<經 id="n1835">BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN THUẬT KÝ (QUYỂN THƯỢNG - TRUNG & HẠ ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN THUẬT KÝ Sa-môn phiên dịch kinh Khuy Cơ soạn. <卷>QUYỂN THƯỢNG 1/ Sau khi Đức Phật diệt độ khoảng chín trăm năm, Bồ-tát Vô Trước thị hiện ở đời, liền đến chỗ Bồ-tát Di-lặc thỉnh ngài thuyết về Đại luận mà nhân duyên như nhiều sách đã nói. Bồ-tát Di-lặc vì ngài Vô Trước mà nói bản luận tụng này, gọi là Biện Trung Biên Tụng. Ngài Vô Trước nhận rồi liền trao cho ngài Thế Thân để giải thích rộng. Cho nên, luận Trường Hàng này do ngài Thế Thân tạo ra, gọi là Biện Trung Biên Luận. “Biện” là tên gọi khác của phân biệt làm rõ; “Trung” là đề mục chính thiện lìa các bên; “Biên” chính là gọi các thứ tà, ác, được, mất, v.v… Biện Trung Biên Luận cũng tức chính là Luận làm rõ tà chánh. Nếu vậy tại sao không gọi là luận Tà Chánh mà gọi là Trung Biên? Nay gọi là Trung Biên vì làm rõ nghóa trung đạo, xa lìa chấp nhị biên, khế hợp với chánh, lý, cho nên nêu ra tên này. Hơn nữa, phân biệt giáo thiên về nói Có, thiên về nói Không, tuy đó là chánh thiện mà không phải là Trung, cho nên nói Trung Biên mà không nói Tà Chánh. Nói Trung Biên là nói rõ tên của lý. Lại nói Biện tức là tên gọi chủ thể (năng) hiển giáo, nghóa là luận giáo này nói rõ ràng lý tà chánh, biện biệt đầy đủ biên Trung đạo. Biện của Trung Biên là thứ sáu trong thanh Tô-mạn- đa chuyển vào và trong sáu thứ giải thích hợp ly là giải thích theo lối Y só. Xưa nói luận này do ngài Thế Thân tạo ra là sai. Còn Trung Biên Phân Biệt Luận thì nói không thuận với luận này. Gọi là Tướng Phẩm vì lấy sở thuyên làm danh, tức là tướng của ba tánh được giải thích đầy đủ ở trong phẩm này. Tuy vậy, trong phẩm này cũng chẳng phải chỉ có tướng. Như bài tụng quy kính và kế là tụng nêu chung bảy nghóa … đều chẳng phải là tướng. Từ phần gốc nhiều lấy lập làm tên phẩm, cho nên gọi là phẩm Tướng. Như phẩm Vô thượng thừa cũng có phần giải thích tên. Bảy phẩm này trước sau đều có gia giảm, xem phần dưới sẽ rõ. Tuy nhiên, hai phẩm đầu là nói về Cảnh, ba phẩm kế là nói về Hạnh, và hai phẩm cuối nói về Quả. Đó là dụng ý chính của bảy phẩm. Lại nữa đầu tiên là bài kệ quy kính do ngài Thế Thân đã làm ra, còn những bài tụng kế đó trở xuống đều do ngài Di-lặc nói. Ngài Di-lặc nói vốn có một trăm mười ba bài tụng, bài tụng đầu là nhiếp chung, bài tụng cuối là tổng kết những cái đã giải thích, phần giữa là chánh tông. Ngài Thế Thân làm luận giải thích có bảy trăm bài tụng, đều lấy tám chữ làm thành một câu, không dài không ngắn, và cứ ba mươi hai chữ làm thành một bài tụng. Tuy nhiên theo bản cựu dịch của Ngài Chân Đế thời nhà Lương, thì kệ tụng của Thế Thân lại dùng mười bốn chữ làm một câu, tức một bài tụng gồm có năm mươi sáu chữ. Những điểm khác nhau về văn và nghóa trong các bản dịch vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Đến các phần sau sẽ nói rõ. Luận rằng: Từ câu “Kính lễ Bậc tạo luận” cho đến “Gắng làm rõ nghóa này”. Thuật rằng: Bộ luận này bao gồm có ba phần. Những bài kệ tụng gốc của ngài Di-lặc bắt đầu ở phần chánh tông, cùng với bài tụng cuối giải thích tổng kết. Phần đầu của bản luận này do ngài Thế Thân nói, tức là phần Tựa riêng (Biệt tự) đầu tiên bày tỏ lòng tôn kính, nhưng các kinh luận khác thì thông cả phần này gọi là phần Tựa chung, riêng bản luận này thì không. Trong Đại luận quyển 64 và Luận Đối Pháp quyển thứ nhất nói rằng: Vốn giải thích chỗ sở y và năng khởi ở Luận này của hai vị sư, do đó lược bỏ không có Tựa chung quy kính Tam bảo. Trong Tựa riêng, văn có hai ý: Ba câu đầu là riêng tỏ lòng quy kính riêng đối với Luận sư, câu thứ tư hiển bày ý quy kính, nói rõ việc sẽ tạo luận; trong ba câu trước hai chữ đầu hiển bày tướng quy kính, mười ba chữ kế là nói đối tượng quy kính. Nói “cúi đầu” nghóa là ân cần khởi lên tâm thanh tịnh phát ra ba nghiệp thù thắng, tên gọi khác của sự thành kính quy y kính lễ. Chữ khể là cúi sát, chữ thủ là cúi đầu, vì từ tay đến đầu nên gọi là khể thủ, đây tức là cách giải thích của Nho giáo. Nay cũng vừa phát lời nói gồm thúc liễm ý nghiệp, dập đầu thành tâm xin nghó đến gọi là “khể thủ”. Đây nói khể thủ là chung cả hai đối tượng quy kính. Tám chữ trước nói rõ Tụng chủ chính là Di-lặc Thế Tôn; năm chữ sau nói rõ người dạy luận này chính là Bồ-tát Vô Trước. Nói “Thiện Thệ” nghóa là hiệu thứ năm trong mười danh hiệu Như Lai. Tiếng Phạm gọi là Tô-yết-đa, xưa dịch là Tu-già-đà-ngoa. “Tô” được dịch là “Thiện”; “Yết-đa” dịch là “dó thệ”. Nay lược nói “Thiện Thệ”, Thiện nghóa là khéo, Thệ nghóa là đi. Nếu có các tạp nhiễm, xấu đến sinh tử, thì tâm thuần chỉ nhớ thanh tịnh mà khéo đi đến Niết-bàn, tức là Như Lai thọ dụng biến hóa; hoặc ngay pháp thân đã khéo đi, cho nên đặt ra tên Thiện Thệ. Nhưng nói khéo đi chẳng phải đã khéo đi, tức là nên nói Tô diễm ngân. Đây dịch chỉ gọi là Thệ hoặc nghóa Vãng, tức là nói khéo qua trong nhân, chẳng phải nói quả viên mãn rồi khéo qua. Luận nói “Thể” tức là nghóa của tánh, hoặc nghóa của thân. Luận Đối pháp nói, nghóa thân với thể không sai biệt, là giải thích theo lối Y só, thể của Thiện Thệ gọi là Thiện Thệ thể, thể tức là Pháp thân, Thiện Thệ tức là thọ dụng biến hóa, hoặc là giải thích theo lối Trì nghiệp, thì thể tức là Thiện Thệ, gọi là Thiện Thệ thể. Thể Thiện Thệ này tức là hai thân còn lại. Nghóa là ngài Di-lặc sẽ nối ngôi vị Phật, đúng là con của Thiện Thệ, tức lấy chổ sanh ra (Thiện Thệ) làm tên gọi. Nhiếp Đại thừa nói: “Thù thắng trong nhà Bồ-tát nghóa là sinh ra trong nhà của Đức Phật và được nuôi dưỡng, chẳng như hàng Thanh văn con gia đình hèn hạ vô trí. Ngài Di-lặc muốn hiển bày ngôi vị tôn trọng cao nhất chính là đứa con của Như Lai, nên lấy chỗ sanh ra làm tên gọi. Hoặc thể của Chân Thiện Thệ tức là Pháp thân. Từ Tôn Giác lấy pháp làm cha, cần duyên vào như cảnh trí mới sinh ra, cho nên hiệu Từ Tôn này gọi là Thiện Thệ Tử”. Xưa nói Thiện Hành Tử là sai, hành khứ thanh gọi là hành, tức là Thiện Thệ chẳng phải hành tích. Ngài Di-lặc nói bài tụng, tức là ngài đã tạo ra luận này, nên phải quy kính. Do luận này nói: “Kính lễ tạo bậc luận này” tức là kính lễ thể sở sinh của bậc Thiện Thệ. Đó chính là quy kính Tôn giả Di-lặc, cùng thầy dạy của chúng ta tức là Bồ-tát Vô Trước, anh của ngài Thế Thân. Ngài Thế Thân giải thích nhờ sức dạy của anh. Ngài Thế Thân tự chỉ mình và người đồng môn nên gọi là chúng ta, nghóa là anh làm thầy, có khả năng dạy chúng mình. “Nay cũng đảnh lễ thầy dạy chúng ta”, tức là ba câu trên quy kính riêng về hai vị thầy kinh và giáo, phải ân cần hiển bày nghóa này, hiểu rõ ý quy kính tự mình sẽ tạo luận. Chữ “cần” là tên khác của siêng năng dõng mãnh, hiển bày ý không giải đãi, có thể hàng phục được giặc tà. Dõng mãnh hiển bày nghóa của bổn tụng này. Luận nói rằng: “Trong đây trước hết phải an lập thể luận”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ hai, giải thích rõ về thể của luận. Trong đó có hai ý. Một là nêu chung các chương giáo của Thể luận cần làm sáng tỏ, hai là tuần tự làm rõ nghóa mỗi thứ. Đây là phần đầu vậy. Thế thì đời trước của Thiên Thân Tôn giả, đã ở trong chúng Thánh, là bậc kiệt xuất trong chúng hiền. Giải thích văn tụng này chẳng phải chỉ một ví dụ. Hoặc tụng trước nêu sau, trước không kết do đó sinh ra văn sau; hoặc nói nghóa sau kết trước, có người hỏi vặn lại mà khởi ra bài tụng. Hoặc ban đầu nói văn sau nêu nghóa, hoặc ban đầu nêu nghóa sau nói văn. Hoặc nêu chung, hiển bày đại cương của bài tụng, hoặc giải thích riêng những lời văn không được rõ ràng, lược ra làm sáu ví dụ. Muốn hiểu suốt văn dưới, giữa những cái đó thuộc về nhau, đến đoạn văn riêng. Đây là trước tụng nêu ra không kết, trên đã nói ra văn sau. “An lập” nghóa là thiết lập, tức tên khác của ngôn thuyết. Thể của luận này chẳng phải là giáo thể, tức là đã nói thể của pháp, thể này tức là tông vì tông đã nói. Nói trong đây nghóa là phát ra đầu mối của luận, hoặc lựa ra nghóa phân biệt và nắm lấy, nghóa là luận Biệt Giáo đã nói ra nghóa. Nay trước đều nêu ra thể tánh của nó, cho nên nói trong đây. Luận tụng rằng: “Cho đến đắc quả Vô thượng thừa”. Thuật rằng: Trong phần Chánh tông này gồm có một trăm mười ba bài tụng, chia làm hai phần. Một bài tụng đầu, hiển bày luận đã nói, gọi là phần nêu chung. Ngoài ra, các bài tụng khác nương vào sự nêu chung đó hiển bày riêng, gọi là phần giải thích riêng. Đây chính là phần đầu. Tiếng Phạm gọi là Ma-trữ-la-đa, Trung Hoa dịch là Duy, tức làm rõ nghóa quyết định, nghóa là luận nói quyết định chỉ có bảy bài tụng này. Tiếng Phạm gọi là “giá”, Trung Hoa gọi là “cập” hoặc “đẳng”. “Cập” có nghóa là trái nhau, nghóa là tướng cùng chướng vv… đều có cùng lời nói. Tướng và chướng của tướng khác chẳng phải là chướng. Gọi là “đẳng”, nghóa là ngoài bảy pháp lại có pháp khác. Nay vì giải thích rõ sự trái nhau, nên dẫn đến cùng nói. Vốn xưa nói rằng, Vô thượng thì chỉ như vậy, tức là nghóa quyết định. Luận rằng: “Luận này chỉ nói cho đến bảy Vô thượng thừa”. Thuật rằng: Đây là nêu riêng số nghóa thuộc về bảy bài tụng, tức là trong sáu ví dụ trước, giải thích đề cương của tụng, vì chia ra ngôi vị vô thể, tức là vì đối trị, đối với phân vị có tức là lời này, nhưng bản xưa không nói luận rằng. Vì thế đều nói luận này do ngài Thế Thân nói ra, nay không như vậy, nên dẫn đến “luận rằng” Luận rằng: Nay ở trong phần này, trước nói về tướng của nó. Thuật rằng: Tức là giải thích riêng bảy nghóa. Đây là giải thích phần đầu, gọi là phần giải thích riêng, gồm có bảy phẩm một trăm mười một bài tụng, trước tiên là hai mươi hai bài tụng nói về tướng phẩm, kế có mười bảy bài tụng nói về chướng, kế có hai mươi ba bài tụng nói về chân thật, kế có mười bốn bài tụng nói về đối trị, kế có bốn bài tụng nói về phân vị, kế có hai bài tụng nói về phần đắc quả, kế có hai mươi chín bài tụng nói về Vô thượng thừa. Phần chánh văn có hai, đầu nói chung, sau để phát ra đầu mối của luận, kế đưa ra bài tụng, trình bày riêng yếu chỉ của nghóa. Đây tức là phần đầu, tức là thí dụ thứ nhất trong sáu ví dụ, danh tự khác nhau không thể chép ra đầy đủ, cứ chiếu theo đó thì biết rõ. ---------------------------------- đây”. <詞>PHẨM THỨ NHẤT: NÓI VỀ TƯỚNG Luận tụng rằng: “Phân biệt hư vọng dẫn đến đối với kia cũng có Thuật rằng: Đó là trình bày riêng yếu chỉ của nghóa. Trong phẩm thứ nhất này có hai mươi hai bài tụng. Mười một bài tụng đầu nói về sự phân biệt của vọng, mười một bài tụng sau nói về Viên thành thật. Thế thì do Biến kế sở chấp vốn không có thật thể nên không có tụng giải thích mà nó chỉ có tên để lập tánh riêng. Nhưng đã cùng nương vào phân biệt hư vọng… nên có tánh này. Nay ở trong đây cũng do đó giải thích phi, hữu. Trong mười một bài tụng đầu có hai phần, phần đầu giải thích riêng chín tướng, phần sau là tổng kết. Đối với phần giải thích tướng riêng trong mười một bài tụng, hai câu tụng đầu nói nương vào phân biệt hư vọng để nói lên tướng có không của ba tánh; hai bài tụng kế nói về vọng phân biệt tự tướng, một bài tụng kế nói về tướng nhiếp, hai bài tụng kế nói về tướng nhập vào vô tướng phương tiện, kế có nửa bài tụng nói về tướng sai biệt, kế có nửa bài tụng nói về tướng dị môn, kế có một bài tụng nói về tướng sinh khởi, kế có hai câu tụng nói về tướng tạp nhiễm. Từ bài tụng này trở xuống nói về tướng hữu vô. Bài tụng sau tổng kết và liệt kê tướng hữu vô, nói về tướng khế hợp với trung đạo. Luận rằng: “Từ phân biệt hư vọng về hữu” cho đến chấp thủ phân biệt”. Thuật rằng: trong đây một đoạn, phần đầu điệp văn, phần sau trình bày nghóa. Năng thủ, sở thủ, biến kế sở chấp, duyên vào phần phân biệt chính là y tha. Vì năng duyên không phải sở chấp, chẳng phải hoàn toàn không có tự tánh, nên gọi là hữu, tức là phân biệt năng thủ và sở thủ. Giải thích tên theo lối y só, chẳng phải hai thủ là lập ra tên phân biệt trí nghiệp, nhưng đây chỉ căn cứ vào phần nhiễm nói vọng phân biệt là có tức là y tha, chẳng phải trong y tha chỉ có vọng phân biệt, vì phân biệt có tịnh là y tha. Luận rằng: Từ “Đối với hai thứ này đều không có”, cho đến “hai tánh năng thủ”. Thuật rằng: Giải thích vọng này, trên phân biệt Biến kế sở chấp hai thủ vónh viễn không có, tức là câu tụng thứ hai. Mặc dù trong kinh Giải Thâm Mật cũng cho rằng đó là tánh Viên thành thật khởi chấp. Nhưng do tướng tự tâm không lìa y tha, hoặc dựa vào cái tên đó mà khởi chấp, nên chỉ nói nương vào vọng phân biệt trên mà khởi lên hải thủ. Ở đây, lược bớt không nói như vậy, vì tánh trái với tướng. Luận rằng: Từ “Trong đây chỉ hữu không” cho đến “tánh không của năng thủ”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ ba. Đây là hiển bày chân như là tánh vọng phân biệt. Chữ “thử” là chỉ cho vọng phân biệt này; chữ “Trung” là chỉ cho chuyển thứ năm. Nghóa là đối với vọng phân biệt ở trên, lìa tánh không của hai thủ, có đầy đủ. Tức là vọng phân biệt lìa hai thủ chỉ có chân như. Chân như là thể của vọng phân biệt, nên không có hai thủ, chỉ nói không tức là hai thủ không có, nói tánh không nghóa là vì lấy không làm môn, hiển bày tánh không tức là chân như. Tiếng Phạm là “Thuấn nhã”, thường gọi là không. Khi nói là “Thuấn-nhã-đa, tức chân như chính là tánh không vậy. Vì chữ “đa”, Trung Hoa dịch là “tánh” vậy. Luận rằng: Từ “Đối với kia cũng có đây” cho đến “hư vọng phân biệt”. Thuật rằng: Đây là hiển bày vọng phân biệt không lìa chân như. Nghóa là trong chân như kia cũng chỉ có hư vọng phân biệt này, đều không có hai thủ. Đó là giải thích câu thứ tư vậy. Hỏi: Như trong luận nói: “Có thật thì biết có, không thật thì biết không có”, sao gọi là hữu và vô? Luận rằng: Từ “Như đối với đây chẳng có”, đến “như thật biết là có”. Thuật rằng: Đây tức là giải thích chung đại cương của bài tụng, cũng là giải đáp các nghi vấn kia vậy. Nghóa là, như đối với hư vọng phân biệt này, hai thủ kia chẳng có. Vì tánh hai thủ kia chẳng có nên xem nó là không, tức là trong luận khác không có. Vọng phân biệt này cũng có chân như kia, trên chân như có y tha khởi. Hai tánh này là thể khác của hai thủ, chẳng phải vô nên như thật biết hữu, tức là hữu trong luận khác. Biết là hữu tức là trong ba tánh, tánh đầu là không có, hai tánh sau có phân biệt. Luận rằng: Từ “Nếu như vậy thì” đến “bày rõ về tướng không”. Thuật rằng: Kết lại như vậy là biết, không ngược với điều đã nói. Nghóa là biết hai thủ, vốn do biến kế sở chấp vọng phân biệt Viên thành thật, nên hai tánh là thật có. Vì thật biết cho nên tức là không có thể tỏ ra không ngược với sự hiển thị tánh không. Hai thủ chấp trong của Y tha khởi vốn không, còn tánh chân không thì có, nên điều đó không trái với “Không đã nói”. Gọi là “hiển thị” tức là nói bày ra tên khác của lý không. Cho nên, những ai cho rằng ba tánh đều không thì thật là tai họa. Đến phần sau sẽ rõ. đạo”. Luận rằng: Từ “Lại nữa tụng rằng”, đến “thì khế hợp với trung Thuật rằng: Lại thành tựu nghóa trước có nói lên tụng này. Nói “cố thuyết”, nghóa là kinh Bát-nhã v.v… đều có nói như thế này, như trong câu thứ hai thứ ba đã nói. Luận rằng: Từ “Tất cả các pháp” đến “gọi là vô vi”. Thuật rằng: Chưa giải thích nên nói chữ. Vả lại, giải thích tất cả các pháp, thể của hai thủ đó là không có pháp, nên chẳng có pháp vô vi. Hai thể của y tha khởi và viên thành thật đều có, nên gọi là tất cả các pháp, tuy đều mất tự thể, chẳng phải phép tắt không thể gọi là pháp. Trong đây nói pháp là có thể giữ gìn, tánh không của hai thủ tức là tánh không của chân như. Luận rằng: Từ “Nương vào lý trước” đến “nên chẳng phải không, chẳng phải bất không”. Thuật rằng: Đây tức nhằm giải thích bài tụng ấy nên nói hai chữ, và muốn hiện bày câu tụng thứ hai. Nghóa là, nương theo lý để nói câu tụng ở trước. Kinh Bát-nhã v.v… nói về ba tánh này. Tất cả các pháp đều gọi là gọi là phi không phi bất không. Vì sao nói là phi không? Luận rằng: Từ “Do tánh hữu không” cho đến “nên nói phi không”. Thuật rằng: tức là thể của hai tánh, chẳng phải không có, nên gọi phi không. Sao gọi là phi bất không? Luận rằng: Từ “Do không có sở thủ đến nói phi bất không. Thuật rằng: Vì Biến kế sở chấp hai thủ vốn không có, nên nói phi bất không. Phi bất không nghóa là thể là thể của nó vốn không. Đây là giải thích về hữu, vô, tức là câu tụng thứ hai. Luận rằng: Từ “Vì có ấy” đến “cho nên vọng phân biệt”. Thuật rằng: Nghóa là từ chữ “cố” của câu thứ ba trở xuống vốn thông với ba nghóa “cố”, đó là “hữu cố”, “vô cố” và “hữu cố”. Nay giải thích về “Hữu cố”. Hai tánh vì sao phi không? Vì là có, do đây làm rõ pháp thể của phi không trước, tức là trong câu tụng “hư vọng phân biệt” và “không tánh hữu” ở trước. Luận rằng: Từ “Vô cố” cho đến “vì hai tánh năng thủ”. Thuật rằng: Đây là giải thích về “Vô cố”. Biến kế sở chấp sao gọi là phi bất không? Vì dùng thể “Vô” để làm rõ không có thể vậy, tức là ở trong bài tụng trước hai thứ này đều không có. Luận rằng: Từ “Cập hữu cố” đến “nên vọng phân biệt”. Thuật rằng: Hai tánh tuy có là xen lẫn nhau mà có, tức là hai câu cuối trong bài tụng trước vậy. Luận rằng: Từ “Chính là khế hợp với trung đạo” đến “nhiệm mầu khế hợp với trung đạo”. Thuật rằng: Do hai thứ pháp, pháp hữu và pháp vô, tất cả các pháp chẳng phải đều hữu không, thì khế hợp với trung đạo. “Trung” nghóa là không có hai bên, “Đạo” nghóa là chân trí. Vì lý nhiệm mầu này hợp với chân trí vậy. Lại nói: đạo là nghóa của du lý, tức là chân như trí do du lý. Trong đây đã nói nghóa hữu vô, hướng đến nhiệm mầu hợp với chân như đại đạo, lìa ở nơi lỗi, nên nói trung đạo. Xưa nói là tên trung đạo, nghóa là phi. Luận rằng: Từ “Cũng khéo phù hợp thuận theo” đến “phi không phi hữu”. Thuật rằng: Trước hiển rõ lời này, các pháp hữu vô, hợp với lý trí. Nay nói về luận này cũng khéo hợp với kinh. Luận rằng: Từ “Đã hiểu rõ như vậy” đến “đây sẽ nói”. Thuật rằng: Nghóa sau kết trước hữu vô. Trước chấp nhận khởi lên câu tụng, hai câu tụng trước đã nương vào hư vọng phân biệt mà nói hữu vô của ba tánh. Từ đây trở xuống sẽ nói về do hư vọng phân biệt mà có tự thể. Ở đây có hai bài tụng, bài tụng đầu nêu ra tướng, bài sau giải thích về thành tựu. Luận tụng rằng: “Cảnh không có nên thức không có”. Thuật rằng: Hai câu trên nói về vọng phân biệt, cảnh của sở chuyển, có dụng của y tha. Hai câu dưới nói về y tha khởi chấp vào cảnh thức là không rõ. Xưa nói: căn, trần, ngã thức là bốn thức sinh cũng không giống vậy là không đúng. Vì sao như vậy? Vì đó chẳng phải do bổn thức năng duyên mà biến thành ngã và thức vậy. Nếu chấp nhận biên chuyển tức là trái với luận trường hàng xưa kia. Trường hàng tự giải thích rằng: tợ ngã nghóa là vì ý thức và ngã biến, vô minh… tương ưng với nhau. Tợ thức nghóa là sáu thức. Đây thì không như vậy, nên nói biến chuyển là sở liễu. Sở liễu nghóa là tướng thô của sáu cảnh. Nếu chấp nhận duyên với ngã thức là lại ngược với luận Du-già Quyết Trạch, cho rằng A-lại- da thức duyên với tướng của căn thân mà có phân biệt chủng tử và khí thế gian vậy. Đây thì trái với giáo. Nếu trái với lý, tâm sở duyên không thể duyên lự, vì tướng phân biệt của tâm. Như hóa tâm…, lại duyên với ngã và bổn thức thứ tám sẽ chấp nhận cùng với kiến si tương ưng, lúc nhập vào kiến đạo…, lúc quán vô lậu, thức này sẽ chuyển và trái với vô lậu. Do lý này mà tụng xưa cho rằng trái, còn Trường hàng cho là phải. Nhưng Pháp sư Chân Đế giống như chấp nhận ý của sư một thức, cho nên trong câu tụng này, chỉ nói về bổn thức, trường hàng là khai riêng, giải thích văn tụng khác. Trường hàng là thuộc về mình không phải mệt nhọc. Luận rằng: Từ “Nghóa của Biến tợ ấy” cho đến “hiện bày tánh của năm căn” Thuật rằng: Đây là giải thích hai việc biến tợ nghóa và hữu tình trong bài tụng. Như ngài An Tuệ… xưa giải rằng: chỉ có tự chứng phần không có tướng phần và kiến phần, tức là thức thứ tám đều có thể có chấp. Đây giống như căn cảnh, thể đều là không, vì giống như hữu tình nên gọi là tợ. Ngài Hộ Pháp… nói rằng: tướng phần này căn cảnh cũng là y tha, đã nói về tợ, hư vọng hiển hiện giống như thể biến kế sở chấp pháp thật hữu, nên lập ra tên tợ mà nói, đối với năm căn gọi là hữu tình. Tiếng Phạm là tát đõa, đây nói là hữu tình. Năm căn là chỉ thành tựu hữu tình, giống như thân mình và thân người khác, năm căn hiện ra. Trong đây có hai thuyết, như luận Duy Thức quyển thứ ba đã có nói. Hỏi: Do luận xưa biến chuyển căn cảnh của mình, chính là nói về bổn thức, nay thì không có? Đáp: Vì hai thứ chấp vốn là không có. Lại ngài An Tuệ nói: Không giống như thức thứ bảy và thức thứ sáu là nêu ra tên của nó, thức thứ tám do cảnh thì thô, thức thì tế, nên không nói về kiến phần của nó mà chỉ nói về tướng phần của nó. Kiến phần và tướng phần của thức thứ bảy và thức thứ sáu tự nó là thô, chỉ tùy theo nói kiến phần mà nói kiến phần của nó thay đổi. Tuy nhiên trong bài tụng nói, thức sinh ra biến đổi giống như nghóa, nên hợp thì có thức. Ở đây do các dịch sư đã lược bớt. Ba bổn văn tiếng Phạm, đối chiếu với nó đều đồng. Luận rằng: Từ “Biến tợ ngã” đến “luôn tương ưng”. Thuật rằng: Đây là giải thích thức thứ hai trong bài tụng, sinh ra biến chuyển giống như ngã cùng với tâm sở, cũng có nghóa nhiều ít… như Thành Duy Thức. Luận rằng: Từ “Hiểu rõ được Biến tợ” đến “rõ được tướng thô”. Thuật rằng: Đây là nói về thức thứ ba sinh ra biến chuyển tợ như để rõ ràng. Tuy rằng hai thức trước cũng biến chuyển đã rõ ràng, vì tương của nó vi tế, do đây được tên. Tuy thức thứ sáu cũng biến chuyển làm ngã và ngã si v.v…, nhưng vì chẳng thường cùng nên chỉ riêng thức thứ bảy được tên. Dù sáu thức khác cung biến chuyển căn khí, nhưng chẳng phải là gốc, vì không tương tục, vì hành tướng thô, nên chỉ thức thứ tám được tên. Luận rằng: Từ “Cảnh này thật chẳng có” đến “đều chẳng phải thật có”. Thuật rằng: Đây là giải thích cảnh của ba thức trước đều chẳng phải thật có. Trong đây có hai tỷ lượng. Thức thứ tám đã biến chuyển, giống như nghóa và căn. Cácc pháp hữu này đều chẳng thật có, vì mỗi pháp ấy đều thông với hai lượng. Riêng phân sau là nói về nhân, vì không có hành tướng. Vì hai thể nàu không thể duyên pháp nên không có hành tướng. Vì các bản dịch xưa nói chẳng phải hình thức nên phiên dịch nó bị sai lầm. Dụ rằng: như lông rùa v.v… Song chân như thanh tịnh tuy không có hành, đối với thật thể chẳng phải thật có, nên không có lời bất định. Như ngài An Tuệ, v.v… nói, nên lấy văn này để quyết định tướng phầ, vì tướng phần nhất định là biến kế sở chấp, trong đây luận rằng: vì chẳng phải thật có. Ngài Hộ Pháp v.v… cho rằng nương vào thức thứ tám biến chuyển, nương vào căn cảnh của y tha khởi chấp làm thật có, thể chẳng phải thật có, chẳng phải thể tướng phần của thức thứ tám là không có. Lượng thứ hai nói rằng: “Tợ ngã” và “Tợ liễu” đều chẳng thật có, đó là cái căn bản vậy. Nhân đó mà cho là chẳng phải là chân hiện lượng vậy. Xưa cho rằng vì không giống như cảnh và Dụ rằng: như rừng thỏ v.v…. Nhưng ngã nhất định là nhất thường, hiện thấy có sự sinh diệt khác nhau, đã rõ ràng nghóa là thường thật, không lâu đều thấy vô thường, như tâm sở duyên không gọi là sở kiến, như vì duyên với cảnh mộng, nay đều lấy nhân chẳng phải chân hiện lượng thành ra phi thật hữu, không có lỗi bất định, tùy theo một mà thành. Lại nhân tương tợ này lẽ ra thành lập lại. (Trong văn thiếu chữ), lẽ ra đưa đến chấp nhận rằng; vì tự mình chấp nhận là chẳng phải chân hiện lượng, như hoa đốm giữa hư không. Nếu là chân hiện lượng sẽ là pháp thường, trong đây sẽ có hai cách giải thích, đồng với trước. Luận rằng: Từ “Cảnh không có nên thức không có” đến “cũng chẳng thật có”. Thuật rằng: Trước thành lập cảnh chẳng phải có, đây thành lập tâm không có. Chữ “ý” của luận xưa là trước trừ bỏ sở chấp, sau trừ bỏ y tha, đều không có. Trong đây cũng trừ bỏ sở chấp, như luận dưới nói, vì đối với đây chấp nhận diệt thì được giải thoát. Nhưng như noãn, đảnh trừ bỏ cảnh nhãn… trừ bỏ tâm, chẳng phải trừ bỏ y tha, nương vào tâm năng duyên, chấp có năng thủ là trừ đi thức này. Lượng nói rằng: thức thật của năng duyên, thể cũng là không. Nhân nói rằng: ông nói hai tâm và cảnh, vì trong thập pháp, tùy theo một sở nhiếp một chỗ. Như bốn cảnh của ông, trước chẳng có nên được làm dụ. Nhưng nói tâm cảnh tùy theo sở nhiếp, e rằng có chân như… là lỗi bất định, nên ngăn nhân này. Luận rằng: Từ “Lại nữa, tụng rằng” đến “vì chấp nhận diệt là giải thoát”. Thuật rằng: Đây là thành lập bài tụng, thành lập vọng phân biệt, thể chẳng thật có, không đồng với sở chấp, thiểu phần cũng không có, nên bảy chữ dưới nói chấp nhận thiểu phần là có, vì tự mình đã chấp nhận diệt vọng phân biệt, nên được giải thoát. Luận xưa cho rằng: Bài tụng này giải thích danh nghóa là sai, vì dưới giải thích tướng cũng có chín thứ không có tướng của danh nghóa. Luận rằng: Từ “Hư vọng phân biệt” đến “vì loạn thức sinh ra”. Thuật rằng: Đây tức là giải thích chung đại cương của bài tựa, cũng chẳng phải hoàn toàn không, sau giải thích vọng phân biệt thể thiểu phần có. Do trên giải thích chung thể chẳng thật có,vì thể của thức có thiểu phần vọng loạn thức, cũng biến chuyển giống như cảnh… Sở chấp không đồng không có thiểu phần sinh, nhưng luận xưa kia giải thích về tên hư vọng, vì thể không thật, vì thể rải rác. Nay đối chiếu bản tiếng Phạm đây là lời của người, chẳng phải là bậc Thánh nói, vốn không phải đây. Luận rằng: “Thế nào là không chấp nhận tánh này hoàn toàn không có?” Thuật rằng: Đây tức là giả lập lời hỏi. Giả sử lời vấn nạn trong trăm luận sư, luận sư kia đã kể ra đâu cũng hoàn toàn không có. Luận rằng: “Vì chấp nhận diệt này thì được giải thoát”. Thuật rằng: Đây là trả lời câu hỏi trước. Hoặc như hoa đốm giữa hư không, thiểu phần chẳng phải có, nên không thành tựu nghóa của đoạn diệt giải thoát, đã thành tựu giải thoát cố đoạn diệt, nên vọng phân biệt quyết định có thể của thiểu phần. Luận rằng: Từ “Hoặc khác với đây” đến “lỗi thanh tịnh”. Thuật rằng: Hoặc khác với đây, thiểu phần có thể có. Nhưng nói hoàn toàn không có sinh tử trói buộc, ra khỏi giải thoát, thì sẽ đều có. Do pháp không có thể nên không thể trói buộc được. Như người đàn bà vô sinh, cũng chẳng đoạn rồi được giải thoát thành tựu, như tháng thứ hai. Nếu chấp nhận hoàn toàn không, không phải trói buộc giải thoát, nên không có tạp nhiễm; cũng không có thanh tịnh, đã trái với thế gian cũng trái với lời của bậc Thánh, lại không có nhiễm và tịnh, các ông tu đạo cầu để làm gì? Luận rằng: Từ “Đã hiển rõ hư vọng” đến “nay sẽ nói”. Thuật rằng: Đây là nghóa sau tổng kết trước, có người chấp nhận nói mà khởi lên câu tụng thứ ba. Hỏi: Y tha và Viên thành nhiễm và tịnh sai khác, cùng với hữu vô của Biến kế sở chấp khác nhau, đã nói nhiếp tướng nghóa nó an lập? Luận rằng: Từ “Chỉ có như vậy” đến “ba thứ tự tánh”. Thuật rằng: Vì lấy vọng phân biệt làm căn bản, cho nên nhiếp cả ba tướng. Luận tụng rằng: Từ “Chỉ là sở chấp y tha” đến “và nhị không nên nói”. Thuật rằng: Hai câu trước nêu ra ba tánh, hai câu sau thành tựu nghóa của nhiếp. Luận rằng: Từ “Nương vào hư vọng” đến “nói có tự tướng Viên thành thật”. Thuật rằng: Nhờ hai câu sau thành tựu hai câu trước. Vọng phân biệt cảnh tức là Biến kế sở chấp, tâm hay tính toán tức là viên thành thật, nên vọng phân biệt thuộc về ba tánh. Nhưng lượng trong đây nương vào cảnh của hư vọng phân biệt, nên tạo ra luận này. Vì thể vọng phân biệt tánh thì rộng, vì cảnh của biến kế sở chấp có thể duyên vào tâm thì hẹp, đây là ngài Hộ Pháp… đã phân biệt. Song ngài An Tuệ… lấy sự chứng, biết thức thứ tám này đều có thể khởi lên biến kế sở chấp, như phần quyết trạch, văn đồng với đây. Như Thành Duy Thức nói: ý định của hai luận sư. Song bổn xưa nói: đầu tiên tánh thể tức là sáu trần luôn luôn không thể đắc, giống như hoa đốm giữa hư không, do bổn này hẹp vì chẳng phải chỉ là sáu trần. Lại nói: Tánh y tha nghóa là chỉ thức loạn, có chẳng phải thật, giống như vật huyễn. Vật huyễn là cảnh, thiểu phần cũng không có, sau dẫn nó ra để làm đồng dụ. Lại nói: Tánh chân thật nghóa là hai thủ không có sở hữu, vì chân thật là hữu, vô giống như hư không, hư không đại thừa chẳng có, đồng dụ đã lập không thành tựu, do đây chuẩn theo mà biết. Tuy thiểu phần có tỷ lượng nhưng bất thiện có thể lập. Tuy thiểu phần là phân biệt mà tăng trưởng bổn văn, nên nay tạo luận nương vào bổn gốc thì không lầm. Luận rằng: Từ “Đã hiển rõ hư vọng” đến “nhập vào tướng, vô tướng phương tiện”. Thuật rằng: Đây là nghóa sau tổng kết nghóa truớc, có chấp nhận nói mà nói ra là môn thứ tư. Nhưng nhập vào vô tướng phương tiện, nhật định lấy phân biệt ta để quán tâm, vì cũng cho là cảnh, tức là đối với vọng phân biệt mà nói là nhập vào phương tiện. Luận tụng rằng: Từ “Nương vào thức có sở đắc” đến “thức vô sở đắc sinh ra”. Thuật rằng: Ở đây có hai bài tụng. Bài tụng đầu giải thích phương tiện đạo, sở thủ, năng thủ không có, bài tụng sau giải thích về căn bản đạo, hai thứ bình đẳng, tức là kiến đạo…. Đây tức là bài tụng đầu. Hai câu trên chấp nhận tâm thì có, nhưng cảnh thì không, tức là noãn, đảnh vị hai câu dưới nói cảnh thì không, thức thì cũng không tức là địa vị nhẫn… Luận xưa nói: “Do trần không có thể bổn thức liền không sinh”, là không đúng. Vậy thì đâu có chấp nhận thức thứ bảy sinh? Luận rằng: Từ “Nương vào duy thức” đến “sau có ở trong thức, vô sở đắc sinh ra”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung đại cương của bài tụng, tùy theo câu tụng giải thích bằng văn xuôi, văn đó dễ hiểu, đều trừ sở chấp, như các nơi nói. Luận rằng: Từ “Đó là phương tiện” đến “năng thủ vô tướng”. Thuật rằng: Đó là kết thành nghóa ở trên vậy. Luận rằng: Từ “Lại nữa, tụng rằng” đến “vô đắc tánh bình đẳng”. Thuật rằng: Bài tụng này giải thích hai thứ không bình đẳng. Hai câu trên giải thích lý bình đẳng, hai câu dưới kết thành bình đẳng. Luận rằng: Từ “Khi chỉ thức sinh” đến “gọi là hữu sở đắc”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng đầu, nói nguyên do của thức có đắc. Luận rằng: Từ “Vì cảnh sở đắc” đến “cũng không được thành lập”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ hai. Do cảnh vốn không nên thức cũng không. Chữ “cũng” này ý nói cảnh cũng không vậy. Luận rằng: Từ “Do năng đắc thức” đến “vô sở đắc tánh”. Thuật rằng: Vì năng đắc thức đồng với cảnh không, năng thủ và sở thủ trước có đắc, nay đều thành không có, chẳng phải riêng một cái không có, nên gọi là bình đẳng. Luận rằng: Từ “Hiển nhập hư vọng” đến “ nay lần lượt sẽ nói”. Thuật rằng: Đây là kết trước sinh sau nghóa của hai môn. Sai biệt là căn cứ vào ranh giới mà lập luận, dị môn là căn cứ vào hàng ngang mà nói. Luận tụng rằng: Từ “Ba giới của tâm và tâm sở” đến “cũng gọi riêng là tâm sở”. Thuật rằng: Hai câu trên là giải thích tướng sai biệt. Luận xưa cho đây là tướng chung là không đúng. Hai câu trên là giải thích dị môn. Luận xưa nói đó là tướng riêng cũng không đúng. Tâm vương và tâm sở đồng tên là sai biệt, tâm vương và tâm sở khác tên là dị môn. Luận rằng: Từ “Hư vọng phân biệt” đến “các tâm và tâm sở”. Thuật rằng: Đây là giải thích tướng sai biệt của hai câu tụng trên, tám thức đều như vậy. Luận rằng: Từ “Tướng dị môn” đến “các pháp tâm sở”. Thuật rằng: Đây là giải thích về tướng dị môn của hai câu dưới nói về tướng sở hành đồng dị của tâm vương và tâm sở. Vua chỉ lấy chung, thần thì lấy chung và riêng. Như luận Du-già quyển thứ ba và Hiển Dương quyển mười tám, Duy thức quyển thứ năm… có nói; song một hư vọng phân biệt ban đầu, dụng thông với hai môn, văn khác có thể biết. Luận xưa chỉ nói tâm sở duyên riêng, không nói duyên chung, thì trái với lời của luận Du-già… Luận rằng: “Nay lần lượt sẽ nói tướng sinh khởi này”. Thuật rằng: Kể từ môn thứ tám chấp nhận nói ra. Luận tụng rằng: Từ “Một là gọi duyên thức” đến “phân biệt suy ra tâm sở”. Thuật rằng: Hai câu tụng trên nói về thức sinh khởi, hai câu tụng dưới nói về tâm sở sinh khởi. Luận rằng: Từ “Duyên thức” đến “nền sinh ra duyên”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ nhất trong bài tụng, tức là ban đầu điệp văn, sau trình bày nghóa. Đây là nói về tướng hiện hành sinh khởi, chẳng phải thức của chủng tử. Nếu nói chủng tử, thì không hợp với lý có thể trái, do đó căn bản không gọi là thọ. Luận rằng: Từ “Tàng thức làm duyên” đến “gọi là thọ”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ hai trong bài tụng, tức là trước nêu ra nghóa, sau thì điệp văn. Tức là bảy thức chuyển đều gọi là thọ, do thọ dụng cảnh, thọ số dụng thắng, thức từ nơi thọ của cùng thời lập ra tên thọ, tức là lâm cận thích, đều chẳng phải là căn bản, đều gọi là thọ. Luận rằng: Từ “Trong các thức này” đến “nên gọi là Tâm sở”. Thuật rằng: Đây là giải thìch hai câu dưới trong bài tụng. Trong các thức thứ hai và thứ ba này đều có thể thọ dụng cảnh, đó là công lực của Thọ, có tác dụng phân biệt tướng mạo của cảnh, đó là công năng của tưởng; có thể có cái dụng của các hành tướng, đó là công lực của Tư, của tác ý v.v… vậy. Luận xưa nói: hay khiến cho tâm suy ra, xả cái này thủ cái kia, đó là công lực của Tư… vậy. Ba uẩn thọ, tưởng, hành này, giúp cho việc tâm duyên vào cảnh, nên gọi là tâm sở. Giải thích tên của tâm sở này, như Nhiếp Luận v.v… quyển thứ ba giải thích. Luận rằng: “Nay lần lượt sẽ nói tướng tạp nhiễm này”. Thuật rằng: Đây là nói về vọng phân biệt môn nhiễm thứ chín, sẽ nói rõ dưới đây. Luận tụng rằng: Từ “Phú chướng và an lập” đến “do hư vọng phân biệt”. Thuật rằng: Sáu câu đầu chính là nói duyên sinh, hai câu sau nói về các tạp nhiễm. Giải thích về quyên sinh thì đầu có năm câu giải thích riêng về duyên sinh, kế có môt câu giải thích về nghóa thâm sâu. Nói trong tạp nhiễm. Câu đầu về hai trăm ba mươi bảy nhiễm, câu sau nói về duyên do nhiễm, xem trong văn Trường hàng thì sẽ hiểu. Luận rằng: Từ “Vì phú chướng” đến “chướng chân kiến”. Thuật rằng: Nói về nghóa của phú chướng, đầu tiên nói về các chi của duyên khởi. Do si mê che ngăn nên cảnh trí không được sinh, vô minh che tâm nên không rõ được lý. Chính hai thứ che ngăn này nên gọi là phú chướng. Luận xưa chỉ nói che ngăn kiến là không đúng. Trong đây thông với thuyết nhất thiết vô minh thuộc về hai thứ nghiệp chẳng phải là sở tri chướng, chướng chân kiến là chi vô minh, hoặc phiền não chướng cũng là chướng kiến. Ở đây là nói chung, còn các thuyết Đối pháp… nói có hai thứ ngu; còn thuyết Du-già… nói về bảy thứ vô tri… Tức khác với đây vậy. Luận rằng: Từ “Vì an lập” đến “nên nhiệp huân lập”. Thuật rằng: Tức là chi của hành, nghóa là do ba hành huân tập ở thức thứ tám, ở trong bổn thức gieo trồng tập khí của nghiệp, nên gọi là an lập. Thành Duy Thức nói, chỉ nghiệp báo chung và hành chung và riêng, nên gọi là hành chi. Luận rằng: Từ “Vì có dẫn dắt” đến “dẫn đến chỗ sinh”. Thuật rằng: Đây là giải thích về thức chi. Du Giá quyển thứ chín lấy chung sáu thức; còn chín mươi ba thuyết và Thành Duy Thức đều chỉ là thức thứ tám. Vì thức thứ tám là chủ của dị thục, lúc mới sinh ra ban đầu có thể dẫn đường nghiệp quả đến sinh chỗ khác, nên gọi là dẫn dắt. Luận xưa nói, nghóa là bổn thức và ý thức là trái, chủ không phải bảy thức khác, không phải chỉ không, không phải chỉ ý nên thành là phi lí. Đối pháp v.v… nói, thức là hay dẫn dắt, tức là sắc chi, gọi là dẫn dắt, vì đã hướng về cái khác, nên cũng không có nhau. Luận rằng: Từ “Nhiếp cố giả” đến “vì tự thể”. Thuật rằng: Nghóa là tên sắc chi, năm uẩn đầy đủ nên gọi là nhiếp. Nhiếp nghóa là nhiếp trì nghóa của năm uẩn đầy đủ viên mãn. Luận rằng: Từ “Vì viên mãn” đến “nên thể đầy đủ”. Thuật rằng: Đây là giải thích sáu xứ chi. Luận rằng: Từ “Vì ba thứ phân biệt” đến “nên thuận theo ba thọ”. Thuật rằng: Đây là giải thích về xúc chi. Nghóa là ba thứ căn, cảnh, thức chẳng phải là một tên, nên gọi là ba. Xúc này khiến cho ba phần vị sai biệt, thuận theo ba thọ. Hoặc có khi là lạc thọ đến bất khổ lạc. Từ nơi công dụng của xúc mà lập tên nó. Gọi là ba phân biệt, thì ở đây xúc đồng với nghóa xúc của các nhà Đối pháp giải thích, không đồng với Duy thức, vì đã hướng về chỗ khác, nhưng bổn văn của Đối pháp tướng trạng đồng với Duy thức. Nhà giải thích tướng tợ và đồng ở chỗ này. Luận rằng: Từ “Vì thọ dụng” đến “nên chẳng phải hai cảnh”. Thuật rằng: Đây là giải thích thọ chi, như văn có thể hiểu. Nhưng chín mươi ba thứ v.v… thọ được chia làm hai, một là dị thục, hai là cảnh giới. Như Duy Thức nói, như năm chi trên thể tánh chung và riêng, không có tạp loạn nhau, tất cả các lời hỏi đều như Duy Thức. Luận rằng: Từ “Vì dẫn khởi” đến “sau thì có đắc khởi”. Thuật rằng: Đây là giải thích ái chi, như nước thấm ướt. Các thuyết Đối pháp cho đây là chi năng sinh nên lập tên đó. Tuy duyên vào hữu chi nhưng cũng có thể sinh đó là xuất phát từ Thắng nghóa mà lập tên vậy. Luận rằng: Từ “Vì liên phược” đến “nên liên phược sinh”. Thuật rằng: Đây tức là thủ chi, nghóa là do sức của thủ khiến cho hiện thức v.v… duyên với dục. ngã ngữ giới kiến thủ. Ở vị lai liên tục ràng buộc sinh ra hữu, khiến cho nó không đoạn dứt. Thủ gọi là liên phược. Dục, ngã ngữ v.v… là nhân hữu lậu, không trái, nên có thể chiêu đến đời sau, nên gọi là thuận. Thủ khiến cho thức liên tục ràng buộc nên có. Luận Đối pháp nói hữu thủ thức nghóa là thức hữu lậu. Vì thủ là lậu nên các luận sư đối với kia tạo ra đầu mối khác, đều là tà thuyết, hữu thủ thức đều biết như đây. Luận rằng: Từ “Vì hiện tiền” đến “nên được hiện tiền”. Thuật rằng: Đây là giải thích về hữu chi. Xưa lúc lập ra hành, thủ và hữu là quả nên gọi là thủ nghiệp. Quả khiến cho khởi lên hành gọi là giữ nghiệp. Do sức ái thủ khiến cho nghiệp trước đã tạo tác, thủ cùng với sau thì có. Vì quả dị thục trên được hiện tiền, nên hữu gọi là hiện tiền. Luận rằng: Từ “Vì quả khổ” đến “nên báo đáp nhân trước”. Thuật rằng: Hai cách giải thích hai chi đây là hiện tiền, nên gọi là khổ quả. Tánh của nó bị bức bách nên gọi là Khổ nghóa. Đối lại với nhân trước nên gọi là quả nghóa. Luận rằng: Từ “Chỉ đây đã nói” đến “khiến cho không được an ổn”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ sáu trong bài tụng, và thâm nghóa của duyên sinh. Luận rằng: Từ “Ba tạp nhiễm” đến “nói các chi khác”. Thuật rằng: Đây là đồng với luận Du-già trái với Đối pháp. Duy Thức thì hợp. Luận rằng: Từ “Hai tạp nhiễm” đến “nói các chi còn lại”. Thuật rằng: Đây là căn cứ vào hai nhiễm để nói về nhân quả. Lại căn cứ vào dị thục và phi dị thục để nói rõ quả nhân. Năm tạp nhiễm là nhân, bảy chi là quả. Năm mươi sáu thuyết, năm chi thức v.v… là khổ của thai tạng nên lập ra tên quả. Căn cứ vào nhân quả thế gian, mười chi là nhân; căn cứ vào tánh quả nhân thì bảy chi là quả. Các luận có sai khác cũng không trái nhau. Luận rằng: Từ “Bảy tạp nhiễm” đến “nói sinh, lão, tử”. Thuật rằng: Trói buộc mười hai chi là bảy tạp nhiễm. Mười hai chi trước làm mười một nghóa. Nay buộc làm bảy thức, căn cứ vào huân tập chủng tử hiện hành ở trước, gọi là nhiếp thực; căn cứ vào quả sẽ hiện hành ở sau, gọi là khiên dẫn. Nói nhiếp năm uẩn thể là danh sắc, đối với cảnh có thể thọ dụng, sáu sứ tạo ra dụng, hợp lại gọi là nhân nhiếp thọ, căn cứ vào năm uẩn trước địa vị lúc sáu xứ sinh riêng gọi là biệt lập. Nay căn cứ đều là tự thể của nhiếp thọ, đều gọi là nhiếp thọ. Trước là căn cứ ở nơi cảnh, đối với căn sở dụng của xúc thọ riêng, mỗi mỗi gọi là biệt lập. Nay đầu đồng với cảnh dụng xúc và thọ hợp với tên thọ dụng, vì xúc sinh ra thọ, thọ dụng cảnh. Căn cứ vào ái trước chung riêng sẽ là dụng. Căn cứ vào thủ và hữu, mỗi thứ có công năng riêng, riêng lập tên khác, nay đều hướng về quả thiện tại ba thứ đều gọi là dẫn khởi. Căn cứ vào hữu nhân trước và thể bức bách sinh v.v… gọi là quả khổ. Nay do sự chê trách đặt tên sinh v.v… gọi là yểm bố. Luận rằng: Từ “Các tạp nhiễm này” đến “mà được sinh trưởng”. Thuật rằng: Hai trăm ba mươi bảy nhiễm này tạo thành ba thứ nên gọi là các nhiễm. Do hư vọng phân biệt làm nhân, mà được sinh trưởng, vì pháp cuối phân biệt, nên nay nói. Luận rằng: Từ “Đây trước hiển bày cái chung” đến “chín tưởng tạp nhiễm”. Thuật rằng: Giải thích về vọng phân biệt, ý của văn có hai: Từ trước đến nay, mười một bài tụng trên tùy theo mà giải thích riêng, giải thích tướng chín môn đã xong. Nay là tổng kết chín thứ tướng. Nhưng chính những lời do Đức Di-lặc nói ra được xem là phần tổng trong đầu tiên, được ngài Thiên Thân tổng kết lại. Trên đây đầu và cuối không căn cứ vào văn tụng chung, chỉ có ngài Thiên Thân cuối cùng tổng kết. Do vọng phân biệt ban đầu có một bộ tụng chung nên không có, còn Không tánh vốn là không có nên có, hoặc ý của tác giả không muốn giải thích riêng. Luận rằng: “Nay kế sẽ nói về tánh sở tri không tánh”. Thuật rằng: Mười một bài tụng tiếp theo nói về tánh sở tri không. Nhưng nếu chỉ nói tánh sở tri không, tức là biến kế sở chấp. Nay nói tánh của không, hiện rõ là chân như. Trong đây có ba phần, phần đầu sẽ nói đoạn sau, phần kệ tụng tiếp theo là phân biệt về năm nghóa, phần cuối là an lập tổng kết hai nghóa trước. Đây nói về phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Các