<經 id="n1840">LỜI SỚ NHÂN MINH NHẬP CHÍNH LÝ LUẬN (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN LỜI SỚ NHÂN MINH NHẬP CHÍNH LÝ LUẬN Sa-môn Khuy Cơ chùa Đại Từ Ân soạn dịch. <卷>QUYỂN THƯỢNG Lành thay! Khải phát giáo pháp không môn của Bậc Đại Thánh, trợ giúp lục vị để sáng rỡ sự mầu nhiệm, làm hưng thịnh dòng pháp nhờ bậc Tiên nhân, xiển dương trước sau mà hiển bày chân lý. Há như trí trọn khắp thập lực, người thợ gốm đúc muôn tượng dùng khuôn đổ, lòng bi cùng tột tam luân. Mở rộng ngũ thừa mà chỉ bày phép tắc, vì thế ứng cơ muôn vật mà thị hiện nơi Long thọ, chí giáo thấm nhuần nơi Trần châu, trở về chân tịch nơi Nhị hà, hào quang sáng rỡ nơi trần sa kiếp. Lớn lao thay! Vốn khó được danh xưng, quả quyết nơi hai mươi tám kiến chấp tụ tập nơi ngũ thiên, mười sáu nhà luận sư khuếch trương nơi Tứ chủ. Bồ-tát Viên Hữu hiệu Thương-yết-la là môn nhân của bậc thánh bên Tây Vức, đã có tư chất khéo dạy dỗ, thật gọi là bậc đa văn. Đem trí tuệ như biển cả để vào sâu trong đáy lòng, nghóa lý mầu nhiệm như núi cao bỏ vào trong ngũ tạng, vì vậy mới xác định lên núi cao, chót vót để chọn lấy ngọc trong đá, bơi lặn nơi sông rạch mò bắt nghêu sò để tìm hạt châu. Thầm suy nghó lo buồn nhiều mối bèn trước tác nhiều luận để lưu hành rộng rãi, ý chí đó nhiều mà văn dón gọn, lý mầu nhiệm mà lại dễ hiểu. Thật là then chốt của cánh cửa pháp, chính là chìa khóa mở cửa mầu. Bèn khiến cho Thắng luận Số luận giống như bị ngọn núi cao đè ấp trứng mùa xuân, Thanh sinh thanh hiển, thì như gió bảo cuốn lá rụng mùa thu. Từ lúc ấy về sau như bị hôn mê, suy nghó lời dạy như sóng lăn tăn, có thể lần theo dấu vết chỉnh sửa cho rõ ràng. Cuối cùng vui vẻ dạo chơi trong biển pháp bao la rộng lớn, thật mầu nhiệm kim dung sáng rỡ ngọc điệp lấp lánh. Tuy rằng giáo đã hưng thạnh mà kinh điển đây chưa hoàn bị, chỉ có ta đích thân dạy bảo. Tam Tạng Đại sư thấu suốt ngũ minh. Tiếng tăm vang dội ngàn xưa. Ôi! Cách Thánh càng xa lòng nghẹn ngào chưa giải thích bèn chấn tích nơi Trung khu để phát giác được nơi chốn. Tầm sư nơi Tây hạ đi thẳng đến nơi Kỳ-xà-quật lần theo vết bánh xe mà chưa được nghe lời của bậc Tiên triết và tâm bảo bọc cùng tột. Giá như không gặp được bậc Tiên hiền đều thấu được tình khu, vì thế lá bối soạn ghi lời vi diệu, quê nhà trở lại dùng thần túc mới bảo rằng đã dịch, thông suốt đạo lý. Sư Cơ lầm xen vào giúp cho thành thí dụ xếp sắp ngang hàng. Vui mừng thay! Sáng được nghe chiều mất, e rằng đạo này không được lưu hành, bèn sơ lược trình bày để giải thích. Chỉ bày tôn chỉ giềng mối và sự mầu nhiệm u uẩn, ngõ hầu có thể làm gương trí tuệ sáng soi. Hy vọng nên lưu tâm mà xem xét quán chiếu! Trong luận này này sẽ lược dùng bốn môn phân biệt: Một là trình bày lý do, hai là giải thích đề mục, ba là trình bày câu vấn nạn, bốn là giải thích bổn văn. <詞>TRÌNH BÀY NGUYÊN DO: Nhân minh luận, nguồn gốc chỉ có Đức Phật nói, văn nhiều nghóa rải rác phân tán nhưng đầy đủ trong các bộ kinh. Nên bộ Địa Trì chép “Bồ-tát cầu pháp phải cầu nơi nào? Phải cầu tìm nơi tất cả ngũ minh, tìm cầu Nhân minh vì phá tà luận, an lập chánh đạo”. Kiếp sơ ngài Túc Mục khai phát ra chân tợ, bởi vậy quả quyết rõ ràng phép tắc cách thức của ngài Thế Thân. Tuy kỷ cương đã bày mà chỗ u huyền chưa phân, vì vậy làm cho chủ khách nêu ra để đối đáp vẫn còn nghi ngờ phép tắc lập phá. Có Bồ-tát Trần Na xưng mạng thế là một vị Phật trong ngàn vị Phật ở Hiền kiếp, ẩn tích mai danh nơi thâm sơn cùng cốc và dừng tại Lư Đẳng Trì xem xét lợi hại của sự trình bày trước tác và sự rườm rà vắn gọn của văn nghóa. Lúc ấy, trong hang núi có tiếng vang làm chấn động rồi một áng mây trắng và ráng đỏ biến đổi màu sắc sặc sỡ, bỗng chốc có vị thần núi nâng gót chân Bồ-tát lên cao mấy trăm thước, đồng thời xướng rằng: “Đức Phật thuyết Nhân minh huyền diệu khó cùng cực. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, đại nghóa dần dần mất tuyệt, nay may mắn được phước trí sâu xa, thâm đạt ý chỉ của Bậc Thánh. Nói về Nhân Minh Luận, nguyện xin Ngài trùng tuyên lại để hoằng dương rộng rãi”, Bồ-tát bèn phóng thần quang soi chiếu các căn cơ cảm ứng. Lúc bấy giờ ở Nam Ấn Độ vua nước Án-đạt-la thấy hào quang sáng có điềm nghi, bèn nhập định Kim cang xin chứng quả vô học. Bồ- tát bảo nhập định quán sát sắp giải thích thâm kinh, tâm trông mong bậc Đại giác, chẳng phải là nguyện của hàng tiểu quả (quả vị Tiểu thừa). Vua thưa: Quả vô học chư Thánh đều kính ngưỡng, thỉnh Tôn giả mau chứng đắc. Bồ-tát an ủi vỗ về muốn theo lời thỉnh của nhà vua mà thỉnh Bồ- tát Diệu Cát Tường, nhờ trong khoảng khảy móng tay cảnh tỉnh: Sao lại xả bỏ tâm Đại thừa, mà hưng phát chí Tiểu thừa? Vì lợi ích cho khắp tất cả, hãy truyền luận Du-già do ngài Từ Thị thuyết, sửa chữa thành hệ thống đúng đắn, có thể chế tác Nhân Minh, sắp đặt thành quy củ. Ngài Trần Na kính cẩn nhận lời dạy bảo, phụng hành để được chu toàn. Do đó suy nghó kỹ, nghiên cứu tinh thông, tạo bộ “Nhân Minh Chánh Lý Môn luận”. Chữ “chánh lý” nghóa là thể của các pháp vốn chân, “môn” so sánh đối chiếu nguyên do, ngài Luận chủ Thương-yết- la tức là môn nhân đó. Hà như sư quỷ cốc Tô Trương độc quyền tung hoành truyền bá hoặc ngăn cản việc du hạ, trong hư không nghe tiếng lễ nhạc mà thôi, đã không tài giỏi cùng tột nơi tam lượng, sự nhiệm mầu tận thi nhân. Mở bày thì dùng tám môn, khai thông thì dùng nhị không, nghiên cứu nghiệm xét lời dạy bậc hiền triết, làm quy mô khác lạ cho người sau, tổng quát kỷ cương mà tạo ra luận này. Đại sư đi đến chùa Pháp Cứu luận sư ở nước Ca-thấp-di-la biên giới Bắc Ấn Độ, gặp Đại luận sư Tăng-già-da-xá, Trung Hoa dịch Chúng Xưng, đặc biệt rất giỏi về Tát-bà-đa và Nhân Thanh minh luận, khai sáng theo sự khảo cứu quyết đoán bèn hiểu lý mầu nhiệm. Sau này Ngài ở nước Ma-kiệt-đà xứ Trung Ấn Độ lại gặp Bồ-tát Thi-la-bạc-đà lại tìm tòi thêm lý vi diệu càng tinh thông nghóa thú. Chỉ vạch ra nhánh lá mà hiểu cùng tột được cội gốc đó, tầm sóng cả mà nghiên cứu ngọn nguồn kia. Tuy trước tu mà quế ngộ, chưa truyền thừa tiếng thơm của thầy ta, bỗng chốc đã hoằng dương, nhân đó dạy bảo người mới học. Ngõ hầu khiến cho họ đối tà xiển dương điều chánh, căn bản có phép tắc, đây chính là nguyên nhân phát khởi trước tác bộ luận này. <詞>GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC: Tiếng Phạm là Ế-đô Phí-đà Na-da Bát-la-phệ-xa Xa-tát-đát-la. Ế-đô gọi là Nhân, Phí-đà gọi là Minh, Na-da gọi là Chánh lý, Bát-la- phệ-xa dịch là nhập, Xa-tát-đát-la là luận. Thời Đường dịch là Nhân Minh Chánh Lý Nhập Luận, nay nói thuận theo phương đây là Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận, y đây nêu tên hợp lại thành năm cách giải thích. Minh là tên chung của ngũ minh, Nhân là tên riêng của một minh. Nhập chánh lý là tên riêng của bộ luận này. Thể của nhân có hai: Đó là Sinh nhân và Liễu nhân, và mỗi loại có ba có giải thích đầy đủ như sau. Nay làm rõ nghóa của nhân đây, nên gọi là Nhân minh. Điều được làm rõ là nguyên nhân, còn điều hay làm rõ là giáo lý, vì làm rõ nhân gọi là Nhân minh, là Y CHỦ THÍCH. Chữ “nhập” là hiểu thấu đạt, “chánh lý” là các pháp vốn chân thật tự tánh sai biệt. Trải qua thời gian lâu dài, sự giải thích càng rối rắm, ý nghóa có nhiều sự trầm ẩn, ngoài ra mặc dù giải thích nhưng thường tà vọng chẳng đúng. Nay bàn luận về pháp chân thật nên gọi là chánh lý, nhớ rõ ràng hai nhân này mà thâm nhập hiểu được chân tánh của các pháp, tức là nhập vào chánh lý, cũng nhập chánh lý nhân minh, đồng thời là Y CHỦ THÍCH. Rõ thể là giáo, nhân minh tức là luận, đó là TRÌ NGHIỆP THÍCH. Lựa chọn cất chứa được tên, không có lỗi trùng lời nói. Nhân minh, cũng đồng gọi là minh, “nhập chánh lý” là tên riêng cốt yếu của bộ luận này. Nhân nghóa là lời nói của người khác lập luận, xây dựng (sự nghiệp) đầu mối lớn lao của bổn tôn. Minh nghóa là trí của người dịch chứng, soi chiếu, nguyên do của ý nghóa lời nói. Chẳng phải lời nói không để hiển bày tôn, bao gồm cả trí nghóa mà nêu tên “nhân”, chẳng phải trí không dùng để thấu suốt lý mầu nhiệm. Bao gồm cả lời nói ý nghóa để nêu tên gọi “minh”, lập phá đầu mối thầm kín gọi là “chánh lý”, trí hiểu thông suốt gọi là “nhập”. Nhờ lời nói của người lập luận lập nguyên nhân, địch chứng khởi trí, vì hiểu nghóa lập phá nhân minh nên gọi là Nhân minh, theo Y CHỦ THÍCH. Nhờ lời nói sinh trí thấu đạt đầu mối thuyết tịch của pháp gọi là nhập, nhập vào chánh lý cũng gọi nhập vào Nhân minh chánh lý, cũng là Y CHỦ THÍCH. Nhân là lời nói sinh nguyên nhân, minh là trí liễu nhân. Vì do lời nói phát sinh, trí chưa sinh liền được sinh. Vì nhờ trí liễu nghóa mà chưa hiểu nay liền hiểu. Đã hiểu tôn thì gọi là chánh lý, trí được sinh gọi là nhập, Nhân và minh khác nhau, chung tên là nhân. Chánh lý nhập sai khác đều gọi là quả, vì nhờ lời nói sinh nhân, địch luận thâm nhập hiểu được tôn và nhờ trí được rõ ràng. Người thành lập chánh lý mới hiển bày, lẽ ra nói rằng nhập chánh lý, Nhân minh nhập chánh lý, đó là Y CHỦ THÍCH. Lập luận tuy nhờ lời nói phát sinh mới sinh trí của địch luận, quyết nhờ trí nghóa mới có lời nói phát sinh. Địch luận tuy mượn trí mà rõ mới hiểu được tôn đã lập, cần nhờ nghóa ngôn từ mới có trí liễu. Cho nên mặc dù chỉ nêu lời nói sinh trí liễu, tức tự mình gồm nói nhị liễu nhị sinh, nhiếp pháp tự kỹ đã chu toàn lược không còn sót. Nhân minh vốn là tên của kinh Phật, “chánh lý” gọi là luận của ngài Trần Na. Ngài Trần Na đã tạo hơn bốn mươi bộ luận, trong đó chủ yếu nhất bộ Chánh Luận là trước tiên. Nhập luận là hiệu của vị Thiên chủ giáo. Nhân nghóa là trí liễu, soi chiếu hiểu được tôn, hoặc ngay lời nói sinh ra, tịnh thành tôn quả. Minh nghóa là hiển bày rõ ràng, nhân tức là minh, theo TRÌ NGHIỆP THÍCH. Theo phẩm thứ mười lăm luận Du-già, sao gọi là Nhân minh? Nghóa là trong đó quán sát, hay tùy thuận pháp gọi là các việc sở hữu, các việc sở hữu gọi là Nhân minh. Vì nhân chiếu rõ nghóa quán sát chánh lý lựa bỏ tà tức là các pháp vốn chân tự tánh sai biệt. Ngài Trần Na lấy các nhà ngoại đạo… vọng nói vảy bụi nơi mắt, bèn trình bày lý do để hiểu gọi là môn luận. Ngài Thiên chủ dùng ý chỉ ngôn từ mầu nhiệm, nhưng sợ kẻ hậu học khó cùng tột, bèn tổng quát lại kỷ cương dùng làm luận này, tạo thứ tự của nhân minh làm nguyên do của chánh lý, cùng tột ý thú hai giáo gọi là nhập. Cho nên y Phạm ngữ thì gọi là Nhân minh chánh lý nhập luận. Theo Y CHỦ THÍCH Nhân minh chánh lý, đều là tên gọi Bổn luận của ngài Trần Na. Nhập luận mới là tên của bộ luận này. Do hiểu rõ luận đây nên có thể nhập Nhân minh chánh lý. Hoặc Nhân minh tức là tên nhập luận. Chánh lý xưng giáo thừa của ngài Trần Na, do Nhân minh luận này vì có thể nhập vào chánh lý kia, hoặc Nhân minh là tên chung của luận năng nhập sở nhập. Nhập chánh lý là tên riêng của luận năng nhập sở nhập, vì nhờ Nhân minh này có thể nhập luận. Hiểu rõ thì đã nhập vào Nhân minh chánh lý, hoặc ở đây gọi nhân tức là minh, chánh tức là lý, đều là theo TRI NGHIỆP THÍCH. Trong đây có năm cách giải thích: (1). Minh của nhân Nhân của minh Nhân và minh khác nhau (4). Nhân tức là minh (5). Thuộc ở giáo nào? Chánh lý cũng có năm: (1). Chân tánh của các pháp (2). Lập phá đầu mối u uẩn (3). Tôn nghóa sở lập Bổn luận của ngài Trần Na Mỗi mỗi thông chung cả bốn loại trên đây. Do đây mỗi loại phối hợp riêng chỉ thành năm cách giải dựa vào nhau để giải thích, hợp thành hai mươi lăm các giải thích, e rằng văn dài dòng cho nên lược không trình bày. Song y theo cách giải thích ban đầu thì giáo cũng là Nhân minh, theo bốn cách giải thích sau thì giáo là đầy đủ cả đó, cũng gọi là Nhân minh. Chữ “luận” là so lường, là nghị luận, là so lường quyết định chân tợ, bàn luận tường tận cách lập phá, lựa chọn tánh tướng, dạy bảo học chúng gọi là luận. Theo bốn cách giải sau đã là sở thuyên. Luận là giáo, tức là Luận Nhân Minh Nhập Chánh Lý, theo Y CHỦ THÍCH. Muốn cho tùy theo đó chứng minh rõ nhân sinh mà nhập chánh lý, nên nói luận này. Như Trung Quán luận hoặc phân biệt đoạn này gọi là có thể nhập Nhân minh chánh lý nên lập tên luận này. Như kinh Thập địa hoặc y năng nhập chánh lý Nhân minh mà nói luận này, như thủy lục hoa, cho nên dùng làm danh hiệu. Bồ-tát Thương- yết-la Chủ tạo luận, tiếng Phạm là Thương-yết-la Cơ-phược-di Bồ-đề Tát-đỏa Ngật-túc-để. Chữ Thương-yết-la Trung Quốc dịch là Cốt Tỏa, Cơ-phược-di dịch là Chủ, Bồ-đề Tát-đỏa như nghóa thường giải thích; Ngật-túc-để dịch là Tạo. Theo phiên âm nhà Đường đọc là Cốt Tỏa chủ Bồ-tát tạo. Ngoại đạo có nói, bắt đầu của kiếp thành có Đại Tự Tại Thiên xuống nhân gian để hóa đạo, sau khi giúp đỡ làm lợi ích đã xong Tự Tại bèn trở về trời. Người đời muốn nhớ ơn thờ phượng bèn lập ra hình tượng Ngài, tượng khổ hạnh nhìn khốn khổ ốm đói, các lóng xương liền nhau hình trạng như móc xích. Do đó mới nêu tượng này gọi là Cốt Tỏa Thiên. Từ buổi kiếp sơ tuy có ngàn danh hiệu, thời gian giảm đi còn tồn tại lại mười hiệu, vị Cốt Tỏa Thiên này là một danh hiệu trong một ngàn hiệu đó là chính thân Bồ-tát. Thiếu không có con nối dõi nhân đó theo hình tượng cầu xin bèn đản sinh dị linh, dùng Thiên làm tôn thờ, nhân đó tự lập ra hiệu. Lấy trời làm chủ gọi là Cốt Tỏa Chủ, tức là người giải thích rất tài giỏi, luận này là lý do tạo ra điều đó. <詞>VẤN NẠN: Hỏi: Tại sao không gọi là Tôn minh, Dụ minh, mà chỉ gọi là Nhân minh? Đáp: Nhân có ba tướng, vì danh nghóa rộng khắp, lại các năng lập đều gọi là nhân, chẳng phải chỉ có một tướng. Tôn do đây mà lập gọi chung là Nhân minh. Hỏi: Chân nhân chân minh có thể gọi là nhân minh, Tợ nhân tợ minh lẽ ra chẳng phải nhân minh? Đáp: Nêu chân nhiếp tợ, hoặc đã nhiếp rồi, hoặc gồm rõ ràng, vì chẳng phải chánh minh. Hỏi: So sánh để phá lập lượng có thể gọi là Nhân minh, còn phá lỗi phá tợ lẽ ra chẳng phải là Nhân minh? Đáp: Vì là cùng một loại Nhân minh, hoặc tợ hoặc chân đều Nhân minh, vì tên đã lược nhiếp. Hỏi: Lập phá ngôn trí có thể là Nhân minh, hiện lượng tỉ lượng không có trí ngôn, lẽ ra chẳng phải Nhân minh? Đáp: Thấy nhân cũng là minh, thấy nhân chứng minh. Tự chứng cũng là nhân, cho nên đều là Nhân minh. Hỏi: Trí sinh, trí liễu có thể gọi là Nhân minh, còn nhị liễu, nhị sinh chẳng phải trí, lẽ ra nhân chẳng phải là minh? Đáp: Là nhân của minh, hoặc đều thuận chiếu vì thành tôn nghóa. Hỏi: Nhân và Dụ năng lập có thể gọi là Nhân minh, còn tôn chẳng phải năng lập lẽ ra chẳng phải Nhân minh? Đáp: Do không quyết định nên sở lập chẳng phải. Từ định thành tên nên không có lỗi, lại năng nhân năng minh chính là nhân minh, sở nhân sở minh cũng gồm nhân minh. Còn nay sở lập chỉ có tôn, năng lập mặc dù chỉ có nhân và dụ, nhưng lời nói không trái Cổ Nhân Minh, nên Tôn cũng là Nhân minh. Hỏi: Tại sao không gọi quả minh, mà chỉ gọi là nhân minh? Đáp: Quả có minh của quả, chẳng phải quả đều ngay nơi minh. Nhân có nhân của minh, là nhân đều ngay nơi minh. Quả minh không nhất định, nghóa cũng có lẫn lộn; nhân minh hai định, nghóa cũng chẳng nhầm lẫn. Cho nên gọi là nhân minh là vì muốn dùng nhân thành nghóa của quả, vì không muốn dùng quả thành nghóa của nhân. <詞>GIẢI THÍCH BỔN VĂN: Năng lập cùng năng phá đề cập chỉ có ngộ tha, hiện lượng cùng tỉ lượng đề cập dường như chỉ có tự ngộ. Trình bày trong một bộ, đại văn có hai phần là văn kệ tụng và văn trường hàng, nêu tôn tùy phần giải thích. Một bài tụng ở cuối cùng hiển rõ phần sơ lược và chỉ chỗ đầy đủ. Phần thứ nhất có hai, một bài tụng trước nêu loại tôn, sau là các văn trường hàng, tùy phần nêu riêng giải thích thông suốt cả nghóa loại. Đưa ra luận tôn ở trước sở nêu vì tùy ứng giải thích. Trong bài tụng đầu, bàn luận bài tụng có một, trình bày chỗ ngộ có hai, luận câu có bốn, rõ nghóa có tám, theo văn xem kỹ có thể biết. Ngộ tha, tự ngộ luận đều phân biệt rõ ràng. Bốn chân bốn tợ hợp thành tám nghóa. Năng lập: Nhân, dụ chân chánh, tông nghóa viên thành, hiển bày rõ ràng để người khác ngộ nên gọi là năng lập (theo ngài Trần Na thì năng lập chỉ lấy nhân và dụ, theo cổ thì gồm cả tôn… Nhân và dụ có hai nghóa: Một là đầy đủ mà không thiếu, vì lìa bảy lỗi; hai là chánh mà không có tà vì lìa mười bốn lỗi. Tôn cũng có hai nghóa: Một là chi viên, vì năng y sở y đều đầy đủ; Hai là thành tựu, vì năng y sở y đều không có lỗi. Nhờ luận này hiển rõ chân mà không có vọng, nghóa cũng gồm trình bày đầy đủ mà không có thiếu. Phát ra lời nói này làm cho người khác sinh kiến giải đúng. Tôn do lời nói hiển bày nên gọi là năng lập. Do đây tợ lập quyết định trái nhau, mặc dù không thiếu lỗi, chẳng phải chánh năng lập. Vì không thể làm cho người khác sinh chánh trí). Năng phá: Địch luận suy lường về lỗi, khéo bài xích quấy kia, hoặc giỏi gạn về tôn nên gọi là năng lập (Ở đây có hai nghóa: Một là hiển lỗi người khác, họ lập luận không thành. Hai là lập lượng trái với người khác. Họ không lập tôn, các luận chỉ trình bày cách phá lỗi người khác. Theo lý cũng gồm có lập lượng gạn hỏi, nghóa là phát ra lời nói, chứng minh địch luận đều rõ ràng thất bại do lời nói. Vì vậy gọi là năng phá). Tợ năng lập: Tợ năng lập ba chi xen nhau thiếu, nhiều lời có lỗi uổng công tự hãm hại, nên gọi tợ năng lập (tợ năng lập có hai nghóa: Một là thiếu chi, tôn nhân dụ ba chi tùy ứng thiếu hoặc giảm. Hai là lỗi giả lập đầy đủ, các lỗi theo đó sinh. Ngụy lập vọng trình bày, tà tôn lầm hiển rõ, thốt ra lời nói tự hại mình, nên gọi tợ lập). Tợ năng phá: Địch luận suy lượng sự viên thành, vọng sinh phê bình gạn hỏi do đó phát khởi lỗi nên gọi tợ phá (có hai nghóa: Một là địch luận suy lường không có lỗi, vọng sinh phê bình cật vấn mười bốn lỗi… Hai là tụ suy lường có lỗi, nghóa là vì phá người khác), ngụy cho là mình hơn, nên gọi là tợ phá). Văn nói cùng chữ biểu thị nhiều thể trái nhau (lập phá - chân - tợ, thể nghóa có khác. Nói cùng tự đó hiển thể trái nhau. Nhẫn đến dường như nói hiển bày lỗi thông cả năng lập và năng phá (tiêu biểu cho năng lập ở đoạn trước, có tợ năng lập. Đồng thời hiểu biết năng phá có tợ năng phá, nêu chân… tợ nên gọi là cập). Tôn nghóa đều quyết định (theo bổn đã giải thích), tà chánh khó biết (vì chưa cùng chấp nhận). Nhờ so sánh đã trình bày (nhờ nhân so sánh với dụ, trình bày rõ ràng gọi là hiển). Thị phi bèn chấp trước (tôn thành gọi là thị, không thành gọi là phi, chấp trước rõ ràng, chân tợ nói phát khởi, hiểu rõ ràng tôn thị phi). Công thành hơn thua, kia đây đều sáng rõ (năng lập năng phá do tự phát ngôn. Công đã thành thù thắng, chứng minh cho địch luận hiểu tợ lập tợ phá tự công thành bại. Do tha chỉ thuật lại. Luận chứng lập luận đều rõ ràng). Cho nên từ nhiều phần đều ngộ tha. Theo Lý Môn luận thì tùy sở ứng đó vì khai ngộ cho người khác, nên nói năng lập và tợ năng lập này. Năng lập ngộ địch luận và người chứng nghóa, do tự phát ngôn vì người khác sinh hiểu biết. Tợ lập ngộ chứng minh và lập trường của luận chủ, nhờ người khác hiển rõ được mình, chứng minh bản thân sinh hiểu biết. Nên nói tùy ứng năng lập tợ phá, căn cứ sự hiểu biết cũng như vậy. Văn luận sau sẽ nói về năng lập năng phá đều hay ngộ tha, tợ lập tợ phá không có năng ngộ tha, đúng ra giống như luận kia. Vì vậy trong bài tụng này căn cứ vào nhiều phần. Đều ngộ chứng là nói chỉ có ngộ tha, không nói tự ngộ. Còn chân lập phá, chỉ ngộ nơi người khác, tợ tuy cũng có tự, theo chân gọi là duy (chỉ). Hiện lượng: Hành lìa sự lay động, chứng minh rõ ràng các duyên, đích thân thầm tự thể hội, nên gọi là hiện lượng (hay duyên hành tướng, không lay động, nhân y theo sự chiếu cảnh không suy lường, lìa tâm phân biệt. Soi chiếu phù hợp với tiền cảnh, rõ ràng hạn cuộc nơi tự thể, nên gọi là hiện lượng. Song có hai loại định vị và tán tâm, định tâm lắng đọng cảnh đều minh chứng. Pháp nào cũng tùy duyên đều gọi là hiện lượng, tất cả tâm tán loạn hoặc đích thân so sánh cảnh thầm được tự thể, cũng đều hiện lượng). Tỉ lượng: Tỉ lượng dụng đã cực thành, chứng minh trước không chấp nhận, cộng tướng trí quyết định, nên gọi là Tỉ lượng. Nhân dụ đã thành, tôn chẳng chấp nhận trước, dụng đã chấp nhận pháp thành ra chưa chấp nhận tôn. Như xâu tràng hoa, nhờ nghóa thông suốt đầy đủ, cộng tướng trí khởi phân biệt sinh sự hiểu biết nên gọi là tỉ lượng, mặc dù dụng đã chấp nhận, thành ra chưa chấp nhận tôn, sinh trí không quyết định thuộc phi lượng tỉ lượng). Tợ hiện lượng: Tợ hiện lượng hành động có suy tính, chẳng phải rõ ràng chứng cảnh, lầm cho là đắc thể nên gọi là tợ hiện lượng (tán tâm có hai: Có phân biệt và không phân biệt, các tợ hiện lượng trùm khắp hai tâm. Tâm có phân biệt vọng cho là rõ ràng đắc cảnh tự chứng. Tâm không phân biệt vì không thể thầm chứng cảnh rõ ràng, gọi là tợ hiện lượng. Luận y cứ vào quyết định chỉ nói phân biệt, chẳng phải không có tâm phân biệt, vì đều chỉ có hiện lượng). Tợ tỉ lượng: Tợ tỉ lượng vọng khởi, lý do so sánh lầm thành tà tôn, tương vi trí khởi, gọi là tợ tỉ lượng (vọng khởi nhân dụ lầm kiến lập tà tôn, thuận trí không sinh, liền sinh khởi sự hiểu biết trái nghịch. Sở lập giả sử thành, kia đây trái nhau, dị sinh phân biệt, gọi là tợ tỉ lượng). Và tợ… đều các pháp vào sự giải thích trước, pháp có u hiển (u vi hiển trước, nếu cảnh hiện lượng, lý mầu nhiệm hiểu biết sự, hoặc cảnh sở lập tỉ lượng là mầu nhiệm thì năng lực được hiển bày). Hành tướng rõ ràng hay mê mờ (hành nghóa là hành tướng của tâm năng duyên, chân hiện tỉ đối với cảnh, u hiển đều rõ ràng Tợ hiện tỉ so với cảnh u hiển đều mê muội). Cho nên hai loại khắc định này chỉ ngộ tự chẳng có tha (hiện tủ nhân trí nên hai khắc định ngộ tự chẳng có tha). Tuy tự mình không hiểu rõ chẳng làm cho người khác ngộ. Lẽ ra trong bài tụng sau trước ngộ, chỉ để chế định sự so sánh vốn làm lợi người, vì vậy trước ngộ tha, sau mới tự ngộ. Phân biệt tám nghóa này sơ lược có ba môn: (1). Nói rõ sự đồng dị xưa nay. Phân biệt tám nghóa đồng dị. Giải thích sự đồng dị của thể tướng. NÓI RÕ XƯA NAY ĐỒNG DỊ: Trong nghóa năng lập ban đầu, theo Du-già quyển thứ 15, Luận Hiển Dương quyển thứ 11, nói có tám thứ: Lập tôn, biện nhân, dẫn dụ, đồng loại, dị loại, hiện lượng, tỷ lượng và chánh giáo. Luận Đối Pháp cũng nói có tám: Lập tôn, lập nhân, lập dụ, hợp, kết, hiện lượng, tỉ lượng và Thánh giáo, đều do tự tánh sai biệt mà thành sở lập. Theo Luận Du- già và Hiển Dương, trong tám nghóa năng lập, có ba nghóa dẫn chứng vì du là tổng, còn đồng loại dị loại là biệt. Với tổng so sánh pháp tợ loại, biệt dẫn thuận nghịch đồng phẩm dị phẩm mà thành hai dụ. Tổng biệt có sai khác phân làm ba loại, lìa ngoài nhân dụ không riêng có hợp và kết, nên lược bỏ hợp kết không riêng khai ra. Đối Pháp luôn luôn chấp trước tám nghóa thành năng lập, vì thuận với các vị luận sư trước đó. Do nhân tổng biệt đã không có ly hợp thì tổng - biệt của dụ do đâu nhờ hợp lý? Vì vậy chỉ nói chung một mà không khai làm hai dụ. Ly dụ đã thiếu nên thêm vào hợp kết, hợp kết tuy lìa nhân dụ chẳng có, khến cho nghóa sở lập càng được thêm rõ ràng, vì vậy phải riêng lập. Lỗi của dụ đã nói không có hợp và đảo hợp lại lập chi chân, đúng lý phải có hợp, hợp đã biệt lập, kết cũng phải hiển bày, do đây cũng có tám. Cổ sư lại có thuyết bốn nghóa năng lập: Nghóa là: Tôn và nhân đồng dụ và dị dụ. Theo Bồ-tát Thế Thân quy tắc của luận nói năng lập có ba: Tôn - Nhân và Dụ. Do người hay lập chắc là nhiều lời, đa ngôn hiển sở lập kia liền đầy đủ nên chỉ nói ba. Vả lại, dụ tổng biệt, cuối cùng là kiến biên, nên Đối Pháp nói người lập dụ cho rằng dùng sở kiến biên và chưa sở kiến biên hòa hợp nói đúng. Theo giải thích của ngài Sư Tử Giác, sở kiến biên là đã phân biệt hiển bày rõ ràng, còn vị sở kiến biên là chưa phân biệt hiểu rõ ràng. Do hiển rõ ràng, hiển chưa hiển rõ ràng làm cho nghóa bình đẳng, tất cả chánh thuyết gọi là lập dụ nên nói chung một dụ. Đã khiến sở lập kiến biên nào cần riêng khai hoặc ba hoặc hai, trong dụ không có hợp nghóa mới không rõ ràng. Đảo hợp đảo thành nên nói là lỗi, lìa nhân và dụ đều không có thắng thể, nên không nói trong chân năng lập, chỉ nói nhân ban đầu, dụ theo sau. Nghóa hợp đã rõ ràng, lại nói có kết một thì đâu phiền nói dài dòng, nên chỉ tổng lược. Người lập luận hiện lượng đồng có ba sơ lược có ngộ tha do đó gọi là năng lập; địch luận hiện lượng đồng có ba đích thân chỉ tự ngộ nên chẳng phải năng lập. Nay theo ngài Trần Na thì nhân dụ là năng lập, tôn là sở lập, tự tánh sai biệt cả hai đều cực thành. Chỉ là tôn y chưa thành sở tránh, hợp lại để thành tôn, tánh không rời nhau mới là sở tránh. Đâu thành năng lập, do đó trong năng lập định trừ tôn kia. Hỏi: Nhưng theo Thanh minh thì một lời nói là Bà-đạt Nam, hai lời nói là Bà-đạt-nê, nhiều lời nói là Bà-đạt. Nay ở đây năng lập là nói âm thanh Bà-đạt đã cùng nhiều lời, tại sao chỉ nói nhân dụ hai pháp dùng làm năng lập? Đáp: Theo ngài Trần Na giải thích thì nhân có ba tướng, tác nhân có một và dụ có hai. Đó chẳng phải đa ngôn, chẳng phải cốt yếu ba thể, do đó định nói tôn là sở lập. Từ ngài Trần Na sắp về sau sơ lược có ba cách giải thích. Tôn nói nghóa sở thuyên là sở lập, nên quyển thứ 15 của luận Du- già chép: Sở thành lập nghóa có hai loại tự tánh và sai biệt, năng thành lập pháp có tám loại. Tôn kia nói năng thuyên và nhân… nói nghóa đều gọi năng lập, tôn đó vì nhân dụ thành, mặc dù cũng có sở lập. Với luận thuyết tại sao trước lập tôn? Vì trước hiển bày từ tôn nghóa ái lạc nên cũng có sở lập, chẳng phải định sở lập vì nghóa năng thành. Cũng như với nhân vì dụ sở thành chỉ gọi là năng lập, nghóa tôn sở thuyên định chỉ có sở lập, riêng gọi sở thành. Tập hợp chung các pháp tự tánh sai biệt, hoặc giáo hoặc lý đều là sở lập, luận chung danh nghóa vì tùy ứng có một phần trong tổng. Đối địch đã trình bày lý do, hoặc lời nói hoặc ý nghóa đều gọi là tôn tức năng lập. Tuy đối tôn này cũng là sở lập, vì năng lập chung được tên năng lập. Cho nên theo ngài Trần Na, tôn gọi là sở lập cùng Du-già đồng lý không trái nhau, vì Du-già đồng chẳng nói tôn không phải hoàn toàn chỉ có năng lập. Tự tánh sai biệt nghóa hợp sở y gọi là sở lập. Năng y hợp tôn gọi là năng lập vì tổng lập biệt, chẳng phải tổng này mà tôn nhất định chỉ có năng lập. Đối địch hòa hợp đã bày rõ vì Thánh nhân dụ cũng là sở lập, do chẳng định sở lập nên được tên năng lập. Theo ngài Trần Na, chỉ do cùng chấp nhận nhân dụ, thành ra người kia chưa chấp nhận. Kia chưa chấp nhận chỉ là hợp tôn, tôn là sở lập, tự tánh sai biệt chỉ là tôn y, chẳng phải sở lập. Sở lập đầy đủ hy vọng nghóa sai khác chẳng trái nhau. Nếu không như thế thì ngài Từ Thị, ngài Vô Trước, ngài Thiên Thân há không hiểu Nhân minh sao! Đã nói năng lập, kế giải năng phá. Các luận chỉ có hiểu biết cách phá lỗi của địch luận, không phá lập lượng, vì lập lượng tức là phá lỗi kia. Trong phần hiển phá lỗi cổ sư có nói tám nghóa năng lập, thiếu một có tám, thiếu hai có hai mươi tám, cho đến thiếu bảy có tám, thiếu tám có một. Cũng có thuyết lấy bốn cho là năng lập, thiếu một có bốn, thiếu hai có sáu, thiếu ba có bốn, thiếu bốn có một. Theo Bồ-tát Thế Thân thì thiếu giảm tánh lỗi, trong tôn nhân dụ thiếu một có ba, thiếu hai có ba, thiếu ba có một. Từ ngài Thế Thân về sau đều trừ lỗi thứ bảy. Dùng tôn - nhân - dụ cả ba làm năng lập, nói chung thiếu thì chẳng phải, đã vốn không có thể tại sao thành năng lập, có thiếu gì đâu mà đặt tên tợ? Theo Bồ-tát Trần Na thì nhân một dụ hai nói có sáu lỗi thì ba tướng của nhân có sáu lỗi đã đúng. Thiếu một có ba, thiếu hai có ba, không thiếu ba. Từ Đại sư trở về trước sáu mươi năm, ở chùa Thi Vô Yểm, có một vị luận sư tên Hiền Ái, ngài tính chuyện quán sát với lòng từ bi đặc biệt thấu suốt cả thế sự, đồng luận về nhân minh, lúc ấy không có địch luận cũng trừ nghóa thứ bảy, từ đó về sau các sư không chịu trừ. Nhân một, dụ hai thì ba tướng của nhân tuy có trình bày tôn, không trình bày nhân dụ. Như Số luận chấp ngã là tư duy chẳng bày nhân dụ, há chẳng phải lỗi sao? Mặc dù có nói mà ba tướng đều thiếu. Như Thanh luận sư đối với Phật pháp, lập “âm thanh là thường”, vì đức sở y cũng như trạch diệt, các vật chẳng thường đều không phải đức y. Như bốn đại chủng, nhân của đức y này, tuy có chỗ nói ba tướng đều thiếu, đâu được phi tợ. Do thứ bảy này cũng thiếu lỗi, trong tợ năng lập vả lại có chín tợ tôn. Theo các luận của ngài Trần Na Bồ-tát và Lý Môn… lập có năm loại chẳng nói bốn loại sau, nghóa là năng - sở, biệt - câu, bất cực thành - tương phù cực thành. Do ý môn nói tôn… đa ngôn thuyết năng lập, trong đây chỉ lấy tùy tự ý. Lạc là sở lập gọi là tôn, chẳng phải nghóa tương vi đó, hay trừ bốn loại sau đã không trái nhau cho nên lược bỏ. Thiên chủ có lỗi về tôn không chỉ trái nhau nên trình bày chín loại. Thứ hai là giải thích theo Bồ-tát Trần Na thì do năng lập không thành, tức là trong nhân có các lỗi bất cộng bất định, cũng là trong dụ sở lập không thành, thiếu không có lỗi đồng dụ. Sở biệt bất thành vì hữu pháp không, tức là lỗi trong nhân sở y không thành lỗi, đều bất cực thành, thời hợp thành hai lỗi. Tương phù cực thành phàm chỗ lập luận danh nghóa trái nhau, đã gọi là tương phù bèn chẳng phải sở lập, vì vốn không phải tôn, y cái gì lập lỗi? Như những người thế gian thọ giới chẳng phải loại thọ giới, thì dựa vào cái gì để nói họ là trì giới phá giới? Vì vậy không nói bốn lỗi sau. Nay ngài Thiên chủ thêm vào năng diệt bất thành, dùng tôn hợp thủ, tánh không rời nhau mới được thành tôn. Nếu không có năng biệt thì cái gì không rời nhau, hoặc do trong nhân là bất cộng bất định.. cũng là sở lập bất thành trong dụ, e phiền phức nên không nói lại. Trong nhân đã thiếu đồng phẩm có lỗi bất cộng, trong dụ lại nói năng lập không thành, một đâu cần phải trịnh trọng do đó thêm vào. Ngài Thiên Chủ lại thêm sở biệt không thành, nếu cho là nhân sở y không thành, cũng sợ lặp lại nên lược không cần nói. Trong nhân đã có dị phẩm biến chuyển… lỗi bất định và là dị phẩm chẳng phải khắp không có lỗi trong dị phẩm, lại đâu cần nói năng lập không trừ, nào bỏ lỗi của tôn cũng là lỗi của nhân. Ngoài ra khó giống trước vì vậy thêm vào. Câu bất thành hợp cả hai, chủ yếu có hai loại xen nhau sai khác, tánh không lìa nhau mới được thành tôn. Hai loại kia đều chẳng phải sao thành tôn nghóa, nên thêm vào. Nếu ba loại trên đây không lập lỗi thì sở y chẳng cùng tột, lại càng phải thành, tôn đã chẳng phải chân sao gọi là sở lập. Tương phù cực thành nếu dùng tương phù vì vốn chẳng phải tôn, dựa vào cái gì lập lỗi, lưỡng câu bất thành và câu bất thành, đồng thời đều không khiển trừ, vốn chẳng phải là nhân dụ thì nương cái gì để lập lỗi? Nếu do nhân dụ có chỗ trình bày sao chẳng phải lỗi, về tôn cũng có nói như thế nào chẳng phải lỗi, do đó thêm vào. Chỉ có ngài Trần Na nói sơ lược, ngài Thiên Chủ quả thật trình bày đầy đủ, chẳng phải thầy trò tự làm mâu thuẫn nhau. Còn ngài Trần Na theo cổ sư trước kia, trong tôn lại nói tôn nhân có lỗi trái nhau. Ngài Trần Na và Lý Môn Luận tự phá: Các hữu thuyết ngôn tôn nhân trái nhau gọi là lỗi của tôn, đây chẳng phải lỗi của tôn, do đó lập âm thanh là thường. Vì tất cả đều là vô thường. Là dụ phương tiện pháp ác lập dị, do hợp dụ hiển bày chẳng phải tất cả. Ý của ngài Trần Na như Thanh luận lập âm thanh là thường, tất cả đều là vô thường cho nên nhân, ngoại đạo lập dụ tôn, phương tiện giả trí, ác lập dị pháp vô thường, chẳng muốn thành tôn, thành lập âm thanh là thường. Giải thích nhân: Do hợp dụ hiển bày chẳng phải tất cả, chính xác theo ngài Trần Na thì lập âm thanh là thường, chánh nhân lẽ ra phải nói vì chẳng phải tất cả, do pháp ngoại đạo nói chẳng phải thường. Có nhiều phẩm loại, các thứ sai biệt gọi là tất cả, cho nên lập âm thanh là thường chẳng phải tất cả nhân. Trong hợp dụ vì các chẳng phải tất cả, vì thể là thường cũng hư không, đâu được bèn dùng tất cả đều là nhân vô thường, lập thường làm tôn. Lại nói rằng nhân này chẳng có, do âm thanh thuộc tất cả. Theo ý của ngài Trần Na thì Cổ Nhân minh dẫn chứng tất cả đều là vô thường nên làm nhân, trong đó lập thường thanh chẳng có, vì âm thanh thuộc tất cả đều là vô thường, còn trong nhân cả hai không thành, cùng không chấp nhận nhân, vì có hữu pháp, lập âm thanh thường chẳng phải tất cả nhân. Ngài Trần Na lại cho rằng, hoặc sở lập một phần nghóa, chủ ngoại đạo chấp nhận chẳng phải tất cả nhân, với tôn thì có, nội đạo không chấp nhận âm thanh chẳng phải tất cả, nhân đối với tôn không, tức tùy nhất bất thành là lỗi của nhân. Do đó hai cách lý giải này đều chẳng phải lỗi của tôn, nên gọi là lỗi của nhân, cũng là lỗi dị dụ đảo ly. Tất cả lìa pháp trước tôn sau nhân đã lập thường tôn, chẳng phải tất cả nhân, dị dụ lìa ngôn ngữ, các loại vô thường đều là tất cả. Mà nay nói tất cả đều là vô thường cho nên trước nhân sau tôn, thành đảo ly ác lập dị pháp theo nghóa vô thường do đây tôn trái nhau, chẳng phải lỗi của tôn là lỗi của nhân dụ. Ngài Trần Na đả phá, ngài Thiên Chủ phục tùng theo nên cũng không lập. Nếu do lỗi của nhân thì trong tôn không lập, đã là lỗi của dụ và nhân lẽ ra không lập. Vả lại, như trái nhau và bất cộng bất định lẽ ra chẳng phải trong dụ năng lập bất thành. Nay giải thích không như thế. Nhân có ba tướng nghóa của thể rộng nhất, chỉ trình bày nhân, có là tương vi bất cộng bất định, chưa nêu dụ. Về phần lỗi đã trình bày xong. Bây giờ trình bày về tôn cũng chưa có lỗi, nêu nhân mới có lỗi, đâu được truy tìm lỗi mới ở trong tôn. Chẳng giống tỷ lượng tương vi, kia chỉ nêu tôn đã trái với nhân rồi, nay ở đây không như vậy, cho nên chỉ nói như ngài Trần Na. Nhân minh của ngoại đạo trong bốn pháp không thành, chỉ có lỗi lưỡng câu và tùy nhất, không nói do dự sơ ý bất thàn. Ở đây không thành nhân cũng không thành tôn. Lập luận và địch luận và hoặc có khi một bên trong thành. Theo ngài Trần Na tuy đúng lý như vậy, nhân y đối với tôn, hoặc quyết định hoặc nghi ngờ, tôn hoặc có hoặc không, đã có sai khác, tổng hợp khó biết, nên khai thành bốn. Lý Môn Luận và Cổ Nhân Minh cũng nói bất định có năm trừ bất cộng nhân, vì dị dụ không có, ngài Trần Na thêm vào, vì bất cộng. Ở đây như thế nào đồng trong các lượng, Cổ Nhân minh hoặc nói có ba là Hiện lượng, Tỉ lượng và Thánh giáo lượng, vì quán sát có thể tin âm thanh mà so với nghóa. Hoặc lập thành bốn lượng là thêm Thí dụ lượng, như không biết trâu đồng nói giống trâu nhà mới dùng dụ để hiểu biết. Hoặc lập năm lượng, tức thêm Nghóa chuẩn theo lượng. Nghóa là, nếu pháp vô ngã căn cứ biết chắc vô thường, vì pháp vô thường quyết là vô ngã. Hoặc lập vô lượng thêm vô thể lượng, như vào trong nhà này thấy chủ không có biết đã đi chỗ khác. Như vào nhà Lộc Mẫu không thấy Bí-sô thì biết đã đến chỗ khác. Ngài Bồ-tát Trần Na bỏ bốn loại sau, tùy chỗ thuộc vào hiện lượng hay tỉ lượng. Theo Lý Môn luận thì thanh dụ… kia thuộc ở trong đây, do luận chủ chỉ lập hai lượng. Trên đây lược nói về sự đồng dị của Cổ nhân minh và Tân nhân minh, nguyên do phân biệt nghóa căn sau sẽ biết. PHÂN BIỆT SỰ SỰ GIỐNG VÀ KHÁC NHAU CỦA TÁM NGHÓA: Tức là có là năng lập mà không có là năng phá. Như chân năng lập kiến lập tự tôn, có giải thích, đây không. Năng lập tự tôn tức năng phá địch luận vì quyết đối với kia. Có là năng phá mà chẳng có là năng lập, như hiển lỗi phá, “có giải thích đây không” vì chỉ phá tôn người khác tự mình liền lập. Có là năng lập cũng là năng phá, như chân lập phá tha sở bất thành, có giải thích đây không. Lập nghóa hay trình bày tự, phá là căn cứ vào tôn người khác, có chẳng phải năng lập cũng chẳng phải năng phá nghóa là tợ lập phá. Có là năng lập mà chẳng có là tợ lập là chân năng lập, có là tợ lập mà chẳng có là năng lập. Trừ quyết định tương vi ngoài ra là tợ lập. Có là năng lập cũng là tợ lập nghóa là quyết định tương vi, có giải thích không có đây vì chỉ có tơä lập không có năng lập. Người lập luận tuy nói đầy đủ vì trí người khác không quyết định. Có chẳng phải năng lập cũng chẳng phải tợ lập, nghóa là lầm phá nghóa thành lập của đối phương. Có là năng lập mà chẳng có là tợ phá như không có lỗi lượng. Có là tợ phá mà chẳng có là năng lập như mười bốn lỗi…, có là năng lập cũng là tợ phá, như quyết định tương vi, có giải không có văn đây vì chỉ có tợ phá không có chân lập. Có phi năng lập cũng có phi tợ phá là hiển bày phá lỗi, có giải thích đoạn văn thì không, chỉ rõ lỗi đối phương không đúng thì tự mình liền lập luận. Năng phá nhất định chẳng phải tợ phá, vì khác chân tợ. Có là tợ lập mà chẳng phải tợ phá, nghóa là có lỗi lượng kinh luận tự tôn, có giải thích đây không nghóa tự tôn thành, tức là chân phá. Tự đã không lập tức tợ phá tha, có là tợ phá mà chẳng phải tợ lập, nghóa là vọng hiển bày tha chẳng phải, mười bốn lỗi có giải thích đây không làm cho là phá tha vì vọng lập, có tợ năng lập cũng là tợ phá. Như dùng lỗi lượng phá tha bất thành, có chẳng phải tợ lập cũng chẳng tợ phá là chân năng lập, hoặc chân năng phá. Tợ hiện tợ tỉ đều gọp chung vào phi lượng, do đây có thể nói hiện lượng chẳng phải tỉ lượng và chẳng phi lượng, tỉ lượng cũng chắc chẳng phải thuộc phi lượng. Có hiện lượng chẳng phải tỉ và phi lượng là chứng trí tự tướng chân hiện lượng. Có tỉ - phi lượng chẳng phải chân hiện lượng tức chứng cộng tướng, tỉ lượng trí và các phi lượng, ở đây y kiến phần. Nếu y tâm thể thì kiến phần thông cả tỉ - phi lượng, vì tự chứng ắt hiện lượng, do đó thể của tám nghóa chỉ có bảy, mặc dù căn cứ vào tha tôn. Thể của chân năng lập tức là chân năng phá, có hiển lỗi phá, chẳng phải chân năng lập. Tuy tợ năng lập thì tợ năng phá, lầm đưa ra lỗi phá chẳng phải tợ năng lập, cho nên ngoài năng lập riêng hiển bày năng phá, ngoài tợ lập riêng hiểu biết tợ phá. Chân hiện lượng chân tỉ lượng, tợ hiện tợ tỉ thuộc trí liễu nhân, vì hai trì rõ. Do đây tám nghóa thể tuy bảy loại tướng chân tợ rõ ràng nên thành tám nghóa. GIẢI THÍCH SỰ GIỐNG VÀ KHÁC CỦA THỂ TƯỚNG: Tức là giải văn luận biện tám loại khác và giống của thể tướng. Luận rằng: Như vậy tổng nhiếp yếu nghóa của các luận. Thuật rằng: Từ đoạn thứ hai tùy văn nêu ra riêng giải thích, trong đó có ba: Ban đầu nêu tổng quán quần cơ, kế y nêu giải thích theo, sau cùng dừng lại tại việc này. Phương góc lược chỉ bày dứt văn rườm rà. Chữ “như thị” chỉ bài tụng đã nói, chữ “tổng nhiếp” dùng sơ lược thông suốt nhiều loại; “các luận” tức là xưa nay đã chế tác tất cả nhân minh, “yếu nghóa”, tức là đạo lý kỷ cương lập chánh phá tà. Nghóa này đều hiển bày trong các thuyết của Luận Du-già, Đối Pháp, Hiển Dương. Nhân minh có bảy theo bài tụng: Luận thể, luận xứ sở, luận cứ, luận trang nghiêm, luận phụ, luận xuất ly, luận đa sở tác pháp. 1/ Luận thể, nghóa là nói sinh nhân, thể lập luận. 2/ Luận xứ sở, nghóa là đối với vương gia chứng nghóa bàn luận về xứ sở. 3/ Luận cứ, nghóa là luận sở y tức là chân năng lập và chân hiện tỉ lượng… nghóa tự tánh sai khác của nó là ngôn thuyên cũng thuộc sở y. 4/ Luận trang nghiêm là chân năng phá. 5/ Luận phụ là tợ lập tợ phá. 6/ Luận xuất ly là lúc sắp hưng phát luận, pháp lập địch an xứ thân tâm. 7/ Luận đa sở tác pháp, tức do có đủ sáu nghóa trên có thể tạo tác nhiều. Nay toát yếu chung thành một bài kệ này, tuy nói tám môn tức bốn loại thứ nhất, thứ hai, thứ tư và thứ năm. Chỉ trình bày đại cương, không nói rõ lý khác gọi là nhiếp yếu nghóa. Theo ngài Thế Thân tạo luận, phép tắc luận, cách thức… pháp mặc dù hoàn toàn đầy đủ văn rườm rà nghóa phức tạp. Ngài Trần Na khảo sát rõ ràng tỉ mỉ, lại thành các luận Nhân Minh, Lý Môn… Tuy giáo lý luân hoán mà ý chỉ mầu nhiệm ngôn từ thâm thúy, khiến cho người mới học tập chẳng nghiên cứu được tinh vi đó. Ngài Thiên Chủ tạo luận này tập hợp biên soạn những ý vi diệu hai bộ trước tiên, áo nghóa đều bao gồm hết, khống chế các căn cơ. Chẳng những đưa ra đầy đủ điều cốt yếu thật ra cũng đổi nghiệp thành công. Đã trình bày công năng của tứ cú gồm rõ lợi ích của tám nghóa, vì vậy thâu nhiếp hết yếu nghóa của các luận. Luận rằng: “Trong này, tôn… đa ngôn gọi là năng lập”. Thuật rằng: Đoạn thứ hai sẽ y theo văn giải thích có sáu phần: Năng lập, tợ lập, hai pháp chân lượng, hai pháp tợ lượng, năng phá và tợ năng phá. Hỏi: Tại sao văn trường hàng trình bày văn bài tụng trước mà không theo thứ lớp giải thích, còn phân khai hợp chẳng giống văn tụng trước? Đáp: Lược có ba cách giải thích. Trước bài tụng nêu tôn, hai loại ngộ sai khác lập phá chân tợ, tương đối dùng theo thứ tự. Sở dó tám nghóa theo thứ tự như vậy, văn trường hàng giải thích rộng, bèn theo đó trình bày tánh tướng suy tìm cần phải theo thứ tự trình bày. Văn tụng do chân tợ đều khác khai thành tám nghóa, văn trường hàng do thể loại có chỗ giống nhau hợp thành sáu đoạn cũng chẳng trái nhau. Trong văn tụng dùng ý chỉ của Nhân minh vốn muốn lập chánh phá tà, nên trước nói năng lập, kế trình bày năng phá. Theo Lý Môn luận, vì muốn lựa chọn giữ lại chân thật trong nghóa năng lập năng phá nên tạo luận này không bị lỗi thành nghóa lập phá. Đã trình bày thì lỗi sinh sao thành lập phá nên lập phá sau. Kế trình bày hai pháp tợ, tuy biết chân tợ hai ngộ không đồng khai thị người chứng, đều thuộc ngộ tha. Khắc định phá thể cần phải hai lượng, hiện lượng thì đắc cảnh chính thân rõ ràng, tỉ lượng cũng vượt nghóa không lầm lộn, nên trước hiện lượng, tỉ lượng trình bày sau, khắc định mặc dù thành nhưng sai lầm khó trở lại khuôn phép. Do đó đối chân đế rõ hai tợ, vì vậy bài tụng có tám nghóa theo thứ tự như vậy. Văn trường hàng giống Lý Môn luận đã nói, do pháp Nhân minh trước lập sau phá, thoát khỏi luận bàn của người khác, chiết phục tha luận vì thắng lợi. Pháp lập nghóa: a) Chân lập vì chánh thành nghóa. b) Lập cụ vì lập sở y. Chân nhân dụ… gọi là chân lập, hiện tỉ hai lượng gọi là lập cụ. Vì vậy các bậc tiên sư gọi đúng là năng lập. Từ ngài Trần Na về sau chẳng phải chân năng lập chỉ là lập cụ, năng lập đã đủ nên năng phá trước, đầu tiên nói rõ hai lượng. Thân sơ năng lập đều có chân tợ do tự tướng sáng rõ, nên chân lập sau liền rõ tợ lập. Hai món chân lượng sau rõ hai món tợ lượng, sáu môn này nhờ năng lập và quyến thuộc. Theo Lý Môn Luận nói, sáu môn trên là chân tợ lập, lập nghóa thành rồi kế mới phá tha, vì vậy sau mới rõ năng phá tợ phá. Chân lập tợ lập, chân lượng tợ lượng đều có biệt thể, thể chân lập liền không có lỗi đa ngôn. Tợ lập thế tức có lỗi đa ngôn, trí chân lượng rõ ràng quyết định, trí tợ lượng u ám nghi ngờ, vì đều có sai khác. Hoặc chân năng lập, hoặc năng lập cụ vì đều là năng lập, đầu tiên đã rõ ràng. Năng phá tợ phá tuy thể tức ngôn thuyết cảnh vốn có sai khác, cảnh năng phá thể tức tợ lập, cảnh tợ phá tức chân năng lập. Phải biết cảnh đó mới có thể trình bày cảnh phá, lập rồi mới phá nên sau đã rõ ràng. Khai hợp phân biệt rõ và thể loại đồng, trường hàng và kệ tụng do đây không giống. Ban đầu giải thích năng lập. Đại văn có ba: Đầu là nêu thể giải thích nghóa, kế trình bày tướng đầy đủ, sau tổng kết thành văn trước. Lựa chọn sự đồng dị, trong phần ban đầu lại chi thành hai nêu thể và giải thích nghóa đây nêu thể. Nêu chung nhiều pháp mới thành năng lập, phạm nghóa năng lập trong đa ngôn đã nói. Cho nên ngài Trần Na theo Lý Môn luận, chỉ luận của ngài Thiên Thân mà nói, nên đây đa ngôn, đối với luận thức… gọi danh năng lập. Nói rong đây theo lý nên có hai cách giải: Khởi luận bàn nhiều nghóa và chọn giữ nghóa, hễ phát đầu mối luận nêu ra nhiều từ nên nói trong này khởi đầu mối luận nghóa. Chọn giữ có hai nghóa. Lựa bỏ sự thêm bớt của tà tôn, giữ lấy trung đạo của chánh tôn. Tà tăng là thêm tợ lập thành chân lập, dùng tợ phá làm chân phá, giảm tà dùng chân lập làm tợ lập, dùng chân phá làm tợ phá. Trung đạo hai chân là chân, hai tợ là tợ. Luận này đã nói rõ tổng cộng có tám nghóa. Vả lại nói năng lập chưa bàn bảy nghóa đó, lược bỏ bảy nghóa, giữ lại một nghóa này, nên trong đây nói lưu giữ nghóa. Bồ-tát Thanh Biện nói: “Bát-nhã Đăng Luận giải thích có bốn nghóa là phát đoạn, tiêu cử, giải trì và chỉ xích”. Tôn là nghóa gì? Là có bốn nghóa sở tôn, sở sùng, sở chủ và sở lập. Chữ “đẳng” đồng lấy nhân và dụ. Từ ngài Thế Thân sắp về trước tôn là năng lập, ngài Trần Na chỉ dùng ba tướng của nhân đồng - dị dụ mà làm năng lập vì năng lập chắc chắn đa ngôn. Nay nói tôn đẳng gọi là năng lập lược có hai cách giải thích: Tôn là sở lập, nhân… là năng lập. Nếu không nêu tôn để hiển năng lập, chẳng biết nhân dụ loại nào là năng lập, e cho rằng đồng với xưa. Năng lập có hai tự tánh và sai biệt, nay nêu tôn hiển sở lập, năng lập nhân dụ, là năng lập của tôn sở lập này. Tuy nêu tôn ý lấy đồng một nhân hai dụ làm năng lập thể, nếu không như vậy tức có sở lập, lẫn lộn với cách giải thích xưa, năng lập cũng lộn lỗi năng lập kia, vì lựa bỏ lỗi đó nên nêu tôn… Theo ý của ngài Trần Na, các bậc tiên cổ đều dùng tôn làm năng lập, hai pháp tự tánh sai biệt làm sở lập, ngài Trần Na bèn lấy hai pháp làm tôn y, chẳng phải đã tranh luận trái nhau. Nói chẳng phải sở lập, sở lập tức tôn có chấp nhận hay không chấp nhận vì đã tranh luận nghóa. Theo Lý Môn luận, do sở thành lập tánh gọi là tôn, luận này cũng nói tùy tự lạc làm sở thành lập tánh gọi là tôn. Nhân và hai dụ vì thành tôn này mà làm năng lập, nay luận nếu nói nhân dụ đa ngôn gọi là năng lập, chẳng những ý nghóa tôn chỉ thấy trái với cổ sư mà văn cũng tương vi bèn thành cạnh tranh trái nghịch. Hai ý của ngài Trần Na và ngài Thiên Chủ giống nhau, đã bẩm thọ lời bậc tiên hiền làm luận sau này, văn không trái người xưa. Nêu tôn làm năng…, nghóa là khác tiên sư lấy đồng nhân dụ làm năng lập tánh, nên trong năng lập nêu tôn… Hỏi: Tôn nếu là sở lập, trong bài tụng có tám nghóa nhiếp pháp không tột? Đáp: Tùy tám món sở lập tức là tôn, còn tôn sở lập, tùy năng lập, bèn kế nói rõ vì sở lập kia thuộc pháp cũng cùng tột. Quán sát nghóa tất cả các sự gọi là Nhân minh chẳng nên tôn kia làm sao quán sát. Nên nay nêu tôn hiểu rõ sở hữu sự, năng lập thể. Hỏi: Năng lập nhân dụ có nói nghóa trí tại sao luận không nói đa trí đa nghóa gọi là năng lập mà nói đa ngôn gọi là năng lập? Đáp: Cách lập luận vốn sinh tha giải, tha giải chiếu đạt sở lập tôn nghóa vốn do người lập. Nói năng lập kia nói sinh nhân chính là năng lập, trí nghóa thuận đây cũng được gọi là nhân. Do nói sinh nhân phát sinh địch chứng trí, địch chứng trí giải là chánh liễu nhân. Lý Môn luận vấn nạn rằng: Nếu như vậy đã lấy trí làm liễu nhân bèn mất năng thành lập tánh, ở đây vấn nạn nhân lẽ ra chẳng phải năng lập. Họ tự giải thích, đây cũng không đúng, vì làm chia kia ức niệm vốn cực thành. Ý ở đây giải thích vì nói nhân khiến địch chứng trí, rõ bổn cực thành nhân, hiểu sở lập tôn nghóa nên người lập luận nói chính là năng lập. Địch chứng trí rõ cũng là năng lập tánh, nếu không như vậy quyết định trái nhau. Nói chi đầy đủ lẽ ra gọi là năng lập, đã do tha trí không sinh quyết định hiểu biết gọi là tợ lập. Nên biết lấy chung sinh trí hiểu làm năng lập thể, nay căn cứ vào bổn này chỉ nêu lời gọi là năng lập. Theo Du-già cũng nói sáu thứ ngôn luận là luận thể tánh không nói trí sinh nghóa sinh nghóa liễu gọi là năng lập, nói rồi thì lời sinh nên thể cũng nên như vậy. Hỏi: Tại sao năng lập chủ yếu tại đa ngôn, còn một, hai lời nhất định chẳng phải năng lập? Đáp: Theo Lý Môn luận đối với luận thức vì nói đa ngôn này gọi là năng lập. Ngài Thế Thân đã tạo luận quỹ luận thức, kia nói đa ngôn gọi là năng lập, nay chẳng trái xưa nên nói là đa ngôn. Luận kia lại nói trong tỉ lượng chỉ thấy lý này, hoặc đã so sánh chỗ thì tưởng này nhất định trùm khắp, với loại khác thì đồng loại, niệm này định có với kia không xứ, niệm này biến vô nên do vậy sinh quyết định hiểu. Ba tướng của nhân đã là tôn pháp tánh đồng có dị không, hiển nghóa tròn đủ, quyết nhờ đa ngôn nên nói đa ngôn gọi là năng lập. Còn một, hai lời thì tôn do chưa thành lập, đa ngôn nghóa đầy đủ, sở lập mới thành. Nếu chỉ nói nhân không so với đồng dụ, nghóa chẳng rõ ràng, nào được kiến biên. Hoặc chỉ đồng không dị mặc dù so sánh trợ tôn, nhân của năng lập, hoặc lại thành pháp, không dị dừng lại chỗ lẫn lộn, làm sao có thể kiến lập tôn. Giả sử có hai dụ thiếu biến tông nhân, tôn pháp đã tự không thành, tôn nghóa do đâu được thành lập. Quả nhiên tôn chẳng thành lập nhân huống chi thiết, luống không gây ra sự phân vân, sự tranh luận nhờ đâu sẽ tiêu dứt. Cho nên nói rõ xưa nay năng lập đầy đủ chủ yếu nhờ đa ngôn. Luận rằng: “Do tôn nhân dụ đa ngôn khai thị các cõi, người hỏi chưa rõ nghóa”. Thuật rằng: Giải thích nghóa năng lập, tôn nghóa định như xưa, trước thành nhân dụ, tại sao nay nói năng lập? Theo Lý Môn luận cũng nói, do tôn - nhân - dụ đa ngôn phân biệt họ chưa rõ nghóa, các cõi người hỏi nghóa là địch chứng… chưa rõ nghóa là người lập luận tôn. Người địch luận đó một do không biết, hai là nghi hoặc, ba là học mỗi tôn. Người lập chưa rõ lập nghóa chỉ như thế nào mà lại có lời hỏi, nên dùng tôn… đa ngôn như vậy? Thành lập tôn nghóa là trừ người không biết đó, cái chấp hẹp hòi do dự, làm cho người lập luận hiểu rõ. Sở lập nghóa tôn luận nghóa pháp đó, Du-già… nói có sáu xứ sở: Vương gia, chấp lý gia, trong đại chúng, ở trước bậc hiền triết, khéo giải nghóa pháp trước Sa-môn, Bà-la-môn và đối trước người ưa pháp nghóa. Trong sáu pháp này quyết phải chứng minh, giỏi tôn tự tha, tâm không dửng dưng phát ra lời nói có phép tắc, có thể quyết định phải trái. Người làm chứng có hỏi lập luận tôn gì, nay dùng tôn… đa ngôn như thế, trình bày tôn chỉ dó làm chứng nghóa rõ nghóa sở lập. Chữ “cố” là lý do, đệ ngũ chuyển thin; chữ “do” là nhân do đệ tam chuyển nhiếp, nhân do địch chứng. Hỏi sở lập tôn nói tôn - nhân - dụ khai thị nơi đó, sở dó đa ngôn gọi là năng lập, mở bày có ba: Địch luận chưa tập quen nay năng lập… khai sáng mở mang, người chứng minh trước phải hiểu, nay năng lập, lại chỉ bày. Cả hai đều nói chỉ bày chánh lý đó. Bỏ quên tôn mà hỏi thành ra khai, vì muốn nhớ tôn mà hỏi thành chỉ bày. Vì những người đặt câu hỏi chưa rõ nghóa, lược có hai cách giải thích: 1/ Những người hỏi thông chứng và dịch luận, đối phương đặt câu hỏi, lý không cần nghi. Người chứng minh từ lâu đã biết tôn nghóa tự tha, thà cho đặt câu hỏi nhưng chưa rõ nghóa: Một là, do nhiều năm trôi qua đã quên; Hai là chủ khách phân vân; Ba là, lý có trăm đường mà hỏi y theo lối mòn sao? Bốn là, ban đầu nghe chưa xét phải xét kỹ mới biết; Năm là, phá tâm nghi, hiểu rõ ý của sư, nên lại hỏi tôn chưa rõ nghóa. 