, chẳng phải trước nhiễm sau tịnh, gọi là trí tịnh. Tướng Nghiệp không thể nghó nghó bàn, nghóa là tánh Báo thân Phật vốn không có pháp thể do năng lực tu tập không thể nghó bàn nên có nghóa mới sinh; do tạo tác mà thành, không có thành có nên gọi không thể nghó bàn, tạo tác gọi là nghiệp; trong một Thể này, Thể hiện dụng sinh nên có hai thứ. Giải thích chương môn: Chia làm hai: Giải thích trí tịnh Giải thích nghiệp tướng 1. Giải thích trí tịnh. Chia làm hai: Nêu lên trí thể ấy Giải thích thể nghóa ấy Từ “Nghóa này thế nào” trở xuống. 1. Nêu lên trí thể ấy. Chia làm ba: Nêu lên khả năng biết đối trị Hiển bày chướng bị đối trị Từ “Phá hòa hợp” trở xuống. Nói về chỗ hiển bày Từ “Hiển” trở xuống. Nêu lên khả năng biết đối trị: Tướng trí tịnh, đó là nêu tên gọi. Nương vào pháp lực, có nghóa là nhờ năng lực chủng tử chân thật, “y” là nương, nghóa là duyên trí. Tu hành chân thật đầy đủ phương tiện, nghóa là duyên trí. Phương tiện là phương tiện khéo léo. Hiển bày chướng: Phá tướng thức hòa hợp, nghóa là sáu thức chướng. Diệt tướng tâm nối tiếp, nghóa là bảy thức chướng. Do duyên chiếu biết đối trị sáu thức bảy hoặc. Nói về chỗ hiển bày: Để hiển lý tịnh trí của Pháp thân. 2. Giải thích nghóa Chia làm ba: Pháp thuyết Nêu ví dụ. Từ “Như nước biển lớn” trở xuống. Hợp dụ. Từ “chúng sinh như thế” trở xuống. Pháp thuyết: Tất cả tâm thức đều là vô minh, nghóa là sáu thức và bảy thức tâm đều lấy vô minh làm thể, cũng như tướng thức hòa hợp và tướng tâm nối tiếp ở trước. Tướng vô minh không lìa tánh giác, nghóa là chân vọng duyên tập. Chẳng thể hoại, nghóa là vì lý pháp thường như vậy. Chẳng phải không thể hoại, nghóa là vì biết đối trị vọng. Nêu ví dụ: Như nước biển lớn dụ cho thức thứ tám, gió dụ cho vô minh, sóng dụ cho bảy thức. Tướng nước tướng gió không lìa bỏ, nghóa là chân thức và vô minh do duyên nhóm hợp thành. Nước chẳng phải tánh động, nghóa là thật không có tánh động, theo vọng nên thành. Nếu tướng gió diệt, thì tướng động cũng diệt, nghóa là vô minh diệt thì bảy thức liền diệt. Tánh ướt không hoại, nghóa là dụ chân thức kia thể tánh thường trụ. Hợp dụ: Tự tánh tâm thanh tịnh hợp với dụ nước biển ở trên. Tự gió vô minh động, hợp với dụ gió ở trên. Tâm và vô minh đều không có hình tướng, hợp với dụ tướng nước và tướng gió không lìa nhau. Mà tâm chẳng phải tánh động, hợp với dụ nước chẳng phải tánh động ở trên. Nếu vô minh diệt nối tiếp thì cũng diệt, hợp với dụ nếu gió dừng hết thì tướng động cũng hết. Trí tánh không hoại, hợp với dụ tánh ướt không hoại ở trên. Dụ cho bảy thức sinh khởi không có hợp dụ. Kinh Lăng-già nói, ví như sóng biển lớn đều do gió thổi mạnh sinh ra sóng lớn đập vào nơi sâu thẳm không có lúc nào dừng. Biển tàng thức thường trụ bị gió cảnh giới thổi động nên các thứ sóng thức lăng xăng chuyển sinh. Đây là nói biển lớn tuy bị gió thổi mà tánh ướt không đổi. Tánh không đổi nên gọi là thường trụ. Tánh tuy thường trụ mà tướng nước theo gió mà chuyển thành sóng, dụ cho chân thức kia tuy bị cảnh giới vọng tưởng, và gió làm động mà chân tánh không đổi. Tánh tuy không đổi mà chân tướng kia tùy theo vọng tưởng vô thỉ chuyển động sinh ra cảnh giới luống dối, khởi từ nơi bảy thức, như sóng biển. Trong kinh, cảnh giới là gió vì sao luận chủ cho vô minh là gió? Đáp: Trong kinh y cứ vào ngọn nên nói cảnh giới là gió, luận chủ tìm đến gốc thì vô minh là gió, cũng giống nhau vì đều có nghóa động. Lại có nghóa cho chân thức là biển, vô minh là gió sinh ra sóng bảy thức; cho bảy thức là biển, cảnh giới là gió sinh ra sóng sáu thức. 2. Chương giải thích nghiệp: Chia làm hai: Giải thích chung Giải thích riêng Giải thích chung: Do nương trí tịnh có công năng tạo ra cảnh giới, nghóa là nương thể khởi tướng dụng. Giải thích riêng: Vô lượng tướng công đức thường không dứt mất, là tánh của báo Phật. Tùy căn cơ chúng sinh trở xuống là nói về tánh của Ứng thân Phật. Hai tánh này do tu tâm mà có, chẳng phải hiện sẵn có. Nêu chung về lý thể: Chia làm hai: Lược nêu Giải thích riêng. Từ “Thế nào là bốn” trở xuống. Lược nêu: Lại nữa, tướng giác thể, cũng là tướng bản giác ở trước, tức là Thể tướng, chẳng phải tướng của tướng. Có bốn nghóa lớn, nghóa là đồng một thể tùy nghóa chia thành bốn, chẳng phải giải thích có bốn thể riêng. Bằng với hư không, nghóa là pháp tánh hư không. Ở đây tuy nêu bốn mà không có hơn kém khác nhau. Như gương trong sáng, nghóa là dụ trong sáng không nhiễm ô, cũng dụ cho nhập nhau, không chướng ngại nhau. Giải thích riêng: Trong bốn loại này, đặt tên cho mỗi loại để giải thích. Gương như thật không, cũng là chân như ở trước. Xa lìa tâm cảnh, không có pháp nào hiện, nghóa là nhìn theo Chân thì chỉ có chân vì xưa nay không vọng. Kinh chép: Phật không độ chúng sinh vì không thật có chúng sinh. Vì chẳng phải nghóa giác chiếu, nghóa là tuy là một thể mà tâm pháp khác nhau. Nói theo tâm thì pháp chẳng sinh biết vì là lý chân đế, chẳng phải giác chiếu ở trên, pháp tánh là Không, tức có nghóa như thế. Gương nhân huân tập, nghóa là chân tâm. Nương vào tâm này làm nhân cho duyên chiếu huân tập nên gọi Nhân huân tập. Tất cả thế gian đều hiện trong đó, nghóa là tâm là gốc của tất cả các pháp nên đều hiện trong tâm. Nhưng ngay khi hiện là (pháp) sinh khởi trong Thể? Nên nói chẳng hiện ra, cũng có thể hiện khắp nơi nên hiện bên ngoài mà chẳng ra. Vì hiện trong Thể làm tạp loạn nhất tướng nên nói chẳng vào. Vì không vào nên vọng pháp hoại vong nên nói không mất không hư. Cách thứ nhất nói theo chân pháp, bặt lời lìa tướng vượt ngoài các vật mà chẳng lìa Có Không nên nói chẳng ra; chẳng lìa Có Không mà chẳng phải Có Không nên nói chẳng vào. Cho nên kinh nói rằng: Tuy ở ấm giới nhập mà không đồng với ấm giới nhập. Vì ngoài muôn pháp mà không hoại mất, nên nói không hoại không mất. Đây là vật gì? Là nhất tâm thường trụ! Vì sao? Vì tất cả tánh chân thật chẳng có pháp nào không phải chân. Lại nữa, tất cả pháp nhiễm không thể nhiễm, nghóa là vì tâm thể thường trụ không thể nhiễm ô, chẳng phải nghóa dụng. Trí thể chẳng động, nghóa là giải thích lý do chẳng nhiễm ô. Đầy đủ vô lậu huân tập chúng sinh, nghóa là vì đầy đủ tịnh pháp, thầm giúp chúng sinh để tu hạnh lành. Gương pháp xuất ly; cũng là tướng tịnh trí. Vì chân pháp vượt ngoài phiền não chướng, hoặc chướng nên nói xuất ly. Bất không, vì đầy đủ hằng sa tịnh pháp trong lặng. Phiền não ngăn ngại, cũng gọi là phiền não chướng, trí ngăn ngại, cũng gọi là trí chướng. Các hoặc tuy nhiều nhưng không ngoài hai chướng, các nghóa này trong phần nói về hai chướng ở sau có phân biệt giải thích rộng. Lìa tướng hòa hợp thuần tịnh sáng suốt, nghóa là lìa tướng sáu và bảy thức tâm. Gương duyên huân tập, cũng là nghiệp tướng không thể nghó bàn ở đoạn trên. Vì duyên trí tu tập nên được gọi là duyên huân tập. Nương pháp xuất ly, nghóa là nương Thể khởi dụng, chiếu khắp tâm chúng sinh để tu pháp lành, thuộc về Báo Phật. Tùy niệm mà thị hiện, nghóa là Ứng Phật. Trong bốn gương này, hai gương đầu là Lý, hai gương sau là Hạnh. Lý hạnh đều rõ ràng nên không còn pháp nào hơn. 2. Giải thích bất giác: Chia làm hai: Nói về thể bất giác Nói về các hoặc chuyển sinh Từ “Lại nữa y bất giác” trở xuống. 1. Nói về thể bất giác: Chia làm hai: Nói về nghóa bất giác Trái với chân giác Từ “Vì có bất giác” trở xuống. 1. Nói về nghóa bất giác: Chia làm ba: Pháp thuyết Nêu dụ Hợp dụ Pháp thuyết: Ý nghóa Bất giác, nghóa là nêu lên tên gọi, từ ngữ Bất giác, là tên khác của vô minh. Không biết như thật chân như là pháp duy nhất, là y nơi cảnh rõ Thể. Chân như không hai nên gọi là pháp duy nhất. Chợt vô minh sinh khởi, là thức thứ bảy, mà có niệm kia, là tâm nhiễm ô. Nói chung đều là vọng thức, nói riêng thì bất giác là vô minh căn bản kia, tâm nhiễm là nghiệp thức kia, cho đến thức tương tục ở sau. Niệm không có tự tướng chẳng lìa chân giác, là nói vọng pháp kia chẳng thành lập riêng, nên trái với chân mà có, nếu không có chân này thì vọng không thể sinh. Nêu dụ: Như người mê, nghóa là các chúng sinh… là những loại đui mù. Quên lý Nhị đế không biết bến bờ vượt khỏi sinh tử, giống như người mê. Nương phương hướng nên mê, nghóa là dụ nương chân nên có vọng. Nếu lìa phương hướng thì không có mê, nếu không có chân thức thì không có vọng. Cho nên kinh Thắng Man nói nương Như Lai tàng mà có sinh có tử, nếu không có tàng thức thì không chán khổ cầu Niết- bàn. Hợp dụ: Chúng sinh cũng như vậy, nghóa là hợp với dụ người mê ở trên. Nương giác nên mê, nghóa là hợp với dụ nương phương hướng nên mê. Nếu lìa tánh giác thì không có Bất giác, nghóa là hợp với dụ nếu lìa phương hướng thì không có mê. 2. Trái với chân giác: Có ba câu: Giải thích nghóa giác Vì có tâm Bất giác nên biết được tên và ý nghóa, tức là nói chân giác. Nói về thể dứt bặt đối đãi Nếu lìa tâm Bất giác thì không có chân thức. Trừ chấp Tuy đều là chân cũng không có tướng chân, nghóa là lìa tâm bất giác thì không có tự tướng chân giác để nói. 2. Nói về nghóa các hoặc chuyển sinh: Chia làm ba: Nói chung Giải thích riêng Từ “Thế nào” trở xuống. Kết thúc phần giải thích Từ “Nên biết vô minh” trở xuống. Nói chung: Lại nữa, nương theo Bất giác nên sinh ra ba tướng, nghóa là nương vô minh căn bản tướng tâm tâm sở dần dần thô nên sinh ra ba tướng, cùng tương ưng chẳng lìa bất giác kia, nghóa là làm Thể của thức thứ bảy. Giải thích riêng: Trong đó tùy nghóa mà phân biệt, nghóa là trong bảy thức có sáu, trong sáu thức có bốn. Nhưng trong sáu thức trước, bốn thứ đầu là không tương ưng, hai thức sau là tương ưng. Vì giống với sáu thức nên trong chánh văn chia ra hai phần. Nói về bất tương ưng Nói về tương ưng Từ “Vì có cảnh giới” trở xuống. Nói về Bất tương ưng: Vô minh nghiệp tướng, nghóa là vô minh là chỗ nương của kia. Nghiệp bất giác, có nghóa là động. Tướng Năng kiến, cũng gọi là chuyển thức. Tâm tướng chuyển thô, chuyển khởi ngoại tướng gọi là chuyển. Đó là ba tâm. Tướng Cảnh giới, cũng gọi là hiện thức, vì trong vọng tâm vọng tạo ra cảnh giới hiển hiện như gương. Nói về nghóa tương ưng: Vì duyên cảnh nên sinh ra sáu thứ tướng, nghóa là vì tương ưng nên hợp lại thành một loại. Trí tướng, là cảnh ở đoạn trước đã nói phân biệt thành nhiễm tịnh trái thuận khác nhau, chẳng phải trí hiểu biết. Tướng tương tục, là nương trí ở trên, tướng thức tâm chuyển thành thô, cảnh giới dẫn tâm, tâm phân biệt theo cảnh giới không thôi, giống như sóng biển, nên gọi là nối tiếp. Lại nữa, nhân quả ba đời không để dứt mất. Tướng Chấp thủ, nghóa là mười kiết sử căn bản nắm giữ tánh vô minh. Tướng Kế danh tự, cái gọi là năm kiến thô khởi phiền não. Nếu nói chung về mười kiết sử thì đều là hai tướng này, hợp thành phần phiền não. Tướng Khởi nghiệp, nghóa là nương phiền não tạo các thứ nghiệp. Tướng Nghiệp hệ khổ, nghóa là nương nghiệp thọ báo. Trong sáu loại này, hai loại đầu là thức thứ bảy, bốn loại sau là thức thứ sáu. Kết thúc phần giải thích: Nên biết vô minh sinh tất cả pháp nhiễm, vì vô minh là căn bản của các hoặc. Pháp nhiễm đều là tướng bất giác, vì đều là tướng dụng của vô minh. 3. Sơ lược về nhân quả: Cũng có thể giải thích đoạn trên là chẳng phải một. Chia làm ba: Nêu chung số lượng Kể tên Từ “Thế nào” trở xuống. Chương giải thích Từ “Tướng giống nhau là” trở xuống. 3. Chương giải thích: Chia làm hai: Chương giải thích giống nhau Chương giải thích khác nhau 1. Chương giải thích giống nhau: Chia làm ba: Nêu dụ Hợp dụ Từ “vô lậu như thế” trở xuống. H 3. Dẫn kinh chứng minh Từ “Cho nên” trở xuống. Nêu dụ: Ví như vật gốm sứ, nghóa là dụ cho thức thứ bảy và các pháp vọng. Đều giống tánh tướng vị trần, nghóa là dụ cho chân như là Thể. Hợp dụ: Vô minh vô lậu đều là bảy thức. Đều giống chân như, nghóa là hợp với dụ giống với tánh tướng của vi trần ở trên. Dẫn kinh chứng minh: Cho nên trong kinh nói nương theo nghóa này, nghóa là dùng kinh kia giải thích thành tựu nghóa này, có hai câu: Câu đầu, nói về lý Niết-bàn Câu sau, giải thích thắc mắc Câu đầu, nói về lý niết-bàn: Tất cả chúng sinh xưa nay thường trụ Niết-bàn Bồ-đề, nghóa là chỉ là chân thức, vì không còn pháp nào khác. Chẳng phải tướng để tu để tạo tác, nghóa là chẳng phải như Báo thân và Ứùng thân. Rốt ráo không có chứng đắc, tức đã là Thường, đã được Thường cũng lại không thật. Cũng không có sắc tướng để thấy, nghóa là vì là lý vô sắc. Giải thích thắc mắc: Nếu không có sắc tướng, nghóa là thắc mắc làm sao dùng thân tướng làm lợi ích cho chúng sinh được, nên giải thích thắc mắc này. Mà có thấy sắc, nghóa là chỉ tùy nhiễm mà tạo ra nghiệp huyễn, chẳng phải chân trí, lý sắc tánh bất không. Vì sao chẳng phải lý trí vô sắc, nghóa là vì trí tướng không thể thấy được. 2. Chương giải thích khác nhau: Chia làm hai: Nêu dụ Hợp dụ Từ “vô lậu như thế” trở xuống. 1. Nêu dụ: Đại ý đồng khác này, nghóa là hai thức chân và vọng có nghóa giống nhau và khác nhau. Giống, nghóa là vì ngoài chân không có vọng, ngoài vọng không có chân. Khác, nghóa là vì chân vọng trái nhau, như sóng trong nước, nước chẳng ngoài sóng, sóng chẳng ngoài nước đó là nghóa giống nhau; nước và sóng chẳng phải một đó là khác nhau. TIẾT B 2.Chân vọng nương nhau giữ gìn nhau: Chia làm năm: Nói về chân vọng chuyển sinh nương nhau giữ gìn nhau Nói nghóa chuyển sinh ấy trí cạn cợt chẳng biết được Từ “Nương nghiệp vô minh mà khởi” trở xuống. Khi trở về nguồn cội, sáu và bảy thức mê lầm được đối trị dứt từng phần. Từ “tâm nhiễm tâm có sáu thứ” trở xuống. Nhiếp các hoặc, y cứ hai chướng để nói. Từ “Lại nữa, tâm nhiễm nghóa là” trở xuống. Xả tướng diệt Từ “Lại nữa, phân biệt tướng sinh diệt” trở xuống. Tuy ở trên đã phân biệt rộng tướng đối trị đoạn dứt, nay nhiếp rộng để tóm lược nói rõ tướng diệt. 1. Nói về chân vọng chuyển sinh nương giữ: Chia làm hai: Nêu chung về chuyển sinh Giải thích riêng về tướng chuyển sinh Từ “Nghóa này thế nào” trở xuống. Nêu chung về chuyển sinh: Lại nữa, tướng nhân duyên sinh diệt, nghóa là hiển bày tên gọi. Cái gọi là chúng sinh nương tâm, nghóa là thức thứ tám, ý ý thức chuyển nên có bảy thức, sáu thức. Chân thức là chỗ nương, làm chủ tập khởi của thần tri kia, gọi là Tâm. Vọng thức đối đãi chung tất cả cảnh giới phát sinh sáu thức, gọi là Ý. Sụ thức nương ý vì biết rõ sáu trần sự tướng cảnh giới nên gọi là Ý thức. Trong kinh cũng nói ba thức này giống như thế, danh từ có khác chút ít. Gọi là thức Phân biệt sự cũng gọi là chuyển thức. Gọi là Nghiệp thức cũng gọi là Hiện thức. Tên gọi thức Chân tướng. Thức Phân biệt sự, nghóa là sáu thức của tâm, vì phân biệt được sáu trần sự nên gọi là Phân biệt sự, tức sáu thức này chuyển theo sáu trần nên có tên là chuyển, không giống bảy thức chuyển khởi tướng ngoài gọi là Chuyển. Nghiệp tướng, Hiện tướng là thức thứ bảy, là tên sáu thức vì gồm nhiếp cả hai. Thức Chân tướng, là thức thứ tám, tên gọi tuy khác mà nghóa không khác với ba loại trước. Giải thích riêng về tướng chuyển sinh: Chia làm ba: Nói về bảy thức tâm Nguồn gốc sinh tử của bảy thức Từ “Cho nên ba cõi” trở xuống. Nói về sáu thức tâm Từ “Lại nữa ý thức” trở xuống. 