tướng và môn khác” đến “lược nói chỉ do đây”. Thuật rằng: Đây tức là phần thứ hai, chỉ nói về năm môn. Trong đây có mười một bài tụng, nêu chung năm nghóa do hiển bày tánh không; sau có mười bài tụng chỉ nói về năm môn. Bài tụng này tức là ban đầu nói chung năm nghóa, trong đây có hai, hai câu trước liệt kê tên năm môn, hai câu sau là hiển bày tánh không của nó, quyết định chỉ có năm nghóa, trong đây để nói về tướng. Luận xưa nói về thể tướng, trong đây chỉ nói tướng; xưa nói phân biệt, đây nói sai khác, cón các tên khác đều đồng. Song lấy chín nghóa để nói về tướng vọng phân biệt là phẩm có đều nói có tướng. Trong năm nghóa này, chỉ nghóa đầu có tướng, còn bốn nghóa khác thì không tướng. Lý cũng nên có, hiển bày vọng phân biệt, hành tướng chuyển riêng, đây chỉ là một tướng nên làm pháp khác. Luận rằng: Từ “Nên biết sở thủ” đến “năm thứ tướng này v.v…” Thuật rằng: Đây tức là giải thích chung đại cương của bài tụng. Không có hai thủ, tức gọi là môn; tánh của sở hiển là lý chân như; lược ra phân biệt nghóa là chỉ do năm nghóa của tướng v.v… Trong đây chỉ giải thích chữ dụng, chữ “duy”; còn chữ “do” là chuyển câu thứ ba. Luận rằng: “Đã biết tánh của không, tướng nó như thế nào?” Thuật rằng: Dưới đây sẽ nói rõ từng phần. Bài tụng đầu nói về tướng của không. Bài tụng kế nói về dị môn của không; kế có một bàu tụng nói về nghóa của dị môn; kế có năm bài tụng nói về sự sai biệt của không; sau có hai bài tụng nói về sự thành lập của không. Đây tức là thứ nhất nói về các tướng không, trong đây có hai. Đầu tiên đặt câu hỏi để khởi lên bài tụng, sau là nêu lên phần giải thích chính của bài tụng. Phần điệp văn này tức là ban đầu. Luận tụng rằng: “Vì không có hữu và vô” đến “chính là nói về tướng của không”. Thuật rằng: Ba câu trên nói về các tướng của không, một câu dưới tổng kết chung tướng của không. Trong ba câu trên, một câu đầu ngăn cái không, hiển bày cái hữu; hai câu kế nói chẳng phải nhất định có và không, hoặc là khác hoặc là một. Luận rằng: “Không có hai nghóa là không” đến “cái không của hai thủ”. Thuật rằng: Không có hai nghóa là trừ sở chấp đã nói và ngăn cái không. Hữu vô tức là có hai tánh của không, hiển bày ở nơi hữu. Nếu chuẩn theo giải thích của ngài An Tuệ thì hai phần hai thủ đều là Biến kế sở chấp. Nếu nương vào sự giải thích của ngài Hộ Pháp nương vào hai thủ, hai phần khởi lên, thì hai sở chấp này gọi là vô. Tất cả văn dưới cùng đồng với đây, đều chuẩn theo lời giải thích. Luận rằng: Từ “Đây tức là hiển bày cái không” đến “phi hữu phi vô”. Thuật rằng: Đây là giải thích về hai cái “không” ở phần trên. Nghóa là, lấy cái không tánh ở sau làm tánh, chẳng phải tánh xưa nay là không có, nên đều hiển bày cái không là có hai phi và vô, khởi lên luận sau. Luận rằng: “Vì sao nói là phi hữu?” Thuật rằng: Vì nó vốn không vậy. Luận rằng: “Vì sao nói là phi vô?” Thuật rằng: Vì đáp lại câu hỏi có. Luận rằng: “Vì có hai vô” Thuật rằng: Hai “vô” tức là hai lý của vô ngã, vì có hai lý này nên nói phi vô. Ở trong tục đế, không đồng với y tha khởi nên quyết định có, cũng khác với vô của sở chấp thường. Luận rằng: “Đây là hiển bày tánh không của phi hữu và phi vô”. Thuật rằng: Đó là kết lại câu tụng thứ hai. Luận rằng: Từ “Không này cùng với kia” đến “chẳng phải khác, chẳng phải một” Thuật rằng: “nghóa là có lời hỏi không là pháp tánh, cùng với pháp để làm một và khác. Để trả lời câu hỏi này nên ở đây lập tôn. Luận rằng: Từ “Nếu dị đã thành” đến “như tánh của khổ v.v…” Thuật rằng: Đây là hiển bày nhân của phi dị. Nghóa là, ngũ uẩn… đều gọi là pháp. Còn chân như là tánh của các pháp kia, nên gọi là chẳng phải khác. Như khổ, vô thường, không, vô ngã v.v… là thuyết của Tiểu thừa cho rằng chúng cùng với pháp chẳng phải dị khác, nên lấy đó làm dụ. Tức ta có thể lập tôn rằng: “chân như và uẩn v.v… chẳng phải quyết định khác”. Nhân nói rằng: “Vì nó là tánh của pháp”. Dụ nói rằng: “Như tánh của khổ v.v…” Luận rằng: Từ “Nếu một thì nên” đến “cũng chẳng phải cùng tướng”. Thuật rằng: Đây là hiển bày nhân chẳng phải một. Nghóa là năm uẩn v.v… cùng với chân như này, quyết định chẳng phải là một, vậy một có lỗi gì? Chân thì không phải vô lậu. Không phải cảnh của trí phân biệt, tức là vì năm uẩn, như năm uẩn v.v… Lại nữa, chân như này không phải cọng tướng chung, tức là vì năm uẩn, như sắc, thọ v.v… có hai tỷ lượng, như đây nên biết. Song nhập vào chân quán, mỗi mỗi vật như vậy, đều cần phải hiển đạt, tức là quán tự tại. Nói cọng tướng nghóa là nói từ gia hạnh. Duy thức cũng có, nên nói như kia. Luận rằng: Từ “Đây tức là hiển bày cái không” đến “lìa một tướng khác”. Thuật rằng: Đó là kết lại câu thứ ba của bài tụng. Câu thứ tư của bài tụng đó cùng với ba câu trên mỗi mỗi đều thông với dụng, như văn có thể biết. Luận rằng: “Đã biết tánh của không vậy dị môn thì thế nào?” Thuật rằng: Đây là lời hỏi về môn thứ hai. Luận tụng rằng: Từ “Lược nói về không, dị môn” đến “pháp giới v.v… nên biết”. Thuật rằng: Luận xưa nói nhiều tên, nay vì hiển bày ở bản tiếng Phạm nên chỉ nói dị môn. Lại nữa, khôn thể nói được cái thể của chân như này mà chỉ tạm đặt tên để phân biệt, cho nên ở đây chỉ nói dị môn. Vì bài tụng ở trước nói về vô đắc thể, nên câu đầu là lập tôn, hai câu kế và ba chữ đầu của câu thứ tư liệt kê tên, hai chữ dưới là khuyên biết. Nói về pháp giới v.v… là luận xưa nói: là Pháp thân, v.v… nhưng bản này vốn không nói về Pháp thân, đó là do các dịch sư nhà thiên dịch thêm lời. Song trong Đối pháp quyển thứ hai nói có bảy tên, trong đây có năm, nêu ra tánh của không, tánh vô ngã kia. Kinh Bát-nhã nói có mười hai tên, nêu ra chín tên khác, nghóa là pháp tánh bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sinh tánh, pháp định, pháp trụ, hư không giới, bất tư thức giới, hợp với chân như có mười sáu tên, trong đây có năm tên, Đối pháp đã nêu ra hai tên, kinh Bát-nhã đã nêu ra chín tên. Nay nói “đẳng” tức là lấy mười một tên, trong bài tụng đã nói nên đây chỉ lược qua. Luận rằng: Từ “Lược nói tánh không” đến “nghóa dị môn này”. Thuật rằng: Đó là giải thích đại cương bài tụng, nương vào lời hỏi để khởi lên bài tụng. Luận tụng rằng: Từ “Do vô biến vô đảo” đến “như lần lượt nghóa của dị môn”. Thuật rằng: Đây là giải thích nghóa sở chứng của năm dị môn trước. Trong câu thứ nhất, chữ “do” thông với năm nghóa là chuyển thứ ba, thay thế chữ cố là chuyển thứ năm, nhưng do không biến chuyển nên nói là chân như. Thứ tự mỗi mỗi sẽ thông với trên, liệt kê tên của ba câu thuộc về câu kế dưới. Luận rằng: Từ “Tức là nói trong đây” đến “vì chuyển đổi”. Thuật rằng: Đây là giải thích danh nghóa của chân như. Trong đây nói đã biết không tánh thông với bốn nghóa dưới đều sẽ nói. “Chân” là không hư vọng, “như” nghóa là thường, như Duy Thức đã nói. Luận rằng: Từ “Do nghóa không đảo ngược” đến “vì nương vào việc của duyên”. Thuật rằng: Đây là giải thích danh nghóa của thực tế. Do Chân như này chẳng phải là việc Sở y, Sở duyên của bốn mươi bảy đảo, nên gọi là thực tế. Luận xưa nói rằng: vì chẳng phải chủng loại và cảnh; còn đây nói nương vào tức là nương vào chủng loại khác. Luận rằng: Từ “Do nghóa tướng diệt” đến “vì tất cả tướng”. Thuật rằng: Đây là giải thích danh nghóa của vô tướng. Các tướng nghóa là mười tướng mà trong Phật Địa Luận v.v… đã nói. Nghóa là sắc, thanh, hương, vị, xúc, sinh, dị, diệt, nữ, tướn. Vì lìa tên của các tướng này, nên lập ra tên vô tướng. Luận rằng: Từ “Do Thánh trí cảnh nghóa” đến “vì đã hành nghóa”. Thuật rằng: Chỉ có Duy thức quyển tám và từ đây trở đi sẽ nói. Thắng nghóa có ba: Một là nghóa thắng nghóa, tức là chân như, này căn cứ theo lối giải thích của luận chủ, ở đây chỉ nói lại. Hai là đắc thắng nghóa, nghóa là Niết-bàn, giải thích theo lối trì nghiệp. Ba là hành thắng nghóa, nghóa là thắng đạo, giải thích theo lối hữu tài, vì lấy thắng làm nghóa. Luận rằng: Do thánh pháp nhân nghóa. Thuật rằng: Pháp thì như quả, nghóa là pháp của các bậc Thánh, vì đây là nhân khác, nên gọi là pháp giới. Vậy giới thì có nghóa là gì? Tức là nghóa của nhân vậy. Luận rằng: “Vô ngã đẳng nghóa như lý nên biết”. Thuật rằng: Khi giải thích chữ “đẳng” của câu tụng, luận xưa dùng nhiều tên, tuy có chữ “đẳng”, nhưng trong nghóa không giải thích. Nay giải thích, cũng như Đối pháp v.v… giải thích tên khác vậy. Luận rằng: “Vì sao nên biết không tánh sai biệt?” Thuật rằng: Đây là sẽ giải thích môn sai biệt thứ tư, nương vào lời hỏi khởi lên. Luận tụng rằng: Từ “Tạp nhiễm và thanh tịnh này” đến “tịnh nên chấp nhận là tịnh”. Thuật rằng: Trong thành tựu sai biệt có năm bài tụng. Một bài tụng đầu là nói về nhiễm tịnh sai biệt, bốn bài tụng kế là nói về sở tri sai biệt, đây tức là ban đầu. Câu thứ nhất chính là giải thích sai biệt, câu thứ hai giải thích về nhân sai biệt, câu thứ ba hiển bày dụ của sai biệt, câu thứ tư kết thành nghóa của tịnh. Do chân như này vì tự tánh thanh tịnh, nên gọi là nghóa của khách nhiễm, chấp nhận tính là lựa chọn, một lỗi của bất cực thành và tùy nhất bất thành v.v… Luận rằng: Từ “Không tánh sai biệt” đến “hai thứ thanh tịnh”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ nhất, lập ra tôn sai biệt. tịnh”. biệt. Luận rằng: Từ “Thành tựu nhiễm tịnh này” đến “nói là thanh Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ hai, thành tựu nhân sai Luận rằng: Từ “Tuy tạp nhiễm” đến “thành tựu lỗi vô thường”. Thuật rằng: Đây là giải thích thêm để trả lời câu hỏi, hiển rõ tánh là thường, “sinh ra nước” v.v… là dụ của câu thứ ba. Nghóa là, có lời hỏi, nay trả lời không như vậy, không phải là lỗi của vô thường. Luận rằng: Như thủy, giới v.v… lìa khách trần. Thuật rằng: Đây là giải thích lỗi bất thành và lỗi vô thường vì tô và nhân ban đầu đồng với dụ của phá. Như trong nước có bẩn, trong vàng có lẫn thau, như hư không có mây, thảy đều là khách trần, chẳng phải tánh thành nhiễm. Sau bỏ bụi bặm rồi, chẳng phải vì thế mà tánh thanh tịnh, nên gọi là vô thường. Lại như trong nước… tuy tạm có chất bẩn, nhưng chẳng phải thể bất tịnh, mà vì tôn và nhân trước đồng với dụ của pháp vậy. Luận rằng: “Không tịnh cũng như vậy, chẳng phải tánh chuyển biến”. Thuật rằng: Đây là nêu ra pháp hợp, nghóa là nói về lập tôn. Đã biết không tánh có thể thành tựu được nhiễm tịnh sai biệt, vì có chất bụi. Chữ “do” trong bài tụng tức là nhân, các cõi cấu và vô cấu đều không thể thành tựu được nhiễm tịnh sai biệt. Như nước, giới, vàng, không tánh là tánh chẳng phải nhiễm mà chỉ tạm có khách trần. Như vàng trống rổng, lại không tánh chẳng phải là vô thường, vì thanh tịnh như là trống không v.v… Trong ba ví dụ này có rộng có hẹp, nhưng thủy giới là nước lớn, nhưng nước và vàng đều là vô thường, chẳng phải tánh không cấu bẩn, nay lấy thiểu phần làm dụ nên không có mất lỗi. Luận rằng: Từ “Không sai biệt này” đến “vô tánh và tự tánh không”. Thuật rằng: Từ đây về sau nói căn cứ vào sở trị sai biệt. “Không” được chia thành mười sáu thứ, văn dưới sẽ giải thích. Trước là nói về năng trị. Song đây cũng hiển bày cái không của thứ mười lăm và mười sáu đồng nhau. Kinh Bát-nhã hội đầu nói có hai mươi không, ở đây thêm Tán không, Tự tướng không, Cọng tướng không, Bất khả đắc không, Tự tánh không. Vô tán không ở luận này chính là Vô biến dị không của kinh trên. Do các thiện căn đến hết mé vị lai tương tục không gián đoạn, nên gọi là vô biến dị, tên thì khác nghóa thì đồng. Nhưng luận này chỉ thêm Tướng không, còn bảy mươi bảy thuyết thì nói có mười bảy không, nghóa là Nhất thiết pháp không, Tướng không, Vô tế không, Nội không, Vô sở đắc không, Ngoại không, Nội ngoại không, Bổn tánh không, Đại không, Hữu vi không, Tất cánh không, Vô tánh không, Vô tánh tự tánh không, Thắng nghóa không, Vô vi không, Vô biến dị không, Không không. Ở đây thêm một cái nữa là Vô sở đắc không. Nhưng hội thứ hai Kinh Đại Bát-nhã nói thêm mười tám không, hội thứ ba nói mười sáu không. Song cùng với Luận Du-già sở trị hơi khác. Vì sao? Luận rằng: “Ở đây lược nói nghóa vì sao nên biết”. Thuật rằng: Từ trước đến nay phần thứ nhất liệt kê các “không”, còn từ phần thứ hai trở xuống, là giải thích riêng nghóa của “không”. Trong đây có mười sáu “không”, còn các kinh luận khác có nói thì dùng chữ “đẳng”. Kinh Đại Bát-nhã hội thứ nhất nói có hai mươi “không”, nghóa là Nội không, Ngoại không, Nội Ngoại không, Không không, Đại không, Thắng nghóa không, Hữu vi không, Vô vi không, Tất cánh không, Vô tế không, Tán không, Vô biến dị không, Bổn tánh không, Tự tướng không, Cọng tướng không, Nhất thiết pháp không, Bất khả đắc không, Vô tánh không, Tự tánh không, Vô tánh tự tánh không. Hội thứ hai nói có mười tám “không”, nghóa là Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không, Không không, Đại không, Thắng nghóa không, Hữu vi không, Vô vi không, Tất cánh không, Vô tế không, Tán vô, Tán không, Bổn tánh không, Tự cọng tướng không, Nhất thiết pháp không, Bất khả đắc không, Vô tánh không, Tự tánh không, Vô tánh tự tánh không. Trong phần thứ ba quyển thứ nhất nói có mười chín “không” tức mười sáu “không” ở trên, thêm sở duyên không, Tăng thượng không, Lạc vô không v.v… Trong phần thứ ba quyển thứ mười, trang bốn trăm tám mươi tám, nói có mười sáu “không” tên đồng với đây, Phật từ đó giải thích rộng, hơi khác với đây, phải so sánh. Nên so sánh hội thứ nhất và hội thứ hai, ở đây tương đương với xứ, trong đây các văn ly hợp có khác, nghóa cũng không tăng. Trong phần giải thích có bốn bài tụng, phân làm hai đoạn: ba bài tụng đầu nói về mười bốn “không”, một bài tụng sau nói về hai “không”. Hai “không” là mười bốn “không”, tánh không ở trước, vì căn cứ vào trước có thể nói ra mười bốn “không”. Sau căn cứ vào tánh của “không” nói chỉ có hai. Bảy mươi bảy thuyết cũng đồng với đây. Luận tụng rằng: Từ “Năng thực và sở thực” đến “cho nên Bồ-tát quán không”. Thuật rằng: Một bài tụng đầu nói về tám “không”, kế một bài tụng nói về ba “không”, một bài tụng sau nói về ba “không”, nên thành mười bốn “không”. Song cuối bài tụng thứ nhất có một chữ “không”, thấu suốt tám xứ; câu thứ hai, câu thứ ba cùng câu thứ tư, mỗi câu kết lại ba không trên, đều chuẩn theo đây. Luận rằng: Từ “Năng thực không” đến “tức là ngoại không”. Thuật rằng: Trước điệp văn sau trình bày nghóa. Hai “không” này, căn cứ vào xứ làm ra luận, dầu cho ở trong ngoài thân, tùy theo xứ mà nói lập ra hai “không”. Năng thực nghóa là thọ dụng, “sở thực” là ngược lại vậy. Luận rằng: Từ “Nương vào thân này” đến “tên nội ngoại không”. Thuật rằng: Đây cũng là điệp văn sau trình bày nghóa. Căn cứ hai “không” trước mà phân ra sáu xứ. Nay “không” này, căn cứ vào một thân chung, nhóm hợp hai pháp trước để thành thân. Luận rằng: Từ “Các khí thế gian nói là sở trụ” đến “tên là đại không”. Thuật rằng: Chỉ căn cứ vào khí thế gian bên ngoài tức là ở bốn xứ, trước trình bày nghóa nhưng sau điệp văn. Từ trước đến nay bốn “không” đều là cảnh của chân trí, kế có một không, không này có thể quán tâm. Luận rằng: Từ “Năng kiến này” đến “gọi là không không”. Thuật rằng: Trong xứ này v.v… bốn không là sở kiến. Kiến không trí này, gọi là năng kiến. Năng kiến là trí của không, cũng là không nên nói không không. Nhưng trí nương vào không mà sinh khởi, nên chỉ nói là không, trí này cũng không nên gọi là không không. Năm không trên này đều giải thích theo luận chủ, còn không của trong thân cho đến không của không thì gọi là không không, đồng với luận Du-già. Luận rằng: Từ “Như lý” đến “gọi là thắng nghóa không”. Thuật rằng: Thể của như lý tức là thắng nghóa, thắng nghóa tức là pháp tánh chân như, vì nghóa của thắng. Nay nói như là nghóa, nên ở nơi thắng, vì xứng với lý mà biết nên gọi là như thật hành, hành là hữu vi, vì lược ra pháp vô vi nên gọi là như thật. Lại nói, lý tức là nghóa, nên ở nơi nghóa là như thật hành, cảnh của sở quán. Như lý này tức là không, nên gọi là Như lý không, đó là giải thích theo lối trì nghiệp. Nếu chỉ nói Như lý là giải thích theo lối thắng nghóa. Vì là nghóa của Thắng nên gọi là Thắng nghóa không. Cho nên giải thích theo lối trì nghiệp, cũng đồng với Luận Du-già. Căn cứ vào đây mà nói ra, gọi là Thắng nghóa không. Căn cứ vào nghóa khác mà nói, gọi là Vô tánh tự tánh không. Luận rằng: Từ “Bồ-tát tu hành” cho đến “Vô vi không”. Thuật rằng: Đây là căn cứ vào việc làm của Bồ-tát, đắc pháp thiện hữu vi, nên giải thích theo lối quán không. Căn cứ vào luận Du- già thì Vô sắc giới vốn không có tướng. Căn cứ vào không tướng mà giải thích hữu vi không. Căn cứ vào nghóa riêng của mỗi thứ, thì vô vi đồng với đây. Hai tên này cũng giải thích theo luận chủ. Vì Hữu vi… thảy đều không, tức quán cả hai đều không. Vì hai thứ này quán riêng đều không, nên nay giải thích như vậy. Luận rằng: Từ “Vì đối với hữu tình” đến “tất cánh không”. Thuật rằng: Vì hữu tình nên chỉ quán ở nơi không, quán các việc làm của hữu tình là không. Vì các hữu tình này v.v… cuối cùng không thể đắc. “Tất cánh” tức là không, nên gọi là tất cánh không. Ý của văn Luận Du-già thông với hai lối giải thích này, nhưng không nói việc làm của hữu tình. Luận rằng: Từ “Sinh tử triền miên” đến “gọi là Vô tế không”. Thuật rằng: Luận xưa gọi là Tiền hậu không, đây là giải thích theo lối của Luận chủ, nên gọi là Vô tế không. Luận rằng: Từ “Không quán là không” đến “sinh tử là không”. Thuật rằng: Đây là giải thích nguyên do quán vô tế là không. Như hàng Nhị thừa không quán sinh tử, là không, liền nhanh chóng nhàm chán xả bỏ mà nhập vào Niết-bàn. Bồ-tát Đại só không nhàm chán sinh tử, nên khởi lên tâm đại bi lợi ích hàm thức. Vì Bồ-tát quán thể tánh của sinh tử cũng là không, không nhàm chán, không dính mắc. Luận Du-già nói: Nếu rõ biết an lập chân như, vốn có tánh sinh, diệt, trụ, dị tương tục tùy theo mà chuyển tướng, nên tướng dùng không và Vô tế không để đối trị. Nay căn cứ vào tổng tướng của sinh tử nên nói quán của sinh tử không. Ở kia là căn cứ biệt quán, cho rằng ở trong chân như có tướng sinh diệt, nhưng biệt quán đó cũng không sai trải. Luận rằng: Từ “Vì đã tu thiện” đến “gọi là Vô tán không”. Thuật rằng: Luận xưa gọi là Bất xã không, vì khiến cho pháp thiện không xả bỏ nên quán không. Ở đây nói “Tán tức” là nghóa của xã. Vì làm thiện nên quán không, hoặc quán thiện là không, đều là không của bất xã. Cùng với cách nói của Luận chủ. Hàng Nhị thừa nhập Niết-bàn thiện căn liền hết. Bồ-tát không như vậy, vì quán không vậy. Luận Du-già nói, nếu biết chân như, thì tướng của hữu vi, đều không có tướng biến dị, do trừ bỏ vô vi không và vô biến dị không. Đây là căn cứ vào việc làm pháp thiện. Quán không thì gọi là Bất xả không. Căn cứ vào không của sở quán khác, không luận việc làm, nên gọi là Vô biến dị không, vì Bất xả không chính là Vô biến dị không vậy. Luận rằng: Từ “Chư Thánh chủng tánh” đến “gọi là Bổn tánh không”. Thuật rằng: Luận xưa nói tánh không, tức dựa vào bổn tánh mà quán không, hoặc quán bổn tánh là không. Luận Du-già nói rõ, biết nghóa của thọ dụng, thì việc thừa sự của nam, nữ đều như nhau, đều có tướng bên trong an lạc, tướng bên ngoài tịnh diệu. Đây là do xả bỏ Nội ngoại không và Bổn tánh. Tức ở đây căn cứ vào hành vi, còn kia căn cứ vào sở trị. Chính cái Thiện của sở trị, khiến cho tính thanh tịnh. Lúc khiến cho tính thanh tịnh, tức là có sở trị, nên không trái nhau, vì đã hướng về riêng. Luận rằng: Từ “Bồ-tát vì đắc” đến “gọi là tướng không”. Thuật rằng: Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẽ đẹp. Luận xưa nói là tiểu tướng, mà quán đây là không, hoặc vì đây chỉ quán không. Luận Du-già nói, nếu biết rõ nghóa chân như, có sinh, trụ v.v… tùy theo mà chuyển tướng, dùng tướng làm năng trị. Đây là căn cứ vào việc làm, kia là căn cứ vào sở trị, lý chuẩn theo cách giải thích ở trước. Luận rằng: Từ “Bồ-tát vì khiến” đến “nhất thiết pháp không”. Thuật rằng: Hoặc quán đây là không, hoặc vì khiến cho quán kia là không, do thí dụ này ở trên, đều giải thích theo lối luận chủ. Theo Luận chủ Du-già, vì rõ biết nghóa của pháp, nên có các tướng của văn tự. Do tất cả các pháp không đều có thể trừ bỏ. Căn cứ vào việc làm này, căn cứ vào sở trị khác, cũng không trái nhau, chuẩn theo cách giải thích đồng với trên. Luận rằng: Từ “Đó là mười bốn không” đến “đều gọi là không”. Thuật rằng: Đây là giải thích lập ra nguyên do của mười bốn không. Nghóa là tùy theo việc làm của sở trị, tự tánh an lập nên có mười bốn. Đã nói là không, thể của không như thế nào?. Do nêu ra thể của không liền nói ra văn dưới. Luận tụng rằng: Từ “Bổ-đặc-già-la-pháp” đến “nên lập riêng hai không”. Thuật rằng: Ba câu trên nêu ra hai “không”, còn câu cuối là kết thành. Trong ba câu trên, hai câu đầu giải thích Vô tánh không, câu còn lại giải thích Vô tánh tự tánh không. Luận rằng: Từ “Bổ-đặc-già-la-pháp” đến “gọi là Vô tánh không”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai câu tụng đầu. Không ngăn che cái giả có, nên chỉ nói là thật không. Cái không của vô tánh tức là pháp tánh, vô tánh tức là không. Đây là căn cứ vào sở vô không và môn không, nương vào đây làm môn, mới hiển bày được lý của không. Luận rằng: Từ “Vô tánh không này” đến “gọi là Vô tánh tự tánh không”. Thuật rằng: Đây là không của hai vô tánh đã hiển bày ở trước, tức là chân như lý cũng không, không có tự thể. Cái không này lấy Vô nhị tánh làm tự thể, thành ra có thể, nên gọi là vô tánh tự tánh không. Đây là giải thích câu tụng thứ ba vậy. Luận rằng: Từ “Đối với trước đã lập ra” đến “chỉ lập hai không”. Thuật rằng: Trước căn cứ vào lời nói, chỉ lập ra mười bốn không, hiển bày tự tướng của không, nên nói hai không này là giải thích câu tụng thứ tư. Tướng của nhất thiết không, cũng không ngoài hai thứ không này. Gọi là hai nhưng không phải là hai; không phải là hai, vì nương vào hai thứ “không” làm môn vì để làm rõ Vô nhị không. Như đã nói ở trên, vì việc này chỉ quán không tức là Vô tánh tự tánh không, hoặc quán đây là không tức là Vô tánh không, vì lìa các pháp chấp v.v… vậy. Luận rằng: Từ “Đây là ngăn dừng” đến “lập hai “không” sau”. Thuật rằng: Đây là giải thích ý lập hai không. Nghóa là có vấn nạn rằng: “Trong mười bốn “không” trước không thấy nêu ra hai “không” sau, nay nói hai “không” sau này thì có dụng ý gì?” Đáp: Vì nhằm ngăn ngừa sự chấp thủ nơi ngã và pháp nên nói Vô tánh không; vì ngăn ngừa chấp thủ vào tánh không của như lý, nên nói là Vô tánh tự tánh không. Vì ngã và pháp đều không nên mới có tăng ích, vì tánh không vốn có nên mới có tổn giảm. Theo thứ lớp đó, để phối hợp hai không sau. Trong đây nói ngã pháp chỉ tăng ích chấp, còn ở phẩm Chân thật ở dưới, trong phần nói về tướng chân thật ở nơi pháp vô ngã, thì nói tất cả tăng ích và tổn giảm. Kẻ chấp kiến biết đây nên kia cũng không chuyển, đó chính là tướng của Biến kế sở chấp. Vậy làm sao có thể tổn giảm chấp ư?. Trong đây căn cứ vào thể, vì thể không có nên chỉ tăng ích; còn kia căn cứ chung gọi là phế bỏ. Gọi là Vô vi cũng là tổn giảm, nên không trái nhau. Luận rằng: Từ “Như đã hiển rõ” đến “vì sao nên biết?” Thuật rằng: Đây là kết phần thứ tư nêu ra phần thứ năm. Trong đây có hai bài tụng, bài tụng đầu nêu ra thành lập nhân, bài tụng sau kết rồi thành nghóa. Luận tụng rằng: Từ “Đây nếu không tạp nhiễm” đến “công dụng sẽ không phải quả”. Thuật rằng: Đã nói tánh của không, tức là không có tịnh và nhiễm. Như thái hư vốn không, nên với ý nghóa đó mà nói bài tụng này. Nửa bài tụng đầu thành tựu có nhiễm, nửa bài tụng sau thành tựu có tịnh. Luận rằng: Từ “Nếu các pháp không” đến “nên tự giải thoát”. Thuật rằng: Đây là giải thích thành tựu nhiễm, để đáp lại vấn nạn vô nhiễm. Luận rằng: Từ “Nhất đối trị đã sinh” đến “cần lao vô quả”. Thuật rằng: Đây là giải thích thành tựu tịnh và nhiễm để đáp lại vấn nạn vô tịnh. Luận rằng: Từ “Đã như vậy tụng rằng” đến “do khách trần sở nhiễm”. Thuật rằng: Hai câu trên lập ra hai tôn, hai câu dưới lập ra hai nhân. Luận rằng: Từ “Vì sao phi nhiễm, phi bất tịnh” đến “bổn tịnh”. Thuật rằng: Hai câu tụng thứ nhất và câu thứ hai, thể tuy không khác, nhưng căn cứ vào sở phi và sở thuyên, thì tập riêng thành hai câu. Song nay vì nghóa đồng, chính là chung một bản. Phi nhiễm ở trong câu thứ nhất chính là phi bất tịnh ở trong câu thứ hai. “Điệp” ở đây là lời hỏi chung, và dùng câu thứ ba để trả lời, vì tánh của tâm vốn thanh tịnh. Phần sau chuẩn theo đây thì rõ. Luận rằng: Từ “Vì sao gọi là phi bất nhiễm phi bất tịnh” đến “vì là sở nhiễm”. Thuật rằng: Hai lời hỏi như trước đã nêu ra, dùng câu thứ để trả lời, tức do khách trần sở nhiễm vậy. Luận rằng: Đó là thành nghóa sai biệt lập của “không” vậy. Thuật rằng: Đây là tổng kết. Luận rằng: Từ “Đây là nghóa của không trước” đến “tướng an lập”. Thuật rằng: Từ trước đến nay giải thích riêng năm nghóa của không đã xong. Nay là phần tổng kết, gồm hai phần thứ nhất là nói về tướng của không; phần còn lại là nói về bốn môn khác an lập. Vì đối với không, muốn ngăn lời hỏi bên ngoài v.v… nên chỉ chia làm hai. Luận rằng: “Tướng lại có hai nghóa là hữu và vô”. Thuật rằng: Trong tướng, câu một của bài tụng đầu nói rằng, vì không có hai hữu, và vô là hai tướng này. Luận rằng: Từ “Không tánh hữu tướng” đến “cho là tướng đó”. Thuật rằng: “Vô” tức là hai thủ không có tuy vậy nó là tánh của không và phi không. Nay vì nói về tánh của không, nên chỉ giải thích về hữu tướng. Trong bài tụng thứ nhất, ở câu hai và câu ba nói rằng: phi hữu v.v… tức là khác nhau ở đây vậy. Luận rằng: “Nên biết an lập tức là dị môn v.v…” Thuật rằng: Trên đã giải thích về tướng, đây giải thích về an lập, tức là nghóa dị môn, vì nghóa sai biệt nên thành lập bốn thứ. <詞>PHẨM THỨ HAI: LUẬN BÀN VỀ CHƯỚNG Vì ngăn che cảnh sở tri nên khiến cho trí không phát sinh; vì si mê đối với chân Niết-bàn nên khiến cho không được chứng quả. Do hai ng- hóa này mà lập tên chướng; Phẩm này giải thích rộng nên gọi là biện. Luận rằng: Đã nói về chướng của tướng đó nên nay sẽ làm rõ. Thuật rằng: Trong phẩm này được chia làm ba phần lớn: Một là kết trước; khởi sau để mở đầu Luận. Hai là, từ “Tụng viết” trở xuống là giải thích phần chánh tông. Ba là, từ “nghóa chung của các chướng trước” trở đi là “tổng kết nghóa trên”. Đây nói về phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Cụ phần và nhất phần” đến “nói hai loại tánh của chướng”. Thuật rằng: Đây tức là phần thứ hai giải thích về chánh tông. Trong phẩm này cả thảy có mười bảy bài tụng. Trong phần “thập năng tác” tuy có hai bài tụng, nhưng do Ngài Thế Thân dãn thêm, nên chẳng phải là căn bản. Trong mười bảy bài tụng này hợp chia làm năm. Một bài đầu nói đủ về năm chướng; kế có hai bài tụng nói về chướng của Chánh gia hạnh, tức là chín kết, kế có sáu bài tụng nói phân nửa về chướng riêng của giác phần, Lục độ, Thập địa, sau có một bài tụng kết về hai chướng, vì chấp nhận diệt là giải thoát nên phải nói về y. Nhưng phần tổng kết văn dưới lấy đoạn phần của nghóa nên là mười một. Vì thể của năng chướng và sở chướng mỗi mỗi khác nhau, nay cái mà phán xét này do văn nghóa hợp rõ ràng. Đoạn kế là luận nên chia làm năm. Nay là bài tụng đầu nói về năm thứ chướng của cụ phần v.v… Ba câu trên nêu ra thể của năm chướng, một câu dưới nêu ra người sở chướng. Tuy nêu ra chướng có thể nhiếp hết cụ phần, nhưng căn cứ vào nghóa riêng, lại chia ra bốn thứ khác. Luận rằng: Từ “Cụ phần chướng” đến “vì chủng tánh pháp”. Thuật rằng: Luận xưa, đầu nói khắp tất cả, sau nói một phương, đối với kiến đạo của Bồ-tát và địa vị Như Lai. Đã biết phiền não hai cụ là chướng, hai hành bi trí, mỗi mỗi đều chướng ngại riêng; dẫu biết Bồ- tát chỉ cầu nơi trí, tức là do trí cũng trụ vào Niết-bàn, nên hai cái này là chướng. Văn khác dễ biết. Luận rằng: Từ “Tăng thạnh chướng” đến “tức là hành của đẳng phần kia”. Thuật rằng: Luận xưa đầu nói là trọng, sau đồng với đây. Trong hai chướng này, đầu là tăng ích sau là đẳng phần. Đối pháp quyển mười ba, Du-già quyển năm mươi tám và chín đều có nói rộng, song chỉ là thuần là phiền não. Vì đẳng phần này, kiến lợi hoặc cũng đắc được đẳng phần, các xứ phần nhiều tùy theo nói về thuần phiền não. Lại vì sao không nói là bạt trần? Do vì hai chướng này như dưới sẽ nói, ban đầu là chướng gia hạnh, chướng sau đều đắc. Bạt phần hành lược, phần bạt lược bớt không nói ra. Lại tức là tăng thạnh thành tựu bình đẳng. Bình đẳng tức là thành tựu bạt trần, bạt trần tức là nhiếp vào trong bình đẳng, vì không có chướng riêng, nên không nói ra. Bốn chướng trên này, đều là điệp văn trước trình bày sau. Còn một chướng kế, trước trình nghóa sau kết văn. Luận rằng: Từ “Thủ xả sinh tử” đến “có thủ xả chướng”. Thuật rằng: Lấy Niết-bàn, sinh tử là pháp chấp, nếu có lấy tức là đồng với hàng Nhị thừa. Nhưng nếu không có trụ vào chỗ nào thì đó là chướng thành Bồ-tát đại bi. Nay không muốn bỏ sinh tử để cầu Niết- bàn, khởi lên tâm đại bi, đắc được vô trụ xứ, liền không có chướng này. Các chướng này như trong Duy thức quyển thứ mười đã nói. Luận rằng: Từ “Năm chướng như thế” đến “hai thứ chủng tánh”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ tư, tổng kết năm chướng trê. Tùy theo chỗ ứng đó, nên chướng này là nói về chướng của Tam thừa, chẳng phải là định phối hợp. Nghóa là câu thứ nhất và câu thứ năm chỉ chướng Bồ-tát; câu thứ hai chỉ chướng hàng Nhị thừa; câu thứ ba và câu thứ tư nói về chướng Tam thừa, nên làm ra ba câu, không có câu thứ tư hoặc chỉ có câu thứ hai. Vì câu thứ ba và câu thứ tư chỉ chướng hàng Nhị thừa. Luận rằng: Từ “Lại nữa, tụng rằng” đến “viễn ly biến tri”. Thuật rằng: Đoạn văn thứ hai nói về chánh gia hạnh, chướng chín kết. Trong bài tụng thứ hai này, hai câu tụng đầu hiển bày chướng số để chỉ thể chướng, sáu câu khác nói về sở chướng, trong đây có thể biết. Luận rằng: Từ “Phiền não chướng” đến “chín thứ kết”. Thuật rằng: Tức giải thích hai câu đầu trong bài tụng. Trong đây tuy là chân thật nhưng cũng có sở tri chướng, phiền não thô nên lược không nói kia. Chín kết này như luận Đối Pháp cuối quyển thứ sáu nói, sở chướng cũng đồng. Luận rằng: Từ “Nhàm chán ái kết chướng” đến “không thể vứt bỏ”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ ba trong bài tụng. Xả bỏ nhuế sở chướng, tức là số lượng trong thiện. Nhàm chán ái sở chướng như trong Duy Thức nói. Một phần vô tham, tuy trong có số lượng riêng tức là chướng vô tham, dầu tức giận đối với vô tham cũng sẽ là chướng, nhưng tùy theo mỗi thứ khác nhau mà nói, không thể một ví dụ. Luận rằng: Từ “Bảy kết khác” đến “như chướng kế tiếp”. Thuật rằng: Đây là nêu ý chung. Nói biến tri, vì năng biến tri của trí kết thành pháp. Lại giải, biến tri tuy là vô vi, do tuệ có thể chứng được từ nơi mà cảnh đặt tên nên gọi là biến tri; hoặc từ vô lậu thấy năng chứng biến tri nên nói là chướng biến tri, tức là hiển bày chướng trí. Luận rằng: Từ “Nói mạn kết” đến “vì kia không đoạn”. Thuật rằng: Do lúc tu định, nghóa là đắc được pháp thù thắng, lúc đó liền có tâm ngã mạn khởi lên, tự mình ỷ lại lấn hiếp người khác, do đây là duyên nên thân kiến khó đoạn. Như Đối Pháp quyển thứ nhất nói trong phần tán loạn, lấy ngã mạn làm mầm của thân kiến, nên nói thân kiến giả dối. Như Duy Thức quyển thứ sáu chú thích sơ lược sẽ hiểu, nhưng lúc tu pháp thiện đều có chướng này. Vì chướng biến tri, hiển lúc đây quán trội hơn, vì chỉ căn cứ vào trội hơn, vì đây chỉ nói lúc tu đang quán đối pháp v.v… đều chung nói chướng. Luận rằng: Từ “Vô minh kết năng chướng” đến “vì các thủ uẩn”. Thuật rằng: Năm uẩn của hữu lậu vì có thể sinh ra thân kiến, nên gọi là “bỉ sự” (việc kia). Luận rằng: Từ “Kiến kết năng chướng” đến “vì diệt phỉ báng”. Thuật rằng: Ba kiến gọi là kiến kết, các chướng tuy thông với chướng khác, như văn đã nói. Luận rằng: Tư’”Thủ kết năng chướng” đến “là tịnh”. Thuật rằng: Hai thủ gọi là thủ kết, vì duyên vào giới và kiến v.v… đều lấy pháp khác làm tịnh, như Duy thức quyển thứ sáu đã nói. Từ chỗ thắng chướng mà chướng ngại đạo đế. Luận rằng: Từ “Nghi kết năng chướng” đến “vì công đức của Tam bảo”. Thuật rằng: Văn đó dễ biết. Nhưng trong đây nói nói về hạnh tăng trưởng, còn nếu như tà kiến thì đều làm chướng Tam bảo. Luận rằng: Từ “Tật kiến năng chướng” đến “vì lỗi kia”. Thuật rằng: Ở trong lợi dưỡng, nói “đẳng” ỡ đây tức là bình đẳng. Nhưng nếu ghen ghét người khác được lợi dưỡng v.v… thì sẽ làm chướng ngại biến tri của họ. Vì thế không nên đối với lợi dưỡng v.v… sinh tâm ghen ghét, khởi tâm tham lam v.v… Luận rằng: Từ “Xam kết năng chướng” đến “nên phát sinh đủ các chướng”. Thuật rằng: Chữ “bảo” có nghóa là thói quen yêu thích. Do bủn xỉn ái nhiễm các thập vật, nên xa lìa biến tri. Luận rằng: Từ “Lại có chướng khác” đến “tướng đó như thế nào?” Thuật rằng: Từ phần thứ ba trở xuống nói về chướng của Nhân, thế thì phần thứ nhất nêu ra lời hỏi của Tôn đã xong. Luận tụng rằng: Từ “Chẳng phải gia hạnh phi xứ” đến “không tu trị diệu định”. Thuật rằng: Từ câu thứ hai trở xuống, tùy theo lời hỏi mà trả lời. Trong đây có ba: Đầu tiên là nói năng chướng và sở chướng mỗi thứ khác nhau. Thứ hai từ “lại nữa các chướng như vậy” trở xuống, dùng mười năng tác làm rõ nghóa của chướng ngại này. Thứ ba, nói rõ nghóa của mười pháp sở chướng, tức lần lượt làm rõ nghóa sở chướng của các pháp thiện v.v… Từ đây trở xuống là nói phần đầu, trong đây có ba: Đầu có năm bài tụng, liệt kê tên năng chướng; kế đến có một bài tụng liệt kê tên sở chướng, sau có nửa bài tụng thuộc về năng sở chướn. Trong năm bài tụng này là liệt kê tên của chướng vậy. Có bài tụng riêng về sáu chước, nên thành ra ba mươi chướng. Luận rằng: Từ “Như vậy gọi là” đến “tướng nói như thế nào?” Thuật rằng: Đó là chỉ cho nghi vấn ở đoạn thứ hai ở trên. Luận tụng rằng: Từ “Khéo nhiếp thọ Bồ-đề” đến “Tự tại gọi là thiện v.v…” Thuật rằng: Đây là liệt kê tên sở chướng. Luận rằng: Từ “Các thiện pháp như vậy” đến “có mấy loại chướng?” Thuật rằng: Đây là bài tụng nói rõ nghi vấn về về năng chướng và sở chướng, vì sao chúng thuộc về chấp trước, mỗi thứ có bao nhiêu? Từ đó kết đoạn hai, chuyển qua đoạn ba. Luận tụng rằng: “Như vậy, mười thiện này, mỗi mỗi đều có ba chướng ngại trước. Thuật rằng: Loại thí dụ đã đồng, nên thuộc về chung. Luận rằng: Từ “Thiện có ba chướng” đến “không như lý gia hạnh”. Thuật rằng: Thiện được nói ở đây là chỉ cho tất cả pháp thiện, nhưng trong thứ lớp, căn cứ vào gia hạnh pháp thiện mà tuyên nói, hoặc thọ trì kinh v.v… có sinh đắc có thiện cũng là tên gia hạnh. Nói phi xứ là đối với thế gian học theo nghiệp tà, đều gọi là phi xứ. Coi là phi thiện xứ, tức đối với đây gia hạnh tạo tác, nên không như lý. Ở trong pháp thiện tuy gia hạnh tạo tác, nhưng không như lý. Nói tính của Đại thừa đối với Tiểu thừa gia hạnh tạo tác, tức là không phải gia hạnh v.v… là chướng ngại chẳng phải chỉ có thể của chướng. Phần sau đều tùy theo, nên chuẩn theo đây để rõ tướng đó, không thể nêu ra đầy đủ. Luận rằng: Từ “Ba chướng Bồ-đề” đến “cuối cùng viên mãn”. Thuật rằng: Nghóa này dễ hiểu. Luận rằng: Từ “Phát tâm Bồ-đề” đến “tánh của tâm rất mệt mỏi nhàm chán”. Thuật rằng: Vì tâm Bồ-đề nhiếp phục hết các pháp thiện, có thể nhiếp phục các pháp thiện mà lãnh thọ nó. Vì tâm Bồ-đề có thể giúp ích cho mình nên cũng gọi là nhiếp thọ. Nhiếp thọ rốt ráo là việc của Phật quả, nên cũng gọi là nhiếp thọ. Ban đầu thiếu chánh hạnh và thiện, chướng đầu có gì khác nhau? Đây tuy có gia hạnh nhưng chỉ một phần phần không đủ, nên gọi là “khuyết”, nó hoàn toàn không có, nên gọi là vô gia hạnh. Chướng đầu và chướng thứ hai có thể biết. Còn chướng thứ ba tuy đầy đủ tính tốt, nhưng đối với việc làm thiện nếu làm hết mức liền sinh ra tâm mệt mỏi nhàm chán thì không thể tu hành, nên cũng gọi là chướng. Luận rằng: Từ “Người có trí tuệ” đến “người xấu cùng ở chung”. Thuật rằng: Bồ-tát được gọi là người có trí tuệ, đối với tánh của Bồ-tát rõ biết, có ba thứ chướng. Tánh tức là chân như, là thật tánh của Bồ-tát, hoặc tức là trí tuệ, vì Bồ-tát là giác ngộ cho hữu tình. Luận rằng: Từ “Người thô bỉ trong đây” đến “gọi là người xấu”. Thuật rằng: Đây là chọn người thô bỉ và người xấu, hai hạng người sai khác. Đầu tiên tức là người ngu si, sau tức là căn cứ vào vật, nghóa là hủy bỏ. Đây là nói vì đối với người khác nói lỗi của họ, thích phá hoại việc thiện của người khác. Đức của họ thì ẩn giấu điều ác của họ thì hiện bày nên gọi là người xấu. Luận đều nói thích hủy báng người khác, nghóa là đồng với hai hạng người này. Luận rằng: Từ “Vô loạn có ba chướng” đến “tánh không thuần thục”. Thuật rằng: Điên đảo thô trọng, tức là bốn đảo, bảy đảo, thấy tâm tưởng đảo. Trong ba chướng của phiền não v.v…, tức là nghiệp của phiền não sinh ra ba thứ, tùy theo mỗi thứ mà có tánh khác. Tức là ở trong ba chướng, tùy theo khởi lên một thứ, còn hai thứ kia tánh không khởi. Hoặc hai thứ tuy không có, tùy theo có ở một thứ, là vì hai thứ đó khác với tất cả, nên gọi là tùy theo một thứ có tánh khác. Năng thành thục v.v… nghóa là tuệ có thể thành thục có thể giải thoát; hoặc tuệ này đối với sự giải thoát có thể thành thục. Vì chưa được thành thục, nên không thể không loạn. Do đó, ba thứ này đều là chướng của kiến đạo. Luận rằng: Từ “Chướng đoạn diệt gọi là vô chướng” đến “tánh buông lung”. Thuật rằng: Đây là chướng của tu đạo vậy. Nói “cùng sinh thô và trọng” tức là tất cả phiền não của tu đạo. Hai thứ đó có thể biết, tùy đó mà nói thêm cũng không thừa. Luận rằng: Từ “Hồi hướng có ba chướng” đến “tánh của tâm hạ liệt”. Thuật rằng: Do ba chướng này mà khiến cho tâm hướng về ba chỗ khác, không hướng về Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, mà lại khởi lên tâm thấp hèn ưa thích Niết-bàn. Đoạn văn đó dễ biết. Luận rằng: Từ “Không sợ hãi có ba chướng” đến “suy nghó về nghóa”. Thuật rằng: Không kính người tức là Phật và Tăng; không kính pháp tức là giáo pháp. Cho dù có kính pháp nhưng tự mình không suy nghó lựa chọn, tùy theo lời mà hiểu rõ, do đó mà không thể không sợ hãi. Sợ hãi vì giáo pháp quá mênh mông. Luận rằng: Từ “Không keo kiệt có ba chướng” đến “tâm không có thương xót”. Thuật rằng: Đầu tiên là keo kiệt pháp, thứ đến là keo kiệt về của cải, sau là vì không có lòng thương xót, thành ra chướng không keo kiệt. Luận rằng: Từ “Tự tại có ba chướng” đến “thắng Tam-ma-địa”. Thuật rằng: Thứ nhất là người thiếu thốn, do lúc xưa sinh tâm ganh ghét và tăng thêm, có thể cảm được nghiệp thiếu thốn pháp, do đó thời nay đối với pháp không nghe được, không được làm Đại Pháp sư tự tại. Hai là, tuy được nghe pháp, nhưng rất ít tra xét; Ba là, tuy nghe rộng pháp nhưng không tu thắng định, không đắc thần thông, không được uyên bác thuyết pháp tự tại. Các chướng trên đây, phế lập liên vòng kế tiếp nhau. Như chướng thứ ba giải thích, đều nên suy nghó lựa chọn. Chỉ rằng văn rộng rườm rà không thể thuật lại đầy đủ, không nói tam thừa, vị thứ được tự tại, trước sau sinh khởi, không tăng không giảm, đều giải thích như dưới đây. Luận rằng: Từ “Lại nữa, như vậy” đến “nên biết tên này”. Thuật rằng: Đây tức là nói ở trong chướng, đoạn lớn thứ hai, căn cứ vào mười nhân để giải thích. Trong đây có hai: Đầu tiên nêu ra chỗ khác đã nói về mười nhân; sau là nương vào tên của mười nhân lần lượt để giải thích nó. Đối với mười pháp thiện v.v…, có nghóa là mười năng tác, trong đây đã nói, tùy theo trong nghóa khác có mười năng tác. Ba mươi chướng này ở trong thiện v.v… tùy theo kinh luận khác đã nói trong nghóa. Có nghóa nhân của mười năng. Trong Đối Pháp quyển thứ tư v.v…, tức là nương vào nghóa của năng tác kia. Nên biết chỗ này là tên của mười nhân, nghóa là tên đồng với kia mà nghóa hướng về chỗ khá. Nhưng năng tác này đều là tăng thượng duyên, vì đã hướng về xa. Xưa luận về văn này rất khó hiểu. Luận rằng: Từ “Mười nghóa năng tác” đến “với nhãn thức v.v…” Thuật rằng: Nhãn v.v… là nhân của năng tác, còn thức v.v… là quả. Chẳng song, Đối Pháp nói nhân sinh khởi nghóa là thức hòa hợp, hướng về thức, hạn quả đã sinh của nhãn v.v…, thì phải có nhân hòa hợp của các thức. Trong đây nêu ra thể của nhân cũng không trái. Luận rằng: Từ “Hai an trụ năng tác” đến “như ánh sáng đối với các sắc”. Thuật rằng: Nhưng Đối Pháp nói, như đèn đối với các sắc, chỗ này hướng về rộng rãi. Văn khác dễ hiểu. Luận rằng: Từ “Năm biến hoại năng tác” đến “làm ra vòng xuyến v.v…” Thuật rằng: Đối Pháp nói, dùng trí thiện xảo để luyện vàng bạc. Trong đây tạm gọi đó là những thợ kim hoàn. Còn những người khác hướng về thật pháp nên cho là trí xảo thuật. Một bên nói theo giả, một bên nói theo thật trí, nhưng cũng không trái nhau. Luận rằng: Từ “Tám tín giải năng tác” đến “như Nhân đối với Tôn”. Thuật rằng: Tuy lửa và Tôn không khác nhau, cũng như khói đối với Nhân không khác. Nhưng khói hướng về trí của lửa sinh ra sự hiểu biết, nên gọi là tín giải năng tác; vì nhân hướng về nghóa của sở thành, nên gọi là hiển liễu năng tác. Tuy hai nghóa như nhau, do có sai biệt nên chia làm hai nhân. Luận rằng: Từ “Mười trí đắc năng tác” đến “đối với Niết-bàn v.v…” Thuật rằng: Đối Pháp gọi là Đẳng chí năng tác, nhưng chẳng phải nhất định gọi là Đẳng chí. Vì duyên vào