2/ Lẽ ra phải phân biệt vì người chứng minh kia, luận chỉ nên nói đa ngôn, vì chỉ rõ nghóa cho người hỏi. Người chứng đã lâu mà không hiểu, vì người địch luận, nên nói đa ngôn, vì khai thị cho người hỏi chưa rõ nghóa, người đối địch với tôn có chỗ chưa rõ. Nay hợp thành văn, chẳng phải luận chứng đó cũng gọi chưa rõ, so chỉ bày hai hạng trên nên nói đa ngôn là năng lập. Hỏi: Năng lập có nhiều tại sao nói một lời là năng lập? Đáp: Giải theo Lý Môn và hiển bày cái tổng thành một năng lập tánh, do đây nên biết, theo chỗ thiếu gọi là lỗi năng lập, vì thiếu chi liền chẳng phải tánh năng lập. Luận rằng: “Tôn ở trong Luận này”. Thuật rằng: Đoạn thứ hai sẽ trình bày tướng rộng lớn có ba phần: Tướng tôn, tướng nhân và tướng dụ. Theo Du-già Luận rằng: Hỏi: Nếu tự tướng của tất cả pháp thành tựu, đều đã tự an lập trong pháp tánh, lại do nhân duyên gì kiến lập hai loại sở thành lập nghóa? Đáp: Vì muốn cho người khác sinh lòng tin hiểu, chẳng phải sinh ra mà thành tánh tướng các pháp. Hỏi: Vì muốn thành tựu sở thành lập nghóa, tại sao trước phải lập tôn? Đáp: Vì trước hiển bày tôn nghóa ái lạc. Hỏi: Tại sao kế biện nhân? Đáp: Vì muốn hiển y hiện kiến sự, quyết định hiện lý, khiến cho họ nhiếp thọ tôn nghóa sở lập. Hỏi: Tại sao tiếp đến dẫn dụ? Đáp: Vì muốn hiển bày nơi y chỉ hiện thấy sự của đạo lý năng thành. Hỏi: Tại sao lại nói đồng loại dị loại, hiện lượng - tỉ lượng - chánh giáo lượng…? Đáp: Vì muốn khai thị nhân dụ hai loại trí tương vi hay không tương vi. Tương vi nghóa là dị loại, không trái nhau là đồng loại, thì đối với nhân dụ đều có hiện lượng, tỉ lượng… tương vi hay không tương vi, tùy chỗ ứng thuộc chân tợ. Kia lập lại chữ “tương vi” do hai nhân duyên không quyết định và đồng sở thành, ban đầu là sáu món bất định. Nhân đối với đồng dị hai dụ vì hoặc thành hoặc trái, sau bốn món bất thành và bốn món tương vi. Nhân đối với lỗi của tôn gọi là bất thành, trong hai dụ hoàn toàn tương phản gọi tương vi. Vốn lập cộng nhân suy nghó thành tôn quả, nhân đã gồm tợ, lý cần phải thành. Nếu thành thì cùng tôn chẳng khác nhau gọi là đồng sở thành, tợ tôn hai dụ cũng thuộc đây. Không trái nhau cũng có hai nhân duyên quyết định và dị sở thành. Ban đầu là chân nhân chân dụ, vì nhất định thành tôn, sau thời chân nhân chân dụ này không có các lỗi vì thể vì thể năng thành, khác nhau với sở thành. Tương vi vì thành tựu tôn nghóa đã lập không thể làm lượng nên không gọi là lượng nghóa là tợ - nhân dụ, và tợ hiện tỉ lượng gọi tương vi; vì không thành tôn nên không gọi chân lượng. Bất tương vi vì thành tựu tôn nghóa sở lập, có thể làm chánh lượng nên gọi là lượng, nghóa là chân nhân dụ và chân hiện tỉ, chánh thành tôn nên đúng tên lượng. Nay đây tuy không giống thứ tự đó sở y của tôn và tôn nhân dụ hiện tỉ lượng… thứ lớp sinh khởi, cũng căn cứ theo đó giải thích. Trong phần thứ nhất lại chia làm ba trình bày, hiện tướng và chỉ pháp. Luận rằng: “Cực thành hữu pháp cực thành năng biệt”. Thuật rằng: Phần chỉ bày tướng có bốn: Hiển y, xuất thể, lựa chọn xen lộn và kết thành. Chữ “cực” là chí, chữ thành là tựu, chí cực thành tựu gọi tắt là cực thành. Hữu pháp năng biệt chỉ là tôn y mà chẳng phải là tôn, y đây quyết phải hai tôn chí cực cùng chấp nhận thành tựu, vì ý nghóa lập tôn thể mới thành. Sở y nếu không có năng y sao thành lập? Do tôn y đây ắt phải cùng chấp nhận. Cùng chấp nhận gọi là chí cực thành tựu vì chí lý có, vì pháp vốn chân. Nếu chấp nhận hữu pháp năng biệt hai loại chẳng phải cả hai cùng chấp nhận bèn có hai lỗi: Một là lỗi thành nghóa khác, nghóa là năng lập vốn muốn lập tôn tánh hòa hợp không rời nhau hai loại trên đây. Không muốn thành lập tôn hai sở y, sở y nếu chẳng phải trước đó cả hai chấp nhận, bèn cần phải lập bất thành y này, thế thì năng lập thành với nghóa khác, chẳng phải thành bổn tôn. Cho nên tôn sở y quyết phải cùng chấp nhận, tánh của tôn y mới không thành, vì cực thành bèn lập không có quả, lại có lỗi khác. Nếu chấp nhận năng biệt chẳng phải cả hai cực thành, vì thiếu tôn chi, không được viên thành. Trong nhân ắt có nhân đồng phẩm không nhất định có lỗi của tánh, chắc thiếu đồng dụ đều có sở lập bất thành, dị dụ một phần hoặc lỗi biến chuyển. Nếu chấp nhận hữu pháp chẳng phải cả hai cực thành, vì thiếu tôn chỉ cũng không viên thành, năng biệt không có chỗ nương là pháp gì. Trong nhân cũng có sở y tùy nhất lưỡng câu bất thành, do tôn y này chắc y cùng chấp nhận. Tánh của tôn năng y mới không cực thành và năng lập thành vốn đã tranh luận, trong tất cả pháp lược có hai loại thể và nghóa, vả lại như năm uẩn sắc… là thể. Các nghóa hữu lậu vô lậu trên đây gọi là nghóa, thể cùng nghóa đều có ba tên. Thể có ba tên: Một là tự tánh, cổ sư đã nói tự tánh trong các kinh Du-già… Hai là hữu pháp đã nói trong luận này. Ba là sở biệt như trong phần lỗi của tôn dưới đây gọi sở biệt bất thành. Nghóa cũng có ba tên: Một là sai biệt, cổ sư đã nói nghóa sai biệt trong Du-già…; Hai là pháp trong phần tương vi sau sẽ nói pháp tự tướng tương vi nhân… Ba là năng biệt, như trong đây gọi năng biệt. Theo Phật Địa Luận thì Nhân minh bàn tự tướng của các pháp chỉ hạn cuộc nơi tự thể, không thông các cõi trên gọi là tự tánh như xâu tràng hoa thông suốt đến nghóa sai khác của các pháp khác, nên gọi là sai biệt. Hai loại này không nhất định thuộc một môn, chẳng đồng với Đại thừa, do tất cả pháp không thể nói là tất cả thành tự tánh, có thể nói là cộng tướng. Trong câu “như có thể nói” năm uẩn… là tự, vô thường.. là cộng, trong sắc uẩn sắc xứ là tự, sắc uẩn là cộng. Trong sắc xứ màu xanh… là tự, sắc xứ là cộng. Trong màu xanh… nhờ hoa là tự, màu xanh là cộng. Trong phần nhờ hoa cực vi là tự, y hoa là cộng. Như thế cho đến lìa lời nói là tự, cực vi là cộng. Trong lìa ngôn ngữ vì Thánh trí nội thầm đắc bổn chân, gọi là tự; lời nói lìa ngôn thuyết gọi là cộng. Cộng tướng giả có, vì giả trí biến đổi, tự tướng có thể chân, hiện lượng nhân duyên vì chúng Thánh trí. Trừ ngoài đây là tự tánh, đều giả tự tánh chẳng phải chân tự tánh, vì không lìa giả trí và thuyên ngôn. Nay Nhân minh chỉ hạn cuộc nơi tự thể gọi là tự tánh, thông cả loại khác gọi là sai biệt, chuẩn theo tương vi tự tánh sai biệt, mỗi loại lại phân biệt có tự tướng sai biệt nghóa là nói đã gồm có tự tướng vì không thông các loại khác. Trong lời nói không mang ý đã chấp nhận nghóa gọi là sai biệt do thông các loại. Nay nhờ Nhân minh gồm có ba lớp: Một là hạn cuộc chung cuộc hạn thể gọi tự tánh vì hạn hẹp, thông các loại khác gọi sai biệt vì rộng lớn. Hai là trước sau trước trình bày tên tự tánh, vì trước chưa có pháp để phân biệt, sau nói tên sai biệt, vì do trước đó đã có pháp khả năng phân biệt. Ba là chấp nhận lời nói trong lời nói đã mang tên tự tánh, trong ý đã chấp nhận tên sai biệt. Vì trong lời nói đã trình bày nghóa khác nhau, giải thích tên kia tự tánh sai biệt hai tên như đoạn văn trước. Thứ hai tự tánh cũng gọi hữu pháp, sai biệt cũng gọi pháp Hữu pháp có hai nghóa là năng trì tự thể và quỹ sinh tha giải. Vì thế các bộ luận đều ghi pháp nghóa là giữ gìn khuôn phép. Trước giữ tự thể tất cả đều thông, sau nhờ khuôn phép sinh hiểu biết. Chủ yếu phải có uốn nắn ban đầu chưa có nói cách bày biện giữ gìn khuôn phép hình thể; chưa có uốn nén họ sinh hiểu sai khác, sau bày biện trước đã có nói. Có thể sau nói phân biệt trưng bày trước, mới có uốn nắn sinh hiểu sai khác, kia sinh dị giải, chỉ đợi sau sẽ nói, vì vậy ban đầu đã trình bày. Chỉ đủ một nghóa hay giữ gìn tự thể, nghóa không thù thắng chẳng được tên pháp, sau đó trưng bày đầy đủ hai nghóa, hay giữ gìn lại khuôn mẫu vì nghóa thù thắng riêng được tên pháp. Trước đã trưng bày hay có pháp sau lại gọi hữu pháp. Thứ ba tự tánh cũng gọi là sở biệt, sai biệt cũng gọi là năng biệt, lập - địch đã chấp nhận không tranh luận trước trưng bày, trên tranh luận trước trưng bày đó, không đem trước trưng bày riêng nơi sau trước tự tánh gọi là sở biệt, sau trần sai biệt gọi là năng biệt. Nếu như vậy ba tên đây đều có lỗi, lỗi đó như thế nào? Gạn hỏi tên ban đầu hoặc thể gọi là tự tánh, nghóa gọi là sai biệt, tại sao dưới đây nói như Số luận sư lập ngã là tư, ngã là tự tánh, tư là sai biệt. Văn kia bèn lấy nghóa làm tự tánh thể làm sai biệt, vì ngã vô ngã… phân biệt suy nghó. Gạn hỏi danh từ kế nếu đủ một nghóa được tên hữu pháp, nếu đủ hai nghóa chỉ có tên pháp. Như luận sư này lập ngã là suy nghó, tại sao suy nghó chỉ có một nghóa mới gọi là pháp, ngã đủ hai nghóa được tên hữu pháp. Gạn hỏi tên sau cùng, nếu sau này trần biệt kia trước đã nói, trước là sở biệt, sau là năng biệt? Như người thế gian nói hoa sen màu xanh chỉ nói màu xanh không nói hoa sen, chẳng biết màu xanh gì, màu xanh của ao hay của cây hoặc của bình…, chỉ nói hoa sen không nói màu xanh. Không biết hoa gì hoa màu đỏ hay màu trắng hoặc màu hồng… lựa bỏ hoa màu đỏ. Nói hoa sen lựa bỏ màu xanh của áo, trước trình bày sau nói lại xen có lựa chọn, xen nhau là sở biệt, xen là năng biệt. Ở đây lẽ ra cũng như vậy, sau trình bày trước phân biệt, trước trình bày phân biệt sau, lẽ ra xen nhau gọi là năng biệt sở biệt? Giải thích câu vấn nạn ban đầu, tôn của nhân minh đây không đồng các bộ luận. Trong đây chỉ do hạn cuộc giữ gìn tự thể gọi là tự tánh vì không thông với khác, nghóa thấu suốt với loại khác như xâu tràng hoa thì gọi là sai biệt. Trước đã trình bày giới hạn nơi tự thể, sau đã nói nghóa thông suốt với các nghóa khác, nghóa đối với số nhiều. Giới hạn nơi tự thể nghóa đối tiện ít. Sau này pháp hiểu được trước chẳng do trước hiểu sau, nên trước trình bày gọi tự tánh, sau trình bày gọi là sai biệt. Giải thích câu hỏi thứ hai, trước trình bày hữu pháp lập địch không trái nhau. Trên đây nghóa sai khác cả hai nhà tranh luận trái nhau, nghóa là tranh luận kia đây tương vi, có thể sinh khuôn mẫu hiểu danh từ gọi là pháp. Chẳng phải chỗ tranh biện kia đây không có phép tắc, giữ gìn tự thể không có hiểu riêng phép tắc chỉ có tên hữu pháp. Bàn luận thật lý đó trước trình bày sau nói đều đủ hai nghóa, y sự tăng thắng luận cùng tên riêng kia, nên trước trình bày gọi là hữu pháp, sau trình bày gọi là pháp. Theo Lý Môn luận, quán đã thành cho nên lập pháp hữu pháp, chẳng phải đức hữu đức, pháp cùng hữu pháp, tất cả không quyết định. Nhưng trước trình bày đều là hữu pháp, sau nói đều gọi pháp, vì quán sở lập chẳng phải như Thắng luận nói về đức và hữu đức tất cả quyết định. Giải thích câu vấn nạn thứ ba, trước sau đã trình bày tướng xen nhau lựa chọn phân biệt, lẽ ra đều được tên năng biệt sở biệt. Vì như thành tôn nói sai biệt tánh, nhưng trước người trình bày chẳng phải tranh luận trái nghịch, sau đó nói kia đây tương vi. Nay trình bày cả hai tranh luận nhưng nghóa trên thể, nên trước trình bày gọi là sở biệt, sau gọi năng biệt cũng xét theo sự tăng thắng để được tên đó. Nhưng trước trình bày chân thật gọi là tự tánh hữu pháp sở biệt, chỉ là sau nói đều gọi sai biệt pháp và năng biệt, chỉ tranh luận sau với trước, vì không tranh luận trước sau. Nêu sau mới tranh luận vì không nêu trước tranh luận, năng lập lập ở sau vì chẳng lập ở trước, vì phát khởi trí liễu không do trước. Do đó được tên trước sau đều nhất định. Hỏi: Trước trình bày sau nói mỗi loại đã có ba tên, tại sao cực thành ban đầu nói hữu pháp, sau nói năng biệt không dùng tự tánh sai biệt gọi là hiển rõ? Lại chẳng dùng pháp và hữu pháp, năng biệt sở biệt tương đối làm tên gọi, mà đều y nêu một hữu pháp năng biệt? Đáp: Ban đầu có ba cách giải thích: Giả sử đến nỗi có nhiều tên khác, chắc chắn có sự vấn nạn này, tùy theo đó nêu một loại, tại sao cả hai lại gạn hỏi. Hữu pháp hay có thắng giải cho người khác nên trước nêu ra để trình bày, rõ ràng chắc có pháp sau. Để giải thích trước đã trình bày, năng biệt phân biệt với tha thắng, tôn này sau trình bày, ắt cùng tôn kia sau trình bày nghóa khác nhau. Sau này sẽ nói năng biệt trình bày trước nên sau nêu năng biệt. Tự tánh sai biệt, trên các pháp cùng mượn tên chung hữu pháp năng biệt, tên riêng trong tôn chỉ nêu biệt danh, ẩn tên chung khác cũng chẳng trái nhau. Trả lời câu vấn nạn sau, trước nêu hữu pháp hiển bày pháp sau, sau nêu năng biệt bày rõ sở biệt trước. Như hai ngọn đèn hai ngọn đuốc hai bóng hai ánh sáng, vì xen nhau nêu một danh tướng phát sinh, vì muốn văn gọn mà nghóa rườm rà, vì tên riêng của tôn đầu hiển bày đầy đủ, nhiếp tên đã bao trùm, lý thật ra không có lỗi. Hỏi: Đã nói cực thành tại sao lựa riêng, có bỗng nhiên loại không thành, nói thành lựa riêng? Đáp: Năng biệt nhất định thành. Vả lại trong sở biệt có tự bất thành, có tha bất thành, có câu bất thành, có câu chẳng bất thành. Ba loại trước là lỗi, câu thứ tư chẳng phải. Lại có tự nhất phần bất thành, có tha nhất phần bất thành, có câu nhất phần bất thành, có câu phi nhất phần bất thành. Ba loại trước đều là chẳng phải, một loại thứ tư có thị (phải), sở biệt nhất định thành, năng biệt không thành là câu cũng như vậy. Như vậy, thiên cú tổng biệt hợp có bốn loại bốn câu đều không thành hoàn toàn, có năm loại bốn câu, có tự năng biệt không thành tha sở biệt, có tha năng biệt không thành tự sở biệt, có câu năng biệt bất thành tự sở biệt, có câu năng biệt bất thành tha sở biệt, có tự năng biệt bất thành câu sở biệt, có tha năng biệt bất thành câu sở biệt, có câu năng biệt bất thành câu sở biệt, có câu năng biệt bất thành câu phi sở biệt. Như năng biệt bất thành làm Thượng thủ có hai toàn tứ cú, sở biệt không thành cũng như vậy, trong hai mươi bốn câu, bảy câu trước đều là lỗi này, câu thứ tám là thiên về lỗi trước. Tuy tổng có bốn thể chỉ có hai loại, vì sau thời là trước càng không khác nhau, sở dó chỉ gọi hai loại tứ cú. Có tự lưỡng câu bất thành chẳng phải tha, có tha lưỡng câu bất thành chẳng phải tự, có câu lưỡng câu bất thành, có câu chẳng phải tự tha lưỡng câu bất thành. Ba câu trước là phi, câu thứ tư là thị. Như vậy hợp lại có năm loại toàn cú, mỗi mỗi lìa là một phần cú. Lại có năm câu (cú) cộng thành mười câu lại đem một phần cú đối với toàn cú kia. Lại đem toàn cú đối một phần cú, như lý nên suy nghó, e phiền nên dừng lại. Hữu pháp ban đầu không thành thiên cú, như giải trong sở biệt không thành dưới đây. Năng biệt không thành thiên cú, như dưới đây sẽ giải trong phần năng biệt bất thành. Các câu cả hai không thành, như dưới đây sẽ giải trong phần lưỡng câu bất thành. Lưỡng câu toàn phần nhất phần bất cực thành kia thì tôn cả hai chẳng thành. Tự tha toàn phần nhất phần bất cực thành đó thì tôn tùy nhất bất thành, căn cứ theo nghóa cũng có tôn do dự bất thành. Các lỗi lưỡng câu tùy nhất toàn phần nhất phần, đến phần tợ tôn sẽ phân biệt đầy đủ. Hai loại tự tánh và hai pháp sai biệt bất cực thành. Ở đây đều tổng nhiếp vì lựa bỏ chẳng phải kia, nên hai pháp tôn y đều nói cực thành. Hỏi: Tại sao lỗi của tôn có chín loại đó, nay cực thành lựa chỉ chọn có ba? Đáp: Trong đây chỉ lấy tôn bất cực thành, cở y phải cực thành, nên chỉ chọn có ba, chẳng phải muốn chọn đầy đủ tất cả lỗi của tôn. Theo Lý Môn Luận, khi thành tôn chỉ chọn năm lỗi, do lời nói chẳng phải nghóa đó trái nhau có thể khiến trừ, luận này chọn năm loại kia. Cho nên chỉ nói ba pháp tùy tự thời chọn tương phù cực thành, lựa chín loại đầy đủ, Lý Môn Luận lược còn năm như trước đã nói. Cũng như dụ nói hiển nhân đồng phẩm quyết định có tánh, không chọn hợp kết, nên đây chỉ có ba. Hỏi: Cả hai đã chấp nhận, tại sao không gọi cộng thành mà nói cực thành? Đáp: Tự tánh sai biệt, chính là các pháp chí cực thành lý, do họ không ngộ, năng lập đã thành lập. Nếu nói cộng thành chẳng phải hiển chân cực, lại pháp Nhân minh có tự tỉ lượng và tha tỉ lượng, có năng lập năng phá. Nếu nói cộng thành lẽ ra không có văn đâ. Lại vì hiển tôn y, trước tiên phải đến nơi lý cực cứu cánh, tôn tánh năng y mới là chỗ tranh luận, vì vậy nói cực thành mà không nói cộng. Hỏi: Tôn y cần cả hai chấp nhận thành chọn bất thành, nhân dụ quyết cộng thành, nói cực lựa chọn chăng? Cực sao nhân nhân dụ không nêu cực thành, riêng đối với tôn y thậm chí chọn cực thành? Đáp: Có bốn nghóa: Tôn y cực thành tôn không cực, vì lựa không cực nói là cực thành, nhân dụ y thể đều phải cực thành, không có chỗ lựa chọn nên chẳng nói cực. Nhân dụ năng lập đều phải cực, không đâu chẳng phải cực nên không cần chọn lựa. Tôn là sở lập chẳng phải cộng thành, vì có nơi lựa chọn phải nói cực, trong nhân dụ tự so sánh gọi là chấp nhận, tha tỉ nói chấp giữ mà lựa riêng ra nên không phải bất cực. Trong nhân dụ thành không có bất thành, vì không xen chọn lựa bỏ. Không nói có bất thành trong tôn cực thành, có chọn lựa nên chỉ nói cực. Nhân không thành thuộc chẳng phải cực, từ nghóa rộng có tên bất có tên cực. Trong tôn bất thành không riêng nhiếp nên nói cực thành lựa bỏ bất cực. Trong nhân có lỗi lưỡng câu tùy nhất, sở lập năng lập bất thành trong dụ. Trong các lỗi này đã thuộc về bất cực, lưỡng câu thì rộng, từ đó mà xưng tên, vì hữu thể vô thể đều là lỗi này. Lỗi của tôn không như vậy, nói cực là lựa chọn, cả hai chấp nhận có hữu thể bèn chẳng có lỗi, do đó với trong tôn chỉ nói cực thành. Theo Lý Môn Luận thì tôn pháp chỉ lấy địch luận và lập luận quyết định đồng chấp nhận. Trong đồng phẩm hữu phi hữu cũng lại như vậy, nên biết nhân dụ quyết phải cực thành. Chỉ có luận này lược bỏ, Duy thức cũng nói sáu thức cực thành, vì thuộc tùy nhất, như cực thành khác, cho nên biết văn đây lược bỏ. Luận rằng: “Vì tánh sai biệt”. Thuật rằng: Đưa ra tôn thể sai biệt nghóa là lấy tất cả hữu pháp và pháp xen nhau sai khác, tánh là thể vậy. Trong đây lấy hai loại tướng xen nhau sai khác tánh chẳng rời nhau dùng làm tôn thể. Như nói sắc uẩn vô ngã, sắc uẩn là hữu pháp, vô ngã là pháp. Hai loại này hoặc thể hoặc nghóa xen nhau sai khác, cho là lấy sắc uẩn lựa riêng vô ngã. Sắc uẩn vô ngã chẳng phải thọ vô ngã, và do vô ngã lựa riêng sắc uẩn, vô ngã sắc uẩn chẳng phải ngã sắc uẩn. Lấy hai loại xen nhau sai khác này hợp lại thành một xứ tánh chẳng rời nhau mời thành tôn kia, tức lựa chọn các Nhân minh của cổ sư. Chỉ nói hữu pháp làm tôn, vì pháp thành hữu pháp, hoặc chỉ nói pháp là tôn, vì pháp trên hữu pháp đã tranh luận. Hoặc dùng hữu pháp và pháp làm tôn, thì kia phân biệt chẳng phải tôn, vì hợp hai loại này tôn đã thành, trước đây đều cùng chấp nhận đâu được thành tôn, vì đã lập rồi thành không có quả. Chỉ nên lấy xen nhau sai khác tánh không rời nhau, có chấp nhận hay không chấp nhận dùng làm tôn thể. Hỏi: Trước trình bày năng biệt chỉ ở trong pháp, tại sao nay nói xen nhau sai khác? Đáp: Lập luận và địch luận đối đãi nhau. Pháp là năng biệt, thể - nghóa đối đãi nhau, xen nhau thông cả năng sở, đối vọng nhau có khác cũng chẳng trái nhau. Hỏi: Xen nhau sai biệt thời là tôn tánh, đâu nhờ trong đây phải nói chữ “cố”? Đáp: Chữ “cố” là lý do ở đây có hai nghóa: Chọn cách nói của Cổ sư chỉ dùng năng biệt hoặc chỉ có sở biệt, hoặc song dùng cả hai mà thành tôn kia. Cách chọn của ngài Trần Na đều chẳng phải tôn tranh luận, lấy hai nghóa trên đây xen nhau sai khác, tánh không rời nhau để tranh luận mới thành tôn. Năng biệt… trước đó cùng chấp nhận chẳng phải cả hai đã tranh luận, đều không phải là tôn, vì chọn Cổ sư bèn nói chữ “cố”. Giải thích sở y, trước hữu pháp và do năng biệt cực thành, vì chỉ dùng hữu pháp và pháp xen nhau sai biệt tánh không rời nhau, một chấp nhận, hoặc đồng ý không chấp nhận mà thành tôn. Sở y hữu pháp năng biệt của tôn, đều phải cực thành, do trong tôn này nói chữ “cố”, không như vậy thì sở y phải thành lập sao? Hoặc có người ở đây không ngộ lý do, bèn đối lại luận rằng sai biệt làm tánh, chẳng phải ngay đó trái ngược điều then chốt của Nhân minh, chính là cách nói ngu si của Đường Phạm, vừa đổi văn luận rất đáng quở trách. Pháp sư Thích Đạo An ở Di Thiên ưa chuộng thương lượng, lược phiên dịch thành năm lỗi ba món không dời đổi. Các vị La-hán kết tập mạnh mẽ như vậy, phàm phu đời mạt pháp phê bình như vậy là đúng. Thay đổi lời nói vi diệu trên ngàn đời, đồng kẻ mạc tục dưới trăm vua, há không đau xót sao! Huống chi chẳng phải pháp lữ dịch kinh, chỉ là bọn học lơ là bề ngoài, dối lừa trẻ ấu thức đời sau, dụ dỗ kẻ đồng mông sơ học. Vọng nói lưu xuất ra từ hông ngực vạt áo, lại cho là Thánh giáo, là tuệ nhãn đời sau, định hằng không sinh, tâm trí hiện tại, do đây mà tự tiêu diệt. Các vị có học nên lựa bỏ nghóa này y xưa là đúng vì tánh sai biệt. Hỏi: Tại sao chỉ có tôn nói sai biệt tánh, còn trong nhân dụ không có? Đáp: Vì tôn có thành và một không thành, nên chỉ nói tôn sai biệt tánh,; còn nhân dụ chỉ có thành, chẳng có bất thành, nên không chọn cái “bất” nói là sai biệt tánh. Như ba tướng của nhân mặc dù có sai khác, không muốn lấy tánh chẳng lìa nhau trên đây một bên chấp nhận một bên không chấp nhận thành năng lập đó. Sở y liền chẳng phải do đó không nói sai biệt tánh. Theo Lý Môn Luận, chỉ nói tôn… đa ngôn thuyết năng lập, trong đó chỉ tùy tự ý lạc làm sở thành lập gọi là tôn. Chẳng phải kia nghóa tương vi có thể khiển trừ, không nói sở biệt năng biệt cực thành và sai biệt tánh, luận này riêng nói. Luận rằng: Tùy tự ưa thích làm sở thành lập tánh”. Thuật rằng: Đây là lựa bỏ lỗi lầm lộn. “Tùy tự” là lựa riêng nơi tôn; lạc làm sở thành lập tánh là lựa riêng nhân dụ. Nên theo Lý Môn Luận là tùy tự ý, hiển bày không xét luận tôn mà tùy tự ý lập, ưa thích làm sở lập nghóa là không ưa làm năng thành lập tánh. Chẳng phải khác với đây nói sở thành lập, tợ nhân tợ dụ lẽ ra cũng gọi là tôn. Luận về tôn có bốn loại: Khắp đã chấp nhận tôn, như mắt thấy sắc, vì kia đây hai tôn cùng chấp nhận. Trước tiên nương nhờ tôn, như đệ tử Phật tu tập các pháp không. Đệ tử Hưu Lưu lập có thật ngã. Căn cứ bên nghóa tôn, như thành lập “âm thanh vô thường”, bên nghóa gần đúng hiển vô ngã. Chẳng xét luận tôn, theo tình người lập ưa thích bèn thành lập, như đệ tử Phật lập nghóa Phật pháp. Hoặc người giỏi ngoài tôn ưa thích liền thành lập không cần nhất định xem xét. Trong đây ba loại trước không thể kiến lập. Loại thứ nhất khắp chấp nhận tôn, hoặc chấp nhận người thành lập, liền lập đã thành. Trước đây cùng chấp nhận, đâu cần kiến lập. Kế đó thừa bẩm thọ, hoặc hai nhà ngoại đạo, cũng chấp nhận tăng đuổi đi đối đáp tranh luận bổn tôn cũng luống uổng không có kết quả, vì lập đã thành. Nghóa là, nhờ tôn chẳng phải lời nói đã tranh luận, ở đây lại dùng cách gì vốn tranh luận nhờ ngôn ngữ, hy vọng người khác hiểu nên phát ra lời nói, bên cạnh hiển rõ nghóa sai khác. Chẳng phải vốn thành, nên cũng không thể lập làm chánh luận, song với Nhân minh chưa thấy lỗi đó. Đối với nhân đã có lỗi, nhân thuyết pháp sai biệt tương vi, tức bên cạnh tôn có thể thành tôn nghóa, nhưng chẳng phải chánh lập. Nay lựa ba loại trước không thể thành lập, chỉ có loại thứ tư không xét luận tôn, có thể dùng làm tôn, là tùy người lập tự ý ưa thích. Vì ba loại trước đều là tự mình chẳng ưa thích, thích làm sở thành lập tánh, lựa bỏ người hay thành lập. Người hay thành lập pháp, cho rằng nhân dụ thời nhân dụ thành lập tự nghóa lẽ ra cũng gọi là tôn, chỉ gọi là tôn chẳng phải đã thành lập. Xưa đã thành nên không được gọi là tôn, nay hiển bày ưa thích làm tân đã thành lập mới thành tôn kia. Tuy thích nhân dụ chẳng phải mới thành lập, lập liền phù hợp nhau nên không gọi tôn, đã như thế tợ tôn, tợ nhân, tợ dụ lẽ ra được xưng là tôn, vì trước đã chưa thành lại nên thành. Lúc ấy tranh luận mới là chân tôn, khi trình bày nhân dụ nên phải lựa riêng. Tợ tôn nhân dụ mặc dù lại có thể thành, chẳng phải là điều ưa thích, vì thời gian thứ hai đã có thể thành, chẳng phải nay đã tranh luận sơ lược nên chẳng phải tôn. Một cách giải trên đây y Lý Môn luận chỉ chọn cái chân, không lựa tợ. Lại giải thích lạc là thông suốt từ trên xuống dưới. “Tùy tự lạc ngôn” nghóa là lựa ba tôn trước chẳng phải tùy tự lạc; chỉ có tôn thứ tư là ý sở lạc là lời nói ưa thích, lựa tợ tôn… Tuy sau này lại có thể thành lập, vì chẳng phải là lúc này đã thích làm. Sở thành lập tánh, chọn chân tợ dụ không thể gọi tôn, tuy đã thành nghóa là năng thành lập. Trước đã thành nên chẳng phải nay đã thành, nay đã thành lập thể nghóa gọi là tôn. Nếu theo cách giải sau mặc dù khác với Lý môn, lựa chân cùng tợ vì sơ lược trọn đầy đủ. Hỏi: Tại sao nhân dụ không có tùy tự lạc, mà chỉ riêng tôn có? Đáp: Tôn cả hai trái nghịch tranh luận phải tùy tự lựa chọn, nhân dụ cộng chấp nhận, cho nên không tùy tự. Nhân dụ hai loại như cộng tỉ lượng, quyết trước tiên cùng chấp nhận mới thành năng lập, không chấp nhận lỗi khắp và thừa nhận lỗi, chủ yếu nói đã trình bày mới gọi nhân dụ. Không nói cũng có gần nghóa sai biệt, không có nghóa căn cứ lỗi, tự tha tỉ lượng nói cũng có lựa chọn, nói chấp giữ nên tùy đó không xem xét. Vì thế với nhân dụ không nói tùy tự. Hỏi: Tại sao trong tôn bên cạnh có nghóa gần đúng gọi là sai biệt, nhân du thì không? Đáp: Năng lập vốn thành, thành tự sở lập tùy ứng với nghóa, lập bèn trái nhau, cùng tự trái nhau, do đó với tôn bên cạnh có nghóa gần đúng, thì bốn loại tương vi đã ngược lại sai biệt. Nói trình bày quyết định mới thành năng lập, cho nên với nhân dụ chẳng nói cũng có nghóa gần như năng lập. Hỏi: Tại sao chỉ trong tôn nói ưa thích, còn nhân dụ không nói? Đáp: Tợ tôn nhân dụ càng phải thành lập mới có thể dùng làm tôn. Nay hiển rõ đương lúc đó đã tranh luận làm tôn, không lấy kia làm tôn nên nói lạc lựa chọn ba loại tợ tôn nhân dụ kia. Giả sử hiện nay và sau đó đều không thể nói là nhân, là dụ cũng như vậy, nếu lại lập luận cũng thuộc tôn. Chẳng nói ưa làm, giả sử lại thành lập dùng làm tôn cật vấn, nghóa đã thành rồi mới thành nhân dụ, lần lượt xa dần thành ra chẳng đồng với tôn. Cho nên đối với nhân dụ không nói ưa thích làm. Còn trong tôn nói lạc vi, lựa bỏ tợ bao trùm sự cật vấn, nhân dụ lược. Tôn có tranh luận do lại phải thành, tôn nghóa xen lộn nhau nên chỉ nói lạc vi, nhân dụ ắt phải cực thành, không thành bèn chẳng phải nhân dụ. Chẳng có chỗ xen lộn nên không nói lạc vi. Hỏi: Tại sao chỉ có tôn nêu sở thành lập tánh, nhân dụ không nói năng thành lập? Đáp: Tôn nói sở lập, đã hiển bày nhân dụ là năng thành lập, rõ ràng pháp đã bao trùm cần gì phải nói lại. Còn tôn trước chưa nói, sợ lộn phải trình bày, nhân dụ đã rõ ràng cần gì phải nói lại. Tôn trái với xưa nói đã thành lập để phân biệt xưa nay nhân dụ không trái nhau. Chẳng nói năng lập do lựa chọn riêng biệt. Lại nữa, đoạn trước nêu tôn… đa ngôn gọi là năng lập, đầu tiên đã nói rồi sau không cần luận bàn thêm. Luận rằng: “Ấy gọi là tông”. Thuật rằng: Đây là kết thành vậy. Luận rằng: “Giả như có thành lập âm thanh là vô thường”. Thuật rằng: Thứ ba chỉ về pháp. Như đệ tử Phật đối với thanh luận sư, lập âm thanh không phải âm thanh. Âm thanh là hữu pháp, vô thường là năng biệt, kia đây cùng chấp nhận, có âm thanh và vô thường gọi là cực thành hữu pháp, cực thành năng biệt, làm tôn sở y. Thanh luận sư không chấp nhận trên âm thanh có vô thường này, nay đệ tử Phật hợp lại một xứ, xen nhau sai biệt tánh chẳng rời nhau cho rằng âm thanh vô thường. Thanh luận sư không chấp nhận nên được thành tôn, đã thành tùy tự cũng là ưa làm sở thành lập tánh nên gọi chân tôn. Sợ nghóa không rõ ràng chỉ cách này cho hiểu. Luận Du-già thì cho rằng, người lập tôn là y hai loại sở thành lập nghóa, mỗi loại sai biệt nhiếp thọ tự phẩm đã chấp nhận. Nhiếp thọ là tự ý ưa thích nghóa, phẩm là tôn nghóa, cho nên hiển dương các biệt nhiếp thọ tự tôn đã chấp nhận. Trong đoạn văn này ý nói y hai món sở lập lập luận đều sai khác, tùy tự ý thích tự tôn đã chấp nhận, do đó gọi là tôn, có ba cách giải thích: Dùng ngôn từ đối lý, chấp y nghóa năng thuyên gọi là các biệt tự tôn đã chấp nhận. Dùng biệt đối tổng, chấp y tổng bố thí lời nói và nghóa là hai gọi tự mình đã chấp nhận. Dùng hợp đối ly, chấp năng y kia tánh hợp không rời nhau dùng đó làm tự tôn đã chấp nhận, cầu xin đồng với đây, đây văn tổng. Sau đây có mười câu chia thành ba loại, hai câu đầu là tôn thể: Một là nhiếp thọ luận tôn; hai là như tự biện tài. Ban đầu y sư thầy mình lập tôn đối địch với sư khác mà thành lập tôn của mình, không như vậy liền thành tương phù cực thành. Sau đó nhờ bản thân biện tài lập tôn nghóa khác, tùy tự ý ưa thích chẳng xét luận tôn, chỉ có hai loại này là đúng sở tôn. Hoặc đã chấp nhận tất cả, hoặc cả hai thừa nhận đồng tôn, hoặc nghóa gần đúng, chẳng phải riêng nhiếp thọ, chẳng phải tùy tự lạc nên chẳng phải chân tôn, vì lập luận đã thành tựu, vì chẳng phải vốn thành. Ba câu kế là lập nhân duyên: Một là khinh miệt người; hai theo họ nghe; ba hoặc giác biết chân thật mà trình bày tôn thú. Thế gọi là nhân duyên, vì lập tha nghóa khinh tha, lập tự nghóa theo họ nghe, vì giả chân thật tự ngộ, như kế tiếp phối hợp. Năm câu sau là ý lập tô. Vì hai câu đầu nêu tất cả lập tôn không có lỗi này: Một là thành lập tự tôn, hai là phá hoại tôn người khác. Ba câu sau giải thích: Một là chế phục người khác, trên giải thích thành lập tự tôn; Hai là khuất phục người khác, trên đây giải thích phá hoại tha tôn; Ba là thương xót họ, vì thành tự phá tha đều thương xót. Luận rằng: “Nhân có ba tướng”. Thuật rằng: Trên đây chỉ bày tôn tướng, dưới đây chỉ bày nhân tướng. Tướng này lược dùng bốn môn để phân biệt: Xuất thể, thích danh, biện sai biệt, minh phế lập. Xuất thể: Nhân có hai loại là sinh nhân và liễu nhân. Như hạt giống sinh ra mầm mống, hay phát khởi dụng gọi là sinh nhân. Theo Lý Môn luận chẳng phải như sinh nhân do hay khởi dụng, như đèn chiếu vật, vì có thể hiển rõ quả gọi là liễu nhân. Sinh nhân có ba là ngôn sinh nhân, trí sinh nhân và nghóa sinh nhân. Ngôn sinh nhân là người lập luận lập nhân bằng các ngôn từ. Vì có thể làm cho địch luận sinh tâm hiểu quyết định gọi là sinh nhân. Cho nên ở đoạn văn trước nói tôn… đa ngôn gọi là năng lập, do đó mà đa ngôn, vì khai thị nhưng người hỏi chưa rõ nghóa. Trí sinh nhân nghóa là trí của người lập luận phát ra lời nói, chính sinh trí hiểu biết cho người thực tại đa ngôn, trí là nhân hay sinh khởi lời nói, lời nói sinh nhân, nên gọi là sinh nhân. Nghóa sinh nhân, nghóa có hai loại, đạo lý gọi là nghóa và cảnh giới gọi là nghóa. Nghóa đạo lý là người lập luận nói ra lời diễn giải nghóa, sinh nhân diễn thuyết gọi là sinh nhân. Nghóa cảnh giới là cảnh hay sinh trí cho người địch chứng, cũng gọi là sinh nhân. Căn bản lập nghóa định sinh hiểu biết cho người. Trí giải của họ phát khởi căn bản nhờ lời nói sinh ra, nên gọi là chánh sinh, trí nghóa gồm sinh nhiếp. Do đó luận trước sau đã nói đa ngôn, lúc khai ngộ cho người gọi là năng lập… Trí liễu nhân nghóa là người chứng địch hiểu lời nói năng lập, trí rõ tôn soi chiếu kiến giải đã nói gọi là liễu nhân. Theo Lý Môn luận, chỉ nhờ trí lực hiểu được nghóa đã nói. Liễu nhân nghóa là lời nói của người chủ lập luận hay thành lập, do lời nói này địch luận và chứng minh cả hai hiểu rõ sở lập. Rõ được nguyên nhân của nhân gọi là liễu nhân, không chỉ do trí rõ có thể soi chiếu hiểu biết, vì cũng nhờ lời nói này. Chiếu hiển sở tôn gọi là liễu nhân. Vì vậy Lý Môn luận cho rằng: Như thế đã chấp trí là liễu nhân, thì lời nói liền mất có thể thành lập nghóa. Điều này cũng không đúng, vì khiến cho kia nhớ nghó vốn cực thành, nhân dụ xưa chấp nhận gọi là vốn cực thành. Do năng lập nói thành sở lập nghóa, khiến cho kia trí ức vốn thành nhân dụ nên gọi là liễu nhân. Nghóa liễu nhân là chủ lập luận sau lời năng lập nghóa sở thuyên là cảnh hay sinh trí hiểu cho người. Nhân của liễu nhân nên gọi là liễu nhân, cũng do nghóa năng lập, thành tự sở lập tôn, chiếu hiển tôn nên cũng gọi liễu nhân. Theo Lý Môn luận, như hai nhân trước với nghóa đã lập, trí của người lập từ lâu đã hiểu tôn, năng lập thành tôn, vốn sinh tha giải, vì vậy trí người khác hiểu chính là liễu nhân. Nói nghóa cũng gồm thuộc liễu nhân, phân biệt sinh hiểu biết tuy thành sáu nhân, chính xác chỉ lấy lời nói sinh trí hiểu. Do lời nói sinh nên địch chứng giải sinh, do trí hiểu nên ẩn nghóa nay hiển hiện, vì vậy chính là lấy hai làm nhân tướng thể. Ngoài ra không có lỗi. Giải thích tên: Nhân là lý do, tức giải thích lý do sở lập tôn nghóa, hoặc nguyên nhân ý nghóa. Nhờ vậy nên nghóa sở lập thành. Lại kiến lập nghóa, vì hay thành lập sở lập tôn kia, hoặc nghóa thuận tiên lợi ích. Do lập nhân này, thuận ích tôn nghóa, khiến lập tôn nghóa, do đó gọi là nhân. Theo Du-già thì biện nhân nghóa là thành tựu tôn nghóa sở lập, y chỗ đã dẫn dụ đồng loại dị loại, hiện lượng tỉ lượng và chánh giáo lượng. Kiến lập thuận ích đạo lý ngôn luận. Hỏi: Dụ đã kiến lập thành tôn, cũng có thể thuận ích, sao không gọi là nhân? Đáp: Dụ nghóa là ví dụ tình huống, nói chính xác là kiến biên, khiến cho nghóa sở lập thấy được bên mé kia, rốt ráo viên mãn nên gọi kiến biên. Mặc dù cũng thuận ích, chẳng phải là lý do giải thích tôn đúng, thân sơ khởi kiến lập được tên nhân này. Dụ sơ sau thành không được gọi là nhân, vì thế nhân đây không gọi biên kiến, vì lúc nói nhân thì nghóa chưa thành, đến văn sau sẽ biết. Biện sự sai biệt: Tuy y các nghóa kiến lập thuận ích, chung được tên nhân, có quả không đồng, sơ thành sinh sự hiểu biết mỗi loại có sai khác. Phân ra ngôn - nghóa - trí, thể khác liền thành hai trí lập luận và địch luận. Nghóa cùng ngôn từ sinh liễu đều sai khác. Riêng khai sáu loại. Do đây nên nói đắc quả phân thành hai, xét theo thể thành bốn, căn cứ về loại có ba, nhìn theo nghóa làm sáu. Trí liễu nhân chỉ là quả sinh nhân mà chẳng phải nhân sinh nhân. Trí sinh nhân chỉ là nhân sinh nhân mà không phải quả liễu nhân. Ngôn nghóa hai loại sinh nhân tức là quả trí sinh nhân, là trí nhân liễu nhân. Hai loại liễu nhân ngôn và nghóa là nhân trí liễu nhân chẳng phải quả trí liễu được làm quả sinh trí, không tạo trí sinh nhân. Do lời nói hy vọng nơi ý nghóa, cũng thành ra hiển rõ nhân. Do nghóa trông mong nơi lời nói cũng thành hiển rõ quả, dùng nghóa trông nơi lời nói cũng tạo nhân hay sinh, do lời nói trông nơi nghóa cũng là quả bị sinh. Thế thì nên nói chỉ có nhân chẳng phải quả, nghóa là trí sinh nhân, vì quả cũng thành nhân. Năm quả kia, lại làm bốn câu có; Chỉ có sinh nhân mà chẳng có liễu nhân, nghóa là trí sinh nhân. Có là liễu nhân mà chẳng phải sinh nhân là trí liễu nhân. Có là sinh nhân cũng là liễu nhân, nghóa là ngôn - nghóa; Có chẳng phải sinh nhân cũng chẳng liễu nhân là sở lập tôn. Nói rõ người phế bỏ lập luận: Câu hỏi thứ nhất: Tại sao có một nhân, dụ chia làm hai loại? Đáp: Nhân chánh kiến lập tôn, tổng quát gọi đồng nhất. Dụ có trái thuận, biệt lìa phân hai, đến dụ sau sẽ phân biệt đầy đủ. Câu hỏi thứ hai: Tại sao một nhân thể phân sinh liễu? Đáp: Trụ cảnh thưa sơ rộng rãi, chiếu hiển gọi liễu, nói quả thân cận hạn hẹp làm cho khởi gọi sinh. Quả đã có sai khác, nhân phân sinh liễu đồng có thể đắc quả, chỉ chung gọi nhân. Câu hỏi thứ ba: Tại sao hai nhân đều phân ba loại? Đáp: Sinh quả chiếu quả nghóa dụng không đồng, tùy loại có công năng nên chia làm ba loại. Lập trí cách nơi ngôn nghóa bất đắc theo nhau gọi là liễu, địch trí không sinh lập giải, không do khả đắc gọi sinh, vì thế chỉ chia ba không tăng không giảm. Câu hỏi thứ tư: Tại sao sáu nhân thể chỉ có bốn? Đáp: Thuận quả nghóa sai khác phân thành sáu nhân, người lập luận ý nghóa và lời nói, trông mong quả hai dụng, trừ vô thỉ này nên chỉ có bốn. Câu hỏi thứ năm: Tại sao chỉ trong nhân có khai ba tướng, còn tôn dụ không khai? Đáp: Phân biệt tên tôn dụ thông chung thì gọi nhân, vì trùm khắp là hai pháp tôn dụ. Lại nhân quyết phải rộng rãi, tánh tôn dụ nhỏ hẹp, như xâu hoa và sợi dây xâu hai môn. Do vậy khai nhân không khai tôn dụ, chỉ bày trong nhân tướng có năm là tiêu cử, trừng số, liệt danh, biệt thích và thị pháp. Nói sinh nhân và nghóa địch chứng trí sở thuyên đều có ba tướng. Tướng là hướng vậy, chính lấy lời nói sinh khởi vì chính năng lập, sinh trí liễu này soi chiếu hiểu tôn nên đúng nhân thể. Nói sinh trí liễu cũng gồm cả nghóa sinh, vì hay kiến lập tôn, tôn đồng dị phẩm đều có một thể. Nhân tướng thông suốt cả ba lại chẳng có biệt thể, do đây nên nói tướng là hướng đến nghóa. Theo Lý Môn thì bất cộng bất định vì hoàn toàn lìa xa thiếu một tướng, tướng này là diện (mặt), là biên (bên) vậy. Ba diện ba biên nếu như thế đã một nhân, như thế nào gọi đa ngôn là năng lập, tướng kia nhiều nghóa. Năng thuyên gọi là đồng nhất, trong ba tướng chỉ nói một nhân, vì vậy một nhân sở y thông suốt ba biệt xứ, nên nhiều tướng gọi là đa ngôn. Chẳng phải đa ngôn nên gọi đa ngôn. Cổ sư giải tướng là thể, tướng ban đầu đồng với đây, hai tướng kia đều dùng hữu pháp làm tánh. Ngài Trần Na không chấp nhận, vì đồng dị hữu pháp chẳng phải năng lập, chỉ lấy nghóa đó, nên tướng chẳng phải thể. Luận rằng: “Thế nào là ba tướng”. Thuật rằng: Kể số vậy. Luận nói: “Gọi là trùm khắp là tôn pháp tánh, đồng phẩm định hữu tánh, dị phẩm biến vô tánh”. Thuật rằng: Thứ ba là kể tên. Biến thị tôn pháp tánh, đây kể tướng ban đầu, hiển thể của nhân do vì thành tôn ắt phải trùm khắp là pháp tánh của tôn. Căn cứ sở lập tôn chủ yếu là cực thành pháp và hữu pháp tánh không rời nhau, trong đây nói tôn chỉ thuyên hữu pháp, trên hữu pháp tất cả nghóa sai khác gọi là pháp. Pháp này có hai: Một là bất cộng hữu là trong tôn pháp vậy; hai là cộng hữu tức là nhân thể. Theo Lý Môn luận, tôn pháp ở đây chỉ lấy quyết định của người lập luận và địch luận đồng chấp nhận, nay vì chỉ ý chứng minh liễu nhân. Kia tự vấn nạn đã như vậy bèn có lỗi đoạn trước nói tánh hay thành lập. Luận chủ giải thích do có lời nói phát sinh, vì khiến cho kia nhớ nghó vốn cực thành, ý do pháp nhân thể cùng chấp nhận, trong lúc thành tôn không cùng chấp nhận pháp. Vì vậy hai pháp này đều là nghóa sai khác trên hữu pháp, cho nên nay chỉ lấy hữu pháp gọi tôn. Đối địch luận đã trình bày thành lập nhân dụ, tuy lấy cả hai tánh không rời nhau dùng làm tôn thể. Hữu pháp đã thành hai pháp tổng chủ, tổng tôn một phần nên cũng gọi tôn. Lý môn thì hoặc chẳng chung lấy ưa thành lập hợp lại nói là tôn, tại sao trong đây mới nói tôn chỉ lấy hữu pháp, vậy không có lỗi, do tổng kia âm thanh phân biệt cũng chuyển, như nói cháy áo. Hoặc có tôn âm thanh chỉ thuyết minh với pháp, hoặc trong tôn sau trình bày gọi là pháp, tức tôn là pháp, trì nghiệp là danh pháp của tông tôn cũng y chủ thích, đầy đủ cả hai được đặt tên xưng. Nay nhân gọi là pháp, pháp tánh của tôn chỉ y tánh chủ thích là thể vậy. Đây chỉ có nghóa tánh chẳng phải thể tánh vì tương ưng với nghóa, hai loại kia cũng như vậy. Cùng chấp nhận chỉ được trùm khắp là tôn tánh hữu pháp, do pháp của tôn thánh tức là tôn pháp, không biến khắp là tánh của pháp tôn, vì nhân phạm lỗi cả hai không thành. Vì không muốn thành tôn hữu pháp, song lý nhân minh thì hữu pháp không thành nơi hữu pháp, đây cũng không thành nơi pháp, vì nhân phạm lỗi sở y bất thành. Lý Môn luận gạn hỏi: Nếu dùng hữu pháp để lập các hữu pháp khác, hoặc lập pháp kia, như dùng khói lập lửa, hoặc dùng lửa lập xúc, nghóa đó như thế nào? Nghóa này hỏi rằng, lại từ xa thấy khói lập luận sẽ có lửa vì có khói, há chẳng phải kia dùng hữu pháp để thành hữu pháp, vì khói và lửa đều là hữu pháp? Lại nói, thấy lửa nhất định có hơi nóng vì do có lửa, hơi nóng xúc chạm đã là pháp của nhà lửa, há không dùng hữu pháp thành nơi pháp ư! Ngài Trần Na giải thích: Nay trong đây chẳng dùng thành lập lửa xúc chạm làm tôn, chỉ vì thành lập vật tương ưng này. Nghóa là, thành lập chỗ núi quyết định có lửa do có khói, trong lò nhất định nóng do có lửa, đó gọi vật là khói lửa tương ưng. Chẳng phải do có pháp là khói, trở lại thành có pháp là lửa, cũng không do hữu pháp lửa mà thành pháp nóng xúc chạm. Luận kia lại nói, nếu không như vậy nương khói lập luận có lửa, nhờ lửa lập xúc chạm, lẽ ra thành tôn nghóa một phần làm nhân. Ngược lại do trong tôn một phần hữu pháp mà làm nhân, bèn không thể được nên nhân mới có sở y không thành vì không có sở y, cũng chẳng dùng pháp thành lập hữu pháp, trong tôn đã trình bày. Sau có thể phân biệt trước gọi là năng biệt cũng gọi là pháp, nhân thành ở nơi đây. Không muốn đem nhân thành đã trình bày đoạn trước, là sở biệt, vì chẳng phải phân biệt sau. Theo Lý Môn Luận, vì ở đây quán đã thành tựu lập pháp hữu pháp không đức có đức nên chẳng có lỗi. Đoạn trước đã trình bày tên hữu pháp, sau hiển bày đều gọi pháp, chẳng pháp hữu pháp pháp tánh quyết định. Như Thắng luận sư nói đức cũng hữu đức, hữu đức nghóa là thật vì kia quyết định. Bài tụng của Lý Môn Luận thì hữu pháp chẳng thành nơi hữu pháp, và pháp này chẳng thành hữu pháp, chỉ do pháp nên thành pháp đó. Như thế thành lập đối với hữu pháp, nghóa là hữu pháp nhân pháp cả hai đều cực thành. Pháp trong tôn, địch luận trước tiên không chấp nhận, chỉ được cùng chấp nhận nhân ở trong tôn trên hữu pháp, thành ra không cùng chấp nhận pháp trong tôn. Như vậy giúp ích cho nghóa hữu pháp tánh, có thể được nhân trong cái không chấp nhận trong đó chấp nhận cái gì là sở thành lập. Lại nếu chấp nhận nhân, y pháp không chấp nhận, phàm chỗ lập nhân đều có tha tùy nhất sở y không thành lỗi. Không nói hữu pháp mà thành sở y, chỉ do pháp đó mà thành sở y, pháp chẳng phải không chấp nhận. Giả sử chỉ lập pháp chấp nhận đâu chắc định không có lỗi này? Lại như lập tôn “âm thanh là vô thường”, vì sở tác tánh, nghóa vô thường bị diệt nghóa sở tác sinh. Âm thanh có diệt vì do có sinh, vì tất cả vật có sinh đều có diệt. Âm thanh đã do nhân sinh rõ ràng có quả diệt. Nếu nhân đã tạo tác không trùm khắp tôn âm thanh, đâu được có khắp trên vô thường, trong tất cả chánh nhân, lẽ ra đều có lưỡng câu bất thành, vì trên vô thường vốn không sinh. Do đây nên biết nhân đều là pháp của tôn hữu pháp chẳng pháp của pháp. Hỏi: Gọi là tôn pháp tức đã thành nhân, đâu cần phải nói trùm khắp? Ban đầu đã nói khắp nhân và nghóa đã rõ đâu cần lại nói là tôn pháp tánh? Đáp: Nếu nhân không biến khắp trên tôn hữu pháp, chỗ này không trùm khắp bèn chẳng phải nhân thành có chỗ không lập. Hiển rõ đều là nhân lập nên gọi là biến khắp. Nếu chỉ nói biến khắp không nói tôn pháp tức không thể hiểu biết nhân là pháp tánh của tôn hữu pháp có thể thành nơi pháp. Nhân đối với tôn có lỗi gọi là không thành. Trong hai dụ đều có, đều không nên gọi là bất định; trong hai dụ có - không trái nhau thì gọi là tương vi. Nếu chỉ nói pháp tánh không nói biến khắp, nhân đối với tôn có lỗi tức là không thành, hoặc cả hai đều không biến khắp, hoặc tùy nhất không biến khắp, hoặc do dự không biến khắp, hoặc sở y bất biến, toàn phần… tùy ứng mà có đó, vì lựa bỏ này nên nói biến khắp. Nếu chỉ nói biến không nói tôn pháp, chẳng biết nhân này là nhân thuộc về ai, vì hiển nhân của tôn hữu pháp, thành nơi tôn pháp, nên nói pháp tánh. Do đó lẽ ra thành các câu phân biệt, có tôn pháp mà chẳng biến khắp, có là biến khắp cũng gọi tôn pháp, chẳng chẳng biến chẳng phải tôn pháp, ắt không có câu là biến chẳng phải tôn pháp, chỉ biến hữu pháp. Hoặc có biệt thể, hoặc không biệt thể đồng thời có thể thành tôn vì nghóa liên quan