<經 id="n1822">CÂU XÁ LUẬN SỚ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1822 CÂU-XÁ LUẬN SỚ Sa-môn Pháp Bảo soạn <卷>QUYỂN 1 (Phần 1) NỘI DUNG: Giải thích luận này chia làm năm phần: Xoay bánh xe pháp lần đầu. Thứ lớp học hành. Nhân duyên khởi giáo. Bộ chấp trước sau. Giải thích Theo văn. Phần I: XOAY BÁNH XE PHÁP LUÂN Phần này có bốn: Chắc chắn ngày thành đạo. Chắc chắn ngày xoay bánh xe pháp. Nói về việc ở khoảng giữa khác nhau. Giải thích khác nhau. Chắc chắn ngày thành đạo: Kinh A-hàm quyển bốn chép: Như lai đâu sanh ngày mùng tám, xuất gia ngày mùng tám, thành đạo ngày mùng tám, nhập diệt ngày mồng tám. Văn kế nói, Như lai đản sanh tháng hai, xuất gia tháng hai, thành đạo tháng hai, nhập Niết-bàn tháng hai. Kinh Quán Phật chép, Phật bảo các người trời rằng: Chư Phật trong mười phương, đều sanh vào lúc nửa đêm ngày mồng tám tháng tư, xuất gia vào lúc nửa đêm mồng tám tháng tư, thành đạo vào lúc nửa đêm mồng tám tháng tư. Nhập Niết-bàn vào lúc nửa đêm mồng tám tháng tư. Các kinh đều nói mùng tám, về tháng thì có khác, chỉ có tháng hai và tháng tư không nói tháng khác. Theo hai thuyết trên, có chút khác nhau, riêng về ngày tháng thành đạo thì hoàn toàn giống nhau. Sở dó biết như vậy; vì có hai lý do sau: Do lập khác nhau: Nước Bà-la-môn lấy Tý làm tháng đầu; Trung quốc lấy Dần là tháng đầu, lập Tý làm tháng tư, tức lập Dần làm tháng hai, cho nên y theo bản Phạm mà nói tháng tư, y theo Trung quốc thì nói tháng hai, căn bản chỉ là một. Theo luận Đại Trí Độ, và luận Bà-sa, từ khi Phật thành đão cho đến Phạm Vương thỉnh Phật nói pháp trong vòng năm mươi bảy ngày, kế là bốn tháng điều căn, gồm cả quán cơ; suốt trong sáu tháng. Tức là Phật thành đạo ngày tám tháng hai, Phật nói pháp ngày mùng tám tháng tám, như dẫn văn ở dưới , cho nên biết mùng tám tháng hai thành đạo là chắc chắn cách mùng tám tháng tám sáu tháng. Nếu Phật thành đạo ngày tám tháng tư thì không có sáu tháng; cách xoay bánh xe pháp bốn tháng, không có văn làm chứng. Lại, giải thích luật, luận, rằng: Phật và năm vị Tỳ-kheo kết tiền an cư ngày mười sáu tháng tư; an cư cách ngày mùng tám tháng tư chỉ có chín ngày, có trái với ngày tháng nói trong kinh Pháp Hoa, luận Trí Độ, luận Tỳ-bà-sa, v.v… y theo đây nên biết ngày tám tháng hai chắc chắn là ngày Phật thành đạo. Hỏi: Nếu vậy, vì sao trong kinh Bồ-tát Xử Thai lại nói: Ngày tám tháng hai thành đạo, ngày tám tháng hai chuyển pháp luân, ngày tám tháng hai hàng phục ma quân, ngày tám tháng hai nhập Niết-bàn? Đáp: Có hai giải thích: Trong kinh Xử Thai chép: Bồ-tát ở trong thai cũng xoay bánh xe pháp, điều này thuộc phạm vi hội chúng mật hạnh; ngày thành đạo là ngày xoay bánh xe pháp nằm trong ý này. Nay nói ngày xoay bánh xe pháp của năm vị Tỳ-kheo có các thuyết khác nhau nhất, là không thuộc phạm vi hội chúng mật hạnh. Trong các kinh, lầm tháng hai là tháng tư, do cách tính tháng giêng khác nhau như đã giải thích ở trên. Lầm tháng tám với hai tháng hai và tháng tư do bởi “Ca-lật-để-ca” là tháng tám là tên sao Mão; tháng hai lại là tháng lập sao Mão, Tháng và Địa giải thích khác nhau, nhưng tên Mão thì giống nhau. Nên biết lịch Ấn-độ thời đó. Mão của Dậu địa là tháng tám; Mão của Chấn địa là tháng hai, tháng tư. Do đó, ngày xoay bánh xe pháp có hai, bốn, tám khác nhau, tháng nhập Niết- bàn có tám, bốn, hai khác nhau. Điều chắc chắn, trong rất nhiều kinh luận nói, Phật độ năm vị Tỳ-kheo chắc chắn là tháng tám. Ngày nhập Niết-bàn giải thích ở chương riêng. Chắc chắn ngày xoay bánh xe pháp: Trong các kinh luận đều nói, Đức Phật nói pháp cho năm vị Tỳ- kheo vườn Nai thuốc nước Ba-la-nại. Về khoảng giữa (từ thành đạo đến nói pháp) số ngày khác nhau nhất, cũng không nói chính xác ngày tháng nói pháp nên không thể lấy làm chứng. Bà-sa, Thích Luận chép: Về ngày tháng nói pháp rất rõ nên dựa vào văn này. Luận Bà-sa quyển một trăm tám mươi ba chép: Đức Phật độ A-nhã Kiền-trần-na, vào ngày thứ tám của nửa tháng có trăng tháng Ca-lật-để-ca, Trung quốc là tháng tám. Luận Bà-sa quyển một trăm ba mươi sáu chép: Đêm ngày mồng tám tháng Yết-lật-để-ca nửa tháng có trăng đến ngày mồng chín, v.v… tăng thêm một lạp phược. Chữ Yết và chữ Ca tuy khác nhau nhưng nói thì giống nhau. Cho nên biết chắc chắn ngày mùng tám tháng tám là ngày xoay bánh xe pháp. Lại như trong giải thích Luật, Luận chép: Đức Phật cùng năm vị Tỳ-kheo kết tiền an cư ngày mười sáu tháng tư. Trong thời gian một mùa hạ. A-nhã Kiều-trần-na không chứng được quả Thánh. Qua hạ đến ngày mùng tám tháng tám Kiều-trần-na bỗng nhiên đắc đạo, văn hai luận này lý rất rõ ràng, các bộ khác không rõ nên không thể y theo, xác định ngày tám tháng tám là ngày nói pháp đầu tiên. Về ngày thành đạo, tuy có hai thuyết khác nhau, hoặc ngày mùng tám tháng hai hoặc ngày mùng tám tháng tư; nhưng không có văn nào nói tháng hai hay tháng tư xoay bánh xe pháp. Do vậy biết rằng, chẳng phải sau hai mươi mốt ngày, năm mươi sáu ngày, cũng không có văn nào nói tháng ba, tháng tư, tháng năm, tháng sáu, cho nên biết chẳng phải là bốn mươi hai ngày, năm mươi bảy ngày Phật xoay bánh xe pháp. Nói về việc ở khoảng giữa khác nhau: Trong các kinh luật luận nói về khoảng giữa, từ ngày Phật thành đạo đến ngày nói pháp lần đầu tiên, rộng lược khác nhau, trước sau có khác. Nay thời gian từ quán cơ về trước, là dựa vào lời tựa luật Tứ Phần, từ quán cơ về sau, là dựa vào luận Bà-sa. Sự khác nhau trong các bản khác có ghi vào phần phụ lục. Luật Tứ Phần quyển ba mươi mốt chép: Đầu hôm, Ngài chứng đắc túc mạng minh, nửa đêm chứng được tử sanh trí chứng minh, gần sáng chứng được lậu tận minh. Chứng được ba minh này, rồi ngài liền đi đến dưới cội cây Bồ-đề ngồi kiết già suốt bảy ngày, bất động thọ hưởng vui giải thoát. Qua bảy ngày, Ngài xuất đinh, nhận cốm mật do hai anh em người đi buôn cúng dường, truyền hai pháp qui y cho họ, nói rằng hai vị là đệ tử Ưu-bà-tắc đầu tiên của ta; bốn vị Thiên vương bưng bát Phải chịu cốm mật. Đây là bảy ngày đầu tiên. Dẫn kinh chứng minh: Kinh nhân quả chép: Sau khi quán sát căn cơ, Đức Phật phải chịu cốm mật của người đi buôn. Luật Tứ Phần nói: Dùng cốm mật xong, Đức Phật ngồi kiết già bất động dưới cội cây bảy ngày, an trú trong đại định giải thoát. Qua bảy ngày Ngài xuất định; cách đó không xa có một cây Ha-lê-lặc, thần cây hái trái Ha-lê-lặc đến cúng dường Phật. Phật phải chịu, Ngài truyền cho hai pháp qui y; đây là bảy ngày thứ hai. Dùng trái Ha-lê-lặc rồi, Đức Thế tôn lại nhập định như trước. Khi xuất định. Ngài vào thôn Uất-tỳ-la khất thực, nhận thức ăn dường của người Bà-la-môn, rồi truyền cho hai pháp qui y. Đây là tuần thứ ba. Trong ba tuần nói trên, Đức Thế tôn ở dưới cội cây Bồ-đề, thọ thực xong Ngài đến dưới cội cây Ly-bà-na nhập định, khi xuất định Ngài, vào thôn Uất- tỳ-la khất thực, nhận thức ăn từ vợ của người Bà-la-môn, truyền hai pháp qui y, đây là những vị Ưu-bà-di đầu tiên. Theo văn luật, loài người dưới thọ ba qui y, được giới cận sự; thần và súc sanh không được như thế. Đây là tuần thứ tư. Thọ thức xong, Phật đến dưới cội cây Ly-bà-na, nhập định như trước. Khi xuất định, Ngài vào thôn Uất-tỳ-la khất thực, thức ăn của con trai con gái người Bà-la-môn, truyền ba quy y. Đây là tuần thứ năm. Trong hai tuần đó, Đức Phật ở dưới cội cây Ly-bà-na. Thọ thức xong, Ngài đến cung rồng Văn Lân, Phật lại nhập định, như trước; trời mưa suốt bảy ngày, cho đến Long vương dùng thân che quanh Phật, đây là tuần thứ sáu. Kinh Nhân Quả chép: Sau khi quán sát căn cơ, tất cả sáu tuần, Đức Phật thọ vui tam-muội giải thoát. Lại, luật Tứ Phần chép: Phật xuất định, Ngài đến dưới cội cây A- du Bà-la-ni-câu-luật, trải tọa cụ, ngồi kiết già. Luật Ngũ Phần chép: Phật nhập định bảy ngày, lại nói nhận sữa bò do một người phụ nữ cúng dường, dùng xong Ngài nhập định. Luật Tứ Phần chép: Phật nghó: Nay ta chứng được pháp sâu xa mầu nhiệm rất khó giải bày, nên muốn yên lặng Niết-bàn; pháp này chỉ có những người có trí tuệ cao sâu mới hiểu được. Cho đến, nghó đoạn, Ngài nói hai bài tụng, sau đó Ngài im lặng. Về thời gian suy nghó pháp sâu xa mầu nhiệm này, các văn không nói số ngày. Kinh Pháp Hoa chép: Quán cây và kinh hành trong hai mươi mốt ngày, Phật nghó việc như vậy; trí tuệ ta đạt được, là nhiệm mầu, bậc nhất, chúng sanh các căn độn, tham vui si làm mù, các hạng người như thế làm sao cứu độ được. Nghóa này đồng với ý luận. Như trên, Đức Phật hưởng vui giải thoát trong bốn mươi hai ngày, suy nghó về pháp trong hai mươi mốt ngày, tất cả là sáu mươi ba ngày. Ngày xuất định ở trước là đầu bảy ngày ở sau. Trừ sáu ngày trùng, còn lại năm mươi bảy; là khoảng thời gian từ ngày Phật thành đạo đến ngày Phạm thiên thỉnh Phật. Số ngày này giống với số ngày mà luận Bà-sa và Trí Độ nói. Luận Trí Độ quyển tám chép: Đức Thích-ca Mâu-ni thành đạo cho đến năm mươi bảy ngày sau đó, không hề nói pháp. Bởi pháp của Ngài sâu xa mầu nhiệm khó hiểu, chúng sanh lại tham đắm, bị ràng buộc bởi các pháp thế gian, không thể hiểu được, chẳng bằng im lặng nhập vào vui Niết-bàn. Bấy giờ, các vị Thiên vương thỉnh Phật, xin Ngài nói pháp lần đầu tiên cho chúng sanh nghe. Đức Phật im lặng chấp nhận. Sau đó, Ngài đến rừng Ba-la-nại xoay bánh xe pháp. Trong đồng với ý của luật, và kinh Pháp Hoa. Luật Tứ Phần chép: Phạm Vương thỉnh Phật xoay bánh xe pháp, được Phật chấp nhận, liền trở về cung. Như trên là quán sát căn cơ, đại ý của, luật và luận Bà-sa đồng nhau, trong đó có vài chi tiết khác nhau, ở đây lược bỏ không nói. Từ quán cơ về sau, y theo luận Bà-sa quyển một trăm tám mươi hai chép: Bồ-tát dưới gốc Bồ-đề, với ba mươi bốn tâm, chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, dúng Phật nhãn nhìn khắp tất cả thế giới, xem ai là người đầu tiên nghe được chánh pháp của ta, ta sẽ nói cho nghe. Quán sát thấy Xướng-liên-ma-tử là người có công năng nghe pháp đầu tiên. Lúc đó, Phạm thiên liền bạch Phật rằng: Xướng-liên-ma-tử đã qua đời tối hôm qua, có thuyết nói bảy ngày. Luật Tứ Phần nói: Uất-đầu-lam-tử chết được bảy ngày. Lại nói: Bấy giờ, Đức Thế tôn cũng khởi lên trí kiến, biết Xướng-liên-ma-tử đã qua đời, thương xót than rằng: Xướng-liên-ma-tử đã mất lợi lớn, nếu được nghe pháp của ta thì sẽ giải thoát, Thế tôn lại quán sát xem người nào khác có công năng nghe pháp của ta đầu tiên, ta sẽ nói cho; thấy có Át-ca-la ma tử. Luật Tứ Phần chép: A-lam-ca-lan có công năng nghe pháp đầu tiên. Phạm Thiên liền thưa, bạch Đức Thế tôn, người kia đã qua đời bảy ngày rồi, có thuyết nói đêm rồi. Luật Tứ Phần cũng nói đêm rồi. Bấy giờ, Đức Thế tôn khởi trí kiến, biết A-lam-ca-lan đã chết, Ngài thương xót than thở như trước. Đáp làm rõ: Hỏi: Khi mới chứng được Vô thượng Bồ-đề, vì sao Ngài không nói pháp cho hai người này nghe, khi họ chết Ngài mới nghó đến, e là Thế tôn giáo hóa không đúng thời chăng? Đáp: Lúc đó, hai người kia gốc lành chưa thuần thục, chưa đủ sức nghe pháp. Vì sao? Khi Phật thành đạo, nếu người thứ nhất sống thêm năm mươi bảy ngày nữa thì được nghe pháp, người thứ hai sống thêm năm mươi mốt ngày thì được nghe pháp, do đó biết rằng, chẳng phải Phật giáo hóa không đúng thời. Theo luận Bà-sa, tuy không nói rộng số ngày trước khi Phạm Vương thỉnh Phật , nhưng từ ngày thành đạo đến ngày Phạm vương thỉnh Phật có năm mươi bảy ngày; điều này đồng với luật và luận Trí Độ. Lại nói, bấy giờ hoặc Thế tôn tự kéo dài mạng sống để đợi Tô- bạt-đạt-la, hoặc giúp người kia kéo dài mạng sống là việc không có. Theo luận này, thì Thế tôn không giúp người kia kéo dài mạng sống. Đức Thế tôn lại quán sát ngoài hai người kia còn ai khác có công năng đầu tiên nghe được pháp ta , ta sẽ nói cho, nghe thấy có năm anh em Kiều-trần-na có công năng nghe được, lại nghó: Những vị đó đều là cha mẹ người thân trong dòng họ ta, xưa nay cung kính cúng dường ta. Nay ta muốn đền đáp ân đức, nhưng hiện họ đang ở đâu, Phạm Thiên liền bạch Phật, họ hiện đang ở nước Ba-la-để-tư, trong vườn Nai của vị tiên. Đức Thế tôn quan sát thấy đúng như vậy liền rời gốc Bồ-đề đến chỗ đó. Hỏi: Phật có thần lực trên tất cả, vì sao phải đi bộ như thế? Đáp: Vì kính trọng pháp nên không dùng thần thông, lại, khi Phật đi chân thường cách mặt đất bốn ngón tay, mỗi dấu chân đều có hình bánh xe ngàn căm, rõ ràng như nét họa và hình bóng Ngài tiếp xúc chỗ nào, thì sẽ tồn tại ở đó đến bảy ngày khiến cho khi các loài hữu tình đến, thân tâm an ổn vui mừng. Ngài dần đi đến Ba-la-để-tư, bấy giờ năm người kia bỗng nhiên thấy Phật, liền hẹn với nhau rằng: “Gã Kiều-đáp-na này vốn biếng nhác, kiêu mạn, quá nhiều ham muốn, cuồng loạn mất chánh niệm, chẳng đạt được đạo quả gì, nay lại đến muốn dụ dỗ chúng ta, chúng ta không nên nói chuyện, cung kính, hỏi han hắn. Rồi chỉ trải một tọa cụ thường trải, sau đó ngồi xuống. Bấy giờ, Thế tôn dần dần đi, đến gần họ; do oai lực Phật khiến cho họ quên mất giao ước lúc đầu, bất giác đứng dậy, đi về phía Phật, chắp tay quy mạng. Cả năm vị, có vị thay tọa cụ sạch sẽ, có vị đỡ y cho Phật, bình bát của Phật, có vị rửa chân cho Ngài, đều bạch Phật rằng: Kính mời Ngài ngồi. Đức Thế tôn nghó: những người ngu này, tự giao ước với nhau rồi lại phá bỏ. Khi Phật ngồi yên, oai phong Ngài sừng sững như ngọn núi cao cao đẹp, rồi Đức Thế tôn dần dần giáo hóa khiến họ được điều phục; trong ngày đó, buổi sáng Ngài nói pháp răn bảo, dạy trao cho hai người, bảo ba người kia vào xóm khất thực; các vật thực xin được nuôi sống đủ sáu người; buổi chiều Ngài nói pháp, răn bảo, giáo thụ cho ba người, bảo hai người còn lại vào xóm khất thực, thức ăn đồ uống đủ cho cả năm người. Đức Thế tôn không dùng bữa chiều. Đức Phật giáo hóa như vậy trong ba tháng có thuyết nói bốn tháng, giúp cho năm người kia gốc lành thuần phục, đến ngày mồng tám nửa tháng có trăng Ca-lật-để-ca Như lai nói pháp cho họ, Kiều-trần-na chứng đạo đầu tiên, bốn hội nói khác nhau. Các giải thích khác nhau: Hỏi: Nếu khi thành đạo rồi, sáu tháng sau Đức Phật mới nói pháp lần đầu, vì sao các kinh Xuất Diệu, Kinh Phương Đẳng, Đại Trang Nghiêm nói: Có bốn mươi chín ngày. Kinh Nhân Quả, kinh Pháp Hoa nói hai mươi mốt ngày, Luận Trí Độ nói: Trong năm mươi bảy ngày đầu. Phật không nói pháp. Kinh Phương Đẳng, Đại Trang Nghiêm nói: Quán sát căn cơ mười bốn ngày, kinh hành mười bốn ngày. Kinh Nhân Quả nói quán cây (Bồ đề) bảy ngày. Kinh Pháp Hoa nói: Quán cây kinh hành không nói ngày. Luật Tứ phần nói Bốn mươi hai ngày. Luật Ngũ Phần nói: Năm mươi sáu ngày. Tỳ-bà-sa nói bốn tháng. Lại có kinh nói nửa năm. Kinh Thập Nhị Do-diên nói: Một năm. Đáp: Từ xưa, các Sư kinh luật luận đều nói sự thấy, nghe không giống nhau. Ý muốn nói, khi Phật tại thế tùy theo căn cơ khác nhau mà thể hiện oai đức khác nhau. Hoặc thấy không nhắc lại ở đây. Đức Thích-ca Như lai với tám tướng thành đạo, thị hiện có cha mẹ, vợ con, ngày sinh, ngày xuất gia, ngày thành đạo, ngày nói pháp cho năm vị Tỳ-kheo. Đại thừa hay Tiểu thừa nói lý đều giống nhau, như nói kinh hành, xa gần, quán cây, v.v… có sự khác nhau. Tướng trạng của cảnh giới nhập định đầy sức mạnh thần thông của Phật rất khó hiểu. Hỏi: Làm sao biết được? Đáp: Lược có năm điều: Nêu thời gian khác nhau. Các dị bản trước sau, rộng hẹp khác nhau. Ngày tháng đản sinh v.v… giống nhau. Các đồng bản trước sau nói có khác. Việc truyền dịch có sự nhầm lẫn. Do năm việc đó nên nói có khác nhau; căn bản vẫn đồng. Nêu thời gian khác nhau. Theo luật Tứ Phần, Đức Thế tôn hưởng m vui giải thoát trong bốn mươi hai ngày. Kinh Pháp Hoa chép: Phật suy nghó về pháp trong hai mươi mốt ngày. Kinh Xuất Diệu, Kinh Trang Nghiêm nói Phật suy nghó về pháp trong bốn mươi chín ngày. Luận Ngũ Phần chép: Đức Phật suy nghó về pháp trong năm mươi sáu ngày. Luận Trí Độ nói: Năm mươi bảy ngày trước khi Phạm vương thỉnh Phật . Luận Bà-sa nói: Điều phục căn cơ cho năm vị Tỳ-kheo thời gian bốn tháng; có kinh nói sáu tháng. Kinh Thập Nhị Do-diên nói một năm, vì trải qua một hạ. Luật và kinh Thọ Tuế dùng hạ để làm năm. Các dị bản trước sau, rộng hẹp không giống nhau: Luật thì trước rộng sau hẹp, trước nói riêng về việc thọ vui giải thoát, suy nghó về pháp, sau lựơc bỏ không nói điều cơ trong bốn tháng. Luận Tỳ-bà-sa, trước lược qua không nói từ trước khi Phạm vương thỉnh Phật , sau thì nói rộng việc điều cơ trong bốn tháng. Dùng hai văn này làm chứng lẫn nhau, thấy rằng số ngày sau sáu tháng Đức Phật mới bắt đầu nói pháp lần đầu. Ngày tháng đản sinh v.v… giống nhau: Dựa vào tám tướng thành đạo nói về cha mẹ, vợ, con, ngày đản sanh, xuất gia, thành đạo v.v… ngày tháng đều giống nhau. Nhưng vì sao ngày nói pháp cho năm vị Tỳ-kheo nghe lại không giống nhau. Nên biết, căn bản là đồng nhất, nhưng việc truyền bá thì có rộng hẹp, và có cả sự nhầm lẫn. Các đồng bản, trước sau, có thuyết nói khác: Luận Đại Tỳ-bà-sa quyển một trăm tám mươi hai chép, dưới cội Bồ-đề, với ba mươi bốn tâm Đức Phật chứng được quả vị A-nậu Bồ-đề, dùng Phật nhãn quán khắp tất cả thế giới, xem ai có công năng nghe được chánh pháp của ta đầu tiên, như văn trước đã dẫn. Theo đó, khi thành đạo, phần liền quán sát căn cơ, khoảng giữa lược bỏ việc thọ vui giải thoát, suy nghó về pháp, Phạm vương thỉnh Phật v.v… đâu thể nói là không. Cho nên biết các bản thiếu cũng là do lược bỏ. Nếu cho rằng: Luận Đại Tỳ-bà-sa có sự thấy nghe khác nhau rằng sau khi thành đạo Phật liền quán sát căn cơ, vì sao văn luận Bà-sa kế dưới lại nói: Sau khi Phật thành đạo nếu một người đầu, sống thêm năm mươi bảy ngày thì sẽ được nghe pháp. Điều này cho thấy, từ lúc thành đạo đến lúc quán sát căn cơ, có năm mươi bảy ngày. Luận Trí Độ quyển một chép: Bấy giờ, Bồ-tát bỏ lối tu khổ hạnh, đến dưới cội cây Bồ-đề, ngồi tòa Kim cương, hàng phục ma quân, chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Phạm vương đến chỗ Phật, thỉnh cầu Ngài nói pháp độ sinh. Theo luận này không thấy có việc dùng sữa mật, chỉ có việc thọ vui giải thoát, suy nghó về pháp, việc Phạm Thiên thỉnh Phật v.v… sau khi thành đạo. Nếu chỉ riêng luận Trí Độ việc thấy nghe có khác nhau mà cho là không có thì, vì sao ngay trong Luận Trí Độ quyển tám nói, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sau khi thành đạo đã yên lặng trong năm mươi bảy ngày không nói pháp, sau đó Phạm vương v.v… cầu thỉnh. Nên biết là các văn thiếu sót, sơ lược như quyển thứ nhất lược chẳng phải sự thấy nghe khác nhau. * Người truyền dịch nhầm lẫn: Như kinh Dược Sư, bản dịch đời Tống nói, Thiện tín Bồ-tát có hai mươi bốn giới; bản đời Đường, đời Tùy nói Bồ-tát có bốn trăm giới. Kinh Chánh Pháp Hoa nói: Sáu căn mỗi căn đều có một ngàn hai trăm công đức; kinh Diệu Pháp Hoa chép: Ba căn mỗi căn có một ngàn hai trăm công đức, ba căn mỗi căn có tám trăm công đức v.v… những sự khác nhau khác không thể hiểu được, đều như loại này, căn bản là một, nhưng truyền dịch khác nhau. Phần II: HỌC HÀNH THỨ LỚP Mở đầu: Trong tất cả muôn hạnh, thì việc nghe pháp, gần gũi thiện tri thức làm đầu, kinh Niết-bàn quyển hai mươi lăm chép: Tất cả chúng sanh do nhân duyên nghe pháp được gần đại Niết-bàn; do nghe pháp mà tín căn đầy đủ, tín căn đầy đủ thì ưa thích làm việc bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, chứng quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả Phật. Do đó, phải biết do năng lực của nhân duyên nghe pháp mới có được các pháp thiện. Lại nói, tín tâm nhờ nghe pháp mà có, nghe pháp nhờ tín tâm mà được; hai pháp này vừa là nhân, vừa là nhân của nhân; vừa là quả, vừa là quả của quả. Luận Chánh Lý quyển năm mươi chín chép: Trong sơ nghiệp địa, các cách thức tu tập rất nhiều, muốn hiểu nên tìm các luận nói về quán hạnh mà chúng sanh tu tập. Tóm lại, người mới tu hành đối với pháp giải thoát, phải có đầy đủ sự ưa thích sâu xa, quán sát đức Niết-bàn, xa lìa các tội lỗi sanh tử, trước, phải gần gũi bạn tốt, bạn tốt là gốc của các điều lành, gọi là bạn tốt vì có công năng thực hành đầy đủ năng lực nghe v.v… thí như thầy thuốc. Lại , bốn chi Dự Lưu gồm: Gần gũi bạn lành. Siêng nghe chánh pháp. Tác ý đúng như lý. Pháp tùy pháp hành. Văn này, trong các kinh đều có nói. Nghe mà không tin còn hơn không nghe, kinh Pháp Hoa chép: Bấy giờ nếu chúng nghe pháp mà không nói lời khinh thường rằng ông sẽ thành Phật, cho dù chê bai không tin phải đọa địa ngục, nhưng nhờ nhân duyên nghe pháp mà được gặp vô lượng Chư Phật, sau gặp Bồ-tát Bất Khinh, đều phát tâm Đại thừa. Theo pháp ba thừa thì, trước phải học giáo lý hữu của Tiểu thừa, sau mới học giáo lý về “không” của Đại thừa, cho nên biết rằng có nhiều văn chứng minh. Dẫn kinh luận chứng minh: Kinh Thập Luận quyển sáu chép: Này người thiện nam, nếu các chúng sanh đối với pháp Thanh văn, Độc giác chưa có công phu thì phải siêng năng tu học. Chúng sanh như vậy, căn cơ yếu kém, ít khi siêng năng. Nếu nói pháp mầu nhiệm sâu xa của Đại thừa thì người nói, người nghe đều mắc tội nặng, đều trái với lời dạy của tất cả các Đức Phật. Vì sao? Vì nếu các chúng sanh, đối với pháp Thanh văn Độc giác, chưa có công phu, lại đi nghe pháp Đại thừa, chúng sanh như thế thật là ngu si. Tự cho mình là thông minh,cho đến tất cả tội báo của chúng sanh như thế đều là do trước không chịu học pháp Thanh văn Duyên giác, chỉ ưa thích pháp Đại thừa, đó là kẻ ngu. Đoạn Diệt Luận Giả là kẻ thấp kém còn khó có được làm sao trở thành pháp khí của bậc Hiền Thánh; tất cả lỗi lầm của chúng sanh như vậy đều do chưa học pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa lại học pháp Đại thừa trước . Kinh Giải Thâm Mật quyển hai chép: Ta vì các chúng sanh chưa gieo trồng gốc lành, chưa dứt trừ các chướng, chưa thành tựu nối tiếp, chưa tu nhiều các pháp thắng giải, chưa chứa nhóm hai thứ tư lương: Là Phước đức, trí tuệ, dựa vào tự tánh sanh tử mà nói các pháp; chúng sanh được nghe tùy công năng hiểu được từng phần về vô thường vô hằng, v.v… khiến họ gieo trồng gốc lành v.v… Đây chỉ cho thứ nhất thời giáo Tiểu thừa. Nói về ba thứ tánh tự tánh: Từ “nếu đã gieo trồng gốc lành cho đến đã chứa nhóm tư lương phước đức trí tuệ. Lại y theo ba thứ tánh vô tự tánh, nói tất cả pháp đều không có tự tánh. Y theo tướng của tánh vô tự tánh, v.v… nói tất cả pháp vô sanh diệt, ở đây chỉ cho giáo pháp Đại thừa thời thứ hai. Lại văn dưới chép: Nếu có chúng sanh đã chứa nhóm gốc lành phẩm thượng cho đến hai thứ tư lương phước đức, trí tuệ ở phẩm thượng, nghe ta khéo nói pháp vô sanh diệt v.v… liền tin là Phật nói, khéo biết lấy, bỏ v.v… mau chứng được quả vị Vô thượng Bồ-đề. Nếu tu năm pháp phẩm hạ, nghe ta nói như vậy tin là Phật nói, sẽ được vô lượng công đức. Nói “sanh tự kiến thủ” của mình nghóa là tất cả các pháp đều vô sanh vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh niết bàn v.v… sanh tự kiến thủ, lui mất vô lượng trí tuệ. Nếu không tu năm việc, nghe ta nói như vậy, thì phát sanh nghiệp chướng nặng nề, chê bai không tin. Theo văn kinh này, do nghe giáo lý “hữu” mà tu hành năm pháp; do tu hành năm pháp khiến sanh lòng tin Đại thừa, nếu không tu năm pháp đó thì lẽ chê bai không tin. Cho nên trước cũng, phải học Tiểu thừa sau mới học Đại thừa. Cũng chính vì vậy, Chư Phật ra đời, trước nói Tiểu thừa, sau mới nói Đại thừa. Phẩm Biến Học Kinh Đại Bát-nhã quyển bốn trăm sáu mươi lăm chép: Nầy Thiện Hiện, nếu không học khắp các pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa thì sẽ không bao giờ đạt được địa vị thấy đạo của Bồ-tát. Kinh Niết-bàn chép: Ví như Trưởng giả chỉ có một đứa con, còn nhỏ chưa có công năng, nên dạy nửa chữ, phải đợi khi lớn khôn mới dạy mãn tự. Bồ-tát giới bổn chép: người thọ học giới Bồ-tát, nếu học pháp Tiểu thừa mà không học pháp Đại thừa thì phạm phi nhiễm ô, nếu học Đại thừa mà không học Tiểu thừa thì phạm Diệc nhiễm ô. Kinh Pháp Hoa, luận Đại Trí Độ, luật Tứ Phần v.v… đều nói: chúng sanh không nghe nổi pháp Đại thừa chẳng bằng yên lặng nhập Niết-bàn. Phạm vương thỉnh Phật nói pháp Tiểu thừa trước là dựa vào văn này. Do đó nên biết, muốn học pháp Đại thừa thì phải học pháp Tiểu thừa trước. Kinh nói trước học Tiểu thừa sau học Đại thừa lược có bốn ý: Pháp Đại thừa sâu mầu khó tin làm cho sinh tâm chê bai. Kinh Pháp Hoa nói, nếu chỉ khen ngợi Phật thừa, thì chúng sanh chìm trong biển khổ, vì chê bai pháp không tin, đọa vào ba đường dữ. Sanh kiến chấp đoạn diệt. Kinh Thập Luân chép: Nếu các chúng sanh chưa siêng tu tập pháp Thanh văn, Độc giác thì căn cơ còn yếu kém. Chưa thuần phục, chưa siêng tu tập lại ưa thích pháp sâu xa mầu nhiệm của Đại thừa thì thật là ngu si. Tự cho mình là thông minh, rơi vào đoạn diệt cuồng tưởng chấp vô nhân luận. Không học Tiểu thừa chỉ học Đại thừa, tự cho mình học pháp Đại thừa sanh tâm chê bai chê bai cả pháp lẫn người học Tiểu thừa, phải chịu quả báo khổ đau dữ dội. Kinh Thập Luận chép: Chúng sanh nghe được chút ít giáo pháp Đại thừa vô thường, sanh tâm chê bai giáo pháp Thanh văn, Độc giác mà Đức Phật đã hộ trì, lại tìm cách ngăn cản che lấp khiến không được lưu truyền. Lại vì danh lợi mà tuyên bố rằng, ta là Đại thừa, là Đẳng Đại thừa chỉ thích nghe tu tập, thọ trì pháp Đại thừa, không thể ưa được các pháp Thanh văn, Độc giác cũng không thể gần gũi học tập những người tu theo pháp đó. Đó là những chúng sanh dối trá tự xưng là người Đại thừa v.v… Do sự thúc đẩy của ngu si, kiêu mạn nên chê bai lăng nhục các pháp Nhị thừa khiến cho các pháp đó mất sức mạnh của nó. Lại nói, nếu có chúng sanh đối với ba thừa chỉ khinh chê một phẩm cho đến chỉ một bài tụng, thì không nên gần gũi, giao thiệp, ở chung hoặc làm việc với chúng sanh đó; nếu có người gần gũi, giao thiệp, ở chung, làm việc chung thì chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, cho đến chịu khổ dữ dội, khó có khi nào ra khỏi. Vì sao? Này người thiện nam, trong quá khứ khi tu hạnh Bồ-tát, ta siêng năng mong cầu chứng được trí Vô thượng, hoặc cầu thỉnh các pháp Thanh Văn cho đến chỉ một bài tụng mà ta xả bỏ tay chân, thân mạng máu thịt, xương da, đầu mặt tủy não, hai thứ còn lại cũng thế. Nếu lúc đầu không học giáo lý hữu, siêng năng tu tập các gốc lành v.v… thì sẽ gặp nhiều chướng ngại, không thể tin hiểu Đại thừa. Hỏi đáp làm rõ: Hỏi: Nếu vậy, vì sao các kinh Đại thừa, thường chê bai người học Tiểu thừa, ca ngợi. Tu học Đại thừa là hạnh rốt ráo Đáp: Kinh Thập Luân, có giải thích. Cho nên phải tu học cả ba thừa, không được kiêu mạn dối trá tự cho mình theo pháp Đại thừa, chê bai các pháp Thanh văn, Độc giác. Trước kia, ta chỉ là pháp khí Đại thừa, vững tâm tu tập và đã nói tu theo Đại thừa mới đạt được rốt ráo. Cho nên, xưa nay ta nói không trái ngược. Kinh Phạm Võng v.v… đều y theo giải thích này. Nếu vậy, chẳng lẽ không có chủng tánh Đại thừa, không nhờ chứa nhóm chỉ nghe Đại thừa mà tin hiểu hay sao? Đáp: Chủng tánh ba thừa, phải dựa vào gốc lành tu tập từ trước, không có pháp nào có sự phân chia khác nhau về ba thừa trong bản tánh. Kinh Ưu-bà-tắc Giới quyển một chép: Chẳng do tánh mà gọi là Bồ-tát, chúng sanh có một cõi gọi là “tâm dục”, với tâm dục như vậy, nhờ duyên lành nghiệp tốt, phát tâm Bồ-đề gọi là tánh Bồ-tát. Các văn như thế rất nhiều, chẳng phải một, hai. Lại, pháp Tiểu thừa có hai: Pháp Tiểu thừa, nói về các pháp khổ, không, vô thường, và duyên khởi v.v… của hữu giáo. Pháp tâm Tiểu thừa thuyết này: Dựa vào “hữu giáo”, chứa nhóm gốc lành mới kính tin pháp Đại thừa được, không nói phát tâm Nhị thừa trước, rồi mới học Đại thừa sau. Người không phát tâm Nhị thừa chỉ phát tâm Đại thừa, tuy học Tiểu thừa cũng không gọi là bất định mà gọi là tánh Bồ-tát. Nay sẽ hỏi ngược lại, nếu vậy, không cần gặp nhân duyên tu tập gốc lành mới kính tin Đại thừa, chỉ cần nghe nói thì sẽ phát sanh lòng tin. Trước, Phật đã độ hết, vì sao đến nay vãn có tánh nhập Niết-bàn, đọa vào ba đường dữ mà trong luận lại nói trong địa ngục vẫn thành tựu ba căn vô lậu. Hỏi: Có lập luận rằng, nếu có chủng tánh Niết-bàn, căn cơ Nhất thừa, như vậy, thì phải có dị tướng, nghóa là chủng tánh đó tự nhàm chán sanh tử, ưa thích Niết-bàn, mỏng nhẹ phiền não, không làm các việc thô ác dứt mất gốc lành v.v… dịch theo nghóa rộng thì đó là tướng của vô tánh; thuyết này là đúng hay sai? Đáp: Thuyết này sai. Hỏi: Làm sao biết sai? Đáp: Vì trái với lý, trái với giáo. Nói trái lý nghóa là từ vô thỉ đến nay, các pháp này nhàm chán sanh tử, ưa thích Niết-bàn, mỏng nhẹ phiền não, không làm việc thô ác, huân tu tập lần lần, đồng thời trước đã nhập vào Niết-bàn từ vô thỉ. Do đâu, luận Trang Nghiêm nói: Một bề làm ác, dứt mất gốc lành, nhân lành, không gọi là thời biên vô tánh, hiện nay vẫn còn? Lại, nếu có bổn tánh thì phải có ấn tướng. Dứt khắp gốc lành, một bề làm ác có gì khác với vô chủng tánh tướng để biết đó là Bồ-tát hay người Nhất thừa, lời trái với văn. Kinh Thiện Giới, luận Du-già, Địa Trì v.v… chép, tánh nhỏ nhiệm của Bồ-tát chẳng có nhân mà được, đều chấp nhận đây là bổn tánh của Bồ-tát. Trong các kinh luận chỉ có hai ấn tướng: Tướng ấn Tế tánh. Tướng có đủ hai tánh. Tế tánh ấn tướng chỉ có Phật mới biết, vì sao người phàm phu thường nói về sự khác nhau của tướng đó. Cụ nhị tánh tướng có sáu ấn tướng; tất cả chúng sanh đều biết. Hễ Tướng biết được thì chẳng phải bổn tướng, làm sao có “tướng” để biết là tướng của bổn tánh. Lại, kinh Anh Lạc chép: Vương tử Thiện Tài, v.v… từ địa vị Lục Trụ trở xuống lui mất gốc lành đọa vào địa ngục Vô gián không có điều ác nào không làm. Tướng như thế biết tướng nào là Bồ-tát. Lại, các luận Duy thức, v.v… đều nói năm mươi hai duyên sở duyên của chân như trong Du-già là bổn tánh của Bồ-tát. Luận Du-già chép: Tất cả đều có duyên sở duyên của chân như; vì đều là hữu nên chướng ngại phần tánh. Nhân đã bình đẳng sao tướng lại khác. Cho nên biết, y theo con người, nói tướng, hữu vô khác nhau, chắc chắn chẳng phải bản tánh. Nếu nói pháp nhó vô tánh hữu tướng thì rất dễ hiểu, ngoại trừ địa vị Thanh văn, còn có văn nào chứng minh điều đó. Nay, những người kính tin pháp Đại thừa đều do từ nhiều đời trước gieo trồng gốc lành. Cho nên kinh Bát-nhã chép, nếu người nào đối với kinh này, chỉ sanh một niệm tin thanh tịnh thì nên biết người đó đã gieo trồng gốc lành không chỉ đối với một, hai, ba, bốn Đức Phật mà là vô lượng ngàn muôn Đức Phật. Như trên đã nói luận này bao gồm các căn cơ dung thông năm tánh, cội gốc của tất cả muôn hạnh. Phần III: NHÂN DUYÊN GIÁO KHỞI Nội dung: Trong đó có năm: Duyên khởi tất cả giáo. Duyên khởi giáo pháp ba thừa. Duyên khởi giáo pháp không, hữu. Duyên khởi ba tạng giáo. Duyên khởi luận giáo này. Duyên khởi tất cả giáo: Tất cả Chư Phật, trong lúc tu nhân, phát nguyện đều vì cứu độ giải thoát tất cả chúng sanh, giúp cho chúng sanh mau thành Phật; các Ngài đã trải qua vô số kiếp tu hạnh Bồ-tát, chứng được quả vị Bồ-đề, các Ngài không muốn bất cứ chúng sanh nào dừng ở quả vị thấp nhỏ của trời người mà phải phát tâm cầu Đại Bồ-đề, thực hành nhiều khổ hạnh. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: Đức Phật ra đời chỉ vì một nhân duyên lớn là dùng kiến Phật để khai mở, chỉ bày giác ngộ và thể nhập cho tất cả chúng sanh. Luận Bát-nhã chép, pháp Bồ-đề rộng lớn gồm có bốn tâm: Quảng đại, thứ nhất, thường, tâm ấy không điên đảo. Quảng đại, thứ nhất là muốn chúng sanh đạt được Niết-bàn Vô dư khác với Niết-bàn Tiểu thừa. Tất cả kinh Đại thừa, ý đều giống nhau. Luận Trí Độ chép: Có pháp ba thừa, có pháp nhân thừa, có pháp thiên thừa. Pháp Bồ-tát nhằm dắt dẫn chúng sanh vào Đại thừa, không trụ vào đại đạo, không dính mắc Nhị thừa, không dừng nghỉ trong Niết-bàn, không say mê trong phước vui trời, người, làm nhân cho Niết-bàn rốt ráo. Ý này, kinh Bát-nhã và kinh Pháp Hoa giống nhau. Theo các kinh luận được dẫn ở trên, tất cả Bồ-tát thực hành hạnh Bồ-tát nói về ba học, ba thừa, ba tạng đều là Phật thừa cả. Duyên khởi giáo pháp ba thừa: Trong đây có hai: Một là chánh, hai là gồm. Chánh nghóa là đối với người cầu pháp Thanh văn thừa, Phật nói pháp bốn đế, đối với người cầu pháp Duyên giác, Phật nói mười hai nhân duyên, đối với người cầu Đại thừa, Phật nói sáu pháp Ba-la-mật. Gồm nghóa là, nói pháp ba thừa chung cho người ba thừa. Các luận đều nói, người Thanh Văn thừa ở địa vị tổng niệm trụ, Biệt Niệm trụ, trong giai vị gia hạnh người Thanh văn thừa cũng tu ba nghóa, quán duyên khởi, bảy xứ thiện, bốn mươi bốn trí, bảy mươi bảy trí v.v… cho nên, phẩm Biến Học trong Đại Bát-nhã nói: Từ địa vị thấy đạo của ba thừa trở xuống đều phải học khắp, cho nên biết, bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu Ba-la-mật, đều là thuyết của ba thừa. Duyên khởi giáo không, hữu: Nói hữu giáo là nói cho các căn cơ chưa gieo trồng gốc lành, chưa dứt hết chướng ngại, chưa thành tựu nối tiếp, chưa tu tập nhiều pháp thắng giải, chưa chứa nhóm hai thứ tư lương: Phước đức và trí tuệ. Nói các pháp có tánh, có sanh, có diệt là các pháp không an ổn v.v…, khuyên gieo trồng gốc lành cho đến chứa nhóm hai thứ tư lương phước đức và trí tuệ. Đối với các căn cơ đã gieo trồng gốc lành đã chứa nhóm hai thứ tư lương, thì Đức Phật dựa vào ba vô tánh nói: Tất cả pháp đều không có tự tánh, đó là tướng của tánh vô tự tánh, tánh sanh vô tự tánh, thắng tánh nghóa vô tự tánh. Lại dựa vào tướng của tánh vô tự tánh, thắng nghóa tánh vô tự tánh nói rằng: Tất cả các pháp không sanh không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn. Lại vì người phát tâm hướng về Thanh văn thừa, Đức Phật nói pháp bốn đế, tức là giáo lý “Hữu” là nói cho Thanh văn. Vì người phát nguyện tu pháp hướng về pháp Đại thừa, mà Phật mới nói tất cả các pháp đều không có tự tánh, không sanh, không diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn. Đây chính là vì những người tu theo Đại thừa mà Đức Phật nói về giáo lý “không ”. Đó là y theo mặt hiển tướng : Lý thật, nói “hữu” có cả ba thừa, nói “không” cũng có cả ba thừa. Ba thừa định tánh khi nghe Bát-nhã đều chứng được địa vị vô lậu của thừa mình. Duyên khởi ba tạng giáo: Nói tạng Tố-đát-lãm, dựa vào các dòng như lực v.v… Vì các chúng sanh đã được tâm, học tăng thương mà luận đạo. Vì các chúng sanh mà nói lẫn lộn nhiều thứ. Khiến các chúng sanh gieo trồng gốc lành. Vì các chúng sanh chưa vào chánh pháp, khiến họ được vào chánh pháp. Nói tạng Tỳ-nại-da dựa vào các dòng như v.v… Vì chúng sanh có được giới, học tăng thượng mà luận đạo. Vì chúng sanh mà nói các học xứ. Vì Các chúng sanh đã gieo trồng gốc lành, khiến được nối tiếp thành tựu. Vì chúng sanh vào chánh pháp, khiến được nhận lãnh, thọ trì giới luật. Nói tạng A-tỳ-đạt-ma dựa vào các dòng như “vô úy v.v…”: Nương vào tuệ học tăng thượng mà luận đạo. Phân biệt tự tướng, cộng tướng ác pháp. Vì các chúng sanh đã thành tựu, khiến được chánh giải thoát. Vì các chúng sanh đã thọ trì giới luật, khiến thông đạt tướng chân thật của các pháp. 2. Hỏi đáp làm rõ: Hỏi: Trong Tố-đát-lãm có Tỳ-nại-da, trong Tỳ-nại-da có A-tỳ- đạt-ma, trong A-tỳ-đạt-ma có Tố-đát-lãm v.v… thế thì ba tạng chẳng có gì khác nhau ư? Đáp: Bà-sa nói: Theo thế mạnh mà đặt tên. Trong kinh, luật, luận, tuy mỗi bộ đều có nói ba tạng, nhưng ở đây, dựa vào phần nhiều mà đặt tên. Từ nội dung mà đặt tên; điều này có nghóa là ba tạng không hoàn toàn chia bộ, mà tùy theo nội dung, tức là dựa vào văn để đặt tên, lập ba tạng riêng. Hỏi: Vì sao đệ tử chỉ soạn Đối pháp, không soạn kinh và luật? Đáp: Tạng kinh nói rõ theo thứ lớp, nghóa là trong Tạng kinh nên tìm theo thứ lớp. Vì sao, Đức Phật nói: Phẩm này không ngừng nói về phẩm khác v.v… đây cũng chỉ vì thứ lớp cơ nghi thời đó. Phật là giáo chủ, lúc Ngài còn tại thế, đệ tử nương vào thần lực của Ngài để nói, cũng được gọi là Kinh. Sau khi Phật diệt độ, đệ tử không thể tự soạn kinh. Nói về duyên khởi của tạng Tỳ-nại-da, nghóa là trong Tỳ-nại-da nên tìm duyên khởi. Đức Phật dựa vào duyên khởi nào mà lập ra các loại học xứ, chế ra học xứ chỉ do Phật, không do đệ tử. Đệ tử tuy cũng có những điều tự đặt ra riêng để dạy dỗ đồ chúng. Nhưng không thể gọi là Tỳ-nại-da được. Trong A-tỳ-đạt-ma nên tìm tánh tướng chân thật của các pháp, không nên tìm duyên khởi, thứ lớp, hoặc trước hoặc sau, hoặc không có thuyết duyên khởi, đều không có lỗi gì. Nhưng các, đệ tử này giải thích, về tính của các pháp vốn được Đức Phật nói rất là u uẩn nên gọi là A- tỳ-đạt-ma. Do vậy, những gì đệ tử soạn ra được gọi là luận chứ không thể gọi là Kinh hay Luật được. Nhưng lại có các, đệ tử giải thích kinh, luật, gọi là Luận, không gọi là Kinh, Luật. Đây là các đệ tử soạn luận giải thích ba tạng. 5.Duyên khởi luận này: Bồ-tát Thế Thân người nước Kiền-đà-la, lúc đầu xuất gia theo bộ phái Nhất Thiết hữu, do đó, thọ trì ba tạng của Hữu bộ. Về sau, Bồ-tát học theo Kinh bộ, lấy đó làm giáo lý; đối với giáo nghóa Hữu bộ, thấy có những điều cần giữ, lấy, cầu xả bỏ. Bồ-tát muốn đến nước Ca-thấp- di-la nghiên cứu cho tường tận về Hữu bộ để xem xét đúng sai. Sợ các vị sư sở tại sẽ ganh ghét tranh chấp, Bồ-tát thay tên đổi họ, lặng lẽ đến tìm tòi nghiên cứu. Trải qua bốn năm, Bồ-tát thông suốt văn nghóa ba tạng của Hữu bộ, thường dùng các dị nghóa của Kinh bô để bác bỏ Hữu tông giáo phái chấp hữu. Bấy giờ có vị La-hán tên là Tắc-kiền-đà (đời Đường dịch là Ngộ Nhập), chính là bổn sư của Ngài Chúng Hiền. Vị La-hán này thường bị vặn hỏi, lấy làm lạ, về sự thần dị của Ngài bèn nhập định để xem, biết đó là Thế Thân. Ngài bèn nói nói riêng với Thế Thân vì trong bộ chúng này có người chưa lìa dục sợ rằng họ sanh tâm làm hại thầy hãy mau trở về nước. Bồ-tát liền trở về, soạn ra luận này, sai người đưa đến nước Ca-thấp-di-la. Vua vua nước này và tăng chúng nghe được đều rất vui mừng, trang hoàng cờ xí lộng lẫy, ra ngoài biên giới đón rước, đặc bộ luận trên voi báu, người trước kẻ sau đi về kinh đô, sau khi đọc, tất cả đều cho rằng. Thế Thân mở mang truyền bá giáo nghóa của tông phái chúng ta; riêng La-hán Ngộ Nhập nói rằng: Luận này không chỉ mở mang truyền bá giáo nghóa Hữu bộ, vì trong các bài tụng thường để hai chữ “truyền thuyết” biểu hiện có ý không tin. Nếu không như thế thì hãy mời Bồ-tát giải thích để được rõ hơn. Quốc vương và chúng tăng cử người mang lễ vật đi thỉnh. Luận chủ nhận lời giải thích, tám ngàn bài tụng, đều được lý giải cặn kẽ và đúng như lời của La-hán Ngộ Nhập nói. 3. Luận chủ không chấp thiên lệch: Luận chủ Thế Thân ý không chấp nghiêng về tông phái, vào thời thứ nhất, soạn luận này phù hợp với thời đó. Vào thời thứ hai soạn luận Bát-nhã nói các pháp đều không, đồng với ý của thời thứ hai. Vào thời thứ ba soạn Nhiếp luận hoàn toàn phù hợp với kinh Giải Thâm Mật. Vào thời thứ tư, soạn luận Pháp Hoa nói về vô diệt của Nhị thừa, khác với ba thời trước. Dựa vào các kinh Đại thừa như Như lai Tạng Vô thượng y v.v… nói về Phật tánh. Tóm lại, trong các kinh nói: Có một phần xác quyết không có pháp Niết-bàn vì không hiểu rõ việc soạn ra luận Niết-bàn là y theo kinh Niết-bàn. Các Kinh pháp trước Hoa đều là một giáo dùng sanh tử độ chúng sanh làm thuyền. Kinh Pháp Hoa là một giáo, dùng muôn hạnh làm thuyền, kinh Niết-bàn là một giáo lấy vô sanh diệt làm thuyền. Dựa vào các thời giáo trước sau, soạn thành sáu bộ luận. Chúng ta tùy theo nghóa khác nhau của kinh không hề chấp riêng tông phái. Luận này dựa vào bốn đế, chỗ chỉ quy đồng với thuyết đầu, thật diệt của ba thừa, thức chỉ có sáu, ngoài tâm có cảnh. Dựa vào pháp luận đầu tiên mà chia làm hai mươi bộ. Luận này, phần nhiều dựa vào luận Bà-sa để soạn tụng, trong văn xuôi chỉ lấy lý hơn làm tông, chẳng nghiêng về bộ phái nào. Về trung gian, thừơng lấy Kinh Lượng bộ làm nghóa chánh. Lại, luận Chánh Lý bác bỏ luận này, gọi là Câu-xá-bào; Luận sự Chúng Hiền muốn xác định tông thú. Bồ-tát Năng nhân tránh không đối mặt. Sau đó, Chúng Hiền gởi thư xin lỗi, và gởi theo bộ Câu-xá-bao để Bồ-tát đọc và phê bình rằng. Nếu bộ luận vô lý xin cho lửa đốt cháy, nếu được lưu hành xin cùng truyền bá. Luận chủ xem xét kỹ lại thấy có lý liền đổi tên Câu-xá-bào thành Thuận Chánh Lý. Theo đó thấy rằng Bồ-tát không hề có y thiên chấp; cho nên biết trong đó lấy sự hợp lý làm chính, chẳng chắc chắn một tông nào. Phần IV: BỘ CHẤP TRƯỚC SAU 1. Nội dung: Gồm có hai: 1.Nói về phân bộ trước sau: Sau khi Phật nhập diệt khoảng một trăm năm, hội chúng tuy gồm bốn chúng nhưng tông chỉ vẫn là một. Bốn chúng là: Chúng long tượng, Chúng biên bỉ, Chúng đa văn, Chúng đại đức. Hơn một trăm năm sau, bốn chúng hội họp thảo luận về năm việc của Đại Thiên, có sự khác nhau khiến chia làm hai phái: Năm việc là: Dư sở dụ. Vô tri. Do dự. Tha linh nhập. Thanh do đạo mà khởi. Nói hai bộ là: Thượng tọa bộ. Đại chúng bộ. Trong hai trăm năm nghóa lý của Đại chúng bộ trải qua bốn lần phân hóa chia thành chín bộ: Lần đầu có ba bộ: Nhất thuyết bộ. Thuyết xuất thế bộ. Kê dận bộ. Kế là nêu ra một bộ là Đa văn bộ, kế là Thuyết giả bộ. Hai trăm năm sau trong Đại chúng bộ xuất hiện vị sư tên là Đại Thiên. Đại Thiên cùng với các sư thuộc tông phái khác bàn bạc, luận giải về năm nghóa, có sự tranh chấp nên, chia thành ba bộ: Chế Đa Sơn, Tây Sơn Trú, Bắc Sơn trú. Lưu xuất ra tám bộ, gồm với bổn tông, cộng chung là chín bộ: Đại Chúng bộ. Nhất thuyết bộ. Thuyết Xuất Thế bộ. Kê Dận bộ. Đa Văn bộ. Thuyết Giả bộ. Chế đa Sơn bộ. Tây Sơn Trú bộ. Bắc Sơn Trú bộ. Trong hơn hai trăm năm sau, giáo nghóa Thượng tọa bộ hòa hợp một vị: Cho đến khoảng đầu của đầu ba trăm năm bộ này chia làm hai: Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ cũng gọi là Thuyết Nhân bộ. Bộ. Thượng Tọa bộ giáo theo truyền thuyết còn gọi là Tuyết Sơn Tiếp theo, từ Nhất Thiết Hữu bộ sanh ra một bộ gọi là Độc Tử bộ. Độc tử bộ sanh ra bốn bộ: Pháp thượng bộ. Hiền Trụ bộ. Chánh Lượng bộ. Mật Lâm Sơn bộ. Từ thuyết Nhất Thiết Hữu bộ sanh ra Hóa Địa bộ. Hóa Địa bộ sanh ra Pháp Tạng bộ. Khoảng cuối ba trăm năm, từ thuyết Nhất thiết Hữu bộ sanh ra Ẩm Quang bộ còn gọi là Thiện Tuế bộ. Khoảng đầu bốn trăm, năm từ Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ sanh ra Kinh Lượng Bộ, tự xưng là ngã tôn ngài Khánh Hỷ làm thầy. Như vậy, Thượng tọa bộ trước sau chia ra thành mười một phái: Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ. Tuyết Sơn bộ. Độc Tử bộ. Pháp Thượng bộ. Hiền Trụ bộ. Chánh Lượng bộ. Mật Lâm Sơn bộ. Hóa Địa bộ. Pháp Tạng bộ. Ẩm Quang bộ. Kinh Lượng bộ. 2. Sự phân chia các bộ: 2.Nói về chấp nghóa khác nhau: Các bộ phái thì có gốc có ngọn, có quan điểm giống nhau, có quan điểm khác nhau, ở đây, nói lược như sau: Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê Dận bộ và bổn tông có quan điểm giống nhau: Tất cả các Đức Như lai không nói pháp hữu lậu; Lời Như lai nói đều là xoay bánh xe pháp, Phật dùng một thứ âm thanh giảng nói tất cả các pháp, tất cả những gì Thế tôn dạy đều là nghóa như thật, sắc thân Như lai là không có giới hạn, tuổi thọ của Như lai không có giới hạn, ở cõi Sắc và Vô Sắc có thân đủ sáu thức, nhục thân năm thứ sắc căn làm thể, ở địa vị đẳng dẫn có dùng ngôn ngữ, ở đệ Bát địa cũng được an trụ lâu dài. Dự lưu nghóa là có lui sụt, A-la- hán nghóa làkhông lui sụt. Không có chính kiến thế gian, không có tín căn thế gian không có pháp vô ký, khi nhập vào địa vị thấy đạo không còn phiền não, dứt trừ các kiết sử, người Dự lưu vẫn còn sai lầm trừ tội đọa vào Vô gián, kinh Phật nói đều là liễu nghóa, vô vi có chín thứ: Là Hư không, trạch diệt, phi trạch diệt, bốn Vô Sắc, duyên khởi chi tánh, Thánh đạo chi tánh, không có thân trung hữu; tùy miên và tâm không tương ứng, cho nên triền và tâm tương ứng, người Dự lưu cũng có tónh lự. Bốn bộ phái sau có quan điểm không giống nhau, trong một lúc hai tâm cùng khởi, đạo và phiền não cùng hiện tiền; nghiệp và dị thục đồng thời chuyển biến; chủng tức là mầm; sắc căn, đại chủng nghóa là chuyển biến; tâm ở khắp thân; tâm tùy theo căn, nương vào cảnh có thể co duỗi. Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ và bổn tông có quan điểm giống nhau, ở tầng trời cũng có vị tu phạm hạnh, Phật có tâm đại từ bi v.v… không duyên theo hữu tình; chấp có hữu tình thì không được giải thoát, không có tiểu pháp để truyền từ đời trước đến đời sau; ngoài ra như thường nói. Hóa Địa bộ và bổn tông có quan điểm giống nhau. Không có quá khứ, vị lai; Hiện đời vô vi là có, đối với bốn Thánh đế, một lúc hiện quán, khi thấy được khổ đế thì sẽ thấy các đế khác. Phàm phu không dứt trừ được tham sân cõi Dục, cũng không thể có các vị trời sống trong phạm hạnh; pháp vô vi có chín thứ là hư không, trạch diệt, phi trạch diệt, bất động thiện, pháp chân như, bất thiện pháp chân như, vô ký pháp chân như, tám đạo chi chân như, chín duyên khởi chân như; Phật và người Nhị thừa có đồng một đạo đồng một giải thoá. Ẩm quang bộ và bổn tông có cùng quan điểm, nếu pháp đã dứt, đã biết khắp thì là không, chưa dứt, chưa biết khắp là có. Nghiệp quả thiện ác đã chín muồi là không; quả chưa chín muồi là có. Các vị Hữu học có quả dị thục. Kinh Lượng bộ và bổn tông có chung quan điểm cho rằng: Các uẩn là có, từ đời trước chuyển qua đời sau. Ở giai vị phàm phu cũng có pháp của bậc Thánh. Chấp có thắng nghóa Bổ-đặc-già-la. Các thuyết khác cũng giống với Nhất Thiết Hữu bộ, nay rói các bộ phái và bổn tông có chung các quan điểm. Luận Tông luận chép: Nói đủ sự khác nhau. Các quan điểm khác nhau giữa các tông phái lưu xuất phần nhiều không nói, chỉ nói là vô lượng. Trong các quan điểm đồng với bổn tông, Nhất Thiết Hữu Bộ chấp có hữu tình không được giải thoát; các bộ phái khác phần nhiều chỉ giống với Hữu bộ. Trong luận của các bộ phái và bổn tông giống nhau, không nói rằng tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Luận Phật Tánh, chép: Đức Phật vì người tu theo pháp Tiểu thừa mà nói rằng: Có Chúng sanh nào không ở trong tánh thì mãi mãi không nhập Niết-bàn, đối với điều này sanh nghi, trong tâm không tin. Luận giải thích rằng: Phân biệt bộ có nói, phàm Thánh chúng sanh đều từ “không” mà hiện khởi nên lấy “không” làm tánh Phật. Nếu luận Tỳ-đàm, Tát-bà- đa, v.v… thì tất cả các chúng sanh từ vô tánh mà chứng được Phật tánh, chỉ có tu mới chứng được tánh Phật, chia chúng sanh thành ba thứ: Chắc chắn không có Phật tánh, mãi mãi không chứng được Niết-bàn. Không chắc chắn là hữu hay vô, nếu tu thì chứng, không tu thì không chứng. Chắc chắn có Phật tánh, tức là bậc Thánh trong ba thừa. Theo Luận Tông Luân thì trong tông phái gốc (bổn tông) không có Phân biệt bộ, cũng không chấp có Phật tánh. Ở đây, nói về ý nghóa và tôn chỉ. Phân biệt bộ là những quan điểm thuộc phái mới được lưu xuất; lập ra Phật tánh là thuộc dị nghóa của mạt tông. Trong Phân biệt bộ, không đọc tụng các kinh Hữu bộ trích dẫn, không hoàn toàn tin tưởng lại còn sanh tâm nghi ngờ. Nhất Thiết Hữu bộ đều chấp nhận các kinh A-hàm v.v… Dựa vào tánh lực Như lai biết các cõi, thành lập vô tánh. Phân biệt thuyết bộ lại dùng bốn nghóa để tìm Phật tánh. Hữu bộ dùng năm nghóa để bác bỏ lần nữa: Các cõi đều có thể chứng được. Chúng sanh vô căn không thể chứng được. Thí dụ đồng loại là không thể được, lấy hữu tình làm đồng loại. Thí dụ khác loại thì khác nhau, lấy vô tình làm dị hoại. Hiện tại không có pháp Niết-bàn là không hợp lý. Phân biệt bộ chép: Dựa vào các tông phái Tiểu thừa, thành lập Phật tánh là trái với khế kinh; trong giáo lý Tiểu thừa không nói điều đó. Kinh Niết-bàn chép: Trong chín bộ kinh, không có kinh Phương Đẳng cho nên không nói có tính Phật. Lại nói, trong các văn kinh Thanh văn, Duyên giác ta chưa nói. Nhất xiển đề v.v… đều có tính Phật. Do đó, Bồ-tát Từ Thị đối với địa vị Thanh văn, nêu lên quan điểm Hữu bộ đã phá thuyết của Phân Biệt bộ cho rằng trái với kinh. Bồ-tát Thế Thân y theo kinh Phương Đẳng soạn luận Phật Tánh; phá kiến chấp Tiểu thừa, chỉ phá kiến chấp của Hữu bộ v.v… còn đối với Đại thừa thì thuận theo. Người đời sau đọc Du già từ địa Thanh Văn mà phá trừ hữu tánh. Kinh Niết-bàn chép: Tất cả chúng sanh đều có tính Phật là bất liễu nghóa. Luận Phật Tánh rất lầm lẫn giả dối, không biết Du-già đối với năm thức tương ưng địa, sau Bồ-tát địa, có lập ra rằng: Tất cả chúng sanh đều có nhân Phật tức là các thứ duyên sở duyên của chân như. Chúng sanh đều có như nhau. Lại cùng khác với nghóa không Thứ nhất của Niết-bàn, Phật tánh, hạt giống trong Vô thượng Bồ- đề của tất cả Chư Phật , không có khác nhau. Lại, nghóa không Thứ nhất của Niết-bàn, Phật tánh cũng chẳng phải không, chẳng phải bất không, có thể làm hạt giống cho pháp lành, hoàn toàn không có gì khác nhau. ---------------------------------- <詞>Phẩm 1: PHÂN BIỆT GIỚI (Phần 1) văn: Giải thích theo văn: Dưới đây là thứ năm, là giải thích theo Lại chia làm ba: Giải thích tên phẩm. Nói về thứ lớp. Giải thích theo văn. Giải thích tên phẩm: Cõi nghóa là tánh, nghóa là tộc, nghóa là trì nghóa là biệt, là loại, là phần, gọi là phẩm, phẩm này có nhiều môn phân biệt giới, nên gọi là phẩm Phân Biệt Giới. Sở dó phân biệt nhiều về giới vì, uẩn chỉ có hữu vi, xứ có cả căn cảnh; giới thì có đủ căn, cảnh và thức. Nếu nương đủ loại uẩn, xứ, giới, giải thích hữu kiến v.v… thì văn cú quá nhiều. Nếu từ uẩn xứ, giải thích rồi suy ra giới, thì ý nghóa mập mờ khó hiểu. Nếu từ giới giải thích rồi ra uẩn xứ, thì nghóa lý rõ ràng dễ hiễu. Cho nên y theo giới để phân biệt hữu kiến. “Đệ” nghóa là ở, “nhất” nghóa là một, là đầu tiên. Phẩm này được xếp vào trước trên nên gọi là phẩm thứ nhất. Nói về thứ lớp: Toàn luận này gồm có chín phẩm, tám phẩm đầu nói nghóa lý tông chỉ, giải thích sáu trăm bài tụng gốc nên nói trước. Một phẩm sau cùng, được thêm vào khi soạn giải thích, nhằm đả phá kiến chấp của ngoại đạo, cho nên nói sau: Trong tám phẩm đó. a/ Hai phẩm đầu giải thích có cả hữu lậu, vô lậu, cho nên nói trước. b/ Sáu phẩm sau giải thích riêng về lậu, vô lậu. Riêng nên nói sau. Trong hai phẩm đầu: Phẩm Giới nói về “thể” của các pháp. Cho nên nói trước, phẩm Căn nói về “Dụng” của các pháp, cho nên nói sau. Thể là gốc nên luận Chính Lý gọi phẩm này là phẩm Bổn Sự. Luận Đối pháp giải thích về uẩn xứ giới, gọi là phần Bổn sự. Căn là sự khác nhau của pháp-thắng-dụng. Cho nên luận Chánh Lý gọi là phẩm Sai khác. Trong sáu phẩm sau, ba phẩm đầu nói về nhân quả hữu lậu. Ba phẩm sau nói về nhân quả vô lậu, trước nhàm chán, sau lại ưa thích do đó trước nói về hữu lậu. Trong ba phẩm hữu lậu, phẩm Thế Gian là quả, nên nói trước. Phẩm Nghiệp, phẩm Tùy Miên là nhân, nên nói sau. “Nghiệp” là nhân cận hữu sai khác, nên nói trước, “Tùy miên” là nhân viễn vô sai khác, nên nói sau. “Hoặc” là nhân của nghiệp, nên giải thích sau cùng. Nhàm chán quả, cắt đứt nhân trước, nhân sau. Quả của hoặc là Khổ đế, Nhân của hoặc là Tập. Ở đây chỉ nêu chung, chẳng đi sâu vào tánh. Hữu bộ cho rằng: Khổ, tập chỉ là một. Ba phẩm: Vô lậu, Hiền Thánh là Quả, cho nên nói trước. Như hữu tình thế gian trong hữu lậu , bậc Thánh không có khí thế gian riêng nên chỉ nói về người. Khác nhau với hữu lậu gồm nên cả khí quả. Hai phẩm Trí, Định là nhân, cho nên nói sau, lại, Định là nhân, Trí là quả; cho nên trước nói về Trí. Ba phẩm này đều thuộc đạo đế, diệt đế văn cú đơn giản, được giải thích trong phẩm này. Hoặc ở cuối phẩm tùy miền giải thích về dứt, tức là diệt đế. Trên đây, nói hữu lậu, và vô lậu đều nói theo chánh thích và phần nhiều. Văn giải nghóa nên không tránh khỏi lẫn lộn. Giải thích theo văn : Luận này gồm có sáu trăm lẻ bảy bài tụng được chia làm ba: Ba bài tụng đầu giải thích lời tựa, sáu trăm bài kế tiếp là những bài tụng gốc, đó là phần chính. Bốn bài sau cùng và phẩm phá ngã, là giải thích phần lưu thông. Đầu ba sau bốn, do người giải thích thêm vào, không phải à tụng gốc. Nhưng, các luận chẳng giống nhau, có luận chỉ có phần lưu thông mà không có phần tựa, như luận Duy Thức Nhị Thập, có luận chỉ có phần tựa, không có phần lưu thông, như luận Bà-sa, có luận có cả hai phần, như luận Câu-xá, có luận không có phần nào như luận Phát Trí. Trong ba bài tụng đầu chia làm hai: Bài tụng thứ nhất nói về tựa qui kỉnh. Hai bài kế nói về tựa phát khởi. Bài tựa qui kính chia làm hai: Phần đầu là bài tụng. Phần sau là giải thích. Trong nhómng có ba: Hai câu đầu khen ngợi đức-sở-kỉnh, một câu kế tiếp bày tỏ sự kính lễ. Câu cuối cùng nói về ý nghóa tựa qui kỉnh. Trong hai câu đầu, chữ thứ nhất “chư” là biểu đạt “người” do đức mà thành. Mười ba chữ còn lại nói về “đức” do người mà thành (nhân sở thành đức). Trong mười ba chữ đó, sáu chữ câu trước là nói về đức trí, đức đoạn. Bảy chữ câu sau nói về đức ân . Lại, trong sáu chữ thì ba chữ đầu nói về đức trí , ba câu sau dễ hiểu, xem giải thích ở văn xuôi. Dẫn luận chứng minh: Luận chép: Cho đến cúi mình kính lễ”, là văn xuôi giải thích, văn có hai: Giải thích ý qui kỉnh. Theo văn giải thích riêng. Đây là dứt văn giải thích ý qui kỉnh. Cho nên luận Chánh Lý chép: Các vị, muốn soạn luận phải có tông thừa. Do đó, đối với vị thầy mà mình tôn thờ đương nhiên trước phải qui kính. Cho đến khiến chúng sanh phát khởi lòng tin thanh tịnh, muốn lưu truyền giáo lý do Phật lập ra, cho nên trước phải khen ngợi, kính lễ Phật Bạc-già-phạm. Luận Hiểu Tông chép: Dùng lời lẽ khen ngợi kính lễ Phật thì dứt trừ được các ác chướng, đồng thời nêu lên điềm lành. Luận Câu-xá chép: Khi soạn luận, muốn làm nổi bật bản chất cao quí, vượt hẳn các bậc Thánh khác, cho nên trước phải khen ngợi đức rồi mới bày tỏ sự kính lễ. Mỗi có Phật bảo: Cả ba luận trên giải thích bài tụng này, chỉ nói qui y Phật, không nói qui y Pháp, Tăng. Có người nói, trong số người được giáo hóa cứu độ cũng có tăng rồi, nghóa là bao gồm cả Pháp và Tăng. Nói vậy là không đúng, vì Tăng tuy cũng là một đối tượng được Phật giáo hóa nhưng đâu có văn nào chứng minh rằng: Luận chủ qui lễ Tăng. Nay giải thích Ba luận nói về ý nghóa của việc khen ngợi kính lễ, có ba ý: Giáo pháp vốn do Phật nói, nay muốn truyền bá thì phải khen ngợi kính lễ, để khiến mình người phát sanh tâm kính trọng và niềm tin chắc thật. Trước khen ngợi Thế tôn có ba đức là muốn nói vị Giáo chủ của mình có bản chất cao quí, hơn hẳn các bậc Thánh khác, để chứng minh rằng những lời Ngài dạy là chân thật không luống dối. Khen ngợi kính lễ Phật để nêu lên điềm lành, cầu sức hộ niệm của Ngài để được tiêu trừ nghiệp chướng, xa lìa ma nạn. Ác chướng có ba: Sư chướng, Đệ tử chướng và Luận chướng. Nếu Sư có chướng thì không được soạn thuật. Nếu gặp Đệ tử có chướng thì không thể lãnh thọ, hành trì. Nếu Luận có chướng thì chẳng khác nào nước khô, lửa tắt v.v… Lại, vì lìa các nạn này nên trước khen ngợi, kính lễ, trong các luận không giống nhau. Chẳng hạn, luận A-tỳ-đàm chỉ có qui kỉnh, không có phát khởi. Luận Tạp tâm có phát khởi, không có qui kỉnh. Luận Câu-xá có cả hai phần. Luận Phát Trí không có phần nào. Trong phần qui kỉnh, hoặc chỉ qui y Phật, hoặc qui y cả Pháp và Tăng đều là ý riêng của từng Luận chủ, không thể xét tìm lý do. Nếu đề cập thì rất phức tạp. Theo văn giải thích riêng: Luận chép: “Sở biểu của lời nói là Phật Thế tôn”. Đây là thứ hai, theo văn giải thích riêng, gồm có năm: Nói về người sở y của đức. Nói về đức tự lợi. Nói về đức lợi tha. Nói về sự kính lễ. Nói về ý nghóa qui kỉnh. Văn này là đầu tiên. Sở biểu của các lời nói là Phật Thế tôn. Như kinh Pháp Hoa chép: Những người cầu ba thừa nếu có nghi ngờ hối hận”. Chữ “Chư” là hình thức biểu đạt của ngôn ngữ, chỉ cho người Ba thừa. Giải thích chữ chư: Nay, luận này chép: “Các nhất thiết chủng, các minh diệt “chữ” “chư” là hình thức biểu đạt của ngôn ngữ, chỉ cho người có đủ ba đức. Thế thì với “Chư” là chỉ cho Phật, chẳng phải chỉ cho người khác không có ba đức. Các vị tôn đức xưa truyền rằng: Ở Tây Vực, có giải thích rằng: Đầu tiên, chữ “Chư” là nói không có bè phái, dùng đức mà cảm hóa người, người có đủ ba đức, ta nên qui kỉnh. Nhưng các ngoại đạo cũng nói: Thầy họ là bậc Nhất thiết trí. Vì vậy, nếu qui kỉnh Đức Thích-ca Mâu-ni, e rằng họ sinh tâm chê bai. Để tránh tình trạng đó, Luận chủ đã dùng chữ “Chư”. Nhưng, chính điều này lại làm nảy sinh một luận thuyết khác. Ngoại đạo cũng nói thầy họ có đủ ba đức và trí Nhất thiết; do vậy, chữ “Chư” cũng không tránh khỏi sự chê bai rằng: Bồ-tát Thế Thân tôn thờ qui y ngoại đạo. Lại, do ngại rằng để giáo hóa các chúng sanh căn cơ thấp kém, đưa vào chánh pháp, Phật đều quyền hiện làm thầy, nên dùng chữ “Chư”. Chữ “Chư” bắt nguồn từ Luận Sư Mẫu Nhi, ở Tây Vực, mỗi khi soạn luận đều dùng chữ “Chư”. Luận chủ Thế Thân cho là hợp lý nên cũng dùng nó. Nếu không như thế thì, khi Phật quyền hiện hình tướng chúng sanh trong năm đường mà lại còn nói qui y Phật, thì sẽ khó lòng nhiếp hóa. Lại, Đức Phật quyền hiện làm thân ngoại đạo thì chúng sanh phải qui y ngoại đạo, ngài quyền hiện thân trong năm đường thì bao gồm cả ngạ quỉ, súc sanh, cho nên dùng chữ “Chư” là dung thông tất cả. Luận này tự giải thích, nói “Chư” là chỉ cho Phật Thế tôn. Lại nói nay muốn soạn luận để nói lên bản chất cao quí, của thầy mình vượt hơn các bậc Thánh khác. Về ý nghóa chữ “Chư”, các luận Chánh Lý, Hiển Tông và luận này nói giống nhau, nghóa là dùng chữ “Chư” với nghóa không bè phái. Chữ “Chư” trong luận này là chỉ cho tất cả các Đức Phật; là bậc có y đủ ba đức nên đều phải qui kỉnh. Nói về chư minh diệt: Luận: “Các vị này có công năng xua tan đen tối nên gọi là minh diệt”. Đây là thứ hai nói về đức tự lợi, trong văn có hai: Phần đầu là nói đức thuộc người, kế là đức do người thành. Do Chữ Thử ở đầu đoạn văn, là Phật sở biểu của chữ chư này có công năng xua tan các tối gọi là minh diệt. Do, Phật Thế tôn phá trừ hai thứ tối vô minh nên gọi là Minh diệt. Luận chép: “Nói tất cả chủng chư minh diệt” là kế nói đức do người thành, trong đó có hai ý: Ý đầu nói đức ở trong bài tụng, kế là y ttheo bài tụng mà giải thích riêng, đây là đầu văn. Luận chép: “Là diệt các cảnh tất cả phẩm minh”: Kế là nương vào bài tụng giải thích riêng, trong văn có ba: Giải thích bốn chữ “tất cả chủng chư”. Giải thích chữ “Minh”. Giải thích chữ “Diệt” là chữ thử đầu tiên của đoạn văn. “Là diệt các cảnh”, câu này giải thích chữ “Chư” trong bài tụng. Vì nhiễm ô vô tri nên không hiểu biết đúng về tự tướng, cộng tướng của năm môn cảnh, không phải chỉ có một, nên gọi là “Chư”. “Tâm Nhiễm” không duyên với hai thứ vô vi nên không gọi là tất cả, không duyên với vị, thế, thục v.v… của các cảnh nên không gọi là “Chủng”. “Tất cả phẩm minh” tức bất nhiễm vô tri. Câu này giải thích ba chữ “tất cả chủng”. Chủng là chủng loại, là tên khác của chữ “Phẩm”. Do đó, dùng tên phẩm để giải thích chữ “Chủng”. Bất nhiễm vô tri duyên với tất cả các phẩm loại nên nói là tất cả. Với vị, thục, thế v.v… của các cảnh, phẩm loại của nó rất nhiều không thể hiểu được nên không gọi là các cảnh khác nhau. Tuy nói “Chư” nhưng tất cả phẩm loại khác nhau đều ở trong sự tương quan, chứ chẳng phải ở trong tự thể. Tuy tất cả các phẩm loại có thể nói ở tự thể không nói về sở mê, dùng phẩm loại của các sở mê dễ nói. Có người giải thích nhiều về điểm này nhưng chưa đạt được ý sợ rườm rà nên không nói, ai muốn đọc thì tự tìm lấy. Hai thứ “diệt” tên gọi giống mà ý nghóa lại khác. Nhiễm ô vô tri tuy có cả hai thứ diệt nhưng luận này xếp vào Trạch diệt. Bất nhiễm ô vô tri cũng có cả hai thứ “diệt”, nhưng luận này xếp vào phi trạch diệt. Nói về hai đời: Hai thứ diệt này, đối với hai đức trí và đoạn, mỗi loại thuộc về một đức. Như hai đức tự lợi, và lợi tha hợp thành tự lợi, Nếu nói theo tâm thì thuộc về ân đức, vì muốn lợi người nên muốn tìm cầu quả Phật, dứt trừ hai minh. Nếu nói theo sự thành tựu thì trước là tự lợi sau mới lợi tha, y theo sự thành tựu để giải thích, trong đây theo ý của luận thì trước nêu hai đức tự lợi, lợi tha; trí đức, đức dứt. Văn tụng và văn xuôi trước sau hơi khác. Trí đức không đi chung với hữu vi, đức dứt đi chung với vô vi. Trong tương quan có mạnh có yếu nên có trước sau. Thật sự không có thứ lớp trước sau như vậy. Dò thuận tiện mạch văn nên không giống nhau. Luận: “Cùng các vô tri v.v… cho nên nói là minh” là giải thích chữ “Minh”. Hai thứ vô tri này che khuất ý nghóa thật sự của tự tướng, cộng tướng của các cảnh và che khuất ý nghóa thật sự của tất cả các thứ như vị, thế, thục v.v… lại làm trở ngại sự thấy biết đúng như tự tướng, cộng tướng của các cảnh, về tất cả các loại vị, thế, thục v.v… nên nói là “Minh”. Như bóng tối che khuất ý nghóa thật của “người, ghế v.v…” lại làm trở ngại sự thấy biết chân thật về “cái ghế” nên nói là bóng tối. Có người nói: Nhiễm ô vô tri che khuất ý nghóa chân thật của hai thứ sự và lý. Bất nhiễm ô vô tri làm trở ngại sự thấy biết chân thật về hai mặt sự và lý. Bác bỏ rằng: Hai thứ vô tri này đều là “minh” làm sao chứng minh để biết một loại thì che khuất ý nghóa chân thật, một loại thì làm trở ngại sự thấy biết chân