1. Nói về bảy thức tâm: Chia làm hai: Giải thích sơ lược Giải thích rộng Từ “Ý này có năm thứ” trở xuống. Ý nghóa này thế nào sẽ đặt câu hỏi để hỏi đáp. Giải thích sơ lược: Vì nương thức A-lại-da mà nói, nghóa là tên gọi và ý nghóa giống như đoạn trên đã nói. Có vô minh, là cội gốc sinh tử. Theo lý thì A-lại- da có đồng thời với vô minh, nhưng vì nói theo nghóa thì nương lý khởi mê là vô minh căn bản. Vô minh tức là Tâm, chẳng phải ngoài tâm có vô minh riêng. Bất giác mà sinh khởi, đó là nghiệp tướng. Năng hiện, nghóa là chuyển tướng. Năng kiến, cũng là Hiện tướng, có công năng chấp lấy cảnh giới, là Trí tướng. Khởi niệm tương tục, là thức tương tục. Hỏi: Từ trước đến nay đã phân biệt rõ ràng, vì sao lại nói lần nữa? Đáp: Đoạn trên nói về nghóa mê lầm của bảy thức kia, đoạn này nói về nghóa của bảy thức tâm kia cho nên hai đoạn khác nhau. Giải thích rộng: Chia làm hai: Nêu sơ lược số lượng Phân biệt tên gọi Từ “Thế nào” trở xuống. Nêu sơ lược số lượng: Giải thích ý này lại có năm thứ, đó là nêu số lượng. Nghiệp thức, là nương vô minh ở trên lại có tâm vọng niệm bất giác sinh khởi, gọi là nghiệp. Vì sao không gọi là thức vô minh? Vì đây là Thể căn bản. Trong hằng sa pháp chia thành năm loại: Chuyển thức, là nương nghiệp thức trước, tâm suy tính thô dần để chấp lấy tướng ngoài nên gọi là chuyển thức. Hiện thức, là nương chuyển thức trên sinh khởi cảnh giới, lại hiển bày tự tâm nên gọi là hiện thức. Năm thô đến liền hiện không có trước sau, là nói các cảnh giới cùng hiện một lúc. Hỏi: Thức này khi chưa có cảnh giới chỉ có tướng tâm thức, vì sao không nói pháp trần cảnh. Đáp: Nếu nói về lý thật thì cùng có, nhưng nói riêng về thô thì có năm trần. Lại nữa, pháp trần không còn có trần nào khác bèn duyên theo năm trần, vì tìm cầu Thể (trần) cảnh lại không có khác, cho nên không nói. Tri thức, là đối với các pháp hiện trong hiện thức ở trước, phân biệt nhiễm tịnh, trái thuận khác nhau, nên gọi là Trí thức. Thức Tương tục, nghóa là nương Trí thức ở trước, tâm tướng chuyển sang thô, cảnh giới sự tâm, tâm theo cảnh giới phân biệt không dứt nên gọi thức tương tục. Lại nữa, tâm này giữ gìn nhân quả thiện ác trong ba đời không để hoại mất nên gọi là “tương tục”. Phân biệt tên gọi: (Nghóa nguồn gốc bảy thức) Chia làm bốn: Sinh tử không có tự thể, do vọng tâm mà có Giải thích lý do Từ “Nghóa này thế nào” trở xuống. Khuyên người nên biết Từ “Nên biết thế gian” trở xuống. Kết luận không có Thể, chỉ nương vào tâm. Từ “Có nên tất cả pháp” trở xuống. 1. Sinh tử không có tự Thể, do vọng tâm mà có: Chia làm hai: Giải thích xuôi Giải thích ngược Cho nên, nghóa là ở trên nói về duyên sinh của năm tâm tướng nên có sinh tử, chỉ có tâm là chính. Ba cõi luống dối chỉ do tâm tạo, những việc ta thấy như mộng như bóng trong gương không có tự thể. Nếu nói gần thì tâm là bảy thức, nếu nói xa thì tâm là tám thức kia, lìa tâm thì không có. “Sáu trần cảnh” là giải thích ngược. Giải thích lý do: Nghóa này thế nào, nghóa là bắt đầu đặt câu hỏi. Tất cả pháp, nghóa là các pháp sinh tử. Từ tâm sinh khởi, đó là chân thức. Vọng chẳng có tự thể riêng do nương chân mà sinh khởi nên gọi là từ tâm khởi. Do vọng niệm mà sinh, vọng niệm là thức thứ bảy kia. Nếu nói gần thì các pháp sinh tử từ vọng niệm sinh ra. Trước nói về lý do sinh khởi, sau nói về Thể chính, hợp thành việc các pháp sinh. Tất cả phân biệt tức là phân biệt tự tâm, nghóa là tự tâm là thức chân tướng kia. Chân thức này, nghóa là pháp chân thật trong chúng sinh chạy theo vọng duyên nên có vọng khác. Tất cả tâm thức phân biệt chân lý, tức là phân biệt tự tâm, không có lý do nào khác. Tâm không thấy tâm, nghóa là nói theo chân thì không phân biệt vì không có năng sở, vì không có tướng thật có nên gọi là chẳng thấy tâm. Đoạn này nói lên sinh tử không có tự Thể, chân đế không có Tướng, đạo lý vốn như thế. Kinh nói hai đế, tông chỉ chủ yếu ở chỗ này. Quán biết sinh tử vô thể: Nên biết tất cả cảnh thế gian, cũng là tất cả pháp ở đoạn trên, đều nương theo vọng tâm vô minh của chúng sinh mà được giữ gìn, đây là Thể, vô minh là thức vô minh kia, vọng tâm là nghiệp thức kia. Từ đoạn trên đến thức tương tục gọi chung là vọng tâm. Đây là Thể của sáu thức sinh tử nên gọi là “giữ gìn”. Kết luận về vô thể: Cho nên tất cả pháp như bóng trong gương, không thật có tự thể. Duy tâm, nghóa là chỉ tùy theo tâm làm từ tâm, tâm sinh thì pháp sinh, tâm diệt thì pháp diệt nên nói là duy tâm. Luống dối, là pháp năng tùy. 3. Nói về sáu thức tâm: Lại nữa vọng thức, là sáu thức, tức là thức tương tục ở đây. Nương sự chấp trước của phàm phu mà chấp ngã ngã sở dần dần sâu nặng, gọi là chấp tánh vô minh căn bản. Các thứ vọng chấp phan duyên theo sự, nghóa là tướng kế danh tự, đây là nói về căn bản. Lại nữa, từ câu này trở xuống là nói về chi mạt (vô minh), trong đó nương kiến ái mà phiền não thêm lớn, kiến là năm kiến, ái là năm độn sử. 2. Trí cạn cợt chẳng biết được: Chia làm ba: Nói lên điều khó biết ấy Giải thích lý do khó biết Từ “Vì sao” trở xuống. Tổng kết những điều khó biết Từ “Cho nên” trở xuống. 1. Nói lên những điều khó biết ấy: Nương vô minh huân tập mà thức được khởi, là nói lên tên gọi. Từ “Nghiệp thức” trở xuống, nếu nói sâu kín cùng tột về vô minh cũng như thế. Từ đây trở xuống là phần nói về hiểu biết theo người, vì người khác nhau nên có bốn vị: Phàm phu, Nhị thừa: Hạng này một bề chẳng phải cảnh giới Thập tín trở lên: Hạng người này phát tâm thỉ giác quán sát lý này Sơ địa trở lên cho đến Thập địa: Gọi là Biết chút ít. Chư Phật: Phật mới hiểu thấu nghóa chân vọng duyên khởi sinh ra lẫn nhau. Xem chánh văn trình bày rất dễ biết. Giải thích lý do Khó biết: Vì sao tâm này xưa nay thanh tịnh mà có vô minh, nghóa là chân thức này theo duyên mà thành nghóa vọng. vô minh là thức vô minh kia. Bị vô minh làm nhiễm ô nên có tâm nhiễm, nghóa là nghiệp thức trở xuống gọi là tâm nhiễm; tuy có tâm nhiễm mà thường chẳng thay đổi, tuy tướng thành nhiễm mà chân tánh không đổi, nên kinh Thắng Man nói Tự tánh tâm thanh tịnh bị phiền não nhiễm ô, khó có thể biết rõ. Chân mà thành vọng, dường như vọng mà vẫn thường chân, lý này chư Phật mới biết cùng tột, thức trí chẳng thể biết được. Kết luận nói lên điều khó biết: Cho nên nghóa này chỉ có Phật mới biết, nghóa là chỉ Phật là người chứng ngộ. Gọi là tâm tánh, nghóa là nêu thể kia vì Thường vô niệm nên gọi là bất biến. Vì chẳng thông hiểu Nhất Pháp Giới, tâm chẳng tương ưng, bỗng nhiên niệm khởi gọi là vô minh. Đó là kết thúc phần bị vô minh nhiễm ô ở trên. Phần kết luận nói trên là tự tánh thanh tịnh nói trên. 3. Phần hạn dứt hoặc khi: Về nguồn Chia làm hai: Nói về phần hạn dứt hoặc Giải thích từ ngữ tương ưng, bất tương ưng. Từ “Nói tương ưng là” trở xuống. 1. Nói về phần hạn dứt hoặc: Chia làm hai: Diệt hoặc của sáu thức Hết hoặc của bảy thức “Hoặc” trong sáu thức, có hai loại: Một là tướng chấp trước, hai là tướng Kế danh tự. Biết đối trị, nghóa là tuệ đối trị hai hoặc ở trước tương ưng với ý thức trong luận Thành Thật nói là Không tâm. “Kế danh tự” trong pháp Tiểu thừa khi Kiến Đạo được dứt trừ, trong pháp Đại thừa khi Thập tín được dứt trừ. “tướng Chấp thủ” trong pháp Tiểu thừa khi được Vô học thì dứt trừ rốt ráo, trong pháp Đại thừa khi chủng tánh thì dứt trừ. Nay trong luận này lược bớt không có phần dứt hoặc Kế danh tự. Sáu tâm nhiễm, nghóa là trừ thức vô minh, còn lại đều là tâm nhiễm. Có sáu thứ, nghóa là nêu chung sáu thức và bảy thức. Chấp tương ưng nhiễm, nghóa là tướng chấp thủ. Địa vị Tín tương ưng, nghóa là Chủng tánh. Trí tuệ đối trị, nghóa là trong Tiểu thừa khi nhập Niết-bàn vô dư thì dứt sạch; trong pháp Đại thừa khi vào Sơ địa thì dứt sạch. Bất đoạn nhiễm, cũng là thức tương tục, Chủng tánh trở lên cho đến Sơ địa mới dứt sạch. Trí tương ưng nhiễm. Y cụ giới địa, là Địa thứ hai, Vô tướng phương tiện địa, nghóa là Địa thứ bảy. Từ Bát địa không có tướng phương tiện nên gọi là Vô tướng phương tiện. Nói Sắc tự tại địa, là Địa thứ tám, có thể thanh tịnh cõi Phật gọi là Sắc tự tại. Năng kiến, nghóa là chuyển thức. Địa thứ chín, khéo biết sơ tâm gọi là tâm tự tại. Bồ-tát Địa Tận là Địa thứ mười, không rõ nghóa Nhất pháp là căn bản vô minh địa. Trước địa là học đoạn, từ Sơ địa trở lên là Ly đoạn, Phật địa mới dứt sạch. Kinh Thắng Man nói Vô minh địa là chỗ dứt của trí Phật. Biết đối trị, cũng là bảy thức. Hiểu biết của duyên chiếu đối trị sáu loại trước, hiểu biết này cũng sạch hết. Sơ địa dứt bỏ cho đến thành Phật mới hết. Hỏi: Trong Như Lai địa dứt nghiệp vô minh là thế nào? Đáp: Chân chiếu dứt hoặc hợp lại nói đoạn có hai loại: Một là chính đoạn, hai là chứng đoạn. Duyên chiếu là chính đoạn, chân chiếu là chứng đoạn. Trong luận này nhắm vào chứng dứt nên vào địa vị Như Lai mới dứt. 2. Giải thích từ ngữ tương ưng bất tương ưng: Có nhiều cách giải thích khác nhau. Theo Tỳ-đàm thì tâm và tâm sở đồng thời. Khi tâm vương khởi các tâm sở cũng đều khởi giúp nhau thành tựu gọi là tương ưng. Theo luận Thành Thật thì tâm tâm sở có trước sau. Sau khi Thức tâm diệt, tưởng tâm đồng chấp lấy một cảnh gọi là tương ưng. Trong pháp Đại thừa, tâm tướng chuyển thô, dụng nhiễm và tâm tương ưng nhau, nên gọi là tương ưng. Có nghóa là tâm niệm và pháp khác nhau, niệm là dụng nhiễm tâm biết. Vì cái Biết tương duyên tương đồng, nghóa là tâm thể là Biết, dụng nhiễm cũng Biết, thì theo cảnh mê nên nói đồng một duyên Biết. Bất tương ưng, nghóa là tức tâm bất giác thường không khác nhau, tức chỉ tâm thể, vì vô minh chẳng phải duyên ngoài tạm mà có dụng mê. Toàn thể là Tâm, toàn thể là mê nên không khác nhau. Chẳng giống biết tướng duyên tướng, là vì thể dụng chẳng khác. Cũng có thể tâm và tướng cảnh giới cùng Thể nên gọi tâm tương ưng. Trong sáu thứ trước, hiện thức về sau là tương ưng, đó là xét theo thô mà phân biệt, nhiễm tịnh của tri thức gọi là tương ưng. Nếu xét theo tế thì chỉ có vô minh địa là đúng. Bất tương ưng nghiệp thức về sau là nghóa tương ưng, vì đều là ngọn ngành trong hằng sa. Nghóa này muốn hiểu cùng tột phải luận bàn rộng rãi, trong đây chỉ phân biệt hai thứ: Đối tâm thức mà nói nghóa tương ưng bất tương ưng. Ngay thể mê lầm nói về nghóa tương ưng bất tương ưng. Đối tâm, nghóa là tâm có ba thứ: Một là tâm sở sự thức, nghóa là sáu thức; hai là vọng thức tâm là thức thứ bảy; ba là chân thức tâm nghóa là thức thứ tám. Trong Sự Thức kia các phiền não có hai nghóa: Nghóa tương ưng, nghóa là các hoặc hiện khởi là tâm phiền não, đối với tâm khác thể, đồng duyên với tâm nên nói tương ưng, như thọ, tưởng… Nghóa Bất tương ưng, nghóa là tánh thành kiết sử, tức là nói tâm thể là tánh phiền não chẳng có tâm sở riêng, đồng tương ưng với tâm vương kia, nên nói bất tương ưng. Trong Vọng Thức cũng có hai nghóa; tâm có sáu loại như trên đã nói, trong sáu loại thì bốn loại căn bản là Bất tương ưng, hai loại cuối đều là nghóa tương ưng. Nghóa tương ưng giải thích chẳng khác trước, Bất tương ưng tức chỉ cho bảy thức. Thể của tâm vọng tưởng là phiền não, chẳng phải ngoài tâm có phiền não riêng tương ưng với tâm gọi là Bất tương ưng. Hỏi: Tại sao thô thì tương ưng, tế không tương ưng? Đáp: Theo thô khi tác ý có tướng khác sinh khởi nên khác với tâm đồng tương ưng. Theo tế thì tánh thành, chẳng phải sinh khởi riêng khác nên gọi là Bất tương ưng. Trong Chân Thức cũng có hai nghóa: Chân vọng hòa hợp gọi là nghóa tương ưng Chân vọng tánh khác gọi là bất tương ưng. Kế đến, theo Hoặc Thể Tướng nói về nghóa của tương ưng bất tương ưng. Hoặc thể có bốn: Vô minh địa Vô minh khởi Tứ trụ địa Tứ trụ địa khởi. Trong bốn loại này, Vô minh trụ địa nhất định không tương ưng nên kinh Thắng Man nói Tâm bất tương ưng vô thỉ vô minh trụ địa. Tâm thể của vọng thức là vô minh nên không tương ưng. Trước khi khởi vô minh kinh nói là tương ưng nên Thắng Man nói ở đây khởi phiền não sát-na tương ưng mà tùy theo nghóa nói đến chỗ vi tế cũng có nghóa Bất tương ưng, thế thì làm sao biết? Như trong luận này, nghiệp chuyển hiện thức là Bất tương ưng nhiễm, Trí thức tương tục thức là tương ưng nhiễm, nhưng năm thức này vì đều từ vô minh khởi nên có nghóa không tương ưng. Hỏi: Nếu vậy tại sao Thắng Man chỉ nói một chiều là tương ưng? Đáp: Vì khác vô minh nên nói nghiêng lệch như thế. Tứ trụ địa tướng chung chỉ là tâm tùy theo nghóa tương ưng, đó là nói theo thô; theo tế có hai nghóa: Hoặc hiện khởi tương ưng với tâm, hoặc tánh thành đồng thể với tâm gọi là Bất tương ưng. Vì có nghóa này nên có người nói nhất định tâm tương ưng, có người nói nhất định Bất tương ưng. Nghóa đã nghiêng lệch về hai bên, không nên cố chấp. Tứ trụ sở khởi một bề tương ưng vì thô khởi kia khác với tâm, nên Thắng Man nói bốn trụ khởi sát-na tương ưng. Trong luận này theo vọng thức mà nói về nghóa tương ưng Bất tương ưng. 4. Theo hai chướng để Phân biệt: Trước đã nói sáu thứ thu nhiếp thành hai chướng, vô minh căn bản là trí chướng, nghiệp thức trở xuống là phiền não chướng. Nhưng hai chướng này phải bàn luận rộng. Hai chướng là hai lớp mành lưới làm chúng sinh chìm đắm trong sinh tử, là cội nguồn của các hoặc, là cửa ải ngăn chận đường Niết-bàn, làm chướng ngăn Thánh đạo nên gọi là chướng. Chướng có vô lượng, tóm lược có hai loại là Phiền não chướng và Trí chướng. Ý nghóa hai chướng có ba cách giải thích: Cách I. Bốn trụ phiền não là phiền não chướng. Vô minh trụ địa là trí chướng. Cách II. Năm trụ tánh kiết là phiền não chướng. Trong sự, vô tri là trí chướng. Vô minh có hai loại là mê lý vô minh và sự vô tri, mê lý vô minh là tánh kết. Cách III. Năm trụ tánh kiết và sự vô tri đồng là phiền não chướng. Phân biệt duyên trí là trí chướng. - Bốn trụ phiền não là phiền não chướng. Chia làm bốn: Định chướng tướng là ấn định tướng chướng Thích chướng danh là giải thích tên chướng Nói về đoạn xứ là nói về chướng phải dứt Đối chướng nói giải thoát là đối chướng phân biệt về giải thoát. Ấn Định tướng chướng: Ấn định tướng của chướng, làm sao biết? Bốn trụ phiền não là phiền não chướng, vô minh trụ địa cho là trí chướng. Dùng kinh Thắng Man so với luận Địa Trì kiểm chứng để biết. Trong kinh Thắng Man, người Nhị thừa chỉ dứt bốn trụ không dứt vô minh trụ địa. Luận Địa Trì nói người Nhị thừa phiền não chướng thanh tịnh chẳng phải trí chướng thanh tịnh. “Phiền não thanh tịnh” cũng là chỗ dứt trừ của bốn trụ trong kinh Thắng Man. “Chẳng phải trí chướng thanh tịnh” là chẳng dứt vô minh trụ địa, nên biết bốn trụ là phiền não chướng, vô minh trụ địa là trí chướng. Giải thích tên chướng: Kiết sử của năm trụ nói chung là làm cho não loạn và mệt mỏi, đều làm chướng trí. Vì sao bốn trụ lại bị gọi là phiền não chướng, riêng vô minh là trí chướng? Đáp: Lý thật đều chung, nhưng lại chia thành hai chướng ẩn hiển khác nhau để gọi tên. Đồng ẩn hiển như nhau, tùy công năng mạnh của mỗi chướng mà phân biệt hai tên. Kiết sử của bốn trụ phiền não hiện khởi phát nghiệp sinh mệt mỏi, não loạn, ý nghóa nghiêng về tên gọi phiền não, khác với hoặc và hiểu của tâm có thể khác nhau là xa cách và che lấp chướng ngại khiến trí tuệ yếu kém nên không gọi là trí chướng. Vô minh ngu lầm là lý do chính khiến xa rời sự hiểu biết rõ ràng, gần gũi vô minh nghóa là che lấp chướng ngại trí tuệ rất nhiều nên gọi là trí chướng, nhậm tánh vô tri, chẳng phải hiện khởi, chẳng phát được nghiệp, tự chuốc khổ báo, mệt mỏi não loạn, yếu kém nên không gọi là phiền não chướng. Nói về chỗ dứt trừ: Tóm lược có hai bậc: Phân biệt tương đối theo Đại, Tiểu thừa Phân biệt thế gian, xuất thế gian tương đối theo Đại thừa. 1. Phân biệt tương đối theo Đại, Tiểu thừa Chia làm ba: Ẩn hiển lẫn nhau: Người Nhị thừa chỉ dứt phiền não, Bồ-tát chỉ diệt trí chướng. Nhị thừa chẳng trừ trí chướng từng phần vì chỗ dứt trừ yếu ớt, ẩn tế theo thô nên chẳng nói tới; Bồ-tát chẳng phải không dứt phiền não vì chỗ dứt ngược lại ẩn thô theo tế cho nên không nói. Hình tướng hơn kém: Nhị thừa hiểu biết kém chỉ dứt phiền não, Bồ-tát đối trị rộng hai chướng đều dứt nên Địa Trì nói Thanh văn Duyên giác phiền não chướng thanh tịnh chẳng phải Trí chướng thanh tịnh, Bồ-tát chủng tánh đầy đủ hai thứ thanh tịnh. Y cứ vào thật mà nói chung: Nhị thừa, Bồ-tát hai chướng đều dứt. 2. Theo Đại thừa thì Phân biệt tương đối thế gian, xuất thế gian: Theo Đại thừa phân biệt tương đối thế gian xuất thế gian, nghóa là trước Giải Hạnh gọi là thế gian, Sơ địa trở lên gọi là Xuất thế. Trong đó có phân biệt bốn môn: Bỏ thô nói tế Bồ-tát Địa Tiền đối với hai chướng kia một bề chưa dứt trừ, Sơ địa trở lên hai chướng đều dứt nên trong Niết-bàn nói Địa tiền có đủ tánh phiền não. Ẩn hiển lẫn nhau Địa Tiền là thế gian chỉ dứt phiền não, Sơ địa trở lên chỉ dứt trí chướng. Hình tướng hơn kém Địa Tiền hiểu biết kém chỉ dứt phiền não, Địa Thượng hiểu biết thù thắng nên dứt cả hai chướng. Y cứ vào thật Thế gian và xuất thế gian đều dứt cả hai chướng, tướng trạng thế nào? 1. Trong phiền não chướng: Chia làm hai: Tử kết Quả phược Tử kết phiền não Địa tiền dứt trừ, quả phược phiền não Địa thượng dứt trừ. Tử kết. Chia làm hai: Chánh sử tác ý mà sinh Dư tập, nhậm tánh mà khởi Chánh sử phiền não, Thanh văn Duyên giác cho đến chủng tánh dứt trừ sạch hết, kết sử của dư tập nhậm tánh khởi chủng tánh trở lên cho đến tướng địa mới dứt trừ rốt ráo. Cho nên Địa Trì nói a-tăng-kỳ đầu tiên vượt qua Giải Hạnh, trụ vào Hoan hỷ địa, dứt tăng thượng trung ác thú Chánh sử phiền não bất thiện, gọi là tăng thượng tập gọi là trung. Khi nhập Hoan Hỷ địa tất cả đều dứt sạch. 2. Trong quả phược: Chia làm hai: Chánh sử tác ý mà sinh Tập khí nhậm vận mà khởi Chánh sử phiền não, cái gọi là ái Phật ái Bồ-đề… bắt đầu từ Sơ địa thứ lớp dứt trừ, cho đến Bất động địa là dứt sạch cho nên Địa Trì nói a- tăng-kỳ thứ nhất vượt qua Trụ thứ bảy vào Địa thứ tám, phiền não nhỏ nhiệm thảy đều dứt trừ. Bát địa trở lên dứt trừ dư tập kia nên Địa Trì nói a-tăng-kỳ thứ ba dứt trừ tập khí, vào Trụ tối thượng. 