với nhau chắc là tôn pháp. Như Tát-bà-đa đối với Đại thừa “lập mạng căn thật có”, do có nghiệp. Như năm căn… đâu do mạng căn cùng nghiệp khác thể tức là chẳng phải chánh nhân, nên có thể riêng. Nếu không có biệt thể mang nghóa có liên quan nhau quyết là tôn pháp, đều được gọi là pháp tánh của tôn chẳng phải vô thể là đúng cũng chẳng hữu thể là sai. Ban đầu có tôn pháp mà chẳng khắp. Trong bốn pháp bất thành đều thuộc một phần, đầu tiên lưỡng câu nhất phần lưỡng câu bất thành. Như Thắng luận sư đối thanh sinh lập tôn là “tất cả âm thanh đều là vô thường”. Cần dũng vô gián nhân sở phát tánh, lập - địch hai tôn chỉ chấp nhận nội thanh có cần - dũng phát ngoại âm thanh chẳng có. Lập dịch đều nói nhân này đối với tôn nửa có nửa không, nên lỗi này là cả hai có hữu thể một phần không thành, ngoài ra vô thể cả hai một phần một loại không thành. Hoặc hữu thể hoặc vô thể, hoặc tự hoặc tha, hợp cả bốn loại một phần tùy nhất không thành, lưỡng câu nhất phần, hoặc tự hoặc tha hợp cả ba loại một phần do dự không thành. Lưỡng câu hữu thể một phần, hoặc tự hoặc tha, hữu thể một phần tùy nhất, hợp ba loại sở y không thành. Lại có mười một loại như thế và hai mươi mốt không thành ở trước, đều như sau đây sẽ giải thích. Câu sau chẳng biến chẳng tôn pháp, trong bốn món bất thành và lỗi toàn phần. Như Thanh luận sư đối đệ tử Phật lập “âm thanh là thường”, vì mắt là chỗ thấy, đều nói nhân này đối với âm thanh không có. Đây là hữu thể, cả hai toàn phần, cả hai không thành; ngoài ra vô thể cả hai toàn phần một loại không thành. Hữu thể vô thể hoặc tự hoặc tha, bốn loại toàn phần tùy nhất không thành: cả hai toàn phần, hoặc tự hoặc tha, ba loại do dự không thành hữu thể vô thể cả hai toàn phần. Hữu thể vô thể hoặc tự hoặc tha tùy nhất toàn phần sáu món sở y bất thành. Lại có mười bốn lỗi như thế và mười lăm toàn phần không thành trước kia, cũng sẽ giải thích như dưới đây. Câu nhị biến này đồng thời đều là lỗi, chỉ có câu biến thứ hai cũng là tôn pháp là tướng chánh nhân, vì lựa bỏ chẳng phải câu (cú), nói biến khắp là tôn pháp tánh. Nói: “Đồng phẩm định hữu tánh” tức là hiển rõ tướng thứ hai. “Đồng” là nghóa tương tợ, “phẩm” là nghóa thể loại, tương tợ thể loại gọi là đồng phẩm. Theo Lý Môn luận thì ở đây hoặc phẩm cùng sở lập pháp gần bình đẳng gọi là đồng phẩm, do tất cả nghóa gọi là phẩm. Ý nói, mặc dù tất cả nghóa đều gọi là phẩm, nay lấy nhân chánh đó là chỗ thành pháp. Nếu nói đã hiển bày tự tướng của pháp, hoặc chẳng nói hiển y đã chấp nhận, nhưng hai tôn đã tranh luận nghóa pháp đều gọi là sở lập. Tùy ứng có sở lập pháp xứ này gọi là đồng phẩm, do tùy thể có - không gọi là đồng phẩm, vì do phẩm này là thể loại. Nếu nói đã trình bày đã tranh luận tự tướng của pháp gọi là sở lập, có pháp xứ này gọi là đồng phẩm bèn không có bốn nhân trái nhau. Tỉ lượng tương vi, quyết định tương vi đều nên không có bốn lỗi, hoặc hoàn toàn đồng có tất cả nghóa sở hữu trên pháp thì liền không phải đồng phẩm, cũng không có dị phẩm. Tôn có một phần tương phù cực thành, vì chẳng phải tất cả nghóa đều tương vi, nên chỉ lấy sở lập có tên giống như đây. Nhưng sẽ luận bàn như lập vô thường, bình… vô thường gọi là đồng phẩm. Chỉ nêu đã trình bày hai tôn vốn tranh luận tự tướng của pháp gọi là đồng phẩm. Do nhiều ý đã chấp nhận gần như đã tranh luận, lược bỏ không nói đều đồng phẩm, dùng văn này để giải thích lẽ ra nghóa suy xét. Đồng phẩm có hai: Một là, tôn đồng phẩm theo luận cho rằng sở lập pháp đồng nghóa phẩm, đó gọi đồng phẩm. Hai là, nhân đồng phẩm, văn sau cũng nói hoặc là xứ hiển nhân đồng phẩm quyết định hữu tánh. Song luận đa số nói đồng phẩm của tôn gọi là đồng phẩm vì tôn tương tợ. Đồng phẩm của nhân gọi là đồng phẩm vì pháp của tôn, đâu cần cả hai đều đồng. Nhân tại xứ nói tôn đồng phẩm, muốn hiển nhân kia vì khắp tôn dụ. Tôn pháp tùy nhân nói là nhân đồng pháp, hiển có nhân xứ lập pháp vì quyết tùy theo. Vả lại, tôn đồng phẩm sao gọi là đồng? Nếu đồng hữu pháp hoàn toàn không tương tợ âm thanh là hữu pháp vì bình là dụ. Hoặc pháp là đồn thì địch luận không chấp nhận pháp đối với hữu pháp có, cũng chẳng phải tướng của nhân biến khắp tôn pháp, sao được lấy pháp mà cho là đồng? Ý nghóa trong đây chẳng bố thí lấy hai, tổng lấy một pháp có tôn pháp xứ gọi tôn đồng phẩm. Vì thế luận nói rõ như lập vô thường, bình… vô thường là tên đồng phẩm, có tôn xứ đây quyết định có nhân gọi tên nhân đồng phẩm. Nhưng thật ra đồng phẩm chính là đồng nhân, thể tánh của nhân thông suốt tôn dụ rộng khắp. Có chỗ cùng chấp nhận nhân pháp này, vì chẳng cùng chấp nhận pháp quyết định phải theo. Nay nói rõ tất cả chỗ có tôn pháp nhân kia nhất định có, nên nói tôn đồng, vì không muốn dùng tôn mà thành nghóa của nhân, chẳng đúng đồng phẩm. Nhân đối tôn đồng phẩm quyết định vó tánh, nên nói đồng phẩm định hữu tánh. Nhân nhất định có, hiển rõ tôn pháp ắt phải theo, Lý Môn Luận cũng nói nhân tôn đã theo nhau, tôn không thì nhân chẳng có. Dựa vào hai tướng trên, Lý Môn luận cho rằng, làm sao phân biệt pháp với biệt xứ chuyển? Ý hỏi như sở tác nhân hẳn theo trợ giúp âm thanh cùng bình… sở tác tánh sai biệt. Như thế nào âm thanh trên tôn biệt nhân, đối với bình biệt xứ mà chuyển, hoặc sở tác nhân là âm thanh hữu pháp, biết pháp trên tôn. Làm sao phân biệt bình xứ chuyển mà nói cộng tướng thông suốt tôn dụ, biến khắp là tôn pháp, đồng phẩm nhất định có? Theo ngài Trần Na giải thích: Do tương tợ kia không nói tên khác, nói tức là không có lỗi này? Nay trả lời rằng: Do trên âm thanh bình cùng sở tác tánh tương tợ mà có, tổng tướng phối hợp mà nói, chẳng nói âm thanh bình hai tên sai khác. Âm thanh sở tác tánh tức dụ xứ sở tác tánh, nói kia thì không có lỗi này. Lại gạn hỏi, nếu không nói sai khác tại sao nhân này gọi là tôn pháp? Đoạn trước vấn nạn tôn là âm thanh vì nhân là sở tác tánh, đâu được phân biệt bình chuyển. Ở đây gạn hỏi tại sao bình sở tác tánh nói là tôn pháp? Đã không nói sở tác tánh khác tổng hợp mà nói, nhân sở tác tánh với bình đã có, tại sao nhân này gọi là tôn pháp? Lại giải thích: Trong đây chỉ nói nhất định là tôn pháp, không muốn nói chỉ là tôn pháp. Ý giải thích trong tổng nhân chỉ nói tánh định biến tôn pháp, không muốn nói ngôn ngữ chỉ là tôn pháp, cho nên một tổng nói thông suốt cả hai chỗ. Tôn chẳng phải tôn thượng thảy đều có được tên gọi, trong đó có thể có biến khắp là tôn pháp. Nếu nói khác nhau chỉ có âm thanh sở tác, duy tôn pháp tánh, đặc biệt không cho nêu có dụ thành tôn, lại nói sai khác thì chỉ có bình là sở tác, cũng chẳng thành được tôn pháp tánh, cần gì phải thành lập? Họ lại gạn hỏi, nếu như vậy đồng phẩm lẽ ra cũng gọi là tôn? Ý này gạn hỏi rằng, trong hai sở tác thông suốt chung gọi nhân, trên hai loại vô thường lẽ ra đều là sự tranh luận của tôn? Họ tự giải thích không đúng! Vì chỗ khác nói đã thành, nhân chắc không khác mới thành tỉ lượng nên chẳng tương tợ. Lời đáp vấn nạn ấy không đúng, chỉ riêng trên âm thanh có nghóa vô thường là sở thành kia, vì đã cùng tranh luận chẳng phải đối với bình. Luận về người lập nhân, quyết phải lập địch tôn dụ cả hai đều không sai khác mới thành tỉ lượng nên chung năng lập, nghóa sở lập hạn cuộc, lý không tương tợ nên đáp chẳng đúng. Hỏi: Tại sao nhân này đối với tôn dị phẩm đều nói chữ biến, còn với đồng phẩm chỉ nói định ngôn? Đáp: Nhân vốn thành tôn không trùm khắp thành ra phi lập luận, dị dụ chỉ lẫn lộn ngăn cản không cùng tột nên bất định đồng khởi thành ra tôn không trùm khắp. Như đã trình bày ở trên, chỉ lẫn lộn không cùng tột, văn sau sẽ nói rõ. Đồng dụ vốn thuận thành tôn, tôn thành thì gọi là đồng dụ, đâu do dụ khắp hay thuận sở lập mới thành nghóa tôn, chỉ muốn dùng nhân thành tôn, nhân có tôn quyết theo nhau. Chẳng muốn dùng tôn thành nhân, có tôn nhưng nhân chưa chắc có, nên mặc dù tôn đồng phẩm không cần nhân có khắp. Với dị phẩm có, đồng phẩm nửa có nửa không, tuy đều không nhất định, do nhân đối với dị có nên thành lỗi. Chẳng phải nhân đồng không biến khắp là lỗi, tức là trong chín câu, trong ba câu sau thì câu đầu và câu cuối đúng, câu giữa của ba câu sau thuộc về chánh nhân, vì trong dị phẩm đều xen lộn. Hai câu trước và sau thuộc loại không nhất định có lỗi, vì chỉ dị phẩm lộn không cùng tột, do đây đồng phẩm gọi định hữu tánh. Trong tôn dị phẩm đều nói biến khắp. Chín câu kia theo Lý Môn luận cho rằng, tôn pháp đối với đồng phẩm nghóa là hữu phi hữu chung, đối với dị phẩm đều có ba là hữu, phi hữu và cả hai. Nói tôn pháp nghóa là pháp của tôn tức là nhân vậy. Đối với đồng phẩm, là tôn đồng phẩm thể tức đồng dụ. Nghóa là năng lập nhân với đồng phẩm dụ thành ba loại kia: Hữu, phi hữu và cũng hữu cũng phi hữu. Luận kia gọi là “câu”. Đây nói ba loại nhân ở trên tôn dị phẩm dị pháp dụ cũng đều có ba: Hữu, phi hữu và cũng hữu cũng phi hữu, luận kia gọi là “cả hai”. Vả lại, đồng phẩm có, dị phẩm ba. Nghóa là, nhân đối với đồng phẩm có dị phẩm ba: Nghóa là, nhân đối với đồng phẩm có, dị phẩm cũng có; với đồng phẩm có, dị phẩm (phi hữu) chẳng có; với đồng phẩm có dị phẩm có, chẳng có. Như vậy nhân đối với đồng phẩm chẳng có dị phẩm cũng có ba, với đồng phẩm có chẳng có, dị phẩm cũng có ba, cho nên thành chín câu. Lý Môn luận chỉ bày chín tôn thường vô thường, cần dũng tánh hằng trụ kiến cố, chẳng động bất biến do sở lượng… chín loại. Tánh hằng trụ kiên cố và bất biến, bốn tôn này là nghóa thường, dời đổi là vô thường. Trong bốn câu này, ba câu trên hiển bày chín tôn, một câu dưới kết do chín nhân mà thành chín loại. Chín nhân kia theo Lý Môn luận thì sở lượng tạo vô thường, tác tánh nghe dũng phát, vô thường dũng không xúc chạm, y tánh thường… chín loại nói không xúc chạm nghóa là không có chất ngại. Ba câu trên hiển bày chín nhân, một câu dưới kết lý do chín tôn mà thành chín loại. Do ba câu trên này thành ba câu trên ở đoạn trước, trong mỗi một câu đều có ba loại, thứ lớp phối hợp liền thành chín: Đồng phẩm có dị phẩm có: Như Thanh luận sư, lập “âm thanh là thường”, vì sở lượng tánh, dụ như hư không. Trong đây thường tôn bình là dị phẩm, nhân sở lượng tánh đối với đồng dị phẩm đều có cùng khắp. Đồng phẩm có dị phẩm chẳng có: Như Thắng luận sư lập “âm thanh là vô thường”, vì sở tác tánh, dụ như bình.… Tôn vô thường hư không là dị dụ, nhân sở tác tánh đối với đồng phẩm có với dị phẩm không. Đồng phẩm có dị phẩm có chẳng có: Như Thắng luận sư lập “âm thanh, cần, dũng, không gián đoạn, sở phát”, vì tánh vô thường dụ như bình… Tôn cần dũng dũng điện chớp - hư không làm dị dụ, nhân tánh vô thường, với đồng phẩm hoặc có, với dị phẩm dụ điện… có, trên hư không… không có. Đây là ba loại ban đầu. Ba câu giữa: Đồng phẩm chẳng có dị phẩm có: Như Thanh luận sư lập “âm thanh là thường”, vì sở tác tánh, dụ như hư không. Trong đây tôn là thường, bình làm dị dụ, nhân là sở tác tánh. Đối với trên, đồng phẩm hư không không có, với dị phẩm bình thì có. Đồng phẩm chẳng có dị phẩm chẳng có: Như Thanh luận sư đối đệ tử Phật lập “âm thanh là thường”, vì sở tác tánh, dụ như hư không. Trong đây tôn là thường, bình làm dị dụ, nhân là sở tác tánh. Trong đồng dị phẩm đều chẳng có. Đồng phẩm chẳng có dị phẩm có chẳng có: Như Thanh luận sư lập “âm thanh là thường, cần - dũng - vô gián”, vì sở tác tánh, dụ như hư không. Trong đây tôn là thường, dùng điện chớp bình… làm dị phẩm, nhân là cần dũng. Đối với đồng phẩm hư không hoàn toàn chẳng có, với dị phẩm bình… kia thì có, điện chớp… không có. Ba câu sau: Đồng phẩm có chẳng có, dị phẩm có: Như Thanh luận sư lập “âm thanh chẳng cần dũng vô gián sở phát”, vì tánh vô thường. Dụ như điện chớp hư không. Đây chẳng phải cần tôn bình làm dị phẩm, nhân là tánh vô thường. Với đồng phẩm điện chớp có, hư không chẳng có. Trong dị phẩm bình hoàn toàn có. Đồng phẩm có, chẳng có dị phẩm chẳng có: Như Thanh luận sư lập trong “âm thanh vô thường”, vì tánh cần - dũng - vô gián - sở phát, dụ như điện chớp, bình. Tôn là vô thường, dùng hư không làm dị dụ, nhân là cần dũng. Với đồng phẩm bình có, điện chớp không, trong dị phẩm hư không hoàn toàn chẳng có. Đồng phẩm có chẳng có, dị phẩm có chẳng có: Như Thanh luận sư đối Thắng luận sư, lập “âm thanh là thường”, vì không có chất ngại, dụ như cực vi và hư không. Trong đây Tôn là thường, dùng bình lạc… làm dị dụ, nhân là không có chất ngại. Với đồng phẩm hư không kia có, cực vi thì không. Cũng như với dị phẩm bình không, lạc - thọ… có. Như vậy gọi là chín câu. Nhưng theo sự chọn lựa của Lý Môn luận thì với đồng phẩm có và cả hai, nơi dị phẩm không là nhân, trái với đây gọi là tương vi, ngoài ra đều không nhất định. Đối với đồng có nghóa là năng lực nhân với đồng phẩm có, lời nói và cả hai trong đồng phẩm cũng có chẳng có, tại dị phẩm thì không. Ở đây năng lập nhân với đồng phẩm có tại dị phẩm không; và trong đồng phẩm cũng có chẳng có, với dị phẩm không. Gọi là nhân hai câu này đều là chánh nhân, trong chín câu đã thuộc hai câu thứ hai và thứ tám. Ngược với đây gọi là tương vi, tức là trái ngược với hai loại chánh nhân này là tương vi. Trái lại câu ban đầu với đồng phẩm có, với dị phẩm có; ngược câu thứ hai với đồng phẩm chẳng có, với dị phẩm cũng có, chẳng có. Tức là trong chín câu đã thuộc về hai câu bốn và sáu, đều là nhân trái nhau, vì là pháp tự tướng tương vi nhân. Còn lại nhiếp không cùng tột, ngoài ra đều không nhất định. Năm câu còn lại đều là bất định, nghóa là trong chín câu, câu một, ba, năm, bảy, chín: Câu một: Thuộc cộng bất định. Câu ba: Dị phẩm nhất phần chuyển đồng phẩm biến chuyển. Câu năm: Bất cộng bất định. Câu bảy: Đồng phẩm nhất phần chuyển dị phẩm biến chuyển. Câu chín: Câu phẩm nhất phần chuyển. Các câu này tới văn sau sẽ biết. Trong chín tôn trên, năm tôn thường, ba câu đầu một câu thứ nhất, ba câu giữa đều, ba câu cuối cùng của ba câu sau hai pháp vô thường. Ban đầu, sau, ở giữa một cần, một câu cuối của ba câu ban đầu một loại chẳng phải cần. Một câu ban đầu của ba câu sau tổng cộng là bốn loại. Hỏi: Câu thứ tám nhân nếu thuộc chánh nhân có tỉ lượng tương vi, câu thứ tám chẳng thuộc chánh nhân vì chung đồng phẩm, như câu thứ bảy và chín? Đáp: Đây có quyết định tương vi, lượng rằng câu thứ tám nhân thuộc chánh nhân vì trong câu thứ chín nhân có đủ ba tướng. Như câu thứ hai không nói chín câu chỉ nói đủ ba tướng e có lỗi bất định, vì như câu thứ hai có đủ ba tướng, ở đây chánh nhân đã thuộc câu thứ tám. Ví như quyết định tương vi… có đủ ba tướng, câu thứ tám này chẳng thuộc chánh nhân. Nên nói trong chín câu bên không có lỗi này, hoặc quyết định tương vi không đủ ba tướng vì tha trí không quyết định. Hỏi: Định hữu tánh đã hiển bày có nhân tôn phải thuận theo, đâu cần nói đồng phẩm. Đã nói đồng phẩm tức hiển bày có tôn nhân ắt tùy thuận theo, đâu cần nói lại định hữu tánh? Đáp: Chỉ nói định hữu không nói đồng phẩm, chính là hiển bày nhân thành nghóa bất định, chẳng phải định thành tôn. Chỉ nói đồng phẩm không nói định hữu, cũng hiển bày nhân này thành các pháp tương vi, chẳng phải vốn là tôn nghóa. Nay hiển bày định thành tôn và chẳng thành dị phẩm, nên nói đồng phẩm quyết định hữu tánh, do đây lẽ ra phân biệt thành bốn câu. Có đồng phẩm chẳng có định hữu nghóa là tôn đồng phẩm chẳng nhân định hữu, tức là trong chín câu ba câu giữa đó vậy. Câu thứ tư và thứ sáu thuộc lỗi tương vi, câu thứ năm là bất cộng bất định. Có định có phi đồng phẩm, nghóa là định có nhân chẳng phải tôn đồng phẩm. Trong chín câu trừ câu hai, năm và tám còn sáu câu kia là đúng. Câu thứ tư, thứ sáu là nhân tương vi, bốn câu còn lại thuộc lỗi bất định. Câu thứ nhất chung, câu thứ ba dị phẩm nhất phần chuyển đồng phẩm biến chuyển, câu thứ bảy đồng phẩm nhất phần chuyển dị phẩm biến chuyển, câu thứ chín câu phẩm nhất phần chuyển. Có cũng định hữu cũng đồng phẩm, nghóa là tôn đồng phẩm cũng có nhân định hữu. Trong chín câu trừ ba câu giữa, tức là sau ba câu ban đầu. Thật ra, nếu không có lỗi chỉ lấy chánh nhân của câu thứ hai và thứ tám, hoặc chung có lỗi tức thông sáu câu hai chánh nhân bốn bất định. Có chẳng đồng phẩm cũng chẳng định hữu, nghóa là chẳng phải tôn đồng phẩm cũng chẳng phải nhân định hữu tức là dị phẩm biến vô tánh. Trong chín câu thuộc ba câu thứ hai, năm và tám. Câu thứ hai và thứ tám là chánh nhân, câu thứ năm là bất định. Trong ba câu ban đầu chỉ có câu thứ ba là một phần ít là chánh nhân, ngoài ra đều có lỗi. Vì lựa cú lỗi hiển bày tự không có lỗi, cho nên nói đồng phẩm định hữu tánh, dị phẩm biến vô tánh hiển bày tướng thứ ba. Dị là nghóa sai khác, sở lập không có chỗ tức gọi là biệt dị. Phẩm là tụ loại, chẳng phải nghóa thể loại, vì chấp nhận không có thể. Không giống như đồng phẩm thể loại phẩm, tùy thể có không, chỉ cùng sở lập sai khác tụ loại thì gọi là dị phẩm. Theo Cổ Nhân Minh thì cùng đồng phẩm kia tương vi, hoặc khác gọi dị phẩm như lập tôn thiện bất thiện là trái hại, nên gọi tương Khổ vui, sáng tối, lạnh nóng, lớn nhỏ, thường vô thường… tất cả đều như vậy, chủ yếu khác thể trái hại với tôn, mới gọi là dị phẩm. Hoặc nói cùng sở lập trước có khác gọi dị phẩm, như lập vô thường, trừ ngoài vô thường còn lại tất cả khổ vô ngã…, các nghóa lo ngại đều gọi là dị phẩm. Từ ngài Trần Na về sau đều không chấp nhận như vậy. Như tôn vô thường, vô thường vô xứ thì gọi dị phẩm không giống Cổ Nhân Minh trước xưa. Lý Môn luận phá chẳng cùng đồng phẩm tương vi hoặc sai khác. Nếu tương vi lẽ ra phải lựa riêng, nghóa là kia nếu không có chỗ sở lập gọi là dị phẩm. Chủ yếu pháp tương vi gọi là dị phẩm, lẽ ra chỉ lựa riêng, thế thì chỉ có pháp lập tương vi lựa riêng đồng phẩm. Không phải thời ngược lại ngăn cản tôn nhân hai loại có, hoặc chấp nhận như thế thì tất cả pháp nên có ba phẩm. Như lập tôn là thiện, bất thiện trái hại chỉ do lựa riêng gọi là dị phẩm, vì pháp vô ký không lựa riêng. Bèn thành phẩm thứ ba và chẳng thiện chẳng bất thiện. Trong đây dung chứa phẩm, đã hy vọng tôn thiện chẳng trái hại nhau, há chẳng phải câu thứ ba sao! Do đây nên biết, không có chỗ sở lập thì gọi là dị phẩm, bất thiện vô ký đã không có sở lập, đều gọi dị phẩm bèn không có lỗi đó. Lại vấn nạn: Hoặc khác tên dị phẩm, nếu sai khác lẽ ra không có nhân? Nghóa là, nếu nói ngôn từ cùng tôn có sai khác liền gọi dị phẩm, thế thì không có quyết định chánh nhân. Như lập âm thanh vô thường, các nghóa âm thanh - vô ngã - không… đều gọi là dị phẩm. Nhân sở tác tánh với dị đã có, sao gọi là định nhân? Cho rằng tùy sở lập tất cả tôn pháp, ý gần như đã chấp nhận, cũng là nhân đã thành. Đây là ý gần chấp nhận đã gọi là dị phẩm, nhân lại hay thành, nên tất cả lượng đều không có chánh nhân. Thế nên biết chỉ là không có chỗ sở lập tức là dị phẩm, đây cũng có hai loại: Tôn dị phẩm nên dưới sẽ luận rằng, dị phẩm nghóa là đối với chỗ nơi không có sở lập kia. Nhân dị phẩm sẽ luận về dị phẩm, nếu với chỗ nơi nói không có sở lập, nhân biến khắp chẳng có. Song nhiều luận cho rằng, dị phẩm của tôn gọi là dị phẩm vì tôn loại khác nhau. Dị phẩm của nhân gọi là dị pháp vì tôn pháp sai khác, đâu cần hai loại sai khác. Vô xứ của nhân gọi là tôn dị phẩm, vì muốn hiển rõ nhân kia theo tôn không có. Vô xứ của tôn nói là nhân dị phẩm, hiển nhân không có chỗ nơi, trước tiên chắc chắn không có tôn, vả lại tôn dị phẩm. Sao gọi là dị hoặc khác hữu pháp, đồng pháp sở y hữu pháp chắc khác nhau cũng nên gọi là dị. Hoặc khác biệt đối với pháp, địch luận vốn không chấp nhận pháp sở lập đối với hữu pháp có, tất cả dị pháp đều nên gọi đồng. Dị phẩm này chẳng riêng lấy hai, chung lấy tất cả không có chỗ tôn pháp gọi tôn dị phẩm, cho nên luận cho rằng với chỗ không có sở lập đó. Còn nếu là thường thấy chẳng phải sở tác như hư không… đây chỉ lược tranh luận không đúng về vô thường. Chỉ nêu thấy thường gọi là dị phẩm xét, lý đồng như trước, không theo pháp sở ứng sở lập, không có tôn xứ này nhất định biến khắp không có nhân gọi nhân dị phẩm. Tuy nhiên, dị phẩm cũng lấy nhân sai khác, hiển rõ không có tôn xứ nhân định theo cũng không có. Ngược lại, hiển có nhân tôn nhất định tùy chuyển, mặc dù lại lìa pháp trước tôn sau nhân, kia nếu không đúng bèn thành dị pháp. Nay hiển năng lập vốn muốn thành tôn, đối với dị phẩm không có tôn kia liền lập, vì vậy chánh tôn khác sau mới có nhân sai biệt. Nhân đối với tôn dị phẩm xứ quyết định biến vô, nên nói dị phẩm biến vô tánh. Hỏi: Biến vô tánh đã hiển rõ không có nhân tôn chắc chắn không theo nhau, đâu cần phải nói dị phẩm? Đã nói dị phẩm tức hiển bày không có tôn, nhân cũng tùy theo đó mà không có, cần gì phải nói lại biến vô tánh? Đáp: Chỉ nói biến vô không nói dị phẩm, chính là hiển rõ nhân này thành pháp tương vi, chẳng phải lìa nơi tôn lại thành nghóa tôn. Chỉ nói dị phẩm không nói biến vô, cũng hiển bày nhân này thành pháp bất định chẳng định thành tôn. Nay hiển rõ nhân này định thành nơi tôn đồng phẩm định hữu, với dị phẩm quyết định biến vô, cho nên nói dị phẩm biến vô tánh. Do đây lẽ ra phân biệt thành bốn câu, có dị phẩm chẳng phải biến vô. Nghóa là, tôn dị phẩm chẳng phải nhân biến vô, tức là trong chín câu trừ câu thứ hai thứ năm và thứ tám, còn sáu câu kia một, ba, bảy, chín và bốn là bất định. Câu bốn và câu sáu trái nhau như đã phối hợp giải thích ở đoạn văn trước. Có biến vô chẳng phải dị phẩm, nghóa là nhân biến vô mà chẳng phải tôn dị phẩm. Trong chín câu, câu thứ tư, năm và sáu thì câu thứ tư và sáu trái nhau, câu thứ năm là bất định. Có dị phẩm cũng có biến vô, nghóa là tôn dị phẩm cũng có nhân biến vô. Tức là trong chín câu, câu thứ hai, thứ năm, thứ tám thì câu thứ hai và thứ tám là chánh nhân, câu thứ năm là bất định. Có chẳng phải dị phẩm cũng chẳng có biến vô, nghóa là chẳng phải tôn dị phẩm, cũng chẳng phải nhân biến vô. Tức là trong chín câu, trừ câu bốn, năm và sáu còn lại sáu câu thì câu hai và câu tám là chánh nhân, còn bốn câu kia là bất định. Đã lựa chọn các câu như trên đây. Tự cú (câu) tha cú đều không có lỗi thuộc chánh nhân. Trong câu “đương” mặc dù không có lỗi đó nhưng tha cú có lỗi, nên như trước mỗi mỗi phân biệt. Trong ba câu đầu chỉ có câu thứ ba là có một ít phân chánh nhân, ngoài ra đều có lỗi, vì lựa bỏ lỗi đó nên nói dị phẩm biến vô tánh. Hỏi: Trong ba tướng này, tại sao không nói biến là tánh của tôn phẩm mà lại nói pháp tánh? Hai tướng đồng dị tại sao không nói đồng định hữu pháp tánh, pháp tánh dị biến vô mà đều nói phẩm? Đáp: Tôn đồng một sở lập gọi chung là tôn hạn hẹp không nói phẩm, dụ rộng lớn có thể thành lập đều nói chữ “phẩm”. Do nhân thành tôn, chẳng phải thành hai dụ, tướng ban đầu gọi là pháp hai tướng sau không nói. Hỏi: Ba tướng này vì đầy đủ mới thành hay thiếu cũng được. Nếu đầy đủ mới thành thì tại sao đoạn trước nói thiếu không có dị phẩm cũng thành chánh nhân? Đã không cần đầy đủ, cần gì phải đủ ba tướng? Đáp: Chủ yếu đủ ba tướng, chỉ khác nhau nhầm lẫn mà thành nhân, vì chẳng phải thiếu dụ, y thiếu thì không chấp nhận là chánh. Đồng pháp vốn thành tôn nghóa, chẳng phải y bất thuận mà thành tôn, dị pháp vốn chỉ nhầm lẫn thì không đúng, lẫn lộn bèn thành tôn nghóa. Cho nên đồng quyết phải y thể, dị pháp không y cũng thành. Đây nói hữu thể thành tôn hữu thể, vì vậy dị thể không có cũng đủ ba tướng. Ba câu trên đây đã nói vế lỗi, trong mỗi tự cú lỗi của bốn câu. Nếu bàn về việc thiếu lỗi, thiếu có hai loại là thiếu vô thể và thiếu hữu thể. Thiếu vô thể nghóa là không trình bày ngôn từ, chỉ tại ba chi chẳng phải ở tại ba tướng. Nếu trình bày nhân ắt thiếu hữu thể, ba tướng đã có nghóa nên chẳng phải vô thể. Thiếu không có thể trong đây tương đối xen nhau tùy thuận có không cũng là bốn câu. Nhân hữu thể chẳng phải đồng dị dụ, có thiếu đồng dị dụ chẳng phải nhân; nhân có thiếu cũng thiếu đồng dị dụ, có chẳng phải thiếu nhân chẳng thiếu đồng dị dụ. Trong bốn câu này câu ban đầu thiếu một, câu thứ hai thiếu hai, câu thứ ba thiếu cả ba, câu thứ tư chẳng phải lỗi. Nhẫn đến ba lần lập như vậy đều thiếu, cả ba đều không thiếu, có thiếu đều có lỗi. Chẳng thiếu là bất định.Vì mặc dù đã có trình bày tợ lập sinh, cả ba đều thiếu, tuy trình bày tôn kia vì chẳng trình bày loại khác. Như vậy hợp lại có ba loại tứ cú: Một là lưỡng cú; hai là chỉ gọi khuyết lỗi chẳng phải lỗi nhiếp; ba là khuyết hữu thễ. Lại có hai loại: Dùng ba tướng của nhân làm năng lập, tuy nói ba tướng của nhân thiếu tướng gọi là khuyết. Nhân là một, dụ là hai, ba là năng lập. Tuy trình bày thể kia, thiếu nghóa gọi là khuyết. Vả lại, ba tướng của nhân, thiếu tướng có thiếu tướng ban đầu chẳng phải hai tướng sau, có thiếu hai tướng sau chẳng phải tướng ban đầu. Có thiếu tướng ban đầu cũng như hai tướng sau, có chẳng thiếu tướng đầu cũng chẳng có hai tướng sau. Nhẫn đến ba tướng đều thiếu như thế, ba tướng đều chẳng thiếu, trong đây tổng cộng có ba loại tứ cú. Một loại hai câu chỉ thiếu tướng ban đầu thuộc bốn món bất thành, như vậy hai loại phối hợp thiếu, cho đến ba hợp thiếu. Tùy theo đó gần như có các lỗi bất thành - bất định và tương vi, đều vì do lỗi của nhân. Hoặc nhân một dụ hai trình bày thành nghóa năng lập thiếu kém, cũng có ba loại tứ cú, một loại hai câu, vả lại thiếu nghóa của nhân chẳng phải hai tướng sau. Bốn lỗi bất thành có thiếu thứ hai chẳng phải loại trước và sau, đều thuộc bất thành; có thiếu tướng thứ ba thì chẳng phải hai tướng ban đầu đều nhiếp lỗi không khiển trừ. Như vậy thiếu hai nhẫn đến thiếu ba và cả ba không thiếu, thiếu thì đều có lỗi, không thiếu chẳng phải lỗi, tùy đó nên đều có nhân và bốn lỗi bất thành. Đồng dụ đều không thành, dị dụ đều không khiển trừ, hoặc đủ hai lỗi, hoặc đủ ba lỗi. Các vị Bồ-tát Hiền Ái luận sư, Bồ-tát Trần Na… chẳng đem vô thỉ cho là thiếu kém nên chỉ có sáu câu. Mặc dù chỉ trình bày tôn vốn không có năng lập, sao gọi là lỗi năng lập thiếu khiếm? Chư vị cổ đức đều nói tổng cộng có bảy câu. Chẳng nói có năng lập để thành lỗi, chỉ thiếu lỗi năng lập, cho nên nói bảy câu thiếu. Hỏi: Lý Môn luận lựa chọn chín câu đối với đồng phẩm có và hai, tại dị phẩm không là nhân, ngược với đây gọi tương vi, ngoài ra đều bất định. Nghóa là, trong chín câu chỉ có pháp tự tướng tương vi là một và năm món bất định, còn bốn lỗi bất thành là một bất định, hai tương vi, tại sao không nhiếp? Đáp: Do bản thân nhân thành nơi tôn, sở dó nói thuận nhau đó, đồng dị thành tôn thưa xa nên chỉ nên thuận nghịch đó. Do các lỗi này không nhiếp hết, trong ba tương trên mỗi loại đều tự thành cú (câu) và cả ba tương đối thiếu. Văn của luận tuy không có thứ tự tạo tác nhưng đạo lý quyết định rõ ràng, lớn nhỏ phân biệt lại có nhiều loại. Vả lại, trong ba câu của tướng ban đầu, một câu làm tiên phong, đối hai tướng còn lại tạo thành bốn câu. Có là tôn pháp mà chẳng biến khắp, chẳng phải đồng phẩm chẳng phải định hữu tánh. Có là đồng phẩm chẳng phải định hữu tánh, chẳng phải là tôn pháp mà chẳng biến khắp. Có là tôn pháp mà chẳng trùm khắp, cũng là đồng phẩm chẳng phải định hữu tánh. Có chẳng phải tôn pháp mà chẳng biến khắp, cũng là đồng phẩm chẳng phải định hữu tánh. Như vậy dùng tướng ban đầu câu thứ nhất đối tướng thứ hai bốn câu, có bốn loại bốn câu. Lại lấy câu này đối tướng thứ ba của bốn câu, lại có bốn loại bôn câu. Như vậy tướng ban đầu câu thứ nhất đối bốn câu của hai tướng còn lại có tám loại bốn câu. Dùng tướng ban đầu hai câu còn lại làm thượng thủ, đối với hai tướng kia đều có bốn câu cũng như vậy. Ba câu của tướng ban đầu đó làm thượng thủ, đối ba loại tám câu còn lại, tổng cộng thành hai mươi bốn loại tứ cú. Dùng tứ cú tướng thứ hai đối với tứ cú tướng thứ ba, mỗi mỗi phân biệt, có bốn loại tứ cú, lại thành mười sáu loại tứ cú, tổng cộng như vậy thành bốn mươi loại tứ cú, có đúng có sai, văn rườm rà rộng lược chỉ bày mà thôi. Đối với các câu trước nói chung bài tụng; với tôn pháp ba tướng, đều đối nhau theo đó không có, như nên làm lỗi bất thành - bất định - tương vi.… Chữ “vân vân” ý nói rõ các lỗi thiếu kém. Đồng dụ dị dụ tất cả các lỗi đều thuộc ở đây, ba tướng tôn pháp, ba tướng nhân, đối với ba tướng này mà giải thích nghóa. Vì nhân đích thân thành tôn tướng rộng khắp, các loại đối xen nhau mà không có, ở đây có bốn loại: Mỗi loại đối nhau: Ba tướng mỗi mỗi đều đối tự pháp thành câu, tướng ban đầu có ba, hai tướng sau có bốn. Xen nhau tùy theo không có: Ba tướng lại xen nhau thiếu không có nương tựa đối thành câu. Xưa nay tổng hợp có nhiều cách giải thích, nay chỉ lấy ba tướng tôn pháp đưa vào bài tụng này có ba loại bốn câu, có một loại hai câu. Mỗi cập đối xen nhau theo không có: Dùng mỗi mỗi câu trong ba câu tướng ban đầu đều đối hai tướng sau trong mỗi mỗi tứ cú. Lại xen nhau có không dùng làm tứ cú, và dùng mỗi mỗi tứ cú của tướng thứ hai đối mỗi mỗi tứ cú tướng thứ ba, lại theo nhau có - không dùng làm bốn câu, hợp lại có bốn mươi loại tứ cú. Đều đối theo nhau dùng ba tướng của nhân, như chỗ ứng kia tướng ban đầu có lỗi gọi là bất thành, với hai tướng sau có lỗi gọi là bất định, với hai tướng kia có lỗi tương vi gọi là tương vi. Hoặc ba chi xen nhau thiếu, nhân thiếu gọi là bất định, đồng thiếu gọi là câu bất thành, dị thiếu gọi là bất khiển. Ba chi tuy đủ nhưng tự tha đều đối xen nhau đúng sai gọi là tương vi quyết định. Như vậy nhiếp chung hết các lỗi của nhân, trong đây hợp lại có bốn mươi lăm loại tứ cú, một loại ba câu, một loại hai câu. Hoặc thiếu một có ba câu, thiếu hai có ba…, đấy gọi là lược giải thích ba loại tôn pháp. Luận rằng: “Thế nào là đồng phẩm dị phẩm?” Thuật rằng: Bốn là giải thích riêng, gồm có hai phần hỏi và đáp. Hỏi: Tại sao ba tướng không hỏi cách giải thích ban đầu? Đáp: Có hai cách giải thích. Đồng phẩm dị phẩm: Mỗi mỗi có hai tôn đồng dị và nhân đồng dị. Nay nói tôn đồng dị, sợ lộn với nhân đồng dị cho nên riêng hỏi, tướng ban đầu không nhầm lẫn nên chẳng còn lựa bỏ. Hỏi: Trùm khắp là tôn pháp, tôn có biệt tổng, nghóa cũng có nhẫm lẫn, tại sao không có chứng cứ? Đáp: Nhân đối với có - không nói tông đồng dị, tôn thành thuận nghịch nói nhân đồng dị. Cho nên với tôn nhân đồng dị không nhất định, vì lựa bỏ lỗi này bèn phân biệt gạn thành hai. Do nhân chỉ là hữu pháp tôn pháp vì thành đối với pháp, chẳng phải pháp chung của tôn và pháp. Không nhầm lẫn có thể ngăn cản được nên không có chứng cứ giải thích, vì hai câu hỏi này thể tướng thành tựu rõ ràng. Tôn là hữu pháp: Trên đây đã nói rõ rồi, hai phẩm chưa sáng tỏ nên cần phải giải thích chứng cứ. Luận cho rằng sở lập pháp đồng với nghóa phẩm gọi là đồng phẩm, trả lời có hai chứng cứ như đoạn trước là đồng và dị. Trong đồng phẩm lại chia ra hai tổng đưa ra thể và biệt chỉ bày pháp. Sở lập pháp, sở lập nghóa là tôn, pháp nghóa là năng biệt, chữ “quân” nghóa là đồng đều, “đẳng” là tương tợ, chữ “nghóa” là nghóa lý, chữ “phẩm” là chủng loại, có không pháp xứ. Nói chung nghóa này cho rằng, hoặc một vật có cùng sở lập pháp trong tổng tôn, bình đẳng - tương tợ - nghóa lý - thể loại gọi là đồng phẩm, trong đây ý nói đồng phẩm của tôn. Sở lập tôn là sở lập của nhân, tự tánh sai biệt tánh không rời nhau đồng phẩm cũng như vậy. Có pháp trong sở lập này, xen nhau sai khác tụ thành chủng loại tương tợ tánh không rời nhau, tức là đồng phẩm. Hoặc cùng tổng tôn với sở lập tụ hội tất cả chủng loại tương tợ gọi là đồng phẩm, với tôn ý chấp nhận tất cả pháp sai biệt đều đưa vào tổng tôn. Vả lại như dị phẩm với hư không vô ngã, cùng âm thanh ý chấp nhận tương tợ vô ngã lẽ ra gọi là đồng phẩm. Hoặc cùng tập hợp chủng loại tương tợ hữu pháp sở lập gọi là đồng phẩm, tức là tất cả tôn phần đa không đồng phẩm. Như âm thanh hữu pháp vì bình đẳng chẳng phải đồng loại, thậm chí trong dụ phải kiến lập đầy đủ, vì ngăn hai lỗi này tổng nêu sở lập pháp mà lựa biệt. Hoặc tập hợp có với khách chủ đã tranh luận sở lập pháp, tụ chủng loại tương tợ gọi là đồng phẩm. Do pháp sở biệt của pháp năng biệt và sở thành của tôn nhân, nên nêu pháp này để trình bày tập hợp đó. Hỏi: Nếu như vậy các nghóa trên âm thanh vô ngã, chẳng phải nhân sở lập lẽ ra dị phẩm? Đáp: Kia nếu không chấp nhận âm thanh có pháp là có cũng thành dị phẩm, vì tôn nhân không. Hoặc kia chấp nhận có vì nhân đã thành, tùy ý đã tranh luận cũng gọi là đồng phẩm, cho nên có hữu pháp sai biệt tương vi. Luận lập vô thường bình… vô thường gọi đồng phẩm, đây riêng chỉ bày pháp, như trong phần lập tôn trình bày pháp tụ hợp vô thường gọi là tôn, bình… cũng có vô thường. Cho nên bình.. tụ tập gọi là đồng phẩm, trong đây chỉ lấy nhân thành pháp tụ gọi là đồng phẩm. Theo luận Du-già nói, đồng loại nghóa là tất cả pháp trông mong các pháp khác, tướng đó lần lượt có chút phần tương tợ, có năm loại tương tợ: Tướng trạng, tự thể, nghiệp dụng, pháp môn và nhân quả. Nay chỉ nói pháp môn tương tợ. Luận về dị phẩm nghóa là đối với chỗ này không có sở lập đó, sẽ giải thích dị phẩm có hai. Đưa ra chung và riêng chỉ bày pháp. Xứ nghóa là xứ sở, tức là trừ ngoài tôn còn lại tất cả pháp, thể thông cả có - không. Hoặc lập hữu tôn, đồng phẩm hẳn có thể, sở dó trước nói bình đẳng với nghóa phẩm. Dị phẩm thông vô thể nên nói là xứ, sở lập nghóa là tánh của tôn không rời nhau, hoặc chỗ các pháp không có sở lập của nhân gọi là dị phẩm. Chẳng phải riêng không trình bày pháp đó và cùng hữu pháp gọi là dị phẩm, lỗi như trước đã nói. Trong đây chẳng nói không có pháp sở lập, đoạn trước với đồng phẩm đã nói đồng với sở lập pháp đã xong, căn cứ vào đây có thể biết chỉ không có sở lập vì nghóa đã thành. Lý Môn Luận cũng nói rằng nếu sở lập không có gọi là dị phẩm, chỉ không có sở lập tức là dị phẩm, đồng phẩm không nói xứ sở, vì dị loại thông cả vô. Theo Du-già nói, dị loại nghóa là tất cả pháp trông vào các pháp khác, tướng kia lần lượt có một chút phần không tương tợ, cho nên chẳng phải tất cả toàn bộ không tương tợ. Vì chỉ không tùy ứng nhân đã thành cùng đồng tương vi cũng có năm loại. Luận rằng: Nếu có là thường kiến chẳng phải sở tác, như hư không…”. Thuật rằng: Đây riêng chỉ về pháp. Như lập tôn vô thường sở tác tánh làm nhân, hoặc có chỗ nơi pháp thường tụ thấy chẳng phải là sở tác, như hư không… gọi là dị phẩm. Trong đây đã nói tôn dị phẩm, chỉ nên nói hoặc là thường như hư không…, lại cho rằng thấy chẳng phải sở tác nêu nhân dị phẩm gồm giải thích biến vô. Hỏi: Tại sao trước nói tôn đồng phẩm không gồm định hữu, đây giải thích dị phẩm gồm giải thích biến vô? Đáp: Có hai cách giải: Trình bày đồng phẩm: Chỉ vì lựa riêng nhân đồng phẩm, hiển rõ dị cũng như vậy, không cần giải thích định vô tướng, nên văn lược bỏ. Trong dị phẩm vì nhờ phương tiện lời nói, gồm giải thích biến vô, hiển bày đồng cũng như vậy. Đồng phẩm tùy thuận thành tựu: Chỉ chấp nhận có nhân liền thành đồng phẩm. Vì văn dễ hiểu cho nên không giải quyết định hữu tánh dị phẩm, do sợ lẫn lộn hẳn phải hiển rõ biến vô mới thành dứt sự lẫn lộn. Vì thế giải dị phẩm gồm giải biến vô đồng phẩm nhân, vì hiển rõ đồng dị hai phẩm sai khác. Hỏi: Như lập vô thường, lông rùa sừng thỏ không có tướng vô thường kia cũng gọi là vô thường, vì với tất cả thời tánh thường không, cũng được gọi thường, tại sao không lập chẳng đồng dị phẩm? Đáp: Âm thanh nói là vô thường, tánh là nghóa diệt. Sở tác tánh thể là nghóa sinh, lông rùa sừng thỏ chẳng diệt, cũng chẳng có sinh đã không có chỗ thành lập liền nhập vào dị phẩm. Nếu chẳng phải hữu phẩm bèn nhập vào đồng. Luận rằng: “Trong đây luận về sở tác tánh, hoặc cần dũng vô gián sở phát tánh”. Thuật rằng: Năm là chỉ bày pháp có ba nêu hai nhân, thành ba tướng và hiển rõ chỗ thành. Phát khởi đoạn nghóa hoặc đã nói nhân nghóa, đều nêu hau nhân, sơ lược có ba nghóa: Một là đối với hai nhà luận sư; hai là giải thích biến định, và ba là nêu hai chánh: Đối với hai luận sư: Thanh luận sư tổng có hai loại: Một là âm thanh từ duyên sinh tức thường hằng không diệt; hai là âm thanh vốn thường trụ. Từ duyên đã hiển bày nay mới có thể nghe, duyên âm hưởng hoặc dứt mất ngược lại không thể nghe. Thanh sinh cũng như vậy duyên dứt nghe, duyên còn nên nghe, hai nhà luận sư này đều có một phần tất cả trong ngoài dị tánh, vì một thể nhiều thể năng thuyên sai khác. Hoặc đệ tử Phật đối Thanh luận sư lập “âm thanh vô thường”, nhân là sở tác tánh bèn đủ ba tướng, đối Thanh hiển luận nói sở tác tánh tùy nhất bất thành. Hoặc đối thanh hiển nói nhân cần dũng liền đủ ba tướng, đối thanh sinh luận lập tất cả âm thanh đều là vô thường, cần dũng làm nhân. Tôn pháp chẳng biến khắp lưỡng câu bất thành. Nay hiển đối thanh sinh, sở tác làm nhân, hoặc đối thanh hiển cần dũng làm nhân. Lại lập âm thanh trong ngoài đều vô thường, nhân gọi là sở tác, hoặc lập nội thanh, nhân là cần dũng. Không như thế thì nhân có lưỡng câu nhất phần lưỡng câu bất thành, vì đối với chấp phân biệt nên trình bày hai nhân. Giải thích biến định: Nhân sở tác tánh thành tôn vô thường, ba tướng đều biến khắp thành nhân cần dũng, đồng nhất định biến khắp. Hiển thuận thành tôn đồng định cũng lược không cần cả ba đều biến khắp, nên nêu hai nhân. Nêu hai chánh nhân: Hiển bày chín câu, sở tác trong đây là nhân thứ hai kia, ở đây là nhân cần dũng. Câu thứ tám đó theo ngài Trần Na nói cả hai đều là chánh nhân, vì đủ ba tướng. Nay hiển bày hai nhân đó đều đủ ba tướng nên trình bày cả hai. Sở tác tánh là nhân duyên tạo tác, hiển bày sinh nghóa đó. Cần dũng vô gián sở phát tánh, cần dũng nghóa là sách tấn khởi phát, thiện tức là tinh tấn. Nhiễm nghóa là giải đãi, vô ký là dục giải hoặc là tác ý, hoặc là tầm từ, hoặc là tư tuệ. Vì do các nghóa này, gió thổi va chạm vào thành rốn, cho đến lần lượt kích động yết hầu, môi lưỡi… phát hiển dũng mãnh không gián đoạn. Luận rằng: “Biến là tôn pháp đối với đồng phẩm định hữu với dị phẩm biến vô”. Thuật rằng: Hiển thành ba tướng như trên đã nói. Sinh hiển nhân đều đủ ba tướng nên thành chánh nhân, nghóa lẽ ra mỗi mỗi đều căn cứ như trước tạo tác hoặc biến khắp hoặc thiếu. Luận nói các nhân vô thường, hiển nhân đã thành, chữ “đẳng” đồng lấy hư không, vô ngã… Hai nhân trên đây không chỉ hay thành tôn vô thường pháp, cũng có thể thành lập hư không vô ngã… tùy sở ứng đó chẳng phải lấy tất cả. Hoặc sở tác nhân cũng có thể thành lập, nói đã trình bày khổ… và tôn vô thường, ý đã chấp nhận tất cả các pháp như khổ…, nhân này bèn có lỗi bất định. Nghóa là lập lượng rằng âm thanh cũng là khổ vì sở tác tánh, dùng pháp vô lậu làm dị phẩm, nhân sở tác tánh đối với dị phẩm đó trên một phần chuyển, lẽ ra thành bất định như vậy đã thành âm thanh. Vì như đối với bình, vì sở tác tánh, thể là khổ kia, vì như các pháp tự tôn đạo đế… vì sở tác tánh. Thể chẳng phải khổ đã thành chánh nhân không có lỗi bất định nên đây nói…, tùy sở ứng đó. Theo Du-già nói đồng dị dụ, hơi tương tợ và không tương tợ, chẳng nói tất cả đều tương tợ, tất cả đều không tương tợ. Nếu không như vậy tất cả bèn không phải dị phẩm, nhân hạn hẹp hay thành lập pháp hạn hẹp. Nhân kia cũng có thể thành lập pháp rộng lớn, đồng phẩm tuy nhân không biến khắp, đối với dị phẩm định biến là không. Nhân rộng lớn hoặc có thể thành lập pháp rộng lớn, ở đây chắc không thể định thành pháp hạn hẹp với dị phẩm có các lỗi bất định theo đây mà sinh. Do đó lẽ ra lập sự khó nhọc. NHÂN MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN SỚ GIẢI QUYỂN THƯỢNG (HẾT) Ngày mùng 1 tháng 7 niên hiệu Kiến Võ thứ hai viết xong quyển thượng, công phân làm ba dùng bút tích để kết duyên giúp cho pháp vị tôn thần. Trông mong một ngày gió mát thổi thâu nhiếp kẻ hèn mọn trở về chánh lý, từ sinh thăng trầm được mát mẽ yên tónh nẩy mầm nhân thiện. Quyền luật sư tôn kinh. Đồng ngày 19 xem lại, hoặc có bổn ghi người xem lại bổn là vị tăng Minh Thuyên ở chùa Nguyên Hưng. Nhưng các nơi có chỗ không khế hợp ngọn đèn sáng, tính sao chép lại âm thạch bậc tiên đức, nhưng chưa được giám sát. Theo bổn giáo chánh: Y trưởng giả Điện Ngưỡng lấy sự xem của ngài Minh Thuyên làm bản chủ yếu, đem sự ngu hèn xem xét lại ba quyển. Lời sớ của quyển này bắt đầu từ ngày 16 tháng giêng niên hiệu Nhân Bình thứ tư đến ngày 14 tháng 2, và ngày 27 tháng 2 thì đọc xong, xem có chữ sai lầm bèn sửa lại ngay (Tả Đại Thần Tại Ngự Phán). Đọc xong tựa ngày 28 cùng tháng, không cam tâm mặc tình ngu ý xóa bỏ sửa đổi. Từ ngày 16 tháng giêng đến giờ Ngọ ngày 14 tháng 2 khắc bản xong. Ngày 28 tháng 5 đến ngày 24 tháng 6 đọc lại bản thảo một lần. Đến ngày 3 tháng 2 niên hiệu Cửu Thọ thứ ba đọc lại một lần nữa, bắt đầu từ 24 tháng trước đến ngày 18 tháng 3 niên hiệu Cửu Thọ thứ ba đọc lại. Cách tháng bắt đầu từ 22 đến nay đã viết xong mục lục. LỜI SỚ NHÂN MINH CHÍNH LÝ LUẬN Chùa Đại Từ Ân do Sa-môn Cơ biên soạn. <卷>QUYỂN TRUNG Luận rằng: “Dụ có hai loại”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ ba, nói về tướng của dụ. Văn có ba ý: Một là nêu ra; hai là kể tên; ba là tùy giải thích. Đây là phần đầu vậy.Tiếng Phạm là Đạt-lợi-sắc-trí Án-đa. Đạt-lợi-sắc-trí dịch là kiến, Án-đa dịch là biên. Do đây so sánh khiến tôn thành lập rốt ráo gọi là biên, người khác khởi trí hiểu biết. Nói chiếu tôn cực này gọi đó là kiến. Cho nên ngài Vô Trước nói lập dụ nghóa là do sở kiến biên cùng chưa sở kiến biên, hòa hợp chánh thuyết. Ngài Sư Tử Giác bỏ sở kiến biên là đã hiển rõ liễu phần, chưa sở kiến biên là chưa hiển rõ liễu phần. Do hiển liễu phần rõ được chưa hiển liễu phần, làm cho nghóa giống nhau đã có chánh thuyết gọi là lập dụ. Nay thuận theo ngôn ngữ phương đây gọi là dụ. Dụ là ví von, là tình huống, là hiểu rõ, lấy đó so sánh thì dụ để hiểu rõ tôn nên gọi là dụ. Đoạn trước tuy nêu nhân cũng hiểu nghóa tôn, nhưng chưa nêu thí dụ tình huống để khiến cho nó rõ ràng. Nay nhờ đây so sánh tôn nghóa rõ cùng tột, cho nên lìa nhân lập riêng tên dụ. Luận rằng: “Một là đồng pháp; hai là dị pháp”. Thuật rằng: Kể tên gồm có đồng pháp và dị pháp. Đồng là tương tợ, pháp là sai biệt; cùng chấp nhận tự tánh gọi là hữu pháp, sở lập sai khác trên đây gọi là pháp. Nay cùng sở lập đó sai khác tương tợ gọi là đồng pháp, không có sai biệt đó gọi là dị pháp. Dị là sai biệt. Hỏi: Tại sao tôn đồng dị gọi là phẩm, nhân đồng dị gọi là pháp? Đáp: Nếu đồng dị tổng tôn chủng loại tánh không rời nhau gọi là phẩm. Nếu không đồng dị với tổng tôn cũng không đồng dị với tôn hữu pháp, chỉ đồng dị với nghóa sở tác trên hữu pháp gọi là pháp. Lại sở tác đây chẳng phải tổng sở lập không được gọi là phẩm mà gọi là pháp, sở lập chung tôn bèn cùng tên với phẩm vì có thể sai khác. Còn nhân tôn cả hai đồng dị gọi là pháp, biệt đồng dị gọi là phẩm, đây đồng dị cả hai nên gọi là pháp. Hai nhân đồng dị ở dưới và tôn đồng dị ở trên đồng thời biệt đồng dị, vì vậy đều gọi là phẩm. Luận rằng: “Đồng pháp, hoặc đối với xứ hiển nhân đồng phẩm quyết định hữu tánh”. Thuật rằng: Thứ ba là tùy giải thích, có hai: giải đồng và giải dị. Theo Lý Môn luận nói nhân tôn đã tùy theo, tôn không thì nhân chẳng có, hai loại này gọi là thí dụ, ngoài ra đều tương tợ với đây. Trong ban đầu giải có ba trình bày tên, nêu chung, chỉ riêng, đồng pháp trình bày tên, văn kia tổng hiển, xứ nghóa là xứ sở. Tức là tất cả trừ ngoài tôn có không pháp xứ. Hiển là thuyết vậy, nếu pháp có không thuyết cùng tiền trần, nhân tương tợ phẩm bèn quyết định có tôn pháp. Đây có không xứ thì gọi là đồng pháp. Nhân là phã cùng chấp nhận trên hữu pháp, hoặc chỗ có pháp đây gọi là nhân đồng phẩm, pháp sở lập là pháp không cùng chấp nhận trên hữu pháp, hoặc chỗ có cộng nhân, quyết định có phát không chấp nhận này gọi là định hữu tánh, do vì cùng chấp nhận pháp thành bất cộng. Theo Lý Môn luận nói, nhân tôn đã theo nhau gọi là đồng dụ trừ tôn do bên ngoài có không tụ trung. Có pháp cùng chấp nhận hay không cùng chấp nhận này tức là đồng, vì pháp đồng, vì năng sở đồng, vì cả hai hòa hợp đồng. Trong đây chính xác lấy đồng phẩm của nhân, do có nhân này nên tôn pháp hẳn phải theo, vì vậy cũng gồm lấy đồng phẩm của tôn hợp lại gọi là đồng pháp. Hỏi: Hiển nhân đồng phẩm, tôn pháp hẳn phải theo cần gì nói lại quyết định hữu tánh. Nói quyết định hữu tánh nhân ắt tại tôn, đâu cần lại nói hiển nhân đồng phẩm? Đáp: Chỉ nói nhân đồng phẩm không nói định hữu tánh, tức là trong chín câu các dị phẩm có trừ hai mươi lăm đế còn sáu câu thuộc hai lỗi tương vi bất định. Dị dụ cũng phạm lỗi năng lập bất khiến. Hoặc nói định hữu tánh chẳng nói nhân đồng dụ, cũng ở trong chín câu đồng phẩm chẳng có là bốn, năm, sáu vậy. Cũng thuộc hai lỗi tương vi và bất định, đồng phẩm cũng phạm năng lập bất thành. Nếu chẳng phải nhân đồng phẩm cũng chẳng phải định hữu tánh, tức là trong chín câu dị phẩm chẳng có là câu thứ hai, năm, ám vậy. Hai loại chánh nhân và bất định đã nhiếp, đồng dụ cũng phạm lỗi câu bất thành. Hoặc hiển nhân đồng phẩm cũng là quyết định hữu tánh tức là trong chín câu, câu đồng phẩm cũng có trừ sáu câu còn bốn câu, năm, sáu là đúng vậy, vì đã thuộc hai loại chánh nhân và bất định. Dị phẩm không có lỗi, vì đã thuộc chánh nhân; dị phẩm có lỗi đã thuộc bất định. Vô tướng hoặc có một phần toàn phần năng lập bất khiển trừ, đồng dị dụ này đã phạm các lỗi, hoặc tự hoặc tha, hoặc toàn phần hoặc nhất phần tùy sở ứng kia đều nên suy nghó. Vì ngăn ba câu trước và câu thứ tư một chút phần đã nói lỗi, hiển câu thứ tư có một chút phần là đúng, hẳn phải nói cả hai để chỉ rõ nhân đồng phẩm quyết định hữu tánh. Luận cho rằng: “Nếu sở tác thấy kia vô thường thì như bình…”. Thuật rằng: Đây là riêng chỉ pháp. Như lập tôn âm thanh vô thường vì nhân là sở tác tánh, bình là đồng dụ, trong đây chỉ pháp vì để rõ nhau. Hợp kết trình bày chung, nếu sở tác tức đoạn trước hiển bày chung đồng phẩm của nhân. Thấy kia vô thường cũng là trước hiển bày quyết định hữu tánh, các chỗ có sinh quyết định có diệt. Trâu mẹ bỏ xứ trâu nghé phải theo, chỗ có nhân tôn quyết phải theo, đây là hợp. Nếu có sở tác thì lập luận địch luận luận chứng… thấy kia vô thường, như bình… nêu dụ y hữu pháp kết. Đoạn trước dùng âm thanh làm hữu pháp, vô thường sở tác làm pháp. Nay dụ lấy bình… làm hữu pháp, sở tác vô thường làm pháp. Chánh dùng sở tác vô thường làm dụ gồm nêu bình… dụ y, tổng hợp mới đầy đủ. Chữ “đẳng” tức là đồng lấy các loại bồn, bình… vậy. Lý Môn luận cho rằng, nếu như vậy thì dụ lẽ ra chẳng phải dị phần vì hiểu rõ nghóa nhân. Theo các luận sư của Cổ Nhân Minh thì ngoài nhân có dụ. Như Thắng luận sư lập tôn “âm thanh vô thường” vì nhân là sở tác tánh, đồng dụ như bình, dị dụ như hư không. Chẳng nêu các sở tác đều là vô thường… thấu suốt hai chỗ, nên nhân chẳng phải dụ, bình là thể đồng dụ, hư không là dị dụ thể. Từ ngài Trần Na sắp về sau nói ba tướng của nhân tức thuộc hai dụ, hai dụ tức là nhân vì đều hiển bày tôn, sở tác tánh… vì thông suốt hai chỗ. Cổ sư nạn vấn rằng: Nếu dụ cũng thuộc nhân, dụ lẽ ra nói chẳng ngoài nhân dị phần vì rõ nghóa nhân, nên chỉ có hai chi đâu cần hai dụ? Ngài Trần Na giải thích: Sự mặc dù đúng như vậy, song nhân này chỉ vì hiển rõ tôn pháp tánh, chẳng phải vì hiển rõ đồng phẩm dị phẩm hữu tánh, vô tánh, nên phải nói riêng đồng dị dụ. Ý đáp rằng, dụ thể thật là nhân, như vậy không nên nói riêng, song lúc lập nhân đúng ra chỉ vì hiển tôn pháp tánh là nhân của tôn, chẳng phải chánh hiển đồng có dị không thuận nghịch, thành ra nghóa sở lập tôn. Cho nên ngoài nhân đặc biệt nói hai dụ hiển rõ nhân có nơi chỗ, vì ngược lại thành tựu, khiến cho tôn nghóa thành. Lại gạn hỏi: Nếu chỉ có nhân gọi là sở thuyên biểu thị nghóa, gọi là nhân, ở đây có lỗi gì? Ý hỏi rằng, như sở tác nói sở thuyên biểu thị nghóa chỉ gọi là nhân, bình đồng hư không khác tên dụ, chẳng phải nhân này có lỗi gì. Lại hỏi: “Còn có đức gì?” Trả lời theo Cổ Nhân Minh riêng nói phần dụ gọi là đức. Ngài Trần Na lại vấn nạn: Lẽ ra như thế gian đã nói phương tiện cùng nghóa của nhân đó đều không tương ưng? Ý vấn nạn rằng, như thế gian ngoại đạo cũng nói ngoài nhân riêng có hai dụ, ông đối với ngoài nhân nói dụ cũng như vậy. Biến khắp tôn pháp tánh đã là chánh nhân, đã nói hai dụ chẳng phải là chánh nhân, chỉ là phương tiện trợ giúp thành nghóa nhân. Đây dụ phương tiện đã cùng nhân sai khác, thì với nghóa của nhân đều không tương ưng. Cổ sư lại nói rằng: Nếu như thế thì có lỗi gì, dẫu có đồng với ngoại đạo cũng có lỗi gì? Như ngoại đạo có năm căn thức, trong Phật pháp cũng có vì chẳng phải lỗi. Ngài Trần Na hỏi vặn: Đây nói chỉ ứng hợp nghóa loại sở lập, không có công năng chẳng phải nghóa năng lập. Do kia chỉ nói sở tát tánh thể loại đồng pháp, chẳng nói năng lập đã thành nghóa lập. Trong đây ý nạn tôi cũng chẳng nói đồng đối với ngoại đạo mà nói nghóa cực thành thì gọi là lỗi. Vì giống kia nói nghóa bất cực thành có lỗi, nghóa là các cổ sư nói đồng ngoại đạo, lập tôn âm thanh là vô thường vì nhân là sở tác tánh, đồng dụ như bình, dị dụ như hư không, nghóa bất cực thành. Ngài Trần Na hỏi lại: Nếu nói thể của bình và thể của hư không là dụ, chỉ nên lấy bình loại đối với nghóa sở lập vô thường. Dụ đã không nói các sở tác tánh đều là vô thường, nêu bình chứng minh âm thanh không có công năng, dụ kia bèn chẳng phải nghóa năng lập, do đó chỉ nêu nhân, chỉ nói sở tác pháp, nêu bình loại âm thanh đồng vô thường. Chẳng nói nói năng lập các sở tác tánh và cùng sở lập đều là vô thường, nên không có công năng chẳng phải nghóa công năng. Lại dùng bình làm dụ thể, bình tức là bốn trần có thể đốt cháy có thể thấy, âm thanh cũng như vậy. Nếu như ta nói sở tác tánh đều là vô thường, thì như bình… tạo tác đã là tôn chánh đồng pháp, vô thường tùy theo đó cũng quyết định chuyển. Nếu bình dụ ý để hiển việc đó bèn không có tất cả lỗi cùng loại với nhau. Ông đã nói không đúng nên có lỗi trước. Ngài Trần Na lại nói: Còn nhân dụ sai khác, đây có sở lập đồng pháp dị pháp, trọn không thể hiển nhân cùng sở lập tánh không rời nhau, do đó chỉ có loại nghóa sở lập nhưng không có công năng. Ý này vấn nạn rằng, nhân dụ đã sai khác, đồng dụ chỉ có sở lập vô thường, dị dụ không có lỗi này. Ông nói đồng dụ mà chẳng nói các sở tác đều là vô thường, di dụ cả hai đều không có; cuối cùng không thể hiển bày nhân sở tác tánh, cùng sở lập vô thường tánh chẳng rời nhau. Tổng kết lại thì chỉ có loại nghóa sở lập nhưng không có công năng, chẳng phải nghóa năng lập. Cổ sư lại hỏi: Tại sao không có công năng? Ngài Trần Na đáp nạn: Do trong đồng dụ chưa hằn đồng loại với tôn pháp tôn nghóa, vì ngoài ra còn thí dụ sở thành lập nên thành lỗi vô cùng. Ý nói đồng dụ không có sở do công năng, ông đã không nói các sở tác đều là vô thường, nên đồng dụ đó chưa hẳn dùng nhân tôn pháp và cùng loại tôn nghóa vô thường. Chỉ nói như bình, nếu người khác có hỏi, bình như thế nào mà lại vô thường trả lời như ngọn đèn, lần lượt như vậy nên thành ra vô cùng vậy không có nghóa năng lập. Nếu ta nói dụ các sở tác tánh đều là vô thường, thì như bình… đã dùng tướng loại tôn pháp tôn nghóa, biến khắp hết tất cả bình đèn… chẳng cần hỏi lại. Cho nên chẳng phải vô cùng thành có công năng. Lại gạn hỏi: Không hẳn định có các phẩm loại, hoặc chỉ bình thể đồng dụ, chẳng đốt cháy thấy được… tất cả đều loại bèn thành lỗi. Nếu như ta nói dụ y kia thì dùng các loại sở tác vô thường, sẽ thành không có lỗi kia, hỏi hoặc chỉ có tôn pháp là nhân tánh, kia có lỗi bất định lẽ ra cũng thành nhân. Ý đây nạn rằng, chỉ có sở tác biến khắp tôn pháp tánh là tánh nhân đó, đồng có dị không chỉ có dụ chẳng phải nhân. Do đó bình hư không dụ chẳng phải nhân, tức không nhất định nhân lẽ ra cũng thành nhân, chỉ có biến tôn pháp vì không có hai tướng sau. Cổ nhân minh lại gạn hỏi: Tại sao có đầy đủ pháp sở lập năng lập và dị phẩm, hai thí dụ mà có lỗi này? Ý kia vấn nạn tại sao đồng phẩm là bình có đủ sở lập vô thường, năng lập sở tác và pháp dị lập. Trong hai thí dụ này có lỗi bất định? Ngài Trần Na đáp nạn: Hoặc lúc ấy sở lập dị phẩm chẳng phải một chủng loại bèn có lỗi này. Như ban đầu và sau, ba đều dụ sau nhất, nghóa là lúc lập lượng đã lập dị phẩm cũng có chẳng có, chẳng phải một chủng loại. Nhưng ông đã chỉ bình là đồng phẩm, hư không là dị dụ, tuy đủ hai dụ. Dụ nếu chẳng phải nhân, bèn thành lỗi bất định này, như ba loại ban đầu dụ sau cùng. Nghóa là trong chín câu, câu thứ ba trong ba câu đầu đồng phẩm dị phẩm có chẳng có, trong ba câu sau dụ sau cùng nghóa là trong chín câu, ba câu sau mà là câu thứ ba đồng phẩm có chẳng có dị phẩm cũng có chẳng có. Trong hai dụ này hoặc đồng lấy có nghóa, dị lấy vô nghóa, nhưng do dị phẩm một phần có, nhân thành bất định. Ông dùng đồng dụ như bình dị dụ như hư không, vì dị chẳng phải nhân. Không lựa riêng cho rằng nếu là thường thấy chẳng phải tạo tác như hư không… bèn có lỗi bất định. Hoặc diệt lựa biệt thì dụ tức là nhân bèn không có lỗi đó, lựa bỏ hai và ba vì chẳng phải nhân, chủ yếu dị biết vô, là vì chánh nhân. Kết lại rằng cho nên định có ba tướng chỉ và hiển nhân, do là đạo lý, tuy tất cả phần đều có thể làm nhân hiển rõ sở lập. Nhưng chỉ một phần vả lại nói là nhân, trong đây cố định chỉ là âm thanh, trình bày ba tướng của nhân hiển rõ nơi tôn. Hai dụ tức là nhân, mặc dù đều là nhân hiển rõ tôn nghóa, đối với ba tướng biến tôn pháp tánh, chỉ một phần này vả lại nói là nhân còn hai loại là dụ. Vì chỉ căn cứ vào Thắng luận để rõ chẳng nói tận lý, nên gọi là vả lại. Văn trước y nơi đây hiển rõ tôn nghóa, nói ba tướng của nhân cũng chẳng trái nhau. Hỏi: “Tại sao cũng chấp nhận pháp mà không cùng chấp nhận pháp phần làm tôn nhân? Đồng dụ hợp cả hai làm một chi? Đáp: Đối địch luận trình bày tôn, bất cộng làm sở lập, do nhân thành tôn này, cùng chấp nhận thì chỉ có năng lập thành, đồng dụ khiến cho nghóa kiến biên. Cả hai đều trợ giúp thành lập ở trước, cho nên nhân tôn riêng nói, đồng dụ thì hợp lại. Hỏi: Nhân minh bày tạo tác đã thấu suốt bình há chẳng trịnh trọng lắm sao? Đáp: Nhân mặc dù nói chung, tôn nghóa chưa rõ ràng, chỉ sự rõ đoạn văn trước chẳng phải làm quan trọng. Cổ sư hợp lại bình có sở tác tánh, bình là vô thường, âm thanh có tánh tạo tác, âm thanh cũng vô thường. Nay ngài Trần Na lại nói, các vật do tạo tác đều là vô thường, hiển rõ sơ lược bỏ bớt rườm rà, dụ tôn đều thấu suốt, đâu nhọc gì nghóa dài dòng, cho nên đổi thay bậc tiên sư. Cổ sư kết lại vì nên biết được âm thanh là vô thường. Nay theo ngài Trần Na, thí như bình… hiển bày nghóa đã thành, đâu nhọc gì phải thuật lại, cho nên trong dụ đều trình bày nhân tôn hai loại rõ ràng, đến văn sau sẽ biết. Luận rằng: Dị pháp hoặc đối với xứ sở nói sở lập không có nhân biến khắp chẳng có”. Thuật rằng: Đây là giải thích có bốn loại sai khác: Trình bày tên, hiển chung, chỉ riêng và giải thích thành, đây tức là hai loại ban đầu. “Xứ” nghóa là xứ sở, trừ ngoài tôn rồi chỗ có không của pháp, nghóa là hoặc pháp hữu thể hoặc pháp vô thể. Chỉ nói không có tôn sở lập trước, tôn năng lập ở đoạn trước cũng biến khắp chẳng có, gọi là dị phẩm vì pháp sai khác, vì cả hai đều khác. Theo bài tụng của Lý Môn Luận thì tôn không nhân chẳng có gọi là dị pháp, có giải thích chính là lấy dị phẩm của nhân. Do không có điều này nên quyết theo không có, vì vậy cũng gồm lấy không có tôn gọi là dị hợp lại gọi là dị pháp. Lại tự vấn nạn rằng: Nếu chỉ không có nhân thì gọi là dị pháp, đồng phẩm chẳng có lẽ ra là dị dụ. Nếu như vậy thì tôn “âm thanh vô thường”, dùng điển chớp, bình đàm đồng dụ, nhân là cần - dũng. Với điển chớp vốn chẳng có, lẽ ra thành dị phẩm tôn nhất định theo không có, vì vậy lẽ ra phải nói đồng thành tôn, nhân là chánh đồng, tôn là trợ đồng vì lìa dị phẩm. Tôn là chánh dị, nhân là trợ dị, chỉ chọn lấy chẳng phải di. Theo Lý Môn luận thì tôn không nhân chẳng có gọi là dị pháp không nói nhân không tôn chẳng có gọi là dị dụ. Nhưng đây không muốn thành riêng dị pháp, nên trước không có tôn, sau mới không có nhân. Hỏi: Tại sao sở lập không nói biến vô, nhân năng lập nói biến khắp chẳng có? Đáp: Tôn không thành nhân chẳng nói biến vô, nhân thành tôn nên nói biến khắp chẳng có. Nhân không biến vô bèn thành dị pháp, các lỗi phát khởi như bất định tương vi, sở lập tôn, pháp đó rất rộng lớn. Như âm thanh vô ngã, hư không… cũng có, nếu sai khác đều không có, cũng không có dị phẩm, như hư không… bèn luống lập bày. Cho nên biết chỉ không có tùy ứng một chút phần sở lập của nhân tức là dị tôn, chẳng phải cho rằng đều biến khắp chẳng có. Hỏi: Đã nói sở lập không có, nhân đã chẳng có, đâu cần phải nói lại nhân biến vô ư? Nói nhân biến vô, đã không có sở lập, cần gì nói sở lập tôn nữa? Đáp: Chỉ nói sở lập không nhân không biến khắp chẳng có, tức là trong chín câu có nhiếp dị phẩm, trừ câu thứ hai, thứ tám và thứ năm, còn sáu câu là đúng; dị dụ cũng phạm lỗi năng lập bất khiển. Nếu nói nhân biến chẳng có, không nói sở lập không tức là trong chín câu chẳng có nhiếp đồng phẩm, thì câu bốn, sáu, năm là đúng; đồng phẩm cũng phạm lỗi năng lập bất thành. Hoặc chẳng nói sở lập không, cũng chẳng có nhân biến chẳng có, tức là trong chín câu có câu đồng phẩm. Trừ ba câu giữa còn sáu câu, dị dụ cũng phạm lỗi câu bất khiển trừ. Hoặc nói sở lập không nhân cũng biến khắp chẳng có, từ là trong chín câu là câu thứ hai, năm, tám. Câu thứ hai, thứ tám là đúng, câu thứ năm bất định. Đồng dị hoặc hạm lỗi câu bất thành, tha cú có lỗi nên đây có lỗi, không như vậy thì câu này thuộc câu không có lỗi. Các lỗi trong đây hoặc tự hoặc tha, hoặc toàn hoặc phần tùy sở ứng kia lẽ ra nên căn cứ văn trước khởi suy nghó. Câu thứ tư có một chút phần là đúng, ngoài ra đều có lỗi, vì ngăn điều này quyết phải nói cả hai sở lập không có nhân biến chẳng có. Luận cho rằng: “Hoặc là thường thấy chẳng phải tạo tác như hư không…” Thuật rằng: Đây là riêng chỉ pháp. Như tôn vô thường vậy thường là sai khác, nhân là tánh tạo tác chẳng phải tác là sai khác. Ngược lại hiển rõ nghóa trong thường phẩm đã không thấy tạo tác, rõ ràng tánh tạo tác nhất định thấy vô thường, vì đồng thành tôn. Trước nhân sau tôn dị pháp lìa trước, tôn trước nhân sau hoặc trong đó lìa xa dị, nhân trước tôn sau. Như nói chẳng tạo tác nhất định là thường trụ, ngược lại thành xưa nay không tranh luận hư không thường trụ. Chẳng phải lìa trước thành tôn nghóa vô thường, hoặc thành thường trụ bèn phạm lỗi tương phù, xưa đã định tôn vì nay thành lập. Đồng ý đã thành lập trước nhân sau tôn, dị đã lìa trước tùy tôn trước sau, ý muốn hiển ngược lại đoạn trước về nghóa thành lập. Nay tôn không nhân đã không chuyển, rõ ràng nhân có chỗ nơi tôn nhất định theo. Sai khác chỉ nói lìa, xa lìa thành ra đắc, chắc chắn trước tôn không sau nhân chẳng có. Cho nên Lý Môn luận nói: Nhân tôn đã theo thì tôn không nhân chẳng có, như hư không…, đây nêu dụ y để trình bày dụ thể. Nếu hữu pháp sở y đó, hiển bày pháp năng y chẳng có, chữ “đẳng” đồng lấy các pháp tùy chỗ ứng Niết-bàn… Luận rằng: “Trong đây thường biểu thị chẳng phải vô thường, chẳng tạo tác, nên nói tiêu biểu vô sở tác”. Thuật rằng: Dưới đây sẽ giải thích thành nghóa. Hiển bày dị không có thể cũng thành ba tướng đã thuộc chánh nhân. Pháp Nhân minh, dùng vô làm tôn, không thể thành lập, có không đều sai khác. Như luận chép hòa hợp chẳng phải thật có chấp nhận trong sáu câu thuộc tùy nhất, như năm câu văn trước. Đoạn trước phá năm câu thể chẳng phải thật có nên được làm dụ, vì trong đây dùng vô mà thành ra không có. Lẽ ra dùng hữu pháp làm dị phẩm, vì không có thể kia, ngược lại dùng vô pháp làm dị cho nên các vật không thật có chẳng thuộc sáu câu, không có dị thể kia. Hoặc vô vi là tôn, có chẳng phải năng thành, nhân không có sở y, dụ chẳng có sở lập nên có thể hữu vi sai khác, vì sai khác đối với tôn. Dùng tôn hữu vi, hữu vi hay thành vì tùy thuận thành ra có, không chẳng phải là năng lập, nhân chẳng phải năng thành, dụ không có sở lập, có không đều sai khác, vì đều chỉ nhầm lẫn. Tôn vô thường đã có thể vật tạo tác bình… hữu vi hay lập, cho nên đối với dị phẩm. Như Tát-bà-đa lập hữu thể hư không làm dị, hoặc các bộ kinh… lấy vô thể hư không làm dị vì, chỉ các tôn nhân đều lẫn lộn hết. Chẳng cần dị dụ hẳn có sở y, đồng dụ năng lập, thành ra có chắc có, thành không hẳn không, biểu thuyên giá thuyên hai loại đều được. Dị dụ không như vậy, hữu thể vô thể hoàn toàn đều ngăn vì tánh chỉ lẫn lộn, nên thường ngôn, ngăn tôn chẳng phải vô thường, chẳng sở tác ngôn, biểu thị chẳng phải tạo tác nhân. Không cần thường chẳng tạo thuyên hai loại hữu thể, ý hiển bày dị dụ vì thông cả vô thể. Theo Lý Môn luận, trước là giá thuyên sau chỉ nhầm lẫn, vì nhờ nghóa hợp và ly để so sánh suy lường. Đồng dụ trước cũng giá cũng thuyên do thành không dùng không, vì thàn hcó dùng có. Dị dụ sau hoàn toàn lẫn lộn, ngăn mà chẳng nói, vì do đồng dụ hợp để so sánh nghóa, vì do dị dụ lìa so sánh nghóa. Kia kết lại: Vì vậy mặc dù đối với không lập thật có hư không… đã được hiển bày tôn xứ có không chẳng thành nghóa của nhân. Xưa nói âm thanh vô thường, dị dụ như hư không. Lý Môn luận nạn vấn rằng: Chẳng phải trong dị phẩm không hiển bày vô tánh có chỗ chọn riêng hay làm thí dụ? Nghóa là, đối với dị phẩm vô thường nên cho rằng hoặc là thường, thấy chẳng tạo tác như hư không không… Chính là dùng thường làm dị phẩm gồm chẳng phải tạo tác, hư không là dụ y. Chủ yếu lựa riêng loại này, hiển dị phẩm không có, ngược lại hiển nhân có tạo tác, tôn vô thường quyết tùy theo. Ông chỉ nói như hư không, nay lại vấn nạn rằng: Chẳng phải với dị phẩm không hiển vô tôn và tánh vô nhân tức là có lựa chọn riêng, nên có thể làm dị dụ. Văn đọc dài dòng nghóa nói cũng xa vời. Lại gạn hỏi: Cổ Nhân Minh: Thế gian chỉ hiển bày tôn nhân dị phẩm đồng chỗ nơi hữu tánh làm dị pháp dụ. Chẳng phải tôn không có chỗ nơi nhân chẳng có tánh, nên nhất định không có công năng. Trình bày bốn câu ban đầu, ba câu sau chẳng phải, ở đây theo ngoại đạo gọi là thế gian, chỉ hiển bày tôn nhân thường và chẳng phải sở tác dị phẩm đồng trên hư không. Cho nên nói hư không là dị dụ the. Ở đây trình bày tôn kia mà chỉ gạn hỏi chẳng phải tôn không có xứ sớ, nhân chẳng có tánh nên nhất định không có công năng. Chẳng nói dị phẩm cho rằng hoặc là thường tôn không có chỗ nơi, thấy chẳng phải nhân tạo tác không có tánh do lìa tôn nhân, vì vậy xưa dị phẩm quyết định không có công năng. Do đây chỉ nên hiểu như lời tôi đã nói. Luận rằng: “Như hữu phi hữu gọi là phi hữu”. Thuật rằng: Vì sợ nói dị dụ sẽ che nghóa không rõ ràng, chỉ sự làm thí dụ có hai cách giải thích. Như Thắng luận sư vì ngũ đảnh kia không tin có tánh thật… ngoài ra có. Bèn lập lượng rằng hữu tánh phi thật phi đức phi nghiệp vì có một thật nên có đức nghiệp như đồng dị tánh. Ngài Trần Na phá nhân này có hữu pháp tự tướng tương vi, nghóa là hữu tánh lẽ ra chẳng có, vì có một thật nên có đức nghiệp như đồng dị tánh. Đây dẫn thuyết của ngài Trần Na có chẳng có, đâu nói phi hữu biệt hữu đã có tên gọi hoàn toàn ngăn có nên nói chẳng có, thường… cũng như vậy. Vì hoàn toàn ngăn vô thường và sở tác tánh, chẳng có đã có tên gọi. Đây nói chẳng có, không dẫn thuyết của ngài Trần Na đã nói phi hữu. Nói chẳng có, sơ lược có hai nghóa: Một là Thắng luận luận sư trừ năm câu có đều là chẳng có, đây tức biểu thuyên. Hai là chẳng có, chỉ phi đối với hữu, phi hữu đã có tên gọi, muốn hiển đồng dụ thành tôn hữu thể, có thể như biểu hiện năm câu, dị dụ chỉ lẫn lộn có thể như ngăn có. Nhưng Đại thừa trung đạo tất cả pháp tánh đều lìa giả trí và ngoài ngôn thuyên, lời nói và giả trí đều không được chân, hoàn toàn ngăn thuyên cũng không có chỗ tiêu biểu. Chỉ với các pháp cộng tướng mà chuyển, pháp nhân minh bèn không đồng với kia, nhưng trong cộng tướng có thể có nghóa thuyên biểu. Đồng dụ thành lập hai pháp hữu vô, hữu thành đối với hữu có thể chấp nhận thuyên, vô thành đối với vô liền có thể ngăn. Cho nên đây nói ngăn phi hữu đã biểu thị, khác thì chẳng đồng với giống nhau, lý như trước đã nói. Theo Lý Môn luận hai dụ này lập nạn rằng: Lại dùng nhân duyên gì mà thứ nhất nói nhân tôn đã theo nhau, thứ hai nói tôn không nhân chẳng có, không nói nhân không tôn chẳng có? Trong đây ý vấn nạn bài tụng trước đã nói nhân tôn đã theo nhau tôn không nhân chẳng có. Hai loại này gọi là thí dụ, sao không dùng đồng vì dụ dị, trước tôn sau nhân nói vô thường đều là sở tác, mà nói các vật do tạo tác đều là vô thường, nói nhân có nơi chỗ tôn đã tùy theo. Sao không dùng dị để ví dụ đồng, trước nhân sau tôn nói những vật không do tạo tác đều thấy thường. Còn nếu có vật thường còn thầy chẳng do tạo tác, nói tôn không có chỗ nơi nhân cũng tùy theo đó mà không có. Luận kia đáp rằng: Do nói như vậy mới có thể hiển bày nhân, đồng phẩm định hữu, dị phẩm biến vô chẳng phải thuyết điên đảo. Theo bài tụng thì nên dùng những vật không do tạo tác để chứng minh thường, hoặc dùng vô thường thành tạo tác. Nếu như vậy lẽ ra thành điều chẳng phải nói, không biến khắp phi lạc… hợp ly. Ba câu ban đầu đáp sở tác biến khắp nhân, một câu sau trả lời cần dũng chỉ hạn hẹp trong nhân. Thứ nhất đồng dụ trước tôn sau nhân, thứ hai dị dụ trước nhân sau tôn, ngược lại trình bày đều là bất khả. Nếu dùng ly loại hợp trước nhân sau tôn, mà nói vật chẳng do tạo tác đều là thường trụ. Lẽ ra dùng nhân chẳng tạo tác tự chứng minh thường trụ, chẳng lìa đầu tiên lập luận trước tôn sau nhân. Nếu chấp nhận như vậy, cũng nên thành lập chẳng phải vốn đã nói tôn vô thường, lại hư không thường trụ. Lập địch vốn thành, nếu nay lại lập luận phạm lỗi tương phù, đã chẳng phải vốn tranh luận, ngược lại chính lập thường. Do đây nên nói nếu như vậy lẽ ra thành chẳng phải vốn đã nói. Nếu dùng hợp loại ly trước tôn sau nhân mà nói các vật vô thường đều là tạo tác, lẻ ra do vô thường thành tánh tạo tác, chẳng phải do tạo tác thành tôn vô thường. Nếu chấp nhận như vậy lẽ ra thành lập chẳng phải vốn đã tranh luận tôn nghóa vô thường. Lại nữa, âm thanh vô thường chẳng phải cả hai đã chấp nhận, tạo tác trên âm thanh cả hai chấp thành. Hoặc do không cùng chấp nhận vô thường, thành sở tác cùng chấp nhận, tôn đã tương phù, nhân cũng tùy nhất. Nếu như vậy lẽ ra thành lập chẳng phải vốn đã tranh luận. Hỏi: Âm thanh, bình đều vô thường, các vật tạo tác đều vô thường, âm thanh và bình vô thường cả hai đều thành, âm thanh và bình đều tạo tác, các vật vô thường đều tạo tác. Tại sao phế bỏ âm thanh bình tạo tác cả hai đều thành? Đáp: Âm thanh tạo tác kia chẳng phải vô thường, bình chấp nhận tạo tác cũng vô thường. Nếu bình tạo tác đã vô thường, loại âm thanh tạo tác cũng vô thường, không muốn thành tạo tác vô thường như bình. Đâu được riêng dùng vô thường thành sở tác, câu thứ tư kia, giải thích nhân cần dũng cũng là không thể được. Nói Bất biến, tức là nếu dùng ly loại hợp trước nói chẳng có cần dũng vô gián sở phát định là thường trụ. Điển chớp chẳng phải cần phát mà chẳng phải thường trụ, chẳng phải cần nhân rộng lớn, thường trụ tôn hạn cuộc. Tôn hạn cuộc không biến khắp, thường trụ nhân rộng lớn, nên dùng chẳng phải cần phát thành thường trụ đó. Nếu như vậy lẽ ra thành chẳng phải vốn đã nói, hoặc dùng hợp loại ly, trước nói các vật vô thường đều cần dũng phát điển chớp… vô thường chẳng cần - sở phát, nhân vô thường rộng lớn, tôn cần phát nhỏ hẹp. Tôn hạn hẹp nhân rộng lớn cũng là bất biến. Hoặc cũng chấp nhận như thế lẽ ra thành chẳng phải vốn đã tranh luận, đây là nhân cần dũng đã đồng sở tác, nên nói bất biến, lược bỏ nên không có chữ “hựu”. Điều không ưa thích đó là nhân bất biến này, riêng có thành lập tôn không ưa thích, nghóa là nếu dùng ly loại hợp nói các vật chẳng phải cần phát đều thường trụ. Hư không chẳng phải cần phát có thể là thường trụ, điển chớp chẳng phải cần phát như thế nào đều thường. Nhân này đã có trong dị phẩm bèn thành bất định, liền vì đó thành lập tôn điển chớp… thường trụ bất lạc. Còn nếu dùng hợp loại ly nói các vật vô thường đều là cần phát, bình… vô thường thời là cần hát. Điển chớp… vô thường thế nào cần phát, nhân cần phát này cũng có trong dị phẩm lại thành bất định. Đã dùng vô thường thành lập điển chớp… mà là cần phát ngược lại chẳng phải điều ưa thích. Do đây hợp ly hai loại đồng ví dụ cho nhau, đều là không thể được, vì vậy cvhỉ nên hợp ly đồng dị như ta đã nói. Kia lại hỏi rằng: Vì muốn đầy đủ hai thí dụ ngôn từ mời thành năng lập, vì như nhân kia chỉ nói tùy nhất? Đây là hỏi hai thí dụ, vì muốn đầy đủ nên nói hai mới thành năng lập thành tôn sở lập. Vì như hai nhân sở tác cần dũng chỉ theo đó nói một, liền thành năng lập, thành tôn sở lập. Họ tự đáp rằng hoặc căn cứ vào chánh lý nên đầy đủ nói hai, do đó đầy đủ hiển bày sở lập không rời nhân kia, để hiển bày đầy đủ đồng phẩm định hữu, dị phẩm biến vô. Có thể chính xác đối trị tương vi bất định do hiển đủ cả hai, nền có thể hiển bày tôn không rời nhân cũng hiển tôn nhân đồng phẩm định hữu, dị phẩm biến vô, hai dụ đã đầy đủ. Cho nên có thể chánh trừ tương vi bất định, vì hai tướng lỗi tương vi bất định. Nhân tương vi đồng không dị có, nhân bất định hai có hai không, nên nói đầy đủ hai dụ để trừ hai lỗi. Kia lại nói, nếu có một phần đã thành này thì tùy theo đó nói một phần cũng thành năng lập, nghóa là đối với hai dụ đã có giải thích đồng. Lẽ ra nên nói dị đã có giải dị, nên chỉ nói đồng, không nói đủ hai cũng thành năng lực. Lại lập luận, nếu như âm thanh kia hai nghóa đồng chấp nhận thì đều không cần nói hoặc do nghóa gần đúng, một có thể hiển hai. Âm thanh nghóa là hữu pháp, ví nhân là sở tác tánh, y đây âm thanh có, hoặc địch luận chứng minh… nghe tôn nhân này. Như đồng chấp nhận hai nghóa trên âm thanh kia, tức là giải nghóa hai dụ trên nhân. Đồng dị hai dụ đều không cần nói, hoặc người lập luận đã nói một dụ, nghóa gần như hiển bày hai. Địch chứng sinh giải chỉ ví nói một, ý trên đây nói hai đều chẳng có thuyết. Hoặc tùy theo đó nói một, hoặc nói đủ cả hai, tùy đối thời cơ tất cả đều được. Luận rằng: “Đã nói tôn… như vậy đa ngôn khi khai ngộ tha gọi là năng lập”. Thuật rằng: Trong giải năng lập, từ đây sắp xuống là phần thứ ba tổng kết thành ra đoạn trước. Trong lựa chọn đồng dị, gồm có hai: ban đầu kết thành văn trước, sau lựa đồng dị. Kết thành có hai, ban đầu tổng kết thành, sau riêng bày cách kết. Nếu thuận theo ngài Thế Thân, tôn cũng năng lập nên nói tôn… Tôn - nhân - dụ cả ba gọi là đa ngôn, người lập dùng đa ngôn này khi khai ngộ cho địch chứng gọi là năng lập. Từ ngài Trần Na về sau nêu tôn năng… lấy chỗ đồng một nhân hai dụ kia gọi là năng lập, tôn là chỗ thành lập đầy đủ của năng lập, cho nên năng lập tổng kết rõ ràng. Luận rằng: “Như luận nói “âm thanh vô thường” là lập tôn”. Thuật rằng: Sau sẽ trình bày kết năng lập, thế căn có bốn. Trình bày trước tôn sau chỉ pháp. Như có người thành lập “âm thanh là vô thường”, đây là lời nói đã tranh luận lập tôn, vì luận về sở tác tánh nên nói tôn pháp. Đạon văn thứ hai là trình bày trước nhân sau chỉ pháp. Sở tác tánh trong đây là nói pháp năng lập nhân của tôn, do tôn pháp này nên hay thành lập tôn trước âm thanh vô thường gọi là nhân. Có chữ “cố” trước không nay có vì hiển rõ lập nhân pháp ắt phải nói, không như vậy liền chẳng phải nên lý do của tôn. Trước lược chỉ pháp, do đây lược bỏ không có, trong đoạn trước chỉ bày pháp là hiển thị hai nhân, nay chỉ trình bày một. Chữ “trước có” nghóa là muốn hiển rõ đồng phẩm định hữu, vì còn hai nói biến khắp ba tướng sai khác, riên hiển bày hai nhân nay lược kết chỉ bày, vì vậy chỉ trình bày một. Luận nói: “Nếu là các vật do tạo tác thấy vô thường như bình… là tùy đồng phẩm nói”. Thuật rằng: Đây là đoạn văn thứ ba vậy. Trình bày đồng dụ trước, chỉ pháp sau, cho rằng hoặc có nhân sở tác thấy có tôn vô thường, cũng như bình… là tôn vô thường nói theo nhân sở tác đồng phẩm. Tuy nhân sở tác nêu âm thanh có để hiển bày vô thường, vô thường vẫn chưa theo nhân sở tác. Nhân sở tác thông cả âm thanh và bình hai chỗ gọi là nhân đồng phẩm, nay nêu bình do tạo tác nên vô thường, hiển bày âm thanh vô thường cũng theo nhân đồng phẩm, vì nghóa quyết định. Còn đồng phẩm là tôn đồng phẩm, xưa tuy nêu nhân, tôn vẫn chưa theo từ nghóa nhất định là bình đồng phẩm vô thường. Nay hiển rõ có nhân tôn pháp hẳn có vì như bình… âm thanh sở lập đó nhất định theo đồng phẩm vô thường nghóa lập. Hỏi: Người đối địch không hiểu âm thanh có sự vô thường, đâu được dùng bình làm đồng phẩm? Đáp: Cả hai nhà luận sư cùng chấp nhận đồng tạo tác, nên nhân đúng là đồng phẩm. Người lập luận đã thành lập vốn lập vô thường, nên nêu bình làm tôn đồng phẩm cũng không có lỗi. Luận rằng: Hoặc vật thường đó thấy không do tạo tác như hư không… là xa lìa lời nói”. Thuật rằng: Đây là văn thứ tư. Trình bày trước dị dụ sau chỉ pháp hoặc vật thường đó lìa tôn sở lập thấy chẳng do tạo tác. Lìa nhân năng lập như hư không chỉ dị dụ y, đây chỉ với đoạn trước tôn nhân cả hai lẫn lộn gọi là xa lìa lời nói. Xa tôn rời nhân, hoặc thông cả xa lìa, hoặc thể sơ sài gọi là viễn, trái nghóa gọi là ly; cùng sở năng lập thể tướng càng xa nghóa lý trái tuyệt nên gọi là viễn ly. Hỏi: Tại sao chỉ lìa tôn và nhân không thể lìa dụ? Đáp: Chỉ lìa tôn nhân hợp lại thì lìa dụ lại không nói riêng nhưng đồng thành tôn vì vậy quyết phải là thể. Nay dùng để ngăn quấy chẳng cần dị tánh. Hỏi: Tại sao chỉ gọi là dị dụ, không gọi là dị tôn nhân? Đáp: Dụ là hợp hai pháp, tôn nhân đều có một, nói dị dụ để bao gồm hết: Nói dị hai sẽ bị lỗi, hoặc nói dị tôn dị nhân sẽ riêng thành nghóa khác, chẳng phải lìa trước. Trở lại thành năng lập nên gọi chung là dị dụ, hợp dị tôn nhân, không nói riêng dị tôn dị nhân. Luận rằng: “Chỉ nói ba phần này gọi năng lập”. Thuật rằng: Đây là lựa đồng dị. Theo Lý Môn luận thì trong tỉ lượng chỉ gặp lý này, hoặc chỗ được so sánh tướng định biến này (biến là tôn pháp tánh), ngoài ra đồng loại. Niệm định hữu này (đồng phẩm định hữu tánh) đối với kia không có chỗ nơi, niệm biến vô này (dị phẩm biến vô tánh). Vì vậy do sinh hiểu quyết định này trong đây chỉ nêu ba món năng lập. Kia dẫn bổn tụng như tự mình quyết định mà thôi, hy vọng quyết định sinh người khác. Nói tôn pháp tương ưng, còn sở lập xa lìa, đây nói hai tỉ một tự hai tha. Tự tỉ nơi chỗ địa vị của đệ tử, lại có hai: Một là so sánh tướng như thấy khói là tướng của lửa biết chắc sẽ có lửa; hai là so sánh lời nói nghe thầy nói so lường mà biết. Đối với hai lượng này tự sinh ra quyết định. Tha tỉ nơi chỗ vị sư chủ cùng đệ tử, khởi sự suy lường đó hy vọng người khác sinh hiểu biết. Hai câu trên như thứ tự riêng phối hợp, luận kia tự giải thích hai câu, vì đối với chỗ so sánh hiển tôn pháp tánh nên nói nhân. Vì hiển rõ tánh không rời nhau này nên nói dụ (thuận thành nghịch thành tôn nhân tánh không rời nhau tức là hai dụ), vì hiển chỗ so lường này nên nói tôn. Ba tướng của nhân, pháp tánh của tôn cùng tôn sở lập gọi là tương ưng. Lời xưa giải thích nói, xa lìa kia trừ không này còn chi phần, do đó ngăn trừ con xem xét kỹ và cùng hợp kết tức là luận thuyết chỉ có lời nói này vì lựa chọn riêng. Các ngoại đạo lập chi phẩm xét. Lập địch đều chưa lập luận, trước tiên sinh xét kỹ hỏi định tôn luống uổng dùng làm phương tiện lời nói trình bày ra tôn. Tập lượng phá rằng, do cha mẹ sinh ra thân ông mới có thể lập luận, lại nhờ người làm chứng ngôn ngữ đồ dùng sân tòa… mới được lập luận đều lẽ ra gọi là năng lập. Lập là trí sinh, hy vọng người khác là tôn trí vì đều càng xa lìa, còn chẳng phải năng lập huống chi các pháp khác? Cổ sư đã lập ba chi tám, bốn, ba… làm chi năng lập đều chẳng phải đích thân trội hơn cho nên không nói. Chi hợp kết đó lìa nhân dụ không nên không riêng lập vì tánh thù thắng, trong lỗi của dụ không có hợp đảo hợp lỗi vì tăng thắng, nên gọi là tợ lập, đến văn sau sẽ biết. Luận rằng: “Tuy ưa thành lập do cùng hiện lượng… tương vi nên gọi là tợ lập tôn”. Thuật rằng: Theo trong đó nêu mà giải thích, đại văn có sáu. Từ đây sắp xuống thứ hai sẽ giải tợ lập, có hai đoạn văn, ban đầu riêng giải tợ, sau kết chẳng phải chân. Trong đoạn ban đầu có ba: 1). Giải thích tợ tôn. 2). Giải tợ nhân. 3). Giải tợ dụ. Ban đầu lại có hai trình bày đã nói có lỗi chẳng chân và tùy nêu tợ sẽ chỉ giải thích kết. Lại vì có hai đương thời lạc vi và hậu thời lạc Tiền lạc vi sở lạc đương thời, tợ tôn sở lập. Hậu thời lạc via cho nên ưa thích làm lời nói nghóa thông chân tợ, trước là đem lạc đương thời, vì lựa chẳng phải sở lạc đương thời. Cho nên tợ tôn chẳng phải là chân tôn, luận thuyết tuy ngôn ngữ nghóa gần lỗi đức. Mặc dù lại đoạn trước nói lạc đã thành lập gọi là tôn, đây là đức, vì đương thời lập, vì không có các lỗi. Hoặc cùng hiện lượng tương vi cho nên hậu thời lạc vi, chẳng phải sở lạc của đương thời, gọi là tợ lập tôn đây là lỗi, vì hậu thời lập, vì có các lỗi. Đoạn này tuy nói cũng hiển bất định, muốn hiển lạc vi thông cả nay sau hai thời bất định. Trước lạc đương thời đã lập gọi là tôn, hậu thời lạc vi gọi tợ lập tôn, nay hiển hậu lạc nên gọi tợ tôn. Luận rằng: “Cho rằng hiện lượng tương vi, tỉ lượng tương vi, tự giáo tương vi thế gian tương vi, tự ngữ tương vi”. Thuật rằng: Trình bày dưới đây sẽ tùy theo nêu tợ chỉ giải thích hết có ba: Theo đó nêu ví dụ, theo ví dụ chỉ pháp và tùy đó giải thích kết lại. Liệt kê tên có hai: Theo xưa và theo nay. Đây là theo xưa. Ngài Trần Na chỉ lập năm lỗi này, ngài Thiên Chủ lại thêm bốn lỗi nữa. Cho nên Lý Môn luận nói, chẳng phải nghóa tương vi kia có thể khiển trừ, nghóa như trước đã nói. Nếu theo văn kết, hoặc liệt kê có ba ban đầu hiển trái pháp, kế hiển chẳng có, sau công hư luống đây là ban đầu. Trái pháp có hai tự giáo tự ngữ, chỉ trái tự mình mà thành lỗi, còn ba loại kia trái tự cộng mà thành lỗi. Lại trí hiển tỉ trái lập - địch, tự giáo trái với chỗ nương tựa, thế gian y thắng nghóa mà không trái nghịch, nương thế tục mà có phạm tội. Căn cứ vào thế gian lập nghóa, trái nghịch với lý trí thế gian, pháp lập luận của tự ngữ có thể có nghóa, thể căn cứ vào nghóa giải thích. Lập địch cùng chấp nhận, sau không thuận trước nghóa chẳng phù hợp thể, nêu tôn đã trái ngược rồi thì năng lập đâu thuận thành. Cho nên năm loại tương vi này đều thuộc lỗi. Luận rằng: “Năng biệt bất cực thành, sở biệt bất cực thành, câu bất cực thành” Thuật rằng: Trình bày hoặc làm hai khoa sẽ theo thời nay liệt kê: Ban đầu ba thiếu chỗ nương sau một nghóa thuận. Hoặc thành ba khoa sẽ hiển bày chẳng có, tôn chẳng phải cả hai chấp nhận, y chắc cùng thành. Y nếu không thành, tôn y làm sao lập? Vả lại, như chi nhân không thiếu thắng quả có thể thành, các chi đã thiếu thắng quả đâu thể thành lập được. Vì vậy y chẳng có tôn nghóa không thành. Luận rằng: “Tương phù cực thành”. Thuật rằng: Đây hiển bày công rỗng không đối địch luận tranh tôn, vốn do lý phản nghịch. Lập tôn thuận địch luận luống bỏ công của mình nên cũng thuộc về lỗi. Luận rằng: “Hiện lượng tương vi trong luận này như nói âm thanh chẳng phải bị nghe”. Thuật rằng: Từ đây sắp xuống là phần thứ hai, tùy nêu chỉ pháp đồng khoa trước liệt kê. Trong đây lựa chọn giữ gìn, vả lại chỉ rõ đồng nhất. Thể của hiện lượng lập địch thân chứng pháp tự tướng trí, do tướng thành tôn vốn phù hợp trí cảnh, lập tôn đã trái chánh trí, khiến trí đâu được hội chân, như thế nhó căn là hiện thể kia đây cực thành, còn âm thanh là hiện đắc xưa nay cùng chấp nhận. Nay theo tôn sở lập nào chỉ nói âm thanh chẳng phải bị nghe, bèn trái lập địch chứng trí nên gọi là hiện lượng tương vi, đây có toàn phần nhất phần từ ác. Toàn tứ cú, có trái tự hiện lượng chẳng phải tha. Như Thắng luận sư đối Đại thừa đồng dị đại hữu, chẳng phải ngũ căn được. Tôn kia tự chấp nhận hiện lượng được, mặc dù đây cũng có trái giáo tương phù. Nay chỉ trình bày trái tự hiện lượng, có trái tha hiện chẳng có tự. Như đệ tử Phật đối Thắng luận, cảm giác, ưa muốn, sân giận chẳng phải cảnh ngã hiện, vì tôn kià nói là ngã hiện đắc. Tuy có tự năng biệt bất thành này. Nay đây chỉ lấy trái tha hiện lượng, có trái cộng hiện, nghóa là luận đã trình bày. Tất cả đều chấp nhận âm thanh bị nghe, mặc dù đây cũng trái giáo thế gian, nay chỉ lấy trái cộng hiện lượng, có cả hai đều chẳng trái. Như trước đã nói âm thanh là vô thường. Nhất phần tứ cú, có trái với bản thân một phần hiện chẳng phải tha, như Thắng luận lập tất cả tự đại, chẳng phải cảnh của nhãn căn. Kia nói phong đại và ba món cực vi chẳng phải nhãn căn đắc, ba loại thô có thể đắc. Nay nói tất cả trái tự một phần, mặc dù đây cũng có các lỗi trái giáo. Nay lấy trái hiện, có trái tha một phần hiện chẳng phải tự. Như đệ tử Phật đối Thắng luận sư địa - thủy - hỏa ba đại chẳng phải mắt bị thấy. Kia nói ba món thô là mắt đã thấy, cực vi chẳng thấy, nên trái một phần có đều trái một phần hiện. Như Thắng luận sư đối đệ tử Phật lập sắc hương vị đều chẳng phải mắt thấy, chỉ có sắc là mắt thấy. Kia đây cùng biết, ngoài ra đều chẳng thấy, gọi là trái cộng một phần. Mặc dù đây cũng có một phần trái tự giáo thế gian tương phù, nay chỉ lấy đều trái một phần, đều không trái một phần. Như đệ tử Phật đối Số luận sư cho rằng tự tánh ngã thể đều chuyển biến vô thường, tuy trái lời dạy đó vì chẳng phải hiện lượng. Trong hai loại tứ cú này trái tha không đều không trái, đồng thời chẳng thuộc lỗi. Lập tôn vì muốn trái lại hại tha, trái tha chẳng có lỗi huống chi đều không trái? Trái tự và cộng đều là thâu vào lỗi. Hiện tỉ lượng… lập đủ nghóa, nay đã trải thì không có chỗ gần nương tựa, y gì lập nghóa? Trong luận chỉ pháp y cộng toàn trái, ví dụ các câu khiến cho đều gần như hết thảy, đây ban đầu chỉ bày pháp lược hiển phương góc. Dưới đây sẽ trình bày lỗi chẳng phải không có các lỗi. Đã dừng lại nơi tụ nghóa, đều nên chuyển theo đây giải thích. Luận rằng: “Tỉ lượng tương vi như nói bình… là thường”. Thuật rằng: Đây là trình bày thể của tỉ lượng. Nghóa là, chứng minh địch nhờ lập luận chủ, hay lập các tướng mà quán nghóa trí. Tôn nhân thuận nhau, tha trí thuận sinh, tôn đã trái với nhân, tha trí ngược lại khởi, nên tôn sở lập gọi là tỉ lượng tương vi. Ý này nói kia đây cùng chấp nhận bình có tánh tạo tác, quyết định vô thường. Nay lập làm thường, tôn đã trái nhân, khiến cho nghóa tương phản. Vì nghóa tương phản nên tha trí sinh, do đây tôn có lỗi gọi tỉ lượng tương vi, cũng có toàn phần nhất phần tứ cú. Toàn phần tứ cú có trái tự tỉ lượng chẳng phải tha, như Thắng luận sư lập hòa hợp cú nghóa chẳng thật có thể. Tôn kia tự chấp nhận vì so sánh biết có, có trái tha so sánh chẳng phải tự, như Tiểu thừa đối Đại thừa mà thành lập. Đệ nhất Mạt-na thức nhất định chẳng phải thật có, Đại thừa trừ Phật tỉ lượng biết có. Như nhãn căn… là sáu chỗ nương. Có trái cộng tỉ tức luận đã trình bày, kia đây so sánh biết bình vô thường. Nhất phần tứ cú có trái tự một phần so sánh chẳng phải tha. Như Thắng luận sư đối Phật pháp: Ngã sáu cú nghóa đều chẳng thật có. Kia nói, năm món hiện lượng trước đã đắc, hòa hợp một câu và tỉ lượng biết được. Có trái tha một phần so sánh chẳng phải tự. Như Đại thừa đối tất cả (hữu) có, nói mười sắc xứ nhất định chẳng thật có. Kia nói ngũ căn, trừ ngoài Phật rồi vì đều so sánh được. Có trái cộng một phần tỉ, như Minh luận sư đối Phật pháp lập tất cả âm thanh là thường, tôn. Kia tự nói, Minh luận âm thanh thường có thể thành tôn nghóa, trừ ngoài âm thanh này, kia đây đều nói thể là vô thường cho nên thành một phần. Hoặc tha toàn phần tự tôn một phần, trái tỉ lượng kia đồng hiện lượng trước. Toàn và một phần đều có cùng chẳng trái ngược, dễ nên không tường thuật lại, dưới đều căn cứ biết được. Trái tự và cộng có thể thuộc lỗi này, trái tha chẳng có lỗi. Hoặc đều chẳng trái hoặc chẳng phải lỗi này có lỗi tương phù, vì lập lượng vốn muốn trái tha tỉ. Trong uận chỉ pháp y cộng toàn trái ngoài ra căn cứ biết như vậy, trong đây chỉ rõ tự tướng của tôn pháp tỉ lượng tương vi. Hầu như nhẫn cũng có sai biệt hữu pháp, hữu pháp tự tướng. Hữu pháp sai biệt tỉ lượng tương vi, nhân trái tôn dụ đã có bốn lỗi, tôn trái nhân dụ lẽ ra cũng có bốn lỗi, vì e văn dài dòng rối khó hiểu, cho nên lược bỏ. Đến tương vi quyết định sẽ hiển bày đầy đủ. Luận rằng: Tự giáo tương vi tức như Thắng luận sư lập âm thanh là thường”. Thuật rằng: Tự giáo có hai: Một là hoặc lập thừa giáo tự tôn của thầy đối với cái dị học của người khác. Hai là hoặc không quán xét lập luận tùy đó thành giáo. Nay đây chỉ nêu thừa giáo tự tôn, đối với dị học của phàm chỗ tranh lý ắt có chứng cứ. Nghóa đã trái với tự tôn, chỗ tranh luận đâu có chứng cứ cũng có toàn phần nhất phần tứ cú. Toàn tứ cú có trái tự giáo chẳng phải tha như luận thuyết là đúng. Có trái tha giáo chẳng phải tự. như đệ tử Phật đối Thanh luận sư lập âm thanh vô thường. Có trái cộng giáo như Thắng luận sư đối đệ tử Phật lập âm thanh là thường. Nhất phần tứ cú, có trái tự một phần giáo chẳng phải tha, như Hóa Địa Bộ đối Tát-bà-đa lập ba đời chẳng có, vì trái tự tôn hiện đời có. Có trái tha một phần giáo chẳng phải tự, như Hóa Địa Bộ đối Đại thừa sư, lập chín pháp vô vi đều có thật thể, trái Đại thừa sư trừ ngoài chân như vì không có thật thể. Có trái cộng một phần giáo như Kinh bộ sư đối tất cả có (hữu), lập sắc xứ sắc đều chẳng phải thật có, thô tế chẳng thật có thể đối thành tôn. Tôn kia cùng chấp nhận cực vi thật có, trái cộng một phần, trái tha toàn tự thành một phần. Hai loại tứ cú trên đây chỉ trái tha cú chẳng thuộc lỗi, trái tự và cộng đều thuộc lỗi, lẽ ra như trước đã nói. Tuy càng trái giáo cũng thuộc lỗi, chỉ lấy một phần trái tự làm lỗi, cho nên luận chỉ nói tự giáo tương vi, dẫn tự làm chứng tha chưa tin theo pháp năng lập, vì quyết cực thành. Đối địch trình bày tôn, vì hẳn trái tranh luận, trái tự nhờ chứng cứ bèn thành lỗi, vì hủy bỏ trái nghịch điều sư không có tôn bẩm thọ. Hoặc đều không trái mặc dù không có lỗi này ắt có lỗi tương phụ cực thành. Luận rằng: “Thế gian tương vi như nói ngọc thỏ chẳng phải mặt trăng có. Lại như nói nhân đảnh cốt tịnh chúng sinh phần cũng như ngọc bối”. Thuật rằng: Đây là trình bày có thể phá hoại nghó. Có nghóa dời đổi lưu chảy gọi là thế (đời), đọa trong đời nên gọi là gian. Theo Đại Bát-nhã thế gian xuất gọi thế gian, vì tạo thế gian vì do thế gian, vì y thế gian nên gọi thế gian. Đầy đủ như kinh Bát-nhã quyển thứ 500 nói có hai loại này: Một là chẳng học thế gian trừ các học giả, còn lại thế gian đã chấp nhận pháp. Hai là học giả thế gian, tức là các vị Thánh đã biết pháp thô, hoặc pháp thâm diệu bèn chẳng phải thế gian. Ban đầu chẳng phải người học thế gian tức đây đã nói mặt trăng là nghó đến thỏ, xương sọ người bất tịnh. Vì tất cả cùng biết mặt trăng có con thỏ, nên nói nhân duyên này. Như bộ Tây Vức Ký ghi thế gian cùng biết xương sọ người chết là bất tịnh. Hoặc các nhà ngoại đạo đối đệ tử Phật, hữu pháp không lựa chọn chỉ nói chung nghó nhớ đến thỏ chẳng phải mặt trăng, vì do có thể như mặt trời ngôi sao… Tuy nhân dụ đúng mà tôn trái thế gian nên gọi là lỗi, nhưng luận chỉ có tôn nhân không có dụ. Theo Lý Môn luận, hoặc trong đó do bất cộng, không có tỉ lượng vì cực thành mà nói khiến trừ nghóa tương vi. Như nói ôm thỏ chẳng phải ở mặt trăng có, ý luận kia hiển bày vì do không cùng thế gian nhưng chung điều có biết, không có đạo lý có thể thành tỉ lượng. Khiến cho người không tin họ nghó nhớ con thỏ chẳng phải mặt trăng nên thành lỗi, chính cùng đây đồng. Luận này lại nói, như ngoại đạo Ca-ba-ly, đây gọi là Kết man, xâu sọ người dùng làm đồ trang sức đeo, có người chê bai bèn lập lượng rằng: Tôn là “cốt đỉnh đầu người là tịnh”, nhân vì chi phần của chúng sinh, dụ cũng như ngọc bội. Năng lập nhân dụ tuy không có lỗi, tôn trái thế gian cũng thành bất tịnh, do đó thành lỗi, hai điều này đều chẳng phải học thế gian, chỉ có vi cộng (trái cộng đồng) không có tự tha… Văn tuy nói toàn bộ, lý cũng nên có một phần trái ngược, hoặc có hòa hợp nói hoài thế chẳng phải mặt trời mặt trăng. Chỉ có một phần mặt trăng trái cộng thế gian vì mặt trời không trái. Hỏi: Vả lại, như Đại sư chu du Tây Vức học tất cả sắp trở về, lúc ấy Giới Nhựt Vương là vua của năm nước ở Ấn Độ và Sư tổ chức mười tám ngày không ngăn đại hội, truyền lịnh cho Đại sư lập nghóa khác. Các nơi ở Thiên trúc lựa chọn bậc hiền tài đều vân tập lại một nơi để tranh luận cật vấn loại trừ ngoại đạo Tiểu thừa. Đại sư lập lượng, người đương thời chẳng ai dám đương đầu đối đáp. Đại sư lập tỉ lượng Duy thức tôn là chân nên cực thành sắc không rời nơi nhãn thức, nhân tự chấp nhận ba loại ban đầu thuộc nhãn vì không nhiếp, dụ cũng như nhãn thức, tại sao không phạm thế gian tương vi. Thế gian cùng nói vì sắc lìa thức? Đáp: Luận về pháp Nhân Minh trong lúc năng lập hoặc có lựa riêng bên không có lỗi, hoặc tự tỉ lượng do chấp nhận lựa chọn hiển bày các lỗi tự chấp nhận không có tha tùy nhất. Hoặc tha tỉ lượng ông chấp các lời lựa chọn không có lỗi trái tôn, hoặc cộng tỉ lượng… dùng thắng nghóa nói lựa chọn, không có lỗi trái tự giáo thế gian. Tùy chỗ ứng đó đều có nêu sự lựa chọn, trong tỉ lượng này có chỗ lựa riêng nên không có các lỗi, hữu pháp gọi là chân, rõ y thắng nghóa không y thế tục, vì vậy không trái với chẳng học thế gian. Lại hiển bày ý nghóa thù thắng của Đại thừa mà lập, chẳng y Tiểu thừa, cũng không trái giáo lý A-hàm lìa sắc có thức, cũng không có lỗi trái với Tiểu thừa học giả thế gian, nên gọi là cực thành. Lựa bỏ Tiểu thừa hậu thân Bồ-tát nhiễm ô các sắc, tất cả sắc thân hữu lậu của Phật, hoặc lập thành Duy thức bèn có một phần tự sở biệt không thành, cũng có lỗi một phần trái tôn. Sắc thân của chư Phật mười phương và sắc thân vô lậu của Phật họ không chấp nhận có lập làm Duy thức, có tha một phần sở biệt không thành. Hai nhân này đều có tùy nhất một phần sở y bất thành, nói cực thành gọi là lựa chọn nơi đây, vì lập hai điều còn lại cùng chấp nhận các sắc làm Duy thức. Theo Nhân thì bất nhiễm đầu ba nhiếp hiển sáu và ba trong mười tám giới đã thuộc ba món ban đầu, trái tôn nghóa là hoặc không nói ba tướng ban đầu đã nhiếp, vì chỉ nói nhãn đã không nhiếp, bèn có lỗi bất định sắc cực thành. Vì như nhãn thức không thuộc nhãn nhất định không lìa nhãn thức, vì như năm, ba nhãn chỗ không nhiếp, sắc cực thành nhất định lìa nhãn thức. Hoặc chấp nhận năm, ba nhãn đã không nhiếp cũng không lìa nhãn thức, bèn trái tự tôn vì lựa bỏ lỗi này nên nói thuộc ba món ban đầu. Nhãn kia đã không thuộc cũng lựa bất định và pháp tự tướng quyết định tương vi, cho rằng nếu không nói nhãn đã không nhiếp, chỉ nói ba tướng ban đầu đã nhiếp, phát ra lời nói bất định, sắc cực thành vì như nhãn thức thuộc ba tướng ban đầu nên nhất định không lìa nhãn thức, vì như nhãn căn, thuộc ba tướng ban đầu nên chẳng định không rời nhãn thức. Do Đại thừa sư nói nhãn căn đó, chưa chắc hoàn toàn nói lìa nhãn thức, cho nên bất định này chẳng phải định không lìa nhãn thức, không được nói định nhãn thức, khởi lên lời nói pháp tự tướng tương vi. Chân cho nên cực thành sắc chẳng phải không lìa nhãn thức, vì thuộc ba tướng ban đầu, cũng như nhãn căn, do đây lại có quyết định tương vi. Vì lựa bỏ hai lỗi này nên nói đã không thuộc nhãn. Nếu như vậy đâu cần tự chấp nhận lời nói? Vì ngăn lỗi hữu pháp sai biệt tương vi nên nói tự chấp nhận, chẳng phải hiển bày cực thành sắc. Đã thuộc ba tướng ban đầu, đã không nhiếp nhãn, tha đã không thành, chỉ tự chấp nhận, nghóa là chân cho nên cực thành sắc là tự tướng của hữu pháp không lìa nhãn thức là pháp tự tướng. Định lìa nhãn thức căn, chẳng định lìa nhãn thức là hữu pháp sai biệt, ý lập chấp nhận không lìa nhãn thứcsắc, người ngoài bèn khởi lời sai biệt tương vi. Sắc cực thành chẳng phải không lìa nhãn thức sắc, đã thuộc ba tướng ban đầu vì đã không nhiếp nhãn, cũng như nhãn thức, vì ngăn lỗi này nên nói tự chấp nhận, cùng tỉ lượng kia khởi lời bất định sắc cực thành. Vì như nhãn thức đã thuộc ba tướng ban đầu vì không nhiếp nhãn, chẳng phải không lìa nhãn thức sắc, vì như tự chấp nhận sắc thân của Phật ở phương khác, đã thuộc ba tướng ban đầu vì đã không nhiếp nhãn là không lìa nhãn thức sắc. Hoặc nhân không nói tự chấp nhận tức là không được dùng sắc thân Phật ở phương khác làm bất định, vì lời nói này liền có lỗi tùy nhất. Ông lập tỉ lượng đã có lỗi này, chẳng phải chân thật bất định, phàm hiển lỗi người khác hẳn tự mình phải không có lỗi, thành chân năng lập vì quyết không có tợ. Rõ ràng đoạn trước đã lập không có hữu pháp sai biệt tương vi nên nói tự chấp nhận. Nhưng có Pháp sư Tân La Thuận Cảnh, làm chấn động cả học giới thời Đường, kể cả Tiểu thừa lẫn Đại thừa. Sư suốt đời tôn sùng ngài Ca-diếp, thường vâng lệnh tu hành nơi Đỗ Đa, tâm tánh đạm bạc, bạc hằng rong ruổi theo sự thành thật đối với sự ít muốn, đã ẩn tích tài năng nơi Tây Hạ. Bấy giờ, có truyền chiếu Đông đi tên là Đạo Nhật Tân, được kẻ đạo người tục đều kính phục. Tuy long tượng kia không thiếu, lúc ấy có hải ngoại xưng Độc Bộ, với tỉ lượng này tạo quyết định tương vi. Niên hiệu Kiền Phong gởi thỉnh Sư giải thích rằng: Chân thật cho nên cực thành sắc định lìa nơi nhãn thức, tự chấp nhận thuộc ba tướng ban đầu vì nhãn thức không nhiếp, cũng như nhãn căn. Lúc ấy vì họ mà giải thích luận về pháp Nhân minh hoặc tự tỉ lượng trong tôn nhân dụ đều phải y tự, tha cùng cũng như vậy, lập y tự tha cộng, địch đối cũng phải như vậy gọi giỏi Nhân minh lời sở không có lầm sai. Đoạn trước nói Duy thức y cộng tỉ lượng, nay y tự lập tức tất cả lượng đều có lỗi này. Như đệ tử Phật đối Thanh sinh luận lập “âm thanh vô thường”, vì sở tác tánh tí như bình…, Thanh sinh luận nói “âm thanh là thường”, đó vì tánh tạo tác, như tự chấp nhận tánh của âm thanh. Lẽ ra trước suy lượng quyết định tương vi kia đã không thành, cho nên y tự tỷ, không thể đối