thật. Còn, nếu cho là như vậy thì, vì sao luận lại không nói, cứ như thứ lớp che khuất thật nghóa, ngăn trở chân kiến. Lại, người nhị thừa chẳng lẽ không bị chướng chân kiến hay sao, lại luận cũng nên nói như thứ lớp. Lại chép: Che lấp thật nghóa là che lấp cảnh bên ngoài, chướng chân kiến là chướng nội tâm, che và chướng đều nghóa là minh, có ở cả hai thứ vô tri. Bác bỏ rằng, nói che lấp, ngăn trở chung cho hai thứ vô tri tuy không trái lý nhưng đối với cảnh cần gì dùng ngoài để phân biệt trong, bên trong mà không hiểu rõ há chẳng phải là minh sao. Nói rằng: Ngăn trở nội tâm, ý nghóa khó hiểu: là ngăn trở các duyên bên trong của tâm, làm ngăn trở các duyên bên ngoài hay ngăn trở các duyên trong ngoài của tâm? Cả ba đều có lỗi. Nếu nói rằng: Ngăn trở các duyên bên trong của tâm thì các duyên bên ngoài vì sao lại không bị ngăn trở, nếu nói rằng: Ngăn trở các duyên bên ngoài thì vì sao các duyên bên trong lại không bị ngăn trở. Nếu nói rằng: Ngăn trở cả duyên bên ngoài lẫn duyên bên trong thì vì sao cảnh chỉ che khuất bên ngoài mà trong tâm lại bị ngăn trở. Thật nghóa của cảnh đâu chỉ có sáu cảnh. Và vì vậy dầu có nghiên cứu tìm tòi thì cũng chỉ là “trong lời nói có mê”. Giải thích chữ Diệt: Luận chép: “Chỉ có Phật Thế tôn cho đến nên gọi là diệt”: đây là thứ ba, giải thích riêng chữ “Diệt”. Lại chia làm hai: Chánh giải thích và Ngăn các bậc Thánh khác. Chánh giải thích: Thế tôn chỉ cho Phật, bậc đối với hai thứ vô tri, chứng được pháp bất sanh, hiểu rõ pháp sở chứng. Nói “bất sanh” gồm có hai thứ: Vô tri bất sanh và trạch diệt, phi trạch diệt bất sanh. Luận nói rằng: “Chứng” nghóa là hai vô vi, đối với nhiễm ô vô tri, chứng được trạch diệt, đức dứt tròn đầy, bất nhiễm ô vô tri chứng được phi trạch diệt. Vô tri bất sanh thì trí không còn vị chướng ngại. Luận Chánh Lý chép: Các cảnh giới minh cũng dứt trừ hẳn thì đức dứt tròn đầy, tất cả chủng minh được dứt trừ hẳn thì trí đức tròn đầy. Theo văn trên, dứt trừ nhiễm ô vô tri, chứng trạch diệt gọi là đức dứt. Bất nhiễm ô vô tri dứt hẳn, bất sanh, chứng được trí đức tức là trí Nhất thiết của Phật. Luận chép: “Thanh văn Độc giác cho đến chẳng phải nhất thiết chủng”: Là thứ hai, ngăn các bậc Thánh khác. Thanh văn, Độc giác tuy dứt trừ các minh, nhưng chưa dứt hết nhiễm ô vô tri. Lân dụ cho Độc giác, bất động La-hán đạt đến địa vị không lui sụt, nên dứt hẳn nhiễm ô vô tri, đồng dứt với Phật. Chẳng phải Nhất thiết chủng bất nhiễm ô vô tri vẫn chưa dứt trừ, khác nhau với Phật. Luận chép: Vì sao? Là hỏi là những bậc câu giải thoát là người căn tánh lanh lợi, đều đã dứt trừ hai chướng về “giới” và “định”, vì sao nói chẳng phải là bậc Nhất thiết chủng trí? Luận chép: “Do Phật pháp cho đến do chưa dứt: Là đáp. Nói “Phật pháp” có hai nghóa: Pháp Công đức. Phật giáo pháp. Đối với pháp công đức chưa dứt hết hai chướng nên không thể chứng được. Đối với Phật giáo pháp vô tri còn che lấp nên không thể chứng giải thoát. “Thời gian cực xa” là thời gian ngoài tám muôn kiếp trước và sau. “Nơi chốn cực xa” là không gian ngoài cõi Tam Thiên. Túc trụ thông của Nhị thừa không thể quán biết trước tám muôn kiếp. Tử sanh trí thông không thể quán biết sau tám muôn kiếp. Thiên nhãn, thiên nhó, thần cảnh trí thông không thể thấy nghe đến ngoài cõi Tam Thiên. “Các nghóa loại”: là các thứ nghóa loại như thục, thế v.v… “Bất nhiễm vô tri vẫn chưa dứt” nghóa là, đối với Phật pháp ở nơi chốn, thời gian cực xa v.v… bất nhiễm vô tri vẫn còn sanh khởi. Trên đây, chỉ nói lên: Phật là người có đủ ba đức. Hỏi: Theo luận Chánh Lý, dứt trừ nhiễm ô vô tri thì chứng đắc trọn vẹn đức dứt. Bất nhiễm ô vô tri thì chứng đắc trọn vẹn trí đức. Vì sao, luận này quyển hai mươi bảy chép: Đức dứt tròn đầy có bốn thứ: Dứt tất cả phiền não. Dứt tất cả định chướng. Dứt rốt ráo. Dứt tập khí. Theo luận này, định chướng và tập khí chẳng phải là trạch diệt, thế thì vì sao đức dứt chỉ thuộc trạch diệt. Đáp: Điều này cũng không trái. Trước nói: Đức dứt tròn đầy lấy trạch diệt làm thể, nhị thừa tuy có đức dứt nhưng chưa tròn đầy. Phật có hai đức, dần dần tròn đầy, nên mới được gọi là “diệt viên”. Như chín biết khắp trong địa vị phàm phu, tuy dứt trừ phiền não phẩm hạ của địa thứ tám, dứt trừ song nhân nhưng không chứng được vô lậu nên chưa ở vào tầng trời Vô Đảnh. Trong địa vị năm tâm của thấy đạo, tuy chứng được vô lậu, nhưng chưa dứt trừ song nhân, chưa lìa bỏ câu hệ, nghóa “dứt” chưa trọn vẹn nên không gọi là biết khắp. Đức dứt cũng vậy. Nhị thừa tuy dứt phiền não, chứng trạch diệt vẫn chưa trừ hết tập khí và các chướng ngại đối với “định” nên không gọi là tròn đầy. Như lai đầy đủ bốn nghóa của Đoạn nên gọi là “Viên”. Chẳng phải vô ký diệt là thể của đức dứt. Cũng như Chánh Biến Tri tuy dựa vào bốn duyên mà gọi là biết khắp nhưng, bốn duyên không phải là thể của biết khắp. Cũng như, từ nghóa của “vô sư” mà có trí tuệ tròn đầy nhưng vô sư không phải thể của trí tuệ. Tuy có người nêu ra ba giải thích nhưng đều không hợp lý: Đức dứt lấy cường trạch diệt làm thể, hoặc y theo đó mà gồm cả phi trạch diệt thì cũng không trái nhau. Nếu không phải vậy lại không có văn nào đồng ý rằng vô ký diệt là thể của đức dứt cho nên vô ký mà không phải đức là không hợp lý. Đức dứt chỉ lấy trạch diệt làm thể nhưng vẫn còn các chướng ngại đối với “định” cho nên trạch diệt không hiện bày. Định chướng nếu không có trạch diệt thì sẽ hiện ra và năng hiện bị mất đi. Gọi là dứt viên đức thì có hai lỗi: Chẳng dứt cũng gọi là đức dứt, sở hiển là dứt. Năng hiển chẳng phải dứt. Như chín biến tri có công năng biện bày “phi biến tri” Vô ký diệt hiển bày trạch diệt, gọi là đức dứt. Đức dứt này và đức dứt ở trước chung với vô ký diệt, có gì khác nhau. Giải thích này tuy có phần đúng nhưng không hết lý. Giải thích rằng: Bốn tụng văn nghóa dứt trên đều chung với trạch diệt. Như phiền não đoạn là tự tánh dứt, duyên buộc dứt. Tự tánh dứt, tịnh tập dứt là duyên buộc dứt. Tất cánh đoạn là có cả tự tánh dứt và duyên buộc dứt. Nếu không như thế thì Phật có gì khác với các vị bất thối câu giải thoát. Cũng đầy đủ cả bốn thứ đức dứt, cũng đều dứt trừ định chướng, tập khí, duyên buộc, cũng dứt trừ tất cánh, tự tánh và duyên buộc thì có gì khác với Phật. Nói về hai thứ vô tri: Hỏi: Thế tôn thật sự dứt trừ tất cả các phiền não, tập khí, vì sao chỉ nói diệt hết hai thứ vô tri? Đáp: Nêu hai thứ vô tri đã bao gồm tất cả. Vô tri đi chung với tất cả phiền não tập khí. Vô tri chính là gốc của phiền não tập khí. Không dứt được vô tri là do các thứ phiền não tập khí. Cho nên chỉ nói dứt trừ vô tri. Hỏi: Hai thứ vô tri này lấy gì làm thể? Đáp: Nhiễm ô vô tri, vô minh làm thể, bất nhiễm ô vô tri, trí tuệ yếu kém làm thể. Nay giải thích bất nhiễm ô vô tri, chia làm tám phần: Dẫn văn nêu ra thể. Giải thích chung người ngoài hỏi. Đối vọng chung văn. Phá nêu thuyết khác. Nói về thông cuộc. Đối nhiễm nói về sự khác nhau. Nói về sự sai khác. Nói về dứt phần vị. Dẫn văn nêu thể: Luận Bà-sa, quyển chín nói hữu có năm thứ: Danh hữu, như lông rùa, sừng thỏ hoa đốm, thần bếp v.v… Thật hữu, là các pháp ở trong tự tánh của nó. Giả hữu, à bình bát, áo quần, quân lính, núi rừng v.v… Hòa hiệp hữu, là các uẩn hòa hợp sanh ra Bổ-đặc-già-la. Tương đối hữu, đó là các thứ dài, ngắn, bờ này, bờ kia v.v… Hỏi: Nếu không có “hữu kiến” thì thuộc về kiến nào trong năm kiến, và dứt trừ cái gì? Đáp: Đây chẳng phải “kiến” mà là “tà trí”. Hỏi: Tà trí này là gì? Đáp: Đây là tướng trí tà hạnh có tính chất vô phú vô ký, ở trong tu thì dứt ở cõi Dục. Như “cái ghế” mà nghó là “người”. “Người” mà nghó là “cái ghế”. “Phi đạo” mà nghó là “đạo”. Đối với “đạo” mà nghó là “phi đạo” v.v… Hỏi: Nếu vậy thì như trong trí uẩn nói, phải giải thích thế nào? Như nói, thế nào là tà trí. Đó là tuệ nhiễm ô. Nói về tà trí: Đáp: Tà trí có hai: (1) Nhiễm ô; (2) Bất nhiễm ô. Nhiễm ô tương ưng với vô minh. Bất nhiễm ô không tương ưng với vô minh. Như “cái ghế” mà nghó là “người” v.v… Với nhiễm ô, Thanh văn, Độc giác đều có công năng dứt trừ khiến nó không thể hiện hành. Với bất nhiễm ô, Thanh văn, Độc giác tuy có công năng dứt trừ nhưng nó vẫn còn hiện hành, chỉ đối với Như lai nó mới không bao giờ sanh khởi nữa khiến phiền não tập khí dứt hẳn. Do đó, chỉ có Như lai mới gọi là Chánh Đẳng Giác. Nhiễm ô tà trí do thắng nghóa, nên gọi là tà trí, bất nhiễm ô do nghóa thế tục nên gọi là tà trí chứ chẳng phải thắng nghóa. Phiền não, tà pháp chẳng tương ưng. Lại, như trong Trí Uẩn nói: Tà trí là nói theo thắng nghóa, nay, nói theo nghóa thế tục nên chẳng có gì trái nhau. Theo trên, hai thứ tà trí dung nhiếp tất cả tà trí thế tục, tà trí là phiền não tập khí. Điều này đồng với luận Chánh Lý. Hai giải thích: Đã nói: “Vô phú vô ký” thì biết không có tánh thiện. Lại, luận Chánh Lý, quyển hai mươi tám chép: Cho nên, ngay đối với vị, thế, thục v.v… cũng chẳng siêng, cầu giải thoát. Tuệ và pháp dị tướng đều là nhân dẫn sanh cái sau đồng với liệt tuệ, tuệ này đối với giải thoát, lại không siêng năng tìm cầu, đồng thời, lại làm nhân dẫn sanh khiến không siêng cầu tuệ giải thoát. Cứ xoay vần như thế từ vô thỉ đến nay, nhân quả thường đắp đổi, huân tập thành tánh. Do đó biết rằng: Ở trong vị, thế thục v.v… của các cảnh kia thường huân tập ở hiểu mà không kham nỗi ở trí. Liệt trí được dẫn sanh này gọi là bất nhiễm vô tri tức các pháp tâm, tâm sở sanh này đều gọi chung là tập khí. Lý chắc chắn như vậy. Lại chép rằng: Hoặc các hữu tình ở giai vị phiền não, tất cả tâm vô nhiễm và nối tiếp. Do huân tập phiền não một cách lộn xộn khiến cho phát sanh phiền não khí phần, cho nên tâm vô nhiễm và quyến thuộc dường như được sanh ra từ hành tướng khác nhau của nó. Do năng lực huân tập phát khởi nối tiếp cho nên dù lìa được các lỗi trong thân nhưng vẫn gọi là có tập khí. Bậc Nhất thiết trí dứt trừ hẳn không hiện hành. Nhưng đối với các giai vị đã dứt thấy thì dứt, đối với tâm nhiễm, bất nhiễm nối tiếp, còn các phiền não tập tánh thuận sanh khác, đó là, khí phần phiền não của kiến thì dứt. Trong đó, nhiễm được gọi là loại tính. Kim cương đạo dứt trừ, không khởi hiện hành nữa. Nếu bất nhiễm thì gọi là kiến phiền não thì dứt khí phần cũng được dứt trừ ở Kim cương đạo. Và do căn cơ khác nhau nên có sự hiện khởi, không hiện khởi. Theo luận này, loại tánh chẳng phải tập khí của thân, cho nên biết đó là tâm sở. Lại nói: Đối với “vị đã dứt tu thì dứt” chỉ ở trong sự nối tiếp của tâm bất nhiễm mới có tập khí phiền não. Thuận sanh khác, là khí phần phiền não của tu thì dứt. Gọi khí phần phiền não của tu thì dứt tức là hữu lậu. Hàng Vô học đã dứt trừ, và do căn hẳn hay kém mà khởi hiện hành hay không. Đức Thế tôn chứng được pháp tự tại nên phiền não kia hoàn toàn không còn hiện khởi. Do vậy, Phật gọi riêng là Thiện tịnh nối tiếp, do đó nên thực hành không có lỗi nhầm lẫn, chứng được pháp không chung ba niệm trú v.v… 1) Theo hai giải thích trên, về ý nghóa thì giống nhau nhưng nhân do thì có khác. Giải thích đầu cho rằng: Không riêng cầu tuệ và pháp dị tướng đều có đủ; xoay vần làm nhân dẫn sanh tập khí. Giải thích sau cho rằng: tâm Vô nhiễm và nối tiếp, do huân tập lẫn lộn các thứ phiền não khiến phát sanh khí phần phiền não. Lại chính điều này làm nhân dẫn sinh tập khí. Đó là tâm, tâm sở không chấp lấy thân. Sư Nguyên Du. Dẫn văn này để chứng minh rằng: Tập khí chung với thân là nhầm. Do đó biết chắc rằng không chung với thân. Trong phần đối Biện Sai khác của luận Chánh Lý chép: Nếu đối với tự tướng, cộng tướng của sự vật mà ngu muội, gọi là tướng nhiễm ô vô tri bậc nhất. Nếu đối với các tướng vị, thế, thục, đức, số lượng, xứ, thời, đồng, dị v.v… của các pháp mà không hiểu biết đúng như thật, đó là hành tướng của bất nhiễm vô tri thứ hai. Y theo đó, mà biết, hai giải thích của Chánh Lý nói: Chỉ có tâm, tâm sở là tập khí tức tuệ tương ưng gọi là bất nhiễm vô tri. Hai giải thích của Chánh Lý đồng với Bà-sa, cho rằng: Tập khí tà trí làm thể, thuộc về tánh vô ký. Luận Chánh Lý chép Liệt vô tri, tánh vô phú vô ký, làm trở ngại “giải thoát”. Đó là thể của chướng giải thoát. Lại chép: Các đại Luận sư đều nói luyện căn đều để phát khởi năng lực của thấy dứt hoặc và tu dứt hoặc dẫn khởi, vô phú vô ký vô tri sẽ hiện hành. Y theo đó mà biết hai đoạn văn trên, chắc chắn là y theo vô ký, chắc chắn là tâm sở; nếu gồm có cả thiện và thân thì chẳng có văn nào để chứng minh. Lại trái với lý. Hễ gọi là tà trí thì không thể gọi là chánh trí. Đã gọi là bất tri thì không thể gọi là tri. Thiện tương ưng với tuệ gọi là chánh trí. Như vậy, sao lại gọi là tà trí và gọi là vô tri ư. Lại như, chẳng phải vật có mùi hôi là do hương hôi huân xông. Có hương thơm gọi là tập khí. Vật có mùi hôi thì chẳng phải như vậy. Cho nên biết rằng: Vô ký thọ nạp sự huân tập, thiện ác thì không như thế. Y theo lý giáo trên nghóa thật rõ ràng, dứt khoát là vô ký. Đã không có giáo lý nào để chứng minh, làm sao nói là có cả thân có cả thiện được. Giải thích chung về người ngoài hỏi: Có người hỏi: Nếu chỉ có vô ký, không có pháp thiện thì bậc La- hán ở cõi Sắc, khi tâm thiện hiện tiền lẽ ra nên gọi là Phật, và thành tựu được bất nhiễm vô tri mới phải. Đáp: Y theo câu hói, biết rằng người hỏi không hiểu ý của luận. Bất nhiễm vô tri, Phật và Nhị thừa có khác nhau. Chỉ nói về sanh và bất sanh để giải thích tướng riêng. Điều này các văn đều đồng nhau, không có văn nào nói riêng về “thành”, “bất thành”. Bậc La-hán ở cõi Vô Sắc, khi tâm thiện hiện tiền tuy không thành tựu bất nhiễm vô tri nhưng đồng với Phật. Chỉ có điều Phật thì không còn sanh khởi. La-hán còn sanh khởi, cho nên không thể gọi là Phật. Nạn đã chẳng phải nạn, văn là không văn, lý lại toàn vô ký. Cho nên biết rằng, bất nhiễm vô tri chắc chắn chỉ có vô ký. Đối với Vọng giải thích văn: Luận Vọng Thông chép: Bà-sa chỉ giải thích đó là tà hạnh tướng trí, chẳng phải thật trí nên gọi là tà, cũng gọi là vô ký. Luận Chánh Lý cho rằng: Bất nhiễm vô tri là thể của chướng giải thoát, của căn chướng, nên nói là vô ký. Nay nêu chung, tất cả thể của bất nhiễm vô tri cũng có tánh thiện. Nay xét giải thích này hoàn toàn vô lý. Luận Bà-sa chỉ giải thích: Đó là tà hạnh tướng trí, chẳng phải là thật trí nên gọi là tà, do đó nói là vô ký. Nay nói, tất cả bất nhiễm vô tri chẳng lẽ cũng có cả biết như thật hay sao. Nếu biết như thật chẳng phải vô tri. Cho nên luận Chánh Lý nói về sai khác rằng: Nếu không thể biết như thật về vị, thế, tục v.v… thì đó là tướng của bất nhiễm vô tri. Y theo đây thì, bất nhiễm vô tri chẳng lẽ lại có cả biết như thật ư. Lại luận, Vọng Thông chép, vô tri có hai: Thiện chướng pháp lực yếu kém. Vô ký chướng pháp lực mạnh mẽ. Bà-sa, Chánh Lý nói theo thắng dụng có cả nên gọi là vô ký. Nay, nói chung với pháp thiện tức y theo dụng yếu kém. Vặn hỏi rằng: Luận Chánh Lý chép: Căn chướng v.v… có thể nói là vô ký. Luận Bà-sa không nói về căn chướng thì do đâu lại không nói về dụng yếu kém. Lại theo pháp giải thích nghóa, cả hai đều có văn cú hợp lý. Từ văn này giải thích chung hợp với văn kia mà nói là có cả tánh thiện. Còn nếu, đã không có văn, lý thì làm sao lại chấp là có cả tánh thiện, và vô ký. Bác bỏ thuyết khác: Theo luận Chánh Lý, luận Bà-sa, bất nhiễm vô tri chỉ có tuệ yếu kém là thể. Văn nghóa rất rõ ràng sao lại có người chấp rằng: Có cả các pháp khác. Nếu có giải thích này thì không thành văn được, vì sao lại có nói lầm rằng mười một Sư giải thích đều trái với văn luận. Sư thứ nhất nói: Bất nhiễm ô vô tri, từ khi chưa thành Phật đến nay, lấy tâm, tâm sở dị thục chậm lụt làm thể. Sư thứ hai nói: Từ khi chưa thành Phật đến nay, dùng bốn pháp tâm tâm sở vô ký chậm làm thể. Sư thứ hai nói: Từ khi chưa thành Phật đến nay, lấy độn bốn tâm, tâm sở vô ký làm thể. Sư thứ ba, tức Luận Sư Đức Quang người nói: Từ khi chưa thành Phật đến nay, lấy độn tâm, tâm sở tự tính vô ký chậm lụt làm thể. Sư thứ tư nói, từ khi chưa thành Phật đến nay, lấy chúng đồng phân chậm lụt làm thể. Tuệ dựa vào chúng đồng phần mà khởi này, quán sát cảnh không rõ ràng. Bốn sư nói trên, nếu không nhầm về bài tựa thì đều cho rằng, chính vô ký là thể của bất nhiễm vô tri. Giải thích này có đôi chút hợp lý là hợp theo kinh luận. Luận Chánh Lý, Bà-sa giải thích rõ ràng, chỉ có tuệ vô ký là thể của bất nhiễm vô tri. Thế thì do đâu mà ba sư trước lại nói gồm cả tâm, tâm sở. Sư thứ tư lại nói là chúng đồng phần. Nên nói rằng: Ba Sư trước chỉ nói vô ký thông cuộc không giống nhau, nhưng đều lấy tuệ yếu kém làm thể. Sư thứ tư nên nói, tuệ yếu kém được sinh từ chúng đồng phần là thể của bất nhiễm vô tri. Sư thứ năm lấy không tự tại làm thể. Dẫn luận Chánh Lý quyển bảy mươi, nêu ra thể của chướng giải thoát để chứng minh. Sư thứ sáu nói, lấy bất đắc làm thể. Sư thứ bảy nói, lấy không siêng cầu v.v… làm thể. Cả hai vị này đều dẫn Chánh Lý, nêu ra chướng giải thoát để làm chứng y theo Sư Chánh Lý nêu ra thể của chướng giải thoát. Có bốn vị, Luận sư nói về thể, có thuyết của bốn Sư. Sư thứ nhất nói: Tuệ yếu kém Vô ký là thể. Đây là lấy bất nhiễm vô tri làm thể. luận Chánh Lý cho rằng nghóa đúng. Ba vị sau không lấy bất nhiễm vô tri làm thể. Chánh Lý bác bỏ ba vị này, cho rằng, đây là nêu lên thể của chướng giải thoát không giống nhau chứ chẳng phải nói thể tánh của bất nhiễm vô tri có khác nhau. Luận Chánh Lý, quyển bảy mươi bác bỏ rằng: Không chấp nhận là chướng, chứ không nói chấp nhận là bất nhiễm vô tri. Nói việc ba vị sư giải thích về chướng không giống nhau là bất nhiễm vô tri là nhầm lớn. Chẳng hạn, khi nêu ra thể của “giáo”, hoặc nói là âm thanh, hoặc nói là danh cú. Nếu nói tiếp về thể của âm thanh thì không thể nói âm thanh, hoặc danh cú là thể được. Bốn sư sau nói: Luận tự lập phá chẳng được tông chấp nhận, không nêu ra rườm rà. Nói về thể thông cuộc: Bất nhiễm vô tri lấy tuệ yếu kém vô phú vô ký làm thể, có cả bốn vô ký, dị thục sanh tâm, lý không nên nghi, do đó biết rằng có cả oai nghi, công xảo, tập khí tương ưng với tuệ yếu kém, gọi là bất nhiễm vô tri. Nhị thừa dùng cả hai chân vượt qua khỏi hầm, Ca-diếp đứng dậy múa là tập khí oai nghi. Tất-lăng-già gọi thần sông là Tiểu tỳ v.v… là công xảo tập khí. Cho nên biết chắc chắn có cả ba vô ký. Có cả biến hóa: Có khi dường Như tham, sân v.v… khởi biến hóa nhưng chưa thấy văn, đều là tập khí. Cho nên biết cũng có cả biến hóa. Đối biện khác nhau: Trong luận Chánh Lý quyển hai mươi tám, có ba giải thích: Tướng trạng của hai thứ vô tri khác nhau nghóa là từ đó mà thành lập sự khác nhau giữa ngu và trí. Như vậy, gọi là tướng nhiễm vô tri. Nếu từ đó, ở trong cảnh “trí” không bằng “ngu” đó là tướng thư hai. Thuật rằng: Ngu là dị sanh (phàm phu). Trí là bậc Thánh. Dứt được vô tri gọi là Thánh: Không dứt được gọi là Phàm. Đây là do nhiễm ô vô tri mà lập ra sự khác nhau giữa ngu và trí. Hoặc ở trong cảnh, La-hán không biết muối đỏ, phàm phu khéo thông hiểu ba tạng; đó gọi là đối với cảnh, trí không bằng ngu. Theo tướng khác nhau này thì không thể nói bất nhiễm ô vô tri có cả thân sở y. Giải thích: Lại, nếu dứt rồi, Phật và Nhị thừa đều không khác nhau, đó là tướng thứ nhất, nhiễm vô tri. Nếu dứt rồi, Phật và Nhị thừa còn có hiện khởi và không hiện khởi là tướng thứ hai, bất nhiễm vô tri. Thuật rằng: Nhiễm ô vô tri, ba thừa đều dứt. Dứt xong không thực hành tự tánh dứt, không có khác nhau. Bất nhiễm vô tri, ba thừa đồng dứt, đó là duyên buộc dứt, Nhị thừa còn hiện khởi, chỉ có Phật mới không còn hiện khởi. Đó là sự khác nhau. Nếu đối với tự tướng, cộng tướng của các pháp, mù mịt không hiểu, đó gọi là tướng nhiễm vô tri thứ nhất. Nếu đối với các tướng vị, thế, thục, đức, số lượng, xứ, thời, đồng, khác v.v… của các pháp không thể biết được một cách đúng đắn, đó gọi là bất nhiễm vô tri. Thuật rằng: Nhiễm ô vô tri là mê mờ về tự tướng, cộng tướng. Bất nhiễm vô tri là đối với pháp vị, (là vị thấm nhuần của các pháp, hoặc các vị như đắng, v.v…) Thế (là thế lực của các pháp như tổn ích, v.v…) Thục (Các pháp đến giai đoạn thành thục) Đức (là đức dụng) Số (số một, hai, v.v…) Lượng nhiều ít, v.v…) Chỗ (chỗ gần xa, v.v…) Thời (Thời gian lâu mau) Đồng nhau khác nhau. Theo giải thích thứ ba này thì bất nhiễm vô tri cũng chẳng phải thân sở y. Nói về dứt khác nhau: Nhiễm ô vô tri có ba nghóa: 1. Tự tánh dứt nghóa là dùng đạo lực đối trị. Khi xả bỏ được thì gọi là dứt; 2. Duyên phước đoạn: Vọng tha thân gọi là Duyên buộc dứt. Nghóa là dứt trừ phiền não do duyên tha thân mà có, đến phẩm thứ chín, mới gọi là dứt. Nếu vọng tự thân thì không có duyên buộc dứt; 3.Bất sanh đoạn: Nghóa là các phiền não, cho đến giai vị bất sanh, không bao giờ còn sanh khởi. Như thấy đạo hoặc cho đến Thượng, nhẫn vị. Như tu đạo hoặc, bậc Thánh lợi căn, cũng không ngoài quán mà dứt “hoặc”. Khi ở đạo gia hạnh, chín phẩm hoặc kia không bao giờ còn sanh khởi. Bậc Thánh Độn căn do để lui mất cho nên không có bất sanh đoạn. Bồ-tát, Lân Giác, với bảy phương tiện nên phiền não ở thấy đạo và tu đạo vị đều không sanh khởi. Một loại Thanh văn v.v… với bảy phương tiện cũng thấy được phiền não ở giai vị thấy đạo tu đạo vị không sanh khởi nhưng tướng nó không rõ ràng, nên không nói. Ngoài ra, tất cả đều không có bất sanh đoạn. Bất nhiễm vô tri có hai thứ dứt: Duyên buộc dứt nghóa là ở mỗi địa, khi dứt trừ bất nhiễm ô vô tri ở phẩm thứ chín, gọi là duyên buộc dứt. Bất sanh đoạn, nghóa là ở mỗi địa, bất nhiễm vô tri không còn sanh khởi, nhị thừa dứt từng phần. Phật dứt hoàn toàn. Nói về phần vị dứt, trong đó có hai: Dứt từng phần. Dứt hoàn toàn. Dứt từng phần, tức là tùy theo mỗi vị, bất nhiễm vô tri hoàn toàn không còn sanh khởi. Như căn, định chướng v.v… Dứt hoàn toàn tức là Bồ-tát đến Kim cương tâm, bấy giờ chứng đắc trọn vẹn bất nhiễm vô tri phi trạch diệt. Lúc đó gọi là dứt hết. Tuy từ năm pháp quán dùng tâm chỉ một phen ngồi là đắc đại Bồ- đề, bấy giờ bất nhiễm vô tri không còn sanh khởi. Nhưng để có được phi trạch diệt thì phải đến định Kim cương Dụ. Chẳng hạn, ở hiện quán biên tục tâm, bất nhiễm vô tri không bao giờ còn sanh khởi. Cho đến ba thứ trí, biên mới được phi trạch diệt, vì lúc đó thiếu duyên tốt. Duyên tốt này, luận Chánh Lý gọi là thân sở y. Thân sở y đồng với thấy đạo, nghóa là khi ở giai vị thấy đạo không thể khởi lên được; khi ra khỏi hiện quán thì thân sở y cũng mất, đã không có duyên tốt này thì cũng không thể khởi được. Nói về bất nhiễm ô vô tri: Hỏi: Bậc Thánh lợi căn không ra khỏi “quán” để dứt hoặc dứt chín phẩm phiền não thì đối với đạo gia hạnh chứng được phi trạch diệt. Bất nhiễm vô tri lẽ ra đồng với đây, ở giai vị năm pháp quán dừng tâm lẽ ra chứng được bất sanh. Đáp: Từ khi chưa thành Phật đến nay, có lẽ nó làm sở y cho một thứ bất nhiễm vô tri. Loại bất nhiễm vô tri này, khi thiếu duyên tốt thì, tự nó không thể sanh khởi được. Dù trong ba mươi ba tâm, nếu khởi tâm tán loạn thì cũng không rõ. Bấy giờ chưa có “trí Nhất thiết”. Đạo chẳng phải là chỗ đối trị chính. Lại, như trong chín y thân ở cõi Dục, thân này đều làm chỗ dựa cho phiền não. Do đạo là pháp đối trị phiền não. Theo nghóa đó cho nên không thể so sánh. Lại, cho dù trong ba mươi tâm, khi ra khỏi hiện quán thì “trí” không bằng “Phật”. Với ba mươi hai tâm, khi ra khỏi quán, “tri” lại càng yếu ớt hơn. Các tâm còn lại y theo đó mà biết. Do đó biết rằng, bất nhiễm vô tri khởi lên ở từng tâm riêng biệt, dứt trừ nơi từng phẩm riêng biệt, đâu đồng với phiền não. Luận chép: “Đã khen ngợi Thế tôn như đến đức lợi tha tròn đầy”. Đây là nói về đức lợi tha. Luận chép: “Cứu vớt chúng sanh ra khỏi vũng bùn sanh tử”. Đây là văn bài “tụng”. Chúng sanh: Là tên khác của hữu tình, tiếng Phạm là Tát-đỏa, Hán dịch là hữu tình. Tiếng Phạm là Xả-già, Hán dịch là chúng sanh tức một thể với hữu tình mà tên gọi thì khác. Có người nói: Nếu gọi là chúng sanh thì bao gồm cả vô tình, vì sao chỉ nói hữu tình? Là Nhầm! Kinh Đại thừa Đồng Tánh chép: Lăng Già chủ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn, chúng sanh nghóa là gì? Phật bảo Lăng-già chủ rằng: Chúng sanh là do nhiều yếu tố hòa hợp như đất, nước, gió, lửa, không, thức. Như bó lau nương tựa lẫn nhau, gọi là chúng sanh. Y theo văn kinh này thì nói hữu tình là chúng sanh vì muốn bác bỏ việc cho rằng: Một vật độc lập gọi là Hữu tình. Lại, cũng y theo văn này thì, hữu tình và chúng sanh có thể giống nhau chỉ khác tên gọi mà thôi. Chúng sanh sáu yếu tố hợp thành, hữu tình cũng vậy, không thể chỉ riêng một pháp nào rồi cho đó là thể của hữu tình. Các Luận sư Duy thức cho rằng: Chỉ cho một vật thật đó là thức A-lại-da là thể của hữu tình, tức chẳng phải sáu yếu tố hợp thành, ý muốn nói hữu tình chỉ là giả danh chẳng thật. Luận: “Do sanh tử kia cho đến nên dụ là bùn? Phần này giải thích chữ bùn trong bài tụng. Ba cõi, năm đường là chốn sanh tử. Nghiệp trộn lẫn với nước ái giống như bùn. Ở trong đó thì chìm đắm; ra khỏi, cũng khó khăn. Cứ dần dần chìm xuống gọi là chìm đắm. Chín mươi lăm phái ngoại đạo khó có thể lìa được, cho nên khó có thể ra khỏi. Hai nghóa giống nhau nên lấy bùn để dụ. Các Luận chứng minh: Luận chép: “Chúng sanh ở trong đó cho đến cứu giúp ra khỏi”, đây là giải thích ân đức. Chúng sanh chìm đắm trôi lăn trong đó mà không cầu ra khỏi là cảnh đáng thương xót. Đức Thế tôn thương xót, đó là tâm “đại bi”. Tùy theo căn tính mà trao cho pháp môn thích hợp, đó là trí tuệ khéo léo. Cứu giúp ra khỏi là hoàn thành “bi nguyện”. Luận Hiển Tông chép: Đức Phật thành tựu trí tuệ khéo léo và tâm đại bi, trao cho chúng sanh những lời thích hợp cứu giúp ra khỏi. Đây là do tâm đại bi muốn cứu. Do trí tuệ khéo léo là công năng cứu độ. Đại bi và trí tuệ tuy tên gọi khác nhau nhưng đều là hạnh lợi tha của Phật, thuộc về trí hữu lậu, là thể của ân đức, lại chung với tùy hành, ý nghóa như thường giải thích. Luận chép: “Đã khen ngợi ba đức của Phật, kế là kính lễ”. Dưới đây thứ tư nói về tương kính lễ. Đây là kết thúc dẫn ra. Luận chép: “Kính lễ như thế cho đến gọi là như lý sư”, nhắc lại bài tụng giải thích . Cúi đầu sát chân gọi là kính lễ, đây là giải thích hai chữ kính lễ trong văn tụng. Khể là lời chí thành. Thủ là đầu, đem đầu mà cúi sát chân Phật là biểu hiện sự kính lễ cao nhất. Nhiếp cả ba nghiệp: Lễ lạy có cả ba nghiệp, do đó, Nhiếp Luận chép: Ta đem cả thân, miệng, ý, đảnh lễ dưới chân Đức Thế tôn. Bồ-tát Thế Thân, kính lễ, tuy chỉ nói về thân nhưng bao gồm đủ cả ba nghiệp. Tụng tán là ngữ nghiệp, cúi đầu là thân nghiệp. Khởi lên hai nghiệp ấy là ý nghiệp. Đức Phật đầy đủ cả hai đức tự lợi, lợi tha, nên nói là như thị. Phần này giải thích hai chữ “như thị” trong câu tụng thứ ba. Như thị tức chỉ cho bậc đầy đủ các đức ở trước. “Chỉ dạy răn bảo đúng như sự thật, không trái ngược gọi là như lý sư”: Là giải thích ba chữ “Như lý sư” trong bài tụng. Lời nói khế hợp chân lý gọi là Như thật. Pháp hợp với thời cơ gọi là vô đảo, khuyên làm việc lợi ích gọi là dạy trao, ngăn dứt việc vô ích gọi là răn bảo, Cho nên luận Bà-sa quyển 16 chép, ngăn việc không lợi ích gọi là răn bảo, giúp đem lại lợi ích gọi là dạy trao. Nói về ba thứ đảo: Nói rằng không điên đảo: Đảo có ba nghóa: Pháp đảo. Nhân đảo. Thời đảo. Pháp đảo: Biết căn cơ trình độ mà không biết pháp thích hợp. Chẳng hạn, biết người này nặng về tham lại nói pháp quán từ bi. Nhân đảo: Biết pháp mà không biết người. Như biết quán bất tịnh có công năng đối trị tham, nhưng do không biết căn cơ nên lại nói cho nặng về sân. Thời đảo: Tuy biết cơ, biết pháp, nhưng không đúng lúc, hoặc chưa đến thời đúng cơ mà lại nói, hoặc căn cơ thuần thục, thì lại không nói. Nói nghịch thời là không có trí tuệ, nói quá thời không có từ bi. Đức Như lai nói pháp không bị ba thứ đảo ấy nên gọi là Như lý sư. Các luận giải thích: Luận chép: “Bậc thầy như lý nói cho đến cùng với nguyện thần thông”. Trên nói về vị Sư sở lễ, thể có đủ ba đức. Phần dưới giải thích danh từ “như lý sư”, tức là nói theo ân đức. “Nói Như lý sư là hiển bày đức lợi tha”, là giải thích chung, “có công năng dùng phương tiện giảng nói giáo lý một cách đúng đắn” là giải thích trí tuệ phương tiện khéo léo. “Kéo chúng sanh ra khỏi vũng bùn sanh tử”: là nói về lòng từ cứu khổ. Từ đó có đầy đủ ba đức: Trí, đoạn và ân, không do oai lực và nguyện thần thông là phân biệt với phàm phu, Tiểu thừa. “Không do oai lực” là phân biệt với vua Thánh, Chuyển luân dùng, uy lực của vua khiến mọi người thực hành mười điều lành. Không do dữ nguyện” tức là phân biệt với cha mẹ thiên thần, chỉ có nguyện lực sâu chứ không thể cứu được. “Không do thần thông” là phân biệt với các vị Độc giác v.v… hiện thần thông giáo hóa, khiến tạm thời khởi lòng tin mà không thể nói pháp giúp chúng sanh ra khỏi biển sanh tử, tất cả các việc như vậy chẳng phải bậc thầy đúng như lý, chẳng thể giúp đưa chúng sanh ra khỏi biển sanh tử. Luận chép: “Kính lễ bậc như lý sư như vậy để làm gì!” Là nêu câu hỏi. Luận chép: “Đối pháp tạng luận, ta sẽ nói”. Dưới đây là thứ năm, nói về ý nghóa qui kính, nêu tụng để đáp. Luận chép: “Dạy bảo học trò gọi là Luận”, là để giải thích chữ “luận”. Giáo nghóa là dạy trao, khiến tu tập trạch pháp. “Giới” là răn bảo, khiến dứt trừ phiền não. Đây là nêu công năng của Đối pháp, cho nên văn dưới có nêu, nếu lìa bỏ trạch diệt thì không còn có một pháp nào khác làm các phương tiện tốt đề dứt trừ các phiền não, cho nên gọi đó là Luận. Đây là phẩm vấn đáp phân biệt ý nghóa về việc răn bảo người học. Giải thích chữ Luận: Luận chép: Chữ “Luận đó là gì?” Dưới đây là thứ hai nói về tựa phát khởi. Nêu danh và thể của luận để phát khởi tất cả pháp của bài tụng này. Gồm có bốn: 1. Nêu danh và thể xưa của luận; 2. Giải thích tên luận hiện tại; 3. Nói về ý nghóa của luận; 3. Nói về những người đã nói về luận này. Nửa bài tụng này thứ nhất là nêu danh và thể của luận, xưa, tụng văn có ba: Trước hỏi lý do phát khởi, kế là, nêu tụng để trả lời, sau là văn xuôi, giải thích. Đây là phần đầu. Luận chép: “Đó là Đối pháp tạng”: là giải thích tên luận. Luận chép: “Sao gọi là Đối pháp” là hỏi về thể của luận. Tụng chép: Cho đến các tuệ luận”. Là nêu tụng để đáp. Tiếng Phạm là Già-đà, xưa dịch là kệ, đây là lầm, lầm già là kệ lại lược bỏ chữ Đà. Viết: Là từ ngữ, trong bài tụng có hai câu: Câu trên nêu ra thể của Đối pháp thắng nghóa; câu dưới nêu thể của Đối pháp thế tục . Luận chép: “cho đến… A-tỳ-đạt-ma” văn xuôi giải thích. Trong đó có hai: Nêu thể của Đối pháp. Giải thích danh từ Đối pháp. Trong phần nêu thể lại có hai: Thể của Đối pháp thắng nghóa. Thể của thế tục Đối pháp. Văn này nêu Đối pháp thắng nghóa. Trong đó có hai: Tự tánh. Quyến thuộc. “Tuệ nghóa là trạch pháp”, là nêu ra thể của tuệ. Tuệ có công năng phân biệt, nên gọi là Trạch pháp. Đó là phân biệt bốn đế, Phần này giải thích chữ “trạch pháp”, ở đây dùng trạch pháp để nêu ra thể của tuệ. Hỏi đáp về Đối pháp Thắng nghóa: “Tịnh” nghóa là vô lậu, là giải thích chữ “Tịnh”. Do vô lậu nên gọi là Tịnh. Vô lậu nghóa là lìa cấu, các lậu gọi là Cấu. Trạch pháp có công năng lìa bỏ được cấu, nên gọi là tịnh tuệ. Hỏi: Vì sao chỉ có tuệ vô lậu được gọi là Đối pháp thắng nghóa? nữa. Đáp: Do tuệ vô lậu quán sát tướng các pháp nên không còn mê Hỏi: Đã nói các tâm, tâm sở đều gọi là Đối pháp, vì sao nói tuệ là tự tánh thọ, v.v… là tùy hành, mà không nói thọ v.v… là tự tánh, không nói tuệ, v.v… là tùy hành! Đáp: Trong ba hiện quán: Như Kiến thì tuệ đều có công năng; Sanh v.v… và sắc chỉ có sự, chẳng có thứ khác, Thọ v.v… chỉ có duyên hiện quán và sự hiện quán. Hỏi: Thọ v.v… đều có tác dụng lãnh nạp v.v… như tuệ có công năng “thấy”, lẽ ra nó phải đồng với tuệ, lẽ ra đều được gọi là Đối pháp tự tánh? Đáp: Thọ v.v… như người mù đâu được gọi là Đối pháp tự tánh. Nó chẳng thể phân biệt bốn Thánh đế. Do đối với việc hiện quán tướng của khổ v.v… thấy hiện quán rất cao siêu, và đối với các đế có thể phân biệt chuyển hóa. Thọ v.v… tuy đi chung với tịnh tuệ, nhưng do tuệ lực dẫn dắt nó đến các cảnh, cho nên đối với hiện quán chẳng phải pháp cao siêu. Vậy chỉ có tuệ vô lậu mới gọi là tự tánh, còn thọ v.v… thì không. Hỏi: Vì sao không nói nhẫn trí và kiến, mà chỉ đặt tên “Tuệ”? Đáp: Nhẫn chỉ có một phần thấy đạo. Trí chẳng phải nhẫn nên trí không khắp thấy đạo. Nhẫn chẳng phải là trí cho nên thấy không khắp vô học. Tận Vô sanh chẳng phải kiến, cho nên tuệ cùng khắp tất cả. Đối pháp cũng vậy cho nên dùng tịnh tuệ nêu thể của Đối pháp, tịnh phân biệt hữu lậu, do đó biết rằng, chính tất cả tuệ vô lậu được gọi là Đối pháp thắng nghóa. Nêu ra thể của tùy hành Đối pháp: “Quyến thuộc tịnh tuệ gọi là tùy hành”: Là nêu ra thể của tùy hành Đối pháp. Luận Chánh Lý nói: Thế nào là tùy hành? Nghóa là tuệ tùy chuyển các pháp tâm sơ: như sắc, thọ, tưởng v.v… Sanh v.v… và tâm, gọi là tùy chuyển. Hỏi: Tùy chuyển, và tùy hành, giống nhau hay khác nhau? Đáp: Tùy chuyển cũng chính là tùy hành. Do đó, luận Chánh Lý, khi giải thích quyến thuộc Đối pháp, có hỏi rằng, sao gọi là tùy hành? Đó là các pháp dựa theo tuệ mà chuyển biến. Đã dùng chữ tùy - chuyển để giải thích tùy hành, thì rõ ràng, nghóa của hai chữ đó không khác nhau. Hỏi: Nếu vậy, chính tâm sở tuệ lẻ ra cũng không nên gọi là chuyển, cũng chỉ gọi là tùy chuyển mới phải, cho nên biết rõ như thế. Giải thích về nhân câu hữu: Trong giải thích về “nhân câu hữu”, luận Chánh Lý, Hiển Tông đều nói bốn trường hợp: Hữu chuyển phi tùy chuyển đó là tâm vương. Hữu tùy chuyển phi chuyển đó các tâm vương thượng sanh… Có khi vừa chuyển vừa tùy chuyển đó là các pháp tương ưng với tâm. Ở câu bốn rất dễ hiểu. Y theo đó, thì tuệ chẳng phải là tâm vương làm sao gọi là Chuyển? Đáp: Nếu nêu rằng, tâm là sở tùy thì chỉ có tâm mới gọi là Chuyển. Nếu nêu tuệ là sở tùy, tức chỉ có tuệ mới gọi là Chuyển. Trong “nhân câu hữu” có giải thích tâm là sở tùy, chỉ có tâm gọi là Chuyển. Ở đây, nói tuệ là sở tùy nên chỉ có tuệ là sở chuyển. Hỏi đáp về tùy hành: Hỏi: Đắc có phải là tùy hành hay không? Đáp: Đắc chẳng phải tùy hành. Do đó, luận Chánh Lý khi nêu thể của quyến thuộc Đối pháp, không nói về đắc. Luận Bà-sa quyển ba giải thích: “Đắc chẳng phải pháp thế thứ nhất” có nói, sao không theo với pháp kia. Lại, trong nhân câu hữu, nói, do “Đắc” hoặc có trước, hoặc có sau nên chẳng phải là nhân câu hữu vì vậy biết rằng tuy có “đắc” và pháp khởi lên cùng lúc nhưng chẳng phải tùy hành, tùy chuyển. Có người nói, tùy chuyển có hai: Nhân Câu hữu, gọi là tùy chuyển. Thuận theo nhau gọi là tùy chuyển. Tùy hành cũng có hai: Nhân Câu hữu nên gọi là tùy hành. Thuận theo nhau nên gọi là tùy hành. Nếu trong các luận chép: Đắc là tùy hành, tùy chuyển là nói theo thuận theo nhau. Nếu trong các luận nói, đắc chẳng phải tùy hành, tùy chuyển nói theo chẳng phải nhân câu hữu. Hỏi vặn: Đã không có văn làm chứng sao lại nêu ra như vậy, dựa vào văn nào mà có giải thích này. Hiểu rõ ngữ nghóa thì biết được chẳng phải tuy hành, cũng chẳng phải tùy chuyển. Tùy hành, tùy chuyển đều chắc chắn là nghóa câu khởi. Như ở cõi Dục, khi tâm khởi lên không có sắc tùy chuyển, khi khởi tâm đó tuy rõ có sắc nhưng chẳng chuyển biến theo tâm. Đắc thì hoặc trước, hoặc sau. Chẳng phải nhân câu hữu thế thì có văn chứng nào mà lại nói chắc chắn là tùy chuyển. Tuy đồng ý Đắc và Sở đắc gọi là thuận theo thì nghóa cũng không trái nhau. Thuận theo chẳng phải nghóa hành chuyển. Không có văn nào nói thuận theo nhau gọi là tùy hành. Hỏi: Tùy hành có thuộc về tuệ hay không? Đáp: Tuệ là sự Tánh, còn Thọ, v.v… là tùy hành. Do đó mà phân biệt tự tánh và quyến thuộc. Nếu bảo thọ v.v… và tuệ tùy thuộc lẫn nhau thì cũng nên thay nhau mà gọi là tự tánh. Nếu tự tánh đã chỉ riêng là tuệ thì cũng nên biết tùy hành cũng chỉ là Thọ v.v… Do đó, luận Chánh Lý nói: Thọ v.v… tuy cùng đi chung với tịnh tuệ nhưng chính do năng lực của tịnh tuệ đã dẫn dắt thọ đến tất cả các cảnh. Cũng không thể nói, tuệ tùy, tuệ hành. Theo văn dưới nói: tâm Nhiễm có ít quyến thuộc nên chỉ theo ba uẩn. tâm Thiện có nhiều quyến thuộc nên theo cả bốn uẩn. Tâm đã chẳng phải tâm tùy chuyển, chẳng phải tâm quyến thuộc cho nên cũng biết rằng tuệ không phải tuệ tùy hành, không phải tuệ quyến thuộc. Có người dẫn luận Bà-sa quyển tám mươi mốt nêu ra thể của hỷ” vô lượng rằng: Hỷ lấy hỷ căn làm tự tánh, bao gồm quyến thuộc tương ưng tùy chuyển. Cõi Dục lấy bốn uẩn làm tự tánh. Cõi Sắc lấy năm uẩn làm tự tánh. Dẫn văn luận này chứng minh cho thấy tuệ là tùy hành, nay đã rõ văn này rồi thì tuệ chẳng phải tùy hành. Vì sao? Vì văn kia lấy hỷ căn làm tự tánh như luận này, Đối pháp lấy tịnh tuệ làm tự tánh và gồm cả tương ưng tùy chuyển. Tức tánh của bốn uẩn, năm uẩn. Như luận này hoặc gồm cả tùy chuyển tức tánh năm uẩn. Văn kia nêu thể của hỷ vô lượng. Tùy chuyển chẳng phải hỷ căn. Theo đó biết rằng, tùy chuyển ở luận này cũng chẳng có tuệ. Lại dẫn luận Chánh Lý, luận Hiển Tông nói trong ba niệm trụ, thì tương tạp niệm trú đều thuộc về tuệ chứng tỏ tuệ là tùy hành. Hai văn của luận kia, về danh về nghóa khác nhau. Ở đây nói tùy hành thì có năng tùy và sở tùy khác nhau. Kia nói tương tạp là lẫn lộn nhau, vì sao lại dùng đoạn văn lẫn lộn để chứng minh “tùy hành” ư? Có người nói, tuy có hai giải thích nhưng tự phê bình lấy tuệ làm tùy hành là hơn. Dầu vậy vẫn chưa biết dựa vào lý nào, giáo nào. “Như vậy đã nói chung năm uẩn vô lậu gọi là Đối pháp”. Phần này qui kết về thể của tùy hành Đối pháp. Quy kết về thể: “Đây là A-tỳ-đạt-ma thắng nghóa”: Là qui kết về thể của Đối pháp thắng nghóa. “Nói” thắng nghóa là tên khác của chân thật”. Luận chép: “Nếu nói thế tục cho đến các tuệ và luận” là nêu thể của bài tụng. Đây thật sự chẳng phải Đối pháp, cùng với Đối pháp chân thật làm tư lương, là Đối pháp giả danh. Như các tư lương: Nghiệp, dị thục, lậu v.v… Đao trượng v.v… là tư lương của nghiệp sát. Cảnh, thọ dị thục, v.v… là tư lương của hữu lậu, giả cảnh người nữ, v.v… là tư lương của hữu lậu gọi là nghiệp v.v… Do đó biết rằng, thắng nghóavà thế tục là tên khác của chân và giả. Luận Câu-xá bản dịch cũ chép: Như giả danh A-tỳ-đạt-ma nghóa là năng đắc các trí và luận này. Cho nên biết, Đối pháp thế tục chỉ là giả danh. Lại lẽ ra nói: Chân-đế, tục đế là tên khác của Thắng nghóa đế và Thế tục đế. Do vậy, A-tỳ-đạt-ma có chánh, có tục, có chân, có giả. Chánh là tịnh tuệ, có công năng dẫn dắt các pháp khác đến từng cảnh, có đủ năng lực trong ba thứ hiện quán. Giả là thọ v.v… tùy theo tịnh tuệ mà chuyển, không có công năng thấy được. Tịnh tuệ, tùy hành là chân Đối pháp. Đối hướng Niết-bàn, đối quán lý bốn đế không còn mê lầm. Tuệ hữu lậu v.v… không có công năng trên (đối hướng, đối quán) cho nên chẳng phải A-tỳ-đạt-ma thắng nghóa, nó là nhân chân chính nên giả gọi là Đối pháp. Có người nói: Vô lậu nên gọi là thắng nghóa, hữu lậu nên gọi là Thế tục, như vậy là nhầm. Vô lậu, hữu lậu đều có cả thắng nghóa, và thế tục, sao lại nói vô lậu là nhân thắng nghóa , hữu lậu là nhân thế tục. Nên nói, thắng nghóa là vô lậu. Thế tục là hữu lậu. Luận chép: “Tuệ là đắc được cho đến các tuệ là tùy hành”, là nêu thể của thế tục Đối pháp, tức giải thích câu tụng thứ hai. Trước gần, sau xa, nên trước nói về tu tuệ. Bốn thứ gốc lành chắc chắn chỉ tu tuệ. Tổng tướng, niệm xứ, Tướng riêng niệm xứ chắc chắn tư tuệ. Năm pháp quán dừng tâm v.v… có cả văn, tư, tu chẳng có sanh đắc tuệ. Thọ trì mười hai phần giảo chỉ có sanh đắc tuệ. Luận Bà-sa quyển bốn mươi hai chép, lời lời bình: Nên nói thế này nếu đối với ba tạng và mười hai phần giáo mà thọ trì, đọc tụng, ra sức truyền bá rộng rãi, đó là sanh đắc tuệ. Theo đoạn văn này của luận thì văn tuệ, tư tuệ tuy cũng duyên với danh và phát khởi ở thân và ngữ, nhưng không thể thọ trì mười hai phần giáo, tác dụng mỗi bên mỗi khác. Và “tùy hành”: Là giải thích nghóa tùy chuyển, nếu là tu tuệ thì năm uẩn làm tánh. Nếu là tư tuệ, văn tuệ sanh đắc tuệ thì bốn uẩn làm tánh. Không có sắc tùy chuyển. Tuy văn, tư, sanh đắc có công năng làm phát khởi giới, nhưng đó là sở khởi chẳng phải chuyển theo tâm. Cho nên không gọi là Đối pháp, cũng chẳng gọi là Tùy chuyển. Có người nói, đó là tùy chuyển là sai. Luận chép: “Luận đó truyền đạt làm phát sanh tuệ giáo vô lậu”, đây chỉ cho luận Phát Trí, sáu Túc v.v… do giáo mà khởi phát sự “nghe”, do nghe mà có “tư”, do “tư” mà có “tu”, do “tu” mà có “Đối pháp thắng nghóa”, cho nên nói là truyền sanh tuệ giáo vô lậu. Luận chép: “Các tuệ luận này cho đến A-tỳ-đạt-ma” là giải thích lý do, được gọi là thế tục Đối pháp, như trên là nêu ra thể của hai thứ Đối pháp. Nói về sáu túc luận: Nói “các luận” đó là Phát Trí, Lục Túc v.v… Nói “sáu túc” là: Tập Dị Môn Túc Luận do Xá-lợi-tử soạn, có mười hai ngàn ( 1 2. 000) bài tụng. Bản tóm tắt có tám ngàn ( 8. 000) bài. Xá-lợi, Hán dịch là Bách Thiệt điểu. Tử là âm được dùng vào đời Đường. Pháp Uẩn Túc Luận do Đại Mục-kiền-liên soạn, có sáu ngàn ( 6. 000) bài tụng. Mục-kiền-liên, Hán dịch là Thái Thúc Thị. Đại là âm đời Đường. Cho nên Pháp Uẩn Túc Luận gọi là Đại Thái Thúc Thị. Thi Thiết Túc Luận do Đại Ca-đa-diễn-na soạn, có mười tám ngàn ( 1 8. 000) bài tụng. Ca-đa, Hán là Tiễn-thế diễn, Hán dịch là Chủng. Na: Là Tiếng chỉ cho người nam, là dòng họ bậc nhất trong các dòng họ Bà-la-môn. Ba bộ này được soạn ra vào thời Phật tại thế. Sau khi Phật nhập diệt khoảng một trăm năm Đề-bà-thiết-ma soạn Thức Thân Túc Luận, có bảy ngàn ( 7. 000) bài tụng, Hán dịch là Hiền Tịch. Đến khoảng đầu ba trăm năm, Phiệt-tô-mật-đa-la soạn Phẩm Loại Túc Luận, có sáu ngàn ( 6. 000) bài tụng. Đó là Cựu chúng sự phần A-tỳ-đàm. Lại soạn Giới Thân Túc Luận bản đầy đủ có sáu ngàn ( 6. 000) bài tụng, bản tóm tắt có bảy trăm bài tụng. Phiệt-tô-mật-đa-la Hán dịch là Thế Hữu. Đến cuối ba trăm năm. Ca-đa-diễn-ni-tử soạn Luận Phát Trí, hai mươi ngàn ( 2 5. 000) bài tụng. Đời sau lưu truyền có nhiều, ít khác nhau. Có bản có mười tám ngàn ( 1 8. 000) bài, có bản có mười sáu ngàn ( 1 6. 000) bài; Bản này do ngài Huyền Trang đời Đường dịch. Sáu bộ luận đầu nghóa môn hơi ít. Luận Phát Trí pháp môn rất rộng. Cho nên các Luận sự đời sau nói rằng sáu bộ luận trước là chân; luận Phát Trí là thân, bảy bộ luận này là gốc của tất cả các bộ luận. Ngài Huyền Trang đã dịch hết chỉ còn Thi Thiết Túc Luận là chưa dịch. Luận chép: “Giải thích các tên gọi này cho đến nên gọi là Đối pháp: Đây là thứ hai giải thích chữ “Đối pháp”, có ba: Giải thích chữ “Pháp” Giải thích chữ “Đối” Tổng kết thành. Giải thích chữ pháp: “Giữ lấy tự tướng nên gọi là Pháp”: Là giải thích chữ Pháp. Ở đây, giải thích sở đối trước, “năng đối” sau. Pháp có hai thứ: Trì tự tướng, là tất cả các pháp đều giữ gìn tướng tự thể Pháp thức, quó tắc pháp đó là các pháp luật nghi v.v… của bảy chứng. Pháp này, ở đây không. Theo Đại thừa, hai nghóa quó và trì có trong tất cả pháp, đều có công năng giữ gìn tự tướng khiến phát sinh sự hiểu biết ở người. Trong đây, chỉ dùng nghóa “trì tự tướng” để giải thích nghóa tất cả các pháp. Hư không, phi trạch diệt tuy giữ lấy tự tướng nhưng chẳng phải cảnh sở duyên của Đối pháp thắng nghóa. Nên ở đây không nói. Do đó, chỉ nói nếu pháp tướng pháp chung cho bốn Thánh đế thì trong pháp tướng pháp, là thiện, là thường, gọi là pháp thắng nghóa, cũng gọi là Niết-bàn. Đó là thiện thắng nghóa, rất vắng lặng. Lại giữ gìn tự tướng thường không hề thay đổi. Đối hướng đối quán: “Ở đây có công năng đối hướng, hoặc có công năng đối quán”: đây là thứ hai giải thích danh từ “Đối pháp”. “Đây” chỉ cho A-tỳ-đạt- ma vô lậu Bát-nhã. “Năng đối hướng” là tuệ vô lậu đối hướng Niết- bàn, “Năng đối quán” là quán bốn Thánh đế. Vọng pháp tướng pháp chỉ có đối quán; vọng thắng nghóa pháp có cả hai nghóa đối quán và đối hướng. Pháp sư Chân-đế cho rằng: Do tuệ vô lậu vọng hướng Niết-bàn nên đối quán đối hướng không giống nhau. Vì bốn trường hợp nên từ đạo Vô gián đi đến đạo giải thoát gọi là thứ hướng chí đắc đối. Trong khi đi đến đạo giải thoát chứng đắc trạch diệt nên gọi là chí đắc. Tuệ tâm duyên với diệt lý gọi là như thật tương tri đối, vì là bốn trường hợp nên các đạo khác nhau. “Có thú hướng chí đắc đối phi như thật tướng biết đối”, đó là tuệ vô lậu khi quán sát ba đế ở đạo Vô gián. “Có khi như thật tướng biết đối phi thú hướng chí đắc đối” đó là lúc duyên với diệt đế ở đạo gia hạnh, thắng tấn, giải thoát. “Có khi là như thật tướng biết đối, cũng là thú hướng chí đắc đối” đó là lúc duyên với diệt đế ở đạo Vô gián. “Câu phi giả” đó là lúc duyên với ba đế ở ba đạo còn lại. Luận Bà-sa chép: Có khi tuệ chứng, thân không chứng, có khi thân chứng, tuệ không chứng, Có khi một sát-na bốn trường hợp, có khi nhiều sát-na bốn trường hợp. “Một sát-na bốn trường hợp: Là khi dùng diệt trí chứng được quả Nhất Lai trong một khoảnh khắc. “Có khi tuệ chứng thân không chứng” đó là dứt trừ ba phẩm phiền não sau, ở cõi Dục. Do diệt trí quán sát, nên nói là tuệ chứng. Chẳng phải quả thứ hai nên thân không chứng. “Có khi thân chứng chẳng phải tuệ chứng: Là các diệt thuộc thấy đạo thì dứt ở cõi Sắc và Vô Sắc. Chẳng phải là cảnh của pháp trí cho nên tuệ không chứng được. Đâu là quả thứ hai nên thân chứng được. “Câu:” Là sáu phẩm diệt trước của tu thì dứt ở cõi Dục và tất cả các diệt của kiến thì dứt ở cõi Dục. Đây là cảnh của pháp trí cho nên tuệ chứng được, là quả thứ hai nên thân chứng được. “Câu phi”: Là phẩm diệt của hoặc tu thì dứt ở hai cõi trên. “Nhiều sát-na bốn cú”: “Tuệ chứng thân không chứng”: Là Lúc đạo Vô gián duyên với diệt đế ở giai vị thấy đạo. “Thân chứng tuệ không chứng” đó là duyên với ba đế ở đạo giải thoát. “Câu:” Là lúc duyên với diệt đế ở đạo giải thoát . “Câu phi”: Là lúc duyên với ba đế ở đạo Vô gián. Tuệ đã đối quán lý bốn đế, đối hướng quả Niết-bàn gọi là Đối pháp, sao gọi Niết-bàn là Đối pháp. Nói về Đối pháp “Nên gọi là Đối pháp”: Thứ ba, là tổng kết. “Nói Đối pháp”: Đối với pháp gọi là Đối pháp, thuộc y só thích. Các sư xưa có lập năm Đối pháp: Một là Tự tánh, là tuệ vô lậu? Cộng hữu tức là tùy hành. Phương tiện là các tuệ, Danh tự là truyền sanh giáo. Và Cảnh giới là bốn đế. Có người nói, chẳng những các vị Tổ sư nói số nhiều pháp ít mà còn tập ra bốn Đối pháp, đó là lý giáo, hạnh và quả; Lý là bốn đế, Giáo là các luận, hạnh là năng quán, Quả là Niết-bàn, Lập số tuy ít nhưng nhiếp pháp thì nhiều. Cổ sư gồm có cảnh giới thành một lỗi. Có người lại thêm Niết-bàn là hai lỗi, do việc truyền bá lâu ngày phần nhiều người ta bỏ sót. Nếu không nói rộng ra thì sự cố chấp khó trừ. Đối pháp Tạng nói sáu lỗi: Nay, nêu ra pháp sở đối là lỗi, gồm có tám lỗi: Nếu giải thích Đối pháp tạng trong ba tạng thì có sáu lỗi: Lỗi Vô văn lập nghóa; lỗi trái luận nêu thể; lỗi trái luận giải thích tên gọi; lỗi trái với hai tạng so sánh; lỗi giải thích sai lầm văn luận; lỗi giải thích tên gọi trái với luận. Lỗi Vô văn lập nghóa: Phàm khi lập nghóa pháp phải có Thánh giáo và không được trái văn. Cổ sư lập ra năm Đối pháp, bốn thứ đầu danh và thể đồng với luận này. Loại thứ năm không có văn làm chứng. Có người nói, lại lập bốn Đối pháp: Lý, giáo, hạnh, quả. Về lý và quả, cả danh lẫn thể đều trái với luận. Đã trái với Thánh giáo lại không có văn làm chứng thì đâu nên truyền bá tu tập. Lỗi trái với luận, nêu ra thể: Tất cả các luận khi nêu thể Đối pháp đều nói, thắng nghóa chỉ có tuệ vô lậu, nếu gồm cả tùy hành chung với tánh năm uẩn. Thế tục Đối pháp đó là các tuệ và luận, nay có cả cảnh quả chẳng lẽ không trái với văn. Lỗi trái luận giải thích tên gọi: Các luận Đại thừa, Tiểu thừa lược có ba mươi sáu. Giải thích tên gọi “Đối pháp”. Nhưng tất cả không công nhận có cả cảnh quả. Luận Bà-sa có mười hai Luận sư có hai mươi bốn giải thích. Luận Phân Biệt Công Đức có hai giải thích. Luận Tạp tâm có hai. Nhiếp Luận của Thế Thân có bốn nghóa thích. Nhiếp luận của Vô Tánh có hai. Ở đây, hai giải thích của luận này đều cho rằng “Đối pháp” không có cảnh và quả. Hai giải thích của luận này chính là lỗi giải thích thứ ba và thứ năm trong sáu giải thích “Đối pháp” của Thế Hữu trong luận Bà-sa. Giải thích thứ ba nói rằng: “Lại, có công năng hiện quán pháp bốn Thánh đế nên gọi là Đối pháp”. Giải thích thứ năm nói rằng: “Lại, có công năng chứng được Niết-bàn nên gọi là Đối pháp”. Lỗi trái với hai tạng so sánh: Y tâm tăng thượng mà luận đạo, rằng: Tố-đát-lãm không có cảnh sở quán; y giới tăng thượng luận đạo rằng: Tỳ-nại-da không có các việc ngăn dứt; vì sao lại nương tuệ tăng thượng mà luận đạo, lại nói rằng: A-tỳ-đạt-ma có cả sở đối. Lỗi giải thích văn luận sai lầm: Có người cho rằng: Vì thành sở đối nên cho đó là Đối pháp. Giải thích, luận này rằng, trọng bài tụng tuy có năng đối, văn xuôi có cả sở đối, rất là Lầm. Một, là văn xuôi nhằm giải thích bài tụng đâu có thể nêu ra thể của Đối pháp, lại trái với tụng ư? Nếu có giải thích khác thì phải nêu riêng rõ ràng. Hai, là nếu trong văn xuôi lấy sở đối làm thể lẽ ra nói trong phần nêu ra thể” sao lại nói trong phần giải thích tên gọi. Trong văn xuôi này muốn giải thích năng đối gọi là Đối pháp cho nên, trước nêu hai pháp để giải thích tên gọi Pháp. Sau đó dùng tuệ vô tướng đối chiếu pháp này, nên gọi là Đối pháp. Đây là trước giải thích pháp sở đối. Lỗi giải thích tên gọi trái với luận: Có người đếm mười lần giải thích “tên” gọi nhưng đều chẳng giống cách giải thích “tên” trong các luận, phần lớn tự ý xuyên tạc vọng có cảnh, quả để giải thích tên của luận. Ngôn nghóa phức tạp không thể nói lại được. Nên nói rằng: Đó là giải thích Đối pháp trong kinh thì có hai lỗi: Lỗi trái với kinh; Lỗi trái với luận. Trong kinh nói hai lỗi: Lỗi trái với kinh. Luận Bà-sa dẫn tám kinh giải thích Đối pháp: Dẫn kinh Dược Xoa. Dẫn kinh Phiệt-sai. Nếu theo hai kinh này thì chỉ có tuệ vô lậu là thể của Đối pháp. Dẫn kinh Tây-di-ca, lấy không vô ngã, giác như thật làm tánh. Theo kinh này thì có cả tất cả pháp. Dẫn kinh Ổ-đà-di: Dùng diệt định làm thể. Đây là lấy phi đắc làm thể. Dẫn kinh A-nan-đà: Dùng tánh của nhân duyên và giác như thật làm tánh. Kinh này nếu có thân nhân duyên, hoặc mười hai nhân duyên tức là chỉ có hữu vi. Nếu có cả sáu nhân thì tức là tất cả pháp. Lại, dẫn kinh có tánh nhân duyên và vắng lặng kia đều lấy giác như thật làm tánh. Theo kinh này chép: Tánh nhân duyên tức là tánh của mười hai nhân duyên, và vắng lặng kia tức là Trạch diệt. Nếu nói, vắng lặng đi chung với phi trạch diệt thì vắng lặng này chẳng đi chung với Thánh đế. Thể của phi trạch diệt chẳng thuộc Thánh đế. Và “giác như thật” tức là trí hiểu biết về duyên khởi, chẳng thuộc về tất cả các trí. Đây là các giải thích khác nhau ở trong kinh chứ chẳng phải A-tỳ-đạt-ma trong ba tạng. Dẫn kinh A-nan-đà: Cho rằng: Các kiến chấp và giác như thật là tánh. Đây chỉ lấy một phần khổ tập đạo chứ chẳng chung với diệt đế. Lại Dẫn kinh. Tất cả các pháp và giác như thật là thể, đây là có chung trong tất cả pháp. Nay, lập “lý” Đối pháp là bốn Thánh đế. “Quả” Đối pháp là Niết- bàn. “Hạnh” Đối pháp là năng quán. Các pháp này không thuộc về hư không và phi trạch diệt. Cách lập Đối pháp này, trong tám kinh dù dựa vào kinh nào cũng đều bị lỗi thêm bớt, không có một kinh nào. Chỉ trừ khi dựa vào hư không và phi trạch diệt để lập Đối pháp. Đây là lỗi trái với kinh thứ nhất. Lỗi trái với luận: Luận Bà-sa, quyển một dẫn tám kinh giải thích Đối pháp xong, luận tự giải thích rằng: Trong các kinh này, tùy theo ý nghóa mà nói nhiều cách khác nhau nhưng thắng nghóa tự tánh chỉ có tuệ vô lậu là gốc, cho đến gồm chung thế tục Đối pháp. Luận đã không chấp các cách giải thích khác của Đối pháp. Nay giải thích văn luận thì, do đâu mà cho rằng chọn các giải thích khác là trái với luận. Luận chép: “Đã giải thích Đối pháp cho đến gọi là Đối pháp tạng”. Đây là nửa sau của bài tụng thứ hai, giải thích tên luận hiện nay, trong văn có ba: Phần đầu là kết dẫn, kế là nhóm đáp cuối là giải thích bài tụng. Đây là phần đầu. “Tụng chép cho đến danh từ Câu-xá. Trong phần “tụng đáp”, câu trên nói tên hai “thích danh”, câu dưới kết thúc tên “tạng”, Câu-xá là tiếng Phạm, Hán dịch là Tạng. Nói về Tạng: “Luận chép cho đến đây được gọi là Tạng”: Đây là phần văn xuôi giải thích văn tụng. Gồm có ba: Nói về y chủ thích. Nói về đa tài thích. Tổng kết tên “tạng”. Đây là dứt đầu của văn. Luận Chánh Lý chép: Đây là giải thích theo y chủ thích và đa tài thích. Tạng nghóa là chắc thật cũng như lõi cây. Đối pháp các nghóa chắc thật, trong luận đều thuộc nghóa này đó là nghóa Tạng, nên gọi là Đối pháp tạng. Theo văn luận này. Ấn-độ giải thích chữ Tạng có hai nghóa: Nghóa chắc thật giống như lõi cây. Nói cách khác lõi chắc thật của cây gọi là Tạng. Ví dụ như, trong luận Đối pháp, thắng nghóa là nghóa chắc thật tức thắng nghóa này gọi là Đối pháp tạng. Cũng như đem lõi cây làm các vật dụng thì, chính những vật dụng này là lõi cây. Dụ như, đem cái cốt lõi thắng nghóa trong Đối pháp tạng để soạn luận này. Luận này cũng gọi là Đối pháp tạng tức là thắng nghóa của Đối pháp tạng. Luận chép: “Hoặc đây nương kia cho đến nên cũng gọi là Tạng”. Đây là giải thích thứ hai, thuộc về đa tài thích. Luận Chánh Lý chép: “Tạng” là sở y, giống như “Đao tạng”. Nghóa là “Đối pháp” kia là chỗ nương của “Tạng”. Dẫn nghóa đó mà soạn luận này. Luận này lấy Đối pháp làm Tạng nên gọi là Đối pháp tạng tức là nghóa sở y của Đối pháp. Ấn-độ với nghóa thứ hai tức là dẫn nghóa sở y nên gọi là Tạng. Cũng như chỗ nương của dao gọi là Đao tạng, chỗ nương của lụa vải gọi là quyến bố tạng. Luận này nương vào Đối pháp mà Đối pháp là cốt lõi nên gọi là Đối pháp tạng. Đối pháp tức là tạng, thuộc về “trì nghiệp thích”. Luận này dựa vào Đối pháp tạng nên gọi là Đối pháp tạng tức là có Đối pháp, đều gọi là “Đối pháp tạng”, thuộc về đa tài thích. Luận Chánh Lý chép: Tạng là sở y, giống như Đao tạng, v.v… sở y của dụ này gọi là tạng, chưa nói đa tài. Luận Chánh Lý chép: Luận này lấy Đối pháp kia làm Tạng, gọi là Đối pháp tạng. Ở đây nói về Đa tài thích. Có người nói: Nhiều người không hiểu ý này, nói rằng: Đao tạng là đa tài thích, hoặc nói đao là sở y, tạng năng y, đều là nhầm cả. Nên xem kỹ văn. Nay, A-tỳ-đạt-ma và tạng đều là tên luận này. Luận này là A-tỳ- đạt-ma tức là Tạng. Gọi là A-tỳ-đạt-ma là Tạng tức Trì nghiệp thích. Luận này gọi là A-tỳ-đạt-ma tạng tức Đa tài thích. Đa tài thích tức là lấy toàn bộ tên của luận này. Nhưng luận này không có trì nghiệp thích, vì người đời sau, khi soạn luận, đều lấy nghóa chắc thật của luận này và dẫn nghóa đó nói là soạn luận này. Tất cả văn nghóa đều dựa vào luận xưa, Chẳng dám tự ý xuyên tạc. Có người nói, lẽ ra cũng có “Trì nghiệp thích”. Luận chủ không muốn tự chọn, chỉ suy công về gốc, không được ý luận. Nói về Đối pháp Tạng: Luận: “Cho nên, luận này gọi là Đối pháp tạng” đây là phần đúc kết tên “Tạng”. Luận chép: “Do đâu mà nói kia cho đến cung kính giải thích”. Dưới đây là bài tụng thứ ba nói về ý nghóa của Đối pháp, trước là nói về người. Gồm có ba, đây là phần đầu, trước bài tụng nêu câu hỏi. Tụng chép: Nói Đối pháp” là nêu bài tụng để đáp. Bài tụng có bốn trường hợp: Ba câu đầu đi chung một cụm. Câu bốn, hai chữ này dùng để trả lời ý chữ “thuyết”, hai chữ “truyền Phật” dùng để trả lời “tiên thuyết nhân” ba chữ “thuyết Đối pháp” để trả lời cả hai câu hỏi. Luận chép, cho đến… năng diệt các hoặc”: Là giải thích văn “tụng”. Ở đây giải thích: Dứt trừ mê lầm phải do Đối pháp. Luận chép: “Các hoặc năng khiến cho đến biển lớn sanh tử là nói về tai họa do “mê lầm” gây nên và phải dứt bỏ. Luận chép: “Do đó mà truyền rằng, Phật nói Đối pháp”. Tổng kết các hoặc trên dứt sạch là nói về năng đoạn. Do việc này nên Phật nói Đối pháp, tức Phật là người nói đầu tiên. Chữ “do đó” là nêu văn để trả lời. Luận: “Muốn cho thế gian đắc được trạch pháp”: Là giải thích ý bài “tụng” nói. Khiến các chúng sanh có được trạch pháp nghóa là chứng được tuệ vô lậu phân biệt bốn Thánh đế, dứt trừ các phiền não. Luận chép: “Lìa thuyết Đối pháp cho đến như lý phân biệt” là phần giải thích vặn hỏi tiềm ẩn. Nạn tiềm ẩn có hai: 1.Nạn thuyết ý; 2. Nạn thuyết nhân. - Về nạn thuyết ý: vì muốn cho chúng sanh có được trạch pháp nên nói Đối pháp. Như vậy, ý muốn nói hai tạng kinh và luật không có công năng ư? Đáp: Không nói Đối pháp, chỉ nói hai tạng kinh luật đệ tử không thể phân biệt đúng về tướng các pháp, phân biệt đúng như lý. Nói về người soạn: Luận chép: “Nhưng Phật Thế tôn cho đến truyền nói như vậy” giải thích câu hỏi thứ hai, trước nói người câu hỏi. Câu hỏi rằng, nếu Phật nói sao lại còn nói: Ca-đa-diễn-ni soạn ra? Luận Bà-sa quyển một, nêu lên hai giải thích: Nói Phật thuyết là do Ca-đa-diễn-ni-tử thọ trì giảng nói gọi là qui kính Phật. Nói Ca-đa-diễn-ni-tử soạn là vì trong kinh có nói rải rác. Theo đó, Ca-đa-diễn-ni tử góp nhặt lại rồi sắp xếp ổn định, là lối qui kính. Đây giải thích câu hỏi thứ hai. Ca-đa-diễn-ni-tử: Khoảng ba trăm năm sau Phật Niết-bàn. Ca-đa- diễn-ni-tử dựa vào Nhất thiết Hữu bộ soạn luận Phát Trí. Chữ “đẳng” chỉ cho sáu bộ luận như đã giải thích ở trước. Ca-đa, Hán dịch là Tiễn Thế, Diễn Hán dịch là chủng. Ni là tiếng chỉ cho nữ giới. Người này do một người nữ thuộc dòng họ Tiễn Thế sanh ra. Đặt tên theo họ mẹ , nên gọi là Ca-đa-diễn-ni-tử. Đây là một trong mười dòng họ của Bà-la-môn. Dòng họ Tiễn Thế là dòng họ cao quí tộc ở Ấn-độ. Sở dó gọi là dòng họ Tiễn Thế là vì, theo phép của Bà-la-môn, bảy tuổi trở lên học ở nhà, mười lăm tuổi trở lên thọ pháp Bà-la-môn, đi tham học đó đây. Đến bốn mươi tuổi, sợ không có con nối dõi, về nhà lấy vợ, sinh con. Đến năm mươi tuổi vào rừng tu đạo. Ngày xưa, vào kiếp sơ, có một người Bà-la- môn, sinh được hai người con rồi vào núi tu tập. Sau đó, hai người con đến thăm, thấy cha tóc tai rối bù, bèn cắt tóc cạo râu làm cho hình tướng cha trở nên gọn ghẽ đẹp đẽ. Các vị tiên chung quanh thấy vậy đều muốn cạo bỏ. Người em tánh tình hiền hòa lại hay thương người, liền đến cạo giúp. Người anh có tâm ngạo mạn nói rằng: Chẳng phải cha ta, không việc gì ta phải làm. Các vị tiên nổi giận đọc chú, nguyện cho người em rằng: Cho đến tận mạt kiếp, dòng dõi của con thường được giàu to, sang trọng, nguyện cho người anh rằng: Cho đến tận thời mạt kiếp, dòng dõi nhà ngươi thường nghèo cùng, phải làm nghề hớt tóc để sống. Do vậy, nay ở Ấn-độ thấy có hai dòng họ: Dòng họ người em gọi là dùng họ Tiễn Thế rất giàu sang không phải làm việc hớt tóc. Dòng họ của người anh lại vô cùng nghèo khổ, làm nghề hớt tóc để sống qua ngày. Đó là do năng lực chú nguyện khiến cho như vậy. Giải thích: Pháp Cứu, tiếng Phạm là Đàm-ma-đa-la, ra đời sau Phật Niết-bàn ba trăm năm. “Đẳng” chỉ cho “không”, “vô ngã” v.v… “Ổ-đà-nam”, Hán dịch là tự thuyết, tức là kinh thuộc bộ loại thứ năm trong mười hai bộ, kinh này do Phật tự nói, không do người hỏi. Đại đức Pháp Cứu, với những bài kệ tụng về vô thường do Phật nói, đã gom lại tphẩm Hành Vô Thường. Kệ tụng do Phật nói về không vô ngã, thì gom lại tphẩm Hành Vô Ngã. Cho đến, Phật nói về Phạm Chí tụng đã lập tphẩm Hành Phạm Chí, ở Ấn-độ hiện có bản Phạm đang được lưu hành riêng. Hoặc nói Xướng-Đà-nam, Hán dịch là Tập tán, tức tập tán thuyết. Hoặc dịch là “tập thi”. Tập là sở thuyết; thi là hữu tình. “Sư Tỳ-bà-sa truyền thuyết như thế. Tỳ Hán dịch là Quảng, lại dịch là thắng, là dị. Bà-sa dịch là nói. Đó là nghóa phân biệt trong luận. Rộng thì nói là nói rộng; nói nghóa cao siêu thì gọi là thắng thuyết. Năm trăm vị La-hán, mỗi vị đều dùng “dị nghóa” để giải thích luận Phát Trí nên gọi là thuyết khác. Có đủ ba nghóa này, nên còn trong âm Phạm. Nói “truyền thuyết” là nói về sự không tin của mình. Luận Chánh Lý chép: Các vị đại Thanh văn như Xá-lợi-tử v.v… đối với các pháp tướng, cũng không có công năng phân biệt đúng lý được cho nên luận này dựa vào A-tỳ-đạt-ma căn bản chắc chắn là do Phật nói và chủ trương của kinh Lượng Bộ mà xưng truyền. “Nói lên sự không tin của mình: A-tỳ-đạt-ma là do Phật nói”. Vì sao không tin? “Truyền” là nghe Tôn giả Ca-đa-diễn-ni-tử v.v… soạn không nói Đối pháp là sở y. Chẳng hạn Đức Thế tôn bảo A-nan-đà: Các thầy từ nay dựa vào kinh Lượng vì Đối pháp của các bộ có ý nghóa và chủ trương rất khác nhau; tất cả đều không đúng. Các vị đại Thanh Văn theo lời dạy của Phật mà kết tập, cho đến nói rộng. Luận chép: “Hà pháp nào gọi là cho đến nói Đối pháp chăng?”