nghóa của Niết-bàn, nên gọi là Chí đắc, vì Tuệ chí đối với diệt đắc được Niết-bàn này. Vì Luận kia gồm thông với tất cả, đều tập hợp các pháp, nên gọi là Đẳng chí, vì đều bình đẳng đối với cảnh. Luận rằng: Từ “Nương vào nghóa như vậy” đến “đối với sở tác của thức v.v…” Thuật rằng: Tạp Tập Luận v.v… tuy nói có mười năng tác mà không thấy có tụng. Nay nói những điều này là dẫn từ văn khác, hoặc ngài Thiên Thân tự nói. Xưa nói đều không phải hai bài tụng. Trong hai bài tụng này, một bài tụng đầu liệt kê ra tên của năng tác, còn bài tụng thứ hai nêu ra thể quả của năng tác. Ở trong phần liệt kê tên, một câu đâu nêu ra số lượng, còn ba câu sau liệt kê tên. Trong phần nêu ra năng tác trong thể quả, ba câu trên nêu ra thể của năng tác, một câu dưới nêu ra quả đã đắc. Nhân của thức tức là cái căn bản, còn Thánh đạo thì chẳng phải chỉ một loại. Văn còn lại đều dễ hiểu. Luận rằng: “Đối với chướng của thiện v.v…. nên biết cũng như vậy”. Thuật rằng: Đây tức là thứ hai, căn cứ vào tên gọi Thập năng tác của Luận kia để giải thích tác dụng của các chướng. Trong đây có hai, phần đầu kết đồng với luận kia, hai là chỉ giải thích nghóa. Đây là phần đầu. Luận rằng: Từ “Một là sinh khởi chướng” đến “vì sẽ sinh khởi”. Thuật rằng: Tên của Nhân ở đây đồng với Nhân của các luận khác, mà nghóa thì khác, điều đó dễ biết. Luận rằng: Từ “Hai là an trụ chướng” đến “vì không thể lay động”. Thuật rằng: Vì tâm đại Bồ-đề có thể an trụ trong pháp không thể lay động. Luận rằng: Từ “Ba là chướng nhậm trì” đến “có thể nhậm trì”. Thuật rằng: Vì tâm Bồ-đề rộng lớn có thể nhậm trì tất cả pháp của Phật, công đức phước trí, cũng có thể nhiếp thọ nhiều thứ thiện pháp và hữu tình. Luận rằng: Từ “Bốn là chiếu chướng rõ” đến “vì phải chiếu rõ” Thuật rằng: Vì chư Bồ-tát được gọi là người có trí tuệ. “Tánh” tức chỉ cho tự thể của Bồ-tát, vì trí tuệ chiếu rõ tất cả các pháp. Luận rằng: Từ “Năm là chướng biến hoại” đến “vì tên bất hoại”. Thuật rằng: Tức là vì đã kiến đạo nên có thể trừ được loạn; vì khiến cho chướng biến hoại nên gọi là biến hoại; hoặc có thể biến hoại nên gọi là biến hoại. Luận rằng: Từ “Sáu là chướng phân ly” đến “lìa trói buộc”. Thuật rằng: Tức là tu đạo thì có thể trừ được chướng, khiến cho chướng đoạn diệt, hoặc có thể phân ly. Luận rằng: Từ “Bảy là chướng chuyển biến” đến “vì tướng chuyển biến”. Thuật rằng: Trước đây tâm hướng về về chỗ khác, nay đã hồi hướng Vô thượng Bồ-đề. Vì là tâm Bồ-đề nên gọi là tâm chuyển biến. Luận rằng: Từ “Tám là chướng tín giải” đến “vì sợ hãi”. Thuật rằng: Nghóa là, do mình tin hiểu Phật pháp, tự mình có thể chọn lựa, liền có thể không sợ hãi, nên danh tuy đồng với kia nhưng sự hướng về thì đã khác. Luận rằng: Từ “Chín là chướng hiển rõ” đến “vì người khác hiển rõ”. Thuật rằng: Do kính trọng pháp, xem thường tài vật v.v… liền đối với hai thứ tài và vật đều không bỏn xẻn, thương xót hữu tình, lại vì người khác mà thuyết pháp, hoặc ngợi khen sự bố thí tài vật v.v… Luận rằng: Từ “Mười là chí đắc chướng” đến “vì tương tự tại”. Thuật rằng: Do nghiệp của đa văn nên đối với pháp liền được tự tại, tự tại thành tựu rồi có thể đến được Niết-bàn, cho nên chướng này gọi là Chí đắc chướng. Thế thì, chướng và sở chướng không tăng không giảm. Trên đây đều nên kể ra thể của chướng đó, nên e rằng nhàm chán rườm rà, nên chỉ nêu ra đại cương. Luận rằng: Thứ lớp nghóa của mười pháp sở chướng”. Thuật rằng: Đoạn lớn thứ ba là nói về thứ lớp của các phần trước sau, tức là thứ lớp nói về quả vi của Tam thừa. Luận xưa sót một đoạn văn thứ lớp dưới đây, nay hiệu đính phần nhiều là dựa vào bản tiếng Phạm, ắt đều đầy đủ có. Luận rằng: Từ “Nói có mong chứng đắc” đến “trước nên sinh khởi”. Thuật rằng: Thiện pháp thứ nhất tức là sinh khởi vậy. Luận rằng: Từ “Thắng thiện căn lực” đến “Vô thượng Bồ-đề”. Thuật rằng: Thứ hai, Bồ-đề tức là an trụ. Luận rằng: Từ “Vì khiến thiện căn” đến “tâm đại Bồ-đề”. Thuật rằng: Thứ tư, có trí tuệ tức là chiếu rõ. Luận rằng: Từ “Bồ-tát như thế” đến “khởi tâm không loạn đảo”. Thuật rằng: Thứ năm, không loạn tức là biến hoại. Luận rằng: Từ “Do trong kiến đạo” đến “đoạn tất cả chướng”. Thuật rằng: Thứ sáu, Vô chướng tức là phân ly. Luận rằng: Từ “Đã đoạn chướng rồi” đến “Chánh đẳng Bồ-đề”. Thuật rằng: Thứ bảy, hồi hướng tức là chuyển biến. Luận rằng: Từ “Do sức hồi hướng” đến “liền không sợ hãi”. Thuật rằng: Thứ tám, không sợ hãi tức là tin hiểu. Luận rằng: Từ “Đã không sợ hãi” đến “tuyên nói khai thị”. Thuật rằng: Thứ chín, không bủn xỉn tức là hiểu rõ. Luận rằng: Từ “Bồ-tát như vậy” đến “đều đắc được tự tại”. Thuật rằng: Thứ mười, tự tại tức là Chí đắc. Luận rằng: “Đó là thứ lớp mười nghóa của pháp thiện”. Thuật rằng: Tức là kết phần trên. Song chuẩn theo văn này, bốn vị đầu tức là phát tâm, kể từ địa vị sơ phát tâm và Thập tín trở về trước thì chưa được vào địa vị tăng kỳ. Phải từ địa vị Thế đệ nhất trở đi, hoặc là Tư lương vị thứ ba, Gia hạnh vị thứ tư, Kiến đạo vị thứ năm, Sở địa tu đạo thứ sáu, sau đó bỏ nó để đến Thất địa, đệ bát địa. Bảy lời khuyên thỉnh chư Phật được gọi là hồi hướng. Tám là ở địa thứ chín, được trí tự tạ. Chín là ở địa thứ mười, được nghiệp tự tại, làm đại thần thông, được mưa pháp lớn. Mười là ở Như Lai địa, đối với tất cả các pháp đầu tự tại. Tam thừa thông cục nghóa là trong đây chỉ nói vị kế Đại thừa. Vì chỉ nói Vô thượng đại Bồ-đề, nên trừ hàng Nhị thừa ra không nói. Luận rằng: Từ “Tuy các pháp thiện v.v…” đến “các chướng sai biệt”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ tư nói về Giác phần, và chướng sai biệt của các pháp thiện. Trong đây có hai: Đầu là giải thích lời hỏi bên ngoài, sinh ra văn luận sau. Hai là, từ “tụng rằng” trở đi, là chiếu theo nghóa chính để giải thích. Đây là phần đầu. Có người hỏi rằng: “Trước đã nói thiện pháp chướng tức là thuộc về giác phần và độ địa chướng. Vậy tại sao lại còn nói giác phần v.v… gọi là biệt chướng ư?” Vì giải thích lời hỏi này, mà luận đáp rằng: Tuy biết là đã nhiếp rồi, nhưng tổng và biệt có khác, nên cần nói riêng. Bởi thiện là chung, giác phần là riêng. Vì muốn làm rõ cái riêng của chướng chung ở trước, nên nay phải nói riêng. Luận tụng rằng: “Đối với giác phần và độ địa, có chướng riêng nên biết”. Thuật rằng: Từ phần thứ hai này trở xuống là nương vào nghóa chính để giải thích. Phần này có sáu bài tụng rưỡi, trong đó chia làm hai. Nửa bài tụng đầu nói chung về chướng riêng. Sáu bài tụng sau nói chung ba chướng riêng. Đây tức là phần đầu. Luận rằng: Từ “Lại ở giác phần” đến “mỗi mỗi có chướng riêng”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung đại cương của bài tụng, văn đó dễ hiểu. Luận rằng: Từ “Đối với Bồ-đề phần” đến “thấy lỗi của thô trọng”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống có sáu bài tụng nói riêng về ba chướng, lại chia làm ba: Một bài tụng đầu nói về chướng của pháp Bồ- đề phần; kế có hai bài tụng nói về chướng của độ; sau có ba bài tụng nói về chướng của mười địa. Đây tức là phần đầu. Luận rằng: Từ “Đối với bốn niệm trụ” đến “chướng bất thiện xảo”. Thuật rằng: “Niệm trụ” là giải thích về nghóa lân cận. Nói bốn niệm trụ tức là giải thích về số lượng. Nói thiện xảo tức là trí khéo léo, do ở trong việc không khéo léo. “Kế thân” nghóa là tịnh. Tịnh nếu nói rộng là chướng thể của tịnh, lạc, thường, ngã. Do chướng niệm trụ này, mà cần phải quán bất tịnh v.v… Luận rằng: “Đối với bốn Chánh đoạn có chướng giải đãi”. Thuật rằng: “Chánh thể” tức là đoạn, đó là giải thích theo lối trì nghiệp. Nói “bốn Chánh đoạn” tức là giải thích theo lối đới số. Vì thể tướng trái nhau, nên cũng gọi là Chánh thắng v.v… Như Biệt có bản khác nói, chướng thể tức là giải đãi. Luận rằng: Từ “Đối với bốn Thần túc” đến “tùy theo giảm một”. Thuật rằng: “Thần” nghóa là thần thông, “túc” của “thần” tức là Tam-ma-địa (thiền định). Vì túc của thần là giải thích theo luận chủ. Bốn Thần túc cũng là nghóa đới số. Bốn Thần túc này, gồm Dục thần túc v.v… là các pháp trợ giúp. Nếu thiếu một tức là chướng của thần túc. Đối với tám đoạn hành cũng tùy theo mà giảm một. Tám đoạn hành là như Đối Pháp quyển thứ mười và quyển hạ v.v… nói rằng: Gồm có Dục, Cần, Tín, An, Chánh niệm, Chánh trị, Tư và Xả. Chướng thể tức là định chướng, vì chưa đoạn được liền khiến cho giảm bớt. Nếu chưa phải đạt đuợc định chướng mà giảm một tức là chướng. Hỏi: Phải dốc lòng siêng năng quán thần túc, nếu giảm một thì có thể là chướng. Vậy tám đoạn hành đó đối với thần thông có sức thù thắng gì mà thiếu một là chướng? Đáp: Vì tu tập thần túc nhất định phải nương vào đoạn hành, nếu thiếu một tức là chướng của thần túc. Tám thứ này như thế nào? Gồm có bốn nghóa là Gia hạnh, Nhiếp thọ, Kế thuộc và Đối trị, Gia hạnh tức là ba thứ Dục, Cần, Tín; Nhiếp thọ tức là một thứ An. Kế thuộc tức là hai thứ Chánh niệm, Chánh trí. Đối trị tức là hai thứ Tư, Xã. Như Đối pháp cuối quyển thứ mười có nói: “Ba thứ trên này ở vị nào, vị này tự có phẩm Bồ-đề phần”. Nhưng nay chỉ phán xét ở vị Tư lương, mà chưa nói riêng ở tâm nào. Luận rằng: Từ “Đối với năm căn” đến “chướng của thắng thiện căn”. Thuật rằng: Dưới đây lại giải thích rằng: Vì muốn giải thoát rốt ráo nên phải tu năm căn. Các luận nói như vậy là đối với Noãn và Đảnh vị. Nếu không phải là Đảnh vị giải thoát viêm mãn thì không giữ được năm căn, tức là chướng vậy. Hoặc nói, chướng ấy chính là bất tín… Luận rằng: Từ “Đối với năm lực” đến “có tánh yếu kém”. Thuật rằng: Các luận nói ở đây là chỉ cho Đệ nhất pháp nhẫn. Khi năm căn do các chướng tạp nhiễm thì dùng Hạ phẩm để nhiếp, và nó trở thành chướng của năm lực. Tuy phẩm hạ thiếu, thuận theo phần quyết chọn, cũng là chướng của lực. Có lúc lập ra, vì là chướng sở tạp, nên không nói, hoặc chướng thể đồng với căn. Luận rằng: Từ “Đối với bảy Giác chi” đến “vì đã hiển bày”. Thuật rằng: Để kiến đạo tuy có các phiền não tham v.v… và ng- hiệp cùng quả, nhưng vì kiến là đầu, nên chỉ nói chướng của kiến. Hoặc vì sở trị của kiến đạo, nên gọi là thấy chỗ thiếu sót, tức là tất cả đều như vậy. Luận rằng: Từ “Đối với tám Thánh đạo” đến “vì đã hiện bày”. Thuật rằng: Ở trong tu đạo, tuy có kiến v.v… nhưng vì thông với thô trọng, nên không nói riêng kiến v.v… hiện hành và chủng tử. Vì sở tri chướng của các phiền não, đều gọi là thô trọng. Luận rằng: Từ “Đối với đáo bỉ ngạn” đến “thọ dụng pháp thành thục”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nói về chướng của mười độ. Một bài tụng đầu nói về quả chướng của sáu độ, một bài tụng sau nói về quả chướng của bốn độ. Luận rằng: Từ “Đây nói mười loại” đến “chướng của tự tại”. Thuật rằng: Hiển rõ chẳng phải tự tánh, tức là quả chướng trái với chướng. Nói chướng là làm rõ theo cách giải thích của Luận chủ, chẳng phải giải thích theo lối trì nghiệp, vì tánh chẳng phải chướng. Luận rằng: Từ “Nghóa là đối với bố thí” đến “nói thiện thú chướng”. Thuật rằng: Bố thí thì được giàu sang, trì giới thì được sinh vào đường lành. Do bỏn xẻn phạm giới, nên không được giàu sang, và sinh vào đường lành. Thể của chướng tức là bỏn xẻn và phạm giới. Luận rằng: Từ “Đối với an nhẫn” đến “bất xả hữu tình chướng”. Thuật rằng: Do an nhẫn nên nhiếp được các hữu tình. Nếu nói nhẫn nhục, tức là khi bị oán hại, thì không sinh tâm oán hại, nên nói là an nhẫn. Thể của chướng là xâm hại, tức là tổn hại giết hữu tình. Luận rằng: Từ “Đối với tinh tấn” đến “tăng công đức chướng”. Thuật rằng: Do phát tâm siêng năng, giảm tội tăng đức. Thể của chướng này tức là giải đãi. Luận rằng: Từ “Đối với thiền định” đến “thú nhập pháp chướng”. Thuật rằng: Do định khởi khắp, khiến cho đã hoá sinh, hướng vào chánh pháp. Luận xưa chú rằng: “Bốn mươi tâm vị, nay gọi là sơ nhập vào pháp của Phật”. Thể của chướng này tức là tán loạn. Luận rằng: Từ “Đối với Bát-nhã” đến “giải thoát chướng”. Thuật rằng: Nhờ có tuệ mà chướng được giải thoát. Thể của chướng này tức là ngu si. Luận rằng: Từ “Đối với phương tiện thiện xảo” đến “vì vô cùng tận”. Thuật rằng: Nhờ có phương tiện trí tuệ này mà khiến cho sáu độ trước, liên tiếp không cùng, tận bờ mé của vị lai, lợi lạc hữu tình. Do thể của các chướng sau đều là ngu si, còn pháp sở chướng là trí tuệ. Luận rằng: Từ “Đối với nguyện Ba-la-mật-đa” đến “vì thiện pháp sinh”. Thuật rằng: Đối với mười nguyện lớn này, nếu nguyện sinh ra ở chỗ nào, thì pháp thiện đó đều được liên tiếp không gián đoạn. Nhờ đó nguyện lớn nhiếp thọ, nên có thể thuận theo sinh ra pháp thiện. Người đời nay vì không nhiếp nguyện lớn, nên sinh ra chỗ nào cũng không theo pháp thiện. Nếu pháp thiện không sinh khởi, thì chẳng phải liên tục không gián đoạn. Luận rằng: Từ “Đối với lực Ba-la-mật-đa” đến “vì chẳng hàng phụ họ”. Thuật rằng: Nhờ có hai thứ lực này khiến cho người đã làm thiện, thì đều được quyết định, có thể hàng phục ở các chướng, chẳng phải bị chướng hàng phục, mà chính các độ có thể hàng phục được chướng. Vì vậy mà trong đây nói là quả chướng. Luận xưa nói: “Vì sức tu tập yếu nên không thể hàng phục được, nên chẳng phải là trợ đạo”. Nói vậy là không đúng. Luận rằng: Từ “Đối với trí Ba-la-mật-đa” đến “vì nghóa của giác”. Thuật rằng: Vì nhờ có trí nên khiến cho mình tự thọ dụng pháp và tự thành thục, khiến cho thành thục. Mặt khác dù có trí cũng không bằng được nghe lời của người khác mà giác ngộ được nghóa tướng. Hoặc nghe bằng tai. Hoặc ý nghó thầm, tức dùng ý quán để rõ nghóa. Tất cả các thể chướng này trong luận không thấy đề cập đến, chúng chẳng phải là tự thể chướng của Thập độ ở trong luận này. Nay chẳng theo nghóa này thì năng chướng đối với phú quý cho đến thành thục các pháp an lạc, được gọi là chướng. Các pháp hữu lậu tam tánh, chính là nghóa Thập độ ở trong luận này. Như luận Du-già quyển bảy mươi tám; Kinh Giải Thâm Mật, Nhiếp luận quyển bảy, và Duy thức quyển chín… cũng đều đã nói. Luận rằng: Từ “Đối với công đức của mười địa” đến “nên nói là mười chướng”. Thuật rằng: Đây là phần giải thích chướng riêng trong đoạn thứ ba vậy. Trong ba bài tụng này, hai bài tụng đầu nói về sở chướng pháp giới, còn một bài tụng thứ ba thì chia sở chướng có mười riêng, năng chướng cũng có mười. Luận rằng: Từ “Đối với Biến hành” đến “làm chướng mười địa”. Thuật rằng: Trước là giải thích bài tụng thứ ba, còn đây là nêu về thể của chướng. Vì hướng về Thanh văn, nên gọi là bất nhiễm, vô tri. Luận nói rằng: Từ “Trong địa đầu” đến “pháp tánh bình đẳng”. Thuật rằng: Từ đây sắp xuống là nói về sở chướng pháp giới ở trong bài tụng trước. Vì địa này chứng các pháp giới, tất cả pháp không, được pháp tánh tự tha bình đẳng. Chướng của địa này như Nhiếp Luận xưa, quyển thứ mười có nói, đó là tánh của phàm phu, vô minh. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ hai” đến “tương ưng xuất ly”. Thuật rằng: Niết-bàn của Tam thừa gọi là xuất ly. Các vị này khi được nhân đó thì gọi là nhứt thiết hành tướng. Người của Tam thừa đều được xuất ly, thì gọi là đồng xuất ly. Địa này từ đó có thể hiểu. Nay ta đối với Tam thừa đều được xuất ly, tất cả các hành tướng đều phải tu trị khắp. Tổng kết rằng: Đó lả cần siêng năng tu tập tương ứng xuất ly, tức là phải có hạnh siêng năng tu tập và tương ứng xuất ly. Nhiếp Luận xưa nói rằng: “Địa này suy nghó làm như vậy, nghóa là người của Tam thừa có ba hạnh sai biệt. Vì mê lý của Nhất thừa, nên gọi là vô minh”. Lại giải thích:”Đối với tất cả việc thiện mà chúng sinh đã làm, đều là phương tiện của Đại Bồ-tát thanh tịnh. Vì sao? Vì thanh tịnh chỉ là một, chưa đạt đến đại thanh tịnh, vì nghóa của vô trụ, nếu biết nên đồng trợ về đại đạo của Bồ-tát. Tại sao cần phải tu phương tiện mà không tu chánh đạo? Vì khi chưa nhập vào địa này, tức là không có trí này, nên gọi là vô minh. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ ba” đến “không cho là vấn nạn”. Thuật rằng: Nhiếp Luận xưa nói rằng: “Tâm do dự lo lắng về vô minh, Văn, Tư, Tu đều quên mất nên vô minh, chính là chướng địa này.Vì chưa đạt trí căn, chậm trễ đối với diệu định của Bồ-tát nên gọi là khổ; vì chướng căn và tu nên gọi là vô minh. Các chướng Văn, trì… không được thuần thục, khiến cho sự suy nghó rồi tu quên mất, nên gọi là vô minh. Đây đều là lời nói thêm của người làm luận này. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ tư” đến “cũng đều chuyển diệt”. Thuật rằng: Trong luận Vô Tánh Nhiếp Luận và các kinh đều có nói: “Vì pháp ái đã đoạn nên không xét đến ngã sở. Vì quán chân như này, chẳng phải thuộc về mình, chẳng phải thuộc về người khác, nên gọi là vô nhiếp nghóa. Địa trước đã đoạn Định ải, địa này đoạn pháp tham và ngã, điều này trong Phật Địa luận v.v… cũng đã nói nhiều. Nhiếp Luận xưa nói rằng: Các phiền não vi tế, thân kiến, vô minh… chính là chướng của địa này. Phiền não hiện hành là pháp chấp, lấy phân biệt chủng tửù làm thể. Vì sinh, trụ, diệt không dừng nên gọi là hành. Loại này làm Nhân cho Thân kiến, và cũng chính là thân kiến lấy nó để làm pháp phân biệt chủng loại. Tất cả phẩm cuối này có thể nói rộng hơn nữa. Đây đều là lời thêm vào, không phải là văn của luận. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ năm” đến “tâm thanh tịnh bình đẳng”. Thuật rằng: Luận Vô Tánh và Nhiếp Luận nói rằng: “Nếu rõ biết như vậy thì thấy Sắc pháp chẳng phải là tương tục hay sai biệt, vì thể của các Chân như chỉ có một”. Cựu Nhiếp Luận nói rằng: “Đối với Niết-bàn của Tiểu thừa chính là chướng của địa này”. Cho đến nói rộng như ở trong kinh Thập địa quyển thứ bảy nói rằng: “Nhờ có mười tâm bình đẳng thanh tịnh này mà được nhập vào năm địa. Bản Luận Biện Trung Biên xưa có nói rằng: “Đó là mười thứ tâm vui vẻ, thanh tịnh bình đẳng”. Nay nói là mười ý vui vẻ của tâm thanh tịnh bình đẳng. Ý vui vẻ tức là do tính dục hoặc dục giải làm thể, nên mới nói là mười ý vui vẻ thanh tịnh bình đẳng. Thập địa Luận giải thích rằng: “Tâm bình đẳng thanh tịnh là ở trong bình đẳng tâm được thanh tịnh”. Kinh nói rằng: 1/ Phật quá khứ tâm thanh tịnh bình đẳng; 2/ Phật vị lai; 3/ Phật hiện tại; 4/ Giới thanh tịnh; 5/ Tâm thanh tịnh; 6/ Trừ kiến nghi hối thanh tịnh; 7/ Trí đạo và phi đạo thanh tịnh; 8/ Hành đoạn trí thanh tịnh; 9/ Suy lường tất cả các pháp Bồ-đề phần trước kia thanh tịnh; 1 0/ Hóa độ tất cả chúng sinh thanh tịnh, tâm bình đẳng thâm tịnh. Luận kia giải thích rằng: “Đó là pháp của chư Phật và tùy thuận các pháp của Chư Phật. Vì sao? Vì mười lực của ba đời Chư Phật là Phật pháp, còn bảy đời Phật còn lại đều tùy thuận vào pháp của Phật. Các pháp của Phật nhờ đó mà thành tựu, và đều nhờ vào giới định, tuệ để hoá độ chúng sinh. Giới tức là pháp tịnh thứ tư. Định là pháp tinh thứ năm. Còn pháp tịnh thứ sáu, thứ bảy, thứ tám và thứ chín là trí tuệ thanh tịnh. Trong đó, Đệ bát thực hành đoạn trí, Tư lương tất cả các pháp Bồ-đề phần, dần dần chuyển lên quả vị cao hơn. Giáo hóa chúng sinh là pháp tịnh thứ mười. Trong mười pháp tịnh này, ba pháp trước thuộc về quả, bảy pháp còn lại là nhân. Trong bảy nhân ấy, sáu nhân trước thuộc về tự lợi, còn nhân thứ bảy thuộc về lời tha”. Đó là giải thích rộng của Luận trên. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ sáu” đến “vô nhiễm vô tịnh”. Thuật rằng: Luận Vô tánh nói rằng: “Nghóa là, biết tánh này vốn không tạp nhiễm cũng không thanh tịnh. Vì tạp nhiễm có trước, sau mới có thể thanh tịnh”. Đây tức là vốn không có nhiễm, sau mới có thể tịnh. Cựu Nhiếp Luận nói rằng: “Tướng hành thô vô minh là chướng của địa thứ sáu”. Và còn giải thích rộng nữa. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ bảy” đến “trong các thứ pháp tướng”. Thuật rằng: Luận Vô tánh nói rằng: “Như trong các kinh nói có vô vàn pháp sai biệt, đây thì không như vậy. Nay đây giải thích rằng: Do biết pháp không có tướng, nên không hành hữu tướng. Còn các pháp tướng ở trong khế kinh, xét đến cùng cũng là các pháp hữu tướng”. Cựu Nhiếp Luận nói rằng: “Tướng hành vi tế vô minh là chướng của của địa thứ bảy. Cho đến nói rộng như kinh nói: Long Vương do mười hai nhận duyên sinh hoặc sinh mà không sinh”. Vì sao nói sinh? Vì xét theo tục đế. Vì sao nói là không sinh? Vì xét theo chân đế. Ở trong mười hai nhân duyên, chưa có thể lìa được tướng của sinh, trụ ở tướng không sinh, nên không được vào địa thứ bảy. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ tám” đến “có tăng có giảm”. Thuật rằng: Luận Vô tánh nói rằng: Vì pháp ngoài không dùng, cho nên không tăng; vì các pháp không tăng cho nên không giảm. Hoặc nhiễm pháp giảm thời đây không giảm, lúc pháp tịnh tăng đây thì không tăng. Đối với Vô sinh pháp nhẫn, thì đã chứng đắc viên mãn, còn sơ địa thì chưa thể chứng đắc viên mãn”. Chữ “nhẫn” có nghóa là trí. Biết nhẫn là pháp Vô sinh nên gọi là Vô sinh nhẫn, Cựu Nhiếp Luận nói rằng: “Đối với vô tưởng tạo tác công dụng tâm vô minh, đó là chướng của địa thứ tám”. Luận rằng: Từ “Có bốn tự tại” đến “nghóa của sở chướng nương vào”. Thuật rằng: Nay sẽ giải thích địa thứ chín và địa thứ mười, mỗi thứ đều tự tại nên rộng sự thù thắng. Tự tại có bốn. Không phân biệt nghóa là vì không phải công dụng, tức là có thể nhập vào. Văn còn lại đều giải thích như thường. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ tám” đến “nghóa của chỗ nương vào”. Thuật rằng: Trước đã liệt kê bốn tên, nhưng chưa phối hợp với các địa. Nói rằng, hai tự tại đầu chính là hợp với tám địa trước. Song các kinh luận đều nói tám địa được hai tự tại. Luận Vô tánh nói rằng: “Đối với tướng và cõi của tám địa đều được tự tại. Tùy theo tướng sở cầu liền được hiện tiền, nên gọi là tướng tự tại. Và đó chính là các thứ châu báu vàng bạc. Vì sao luận này gọi là không phân biệt tự tại. Trong mười tự tại lại cũng không có tướng này, do vậy mà không nói tướng tự tại ư? Bổn luận xưa đồng với bổn luận này. Nay kết hợp lại giải thích rằng: “Do chứng được trí vô phân biệt nên ở trong tướng mà được tự tại. Đây là nói ý căn bản trong địa thứ tám được Vô công dụng tự lơi tự tại. Trong địa thứ chín được lợi tha tự tại. Các luận căn cứ vào quả mà nói nên nói tướng tự tại, cũng không trái nhau, tức là thuộc về một trí tự tại, nên gọi là vô phân biệt. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ chín” đến “vô ngại giải”. Thuật rằng: Vì gồm nói cả hai thứ trước nên nói cũng có thể. Lu- ận Vô tánh nói rằng: “Phần chứng được trí Ba-la-mật-đa, cho đến nói rộng là được vô ngại giải, nên gọi là tự tại. Nhưng trí Ba-la-mật-đa này chưa được viên mãn”. Cựu Nhiếp Luận nói rằng: “Đối với chúng sinh làm việc lợi ích mà không do dụng công, vô minh đó là chướng ngại của địa thứ chín. Luận rằng: Từ “Trong địa thứ mười” đến “vì việc hữu tình”. Thuật rằng: Luận Vô tánh nói: “Nghóa là, tùy theo sự mong cầu mà được thân, ngữ, ý nghiệp dụng tự tại. Nương vào năm thần thông tùy theo nghiệp tự tại đều có thể làm xong. Cho đến nói rộng. Luận xưa nói rằng: “Ở trong pháp chúng sinh mà vô minh không được tự tại, đó là chướng của địa thứ mười. Cũng như Luận Vô tánh, luận này cũng nói các chướng và địa đó. Cựu luận quyển thứ mười, Thập Địa Luận quyển thứ nhất, hai quyển Tân Nhiếp luận đều ở quyển thứ bảy, Duy Thức quyển thứ tám Du-già quyển thứ bảy mươi tám. Giải Thâm Mật v.v… đều cũng nói điều đó. Luận rằng: Từ “Lại lược tụng” đến “tất cả chướng giải thoát”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ năm, nói sơ lược về hai chướng. Trước là, nêu ra bài tụng. Trong bài tụng này chia làm hai: Hai câu tụng đầu là kết lại những điều đã nói ở trên vốn không ra ngoài hai chướng này; hai câu tụng sau giải thích hai nghóa này để nhiếp trọn nghóa của chướng. Luận rằng: Từ “Do hai thứ này” đến “tất cả chướng giải thoát”. Thuật rằng: Đây là giải thích đại cương bài tụng, cũng như chư Phật pháp khi nói tắt thì gọi là Phật vậy. Như luận nói, tất cả các chướng đều được giải thoát. Hai thứ này nhiếp hết các chướng, như trên đã nói là tùy theo sở ứng thuộc về hai chướng. Nhưng chướng của mười địa v.v… chẳng phải là chướng của phiền não hiện hành. Chủng tử phiền não, tuy chẳng phải chướng này, thô trọng cũng như vậy. Như nói hai chướng ba trụ, đoạn hoặc diệt, có thể mỗi mỗi đều thông với hai chướng. Còn chướng cụ phần v.v… thì như trước đã nói. Luận rằng: Từ “Nghóa chung của chường trước” đến “gọi là nhất phần chướng”. Thuật rằng: Từ phần chánh văn trở xuống là tổng kết phần thứ ba trước. Hoặc sở chướng có lớn có nhỏ; hoặc thể của chướng có lớn có nhỏ, nên gọi là đại tiểu chướng. Sở chướng là lớn nhỏ, các ví dụ dưới cũng như vậy. Luận rằng: Từ “Gia hạnh chướng” đến “gọi là bình đẳng chướng”. Thuật rằng: Đầu tiên tức là hành tham v.v…, sau tức là hành đẳng phần. Đầu là mạnh mẽ lanh lợi, làm chướng ngại các pháp của Thánh, các gia hạnh đạo, sau tánh bình đẳng. Vì chướng này đã giải thoát nhị biên không gián đoạn, nên được vô vi gọi là Chí đắc, chí đắc tức là chướng. Vì đối với gia hạnh vị do khoảng giữa khởi lên. Vì tánh bình đẳng, hành tướng không trái Bạc trần hạnh cũng chính là bình đẳng. Luận rằng: “Năm chướng thù thắng” tức là thủ xã sinh tử chướng”. Thuật rằng: Vì bỏ sinh tử, lấy Niết-bàn, đó là chướng đối với các Bồ-tát trên đường chứng đắc vô trụ xứ nên gọi là thù thắng chướng. Trên đây là nói về bài tụng thứ nhất. Luận rằng: “Sáu, chánh gia hạnh chướng nghóa là chín phiền não”. Thuật rằng: Tức là chín kết, mà đây nói là thô lợi chướng của Tam thừa chánh gia hạnh. Luận rằng: “Bảy, nhân chướng đến mười năng tác chướng”. Thuật rằng: Tức là ba mươi chướng và mười thiện v.v…, làm mười năng tác, nên gọi là chướng của nhân. Vì năng tác là nghóa của nhân, như nhân của năng tác. Luận rằng: “Tám chân thật chướng nghóa là giác phần chướng”. Thuật rằng: Khi nhập vào đạo vô lậu chân thật, chỉ có giác phần có thể nhập vào, còn chướng của giác phần này lại chướng ngại cho việc nhập vào chân thật. Luận rằng: “Chín, vô thượng tịnh chướng nghóa là đáo bỉ ngạn chướng”. Thuật rằng: Vì mười Ba-la-mật-đa có thể đắc Vô thượng Bồ-đề nên gọi là Vô thượng tịnh. Tịnh là chướng của nghóa hoặc, còn chướng này là vô thượng tịnh chướng. Luận rằng: “Mười, sai biệt thú chướng nghóa là chướng mười địa”. Thuật rằng: Mười địa này là chỗ hướng đến của mười Ba-la-mật- đa sai biệt. Do Ba-la-mật-đa sai biệt này, hành vị ở địa thứ mười, nên chướng của Thập địa chứng được gọi là sai biệt thú chướng. Luận rằng: “Mười một Nhiếp chướng nghóa là đã lược bớt hai chướng”. Thuật rằng: Đây là bài tụng sau cùng, nó nhiếp hết các chướng trước làm thành hai chướng. Nhưng trong luận xưa chỉ nói mười chướng. Ở đây nói thêm phần Nhiếp chướng ngoài mười chướng đó. Nay nói chướng trên này, chung có mười một nhưng không đồng với xưa. Lại nữa, đây tuy nhiếp là mười một chướng, nhưng vì đoạn phần không quá năm đoạn đã nói như trước, nên không thể do đây làm thành mười một chướng. Xét kỹ văn trên. BIỆN TRUNG BIỆN LUẬN THUẬT KÝ QUYỂN THƯỢNG (HẾT) Niên hiệu Văn An năm thứ năm từ ngày mười bốn đến ngày mười tám năm Mậu Thìn, viết xong sau xem nó lại, đọc phương quang minh chân ngôn có thể được xưng danh hiệu, Nam-mô Từ Bi Vạn Hạnh Bồ-tát, sáu lần. Sa-môn Tăng Chuyên. BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN THUẬT KÝ <卷>QUYỂN TRUNG PHẨM THỨ BA: BIỆN LUẬN CHÂN THẬT Không vọng gọi là chân, chẳng phải hư gọi là thật. Thể của nó vốn có mười thứ, hoặc có hoặc không, tùy theo pháp đó mà luận nên gọi là chân thật. Phẩm này nên gọi là phẩm Biện chân thật. Tuy rằng trong phẩm Biện tướng đã nói về ba tánh, nhưng đó chỉ nương vào cảnh để nói, còn nay phẩm này lại nói từ nơi cảnh đó mà khởi hạnh. Do vậy, ở đây nói ba tánh là nhằm làm rõ chín chân thật còn lại. Luận rằng: “Đã nói về chướng đó nên phải nói về chân thật”. Thuật rằng: Phẩm này có ba phần: Phần đầu là kết trước khởi sau để phát ra đầu mối của luận. Phần hai là từ “Tụng rằng” trở đi là biện giải thích về chính tông. Phần ba là từ “Nghóa chân thật chung, lược có hai” trở đi, là nhằm nhiếp lại những gì đã nói ở trên, tổng kết giải thích thể vốn không tăng không giảm. Từ đó làm rõ mười nguyên do. Luận tụng rằng: Từ “Chân thật chỉ có mười” đến “đều là trừ ngã kiến”. Thuật rằng: Đây tức là phần thứ hai nói về tôn chính. Trong đây gồm có hai mươi ba bài tụng được chia làm hai: Hai bài tụng đầu liệt kê tên của mười chân thật; hai mươi mốt bài tụng còn lại là giải thích riêng về mười thật ấy. Trong đó, kế có một bài tụng nói về căn bản chân thật; kế có một bài tụng rưỡi nói về chân thật thứ hai, kế có hai bài tụng rưỡi nói về chân thật thứ ba; kế có hai bài tụng nói về chân thật thứ tư; kế có hai bài tụng nói về chân thật thứ năm; kế có nửa bài tụng nói về chân thật thứ sáu; kế nó nửa bài tụng nói về chân thật thứ bảy; kế có một bài tụng nói về chân thật thứ tám; kế có một bài tụng nói về chân thật thứ chín; kế có chín bài tụng nói về chân thật thứ mười. Đây tức là phần đầu. Trong đó, câu thứ nhất nêu ra tên và số; bảy câu kế liệt kê mười tên; còn câu thứ tám là nói về chân thật thứ mười. Đến đoạn dưới đây sẽ biết. Luận rằng: “Nên biết chân thật chỉ có mười thứ”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ nhất. Chữ “duy” có nghóa là quyết định, như trước đã giải thích. Luận rằng: Từ “Một là căn bản chân thật” đến “mười thiện xảo chân thật”. Thuật rằng: Đây là giải thích sáu câu kế, nhằm liệt kê rõ tên của chân thật. Luận rằng: Từ “Lại nữa, mười thứ này” đến “vì mười ngã kiến”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ tám, nói nguyên do của mười thiện xảo. Luận rằng: Từ “Mười thiện xảo” đến “pháp vô vi thiện xảo”. Thuật rằng: Đây là liệt kê tên thiện xảo. Luận xưa nói là thắng trí. Nếu nói là thiện xảo là duyên với trí kia; còn nếu nói là thiện xảo chân thật tức trí này là lý của sở duyên, nên có hai thứ riêng. Nghóa là, từ Uẩn Thiện xảo cho đến pháp vô vi thiện xảo là giải thích theo cách của Luận chủ. Chân thật thiện xảo, cũng đồng với cách giải thích này. Chân thật của căn bản là sự, hoặc căn bản tức là chân thật. Hai cách giải thích có thể biết Luận rằng: “Trong đây thế nào là căn bản chân thật?” Thuật rằng: Trong này giải thích mười chân thật. Đây là phần giải thích chân thật đầu tiên. Trong đó, trước là hỏi đáp về ba tên căn bản. Còn từ “Điều nói ở đây” trở đi là giải thích căn bản thể. Đây là phần nghi vấn vậy. Luận rằng: “Vì nương vào đây để kiến lập các chân thật khác”. Thuật rằng: Đây là giải thích nghóa căn bản, vì nương vào đây mà lập chân thật khác vậy. Nhưng trong bài tụng này chưa giải thích nghóa của chân thật, nên để giải thích nó, đoạn dưới của Luận sẽ nói tiếp: Luận rằng: Từ “Điều nói ở đây” đến “chính là chân thật”. Thuật rằng: Đây là hỏi về nghóa của chân thật, nên mới có văn tụng dưới. Nhưng trong bài tụng này, chỉ giải thích nghóa của chân thật, cho nên nay hỏi. Không giải thích nghóa của căn bản, cho nên trước đã giải thích Trường hàng. Vì đối với nghóa chân thật này, người ngoài có sự nghi ngờ, còn nghóa căn bản của nó chẳng phải là điều của người ngoài tranh luận , không nên bàn đến. Luận tụng rằng: Từ “Nó về ba tự tánh” đến “Hữu vô chân thật”. Thuật rằng: Vì chỉ một câu luận trên chưa nói rõ hết, vì vậy đầu bài tụng nói sẽ nói rõ chung về ba tánh. Còn ba câu dưới, mỗi câu cũng đều nhằm làm rõ điều đó. Xem đoạn dưới sẽ rõ. có”. Luận rằng: Từ “Tức là đối với như vậy” đến “tướng thường chẳng Thuật rằng: Ba tánh là chung, tánh đầu là riêng, vì nó được nhiếp trong chuyển thứ năm, nên luận nói là trong. Chỉ một chữ đó là thông suốt cả ba tánh. Trong phần thứ nhất này, trước trình bày tánh không, vì tất cả thời tướng luôn luôn không có tức là nêu ra thể. Luận rằng: Từ “Chỉ thường chẳng có” đến “vì không có điên đảo”. Thuật rằng: Đây là giải thích về chân thật. Nghóa là có người hỏi rằng”Tánh này như đã nói là do vọng phân biệt, mà nói là chân thật, đó há chẳng phải là vọng sao?”. Nên nay luận nói, do sở chấp này, vốn thường chẳng có, nên nói là “phi hữu”, tức là chấp nhận chân thật, không điên đảo. Nếu nói cái này là có mà không biết nó vốn không, thì đúng là điên đảo. Vì cho là không, nên mới là chân thật. Luận rằng: “Tướng y tha khởi có nhưng chẳng phải thật”. Thuật rằng: Đây là nêu ra thể, thể tuy chẳng phải không, nhưng chẳng phải thật có. Nói có là lược ra tánh đầu, chẳng phải nói về chân tánh viên thành thật. Vì thể của tánh đầu là không có, còn chân thật của tánh sau là có. Luận rằng: Từ “Chỉ có chẳng phải chân” đến “vì có tánh loạn”. Thuật rằng: Đây là giải thích chân thật. Vì y tha khởi có tánh loạn thức, chẳng phải là hoàn toàn không, cũng chẳng phải thật có, nên nói là thật, cũng gọi là chân thật. Luận rằng: “Tướng của Viên thành thật cũng có, cũng phải chẳng phải có”. Thuật rằng: Đây là nêu ra thể, vì có vô ngã nên gọi là có, ngã không có nên gọi là không, cho nên luận nói cũng có cũng không. Luận rằng: Từ “Chỉ có chẳng phải có” đến “vì có tánh của không”. Thuật rằng: Đây là giải thích về chân thật. Vì nói có tánh tức là có vô ngã, vì không tức là không có ngã; cho nên gọi chung là tánh hữu không vậy. Nếu có thể biết được như vậy, thì gọi là thật lý, cũng gọi là chân thật. Để giải thích ba câu tụng dưới, cứ phối hợp thứ lớp sẽ rõ. Luận rằng:”Tướng chân thật như thế nào?”. Thuật rằng: Đây là hỏi về chân thật thứ hai, do đó mà dẫn ra văn tụng dưới. Luận tụng rằng: Từ “Đối với pháp sổ thủ thú” đến “gọi là chân thật tướng”. Thuật rằng: Trong sáu câu tụng đó, ba câu tụng đầu chỉ phối hợp, với ba tánh, còn ba câu sau thông với ba tánh trên. Nghóa là, đối với pháp sổ thủ thú, có tăng ích tổn giảm kiến, biết đây nên không chuyển khởi, nên gọi là chân thật tướng. Cho đến nói rộng hơn là sổ thủ thú. Nghóa của năm tướng xoay vòng không dừng nghó, trong phần liệt kê tên tướng tức là riêng, chân thật là chung. Trước nói về tướng chân thật, sau nói về tướng. Luận rằng: Từ “Đối với tất cả pháp” cho đến “kiến tổn giảm”. Thuật rằng: Bổ-đặc-già-la tức là sổ thủ thú. Đây không phải nói về người mà thuộc về loài khác. Vì chấp vào hai thể là có nên gọi là tăng ích kiến Phế bỏ hai tên vô hoặc là dã cũng là không có, gọi là tổn giảm kiến. Như Nhiếp Đại Thừa Luận v.v… cũng có nói nghóa này. Đây chính là nêu ra ở vọng sinh này. Luận rằng: Từ “Nếu biết điều này” đến “tự tánh chân thật tướng”. Thuật rằng: Nếu biết ngã và pháp này thể của nó vốn không, kiến ấy tăng giảm, liền không chuyển khởi. Đã biết nó là không, tức là tướng thật của Biến kế sở chấp. Luận rằng: Từ “Đối với các sở thú này” đến “và tổn giảm kiến”. Thuật rằng: Các luận Hộ Pháp v.v… nói rằng: thể của hai thủ thuộc về tánh. Y tha khởi, tức là ở trên đây khởi lên tăng giảm kiến. Ngài An Tuệ cho rằng, thể của hai thủ là biến kế sở chấp. Thức Sở y để làm tự chứng phần của hai thể này chính là y tha khởi. Nó dựa vào tự chứng phần này mà khởi lên tăng ích kiến. Nay nói hai thủ, thủ sở y này chấp thể là thật, gọi là tăng bát; thể của vọng thì không nói là giảm. Đây chính là nêu ra vọng sinh khởi ấy. Luận rằng: Từ “Nếu biết như vậy” đến “tướng trị tánh chân thật”. Thuật rằng: Nếu rõ biết tướng vọng huyễn của y tha này thì các kiến tăng giảm kia liền không chuyển khởi. Vọng pháp sở trì này chính là pháp chân thật của y tha khởi. Luận rằng: Từ “Đối với hữu và phi hữu” đến “và tổn giảm kiến”. Thuật rằng: Nghóa của hữu và phi hữu tức là Viên thành thật, như đã giải thích ở trước. Thể của tánh này cũng có, cũng không, cũng chẳng không, như phẩm tướng đã nói. Nếu nói nhất định có thì gọi là tăng, nếu nói nhất định không thì gọi là giảm. Đây chính là nói đến vọng sinh khởi ấy. Luận rằng: Từ “Nếu biết điều này” đến “tự thể chân thật tướng”. Thuật rằng: Biết rõ tánh có, chẳng có của Viên thành thật, thì kiến tăng giảm kia liền không chuyển khởi. Các sở tri có và không này chính là tánh tự tướng của Viên thành thật. Hỏi: Cái thật của căn bản trước nói là ba tánh. Nay lấy ba tánh chân thật này làm thể, thì có gì khác nhau? Vì vậy mà phải đáp nghi vấn này. Luận rằng: Từ “Đối với căn bản này” đến “tướng chân thật”. Thuật rằng: Luận chung về có và không thì gọi là căn bản thật; nếu chỉ lìa hai thứ lỗi tăng và giảm thì gọi là tướng chân thật, nên hai thứ này khác nhau. Luận rằng: Từ “Không có điên đảo chân thật” đến “bốn đảo thường v.v…” Thuật rằng: Đây là giải thích vô đảo chân thật thứ ba. Ở đây, thể của nó tức là bốn thứ thường v.v… Hỏi: Vì sao Khổ đế lại có tên riêng chân thật không điên đảo, còn ba đế khác thì lại gọi chung là nhân quả? Để trả lời câu hỏi này, nay luận nói rằng: Vì khổ đế nhằm đối trị kia bốn điên đảo thường hằng kia, còn các đế khác thì không, nên không thể xét như nhau được. Nay chỉ xét riêng về hành thì chỉ có Khổ đế là cùng với bốn hành này. Các bản sao khác cũng nói như vậy: Luận rằng: Từ “Vì sao nên biết” đến “lập ra chân thật ư?” Thuật rằng: Đây là sinh khởi lời hỏi. Luận tụng rằng: Từ Vô tánh và sinh diệt” đến “y căn bản chân thật”. Thuật rằng: Hai hành này được nói trong nửa bài tụng. Tám câu đầu chỉ nói về bốn hành, mỗi mỗi có ba hành tướng; câu thứ nảy và tám phối hợp thuộc về ba tánh. Tuy vậy, ba thứ không ở câu thứ hai đã nói thì cũng không khác với tự tánh. Tức là ba tánh: (1). Vô; (2). Dị tánh; (3). Tự tánh. Còn các điều khác thì như luận đã giải thích, đọc thì sẽ rõ. Luận rằng: Từ “Vô thường ba” đến “vì vị chuyển biến”. Thuật rằng: Nhưng nay vô thường thông duyên với ba tánh, nên nói năng duyên hành có biến kế sở chấp v.v…, thật chẳng có hành chung nói tánh trước sau. Thành Duy Thức nói: “Tuy nói thông với ba tánh nhưng kỳ thật chẳng thông”. Nếu xét theo lý, thì vô thường duyên với ba đế sau, còn tánh đầu chẳng thuộc về đế. Nói duyên với kia tức là thông với tất cả tâm, duyên với vô thường mà nói. Tuy nói là vô thường hành, thật chẳng phải thuộc về hành này. Lại do tánh kia là giả, nên gọi là vô thường. Các hành tướng dưới, do ở nơi đây nên biết. Luận rằng: Từ “Ba thứ khổ” đến “vì tướng hợp”. Thuật rằng: Hai thứ chấp ngã và pháp là tâm năng kế tâm. Vì kế tâm sở chấp, nên gọi là khổ, vì duyên vào tâm và tâm sở. Nhiễm phần là tướng của ba khổ, còn giả và thật đã nói như trước. Luận rằng: Từ “Có ba thứ không” đến “là tự tánh vậy”. Thuật rằng: Vì Biến kế sở chấp không có nên gọi là không. Tánh của y tha khởi và thể của biến kế sở chấp khác nhau, nên cũng nói là không. Tánh tuy chẳng phải hoàn toàn không có, và khác với sở chấp kia, không như sở chấp kia, nên cũng nói là tức không. Vì tánh của Viên thành thật thuộc về không lý. Nhưng như y tha khởi ở trên sở chấp thì không có, tức là viên thành thật thuộc về lý không, nên nói là không của y tha. Đó cũng là giả lập mà nói. Luận rằng: Từ “Vô ngã có ba” đến “tức là do tự tướng mà nói là vô ngã”. Thuật rằng: Ba thứ vô ngã này như ba “không” đã nói. Nhưng trong Hiển Dương Thánh Giáo Luận có nói đủ ba thứ này, này không thể dẫn ra nhiều. Như Thành Duy Thức luận sớ quyển đã nói. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy” đến “như trước nên biết”. Thuật rằng: Từ bốn hành đến nương vào ba tánh, mỗi mỗi đều có ba thứ, như trên đã nói. Nhưng luận xưa lại càng rườm rà, phú điệp mỗi mỗi nêu ra ở trước vô thường và khổ, ngoài các bài tụng còn có luận trường hàng. Như thứ lớp đã phối hợp thuộc về ba tánh, tức là trong bốn hành và ba tánh, cái đầu đều là sở chấp, kế là y tha, sau đều là thành thật. Luận rằng: “Nhân quả y tha khởi”. Ngài An Tuệ giải thích rằng: “Hai thủ tức là biến kế sở chấp. Thức tự thể phần sở y của hai thủ này là y tha khởi. Hai thủ sở y phần tự thể của thức đoạn được không sinh, không sinh tức là diệt, nên tạm gọi là y tha khởi”. Nay nói hai thủ ý, thủ là sở y, tánh viên thành thật tự thể của thức, nghóa là hai thứ cấu và tịnh, tức là trạch diệt và chân như. Ngài An Tuệ nói: “Cấu tịnh có hai thứ: Một là, Nhiễm cấu tịnh, tức đoạn phiền não chướng, gọi là Thạch diệt. Hai là, Bất nhiễm cấu tịnh, tức đoạn sỡ tri chướng, gọi là Chân như diệt”. Giải thích chung rằng: Do cấu tịnh nên được hai thứ chung, nghóa là trạch diệt và chân như hoặc cấu tịnh nên được trạch diệt, hoặc tánh vắng lặng, tức là chân như, gộp chung hai thứ lại nên nói: Hai thứ cấu và tịnh. Như Thành Duy Thức nói: Hai thủ diệt tức là trạch diệt. “Nay trạch diệt bổn tánh thuộc về diệt, hai luận đã nói khác nhau. Trong đây căn cứ vào sở y và sở đắc, vì hai thứ mỗi mỗi đều khác nhau, sở y và y tha khởi giả gọi là hai thủ diệt, sở đắc thuộc về bản tánh. Luận khác không căn cứ vào sở y chỉ nói về sở đắc, giả gọi là y tha, nên phần trạch diệt nhập vào hai thủ diệt. Nhưng vì đã nói ở trên đều lược bớt không nói, không phải thuộc về y tha khởi, cũng không trái nhau. Luận rằng: Từ “Đạo đế có ba” đến “kiến lập Đạo đế”. Thuật rằng: Ban đầu chỉ nói là chẳng phải có, nên chỉ riêng biết; kế chỉ nói diệt cho nên biết đoạn; sau vì đã là không có nên biết chứng. Song vì trên đã nói, nên ở đây lược bớt không nói vô nhiếp y tha, chẳng phải thể là không có. Luận rằng: Từ “Thô tế chân thật”, đến “căn bản chân thật”. Thuật rằng: Đây là giải thích phần thứ năm, nên mới dẫn ra văn này. Cả hai đều giải thích theo lối Y só và Trì nghiệp, giải thích tên mỗi mỗi có bốn trọng, như Duy Thức đã nói. Song vì căn cứ vào nhân quả nên chỉ nói về bốn đế; căn cứ vào môn thô tế nên nói hai đế này, vì tục thì thô chân thì tế. Trong đây chỉ căn cứ vào pháp vô lậu, gọi là thắng nghóa, Lậu, vô lậu, hữu vi vô vi là nói về môn an lập. Thế tục cho viên thành thật chẳng phải thế tục, vì loại của thế tục, giả gọi là thế tục. Căn cứ vào hai luận về thật, hữu lậu là thế tục, vô lậu là thắng nghóa. Nghóa của hư không, và trạch diệt là quy về hai đế, nhập vào ba tánh. Luận tụng rằng: Từ “Nên biết thế tục đế” đến “vô đảo hai viên thành”. Thuật rằng: Hai câu tụng này đầu nói về tục đế sau nói về thắng nghóa. Trong phần nói về thắng nghóa, câu thứ nhất nói về số, câu thứ hai liệt kê tên, còn hai câu dưới nói về thắng nghóa này. Nương vào một căn bản tức là tánh viên thành thật. Trong tánh viên thành thật có hai, một là hữu vi, hai là vô vi; cả hai đều nương vào đó. Trong ba tánh nương vào một tánh, trong hai thật cả hai đều nương vào nhau. Luận rằng: Từ “Thế tục đế có ba”, đến “kiến lập chân thật”. Thuật rằng: Tánh đều không có thể, chỉ có tên giả, gọi là giả thế tục. Thứ hai là hữu vi, có nghóa là dời đổi, gọi là hành thế tục. Tục của thứ ba là do tục thứ hai, hiển bày rõ cũng gọi là thế tục mà thể thật chẳng có. Luận rằng: Từ “Thắng nghóa đế cũng có ba”, đến “tên là Thắng nghóa”. Thuật rằng: Vô lậu quán tâm gọi là thắng trí, cảnh kia như vậy gọi là thắng nghóa. Nghóa tức là cảnh, là lựa ra hai thứ sau, nên thắng nghóa gọi là nghóa. Vì thắng nghóa thứ bảy chuyển nên giải thích tên nó theo lối y só. Luận xưa nói là chân như, hoặc nói đệ nhất nghóa đế, tức là không phải giải thích như đây. Luận rằng: Từ “Hai đắc thắng nghóa” đến “vì cũng là nghóa lợi”. Thuật rằng: Nay nói nghóa tức là nghóa lợi, vì có thể thuận theo lợi ích. Nghóa là, thể của Niết-bàn này là lấy thắng quả để lập cho cái tên là thắng. Lại có nghóa là lợi, nên cũng gọi là nghóa. Cũng là thắng, cũng là nghóa, tức là giải thích theo lối trì nghiệp. Chí đắc và sở đắc đều gọi là đắc thắng nghóa. Luận rằng: Từ “Ba chánh hạnh nghóa” đến “vì là nghóa”. Thuật rằng: Trí là hữu vi nên gọi là hành; vì nó khác với thiện hữu lậu nên lại lập ra tên chánh; lấy thắng pháp làm nghóa, nên gọi là thắng nghóa, tức là giải thích theo lối hữu tài. Nói chánh hạnh nghóa là lựa ra hai thứ trước. Duy Thức chỉ nói hành thắng nghóa mà không có chữ chánh. Nếu chỉ nói nghóa của thắng nghóa v.v… tức là không bỏ đi chữ nghóa ở trên v.v. Giải thích ba thứ này, đều giải thích theo lối trì nghiệp, đều bỏ đi chữ thượng, hiểu rõ ba cách giải thích như trên. Hợp uẩn gọi là thắng nghóa. Như Duy Thức Sớ Sao quyển thứ nhất đã nói. Luận rằng: Từ “Ba thắng nghóa này” đến “lập viên thành thật”. Thuật rằng: Đây là giải thích ba chữ Y, Bản, Nhất trong câu thứ bảy. Luận rằng: Từ “Viên thành thật” này “đến có sai biệt”. Thuật rằng: Đây là giải thích ba chữ Nhị, Viên, Thật trong câu thứ tám. Luận rằng: Từ “Vô vi nhiếp chung” đến “gọi là viên thành thật”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai chữ cuối câu bảy và hai chữ đầu câu tám. Ở trong hữu vi chỉ nói thánh đạo, vì đạo là chủ; trong vô lậu vị, vì Trí thắng khác, như Duy thức đã nói. Luận rằng: Từ “Cực thành thật” đến “thật lập kia”. Thuật rằng: Tiếng Phạm gọi là Tất-đà tức là nghóa của cực thành. Xưa nói Tất-đàn tức là tên này vậy. Nhưng hai chân thật này và hai chướng sở hành sau, như luận Du-già quyển ba mươi sáu, ở phẩm Chân thật nghóa, cũng đã nói rõ điều này. Nay nói cực thành tức là gọi tên khác vậy. Nay chia ra hai chỗ để giải thích, là muốn làm rõ chân thật thứ sáu, nên mới nói đến thể này. Luận tụng rằng: “Thế cực thành nương vào một, Lý cực thành nương vào ba”. Thuật rằng: Hai câu này, mỗi một giống như văn dễ biết. Luận rằng: Từ “Nếu việc thế gian” đến “cực thành chân thật”. Thuật rằng: Nói là “Sự” tức là chỉ cho pháp thế gian. Thế giàn thì chẳng phải Thánh, đó là giải thích tên thế gian. “Cọng sở an lập”, tức là tôn đã lập ra, đó là giải thích cực thành. “Quán tập” tức chỉ cho tập khí từ vô thỉ đến này. “Tùy nhập” nghóa là nói giải thích do tập quán, tùy theo chúng, việc của chúng mà giải thích. “Giác tuệ sở thú”, nghóa là cùng việc đã an lập. Tất cả thế gian đồng chấp vào việc này, tức là giải thích nghóa chân thật. Trong đây ý nói, nghóa là như trong một đại địa. Tất cả thế gian cùng đã lập ra, gọi nó là đất. Đất này là tập quán từ vô thỉ đến nay, tùy theo duyên vào tuệ hiểu biết của bậc Thánh. Tất cả thế gian đồng chấp vào việc này là đất chẳng phải lửa. Cho đến nói rộng tất cả pháp khác cũng vậy. Nay đây lại nêu ra năng tạo trong đất và sở tạo trong sắc luôn luôn, tất cả pháp đều như lý mà biết. Đây là giải thích ba chữ Thế, Cực, Thành trong câu thứ nhất của bài tụng. Luận rằng: Từ “Ở căn bản này” đến “sở chấp mà lập”. Thuật rằng: Trong bài tụng này, câu thứ nhất nương vào chữ thứ một và ha. Nhưng trong thế gian cũng có tâm thiện hoặc tâm vô ký v.v… nói đất chẳng phải lửa. “Phi hữu chấp” nghóa là nay trong chân đạo lý cực thành này thuộc về chân thật. Song lý luận này cũng thuộc về y tha khởi, tức là thông với ba tánh. Luận này căn cứ vào phần một sở chấp, luận Du-già căn cứ vào một phần y tha, còn Thành Duy Thức hợp duyên vào nó. Luận rằng: Từ “Nếu có lý nghóa” đến “cực thành chân thật”. Thuật rằng: “Nếu có lý nghóa tức là có nghóa của đạo lý. Đây là giải thích hai chữ đạo lý. Các ngoại đạo v.v… gọi là người thông minh sáng suốt; các pháp bên trong v.v… gọi là bậc hiền thiện; tất cả sinh ra khác gọi là tầm tư. Luận Du-già phẩm Chân Thật Nghóa nói, tuy có người nhiếp hết ba hạng này, v.v… cũng chính là nghóa cực thành này vậy. Nương vào ở trong ba lượng, bốn thứ đạo lý, chứng thành đạo lý, lập ra lý này. Kiến lập ra lý này, gọi là đạo lý cực thành chân thật. Nương vào ba lượng v.v… để giải thích nghóa của chân thật. Đây là giải thích chung ba chữ đầu của câu thứ hai trong bài tụng. Luận rằng: “Đây là nương vào căn bản lập ra ba chân thật”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai chữ cuối của câu thứ hai trong bài tụng. Nếu tâm đã biến chuyển chỉ có y tha khởi, nếu chân như v.v… tức là thuộc về tịnh sở hành, nếu chấp tâm duyên tức là thuộc về thế gian. Luận Du-già nương vào đây để nói chỉ là y tha. Trong đây đã thành tựu có thể thông với ba tánh, nên thuộc về ba tánh. Do đây mà Duy Thức nói, là ra hội này. Vì lý thông với chấp, vô chấp, tạp nhiễm, và thanh tịnh. Tánh của hai thể này, như luận Du-già v.v… đã nói, nay không thể dẫn ra nhiều. Luận rằng: Từ “Tịnh sở hành” đến “chân thật mà lập”. Thuật rằng: Đây vì giải thích phẩm thứ bảy, nên mới lập ra câu hỏi này. Sở hành và tịnh trí của phiền não chướng đều dựa theo lối giải thích của Luận chủ. Sở hành tức là chân thật, là giải thích theo lối trì nghiệp. Sở tri chướng v.v… chuẩn theo đây nên biết. Đầu tức là quán nhân, sau là quán pháp. Sở hành tức là hai thứ vô ngã. Luận tụng rằng: “Tịnh sở hành có hai, nương vào một viên thành thật”. Thuật rằng: Tức là vì lý của hai thứ vô ngã. Luận rằng: Từ “Phiền não sở tri” đến “vì cảnh của tịnh trí”. Thuật rằng: Đây là căn cứ vào không gián đoạn, ban đầu là giải thoát đạo, không có trí phân biệt, vì không duyên vào tánh khác mà nói thì chỉ có một Viên thành thật, hoặc Hậu đắc trí v.v… Đây có gì ngăn cản duyên thông với ba tánh? Tuy không chấp nhận cũng không ngăn cản, văn đây đồng với luận Du-già, Duy Thức v.v… Luận rằng: Từ “Vì sao nên biết” đến “ba chân thật ư?” Thuật rằng: Đây là giải thích phần thứ tám, liệt kê tên khởi lên lời hỏi. Luận tụng rằng: Từ “Gọi là biến kế sở chấp”, đến “thuộc về Viên thành thật”. Thuật rằng: Hai câu trên là hai tánh, hai câu dưới là một tánh. Luận rằng: Từ “Các tướng năm việc” đến “ba thứ chân thật”. Thuật rằng: Vì chẳng phải thuộc về thứ lớp, nên nói tùy ứng. Luận rằng: Từ “Nói tên nhiếp tại” đến “chân như chánh trí”. Thuật rằng: Trong đây nói nhiếp nghóa này và bốn chỗ khác của luận mỗi mỗi đều khác nhau. Như Thành Duy Thức quyển thứ tám, hội Đại Hòa. Luận rằng: Từ “Sai biệt chân thật”, đến “kia lập ra chân thật ư?” Thuật rằng: Đây là giải thích phần thứ chín, liệt kê tên văn hỏi. Xưa gọi là phần phá, đây không nói như vậy, vì đường mòn thẳng tuột mà là bảy thứ này gọi là thể tánh. Cũng hội với Giải Thâm Mật, Du-già, Hiển Dương, Phật Địa Luận v.v…, như Duy Thức Sớ. Luận tụng rằng: Từ “Lưu chuyển và an lập” đến “chánh hạnh nương vào một thứ sau”. Thuật rằng: Tuy có bảy “như” nhưng lược làm hai thí dụ: Ba y ba tánh và bốn y một tánh. Xem câu hai và ba của bài tụng thì rõ. Luận rằng: Từ “Lưu chuyển bảy thứ v.v…” đến “ba thứ chân như”. Thuật rằng: Vì chẳng phải thứ lớp, cũng nói tùy ứng, nghóa nó như thế nào? Luận rằng: Từ “Nói lưu chuyển kia” đến “lập viên thành thật”. Thuật rằng: Đây là giải thích văn tụng, làm hai thí dụ. Ba tùy cùng theo tướng nhiếp vào nhau, vì pháp lưu chuyển vọng chấp duyên khởi sinh tử, vì còn lại hai tạp nhiễm khác. Nghóa của bốn thật kia chỉ là viên thành thật. Luận xưa nói rằng: “Vì Thánh trí đã hiển bày”. Bản tiếng Phạm không nói, đây người dịch thêm nó vào. Ở đây thì cùng với Duy Thức trái nhau, luận khác tự hợp. Luận rằng: Từ “Thiện xảo chân thật” đến “nói có mười thứ”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là giải thích thiện xảo chân thật thứ mười, từ thứ mười trở xuống, tức là phẩm Điệp câu thứ bảy, thứ tám, trong bài tụng. Mười thứ thiện xảo đều trừ đi ngã kiến, nay lập tôn rồi mới làm ra bài tụng. Luận rằng: “Vì sao ở nơi uẩn v.v… khởi lên mười ngã kiến ư?” Thuật rằng: Đây là giải thích thiện xảo. Trước nói về sở trị, trong đây đầu tiên là hỏi, sau nêu ra tụng trả lời. Luận tụng rằng: Từ “Ở nơi uẩn v.v… ngã kiến” đến “quán tánh buộc và giải”. Thuật rằng: Phần nói về thiện xảo gồm có chín bài tụng, hợp làm ba phần. Phần đầu gồm một bài tụng rưỡi về mười thiện xảo, sở trị ngã kiến. Kế có nữa bài tụng nói về thiện xảo nương vào căn bản mà lập. Sau có bảy bài tụng nói về mười thiện xảo. Đây tức là phần đầu. Nói ngã kiến ở nơi uẩn v.v… tức là nêu chung tên, chấp vào một nhân dưới mới nêu ra mười kiến. Luận rằng: Ở nơi mười pháp của uẩn mà khởi lên mười thứ ngã kiến”. Thuật rằng: Đây là nêu chung. Nói ở “nơi uẩn v.v…” tức là duyên vào ở nơi uẩn v.v… mà khởi lên ngã kiến. Nói “lìa uẩn v.v…” tính toán do tướng của tâm quyết định là có, nên nói ở nơi uẩn v.v…; không lìa uẩn tính toán nên nói là ở nơi uẩn v.v… Luận rằng: Từ “Một chấp một tánh” đến “tánh của mười chấp tánh buộc, giải”. Thuật rằng: Tức là Sở trị riêng của mười thiện xảo vậy. Nghóa là chấp thể của uẩn làm ngã là một, nay nói có năm. Chấp giới làm ngã mà không thể làm nhân, nay nói là giới, chấp xứ làm ngã nhưng là thọ giả, nay nói đối với xứ chấp duyên khởi làm ngã có dụng tăng thượng. Chấp tức là uẩn v.v… ngã thể là quán, tam thừa quán khác, nay nói tam thừa chấp vào uẩn v.v… Ngã có trói buộc, có giải thoát, nay nói là hữu vi vô vi, chỉ nói hữu lậu có trói buộc chẳng phải khác, đây là sở trị. Luận rằng: “Vì trừ kiến này mà tu mười thiện xảo”. Thuật rằng: Thiện xảo là trí, trí có thể trừ kiến nên lần lượt tu. Luận rằng: Từ “Thế nào là mười thứ” đến “kiến lập chân thật”. Thuật rằng: Từ đoạn thứ hai trở xuống, sẽ nói về thiện xảo chân thật. Nương vào nghóa của căn bản, trước khởi lên lời hỏi. Chân thật nghóa là lý, thiện xảo là cảnh của sở duyên. Luận rằng: Từ “Do mười uẩn v.v…” đến “vì không tự tánh”. Thuật rằng: Đây là đáp chung lời hỏi trước. Luận rằng: “Vì sao nhiếp ở trong ba tự tánh”. Thuật rằng: Trước đã đáp chung nên càng xét lại lời hỏi. Luận tụng rằng: “Sở chấp này phân biệt pháp, tánh nghóa”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống xét lại trả lời. Chữ “thử” ở đây là chỉ mười chân thật. Chữ “tại bỉ” tức là ở căn bản chân thật kia. Trong đây v.v… đều do chuyển thứ bảy, vì trong mười thứ này là nghóa của sở chấp v.v…, cho nên ở trong bổn thật kia. Luận rằng: “Mười uẩn v.v… này, mỗi thứ có ba nghóa”. Thuật rằng: Đây là nêu chung về mười pháp uẩn v.v…, đã nói mỗi thứ có ba nghóa. Luận rằng: Từ “Vả lại, trong sắc uẩn” đến “tánh của Viên thành thật”. Thuật rằng: Trừ ra chín pháp khác, kệ chỉ nói về sắc, nên nói là “vả lại”. Sắc là sắc uẩn, trong một uẩn này đã gồm đủ. Nhưng vì nó thông với ba tánh khác, nên nói sắc là tánh của biến kế sở chấp. Theo cách giải thích của Luận chủ thì nói sắc thông với tánh này. Thể của sắc là không, đó là tánh Sở chấp của sắc uẩn y tha, tánh của sở chấp, cho nên đã nói sắc uẩn là thuộc về tánh sở chấp. Vì sở chấp sắc là không, thể chẳng phải là uẩn. Lại sắc uẩn là pháp khác của y tha tánh, còn y tha tánh bao quát chung nên đó là tánh y tha khởi của riêng sắc. Nương vào giải thích theo lối y só gọi là y tha sắc. Trong đây nói chỉ có loạn thức phân biệt, vì là sắc, chẳng phải chấp làm. Đây là thật sắc uẩn, gọi là y tha tánh. Lý của y tha sắc này giả gọi là sắc uẩn, là thuộc về Viên thành thật. Đây cũng nương vào cách giải thích theo lối y só. Luận rằng: Từ “Như là trong sắc uẩn”, đến “tùy ứng nên biết”. Thuật rằng: Uẩn có năm thứ. Ngoài sắc uẩn còn có bốn uẩn khác, cùng chín thứ giới v.v…, mỗi thứ có ba nghóa, tùy theo giới v.v… đó đã ứng với đạo lý, mỗi thứ có ba. Luận rằng: Từ “Các uẩn như vậy” đến “chân thật mà lập”. Thuật rằng: Từ trước đến nay nêu ra lý, dưới đây thâu nhập vào tánh, tùy theo giả thật như nói trong uẩn. Luận rằng: Từ “Tuy nói như vậy” đến “thiện xảo tu uẩn v.v…” Thuật rằng: Đây là điệp lại văn trước. Nghóa là tuy đã nói, đã hiển bày, do chưa hết, nên nói “tuy nói”. Luận rằng: “Nhưng chưa nói nghóa khác của các uẩn v.v… này”. Thuật rằng: Đây chính là hỏi, tức là hỏi về việc sở y của thiện xảo. Vì nương vào các pháp uẩn v.v… để tu thiện xảo. Luận rằng: “Vả lại, nghóa của uẩn đầu vì sao nên biết”. Thuật rằng: Trước là hỏi về uẩn vậy. Luận tụng rằng: “Chẳng phải một và lược chung phần đoạn nghóa gọi là uẩn”. Thuật rằng: Phần nói về thiện xảo, từ đoạn thứ hai trở xuống nói về mười pháp. Trong đây có hai, đầu chỉ nói về bốn pháp, sau kết lại về tu thiện xảo. Trong đoạn đầu gồm có bảy bài tụng, nửa bài đầu nói về uẩn. Kế có nửa bài tụng nói về Giới; Kế có nửa bài tụng nói về Xứ; Kế có nửa bài tụng nói về Duyên khởi; Kế có một bài tụng nói về Xứ và Phi xứ; nửa bài kế nói về căn; nửa bài kế nói về thế; một bài tụng kế nói về bốn đế; một bài tụng kế nói về Tam thừa; một bài tụng kế nói về hữu vi và vô vi. Đây tức là phần đầu. Tám chữ trên kể ra ba nghóa, hai chữ dưới kết lại tên đã nói, tức là một chữ “nghóa” thông suốt ba xứ. Luận rằng: “Nên biết các uẩn v.v… lược có ba nghóa”. Thuật rằng: Đây là nêu chung số. Luận rằng: Từ “Một và chẳng phải một nghóa” đến “hoặc xa hoặc gần”. Thuật rằng: Vì có mười một thứ nên nói chẳng phải một. Trong Luận Đối pháp quyển thứ hai, Luận Câu-xá quyển thứ nhất, đều có văn này, không biết kinh gì hoặc nói nhiều giới kinh. Luận rằng: Từ “Hai là lược chung nghóa” đến “lược làm một tụ”. Thuật rằng: Lược chung mười một sắc gọi là một uẩn, nên gọi là lược chung. Luận rằng: Từ “Ba phần đoạn nghóa” đến “nói tên sắc uẩn v.v…” Thuật rằng: Có thể phân đoạn thành Sắc uẩn, Thọ uẩn… Luận rằng: Mỗi thứ đều an lập riêng vì tướng của sắc v.v…” Thuật rằng: Giải thích nghóa của phần đoạn, mỗi thứ an lập riêng, vì tướng của sắc, thọ, tưởng v.v… Hỏi rằng: Xứ cũng nên gọi là uẩn, vì mỗi thứ an lập riêng, gọi là nhãn xứ v.v…? Đáp: Đây không như vậy. Tất cả mười một biến ngại sắc gọi là sắc uẩn, vì chẳng phải tất cả biến ngại cựu vi sắc đều gọi là nhãn xứ. Kinh này nói, tất cả các sắc hoặc quá khứ cho đến hoặc gần, tất cả như vậy lược làm một tụ. Đó là kinh Thuyết Danh Sắc Uẩn v.v… Nay luận chủ lấy làm ba nghóa, nhưng luận khác chỉ làm hai nghóa, không nêu lên sự phân biệt, đây là nghóa thứ ba. Luận rằng: Từ “Do tụ nghóa này” đến tụ “nghóa tên uẩn”. Thuật rằng: Vì ba nghóa này, tụ nghóa gọi là uẩn, đây là kết nghóa thành tựu, lại dẫn ra thí dụ như tràng mạch uẩn v.v… Luận rằng: “Đã nói về nghóa của uẩn, nghóa của giới như thế nào?” Thuật rằng: Đây là kết trước sinh ra sau. Luận tụng rằng: “Năng thủ và sở thủ kia, lấy nghóa của chủng tử nên gọi là giới”. Thuật rằng: Câu trên nêu ra ba thể, câu dưới giải thích nghóa giới, tức là nghóa của chủng tử thông với ba thủ. Luận rằng: Từ “Năng thủ nghóa của chủng tử” đến “sáu thức giới”. Thuật rằng: Sáu thức gọi là bỉ thủ. Bỉ hoặc bỉ sở thủ sắc; vì bỉ sở thủ sắc v.v… rõ được năng thủ. Bỉ hoặc bỉ năng thủ vì năng y của bỉ năng thủ rõ được cản. Bỉ hoặc bỉ căn cảnh, năng y của bỉ năng thủ căn, năng thủ của bỉ sở thủ cảnh. Vì rõ được hai thứ kia chỉ là thủ, bỉ thuộc về căn v.v…, thủ thuộc về thức v.v… đó là giải thích theo lối y só. Hoặc nương vào thể của của bỉ tức là thủ gọi là sáu thức, là không phải sở y của căn v.v… nên không gọi là năng thủ, bỉ thủ. Bỉ rõ biết năng thủ, tức là giải thích theo lối trì nghiệp. Đây gọi là chủng tử, chủng tử là nghóa giới, hiện hành cũng gọi là chủng tử. Luận rằng: Từ “Đã nói nghóa của giới”, đến “nghóa dụng môn gọi là xứ”. Thuật rằng: Đây là kết lại lời hỏi ở trước. Luận rằng: Từ “Trong đây năng thọ” đến “là sáu xứ ngoài”. Thuật rằng: Thọ dụng tức là thức, năng thọ là sáu căn. Vì sáu căn là môn thọ dụng của sáu thức, nên nói là nghóa của môn năng thọ dụng. Cảnh chuẩn theo đây có thể biết. Môn nghóa là trụ vào căn cảnh của nguyên do, vì thức sinh ra cảnh của nguyên do, nên gọi là môn, hoặc từ nơi dụ đặt tên. Luận rằng: Từ “Đã nói nghóa của xứ” đến “quả dụng không tăng giảm”. Thuật rằng: Nghóa của duyên khởi là nêu ra sự rõ ràng này. Đối với dụng của nhân quả, hiển bày rõ nơi ba pháp. Không tăng không giảm là nói về ba pháp đều như vậy. Luận rằng: Từ “Đối với dụng của nhân quả”, đến “nghóa là duyên khởi”. Thuật rằng: Tức nêu chung ý đại cương đã nói. Luận rằng: Từ “Trong đây tăng ích duyên” đến “chấp kia không nhân”. Thuật rằng: Vì chấp vào Đại Tự Tại, tự nhiên, bản, tế, có ngã tạo tác nên lấy đó làm nhân. Đối với nhân của hành vì thế mà vô minh càng tăng, nên gọi là tăng ích nhân. Cho đến các chi lão tử từ đó có thể biết. Hoặc chấp vào hành v.v… vốn không có nhân sinh ra, rồi bác bỏ không có vô minh v.v…, nên gọi là tổn giảm nhân. Như Đối Pháp quyển thứ tư, Du-già quyển thứ mười v.v…, đã nói: hữu vi ngăn che sự tính toán lập ra duyên sinh v.v… chính là đồng với đây. Luận rằng: Từ “Tăng ích quả” đến “quả của hành v.v…” Thuật rằng: Hành là quả của vô minh. Trong hành thật không có ngã, nay chấp trong hành có ngã là quả vô minh, nên gọi là tăng ích quả. Tổn giảm từ đó có thể biết, cho đến lão tử cũng như vậy. Luận rằng: Từ “Tăng ích dụng” đến “hoàn toàn không có công năng”. Thuật rằng: Thể của vô minh và dụng của vô minh không khác không một. Dụng đối với thể không có pháp thật khác. Nay chấp vào dụng này lìa thể thật có và thể nhất định khác, nên gọi là dụng tăng ích. Nhưng thể vô minh có ít công năng sinh ở nơi hành. Nói hoàn toàn không có công năng là bác bỏ không có dụng. Gọi là tổn giảm tức là duyên khởi tự tác, tha tác, phối hợp trong bốn câu giải thích. Luận rằng: Từ “Nếu không như vậy”, cho đến “duyên khởi thiện xảo”. Thuật rằng: Đã lìa hai chấp thì thiện xảo được sinh. Luận rằng: Tử “Đã nói nghóa của duyên khởi” đến “nghóa là xứ phi xứ”. Thuật rằng: Ba câu tụng trên trong bài liệt kê bảy thứ, câu thứ tư kết nghóa đã nói. Luận rằng: Từ “Nghóa của xứ và phi xứ” đến “nên biết tướng nó”. Thuật rằng: Kể ra chung đã nói ở bảy thứ xứ, ngã vô tự tại. Luận rằng: Từ “Một là đối với phi xứ ái” đến “cụ thời xuất hiện”. Thuật rằng: Đây là bốn thứ không được tự tại, văn đều dễ biết, không giải thích rườm rà lặp lại. Vì sao không có hai Phật Luân Vương? Một là vì không dùng; hai là do Luân Vương v.v… lúc tạo tác nghiệp không có tạo tác tướng nghiệp canh trạnh nhau. Giả sử có cùng một lúc phát nguyện tu hành, tức là ở giới địa khác nguyện sinh ở đây, cũng không thể được, vì lý nhất định không có. Phật xuất hiện tuy có thể đồng, vì e rằng thế gian nhàm chán, nên cũng không đều sinh. Giả sử có chúng sinh, hai vị Phật đã giáo hóa một lúc thuần thục, nhưng có thể mật giáo hóa, không làm Phật để giáo hóa, cũng nhất định không có hai vị Phật ra đời để giáo hóa cho hữu tình. Luận rằng: Từ “Năm đối với thắng chủ đến Chuyển Luân Vương v.v…” Thuật rằng: Ở đây nói “đẳng” là đồng lấy cả Đế Thích và Phạm Vương v.v… Tuy ở sắc giới không có người nữ, nhưng vì hiển bày sự thù thắng sinh sinh, nên lại nói Phạm Vương v.v… Luận rằng: Từ “Sáu, đối với sự chứng đắc” đến “Chánh đẳng Bồ-đề”. Thuật rằng: Chí của người nữ yếu kém, căn tánh chẳng thù thắng, nương vào chỗ thấp hèn yếu kém không được quả Phật v.v… Luận rằng: Từ “Bảy, đối với hiện hành” đến “bao hàm có thể hiện hành”. Thuật rằng: Các kiến đế vốn do tánh giới thành tựu. Tiểu thừa tham v.v… tu đoạn Thánh không hiện hành. Đại thừa kiến đoạn nên bậc Thánh không có, vì chấp nhận sắc pháp cũng kiến đoạn. Song ở trong bài tụng câu kết thứ tư nói rằng: “xứ phi xứ”. Nay giải bảy thứ đều nói là phi xứ. Dùng nghóa phi xứ, tuy phá ngã có tự tại, nên cuối cùng không nói xứ. Luận rằng: Từ “Trong kinh Đa Giới”, “đến là xứ phi xứ”. Thuật rằng: Vì kinh này nói về sáu mươi hai giới v.v… nên gọi là Đa giới. Như Du-già quyển chín mươi sáu nói. Luận rằng: Từ “Đã nói nghóa của xứ và phi xứ”, đến “dùng hai tịnh tăng thượng”. Thuật rằng: Vì có khởi lên lời hỏi nên có tụng trả lời bài. Căn là sở minh; Tăng thượng là giải thích nghóa căn, liệt kê ở nơi quả pháp, sáu thứ việc. Luận rằng: Từ “Hai mươi hai căn” đến “lập nghóa của tăng thượng”. Thuật rằng: Đây là nêu chung về mình. Luận rằng: Từ “Nói thủ cảnh” đến “chưa biết v.v… căn có nghóa là tăng thượng”. Thuật rằng: Văn này dễ hiểu, như luận Du-già quyển thứ năm mươi bảy và Duy Thức quyển thứ bảy nói. Luận rằng: Từ “Nói nghóa của căn” đến “là thể nghóa nên biết”. Thuật rằng: Câu đầu trong bài tụng nêu ra thể, câu sau giải thích nghóa của thế. Ở trong câu trên, là nói về ba đời của nhân quả đã dùng và nhân quả chưa dùng; nhân đã dùng và quả chưa dùng. Luận rằng: Từ “Nên biết nhân quả” đến “nghóa của ba đời khác nhau”. Thuật rằng: Đây là nêu chung như đã nói rõ, đối với câu trên trong bài tụng, tùy ứng có thể hiểu. Luận rằng: Từ “Nói là đối với nhân quả”, đến “là nghóa của hiện tại”. Thuật rằng: Trong luận Đối Pháp nói, quá khứ có tám nghóa, vị lai có bảy nghóa, hiện tại có năm nghóa. Nay mỗi thứ này, chỉ căn cứ vào một nghóa, chẳng phải nói hết lý. Vả lại, như luận Đối pháp, nói trong quá khứ có nhân rồi diệt vì quả không có, tức chẳng phải là ng- hóa nhân quả đã dùng. Nay chỉ căn cứ hoàn toàn ở đời nhất định tạo ra pháp, đồng với Du-già quyển năm mươi sáu, chẳng phải căn cứ vào sát na thiểu phần, thiểu phần ở đời nên đồng với Đối pháp v.v… Có thể như luận kia và Duy Thức quyển ba nói. Luận rằng: Từ “Đã nói nghóa của thế” đến “là nghóa của đế nên biết”. Thuật rằng: Ba câu tụng đầu giải thích về bốn đế, câu thứ tư là kết lại. Văn khác có thể hiểu. Luận rằng: Từ “Nói biết đế” đến “nói thuận theo pháp thọ”. Thuật rằng: Thọ căn, thọ cảnh, thọ tương ưng với pháp có thể thu- ận theo thọ sinh ra đều thuộc về khổ đế. Do vậy tức là lựa ra duyên của vô vi vô lậu. Tuy thọ sinh, vì không thuận theo nên chẳng phải thuộc về khổ đế, vì thọ sinh là dị thục sinh, trong đây nói riêng. Lại như Du-già quyển năm mươi lăm nói, Khổ đế rộng Tập đế hẹp. Luận rằng: Từ “Hai là tập thánh đế” đến “sở nhân các hành”. Thuật rằng: Nếu sở nhân tức là dị thục, pháp trước làm nhân sau, đều là Tập đế. Thể tánh của nó rộng hẹp, cùng với khổ không khác, đồng với thuyết của tiểu thừa nói. Nay văn này tuy đồng chung, năm mươi lăm thuyết là thù thắng. Luận rằng: Từ “Ba là diệt thánh đế” đến “năng đối trị đạo”. Thuật rằng: Các luận chỉ nói khổ diệt là diệt đế, nay cũng lấy tập diệt, vì căn cứ vào thật mà nói. Các nơi khác căn cứ vào thể, chỉ nói ở khổ hữu lậu đến hết, nay nói hai diệt, hiển bày hai đế khác nhau, cũng không trái nhau. Giải thích nghóa đế v.v…, như Đối Pháp quyển thứ sáu mươi bảy và Du-già quyển thứ năm mươi lăm v.v… đã nói. Luận rằng: Từ “Đã nói nghóa của đế” đến “là thừa nghóa nên biết”. Thuật rằng: Đây là giải thích về thừa thứ chín. Ba câu trên nêu ra thể, câu thứ tư kết lại. Nghóa là, trong câu thứ nhất, chữ “do” thông với Tam thừa, bốn chữ “công đức quá thất” thông với Nhị thừa. Trong câu thứ hai, chữ “trí” thông với Tam thừa, còn chữ “vô phân biệt” chỉ là Đại thừa. Trong câu thứ ba, hai chữ “xuất ly” thông với Tam thừa, chữ “y tha” chỉ là Thanh văn, chữ “tự” thông với cả độc giác và đại thừa. Có nghóa là vì y tha, quán công đức Niết-bàn lỗi của sinh tử mà khởi lê. Dùng trí quán lỗi của đức mà được xuất ly nên gọi là Thanh văn thừa. Nếu không nương vào người khác, chỉ nương vào chính mình, đối với pháp tự quán Niết-bàn, lỗi của sinh tử, mà khởi lên, tức dùng trí quán lỗi của đức này mà được xuất ly thì gọi là Độc giác thừa. Nếu không nương vào người khác chỉ nương vào chính mình khởi lên trí vô phân biệt quán pháp chân như, lợi ích tất cả mà xuấ ly thì gọi là Đại thừa. Song Đại thừa này tuy quán lỗi của đức, hiển bày sự cầu Nhất thiết trí, để độ cho tất cả hữu tình, không phải vì lỗi quán đức, nên lược không nói. Tuy lúc ở nơi nhân Độc giác, Bồ-tát cũng nương vào người khác, vì căn tánh đó và đắc quả sinh ra chỉ thích nương vào chính mình, nên lược không nói ra. Trong đây, trí hướng về mình nương vào quả, đều là chánh nhân đã quán người khác v.v… đều là thông suốt với duyên. Chỉ nương vào hai thứ này, mà nói riêng về Tam thừa thì chẳng phải tất cả hành đều đồng với hành. Luận rằng: Từ “Nên biết thừa”, đến “hiển bày nghóa của nó”. Thuật rằng: Vì trong bài tụng nói thì chung mà nghóa thì có riêng, đây là trường hàng nói như thuận theo nghóa. Luận rằng: Từ “Nếu nghe từ người khác nói”, đến “gọi vô thượng thừa”. Thuật rằng: Tam thừa sai biệt như văn dễ biết, phối hợp với bài tụng như trước. Luận rằng: Từ “Đã nói về nghóa của thừa” đến “hoặc nghóa của bỉ sở quán”. Thuật rằng: Câu đầu nêu chung, ba câu dưới nêu ra thể. Trong đây có năm nhược, ba nhược đầu là hữu vi, hai nhược sau là vô tri. Luận rằng: “Nên biết trong đây đã nói tên v.v… “ Thuật rằng: Trong đây, không tương ưng, gọi là tối vi thắng, có thể nhiếp các pháp, nêu lên cái khác v.v… tất cả đều là dã pháp. Song pháp của bình v.v… chẳng phải pháp uẩn khác v.v…, tuy dã không nói ra. Luận xưa nói: có lời nói tên là câu vị v.v… là không như vậy, chẳng phải tất cả không tương ưng, vì đều có lời nói. Luận rằng: “Nhân gọi là chủng tử, được nhiếp trong tàng thức”. Thuật rằng: Hoặc hiện hành, hoặc chủng tử đều gọi là nhân. Luận rằng: “Tướng gọi là khí thân, còn thọ dụng thì đầy đủ”. Thuật rằng: Thể của tướng dễ biết nên gọi là tướng. Khí nghóa là núi, sông v.v… Thân là năm căn bốn trần tụ hợp thành thân. Thọ dụng cụ tức là năm dục tư cụ, đây không lựa ra riêng thức nào là sở biến, chủng loại này tức là thâu nhiếp trong đây. Luận rằng: “Cập chuyển thức nhiếp ý thủ tư duy”. Thuật rằng: Tướng do chưa được cùng tận, luận thuyết đã nói. Đây là nhân khác, nên nói thuộc về tàng thức. Một là ý, xưa gọi là tâm, hai là thủ; ba là tư duy. Xưa gọi là phân biệt, tức khác với đây vậy. Luận rằng: Từ “Ý gọi là hằng thời” đến “vì tất cả cảnh”. Thuật rằng: Thức thứ bảy, thứ năm, thứ sáu, như lần lượt nên biết. Xưa luận rằng: thức thứ sáu gọi là phân biệt, vì đầy đủ ba phân biệt. Nay so sánh bổn tiếng Phạm không có lời này, mà chỉ gọi là tư duy, vì nó tìm tòi tư duy, chỉ hay ngữ ngôn và hành động vậy. Trong đây không nói tâm sở pháp là vì chỉ nêu lên vua kiêm cả thần. Hoặc thức thứ tám cũng chỉ nêu ra cảnh mà không nói kiến phần của nó, vì tướng phần dễ biết, kiến phần khó biết. Còn các thức thứ bảy, thứ năm, thứ sáu không nêu ra cảnh đó vì thức dễ biết. Từ trước đến nay đã bàn về nó quá nhiều. Ở đây nói không có tâm sở. Vì đây là phẩm nói về Tâm Vương vậy. Luận rằng: Từ “Nếu giả lập như vậy” đến “chung gọi là hữu vi”. Thuật rằng: Đây là kết trên nói về các pháp hữu vi. Nay nói tương ưng pháp, tức là thuộc về tâm v.v… Vì đối với bảy thức v.v… thể tướng dễ biết , tuy chung gọi là tướng, vì cùng với pháp khí v.v…, hành tướng khác nhau. Trong đây lại nói riêng về tương ưng pháp. Luận rằng: Từ “Hoặc tịch tịnh” đến “vì cảnh sở duyên”. Thuật rằng: Trạch diệt vô vi, vắng lặng, vì dứt được sự ồn náo xen lẫn nhau. Chân như không như vậy, nên chỉ nói riêng, nghóa khác có thể biết. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy” đến “chung gọi là vô vi”. Thuật rằng: Đây là tổng kết phần trên. Nhưng văn luận xưa không có nghóa sở quán, lại cho rằng năng tịch chính là cảnh tịch tịnh, đây nói trái vậy. Nhưng có thể chứng đạo vì làm chủ, nhiếp chung tất cả vô lậu hữu vi. Nay nói vô vi là vì chẳng phải do nghiệp phiền não gây ra. Nhưng đây có thể nói thông với hữu vi và vô vi, như Đối pháp quyển thứ hai đã nói. Luận rằng: Từ “Nên biết trong đây” đến “gọi là thiện xảo của uẩn v.v…”. Thuật rằng: Trước nay đã nói về mười cảnh của uẩn… Từ đây trở đi là nói duyên với trí, nên gọi là thiện xảo. Luận rằng: nghóa chung của chân thật đến sở hiển chân thật. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần lớn thứ ba đúc kết lại những điều trên đã nói. Tổng kết bao gồm giải thích thể không tăng không giảm, nói về mười nguyên do v.v… Luận rằng: Từ “Năng hiển chân thật” đến “hiển thị”. Thuật rằng: Gồm có hai thứ là tổng năng hiển và biệt tổng hiển. Luận rằng: “Sở hiển có chín. Một là, lìa tăng thượng mạn sở hiện chân thật”. Thuật rằng: Luận xưa nói sở hiển sau có mườ. “Mạn” nghóa là Độc giác nương vào xuất ly. Nay nói tức là đồng với Thanh văn, vì xuất ly này phân biệt sinh ra, tức là tướng chân thật, biết sở chấp không phải y tha vọng có, lìa tăng thượng mạn. Luận rằng: “Hai là, đối trị điên đảo sở hiện chân thật”. Thuật rằng: Ba vô thường v.v… không ngược với chân thật, vì đối trị bốn điên đảo. Luận rằng: Từ “Ba là, thanh văn thừa” đến “vì vi tế có thể giải thoát”. Thuật rằng: Nhân quả bốn đế chân thật nghóa là hàng Thanh văn xuất ly thô tế hai đế chân thật; Đại thừa xuất ly, do vì tục thô, có thể thành thục hữu tình, thực hành hạnh lợi tha, do thắng nghóa vi tế, có thô tự giải thoát, thực hành hạnh tự lợi, chẳng phải hàng Thanh văn thừa có việc như vậy, nên mỗi thứ đều khác nhau. Xưa luận nói rằng: thô thành thục hữu tình và pháp, tế giải thoát chúng sinh và pháp đều là trái. Luận rằng: Từ “Năm là, có thể hàng phục luận khác”, đến “hiểu rõ Đại thừa sở hiện chân thật”. Thuật rằng: Trong Cực thành thật chứng thành đạo lý, nương vào dụ đạo lý thành tựu nghóa đã nói, có thể hàng phục được người khác. Hai tịnh đã hiện hành gọi là hiển Đại thừa, vì hai chướng hai đoạn thành tựu Đại thừa. Luận rằng: “Nhập vào tất cả sở tri sở hiện chân thật”. Thuật rằng: Tức là thuộc về chân thật. Tất cả những gì đã biết không ngoài năm việc. Do ba thứ nhiếp năm thứ khiến cho hiểu rõ năm thứ, nên lập tên nhập. Luận rằng: “Tám là, hiển bày không hư vọng chân như, sở hiện chân thật. Thuật rằng: Tức là thật sai biệt, bảy thứ chân như. Luận rằng: “Chín là, nhập vào ngã chấp sự, tất cả bí mật sở hiện chân thật. Thuật rằng: Tức là mười thiện xảo thật. Ngã kiến của uẩn v.v… gọi là ngã chấp, ngã chấp tức là sự, nên gọi là ngã chấp sự. Tất cả bí mật tức là bốn bí mật, tức là đối trị v.v… Vì giải trừ ngã chấp nhập vào tất cả bí mật. Nói mười thiện xảo đối trị ngã kiến, nên gọi là đối trị bí mật. Khiến cho nhập vào chánh pháp nên gọi là linh nhập bí mật, tùy theo nghóa như vậy, như luận Nhiếp Đại thừa, luận Đối Pháp v.v… đã nói. Hoặc ngã chấp, nghóa là mười ngã kiến sự. Tức là kiến sở y sự, nghóa là mười pháp uẩn v.v… là nhập vào ngã chấp này, vì sự của sở y và tất cả bí mật. Mười thiện xảo chân thật này, luận xưa sở hiện mười thứ sau, chuẩn theo nghóa biết chẳng phải, vì có khả năng hiển bày cái khác là một, chỉ là mười chân thật, nên biết chẳng phải. ----------------------------------- <詞>PHẨM THỨ BỐN: BIỆN LUẬN TU ĐỐI TRỊ Nhiễm và thiện ngược nhau nên gọi đó là đối. Thiện xảo trừ đi nhiễm, lập ra tên trị. Đây chẳng phải tự sinh ra, cần phải tu tập mới khởi lên, vì vậy gọi là phẩm đối trị. Luận rằng: Từ “Đã nói chân thật” đến “pháp Bồ-đề phần”. Thuật rằng: Phẩm này có ba phần. Đầu là kết lại điều đã nói ở trước và nêu tên phẩm để nói. Hai là, từ “trong đây” trở đi là nói về Giác phần. Ba là, từ “tu đối trị tổng nghóa” trở đi là kết lại nghóa tu ở trước. Đây tức là phần đầu. Đối trị là gì? Tức là tu tất cả pháp Bồ-đề phần, nêu ra thể của đối trị. Nhưng đối trị lại có rất nhiều, đây rộng nhiếp cái khác nên chỉ nói đây. Luận rằng: “Trong đây trước nên nói tu niệm trụ”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nói về Giác phần. Ở trong phẩm này có mười bốn bài tụng, gồm chia làm ha: Phần đầu có mười hai bài tụng chỉ nói về đạo phẩm. Còn bài tụng thứ mười ba, mười bốn nói về các tướng sai biệt của tu giác phầ. Trong mười hai bài tụng được chia làm sáu: Đầu có một bài tụng nói về tu niệm trụ, kế một bài tụng nói về tu chánh đoạn, bốn bài tụng kế nói về tu thần túc, kế có hai bài tụng nói về tu căn lực. Đã hiểu rõ chung căn lực rồi, lại có nữa bài tụng nói chung về địa vị của căn lực, cho nên không phân biệt căn lực thành hai môn. Kế có hai bài tụng nói về tu Giác chi. Kế có hai bài tụng nói về tu đạo chi. Song giác phần của bảy vị tuy lai không đồng, nên để tu đối trị đạo thì trước phải tu niệm trụ. Luận Đối Pháp quyển thứ mưới nói: “Vì thế đầu tiên là chánh quán sát sự tướng của chân như, kiến lập niệm trụ”. Như kia nói rộng, nên trước nói đây. Trong đây có hai, phần đầu là từ “chọn chung giữ gìn” trở đi là làm rõ; phần sau là từ “tụng rằng” trở đi là nương vào nêu lên giải thích chính. Đây tức là phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Do thô trọng ái nhân”, đến “tu niệm trụ nên biết”. Thuật rằng: Hai câu tụng trên nói về sở trị của niệm trụ, hai câu tụng dưới nói về ý tu niệm trụ. Luận rằng: Từ “Thô trọng do thân”, đến “nhập vào khổ Thánh đế”. Thuật rằng: Hữu lậu thô trọng do thân hiển bày nó, vì quán thân mà biết thô trọng. Vì thân biết thô trọng, nên thân là quả của khổ, quán nhập vào khổ đế. Luận Đối Pháp quyển thứ mười nói: “Tất cả sắc thân đều là tướng của hành khổ, thô trọng đã hiển bày, nên quán ở nơi thân chính là đoạn được thô trọng”. Luận rằng: “Thân có thô trọng là do các hành làm tướng”. Thuật rằng: Đây là giải thích thô trọng vì do thân. Luận rằng: Từ “Do các thô” đến “hữu lậu đều khổ”. Thuật rằng: Thô trọng nghóa là không phải tên khác của điều nhu. Hữu lậu sắc thân do có thô trọng này, lấy các hành làm tướng của thể, tức là hành khổ, nên quán là khổ. Đối Pháp nói rằng: “Vì thế lúc tu quán hành thì đối trị được nó, do thân được khinh an vậy”. Song thô trọng chỉ có nhiễm, có thông với dị thục, có thông với vô lậu. Như xem Du-già quyển thứ hai, Duy Thức Sớ sau thì rõ. Luận rằng: Từ “Các hữu lậu thọ” đến “nhập vào Tập Thánh đế”. Thuật rằng: Đối pháp đồng với đây, văn dễ có thể biết. Nhưng trước hiển rõ trong đế, thọ là khổ đế, vì sao nay quán nhập vào tập đế? Vì đã hướng về cái khác. Như hướng về nhân thành thục tức là khổ đế, nếu sinh nghóa của ái quán nhập vào tập đế, vì nhân của tập đế, ái là thọ quả, quán nên nhập vào khổ, vấn nạn như đây, như lý nên suy nghó. Luận rằng: Từ “tâm là ngã chấp” đến “nhập vào Diệt Thánh đế”. Thuật rằng: Tâm là ngã chấp, là sở y, sở duyên của tự thể. Quán biết tâm ngã kiến này liền đoạn, nên nhập vào diệt đế. Luận rằng: “Bố ngã đoạn diệt do lìa đây”. Thuật rằng: Chưa chứng diệt đế, ngã kiến luôn luôn sinh, tu đạo cầu diệt, vì thường sợ ngã đoạn. Nay quán tâm là ngã chấp sự, ngã kiến đã đoạn, sợ hãi cũng không, do đây nhập vào diệt lìa ngã sợ hãi. Nên Đối Pháp nói: “Quán lìa ngã thức, nên quán không có tất cả sợ hãi ngã đoạn môn, vì sinh về Niết-bàn sợ hãi, vónh viễn xa lìa”. Văn tuy giải thích trái, ý đồng với đây. Luận rằng: Từ “Vì quán sát pháp” đến “nhập vào Đạo Thánh đế”. Thuật rằng: Đối với pháp nhiễm tịnh, tất cả ngu si, quán pháp có thể lìa nên quán nhập vào đạo. Nhưng Đối pháp nói: “Vì đoạn pháp sở trị, vì tu pháp năng trị, lúc quán pháp có thể nhập vào đạo đế”. Luận rằng: Từ “Vì thế mà nhập vào” đến “bốn niệm trụ quán”. Thuật rằng: Đây là kết lại phần trước nói về nghóa, giải thích hai câu tụng dưới, trong đây chỉ căn cứ vào đế quán mà nói. Luận Đối Pháp lại có đoạn nói trừ bốn đảo, được bốn ly phần, hợp thành ba nghóa thuyết. Luận rằng: Từ “Đã nói tu niệm trụ” đến “cần tu bốn Chánh đoạn”. Thuật rằng: Đây là giải thích nửa bài tụng đầu là kết lại niệm trụ, hai câu tụng sau nói về tu chánh đoạn và ý của tu. Luận rằng: Từ “Trước tu niệm trụ” đến “phẩm loại sai biệt”. Thuật rằng: Đây là giải thích nửa bài tụng trê. Bốn đế lý tức là năng trịï, bốn thứ cảnh tức là sở trị. Luận rằng: Từ “Nay là xa lìa” đến “tinh cần tu tập”. Thuật rằng: Trong đây có sáu câu, đây là hai câu đầu giải thích ba chữ “Vi viền ly” trong câu tụng thứ ba. Hai câu kế tiếp là giải thích câu thứ tư của bài tụng. Luận rằng: “Như đã nói sinh ra cho đến nói rộng”. Thuật rằng: Đây chỉ có kinh nói hiển bày bốn Chánh đoạn. Như khế kinh nói, đã sinh pháp ác, bất thiện, vì khiến cho đoạn dứt. Đây là nêu ra một chánh đoạn. Cho đến nói rộng nghóa là sinh ra muốn khuyến khích phát khởi chánh cần, thúc đẩy tâm giữ gìn tâm, cho đến ba chánh đoạn khác, là nói như đây. Như luận Hiển Dương Thánh Giáo quyển hai, luận Đối Pháp v.v… đã nói. Và kinh Bồ-tát Tạng cũng có thuyết này. Pháp uẩn tức là nói không đồng với đây, không có thể chứng được. Luận rằng: Từ “Đã nói tu chánh đoạn”, đến “cần tu tám đoạn hành”. Thuật rằng: Nói về bốn Thần túc, gồm có bốn bài tụng. Bài tụng thứ nhất nêu ra thể dụng này; Bài tụng thứ hai nói về sở trị của dụng; Bài tụng thứ ba nói về năng trị của dụng. Đây tức là phần đầu. Ở trong bài tụng này hai câu trên nói về tu thần túc tự tánh và ý của tu, hai câu dưới nói về dụng của thần túc. Luận rằng: Từ “Nương vào sở tu ở trước” đến “khả năng rất mực”. Thuật rằng: Nương vào trong Chánh đoạn ở trước, xa lìa hai ác, tu tập hai thiện và tinh tấn. Đó là giải thích chữ “y” trong bài tụng. Tâm liền an trụ, tức là giải thích chữ “trụ”. Hữu sở thậm năng nghóa là dụng của tâm. Ban đầu giải thích về chữ “thậm năng”, luận dưới tự rõ. Đây tức là giải thích câu tụng thứ nhất. Luận rằng: Từ “Vì thắng sự thành” đến “vì nhân của thắng sự”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ hai. Vì thắng thần thông v.v… sự thành, nên tu thần túc này. Thắng sự tức là tất cả các việc, vì là thắng sự là nhân của sở y. Thắng sự hiểu rõ thần, thắng nhân hiểu rõ túc, lúc gia hạnh trước đã cầu thắng sự, nhân của thắng sự tức là thần túc. Luận rằng: Từ “Trụ nghóa là tâm trụ”, đến “nói bốn Thần túc”. Thuật rằng: Đây là thể của trụ rộng, tức là đối với định đều có thể lìa ác, tu tập các thiện rồi, kế nói về thần túc mà tâm an trụ. Luận rằng: Từ “Tánh thậm năng này” đến “tu tám đoạn hành”. Thuật rằng: Tức là tánh thể của thậm năng này rộng. Luận rằng: Từ “Vì sao gọi là vi” đến “năm lỗi nên biết”. Thuật rằng: Ba câu trên nêu ra thể của năm lỗi, câu thứ tư kết lỗi nên biết, nhưng câu thứ nhất thì văn trường hàng không thấy giải thích. Giải đãi có thể biết. Vọng Thánh ngôn nghóa là, luận xưa nói Vọng tôn giáo tức là Hòa Thượng, A-xà-lê, giác giới, giáo thọ. Nhưng nay bậc Thánh nói, tức là lượng số của Thánh nói, vì xứng hợp với lý, có thể tin, gọi là Thánh ngôn. Dầu cho chẳng phải bậc tôn sư nói có thể tin dùng, tức gọi là Thánh ngôn. Câu trường hàng tự giải thích. Luận rằng: nên biết trong đây đến hợp làm một lỗi. Thuật rằng: Vì một năng trị cho nên gồm nó. Luận rằng: Từ “Nếu là trừ diệt” đến “đầy đủ các lỗi”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ ba. Để trừ đi hôn trục, thì phải có gia hạnh siêng năng để cầu đoạn nó. Nếu không tu gia hạnh nên thành lỗi. Sau khi đã đoạn xong, nên nhờ vào tâm đó, bình đẳng lưu chú trụ vào vô công dụng. Lại có gia hạnh tuyên nói động tâm đó, nên không làm và làm cả hai đều có lỗi. Luận rằng: Từ “Vì trừ năm thứ này” đến “hành tướng kia ư?” Thuật rằng: Đây là hỏi về sinh năng trị. Luận tụng rằng: Từ “Vì đoạn trừ giải đãi” đến “phục hành diệt đẳng lưu”. Thuật rằng: Bài tụng thứ nhất nêu lên một lỗi và bốn năng trị. Trong bài tụng thứ nhất, câu thứ nhất nói về sở trị; câu thứ hai nêu ra năng trị. Còn các câu ba và bốn nêu ra các nghóa của năng trị, hợp trị nguyên do của một lỗi. Sở y có một, năng y có hai, sở nhân có ba, năng quả có bốn. Trong bài tụng thứ hai, câu thứ nhất là sở trị, câu thứ hai thuật lại năng trị, câu thứ ba và bốn mỗi câu nêu ra nghóa của hai thứ năng trị, nguyên do của trị khác. Ký ngôn có một, giác trầm trạo có hai, phục hành có ba, diệt đẳng lưu có bốn, Trường hàng tự biết. Luận rằng: Từ “Vì diệt giải đãi” đến “tức là sở y v.v…” Thuật rằng: Đây chính là giải thích hai câu đầu của bài tụng thứ nhất, còn nửa bài tụng sau nói về bốn năng trị. lên”. Luận rằng: Từ “Sở y nghóa là dục” đến “vì nương vào dục khởi Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ ba của bài tụng đầu. Luận Đối