cộng mà thành tỉ lượng. Lại tôn y cộng đã nói cực thành, nhân gọi tự chấp nhận chẳng thuận, phù hợp nhau, còn Nhân bèn có lỗi tùy nhất bất thành. Đại thừa không chấp nhận, kia tự chấp nhận vì không thuộc nhãn thức, vì Nhân đối với cộng sắc chuyển. Còn đồng dụ cũng có sở lập thành, Đại thừa cho rằng nhãn căn chẳng phải định lìa nhãn thức, căn là Nhân thức là Quả, vì chẳng phải định tức ly. Huống chi thành sự trí, thông duyên nhãn căn, sơ sở duyên duyên cùng năng duyên nhãn thức có nghóa định lìa nhau. Lại nói tự chấp nhận y cộng tỉ lượng, lựa tha hữu pháp sai biệt tương vi. Địch luận gọi tự chấp nhận, hiển bày y tự tỉ không thuộc nhãn thức, đâu thuận tương phù. Còn hai hoại tôn dụ tỉ lượng kia đều y cộng tỷ, chỉ có Nhân y tự đều trái nghịch nhau, cho nên tuy lời rất tỉ mó chung khởi mà chưa có thể làm kim chỉ nam. May mắn có thể lại làm chuẩn mực xét văn trước, lẽ ra cũng đủ làm cho lý cùng tột. Nhân trên đây gần như luận bàn đầy đủ tôn của các luận sư, vì trong tôn đã nêu chân, không có lỗi trái với thế gian. Như trên nói gọi là chẳng phải học thế gian. Hai là học giả thế gian: Vì rất nhiều người học cùng biết, hoặc trái hai nghóa cạn sâu đều được gọi trái tự giáo. Hoặc trái với nghóa cạn cợt cũng được gọi trái thế gian, nghóa sâu xa mầu nhiệm vì chẳng phải thế gian đã cùng biết, cũng có toàn phần nhất phần tứ cú là lỗi chẳng phải lỗi, đều đã giải thích như trong tự giáo tương vi. Trái học giả thế gian vì quyết trái tự giáo, trong luận chỉ có câu trái nghịch chẳng phải học thế gian toàn phần, ngoài ra gần như định nhiên. Hoặc tôn nêu thắng nghóa như cầm báu trong lòng bàn tay, chân tánh hữu vi như hư không, vì như huyễn duyên sinh. Vô vi không thật có chẳng khởi dường như hoa đốm giữa hư không, cũng chẳng có các lỗi trái tự giáo thế gian. Luận rằng: “Từ ngữ tương vi, như nói mẹ tôi là thạch nữ”. Thuật rằng: Đây là trình bày sở y của tôn, nghóa là pháp và hữu pháp. Hữu pháp là thể, pháp là nghóa kia, nghóa y thể không trái nhau có thể thuận lập nhau. Nay nói mẹ tôi rõ biết có con, lại nói thạch nữ thật rõ ràng không có con. Thể của mẹ tôi cùng nghóa thạch nữ, hữu pháp và pháp không y thuận nhau, tự nói đã tương phản rồi, đối địch làm sao lập luận cho nên bị lỗi. Thạch nữ chánh phản nên là người nữ hư vô, nay thuận theo xưa dịch còn tên thạch nữ. Theo Lý Môn luận, như lập tất cả ngôn từ đều là hư vọng, nghóa là có ngoại đạo lập tất cả ngôn từ đều là hư vọng. Ngài Trần Na nạn vấn rằng: Nếu như ông nói các ngôn từ là hư vọng thì điều ông đã nói, danh xưng ấy có thể làsự thật, đã chẳng phải hư vọng vì có một phần thật, bèn trái ngôn từ tất cả hữu pháp. Hoặc ông đã nói tự là hư vọng, ngoài lời nói không hư vọng, ông nay dối chẳng phải vọng tạo vọng. Lời ông nói đã hư vọng, lời người khác không hư vọng, bèn trái tôn pháp đều gọi là vọng, cho nên gọi là từ ngữ tương vi. Hoặc có y giáo gọi là tụ ngữ, trong đây cũng có toàn phần nhất phần hai loại tứ cú. Toàn tứ cú có trái tự ngữ chẳng phải tha như thuận thế gian ngoại đạo đối hư không luận bàn. Tứ đại không thật có, kia nói tứ đại chắc chắn phải không thật có, họ nói không thật hẳn chẳng phải tứ đại, do trái tự giáo tự ngữ chẳng phải tha. Có trái lời nói người khác chẳng phải tự. Như Phật pháp đối Số luận nói, ngã chẳng phải thọ giả, họ đã nói ngã chắc chắn chẳng phải phi thọ giả. Nếu chẳng phải thọ giả hẳn chẳng phải ngã đó, nên trái tha giáo tha ngữ chẳng phải tự, có chung trái tự tha ngữ, nghóa là như tất cả ngôn từ đều là hư vọng. Đây dựa vào câu trái giáo mới có các câu, vì vậy đây một phần cú, cũng tức là một phần tự giáo tương vi trước. Nghóa gần như đủ. Trong hai loại tứ cú trái tự và cộng đều thuộc lỗi này, trong phần trái cộng kia trái tha chẳng có lỗi trái tự thành lỗi. Cho nên đây chỉ gọi là tự ngữ tương vi, mặc dù đều không trái chẳng thuộc lỗi này, cả hai giống nhau chắc chắn có lỗi tương ưng phù cực thành, vì vậy cũng thuộc lỗi. Chỉ có trái với tha đều chẳng thuộc lỗi, vì vốn hại tha. Đây nói quyết định tự ngữ tương vi, cũng có lưỡng câu tùy nhất toàn phần do dự tự ngữ tương vi. Vì sợ văn rườm rà nên dừng lại, đến phần “bất thành” sẽ hiển bày đầy đủ. Luận rằng: “Năng biệt bất cực thành như đệ tử của Phật đối Số luận sư lập thanh diệt hoại”. Thuật rằng: Được phân làm hai khoa: Khoa trên giống xưa, khoa dưới giống nay. Tợ nay có hai: Ban đầu tam khuyết y, sau một nghóa thuận. Hoặc phân làm ba khoa: Đầu là năm loại hiển trái pháp, rõ nghóa trái nhau; kế tam hiển phi hữu, rõ sở y không. Sơ kiếp thành có ngoại đạo xuất hiện tên là Kiếp-tỷ-la, Trung Hoa dịch là Tiên nhân Huỳnh Xích Sắc, vì râu tóc sắc diện đều màu vàng đỏ, xưa gọi là tiên nhân Ngoa-ca-tỳ-la. Đệ tử sau cùng của ông ta đứng đầu trong mười tám bộ, tên là Phiệt-lý-sa, đây gọi là Vũ, vì sinh lúc trời mưa; đồ đảng của vũ gọi là vũ chúng. Tiếng Phạm là Phật Xà-tát-đỏa-la, Trung Hoa dịch là Số luận, nghóa là dùng trí số tính đếm các pháp, từ số khởi luận và tạo số kia gọi là Số luận sư. Họ nói hai mươi lăm đế, lược có ba, trung bình là bốn, đầy đủ có hai mươi lăm đế. Lược có ba nghóa là tự tánh, biến dịch và ngã tri. “Tự tánh” Cổ Nhân Minh gọi là minh tánh, vì chưa thành đại… nên gọi tự tánh, sắp thành đại cũng gọi thắng tánh, vì thù thắng khác xưa. “Biến dịch” nghóa là hai mươi ba đế trung gian chẳng phải thể mới sinh, vì tự tánh căn bản chuyển biến. “Ngã tri” nghóa là thần ngã, vì cảnh hay thọ dụng có diệu dụng. Bậc trung có bốn là: (1) Bổn mà chẳng phải biến dịch gọi là tự tánh, hay thành cái khác gọi bổn, chẳng phải cái khác thành nên không phải biến dị; (2) Có biến dị mà chẳng phải bổn. Có hai nghóa này: một là mười sáu đế nghóa là mười một căn và năm đại; hai là mười một chủng tử trừ năm đại; (3) Cũng có bổn cũng biến dị, cũng có hai nghóa: một là bảy đế nghóa là đại ngã chấp năm duy lượng; hai là mười hai loại nghóa là bảu đế trước và năm đại hay thành tha cho nên gọi là bổn, vì tha thành nên gọi biến dị; (4) Phi bổn phi biến dị, nghóa là thần ngã vì không thể thành tha, chẳng phải tha thành. Đầy đủ là hai mươi lăm đế: (1). Tự tánh, (2). Đại, (3). Ngã chấp, (4). Ngũ duy, (5). Ngũ đại, (6). Ngũ tri căn, (7). Ngũ tác nghiệp căn, (8). Tâm bình đẳng căn, (9). Ngã tri giả. Chín pháp này khai thành hai mươi lăm đế nghóa là sơ tự tánh, tổng danh tự tánh, biệt danh ba đức. Tát-đỏa Thích-xà Đáp-ma, vì mỗi mỗi có ba loại đức. Ban đầu nói Tát- đỏa, Trung hoa dịch có nghóa là hữu tình và dũng kiện, nay lấy nghóa dũng kiện. Thích-xà dịch vi cũng gọi là trần bộn, nay lấy nghóa trần, Đáp-ma dịch là ám, ám độn. Tự tánh chánh gọi là dũng trần ám. Ba đức như thứ tự cổ gọi là nhiễm thô hắc, nay gọi Huỳnh xích hắc. Theo bổn xưa gọi là hỷ ưu xả; nay gọi là tham, sân, si; bổn xưa gọi là lạc khổ si nay gọi là lạc khổ xả. Do ba đức này là nhân sinh tử: Thần ngã, bổn tánh, giải thoát, thắng cảnh ngã tư. Ba đức chuyển biến ngã chính là thọ dụng bị cảnh ràng buộc không đắc Niết-bàn. Sau nhàm chán tu đạo, ta đã không suy nghó, tự tánh không biến đổi, ngã lìa cảnh ràng buộc liền được giải thoát. Trung gian hai mươi ba đế mặc dù vô thường mà là chuyển biến, chẳng phải có sinh diệt, tự tánh thần ngã, dụng hoặc có hoặc không, thể là thường trụ, song các pháp thế gian không hoại diệt. Đầy đủ như Kim Thất Thập luận và Duy Thức sớ giải. Nay đệ tử Phật đối Số luận sư lập thanh hoại diệt, thanh là hữu pháp, kia đây tuy chấp nhận tông pháp hoại diệt, tha chỗ không thành, vì thế gian không có. Tổng không biệt y lẽ ra lại phải lập vì chẳng phải chân tông cho nên bị mất, các nghóa như thế trên đây đều đã nói. Đây có toàn phần, một phần tứ cú. Toàn tứ cú có tự hay bất thành chẳng phải cái khác. Như Số luận sư đối đáp đệ tử Phật: sắc thanh… năm tạng thức hiện biến, hữu pháp sắc… tuy cộng thành đây. Tạng thức biến hiện tự tông chẳng phải có, hữu tha hay phân biệt bất thành chẳng phải tự. Như luận đã trình bày, lập thanh hoại diệt, hữu câu hay phân biệt không thành. Như Số luận sư đối đệ tử Phật nói sắc… năm, đức cú thâu nhiếp, vì kia đây thế gian vô đức nhiếp. Một phần tứ cú có tự một phần năng biệt bất thành chẳng phải cái khác. Như Tát-bà-đa đối với Đại thừa nói sở tác sắc, đại chúng tạng thức hai pháp đã sinh. Một phần tạng thức tự tông không có, có tha một phần năng biệt bất thành chẳng phải tự. Như đệ tử Phật đối Số luận sư lập nhó căn hoại diệt có dễ dàng, có dễ tông kia có thể có, vì một phần không hoại diệt, hữu câu một phần năng biệt bất thành. Như Thắng luận đối đệ tử Phật lập sắc… năm đều từ đồng loại và tự tánh sinh. Đồng loại sở sinh cả hai đều chấp nhận có, tự tánh sở khởi cả hai đều không. Hai loại tứ cú này chỉ chung thành là đúng, ngoài ra đều chẳng nhiếp. Luận nói tha toàn phần bất thành, ngoài ra đều chuẩn theo đây. Luận rằng: “Sở biệt bất cực thành, như Số luận sư đối đệ tử Phật nói ngã là suy nghó”. Thuật rằng: Như trình bày đoạn trước Số luận sư lập thần ngã - đế - thể là thọ giả ngã suy nghó dùng các cảnh ngũ trần, tự tánh liền biến thành hai mươi ba đế cho nên ngã là suy nghó. Là suy nghó tông pháp kia đây cộng thành, vì Phật pháp có suy nghó là tâm sở, chỉ có pháp ngã, đệ tử Phật đa phần không lập, vì trừ chánh lượng ngoài ra đều không, lý như trước đã nói. Đây có toàn phần một phần tứ cú. Toàn tứ cú có tự sở biệt bất thành chẳng phải tha, như đệ tử Pháp đối đáp Số luận sư rằng: Ngã là vô thường, là pháp vô thường kia đây chấp nhận có, hữu pháp thần ngã tự sở bất thành. Nay hữu pháp này không nên chấp của ông, do đó lỗi của tông, hữu lựa khác vô, hữu tha sở biệt bất thành chẳng phải tự. Như Số luận sư lập ngã lá suy nghó, hữu câu sở biệt bất thành, như Tát-bà-đa đối đại chúng bộ, lập thần ngã thật có, thật có thể có vì ngã cả hai đều không. Một phần tứ cú, hữu tự một phần sở biệt bất thành chẳng phải ta, như đệ tử Phật đối số luận: Ngã và sắc… đều tánh là không, sắc…. chấp nhận có vì ngã tự không, tông không lựa biệt bị lỗi như trước. Có tha một phần sở biệt bất thành chẳng phải tự, như Số luận sư đối đệ tử Phật lập ngã sắc… đều thật có, vì Phật pháp không chấp nhận có ngã thể. Hữu câu nhất phần sở biệt bất thành, như Tát-bà-đa đối đáp hóa địa bộ nói ngã đến đi đều là thật có, thế có thể câu hữu, vì ngã câu không. Hai tứ cú này chỉ chung không trái nhau chẳng phải thuộc lỗi, ngoài ra đều là lỗi, luận nói tha toàn sở biệt bất thành, còn lại đều chuẩn theo đây: Hỏi: Nếu nói ngã là suy nghó sở biệt bất thành, làm sao có thể lập ngã… là hữu? Đáp: Nếu hữu lựa chọn liền có lỗi, nghóa là ngã năng thuyên ắt có tên gọi. Như sắc… các loại vì liền không có lỗi, không như vậy liền thành, trong hai lỗi tên lỗi ban đầu cũng gọi sở y bất thành, vì năng biệt có, lỗi sau cũng gọi năng y bất thành, vì sở biệt có. Cả hai đều tùy một toàn phần một phần đều đầy đủ có, do đó gọi sở lập không và năng y sở y. Căn cứ nghóa cũng có năng biệt sở biệt do dự bất thành, vì chỉ sinh ghi, đến nhân sẽ biết. Luận rằng: “Câu bất cực thành, như Thắng luận sư đối đệ tử Phật lập ngã cho là nhân duyên hòa hợp”. Thuật rằng: Đoạn trước đã nói về thiên cú một có một không, nay cả hai đều không, cho nên cũng là lỗi. Cuối kiếp thành có ngoại đạo xuất hiện tên Ôn-lộ-ca, Trung Quốc dịch Hưu Lưu, Hoa Tạng du hành ban đêm cầu lợi, người đời lấy đó đặt tên. Xưa dịch là Ưu-lâu-khư-ngoa. Sau do du hành ban đêm làm kinh động sợ tổn thương sản phụ, bèn kết thúc không đi đêm, chỉ ăn gạo xay. Do đó cũng có hiệu là Kiển-noa- bộc, tức nói ăn gạo đồng tiên nhân. Xưa dịch là Kiển-noa-đà-ngoa, cũng gọi là Phệ-thế-sử-ca, Trung Quốc dịch Thắng luận. Cổ Nhân Minh gọi Bệ-thế-sư, Vệ-thế-sư đều lầm. Ông ta tạo Lục Cú luận, thù thắng trong các luận, hoặc hơn luận người khác, cho nên gọi Thắng luận. Đây nói lục cú gồm: Thật, đức, nghiệp, hữu (trong Thập Cú luận cũng gọi là đồng, Câu-xá luận gọi tổng đồng cú nghóa), đồng dị (theo Thập Cú luận gọi Câu phần), hòa hợp. Thật, có chín loại nghóa là địa, thủy, hỏa, phong, không, thời, phương, ngã, ý. Đức, có hai mươi là sắc, hương, vị, xúc, số, lượng, biệt tánh, hợp ly, tánh này, tánh kia, giác, lạc, khổ, dục, sân, cần, dũng, trọng tánh, dịch tánh, nhuận tánh, pháp, phi pháp, hành, thanh. Nghiệp, có năm là co, duỗi, lấy, bỏ, đi. Hữu thể là một. Vì thật đức nghiệp cả ba đồng một hữu. Đồng dị, thể đa, vì thật đức nghiệp cả ba đều có tổng biệt đồng dị. Hòa hợp, chỉ có một, vì hay khiến các pháp thật… không lìa nhau hệ thuộc nhau. Người thượng thủ trong mười tám bộ tên là Chiến-đạt-la, đây dịch Tuệ Nguyệt tạo mười Cú luận. Tức ngoài sáu loại này (thật, đức, nghiệp, hữu, đồng dị, hòa hợp) còn thêm bốn là: dị, hữu năng, vô năng, vô thuyết. Đầy đủ như tông Thắng luận, Thập Cú luận và Duy thức sớ giải. Luận kia nói, địa - thủy mỗi thứ đều có mười bốn đức, thủy có mười một, phong có chín đức, không có sáu đức, thời - phương đều có năm. Ngã có mười bốn đức nghóa là số, lượng, biệt tánh, hợp ly, giác, lạc, khổ, dục, sân, cần, dũng, pháp, phi pháp, hành. Ý có tám đức. Nhân duyên hòa hợp theo Thập Cú luận thì ngã là gì? Nghóa là các nhân duyên hòa hợp giác, lạc, khổ, dục, sân, cần, dũng, pháp, phi pháp, hành… Khởi trí thành tướng gọi là ngã, nghóa là hòa hợp tánh, hòa hợp các đức cùng ngã hợp thời. Ngã là nhân duyên hòa hợp, hòa hợp mới có thể hòa hợp, khiến đức cùng ngã hợp, không như vậy liền không có năng. Ngã hữu pháp này đã không thành, nhân duyên hòa hợp này cũng chẳng có, do đó pháp hữu pháp cả hai đều không thành. Trong đây không chỉ lấy hòa hợp cũng không riêng lấy nhân duyên, đều lấy hòa hợp nhân duyên nên gọi là không thành. Không như thế liền thành tự cũng chấp nhận có. Trong đây toàn phần và một phần mỗi thứ đều có năm loại tứ cú. Sơ tứ cú có tự năng biệt không thành tha sở biệt. Như Số luận đối Thắng luận thể tự tánh là nhân duyên hòa hợp, sở biệt thà chẳng phải có, năng biệt tự không thành, hữu tha năng biệt bất thành tự sở biệt. Như Số luận sư đối Thắng luận: Thể nhân duyên hòa hợp là tự tánh, sở biệt tự chẳng phải có, năng biệt tha bất thành, hữu câu năng biệt bất thành tự sở biệt. Như Số luận sư đối Đại thừa lập A-lại-da thức là nhân duyên hòa hợp, sở biệt tự bất thành năng biệt câu chẳng phải có, hữu câu năng biệt bất thành tha sở biệt. Như Đại thừa sư đối Số luận lập tạng thức thể là nhân duyên hòa hợp sở biệt tha bất thành, năng biệt câu chẳng có. Đệ nhị tứ cú hữu tự năng biệt bất thành câu sở biệt, như Số luận sư đối Thắng luận lập tạng thức thể là nhân duyên hòa hợp, hữu tha năng biệt bất thành câu sở biệt. Như Thắng luận đối Số luận lập tạng thức thể là nhân duyên hòa hợp, hữu câu năng biệt bất thành câu sở biệt. Như Tát-bà-đa đối Đại thừa lập ngã là nhân duyên hòa hợp, hữu câu năng biệt bất thành đều chẳng phải sở biệt. Chỉ một câu này là đoạn trước nói thiên cú năng biệt bất thành hoàn toàn câu phi cú thị, bảy câu trước đều là lỗi này. Như năng biệt bất thành là đầu tiên có hai tứ cú. Sở biệt bất thành như thế làm thượng thủ, cũng có hai loại tứ cú. Tứ cú thứ nhất hữu tự sở biệt bất thành tha năng biệt, tức đệ nhị cú ở đoạn trước. Hữu câu sở biệt bất thành tự năng biệt, tức tiền đệ ngũ cú. Hữu câu sở biệt bất thành tha năng biệt, tức tiền đệ lục cú. Tứ cú thứ hai, hữu tự sở biệt bất thành câu năng biệt, tức tiền đệ tam cú. Hữu tha sở biệt bất thành câu năng biệt, tức tiền tệ tứ cú. Hữu câu sở biệt bất thành câu năng biệt, tức tiền đệ thất cú. Hữu câu sở biệt bất thành đều chẳng phải năng biệt, chẳng phải là trước nói năng biệt là câu đầu tiên. Nhưng chỉ trong câu sở biệt bất thành, hoàn toàn không phải câu đúng. Bảy câu trước đều là lỗi này nhưng đều thuộc bảy câu trước, lại không có khác. Lại nữa, hữu - tự cả hai đều không thành chẳng phải tha, như đệ tử Phật đối Thắng luận sư, lập ngã cho là nhân duyên hòa hợp. Hữu - tha cả hai đều không thành chẳng phải tự, như Thắng luận sư đối đệ tử Phật lập nghóa này. Hữu - câu cả hai đều không thành, như Tát-bà-đa đối Đại thừa lập nghóa này. Hữu-câu chẳng phải tự - tha cả hai đều không thành, như tông không có lỗi. Thứ nhất, thứ ba đều có lỗi, thứ tư không có lỗi. Trên đây hợp nói năm loại toàn câu, mỗi mỗi lìa, lại là một phần thành năm biệt cú. Lại đem các câu tự năng biệt một phần không thành, đối một phần cú khác đều lẽ ra nhất định có, tùy sở ứng các lỗi lưỡng câu, đều gọi lưỡng câu bất cực thành. Các lỗi tự tha đều gọi là tùy nhất bất cực thành, do đây cũng có các lỗi lưỡng câu tùy nhất do dự toàn phần nhất phần. Vì trong năng sở biệt đều sinh nghi, trong luận lại nói: “Tùy tha nhất toàn phần câu bất cực thành, để chỉ bày pháp kia ngoài nên căn cứ biết được”. Ba lỗi trên đây đều nói tự tướng, hoặc cả ba sai biệt cũng có bất cực thành. Như Thắng luận nói: Tứ đại chủng thường, tứ đại chủng ý chấp nhận thật chẳng phải thật nhiếp, hữu pháp sai biệt. Tông khác không chấp nhận có thật thuộc pháp, tức gọi sở biệt sai biệt tha bất cực thành. Như Số luận sư cho rằng nhãn… ắt là tha dụng, trong làm tha dụng ý chấp nhận tích tụ tha hay không tích tụ tha, đây là pháp sai biệt. Phật pháp không chấp nhận có cái không tích tụ tha, liền gọi là năng biệt sai biệt tha bất cực thành. Như Đại thừa sư đối Số luận lập tông thức năng biến sắc… trong đây có hữu pháp thức tự tướng, A-lại- da thức căn thức tâm bình đẳng, là hữu pháp sai biệt. Tông khác không chấp nhận có tạng thực sai biệt, tự không chấp nhận có tác thức tâm bình đẳng, trong tự tướng của pháp đó hay biến sắc… sinh khởi chuyển biến, thường trụ chuyển biến là pháp sai biệt. Sinh khởi chuyển biến tha không chấp nhận có, thường trụ chuyển biến tự không chấp nhận có, gọi là lưỡng câu bất cực thành. Trong bất cực thành của ba loại sai biệt đó cũng có các lỗi tự tha lưỡng câu toàn phần một phần. Sợ nhàm chán văn dài dòng nên không trình bày đầy đủ. Luận rằng: “Tương phù cực thành như nói thanh là sở văn”. Thuật rằng: Trong hai khoa, nay tợ có hai: Ba thứ trên nói thiếu y, một cái này nói rõ nghóa thuận. Nêu y ba khoa đây hiển luống uổng công đối địch với chính tông, bổn tranh đồng dị, y tông cả hai đều thuận, uổng phí công thành lập. Phàm đối dịch lập thanh sở văn vì chắc tương phù, luận không nêu chủ, đây có toàn phần một phần tứ cú. Toàn tứ cú: Có phù hợp với tha chẳng phù hợp với tự, như Số luận sư đối Thắng luận lập nghiệp hoại diệt, có phù tự chẳng phải tha, như Thắng Luận sư đối Số luận lập nghiệp hoại diệt. Hữu câu tương phù, như thanh là sở văn, hữu câu không phù hợp. Như Số luận sư đối Phật pháp lập nghiệp hoại diệt. Nhất phần tứ cú hữu phù tha, nhất phần chẳng phải tự, như Tát- bà-đa đối Số luận lập ngã ý thật có, nói ý là thật cả hai không phù hợp nhau, lập ngã thật hữu phù tha một phần. Có phù hợp tự một phần chẳng phải tha, như Tát-bà-đa đối Đại thừa lập ngã và cực vi cả hai đều thật có. Ngã thể thật có hai không phù hợp nhau, cực vi thật có phù hợp tự một phần, hữu câu phù hợp một phần, như Tát-bà-đa đối Thắng luận lập tự tánh và thanh cả hai đều vô thường. Tự tánh vô thường cả hai không phù hợp nhau, thanh là vô thường cả hai phù hợp một phần, hữu câu không phù hợp một phần, như Tát-bà-đa đối Đại thừa lập ngã thể thật có. Trong các câu này phù hợp tha cả hai phù hợp toàn phần một phần đều là lỗi này, phù hợp tự toàn phần. Hoặc là chân tông đều không phù hợp hoặc là sở biệt năng biệt bất thành, câu bất cực thành, trái giáo lý các lỗi đều như lý suy nghó. Trong luận chỉ y lưỡng câu toàn phần tương phù cực thành để trình bày pháp đó, một pháp hiện lượng như vậy co tám tứ cú, một loại tỉ lượng có bảy, cho đến một loại câu bất cực thành có một, hợp lại có ba mươi sáu tứ cú. Trong giải đáp về chín lỗi này có tự tha, cộng bất cộng toàn phần nhất phần, do đó nương nhau mỗi đế có tứ cú. Hữu là trái hiện lượng chẳng phải tỉ lượng, như tiếng chẳng phải sở văn, có trái tỉ lượng chẳng phải hiện lượng. Như nói bình là thường, có trái hiện lượng cũng như tỉ lượng, như Tiểu thừa sư đối Đại thừa lập các sắc như xúc, xứ chẳng phải định tâm được, có trái hiện lượng chẳng phải giáo pháp của mình. Như trái tha hiện chẳng phải trái tự giáo, hữu trái tự giáo chẳng phải hiện lượng. Như Thắng luận sư lập âm thanh là thường, hữu trái hiện cũng như tự giáo, vì các pháp trái tự hiện quyết trái tự giáo. Có trái hiện lượng chẳng phải thế gian. Như trái tự hiện lượng, phi lượng chẳng phải học thế gian, hữu vi thế gian chẳng phải hiện lượng, như thuyết ôm cây đợi thỏ chẳng phải mặt trăng, có trái hiện lượng cũng thế gian như nói thanh chẳng phải sở văn. Có trái hiện lượng chẳng phải tự ngữ, như trái thực hành hiện, có trái tự ngữ chẳng phải hiện lượng. Như nói tất cả lời nói đều là hư vọng, có trái hiện cũng tự ngữ, như vi tự hiện vi tự giáo tự ngữ. Có trái hiện chẳng phải năng biệt bất thành. Như tiếng chẳng phải chỗ nghe, có năng biệt bất thành chẳng phải trái hiện lượng, như đối Số luận lập thanh hoại diệt, có trái hiện lượng cũng là năng biệt bất thành. Như chỉ trái tự hiện lượng và tha năng biệt bất thành, vì giả sử trái cộng hiện năng biệt ắt thành. Hữu vi hiện chẳng phải sở biệt bất thành, như thanh chẳng phải sở văn, có sở biệt bất thành chẳng phải trái hiện lượng. Như đối đệ tử Phật nói ngã là suy nghó. Hữu vi hiện cũng là sở biệt bất thành, như trái tự hiện cũng là sở biệt bất thành. Nếu trái cộng hiện sở biệt ắt thành, hữu vi hiện chẳng phải câu bất thành như thanh chẳng phải sở văn. Hữu câu bất thành chẳng phải trái hiện lượng. Như đối Phật pháp nói ngã cho là nhân duyên hòa hợp, có trái hiện cũng đều không thành. Như trái tự hiện tha đều không thành, nếu trái cộng hiện tha đều ắt thành, hữu vi hiện chẳng phải tương phù, như thanh chẳng phải sở văn, có phù hợp nhau chẳng trái hiện lượng như thanh sở văn, hữu vi lượng cũng tương phù. Như nghóa vi tự hiện có phù hợp tha, như Thắng luận lập giác lạc các đức, chẳng phải cảnh giới của ngã, vì nếu trái cộng hiện ắt tương phù. Như thế nhẫn đến hữu câu bất thành chẳng phải tương phù, như đối Phật pháp nói ngã cho là nhân duyên hòa hợp, có phù hợp nhau chẳng phải đều không thành như thanh là sở văn, hữu câu bất thành cũng tương phù. Nghóa là tự lưỡng câu bất thành cũng tương phù tha, như vậy hợp hữu ba mươi sáu tứ cú. Vừa có hiện lượng trái nhau cũng có tỉ lượng tự giáo trái nhau, như dùng hiện lượng hợp hai hữu hai mươi tám tứ cú, dùng tỉ lượng hợp hai hữu hai mươi mốt tứ cú, tự giáo hợp hai hữu mười lăm tứ cú, thế gian hợp hai hữu mười loại tư cú, tự ngữ hợp hai hữu sáu tứ cú, năng biệt hợp hai hữu ba tứ cú, sở biệt hợp hai hữu một tứ cú. Ba hợp như thế tổng cộng có tám mươi bốn loại tứ cú, vừa có hiện lượng tương vi cũng có tỉ lượng tự giáo thế gian tương ưng. Như dùng hiện lượng hợp ba hữu hai mươi mốt tứ cú, tỉ lượng hợp ba hữu mười lăm tứ cú, tự giáo hợp ba hoặc hữu mười loại tứ cú. Thế gian hợp ba hữu sáu tứ cú, tự ngữ hợp ba hữu ba tứ cú, năng biệt hợp ba hữu một tứ cú. Như vậy bốn hợp tổng cộng có năm mươi sáu loại tứ cú. Giả sử có hiện lượng tương vi, cũng có hiện lượng tự giáo thế gian tự ngữ tương vi chăng? Như dùng hiện lượng hợp bốn hữu mười lăm tứ cú, tỷ lượng hợp bốn hữu mười loại tứ cú, tự giáo hợp bốn hữu sáu tứ cú. Thế gian hợp bốn hữu ba tứ cú, từ ngữ hợp bốn hữu một tứ cú. Như vậy năm hợp tổng có ba mươi lăm loại tứ cú. Vừa có hiện lượng tương vi, cũng có tỉ lượng tự giáo thế gian tự ngữ tương vi năng biệt bất cực thành. Như dùng hiện lượng hợp năm hữu mười loại tứ cú, tỉ lượng hợp ngũ hữu sáu tứ cú, tự giáo hợp năm hữu ba tứ cú, thế gian hợp ngũ hữu một tứ cú. Như vậy sáu hợp tổng có hai mươi loại tứ cú. Vừa có hiện lượng tương vi, cũng có hiện lượng tự giáo thế gian tự ngữ tương vi sở biệt năng biệt bất thành. Như dùng hiện lượng hợp sáu hữu sáu tứ cú, tỉ lượng hợp sáu hữu ba tứ cú, tự giáo hợp sáu hữu một tứ cú, như vậy bảy hợp tổng cộng có mười loại tứ cú. Vừa có hiện lượng tương vi, cũng có tỉ lượng tự giáo thế gian tự ngữ tương vi năng biệt sở biệt câu bất thành? Như dùng hiện lượng hợp với bảy có ba tứ cú, tỉ lượng hợp bày hữu một tứ cú. Như vậy tám hợp có bốn tứ cú. Giả sử có hiện lượng tương vi cũng có tám lỗi nữa chăng? Như vậy chiùn hợp có một tứ cú, trên đây hai hợp nhẫn đến tám hợp có hai trăm mười loại tứ cú và một loại trước có ba mươi sáu loại tứ cú. Đoạn trước, vả lại “đáp” hiện lượng một loại tám tứ cú, luận này đã nói hiện lượng tương vi có bốn lỗi hợp. Hiện lượng tự giáo thế gian tự ngữ, tỉ lượng cũng có bốn, tỉ lượng tự giáo thế gian tự ngữ, tự giáo cũng có bốn. Tự giáo tỉ lượng thế gian tự ngữ, thế gian hai loại tương vi, thế gian tỉ lượng hoặc theo tự giáo, hoặc thêm tự ngữ. Tự ngữ cũng có bốn: Tự ngữ tỉ lượng tự giáo thế gian, năng biệt bất thành chỉ một năng biệt, mặc dù trái tha giáo, vì tác tha tỉ lượng đều chẳng phải lỗi. Sở biệt bất thành duy một sở biệt, hoặc thêm một tỉ lượng, ngã kia chẳng phải suy nghó, vì chấp nhận là ngã. Như Thắng luận nói ngã, câu bất cực thành chỉ trái tự một lỗi, hoặc thêm tỉ lượng, ngã kia chẳng phải nhân duyên hòa hợp vì chấp nhận là ngã. Như ngã của Số luận, tương phù chỉ có một, nghóa là tự phù hợp nhau, như vậy tổng thuyết hữu hai vi một. Năng biệt tương phù hữu hai vi hai, sở biệt và câu bất cực thành, hữu bốn vi bốn. Hiện lượng tỉ lượng tự giáo tự ngữ, thế gian tương vi bất định hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn. Như trước tổng thành bốn loại, trên đây đã nói chín loại lỗi, hoặc ít hoặc nhiều. Như các tự xứ vả lại ví dụ, trong mỗi một lỗi có tự tha câu bất câu toàn phần một phần hai loại tứ cú. Do trong hiện lượng ban đầu trái tự hiện lượng, đối tỉ lượng trái tự tỉ là tứ cú, hữu trái tự hiện chẳng trái tự hoàn toàn tỉ lượng, hữu trái tự hoàn toàn tỉ chỉ trái tự toàn hiện, hữu trái từ toàn hiện cũng trái tự toàn tỉ. Hữu chẳng trái tự hoàn toàn hiện cũng chẳng trái tự toàn tỉ, thành tứ cú ban đầu, trong tỉ lượng đã có tám cú. Như tự hiện tương đối là tứ cú, do trong hiện lượng có bảy lỗi khác. Trong đối tỉ lượng tám cú, mỗi tứ cú cũng như vậy. Như vậy tỉ lượng tương đối là cú, chấp nhận có sáu mươi bốn loại tứ cú. Như thế dùng hiện lượng tám câu cho đến đối tương phù cực thành tám câu, hợp chấp nhận đã hiện lượng tám câu một cái có tám loại, sáu mươi bốn loại tứ cú hợp thành năm trăm mười hai loại tứ cú. Dùng câu tỉ lượng đối bảy loại khác sáu mươi bốn loại tứ cú, hợp thành bốn trăm bốn mươi tám loại tứ cú, tự giáo đối sáu loại khác có sáu mươi loại tứ cú hợp thành ba trăm tám mươi bốn loại tứ cú. Thế gian đối năm loại, tự ngữ đối bốn loại khác sáu mươi tứ cú hợp thành hai trăm năm mươi sáu tứ loại tứ cú, năng biệt đối ba loại kia sáu mươi tứ cú, hợp thành một trăm chín mươi hai loại tứ cú. Sở biệt đối hai loại kia sáu mươi tứ cú hợp thành một trăm hai mươi tám loại tứ cú, câu bất cực thành đối một loại khác sáu mươi tứ cú tính tổng số hợp có hai ngàn ba trăm bốn mươi loại tứ cú câu đúng câu sai. Căn cứ theo tám câu trước đều như lý suy nghó, sơ văn dài nên lược ngưng lại. Luận rằng: “Như vậy nhiều lời khiến trừ các pháp tự tướng môn không chấp nhận thành nên lập không có quả, gọi là lỗi tợ lập tông”. Thuật rằng: Đây là đoạn thứ ba, tùy chỉ giải thích kết. Nhiều lời như vậy lặp lại chín lỗi trước, ba đoạn sau giải thích lý do của lỗi gọi là tợ lập tông tổng kết thành. Vì khiển trừ các pháp tụ tướng môn, giải thích lập năm tướng ban đầu trái nguyên nhân. Ý ở đây nói, tông hữu pháp gọi là tự tướng, vì hạn cuộc phụ thuộc tự thể bất cộng tha, lập địch chứng trí gọi là môn. Do có thể chiếu hiện pháp tự tướng, lập pháp hữu pháp, suy nghó sinh tha thuận trí, nay nêu tông nghóa. Tha trí giải trở lại sinh, dị trí đã sinh, chánh giải không khởi, không nhờ chiếu giải sở lập tông nghóa nên gọi là khiển môn. Thế thì tự tướng gọi là môn do có thể thông sinh địch chứng trí nên phàm lập tông nghóa hay sinh tha trí có thể gọi là môn. Năm loại trước lập tông không khiến tự tướng, chánh sinh địch chứng chân trí giải, gọi là khiển các pháp môn tự tướng. Vì không cho thành, “cho” có nghóa có thể có, tông y đây không có lỗi, tông có thể có thành, y đã không thành, lại phải thành lập, do đó sở lập tông không cho thành. Trong tợ tông lập thứ lớp ba lỗi, lập không có quả, quả nghóa là quả lợi. Đối địch thân tông, bổn tranh bên cạnh ngược lại thuận nghóa tha, lập không có quả, do đây tương phù cũng là lỗi lầm. Kết chín lỗi này gọi là tợ lập tông. Song Tạp Tập Luận quyển thứ mười sáu thì lập tông lý do ứng thành tự sở chấp nhận nghóa, nói chỉ bày tha, khiến cho kia hiểu rõ, đây lựa năm lỗi. Sử Tử Giác nói, hoặc không ngôn thuyết sở dó ứng thành, tự tông đã thành mà thuyết chỉ bày tha, lẽ ra gọi là lập tông đây nói ý thuyết. Nếu nay chẳng cạnh sở ứng thành nghóa, chỉ nói tự tông trước đã thành nghóa, lẽ ra gọi là lập tông. Nếu nói ngôn tự sở chấp nhận nghóa, thuyết chỉ bày tha tông, lẽ ra thành nghóa ứng danh lập tông, hai loại này để lựa tương phù cực thành. Nếu không nói tha, riêng xướng lời này ứng danh lập tông, nay muốn có địch cũng là chín lỗi, kia nói không địch cũng là lỗi. Nếu không nói tuyên chỉ bày, do thân biểu thị nghóa này ứng danh lập tông, vì lời nói hay lập không đối đãi thân. Nếu như Đề-bà-phà, nghóa là ngoại đạo, động thân khiến hiểu cũng gọi phá tha, nếu không nói khiến tha hiển rõ, người nghe chưa hiểu nghóa này ứng danh lập tông, tức trừ tương phù, nhiếp tám lỗi kia. Tha chưa hiểu đều chẳng phải chân tông, hoặc đây thiếu không có năng lập cũng chẳng phải tông sở cạnh tranh, vì tha chưa hiểu, hoặc do dự tông vì tha chưa hiểu. Tùy sở ứng kia thuộc trong chín lỗi, căn cứ vào nhân nên biết. Nếu như chỗ an lập không có tất cả lỗi suy lường, kiến lập ngã pháp tự tánh hoặc có hoặc không. Ngã pháp sai biệt khắp không khắp bình đẳng, tướng đầy đủ như ở đoạn trước gọi là lập tông. Hoặc chuẩn theo văn kia, lỗi nhiều như đây. Thứ ba, thứ tư, hoặc thứ năm ít phân vì trong đây không có. Luận rằng: “Đã nói tợ tông phải nói tợ nhân”. Thuật rằng: Dưới đây giải thích tợ nhân. Văn chia làm hai: Ban đầu là kết trước sinh sa; sau là y nêu chánh giải. Luận về bất thành bất định và cùng tương vi gọi là tợ nhân. Trình bày dưới y nêu giải thích thành hai bất nhiễm: Đầu là ví dụ ba tên; sau là tùy phân biệt giải thích. Nhân năng lập không thể thành tông, hoặc vốn chẳng phải nhân không thành nghóa nhân gọi là bất thành, hoặc thành sở lập, hoặc đồng dị tông. Không chuẩn thứ lớp gọi là bất định, nhân năng lập trái hại nghóa tông, trở lại thành dị phẩm gọi là trái nhau. Tuy ba tướng của nhân tùy ứng có lỗi, đều không thể thành tông, lẽ ra đều gọi là bất thành. Hoặc hai tướng sau hoặc có hoặc không khác hoàn toàn đồng một phần, đồng toàn dị phần, đều phân khó chuẩn không thể định thành một tông, khiến cho nghóa không thể quyết định, cùng tên không quyết định. Hoặc hai tướng sau, đồng không dị khắp, dị phần đồng không, không thành sở lập, ngược lại đồng dị phẩm cùng tên trái nhau. Nếu là tướng ban đầu với tông có lỗi, không thể thành tông, không có thắng dụng riêng, cùng tên không thành. Nếu nhân tự không thành gọi bất thành, chẳng phải không thể thành tông gọi là bất thành. Nhân là nhân gì? Ngôn ngữ tụ không thành, lìa tông riêng nói có nhân. Có thể nhân tự không thành, nhân đã là tông nhân, có lỗi không thể kham là nhân, biết rõ không thể thành tông gọi là không thành. Nếu nhân tự không thành gọi là bất thành, cũng lẽ ra dụ tự không thành cũng gọi là bất thành. Chẳng phải không thể thành tông nhân gọi là bất thành, hay lập bất thành, liền đối đãi thiết lập. Văn nói nghóa không thành đều nhân nơi tôn không thành, cho nên biết không thành chẳng phải tự không thành, vì vậy ứng như đây nói. Hoặc giải thích theo lý: Nhân cùng dụ đều tự không thành, cả hai đều chẳng phải nhân, tùy một chẳng phải nhân, với nhân sinh nghi, nhân không có sở y, dụ không có năng lập, hoặc không có sở lập, hoặc cả hai đều không, nghóa không rõ ràng. Thể không thành dụ, do nhân dụ này đều tự không thành, theo lý cũng không có lỗi. Luận rằng: “Không thành có bốn: (1). Lưỡng câu bất thành, (2). Tùy nhất bất thành, (3). Do dự bất thành và (4). Sở y bất thành. Thuật rằng: Dưới đây, tùy phân biệt giải thích có ba: Bất thành, bất định và tương vi. Ban đầu văn có hai: Đầu là nêu số kể tên; sau là tùy thí dụ phân biệt giải thích. Phàm lập tỉ lượng nhân sau tông trước, sắp đã cực thành, thành chưa cùng chấp nhận kia đây đều cho là nhân với hữu pháp chẳng có, không thể thành tông, do đó gọi là Lưỡng câu bất thành. Một bên chấp nhận một bên không chấp nhận, nhân có pháp có, chẳng phải lưỡng câu cực thành nên gọi là Tùy nhất bất thành. Nói nhân y hữu pháp, quyết định có thể thành tông. Nói nhân đã do dự, tông kia không định thành, gọi là Do dự bất thành. Không có nhân y hữu pháp, hữu pháp thông có - không, có nhân y hữu pháp hữu pháp chỉ phải có, nhân y hữu pháp không, không y nhân không lập, gọi là Sở y bất thành. Do đó lỗi của tướng ban đầu, lập bốn loại này. Luận rằng: “Như thành lập thanh là vô thường… nếu nói là nhãn sở kiến tánh cho nên cả hai không thành”. Thuật rằng: Dưới đây riêng giải thích thành bốn: Nhị cú tông, nhị cú nhân, nhất cú kết. Như Thắng luận đối Thanh luận lập tông thanh là vô thường, mắt thấy là nhân, phàm tông pháp nhân ắt cả hai đều chấp nhận, y tông có pháp mà thành tùy nhất không cùng chấp nhận pháp. Nay mắt thấy nhân Thắng, Thanh hai luận đều không cùng chấp nhận thanh có pháp có, chẳng những không thể thành tông, tự cũng không thành nghóa nhân, lập định đều không chấp nhận, gọi là câu bất thành. Đây không thành nhân, y có hữu pháp, hợp có tứ cú. (1). Hữu thể toàn phần cả hai đều không thành, như luận đã nói. (2). Vô thể toàn phần cả hai không thành, như Thanh luận sư đối đệ tử Phật lập thanh là thường, vì thuộc thật cú, đây thật thuộc nhân. Cả hai nói không có thể, vì cùng nói kia có pháp không. Hữu thể một phần cả hai đều không thành, như lập tông “tất cả âm thanh đều thường”, cần, dũng, vô gián pháp tánh là nhân. Lập địch đều chấp nhận nhân này, vì với ngoài thanh không có. Vô thể một phần cả hai đều không thành, như Thanh luận sư đối đệ tử Phật nói Thanh thường tông, thuộc thật cú, nhó sở thủ nhân. Lập địch đều chấp nhận trên thanh có, thuộc thật cú nói một phần nhân, vì cả hai đều không có, với thanh không chuyển. Bốn loại này đều có lỗi vì không thành tông, luận mắt thấy là nhân, không chỉ thành thanh vô thường là lỗi, các nghóa thành thanh vô lậu… tất cả là lỗi, cho nên tông nói rằng: Luận rằng: “Sở tác tánh đối thanh hiển luận tùy nhất bất thành”. Thuật rằng: Một câu đầu nói thể của nhân, một câu kế là biện tông, một câu sau là kết lỗi. Năng lập cùng chấp nhận, không cần phải thành. Có thể thành sở lập đã không cùng chấp nhận lẽ ra phải thành, cho nên chẳng phải năng lập. Tông cùng trước đồng, cho nên chỉ trình bày nhân. Hoặc Thắng luận sư đối Thanh hiển luận, lập thanh vô thường, nhân sở tác tánh. Thanh kia hiển luận, nói thanh duyên hiển, không chấp nhận duyên sinh. Sở tác đã sinh do kia không chấp nhận, do đó thành tùy nhất, chẳng phải là cộng nhân. Hỏi: Cũng có truyện giải thích, sở tác thông hiển bày, tại sao nhân này gọi là tùy nhất? Đáp: Y văn giải thích nghóa, thâm đạt tình Thánh, ngoài lý nói thêm chưa có thể y cứ. Sở tác tánh này đối thanh hiển luận không thành. Do đó nói rằng quyết chỉ sinh nghóa đây tùy một phần mới có hữu pháp, lược có tám câu: Hữu thể tha tùy nhất, như luận đã nói. Hữu thể tự tùy nhất, như thanh hiển luận đối đệ tử Phật, lập thanh là thường, vì sở tác tánh. Vô thể tha tùy nhất, như Thắng luận sư đối các Thanh luận, lập thanh là vô thường, thuộc đức cú. Thanh luận không chấp nhận có đức cú. Vô thể tự tùy nhất, như Thanh luận sư đối Thắng luận, lập thanh là thường, thuộc đức cú. Hữu thể tha nhất phần tùy nhất, như Đại thừa sư đối Thanh luận, lập thanh là vô thường, vì chấp Phật năm căn, Đại thừa Phật… các căn xen nhau dùng với tự có thể thành, với tha một phần bốn căn không thủ. Hữu thể tự một phần tùy nhất, như thanh luận sư đối Đại thừa, lập thanh là thường, nói thứ tự trước nhân. Vô thể tha nhất phần tùy nhất, như Thắng luận sư đối Thanh luận lập thanh vô thường, vì thuộc đức cú chấp nhó căn, nhó căn chấp nhận, cả hai đều chấp nhận chuyển, nhân thuộc đức cú, tha nhất phần không thành. Vô thể tụ nhất phần tùy nhất, như Thanh luận sư đối Thắng luận, lập thanh là thường, nói thứ lớp nhân trước. Trong đây, các tha tùy nhất toàn cú, tự tỉ lượng thuyết tự chấp nhận ngôn từ, các tự tùy một toàn cú. Tha tỉ lượng thuyết tha chấp nhận ngôn từ, tất cả không có lỗi, vì có lựa chọn riêng. Nếu các toàn cú không có lựa chọn riêng và một phần cú tất cả bị lỗi. Như Nhiếp Đại Thừa Luận nói, các kinh Đại thừa đều là Phật nói, tất cả không trái với lý vô ngã của Bổ-đặc-già-la. Như tăng nhất bình đẳng. Đây đối tha tông có lỗi tùy nhất, tha tông không chấp nhận Đại thừa vì chẳng trái lý vô ngã, vì nói có thường ngã là chân lý. Giả sử chấp nhận không trái cũng có bất định, vì Lục Túc Luận… đều không trái mà bị bất định. Do đó có Đại danh cư só Thanh Đức Độc Cao, đạo bay bổng ngũ thiên, tiếng thơm truyền khắp bốn phương. Lúc bấy giờ bậc hiền không dám bài xích tôn đức của ông ta, hiệu là Bảo Tha Cà, Trung Hoa dịch Thực Ấp, học nghệ siêu quần, lý tương đương thực ấp, tức là Thắng Quân luận sư. Lập một tỉ lượng hơn bốn mươi năm, các kinh điển Đại thừa thuyết tông, lưỡng câu cực thành chẳng phải lời chư Phật không thuộc nhân. Như Tăng Nhất đồng A-cấp-ma-dụ, chú giải trong Duy thức quyết trạch, không thuộc lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật. Lập - địch cùng chấp nhận chẳng phải lời Phật không nhiếp, vì sở nhiếp chẳng phải ngoại đạo và Lục túc các giáo. Lưu hành thời gian lâu không ai dám cật vấn gạn hỏi, Đại sư đến đó vấn nạn. Vả lại, phát trí luận Tát-bà-đa sư tự chấp nhận Phật nói cũng có Tiểu thừa và Đại thừa, không thuộc lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật. Há Đại Thừa ông chấp nhận Phật thuyết sao? Còn ai chấp nhận không thuộc Đại thừa lưỡng câu cực thành chẳng phải Phật, là các Tiểu thừa và các ngoại đạo thuộc lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật dạy, chỉ có Đại thừa chấp nhận chẳng thuộc kia, nhân phạm tùy nhất. Nếu dùng phát trí cũng nhập tông trái tự giáo, nhân phạm một phần lưỡng câu bất thành, vì nhân không phát trí tôn, không dùng làm tôn, do đó có bất định. Tiểu thừa bị bất định ngôn, như tự chấp nhận phát trí, không thuộc lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật. Giáo pháp Đại thừa của ông chẳng phải lời Phật sao? Vì như Tăng Nhất… không thuộc lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật, giáo lý Đại thừa của ông đều là lời Phật sao? Nếu lập tôn làm như phát trí, không thuộc cực thành chẳng phải lời Phật. Tát-bà-đa… bên trái tôn mình, vì tự chấp nhận lời Phật, vì bất định ngôn, là như tự chấp nhận phát trí không thuộc cực thành chẳng phải lời Phật, Đại thừa chẳng phải lời Phật sao? Do trong bất định cũng có tự tha và cả hai đều có lỗi, vì này cùng Đại thừa bị tự bất định. Do đây Đại sư chánh nhân kia nói rằng: Tự chấp nhận cực thành chẳng phải lời Phật không nhiếp, vì lựa phát trí kia đồng chẳng phải tự chấp nhận bèn không có lỗi này. Duy thức cũng nói thuộc các kinh Đại thừa đến giáo lượng, người khác thích Đại thừa chấp nhận hay hiển bày lý không điên đảo nhiếp khế kinh. Như Tăng Nhất… do trong các nhân đều lựa chọn sự khác biệt đều như trước nói. Luận rằng: “Các tánh sương mù, khi khởi nghi hoặc thành đại chủng hòa hiệp có lửa, mà có chỗ nói do dự bất thành”. Thuật rằng: Bốn câu đầu hiển tôn, một câu kế nói thể của nhân, một câu sau kết lỗi. Ở Tây phương nhiệt độ ẩm thấm đất đai phần nhiều cây cỏ xanh tốt, đã vậy hay sinh đủ loại côn trùng. Lúc có khói sương dày đặc từ xa nhìn thường sinh nghi hoặc là bụi trần hay khói, là ruồi bay hay sương mù. Do đó văn luận về các tánh sương mù… Hỏa có hai loại: Một là tánh lửa như trong cỏ cây hỏa đại rất nhỏ; hai là sự hỏa nóng bức bốc lên, khói hơi nóng bay khắp. Tánh hòa trước chỉ có nơi có thể có, lập luận mới phù hợp nhau, sự hỏa sau có nơi chẳng có, nên nay kiến lập. Phàm các sự hỏa cần có địa đại làm tính chất làm chỗ nương, gió thổi động hơi nóng bốc lên nước có tánh lưu nhuận, cho nên gọi thành đại chủng hòa hợp có lửa, và có lửa kia. Như có nhiều người từ xa cùng nhìn thấy kia hoặc sương mù hoặc bụi trần, hoặc khói hoặc ruồi bay đều cùng nghi hoặc. Trong đó hoặc lập có tôn sự hỏa: Kia chỗ thấy khói… sắp xuống dường như có sự hỏa, mà có thuyết cho rằng lập nhân kia. Theo Lý Môn luận thì do hiện có khói, dụ như nhà bếp…; nhân này không chỉ lập tự nghi hoặc không thể thành tôn, cũng khiến cho địch thành tôn nghi hoặc không nhất định. Phần lập cùng nhân thành tôn bất cộng, muốn cho đối địch chứng quyết định trí sinh, với tôn cùng có nghi. Do đó nói các tánh sương mù… lúc khởi nghi hoặc, lại nói nghi nhân, không thành quả tôn, quyết trí không khởi vì vậy thành lỗi, đây có sáu câu: Lưỡng câu toàn phần do dự, như luận đã nói trong tôn nhân mặc dù đều sinh nghi, thành tôn không quyết định, do đó chỉ có lỗi của nhân. Lưỡng câu nhất phần do dự, như có lập địch đều ở xa quyết định thấy khói, ở xa thấy sương mù… nghi hoặc không quyết định. Liền lập lượng rằng, kia ở gần hoặc xa nhất định có sự hỏa, vì do có khói… như trong nhà bếp. Chỗ gần một phần quyết định thấy khói, chỗ xa một phần đều nói nghi. Tùy tha nhất toàn phần do dự, như có người lập luận rằng: Từ chỗ xa đến thấy nhất định là khói, địch luận nghi hoặc lập ban đầu toàn phần tỉ lượng. Tùy tự nhất toàn phần do dụ, như địch luận từ chỗ xa đến, quyết định thấy khói. Người lập luận nghi hoặc, lập ban đầu toàn phần tỉ lượng. Tùy tha nhất nhất phần do dự, như có người lập luận ở chỗ gần hoặc xa quyết định thấy khói, địch luận quyết định gần, chỗ xa có nghi, lập một phần tỉ lượng thứ hai. Tùy tự nhất nhất phần do dự, như có dịch luận ở gần xa quyết định thấy khói, người lập luận quyết định ở gần, chỗ xa có nghi. Lập nhất phần tỉ lượng thứ hai. Năng biệt, sở biệt, tổng biệt, do dự mỗi loại đều có sáu câu, nghóa là lưỡng câu toàn phần và một phần tùy tha, tự mỗi mỗi toàn một phần, hợp thành mười tám câu. Như thấy sừng quyết định nghi có trâu, hoặc quyết định lửa nghi có khói, hoặc cả hai đều nghi. Riêng đối ba sự đều sinh do dự nhân không có sáu lỗi, do đó chỉ nói sáu câu. Hỏi: Tôn này nhân này đều có nghi hoặc, nhân gọi là do dự, tại sao tôn có lỗi? Đáp: Nếu định sở biệt tức là năng biệt do dự không thành. Nếu quyết định năng biệt tức là sở biệt do dự bất thành, vì xen nhau sinh nghi, xen nhau quyết định. Nếu cả hai đều nghi tức là lưỡng câu câu bất cực thành. Nếu tùy một bên nghi tức là tùy nhất câu bất cực thành. Đoạn trước tợ tôn chỉ nói sở y vô thể câu bất cực thành, căn cứ nghóa cũng có hữu thể do dự câu bất cực thành, vì không sinh trí tự tha quyết định. Hoặc đây cũng là từ ngữ tương vi, nói giống khói… tại sao có thể nói nhất định có sự hỏa, định có sự hỏa, tại sao có thể nói kia giống khói… Hoặc đây cũng là tương phù cực thành, tha vốn sinh nghi, vì phù hợp kia mà nghi, độc pháp hợp pháp. Lưỡng câu tùy toàn phần nhất phần, nói tương vì vì thuận phù hợp với kia. Luận rằng: “Vì hư không thật có đức sở y, nên đối với không có hư không luận sở y bất thành”. Thuật rằng: (1). Tôn một câu; (2). Nhân một câu; (3). Đối địch một câu; (4). Kết một câu. Như Thắng luận sư đối kinh bộ lập tôn “hư không thật có”, nhân đức sở y. Phàm pháp hữu pháp quyết phải cực thành, không trở lại phải thành, tôn mới có thể lập. Huống gì các nhân đều là pháp tánh của tôn hữu pháp? Nêu hư không thật có, hữu pháp đã không thành, lại nói nhân. Nhân y lập ở đâu, nên đối luận không có hư không nhân sở y không thành. Hỏi: Thắng luận sư nói hư không có sáu đức: Số lượng, biệt tánh, hợp, ly và thanh. Kinh bộ không chấp nhận. Tại sao nay nói đức sở y nên tha tùy một nhân? Đáp: Chỉ bày nêu sơ lược pháp, chẳng phải hiển chỉ có sở y không thành, không có tha tùy nhất, đã đầy đủ hai lỗi, thể tức tùy nhất sở y bất thành. Hỏi: Như đoạn trước đã nói không có tạo tác không có nhân, nay nhân đã tùy nhất không có, y tùy nhất không có hữu pháp. Tại sao nói nhân có lỗi không có sở y? Đáp: Tôn - nhất bất cực, cần phải sắp đặt lựa chọn ngôn từ, không lựa chọn lập cho là tôn, sở biệt liền thành bất cực. Nói nhân y lập tức nhân thành lỗi, huống chi câu bất cực, không nhân lại y bất cực hữu pháp, chấp nhận lỗi của tôn chẳng phải lỗi nhân? Mặc dù nói không tạo tác không lập luận nhân chẳng nói cả hai đều không có lỗi, đâu dùng hữu vi hữu nhân. Tôn - nhân có đều chẳng phải lỗi như tôn năng biệt bất thành, nhân thành hữu pháp tự tướng tương vi. Đồng dụ cũng có sở lập không thành, dị dụ cũng có sở lập bất khiển, đâu ngại gì tôn có sở biệt bất thành. Lỗi của nhân sở y không thành, nhưng nay lỗi này sở y chắc không có, nhân của năng y có không bất định. Do đây tổng có hai loại sai khác: Lưỡng câu sở y bất thành có ba: Một là, hữu thể toàn phần, như Tát-bà-đa đối Đại thừa sư lập ngã thường trụ vì thức sở duyên, sở y ngã không, năng y nhân có. Hai là, vô thể toàn phần, như Số luận đối đệ tử Phật lập ngã thật có, vì đức sở y. Ba là hữu thể nhất phần, như Thắng luận sư đối Đại thừa, lập ngã nghiệp thật vì có động tác, đối với nghiệp có vì ngã không. Tùy nhất sở y bất thành có sáu: Một là, Hữu thể tha tùy nhất, như Số luận sư đối đệ tử Phật lập tự tánh có, vì nhân sinh tử. Hai là, Hữu thể tự tùy nhất, như Số luận sư đối Đại thừa, lập tàng thức thường, vì nhân sinh tử. Ba là, Vô thể tha tùy nhất, theo Lý Môn luận nói, hoặc với chỗ này hữu pháp không thành. Như thành lập ngã thể kia trùm khắp, vì với tất cả chỗ sinh tâm ưa thích, mặc dù Số luận thành lập nhưng Đại thừa không chấp nhận, cũng như luận này đã nói là thị. Bốn là, Vô thể tự tùy nhất, như Kinh bộ sư lập nghóa luận này. Năm là, Hữu thể tha nhất phần tùy nhất, như Số luận sư đối Đại thừa lập năm Đại thường, vì hay sinh quả. Bốn đại sinh quả cả hai đều có thể thành. Không đại sinh quả, vì Đại thừa không chấp nhận. Sáu là, Hữu thể tự nhất phần tùy nhất, như Đại thừa đối Số luận sư, lập năm đại chẳng phải thường, vì hay sinh quả. Trên đây đã nói hai loại lưỡng câu và tùy nhất không thành, sở y chỉ có nhân thông có không. Song đều quyết định lưỡng câu tùy nhất không, sở dó đều được năng y hữu vô dụng làm các câu, do dự bất thành, sở y năng y mặc dù đều có. Nhân không quyết định, cho nên đều là câu, không phân biệt hữu vô, sở y bất thành. Sở y chỉ vô, năng y thông hữu, chỉ lưỡng câu tùy nhất sở y bất thành làm câu. Do đó không có tha tự không có thể tùy nhất phần sở y bất thành. Nếu chấp nhận tự tha thiếu phần, tôn nhân có quyết chẳng