. Trên đây, là giải thích tên. Thể của luận đồng thời cho rằng người nói v.v… đều là phát khởi, giải thích các bản tụng. Dưới đây là thứ hai, là phần chánh tông, gồm sáu trăm bài tụng. Trong đó, phẩm Giới có bốn mươi bốn bài - hai mươi lăm bài đầu nói chung về pháp hữu lậu, vô lậu. Mười chín bài sau, chia ra các môn. Trong hai mươi lăm bài, ba bài đầu chia tất cả pháp thành hữu lậu, vô lậu, hai mươi hai bài kế chia thành năm uẩn, mười hai xứ v.v… Y theo phần trước có ba: Tụng trước kết dẫn. Nêu tụng đáp. Văn xuôi giải thích. Đây là nêu câu hỏi. Sau đều giống nhau, không giải thích lại rườm rà. đáp. Tụng chép: Cho đến riêng được phi trạch diệt”: là nêu bài tụng Luận chép: “chép cho đến… vị hữu lậu, vô lậu là văn xuôi giải thích, trong văn có hai: 1/ Chia ra hai chương môn; 2/ Y chương giải thích riêng. Đây là phần đầu. Pháp hữu lậu hữu vi: Luận chép: “Pháp Hữu lậu thế nào, cho đến pháp hữu vi”, còn lại: Đây là phần hai. Y chương giải thích riêng, văn gồm có hai: Giải thích hữu lậu. Giải thích vô lậu. Nói hữu lậu: Tất cả các pháp hữu vi, trừ đạo đế, còn lại đều thuộc về hữu lậu. Luận chép: “Vì sao?” tức nêu lên rằng: Tất cả các pháp hữu vi đều là nguyên nhân của hữu lậu. Luận chép: “Các lậu ở trong đó tùy tăng”: là trả lời. Các pháp hữu vi đó gọi là hữu lậu, vì các lậu như chấp thân v.v… đối với các pháp khổ, tập đều theo đó mà tăng thêm nên gọi là Hữu lậu. Luận chép: “Duyên diệt đạo đế cho đến tự sẽ bày nói” câu này giải thích lời hỏi, hỏi rằng: Các lậu như chấp thân v.v… do duyên với cả bốn đế mà sanh ra. Thế thì vì sao chỉ có khổ đế và tập đế mới gọi là hữu lậu, còn Diệt đế và Đạo đế lại không. Đáp: Duyên với hai đế diệt và đạo, các lậu tuy sinh khởi nhưng không theo đó mà tăng lên nên chẳng phải hữu lậu. Bất tùy tăng sẽ được giải thích sau. Khoảng năm trăm năm sau Phật Niết-bàn, ở nước Thổ-hoa-la- phược, Luận sư Pháp Thắng soạn Luận A-tỳ-đàm tâm. Trong đó chép: Nếu phát sanh phiền não, thì bậc Thánh gọi đó là hữu lậu. Đến khoảng sáu trăm năm, Đạt-ma-đa-la soạn Luận Tạp A-tỳ-đạt-ma tâm cho rằng: Từ “sanh” là quá lạm nên đối lại rằng, nếu làm “tăng” thêm phiền não thì bậc Thánh gọi đó là Hữu lậu, đây là sửa văn chẳng phải sửa nghóa. Luận Chánh Lý chép: Thế nào là tùy miên? Tức là các pháp tương ưng và cảnh sở duyên của nó đều có nghóa tùy tăng. Như các Sư Quó Phạm ở trước nói rằng: Như ở cạnh thành ấp nọ có đống rác gồm đủ thứ phân, nước, đất v.v… Trong đống rác, sự nhơ nhớp của phân làm cho đất nước v.v… trở thành bất tịnh, lại do năng lực của nước khiến phân càng hôi. Cả hai tương tác qua lại, hôi thối không chịu nổi. Cũng vậy, trong đống phiền não tương ưng, do năng lực của phiền não làm nhiễm ô tâm, tâm sở. Đồng thời, năng lực của tâm, tâm sở làm cho phiền não tăng thêm. Cả hai dựa vào nhau thành đống ô uế. Đống này tiếp tục tồn tại thì ô uế càng thêm dần. Thêm vào đó, còn khiến cho tùy hành sanh v.v… thành ô nhiễm. Cũng như các loài heo, chó v.v… ở trong đống rác, lấy làm ưa thích, ngủ nghỉ đùa giỡn, khiến phẩn bùn càng trở nên hôi hám. Lại do heo, chó làm cho đống rác tăng dần thêm lên. Tự địa hữu lậu sở duyên do năng lực phiền não nên nghóa hữu lậu mới thành. Sau lại do sức của năng thuận phiền não khiến cho ba phẩm kia dần dần tăng lên. Đoạn văn luận ở trên, giải thích pháp tự địa hữu lậu giống như heo v.v… phiền não như phân, tương ưng như đất nước. Ví dụ để làm sáng tỏ: Như người sạch sẽ lỡ té xuống hố rác, tuy đụng phải vật nhơ nhưng người sạch không phải là chỗ để nhớp nhúa tăng thêm, cũng không làm tăng thêm đống nhớp nhúa. Như vậy, vô lậu dị giới địa pháp tuy cũng bị phiền não duyên vào nhưng chỉ có nghóa đối nhau kia mà không có nghóa “tùy tăng”. Phiền não duyên với dị địa vô lậu , chỉ đối với tương ưng là có lý tùy tăng. Theo đây, nên biết: Khổ tập và hữu lậu thêm lớn lẫn nhau. Tuy hữu lậu và cảnh lại thêm lớn lẫn nhau nhưng chỉ tăng “lậu” nên gọi là hữu lậu; không hề tăng cảnh. Theo giải thích này thì, cảnh có thể làm tăng thêm “lậu”, nên gọi là hữu lậu. Nghóa là vừa năng sanh, vừa năng tăng “lậu”, nên gọi là hữu lậu. Như thửa ruộng màu mỡ làm nảy mầm mạ, cũng giúp cho phát triển, gọi là có mầm. Còn như ruộng muối tuy mọc được mầm mạ nhưng không thể làm cho phát triển nên gọi là không mầm. Khổ và Tập có công năng làm nảy sinh, lại có công năng làm thêm lớn, nên gọi là Hữu lậu. Hai đế Diệt và Đạo tuy làm phát sanh nhưng không làm tăng thêm phiền não nên gọi là vô lậu. Giải thích chữ lậu: Nhưng, giải thích chữ “Lậu” có chánh, có phủ. Dưới đây sẽ giải thích chữ “Lậu” với nhiều nghóa: Nghóa trú gọi là lậu. Chỉ cho các loài hữu tình ở trong sanh tử. Nghóa Lưu gọi là lậu, nghóa là trôi lăn. Chỉ cho các loài hữu tình trôi lăn trong sanh tử. Y theo hai giải thích đó thì chữ “lậu” là nghóa rộng, chữ “lưu” là nghóa hẹp. Lậu là chung với nghóa lưu nghóa trú. Lưu là trôi lăn không chung với nghóa Trú. Lại, nghóa lưu là nghóa rộng, chung với bàng thuận. Lậu là nghóa hẹp không chung với thuận lưu. Hai giải thích này từ dụ mà đặt tên. Như đê điều để ngăn nước, tức là vọng chánh lưu trú mà không trái dụ này. Sáu căn làm sanh phiền não tức ở trong sanh tử, không thuận dòng chính hướng về Niết-bàn. Tuy cũng do nghiệp mà ở trong sanh tử nhưng nếu không có phiền não thì cho dù có nghiệp cũng không phải chịu, phiền não gọi là lậu nghiệp chẳng gọi là lậu. Luận Tỳ-Bà-sa chép: Phiền não lưu trú thì chắc chắn, hành thì bất định, cũng như nước rò rỉ xuyên phá đê điều, còn chảy quanh khắp nơi thì làm hại lúa mạ. Dụ cho phiền não làm vỡ đê điều sáu căn, lại chảy quanh làm tổn hại mầm giống pháp lành. Tuy nghóa chữ “lậu” có hai giải thích khác nhau nhưng đều là nghóa chính. Ngay nơi “lậu” mà giải thích. Bốn giải thích theo luận Bà-sa: Luận Bà-sa có bốn giải thích. Đó là nghóa “ngâm thấm”, nghóa “chủ”, nghóa “trì” và nghóa “say”. Nghóa “ngâm” thì cũng như hạt được ngâm sẽ có kết quả nẩy mầm. Nghóa “Chủ” thì như kẻ tôi tớ bị chủ ngăn cản không thể lui tới qua lại. Chúng sanh bị kiết sử ngâm giữ không thể ra khỏi ba cõi. Nghóa “trì”, ví như có người bị quỉ lôi kéo, không nên nói lại nói, không nên làm lại làm. Chúng sanh bị kiết sử dẫn dắt cũng vậy, nghóa “say” như người say rượu thì không biết xấu hổ. Chúng sanh bị kết sử làm mê lầm cũng vậy. Do “hoặc” có đủ các nghóa như vậy nên gọi là “lậu”. Giải thích bốn nghóa này cũng gọi là “phụ”. Nói về Vô lậu: Luận chép: “Đã nói về hữu lậu, còn vô lậu thì thế nào?” Đây là phần hai, giải thích “vô lậu” gồm có bốn: Văn trước kết dẫn. Nêu thể vô lậu. Giải thích nghóa vô lậu. Giải thích ba vô vi. Luận chép: “Đó là đạo Thánh đế và ba vô vi”: Đây là thứ hai nêu “thể” của vô lậu, có ba: Nêu chung thể của pháp. Nêu tên vô vi. Kết luận về “vô lậu”, đây là phần đầu. Luận chép: “Ba đó là gì cho đến trạch, phi trạch diệt” đây là thứ hai nêu tên vô vi. Luận chép: “Hư không này v.v… gọi là pháp vô lậu”, đây là thứ ba kết luận về tên gọi vô lậu. Luận chép: Vì sao cho đến vì bất tùy tăng” đây là thứ ba, giải thích nghóa “vô lậu”, vì các lậu như tham v.v… đối với đạo Thánh đế và các vô vi. Không theo đó mà tùy tăng được. Trong đó, đạo đế, diệt đế có duyên mà không thêm, hư không và phi trạch diệt không duyên cũng không thêm. Luận Chánh Lý chép: Các pháp vô lậu, luận sư sắp xếp đặt ra. Thí dụ Luận sư tạo tác một cách nhầm lẫn về các thuyết này, ngược với lý, trái với kinh. Chẳng phải các loài hữu tình khi lìa được lỗi trong thân thì các pháp sắc, thọ v.v… gọi là pháp vô lậu. Ở đây, hẳn là không đúng, trái với khế kinh. Như Khế kinh chép: Đó là tất cả các sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại làm cho tham, sân, si thêm lớn ở hiện tại cho đến nói rộng, chẳng phải tất cả sắc v.v… trong thân lìa lỗi của các loài hữu tình, đã làm cho các tham, sân v.v… ở hữu tình thêm lớn thì làm sao gọi là vô lậu. Vì sao? Vì Vô Tỉ, Chỉ man, Ô-lư-tần-loa Ca-diếp-ba v.v… duyên vào sắc thân Thế tôn khiến cho thêm lớn các pháp hữu lậu như tham sân, si v.v… các chấp kia xét về ngôn ngữ thì chẳng phải là “cảnh thứ bảy” mà là nương thứ bảy, như dầu ở trong mè. Làm chỗ dựa cho lậu thì gọi là hữu lậu. Điều này không hợp lý. Từ quá khứ, vị lai mà nói sanh khởi ở hiện tại, chưa hề nói nương vào quá khứ, vị lai mà phát khởi tham sân v.v… cho nên biết chấp kia chắc chắn là không đúng, cho đến nói rộng. Lại, tất cả các âm thanh lẽ ra đều là vô lậu mới phải, vì âm thanh không phải là chỗ dựa của hữu lậu. Không nên chấp âm thanh là vô lậu. Kinh chép: Thể của âm thanh là tạp nhiễm. Lại, các hiển sắc như phẩn nhơ, rượu, v.v… Chẳng phải là chỗ nương của hữu lậu, lẽ ra chúng là vô lậu mới phải. Từ đó mà phân chia rộng ra. Lại nói, Thí Dụ bộ cho rằng mắt, tai v.v… trong thân phàm phu lẽ ra cũng chẳng phải là chỗ nương của hữu lậu; nói cách khác đó là kiến chấp cho năm thức là vô nhiễm ô. Giải thích bốn vô vi: Luận chép: Đối với lược nói cho đến sắc hành trong đó: Đây là thứ tư giải thích bốn vô vi, trong đó có ba: 1/ Hư không vô vi; 2/ Trạch diệt vô vi; 3/ Phi trạch diệt vô vi. Nêu tên mà chưa giải thích nên gọi là lược, tuy các bộ phái nói về vô vi không giống nhau nhưng đều chấp nhận ba thứ vô vi này. Phái Đại thừa thêm ba vô vi nữa, đó là bất động, tưởng thọ diệt và ba tánh chân như. Đại Chúng bộ thêm sáu vô vi nữa, đó là bốn Vô Sắc, tánh duyên khởi và tánhThánh đạo. Hóa Địa bộ thêm sáu vô vi, đó là bất động, thiện pháp chân như, bất thiện pháp chân như, vô ký pháp chân như, Thánh đạo chi chân như và duyên khởi chân như. Nhất Thiết Hữu Bộ lập ba vô vi; nhưng trong đó, hư không chỉ lấy vô ngại làm tánh, lược bỏ các pháp khác. Nói “vô ngại” nghóa là phân biệt sắc thì thấy sắc pháp có chướng ngại. Nói “chỉ lấy” nghóa là phân biệt tâm, tâm sở, các pháp tương ưng, thấy rằng thể của hai thứ vô vi này tuy vô ngại như hư không nhưng lại có tự thể riêng, chẳng phải “chỉ lấy” vô ngại làm tánh. Nói về tướng trạng hư không: Sắc hành trong đó: Là giải thích tướng trạng hư không. Sắc là pháp có chướng ngại mà ở trong hư không lưu hành được là nói về tính vô ngại của hư không. Sắc ở trong các pháp chất ngại sẽ không lưu hành được. Pháp vô ngại lưu hành trong hư không cũng không làm rõ tính vô ngại của hư không, nhưng ở trong các pháp chất ngại thì nó vẫn lưu hành được. Luận Chánh Lý giải thích. Hư không chỉ lấy vô ngại làm tánh, trong đó các pháp hiện rất rõ ràng, gọi là hư không, tướng của nó là vô chướng. Tất cả đại chủng và nhóm sắc sở tạo, tất cả không thể che khuất hết được. Cũng chẳng phải sở chướng, cũng chẳng phải năng chướng cho nên nói tướng của nó là vô chướng. Theo văn luận này thì, chẳng phải năng chướng sở chướng nghóa là phân biệt sắc của không giới thì thấy nó không phải năng chướng cũng chẳng phải sở chướng, chỉ lấy vô ngại làm tánh, cũng giống với luận này. Luận Bà-sa chép: Nân nói rằng thật có hư không nhưng vì không biết nên nói là phi hữu. Trong giáo và lý trước đó đã nói thật có hư không. Hỏi: Nếu vậy, hư không có tác dụng gì? Đáp: Hư không vô vi chẳng có tác dụng nhưng có công năng làm duyên tăng thượng cho các loại hư không khác. Các loại hư không có thể làm duyên tăng thượng gần cho các pháp đại chủng. Các pháp đại chủng có thể làm duyên tăng thượng gần cho hữu đối tạo sắc v.v… hữu đối tạo sắc có thể làm duyên tăng thượng cận cho tâm, tâm sở. Nếu chẳng có hư không thì như thế nhân quả xoay vần, theo thứ lớp đều không thành lập được. Chớ nên có lỗi này. Cho nên thể tướng của hư không là thật có, không thể bác bỏ cho là không. Luận chép: “Trạch diệt là dùng cho đến gọi là trạch diệt”: Là giải thích hai thứ diệt, gồm có ba: Nêu thể tánh. Giải thích vì sao có tên như vậy. Nói về sự đồng khác. “Trạch diệt lấy ly hệ làm tánh” nêu tên ly hệ để hiển bày thể của trạch diệt. Ly hệ là các pháp hữu lậu xa lìa sở duyên ràng buộc tự tánh chứng được giải thoát; chính giải thoát này gọi là Trạch diệt. Và trạch diệt này lấy ly hệ làm tánh. Luận chép: “Trạch là phân biệt cho đến gọi là trạch diệt” đây là giải thích lý do vì sao là trạch diệt. Trong đó có hai: Pháp thuyết. Dụ hiển. Trạch là phân biệt tức tuệ sai khác. Quyết đoán là trí, suy tìm là kiến; trạch pháp là tuệ. Phân biệt là tên chỉ cho công năng khác nhau của tuệ. Do tám nhẫn trí v.v… mỗi mỗi đều phân tích phân biệt bốn Thánh đế nên gọi là trạch. Do năng lực phân biệt, chứng được “diệt” nên gọi là trạch diệt. Do tuệ phân biệt lý bốn Thánh đế, dứt trừ phiền não, chứng được diệt này, rồi theo năng chứng mà nói đó là trạch diệt. Nói về pháp này, ý các luận đồng nhau. Có người nói, tuệ hữu lậu khác tuệ vô lậu gọi là tuệ sai khác, hoặc vô nhiễm khác với hữu nhiễm gọi là tuệ sai khác. Giải thích này là sai. Trong đây, nói tuệ phân biệt bốn Thánh đế là nói trạch, bất trạch tuệ hữu lậu, tuệ vô lậu v.v… Ví dụ để làm sáng tỏ: Luận chép: Như xe chở bò cho đến nói như vậy: Đây là thứ hai, phần dụ hiển. Xe bò là đã lược bỏ hai chữ “sở giá”, trạch diệt là lược bỏ ba chữ “lực sở đắc”, nên gọi là Trạch diệt. Luận chép: “Tất cả pháp hữu lậu đồng một trạch diệt phải không?” Đây là nói về đồng khác. Quan điểm của Chánh Lượng bộ, tất cả các pháp hữu lậu đồng một trạch diệt. Luận Bà-sa chép: Chỉ nội pháp mới có. Kinh Bộ có nói: Trạch diệt là vô thể. Vì để đối với các tông nên nêu câu hỏi. Trong đó có bảy: Hỏi. Lược đáp. Hỏi lại. đáp rộng. giải thích ngược lại. bắt bẻ. Giải thích. Đây là hỏi. Luận chép: Không đúng: Là lược đáp. Luận chép: Vì sao là hỏi lại. Luận: “Tùy hệ sự mà khác”: đây là nêu tụng để đáp rộng. Luận: “Là tùy hệ sự lượng, việc ly hệ cũng thế”: đây là giải thích văn. Sự, là thể sự, là tùy theo thể của sở hệ mà có nhó sở thể. Trạch diệt cũng vậy, có nhó sở. Nói tùy hệ sự nghóa là phân biệt pháp vô lậu. Giải thích ngược lại: Luận chép: Nếu không đúng cho đến các phiền não diệt”: đây là giải thích ngược lại. Nếu thế thì không bằng Hữu bộ, tùy hệ sự lượng mỗi mỗi đều trạch diệt thì có lỗi. Nói về đồng loại: Luận chép: “Nếu như thế cho đến thì là vô dụng” nếu như nghóa trước thì có lỗi sau. Vì vốn muốn chứng “diệt” làm cho “hoặc” không sanh, nên phải tu các pháp đối trị khác Khi đã chứng diệt rồi, tu các đối trị khác là vô dụng. Luận chép: “Y theo nghóa nào mà nói diệt không có đồng loại”. Đây là nạn của Chánh lượng bộ. Nếu không như ngã tông đồng một trạch diệt thì có rất nhiều trạch diệt đồng loại, thế thì dựa vào khi nào mà nói trạch diệt không có đồng loại. Luận chép: “Y diệt tự vô cho đến đều là đồng loại”: đây là hỏi chung. Trừ sơ vô lậu, tất cả các pháp hữu vi đều từ nhân đồng loại sanh ra. Lại nhân đồng loại với các pháp đó , chẳng thể không gọi là đồng loại. Trạch diệt tự nó vốn không sinh từ nhân đồng loại , cũng không làm nhân cùng loại cho các pháp khác, nên nói rằng: Trạch diệt không có đồng loại. Đây là giải thích đầu trong luận Bà-sa quyển hai mươi mốt. Nay giải thích trạch diệt chia ra năm phần: 1/ Nêu thể tánh. 2/ Nói về lý do khiến có tên gọi. 3/ Đắc sai khác. 4/ Chứng đồng khác. 5/ Dứt khác nhau. Nêu thể tánh: Trong bảy mươi lăm pháp, lấy trạch diệt làm thể. Trên mỗi cực vi của pháp hữu lậu, trong từng sát-na đều có một trạch diệt tiêng cho nên luận nói tùy theo số lượng của các ràng buộc mà có các trạch diệt tương ứng. Nói về lý do khiến có tên. Tuệ khéo léo khác nhau gọi là trạch, do năng lực phân biệt nên gọi là trạch diệt, thuộc về y chủ thích. Nói về sai khác, có bốn: Nói về nghóa đúng. Nêu thuyết khác. Nói về những điểm trái với lý giáo. Giải thích chung câu hỏi của người ngoài. Nói về các thứ dứt: Nói về nghóa đúng: tự thân phiền não, câu hữu và đắc, tùy theo các phẩm kia mà có pháp đối trị thích hợp, đến khi lìa bỏ thân thì gọi là chứng được trạch diệt. Do tự tánh dứt mà chứng được trạch diệt. Tha thân nhiễm pháp, tất cả sắc, bất nhiễm hữu lậu Vô Sắc, tất cả vô vi. Do duyên với các pháp đó, tự thân phiền não cho đến rốt ráo cùng tận thì tất cả vô vi trên pháp bị trói buộc bấy giờ khởi được dứt năng phược dứt. Hỏi: Làm sao biết được như vậy? Đáp: Trong phẩm Tùy miên của luận này nói, do đó nên nói rằng: Dứt trừ phiền não chắc chắn từ đâu. Tức dứt trừ phiền não v.v… trong sự nối tiếp của chính nó. Do chứng “Dứt ” cho nên dứt trừ phiền não kia trong sự nối tiếp của chính nó, và dứt trừ tất cả sắc và pháp bất nhiễm. Tứ phiền não năng duyên mà rốt ráo dứt trừ các hoặc lậu trong sự nối tiếp của nó. Theo văn luận nên biết rằng: Hai thứ dứt này đều chứng được quả vô vi. Hỏi: Y theo văn nào để chứng biết, phiền não được dứt là tự tánh dứt, dứt trừ pháp bất nhiễm… là duyên buộc dứt. Đáp: Luận này quyển mười sáu nói vì sao pháp thiện trong các địa hữu lậu, chỉ có đạo sau rốt mới có công năng dứt trừ, ngoài ra đều không thể, do các pháp thiện chẳng thuộc về tự tánh dứt và dứt rồi có thể vẫn còn hiện khởi. Nhưng chỉ khi hết duyên với các phiền não kia mới gọi là dứt trừ các pháp thiện kia, lúc đó các pháp thiện không còn bị ràng buộc. Từ đó cho đến khi duyên các phiền não còn một loại chưa dứt trừ thì ý nghóa “dứt ” không thành, và lúc đó pháp thiện chưa lìa trói buộc. Y theo văn luận nên biết rằng: Khi dứt xong không còn hiện hành, gọi là tự tánh dứt, dứt xong mà vẫn có thể hiện hành gọi là duyên buộc dứt. Lại, Chánh Lý quyển 6 nói, các Đại luận sư của A-tỳ-đạt-ma y theo kinh dạy mà thành lập hai thứ dứt: Tự tánh dứt. Duyên buộc dứt. Nếu pháp là kiết sử, nhất quả v.v… thì khi có được pháp đối trị thì chúng sẽ bị dứt trừ; đó gọi là tự tánh dứt. Do dứt trừ kiết sử, cho nên các pháp thiện bị duyên đều được giải thoát, không cần phải được bất thành tựu trong đó, đó gọi là duyên buộc dứt. Trong đây, nếu tất cả sắc hữu lậu hoặc bất nhiễm ô hữu lậu Vô Sắc và các pháp đắc, sanh v.v… kia mà dứt trừ các kiết sử trói buộc trong thấy đạo và tu đạo. Như vậy khi các kiết sử được dần dần dứt trừ theo thứ lớp là chúng được ly hệ trên thể của mỗi loại. Các kiết sử và nhất quả v.v… kia đều được gọi là đã dứt, trên đây giải thích tự tánh dứt. Nói “Nhất quả” là kiết sử và pháp câu hữu v.v… Đẳng là thủ đắc ngang nhau. Sắc Hữu lậu, bất nhiễm ô hữu lậu Vô Sắc và các pháp đắc, sanh v.v… trong đó được ly hệ. Bấy giờ, nếu chưa khởi thì chưa gọi là dứt. Vì các pháp kia chỉ tùy thuộc vào sự không đứt quãng sau cùng. Trên đây là giải thích sở duyên dứt. Y theo văn trên, tự thân phiền não, pháp câu hữu và nhị pháp đắc do có phương pháp đối trị, dứt trừ từng phẩm, khi trừ được gọi là chứng đắc trạch, chẳng phải do dứt trừ phiền não năng duyên mà gọi là được trạch diệt. Nêu thuyết khác: Nêu thuyết khác, có hai: Các bậc cổ đức từ Pháp sư Thái về trước, giải thích rằng: Các kiết sử trong hai đế khổ, tập đồng nhất với trói buộc. Tuy chưa dứt mười kiết sử phẩm buộc ở tập đế, chỉ dứt trừ nó ở phẩm hạ của khổ đế thì cũng đã chứng được ly hệ ở đây. Do các kiết sử này gần gũi và khi lìa được nó thì sở buộc được giải thoát. Như người khi lìa bỏ được gông cùm ngay trên trên thân thì nói rằng: Người đó được giải thoát. Còn các kiết sử xa tuy chưa lìa được nhưng vẫn được giải thoát. Như người ở trong nhà giam, tuy chưa ra khỏi cổng nhà tù nhưng đã cởi bỏ được những gông cùm trên thân gọi là đã giải thoát. Trên đường tu đạo, chín phẩm trói buộc cũng vậy. Khi dứt được phẩm đầu tức là phẩm gần nhất đã lìa được trói buộc, gọi là giải thoát. Sự trói buộc từ xa của tám phẩm còn lại, tuy chưa dứt trừ mà chỉ dứt nhiễm ô ở phẩm đầu cũng gọi là được giải thoát. Ngoài ra, tám phẩm kia sẽ theo giải thích này mà hiểu. Chỉ có nhiễm ô sắc và năm uẩn bất nhiễm được dứt trừ hết ở phẩm thứ chín thì , các trói buộc mới được gọi là giải thoát. Ngài Tam Tạng đời Đường và các sư thuộc Đại thừa, Tiểu thừa, đời sau giải thích rằng: Hỏi, nếu lìa trói buộc, chứng đắc trạch diệt thì như khổ trí đã sanh, tập, trí chưa sanh, dứt trừ khi thấy khổ, nhưng vì phiền não còn ràng buộc khắp nơi phẩm hạ của Tập đế thì làm sao gọi là chứng trạch diệt được? Trong chín phẩm tu đạo hễ dứt được bất cứ một phẩm nào đó cho đến tám phẩm trước. Vẫn còn bị ràng buộc vì phẩm sau thì làm sao gọi là chứng “diệt”. Giải thích: tuy dứt trừ năng phược thì sở phược được giải thoát tức chứng được trạch diệt. Nhưng phiền não năng phược có mạnh có yếu: Tương ứng phước tức phiền não phược, cùng khởi lên với tâm, tâm sở, khiến các pháp bị duyên không được tự tại. Sở duyên buộc, nghóa là phiền não duyên với các cảnh, có một thế lực trói buộc cành sở duyên này làm cho không thể tự tại. Trong duyên trói buộc lại chia làm bốn: Đồng bộ đồng phẩm. Đồng bộ dị phẩm. Dị bộ đồng phẩm. Dị bộ dị phẩm, cùng với tương ưng ở trước, gồm chung là năm phược. Trong năm phược, dứt phược mạnh thì gọi là chứng diệt, dứt phược yếu thì không gọi là chứng. Nói Mạnh yếu: 1/ Năng lực tương ưng phược mạnh nhất. Đồng bộ đồng phẩm phược có sức mạnh thứ hai. Đồng bộ dị phẩm phược sức mạnh xếp thứ ba. Dị bộ đồng phẩm phược năng lực hơi yếu. Dị bộ dị phẩm phược sức nó yếu nhất. Nói về năm phược: Trong năm phược, ba phược đầu mạnh, hai phược sau yếu. Nếu dứt ba phược đầu tùy theo hoàn cảnh, thì chứng được trạch diệt. Hai thứ sau vì sức yếu nên chẳng do dứt mà chứng đắc trạch diệt. Như pháp thấy khổ mà dứt ở thấy đạo có hai thứ: Tương ưng pháp. Đắc bốn tướng. Về pháp tương ưng có đủ năm phược. Đắc và bốn tướng chỉ có bốn phược, trừ tương ưng phược. Như khổ trí đã sanh, tập trí chưa sanh và kiến khởi thì dứt tương ưng pháp, do dứt trừ tương ưng phược, Đồng bộ đồng phẩm phược, Đồng bộ dị phẩm phược nên chứng được trạch diệt, tức là do dứt các phược sức mạnh. Đắc và bốn tướng, do dứt trừ Đồng bộ đồng phẩm phược, Đồng bộ dị phẩm phược cho nên chứng được trạch diệt là do dứt phược sức mạnh. Tương ưng pháp này cùng với Đắc, bốn tướng, lúc đó tuy do Dị bộ đồng phẩm, dị phẩm biến hành hoặc trói buộc ở phẩm hạ của tập đế nhưng do sức yếu cho nên vẫn gọi là Chứng đắc trạch diệt. Lại, bấy giờ tuy dứt trừ bốn phược sau, Dị bộ đồng phẩm, Dị phẩm thấy khổ thì dứt bị ràng buộc nhưng không thể gọi là chứng được bốn vô vi sau vì chưa dứt trừ các trói buộc mạnh. Dứt trừ phiền não ở thấy đạo, chín phẩm cũng giống với dứt phẩm, y theo một hoặc cần dứt có chín phẩm cho nên có thể nói đồng phẩm dị phẩm. Như phiền não cần dứt ở khổ, tập, diệt, đạo với thấy đạo, mỗi đường đều có hai thứ. Y theo giải thích rất dễ hiểu. Ba thứ tu đạo dứt: Tu đạo thì dứt gồm có ba thứ: Nhiễm tương ưng. Đắc và bốn tướng trong pháp nhiễm tương ưng. Các pháp hữu lậu còn lại là nhiễm sắc và đắc, bốn tướng, năm uẩn bất nhiễm ở trên sắc này. Loại đầu có cả năm phược; hai thứ sau, mỗi loại đều có bốn phược trừ tương ưng phược chẳng phải tương ưng. Nếu dứt phẩm đầu pháp nhiễm tương ưng thì do đoạn tương ưng phược, Đồng bộ đồng phẩm phược cho nên chứng được giải thoát. Do dứt trừ phược mạnh. nên lúc đó tuy tám phẩm còn lại của Đồng bộ dị phẩm mặc dù phước lực yếu nhưng cũng chứng được vô vi; khác nhau với thấy đạo, dứt trừ phiền não từ phẩm nhất đến phẩm chín trong thấy đạo do đó Đồng bộ đồng phẩm, Dị phẩm đều có thể nói là mạnh. Dứt riêng từng phẩm trong chín phẩm tu đạo do đó Đồng bộ dị phẩm gọi là lực yếu. Hoặc có thể nó Đồng bộ dị phẩm thấy đạo cũng gọi là yếu. Như các phàm phu dứt trừ lẫn lộn năm bộ. Tùy dứt phẩm trước mà chưa dứt trừ phiền não trói buộc ở giai vị thấy đạo vì lực phược yếu ớt. Do đó cũng chứng trạch diệt do đó mà nói phải biết là yếu kém. Nếu trước đã dứt trừ các hoặc biến hành đồng phẩm, Dị phẩm của Dị bộ dù không dứt được các hoặc ấy cũng chứng được vô vi do phược yếu kém. Sơ phẩm nhiễm đắc, bốn tướng. Khi dứt sơ phẩm, do dứt trừ Đồng bộ đồng phẩm phược năng lực mạnh cho nên chứng được vô vi. Đồng bộ dị phẩm, Dị bộ đồng phẩm, Dị phẩm đều y theo thuyết trước. Như dứt phẩm đầu, tám phẩm còn lại dựa theo giải thích đó sẽ hiểu. Các pháp hữu lậu khác cũng có chín phẩm. Suy nghó giải thích cũng tương đương như trên. Khi nói Đồng phẩm, Dị phẩm và các pháp hữu lậu khác, do dứt trừ các phược đồng bộ, Đồng phẩm dị phẩm lực cho nên chứng được vô vi. Dị bộ đồng phẩm, Dị phẩm trước đã dứt, nhưng cho dù không dứt cũng chứng được trạch diệt vì năng lực của hoặc yếu. Lại, các pháp hữu lậu này là duyên buộc dứt, phải dứt hết chín phẩm phiền não năng duyên thì pháp bị duyên mới được gọi là dứt. Trái với lý và giáo Trình bày trái với lý giáo. Các bậc Đại đức cũng giải thích: Tuy nói buộc gần, buộc xa và sự mạnh yếu không giống nhau nên việc dứt trừ cũng có sự khác nhau. nhưng, tất cả đều nói do dứt trừ phiền não năng duyên như đồng phẩm, cho nên các đồng phẩm v.v… dứt các phiền não như sở duyên v.v… được giải thoát. Chín phẩm phiền não, được dứt trừ ở vị tu đạo trói buộc lẫn nhau. Do đó tuy dứt trừ tám phẩm phiền não năng duyên trước vẫn chưa lìa bỏ được sự trói buộc do chẳng có đồng bộ đồng phẩm xa và yếu. Khi dứt phẩm phiền não thứ chín, do dứt đồng bộ đồng phẩm, gần và mạnh nên không bị ràng buộc. Các bậc cổ đức đều giải thích như vậy và hy vọng đúng lý, nhưng không có văn nói lên trái với lý. Nói trái lý: vì như chín phẩm phiền não ở giai vị thấy đạo có duyên nhau qua lại thế thì có lý do nào khác mà nói đó là phiền não tự bộ tự phẩm; sự trói buộc của tự bộ tự phẩm là gần và mạnh. Khi tự bộ dị phẩm trói buộc, có lý nào khác mà nói là xa và yếu. Khi phiền não phẩm hạ duyên với phẩm hạ thì có lý do gì khác hay không. Khi tám phẩm trên duyên với phẩm hạ thì dù dứt được phiền não ở tám phẩm đó vẫn không chứng được giải thoát, khi dứt được phẩm hạ mới chứng trạch diệt. Nếu nói năng lực cùng trói buộc thì không thể nói “mạnh” ở phẩm hạ. Nếu nói rằng: Năng lực mạnh trói buộc thì không thể gọi là đồng phẩm nghóa là lực mạnh ở phẩm dưới cũng chẳng phải là phẩm dưới, như vậy thì làm sao đồng với phẩm dưới được, cho nên nói, có năng lực mạnh ở tám phẩm trên. Lại, khi phiền não phẩm dưới hợp duyên với hai phẩm thì đó là đồng phẩm mạnh hay dị phẩm yếu. Không thể trong một phẩm vừa mạnh lại vừa yếu. Lại khi phiền não trói buộc tự phẩm, tha phẩm thì lại phân biệt trói buộc tự phẩm là mạnh, trói buộc tha phẩm là yếu hay sao. Nói trái giáo: Chánh Lý quyển 6 chép: Các vị Đại sư A-tỳ-đạt- ma dựa vào kinh lập ra hai thứ “dứt”, theo văn luận này thì tất cả các luận sự đều có ý giống nhau: Tự tánh dứt nghóa là khi lìa bỏ được phiền não gọi là tự tánh dứt, từ đó chứng được trạch diệt vô vi. Sở duyên dứt nghóa là dứt trừ phẩm phiền não sau cùng, chứng được trạch diệt. Nay lập nghóa “dứt” rằng: Do dứt được đồng bộ đồng phẩm hoặc và dứt tương ưng hoặc mà chứng được vô vi. Đây chẳng phải tự tánh dứt cũng chẳng phải lúc xả bỏ được mà gọi là chứng trạch diệt. Lại, đó cũng chẳng phải sở duyên dứt. Chẳng phải dứt trừ phẩm phiền não sau cùng mà chứng trạch diệt, dựa vào Thánh giáo nào để lập “dứt thứ nhất này” mà nó lại trái với “hai dứt” do các Luận sư A-tỳ-đạt-ma lập. Giải thích câu hỏi của người ngoài: Hỏi rằng: Như dứt trừ các pháp nhiễm ô thì khi xả bỏ được gọi là tự tánh dứt, chẳng gọi là sở duyên dứt, thế thì vì sao các luận đều nói tùy theo số lượng các phiền não trói buộc. Vô vi cũng vậy. Lại, luận Bà-sa quyển ba mươi mốt chép: Các pháp hữu lậu từ vô thỉ đến nay bị phiền não trói buộc không được giải thoát, nếu dứt bỏ phiền não thì các pháp hữu lậu đó không còn bị ràng buộc, liền được giải thoát. Như người bị trói, khi được cởi ra gọi là giải thoát, không thể nói các thứ dùng để trình bày như: Dây, gông cùm v.v… chứng được giải thoát. Lại, Luận Tạp tâm, v.v… chép: Nên biết rằng có thể dứt trừ các hoặc từ sở duyên. Y theo văn này thì các hoặc là sở duyên dứt. Nhưng, nó lại không giống các sắc bất nhiễm v.v… cho nên biết khi dứt phiền não đồng phẩm thì chứng được trạch diệt. Giải thích: văn được dẫn này không rõ ràng, không có chứng cứ vững chắc. Ai có thể tin được văn dẫn không, rõ ràng mà trái với hai thứ “dứt” do các Đại Luận sư A-tỳ-đạt-ma dựa theo kinh mà lập. Rõ ràng, ba đoạn văn này đều có ý riêng, lại, câu văn dẫn “tùy hệ sự lượng, vô vi cũng thế ở đây là nói về số lượng trạch diệt, chứ không nói việc “dứt” chứng. Do Dị sư Bà-sa cho rằng: Trạch diệt vô vi đồng với năng hệ sự lượng nên. Sư đối pháp nói: “như sở hệ sự lượng”. Lại, đối với việc Chánh Lượng bộ chỉ tập một pháp vô vi mà nói như vậy, chứ chẳng phải nói pháp nhiễm ô là sở duyên dứt. Các pháp hữu lậu từ vô thỉ đến nay cho đến như người trói, khi được cởi ra thì người gọi là giải thoát, chẳng nói là dây, cùm v.v… giải thoát. Đây là do các dị sự chấp pháp được dứt mà đối với năng hệ được giải thoát. Chẳng phải chứng được thương pháp ngoài pháp sở phược nói trên, cho nên nói như vậy. Và nói như vậy chẳng phải là không chấp nhận có thuyết này. Nên biết rằng có thể dứt bỏ các phiền não từ sở duyên, tức là đối với tương ưng mà nói, chẳng phải muốn ngăn tự tánh dứt. Chứng đồng khác: Trạch diệt vô vi cũng tùy theo số lượng hệ sự cho nên biết trên mỗi pháp chỉ có một trạch diệt. Lại, tất cả các vị Vô học đều chứng được trạch diệt đối vơi tất cả các pháp hữu lậu cho nên bất trạch diệt là cộng chứng. Luận Bà-sa giải thích kinh rằng: Hỏi, nếu vậy vì sao Niết-bàn lại gọi là pháp không chung. Đáp: Niết-bàn, thể tuy là chung nhưng nói về mặt chứng thì gọi là pháp không chung, vì xa lìa sự ràng buộc mà khởi tâm trong tự nối tiếp của mỗi hữu tình. Lại dẫn kinh nói: Như lai giải thoát không khác với các bậc A-la- hán khác, đây là nói theo diệt sở chứng. Dứt là khác nhau. Nay nên dựa vào “dứt” để phân biệt số câu. Pháp có ba thứ: Tự thân sở đắc pháp. Tha nhân sở đắc pháp. Phi nhị sở đắc pháp. 3) Vọng tự thân sở đắc: Phân biệt bảy mươi lăm pháp có tự tánh dứt chẳng có sở duyên dứt, đó là phiền não đại địa, bất thiện đạt địa, tiểu phiền não địa, tham sân mạn si trong bất định. Có sở duyên dứt chẳng phải tự tánh dứt, đó là hoàn toàn mười sắc. Một phần sắc vô biểu trừ vô lậu, một phần pháp Đại thiện địa, trong bất tương ưng trừ bốn tướng, và một phần đắc, hoàn toàn chín pháp tương ưng còn lại. Vừa là tự tánh dứt vừa là sở duyên dứt đó là tâm vương, mười đại địa, một phần tầm từ, đầy đủ hối miên, bốn tướng và đắc một phần hữu lậu, các pháp này tương ưng với tự tánh dứt. Câu hữu và đắc là tự tánh dứt, chẳng phải tương ưng, câu hữu và đắc là sở duyên dứt. “Trường hợp câu phi”: Là pháp vô lậu trong bảy mươi lăm pháp, đều chẳng phải hai dứt. “Nếu chung với tha thân để hỏi đáp” chỉ nói tự tánh dứt đều là sở duyên dứt, tự kết một quả v.v… và tha thì dứt, gồm có ba câu, trừ “tự tánh dứt chẳng phải sở duyên dứt. Nếu pháp tha thân sở đắc và pháp phi nhị sở đắc, hữu lậu chỉ có một câu “sở duyên dứt; vô lậu là dài hợp câu phi. Luận đã nói trạch diệt cho đến đắc phi trạch diệt: Là kết thúc ở trước nêu bài tụng ở sau, vì đắc khác nhau phân biệt với thể. Dẫn chứng các luận: Luận chép: “Có công năng làm ngại hẳn cho đến gọi là phi trạch diệt”: Là giải thích văn bài tụng. Nói là chứng “diệt” khác, trước, nghóa là trước nhờ phân biệt mà chứng. Sau chẳng phải do trạch diệt mà chứng, nên nói là khác trước. Chứng đắc chẳng phải nhờ tuệ, chỉ do thiếu duyên mà có nên gọi là Phi trạch diệt, không nên giải thích rằng: “diệt” trước là thiện, “diệt” sau vô ký nên nói là khác trước. Nếu vậy tức là trước chứng được “thiện diệt” nay chứng được “phi thiện” tức lẽ ra được diệt khác với trước, gọi là phi thiện diệt. Nhưng sự duyên này gọi là phi trạch diệt, nhân chẳng phải do phân biệt mà được chứng đắc phi trạch diệt, và cũng giống với trạch diệt trưóc tức theo y chủ thích. Luận chép: “Đắc bất nhân trạch chỉ do thiếu duyên” là giải thích lý do chứng đắc. Y theo văn luận này thì do thiếu duyên tức là không có một năng lực nào khác. Theo luận Chánh Lý, Hiển Tông cho rằng do có hai nguyên nhân mới chứng đắc: Thiếu duyên. Do chẳng có phân biệt nên phi trạch hiện ra, nếu gặp duyên tốt thì pháp sanh khởi, nếu gặp duyên yếu kém thì pháp không sanh. Luận Chánh Lý chép: Trạch là tuệ do siêng năng đúng cách mà có; chẳng phải do tuệ này làm cho các pháp ở vị lai hoàn toàn không sanh khởi mà gọi là phi trạch diệt. Cho đến, nếu pháp nào làm trở ngại các pháp vị lai phát sanh tác dụng thì pháp đó chẳng phải tuệ pháp, chắc chắn ngăn trở khiến các pháp khác ở vị lai không thể sanh khởi, cho nên chứng được phi trạch diệt, pháp này là thật có và sẽ thành lập sau. Lại, luận Hiển Tông chép: Chẳng phải do thiếu duyên mà các pháp mãi mãi không sanh, sau đó gặp duyên thì đồng loại nó lại sanh khởi. Rõ ràng ý luận này nói: Các pháp bất sanh là do hai duyên: Do thiếu duyên. Do phi trạch diệt. Sau đó, gặp duyên đồng loại các pháp lại sanh khởi là giải thích không đúng, bởi duyên đồng loại đó là sanh duyên hay phi sanh duyên. Nếu sau mà có sanh duyên thì trước chẳng phải thiếu duyên; nếu sau phi sanh duyên thì làm sao mà sanh. Do không có sanh duyên nên các pháp mãi mãi không bao giờ sanh thế thì có liên quan gì đến “diệt lực”. Hỏi đáp chung: Hỏi: Luận Hiển Tông chép: Pháp chẳng phải chỉ do thiếu duyên. Luận này nói chỉ do thiếu duyên. Hai luận khác nhau, luận nào đúng? Đáp: Theo Bà-sa giải thích về “đắc” khác nhau. Pháp hữu vi ba tánh thì đắc giống với tánh phán sở đắc. Do lực của pháp sở đắc khiến “đắc” sanh khởi. Trạch diệt “đắc” từ đạo, nương vào đạo mà khởi. Phi trạch diệt “đắc” từ chúng đồng phần, nương vào chúng đồng phần mà khởi. Vô vi do không có tác dụng cho nên hai diệt không từ sở đắc mà khởi. Luận Bà-sa cũng nói, hư không v.v… chẳng có tác dụng, cho nên biết rằng luận này chỉ nhấn mạnh “do thiếu duyên”. Hỏi: Nếu vậy, sao luận Bà-sa lại nói hư không và duyên tăng thượng gần của bốn đại chủng v.v… Đáp: Hư không vốn chẳng ngăn ngại, đại chủng thì có chướng ngại từ đó gọi là “gần”, chẳng phải do có Lực mà gọi là “gần”. Hỏi: Nếu vậy vì sao luận Bà-sa quyển 32 nói: phi trạch diệt này chỉ đối với các pháp vi lai hoàn toàn không sanh khởi mà có. Vì sao? Diệt này muốn ngăn dứt pháp hữu vi, làm cho không thể sanh khởi nếu các pháp hữu vi đó không sanh thì “đắc” này liền khởi. Như các “pháp dục” lệ thuộc hữu tình, hiện tại chánh “hành”, quá khứ đã “hành”, vị lại sẽ “hành”, đều có nghóa “sanh” thế thì đối với chúng không thể chứng đắc “diệt” ư? Đáp: Tuy muốn ngăn dứt pháp hữu vi, nhưng “pháp dữ dục này cả nghóa và ngôn thật. Cũng như trạch diệt vốn muốn ngăn các pháp hữu lậu, phiền não trói buộc. Nếu pháp lìa sự trói buộc như pháp dữ dục, thì chứng được “diệt”. Nhưng chứng “diệt” này là do dứt đạo lực, chẳng do trạch diệt. Chứng được phi trạch diệt. Ý nghóa cũng như vậy. Nếu không như thế thì phi trạch diệt này lẽ ra ở “tự đắc” thì có lực dụng, chẳng phải chỉ “bất chướng”. Có người nói. Pháp này muốn ngăn dứt các pháp không cho chúng sanh, nếu pháp không sanh thì “đắc” liền khởi, mang đến cho hành giả đây là giải thích nhầm. Nên nói các pháp mãi mãi không sanh tức chứng phi trạch diệt. Không nên nói phi trạch diệt có năng lực nên mau chứng đắc. Hai thuyết trái nhau, cho nên theo luận này. Nói về phi trạch diệt: Luận Bà-sa quyển ba mươi hai chép: Hỏi: Các loài hữu tình, đối với phi trạch diệt là đắc chung hay không đắc chung? Đáp: Điều này không chắc chắn. Đối với pháp cộng hữu phi trạch diệt thì đắc chung, đối với pháp không chung hữu phi trạch diệt thì đắc riêng. Theo các nhà phê bình thì “như thị thuyết giả” là nên nói như vậy, là phi trạch diệt nhiều, trạch diệt ít. Vì sao? Vì phi trạch diệt thì như số lượng các pháp hữu vi; trạch diệt chỉ như số lượng các pháp hữu lậu. Nếu không như thế: nếu không như vậy nghóa là các pháp có thể sanh khởi nhưng nếu chứng đắc bất sanh thì lẽ ra không chứng “phi trạch diệt”. Theo văn luận này thì, tất cả vật bên ngoài đều có phi trạch diệt, đều có thể chứng đắc, nhưng trong đó có cộng và không chung. Nếu pháp chung thì đắc chung; như cộng tài v.v… Nếu pháp không chung tức chỉ có đắc riêng. Luận Bà-sa chép: Hỏi, nhờ đạo thắng tấn mà phiền não không sanh, nhân các sanh xứ mà chứng phi trạch diệt; thế thì vì sao nói chẳng phải đạo quả? Đáp: Không phải diệt này mà tu đạo, vì Niết-bàn, và vì lìa nhiễm động mà tu đạo. Do tu đạo nên đối với các đường dữ v.v… được phi trạch diệt. Nếu vì “diệt” này mà tu đạo thì đối với các đường dữ không được “diệt” này. Đối với sanh tử nhàm chán các “hoạn” đối với đường dữ chứng được phi trạch diệt, Do đó, được phi trạch diệt, không gọi là đạo quả. Thuật rằng, tìm cầu “trạch diệt”, chứng được “Niết-bàn”. Nhàm Chán các pháp “nhiễm hoạn” có công năng dứt trừ hẳn, chứng được quả Thánh, được phi trạch diệt, trong các đường dữ. Nếu tìm cầu “phi trạch diệt” thì chẳng thể không phát sanh phi trạch diệt trong đường dữ. Do “yểm tâm” yếu ớt nên sau dễ lui mất. Nói nhàm chán đường dữ tức không chán cảnh trời, người, do đó “yểm tâm” yếu ớt. Luận: “Như mắt và ý cho đến đắc phi trạch diệt”: Là chỉ cho giải thích vể sự. “Như mắt và ý cùng chuyên về một sắc”. Nhãn là mắt. Ý là ý thức, tức là khi một phần ý thức chấp lấy sắc, các thức còn lại chứng được phi trạch diệt. Hoặc chính nhãn thức lấy ý mà nói khi chuyển vào một màu xanh v.v… đồng thời chuyên màu vàng v.v… và bốn cảnh. “Niệm niệm diệt giả” do duyên với cảnh kia nên năm thức v.v… không thể sanh khởi ở vị lai được, vì nó không duyên với quá khứ cũng không duyên với cảnh khác. Luận Chánh Lý chép: Như khi mắt và ý cùng duyên theo một sắc thì đối với các sắc và tất cả thanh, hương, vị, xúc v.v… còn lại trong mỗi niệm mất đi, tức là duyên với một phần nhỏ của ý thức và pháp xứ mà chứng được trạch diệt, vì năm thức thân và một phần ý thức thân v.v… nên đối với cảnh đã diệt không còn sanh khởi, các duyên đều tan rã. Thuật rằng: “Nhất phần ý thức giả”: Như tám thắng xứ v.v… chỉ duyên với cảnh hiện tại, không duyên với cảnh quá khứ, cũng như cảnh sở duyên không chắc chắn nên chứng được phi trạch diệt. “Ý và pháp xứ”. Ý là các thức, Pháp xứ là tâm sở, và bốn tướng v.v… Lập bốn trường hợp: Luận chép: “Đối với pháp đắc diệt v.v… quá hiện sanh pháp” đây là đối với trạch diệt mà lập ra bốn trường hợp. Nếu đối với pháp mà nêu “diệt” có hay không thì, tất cả các pháp hữu lậu đều có trạch diệt; tất cả các pháp hữu vi đều có phi trạch diệt. Nghóa là trạch diệt thì có phạm vi hẹp, phi trạch diệt có phạm vi rộng. Nếu từ “rộng” mà hỏi về “hẹp” thì dùng trường hợp sau mà đáp. Nếu từ “hẹp” để hỏi vè “rộng” thì dùng trường hợp đầu để trả lời. Nếu y theo “đắc” để nói về “trạch diệt” thì, thế là rộng, “thể” là hẹp. “Đắc” có cả ba đời thì rộng chỉ có ở pháp hữu lậu nên “thể” là hẹp. Phi trạch diệt thì “thế” hẹp, “thể” rộng. Chỉ có “Đắc” ở vị lai nên thế là “hẹp”, tất cả là hữu vi nên “thể là rộng”. Do những khác nhau như vậy thành có bốn trường hợp. Như văn đã giải thích. Luận: Đã nói như thế cho đến cái gì là hữu vi”. Ba bài tụng trên nói chung về hữu lậu và vô lậu, hai mươi hai bài tụng dưới chia ra các mục uẩn, xứ, giới. Trước là năm uẩn, sau là xứ, giới. Hai bài tụng đầu giải thích chung năm uẩn, kế từ “sắc giả” v.v… trở xuống là giải thích riêng về năm uẩn và lập xứ, giới. Trong hai bài tụng đầu, bài thứ nhất nói chung về uẩn hữu lậu uẩn vô lậu. Bài tụng kế nói riêng về uẩn hữu lậu. Trong đoạn văn trên, phần đầu là kết thúc ý trước, nêu hỏi ý sau, phần kế là nêu tụng để đáp. Phần sau là văn xuôi giải thích. tụng chép: Cho đến có lìa có sự v.v… kế là nêu tụng để trả lời. Trong đó, hai câu đầu là nêu lại hữu vi chia làm năm uẩn, nêu thể của hữu vi. Hai câu kế nói về các tên khác nhau của hữu vi. Nêu ví dụ: Luận chép: cho đến nhiếp cả hữu vi”, sau là văn xuôi giải thích. Trong đó có bảy: Nêu danh và thể. Giải thích hữu vi. Giải thích thế lộ. Giải thích ngôn y. Giải thích hữu ly. Giải thích hữu sự. Tổng kết. Đây là nêu các tên khác của năm uẩn, nói về danh và thể của hữu vi. Luận Chánh Lý chép: Già, bệnh, chết v.v… là các tại họa khác nhau, ngầm dồn chứa tổn hại gọi là uẩn. Ở đây nói hữu vi có nhiều lỗi lầm, ẩn phục bên trong, khi gặp duyên liền hiện khởi. Cũng như bọn cướp, núp trong núi, là một khu vực riêng. Nói “sắc v.v…” “giới v.v… năm uẩn”. Thì không thể gồm nhiếp hết tất cả các pháp hữu vi. năm uẩn như “Sắc v.v…” gồm nhiếp tất cả các pháp hữu vi. Luận chép: “Các duyên nhóm họp cho đến như sữa như củi: Là giải thích “hữu vi”, Một pháp dù nhỏ đến đâu cũng không thể từ một yếu tố duy nhất mà sanh ra được, phải có nhiều yếu tố tương tác tạo nên. Đó là nghóa các duyên. Nếu vậy thì các pháp sẽ sinh hoặc không sinh lẽ ra chẳng phải hữu vi vì loại đó chưa sinh nên chẳng ngại chi. “Như sữa, củi v.v… Đây là nêu “dụ”. Luận Chánh Lý chép: Vị lai chưa khởi làm sao gọi là hữu vi, các pháp như thế cũng gọi là hữu vi. Như củi dùng để đốt, dù khi chưa đốt cũng vẫn gọi là củi. Y theo tác dụng của nó mà đặt tên thì không lỗi. Như đờn cầm, đàn sắt v.v… gọi là hữu thanh. Như hai vú, ao hoa sen v.v… các pháp không sanh khởi cũng không ngoài loại đó, nên gọi là hữu vi. Luận chép: “Pháp hữu vi này cho đến bị ăn nuốt: Là giải thích chữ “Thế lộ”. Luận Chánh Lý chép: Các pháp hữu vi, trong rất nhiều kinh Đức Thế tôn đã tùy theo ý nghóa mà gọi là Thế lộ v.v… Vì sao các pháp hữu vi cũng gọi Thế lộ? Vì năm uẩn như sắc uẩn v.v… là pháp sanh diệt, lại trôi lăn trong các đường ở quá khứ, hiện tại và vị lai; các pháp không sanh do thiếu các duyên, tuy không sanh nhưng cũng cùng loại đó, cho nên đặt tên không lỗi. Có thuyết nói rằng: bị vô thường ăn nuốt nên gọi là Thế lộ. Ở đây, y theo giải thích trước thì ba đời tức là lộ nên gọi là thế lộ, thuộc về trì nghiệp thích. Các pháp hữu vi trôi lăn trong ba đời nên gọi là Thế lộ. Tức vì có Thế lộ nên gọi là Thế lộ, thuộc về hữu tài thích, theo giải nghóa sau nói: Bị “Vô thường ăn nuốt, ngài Chân-đế giải thích: Đi mãi không dừng, đến cuối trọn con đường muôn dặm. Vô thường là thế, hữu vi là lộ, cùng với “Thế” tác “lộ” nên gọi là thế lộ, tức là con đường của “Thế”, thuộc về y chủ thích. Giải thích ngôi y: Luận chép: “Hoặc gọi là ngôn y cho đến tức gọi là câu nghóa”: Là giải thích“ngôn y”, ngôn là lời nói, đây là ngữ thanh nối tiếp khác nhau. Sở y này gọi là câu nghóa”. “Danh” là chỗ nương của “ngôn”; “Câu nghóa” là pháp hữu vi cùng lưu hành trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Pháp vô vi thì không như thế. Do đó khắp các pháp hữu vi, không chung với vô vi. Có giải thích rằng: Các pháp hữu vi và ngôn ngữ đều gọi là ngôn y. Trong luận Bà-sa quyển mười lăm Hiếp Tôn giả nói: Các pháp hữu vi cùng với ngôn ngữ có nghóa là “chuyển biến cùng lúc”, cho nên lập “ngôn y”, vô vi thì không như vậy cho nên không nói. Theo văn luận này thì, các pháp hữu vi và ngôn ngữ đều có nghóa là “đồng rơi vào ba đời”. Do đó luận Chánh Lý chép, như trong khế kinh dạy: Ngôn y có ba mà không có bốn hoặc năm. Theo đây thì chỉ nói ba đời, hoặc có thể nói các pháp hữu vi đi chung với danh, hoặc có thể nói đồng thời chuyển với ngôn ngữ, cho nên gọi là ngôn y. Điểm này luận Câu-xá không khác với Hiếp Tôn giả. Nói về pháp hữu vi: Luận chép: “Ngôn y như thế các pháp hữu vi” nghóa là tất cả các pháp hữu vi đi chung với “danh” trong ba đời, tức gồm nhiếp tất cả các pháp hữu vi. Luận chép: Nếu không như thế cho đến thuộc về mười tám giới: Nếu không như thế là giải thích gồm nhiếp tất cả pháp hữu vi. Theo nghóa của các sư khác thì ngôn y chỉ có “danh”, không chung với mười tám giới, trái với luận nói chung với mười tám giới. Luận Chánh Lý chép: Ngôn y nghóa là “danh” là “câu”, tức bao gồm cả năm uẩn. Như Khế kinh chép: Ngôn y có ba, không có bốn, không có năm. do đó mà “khéo hiểu Phẩm Loại Túc Luận”, kinh ấy nói: Ngôn y thuộc về năm uẩn. Hỏi: Luận này, và luận Chánh Lý đều dẫn Phẩm Loại Túc Luận, vì sao luận này nói mười tám giới, luận Chánh Lý lại nói năm uẩn? Đáp: Luận Chánh Lý nói gồm cả năm uẩn. Luận này nóigồm tất cả các pháp hữu vi, Lời tuy khác nhau chút ít, nhưng ý nghóa thì không khác. Lại bác bỏ các sư khác cho rằng: Ngôn y chỉ có “danh”. Phẩm Loại Túc Luận chép: Ngôn y thuộc về năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Luận Chánh Lý dẫn phần đầu, luận này dẫn phần sau, nghóa đều không lỗi. Nhưng đều nhiếp chung hữu vi, luận Bà-sa có hai thuyết: 1.Danh là ngôn y, nghóa là nói xoay vần nương nhau; 2. Danh và nghóa đều là ngôn y. Luận này đồng với thuyết sau. Ngôn ngữ phải có tên gọi mới chuyên chở được ý nghóa, khi muốn nói phải dựa vào cả hai. Hỏi: Vì sao chỉ nói đi chung với “danh” mà không nói đi chung với cú? Đáp: Khi nói, nếu chỉ dùng “pháp” thì chỉ có “danh”, còn nếu có cả khác nhau thì gồm cả danh và cú. Như vậy danh là gọi là “Danh”. Hỏi: Nếu vậy thì “văn” rất thông, vì sao không nói? Đáp: Văn là sở y, nhưng không thể chuyển tải được tự tánh, sai khác, nên không nói. Giải thích hữu ly: Luận: “Hoặc gọi là hữu ly cho đến có ly kia: Là giải thích hai chữ “hữu ly”. Luận Chánh Lý chép: Hoặc gọi là hữu ly, các đường luân hồi chìm đắm trong sanh tử, Niết-bàn vì muốn xả bỏ nên gọi là hữu ly, nghóa là chấm dứt sự trôi lăn chìm đắm trong các đường. Nếu đã đến được định bất thối thì có sự xa lìa, nên gọi là hữu ly. Như người có tiền thì gọi là hữu tài đó cũng chính là hữu vi có nghóa xuất ly. Tất cả pháp hữu vi đều đồng với thuyền bè, cho nên đối với Thánh đạo cần phải xả bỏ. Khế kinh dạy: Pháp còn nên buông bỏ huống chi chẳng phải pháp. Theo giải nghóa của hai luận trên thì, Niết-bàn gọi là lìa hẳn, tức là tất cả các pháp hữu vi đều có sự xa lìa này gọi là hữu ly. Các pháp hữu hữu vi, khi đến Niết-bàn đều nên xả bỏ. Chẳng phải như ly hệ chỉ pháp hữu lậu mới có. Trong đây, hữu ly có ở khắp các pháp hữu vi, khi đến Niết-bàn đều nên xả bỏ tức là có Niết-bàn năng lìa bỏ. Giải thích hữu sự: Luận chép: “Hoặc gọi là hữu sự cho đến truyền thuyết như thế: Là giải thích“hữu sự”. Do có nhân nên “sự” nghóa là nhân. Luận Chánh Lý chép: Sự là sở y, hoặc là sở trú, tức là nghóa nhân. Quả nương vào nhân, từ nhân mà sanh ra; như con nương mẹ, hoặc như quả là từ nhân sanh lại che lấp nhân, như người ở trên giường. Nhân này nghóa là bị quả che lấp vì là tính nhân quả trước sau; và tính thô tế. Vì hữu sự này có nên gọi là hữu sự, ví dụ như ở trước nói. Theo giải thích của hai luận này thì, nhân gọi là sự, quả thì có nhân nên gọi là hữu sự. Tất cả “pháp hữu vi” đều có nhân, cho nên cũng gồm nhiếp tất cả pháp hữu vi. “Truyền thuyết của Sư Tỳ-bà-sa như thế”: ý chẳng phải hoàn toàn chấp nhận thuyết “nhân gọi là sự”. Kinh Bộ Giải thích: Hữu sự tức là có danh thể sự, tất cả các pháp hữu vi đều có tự thể”, vô vi không có tự “thể” hữu sự chỉ thuộc về hữu vi. Các tên gọi khác nhau: Luận chép: “Các loại như thế cho đến các tên khác nhau: Là tổng kết. Luận chép: Trong các pháp hữu vi mà ở đây nói, dưới đây là thứ hai, một bài tụng nói về tên năm uẩn của hữu lậu. Trong đó có ba: Nêu sự sanh khởi ở trước. Nêu tụng để đáp. Giải thích bằng văn xuôi. Đây là bậc nhất. Vì là một phần trong pháp hữu vi nên nói là trong pháp hữu vi. Tụng chép: Cho đến ba hữu, v.v… kế là nêu bài tụng đáp. Trong bài tụng, hai chữ đầu nêu pháp hữu lập. “Danh thủ uẩn” trở xuống là nêu các tên. Luận chép: Đây là do ai lập: Là văn xuôi giải thích. Trong đó có ba: Nói chung về ý bài tụng. Giải thích các tên gọi của bài tụng. Tổng kết. Theo phần nói về ý bài tụng, có hai: Hỏi. Đáp. Về hỏi thì như trước đã nói, trừ đạo Thánh đế, các pháp hữu vi còn lại đều gọi là hữu lậu. Trong đây nói cho đủ thì do ai lập? Luận chép: “Nghóa là lập thủ uẩn cho đến là hạnh vô lậu”: Là đáp. Trước tuy đã nói nhưng nay nói lại là muốn nói thủ uẩn cũng gọi là Uẩn. Hoặc chỉ có uẩn mà chẳng có thủ uẩn. Nghóa chuyển biến (hành) và chứa nhóm (tụ) của các pháp vô lậu giống nhau, đều gọi là Uẩn, chẳng phải từ “thủ” sanh ra nên không gọi là Thủ uẩn. Luận chép: “Phiền não gọi là thủ uẩn cho đến như cây có hoa quả: Là giải thích lý do vì sao có tên gọi như vậy. Trong đó có ba pháp dụ: Phiền não gọi là thủ, uẩn từ phiền não mà có tên. Từ thủ mà sinh, như lửa tro lửa cỏ tu nhân mà đặt tên. Hoặc uẩn lệ thuộc vào thủ, như vua quan từ sở thuộc mà đặt tên. Luận Tạp tâm: Uẩn là cái bị hoặc sai sử. Như vì tham và sân nên có si v.v… năng sanh ra thủ như cây có hoa trái, từ quả mà đặt tên. Giải thích hữu tránh: Luận chép: “Pháp hữu lậu này cho đến giống như hữu lậu”: Giải thích chữ “hữu tránh”. Thế gian tránh có hai nghóa: Xúc động người tốt. Khiến mình người bị tổn hại. - Phiền não cũng vậy: Xúc động phẩm thiện. Tổn hại tự tha, nên gọi là tránh. Các uẩn thuận theo và làm cho “tránh” thêm lớn. Luận chép: Cũng gọi là khổ vì trái với tâm bậc Thánh: Với hý luận uẩn này, tâm các bậc Thánh nhàm chán cho nên nói là trái với tâm bậc Thánh. Vì trái với tâm bậc Thánh gọi nên là khổ. Luận Chánh Lý chép: Năm thủ uẩn là chỗ nương của các thức ép ngặt não hại, tánh của nó là thô nặng, không an ổn. Gọi là khổ, luận cũng gọi là Tập có công năng chiêu cảm khổ. Hữu lậu uẩn này là nhân quả khổ nên gọi là Tập. Luận chép: “Cũng gọi là thế gian cho đến hữu đối trị”: Là giải thích uẩn hữu lậu gọi là thế gian. Luận Chánh Lý chép: Hoặc gọi là thế gian, tánh có thể bị hủy hoại. Như Đức Thế tôn dạy tánh có thể bị hủy hoại gọi là thế gian. Nếu vậy đạo đế lẽ ra gọi là thế gian? Là không đúng! Vì tính có thể bị hủy hoại thứ hai không có. Vì tánh hủy hoại của đạo đế là bất định; tánh hủy hoại của thế gian là chắc chắn, tánh hủy hoại thứ hai có thể đối trị được. Luận chép: “Cũng gọi là kiến xứ cho đến tùy tăng miên”: Là giải thích kiến xứ. Nghóa là kiến trụ trong pháp hữu lậu có công năng thuận theo thêm lớn nên gọi là tùy tăng. Hành tướng nhỏ nhiệm nên gọi là miên. Luận Chánh Lý giải thích: Cũng gọi là kiến xứ, năm kiến như kiến Tát-ca-đa v.v… trụ trong đó thuận theo và làm cho “miên” thêm lớn, chẳng lẽ không phải tất cả phiền não hữu lậu đều là tùy tăng? Chẳng lẽ không phải là các kiến thông thủ hữu lậu thuộc về “tránh” như đã nói ở trước ư? Câu hỏi này ý muốn nói: Năm kiến là thuộc về phiền não, trước giải thích hữu lậu, tất cả phiền não đều là tùy tăng, đã nói trong tất cả các phiền não tránh đều thêm lớn, đã nói các kiến, vì sao nói riêng rằng: Hữu lậu là chỗ trú của kiến. Và do đó, các kiến thuận theo và làm “tùy miên” cho thêm lớn. Tuy có lý như vậy nhưng các kiến kia, đối với hữu lậu có Nhất thiết chủng, Nhất thiết thời tướng trạng không khác nhau, kiến chấp bất động, thuận theo thêm lớn “miên”, thể dụng tăng mạnh tức là nói hữu lậu thường làm thêm lớn các kiến xứ này. Nên phải nói lại. Là giải thích lý do vì sao nói lặp lại nhiều lần về kiến xứ. “Tham đẳng si nghi thì không như thế: Trong Bốn Nghóa như Vô Thượng Nhất Thiết Chủng v.v… có nói: Không đúng, vì tham kia v.v… có Nhất thiết chủng, không có Nhất thiết thời là giải thích tham v.v… có tất cả các chủng: Khác với Triền, cấu v.v… không có Nhất thiết thời, chẳng giống với “kiến”. “Nhất thiết chủng giả”: Sư nguyên du nói: chuyên khắp năm môn, hoặc duyên khắp sáu cảnh mà không nói có phân biệt. Nay giải thích tất cả chủng: Nghóa là tham sân mạn có tùy miên, triền cấu. Tất cả chủng lỗi: Trên tức bao gồm dưới, do đó biết, tướng riêng tùy miên tuy có “Nhất thiết chủng” nhưng không thể bất cứ lúc nào cũng khởi” nên gọi là phi Nhất thiết thời. “Phi vô sai khác giả”, tuy độc đầu vô minh và cộng tướng phiền não tương ưng với vô minh là Nhất thiết thời nhưng lại có tướng riêng phiền não tương ưng với vô minh, cho nên chẳng phải Nhất thiết thời. Và lại cùng phẫn v.v… tương ưng với vô minh cho nên có tướng khác nhau. Chẳng phải Nhất thiết chủng cũng chẳng phải Nhất thiết thời. “Nghi tuy vô sai khác mà không chấp chặt”. Nghi là tánh của tùy miên, chẳng phải ø tướng riêng của hoặc, nên chẳng tương ưng với tướng riêng phiền não cũng chẳng tương ưng với Nhất thiết chủng nhiễm pháp. Có Nhất thiết chủng, Nhất thiết thời, tướng vô sai khác nhưng không có khổ, không khổ, vì không có chấp chặt. Nên Chẳng phải chấp chặt thì khác nhau với kiến, là tùy miên. Có Nhất thiết chủng cộng tướng hoặc, cho nên có tất cả thời. Không tương ưng với tự tướng phiền não cũng chẳng tương ưng pháp tùy miên nhiễm nên tướng chẳng khác nhau. Vì tính thường và đoạn của ngã này mà bác bỏ kiến chấp vô, v.v… không do dự nên gọi là chấp chặt. Do lỗi này nặng nên đối với pháp hữu lậu có nói riêng về kiến xứ, khiến phát sanh sự nhàm chán xa lìa. Dẫn luận chứng minh: Luận chép: Cũng gọi là ba cõi cho đến ba hữu lậu: Là giải thích “ba Hữu”, ba Hữu tức là ba cõi. Uẩn Hữu lậu này là nhân của hữu vi, là sở y của hữu vi cho nên thuộc về ba cõi, cũng gọi là Hữu. Luận chép: Các loại như thế cho đến tùy theo tên gọi khác nhau: Là tổng kết. Theo luận Chánh Lý đó là “hướng ngoại đẳng” Nói “Đẳng” nghóa là gồm nhiếp gọi là hữu nhiễm v.v… các loại như thế là chỉ cho pháp hữu lậu, tùy theo nghóa mà có tên gọi khác nhau. ------------------------------- Bộ sớ này gồm ba mươi quyển, do các vị tăng khắp nơi, những bậc am hiểu “Đối pháp” sưu tìm ý Tổ, đọc các câu hỏi các lời dạy bảo. Tất cả những câu căn bản từ chỗ vặn hỏi cũng đều qui về gốc điểm giả danh. Đây là vật báu khuôn phép ngàn đời của một ngôi chùa. Nhưng, riêng quyết này, các khuyết điểm vốn do ở tôi vì xót thương mạng sống của Phật pháp ngắn dần, đã không nhìn lại những điều được thêm vào như những vết chân chim. Tuy nhiên, một điều nói rõ là văn này được viết rất bừa bãi, điểm chuẩn thì ít, điểm lệch thì quá nhiều. Cũng xin để quí vị đời sau xem xét. Đệ tử Phạm Hiền Viết tại chùa Thạch Sơn Ngày 10 tháng 12 niên hiệu Thọ Vónh năm đầu. -------------------------------------- CÂU-XÁ LUẬN SỚ QUYỂN 1 (Phần 2) 1. Giải thích riêng năm uẩn: Luận chép: “Như ở trên nói”, cho đến “sắc uẩn thì thế nào v.v… trở xuống, gồm hai mươi hàng tụng, giải thích riêng năm uẩn, đồng thời phân biệt xứ giới, trong đó có mười ba đoạn, chia thành bốn tiết: Năm bài tụng rưỡi đầu nói về sắc uẩn và phân biệt xứ, giới, phần này lại có năm: Gồm nữa bài tụng thứ nhất nêu chung mười một thứ sắc. Nửa bài tụng kế tiếp, nói về năm sắc căn. Một bài tụng, nói về năm sắc cảnh. Ba bài tụng phân tích sắc vô biểu. Nửa bài tụng, dùng sắc uẩn phân biệt xứ, giới. Đây là phần đầu. “Tụng chép” cho đến và “vô biểu” là kế nêu tụng đáp. “Luận chép” cho đến “đặt tên là sắc uẩn”: là giải thích bài tụng, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Trong đây, trước lẽ ra nói tướng của năm căn: Đây là nửa bài tụng thứ hai nói về tướng của năm căn. Nói về thức: “Luận chép” cho đến Năm căn như mắt căn v.v… là giải thích văn tụng. Chữ “thức kia” có hai giải thích: Một, Các thức như sắc v.v… kia. Hai, Các thức như mắt thức , v.v… kia. Giải thích thứ nhất nói, sở y của sắc thức gọi là mắt cho đến sở y của xúc thức gọi là Thân căn. Luận chép: “như Thế tôn nói” cho đến “nói rộng như thế” là dẫn kinh để chứng minh năm căn là tịnh sắc. Luận chép: “hoặc lại kia”, cho đến “tỉ, thiệt, thân thức” là thứ hai giải thích, thức từ căn mà có tên. Luận chép: Sở y của thức kia, cho đến “nghóa sở y chỉ”. Y nói sở y của mắt thức gọi là mắt, cho đến sở y của thân thức gọi là thân căn. Dẫn văn chứng minh: Luận chép: “như thế là thuận” cho đến “nói rộng như thế” là phần dẫn văn để chứng minh thuyết sau là đúng, các luận đều giống nhau. Luận Chánh Lý, trước nói: thức từ căn mà đặt tên, sau đổi thành chánh thuyết, hữu thuyết. Kia là cảnh, chẳng phải căn. Vả lại, không có việc ý thức duyên sắc, v.v… nên gọi là sắc thức, v.v… Gọi nhãn là sở y của sắc thức là sai, cho nên lấy tịnh sắc mà nói là để phân biệt. Giải thích: nói tịnh sắc sở y là để phân biệt với ý thức. Sở y của ý thức chẳng phải tịnh sắc. Lại nói: Nếu vậy, nói sắc trở thành vô dụng vì các thức dựa vào tịnh sắc gọi là các căn như mắt v.v… nghóa đã thành tựu. Mà, không có sở y của thức, tịnh mà chẳng phải sắc, vì để phân biệt với ý căn cho nên dùng sắc mà nói. Giải thích: Đó là vặn hỏi. Nếu nói tịnh sắc là để phân biệt với ý căn thì chỉ cần tịnh, không cần mượn sắc mà nói, trong tất cả các pháp, tịnh có hai thứ: một là năm căn, hai là tín. Tín là tâm sở chẳng phải sở y của ý thức. Năm căn là sắc, chẳng phải ý căn. Vậy, chỉ nói các thức nương vào tịnh là đã phân biệt với ý căn rồi, dùng thêm chữ sắc, thì thành vô dụng. “Giải thích như vậy”, là để dứt trừ nghi nạn nên dùng chữ sắc. Nếu nói thức y, thì thuộc về hữu tài thích, lý đáng tịnh tin phải được gọi là các căn như mắt căn v.v… Do vậy, dùng chữ sắc là để phân biệt với giải thích này. Không có một pháp nào lấy thức làm sở y. Vả lại sắc mà tịnh là ở giải thích này, cho nên dùng chữ sắc mà nói là rất cần thiết. Giải thích: Nói thẳng là thức kia nương và tịnh, nếu hữu tài thích thì tín gọi là thức y. Do tín là thức y nên có thức sở y, giữ lấy tên thức nên gọi là thức y, thế lại là tịnh. Nếu nói thẳng, thức y tịnh mà không dùng chữ sắc để nói thì lạm hữu tài thích. Tín gọi là thức y, cũng lại là tịnh tức lẽ ra, tịnh tín phải gọi là các căn như mắt căn v.v… Nếu nói theo sắc thì không lạm giải thích này, Vô Sắc là tịnh, dùng thức làm chỗ nương, y theo hữu tài thích mà gọi là thức y, cho nên nói theo sắc rất là hữu dụng. Có người không hiểu ý này, cho cả ba chữ “thức, y, tịnh” là hữu tài thích. Nói có một phần hữu tài thích, là nhầm. Lại nói, lới nói ở trong đó, vì để phân biệt với bốn căn như nhó căn, v.v… kia tuy đền lấy tịnh sắc làm tánh nhưng chẳng phải sở y của mắt thức, cho nên bốn căn kia chẳng thuộc về mắt. Hậu ngôn, là để phân biệt với vô gián diệt y, kia tuy cũng là sở y của mắt căn, mà chẳng dùng tịnh sắc làm tánh, cho nên ý căn kia chẳng thuộc về mắt. Hoặc ở trước nói, là để hiển bày đồng phần nhãn; hậu ngôn là để hiển bày bỉ đồng phần, các căn khác cũng vậy. Giải thích: tiền ngôn là sở y của mắt thức, hậu ngôn là tịnh sắc. Lại nói, nếu vậy tương tịnh sắc không có sự khác nhau, lẽ ra không thành năm thứ. Nếu không như vậy, thì công năng sẽ khác nhau. Làm sao biết được công năng khác nhau? Vì không làm sở y chắc chắn ncho cảnh và thức. Cho đến, nói rộng, quan điểm của Hữu Bộ, năm căn lấy tịnh sắc làm thể. Đại chúng bộ, năm căn lấy nhục đoàn làm thể. Giác Thiên lấy bốn đại làm thể. Nói về năm cảnh: Luận chép: Đã nói năm căn, kế là nói năm cảnh”. Đây là thứ ba, một bài tụng nói về năm cảnh. Trong bài tụng, đặt vị ở trước, hương ở sau - luận Chánh Lý nói rằng nói vượt thứ lớp là để hiển bày các cảnh mà không chắc chắn thức sanh. Luận đã có giải thích này cho nên biết, đặt thanh hương ở sau vị chẳng có gì vi phạm. “Luận chép” cho đến “bốn sắc khác nhau”: Là giải thích năm cảnh, trong đây, văn có sáu đoạn: năm cảnh là năm đoạn, đoạn thứ sáu là sanh thức chung riêng, theo biệt giải thích, trong sắc cảnh có ba: Giải thích hai sắc. Chia ra hai mươi sắc. Phân biệt bốn trường hợp. Phần một giải thích hai sắc, nói hai sắc một là hiển sắc, hai là hình sắc. Hiển sắc gồm có bốn mầu căn bản: xanh, vàng, đỏ, trắng. Các hiển sắc khác chỉ là sự sai khác của bốn sắc này mà thôi. Đó là vân, yên, trần, vụ, ảnh, ánh sáng, sáng, tối. Tám sắc này tùy theo các sắc căn kia mà có, tức là biến trạng khác nhau của các sắc xanh, vàng, đỏ trắng. Do khí này v.v… gọi là mây; do lửa gọi là khói; mạc bay gọi là trần; địa khí gọi là vụ; do mặt trời gọi là ánh sáng; do mặt trăng; châu báu gọi là minh ngăn che ánh sáng mặt trăng; mặt trời mà trong đó sanh ra vật khác có thể thấy gọi là ảnh; ngược lại ảnh gọi là tối. Tuy tám thứ khác nhau chẳng giống nhau nhưng căn bản vẫn chỉ là xanh, vàng, đỏ, trắng. Cũng có các sắc khác như biếc, hồng, tía, lục v.v… đây chỉ là mức độ đậm nhạt không giống nhau. Ly hợp tạo nên sự khác biệt, thật sự không độc lập. Xanh nhạt gọi là biếc; đó nhạt gọi là hồng; xanh hợp trắng thành lục; đỏ hợp đen thành tím. Nêu tám thứ hình sác: Luận chép: “Hình sắc có tám” cho đến “bất chánh là sau”: Ở đây nêu tám thứ hình sắc. Luận Chánh Lý nói, trong đó hiển sắc có hai mươi loại; hình sắc có tám thứ, tên gọi như sau: Luận chép: “Hoặc hai mươi” cho đến “bóng, ánh sáng, sáng, tối” được chia thành hai mươi thứ sắc. Luận chép: “Có sư khác nói” cho đến thứ hai mươi mốt: Là nói về các thuyết khác. Các Sư này ý nói rằng, không nhất hiển sắc chẳng phải sáng, tối; lập riêng sắc này cho nên có đến hai mươi mốt loại. Theo chánh nghóa của Bà-sa, không nhất hiển sắc tức là một phần sắc của không giới. Sắc của Không giới chính là các sắc sáng, tối v.v… không có thể tánh riêng. Nhưng sáng, tối, v.v… lại là biến trạng khác nhau của bốn màu xanh vàng đỏ trắng tạo nên. Do vậy, Thức Thân Túc Luận quyển hai mươi mốt chép: không nhất hiển sắc như xanh, vàng… chỉ dò sự khác nhau của xanh, vàng v.v… cho nên nói là Như. Vặn hỏi để giải thích hình sắc: Luận chép: “Trong đây chánh giả” cho đến nên nay không giải thích. Theo vặn hỏi để giải thích hình sắc. Tướng của hình sắc, xưa nay các Luận sư, phần lớn không nắm được ý, không dựa vào Thánh giáo, nên nói về tướng trạng của nó bị nhầm lẫn. Nay nói về tướng này, chia làm hai: 1) Nói về nghóa đúng. 2) Nói về thuyết khác, nêu lỗi. Phần nói về nghóa đúng các luận của Đại thừa, Tiểu thừa, nói rằng không phải do tướng của tám mầu đối đãi nhau mà lập nên dài ngắn. Luận chép Đại thừa thành nghiệp: đối với các tông như Hữu Bộ… thành lập tướng của tám sắc; phẩm Nghiệp của luận này, Kinh Lượng bộ đối với Hữu Bộ lập ra tướng của tám mầu đều nói; thấy một mặt ngang bằng khởi lên nhận thức cho là chánh. Thấy một mặt so le, khởi lên nhận thức cho là bất chánh. Thấy