2. Trí chướng: Chia làm hai: Mê tướng Mê thật 1. Mê tướng: Thông thường pháp thú hướng gọi là tướng, không thể ngộ giải là nó vốn Không thì gọi đó là mê, Như Lai tạng tánh gọi là thật mà không thể thấu hiểu cùng tột nên gọi là mê. Vô minh mê tướng là chỗ Địa tiền dứt trừ, vô minh mê thật là chỗ dẹp bỏ của Địa thượng. Chia làm hai: Mê tướng lập tánh Mê tánh lập tướng Mê tướng, nghóa là pháp vọng nhóm họp luống dối cho đó là tướng, không biết nhóm họp luống dối nên lập ra tướng cố định, gọi là mê. Mê tánh, nghóa là thông thường pháp sinh khởi vô tánh mà cho là tánh, vì mê tánh này nên lập tướng nhân duyên. Vô minh mê tướng Thanh văn Duyên giác cho đến tánh chủng dứt trừ cùng tận, vô minh mê tánh tập chủng tánh trở lên cho đến Sơ địa thảy đều dứt trừ. 2. Vô minh mê thật: Chia làm hai: 2a. Mê thật tướng 2b. Mê thật tánh Vắng lặng vô vi là thật tướng kia, không thể biết vô vi vắng lặng này nên gọi là mê tướng, trong Như Lai tàng vốn có hằng sa Phật pháp chân thật là thật tánh kia, không thể chứng đến tột cùng nên nói là mê tánh. Hai vô minh này, nói về dứt trừ không nhất định, nếu theo Địa Kinh thì Sơ địa trở lên cho đến địa thứ sáu dứt được tướng mê này cho nên phân biệt được thuận nhẫn. Địa thứ bảy trở lên dứt trừ mê thật tánh cho nên chứng được thể Vô sinh nhẫn. Nếu theo Niết-bàn thì địa thứ chín lại dứt trừ tướng mê kia nên nói là thấy nghe Phật tánh; Thập địa trở lên dứt mê thật tánh nên nói là Mắt thấy Phật tánh, để nghiệm chứng hai chướng đều trước sau cùng đoạn, đối trị dứt trừ phần thô. 4. Đối chướng nói về giải thoát: Dứt chướng phiền não được tâm giải thoát, dứt trừ trí chướng được tuệ giải thoát. Ý nghóa này thế nào? Phân biệt có hai phần: 1. Ẩn hiển lẫn nhau: Dứt phiền não chướng, chư Phật, Bồ-tát thế đế Tâm giải thoát dứt trừ trí chướng, chân đế Tuệ giải thoát. Vì sao? Phiền não nhiễm sự nên dứt phiền não, Thế đế tâm giải thoát dứt phiền não, lý thật tuy tùy theo chủ gọi là có tất cả đức giải thoát, nói chung là tâm giải thoát. Vô minh chướng lý nên dứt vô minh, chân đế tuệ giải thoát dứt vô minh. Bấy giờ, tức lý được thành tựu tất cả đức giải thoát, theo chủ mà gọi tên, gọi chung là tuệ giải thoát. B 2. Đối chướng phân biệt rộng hẹp: Dứt phiền não chướng vì chỉ dứt tâm nhiễm ái trong sự, Thế đế tâm giải thoát khi dứt trí chướng trừ vô minh địa, và dứt vô minh thô trong sự nên nhị đế Tuệ giải thoát. Đây là lần giải thích đầu đã xong.  <卷>QUYỂN 2 (Phần 1) <詞>GIẢI THÍCH CÁCH 2: Chia làm bốn môn: Ấn định chướng tướng Giải thích tên chướng Nói chỗ dứt trừ Đối chướng nói về giải thoát 1. Ấn định tướng: Định tướng của chướng làm sao biết được? Năm trụ tánh kết là phiền não chướng, vô tri trong sự là trí chướng? Như Niết-bàn nói dứt trừ tất cả tham sân si… được tâm giải thoát tất cả sở tri không chướng ngại nên được Tuệ giải thoát. Tham sân si… tức là năm trụ tánh kiết phiền não, tất cả sở tri được vô ngại là nên biết tức là trừ sự vô tri. Lại nữa, như Địa Kinh nói Phật vô ngại là Tuệ giải thoát, nên biết tức là trừ sự vô tri; xa lìa si nhiễm là tâm giải thoát nên biết tức là năm trụ tánh kiết là phiền não chướng. Lại nữa, Tạp Tâm nói, Như Lai dứt trừ hai thứ vô tri: Dứt nhiễm ô Dứt bất nhiễm ô. Nhiễm ô vô tri tức là năm trụ tánh kiết phiền não, bất nhiễm ô vô tri tức là tâm vô minh trong sự. Y cứ theo đây để xem xét những điều này sẽ biết: Năm trụ tánh kiết kia là phiền não chướng, vô tri trong sự là trí chướng. Giải thích tên chướng: Năm trụ tánh kiết làm sinh khởi sinh tử biến dịch và phần đoạn, làm não loạn và nhọc hành giả, nên gọi là phiền não chướng. Ngu mê trong sự làm chướng ngại hạt giống Như Lai hiểu biết rõ ràng, cho nên nói đây là trí chướng. Nói rõ về pháp dứt trừ: Có ba chỗ khác nhau: Đối nhau phân biệt thế gian, xuất thế gian Đối nhau phân biệt công dụng, vô công dụng Đối nhau phân biệt nhân quả 1. Đối nhau phân biệt thế gian, xuất thế gian: Chia làm hai: Ẩn hiển lẫn nhau: Địa tiền dứt trừ năm trụ tánh kiết vì kia xả tướng để thú hướng thuận theo chân như. Sơ địa trở lên dứt trừ Trí chướng vì Địa thượng kia khế hợp pháp giới, rõ biết các pháp vô chướng ngại, nên Địa Kinh nói trong Sơ địa tất cả văn tụng chú thuật thế gian không thể cùng tận. Hình tướng hơn kém: Bồ-tát Địa tiền chỉ dứt phiền não, Sơ địa trở lên trí hạnh rộng lớn nên dứt cả hai chướng. 2. Đối nhau phân biệt công dụng và vô công dụng, có hai nghóa: Ẩn hiển lẫn nhau: Thất địa trở lên chỉ dứt phiền não, Bát địa trở lên dứt trừ trí chướng. Như trong Bát địa thanh tịnh cõi nước Phật, dứt trừ vô tri trong tất cả sắc. Trong Thất địa, rõ biết hạnh sơ tâm dứt trừ tất cả tâm hạnh vô tri. Trong Thập địa đối với pháp được tự tại thù thắng, dứt vô tri trong tất cả pháp. Đây là đều là dứt sự vô tri. Tướng trạng hơn kém: GIẢI THÍCH CÁCH 3: Thất địa lại chỉ dứt phiền não, Bát địa trở lên dứt cả hai chướng. Đối nhau phân biệt nhân quả: Có hai nghóa: Ẩn hiển lẫn nhau Kim Cang lại chỉ dứt phiền não chướng. Trong Như Lai địa chủng trí hiện khởi rõ biết tất cả các pháp khác nhau, dứt trừ trí chướng. Vì sự vô tri khó dứt trừ, đến quả vị Phật mới hết. Tướng trạng hơn kém Kim Cang lại chỉ dứt phiền não, quả Đức Như Lai dứt cả hai chướng. 4. Đối chướng phân biệt về giải thoát: Dứt phiền não chướng được tâm giải thoát, dứt trừ trí chướng được tuệ giải thoát. Nói tâm giải thoát, có hai loại: Hạnh thế gian tâm của Phật, Bồ-tát Đệ nhất nghóa tâm của Phật, Bồ-tát. Vì dứt tứ trụ, thế đế tâm giải thoát; vì dứt vô minh chân đế tâm giải thoát. Nói tuệ giải thoát là các Nhất thiết chủng quán chiếu thế gian biết được giải thoát. Chia làm bốn: Ấn định tướng chướng Giải thích tên chướng Nói về pháp phải dứt bỏ Đối chướng nói về chỗ giải thoát Ấn định tướng chướng: Ấn định tướng của chướng là làm sao biết năm trụ tánh kiết và sự vô tri là phiền não chướng, Trí phân biệt là trí chướng? Theo kinh Thắng Man nói năm trụ và khởi đồng gọi là phiền não nên biết rõ năm trụ và sự vô tri là phiền não chướng. Trí phân biệt là trí chướng là như luận Thật Tánh nói có bốn thứ chướng không được Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai: Duyên tướng, nghóa là vô minh địa; do chướng này nên không được chân tịnh rốt ráo của Như Lai. Nhân tướng, nghóa là nghiệp vô lậu; do chướng này nên không được chân ngã. Sinh tướng, là thân Ý sinh; do chướng này nên không được chân lạc. Hoại tướng, nghóa là sinh tử biến dịch; do chướng này nên không được chân thường. Luận kia đã nói nghiệp chướng vô lậu không được chân ngã, cho nên biết chắc chắn trí Phân biệt duyên là trí chướng. Lại nữa theo Địa Kinh ở địa thứ sáu nói trí chướng tịnh nhân sự, nghóa là Không Tam-muội bất phân biệt, vì bất phân biệt là trí chướng tịnh nên biết rõ tức là trí dụng phân biệt, là trí chướng. Lại nữa, kinh Lăng Già nói “Vọng tưởng phân biệt tuệ, nếu dứt trừ thì được Niết-bàn của Phật”. Diệt phân biệt tuệ mới gọi là Niết-bàn, nên biết rõ vọng tuệ bị diệt là chướng. Lại nữa, Long Thọ nói như giác quán kia, nhìn xuống là thiện, nhìn về độ Nhị thiền thì là tội lỗi, cho đến Phi tưởng nhìn xuống là thiện, nhìn về đạo xuất thế tức là tội lỗi. Duyên trí cũng thế, nhìn về thế gian là thiện, nhìn về thật tánh kia cũng là tội lỗi. Đã nói tội lỗi thì làm sao không chướng ngại. Giải thích tên gọi: Thể năm trụ tánh kiết và sự vô tri là pháp ngu mê, lao nhọc nên gọi là phiền não, Duyên trí chướng ngại chân như nên gọi là trí chướng. Hỏi: Trí này năng hiển bày chân nên trong kinh nói là liễu nhân, vì sao nay nói là trí chướng? Đáp: Có nhiều nghóa, trở ngại chân như nên gọi là chướng, như thuốc trị bệnh nếu không bỏ thuốc, thuốc lại thành họa. Ở đây cũng như thế! Thế nào là trở ngại chân như? Theo kinh Duy-ma thì vắng lặng là Bồ-đề vì diệt các tướng trí này là tướng cho nên là chướng. Chẳng quán là Bồ-đề vì lìa các duyên, trí này là duyên cho nên là chướng. Chẳng hành là Bồ-đề vì không nhớ nghó, trí này là nhớ nghó cho nên là chướng. Dứt là Bồ-đề vì dứt trừ các kiến chấp, trí này là kiến chấp cho nên là chướng. Lìa Bồ-đề vì lìa vọng tưởng, biết là vọng tưởng cho nên là chướng. Chướng là Bồ-đề vì chướng các nguyện, trí này là nguyện cho nên là chướng. Bồ-đề thật sáng suốt, trí này tánh mờ tối cho nên là chướng; như lạc thọ của thế gian tánh là hành khổ, các lỗi như thế không thể nêu hết, đều trái với chân đức nên gọi là chướng. Phân biệt pháp phải dứt bỏ: Chia làm hai: Đối nhau phân biệt Địa tiền Địa thượng Theo Địa thượng đối nhau phân biệt thế gian, xuất thế gian 1. Đối nhau phân biệt Địa tiền và Địa thượng: Chia làm hai: Ẩn hiển mà nói lẫn nhau: Giải hạng rồi trở xuống vì tăng tướng tu nên dứt phiền não chướng, Sơ địa trở lên vì xả tướng tu nên dứt trừ trí chướng. Vì sao tăng tướng dứt được phiền não? Phiền não chính vì ngu ám mê lầm thành ra tai họa, từ lúc đầu đến nay tu tập hiểu biết duyên trí càng thêm, ngu ám mê lầm bớt dần, đến khi được Giải hạnh hiểu biết tăng thượng hoặc chướng hết sạch, gọi đó là dứt. Thế nào là xả tướng dứt trừ trí chướng? Trí chướng chính là do phân biệt thành lỗi. Sơ địa trở lên chứng cùng tột chí chân thật của chính mình, duyên tu xả dần, lỗi phân biệt diệt gọi là dứt trí chướng. Hình tướng hơn kém: Bồ-tát Địa tiền chỉ dứt phiền não, Sơ địa trở lên đối trị sâu rộng dứt cả hai chướng. Nếu nói về sự dứt trừ hiểu biết sự thức thì Địa tiền cũng được, nhưng chẳng nói làm gì. 2. Theo Địa thượng phân biệt tương đối xuất thế gian: Sơ địa, Nhị địa, Tam địa gọi là thế gian, Tứ địa trở lên gọi là xuất thế gian, trong đó cũng phân biệt hai môn: Ẩn hiển mà nói lẫn nhau: Tam địa thì lại tu dứt phiền não chướng thế gian, Tứ địa trở lên chân tuệ dứt trừ trí chướng xuất thế. Thế nào là thế gian dứt phiền não chướng? Như Địa luận nói Sơ địa dứt trừ chướng Ngã tướng của phàm phu. Phàm phu ngã chướng tức là Kiến nhất xứ trụ địa. Trong Nhị địa dứt trừ sẽ phá được Hoặc phiền não. Phá hoặc phiền não tức là ba thứ trụ địa: Dục ái, Sắc ái, Hữu ái. Ở Tam địa dứt trừ ám tướng, các pháp vọng chướng Văn tư tu…. Ám tướng tức là Vô minh trụ địa cho nên biết địa vị thế gian chỉ dứt phiền não chướng. Thế nào là Xuất thế dứt được trí chướng? Trí chướng có ba loại: Trí chướng là tâm có không Thể chướng là kiến lập thể thần trí Tướng trạng thế nào? Nghóa là duyên trí kia chánh quán các pháp chẳng phải có chẳng phải không, xả bỏ ngăn ngại của phân biệt có không ở trước. Tuy xả bỏ ngăn ngại phân biệt có không mà vẫn thấy mình là năng quán, Như là sở quán. Thấy mình là năng quán thì Tâm và Như khác nhau, Như là sở quán thì Như và Tâm khác nhau. Do thấy tâm mình khác với Như nên chưa thể xả hết ngăn ngại của thần trí, nói là Thể chướng. Trị tưởng, nói chung hai loại trên đều là trị tưởng, nhưng trong môn trị này rốt ráo hơn nên gọi là trị tưởng. Trị tưởng này cũng là duyên trí đối trị phá chướng ngại của thần trí ở trước, chân thật tâm hợp như. Tuy lại hợp Như mà luận, Thể kia cũng là pháp sinh diệt của bảy thức, chướng ngại việc chân chứng tuệ vô sinh diệt nên gọi là chướng. Phân biệt chướng như thế, thế nào là trị đoạn? Bắt đầu từ Tứ địa cho đến Thất địa dứt trừ trí chướng, vào Bát địa dứt Thể chướng, Bát địa trở lên đến Như Lai địa dứt trừ trị tưởng. Thế nào là dứt trí chướng? Địa thứ bốn, năm, sáu quán Không phá Có, xả bỏ trí phân biệt chấp Có nên trong Địa kinh có nói rộng, Tứ địa quán sát các pháp bất sinh bất diệt, xả bỏ chướng ngã mạn phân biệt hiểu pháp. Trong địa thứ năm quán sát Phật pháp ba đời bình đẳng, lìa bỏ tâm ngã mạn phân biệt thân tịnh, Địa thứ sáu quán pháp bình đẳng lìa bỏ tâm ngã mạn phân biệt nhiễm tịnh. Các địa này đều là tâm quán Không, phá chấp Có. Ở Địa thứ bảy quán các pháp Như, xả tâm phân biệt chấp Không, lìa như thế … gọi là dứt trí chướng. Thế nào là Bát địa dứt trừ thể chướng? Trong bảy địa trước tuy quán pháp Như vẫn thấy tâm mình cho là năng quán, như là sở quán. Vì thấy như thế nên Tâm và Như khác nhau, không thể nhậm vận Bất động nhập vào Địa thứ tám, phá các chướng ngại này, quán sát ngoài Như vốn không có tâm, ngoài tâm không có Như. Vì ngoài Như không có tâm nên chẳng có tâm khác như, ngoài tâm chẳng có Như nên không có Như khác Tâm. Vì chẳng có tâm khác Như nên không thấy năng tri, chẳng có Như khác Tâm nên không thấy sở tri. Năng sở không còn, đồng là một tướng, bèn xả công dụng phân biệt của ý. Vì xả công dụng nên Tâm hành và Như bình đẳng. Bất động rộng lớn gọi là vào Bát địa, khi thành tựu đức này gọi là dứt thể chướng. Thế nào là vào Bát địa cho đến Như Lai địa dứt trừ trị tưởng? Trước địa thứ tám, tuy dứt trừ thể chướng mà trị tưởng vẫn còn, nên Bát địa nói Địa thứ tám này tuy không có tướng chướng mà chẳng phải không có trị tưởng. Nhưng trị tưởng này Bát địa trở lên dứt trừ dần dần cho đến Phật mới hết. Kia làm sao đoạn? Nghóa là vì dứt phân biệt nên tướng chân như hiện tiền, biết pháp chỉ là chân, xưa nay không có vọng. Do cái thấy chân thật này, vì không có năng lực của vọng nên khiến cho vọng được yên; trước không sinh sau, sau không khởi trước, ngay đây được diệt tận. Hình tướng hơn kém: Sơ địa, Nhị địa, Tam địa đối trị ít và yếu nên chỉ dứt phiền não. Tứ địa trở lên đối trị sâu rộng nên hai chướng đều dứt. Nếu nói chung, bắt đầu từ Sơ địa cho đến Phật địa nên biết niệm niệm dứt khắp hai chướng. Duyên trí sáng dần dứt phiền não chướng, chân pháp hiện dần dứt trừ trí chướng. Trị đoạn như thế. 4. Đối chướng nói về giải thoát: Theo chương này, dứt trừ phiền não thì hai thứ giải thoát cùng sinh, dứt trừ trí chướng thì hai thứ giải thoát cùng hiển. Tướng trạng thế nào? Ban đầu khi tu đối trị dứt phiền não, cách đối trị sẽ nương chân mà khởi, chân như bị nương thường theo vọng mà chuyển, nên dùng vọng tu để huân phát chân tâm khiến trong chân kia sinh ra hai đức giải thoát. Chân đức tuy sinh, mà duyên trí hòa hợp với thức thứ bảy, bị kia che khuất nên chân đức không hiển hiện. Dứt trừ trí ấy chân đức mới hiện. Đó cũng như đóng dấu, con dấu hòa hợp với bùn khiến trên bùn kia chữ và hình theo đó sinh khởi. Chữ trên bùn tuy sinh mà bị con dấu che khuất nên không hiển hiện được, bỏ con dấu đi, chữ kia mới hiện. Kia cũng như thế, ý nghóa hai chướng khó so sánh cùng tột, vả lại theo đại ý của Đại Cương Lược Thọ thì trong luận này, nói về hai chướng, đây là lần giải thích thứ hai. Giải thích cách ba Ngũ trụ cùng nhìn về Tứ trụ và khởi đều là phiền não chướng, vô minh và khởi đều là trí chướng nên theo Địa trì thì vô minh là vọng, đồng là trí chướng. Trong vô minh tùy nghóa nói thêm, chỗ khởi hằng sa lại là phiền não. Vô minh trụ địa riêng là trí chướng cho nên trong luận này chỉ cho vô minh trụ địa là trí chướng, hằng sa tâm nhiễm là phiền não chướng. Hỏi: Trong Sự thức kia chấp tánh vô minh là thuộc về địa nào? Trong vọng thức có ái kiến là thuộc về địa nào? Đáp: Không nhất định, lược có hai nghóa: Ẩn hiển mà nói lẫn nhau Chấp tánh vô minh trong Sự thức kia là gốc theo ngọn, từ căn bản cho đến chi mạt về sau đều xếp vào Tứ trụ, chỗ có ái kiến trong vọng thức kia là ngọn theo gốc nên xếp vào vô minh. Theo nghóa mà nói chung Trong vọng thức tất cả kiến chấp đều thuộc về Tứ trụ, trong sự thức tất cả vô minh cũng thuộc về vô minh. Giải thích theo văn Chia làm hai: Phân biệt chướng Giải thích nghóa tướng kia. Từ “Nghóa này thế nào” trở xuống. 