Pháp nói: “Dục là siêng năng dựa vào do muốn cầu, vì được nghóa này nên phát tâm siêng năng tinh tấn”. Luận rằng: Từ “Sở nhân nghóa là tín” đến “liền vì hy vọng”. Thuật rằng: Vì tin Tam bảo liền khởi lên sự mong muốn, nên tin là muốn sinh khởi gần gủi với nhân. Luận Đối pháp nói: “Muốn cầu như vậy, không lìa tín thọ, vì có thể v.v…” Luận rằng: Từ “Năng quả nghóa là an” đến “vì đắc thắng định”. Thuật rằng: Do siêng năng nên đắc định, định khởi nên an lập. Vì có thể nương vào sự tinh tấn sinh ra quả, nên gọi là năng quả, chẳng phải năng tức là quả. Trên đây là gồm giải thích câu thứ tư của bài tụng đầu. Luận Đối Pháp chỉ khai an, vì nhiếp thọ lợi ích thân và tâm, căn cứ vào công năng của an để nói về năng trị. Luận rằng: Từ “Vì muốn đối trị” đến “tức là ký ngôn v.v…” Thuật rằng: Trong đây, hai câu đầu là giải thích câu thứ nhất của bài tụng thứ hai; còn lại là giải thích câu thứ hai. Lại nữa, từ trước đến nay, đều thuộc về nữa bài dưới, tức là ký ngôn v.v… Luận rằng: Từ “Ký ngôn nghóa là niệm” đến “vì hai lỗi”. Thuật rằng: Đây là giải thích về hai dụng năng trị ở trong câu thứ ba của bài tụng thứ hai. Tùy theo khởi lên trầm trạo, tức là năng tùy giác nên nói là tùy giác. Luận rằng: Từ “Phục hành nghóa là suy nghó”, đến “phát khởi gia hạnh”. Thuật rằng: Trầm trao lỗi mình v.v…, đây là kết phần trước. Vì muốn phục trừ nên khởi lên gia hạnh, chính là giải thích về phục hành. Vì gia hạnh đạo này chưa có thể đoạn ngang được, nên nói là phục trừ. Luận rằng: Từ “Diệt đẳng lưu” đến “bình đẳng mà lưu chuyển”. Thuật rằng: Đã đoạn diệt rồi v.v… kết phục hành ở trên. Đây chính là giải thích chữ diệt. Tâm liền trụ xã bình đẳng mà lưu chuyển chính là giải thích về đẳng lưu. Luận Đối Pháp quyển thứ nhất giải thích trong xã rằng: “Ban đầu tâm bình đẳng, kế đến tâm ngay thẳng, kế tâm không có công dụng”. Đây sẽ là nhậm vận thứ ba kia mà bình đẳng lưu chuyển. Vì trước sau tương tợ nhau, nên gọi là bình đẳng. Vì niệm niệm tùy theo duyên nên gọi là lưu, nên trừ diệt rồi tạo tác ra lỗi gia hạnh. Đây cũng là giải thích chung hai thứ năng trị ở câu thứ tư. Trong đây nói diệt, hoặc phục hoặc đoạn đều nói đoạn diệt, chẳng phải trong vị này đã có thể đoạn chướng. Nhưng Đối Pháp lại phân làm bốn, không giống với đây, vì căn cứ vào nghóa riêng. Luận rằng: Từ “Đã nói tu thần túc” đến “vì sao an lập”. Thuật rằng: Từ phần thứ tư này trở xuống nói về tu căn lực. Trong đây có hai bài tụng, bài thứ nhất nói về tu năm căn, nửa bài kế nói về tu, nửa bài kế nói chung về vị của căn lực, kế sẽ giải thích về căn, kết lại lời hỏi. Luận tụng rằng: Từ “Đã là chủng loại thiện thuận theo phần giải thoát”, đến “không tán loạn, suy nghó chọn lựa”. Thuật rằng: Câu thứ nhất kết lại phần thần túc ở trên, ba câu dưới chính là nói về tu căn. Câu thứ hai là còn giải thích thêm nghóa của căn, thông với năm căn, đều nói là tăng thượng. Luận rằng: Từ “Do bốn Thần túc” đến “thiện căn đầy đủ rồi”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng đầu. Chữ “do” là lời chuyển câu thứ ba. Nghóa là, do thần túc có thể diệt được năm lỗi, tu tám đoạn hành, tâm có khả năng kham nỗi. Vị này tức là thuận theo phần giải thích, thiện căn đầy đủ tâm mà tu tập, nên nói là đầy đủ rồi. Hỏi: Bốn Thần túc này đã nói tâm đầy đủ phần giải thoát, tu tập niệm, trụ chánh đoạn, đối với bốn tâm vị nào tu tập? Đáp: Ở phần chung này, tâm đầy đủ tu tập kia, nhưng có trước sau. Lại giải rằng: Tuy không có phần chánh văn, lấy nghóa để chuẩn theo. Như nói có bộ Ngũ đình tổng biệt, là thuận theo tâm quyết chọn phương tiện, tức là thuộc về phần khác. Nay đây đã nói bốn thứ thần túc, thuận theo phần giả thoát tâm, đầy đủ tu tập thuộc về phần giải tho- át, nên biết niệm xứ tại vị ở trước, chẳng phải thuận theo phương tiện của phần quyết chọn, nhưng phẩm này chưa thông. Căn cứ vào Bồ-tát trở xuống và cùng với hàng nhó thừa đều tu phẩm đạo. Văn này không chướng ngại hàng Nhị thừa, thần túc ở phần giải thích. Cho nên biết niệm trụ, lập ra luận Tát Bà Đa, chẳng phải là quyết chọn, nên đối với nghóa này nên đặt ra nhọc nhằn. Luận rằng: “Lại phải tu tập bảy thứ tăng thượng”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ hai. Nói tăng thượng tức là gần thì sinh ra năm lực, xa hơn thì sinh ra quả thượng đạo. Luận rằng: Từ “Một là dục tăng thượng” đến “tức là năm căn tín v.v…” Thuật rằng: Tín, Tấn, Niệm Định, Tuệ như lần lượt nên biết. Tinh tấn căn gọi là gia hạnh, vì khuyến khích phát khởi tâm thù thắng, vì định gia hạnh. Các căn còn lại dễ, có thể biết. Luận rằng: Từ “Đã nói tu năm căn” đến “thứ lớp vì sao?” Thuật rằng: Thứ hai là nói về lực. Ba câu trên là kết trước, hai câu dưới là sinh sau. Vì có hai lời hỏi: ”Vì sao năm lực?” tức hỏi về Thể tánh; “Thứ lớp như thế nào?” là hỏi về trước sau. Luận tụng rằng: tức là tổn chướng gọi là lực nhân quả lập ra thứ lớp. Thuật rằng: Câu thứ nhất là trả lời về thể tánh. Tức là, năm căn có thể tổn hại chướng ngại, nên nói đó là lực. Câu thứ hai là trả lời về thứ lớp, vì nương vào nhân quả lập ra thứ lớp. Luận rằng: Từ “Tức là như trước đã nói” đến “lại nói là lực”. Thuật rằng: Đây là giải thích ba chữ Tức, Danh, Lực trong câu tụng đầu, thể của nó không khác nhau. Luận rằng: Từ “Nói là năng phục diệt” đến “vì đã lăng tạp”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai chữ “tổn chướng” trong câu tụng đầu. Do bất tín v.v… chính là các sở trị này. Tín này v.v… có thể hàng phục các sở trị. Nếu không phải là vô lậu, thì không thể đoạn diệt. Các tín v.v… này không chỉ có thể hàng phục được các chướng của tín v.v… cũng không vì nó mà không tín các tín quấy nhiễu. Nghóa là hàng phục được tín nên khiến chúng không sinh khởi, nên gọi là là “lăng”. Chữ “tạp” có nghóa là gián cách. Tuy đã khởi tín… nhưng vì bất tín v.v… đã làm nó gián đoạn không phát sinh, nên gọi là “tạp”. Nay vì hợp lại không có, nên gọi là “lực”, đối với căn vị thì không như vậy mà chỉ gọi là căn. Đây tức là căn lực mà trước đã nói nguyên do. Trên đây là giải chung câu tụng đầu để trả lời câu hỏi thứ nhất vậy. Luận rằng: Từ “Năm thứ lớp này” đến “vì dẫn quả sau”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung câu thứ hai, để trả lời chung câu hỏi thứ hai. Luận rằng: Từ “Nếu như quyết định” đến “nên thứ lớp này nương vào nhân quả lập ra”. Thuật rằng: Đây là giải thích riêng câu thứ hai, để chỉ trả lời câu hỏi thứ hai. Trong bài tụng nói về nhân quả, chẳng phải đã tin vào nhân quả nên lập ra thứ lớp, nhưng xét trong tướng thì sinh nhân trước quả sau, nên mới lập ra thứ lớp, vì khi đã tin thì mới nói nhân quả vậy. Luận Đối Pháp nói: “Đó là nhân quả nhiễm tịnh của tứ Đế vậy”. Phối hợp với năm thứ tín v.v… như lần lượt có thể biết, không phải việc thì không biện luận được chân vô lậu. Luận rằng: Từ “Như trước đã nói” đến “sau tu năm căn”. Thuật rằng: Đây là phần thứ ba giải thích địa vị của căn lực tu. Trước là hỏi, trong đây trước điệp văn sau mới hỏi. Trước điệp văn này, nghóa là giải thích căn kết tu bốn Thần túc, mới là văn tu căn. Luận rằng: Từ “Địa vị nào tu tập” đến “địa vị năm lực ư?” Thuật rằng: Tuy đối với phần giải thoát v.v… nói về tu niệm trụ v.v… nhưng nay lời hỏi này, căn cứ vào căn và lực nói về tu quyết chọn, sự chung và riêng nương vào nhau, lấy chung làm chủ. Căn cứ vào giải thoát mà nói, niệm trụ v.v… giả thật nói riêng, lấy thật làm lời nói, căn lực là thật, quyết chọn là giả, nên căn cứ vào căn lực mà nói tu quyết chọn v.v… Luận tụng rằng: Thuận theo quyết chọn bốn thứ ở nơi năm căn, năm lực”. Thuật rằng: Thuận theo quyết chọn phân làm bốn thứ, hai thứ trước hai thứ sau, cả hai đoạn nói riêng nên nói là bốn thứ, văn khác có thể hiểu rõ. Luận rằng: Từ “Thuận theo phần quyết chọn” đến “địa vị năm lực”. Thuật rằng: Thuận theo phần quyết chọn là giải thích ba chữ đầu của câu tụng, tức giải thích chữ “năm căn”. Nhưng trong bài tụng thuận theo phần quyết chọn là chung, còn lại là riêng. Nhưng chỉ một chữ “tại” là đã thông suốt cả căn lực. Luận nói: Từ “Đã nói tu năm lực” đến “vì sao an lập?” Thuật rằng: Đoạn lớn thứ năm vì giải thích “giác chi”, nên tổng kết khởi lên lời hỏi, an lập tức là tự tánh hành tướng chung của lời hỏi. Luận tụng rằng: Từ “Giác chi lược có” đến “và ba vô nhiễm chi”. Thuật rằng: Trong phần trả lời có hai bài tụng. Bài tụng đầu buộc bảy làm năm, nêu ra tự tánh hành tướng. Bài tụng sau giải thích sự an lập v.v…, lấy ba khế hợp làm vô nhiễm. Trong bài tụng đầu này, câu thứ nhất căn cứ vào chung về sự buộc làm năm; ba câu dưới nêu ra riêng của năm chi. Luận rằng: Từ “Đây là trợ giác chi”, đến “địa vị ở kiến đạo”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai chữ “giác chi” trong bài tụng. “Giác” là nghóa của chọn lựa, tức là tuệ vô lậu. Ngoài nó ra sáu trợ khác nhằm trợ giúp cho niệm giác này, nên gọi là giác chi. “Chi” là phần nghóa. Tự tánh của niệm này, trợ dẫn các niệm sau cùng nhập vào giác chi nên gọi là giác chi. Hoặc niệm giác này, hiện tại, giúp đỡ cho chủng loại, chủng loại sau giúp đỡ cho hiện tại nên gọi là giác chi. Do địa vị giác này ở kiến đạo đều được vô lậu nên lập ra tên giác. Nhưng Biện Trung Biên xưa đồng với đây, các Pháp sư v.v… đều không thể biết. Luận rằng: “Nói rộng có bảy thứ, nói lược có năm chi”. Thuật rằng: Đây là giải thích năm chữ trong bài tụng. Do nói rộng vốn có bảy thứ nên tụng nói lược. Luận rằng: Từ “Một là, giác sở y chi” đến “nói là trạch pháp”. Thuật rằng: Địa vị năm lực trói buộc tâm khiến cho các pháp thiện không vọng mất; nay nhờ địa vị vô lậu nên trạch pháp được sinh. Trạch pháp nay tuy tương ưng với niệm nên cũng gọi là chi, vì là sở y. Niệm và trạch pháp tức là giải thích câu thứ hai trong bài tụng. Luận rằng: Từ “Ba là, giác xuất ly chi” đến “nói là hỷ”. Thuật rằng: Luận Đối Pháp nói: “Do sức tinh tấn có thể đạt đến khiến cho giác ngộ ra khỏi nên gọi là xuất ly chi. Do thế lực của hỷ thân được điều hòa, nên gọi là lợi ích. Nếu chưa được hỷ thân thường mạnh mẽ, thì có thể lấy hỷ giác làm lợi ích. Đây là giải thích câu thứ ba của bài tụng này. Luận rằng: Từ “Năm là, giác vô nhiễm chi” đến “nói an định xã”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung câu tụng thứ tư kia. Luận rằng: “Vì sao lại nói vô nhiễm có ba?” Thuật rằng: Vì giải thích ba chi nên khởi lên lời hỏi. Bốn thứ khác mỗi thứ tùy theo tự tánh công lực, mỗi mỗi thứ nói riêng. Vì sao ba chi này gọi là vô nhiễm an lập? Luận xưa nói vì là địa vị khác nhau. Luận tụng rằng: Từ “Do nhân duyên sở y” đến “nói vì vô nhiễm chi”. Thuật rằng: Hai câu trên nêu ra nguyên do, hai câu dưới kết hợp lập ra. Luận rằng: Từ “Khinh an tức la”ø đến “gần gũi với Đối Pháp”. Thuật rằng: Đối Pháp chỉ nói, do khinh an có thể trị lỗi thô trọng của thân vậy. An tức là nhân duyên kia không có nhiễm, nên không giải thích riêng. Nay trong đây giải thích, nói nhân duyên mà chẳng phải thật là nhân duyên. Do thô trọng kia tức là các chủng tử, và ba tạp nhiễm chính là nhân duyên. Khinh an hướng về cái khác là gần gũi với đối trị, đây là điều nhu, còn kia cứng rắn trơn rít. Do khinh an này đối trị với nhân duyên, nên khinh an cũng được gọi là vô nhiễm nhân duyên. Luận rằng: “Sở y nghóa là định tự tại, tức là xã. Thuật rằng: Luận Đối Pháp nói: “Do nương vào định mới được chuyển y”. Định gọi là tác vô nhiễm sở y, vì xã sở y của tự tánh chi, tự tánh tức là xã. Luận Đối pháp lại nói: “Vì có thể luôn luôn đối trị hai pháp tham và ưu, nên gọi là tự tánh. Tham và ưu hoặc có vui mừng nêu ra hành sinh, chưa có thể vắng lặng, nên xã trị kia, gọi là vô nhiễm tự tánh”. Chuẩn theo khả năng đối trị và trạch pháp chung, chỉ trừ đi tham và ưu là lực của xã. Tham ưu gọi là nhiễm, không phải nhiễm và ngược lại với đây, nên xã chính là vô nhiễm tự tánh. Luận rằng: Vì vậy, nghóa của vô nhiễm có ba”. Thuật rằng: Đây là riêng kết câu hỏi trước, khi hỏi về nuyên do của ba chi vô nhiễm. Luận rằng: Từ “Nói tu giác chi rồi”, đến “vì sao an lập?” Thuật rằng: Phần thứ sáu này sẽ giải thích tu đạo chi. Đầu là kết lời hỏi, đồng với giác chi. Luận tụng rằng: Từ “Phân biệt và hối thị”, đến “nên đạo chi làm tám”. Thuật rằng: Trong phần giải thích đạo chi cũng có hai bài tụng. Bài tụng đầu nêu chung đạo chi gồm có tám thứ; bài tụng sau giải thích khiến cho người khác tu v.v… Mỗi thứ có ba nguyên do. Trong đây ba câu tụng trên, căn cứ vào thể làm luận, kết về ở tám thứ. Luận rằng: Từ “Đối với địa vị tu đạo” đến “tám thứ lược còn bốn”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ tư. Nói về địa vị, rộng lược nhiều ít, trí thông không có giữ gìn, lập lấy tên đạo, chung riêng không đồng, lấy tên chi, đã chẳng phải chứng ban đầu, không lập tên giác. Sơ địa sơ quả đều thuộc về tu đạo, đều có chi này. Luận rằng: Từ “Một là, phân biệt chi”, đến “vì tự sở chứng”. Thuật rằng: Đây tức là trạch pháp, thâu nhiếp và hậu đắc trí, nên xuất thế căn bản trí, sau mới chứng đắc, vì có phân biệt đối với sở chứng trước, tạo tác bốn đế mười sáu tâm, nên gọi là phân biệt. Nhưng tu đạo này phải so sánh với luận Du-già quyển hai mươi lăm, văn của tướng kiến đạo. Luận rằng: Từ “Hai là, hối thị chi” đến “vì hối thị tha”. Thuật rằng: Chánh tư duy này là khởi lên nhân v.v… Chánh ngữ chính là phát ra lời dạy dỗ người khác, nên tư duy hoàn toàn là thiểu phần của chánh ngữ, vì căn cứ vào lời nói hoàn toàn, vì căn cứ vào nhân mà nói. Luận Đối Pháp nói: “Như sở chứng đó, vì phương tiện an lập phát ra lời nói”. Trên đây giải thích chung câu tụng thứ nhất. Luận rằng: Từ “Ba là, linh tha tín chi” đến “chánh niệm chánh định”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ hai và câu thứ ba, như thứ lớp nên biết, tức là giải thích chung. Luận rằng: “Do đạo chi này nói lược có bốn, nói rộng có tám”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ tư trong bài tụng. Chữ “do” của tam chuyển này là để giải thích chữ “do” của ngũ chuyển. Luận rằng: “Vì sao hai thứ sau, mỗi thứ đều chia làm ba”. Thuật rằng: Đây là lời hỏi câu tụng thứ hai và thứ ba, tức là đoạn thứ hai. Luận tụng rằng: Từ “Biểu hiện kiến giới xa lìa” đến “vì chướng tự tại”. Thuật rằng: Đây là, hai câu trên giải thích “tín” có ba; hai câu dưới giải thích trị chướng có ba. Luận rằng: Từ “Chánh ngữ có ba” đến “khiến cho người khác tin thọ”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung câu tụng thứ hai, như thứ lớp có thể biết. Luận rằng: Từ “Nghóa là do chánh ngữ” đến “hữu thắng xa lìa”. Thuật rằng: Luận Đối Pháp nói: “Do có chánh ngữ nên tùy theo chỗ chứng của mình khéo có thể hỏi đáp bàn luận quyết chọn. Do có tánh nghiệp nên việc qua lại, tiến dừng đều có chánh hạnh đầy đủ, không tạo tác năm tà nghiệp v.v…, như luận Bà-sa Sớ Sao đã nói. Do có chánh mạng nên theo đúng pháp xin cầu” Phật đã cho phép chấp nhận y bát, của cải đồ dùng”. Nay nói “ứng lượng” tức là không nên cầu xin nhiều, hay cầu xin mà tích trữ. “Ứng thời” là tùy theo thời đã tích trữ, không cầu vật phi thời, nên liền bốn việc là uống ăn v.v… Tin rồi liền có thù thắng xa lìa, tức là trụ trong chánh mạng thực hành hạnh ít muốn, biết đủ, nên gọi là viễn ly. Luận rằng: Từ “Chánh tinh tấn v.v…có ba” đến “và chướng tự tại”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung câu tụng thứ ba và thứ tư, như sau có thể biết. Luận rằng: Từ “Pháp Sở Đối này” đến “phẩm công đức thù thắng”. Thuật rằng: Trước giải thích về sở trị, sau giải thích năng trị. Thứ nhất tức là tất cả tu đạo phiền não, nghóa là mười pháp lớn. Thứ hai tức là tất cả tu đạo hoặc, trong đây chỉ căn cứ vào hành tướng chướng, nghóa là thọ, như Duy Thức v.v… đã nói. Luận rằng: Từ “Trong đây chánh tinh tấn”, đến “công đức thù thắng”. Thuật rằng: Luận Đối pháp nói: “Do có tinh tấn nên đối trị được tất cả chướng cần, chẳng phải là năng trị có thể đối trị được. Do có chánh niệm nên các vọng tướng không dừng kia vónh viễn không dung, không trôi lăn theo các tùy phiền não. Vì đây chẳng phải tướng năng trị không vọng dừng, nên nói năng trị dừng v.v… điều đó cùng với niệm giác tri vốn không trái nhau vậy. Vì kia chẳng phải là năng trị tức là chánh định. Có thể làm thanh tịnh chướng của công đức, nghóa là có thể dẫn phát ra thần thông v.v… Định chẳng phải là năng trị, vì gần gũi với tương ưng, do vậy mà được chuyển y này. Trong giác y được gọi là sở y , nhưng thể tánh của đạo chi này đã phế lập. Các thứ chánh tư duy, giả, thật, hữu lậu, vô lậu v.v… đều như bản sao nói. Luận rằng: “Các tu trị khác nhau, vì sao cần phải biết?” Thuật rằng: Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ hai nói về tướng sai biệt của tu giác phần, gồm có hai bài tụng. Bài tụng đầu nói về tu trị không đồng của Phàm và Thánh. Bài tụng sau nói về tu trị khác nhau của Nhất thừa và Nhị thừa. Đây là lời hỏi về phần đầu Luận tụng rằng: Từ “Hữu đảo thuận với vô đảo” đến “tu trị sai biệt”. Thuật rằng: Ba câu trên, như thứ lớp có phàm phu và hàng nhị Thánh riêng, câu thứ tư kết lại bài tụng đã nói. Luận rằng: Tu đối trị này lược có ba thứ. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng thứ tư. Chữ “tu” là đúng nghóa của chữ “tu”. “Đối trị” được hiểu là trị. Lược có ba thứ là giải thích sai biệt. Luận rằng: “Một là, hữu điên đảo thuận với vô điên đảo”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu tụng đầu. Nay nói điên đảo là chung với tên phiền não, vì phàm phu đều có đủ, nên gọi là hữu điên đảo. Nhưng tánh của sở tu trị là hữu lậu, nên gọi là hữu điên đảo. Có thể sinh ra vô lậu nên gọi là thuận vô đảo. Hoặc căn cứ vào sở y gọi là hữu điên đảo, căn cứ vào đối trị mà bàn luận thì gọi là thuận vô đảo. Luận rằng: “Hai là, vô điên đảo tùy theo hữu điên đảo”. Thuật rằng: Thể của bậc tu trị hữu học là vô lậu, nên gọi là vô điện đảo, nhưng thân sở y của họ do có phiền não, nên gọi là hữu đảo tùy. “Tùy” là đuổi theo, vì đảo điên theo, tùy theo chỗ tu trị cũng có hữu lậu, chẳng phải đã nói đây, vì căn cứ vào lời nói chung. Luận rằng: “Ba là, vô điên đảo và vô điên đảo tùy”. Thuật rằng: Thể của bậc tu trị hữu học là vô lậu, nên gọi là vô điên đảo, nhưng thân của só y do có phiền não, gọi là hữu đảo tùy. “Tùy” là đuổi theo, vì đảo điên theo, tùy theo chỗ tu tri cũng có hữu lậu, chẳng phải đã nói đây vì căn cứ vào lời chung. Luận rằng: “Ba là, vô điên đảo tùy”. Thuật rằng: Tánh của bậc tu trị vô học đều là vô lậu, nên gọi là vô điên đảo. Thân sở y của họ, lậu đã đoạn hết, nên gọi là vô đảo tùy. Luận rằng: Từ “Ba thứ như vậy” đến “địa vị hữu học, vô học”. Thuật rằng: Đã nói như trước, nhưng bậc hữu học và vô học thông với Tam thừa, vì lý không có ngăn che. Luận rằng: Từ “Bồ-tát Nhị thừa” đến “vì sao nên biết?” Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ hai, nói về tu trị khác nhau của phần Nhất thừa. Đây là nêu lên câu hỏi. Luận tụng rằng: Từ “Bồ-tát đã tu tập” đến “cùng với Nhị thừa sai biệt”. Luận rằng: Từ “Thanh văn, Độc giác” đến “thân v.v… là cảnh mà tu đối trị”. Thuật rằng: Vả lại, như niệm trụ, hàng Nhị thừa chỉ duyên vào pháp tự thân, tự thọ, tự tâm v.v… mà tu đối trị. Bồ-tát cũng duyên vào thân và thọ khác, cho đến nói rộng, mà tu đối trị. Sở duyên rộng hẹp cùng với Nhị thừa khác nhau. Đây là nêu lên ở nơi thân so với tất cả cảnh sở duyên của đối trị mà nói vậy. Luận rằng: Từ “Thanh văn, Độc giác” đến “hành tướng tư duy mà tu đối trị”. Thuật rằng: Vì hàng Nhị thừa duyên vào đế lý, dùng trí vô thường có sở đắc mà hành tướng tuy duy. Còn Bồ-tát duyên vào chân như, không lấy trí sở đắc hành tướng tư duy, mà tu đối trị, tạo tác ý trống rỗng đã sai khác nên cùng với hàng Nhị thừa sai biệt. Luận rằng: Từ “Thanh văn, Độc giác” đến “Vô trụ Niết-bàn”. Thuật rằng: Hàng Nhị thừ nhàm chán sinh tử, vui vẻ cầu lìa sự ràng buộc, đắc ở Niết-bàn, chỉ cầu tự lợi. Bồ-tát vì tâm thương xót rộng lớn, vì không nhàm chán sinh tử, không vì thân lìa ràng buộc, không nhàm chán Niết-bàn, vì không lìa ràng buộc, chứng đắc quả thù thắng, nên so với hàng Nhị thừa khác xa. Luận rằng: Từ “Bồ-tát và hàng Nhị thừa” đến “mà có sai biệt”. Thuật rằng: Đây là giải thích chữ Bồ-tát ở câu thứ nhất, và giải thích câu thứ tư vậy. Luận rằng: “Nghóa chung của tu đối trị”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là đoạn lớn thứ ba, tổng kết ng- hóa của tu. Nay sẽ giải thích,trước nêu ra nghóa tên,nhưng một đoạn này,luận xưa phẩm này đã không có, đến dưới đây sẽ biết. Luận rằng: Từ “Nghóa là khai giác tu” đến “tăng thượng tu”. Thuật rằng: Khởi đầu mở ra giác tuệ,tức là ban đầu. Tụng nói bốn niệm trụ, tổn diệt pháp ác, khiến cho thiện pháp tăng trưởng, tức là bốn Chánh đoạn, nhờ đó mà được đức thù thắng. Như ngọc được mài giũa càng tăng thêm vẻ đẹp, làm cho nó rạng rỡ hơn, tức là bốn Thần túc vậy. Có dụng tăng thượng này rồi thì có thể làm phát triển thêm, tức là năm căn. Phẩm “Phát hậu thắng” đều gọi là thượng. Tánh của Thánh đạo gần gũi sinh ra Thánh đạo , nghóa tức là năm lực. Chứng vô lậu ban đầu, nhập vào dòng Thánh rồi,công đức trội thêm, tức là tám Thánh đạo chi, tùy theo công năng riêng lập ra tên gọi này. Trên đây là tổng kết đoạn văn thứ nhất, từ đây trở xuống là nói chung đoạn hai, nhưng có sự riêng. Luận rằng: “Đầu tu, giữa tu, sau tu”. Thuật rằng: Đây là kết lại đoạn hai. Phàm và Thánh tu khác nhau, ba chỗ nương có thể biết, vì hàng phàm phu, hữu học và vô học khác nhau. Luận rằng:Từ “Có thượng tu” đến “đắc thù thắng”. Thuật rằng: Đây là tổng kết đoạn thứ ba. Hàng Tam thừa tu khác nhau, nghóa là đối với sở duyên, tác ý chứng được trong ba thù thắng. Nếu hàng Nhị thừa tu gọi là hữu thượng, nếu Bồ-tát tu chứng gọi là vô thượng. ------------------------------------- <詞>PHẨM THỨ NĂM: BIỆN LUẬN TU PHẦN VỊ Tu hành tùy theo từng quả vị, vì quả vị khác nhau nên gọi là phần vị. Tức là trước đã tu ở phần vị nào thì nương vào đó để tu, cứ thế mà thành tựu từng phần vị. Vì các phần vị trước không tu, nên đối với các phần vị sau phải nói rõ. Ở cuối phẩm trước đã nói về Phàm, Thánh của Tam thừa, còn phẩm này nói về sai biệt. Vì không căn cứ vào phần vị để nói, nên mới có phẩm này. Luận rằng: “Trước đã nói tu đối trị, còn tu phần vị thì như thế nào?” Thuật rằng: Trong phẩm này có ba đoạn văn lớn. Phần đầu là kết trước mở sau, để phát ra đầu mối của luận. Phần kế là nương vào lời hỏi chính giải thích rộng ý trong tôn. Phần sau giải thích nghóa, tức là cuối cùng lược làm tổng kết. Đây là phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Đã nói tu đối trị”, đến “thắng lợi thành sở tác”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ hai, nương vào lời hỏi chính để giải thích. Trong này gồm có bốn bài tụng, ba bài tụng đầu nói về pháp, bài thứ tư nói về nhân. Trong ba bài tụng đầu, trước có hai bài nói về sự khác nhau của hữu vị, trị pháp, thắng liệt; bài tụng thứ ba lược nói hữu vi trị pháp này ở trong pháp giới nói về sự sai biệt của nó. Đây tức là phần đầu. Trong đây hai câu đầu nêu lên tên hiển số, sáu câu còn lại nương vào số khác nhau để phản ảnh. Luận rằng: Từ “Như trước đã nói” đến “có mười tám loại”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung đại cương văn, và giải thích riêng hai câu tụng đầu. Nhưng phần vị này lại không có thể riêng, tức là trong đối trụ trước, các phần vị trước sau đều khác nhau. Luận rằng: Từ “Một là, nhân vị” đến “nói đã phát tâm”. Thuật rằng: Đầu tức là tánh chủng tánh, tức là chủng tử của đối trị chưa sinh khởi hiện hành. Phần vị thứ hai đã trải qua gọi là tập chủng tánh, nên nói như thế. Luận rằng: “Ba là, gia hạnh vị” đến “chưa được quả chứng”. Thuật rằng: Tức là tuy đã phát tâm rồi nhưng chưa chắc chắn là Gia hạnh đạo, tức là Tư lương đạo cũng thuộc về đây. Trừ đi kiến đạo, giải thoát đạo vị, đó là quả vậy. Luận rằng: “Bốn là, quả vị, nói đã đắc quả”. Thuật rằng: Tức là mười sáu tâm kiến đạo vv… Luận rằng: Từ “Năm là, hữu sở tác vị” đến “nói trụ vô học”. Thuật rằng: Văn này dễ biết. Nhưng địa vị hữu học có chỗ chỉ nói thấy đạo rồi bỏ. Như luận Du-già quyển năm mươi bảy, trong tiết hai mươi hai có nói, pháp thiện muốn rồi bỏ. Nay xét rộng điều này, đối với lý không ngăn được thể, tuy cùng với trước không có khác nhau, vì đã hướng về cái khác, là không có lỗi. Luận rằng: Từ “Bảy là, thù thắng vị” đến “thắng công đức”. Thuật rằng: Trước nói không có bậc vô học, đó chỉ là nói chung. Nay thù thắng này căn cứ vào riêng để làm luận khác, chẳng phải thân chứng đều giải thoát vv… Luận rằng: “Tám là, hữu thượng vị đến vì vô thắng vị”. Thuật rằng: Nếu người đến thẳng tức là ở Thập địa, vì nhập vào Bồ-tát địa. Hoặc người này và người cổ hủ hợp lại, mười tín vị đều là địa vị này, gọi là thắng Thanh văn. Nhưng so sánh với đây, trong các vị trước, tức là chỉ nói người tương tơ với hàng Nhị thừa, vì lời này vượt khỏi hàng Thanh văn vv…, nhưng lý không lựa ra, không phải trên có thể biết. Luận rằng: Từ “Mười là, thắng giải hành vị” đến “kế nói sáu địa”. Thuật rằng: Từ trước đến nay nói chung các vị của Tam thừa, từ đây trở xuống nói riêng chỉ có địa vị Bồ-tát, tức là mười ba vị và bảy thứ địa. Như Luận Nhiếp Đại Thừa, Du-già v.v… đã nói, văn dễ có thể biết. Căn cứ vào sự thù thắng có thể nói, không thể vì sự vấn nạn về địa mà lập địa riêng. Luận rằng: “Mười là, ba thọ ký vị”. Thuật rằng: Thọ ký có chủng loại. Luận rằng: Từ “Mười là, bốn biện thuyết vị” đến “quán đãnh vị”. Thuật rằng: Địa thứ chín đắc bốn biện, vì địa thứ mười sẽ kế thừa Phật vị. Trên là nói về nhân, từ đây sắp xuống là nói về quả. Luận rằng: Từ “Mười sáu là chứng đắc vị” đến “nói biến hóa thân”. Thuật rằng: Tức là ba thân đó tùy theo thắng mà đặt tên. Vì báo thân hướng về Bồ-tát nên có tên là Thắng lợi. Lợi ở nơi thắng nhân. Lợi này vì đem thân làm lợi người nên gọi là Thắng lợi. Hóa thân có đủ nhân, sở nguyện nên gọi là Thành sở tác, tức là thành sở tác trí.Đây là phần thứ nhất nói về phần vị của hữu vi, trị pháp đã xong. Nhưng cần vị tận cùng không quá ba thứ, cho nên dưới đây là căn cứ vào thắng nghóa riêng này, không thể phế lập. Luận rằng: Từ “Các phần vị này” đến “ba thứ đó là gì?” Thuật rằng: Kết sinh văn dưới. Luận tụng rằng: Từ “Nên biết đối với pháp giới”, đến “thanh tịnh tùy theo sở ứng”. Thuật rằng: Hai câu trên hiển bày hữu vi trị pháp ở trước, đối với chân pháp giới nói riêng, nêu ra số và nêu ra tên, hai câu dưới liệt kê tên rộng nhiếp. Luận rằng: Từ “Đối với chân pháp giới” đến “nhiếp các vị trước”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai câu đầu, và ba chữ cuối của câu tụng thứ tư. Do chân pháp giới thành tựu được trị của hữu vi nên căn cứ vào pháp giới để nói về trị phần vị. Luận rằng: Từ “Bất tịnh vị” đến “Cho đến Gia hạnh vị”. Thuật rằng: Đây là nhiếp ba vị. Nghóa là nhân nhập vào Gia hạnh vị, nhưng vì là hữu lậu nên gọi là Bất tịnh vị. Luận rằng: “Tịnh và bất tịnh vị tức là hữu học vị”. Thuật rằng: Nếu căn cứ vào tên để nhiếp thì chỉ vào vị thứ năm. Nếu căn cứ vào thể để nhiếp tức là nhiếp hoàn toàn vào vị thứ tư, thứ năm, thứ tám, thứ mười, mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm. Vì thiểu phần vị thứ bảy hữu học cũng đã đắc được thần thông v.v… Do lấy thể chuẩn theo trước, thì thể của vị hữu học được gọi là Thủ dị sinh, nó cùng với thể của Bất tịnh vị xen tạp nhau. Vì các vị này thông với vô lậu, có phiền não, nên gọi là tịnh bất tịnh. Luận rằng: “Ba là, thanh tịnh vị được gọi là vô học vị”. Thuật rằng: Nếu căn cứ vào tên để nhiếp thì chỉ nhiếp vào vị thứ sáu. Nếu căn cứ vào thể để nhiếp, tức là nhiếp hoàn toàn vào vị thứ sáu, thứ chín, thứ mười sáu, mười bảy, mười tám, và thiểu phần của vị thứ bảy. Trên đây căn cứ vào pháp thứ nhất nói về vị, kế căn cứ vào vị thứ hai. Luận rằng: Từ “Vì sao nên biết” đến “các Bổ-đặc-già-la”. Thuật rằng: Đây là dựa vào lời hỏi mà khởi lên tụng trả lời, nương vào pháp mà lập nhân, nên nói nương vào các vị trước v.v… Luận rằng: Từ “Nên biết nương vào trước”, đến “đây đã phát tâm v.v…” Thuật rằng: Người vốn là giả, dựa vào thật để biện giải người, dựa vào các pháp tướng riêng mà gọi là người. Nếu là pháp chủng tánh thì gọi là người trụ chủng tánh. Cho đến nói rộng cả mười tám vị, ba vị. Luận rằng: Từ “Tu phần vị” đến “tức là chủng tánh vị”. Thuật rằng: Đây tức là phần lớn thứ ba, kết lại nghóa ở trước. Nhờ có chủng tánh mới có khả năng kham chịu, siêng năng thực hành nhập vào Bậc Thánh. Luận rằng: “Phát thú vị tức là vào gia hạnh vị”. Thuật rằng: Vị trước chưa phát tâm thì chưa gọi là phát thú, hai vị này phát tâm hồi hướng đến cầu Thánh đạo, nên gọi là phát thú vị, tức là nói tên khác của phàm phu vị. Nó được nhiếp trong vị thứ nhất, thứ hai, thứ ba của mười tám vị. Luận rằng: Từ “Bất tịnh vị” đến “thanh tịnh vị”. Thuật rằng: Nhiếp chung thể của phàm phu, gọi là bất tịnh vị. Trong ba vị nhiếp một, như từ tên nhiếp, trong mười tám vị nhiếp ba vị đầu. Nếu chỉ dùng tên nhiếp, tức là như nói nhiếp tịnh bất tịnh vị và thanh tịnh vị. Còn dùng thể để nhiếp thì như trên đoạn ba đã nói. Luận rằng: Từ “Hữu trang nghiêm vị” đến “Vô thượng vị”. Thuật rằng: Trong mười tám vị, vị thứ bảy gọi là hữu trang nghiêm vị, vì nó có đức thú thằng. Nay kết riêng vị. Biến mãn vị tức thuộc Thập địa. Nghóa là, trong mười tám vị, vị thứ tư, thứ năm, thứ tám, thứ mười một, thứ mười hai, thứ mười ba, thứ mười bốn, thứ mười lăm. Trong ba vị, thì vị thứ hai là thông với Thập địa, nên gọi là Biến mãn vị, Vô thượng vị ở trong mười tám vị tức là Phật, và đó là vị cuối cùng trong ba vị. Trong phần kết ở phẩm này của Luận không nói như vậy. Nhưng với cách giải thích này, nay đối chiếu một số bản khác cũng không thấy có cách giải thích nào hau hơn, nên dùng nó để kết lại vậy, không thể suy xét hết nghóa lý được. ------------------------------------ <詞>PHẨM THỨ SÁU: BIỆN LUẬN ĐẮC QUẢ Trước đây nói cảnh và hạnh là đều chỉ cho tu nhân, vì nhân hạnh đã viên mãn rồi nên nay thuận theo đạo quả. Do đó, phẩm thứ sáu này sẽ nói rõ về đắc quả. Bởi thế trong đạo của Tam thừa, đều có lập tên quả vị theo nghóa xuất thế gian. Nhằm làm rõ hạnh nhân chứng đắc cả quả vị hữu vị, vô vi, thế gian và xuất thế gian để lợi lạc quần sinh, nên gọi đó là chứng đắc năm quả vị. Năm quả vị này tùy theo lý có thể biết. Luận rằng: “Đã nói về tu vị, vậy đắc quả như thế nào?” Thuật rằng: Phần chánh văn của phẩm này, cũng chia làm ba đoạn: Gồm mở đầu, chánh giải và kết giải thích như trên có thể biết. Đây tức là phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Khí thuyết gọi là di thục” đến “như thế tức là năm quả”. Thuật rằng: Trong phần chánh giải thích chung này có hai bài tụng: Bài đầu nói về năm quả, bài sau nói phần còn lại. Đây là phần đầu. Trong này, ba đầu nói về thể sở đắc của việc tu năm quả. Câu thứ tư, lấy thể làm danh, lấy sự làm giáo. Tên thì rộng mà thể thì hẹp, sự thì ẩn, giáo thì rõ ràng. Cho nên lấy thể và sự để làm danh và giáo. Luận rằng: “Khí nghóa là tùy thuận theo pháp thiện dị thục”. Thuật rằng: Giải thích câu đầu. Đây là do tu hữu lậu trị mà đắc. Nếu ở địa vị phàm phu nhập vào hàng Thánh rồi, mà tu hữu lậu trị thì được khí thân, tức là thông với năm uẩn, nên đều gọi là khí. Như vật dụng chứa đựng, từ dụ mà đặt tên. Vì “khí” của Thánh đạo đã chiêu lấy thiện nghiệp, thể tánh là vô ký, nên gọi là dị thục. Nếu tu vô lậu trị đạo được mà cảm ứng thì đã chẳng phải là vô ký, nên không gọi là dị thục. Như Luận Du-già quyển năm mươi mốt đã nói. Lực vô lậu, nghiệp cảm quả thù thắng, tức là pháp của vô lậu. Tuy chẳng phải là chánh nhân, tuy nhờ vào duyên mà được chiêu lấy thì cũng gọi là dị thục. Quả này tức là thông với hai tánh được cảm. Do quả thù thắng thuận theo pháp thiện tu thắng thiện nên gọi là tùy thuận, như Bán Trạch Ca. Luận rằng: Từ “Lực nghóa là do kia đến thành tựu tánh của thượng phẩm”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ hai/ Do quả của “khí” thuận sinh ra thiện lực, khiến cho các pháp thiện tánh thành tựu thượng phẩm, dùng thiện làm nhân, để đắc được quả dị thục nên gọi là thù thắng. Vì thuận theo thiện sinh ra, lại xoay vần tăng thêm. Trên đây thiện là quả dị thục tăng thượng. Nếu hướng đến thiện nhân cũng sẽ đắc quả tăng thượng. Nhưng sự giải thích có khác. Quả của dị thục trước tức là thông với ba tánh. Nếu dị thục sinh, thì tạm gọi là dị thục, đều là do quả dị thục trước đã dẫn sinh ra, tức là thông với ba tánh, và năm uẩn. Quả tăng thiện này chỉ duyên với pháp thiện. Trước chung sau riêng, nghóa thì có hơi khác, nhưng thể thì không khác. Vả lại, hướng về pháp bên trong là quả tăng thượng. Không hướng về pháp bên ngoài, tức không phải pháp bên ngoài không có, vì không có lý ngăn cản. Đây là thông với hai quả hữu lậu và vô lậu. Luận rằng: Từ “Ái lạc nghóa là đời trước” đến “thân sinh ái lạc”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai chữ đầu của câu thứ ba. Nhân ái có quả lạc, nhân lạc được quả di, cho nên quả sở đắc được gọi là ái lạc. Quả này thông với cả hữu lậu và vô lậu. Luận rằng: Từ “Tăng trưởng nghóa là hiện tại” đến “nhanh chóng được viên mãn”. Thuật rằng: Đây là giải thích chữ thứ ba, thứ tư ở trong câu thứ ba. Đời trước tu hành nên đời này được quả viên mãn. Tuy thành người hữu dụng nên còn quá xa. Nay không nói phàm phu, chỉ nói nhân hiện tại nếu không thật thì gọi là nhân phàm phu, chỉ có hữu lậu. Nếu pháp gọi là só dụng thì cũng thông với đắc quả vô lậu. Luận rằng: “Tịnh nghóa là chướng đoạn, được viễn ly xa lìa sự trói buộc”. Thuật rằng: Đây là giải thích chữ thứ năm ở cuối câu tụng thứ ba. Thể vô vi này chỉ có quả vô lậu mới chứng đắc. Nếu là quả hữu đắc thì không phải là vónh viễn xa lìa. Hoặc sở trị tịnh mà đoạn thể, hoặc năng đạo tịnh mà được vô lậu, hoặc quả thể tích mà tăng ích lý, tứ đó mà đặt tên. Luận rằng: Từ “Năm thứ này như lần lượt” đến “năm thứ lìa quả ràng buộc”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng thứ tư. Như trước đã thuật, không rườm rà nêu lại. Song mười địa Nhị thừa, đều được năm quả. Nếu ở Phật địa, chỉ trừ quả đầu, vì là vô lậu. Nếu giả danh, thì Phật cũng có năm quả, lý không ngăn cản. Luận rằng: Từ “Lại nữa” tụng rằng” đến “lìa thắng thượng Vô thượng”. Thuật rằng: Đoạn thứ hai này nói về thể không sai biệt của các quả khác. Vì vậy nói thêm, tức nói thêm phần biệt nghóa của thể này vậy. Câu tụng thứ nhất là hiển bày thể không phải riêng. Tuy đã nói nhưng lại nói thêm. Câu dưới là liệt kê tên mười quả. Luận rằng: “Lược nói quả khác, sai biệt có mười”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng đầu. Luận rằng: Từ “Vả lại, các quả sau” đến “triển chuyển nên biết”. Thuật rằng: Thể đã không khác, tức là trong phần vị, mười tám phần vị lấy trước làm nhân, lấy sau làm quả, xoay vần hướng về nhau, như lý nên biết. Hoặc tăng thượng, hoặc đẳng lưu, hoặc só dụng lìa sự ràng buộc, vì trước dẫn Thánh đạo sau chứng vô vi. Luận rằng: Từ “Hai là, quả đầu tiên” đến “pháp xuất thể gian”. Thuật rằng: Trong mười tám phần vị, phần vị thứ tư là sơ đắc quả. Luận rằng: Từ “Ba là, số tập quả” đến “nói vô học vị”. Thuật rằng: Phần vị thứ ba tức là phần vị thứ năm, vì có sự tạo tác. Phần vị thứ tư tức là phần vị vô sở tác thứ sáu, vì vậy là học vô sở tác Luận rằng: Từ “Năm là, tùy thuận quả”, đến “nói là chướng diệt”. Thuật rằng: Bốn thứ quả trước, nhiếp thể đã đồng. Nhưng để hiển bày riêng tên thắng, nên lập lại nó. Quả thứ năm do thuận với trước, còn quả thứ sáu là bắt đầu đoạn chướng thù thắng. Luận rằng: Từ “Bảy là, lìa hệ quả” đến “vì phiền não ràng buộc”. Thuật rằng: Bậc hữu học có một số tập khí đã lìa sự ràng buộc, còn bậc vô học thì rốt ráo xa lìa sự ràng buộc. Vì nghóa của sự xa lìa ràng buộc có khác nhau nên là thứ lớp như vậy. Luận rằng: Từ “Tám là, thù thắng quả” đến “công đức thù thắng”. Thuật rằng: Tức là trong bốn quả trước, các quả cứu cánh rốt ráo được nhiếp trong nhị quả. Trong mười tám phân vị, thuộc về phân vị thứ bảy. Có thắng thần thông v.v… chỉ lập trong quả khác. Luận rằng: Từ “Chín là, hữu thượng quả” đến “vì thắng pháp khác”. Thuật rằng: Thứ chín tức là bốn phân vị trước, ba nhiếp hậu hậu, tối sơ số tập. Thứ mười cũng là hai nhiếp, hậu hậu cứu cánh. Trong mười tám phân vị, vị thứ tám, thứ chín là tên của hai phân vị, vì nhiếp thể lại rộng. Luận rằng: Từ “Trong đây đã nói” đến “bốn quả trước sai biệt”. Thuật rằng: Đây là làm rõ sáu vị sau lìa bốn vô thể trước, vì nghóa thù thắng, lại chỉ lập ra nó. Luận rằng: Từ “Các quả như vậy” đến “tức là vô lượng”. Thuật rằng: Giải thích phương nạn bên ngoài, nghóa là có lời hỏi, hoặc là tùy theo lời khác. Như mười tám phần vị, tức không phải chỉ có mười vị, hoặc là vô lượng. Vì sao ở đây chỉ có mười? Nay vì giải thích nghóa ấy nên có văn này. Hoặc lại đến tùy theo thù thắng, lại nói không nghi ngờ. Luận rằng: Từ “Quả nghóa chung” đến “vì giải thích”. Thuật rằng: Tức là văn tổng kết phần thứ ba. Nhưng bổn luận xưa phẩm tu trị trước và phẩm phần vị đều không có kết phần cuối. Đối với phẩm này, dưới mới tổng kết, đối với nghóa đã không thuận nhau. Đối với một văn sao không có thứ lớp. Đã có đắc quả nên phần dưới mới tổng kết trước, như bản tiếng Phạm cũng có lời này. Nay từ nơi nghóa tiện và chuẩn theo chướng của tướng. Ba phẩm đầu nương vào hoàn toàn ở bản tiếng Phạm mà tổng kết riên. Trong đây có hai, đầu nêu lên sau giải thích. Đây là nêu lên liệt kê chung. Luận rằng: “Trong nhiếp thọ này nghóa là năm quả”. Thuật rằng: Tổng kết bài tụng thứ nhất. Vì do nhân tu trị, đã cảm được quả nên gọi là nhiếp thọ. Nhiếp thuộc về mình mà lãnh thọ nó nên gọi là nhiếp thọ. Luận rằng: “Sai biệt nghóa là quả khác”. Thuật rằng: Tổng kết bài tụng thứ hai, vì năm quả trước sai biệt. Luận rằng: Từ “Người đời trước tu tập” đến “nói bốn quả khác”. Thuật rằng: Đây là kết riêng bài tụng đầu. Nhờ quả dị thục làm sở y, mới được quả khác. Chủ yếu là do nghiệp quả đời trước chiêu cảm được nên gọi là túc thế. Tánh của nhân quả khác nhau, không giống như bốn quả sau. Bốn quả sau tức là khác với quả đầu, nhưng nhân trước có thể dẫn đến các quả sau, nên lập ra tên hậu hậu. Luận rằng: Từ “Nêu lên nghóa là hậu hậu…” đến “vì bốn quả trước”. Thuật rằng: Đây là kết mười quả khác ở trước. Bốn là lược nêu ra tên; sáu là rộng giải thích tên. ------------------------------------- <詞>PHẨM THỨ BẢY: BIỆN LUẬN VÔ THƯỢNG THỪA Trước tuy đã nói đắc quả nhưng chưa nói thuộc về thừa nào. Vì hiển bày thân thù thắng thì có thể được quả thù thắng, không đồng với nhân quả của hàng Nhị thừa, nên phẩm này gọi là Vô Thường Thừa. Ba thứ cảnh, hành, quả đều đầy đủ nên gọi là thừa. Luận rằng: Từ “Đã nói về đắc quả” đến “nay sẽ nói”. Thuật rằng: Phẩm này có ba nghóa, chuẩn theo trước mà biết. Đây tức là phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Đều do ba Vô thượng” đến “và tu chứng Vô thượng”. Thuật rằng: Đây tức là phần thứ hai, nương theo lời chính để giải thích. Trong đây gồm có hai mươi chín bài tụng. Tuy có ba mươi bài tụng, nhưng bài tụng tổng kết cuối cùng, chẳng phải nghóa của phẩm này. Nay hai mươi chín bài tụng này được chia làm hai đoạn: Một bài tụng đầu nêu chung ba nghóa của “do” gọi là Vô thượng thừa. Hai mươi tám bài tụng kế tiếp giải thích riêng về ba mghóa của Vô thượng thừa. Đây là phần đầu. Trong phần này, hai câu trên nêu chung nghóa số, hai câu dưới liệt kê tên của ba nghóa. Trong đó, hai chữ “vô thượng” ở cuối thông suốt cả ba thứ nên gọi là xứ. Luận rằng: Từ “Trong Đại thừa này” đến “gọi là Vô thượng thừa”. Thuật rằng: Giải thích hai câu đầu. Nói riêng nghóa của nguyên do, như dưới nói nhiều, chung cũng không ngoài ba thứ. Lại như bảy thứ tánh lớn và hai mươi mốt tánh lớn v.v… đều gọi là Vô thượng, tức là vô biên. Nay chung mà nói cũng ba thứ này, vì bảy thứ tánh lớn và hai mươi mốt tánh lớn v.v… cũng không ngoài ba thứ đó. Như Luận Đối Pháp, Nhiếp Luận, Du-già v.v… đã nói. Lấy cái này nhiếp vào cái khác, như lý nên biết. Luận rằng: Từ “Ba quả Vô thượng” đến “tu chứng Vô thượng”. Thuật rằng: Giải thích hai câu dưới. Quả không phải tự đắc, nhân không phải nhân thành tựu, cho nên đầu tiên trước nói về chánh hạnh. Hành không phải chỉ là phân biệt, vì nhất định cần phải có. Kế đến phần thứ hai nói về pháp sở duyên, hai nhân đã đầy đủ, vì có được thành tựu. Kế đến phần thứ ba nói về đã tu chứng. Tam-bạn-trụ-đà-da, đây nói là tu chứng. Luận Phật Địa quyển thứ bảy nói đồng với đây. Luận xưa nói là tập khởi, được tập đã khởi, nghóa cũng không trái. Thể của quả đã thông với vô vi, vì tên của tập khởi thì hẹp, nên nói là tu chứng, ở nơi lý cực thành. Luận rằng: “Trong đây chánh hạnh vô thượng, nghóa là mười Ba- la-mật hành”. Thuật rằng: Từ phần thứ hai trở xuống giải thích riêng. Vì lựa ra cảnh chưa rõ ràng, nên nói trong đây. Nghóa là, thể của chánh hạnh tức là mười đáo bỉ ngạn. Trong phần giải thích riêng này, có hai mươi tám bài tụng. Hai mươi sáu bài tụng đầu rộng nói về sáu thứ chánh hạnh. Kế có một bài tụng rộng nói về mười hai sở duyên. Kế có một bài tụng giải thích rộng về mười thứ tu chứng. Để giải thích chánh hạnh, thì việc lựa chọn để nêu lên tôn, nêu ra thể là thứ nhất. Từ phần thứ hai trở xuống hỏi đáp