một mặt nhiều, khởi lên nhận thức cho là dài. Thấy một mặt ít, khởi lên nhận thức cho là vuông. Thấy từ một điểm mà khởi lên nhận thức cho là tròn. Thấy có trồi lên, phát sinh nhận thức cho là cao. Thấy lõm xuống, phát sinh nhận thức cho là thấp. Hai luận này, có khác nhau chút ít, phần nhiều đồng nhau. Y theo luận thì hai sắc dài, ngắn chẳng phải do hình thành lẫn nhau mà do thế khác nhau. Theo luận, thể tướng được tạo nên đều khác nhau. Theo Giải thích của Đại thừa thì chính ngay hiển sắc an bố khác nhau, gọi là dài ngắn, v.v… giải thích của Hữu Bộ thì riêng có một hình vi, nhiếp trì thành tám tướng khác nhau này. Từ xưa, các Luận sư Đại thừa, Tiểu thừa đều nói rằng, một mặt nhiều tên gọi là dài; một mặt ít tên gọi là ngắn. Các giải thích như thế đều không nắm được ý cho nên nói rằng, đối đãi nhau mà thành lập dài ngắn v.v… Nay giải thích một mặt nhiều , trong sáu mặt có một mặt nhiều; cũng trong sáu mặt có hai mặt nhiều, sợ khó hiểu cho nên nói một mặt nhiều như trên, măng, dưa v.v… gọi là dài sắc. Nếu nói hai mặt nhiều, người ta không hiểu, đó là hai mặt nào; trong sáu mặt, cho nên nói là một mặt nhiều. Một mặt ít, ngược lại với một mặt nhiều. Trường là tế, ngắn là thô cho nên trong tám sắc không lập thô tế. Trong phẩm Nghiệp của luận Chính Lý chép rằng, ngoài hiển sắc vẫn có hình vi riêng biệt, đó là cảnh của mắt thức; chứa nhóm trường v.v… là giả chẳng thật, chỉ có ý thức không duyên với cảnh của mắt thức. Trường này, v.v… chủ yếu do hình sắc nhiếp trì các sắc cho nên mới có phần lượng. Vật khác trong đó, bác bỏ thành phần riêng. Trung có thể đục thành lỗ v.v… mới có hình sắc. Ý của luận: chỉ nói ngoài hiển có hình vi riêng, không nói tám thứ hình vi có thể tánh riêng. Giải thích rõ hơn: Nay giải thích rõ hơn. Hình sắc như dài v.v… có hai: Đối đãi nhau mà được tên gọi. Hình lượng khác nhau. Đối đãi nhau đặt tên, thể không chắc chắn, trong đây không nói. Hình lượng đều khác, thể khác nhau nhau, là ở đây nói. Luận Bà-sá quyển chín nói năm thứ tương đãi hữu, đó là: bờ đây bờ kia, dài ngắn, v.v… là chẳng phải nêu rõ thể loại của sắc khác nhau. Các pháp dài ngắn chung với các pháp khác cho nên dầu đối với sắc cũng không trái. Ở đây thuộc về đối đãi nhau ở trước mà có tên gọi. Về hình lượng đều khác, lại có hai thứ: một là duyên từ ngoài đến như vàng đá, đợi thợ mới thành dài, v.v… hai là chủng tánh khác nhau như tánh muối là vuông, dầu tan thành nước, sau cũng trở lại vuông. Việt qua tự trường, dưa tánh ngắn cho nên hồ đào có cao thấp, anh đào tự tròn, đậu giác tánh tà, những vật như vậy, chủng loại không giống nhau, hoặc chờ duyên mới thành, hoặc chủng loại khác nhau đều chẳng phải đối đãi nhau lập danh. Như cây kim, tuy đối với dưa là ngắn nhưng lại là dài sắc. Qua lâu, tuy đối với cây táo là dài mà lại là ngắn sắc. Tất cả đều do năng lực của cực vi dài ngắn, khiến thành trưởng v.v… nhỏ nhiệm của trưởng ngắn không lìa nhau. Lại cũng chính từ đây mà không lập dài ngắn trong các cảnh khác, không có hình vi riêng, khiến đồng thời nhóm thành dài, v.v… văn khác dễ hiểu, nên không giải thích. Các thuyết khác: Nói về các thuyết khác, có người nói, dài ngắn, cực vi của dài ngắn đều có thể tánh riêng, xen nhau tồn tại. Hình dài thấy ngắn, hình ngắn thấy dài. Văn hỏi rằng: giải thích này trái với giáo lý. Trái với giáo ấy, dựa vào kinh luận nào mà nêu ra giải thích này. Vả lại nói trái ngược với luận Thành nghiệp và luận này. Một mặt nhiều gọi là dài; một mặt ít gọi là ngắn. Nói trái lý tức là trong một sắc có đầy đủ cực vi của trưởng ngắn. Hình trường kiến ngắn, hình ngắn kiến trường tức y theo đây thì vô trường không thấy ngắn; vô ngắn không thấy trường. Nếu vậy, có dài, có ngắn đồng thời xuất hiện lẽ ra phải thấy vừa trường vừa ngắn. Nếu không có cái lúc dài ngắn đồng thời đó, lẽ ra sự vật sẽ không được thấy hai sắc dài ngắn. Ngay trước mắt, khi tác ý chấp lấy sắc dài, sắc ngắn, do đâu mà không thấy, phải đợi tương hình là không hợp lý. Lại, chờ so sánh mới biết đó là cảnh của ý thức, chẳng phải đối tượng của mắt thức; nhãn thức không thể so lường các duyên cho nên biết là phi lý. Lại nói, khả lượng trở đi gọi là dài; bất khả lượng gọi là ngắn. Cũng trái với giáo, lý và trái với thế gian. Trái giáo thì như văn trước đã dẫn. Trái lý: như trong xúc không thể gọi là nhẹ, không thể gọi là nặng, không thể phân biệt nhiều ít. Chỉ kéo xuống gọi là nặng xúc, đây cũng nên như vậy, chỉ có phần lượng nên gọi là dài. Thất vi đã nói ở trên tức có phần lượng nên gọi là dài. Thế gian thì không thấy sắc ngắn: là trái với thế gian, tất cả thế gian đều không nói khả lượng gọi là dài, bất khả lượng gọi là ngắn. Tự hỏi, tự đáp: Lại tự hỏi đáp rằng, cực vi của ngắn này rất nhiều, vì sao nói là bất khả lượng. Giải thích: Tuy có nhiều thể của không thể lường, như khinh cực vi, tuy có nhiều thế nhưng vẫn không thể xưng. Cực vi ngắn tuy nhiều, nhưng bất khả lượng. Nếu nói mắt thấy chẳng phải bất khả lượng; thế thì hiển cũng nhãn thấy, lẽ ra là khả lượng. Nếu nói đồng tụ lẽ ra là khả lượng thì hương, v.v… cũng đồng nhóm, lẽ ra cũng khả lượng. Ở đây, đa tạp trú mà bất khả lượng, dài ngắn xen lẫn cũng bất khả lượng. Theo giải thích trên hoàn toàn không có lý thú, trước sau trái nhau. Theo phần nêu tôn ở trên, giải thích các sắc dài ngắn khác nhau. Thứ hai giải thích rằng: khả lượng trở lên gọi là dài sắc tức nhóm sắc khả lượng gọi là dài; nhóm sắc bất khả lượng gọi là ngắn. Giải thích nghóa chữ Tạp là nói, cực vi ngắn trường xen lẫn tồn tại. Y theo đây thì khả lượng trở lên cùng với phần nêu tông trái ngược lẫn nhau hay sao? Lại dẫn xúc để ví dụ cũng không hợp lý. Thể tánh cực vi không chắc chắn là nặng. Cho nên có một loại xúc vi không thể lôi kéo, phần nhiều cũng chẳng phải trọng. Thất vi thể là pháp đối ngại cho nên nhiều thì khả lượng. Làm sao thành ví dụ được. Lại tự giải thích tướng của sắc rằng, trồi lên ở giữa gọi là cao; lõm xuống ở giữa gọi là thấp. Tự hỏi đáp rằng: trường và cao, có gì khác, ngắn và dưới có gì khác. Tự giải thích: dài ngắn là theo chiều ngang; cao thấp là y theo chiều dọc. Theo đây thì trước sau trái nhau. Đây có thể, trồi dọc gọi là cao; trồi ngang gọi là dài; lõm thẳng xuống gọi là dưới; lõm ngang gọi là ngắn. Lại, các Luận sư Đại thừa đều nói: nhóm, hiển để thành dài v.v… Lại nói ngắn, v.v… Là đối đãi nhau mà lập nên biết rằng ngắn là giả nhóm của dài v.v… là duyên của ý. Sắc xứ là thế nào? Lại, tự xúc v.v… sao lại không phải là dài sắc. Có bốn trường hợp: Luận chép: “Hoặc hữu sắc xứ” cho đến “bóng, áng sáng, sáng, tối”. Đây là thứ ba, chia ra bốn trường hợp, nay sẽ giải thích bốn trường hợp để biết hình sắc. Nay giải thích. Hình lượng có ba thứ khác nhau: Nhóm cực vi không nương gá, bên trong có thể đục thủng thành lỗ v.v… như tường cây, v.v… Tự có hình lượng, không nương gá cái khác, như mây khói, v.v… Đợi duyên mới thành hình lượng, không dao động được. Như ánh sáng, bích họa v.v… có người nói, họa hữu hình ấy là sai. Các luận, phần nhiều chấp hình sắc thứ nhất làm hình, hoặc chọn thứ hai hoặc chọn thứ ba. Tám thứ hình sắc ở văn trước chính là loại thứ nhất. Trong đây, bốn trường hợp bao gồm cả loại hình thứ hai, vì mây, khói đều nằm trong câu cú, hoặc có khi sắc xứ có hiển vô hình: nghóa là không và hình sắc đồng nhóm hiển bày, tức là trừ câu mười hai, v.v… còn lại tất cả hiển khác chẳng phải hình, xanh v.v… đều là hiển. Luận Chánh Lý quyển ba mươi tư chép: Hoặc có nhóm sắc cả hai đều có thể hiểu, đó là các nhóm hình, hiển khác nhau. Do chẳng phải đối với nhóm này, bỏ cái này mà chọn cái khác được. Theo đây nên biết, khác nhau nhóm với hình gọi là hiển, chẳng phải hình. Luận chép: “Hoặc có sắc xứ” cho đến “thân biểu nghiệp tánh” thuộc câu thứ hai. Sắc của thân biểu nghiệp, tuy vào lúckhởi cùng với cựu nối tiếp hiển sắc đồng nhóm nhưng không chắc chắn là câu. Mới khởi liền diệt thì khác với hiển sắc. Mới khởi không có tân hiển sắc, liền diệt, xưa hiển sắc nối tiếp. Luận Chánh Lý nói rằng thân biểu được gọi là sai khác của hình. Lý này cực thành. Đó là từ tâm gia hạnh phát sinh ra một loại hình sắc, không trú đẳng lưu đãi chủng quả, không chờ các sắc khác làm nhân sanh của mắt thức, hay ngăn che hình sắc có công năng nuôi lớn của dị sanh. Hình sắc như vậy gọi là thân biểu. Đồng nhóm sắc hình và hiển: Luận chép: “Hoặc hữu sắc xứ” cho đến là sắc còn lại: Đây là câu ba, là đồng nhóm sắc của hình và hiển. Như ở trước, dẫn văn luận Chánh Lý. Luận chép: Có Sư khác nói cho đến có dài v.v… là nói về các thuyết khác. Các vị Luận sư này lấy hình sắc thứ ba. Ngoại trừ, một phần của sắc ánh sáng, sáng, không phải hình; nghóa là ánh sáng, minh được phát ra từ nơi vô chướng ngại. Sắc đó nhẹ, nhỏ cho nên không có phần lượng. Có người nói, mới sanh trí là sai. Luận chép: Làm sao một việc có đủ hiển hình: Đây là vặn hỏi của Kinh Lượng bộ. Ý nạn vấn rằng: sắc xứ của trường, v.v… tức là hiển vi, ở vị nhóm họp, đặt tên khác nhau; làm sao một pháp cực vi vừa hiển vừa hình? Luận Vì ở trong đó, cho đến nghóa chẳng phải có cảnh: Luận chủ lấy ý của kinh lượng để trả lời. Trong đó, thật sự một sắc sanh hai trí hiển hình cho nên nói, vừa hiển vừa hình. Cho nên biết được, không phải dựa vào lời đáp của Hữu Bộ. Luận Chánh Lý chép, Kinh chủ trương câu hỏi trước: làm sao một pháp lại có đủ hai thể ấy. Nạn vấn này không thành, chẳng được chấp nhận, thuật rằng, hiển vi, hình vi, thể của chúng khác nhau, không thể chấp nhận rằng, một pháp lại có cả hiển lẫn hình. Luận chép: Nếu thế thì trong thân biểu cũng có hiển trí”: là câu luận chủ nạn tuyệt. Nếu sanh hai trí nên nói vừa hình vừa hiển, thì lẽ ra thân biểu lẽ ra cũng sanh hai trí một vị Sư của luận Bà-sa quyển bảy mươi lăm chép: Trong hai mươi sắc, thì tám sắc có hiển không có hình, đó là xanh, vàng, đỏ, trắng, bóng, ánh sáng, sáng, tối; mười hai sắc còn lại, vừa có hiển, vừa có hình. Các Sư này ý nói rằng có hình thì phải có hiển, tự có hiển không có hình. Có bốn trường hợp của một Sư giống với luận này, câu bốn lấy không giới sắc, phi hình phi hiển, do thường bị sáng, tối che lấp. Bốn trường hợp này chẳng phải nghóa đúng. Nghóa đúng là sáng, tối là thể của không giới. Lý hợp với hiển, chẳng phải hình. Nhưng, dài v.v… nói trong bốn trường hợp này là nhóm giả như dài… chẳng phải thật là cực vi. Các nhóm như dài v.v… này có hai thứ cực vi hình và hiển, cho nên nói vừa hình vừa hiển. Chẳng phải cực vi của dài ngắn, v.v… cũng là hiển. Bốn trường hợp này dựa vào sắc xứ mà lập nên. Luận Chánh Lý quyển ba mươi tư chép: có thuyết nói hương, vị, xúc và sắc vô biểu là thứ tư, tức dựa vào sắc uẩn lập bốn trường hợp. Thanh không thưởng hằng nên không xếp vào câu phi. Nói theo uẩn thì chẳng phải là nghóa đúng, trong đây có nói về sắc xứ. Hỏi đáp chung: Hỏi: Trong nước, giường có các ảnh tượng, đó là thật có hay chẳng phải thật có? Đây chỉ là giả nêu ra thí dụ, chẳng phải thật có. Vì sao? Vì khuôn mặt không có trong gương, gương không ở trước mặt, làm sao trong gương có ảnh của khuôn mặt. Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: đó là thật co, là cái mà mắt thấy được, sở duyên của mắt thuộc về sắc xứ. Hỏi: mặt không có trong gương, gương không ở trước mặt, sao nói là thật có? Đáp: Nhân duyên sanh ra sắc, có rất nhiều lý, cho nên kia chẳng phải vặn hỏi. Như duyên ánh trăng,nguyệt ái châu khí có nước ở trong đó, chẳng phải không thật có. Nước được sinh ra kia có tác dụng thật sự của nước, có rất nhiều ví dụ v.v… Hang trống có hai thuyết: thuyết dụ do có sát-na diệt nên không đến hang, cho nên không có. Các Luận sư nói: làm phát sinh nhó thức nên nói là có. Hỏi: Hình tướng này trong hai mươi loại, thuộc về loại nào? Đáp: Chẳng thuộc loại nào cả. Do đó, luận Bà-sa quyển bảy mươi lăm giải thích trong hai mươi sắc đã nói riêng về tượng sắc rồi, hoặc nằm trong bốn sắc, các tượng sắc xanh, v.v… thì xếp vào xanh, v.v… không thể dùng bổn sắc mà vặn hỏi tượng sắc. Chướng ánh sáng sanh v.v… là giải thích bổn sắc. Hình hiển phần là nói về sai khác. Tượng sắc thì xếp vào hiển sắc; nếu từ bản chất, cũng thuộc chung về hình. Đây là nói về tượng, không thể dùng bổn hình để vặn hỏi. Chánh Lý có văn chép: nói hiển sắc là nói riêng về bổn tượng. Luận chép: “Đã nói sắc xứ sẽ nói về thanh xứ”: Dưới đây , là giải thích thanh xứ, chia làm bốn đoạn: 1/ Văn trước kết dẫn. 2/ Nêu số lượng tên gọi. 3/ Y theo tên giải thích riêng. 4/ Phá thuyết khác. Luận Chánh Lý chép: có công năng kêu gọi là thanh; hoặc chỉ có âm hưởng gọi là thanh. Thuật rằng, trước là ngữ thanh, sau chẳng phải ngữ thanh Nêu số lượng tên gọi: Luận chép: “Thanh chỉ có tám thứ” cho đến “sai khác thành tám”. Đây là phần nêu số lượng tên gọi. Bốn thanh trước, mỗi thanh đều có hai nghóa vừa ý và bất không vừa ý khác nhau cho nên thành tám thứ. Luận chép: “Chấp thọ đại chủng” cho đến “đại chủng là nhân” trở xuống là thứ ba, giải thích riêng theo tên. Đoạn này nói chấp thọ đại chủng, phi chấp thọ đại chủng, là nhân của thanh. Đối với chấp thọ đại chủng là nhân của thanh; hữu là thanh hữu tình danh, nghóa là ngữ biểu nghiệp. Hữu, phi thanh hữu tình danh là các chấp thọ đại chủng khác là nhân của thanh, đối với phi chấp thọ đại chủng là nhân của thanh, chỉ là phi thanh hữu tình danh. Giải thích danh thanh: Luận chép: “Thanh hữu tình danh” cho đến “phi thanh hữu tình danh”: Là giải thích thanh hữu tình danh và phi thanh hữu tình danh. Nói thanh hữu tình danh là ngữ biểu nghiệp, Phi là tất cả ngữ biểu nghiệp đều là thanh hữu tình danh. Luận Chánh Lý chép: ngữ biểu nghiệp này lại có hai thứ, đó là loại nương danh mà khởi và loại không đợi danh. Lại y theo văn này, thanh hữu tình danh là một phần của chấp thọ đại chủng. Phi thanh hữu tình danh là chẳng phải chấp thọ đại chủng làm nhân thanh hoàn toàn. Và có một phần chấp thọ, thanh hữu tình danh chắc chắn là có chấp thọ đại chủng làm nhân, lại nữa phẩm Nghiệp ở dưới nói: thân biểu nghiệp ngữ biểu nghiệp chắc chắn có chấp thọ đại chủng làm nhân. Cho nên biết, luận này, thanh hữu tình danh phải có chấp thọ đại chủng nhân phát khởi. Là số hữu tình, có đắc đắc “chẳng phải lời của hóa nhân”. Những lời của hóa nhân chẳng phải chấp thọ đại chủng làm nhân của thanh, như theo luận Chánh Lý quyển một, nói rằng hữu chấp thọ đại chủng làm nhân âm thanh, vô chấp thọ đại chủng làm nhân thanh, thanh số hữu tình, phi thanh số hữu tình. Thuật rằng văn này, chấp thọ đại chủng làm nhân thanh, tức là thanh số hữu tình. Vô đại chủng chấp thọ là nhân của thanh, tức là thanh số hữu tình. Lại nói trong tám thứ, chỉ có loại một và hai là hợp lý; vì số hữu tình, phi số hữu tình đều thuộc về chấp thọ và phi chấp thọ đại chủng làm nhân thanh. Y theo văn luận này, trong vô chấp thọ làm nhân thanh không có thanh hữu tình danh và thanh số hữu tình, cũng không có đắc đắc. Thanh hữu đắc đắc là số hữu tình. Y theo văn luận này, thanh được chia thành bốn thứ, bất luận bốn trường hợp rộng hẹp, không giống nhau, chỉ y theo nghóa khác nhau mà chia thành bốn thứ, tạo định, đạo giới đại chủng va vào nhau phát thành tiếng; chẳng phải là vấn đề nói ở đây. Hoặc có thể, các đại chủng kia không tự va vào nhau làm phát ra thanh. Luận Bà-sa cũng đồng ý có bốn đại chủng không va vào nhau phát ra tiếng. Hỏi: nếu vậy, vì sao nhập A-tỳ-đạt-ma quyển một nói thanh có hai thứ là hữu chấp thọ đại chủng và vô chấp thọ đại chủng làm nhân nên có khác nhau. Đọa tự thể là hữu chấp thọ (tự thể là tự thân), đó là nghóa giác thọ. Trái với nghóa này gọi là Vô chấp thọ. Tiền sở sanh giả gọi là hữu chấp thọ đại chủng làm nhân. Đó là tiếng gió, thổi, tiếng rừng cây v.v… Danh thanh này chia ra làm bốn: Thanh hữu tình danh, phi thanh hữu tình danh này sai khác thành ra có bốn: đó là trong các thanh trước; ngữ thanh gọi là thanh hữu tình danh. Các thanh khác gọi là phi thanh hữu tình danh. Trong các thanh sau, hóa ngữ thanh gọi là thanh hữu tình danh, các thanh khác gọi là phi thanh hữu tình danh. Theo văn luận này, lấy hóa nhân ngữ là vô chấp thọ làm nhân thanh hữu tình danh; nhưng không gọi là Nghiệp. Theo văn này thì trái với luận Chánh Lý. Ở luận này, thanh hữu tình danh chỉ có ngữ biểu nghiệp, chỉ có chấp thọ đại chủng làm nhân thanh. Hóa nhân ngữ, tất cả đều đồng ý rằng chẳng phải chấp thọ đại chủng làm nhân thanh, cho nên biết chẳng phải thanh số hữu tình và thanh hữu tình danh. Nhập A-tỳ-đạt-ma chấp nhận, chẳng phải chấp thọ mà nói hóa ngữ thanh hữu tình danh, há chẳng phải trái nhau ư! Đáp: mỗi bên theo một nghóa cho nên không giống nhau. Các luận này, y theo thanh này là vô đắc đắc cho nên chẳng phải thanh hữu tình danh. Luận Chánh Lý nói chẳng phải thanh số hữu tình. Nhập A-tỳ-đạt- ma y theo hữu tình tâm phát cho nên nói thanh hữu tình danh. Hỏi: nếu vậy, vì sao luận Bà-sa quyển mười ba nói thanh xứ có tám thứ, đó là chấp thọ đại chủng nhân thanh, phi chấp thọ đại chủng nhân thanh. Mỗi loại lại có hai là thanh hữu tình danh, phi thanh hữu tình danh. Và những loại này lại có vừa ý, không vừa ý khác nhau tạo thành tám thứ. Bác bỏ chẳng phải nghóa đúng: Đáp: Ý Luận sư này giống với Nhập A-tỳ-đạt-ma, nhưng chẳng phải nghóa đúng. Luận Chánh Lý và luận này không dùng nghóa đó. Cho nên luận Bà-sa quyển hai mươi hai chép, hỏi: các hóa ngữ có phải là nghiệp hay không? Có lập luận rằng đó ngữ nghiệp, vì do tâm phát sinh. Có các Luận sư khác nói, đó chẳng phải là ngữ nghiệp, chỉ gọi là ngữ thanh, vì thân sở hóa không có chấp thọ. Hỏi: Luận Bà-sa đối với hai thuyết đó không phê bình, như thế thì thuyết nào đúng? Đáp: chẳng phải nghiệp là đúng, cho nên biết được như vậy là do trong phẩm nghiệp của luận này, thân biểu nghiệp, ngữ biểu nghiệp chỉ có chấp thọ đại chủng làm nhân. Hóa nhân ngữ, đã cũng đồng ý rằng, chẳng phải chấp thọ đại chủng làm nhân cho nên biết chẳng phải nghiệp. Lại y theo Chánh Lý quyển sáu mươi tư, trong phần giải thích phát ngữ có nói rằng ở trong miệng gọi là ngữ, cũng là nghiệp, khi phát ra bên ngoài chỉ gọi là ngữ, không gọi là ngữ nghiệp. Theo văn luận đó, hóa nhân ngữ là lìa thân viễn hưởng, làm sao thành nghiệp được. Hỏi: Nếu chẳng phải nghiệp thì có đắc đắc hay không? Đáp: đã chẳng phải hữu tình thì không có đắc đắc. Hỏi: làm sao biết được hoá thanh là vô đắc? Đáp: Theo luận Chánh Lý nói chẳng phải chấp thọ đại chủng làm nhân thanh, cũng chẳng phải thanh số hữu tình, không có rộng hẹp. Đã cùng đồng ý rằng, hóa nhân chẳng phải chấp thọ cho nên biết không thành tựu. Y theo nghóa của các nhà phê bình của Bà-sa và văn sau của luận này, thì thân cõi Sắc làm hóc cõi Dục. Các vật hóa ra như hương, vị, như vật trang nghiêm, còn không thành tựu, làm sao lìa chất hóa ngữ mà được thành tựu? Nói về sắc sở tạo: Có người dẫn Bà-sa quyển một trăm ba mươi hai chép: có sắc sở tạo thành tựu Cõi Dục hệ; cũng có sắc sở tạo thành tựu Sắc giới hệ. Nghóa là sanh cõi Dục thành tựu tâm thiện cõi Sắc; nếu sanh cõi Sắc thì hóa thành cõi Dục, phát ngữ cõi Dục. Y theo văn này nếu hóa ngữ không thành tựu thì làm sao nói thành sắc của hai cõi này được. Bác bỏ rằng: đây không thành chứng, vì có cả giải thích khác. Ở trước đã dẫn văn chứng minh, hóa nhân không có “đắc” văn là chắc chắn. Văn này dễ có hai giải thích cho nên không thành chứng. Ở đây nói tức là hai cảnh chất hóa, sắc xúc và tức tự thân dùng hóa tâm cõi Dục, phát ngữ cõi Dục, cho nên nói như vậy; chứ chẳng nói đây là sở phát ngữ của lìa chất hóa nhân. Do đó biết được thân sanh cõi Sắc làm hóa cõi Dục. Một thuyết không hóa hương, vị; một thuyết hóa mà không thành tựu như trang nghiêm cụ. Hóa nhân lìa chất đã sơ lại xa với thân vật trang nghiêm thì làm sao nói ngữ; có nghóa thành tựu ngoài ra như trước đã nói. Hỏi: nếu vậy vì sao luận Bà-sa trước sau không có đoạn văn nào nói không thành tựu hóa ngữ lìa chất. Đáp: đây không phải chỗ nghi nên không nói riêng, tức là xếp vào đều bất thành tựu. Trong pháp vô tình, điều này đã được nói rồi cho nên không nói riêng. Như không nói riêng một cây, một tảng đá v.v… đều gọi là không thành tựu. Lại, như nói tóc, lông, móng tay v.v… không có chấp thọ thì chẳng phải số hữu tình nên không có đắc đắc. Những vật này gần với hóa nhân lìa chất còn không thành tựu, làm sao ngữ của hóa nhân lìa chất ngữ lại nói riêng được. Có danh hay không? Hỏi: hóa nhân ngữ và tiêu địch v.v… tuy chẳng thành tựu nhưng có danh hay không? Đáp: chắc chắn không có danh. Dưới đây, văn luận nói danh là số hữu tình, đã không có đắc đắc, làm sao có danh? Luận chép: “Có thuyết có thanh” cho đến “hợp thanh sở sanh”: là thứ tư bác bỏ thuyết khác. Các Sư thuộc luận Tạp tâm này nói tay và trống hợp lại làm phát sinh ra tiếng gọi là nhân câu thanh, tức là thanh sanh ra từ hai thứ đại chủng. Luận chép: Nếu không chấp nhân một cho đến thanh cũng nên như thế: Là Luận chủ bác bỏ. Như Bà-sa không chấp nhận: Cực vi hiển sắc. Do bốn đại tạo. Cho nên biết rằng thanh cũng không được tạo nên từ đại chủng nội ngoại. Nay giải thích rõ hơn, luận nói thanh do đại chủng khác nhau ấy là nghóa tạo; chẳng phải chỉ do duyên kích phát sinh ra thanh. Luận Chánh Lý chép: tuy có chấp thọ và không chấp thọ, hai tứ đại chủng xúc chạm nhau mà mỗi thứ lớp phát sinh thanh khác nhau. Các thanh kia đều dựa vào tự sở y, không thành ba thể. Nói về vừa ý, không vừa ý: Hỏi: Vì sao chỉ nói vừa ý, không vừa ý mà không nói âm thanh xử trung? Đáp: nếu nói vừa ý, trái ý thì có xứ trung. Đã nói vừa ý, không vừa ý là đã gồm hết tất cả các thanh. Ngoài vừa ý, tất cả đều chẳng vừa ý. Đây là thanh vừa ý hẹp, thanh không vừa ý rộng. Trái ý, xứ trung đều là không vừa ý. Lại vừa ý, không vừa ý là nói về mặt số hữu tình, chẳng phải chắc chắn. Hỏi: Đối với sắc v.v… vì sao không nói vừa ý, không vừa ý…? Đáp: cũng nên nói hữu chấp thọ v.v… là dị nhân, nhưng tánh của nhân thanh khó biết, chỉ y theo nhân tình v.v… mà nói có khác nhau. Giải thích vị xứ: Luận chép: “Đã nói thanh xứ nên nói vị xứ”: Dưới đây thứ ba là giải thích vị xứ. Luận Chánh Lý chép: vị là vật ăn, nghóa là nếm; trong đó có hai: Kết dẫn. Nêu số lượng tên gọi. Đây là phần đầu. Luận chép: “vị có sáu thứ” cho đến đắng, lạt khác nhau là nêu số lượng tên gọi. Sự sai khác của các pháp có nhiều thứ không giống nhau, không thể nêu ra một ví dụ. Do năm cảnh khác nhau khác nhau nên sắc có hai mươi, thanh có tám, vị có sáu, hương có bốn, xúc có mười một v.v… nghóa là vị căn bản chỉ có sáu; các vị khác đều là biến tướng của sáu vị này. Luận Tạp Tập chép: hòa hiệp vị v.v… không lìa sáu vị này. Luận chép: “đã nói vị xứ, bây giờ nói về hương xứ”, là thứ tư giải thích hương xứ. Luận Chánh Lý chép: hương là cái bị ngửi, trong đó có ba: Kết dẫn. Theo Bà-sa quyển mười ba, nói hương có bốn thứ. Theo luận này nói hương có ba thứ. bà-sa nói bốn thứ hương: Luận chép: “Hương có bốn thứ” cho đến “có khác nhau” là phần Bà-sa nói bốn thứ hương. Luận Ngũ Sự chép: các thứ làm thích ý gọi là hương tốt, không thích ý gọi là hương xấu. Luận Chánh Lý chép: tăng ích hay tổn giảm đều nương vào thân mà có khác nhau. Có thuyết nói: có yếu nhẹ và mạnh mẽ khác nhau. Thuật rằng: tăng tích, tăng thạnh là hương bình đẳng; tổn giảm, yếu nhẹ là hương bất đẳng. Luận chép: Trong luận này nói cho đến “và hương bình đẳng” là phần dẫn ba thứ hương của luận này. Luận Chánh Lý giải thích rằng: nuôi lớn các căn đại chủng gọi là hương tốt; trái lại gọi là hương xấu. Trái nhau: nghóa là tổn hại các căn, không có hai dụng trước gọi là hương bình đẳng, hoặc các phước nghiệp tăng thượng sanh ra gọi là hương tốt, hoặc cái làm tăng thêm tội nghiệp gọi là hương xấu. Chỉ có thế lực sở sanh của bốn đại chủng gọi là hương bình đẳng. Nay giải rõ thêm giải thích trên. Hương tùy theo đó mà có một nghóa, chẳng chắc chắn. Có sự tổn ích đối với hữu tình không chắc chắn. Ba hương, bốn hương, nói tuy không giống nhau nhưng đều thuộc về hương; lại nhiếp nhập lẫn nhau. Suy nghó sẽ hiểu. Chẳng phải nghóa quan trọng, nên không nói rườm rà. Giải thích xúc xứ: Luận chép: “Đã nói hương xứ, sẽ nói về xúc xứ” là giải thích xúc xứ. Trong văn có bốn: Kết dẫn. Nêu số lượng, tên gọi. Nhắc lại tên gọi và giải thích. Thông cuộc của giới hệ, đây là phần đầu. Luận chép: “Xúc có mười một” cho đến và đói, lạnh, khác, là thứ hai số lượng, tên gọi. Luận chép: Đại chủng trong đây sau sẽ nói rộng: Là thứ ba, nhắc lại tên gọi và giải thích. Trong đây có ba: chỉ cho giải thích ở sau. ngay thể đặt tên. Nhân thủ tên quả, đây là phần đầu. Luận chép: Mềm mại gọi là hoạt cho đến “trái với đây là nhẹ” là thứ hai ngay thể đặt tên. Hỏi: Vì sao trong bảy thứ xúc, chỉ có bốn thứ như hoạt v.v… gọi là tánh, còn các xúc khác, cảnh khác không nói là Tánh? Đáp: đây là đối với ba thứ sau từ quả vị mà đặt tên. Bốn thứ này từ tự tánh làm tên nên gọi là Tự tánh. Ba thứ sau từ quả làm tên nên không nói Tánh. Các cảnh khác không có đối nhau cho nên không gọi là Tánh. Xứng đáng gọi là nặng nghóa là có thể kéo xuống, không thể gọi tên nghóa là không thể kéo xuống và có sức đi lên như khói, lửa, v.v… đều gọi là nhẹ, Các văn khác rất dễ hiểu. Luận chép từ “Noãn dục gọi là lãnh cho đến ẩm dục gọi là khát” là thứ ba Nhân lấy tên của quả; trong văn có ba: Giải thích tên quả. Kết quy nhân xưng. Dẫn ví dụ chứng thành. Đây là phần đầu. Muốn ấm, muốn ăn, muốn no là tâm sở dục số. Do trong thân có xúc lực khiến cho muốn ấm, có xúc lực khiến muốn ăn, có xúc lực khiến cho muốn uống. Cái dục khiến cho đó gọi là lãnh, đói, khát chính là do cảm xúc khiến cho kia; tức năng linh xúc từ quả làm tên gọi là lạnh, đói, khát. Kết luận: Luận chép: Đây đều đối với nhân cho đến nên nói như vậy: Là thứ hai kết luận. Luận chép: “Như có bài tụng rằng” cho đến “đồng tu dõng tấn lạc” là thứ ba dẫn ví dụ chứng minh. Chư Phật ra đời v.v… cho lạc là nhân nên gọi là lạc. Hỏi: Rít, trơn, nặng, nhẹ đều đối lập nhau, vì sao đối với lạnh, không nói là ấm? Đáp: ấm là năng lực tức là hỏa đại cho nên không nói. Luận chép: “ở trong cõi Sắc, cho đến truyền thuyết như thế trở xuống là thứ tư phân biệt giới hệ. Cõi trên, chắc chắn không có hai xúc đói, khát, không có đoạn thực. Các xúc khác đều có, đối với lý không trái. Y phục riêng biệt không gọi là nặng, nhỏ, ít cho nên không thể lôi kéo. Nhóm họp nhiều thì có thể gọi, cho nên biết biệt thời cũng có trọng. Các văn khác, rất dễ hiểu. Nói về trọng lượng: Bà-sa quyển một trăm hai mươi bảy chép: Hỏi: nếu trong cõi Sắc có xúc nặng thì vì sao luận Thi Thiết nói: Người Châu Cu-lô ở phía Bắc mặc y nặng một lạng. Tứ Thiên Vương y năng nửa lạng. Trời Ba mươi ba y nặng một phần hai mươi bốn lạng. Trời Dạ-Ma y nặng nửa thù. Trời Đổ-Sử-Đa y nặng một phần tư thù. Trời Tha Hóa tự tại y nặng một phần mười sáu thù. Các tầng trời trên đây y đều bất khả xưng ư? Có thuyết nói: y của cõi Sắc, tuy bất khả xứng, nhưng các vật khác là khả xứng. Có thuyết nói: mỗi chiếc y ở cõi, tuy bất khả xứng, nhưng nhiều y gom lại thì khả xứng như sợi nhỏ, lông nhẹ gom lại, lại thì thành nặng. Luận Chánh Lý chép: xúc là sở xúc, mười một là tánh. Cho đến nếu vậy, thì thân căn lẽ ra thành sở xúc. Cái này chạm vào cái kia, cái kia chắc chắn chạm vào cái này. Có thuyết nói: thân căn chỉ có năng xúc, không có sở xúc. Thí như mắt căn chỉ có năng kiến không có sở kiến. Lại có thuyết nói, chẳng có một pháp nhỏ nào có thể tiếp xúc với một pháp nhỏ khác. Khi Sở y, sở duyên sanh ra không đứt quãng thì lập xúc gọi là tưởng. Nếu dựa vào thức này mà có được cảnh kia thì thức này đối với cảnh kia giả nói là năng xúc. Cảnh chẳng phải chỗ nương của thức cho nên chẳng phải năng xúc; do đó nên chỉ gọi địa, v.v… là sở xúc. Các thứ sắc kia v.v… chắc chắn chẳng phải sở xúc. Ý trong đây nói rằng dựa vào thân căn thức không duyên cảnh mà sanh khởi. Nếu các sắc kia v.v… chẳng phải sở xúc thì vì sao, hoa v.v… khi bị thân xúc, thì màu sắc, v.v… bị biến hoại. Do sở y kia bị tổn hoại. Hiện kiến sở y có tổn ích cho nên năng y cũng tổn ích. Chẳng phải ở đây trái nhau. Như chỗ nào đó có đầm trong, tươi nhuận, mạ tốt bị mặt trời chói chang thiêu đốt là trái với đây. Cho nên biết rằng, đại chủng sở y bị tổn hại thì sắc năng y, v.v… cũng biến hoại. Chẳng có dư sót. Luận Bà-sa quyển một trăm hai mươi bảy chép: hỏi: duyên năm sắc căn, đại chủng sở y có phát sinh thân thức hay không? Có thuyết nói là không phát. Như năm sắc căn không thể xúc cho nên không phát sanh thân thức. Đại chủng sở y, lý cũng như vậy. Thân thức sở thức: Hỏi: Vì sao nói thân thức sở thức? Đáp: dựa vào pháp tánh nên nói thân thức sở thức, ở đời vị lai là cảnh của thân thức. Nhưng, không có nghóa phát sinh thân thức ở hiện tại. Có thuyết nói rằng, trừ thân căn sở y đại chủng đều có thể phát sinh thân thức ở hiện tại. Có thuyết nói rằng: trừ đại chủng sở y của thân căn đều có thể phát sinh thân thức. Do thân căn sở y rất gần gũi cho nên không thể phát sinh thân thức. Nhưng cảnh sở duyên của thân thức kia cũng được gọi là thân thức sở thức. Nay đã rõ hai giải thích này rồi. Sợ chẳng hợp lý, nên trong tự thân, dị xứ xúc chạm nhau, lý nào ngăn được. Hoặc có thể, tự thân dị xứ cũng được gọi là tha. Lại nói: hai xúc đói, khát là trưởng, đẳng lưu, hay dị thục sanh? Sư phương Tây nói: đây chẳng phải dị thục, do ăn uống làm đứt quãng. Lại nói: đói khát cũng có cả dị thục sanh, do ăn uống tạm thời đứt quãng, chẳng phải dứt hẳn. Dứt có hai thứ là dứt hẳn và dứt tạm thời. Dứt hẳn thì không thể tái tục, chẳng phải dứt tạm thời; như trong địa ngục tạm chặt lìa thân phần, thì sắc dị thục sanh sắc, chặt rồi lại sanh. Các Luật sư nước Ca-thấp-di-la nói: khi no thì kia cũng không dứt, do ăn uống che chướng nên không thể biết được. Khi thức ăn tiêu hết rồi lại có thể giác biết được. Hỏi: dị thục ấy là thiện hay bất thiện? Đáp: cũng giống như luận Tạp tâm. Luận Bà-sa quyển một trăm hai mươi bảy chép: chẳng phải do đại chủng thiên tăng mà sanh ra hoạt v.v… chỉ do tánh loại sai khác của đại chủng khiến sanh ra quả hoạt; cho đến sanh ra quả của khát. Có các Luật sư khác nói rằng: thủy hỏa tăng cho nên trơn; đất gió tăng cho nên rít. Lửa gió tăng cho nên nhẹ; đất nước tăng cho nên nặng. Nước gió tăng cho nên lạnh; phong tăng cho nên đói. Hỏa tăng cho nên khát. Không có Luật sư nào phê bình về điểm này cả. Nay nói rõ, có cả hai nghóa: luận Tạp tâm nói: đói khát hoặc là thiện báo nghóa người giàu, thì đói khát là giả báo thiện khí, còn người nghèo, thì đói, khát là quả báo bất thiện. Hỏi: Đói, khát chỗ nào do đại chủng sở tạo, có thuyết nói do đại chủng bên bụng tạo. Có các Luật sư khác nói, đại chủng khắp thân tạo ra. Lúc đói khát, khắp thân khổ não, luận Chánh Lý nói: các chỗ khác chưa nói muộn, lực, liệt v.v… thuộc về trong đây cho nên không nói riêng. Muộn không lìa hoạt; lực tức rít, trọng liệt ở mềm mại thuộc về tánh nhẹ. Như vậy, chủng loại sở xúc còn lại tùy theo đó mà thuộc về mười một loại. Y theo mười một loại xúc này bao gồm tất cả các loại xúc, cho đến hỏa giới phong giới tăng, cho nên phát sinh khinh tánh. Do vậy, trong thân chết thì tánh nặng tăng. Thủy giới phong giới tăng cho nên phát sinh ra lãnh. Do đó nên cũng nói rằng muộn ở đây sanh. Nếu vậy vì sao nói không lìa hoạt, tùy mỗi thứ tăng, đây không có lỗi. Hoặc lại muộn ấy là sự khác nhau của hoạt chẳng phải tánh hoạt. Nên biết rằng nhân này cũng có khác nhau. Cho nên tánh của hoạt hoặc do thủy giới phong giới tăng mà khởi, hoặc do thủy giới hỏa giới tăng mà sanh; do đó hai cách nói kia không có lỗi trái nhau. Nói về sanh thức: Luận trong đây nói cho đến các thức cũng thế: Là thứ sáu nói về sanh thức chung riêng. Trong Văn có bốn: Kết thúc phần trước nói về nghóa đúng. Nói về thuyết khác của Bà-sa. Hỏi đáp phân biệt. Sanh thức trước sau. Đây là phần đầu. Đã nói nhiều loại sắc xứ, năm căn, năm cảnh mười xứ khác nhau nên gọi là đa chủng. Năm thức chấp cảnh đều có cả chung riêng là nghóa đúng của các nhà phê bình trong Bà-sa quyển một trăm hai mươi bảy. Các thuyết khác: Luận chép: Có luận sư khác nói cho đến mười một xúc khởi”: là thứ hai nói về các thuyết khác của Bà-sa. Trong hai thuyết của luận này, thuyết sau là đúng. Luận chép: Nếu thế năm thức cho đến “chẳng phải cảnh tự tướng”: là thứ ba hỏi đáp phân biệt, trước hỏi, sau đáp, đây là hỏi. Luận chép: “Y theo tự tướng” của xứ cho đến ở đây có lỗi gì: là trả lời. Năm thức như thân thức v.v… chẳng duyên với tướng chung trong mười hai xứ, như vô thường, v.v… trong cùng một xứ, thể sự khác nhau nhau, chẳng phải chỉ duyên với một. Luận chép: Nay nên nghó chọn, cho đến “thức nào khởi trước”: là thứ tư nói về sanh thức trước sau. Trước hỏi, sau đáp: đây là hỏi. Luận chép: Tùy cảnh mạnh mẽ, cho đến khiến cho nối tiếp là trả lời. Nếu cảnh đồng đều thì thiệt thức khởi trước, do muốn ăn dẫn khỏi thân khiến xoay vần nối tiếp, đưa thức ăn vào miệng thì chấp lấy thiệt, vị. Nếu cảnh đồng đều thì giác vị trước, đây là y theo phần nhiều. Nếu để biết lạnh, ấm thì phải hợp với cái biết trước ở xúc. Nay nói về chấp cảnh trước sau, lược do bốn duyên: Do tác ý khác nhau nhau. Do căn có sáng, tối. Do cảnh có mạnh, yếu. Do cảnh có mới, cũ. Giải thích sắc vô biểu: Luận chép: “Đã nói căn cảnh” cho đến nay kế sẽ nói: dưới đây một bài tụng giải thích sắc vô biểu. “Luận chép” cho đến “bất loạn hữu tâm là giải thích bài tụng. Trong văn này có năm: Không có biểu vị. Không có biểu tướng. Không có biểu tánh. Không có biểu nhân. Không có biểu danh. Đây là giải thích không có biểu vị. Loạn tâm: đó là thử dư tâm, thiện vô biểu lấy thiện tâm làm thử, lấy bất thiện, vô ký tâm làm dư. Bất thiện vô biểu lấy bất tâm thiện làm thử, tâm thiện, tâm vô ký làm dư, luận Chánh Lý chép: Bất thiện vô ký gọi là loạn tâm; dư tâm gọi là bất loạn là đứng về thiện vô biểu. Vô tâm là nhập vào định Vô tưởng và định Diệt tân. Luận Chánh Lý chép: định Vô tưởng, định Diệt tận gọi là vô tâm. Định này có công năng diệt tâm. Tuy là có quả vị vô tâm khác mà sắc vô biểu chẳng phải sở tùy lưu cho nên nói rằng, vô tâm không thuộc về đó. Nói Đẳng là hiển bày bất loạn hữu tâm, nghóa là đẳng có cả hai xứ, đó là loạn tâm đẳng và vô tâm đẳng. Loạn tâm đẳng, đẳng thủ bất loạn tâm; vô tâm đẳng, đẳng thủ hữu tâm. Luận Chánh Lý vặn hỏi: “Nói Đẳng có cả vô tâm thì chữ Đẳng này là vô dụng, vi đã thuộc ở trước rồi. Nói loạn tâm đẳng là đã nhiếp tất cả giai đoạn hữu tâm khác, nói chữ Đẳng thứ hai sẽ thuộc vào đâu. Kinh Lượng Bộ chủ trương nên xếp vào Tư. Thuật rằng vô tâm là giai đoạn vô tâm. Nói loạn tâm, bất loạn tâm; ngoài hai thứ này ra, liệu còn có tâm nào nữa, nên vô tâm đẳng là đẳng. Đẳng này nên đặt ở một chỗ. Kinh chủ nên suy nghó hoặc cho rằng đẳng sau thuộc về bất loạn tâm; đẳng trước vô dụng, điều này không nên, như thế vì không dung nhiếp. Không nên để đẳng sau thuộc về tâm bất loạn. Nói theo lý thì nơi tương tợ xứ khởi. Không khởi đẳng được, theo lý thì không thuộc về dư, cho nên chẳng thuộc hoàn toàn. Thuật rằng đã nương vào vô tâm cõi dưới mà khởi đẳng thì theo lý nó không thuộc bất loạn tâm dư, cho nên chẳng thuộc hoàn toàn. Hoặc nói loạn tâm thành ra vô dụng. Thuật rằng: Nói vô tâm đẳng là so với tất cả hữu tâm, đâu cần loạn tâm cho nên nói loạn tâm là vô dụng. Lại, nên phân biệt, chỉ có tịnh vô biểu, tùy lưu ở vị vô tâm, chẳng phải thứ khác. Thuật rằng: nhập định vô tâm lý hợp với tất cả bất thiện vô biểu đều xả, không thể nói ở vị vô tâm. Trong phần tự thích cũng không phân biệt, cho nên đối với lý này, kinh Lượng Bộ chủ trương nên xếp vào Tư. An Tuệ chống chế rằng loạn tâm, bất loạn là nói về tán vị. Loạn tâm đẳng thủ bất loạn tâm là tán tự tương tợ. Vô tâm, hữu tâm là nói về định vị; vô tâm đẳng thủ hữu tâm là định tự tương tợ. Cho nên nói đẳng này, là có cả hai xứ. Giai thích tướng vô biểu: Luận chép: “Tương tợ nối tiếp gọi là tùy lưu”; là thứ hai giải thích tướng vô biếu. Thuật rằng: thể tánh của vô biểu tương tợ nối tiếp, chỉ có thiện bất thiện. Có người nói: tương tợ nghóa là cùng với biểu nghiệp, tâm, tánh tương tợ tùy lưu, là sai. Luận Chánh Lý vặn hỏi: nay nói rằng, kinh Lượng Bộ chủ trương trong bài tụng này, không thể nói đầy đủ tướng củasắc vô biểu, chỉ nói tùy lưu gọi là sắc vô biểu; rồi tự giải thích rằng: tương tợ nối tiếp gọi là tùy lưu, chẳng phải sát na đầu tiên gọi là nối tiếp; không có lỗi thái quá. Do đó chắc chắn sơ niệm vô biểu không thuộc về tướng sở thuyết. Lại nối tiếp là giả chẳng phải thật, vô biểu chẳng phải thật; mất tông chỉ của Đối pháp. Lại cái do định phát ra thì loạn, vô tâm vị chẳng thể tùy lưu, lẽ ra cũng chẳng phải vô biểu. Nếu nói trong bất loạn, giai vị hữu tâm là tùy lưu thì cũng không có lỗi; tịnh, bất tịnh biểu nghiệp nên có tướng vô biểu. Luận sư Câu-xá chống chế nói rằng: nói nối tiếp hoặc do trước nối sau như sơ niệm vô biểu, hoặc do sau nối trước như niệm sau vô biếu, hoặc nối cả trước sau như trung gian vô biểu, cho nên sơ và hậu đều gọi là nối tiếp. Cho nên A-tỳ-đạt- ma chép: cũng có vô biểu duy nhất sát-na, dựa vào chủng loại chung nên nói là nối tiếp. Thể của vô biểu này là nối tiếp, thật thể đã nối tiếp, làm sao gọi là giả? Lại, định vô biểu tuy không cùng khắp trong bốn vị, vẫn gọi là vô biểu nghóa là đối với bốn vị, tùy đó mà nói: không thể nói vô biểu cùng khắp bốn vị. Như định câu vô biểu có mặt ở vị hữu tâm. Bất thiện vô biểu có mặt ở vị loạn, tâm bất loạn tâm. Nếu là tán thiện vô biểu thì có mặt trong cả bốn vị. Ông lập vô tâm cùng làm một vị thì định câu vô biểu đâu hiện hành được ư? Lấy biểu nghiệp làm nạn là phi lý. Hể nếu tâm này, phát khởi thì nhậm vận nối tiếp, hiện hành ở trong vị đó là tướng vô biểu. Biểu tùy từ tâm phát, tâm dứt thì vô, nhưng chẳng phải nhậm vận, nên không thành ví dụ. Nói về tánh vô biểu: Luận chép: “Thiện và dữ bất thiện gọi là tịnh bất tịnh”: Đây là thứ ba nói về tánh vô biểu. Phải dựa vào cường biểu mới phát được, không có ở vô ký. Luận chép: Là phân biệt các đắc cho đến “đại chủng sở tạo” đây là thứ tư nói về nhân của vô biểu. Trong bốn vị thì Đắc tương tợ nối tiếp, đồng với vô biểu, bốn đại tạo giống với vô biểu, tức dùng nhân đại tạo phân biệt các Đắc, lại nói: đại chủng sở tạo. Luận chép: “Tỳ-bà-sa nói” cho đến năm thứ nhân: là dân giáo làm chứng, tạo nghóa là nhân. Giải thích tên gọi vô biểu: Luận chép: “Hiển lập gọi là nhân” cho đến “nên gọi là vô biểu” là thứ năm giải thích tên gọi vô biểu. Vì văn tụng giản lược cho nên chỉ nói do đó. Luận Thành Nghiệp chép: Vì sao gọi là biểu? Vì nó có thể biểu thị tự phát nghiệp tâm giúp người khác biết được. Văn tụng chép: bên ngoài phát ra ở thân nghiệp ngữ nghiệp, nói lên suy nghó ở trong tâm. Ví như cá ở vực sâu biểu hiện ở chỗ quậy động nước. Tụng nói do đó, nghóa là do không có nghóa biểu này nên gọi là Vô biểu. Luận chép: “Người nói hiển bày đây là lời của sư tông”: Nêu tướng vô biểu nói ở trên do Sư Tát-sa Đa Tông nói. Luận Chánh Lý chép: thuyết giả hiển bày ý của các Sư này. Kinh chủ không chấp nhận các chủng loại vô biếu sắc như vậy. Luận chép: “Lược nói biểu nghiệp” cho đến “gọi là vô biểu”: đây là lược kết thể của vô biểu ở trên. Luận chép: “Đã nói vô biểu” cho đến “đại chủng thế nào” dưới đây hai bài tụng, từ luận sanh ra luận, nói về bốn đại. Trong văn có hai: hàng tụng thứ nhất nói về bốn đại chân thật, hàng tụng thứ hai nói về bốn đại giả tạo. “Luận chép” cho đến “nên gọi là giới”: là văn xuôi giải thích. Trong văn có bốn: Giải thích nghóa cõi. Giải thích nghóa Đại chủng. Giải thích nghóa Nghiệp. Giải thích nghóa Tánh. Đây giải thích cõi, dùng hai nghóa giải thích về cõi: một là năng trì tự tướng; hai là năng trì sở tạo, đồng với giải thích thứ ba của luận Hiển Tông. Giải thích thứ nhất của luận Hiển Tông nói rằng, tất cả các sắc pháp sanh ra từ gốc, cũng từ đại chủng sanh ra; các gốc sanh ra thế gian gọi là cõi. Như mỏ vàng v.v… gọi là cõi vàng v.v… Giải thích thứ hai nói: hoặc các thứ khổ từ gốc sanh ra gọi là Cõi, dụ như trước nói. Giải thích Đại chủng: Luận chép: “Bốn cõi như thế” cho đến “sự dụng lớn lao”: Là thứ hai giải thích đại chủng. Đại tức là chủng, nên gọi là Đại chủng, thuộc về trì nghiệp thích. Luận Hiển Tông chép: hoặc nói về mười thứ tạo sắc, nên nói là Chủng. Do thế lực đại chủng này mà các sắc được hiện bày. Cái gọi là Đại có công dụng lớn như vậy. Nói công dụng lớn nghóa là trong việc căn bổn của các hữu tình, thì bốn đại có tác dụng hơn cả. Dựa vào đây mà lập ra thức và không. Luận này giải thích chữ chủng rằng: là tánh sở y của tất cả các sắc khác. Thế nào là làm sở y? Luận Bà-sa quyển một trăm hai mươi bảy có nói: có thuyết nói ở dưới là pháp sở y của nhân. Hỏi: nếu vậy, đối với sắc bức gần có thể nói là năng tạo, đối với cách viễn vì sao nói là tạo? Đáp: không nói một cây có tất cả đại chủng, đều tạo ở dưới đó, các tạo sắc chỉ nói, nhất thọ mỗi phần đều có đại chủng ở dưới tạo sắc ở trên. Có thuyết rằng, tồn tại trong sự xen lẫn qua lại, đại chủng ở ngoài, tạo sắc ở trong. Hỏi: nếu vậy, lẽ ra lúc cắt đứt thì thấy có lỗ hổng cũng như bẻ ngó sen. Đáp: tuy có lỗ hổng nhưng không thể thấy vì các đại chủng chẳng thể thấy, lỗ hổng nhìn thấy được là tạo sắc. Luận Chánh Lý chép: sao gọi là Chủng, sao gọi là Đại? Khi các loại tạo sắc khác nhau sanh ra các phẩm loại năng khởi khác nhau nên nói là Chủng. Y theo văn của Chánh Lý tức là khiến tạo sắc chủng loại khác nhau sanh khởi gọi là chủng. Bà-sa chép: đại đức nói rằng, hư không tuy Đại mà chẳng phải Chủng, cho nên không thể sanh. Các pháp hữu tình khác tuy là chủng mà thể chẳng phải Đại vì tướng không cùng khắp. Thể rộng lớn cho nên bình đẳng tức dùng ba nghóa mà giải thích chứ Đại. Thể rộng lớn ấy: trong tất cả các nhóm sắc đầy đủ tánh cứng v.v… hoặc ở trong nhóm tăng thạnh của địa, v.v… hình tướng to lớn. Đây là bốn đại giả như đại địa, đại hải, đại hỏa, đại phong, v.v… hoặc khởi các thứ đại sự dụng tức nội bốn giới là gốc của hữu tình, nước lửa gió bên ngoài là thế giới thành hoại. Địa lấy năng trì, luận Chánh Lý chép: hư không có đại mà không có nghóa chủng, chủng và năng sanh là một. Có thuyết hư không cũng chẳng có nghóa đại vì thể chẳng phải sắc. Tạo sắc và các hữu vi khác chẳng phải sắc, vì tánh là năng sanh. Chủng mà không có hai nghóa trên thì chẳng phải đại chủng. Hai nghóa Đại và Chủng tương quan bất thành. Thuật rằng: hư không chẳng phải chủng, tạo sắc và các pháp phi sắc khác không phải Đại. Do đó, đại chủng chỉ có bốn, không thể thêm, không thể bớt. Luận Tỳ-bà-sa chép: giảm thì không có công năng, tăng thì thành vô dụng, cho nên chỉ có bốn. Như giường bốn chân. Thuật rằng: giảm thì tạo sắc bất thành, tăng lại là vô dụng. Giải thích về nghiệp: Luận chép: “Bốn đại chủng” này cho đến “năng thành nghiệp gì v.v…” trở xuống, là giải thích về Nghiệp. Trong văn có hai: một là hỏi, hai là đáp. Luận chép “như thứ lớp ấy” cho đến “thục trưởng bốn nghiệp” trở xuống là trả lời. Trong đáp có ba: Nêu tụng lược đáp. Giải thích văn tụng. Giải thích lại vặn hỏi. Luận chép: “địa giới năng trì” cho đến “phong giới năng trưởng”, đây là giải thích văn tụng. Luận chép “trưởng là tăng thạnh hoặc lại lưu dẫn” Đây là giải thích nạn. Tăng thạnh: Như nuôi cái nhỏ thành lớn, thể tăng thạnh. Lưu dẫn: nghóa là chuyển đến nơi khác, như nước chảy v.v… thể không tăng. Giải thích tự tánh: Luận chép: “nghiệp dụng đã thế, tự tánh thế nào” là thứ tư giải thích tự tánh. Trong văn có hai: một là hỏi, hai là đáp. Luận như thứ lớp ấy cho đến “nên gọi là động”: là đáp. Bốn Văn như trên rất dễ hiểu. Luận chép: “Phẩm loại túc luận” cho đến “nên cũng gọi là nhẹ”: Là Giải thích trái văn. Luận Chánh Lý chép: Nếu phong giới lấy động làm tánh, vì sao, khế kinh và Phẩm Loại Túc Luận đều nói rằng, không giới là là các tánh động như khinh, v.v… lại nói tánh nhẹ là sắc sở tạo. Nói động là gió, nhẹ là tạo sắc đó là nói về tự tướng; nhẹ là gió là nêu quả để làm nhân, nhẹ là quả của gió. Chẳng lẽ không phải hỏa giới cũng là nhân của khinh do nói lửa gió tăng thạnh sanh ra nhẹ hay sao. Tuy có nói như vậy, nhưng hỏa là bất định, nếu có tánh nhẹ, hỏa tăng là nhân, chỗ đó hẳn có phong giới tăng thạnh . Hoặc có tánh nhẹ, phong tăng là nhân mà trong đó không có hỏa giới tăng thạnh, như hoa của cây lau nhẹ theo gió. Trong đây nếu hỏa giới tăng thạnh thì trong đó lẽ ra nên có thục xúc khả đắc. Do khinh giới cùng khắp làm nhân cho nên nêu riêng về khinh, tức chỉ hiển bày phong giới; Nhưng tướng của địa, v.v… dễ biết cho nên không cần nói quả nặng, v.v… để hiển bày, đối với ba thứ như cứng, v.v… động nên khó rõ; trong đây là nêu quả bày nhân. Nghiệp thanh trong tám thứ chuyển thanh nhẹ, tám chuyển thanh gồm: Một là, thể giải thích thẳng pháp thể. Hai, nghiệp là sự nghiệp sở tác. Ba, cụ nghóa là tác giả tác cụ. Bốn, Vi nghóa là sở y. Năm, Tùng là sở tùng. Sáu, thuộc nghóa là sở thuộc. Bảy, y nghóa là sở y. Tám, hô nghóa là hô bỉ. Y vào pháp thanh minh, hễ gọi các pháp tùy theo sự thích ứng mà có tám thứ chuyển thanh. Trong đây nói nhẹ là gió nghiệp, là nghiệp dụng nêu quả bày nhân. Chẳng phải như sở biểu của các nghiệp thanh khác. Như nói dao cắt, v.v… năng cắt mà lìa dao thì không có tự thể riêng. Luận chép: “Vì sao địa đẳng địa đẳng giới khác nhau”. Dưới đây là một bài tụng, là thứ hai nói về bốn đại giả. “Luận chép” cho đến “biểu thị cho gió” là nói về địa, thủy, v.v… giả tạm. Thật do bốn cảnh hợp thành và theo thế tưởng mà lập, cho nên chỉ nói sắc. Thế gian chỉ biết các địa hiển, hình mà không biết do bốn cảnh chung thành; cũng không biết bốn giới như cứng, v.v… chỉ ở nơi hình, hiển mà đặt tên đất, nước, lửa. Thế gian cũng biết động là gió, cũng đối với các sắc như hắc đoàn v.v… gọi là gió. Do đó, đối với gió có hai giải thích, văn rõ ràng dễ hiểu. Hỏi: trong các đại giả tạm như đất v.v… cũng có hương v.v… vì sao mà chỉ nói hình hiền làm thể? Đáp: địa, v.v… tuy có bốn cảnh hợp thành địa, tưởng giả lập của thế gian từ nơi sắc xứ khởi lên. Như quán bốn đại, chỉ quán sắc, không quán hương v.v… do sắc lìa cảnh, có thể chỉ chỗ này chỗ kia. Thanh chẳng phải hằng hữu, do ba cảnh hợp lại mà biết, cho nên luận không nói. Giải thích năm căn: Luận chép: Vì sao uẩn cho đến nói là sắc ư? Là hỏi về tên của sắc. Trên đây, giải thích năm căn, năm cảnh, sau cùng là vô biểu, tất cả đều là sắc uẩn. Đã giải thích xong về tên của sắc, nay nêu câu hỏi. Luận chép: Do biến hoại: là đáp. Trong văn có hai giải thích: một là biến hoại, hai là biến ngại. Trong giải thích đầu có ba đoạn: Lược nêu. Dẫn văn làm chứng. Hỏi đáp. Đây là phần đầu. Luận chép: “Như Thế tôn nói” cho đến “não hoại như trúng tên”: đây là thứ hai dẫn văn làm chứng. Biến hoại là có thể não hoại; dẫn bài tụng trong phẩm Nghóa của Pháp Cứu để làm chứng, rất dễ hiểu. Luận Bà-sa quyển ba mươi bốn chép: Bồ-tát Thích-ca vì vị vua đa cầu là Bần Hải người nước ngoài mà nói bài tụng này, Như trong đó nói rộng. Luận Bà-sa quyển chín mươi bảy chép: Hỏi: biến và hoại có gì khác nhau? Đáp: biến là nói về pháp vô thường nhỏ nhiệm v.v… hoại là nói về pháp vô thường thô lậu; rất nhiều giải thích. Hỏi: nay giải thích trong đây, biến hoại gọi là sắc có giống với Bà-sa giải thích về biến hoại hay không? Đáp: không giống nhau, biến tức là hoại. Như nói biến ngại, ngại tức là biến cho nên chẳng hể có ngại mà không có biến, có biến mà không có ngại. Luận chép: “Sắc làm sao muốn não hại được” là thứ ba hỏi đáp, đây là hỏi. Luận chép: “Dục sở nhiễu não, biến hoại sanh ra”: là đáp. Luận Chánh Lý chép: trong đây, vì sao gọi sắc uẩn là sắc. Đức Thiện Thệ dạy rằng: biến hoại nên gọi là sắc, thuyết này ý nói rằng: vì là nhân của thọ khổ, có xúc đối, có thể chuyển dời nên gọi là biến hoại. Do biến hoại nên nói là sắc. Thọ khổ nhân: sắc có biến hoại sinh ra thọ khổ như phẩm Nghóa nói, rong ruổi tìm cầu dục v.v… Hữu xúc đối: các sắc sở xúc của tay v.v… bị biến hoại là có đối ngoại nên có nghóa biến hoại. Có thể Khả chuyển dời như thân trâu, dê v.v… có thể chuyển dời là nghóa chuyển biến. Do có thể chuyển dời nên gọi là biến hoại. Vì sao nói sắc pháp có thể chuyển dời ư? Nghóa là sanh ra tướng khác nên gọi là chuyển dời. Hoặc có khả năng biểu thị tập nghiệp ở quá khứ, nên gọi là Sắc. Như khế kinh nói: Ma-nạp-bà do tập khí lâu đời phải vời lấy hình sắc nghiệp không tốt, đó là nhiều phẫn, hận. Hoặc có thể biểu thị những điều trong nội tâm, nên gọi là sắc. Như khế kinh chép: cụ thọ! nay các căn của thầy vui vẻ, hẳn đã chứng được cam lộ; chẳng lẽ không phải thuyết này hay sao. Từ hữu kiến số hữu tình sắc mà giải thích từ ngữ sắc thì đó là pháp có công năng biểu thị tập khí nghiệp chướng lâu đời và nội tâm. Nếu vậy, vô kiến phi tình số sắc lẽ ra đều chẳng phải sắc. Chẳng có lỗi này. Chỉ ở trong nhóm sắc có nghóa này thôi, không nói các sắc đều có thể biểu thị, lại đối với tất cả nhóm phi sắc không thể biểu thị. Do đó, giải thích từ, lý được thành lập. Như thế kinh chép: nghiệp là nhân sanh tức nói các pháp sinh đều do nghiệp, không nói các nghiệp đều là sanh nhân. Nay không nên vặn hỏi nghiệp phi sanh nhân nên chẳng phải nghiệp. Nếu không phải vậy thì lời dạy của Đức Thiện Thệ cũng có thể là nạn. Chẳng phải tất cả các sắc đều biến hoại, cho nên Thế tôn nói theo sắc có đối ngại, vì có biến hoại nên gọi là Sắc. Giải thích sắc khả biến hữu ngại: Luận chép: “Có thuyết biến ngại” cho đến “nên gọi là sắc”: là thứ hai giải thích sắc khả biến, hữu ngại, khả biến nghóa là có thể biến hoại, hữu ngại nghóa là có tác dụng ngăn ngại. Luận chép: “Nếu thế thì cực vi” cho đến “vô ngại biến” đây là nạn vấn. Luận chép: Câu hỏi này không đúng cho đến “nghóa biến ngại thành” là giải thích. Y theo duyên của năm thức lẽ ra phải chứa nhóm nên không có cực vi độc trụ ở hiện tại. Do thường chứa nhóm nên có biến ngại. Nhưng, Chánh Lý quyển hai có hai thuyết: một thuyết đồng với văn luận này; còn thuyết khác nói có nói. Cũng có độc trụ cực vi nhưng có biến ngại mà không phát thức. Y theo duyên của năm thức thì phải chứa nhóm, như lập cực vi, tuy không có phương phần, cũng không xúc đối mà chấp nhận cực vi hữu ngại, hữu đối, hữu chướng dụng. Nên biết nghóa biến ngại cũng như vậy. Luận chép: “Quá khứ, vị lai lẽ ra không gọi là sắc”: Là vặn hỏi, hiện tại, các cực vi chứa nhóm thì nghóa biến ngại sẽ thành, các cực vi trong quá khứ, vị lai tán mạn lẽ ra không nên gọi là Sắc. Luận chép: Đây cũng từng nên biết cho đến “như củi bị đốt cháy: Là giải thích. Pháp quá khứ đã từng ngại, pháp sanh ở vị lai sẽ chướng ngại. Các pháp bất sanh đều thuộc về ngại kia, như củi bị đốt. Luận chép: “các sắc vô biểu lẽ ra không gọi là sắc” là vặn hỏi. Sắc vô biểu không có biến ngại, nên lẽ ra không gọi là sắc. Trong đó có hai giải thích: Luận chép: “Có giải thích biểu sắc” cho đến “bóng cũng động theo”: là giải thích đầu. Luận chủ bác bỏ: Luận chép: “Giải thích này không đúng” cho đến “bóng sẽ mất theo”: Luận chủ nói về luận Bà-sa để bác bỏ. Chánh Lý không chấp nhận bác bỏ này, nói: có lỗi bất định, như khi các pháp như cha, thợ, hạt giống v.v… diệt mất thì còn, nhà, mầm v.v… không diệt theo. Luận Chánh Lý bác bỏ giải thích này: không hợp lý. Sắc tùy tâm chuyển, không từ biểu sắc sanh, lẽ ra chẳng phải sắc. Luận chép: “Hữu thích sở y” cho đến cũng được gọi là có sắc: Là thứ hai Giải thích , từ đại chủng sở y mà có tên. Luận chép: “Nếu thế sở y” cho đến “lẽ ra cũng gọi là sắc” đây là vặn hỏi, trong đó có hai giải thích: Nương vào thân, sơ để giải thích. Dựa vào chung, không chung để giải thích. Luận chép: “Nạn này không đúng” cho đến “giúp sanh duyên” là giải thích theo thân sơ. Luận chép: “Bóng này nương cây cho đến bốn đại chủng”: Luận chủ nêu ra lỗi trái tông. Luận chép: “Dù chấp nhận ảnh, quang” cho đến “chưa vì thích nạn”: Đây là bác bỏ dọc. Trước không chấp nhận bảo và quang là sở y để bác bỏ; sau lại chấp nhận nghóa sở y để bác bỏ. Chánh Lý chống chế rằng: lời này, ý nói về các đại chủng như bóng v.v… các đại chủng như cây v.v… là sở y. Vì sao? Vì các đại chủng như bóng v.v… khi sanh, trú, biến đều tùy thuộc vào thọ. Nói bóng ánh sáng này ý nêu ra nhóm chung chẳng phải chỉ có hiển sắc như cây, vật báu mà nói. Cho nên hiển sắc cực vi như bóng, v.v… nương vào các đại chủng như bóng, v.v… mà chuyển. Các đại chủng như bóng v.v… lại dựa vào các đại chủng như thọ, v.v… mà sanh. Do đó, trong đây không có lỗi bất thuận. Chánh Lý chống chế theo chiều dọc rằng: nạn này không liên quan đến nghóa năng y, sở y đều diệt của Tỳ-bà-sa. Nếu Vô biểu đại chủng sở y diệt thì vô biểu năng y cũng chưa từng không diệt. Sơ niệm vô biểu có thể cùng với đại chủng sở y đều diệt. Vô biểu của niệm thứ hai v.v… thì thế nào? Đại chủng của niệm thứ hai v.v… nếu là không thì sắc vô biểu kia đâu thể hiện hữu được. Tuy trong vị này chẳng phải không có đại chủng nhưng đại chủng kia chẳng phải sở y, chẳng phải là sanh nhân của vô biểu. Đúng là có sanh nhân đại chủng làm sở y cho sắc sở tạo; nhưng, lại có bốn nhân đại chủng khác: Đối với sắc sở tạo chấp nhận làm y. Nếu đại chủng sở y kia diệt thì năng y vô biểu, vẫn không diệt. Bậc Thánh sanh ở Vô Sắc lẽ ra vô lậu vô biểu được hiện tiền; sanh nhân, y nhân đại chủng diệt thì vô lậu vô biểu tuy thành tựu nhưng không hiện hành. Cho nên biết rằng, cõi Dục có vô biểu hiện hành, chắc chắn do đại chủng sở y không diệt. Đây nếu không như vậy, thì kia làm sao như vậy. Do đó nên các Sư đều nói rằng: các sắc sở tạo có hai thứ y: Một là, sanh khởi y. Hai là, lực chuyển y. Bậc Thánh sanh lên cõi Vô Sắc, do năng lực chuyển y đại chủng không có nên vô lậu vô biểu tuy thành tựu mà không hiện hành. Trên đây, Chánh Lý dẫn ví dụ giải thích, nay phá Chánh Lý. Trong cõi Vô Sắc tuy thành tựu vô biểu ở cõi dưới mà không hiện hành chắc chắn do không khởi định địa dưới. Nếu nói rằng do vô y nhân đại chủng sanh định thư tư khiến thành tựu vô lậu vô biểu hữu y nhân đại chủng của năm cõi dưới thì đâu được sanh trên khởi dưới vô biểu ư? Nhưng, các thức như mắt, v.v… có năm căn sở y tuy bị biến hoại mà không thành sắc do chủng loại có khác nhau. Có chủng loại thức không nương sắc, chỉ có năm thức thân nương sắc mà khởi. Sáu thức đều dùng ý làm sở y. Trong cõi Vô Sắc ý cũng có thể đắc, cho đến lý không hợp với tự tánh của sáu thức. Chủng loại của một pháp vừa là sắc, vừa chẳng phải sắc. Không có vô biểu vào không nương vào sắc mà sanh. Sở y có biến ngại thì năng y vô biểu cũng được gọi là sắc. Thuật rằng: tất cả các thức đều nương vào ý nhưng cũng có một phần thức cũng nương nơi sắc cho nên không gọi là sắc. Tất cả vô biểu nương vào sắc, nên gọi là Sắc. Lại nói các sắc như bò, chim công, nương thiểu phần loại mà đặt tên là tưởng, có những khác nhau vậy, không phải là nạn. Thuật rằng, Trâu gọi là địa miên; Chim công gọi là địa kiếu. Chẳng phải tất cả các thời đều miên kiếu, lại như thế gian nói, ăn mau đi mau gọi là ngựa, nhưng chẳng phải là tất cả. Tuy không có tính chất đó mà tương tợ tính chất đó cho nên thành nghóa chủng loại. Chỉ theo một phần mà đặt tên là tưởng, ở đây cũng như vậy. Từ giải thích này nên pháp bất sanh trú ở sắc tướng nên cũng gọi là sắc. Thuật rằng, đồng với ngưu và chim công cũng có thể dùng để giải thích sắc vô biểu. Luận sư Câu-Xá bác bỏ rằng: ông nói các đại chủng như bóng, v.v… đại chủng như thọ, v.v… là sở y, khác gì bóng, v.v… nương vào thọ, v.v… thọ, v.v… nương vào ảnh đều là sơ y, chẳng phải là thân sanh, cũng chẳng phải năng tạo. Ông nói các đại chủng như bóng, v.v… nương vào thọ đại chủng thì lại trái với tông. Cho nên chống chế đó là phi lý. Lại bác bỏ, chống chế theo chiều dọc rằng: ý ông lập sơ niệm sanh nhân đại chủng đối với vô biểu của niệm thứ hai. Bốn nhân đại chủng của niệm thứ hai cũng làm sở y cho đồng thời vô biểu của niệm thứ hai đại chủng. Cho nên nói năng y, sở y đều diệt; giống như cây, v.v… diệt thì bóng v.v… cũng diệt theo; tức nói sơ niệm đại chủng là sanh nhân. Niệm thứ hai đại chủng là bốn nhân như y v.v… đâu có biệt thế lưỡng cụ bốn đại chủng cộng thành năm nhân sanh một sở tạo. Các luận đều nói, tất cả bốn đại vọng sở tạo sắc đều có đủ năm nhân. Cho nên luận Bà-sa quyển một trăm ba mươi hai chép: đại chủng quá khứ và sắc sở tạo ở vị lai, có bao nhiêu duyên? Đáp: có hai, đó là nhân và tăng thượng. Nhân là năm nhân, đó là năm nhân như sanh, nhân v.v… tăng thượng: như trước đã nói. Đại chủng hiện tại và vị lai cũng như vậy. Hiện tại và hiện tại cũng vậy. Theo văn này, sơ niệm đại chủng đối với sắc sở tạo của niệm thứ hai có đủ năm nhân, vì sao nói chỉ làm sanh nhân. Nếu chuyển sang chống chế nói rằng: Đại chủng sơ niệm là sanh nhân thì năm nhân đều gọi là sanh nhân vì là thân nhân năng sanh tạo sắc. Bốn nhân của niệm thứ hai đại chủng gọi là bốn nhân y, v.v… tuy đại chủng sơ niệm có đủ năm nhân, đại chủng niệm thứ hai thì liên quan với sanh nhân, lại có biệt thế lưỡng cụ bốn đại cùng tạo sắc, là sai. Nếu chuyển sang chống chế rằng: bốn nhân niệm thứ hai đại chủng phải là bốn nhân như y, v.v… tức bốn đại chủng mỗi đại chủng là một nhân gọi là bốn nhân. Tất cả đều nương vào nhân, cho nên các luận nói rằng, đại chủng sơ niệm là nhân năng sanh, đại chủng hiện tại là y nhân nên đưa ra chống chế này không có lỗi thiếu nhân. Đã nói đại chủng niệm thứ hai là sở y, là biệt khởi đại chủng, là các đại chủng tạo thân căn, v.v… là thân sở y, là sơ y; nếu nói thân căn đẳng đại chủng là sơ y của sắc vô biểu thì ta cũng đồng ý, đây đồng thời là sơ y, chẳng phải thân sở y. Vô biểu không do đồng thời y lực mà được gọi là sắc, chỉ do sơ niệm sở y lực mà được gọi là sắc. Do lý này cho nên đại chủng sơ niệm là thân sở y, có thể giống với hai thứ ảnh quang là thân y của thọ báu; cho nên ta dựa vào đây mà nói rằng sở y diệt, vô biểu không diệt; không thể nói sơ là sở y, chỉ nên nói y. Nói sở y thì trong lời nói có lỗi. Nếu nói vô biểu cũng hướng đến đồng thời sơ y được gọi sắc thì năm căn như mắt căn v.v… đối với năm thức như mắt thức v.v… cũng là sơ y. Lẽ ra nhãn thức, v.v… cũng gọi là sắc. Lại, do năng lực ấy được gọi là sắc lẽ ra là năng tạo; nếu là năng tạo, lại có đủ năm nhân như sanh, v.v… cho nên là phi lý. Chánh giải thích về sắc vô biểu bốn đạ giả danh: Luận chép: “Lại có giải thích riêng” cho đến “lý được thành tựu”. Thuật rằng, đây là thứ hai, chánh giải thích, lời văn rất dễ hiểu. Thứ tư trên đây có ba hàng tụng, nói về vô biểu sắc, và nói bốn cõi và đại giả danh. “Tụng chép” cho đến “thân giới, xúc giới”. Dưới đây là thứ năm gồm nửa hàng tụng lấy sắc uẩn làm xứ giới, lời văn rất dễ hiểu. Trên năm hàng rưỡi tụng nói riêng sắc uẩn và phân ra xứ giới. Luận chép: “Đã nói sắc uẩn” cho đến “ba uẩn xứ giới” dưới đây là thứ hai có một hàng tụng rưỡi, nói riêng về các uẩn thọ, tưởng, hành và lập xứ, giới. “Luận chép” cho đến “thọ do ý xúc sanh”. Thuật rằng: Trong văn xuôi giải thích, văn có hai: Đầu tiên nói về ba uẩn; sau chia ra xứ giới. Ở đây nói về ba uẩn, trong văn có ba: giải thích ba uẩn lấy làm ba, văn này là phần đầu nói về thể của thọ. Văn lại chia làm ba: một là nêu thể, hai là chia ra ba thọ, ba là chia ra sáu thọ. Lãnh tùy xúc là nêu tự tánh của thọ, thể khác với các tâm sở khác. Các tâm, tâm sở tuy cùng với thọ đồng lãnh cảnh sở duyên mà không lãnh tùy xúc nên chẳng phải tự tánh thọ; tự tánh thọ lãnh sở tùy xúc. Nếu khi làm sở duyên, bấy giờ chẳng phải là sở lãnh, nếu khi làm sở lãnh, thì bấy giờ chẳng phải sở duyên. Có người nói: các tâm, tâm sở đồng duyên một cảnh, đều năng chấp thọ, nhưng thọ lãnh nạp mạnh mẽ nên gọi là tự tánh thọ. Giống như mười người, ngồi chung một chỗ, một người là cướp, bỗng có ngườibên canh hô hoán là cướp cưới. Tuy cả mười người đều nghe tiếng cướp, nhưng người thật là cướp thì sự thọ lãnh mạnh mẽ hơn chín người kia. Thọ lãnh cảnh mạnh, thì lãnh cảnh như tưởng v.v… sẽ yếu, nên biết cũng như vậy. Lại giải thích: các tâm, tâm sở tuy là đồng duyên như đều chấp thọ cảnh; các pháp như tưởng, v.v… theo đặt tên riêng, thọ không có tên khác. Tuy nêu tên chung nhưng chính là thọ tên khác. như sắc xứ v.v… tuy có hai giải thích, nhưng giải thích trước là hơn. Y theo hai giải thích này thì y theo cảnh lãnh nạp mà gọi là Thọ; nhưng không tương đương với ý luận. Lại, theo giải thích này thì thọ và tưởng đồng nhau, chỉ khác nhau về mạnh yếu, nên đặt tên khác nhau. Thọ đã như vậy, thì các sắc khác lẽ ra cũng nên như vậy; chẳng lẽ không phải tạp loạn hay sao? Lại, luận này nói: thọ uẩn có ba: tùy xúc lãnh nạp mà có vui, khổ, không vui không khổ. Luận Chánh Lý chép: tùy xúc sanh mà lãnh nạp đáng ưa, không đáng ưa, trái với xúc gọi là thọ uẩn. Lãnh nạp là nghóa năng thọ dụng. Theo luận này, lấy lãnh nạp tùy xúc làm thọ, không chấp lãnh cảnh. Lại, luận này quyển mười chép: Thế nào là hành tướng sở lãnh của xúc là chỗ y theo của