1. Phân biệt chướng: Ý nghóa tâm nhiễm là từ “Nghiệp thức” cho đến “Tục thức” là nói về tâm nhiễm. Làm chướng trí căn bản chân như là hằng sa hoặc nghiêng về nghóa mệt nhọc (não loạn), chướng trí vắng lặng chân như. Ý nghóa vô minh là căn bản vô minh địa. Chướng trí tự nhiên nghiệp thế gian. Vô minh là nghóa mê ám kia nên chướng Phật chủng trí hiểu biết chân chánh. Nghiệp tự nhiên là nghiệp tạo tác không thể nghó bàn. Pháp sở chướng là chứng giáo nhị đạo, hai quả pháp (thân) và báo (thân). 2. Giải thích Chia làm hai: Phiền não Trí chướng 1. Phiền não chướng: Nghóa này thế nào là đặt câu hỏi phát khởi. Vì nương tâm nhiễm là nghiệp thức, là thức thứ nhất trong vô minh chi mạt, nên gọi là nương. Nói năng kiến năng hiện vọng chấp cảnh giới là chuyển thức, hiện thức, trí thức; lược bớt không nói thức tương tục cũng được vì đây là thể của sáu thức nên không nói. Trái với tánh bình đẳng là vì tâm nhiễm là tâm phân biệt chân tâm vắng lặng nên trái ngược nhau. Lý do trái ngược nhau đoạn sau sẽ nói. Vì tất cả pháp thường hằng vắng lặng không khởi tướng đây nêu lý lược bỏ, không có tướng hoặc nhưng ở đây tự hiểu. Bất giác vô minh khởi vọng là giải thích chướng trái với pháp. Vô minh si ám mê lầm, chủng trí thì sáng suốt chân thật, cho nên trái nhau. Tiếp theo là giải thích lý do. Vì không thể biết được tất cả các cảnh giới thế gian là nêu lên nguồn gốc chướng ngại các cõi, nên nói hai chướng. 5. Nói về nghóa xả tướng diệt: Chia làm hai: Nói thẳng xả diệt Hỏi đáp hiển bày thêm. Từ “Hỏi ” trở xuống. 1. Nói thẳng xả diệt: Chia làm ba: Nêu thể hoặc Nói theo người. Từ “Lại nữa thô trong thô” trở xuống. Nói về xả tướng diệt Từ “Hai loại này” trở xuống. Nêu thể hoặc: Lại nữa tướng sinh diệt có hai loại là nêu lên tổng quát số lượng kia. Tương ưng với tâm là hai thức sau và sáu thức. Bất tương ưng với tâm là bốn trụ căn bản. Nói theo người: Thô trong thô là cảnh giới phàm phu là sáu thức. Tế trong thô là hai thức trí thức và Tương tục thức. Thô trong tế là tâm nhiễm; hằng sa chi mạt nên gọi là thô. Cảnh giới Bồ-tát là Chủng tánh trở lên cho đến Kim cang tâm. Tế trong tế của cảnh giới Phật là thức vô minh căn bản. Xả diệt tướng: Chia làm hai: G 1. Lý do khởi G 2. Lý do diệt Từ “Nếu nhân diệt” trở xuống. Lý do khởi: Hai thứ sinh diệt nương vô minh huân tập mà có là vì gốc các hoặc, lấy ngọn nói gốc. Y nhân nghóa là nương Bất giác tức là vô minh. Duyên theo cảnh giới sáu trần, đầy đủ nhân duyên này thì sinh diệt được dựng lập. Nói về tướng diệt: Nếu nhân diệt thì duyên diệt là cảnh giới không tự có, do tâm mà thành nên trong phần đầu có nói ba cõi luống dối chỉ do một tâm tạo, tâm năng thành diệt thì cảnh sở thành cũng diệt. Vì nhân diệt tâm bất tương ưng diệt là nói mất gốc nên hết ngọn, là nghiệp chuyển hiện thức. Vì duyên diệt tâm tương ưng diệt vì cảnh giới mất nên tâm mất theo cảnh. Ở đây nói vì tâm Bất tương ưng kia vọng nên cảnh giới cũng vọng, vì cảnh giới vọng tâm tương ưng cũng vọng. 2. Phân biệt hiển bày lần nữa: Trong đây trước hỏi sau đáp, ý nghóa câu hỏi là: Nếu tâm diệt, thì làm sao tương tục? Tương ưng, Bất tương ưng đều diệt, thì chúng sinh sẽ không có tâm làm sao có tương tục? Nếu tương tục thì vì sao nói diệt? Vọng tâm thường tương tục làm sao chúng sinh diệt vọng thành chân được? Đây là nhắm ngay vọng tâm gạn hỏi tới lui để cật vấn. Câu đáp có ba phần: Pháp thuyết Nêu dụ Hợp dụ Pháp thuyết: Diệt chỉ là tướng tâm diệt là vọng thức. Chẳng phải tâm thể diệt đây là chân thức. Vọng thức hết thì hoàn toàn không trở ngại chân thức vẫn có. Chân thức thường hằng có nên chúng sinh chẳng phải đoạn diệt, vì vọng thức cuối cùng sẽ diệt nên chúng sinh thành chân. Nêu dụ: Gió là dụ cho vô minh, nước dụ cho chân thức, động dụ cho vọng thức. Nếu nước diệt thì gió dừng hẳn vì không có chỗ nương. Đây là đặt ví dụ giả thiết, chẳng phải không có nước, nhưng vì muốn nói lên nghóa nương cho nên nói như thế. Vì sao mà biết? Vì lập thí dụ, chẳng phải thật. Đoạn sau giải thích vì nước không diệt, tướng gió nối tiếp; chỉ có gió diệt nên tướng động cũng diệt theo, chẳng phải nước diệt, cho nên biết đây là lập ví dụ. Hợp dụ: Vô minh hợp với dụ như gió ở trên. Nương tâm thể là hợp với dụ “nương nước” ở trên. Mà có động là hợp với dụ “có tướng động” ở trên. Nếu tâm thể diệt hợp với ví dụ giả thiết. Vì thể chẳng diệt nên tâm được nối tiếp là bác bỏ giả thiết, hợp với dụ vì nước không diệt nên tướng gió nối tiếp. Chỉ có si diệt nên tâm cũng diệt theo là hợp với dụ “chỉ có gió diệt nên tướng động diệt theo”. Chẳng phải tâm trí diệt là hợp với dụ chẳng phải nước diệt ở trên. TIẾT B 3. Nghóa chân vọng: Huân tập Chia làm ba: Nêu lên pháp thể huân Giải thích sơ lược nghóa huân Từ “Nghóa huân tập là” trở xuống. Trình bày rộng tướng huân Từ “Thế nào là huân tập khởi nhiễm” trở xuống. Nêu lên pháp thể huân: Lại nữa có bốn thứ huân tập là nêu số lượng chung. Pháp nhiễm pháp tịnh sinh khởi không dứt là công năng của huân tập. Pháp tịnh là thức thứ tám. Nhân nhiễm là thức vô minh. Vọng tâm là trong thức thứ bảy bắt đầu từ Nghiệp thức cho đến Tương tục thức gọi chung là Nghiệp thức. Cảnh vọng là tất cả cảnh giới luống dối từ tâm vọng tưởng sinh khởi. Bốn loại này là pháp thể huân, bốn loại này cũng là Như Thị Như Thật trong luận Địa Trì, phàm ngu không biết khởi tám vọng mà sinh ba việc. Chân Như huân tập cũng là Như thị như thật kia. Vô minh huân tập phàm ngu kia cũng không biết, Vọng tâm huân tập cũng là tám vọng tưởng kia. Vọng cảnh huân, cũng là chỗ sinh của Sự luống dối đầu tiên trong ba việc kia. Hỏi: Vì sao Sự thức và Sự căn trần không nói là huân tập? Đáp: Trong mục này vì chưa bàn về ngọn ngành huân tập sinh khởi nên không nói. Giải thích sơ lược nghóa huân: Chia làm ba: Nêu tên Thí dụ Hợp dụ Từ “Đây cũng như thế” trở xuống. Nêu tên: Nghóa huân tập là nêu tên. Thí dụ: Quần áo thế gian là ví dụ thể tánh của pháp nhiễm là tịnh. Thật không có mùi thơm là dụ cho hành dụng. Nếu có người dùng hương xông ướp sẽ có mùi thơm là dụ cho hành giả tùy duyên huân tập nên có công dụng nhiễm và tịnh. Hợp dụ: Ở đây cũng như thế, trong chân vốn không có nhiễm do vọng huân nên có nhiễm, trong vọng vốn không có tịnh do chân huân khiến cho có tịnh. Cho nên trong vọng kia có được phương tiện đối trị khởi hạnh. Ý nghóa giải thích như thế. 3. Hiển bày rộng về tướng huân: Chia làm hai: Nói về huân tập khởi nhiễm Nói về huân tập khởi tịnh Từ “Thế nào là huân tập khởi pháp tịnh” trở xuống. 1.Nói về huân tập khởi nhiễm: Chia làm hai: Theo bốn loại trước nói về thứ lớp huân tập tướng sinh Nói riêng chỗ khởi huân tập khác nhau. Từ “Vọng cảnh huân tập này” trở xuống. Y theo bốn loại trước nói thứ lớp huân tập tướng sinh: Thế nào là khởi pháp nhiễm không dứt là nêu tên. Vì y pháp thứ nhất là chân như khiến có pháp thứ hai là vô minh nhân nhiễm, vì có vô minh tức có pháp thứ ba là vọng tâm, vì có vọng tâm nên có cảnh giới vọng thứ tư. Vì có cảnh giới duyên nên tức là huân tập vọng tâm khiến kia đắm nhiễm, tạo nghiệp chịu khổ. “Niệm” là ái, “Trước” là dính mắc, nghóa là kiến chấp. Nói riêng về chỗ khởi huân tập khác nhau: Từ ngọn phăng tìm gốc, lần lượt nói rõ. Pháp thể năng huân có bốn nên sở huân cũng có bốn, mà nghóa diệt trong chánh văn không có chỗ khởi chân như huân tập. Vọng cảnh huân tập này có hai loại là nêu tên. Cảnh huân tập này khởi Sự thức. Niệm là ái, thủ là kiến, tức là mười kiết sử. Khởi tâm huân tập là phần thứ hai, nghiệp thức là thức thứ bảy, huân tập sinh khởi quả vọng thức nghóa là chịu khổ biến dịch nhỏ nhiệm của Bồ-tát Nhị thừa, tức là “chánh quả”. Thêm lớn thức phân biệt sự là sáu thức duyên “do quả”. Nghiệp hệ khổ quả của phàm phu là khổ thô phần đoạn. Trong vô minh huân khởi vọng thức là quả gần, khởi sự thức là quả xa. Chân như huân tập cũng có hai thứ: Khởi vô minh Khởi vọng tâm Vì chân như kia vô phân biệt, khởi vô minh, vì tánh giác biết sinh khởi vọng tâm. Chân như huân tập không có trong phần giải thích, nhưng suy luận có thể biết trong chương môn có đầy đủ nghóa này. 2. Huân tập khởi tịnh: Chia làm hai: Chân vọng huân nhau khởi tịnh Chỉ có chân huân tập khởi tịnh. Từ “Nghóa chân như huân tập” trở xuống. 1. Chân vọng huân tập lẫn nhau khởi tịnh: Chia làm hai: Nói chung về huân vọng Nói riêng về vọng huân khởi tịnh. Từ “Vọng tâm huân tập” trở xuống. Nói chung về huân vọng: Có hai cách giải thích Pháp sư Tuệ Viễn giải thích: Thế nào là khởi pháp tịnh không dứt là đoạn văn này nói có sự chấp trước. Ưa cầu Niết-bàn. Từ “Vì có pháp chân như” trở xuống. Để nhiếp lại phần chân như huân tập ở trên, sau đó mới giải thích câu “Thế nào là khởi pháp tịnh”. Khởi tịnh. Từ “Vì vọng tâm này” trở xuống. - Khởi tịnh: Chia làm hai: 2a. Vọng huân chân 2b. Chân huân vọng 2a. Vọng huân chân Chia làm hai: a 1. Năng huân a 2. Sở huân Từ “Vọng tâm huân” trở xuống. Ở đây có hai cách giải thích khác nhau tùy quan niệm nhưng không tổn hại nhau. Cách giải thích thứ hai: Thế nào là huân tập khởi tịnh là nêu tên. Chánh nói về chân huân vọng Từ “Cái gọi là” trở xuống. Vì có chân như vô minh làm cho khởi tịnh, chán sinh tử cầu Niết- bàn, đó là chân huân vọng. Nói về vọng huân chân Vì có vọng tâm chán lìa sinh tử cầu Niết-bàn, cho nên huân tập tâm chân như, tự tin tự tánh của mình chỉ là chân như, ngoài trí không có pháp, thấy chỉ do vọng tâm điên đảo nên biết không có cảnh ngoài, cho nên tu tập các thứ phương tiện lìa niệm khởi chân. Tuy có tu mà không chấp không niệm, nhờ năng lực tu lâu ngày vô minh sẽ dứt, vì vô minh dứt nên vọng tâm chẳng sinh, vọng tâm chẳng sinh nên cảnh vọng cũng diệt theo, vì cảnh giới vọng diệt nên tâm tướng đều bặt hết, gọi là Niết-bàn. Vì đã được Niết-bàn, nghiệp dụng không thể nghó bàn tự nhiên thành tựu đầy khắp pháp giới. Nhân duyên đều diệt Nhân là tâm, Duyên là cảnh. Niết-bàn là Pháp thân Phật thanh tịnh. Nghiệp không thể nghó bàn là Phương tiện của Báo thân Phật. Nói riêng về vọng huân khởi tịnh: Vọng tâm huân là thức thứ sáu và thức thứ bảy. Thức Phân biệt Sự là Phàm phu Nhị thừa chán khổ sinh tử thú hướng về Niết-bàn. Đây là phương tiện tu hành huân phát chân như trong thức thứ sáu. Ý huân tập là các Bồ-tát thấy pháp luống dối không tham chấp, biết pháp chân như vắng lặng an ổn nên phát tâm mạnh mẽ hướng về đại Niết-bàn. Đây là phương tiện tu hành huân phát chân như trong thức thứ bảy. Kia nói thức thứ bảy là chỉ cho Ý, chẳng phải ý thức trong thức thứ sáu. 2.Chỉ có chân huân vọng: Chia làm hai: Hiển bày nghóa huân vọng Biểu hiện Lý thể bình đẳng. Từ “Lại nữa chân như tự thể tướng là” trở xuống Hỏi: Chỗ hiển bày và sự biểu hiện khác nhau thế nào? Đáp: Chỗ hiển bày nghóa là trong lý chân như này tùy duyên tu tập sẽ hiển bày. Chuyển lý thành hạnh, do Duyên chiếu biết, dứt hoặc được hiển bày, nên gọi là “chỗ bày”. Cái gọi là biểu hiện là lý thể chân như bình đẳng một vị, bặt lời lìa tướng, nhưng lý chẳng tự hiển bày, nương pháp để biểu hiện nên gọi “chỗ hiển”. Pháp không tự thành, nhờ lý huân chân pháp mới thành cho nên trong lý này có hai nghóa nơi đây sẽ phân biệt. 1.Hiển bày ý nghóa huân vọng: Chia làm hai: Nói về chân huân vọng Theo chỗ tu nói về nghóa chân vọng dứt và không dứt. Từ “Lại nữa pháp nhiễm” trở xuống. 1. Nói về chân huân vọng: Chia làm hai: Pháp năng huân Người sở huân Từ “Thể dụng huân tập này” trở xuống. 1. Pháp năng huân: Chia làm ba: Nêu chung Nêu các chương môn Giải thích hai chương Từ “Tự thể huân là” trở xuống. 1. Nêu chung: Chân như huân tập có hai nghóa là nêu tên. Nêu các chương môn Từ “Thế nào” trở xuống, gồm có thể và dụng. Giải thích hai chương Từ “Tự thể tướng huân tập là” trở xuống. Chia làm hai: Giải thích thể huân tập Giải thích dụng huân tập Từ “Dụng huân tập là” trở xuống. 1. Giải thích thể huân tập Chia làm hai: Nêu lên thể ấy Hỏi đáp giải thích thêm Nêu lên thể ấy: Pháp vô lậu là bản thể của Pháp thân, tánh của Pháp thân Phật. Tánh tác nghiệp không thể nghó bàn là tánh của Báo thân Phật. Vì có năng lực huân tập của hai tánh này nên làm cho sinh khởi sự hiểu biết hư vọng về dứt Hoặc, rồi sau đó chuyển lý thành hạnh. Địa tiền gọi là tánh chủng và tập chủng, Địa thượng gọi là chứng đạo và giáo đạo, quả Phật gọi là Pháp thân và Báo thân Phật, nói theo pháp luống dối thì gọi là Tánh tịnh phương tiện Niết-bàn. Hỏi đáp hiển bày thêm. Chia làm hai: Hỏi Đáp Hỏi Ý nghóa câu hỏi là nếu chân huân tập vọng, khởi lên hạnh lành thì tất cả chúng sinh đều có chân như tại sao không huân tập đồng nhau phát tâm khởi tu hạnh lành để nhập Niết-bàn, mà các chúng sinh vì sao lại có lòng tin và không có lòng tin hơn kém nhau, trước sau vô lượng sai khác như thế? Đáp: Chia làm hai: Nói nguồn gốc của chân vọng. Đáp thẳng câu hỏi trên. Nói về duyên tu đối trị là lời đáp xa. Từ “Lại nữa, các Phật pháp có nhân duyên” trở xuống. 1. Nói nguồn gốc của chân vọng Chia làm ba: Nói về chân Cội gốc của vọng. Từ “Mà có” trở xuống. Kết luận khó biết. Từ “Chỉ có Như Lai” trở xuống. Nói về chân: Chân như vốn có một nghóa là trong các chúng sinh Lý chân như là một xưa nay không hai, nên khi thành Phật là do Lý thành (Phật) vì vậy chỉ có một Phật, không có hai Phật. Vì sao lại gọi là chư Phật? Đây là y cứ theo nơi chốn mà nói như thế, chẳng phải đối với Lý có nhiều Phật, đây là nguồn gốc của chân như. Cội gốc của vọng: Nhưng nếu như thế thì vì sao chúng sinh lại sai khác nhau? Vì có vô lượng vô minh thành tựu xưa nay, đó là gốc. Các phiền não trên nhiều hơn cát sông Hằng là vô minh chi mạt. Ngã kiến, ngã ái là chỗ khởi của bốn trụ. Các Hoặc này đều nương theo vô minh. Vô minh huân tập chân như như thế, chân như tùy duyên mà sai khác không giống nhau. Ví như hư không vốn là một mà tùy theo chỗ chứa lại có lớn nhỏ khác nhau, nếu phá chỗ chứa, thì hư không sẽ không có tướng lớn nhỏ. Ở đây cũng như thế, tùy theo duyên nhiễm mà căn cơ có mau chậm khác nhau, nếu lìa duyên nhiễm thì bình đẳng một vị, không có thượng, hạ hơn kém nhau. Hỏi: Nếu chân như ban đầu giống nhau vì sao sinh khởi nhiễm dày mỏng khác nhau? Đáp: Vô thỉ vô minh… cùng một phẩm loại không có thô tế, trí thức về sau đắm nhiễm chẳng đồng vì tâm suy nghó khác nhau, thức tương tục về sau sinh khởi thành có cạn sâu nên quả báo hơn kém cao thấp không giống nhau, lợi độn sai khác. Nhưng nghóa này phàm phu chẳng thể biết được. Kết luận về sự khó biết: Vì chỉ có Như Lai mới biết nên Đại Kinh nói Bồ-tát Thập trụ thấy chỗ kết thúc không thấy chỗ bắt đầu, Phật mới thấy chỗ bắt đầu và kết thúc một cách rõ ràng cùng tột. 2. Tùy đối trị: Chia làm ba: Pháp thuyết Nêu ví dụ Từ “Như trong cây” trở xuống. Hợp dụ Từ “Chúng sinh cũng như vậy” trở xuống Pháp thuyết: Có nhân có duyên Nhân là nội tâm, Duyên là duyên bên ngoài. Ý nghóa ví dụ là trong cây tuy có lửa mà không thể tự đốt, chúng sinh tuy có tánh chân như mà không thể huân một mình, tự thành Niết- bàn, hợp dụ sẽ hiểu. Chỉ dạy giáo hóa được lợi ích vui mừng là ba lần chuyển pháp luân bốn đế. Thị là thị chuyển, Giáo là khuyến chuyển, Lợi Hỷ là chứng chuyển. Thị chuyển là chỉ dạy Khổ đế, chỉ dạy Tập đế, chỉ dạy Diệt đế, chỉ dạy Đạo đế. Khuyến chuyển là khuyến khích nên biết Khổ, nên dứt Tập, nên tu Đạo, nên chứng Diệt. Chứng chuyển là Khổ ta đã biết, Tập ta đã dứt, Đạo ta đã tu, Diệt ta đã chứng. Cũng có thể hiểu là chỉ bày cho các khổ phải biết rõ, dạy cho nguyên nhân của khổ nên dứt, lợi ích của đạo nên tu, chỗ vắng lặng an vui nên chứng. Vì bốn đế này là chân lý nhập đạo, nên dùng bốn đế hướng về đạo Niết-bàn. Chương giải thích dụng: Chia làm ba: Nêu số lượng chung Nêu ra hai chương môn. Từ “Thế nào” trở xuống. Giải thích hai chương môn Nêu số lượng chung: Dụng huân tập là nêu tên. Tức là năng lực duyên bên ngoài của chúng sinh là Phật và Bồ-tát chứng Như khởi dụng, nhiếp hóa chúng sinh, khiến tu pháp lành. Nêu ra chương môn: Duyên khác nhau ở đây là sự giáo hóa của Ứng thân. Duyên bình đẳng thuộc về chân thân. Chương giải thích: Chia làm hai: Giải thích duyên khác nhau Giải thích duyên bình đẳng Từ “duyên bình đẳng là” trở xuống. 