phải nhất phần tùy nhất sở y bất thành, cũng không có do dự sở y bất thành. Hai loại sau không thành vì hai loại sở y có - không sai biệt, vì hai loại năng y nghi định dị loại. Sở y nếu không vì không do dự, có lúc giải thích cũng có do dự sở y bất thành. Lời sớ đã ghi đầy đủ phần nhiều người tin học, nương văn tụng tập, chưa từng thay đổi. Pháp hữu pháp sở y đều có, sao gọi lỗi này xin xem kỹ. Hỏi: Theo luận chỉ nói bốn loại hoàn toàn bất thành, đâu cần gượng phân biệt nhiều loại? Đáp: Luận lược chỉ bày phương pháp, không cần trình bày đầy đủ, giả sử ngoài văn có thêm vào, theo lý cũng đâu có hẹp, huống chi có thực chứng? Trong Lý Môn luận giải bất thành đã kết: Đã nói tất cả phẩm loại như thế, nếu có ngôn từ đều chẳng phải năng lập, hoặc chẳng phải như trước các loại sai khác. Lại nói pháp gì gọi phẩm loại, do đó nên như trước phân biệt sai khác. Hỏi: Các lưỡng câu bất thành, đều tùy nhất bất thành sao? Cho đến các do dự không thành, đều sở y không thành sao? Đáp: Bốn loại này đều sai khác, cả hai đều chắc chắn chẳng phải tùy nhất, vì hai và một trái nhau, cũng chẳng phải do dự vì định nghi tương phản. Cũng chẳng phải sở y lưỡng câu sở y có và sở y này không, tùy nhất bất thành cũng chẳng phải hai loại kia vì định nghi sai khác. Hai loại sở y vì có không khác nhau, do dự bất thành cũng chẳng phải một loại sau, vì nghi quyết sai biệt. Đây theo ngài Trần Na nói bốn loại không thành, hoặc theo Nhân minh của cổ sư, ngoại đạo thì không thành chỉ có hai. Nhưng lập lỗi lưỡng câu và tùy nhất, y kia đã nói lưỡng câu và tùy nhất, nhân thông nghi định, sở y thông vô. Song lưỡng câu bất thành kia toàn phần nhất phần, hoặc nghi hoặc định hợp lại có chín câu, tùy nhất bất thành hoặc tự hoặc tha toàn phần nhất phần hoặc nghị hoặc định hợp lại mười tám câu. Từ bốn loại bất thành tất cả hợp lại có hai mươi bảy, do đó ngài Trần Na lấy trước lược chỉ có hai đại, sai khác khó biết, cho nên khai. Nay bốn nhân thể tánh không loạn trong ba tướng nhân ban đầu tông pháp trùm khắp, tổng thành ba câu một tôn pháp mà chẳng trùm khắp. Trong bốn món bất thành đều một phần nhiếp hợp thuộc mười hai câu chẳng khắp chẳng phải tôn pháp. Trong bốn món bất thành đều là toàn phần, hợp nhiếp có mười lăm câu, như trước đã nói. Song trên đây chỉ nói nhân đối với tôn không thành lý, lý thật là nhân này nơi đồng - dị - dụ, tùy ứng cũng có bốn loại bất đồng. Do đó, Lý Môn luận giải bất thành rồi, đối với đồng phẩm kia hữu có chẳng phải có…, cũng tùy chỗ lẽ ra phải nói như vậy, dưới đây sẽ biết. Nhưng tên không nhất định và tên trái nhau, chẳng phải tên không thành. Hỏi: Nhân đối với tôn không, dụ nơi hai không có cùng tên không thành, tại sao nhân đối với tôn trên dụ không có, nhân đối với hai dụ không, chẳng có tên không thành? Đáp: Thành tha gọi là thành ngược lại gọi là không thành. Nhân vốn thành tôn mà chẳng phải hai dụ, dụ thành tôn nhân, chẳng phải tôn thành, hai bổn thành sự sai khác, nên ngược lại gọi bất thành, khác đây không đúng, chẳng phải gọi bất thành. Hỏi: Nếu như vậy lỗi nhân đều muốn thành tôn, tại sao chỉ có một gọi là bất thành? Đáp: Nhân tuy có ba tướng, chỉ có một tướng ban đầu chính thân thành tôn, ngược lại gọi là không thành. Ngoài ra đều là tôn đầy đủ, hợp cả hai kiến lập tôn, thành tôn theo nghóa sớ. Cho nên ngược lại chỉ gọi là không nhất định trái nhau, đều tùy nghóa thân để được tên kia, đều chuẩn theo đây nên biết. Luận rằng: “Bất định có sáu: (1). Cộng, (2). Bất cộng, (3). Đồng phẩm nhất phần chuyển dị phẩm biến chuyển, (4). Dị phẩm nhất phần chuyển đồng phẩm biến chuyển, (5). Câu phẩm nhất phần chuyển, (6). Tương vi quyết định”. Thuật rằng: Dưới đây là giải thích Bất định văn có ba: Nêu - liệt và thích. Trong ba tướng của nhân, hai tướng sau có lỗi, trái nhau hai phẩm thành tôn và tướng tôn, vì không nhất định thành gọi là bất định. Nếu lập một nhân, với đồng dị phẩm đều có tên cộng và cũng đều không có tên bất cộng. Đồng dị phần hoàn toàn là thứ ba, đồng toàn dị phần là thứ tư, đồng dị câu phần là thứ năm, nếu cả hai đều sai biệt nhân, ba tướng tuy đủ đều tự quyết định. Tôn thành trái nhau, khiến cho địch chứng trí, không tùy nhất định danh tướng trái quyết định. Trong năm lỗi ban đầu, chỉ có lỗi thứ hai là ba tướng của nhân. Lỗi của tướng thứ hai, vì với tôn đồng phẩm chẳng phải định có. Bốn tôn kia đều là lỗi của tướng thứ ba, nghóa là dị phẩm chẳng phải biến vô, một cái sau đều trái, đến đoạn sau sẽ biết. Luận rằng: “Trong đây luận về cộng như nói thanh thường sở lượng tánh, cho nên thường vô thường phẩm đều cùng nhân này nên không nhất định”. Thuật rằng: Dưới đây phân biệt hiển rõ sáu: Ban đầu cộng có ba: Nêu tên cử tôn nhân, giải thích nghóa bất định, và chỉ tướng bất định. Như Thanh luận đối Phật pháp lập tôn thanh thường, lấy tâm tâm sở pháp tánh suy lường làm nhân, không… thường pháp là đồng phẩm, binh… vô thường là dị phẩm, nên giải thích nghóa cộng. Trong đồng dị phẩm nhân này đều khắp và cả hai cộng có gọi là bất định. Luận rằng: “Như bình… là sở lượng tánh, cho nên Thanh là vô thường, như hư không… sở lượng tánh, nên thanh là thường”. Thuật rằng: Chỉ tướng bất định, hạn hẹp nhân năng lập, thông thành rộng hẹp hai tôn. Do đó mặc dù đồng phẩm mà nói định có chẳng rộng khắp nhân năng lập, chỉ thành tôn rộng khắp. Nay đã dùng rộng thành hẹp, do nhân này liền thành cộng. Cộng nhân không được thành bất cộng pháp, hoặc có lược lựa chọn, thì liền không có lỗi. Vì vậy Lý Môn Luận nói, các cõi đều cộng không lựa nhân riêng, đây chỉ nơi kia đều không trái nhau. Nghi tánh nhân đây nói cộng bất định, các cõi lập nhân nơi đồng dị phẩm đều cộng có tánh không có lựa riêng. Như thanh là thường tôn, sở lượng tánh nhân, hai phẩm đều có, song tôn có hai rộng và hẹp. Như lập thanh vô ngã là rộng, vì ngoài thanh tất cả đều vô ngã. Lập thanh vô thường là hẹp, vì trừ ngoài thanh có thường pháp. Nhân phẩm cũng có hai: Sở lượng sở tri sở thủ… gọi là rộng vì không có một pháp nào chẳng phải sở lượng… Cần, dũng sở tác tánh… gọi là hẹp, vì có các pháp khác chẳng phải cần, dũng phát, chẳng phải sở tác tánh. Nếu lập tôn hẹp thường vô thường, đoạn trước nói nhân rộng, hai phẩm đồng dị nhân đều biến chuyển nên thành bất định, nghóa kia có thể lập. Chỉ nói nhân hẹp có thể thành tôn hẹp, cũng có thể thành rộng, vì dị phẩm không có có thể thành chánh nhân. Như Thanh luận sư đối Thắng luận, lập thanh thường làm tôn, vì tâm tâm sở tánh suy lường cũng như tánh thanh, có sự lựa chọn sơ lược này bèn không có lỗi. Do đó đây cùng bất cộng cả hai nhất định sai khác, vì kia đối tất cả phẩm đều không. Song các tỉ lượng có ba loại tha, tự và cộng, trong tha tỉ lượng lược có ba cộng tự tỉ cộng tỉ, mỗi cái ba đều cũng như vậy hợp lại có chín cộng. Nay ở đây chỉ nêu ba vì sợ văn dài dòng, văn sau căn cứ theo đây nên biết: Tha cộng, tự cộng và cộng cộng. Như đem Phật pháp phá Số luận sư nói rằng, ngã của ông là vô thường, chấp nhận thuộc đế, như chấp nhận đại… tôn này tha tỉ lượng vô thường, hai mươi ba đế là đồng phẩm, dùng tự tánh làm dị phẩm, chấp nhận đế thuộc nhân. Đối với đồng dị phẩm đều khắp cõi nên tha cộng, nếu không như vậy thì tôn nhân - dụ… đều có sự trái với tự giáo các lỗi. Số luận chấp nhận ngã ngã là thường vì chấp nhận thuộc đế, như chấp nhận tự tánh, tự tỉ lượng này lập tôn ngã là thường. Tự tánh là đồng, đại… là dị, chấp nhận đế thuộc nhân cả hai đều biến chuyển, do đó là tự cộng, như luận đã nói tức là cộng cộng. Luận rằng: “Luận về bất cộng như nói thanh là thường, vì thuộc tánh nghe, nên thường vô thường phẩm đều lìa nhân này. Ngoài thường vô thường ra chẳng có, nên là do dự nhân”. Thuật rằng: Bất cộng thứ hai có ba: Nêu tên cử tôn nhân, giải thích nghóa bất định, và chỉ tướng bất định. Như Thanh luận sư đối với Thắng luận lập tôn “thanh là thường”, tai là tánh nghe làm nhân. Trong đây tôn thường hư không… là đồng phẩm, điển chớp… là dị phẩm, sở văn tánh là nhân. Cả hai phẩm đều lìa, vì với đồng dị phẩm đều chẳng phải có, lìa thường vô thường, lại không có thứ ba đều chẳng phải hai phẩm, vì có tánh sở văn. Giải thích bất cộng lìa ngoài hai phẩm thường vô thường lại không có pháp khác là tánh sở văn cho nên thành do dự. Không thành sở lập thường, vì ngược lại cũng không thành dị phẩm vô thường. Thắng luận sư kia cũng lập có tánh thanh, nghóa là đồng dị tánh… đều là tánh sở văn. Nếu đối tôn kia chẳng phải không có đồng dụ, do đó trừ Thắng luận đối lập thành lỗi. Luận rằng: “Tánh sở văn như thế nào?” Thuật rằng: Chỉ tướng bất định. Chữ “do” có nghóa là như. Phàm lập luận tôn nhân dụ năng lập, nêu nhân không dụ thì nhân làm sao thành, làm sao đồng có thể nêu cách so sánh? Nhân đã không có phương pháp, rõ nhân bất định, vì không thể sinh tha quyết định trí. Hỏi: Nêu nhân năng lập, lập chưa thành tôn, không có dụ thuận thành, tôn kia chẳng lập, tôn đã thuận trước không lập, nhân này lẽ ra chẳng phải bất định? Đáp: Nhân thiếu đồng dụ, nghóa tôn không có khả năng có thể thành, cũng không ngược lại thành dị tôn, do đây gọi là bất định, vì chẳng phải là định năng thành nghóa một tôn, không cùng tên định kia. Lý Môn vấn nạn: Lẽ ra bốn loại gọi là bất định nhân vì cả hai đều có, sở văn như thế nào? Cổ Nhân Minh sư không chấp nhận ngoại bốn cái này có bất cộng. Nay nạn vấn rằng: Dùng lý để đối đáp trừ quyết định trái nhau, bốn loại kia bất định nơi đồng dị phẩm, hoặc biến hoặc bất biến thảy đều có, có thể thành pháp dị loại, nên có thể gọi không nhất định. Nay nhân là tánh sở văn không thể thuộc dị loại lại chẳng thành. Như thế nào là bất định? Tỉ lượng vấn nạn: Sở văn tánh là nhân không thuộc tôn bất định, dị phẩm không nên là nhân, như hai mươi tám nhân dụ. Còn nhân là sở văn không thuộc tôn bất định, đồng phẩm vô nên là nhân như bốn mươi sáu nhân dụ. Luận kia giải thích: Do bất cộng nghóa là như núi đồng trống phần nhiều có cây, mặc dù không thuộc về nó, hoặc có người lấy liền thuộc về người đó cũng không nhất định, nhân này cũng như vậy. Đồng dị hai phẩm mặc dù đều bất cộng không nhất định sở thuộc, hy vọng chỗ thành lập tôn pháp đồng dị, có thể thông thành nghóa tùy nhất nên gọi là bất định. Luận giải thích nghóa bất cộng này: Giả sử bất cộng thành lập pháp, sở hữu sai biệt khắp thuộc tất cả đều là nghi nhân. Nghóa là, nếu bất cộng pháp sở văn tánh làm nhân, phàm chỗ thành lập các pháp thường vô thường, nghóa sai biệt sở hữu tất cả, thuộc khắp các tôn tất cả Phật pháp ngoại đạo… Trong tôn đó tùy chỗ lập tôn, nhân này không nhất định đều là nghi nhân, như Phật pháp lập hoặc thuộc pháp xứ, hoặc thuộc thanh xứ, hoặc thuộc hữu lậu, hoặc thuộc vô lậu. Các loại thanh này đều vô thường làm tôn. Số luận lập tôn hoặc là thật có, hoặc là tự tánh… làm tôn, Thắng luận lập tôn hoặc thuộc đức cú, hoặc không thuộc đức cú, lìa sự ràng buộc thân tử lập hai cú pháp, hữu mạng - vô mạng. Có hoạt động và tăng trưởng thì gọi là hữu mạng; không hoạt động không tăng trưởng gọi là không có mạng. Thanh là vô mạng, ngã là hữu mạng… Tất cả như vậy lập thanh làm tôn, tánh sở văn là nhân, khắp các tôn kia đều hai phẩm không, không có khả năng làm cho tôn tánh quyết định, do đó nghi nhân. Lại giải thích: Chỉ có tánh kia vì thuộc đó hoàn toàn lìa. Ý đây giải thích rằng, tánh sở văn là nhân chỉ có thanh hữu tánh hữu pháp kia, sở nhiếp thuộc, không chỉ đồng phẩm sở thuộc. Vì cũng không thuộc dị phẩm sở nhiếp nên gọi bất định. Hoặc tánh sở văn gọi là hữu tánh, tánh sở văn kia, vì chỉ có tánh thanh kia sở nhiếp. Hai phẩm đều không do đây gọi là bất định. Trên đây là đã giải thích nạn, nhưng chưa phá lương trước. Phá trước kia vì hoàn toàn lìa. Chữ “hướng” là diện - biên - tướng, tức là tướng của ba nhân, cũng gọi là ba hướng - ba diện - ba biên. Tánh sở văn này chỉ thiếu một tướng, nghóa là đồng phẩm định hữu, do đây tôn pháp quyết định trái nhau. Xưa kia có các sư lập môn lý luận phá tỉ lượng: Tánh sở văn làm nhân là nhân bất định (tôn vậy); thiếu một tướng cũng như cộng… bốn loại bất định (dụ vậy). Vì bốn loại này đều thiếu một tướng dị phẩm biến vô, nếu hiểu như thế này có lỗi bất định, chẳng phải quyết định trái nhau. Nhân bất cộng kia thành như cộng… vì thiếu một tướng thuộc bất định, là như tùy nhất bất thành vì thiếu một tướng không thuộc bất định. Như đối thanh hiển lập thanh vô thường, vì sở tác tánh như bình - bồn… Nhân này chỉ thiếu một tướng ban đầu không thuộc bất định. Tại sao lại thiếu một tướng nhân là lượng trái nhau? Lẽ ra cùng lượng ban đầu tạo lỗi bất định, nhân bất cộng này là như hai mươi tám, vì dị phẩm vô không thuộc bất định thành ba mươi chín, vì dị phẩm vô là nhân bất định. Cùng các thứ hai ở trước tạo thành bất định. Nhân bất cộng này là bốn mươi sáu vì đồng phẩm vô, chẳng phải nhân bất định vì như bảy mươi chín vì đồng phẩm vô là nhân bất định. Nhân trước tổng nói đồng dị phẩm hữu vô không được riêng nên có bất định. Do nhân kia đây lẽ ra nói dị phẩm biến vô, vì đồng phẩm biến vô đã ngăn bất định bèn không có lỗi kia. Nhân bất cộng này không chỉ thiếu tướng ban đầu, không thuộc bất thành, ngược lại không thành dị tôn chẳng thuộc trái nhau. Đoạn trước đã nói chỉ thiếu tướng vô thứ ba gọi là cộng bất định, nay chỉ thiếu tướng vô thứ hai, cho nên gọi là bất cộng bất định, vì không thuận không trái thành tôn cộng. Nay khởi tướng quyết định trái lượng, giải lý môn nhân sở tác tánh, nhân bất định thuộc tôn. Trong đồng dị tướng vì tùy lìa một như cộng nhân… nhân lực tướng ban đầu nên không có lỗi trước. Lý Môn Luận lại giải thích: Nếu đối chấp nhận có thanh tánh là thường đây lẽ ra phải thành nhân. Trong đây ý hỏi, như Thanh luận sư đối Thắng luận lập nhân là sở văn tánh, như tánh thanh là thường lẽ ra thành chánh nhân. Kia tự đáp: Nếu lúc đó không hiển bày sở tác tánh… là nhân vô thường cho có nghóa này song đều có thể được, vì một nghóa trái nhau không chấp nhận có là nhân do dự. Ý ở đây đáp, nếu Thắng luận sư lúc lập luận ngu độn không có trí, không cùng thanh luận lập sở tác nhân thành thanh vô thường, kia có thể chánh nhân. Nếu lúc đối đều lập vô thường là tôn sở tác là nhân…, vì một nghóa trái nhau không chấp nhận có là nhân do dự, đây cũng có ba. Như đệ tử Phật đối Thắng luận lập tha tỉ lượng kia thật phi thật vì chấp đức y. Tôn phi thật, câu đức kia… dùng làm đồng phẩm. Mặc dù không có dị thể chấp nhận nhân đức y, với đồng dị phẩm đều chẳng có gọi là tha bất cộng. Nếu Thắng luận lập ngã thật có, vì chấp nhận đức y với đồng phẩm, cả hai đều chẳng có, gọi là tự bất cộng. Như luận đã trình bày gọi là cộng bất cộng. Luận rằng: “Đồng phẩm nhất phần chuyển dị phẩm biến chuyển, như nói thanh chẳng phải cần, dũng, không gián đoạn, vì phát tánh vô thường”. Thuật rằng: Phần thứ ba dưới đây giải thích đồng một phần, dị hoàn toàn. Văn cũng có ba: Đây là phần đầu nêu tên cử tôn nhân. Hoặc thanh sinh luận xưa không nay sinh là sở tác tánh, chẳng phải cần dũng hiển bày. Hoặc thanh hiển luận xưa có nay hiển, cần dũng hiển phát, chẳng phải sở tác tánh, do đó nay thanh sinh đối thanh hiển tôn. Thanh chẳng phải cần dũng không gián đoạn phát sinh, nhân là tánh vô thường. Nhân này mặc dù là lưỡng câu toàn phần lưỡng câu bất thành, nay lấy bất định cũng không có lỗi. Luận rằng: “Trong này, chẳng phải cần, dũng, vô gián là chỗ phát tôn do điển, hư không… là đồng phẩm kia, tánh vô thường này với điển… là có, với hư không… là không”. Thuật rằng: Từ đoạn thứ hai dưới đây hiển nghóa bất định có ba: Ban đầu hiển đồng phẩm, kế hiển dị toàn, sau kết bất định. Chẳng phải cần, dũng, tôn, điển, quang và hư không… đều là đồng phẩm. Đồng thời, chẳng phải vì siêng năng tinh tấn dũng mãnh không gián đoạn phát hiển bày. Nhân vô thường đồng hư không không có, cho nên đồng phẩm nhất phần chuyển. Luận rằng: “Chẳng phải cần - dũng - vô gián phát tôn dùng bình… làm dị phẩm, đối với kia khắp cõi có”. Thuật rằng: Đây là hiển dị toàn. Bình… là cần, dũng, không gián đoạn, nhân bốn trần nê làm chỗ hiển phát, nhân vô thường khắp cõi kia. Luận rằng: “Nhân này dùng điển, bình… làm đồng phẩm nên cũng bất định”. Thuật rằng: Đoạn này kết bất định. Hoặc tôn đồng phẩm điển, hư không là đồng, vì đều chẳng phải siêng năng tinh tấn dũng mãnh chỗ hiển phát. Hoặc nhân đồng pháp, điển và bình là đồng, vì đều vô thường. Nhân này mặc dù đối với tôn đồng phẩm trên hư không không có, cả hai đối với tôn đồng phẩm dị phẩm trên điển quang, và bình là có, không chỉ định thành một tôn, cho nên cũng bất định, cũng như hai phẩm trước. Luận rằng: “Vì như bình… tánh vô thường, cho nên đó là cần dũng không gián đoạn phát sinh; vì như điển… tánh vô thường nên đó chẳng phải cần - dũng - vô gián chỗ phát khởi”. Thuật rằng: Thứ ba là chỉ tướng bất định. Hiển bày nhân vô thường, hay thành thanh trước, hoặc là cần, dũng, hoặc chẳng phải cần dũng, tại sao chẳng phải bất định? Ở đây cũng có ba. Như Tiểu thừa đối Đại thừa lập tha tỉ lượng rằng, tạng thức của ông chẳng phải là dị thục thức, vì nó chấp thức tánh, như thức thứ bảy… Đây chẳng phải dị thục thức tôn, do trừ ngoài dị thục lục thức, còn tất cả pháp là đồng phẩm. Nhân chấp thức tánh, đối với đệ thất thức… có, với sắc thanh… không có. Dị thục lục thức là dị phẩm, nhân chấp thức tánh, với kia biến khắp cõi, do vậy tha đồng phần dị toàn. Như Tát-bà-đa đối Đại thừa lập tự tỉ lượng: Mạng căn của ông nhất định là thật có, vì chấp nhận không có duyên lự, đối với sắc… có, với thức… không, dùng bình bồn… làm dị phẩm, nhân không có duyên lự với kia có khắp, cho nên tự đồng phần dị toàn. Như luận đã trình bày, tức là cộng đồng một phần, dị hoàn toàn. Luận rằng: “Dị phẩm nhất phần chuyển, đồng phẩm biến chuyển, như lập tôn nói thanh là cần-dũng-vô gián, vì nơi phát tánh vô thường”. Thuật rằng: Đoạn thứ tư sau đây giải thích dị phần đồng toàn, có hai: Đây là phần đầu nêu tên đề cử tôn nhân, cho rằng Thanh hiển luận đối Thanh sinh lập cần-dũng-vô gián là tôn sở phát, vô thường tánh là nhân. Luận rằng: “Cần-dũng-vô gián là tôn sở phát, dùng bình… làm đồng phẩm, tánh vô thường kia với đây có khắp”. Thuật rằng: Hiển bày nghóa bất định có ba, ở đây hiển đồng toàn vì tất cả chuyển. Luận rằng: “Dùng điển, hư không… làm dị phẩm, với kia một phần điển… là có, hư không… là không”. Thuật rằng: Đây là hiển dị phần, vì chuyển có nửa phần. Luận rằng: “Như trước cũng là bất định”. Thuật rằng: Đoạn này kết bất định là nhân chẳng những hay thành thanh như bình bồn…, là cần dũng phát cũng hay thành thanh. Như điển quang… chẳng phải cần dũng phát, vì như đoạn trước thành hai phẩm cũng là bất định, ở đoạn này cũng có ba. Như Đại thừa sư đối Tát-bà-đa lập tha tỉ lượng: Ông chấp mạng căn nhất định chẳng phải thật có, vì chấp nhận không có duyên lự, như chỗ chấp bình… Tôn chẳng phải thật có, dùng bình… làm đồng phẩm, nhân không có duyên lự, với kia có khắp. Dùng năm âm vô vi làm dị phẩm, nhân không duyên lự, Đại Bồ- tát kia trên một phần sắc… có, tâm và tâm sở không, do đó tha dị phần toàn đồng phần. Đại thừa hoặc cho rằng, tạng thức của ta là dị thục thức, vì chấp nhận thức tánh, như dị thục lục thức. Dị thục thức là tôn, dùng dị thục lục thức làm đồng phẩm, chấp nhận thức tánh là nhân ở nơi đây có khắp. Do trừ dị thục lục thức ngoài ra tất cả pháp là dị phẩm, chấp nhận thức tánh là nhân, đối với kia một phần chẳng phải nghiệp quả có tâm, với kia trên một phần sắc… không có. Cho nên tự dị phần đồng toàn. Như đoạn trước đã nói, Thắng quân luận sư thành lập “Đại thừa đúng là lời Phật”, lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật vì không nhiếp, như Tăng nhất…, tức cũng là lỗi này. Trong đây tôn là lời Phật, dùng Tăng Nhất… làm đồng phẩm. Đại Tiểu thừa cả hai đều là cực thành, chẳng phải lời Phật không thuộc nhân ở nơi đây có khắp. Dùng phát trí lục túc… làm dị phẩm, lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật không thuộc nhân. Với phát trí có với lục túc không, do phát trí luận… Tiểu thừa tự chấp nhận cũng là lời Phật, Đại thừa không chấp nhận, cũng như Đại thừa của ông và các Tiểu thừa. Lưỡng câu cực thành chẳng phải lời Phật và không thuộc nhân, ở nơi kia đã có thì cũng thuộc lỗi nhân. Như luận đã trình bày, tức là cộng dị một phần, đồng hoàn toàn. Luận rằng: “Câu phẩm nhất phần chuyển như nói thanh thường không có tính chất ngại”. Thuật rằng: Thứ năm nói về câu phần, có hai: Đây là phần đầu, nêu tên cử tôn nhân. Thanh Thắng hai luận đều nói thanh không có chất ngại. Vì không có chất ngại, không đại là nhó căn cũng không có chất ngại. Nay Thanh luận đối Thắng luận lập tôn âm thanh là thường, nhân là không có chất ngại. Luận rằng: “Trong đây, tôn thường dùng hư không cực vi làm đồng phẩm không có chất ngại tánh, với hư không… thì có, với cực vi… thì không”. Thuật rằng: Hiển bất định cũng có ba, đoạn này hiển đồng phần. Hai tôn đều nói địa, thủy, hỏa, phong cực vi là thường trụ. Thô là vô thường, kiếp sơ thành thể chẳng sinh, sau kiếp hoại thể chẳng diệt, hai mươi kiếp không phân tán ở khắp nơi, hậu kiếp thành lập, cả hai hợp sinh quả. Lần lượt như thế cho đến đại địa sở sinh đều hợp nhất, năng sinh đều lìa nhiều. Giải thích đầy đủ như trong lời sớ của Nhị thập Duy thức. Hư không đồng thời kia, vì cực vi nên nói đồng, đồng chấp ý đó. Như cực vi cũng có chất ngại, do đó tôn thường này, lấy hư không cực vi là đồng dụ, không có chất ngại là nhân, với hư không… thì có, với cực vi… thì không, nên đồng phần. Luận rằng: “Dùng bình, lạc… làm dị phẩm, với lạc… thì có, với bình… thì không”. Thuật rằng: Đoạn này hiển dị phần và hợp trước hiển câu nhất phần chuyển. Trong hai tôn kia đều nói giác, lạc, dục, sân… là tâm và tâm sở, hai loại này chẳng phải thường vì thường dị phẩm. Không có chất ngại là nhân, với lạc… thì có, với bình… thì không, do đó dị phần. Luận rằng: “Vì vậy nhân này dùng lạc và hư không làm đồng pháp, cho nên cũng gọi là bất định”. Thuật rằng: Kết bất định, không có chất ngại là nhân, hư không là đồng phẩm, hay thành âm thanh thường. Lạc là đồng phẩm hay thành vô thường, vì thành hai phẩm, do vậy như trước cũng là bất định. Lý Môn luận cho rằng nếu trong đó câu phần là có cũng là định nhân, vì lựa riêng nên gọi là sai biệt. Nghóa là, nhân câu phần thứ năm này với đồng dị phẩm đều phần có, là nhân bất định vì có trái nhau và chánh nhân. Đoạn này nói, nhân chẳng phải nơi một phần dị phẩm chuyển, nhất định thuộc nhân. Như lập tôn “âm thanh là thường”, vì không có chất ngại là nhân, không có các chất ngại đều là thường, cũng như hư không là đồng dụ. Nếu là vô thường tức là có chất ngại, cũng như bình… là dị dụ, hư không là đồng phẩm. Có nhân không có chất ngại, thì bình là dị phẩm, không chất ngại là nhân không, do đó chánh nhân kia nếu trông mong lại… tâm và tâm sở pháp, vì dị phẩm có tức là tương vi. Cho rằng thanh vô thường vì không có chất ngại, như tâm và tâm sơ. Nếu là thường tức thấy có chất ngại, cũng như cực vi. Nay nhân bất định này hy vọng dị phẩm nhất phần vô biên có thể quyết định. Nếu hy vọng dị phẩm nhất phần hữu biên liền thành trái nhau, do đó mà do dự. Hoặc trong đó câu phần có chẳng phải chỉ một phần này. Thứ nhất, thứ hai, thứ tư và thứ năm đều gọi là câu phần, đồng thời có nghóa này; đồng phẩm dị phẩm gọi là câu phần, chẳng phải đều một phần gọi là câu phần. Hoặc cách giải sau đều thuộc bất định, đoạn trước nhân bất cộng không có nghóa nhất định, nên lựa riêng tự vì ngoài ra nhân bất định, còn lại đều sai khác. Hai nhân trên đây chỉ có hai đoạn không có đoạn thứ ba, chỉ tướng bất định đồng đoạn thứ ba trước dễ nên không nói. Đây cũng có ba. Như Đại thừa sư đối Tát-bà-đa lập tha tỉ lượng là “mạng căn của ông chẳng phải dị thục”, vì chấp nhận chẳng phải thức. Như chấp nhận điển… đây chẳng phải tôn dị thục, dùng phi nghiệp quả ngũ uẩn vô vi làm đồng phẩm, chấp nhận nhân chẳng phải thức, với điển… thì có, với tâm… thì không. Dùng nghiệp quả năm uẩn làm dị phẩm, nhân chấp nhận chẳng phải thức, với tâm… thì không, với nhãn… thì có. Do đó tha câu phẩm nhất phần chuyển, Tiểu thừa trở lại lập tức tự câu phẩm nhất phần chuyển. Như luận đã trình bày là cộng câu phẩm nhất phần chuyển. Luận rằng: “Tương vi quyết định”. Thuật rằng: Quyết định tương vi thứ sáu có ba, ban đầu nêu tên nhân có đủ ba tướng đều tự quyết định thành tôn tương vi, gọi là quyết định tương vi, tức là quyết định của trái nhau, quyết định làm cho trái nhau. Thứ ba, thứ sáu cả hai đều chuyển, “câu” là y chủ thích. Có tỉ lượng rằng, hai nhân này chẳng phải lỗi của nhân, vì ba tướng đầy đủ, như hai mươi tám nhân, hai mươi tám nhân lẽ ra chẳng phải chánh nhân vì đủ ba tướng. Như hai nhân này lẽ ra lập tương vi, lượng kia cho rằng hai nhân này không nhất định thuộc nhân, làm cho đối địch chứng minh vì sinh trí nghi. Như năm bất định, hoặc hai nhân này không thuộc chánh nhân, vì không khiến cho đối địch chứng minh sinh định trí, như ngoài ra lỗi của nhân. Hoặc hai mươi tám nhân chấp nhận chẳng phải chánh nhân bèn không phải chánh lượng, nhiều lỗi trái với giáo lý thế gian nên biết, kia là chánh nhân sở nhiếp. Hai loại này chính là thuộc bất định, hai mươi tám câu thuộc nhân chánh nhân, vì sinh địch luận chứng minh quyết định trí, như chánh nhân khác. Như luận lập tôn nói “thanh là vô thường”, vì sở tác tánh thí như bình… Trình bày thứ hai hiển tôn nhân có hai, đây chính Thắng luận đối Thanh sinh luận, nghóa như trước đã nói, hoặc đối thanh hiển tùy nhất bất thành. Luận có lập “thanh là thường”, vì có sở tác tánh, thí như thanh tánh. Trình bày đây chính là Thanh sinh đối Thắng luận lập, hoặc đối tôn khác nói sở tác tánh, là đoạn trước đã nói bất cộng bất định. Thắng luận thanh tánh cho rằng đồng dị tánh, thật đức nghiệp cả ba vì đều biệt tánh, bổn có mà thường đại có cộng có, chẳng phải đều có biệt tánh không gọi thanh tánh. Thanh sinh nói thanh tổng có ba loại: Âm vang: Mặc dù tai nghe tiếng không thể biểu hiện nói ra được, như nói gần hầm đặc biệt có âm vang. Thanh tánh: Mỗi mỗi đều có thể diễn nói, đều có tánh loại, lìa ngoài năng thuyên riêng có bổn thường, không duyên không giác mới sinh duyên đầy đủ, mới bắt đầu có thể nghe. Không giống như Thắng luận sư. Năng thuyên lìa hai cái có trước âm vang và hai loại này đều mới sinh, âm vang không thể diễn nói. Nay tiếng mới phát sinh đây là thường trụ, do vốn có tánh nghe là đồng phẩm. Hai tôn tuy khác nhau, đều có tánh nghe có thể nghe vả lại thường trụ, do đó đều là đồng dụ, không nên phân biệt. Thế nào là tánh nghe? Như lập Tôn thanh là vô thường, nhân là sở tác tánh, bình là đồng dụ, đâu nên phân biệt. Thế nào là sở tác? Thế nào là vô thường? Như đây, vòng tròn sở tác, đá đá đập bể vô thường, tiếng không bình có, hoặc tầm từ (tìm tòi) là sở tác, duyên dứt vô thường, tiếng có bình không. Nếu như vậy tất cả đều không có nhân dụ, do đó biết pháp của nhân dụ đều không nên phân biệt, do đây thanh sinh lập lượng không có lỗi. Nếu phân biệt liền thành lỗi loại tương tợ phân biệt. Luận rằng: “Hai nhà luận này đều là do dự nhân, vì vậy đều gọi là bất định”. Thuật rằng: Thứ ba kết thành bất định, hai nhân đều không thể khiến cho tha địch chứng sinh quyết định một trí, vì vậy như loại trước đều là bất định. Lý Môn luận có bài tụng kết thành bốn câu: “Tương vi và bất định Quán sát kỹ tôn pháp Nếu ưa thích trái hại Thành do dự điên đảo”. Khác đây không có tợ nhân, do quán sát tôn pháp khiến cho người quán sát trí thành do dự trước gọi là bất định nhâ. Hai nhân tuy đầy đủ ba tướng khiến cho tha bất định cùng tên bất định. Luận nói, hai loại này đều thuộc bất định, cho nên không lẽ phân biệt trước sau thị phi. Như hai nhân này cả hai đều bất định, Cổ Nhân Minh có đoán ngôn như sát - trì - kỳ sau là thắng. Nếu như vậy thì Thanh mạnh Thắng luận lẽ ra thua, song Lý Môn luận chê đoán Thanh Thắng hai luận, nghóa là trong đây thắng lực hiện giáo, do vậy nên y đây suy nghó tìm cầu quyết định, kia thuyết đây nhận cả hai đều bất định. Nhưng đoán Thanh luận trước lập Thanh thường, sở văn tánh nghe là nhân. Thắng luận sau nói sở tác tánh là nhân, thanh vô thường, có thể như sát-trì-kỳ, trước thua sau thắng. Nay đây cùng kia trước sau trái nhau chẳng lẽ như thế. Ngoại đạo vấn nạn: Tánh nghe là nhân, hoặc đối với có tánh nghe lẽ ra là chánh nhân, vì luận chủ trái, nên khiến y hiện giáo, “Hiện” nghóa là thế gian thấy nghe gián đoạn, có lúc không nghe, được lực của các duyên khởi. “Giáo” nghóa là Phật giáo nói thanh vô thường, vì Phật với thuyết giáo thứ nhất là thắng. Do hai nghóa này Thắng luận nghóa thắng. Đức Phật Thích-ca hiện chứng các pháp thấy nghe vô thường y hiện thuyết giáo, giáo thuyết vô thường nên trước thắng luận, không nên y thường giáo của ngoại đạo. Hơn nữa ngoại đạo không chấp nhận Phật thắng, nên y thuyết thế gian hiện có chí thật đáng tin tưởng. Thanh gặp duyên có tạm có lại không, thế gian đáng tin vì cùng thuyết giáo nên trước Thắng luận. Thanh luận bị thua vả lại đoán quyết nơi Thanh Thắng hai nghóa Thanh thua Thắng trước, chẳng phải các quyết định trái nhau, đều trước thua sau thắng. Nếu như vậy bèn quyết định tạo sao gọi là bất định? Đây do Luận chủ e rằng tất cả quyết định trái nhau đều sau được thắng, nên kết cả hai đều bất định, cũng có ba. Như Đại thừa phá Tát-bà-đa vô biểu sắc bên ông nhất định chẳng phải thật sắc, vì chấp nhận không đối địch như tâm tâm sở. Kia lập lượng: Ngã không đối sắc nhất định là thật sắc, vì chấp nhận tánh sắc, như chấp nhận sắc thanh… đây là tha tỉ lượng quyết định trái nhau, bản chất đầu là tha tỉ, sau chắc chắn là tự tỉ. Nếu lập tự tỉ đối tha tỉ gọi là tụ tỉ lượng quyết định trái nhau, không có cả hai tự - tha, hoặc có hai tự và tha đều chân lập phá vì chẳng phải tợ lập. Như Đại thừa lập trước phá vô biểu tỉ lượng, Tiểu thừa đối đáp: Đại thừa vô biểu nhất định có thật sắc, vì chấp nhận chẳng phải cực vi… là vô đối sắc. Như chấp nhận định quả sắc, đây chẳng phải quyết định tương vi, vì đều là chân năng lập và chân năng phá. Do đây lập địch cộng thân có một hữu pháp tranh pháp này, vì mới là đoạn này. Nếu trước lập tự nghóa, sau tha mới phá tức tự tỉ lượng vi quyết (1 2 7) định, như luận đã nói, có lỗi cộng tương vi quyết định đây gọi là ba. Hỏi: Nếu cộng bất định cũng như bất cộng chẳng, cho đến câu phẩm nhất phần chuyển cũng tương vi quyết định sao? Đáp: Sáu lỗi thể này vì hành tướng sai khác đều gọi là tương vi, thể tướng không xen tạp không có hai cái đồng thể huống chi nhiều hợp ư. Hỏi: Nhân có sáu lỗi này với chín câu nhân đều là lỗi gì? Đáp: Cộng nhân ban đầu này là câu thứ nhất kia, bất cộng thứ hai đây là câu thứ năm kia, thứ ba đây là câu thứ bảy kia, thứ tư đây là câu thứ ba kia, thứ năm đây là câu thứ chín kia, lỗi thứ sáu này là kia không có nhân, tướng này không thiếu kia có thiếu. Hỏi: Tương vi quyết định cùng tỉ lượng tương vi có gì khác nhau? Đáp: Tôn kia trái nhân, nhân này trái tôn, kia rộng đây hẹp vì hai loại khác nhau. Do đây nói các quyết định trái nhau, đều là tỉ lượng tương vi, có tỉ lượng tương vi chẳng phải quyết định tương vi, vì tôn trái nhân không có hai nhân. Hỏi: Quyết định tương vi trái pháp tự tướng, cũng có pháp sai khác, hữu pháp tự tướng, hữu pháp sai biệt chăng? Đáp: Có nếu không thay đổi nhân trước trái bốn loại tôn, sau đây là lỗi tương vi. Nếu đổi nhân trước trái bốn loại tôn, đều là quyết định tương vi. Nếu cộng tỉ lượng, như Thắng luận sư đối Thanh luận lập thanh vô thường rồi. Thanh luận nếu nói thanh lẽ ra chẳng phải thanh, vì chấp nhận thuộc đức như sắc thanh… mà thành hữu pháp tự tương tương vi quyết định. Quyết định liền trái tự tôn, nếu nói âm thanh là vô thường, lẻ ra chẳng phải âm thanh là vô thường, vì sở tác tánh, như bình cho là hữu pháp tự tướng tương vi quyết định không thuộc lỗi này, đều lặp lại pháp hữu pháp thành tôn pháp, vì trong các lỗi không có tướng này. Vô thường kia gọi là tự tướng tránh pháp căn bản, chẳng có ý chấp nhận sai khác trên hữu pháp, không thể nói hữu pháp sai biệt. Cho nên lượng này chẳng thuộc lỗi, tức tất cả lượng không phải chân lượng vì đều có điều này. Nhưng lỗi này loại phân biệt tương tợ. Do đó nhân minh đều nói không có lỗi này. Như Thắng luận sư lập tự tỉ lượng rằng đã nói hữu tánh chẳng phải bốn đại chủng, vì chấp nhận trừ bốn đại thể chẳng phải không có, như sắc thanh…. do trừ ngoài bốn đại và hữu tánh đều là đồng dụ, tha liền tạo thành hữu pháp tự tướng tương vi nạn rằng: Hữu tánh của ông chẳng phải hữu tánh vi không phải bốn đại, như sắc, thanh… Đây gọi là hữu pháp tự tướng tương vi quyết định, tức do nhân này lại tạo hữu pháp sai biệt trái nhau, hữu pháp của ông lẽ ra không thể tạo có tánh hữu duyên, vì chấp nhận chẳng có bốn đại như sắc, thanh… Ý kia nói vì có năng tác hữu tánh có tánh năng duyên tạo tác có tánh hữu duyên chẳng phải có tánh hữu duyên, ý đây chấp nhận sự sai khác của hữu tánh hữu pháp, kia chẳng phải bốn đại chủng là pháp tự tướng. Có thể có bốn đại chẳng phải bốn đại chủng, không thể có bốn đại chẳng phải bốn đại chủng, là pháp sai biệt. Lại khởi pháp sai biệt tương vi quyết định hữu tánh của ông chẳng phải hay có bốn đại chẳng phải bốn Đại chủng, vì chấp nhận chẳng phải không có như sắc thanh… Kia nói sắc… mặc dù chẳng phải bốn đại chủng không thể có bốn đại, song nói hữu tánh có thể có bốn đại chẳng phải bốn đại chủng, cho nên thành pháp sai biệt tương vi quyết định. Nay luận chỉ trình bày ngôn thuyết, trái tôn năng biệt vốn sở tránh nhân, gọi là tương vi quyết định hữu pháp tự tướng kia mặc dù nói sở trần chẳng phải tướng tôn ngược bổn sở tránh pháp, ý chấn nhận hai loại sai khác. Tuy ý sở tránh chẳng phải lời nói đã trình bày, ba nhân quyết định tương vi này đều lược không nói. Do đây căn cứ tỉ lượng tương vi trước cũng có bốn loại, theo luận cũng chỉ nói pháp tự tướng tỉ lượng. Hỏi: Các loại bất định này có một phần hay có hoàn toàn? Đáp: Vì vô lý cùng tận như trước đã nói năm mươi loại bất định, trong tự cộng tỷ các tự bất định và cộng bất định là lỗi bất định. Tự cộng có lỗi chẳng phải chân năng lập tại sao gọi phá tha? Trong tha tỉ lượng, nếu tha bất định và cộng bất định cũng là lỗi bất định, lập tha trái tha và cộng có lỗi, đã chẳng phải năng phá sao thành năng lập. Trong tự tỉ lượng các tha bất định, trong tha tỉ lượng các tự bất định đều không thuộc lỗi và lập nghóa vốn muốn trái hại tha, các nhà lập luận tự chẳng phải tha, tha không phải bất định. Lập tha chẳng phải tự tự chẳng phải bất định, tùy chỗ ứng đều như lý, luận nay vả lại y lỗi lưỡng câu bất định nói lập luận địch luận đều chấp nhận nhân đối với hai dụ. Vì cộng bất cộng… nói thành lỗi, hai dụ tuy cộng, nếu nhân tùy nhất. Nhân nghi dụ đồng dụ không có thể, tùy ứng tức là tùy nhất do dự thuộc lỗi sở y không thành không nhất định, năm mươi bốn loại các lỗi bất định, mỗi loại đã có bốn bèn thành hai trăm mười sáu loại thuộc lỗi bất định. Hoặc bốn món bất thành có thể không thể toàn phần một phần tự tha cùng chấp nhận hợp thành hai mươi bảy đều chuẩn như trước nói, hai mươi bảy lỗi đó năm mươi bốn lỗi bất định mỗi một lỗi đều có tổng thành một ngàn bốn trăm năm mươi tám ( 1. 458) loại các lỗi bất định. Lý Môn luận đã nói: Bốn loại bất định, với đồng phẩm có chẳng có… tùy chỗ ứng nên nói như thế. Cho nên biết đạo lý quyết định như vậy, song Lý Môn luận nhiếp bài tụng này: “Nếu pháp là bất cộng Cộng nhất định trái nhau Khắp tất cả pháp kia Đều là nghi nhân tánh”. Cộng nhất định thuộc bốn nhân bất định, trong đồng dị phẩm, tùy sở ứng đó hoặc hoàn toàn hoặc một phần vì đều có cộng. Bất cộng tương vi đều chỉ nhiếp một. Sáu môn bất định này khắp tất cả tôn, đối với các pháp kia đều là nghi nhân, chẳng những trên đây đã nói tôn gọi là bất định. Viết xong ngày mùng 3 tháng 9 niên hiệu Kiến Võ năm thứ hai nhờ Công gia kính cẩn cầu nguyện viện Đại Thừa dâng lên Tham Lung nơi quán Chu Hộ, chân đọc đại Bát-nhã được thúc giục trong số sáu người, công trình viết chép dẫn chúng đã xong. Y công năng bẻ dẹp tà vạy trợ giúp tinh thần muôn nước trở về chánh lý nhân minh, một người thực hành chánh đức. Quyền Luật Sư Tôn Kinh, nhân lúc rảnh rỗi xem xét lải sửa bản xong vào 23 cùng tháng. LỜI SỚ NHÂN MINH NHẬP CHÍNH LÝ LUẬN QUYỂN TRUNG (HẾT)  Sa-môn Cơ chùa Đại Từ Ân soạn dịch <卷>QUYỂN HẠ Tương vi có bốn: Pháp tự tướng tương vi nhân Pháp sai biệt tương vi nhân Hữu pháp tụ tướng tương vi nhân Hữu pháp sai biệt tương vi nhân. Trình bày đoạn thứ ba dưới đây giải thích tương vi có ba (nêu, ví dụ, giải thích). Nghóa tương vi nghóa là hai tôn trái nhau, bốn lỗi này không thay đổi tha nhân, hay khiến người lập tôn thành trái nhau, cùng pháp tương vi mà làm nhân gọi (1 2 8) là tương vi nhân. Nhân đắc quả gọi là danh tương vi, chẳng phải nhân trái tôn gọi là tương vi, do đo không có tôn cũng trái nhân, vì dụ mà thành nạn. Theo Lý Môn luận hoặc pháp hay thành sở lập trái nhau là lỗi tương vi gọi tợ nhân, như pháp không trái nhau, tương vi cũng như vậy, vì pháp sở thành không nhất định không có. Do kia nói nên nhân vẫn định xưa dụ có thể thay đổi chỗ nương, vì vậy bốn lỗi dưới một lỗi đầu đổi dụ ba lỗi sau y xưa. Hỏi: Có nhân ngược tôn nghóa không thuận nhân, nhân gọi trái nhau tôn cũng phản nhân nghóa là không thuận tôn lẽ ra gọi là tương vi? Đáp: Do nhân thành tôn khiến cho tôn tương phản, nhân gọi tương vi, chẳng phải tôn thành nhân, khiến nhân tương phản, không gọi tương vi. Pháp tự tướng tương vi nhân: Nhân gọi là pháp tự tướng tương vi, tôn gọi là tỉ lượng tương vi, nhân tương đối sai khác trái nhau thành bốn. Trái tôn hợp nói chỉ gọi là tỉ lượng tương ci do tôn chuẩn theo nhân, nên biết cũng có hữu pháp sai biệt. Hữu pháp tự tướng, hữu pháp sai biệt tỉ lượng tương vi, không như vậy tại sao chỉ nói hữu pháp tự tướng tỉ lượng tương vi, quyết định tương vi kia và nhân tương vi đều có bốn loại sao? Tôn này thuyết pháp lược có hai loại tự tánh và sai biệt, ở đây có ba lớp: Hạn cuộc - thông chung đối pháp… nói thành lập tự tánh nghóa là ngã tự tánh pháp tự tánh hoặc có hoặc không vì sở thành lập vì tánh sai biệt. Sai biệt nghóa là ngã sai biệt, pháp sai biệt, hoặc khắp tất cả, hoặc chẳng khắp tất cả, hoặc thường hoặc vô thường, hoặc hữu sắc hoặc vô sắc, vô lượng sự sai khác như vậy, tùy sở ứng đó. Hư không… khắp cả cõi, sắc… chẳng khắp trước hạn cuộc sau thông tất cả nên cả hai sai khác. Trước - sau trong tổng nêu trước tiên nói người trình bày gọi là tự tánh, người nói sau gọi lai sai biệt, vì lấy sau để trình bày phân biệt cái trước. Theo luận Phật địa, nhân minh luận cộng tướng tự tướng cùng đây có khác, luận kia nói các pháp đều giới hạn phụ thuộc tự tánh gọi là tự tướng thông suốt cái khác như xâu vòng hoa gọi là cộng tướng. Cho nên y nơi đây thanh… hạn cuộc thể gọi là tự tánh, vô thường suốt tha gọi là sai biệt, đắc gọi là bất định. Hoặc lập năm uẩn tất cả vô ngã, năm uẩn gọi là tự tướng, ngã vô ngã… gọi là sai biệt. Hoặc nói ngã là suy nghó, suy nghó là sai biệt, ngã là tự tánh do đó bất định, dùng lý suy ra, đây tuy trước nhưng giáo hơi khác vì nghóa cũng sai biệt phân thành hai nên. Chấp nhận ngôn ngữ, đã trình bày trong lời nói, trước giới hạn sau thông suốt đều gọi là tự tánh, cho nên pháp hữu pháp đều có tự tánh, tự ý đã chấp nhận nghóa sai khác, đã có thể thành lập gọi là sai biệt, vì vậy pháp hữu pháp đều có sai biệt, chẳng phải lấy tất cả, nghóa như trước đã nói. Nay nói có nhân khiến cho sở lập của bốn loại tôn này trở thành trái nhau, gọi là pháp tự tướng tương vi nhân. Luận thuyết ngôn nghóa rõ nhân sai khác, sơ trái phải tôn không có bốn lỗi này, luận chỉ nói bốn loại tương vi, năng trái phản nhân có mười lăm loại, trái một có bốn nghóa là mỗi loại sai trái, trái hai có sáu nghóa là trái hai loại ban đầu, trái ba loại ban đầu, trái bốn loại ban đầu, trái hai - ba, trái hai bốn, trái ba - bốn. Vi ba hữu bốn nghóa là xen nhau trừ một, trừ bốn có một nên thành mười lăm. Trong luận chỉ rõ hai sai biệt ban đầu một nhân trái nhau, hai loại sau cùng trái hai nhân, nêu ba loại này, ngoài ra còn có mười hai nên nói đẳng ngôn. Pháp tự tướng tương vi nhân như nói thanh thường vì sở tác tánh, hoặc cần dũng vô gián vì sở phát tánh. Trình bày phân biệt giải thích có bốn loại, văn ban đầu có ba: Nêu lặp tên, hiển tôn nhân thành nghóa trái nhau. Hỏi: Tương vi có bốn, tại sao ban đầu nói pháp tự tướng nhân? Đáp: Vì chánh sở tranh tỉ lượng tương vi, tương vi quyết định, đều chỉ nói pháp tự tượng kia, theo đó đầu tiên nói. Đây có hai sư như thanh sinh luận lập tôn âm thanh thường, nhân sở tác tánh. Thanh hiển luận lập cần dũng vô gián, nhân sở phát tánh. Luận này nhân chỉ dị phẩm có nên trái nhau, trình bày đầy thành nghóa trái nhau, do tôn ban đầu thường, hư không… là đồng phẩm, bình… là dị phẩm. Nhân là sở tác tánh, đồng phẩm khắp chẳng phải có, dị phẩm có khắp, trong nhân chín câu, câu thứ tư. Lẽ ra là tương vi lượng âm thanh là vô thường vì sở tác tánh, thí như bình… do tôn thứ hai, hư không là đồng phẩm dùng điển, bình… làm dị phẩm, cần dũng phát cho nên nhân đối với đồng phẩm không, với dị phẩm điển không bình… có. Trong nhân chín câu, câu thứ sáu, hai nhân này trở thành vô thường, vì trái tôn đã trình bày pháp tự tướng gọi là tương vi nhân. Theo Lý Môn đối với đồng hữu và hai, tại dị không là nhân, ngược với đây gọi là tương vi ngoài ra đều bất định. Nhân sở tác tánh này ngược lại trong chín câu chánh nhân thứ hai, kia đồng phẩm có dị phẩm không có, đây đồng phẩm chẳng có dị phẩm có. Nhân cần dũng này ngược lại trong chín câu chánh nhân thứ tám, kia đồng phẩm có chẳng có dị phẩm chẳng có, vì đây đồng phẩm chẳng có dị phẩm có chẳng có. Trên đây thường luận lược không trình bày nhiều. Một tợ nhân này nhân vẫn dụng xưa, dụ thay đổi trước lập, ba nhân sau, nhân dụ đều xưa. Do bốn nhân này nhân chắc chắn vẫn xưa, dụ nhậm vận thay đổi đồng. Nếu không như vậy ắt hẳn cũng không có pháp tự tướng cùng tùy nhất hợp có thể thành trái hai nhân, chấp nhận ban đầu thay đổi dụ, vì ba cái sau không thay đổi. Lại trong chín nhân thứ tư thứ sáu gọi là tương vi nhân, muốn đồng chẳng có, dị có hoặc cơ hai. Hoặc tùy sở lập, ba loại sau tương vi trực quán lập nhân với đồng có, tại sao sau nạn thành tương vi? Theo Lý Môn chỉ nói hoặc pháp sở lập hay thành tương vi là lỗi tương vi gọi là tợ nhân, không nói đồng dụ cũng vẫn dùng xưa. Luận này chỉ bày pháp ban đầu một thay đổi dụ, ba sau y xưa, muốn cho học giả biết nhân quyết định, vì chẳng phải lỗi dụ. Ba nhân dưới đây quán lập tuy thành ngược lại thành tương vi, mỗi mỗi nghiên cứu cùng tột, đều cũng chỉ là đồng không dị có vì thành trái nhau. Đến văn sau sẽ biết. Hỏi: Như Thanh luận ông nói thanh vô thường lẽ ra chẳng phải là âm thanh vô thường vì sở tác tánh, như bình bồn… chánh nhân thứ hai há chẳng phải hữu pháp tự tướng tương vi? Đáp: Kia không thuộc lỗi như lập âm thanh vô thường vô thường là pháp tự tướng, hoặc sở lập nhân trở thành âm thanh là thường có thể là lỗi này. Nay đều lặp lại hữu pháp và pháp thành pháp hữu pháp nên chẳng phải lỗi này, đây mới chỉ là loại lỗi phân biệt tương tợ. Nhân phạm lưỡng câu bất thành, nhân sở tác tánh, vì lập địch không chấp nhận y vô thường, vì sinh diệt sai khác. Giả sử kia chấp nhận y cũng phạm tùy nhất, còn vô thường không có năng y sở tác tánh, vì cũng phạm lỗi sở y bất thành. Có người gạn hỏi ông nói âm thanh vô thường lẽ ra chẳng phải là âm thanh vô thường, vì chấp nhận vô thường, như bình vô thường, đây cũng không có lỗi. Vì các nhà tợ lập luận cũng không có tướng lỗi này, âm thanh có vô thường là căn bản tránh, âm thanh là hữu pháp, chẳng phải trên pháp ý đã chấp nhận nghóa, không thể nói là lỗi của pháp sai biệt, cũng chẳng thuộc quyết định trái nhau, vì chẳng phải căn bản tránh. Giả sử chấp nhận thuyết trên là lỗi từ tất cả lượng (1 2 9) không có chánh nhân, nên tợ lập không thấy lỗi kia đều là tợ phá đến văn sau sẽ biết. Pháp sai biệt tương vi nhân: Như nói nhãn… quyết là tánh tha dụng tích tụ như ngọa cụ… Trình bày căn cứ theo đoạn trước cũng có ba hai loại sai biệt gọi là tương vi chẳng phải trừ trên pháp hữu pháp ngôn thuyết trình bày, ngoài ra tất cả nghóa đều là sai biệt. Chủ yếu là hai tôn mỗi mỗi tùy ứng nhân sở thành lập ý đã chấp nhận đã tránh phân biệt nghóa mới gọi là sai biệt. Nhân khiến cho tương vi gọi là tương vi nhân, nếu không như vậy. Như lập tôn âm thanh là vô thường trên âm thanh có thể nghe hay không thể nghe, trên vô thường duyên tánh kia chẳng phải duyên tánh, tất cả như vậy gọi là tương vi, nhân làm cho tương vi gọi là nhân kia. Nếu như vậy liền không có nghóa tương vi nhân, tỉ lượng tương vi… đều căn cứ theo đây giải thích. Trong đây nói về nghóa như Số luận ngoại đạo đối đệ tử Phật, ý muốn thành lập ngã là thọ, thọ dụng nhãn… Hoặc ngã là hữu pháp thọ dụng nhãn… bèn có thành lập sở biệt trong tôn, nhân tích tụ tánh, lưỡng câu bất thành dụ như ngọa cụ, sở lập không thành. Hoặc nói nhãn… ắt là ngã dụng, năng diệt bất thành, thiếu kinh luận có đồng dụ, tích tụ tánh nhân, trái với pháp tự tướng, ngọa cụ dụ có sở lập bất thành. Hoặc thành nhãn… là nhờ tha dụng, tương phù cực thành, do đây phương tiện kiều lập tôn rằng: Nhãn… ắt là tha dụng, nhãn… hữu pháp, chỉ sự trình bày rõ là tha dụng pháp, phương tiện hiển bày ý lập chắc là pháp sai biệt, không tích tụ tha, thật ngã thọ dụng. Hoặc hiển lập không tích tụ tha dụng năng biệt bất thành, sở lập cũng hoặc thành, cũng thiếu không có đồng dụ, nhân trái với pháp tự tướng, cho nên cần phải thành lập phương tiện. Tích tụ tánh nhân, vì tích tụ nhiều cực vi thành nhãn… dụ như ngọa cụ, sàn tọa kia là tích tụ tánh. Kia đây đều chấp nhận là tha thọ dụng nên được gọi là đồng dụ, pháp nhân dụ không nên phân biệt vì vậy kiến lập chung. Luận về nhân này như năng thành lập nhãn… ắt là tha dụng như thế cũng là năng thành lập sở lập pháp sai biệt tương vi tích tụ tha dụng. Trình bày thành nghóa trái nhau có hai ban đầu nêu nhân trái pháp sai biệt, sau giải thích lý do. Văn ban đầu có mười hai nhân này như năng thành lập nhãn… ắt là tha dụng, đoạn văn này lặp lại tự tướng nhân năng lập sở lập pháp, như vậy cũng có thể dưới hiển bày nhân này cũng có thể cùng pháp sai biệt kia là nhân trái nhau. Số luận sư kia nói nhãn… năm pháp tức ngũ tri căn, ngọa cụ sàn tòa tức ngũ duy lượng đã tụ tập thành pháp. Không tích tụ tha nghóa là thật thần ngã, thể thường vốn có, tích tụ tha kia tức y nhãn… sở lập giả ngã, vô thường chuyển biến. Nhưng nhãn… không tích tụ tha thật ngã dụng thắng, vì đích thân dụng nơi này thọ ngũ duy lượng, do y nhãn… mới lập giả ngã, cho nên tích tụ ngã dụng nhãn… hệt. Ngọa cụ… chắc chắn thần ngã phải suy lường thọ dụng, do đó từ đại… thứ tự thành. Hoặc do suy nghó thật ngã dụng thắng, giả ngã dụng biệt, song do giả ngã an xử chỗ cần phải mới thọ sàn tòa, vì vậy đối với ngọa cụ giả tha dụng thắng, thật ngã dụng liệt. Nay theo ngài Trần Na tức do nhân kia cùng sở lập pháp thắng liệt sai khác mà tạo sự trái nhau, chẳng phải pháp tự tướng, cũng chẳng phải trên pháp tất cả sai biệt đều tác tương vi. Do vậy luận chỉ nói cùng sở lập pháp sai biệt trái nhau. Đầu tiên lập lại nhân xưa có thể thành pháp tự tướng sở lập, đoạn trước đã nói tích tụ tánh nhân, như năng thành lập Số luận sở lập nhãn… hữu pháp, át là tự tướng của tha dụng pháp tức chỉ cho nhân này. Như vậy cũng là năng thành lập sở lập tôn pháp tự tướng, ý chấp nhận nghóa tích tụ tha dụng sai biệt trái nhau. Tôn do tha dụng là pháp tự tướng, ý đã chấp nhận trên tự tướng này tích tụ tha dụng hay không tích tụ tha dụng là pháp sai biệt. Nhân tích tụ kia nay lại không thay đổi, ngược lại do kia, ý thành lập chấp nhận sai biệt tích tụ tha dụng. Ngọa cụ kia vì tánh tích tụ đã là tích tụ giả ngã dụng thắng, vì nhãn… cũng là tánh tích tụ, lẽ ra như ngọa cụ cũng là tích tụ giả ngã dụng thắng. Hoặc không khởi câu vấn nạn thắng dụng này, tôn kia liền có tương phù cực thành, vì tôn khác nhãn… cũng chấp nhận tích tụ giả tha dụng. Chỉ có thể nạn rằng giả tha dụng thắng, không được vấn nạn thật ngã dụng hệt vì trái tự tôn. Trong công tỉ lượng không có đồng dụ, hoặc tha tỉ lượng tất cả không có ngăn ngại, các sư bên Tây Vức có người bất thiện, đây trực tiếp có lỗi sai biệt trái nhau: Nhãn… lẽ ra là tích tụ tha dụng, nhân dụ đồng đoạn trước. Số luận nạn rằng: Tôn tương phù của ông ai nói nhãn… tích tụ tha không có dụng. Tây Vức lại giải thích, Số luận nói nhãn… chỉ là không tích tụ tha dụng, sàn tòa thông cả hai tha dụng, cho nên nay dùng ngọa cụ, vì dụ khiến cho nhãn… cũng là tích tụ tha dụng, không có lỗi tương phù. Số luận nạn: Đệ tử ngài Trần Na chẳng phải tôn thiện ngã, thần ngã thọ dụng ba đức thành hai mươi đế. Há đối với nhãn… không có năng thọ dụng. Duy thức cũng cho rằng chấp ngã là suy nghó, thọ dụng Tát-đỏa Thích-xà Đáp-ma thành đại… hai mươi ba pháp do đây nhãn… thật ngã cũng có dụng. Vì thế chỉ nên như trước phân biệt, không nên ở trong đó mà sinh giác biết sai khác: Nhãn… chỉ là thật tha thọ dụng, ngọa cụ giả dụng, hoặc nhân thông cả hai, ngọa cụ chỉ có giả dụng. Thắng nghóa có bảy mươi đối kim bảy mươi, cộng gạn kia rằng: chắc là tha dụng, thế nào là tha? Nếu nói tích tụ tha phạm lỗi tương phù, hoặc không tích tụ tha năng biệt bất thành thiếu không có đồng dụ. Ngọa cụ là dụ sở lập không thành cũng là lỗi pháp sai biệt này. Hỏi: Ba tướng của nhân có lỗi gì? Đáp: Ý luận kia lập luận nhân thành chẳng phải tích tụ tha dụng thắng, tích tụ tha dụng thắng kia là dị phẩm, tôn không có đồng dụ, vì Phật pháp đều không có chẳng tích tha. Nhân tích tụ tánh đối với dị phẩm có đây hiển rõ trở lại trong chín câu dị có đồng không cho nên thành trái nhau, thiếu tướng đồng phẩm định hữu thứ hai, cũng thiếu dị phẩm biến vô thứ ba. Các ngọa cụ… là tích tụ tha thọ dụng, trình bày giải thích nguyên nhân. Thành tỉ lượng rằng: Nhãn… quyết là tích tụ tha dụng thắng vì tánh tích tụ như ngọa cụ… Các loại chẳng phải tích tụ tha dụng thắng chắc chắn chẳng phải tánh tích tụ như lông rùa sừng thỏ… Nay nạn các ngọa cụ… vì hai tôn cũng chấp nhận là tích tụ tha thọ dụng thắng, luận tuy không có chữ thắng, ý nghóa của lượng tất nhiên, chẳng cần cầu cái khác, lẽ ra hiểu như vậy. Hữu pháp tự tướng vi nhân: Như nói hữu tánh chẳng thật chẳng đức chẳng nghiệp, vì có một thật, vì có đức nghiệp như đồng dị tánh. Trình bày căn cứ vào ba tạo tác ở đoạn trước, nêu tên đề cử tôn nhân. Nhân duyên hưu lưu (con quạ) như trước đã nói, bấy giờ tiên nhân đã ngộ chứng luôn luôn pháp sáu câu, nghóa chứng minh Bồ-đề liền thích nhập diệt, chỉ sai khác sở chứng chưa truyền cho người. Vì người truyền quyết phải đủ bảy đức: Sinh tại thủ đô của đất nước. Sinh vào loại chủng tánh bậc thượng. (1 3 0) Có nhân tịch diệt. Thân tướng tròn đầy. Thông minh có tài hùng biện. Tánh tình hạnh kiểm nhu hòa. Có đầy đủ lòng đại bi. Thời gian trải qua vô lượng kiếp tìm người không đầy đủ, sau đó qua nhiều kiếp tại nước Bà-la-nê-tư, có Bà-la-môn tên Ma-nạp-phược- ca, Trung Quốc dịch Nho Đồng. Nho Đồng có người con tên Ban-già- hộ-khí, Trung Quốc dịch Ngũ Đỉnh, tóc trên đỉnh đầu có năm vòng, đầu có năm góc, bảy đức tuy đầy đủ nhưng căn thục hơi chậm, bị nhiễm nữ sắc??? Trải qua vô lượng năm tìm căn thục kia. Ba ngàn năm sau dạo chơi vườn Thượng uyển cùng vợ tranh giành tài hoa nhân đó phẩn hận nhau. Hưu Vưu dẫn dắt cho thông hóa ngũ đảnh không phục tùng. Thêm ba ngàn năm, hóa trở lại cũng không được, thêm ba ngàn năm nữa, cả hai cạnh tranh rất nhiều, sau đó nhàm chán nhau bèn nhớ nghó đến vị tiên trên hư không. Tiên nhân ứng thời dùng thần lực giáo hóa dẫn dắt bay bổng lên không trung đến trụ trong núi từ từ nói về chỗ ngộ lúc trước nghóa pháp sáu câu, nói về thật đức nghiệp. Họ đều tin nhận đến câu “đại hữu” liền sinh nghi hoặc, Tiên bảo: Có là hay có thật… lìa ngoài ba loại thật đức nghiệp riêng có, thể thường là một. Đệ tử không theo bèn nói tánh thật đức nghiệp chẳng phải không có, tức là hay có, đâu lìa ba loại riêng có năng hữu. Tiên nhân bèn nói cú nghóa đồng dị, có thể đồng - khác với thật đức nghiệp kia. Trên ba loại này mỗi mỗi có một tổng đồng - khác tánh, tùy ứng mỗi mỗi có biệt đồng dị. Trong ba loại như vậy tùy biệt loại kia, lại có tổng biệt các tánh đồng dị, thể thường rất nhiều, lại có một thường có thể hòa hợp tánh, hòa hợp thật đức nghiệp, khiến cho không lìa nhau đan xen nhau hệ thuộc nhau. Ngũ Đảnh tuy tin đồng dị hòa hợp, song vẫn không tin riêng có đại hữu, Hưu Lưu bèn lập luận theo lượng của ngài Trần Na, lượng này có ba vì ba thật đức nghiệp mỗi riêng tạo tác. Nay chỉ luận kia, nên nói như hữu tánh hữu pháp, chẳng phải thật đó là pháp, hợp lại gọi là tôn. Đây nói hữu tánh, tiên nhân - hữu đỉnh cả hai cùng chấp nhận, trên thật đức nghiệp có thể chẳng phải vô tánh. Nên thành sở biệt. Nếu nói đại hữu, sở biệt không thành, nhân phạm tùy nhất, hữu tánh này thể chẳng thật, vì nhân có một thật, Thắng luận sáu câu gom thành bốn loại: Vô thật, hữu nhất thật, hữu nhi thật, hữu đa thật. Địa, thủy, hỏa, phong, cha, mẹ, thường, cực, vi, không, thời, phương, ngã, ý và đức nghiệp hòa hợp đều gọi là không thật, loại thứ tư vốn cực vi thể tánh tuy nhiều, không thời… năm thể đều chỉ có một, đều không có thật nhân. Đức nghiệp hòa hợp tuy y thật hòa hợp đối với thật chẳng dùng làm nhân, vì vậy các loại này đều gọi là không thật. Đại hữu đồng dị gọi có một thật, vì đều có thể có với một một thật, đến kiếp thành ban đầu, hai thường cực vi hợp sinh tử vi thứ ba, mặc dù thể vô thường vì lượng đức hợp, chẳng vượt qua nhân lượng gọi là có hai thật. Tự loại chúng đa, vì đều có sở sinh hai cực vi của nhân kia, từ đây trở về sau, chín ban đầu hợp sinh con thứ bảy, bốn mươi chín hợp sinh con thứ mười lăm. Như vậy lần lựa sinh một đại địa, đều gọi là có đa thật, vì có nhiều thật nhân sở sinh. Đại hữu đồng dị hay có các thật, cũng được gọi là có một thật, có hai thật có nhiều thật, song ba loại thật này tuy có công năng khác nhau đều có đại hữu khiến cho thể chẳng phải không có đều có đồng dị làm cho ba loại sai khác gọi là có một thật có đức nghiệp, cũng có không có chẳng phải đại hữu. Nếu là đại hữu nhân thành tùy nhất, đồng dị chẳng phải năng lập bất thành. Như Phật pháp nói có sắc hữu lậu, có hữu lậu, pháp (hay có) năng hữu, năng hữu sở hữu phiền não lậu thể cũng như Đại thừa. Năng hữu thật…, nói hữu sắc như có một thật và hữu đức…, không phân biệt năng hữu mà có nơi sắc. Trên sắc thể này có sắc nghóa kia như hư không có âm thanh, chẳng phải ngoài hư không riêng có năng hữu, chỉ là hệ thuộc đắm trước nơi pháp thể. Do đó nhân không có lỗi tùy nhất, vì có mỗi một thật, lại chẳng cạn gạn lại, tức thật lìa thật có một thật, huống chi nhân này không nên phân biệt, nên phân biệt liền không đồng dụ. Tại sao không nói có nơi không thật hai thật nhiều thật? Đáp: Nếu nói có nói hai thật nhiều thật đâu được dùng chẳng thật làm tôn, nhân kia bèn có lỗi bất định, vì như đồng dị có hai nhiều thật, vì vậy hữu tánh kia chẳng thật, vì như tử vi… có một nhiều thật nên hữu tánh là thật. Do đây không nói có hai nhiều thật. Nếu nói có không thật, hòa hợp cú nghóa cũng gọi không thật. Nếu có không thật kia phạm lưỡng câu bất thành, thật… trên năng hữu không có vô thật, dụ ia cũng phạm năng lập bất thành, nhân cũng không trùm khắp. Giả sử tương tợ chỉ có năng hữu đối với vô thật củ thật cú, cũng muốn hiển rõ chín thật mỗi một đều có nên một thật, ví có thể có một nhất thật. Hữu tánh hữu pháp có một thật nhân không liên dự nhau tại sao không phải lưỡng câu bất thành? Đáp: Hữu pháp hữu tánh là năng hữu tánh của thật đức nghiệp có một thật nhân vì năng hữu với một nhất thật là pháp của tôn, do đó không có lưỡng câu, đây chẳng phải thật cú là một tôn thôi, chẳng đức chẳng nghiệp hậu hai tôn pháp, hữu pháp đồng như trước. Vì hai nhân này nói có đức nghiệp nghóa là hay có đức và nghiệp kia, như nói có sắc cũng thuộc nghóa đắm trước. Hỏi: Đã đối với đức nghiệp mỗi mỗi đều có tại sao không nói có đức nghiệp? Đáp: Thật có nhiều loại, chẳng nói có một, chỉ nói có thật liền phạm lỗi bất định, nghóa là tử vi.. đều có thật, đức nghiệp không lựa chọn chẳng cần nói một, hai nhân một dụ như đồng dị tánh. Đây đối với ba loại trước mỗi mỗi đều có cũng như hữu tánh, vì vậy làm dụ. Tiên nhân đã trình bày ba tỉ lượng rồi, Ngũ Đảnh liền tin, pháp đã có người truyền thừa, Tiên (Phật) bèn nhập diệt. Tôn nghóa của Thắng luận nhờ đây được lưu hành, Bồ-tát Trần Na căn cứ vào đây làm nhân minh, tạo lập phá quyền xung thuật lại tôn kia, đích thân chép lỗi, vấn nạn. Cho nên này trình bày tỉ lượng trước. Nhân như năng thành ngăn thật… như vậy cũng năng thành ngăn hữu tánh đều quyết định. Trình bày thành này trái nghóa có hai, lặp lại hai câu ban đầu, lập nhân trước ngăn có chẳng thật, nghóa là có một thật có đức nghiệp nhân. Như trước đã nói năng thành hữu tánh ngăn là thật… đồng đức và nghiệp, ba câu sau hiển rõ, nhân này cũng có thể khiến cho hữu pháp tự tướng tương vi kia nghóa là chỉ nhân này như vậy ở đoạn trước. Cũng có thể thành lập ngăn hữu tánh đó mà chẳng phải hữu tánh, nghóa là tôn trước nói hữu tánh chẳng thật có. Hữu tánh là hữu pháp tự tướng ở đoạn trước, nay lập lượng rằng: Đã nói hữu tánh lẽ ra chẳng phải hữu tánh, vì có một thật cho nên có đức nghiệp. Như đồng dị tánh, đồng dị có thể có một thật… đồng dị cúng dường hữu tánh. Đồng dị có thể có đối với một thật, hữu tánh chẳng hữu tánh, giải thích lý do nhân này đã có thể ngăn hữu tánh chẳng thật… cũng có thể ngăn hữu tánh chẳng phải là đại hữu tánh, vì cả hai quyết định. Hỏi nang vấn nạn hữu tánh lẽ ra chẳng phải hữu tánh, làm sao không phạm tự ngữ tương vi? Đáp: Nếu trước chưa lập hữu tánh chẳng thật, nay nạn thật… có thể có chẳng có, lời này mới phạm tự ngữ tương vi cũng trái với tự giáo. Luận kia đầu tiên đã thành chẳng thật có, nay lại vấn nạn phá tha trái tha chẳng thành các lỗi. Hỏi: Với ba tướng của nhân là lỗi gì? Đáp: Lập tôn nói hữu tánh (1 3 1) chẳng thật, hữu tánh gọi là hữu pháp tự tướng, lìa thật có thể, hay có thật đại hữu. Đồng dị tánh đó mặc dù lìa thật… có thể năng hữu mà chẳng phải đại hữu, tuy nhân đồng pháp, bèn là dị phẩm của sở lập tôn, lìa thật đại hữu, tuy không có đồng phẩmm có một thật nhân. Đồng phẩm chẳng có, trên khắp đồng phẩm dị phẩm đều tùy chuyền, đây cũng là hai phẩm lỗi sau nhân, vì đối với đồng phẩm không có dị phẩm. Hỏi: Nếu như vậy lập thanh là vô thường, tôn thanh thể có thể nghe, bình có thiêu cháy thấy được, bình và âm thanh kia lẽ ra thành dị phẩm. Nếu chấp nhận là dị chẳng những trái với luận mà cũng với tôn đều không có đồng phẩm? Đáp: Hà cũng là bất đắc dó nói thể của âm thanh chẳng phải sở tránh, trên âm thanh vô thường là sở thành lập. Bình đã đồng có do đó đồng phẩm, kia nói lìa thật có thể hữu tánh là tôn hữu pháp, do có một thật nhân đã thành lập. Đồng dị đã chẳng phải hữu tánh lìa thật có thể, do đó thành đối với dị phẩm. Hỏi: Đoạn trước luận nói cùng sở lập pháp đồng nghóa phẩm gọi là đồng phẩm chỉ nói sở lập pháp đều có danh là đồng, không nói hữu pháp đồng danh đồng phẩm. Thế nào gọi là có hữu pháp tự tướng tương vi? Đáp: Nay nếu chỉ dùng hữu tánh cùng đồng dị là đồng phẩm có thể như chỗ trách trái văn luận trước, đã do lìa thật hữu tánh mà thành đồng phẩm cũng là sở lập pháp động có trong tôn, vì vậy lỗi này không trái luận lý. Hỏi: Hữu tánh đã là hữu pháp tự tướng lìa thật hữu tánh là sai biệt có một thật nhân bèn là nhân hữu pháp sai biệt, tại sao nay nói lỗi tương vi? Đáp: Ý tôn kia chấp nhận lìa thật hữu tánh, thật là sai biệt, trình bày hữu tánh đã là tự tướng nay chẳng phải ngôn trần này tức trái tự tướng nên lỗi của tự tướng chẳng phải nhân sai biệt. Nếu không như vậy thì cực thành sở biệt đều không có lỗi này vì trái tự tôn. Hỏi: Nếu vấn nạn lìa thật đại hữu tánh, sở biệt sở y phạm tự bất thành, cũng phạm lỗi trái tôn tùy nhất bất thành. Hoặc vấn nạn không lìa thật… đại hữu mà chẳng phải hữu tánh, cũng phạm lỗi tương phù cũng trái tự giáo? Đáp: Trước kia đã tổng nói nay cũng tổng nạn, đã thành lập lìa thật hữu nên nay nạn hữu khiến cho kia chẳng phải hữu này, nói đồng ý phân biệt, vì vậy không có các lỗi. 4.Hữu pháp sai biệt tương vi nhân: Như nhân này đối với tôn trước có pháp sai biệt tạo tác có duyên tánh. Trình bày văn sau cũng có ba nêu tên cử tôn nhân, đây nói ý thuyết, Thắng luận lập đại hữu cú nghóa có thật đức nghiệp, thật đức nghiệp lúc cả ba hòa hợp đồng khởi thuyên ngôn, ba thuyên thánh có, đồng khởi duyên trí, ba duyên thành hữu là thật đức nghiệp là nhân năng khởi hữu thuyên duyên nhân tức là đại hữu, vì đại hữu hay có thật đức nghiệp. Tại sao đồng cú nghóa là hữu tánh, thế nào là hữu tánh nghóa là hòa hợp với tất cả cú nghóa đức nghiệp, tất cả căn chỗ chấp. Đối với thật đức nghiệp có nói trí nhân gọi là hữu tánh, trí nghóa là năng duyên. Lại nói hữu tánh như thế quyết định chẳng phải sở tác, thường không có đức, không có động tác, không có phần tế cũng như vậy. Có thật đức nghiệp trừ đồng hữu năng vô năng hai phần khác nhau, chỗ hòa hợp một hữu. Đồng thuyên duyên nhân, Hưu Lưu Tiên kia do Ngũ Đảnh không tin lìa thật đức nghiệp phân biệt có hữu, tức do nhân trước, thành lập tôn trước lời nói trình bày hữu tánh hữu pháp tự tướng ý chấp nhận sai biệt là hữu duyên tánh. Hữu tánh đồng dị, tánh hữu duyên đồng, lời nói đều sai khác nhau, vì vậy kia không thú lấy, tâm tâm sở pháp là tánh năng duyên, hữu duyên nghóa là cảnh vì có năng duyên nghóa là cảnh hữu thể, là nhân hay khởi tánh hữu duyên. Nếu không có thể tâm làm sao sinh? Vì không có nhân duyên không đâu chẳng sinh như đồng dị tánh vì có một thật, tánh hữu duyên thể chẳng thật, hữu tánh có một thật, cũng tạo tánh hữu duyên, do đó biết thể cũng chẳng phải thật đức nghiệp. Đây nói có: Có - không có chẳng phải nhân tạo cảnh và có thể duyên tánh chẳng phải đại hữu. Nếu tạo đại hữu duyên tánh năng biệt bất thành thiếu không có đồng dụ, đồng dị là dụ sở lập không thành, hữu tánh lời nói trần thật hữu pháp tự tướng, tạo tánh hữu duyên. Chẳng phải trên tánh hữu duyên là tự tướng ý chấp nhận sai biệt, vì vậy nhân trước cũng là nhân hữu pháp sai biệt vì bổn thành. Luận cũng có thể thành lập trái nhau với đây tạo tác chẳng phải tánh hữu duyên, như ngăn thật… vì đều quyết định. Trình bày đây thành trái nghóa có hai, ba câu đầu hiển rõ nhân này - cũng có thể khiến cho hữu pháp sai biệt kia mà tạo sự trái nhau. Hai câu sau giải thích lý do, cái tạo tác chẳng phải tánh hữu duyên, tạo tác chẳng phải ý kia chấp nhận đại hữu cú nghóa tánh hữu duyên, tức là nhân này, cũng là năng thành lập cùng sở lập ia ý chấp nhận nghóa sai khác tạo tác tánh hữu duyên sai biệt trái nhau, mà tạo tác chẳng phải tánh hữu duyên đại hữu. Đồng dị có một thật, mà tạo tác chẳng phải đại hữu tánh hữu duyên. Hữu tánh có một thật, lẽ ra tạo tác đại hữu tánh hữu duyên, không ngăn tánh hữu duyên. Chỉ ngăn tạo tác đại hữu hữu duyên tánh, vì vậy thành ý chấp nhận nghóa sai khác trái nhau, không như vậy trái tôn vì có thể tạo tánh hữu duyên. Văn tuy lược nghóa nhất định rõ ràng. Giải thích lý do như ngăn thật… vì đều quyết định, theo Thắng luận nhân này đã thành hữu tánh ngăn chẳng thật… mà tạo tánh hữu duyên. Nhân này cũng ngăn hữu tánh chẳng tạo hữu tánh hữu duyên tánh, như đây ngăn kia cả hai đều quyết định, cho nên thành trái với nhân sai biệt kia. Tôn này tự tướng sai biệt bất định, như trước đã nói, nay chỉ lược dùng lời trình bày làm tự tướng ý chấp nhận sai biệt, nên không vấn nạn. Hỏi: Ba tướng của nhân có lỗi gì? Đáp: Hữu tánh hữu duyên tánh, nhân vốn đã thành hữu pháp sai biệt, tôn không đồng phẩm, nhân biến vô. Đồng dị chẳng phải hữu tánh hữu duyên tánh là tôn dị phẩm, nhân biến hữu, có một thật nhân, đồng không dị có lỗi của hai tướng sau nên thành ra trái nhau. Hỏi: Như Thanh luận nói thanh lẽ ra chẳng phải âm thanh tạo tánh hữu duyên, vì sở tác tánh như bình… lẽ ra cũng nói là hữu pháp sai biệt tương vi? Đáp: Tự trái tôn nên chẳng phải lỗi đó, vốn cuóng không tranh thanh vì chẳng tạo âm thanh hữu duyên tánh, đó thuộc tợ phá. Như chẳng phải âm thanh hữu duyên tánh, như thế lẽ ra chẳng phải âm thanh phát sinh khởi đều chuẩn theo đây nên biết. Hỏi: Như nói âm thanh vô thường lẽ ra chẳng tạo âm thanh vô thường hữu duyên tánh vì sở tác tánh như bình… lẽ ra là pháp sai biệt trái nhau? Đáp: Cũng chẳng đúng, kia phạm lưỡng câu bất thành, vô thường hữu pháp cả hai đều không chấp nhận có sở tác tánh cũng thuộc tợ phá. Như vậy chẳng phải duyên dứt vô thường… đều căn cứ theo đây sẽ biết. Trong bốn lỗi này hai loại nhân ban đầu đều chỉ trái một, hai loại nhân sau, một nhân trái hai, có một nhân thông trái cả ba. Như Thắng luận lập sở thuyết hữu tánh chẳng phải bốn đại chủng, chấp nhận trừ bốn đại thể vì chẳng phải không có, như sắc thanh… từ các pháp khác đều nhập vào đồng dụ, không phải lỗi bất định, chẳng phải bốn đại chủng là pháp tự tướng, hay có bốn đại chẳng phải bốn đại chủng. Không thể có bốn đại chẳng phải bốn đại chủng là pháp sai biệt, ý đó (1 3 2) vốn thành có thể có bốn đại chẳng phải bốn đại chủng, do đó nay cùng pháp sai biệt kia là trái nhau. Đã nói hữu tánh chẳng phải hay có bốn đại chẳng phải bốn đại chủng, vì chấp nhận trừ bốn đại thể chẳng phải không có như sắc thanh… đã nói hữu tánh là hữu pháp tự tướng càng hữu pháp tự tướng này trái nhau. Đã nói hữu tánh lẽ ra chẳng phải hữu tánh, vì chấp nhận trừ bốn đại thể chẳng phải không có, như sắc thanh… luận kia nói hữu tánh lìa thật hữu tánh nay chẳng phải đây có, không phạm tự ngữ tự giáo tương vi tùy ngôn từ tức chẳng phải vì vậy trái tự tướng. Hữu tánh đã là hữu pháp tụ tướng tạo tác hữu tánh hữu duyên tánh, tạo tác hữu tánh hữu duyên tánh là hữu pháp sai biệt, ý đó vốn thành tạo tác hữu tánh hữu duyên tánh, cho nên nay cùng hữu pháp sai biệt trái nhau. Hữu tánh lẽ ra chẳng tạo tác hữu tánh hữu duyên tánh, vì chấp nhận trừ bốn đại thể chẳng phải không có, như sắc thanh… bổn nhân chẳng thay đổi tức là vi lượng, vì vậy thánh trái tam. Vào thời nhà Đường có vị Pháp sư Hưng Huyện Tuyển là người then chốt của dòng họ Thích rất tài giỏi lạ thường. Một hôm thấy nước tràn vào tổ kiến với lòng từ sư cứu đàn kiến, tuổi còn nhỏ sư phát sinh những điều khác lạ, trí tuệ như biển cả thông thái hiểu biết suy xét, do nghiệp ban đầu đã có tôn chỉ. Sư từ tạ Tây Hà độc bộ sáng lập tìm tòi ý chỉ “không”, đất Bắc khen sư nổi tiếng cô hùng, anh dũng ngang dọc trong thiên hạ phát sinh tư chất sáng ngời. Tôi thích nhã lượng của sư, riêng kỳ hẹn kết giao, tình khế hợp Lan Kim, lời nói phù hợp dược thạch, thời gian rảnh rỗi đàm luận, luận bàn đến nhân minh. Pháp sư bèn dặn dò cổ sở để phân tích văn luận, một khi xem sơ qua sẽ cùng tột ý thú đó, tìm tòi điều mới lạ để hiểu biết thấu lý. Sau xem kỹ lại đầy đủ nghiên cứu chỗ tinh vi đó mới nghiên xét được sự tài giỏi và dốt hén, trong đó xét nguồn gốc để phân chia đánh giá, chim bằng chim anh vũ tung cánh bay một vòng vọt lên trời cao mới phân biệt được đôi cánh mạnh khỏe hay yếu. Mới nạn rằng: Trộm xem thế lực văn luận, văn lý không đồng, căn cứ theo chín nhân, nhân thứ tư thứ năm gọi là tương vi nhân với đồng phẩm không dị phẩm có, bốn nhân này trái nhau, chỉ có pháp tự tướng có thể đồng với kia, ba nhân sau trái, nhân đều đồng có, trên dị phẩm không, đã không đồng với bốn, sáu như thế nào trở thành trái nhau. Còn pháp tự tướng, tha nhân với đồng biến vô, với dị phẩm nói có, dụng tha dị phẩm là đồng, đắc thành nl tương vi, trái nhau ba nhân sau. Tha nhân đều đồng có, trên dị phẩm không, dụng tha hay lập nhân dụ cùng tha tạo tác cả ba trái nhau, hành tướng đã tự không đồng làm sao có thể được pháp tự tướng tương vi hợp với ba loại kia, mà nói hai hợp trái có sáu, ba hợp trái có bốn, bốn hợp trái có một. Tánh tôi chẳng dấu bậc hiền huống hồ biết rồi, do đó ghi lại lời sớ chỉ bày tường tận suy nghó tốt sâu xa mầu nhiệm. Từ luận đạo Đông dịch không có người vấn nạn này, chẳng phải phát ra ngàn lưỡi câu thì ai là người phát muôn đức lớn cho ta! Phàm tướng chánh nhân quyết phải khắp tôn pháp đồng có dị không, sinh tha quyết trí, nhân pháp thành tôn có thể thành bốn nghóa, hữu pháp và pháp. Hai loại này đều có ngôn trần tự tướng, ý chấp nhận sai biệt, tùy tôn tranh luận, thành một hoặc nhiều nên tôn đồng phẩm. Nói sở lập pháp đồng nghóa phẩm gọi là đồng phẩm, tùy chỗ tranh luận đó pháp sở lập có xuất xứ gọi đồng, chẳng phải trên tôn lấy tất cả đều đồng. Nếu như vậy liền không có dị dụ phẩm, hoặc làm cho đều đồng, cũng là loại lỗi phân biệt tương tợ, lại chẳng lấy ngôn từ trình bày pháp, không như vậy liền không có các lỗi khác, như đoạn trước thường nói. Do đó tùy chỗ ứng nhân thành tôn, từ một cho đến bốn cả hai tranh nghóa, có Pháp sư này gọi là đồng phẩm. Hỏi Lý Môn luận rằng: Chỉ nhờ pháp nên thành pháp đó, tại sao nay nói nhân thành bốn? Đáp: thật ra chỉ có thành pháp, như nạn hữu tánh mà chẳng phải hữu tánh, ý vấn nạn chấp nhận lìa thật… có mà chẳng phải hữu tánh nên chỉ thành pháp. Tìm lời tức nạn lại chẳng thêm ngôn từ, vì vậy gọi là hữu pháp tự tướng tương vi, thêm lời liền thành vấn nạn sai biệt đó. Nay hy vọng lời nói trình bày nhân thành tôn bốn, trên Lý Môn hy vọng tranh luận hữu pháp ý chấp nhận nghóa sai khác, do đó chỉ dùng pháp thành pháp kia, lý chẳng trái nhau. Luận này đã nói pháp tự tướng nhân, chỉ trái đối với một nên hiển bày nhân. Đồng không dị có từ ngoài ba nhân khác. Giả sử quán tha lập đều dường như nhân kia đồng có dị không, kia đây tranh luận trên tôn ngoài ba loại nhờ lý cùng tột, đều không có đồng phẩm. Nhân kia cũng là dị có đồng không, như pháp sai biệt không tích tụ tha dụng, hữu pháp tự tướng lìa thật… hữu tánh, hữu pháp sai biệt tạo tác đại hữu hữu duyên tánh đều không có đồng dụ. Nhân kia chỉ trên dị phẩm có, do kia lầm lập lấy dị làm đồng, do vậy nay trái lại lấy dị kia làm đồng, thành nghóa trái nhau. Trong luận mỗi mỗi chỉ bày pháp không đồng, pháp tự tướng tương vi, đổi tha đồng dụ làm dị, đổi tha dị dụ làm đồng, ba loại sau trái nhau. Dùng tha đồng làm đồng, dùng tha dị làm dị muốn chỉ rõ sự trái nhau, nhân chắc chắn vẫn như xưa. Dụ hoặc đổi mới nhân bất định kia lập thuận chánh nhân chính phá trái nhau, nhân tuy không thay đổi thông cả hai phẩm chuyển. Không sinh quyết định trí lập tên bất định, nhân tương vi này tùy ứng mà thành lập chắc chắn đồng không dị có, phá chắc hẳn đồng có dị không. Quyết trí đã sinh nên khác với trước kia. Nếu lập chánh nhân người phá trái nhau, nhân thông cả hai phẩm, há chẳng phải bất định, do đó bốn nhân này không trái với thứ tư và thứ sáu. Lại đem pháp tự tướng nhân đồng không dị có, căn cứ với ba loại sau đồng có dị không nói cả ba cùng hợp. Một khi xem văn chắc không có lý này ban đầu dùng dị làm đồng, sau lấy đồng làm đồng, nay đem ba loại sau để căn cứ một cái ban đầu lấy dị làm đồng liền có hợp, vì đổi tha năng lập đồng dụ. Như Thắng luận lập hữu tánh lìa ngoài thật… có tự tánh sai khác, vì chấp nhận chẳng phải không có như đồng dị tánh. Giả sử xem nhân này là cộng bất định vì cả hai đều có, song Ngũ Đỉnh kia tranh luận ngoại năm câu không phân biệt hữu tánh, nên lập hữu tánh lìa thật… có năm tự tánh sai khác. Thiếu tôn đồng phẩm, đồng dị tánh kia đã lìa ngoại dị phẩm do Thắng luận phương tiện lập lộn nêu dị làm đồng, chấp nhận chẳng phải không có nhân. Chỉ trên dị phẩm thật… có, đồng khắp tất cả chẳng có, cũng như luận nói âm thanh thường tôn pháp tự tướng nhân, đối không luận rỗng thiếu không có đồng dụ, sở tác… nhân, hy vọng trên dị phẩm bình… có, trên đồng khắp tất cả không có chấp nhận thành trái nhau. Nay ở đây cũng như vậy, y tỉ lượng, ba loại sau theo ban đầu, một nhân trái bốn. Pháp tự tướng tương vi đã nói hữu tánh lìa ngoại thật… không phân biệt tự tánh, vì chấp nhận chẳng phải không có như thật đức… Đồng dị nhập vào tôn nên không có bất định, sở lập lượng kia, lìa thật… hữu tánh là pháp tự tướng, hay có thật đức nghiệp lìa thật… hữu tánh. Không thể có thật đức nghiệp lìa thật… hữu tánh là pháp sai biệt, ý luận vốn muốn thành lập hay có thật đức nghiệp lìa thật… hữu tánh. Cho nên nay cùng pháp sai biệt kia trái nhau, đã nói hữu tánh lẽ ra chẳng thể có thật đức nghiệp lìa thật… hữu tánh, vì chấp nhận chẳng phải không có. Như thật đức… là hữu tánh tự tướng tương vi, đã nói hữu tánh lẽ ra chẳng phải hữu tánh vì chấp nhận chẳng phải không có, như thật đức nghiệp. Luận kia nói lìa thật… hữu tánh, nay theo lời vấn nạn trình bày chẳng phải hữu tánh, nên trái tự tướng, không trái với tôn tự giáo tự ngữ, đồng dụ cũng không có sở lập bất thành. (1 3 3) Hữu pháp tánh đã là hữu pháp tự tướng tạo tác hữu tánh hữu duyên tánh, tạo tác chẳng phải hữu tánh hữu duyên tánh là hữu pháp sai biệt, ý bổn luận tác thành hữu tánh hữu duyên tánh, nên nay cùng hữu pháp sai biệt kia trái nhau, đã nói hữu tánh tạo tác hữu tánh hữu duyên tánh, vì chấp nhận chẳng phải không có. Như thật đức… chẳng đổi nhân xưa tức là trái lượng nên thành bốn nhân, trên đây đồng dụ nêu đồng dị làm dụ cũng được, vì tùy sở lập. Trái một có bốn luận tự nói hai, trái với hai có sáu luận tự nói một, trái ba có bốn. Nay lược nêu một, trái bốn có một nay cũng chỉ bày pháp từ ngoài mười loại đều như lý suy nghó, bốn loại này cũng có tha tự cộng tỷ, cả ba đều nói có trái tha tự cộng, bốn nhân trái nhau hợp thành ba mươi sáu như văn luận đã nói, đều cộng tỉ cộng. Nhân thứ ba và bốn trước đều là tự tỉ trái tự, tha tỉ trái tha… đều nên chuẩn theo để biết, các tự cộng tỉ trái cộng và tỉ đều thuộc về lỗi, trái tha chẳng phải lỗi. Tha tỉ trái tha và cộng thành lỗi, trái tự chẳng phải lỗi, nghóa giống như trước đã nói. Đây chỉ nói hoàn toàn ứng một phần rõ ràng, đã chấp nhận một nhân thông trái vối bốn loại, nên biết bốn loại này chẳng cần trái nhau. Hỏi: Bốn loại trái nhau trong chín câu thuộc câu nào? Đáp: Chợt xem thế lực của văn luận chỉ một trái ban đầu là câu thứ bốn, thứ sáu trong chín câu, vì có đủ hai nhân, trong chín câu hai nhân trái pháp tự tướng tương vi nhân. Nay xem ba loại sau đều là câu thứ bốn trong chín câu, vì đồng phẩm chẳng có dị phẩm có, vì trái sở lập, trên đây đã nói chỉ là lập - địch luận cả hai đều không thành bốn nhân trái nhau, cũng có tùy nhất do dự sở y, ba loại kia không thành bốn nhân trái nhau. Trong ba mươi sáu pháp mỗi mỗi có bốn hợp thành một trăm bốn mươi bốn loại các nhân trái nhau, như trong bất định dẫn thuyết của Lý Môn đều nên tư duy e văn dài lộn xộn nên sơ lược không trình bày. Song bài tụng này thuộc Lý Môn luận: “Tà chứng pháp hữu pháp, tự tánh hoặc sai biệt”, đây thành nhân trái nhau, hoặc không trái nhau. Hỏi: Như bước đã nói mười bốn loại tợ nhân, giả sử cả hai đều không thành, cũng có bất định và tương vi sao? Như thế nhẫn đến thiết lập quyết định trái nhau, cũng là nhân trái nhau sao? Đáp: Nếu có cả hai đều không thành chắc không có bất định và tương vi, cả hai không thành, kia đây đều nói nhân đối với tôn không có. Nhân bất định với tôn định có, nhân kia lập chánh, dùng nhân trái này, chánh kia ắt trắi, trái này ắt chánh, làm cho tôn bất định. Nhân trái nhau cũng với tôn có, tùy sở ứng đó liền dùng nhân này thành nghóa đó. Đây trái không đúng, kia đúng chẳng trái khiến tôn quyết định nên gọi tương vi, do đây hoặc có cả hai đều không thành, chắc không có bất định và tương vi. Nếu có ba loại sau không thành có thể có bất định và tương vi, tùy ứng trở thành tùy nhất đồng nghóa bất động và tương vi. Do nhân đối với tôn tùy nhất do dự tùy nhất sở y mà nói có, nhưng chẳng phải tất cả, vì căn cứ ba loại tùy nhất có thể nói có. Tự tha cộng tỉ mỗi loại đã có ba, hữu thể vô thể toàn phần nhất phần tổng tướng mà nói có hai mươi bảy pháp bất thành, năm mươi bốn pháp bất định, ba mươi sáu pháp tương vi, hợp thành một trăn mười bảy câu tợ nhân, tương đối rộng hẹp để tiện có không đều lẽ ra suy nghó, sợ phiền nên ngưng lại. Theo Lý Môn nhân cùng tợ nhân phần nhiều là tôn pháp bất định tương vi đồng với tôn có, phần nhiều đồng tôn pháp, chỉ có bốn món bất thành với tôn cũng không có, vì chẳng phải tôn pháp, có bốn loại không thành, nhất định không có lỗi tương vi và bất định, đây nói cộng ngoài ra như lý suy nghó. Đã nói tợ nhân phải nói tợ dụ, trình bày trong tợ năng lập thứ ba giải tợ dụ có hai kết trước sinh sau và y sinh chánh giải thích. Tợ đồng pháp dụ có năm loại: Năng lập pháp bất thành Sở lập pháp bất thành Câu bất thành Vô hợp Đảo hợp. Trình bày y sinh chánh giải thích có hai nêu thí dụ và riêng giải thích, nêu thí dụ có hai đồng và dị. Nhân gọi năng lập, tôn pháp gọi sở lập, pháp đồng dụ, ắt phải đủ hai loại này, nhân suốt tôn dụ, dụ quyết có năng lập làm cho tôn nghóa mới thành. Dụ ắt có sở lập khiến cho nghóa nhân mới hiển bày, nay chỉ nêu một hoặc cả hai với dụ chẳng có nên có ba loại ban đầu. Dụ để hiển tôn khiến nghóa thấy được biên cực chẳng liên hợp nhau, sở lập tôn nghóa không rõ ràng, chiến trí không sinh nên có thứ tư. Ban đầu nêu năng do sở theo, có nhân tôn nhất định theo nhau ban đầu tôn sau dụ mới có tôn để theo nhân, ngược lại năng sở làm cho tâm điên đảo, cùng chấp nhận không thành. Tha trí lại sinh nên có thứ năm, y thêm thắng lỗi chỉ lập năm này, do đó chẳng phải không kết và đảo kết… do tợ lại chân nên cũng không hợp kết. Luận tợ pháp dụ cũng có năm loại: Sở lập bất khiển Năng lập bất khiển Câu bất khiển Bất ly Đảo ly. Trình bày đây nêu dị pháp dị dụ phải không có tôn nhân, lìa dị lựa chọn mới thành dị phẩm, đã riêng hoặc song trên dị có nên có ba loại ban đầu. Muốn y lựa pháp, lựa riêng lìa cả hai làm cho tôn quyết định mới gọi dị phẩm, đã không chọn lựa pháp khiến nghóa không rõ ràng nên có thứ tư. Trước tôn sau nhân có thể thành (giản biệt) lựa riêng, trước nhân sau tôn ngược lại lập nghóa dị, chẳng phải chọn lựa nên có thứ năm, ngược lại đồng lập dị. Đồng đã có năm lỗi dị không thể tăng, do đó tuy thắng lỗi cũng chỉ lập năm. Luận về năng lập pháp bất thành, như nói âm thanh là thường vì không có chất ngại, các vật không chất ngại thấy đó là thường, cũng như cực vị, trình bày giải thích trước đồng sau dị, trong đồng có hai riêng giải thích năm và tổng kết chẳng phải. Giải thích không thành có hai nêu thể và giải thích không thành, nêu tôn nhân để hiển dụ thể. Như thanh luận đối Thắng luận lập âm thanh là tôn thường, cả hai đều chấp nhận thể của âm thanh không có chất ngại, do Thắng luận sư nói âm thanh là đức cú hay đức cú không chất ngại. Thanh luận tuy không có đức cú, song do âm thanh đó ngăn cách chướng ngại… nghe được nên biết không chất ngại. Nếu căn cứ vào hợp để hiển bày cũng là lỗi của nhân, dùng tâm tâm sở làm nhân đồng pháp không chất ngại nhân chuyển. Đoạn trước đã rõ nhân, nay biện lỗi của dụ nên không nói nhân nữa. Cực vi sở thành lập pháp thường tánh là có, trình bày giải thích không thành có hai. Sở lập có và biện năng lập không. Do Thanh Thắng luận đều chấp nhận cực vi vì thể thường trụ, căn cứ vào giải thích năng lập không, chỗ này lẽ ra nói do các các tánh cực vi thường trụ, dùng ý xen nhau trình bày nên lược không nói. Luận về năng thành lập pháp không có chất ngại vì không do các tánh chất ngại cực vi. Trình bày đây giải thích năng lập không, Thanh Thắng luận chấp nhận cực vi có chất ngại nên không có năng lập. Hỏi: Nhân làm thành tôn, nhân có lỗi lưỡng câu tùy nhất, dụ cũng thành tôn, tại sao chỉ gọi năng lập bất thành, không nói rõ các loại khác? Đáp: Nhân đích thân thành tôn, nên có bốn lỗi, dụ là trợ thành nên không có bốn lỗi. Lại giải thích nhân là tướng ban đầu y cứ ban đầu biện bốn lỗi, hiển rõ tướng thứ hai cũng có bốn loại, kia khai đây hợp, nghóa thật tương tợ. Do dụ y nhân cũng có bốn loại. Một lưỡng câu bất thành tức luận nói tùy nhất bất thành, Thanh luận đối đệ tử Phật lập âm thanh là thường tôn, nhân là không có chất ngại, nêu dụ như nghiệp Phật pháp không chấp nhận tức là tùy nhất. Mặc dù sở lập đều không có, vả lại biện năng lập tùy nhất, do dự bất thành y lý có hai: Tôn và nhân đoạn trước đã hiển bày đầy đủ. Nay dụ cũng có hai trong đó nương xen nhau, hoặc nhân do dụ chẳng phải dụ năng lập, hoặc dụ năng lập chẳng phải nhân do dự, hoặc cả hai đều do dự, là ba lỗi trước đây, thứ tư chẳng phải lỗi. Nhân do dự chẳng phải dụ năng lập, như lúc sương mù khởi tánh nghi hoặc là khói hay là sương mù, liền lập luận chỗ kia nhất định có lửa vì hiện có khói các chỗ như nhà bếp, hoặc chỉ nghi hoặc như loại khác, nhân dụ chỉ nêu một thí dụ, có thể suy nghó y cứ vào đó. Hoặc có thể nhân là tôn pháp, có pháp do dự, nhân cũng thành lỗi, như nhà bếp… hiện có khói lập địch luận đều quyết định, sao thành do dự? Lại giải thích nhân đủ ba tướng, hai dụ tức nhân đã có tướng thứ hai sao chẳng do dự. Năng lập sở y bất thành, không đồng với nhân có tướng thứ hai và thứ ba, không có tôn hữu pháp chỉ thiếu tướng ban đầu, đây sở y không năng lập cũng không, nhưng cũng được gọi không có năng lập sở y bất thành. Như số luận sư đối đệ tử Phật lập tư thọ dụng các pháp làm tôn do vì thần ngã như nhãn căn…, hoặc nói giả ngã nhân dụ không có lỗi. Nay nói thần ngã nên Phật pháp không chấp nhận nhân vì vậy tùy nhất không có, nhân này đã không có nên dụ cũng không có chỗ nương, đây xét theo nhân, hoặc dụ sở y không có gọi là sở y không thành. Vả lại xét y nhân như sau đây có giải thích, song có ngôn thuyết cho rằng lập đã thành ắt có sở y, nên không có lỗi bất thành thứ tư. Nay cho rằng không như vậy, vì y tôn sở lập kia, vì y trên dụ lập vô thường, hoặc y sở lập, nhân dụ tương tợ nhân không y nhân nên biết không thể được. Hoặc y dụ sở lập vô thường đây chẳng phải dụ y, vì dụ y y cực vi, cũng lại không thể được. Dẫu có sở lập không lập lỗi thứ tư, hoặc sở lập không có, thứ tư sao không lập, giả sử cả hai y hữu pháp và pháp kia, như đều không thành không có lỗi này sao? Hoặc nói tức y nhân như thiếu tôn nhân, há không có lỗi này. Hỏi: Nếu trên dụ năng lập không y sở lập, năng lập y cái gì? Đáp: Có hai cách giải: - Vì y nhân, nhân không thì không có chỗ nương, hỏi nếu nhân không y dũ có lỗi gì? Đáp: nếu nhân y không liền không thành nhân nhân thể chẳng có tức trong dụ sở y bất thành. Hỏi: Nếu nhân không y nên nhân không thành, vì vậy dụ năng lập cũng không có sở y, tức chẳng có không tôn có nhân dụ… thiếu sót các câu. Nếu nói không có năng biệt nên không có tôn, há không có sở biệt chẳng phải không tôn sao? Hoặc nói không có sở biệt tức tôn nhân không có. Nhân có ba tướn, kia chỉ không có ban đầu, hai tướng sau có, tại sao không gọi là nhân. Nếu nói có lỗi nên không gọi là nhân, tức mười bốn nhân gọi chung không thành vì đều có lỗi, đâu cần riêng nói. Song theo đạo lý, nói lúc nhân chỉ lấy tướng ban đầu vì hữu pháp không có, thiếu tướng đầu tiên tức là không có nhân, dùng hai tướng sau làm dụ nên không có sở y. Giả sử có năng biệt mà không có hữu pháp cũng là lỗi đó. Hỏi: Làm sao biết được có bốn lỗi này? Đáp: Căn cứ nhân có thể biết được, dụ đã là trợ nhân nhân đã không có rồi, dụ làm sao trợ giúp, vì như nhân thành tôn có pháp không, nhân làm sao thành, do đó đều có lỗi. Hỏi: năng lập trên dụ sao không y tôn hữu pháp mà y nhân? Đáp: Do vì cách nhân, nếu cách nhân nên lẽ ra không thành tôn? Đáp: trợ nhân có lực nên nói thành tôn. Hỏi: dụ đã y nhân nêu bình… muốn dùng cái gì? Đáp: Sở y có hai tự thể y và sở trợ y, bình tự thể y, nhân là sở trợ y đồng tột lý mà nói. Căn cứ theo luận chỉ xét tự thể biện y, y cứ lưỡng câu tùy nhất chỉ hy vọng dụ y, không thể nói trên nhân không có chất ngại, cả hai tùy nhất không chấp nhận chẳng có chất ngại. Nhưng đối với dụ y chấp nhận hay không chấp nhận, đây nói là thiện thuận văn luận. Sở lập pháp bất thành nghóa là nói như giác, trình bày giải sở lập không thành có hai chỉ trùng lặp lại thể và giải thích nghóa, lặp lại tổng biệt tôn nhân đồng đoạn trước đều riêng nêu dụ gọi là như giác, giác tức là tên chung của tâm tâm pháp. Song tất cả giác hay thành lập pháp không chất ngại có trình bày giải thích thành năng lập ban đầu có, sau sở lập không, do tâm tâm pháp đều không chất ngại, y cứ theo văn trước. Sở thành lập pháp tánh thường trụ không do tất cả giác đều vô thường, trình bày giải thích sở lập không có, trên dụ thường trụ thật ra chẳng phải sở lập tức với kia, hai loại pháp năng lập tức là dụ kia, từ chỗ đồng đặt tên gọi sở lập. Căn cứ năng lập trước cũng có bốn loại văn đã giải thích, cả hai không thành nêu cực vi đối lập Phật pháp. Tùy nhất bất thành, tuy có lỗi khác vả lại lấy sở lập để biện lỗi, do dự sở lập bất thành. Do dự cũng có hai, nương nhau cũng có bốn y năng lập trước, như Đại thừa đối Tát-bà-đa lập Dự lưu… nhất định có chủng tánh Đại thừa, nhưng không biết chắc bậc Dự lưu… này có chủng tánh Đại thừa hay không, nên có tâm do dự, vì nhân nói thuộc hữu tình. Như các loại hữu tình cũng có tâm do dự, không biết chắc có đại chủng tánh chăng, đây đều do dự suy nghó các loại khác. Sở y bất thành vả lại xét y tôn làm dụ sở y, như Số luận sư đối Phật pháp nhãn căn… làm thần ngã thọ dụng, đồng dụ như sắc… vì đây là năng biệt bất cực thành, dụ không có sở lập cũng không có sở y. Do không có sở y, sở lập trên dụ cũng không thành tựu được. Có người hỏi rằng: Đã có năng lập nên có thứ tư, nếu cả hai lập không có đâu không có lỗi này. Sở lập trên dụ là y pháp nào? Nếu y năng lập, chẳng lẽ nói nhân riêng y hữu pháp, do nhân dụ cả hai đều năng lập. Nếu y sở lập như sắc đã vấn nạn? Đáp: Có hai lời giải. Nhân dụ mặc dù đều là năng lập do cách nhân. Y tôn sở lập, hỏi nếu như vậy tức có tùy nhất sở y không thành, sở lập trong tôn địch luận không chấp nhận? Đáp: Đã nói các phương đều nêu dụ gồm cả hợp rồi, chứng minh cực thành kia được làm y, vì không đồng ý nêu nhân chưa cực thành. Nếu như vậy có nêu nhân rồi tức là giải tôn, y sở lập chăng? Đáp: Cũng không được vì đồng dụ trước do không hợp. Hoặc nêu nhân có nhưng chưa giải thích. Nếu như thế nêu dụ chưa giải thì sao? Y dụ sở y, các luận nói chỉ nêu bình, hư không… vì pháp là dụ y, lời giải này đúng. Nếu y cứ vào cách giải sau, sở y không thành, Thanh luận sư đối Đại thừa lập, nêu cực vi làm dụ, đây thiếu (1 3 5) sở y, sở y đã không có, sở lập cũng thiếu, vì Đại thừa tôn không lập cực vi. Xét kỹ nói có tự tha cộng toàn phần nhất phần hữu thể vô thể, suy nghó có thể biết, e phiền không trình bày. Luận câu bất thành. Dưới đây giải thích lỗi thứ ba văn chia thành ba tổng nêu, biệt khia và giải thích thành, lại luận về hữu có hai loại hữu và phi hữu. Trình bày đây riêng khai, hai đoạn văn này trước khai sau ví dụ có nghóa là có dụ y kia, không tức không có dụ y kia. Hoặc nói như bình có cả hai không thành, hoặc nói như hư không đối không có hư không luận không có câu bất thành. Trình bày ở đây giải thích thành do lập tôn âm thanh là thường, nhân không có chất ngại, bình thể tuy có không có thường không ngại, hư không thể vốn không cũng không lập cả hai. Có - không tuy hai đều là cả hai chẳng có. Hỏi: Hư không thể không, thường có thể không có, hư không thể chẳng có không ngại há không có sao? Đáp: Lập tôn âm thanh là thường, nhân không có chất ngại, tôn nhân đều hiển bày, hư không chẳng có nên không có chất ngại cũng không. Theo Lý Môn chỉ nêu có dụ sở y, lưỡng câu tùy nhất do dự sở y và dụ không có y đều lược không nói. Cứ vào có không này, có từ hai cái ban đầu, không tức thư tư. Hoặc có hoặc không tức lỗi thứ ba, có bốn câu: Tôn nhân đều có thể không chung bất thành tức đối chẳng có hư không luận bàn. Tôn nhân không có thể có chung bất thành, như Số luận sư đối Tát-bà-đa, lập tư (suy nghó) làm ngã do thọ dụng hai mươi ba đế, như bình bồn, vân, vân. Tôn nhân có thể có chung bất thành, tức luận đã nói có chung bất thành. Tôn nhân không có thể không có chung bất thành tức thứ hai trước đối Phật pháp không lập luận hư không. Nhưng đây có lưỡng câu tùy nhất do dự và sở y bất thành, hai loại ban đầu đều chia thành hai có và chẳng có. Vả lại y có câu bất thành, lưỡng câu bất thành, như luận nói tùy nhất có hai: Một là tự tùy nhất như ngoại đạo lập ngã hay thọ khổ vui vì do tạo nghiệp đối Phật pháp không luận rỗng, chấp hư không là đồng dụ. Hai là tha tùy nhất có câu bất thành, như nói âm thanh là thường vì không có chất ngại, đối với Phật pháp đồng dụ như ngữ nghiệp. Do dự có câu bất thành, như nói trong nhà bếp đó nhất định có lửa do hiện thấy khói. Như các chỗ núi… với tánh sương mù, đã có tâm do dự có lửa nhưng đều chưa quyết định. Các nơi núi là có nên thành do dự. Có câu bất thành sở y bất thành dụ y đã có, thiếu không có câu này. Nếu nói y nhân tôn thì có câu này, trong bốn câu trước câu thứ hai là bốn loại trước, tùy sở ứng đó cũng có toàn phần nhất phần, suy nghó y cứ nên biết, e phiền không trình bày. Hỏi: Hai loại trước riêng không có, tại sao không khái ra có không? Đáp: Đều không đã khai rồi hiển rõ riêng cũng như vậy, thiên riêng đã không lập, đều không cũng như vậy, vì trình bày sơ lược. Không có câu bất thành chỉ có lưỡng câu tùy nhất do dự và sở y bất thành, cả hai đều không có chung bất thành, người như Thanh luận sư đối Thắng luận lập tôn âm thanh là thường vì tánh bị nghe, như đệ bát thức, cả hai đều không lập có đệ bát thức. Tùy nhất không có chung bất thành, như Thanh luận sư đối Đại thừa lập tỉ lượng này, vì kia tự không chấp nhận có đệ bát thức là tự tùy nhất. Nếu dụ như hư không đối vô không luận, tức tha tùy nhất. Do dự không có chung bất thành, đã không có dụ y, quyết không có hai lập luận, nghi quyết đã không có dị phần nên thiếu câu này, sở y không thành. Nếu nói y dụ tức đoạn trước nói đúng vì đều không có dụ y, nói y tôn nhân, tức câu thứ tư trong bốn câu trước đúng. Trong đó lại có lưỡng câu tùy nhất toàn phần nhất phần e phiền không trình bày. Hỏi: Chân như thường có nên nói là thường, hư không hằng không sao chẳng nói thường trụ, còn hư không không có sao chẳng nói không có chất ngại? Đáp: Lập tôn pháp lược có hai loại: Chỉ ngăn mà không có biểu hiện: Như nói ngã không chỉ muốn ngăn ngã chẳng riêng lập không. Dụ cũng chỉ ngăn mà không chấp biểu hiện. Cũng ngăn cũng biểu hiện: Như nói ngã thường, chẳng phải chỉ ngăn vô thường, cũng biểu hiện có thể thường, dụ tức có ngăn biểu thị. Y dụ trước không có thể, có ngăn cũng đắc thành, y dụ sau chỉ có ngăn không có biểu thị cả hai lập luận đều thiếu. Nay lập âm thanh là thường có ngăn - biểu, dsv vô không luận chỉ có ngăn mà không có biểu thị là lỗi của dụ. Có người cho rằng trên tôn âm thanh ngăn - biểu, trên dụ hư không ngăn đặc biệt cả hai đã thành, nói chung chẳng phải thiếu năng lập. Đáp: Nếu Thanh luận sư tạo lập luận này tức là lỗi của sở lập bất thành, ở đây cho rằng cũng không đúng trên hư không chỉ có vô thường không biểu hiện thường tức sở lập bất thành. Chỉ ngăn chất ngại chẳng biểu hiện không chất ngại, tại sao không thiếu năng lập, lại phá tha cầu: Âm thanh không có chất ngại có ngăn có biểu thị, dụ ngăn biểu thị, dụ không tợ nhân, cũng không trở thành. Như yết hầu là sở tác, cây gậy là sở tác mặc dụ không tương tợ, nghóa sở tác giống nhau cũng được thành dụ, ở đây cũng không như vậy đồng có sơ tác thì ngăn biểu cũng đồng nên được làm nhân. Kia ngăn không biểu chẳng cùng ví dụ này, nếu chỉ ngăn dụ không có năng lập, cũng nên Tiểu thừa đối Đại thừa lập hư không là thường vì chẳng phải tạo tác, người lập luận chấp nhận có ngăn biểu, địch luận chỉ có ngăn, hy vọng tự lẽ ra có lỗi tùy nhất bất thành. Do vậy biết năng lập bất thành chẳng xét kỹ ngăn biểu ý đây do lập luận đối địch luận. Địch luận chỉ chấp nhận có ngăn cũng được thành dụ, hoàn toàn không chấp nhận đối phương là lỗi của dụ, nên đem lượng này làm lỗi bất định, lượng này cũng chẳng phải, ai nói không có lỗi. Đối với Đại thừa lập luận tức vô không luận sở biệt bất thành vì tôn không lựa chọn, nhân có tùy nhất và thiếu sở y đồng thời lỗi bất định. Vì như trạch diệt là loại lông rùa sừng thỏ trạch diệt dụ thường cùng chẳng tạo tác, cùng chấp nhận ngăn - biểu, chẳng phải bất thành nên điều dẫn chứng chẳng đúng. Giả như tìm cầu âm thanh, hư không đều lấy ngăn không lấy biểu, có thể chẳng phải năng lập thiếu lỗi bất thành. Nhưng có người khác phá rằng: Nếu âm thanh chấp ngăn hay không chấp biểu, nhân dụ cũng như vậy, tức có hai lỗi trái lý và giáo. Theo Lý Môn luận của Bồ-tát Trần Na hoặc pháp có ngăn biểu không được chỉ lấy ngăn mà không lấy biểu, đây vấn nạn cũng chẳng phải do ngoại đạo kia không dùng giáo này làm định lượng. Nay nói rằng đây xét về hư không biện không có hai nhà lập luận, căn cứ bổn kia nói thường không có chất ngại nhất định có ngăn biểu, không chỉ lấy ngăn nên lỗi của dụ. Luận về không hợp, giải thích lỗi thứ tư có bốn, trình bày chương, nêu thể, giải thích nghóa và chỉ bày pháp. Luận cho rằng đối với xứ không có phối hợp, nên không hợp thể nghóa là đối với dụ xứ không nói các chỗ tạo tác đều vô thường cũng như bình… tức không chứng minh có. Chỗ sở tác vô thường ắt phải theo, tức sở tác vô thường là nghóa không hợp. Do không hợp này dầu khiến cho âm thanh thấy có sở tác, không thể thành lập âm thanh là vô thường, do vậy nếu không hợp là lỗi của dụ. Nếu nói các sở tác đều là vô thường cũng như bình… liền có thể chứng minh cái vô thường kia, ắt tùy sở tác tánh, âm thanh đã có sở tác tánh quyết (1 3 6) vô thường theo tức thuộc