thọ: đó là hành tướng rất giống như xúc, nương xúc mà sanh, cho nên, luận Chánh Lý quyển hai chép: Lại nói về các thọ, lược có hai thứ: một là chấp lấy thọ; hai là tự tánh thọ. Chấp lấy thọ nghóa là năng lãnh nạp cảnh tự sở duyên; Tự tánh thọ nghóa là năng thọ nạp xúc tự sở tùy, cho đến lãnh nạp thọ sở duyên và nhất cảnh pháp. Tướng khác nhau rất khó hiểu, cho đến, tuy thọ cũng có thể lãnh nạp cảnh giới, nhưng tự tánh của sự lãnh nạp này rất khó hiểu. Do vậy, lãnh nạp xúc là tự tánh thọ. Đây và các lãnh nạp khác, không dễ hiểu được sự khác nhau của chúng. Cũng vậy, các thọ cũng đồng sở duyên với các pháp như tâm v.v… vì lãnh nạp khác. Việc sở duyên khác nhau, việc sở lãnh khác nhau, do đó xúc đối với thọ, nếu khi nào là sở lãnh thì lúc ấy chẳng phải sở duyên, nếu khi là sở duyên thì lúc ấy chẳng phải sở lãnh, cho nên việc Duyên và Lãnh khác nhau, y theo đây thì chấp cảnh mạnh hơn nên được gọi là thọ. Lại, luận Hiển Tông quyển hai chép: Thế nào là thọ lãnh nạp tùy xúc? Nghóa là, thọ là quả gần gủi của xúc, cho nên tiếng tùy xúc này là nói lên nghóa nhân, năng thuận theo thọ. Thọ là năng lãnh nạp, năng thuận theo nhân của xúc, nên nói thọ lãnh nạp tùy xúc, lãnh nạp thuận theo xúc gọi là Tự tánh thọ. Có người lại nói, nói lãnh nạp xúc gọi là tự tánh thọ, chính là thọ này lãnh nạp tự thể. Nói lãnh xúc: xúc là nhân của thọ, thọ là quả của xúc; thọ năng lãnh nạp các tướng thuận, nghịch, vừa thuận vừa nghịch của xúc. Lãnh nạp là quả của xúc, quả tức là thọ. Lại lãnh nạp tự thể, tức chấp lấy tướng lãnh nạp của xúc. Luận Chánh Lý giải thích quả rằng: như nói vua ăn cõi nước, chẳng phải ăn đất đai, mà là ăn cái từ trong đất có ra, nói ăn cõi nước là nêu nhân để bày quả. Lãnh nạp xúc cũng như vậy. Lại như cha sinh con, con đẹp giống như cha, cũng như quả từ hạt giống quả dường như từ nhân. Theo văn dẫn trên, làm chứng rằng, thọ tự lãnh nạp là chẳng hợp lý. Nếu thọ lại lãnh thì trái với văn, nếu bấy giờ là sở duyên thì bấy giờ chẳng phải sở lãnh, nếu bấy giờ là sở lãnh thì bấy giờ chẳng phải sở duyên. Nếu lãnh nạp tự thể thì cái gì là năng sở. Cho nên Luận Bà-sa quyển chín chép: nếu tự tánh biết tự tánh thì không nên lập năng thủ, sở thủ. Theo đây, đã nói năng lãnh, sở lãnh thì biết rằng không phải là tự lãnh. Lại khác nhau với chỗ dẫn dụ, vua ăn cõi nước v.v… chẳng lẽ là tự ăn. Trong đó, nói lãnh tức là tự thể có tướng kia. Tự là năng lãnh; kia là sở lãnh; như con dấu in lên sự vật, vật thọ lãnh tướng của ấn, không thể nói vật tự lãnh vật. Có người nói càn rằng, Duy Thức chuyến chấp phá nghóa của Hữu Bộ, làm Chánh Tông là Nhầm. Lại nói: như Sư Câu-xá bác bỏ rằng các tâm, tâm sở cùng một sát na, đều duyên với cảnh trước, làm sao có thể nói lãnh tương ưng xúc. Nếu từ kia sanh và tương tợ thì gọi là Thọ. Con từ cha sanh, quả từ nhân sanh, nên gọi là thọ; cũng đều là sai. Luận chủ tự lấy lãnh nạp làm tự tánh Thọ, cùng đồng với Chánh Lý. Nhọc gì trong đây dẫn luận Duy thức để bác bỏ. Lại, các pháp có tên gọi khác nhau, đâu thể lấy một mà ví với cái khác, rồi gọi là Thọ được. Nêu thể của Tưởng uẩn: Luận chép: “Tưởng uẩn” cho đến “nên như thọ mà nói”: là thứ hai, nêu thể của tưởng uẩn. Tưởng năng chấp tượng, đó là chấp các tướng xanh, vàng, v.v… nam nữ khổ vui v.v… nên gọi là chấp tưởng. Luận chép: “trừ trước và sau” cho đến “gọi là hành uẩn; đây là thứ nêu thể của hành uẩn. “Trừ trước” là sắc, thọ, tưởng, và sau là thức uẩn. Các pháp hữu vi là phân biệt với vô vi. Tức là trừ bốn uẩn và vô vi, tất cả các pháp còn lại đều thuộc về hành uẩn, vì pháp nhiều cho nên theo chung mà đặt tên. Luận chép: “Nhưng Bạc-già-phạm” đến “do tối thắng”, dưới đây thứ hai là phần hội thích kinh. Trong văn có hai: một là thuận thích, hai là phản nạn thích. Đây là thuận thích. Thật ra, hành uẩn thuộc về đa hữu vi, nhưng kinh chỉ nói sáu tư, gọi hành uẩn là do nghóa tư hành vượt hơn các pháp khác. Luận chép: Vì sao? Đây là hỏi về lý do vượt hơn. Luận chép: “hành gọi là tạo tác” cho đến “cho nên là tối thắng” đây đáp lý do vượt hơn. Do tạo tác nên gọi là Hành; nghiệp là tạo tác, tư là tánh của nghiệp, nghóa tạo tác mạnh hơn các pháp hữu vi khác, nên gọi là tối thắng. Nói nghiêng về tư. Dẫn giáo chứng minh: Luận chép: Cho nên Phật nói cho đến “gọi là hành uẩn” đây là dẫn giáo chứng minh. Y theo lời Phật dạy cho nên biết, thật sự có cả các pháp khác nhau, do nghóa của tư tạo tác mạnh gọi là hành thủ uẩn. Luận Chánh Lý chép: trong khế kinh dạy dứt hẳn ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, chẳng phải không dứt hẳn tất cả phiền não thì dứt của kiến đế, nên biết kinh này có thuyết khác. Các kinh như vậy đều nói theo sự thù thắng. Ở đây cũng vậy, tạo tác hữu vi, công năng vượt hơn, vì sao nói đây là năng tạo hữu vi, nghóa là có công năng dẫn sinh kết quả. Luận chép: Nếu không như thế cho đến nên biết nên dứt: Là giải thích vặn hỏi. Nếu theo văn kinh, chỉ có sáu tư thân là hành uẩn, tức trong pháp hữu vi, trừ sắc, thọ, tưởng, tư, thức. Ngoài ra, các pháp hữu vi khác chẳng thuộc về thủ uẩn nên chẳng phải khổ đế tập đế. Đã chẳng phải khổ, tập thì không thể nên biết, nên dứt. Luận chép: “Như Thế tôn nói” cho đến “nói cũng như thế”: Là dẫn văn làm chứng. các pháp hữu vi khác phải tu cho đạt đến mới biết, chưa đạt thì chưa biết đây là khổ. Chưa dứt, chưa diệt, cũng như vậy. Cũng nói, nếu đối với một pháp, chưa dứt, chưa diệt là dứt tập. Cho nên biết, tất cả pháp hữu lậu, đều nên biết, nên dứt. Gam nhiếp chung tất cả pháp hữu vi: Luận chép: Vì thế phải nên cho đến “đều thuộc về hành uẩn”: Là gom nhiếp chung tất cả pháp hữu vi. Luận chép: Tức đều ở đây nói cho đến “lập làm pháp giới”: gom chung bảy pháp làm xứ giới. Luận chép: Đã nói ba uẩn xứ giới như thọ v.v… dưới đây là thứ ba, có một hàng tụng giải thích thủ uẩn và lập xứ giới. Giải thích bằng văn xuôi: “Luận chép” cho đến “nên gọi là thức uẩn” là văn xuôi giải thích. Trong đó có hai: Giải thích thức uẩn và phân biệt xứ giới. Tổng kết năm uẩn và phân biệt xứ giới. Văn trước có ba: Giải Thích danh nghóa. Chia làm sáu. Lập xứ giới. Văn ở đây nêu là, giải thích ý nghóa tên gọi thức, tức sáu thức thân mỗi thức thân biết đều rõ tự cảnh. Trong tự cảnh xứ, đều chấp cảnh tướng, không chấp riêng, tượng ấn, trì, v.v… nên gọi là chấp chung chẳng phải trong tướng chung riêng chấp lấy tưởng chung. Luận Chánh Lý chép: Thức là liễu biệt, là chỉ cho chấp nghóa tướng cảnh giới, mỗi mỗi chấp chung từng cảnh giới kia, mỗi mỗi biết rõ; nghóa là nhãn thức kia tuy có sắc, v.v… nhiều cảnh hiện tiền, nhưng chỉ chấp sắc, không chấp thanh v.v… Ở đây, giải thích đều chấp riêng nghóa cảnh, chỉ chấp xanh v.v… chẳng cho là xanh. Luận đã nói chỉ cho nên biết không chấp chung riêng. Đây là phân biệt thắng giải. Cũng chẳng phải vừa ý, không vừa ý, v.v… tức phân biệt sở thủ về xúc, thọ. Chẳng phải nam, nữ v.v… chẳng phải người nộm v.v… chẳng phải đắc thất, v.v… tùy theo sự thích ứng mà phân biệt tâm sở. Như mắt thức, đối với tự cảnh của nó, chỉ chấp chung về tướng. Như vậy, các thức khác theo dó mà biết. Y theo lời nói trên, chắc chắn không chấp riêng. Lại, luận Hiển Tông chép: thức là liễu tức là chỉ chấp chung về cảnh năng hai chép: chỉ phân biệt chung các cảnh sắc v.v… chẳng phải cảnh tướng khác nhau, gọi là Thức. Phân tướng riêng khác nhau tức các pháp tâm sở như thọ, v.v… thức không có tác dụng, chỉ làm sở y. Y theo ba luận trên, có bốn lần nói đản, văn chấp chung là chắc chắn, không thể nói gần riêng. Trong pháp tâm sở không có một riêng nào, có hai giải thích. Có người không hiểu ý luận, nêu ra bốn giải thích sai lầm, cũng không biết giải thích nào là hơn, làm người học đời sau nghi nan, khiến mê lầm luận thuyết. Bốn giải thích: Thứ nhất giải thích rằng: ở trong cảnh, có hai thứ tướng một là tướng chung đó là sắc thanh, v.v… hai là tướng riêng, đó là trái thuận, v.v… pháp tâm, tâm sở, đối với cảnh sở duyên, tâm chấp tướng chung, không thể chấp riêng. tâm sở, đều tự chấp cảnh tướng riêng, không thể chấp chung. Vì đối với một thể không có nhiều giải thích, cho nên luận nhập A-tỳ-đạt-ma quyển hai chép: Chỉ phân biệt chung về các sự cảnh như sắc, v.v… gọi là Thức. Nấu có công năng phân tướng riêng khác nhau thì gọi là các pháp tâm sở như thọ, v.v… Thức không có công dụng ấy, chỉ làm sở y. Thứ hai giải thích rằng: tâm vương chủ yếu là chấp tướng chung, chấp cả tướng riêng; các pháp tâm sở, đều chấp tướng riêng, chẳng thể chấp tướng chung. Nghóa này ý nói, tâm vương năng lực mạnh, có công năng chấp cả chung riêng; tâm sở năng lực yếu, chỉ có thể chấp riêng, không chấp chung. Phá rằng: trái với văn, lại không có giáo chứng, không thể y theo. Thứ ba giải thích rằng: các pháp tâm sở, đều chủ yếu chấp lấy tướng riêng, gồm chấp tướng chung; tâm vương chỉ chấp cả tướng chung, chẳng chấp tướng riêng. Nghóa này ý nói sở tác xứ của tâm vương, tâm sở phải thuận theo, cho nên pháp tâm sở bao gồm cả chấp chung. tâm vương không tùy theo tâm sở nên không thể chấp riêng. Bác bỏ rằng: dụ không tương tợ. Vua thì thống lãnh chung, thần dân thì nhiếp khắp; lập luận đó không có văn làm chứng, lại trái với dụ trên nên không thể y theo. Thứ tư Giải thích: pháp tâm, tâm sở đều có công năng chấp cả chung riêng. Nhưng tâm vương, chủ yếu là chấp chung, gồm riêng; các pháp tâm sở, đều chủ yếu chấp tự tướng riêng, gồm chấp tha tướng riêng và luôn cả tướng chung. Cho nên biết tâm, tâm sở đều có công năng chấp tướng chung và tướng riêng của cảnh: như luận Bà-sa quyển ba mươi bốn chép: trong vô tàm nạp tức có giải thích hành tướng của vô tàm rằng, có các Sư khác nói: đây là nói về y hành tướng của vô tàm, hành tướng này đối với các hành tướng khác nên thành lập bốn trường hợp: Hữu vô tàm, phi vô tàm hành tướng chuyển nghóa là vô tàm làm cho các hành tướng khác chuyển. Có khi chẳng phải vô tàm, nghóa là pháp tương ưng với vô tàm, làm cho hành tướng vô tàm chuyển vô tàm cũng chẳng phải hành tướng vô tàm chuyển: Nghóa là nếu chấp chủng loại này thì nên nói vô tàm tương ưng với pháp làm cho các hành tướng khác chuyển. Nếu không vậy, thì nên nói, trừ tướng trước. Trong phần giải thích vô quí cũng có bốn trường hợp. Ở đây không thể dẫn hết. Y theo đây thì biết, đều chấp cả chung và riêng. Phá rằng: có người dẫn văn làm chứng mà không biết đúng hay không. Vả lại như thọ lãnh tùy xúc, tưởng chấp cảnh tượng, chứ đâu thể nói tưởng lãnh tùy xúc, thọ chấp cảnh tượng; lý hẳn là không đúng. Tâm, tâm sở cùng một hành tướng, nghóa là chấp lấy tự tướng và côïng, tướng của các pháp xanh, vàng v.v… chẳng phải pháp tâm, tâm sở này đều chấp riêng tượng v.v… Bà-sa quyển ba mươi tư chép: Thế nào là vô tàm? Đáp: Các vô tàm, vô sở tàm; vô tu, vô sở tu; cho đến vô kỉnh tánh; cho đến hỏi: Điều trong đây nói danh ngôn sai khác là để nêu lên tự tánh, nói về hành tướng hay để nêu lên sở duyên? Một là nói nói về tự tánh; hai, là nói nói về hành tướng; ba, là nói nói về sở duyên. Theo quyển mươi tám chép: vì sao không cọng thêm vô minh, tùy miên? Đáp: các vô minh đối với khổ không biết rõ; đối với tập, diệt, đạo không biết rõ; không biết rõ là nêu nghóa bất dục nhẫn. Nghóa là do vô minh làm mê mờ, che lấp tâm, nên đối với bốn Thánh đế, không dục, không nhẫn. Do vậy, nên nói rằng, không biết rõ. Chẳng phải bất minh: như người nghèo nàn, thức ăn dở đã đầy bụng rồi nên gặp thức ăn ngon cũng không muốn ăn. Dị sanh cũng vậy, vì bị vô minh che khuất tâm tánh nên khi nghe bốn Thánh đế không muốn nghe, không nhẫn chịu. Hỏi: trong đây nói bất liễu danh ngôn là nói về tự tánh, nói về hành tướng hay nói về sở duyên? Đó là nói về tự tánh vô minh. Có Sư khác nói, đó là nói về sở duyên của vô minh. Lại có thuyết nói, đó là nói về hành tướng vô minh. Phê lời bình: nên nói thế này, vô minh này đối với bốn Thánh đế không quyết trạch được, do vậy nên dùng làm tự tánh. Y theo văn phê bình này, biết rằng Sư dầu là đúng. Vô tàm cũng vậy, thành lập bốn trường hợp cũng chẳng phải nghóa đúng, do vậy không thành chứng cứ. Nay nói rõ thêm y luận tâm, tâm sở, tuy đồng chấp các tướng chung riêng của xanh, vàng, v.v… nhưng đối với các tướng này, có ấn, tri, thủ, tượng v.v… nhiều thứ khác nhau, gọi là chấp riêng. tâm vương chấp có cảnh tướng, tướng riêng rất khó biết. Như đài lục ty, lý đồng một nước, trong đó mỗi người một việc không giống nhau, vua thì coi sóc chung tướng riêng khó rõ. Luận chép: Ở đây lại khác nhau cho đến “chí ý thân thức” là thứ hai đứng về mặt y mà chia làm sáu. Giải thích uẩn ra thành xứ giới: Luận chép: “Nên biết như thế” cho đến “chuyển thành ý giới” là chia thức uẩn ra thành xứ giới. Luận chép: “như thế trong đây” cho đến “và ý giới” là thứ tư trong toàn văn, tổng kết năm uẩn, chia chung làm năm uẩn thành mười hai xứ, mười tám giới, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: “khởi bất thức uẩn” cho đến “lại làm ý giới” dưới đây là thứ tư, gồm mười hai bài tụng, hỏi đáp phân biệt. Trong đây có mười một đoạn. Thứ nhất hỏi về ý giới. Nửa bài tụng đầu hỏi về giới, nửa bài tụng sau hỏi về số lượng của ý, đây là hỏi về thể. Luận chép “cánh vô dị pháp tức ở trong đây” tức ở trong sáu thức. “Luận chép” cho đến gọi là thứ khác là giải thích, tức sáu thức thân làm nghóa sở y gọi là ý; làm nghóa năng y gọi là Thức. Như cha, con; quả chủng chỗ hướng về khác nhau nên có tên khác nhau. Đây là đáp về thể. Hỏi về số lượng: Luận chép: “Nếu thế thật giới” cho đến “Mười tám giới phải không? Là thứ hai hỏi về số lượng. Nếu sáu thức y tha khởi nên gọi là Thức thì chỉ có sáu thức; nếu thêm năm căn, sáu cảnh thì giới chỉ có mười bảy; nếu làm nghóa sở y, chỉ gọi là một, ý căn. Nếu gồm thêm năm căn, sáu cảnh thì thành mười hai. Sáu thức và ý lại nhiếp nhau; nhiếp ý theo thức thì là mười bảy; nhiếp thức theo ý thì có mười hai. “Luận chép” cho đến “giới thành mười tám: Là giải thích, ở đây lập mười tám giới cho nên thành thứ sáu y. Do vậy, ngoài sáu thức, lại lập ý giới. Trên đây là nói về số lượng. Luận chép: “Nếu thế vô học” cho đến “chẳng phải ý giới” là vặn hỏi. Nếu lấy hậu thức y gọi đó là ý thì vô học hậu tâm không thể nương thức, lẽ ra không phải ý giới. Luận chép: Không như thế cho đến “hậu thức bất sanh” là đáp. Giống như hạt giống đã trú trong tánh thể của nhân, vì thiếu các duyên khác nên kết quả về sau không sanh được. Hậu tâm cũng vậy, đã trú trong thể tánh của ý vì các duyên khác thiếu nên hậu thức không sanh mà chỉ thành ý giới. Luận chép: Thuộc về uẩn trong đây cho đến “nhiếp chung thế nào?” từ đây là một bài tụng là thứ hai nói về uẩn, xứ, giới, đều là một nhiếp tất cả các pháp. Giải thích bằng văn xuôi: “Luận chép” cho đến “tất cả pháp cùng tận” là văn xuôi giải thích. Trong đó có ba: Nói về một uẩn, xứ, giới, nhiếp hết tất cả pháp. Nói thuộc về thắng nghóa. Nói thuộc về thế tục. Đây là dứt đầu của văn. Luận chép: Nghóa là các xứ cho đến “bất nhiếp tha tánh”: là thứ hai nói thuộc về thắng nghóa. Ở đây, một pháp uẩn, xứ, giới nhiếp tất cả pháp, đó là thuộc về thắng nghóa. Nói thắng nghóa tức là nghóa chân thật. Luận chép: Vì sao? Là hỏi, sở dó thuộc về thắng nghóa vì chỉ nhiếp tự tánh. Luận chép “pháp và tha tánh” đến “lý ấy không đúng” là lời đáp. Tự tánh, tha tánh thường lìa nhau nên không thể nhiếp nhau được. Luận chép: “Lại như mắt căn” cho đến “lìa tánh kia” chỉ về sự mà giải thích. Luận chép: Nếu đối với các nơi cho đến “nhiếp đồ chúng v.v…” là thuộc về thế tục. Luận chép: “ba xứ mắt, tai, tỷ mỗi xứ đều có hai”: dưới đây nửa bài tụng là thứ ba nói về ba căn, xứ hai, giới một. Trước là hỏi đáp, lời văn rất dễ hiểu. “Luận chép” cho đến “nhãn thức y là giải đáp. Ba căn, tuy xứ riêng biệt, mỗi căn có hai, vì cả ba đồng nhau nên lập thành một giới. Đây là giải thích ba căn nghóa đồng nhau. Tổng kết: Luận chép: “Do nhãn giới này” cho đến “như thị an lập”: Là tổng kết xong. Luận chép: “Nếu thế vì sao hai xứ sanh, y”: đây là vặn hỏi, Ba căn như mắt căn, nhó căn v.v… đã có ba nghóa giống nhau nên tuy hai cõi đồng nhưng vì sao có hai xứ sanh và y? Dưới đây nửa bài tụng là thứ tư nói về lý do ba căn sanh hai xứ. “Luận chép” cho đến “thân không đoan nghiêm” trông giải thích có hai: Hữu Bộ Giải thích. Luận chủ bác bỏ, đây là đầu đoạn văn vì làm cho thân đoan nghiêm nên sinh ra hai, nhưng sinh ra hai thứ thân và lưỡi lại không đoan nghiêm như xuyên tử tinh, như rắn hai lưỡi. Như trong luận Bà-sa có nói rộng. Nếu mắt, tai tỷ chỉ có một thì thân không đoan nghiêm nên mỗi căn đều sinh ra hai. Luận chủ vặn hỏi: Luận chép: Giải thích này không đúng cho đến có gì đoan nghiêm?” là thứ hai luận chủ vặn hỏi. Miêu, xỉ, có hai mũi, hai tai, tuy sinh hai xứ nhưng có gì đoan nghiêm. Luận chép: “Nếu thế ba căn vì sao sanh hai?” Hữu Bộ hỏi. Luận chép: “Vì thức phát” ra cho đến “đều sanh hai xứ” là luận chủ đáp. Ý của luận Chánh Lý giống với ý này. Luận Chánh Lý chép: vì làm sở y cho thân tướng đoan nghiêm nên giới thể tuy một mà sinh ra hai xứ. Nếu các căn như mắt căn, nhó căn sinh ra một xứ, tỷ không có hai lỗ thì thân không đoan nghiêm. Giải thích này không đúng như Đà, Miêu v.v… xấu xí như vậy có gì đoan nghiêm. Do đó, các căn mỗi căn đều có chủng loại khác nhau, sắp bày như vậy khiến sinh ra khác nhau. Ở đây vì đợi nhân duyên nên có khác nhau; nếu nhân duyên bị chướng ngại thì không sanh ra hai, như các xứ thân căn, đầu, cổ, bụng, lưng, tay, chân, v.v… Thật ra do sắp bày khác nhau nên chủng loại như vậy, không nên nghi ngờ vặn hỏi. Cũng đợi nhân duyên như vậy, nếu nhân duyên bị chướng ngại thì có dị sanh riêng, cho nên thấy thân rắn, v.v… có thiếu sót. Lại thấy, loại ấy, lưỡi chẳng phải có một. Cho nên các căn sắp bày khác nhau, chờ nhân duyên để khởi, chẳng phải để nghiêm thân. Nếu vậy vì sao nói các căn như mắt, tai, v.v… vì khiến cho đoan nghiêm nên đều sanh ra hai xứ. Ở đây có nghóa khác, chẳng phải để nghiêm thân. Hiện thấy thế gian đối với các tác dụng tăng thượng tròn đầy cũng nói là đoan nghiêm. Nếu các căn như mắt căn, nhó căn, v.v… đều thiếu một xứ, thì tác dụng thấy, nghe, ngữi đều không rõ ràng, có đủ hai xứ thì phát sanh tác dụng rõ ràng. Cho nên ở đây nói đoan nghiêm chính là vì làm cho tác dụng có nghóa tăng thượng. Theo đây thì luận Chánh Lý giải thích hợp với Bà-sa, câu-xá. Nay hỏi rằng: vì nếu phát thức tiểu đại là được, cần gì dùng đến hai xứ, giải thích trước của Chánh Lý là hơn. Luận chép: “Đã nói thuộc về sắc uẩn và xứ giới,” dưới đây là thứ năm có nửa bài tụng, giải thích nghóa của uẩn, xứ, giới. “Luận chép” cho đến “là nghóa uẩn”, là giải thích văn tụng, trong văn có bốn: giải thích uẩn, xứ, giới có chia làm ba. Bốn là phân biệt hỏi đáp. Trong phần giải thích nghóa uẩn văn chia làm hai: một, là giải thích nghóa uẩn; hai, là dẫn kinh chứng minh. Văn nêu lên ở đây là phần đầu, giải thích nghóa uẩn, nghóa hòa hợp là nghóa uẩn. Dẫn kinh chứng minh: Luận chép: “như khế kinh chép” cho đến hoặc xa hoặc gần là thứ hai, dẫn kinh chứng minh, trong văn có ba: 1/ Nêu lên nhiều loại; 2) Nói về nhiều tụ; 3) Kết thành. Đây là phần đầu, nói về quá khứ v.v… là nêu nhiều loại. Nói về nhóm: Luận chép: Tất cả như thế cho đến “gọi là sắc uẩn”: Thứ hai là nói về nhóm; đây là danh lược, không phải thể lược; các sắc trong ba đời không thể lược làm một nhóm, chỉ đối với danh, tổng lược làm một nhóm. Luận Bà-sa quyển bảy mươi tư nói, hỏi: các sắc quá khứ, hiện tại, vị lai có thể lược nhóm hay không? Đáp: tuy không thể lược nhóm thể của nó, nhưng có thể lược nhóm danh, cho đến thức uẩn nên biết cũng như vậy. Luận Tạp tâm nói danh lược chứ chẳng phải thể lược. Luận Bà-sa quyển bảy mươi tư chép các kinh khác lại nói, vì sao sắc uẩn, tất cả các sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại hoặc trong hoặc ngoài hoặc xa, hoặc gần, tất cả như vậy lược làm một nhóm nói là sắc uẩn, cho đến thức uẩn nói rộng, cũng thế. Đây là nhằm ngăn dứt ngoại đạo mà nói rằng: khi Phật tại thế có một người ngoại đạo xuất gia tên là Trương Kế bác không có quá khứ, vị lai, vì để ngăn ý của vị ấy, nên Đức Thế tôn nói tất cả các sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lại, hoặc hiện tại. Cho đến mỗi rộng Luận A-tỳ-đạt-ma chép: Thế nào là sắc uẩn? Đó là mười sắc xứ, và pháp xứ, sở nhiếp sắc gọi là sắc uẩn. Đây là để ngăn dứt. Thí dụ, giả cho rằng. Nói thí dụ là để bác không có pháp xứ sở nhiếp các sắc. Ở đây tôn giả Pháp Cứu cũng nói, tất cả các sắc đều là sở y, sở duyên của năm thân thức. Thế nào là sắc mà chẳng phải sở y, sở duyên của năm thân thức? Vì để ngăn dứt ý người kia nên nói như vậy. Thế nào là sắc uẩn? Đó là sắc xứ và các sắc thuộc về sắc xứ. Kết luận: Luận chép: “Do nghóa nhóm này mà nghóa uẩn được thành tựu”, đây là kết luận. Luận chép: “ở trong kinh này cho đến gọi là hiện tại” là giải thích sắc trải qua ba đời. Luận chép: “Tự thân gọi là nội” cho đến “hoặc y theo xứ mà nói”; tự thân gọi là nội: Tự thân gọi là tha thân và phi hữu tình gọi là ngoại. Nếu từ xứ mà giải thích nội ngoại thì năm căn là nội, năm cảnh là ngoại. Luận chép: “hữu đối danh thô” cho đến “hoặc đối đãi nhau mà lập” dùng hai nghóa để giải thích thô tế. Hữu đối gọi là thô, năm căn, năm cảnh gọi là thô. Vô biểu gọi là tế. Đối đãi thô tế tức đối nhau khác nhau. hỏi. Luận chép: “Nếu nói đối đãi nhau thì thô tế bất thành” đây là vặn Luận chép: “thử nạn” này cho đến “khổ đế tập đế v.v…” là giải thích người ngoài hỏi. Luận chép: “nhiễm ô gọi là liệt, bất nhiễm ô gọi là thắng”: là giải thích hơn và kém. Pháp vô phú vô ký, thiện đều gọi là thắng. Hữu phú vô ký, bất thiện gọi là liệt. Luận chép: “Đến đi gọi là xa, hiện tại gọi là gần”, đây là y theo thời gian mà giải thích xa gần. Luận chép: “Cho đến thức uẩn nên biết cũng thế: có nghóa đồng nhau giống như giải thích các uẩn khác. Luận chép: “mà có khác nhau” cho đến “hoặc y theo địa mà nói về sự khác nhau. Chỉ có hai thứ thô, tế và nghóa của sắc uẩn là khác nhau, các nghóa khác đều giống. Luận chép: Điều “Sư Tỳ-bà-sa nói là như thế”: kết luận nghóa của các Sư Tỳ-bà-sa. Nói về thuyết khác: Luận chép: “Đại Đức Pháp Cứu” cho đến “thô tế đồng với trước” là nói về thuyết khác. Các Sư này không nói có vô đối sắc, như trước dẫn văn luận Bà-sa. Sở thủ của năm căn gọi là sắc thô tức là năm cảnh là sắc thô. Các thứ khác gọi là tế tức năm căn này chẳng phải vô biểu. Chẳng vừa ý gọi là liệt sắc, vừa ý gọi là thắng sắc; từ số nhiều mà nói riêng, hoặc y theo hữu tình mà giải thích hơn kém. Chỗ không thể thấy gọi là viễn sắc; chỗ thấy được gọi là cận sắc; đây y theo chỗ gần xa mà giải thích gần xa. Các sắc quá khứ v.v… như tự gọi là hiển tức như giải thích tên của các sắc quá khứ, hiện tại, vị lai gọi là giải thích sắc ba đời. Rằng đã sanh đã diệt gọi là sắc quá khứ. Đã sanh chưa diệt gọi là sắc hiện tại, chưa sanh chưa diệt gọi là sắc vị lai. Thọ, tưởng v.v… cũng như vậy: Giống như giải thích bốn uẩn, tùy theo năng lực sở y nên biết gần xa. Đây là theo vặn hỏi mà giải thích lại. Khả ý, bất khả ý, ba đời v.v… là giải thích về các thuyết đồng khác, không cần giải thích lại. Pháp Vô Sắc không có nơi chốn nên theo các sắc giống nhau mà nói về xa gần để giải thích nạn nên giải thích lại. Cho nên theo sở y mà nói xa gần. Thô tế của bốn uẩn giống với giải thích của luận Bà-sa. Giải thích nghóa xứ: Luận chép: “pháp tâm, tâm sở” cho đến “nghóa tác dụng” kia: là thứ hai giải thích nghóa xứ, xưa dịch là nhập; nghóa vô cùng tận, nghóa diệt là nghóa nhập; tuy diệt mà không có nghóa sanh, thật ra, mười hai xứ làm chỗ cho tâm, và tâm sở lớn lên, cũng làm chỗ cho sự hoại diệt. Nay nói xứ có cả hai nghóa. Từ Huấn thích: Có công năng làm cho pháp tâm, tâm sở lớn lên gọi là xứ. Nêu một nghóa để giải thích, đó là công năng lớn lên tác dụng của kia. Pháp tâm, tâm sở , trước có thể tánh; do mười hai xứ khiến hiện hành ở thế gian, lấy quả gọi là tác dụng. Luận chép: “Pháp chủng tộc nghóa” cho đến “gọi là mười tám giới”: Thứ ba là giải thích cõi. Văn lại có hai giải thích: Nghóa chủng tộc. Nghóa chủng loại. Như trong một ngọn núi v.v… là nêu ví dụ. Một thân như vậy, hoặc một nối tiếp v.v… là nói về pháp hợp. Luận chép: “Chủng tộc” trong đây cho đến vì là“nhân đồng loại” là giải thích nghóa chủng tộc. Luận chép: “Nếu thế thì vô vi lẽ ra không gọi là cõi vì không có nhân đồng loại”: Là vặn hỏi. Luận chép: Là gốc để “pháp tâm tâm sở sanh ra”: Là lời đáp. Luận Chánh Lý chép: nếu vậy nghóa của xứ và giới xen lẫn nhau vì đều có nghóa là gốc sanh ra pháp tâm, tâm sở. Do đó, nên phải giải thích riêng về nghóa chủng tộc. Như hùng, hoàng, v.v… xoay vần đối nhau, thể loại khác nhau nên gọi là chủng tộc. Cũng vậy, mắt, tai v.v… xoay vần, đối nhau thể loại khác nhau nên gọi là chủng tộc. Nếu vậy, ý giới đối với sáu thức không có thể loại riêng, lẽ ra chẳng phải là một giới riêng. Bắt bẻ này không đúng. Vì sở y, năng y thể loại khác nhau. Có thuyết nói do thời phần an lập khác nhau. Lại có thuyết nói: sáu là trước ý, ý chẳng phải trước sáu cho nên biết có khác. Tuy các giới thể đều có ở cả ba đời, nhưng theo vị khác nhau mà đặt tên khác. Do vậy, nên nói, sáu trước ý sau, có người nói Sư Câu-xá giải thích xứ giới có sự tương lạm nên vặn hỏi rằng: Nhân đồng loại gọi là gốc sanh các pháp thì mười bảy giới đầy đủ, phần ít của một giới. Cảnh giới duyên gọi là gốc sanh ra các pháp, đó là pháp vô vi, phần ít của một giới. Từ phần nhiều nên nói nghóa xứ không giống nhau; phần ít xem lạm nhau cũng không có lỗi. Nay nói rõ về giải thích này tức là giải thích nạn. Danh nghóa của ba khoa đã chấp nhận không giống nhau thì không thể nghóa của xứ lại là nghóa giới được. Nếu chấp nhận một phần vô vi đồng với nghóa của xứ thì không có nghóa giới. Theo lý, vô vi chỉ có nghóa xứ, không có nghóa giới, cũng như không có nghóa uẩn. Muốn chống chế, Câu-xá nên tìm lý lẽ khác. Luận chép: “Lại nói giới thanh” cho đến “gọi là mười tám giới”: Đây là thứ hai giải thích, đại khái đồng với ý của luận Chánh Lý, Luận sư Chánh Lý bỏ giải thích sau, nghóa đương dị xứ. Tuy hai giải thích không giống nhau nhưng chung quy vẫn là nghóa giới của giải thích thứ ba. Hỏi đáp phân biệt: Luận chép: “Nếu nói nghóa nhóm” cho đến “như nhóm, như ngã” dưới đây là thứ tư hỏi đáp phân biệt. Tát-bà-đa-bộ cho rằng ba khoa đều là thật, Kinh bộ cho rằng uẩn, xứ là giả, chỉ có giới là thật. Luận chủ cho rằng uẩn là giả, xứ, giới là thật. Lập lượng bác bỏ Hữu Bộ rằng năm uẩn như sắc uẩn, v.v… chắc chắn là giả, vì do nhiều pháp khác hợp lại mà thành, giống như nhóm ngã. Luận chép: “Nạn này không đúng,” cho đến “cũng gọi là uẩn”: Là Hữu Bộ chống chế. Phần nhiều thật sự thành nhân là điều Hữu Bộ không chấp nhận, đó không thành lỗi. Luận chép: Nếu thế không nên cho đến có nghóa nhóm: Là luận chủ vặn hỏi. Kinh nói nghóa chứa nhóm gọi là uẩn, nay nói một thật cũng gọi là uẩn, thì có lỗi trái với Thánh giáo. Luận Chánh Lý chép: nếu dùng nghóa chứa nhóm để giải thích nghóa uẩn thì chẳng phải thật vì chứa nhóm là giả. Nạn này không đúng vì y theo nơi sở y của chứa nhóm để lập nghóa mà nói, chẳng phải tụ là nghóa, nghóa là vật thật gọi là khác nhau, nhóm chẳng phải thật. Giải thích này nói về nghóa thú rộng lớn của kinh, đó là như nói nhóm mà lìa sở y tụ thì không có một nhóm thể riêng, chỉ trong sự nối tiếp của uẩn mà giả nói ngã vậy thôi; cũng như nhóm ngã của thế gian chẳng phải thật có. Nếu thật sự có uẩn thì kinh hiển bày nghóa gì về các vật hóa sanh. Biết rằng các pháp như sắc v.v… trong ba thời, phẩm loại của chúng có vô lượng khác nhau nhưng đều là uẩn. Uẩn thì vô biên; sơ người sanh lui sụt cho rằng, ta làm sao biết hết và dứt hết vô biên uẩn này, để khích lệ, tuy uẩn là vô biên nhưng tương đồng nên đều nói là một. Lại, các người ngu, đối với nhiều uẩn kia, phát sinh tưởng hiệp một mà khởi lên ngã chấp, để khiến cho những người đó dứt bỏ tưởng hiệp một nên nói rằng, trong một uẩn có nhiều thành phần chứ chẳng nói rằng năm uẩn như sắc, thọ, v.v… do nhiều pháp hợp thành cho nên là giả, chẳng phải thật. Lại, một cực vi thuộc cả ba đời, v.v… dùng tuệ để phân tích lược thành một nhóm, uẩn tuy là nhóm nhưng vẫn thành tựu thật nghóa. Các pháp khác cũng vậy. Cho nên uẩn chẳng phải giả. Lại đối với mỗi pháp khởi riêng, cũng gọi là uẩn nên uẩn chẳng phải giả. Như nói câu sanh thọ gọi là thọ uẩn, tưởng gọi là tưởng uẩn. Ngoài ra như kinh nói: Bất cứ lúc nào cũng, hòa hiệp mà sanh, uẩn tuy khác nhau nhưng nghóa nhóm vẫn thành. Giải thích pháp hữu vi: Luận chép: “Có thuyết, nói năng gánh vác” cho đến “vật sở nhóm” là thứ hai giải thích, nghóa là pháp hữu vi đều có quả, tức là do nghóa gánh vác quả mà gọi là uẩn. Tuy nói vật sở nhóm nhưng chẳng phải dùng nghóa nhóm để giải thích uẩn, mà do trong gánh vác đó có vật nhóm, khác nhau với kinh. Luận chép: “Hoặc có người nói” cho đến ta sẽ cho ông là thứ ba giải thích. Nghóa có thể chia chẻ, luận Chánh Lý chép: đó là nghóa chia chẻ ba đời, v.v… “ba uẩn của ông trả lại” nghóa là trong ba đời, trả lại đầy đủ, ta sẽ cho ông tài vật đó. Luận chép: Ở đây giải thích vượt kinh cho đến như trước có nói rộng: Là bác bỏ thuyết thứ ba. Trước nói vật chứa nhóm nghóa giống với nghóa nhóm của kinh. Đây cũng có thể gồm bác bỏ cả thuyết thứ hai, vì kinh không nói nghóa gánh vác gọi là uẩn. Theo luận Chánh Lý thì giải thích thứ ba là hợp lý. Luận chép: “Nếu cho rằng kinh này” cho đến “gọi là uẩn” là lại bác bỏ lập luận của Hữu Bộ. Tổng kết thành: Luận chép: “Cho nên như nhóm uẩn chắc chắn là giả có”: Là tổng kết thành. Luận chép: “Nếu thế, ưng hứa” cho đến “thành sanh môn” là câu vặn hỏi ngược lại của Hữu Bộ. Luận chép: “Nạn này phi lý” cho đến “có nhân dụng” là giải thích thuận. Luận chép: Nếu không như thế cho đến “mười hai xứ khác nhau”: ý nói, hỏi lại thành tựu. Luận chủ chấp nhận rằng, xứ là thật, khác với Kinh bộ. Luận chép: “Nhưng Tỳ-bà-sa” cho đến “cũng nói đốt y” trở xuống: Là nhắc lại chung văn Bà-sa để giải thích. Cho nên Bà-sa chép: Các sư Đối pháp nói: nếu người quán uẩn là giả thì họ cho rằng cực vi là phần nhỏ của một giới, một xứ, một uẩn; Nếu người không quán uẩn là giả thì cho rằng cực vi tức là một giới, một xứ, một uẩn. Quán giả: quán cực vi là một phần của đãi tổng nhóm giả uẩn. Bất quán: không quán đãi giả tụ cực vi tức là cõi Sắc, sắc xứ, sắc uẩn. Theo đây, một cực vi được gọi là uẩn, cho nên biết uẩn là thật. Giải thích: đây là đối với phần giả mà nói hữu phần, cực vi là một phần của uẩn, nhưng là giả hữu, gọi là uẩn: uẩn là tên chung, là hữu phần, ví dụ nói rất dễ hiểu. Nhân duyên khởi giáo: Luận chép: “Vì sao Thế tôn đối với cảnh sở tri” dưới đây là nửa bài tụng, nói về lý do của ba khoa, tức là nhân duyên khởi giáo. Luận chép: Cho đến “ba môn như uẩn v.v… ” là giải thích chung. Vì có ba thứ ba hợp nên nói là ba. Luận chép: “Theo truyền thuyết hữu tình” cho đến “hoặc ngu mê sắc tâm” đây là giải thích ba thứ thứ nhất. Ý Phật khó biết nên nói là truyền thuyết. Do vậy, luận Chánh Lý chép: ý thú của Đức Thiện Thệ tuy rất khó hiểu nhưng theo lý mà tìm thì tương tợ như vậy. Đối với kẻ ngu muội tâm mà nói về uẩn, một phần sắc, một phần tâm, ba tâm sở. Vì kẻ ngu mê sắc mà nói xứ, mười toàn, một phần ít sắc, một toàn tâm, một phần ít tâm sở. Vì kẻ ngu mê sắc tâm mà nói mười tám giới, mười toàn, một phần ít là sắc, bảy toàn tâm, một phần lớn là tâm sở. Luận chép: “căn cũng có ba là lợi, vừa, độn”. Đối với người lợi căn thì nói về uẩn, vì uẩn lược. Đối với trung căn thì nói về xứ, vì xứ chẳng rộng lược. Đối với độn căn thì nói về giới, vì giới có phạm vi rộng. Căn tánh chúng sanh có ba: Một, do sự hiểu biết nhanh chậm không giống nhau mà chia ra ba căn khác nhau. Hai, do sự ghi nhớ dễ hay khó mà chia làm ba căn khác nhau. Nếu y theo giải không giống nhau thì chia thành thượng căn hạ. Đối với lợi căn thì nói lược, đối với độn căn thì nói rộng. Nếu y theo kiến ký không giống nhau mà chia thành thượng căn hạ thì đối với độn, nói tóm tắt đối với lợi thì nói rộng. Luận chép: “Lạc có ba thứ” cho đến “thứ ba uẩn, xứ, giới”: Lời văn rất dễ hiểu. Ba thứ ba này: luận chủ nói lược rằng, theo nghóa riêng thì có vô lượng, cho nên luận Chánh Lý chép: Kinh chủ trương những điều được nói trong đó còn ít, rằng các đệ tử qua tác ý, đã tu hạnh thành thục, sự nghiệp mới tu, ba vị riêng khác. Có tâm ngã mạn, chấp ngã sở tùy, mê thức y duyên, ba lỗi khác nhau. Ỷ vào mạn, tài, lộc mà sinh ra kiêu mạn, buông lung, ba bệnh khác nhau. Do các duyên này nên theo thứ lớp, Thế tôn chỉ nói nghe ba pháp uẩn, xứ, giới. Luận chép: “Vì sao Thế tôn nói các tâm sở khác”: Dưới đây là thứ bảy nói về phế lập uẩn. Giải thích bằng văn xuôi: “Luận chép” cho đến “tham đắm các kiến”: Là văn xuôi giải thích. Trong văn có ba: một là tránh căn; hai là nhân sanh tử; ba là nhân thứ lớp. Ở đây là nhân thứ nhất Tránh căn, người tại gia do thọ lạc nên khởi tâm ham muốn tranh giành; người xuất gia, do vọng tưởng điên đảo khiến phát sinh tranh chấp về tri kiến. Luận chép: “Lại pháp sanh tử” cho đến “sanh tử luân hồi”: Là nhân thứ hai. Như văn đã nói, theo đó dễ hiểu. Tổng kết: Luận chép: “do hai nhân này” cho đến kế đây sẽ nói: Là tổng kết thành xong. Luận Chánh Lý chép: lại, hai thứ thọ, tưởng này là gốc phát sinh hai pháp ái tạp nhiễm, mỗi loại đều nói riêng tên của một thức trụ. Dựa vào việc trừ sạch hai thứ này mà lập ra định diệt tận. Các nhân như vậy có rất nhiều loại. Luận chép: “Vì sao vô vi nói ở xứ giới”: Dưới đây, là thứ tám, có nửa hàng tụng, nói về phế lập uẩn. “Luận chép” cho đến “cho đến chẳng phải thức”: Là văn xuôi giải thích, trong văn có hai: Một. ba vô vi không thể thuộc về các uẩn, như sắc thọ, v.v… vì chẳng phải sắc, v.v… không thể lập riêng thành uẩn thứ sáu, vì nó không có nghóa uẩn. Đây là phần đầu. Luận chép: Cũng không thể nói cho đến “gọi là vô vi uẩn”: Thứ hai là không có nghóa uẩn. Trong văn có ba: một là không có nghóa nhóm. Hai là không có nghóa y. Ba, không có nghóa uẩn. Đây là phần thứ nhất, không có nghóa nhóm. Luận chép: “Lại nói thủ uẩn” cho đến “nên không lập uẩn” là thứ hai, không có nghóa y. Luận chép: “Có thuyết” cho đến “lẽ ra chẳng phải uẩn” là giải thích thứ ba, không có nghóa uẩn nên chẳng phải uẩn. Luận chủ bác bỏ: Luận chép: “Kia đối với xứ giới so sánh nên thành lỗi”: Luận chủ bác bỏ giải thích thứ ba, rằng nếu uẩn dứt được gọi là vô vi thì vô vi chẳng thuộc về uẩn; vậy thì xứ giới cũng gọi là vô vi vì vô vi, chẳng phải xứ giới. Cho nên nói, so sánh uẩn với xứ giới là điều không hợp lý. Chánh Lý chống chế rằng: Kinh chủ nạn rằng: Kia đối với xứ, giới so sánh nên thành lỗi” nghóa là xứ giới lẽ ra chẳng phải xứ giới thì trái với sở tông, tức là, đối với uẩn chúng sanh chấp cho là ngã, khi ở vào các vị khác, các uẩn liền biến mất. Xứ, giới không phải như vậy, hoàn toàn không sanh khởi gì cả; chỉ có thủ uẩn khởi lên giả nói là sanh. Nếu các uẩn tức cũng lập làm uẩn thì sau khi bát Niết-bàn lẽ ra uẩn phải còn. Chúng sanh sợ uẩn vì nó có quá nhiều hoạn nạn nên không nghó Niết-bàn là an ổn. Trong xứ, giới không có nhiều lỗi lầm nên ở vị xứ vô dư giới vẫn tùy hành. Vì thế uẩn không nên so sánh uẩn với xứ, giới mà thành lỗi. Lại, chữ “Tức” này chẳng phải nêu bật nghóa dứt, thể của hư không và phi trạch diệt chẳng phải dứt. Lời đó ý muốn nêu rằng, nếu ở chỗ này tướng của uẩn không gọi là uẩn tức đối với ba vô vi không có nghóa nhóm nên có thể gọi là uẩn tức, không có sanh môn, tộc nghóa vì thế không nên so sánh. Giải thích này rất phù hợp với tụng. Có người soạn Câu-xá bác bỏ rằng: nếu nói vô vi không có nghóa nhóm thì có khác gì với luận này của ta, nhưng lại ba giải thích đều là giải thích của các Luận sư Bà-sa. Trong Chánh Lý Sao chép: chủ trương của kinh Lượng Bộ đã lầm ý của các Sư xưa, cho rằng, Tức là dứt. Nếu gọi nghóa dứt là Tức thì bị nạn đối với hư không và phi trạch diệt vì hai thứ này chẳng đoạn, cũng gọi là uẩn tức. Nếu gọi nghóa vô nhóm là uẩn tức thì không hợp với việc nêu xứ giới để so sánh vì xứ giới nghóa là bất tức. Nay nói là “không đúng”. Nếu theo nghóa dứt mà gọi là Tức, chỉ ở trạch diệt và chỉ có thủ uẩn mới có tức, các uẩn khác không tức, không trạch diệt, cũng chẳng phải hoàn toàn không có tưởng uẩn nên gọi là Tức. Do giải thích thứ ba và thứ nhất không giống nhau. Nay xét kỹ các Sư xưa nói: tức là sở hiển của diệt, nên gọi là Tức. Tất cả các pháp hữu lậu đều có hai thứ tức đó là dứt và phi trạch diệt; sắc diệt hiển bày cả hư không; hữu vi vô lậu chỉ có phi trạch diệt tức. Nếu do uẩn tức nên hiển vô vi thì uẩn không thuộc về vô vi, mười bảy giới hoàn toàn, một giới phần ít tức. Hiển ba vô vi, lẽ ra giới cũng không thuộc về vô vi vì nó chẳng phải dứt. Cũng gọi là uẩn tức. Nếu vì nghóa vô nhóm nên gọi đó là Tức thì không hợp với việc nêu xứ, giới để so sánh, vì nghóa xứ giới là không tức. Nên lấy không và phi trạch diệt làm vặn hỏi, không nên lấy xứ giới so sánh với uẩn. Nếu cho rằng luận Chánh Lý đồng với giải thích đầu thì cách bác bỏ này của luận chủ trái với giải thích đầu. Nên suy nghó lại. Luận chép: “Đã nói như thế các uẩn phế lập”: Dưới đây là thứ chín có một bài tụng rưỡi, nói về thứ lớp uẩn, xứ, giới. Trong đó có hai: một, nói về thứ lớp của uẩn, hai nói về thứ lớp xứ, giới. Đây là nói về thứ lớp uẩn. “Luận chép” cho đến “lập thứ lớp của uẩn ” đây là văn xuôi giải thích. Trong văn có ba: một, là dùng bốn nghóa để nói về thứ lớp. Hai, là chứng minh chỉ có năm uẩn. Ba, là dùng nhân có thứ lớp để, lập riêng hai uẩn thọ tưởng. Văn này là bậc nhất dùng bốn nghóa để nói về thứ lớp, bốn nghóa tức là bốn biệt; dùng nghóa thứ nhất là tùy theo thô để nói về thứ lớp. Nói về thứ lớp của uẩn: Luận chép: “Hoặc từ vô thỉ” cho đến “lập uẩn thứ lớp” là thứ hai tùy theo nhiễm mà nói về thứ lớp của uẩn, Lập thứ lớp là trước quả sau nhân. Luận chép: “hoặc sắc như khí” cho đến “lập thứ lớp uẩn” là thứ ba lập thứ lớp uẩn theo đồ đựng. Luận chép: “hoặc tùy giới khác nhau,” cho đến “thứ lớp như thế” là phần tùy theo giới mà nói về thứ lớp. Luận chép: Do năm uẩn này không có lỗi thêm bớt, thứ hai là chứng minh chỉ có năm uẩn. Luận chép: “tức do như thế” cho đến “nên lập riêng uẩn”: Là thứ ba dùng nhân thứ lớp lập riêng hai uẩn thọ tưởng. Luận chép: “Trong môn xứ giới,” cho đến thứ lớp nên biết: Dưới đây là một bài tụng, thứ hai nói về thứ lớp xứ, giới. Giải thích bài tụng căn bản: “Luận chép” cho đến “hoặc hai, ba, bốn” là giải thích bài tụng căn bản. Trong văn có năm: Chỉ chấp hiện tại nên nói trước. Chỉ chấp sở tạo nên nói trước. Chấp lìa cảnh nên nói trước. Xa xôi mau chóng nên nói trước. Thứ lớp trên dưới nên nói trước. Đây là Phần một, chỉ chấp hiện cảnh nên nói trước nhất trong năm thứ. Luận chép: “Cái gọi là bốn cảnh” cho đến “hoặc hai câu thủ” là thứ hai, chỉ chấp sở tạo, cho nên mắt, tai, lưỡi, thiệt được nói trước thân. Luận chép: Còn lại là bốn thứ trước, cho đến nói trước hai thứ, thứ ba là mắt tai chấp lìa cảnh cho nên được nói trước mũi lưỡi. Luận chép: “Trong hai thì dụng” của mắt cho đến sau nghe tiếng: Là thứ tư nói về xa xôi mau chóng nên nói trước. Trong văn có hai: Một. mắt, tai đều là trong lìa mà biết, nhãn viễn tốc nên nói trước tai. Mũi, lưỡi là trong hợp mà biết, tỷ thì nhanh nên nói trước thiệt. Đây là bậc nhất, nói về việc nhãn được nói trước. Luận chép: “Hai căn mũi, lưỡi” cho đến “sau lưỡi nếm vị” là thứ hai nói rằng tỷ nhanh nên nói trước. Luận chép: “Hoặc ở trong thân” cho đến nên nói sau cùng là thứ năm trên dưới thứ lớp. Theo trên nên nói trước, ý không có nơi chốn nên nói sau cùng. Trong phẩm căn chép: Các căn mắt, tai, tỷ, được sắp theo chiều ngang đồng đều với nhau như vòng hoa đội trên đầu. Tức nói theo thể của căn. Trong văn, nói thượng hạ là y theo tướng của căn sở y, nghóa không trái nhau. nhưng Chánh Lý đổi tụng rằng: Năm dụng trước khởi; Năm dụng hai thì dụng đầu xa, ba dụng, hai dụng đầu sáng; hoặc tùy xứ thứ lớp. Văn xuôi giải thích rằng: Trong sáu căn, năm căn trước đối với các cảnh khởi công dụng trước, ý về sau mới phát sinh, cho nên nói năm căn trước, như luận này nói: năm cảnh như sắc thanh, v.v… năm thức nạp thọ trước, ý thức biết sau vì năm thức là tự thức y và chấp tự cảnh. Nên biết, đều là công dụng của mắt, v.v… trong năm căn, một và hai có tác dụng xa, không hiệp với cảnh, do đó nói trước. Trong hai căn này công dụng của mắt lại xa hơn tai, dẫn sự đều như trước cho nên nói trước. Công dụng của ba căn mũi, lưỡi thân, trong đó căn thứ nhất và căn thứ hai rõ ràng nên trước là tỷ kế là thiệt và sau là thân. Như tỷ đối với hương năng thủ nhỏ nhiệm; thiệt đối với ngọt đắng thì không được như vậy. Thiệt đối với vị năng thủ nhỏ nhiệm; thân đối với ấm lạnh thì không như vậy. Tùy theo thứ lớp các chỗ giải thích chẳng khác trước. Nếu đối với các cảnh như sắc, thanh, v.v… năm thức lãnh nạp trước, ý thức nhận biết sau, thì vì sao trong mộng lại chấp được sắc, thanh v.v…? Có Sư khác nói: trong mộng là ức niệm nên cảnh sở thọ trước; nếu không vậy thì những người bị mù mắt ở trong mộng lẽ ra cũng chấp sắc. Có thuyết nói: trong mộng chẳng phải nhớ nghó, chẳng phải cảnh sở thọ trước, chỉ chấp trước cảnh hiện tiền một cách rõ ràng. Chẳng phải ở trong giác vị, nhớ nghó rõ cảnh sở thọ trước. Như ở trong mộng, sắc thanh v.v… hiện tiền có thể chấp trước một cách rõ ràng; chẳng phải như ở trong giai đoạn mộng, nhớ lại cảnh khi xưa, có tính chất cao quý còn hơn ở giai vị giác ngộ. Do đó, nhớ nghó cảnh sở thọ trước, rõ ràng trước mắt hơn ở giác vị. Cho nên trong mộng chẳng phải chấp lấy sở thọ sắc thanh cũ; nhưng ở mộng vị, cũng có lúc nhớ lại cảnh cũ. Đây chẳng phải thật mộng, không thể chấp cảnh tướng một cách rõ ràng được. Nếu vậy, vì sao người mù bẩm sinh không thể chấp sắc ở trong mộng vị? Ai nói người mù bẩm sinh không thể chấp sắc ở trong mộng vị. Nếu bảo rằng trong mộng chắc chắn nhớ nghó cảnh sở thọ trước, cũng chẳng phải trước đó chưa hề lãnh thọ. Nên tin rằng, người mù bẩm sinh chấp sắc ở trong mộng, thì trong các đời kiếp trước đã từng thấy sắc rồi. Lại, ở trong mộng chẳng phải chỉ thấy các việc đã thọ lãnh ở trước, như các chỗ khác đã nói, cho nên người mù bẩm sinh, nằm mộng cũng vậy. Lại, luận này nói: đối với năm cảnh như sắc, thanh v.v… năm thức lãnh nạp trước, ý thức nhận biết sau. Y theo một thuyết khác thì không chắc chắn như vậy. Nói như vậy đối với các cảnh như sắc, thanh, v.v… mắt, tai v.v… khởi tác dụng trước, ý phát sinh nhận thức sau, cũng chẳng chắc chắn. Năm thức như mắt, tai, v.v… xoay vần làm duyên đẳng Vô gián cho nhau. Cho nên luận này nói như vậy, ở đây chẳng phải y theo giai đoạn mộng vị mà nói lãnh thọ sắc thanh v.v… theo thứ lớp. Từ giải thích này thì chắc chắn là sắc sở chấp. Trụ ở chỗ rảnh rang vắng lặng thì đều nói rằng: các cảnh thanh v.v… trong định là sắc hữu kiến; không thể nói rằng sắc này chắc chắn là nhãn thức hội thọ. Các loại sắc tướng khác, ở trong định này hiện ra rõ ràng. Cảnh sắc trong định này là đại chủng sở tạo được sinh ra từ định, trong sạch, rõ ràng không hề chướng ngại, như không ở cõi Sắc. Luận Bà-sa quyển ba mươi bảy chép: Lại, thuận theo thô tề mà lập thứ lớp các pháp, đó là sáu nội xứ, nhãn xứ rất thô nên nói trước, ý xứ rất nhỏ nhiệm nên nói sau. Luận chép: “Vì sao duyên mười xứ” cho đến “gọi là pháp xứ” dưới đây là thứ mười hai, gồm một bài tụng nói về việc phế, đặt tên của sắc uẩn và pháp xứ. Giải thích bài tụng căn bản: “Luận chép”: cho đến không phải đều là một: Là giải thích bài tụng căn bản . Trong đó có hai: một, là giải thích sắc xứ. Hai, là giải thích pháp xứ. Trong giải thích sắc xứ lại có ba: Giải thích về việc chia ra mười thứ khác nhau. Giải thích tối thắng. Thuận theo thế gian đặt tên. Giải thích về việc chia ra mười thứ khác nhau, để giúp cho hiểu rõ cảnh, là năm cảnh, hữu cảnh là năm căn. Tức gồm năm căn, năm cảnh thành mười sắc xứ. Luận chép: Nếu không có nhãn, v.v… cho đến tức là tên khác: Là giải thích mắt, v.v… khác nhau; tức là tuy nêu sắc để nói chung nhưng mười xứ, có tên riêng từng xứ. Luận chép: Lại trong các sắc, cho đến ở sai khác kia: Là thứ hai giải thích sắc xứ là tối thắng, nên đặt tên chung. Do hữu đối, và hữu kiến, có đủ hai nghóa này gọi là Thắng. Khi tay v.v… xúc chạm thì vật bị tiếp xúc biến hoại là giải thích hữu đối. Có thể chỉ ở chỗ này hoặc ở chỗ kia là giải thích hữu kiến. Ngoài ra, chín xứ còn lại chỉ là hữu đối, không có nghóa hữu kiến, chẳng phải là thắng nên không đặt tên chung. Luận chép: “Lại các thế gian” cho đến “chẳng phải nhãn v.v…” là thứ ba thuận theo thế gian mà đặt tên. Giải thích pháp xứ: Luận chép: “Lại vì khác nhau” cho đến “như sắc nên biết”: Là thứ hai giải thích pháp xứ. Trong văn có ba: Giải thích một là sai khác, hai là nhiếp đa pháp, ba là nhiếp pháp tăng thượng. Giải thích đầu giống với giải thích về xứ; tuy gọi chung nhưng chính là tên khác. Luận chép: Lại ở trong đây cho đến nên đặt tên chung là thứ hai giải thích nhiếp nhiều pháp. Luận chép: “Lại pháp tăng thượng” cho đến “gọi riêng là pháp”: Đây là thứ ba, thuộc về pháp tăng thượng. Luận chép: Có Sư khác nói cho đến gọi riêng là pháp. Đây là luận Tạp tâm giải thích. Luận chép: “Trong các khế kinh có các thứ khác”: Dưới đây là thứ mười một, có bốn hàng tụng gồm nhiếp các tên khác của uẩn, xứ, giới trong các kinh. Bài tụng thứ nhất: gồm nhiếp pháp uẩn trong các kinh. Bài tụng thứ hai: Nói về số lượng pháp uẩn. Bài tụng thứ ba: gồm nhiếp các uẩn, xứ, giới trong các kinh. Bài tụng thứ tư: do luận, sanh luận, giải thích sáu giới trong các kinh. Bài tụng thứ nhất nói về gồm nhiếp uẩn ở trong các kinh nói trong đoạn văn hỏi đáp ở trước bài tụng. Lời văn rất dễ hiểu. “Luận chép” đến “đều thuộc về hành uẩn” là giải thích văn tụng. Các luận phần nhiều đều nêu ra hai giải thích nhưng Bà-sa lấy thanh làm thể là hợp lý nhất. Luận Bà-sa quyển một trăm hai mươi sáu. Hỏi: lời Phật dạy như vậy, lấy gì làm thể, hoặc là ngữ nghiệp, hoặc là danh, v.v… Đáp: Nên nói như vầy: Ngữ nghiệp làm thể. Hỏi: Nếu thế thì điều nói ở kế sau nên hiểu thế nào? như nói Phật dạy gọi là pháp gì? Đáp: đó là danh thân, cú thân, văn thân cho đến theo thứ lớp mà liên hiệp. Đáp: đoạn văn sau nói về tác dụng của lời Phật dạy, không phải hiển bày tự thể. Đó là an bố liên hiệp thứ lớp hàng lối. Danh thân, cú thân, văn thân là công dụng của lời Phật dạy. Nói về thuyết khác: Có thuyết nói: lời Phật dạy, danh thân v.v… là thể. Hỏi: nếu vậy điều được nói trong đây làm sao hiểu, như nói lời Phật dạy là gì, đó là ngữ môn của Phật cho đến ngữ biểu, đó là lời Phật dạy. Đáp: dựa vào nhân xoay vần cho nên nói lời này. Như thế gian con cháu là pháp sanh khởi xoay vần tức là ngữ làm phát khởi danh, danh nói lên nghóa. “Nói như vậy” tức ngữ nghiệp là thể, là sở thuyết của ý Phật, là sở văn của người nghe. Lại nói: hỏi: vì sao lời Phật dạy là ngữ biểu, chẳng phải vô biểu? Đáp: vì lời nói giúp cho chúng sanh có được sự hiểu biết đúng đắn, nên gọi là Phật dạy. Mọi người phát sanh sự hiểu biết đúng chỉ do biểu nghiệp, chẳng phải vô biểu. Như luận ấy có giải thích rộng. Lại nói: lời Phật dạy nên nói là thiện hay vô ký? Đáp: có thể là thiện, có thể vô ký. Sao gọi là thiện? Đó là thiện tâm của Phật phát ra ngôn ngữ cho đến ngữ biểu. Thế nào là vô ký? Là lời do tâm vô ký của Phật phát ra, cho đến ngữ biểu. Hỏi: trong lời Phật dạy lời nào là thiện, lời nào là vô ký? Đáp: A-tỳ-đạt-ma-tố đát-lãm tạng, phần lớn là thiện, tạng Tỳ- nại-da phần lớn là vô ký. Như Thế tôn nói: cửa nên đóng lại, y bát nên đặt trên giá trúc, ngà voi, những lời như vậy đều là vô ký. Lại có thuyết nói: lời Phật dạy, nếu vì sở hóa mà nói nên biết đó là thiện; nếu vì các việc khác mà nói thì đó là vô ký. Như Đức Thế tôn bảo A-nan-đà rằng: người đến nhìn trời là mưa hay không mưa, trong vườn sao lại có cao thanh, đại thanh, những lời như vậy đều là vô ký. Luận chép: “Các chư pháp uẩn này lượng nó thế nào?” Dưới đây là thứ hai, có một bài tụng, nói về lượng của pháp uẩn. “Luận chép” cho đến “Pháp Uẩn Tức nói” là giải thích bài tụng căn bản . Có ba Sư nói: Sư thứ nhất rằng, giáo lý Phật có đến tám muôn bộ, mỗi bộ có sáu ngàn bài tụng. Như Pháp Uẩn Túc Luận chẳng hạn. Theo văn này thì Pháp Uẩn Túc Luận là một trong sáu túc luận, đây là theo văn, cú mà nói số lượng. Sư Chân-đế giải thích: có Sư khác nói: một phần của A-tỳ-đạt-ma gọi là pháp ấm, gốm có sáu ngàn bài kệ. Trong tám mươi ngàn pháp ấm, mỗi pháp đều có số lượng như vậy cả. A-tỳ-đạt-ma tạng có chín phần: Pháp ấn. Phân biệt hoặc. Phân biệt thể. Phân biệt nhân. Thành lập giới. Danh tụ. Đắc đảo. Nghiệp tướng. Định tướng. Pháp ấn là một trong chín phần đó, có sáu ngàn bài kệ, đó là một trong tám muôn. Đây là dứt nói giải thích không giống với luận này. Trong chín phần, pháp ấm chẳng phải Pháp Uẩn Túc Luận. Nói về tám muôn pháp uẩn: Luận chép: “hoặc nói là pháp uẩn” cho đến “gọi là nhất pháp uẩn”. Đây là Sư thứ hai nói, mỗi giáo môn gọi là một pháp uẩn, giáo môn như thế có tám muôn biệt, đó là uẩn, xứ v.v… lời văn rất dễ hiểu. Luận nói như thế, cho đến tám muôn pháp uẩn: Là thứ ba, luận chủ lời bình. “Như nhị thuyết” tức là do có tám muôn bệnh nên nó pháp đối trị cũng có tám muôn. Chánh Lý có hai, giải thích đồng với trước. Giải thích của Sư thứ ba: “như nhị thuyết” tức là hữu tình được hóa độ có tám muôn hành tướng khác nhau như tham, sân, si, ngã mạn, chấp thân và tầm, từ v.v… vì để đối trị với tám muôn hành tướng đó, Thế tôn giảng nói tám muôn pháp uẩn; bất tịnh, từ bi, duyên khởi, tưởng vô thường , không, trì ức niệm v.v… đây là nói theo thuận hiển tùy uẩn vô uẩn v.v… mà nói không phải để đối trị căn bệnh của hữu tình mà là nói suông. Y theo văn luận này thì giải thích thứ ba không khác với giải thích thứ hai nhưng tám muôn ấy” tức là nêu lên con số chung, đây tức là tám mươi bốn ngàn pháp uẩn. Sư Chân-đế nói: các Sư thật sự đều sắp xếp như vậy cả. Chúng sanh có tám muôn loại phiền não khác nhau, đó là dục, sân si, mạn, v.v… để đối trị nên, Thế tôn nói tám muôn pháp ấm. Tức là do chúng sanh có tám muôn phiền não nên Đức Phật nói tám muôn pháp môn. Sắp xếp pháp môn theo lý lẽ ấy gọi là thật phán. Kinh bộ đồng ý với giải thích này. Tương truyền rằng: giải thích của sư Chân-đế chia mười tùy miên làm mười phần, mỗi phần lại có chín tùy miên làm phương tiện, tổng cộng thành ra một trăm. Trong một trăm đó lại có phần trước, phần sau và phần gốc thành ra ba trăm. Đặt số một trăm gốc vào trong hai phần trước và sau, mỗi pháp đều lấy chín tùy miên làm phương tiện và hai trăm gốc, hợp thành hai ngàn, cộng một trăm gốc thành hai ngàn một trăm. Lại, theo năm thứ: đa tham, đa sân, tự giác, ngu si, trước ngã, mỗi loại có hai ngàn một trăm thành tất cả là một muôn năm trăm. Đã khởi có một muôn năm trăm, chưa khởi có một muôn năm trăm thành hai mươi mốt ngàn. Lại, lấy ba độc, v.v… chia thành bốn người, mỗi người đều có hai mươi mốt ngàn hiệp thành tám mươi bốn ngàn. Giải thích này với không giống Chánh Lý. Xét lại thì câu-xá sớ của Chân-đế không có văn. Lại dựa vào ba trăm năm mươi độ trong kinh Hiền Kiếp, mỗi độ có sáu thừa Ba-la-mật thành ra hai ngàn một trăm. Đối với bốn đại, sáu suy đều có hai ngàn một trăm thành hai mươi mốt ngàn. Các phần tham sân si, v.v… mỗi mỗi lại có hai mươi mốt ngàn thành ra tám mươi bốn ngàn. Giải thích này không giống với giải thích của luận này và luận Chánh Lý. Luận Trí Độ chép: các phần tham, sân, si mỗi thứ đều có hai mươi mốt ngàn bệnh, đều có tám mươi bốn ngàn pháp uẩn. Theo văn luận ở trên, mỗi pháp uẩn lại có chung riêng khác nhau nên không giống với ở đây. Hỏi: tám muôn pháp uẩn, hợp lại có bao nhiêu muôn ức bài tụng? Đáp: Cách tính trong đây có thượng trung hạ. Pháp Hạ, mười muôn gọi là ức; pháp trung, một trăm muôn gọi là ức; thượng pháp, muôn muôn gọi là ức. Nếu theo luận Trí Độ thì ngàn muôn gọi là ức. Ở Trung quốc mười muôn gọi là ức. Một pháp uẩn có sáu ngàn bài tụng; mười pháp uẩn có sáu muôn bài tụng; một trăm pháp uẩn có sáu mươi muôn bài tụng; một ngàn pháp uẩn có sáu trăm muôn bài tụng. Muôn pháp uẩn có sáu ngàn muôn bài tụng. Tám muôn pháp uẩn có bốn mươi tám trăm ức bài tụng. Vì sao có quá nhiều bài tụng: Hỏi: luận Trí Độ chép Ba tạng chỉ có ba mươi muôn bài tụng, vì sao ở đây nói quá nhiều như thế? Đáp: Tỳ-đàm y theo số lượng khi Phật còn tại thế pháp chưa bị diệt mất nên có nhiều; luận Trí Độ y theo số lượng khi Phật đã diệt độ, pháp theo người mất bớt nên còn ít. Do vậy, luận Trí Độ chép: số lượng kinh Phật, căn bản nhiều không thể kể; nhưng sau khi Phật Niết-bàn, các vị vua tà kiến dốt nát đã đốt bỏ kinh sách, phá hoại chùa tháp, hãm hại Sa-môn nên còn ít. Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, là đời tượng pháp bất tịnh, các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát có thần thông, khó lòng gặp được, các kinh sâu kín thì nhiều mà người thực hành, người thọ trì ở Diêm-phù lại rất ít, chỉ có các rồng thần giữ gìn. Phó Pháp Tạng chép: Thương-na-hòa-tu đã diệt độ, bảy mươi bảy ngàn kinh bổn sanh, một muôn A-tỳ-đàm, tám muôn thanh tịnh tỳ-ni đều mất theo. Đây là minh chứng. Luận Bà-sa chép: Cù Sa giải rằng: năm mươi muôn năm ngàn năm trăm năm mươi bài tụng là số lượng của một pháp uẩn. Xem cách giải thích này thì số lượng các bài tụng khác nhau rất nhiều. “Nói tám muôn pháp uẩn” tức nói theo Thanh văn giáo, ở Duyên giác và Bồ-tát thì nhiều hơn. Kinh Bồ-tát Tạng: kinh Vô Lượng nghóa chép: Thanh văn có tám muôn, Duyên giác có chín muôn, Bồ-tát có mười ức. Kinh Bi Hoa chép: Thanh Văn có tám mươi bốn ngàn nhóm pháp; Duyên giác có chín muôn nhóm pháp; Đại thừa pháp tạng có mười ức nhóm pháp. Các thuyết không giống nhau. Kỳ thật, pháp uẩn có vô lượng nhưng mỗi lập luận y theo một căn cứ riêng nên không trái nhau. Như Hoa Nghiêm, tùy theo căn cơ mà nói Bốn đế không giống nhau, có mười muôn v.v… Nói về uẩn và hành uẩn: Luận chép: Điều kia nói cho đến thuộc về hai uẩn: Là nói về sắc uẩn và hành uẩn. Luận chép: Các chỗ khác như thế, cho đến cũng giống như thế: Dưới đây là thứ ba, có một hàng tụng, giải thích tên khác của uẩn, xứ, giới trong các kinh. “Luận chép” cho đến “mỗi mỗi tự tướng”: Là giải thích chung bài tụng, là trong kinh nói: năm uẩn như sắc, thọ v.v… mười hai xứ như mắt, tai v.v… và mười tám giới như mắt, tai v.v… ở trước. Lại có tên khác của uẩn, xứ giới đều thuộc về phần trước nói. Luận chép: Lại trong các kinh cho đến đây thuộc về hành uẩn, đây là bậc nhất, nói về gồm nhiếp các uẩn khác tức là năm uẩn như giới uẩn v.v… Luận Bà-sa quyển ba mươi ba nêu ra thể của năm uẩn như giới v.v… rằng: thế nào là giới uẩn vô học? Đáp: luật nghi thân ngữ vô học. Thế nào là vô học định uẩn? Đáp: Ba Tam-ma-địa vô học. Hỏi: Thế nào là vô học tuệ uẩn? Đáp: Vô học chánh kiến trí. Hỏi: Thế nào là vô học giải thoát uẩn. Đáp: vô học tác ý tương ưng tâm, đã thắng giải, nay thắng giải và sẽ thắng giải. Đó là tận vô sanh vô học chánh kiến tương ưng thắng giải; đối với cảnh tự tại đặt tên là giải thoát, chẳng gọi là ly hệ. Thế nào là vô học tri kiến uẩn? Đáp: tận trí, vô sanh trí. Hỏi: vì sao hai trí này gọi là giải thoát trí kiến uẩn? Đáp: Trong thân giải thoát có riêng trí này, rất có công năng xem xét, chắc chắn các pháp giải thoát. Vô học tuệ uẩn và tri kiến giải thoát uẩn có gì khác nhau? Đáp: vô học khổ tập trí là vô học tuệ uẩn, duyên pháp trói buộc, vô học diệt đạo trí là vô học giải thoát tri kiến, uẩn duyên với pháp giải thoát. Lại, Khổ, Tập, Diệt, Trí vô học là tuệ uẩn vô học, pháp này duyên theo hữu lậu, vô vi giải thoát, không duyên duyên trí giải thoát vô lậu. vô học đạo trí là vô học giải thoát trí kiến uẩn, pháp này duyên theo vô lậu hữu vi giải thoát, cũng duyên duyên giải thoát vô lậu trí. Lại, vô học khổ tập đạo trí là vô học tuệ uẩn không duyên với pháp ly hệ. Vô học diệt trí là vô học giải thoát tri kiến uẩn duyên với pháp ly hệ. Đó là khác nhau. Đó là sự khác nhau của tướng thô thế tục. Nếu nói thắng nghóa chân thật khác nhau thì như trước đã nói, nghóa là vô học chánh kiến trí là vô học tuệ uẩn. Tận vô sanh trí là vô học giải thoát tri kiến uẩn. Luận chép: “Lại các kinh nói” cho đến “thuộc về pháp xứ”: đây là phần nhiếp thâu tên khác của xứ. Phần đầu của đoạn này có ba: Mười biến xứ. Tám thắng xứ. Bốn Vô Sắc xứ. Phần lớn ý văn trong đây đều có thể hiểu được. Nói về năm xứ giải thoát: Luận chép: “Năm xứ giải thoát” cho đến “thuộc về pháp xứ” là thứ hai nhiếp năm xứ giải thoát. Năm xứ giải thoát ấy là: Nghe Phật v.v… nói pháp mà được giải thoát. Nhờ tự đọc tụng mà được giải thoát. Nói pháp cho người khác nghe mà được giải thoát. Ở chỗ vắng lặng, suy nghó mà được giải thoát. Khéo phân biệt tướng định mà được giải thoát. Giải thoát nghóa là Niết-bàn. Do năm loại này được giải thoát cho nên gọi là xứ giải thoát. Đây là lược y theo Tập Dị Môn Túc Luận quyển mười ba, mười bốn; và kinh A-hàm quyển chín mà nêu tên, giải thích, như trong luận ấy có nói rộng. “Nói tuệ đều là tánh” là chỉ cho sanh đắc tuệ thứ hai. Luận Bà-sa chép: thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh là sanh đắc thiện, Văn tuệ thứ nhất và thứ ba do nghe Thánh giáo phát sinh thắng tuệ; hoặc có thể tuệ thứ ba cũng là tư tuệ nghóa là vì người khác nói pháp trước phải suy nghó. Tư tuệ thứ tư thì như tên gọi mà biết. Tu tuệ thứ năm tức ở trong định, khéo biết cách phân biệt tướng của định. Tuy nói không giống nhau nhưng đều lấy tuệ làm thể. Đây là thuộc về pháp xứ. Hoặc gồm ba pháp giúp bạn ở trước thì thuộc về thanh, ý pháp xứ. Và sau thuộc về hai pháp lý và pháp xứ. Lại có giải thích thanh thuộc tuệ thứ hai, thứ ba chấp lấy tự thanh. Thanh chẳng phải thứ nhất, không thể dùng thanh khác kèm theo được. Luận chép: Lại có hai xứ cho đến “bốn uẩn tánh” là thứ ba nhiếp hai xứ. Đối với hữu tình Vô Tưởng, thanh thường thành tựu cho nên có thanh, thành mười xứ. Do đó, luận Phát Trí chép: cái gì thành tựu thân, đó là hữu tình ở cõi Dục và cõi Sắc; như thân sắc thanh xúc cũng vậy. Cho nên biết thanh này thường thành tựu. Khi chánh thọ quả Vô Tưởng dị thục tuy không phải có tâm nhưng khi vừa mớisanh, khi sắp chết, chắc chắn có tâm. Cho nên cũng nói là ý. Lại, thành tựu địa pháp kia thì hẳn có tâm. Lại luận Bà-sa quyển một trăm ba mươi bảy hỏi: Bạch Đức Thế tôn vì sao ở trời Vô Tưởng, trời Hữu Đảnh, Thế tôn thừơng nói về xứ? Đáp: Vì có các ngoại đạo chấp chặt cho hai xứ này là giải thoát nên Đức Phật muốn ngăn dứt mà nói là sanh xứ. Như trong luận ấy có giải thích rộng. Tên gọi khác của giới: Luận chép: “Lại, kinh đa giới” cho đến “thuộc mười tám giới” đây là phần gồm nhiếp các tên gọi khác của giới. Kinh Đa giới chép: Nói về sáu mươi hai cõi, đó là: ba thứ sáu, sáu loại ba, một loại bốn, hai thứ hai lại thêm mưới tám giới thành sáu mươi hai cõi. Tất cả đều tùy theo sự thích ứng mà thuộc về mười tám giới. Dưới đây nêu ra thể tướng của nhiếp, theo thứ lớp giải thích rõ từng loại. Luận chép: Lại trong kinh ấy nói sáu giới dưới đây gồm một bài tụng nói về sáu giới. Phần hỏi đáp trước bài tụng thì như văn mà hiểu, phần giải thích riêng cũng như văn rất dể hiểu. Luận chép: Cho đến gọi là không giới là lên thể của không giới. Luận chép: Kẻ hở như thế làm sao biết được? Là hỏi. Luận chép: “Truyền thuyết cho đến sáng tối làm thể là dùng lý luận của Hữu Bộ tông mà trả lời. Chẳng tin không giới là có thật nên nói là truyền thuyết. Luận Chánh Lý chép: nói truyền thuyết là biểu hiện sự không kính tin, ý của vị kia nói rằng: làm sao có việc đó được; Thượng tọa Đạo Nhất đó và các Sư phái Thí dụ đều nói: hư thể của hư không giới cũng chẳng có thật. Đây chỉ thuần là ngôn ngữ không có nghóa thật, về hư không có thật sẽ nói ở sau. Nay dựa vào không giới mà thành lập rằng, lìa hư không giới thật sự vẫn có hư không. Do đó, Đức Thế tôn nói: hư không chẳng có sắc, chẳng có kiến, không có đối, thì nương vào chỗ nào. Tuy nhiên, vẫn có không sở y nhưng có sở tác; nghóa là dung thọ tất cả ánh sáng, dùng quả để nói lên có thể tướng thật sự. Nếu hư không chẳng có thì cũng không có ánh sáng; đã có ánh sáng mà nhãn thức chấp lấy thì đó là sự khác nhau của các sắc. Cho nên phải có hư không để dung thọ ánh sáng. Do vậy, đã thành lập được rằng hư không là thật có. Với điểm này, trong câu văn của khế kinh nêu lên hai điểm: phân tích nêu rõ từng khía cạnh thật có. Lại, ở cõi Sắc, khi được lìa nhiễm cũng gọi là dứt trừ cõi hư không này. Như Đức Thế tôn nói: khi lìa sắc nhiễm, tâm đối với năm giới lìa nhiễm giải thoát, chỉ trừ thức giới, không nên nói rằng dứt trừ hư không vô vi vì các lậu trong đó chưa hề chuyển biến. Nhưng thật ra, không có cả sáng sáng, bóng, sáng, tối; ánh sáng và sáng cùng loại; tối và bóng cùng loại; hai thứ đó, chỉ nêu lên từng loại mà nghóa đã bao gồm loại kia. Luận Chánh Lý chép: truyền thuyết lỗ hổng tức là ánh sáng tối, đó là lỗ hổng sáng tối của cửa sổ v.v… Luận chép: Nên biết thể này không lìa ngày đêm: Nghóa là, ngày là sáng thể; của đêm là tối thể của sắc không giới này lấy sáng, tối làm thể, lấy ngày đêm làm vị. Luận chép: “Tức ở đây gọi là sắc A-già-đà” là nói về tên khác của sắc không giới trong luận này. Giải thích khác của luận Bà-sa: Luận chép: “truyền thuyết A-già-đà” cho đến “lân A-già-sắc”, là nói về giải thích khác của luận Bà-sa. Giải thích thứ nhất: A-già-đà là cực ngại. Luận chép: “Có thuyết nói A-già” cho đến “lân A-già-sắc” là thứ hai giải thích. A-già này dịch là vô ngại; tiếng Phạm là A-già, chung với hai nghóa kia. Mỗi nghóa y theo một giải thích. Luận chép: “Các thức hữu lậu, gọi là thức giới”. Ở trước, đã nêu ra thể của không giới; ở đây nêu ra thể của thức giới mà chỉ chọn lấy hữu lậu, không chọn vô lậu. Luận chép: Vì sao không nói cho đến “là thức giới phải chăng” là hỏi. Luận chép: “do chấp nhận sáu giới” cho đến “thì không như thế” là trả lời, chấp nhận sáu giới là sở y của sanh mạng hữu tình, lại thường giữ mãi sanh mạng. Các pháp vô lậu thì không như vậy. Cho nên, luận Chánh Lý chép: do pháp vô lậu, đối với sanh mạng của hữu tình thì có dứt, hại, các chuyển biến khác nhau cho nên chẳng phải chỗ nương của sanh mạng. Như vậy, sáu giới đối với sanh mạng hữu tình mà làm các nhân sanh, nuôi lớn v.v… rồi chuyển biến khác nhau, đó là sở y của sanh mạng. Sanh nhân nghóa là hạt giống nhóm sanh ở thức giới; nuôi nhân là chỗ nương của sanh mạng đại chủng; nuôi nhân là dung thọ sanh của không giới. Tôn giả Thế Hữu nói: giới là sự lập bày nhân của hữu tình, chẳng phải pháp vô lậu. Như Khế kinh chép: sáu giới làm duyên nhập vào thai mẹ. Lại, luận Bà-sa quyển bảy mươi lăm chép: nếu pháp có công năng nuôi lớn các hữu, lớn ích các hữu, nhậm trì các hữu trong sự thành lập sáu giới, ý thức vô lậu làm tổn giảm các hữu, tán hoại chư hữu, phá diệt các hữu, nên không xếp vào sáu giới. Đầy đủ như trong luận đó giải thích. Hỏi: Ba vị vô tâm, thiếu sáu thức giới, trong bốn Vô Sắc lại thiếu năm giới trước, làm sao nói sáu thức giới v.v… thường giữ mãi sanh mạng? nói chung về các giới: Đáp: đây là nói chung về các giới, từ vị tục sanh cho đến lúc chết tâm tùy theo sở hữu của nó mà giữ mãi sanh mạng, chẳng có hiện khởi nào mà không giữ gìn sanh mạng; và cũng không có một hữu tình nào hoàn toàn không có sáu giới mà có sanh mạng. Chẳng phải như pháp vô lậu hiện khởi ở thân mà không giữ gìn thân. Hoàn toàn không có vô lậu nào mà cũng có sanh mạng. Vì không muốn nói tất cả hữu tình thường đủ sáu giới cho nên nói như vậy. Do đó luận chép: chấp nhận sáu giới là sở y của sanh mạng hữu tình. Như vậy, các giới, từ nối tiếp sanh tâm cho đến tâm khi chết thường giữ gìn sanh mạng. Các pháp vô lậu thì không như vậy. Luận chép: Trong sáu giới, cho đến thuộc bảy tâm giới: Là nói về sự thu nhiếp lẫn nhau, rất dễ hiểu. Luận chép: Giới còn lại của kinh kia cho đến mười tám giới: Giống như nói các giới còn lại đều thuộc về mười tám giới này: Lược nương vào Pháp Uẩn Túc Luận quyển mười, mười một, phẩm Đa Giới nêu thể của sáu mươi hai cõi, đều thuộc về mười tám giới. Văn tụng của luận Pháp Uẩn chép: giới có sáu mươi hai thứ, mười tám giới là đầu, mười tám, bốn thứ, sáu ba, sau hai hai. Mười tám giới là: sáu căn, sáu cảnh, sáu thức, như thuộc tự danh, nói ba sáu là ba thứ sáu. Thứ nhất lục là các giới đất nước lửa gió không thức. Bốn giới đầu thuộc về xúc giới, lấy thức hữu lậu làm thể nên thuộc về bảy tâm giới. Thứ hai lục là các giới dục, nhuế, hại, vô dục, vô nhuế, vô hại. Dục lấy tham làm tánh; nhuế lấy sân làm tánh; hại lấy hại làm tánh; vô dục lấy vô tham làm tánh; vô nhuế lấy vô sân làm tánh; vô hại lấy bất hại làm tánh. Sáu thứ này là pháp tâm sở đều thuộc về pháp giới. Thứ ba lục là các giới lạc, khổ, hỷ, ưu, xả vô minh. Năm giới trước lấy thọ làm tánh; một giới sau lấy si làm tánh, là pháp tâm sở, đều thuộc về pháp giới. Một bốn thứ , đó là thọ, tưởng, hành thức; thọ tưởng, hành thuộc về pháp giới; thức thuộc về bảy tâm giới. Lục tam là: thứ nhất, tam giới, các cõi Dục, sắc, Vô Sắc; cõi Dục thuộc về mười tám giới. Sắc giới thuộc về mười bốn giới, trừ hai cõi hương vị và hai thức: Mũi, lưỡi. Cõi Vô Sắc, ý pháp thuộc về ý thức giới. Thứ hai tam giới: Là các cõi Sắc, Vô Sắc, diệt. Cõi Sắc là các cõi Dục và sắc, do có cõi Sắc nên gọi chung là cõi Sắc, thuộc về mười tám giới. Cõi Vô Sắc thuộc về giới thứ ba trong ba cõi, diệt giới lấy trạch diệt, phi trạch diệt làm tánh, thuộc về mười tám giới. Ba cõi thứ tư là các giới quá khứ, hiện tại và vị lai đều lấy năm uẩn làm tánh, thuộc về mười tám giới. Ba cõi thứ ba là là các cõi quá khứ, vị lai, hiện tại, đều lấy năm uẩn làm tánh, thuộc về mười tám giới. Ba cõi thứ tư các cõi kém, trung, mầu. Liệt giới lấy pháp bất thiện, hữu phú vô ký làm tánh, thuộc về bảy tâm giới, sắc thanh và pháp giới. Trung giới lấy thiện hữu lậu và pháp vô phú vô ký làm tánh, thuộc về mười tám giới. Diệu giới lấy pháp thiện vô lậu làm tánh, thuộc về ý, pháp giới, ý thức giới. Ba cõi thứ năm là các giới thiện, bất thiện và vô ký. Thiện giới lấy tất cả các pháp thiện làm tánh giới bất thiện lấy các pháp bất thiện làm tánh, hai cõi này thuộc về bảy tâm giới như sắc, thanh và pháp giới; giới vô ký lấy tất cả pháp vô ký làm tánh, thuộc về mười tám giới. Ba cõi thứ sáu là các giới học, vô học, phi học, phi vô học. Học giới lấy năm uẩn vô lậu làm tánh; học giới vô lấy năm uẩn vô học vô lậu làm tánh, hai cõi này thuộc về các giới ý, pháp, ý thức. Giới Phi học, phi vô học lấy năm uẩn hữu lậu và ba vô vi làm tánh, thuộc về mười tám giới. Hai hai sau: Hai cõi thứ nhất là các giới hữu lậu, vô lậu. Giới Hữu lậu lấy hữu lậu năm uẩn làm tánh, thuộc về mười tám giới. Giới Vô lậu lấy năm uẩn vô lậu và ba vô vi làm tánh, thuộc về ý, pháp và ý thức giới. Hai cõi thứ hai là các giới hữu vi, vô vi. Giới Hữu vi lấy năm uẩn làm tánh, thuộc về mười tám giới. Vô vi giới lấy ba vô vi làm tánh, thuộc về pháp giới. Trong kinh A-hàm cũng nêu tên gọi sáu mươi hai cõi, gọi là kinh Đa Giới. Ngày 06 tháng 09 nhuận, niên hiệu Bảo Diên năm thứ ba , ở Nam Tân phòng, phụng điểm xong. Gia cửu thọ, giao tử.  