1. Chương giải thích thứ nhất: Chia làm ba: Giải thích khác nhau Nói theo thời gian xa và gần. Từ “Duyên này có hai” trở xuống. Nói theo lợi ích Từ “Hai duyên xa và gần này” trở xuống. Giải thích khác nhau: Hạnh thêm lớn là được lợi ích khi tu hành. Duyên thọ đạo là được lợi ích khi đắc đạo. Giải thích duyên bình đẳng: Chư Phật Bồ-tát phát nguyện lớn đã lâu thệ độ tất cả, do năng lực huân tập gốc lành này nên tự nhiên thường theo tất cả chúng sinh, tùy vào sự thấy nghe của chúng sinh mà thị hiện, nghóa là thị hiện Pháp thân bình đẳng của Như Lai. Do Trí lực đồng thể là quán chiếu khổ đau kia, khiến các chúng sinh nương vào năng lực Tam-muội mà bình đẳng thấy Phật. Ở đây thuộc về chân thân, năng huân cũng như thế. 2. Người sở huân: Chia làm hai: Nêu tên và số lượng Nghóa là Thể dụng huân tập này phân biệt có hai loại. Kể tên, tức giải thích. Chưa tương ưng là phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát Địa tiền. 2a. Thể chưa tương ưng. 2b. Dụng chưa tương ưng. Từ “Chưa được tự nhiên” trở xuống. Ýù thức là thức thứ bảy và thức thứ sáu. Trong vọng thức tâm này tín thuận tu hành mà chưa lìa bỏ được niệm phân biệt để tương ưng với Thể thật. Tu hành chưa được nghiệp tự tại là chưa được hạnh tự tại vô công dụng. Hỏi: Bồ-tát Địa tiền năm đời tự tại, vì sao chưa được nghiệp tự tại? Đáp: Ẩn tế theo thô cho nên ở đây mới nói. Đã tương ưng là từ Pháp thân xuất thế của Bồ-tát Sơ địa trở lên, khiến xả bỏ vọng tâm, trừ diệt vô minh khế chứng chân như, tương ưng với Pháp thân Phật Như Lai không có phân biệt. Chỉ nương Pháp thân tu hành tự nhiên thú hướng biển trí tuệ của Phật. 2. Chân vọng dứt hết và không hết: Từ “Lại nữa, pháp nhiễm này” trở xuống. Chia làm hai: Lập chánh đạo lý Giải thích lý do. Từ “Nghóa này thế nào” trở xuống. Lập chánh đạo lý: Lại nữa, pháp nhiễm là nêu pháp, từ vô thỉ đến nay huân tập không dứt cho đến khi vừa thành Phật, sau đó mới dứt sạch. Tịnh pháp từ ban đầu đến rốt sau, vẫn thường có không dứt mất. Giải thích lý do: Chân Như thường huân nên tâm vọng, cảnh vọng sẽ diệt, chuyển lý thành hạnh thì Pháp thân hiển hiện. Khởi dụng huân là tương ưng với dụng. Từ trước đến đây là phần E 1.Nói về chân vọng huân tập lẫn nhau, trong đây có phần H 2.Nói Chân vọng hết và không hết, chẳng nói tóm lược. 2. Chỗ tiêu biểu lý thể bình đẳng kia: Từ “Lại nữa, tự thể tướng chân như là” trở xuống. Chia làm hai: Nói về pháp tiêu biểu Phương pháp tu xả bỏ để thú hướng về. Từ “Lại nữa, hiển thị” trở xuống. 1. Nói về pháp tiêu biểu: Chia làm hai: Thể tiêu biểu Nói về sở thuyết kia, nghóa là hành pháp Từ “Lại nữa, dụng chân như” trở xuống. 1. Thể tiêu biểu: Chia làm ba: Ba nghóa lược nêu Giải thích tóm tắt trước sau. Từ “Hỏi rằng” trở xuống. Giải thích phần lập nghóa trước. Từ “Lại do nghóa nào” trở xuống. 1. Nghóa lược nêu, Chia làm ba: Nêu chung Giải thích riêng. Từ “Cái gọi là” trở xuống. Phần kết. Từ “Đầy đủ như thế” trở xuống. 1. Nêu chung. Chia làm hai: 1. Nêu tên Lại nữa, tự thể tướng chân như là chân như tức Thể, gọi đó là tướng. N 2. Giải thích Chia làm ba: Nói lý không nghiêng lệch Nói lý thể là thường Từ “Chẳng phải mé trước sinh” trở xuống. Lý pháp đầy đủ. Từ “Từ xưa đến nay” trở xuống. Nói lý không nghiêng lệch: Tất cả phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát, chư Phật là nêu người. Không có thêm bớt là Lý Thể. Nếu nói về nghóa tu hành thì phàm thánh rất khác nhau, nhân quả sai biệt, nhưng Lý thể thì đồng một vị giống nhau, Lý thể trong phàm phu, Nhị thừa không bớt, Lý thể trong Bồ-tát Phật cũng không thêm. Nói về thường hằng: Chẳng phải trước sinh là nói trước kia, xưa nay không có tướng sinh. Chẳng phải sau diệt là nói không hề hoại diệt. Hành đức gọi là sinh, không diệt gọi là bất diệt, nói cách khác là chẳng sinh chẳng diệt, trong lặng thường hằng. Rốt ráo thường hằng là sự thường hằng trên hết. Lý pháp đầy đủ: Lý này chẳng phải thành lập riêng, từ xưa đến nay Lý tự đầy đủ tất cả công đức. Giải thích riêng: Có sáu câu: Cái gọi là tự thể vì có nghóa đại trí tuệ sáng suốt đây là một câu. Trong lý chân thật này có đủ tất cả tánh công đức của Tam-muội, trí tuệ, thần thông, giải thoát, đà-la-ni… cũng như trong vọng có đầy đủ tất cả tánh của tám mươi bốn ngàn phiền não, tuy sau chẳng hiện hành mà thật có. Nói tánh trí tuệ trong Lý kia, để làm nghóa trí tuệ sáng suốt, cho nên kinh Hoa Nghiêm nói trong tâm nhiều như vi trần của tất cả chúng sinh có trí Như Lai, Trí Vô sư, trí vô tướng vô ngại, trí rộng lớn,… Hỏi: Nếu thế vì sao phẩm Bồ-tát trong Đại Kinh nói: “Nếu nói trong thân chúng sinh có đủ mười Lực, bốn Vô úy… thì chẳng phải đệ tử ta, đó là đại tà kiến”; đoạn sau lại nói “Vì chúng sinh có tánh đang thấy”. hai kinh trái nhau làm sao hiểu? Đáp: Các văn kinh này đều nói về hạnh đức. Nếu theo hành đức mà nói hiện có mười Lực, bốn Vô úy đó là đại tà kiến, nhưng chẳng phải không có Lý thể. Lại nói quả tánh vì đang được, nên gọi là đang thấy, cho nên kinh này nói như của báu của cô gái nghèo, như của báu trong tối, vốn tự có sẵn, chẳng phải nay mới có. Luận này nói Lý, các văn kinh này chẳng phải một, cho nên chẳng trái nhau. Nghóa chiếu khắp pháp giới. Hai câu này là tâm đồng một thể tánh với pháp, duyên xen lẫn nhau, nhưng nghóa chia ra Tâm và Pháp. Tâm là năng chiếu, Pháp là sở chiếu. Hỏi: Tự thể chiếu này vì sao gọi là chiếu? Đáp: Như trong vọng tâm có đủ tất cả các pháp luống dối, trong chân tâm này cũng có đủ tất cả pháp. Vì đồng thể nên dùng tâm nhiếp pháp, không ngoài một pháp; dùng pháp nhiếp tâm thì tâm đầy đủ pháp giới vi trần… Tâm tùy theo pháp kia thành các thứ công đức, vì tâm pháp giới xưa nay thanh tịnh vốn không ám không chướng gọi là nghóa chiếu tất cả pháp giới. Vì nghóa chân thật giác biết. Ba câu này che đậy tâm chân thật giác biết. Có người giải thích rằng chân thức chẳng phải là thức chỉ là Lý Không, có nghóa làm Thể cho thức nên gọi là Thức. Đây là lời sai lầm không nên thọ trì. Chính tâm chân thật giác biết gọi đó là thức, sao lại nói một bề chấp là Không? Từ đó có thể nói Thể Chân Thức có nghóa Bát Không, chẳng nói nghóa Không cho đó là thức, cho nên là Duy Thức luận nói đối với ngoại đạo phàm phu kia chấp trước Ngã, Ngã sở cho nên tất cả pháp sắc… là cảnh giới Không, chẳng lìa lời nói. Tất cả đều không lìa cảnh giới nói năng là chỗ sở hành của Phật Như Lai chỉ có chân thức, chẳng có thức nào khác. Lấy đâu làm tiêu chuẩn để xem xét thì biết rõ, chẳng cho Không là chân thức. Trong kinh này là vì phân biệt chân tướng không có luống dối là chân thật, Linh sáng của thần tri gọi là thức tri. Vì có nghóa tự tánh tâm thanh tịnh đây là câu thứ tư. Xưa nay không chướng ngại gọi là tự tánh tâm thanh tịnh, vì lý thể tôn quý ở chỗ vô cấu nên gọi là thanh tịnh. Nghóa Thường Lạc Ngã Tịnh là lý đức của câu thứ năm, tuy chúng đối đãi với sinh tử nhưng chủ yếu không ngoài bốn câu này. Vì có nghóa mát mẻ bất biến tự tại đây là câu thứ sáu. Vì thể vô nhiễm gọi là thanh tịnh, vì là chỗ sinh diệt không dời đổi nên gọi là “bất biến tự tại”. Phần kết: Chia làm hai: Kết về đức hạnh Kết về tên gọi Đầy đủ không thể nghó bàn Phật pháp nhiều hơn số cát sông Hằng như thế là kết luận trước về Đức. Không thể khen ngợi riêng nên nêu chung. Chẳng lìa bốn câu đã nêu trên cũng là Tịnh, Ngã, Lạc, Thường. Từ đó trở xuống là phần kết thúc về tên gọi. Bao gồm chứa nhóm gọi là Tàng, các pháp chứa nhóm gọi là Pháp thân. Nếu nói riêng thì khi ẩn mới gọi là tàng, lúc hiện là Pháp thân. 2. Hiển bày lần nữa: Trước hỏi sau đáp. Ý nghóa câu hỏi ở trên đã nói chân như dứt bặt lời vì sao trong đây lại nói đầy đủ các thứ công đức, trên dưới nói trái nhau. Đáp có hai phần: Chánh đáp Giải thích lý do Từ “Nghóa này” trở xuống. Chánh đáp: Tuy có các công đức mà không có tướng khác nghóa là đoạn này không trái với đoạn trên, tuy có mà không có tướng Có, nên chẳng ngại đối với Không; tuy Không mà chẳng có tướng Không, nên chẳng ngại với Có. Thường Có thường Không nên nói đồng một vị nghóa là các công đức này đều đồng một vị. Nghóa này thế nào? Chỉ là một chân như. Giải thích lý do: Chia làm ba: Chánh giải thích Chuyển thích Kết Chánh giải thích: Vì sao một vị là hiển bày nghóa câu trên. Nghóa này thế nào trở xuống là vì vô phân biệt, không có kia đây nên không có phân biệt, nên gọi là một vị. Cho nên không có phân biệt là hiển bày nghóa câu trên. Chuyển giải thích: Vì lìa tướng phân biệt, xa lìa tướng phân biệt của thức thứ sáu và thứ bảy nên gọi là Lìa. Kết: Ở đây không có hai là nói về Có và Không ấy chẳng có hai Thể. 3. Giải thích riêng: Chia làm hai: Phân biệt sơ lược lý do Giải thích riêng nghóa trên Từ “Nghóa này thế nào”ø trở xuống. Phân biệt sơ lược lý do: Lại do nghóa thế nào mà nói là sai biệt là nói về tên gọi. Vì nương tướng nghiệp thức sinh diệt chỉ bày là nếu Vô không có đối đãi, mà vì đối vọng thức phân biệt nên được nói là khác nhau. Giải thích riêng nghóa trên: Chia làm hai: Giải thích rộng sáu câu trong phần giải thích riêng ở trên Tổng kết đoạn trên Từ “Cho đến” trở xuống. 1.Giải thích rộng sáu câu trong phần Giải Thích Riêng ở trên: Chia làm hai: Giải thích riêng hai câu đầu Giải thích chung bốn câu sau Giải thích riêng hai câu đầu: Vì tất cả Pháp đoạn trên đã nói các pháp nhiều như cát sông Hằng. Xưa nay chỉ là tâm, thật không có niệm nghóa là chỉ có chân không có vọng. Mà có vọng tâm nghóa là vô minh, vì có vô minh nên sinh khởi những phần sau. Bất giác khởi niệm là nghiệp thức. Thấy các cảnh giới là chuyển thức. Nên nói vô minh là kết luận về tên gọi. Các Hoặc này nương vào lý mà sinh khởi, lại mê chân lý nên tâm tánh không khởi. Không khởi nghóa là chẳng phải tri, trái lại là vô tri nên gọi là “không khởi”. Tâm mê lầm phân biệt là sinh, dùng phân biệt chấp lấy chân, chân vẫn không phân biệt nên gọi là không khởi. Thần tri vẫn còn nên nói “tức là nghóa Đại trí tuệ sáng suốt”. Đây là giải thích câu đầu. Nếu tâm khởi thấy là ắt tâm phân biệt, phải có tướng chẳng thấy, đây là vì phân biệt nên có tướng, vì có thiên về chấp có, phải có tướng chẳng thấy; nên biết hữu tri là tướng, gọi là vọng tâm. Tâm tánh lìa thấy tức tri mà không có tướng tri, chẳng duyên mà chiếu, tức là nghóa “chiếu khắp pháp giới”. Thần tri mầu nhiệm nên đều chiếu, nhưng chẳng duyên nên rỗng sáng không dính mắc. Do không có ngăn ngại nên gọi là “chiếu khắp pháp giới”. Giải thích chung: Nếu tâm có động đây là ba tướng sở huân. Bốn câu trên đây đều giải thích ngược. Chẳng phải chân thức tri là giải thích ngược lại nghóa chân thật thức tri ở trên. Không có tự tánh là giải thích ngược lại tự tánh thanh tịnh tâm ở trên. Chẳng phải thường… là giải thích ngược lại thường lạc ngã tịnh ở trên. Nóng bức suy biến chẳng tự tại là giải thích ngược lại nghóa thanh tịnh bất biến tự tại ở trên. Vì ba tướng không dời đổi cho nên đầy đủ bốn câu. 2. Giải thích phần kết về đức ở trên: Từ “Cho đến” trở xuống. Chia làm hai: Giải thích phần kết về đức hạnh Giải thích phần kết về tên gọi 1. Giải thích phần kết về đức: Chia làm hai: Giải thích phản nghóa Nghóa là có đầy đủ nghóa vọng nhiễm nhiều hơn cát sông Hằng. Giải thích xuôi: Vì đối lại nghóa này nên tâm tánh không động sẽ thị hiện tướng công đức thanh tịnh nhiều hơn cát sông Hằng. 2. Giải thích phần kết về tên gọi: Chia làm hai: Trình bày chỗ sai: Nếu tâm có khởi cũng chỉ thấy pháp trước mặt để niệm là có chỗ thiếu (không thấy được). Trình bày chỗ đúng: Pháp tịnh có vô lượng công đức như thế, tức là một tâm không có hai, lại không có cái niệm cho nên đầy đủ, gọi là Pháp thân, Như Lai tạng. 2. Nói về sở thuyết kia: Từ “Lại nữa chân như dụng là” trở xuống. Sở thuyết là hạnh đức, đức chẳng tự hiển bày, nương lời nói được hiển, do tu hành mà được thành tựu. Chia làm hai: Nói về hạnh đức kia Thấy nghe được lợi ích khác nhau Từ “Dụng này có” trở xuống… 1. Nói về hạnh đức kia: Chia làm bốn: Hạnh giáo hóa lúc tu nhân Dùng nhân tu để răn đức Từ “Ở đây do nghóa nào” trở xuống… Quán chân đế Từ “Lại cũng” trở xuống… Quán tục đế Từ “Chỉ theo” trở xuống… 1.Hạnh giáo hóa lúc tu Nhân: Lại nữa, dụng chân như là nêu tên. Chia làm hai: 1. Phần giải thích Từ “Nghóa là” trở xuống… Phát tâm Từ bi rộng lớn là gồm bốn thứ… (Bốn Vô lượng tâm), tu các Ba-la-mật là sáu Độ. Nhiếp hóa chúng sinh là bốn Nhiếp pháp, lập thệ nguyện rộng lớn là bốn thệ nguyện rộng lớn. Bốn câu này nói về thể tánh các hạnh giáo hóa chúng sinh. 2. Nói về thời tiết: Độ hết chúng sinh không giới hạn số kiếp, tột mé vị lai. Vì xem chúng sinh như thân mình là nói về tâm bình đẳng kia, trong đó có hạnh bình đẳng, chẳng phải tu hạnh Không, mà không chấp chúng sinh đây là trừ chấp. Nếu chấp trước tướng chúng sinh thì không độ được chúng sinh, đây là tu hạnh Không. 2. Nói về đức hạnh: Chia làm hai: Duyên chiếu Chân chiếu Duyên chiếu: Nghóa này thế nào là đặt câu hỏi phát khởi, nghóa là biết như thật đây là duyên chiếu. Trí tuệ khế lý gọi là biết đúng như thật, tất cả chúng sinh bình đẳng với thân chân như của chính mình vì thể chẳng khác. Ở đây nói về trí thể, kế đến sẽ nói về trí dụng. Vì có trí đại phương tiện như thế cho nên trừ diệt vô minh, thấy Pháp thân sẵn có của chính mình. Chân chiếu: Tự nhiên mà có nghiệp không thể nghó bàn là Báo thân. Các thứ diệu dụng là Ứng thân. Đây là dụng của hạnh. Tức cùng chân như trùm khắp tất cả chỗ là vì hạnh tức lý. Quán chân đế: Chia làm hai: Giải thích căn bản: Lại không có tướng của dụng để được vì không thể có dụng khác thể. Giải thích: Vì sao không thể được? Chư Phật chỉ là Pháp thân, Trí thân. nghóa chân thật bậc nhất, đây là chân quán. Như mười thân tương tác trong Hoa Nghiêm. Theo chân mà nhìn thì không có dụng nào khác, là quán sinh tử. dụng. Quán tục đế: Chỉ tùy theo thấy nghe của chúng sinh mà được lợi ích nên nói là Dụng này có hai thứ. 2. Được lợi ích khác nhau Chia làm hai: Người năng kiến Thân sở kiến Từ “Lại nữa, phàm phu có thể thấy” trở xuống. 1. Người năng kiến: Dụng này có hai thứ đây là nêu sơ lược. Thức phân biệt sự: Thức phân biệt sự là thức thứ sáu. Vì không biết do chuyển thức hiện nên thấy từ bên ngoài đến là các sắc có thể thấy đều nương chuyển thức mà khởi. Đây là cội nguồn sinh khởi, vì không biết từ tâm mình hiện ra nên chấp là từ bên ngoài đến. Nghiệp thức: Nghiệp thức là thức thứ bảy. Sơ phát ý là Bồ-tát Địa tiền. Chỗ trụ nương vào quả báo của thân tức thế giới Hoa tạng. Thường hay trụ trì không hoại không mất đây là quả báo tịnh độ, nên kinh Hoa Nghiêm nói Pháp giới bất khả hoại Liên hoa tạng thế giới hải. 2. Thân sở kiến: Chia làm hai: Sự thấy biết của phàm phu. Sự thấy biết của Bồ-tát. Từ “Lại nữa” trở xuống. Sự thấy biết của Phàm phu: Nói chẳng phải tướng thọ vui là trong giáo lý Tiểu thừa nói Phật vô thường, chỉ nhờ tu hành nên trí tuệ thêm lớn thôi, cho nên có đủ khổ, vô thường vì thế chẳng phải thọ vui. Sự thấy biết của Bồ-tát: Chia làm hai: Trình bày Hỏi đáp Trình bày: Tịnh tâm là Sơ địa. Hỏi đáp Chia làm ba: Đáp Giải thích Từ “Cái gọi là” trở xuống… Tổng kết sự cao quý Từ “Đây chẳng phải tâm thức” trở xuống… Nói Pháp thân này, vì là sắc thể là có người giải thích Pháp thân không có sắc, ứng thân mới có sắc. Ở đây không có nghóa như thế, như trong chánh văn trình bày. Trong kinh Thắng Man nói: Sắc Như Lai vô lượng Trí tuệ cũng như vậy. Kinh Ương-quật-ma-la nói Pháp thân Cù-đàm, sắc vi diệu thường trong lặng. Lại nữa ý nghóa suy từ phần giữ năm giới, mười giới có quả báo người, trời thì vì sao có đủ muôn hạnh lành lại chiêu cảm quả báo không có sắc không có cõi nước ư? Trong khi phần trên nói chỗ trụ nương vào quả báo các thứ trang nghiêm. 2. Phương pháp tu xả: Chia làm ba: Pháp thuyết Thí dụ Từ “Như người” trở xuống Hợp dụ Từ “Chúng sinh cũng như vậy” trở xuống Lại nữa, hiển bày từ môn sinh diệt vào môn chân như này là nêu sơ lược. Từ cạn vào sâu, từ nghóa vô thường đi vào nghóa vô ngã, khoảng giữa từ cửa vô ngã vào cửa chân như tám không, thật ra chỉ là chân thật nhưng vì tướng che đậy nên chẳng hiểu chẳng biết. Trừ khi phá được tướng này liền biết chân như, hãy hiểu đại ý như thế.  ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN NGHÓA SỚ <卷>QUYỂN 2 (Phần 2) <詞>MỤC 2: ĐỐI TRỊ TÀ CHẤP. Chia làm hai: Các loại tà chấp khác nhau, nói lên nghóa chân chánh Giải thích theo văn 1. Các loại tà chấp khác nhau nói lên nghóa chân chánh Chia làm ba: Y theo sự thức đối trị tà chấp nói lên nghóa chân chánh Y theo vọng thức đối trị tà chấp nói lên nghóa chân chánh Y theo chân thức đối trị tà chấp nói lên nghóa chân chánh 1. Y theo sự thức đối trị tà chấp nói lên nghóa chân chánh: Trong sự thức có tám tà chấp Chấp cố định là một: Có người nói sáu thức tâm tùy theo căn, tuy sẵn khác nhau mà thể tánh là một, qua lại kia đây. Như một con vượn hiện qua sáu cửa, chẳng phải có sáu con vượn, tâm thức cũng như thế, hiện trong sáu căn chẳng phải có sáu tâm. Để đối trị tà chấp này, nói tâm chẳng phải một, thức không có tự thể khác, là nghóa duyên biết. Sáu thức tâm căn nương tựa khác nhau, sở duyên cũng khác thì làm sao cố định là một. Nếu quyết định là một thì phải thường chiếu thường hiểu rõ một trần chẳng có thay đổi. Lại nữa, Tâm pháp không có nghóa qua lại, tuy chỗ có hiểu biết thì chỗ biết kia liền sinh, không được nói là một mà có qua lại. Lại nữa, dùng ví dụ khỉ vượn để dẫn chứng tâm là một, nghóa này không phải đúng. Kẻ phàm phu ngu si cho là một con khỉ hiện ở sáu cửa, nhưng thật ra khỉ niệm niệm sinh diệt, khi hiện trong cửa này có nghóa là không đến cửa kia. Tâm thức cũng vậy, khi nương mắt sinh nhãn thức có nghóa là không đến các căn khác, tất cả đều như thế. Chấp cố định khác nhau: Có người nói rằng, sáu thức tâm thể tánh nhất định là khác nhau. Đối trị tà chấp này nói tâm không khác, nơi phần hạn của Sự (thức) có một điểm nối tiếp, chẳng phải thể khác hoàn toàn, một con khỉ chạy giỡn ở sáu cửa chẳng phải có sáu con vượn; nếu nói sáu thức mỗi thức có tự thể riêng, pháp thể khác nhau thì không liên quan nhau. Nhãn thức từ nhãn sinh, cho đến ý thức lại từ ý sinh, không được lẫn nhau sinh khởi. Hiện tại thấy năm thức từ ý thức sinh, ý thức từ năm thức mà sinh, nhãn chẳng phải có tự thể riêng. Lại nữa, nếu sáu thức mỗi thức có tự thể khác nhau, pháp thể khác nhau chẳng chướng ngại nhau, vì không chướng ngại nhau nên tâm của sáu thức lẽ ra đều thường có, đều nên thường dùng. Vì chẳng thường đều có đều dùng nên biết không có tự thể riêng khác. Chấp cố định là thường: Có người nghe nói trong ba đời nghiệp quả không dứt mất, nghóa là tâm nhất định thường sinh tử qua lại, thường là một thứ dụng của thức, tuy có lúc thạnh lúc suy mà tâm thể không hề thay đổi. Đối trị tà chấp này nên nói thức vô thường, tâm trong loài người khác trong loài trời cũng khác tâm trong sáu đường mỗi thứ khác nhau, vì sao chấp là thường? Lại nữa, như kinh nói tâm tương ưng khổ khác, tâm tương ưng với vui khác, tâm tương ưng không khổ không vui khác. Như thế tất cả đều khác nhau, vì sao chấp là thường? Chỉ vì phàm phu không biết tướng của tâm nên vọng chấp là thường, cũng như trẻ con thấy vòng lửa quay cho là nối tiếp không dứt. Nếu tâm là thường thì thiện nên thường thiện, ác nên thường ác, không có thay đổi. Vì có thay đổi nên biết nhất định là vô thường. Chấp cố định là đoạn: Có người nghe nói Tâm thức vô thường bèn cho nhất định là đoạn. Đối trị tà chấp này nên nói tâm chẳng đoạn, hiện đời tạo nghiệp về sau có quả báo, sao lại chấp nhất định là đoạn. Ví như sữa bò và bơ lạc chuyển biến tuy khác nhau, nếu để chất độc trong sữa thì lạc sẽ hại người. Tâm cũng như vậy! Thân này làm ác dù chưa chịu khổ, nhưng phải chịu quả báo khổ, để chứng minh chẳng phải dứt mất. Chấp cố định là có: Như trong luận nói mười tám cõi đều trụ trong tánh mình, đây là có chẳng phải không, nghóa là nói Không tức các ấm là không mà chấp ngang thành Ngã, nhân, pháp thể chẳng phải Không. Vì pháp chẳng Không nên tâm thức nhất định có. Đối trị tà chấp này nên nói thức là không. Thế nào là tướng Không? Thức nghóa là phân biệt, là biết, như trong một niệm thức có đủ bốn tướng: Đầu tiên là tướng sinh, kế là trụ, sau là dị và cuối cùng là tướng diệt. Trong bốn tướng, tướng nào Biết? Là tướng đầu Biết, hay là tướng giữa, tướng cuối cùng? Nếu tướng đầu tiên là Biết thì ba tướng còn lại không Biết, nếu ba tướng còn lại không Biết thì chẳng gọi là thức. Nếu các tướng còn lại Biết, thì lẽ ra tướng sinh nên không Biết; nếu tướng sinh không Biết thì chẳng gọi là thức. Nếu nói bốn tướng khác nhau đều biết thì trở thành bốn niệm khác nhau. Hỏi: Pháp Biết quan hệ thế nào với một niệm có đủ bốn tướng? Đáp: Bốn tướng riêng biệt chẳng phải là Biết, trong hòa hợp mới biết, chẳng phải cái Biết cùng hòa hợp. Thế nào là có cái Biết? Như họp một trăm người mù lại chẳng lẽ có cái thấy? Lại nữa, bốn tướng đều không có lý hòa hợp, thế nào là không có lý hòa hợp? Khi hiện có tướng sinh, các tướng khác chưa có thì lấy gì chung hợp. Cho đến tướng diệt thứ tư khi hiện tại đang có, thì các tướng khác đã qua mất, lại hòa hợp với cái gì? Tới lui tìm kiếm đều không có nghóa hòa hợp, vì sao lại nói hòa hợp có Biết? Ý nghóa chữ Biết đã không có, sao lại nhất định có thức! Cho nên kinh nói sắc… cho đến thọ tưởng hành thức, tất cả đều Không. Chấp cố định là không có: Có người nghe nói năm ấm vắng lặng bèn cho rằng nhân duyên thế đế cũng không có, để đối trị chấp này nên nói thức chẳng phải không có. Nếu không có tâm thức làm sao thấy nghe hiểu biết được. Hiện tại thấy sáu thức đều có tác dụng, nên biết chẳng phải không có. Lại nữa, nếu không có thức thì không có thiện ác, nếu không có thiện ác cũng không có khổ vui, như vậy thì rơi vào tà kiến, dứt mất gốc lành, nên không chấp nhận như thế. Kinh nói Không là nói theo chân, đối với thế đế chẳng phải không có tâm thức. Chấp tâm thức độc lập: Chấp chỉ có tâm vương không có tâm sở, Như Lai đã chân thật nói như thế. Đối trị chấp này, nói đồng thời có pháp tâm, tâm sở, nên kinh Niết-bàn chép: Các đệ tử ta không hiểu ý ta nên tuyên bố rằng Phật nói nhất định không có tâm sở. Lại nữa, kinh Niết-bàn cũng xác định tâm sở ở Thập địa, chứng tỏ chẳng phải không có tâm sở. Lại nữa, ngài Long Thọ nói ví như dưới ao có thủy châu nên nước trong, con voi bước xuống thì nước đục. Nước dụ cho tâm vương, châu và voi dụ cho tâm sở, trong ví dụ kia có thể nói nước, thủy châu, voi là một tâm pháp; như thế đâu có tâm sở riêng khác. Chấp ngoài tâm nhất định có tâm sở: Như trong Tỳ-đàm nói: Đối trị chấp này nói chẳng phải nhất định có tâm sở riêng khác, nên Niết-bàn nói: Các đệ tử không hiểu ý Ta nên tuyên bố rằng Phật nói nhất định có tâm sở. Nếu ngoài tâm nhất định có tâm sở riêng khác không can dự gì đến tâm thì không có tâm sao tâm sở chẳng sinh khởi riêng? Lại nữa, nếu ngoài tâm nhất định có tâm sở riêng khác thì thức từ ý sinh, các tâm sở lẽ ra cũng có chỗ nương riêng. Nếu có chỗ nương riêng thì nghóa này không đúng. Vì sao không đúng như thế? Trong tông kia nói ba tánh tâm tương ưng đều khác, như địa vị cõi Dục khi tâm lành khởi có hai mươi hai tâm sở tương ưng cùng sinh, khi tâm bất thiện khởi thì có hai mươi mốt tâm sở tương ưng cùng sinh, khi tâm vô ký khởi thì có mười hai tâm sở tương ưng cùng sinh, từ tâm vô ký khi khởi thiện ác đồng có mười hai tâm sở nương tựa. Ngoài ra còn các tâm sở khác nương vào chỗ nào? Nếu không có chỗ nương mà sinh thì tâm pháp không có thứ lớp duyên, kinh chẳng chấp nhận, nếu không có chỗ nương riêng mà nương ý sinh, nghóa là đồng một chỗ nương với thức, thì chứng tỏ chẳng ở ngoài tâm, vậy lý ấy thế nào? Tức tâm thể kia đồng thời có đủ các nghóa thọ tưởng hành thức khác nhau, không giống như luận Thành Thật nói kiến lập trước sau. Ngay một tâm thể tùy nghóa có chia ra khác nhau, không giống như Tỳ-đàm nói khác Thể kiến lập. Hai nghóa gồm chung nên chẳng cần tranh luận. 2. Theo vọng thức đối trị tà chấp: Tà chấp có sáu: Chấp nhất định là không có: Có người nghe nói chỉ có sáu thức không có tình thức thứ bảy, bèn cho một bề là không có thức thứ bảy. Để đối trị chấp này nên nói có bảy thức như trong Lăng-già nói nghóa tám thức, kinh Thắng Man cũng nói bảy pháp chẳng trụ, nếu không có vọng thức thì nói gì là tám, nói gì là bảy. Trong kinh nói không có bảy tình, nghóa là trong Sự tướng không có tình thức thứ bảy, chẳng phải không có vọng thức. Chấp nhất định là có: Có người nghe nói có thức thứ bảy bèn cho rằng bảy thức có thể tánh riêng. Đối trị chấp này nên nói vọng không có thể tánh. Nên biết Như Lai ngay tâm pháp, chia nghóa phân biệt luống dối, chấp trước là thức thứ bảy, làm sao trong đó lập thể tánh riêng được? Giống như người đời thấy sợi dây cho là rắn, sợi dây là sự thật, dụ cho chân thức; rắn là vọng, dụ cho vọng thức kia. Rắn nương sợi dây nên rắn không có thể tánh riêng, vọng nương chân mà có làm sao có thể tánh? Các loại ví dụ mê, mộng… cũng giống như thế. Lại nữa, trong kinh có nói, nếu không có chân thức thì bảy pháp không trụ. Nếu có tự thể thì tại sao không trụ? Lại nữa, nếu thức tự có thể tánh thì lại là thật có vì sao gọi là vọng? Chấp sự thức cho là vọng thức: Có người nghe nói chân thức gọi là tâm, vọng thức gọi là ý, sự thức gọi là ý thức. Lại nói theo Tiểu thừa ý căn giới trong bảy tâm giới là thức thứ bảy. Đối trị chấp này nên tuyên thuyết vọng thức không giống sự thức. Ý căn giới trong bảy tâm giới, tức là sáu thức, về sau có thêm ý nghóa là ý căn, lại không có pháp nào khác; vọng thức và khoảng phần hạn kia khác nhau thì làm sao nói là tướng một tướng khác? Như nay tại sao tướng luận nói vọng thức có sáu bắt đầu từ vô minh cho đến tương tục, như trên đã phân biệt rõ ràng? Sự thức có bốn: Một là chấp thủ tướng cho đến bốn là nghiệp hệ khổ tướng, như trên đã phân biệt, giới hạn đều khác nhau thì tại sao nói ý căn giới là thức thứ bảy? Lại nữa, kinh Lăng-già nói “Vọng thức thứ bảy là chỗ chỉ có Phật Như Lai và Bồ-tát trụ địa mới giác biết được, ngoài ra đều không giác biết” thì tại sao lại nói ý căn giới là thức bảy. Hỏi: Nếu vọng thức chẳng phải ý căn vì sao Lăng-già và trong luận này nói là Ý? Đáp: Kia chỉ mượn tên gọi để hiển bày, chẳng phải tức ý căn. Như trong kinh Lăng-già nói thức bảy cho đó là tâm, nay trong luận này nói chân thức cho đó là tâm, đâu thể do tên giống nhau nên trở thành một vật? Tên gọi “tâm” tuy đồng mà chân, vọng khác nhau. Tên gọi “ý” tuy một mà đâu ngăn ngại khác nhau. Chấp thô thành tế: Có người nói khi mắt thấy sắc mà chẳng biết sắc là không, tức là tâm mê lầm của bảy thức, các căn còn lại cũng giống như thế. Nếu biết sắc là không tức là tâm hiểu biết của bảy thức, các căn còn lại cũng như thế. Đối trị chấp này cần phải bày rõ sự khác nhau kia. Nói thấy sắc… chẳng biết Không, đây là trong sáu thức chấp tánh vô minh chẳng phải thức thứ bảy. Chấp tánh vô minh này cũng là Chấp thủ tướng của Sự thức ở đoạn trước. Hỏi: Nếu là tâm vô minh trong sáu thức, thì cùng vô minh trong thức thứ bảy có gì khác nhau? Đáp: Ở đây cũng như đoạn trên đã phân biệt, vì trong pháp Sự tướng ngoài tâm chấp tánh mê Không nên chẳng phải vọng thức. Lại nữa, hiểu biết trong pháp sự tướng ngoài tâm vô tánh. Hiểu biết phân biệt trong sự thức này chẳng phải trí của thức thứ bảy. Chấp chẳng diệt: Có người nói bảy thức tâm khi chưa thấy lý thì sinh diệt vô thường, thấy lý thì thường, rốt ráo chẳng diệt. Để đối trị chấp này nên nói vọng cuối cùng sẽ diệt, Thể của bảy thức vọng tâm chỉ là si ám, tướng chỉ là phân biệt, chứng thánh hội chân như, xả phân biệt kia thấy thật làm sáng tỏ. Hết sạch si ám kia thì bảy thức tâm còn trụ chỗ nào mà nói chẳng diệt! Lý như thế phải dùng kinh văn chứng minh. Như Niết-bàn nói thí như khi người nam người nữ đốt đèn, các bình dầu lớn nhỏ đều đầy dầu. Dầu dụ cho phiền não, ánh sáng dụ cho trí tuệ. Khi dầu hết ánh sáng tắt theo, phiền não hết rồi trí tuệ cũng diệt, nên biết vọng tâm phiền não đều mất. Lại nữa, Lăng-già nói dứt bảy chủng thức gọi là làm thân Phật ra máu, nên biết là vọng diệt. Lại nữa, Long Thọ nói “tâm giác quán” ở cõi Dục là thiện là pháp đối trị, ở Nhị thiền tức là tội lỗi cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng trở xuống tâm giác quán là thiện, đối với xuất thế lại là tội lỗi. Trí tuệ cũng vậy, đối với thế gian là thiện, nếu đối với thật tướng thì gọi là tội lỗi, tức nói là tội thì làm sao chẳng diệt? Lại nữa, luận Đại Trí giải thích nghóa Như, nói rằng Thật tướng như nước, thể tánh lạnh, trí quán như lửa. Nước theo lửa cho nên nóng, nếu lửa tắt hết rồi thì nước liền lạnh như cũ, nên gọi là Như. Thật tướng này cũng tùy trí quán mà chuyển biến, diệt quán này rồi Thật tướng như xưa nên gọi là Như, nên biết rõ sự hiểu biết vọng cuối cùng sẽ diệt hết, nếu trí quán không diệt, thì khi nước lạnh lửa đáng lẽ không tắt. Có người nói rằng trong kinh nói diệt là chỉ diệt trí vô minh ám chướng, không phải diệt trí thể, nghóa này không đúng. Trong luận Thật Tánh, tự có giới văn nói không chỉ diệt si ám, cũng diệt trí giải. Nên trong luận kia nói có bốn chướng không được Tịnh, Lạc, Ngã, Thường của Như Lai: Duyên tướng: Nghóa là vô minh địa, chướng chân tịnh của Phật, vì đoạn lìa nó nên được sự Chân tịnh của Phật. Nhân tướng: Nghóa là nghiệp vô lậu, chướng chân ngã của Phật, vì dứt trừ nó nên được Chân ngã của Phật. Sinh tướng: Nghóa là thân ý sinh, chướng chân lạc của Phật, vì dứt trừ nó nên được Chân lạc của Phật. Hoại tướng: Nghóa là sinh tử biến dịch, làm chướng chân thường của Phật, vì dứt trừ nó nên được Chân thường của Phật. Ngoài vô minh… nói riêng vô lậu, cho nó là chướng nên phân biệt nói dứt trừ, vì sao lại nói không diệt vô lậu? Lại nói Trí thể chẳng diệt tận nghóa là Thể bất diệt tức là chân tâm chẳng phải thức thứ bảy. Hỏi: Nếu bảy thức diệt thì ai được Bồ-đề? Ai chứng Niết-bàn? Đáp: Tâm tướng tuy diệt hết, tâm tánh