trước nhau là có nghóa hợp. Hỏi: Các sở tác đều là vô thường có phù hợp tôn nhân không? Có người trả lời không hợp do âm thanh vô thường vì tha không chấp nhận, chỉ hợp với tôn ngoài ra có sở tác và vô thường, còn hệ thuộc nhau vì có thể hiển bày trên âm thanh có sở tác, vô thường quyết phải theo. Nay cho rằng không như vậy lập dụ vốn muốn thành tôn, hợp đã không hợp với tôn, lập dụ đâu thiếu sự tôn nên nói các sở tác, tức hợp với âm thanh sở tác đều là vô thường do vô thường phù hợp lệ thuộc sở tác. Không muốn đem bình sở tác phù hợp âm thanh sở tác, dùng bình vô thường hợp âm thanh vô thường. Hoặc không có vô thường hợp thuộc sở tác tại sao giải đồng dụ rằng: Nói nhân tôn sở tùy, hoặc nói âm thanh vô thường tha không chấp nhận không phù hợp. Không như vậy hoặc người kia chấp nhận tức lập luận đã thành, do kia không chấp nhận, phải hợp mới hiển bày các sở tác đều là vô thường cũng như bình… Lại có người lập lời gạn hỏi dị dụ cũng nói các - đều há muốn bao quát cả nhân - tôn sao? Đáp: Không có lệ, dị dụ vốn muốn lìa tôn nhân kia hiển bày chỗ không có tôn nhân nhất định không có làm sao hợp được, ngược lại hiển bày thuận thành lời nói các - đều, quyết định hợp âm thanh sở tác cùng vô thường khiến thuộc nhân. Luận chỉ đối bình… đều hiện hai pháp năng lập sở lập. Đây giải thích nghóa, cho rằng vì chỉ nói sở tác tánh thí như bình… có tánh sở tác và tánh vô thường, chẳng thành vở tác và thành vô thường. Như luận nói đối bình thấy tánh sở tác và tánh vô thường. Đoạn này chỉ bày pháp, nếu như Cổ sư lập âm thanh vô thường vì sở tác cũng như đối bình, tức biệt hợp: Bình có sở tác bình tức vô thường. Nên biết âm thanh có sở tác âm thanh tức vô thường, nên ngoài nhân dụ riêng lập hợp chi. Theo Bồ- tát Trần Na thì các sở tác tức hợp tánh sở tác trên âm thanh, nhất định là vô thường cũng như bình… Bình… sở tác có vô thường tức hiển bày âm thanh có sở tác chẳng phải thường trụ, tức với nghóa trên dụ lập luận phù hợp lời nói, đâu cần riêng lập chi hợp. Luận về đạo hợp, giải thích lỗi thứ năm theo văn có hai trước trình bày sau giải thích. Luận cho rằng lẽ ra nói ngôn từ của các nhà sở tác đều là vô thường, trong phần giải thích có hai nêu chánh hợp và hiển đảo hợp, về tôn nhân có thể biết. Luận ngược lại nói vô thường đều là sở tác chính hiển bày đảo hợp, nghóa là đúng ra dùng sở tác chứng minh vô thường. Nay ngược lại đem vô thường chứng minh sở tác do đó thành lỗi của dụ liền thẳng chẳng phải sở lập, có lỗi trái với tự tôn và tương phù, như trong chánh dụ đã phân biệt đầy đủ. Ba lỗi trước đều có tự tha cộng phần toàn phần…, hai lỗi sau đây chí có cộng toàn ngoài ra đều không có, hoặc không có phân toàn phần, có thể phân tha tự cộng, để theo đó lập lượng có tự… ba lỗi. Gọi là tợ đồng, ba lỗi ban đầu mỗi loại có bốn thành mười hai và hai lỗi sau có mười bốn, phân tự tha cộng có bốn mươi hai, phần tế có toàn phần nhất phần, lại do lỗi tợ nhân đồng tợ dụ, số đó mới vô lượng, e phiền không trình bày. Luận như vậy gọi là tợ đồng pháp dụ phẩm, đây tức tổng kết thứ hai chẳng phải. Trong tợ dị pháp sở lập không trừ, giải thích năm lỗi tợ dị. Đây tức lỗi thứ nhất có ba: Lựa chọn, chỉ thể và giải thích thành. Lựa có hai lớp lựa tợ đồng, trong tợ dị và lựa tự có năm do lỗi trong tợ dị có năm loại, đầu tiên nói không trừ sở lập trong pháp tợ dị. Không trừ sở lập tức trình bày, vả lại như có người nói vô thường thấy chất ngại kia thú như cực vi, thứ hai chỉ thể tôn nhân như trước trong đây không nêu chỉ nêu không trừ tợ dị sở lập, loại này chẳng phải một, tùy theo đối với một nên nói vả lại, hoặc không đủ ngôn từ, dường như lấy năm rõ một nên cũng nói vả lại. Do với cực vi sở thành lập pháp không trừ tánh thường, luận lập cực vi là thường trụ, giải thích thành có hai: Sở lập có và năng lập không. Y ba câu đâu chỉ chánh giải thích, hai câu sau trình bày rõ thành lập, Thanh và Thắng hai luận sư đều chấp nhận cực vi thường không trừ sở lập. Luận hay thành lập pháp không, không chất ngại, sẽ nói rõ năng lập không cứ vào sở lập có, cũng nên nói lập cực vi kia có chất ngại, văn trình bày sơ lược như vậy. Trong đây cũng có lưỡng câu tùy nhất do dự không y không trừ, hoặc không có lỗi thứ tư, do thể của dị dụ chỉ ngăn chẳng hiển bày, y không chẳng có lỗi, chỉ có ba lỗi trước, hoặc cũng có bốn. Như lập ngã không vì chấp nhận thuộc đế, dị dụ như hư không, đối với vô không luận mặc dù không có sở y cũng không trừ sở lập pháp. Luận đây nói rõ Thanh luận đối Thắng luận cả hai không trừ, hoặc đối Tát-bà-đa tùy nhất không trừ vì Tát-bà-đa chấp nhận cực vi chẳng phải thường. Không trừ do dự như nói chỗ núi đó nhất định nên có lửa do hiện thấy khói, các nơi như nhà bếp. Dị dụ các chỗ không có lửa đều không hiện thấy khói, như các chỗ khác tuy có nơi có lửa nhưng không thấy khói, nên có tâm do dự. Chỗ không hiện thấy khói vì lửa không có nên do dự không trừ. Theo kinh Duy-ma-cật như không có khói lửa, như thiêu mầm lúa, nay căn cứ rõ tướng nên không khiền trừ, song tùy theo lẽ ra có tự tha cộng toàn phần nhất phần… Không trừ năng lập sẽ giải thích thứ hai có ba trình bày, chỉ thể, giải thích thành, luận cho rằng như nghiệp là chỉ thể. Chỉ trừ sở lập, giải thích thành có hai đây nói sở lập không, do kia chấp nhận nghiệp là vô thường. Theo uận không trừ năng lập và nói các nghiệp không có chất ngại, biện năng lập có hai: ban đầu nói năng lập có, sau trình bày chấp nhận hiển rõ thành lập. Căn cứ theo đoạn trước thì các nghiệp thể là vô thường vì không có chất ngại, văn chấp nhận hiển bày có, do không trình bày rõ ràng, cũng y vào các lỗi lưỡng câu tùy nhất… suy nghó nên biết. Câu bất khiển: Giải thích lỗi thứ ba theo văn cũng có ba đây tức là trình bày. Luận như hư không đây chỉ thể, như Thanh luận sư đối Tát-bà-đa… lập âm thanh là thường, không có chất ngại, dị dụ như hư không. Theo luận do hư không kia không khiển trừ vì tánh thường không có chất ngại (1 3 7), giải thích thành có hai ban đầu nói rõ hai pháp lập có, sau xét giải thích thành. Theo luận thì do hư không là tánh thường nên không có chất ngại, đại khái giải thích thành, hai tôn đều chấp nhận hư không thật có trùm khắp không chướng ngại, cho nên hai pháp lập không trừ. Hỏi: Tợ đồng không thành, trong chung khai thành hai, tợ dị không khiển trừ, sao không phân biệt rõ ràng? Đáp: Đồng xét về ngăn - biến, không chỗ nương thành lỗi, dị ngăn chẳng hiển bày, y không chung khiển trừ nên chẳng phải không lỗi. Hỏi: Dị dụ chỉ ngăn, dị chẳng phải không lỗi, ngăn có lập dị, không đâu chẳng phải là lỗi. Như lập hư không nhất định lẽ ra chẳng phải có vì không tạo tác như lông rùa sừng thỏ… các loại thường có đều chẳng phải tạo tác như hoa đốm giữa hư không… há chẳng phải không thể đều không khiển trừ? Đáp: trước hy vọng một tôn nên đồng khai thành hai, đây ước về biệt lập vì vậy hợp thành một, lập có dị có tức có cái không khiển trừ. Nếu không cần khiển trừ thì lập không dị không tức chẳng phải không khiển trừ, dị có thuyết khiển trừ, do đó không khai thành hai. Trong đây cũng có lưỡng câu, bất khiển, tùy nhất, do dự và vô sở y, cũng tùy theo chỗ lẽ ra có lỗi tự tha cộng phần toàn phần… cứ như lý nên suy nghó. Luận về không lìa, giải lỗi thứ tư văn chia thành hai, ban đầu trình bày sau chỉ pháp. Luận cho rằng như bình thấy vô thường tánh, có chất ngại tánh, đây là chỉ bày pháp. Lìa có nghóa không hệ thuộc ràng buộc nhau. Nói các thứ vô thường tức lìa tôn thường thấy chất ngại kia, lìa nhân vô ngại, đem cái có chất ngại hệ thuộc ràng buộc của sự vô thường ngược lại hiển bày thường không có chất ngại và ràng buộc. Do đó âm thanh không có chất ngại nhất định là thường, nay chỉ thấy vô thường kia có tánh chất ngại, mà không thấy vô thường thuộc tánh có chất ngại, tức không thể rõ được chỗ vô tôn. Nhân nhất định chẳng có, đâu thể ngược lại hiển bày chỗ có chất ngại, nhất định có thường kia, khiến cho thường không chất ngại hệ thuộc nhau nên thành lỗi. Hợp tức trước hợp với âm thanh không chất ngại, muốn cho không chất ngại thường trụ quyết định phải theo. Lìa tức trước tiên lìa âm thanh thường trụ, muốn cho không tôn nhân nhất định chẳng có, ngược lại hiển rõ đến chỗ không còn chất ngại, nhất định có tôn nghóa thường trụ theo. Theo Lý Môn nhân tôn có theo nhau, tôn không thì nhân chẳng có, nương loại thứ năm để hiển dụ, nhờ hợp nên biết nhân. Căn cứ theo đây đều lìa tôn nhân, hợp lẽ ra trái ngược với đây. Luận về đảo ly, giải thích lỗi thứ năm có hai như khoa trước thì các vật có chất ngại đều là vô thường chỉ bày pháp. Tôn nhân đồng dụ đều giống như đoạn trước, dị dụ lẽ ra nói các vật vô thường thường thấy có chất ngại, tức rõ tôn không nhân nhất định chẳng có, ngược lại hiển chánh nhân, loại trừ bất định và tương vi đó, trở lại rõ có nhân tôn ắt theo nhau, ở đây thì rõ được tôn nhân. Nay đã đảo ngược các vật có chất ngại đều là vô thường tự vì ngiại nhân thành ra chẳng phải thường tôn, không lựa nhân lẫn lộn ngược lại với thường. Đây có hai lỗi như đã trình bày ở phần dị, cũng có thể có ba có ba tự - tha và cộng, không có lỗi nhất phần, trong phần tổng kết cũng có bốn mươi hai. Như đồng dụ nói ngoài sự phân biệt tỉ mó cũng có thể trên chuẩn đó biết. Tợ tôn năng dự như vậy chẳng phải chánh năng lập, đây giải thích tợ, đại văn thứ hai kết chẳng phải chân. Nói “như thị” tức chỉ ngôn từ của pháp, lại nói chữ “đắng” hiển rõ cái có không cùng tận, trước đây biện ba chi đều y cứ vào lời nói có lỗi chưa rõ thiếu giảm chẳng phải ở nơi lời nói nên dùng chữ “????” Lại nói tợ tôn nhân dụ đồng với sự thiếm giảm kia, sau trình bày ba lỗi trước. Tổng kết chẳng phải chân. Nếu như vậy tại sao không nói tợ tôn nhân dụ… như vậy mà nói tợ tôn nhân dụ như vậy…? Đáp: sau chữ dụ nói… e có lìa tợ tôn nhận dụ trước riêng có tợ chi, hiển rõ lìa ba lỗi này lại chẳng có riêng tợ tôn nhân dụ khác vì vậy nói chữ… (đẳng) trước. Tự khai ngộ sẽ biết chỉ có hiện lượng và tỉ lượng, trên đây đã nói rõ chân tợ lập, đoạn thứ ba sau sẽ nói hai loại chân lượng, chân năng lập này phải đầy đủ, theo văn có bốn là ý lập, ngăn chấp, biện thể lượng và quả lượng. Hoặc trừ phục vấn nạn, bài tụng trước sau thứ tự không giống nhau như trước đã biện. Hỏi: Nếu gọi là lập đầy đủ lẽ ra phải gọi là năng lập tức là ngộ tha, tại sao lại nói tụ khai ngộ? Đáp: Đây do người tạo luận muốn rõ văn ước sự hệ thuộc của nghóa để rõ hai lượng này, đích thân có thể tự ngộ, ẩn tên ngộ tha và tên năng lập. Kế nói rõ hai lập, hiển rõ cũng tha ngộ sơ năng lập, cũng như hai ngọn đèn hai cây đuốc ánh sáng xen nhau. Theo Lý Môn luận giải hai lượng rồi như thế nên biết ngộ tha tỉ lượng cũng không lìa đây thành được năng lập ắt phải nhờ vào lượng này, hiển rõ tức ngộ tha. Hai lượng này đã rõ thân sơ hợp thuyết thông cả tự tha ngộ cho đến năng lập, ý lập lượng đã xong. Phải biết chỉ có hiện lượng và tỉ lượng rõ ngăn chấp. Chỉ nói là ngăn cũng là nghóa quyết định, ngăn lập giáo lượng thí dụ, quyết định có hiện lượng tỉ lượng này vì vậy nói chỉ có. Hỏi: Xưa lập có nhiều nay tại sao lập có hai? Đáp: Theo Lý Môn luận do có thể hiểu tự cộng tướng này chẳng lìa hai loại này, riêng có sở lượng là liễu tri cho kia, lại lập lượng khác nên y hai tướng chỉ lập hai lượng. Hỏi: Ngài Trần Na đã tạo nhân minh, ý muốn hoằng truyền bổn luận này, giải nghóa đã mâu thuẫn nhau, làm sao có thể thuận thành được? Đáp: Cổ sư theo lời nói và ý nghóa, trí khai thành ba lượng để nói nghóa từ trí, cũng lại khai thành ba. Từ ngài Trần Na về sau dùng trí từ lý chỉ khai thành hai lượng, nếu thuận với xưa và thuyên nói có thể khai làm ba lượng, bỏ thuyên theo ý tôn chỉ xưa cũng chỉ có hai. Nên biết chỉ nói, hễ ngăn hoàn toàn chấp dị ngoài hai lượng riêng lập giáo và thí dụ… nên không trái nhau. Hai lượng đã trình bày đầy đủ, có văn chỉ theo hai lượng này, bèn lập lượng tợ hiện lượng tở tỉ lượng… đều thuộc tỉ lượng, như lời sớ đã thuật đầy đủ. Có lỗi không có thói quen lại truyền ngoại đạo lập tôn ngoài hiện lượng tỉ lượng có chí giáo và lượng, chẳng phải tỉ lượng cùng tột cực thành hiện lượng sở hữu không thuộc hiện lượng, chẳng thuộc cực thành hiện lượng, vì thuộc sở lượng. Cũng như tỉ lượng chọn một phần tương phù, do Phật pháp chấp nhận tỉ lượng là hiện sở lượng vì chẳng thuộc hiện lượng, lại muốn chấp lấy làm đồng dụ, tức hiển rõ nhân đầy đủ ba tướng. Cực thành hiện lượng: Chọn lựa chẳng phải cực thành, vì Phật pháp chấp nhận chí giáo cũng thuộc hiện lượng. Sở hữu: Lại chọn tự ngộ trái nhau, nếu nói trực tiếp cực thành hiện lượng chẳng thuộc hiện lượng. Đã nói cực thành hiện lượng lại chẳng thuộc hiện lượng vì vậy có sự trái nhau. Còn như không nói sở hữu, chẳng thuyên nói được chí giáo lượng là hiện sở hữu, song chỉ nói gộp là sở hữu lượng, trong nhân nói cực thành chọn lỗi tùy nhất. Vì chí giáo lượng của Đại thừa thuộc hiện lượng. Nói thuộc lượng sở là lựa lỗi bất định vì như tỉ lượng vì không thuộc cực thành hiện lượng (1 3 8) chí giáo lìa hiện lượng riêng có vì như phi lượng không nhiếp, chẳng phải riêng có thể. Lượng sở nhiếp lựa chẳng phải lượng tương phù, do Đại thừa chấp nhận chẳng phải lượng, hiện sở hữu lượng, không thuộc hiện lượng. Lại thành lập lìa ngoài tỉ lượng cón có dụ… lượng, do Đại thừa chấp nhận thí dụ lượng… không thuộc hiện lượng, do đó lập lượng rằng: Chẳng phải hiện lượng cực thành so sánh với sở hữu lượng không thuộc tỉ lượng. Cực thành tỉ lượng sở bất nhiếp lượng và sở nhiếp, như hiện lượng lựa lỗi như trước. Ngài Trần Na dùng lượng này không có lỗi chỉ cùng lập lượng làm nhân lượng quyết định tương vi, lập luận ngoài hiện lượng tỉ lượng không có chí giáo. Lượng rằng: Chẳng phải hiện cực thành so sánh một phần sở hữu lượng bất cực thành là thuộc hiện lượng, vì tỉ lượng sở bất nhiếp lượng và sở nhiếp. Như hiện lượng, thành lập lìa ngoài tỉ lượng không có nghóa để y cứ, lượng rằng chẳng phải so sánh với một phần cực thành hiện sở hữu và bất cực thành lượng thuộc hiện lượng, vi hiện lượng sở bất nhiếp lượng sở nhiếp, như tỉ lượng, lựa lỗi như trước. Do đó ngài Trần Na y hai tướng này chỉ lập hai lượng, thể của hai tướng đó nay lược nói tất cả các pháp đều phụ thuộc vào thể này gọi là tự tướng chẳng giống tự tướng như trong kinh đã nói. Do phân biệt tâm giả lập một pháp thông suốt các pháp, như xâu tràng hoa đây gọi là cộng tướng cũng như cộng tướng thể biệt trong kinh có nói tự tướng như tướng lửa nóng… gọi là tự tướng tướng. Hoặc gọi ngôn từ đã hiển rõ đây gọi là cộng tướng, giải thích như vậy không đúng trái địa luận của Phật. Hoặc dùng như lửa nóng… mới gọi là tự tướng, định tâm duyên lửa không được cái móng đó lẽ ra gọi là duyên cộng và định tâm đắc giáo lý đã nói cũng là ngôn hiển lẽ ra cũng gọi là cộng tướng. Nếu như vậy định tâm nên gọi tỉ lượng vì không duyên tự tướng. Dựa vào phương tiện nghóa này rõ tự cộng tướng, cái chấp của các nhà ngoại đạo thì tất cả danh ngôn đắc pháp tự tướng. Như nói gọi tìm lửa chỉ lấy được lửa sáng được tự tướng của lửa, danh ngôn Phật pháp chỉ được cộng tướng. Luận kia vấn nạn: Nếu được cộng tướng gọi lửa lẽ ra được lửa, theo Đại thừa giải thì tất cả danh ngôn có ngăn có biểu hiện nói lửa lửa ngăn chẳng phải lửa không được tự tướng của lửa mà được lửa đến, danh ngôn có biểu thị nên được lửa. Có ngoại đạo tìm đến gạn hỏi: Nếu ông nói danh ngôn được tự tướng của lửa, lời nói và tâm duyên lẽ ra phải thiêu đốt tâm và miệng vì được tự tướng. Hoặc có người khác lại vấn nạn ông định tâm duyên lửa đã đắc tự tướng lẽ cũng thiêu cháy tâm ông, tâm này không bị cháy, giả trí và thuyên tuy đắc tự tướng mà không bị thiếu cháy thì lời gạn hỏi của tôi như thế nào? Liền được giải thích cảnh có ly hợp khác nhau, duyên hợp cảnh bị cháy, định tâm lìa chấp thủ nên không bị cháy. Do lời gạn hỏi trước chỉ nên gạn về danh ngôn, lời nói y ngôn ngữ hiển bày, biểu hiện tức nhờ thân biết là trong cái hợp. Nếu đắc tự tướng liền hợp bị thiêu cháy. Nay hỏi lời gạn hỏi này là nạn về tự tướng của Nhân minh là tự tướng trong kinh phải không? Đáp: Dựa vào tự tướng nhân minh, nếu như vậy thì câu vấn nạn này không có lý. Tự tướng nhân minh chẳng phải cốt yếu như lửa nóng làm tự tướng, tại sao lời vấn nạn hợp với lúa kia đốt cháy tâm… Giả sử dựa vào tự cộng tướng trong kinh gạn hỏi liền không được ngôn giả trí và thuyên cầu đắc tự tướng, giả trí thuyên đó, vì luận tự thật tình nói đắc cộng tướng. Nếu các pháp theo tôn của ngoại đạo thì chẳng phải giả trí thuyên kia đều đắc tự tướng, nên có thể y trí này để gạn hỏi nơi luận. Họ lại vấn nạn định tâm đắc tự tướng, lẽ ra định tâm bị thiêu đốt, cũng không được dùng ly hợp thủ chấp tìm cầu. Ai nói định tâm chỉ lìa chấp cảnh, vì theo Du-già thì thông cả chấp ly hợp, nếu lìa chấp thủ liền không bị thiêu cháy, lẽ ra cũng lìa thủ chấp không đắc tự tướng vì lửa dùng xúc chạm nóng làm tự tướng. Còn đối với cực nhiệt nại lạc thì ý cùng thân thức đồng chấp lửa, đã không bị thiêu đốt lẽ ra không muộn tuyệt (chết giấc) chẳng chung với khổ. Kia đã bị chết giấc và chung với khổ vì đã rõ được tự tướng của lửa nóng đó. Đoạn trước nghiên cứu và vấn nạn cả hai đều thánh trái. Nay lại nói tự cộng tướng, ngoại đạo chưa chắc đều có hai loại tướng này, trong Phật pháp thì có nghóa này. Ngoại đạo chỉ nói lửa liền được thể của lửa, thể của lửa là tự tướng mà không lập cộng tướng, chẳng thể phân biệt kinh và luận nên vấn nạn chung. Nếu như nói lửa đắc tự tướng của lửa lẽ ra miệng bị cháy, đây căn cứ vào lời nói lửa ở nơi miệng, nói đắc tự tướng, tự tướng cũng không lìa miệng nên lẽ ra miệng bị cháy. Hoặc có thể hỏi ngược lại, chẳng phải chính sự vấn nạn đó làm cho miệng bị cháy, miệng là duyên phát ra lời nói vì chẳng phải chánh ngữ, chính tâm gạn hỏi kia tìm danh chấp cảnh cũng đắc tự tướng, tâm được tự tướng lẽ ra có cảm giác nóng. Hoặc có người khác lại nạn rằng cái mà khiến cho tâm tôi tìm tên duyên lửa cũng bị thiêu cháy, tự là bị khuất phục chẳng dự vào tôn ngã, vì tầm danh giả trí chẳng được tự tướng của lửa đó. Hoặc xúc chạm có cảm giác nóng thì chẳng phải giả trí vì cứng cảnh biết được, giả sử trong lúc định tâm tầm danh duyên lửa… cũng là giả trí, chẳng giống tỉ lượng giả lập một pháp thông suốt các pháp gọi là đắc tướng, đều phụ thuộc vào thể nên gọi đắc tự tướng thuộc hiện lượng. Không được tướng nóng… nên thuộc giả trí, như giả tưởng định biến hiện các thân nước lửa mặc dù ở trên hư không mà không có dụng nóng ướt… Như định tâm duyên là thượng lửa hạ giới tuy là hiện lượng, chỗ mang tướng phần cũng không có dụng cháy ướt. Hỏi: Nếu như vậy thật ra biến hiện đất, nước, lửa… có dụng ướt nóng không…? Đáp: Mặc dù có dụng mà không có tâm đốt cháy, chỉ nhậm vận biến hiện tức là thể tự tướng của lửa, định tâm cũng như vậy. Hỏi: Thân căn thật trí đều được tự tướng của lửa tại sao có được cháy và không cháy khác nhau? Đáp: Lửa có chứa chất cháy và không cháy khác nhau. Hỏi: Tự cộng tướng của nhân minh có thể hay không có thể? Đáp: Cộng tướng này hoàn toàn không có thể, giả sử định tâm duyên, nhờ nhân duyên danh ngôn hạnh giải đó là giả trí, y cộng tướng chuyển, nhưng không chấp nhận danh cùng nghóa đã nói nhất định hệ thuộc nhau, vì vậy gọi là đắc tự tướng. Song giả trí được tên là cộng tướng vì tạo tác hạnh giải, cộng tướng này chỉ đối với các pháp tăng thêm tướng trạng nên không có thể trạng. Đồng danh cú thuyên sở y cộng tướng, hoặc các hiện lượng sở duyên tự tướng tức không gồm danh ngôn, thầm chứng pháp thể, kia liền có thể trạng tức là pháp tánh. Nếu tâm duyên Phật tỉ lượng cộng tướng cũng không có thể trạng, chấp nhận Phật duyên khắp nên cũng không có lỗi, có nói cộng tướng cũng là có giả thể. Điều này thật ra không đúng lấy gì làm thể, nếu có thể tại sao Bách pháp trả lời pháp thuộc đồng phận, chấp nhận không tương ứng là có giả thể như vậy cũng chẳng đúng. Nghóa là cái gì không tương ưng là có giả thể. Theo Du-già quyển thứ năm mươi hai thì duyên đến đi sinh diệt… là duyên không có thể thức. Nếu chấp nhận có thể không chứng minh được duyên chẳng có. Hỏi: hư không chẳng có ngã… cộng tướng này có thể hay không có thể trạng? Có người đáp: có thể trạng, vì sắc… này chẳng phải ngã ngã sở, gọi hư không vô ngã… vì chẳng phải cảnh không có. Theo Thành Duy Thức luận thì chẳng khác chẳng phải không khác như tánh vô thường… Nếu không có thể trạng tại sao không khác nhau với hạnh? Nay cho rằng không như vậy nếu nói sắc… này chẳng phải ngã ngã sở gọi hư không vô ngã nên nói chẳng phải không có, lẽ ra cùng sắc… là đồng mà chẳng khác tại sao chẳng phải đồng - dị (2 3 9). Lại trái với năm cách giải chứng minh duyên không có thức: Duyên quán trí vô ngã. Duyên ẩm thức, ẩm thực tức là hương… lìa sắc hương… đều không có sở hữu. Tà kiến duyên không có. Trong các hành vô thường không thường hằng không thật có cộng tướng quán thức chẳng phải không có duyên này. Duyên đến đi sinh diệt… đã dẫn chứng duyên không có, biết rõ không có thể trạng này, vả lại dừng bên luận. Về hiện lượng nay sẽ hiện thể có hai: Ban đầu biện thể của hiện lượng sau biện thể của tỉ lượng. Trong hiện lượng văn chia ra bốn: Lựa chọn trình bày, chánh phân biệt, giải thích nghóa và hiển danh. Nói trong đây là lựa chọn nghóa, đoạn trước nêu hai lượng, vả lại chọn tỉ lượng là giữ gìn hiển bày lượng, nên gọi là trong đây. Nói hiện lượng đùng là giữ gìn muốn rõ lập lượng. Theo luận gọi là vô phân biệt chính phân biệt thứ hai, hiện lượng nghóa là vô phân biệt. Hỏi: Thế nào là trí, thế nào là lìa cảnh, thế nào là phân biệt, nếu có nghóa chánh trí đối với sắc… sẽ giải thích nghóa thứ ba, văn lại chia làm ba: Lựa tà, định cảnh và sở ly. Nếu có chánh trí lựa bỏ tà trí kia gọi là bịnh nhậm mắt thấy sợi lông là mặt trăng thứ hai… tuy lìa danh chủng mà có phân biệt thì chẳng phải hiện lượng. Theo Tạp Tập thì hiện lượng nghóa là bản thân mình đúng rõ ràng không mê loạn. Chánh trí trong này tức kia nói không mê loạn, lìa vòng lửa quay… đối với sắc… đây nói định cảnh. Nói sắc… đồng thủ chấp hương… chữ nghóa cho là nghóa cảnh lìa các ánh chướng tức tạp tập minh liễu. Mặc dù văn không hiển rõ nghóa chắc chắn như vậy, nếu không làm như thế lượt bỏ lỗi lầm không hết. Giống như trí thì chẳng phải tà, cũng không phân biệt duyên cảnh chướng kia, vì lẽ ra gọi là hiện lượng. Lìa danh chủng… phân biệt sở hữu, đây nói chỗ lìa nghóa là có cảnh đối với tiền sắc… tuy không ánh chướng. Hoặc có các môn phân biệt danh chủng… cũng chẳng phải hiện lượng, nên cần phải lìa phân biệt danh ngôn này, phân biệt chủng loại, đồng lấy các môn phân biệt. Theo Lý Môn luận thì xa lìa tất cả chủng loại danh ngôn giả lập không phân biệt các môn khác. Nói chủng loại tức đại hữu đồng dị của Thắng luận sư và sở lập ba đức… của Số luận sư. Danh ngôn tức hoặc ngắn hoặc dài, đều chẳng xứng tên thật gọi là giả lập, đồng y cộng tướng chuyển gọi là vô dị (không khác), các môn sáu câu là thường vô thường…, hoặc lìa tất cả chủng loại danh ngôn. Danh ngôn chẳng phải có một nên gọi chủng loại, y danh ngôn này giả lập một pháp thông suốt các pháp gọi là không sai khác khắp tôn định hữu, dị biến vô… gọi là các môn. Hoặc có thể nói các môn tức các nhà ngoại đạo??? An lập các pháp gọi là các môn, vì tính ra chẳng phải một, đây là lựa bỏ điều trái. Nếu chỉ lựa bỏ ngoại đạo và giả danh ngôn, không lựa bỏ sở duyên tâm tỉ lượng lỗi cũng không kể xiết, nên phải lìa sự phân biệt sở hữu này mới thành hiện lượng. Hoặc một lần chỉ nói không hai hoặc ba sở hữu phân biệt có lỗi rất rộng, chẳng phải hai ba lỗi kia hoàn toàn không phải hiện lượng, căn cứ vào ba thuộc bảy, ý địa chỉ trừ vô phân biệt trí, vì các vị khác tùy ứng thường có lỗi kia. Nhưng lìa phân biệt lược có bốn loại: Ngũ căn thân, ngũ câu ý, các tự chứng, và tu định, ở đây nói nghóa đối với sắc… là năm thức. Lý Môn luận dẫn bài tụng. Hữu pháp chẳng phải một tướng, căn chẳng phải tất cả hạnh, chỉ nội chứng lìa ngôn ngữ là cảnh giới sắc căn. Ý địa cũng có lìa các phân biệt, chỉ chứng hạnh chuyển,, còn đối với tham… những người tu định các tự chứng phần lìa giáo phân biệt đều là hiện lượng. Hỏi: Đây nhập chánh lý là đồng với kia nói đối với sắc… chỉ là năm thức cũng có ba loại kia? Đáp: Có hai cách giải: Giống luận kia đối với cảnh như sắc… vả lại rõ năm thức và tướng hiển, ở đây riêng bói, luận kia đầy đủ rõ ràng nên gọi cho đủ có bốn. Nhiếp đầy đủ nói các nghóa sắc… không chỉ năm cảnh, ba loại, kia cũng lìa danh chủng, sở hữu phân biệt, ở đây lược tổng hợp, luận kia phân biệt đầy đủ. Hỏi: Phân biệt rõ năm căn chẳng phải một đều hiện thủ cảnh có thể gọi là hiện hiện biệt chuyển còn ba loại kia tại sao gọi hiện biệt chuyển? Đáp: Đều phụ thuộc duyên thể không thông suốt nhiều pháp gọi là biệt chuyển văn đồng Lý Môn về nghóa nào có ngăn ngại nhau. Hỏi: Tu định lìa giáo phân biệt, chẳng lẽ trong các định không nhờ giáo sao? Đáp: Tuy nhờ vào Thánh giáo không giống tâm tâm gọi danh thuộc nghóa, hoặc nghóa thuộc danh cả hai đều duyên khác nhau gọi là lìa phân biệt, chẳng phải hoàn toàn không duyên mới gọi là hiện lượng. Nếu không như vậy thì tâm vô lậu lẽ ra đều không duyên giáo pháp. Luận về hiện hiện biệt chuyển nên gọi là hiện lượng, nói rõ tên gọi. Bốn loại tâm này hoặc chỉ có năm thức, hiện thể chẳng phải một gọi là hiện hiện đều phụ thuộc vào cảnh thể lìa Thiện Sinh duyên gọi là biệt chuyển. Do đây hiện hiện mỗi mỗi riêng duyên nên gọi là hiện lượng, chữ “cố” kết lý do trên gọi là hiện lượng, hiển rõ tên kia mặc dù không có chữ “thị”. Căn cứ vào cách giải hiện lượng có đầy đủ hợp, vì căn kia không có thiếu nguyên nhân kết vì Tây Vức rõ ràng có đều thành văn xen nhau, nghóa đó tương tợ. Theo Lý Môn luận do không cùng duyên hiện hiện biệt chuyển nên gọi là hiện lượng, năm căn mỗi mỗi chiếu sáng tự cảnh gọi đó là hiện, thức y đây gọi là hiện hiện, đều riêng thủ cảnh gọi là biệt chuyển vì cảnh đều sai biệt gọi bất cộng duyên. Nếu như vậy xen dùng há cũng là biệt duyên sao? Đáp: Nương nhưng chưa được tự tại vả lại cho rằng nếu y cách giải trước liền không ngăn ngại với đây. Hoặc lượng của hiện, năm căn chẳng phải một gọi là hiện hiện, thức gọi là lượng, hiện chỉ thuộc căn. Theo Lý Môn giải thích, hiện thời chẳng trái, hoặc thông suốt cả bốn căn, ý căn chẳng phải hiện. Lại thiếu tên hiện tự thể của thức kia, chỉ tùy sở ứng, dựa vào giữ gìn nghiệp giải thích hai loại. Tỉ lượng theo văn phân làm bốn: Trình bày tên, nêu ra thể, giải thích nghóa và kết tên. Nương nhờ các tướng mà quán nghóa, ở đây nêu ra thể của tỉ lượng, cho rằng nếu có trí nhân nhờ ba tướng, nhân tướng có ba nên gọi là chúng (các), mới quán nghóa cảnh. Tướng có ba loại như trước đã nói, do kia làm nhân để so sánh nghóa, sẽ giải thích nghóa có ba: ban đầu giải thích văn ở đoạn trước kế lược bỏ nhân lẫn lộn, sau nêu quả hiển trí. Nói tướng có ba giải các tướng trước, lìa lỗi nói trùng lặp nên chỉ như trước, do kia làm nhân, đoạn trước giải thích nhờ nghóa, do tức nguyên nhân, nghóa nhờ cậy nghóa so sánh. Đây giải thích đoạn trược quán nghóa. Trên đây bàn khả năng chiếu cảnh gọi là quán dưới xét công dụng trù tính gọi là tỉ, vì trình bày kết luận so sánh. Có sinh chánh trí đây lựa bỏ nhân sai lộn, nghóa là mặc dù có trí nhờ nhân của ba tướng mà quán cảnh. Do dự khởi tri giải là lỗi của nhân, như nhân quyết định trái nhau ở đoạn trước. Hoặc có thể giải thích nghi đoạn trước chỉ lược ba tướng (1 4 0). Có người nghi rằng như Thanh luận sư và Thắng luận sư lập nhân đều có ba tướng, há duyên với trí kia thành chánh? Bèn giải thích mặc dù đủ ba tướng có sinh chánh trí mới là chân tỉ lượng, còn trí đó có lúc sinh nghi ngờ nên không phải chánh. Biết rõ có lửa hoặc vô thường… đoạn văn này nêu quả để hiển trí rõ chánh tỉ lượng, trí là liễu nhân, lửa vô thường… là liễu quả, do nhân kia có hiện lượng tỉ lượng không đồng. Quả cũng có hai loại lửa vô thường khác nhau, rõ lửa từ nhân khói hiện lượng phát khởi, rõ vô thường từ nhân tạo tác tỉ lượng sinh. Hai loại này nhờ trí đều làm nhân xa, nương hai nhân này nghó đến duyên nhân làm trì gần nhân. Nhớ gốc trước tiên biết tất cả chỗ có khói quyết định có lửa, nhớ bình tạo tác mà thành vô thường, vì vây hay sinh trí rõ hai quả kia. Theo Lý Môn thì so sánh quán sát kỹ trí từ hiện lượng sinh hoặc từ tỉ lượng sinh, và nhờ nhân này cùng chỗ lập tôn niệm niệm không lìa nhau, do đó thành lực đã nêu đoạn trước. Vì niệm nhân đồng phẩm nhất định có, mức độ so sánh nhân gần hay xa đều gọi là tỉ lượng. Hỏi: Hiện lượng là cảnh hay tâm? Đáp: Cả hai đều đúng, cảnh hiện sở duyên theo tâm gọi là hiện lượng, hoặc thể hiển hiện là tâm sở duyên gọi là hiện lượng. Hỏi: Tỉ lượng là tỉ lượng trí hay nhân sở quán? Đáp: Là nhân sở quán và biết nhân trí tạo tác âm thanh này, chưa có thể sinh trí quả tỉ lượng, biết có chỗ tạo tác thì cùng tôn vô thường không lìa nhau. Hay sinh trí này vì nhờ sức của niệm nhân. Hỏi: Nếu như vậy thì hiện lượng tỉ lượng và niệm, đều chẳng phải chánh thể của trí tỉ lượng sao gọi là tỉ lượng? Đáp: Ba loại này có thể làm trí tỉ lượng nhân gần xa, nhân từ quả được tên gọi. Theo Lý Môn vì nhân tỉ lượng là gần hay xa đều gọi là tỉ lượng. Lại nói dựa vào dụng cụ và tác giả giống như đốn cây, cái rìu là dụng cụ, người là tác giả, cây kia ngã được thì con người là nhân gần và cái rìu là nhân xa. Có người giải thích chính thân cái rìu trực tiếp chặt cây là nhân gần, người cầm rìu là gián tiếp chẳng phải nhân gần, hiện tỉ lượng này làm dụng cụ, niệm nhớ nhân là tác giả, hoặc ngược lại với cách giải này. Trách hai cách giải thích trước nên gọi là tỉ lượng. Trong Lý Môn luận cảnh hiện tỉ lượng và niệm duyên nhân tùy theo sự thích ứng đó đều gọi là hiện tỉ, tại sao ở đây đều chỉ nói là trí, làm sao biết được hiện cảnh kia cũng gọi là hiện lượng, nhân của tỉ lượng cũng gọi là tỉ lượng? Đáp: Theo Lý Môn luận sao ở đây và hiện lượng ở trước kiến lập khác nhau, câu hỏi này thành hai môn hiện. Chỗ này lẽ ra cũng đối với việc so sánh quả gọi là tỉ lượng, chỗ kia gọi hiện nhân cũng là hiện lượng, đều không ngăn dứt. Câu trả lời này trước sau rất rõ ràng, đoạn này chỉ nêu ra lượng thể, lược về tác giả và dụng cụ đó. Luận về danh từ tỉ lượng, kết danh từ có bốn nhờ ba tướng của nhân so sánh biết có lửa vô thường… nên gọi là tỉ lượng, hai chữ “tỉ lượng” như trước nên biết. Trong hai lượng tức trí gọi là quả vì chứng tướng như có tác dụng mà hiển hiện cũng gọi là lượng. Thứ tư nói rõ về quả lượng, hoặc trừ phục vấn nạn. Nghóa là có người vấn nạn; Như thước đo là năng lượng, tấm vải là sở lượng, trí ghi số là quả lượng. Hai lượng của ông thì lửa chương Vô trụ trong Lịch đại pháp bảo ký là sở lượng, hiện tỉ lượng trí là năng lượng, thế nào là quả lượng. Theo Tát-bà-đa vấn nạn thì ngã đối với cảnh là sở lượng, căn là năng lượng dùng căn kiến không chấp nhận thức kiến nên căn là năng lượng. Y căn phát khởi tâm và tâm sở làm quả lượng. Theo Đại thừa của ông thì trí là năng lượng, còn thế nào là quả lượng, hoặc các ngoại đạo chấp cảnh là sở lượng, các thức là năng lượng, thần ngã là quả lượng, vì họ chấp thần ngã là người hay nhân hay biết. Trong Phật pháp của ông đã không lập ngã lấy gì làm quả lượng, vì trí tức năng lượng. Luận chủ đáp với hai lượng này tức trí gọi quả là nghóa không rời nhau, tức dụng là trí lượng ngược lại là năng lượng quả. Họ lại hỏi tại sao ngay nơi trí lại gọi là quả? Đáp: Bàn về quả lượng khả năng của trí có thể biết được điều đó tức là lượng trí này, vì năng quán năng chứng hai cảnh tướng đó cho nên gọi là quả, cảnh tướng đó hiện nơi tâm gọi là có hiển hiện. Giả nói một phần của tâm gọi là năng lượng, vì như đã có tác dụng với nhất tâm dùng nghóa chia năng sở thì quả lượng lại gọi là lượng hoặc sở lượng liền hiện nơi tâm vì không rời tâm cũng gọi là lượng. Do cảnh cũng là tâm, dựa vào hai cách phân giải, hoặc ý trong đây xét cả ba rõ ràng năng lượng là kiến phần, quả lượng là tự chứng phần thể không rời dụng ngay nơi trí gọi là quả, vì năng chứng là tướng kiến phần. Tướng nghóa là hạnh tướng thể tướng chẳng phải tướng phần gọi là tướng, như có tác dụng mà hiển hiện, lựa bỏ dị chánh lượng. Tâm đó chấp cảnh như mặt trời chiếu sáng, như vẫt được kiềm chặt, vì chính nhân chiếu cảnh. Nay bên Đại thừa y tự chứng phần khởi công năng kiến phần chấp cảnh và tướng phần đó làm cảnh sinh thức, là duyên hòa hợp giả như có tác dụng. Tự chứng phần hay khởi nên gọi là hiển hiện, vì vậy không giống cách chấp trực tiếp thật thủ chứng đó, tự chứng phần này cũng gọi là lượng, cũng là kiến phần kia hoặc tướng phần này cũng gọi là lượng vì không lìa năng lượng. Như sắc giới là Duy thức, ở đây hiểu nghóa của ba phần thuận theo ngài Trần Na. Luận về có phân biệt trí đối với nghóa di chuyển gọi là tợ hiện lượng, đoạn văn thứ tư sẽ nói rõ hai tợ lượng, hình tướng của chân tợ, ban đầu nói tợ hiện, sau là tợ tỉ. Trong tợ lượng có nêu tên và giải thích. Nêu tợ hiện thể, nêu lý do và nêu định danh, có phân biệt trí nghóa là có như doạn trước gồm danh chủng… trí khởi các phân biệt chẳng xứng thật cảnh, phân biệt sinh hiểu lầm, dung nhiếp đối với nghóa chuyển khác gọi tợ hiện lượng, đây nêu tợ danh. Luận các cõi trí liễu bình y… phân biệt mà sinh, văn giải thích cũng có ba, cho rằng các cõi duyên bình y… trí, chẳng xứng thật cảnh vọng sinh phân biệt gọi là phân biệt trí. Theo Lý Môn có năm loại trí đều gọi là tợ hiện; Tán tâm duyên quá khứ. Độc đầu ý thức duyên hiện tại. Tán vị ý thức duyên vị lai. Duyên nghi trí không quyết định trí trong ba đời. Duyên các hoặc loạn trí nơi hiện tại. Nghóa là thấy ghế cho là người, thấy ánh nắng mặt trời cho là nước và bình y… gọi là hoặc loạn trí, đều chẳng phải hiện lượng thuộc tợ hiện. Hoặc các nhà ngoại đạo và tình loại khác cho là vì được hiện lượng, theo Lý Môn phân biệt rõ cảnh khác không gọi là hiện lượng, do vậy gọi là ức niệm. Suy lường, mạng căn, nghi trí, hoặc loạn trí… đối với khát ái đều chẳng phải hiện lượng, vì trước tiên tùy sở thọ phân biệt chuyển. Năm trí như thứ lớp có thể phối hợp với ức niệm… chữ trí sắp xuống là hướng nỗi, lìa đây vì ngoài ra không có thể đối với thỏ khát ái (1 4 1) ở Tây Vức cùng gọi dương diệm (ánh nắng mặt trời chiếu trên đường nhựa) là thỏ khát ái, do vì thỏ nóng khát thấy gợn nắng trên đường cái tưởng là nước mà sinh ra sự khát khao. Cảnh này đồng như kia thấy ghế cho là con người, như người nhậm mắt thấy hoa đốm trên hư không, sụ lông là mặt trăng thứ hai, bình y… Do đó họ lại nói những cái có ở thế tục như vậy bình, số, cử, hữu tánh, bình tánh đều tợ hiện lượng là giả lập chẳng phải chân thật, gọi là thế tục hữu. Nêu bình… ngoại đạo chấp ngũ duy lượng thật cú nghóa…, số là Thắng luận chấp đức cú. Nói đẳng đẳng chấp thủ lượng hợp ly kia, cử tức nghiệp cú. Lấy bỏ co duỗi thực hành, cử là lấy đó, hoặc hành đó, dùng chữ đẳng là còn nữa, hữu tánh tức đại hữu, bình tánh là tánh đồng dị của bình, đồng lấy hòa hợp cú… Trí tức trí duyên này đều tợ hiện lượng, đồng đều với năm trần thật cảnh. Ngoài ra còn các nghóa hành tướng giả hợp vì phân biệt chuyển. Hỏi: Duyên bình đồng trí này gọi tợ hiện trong ba lượng hiện lượng tỉ lượng, phi lượng thuộc lượng nào? Đáp: Thuộc phi lượng. Hỏi: Như đệ thất thức duyên đệ bát chấp ngã, có thể gọi là phi lượng, duyên khắp y bình thì chẳng phải tâm chấp sao gọi là phi lượng? Đáp: Lẽ ra biết phi lượng không cần chấp tâm. Chỉ không xứng cảnh, khởi hiểu biết sai khác gọi là phi lượng. Dùng tâm duyên bình tuy không cần chấp và chỉ có hoặc loạn cho là bình thật thành phi lượng. Hỏi: Đã có bình y nhờ đó trí sinh khởi lẽ ra gọi là sở tri sao gọi là phân biệt? Theo luận do vì nghóa đó không dùng tự tướng làm cảnh giới, đây giải thích lý do. Do các trí đó đối với bốn cảnh trần, không dùng tự tướng làm cảnh sở quán, trên đó tăng thêm sự phân biệt thật có vật mà thành sở duyên gọi là dị chuyển. Ý cho rằng thể của bình y… là bốn trần, nương bốn trần chỉ có cộng tướng không có tự thể, thì biết bình y là giả danh, chẳng dùng bốn tự tướng, bốn trần làm sở duyên. Nhưng đối với đây cộng tướng bình y giả pháp chuyển cho là thật có, nên gọi là phân biệt. Luận về danh tợ hiện lượng, giải thích định danh do bình y nương bốn giả hợp, nhưng ý thức duyên cộng tướng mà chuyển, thật ra chẳng phải nhãn thức được hiện lượng. Tự là mắt thấy bình y… gọi tợ hiện lượng lại chỉ phân biệt chấp cho là thật có nghóa là tự thức hiện đắc cũng gọi tợ hiện, chẳng những tợ nhãn hiện lượng mà được gọi tợ hiện lượng, đây giải thích tột lý vì đoạn trước giải còn hạn cuộc. Nếu tợ nhân trí trước tiên phát khởi các tợ nghóa trí gọi là tợ tỉ lượng, thú hai giải thích tợ tỉ, theo văn có hai phần nêu tên và giải thích. Lại chia thành ba nêu tợ nhân, tợ thể và tợ danh, tợ nhân và trí duyên tợ nhân được sinh khởi trước, sau trí liễu tợ gọi là tợ tỉ lượng. Hỏi: Thế nào là tợ hiện đầu tiên nêu tợ thể sau nêu tợ nhân. Tợ tỉ trước nhân sau quả? Đáp: Tợ hiện kia theo sự gặp chạm liền chấp sự hiểu biết cho là thật có chẳng phải suy lường nên nêu quả trước. Chủ yếu nhân trước sau mới so đo tà sau đó khởi trí, vì vậy nêu nhân trước. Hoặc lại hiểu biết ba cú ba văn, phối hợp giải thích như thứ lớp. Nhiều loại tợ nhân như trước đã nói dụng đó làm nhân, đoạn trước đã nói bốn món bất thành, sáu món bất định, bốn pháp tương vi và tợ dụ đều sinh tợ trí và gọi là tợ nhân, đã trình bày đầy đủ. Sợ phiền chỉ nêu có trí và nhân, nay giải thích cũng có nhân sở tri và trí năng tri vì chẳng đúng đều gọi là tợ nhân, song văn giải thích không có. Tức nêu nhân để hiển dụng, nhân trí đó làm nhân đầu tiên. Theo lý cũng hợp lại hoặc trí tợ nhân và tà ức, thành lập tôn nhân không rời nhau niệm là tiên phong, văn lược như vậy, nêu ra theo văn giải thích cũng lược không nói. Với tợ so sánh có trí sinh, giải thích các tợ nghóa trí đã khởi ở trước, khởi và sinh nghóa giống nhưng văn khúc như sương mù vọng cho là khói. So sánh gần giống tà chứng có lửa trong đó khởi trí nói có trí sinh. Không thể giải đúng gọi tợ tỉ lượng, giải thích tên, do tà nhân koa vọng khởi tà trí. Không thể hiểu chính xác lửa đó có hay không có là chân hay chẳng phải chân gọi là tợ tỉ lượng. Theo luận hiển bày đúng lỗi năng lập gọi là năng phá, đoạn văn thứ năm giải chân năng phá, văn phân thành ba đầu nêu chung năng phá, kế biện cảnh năng phá, sau gồm hiển bày ngộ tha tổng kết tên năng phá. Hoặc chia thành bốn: Hai cách giống đoạn trước, thứ ba đưa ra thể năng phá, thứ tư kết tên năng phá. Tha lập có lỗi như thật có thể biết hiển bày khiến cho ngộ gọi là hiển rõ lỗi năng lập đúng, lỗi đó như thế nào? Ban đầu năng lập thiếu tánh lỗi, lỗi tánh lập tôn, nhân tánh bất thành, nhân tánh bất định, nhân tánh tương vi và lỗi tánh dụ. Biện cảnh năng phá, lỗi tha lập có hai biện thiếu chi và nói rõ lỗi của chi nghóa là năng lập thiếu tánh lỗi. Biện thiếu chi, gọi chung không có ngôn từ, hoặc lời nói không có ý nghóa, trước tiên rõ lỗi trùng lặp nên nói ban đầu. Thiếu giảm ở đây theo Cổ sư xét tôn nhân dụ hoặc có sáu, bảy câu, từ ngài Trần Na về sau xét ba tướng của nhân cũng có sáu hoặc bảy đều như trước đã biện rõ. Theo ba tướng nhân của ngài Trần Na có bảy câu thiếu một có ba, như Sở luận sư đối Thanh luận sư lập âm thanh là vô thường vì mắt thấy. Lập tôn âm thanh là vô thường, bình bồn… là đồng phẩm, hư không… là dị phẩm, ở đây thiếu cái ban đầu mà có ba cái sau. Thanh luận đối Tát-bà-đa lập âm thanh là thường vì tánh bị nghe, hư không là cộng đồng phận, bình, bồn… là dị thiếu tướng thứ hai, nhân sở lượng tánh thiếu tướng thứ ba. Thiếu hai có ba như lập âm thanh chẳng phải cần phát vì mắt thấy hư không… là đồng, bình, bốn… là dị thiếu hai tướng ban đầu. Như lập ngã là thường, đối Phật pháp nhân chẳng phải cần phát, hư không là đồng, điển… là dị, nhân thiếu sở y nên không có tướng ban đầu, điển… có thiếu tướng thứ ba bốn tướng trái nhân thiếu hai tướng sau. Như lập âm thanh thường vì mắt thấy, hư không là đồng, bồn là dị, ba tướng đều thiếu lỗi tánh lập tôn… phân biệt rõ chi lỗi. Các tướng này đối với năng phá lập tên sở phá, theo Lý Môn thì năng lập thiếu năng phá, tánh lỗi năng phá của lập tôn… Tại sao năng lập thiếu… gọi là năng phá, theo lý năng phá đưa ra lỗi kia? Đáp: Ở đây đối với năng phá nói tên sở phá, cứ thật năng phá tại lời nói. Hoặc đối với sở tác đặt tên năng tác, năng lập thiếu… làm nhân hay phát khởi lời nói năng phá này gọi là năng tác, tức năng phá phát khởi từ lời nói gọi là sở tác. Phá thật ra tại lời nói thiếu năng phá, do đó sở tác lập (1 4 2) tên năng tác, cũng như với quả lập nhân kia. Có khi chỉ xét về cảnh sau sẽ hiển bày lời nói này, nếu trước đã nói thì sau đâu cần nói lại. Luận chỉ rõ lời nói này khai mở cho người hỏi hiểu nên gọi năng phá, gồm hiển ngộ tha kết tên năng phá người lập sinh lỗi, địch luận trách lỗi của ông, lập - chứng đều hỏi lỗi gì gọi là người hỏi, dịch luận có thể hiển chính xác thiếu giảm… chẳng phải, rõ nơi lời nói gọi là hiển bày. Nhân năng phá hiểu ngộ được câu hỏi đó khiến cho đối phương biết lỗi xả vọng quy nhân đây tức ngộ tha gọi là năng phá lựa bỏ cái quấy. Gồm ngộ tha để giải thích tên năng phá, mặc dù lựa bỏ phá tha mà không làm cho họ ngộ cũng chẳng phải năng phá. Hoặc chẳng thật hiển lỗi năng lập nói tên tợ năng phá, đoạn thứ sáu nói rõ tợ năng phá. Văn phân thành ba ban đầu nêu tợ năng phá, kế đưa ra thể tợ phá, sau kết tên tợ phá. Phân biệt giải thích lý do, cho rằng với vô minh năng lập hiển bày thiếu tánh với tôn không lỗi tôn có lỗi, với thành tựu nhân không thành tựu nhân, với quyết định nhân không quyết định nhân, với bất tương vi nhân tương vi nhân, với dụ không lỗi dụ có lỗi. Đoạn này đưa ra thể tợ năng phá, ban đầu rõ vọng nói thiếu, sau biện chánh nói tà. Người lập luận lượng đầy đủ lầm nói có thiếu, nhân dụ không có lỗi, lỗi của lời nói hư dối, không hiễu rõ chân thật đó, phá ra lời nói tự trách, do đối chân lập gọi tợ năng phá, căn cứ vào chân năng phá suy nghó có thể biết. Lời nói như vậy gọi là tợ năng phá, dưới sẽ kết tên tợ năng phá, phân biệt giải thích lý do, trong đó chia làm hai phần kết tên và giải thích. Chữ “như thị” chỉ cho lời nói ở trước tức nói viên mãn năng lập thiếu giảm những lời nói như vậy gọi là tợ phá. Hỏi: Tại sao viên mãn năng lập, hiển bày thiếu giảm là tợ năng phá. Vì không thể hiển rõ lỗi của tôn khác nên họ không có lỗi, giải thích lý do năng phá là kia lập luận có lỗi như thật đưa ra lỗi đó. Hiển bày lập luận chứng minh địch luận khiến cho biết lỗi đó, hay sinh trí đây có công năng ngộ tha có thể gọi là năng phá, họ thật ra không phạm, vọng khởi lời nói sai lầm, do không thể chỉ rõ lỗi của tôn khác. Tại sao không thể hiển rõ vì họ không có lỗi do lập tên này là tợ năng phá. Luận vả lại dừng tại việc này, đại văn thứ ba phân biệt lược chỉ bày, văn rõ ràng dứt sự phiền phức, luận này có tám nghóa chân tợ thật hệ thuộc, lược phân biệt lý do cho đầy đủ. Chỉ bày đầy đủ e dần dần không tiến tới nên nay chỉ nói sơ lược. Lược đã nói thiếu cú nghóa mới lập phương góc trong đó biện chỗ mầu nhiệm về lý và chẳng phải lý. Trình bày trong một bộ văn chia thành hai, đoạn thứ hai rõ lược chỉ rộng, hai câu trên hiển lược, hai câu dưới chỉ rộng. Lược nói như trước thiếu nghóa cú văn, muốn cho người mới học xác lập được phương hướng. Trong tám nghóa lý cùng phi lý như Lý Môn kia, Nhân Môn Tập Lượng biện đầy đủ sự mầu nhiệm về Nhân Minh Nhập Chính Lý Luận. Theo bổn này viết Đạo Bổn Áo bảo rằng đem trí kiến nhỏ bé kém cỏi xem xong lời sớ nhằm tháng 12 năm thự sáu niên hiệu Thiên Trường. Mùa thu năm thứ hai tôi muốn đem tập hợp các bản sớ văn, may mắn được sáng rõ lời dạy tự tay Đạo Bổn viết dặn dò quen lờn ưa đùa giỡn nhưng sự thật là tinh yếu. Chỉ những hạt sương nhỏ tích tụ lâu ngày văn đó, đem tiêu ý muốn mô tá từ mầm mống sinh ra lá bèn bắt đầu sửa đổi kế đó ghi chép toàn bộ, sau đó xem xét lại đầy đủ từ quyển thượng. Mùa hạ bị bệnh nên việc chép đành phải phế bỏ lại đến mùa hạ năm thứ ba chép xong quyển trung, đồng thời bốn đại không điều hòa phân nửa chưa xong. Đến mùa thu năm thứ tư công trình này mới xong, nhiều ngày góp nhặt chọn lựa mỏi mắt kiệt sức, mặc dù sợ sửa đổi có sự sai lầm nhưng cũng vui lòng viết chép. Quả nhiên ngọn đèn pháp được lưu truyền để mở mắt trí tuệ cho người đời sau mà thôi. Bấy giờ nhằm ngày mùng 10 tháng 8 mùa thu năm thứ tư niên hiệu. Vónh Cửu, ngài Tuệ Hiểu ghi lại tại viện Quán Đảnh chùa Hưng Phước. Có bổn ghi bản chất từ ngày 25 tháng 03 đến ngày mùng 2 tháng 5 niên hiệu Nhân Bình thứ tư mới sửa bản xong. Thích Thị Tạng Tuấn vào ngày 29 tháng 12 niên hiệu Cửu Thọ thứ hai nhờ sư Tạng Công đọc bản đến mùng 9 tháng giêng niên hiệuThỉ Đồng thứ ba thì xong những chữ, chỗ sai lầm liền sửa ngay. Sư Tạng Tuần may mắn vào thất Tiên Sư mặc dù được bẩm thọ lời dạy bảo biết cách thức của môn Chánh Lý nhưng đủ để truyền đăng. Huống chi thường đem ba quyển đại sớ bị mất những đoạn văn trước sau, chợt hỏi các nhà ở hai triều đại y nhiên mê chấp vào nghóa cạn sâu. Trưởng giả điện hạ ngưỡng mong nhận lời của Minh Tuyên giữ gìn lời nói của bậc Tiên sư siêng năng hầu hạ đọc cẩn thận. Cuối cùng lầm trao cho Đại sớ Nhân Minh rõ ràng vào ngày tháng năm ấy - Kính ghi. Niên hiệu Cửu Thọ đọc lại xong lần thứ hai, thứ ba, lần thứ mười bảy không có sư đối ứng. Cách mười một năm bản chất vào ngày 13 sao chép lại ba mươi ba lỗi thì văn mới xong. Gặp những điểm, hoặc nghóa trong lời sớ không xem kỹ không thiếu ý thú, chỗ chưa rõ ràng bèn tìm hỏi sư Tạng Công để quyết đoán. Điểm không xem kỹ tự mình chịu tránh nhiệm quyết đoạn từ mùng hai đến mùng tám tháng năm thứ nhất. Còn nghóa không xét kỹ từ mùng 8 đến 18 cùng tháng cùng năm thì giải quyết xong, trong bốn ngày 9, 10, 11, 17 tùy chỗ quyết đoán bảo Tạng Công ghi lại, rất thú vị tôi hỏi ngài Tạng Công trả lời để đầy đủ cho người sau xem xét. Viết xong ngày mùng 3 tháng 11 niên hiệu Kiến Võ thứ hai năm Ất hợi. Giữ gìn mắt bệnh tám, chín năm cuối cùng xong ba quyển, công bình nhỏ bé này nguyện làm nhân duyên là cây trúc nhỏ trong hội Long Hoa Thố Hào, xem xong vào ngày 25 tháng giêng năm thứ ba. Quyền luận sư tôn kinh. Theo người khác giảo chánh thì trong chín quyển, quyển trung hạ, hạ trung, hạ hạ ghi chép bên phải của ba quyển. Nước trong bình Xá-na thơm tho lưu chảy muôn nơi chỉ cạn hết, bỏ văn này xưa bị mai mọt bên bụi trần nơi đã sáng. Đã nhiều năm Đức Từ Tôn truyền trao ngọn đèn ánh sáng dư thừa còn soi chiếu nơi yếu văn. Nay lại trở về chùa Hưng Phước mà ghi chép lại toàn bộ. Mỗi người bỏ tiền của vào phụ giúp. Bấy giờ vào thời văn hóa tháng 9 năm Canh ngọ.  LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 159