CÂU-XÁ LUẬN SỚ <卷>QUYỂN 2 <詞>Phẩm 1: PHÂN BIỆT GIỚI Nói về mười tám giới: Luận chép: Lại nữa cho đến “bao nhiêu vô ký” dưới đây là thứ hai của toàn văn, có mười chín hàng tụng, nghóa môn chia ra làm mười tám giới. Luận Chánh Lý chép: Về mặt giới mà nói căn, cảnh, thức thì có thể dễ dàng hiểu được các nghóa loại của chúng. Nay nói theo mười tám giới thì do nghóa loại của uẩn xứ này đã thành. Một hàng tụng này chia làm ba môn theo thể hỏi đáp. Trong bài tụng, câu thứ nhất nói về hữu kiến. Câu thứ hai nói về hữu đối. Hai câu sau cùng nói về ba tánh, lời văn rất dễ hiểu. Văn xuôi giải thích ba môn: Từ “luận chép” cho đến “nói vô kiến khác”: Là văn xuôi, giải thích, ba môn tụng thành ba đoạn. Giải thích: Bà-sa và Chánh Lý đều có hai giải thích. Chánh Lý quyển bốn chép: Vì sao gọi đây là hữu kiến? Do có hai nghóa: Một là, do sắc và kiến cùng có mặt cùng lúc, nên gọi là hữu kiến; tức là sắc và nhãn sinh khởi cùng lúc như bạn bè theo nhau. Hai là, sắc này có thể chỉ được nên gọi là hữu kiến; nghóa là hoặc có thể chỉ ở chỗ này hoặc ở chỗ kia, như có sở duyên. Có thuyết cho rằng: các sắc này, ở trong gương, v.v… có hình ảnh thấy được, nên gọi là hữu kiến, cũng có thể chỉ ở chỗ này hoặc ở chỗ kia. Không thể nói: âm thanh vang trong động, v.v… lẽ ra thành hữu kiến được vì tiếng và tiếng vang không sinh ra cùng lúc, luận Bà-sa cũng nói như thế. Luận này chỉ lấy nghóa thứ hai. Từ nghóa hữu kiến mà suy ra nghóa vô kiến. Trong mười tám giới, trừ cõi Sắc, còn lại mười bảy giới, tất cả không thể hiện ra ở chỗ này hoặc ở chỗ kia, nên gọi là vô kiến. Như luận Chánh Lý chép: không có ba nghóa trên gọi là vô kiến. Ở đây, luận nói tóm tắt nên chỉ có một giải thích. Luận chép: Đã nói như thế cho đến sở duyên khác. Giải thích: Giải thích hữu đối: Trước là kết dẫn nêu chương, sau là nương vào chương nhắc lại giải thích. Luận chép: “Chướng ngại hữu đối” cho đến “hoặc cả hai ngại nhau,” là giải thích thứ hai, trong giải thích có tám. Đây là thứ nhất. giải thích, chướng ngại hữu đối, nghóa là năm căn, năm cảnh tự đối với cảnh khác bị ngăn ngại không thể sinh khởi thì chướng ngại này có nghóa hữu đối. Như tay, cho đến hoặc cả hai, chướng ngại lẫn nhau. Đây là chỉ sự để giải thích. Y theo hai ví dụ tay và đá để biết cả mười sắc pháp đều như vậy. Như ngói, cây, v.v… Giải thích cảnh giới hữu đối: Luận chép: “Cảnh giới hữu đối” cho đến đối với cảnh như sắc, v.v… Là thứ hai, giải thích cảnh giới hữu đối. Trong văn có hai: Nêu thể. Dẫn chứng kết thành, đây là văn đầu. Nêu thể: mười hai cõi là sáu căn, sáu thức; pháp giới nhất phần, các pháp hữu cảnh các tâm sở; này đối với các cảnh như sắc v.v… nghóa là sáu căn, sáu thức, v.v… đối với các cảnh như sắc thanh v.v… có công năng lực dụng gọi là cảnh giới; chính đối với cảnh giới đó có sự chướng ngại gọi là hữu đối. Luận chép: “Nên luận thi thiết” cho đến “trừ tướng trước” dẫn chứng. Thứ hai Thi thiết là một bộ luận trong sáu Túc luận, do Đại Ca- Da-Diễn-Ni soạn, bốn trường hợp rất dễ hiểu. Ở đây, chữ ngại nghóa là sở kiến sắc, là tên khác của chữ Đối tức là đối với sắc sở kiến gọi là hữu đối. Tất-xá-già, dịch là quỷ ăn thịt hút máu, xưa gọi là quỷ Tỳ-xá-xà. Thất-thú-ma-la là loài bàng sanh, hình dáng như con thằn lằn, con nhỏ dài chừng hai trượng, con lớn dài đến cả trăm trượng. Tất cả những thứ trên đều gọi là cảnh giới hữu đối, là kết luận. c/ Sở duyên hữu đối: Luận chép: Sở duyên hữu đối cho đến “đối với tự sở duyên” là giải thích thứ ba tất cả các pháp tâm, tâm sở đối với sở duyên của nó, khi hòa hợp lại bị trở ngại gọi là sở duyên hữu đối. Luận chép: “cảnh giới sở duyên, đâu có gì khác”. Nói về chỗ khác nhau: đoạn này gồm có hai phần, một là hỏi, hai là đáp. Đoạn văn này là hỏi. đáp. Luận chép: “Nếu đối với pháp” kia cho đến “gọi là sở duyên” là “Nếu đối với pháp kia mà ở đây có công năng thì, luận Chánh Lý nói: như người đối với cảnh sở duyên, có công năng vượt trội đó gọi là cảnh giới của mình. Giải thích: pháp hữu cảnh, đối với tự cảnh có công năng nghe, thấy, cho khắp v.v… gọi là cảnh giới. Pháp tâm, tâm sở chấp chấp cảnh mà khởi gọi là sở duyên. “Chính là sự khác nhau của tâm, tâm sở” nghóa là do tâm và tâm sở chấp cảnh mà khởi tâm, tâm sở, đồng gọi là sở duyên. Vượt ngoài tự cảnh giới của nó, hoặc duyên sanh cảnh giới khác, vượt qua cảnh giới kia đối với cảnh giới khác, ở đây không chuyển gọi là hữu đối, đây là sự sai khác của hai tâm. Có người đưa ra bốn giải thích: Cảnh giới hữu đối tức đứng về mặt công năng, chứ không chú trọng mặt khởi dụng. Như bỉ đồng phần nhãn gọi là hữu đối. Sở duyên hữu đối chấp sở duyên cảnh mới khởi hiện hành, nghóa là khởi tác dụng lấy quả của tâm, tâm sở; có duyên liền sinh khởi, không có duyên thì không thể sinh khởi, đều gọi là hữu đối. Ngăn trở tác dụng chấp cảnh gọi là cảnh giới hữu, ngăn trở tác dụng lấy quả gọi là sở duyên hữu đối. Trở ngại nghóa của thể gọi là sở duyên hữu đối; trở ngại nghóa của dụng gọi là cảnh giới hữu đối. Ngăn trở tác dụng chấp cảnh gọi là cảnh giới hữu đối; ngăn trở tác dụng duyên cảnh gọi là sở duyên hữu đối, cả bốn nghóa đều chẳng phải ý của luận này. Thích tên gọi hữu đối : Luận chép: Thế nào là nhãn, v.v… cho đến “gọi là có ngại” là thứ năm giải thích tên gọi hữu đối, trước hỏi sau đáp. Đoạn này là hỏi. Luận chép: “Vượt kia ở nơi khác, ở đây bất chuyển” là Đáp. Đáp có hai phần: Đây là trước đáp, nghóa là nói nếu là cảnh giới thì hoặc là sở duyên, đối với sắc thanh, v.v… nếu ở đây được gọi là hữu đối, thì ngăn trở mắt, v.v… tâm, v.v… đối với các cảnh khác không khởi, là nghóa hữu đối. Luận chép: Lại có người ngại cho đến “hòa hội chuyển” là giải thích thứ hai. Ý nói, khi năng duyên, sở duyên, hữu cảnh và cảnh hòa hợp khởi lên nhưng trở ngại trong sự hòa hợp gọi là hữu đối, không phải trở ngại từ thể hoặc trở ngại từ lấy quả v.v… Hội tụng văn: Luận chép: Nên biết trong đây cho đến “nói vô đối khác”: Là hội quy văn tụng để nói hữu đối vô thượng gọi là vô đối. Phân biệt số câu: Luận chép: “Nếu pháp cảnh giới hữu đối” cho đến là câu thứ tư: Câu thứ bảy là số phân biệt. Trong văn gồm có hai: Một, là cảnh giới hữu đối chướng ngại chung với bốn trường hợp. Hai, là cảnh giới đối sở duyên thuận với câu sau. Đây là câu thứ nhất. Câu thứ nhất là cảnh giới hữu đối phi chướng ngại, câu thứ hai là chướng ngại chẳng phải cảnh giới. Câu thứ ba là câu cú, Câu bốn là câu phi cú, đều rất dễ hiểu. Luận chép: “Nếu pháp cảnh giới hữu đối” cho đến “năm căn như mắt v.v…” đây là dùng nghóa rộng mà hỏi hẹp, tức là dựa vào mệnh đề sau của câu hỏi để trả lời. Nếu là sở duyên hữu đối chắc chắn là cảnh giới hữu đối. Còn sở duyên và chướng ngại không tương quan nhau, cho nên không hợp làm câu. Trình bày quan điểm của kinh bộ: Nói chấp của kinh bộ: Luận chép: “Đại đức” ở đây cho đến đây là chấp nhận là thứ tám nói về chấp của kinh bộ. Cưu-ma-la-đa, Hán dịch là Hào Đồng, Tổ sư phái Kinh bộ, đối với kinh bộ soạn luận Dụ Man , luận Si Man v.v… trong đó có bài tụng nêu lên ý nghóa của hữu đối không giống với nghóa của Hữu Bộ nêu ra. “Chỗ này tâm dục sanh” nghóa là tâm, đối với các màu xanh, vàng v.v… sinh ra. “Kia ngại khiến bất khởi” nghóa là bị các cảnh khác gây chướng ngại không thể sinh khởi. “Nên biết hữu đối” này: Là kết luận. Vô đối thì trái lại. Theo chấp của Hữu Bộ thì đối với màu xanh mà sinh khởi gọi là hữu đối, đây là đều được chấp nhận: Ý nói kinh chủ đồng ý với nghóa của Kinh bộ. Chia làm ba tánh: Phân biệt ba tánh: Luận chép: Đã nói như thế cho đến “nên gọi là vô ký”, thứ ba là phân biệt ba tánh, trong văn có hai: Một, là giải thích tám giới. Hai, là giải thích mười giới. Đây là văn đầu, nghóa là trong mười cõi Sắc, trừ hai cõi sắc, thanh, còn lại tám giới. Tám giới này có công năng ghi nhận, tánh vừa thiện vừa bất thiện, nên gọi là vô ký. Giải thích vô ký có hai thuyết, đây là thuyết thứ nhất. Luận chép: Lại nói cho đến “lẽ ra chỉ là vô ký”: là nêu thuyết khác để bác bỏ, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Mười giới còn lại cho đến “còn lại gọi là vô ký” là thứ hai là giải thích mười giới. Trong văn có ba đoạn: Một, là giải thích bảy tâm giới. Hai, là giải thích pháp giới. Ba, là giải thích hai cõi sắc, thanh. Đây là văn đầu. Nói về giới: Một, bảy tâm giới: Tương ưng với các thiện như vô tham v.v… gọi là thiện, tương ưng với ba căn bất thiện như tham v.v… thì gọi là bất thiện. Không tương ưng với cả hai gọi là vô ký. Hai, là pháp giới: luận chép: “Pháp giới như thế” cho đến “còn gọi là vô ký” là thứ hai giải thích pháp giới. Nếu là vô tham, v.v… thì tự tánh thiện; tưởng thọ tương ưng với tự tánh thiện nên gọi là tương ưng thiện. Sắc vô biểu và bốn tướng của các pháp cùng đắc là hai thứ đẳng khởi cũng gọi là Thiện. Trạch diệt vô vi là thắng nghóa thiện cũng gọi là thiện. Như vậy, trong pháp giới có cả bốn thứ thiện: Tự tánh, tương ưng, đẳng khởi và thắng nghóa. Ba, là hai cõi sắc, thanh: luận chép: “Sắc giới, thanh giới” cho đến “còn lại là vô ký” là thứ ba giải thích về sắc, thanh; trong hai cõi này, chỉ có đẳng khởi thiện và bất thiện. Luận chép: “Đã nói thiện v.v…” cho đến “cõi Vô Sắc hệ”: Thứ hai là một hàng tụng nói về tam giới hệ. Văn đó có ba: Một, là kết thúc văn dẫn trên. Hai, là bài tụng. Ba, là giải thích. Đây là phần đầu. Trong bài tụng, câu đầu nói cõi Dục. Hai câu kế giải thích cõi Sắc. Một câu cuối giải thích cõi Vô Sắc. Luận chép: Cho đến đầy đủ mười tám: Là thứ hai, văn xuôi giải thích, giải thích ba cõi, chia làm ba đoạn: đoạn một giải thích cõi Dục hệ; hệ là lệ thuộc, nghóa là bị trói buộc. Ở đây, phân biệt giải thích số lượng ít nhiều của các pháp. Các pháp thuộc cõi Dục hệ bị tham, sân, v.v… cõi Dục trói buộc gọi là cõi Dục hệ. Tức là gồm toàn phần bốn giới mũi, lưỡi, hương, vị, một phần của mười bốn giới còn lại. Là Cõi dục hệ, do đó cõi Dục có mười tám giới. Đoạn hai là giải thích cõi Sắc. Luận chép: “cõi Sắc sở hệ” cho đến “vô sở duyên” là thứ hai giải thích cõi Sắc. Trong văn có hai: Một, là nói về pháp nhiều ít hai, là hỏi đáp phân biệt. Đây là văn đầu, Một: ở cõi Sắc không có đoạn thực nên không có hai cảnh hương và vị, do không có hai cảnh hương vị nên không có hai thức mũi, lưỡi. Đó là nói về pháp ít nhiều. Nói về đoạn thực: Luận chép: Nếu thế cho đến “tánh dứt thực” là thứ hai hỏi đáp phân biệt. Hương vị là tánh dứt thực; vì cõi trên không có đoạn thực nên không có hai cảnh hương, vị. Như vậy xúc giới cũng là tánh dứt thực lẽ ra không có ở cõi Sắc. Luận chép: “Tất cả xúc kia chẳng phải tánh dứt thực” là đáp. Nghóa là, cõi Sắc có xúc, chẳng phải dứt thực. Luận chép: “Nếu thế loại hương vị lẽ ra cũng như thế”: Là vặn hỏi. Nghóa là xúc giới là tánh dứt thực nhưng cõi trên có xúc mà không phải tánh dứt thực, cho nên hương vị là tánh dứt thực, cõi trên có hương vị chẳng phải tánh dứt thực. Luận chép: “hương vị lìa thực” cho đến “nên xúc chẳng phải vô” là đáp. Nghóa là hương vị lìa ăn uống thì không có tác dụng; cõi trên không có đoạn thực nên hương vị không thể có. Xúc dù lìa ăn uống vẫn có tác dụng, đặc biệt có tác dụng giữ mãi các căn và y phục, v.v… cho nên ở cõi Sắc tuy không có đoạn thực mà vẫn có xúc giới. Thuyết khác: Luận chép: Có Sư khác nói cho đến nên ở kia không có: Là mê mờ thuyết khác, trụ ở đây: Là trú ở cõi Dục. “Dựa vào tónh lự kia v.v… cho đến thấy sắc nghe thanh, đều sanh khinh an”. Nghóa là thân ở cõi Dục mà thực hành thiền định cõi Sắc, chứng được hai thông, mắt, tai thấy sắc nghe thanh thì có khinh an cùng khởi với xúc. Xúc này mạnh mẽ lại vận hành khắp thân nên nói là lợi ích cho thân. Nhân đó, ba pháp thấy sắc, nghe thanh và xúc ở trong nhân đồng thời khởi, quả xứ cùng tùy thuộc. Còn hương, vị thì không như vậy nên nói ở cõi Sắc không có hương vị. Luận chép: Nếu thế cho đến “kia vô dụng” là vặn hỏi. Rằng, ở cõi Sắc không có đoạn thực, hai cảnh hương vị không có tác dụng nên nói ở đó không có. Đã không có hai cảnh thì hai thức mũi, lưỡi cũng không có tác dụng. Vậy đáng lẽ, ở đó cũng không có mũi, lưỡi. Luận chép: Không như thế cho đến và “trang nghiêm thân” là đáp. Nói vô dụng là không đúng. Vì, lưỡi để nói năng, mũi để trang nghiêm thân. Cả hai đều có tác dụng tức hữu dụng. Luận chép: “Nếu vị trang nghiêm thân” cho đến “đâu cần hai căn” là vặn hỏi. Rằng, y xứ của hai căn là hai cảnh sắc và xúc. Nếu vì để nói năng và trang nghiêm thân, chỉ cần hai cảnh sắc xúc đủ để nói năng và trang nghiêm rồi, cần gì đến hai căn? Luận chép: “Nếu không có căn nam” cho đến “y xứ cũng vô” là đáp; nghóa là do có hai căn nên mới có hai y xứ; nếu không có hai căn thì y xứ cũng không. Ở đây chỉ lấy căn nam làm ví dụ. Luận chép: Ở kia có thể cho đến “lìa căn lẽ ra có: Là vặn hỏi. Nghóa là y xứ của căn nam không có công dụng, nên lìa căn chẳng có; y xứ của hai căn mũi, lưỡi là hữu dụng, lẽ ra lìa căn phải có? Luận chép: “Hữu tuy vô dụng” cho đến chắc chắn sẽ chết: Là đáp. “Hữu căn” không hẳn có tác dụng hay không tác dụng, cũng sanh như xứ, bào thai sáu chỗ chắc chắn sẽ chết, các căn nhãn v.v… này tuy là vô dụng nhưng cũng có căn sanh. Mũi, lưỡi cũng vậy. Luận chép: “hữu tuy vô dụng” cho đến “đắc có căn khởi”: Là nêu bằng chứng khởi nhân; nghóa là đã không có cảnh ái thì làm sao khởi được. Luận chép: “Đối với căn hữu ái” cho đến “phát nghiệp thù thắng” là đáp về nhân; nghóa là khi hai căn mũi, lưỡi khởi lên ưa thích, sẽ phát sinh tư nghiệp thù thắng. Nói cách khác hai căn mũi, lưỡi là hai nhân phát sinh tư nghiệp. Vặn hỏi: Hỏi về bổn thích: Luận chép: “Nếu lìa cảnh ái” cho đến “căn nam cũng sinh” là vặn hỏi. Trong vặn hỏi có hai: một là nạn bổn thích; hai là nạn chuyển thích, đây là văn đầu. Hễ khởi lên căn ái thì có cảnh tham; nếu lìa cảnh tham thì căn tham cũng không có. Đã lìa cảnh tham thì không có căn ái; đã không có căn ái thì mũi, lưỡi không có nhân. Lẽ ra hai căn mũi, lưỡi chẳng có mới phải. Nếu nói, tuy lìa cảnh tham vẫn có căn ái, vẫn có hai căn mũi, lưỡi, thì lẽ ra năm căn cũng phải có như hai căn mũi, lưỡi. Văn hỏi chuyển thích: Luận chép: “Nếu cho là bất sinh” cho đến “mũi, lưỡi lẽ ra vô”: Giải thích chuyển sang chống chế. Nếu cho rằng vì để trang nghiêm thân thể nên mới có mũi, lưỡi, căn nam vì xấu xí nên không có; thể thì “âm tàng” ẩn kín do nghiệp thiện chiêu cảm, có gì xấu xa đâu. “Lại các căn sanh” trở xuống: Thứ hai là vặn hỏi. Nếu các căn sinh khởi chẳng do hữu dụng, vô dụng, xấu xí hay trang nghiêm, chỉ cần có nhân liền sinh khởi thì cần gì nói về đẹp, xấu. Mũi, lưỡi căn nam đều lìa cảnh tham, theo lý, thì Chúng hợp với căn ái. Như vậy, căn nam không có thì lẽ ra, mũi, lưỡi cũng phải không có. Luận chép: Nếu thế cho đến “không giảm các căn” là dẫn kinh để nạn. Cõi trên không giảm các căn, thế thì tạo sao lại nói hai căn mũi, lưỡi không có. Luận chép: “Tùy các căn” kia cho đến “căn nam lẽ ra có”: Là giải thích hỏi ngược lại. Khế kinh nói: Không giảm các căn nghóa là hoàn toàn không thiếu một căn nào, chỉ tùy theo từng cõi mà cần có ít hay nhiều. Giải thích kinh như vậy, đâu có gì trái. Nếu chấp nhận rằng, tùy có các căn không giảm, tức khiến cho người có đủ căn ở cõi Dục, không giảm các căn. Và như thế thì ở cõi trên lẽ ra cũng phải có căn nam. Luận chủ phê bình: Luận chép: Người nói như thế cho đến “căn nam chẳng thật có”: là phần bình của Luận chủ, nói rằng: Sáu căn ái dựa vào nội thân để sinh khởi chớ không dựa vào cảnh giới để sinh khởi. Do có tác nhân nên mới có hai căn mũi, lưỡi. Thể của căn nam là một phần của thân, thường xúc chạm cảnh dâm nên gọi là căn nam. Ái này sinh ra là do cảnh ái chẳng phải như mũi, lưỡi dựa vào nội căn xứ mà khởi lên thân ái. Do ở cõi trên có nội thân ái nên mũi, lưỡi chẳng thể không có, không có cảnh dâm ái nên căn nam chẳng có. Văn còn lại rất dễ hiểu. Đoạn ba: Nói về cõi Vô Sắc. Luận chép: “cõi Vô Sắc hệ” cho đến “cõi Vô Sắc hệ” là dứt giải thích cõi Vô Sắc. Rằng: chỉ có ba cõi sau cùng của mười tám giới là thuộc cõi Vô Sắc, phải lìa dục mới sinh lên cõi này. Sắc là năm căn, năm cảnh; cõi này không có sắc dục nên năm căn, năm cảnh không có. Đồng thời ở đây, tuy không lìa dâm dục nhưng do không có căn nam nên năm thức cũng không có. Do đó, chỉ có ba cõi sau cùng, tức là ý; ý thức và pháp giới. Luận chép: “Đã nói giới hệ” cho đến “bao nhiêu vô lậu” là nửa bài tụng thứ ba nói về hữu lậu, vô lậu; trước là hỏi; sau là nhóm đáp. “Luận chép” cho đến “Chỉ có danh hữu lậu”: Giải thích ý giới ý thức chỉ có hai thứ, thuộc về đạo đế, là pháp vô lậu. Gọi là pháp vô lậu vì phiền não không tăng, còn lại chỉ là hữu lậu, vì phiền não theo đó thêm lớn. Pháp giới thuộc về đạo đế hữu vi vô lậu. Vô vi vô lậu là ba vô vi, trạch diệt vô vi lậu duyên không tăng nên gọi là vô lậu. Hai thứ hư không và phi trạch diệt, phiền não không duyên tới được nên gọi là vô lậu, chẳng phải hai thứ nhân quả nên pháp nhiễm không thể duyên được. Ngoài ra, đều gọi là hữu lậu vì lậu theo đó mà tăng lên. Tức là mười lăm giới còn lại đều thuộc hữu lậu vì phiền não theo đó mà tăng, khác nhau với Đại thừa và các bộ phái khác. Luận chép: Đã nói như thế cho đến “vô tầm vô từ” gồm nửa bài tụng thứ tư giải thích về hữu tầm, hữu từ v.v… đoạn này kết thúc phần dẫn, dùng tụng đáp, văn rất dễ hiểu. Giải thích: “Luận chép” cho đến nên nói chỉ nói: là giải thích, trong văn có ba: Chỉ có tầm từ. Chẳng chắc chắn có hay không. Không có tầm từ, đây là văn đầu. - Chỉ có tầm từ: trong mười tám giới, năm thức có cả tầm từ; do thường tương ưng với tầm từ, đây là nói về lý do khiến thức thường đi chung với tầm từ. Do hành tướng ngoại môn chuyển là giải thích lý do khiến thức tương ưng với tầm từ. Luận Chánh Lý chép: giải thích của kinh bộ nói do hành tướng thô nên chuyển theo bên ngoài. Lý do này không hợp lý, vì chúng ta hiện thấy khi ý thức nội chuyển cũng thường tương ưng với tầm từ. Nên giải thích thế này, năm thức chỉ có trong các chỗ có tầm từ, chứ không có ở cõi Dục, sơ tónh lự, pháp tâm, tâm sở, trừ tầm và từ. Năm thức không tương ưng với tầm từ thì cần gì phải dùng ngoại môn làm nhân để phân biệt. Câu-xá chống chế: một là hành tướng thô là nhân chung, hai là môn ngoại chuyển là nhân riêng. Năm thức có đủ hai thứ này, ý thức tuy không có ngoại môn chuyển nhưng không có hành tướng thô, nên không có tầm từ. Giải thích thêm, nói rằng: có hay không có tầm từ là do hành tướng thì cần gì phải nhờ môn nội ngoại ? Ngoại môn không có tầm từ, nội môn có tầm từ cho nên biết ngoại môn chẳng phải nhân. Giải thích thêm: do năm thức có hành tướng thô nên thường tương ứng với tầm từ, có ngoại môn chuyển. Do nói nghóa chắc chắn nên gọi là “Duy”. Tức là nêu lý do năm thức không có ở các cõi trên vì tương ưng với tâm từ. Chẳng chắc chắn có tầm từ hay không. Sự bất định của ba cõi: Luận chép: Ba sau cho đến đều có ba phẩm là thứ hai giải thích sự bất định của ba cõi. Trước nêu lên việc ba cõi có cả ba phẩm, hữu tâm hữu từ v.v… sau là giải thích sự khác nhau. Luận chép: “ý giới, ý thức giới” cho đến “vô tầm, vô từ” là giải thích: Trong ba cõi này, pháp giới có bốn thứ: Một là, trừ tâm và từ, còn lại các pháp tương ưng. Hai là, pháp phi tương ưng, tónh lự trung gian từ. Ba là, tầm. Bốn là, cõi Dục, sơ định từ. Đây là văn đầu, y theo văn trước lại có ba: Một là, hữu tầm hữu từ; Hai là, vô tầm duy từ; Ba là, vô tầm vô từ. Nghóa là ba cõi này trừ tầm từ ra, nếu ở cõi Dục và Sơ tónh lự thì có tầm có từ. Ở trong tónh lự trung gian thì không có tầm, chỉ có từ. Từ tónh lự thứ hai trở lên cho đến Hữu Đảnh thì không có tầm từ. Luận chép: Thuộc về pháp giới cho đến “tứ cũng như thế” là thứ hai nói về pháp bất tương ưng và tónh lự trung gian từ đều không có tầm từ. Trong đây nói hữu tầm hữu từ là tương ưng với hữu (tức câu trường hợp trong bốn trường hợp) chứ không đi chung với hữu hữu. Do bốn tướng này và tùy tướng của nó nên không gọi là hữu tầm từ, trung gian từ, không có thứ hai từ. Và địa pháp không có tầm do đó từ là vô tầm từ. Luận chép: “tầm trong mọi lúc” cho đến “chỉ có từ tương ưng” là thứ ba nói về tầm. Nói rằng: chỗ có tầm thì phải có từ, Tầm chỉ có từ, không có tầm thứ hai nên không gọi là hữu tần. Ý này nói: khi từ nhóm khởi, không có từ thứ hai nên không tương ưng. Thọ v.v… cũng giống như vậy, tuy có hai thọ, ba thọ nhưng khi cùng nhóm khởi thì không có thọ thứ hai v.v… nên không tương ưng. Luận Chánh Lý chép: không nên dùng hai thọ để làm ví dụ. Xem lại đoạn Chánh Lý ở trước. Luận chép: “Từ ở cõi Dục” cho đến “đản tầm tương ưng ” là phần giải thích từ. Từ ở trung gian thiền thì không có tầm, không có từ; ở cõi Dục, Sơ thiền thì có tầm, không có từ. Ngoài ra, giải thích theo tầm. Trong đây, gồm có bốn trường hợp: Hữu tầm hữu từ. Vô tầm duy từ. Vô tầm vô từ. Vô từ duy tầm. Y theo địa tác pháp và bốn trường hợp ở chỗ khác, thứ lớp không giống nhau. Trong mười tám giới, năm thức có một trường hợp: hữu tầm hữu từ. Ý giới và ý thức giới có ba trường hợp : hữu tầm hữu từ, và vô tầm duy từ, vô tầm vô từ. Đây là do trải qua ba địa. Pháp giới có cả bốn trường hợp. Trừ tâm và từ các pháp tương ưng khác, qua ba địa, có ba câu: hữu tầm hữu từ, là vô tầm duy từ, vô tầm vô từ. Tầm chỉ có một câu: Là hữu tầm vô từ. Từ có hai câu: hữu tầm vô từ, và vô tầm vô từ. Ngoài ra, mười giới còn lại chỉ có một câu: Là vô tầm vô từ. Luận chép: Do đó nên nói cho đến “tức là đồng”: là tổng kết; câu như số ở trên hữu tầm hữu từ, địa pháp có bốn phẩm. Bốn phẩm là: trừ tầm từ, các pháp tương ưng còn lại gọi là hữu tầm hữu từ. Tầm gọi là vô tầm duy từ. Từ là duy tầm vô từ. Vô tầm vô từ. Ngoài ra, mười sắc giới và pháp bất tương ưng, sắc vô biểu, ba vô vi đều là vô tầm vô từ. Luận chép: “Mười cõi Sắc” còn lại cho đến bất tương ưng” là thứ ba, giải thích mười giới, vô tầm vô từ. Luận chép: “Nếu năm thức thân” cho đến “vô phân biệt chăng?” Một hàng tụng thứ năm do luận sanh luận nói về ba phân biệt. Trước là hỏi, sau là nhómng đáp, lời văn rất dễ hiểu. “Luận chép” cho đến “tùy niệm”: Là giải thích bằng văn xuôi. Trong văn có ba: Một, là nêu ba làm ba. Hai, là giải thích câu hỏi. Ba, là nhắc lại tên gọi phân biệt để giải thích. Đây là văn đầu, rất dễ hiểu. Luận chép: “do năm thức thân” cho đến “gọi là vô túc” là thứ hai. Giải thích vặn hỏi, chia làm ba thứ, năm thức chỉ có một nên gọi là vô phân biệt, như ngựa có bốn chân, nếu chỉ còn một chân cũng gọi là vô túc. Luận chép: “tự tánh phân biệt” cho đến “tùy niệm phân biệt” là thứ ba. Nhắc lại tên gọi để giải thích. Tầm là tự tánh phân biệt, năm thức thường có, luận Chánh Lý chép: phân biệt có nghóa là suy tìm hành tướng. Nói tầm là tự tánh phân biệt là để phân biệt với trạch và minh ký hơi giống với tầm. Do đó, chữ phân biệt cũng có cả tuệ và niệm. Do nhiếp trì cả ba hành tướng khác nhau này nên năm thức đối với cảnh có sự chuyển khác rõ ràng. Đối với cảnh đã xảy ra thì ngăn dứt hành phát sinh nên từ phân biệt không đi chung với tưởng. Đối với cảnh chưa xảy ra nó không thể ấn tri nên từ phân biệt không đi chung với thắng giải. Ý thức tương ưng với tán tuệ nên thuộc so lường phân biệt. Trong định không có về so lường nên hoặc định niệm, tán niệm đều gọi là tùy niệm phân biệt. Niệm dù ở trong định hoặc ở trong tán đều có công năng nhớ giữ. Nói về chấp thọ: Luận chép: Đã nói như thế hữu tầm từ đẳng” cho đến “có bao nhiêu vô chấp thọ?” là thứ sáu, một hàng tụng nói về hai môn: hữu duyên, vô duyên; và hữu chấp thọ, phi chấp thọ. Đây là dứt kết thúc văn dẫn và bài tụng trả lời, lời văn rất dễ hiểu. “Luận chép” cho đến “nghóa y theo mà thành” là giải thích, trong văn có hai: Một, là giải thích hữu sở duyên; hai, là giải thích hữu chấp thọ, đây là văn đầu: Một, là sáu thức, ý giới, các pháp tâm sở đều gọi là hữu sở duyên, đây là chỉ về pháp thể. Đều có công năng chấp cảnh là giải thích lý do, vì tâm, tâm sở có công năng chấp cảnh sở duyên nên gọi là hữu sở duyên. Luận Chánh Lý chép: Như người có con, sở duyên, sở hành, cảnh giới danh nghóa đều khác nhau. Mười sắc giới còn lại và pháp giới thì thuộc về pháp bất tương ưng nên gọi là vô sở duyên, chỉ cho pháp thể. Pháp bất tương ưng cũng thuộc về sắc vô biểu và ba vô vi. Pháp bất tương ưng là pháp không thể chấp cảnh. “Nghóa y theo mà thành” là giải thích về lý do. Luận Chánh Lý chép: Năm thức thân không chấp lấy hòa hiệp làm cảnh, nhưng chắc chắn là có cảnh vì nói là thật pháp nên nghóa cảnh thành tựu. Nếu năm thức thân liễu đạt cảnh thắng nghóa, thì vì sao năm thức không dứt trừ được kiết sử? Vì liễu đạt tự tướng, vì ngoại môn chuyển, vì vô đẳng dẫn, vì vô phân biệt, vì nhất đọa cảnh, vì sở duyên ít nên tuy liễu đạt thắng nghóa mà vẫn không dứt trừ kiết sử được. Giải thích chấp thọ và vô chấp thọ: Luận chép: Đã nói như thế cho đến “đều vô chấp thọ”: là giải thích chấp thọ và vô chấp thọ. Trong văn có ba: một, là nói về vô chấp thọ giới. Hai, là có cả hai cõi. Ba, là nghóa chấp thọ. Đây là văn đầu, trong mười tám giới, có chín giới: bảy tâm giới và hai cõi pháp, và thanh, chỉ là vô chấp thọ. Tiếp theo ở trước, trong phần hữu sở duyên, bảy tâm giới và pháp giới được giải thích riêng nên gọi là tám trước. Thanh không phải là pháp hữu sở duyên nên nói là “và tiếng”. Luận chép: Chín giới còn lại cho đến “vô chấp thọ ” là giải thích có cả hai cõi. Trong đó có hai: trước là nêu lên, sau là giải thích, văn tụng ở trên là nêu. Luận chép: Nhãn v.v… cho đến “gọi là vô chấp thọ” là giải thích, trong đây lại có hai: a) Là giải thích năm căn; b). Là giải thích bốn cảnh như sắc, v.v… Năm căn có hai: trú ở hiện tại gọi là hữu chấp thọ, trú ở quá khứ vị lai gọi là vô chấp thọ. Luận chép: “sắc hương vị xúc” cho đến “gọi là vô chấp thọ” là thứ hai giải thích bốn cảnh. Như sắc, v.v… Bốn cảnh này có ba thứ: Một, là cảnh ở quá khứ, vị lai một bề là vô chấp thọ; hai, là cảnh ở hiện tại hợp với năm căn gọi là hữu chấp thọ; ba, cảnh ở hiện tại mà không hợp với năm căn gọi là vô chấp thọ. Luận chép: “như ở thân nội” cho đến “không có chấp thọ” là chỉ ra sự để giải thích, lời văn rất dễ hiểu. Y theo văn trên thì cảnh ở hiện tại mà không lìa căn gọi là hữu chấp thọ. Từ đó biết rằng, ba vị vô tâm trong năm căn hiện tại, không lìa cảnh của bốn cõi, nên cũng gọi là hữu chấp thọ, đó là pháp mà tâm, tâm sở nhiếp làm y xứ. Ngoài ra, vì thiếu duyên, thức tuy không sinh khởi được nhưng cũng đều thuộc về thân mình. Luận chép: “Hữu chấp thọ: Đây là nói nghóa gì cho đến gọi là “vô chấp thọ” là thứ ba giải thích nghóa chấp thọ. Pháp tâm, tâm sở cùng chấp giữ nhiếp làm y xứ gọi là hữu chấp thọ. Giải thích nghóa hữu chấp thọ. Tổn ích xoay vần lại theo nhau: Năm căn, năm cảnh không lìa nhau nên có sự tổn ích xoay vần và lại theo nhau. Tức các thế gian, nói có giác xúc, chúng duyên sở xúc, giác khổ vui là chỉ về sự việc cụ thể để giải thích. Luận Chánh Lý chép: pháp hữu chấp thọ tóm tắt có hai: một, là hữu ái và kiến chấp có thân là kỷ hữu gọi là hữu chấp thọ; hai, là làm nhân phát sinh khổ vui gọi là hữu chấp thọ. Nói về chứa nhóm: Luận chép: Đã nói hữu chấp thọ v.v… như thế cho đến có bao nhiêu chẳng chứa nhóm? Là thứ bảy, một hàng tụng, nói về hai thứ đại tạo và chứa nhóm v.v… kết thúc phần dẫn và nêu tụng đáp, lời văn rất dễ hiểu. “Luận chép” cho đến “đều chẳng phải hai chủng” là giải thích. Trong văn có hai: một, là giải thích đại tạo v.v… hai, là giải thích chứa nhóm v.v… Trong phần giải thích đại tạo lại chia làm hai: một, là giải thích các thứ đại tạo trong mười tám giới; hai, là nói về các thuyết khác. Phần đầu, trong xúc có hai: một, bảy xúc là sở tạo; hai, bốn đại là năng tạo. Năm căn, bốn cảnh và pháp giới vô biểu chỉ là sở tạo. Ngoài ra, đều chẳng phải cả hai. Luận chép: “Tôn giả Giác Thiên” cho đến “chỉ có tánh đại chủng”: Thứ hai là nói về thuyết khác, Trước là nêu các thuyết khác, sau đó là bác bỏ, đây là văn nêu. Luận chép: Kia nói không đúng cho đến “lý chắc chắn không đúng”: là bác bỏ. Phần này dẫn hai kinh để làm lý luận bác bỏ các thuyết khác. Kia nói không đúng là nói rằng, các lời nói đó hoàn toàn sai, vì khế kinh chỉ nói bốn tướng như cứng, v.v… là chủng, nghóa là kinh chỉ nói tướng cứng, chắc là địa chủng; tướng ẩm ướt là thủy chủng; tướng ấm nóng là hỏa chủng; tướng xao động là phong chủng; chứ không nói tướng trơn, tướng xanh là địa chủng v.v… do đó biết rằng, tướng trơn rít v.v… chẳng phải địa chủng. Bốn đại chủng này chỉ thuộc về xúc; tức là bốn tướng như cứng chắc, v.v… thuộc về xúc xứ. Cho nên biết rằng các xứ khác chẳng phải bốn đại chủng. Chẳng phải cứng, ướt, v.v… là sở thủ của mắt, v.v…; sắc v.v… là sở thủ của mắt v.v… nên biết chẳng phải là đại chủng, chẳng phải sắc thanh, v.v… là sở giác của thân căn, nên biết rằng sắc chẳng phải bốn đại. Rõ ràng lý ấy là không đúng, đây là kết luận. Dẫn kinh để bác bỏ: Luận chép: “Lại như khế kinh” cho đến “vô kiến hữu đối” là thứ hai dẫn kinh để bác bỏ. Trong văn có bốn: Dẫn văn kinh. Giải thích ý kinh. Người ngoài hỏi. Thông nạn. Đây là văn thứ nhất, trong kinh nói, năm căn, bốn cảnh đều chỉ có sở tạo, nói xúc giới có đại chủng tạo sắc chứng tỏ rằng, bốn đại chủng là năng tạo chứ chẳng phải sở tạo v.v… Luận chép: “như thế trung kinh” cho đến “đều chẳng phải đại chủng” là thứ hai giải thích ý kinh, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Nếu thế cho đến, cho đến nói rộng là phần dẫn kinh đặt câu hỏi ngược lại. Kinh nói, trong con mắt thịt, có những loại thuộc tánh cứng loại cứng. Do vậy biết rằng, nhãn v.v… là bốn đại. Luận chép: Kia nói cho đến không có lỗi trái nhau: Là thứ tư giải thích câu hỏi. Trong văn có hai: Giải thích kinh được dẫn. Hội nhập thai kinh. Đây là văn phần đầu, kia nói trong mắt thịt có các tánh cứng, v.v… đó chẳng phải nói rằng, cứng v.v… tức là mắt, không có lỗi trái nhau. Luận chép: “Trong kinh Nhập thai” cho đến “sáu xúc xứ” là hội nhập thai kinh. Kinh ấy “Nói sáu giới” đó là bốn đại, không, thức làm thành nền tảng só phu; nhưng só phu chẳng phải là chừng đó mà còn có sáu cảnh và tâm sở. Cho nên biết, kinh đó cũng nói sáu xúc xứ như sắc, v.v… Luận chép: “Lại các tâm sở” cho đến “y chỉ tâm” hỏi ngược lại. Nếu cho rằng, kinh nói bốn đại chẳng phải sắc, v.v… thì kinh cũng nên nói thức giới, tâm giới đều là phi hữu, cũng không nên nói, tâm sở chấp thọ là tâm vì khế kinh nói các pháp tâm sở thọ, tưởng, v.v… nương vào tâm. Nếu thọ, tưởng là tâm thì vì sao kinh lại nói pháp tâm sở nương vào tâm? Lại dẫn chứng: Luận chép: “Lại kinh cũng nói: Có tâm tham v.v…” là lại dẫn chứng. Đã nói, hữu tham là không thể nói tâm tức là tham được. Luận chép: “do đó như trước” cho đến “chẳng phải cực vi” là thứ hai giải thích chứa nhóm, v.v… lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Cho đến “pháp này gọi là chước” là giải thích. Trong văn có ba: Giải thích năng chước, sở chước. Hợp giải thích sở thiêu, năng xưng. Hợp giải thích năng thiêu, năng xưng. Đây là văn phần đầu, gồm có hai đoạn: Nói về năng chước, sở chước; Nói về câu phi đây là văn phần đầu. Đó là bốn ngoại giới, trừ thanh, hợp lại thành búa, củi, là năng chước, sở chước. Pháp gì gọi là chước? Vì búa và củi tách rời nhau thành hai phần, mỗi phần tự tiếp tục phát triển nên gọi là năng chước. Giải thích năm căn: Luận chép: Các sắc căn như thân v.v… cho đến “như ánh sáng của ngọc báu: là giải thích năm căn chẳng phải năng chước, sở chước. Vì tách rời chi thân thì không có căn không thành hai phần, chẳng phải sở chước, như ánh sáng hạt ngọc v.v… nên chẳng phải năng chước. Luận chép: “như năng chước” cho đến không nối tiếp là thứ hai hiệp thích về sở thiêu và năng xưng; nghóa là bốn giới bên ngoài là sở thiêu, năng xưng; Năm căn và thanh chẳng phải sở thiêu, năng xưng. Luận chép: “năng thiêu sở xưng” cho đến “sở thiêu chỉ có trọng”: Thứ tư là hợp thích năng thiêu và sở xưng. Đó là bốn giới hoặc hỏa đại là năng thiêu; xúc nặng là sở xưng. Luận chép: Đã nói như thế cho đến “Có mấy sát-na” là thứ mười bốn, nói về năm vấn đề. Trong văn có ba: Kết thúc phần dẫn. Nêu tụng đáp. Giải thích bài tụng. Đây là văn phần đầu “Tụng chép ” cho đến “sát-na chỉ có ba sau”: là nêu tụng để trả lời. “Luận chép” cho đến “không có tánh riêng” là giải thích bài tụng. Nói “Nội ngũ” là năm căn như mắt, tai v.v… có dị thục sinh và sở nuôi lớn; lại ngăn dứt lưu tánh đẳng cho nên không nói, chẳng có tánh riêng. Luận chép: “Nhân dị thục sở sinh” cho đến “cố tác nên nói như thế” là giải thích dị thục sinh. Trong văn có bốn, đó là: Giải thích do nhân dị thục sinh ra: nhân gọi là dị thục, quả gọi là dị thục sinh, thuộc về y chủ thích nghóa là do nhân dị thục sinh ra nên gọi là dị thục sinh. Lược bỏ hai chữ “nhân sở” chỉ gọi là dị thục sinh. Ý của ví dụ dễ hiểu. Ở đây chỉ giải thích lý do gọi quả là dị thục sinh, không nói lý do khiến gọi nhân là dị thục sinh. Giải thích lý do: Luận chép: “hoặc nghiệp đã gây ra” cho đến “gọi là dị thục sinh”: Đây là giải thích lý do, gọi là dị thục, thuộc về trì nghiệp thích. dị thục là nhân nên gọi là nhân dị thục, quả gọi là dị thục sinh, thuộc về y chủ thích. Luận chép: Quả mà kia đắc cho đến “nên gọi là dị thục” ở đây nói rằng, quả là vô ký; nhân là thiện ác. Quả và nhân khác loại nên gọi là dị thục. dị thục chính là sinh nên gọi là dị thục sinh, thuộc về trì nghiệp thích. Luận chép: “hoặc đối với nhân” cho đến “nghiệp mà xưa đã gây” đây là thứ tư thuộc về hữu tài thích. Nhân có quả dị thục nên gọi là nhân dị thục. Quả từ nhân dị thục đó mà sinh nên gọi là dị thục sinh thuộc về y chủ thích. Luận Chánh Lý có bốn giải thích: trong đó có ba giải thích giống với luận này, nhưng không có giải thích thứ ba của luận này là quả và nhân khác loại, đồng thời là sở thục nên gọi là dị thục. Thêm vào đó một giải thích rằng, lìa nhân mà thục nên gọi là dị thục và thể của dị thục phát sinh nên gọi là dị thục sinh. Giải thích rằng, sở dó có các giải thích lìa nhân mà thục, vì dị thục sinh gọi là lìa nhân; nghóa là nhân đã diệt mất trải qua thời gian lâu mới có dị thục, chính thục này gọi là quả. Luận chép: lìa nhân mà thục nên gọi là dị thục, thể sinh nên gọi là dị thục sinh, thuộc về trì nghiệp thích. Pháp sư Thái nói: nhân dị thục từ nhân dị thục sinh ra gọi là dị thục sinh. Như buộc xe vào trâu nên gọi là xe trâu. Lược bỏ hai chữ “nhân sở” ở giữa” nên chỉ nói dị thục sinh. Nói nhân dị thục là nói chung, ba nghóa dưới là riêng. Hai, hoặc nghiệp đã gây ra cho đến “đắc quả thời biến dị có sáu thành thục” nghóa là khi dị mà chưa thục gọi là dị thục, tức là quả từ dị thục đó sinh ra, chính là từ nhân đặt tên nên gọi là dị thục sinh. Ba, hoặc quả sở đắc là vô ký; nhân là thiện ác. Quả nhân khác loại mà là sở thục nên quả gọi là dị thục. Do theo tên của quả gọi là nhân dị thục. Quả từ dị thục sinh nên gọi là dị thục sinh. Bốn, là hoặc ngay nơi giả đặt tên quả nên nhân gọi là dị thục. Cũng như đối với quả giả đặt tên nhân. Ba, là theo quả mà đặt tên nhân nên gọi là dị thục. Bốn, là ngay nhân quả đặt tên quả mà nói nhân nên gọi là dị thục. Giải thích trước, là theo nhau mà có tên; giải thích sau giả lập nên có khác nhau. Nay nói, tương tùng, giả lập đều là Đa tài thích; chưa thấy có chỗ nào nói khác. Lại, chung riêng không giống nhau, tổng hợp đầu tiên hoặc ở sau rốt do đâu mà luận Chánh Lý nêu ra giải thích thứ hai. Có người nói về giải thích thứ nhất rằng: dị thục là dị ở nhân, thục ở quả; hoặc dị ở quả, thục ở nhân; hoặc dị ở cả nhân lẫn quả, thục ở quả; hoặc ở nhân, thục có cả ở nhân ở quả; dị hoặc ở nhân hoặc ở quả, hoặc dị thục ở nơi nhân; hoặc dị thục ở nơi quả; hoặc dị thục có cả nhân quả. Vấn đề phức tạp đến như vậy, nghóa chưa thành tựu được. Luận chép: Uống ăn giúp đỡ cho đến “phòng giúp nội thành” là giải thích nghóa nuôi lớn. Theo luận này thì có ba: Uống ăn. Ngủ nghỉ. Đẳng trì. Theo luận Tạp tâm thì có thêm phạm hạnh. Luận này không chấp nhận, bác bỏ rằng: đây là nhấn mạnh về vô tổn chứ chẳng nói về hữu ích. Cũng như ngoại quách giúp đỡ nội thành, dị thục thì có nuôi lớn, tự có nuôi lớn mà không có dị thục; như thiên nhãn của A-na-luật, nhục nhãn của A-na-luật đã mất trước. Y theo luận Chánh Lý chép: Có chỗ nuôi lớn, lìa dị thục sinh, như thiên nhãn, thiên nhó do tu mà được. Theo đây thì, thân ở cõi Dục mà tu chứng được thiên nhãn, thiên nhó v.v… đều chỉ là nuôi lớn. Lại giải thích: nhân nuôi mà lớn gọi là nuôi lớn; lớn của nuôi thuộc về y só thích. Hỏi đáp về dị thục: Hỏi: bên ngoài, là vật vô tình, vì sao không nuôi lớn, như cốc mạch chẳng hạn v.v… Đáp: Nuôi lớn là nói đối với dị thục . Nội có dị thục nói có nuôi lớn. Ngoại không có dị thục nên không nói nuôi lớn như thế ngăn dứt dị thục. Hỏi: nếu có dị thục thì nói nuôi lớn; tâm, tâm sở cũng có dị thục, vì sao không nói có nuôi lớn? Đáp: đối với sắc pháp có thể nói rằng, khiến ốm trở thành mập. tâm pháp là vô hình, làm sao nói nuôi lớn. Nếu nói theo nghóa riêng thì cũng có nuôi lớn. Nói về thanh: Luận chép: “thanh có đẳng lưu” cho đến “tùy dục chuyển” là giải thích về thanh. Thanh có cả hai thứ: do ăn uống v.v… nuôi lớn phát sinh nên có nuôi lớn; lìa nuôi lớn thì có đẳng lưu nên có biệt đẳng lưu. Sắc pháp dị thục, hễ khởi lên thì nối tiếp; thanh tùy dục sinh ra nên chẳng phải dị thục. Đó là pháp hữu vi nên chẳng thật. Từ nhân đồng loại sinh nên chẳng có sát-na. Luận chép: Nếu thế không nên cho đến “tướng phạm âm thanh” là ngoại đạo hỏi. Ý nói rằng, đã lìa bỏ lời thô ác, cảm được âm thanh Phạm, vì sao chẳng phải dị thục. Luận chép: “có thuyết nói âm thanh thuộc” cho đến “duyên kích phát thanh” là giải thích thứ nhất: rằng tuy do lìa nói lời thô ác, cảm được âm thanh Phạm , nhưng thanh chẳng phải dị thục mà thuộc truyền thứ ba. Luận chép: “Có thuyết nói thanh thuộc” cho đến “đây là sinh thanh” là giải thích thứ hai. Luận chép: “Nếu thế thân thọ” cho đến “liền trái Chánh Lý” có người nói: đó là luận chủ bác bỏ lập luận của Sư thứ nhất, vì không đúng. Luận Chánh Lý chép: Vì sao thanh giới chẳng phải dị thục sanh, vì thường hay đứt quãng rồi sinh trở lại. Sắc dị thục sinh không có việc ấy, chẳng tùy theo dục lạc mà sinh ra quả dị thục. Trong khi đó thanh lại tùy theo dị thục mà sinh nên chẳng phải dị thục. Chẳng lẽ không phải như luận Thi Thiết chép: do khéo tu tập, xa lìa lời thô ác mà cảm thanh khởi ở truyền thứ ba. Nghóa là, từ nghiệp sinh ra đại chủng, từ đại chủng do duyên kích phát sinh ra thanh. Nếu vậy thân, thọ, nhân nghiệp sinh ra đại chủng, rồi từ đại chủng phát sinh, lẽ ra chẳng phải dị thục mới đúng. Câu hỏi này không đúng, vì chẳng phải các thân thọ đều do đại chủng và do nghiệp sinh đại chủng mà phát ra, cũng chẳng phải tất cả đều là dị thục. Nhưng các thân thọ cũng chẳng phải nghiệp sanh ra đại chủng và phi đại chủng mà được sanh. Nghóa là thân thọ sinh khởi phải nhờ duyên thân giải, thân thức v.v… do đó cũng duyên với đại chủng bên ngoài mà khởi, chẳng cần đợi nghiệp chiêu cảm sinh ra đối với lý, không trái nên có cả dị thục. Nếu chấp nhận thanh giới là do dị thục sinh, như vậy thanh giới chỉ do đại chủng, chỉ do dị thục đại chủng mà sinh, thì không khỏi lỗi đã nói ở trước. Nếu nói thanh giới chẳng phải do dị thục sinh. Như vậy thanh giới chỉ do đại chủng, do có cả dị thục và phi dị thục đại chủng mà khởi, đối với lý không trái cũng không có lỗi như trước nói. Do vậy, phân biệt thanh giới nên như thế. Chẳng phải các thân thọ duy nội đại chủng là dị thục, nghóa là thân thọ chẳng phải lấy dị thục đại chủng làm nhân. Lại khác với kia nên có lỗi trái ý. Cho nên các ví dụ, lý không hoàn toàn như nhau. Nay nói về ý của luận Chánh Lý, các định của tâm dị thục, v.v… phải nương vào duyên mới sinh khởi được, mà đã duyên thì chẳng phải từ dị thục đại chủng sinh khởi. dị thục thân thọ nương theo dị thục, vì sao không phải là dị thục. Nếu duyên theo dị thục thì cũng không sinh khởi được, lẽ ra đều không có thân thọ dị thục. Còn nếu đã chấp nhận có thì phải nương vào duyên mà sinh khởi thân thọ. Thuyết của luận sư khác: Có các Luận sư khác nói: thanh chẳng phải dị thục thì làm sao từ dị thục đại chủng sinh ra được; do đó nên chấp nhận thanh thuộc truyền thứ tư hoặc truyền thứ năm. Phi dụ thục nghóa là từ nghiệp sinh dị thục đại chủng, từ dị thục đại chủng sinh ra nuôi lớn đại chủng; từ nuôi lớn đại chủng sinh ra đẳng lưu đại chủng; nuôi lớn đại chủng phát sinh đại chủng thanh; đẳng lưu đại chủng phát sinh đẳng lưu thanh, thuyết này phi lý. Vì như thế chẳng khác nào từ đại chủng vô ký phát khởi thanh thiện ác; từ hữu chấp thọ phát sinh vô chấp thọ; từ tự thân cảnh giới phát sinh nhó cảnh giới. Như vậy, nếu từ dị thục đại chủng phát sinh phi dị thục, thì đâu có gì trái. Cho nên thuyết ấy hoàn toàn phi lý. (Như trên là văn luận Chánh Lý). Có người bác bỏ sư Câu-xá rằng, nếu ông nói thân thọ từ đại chủng, phi đại chủng khởi thì có cả dị thục. Thanh chỉ từ đại chủng sinh nên không có dị thục. Vậy, sắc cũng từ đại chủng sinh nên lẽ ra cũng không có cả dị thục mới phải. Nếu ông nói thân thọ từ dị thục, nuôi lớn, đẳng lưu đại chủng sinh khởi thì có cả dị thục. Ông cũng chấp nhận thanh từ ba thứ này sinh ra, lý đáng cũng có cả dị thục. Nếu ông nói, thân thọ từ dị thục đại chủng sinh khởi; là cũng chẳng phải tất cả đều là dị thục, có cả thiện ác. Tôi cũng không nói tất cả thân thọ từ dị thục đại chủng sinh khởi đều là dị thục, có cả thiện ác. Nay trong đây bác bỏ luận cứ “thân thọ là dị thục”. Sinh ra từ đại chủng, do nghiệp sinh ra là hỏi. Nếu ông nói, thanh thuộc truyền thứ ba nên chẳng phải dị thục, nhưng truyền thứ ba này chẳng phải là định chứng, vì như dị thục thân thọ thuộc truyền thứ ba. Thanh là dị thục vì như thiện ác thọ thuộc truyền thứ ba. thanh chẳng phải dị thục tôi cho là bất định nêu lên lỗi của ông. Ông nói thân thọ bất định nên có cả dị thục há chẳng phải lời nói suông hay sao. Do vậy, biết rằng thanh chẳng thuộc truyền thứ ba. Sư đầu đã bác bỏ, Sư sau lại lập. Nêu rõ ý của lập luận dùng để bác bỏ này chưa được đúng mức. Lại luận Chánh Lý chống chế “truyền thứ ba” rằng chẳng khác nào từ vô ký đại chủng phát sinh thanh thiện ác. Từ hữu chấp thọ phát sinh vô chấp thọ; từ cảnh giới thân phát sinh cảnh giới nhó. Như vậy, nếu từ dị thục đại chủng phát sinh phi dị thục, có gì trái nhau. Như có chỗ bác bỏ Sư Câu-xá, đại chủng tạo sắc lý thật bất định; thanh được sinh ra từ dị thục đại chủng chẳng phải dị thục thì là gì? Nếu là nuôi lớn thì lẽ ra nên dụng nuôi lớn đại tạo; nếu là đẳng lưu thì lý nên dùng đẳng lưu đại tạo, vì sao dùng dị thục đại tạo. Nêu rõ, ý của giải thích kia thì chưa cùng tận lý. Ai nói dị thục đại chủng, tạo nuôi lớn thanh dùng để tạo nên lập luận để phá này. Các luận bác bỏ: Lại nói về ý luận, luận Chánh Lý bác bỏ Sư sau; Câu-xá bác bỏ cả hai. Chánh Lý đồng ý với Sư đầu nên đối với Sư đầu có hậu cứu. Câu-xá bác bỏ cả hai nên bác bỏ luôn cả Sư sau và câu hỏi về thân thọ chính là để bác bỏ cả Sư trước lẫn Sư sau. Câu-xá muốn chấp nhận thanh có cả dị thục nhưng ý luận Chánh Lý nói rằng: dị thục, nuôi lớn, đẳng lưu đại chủng đều phát sinh thanh cả, chẳng phải chỉ riêng dị thục. Đây là do duyên kích phát sinh thanh chẳng phải nghóa tạo. Các vị tôn đức, đa số dùng nghóa của Sư sau để giải thích kích phát sinh thanh cho là tạo. Điều này không phù hợp với ý luận. Nếu cho rằng, giải thích của Sư sau là đúng thì vì sao khiến dị thục đại chủng tương kích lẫn nhau phát sinh ra thanh. Điều này trái với điều nói trong Bà-sa quyển một trăm hai mươi bảy: lời bình rằng, nói chung thân này do tất cả chi thân đại chủng và biến thân đại chủng tạo ra nói theo khía cạnh đại chủng hầu và tề thì khắp thân đại chủng chẳng phải do tạo sắc, v.v… tức là các đại chủng khắp trong thân, tạo ra. Nói cách khác, ngoài biến thân đại chủng còn có một thứ đại chủng tạo ra thanh. Nếu cho rằng các tạo sắc, v.v… đại chủng tạo ra thanh thì phạm vào lỗi, một nhân sinh nhiều sắc. Như luận Bà-sa chép: Cho đến hiện thấy, toàn thân nhiễu động này y theo văn luận thì toàn thân nhiễu động vì sao dị thục và nuôi lớn lại không trạo động; nếu cũng trạo động vì sao kích phát lẫn nhau vẫn không phát sinh thanh mà phải có truyền sinh đẳng lưu đại chủng. Nói về thanh giới: Lại luận Bà-sa quyển chín mười chép: vì sao thanh giới thường sẳn có? Nên nói rằng: đại chủng hợp ly sinh ra thanh giới, mà hữu tình hoặc ở cõi Dục hoặc ở cõi Sắc vì đại chủng thường có nên thường phát ra thanh. Lời bình: người ấy không nên nói như vậy. Nếu bốn đại chủng thường phát ra thanh thì thanh được sinh ra này do đại chủng nào tạo ra. Nếu là đại chủng này tạo thì lẽ ra có nhiều hữu đối, chỉ có một sắc trong bốn đại chủng sinh thanh. Nếu nói các đại chủng khác tạo thì cả bốn đại chủng đều phải sinh thanh. Cứ xoay vần như vậy , có lỗi vô cùng. Nên nói rằng: trong thân hữu tình của chúng sinh cõi Dục, cõi Sắc có nhiều bốn đại chủng trong một thân kích phát qua lại phát sinh ra thanh, không có sự kích phát lẫn nhau thì thanh không khởi lên được. Chỉ trong một thân có thanh giới chứ chẳng phải các thân phần đều phát sinh thanh (như trên là văn luận). Y theo đây thì do đâu mà khi dị thục, nuôi lớn không kích phát lại phải cần đến truyền sinh đẳng lưu đại chủng. Và lại chứng tỏ rằng do duyên kích phát sinh thanh chứ chẳng phải nghóa tạo. Cho nên biết nghóa của Sư thứ hai, trái với nghóa đúng của Bà-sa. Do đó nên luận Chánh Lý bác bỏ mà không lập. Nghóa của Sư thứ nhất không trái với Bà-sa, nhưng ý của luận chủ không chấp nhận nên bác bỏ cả hai. Chỉ chấp nhận thanh do dị thục sinh. Lại các vị tôn đức thường nói: thanh thuộc truyền thứ ba, chứng tỏ rằng, dị thục đại chủng tạo ra nuôi lớn, đẳng lưu thanh. Điều này cũng phi lý. Nếu nghóa tạo gọi là thứ ba thì tạo các khác sắc dị thục v.v… cũng từ nghiệp sinh đại chủng, đại chủng tạo sắc, v.v… cũng là thứ ba lẽ ra chẳng phải dị thục. Lại, nếu dị thục đại chủng có công năng tạo thanh thì tạo thanh đại chủng này hoặc như các dị thục sắc khác nối tiếp nơi thân, tức là thanh thì không mà đại chủng thì có, là trái với Bà-sa quyển một trăm ba mươi hai: nếu thành tựu đại chủng hiện tại thì có thành tựu sắc sở tạo hiện tại hay không? Đáp: có, vì đại chủng hiện tại chẳng phải không có quả (như trên là văn luận). Nếu thanh không có mà đại chủng có thì đại chủng không có quả. nếu dị thục đại chủng này tùy theo thanh mà có hoặc không, thì giống như thanh đứt quãng, nên chẳng phải dị thục. Có người dẫn luận Chánh Lý quyển hai mươi nói, thành tựu tạo sắc, không thành tựu đại chủng; thành tựu đại chủng, không thành tựu sắc; chứng tỏ có một loại dị thục bốn đại ở thân, không tạo sắc, là sai. Đây chứng minh ngược lại: không có tạo thành dị thục đại chủng ở thân mà không có thanh sở tạo. Người kia lại dẫn tạo sắc vô biểu đại chủng để lập bốn trường hợp, không dẫn loại đại chủng này mà lập số câu. Hỏi đáp về tạo sắc: Hỏi: nếu thành tựu tạo đại chủng nghiệp vô biểu mà không thành tựu sắc vô biểu thì chẳng khác nào đại chủng hiện tại không có quả? Đáp: ở đây nói theo tạo sắc vô đối chứ không nói theo tạo sắc hữu đối. Nếu không như vậy thì trái lại tức với đại chủng hiện tại sẽ bị chướng ngại. Tạo sắc thì có nhân, bốn đại thì có quả, giống với thế gian, là nói theo tạo sắc hữu đối. Theo lý lẽ trên thì tất cả các thanh đều không phải dị thục đại chủng tạo. Nuôi lớn đại chủng tạo đẳng lưu đại chủng sắc. Định cộng giới do định nuôi lớn đại chủng tạo. Nuôi lớn bốn đại tạo nuôi lớn thanh. Đẳng lưu bốn đại tạo đẳng lưu thanh. Không có văn nào để chứng minh rằng, hai thứ tạo nên lẫn nhau. Tất cả nghiệp thanh đều là đẳng lưu, đẳng lưu đại chủng chẳng phải là các sở tạo khác. Giải thích tám hữu đẳng lưu dị thục: Luận chép: “Tám vô ngại” cho đến “chẳng phải sở chỗ nuôi lớn”: đây là giải thích tám hữu đẳng lưu dị thục sinh ra. Lời văn rất dễ hiểu. Pháp thành tựu do nhân đời trước là tánh dị thục. Ngoài ra thuộc về đẳng lưu. Vì các pháp vô ngại vốn không chứa nhóm nên không có chỗ nuôi lớn. Luận Chánh Lý chép: chẳng lẽ không phải trong đây cũng có nuôi lớn hay sao? nghóa là do năng lực của nhân đời trước dẫn sinh quả sau này, đồng thời cũng làm cho công năng chuyển mạnh rõ ràng. Khế kinh cũng nói các pháp Vô Sắc thêm lớn rộng lớn, lẽ ra nên có nuôi lớn. Tuy có những lời như thế mà chẳng phải nuôi lớn, tức nói đẳng lưu thêm lớn rộng khắp. Nếu năng lực của nhân đời trước dẫn sinh quả sau này khiến công năng của nó tăng thêm rõ ràng, đây là dựa vào tánh đẳng lưu mà nói rằng từ hai nhân đồng loại biến hành sinh ra. Các pháp hữu ngại do cực vi tạo thành, đồng thời có chứa nhóm nên gọi là nuôi lớn. Các pháp vô ngại không do cực vi tạo thành, không có nghóa chứa nhóm nên không gọi là nuôi lớn. Giải thích bốn giới: Sắc, hương, vị, xúc: Luận chép: là bốn thứ còn lại cho đến có tánh đẳng lưu là giải thích bốn giới sắc, hương,vị, xúc. Sắc là số hữu tình, do dị thục sinh và là chỗ nuôi lớn, đầy đủ ba tánh nghiệp, có cả tánh đẳng lưu. Ba hữu tìnhsố: hương, vị, xúc có dị thục, nuôi lớn, thuộc nghiệp vô ký, là tánh đẳng lưu. Tất cả năm cảnh bên ngoài đều là tánh đẳng lưu. Luận chép: “thật duy pháp giả” cho đến “độc danh hữu thật”, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: “ý pháp, ý thức” cho đến “gọi là pháp giới” là giải thích câu tụng “sát-na chỉ ba sau”. Ở đây nói “rốt ráo phi đẳng lưu” nghóa là các pháp vô lậu khác, khi khổ pháp nhẫn trí chưa hiện tiền thì không có nhân đồng loại; khổ pháp nhẫn trí hiện tiền thì có nhân đồng loại. Chỉ có khổ pháp nhẫn trí, trong mọi lúc không có nhân đồng loại cho nên nói rằng rốt ráo chẳng phải đẳng lưu. Luận Chánh Lý chép: ở sơ vô lậu, phẩm khổ pháp nhẫn chẳng phải đẳng lưu nên gọi là nhất sát-na. Nói chánh hiện hành cũng chẳng phải đẳng lưu, nghóa là các pháp hữu vi khác đều là đẳng lưu; chỉ có năm uẩn sát-na ở vô lậu, không cần nhân đồng loại mà vẫn sinh khởi. Các pháp hữu vi khác thì không như vậy. Vì duyên đẳng Vô gián thế lực rất mạnh nên nhân trước tuy thiếu nhưng nay vẫn sinh được. Duyên đẳng Vô gián thế lực mạnh, nghóa là cùng loại với phẩm Sơ Thánh đạo, được vô lượng pháp thiện nuôi lớn, ngang bằng với tánh sơ Thánh đạo. Vì vậy nên có thể tu tất cả các gia hạnh. Hỏi đáp về đẳng lưu: Hỏi: Từ nhân đồng loại sinh ra gọi là Đẳng lưu, nghóa là bậc Thánh lợi căn, độn vô lậu đạo hoàn toàn không có nhân đồng loại, thế thì trong năm pháp thuộc về pháp nào. Nếu nói đẳng lưu không có nhân đồng loại, hoặc nói sát-na chẳng phải sơ vô lậu, cũng không thể nói rằng năm loại đó gồm nhiếp không hết các pháp. Đáp: Năm loại gồm nhiếp hết các pháp, cho nên biết được, nên luận này nói, sơ vô lậu khổ pháp nhẫn phẩm chẳng phải đẳng lưu nên gọi là sát-na. Rốt ráo chẳng phải đẳng lưu tức các pháp hữu vi khác đều là đẳng lưu, cho nên biết, trừ sơ vô lậu, ngoài ra các hữu vi đều thuộc về đẳng lưu. Bậc Thánh Lợi căn, độn vô lậu đạo được xếp vào các hữu vi rồi thì rõ ràng biết là thuộc đẳng lưu, vậy pháp nào gọi là sát-na? Đáp: chỉ có một sát-na hiện trí gọi là sát-na, ngoài ra đều chẳng dùng bất định, nên luận Chánh Lý chép, chánh hiện hành cũng chẳng phải đẳng lưu, tức các pháp hữu vi đều là đẳng lưu. Hỏi: Bậc Thánh lợi căn, độn vô lậu dạo không bao giờ có nhân đồng loại, làm sao nói là tánh đẳng lưu? Đáp: khi chưa luyện căn thì dễ sinh khởi, vì dễ có nhân nên chẳng phải pháp sát-na. Hỏi: Ở giai vị phàm phu, chẳng lẽ không có tánh lợi căn hay sao? Đáp: tất cả chúng sinh theo tự nhiên, trong thân pháp nhó có sáu tánh, do gặp duyên khác nhau nên có tánh lợi, tánh độn. Trước khi gặp duyên, tánh lợi độn không chắc chắn. Các pháp chẳng phải vốn có tính lợi độn riêng trái nhau. Nói về môn thành tựu: Luận chép: “Đã nói dị thục sanh đẳng như thế” dưới đây gồm nửa bài tụng là thứ mười lăm, nói về môn thành tựu. Nay sẽ nói lược về sự chung riêng của hai từ đắc và thành tựu. Theo luận Bà-sa quyển một trăm sáu mươi hai chép: đắc chỉ cho lúc đầu; thành tựu chỉ cho cả lúc đầu và cuối. Theo ý luận này thì đắc của sơ niệm có cả hai thứ, gọi đắc cũng được, gọi thành tựu cũng được, đắc của niệm, sau chỉ gọi là Thành tựu, không thể gọi Đắc. Lại luận Chánh Lý quyển mười hai chép: tận trí lúc thành Phật còn không gọi là Đắc, huống gì là định diệt tận. Bởi khi các vị Bồ-tát nhập Tam-ma-địa Kim Cương Dụ gọi là đắc tận trí; khi thể của đắc phát sinh gọi là Đắc. Luận Bà-sa, trong văn nói về đắc, xả, đại ý cũng giống như vậy. Theo ý luận này thì lúc đầu không có thành tựu, chỉ có đắc rồi xả, sau mới có thành tựu, vốn chẳng phân biệt sanh hay không sanh của pháp sở đắc mà chỉ nói về đắc của sơ đắc tức lúc vừa đến tướng sanh gọi là Đắc; nếu đến hiện tại thì gọi là Thành tựu. Luận Bà-sa cho đắc ở Sơ niệm có hai tên gọi: “Đắc” và “thành tựu”. Đắc của niệm sau chỉ có một tên gọi là thành tựu. Bà-sa lấy nghóa đắc của sơ niệm có hai tên gọi, đắc của niệm sau chỉ có một tên gọi nên nói rằng đối với thành tựu lúc đầu có cả đầu cuối. Luận Chánh Lý khi nói về đắc thì cho rằng: chỉ có đắc cho đến tướng sanh. Luận này, nay trong môn Đắc cho rằng: trước không thành tựu, nay đắc, thành tựu, tức là nói về sơ niệm đắc. Lúc đối với tướng sanh gọi là Đắc, lúc đến hiện tại gọi là Thành tựu; hợp cả hai nghóa mà nói “nay đắc, thành tựu”. Các vị Sư xưa nói: thành tựu có cả mới và cũ; đắc chỉ y theo tân luận. Bất thành có cả mới và cũ. Xả chỉ y theo tân luận. Ở đây đồng với Bà-sa rằng, đắc chỉ có ở lúc đầu. Thành tựu có cả trước và sau. Khi xả gọi là Bất thành, khi đắc gọi là Thành. Nên đổi một chữ, còn lại nghóa không thay đổi. Nên nói xả thể gọi là bất thành; đắc thể gọi là thành tựu. Thời gian tuy khác nhau nhau nhưng thể chỉ là một. Nếu nói về dụng thì thời gian của Đắc chẳng phải thời gian của thành tựu; thời gian của thành tựu chẳng phải thời gian của đắc. Thời gian của tướng sanh không giống thời gian hiện tại. Có người nói, hỏi: Đắc và Thành tựu có gì khác nhau, xả và bất thành tựu có gì khác nhau? Giải thích: nếu lúc pháp nhó cho đến tướng sanh thì gọi là Đắc, nếu chuyển đến hiện tại mới gọi là Thành tựu. Lúc đắc không gọi là Thành tựu; lúc thành tựu không gọi là Đắc. Cho nên luận Chánh Lý quyển mười hai chép: Chẳng phải khi thể của Đắc sinh ra mới gọi là đắc hay sao? Luận Chánh Lý nói: Khi thể của đắc sanh ra gọi là Đắc, nên biết rằng, đến khi pháp sanh gọi là đắc, chuyển đến hiện tại thì gọi Thành tựu. Nếu y theo giải thích này thì không hiểu được ý luận. Luận đã tự nói khi thể của đắc sanh thì gọi là Đắc. Thế thì y theo