vẫn còn; tâm tánh còn tức là chân thức, cho nên ngay đây nói đắc nói chứng. Chấp nhất định là diệt: Có người nghe nói vọng tâm cuối cùng sẽ diệt nên nhất định cho là diệt, không có nghóa huân tập. Vì sao như thế? Khi có vọng chưa được Chân thật thì không có chỗ huân, khi chứng Chân thật, vốn không vọng thì không có năng huân. Lại nữa, trong Chân thật tịnh pháp tròn đầy không thiếu, đâu cần vọng huân. Tâm có nghóa này nên không có huân tập. Đối trị chấp này nên nói có vọng, có vọng huân, như trong luận nói, vọng huân có hai thứ: Sự thức huân, nghóa là điều lành tu được của phàm phu Nhị thừa. Nghiệp thức huân, nghóa là đạo thực hành của các Bồ-tát. Chỗ huân tập có hai thứ là huân sinh và huân hiển. Nhìn về quả phương tiện nói là có huân, kia cũng như con dấu ấn xuống bùn thành chữ, cũng như đúc khuôn vàng thành nữ trang. Nhìn về tánh, hiển bày tịnh quả huân như lò đúc… làm nóng chảy vàng. Nếu nói “Khi vọng vì chưa được chân cho nên nay không huân”, nghóa là khi được (chân) là do kia (chân), “sau lại huân” nghóa là thế nào? Nếu nói “Y cứ chân vốn không có vọng nên nay không huân”, nghóa là theo chân nói về chân; chân thì thường vắng lặng thật không nhờ huân. Y cứ vọng nói chân thì chân nhiễm theo vọng, về sau y theo vọng tô điểm thêm, đâu không có nghóa huân? Nếu nói “trong chân, tịnh pháp tròn đủ không nhờ huân tập”, nghóa là khi còn là phàm phu tuy có tánh tịnh, chưa hiển thành đức cho nên phải huân tập. Cũng như trong nhà tuy có kho báu nhưng nếu không đào thì kho báu không hiện, cũng như trong đất tuy có nước mà lấy không được nên nói có huân tập. Hỏi: Chân vọng mỗi tánh khác nhau, sao vọng tu mà huân chân được? Đáp: Vì chân vọng không lìa nhau nên vọng nhiễm thì nhiễm, vọng tịnh thì tịnh, nên dùng vọng huân tu thành chân đức. 3. Y theo chân thức đối trị tà chấp: Chấp có hai: Phàm phu dính mắc Ngã chấp Nhị thừa dính mắc pháp chấp 1. Phàm phu dính mắc Ngã chấp: Hỏi: Phàm phu cũng dính mắc các pháp vì sao chỉ gọi là người dính mắc ngã chấp? Đáp: Giới hạn cũng dính mắc các pháp, nay đối với Nhị thừa thì phàm phu chấp mắc ngã và ngã sở, gọi chung là Nhân chấp vì các pháp đều thuộc về Ngã. Theo chỗ chấp của phàm phu tùy theo nghóa mà nói đầy đủ, lược có hai thứ: Chấp có Chấp không 1. Chấp có: Có bốn loại: Chấp thật đồng với thần ngã: Có người nghe nói tàng thức là ngã, cho là giống với ngoại đạo chấp thần ngã. Đối trị chấp này nên nói Như Lai tàng chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sinh, chẳng phải mạng, chẳng phải người. Chấp trong thân có đầy đủ chân nhiễm: Có người nghe nói hai pháp sinh tử là Như Lai tàng, nên cho rằng trong chân có sinh tử. Đối trị tà chấp này nên nói Như Lai tàng tự tánh thanh tịnh, từ xưa đến nay chỉ có hằng sa Phật pháp thanh tịnh, không có nhiễm ô. Nếu nói “Trong chân thật có sinh tử” khi chứng ngộ sẽ lìa hẳn sinh tử thì không có việc đó. Nếu nói có tác dụng duyên khởi kia theo pháp môn thế gian, chẳng phải không có nghóa này. Chấp có tướng tịnh: Có người nghe nói trong Như Lai tàng có đủ tất cả pháp công đức không thêm không bớt, liền cho là trong chân có sắc tâm tự tướng khác nhau. Đối trị chấp này nên nói “Như Lai tàng tuy có đủ các pháp nương vào chân như, nói không có tướng kia đây mình người, cho đến cũng không có lìa tướng mình người. Vì trái với nhiễm nên nói trong chân có đầy đủ tất cả pháp. Lại nữa, trong chân kia các pháp nhiều như số cát sông Hằng đồng thể duyên tập không có khác nhau, không được giữ riêng tướng khác nhau. Chấp tướng bắt đầu và kết thúc: Có người nghe nói nương Như Lai tàng có sinh tử, cho là Như Lai tàng bắt đầu khởi sinh tử. Lại nữa, vì nói Như Lai tàng khởi sinh tử nên tuy được Niết-bàn sẽ khởi sinh tử trở lại, vì khởi sinh tử nên Niết-bàn có kết thúc. Để đối trị chấp này nên nói Như Lai tàng không có bắt đầu không có kết thúc. Vì không có bắt đầu nên nương (Như Lai tàng) khởi sinh tử mà sinh tử không có bắt đầu, cho nên luận chép nếu có ai nói ngoài ba cõi lại có chúng sinh bắt đầu sinh khởi, thì đó là lời của ngoại đạo chẳng phải Phật pháp chân chánh. Vì không có kết thúc nên nương Như Lai tàng thành tựu Niết-bàn, Niết-bàn không có kết thúc. 2. Chấp không: Phân biệt có ba thứ: 1. Chấp nghóa không cho là chân thức: Có người nghe nói chân thức lìa tướng, là pháp vô ngã, bèn nói nghóa Không của sáu thức, bảy thức tức là chân thức. Đối trị chấp này nên nói Thức Bất Không. Kinh nói “Không”, nghóa là trong chân thức không có chấp tướng vọng tình kia nên gọi là Không, chẳng phải cho chân thức một bề là không, nên luận Duy Thức nói: Đối với phàm phu ngoại đạo chấp ngã ngã sở, nên nói tất cả pháp như sắc… đều không, chẳng phải cảnh giới ly ngôn, tất cả đều không. Cảnh giới ly ngôn kia là sở hành của Phật, chỉ có chân thức chớ không có thức nào khác, và cảnh giới nào khác ngoài chân thức. Vì sao nói không được? Lại nữa, như kinh Thắng Man nói hai thứ: Không Như Lai tàng: Nghóa là tất cả phiền não Không, chẳng có tự thể. Bất không Như Lai tàng: Nghóa là tất cả Phật pháp nhiều hơn số cát sông Hằng. Lại nữa, chấp lý Không của sáu thức, bảy thức là chân thức, nghóa là trong hai chấp Không Như Lai tàng kia đâu có liên quan tạng chân thức Bất không. Lại nữa, trong kinh kia có nói sinh không pháp không và đệ nhất nghóa không, ngoài ba cái Không này lại riêng nói về nghóa không của A-lại-da thì biết rõ sáu thức bảy thức tâm là Không, chẳng phải là chân thức. Lại nữa, trong chân thức tuy có nghóa Không, nhưng chẳng nói nghóa Không cho là chân thức. Trong Sự thức tuy có nghóa Không, nhưng chẳng nói lấy nghóa không cho là chân thức. Trong vọng thức tuy có nghóa không, nhưng chẳng nói lấy nghóa không cho là vọng thức. Chân thức cũng vậy, chẳng nói nghóa không cho là Chân thức. Chân thức là tánh biết chân thật thì vì sao nói là không? Nếu nói “tâm không là chân thức”, trong pháp Tiểu thừa cũng nói tâm không, vì sao chẳng gọi là chân thức? E 2. Chấp Pháp thân cho là không: Có người nghe nói Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng cũng như hư không, người này không biết vì phá chấp liền cho Pháp thân một bề là không. Để đối trị chấp này nên nói thật Bất không. Cái gọi là “không” là đối đãi với “có” mà nói, thể không chẳng ở riêng chỗ nào. Lại nữa, luận nói một bề cảnh giới chỉ do tâm mà có, ngoài tâm không có pháp. Nếu lìa vọng tâm cảnh giới cũng diệt theo, chỉ có chân tâm chẳng chỗ nào không khắp, tức là tánh trí Như Lai rộng lớn rốt ráo là thiện, chẳng phải hư không. 3. Chấp chân như cho là quyết định không: Có người nghe nói “Thế gian, Niết-bàn tất cả đều vắng lặng, cho đến chân như cũng rốt ráo không, lìa tất cả tướng”, chẳng biết đây là phá chấp, liền cho chân như chỉ là không. Để đối trị chấp này nên nói Như Lai Bất Không đầy đủ vô lượng tánh công đức, sao nói là không được? 2. Nhị thừa chấp pháp: Vọng chấp có hai: Chấp có: Người Nhị thừa chưa chứng pháp không, thấy có tướng sinh tử Niết-bàn, do kiến chấp này nên rất sợ sinh tử, thú hướng về Niết-bàn, mê lầm che đậy chân như. Đối trị chấp này nên nói các pháp không, tất cả sinh tử tánh thường vắng lặng, cũng không có Niết-bàn tự diệt để được. Chấp quyết định không có: Người Nhị thừa thấy được phần sinh Không, bậc thượng căn thấy được chút ít pháp Không, bèn chấp cái Không này cho là rốt ráo, chướng ngăn lý chân thật. Để đối trị chấp này nên nói thật có Phật tánh, chẳng phải không. Đối trị tà chấp yếu chỉ diệu huyền khó lường, chỉ biết cúi đầu trước lời thánh, nói sơ đầu mối chủ yếu. Chia làm hai: Đối trị tà chấp không giống nhau Dẹp trừ chấp trước kia Từ ”Lại nữa rốt ráo xa lìa” trở xuống. Phần đầu là đối trị tà chấp chẳng phải thật có mà vẫn còn tướng đối trị, nên phần tiếp theo là dẹp tướng đối trị. 1. Đối trị tà chấp không giống nhau: Chia làm ba: Lập đạo lý chung Nêu số lượng, kể rõ các chương. Từ “Ngã kiến này có hai loại” trở xuống. Chương giải thích Từ “Nhân ngã kiến là” trở xuống. 1. Lập đạo lý chung: Đối trị tà chấp là nêu tên. Tất cả tà chấp đều nương ngã kiến này là phần giải thích chủ yếu. “Ngã kiến” là căn bản của các hoặc kia, cho nên theo nghóa của một số nhà luận giải thì Ngã kiến chẳng phải hoặc, vì có ngã tu được thánh đạo. Nếu lìa ngã thì không có tà chấp là giải thích ngược lại. 3. Chương giải thích: Chia làm hai: Chương giải thích nhân ngã Chương giải thích pháp ngã 1. Chương giải thích nhân ngã Chia làm hai: Nêu sơ lược số lượng Giải thích riêng Từ “Thế nào” trở xuống. Ở đây, trong năm phần, một phần đầu là chấp không ba phần sau là chấp có, ứng với phần đối trị tà chấp trong ba loại thức đã nói đủ như phần trên đã phân biệt rộng. Nhưng hiện nay trong luận này chỉ nói về chỗ căn bản, chỉ nói về chân thức. Trong chân thức chỉ nêu chỗ chủ yếu nên nói năm phần này, chánh văn trình bày rất dễ hiểu. Trong năm phần này, mỗi phần đều có hai đoạn: Nói về tà chấp Nói về cách đối trị 2. Pháp ngã kiến: Từ “Pháp ngã kiến” trở xuống… Chia làm hai: Chấp có Chấp không Trong chánh văn chỉ chấp có, lược bỏ phần chấp không. 1. Chấp có Chia làm hai: Kiến chấp Đối trị 2. Dứt bỏ chấp trước Chia làm hai: Dẹp trừ tướng đối trị Bỏ quyền bày thật Từ “Nhưng có” trở xuống. 1. Dẹp trừ tướng đối trị: Chia làm ba: Nêu tên Dẹp tịnh Từ “Nên biết” trở xuống. Dẹp tướng Từ “Cho nên” trở xuống. Nêu tên: Lại nữa, rốt ráo xa lìa vọng chấp là nêu tên. Chỉ lìa tà chấp chẳng phải là rốt ráo, cũng dẹp trừ cả năng đối trị gọi là lìa rốt ráo. Từ “Vì sao phải dẹp trừ cả hai?” trở xuống sẽ nói lên nghóa này. Dẹp tịnh: Nên biết pháp nhiễm pháp tịnh đều là pháp đối đãi không thể nói, nếu nói đến tột lý thì nhiễm và tịnh đều chẳng thể có tướng, nhưng theo tướng mà phân biệt, y cứ vào vọng mà xét cũng có tịnh tướng. Đã không có sự đối trị vọng chấp thì pháp tịnh cũng không thể thành lập. Dẹp tướng: Cho nên tất cả pháp đây là tất cả pháp nhiễm tịnh, xưa nay không có tướng để nói. 2. Dẹp quyền bày thật: Chia làm ba: Dẹp quyền Bày thật Từ “Chỉ thú kia” trở xuống. Giải thích ngược lại Từ “Do niệm” trở xuống. Mà có lời nói là nên biết Như Lai dùng phương tiện dẫn đường chúng sinh, chẳng phải phần hiển bày. Hiển thật: Nói lìa niệm là lìa niệm vọng thức, trở về chân như là phần hiển bày. Giải thích ngược lại: Xem chánh văn sẽ hiểu. <詞>MỤC 3: PHÁT THÚ ĐẠO TƯỚNG Chia làm ba: Nêu chung Trình bày các chương môn Từ “Nói lược” trở xuống… Chương giải thích Từ “Tín thành tựu phát tâm” trở xuống… Nêu chung: Phân biệt phát thú đạo tướng là nêu tên, Đạo là đạo tu chứng, phát thú là chỗ tu hành hướng về. Đạo tu chứng của tất cả chư Phật là giải thích tướng của đạo. Chỗ hướng về của tất cả Bồ-tát tu hành là giải thích chữ phát thú, hợp chung với lý hạnh để giải thích. Kể ra các chương: Chia làm hai: Nêu số lượng Kể ra các chương. Nói thành tựu phát tâm là Thập tín trở lên, Giải hạnh phát tâm là Giải hạnh trở lên. Chứng phát tâm là Sơ địa trở lên. 3. Chương giải thích: Từ “Tín thành tựu phát tâm là” trở xuống… Chia làm ba chi: Giải thích Tín thành tựu Giải thích Giải hạnh phát tâm Giải thích Chứng phát tâm <詞>CHI B1: GIẢI THÍCH TÍN THÀNH TỰU: Chia làm hai: Đặt câu hỏi về phát thú Phần giải thích Từ “Cái gọi là” trở xuống… Hỏi về phát thú: Tín thành tựu phát tâm là nêu tên, nương vào những hạng người nào là y theo người để hỏi. Tu những hạnh gì là theo hạnh tu để phân biệt. Được Tín thành tựu thì sẽ phát tâm là phần kết thúc câu hỏi về Tín phát tâm. Phần giải thích: Chia làm hai: Nói theo người Giải thích theo hạnh Từ “Lại nữa, Tín thành tựu phát tâm là” trở xuống… 1. Nói theo người: Chia làm hai: Tiến nhập Người tu lui sụt Từ “Nếu có chúng sinh” trở xuống… Trong hàng Thập tín này vì quả vị có tiến có lùi, thường gặp duyên lành bèn vào chủng tánh, nếu gặp duyên ác sẽ lui sụt trở lại. Vì có hai hạng này nên chia ra hai phần. 1. Tiến nhập: Chia làm ba: Nêu quả vị Nói về khởi hạnh ấy Từ “Lại huân tập” trở xuống… Nói về tiến nhập Từ “Tín tâm như thế” trở xuống. Nêu quả vị: Cái gọi là chúng sinh nhóm Bất định là Thập tín, là nhóm tiến lùi bất định kia. Nói về khởi hạnh: Chia làm hai: Tin tâm Phật kia Phát tâm kia Từ “Chư Phật” trở xuống. Tin tâm Phật kia: Có năng lực huân tập gốc lành là sáu thức huân tập. Tin quả báo của nghiệp là quả báo có thể thực hành mười điều lành, chán khổ cầu Niết-bàn, gặp Phật cúng dường, tin tâm tu. Trải qua một muôn kiếp thì thành tựu lòng tin. Phát tâm kia: Chư Phật, Bồ-tát dạy cho phát tâm, hoặc vì đại Bi, hoặc vì hộ pháp sẽ tự phát tâm. Nói về tiến nhập: Tín tâm như thế thành tựu được Phát tâm là tròn đủ muôn kiếp. Vào nhóm chánh định là chủng tánh trở lên, quyết định không lui sụt, nên gọi là nhóm chánh định. Tánh chủng, tập chủng làm chủng tử chánh nhân ở chỗ hai Đức Phật nên gọi là trụ Như Lai chủng tương ưng chánh nhân. 2. Người tu lui sụt: Từ “Nếu có chúng sinh” trở xuống… Lui sụt ở đây là lui sụt đối với hai thứ quả vị và hạnh, nếu nói về chủng tánh niệm lui sụt cũng có. 2. Nói theo hạnh: Từ “Lại nữa, tín thành tựu” trở xuống. Chia làm hai: Hạnh trong nhân Hạnh trong quả Từ “Vì Bồ-tát phát tâm này cho nên”.. trở xuống. 1. Hạnh trong phần nhân: Chia làm hai: Nói theo tâm Nói theo hạnh Từ “Lược nói phương tiện” trở xuống.,, 1. Nói theo tâm: Chia làm ba: Nêu chung, kể số lượng Kể tên để giải thích Hỏi đáp để nói rõ thêm 1. Nêu chung, kể số lượng: Ba thứ tâm tức là ba tâm Bồ-đề. 3. Hỏi đáp Chia làm hai: Hỏi Đáp 1. Hỏi: Chia làm hai: Ví dụ Hợp dụ Từ “Chúng sinh như thế” trở xuống… Ví dụ: Hòn ngọc ma-ni to, thể tánh trong sáng đây là dụ cho Thể chân như. Mà có cấu nhơ của quặng đây là tâm bị phiền não làm nhiễm ô. Phương tiện là dụ duyên tu muôn hạnh kia, hợp với dụ sẽ hiểu. Nói về hạnh: Từ “Lược nói phương tiện” trở xuống… Chia làm hai: Đặt tên Hạnh Phương tiện căn bản Phương tiện dừng ác Phương tiện khởi gốc lành Phương tiện đại nguyện bình đẳng Hạnh Phương tiện căn bản: 2.Giải thích Chia làm ba: Nói về hạnh chẳng trụ sinh tử Nói về hạnh chẳng trụ Niết-bàn Từ “Quán tất cả pháp” trở xuống. Vì hạnh tức lý Từ “Vì tùy” trở xuống… Phương tiện dứt ác: Chia làm ba: Đặt tên Giải thích Từ “Nghóa là hổ thẹn” trở xuống,… Vì hạnh tức lý Từ “thuận theo” trở xuống… Phương tiện khởi gốc lành: Và IV. Phương tiện đại nguyện bình đẳng thì cũng giống như ba phần trên. 2.Hạnh trong phần quả: Từ “Bồ-tát phát tâm này” trở xuống. Chia làm ba: Hạnh chân chứng Hạnh ứng hóa Từ “Vì thấy Pháp thân” trở xuống. Dẫn kinh chứng minh Từ “Như Tu-đa-la” trở xuống. Hạnh chân chứng: Bồ-tát vì phát tâm này sẽ được thấy một phần nhỏ Pháp thân, đây là thể của chứng hạnh. Hạnh ứng hóa: Chia làm ba: Y thể khởi dụng Tám tướng lợi ích Từ “Nghóa là” trở xuống. Chưa hết nghiệp hữu lậu Từ “Nhưng Bồ-tát này” trở xuống. 