giải thích chính. Luận rằng: “Tướng của chánh hạnh này, vì sao nên biết?” Thuật rằng: Đây tức là hỏi, sẽ giải thích tướng của nó. Luận tụng rằng: Từ “Chánh hạnh có sáu thứ” đến “sai biệt vô sai biệt”. Thuật rằng: Từ phần chánh văn trở xuống, nương theo lời hỏi để giải thích, gồm có hai mươi sáu bài tụng. Một bài tụng đầu, nêu chung chánh hạnh có sáu thứ. Hai mươi lăm bài tụng còn lại giải thích riêng về sáu hạnh. Đây tức là phần đầu. Câu đầu là nêu tên hiển số, ba câu dưới liệt kê riêng sáu tên. Luận rằng: Từ “Tức là ở nơi mười thứ” đến “có sáu chánh hạnh”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng đầu, tức là mười độ tùy theo nghóa sai biệt của sở tu, mỗi thứ đều thông với sáu thứ chánh hạnh. Vì sợ cho rằng, ngoài mười độ ra, giải thích riêng sáu hành và trái với nghóa của thể đã nêu ở trước, nên nương theo trước làm luận. Luận rằng: Từ “Một là, tối thắng chánh hạnh” đến “sáu là, vô sai biệt chánh hạnh. Thuật rằng: Sáu hạnh này, đầy đủ hai thứ tu thiện, kế có hai thứ lìa lỗi, sau có hai thứ nói về sự đồng dị của mười địa tu thiện. Giải thích ba câu tụng dưới, theo như văn có thể biết. Nhưng đối với tên này chỉ có sáu. Nếu chuẩn theo ở nơi văn, thì hai mươi lăm bài tụng giải thích riêng sáu hạnh trong đó hợp thành năm đoạn, lấy sai biệt vô sai biệt hợp làm một minh. Đầu có bốn bài tụng đầu giải thích tối thắng; kế có bốn bài tụng nói về tác ý; kế có mười hai bài tụng nói về tùy theo pháp; kế có bốn bài tụng nói về lìa nhị biên; kế có một bài tụng nói về sai biệt và vô sai biệt. Nay sẽ giải thích chánh hạnh tối thắng thứ nhất. Trước khởi lên lời hỏi, sau nêu ra câu tụng trả lời. Luận rằng: “Tối thắng chánh hạnh, tướng nó như thế nào?” Thuật rằng: Thứ nhất là hỏi. Luận tụng rằng: Từ “Tối thắng có mười hai thứ” đến “gọi là Ba- la-mật-đa”. Thuật rằng: Đây là phần thứ hai trả lời. Ở trong này có bốn bài tụng hợp thành hai đoạn. Hai bài tụng đầu nói về mười hai tối thắng, hiển bày mười độ kia, gọi là đáo bỉ ngạn. Hai bài tụng sau nói về mười đáo bỉ ngạn, gọi là thể tức nghiệp. Đây tức là phần đầu. Trong đây, câu thứ nhất nêu ra tên và nêu ra số; kế có năm câu thứ lớp liệt kê tên; kế có hai câu hiển bày do đây nêu mười đáo bỉ ngạn được gọi là sở do. Nhưng tối thắng này xưa gọi là vô tỷ. Luận rằng: “Tối thắng chánh hạnh có mười hai thứ”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ nhất. Luận rằng: Từ “Một là, Quảng đại tối thắng” đến mười hai là cứu cánh tối thắng” Luận rằng: Đây là giải thích năm câu kế. Trong đây có hai, đầu liệt kê tên, kế giải thích rộng, đây tức là ban đầu. Nhưng trong bài tụng thứ tám chỉ nói về nhiếp, nay thêm chữ “thọ”. Trong bài tụng thứ mười chỉ nói là đắc, nay thêm chữ “chí”. Các tên còn lại thì như nhau. Luận rằng: Từ “Trong quảng đại tối thắng này” đến “vì có chí cao viễn”. Thuật rằng: Trong phần giải thích riêng, đầu là điệp văn, sau là giải thích, chuẩn theo đây có thể biết. Song không mong cầu tất cả các thứ lạc thú giàu sang của thế gian giàu mà chỉ cầu địa vị Nhất thiết trí. Sự chán ghét cũng nhiều mà sự mong cầu cũng lớn, hoặc cái sở yếm sở cầu đều rộng lớn, nên gọi là quảng đại. Luận rằng: Từ “Trưởng thời tối thắng”, đến “vì huân tập mà thành”. Thuật rằng: Chẳng phải như quả của hàng Nhị thừa và thế gian, vì thiểu thời đắc, thiểu thời tu. Luận rằng: Từ “Y xứ tối thắng” đến “vì là y xứ”. Thuật rằng: Lợi tha là trước tu mười độ, vì nương theo hữu tình gọi là y xứ. Luận rằng: Từ “Vô tận tối thắng”, đến “vì vô cùng tận”. Thuật rằng: Một là, vì đã hướng về Bồ-đề, công đức vô lượng, nên nói là vô tận, hai là đã hướng về Bồ-đề, đến đời vị lai không có tận. Ba là đã tu mười độ mỗi mỗi đều hồi hướng, nên cũng nói vô tận. Luận rằng: Từ “Vô gián tối thắng” đến “vì nhanh chóng viên mãn”. Thuật rằng: Tức là đối với tự tha ý rõ được bình đẳng, vì chúng sinh vô lượng, đối với trên kia phát khởi tự thân bố thí v.v… cũng vô gián đoạn, hoặc giã hoá chúng sinh, chúng sinh làm việc thiện, tức là vì Bồ tát rõ thân bình đẳng. Bồ tát hoan hỷ cũng như trị thân mình, tức là có thể khiến thân mình bố thí nhanh chóng viên mãn. Nhưng trong sáu ý lạc, ba tư duy, tu vô gián tức là không đồng với đây, vì căn cứ vào nghóa riêng. Luận rằng: Từ “Vô nan tối thắng” đến “vì nhanh chóng viên mãn”. Thuật rằng: Nếu không tùy theo vui vẻ thì cần phải tu tự hành. Hành tức là khó mà đã có thể tùy theo vui vẻ, chẳng cần tự hành nên không khó. Luận rằng: Từ “Tự tại tối thắng” đến “vì nhanh chóng viên mãn”. Thuật rằng: Định này căn cứ vào thắng, phần nhiều cho rằng nhờ bỏ Bát-địa mà chứng được. Nhưng thật ra, khi đã chứng đắc rốt ráo sơ địa thì thông, thông với kiếp vị thứ hai thứ ba đắc. Do có định thù thắng, nên có thể chuyển biến vật kim ngân… bố thí cho chúng sinh, đến vô biên tận, như hư không tạng. Tức từ dụ đặt tên. Nương vào định này được hành bố thí… gọi là tự tại. Nếu chưa được định này, như kiếp vị thứ nhất, thì không gọi là tự tại. Như định của hữu lậu, tuy có thể hiển thực, nhưng không gọi là Hư không tạng, vì phân lượng ít. “Đẳng” nghóa là đẳng Đại thừa quang minh… Luận rằng: Từ “Nhiếp thọ tối thắng”, đến “vì rất thanh tịnh”. Thuật rằng: Vì không thấy có người bố thí, không thấy có của bố thí…, nên gọi là nhiếp thọ của Vô phân biệt trí. Cho nên việc bố thí đều được thanh tịnh. Đây chính là căn bản trí, hậu đắc trí, Vô phân biệt trí vậy. Tuy trong Gia hạnh cũng có việc bố thí này, cũng đều nương trí đó. Và cũng không thấy tướng của người bố thí…, và cũng thuộc về căn bản trí, nên gọi là tối thắng. Lấy sau nhiếp trước hoặc lấy trước nhiếo sau, tức là gia hành trí, cũng gọi là Vô phân biệt trí. Vì không thấy tướng bố thí tức thuộc về trí này, chẳng phải là Căn bản trí hau Hậu đắc trí. Luận rằng: Từ “Phát khởi tối thắng”, đến “trong thượng phẩm nhẫn”. Thuật rằng: Lại nữa, pháp Thế đệ nhất ở quả vị trước, và pháp Thế đệ nhất này, đều có thể phát khởi chân kiến đạo, nên gọi làp phát khởi thắng. Pháp thứ nhất vì thời thúc dục, trong đây không nói, chẳng phải thể chẳng phải đây. Luận rằng: Từ “Đắc tối thắng”, đến “vì nhân quả đầy đủ”. Thuật rằng: Đầu đắc vô vi nên gọi là chí đắc, văn khác có thể biết. Trong đây thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ sáu thông với ba tăng-kỳ tối thắng của vị Bồ-tát; còn thứ năm được tự tha bình đẳng thắng giải, ở trong mười địa được mười bình đẳng, tức là trong hai Tăng- kỳ sau. Thứ bảy hư không tạng, cốt yếu phải nhờ thứ tám mới đắc được. Nói rằng, thứ tám mới được viên mãn, nhập vào địa phần đắc, hoặc nói chỉ có hai kiếp sau, có nói thông với ba Tăng-kỳ, như hai cách giải thích trước. Thứ chín chỉ là kiếp đầu; thứ mười chỉ là kiếp thứ hai; thứ mười một thông với kiếp thứ hai, thứ ba; thứ mười hai chỉ là kiếp thứ ba và phi kiếp, vì thông với Phật. Hữu lậu… chuẩn theo đây có thể biết, có thể so sánh sáu ý, ba tư duy, bảy tám… đồng dị với đây. Luận rằng: Từ “Do mười thí…” đến “đều được tên đáo bỉ ngạn”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng thứ bảy và thứ tám. Luận rằng: “Vì sao gọi là mười đáo bỉ ngạn?” Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ hai nói về đáo bỉ ngạn, nương vào lần lượt văn trước, đầu là khởi lên lời hỏi. Luận tụng rằng: Từ “Mười Ba-la-mật-đa” đến “phương tiện nguyện lực trí”. Thuật rằng: Đây có hai bài tụng, một bài tụng đầu liệt kê tên mười độ, sau có một bài tụng giải thích độ tạo tác nghiệp, đây tức là ban đầu. Nhiếp Luận quyển thứ tám nói rằng: “Trong sáu độ, bốn độ trước là tư lương, định là nương vào, sinh ra trí thứ sáu”. Nhưng chỗ khác nói, tónh lự nghóa là chỉ ở sắc giới, từ nơi thắng mà luận, vô sắc tức là vô vi hợp với tên này. Nay từ nơi tên rộng nên nói là định định. Luận rằng: Từ “Đây hiển bày bố thí…” đến “mỗi thứ đều tạo nên tác nghiệp riêng”. Thuật rằng: Đây là giải thích đại cương danh thể của mười độ ở trong bài tụng. Vì có hỏi tạo tác nghiệp nên mới dẫn văn ở dưới. Luận tụng rằng: Từ “Tụng nói, nhiêu ích thọ bất hại” đến “thọ dụng thành thực tha”. Thuật rằng: Đây là nêu ra mười nghiệp” Một là lợi ích, hai là không hại, ba là thọ, bốn là tăng đức, năm là năng nhập, sáu là năng thoát, bảy là vô tận, tám là thường khởi, chín là thường định, mười là thọ dụng thành thục tha. Dụng là tự mình lợi tha là thù là người khác lợi. Trong câu thứ hai, chữ “năng” thông với nhập và thoát; chữ “thường” trong câu thứ ba thông với khởi và định. Trường hàng dưới sẽ giải thích, nên biết ý này. Luận rằng: Từ “Nay làm rõ thí độ…” đến “lần lượt nên biết”. Thuật rằng: Mười tác nghiệp trước lần lượt phối hợp với mười độ, chuẩn theo văn để biết. Luận rằng: Từ “Nghóa là chư Bồ-tát” đến “không bị tổn hại”. Thuật rằng: Ba thí, ba giới tác nghiệp đều thông nhau. Luận rằng: Từ “Do an nhẫn” đến “thâm năng nhẫn thọ”. Thuật rằng: Trong đây đã lược bỏ Đế pháp Sát nhẫn, chỉ còn lại hai thứ, khác có thể biết. Luận rằng: Từ “Do tinh tấn” đến “tăng trưởng công đức”. Luận rằng: Từ “Vì do thuyền định” đến “khiến nhập vào chánh pháp”. Thuật rằng: Lược bớt Hiện pháp lạc trụ, chỉ còn lại hai thứ, có thể biết. Hoặc là Tứ thiền, có thể dẫn thông… nên cũng thông với ba, đối với lý không ngại. Luận rằng: Từ “Do trí tuệ” đến “khiến được giải thoát”. Thuật rằng: Bát-nhã gọi là tuệ, thông cả ba, không ngăn ngại. Luận rằng: Từ “Do phương tiện thiện xảo” đến “công đức vô tận”. Thuật rằng: Bốn độ sau, như Thánh Duy Thức nói là mỗi độ đều có hai thứ. Mười hai thứ phương thiện xảo này, sáu thứ là tự lợi, sáu thứ là lợi tha, trong đây chỉ căn cứ vào môn tự lợi mà nói. Luận rằng: Từ “Do nguyên…” đến “khởi bố thí”. Thuật rằng: Dùng thân thù thắng thuận sinh các thiện pháp, gọi là sinh thắng bố thí tùy thuận nhiếp thọ. Văn khác có thể biết. Nhưng nguyện có hai, trong đây chỉ căn cứ vào tự lợi để nói. Luận rằng: Từ “Do lực” đến “thường quyết định chuyển”. Thuật rằng: Hai lực đều đủ, văn dễ có thể biết. Luận rằng: Từ “Do trí” đến “tất cả hữu tình”. Thuật rằng: Như nghe, như nói mà nắm lấy nghóa. Ở trong các pháp, mê và lầm gọi là ngu si. Vì muốn khiến cho đoạn trừ hết, nên nói lẽ lìa kia, như nghe như nói, mà các mê lầm. Mê nghóa là không hiểu rõ; lầm là hiểu sai trái. Do lìa si này mà tự mình có thể thọ dụng Tăng thượng pháp lạc, cũng có thể không ngược với thành thục hữu tình, hai trí đầy đủ. Chuẩn theo mười chướng cửa độ trong quyển thứ nhất, tự mình cũng thành thục, người khác cũng thọ lạc. Nay đều căn cứ vào Tăng thắng riêng mà nói, cũng không trái nhau, hoặc trên đồng với đây, nghóa cũng không trái nhau. Mười tự tánh này và các nghóa môn, như Duy thức đã nói. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy” đến “tướng nó như thế nào?” Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ hai, nói về hành của tác ý nghiệp. Trong đây, có hai: Phần đầu kết trước sinh sau để phát ra đầu mối của luận. Phần kế là từ “tụng rằng” trở xuống, là nương vào lời hỏi chính để trả lời, đây tức là ban đầu. Nói tác ý, chẳng phải tác ý số, thể của số tức là Tuệ đầy đủ. Tác ý tăng gọi là tác ý, như Tứ niệm trụ chẳng hạn. Luận tụng rằng: Từ “Bồ-tát dùng ba tuệ” đến “gọi là tác ý chánh hành”. Thuật rằng: Nương vào lời hỏi chánh để trả lời. Trong đây có bốn bài tụng hợp làm hai đoạn. Đầu có một bài tụng rưỡi nói rõ về tác ý hoặc nhân hoặc là quả. Sau có hai bài tụng rưỡi cói rõ về trợ nhân và trợ quả. Trong một bài tụng đầu, chính là nói về tác ý, tức là nhân của nó. Kế có nửa bài tụng nói về quả của tác y. Đây tức là phần đầu. Câu thứ nhất nói về quán tâm, tức là thể của tác ý. Hai câu kế nói về cảnh sở quán, tức là cảnh của tác ý. Câu thứ tư kết về tác ý. Luận rằng: Từ “Nếu các Bồ-tát”, đến “được thành diệu Tuệ”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ nhất. Bồ-tát nghóa làngười có thể thành tựu. Văn, Tuệ tức là năng quán được thành tựu. Luận rằng: “Số tác ý tư duy Đại thừa”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ hai. Số số là hiểu rộng, vì dụng tuệ để tác ý. Tư duy Đại thừa là cảnh đã quán. Lược ra Tiểu giáo, chỉ nói Đại thừa. Luận rằng: Từ “Nương vào bố thí…” đến “các pháp của khế kinh…”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ ba Đại thừa tuy là chung, mà giáo bố thí… lại là riêng. Nói bố thí… tức là thực hành mười độ. Như được đặt ra pháp khế kinh… tức là như thực hành bố thí… mà thiết lập ra giáo pháp. Vì giáo xứng với hành mà đặt ra. Xứng gọi nó là như. Như nghóa là tương xứng. Khế kinh tức là mười hai bộ kinh. Hành là sở y, giáo là năng y. Vì nương vào hành mà lập giáo nên nói y bố thí… Ý chung của đoạn này là: Bồ-tát dùng ba tuệ tư duy của Đại thừa, nương vào hạnh bố thí mà đặt ra giáo pháp. Giáo pháp gọi là pháp thắng, nương vào giáo quán hành mà tu hành, nên có thể được quả lớn. Lấy giáo làm trước, sau mới hành, hành mà được ở quả, nên nói là tư giáo, có thể hiểu như vậy. Chỉ dùng văn Tuệ để nghe mà được, dưới được công đức, ở giữa duyên vào giáo pháp, tư duy duyên vào nghóa, nhờ tu khiến cho việc thành tựu. Vì sao trong đây chỉ nói giáo, pháp…? Đáp rằng, vì mười hai phần giáo làm đầu, đồng lấy nghóa sự, cùng pháp mà nói, không chỉ nói riêng giáo. Pháp tức là thông suốt vậy. Luận rằng: “Như vậy nên phải tác ý chánh hạnh”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ tư. Dưới là kết các phần còn lại, chẳng phải nói tác ý. BIỆN TRUNG BIỆN LUẬN THUẬT KÝ QUYỂN TRUNG (HẾT) Năm thứ năm niên hiệu Văn An từ ngày 9 đến ngày 15 tháng 7 năm Mậu thìn, Ngài Nhiễm Đoạn chép xong, sau xem nó lại, đọc Nhân quang minh chân ngôn, có thể nguyện đem hồi hướng, Nam-mô Xuân Nhật Đại Minh Thân. Tăng Chuyên.  BIỆN TRUNG BIÊN LUÂN THUẬT KÝ <卷>QUYỂN HẠ Luận rằng: Từ “Chư Bồ-tát này” đến “có công đức gì”. Thuật rằng: Trước đã nói nhờ nhân của ba Tuệ mà đời này được công đức gì? Đây là phần thứ hai nói về quả, trước là nêu ra câu hỏi. Luận tụng rằng: “Tăng trưởng thiện giới này nhập vào nghóa và sự thành tựu”. Thuật rằng: Một câu trên nói, nhờ “nghe” khiến cho nhân duyên tăng, câu thứ hai nói “nhập vào nghóa” khiến cho sở duyên tăng. “Và sự thành nghóa là hiển bày được quả đầy đủ. Chữ “thử” nghóa là tác ý này, đây là nhân của nó, nhân này có thể khiến cho thiện giới tăng, nhân này có thể lập vào nghóa… Luận rằng: Từ “Văn đã thành tuệ” đến “đã nghe thật nghóa”. Thuật rằng: Văn tuệ duyên vào giáo, tư tuệ duyên vào nghóa. Lúc đầu nhờ nghe mà chủng tử thiện tăng, sau liền nhập vào nghóa. Luận rằng: Từ “Tu đã thành tuệ”, đến “vì tu trị địa”. Thuật rằng: Tu tuệ thông tức là vô lậu nên sự nghiệp đầy đủ. Đầy đủ cái gì? Một là có thể thứ nhập Thánh quả. Nói “thứ nhập” tức là nhập vào Phật địa thứ mười. Tu trị tức là tu Thập địa, trừ chướng tăng đức, nhập vào Phật địa. Ba tuệ này trong Đại thừa vì sao đều duyên vào giáo? Vì nó thông với nhân quả của các địa. Văn duyên chính vào giáo nhưng có một ít duyên vào nghóa. Tư duyên chính vào nghóa nhưng cũng có một số duyên vào giáo. Các pháp hữu lậu đó nhờ tu mà xả giáo để duyên vào nghóa. Về sau, nếu tu đắc quả rồi thì cũng duyên vào cả giáo và nghóa. Vì vậy mà nói ba tuệ nhờ duyên vào giáo mà sinh khởi. Lại nữa, hữu lậu là ở hai kiếp đầu, còn vô lậu là căn cứ vào thật tu. Vì hai thứ Văn và Tư đa phần khác nhau nên vô lậu được gọi là vô. Nhưng trong kinh Thập địa nói là cơ thể kham nhẫn, có thể tư duy, có thể giữ gìn. Nói về ba Tuệ, luận này căn cứ vào nghóa của tu tuệ mà nói là ba. Kinh kia nói từ Bát địa trở đi, nay dùng nghóa chuẩn theo sơ địa ma nói được ba tuệ vô lậu. Luận rằng: “Tác ý chánh hạnh có trợ bạn gì?” Thuật rằng: Từ đây trở xuống là thứ hai, giải thích về tác ý bạn, đây là khởi lên lời hỏi đầu, sau là giải thích chính. Luận rằng: “Nên biết, trợ bạn này tức là mười thứ pháp hành”. Thuật rằng: Căn cứ trong phần giải thích chính, gồm có hai bài tụng rưỡi, chia làm ba đoạn: Phần đầu là một bài tụng rưỡi, nói rõ về nhân pháp của trợ bạn. Kế có nửa bài tụng nói về phước quả được sinh của bạn. Phần sau có nửa bài tụng, hỏi và giải thích về phương nạn. Trong phần nói về nhân pháp của trợ bạn, thì đầi có nửa bài tụng nêu trợ bạn, Thể của nó là mười pháp; Sau có một bài tụng kiệt kê mười tên. Đây là phần đầu. Luận rằng: Từ “Như vậy nên biết” đến “mà sở nhiếp thọ”. Thuật rằng: Chẳng phải an lập Tuệ, suy nghó về Đại thừa có thể được công đức, thực hành mười pháp hành cũng được công đức sinh, vì đây là giúp kia. Gọi là nhiếp thọ tức là, nghóa của trợ bạn do tác ý, nên có thể tăng thiện giới… Vì do có pháp hành, nên tăng ích phước đức, đó là chánh nhân, đây là duyên trợ. Nhân sinh ra trí tuệ, bạn tăng thêm phước đức, hoặc nhân hoặc bạn, cả hai đã đắc pháp, đều thuộc về công đức. Luận rằng: Từ “Thế nào gọi là” đến “phúng tụng và tu tư”. Thuật rằng: Trong đây hỏi đáp liệt kê tên của mười hành. Luận rằng: “Đối với đây, Đại thừa có mười pháp hành”. Thuật rằng: Hiển bày mười pháp hành, chẳng phải ở nơi Tiểu thừa có thể được phước này, vì vậy dẫn văn sau. Luận rằng: “Một là biên chép kinh”. Thuật rằng: Như cuối quyển hai của Hiển Dương Thánh giáo Lu- ận nói về Thiện tàng. Thiện tàng chính là khéo tích chứa, hoặc nhiều hoặc ít, tôn trọng cung kính, đọc giữ gìn pháp hành, nghóa là tự mình đọc viết, hoặc bảo người khác viết, cũng thuộc về trong đây. Luận rằng: “Hai là, cúng dường”. Thuật rằng: Kia nói hoặc yếu hoặc trội. Các cúng dường đầy đủ, cúng dường pháp hành, nghóa là tự mình cúng dường, hoặc bảo người khác đem việc mình cúng dường, đều thuộc về trong đây. Luận rằng: “Ba là, cho người khác”. Thuật rằng: Kia nói, nếu tự mình viết kinh rồi, do tâm thương xót, cho người khác pháp hành. Bảo họ đem kinh mình cho họ, cũng thuộc về trong đây; bảo họ viết ra mà cho, đối với họ cũng là cho họ. Luận kia chỉ nói thương xót tôn trọng, nên không nói họ viết, luận này thông với văn. Luận rằng: “Bốn là, hoặc họ tụng đọc mình chuyên tâm lắng nghe”. Thuật rằng: Kia nói, nếu họ phát ra ý cung kính tôn trọng, nghe âm thanh ưu diệu, tuyên dương xiển đọc, vì do kính mến mà mình lắng nghe pháp hành. Hoặc tụng, hoặc đọc, hoặc giảng, hoặc khuyên người khác nghe, đều thuộc về trong đây, song tương tợ hành. Luận rằng: “Năm là, tự mình mở ra đọc”. Thuật rằng: Kia nói vì có lòng tin trong sáng muốn hiểu nghóa kinh mà phát tâm cung kính, giở kinh tụng niệm, khuyên người khác mở ra đọc, cũng thuộc về trong đây. Luận này chỉ nói tự mình đọc thương xót lại tu, không nói sai khiến họ, nhưng so với luận kia cũng không trái. Luận rằng: “Sáu là, thọ trì”. Thuật rằng: Luận kia xếp vào phần thứ bảy, còn thứ sáu là phúng tụng. Vì người kia đã hiểu rõ, thọ trì kinh nên gọi là huân tập. Giải rằng: Đã phúng tụng rồi là giữ chặt, nên lấy âm thanh vi diệu huân tập pháp hành. Do lấy phúng tụng làm đầu, nên có lời này. Luận này thì không nói thực hành. Nếu lúc có thể hành đã trì giáo thì gọi là thọ trị. Nên trong phần thứ sáu luận kia chỉ căn cứ theo hành rồi thọ trì. Nên thứ bảy nói, do ở nơi phúng tụng, sau tự mình khuyên người khác. Đều là vì tương tợ đây. Luận rằng: “Bảy là chính vì người khác mà khai diễn nghóa của văn”. Thuật rằng: Trong Luận kia là thứ tám. Nói rằng thương xót họ, nên truyền trao cho họ, tùy theo rộng lược đó, khai diễn pháp hành, khiến cho họ khai diễn cũng thuộc về trong đây. Luận rằng: Tám là phúng tụng”. Thuật rằng: Phần thứ sáu trong luận kia nói, là muốn tu tập pháp tùy theo pháp hành. Tụng tức là thọ rồi phúng tụng pháp hành, khuyên người khác phúng tụng cũng tương tợ pháp hành này. Luận rằng: “Chính là tư duy”. Thuật rằng: Chỉ ở chỗ nhàn tịnh, rất khéo nghiên cứu tìm tòi, gọi là lý quán sát tư duy pháp hành. Tức là Tư tuệ. Khuyên người khác cũng như vậy nhưng là tương tợ. Luận rằng: “Mười là tu tập”. Thuật rằng: Kia nói, như đã tư duy, tu hạnh định, quán. Vì muốn hướng vào, cho đến vì khiến cho các nghóa sở cầu được thành tựu pháp hành. Trong đây, phúng tụng, thọ trì, như luận Tát-bà-đa nói chỉ sinh được thiện. Trong đây nói là ba tuệ trợ giúp, tức là thông với gia hạnh thiện. Trong mười gia hạnh thiện, vì sao giúp cho Văn tuệ? Vì sao giúp cho Tu tuệ? Có bao nhiêu phước bao nhiêu trí? Tám thứ trước là Văn, thứ chín là Tư, thứ mười là Tu tuệ. Tám thứ trước phần nhiều duyên vào giáo, cho nên sinh trưởng trí. Nên mười thứ đều là trí. Sinh trí cũng như vậy, mười thứ đều là Tuệ. Lại xét theo nghóa đó, sáu Ba-la-mật. Vì sao được gọi là giúp đỡ? Nó giúp cho độ nào? Luận rằng: “Người thực hành mười pháp hành, được phước tụ vô lượng”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là thứ hai, nói về giúp phước quả. Đây là khởi lên lời hỏi, và nêu ra tụng trả lời. Luận rằng: Từ “Tu hành như vậy”, đến lượng vô biên đó”. Thuật rằng: Giải thích chung đại cương của bài tụng, văn đó dễ hiểu. Vì chỉ lợi tha thì lâu thành Phật, quả phước vô lượng, gần cũng có thể biết. Luận rằng:Từ “Vì sao chỉ cần đến”, đến “không nói như vậy”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ ba, hỏi giải thích về vấn nạn. Mười pháp hành trước trong bài tụng tuy không lược ra riêng, còn các Luận Hiển Dương Thánh Giáo… chỉ nói ở nói Bồ-tát tạng. Tức là tất cả mười thứ pháp hành này chẳng phải ở nơi hành Nhị thừa của kinh A-hàm… nên đặt ra lời hỏi này. Luận tụng rằng: “Thắng và vô tận ấy được nhiếp vào kia chẳng dứt”. Thuật rằng: Nghóa là một câu trên, vì do hai duyên, chẳng phải ở nơi hàng Nhị thừa, còn một câu dưới giải thích hai nghóa trên. Luận rằng: Từ “Đối với Đại thừa này” đến “được quả lớn nhất”. Thuật rằng: Sẽ giải thích văn của tụng, trước nêu ra đại ý, sau nêu ra nguyên do đó. Luận rằng: “Một là Tối thắng, hai là Vô tận”. Thuật rằng: Tức là câu trên của bài tụng, đây là lập ra nhân và tôn. Luận rằng: Từ “Do có thể nhiếp lợi ích”, đến “nói là tối thắng”. Thuật rằng: Trong câu tụng dưới, một chữ “do” thông với hai xứ mà nói. Trong đây tức là giải thích hai chữ “nửa” ở trong câu dưới. Hàng Nhị thừa giáo không làm lợi lạc cho người khác, nên chẳng phải tối thắng. Đây tức là phần đầu của nhân và tôn. Tự nhiếp nghóa là nhiếp thọ, khiến cho nhập vào trong pháp. Ích nghóa là lợi ích, khiến cho được phước tuệ. Hoặc nhiếp nghóa là an lạc, ích nghóa là lợi ích. Vì người vô biên, nên phước cũng vô biên. Luận rằng: Từ “Do tuy chứng đắc”, đến “nói là vô tận”. Thuật rằng: Giải thích hai chữ “nửa” ở bài tụng dưới. Vì chữ “do” vốn thông suốt. Do tuy chứng đắc Vô dư Niết-bàn, tức là làm không trụ vào sinh tử. Làm việc lợi ích cho người, mà thường không dứt, tức là làm rõ không trụ vào Niết-bàn, nói rõ trụ vô trụ xứ của Đại thừa, trụ vô trụ xứ. Chẳng phải như hàng Nhị thừa không trụ vào sinh tử, chỉ trụ vào Niết-bàn, nên gọi là vô tận. Tức là bi trí rộng lớn, phước cũng vô biên. Do hai nguyên do trên, đối với Nhị thừa giáo, thực hành mười pháp hành cũng không sinh ra phước tuệ. Tạp Tập Luận quyển mười bốn nói: “Vì Bồ-tát tàng là nơi để tất cả hữu tình lợi lạc nương vào. Vì kiến lập nghóa lớn là nơi phát sinh vô thượng vô lượng đại công đức tụ”. Hai nhân trước, một nhân đồng với đây, một nhân sau khác với đây. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy”, đến “tướng nó như thế nào?” Thuật rằng: Từ thứ ba trở xuống, giải thích tùy theo pháp chánh hành. Trong đây có hai, phần đầu kết trước sinh sau; phần sau nương theo lời hỏi để giải thích. Đây tức là phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Tùy pháp hành hai thứ” đến “chư Bồ-tát nên biết”. Thuật rằng: Từ phần thứ hai trở xuống là nương theo lời hỏi để giải thích chánh. Trong đây có mười hai bài tụng. Bài tụng trước nói về tùy pháp có hai, liệt kê tên khuyên Bồ-tát nên biết. Mười một bài tụng sau nương theo hai chương môn, lần lượt giải thích riêng. Đây tức là phần đầu. Trong đây, ba câu trước nêu ra số liệt kê tên, câu thứ tư khuyên Bồ-tát nên biết. Tụng nói: Tùy pháp hành, hoặc nói Trạch diệt Niết-bàn… gọi nó là pháp, tùy thuận hành kia gọi là tùy pháp hành. Hoặc giáo thì gọi là pháp. Nương theo giáo phụng hành thì gọi là tùy pháp hành. Trong câu thứ ba, hai chữ “chuyển biến” thông với không tán loạn. Trong câu thứ hai, hai chữ “Vị chư” thông với vô điên đảo, vì là hai thể chẳng phải một, nên gọi là chư. Sở vô thể đã khác mà năng vô thể cũng khác, nên gọi là chuyển biến. Hoặc là chuyển biến, nghóa là trong hai vô chuyển, bỏ sở trị biến mà được năng trị. Hoặc trong biến bỏ Sở trị chuyển mà được năng trị chuyển. Hoặc thể của chuyển tức là biến, do năng trị chẳng phải một, năng trị có sở trị kia, Sở trị cũng chẳng phải một, nên nói là chuyển biến. Văn dưới chỉ giải thích hai vô, không giải thích hai thức chữ “chuyển biến”. Ngài An Tuệ giải thích rằng: “Thể của vô tán loạn tức là định, do vô tán loạn tu chỉ vậy. Thể của vô điên đảo tức là quán, vì do vô điên đảo tri quán, thông với chín thứ định bốn thứ tuệ”. Luận rằng: Từ “Tùy pháp chánh hạnh”, đến “nên chánh sẽ rõ biết”. Thuật rằng: Giải thích văn tụng, nêu ra thể của chánh hạnh. Vả lại, vô tán loạn có bao nhiêu thứ? Luận rằng: Từ “Trong đây sáu thứ”, đến “sáu tác ý tán loạn”. Thuật rằng: Giải thích riêng hai vô, đầu giải thích vô loạn, hiển bày đã không phải sáu, gồm liệt kê sáu tên. Luận rằng: “Tướng của sáu thứ này, vì sao nên biết?”. Thuật rằng: Hỏi về vô tướng Luận tụng rằng: Từ “Xuất định ở cảnh lưu”, đến các bậc trí nên biết”. Thuật rằng: Giải thích riêng hai vô. Trong đây có mười một bài tụng. Một bài đầu giải thích về vô tán loạn của chánh hạnh đầu. Kế đến có mười bài tụng, giải thích tướng của sở vô điên đảo và vô điên đã. Đây tức là phần đầu. Ba câu trên hiển bày tác dụng của sáu loạn, câu thứ tư khuyên người trí nên biết. Luận rằng: Từ “Trong đây nêu ra định” đến “tự tánh tán loạn”. Thuật rằng: Giải thích về sáu tán loạn, như Luận Hiển Dương quyển mười tám, luận Đối Pháp quyển thứ nhất và Duy Thức v.v… đã nói. Nếu không phải năm thức ít duyên vào cảnh ngoài, thường ở trong định, đều không nêu ra nhân, nên do năm thức mà nêu ra ở nơi định. Tự tánh tán loạn phải nêu ra tên của định. Thể này tức là năm thức nhãn v.v…, không lấy pháp xúc thọ v.v… tương ưng. Vì thức là chủ, do đó mà nói, thông với lậu và vô lậu. Cách giải thích thứ hai là như phần chuyển ngũ đắc trí ở trong Luận Phật địa và Duy thức đã nói. Luận rằng: Từ “Đối với cảnh lưu” đến “tức là tán loạn bên ngoài”. Thuật rằng: Vì duyên với diệu dục, tự thể do đó mà chiêu cảm tán loạn, Hiển Vương Thánh Giáo nói rằng: “Tâm tùy phiền não là tâm lưu đãng”. Lưu đãng này Duy Thức nói là tự thể của tán loạn. Đây hoặc nói là giả, hoặc nói là thật, như Duy Thức, luận Đối Pháp sớ sao quyển thứ nhất đã nói. Luận rằng: Từ “Vị trầm trạo” đến “tức là tán loạn bên trong”. Luận rằng: Ở đây lấy ba pháp làm thể, tức là tham ái trầm trao do vị dính mắc, tức là nói ái vị. Luận xưa nói, tónh định uư hối, trao khởi là không đúng, không lấy ưu hối. Luận Hiển Dương và Đối Pháp nói: Nghóa là người tu định, phát khởi trầm trạo và vị dính mắc, thoái mất tónh định, nên gọi là tán loạn bên trong. Luận Hiển Dương không có trạo mà thêm nhãn, tức là nêu ra thể riêng, lấy bốn pháp làm thể. Trong đây thông với thuyết, trái thuận định chướng, nên lấy hai thứ trầm trạo. Luận Hiển Dương chỉ nói thuận theo chướng của định, nên lấy trầm nhãn không lấy trao, đây đồng với luận Đối Pháp. Thuyết Hiển Dương lại nói rằng: Hoặc vì do tùy phiền não trong định làm não loạn tâm đó, tức là thông với thủ, tất cả tùy ứng có thể sinh ra tùy cảm, là thể. Nay lấy tướng riêng, kia lấy tướng chung. Nói “đẳng trì” nghóa là thiền định, đây thông với định tá. Vì chỉ có tâm vị bình đẳng giữ gìn, tâm chuyên duyên vào một cảnh. Trong đây chỉ nói vị dính mắc, tức là đẳng trì của tâm định chẳng phải đẳng trì của tâm tán loạn. Tiếng Phạm là Tam- ma-ha-đa, Trung Hoa dịch là “đẳng dẫn” tức chỉ là định tâm chẳng phải thông với tán vị. Phần phiền nói đây là hữu tâm, nhưng căn cứ vào thật mà nói thì không thông với tâm định của hữu và vô. Vả lại, có tâm định gọi là đẳng dẫn, vì do gia hạnh trước bình đẳng dẫn khởi. Đến được trong định này, thì lìa trầm trạo, tức là dẫn khởi khiến cho lìa trầm trạo. Hoăc từ trong định bình đẳng dẫn tâm, khiến cho lìa trâm trạo, nên gọi là đẳng dẫn, chẳng phải nói do bình đẳng dẫn tâm đến cảnh, mà gọi là đẳng dẫn. Nếu không phải tâm định, gọi là đẳng dẫn, hoặc cũng do gia hạnh trước bình đẳng dẫn sinh ra định này. Định này là do gia hạnh trước bình đẳng tâm dẫn, nên gọi là đẳng dẫn. Hoặc tức là không phải tâm định, tịch tịnh bình đẳng, trước sau không khác. Có thể dẫn thân của tứ đại v.v…khiến cho tương tục an hòa ghi nhớ, do định đẳng dẫn nên gọi là đẳng dẫn. Tiếng Phạm là Tam-ma-bát-để, Trung Hoa dịch là “đẳng chí”, cũng chỉ là định tâm, không thông với tán vị, nhưng lại không với hữu tâm, và vô tâm định. Chí hướng nghóa là đắc. Do gia hạnh trước bình đẳng, chí đắc được định này, nên gọi là đẳng chí, hoặc gọi là định tâm bình đẳng chí đắc. Luận rằng: Từ “Chỉ bày uốn nắn” đến “tu định gia hạnh”. Thuật rằng: Nếu chuẩn theo Duy Thức thì thể này chỉ là nịnh hót, tướng của Siểm là lừa dối, hoặc thông cũng lấy hai pháp Siểm cuống, vì dụng của tướng đồng. Luận Đối Pháp nói: “Vì họ đã quy tín về sự ngay thẳng mà tu thiện”. Tu thiện tức là thông với tất cả pháp thiện. Nay đây chỉ nói tu định gia hạnh, căn cứ vào thuyết của thắng thiện, cũng không trái nhau. Luận rằng: Từ “Ngã chấp” đến “vì ngã mạn hiện hành”. Thuật rằng: Thể này thông với chấp thủ vào ngã, ngã sở và ngã hai thứ thô trọng của ngã mạn. Luận Đối Pháp nói: “Do một thứ thô trọng này nên lúc tu pháp thiện khởi lên ngã, ngã sở và cùng với ngã mạn, nên biết chủng tử không lấy hiện hành”. Trong đây cũng nói, do sức thô trọng có ngã mạn hiện hành, nên luân này chỉ nói ngã mạn hiện hành. Tụng nói ngã chấp, nói ngã chấp chỉ thông với kiến mạn, lấy kiến làm đầu, sau ngã mạn khởi, đây chỉ nói quả, chỉ là mạn vậy. Luận Hiển Dương chỉ nói ngã, ngã sở kiến và chỉ nói ở nơi nhân. Luận Đối pháp nói đầy đủ, văn này làm chính. Luận rằng: Từ “Tâm hạ liệt”, đến “vì khởi lên tác ý”. Thuật rằng: Thể tức là tác ý, nghiệp thắng ghi nhớ yếu kém, nên lập ru tên tán loạn. Hoặc theo thật mà nói, hoặc giả thật, hoặc chỉ trong tùy phiền não. Và trong sáu thứ này, tán loạn bên ngoài là tánh của tán loạn, còn năm thứ gọi là loạn. Còn năm thức v.v… hoặc nghó loạn, hoặc giả nói là loạn. Thể của thật chẳng phải loạn, trầm nói là loạn, gọi là chẳng phải tác ý v.v… pháp đắc của biến hành là tùy theo loạn. Song Luận Đối Pháp nói: “Đối với thừa khác định khác, hoặc nương theo hoặc nhập vào tất cả tán loạn”. Trong đây chỉ nói thừa khác không phải định. Lại luận kia nói: “Trước xã được tu tập, phát khởi tán loạn, tức là tác ý loạn, tác ý cụ thời, tán loạn làm thể, thể chẳng phải là tác ý, vì do tán loạn làm đầu, sau mới nhập vào thừa khác. Hoặc thể tức là tác ý, nhập vào thừa, định khác nhau, tâm thông với ba tánh đều gọi là tán loạn. Hoặc chỉ ái lạc thừa khác định khác, tâm này tức là tác ý số, chỉ lấy tác ý làm thể”. Luận xưa nói rằng: “Hai thừa đầu chưa đắc khiến cho không được đắc, hai thứ kế đã đắc khiến cho thoái mất, thứ năm khiến cho không được giải thoát, thứ sáu khiến cho không được Vô thượng Bồ-đề. Nghóa tuy không ngăn đối với gốc tức là không phải văn. Sáu tán động này, vì sao thấy đạo đoạn? Vì sao tu đạo đoạn? Vì sao hàng Nhị thừa và Bồ-tát thông với đoạn? Vì sao chỉ Bồ-tát đoạn? Chính vì nghóa này mà phải nên gắng sức. Luận rằng: Từ “Bồ tát đối với đây” đến “nên nhanh chóng trừ diệt”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng thứ bốn. Ba câu tụng trên nói về vô loạn vốn không, đây chính là nêu ra thể của năng vô, tức chính là trừ sáu loạn, nghóa là định tán, vì thường tu định. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy”, đến “vì sao nên biết?” Thuật rằng: Dưới đây là phần thứ hai giải thích về vô điên đảo. Trong đây có hai, đầu là giải thích rộng mười vô đảo của bản luận; sau là giải thích việc Luận sư đã dựa vào kinh Bảo Tích và mười câu trong kinh Kim Cang, để thứ lớp phối hợp giải thích. Trong phần đầu có ba: Đầu là kết trước sinh sau, để phát ra đầu mối của luận. Kế đến, từ “tụng rằng” trở xuống là liệt kê giải thích về vô đảo. Phần sau từ “nghóa chung của hành vô đảo” trở xuống là phần kết lại giải thích vô đảo. Đây là phần đầu. Luận tung rằng: Từ “Biết thấy đối với văn nghóa” đến “vô bố cao vô đảo”. Thuận rằng: Từ phần thứ hai trở xuống chỉ giải thích vô đảo. Trong đây có mười bài tụng. Một bài tụng đầu nêu chung mười tên, nêu ra thể của vô đảo. Chín bài tụng sau, nương theo nêu giải thích riêng về vô đảo. Luận xưa nói: Như lý như lượng tri kiến là thể, đến dưới tự biết. Chữ “ư” là đã được âm thanh thứ bảy chuyển, một ở nơi văn, hai ở nơi nghóa, ba ở nơi tác ý, bốn ở nơi bất động, năm ở nơi tư tưởng, sáu ở nơi cọng tướng. Nay hợp cả hai cái này nên nói là hai tướng. Bảy ở nơi nhiễm tịnh, tám ở nơi khách, chín ở nơi vô bố, mười ở nơi vô cao. Được trí này thấy duyên của vô điên đảo, nếu ở nơi đây mê tức gọi là đảo, thể là ngu si. Ở đây đã nói mười thứ chuẩn theo dưới kết giải thích về câu Kim Cang, nên không có lỗi, đến dưới sẽ biết. Luận rằng: Từ “Nương vào trong mười việc”, đến “tên của mười vô đảo”. Thuật rằng: Trong bài tụng nương theo cảnh, nêu ra thể của vô đảo khởi. Trong đây nương theo sự biết thấy chung lập ra tên của mười vô đảo. “Y” tức là sở y, trong âm thanh thứ bảy chuyển, tuy cũng như vậy vì nghóa tướng cần phải biết, cũng không có lỗi. Đây nói rõ mười đảo là mười ngu si, chẳng phải nói điên đảo, thuộc về bốn đảo, hoặc quán sở trị, tức kiến là đảo. Luận rằng: “Trong đây vì sao ở nơi văn vô đảo?” Thuật rằng: Từ phần thứ hai trở xuống chỉ giải thích mười vô đảo, hợp có chín bài tụng. Vì bài tụng thứ chín, thứ mười hợp làm một bài tụng, do vậy chỉ chia làn chín đoạn, nói về nghóa của mười vô đảo, là nhằm giải thích bài thứ nhất, nên đây khởi lên lời hỏi. Luận tụng rằng: Từ “Tri đãn do tương ưng”, đến “là ở nơi văn vô đảo”. Thuật rằng: Ba câu trên hiển bày ở nơi văn vô đảo, câu thứ tư kết chung. Tri nghóa là hiển bày thể của năng tri, chữ “tri” ở các ài tụng đều chuẩn theo mà đây biết, nên lại không giải thích lại rườm rà. Đản là hiển bày nghóa của quyết định. Lìa văn bên ngoài này lại không phải văn. Cho nên “do” là nghóa của “sở dó”, lấy âm thanh của chuyển thứ ba thay cho chữ “cố” của chuyển thứ năm. Tức là đối với bốn chỗ, chữ “do” đều thông, trong tụng và Trường hàng đều lược nó. Trong đây đã biết đều do bốn thứ, một là vì tương ưng, hai là vi thói quen. Hai thứ “hữu nghóa” này tức trong luận nói là tương ưng và thói quen, lấy chữ “hữu nghóa” ở trong câu tụng thứ ba. Ba là vì không tương ưng, bốn là chẳng phải thói quen. Hai thứ này không có trong văn nghóa, tức là tụng nói, hoặc đây ngược và câu thứ ba không có chữ hữu, đến dưới nên biết. Luận rằng: Từ “Hoặc đối với các văn” đến “nói tên tương ưng”. Thuật rằng: Giải thích vì tương ưng, thành có nghóa văn. Tương ưng là nghóa của hòa hợp; vô gián đoạn là nghóa của tương tục không đoạn. Thứ đệ tuyên xướng nghóa là chẳng phải điên đảo trước sau. Tuyên xướng nghóa là tuyên, tức hiển bày ý nghóa; xướng tức là nói; nghóa văn tức là văn tự. Hoặc tuyên xướng được nói là thông với vô gián đoạn, nghóa là đối với các văn, một mực không đoạn tuyên xướng. Nhiếp Luận quyển thứ tám của ngài Thế Thân nói: “Nghóa là từng lời từng lời trôi chảy liên tục, nên thành nghóa đó tức là nghóa của tương ưng. Như nói “chước sô”, hai chữ không đoạn nói thành nghóa nhãn, nên gọi là tương ứng. Nói vô tánh nghóa là các văn tự, triển chuyển tương ưng tuyên xướng không dứt. Vì trong đây, ý chung do hai chữ “chước sô” không gián đoạn, tức là hòa hợp rồi mới thành, ở nơi tên, nói nhãn tự tánh, nên gọi là tương ưng thành có văn nghóa. Trong đây nói tự không gián đoạn, do hiển bày nghóa này, gọi là không gián đoạn, mới thành ở nơi câu hiển bày pháp sai biệt. Câu không gián đoạn, thành ở nơi tụng v.v.. tức là hiển bày nghóa tròn khắp, hai thứ lớp tuyên xướng. Luận của hai luận sư Thế Thân và Vô Tánh đều nói rằng: “Như nói “chước sô”. Trước chước sau sô, văn không điên đảo, đã hóa hợp rồi thành tên”. Mục pháp nói tên tương ưng thành có nghóa văn, do đây nghóa rõ thành câu, câu thành tụng v.v… Trong đây chỉ nói tên v.v…. sở y chẳng phải là năng thuyên, nên chỉ nói văn không ngăn tên v.v… Luận rằng: Từ “Cùng chấp nhận tên này” đến “gọi là xuyến tập”. Thuật rằng: Vì giải thích “xuyến tập” thành có nghóa văn. “Xuyến tập” nghóa là vô số huân tập. Vì tất cả thế gian cũng không trái, nên gọi là cùng chấp nhận. Chấp nhận tên nhãn này, tức là chỉ mắt là thấy rõ việc này. Vì từ vô thỉ đến nay huân tập nó không dứt, gọi là triển chuyển, vì có vô số huân tập vào mắt này. Đây là ý chung, nghóa là thế gian cùng chấp nhận tên của nhãn, tức chỉ là mắt nhãn sự này. Vì từ vô thỉ đến nay triển chuyển nhớ nghó tên nhãn này, nên gọi là xuyến tập thành có văn nghóa. Trong này chỉ nói cùng chấp nhận tên này, không nói chữ câu v.v… Vì tên chỉ có thể là mục pháp tự tánh, không đồng với chữ chẳng năng thuyết, không đồng với câu thuyên sai biệt, không đồng với tụng hiển bày nghóa khắp, nên chỉ nói ở nơi tên. Do hiển bày nghóa này cùng chấp nhận chữ này có thể sinh ra tên này, cùng chấp nhận thuyên này, sai biệt này, cùng chấp nhận tụng hiển này, nghóa khắp này, đều từ vô thỉ, triển chuyển nhớ nghó, gọi là xuyến tập, thành có nghóa văn v.v… Xưa luận rằng: “Như gọi cú vị, như có tương ưng v.v…” là trái. Do ý của luận có câu v.v… mà văn không có. Luận rằng: “Chỉ do hai thứ này thành có nghóa văn”. Thuật rằng: Đây là giải thích hai chữ “đản do” ở câu tụng thứ nhất và hai chữ “hữu nghóa”, của câu tụng thứ ba. Chỉ vì do có tương ưng, hoặc do có huân tập mà thành ra văn này. Luận rằng: “Cùng đây trái nhau văn thành vô nghóa”. Thuật rằng: Đây là giải thích ba chữ “hoặc phiên thử” ở câu tụng thứ hai; và ba chữ “cập phi hữu” của câu tụng thứ ba. Nghóa là, như trước nói gián đoạn, lâu sau nói sô, trước nói sô sau nói chước, chẳng phải thứ lớp, nên gọi là bất tương ưng. Chẳng phải tất cả thế gian đã cùng chấp nhận, cũng chẳng phải thói quen của vô thỉ, chỉ tự chọn rồi, ngày nay chọn nói. Tên thuyên ở nơi nhãn sự, tên chẳng phải xuyến tập, cũng chỉ do hai thứ này, văn thành vô nghó. Tức là hai chữ “đản do” này thông với cả hữu nghóa va vô nghóa. Trong hai mươi chữ của bài tụng nay đã giải thích xong mười bốn chữ. Luận rằng: Từ “Như thật tri kiến” đến “ở nơi văn vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích chữ “tri” trong bài tụng và câu thứ tư, hợp giải thích sáu chữ. Đối với văn có nghóa biết là có nghóa, không có nghóa biết là không có nghóa, nên gọi là như thật tri. Trong mười chín đảo ở dưới đều chuẩn theo đây mà hiểu, nên không giải thích rườm rà. Nay do tên v.v.. lấy tự làm y, nhưng nói nơi văn, ý ở nơi đây. Nhiếp Đại Thừa nói: Xem văn này không nhập với Viên thành thật. Luận rằng: Từ “Ở nơi nghóa vô đảo” đến “là ở nơi nghóa vô đảo”. Thuật rằng: Từ phần thứ hai trở xuống, giải thích nghóa vô đảo. Hai câu tụng trên nêu ra thể của sở chấp, câu tụng thứ ba nói biết lìa hữu vô nêu ra tướng vô đảo; câu thứ tư kết về vô đảo. Trong hai câu đầu, câu thứ nhất nói về hữu, câu thứ hai nói về vô. Luận rằng: Từ “Tợ hai tánh hiển hiện” đến “vì hành tướng sinh”. Thuật rằng: Đây là giải thích thể của sở chấp, giống như hữu tình. Ngài An Tuệ giải thích rằng: Chỉ có thể của thức là không có kiến phần và tướng phần. Vì thể của loạn thức, giống như hành tướng của năng sở mà sinh ra, không phải là hoàn toàn không có tướng mạo của hai thủ. Vì do đây tám thứ đều có thể tính toán khắp, cái mà hiện ra núi sông v.v.. đều là sở chấp. Luận Hộ Pháp giải thích rằng: Nương vào thứ khác mà tám thức có kiến phần. Theo đoạn trước của luận này, Thật thể cũa hai thủ sở chấp vốn không, nó chỉ là vọng tình mà hiện bày hai thủ. Vì có tướng tợ nên không phải hoàn toàn không có. Luận rằng: Từ “Như hiện thật chẳng phải có”, đến “thật không có như vậy”. Thuật rằng: Do Biến kế sở chấp hiện ra các vọng tình như núi sông… nên nói là có. Căn cứ vào thật mà nói, các vọng tình đã hiện, ấy vốn không thật có, vì thể thông có. Hai giải thích như trên đây chuẩn theo mà biết. Ở đây giải thích sở chấp thật thể không có, trên đây tức là hiển bày sở chấp cũng có, chẳng phải có. Luận rằng: Từ “Ly hữu” đến “vì tánh phi hữu”. Thuật rằng: Đây là giải thích chữ “ly hữu” ở câu thứ ba. Nghóa là sở chấp kia đã lìa các hữu. Với nghóa này, dùng nghóa để nói cảnh. Tức là tánh của sở chấp, sở thủ và năng thủ là không có, vì thế biết là không. Ngài An Tuệ do đây mà nói tâm y tha vốn không có hai thủ. Luận Hộ Pháp nói: Do dựa vào sở thủ và năng thủ của y tha nên thể của hai thủ sở chấp là không có vậy. Luận rằng: Từ “Ly phi hữu” đến “Hiện tợ hiểu”. Thuật rằng: Đây là giải thích chữ “ly phi hữu ở câu thứ ba. Tức chữ “Ly” ấy thông với cả hữu và phi hữu. Nghóa là loại thức của y tha kia hiển hiện, vì sở chấp hai thủ của hữu tình là có nên là lìa phi hữu. Cách giải thích của Luận Hộ Pháp cũng như trước. Luận rằng: Từ “Như thật tri kiến” đến “đối với nghóa vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ tư chữ trị trong bài tụng, đây tức là chỉ lấy sở chấp làm nghóa, không lấy y tha, đến sau nên biết. Luận rằng: ở nơi tác ý đến vì hiện tị hai nhân. Thuật rằng: Thứ ba giải thích về tác ý. Câu tụng thứ nhất nêu ra tên của sở biện; ba câu tụng sau nêu ra thể của sở tri. Trong tụng kia nói nghóa là nói, năng huân. Huân tập v.v… nghóa là hạt giống của sở huân, đến sau nên biết. Luận rằng: “Sở thủ năng thủ nói sở huân tập”. Thuật rằng: Sở thủ, năng thủ nghóa là giải thích chữ “bỉ” trong bài tụng, tức là biến kế sở chấp sở thủ năng thủ. Nói sở huân tập nghóa là hiểu rõ tụng thì gọi là huân tập. Tức là lấy tướng và tưởng của sở thủ năng thủ kia để huân tập. Huân tập chính là chủng tử. Nên luận kia nói, đó là năng huân. Vì luận kia nói nên gọi là “bỉ ngôn”. Luận rằng: “Danh ngôn tác ý”. Thuật rằng: Tức là nói về hai thủ trước, đã huân tập chủng tử, gọi là ngôn tác ý, tức là nói tác ý của hai thủ. Đó là giải thích theo lối y só, chẳng phải giải thích theo lối trì nghiệ. Nói huân tập này, tức gọi là tác ý. Đến đoạn sau sẽ biết. Luận rằng: Từ “Tức tác ý này” đến “phân biệt sở y”. Thuật rằng: Giải thích hai chữ “bỉ y” trong bài tụng. Tức là đây nói, tác ý của thể huân tập, chính là phân biệt sở y của sở thủ và năng thủ. Sở thủ và năng thủ nghóa là biến kế sở chấp, duyên vào hai thủ này có tâm phân biệt, hoặc là tâm của hai thủ sở y. Vì do tâm phân biệt là nương vào hai thủ mà có. Đây là nói chỗ huân tập, hạt giống của tác ý, vì chủng tử là tánh của nhân duyên hiện hành, nên gọi là sở y. Hai thủ trước nói là năng huân, là nhân của tác ý. Phân biệt hai thủ này là tác ý, quả đã sinh ra, tức là tác ý, cũng là nhân cũng là quả. Vì đã hướng vào chỗ khác, vì nương vào kia nên gọi là bỉ y. Bỉ chẳng phải là y, trong đây phân biệt có nói chỉ tự thể, có nói thông với ba phần, biện luận rộng rãi như trước. Luận rằng: “Vì là nhân năng hiện của tợ hai thủ”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ tư trong bài tụng , tức là giải thích nghóa của tác ý phân biệt sở y. Do sở huân này tác ý, chính là nhân của năng tợ hai thủ, nên gọi là sở y. Thể của hai thủ là không, thể của hai phân biệt là có. Sở và năng của hai thủ gọi là sở hiện tợ, vì tợ có hai thủ. Tâm phân biệt gọi là năng hiện tợ, vì năng hiện là tướng của hai thủ, phân biệt tức là hiện hành của thức. Đây nói tác ý, vì là chủng tử của thức, là nhân của năng hiện hai thủ. Hỏi đây nói phân biệt thuộc vào thức nào? Đáp: Ngài An Tuệ nói: “Thông với tám thức, vì đều là tướng của năng hiện tợ hai thủ”. Luận Hộ Pháp nói: Chỉ có thức thứ sáu và thức thứ bảy, ngoài ra thay đổi, giống như hai thủ tức là y tha tánh, vì không phải năng hiện tợ sở chấp hai thủ. Hỏi: Vì sao không thấy lấy các tâm sở pháp, chỉ nói thức ư? Đáp: Thức là chủ, nên lại nói ở nơi thức, hoặc nói phân biệt không lựa ra tâm sở, vì tướng của các năng hiện tợ hai thủ, đều gọi là phân biệt. Hỏi: Trong chủng tử cũng có, chẳng phải chủng tử của phân biệt, như chủng tử của sắc v.v… vì sao không nói? Đáp: Vì chỉ có thức là bàn luận nói tâm thuộc về cảnh. Hỏi: Trong y tha tánh cũng có chủng tử vô lậu, vì sao không nói? Đáp: Vì đây là nói về phần nhiễm y tha tánh. Hỏi: Nói về nhiễm y tha nghóa thông với chủng tử hiện tại, vì sao trong đây chỉ nói chủng tử? Đáp: Chủng tử là nhân duyên quả hiện thành mới khởi lên chủng tử, tương tục hiện hành thức mà có. Hỏi: Chủng tử rộng thông suốt, hiện hành nghóa cuộc, nhưng sao chỉ nói ở nơi chủng tử, mà lược không nói hiện hành? Đáp: Vì nghóa không ngăn ngại vậy. Hỏi: Chủng tử đã sinh ra quả, tức là cũng có nói, vì sao không nói, chỉ nói chủng tử này là phân biệt y? Đáp: Lấy hai tưởng thì thắng, nhưng nói lời có thể huân tập, hiện tợ hai thắng, chỉ nói sinh ra phân biệt, phân biệt là y. Vì hiện hai thủ đều căn cứ vào dụng của thắng, hiện thật không ngăn, có thể huân tập phân biệt, đã sinh ra có lời. Hỏi: Sở thủ và năng thủ y tức là hiện phân biệt, vì sao không nói là năng huân tập? Cho đến nói lời của hai thủ là năng huân tập, lại sở huân tập chủng tử thông với tâm tâm sở, vì sao chỉ lập ra tên tác ý? Để giải đáp câu hỏi này, lần lượt trả lời rằng: Luận rằng: Từ “Do tác ý này” đến “gọi là tác ý”. Thuật rằng: Chỉ nói là hý luận, tưởng nghóa là hiểu lời. Hý luận là tên khác của phân biệt, như hý luận của đời có tướng khác. Tâm hữu lậu này v.v… có tướng sai biệt, tức từ nơi dụ đặt làm tên, nên gọi tâm là hý luận. Nói năng huân tập nghóa là tưởng có thể nói thành lời. Tưởng là lời năng huân, dụng của tưởng tăng ở nơi pháp khác, vì sinh ra lời rồi ghi nhớ tên của pháp. Tức vì nhân mà tưởng lập quả nên gọi là xứng, chẳng phải ngăn che các pháp khác, nên cũn gọi là năng huân. Vả lại, đây là ghi nhờ từ nơi thù thắng. Đây là đáp lại câu hỏi đầu. Nói chung do tác ý này là sự huân tập của tưởng hý luận, nên gọi là ngôn tác ý. Đây là trả lời câu hỏi thứ hai. Do hý luận tưởng, cùng thời tác ý huân tập của sở tâm, nên nói chủng tử này. Gọi là ngôn tác ý, vì lúc ý phát khởi, tác ý pháp thù thắng. Chỗ huân tập chủng tử chỉ gọi là tác ý, hoặc chỗ huân tập chỉ là bổn thức, vì thể không phân biệt. Đây tức là thức thứ tám, cụ thể có thể duyên vào tác ý gọi là sở huân tập. Vả lại, căn cứ vào một thắng, tâm sở là lời, chẳng phải ngăn chủng tử tất cả các pháp khác, vì lấy tướng phân biệt, tưởng dụng còn lại thắng. Nói năng huân chỉ gọi là tưởng, tưởng là lời, vì khởi lên y phân biệt, dụng của tác ý tăng tưởng. Chỗ huân tập chỉ gọi là tác ý, vì dụng của hiện tợ hai thủ phân biệt đầu tiên, chủng tử đã sinh ra chỉ gọi là phân biệt, đều căn cứ vào một nghóa, còn lại hý không ngăn. Luận rằng: Từ “Như thật tri kiến” đến “tác vô đảo”. Thuật rằng: Trước giải thích chữ “tri” trong câu thứ hai, sau giải thích câu tụng thứ nhất. Trên đây, đoạn thứ nhất nói về Viên thành, nghóa là sở chấp, tác ý là y tha, có lời vấn nạn ngoài. Như phẩm Tướng nói, tướng của y tha khởi chẳng phải có chẳng phải không. Kế đến,, trong hai nghóa “vô đảo” ở trước. Phần sau nói sở chấp chẳng phải có chẳng phải không, hai tánh này nếu nói thật là không, vì sao hiện thấy tướng mạo có thể đắc? Nếu thật là có, thì không cần phải nói bổn tánh của các pháp, trước nay vốn thanh tịnh? Vì giải thích lời hỏi này, nên có văn kế. Luận rằng: Từ “Ở nơi bất động vô đảo” đến “vì hữu vô bất động”. Thuật rằng: Câu thứ nhất hiển bày tên của sở minh, chữ “tri” trong câu thứ hai hiển bày thể của đảo. Câu thứ hai nghóa phi hữu, câu thứ ba phi vô. Hợp năm chữ này để nói về sở tri pháp. Câu thứ ba như huyễn v.v… là hiển bày sở tri pháp, đồng với phẩm pháp dụ. Câu tụng thứ tư giải thích nghóa của bất động. Luận rằng: Từ “Trước nói các nghóa” đến “vì phi hữu vô”. Thuật rằng: Trong bốn câu này, hai câu trên điệp văn trước, hai câu dưới là chánh giải thích. Nghóa là, nghóa của câu thứ hai, thể của vô đảo lìa hữu và phi hữu. Giải thích rằng: Đây là nghóa như huyễn v.v… phi hữu vô, nên từ đây sắp xuống giải thích rộng. Hoặc thông với điệp văn trước, trong quyển thứ nhất nói, tánh của y tha khởi cũng gọi là nghóa. Như huyễn v.v… tức là giải thích lời như huyễn trong bài tụng. Phi hữu vô nghóa là giải thích, giải thích chữ “phi hữu phi vô” trong bài tụng. Vì trong điệp văn trước nói các nghóa, nên nay giải thích chữ nghóa ở trong bài tụng. Đây như v.v… nghóa là không hiển bày chữ nghóa, vì đây tức là nghóa này. Hoặc như giải thích nghóa ban đầu, lời hỏi tuy thông với hai tánh ở đoạn văn trước, nhưng đó chỉ là điệp sở chấp, vì y tha tánh ở trong vô đảo không nói về hữu vô, mà trả lời rộng, ý tức là trả lời cả hai. Nếu sau hiểu rõ nghóa thông với y tha, nghóa là chuẩn theo trong câu Kim Cang dưới, vì từ đây sẽ giải thích thể. Nghóa của điệp trước không chỉ là sở chấp, ở trong giải thích rộng, không phải dụ sau pháp. Luận rằng: Từ “Nói như huyễn tạo tác” đến “tánh của voi ngựa v.v…” Thuật rằng: Từ đây trở xuống nói rộng về như huyễn, đây là dụ về phi hữu. Đối với việc huyễn, vì nó không có dạng thật thể, nên nói là phi hữu. Nếu vọng tình như thật, thi thể của các ảnh tượng sở chấp ấy cũng không có. Đây là dụ cho sở chấp vốn không. Nếu theo sở chấp, thì các thứ voi mã huyễn hoặc ấy đều chẳng có. Đây là dụ cho tánh y tha vốn không. Luận rằng: Từ “Cũng chẳng hoàn toàn vô”, đến “vì hiển hiện”. Thuật rằng: Đây là dụ về phi vô. Đối với việc huyễn trên giống như có hiển hiện, nên nói là có. Đối với việc huyễn trên, nếu sở chấp là thật tượng v.v… giống như vọng tình đó mà có hiển hiện, việc này là phi vô. Đây dụ sở chấp là hữu. Thể của việc huyễn đó, nếu giống như sở chấp kia, tức thật có tượng mã v.v… hiển hiện thì việc này là phi vô. Đây dụ cho y tha là hữu. Nếu như giải thích ban đầu, nghóa là trước chỉ là tánh của sở chấp, thì dụ hữu vô chỉ là dụ cho sở chấp. Nếu như giải thích sau, nghóa thông với y tha, thì dụ này tức là thông với tánh y tha khởi. Vì trái với câu hỏi Kim Cang dưới, nên đây mới giải thích về hai tánh hữu vô này. Đây là giải thích dụ trên, từ đây sắp xuống giải thích về pháp. Luận rằng: Từ “Các nghóa như vậy”, đến “định thật có tánh”. Thuật rằng: Từ đây sắp xuống nói về nghóa rộng của hữu và phi hữu. Đây là giải thích pháp vô. Các nghóa ấy hoặc sở chấp cẳhng phải một, hoặc thông với y tha, vì có hai tánh nên nói là “chư”. Biến kế sở chấp, sở thủ, năng thủ đó, không như vọng tình sở hiện hai thủ là thật có. Nếu như vọng tình hiện là có, thì thể của nó hoàn toàn là không, không như vọng tình đã hiện đã khởi. Như hoa đốm giữa hư không là dụng của vô thể, nên sở chấp là vô. Tánh y tha khởi đó. Ngài An Tuệ giải thích rằng: “Chỉ có thể của thức, không như sở chấp thật có hai thủ, nên thành ra phi hữu”. Luận Hộ Pháp giải thích rằng: “Hai thủ của y tha phi hữu tợ hữu, không như sở chấp hai thủ thật có, nên nói là vô”. Luận rằng: Từ “Cũng chẳng phải toàn vô”, đến “vì hiển hiện”. Thuật rằng: Đây là giải thích rộng về các nghóa phi vô, tức là hai cách giải thích về các nghóa phi vô vậy. Biến kế sở chấp đó, Ngài An Tuệ nói rằng: “Do hay hiển hiện giống như tự thể của loạn thức”. Luận Hộ Pháp nói rằng: “Do hay hiển hiện giống như hai phần của loạn thức, đều giống như từ vọng tình mà hiển hiện. Vì sở thủ và năng thủ kia trước vọng tinh có, không thể nói là không. Như hoa đốm giữa hư không, vì loạn thức hiển hiện giống như vọng tình có, chẳng phải có nghóa là toàn vô”. Y tha khởi tánh đó An Tuệ nói rằng: “Chỉ có tự thể của loạn thức”. Luận Hộ pháp nói rằng: “Hai phần của loạn thức, đều hiển hiện giống như sở chấp hiển hiện, chẳng phải nghóa là toàn vô”. Hoặc chỉ là sở chấp, hoặc thông với y tha, nên giải thích văn này là giải thích tánh. Luận rằng: Từ “Các âm thanh hiển thị” đến “như vậy nên biết”. Thuật rằng: Trên đã giải thích về như huyễn và nghóa của hữu và phi hữu, đến giải thích chữ “đẳng” ở trong các bài tụng về như huyễn. Nay dùng một dụ về huyễn để làm bảy thứ ví dụ. Đó là lấy mặt trời, ngọn lữa, và nước để dụ cho y tha tánh. Đối với lữa v.v… ở trên, chấp nước là có thật, đó là dụ cho biến kế sở chấp. Vì vậy mà luận nói là nên biết. Tám dụ này, trong Luận Nhiếp Đại thừa chỉ dụ cho y tha, nên mới nói việc này. Ở luận này dùng nó để dụ cho cả biến kế sở chấp. Tuy nói là sở chấp nhưng cũng không trái với luận trên. Như Nhiếp Luận v.v… đã nói nhiều. Hỏi: Y tha và sở chấp đều đồng với tám dụ, hai thứ này đều thông với hữu và phi hữu, hai tánh này khác nhau gì? Đáp: Y tha có thể và có tác dụng, nhưng không phải chân thật, nên khác với chân như, không như sở chấp. Biến kế sở chấp chỉ giống như vọng tình có pháp hiển hiện, vô thể vô dụng, không đồng với y tha. Vọng tình tuy là có nhưng không như thật, thể của như thật là phi vô, nên hai tánh khác nhau. Lại nữa, y tha đồng duyên với pháp, có thể đoạn pháp, đế nhiếp pháp, uẩn giới xứ pháp, năng sở chấp pháp. Biến kế sở chấp thì không như vậy, nên hai tánh khác nhau. Luận rằng: Từ “Do năng đế quán” đến “tâm bất động tán”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ tư. Hiển lập tên bất động. Vì đối với Vô phẩm của sở chấp, hữu phẩm của y tha, hoặc sở chấp va y tha đều thông với phẩm hữu vô, ở trong hai thứ đó tâm vẫn không tán loạn, quyết định hiểu biết rõ ràng nên không còn si mê ngăn ngại. Đối với chẳng phải có biết là không, chẳng phải không biết là có, không còn tán loạn. Vì vậy, khi tâm trụ cảnh này gọi là bất động. Không còn tạp duyên nên gọi là bất tán. Vì tâm là chủ, nên chỉ nói ở nơi tâm, chẳng phải là không có tâm sở. Chữ “dó” nghóa là nên, “đế quán” là xét kỹ các duyê. Do xét kỹ duyên nên tâm không động. Luận rằng: Từ “Như thật tri biến”, đến “bất động vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích chữ “tri” ở câu thứ hai và chữ “bất động” ở câu thứ nhất. Tâm tri cảnh này, lấy hữu vô làm cảnh. Vô đảo là biết trí của bất động, lấy bất động làm sở duyên. Tuy tâm bất động, tức vô đảo là tâm ban đầu, nên không thể hàng phục được đảo vónh viễn, khiến cho không sinh khởi. Đối với tâm bất động vô đảo này nghóa là gia hạnh sau có thể hàng phục được đảo, vì là trí của phẩm thượng, còn lại cũng như vậy. Vì sao trong đây nói lặp lại trí của tri, còn lại thì không như vậy? Luận rằng: Từ “Đối với hai tướng vô đảo”, đến “đều vô điên đảo”. Thuật rằng: Điệp tụng hai tướng, nay liệt kê tên nó, dưới tự giải thích riêng. Luận rằng: Từ “Đối với tự tướng vô đảo” đến “tự tướng y thắng nghóa”. Thuật rằng: Bất động trước cùng với gia hạnh, chưa có thể đoạn hoặc, còn đây là căn bản nên có thể đoạn hoặc. Câu tụng thứ nhất hiển bày tên sở minh; câu thứ hai, thứ ba chính là hiển bày vô đảo và sở trị này. Câu thứ tư hiển bày tự tướng vô đảo này, chỉ căn cứ vào thắng nghóa đế mà nói. Luận rằng: Từ “Như thật tti kiến” đến “đều chỉ có tên”. Thuật rằng: Giải thích câu thứ hai. Tất cả nhãn sắc cho đến ý pháp, tức là nêu ra thể của tất cả. Phần còn lại như tên, giải thích chuẩn theo tụng có thể biết. Ở đây hoặc biến kế sở chấp không phải ít thể tánh, hoặc y tha tánh khởi lìa thể như không, nên chỉ có tê. Đây tức là gia hạnh đạo, như vậy biết rồi. Luận rằng: “Tức là năng đối trị tất cả phân biệt”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng thứ ba. Nói “viễn ly” tức là nghiã của Đối trị. Dùng gia hạnh để biết biến kế sở chấp, hoặc y tha khởi đều chỉ có tên. Căn bản trí đó có thể đối trị tất cả phân biệt. Phân biệt nghóa là tâm biến kế chấp, như gia hạnh đạo tác Duy thức quán để hàng phục và trừ được sở thủ. Sở thủ trừ rồi lại trừ năng thủ, tất cả chỉ là tên. Khi nhập vào căn bản trí thì trừ tất cả phân biệt. Luận rằng: “Nên biết là đối với tự tướng vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng thứ nhất. Nên theo nghóa mà quy về tên. Biến kế sở chấp đó tức là không sai biệt, vì sao gọi là tự tướng, tự tướng nghóa là y tha tánh. Biết y tha khởi, biến kế sở chấp trên chỉ có tên đó, nên gọi là đối với tự tướng vô đảo. Nếu không như vậy, chân như liền chẳng phải tướng đó, hoặc y tha khởi lìa như thể của vô. Hướng về một thật chân như chỉ có tên đó, nếu tùy theo việc sai biệt thì tục đế cũng có tướng. Luận rằng: Từ “Đây là y thắng nghóa” đến “vì tướng của sai biệt”. Thuật rằng: Hiển bày kế sở chấp, chỉ có tên rồi, e rằng y tha tánh cũng chỉ có tên, hoặc cho y tha khởi, chỉ được tục đế thứ hai ở trong bốn tục đế. Cũng có sai biệt các thứ tướng mạo, tức đối với bốn thắng nghóa, kế sở chấp này chỉ có tên đó. Không như y tha, ở trong bốn tục đế, tùy theo tục việc sai biệt, kế sở chấp đó có tên mà không có thật, trong tục lấy đây. Hình dạng ba tục sau, tục cũng là thắng nghóa, vì chỉ có tên đó. Hoặc y tha khởi hướng về một thật chân thắng nghóa, tức là thể của vô biệt, nên chỉ có tên, ở nơi tùy theo việc tục có các thứ tướng. Luận rằng: Từ “Đối với cộng tướng vô đảo” đến “đối với cộng tướng vô đảo”. Thuật rằng: Hai câu tụng trên giải thích thể nghóa của cộng tướng; câu thứ ba hiển bày nghóa của vô đảo, tức là chữ “tri” còn lại trong bài tụng; câu thứ tư kết nghóa quy về tên. Luận rằng: Từ “Do không phải một pháp” đến “các pháp thuộc về cộng tướng”. Thuật rằng: Giải thích hai câu tụng trên. Do thể của pháp vô ngã rộng khắp nên không nói nhân vô ngã. Lại biết mỗi mỗi pháp tự thể sai biệt, và có thể đoạn hoặc. Chân pháp giới này cũng thuộc về tự tướng. Căn cứ theo gia hạnh đạo như nên gọi là tự tướng. Căn cứ theo đạo chân như không gián đoạn nên gọi là tự tướng. Vì so sánh mà biết, nhờ chứng ngộ mà biết có sai biệt. Như Phật Địa luận nói: Luận rằng: Từ “Như thật tri kiến” đến “cọng tướng vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích hai câu dưới trong bài tụng, đây là lấy sự biết mà nói giải thích nghóa thông đạt. Luận rằng: Từ “Đối với nhiễm tịnh vô đảo” đến “thanh tịnh vô điên đảo”. Thuật rằng: Đây là giải thích vấn nạn, như câu kinh Kim Cang. Hai câu trên hiển bày nghóa của nhiễm tịnh, hai câu dưới hiển bày vô đảo sở tri cảnh của nhiễm tịnh. Chữ “tri” trong câu thứ nhất chính là hiển bày vô đảo. Luận rằng: Từ “Nếu chưa đoạn diệt” đến “nói là thanh tịnh”. Thuật rằng: Trong đây giải thích chung đại cương của bài tụng. Trong câu thứ nhất, “điên đảo tác ý” là “thông với lời”, “chưa diệt đã diệt” là nghóa khác. Nghóa là, điên đảo tác ý là thông với chưa diệt đã diệt, nên đối với pháp giới, điên đảo trên chưa diệt thì nói là tạp nhiễm, nếu lúc đoạn diệt thì nói là thanh tịnh. Nhưng nhiễm tịnh này thông với tâm và tâm sở. Chỉ nói tác ý nghóa là sinh ra tâm thù thắng. Nếu vì căn cứ khônghoại tác ý hiện trước thì không nói cái khác. Luận rằng: Từ “Như thật tri kiến”, đến “nhiễm tịnh vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích chữ “tri” trong câu thứ nhất, chữ “tạp nhiễm” ở câu thứ ba và câu thứ tư, nghóa chuẩn theo có thể biết. Luận rằng: Từ “Ở nơi khách vô đảo” đến “là ở nơi khách vô đảo”. Thuật rằng: Đây là giải thích lời hỏi câu kinh Kim Cang. Ba câu trên hiển bày biết cái đã biết, hướng về ai làm khách? Câu thứ tư kết nghóa quy về tên, chữ “tri” thứ nhất hiển bày thể của vô đảo. Luận rằng: Từ “Bổn tánh của pháp giới” đến “là khách chẳng phải chủ”. Thuật rằng: Trừ chữ “tri” ban đầu là giải thích ba câu trên, văn tụng khác có thể biết. Chủ nghóa là bổn tánh, khách chẳng phải là bổn tánh, tức từ nơi dụ để đặt tên. Nếu trước nhiễm sau tịnh là bổn tánh của pháp giới. Vì tướng của nhiễm tịnh đó là chủ chẳng phải khách, tức là chẳng phải bổn tánh, tướng của tạp nhiễm là khách chẳng phải chủ. Sau tịnh đó, nghóa là, tịnh tức là mới có, nên cũng là khách, vì bổn tánh tịnh của pháp giới, chẳng phải sau mới tịnh. Luận rằng: Từ “Như thật tri kiến”, đến “đối với khách vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích chữ “tri” ban đầu và câu tụng thứ tư. Luận rằng: Từ “Ở nơi vô úy vô cao” đến “là ở nơi hai vô đảo”. Thuật rằng: Đây tức là phần thứ chín, cả hai cùng giải thích về nhị môn. Cao nghóa là ngạo mạn. Hai câu tụng trên giải thích về cảnh của vô úy vô cao; câu thứ ba hiển bày thể của vô đảo; câu thứ tư kết nghóa quy về tên. Luận rằng: Từ “hữu tình và pháp” đến “cũng đều phi hữu”. Thuật rằng: Trong đây, hai câu đầu giải thích câu thứ nhất trong bài tụng; hai câu sau giải thích câu thứ hai trong bài tụng. Vì sở y vì người và pháp đều không, năng y nhiễm tịnh cũng đều chẳng có. Luận rằng: Từ “Do nghóa của nhiễm tịnh” đến “không giảm không tăng”. Thuật rằng: Tuy hiển bày cảnh của vô úy vô cao, nhưng chưa nói về nguyên do của vô úy vô cao, nên đây tức là nói về nguyên do của vô úy và vô ca. Nếu nhân pháp, nhiễm tịnh trên có nghóa là lúc đoạn diệt thì được tịnh, nhiễm pháp có thể giảm, tịnh pháp có thể tăng, vì tánh của nhiễm tịnh đều là phi hữu, tức là nhiễm không giảm, thiện pháp không tăng. Luận rằng: “Do ở trong đây vô bố vô mạn”. Thuật rằng: Đây tức là chính hiển bày vô bố, vô cao. “Cao” có nghóa là mạn. Tức là vì hiển bày nguyên do nên hiển bày hai vô. Vì nhiễm pháp không giảm, cho nên không sợ hãi, không sợ hãi sau khi ngã đoạn thì vô. Do tịnh pháp không tăng cho nên không ngạo mạn. Nếu các tính pháp tăng có thể giữ gìn thiện pháp này mà khởi ngạo mạn. Thiện pháp đã không tăng thì chấp vào cái gì? Vì thế mà không khởi ngạo mạn. Chữ “vô” ở đây là không có biến kế sở chấp. Luận rằng: Từ “Như thật tri kiến”, đến “nói hai vô đảo”. Thuật rằng: Giải thích câu tụng thứ ba và thứ tư. Vô úy vô cao là gia hạnh trí, biết rõ trí này tứv trí vô học đạo căn bản, như trước nói, biết bất động cũng lại biết trí. Luận rằng: Từ “Vô đảo hành nghóa chung”, đến “chỉ quán hai tướng”. Thuật rằng: Từ đây sắp xuống là giải thích riêng. Trong mười vô đảo ấy, cái thứ ba xếp vào mười vô đảo. Nhưng cữu luận xếp vào quyển sau để giải thích tên Luận, cuối cùng mới kết. Đây không như vậy. Do đoạn văn nói về vô đảo đầu có thể thông đạt cả hai tướng chỉ và quán, có nghóa văn nói rõ hai tướng. Tuy mười vô đảo tu quán nhưng theo ý văn thì thông với chỉ. Hoặc tánh của viên thành thật này, là tướng của chỉ quán. Sở y, sở duyên, sở cầu, thông đạt tướng chỉ quán nên gọi là chỉ quán tướng. Đây là giải thích căn bản. Luận xưa nói rằng: Thông đạt tướng thiền định tức là vô tuệ. Luận rằng: Từ “Do nghóa vô đảo” đến “tướng của các điên đảo”. Thuật rằng: Luận xưa nói rằng: “Thông đạt tướng của trí tuệ”. Đây cho rằng, phần đầu dịch chủ đã sai lầm, do đây bèn không kết. Kết điên đảo thứ hai ở nơi nghóa vô đảo. Đây nói điên đảo là vọng cảnh của sở chấp điên đảo, nên gọi là điên đảo, chẳng phải là phiền não bốn điên đảo v.v… Vì ở trong câu kim cang tự nói chỉ là tánh của biến kế sở chấp, nên biết như thế. Luận rằng: Từ “Do tác ý vô đảo”, đến “năng chánh viễn ly”. Thuật rằng: Kết thứ ba, do tác ý là chủng tử có thể sinh hiện thức khởi ở nơi đảo của sở chấp. Nói chủng tử này là đảo nhân duyên, đảo chẳng phải là hữu pháp, vì sao được có nhân duyên? Vọng y tha này có thể lấy vô lậu chánh đoạn trừ, nên gọi là chánh viễn ly. Trên đây tức là ba tánh của viên thành, sở chấp và y tha, như lần lượt phối hợp, đều là tướng của sở tri, hữu vô. Luận rằng: “Do bất động vô đảo thiện thủ tướng kia”. Thuật rằng: Kết thứ tư, đây là thiện của gia hạnh trí, lấy tướng của hai tánh hữu vô, tức là địa trước. Luận rằng: Từ “Do tự tướng vô đảo” đến “vô phân biệt đạo”. Thuật rằng: Kết thứ năm, tức là ở trong địa vị kiến đạo điạ đầu. Luận rằng: Từ “Do cọng tướng vô đảo” đến “bổn tánh thanh tịnh”. Thuật rằng: Kết thứ sáu. Vì trí vô phận biệt có sở đoạn nên nhất định có sở chướng. Đây thông đạt với kim giới bổn tánh thanh tịnh, cọng tướng. Luận rằng: Từ “Do nhiễm tịnh vô đảo” đến “và đã đoạn chướng”. Thuật rằng: Kết thứ bảy. Đây là trong tu đạo quán sát chưa đoạn và đã đoạn chướng, tinh tấn tu trị đạo; chưa đoạn khiến cho đoạn, đã đoạn không mất. Luận rằng: Từ “Do khách vô đảo” đến “hai tướng nhiễm tịnh”. Thuật rằng: Kết thứ tám. Tức là trong tu đạo quán sát pháp giới khách tướng của nhiễm tịnh, khiến cho rõ được tịnh pháp đó chắc chắn. Luận rằng: Từ “Do vô úy vô cao”, đến “được vónh viễn xuất ly”. Thuật rằng: Kết cả hai thứ vô đảo chín và mười. Đây là vô học đạo, do không sợ hãi nên các chướng đoạn diệt, do không cao mạn nên được vónh viễn xa lìa. Trong mười thứ này, ba thứ đầu tức là ba tánh, là cảnh của sở tri. Thứ tư là kiến đạo trước có thể quán trí. Thứ năm tức là kiến đạo có thể đoạn trí. Thứ sáu là kiến đạo sở chướng pháp. Thứ bảy là tu đạo. Thứ tám là tu đạo sở chướng pháp, là dung dự đạo nên có thể quán nhiễm tịnh và kiến đạo khác. Thứ chín và thứ mười là vô học đạo, vì sở chứng và sở đoạn có sai biệt. Cách giải thích này là căn cứ vào địa vị bàn về mười đảo của sở trị, như phải nên biết. Tuy nhiên đây giải thích cùng với mười câu kim cang trái nhau. Kia nói bất động và nhiễm tịnh v.v… không có vị thứ sai biệt mà chỉ giải thích về phương nạn. Nhưng Luận chủ Thế Thân xét lại làm hai cách giải thích, lý cũng không ngăn ngại. Đây tức là giải thích ban đầu, do cảnh hành vị kết mười vô đảo. Hai là lấy câu kim cang để giải thích mười vô đảo, cho nên có mười vô đảo không giảm không tăng. Nếu không xét tạo tác cảnh hành vị, chỉ là một cách giải thích. Đây đồng với câu kim cang, nghóa là kết văn này. Như văn giải thích sai lầm không cần căn cứ vào cảnh nói về vị lần lượt v.v… Luận rằng: Từ “Đây là mười vô đảo” đến “trong câu kim cang”. Thuật rằng: Giải thích thứ ba tùy theo trong pháp hành. Từ phần chánh văn thứ hai trở xuống nói về câu thập kim cang, lấy mười vô đảo phối hợp, nhưng luận không phải văn. “Tây vị tương truyền”, là văn của kinh Bảo Tích. Câu “Kim Cang” nghóa là mười câu nghóa này thân mật liên cố cũng như kim cang khó có thể phá hoại, tức từ nơi dụ mà đặt tên. Luận xưa nói “kim cang túc” nghóa là trái. Tiếng Phạm là Bát-đà, đây dịch là dấu vết. Tiếng Phạm là Bát-đà, đây dịch là câu. Do tiếng gần giống nhau, nên giải thích nghóa lầm lẫn. Trong đây có ba, đầu là nêu chung, do luận này đã nói về mười thứ vô đảo, an lập ở trong kinh Bảo Thích kia, đã nói mười thứ trong câu kim cang, vì sao gọi là hạ. Thứ hai là liệt kê tên câu kim cang, lấy tụng nhiếp chung. Vả lại, đầu là an lập dưới. Thứ ba là nói về câu thể tánh phối hợp với mười vô đảo. Đây tức là văn đầu. Nói an lập là đặt ra nghóa, do vô đảo này đặt ra ở nơi kia, nên gọi là an lập. Do câu chẳng phải gốc kia, tên tức là nghóa của mười vô đảo nên gọi là thí thiết. Luận rằng: “Vì sao gọi là câu thập kim cang?” Thuật rằng: Từ phần thứ hai trở xuống là hỏi đáp liệt kê tên của câu kim cang kia. Trong đây có hai, đầu là trường hàng, kế là nhiếp tụng. Bổn luận xưa tuy có liệt kê tên của trường hàng, tụng lấy sau và an lập câu thứ hai tự tướng đều không ngượ. Nay so sánh ba bổn, ba bổn đều có. Người trước không phiên dịch không biết có ý gì? Đây tức là khởi lên lời hỏi. Luận rằng: Từ “Nói hữu phi hữu” đến “không giảm không tăng”. Thuật rằng: Một là hữu phi hữu, hai là vô điên đảo, ba là sở y, bốn là dụ huyễn v.v…; năm là không phân biệt, sáu là bổn tánh thanh tịnh, bảy là tạp nhiễm thanh tịnh, tám là dụ hư không, chín là không giảm, mười là không tăng. Luận xưa nói thứ hai là vô điên đảo, tức là nghóa vô đảo. Nghóa vô đảo là tướng của sở tri, biến kế sở chấp điên đảo. Vì sao đắc vô dị môn? Luận xưa lại mở ra, nhiễm tịnh thứ bảy làm hai, đây là do nhà phiên dịch lầm. Do gì mà biết? Trên đây nghóa của khai hợp chỉ có môn, nhiễm tịnh hợp nói, vì sao đến câu vô nghóa, riêng khai hai môn nhiễm tịnh? Lại kế trong nghóa chung trước, nhiễm tịnh hợp kết, vì nghóa kết riêng, lại hai thứ dưới nói về câu tự tánh vì cùng với câu khai hợp trên số đồng? Nên biết luận chủ phiên dịch xưa không giác ngộ, lìa ở nói văn này, rộng rãi là khai hợp, tụng đó do dưới lược không ngược. Lại nữa, trong bổn xưa, mười thứ đều có lời vô điên đảo, đây cũng trái. Luận rằng: Từ “Vô nhiếp như vậy” đến “là câu kim cang”. Thuật rằng: Tức là do tụng nhiếp như trường hàng trước, chỉ phối hợp dễ rõ. Luận rằng: Từ “Vả lại, đầu an lập” đến “vì giải thích vấn nạn”. Thuật rằng: Từ phần thứ ba trở xuống nói về câu tụng tánh phối hợp với mười vô đảo. Có hai tự tánh, đây tức là thứ nhất. Nêu chung tự tánh, lược liệt kê bốn nhân, dưới tự giải thích riêng phối hợp với mười vô đảo. Luận rằng: Từ “Vì tự tánh” đến “như lần lượt nên biết”. Thuật rằng: Trong mười vô đảo, thứ nhất văn, thứ hai nghóa, thứ ba tác ý, là ba tự tánh như thứ lớp phối hợp trong câu thập kim cang. Văn phối hợp với câu thứ nhất hữu và phi hữu, tương ứng với thói quen gọi là có nghóa văn, còn đây trái ngược nên gọi là không nghóa văn, nên thành ra hữu và phi hữu. Nhiếp Đại Thừa nói: “Do có tương ưng không phải đã phân biệt”. Nếu đoạn ở đây nhập vào Viên thành thật”. Cho nên, văn vô đảo gọi là Viên thành thật, ý này sâu xa, duyên vào tinh tế mới biết. Nghóa phối hợp thứ hai là vô điên đã. Tự tánh của điên đảo nghóa là kế sở chấp, nên năng trị này là vô điên đảo tác ý, phối hợp với sở y thứ ba là nhân của năng hiện tợ hai thủ, tức là thuộc về thức, chủng tử, y tha khởi. Luận rằng: “Vì sở duyên tức là ba tự tánh”. Thuật rằng: Do ba tánh này, hữu phi hữu pháp, vi vô vi pháp, Nhiếp Đại Thừa nói, vì duyên vào tướng của sở trị nên gọi là sở duyên, tức là ba tánh, đây là cảnh của sở tri xong. Luận rằng: Từ “Vì vô phân biệt” đến “tức là bổn tánh thanh tịnh”. Thuật rằng: Trong mười vô đảo, thứ năm là tự tánh vô đảo, thứ sáu là cộng tướng vô đảo, tức là trong câu mười kim cang, tự tánh phối hợp với câu vô phân biệt, cọng tướng phối hợp với câu bổn tánh thanh tịnh. Vì do trí vô phân biệt này đoạn trừ phân biệt, tức là trong câu kim cang, câu vô phân biệt trí. Do ở địa trước quán ba tánh cảnh nhập vào sở địa, do trí vô phân biệt, đoạn trừ phân biệt, trí này nhất định không khởi một mình, nhất định có sở duyên, tức là ở nơi chân như này. Trên đắc vô phân biệt, tức là câu bổn tánh thanh tịnh trong mười câu. Thứ tư là huyễn v.v…, tức dụ giải thích phương nạn, nên ở sau mới nói rõ. Luận rằng: Từ “Như lần lượt nên biết”, đến “và vô phân biệt”. Thuật rằng: Giải thích chung cảnh của ba tự tánh trước và hai vô phân biệt sau. Ba tự tánh trước là cảnh, hai vô phân biệt sau là trí, nghóa là vì ba tánh là cảnh, vì vô phân biệt là trí. Căn cứ theo thật mà nói, đối với thể của vô phân biệt này, tức là chân như không phải tên trí. Vì trí thật tánh, là do trí này sinh ra, nên cũng gọi là trí, tức là trí độ luận trí và trí độ, đều gọi là Bát-nhã, phần chánh đồng với đây. Nếu vậy thì Viên thành thật là trí chứ chẳng phải cảnh? Trả lời rằng: Không phải như vậy. Nếu lúc quán hành chưa có thể khởi lên trí vô phân biệt, chưa hợp cùng với trí, chỉ lập tên cảnh, căn cứ vào thật mà nói, thì cũng được gọi là trí. Nếu lúc quán hạnh cảnh hợp khởi tâm, có thể khởi lên chánh trí, nên lập ra tên trí, chỗ hướng về không đồng, không nên làm ví dụ. Vì trong bốn thứ sau này, đã giải thích ba thứ xong, thuộc về trong câu trước, thể của năm câu đã giải thích xong. Luận rằng: “Giải thích về vấn nạn, chính là câu còn lại”. Thuật rằng: Tức là năm câu còn lại, đều là giải thích lời hỏi Luận rằng: Từ “Vả lại, có lời hỏi” đến “bổn tánh thanh tịnh”. Thuật rằng: Đây là phần thứ tư giải thích về các dụ như huyễn… ở trong mười câu bất động vô đảo. Trước là đưa ra câu hỏi về hai tánh. Nếu hai tánh này là thật hay là không, biến kế sở chấp như tình hiển hiện, y tha khởi tánh như sở chấp hiển hiện, hai thứ này vì sao được có? Nếu hai tánh này thật là có, không nên nói bản tánh của các pháp thanh tịnh, vì có hai tánh tức chẳng phải là thanh tịnh? Đây là hai câu nói về tánh, đều hỏi về hữu vô xong. Luận rằng: Từ “Vì giải thích vấn nạn này”, đến “mà hiện có thể đắc”. Thuật rằng: Vì trả lời vấn nạn này, trong mười câu nói dụ huyễn v.v…, trong vô đảo nói bất động, còn đây tức là cùng trả lời về hai tánh, vốn là như huyễn sự v.v… Tuy thật là không tức là đáp thể không thật có. Mà hiển hiện có thể đắc là trả lời thể chẳng phải không. Trong bất động trước đã giải thích rộng xong. Do đây tức là hiển bày bất động kia, nên trong các nghóa trước nói là chẳng phải chỉ có sở chấp, vì trong đây cả hai đều trả lời về tướng của hai tánh. Luận rằng: Từ “Lại có lời vấn nạn”, đến “trước nhiễm sau tịnh”. Thuật rằng: Sẽ giải thứ bảy là nhiễm tịnh, thứ tám là dụ về không, tức là trong vô đảo, nhiễm tịnh là khách. Trước là nêu lên vấn nạn này. Nếu tất cả các pháp, pháp giới bổn tánh, thân tự thanh tịnh, thì sao lại nói là trước nhiễm sau tịnh? Luân rằng: Từ “Vì giải thích vấn nạn này”, đến “và dụ vê hư không”. Thuật rằng: Đây là lược nêu hai thứ trả lời. Nghóa là, như tác ý chưa đoạn thì gọi là có nhiễm; ý của đảo đã đoạn gọi là vô nhiễm, chứ chẳng phải là pháp giới bổn tánh bất tịnh. Ý này tức là căn cứ vào pháp của năng y, nói về tịnh nhiễm của sở y, và vô đảo thứ bảy. Do chưa hiểu rõ pháp giới này là thế nào, nên nêu ra đảo thứ tám và dụ của hư không. Luận rằng: Từ “Nghóa là như hư không” đến “và lúc thanh tịnh”. Thuật rằng: Nói như hư không, tuy bản tánh rộng rãi như dụ của hư không, mà còn có tạp nhiễm và thanh tịnh, có khi còn có cả nhiễm tịnh. Như trong hư không lúc có mây v.v… thì gọi là có nhiễm, lúc không có mây v.v… thì gọi là thanh tịnh. Pháp giới cũng như vậy, chẳng phải là bổn tánh. Luận rằng: Từ “Lại có lời hỏi” đến “không phải lỗi của tăng ích”. Thuật rằng: Sẽ giải thích thứ chín vô bố, thứ mười vô cao, và không tăng không giảm ở trong câu Kim Cang. Trước là nêu vấn nạn này: Vả lại, trong ba đời một đời đều có vô lượng Phật cứu độ hữu tình và đã cứu độ rất nhiều, vì sao lại nói sinh tử không có lỗi đoạn diệt? Tức hỏi rằng sinh tử tuy có giảm, nhưhg trong Niết-bàn giới cũng không tăng thêm, lẽ ra Niết-bàn cũng phải có tăng chứ? Tuy nhiên, vì các kinh đều nói sinh tử không giảm, Niết-bàn không tăng, nên mới có vấn nạn này. Luận rằng: Từ “Vì giải thích vấn nạn này” đến “không giảm không tăng”. Thuật rằng: Nêu ra thứ chín là mười câu Kim Cang để trả lời. Nếu cho nhân và pháp có thể có nhiễm tịnh, nên cái chưa đoạn và đã đoạn có thể trở thành lỗi giảm tăng. Vì đã không nhân pháp, tức không có nhiễm tịnh. Vì nhiễm tịnh đã không có thì làm sao có giảm tăng? Nhưng trong kinh tịnh kia căn cứ vào kế sở chấp nhân pháp và nhiễm tịnh phi hữu mà nói không tăng không giảm, chẳng phải là y tha nhiễm tịnh. Vả lại, sở chấp không chỉ có pháp tánh, làm sao có giảm tăng? Luận rằng: Từ “Lại nữa, hữu tình giới” đến “vì đều vô lượng”. Thuật rằng: Thứ hai giải thích đối với y tha cũng không giảm tăng. Do hữu tình giới không có bờ mé cũng không có vô lượng nên không có giảm. Do Niết-bàn giới cũng không có bờ mé và không có số lượng, nên không có tăng. Nếu có biên pháp và số pháp có thể có giảm tăng, tức là biên vô lượng nên không tăng giảm, cho nên căn cứ vào y tha cũng không tăng giảm. Do tự tánh trước căn cứ vào mười vô đảo, nói về cảnh trí v.v… Luận rằng: Từ “Thứ hai là an lập” đến “như có tụng rằng”. Thuật rằng: Từ thứ hai trở xuống là nói về mười thể. Tương truyền rằng, tụng này ở trong kinh Bảo Tích cũng có. Luận rằng: Từ “Loạn cảnh nhân của tự tánh” đến “và hai bờ mé kia”. Thuật rằng: Ngài An Tuệ nói rằng: Loạn cảnh là văn, vì do duyên vào văn có nghóa và không có nghóa mà khởi lên đoạn chấp. Tự tánh của loạn là nghóa, tức là vì kế sở chấp ngã nói là loạn tánh. Loạn nhân tức là tác ý, vì chủng tử của y tha có thể sinh ra phân biệt thật pháp và loạn pháp. Tức là, chỉ một chữ “loạn”, mà thông với cả Cảnh, Thể, Nhân. Vô loạn tự tánh tức là bất động và tự tướng. Bất động là thể của trí, vì có thể biết pháp. Tự tướng là dụng của trí, vì có thể đoạn được phân biệt. Vô loạn cảnh tức là cọng tướng, do chánh trí sở duyên vậy. Tức là chữ “vô loạn” thông với tánh và cảnh. Hoặc vô loạn là bất động, đó là trí của gia hạnh; hoặc vô loạn tự tánh là tự tướng, vì là căn bản trí. Quả của loạn nghóa là tạp nhiễm v.v…, do tạp nhiễm mà sinh quả. Quả của vô loạn là thanh tịnh…, do thanh tịnh mà có quả chuyển lưu. Hợp cả hai thứ nhiễm tịnh này chính là dụ hư không. Trong đây, hai quả loạn và vô loạn được hợp chung trong luận, gọi là hai quả của loạn và vô loạn. Hai biên tế tức là quả của nhiễm tịnh kia. Thể của biên tế chính là Niết- bàn không giảm không tăng, vì đã đoạn hết nhiễm, lấy Niết-bàn làm bờ mé. Từ thanh tịnh đến chỗ rốt ráo cũng lấy Niết-bàn làm biên tế. Đây là cách giải thích thứ nhất về nhị biên tế. Lại giải rằng: Hai biên tế tức là vì hữu tình vô biên nên nhiễm pháp không giảm. Tức nhiễm pháp lấy vô biên làm bờ mé. Vì Niết-bàn vô biên nên tịnh pháp không tăng, tịnh pháp cũng lấy vô biên làm biên tế. Nói hai tức là biên tế có hai, tức là hữu tịnh và Niết-bàn. Hai biên tế này, hai tức là phẩm nhiễm tịnh, biên tế tức là hữu tình và Niết-bàn. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy” đến “vì sao nên biết?” Thuật rằng: Từ thứ tư trở xuống nói về lìa nhị biên chánh hạnh. Trong đây có hai, đầu kết trước sinh sau; kế hỏi về nhị biên, chánh giải chánh hạnh. Đây tức làphần đầu. Luận rằng: Từ “Như kinh Bảo Tích” đến “thế nào là nhị biên”. Thuật rằng: Từ thứ hai trở xuống là nêu câu hỏi về nhị biên chánh giải và chánh hạnh. Trong đây trước nêu câu hỏi. Luận xưa nói kinh Bảo Tích là không đúng. Kinh này vì tích chứa các pháp quý báu nên gọi là Bảo Tích, chẳng phải từ nơi Bồ tát Bảo Tích mà đặt tên kinh. Tức là xưa đã có hai quyển kinh Bảo Tích, chính nay một phần kinh Đại Bảo Tích. Kia đã nói trung đạo, lìa biên nào? Tụng nhân đó mà trả lời biên, trường hàng đều giải trung biên. Luận tụng rằng: Từ “Tánh khác và một tánh”, đến “nhiễm tịnh hai ba thứ”. Thuật rằng: hai câu này nói về tám nhị biên” Một là, Dị tánh nhất tánh, hai là ngoại đạo Thanh văn, ba là hữu tình tăng giảm, bốn là pháp tăng giảm. Vì hữu tình và pháp đều thông với tăng giảm, nên trong tụng về hữu tình và pháp mỗi thứ đều có hai. Năm là sở năng trị, sáu là thường đoạn; bày là sở năng thủ; tám là nhiễm tịnh. Hai loại nhiễm tịnh này, mỗi loại đều có ba thứ. Nhưng một hành này đã gồm đủ bốn nhị biên. Chữ “hũu nhất biên” ấy thông suốt cả bốn nơi. Luận rằng: Từ “Phân biệt tánh nhị biên”, đến “là phân biệt nhị biên”. Thuật rằng: Tức là trong kinh Bảo Tích lại có bảy thứ phân biệt nhị biên: Một là hữu phi hữu, hai là sở năng tịch, ba là bố úy, bốn là sở năng thủ, năm là chánh tà, sáu là dụng của hữu vô, bảy là đúng lúc không khởi. Như thế trước có tám sau có bảy, nên gọi là tánh của phân biệt nhị biên. Nhưng trong câu tụng này chỉ nói về nhị biên, còn trường hàng lấy kinh này phối hợp, làm nhị biên này để nói về trung đạo ở trước. Luận xưa nói có mười bốn nhị biên là sai vậy v.v… Vì tụng kia đồng với đây, tức có mười lăm. Các loại văn của luận này cũng không kể ra, nhà giải thích tăng thêm. Nhưng Ngài An Tuệ giải thích kể có mười lăm Luận rằng: Từ “Nếu ở nởi sắc v.v…” đến “gọi là nhất biên”. Thuật rằng: Trong văn trường hàng giải thích đều phân làm hai. Đầu nói về tám biên sau nói về bảy biên. Văn trong đó chuẩn theo văn có thể hiểu. Trong đây, trước kể ra nhị biên, sau thuật lại trung biên. Nghóa là ngoại đạo v.v… chấp sắc v.v…, năm uẩn và ngã có khác nhau, chính là lìa uẩn để nói có ngã; Hoặc lại là một, tức là uẩn tính ngã, gọi là nhất biên nên biên thành hai. Luận rằng: Từ “Là lìa chấp này” đến “cho đến nho đồng”. Thuật rằng: Vì lìa khỏi chấp nhị biên một và khác, cho nên trong kinh Bảo Tích Phật nói trung đạo. Nghóa là quán vô ngã, cho đến nho đồng, tức là cho đến trong sáu thứ. Hợp lại có tám thứ, một là ngã, hai là hữu tình, ba là mạng, bốn là sinh, năm là dưỡng dục, sáu là sổ thủ thủ, bảy là ý sinh, tám là ma-nạp-bà. Tiếng Phạm là ma-nạp-bà, đây gọi là nho đồng, như luận Du-già quyển tám mươi ba đã nói. Luận rằng: Từ “Vì thấy có ngã” đến “tức là thân”. Thuật rằng: Giải thích nguyên do đó, định chấp có hai, ngã và uẩn hoặc cụ đẳng, như Duy thức đã nói. Tức là vì hòa hợp với hai thứ này làm cái thứ baĐã không có ngã và nho đồng, tại sao còn so với uẩn lại có một, có khác? Trên đây, nói về nhị biên thứ nhất xong. Dưới đây sẽ nói cái thứ hai. Luận rằng: Từ “Nếu đối với sắc v.v…” đến “là Thanh Văn biên”. Thuật rằng: Ở trong ngoại đạo, có chấp chẳng phải thường, như chó cắn, đầu mối sợi tơ, từ phần nhiều mà nói, cho nên chỉ nói là thường. Luận rằng: Từ “Vì lìa chấp này” đến “phi thường phi vô thường”. Thuật rằng: Sở chấp tức là không phải phi thường vô thường, lại pháp pháp tánh sắc chẳng phải là vô thường, y tha sắc chẳng phải là thường. Vì hợp hai tánh mà nói phi thường vô thường. Sắc thể hàm chứa hữu, không thể nói sắc chẳng phải sắc; ngã thể hoàn toàn không chỉ có thể nói ngã tướng vô. Từ đây trở xuống là giải thích nhị biên thứ ba. Luận rằng: Từ “Định chấp có ngã” đến “tổn giảm hữu tình biên”. Thuật rằng: Đây tức là kể tính thật ngã, tức là lúc không chấp thì không có ngã, tại sao lại thành tổn giảm được? Luận rằng: “Kia cũng phế bỏ vì không mượn hữu tình”. Thuật rằng: Giải thích nguyên do. Nếu chỉ chấp không thật ngã, tuy chẳng phải tổn giảm, như hư không thấy ngoại đạo và bàn bạc rõ ràng, đẳng lập, phế bỏ không mượn ngã, nên thành tựu tổn giảm. Đây tức là nhà luận giải thích tính ý kia. Luận rằng: Từ “Vì lìa chấp này” đến “trong trí của nhị biên”. Thuật rằng: Trụ vào ngã vô ngã trong trí của nhị biên, nghóa là thật ngã không mượn ngã hữu đều không nhất định chấp. Nhưng tùy theo giáo mà biết, nên thành trong biết, đây tức là hữu tình nhị. Kế nói về pháp nhị, tức là nhị biên thứ tư. Luận rằng: Từ “Định chấp tên có thật”, đến “tổn giảm pháp biên”. Thuật rằng: Đây là kể tính. Vì tất cả pháp chỉ có tâm là chủ, nên chỉ nêu ra tên tâm ở nởi pháp chấp. Chấp pháp có thật thì chủng loại rất nhiều; chấp pháp không thật thì như hư không thấy ngoại đạo, bàn luận rõ ràng về đẳng kế, nhưng như sở chấp pháp ấy tức là không thật. Như y tha tánh pháp tức là có thật, nên không phải nói. Vì kia cũng phế bỏ không mượn pháp tánh. Trong y tha tánh thật ngã thì không, nên không đồng với pháp, cần phải đặt nơi lời mượn giống như ngã. Luận rằng: Từ “Vì lìa chấp này” đến “vô ý vô thức”. Thuật rằng: Vô tâm tức là thức thứ tám; ý nghóa là thức thứ bảy; thức nghóa là sáu thức còn lại, đây tức là tâm vương. Ở trong các tâm sở, chỉ nêu ra tư tâm sở, vì nó tạo tác nghiệp thù thắng nên liệt vào tâm sở khác. Đã không có sở chấp về pháp tâm và tâm sở, nên không có thật và không có thật pháp. Nhưng đối với y tha thật pháp là có, cho nên không đồng nghóa với ngã, khiến cho trụ ở trong trí, đây tức là pháp nhị. Từ đây trở xuống nói về nhị biên thứ năm. Luận rằng: Từ “Chấp có bất thiện”, đến “chính là năng trị biên”. Thuật rằng: Đây là kể ra các chấp còn lại. Luận rằng: Từ “Vì lìa chấp này”, đến “bất tùy khuyến tán”. Thuật rằng: Bất tùy là không theo nhiễm tịnh khởi lên ở nơi chấp. Bất khuyến là không khuyên ngại chấp vào nhiễm tịnh. Bất tán là không khen lời nhiễm tịnh, khiến cho họ tin nghe khởi lên định chấp. Tức là một chữ “bất” thông suốt với cả ba chữ. Luận xưa nói không đi, không đến, không hiểu rõ, không lời. Khứ là tùy theo; lai là khuyến khích; thí ngôn là khen ngợi. Từ đây trở xuống bàn về nhị biên thứ sáu. Luận rằng: Từ “Ở nơi hữu tình pháp” đến “là đoạn diệt biên”. Thuật rằng: Do chấp hiện tại và đời sau là có, nên mới gọi là thường. Do chấp đời sau là chẳng phải có mới chấp là đoạn, cho nên dùng hữu vô để hiển bày ở nơi thường mà đoạn hoặc. Thường là có chấp, đoạn tức là không chấp. Luận rằng: Từ “Vì lìa chấp này” đến “trong trí của nhị biên”. Thuật rằng: Thật pháp tức là vô, nên chẳng phải thường đoạn; y tha tuy có cung chẳng phải đoạn hay thường. Cho nên Phật chỉ nói khiến cho trụ ở trong trí, vì sở chấp chẳng phải có, y tha chẳng phải không. Từ đây trở xuống bàn về nhị biên thứ bảy. Luận rằng: Từ “Chấp có vô minh” đến “mỗi minh có nhất biên”. Thuật rằng: Mười vô minh nhiễm tịnh có hai, hai thủ duyên khởi thanh tịnh cũng vậy. Đây lấy vô minh làm đầu. Minh tức là vô lậu minh. Luận rằng: Từ “Chấp có như vậy” đến “Đối trị đạo làm nhất biên”. Thuật rằng: Còn lại, mười một chi năng trị sở trị và hai thủ cũng như vậ. Trong đây, năng trị đều là hữu vi, nên gọi là, còn vô vi tức chẳng phải là hành năng thủ. Trong năng trị nói vô vi tức là chẳng phải do nghiệp phiền não tạo ra vậy. Vì chẳng phải không sinh ra nên gọi là vô vi. Tức như Luận Đối Pháp nói đạo đế thông với hữu vi và vô vi. Trên đây đã nói xong nhị biên thứ bày, kế kết lại hai nghóa. Luận rằng: Từ “Năng trị và sở trị này” đến “phẩm bạch sai biệt”. Thuật rằng: Mười hai chi này, sở trị của vô minh v.v… tức là phẩm hắc nói về các năng trị, tức là phẩm bạch nói về mười hai duyên khởi. Do đây đã nói, tức là chỗ khác nói phẩm hắc và phẩm bạch. Luận rằng: Từ “Vì lìa chấp này” đến “cho đến nói rộng”. Thuật rằng: Trong minh không có hai, cũng không có hai phần; trong vô minh cũng không có hai, không có hai phần. Không có hai là không có hai thể; không có hai phần tức là không thể lìa cái khác là hai đó. Mười một chi khác văn nghóa đều như vậy. Vì thế Luận này nói, cho đến bàn rộng ra. Kinh văn kia lần lược giải thích rộng, như nay kinh Đại Bát-nhã… đã nói rộng, nay luận này cũng bàn đến. Luận rằng: Từ “Nói về vô minh v.v…” đến “vì đều chẳng phải có”. Thuật rằng: Vì ở trong minh đã không có hai thủ, vậy thì làm sao có nói hai và có hai phần? Đây tức là do nhà tạo luận giải thích nghóa kinh. Kinh Văn-thù vấn quyển thượng cũng có giải thích điều này. Từ đây trở xuống bàn về nhị biên thứ tám. Luận rằng: Từ “Tạp nhiễm có ba” đến “sinh tạp nhiễm”. Thuật rằng: Sẽ giải thích nhị biên, trước nói hai pháp nhiễm tịnh của y tha. Trong đây trước nói về nhiễm, sau mới nói về tịnh, đây tức là kể liệt kê tên của ba nhiễm. Từ đây sắp xuống mỗi mỗi giải thích rộng. Luận rằng: Từ “Phiền não tạp nhiễm” đến “ba sau có nguyện”. Thuật rằng: Giải thích riêng ba nhiễm, trong đó đều có hai, trước sở trị sau năng tri, đây tức là sở trị. Ba là căn bản còn lại từ đây sinh ra, chẳng phải là mạn nghi và kết, tùy theo hoặc không có tướng, đều là duyên vào tướng, vì chỉ nêu ra đây. Nhưng sắc, thanh v.v…. mười thứ tăng tướng ấy chẳng phải là phiền não nên không nói ra. Sau có nguyện tức là sau có ái. Nhưng thể của ái này lấy hai pháp tham dục làm thể, vì ít nhiễm riêng. Nhưng nay chỉ lấy có ái làm thể, lý cũng không trái với trước. Hai thứ trước là hiện tại nhiễm ô nhiễm não, còn nhiễm trước thứ ba là phiền não vị lai. Cái hữu ái sau, như ba đường ác ái, Thánh nhất định không khởi; còn sau đường thiện ái sau Thánh liền khởi. Luận rằng: Từ “Năng đối trị này” đến “trí vô nguyện”. Thuật rằng: Đây là nêu lên ba thứ phiền não năng trị. Dùng không để trừ các kiến hoặc. Ngã kiến và ngã sở kiến… đều lấy “không” để trừ. Dùng vô tướng để trừ các tướng của tham, thân, si; dùng Vô nguyện trí có thể đối trị được các nguyện sau, vì không phải ở nơi ba cõi nguyện cầu. Vì khi ở Gia hạnh vị chỉ tu “không” v.v… để đối trị riêng kiến v.v…. Còn đến Căn bản vị, thì chỉ một sát-na đã đoạn sạch ba kiến. Do nghóa đó nên nói đều đoạn riêng. Ba thứ này hoặc chỉ gọi là không v.v…, vì thông với định tán ở nơi trí của hữu lậu và vô lậu; hoặc gọi là không v.v… định, chỉ định tâm thông với hữu lậu vô lậu, hoặc chỉ gọi là ba môn giải thoát, vì chỉ vô lậu nhưng mà định tâm. Trong đây tức là không nói về định, nên thông với định tán và hữu lậu, chế phục đoạn tuyệt hai môn. Nhưng trong đó, đạo hành chỉ là vô lậu, chỉ là căn bản trí, còn vô gián đạo trừ đạo và các đạo, trí khác thì không thể đoạn được. Luận xưa nói giải thoát, bổn tiếng Phạm gọi là vô. Luận rằng: Từ “Nghiệp tạp nhiễm” đến “bất tác trí”. Thuật rằng: Thứ hai nghiệp sở trị năng trị đều là một thứ. Tuy thông với gia hạnh và với căn bản nhưng đúng là không sinh, chỉ duyên vào vô phân biệt không tạo tác nghiệp, vì nghiệp không khởi. Luận rằng: Từ “Sinh tạp nhiễm”, đến “ba cái sau có tương tục”. Thuật rằng: Thứ ba là sinh nhiễm. Thứ nhất là hướng về chung, sau có vị lúc mới sinh ra; Thứ hai là mới sinh ra rồi sát-na làm luận; Thứ ba là hợp một thời kỳ làm luận. Trước là ba cái riêng, sau có một cái chung, cho nên nói là ba thứ không giảm không tăng. Luận rằng: Từ “Năng đối trị này”, đến “vô tự tánh trí”. Thuật rằng: Ba thứ lớp phối hợp, như phải nên biết. Nhưng chánh đoạn trí chỉ là vô phân biệt duyên ở nơi chân như. Các sở trị của các pháp vô sinh vốn khác nhau, cho nên năng trị đầu là công năng làm luậ. Nói năng trị khác nhau, hoặc lúc gia hạnh không ngăn cũng hàng phục, đây thì hiển bày riêng ba sở trị, dưới hiển bày chung. Luật rằng: Từ “Ba thứ như vậy”, đến “nói là thanh tịnh”. Thuật rằng: Sở trị chung có ba năng trị cũng như vậy. Giải thích nhiễm tịnh hai thứ của bài tụng đều có ba, năng trị tịnh này tức là trí vô lậu; nếu là sở y tịnh tức là chân như. Nhưng trên nói năng trị chỉ nói về chân trí, ý dưới này nói, có thể chuẩn theo mà biết. Luận rằng: “Cảnh của không đẳng trí nghóa là không đẳng pháp”. Thuật rằng: Giải thích chấp tịnh làm nhất biên, trước là trình bày thể của tịnh. Nghóa là, không trí, vô tướng trí, vô nguyện trí, và bất tác trí, đều là cảnh của ba trí vô sinh v.v… tức là không đẳng pháp. Không đẳng pháp tức là chân như, nên gọi là không, gọi là vô nguyện, cho đến gọi là vô tư tánh; lấy không làm đầu v.v… còn lại là sáu thứ khác. Luận rằng: Từ “Ba thứ tạp nhiễm” đến “linh tác không đẳng”. Thuật rằng: Ba thứ tạp nhiễm lúc tùy theo sở ứng đó mà được đoạn diệt, chẳng phải do không v.v… Bảy trí khiến cho ba tạp nhiễm tạo tác không v.v… Tùy sở ứng nghóa là chẳng phải Không trí khiến cho tạo tác không, chẳng phải Vô tướng trí khiến cho tạo tác Vô tướng, cho đến chẳng phải Vô tự tánh trí khiến cho tạo tác vô tự tánh, chẳng phải mỗi mỗi thứ tùy theo năng trị khiến cho mỗi mỗi thứ đoạn diệt. Tạo tác của mỗi mỗi thứ nương vào chỗ khác nhau, nên nói tùy theo sở ứng đó chẳng phải khiến cho tạo tác không v.v… Không đẳng trí nghóa là còn lại sáu trí khác. Tác không đẳng là còn lại thứ khác, nghóa là tác vô tướng v.v… “Sở dó”, nghóa là vì sao chấp vào ba nhiễm kia, sau có không v.v… vì nhiễm diệt tạo tác không v.v… Nay luận xưa nói, chẳng phải khiến cho kia tạo tác có nguyên do gì chẳng phải khiến cho kia tạo tác? Luận rằng: Từ “Do bổn tánh kia” đến “vì tánh vô nhiễm”. Thuật rằng: Do bổn tánh của ba nhiễm kia tức là không tánh đẳng pháp, còn tánh kia tức là các pháp giới, tánh của pháp giới xưa nay vốn vô nhiễm. Bổn tánh từ không, từ vô tướng cho đến từ vô tự tướng. Trên đã kể về tạp nhiễm thanh tịnh đều có ba xong, và kể về pháp tánh chân đạo lý xong. Luận rằng: Từ “Nếu ở nơi pháp giới” đến “vì chẳng phải nhiễm tịnh”. Thuật rằng: Đây là kể tính. Bổn tánh của pháp giới đều không tạp nhiễm tức là nghóa của xưa nay tự tánh thanh tịnh. Nếu lúc trước chấp là có nhiễm, lúc sau chấp có tịnh, thanh tịnh. Tức là vừa mới sinh ra, liền có tịnh nhiễm hai chấp đều là nhất biên. Luận rằng: Từ “Vì lìa chấp này” đến “cho đến nói rộng”. Thuật rằng: Nghóa là không do nơi không, không do nơi không trí. Có thể không ở nơi pháp, có thể không ở nơi các kiến pháp. Pháp tánh tự là không, nghóa là các kiến tạp nhiễm bổn tánh là không. Tức là giải thích: Đó chẳng phải do nguyên do của không trí và không pháp. Ý trong này nói, vả lại như kiến không, tuy không do không trí, mà có thể ở nơi không để thấy, khiến cho các kiến kia lại tạo tác ở nơi không, vì thấy pháp tánh bổn tánh khôn. Nếu do không trí khiến cho các kiến đoạn diệt, hiển bày ở nơi kiến không, thì không ấy xưa nay là có. Tức là chẳng phải trước nhiễm sau nương vào nơi không, việc này có thể chấp nhận. Như chấp trước nay nói là biên, lúc hiển bày ý này, năng trị chấp kia gọi là trung đạo hành. Cho đến nói rộng nghóa tức là nói rộng vô tướng cho đến vô tự tánh trí, hay khiến cho sau có tương tục sinh tạo tác, sau có bất tương tục cũng như vậy. Trên đã giải thích hai câu tụng đầu xong, từ đây sắp xuống giải thích hai hàng sau của bài tụng. Luận rằng: “Lại có bảy thứ phân biệt nhị biên”. Thuật rằng: Giải thích hai câu trên trong bài tụng. Đây cũng là ý của kinh Bảo Tích, đồng với kinh trước đã dẫn, nên không nói thêm. Luận rằng: “Thế nào là bảy thứ?” Thuật rằng: Đây chỉ hỏi về bảy thứ, phần dưới mỗi mỗi sẽ trả lời. Luận rằng: Từ “Nghóa là phân biệt có” đến “đều là nhất biên”. Thuật rằng: Đây là kể về chấp của nhị biên. Nhưng vẫn chưa hiển bày nó có thể gì, pháp gì, có nguyên do gì ma khởi lên chấp thân kia? Luận rằng: Từ “Chấp kia thật có”, đến “phân biệt là vô vi”. Thuật rằng: Thật kia có chấp, Bổ-đặc-già-la hiển bày thể của sở chấp. Từ cho là hoại diệt trờ xuống là hiển bày nguyên do của chấp. Kia vì sao lại chấp là có Sổ thủ thú? Vì Đức Thế Tôn muốn làm hoại diệt nó nên lập ra không tánh này. Ở đây, nếu như thể không giống như lông rùa v.v… vậy vì diệt pháp nào mà lập ra diệt nương vào chân thật không tánh? Tức là có thật không vì nương vào diệt này, nên đã diệt đây, thể nhất định là chẳng phải không. Đây là hiển bày nguyên do của chấp có. Hoặc đối với vô ngã phân biệt là không, đây là hiển bày nguyên do của chấp không. Nếu có thể diệt được không, định là thật có, đã diệt được ngã pháp, thể không định không. Nếu ngã thể là không, vô ngã sẽ chẳng có, vì sở trị là không. Như sừng thỏ v.v…, vì sở trị là không, năng trị cũng không, ngã sở trị không, ngã tức là không, vô ngã chẳng phải có. Sở trị, năng trị, có và không nhất định cũng như vậy, nên chấp có không, lý ở nơi đây. Lập Hữu Lượng nói rằng: Vô ngã chẳng phải có, vì không có sở trị, như sừng thỏ v.v… Đây là ngã đối với vô ngã, chấp có chấp không, không đồng với tăng tổn biên kiến ở trước. Luận rằng: Từ “Vì lìa như vậy”, đến “cho đến nói rộng”. Thuật rằng: Ngăn sở chấp chẳng phải không vốn là tự không, vì chẳng phải là hoại diệt ngã, mới bắt đầu lập ra ba tế không. Do đây tức là hiển bày ngã nhất định là không, vô ngã là có, cho đến nói rộng. Luận rằng: Từ “Chấp có sở đoạn” đến “vì bố úy không”. Thuật rằng: Sở đoạn là sở tịch, năng đoạn là năng tịch, đây là hiển bày thể của sở chấp. Nguyên do gì mà khởi lên chấp như vậy? Vì bố úy vốn không, e rằng sở đoạn có đoạn được không của năng tịch, vì bố úy không nên chấp vào hai tịch. Luận rằng: Từ “Vì lìa như vậy” đến “nói dụ hư không”. Thuật rằng: Kinh nói dụ về không. Thí như có người sợ hãi không này mà bỏ nó chạy đi lại có “không” khác đến, người kia đều là ngu si. Đây cũng như vậy. Sở tịch và năng tịch xưa nay vốn không, vì sao lại sợ hãi, sở đoạn xã bỏ để mong đắc được năng tịnh không? Luận rằng: Từ “Phân biệt cái mà sợ hãi” đến “đều là nhất biên”. Thuật rằng: Kể ra biên thứ ba. Phân biệt cái sợ hãi là một. Phân biệt từ nguyên do kia, cái mà sinh ra việc đáng sợ hãi là một. Do đó mà thành được nhị biên, nhưng vẫn chưa hiển bày thể và nguyên do đó. Luận rằng: Từ “Chấp có biến kế” đến “vì có thể sinh ra sợ hãi”. Thuật rằng: Trong đây hiển bày chun về phân biệt cái mà sợ hã. Từ sở chấp sắc v.v… mà hiển bày thể của cái sợ hãi. Vì có thể sinh ra sợ hãi, nên hiển bày nguyên do của chấp. Nghóa là, nhất định chấp có, cái mà chấp sắc v.v… là nhân của đường ác, nên sinh ở đường ác, cho nên cái mà chấp sắc, thật có thể sinh ra sợ hãi. Nếu chư Bồ-tát sợ hãi không phải thật sắc. Vì sao sợ hãi? Luận rằng: Từ “Chấp có từ kia”, đến “vì có thể sinh ra sợ hãi”. Thuật rằng: Trong đây hiển bày chung phân biệt từ kia, cái mà sinh ra sợ hãi, cái mà sinh ra khổ pháp, hiển bày thể của cái mà sợ hãi, vì có thể sinh ra sợ hãi, hiển bày nguyên do của chấp. Nghóa là, chấp sắc v.v… đã sinh ra đường ác, khổ pháp bức bách, vì pháp bức bách này, có thể sinh ra sợ hãi. Nếu giác ngộ được khổ không thì làm sao có thể sinh ra sợ hãi. Luận rằng: Từ “Vì lìa như vậy”, đến “nói dụ hoạ sư”. Thuật rằng: Dụ họa sư, nghóa là ở đời có một vị họa sư mất trí, vẽ một bức tranh quỷ Dược-xoa thật đáng sợ. Người đời không chỉ không sự mà còn vác gậy đánh cho ông ta một trận. Đây cũng như vậy, tự thay đổi hình sắc, trái với sợ hãi kia có thể chuốc lấy sinh vào đường ác mà thọ khổ bức bách. Luận rằng: Từ “Dụ hư không trước”, đến “vì Bồ-tát nói”. Thuật rằng: Dụ cho hai tịch không tức là Thanh văn. Phần nhiều vì chấp trước có nên mới sợ hãi “không”. Dụ họa sư này là Bồ-tát, vì phần nhiều đều chấp trước “không” nên mới sợ hãi có. Hai tịch xưa nay vốn không, vì sao phải sợ hãi không? Sắc tướng… vốn do tu tác ý, vì sao phải sợ hãi có? Luận rằng: Từ “Phân biệt sở thủ”, đến “đều là nhất biên”. Thuật rằng: Kể ra biên thứ tư. Trong tám biên trước, mười hai chi đầu là nhiễm tịnh hai thủ, còn đây là căn cứ vào tất cả hai thủ, nên chấp không đồng nhau. Luận rằng: Từ “Vì lìa như vậy”, đến “dụ huyễn sư”. Thuật rằng: Dụ huyễn sư nghóa là có một huyễn sư, từ nơi huyễn mà làm ra một con mãnh thú thật đáng sợ, rồi con thú đó đã hại chính ông ta. Hàm ý là muốn khiến cho trừ sở thủ năng thủ, cho nên trước nói dụ. Luận rằng: Từ “Do duy thức trí” đến “lại trừ duy thức trí”. Thuật rằng: Do trong Noãn vị đã dùng Duy thức quán mà chế phục trừ được sở thủ; đến ở Đảnh vị không có cảnh trí sinh, đắc được định chế phục trừ được cảnh thức không, do vậy không có cảnh trí sinh. Đến Nhẫn vị dưới, chế phục trừ được năng thủ. Ở trong đó, Nhẫn vị lại xả trừ duy thức trí, được định chế phục trừ được vô năng thủ. Luận rằng: Từ “Cảnh tức là chẳng phải có”, đến “vì thức mới sinh”. Thuật rằng: Thành tựu nguyên do trước chỉ trừ được sở thủ. Sở thủ đã có thể không thì cũng không có năng thủ. Há đó không phải là cảnh của duyên? Do cảnh của sở chấp, nhất định chẳng phải có, sở chấp có thể duyên cũng nhất định chẳng phải có. Vì cảnh tức là không phải thức cũng không có, đều là nương vào cái khác, sở duyên có thể thấy, hoặc văn này giải thích: Tăng thượng vị và Thế đệ nhất vị, cả hai là không, nên cùng được nhập vào chân như. Luận rằng: “Do sở dụ này cùng với dụ đồng pháp”. Thuật rằng: Kết pháp đồng dụ này chỉ riêng cho trí; nên nó là sở dụ; còn dụ huyễn sư trước, chính là năng dụ. Ác thú được huyễn tạo ra cũng như cảnh của sở chấp vậy, chúng chỉ do huyễn sư biến hiện ra. Ác thú sinh rồi trở lại thân mình chịu, tức dụ do không phải cảnh năng thủ cũng không. Sở dụ năng dụ đều có hai thứ: Một là hữu pháp, nghóa là việc huyễn thú như sở thủ và năng thủ. Hai là pháp, tức hai nghóa trên kia do nghóa có thể đồng nên được làm dụ, thể không giống nhau làm dụ. Không đồng tức là trong tôn của Nhân Minh có hữu pháp và pháp. Lấy pháp làm dụ, chẳng phải dụ hữu pháp. Luận rằng: Từ “Phân biệt chánh tánh” đến “đều do nhất biên”. Thuật rằng: Kể ra biên thứ năm, vẫn chưa hiển bày được thể và nguyên do của chấp. Luận rằng: Từ “Chấp như thật quán”, đến “vì hai thứ tánh”. Thuật rằng: Như thật quán là hiển bày thể của sở chấp. Hai thứ tánh là hiển bày nguyên do của chấp. Nghóa là, quyết chọn phân biệt, gọi là như thật quán. Vì kiến đạo gọi là thật quán, đây là gia hạnh. Như trong kiến đạo, quán chân thật gọi là như thật quán. Hoặc là tác pháp quán về duy thức, tứ đề v.v… thì đều gọi là như thật, vì xứng với lý mà biết. “Như” gọi là nghóa. Dùng các pháp quán này… để chế phục trừ được hai thủ, thuận sinh vào kiến đạo, nên có thể gọi là chánh. “Thể” là hữu lậu, vì có thể đoạn pháp, cho nên có thể gọi là tà. Luận rằng: Từ “Vì lìa như vậy” đến “nói dụ hai cây sinh ra lửa”. Thuật rằng: Đây là đều căn cứ vào trị. Luận rằng: Từ “Nói rằng như hai cây” đến “trở lại đốt hai cây”. Thuật rằng: Đây là hiển bày năng dụ. Như trong hai cây, tuy không có tướng lửa, tướng lửa là hơi ấm thiêu đốt tướng, hoặc là do tướng cọ xát cắt, nên cây có sinh ra lửa. Lửa đã sinh rồi, lại đốt hai cây có thể sinh ra lửa đó. Luận rằng: Từ “Quán như thật này” đến “Chánh tánh Thánh tuệ”. Thuật rằng: Quán như thật là năng sinh, kiến đạo ban đầu gọi là sở sinh. Sở sinh tức là chánh tánh Thánh ruệ. Xứng với lý mà biết nên gọi là chánh tánh. Tuệ của bậc Thánh gọi là Thánh tuệ. Hoặc nói, chánh là như thật của sở chứng, tuệ của chánh tánh gọi là chánh tánh tuệ. Chỉ e rằng quá lạm hữu lậu nên lại nói lời Thánh. Trước nói hai cây có tướng cọ xát cắt, đó là dụ quán như thật, sở thủ năng thủ hai tướng phục trừ. Tuy không phải tướng lửa, đó là dụ cho như thật quán không có tánh tướng. Có thể sinh ra lửa là dụ cho như thật quán có thể sinh ra kiến đạo. Thánh tuệ chính là củi đốt cháy phiền não. Luận rằng: Từ “Chánh tánh như thế” đến “đây quán như thật”. Thuật rằng: Thánh đạo đã sinh, trở lại có thể trừ đoạn các pháp quán như thật ở trước. Trước như hai cây, đã sinh ra lửa rồi lửa ấy lại đốt cháy hai cây. Điều ấy dụ rằng, Thánh đạo này khi đã được sinh rồi, lại trừ quán như thật. Mỗi mỗi pháp dụ đều nên phối hợp với nhau. Luận rằng: “Do sở dụ này cùng với dụ đồng pháp”. Thuật rằng: Kết pháp đồng dụ, chuẩn theo văn trước giải thích, không đồng với hữu pháp. Tuy hợp với pháp dụ, nhưng chưa hiển bày bốn quán như thật này là chánh, là tà. Luận rằng” Từ “Nhưng quán như thật”, đến “cũng không phải tánh tướng của tà”. Thuật rằng: Hiển bày quán như thật chẳng phải chánh, chẳng phải tà. Tức như luận Đối Pháp nói: “Tuy là hữu lậu nhưng được kiến lập là tánh vô lậu, tức là có thể cả hai nói chẳng phải nhất định là hữu lậu hay vô lậu”. Trong đây, luận Hộ Pháp… giải thích hai điều này cũng như vậy. Luận rằng: Từ “Phân biệt có dụng” đến “đều là nhất biên”. Thuật rằng: Kể ra biên thứ sáu. Luận rằng: Từ “Kia chấp Thánh trí” đến “hoàn toàn vô dụng”. Thuật rằng: Thánh trí kia là hiển bày thể của sở chấp. Từ “điều cốt yếu trước tiên” trở xuống là hiển bày nguyên do của chấp. Trí vô phân biệt khi đoạn sạch phiền não thì tức vô phân biệt đối với tánh tướng nhất vị, vì phải là không có tác dụng. Để phá chấp của Tiểu thừa và ngọai đạo cho rằng, khi trí đọan hoặc chẳng phải là vô phân biệt, cốt yếu trước phân biệt mới có thể phiền não hết thì không còn phân biệt nên trước cần nói về phân biệt mới có thể đoạn hoặc. Khi nói “đây là khổ” tức là có phân biệt. Điều này có tác dụng rất lớn đối với mười sáu hành… Nếu không như vậy phân biệt đoạn hoặc sẽ vô tác dụng. Như mắt, tai không thể đoạn hoặc, thì gọi là vô dụng. Luận rằng: Từ “Vì lìa như vậy”, đến “nói dụ về đèn”. Thuật rằng: Trong kinh, đầu nói dụ về đèn này, Luận kia gọi là đăng dụ. Nghóa là, như một cây đèn có thể phá được tối tăm, đâu cần phân biệt mới có thể phá được ư? Đã không phân biệt, nên không có dụng, dụng đã chẳng phải không thể phá ở tối tăm, nên biết không do phân biệt mới có tác dụng, vì pháp vô phân biệt cũng có dụng. Luận rằng: Từ “Phân biệt không khởi” đến “đều là nhất biên”. Thuật rằng: Kể ra biên thứ bảy. Luận rằng: Từ “Kia chấp năng trị” đến “đồng thời tăng trưởng”. Thuật rằng: Kia chấp năng trị là hiển bày thể của sở chấp. Từ “cuối cùng không khởi”, trở xuống là hiển bày nguyên do của chấp. Nghóa là, kia chấp rằng, trí của năng trị từ vô thỉ chưa từng khởi lên, do vậy mãi mãi về sau nó cũng không khởi. Khởi tức là sinh, vì chưa từng khởi. Hoặc nói, nếu trí này vì do tu tập, về sau mới phát khởi. Nhưng phiền não từ Vô thuỷ kiếp tu tập của ta cũng lớn lên, vững như Kim Cương; khó có thể phá hoại. Trí này phải như phiền não, lúc lâu càng tu tập mới bèn được sinh, nếu không phải lúc tăng trưởng, tức là sẽ không khởi. Nếu chấp nhận có trí khởi là sẽ đồng với phiền não của ta lúc tu tập có tăng trưởng. “Đẳng” là đồng vậy, nghóa của nó như người đời thường dùng vậy. Luận rằng: Từ “Vì lìa như vậy” đến “nói sau dụ về đèn”. Thuật rằng: Phần thứ hai là dụ về đèn. Nghóa là, như có một căn nhà từ vô thỉ tới nay lâu ngày dẫn đến chỗ tối tăm, chưa từng được rõ ràng. Khi mang vào căn nhà ấy một cây đèn thì bỗng căn nhà sáng lên. Ánh sáng của đèn từ vô thỉ chưa khởi lên, nay sẽ không khởi. Nếu chấp nhận nay khởi lên sẽ đồng với nói chỗ tối tăm kia nhờ có đèn nên có ánh sáng sinh ra. Đã không chấo nhận đèn là như vậy thì sao cho trí là như vậy? Trí do tu tập mà được phát sinh, há thấy chưa sinh mà cho nó là không sinh? Nếu chấp nhận có khởi liền khiến cho ngày một tăng trưởng. Nên biết, sở chấp đều là nhất biên, chưa phải chỗ trung đạo. Nói về trung biên đạo, như quyển thứ nhất đã giải thích. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy”, đến “chánh hạnh như thế nào?” Thuật rằng: Giải thích trong chánh hạnh. Từ đây trở xuống là phần thứ năm cùng giải thích về chánh hạnh thứ năm và thứ sáu. Đây là kết trước sinh sau. Luận tụng rằng: Từ “Sai biệt và vô sai biệt” đến “tu tập tăng thượng…” Thuật rằng: Một câu trên hiển bày tên của sở minh, hai câu dưới hiển bày thể của sai biệt. Câu thứ tư, tăng thượng tu tập gọi là sai biệt, đồng tu tập gọi là vô sai biệt, đến dưới sẽ biết, một tu tập nói thông với tăng thượng… Luận rằng: Từ “Ở trong Thập địa”, đến “gọi là vô sai biệt”. Thuật rằng: Đây là giải thích chung đại cương, như văn phối hợp với tụng. Kinh Thập địa nói: “Vả lại, trong sơ địa, chỉ có Bố thí độ là tăng thượng, chín độ còn lại tùy theo sức, tùy theo phần đều tu tập”. Luận Du-già, Hiển Dương, Duy Thức cũng nói như vậy. Tức là hiển bày nghóa của sai biệt và vô sai biệt. Vì nghóa liên quan với nhau, nên nói một chỗ rõ ràng tất cả. Luận rằng: Từ “Nghóa chung của sáu chánh hạnh”, đến “phẩm loại tối thắng”. Thuật rằng: Đây là giải thích trong chánh hạnh. Từ đây trở xuống là phần thứ ba, là tổng kết trước. Luận xưa cũng trước giải thích tên lu- ận, dưới mới bắt đầu kết, văn lộn xộn sai lầm, nhưng rất khó giải thích. Đây là kết tối thắng chánh hạnh thứ nhất. Như thế tức là trong chuyển thanh đầu, từ thứ nhất ở trong tám từ đã liệt kê, tức là mười hai thứ. Vì thể loại chẳng phải một, nên nói là phẩm loại. Vì thể của phẩm loại là tối thắng, nên nói là như vậy. Luận rằng: Từ “Do tư duy này” đến “pháp của Đại thừa…” Thuật rằng: Kết tác ý chánh hạnh thứ hai, chính là chuyển thanh thứ ba. Do ba tuệ này, như bố thí…, tất cả được đặt ra. Pháp của Đại thừa… như liệt kê tám từ… là từ thứ năm vậy. Luận rằng: Từ “Do phẩm loại như vậy” đến “tu định”. Thuật rằng: Kết thứ ba tùy theo pháp chánh hạnh, tức là cùng phối hợp chuyển thanh thứ nhất và thứ ba. Nghóa là do thứ ba, như vậy là vì thứ nhất chuyển âm thanh. Các phẩm loại như vậy, tức là vô loạn vô đảo. “Thể” gọi là như vậy. Vì thể chẳng phải một, nên gọi là phẩm loại. Vì trước đây, tụng nói các vô đảo…, do vậy vô loạn thì tu “chỉ”, vô đảo thì tu tuệ. Nhờ đó mà loạn được chánh chướng sạch, ngu si chướng ngại trở thành chánh trí. Ở đây chỉ xét các thiên của Luận chứ không thể đi vào xem xét hết các phần. Luận rằng: Từ “Vì nghóa như vậy”, đến “mà cầu xuất ly”. Thuật rằng: Kết thứ tư lìa nhị biên chánh hạnh, là ngay nơi thứ năm chuyển âm thanh. Các biên khác cũng lìa như vậy. Việc tu trung đạo hành mà cầu xuất ly, cũng đồng như vậy. Luận rằng: Từ “Ở trong Thập địa”, đến “vô sai biệt hành”. Thuật rằng: Đây là kết về sai biệt và vô sai biệt của hành thứ năm và thứ sáu. Ở đây tức chuyển thanh thứ bảy là sở y thứ bảy chẳng phải duyên thứ bảy, ý đó có thể biết. Trên đây, sáu chánh hạnh vô thượng đã nói xong. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy”, đến “tướng nó như thế nào?” Thuật rằng: Từ đây sắp xuống giải thích về sở duyên vô thượng thứ hai. Phần đầu là kết trước sinh sau. Phần hai, từ “nêu tụng” trở xuống là chánh giải. Phần ba, từ “nên biết trong này” trở xuống giải thích thể của sở duyên đồng và dị. Đây là phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Sở duyên nói là an giới” đến “tăng chứng liền thù thắng nhất”. Thuật rằng: Hai chữ đầu nêu ra nghóa của sở minh, còn lại liệt kê tên chữ của mười hai sở duyên Luận rằng: Từ “Sở duyên như vậy”, đến “mười hai tối thắng sở duyên”. Thuật rằng: Phối hợp các tên của bài tụng, như lý có thể giải thích. Trong đây hoặc giải thích theo lối trì nghiệp; hoặc gọi tên giải thích theo lối y só, đến dưới có thể biết; hoặc tùy theo sở ứng. Luận rằng: Từ “Trong đây tối sơ” đến “sai biệt pháp môn”. Thuật rằng: Tức giải thích pháp an lập, đặt ra sở duyên. Nghóa là an lập giáo pháp của bố thí… Đặt ra tức là sở duyên. Luận rằng: “Thứ hai nghóa là chân như”. Thuật rằng: Đây cũng là tên giải thích theo lối trì nghiệp. Luận rằng: “Thứ ba, thứ tư nghóa là hai thứ trước”. Thuật rằng: Thứ ba sở lập tức là an lập; thứ tư năng lập tức là pháp giới. Có nguyên nhân gì mà lập ra sở lập và năng lập? Luận rằng: Từ “Đáo bỉ ngạn…” đến “vì pháp giới thành tựu”. Thuật rằng: Đối với Pháp môn đáo bỉ ngạn…, cần phải chứng pháp giới, mới triển chuyển lưu xuất mười hai phần giáo. Cho nên, giáo là sở lập, như là năng lập; hoặc giáo là thành tựu vô lậu, vì do thông với chân như. Luận rằng: Từ “Thứ năm nghóa là nghe” đến “vì nhậm trì văn”. Thuật rằng: Nhậm trì nghóa là văn tuệ. Nhậm trì văn giáo khiến cho không vọng, nên tuy cũng duyên vào nghóa ít nên không nói vì văn làm trước mới duyên vào nghóa. Luận rằng: Tù “Thứ sáu” đến “nghóa của trì”. Thuật rằng: Ấn trì nghóa là tư tuệ. Ấn trì ở nơi nghóa khiến cho quyết định, nên tuy cũng duyên với giáo ít nên không nói, vì nghóa làm trước mới duyên vào giáo. Hỏi: Văn năng duyên này và văn khác nhau cái gì? Nghóa của văn năng duyên và tư có khác nhau gì? Đáp: Văn do văn trước nghóa sau, tư do văn sau nghóa trước, nên thành tựu sai biệt. Luận rằng: Từ “Thứ bảy” đến “vì nội biệt trì”. Thuật rằng: Biệt trì nghóa là tu tuệ. Vì duyên vào lý của bốn đế và ba tánh, nên gọi là nội. Ở nơi cảnh của bốn đế, đều biệt chứng biết khiến cho giải thích không lầm, nên gọi là biệt tr. Ba thứ Văn, Tư, Tu, gọi là nhậm ấn biệt trì. Sở duyên của nhậm ấn biệt trì, gọi là sở duyên của nhậm trì, tức là giải thích theo lối y só. Hỏi: Chỉ nói Văn, Tư, Tu tuệ, nghóa nó đã khắp. Vì sao cần phải nói bàn luận về sở thành? Đáp: Văn là nhó thức, Tư là tư số, Tu tức là định. Ba thể chẳng phải tuệ, nhờ ba thứ này mà tuệ sở thành nên gọi là văn sở thành tuệ… đối với lý có thể như vậy. Nhưng vì gọi là nghóa của văn tuệ… liền ít, e rằng văn… lỗi của tuệ. Luận rằng: Từ “Thứ tám” đến “cảnh của kiến đạo”. Thuật rằng: Vì ban đầu thông đạt, hai cách giải thích theo lối trì nghiệp và y só không trái nhau. Luận rằng: Từ “Thứ chín cho đến” đến “cảnh của bảy địa”. Thuật rằng: Bắt đầu từ Sơ địa cho đến địa thứ bảy, sở duyên của tu đạo lớn ở nơi kiến đạo, nên gọi là tăng quảng đạo cảnh, vì hai thứ dần dần đều trội hơn. Hai cách giải thích theo lối trì nghiệp và y só không lỗi. Luận rằng: Từ “Thứ mười” đến “phần phần chứng cảnh”. Thuật rằng: Phần phần là đạo, sở duyên của đạo gọi là phần phần chứng, đây là giải thích tên theo lối y só. Hoặc vì đạo phần phần, cảnh cũng gọi là phần phần. Luận rằng: “Thứ mười một nghóa là cảnh của địa thứ tám”. Thuật rằng: Từ đây đến sau không có công dụng, nhậm vận duyên như. Nay nói ban đầu đắc, nên chỉ địa này. “Đẳng” tức là bình đẳng vận điều vận chuyển, tâm trước tâm sau một loại không khác nên gọi là đẳng vận. Cảnh của đẳng vận gọi là bỉ sở duyên, giải thích theo lối y só. Luận rằng: Từ “Thứ mười hai” đến “cảnh địa của Như Lai”. Thuật rằng: Ba địa này đắc bốn biện, quả chân quán đảnh, rõ ràng viên mãn nên gọi là tối thắng, so với hai cách giải thích theo lối trì nghiệp và y só thông trá. Trong đây, bốn vị đầu thông với ba kiếp. Vị lớn thứ năm và thứ sáu được luận ở phần giải thoát. Vị thứ bảy tu tuệ địa vị lớn mà nói ở phần quyết chọn. Vị thứ tám đã qua như bàn luận về địa vị. Nhưng các vị thứ năn, thứ sáu, thứ bảy chẳng phải thông với địa vị khác, vì nghóa nói ba tuệ thông với ba kiếp, như trước đã nói. Luận rằng: Từ “Nên biết trong đây” đến “được các tên đó”. Thuật rằng: Đây tức là thứ ba, giải thích về sự đồng và dị của sở duyên. Nghóa là, đây chỉ an lập hai thứ là pháp và pháp giới, tùy theo nghóa của sở lập và năng lập. Ở địa vị của văn tuệ vv… mà được tên sở lập vv…, chẳng phải lìa hai thứ đó mà có tánh thể riêng, do thể của sở duyên chỉ là thiện, chỉ thuận theo vô lậu và vô lậu pháp. Vì tối thắng sở duyên, gọi là vô thượng thừa pháp. Trừ đi pháp và như lại thành không có sở hữu. Đây tức là thứ hai giải thích sở duyên xong. Luận rằng: Từ “Đã nói như vậy” đến “tướng nó như thế nào?” Thuật rằng: Từ thứ ba trở xuống giải thích riêng về tu chúng. Tu nghóa là tu tập, chứng nghóa là chứng đắc. Nhờ tu mà chứng, nên gọi là tu chứng. Trong đây có hai, đầu kết trước hỏi sau, sau nương vào lời hỏi giải thích đúng. Đây tức là phần đầu. Luận tụng rằng: Từ “Tu chứng nghóa là vô khuyết”, đến “bất tại bất chướng tức”. Thuật rằng: Từ đây trở xuống là giải thích riêng. Hai chữ đầu của bài tụng, hiển bày tên của sở mình, còn lại liệt kê mười thứ năng. Nhưng đây đều là nhân của tu, thể chẳng phải tu chứng. Đây tức là ở nơi nhân mà lập tên: Một là vô khuyết, hai là bất hủy, ba là bất động. Một không thông với hai. Bốn là viên mãn, năm là khởi, sáu là kiên cố; bảy là điều nhu, tám là bất trụ; chín là vô chướng; mười là vô tức. Một không thông với hai xứ. Luận rằng: “Tu chứng như vậy đều có mười thứ”. Thuật rằng: Giải thích hai chữ đầu . Luận rằng: “Một là chủng tánh tu chứng, vì duyên với vô khuyết” Thuật rằng: Duyên nghóa là gần gũi với thiện só, lắng nghe chánh pháp, như lý suy nghó, tùy theo pháp hành, đó là bốn hạnh thân cận nhờ duyên với vô khuyết. Vốn chủng tánh đó tu mà chứng, đây tu có thể chứng, nên gọi là tu chứng, đều do một duyên giải thích một chứng. Luận rằng: “Hai là tin hiểu tu chứng, vì không hủy báng Đại thừa”. Thuật rằng: Vì do không hủy báng Đại thừa, bèn có thể tin hiểu mà tu có chứng, hoặc chứng tin hiểu này. Luận rằng: Từ “Ba là phát tâm tu chứng” đến “ở chỗ quấy động”. Thuật rằng: Do chẳng phải là chỗ quấy động, kém nương vào, bèn có thể phát tâm tu mà có chứng, hoặc chứng phát tâm này. Luận rằng: Từ “Bốn là chánh hạnh tu chứng” đến “nên được viên mãn”. Thuật rằng: Vì do đáo bỉ ngạn được viên mãn, chánh hạnh đó bèn tu mà có chứng, hoặc chứng chánh hạnh này. Luận rằng: “Năm là nhập vào ly sinh mà tu chứng, vì khởi lên Thánh đạo”. Thuật rằng: Do khởi lên Thánh đạo tu chứng, nhập vào ly sinh này. Nghóa của ly sinh này đồng như cách giải thích của Luận Bà-sa vậy. Luận rằng: Từ “Sáu là thành tựu hữu tình tu chứng” đến “vi tập hợp lúc càng tăng thêm”. Thuật rằng: Vì do kiên cố thiện căn, tập hợp lúc tăng thêm, tu chứng đó thành thục hữu tình này, thiện căn này khó hủy hoại, gọi là kiên cố thiện căn. Luận rằng: “Bảy là tịnh độ tu chứng vì tâm điều nhu”. Thuật rằng: Do tâm điều nhu tu chứng ở nơi tịnh độ, Luận Vô Cấu Xưng nói rằng: “Vì do tâm tịnh thì cõi Phật tịnh” Luận rằng: Từ “Tám là đắc bất thoái địa thọ ký tu chứng”, đến “vì chỉ chỗ bất thoái”. Thuật rằng: Thọ ký nghóa là nhận lời thọ ký của Phật. Bất thoái thì trong luận đã tự giải thích: Vì không trụ vào sinh tử và Niết-bàn, cũng không phải là hai thứ sở thoái, không đồng với phàm thoái nhập vào sinh tử, không đồng với Tiểu Thánh thoái nhập vào Niết-bàn. Vì bất thoái nên tu chứng được bất thoái, và được thọ ý. Thọ kýcó hai thứ, vì ba đời thọ ký đều khác nhau. Luận rằng: “Chín là Phật địa tu chứng, vì không có phải hai chướng”. Luận rằng: “Mười là thị hiện Bồ-đề tu chứng, vì không nghỉ ngơi”. Thuật rằng: Do không ngừng làm vịêc lợi sinh, nên tu chứng quả ấy, thị hiện Bồ-đề. Ở trong mười thứ này, thứ nhất là Tánh chủng tán; thứ hai đã qua, gọi là Tập chủng tánh; thứ ba nhập vào kiếp đầu; thứ tư là đạo các vị hành; thứ năm là kiến đạo; thứ sáu là tu đạo đến địa thứ bảy; thứ bảy là tướng của địa thứ tám, vì cõi tự tại; thứ tám là địa thứ chín và thứ mười, vì gần gũi với địa của Phật nhưng không trụ vào Niết-bàn để được viên mãn, nên thứ tám tuy mới đắc đầu đắc cõi tự tại, vì nói từ chỗ trội hơn. Thứ chín là Pháp thân tự thân thọ dụng. Thứ mười là được thân tha thọ dụng và Hóa thân. Vì duyên vào vô khuyết v.v…, nên các chủng tánh đó bèn có thể tu chứng. Nếu chưa nhập vào địa đầu thì chưa gọi là tu chứng, như trên đã nói về phần này. Đoạn văn lớn thứ hai xong. Luận rằng: Từ “Nghóa chung của Vô thượng thừa” đến “nghóa của Vô thượng thừa”. Thuật rằng: Từ phần chánh văn phẩm này trở xuống là phần thứ ba tổng kết trên. Tổng kết này có ba. Luận rằng: Từ “Vì chánh hạnh Vô thượng” đến “vì chánh hạnh quả Vô thượng”. Thuật rằng: Chánh hạnh có sáu, rộng như nói ở trước. Chánh hạnh tức là tên của Vô thượng trì nghiệp biện, vì hàng Nhị thừa chánh hạnh không thể lỗi. Chánh hạnh trí đức là mười hai sở duyên, sở duyên tức là Vô thượng, đây cũng là giải thích theo lối trì nghiệp, hoặc chánh hạnh là sở duyên của Vô thượng. Nói sở duyên Vô thượng tức là giải thích theo lối y só. Sở duyên vượt hơn các cảnh, gọi là sở duyên Vô thượng. Nói chánh hạnh trì này, vì chánh hạnh là năng duyên, mười hai là cảnh này, giữ cảnh không vọng niệm, nên gọi chánh hạnh trì. Hoặc ở phương này mà khởi chánh hạnh, trì chánh hạnh nên gọi là chánh hạnh trì. Quả của chánh hạnh nên gọi là chánh hạnh quả, đó là giải thích theo y só. Thể là tu chứng, tu chứng tức là Vô thượng. Đã nói quả là nhân tu trước pháp chứng sau, tức gọi là quả, chẳng cần địa vị Phật viên mãn mới gọi là quả. Nhưng luận xưa kết văn ở nơi giải thích tên luận ở sau, rất là rối rắm. Luận rằng: “Vì sao luận này gọi là Biện Trung Biên?” Thuật rằng: Từ đây trở xuống một bộ phận chánh văn thứ ba là giải thích tên nguyện thí phần, đây là hỏi xong. Luận tụng rằng: Từ “Luận Biện Trung Biên này”, đến “trừ những thứ không được tốt lành”. Thuật rằng: Nhưng trong đây đã nói lìa nhị biên. Năm nghóa thâm mật v.v… mà Thiên Thân Bồ-tát, giải thích trong câu đầu, thì hai chữ “trung biên” gồm có ba lớp nghóa, đến dưới sẽ biết; chữ “nhị nghóa” thông với bốn biên. Luận rằng: Từ “Luận này năng biện” đến “nghóa của năng duyên hành”. Thuật rằng: Biện nghóa là hiển rõ, tức là cả hai hiển rõ xứ trung và nhị biên theo nghóa của năng duyên hành. Năng duyên hành và hành gộp chung lại là năng duyên hành, vì có hành chẳng phải là năng duyên. Vả lại, như vọng phân biệt và chướng v.v… là hành của nhị biên. Trong này, phiên chữ hành đó gọi là hành, nhưng không phải có một mình sinh ra, nhất định duyên với cảnh. Luận rằng: Từ “Lại nữa, năng biện này”, đến “cảnh nghóa của sở duyên”. Thuật rằng: Đây là cùng biện về hai nghóa sở duyên của hai chữ “biên trung”. Biến kế sở chấp v.v… là biên sở duyên; Viên thành và y tha v.v… là trung sở duyên. Cho nên hành duyên ở nơi cảnh, hợp gọi là nhân, nhất định có sở đắc. Sở đắc tức là thiện ác, quả ác luận này không nói rõ, chỉ nói về quả thiện. Do không nói quả ác, ẩn giấu trong quả pháp, nên không giải thích tên. Ở trong luận giải thích, thật đã nói về quả. Lại trong quả sở đắc, tức là giải thích thứ ba. Luận rằng: Từ “Hoặc chánh biện này”, đến “tên là Biện Trung Biên”. Thuật rằng: Trước đã hai lầm giải thích về chữ “Trung biên”. Nay là thứ ba, chỉ giải thích chữ “trung” không giải “biên”. Vì trong chánh biện lìa biên, pháp của trung đạo, gồm cả biện ở nơi quả của biên pháp, hoặc cả nhân của biện biên. Như hai cách giải thích trước, đây tức là cách giải thích thứ ba, về ba chữ Biện Trung Biên ở trong bài tụng. Luận xưa ba nghóa trên, ở trước bài tụng, là nhà phiên dịch lầm, vì sao nói pháp lìa biên xứ trung? Luận rằng: Từ “Luận này sở biện” đến “sở hành xứ”. Thuật rằng: Luận này sở biện thông suốt bốn cái dưới. Chẳng phải hàng phàm phu tầm, chẳng phải hàng Nhị thừa tư, chẳng phải định của Sơ thiền dục giới tầm và địa trên tư, thức thứ sáu là sở tầm, thức thứ bảy, tám là sở tư, nên gọi là thâm mật. “Thâm” là nghóa là sâu sắc, “mật” là nghóa ẩn giấu, chẳng phải chỗ biết của trí can cợt. Luận rằng: Từ “Là nghóa chắc thật” đến “vì chẳng phải kia chế phục”. Thuật rằng: Giống như kim cang năng phá những vật chẳng thể phá, nên gọi là chắc thật. Do hiểu được luận này có thể dẹp phá ở trong nơi cái khác, chẳng phải cái khác đã chế phục. Luận rằng: Từ “Là nghóa rộng lớn”, đến “vì việc tự tha”. Thuật rằng: Tự mình lợi rộng, người khác vui lớn, người khác vui rộng, mình lợi lớn, hoặc mình và người đều lợi lạc rộng lớn. Hoặc tự mình hiểu rõ là rộng, người khác trội hơn là lớn. Nghóa của lợi lạc, mỗi mỗi đều như thường hiểu. Luận rằng: Từ “Là tất cả nghóa” đến “vì pháp của Tam thừa”. Thuật rằng: Lớn có thể hàm chứa nhỏ, các nghóa đầy đủ rõ ràng, quyết định rõ được pháp của Tam thừa. Cho nên gọi là tất cả, vì đã nói về tất cả. Luận rằng: Từ “Lại năng trừ diệt” đến “vì sở tri chướng”. Thuật rằng: Đây là giải thích câu thứ tư trong bài tụng. Hai chướng có thể khiến cho sinh tử lưu chuyển, không sinh trí kiến, nên gọi là không tốt lành. Nếu hiểu giác này và ngộ lý này, đều có thể trừ diệt được hai chướng, cả hai diệt rồi, tức là có thể thành Phật. Đây là giải thích chung đề mục của luận trên. Luận xưa lại có đồng với Câu xá Luận, hàm chứa hai bài tụng cuối cùng. Nay so với văn ba bổn tiếng Phạm đều không có, là nhà phiên dịch đặt thêm vào. Luận rằng: Từ “Các công đức của tôi khi biện giải luận này” đến “nhanh chóng chứng quả Bồ-đề lớn” Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần phát nguyện hồi hướng bố thí cho chúng sinh. Câu thứ nhất Thế Thân tự hiển bày, giải thích công đức của bài tụng, khiến cho đèn pháp không dứt, phá được si ám không sinh, mười lực tăng thêm, tám bộ hưng thạnh cung kính. Tức là đều nói về công đức sở sinh bổn luận này. Câu thứ hai chánh hiển bày hồi hướng bố thí. Chữ “hàm” tức là đều, “trì” là dùng, “phổ” là đẳng…, “thí” là cứu giúp, “quần sinh” là chúng sinh, loại chẳng phải một. Nghóa là, giải thích bổn tụng đã có công đức, đều dùng bình đẳng cứu giúp chúng sinh. Câu thứ ba khiến cho đắc nhân báo. Lục độ của Bồ-tát có hai thứ đạo, ba độ trước khiến cho đắc tăng thượng sinh đạo, ba độ sau khiến cho đắc quyết định thắng đạo. Ở trong Thập địa đắc Thập vương vị, ở trong loài khác thì sinh vào chốn lành. Ba độ trước đã đến tăng thượng sinh đạo, tinh tấn, thiền định khiến cho phước nhất định thù thắng. Bát-nhã hoàn toàn khiến cho trí tuệ nhất định thù thắng. Ba độ sau đã đắc quyết định thắng đạo, bố thí cho các chúng sinh, khiến cho ở hai nhân vị đắc được hai quả này. Câu thứ tư khiến cho đắc quả báo. Chữ “tật” tức là nhanh chóng; “chứng” là khế ngộ, “quảng” là rộng rãi, “đại” là sâu xa. Tiếng Phạm nói Bồ-đề Đát-lợi-ni, Bồ-đề là giác, Đát-lợi-ni là tam, tức là kh- iến cho Tam thừa bất định, tánh loại đều tùy theo ý ưa thích được quả tự thừa. Vì quả đó có thể vượt khỏi quả của thế gian, ngoại đạo… nên nói là rộng lớn. Câu cuối hàm ba nghóa, cũng phiên âm là tiếng Phạm gọi là Chánh giác, chỉ là Vô thượng quả. Đức bố thí cho chúng sinh khiến cho ở trong nhân, được hai thắng đạo, khiến ở quả vị được quả tự thừ. Cốt ý chung của bốn câu là câu đầu nghóa là công đức của người tạo luận, câu kế chánh dùng hồi hướng bố thí cho chúng sinh, hai câu sau khiến cho sinh được quả, lìa phàm phu được bậc Thánh. BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN THUẬT KÝ QUYỂN HẠ (HẾT) Năm thứ 5, niên hiệu Văn An, từ ngày 20 tháng 07, năm Mậu Thìn, khiến cho viết xong, vả lại vì thần ân báo tạ, với lại cầu cho các linh hồn lìa khổ. Từ ngày 4 tháng 7 đến khoảng giữa ngày 17 đến ngày 20 tháng Chùa Hưng Phước, các giảng đường để ban ngày tham cứu ba quyển thượng, trung, hạ chép xong đem đặt ở nơi phòng bổn đàm nghóa. Có nhân chân ngôn của tâm. Có thể được xưng danh hiệu. Sa-môn Nhẫn xuân tăng truyện. Nam-mô Từ Bi Vạn Hạnh Bồ-tát. Nam Đô. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 159