1. Y thể khởi dụng: Chưa gọi là Pháp thân nghóa là Pháp thân là từ Sơ địa trở lên. Nghiệp này có hai cách giải thích: Bất hệ nghiệp biến dịch là đại bi làm duyên, nghiệp này là nhân đọa trong đường ác không hẹn kiếp số, gọi là biến dịch. Phần đoạn Bất hệ nghiệp là tuy thọ báo không giới hạn kiếp số, vẫn gọi là phần đoạn. Nghiệp nhân hữu lậu là nghiệp do bốn trụ làm duyên mà được thành tựu nên gọi là phần đoạn, vì vi tế nên thọ báo không có kỳ hạn. Chịu khổ có hai cách giải thích: Vì nghiệp này nhỏ, đau ít khổ ít, nên không chịu khổ nhiều. Tuy nghiệp nhỏ, còn đọa ba đường ác, theo như chỗ đọa chịu nghiệp nhỏ nên người này không chấp nhận. 3.Dẫn kinh chứng minh: Chia làm hai: Nói về quyền hạnh Nói về thật hạnh Từ “Lại nữa Bồ-tát này” trở xuống. Nói về quyền hạnh: Như kinh có chỗ nói lui sụt đọa lạc là chẳng phải kia thật lui sụt đọa lạc, nghóa là chẳng phải nghiệp bị đọa, chưa nhập chánh vị là nhóm Bất định. Nói về thật hạnh: Chia làm ba: Không sợ rơi vào địa vị Nhị thừa Hạnh không sợ khổ nạn Từ “Nếu nghe” trở xuống. Thể của năm hạnh Từ “Vì tin hiểu” trở xuống. rõ. <詞>CHI B 2. GIẢI THÍCH GIẢI HẠNH PHÁT TÂM: Từ “Giải hạnh phát tâm là” trở xuống… Chia làm hai: Nói thù thắng chung Nên biết đều chuyển thành Giải hạnh thù thắng, là đều có nói Nói thù thắng riêng: Từ “Vì Bồ-tát này” trở xuống. Chia làm hai: Giải thù thắng Hạnh thù thắng Từ “Vì biết pháp tánh” trở xuống… Hạnh thù thắng: Dùng sáu Độ để giải thích, mỗi độ có hai đoạn: Nói về lý Nói về lý thành hạnh <詞>CHI B 3. GIẢI THÍCH: Chứng phát tâm Từ “Chứng phát tâm là” trở xuống… Chia làm hai: Pháp sở chứng Hạnh năng chứng Từ “Chỉ là chân như” trở xuống… Pháp sở chứng: Có năm câu: Từ Tịnh tâm địa cho đến Cứu cánh địa là nói theo người. Chứng cảnh giới gì là đặt câu hỏi phát khởi. Trong Thập địa chỗ chứng lý đã thông suốt. Đó là chân như là nêu pháp được chứng. Vì nương chuyển thức gọi là cảnh giới là vì tu duyên nên cảnh giới chứng đắc khác nhau, nếu bỏ hạnh duyên thì không có cảnh giới khác nhau. Nhưng chứng đắc này là không có cảnh giới là dẹp bỏ tướng. Hạnh năng chứng: Chia làm ba: Nói về hạnh năng chứng Từ Sơ địa trở lên đến Thất địa. Hạnh năng chứng từ Bát địa trở lên. Từ “Lại nữa Bồ-tát phát tâm” trở xuống… Hạnh năng chứng của Thập địa Từ “Lại nữa, công đức Bồ-tát này” trở xuống… 1. Nói về hạnh năng chứng: Chia làm hai: Chân thân và ứng thân đối nhau để giải thích Năng hóa sở hóa đối nhau để giải thích Từ “Nhưng thật Bồ-tát” trở xuống… 1. Chân thân và ứng thân đối nhau để giải thích: Chia làm hai: Nói về chân thân Nói về ứng thân Nói về chân thân: Chỉ có trí chân như là Pháp thân. Nói về ứng thân: Chia làm hai: Nói riêng về ứng hóa khác Kết thúc nói ứng hóa vô biên Từ “Như thế” trở xuống… Bồ-tát này trong khoảng một niệm thị hiện vượt qua các địa thành chánh giác, hoặc nói trong vô lượng kiếp lâu xa tu hành thành Phật. Chúng sinh căn tánh không giống nhau nên có muôn vàn sai khác nhau, nhưng chủ yếu không ngoài hai loại này, nghóa là hạng người thứ hai biếng nhác, yếu hèn nên nói lời này. 2. Năng hóa sở hóa đối nhau: Chia làm hai: Nói về năng hóa Nói về sở hóa Từ “Vì tất cả Bồ-tát” trở xuống… Nói về năng hóa: Nhưng thật ra Bồ-tát Chủng tánh Phát tâm chỗ chứng đều ngang bằng nhau, không có pháp nào vượt hơn là Chủng tánh trở lên không có lợi và độn căn khác nhau, nhưng vì sở hóa khác nhau nên có các thứ chẳng đồng. Nói về sở hóa: Chỗ thấy chỗ nghe các căn cơ ưa thích khác nhau đây là sở hóa tức chúng sinh được giáo hóa. Cho nên chỗ tu hành cũng có khác nhau là tùy duyên (sở hóa) thị hiện năng hóa. 2.Hạnh năng chứng từ Bát địa trở lên: Từ “Lại nữa, Bồ-tát này” trở xuống. Chia làm hai: Nêu số lượng, tướng tiêu biểu Kể tên tức giải thích Từ “Thế nào” trở xuống… Tướng vi tế là vì vô công dụng nên hành tướng vi tế gọi là tướng vi tế. Trong ba tâm này, một tâm đầu là chân, hai tâm sau là vọng. 3. Hạnh năng chứng của Thập địa: Chia làm hai: Nhân viên mãn quả thành tựu Hỏi đáp để nói rõ thêm 1. Nhân viên mãn quả thành tựu: Chia làm hai: Nói nhân kia viên mãn nên lập ra báo thân Tướng dứt hết hoặc Từ “Vì nhất niệm” trở xuống… Nói nhân kia viên mãn: Lại nữa Bồ-tát này công đức thành tựu viên mãn là nói tu nhân viên mãn. Nơi Sắc rốt ráo thị hiện thân thế gian cao lớn là nói thành tựu báo thân kia. Dứt hết tướng hoặc: Một niệm tuệ tương ưng đây là duyên trí trọn một niệm hiểu biết. Do hiểu biết này mà vô minh mau dứt sạch, chủng trí hiện tiền. Do chủng trí hiện tiền nên tự nhiên có nghiệp dụng không thể nghó bàn đầy khắp pháp giới, hiện khắp mười phương lợi ích chúng sinh. 2. Hỏi đáp để rõ thêm: Chia làm hai: G 1. Hỏi đáp đầu tiên nói rõ thêm về Nhất thiết chủng trí G 2.Hỏi đáp thứ hai nói rõ thêm về nghiệp tự nhiên không thể nghó bàn 1. Hỏi đáp đầu tiên nói rõ thêm về Nhất thiết chủng trí: Chia làm hai: Hỏi Đáp Hỏi Hư không vô biên là hư không rộng lớn. Không có tâm tưởng dứt vô minh là vọng tâm khác nhau đều không có. Nếu không có tướng tâm khác nhau, thì tại sao gọi là chủng trí, tức là Nhất thiết trí. Đáp Chia làm ba: Nêu lý thể là một Phàm phu không có chủng trí Từ “Vì chúng sinh” trở xuống. Chủng trí của Phật Từ “Chư Phật” trở xuống. Nêu lý thể là một: Tất cả cảnh giới xưa nay nhất tâm, xa lìa tưởng niệm nghóa là chỉ là chân thức, không có vọng tưởng. Phàm phu không có chủng trí: Nhưng phàm phu vì khởi vọng tâm nên không gọi là pháp tánh, tâm có giới hạn không có Chủng trí. Chủng trí của Phật: Chia làm hai: Phật có trí thể Phật có trí dụng Từ “Có đại trí” trở xuống… Chư Phật Như Lai lìa kiến tưởng là lìa vọng kiến. Lại nữa, tuy trí thể là một, mà có trí dụng phương tiện tùy chúng sinh khác nhau chỉ bày các thứ pháp gọi là chủng trí. 2. Nghiệp tự nhiên không thể nghó bàn: Chia làm hai: Hỏi Đáp 1. Hỏi Đầu tiên là lãnh ý chỉ trên Hỏi Đáp Chia làm ba: Pháp - Dụ - Hợp dụ Từ đây trở xuống là kết thúc đoạn trước, bắt đầu đoạn sau. Đã nói phần Giải thích, tiếp theo sẽ nói phần Tu hành tin tâm. <詞>ĐOẠN 3. TU HÀNH TIN TÂM: Nói về nương lý khởi tu, cũng vì người hạ căn nên nói đoạn này. Có bốn phần: Nói theo người Đặt câu hỏi phát khởi Từ “Những gì” trở xuống. Giải thích Tín hạnh Từ “Lược nói” trở xuống. Tu pháp này sẽ sinh về Tịnh độ Từ “Lại nữa chúng sinh mới học” trở xuống. Nói theo người: Trong phần này nương chúng sinh chưa vào chánh định là nhắm vào giai vị bất định. Đặt câu hỏi: Chia làm hai: Hỏi về tín Hỏi về hạnh 3. Giải thích tín hạnh: Chia làm hai: Giải thích tín tâm Giải thích tín hạnh Từ “Có năm môn” trở xuống… 1. Giải thích tín tâm: Chia làm hai: Nêu số lượng Kể tên Tức giải thích kính tin Tam bảo và tin lý nên gồm có bốn. Cảnh được tin không ngoài bốn loại này nên nói có bốn. 2. Giải thích tín hạnh: Chia làm ba: Nêu số lượng Kể rõ Giải thích rộng Tu hành có năm môn để thành tựu tín tâm là so với sáu Độ, vì định tuệ hợp thành một môn nên có năm môn. 3. Giải thích năm môn: Chia làm năm: Giải thích bố thí Giải thích trì giới Giải thích nhẫn nhục Giải thích tinh tấn Giải thích chỉ quán 1. Giải thích bố thí: Chia làm hai: Tên đề mục Giải thích Từ “Nếu thấy” trở xuống. 2. Giải thích Chia làm ba: Nói về tài thí Nói về vô úy thí Từ “Nếu thấy nguy” trở xuống. Nói về pháp thí Từ “Nếu có chúng sinh” trở xuống. 2. Giải thích trì giới: Chia làm hai: Tên đề mục Giải thích 2. Giải thích Chia làm hai: Nói về hành giới Nói về chỉ giới Từ “Không được xem thường” trở xuống… 1.Nói về hành giới: Chia làm hai: Nói về giới thực hành mười điều lành Nói về giới oai nghi Từ “Nếu là xuất gia” trở xuống. 2. Nói về chỉ giới: Chia làm hai: Nói về giới tánh chủng Nói về giới oai nghi Từ “Nên giữ” trở xuống… 3. Giải thích nhẫn nhục: Chia làm hai: Nói về nhẫn nhục không có tâm trả thù Chịu đựng tám thứ gió ở thế gian Từ “Cũng nên nhẫn” trở xuống… 4. Giải thích tinh tấn: Chia làm hai: Nói chính mình tinh tấn Khuyên người Từ “Lại nữa nếu người” trở xuống. 1. Nói tinh tấn ở mình: Chia làm ba: Nói về tinh tấn không biếng nhác Y cứ việc xưa để khuyên Từ “Nên nhớ” trở xuống… Kết thúc lời khuyên Từ “Cho nên” trở xuống. 2. Khuyên người: Chia làm ba: Nói “lấy chúng sinh nạn chướng làm khuyến duyên” Nói về khuyên tu nhân hạnh Từ “Cần phải” trở xuống… Nói về khuyên tu hồi hướng Từ “Hồi hướng Bồ-đề” trở xuống. 5. Giải thích chỉ quán: Chia làm ba: Nói sơ lược về chỉ quán Giải thích rộng riêng từng môn chỉ quán Từ “Nếu tu chỉ” trở xuống. Nói về chỉ quán giúp nhau Từ “Nếu tu quán là đối trị” trở xuống. 1. Nói sơ lược về chỉ quán Chia làm hai: Giải thích riêng Giải thích cả hai thứ Từ “Thế nào là thuận theo” trở xuống… Xa-ma-tha là tên gọi khác của Định. Tỳ-bát-xá-na là tên gọi khác của Tuệ. 2. Giải thích rộng riêng từng môn chỉ quán: Chia làm ba: Nói chung tu quán định kia Nói về tu định được lợi ích Từ “Lại nữa tinh cần” trở xuống. Nói riêng tu quán Từ “Lại nữa nếu người chỉ tu nhân duyên” trở xuống. 1. Nói chung tu quán định kia: Chia làm ba: Nói về phương pháp tu Hiển bày nạn tướng của định Từ “Hoặc có chúng sinh” trở xuống… Phân biệt sự tà chánh Từ “Nên biết ngoại đạo” trở xuống. 1. Nói về phương pháp tu Chia làm hai: Nói về phương pháp năng tu Nói về tướng Tam-muội sở tu Từ “Lại nữa, y theo Tam-muội này” trở xuống… 1. Nói về phương pháp năng tu, chia làm hai: Nói về người chân chánh tu Nói về người tu không được Từ “Chỉ trừ … nghi ngờ” trở xuống. 1. Nói về người chân chánh tu: Chia làm ba: Nói về phương tiện đầu tiên Nói về tướng đắc định Từ “Chánh niệm này là” trở xuống. Nói về Định hàng phục hoặc. Từ “Tức tâm này cũng lại” trở xuống. Chỉ giải thích từ ngữ đoạn đầu. Phương tiện đầu tiên là tất cả cảnh giới theo chấp trước đều dứt, cảnh giới đã hết, tâm thuận theo cũng trừ nên chánh văn nói: Dùng tâm trừ tâm”. Trong Địa luận cũng nói như thế. Nói Chân như Tam-muội đó là Lý định. Trong Tiểu thừa chỉ dừng tâm lưu trụ ở một cảnh, gọi là đắc định. Trong Đại thừa phân tích lý trụ tâm gọi là đắc định kia chỉ là lý vọng, nên trong kinh nói chư Phật Bồ- tát thường dạo chơi trong định Pháp tánh. 2. Nói về tướng sở tu: Từ “Lại nữa, y theo Tam-muội này” trở xuống. Chia làm ba: Nói về thể trong định kia Nói về thể căn bản trong các định Từ “Nên biết” trở xuống. Nêu lợi ích khuyên tu Từ “Nếu người tu hành” trở xuống… Lại nữa, y theo Tam-muội này sẽ biết nhất tướng pháp giới là công dụng của định. Hiểu lý vốn không hai nên gọi là Nhất tướng. Đoạn sau hiển bày tướng kia, nghóa là thân chư Phật và thân chúng sinh bình đẳng không hai. 2. Nói về nạn tướng của định: Từ “Hoặc có chúng sinh” trở xuống… Chia làm ba: Nói về sự não loạn của thân nghiệp Nói sự não loạn của khẩu nghiệp Từ “Hoặc hiện thiên tướng” trở xuống. Nói về sự não loạn của ý nghiệp Từ “Hoặc lại khiến cho người” trở xuống. 1. Nói về sự não loạn của thân nghiệp: Chia làm hai: Nói về sự não loạn của thân nghiệp Nói về cách đối trị Từ “Nên niệm” trở xuống… 2. Nói sự não loạn của khẩu nghiệp: Chia làm bốn: Nói về người năng thuyết Nói về pháp sở thuyết Từ “Hoặc nói đà-la-ni” trở xuống. Nói về sự não loạn của thần thông Từ “Hoặc khiến người biết” trở xuống. Nói nên biết kia chẳng phải tướng chân thật Từ “Đều là” trở xuống. 3. Sự não loạn của ý nghiệp: Chia làm hai: Nói về tướng não loạn kia Nói phải quán sát Từ “Do nghóa này nên” trở xuống… 3.Nói về tà định và chánh định: Từ “Nên biết ngoại đạo” trở xuống. Chia làm ba: Nói tướng tà định và chánh định Nói về định chân chánh Từ “Chân như Tam-muội là” trở xuống… Khuyên người tu định Từ “Nếu các phàm phu” trở xuống… Cái gọi là kiến nghóa là năm kiến. Nói Ái nghóa là năm độn, tức năm độn sử. Nói Ngã mạn là tám mạn, tức tám thứ ngã mạn. 2. Nói về lợi ích tu định: Từ “Lại nữa siêng năng” trở xuống… Chia làm hai: Nêu chung Giải thích riêng mười thứ lợi ích của định Từ “thế nào” trở xuống. 3. Nói riêng về tu quán: Từ “Lại nữa, nếu người khi tu chỉ” trở xuống. Chia làm hai: Kết thúc đoạn trước bắt đầu đoạn sau Nói về tu quán Từ “Tu tập pháp quán là” trở xuống…. 2. Thuyết minh tu quán Chia làm hai: Tu theo năm cách quán, nói về tu tuệ quán Theo Nhị đế để nói về tuệ quán Từ “Còn những lúc khác” trở xuống… 1. Tu theo năm cách quán, nói về tu quán tuệ: Chia làm hai: Nói về tu quán Phát nguyện giáo hóa rộng khắp Từ “Như vậy nên nhớ” trở xuống. Hai pháp tu này là tự mình ngộ giải cũng giúp cho người ngộ giải. 1. Nói về tu quán: Chia làm bốn: diệt. sinh. Quán vô thường Nói về quán khổ Từ “Vì thế” trở xuống… Dạy quán không, vô ngã Từ “Nên” trở xuống… Nói về quán bất tịnh Từ “Nên quán thế gian” trở xuống… 1. Quán vô thường: Chia làm hai: Nói về Phần đoạn vô thường Nói về Biến dịch vô thường Từ “Tất cả tâm hành” trở xuống… Dạy quán không, vô ngã Trong phần dạy quán, y cứ ba đời để giải thích. Như mộng là tướng diệt, vô diệt, tức diệt mà không có tướng Điện quang là tướng trụ, vô trụ, tức trụ mà không có tướng trụ. Như mây là tướng khởi, vô khởi, tức sinh mà không có tướng 2. Phát nguyện hóa độ: Chia làm ba: Niệm cảnh sở hóa Từ “Như vậy nên nhớ” trở xuống… Nói về phát nguyện Từ “Tư duy như thế” trở xuống. Nói về hạnh hóa độ Từ “Vì khởi nguyện như vậy” trở xuống. 2. Y theo nhị đế nói về tuệ quán: Chia làm hai: Nói chung Từ “Còn những lúc khác” trở xuống… Giải thích riêng Từ “Cái gọi là” trở xuống. 2. Giải thích riêng Chia làm hai: Nói về quán tục đế Nói về quán chân đế Từ “Tuy nhớ nghó nhân duyên” trở xuống… 3. Chỉ quán giúp nhau: Từ “Nếu tu quán là đối trị” trở xuống… Nếu tu định quá nhiều thì tâm chìm lặng, nếu nghiêng về tu quán nhiều thì tâm lay động, vì định tuệ bình đẳng tâm mới được điều hòa nhu thuận, nên kế sẽ nói rõ định tuệ giúp nhau. Chia làm ba: Nói riêng về chỉ quán đối nhau Chỉ quán giúp nhau thành tựu Từ “Vì do nghóa này” trở xuống. Tu không đủ hai pháp thì có hại Từ “Nếu tu chỉ” trở xuống. Tu đối trị có nghóa chính và nghóa phụ. Tu Định có công năng đối trị tâm tán loạn của phàm phu chấp trước và đối trị luôn tâm yếu hèn, dị kiến của người Nhị thừa. Tu Tuệ chính là đối trị tâm không Từ bi của Nhị thừa và đối trị luôn tâm si mê không tu nghiệp lành của phàm phu. 4. Nói tu chỉ thường sinh về Tịnh độ, chia làm hai: Nói về nhờ năng lực nhiếp hộ của Phật mà vãng sinh Dẫn kinh chứng minh Từ “Như tu-đa-la” trở xuống… <詞>PHẦN 3: TRUYỀN TRÌ Ở ĐỜI MẠT Lời kết thúc cho phần trên Khuyên thọ trì Từ “Nếu có chúng sinh” trở xuống… 2. Khuyên thọ trì Chia làm hai: Tóm tắt từ đầu đến cuối, khuyên thọ trì Nêu lên sự thù thắng, khuyên thọ trì Từ “Dù cho có người” trở xuống. 1. Tóm tắt từ đầu đến cuối, khuyên thọ trì Chia làm hai: Tán thán quyển luận, khuyên thọ trì Nêu kết quả cuối cùng để khuyên thọ trì Từ “Nếu có người nghe pháp này” trở xuống… 2. Nêu lên sự thù thắng: Khuyên thọ trì Chia làm năm: So sánh chứng minh sự thù thắng Khen ngợi sự thù thắng, khuyên thọ trì Từ “Lại nữa có người” trở xuống… Nêu lỗi để giải thích ngược lại Từ “Nếu có chúng sinh nào” trở xuống. Y theo người để chứng minh Từ “Vì tất cả Như Lai” trở xuống… Kết thúc khuyên tu Từ “Cho nên” trở xuống. So sánh chứng minh sự thù thắng: “So sánh” nghóa là nếu có người dạy cho chúng sinh đầy khắp tam thiên thế giới tu mười điều lành thì chỉ cảm được quả báo sinh về cõi trời chớ không được quả Phật; còn suy nghó pháp này sẽ được quả Phật chứ không do tu nhân nào khác, nên gọi là “thù thắng”. Khen ngợi sự thù thắng: Chia làm hai: Nói về tính chất thù thắng Giải thích lý do Từ “Vì sao” trở xuống… 3. Nêu lỗi: Chia làm ba: Nêu tội bất tín Khuyên khởi tâm kính tin Từ “Cho nên” trở xuống… Giải thích khuyên tu Từ “Vì tự hại mình” trở xuống… Vì có tổn hại lớn nên phải kính tin. 4. Y theo người để chứng minh: Chia làm hai: Dùng Phật để chứng minh Nếu không có lòng tin thì không thành Phật được nên biết đây là pháp tu chủ yếu. Dùng nhân hạnh để làm chứng Từ “Tất cả Bồ-tát” trở xuống… Tất cả Bồ-tát đều thực hành pháp này, nên biết đây là hạnh căn bản. Chia làm hai: Nói chung: Nói riêng ba đời để phân biệt Từ “Nên biết” trở xuống. Quá khứ đã nương vào tâm kính tin Đại thừa, hiện tại đang nương, tương lai sẽ nương. Nếu quan trọng như thế thì đâu chấp nhận Bất tín, cho nên có đoạn thứ năm tiếp theo. 5. Kết thúc khuyên tu: Phần Chánh Tông giải thích luận này đã xong. <詞>Chương 3: HỒI HƯỚNG PHÁT NGUYỆN Chia làm ba: Hai hàng là trình bày việc đã làm Một câu là nói về hồi hướng Một câu là nói về chỗ vì người Luận này nói về Lý, Hạnh và Giáo. Phàm phu Nhị thừa không có phần nên gọi là “nghóa rộng lớn rất sâu của Phật”, sự hiển bày này không thể phân biệt sâu rộng nên gọi là “Tùy phần nói tóm thâu”. Do Hạnh trở về cội gốc nên gọi là “hồi hướng công đức này đúng như pháp tánh”. Không tu vì tự lợi nên gọi là “lợi ích khắp cõi chúng sinh”. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 159