đâu mà nói càn. Đến khi pháp sanh. Nếu nói rằng, pháp phải đợi đến lúc tướng sanh mới gọi là Đắc thì bên ba thứ trí, đắc trí thế tục, pháp này đâu phải đến tướng sanh đâu. Lúc trụ pháp thế thứ nhất đối với căn vô lậu chẳng phải xả mà đắc, chẳng phải diệt mà khởi. Lúc này nói sở đắc các căn vô lậu, lúc kia nói năng khởi ư? Các pháp không khởi đều chẳng thể gọi là đắc ư? làm sao chỉ nói pháp đến khi sanh mới gọi là Đắc. Lại, thời gian của Đắc thật không được gọi là thành tựu tức là chấp cái đương danh ấy cũng được gọi là Thành tựu. Luận này trong môn Đắc, hoặc có nhãn giới trước không thành tựu, nay đắc thành tựu. Phi nhãn thức nghóa là sanh ở cõi Dục dần dần đắc mắt, nên biết khi đắc thì chấp đương danh ấy cũng được gọi là Thành tựu nhãn. Xả, bất thành tựu, y theo trên mà giải thích. Những điều nói ở trên đều là nghóa riêng. Nếu y theo tên chung thì tất cả đắc đều được gọi là Thành tựu; tất cả thành tựu cũng đều được gọi là Đắc. Nếu nói về thời gian thì thời gian của Thành tựu cũng đều được gọi là Đắc; nhưng khi đắc thì không gọi là Thành tựu, vì trước chuyển đến hiện tại. Nếu Đắc ngay lúc tướng sanh thì chỉ gọi Đắc không gọi là Thành tựu, không thể ở vào thời gian của thế thứ nhất mà thành tựu Thánh pháp. Lại, nếu thế thì có một thời vừa là Thánh vừa là phàm, tức là sai lầm. Nên suy nghó lại. Hai thứ thần thông: Hỏi: theo văn dưới thì “hai thông biến hóa” có đắc ba đời, vì sao trong đây sanh lên ba cõi thiền trên nhãn thức không còn hiện khởi được, tức là không thành tựu? Đáp: Pháp sư Thái dẫn Ba Tạng giải thích rằng: Hai thông ở Sơ thiền, sơ thiền nương địa mà phát sinh thần thông ở địa đó, cho nên ba đời thành tựu. Như khéo tu tập oai nghi, công xảo ở tự địa thì có đắc ba đời. Văn dưới nói: Hai thông ba đời đắc là nói theo Sơ thiền, nghóa là trong đây y theo thân sanh ở cõi trên, phát khởi hai thứ thần thông ở cõi dưới. Chỉ có pháp mới câu đắc. Như Phiếm Tá Thức có nói. Hỏi: sanh ở ba định trên phát khởi hai thứ thần thông mắt, tai ở dưới, là thuộc vô ký nào. Giải thích: luận Tạp tâm luận chủ , do Đạt-ma-đa-la soạn, trong luận Đối pháp Tạng nói: hai thứ thần thông thiên nhãn, thiên nhó thuộc về oai nghi vô ký. Công xảo chỉ ở cõi Dục, không có ở cõi trên. Dị thục chẳng phải do dị địa khởi; biến hóa chỉ có ý. Đã chẳng phải ba thứ này thì biết rằng, hai thông chắc chắn thuộc về oai nghi. Có người bác bỏ rằng: giải thích này không đúng, vừa trái giáo vừa trái lý. Như luận ở dưới nói: tâm oai nghi ở cõi Sắc, trong hai mươi tâm, từ năm tâm mà sinh ra. Nghóa là năm tâm ở tự giới, trừ tâm thông quả. Điểm này không thành chứng; vì trong hai mươi tâm nói oai nghi, công xảo, thông quả chỉ là ý thức. Oai nghi, công xảo, gia hạnh cũng có cả bốn thứcc, năm thức. Nhưng chỉ nói về tướng sanh, không nói về gia hạnh, vì nó chẳng phải chánh duyên của tâm oai nghi, công xảo. Như nói sắc là thể tánh của bảy nghiệp đạo, Bảy gia hạnh này cũng chung với phi sắc; ở đây nói về bảy nghiệp đạo không nói về phí sắc. Ở đây cũng vậy, bốn thức này tuy là gia hạnh, nhưng chỉ nói về sanh nhau không nói về gia hạnh. Trong khi Bà-sa nói bốn thức, năm thức có oai nghi, công xảo; ở đây y theo các gia hạnh oai nghi công xảo nói là oai nghi, công xảo như gia hạnh cũng gọi là sát sanh. tâm Thông quả chỉ có ý thức, không có năm thức. Quảng tâm này chép: vô phú vô ký ở cõi Dục chỉ là bốn tâm, cho đến ba tâm vô phú, oai nghi, lộ v.v… nghóa là sắc hương vị xúc là cảnh sở duyên, và công xảo v.v… cũng duyên với thanh, ba tâm như vậy chỉ là ý thức. Đã nói rằng “chỉ là ý thức”, cho nên biết chắc chắn là ngăn dứt năm thức. Bà-sa cũng đồng nên xem xét lại. Đã nói công xảo xứ cũng duyên với thanh tức biết rằng oai nghi không duyên với thanh; oai nghi lộ, công xảo xứ, gia hạnh cũng có cả bốn thức, năm thức nên biết rằng bốn thức là oai nghi gia hạnh. Năm thức là công xảo gia hạnh, bốn thức, năm thức không có căn bổn. Thuyết khác: Có Sư khác nói: oai nghi lộ và công xảo xứ được ý thức dẫn dắt nên có cả mười hai xứ. Sư này cũng nói là “chỉ có ý thức” nên biết rằng, trong Quảng tâm có chép: Tướng oai nghi tâm sanh tức là ý thức tâm oai nghi. Luật sư luận Tạp tâm nói: Hai thông là tâm oai nghi tức loại gia hạnh cũng gọi là oai nghi. Đem hành tướng của ý thức sanh mà gạn hỏi năm thức gia hạnh oai nghi là không có tương quan gì. Nhưng trong Quảng tâm, cho rằng thì công xảo, oai nghi gia hạnh có cả bốn thứcc, năm thức; tâm thông quả chỉ có ý thức chứ không do một luận khác. Thế thì do đâu mà bác bỏ nghóa của Luận sư Tạp tâm. Vì muốn bác bỏ nên tìm một lý lẽ nào đó, lý lẽ đó là Tạp tâm dùng bốn thức oai nghi gia hạnh mà nói là oai. Vậy nhó thức chẳng phải là oai nghi gia hạnh thì vì sao thiên nhó thông lại gọi là gia hạnh oai nghi. Lại, oai nghi ý thức không duyên với thanh thì làm sao nhó thức là gia hạnh. Nếu nói tợ oai nghi tâm duyên chung với mười hai cảnh xứ thì cũng không đúng. Vì văn luận chỉ nói ở ý địa mà thôi. Y theo lý này thì cách mà Tạp tâm lập ra không hợp lý. Nên nói rằng: bổn tâm vô ký không nhiếp hết các tâm. Các thứ nương vào thức không thuộc về bốn tâm vô ký đó. Nhó thức không thuộc về oai nghi. Ở cõi trên không có công xảo, biến hóa, chỉ có ở ý thức. Trong câu tụng thứ hai nói, độc đắc là chỉ cho hai câu một và hai. Câu đắc là chỉ cho câu, câu đắc thứ ba. Phi là chỉ cho câu câu phi thứ tư. Đẳng là chỉ cho môn thành tựu. Trong văn xuôi có hai: trước nói về đắc môn, sau giải thích môn thành tựu. Trong môn đắc có khi, đem nhãn đối với thức tạo thành bốn trường hợp. Đem mũi, lưỡi đối với hương vị cũng tạo thành bốn trường hợp. Đem thức đối với hương vị cũng có bốn trường hợp. Đem thân đối với thức tạo thành bốn trường hợp. Đem thân đối với thức cũng có bốn trường hợp. Đem xúc đối với thức tạo thành bốn trường hợp. Trong môn thành tựu y theo giải thích. Nhưng, nếu thành tựu nhãn thì phải thành tựu sắc, tự có thành tựu sắc thì không thành tựu nhãn. Văn còn lại rất dễ hiểu. Môn nội ngoại: Luận chép: Đã nói như thế cho đến “bao nhiêu nội, bao nhiêu ngoại” dưới đây, có nửa bài tụng, là thứ mười sáu, nói về môn nội ngoại. “Luận chép” cho đến sáu cảnh như sắc, v.v… là văn xuôi giải thích bài tụng. Trong đó có hai: một là giải thích chung về nhóm. Hai là giải thích riêng từng phần nội ngoại. Phần một: Luận chép: ngã nương danh nội ngoại là những thứ còn lại: Dưới đây là giải thích riêng về nội, ngoại. Trong đây có hai: một là giải thích nội, ngoại. Hai là phân biệt hỏi đáp, đây là Phần một: Luận chép: “ngã đã không có tự thể” cho đến “giả nói tâm là ngã” là phần hỏi đáp phân biệt ở sau. Luận chép: Cho nên khế kinh nói cho đến “giả nói là ngã” đoạn này dẫn hai văn để chứng minh tâm là ngã, lời văn rất dễ hiểu. Lý do gọi sáu thức là nội: Luận chép: Nhãn v.v… là đây cho đến “nên nói là ngoại” là giải thích về nội, ngoại xong. Luận chép: Nếu thế cho đến chẳng phải chỗ nương của tâm là phần hỏi đáp, trình bày lý do gọi sáu thức là nội. Đây là hỏi. Luận chép: “khi đến ý vị” cho đến đều có ở cả ba đời: Là đáp. Trong đây có hai, phần đầu là thuận đáp, phần sau là phản thích, đây là phần đầu. Luận chép: “Lại nếu vị lai” cho đến không đổi khác là thứ hai giải thích trái nhau, văn rất dễ hiểu Luận Chánh Lý chép: Nếu vậy vì sao mà nói tâm là ngã, đó là thường hiện hành một cách tự tại ở tự cảnh. Ngã thường hiện hành tự tại ở tự cảnh và tâm cũng chưa hề có lúc không hiện hành tự tại ở tự cảnh, cho nên tất cả các tâm đều gọi là ngã. Nhưng, các tâm sở không được gọi là Ngã. Ý là hàng đầu cho nên kinh nói là độc hành. Ý cần nương vào cảnh của tâm năng hành, như tâm sở cũng là điều phục nhưng chỉ đứng về khía cạnh nổi bật mà nói là điều phục tâm. Nói ngã cũng vậy, cho nên chỉ có tâm không có tâm sở. Nếu pháp nào đó tương tợ với tâm của ngã mà không có ích lợi chung thì gọi đó là Nội. Các pháp trái với tâm gọi là Ngoại. Cho nên các tâm sở không thành lỗi nội. Lại, các tâm sở tuy cùng với tâm vương, một khi sanh trụ v.v… thì tâm đối với tâm gọi riêng là nội. “Phi tâm sở”: Các thứ tâm đồng khác xoay vần hướng về nhau làm tánh sở y đều không xả; còn các pháp tâm sở, dị loại đối với tâm chắc chắn lìa bỏ tánh năng y. Nghóa là, như tâm thiện hướng về thiện nhiễm ô và tâm vô ký là tánh sở y thì không thể lìa bỏ. Tâm nhiễm ô vô ký cũng vậy, như tâm sở thiện hướng về tâm nhiễm ô và vô ký lìa bỏ tánh năng y, nhiễm ô vô ký hướng về các tâm cũng vậy. Cho nên tâm hướng về tâm làm tánh sở y, không bị xen hỡ nhau gọi là nội. tâm sở hướng về tâm vương là tánh năng y, có sự ngăn cách nên không thể gọi là Nội. Lại, các tâm sở hướng về tâm đồng loại làm tánh năng y, hoặc nhiều hoặc ít. Tâm là sở y thì không như vậy. Do đó, chữ nội là tâm chứ không phải tâm sở. Nếu vậy, thì đại pháp nên gọi là nội; nếu không như vậy thì các đồng loại riêng của tâm sở bị hoại mất. Pháp bất đọa: “Như trong dị sanh không đọa pháp”, pháp bất đọa nghóa là không rơi vào ba đường dữ; tuy đến nhẫn vị, không rơi vào ba đường ác, vì trong các loại dị sanh phần nhiều còn đọa vào đường ác. Kinh nói Dự lưu gọi là bất đọa đường ác. Luận Chánh Lý phá sở y của ngã chấp nên nói tâm là ngã, rằng: Lại, Một phần của tâm là chỗ nương của ngã chấp. Tất cả chỗ nương của tâm đều gọi là Nội, do đó không nên giải thích như vậy. tâm là chỗ nương của ngã chấp nên tạm gọi tâm là ngã v.v… lại, một phần chỗ nương của tâm là tham, sân, v.v… lẽ đáng tất cả tâm đều thành nhiễm ô. Lại, một phần của tâm là chỗ nương của tâm từ nên lẽ ra tất cả tâm đều thành hữu tầm, hữu từ. Ở đây, không phải như vậy, nơi kia làm sao như vậy được. Do nhân duyên khác nhau nên không thể được. Thuật rằng: Ngã chấp là chấp kiến. Y có hai nghóa: một là tương ưng, nghóa là tâm tương ưng với chấp thân gọi là chỗ nương của ngã chấp. Các tâm tương ưng khác chẳng phải chỗ nương của ngã chấp tức là tâm chung với phi ngã chấp y. Hai là sở duyên của ngã chấp gọi là chỗ nương của ngã chấp tức là sở duyên của ngã chấp chung với năm thủ uẩn, không chung với lậu uẩn, cho nên bốn uẩn như sắc, thọ v.v… cũng gọi là ngã, chỗ nương của ngã. Tâm vô lậu không gọi là nội, vì chẳng phải chỗ nương của ngã. tâm vô lậu chẳng phải chỗ nương của ngã chấp thì không thể gọi là căn sở y của ngã, đã không phải căn sở y của ngã thì không gọi là Nội. Trên đây là dẫn tương ưng y của văn Chánh Lý để bác bỏ tông thuyết cho rằng tất cả là ngã, sở y của ngã chấp chỉ là một phần. Luận Chánh Lý lại chép: Lại làm sao ngăn dứt được các tâm sở, v.v… y tánh của ngã chấp dùng chấp thân duyên với năm thủ uẩn làm cảnh giới. Thuật rằng: đoạn này nhằm bác bỏ sở duyên thư hai, gọi là sở y, đây là sở y của ngã chấp, có cả dị phẩm, chẳng phải định nhân, vì bốn uẩn như sắc, thọ v.v… cũng là chỗ nương của ngã chấp. Giải thích sở y của ngã chấp: Có người giải thích sở y của ngã chấp có ba: Một giải thích là tương ưng y. Hai là cảnh giới y, như Chánh Lý bác bỏ giải thích thứ ba rằng: Ngã chấp có hai: một là mê chấp tức là chấp kiến chỉ duyên với hữu lậu. Hai giải thích là thủ chấp tức là tất cả tâm đối với cảnh chấp lấy cảnh trước một cách tự nhiên gọi là ngã chấp. Sở duyên của hai chấp này có cả các pháp, nhưng với tâm, năng lực mạnh hơn nên gọi là y chỉ của tâm mà thôi, do đó, tâm này giả nói là ngã. Giải thích này cho rằng y chỉ biến thông khắp các tâm là nói về sở duyên y, chẳng phải tương ưng y, tự thể y giải thích này lại giống với giải thích trước, có lỗi bất định. Có người lại nói: Luận Chánh Lý giải thích tâm là ngã thường hiện hành một cách tự tại ở nơi tự cảnh, như sư Câu-xá bác bỏ rằng, chẳng khác gì với giải thích thứ ba ở trước của ta. Nay nói giải thích thứ ba trước đó và giải thích của sư Chánh Lý, Ý nghóa hoàn toàn khác nhau, làm sao giống nhau được. Giải thích thứ ba ở trước nói rằng: một là mê chấp, hai là thủ chấp. Nghóa là tất cả tâm chấp lấy các cảnh một cách tự tại đều gọi là ngã chấp. Sở duyên của hai chấp này tuy chung cho các pháp, nhưng với tâm, lực mạnh hơn nên gọi chung là y chỉ. Do vậy, tâm này giả nói là ngã; đây là nói cảnh giới ngã chấp của tâm là chỗ nương cho nên giả gọi là ngã. Chánh Lý nói tâm thường hiện hành ở tự cảnh một cách tự tại, gọi là ngã; đây chính là tự thể, chẳng phải sở duyên. Nghóa sở duyên và tự thể cách xa nhau, làm sao đồng được. Nếu muốn làm Sư Câu-xá chống chế thì nên nói thế này: giải thích y của tôi với tông nghóa Bà-sa của ông; giải thích của ông trái với nghóa tự tông, thế nào là đúng. Nói về thành lập nội ngoại: Luận Bà-sa quyển bảy mươi bốn chép, hỏi: thành lập nội ngoại như thế nào, dựa vào các pháp hay dựa vào ngã? Đáp: có một thuyết nói rằng, chỉ dựa vào pháp mà lập, nhưng chẳng phải tất cả, nghóa là nội sáu thức thân, là chỗ nương tựa của các pháp nhiễm tịnh. Nếu là sở y cho sáu thức thì gọi là nội xứ; nếu làm sở duyên thì gọi là ngoại xứ. Cho nên kết luận rằng, dựa vào pháp mà đặt tên xứ nội ngoại. Lại, nếu pháp đó là căn thì lập làm nội xứ, nếu pháp đó là nghóa căn thì lập làm ngoại xứ. Lại, nếu pháp đó là hữu cảnh thì lập làm nội xứ, nếu pháp đó là cảnh thì lập làm ngoại xứ. Có thuyết nói, dựa vào nội ngoại xứ do ngã lập. Thì Ngã tức là tâm, là chỗ nương tựa của ngã chấp. Đối với tâm này giả đặt tên là ngã, dẫn văn tụng để chứng minh, giống như ở đây, cho đến lại nói nhưng tên gọi nội ngoại đó chẳng phải viên thành thật, nghóa là đối với ta là nội, đối với người là ngoại. Đối với ta là ngoại, đối với người là nội; như vậy, nếu chỉ dựa vào một bên để đặt tên nội ngoại thì rõ ràng không dứt khoát. Theo Bà-sa có bốn giải thích thì luận này hợp với giải thích thứ tư. Chánh Lý làm sao bác bỏ nghóa của tự tông. Lại theo cách đặt tên của thế tưởng là dựa vào một phần để lập, làm gì mà vặn hỏi. Luận chép: “Đã nói nội ngoại” cho đến “có bao nhiêu đồng phần kia”: Dưới đây, có nửa bài tụng là phần nói về đồng phần và đồng phần kia. “Luận chép” cho đến “thường gọi là đồng phần”: Trong văn xuôi có ba: một là nói pháp giới chỉ có đồng phần. Hai là nói mười bảy giới có cả hai thứ. Ba là nói về nghóa đồng phần, v.v… đây là phần đầu “pháp đồng phần là nhắc lại văn tụng”, “chỉ có một mình pháp giới là đồng phần” là phần giải thích ý bài tụng. Giải thích cảnh đồng phần: Nói nếu cảnh và thức cho đến “gọi là đồng phần” là giải thích nghóa cảnh đồng phần. “Nếu cảnh” nghóa là để phân biệt với sở duyên của sáu căn, sáu thức đối với năm cảnh bên ngoài. Năm cảnh tuy là sở duyên nhưng chỉ là sở duyên của năm thức, chứ không phải sở duyên của ý thức. Pháp giới là sở duyên của ý thức, không phải sở duyên của năm thức, cho nên luận Chánh Lý chép: Lại như pháp giới làm định sở duyên của ý thức tức là không chung. Y theo đó nên biết năm cảnh là côïng, chẳng phải sở duyên của định. Tuy pháp giới hướng về năm tức là sở duyên của định nhưng năm thức lại không làm năng duyên cho nó được. Ý thức đã đang và sẽ sinh ý thức vô biên nên gọi là đồng phần. Ngoài ra, mười bảy giới còn lại, tuy đã, đang và sẽ sanh vô biên ý thức nhưng vẫn không gọi là đồng phần. “Đã sanh” tức là quá khứ và hiện tại, Sanh pháp là vị lai chánh sanh và đương sanh. “Nói không có một pháp giới” cho đến “vô biên ý thức” là giải thích chỉ có đồng phần. Nói “do các bậc Thánh” cho đến “thường gọi là đồng phần giả”, đoạn này chỉ về sự để giải thích, lời văn rất dễ hiểu. Nói về mười bảy giới: Luận chép: “Hai thứ còn lại cho đến nên nói tự dụng”: Đây là thứ hai, nói về mười bảy giới có cả đồng phần và đồng phần kia. Hai thứ còn lại là nhắc lại văn tụng. Ngoài ra, mười bảy giới đều có đông phần và đồng phần kia, là giải thích ý bài tụng. Thế nào gọi là đồng phần và đồng phần kia: Là hỏi. Ý nói, trong mười bảy giới, giới nào là đồng phần, giới nào là đồng phần kia? “Nghóa là tác tự nghiệp, bất tác tự nghiệp” là dẫn tụng để đáp. Nếu tác tự nghiệp cho đến gọi là đồng phần kia là phần giải thích ý bài tụng. Trong đây nhãn giới cho đến nên nói tự dưng trở xuống là giải thích đồng phần. Luận chép: “Nước Ca-thấp di-la” cho đến nên biết cũng thế: Là giải thích đồng phần kia. Sư phương tây là các Sư thuộc nước Kiền-đà, các sư Tát-bà-đa giải thích là nghóa đúng không chấp nhận có thức không hiệp với căn. Đồng phần nhãn có ba: đó là đã sanh, đang sanh và sẽ sanh. Điểm này không có thuyết khác. Đồng phần nhãn kia có hai thuyết không giống nhau. Các Sư Bà-sa nói có bốn thứ. Các Sư phương Tây nói có năm thứ, lời văn rất dễ hiểu. Trên đây là văn giải thích đồng phần và đồng phần kia của năm căn. Luận chép: “ý của bỉ đồng phần kia chỉ có pháp bất sanh” là giải thích ý căn. Ý đồng phần có ba: đã, đang và sẽ sanh ý. Đồng phần kia có một đó là pháp bất sanh, thức khởi thì gá vào duyên ở cảnh; duyên vào cảnh thì có tự dụng cho nên chỉ pháp bất sanh là đồng phần kia, ý này cũng không có thuyết khác. Hỏi đáp về đồng phần: Hỏi: ý năng duyên với mười bảy giới đều gọi là đồng phần; mười bảy giới là sở duyên của ý lẽ ra cũng gọi là đồng phần mới phải? Đáp: năm căn, năm thức, đối với tự cảnh mới gọi là đồng phần, không y theo làm nghóa cảnh nên tuy bị ý thức duyên cũng không phải đồng phần. Hỏi: năm căn, năm thức đối với tự cảnh tuy bị ý thức duyên nhưng chẳng phải đồng phần đã đành, còn năm cảnh đối với năng duyên ý thì khi duyên phải gọi là đồng phần chứ? Đáp: Năm cảnh đối với tự căn, tự thức gọi là đồng phần, không phải đối với ý thức mà gọi là đồng phần. Hỏi: Ý chẳng phải năm tự thức bị duyên nên chẳng phải đồng phần là đúng, còn năm thức chẳng phải tự cảnh của ý, chẳng phải là sở duyên của ý, sao chẳng phải là đồng phần? Đáp: Tác dụng của năm cảnh có ba: đó là tự căn, tự thức và ý thức. Các thức khác tuy duyên nhưng chẳng phải đồng phần. Duyên với năm thức và ý thức trong một tác dụng mới gọi là đồng phần. Luận Bà- sa quyển một trăm bảy mươi mốt chép: hỏi: ngoài pháp giới còn mười bảy giới cũng là cảnh bị ý thức phân biệt lẽ ra phải đều là đồng phần, không thể là đồng phần kia nhưng vì sao lại nói là đồng phần kia. Đáp: Mười bảy giới, khác không dựa vào ý thức lập thành đồng phần; và đồng phần kia chỉ dựa vào từng căn cảnh đối nhau; nghóa là nhãn đối với sắc, sắc đối với nhãn, cho đến thân đối với xúc, xúc đối với thân. Hỏi: Nếu vậy, ý giới và ý thức giới chỉ nên đối với pháp giới để lập đồng phần, đồng phần kia, tức đó là duyên với mười bảy giới lẽ ra không phải là đồng phần? Đáp: Lẽ ra như vậy. Nhưng, ý giới và ý thức giới đều biết rõ tất cả các pháp, dựa vào tác dụng của chính nó mà lập đồng phần, như các mắt nhó căn v.v… có các tác dụng đồng phân thấy, nghe v.v… nên không thể lập làm đồng phần kia được. Luận chép: “Cõi Sắc” cho đến “nên nói tự dụng”: ở trên, nói căn đồng phần, đồng phần kia. Từ đây xuống, là nói đồng phần, đồng phần kia của năm cảnh. Trong phần này có hai: một là nói về năm cảnh. Hai là đối căn nói về sự sai khác. Đây là phần đầu, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: “Nên biết đồng phần” cho đến “nên như sắc nói” là thứ hai, đối với căn mà nói sự khác nhau. Đồng phần có hai: Đồng phần có hai: nghóa là các pháp không thể cùng chung tác dụng. Nếu nói tác dụng gọi là đồng phần thì đối với bất tác dụng cũng được gọi là đồng phần, đồng phần kia cũng vậy. Hai là các pháp có chung tác dụng mỗi thứ đều đối với tác dụng mà gọi là đồng phần. Đối với bất tác dụng không thể gọi là Đồng phần. Đồng phần kia cũng vậy, “nên biết đồng phần… cho đến ý giới cũng vậy”, đây là phần đầu bất công dụng, “sắc thì không như vậy cho đến sắc vỗ nhau, v.v… đây là thọ chung dụng thứ hai. Luận Chánh Lý chép: cũng có cõi Sắc đối với tất cả chúng sanh không gọi là đồng phần; như sắc trong Diệu Cao, nói “Nhãn thì không có việc ấy cho đến lập ra đồng phần, và đồng phần kia”: là giải thích lý do vì sao có tên chung và không chung. “Như nói sắc, thanh, hương, vị, xúc, nên biết cũng vậy”: Là giải thích bốn cảnh thanh, hương v.v… “thanh có thể như sắc, cho đến nhưng không nên nói như sắc”: Đây là vặn hỏi của người ngoài. Rằng, thanh được biết qua sự ngăn cách, có thể nói như sắc. Ba cảnh hương vị xúc được biết khi hợp nhau. Một là thủ, còn lại là không thủ, làm sao nói là cộng được. “Tuy có lý đó, cho đến nên nói đúng như sắc”, đây là phần thông giải vặn hỏi. Rằng, tuy ba cảnh này hợp với căn này, căn kia hợp với trước có thể cùng thọ dụng, nghóa là hoặc hợp với căn kia đây không chắc chắn, nên giống như sắc mà nói. Nhãn không như vậy nên không nói như sắc được. Luận Chánh Lý chép: Vì sao nói nhãn đồng phần và đồng phần kia khác với sắc? Đáp: nhiều hữu tình cùng thấy một sắc nhưng không có dài hợp hai hữu tình dùng một mắt chung để nhìn. Thanh thì nói như sắc. Đó là cộng cảnh, ba cảnh hương, vị, xúc nói theo nội giới thì chẳng phải cộng cảnh. Nhưng các thế gian dựa vào giả danh tướng nói rằng: chúng ta cùng ngửi mùi hương này, cùng nếm vị này, cùng biết xúc này. Theo văn Chánh Lý thì ba cảnh nên nói như mắt. Theo luận này, ba cảnh nên nói như sắc, cả hai luận đều dựa vào một thuyết của Bà-sa nhưng ý lại khác nhau. Luận này cho rằng, hương ở vị lai có thể dễ sanh ở hai tỷ căn, do tính bất định nên nói như sắc. Luận Chánh Lý chép: y theo việc ngửi mùi là không thể cùng ngửi, cho nên nói giống như mắt. Nay nói rõ thêm về hai thuyết đó: sở dó biết được cảnh giới của tỷ căn, tỷ thức giống nhau vì tất cả chúng sanh, hễ tỷ thức đối với các hương, thì có ba pháp chắc chắn: Tức cảnh này hương là cộng duyên, thức đã là cộng cho nên biết căn cũng là cộng. Nhãn thì không như vậy. Chỉ có tự thức hướng vềmắt mà có ba pháp chắc chắn. Các thức khác hướng về nhãn hoàn toàn không có nghóa y, thế nào gọi là đồng hương, như thế nào mà nói ba cảnh như mắt. Ba cảnh tuy không hoàn toàn giống với sắc nhưng lại có có cảnh, nghóa đó là chắc chắn. Luận chép: Sáu thức như mắt thức cho đến “như ý giới nói” đây là do sáu thức xoay vần làm ý; như giải thích về ý giới, sáu thức cũng vậy. Đồng phần: Luận chép: “Thế nào là đồng phần” cho đến “gọi là đồng phần kia” là giải thích đồng phần và đồng phần kia. Nói: ba pháp căn, cảnh, thức xen lẫn qua lại nên gọi là phần. Luận Chánh Lý chép: phần nghóa là xen lẫn cùng một loại phần nên gọi là đồng phần. Thế nào gọi là xen lẫn? Nghóa là ba pháp căn, cảnh, thức xen nhau qua lại thì có nghóa thuận theo xoay vần lẫn nhau. Nói: “hoặc phần” nghóa là tác dụng của tự mình. Luận Chánh Lý chép: “hoặc phần là tác dụng của chính mình có sự xen nhau qua lại. Chữ ngôn nói trước đó nghóa là như tác tự nghiệp gọi là đồng phần. Nói: “hoặc lại phần” nghóa là xúc sở sanh. Luận Chánh Lý chép: hoặc phần nghóa là sở sanh, dựa vào căn, cảnh, thức, xen lẫn mà sanh khởi. Nói: cũng có chung một phần nên gọi đồng phần, là giải thích chữ Đồng, đồng thời kết luận. Luận Chánh Lý chép: cùng có chung một phần nên gọi là đồng phần; nói cách khác đó là cùng chung tác dụng, cùng chung sở xúc. Theo văn Chánh Lý thì xen nhau qua lại là câu chung, tác dụng và xúc là câu riêng. Đồng phần kia: Luận chép: Trái với ở đây cho đến “gọi là đồng phần kia”: là giải thích đồng phần kia. Luận Chánh Lý chép: thế nào là cùng chủng loại đồng phần kia? Nghóa là pháp này và pháp kia cùng có các tướng như thấy, v.v… cũng có các xúc, cùng chung các giới, làm nhân lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau, dẫn khởi lẫn nhau, chủng loại giống nhau. Theo ý luận này thì: có tác dụng gọi là đồng phần, không có tác dụng thì chẳng phải đồng phần. Pháp chẳng phải đồng phần không có tác dụng này cùng với pháp đồng phần có tác dụng cùng có tướng năng kiến. Cho đến dẫn khởi lẫn nhau, là chủng loại giống nhau tức là tuy có tác dụng, và không có tác dụng khác nhau mà tương tợ nhau, nên gọi là chủng loại giống nhau. Cùng chung phần này, đó chính là pháp không có tác dụng này cùng đồng phần với pháp có tác dụng kia gọi là đồng phần kia. Nghóa là đồng phần kia cùng loại với đồng phần. Luận Bà-sa quyển bảy mươi mốt chép, hỏi rằng: đồng phần nhãn thấy sắc, đồng phần nhãn không thấy sắc, làm sao nhãn thấy sắc là đồng phần với nhãn không thấy sắc, nhãn không thấy sắc lại đồng phần với nhãn thấy sắc? Đáp: Vì hai căn của đồng phần nhãn và đồng phần nhãn kia làm nhân cho nhau, cho đến nhãn thấy sắc và nhãn không thấy sắc đều thuộc về cùng một giới, cùng một xứ, cùng một căn, cùng một tánh thấy. Do đó, nhãn thấy sắc và nhãn không thấy sắc là đồng phần; nhãn không thấy sắc và nhãn thấy sắc là đồng phần. Các giới, mũi, lưỡi, và thân cũng giống như giới mắt; tuy đồng phần và đồng phần kia khác nhau nhưng tương tợ nhau. Hỏi đáp về cõi Sắc: Hỏi: Cõi Sắc thì thế nào? Đáp: các sắc là chỗ thấy của mắt ở quá khứ, hiện tại và vị lai tức là của đồng phần và đồng phần kia nên gọi là cõi Sắc. Cho đến hoặc có loại mà mắt các loài hữu tình không thấy, đó là loại cõi Sắc thường được gọi là đồng phần kia. Như sắc trong núi Diệu Cao, sắc ở trong đất và sắc ở dưới biển, tất cả các loài hữu tình không thấy. Hỏi: Sắc đó có phải là cảnh giới của thiên nhãn hay chăng? Đáp: sắc đó tuy là cảnh giới của thiên nhãn nhưng không có tác dụng nên không nêu ra. Lại, chẳng phải lúc nào cũng khởi thiên nhãn, cho nên sắc đó có thiên nhãn mà vẫn không thấy. Hỏi: sắc đó Phật nhãn có thấy được chăng? Giải thích: Cũng giống như thiên nhãn, lại có khi không có Phật, nhưng với nghóa này, nếu muốn ngữi, nếm, cảm biết hương vị xúc trong tự thân thì có thể nói rằng, hương, vị, xúc giới dựa vào lý thế tục nên nói như đã nói về cõi Sắc. Dựa vào lý thắng nghóa mà nói như đã nói về nhãn giới. Hỏi: nếu chỉ một xúc giới với hai thân hữu tình, thì đều ở một bên, hợp lại bức xúc, chẳng lẽ không phải thắng nghóa như cõi Sắc mà nói được ư? Đáp: Xúc giới như vậy có nhiều cực vi hòa hợp một chỗ, nếu hai thân bức xúc thì đều được một bên: Không phải đắc chung. Do đó, theo thắng nghóa thì nên nói như mắt giới. Hai cõi hương và vị, y theo đó mà biết. Lại, nếu muốn ngửi, nếm, cảm nhận hương, vị, xúc của người khác và phi tình thì có thể nói rằng: các giới hương vị xúc nếu đã thọ dụng, hoặc đang thọ dụng, theo lý thế tục, thì nói như cõi Sắc; nghóa là các thế gian nói là đắc chung. Theo lý thắng nghóa thì nói như nhãn giới tức chỉ có một sở thọ dụng, ngoài ra thì không được. Nếu chưa thọ dụng các giới hương vị xúc, theo lý thắng nghóa thì cũng có nghóa Đắc; như nói về nghóa cõi Sắc. Nghóa là ở vị lai cho đến hiện tại có nghóa nhiều người… đắc chung. Cho đến, vì thế các luận đều nói như cõi Sắc. Thanh, hương, vị xúc giới cũng như vậy vì hương vị xúc có thể đắc chung. Luận chép: “Đã nói đồng phần” cho đến “có bao nhiêu chẳng phải thì dứt”; Dưới đây có một bài tụng là thứ mười ba, nói về thấy thì dứt v.v… “Luận chép” cho đến đều chẳng phải thì dứt: Trong giải thích bằng văn xuôi có ba: một, thuật lại tự tông; là hai, nói về thuyết khác; ba, là nói rõ tướng đoạn. Phần thuật tự tông: Luận chép: Ba cõi sau cho đến đều có ba thứ: Là giải thích câu tụng thứ hai. Giải thích ba cõi sau có cả ba loại: Luận chép: “Tám mươi tám tùy miên” cho đến “đều chẳng phải thì dứt” là giải thích ba cõi sau có cả ba thứ. Nghóa là tám mươi tám tùy miên, pháp kia câu hữu và các tùy hành đều thuộc kiến thì dứt; tâm vương là ý giới, ý thức giới; còn lại là pháp giới. Các pháp do Thấy đạo mà dứt trừ, là tự tánh dứt, chẳng phải sở duyên dứt. Tùy hành đắc nghóa là đắc trên tùy miên, đắc trên tùy hành, pháp tâm, tâm sở không thể nói đắc là tùy hành. “Các pháp hữu lậu khác đều là tu thì dứt”, nghóa là bốn tùy miên, pháp câu hữu và đắc là tự tánh dứt. Các sắc hữu lậu, vô phú vô ký, pháp thiện hữu lậu là sở duyên dứt. Cả hai thứ này đều gọi là tu thì dứt; ở trong đó tâm vương là ý giới, ý thức giới; ngoài ra là pháp giới. Trong ba cõi sau, các pháp vô lậu đều là phi sở đoạn. Nêu thuyết khác: Luận chép: Chẳng lẽ không còn là cho đến rất trái nhau là thứ hai, nêu thuyết khác. Trong đó có nói: sát-na đầu tiên khi bước vào Thánh đạo, tánh của loài dị sanh hoàn toàn không thể sanh khởi cho nên tánh này thuộc về thấy thì dứt. Kinh nói: Người Dự lưu chứng được pháp bất đọa thì dứt trừ hẳn ba nghiệp thân, ngữ, ý đã từng dẫn vào các đường ác, không còn rơi vào các đường nữa, gọi là pháp bất đọa. Lại có thuyết nói: Ta đã chấm dứt hoàn toàn na-lạc-ca (địa ngục), cho đến nói rộng, đều là nghóa dứt; cho nên các nghiệp thân, ngữ, ý nhiễm ô thuộc thấy thì dứt, rất trái với thấy đạo. Đó là chấp của Kinh bộ v.v… Luận chép: “tuy thế” cho đến “thân phát khởi” là thứ ba, nêu tướng dứt. Pháp chẳng phải thấy thì dứt, lược có ba: Bất nhiễm ô. Phi lục sanh. Sắc. Ba pháp này chẳng phải do mê lầm về lý bốn đế; lại chẳng phải do mê lầm lý bốn đế mà trực tiếp khởi. Phần lập tông: Luận chép: “Là pháp bất nhiễm, phi lục sanh, sắc, định, phi thấy dứt” là phần lập tông. Tánh Dị sanh thuộc về bất nhiễm ô vô ký tánh là nêu lý do. Tánh do kiến thì dứt là tự tánh dứt, bất nhiễm ô vô ký là sở duyên dứt. Luận chép: “Người đã lìa dục, người dứt gốc lành vẫn thành tựu” là chứng tỏ tánh bất nhiễm ô vô ký, người đã lìa dục vẫn thành tựu là chứng minh chẳng phải nhiễm ô. Dứt gốc lành, vẫn thành tựu chứng minh chẳng phải tánh thiện. Nếu là nhiễm ô, tánh của dị sanh cõi Dục hợp với pháp nhiễm ô cõi Dục, khi lìa dục nhiễm lẽ ra không thành tựu. Nhưng đã lìa dục nhiễm mà vẫn thành tựu cho nên biết chẳng phải pháp nhiễm ô. Luận Chánh Lý chép: Tánh dị sanh thuộc về tánh bất nhiễm ô vô ký. Nếu Tánh này nhiễm ô thì khi loài dị sanh cõi Dục lìa bỏ dục tham, lẽ ra lúc đó phải là phi dị sanh. Tánh này thành tựu được là do dựa vào sanh thân cho nên nó sẽ không sanh ở các cõi địa khác, không Thánh tánh dị sanh của các cõi địa khác. Tánh này là thiện, là dứt gốc lành lẽ ra chẳng phải dị sanh nữa, nhưng không phải như vậy, cho nên biết tánh này thuộc về bất nhiễm vô ký. Đã là bất nhiễm ô thì không phải thấy đạo thì dứt. Nếu là thấy đạo thì dứt thì cũng nên là Nhẫn thì dứt. Nếu là nhẫn thì dứt thì ngay khi nhẫn khởi lên nó phải còn, như thế thì bậc Thánh cũng là dị sanh? Lại, pháp bất nhiễm chắc chắn không thuộc dứt kiết; nó duyên với các phiền não, khi dứt trừ hết mới gọi là dứt. Luận chép: “Tánh dị sanh” này cho đến “lẽ ra là dị sanh đây” là vặn hỏi, ngược lại Kinh bộ. Nếu nhẫn dứt, như đạo Vô gián vẫn thành hoặc đắc. Nếu nhẫn dứt trừ tánh dị sanh thì khi nhẫn khởi lên lẽ ra phải thành dị sanh. Và nếu như thế thì bậc Thánh cùng thành dị sanh. Luận chép: “Sáu là ý xứ” cho đến “là năm thức v.v…” luận Chánh Lý hỏi rằng đó là năm thức, v.v… duyên với cảnh như sắc, v.v… là ngoại môn chuyển, nên chẳng thuộc thấy thì dứt. Luận chép: “sắc là tất cả thân nghiệp ngữ nghiệp v.v…” luận Chánh Lý: lại, các sắc pháp, hoặc nhiễm, hoặc bất nhiễm cũng đều chẳng phải thấy dứt. Như pháp bất nhiễm duyên với phiền não kia, khi dứt trừ hết sạch mới gọi là đoạn. Tổng kết lý do: Luận chép: “Trước và sắc” này cho đến “thân phát khởi” là tổng kết lý do khiến ba thứ đó chẳng phải thấy thì dứt. Luận Chánh Lý chép: Dứt nghóa là gì? Lược có hai: Lìa phược dứt và lìa cảnh dứt. Lìa buộc dứt: như khế kinh nói: nếu không có nội nhãn kết, thì thấy biết một cách chắc chắn rằng ta không có nội nhãn kiết. Lìa cảnh dứt: như khế kinh chép: Nếu Tỳ-kheo các thầy dứt trừ được dục tham ở nhãn thì gọi là mắt được dứt hẳn. Thuật rằng: phiền não gọi là buộc, lìa phiền não gọi là lìa phược. Các đại Luật sư A-tỳ-đạt-ma dựa vào thứ lớp của nó mà lập ra hai thứ dứt: Tự tánh dứt. Sở duyên dứt. Nếu là pháp trói buộc và là nhất quả đẳng, khi đối trị sinh, ngay lúc đó dứt trừ được, gọi là tự tánh dứt. Do có tự tánh dứt nên các pháp Sở duyên không còn bị trói buộc, không cần ở trong đó (ly hệ) mà thành tựu, gọi là sở duyên dứt. Trong đó, nếu tất cả là sắc hữu lậu hoặc là bất nhiễm ô hữu lậu Vô Sắc và các pháp đắc, sanh, v.v… bị các kiết sử trói buộc được dứt trừ ở thấy đạo và tu đạo. Như vậy khi dần dần dứt các kiết sử ở từng phẩm loại, trên từng thể riêng biệt, khởi được ly hệ thì các kiết sử và nhất quả v.v… đều được gọi là đã dứt. Trên lậu sắc hữu, bất nhiễm ô hữu lậu Vô Sắc và các pháp đắc, sanh, v.v… có được ly hệ. Lúc chưa khởi thì chưa gọi là dứt. Vì các pháp phải tùy theo địa vị Vô gián cuối cùng của nó mà dứt; chẳng phải các thấy đạo tùy theo từng địa riêng mà lìa nhiễm theo thứ lớp. Thế nào gọi là dứt trừ các pháp như sắc, v.v…? Hành giả thấy được Thánh đế thì các pháp thuộc đường ác thiếu mất các duyên nên không thể sanh khởi. Do duyên với các phiền não mà chưa dứt hết nên chưa gọi là dứt. Nếu pháp chưa dứt mà đã được bất sanh hoặc bất thành tựu thì có gì khác với đã dứt. Dứt là y theo phương cách đối trị khiến cho được quả ly hệ, chứ chẳng phải nói về bất sanh hoặc bất thành tựu. Luận chép: “Đã nói như thế” cho đến “có mấy phi kiến” dưới đây là thứ mười chín, có hai bài tụng nói về kiến và phi kiến. “Luận chép” cho đến “Còn lại đều phi kiến”: Trong giải thích bằng văn xuôi có năm: Nói thuộc về kiến giới. Giải thích thể của tên gọi tám kiến. Hiển bày kiến lực. Hỏi đáp phân biệt. Phá dị chấp, đây là phần đầu. Giải thích danh thể của tám kiến: Luận chép: Tám kiến là gì cho đến “các kiến vô lậu” là giải thích danh thể của tám thứ kiến. Lời văn rất dễ hiểu. Luận Bà-sa quyển bốn mươi chín chép: kiến có bốn nghóa: Thấy suốt. So lường. Chấp chặt. Vào sâu. Luận chép: “Thí như ban đêm” cho đến sáng tối khác nhau: Là giải thích năng lực hiện thấy. Luận Chánh Lý chép: nói chánh kiến là gồm nhiếp đầy đủ ba thứ. Đó là kiến của ba địa, dị sanh, hữu học, vô học. Lại, đó là nói lên kiến qua sự tu tập dần dần phát sanh. Ví như đêm tối không có ánh trăng v.v… mây mù che phủ khiến sự đi lại khó khăn và các sắc tượng chẳng thể không lộn xộn. Năm nhiễm ô kiên quán sát các pháp cũng như vậy. Chánh kiến của thế gian: ví như lúc ban đêm nhìn các sắc tượng trên bầu trời không có mây mù, thế gian quan sát các pháp cũng như vậy. Ví dụ ban ngày, mây mù lên cao, tuy còn che ánh mặt trời, nhưng việc đi lại thì êm thắm và nhìn thấy các sắc tượng dần dần rõ ra; chánh kiến của người hữu học quán sát các pháp cũng giống như vậy. Ví như ban ngày, ánh sáng mặt trời chiếu soi, mây mù tan hết thì việc đi lại rất yên ổn các sắc tượng được nhìn thấy rõ ràng hơn. Chánh kiến của người Vô học cũng giống như vậy. Như người mới thực hành tu tập dần dần phát sanh trí tuệ, dứt được ngu tối trong tâm, v.v… tất cả những sự khác nhau là như vậy. Như vậy, đối với các sở duyên, chánh kiến tăng dần, trong sáng càng thêm, chẳng phải cảnh sở duyên có tịnh hay bất tịnh mà là do tuệ tự giác có cấu chướng hay không nên nói sở duyên có tịnh hay không tịnh. Những thứ kiến như vậy, xếp chung thành năm nhóm: Loại vô ký. Loại nhiễm ô. Loại thiện hữu lậu. Loại Hữu học. Loại vô học. Trong loại vô ký, mắt là kiến; các căn tai, mũi v.v… và tất cả các tuệ vô phú vô ký chẳng phải kiến. Trong loại nhiễm ô, thì năm kiến là kiến, còn các tuệ nhiễm ô khác chẳng phải kiến. Đó là các tuệ tham, sân, mạn, không chung vô minh, si câu sanh và các pháp nhiễm ô khác cũng chẳng phải kiến. Trong loại hữu học, không tuệ nào chẳng phải kiến nhưng ngoài tuệ ra đều là phi kiến. Trong loại vô học, tận trí, trí vô sanh và các phi kiến khác, các tuệ vô học khác tất cả đều là kiến. Trong loại thiện hữu lậu, chỉ có ý thức tương ưng tuệ hữu lậu thiện chẳng phải kiến, nghóa là năm thức thân dẫn phát tuệ, phát sinh hữu biểu tuệ, là tuệ lúc sắp chết. Luận chép: Vì sao cho đến “ý thức tương ưng” trở xuống là phân biệt hỏi đáp, đây là hỏi của người ngoài. Luận chép: “Vì năm thức câu sanh tuệ không thể giải quyết”: Là nêu tụng đáp. Luận chép: Xét nghó làm đầu cho đến cho nên chẳng phải là giải thích ý tụng, văn còn lại rất dễ hiểu. Luận chép: “Nếu thế, mắt” cho đến “thế nào là kiến”: là người ngoài hỏi. Luận chép: “Vì năng minh lợi” cho đến “nên cũng gọi là kiến” là Luận chủ đáp. Thuyết của luận Tạp tâm: Luận Tạp tâm nói có bốn nghóa: Quán xem tức là tuệ tánh. Chắc chắn tức là vô ngại. Kiên thọ tức là xả bỏ. Thâm nhập tức là động cảnh. Giải thích tám thứ kiến của luận đều có bốn nghóa trên, luận này chắc chắn gọi là kiến, lược nêu hai nghóa: quyết là chắc chắn; độ là tự độ, tức là kiên thọ. Trong định tuy không có so lường, nhưng có các nghóa khác nên cũng gọi là kiến. Mắt tuy không có hai nghóa chắc chắn và so lường nhưng có hai nghóa minh lợi và quán chiếu nên cũng gọi là Kiến. Minh lợi là nghóa vào sâu trong luận Tạp tâm, quán chiếu là nghóa quán xem trong luận Tạp tâm. Tôn giả Thế Hữu nói là chấp thân. Đây là nghóa đúng của Hữu Bộ. Tôn giả Pháp Cứu nói là nhãn thức thấy. Tôn giả Diệu Âm nói là nhãn thức tương ưng tuệ kiến. Các Luận sư phái Thí Dụ nói nhãn cùng lúc hoà hợp với tâm, tâm sở mà thấy. Độc Tử bộ cho rằng, tâm, tâm sở hòa hiệp mà thấy. Hỏi: các luận đều bác bỏ thức và luận hòa hợp mà thấy, vì sao luận này chỉ bác bỏ thức thấy? Đáp: luận Tạp tâm chép, đồng phần mắt thấy sắc chẳng phải nhãn thức thấy, chẳng phải tuệ, chẳng phải hòa hợp không thấy các chương sắc. Theo văn Tạp tâm thì do không thấy chướng sắc” là phá có cả ba chấp kia. Nay, luận này bác bỏ thức thấy tức là bác bỏ hai thứ còn lại. Luận chép: “Nếu mắt thấy giả” cho đến “cũng nên chánh kiến” đây là người ngoài hỏi. Nếu nhãn thấy được thì khi các thức mũi, lưỡi v.v… khởi lên lẽ ra nhãn vẫn cứ thấy. Luận chép: “Chẳng phải thiết nhãn” cho đến “năng kiến chẳng phải thứ khác” là trả lời của các nhà chủ trương mắt thấy. Luận chép: Nếu thế cho đến “thấy sắc chẳng phải nhãn” các nhà chủ trương thức thấy bị vặn hỏi. Nếu vậy, khi thức hiện hữu thì thấy, khi thức không hiện hữu thì không thấy. Kiến này cho rằng thức năng y là thức thấy. Phần lập tông: Luận chép: “Không thế thì nhãn thức chắc chắn chẳng phải năng kiến” là phần lập tông. Luận chép: Vì sao? Là các nhà chủ trương thức thấy hỏi. Luận chép: “truyền thuyết bất năng quán chướng sắc” đây là lập nhân. Luận chép: “hiện thấy vách tường, v.v…” cho đến “dục không thể quán” là dẫn hiện lượng để chứng minh. Luận chép: “nếu là thức thấy ” cho đến “lẽ ra thấy chướng sắc” là các nhà chủ trương thức thấy hỏi ngược lại. Luận chép: “Bị chướng sắc” cho đến thế nào là sẽ thấy: Là các nhà chủ trương thức thấy giải thích vặn hỏi. Luận chép: “lúc ấy vì sao Nhãn thức bất sanh?” Là các nhà chủ trương nhãn thấy hỏi ý nói rằng thức đã là vô ngại vì sao lại bất sanh. Luận chép: Người chấp nhận mắt thấy cho đến “vì sao bất khởi” là trách cứ lần thứ hai của các nhà chủ trương thức thấy. Tôi chấp nhận mắt thấy thì thức không thể sanh; ông chấp nhận thức thấy thì cái gì không khởi. Luận chép: “nhãn đâu phải như thân căn” cho đến không thấy kia chăng? Là hỏi của các nhà chủ trương thức thấy. Luận chép: “Lại pha-chi-ca” cho đến làm sao thấy được các nhà chủ trương thức thấy hỏi lại lần nữa. Trước ông nói mắt là hữu đối nên không thấy chướng sắc, thế thì nước v.v… cũng là chướng sao lại thấy được. Phần tổng kết: Luận chép: “cho nên không do” cho đến “không có công năng thấy”: là phần tổng kết của các nhà chủ trương thức thấy. Luận chép: “Nếu thế, sở chấp của nhãn thức ra sao?” Các nhà chủ trương mắt thấy hỏi các nhà chủ trương thức thấy. Ở chỗ bị chướng sắc, nghóa của hữu kiến, không thấy thế nào? Luận chép: Nếu ở chỗ ấy cho đến nên không thể thấy là câu trai lời của các nhà chủ trương Thức thấy. Luận chép: “Nhưng kinh nói mắt” cho đến “nên nói năng kiến”: các nhà chủ trương thức thấy giải thích kinh. Luận chép: “như kinh ấy nói” cho đến “đã quá khứ”: Các nhà chủ trương thức thấy dẫn ví dụ. Tuy có kia nói mắt thấy, nhưng kinh nói: pháp ý năng thức là ý thức biết. Chẳng phải mắt biết vì quá khứ nhãn đã thấy sắc cho nên biết rằng chẳng phải mắt thấy. Luận chép: “Thế nào là năng tức?” Là hỏi của các nhà chủ trương Mắt thấy. Luận chép: “Nghóa là ý thức” cho đến “nên nói là năng thức” là trả lời của các nhà chủ trương thức thấy. Luận chép: “hoặc y theo sở y” cho đến “giường ghế, tiếng nói”: câu trả lời thứ hai của các nhà chủ trương thức thấy. Như ở nơi trên giường ghế, tiếng nói của người lại nói là giường ghế. Luận chép: “Lại như kinh nói” cho đến là cái mà nhãn biết: Các nhà chủ trương thức thấy lại dẫn để chứng minh. Luận chép: “Lại như kinh nói” cho đến chỉ là thấy sắc: Các nhà chủ trương thức thấy dẫn kinh chứng minh lần nữa. Chánh Lý chống chế kinh này muốn nói mắt, tai v.v… mỗi thứ đều có hai tác dụng: một là năng làm môn, hai là năng chấp cảnh. Năng làm môn là như mắt làm sở y khiến các hành tướng khác của tâm, tâm sở ở cảnh mà chuyển biến. Năng chấp cảnh là như mắt chỉ thấy sắc, nếu khác đị thì ý nghóa trái ngược. Các tâm, tâm sở chỉ nên thấy mà thôi. Nhưng, tâm, tâm sở đều làm nhãn làm môn. Ông chấp thể của thấy chỉ là tâm không thể là tâm sở. Lại, tác dụng của các pháp tâm sở thọ, tưởng, v.v… như lãnh nạp, thủ tượng, tạo tác v.v… đều không giống nhau, không thể chỉ có kiến. Đã nói chỉ có thấy thì biết là mắt Do đó, mắt là năng thấy. Tác dụng của mắt nằm trong hai thứ: một là năng làm môn, hai là năng thấy sắc. Cho đến ý xứ đúng như lý để biết. Rõ ràng, sở tông của tôi không có lỗi trái kinh. Luận chép: “Nếu thức là năng kiến, thì cái gì là rõ biết là?” Các nhà chủ trương mắt thấy vặn hỏi. Luận chép: “Thấy và rõ biết” cho đến “cũng năng biết rõ” là giải thích của các nhà chủ trương thức thấy. Luận chép: Có các câu hỏi khác rằng cho đến “cái gọi là kiến dụng?” là vặn hỏi của Độc Tử bộ mà Pháp sư Thái trích dẫn. Luận chép: “Ở đây nói phi nạn” cho đến cũng nên như thế là trả lời của các nhà chủ trương mắt thấy. Luận chép: Có người khác lại nói cho đến cũng nói chuông kêu được. Pháp sư Thái nói: Đàm-ma-đa-la bộ giải thích kinh, trước rằng, nhãn năng thấy sắc. Luận chép: Nếu thế cho đến “lẽ ra gọi là năng thức”: là vặn hỏi của các nhà chủ trương mắt thấy. Kinh nói mắt thấy sắc, nhãn là chỗ dựa của kiến gọi là mắt thấy. Thức cũng dựa vào mắt lẽ ra phải nói là mắt có công năng thức. Phái Đàm-ma-đa-la giải thích: Luận chép: Không có lỗi như thế cho đến “không nói thức sắc” là giải thích của bộ phái Đàm-ma-đa-la. Vì thế gian đều nói mắt thấy sắc, không nói là biết sắc. Luận chép: “Tỳ-bà-sa quyển trung” cho đến “gọi là có thể làm ban ngày”: đây là dứt mà Đàm-ma-đa-la dẫn từ Bà-sa của Hữu Bộ để giải thích vặn hỏi. Khi thức hiện tiền gọi là thức sắc, ngoài thức không có một năng thức nào khác. Như mặt trời hiện ra gọi là ban ngày, ngoài mặt trời không có ban ngày. Luận chép: “Các sư kinh bộ” cho đến “không nên cố cầu” đây là các Sư Kinh bộ thương cảm lược tóm tắt chấp của các Sư trước. Luận chép: “nhưng nước Ca-thấp-di-la” cho đến “ý năng liễu”: Luận chủ trình bày tông chỉ của Hữu Bộ. Luận chép: Lúc thấy sắc là một mắt thấy: Dưới đây gồm năm bài tụng, nói về nhân luận, Sanh luận, phân biệt căn, cảnh, thức; chẳng phải các môn phân biệt nghóa của mười tám giới. Nửa bài tụng đầu phân biệt nghóa thấy sắc của một mắt, của hai mắt. Chấp của Hữu Bộ, v.v… hai mắt thấy cùng lúc. Chấp của Độc Tử bộ, hai mắt thấy lẫn nhau chứ chẳng phải thấy cùng lúc, vì vị trí của chúng cách xa nhau. Chuyển biến mau chóng nghóa là đồng khởi kiến. Luận Bà-sa quyển mười ba bác bỏ rằng: nếu một mắt thấy, chẳng phải hai mắt thấy thì các phần của thân cũng nên giác xúc không cùng lúc. Như hai tay trên thân, tuy cách xa nhau mà cùng lúc vẫn có giác xúc sanh trong một thân thức. Hai mắt cũng vậy, tuy cách nhau khá xa nhưng đâu có trở ngại gì, vẫn thấy sắc cùng lúc, phát sinh một nhãn thức. Dẫn các Sư xưa để giải thích: “Luận chép” cho đến không rõ ràng: Là dẫn các Sư xưa để giải thích hai mắt cùng thấy. Luận chép: “Lại mở một mắt” cho đến hai mắt đều thấy: luận chủ tự giải thích rằng, hai mắt cùng thấy. Có một Sư nói: do xúc nhãn dẫn dắt ý thức nên vọng cho rằng thấy, hai. Mặt trăng thứ hai chẳng phải do xúc nhãn thấy là không đúng. Hai mắt cùng thấy một mặt trăng. Do căn di động nên chỗ thấy không giống nhau. Do ý thức này nên nói hai mặt trăng. Nếu nói mở một con, tiếp xúc một con, thấy có hai mặt trăng, chẳng phải hai mắt mỗi mắt thấy một mặt trăng. Nhắm một con, chỉ một con tiếp xúc, vì sao lại không thấy hai mặt trăng. Đây giống như hai mắt cùng mở, tương quan thấy vật nhưng vật xứ khác nhau. Lại, nếu bảo mặt trăng thứ hai chẳng phải do xúc nhãn thấy thì luận chủ do đâu mà chứng minh hai mắt cùng thấy. Tuy cùng một vật nhưng hai mắt thấy khác, dẫn khởi ý thức cho đó là hai mặt trăng. Lại, nếu hai mặt trăng chẳng phải mỗi mặt trăng là do một mắt thấy thì do chướng ngại gì mà che trùm xúc nhãn, mặt trăng thứ hai không có, mặt trăng thứ nhất có. Chướng bất xúc nhãn mặt trăng thứ nhất không có, mặt trăng thứ hai có. Lại, nếu do bị mắt của xúc thấy mặt trăng có so le đó chính là mặt trăng, chỉ có ý thức mới hiểu rõ. Nếu khi hai mắt tiếp xúc khác nhau đều thì mặt trăng được thấy đó cũng so le; đâu phải cả hai mắt đều không thấy mặt trăng. Nếu bảo không thấy thì theo sau thức nào dẫn khởi ý thức phát sanh nói đó là hai mặt trăng? Văn còn lại, rất dễ hiểu. Luận chép: Nếu tông này nói cho đến “vi chí, bất chí” dưới đây là phần hai gồm nửa bài tụng giải thích sự ly hiệp trong chấp cảnh. Nêu tông chỉ của Hữu bộ: “Luận chép” cho đến không thể nghe đoạn này nêu lên tông chỉ của Hữu Bộ cho rằng: mắt, tai v.v… không thể chấp, chí, cảnh. Nếu theo ngoại đạo Thắng luận thì sáu căn đều chấp chí cảnh. Luận Chánh Lý chép: có một Sư cho rằng: Chấp chí cảnh vì âm thanh nối tiếp chuyển đến nhập vào lỗ tai. Lại, từ âm thanh năng nghe trong lỗ tai. Thì thuyết này phi lý. Tay mới cầm chuông thì tiếng đã mất, nếu tiếng nối tiếp chuyển đến vào trong lỗ tai thì khi tay cầm chuông, dựa vào chuông đó mà âm thanh sẽ chấm dứt. Từ trung gian của truyền sanh kia, lìa chất nối nhau không dứt, thanh này lẽ ra có thể nghe. Nhưng, hiện thấy khi cầm chuông, tất cả tiếng chuông đều dứt, đều không thể nghe, không thể dứt các pháp khác, các pháp khác thì dứt theo, không nghe các pháp khác nên các pháp khác cũng không nghe, v.v… khó truyền vào lỗ tai này, nếu âm thanh bỗng cùng phát ra giống với ánh sáng thì không thành nạn. Nhưng, âm thanh trong tự năng văn nhó chẳng phải như hương, v.v… tuy ở trong nhó nhưng chẳng phải chí cảnh. Do âm thanh bức bách lỗ tai nên đồng thời có, chứ khó rất dễ hiểu được. Muốn xét nghe, phải ngăn dứt sự ép ngặt đó. Cho nên chỉ có lỗ tai là chấp cảnh phi chí. Lại, ý căn cũng chỉ chấp cảnh phi chí, không chấp pháp câu hữu tương ưng Lại vì Vô Sắc nên chẳng thể hữu chí. Do vậy, ý căn chấp cảnh bất chí. Trên đây, văn đồng với luận này. Luận chép: “Nếu mắt tai” cho đến “như mũi v.v…” là giải thích bằng cách vặn hỏi ngược lại. Nếu mắt, tai không thể thấy nghe xa được thì không thể tu tập khiến phát sanh thần thông của hai căn đó. Luận chép: Thế nào là đá nam châm cho đến không phải là sắt cứng hay sao? Là dẫn ví dụ để trả lời. Luận chép: “chấp cảnh kiến chí” cho đến các sắc đến mắt: Tức theo quan điểm bên ngoài cho rằng, nhãn hợp tri để giải thích bằng ví dụ ngược lại. Luận chép: “Lại như mũi v.v…” cho đến “tai cũng thế: Ở đây dùng mũi v.v… hợp biết để so sánh với giải thích nhãn v.v… Hỏi: như người ở trong nhà tối, mắt thấy sắc tối vì không, đáp thì hẳn không thể thấy sắc thì phải có ánh sáng. Ở trong chỗ quá tối thì mắt mở hay nhắm cũng đều không thấy gì; nếu thấy thì phải có một ít ánh sáng, nhưng, không thể thấy sắc tối kia ép ngặt mắt được. Luận chép: “ý Vô Sắc nên chẳng phải năng hữu chí” là giải thích lý do khiến ý không thể chấp chí cảnh. Nêu chấp khác: Luận chép: “Có người chấp tai” cho đến cũng nghe được: Là nêu chấp khác, như trước đã dẫn luận Chánh Lý để bác bỏ. Luận chép: Còn lại mũi, v.v… cho đến “không ngửi hương: Ở đây nói ba căn đều chấp chí cảnh. Luận chép: “Vì sao gọi là chí?” Là hỏi. Luận chép: “Nghóa là Vô gián sanh” là trả lời, chẳng phải xúc chạm nhau gọi là Chí; chỉ do Vô gián sanh gọi là chí; tất cả công năng đều không lìa thể, chẳng thể nói thể không đến, công năng đến. Ba căn biết cảnh tuy có xa gần không giống nhau, đều là Vô gián sanh nên đều gọi là chí. Luận chép: “Lại các cực vi có xúc chạm nhau hay không?” Là hỏi. Luận chép: “Nước Ca-thấp-di-la” cho đến không còn phân chia tỉ mỉ là Hữu bộ trả lời. Luận chép: Nếu thế vì sao xúc chạm nhau phát ra tiếng là người ngoài hỏi. Luận chép: “Chỉ do cực vi Vô gián sanh” là trả lời. Luận chép: “Nếu chấp nhận xúc chạm nhau” cho đến “thể nên lẫn lộn nhau” người ngoài vặn hỏi. Luận chép: “Không xúc chạm nhau” cho đến Thế nào là bất tán: Là người ngoài vặn hỏi lại. Luận chép: Phong giới nhiếp giữ, cho đến “như vào lúc kiếp thành”: Là ngăn người ngoài hỏi nên nói có nhiều thứ phong tức là đáp rộng. Luận chép: “Thế nào là ba căn” cho đến “gọi là chấp chí cảnh là hỏi. Đã không tiếp xúc qua lại, làm sao Vô gián sanh gọi là đến? Luận chép: “tức do Vô gián” cho đến “đều không có chút vật”: là đáp. Luận chép: “Lại hòa hiệp sắc” cho đến “đồng loại nối tiếp” là Sư thứ hai đáp. Nghóa là sắc hòa hợp của ba căn, ba cảnh, xúc chạm qua lại là không lỗi. Luận chép: “do chấp nhận lìa” này cho đến nghóa khéo thành lập: Là dẫn văn luận Bà-sa chứng minh. Luận chép: Nên kia hỏi rằng, cho đến “đồng loại nối tiếp”: là dẫn nhiều văn của Bà-sa để chứng minh. Luận Chánh Lý không chấp nhận nghóa này. Nói rằng: khi gần gủi sanh gọi là hiệp, không đợi xúc chạm lẫn nhau mới gọi là Hiệp, lại, ông không nên do dự về nghóa này. Các đại chủng kia đầy chắc chắn không xúc chạm nhau. Vì sao? Vì đó là sở xúc, chẳng phải năng xúc; chỉ có thân căn gọi năng xúc, ngoài nghóa xúc này không nên suy nghó. Như nói sở xúc cũng là năng xúc nghóa là nếu chấp nhận thân căn cũng là sở xúc thì cảnh và hữu cảnh trở thành lẫn lộn. Nhưng thực tế sự thành lập cảnh và hữu cảnh không bị lẫn lộn. Nếu cứ cho rằng, hai thứ này không có lỗi lẫn lộn thì sở duyên và sở y của tâm thức vốn khác nhau, chẳng lẽ không do đó mà sanh lẫn lộn ư! Nghóa là, nếu thân căn cũng là sở xúc thì vì sao không lập nó làm sở duyên của thân thức, nếu cho rằng, xúc giới cũng là năng xúc thì vì sao không lập nó làm sở duyên của thân thức, còn nếu cho rằng, xúc giới cũng là năng xúc thì vì sao không lập nó làm sở y của thân thức. Nếu các cực vi chắc chắn không xúc chạm qua lại thì lẽ ra, luận Bà-sa không nên nói phi xúc là nhân sanh ra xúc; đó là lúc vật ly tán hòa hợp lại. Xúc là nhân sanh ra phi xúc, đó là lúc vật hòa hợp biến thành lu tán. Xúc là nhân sanh ra xúc; đó là lúc vật hòa hợp lại. Phi xúc là nhân sanh ra phi xúc, đó là lúc vi trần đồng loại nối tiếp. Tông phái Tỳ-bà-sa không hẳn chấp nhận nghóa cực vi xoay vần xúc chạm nhau nên biết rằng kia nói là có nghóa khác. Vả lại, nhiều vi trần do nhiều cực vi nhóm họp mà Bà-sa nói đó là phi xúc làm nhân sanh ra phi xúc. Cho nên biết rằng Bà-sa nói chắc chắn có ý nghóa khác. Có ý nghóa khác này là thế nào? Tức là đối với hòa hiệp mà nói là xúc. Theo văn luận này, hòa hiệp nhóm sắc giả gọi là xúc chạm nhau. Như thế thì không phải tất cả các căn mũi, lưỡi thân đều chấp chí cảnh, vì không có gì khác nhau nên năng xúc chung với hai căn mũi, lưỡi; sở xúc cũng ccó cả hương vị. Điều này phi lý! Gần gủi tuy đồng, nhưng trong đó vẫn có phẩm loại khác nhau. Lại, như mắt v.v… tuy cùng chấp chí cảnh nhưng trong phi chí cảnh chẳng phải không có phẩm loại khác nhau. Tỷ v.v… cũng như vậy, chấp chí cảnh là đồng, nhưng trong chí cảnh lẽ ra có phẩm loại khác nhau. Lại, với trơn, rít v.v… thế gian cùng khởi lên tên gọi. Là xúc tưởng, đối với chúng, thân căn gọi là năng xúc, nên không có lỗi. Theo đây, Chánh Lý có hai giải thích, một là vì gần, hai là vì thuận với thế gian. Có Sư khác nói; tuy cực vi không xúc chạm qua lại lẫn nhau, nhưng hòa hiệp sắc xúc chạm qua lại vẫn không lỗi. Do đó, vỗ, đánh mới phát ra âm thanh. Như các cực vi tuy không biến ngại nhưng các hòa hợp sắc lại có biến ngại. Điều này không hợp lý, bởi không phải lìa cực vi mà có hòa hợp sắc. Nếu xúc hòa hợp đó là xúc cực vi. Ý của các Sư này chấp nhận nghóa cực vi xúc chạm nhau. Do đó, thuyết trước là hợp lý, bác bỏ này không giống như luận Câu-xá. Tôn giả Thế Hữu giải thích: Luận chép: “Tôn giả Thế Hữu” cho đến “trú niệm sau cùng”: là thứ ba Tôn giả giải thích. Nếu cho rằng, cực vi này chẳng phải Vô gián sanh thì trong đời hiện tại, khi chuyển chỗ sẽ va chạm nhau. Đây là trong một sát-na nên đến niệm sau cùng. Luận chép: “Nhưng đại đức nói” cho đến “giả gọi là xúc” là thứ tư, Đại đức giải thích. Đại đức tức là luận chủ bác bỏp Cứu, vì người đời kính trọng đức của Ngài nên tránh gọi thẳng tên. Luận chép: Ý Đại đức này lẽ ra đáng ưa thích: Luận chủ bình chọn giải thích thứ tư. Luận chép: Nếu khác với đây cho đến chấp nhận là hữu đối: Giải thích lý do đáng ưa thích của Đại đức. Đồng thời bác bỏ cả giải thích của Sư thứ ba. Chánh Lý bác bỏ rằng: Nhưng Đại đức nói tất cả các cực vi thực sự không xúc chạm nhau, chỉ do Vô gián nên giả gọi là xúc. Kinh bộ chủ trương rằng: trong đây muốn nêu lên đức độ vượt bực của Đại đức nên nói như vậy. Ý của đại đức là lẽ ra nên ưa thích. Nếu khác vậy thì các cực vi này phải có kẽ hở. Trung gian đã không thì cái gì làm trở ngại cho sự chuyển dịch của nó để chấp nhận nghóa hữu đối. Nay nói ý thú như thế của Đại đức thì chẳng phải đáng ưa thích, cũng chẳng phải đang ghét. Chỉ nên tìm kiếm để biết thế nào là Vô gián mà không xúc chạm nhau. Lý chưa hiển bày rõ, ý thú rất khó hiểu. Nếu nói các cực vi hoàn toàn là không có kẽ hở mà không lẫn lộn thì thành ra có phương phần, như vậy là không chấp nhận xứ đồng. Lại, đã chấp nhận không có kẽ hở sao lại không xúc chạm nhau. Cho kia chỉ nói: chắc chắn là nêu rõ nghóa gần gủi. Trong đây chỉ nói: Hoặc nói lên nghóa chắc chắn, chắc chắn có kẽ hở nên nói là định gián. Như chắc chắn có nhiệt nên nói là định nhiệt. Định này có kẽ hở, lý thành tựu nghóa rồi, hoặc nói lên nghóa vô, nghóa là trong đây không có cực vi lượng xúc sắc sở gián nên gọi là Vô gián. Vô gián đại chủng cực vi như vậy, khi gần gủi sanh giả gọi là Xúc. Nếu giải thích thế này thì Đại đức nói: tất cả cực vi thật sự không xúc chạm nhau, chỉ do Vô gián mà giả đặt tên Xúc. Có nghóa thú sâu xa thì đó là do thể lực của chướng ngại hữu đối gây trở ngại cho sự vận chuyển, nên nói đó là hữu đối, không chấp nhận trú xứ xoay vần dung nhiếp lẫn nhau mà nói là chướng ngại hữu đối. Đâu sợ có cùng trú xứ thì ngăn trở Vô gián trú. Chấp nhận có kẽ hở mà không đi tới, chẳng có pháp tánh sở bố nào như vậy nên xứ của các hữu đối khác nhau nhau. Chớ nói là xứ của chúng đồng nhau, hoặc thành có phương phần, nên Vô gián trú. Lý không đúng. Tuy ở trung gian có chút kẽ hở nhưng năng lực của hữu đối lấn át sự vận hành của nó. Kẽ hở là gì? Có Sư khác nói: là vô xúc sắc. Lại có thuyết nói: đều không có sở hữu, Vô xúc sắc là không giới sắc. Các luận sư bác bỏ: Luận chép: “Lại vô cực vi” cho đến ở đây lẽ ra cũng như thế: Là bác bỏ Sư thứ hai, đồng với Chánh Lý. Luận chép: Lại chấp nhận cực vi cho đến cũng không có lỗi này: Là dùng để bác bỏ Sư thứ nhất. Chánh Lý Chống chế: Kinh chủ lại nói: Lại chấp nhận cực vi nếu có phương phần thì xúc và bất xúc lẽ ra đều có phần, nếu không có phương phần thì dù có chấp nhận xúc chạm nhau cũng không có lỗi thuyết này phi lý, hữu phần và phương phần, tên khác mà nghóa đồng. Nói lập vô phần là để ngăn dứt Phương phần. Làm sao ở đây lại sinh ra nghi ngờ. Nghóa là chấp nhận cực vi nếu có phương phần, vô phương phần làm sao có thể xúc được. Lại khắp thể xúc chạm nhau hay xúc chạm một phần, cả hai đều có lỗi. Trước đã nói đủ, vì sao lại nói, nếu không có phương phần dầu chấp nhận xúc chạm nhau cũng không có lỗi này. Cho nên, cái gọi là, không có lượng cực vi bị ngăn trở bởi xúc sắc. Cho nên gọi là Vô gián Vô gián như vậy; đại chủng cực vi, khi gần gủi sanh giả nói là xúc, nghóa này thành tựu. Nếu theo Sư Câu-xá chống chế nên hỏi ngược lại rằng: ông lập vô phương phần, cực vi sao lại không xúc chạm nhau, nếu nói xúc chạm nhau thì thành lỗi. Nói không xúc chạm nhau thì cũng không tránh được lỗi, vì đối với sáu phương diện khác nhau. Nếu nói cực vi, đều có thế lực tác dụng, lại sẽ lấn át không thể xúc chạm nhau. Lực tác dụng này có lìa thể hay không, nếu lìa thể thì đồng với nghiệp cú nghóa của thắng luận. Nếu không lìa thể thì ngoài thể không có dụng, sao không xúc chạm nhau, cho nên cũng thành lỗi. Luận chép: Lại các căn như mắt, v.v… cho đến “bất đẳng lượng chăng?” Từ đây xuống là thứ ba, nửa bài tụng nói về sáu căn có cảnh đẳng, bất đẳng. Các căn chấp cảnh đẳng và cảnh bất đẳng: “Luận chép” cho đến các thức như tỷ thức, v.v… trong văn có ba: một là nói các căn chấp cảnh đẳng và bất đẳng. Hai là nói các căn cực vi sắp bày không giống nhau. Ba là nói về đồng phần, đồng phần kia v.v… đoạn này nói về các căn chấp cảnh v.v… văn này trước nói lượng chấp v.v… của ba căn. Nói đẳng lượng là như số lượng cực vi của căn, cực vi của cảnh như vậy cùng gọi là hiệp sanh các thức như mũi, lưỡi, v.v… chữ Đẳng này nghóa là số lượng củacảnh và căn không thêm, không bớt, gọi đó là Đẳng. Chẳng phải số lượng (kích cỡ) của vỏ dưa, v.v… gọi là Đẳng tùy theo chấp lấy nhiều ít đều gọi là Đẳng. Đây là y duyên đẳng của ba thức. Luận chép: “Mắt tai bất định” cho đến “tiểu đại đẳng lượng”: Đây là nói về mắt, tai chấp cảnh lớn nhỏ không chắc chắn. Đây cũng chính là nói về căn sở y và cảnh lớn nhỏ khác nhau; chẳng phải như trái nho. Như nửa quả nho, do chấp cảnh trái nho cũng gọi là thủ đại, nói các âm thanh, muỗi may v.v… tùy theo chất lượng mà sắp xếp. Luận chép: “ý vô chất ngại” cho đến “hình lượng khác nhau”: là nói về ý cảnh. Cảnh sở chấp tuy có lớn nhỏ nhưng ý năng chấp thì không lớn nhỏ. Luận chép: Thế nào là cực vi của các căn như mắt, v.v… dưới đây là nói cực vi của các căn sắp bày không giống nhau. Luận chép: Thế nào là mắt v.v… cho đến “nay không phân tán” là giải thích sự sắp bày cực vi của mắt. Phần này luận có hai giải thích, đây là giải thích đầu. Luận chép: “Có thuyết nhắc lại” đến bất chướng ngại nhau là giải thích thứ hai. Luận chép: “nhó căn cực vi” cho đến “như hai ngón tay” là giải thích sự sắp bày khác nhau của hai tai và mũi. Luận chép: Ba căn đầu này cho đến như vòng hoa trên đầu: Đây là nói ba căn xứ v.v… Luận chép: “thiệt căn cực vi” cho đến “cực vi cùng khắp” là nói về kích cỡ của cực vi thiệt căn. Thuật rằng: Y theo hai giải thích về mũi, lưỡi, giải thích đầu là hợp lý. Nếu cực vi được sắp bày thấu suốt, trùm không để phân tán thì theo đó mũi, lưỡi cũng phải như vậy. Nếu theo giải thích của vị Sư này thì ba căn sẽ không chấp các trần như hương, vị … bên ngoài vì cách trong sáng. Nếu các trần bên ngoài như hương, v. v… chẳng bị căn chấp thì chẳng phải chấp thọ hương thường là bỉ đồng phần, tức không thể nói hai thức biết, cũng không có năm thức bị phiền não trói buộc. Trái với nhiều giáo lý. Nên theo giải thích sau là hợp lý. Truyền thuyết: trong lưỡi như cỡ đầu sợi lông chẳng phải là lưỡi có cực vi trùm khắp, việc này khó biết, lẽ ra lượng theo chiều dọc như đầu sợi lông chẳng phải chiều ngang. Luận chủ không hoàn toàn tin tưởng nên nói là truyền thuyết. Luận chép: “Thân căn cực vi” cho đến “hình dạng như chỉ tay”. Y theo văn sẽ hiểu. Giải thích đồng phần kia: Luận chép: “Nhãn căn cực vi” cho đến không thể thấy: Là giải thích đồng phần, đồng phần kia. Nói cực vi của thân căn, cho đến không thể : Đây là nói về thân căn, không phải tất cả đều là đồng phần, vì có ly tán như mắt của Luân vương được thấy ở vi, không thể thấy ở cực vi. Ngoài ra không đúng. Đồng trở lên, tùy theo sự thích ứng mà thấy có lớn nhỏ. Mắt đã vậy, thân căn cũng vậy. Thân căn đã cùng khắp thân, nếu khắp đông phần thì chứa nhóm xúc cảnh cũng phải có mặt khắp thân. Nếu vậy thân sẽ bị phân tán. Do nghiệp lực nên không khắp đồng phần. Tông chỉ của kinh bộ nói: không đúng, do đó mà luận chủ nói là truyền thuyết. Luận Chánh Lý chép: lại, tông chỉ trong luận của Thượng Tọa bộ đồng ý rằng, trong toàn thân không có nước lạnh nóng, cực vi của thân căn khắp năng sanh thức, cho đến nói rằng: Đối pháp nói, theo lý cực vi thân căn thì không phải tất cả là đồng phần. Cho đến nói rằng: Do nghiệp lực nên khiến cho cực vi thân căn ở trong thân không biết phát sinh thức. Chớ nên khắp phát sinh ra thức vì thân căn sẽ bị tan hoại. Như trong nại-lạc-ca Đẳng Hoạt v.v… hễ phát thức chỗ nào thì thân phần chỗ đó liền bị tan hoại tuy không hoàn toàn hoại. Nếu làm hoàn toàn hoại thì nó nên thường xảy ra ở lúc qua đời thọ sanh. Hỏi: vì sao không do nghiệp lực, tuy biến phát thức mà mạng không biến hoại? Đáp: như niệm Quán Âm nhờ Thánh lực mà dao không thể chặt đứt đầu, đứt thân. Nếu không nhờ Thánh lực thì tuy bị đứt đầu đứt thân nhưng mạng sống không dứt. Pháp không có thân đầu lìa nhau nên mạng sống không chấm dứt. Ở đây cũng nhủ vậy, Pháp vốn không có thân tấn nên mạng sống không dứt. Nói về sở y của sáu thức: Luận chép: Như trước đã nói cho đến không thế thì sao? dưới đây là phần bốn, có nửa bài tụng nói về sở y của sáu thức là câu hay bất câu. Trong văn xuôi có hai: một nói về nương theo câu, bất câu, hai là phân biệt số câu. “Luận chép” cho đến “chung tánh sở y” là nói về sự câu hoặc bất câu của sở y, y thức chỉ dựa vào Vô gián diệt. Năm thức thông y; đồng thời dựa vào Vô gián diệt. Năm thức thông y; đồng thời dựa vào căn và thứ lớp diệt ý. Thứ lớp diệt ý là chỗ dựa trong quá khứ, sắc căn là chỗ dựa trong hiện tại. Lại, thứ lớp diệt ý chung với sở y; đồng thời y căn là biệt y. Các sư Kinh Bộ nói: năm thức cũng duyên với cảnh quá khứ, như Chánh Lý quyển tám bác bỏ. Phân biệt bằng số câu: Luận chép: Nên nói như thế cho đến “tâm sở pháp giới” đây là dứt phân biệt bằng số câu. Năm thức như mắt, tai, v.v… tánh sở y của nó có cả hai; đồng thời dựa vào năm căn là căn tánh, chẳng phải tánh Đẳng Vô gián. Thứ lớp diệt ý là tánh đẳng Vô gián diệt cũng là tánh của căn. Thứ lớp diệt tâm sở là tánh đẳng Vô gián chẳng phải căn tánh. Căn tánh, nói theo nghóa rộng, thì có cả năm sắc, hẹp thì không chung với sắc. Phải trái rộng hẹp không giống nhau nên thanh có bốn trường hợp. Dưới đây bốn trường hợp đều theo giải thích này. Tánh sở y của ý thức chỉ là tâm vương. Tánh của duyên Đẳng Vô gián tức là dùng nghóa hẹp mà hỏi rộng, thuận với câu đầu. Đáp: nếu trước, đem tánh duyên đẳng Vô gián hỏi về tánh sở y tức là lấy rộng hỏi hẹp thuận với câu sau mà đáp. Văn còn lại rất dễ hiểu. Dưới đây, thiện cú đều y theo giải thích này. Hỏi: hậu tâm của La-hán há chẳng phải là sở y của ý thức mà chẳng phải đẳng Vô gián ư! Vì sao lại nói, tánh sở y của ý thức phải là duyên đẳng Vô gián của ý thức. Đáp: trong này nêu lên tánh sở y để làm hỏi đáp, chẳng phải nêu được tướng sở y. Hậu tậm của La hán chỉ dựa vào tướng mà gọi là ý giới, không có hậu thức nên không làm sở y, là thuộc về câu câu phi. Lại, giải thích: Đây này là nêu quả để hỏi sở y nên không nói về hậu tâm của La-hán. Luận chép: “Vì sao thức khởi” cho đến “ở căn chẳng phải cảnh” dưới đây, là thứ năm gồm nửa bài tụng nói về ở căn chẳng phải cảnh. “Luận chép” cho đến nhãn v.v… chẳng phải thứ khác: Lời văn rất dễ hiểu. Luận Chánh Lý chép: nếu vậy, ý thức cùng tùy theo thân mà chuyên nghóa là khi bịnh phong làm tổn não thân, ý thức liền bị loạn; khi thân nhẹ nhàng thì ý thức yên ổn, thế thì vì sao mà thức không lấy thân làm sở y? Đáp: Tùy theo tự sở y nên không có lỗi này. Nghóa là khi bịnh phong v.v… làm tổn hại thân thể phát sanh thọ khổ tương ưng với thân thức; thân thức như vậy gọi là nương tựa lẫn lộnù giới. Thân thức và thọ khổ khi cùng lạc tạ thì làm ý căn sinh khởi nương tựa lẫn lộnù thức tức trái với ý thức an tịnh. Cho nên ý thức, tùy tự sở y chẳng lẽ không phải là hữu lậu ý giới, Vô gián vô lậu thức sinh khác nhau như vậy hay sao? Thế nào là ý thức tùy tự sở y, chẳng phải y theo các loại hữu lậu, vô lậu mà gọi là tùy tự sở y? Tức chỉ y theo sự khác nhau giữa sáng tối, thêm bớt. Như từ vô phú, vô ký mắt sanh ra nhận thức thiện, bất thiện, hữu phú những vẫn gọi là nhãn thức tùy tự sở y, đây cũng nên như vậy. Cho nên, năng y chẳng phải là tất cả sở y pháp tánh. Nếu không như vậy, lẽ ra chẳng phải năng y tùy sở y. Luận chép: Vì sao sắc v.v… cho đến “cho đến pháp thức” dưới đây có nửa bài tụng là phần sáu nói về việc sáu thức như mắt, tai, v.v… tùy theo thức mà có tên. “Luận chép: Kia cho rằng trước nói nhãn v.v… là giải thích chữ bỉ trong bài tụng. Nói chữ bỉ tức là chữ bỉ được giải thích trong bài tụng ở trước chỉ cho nhãn v.v… được tên vậy. Luận chép: “Là sở y nên tùy căn nói thức” nghóa là căn là sở y; sắc, v.v… Giải thích nghóa bất cộng: Không phải sở y. Nghóa như trước nói, do các căn mắt, tai, v.v… làm sở y theo đó mà đặt tên các thức mắt, tai v.v… không gọi là các thức như sắc, v.v… Luận chép: “Và không chung giả” cho đến “và mạch nha v.v…” là phần giải thích nghóa không chung. Lời văn rất dễ hiểu. Luận Chánh Lý chép: Chẳng lẽ không phải ý thức cảnh là không chung nên gọi là pháp thức sao? Vặn hỏi này là phi lý. Pháp chung, pháp riêng gọi là cộng phi biến, cảnh không có hai thứ nhân trước. Nghóa là, chung là pháp chẳng phải chỉ có không chung; riêng là pháp chẳng phải nhiếp khắp thức. Lại pháp riêng gọi là cộng với các thứ khác, nhưng chẳng phải căn tánh sở y của ý thức cho nên nếu pháp là sở y của thức, và là không chung thì tùy theo đó mà nói Thức. Thuật rằng: nếu dựa vào pháp chung để đặt tên thì năm cảnh như sắc, thanh, v.v… cũng là pháp, ý thức cùng các thức mắt, tai v.v… cộng chung, và tự tha cộng, chẳng phải chỉ có không chung. Nếu dựa vào pháp riêng mà gọi là pháp thức thì nhiếp ý không hết. Duyên chung pháp ý thức thì ở đây không nhiếp, chỉ tứ căn mà đặt tên ý thức cùng khắp mà không chung. Lại, pháp giới bất cộng chỉ có một nghóa không chung, không có nghóa y nên không giống với căn. Như gọi tiếng trống, mạch nha, v.v… tiếng trống phải dựa vào trống; tiếng chuông phải dựa vào chuông, cùng lúc dựa vào tay, v.v… mới có tiếng chuông tiếng trống. Lại, tiếng chuông tiếng trống v.v… là cộng y nên gọi là tiếng chuông, tiếng trống. Lại, tiếng chuông là không chung y, tay v.v… là cộng y nên gọi là tiếng chuông tiếng trống. Lại, các tiếng chuông tiếng trống v.v… tuy do tay mà phát thành tiếng nhưng tiếng thì nhờ trống chứ không phải nhờ tay. Mạch nha do mầm lúa mì. Cũng nương nước, đất; mạch là biệt y nên gọi là mạch nha, không gọi thủy thổ nha. Luận Chánh Lý chép: lại, văn tụng này có nghóa khác. Bỉ là các thức như mắt tai, v.v… là sở tùy, và không chung. Vì do mắt v.v… là bất cộng nghóa là có một sinh sắc phát ra bốn sanh nhãn thức; không có nhất sanh mắt phát hai sanh thức; huống khả năng phát ra bốn sanh thức. Như vậy, giới, thú, tộc loại của thân nhãn, đều phát thức riêng, nên nói là không chung. Nói rộng ra, cho đến thân cũng như vậy. Há chẳng phải là dư sanh ý căn cũng phát dư sanh ý thức hay sao? Ở vị tử sanh Chẳng phải hoàn toàn không phát, chỉ không cùng lúc mà thôi; không một sanh ý nào cùng lúc phát khởi hai sanh ý thức như sắc, v.v… do vậy, nói rằng hai còn không có, huống chi là bốn. Như vậy, mắt, tai, v.v… là sở tùy của thức nên khi sanh về các cõi đường v.v… đều khởi lên từng thức riêng. Do hai nhân sở y và không chung nên tùy căn chứ chẳng phải tùy cảnh. Hỏi đáp về nhãn thức sinh: Hỏi: các duyên hòa hợp nên nhãn thức mới sinh, vì sao khế kinh chỉ nêu nhãn sắc? Đáp: khi nhãn thức sinh thì phải dựa vào năng lực của sở y, sở duyên, còn các pháp thì không chắc chắn. Nghóa là, các thức dùng để đi đêm không cần nhờ ánh sáng vẫn sanh. Thức đi trong nước không cần phải chờ hư không mới khởi. Con người đối với các chướng sắc như lưu ly, pha lê, v.v… cũng vậy. Thiên nhãn phát thức không cần nhờ hư không, ánh sáng. Tác ý có cả sáu thức làm duyên cộng sanh. Nhãn sắc chẳng phải duyên cộng sanh, cho nên khế kinh chỉ nêu nhãn sắc hoặc tùy theo cơ nghi hóa độ mà nói. Như trong kinh có thí dụ dấu chân voi v.v… duyên của tác ý v.v… đều được nói đầy đủ. Luận chép: “tùy thân sở trú” cho đến phân biệt như thế dưới đây là phần bảy, nói về sự đồng khác của thân sở y và chỗ nương của căn, cảnh, thức. Trong đó, trước là lấy pháp để giải thích, kế sẽ nêu riêng hành tướng của định luận. “Tùy thân sở trú” cho đến “địa vị có đồng hay không” là hỏi. Luận chép: “lẽ ra nói bốn thứ này hoặc khác hoặc đồng” là trả lời chung. Nay nêu rõ thêm ba pháp căn, cảnh, thức nếu có mặt cùng lúc với thân gọi là đồng, không có mặt cùng lúc với thân gọi là khác, cho nên luận Chánh Lý chép: nói đồng là nghóa, khi sanh ở cõi Dục dùng tự địa nhãn, thấy tự đại địa sắc, bốn pháp kia đều đồng một địa. Nếu sanh ở Sơ Tónh lự, dùng tự địa nhãn, thấy tự địa sắc thì đều chung một địa. Nói v.v… các câu khác y theo đây. Ở nhị địa bốn pháp cùng chung một địa nên gọi là đồng. Ngoài ra, các câu khác đều khác. Thân sanh ở cõi Dục, có một câu đồng; các câu khác là khác. Sanh ở sơ tónh lự, có một câu đồng, còn lại là khác. Sanh ở nhị, tam, tứ định chỉ có câu khác, không có câu đồng, bởi, ở địa trên không có năm thức, tai cũng như vậy. Hai thứ mũi, lưỡi chỉ có câu đồng, không có câu khác; hai cảnh và hai thức này chỉ có ở cõi Dục, trên cõi trên chỉ có căn, không có thức y này. Thân ở địa dưới không có thượng căn, thân căn nếu sanh, nếu sanh ở cõi Dục và Sơ tónh lự chỉ có câu đồng; sanh ở ba địa trên chỉ có câu khác. Ý căn, nếu thân bốn uẩn sanh ở địa nào tùy theo đó, đều có câu đồng câu khác. Nếu đầu tiên, theo sắc thân thì chỉ ở Ngũ địa để nói về đồng khác. Cú như lý mà suy. Nói: trên đến các cõi khác cũng nên phân biệt như vậy, đó là chỉ cho pháp. Giải thích tướng chắc chắn: Luận chép: Nay sẽ lược nói cho đến “dụng ít công nhiều” là giải thích tướng chắc chắn. Trong đó có hai: Trước là nêu tụng lược nói sau dùng văn xuôi để giải thích rộng. “Luận chép, thân nhãn sắc ba” cho đến “chỉ ở Sơ định cõi Dục”: Là nói về thông cuộc của bốn sở tại. Nói: “trong đó mắt, cho đến cuối cùng không ở dưới”: Là giải thích câu tụng “mắt không dưới thân”. Thuật rằng: ở địa dưới cho tu thượng nhãn; thượng nhãn có thể dựa vào thân ở địa dưới. Địa trên không tu nhãn ở địa dưới nên nói “không thấp hơn so với thân” nghóa là thân ở cõi trên, nhãn không thể ở cõi dưới được. Nói: “sắc thức có thế hướng về mắt, tai v.v…” ở địa dưới chứ không thể ở địa trên được, tức là nêu câu tung thứ hai (sắc thức phi thượng nhãn). Nói: “Mắt ở địa dưới không thể thấy sắc ở địa trên” nên thức ở địa trên không dựa vào mắt ở địa dưới là giải thích ý bài tụng. Nói: “sắc hướng về thức là có cả ngang, hoặc thượng, hoặc hạ” là giải thích trong bài tụng sắc đối với thức một là tất cả, nói sắc thức đối với thân, như sắc đối với thức, giải thích bài tụng hai đối với thân hai cũng thế. Nói: “nói rộng nhó giới, cho đến rộng ra như giải thích về nhãn, là giải thích câu tụng “như mắt nhó cũng thế”. Nói: “ba thứ mũi, lưỡi, than cho đến gọi đó là hạ” là giải thích câu tụng kế tam giai tự địa, thân thức tự địa dưới”. Nói: “nên biết ý giới cho đến dụng công ít nhiều” là giải thích ý bài tụng rằng, nên biết đó là bất định. Luận chép: Nói phụ đã xong: Có gồm một bài tụng nêu ba vấn đề: một là môn thức, thức đa thiểu. Hai là môn thường, vô thường, Ba là môn căn, phi căn. Cộng với hai mươi hai môn trước. “Luận chép: Trong mười tám giới cho đến “cảnh sở duyên” nói về môn thức, thức đa thiểu. Luận chép: Trong mười tám giới cho đến các cõi khác của pháp dư: Nói về môn thường, vô thường. Pháp dư tức trong pháp giới, trừ ba vô vi còn lại gọi là dư. Dư giới tức ngoài pháp giới, còn lại mười bảy giới gọi là dư giới. Luận chép: Lại trong kinh nói cho đến “có sở duyên” là dứt nói về môn: căn, phi căn. Trong đó có hai: một là dẫn hai mươi hai căn trong kinh; hai là nói thuộc về căn giới, đây là phần đầu. trong kinh nói hai mươi hai căn, ý căn đối với thân căn sẽ nói sau. Dựa theo thứ lớp của sáu xứ. Các vị đại Luận sư cho rằng: mạng căn nói sau ý căn; vô duyên căn nói sau hữu duyên căn. Nói thuộc về giới: Luận chép: Điều đã nói như thế cho đến thể đều chẳng phải căn: Là thứ hai nói thuộc về giới. Tức là trong mười tám giới, sáu căn, sáu thức hoàn toàn thuộc về căn. Năm căn là bảy sắc căn, bảy tâm giới tức là ý căn. Pháp giới nhất phần: mạng căn, tín v.v… là năm canh, căn thọ căn. Ba vô lậu nhất phần, trong ba căn vô lậu có tâm vương thuộc về ý giới các pháp tâm sở thuộc về pháp giới. Ba sau là ba căn vô lậu, nếu chúng lấy tâm sở làm thức thì thuộc về pháp giới. Nếu lấy tâm làm thể thì thuộc về ý, ý thức. Căn nam, căn nữ là một phần của thân căn nên thuộc về thân. Năm cảnh như Sắc v.v… là một phần của pháp giới, chẳng phải căn. Ngày 16 tháng 09 nhuận niên hiệu Bảo Diên năm thứ ba. Niên hiệu Bảo Diên Giác Thọ duyệt lại xong. <篇> LUẬN CÂU-XÁ SỚ <卷>QUYỂN 3 <詞>Phẩm 2: PHÂN BIỆT CĂN (PHẦN 1) Tên gọi khác nhau: Nói về nghóa căn v.v… cách đặt tên có khác nhau. “Luận Câu-xá” gọi là “Phẩm căn”. “Tạp tâm” gọi là “Phẩm Hành”. “Luận nhân minh nhập Chánh Lý” gọi là “sai khác phẩm”. Nhưng Tạp tâm kết hợp “phẩm căn” và “Thế phẩm” của “Luận Câu-xá” gọi chung là “Phẩm Hành”. “Hành” có hai nghóa: Duyên. Sở tác. Duyên hành là Nhân hành. Sở tác là quả hành, do “Tạp tâm” kết hợp thành “Phẩm Hành”. Nhân hành tức nghóa thắng dụng. “Luận Câu-xá” và căn kết hợp thành “Phẩm căn”. Lại vì tên cũ gọi là “phẩm căn”. Như luận này nói, Phẩm Thế Thứ nhất”. Tác dụng là pháp sai khác. “Luận Chánh Lý” gọi là “phẩm Biện sai khác”. Tên gọi tuy khác nhưng nghóa thì đồng. Hỏi đáp về thứ lớp các phẩm: Hỏi: Vì sao phẩm Căn nói sau? Đáp: Vì giới là tự tánh và là Bản sự, là sở duyên, cho nên nói trước, căn là tác dụng là khác nhau, là năng y cho nên nói sau. Giải thích tên phẩm: Tối thắng, tự tại, quang hiển gọi là “Căn”. Phẩm này ban đầu nói về tên cũ: “Phẩm Phân biệt Căn”. Luận chép: Từ câu “Nhân giới Như thế” cho đến câu “Căn nghóa là gì?”. Phẩm này gồm có bảy mươi bốn bài tụng, chia làm ba phần: Phân biệt căn (22 bài tụng). Phân Biệt câu sanh (27 bài tụng). Phân biệt nhân duyên (hai mươi lăm bài tụng). Lại có ba đoạn: Sáu bài tụng đầu lập ra căn, hai bài tụng kế giải thích thể tướng của căn, mười bốn bài tụng sau là nghóa môn phân biệt. Trong sáu bài tụng đầu: Một bài tụng đầu: Nói về Sư Tỳ-Bà-sa lập ra. Ba bài tụng kế: Nói về Đàm-vô-Đức lập ra. Một bài tụng kế: Nói về Đàm-vô-Đức nói lại về căn tướng. Một bài tụng cuối: Nói về sư khác lập ra. Y theo văn đầu có năm: Kết trước hỏi sau. Đáp: Nghóa căn. Hỏi lại. Nêu tụng lược đáp. Giải thích bằng Văn xuôi. Đây là văn đầu, sư Chân-đế nói: Nghóa căn là gì? Trước đã chia mười tám giới thành hai mươi hai căn, chưa giải thích nghóa căn. Căn có hai nghóa: Nghóa căn: Nghóa Danh. Nghóa Pháp môn. Danh nghóa là lập danh nghóa, pháp môn nghóa là nghóa lưu, nghóa vô lưu, v.v… Nay nói tỉ mỉ, trong đây hỏi nghóa căn. Chính là hỏi danh nghóa, hai mươi hai pháp này lấy nghóa nào mà gọi là Căn? Luận chép: Từ câu “Tối thắng tự tại” cho đến câu “nghóa Tăng thượng”: là thứ hai đáp : Nghóa căn. “Luận Chánh Lý” chép: Đây là nghóa Tăng thượng, giới nghóa hiển thành. Ý nghóa chữ giới: “Giới” là y địa, hoặc là nhẫn địa. Tối thắng tự tại là nghóa y địa. Nói rõ ràng dễ hiểu hơn là nghóa Nhẫn địa. Nói tỉ mó hơn là chữ giới có nhiều nghóa. Theo ý “luận Chánh Lý” thì tối thắng Tự Tại là y Địa giới nghóa. Nói rõ ràng dễ hiểu hơn là Nhẫn Địa Giới nghóa, “Xí thạnh quang hiển” là chữ Duyên, giúp cho hai tên y địa và Nhẫn địa. Nghóa của tối thắng tự tại sáng tỏ, dễ hiểu hơn chuyển gọi tăng thượng. Tăng thượng tức là nghóa căn “Luận Câu-xá” này nói “Tối thắng tự tại” là nghóa của y Địa chữ giới, “Quang hiển” là chữ duyên giúp cho y địa đó. Nghóa tối Thắng Tự Tại chuyển gọi là nghóaTăng thượng, nghóa tăng thượng gọi là căn. Nên “luận Chánh Lý” chép: “Nghóa Tăng thượng này là nghóa giới hiển thành. Ý này nói chung hai mươi hai căn, đối với các nhóm có, tác dụng tăng thượng. Hỏi đáp về tăng thượng: Hỏi: Các pháp đối nhau mỗi pháp đều có dụng Tăng thượng riêng, nên đều gọi là căn phải không? Đáp: Đây là cùng cực của Tăng thượng, nói riêng là nghóa thành. Như sư tử đầu đàn và trưởng thôn ấp, ở trong thôn ấp rất tăng thượng. Luận chép: Nghóa tăng thượng này ai đối với ai? Đây là hỏi lại lần thứ ba. Tụng đáp: Cho đến đều khác nhau làm tăng thượng. Thứ tư là lại đáp lần nữa. “Luận chép” đến câu “bốn không chung sự”: là Thứ Năm giải thích văn tụng, trong đó có ba: Giải thích Năm căn có bốn tăng thượng. Giải thích Bốn căn, mỗi căn có hai tăng thượng. Giải thích Mười ba căn mỗi căn đều có một tăng thượng. Đây là nêu dụng của bốn tăng thượng. Luận chép: Từ câu “Mắt, tai căn” cho đến “Văn thinh khác nhau”. Đây là giải thích hai tăng thượng: Mắt, tai. Luận chép: Từ câu “Mũi, lưỡi, thân căn” cho đến “Hương vị xúc”. Giải thích: Dụng tăng thượng của ba căn sau. Luận chép: Từ câu “Nam nữ mạng ý” cho đến Năng vi tăng thượng, kế là giải thích bốn căn đều có hai tăng thượng. Luận chép: Từ câu lại “Nam căn nữ” cho đến, hai vú, v.v… khác nhau. nữ: Đây là giải thích. Sự tăng thượng hai nam căn nữ. Sự tăng thượng của hai nam căn nữ: Luận Chánh Lý chép: Nói về sự tăng thượng của hai nam căn Một là hữu tình dị, hai là phân biệt dị. “Hữu tình dị”: Là vào kiếp Sơ loại hình của các hữu tình đều giống nhau. Khi sanh hai căn thì có loại hình nam nữ khác nhau. “Phân biệt dị”: Tiến dừng, ngôn ngữ âm thanh, hai vú, râu, v.v… được sắp bày khác nhau, có mạnh mẽ, yếu đuối khác nhau, nên gọi là “Hữu tình dị”. Y phục, trang nghiêm, có khác nhau nên gọi là “Phân biệt dị”. Nói về hoàng môn: Luận chép: Từ câu có thuyết nói đây đối với đến câu “các pháp thanh tịnh nêu thuyết khác”. “Phiến-đệ” nghóa là vô căn, căn bị tổn hoại. “Bán-trạch” nghóa là không thiến, tổn thiến “Hai hình” nghóa là có cả hai căn. Vì không căn hoặc căn bị hư hoại, nên trong nhiễm tịnh không có công dụng tăng thượng. Vô thế hoặc tổn thế nên trong nhiễm tịnh cũng không có tăng thượng. Sau có hai căn có hai phiền não, cho nên trong nhiễm tịnh cũng không có tăng thượng. Phiến-Đệ và Bán-trạch đều có chung bản tánh tổn hoại, do đó gọi là Bán tánh. Tổn hoại Phiến-Đệ Bán-trạch. Phiến-Đệ hoàn toàn không có căn, hay một phần không căn. Bán-trạch hoàn toàn không có thiến, hay có một phần thiến, các kinh luận nói Phiến-Đệ hoàn toàn không có căn, không có chút giống nhau nên gọi là Vô. “Luận Tỳ-bà-Sa” quyển chín mươi giải thích: “Người lìa dục gọi là Trượng phu”. Trong bốn trường hợp nói “Hoặc thành tựu năm căn mà không gọi là Trượng phu” như Phiến-Đệ, bán Trạch ca, đây là nghóa của phần vô căn. Chỗ khó này phần nhiều chưa có người giải thích được. Nhưng giải thích sau đây không bằng giải thích như các sư trước, sở dó như thế là vì hai căn đó tuy ở nhiễm tịnh, nhưng không có công dụng tăng thượng, được gọi là căn, nên biết có nhiễm tịnh, chẳng phải là định chứng. Hỏi tăng thượng của mạng căn: Luận chép: Từ câu “Mạng căn là hai” đến câu “Năng tục và năng trì”. Đây là giải thích hai tăng thượng của mạng căn, “Luận Chánh Lý” chép: “Mạng căn đối với hai có tăng thượng”. Nghóa là do đó nên thực thi các căn và căn khác nhau. Do đó có thì kia có, đây không thì kia không. Hoặc đối với chúng đồng phần có công năng tiếp tục và giữ gìn. Trong cõi Sắc phải có mạng căn, mới chắc chắn có chỗ sanh. Căn phát khởi từ tự địa thiện, nhiễm tâm, v.v… hoặc khởi tâm khác, chẳng phải qua đời, nên “luận Câu-xá bản dịch củ chép: “Chúng đồng phần tương ưng và chấp trì tăng thượng. Ngài Chân-đế giải thích: “Nếu sanh vào cõi người thì được ở trong loài người nên nói là tương ưng. Mạng sống khi hoại thì sanh vào đường khác, chẳng phải lại loài người. Như vậy thân này làm sao nối tiếp tồn tại được, phải có mạng căn giữ gìn mới tồn tại. Luận chép: Ý căn có hai, cho đến đều tự tại tùy hành, ở đây giải thích hai tăng thượng của ý căn. Luận Chánh Lý chép: Có thuyết nói ý căn đối với phẩm nhiễm tịnh có năng lực tăng thượng, nên nói là hai, như khế kinh nói: Vì tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm, nhờ tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh. Giải thích mười ba căn: Luận chép: Từ câu “năm thọ như Lạc v.v…” đến câu “Hỷ và ưu xả”. Giải thích: “Mười ba căn mỗi căn đều có một tăng thượng. Lạc, hỷ, tham theo đó mà tăng, khổ, ưu, sân tăng theo, xả, thọ, si tăng theo. Tám căn như Tín căn v.v… đều có thể lớn lên pháp thanh tịnh. Lạc v.v… trong thanh tịnh cũng tăng thượng, có hai nghóa, nên cũng nói: “Có thể làm cho nhiễm ô, có thể làm cho thanh tịnh. Nghóa nhiễm như trên, còn nghóa tịnh thế nào? Như khế kinh nói: “Lạc nên tâm định, khổ là Tín y theo sáu xuất ly, y theo hỷ và ưu xả. Định và Tín xuất ly đều là Tịnh phẩm. Thọ lạc và Định là tăng thượng. Thọ khổ và Tín là tăng thượng. Hỷ và ưu xả cùng với nghóa của Tín là tăng thượng. Hỷ và Ưu, xả cùng với nghóa của sáu cảnh xuất ly là tăng thượng. Luận chép: Câu “sư Tỳ-bà-Sa truyền thuyết như thế”. IV.Kết lời nói trên của Sư Tỳ-Bà-Sa. “Luận Chánh Lý” chép: “Sơ truyền thuyết rằng “hiển” lạc nói sau” Nghóa là hoặc có thể dẫn dắt nuôi thân v.v… Trình bày: “Hiển” là sư Thế Thân. Ưa thích thuyết sau. Trình bày sự lập căn: Luận chép: Có sư khác nói, cho đến câu “Thọ đoạn thực”. Câu hai dưới đây là trình bày lập ra căn của ngài Đàm-Vô-Đức. Ngài Chân-đế nói: “Kinh bộ có ba nghóa”. Phá Sư Tỳ-bà-Sa lập ra hai mươi hai căn. Ba bài tụng lập ra hai mươi hai căn. Giải thích bằng Văn xuôi . Đây là phá năm căn để dẫn dắt nuôi dưỡng thân, rằng đây là thức chẳng phải căn dụng. Luận chép: Từ câu “dụng thấy sắc v.v…” cho đến dụng tăng thượng riêng. Đây là phá nhãn v.v… vì thấy sắc v… là việc không chung. Công dụng thấy sắc v.v… là của thức chẳng phải của căn”. Tổng kết bác bỏ: Luận chép: “Nên chẳng phải do nhãn này mà thành căn, là tổng kết bác bỏ. Các pháp khác phần lớn đồng nhau, chí có khác chút ít về chi tiết, nên không phá. Luận chép: Từ câu nếu thế vì sao, là sư Bà-Sa hỏi. Như vậy cho phép ta dùng mắt dẫn dắt nuôi dưỡng, và việc không chung, nên gọi là dụng tăng thượng. Sư Kinh Bộ của ông nói nghóa ấy thế nào?” Luận chép: Cho đến tăng thượng như niết-bàn v.v… Bài tụng thứ hai đáp về lập ra căn. Luận chép cho đến đều lập làm căn: Là Giải thích: Văn bài tụng, là các căn như mắt… và các thức như mắt thức v.v… có dụng tăng thượng nên lập làm căn. Luận chép: Từ câu chẳng lẽ không phải sắc v.v… cho đến nên lập làm căn ngoại là vặn hỏi. Luận chép: Từ câu Cảnh đối với thức cho đến “đối với pháp cũng thế” là vặn hỏi chung; dụng tăng thượng là Thắng Tự Tại, Nhãn trong nhãn thức, tối thắng Tự Tại nên gọi là Tăng thượng, có hai nghóa: Cùng với nhiều sắc thức như xanh, v.v… làm chỗ nương chung, cũng có thể thức tùy theo chỗ nương của căn có sáng, tối. Vì hai nghóa này mà căn đối thức có nghóa tối thắng tự tại tăng thượng, “sắc thì không như thế, vì hai tướng trái nhau. Màu xanh là nói màu xanh làm sở duyên, không bị màu vàng làm sở duyên. Sắc có biến loại, thức không biến hoại theo. Hai việc của sắc và hai việc của căn, vì trái nhau nên không lập làm căn, cho đến ý căn cũng có hai. Thanh v.v… cũng như vậy. Luận chép: Từ câu “từ thân lại lập” cho đến “Hữu tăng thượng”: Là giải thích: Câu Tụng thứ ba, thứ tư. Luận chép: Từ câu “căn thể nữ nam” cho đến “lập riêng làm hai”. Giải thích căn nam căn nữ: Văn này: giải thích “lý do của của Căn nữ nam” tức là lấy một phần thân làm thể, hai thứ này khác chút ít với các chỗ khác của thân căn, nghóa là có thể ở tánh nam, nữ có dụng tăng thượng, nên ngoài thân căn lập hai căn riêng . Giải thích tánh nam nữ: Luận chép: Từ câu “hình loại Nữ thân ” cho đến “đối với hai tánh tăng thượng”. Là giải thích: Tánh Nam nữ và nói hai căn và hai tánh này là tăng thượng. Luận chép: Từ câu “Đối với chúng đồng phần” cho đến đều có công năng làm căn: Là giải thích: Bài tụng thứ hai. Luận chép: Từ câu “đối với chúng đồng phần” cho đến “có công dụng tăng thượng”: Là giải thích, mạng căn, ý nói trong Tạp nhiễm cho đến vô minh tùy tăng: Là giải thích dụng tăng thượng của năm thọ căn, ý nói trong sự thanh tịnh cho đến dẫn đến Thánh đạo: Là giải thích: năm căn như Tín… có dụng tăng thượng, câu “Ưng tri giả” cho đến “đều có công năng làm căn”. Đây là giải thích chữ Ưng tri trong bài tụng. Luận chép: “Từ câu ba căn vô lậu” cho đến “có Dụng tăng thượng”: Là giải thích bài tụng thứ ba. Luận chép: Nói cũng thế cho đến đều có công năng làm căn: Đây là giải thích chữ cũng như thế trong bài tụng. Luận chép: Vị tri, đương tri, căn cho đến năng Bát Niết-bàn” Đây là giải thích được các tăng thượng hậu hậu đạo Niết bàn trong bài tụng. Luận chép: Từ câu “Đẳng ngôn là hiển” cho đến “giải thoát hỷ lạc”: Là giải thích: “Đẳng ngôn” của bài tụng, hiển rõ “Lại nữa, môn hữu dị”: Là giải thích: Tăng thượng. Nói về đồng phần nhãn: “Luận Chánh Lý” chép: “Thuyết này phi lý” đồng phần kia nhãn lẽ ra chẳng phải căn (vì chẳng phải thức nương nên chẳng phải căn) Há chẳng phải lỗi này ông cũng có ư ? (Kinh bộ lại hỏi. Ông không cộng sự v.v.… lấy thấy, nghe v.v… làm tăng thượng, đồng phần nhãn kia lại không thấy sắc, nên chẳng phải căn) ta không có lỗi này, nói ở nghiêm thân có tăng thượng, nên luận này (Đồng phần nhãn kia tuy có không có ba tăng thượng khác nhưng có nghiêm thân làm công dụng tăng thượng) còn chẳng phải tất cả mắt có thể cùng biết rõ tất cả sắc. Thức từ nhân chung mà khởi, vì các mắt sát-na diệt nêu rõ các sắc thức không câu sanh. Nếu nói nhãn loại chẳng sai khác thì sắc cũng đồng loại không khác. Nếu nơi chủng loại xanh, vàng khác thì nhãn cũng phải như vậy. Có dị thục sanh và loại được nuôi lớn khác nhau (y theo đây thấy mắt màu xanh, vàng… không khác) Thức chỉ tùy theo căn có sáng, tối. Đây cũng chẳng phải nhân. Thể của thức sanh rồi mới có thể được theo căn có sáng tối (chưa sanh không thể nói tùy căn) chưa sanh làm cho sanh tăng thượng lực v.v… hễ thiếu một thứ thì không sanh (chưa sanh khiến cho sanh, hoặc sắc hoặc căn hễ thiếu một thứ nào thì thức sẽ không sanh, đây là nói căn và cảnh bình đẳng) Hoặc bị Sư Câu-xá bác bỏ, chỉ do căn chưa sanh khiến sanh có sáng, tối. Thức tùy theo mắt mà có sáng tối sanh. Ai nói thức riêng cho đến hiện rồi mới mới tùy theo ư! Lại đời hiện tại chỉ có một sát-na, làm sao có được chuyển sáng thành tối, dời tối làm sáng? Lại thức tùy căn có sáng tối, dẫn dắt nuôi thân nghóa nên cho phép ở căn, nhãn dụng nếu tăng theo phát thắng thức thì sẽ tránh được hiểm nạn, dẫn dắt nuôi dưỡng thân ở căn, nếu dụng của mắt yếu kém thì hễ phát ra thức yếu kém nào cũng không rõ được hiễm nạn, khiến thân rơi vào điên đảo, cho nên dẫn dắt, nuôi dưỡng ở căn, chẳng phải ở thức. Đàn nói: Tránh hiểm dẫn thân, do thức cứu giúp, nay lại bỏ đích thân, lập xa đâu có lầm lẫn gì. “Luận Chánh Lý” lại chép: Lại ở trong đây có chút khác nào? Môn trước đã nói các căn như nhãn thức… phát ra. Các thức như nhãn căn… và pháp tương ưng, nay trong môn này lược một phần kia, chẳng phải mình thấy, đâu đáng sanh vui mừng. Đã không có nghóa khác, không nên nói lại. Tức là ở trước tôi nói, giảm một phần kiếp, chỗ không lược thì lại nói: “Ngã nói”. Đâu đáng sanh vui mừng. Các căn- trên đây nói đồng với “Ngã nói”. Giải thích câu hỏi: Luận chép: Từ câu “Nếu là tăng thượng” cho đến “dụng tăng thượng”. Luận chủ giả lập khách chủ để giải thích vặn hỏi, trong đó có hai: Giả lập câu hỏi. Chánh giải thích câu hỏi. Từ trong câu hỏi trước, nêu nạn tông mình, kế là nêu câu hỏi của số luận. Đây là trước nêu của tông mình. “Luận Chánh Lý” chép: “Như tăng thượng nên lập làm căn. Trong các phiền não của phẩm Ái. Kiến, hai pháp thọ, tưởng có công dụng tăng thượng. Tưởng lẽ ra như thọ cũng lập làm căn. Lại các phiền não có thể tổn hoại phẩm thiện. Có dụng tăng thượng, nên thành căn thể. Lại tối thắng nên lập ra các căn. Trong tất cả pháp, Niết-bàn là tối thắng. Vì sao không lập Niết bàn làm căn? Luận chép: Từ câu “lại ngữ cụ” v.v… cho đến “có dụng tăng thượng”. Nêu căn hỏi của số luận: Đây là kế nêu nạn của số luận. Luận đó có hai mươi lăm nghóa đế. Nói hai mươi lăm đó là: Ngã: Họ chấp thường, ngã suy nghó làm thể. Tánh chỉ là thọ giả chứ chẳng phải tác giả, hai mươi lăm đế còn lại là “sở thọ dụng của Ngã”. Tự tánh lấy Tát-Đỏa, Thích-Xà, Đáp-ma làm thể, cũng gọi là khổ, vui, si cũng gọi là ưu, hỷ, ám. Ba độc này như bề tôi giúp đỡ Ngã. Nếu khi ngã muốn được cảnh thọ dụng thì vì ngã mà biến ra, lúc chưa biến thì trụ ở tự tánh, nên gọi là Tự tánh. Từ tự tánh sanh Đại, nghóa là khi ngã tư lương muốn được thọ dụng các cảnh giới. Thì ba pháp liền biết, khi chuyển động thì thể đó lớn lên, nên gọi là Đại. Từ Đại sanh ngã chấp, nghóa là Duyên theo ngã đó gọi là Ngã chấp. Từ ngã chấp sanh năm Duy lượng, gọi là Sắc, Thanh, hương, vị, xúc, đủ như trước là chín. Từ năm Duy lượng sanh năm Đại, gọi là Đất, nước, lửa, phong, không. Nói đủ như trước là mười bốn, nghóa là sắc có thể sanh lửa, vì lửa màu đỏ. Thanh có thể sanh không, vì trong hư không có âm thanh. Hương có thể sanh đất, vì trong đất có nhiều hương, vị có thể sanh nước, vì trong nước có nhiều vị, xúc có thể sanh gió, vì gió có thể xúc chạm thân. Từ năm đại sanh mười một căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tay, chân, đại, tiện xứ, tiểu tiện xứ, ngữ cụ, tức là chiếc lưỡi thịt. Nói đủ như trước là hai mươi lăm đế, nghóa là hỏa có thể sanh nhãn, lại có thể thấy sắc, hư không có thể sanh tai, lại nghe tiếng. Đất có thể sanh tỷ lại, ngửi mùi nước có thể sanh lưỡi lại có thể nếm vị. Gió có thể sanh thân, lại có thể giác xúc, năm đại đều có thể sanh ý, tay chân, đại tiện xứ, tiểu tiện xứ, ngữ cụ. Nó chấp nhục tâm gọi là ý. Tông đó chấp các pháp là thường. Như biến vàng thành vòng xuyến. Sắc vàng không đổi, vòng xuyến khác nhau. Nếu ngã muốn được cảnh thọ dụng, từ tự tánh sanh Đại, từ Đại sanh ngã chấp, Từ năm chấp sanh năm Duy lượng. Từ năm Duy lượng sanh năm Đại. Từ năm Đại sanh mười một căn, nếu khi Ngã không thọ dụng cảnh thì từ mười một căn liền nhập vào năm Đại. Từ năm đại nhập vào năm Duy lượng, từ năm Duy lượng nhập vào ngã chấp, từ ngã chấp nhận vào Đại, từ Đại lại nhập vào Tự tánh. Nay y theo năm căn tác nghiệp trong mười một căn của Tông đó làm câu hỏi; Ngữ cụ là chiếc lưỡi thịt, nói có dụng tăng thượng, tay cầm nắm có tăng thượng, chân bước đi có tăng thượng. Đại tiện xứ ở chỗ xả bỏ tiện uế có tăng thượng. Tiểu tiện xứ dâm dục việc vui tăng thượng, những thứ này đều có tăng thượng nên lập làm căn. Luận chủ lập căn: Luận chép: Từ câu các việc như thế cho đến câu “có tướng như thế”. Dưới đây một bài tụng là thứ ba, Luận chủ là Đàm-vô-Đức lập căn. Dùng ngữ cụ, v.v… các pháp còn lại không có căn tướng. Không lập làm căn. Luận chép: Cho đến hữu tình này là gốc: Là giải thích: Sở y, sáu chỗ thuộc nội là hữu tình gốc, là sở y của tâm. Ngoài sáu chỗ thì phi hữu tình gốc, phi tâm sở y. Hữu tình gốc là, trong sáu chỗ toàn là hữu tình. Ngoài sáu chỗ một phần là tình. Do sáu chỗ thuộc nội có bốn cảnh phù căn v.v… nên Căn là gốc. Luận chép: Tướng này khác nhau. Trở xuống là giải thích: Các căn khác chẳng phải nhân. Thử: Là sáu căn trên đây. Không được hữu tình này. Hữu tình vô thể, tức dùng sáu chỗ làm thể của nó. Không được nói pháp tâm tâm sở này. Tướng nam nữ khác nhau phần nhiều là sắc. Ngài Chân-đế nói: Sáu chỗ này khác nhau, làm cho trụ. Lời văn rất dễ hiểu, Đây là thành tạp nhiễm do năm thọ căn. Tạp nhiễm có hai. Tương ưng với phiền não nên gọi là Tạp nhiễm, Đây là ý căn. Vì bị duyên phiền não trói buộc, nên gọi là tạp nhiễm, đây là chung sáu căn. Luận chép: Từ câu “tịnh tư lương này do năm căn như tín căn…” Đây là nói thanh tịnh tư lương như mắt… nghóa là như Tín… năm căn. Luận chép: “Ở đây thành thanh tịnh do ba căn sau”: Ở đây có hai thứ: Nếu thể vô lậu thì gọi là thanh tịnh, tức chí có ý căn. Nếu lìa từ phiền não trói buộc là hoàn diệt, nên gọi là thanh tịnh, tức chung với sáu căn như mắt… Luận chép: Từ câu do đó việc lập căn đều rốt ráo: Kết trên thành căn. Luận chép: Cho nên không nên cho đến “dụng tăng thượng”. Ở đây nói các pháp chẳng thuộc về căn. “Luận Chánh Lý” chép: “Không nên lập tưởng v.v… làm căn. Trong các phiền não, tội ái rất nặng. Chỉ lập thọ và kia làm căn. Lỗi ái nặng vì khế kinh nói ái cùng sáu xứ làm nhân sanh. Còn tưởng chẳng lấy phiền não làm nhân sanh. Ngoài ra vì phát sanh chấp điên đảo, đã phân biệt luống dối. Tưởng giữ gìn làm cho nối tiếp. Lìa chánh đối trị không thể dứt hoại, nên nói: Tưởng này làm nhân cho kia. Thọ là nhân của ái, đều có cả hai thứ, thọ là lỗi trọng của nhân phiền não. Có cả hai nhân. Độc lập làm căn. Sư khác lập căn: Luận chép: Từ câu “lại có sư khác nói riêng về căn tướng”: Một bài tụng dưới đây là thứ tư nói về sư khác lập ra hai mươi hai căn. Hai mươi hai là kinh nói. Các sư đều không thêm bớt nó nên lập ra là ý của Luận sư cho nên các thuyết khác nhau. Luận chép: Cho đến hai mươi hai căn: Là giải thích: Bài tụng hoặc nói về chấp của các sư. Y theo sanh tử trôi lăn, hoàn diệt. Tối thắng sở y, sanh, trụ thọ dụng có tăng thượng, nên lập ra các căn. “Luận Chánh Lý” chép: “Sanh tử nối tiếp là nghóa trôi lăn. Sanh tử chấm dứt là nghóa hoàn diệt”, tức là sáu căn rốt ráo dứt diệt. Luận “Tỳ-Bà-Sa” quyển một trăm chép: “Trôi lăn” là còn thọ sanh tử, Hoàn diệt là hướng đến Niết bàn. Luận chép: Câu “sở y của Trôi lăn gọi là Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý”. Đây nói sáu căn làm chỗ nương cho trôi lăn “Luận chép”: sanh do nam nữ từ chỗ kia sanh. Đây là ý nói nghiêng về thai, sanh noãn sanh của cõi Dục. Trong đây có nạn hành chấp có dụng ở miệng, bụng. Do chỗ bất tịnh này mà tay chân không lập căn. Trong chúng sanh cũng có khi không nương vào căn nam, căn nữ. Đây cũng bất định nên chẳng phải căn” Nói sáu căn: Luận chép: “Do mạng căn trụ nên sương kia trụ”. Đây là nói mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nương vào mạng mà trụ. Luận chép: Câu “thọ dụng do năm thọ nhân kia lãnh nạp. Nghóa này nói lên thọ có tăng thượng. Luận chép: Theo sự lập ra này thì mười bốn căn trước: là Kết. Luận chép: Từ câu “trong vị Hoàn diệt” cho đến “Lập tám căn sau” cũng đứng về bốn nghóa để lập tám thứ sau. Luận chép: sở y của Hoàn diệt là năm căn Tín, tấn, niệm, định, tuệ. “Luận Chánh Lý” giải thích: “Sanh tử chấm dứt là nghóa hoàn diệt, tức là sáu căn rốt ráo đoạn diệt, đây được sở y: Nghóa là năm căn, Tín, tấn, niệm, định, tuệ. (Đây được là được trạch diệt, hoặc là sáu căn không sanh. Tức là được phi trạch diệt) vì là nhân trên hết gốc lành thêm lớn. Luận chép: Từ câu “đối với ba vô lậu” cho đến “Do thọ dụng sau” “Luận Chánh Lý” chép: Ban đầu căn vô lậu có thể sanh được việc này. Trong nhóm chánh định thì đây mới sanh. Kế là căn vô lậu giúp cho đây được trụ. Do kia nhiều thời nối tiếp khởi. Sau căn vô lậu khiến được thọ dụng hiện pháp lạc trụ. Kia đã rõ ràng. Luận chép: Căn lượng do đó không thêm không bớt: là Tổng kết thường chắc chắn. Luận chép: “Tức do duyên này mà kinh lập thứ lớp”. Đây là nói trong kinh trước nói: “sáu xứ” thuộc nội, kế nói nam nữ, mạng căn, năm thọ, năm căn (Tín, tấn, niệm, định, tuệ). Ba căn vô lậu. Không nói luận nói thứ lớp. Vì luận đối với ý căn sẽ nói ở sau mạng căn, không theo thứ lớp này. Bác bỏ ngoại đạo: Luận chép: Từ câu “Không nên ngữ cụ” cho đến “Ngữ mới thành” Trở xuống là bác bỏ ngoại đạo lập mười một căn, có giải thích là đồng, có giải thích là khác, đồng với trước không phá, khác với trước là phá. Như có thể thấy sắc không đợi học thành. Hoặc lưỡi nói có dụng tăng thượng. Nên tự có thể nói không đợi học thành. “Luận Chánh Lý” chép: “Lại nói đủ cũng không gọi là căn lỗi Bất định, lẫn lộn, thái quá. Lỗi bất định là vì sao ngữ cụ lập làm ngữ căn, có thể phát ra tiếng nói gọi là ngữ cụ. Đây là chiếc lưỡi. Như vậy thì phải tầm tứ các pháp và có thể dẫn khởi ngữ nghiệp. Các phong cũng lập làm căn, có công năng phát ra lời nói. Còn tầm tứ ở chỗ phát ngôn âm là duyên tốt. Nếu nói liễu sắc cũng do lời nói, không nên lập riêng mắt là căn. Lẽ ra không nên như vậy. Các người mù tuy nghe nói sắc, nhưng không biết các tướng khác nhau về xanh, vàng, đỏ, trắng. Luận chép: Từ câu tay chân không nên cho đến “Lập ra làm căn” Đó là bác bỏ tay chân. “Dị xứ” nghóa là vận động. “Dị tướng” nghóa là co duỗi. Văn còn lại rất dễ hiểu, trên đây là bất định, vì có lỗi tạp loạn. Luận chép: Từ câu “Xuất ra chỗ đại tiện” cho đến khởi sự vui này: Nạn trước có lỗi lạp loạn, nạn sau không có tăng thượng riêng. Luận chép: Từ câu lại cổ họng và răng cho đến “không nên lập căn”. Đây là lỗi thái quá. “Luận Chánh Lý” chép: “Lỗi thái quá kia được lập căn lẽ ra không có hạn lượng. Hỏi: Bảy mươi lăm pháp vì sao sắc chỉ có năm căn, tâm vương đầy đủ cả pháp tâm sở trong chỉ chấp bốn căn. Thọ niệm, định, tuệ. Trong thiện chỉ lấy hai pháp. Tín, và cần, trong Bất tương ưng chỉ lấy mạng căn, không chấp lấy pháp khác. Đáp: Nếu theo sự khác, thì mười ba pháp này đối với trôi lăn, hoàn diệt có thắng dụng, nên lập ra làm căn. Dụng khác chẳng có công dụng đặc biệt nên không lập căn. Nếu theo Đàm-vô-Đức thì mười ba pháp này là pháp tâm sơ y của tâm . Đây là biệt, đây là trụ, đây là tạp nhiễm, đây là tư lương, đây là thanh tịnh nên lập làm căn. Pháp khác không như vậy nên không lập làm căn. Hỏi đáp về lập căn: “Luận Chánh Lý” chép: “Các pháp đối nhau, đều có dụng tăng thượng riêng. Nên đều gọi là căn. Đáp: Tăng thượng cùng cực này nói riêng nghóa thành, Như Sư tử đầu đàn và trưởng ấp, như trước đã dẫn văn này. Hỏi: Trong đây dùng công nâng thù thắng làm nhân. Đối với quả môn tăng thượng lập làm căn, đâu có thể thân với nhân duyên đối quả mà lập cân ư? Luận chép: Từ câu Nhãn v.v… trong đây cho đến cũng sẽ nói rộng. Sáu bài tụng trên đây lập ra hai mươi hai căn. Dưới đây hai bài tụng thứ hai giải thích: Thể tướng của Căn. Trong đó có hai: Trước chỉ “đương dư cân”, sau giải thích năm thọ và ba vô lậu. Đây là phần đầu. Luận chép: Từ câu năm thọ như Lạc v.v… cho đến “Y theo chín lập ba căn”. Sau giải thích năm thọ và ba căn vô lậu. Thọ có ba thứ: Nhiếp ích. Tổn não. Phi tổn phi ích. Giải thích về thọ: Lại có hai thứ: Thân thọ, là tương ưng với năm thức. Tâm thọ, là tương ưng ý thức. Thân thọ nhiếp ích và Thứ ba thiền tâm thọ nhiếp ích gọi là “thọ lạc”, thân thọ tổn não gọi là “thọ khổ”, tâm thọ Thiền thứ hai trở xuống. Nhiếp ích gọi là thọ hỷ. Tổn não gọi là ưu thọ. Chung ở Thân tâm, chẳng phải tổn chẳng phải ích gọi là thọ xả. Luận chép: Cho đến “gọi là gốc khổ”: Là giải thích: thọ khổ. Luận chép: Từ câu “cái gọi là duyệt” cho đến “tâm duyệt gọi là lạc”: Là giải thích: Thọ lạc. luận chép: Ngay tâm này duyệt cho đến gọi là Hỷ căn: Là giải thích Thọ hỷ. Luận chép: Tónh lự thứ ba cho đến chỉ gọi là Hỷ căn. Ở đây giải thích lý do vì sao gọi Tam thiền là lạc, địa dưới dọi là Hỷ. Luận chép: Từ câu “Ý thức tương ưng” cho đến “gọi là ưu căn”: Là giải thích: Ưu thọ. Luận chép: Từ câu “Trung nghóa là phi duyệt” cho đến nên nói có cả hai: Là giải thích: Thọ xả. Luận chép: Từ câu vì sao hai căn này lập chung một căn: Là hỏi. Thế nào là vui và không vui. Ở thân ở tâm, thọ là khác nhau, chẳng vui chẳng phải không vui. Tại thân tại tâm lập làm thọ xả. Luận chép: Từ câu “Thọ này ở thân tâm” cho đến “Thân tâm hợp nhất”: Là giải thích: Chướng nạn. Luận chép: Từ câu “Thọ khổ lạc” cho đến nên lập căn chung: Là giải thích lập nên. Luận chép: Từ câu “Ý lạc hỷ xả” cho đến “Lập cụ tri căn” Đây là giải thích: Ba căn vô lậu. Trong đó có hai, trước dùng chín căn, Ở ba đường đó lập ra ba cân. Sau giải thích: Lý do được tên gọi ba căn. Đây là phần đầu. Luận chép: Ba nhân như thế do đâu mà lập: Dưới đây là giải thích tên ba căn. Trước hỏi sau đáp. Lý do gọi là căn: Hỏi rằng: Vì sao gọi là vị tri đương tri căn? Luận chép: Từ câu “Là ở thấy đạo” cho đến “gọi là vị tri đương tri”. Đây là giải thích tên căn vô lậu đầu tiên. Trí gọi là tri. Nhẫn chẳng phải Trí. Trong thấy đạo, vị khổ pháp trí nhẫn có tám đế, vị trí “đương tri hành chuyển” cho đến vị “trí khổ pháp ” có bảy vị tri đương tri hành, cho đến. Đạo loại nhẫn vị có sắc, Vô Sắc đạo đế vị tri đương tri hành. Nên mười lăm tâm đều gọi là vị tri đương tri căn. Luận chép: Từ câu “Nếu ở tu đạo” cho đến “Gọi là dó tri”. Đây là giải thích thứ hai: Tên căn vô lậu. Đến “Đạo loại trí, dó tri đế hết một vòng, chưa từng biết cảnh Thánh đế là cầu biết nên khởi Thánh đạo. Nhưng vì dứt trừ hoặc tu đạo. Nên ở cảnh bốn đế, lại thường biết rõ nên gọi là “Dó tri”. Luận Tỳ-Bà-Sa quyển một trăm bốn mươi ba chép: “khoảng tâm thứ mười sáu nên như bảy trí”, vì sao chỉ nói là Dó tri căn, Chẳng phải Dó tri mà tri. Đáp: Đây cũng nói theo phần nhiều. Nghóa là sát-na đầu tuy tương tợ bảy trí. Các sát-na sau đều khác bảy trí, nói theo phần nhiều, thì đều gọi là “Dó tri căn”. Một loại tánh, theo văn luận Câu-xá này, bảy trí trước chỉ là một sát-na. đạo loại trí nhị thừa phải có nhiều niệm, hoặc Thanh văn, nhiều thứ xuất ra phải có nhiều niệm. Y theo đây trùng tri gọi là Dó tri. Như thời đã qua gọi là “Dó khứ”, đó cũng như thế. Theo văn Luận này thì vị tri đạo là hạ, dó tri đạo là thượng. Trước là hạ, sau là thượng, Nhẫn là hạ, trí là thượng. Trước là hạ, sau là thượng. Tuy bảy trí trước tức đối với “Tri” nói “Dó tri”, không được gọi là “Dó tri”. Đạo loại nhẫn sau gọi là “Vị tri” nên gọi Dó hạ trước thượng, Đệ bát thượng vô hạ gọi là Dó tri. Tùy đạo loại Trí không thể tự tri, đến niệm thứ hai mới là vị trí tri. Như một hạt bụi Tu di, một giọt nước biển, lại từ ban đầu tác pháp chẳng phải y theo sát-na. Hỏi: Trong tu đạo quán đế là dứt phiền não, và là luyện căn hiện pháp lạc, vì sao chỉ nói là dứt phiền não. Đáp: Sơ quả đạo sau chưa hẳn khởi thắng quả đạo, Thắng quả đạo đó tức là gia hành của dứt hoặc. Lại luyện căn v.v… thì e phiền não lui sụt là hiện pháp lạc cũng là thắng Tấn của dứt hoặc, chỉ nói nghóa dứt hoặc tức là nhiếp cái khác. Do đó luận sư chỉ nói dứt hoặc. Luận chép: Từ câu “ở đạo vô học” cho đến, cho đến nói rộng. Giải thích tên gọi cụ tri căn: Đây là giải thích tên gọi cụ tri căn, “Tri kỷ dó tri” chỉ nói Tận trí, tức là độn căn, nghóa là được tận trí “Tri Ngã dó tri khổ, tri tập, hoặc được tận trí. Tri ngã dó tri khổ, dứt, tập. Hoặc tập thử tri dó thành tánh” nghóa là được tận trí, sanh trí vô. Đây là lợi căn được hai trí đó. “Ngã dó trí khổ” là Tận trí không còn biết nữa là trí vô sanh. Cho đến nói rộng là ta đã dứt tập không còn dứt nữa. “Luận Chánh Lý” chép: “Thứ ba cụ tri căn thể tri. Kỹ dó tri” nên gọi là “Tri”. Học tập tri thành tánh. Hoặc có thể hộ tri, nên sớ sao giải thích rằng: “Nghóa là đạo vô học”. “Ngã dó tri v.v…”, gọi là tri kỷ dó tri. Đây gọi là Tri Tập dó thành tánh, là ban đầu được gọi là Tận tri. Hoặc có thể hộ tri, là hậu vị tức trí vô sanh. Thành tựu mà có thể giữ gìn nên gọi là cụ. Luận Câu-xá cũng chép: Vì ban đầu là hữu trí, sau tập quen thành tánh, Năng hữu Năng tập này gọi là “cụ tri”, cụ tri gia căn gọi là “cụ tri căn”. Xét, ý nghóa hai bộ luận này có khác nhau. Nếu luận đó lấy tuệ của ba đạo, gọi là vị tri dó tri tức đó là căn. Y theo đồng giải thích là căn, đó tức là nghóa căn đều chỉ là tuệ. Nếu ý của Câu-xá thì ba tên gọi kia nhân có thể tu hành, theo y só thích, tất cả căn đó gọi là bỉ căn, tức gồm đủ chín pháp. “Luận Chánh Lý” chép “Dùng chín căn tương ưng hợp thành việc này, nên tám thứ như ý v.v… cũng được gọi bằng tên này, “Tỳ-bà-Sa” quyển bảy mươi lăm pháp phế lập sợ rườm rà nên không trình bày. Nhưng chẳng qua đây là trước lập ra môn, Không có nghóa khác thì không lập làm căn. Luận chép: Từ câu “tất cả căn kia” cho đến “đương tri căn” là tổng kết tên ba căn trước. Phân biệt các môn: Luận chép: Từ câu đã giải thích như thế cho đến “có bao nhiêu vô lậu”. Dưới đây thứ ba có mười bốn bài tụng phân biệt các môn. Trong đó có hai: Sáu bài tụng đầu: Chia làm sáu môn, tám bài tụng sau y theo riêng các nghóa. Một bài tụng đầu chia ra lậu, vô lậu. Chỉ có vô lậu. Chỉ có hữu lậu. Có cả hữu lậu, vô lậu. Luận chép: Cho đến “tên khác thể đồng”. Đây là nói chỉ có vô lậu. Luận chép: Từ câu “bảy hữu sắc căn” cho đến “thuộc về Sắc uẩn”. Đây là nói chỉ có hữu lậu, giải thích nghóa này, rõ ràng bất tận. Vô lậu vô biểu cũng thuộc về sắc uẩn là vô lậu. Nói về hữu lậu vô lậu: Luận chép: Từ câu “Ý lạc hỷ xả” cho đến “Hữu lậu vô lậu”: Thứ ba là nói về lậu, vô lậu. Luận chép: Từ câu có sư khác nói cho đến “Ngoại dị sanh phẩm”. Đây là nêu chấp của Hóa Địa Bộ, tức là Bà-sa Tỳ Bà Xà-Ba-Đề. Hán dịch là phân Biệt luận sư. Họ dẫn kinh chứng minh năm căn như Tín căn v.v…chỉ là vô lậu, vì thế kinh chỉ nói Thánh sở hữu, nghóa là nói A-la- hán cho đến Dự lưu hướng có năm căn như Tín căn… này nên biết là vô lậu. Lại, Đức Thế tôn nói “Nếu hoàn toàn không có năm căn như Tín… ta nói người đó trụ ngoài Dị sanh phẩm. Lại văn dưới hoàn toàn không có năm căn trụ ngoài Dị sanh phẩm, nên biết là vô lậu, tuy dẫn trùng văn nhưng nghóa chỉ là một. Bậc Thánh có phàm phu không. Luận chép: Từ câu “đây chẳng phải thành chứng” cho đến nên nói lời này. Dưới đây là Luận chủ bác bỏ có hai ý: Thông Hóa Địa Bộ dẫn văn chứng thành vô lậu. Tự dẫn văn kinh chứng chung hữu lậu. Đây là phần đầu. Đây chẳng phải thành chứng. “Đều chẳng phải nương y căn vô lậu mà nói lời này”. Giải thích: Sở dó năm căn như Tín… có cả hai thứ; đó là hữu lậu, vô lậu. Thuyết đó nói bậc Thánh có phàm phu không. Nương vào căn vô lậu nói không nương vào Hữu lậu năm căn như Tín… Là nói lý do. Trước lập ra bậc Thánh. Chỉ có hữu vi vô lậu, chẳng phải vô vi hữu lậu. Kinh đó dùng năm căn như Tín căn… lập ra bậc Thánh. Nên biết chỉ nói theo căn vô lậu. Trước nói quả có. Là nói theo căn vô lậu nói. Trước nói quả có nương vào căn vô lậu. Đã nói, nếu hoàn toàn không có năm căn như Tín…., thì nên biết chỉ nói vô lậu. Hoặc các Dị sanh cho đến ngoại Dị sanh phẩm. Luận chủ giải thích thứ nhất: Lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “lại khế kinh nói” cho đến “cũng có cả hữu lậu”. Luận chủ dẫn kinh làm chứng năm căn như Tín… Có cả hữu lậu. Khi Phật chưa xoay bánh xe pháp thì chưa có bậc Thánh. Lúc đó đã nói căn cơ hữu tình thượng, trung, hạ. Cho nên biết nói năm căn như Tín… hữu lậu: là Luận chủ dẫn kinh làm chứng: Luận chép: Từ câu lại Thế tôn nói, cho đến “Phẩm loại quán sát”. Luận chủ dẫn kinh thứ hai, làm chứng có cả năm căn như Tín căn…. Hữu lậu. Nếu chỉ có vô lậu. Như vậy làm sao thật biết là “Tập, một, vị, quá, hoạn”. Bốn hành quán này là hữu lậu. “Tập” có công năng chiêu cảm khổ, “Một” là chìm đắm “Vị” là vị ái, “Quá hoạn” là khổ, “Xuất ly” là diệt, văn còn lại rất dễ hiểu. Luận chép: Cho nên năm căn như Tín căn… có cả hữu lậu, vô lậu, là Tổng kết làm chứng. Luận chép: Từ câu đã nói như thế cho đến “có mấy phi dị thục”. Nói về môn dị thục phi dị thục: Sau đây bài tụng thứ hai nói về môn dị thục, phi dị thục”. Luận chép: Chỉ có một mạng căn chắc chắn là dị thục. Định này là Tông. Trong hai mươi hai căn. Chỉ có một mạng căn chắc chắn là dị thục. Chỉ ngăn dứt chung các căn khác, định ngăn dứt chung chẳng phải dị thục. Luận chép: Từ câu “Như thị giả” cho đến “cái gì là thục. Ngoại đạo vặn hỏi rằng”. Nếu chắc chắn là dị thục thì lưu lại nhiều thọ hành, Do định thứ tư v.v… kéo dài mạng căn này, tức mạng căn này là thùy dị thục. Luận chép: Từ câu “Như luận này nói” cho đến “Thọ quả dị thục”. Đây có hai ý: Dẫn luận này chứng minh có lưu thọ hành. Dẫn luận này trả lời câu hỏi ở trước. “Lưu thọ hành thùy dị thục”: Là Dẫn luận này làm chứng, tức là trước cảm phú v.v… nghiệp dị thục, vì sao Tỳ-kheo lưu nhiều thọ hành. Hỏi: “Lưu pháp” nghóa là A-la-hán, phân biệt với hữu học, thành tựu thần thông, phân biệt tuệ giải thoát, được tâm tự tại, phân biệt thời giải thoát. Hoặc đối với tăng chúng, hoặc đối với người khác, phân biệt với nhân khác. “Vì các mạng duyên” cho đến tùy phần bố thí. Phân biệt vật khác, thí rồi phát nguyện. Phân biệt với không nguyện, tức nhập vào định thứ tư v.v… phân biệt với định khác “xuất định rồi cho đến đều chuyển, chiêu cảm quả dị thục” do năng lực của bố thí, thiền định có thể chuyển sự chiêu cảm đó. Do bố thí thiền định chuyển, trước là bất định dị thục Phú, khiến nó chiêu cảm quả dị thục ngày nay, hoặc do bố thí thiền định nguyện này khiến nó kéo dài nghiệp bất định. Hỏi: Làm sao biết được chẳng phải do ngày nay bố thí hiện tại chiêu cảm quả thọ. Đáp: Có nhiều văn làm chứng. Luận Bà-Sa quyển một trăm hai mươi sáu chép: Hỏi: Lý không có quả dị thục Phú nên thành quả thục Dị thọ. Cớ sao lại nói nghiệp dị thục Phú thì chuyển, chiêu cảm chịu quả dị thục. Đáp: Không chuyển quả thể, có chuyển nghiệp lực, nghóa là do bố thí, định lực bờ mé chuyển sanh nghiệp dị thục phú, chiêu cảm chịu quả dị thục. Tuy đều có thể chuyển, mà bây giờ không nhìn lại quả Phú, Kỳ thọ quả. Theo văn luận này. Thi vi có thể chuyển không nói chánh cảm. Có sư khác nói: có nghiệp trước chiêu cảm chịu quả dị thục. Nhưng có tai chướng. Do nay bố thí sức định bờ mé, tai chướng kia diệt thọ dị thục khởi. Tuy đều có thể chuyển mà ngày nay không nhìn lại, quả Phú, quả kỳ thọ. Theo văn luận này thi vi có thể diệt, việc làm là nói có nghiệp trước chiêu cảm chịu quả dị thục. Nhưng không chắc chắn. Do nay bố thí định lực bờ mé, khiến chiêu cảm chịu nghiệp chắc chắn và quả. Theo văn Luận này. Thi vi có thể chắc chắn, lại có khi muốn do thí định. Nên dẫn lấy túc thế tàn thọ dị thục. Do nay bố thí định lực bờ mé, dẫn khiến hiện tiền. Định lực không thể nghó bàn khiến dứt lâu mà lại nối tiếp, y văn luận này, cũng do thí định dẫn ra, y theo bốn giải thích trên. Bốn giải thích: Giải thích thứ nhất: Do bố thí, định lực bờ mé chuyển sanh nghiệp dị thục phú. Chiêu cảm chịu Quả dị thục. Theo văn luận này. Ở trong tăng chúng, thì vì chuyển nghiệp nhân. Chẳng tự chiêu cảm lấy, nhưng nay ban đầu thì luận hợp với Câu-xá này. Câu: chuyển nghiệp Phú, chiêu cảm lấy thọ quả. Sư thứ hai giải thích: Có nghiệp trước chiêu cảm lấy thọ quả dị thục. Nhưng có chướng. Đây cũng dung là nghiệp bất định. Vị Sư thứ ba nói: có nghiệp trước chiêu cảm chịu Quả dị thục, nhưng không chắc chắn. Vị sư thứ tư giải thích: Do bố thí thiền định, nên dẫn lấy Tàn thọ dị thục đời trước. Ba vị sư trên giải thích đều trái với luận Câu-xá này. Luận Câu-xá chép: “Khi người kia có thể cảm ghiệp dị thục Phú nthì đều chuyển chiêu cảm chịu Quả dị thục. Ba vị sư sau này đều không nói chuyển nghiệp Phú, chỉ nói thọ nghiệp có chướng, Bất định, tàn quả, nên biết chẳng phải giúp cho luận này. Luận chép : Từ câu lại có khi muốn khiến cho đến “Dẫn chấp thọ dụng”. Đây là nhà Tỳ-bà-Sa thứ tư. Luận chép: Từ câu “Thế nào là Bố-sô” cho đến “quả dị thục Phú”. Giải thích xả thọ hành: Đây là giải thích: Thọ xả hành, y theo thọ xả hành muốn thọ xả hành đều thực hành bố thí này v.v… chắc chắn biết không phải chuyển hiện thí nghiệp chiêu cảm chịu. Khiến chiêu cảm lấy phú. Vốn muốn chuyển thọ xả nghiệp, khiến chiêu lấy phú quả. Muốn khiến loại thọ, nay cùng tạo thọ nghiệp khiến chiêu cảm phú, đối với thọ xả hành có dụng gì ư? Nên biết. Trong lưu thọ, thực hành bao nhiêu bố thí chỉ là chuyển lực, không chiêu cảm hiện quả. Hỏi: Như vậy, làm sao bố thí? Đáp: “Tỳ-bà-Sa” chép: “Hỏi: Lưu thọ hành làm do ai dẫn? Là do bố thí hay định lực? Nếu do năng lực bố thí thì không nên nhập định. Nếu do năng lực định thì không nên thực hành bố thí, có chỗ nói do bố thí. Nói như vậy đều do hai thứ. Tuy thường hành thí, hoặc không chắc chắn. Lưu thọ hành cuối cùng không thể dẫn thọ quả. Tuy thường nhập định hoặc không hành thí. Lưu thọ hành cuối cùng không thể dẫn thọ quả. Nhưng năng lực bố thí có công năng dẫn định lực khiến chắc chắn. Do đó nên nói đều do hai thứ, y theo văn luận trên, do thí mạng duyên có thể dẫn quả khứ chiêu cảm nghiệp phú, cảm chịu quả. Luận Tỳ-bà- Sa quyển một trăm hai mươi sáu giải thích thọ xả hành có sáu sư giải thích. Hỏi: Lý không thọ Quả dị thục nên thành quả dị thục Phú. Vì sao thọ nghiệp dị thục tức chuyển có thể chiêu cảm quả dị thục Phú. Đáp: Có ba Sư lưu thọ như trước; chỉ nói thọ phú có khác, đều nói do năng lực của bố thí, thiền định. Sư thứ tư nói: “ có nghiệp trước chiêu cảm quả dị thục Phú, thô mà chẳng diệu. Do nay bố thí, định lực bờ mé. Khiến hoặc thô nghiệp chiêu cảm quả tốt đẹp. Nghóa là trước kia dẫn trường thời thô quả. Nay do bố thí: Định lực, nguyện lực khiến kia chiêu cảm Quả tốt đẹp bây giờ. Giải thích thứ năm: Lại có khi muốn khiến dẫn tàn Phú nghiệp dị thục, như giải thích thứ tư về Lưu thọ. Luận Tỳ-bà-sa chép: Hỏi: Nếu các hữu tình thọ quả, phú quả, chắc chắn là có thể lưu, xả. Nếu đều chắc chắn làm sao lưu, xả. Đáp: chỉ làm phần hạn, không lưu việc xả. Thí như thầy thuốc đã ghi hạn sử dụng không được quá. Đây cũng nên như vậy. Y theo luận này, Lưu thọ xả hành là nghiệp Phú và nghiệp thọ đều bất định, nên có thể lưu, xả. Nếu chắc chắn thì chỉ là phần giới hạn không thêm bớt. Còn theo văn đó thì Tăng thọ hành là có công năng bao gồm chẳng phải bố thí hiện tại, câu văn rất rõ ràng. Tôn giả Diệu Âm thứ sáu đã giải thích như “Luận Câu-xá”. “Luận Chánh Lý” chép: Lại không phân biệt. Trong các căn này chỉ có một mạng căn chắc chắn là dị thục. Vì sao mạng căn này được vô phân biệt. Định quả mạng căn chẳng phải dị thục. Mạng căn như thế cũng là dị thục. Đắc định bờ mé, ứng quả Tỳ- kheo trong ở tăng chúng, hoặc người khác bố thí tư quả. Nghóa là ngã có công năng chiêu cảm nghiệp dị thục Phú. Nguyện đều chuyển chiêu cảm chịu quả dị thục. “Luận Câu-xá” chép: “Tương đương với sự giải thích ban đầu của “Luận Tỳ-bà-sa”. Theo Luận Tỳ-bà-sa quyển bốn giải thích: Trước giải thích và sau lập“Do thí có công năng dẫn định, có thể chắc chắn, tức là tử của hiện thí. Dẫn cựu nghiệp khởi nên gọi là quả thi ân, giải thích này phù hợp với giải thích đầu của Tỳ-bà-sa. Ba giải thích của ba sư Tỳ-bà-sa đều trái với luận Câu-xá, không đáng tin cậy. Nếu không như thế thì trái với giải thích của Bà-sa. Lại trái với thọ xả hành của luận này. “Luận Chánh Lý” quyển hai, giải thích đồng với Tỳ-bà-sa quyển ba. Giải thích thứ ba đồng với Tỳ-bà-sa quyển bốn. Trong luận Du-già Sư Địa và luận Chánh Lý sao chép rằng: “Luận Chánh Lý và Luận Câu-xá giải thích đều sai, “Tát-bà-đa” thì đúng nghóa. Ở đây dẫn nghiệp bất định làm chính, do không chấp nhận mạng căn làm quả hiện nghiệp. Dẫn vô biên vị soạn bà-sa quyết trạch rằng: “Như nói một pháp là nghiệp quả chẳng phải quả hiện nghiệp, nghóa là mạng căn. Lại không cho phép một nghiệp cảm, nhiều thân. “Luận Du-già Sư Địa” chép: “Nhưng chưa rõ chỗ sâu xa nên càng phải suy nghó điều đó. Nay rõ ràng là Hữu Bộ mạng Căn Định hiện quả. Không chấp nhận cho một dẫn nghiệp dẫn quả nhiều đời. Cũng không chấp nhận cho tạo nhiều dẫn nghiệp, cùng cảm trong một đời. Nay lưu thọ này nếu giải thích chung, hoặc là y theo nguyện lưu thọ, tức là chuyển quả phú ở trước nói tiếp mạng căn hôm nay, tức có hai nghiệp cảm: Một đời hoặc nói nay chiêu cảm mạng căn bất định kéo dài mạng căn, khác với nguyện, nay dùng hai nghóa này giải thích. Lấy định, nguyện và lực thi ân kéo dài nghiệp bất định lưu thọ được dài. Hỏi: Nếu vậy thì chẳng lẽ khác nhau với nguyện? Đáp: Do nguyện nghiệp phú cảm chịu quả nguyện này mới kéo dài nghiệp bất định. Nếu dùng mạng duyên thí, v.v… thì mới có thể kéo dài. Chuyển nghiệp Phú, khiến chiêu cảm chịu quả. Hỏi: Như vậy không phải một đời có nhiều dẫn nghiệp và không lấy cùng quả ư? Đáp: Không chấp nhận hai dẫn nghiệp cùng thọ một đời. Do thí nguyện lực giúp không thể nghó bàn, cho nên chuyển chẳng chấp mãn nghiệp, khiến chiêu cảm chịu quả. Nhưng không phải một đời mà dẫn nhiều nghiệp quả như sắc là ngại. Chung sức không thể nghó bàn nên khiến cho vô ngại. Nếu không như vậy. Vì sao luận này nói nghiệp dị thục Phú thì đều chuyển chiêu cảm chịu quả dị thục. Nếu nói thí tư là dẫn chiêu cảm quả hiện tại, thì đây có nhiều sai lầm. Trái với Tỳ-bà-sa tăng thêm, xả bỏ. Một đời nhiều dẫn nghiệp, trái với văn thọ xả hành, trái với vô biên Trụ quyết trạch rằng: “Một pháp là nghiệp quả chẳng phải quả hiện nghiệp, nghóa là mạng căn. Lại không chấp nhận một nghiệp chiêu cảm nhiều thân. Nếu dẫn cảm nghiệp Phú, chiêu cảm thân này. Đây là nhiều nghiệp cảm quá một đời. Nhưng trong hai giải thích này thì nên chọn lấy giải thích sau. Thuận theo luận này, Tôn giả Pháp Thắng nói mạng căn này chẳng phải dị thục. Luận đó nói có mười ba căn, đều có cả hai thứ. Đây là trái với luận này một căn chẳng phải nghiệp là dị thục, chín căn chẳng phải nghiệp, chẳng phải dị thục mười hai bất định, có người giải thích luận. Dẫn ý luận này, ý của Tông này nói: Vì khi bố thí không có tham tương ưng với tư duy. Chính là có công năng chiêu cảm hiện mạng căn dị thục. Vì định bờ mé v.v… là duyên chuyển nghiệp Phú làm cho chiêu cảm chịu quả. Đây là hiện nghiệp có công năng chiêu cảm mạng căn hiện tại. Đây giải thích là định. Hỏi: Đồng phần có hiện cảm hay không? Mạng và đồng phần cái nào chung, cái nào riêng? Giải thích một: Đồng phần là chung, mạng căn là riêng, Đồng phần chẳng phải hiện cảm, Mạng căn gồm cả hiện cảm. Do chung, riêng khác nhau. Hiện không hiện khác nhau, nên đồng phần dài mạng căn ngắn thì có thể kéo dài, còn đồng phần cũng ngắn thì mạng căn không thể kéo dài. Luận này chép: “Chuyển chiêu cảm chịu quả. Do đó mà biết. Hiện và gồm cả chiêu cảm mạng căn. Dưới đây luận chép: Bốn, nghiệp được câu tác, dẫn đồng phần chỉ có ba bậc. Lại dẫn luận Tỳ-bà-sa quyển 14 nói ba thuyết. Tỳ-bà-sa quyển 32 chép: Mạng căn chúng đồng phần là lôi kéo dẫn quả. Giải thích rằng: Dẫn nghiệp chẳng phải chỉ chiêu cảm đồng phần chung, cũng có thể chiêu cảm cả mạng căn riêng. Pháp sư Đàn nói: Cựu dịch là Tổng, Tân dịch là Dẫn, Cựu dịch là Biệt, Tân dịch Mãn. Dẫn, Mãn, Tổng, Biệt là tên khác của mắt mục. Dẫn nghiệp gồm cả Biệt mạng, há chẳng phải lỗi Dẫn mãn lẫn lộn ư? Giải thích thứ hai: Đồng phần là “chung”. Mạng căn là “riêng” chỗ này đồng với giải thích thứ nhất, nhưng nói có khác. Đều cho phép hiện cảm là do nghiệp lực. Dẫn sư thứ ba của Tỳ-bà-sa, bốn nghiệp gồm cảm chúng đồng phần. Giải thích thứ ba: Đồng phần là chung, Mạng căn là riêng đồng với giải thích một, đều gồm cả hiện cảm, đồng với giải thích thứ hai. “Khác nhau” tuy chung riêng khác nhau, nhưng đều gồm cả nghiệp cảm hiện tại. Dài bằng với dài, ngắn bằng với ngắn. Kéo dài đồng với kéo dài, rút ngắn đồng với rút ngắn. Giải thích bốn: Đồng phần chẳng phải hiện cảm. Mạng căn bao gồm hiện cảm. Đồng với giải thích một. Nói cách khác, cả hai đều dẫn Tỳ-bà-sa quyển ba mươi hai. Giải thích năm: Đều gồm cả hiện cảm, đồng với giải thích thứ hai. Cả hai đều là chung, đồng với giải thích thứ tư. Nói khéo là hoặc kéo dài đồng phần, hoặc kéo dài mạng căn. Giải thích sáu: Đều gồm cả hiện cảm, đồng với giải thích thứ hai. Cả hai đều là chung, đồng với giải thích thứ tư. Nói “Sai khác” là đã đều gồm cả hiện cảm, còn đồng là chung. Dài thì bằng với dài, ngắn thì bằng với ngắn. Kéo dài thì đồng với kéo dài, rút ngắn thì đồng với rút ngắn. Tuy có sáu giải thích, nhưng giải thích ban đầu là hơn. Chẳng phải chỉ thuận theo nhiều văn luận, cũng là ở lý hay. Nói rõ hơn Đại sư Ấn Quang đã dẫn. Luận chép: Bấy giờ, kia năng cảm nghiệp dị thục Phú thì đều chuyển chiêu, thọ quả dị thục”. Nghóa là chuyển nghiệp hiện thí tự là được chuyển nghiệp. Chiêu cảm hiện mạng căn. Trái với giải thích của “Tỳ-bà-sa” quyển bốn và nghóa chuyển về được chuyển. Gồm trái với văn thọ xả hành, như đã trình bày trên đây. Cũng trái với tự giải thích. Thí tư chiêu cảm mạng căn. Sao lại dùng định, nguyện, mà chuyển. Nói mạng là mãn. Lại trái với Tỳ-bà-sa quyển ba mươi hai và “Luận Chánh Lý” quyển mười sáu, như sẽ trình bày dưới đây. Lại nói mạng căn và đồng phần đều có thể làm cho sáu xứ thời gian trụ dài, ngắn. Không hiểu được ý luận như đã trình bày ở trước. Hỏi: Mạng và đồng phần, cái nào dẫn quả? Đáp: Tỳ-bà-sa quyển 32 chép: “Lại, mạng căn, chúng đồng phần là dắt dẫn quả, “Luận Chánh Lý” quyển mười sáu chép: “Muốn ý nghiệp dẫn mạng căn, chúng đồng phần”. Lại chép: “Thân nghiệp và ngữ nghiệp chắc chắn không thể dẫn mạng căn và chúng đồng phần”. Không như vậy thì trái với Khế kinh, Kinh chép: “Bị Liệt giới từ dẫn ở đây nói muốn có mạng căn, chúng đồng phần”. Lại nói: “Lại chẳng phải thứ lớp mỗi cực vi dắt dẫn mạng căn và chúng đồng phần. Một tâm khởi. Câu văn này của “Luận Chánh Lý” và “Tỳ-bà-sa” quyển ba mươi hai đồng nhau, đã có chánh văn nói mạng là dẫn, không có văn nói mạng là mãn, không thể y nghóa nói: Mạng là mãn mà trái với chánh văn. Hỏi: Như vậy vì sao luận “Tỳ-bà-sa” quyển 114 giải thích: “Bốn nghiệp ba thuyết”. Hai nghiệp sanh sau chiêu cảm chúng đồng phần và mãn, hiện và bất định cảm mãn, chẳng phải chúng đồng phần. Ba là chiêu cảm chúng đồng phần và mãn, trừ hiện. Hiện có thể chiêu cảm. Mãn chẳng phải chúng đồng phần. Bốn có công năng chiêu cảm chúng đồng phần và mãn. “Tỳ- bà-sa” đối với Mãn nói Chúng đồng phần, không nói mạng căn. Nên biết mạng chỉ là mãn. Đáp: Văn kia nói: “Bốn nghiệp chiêu cảm quả dẫn, mãn khác nhau. Trong dẫn nêu chúng đồng phần. Mạng có thể xếp vào đồng. “Tỳ-bà-sa” quyển ba mươi hai chép: “Chánh văn nói chúng đồng phần, mạng căn là quả nào? Nói đủ là cả hai đều dắt dẫn quả. Trong bốn nghiệp là y theo nghóa, Tỳ-bà-sa quyển 32 và “Luận Chánh Lý” là chánh văn, không được giải thích chánh văn theo nghóa chuẩn. “Luận Câu-xá” chép: “Dẫn đồng phần chỉ có ba”, tức là nghóa của sư thứ hai, do có dẫn mạng căn và đồng phần nên nói “Dẫn đồng phần muốn phân biệt với mạng căn”. Nếu chỉ đồng phần là dẫn, nhưng lẽ ra nói dẫn, sao lại dùng đồng phần? Hỏi: “Mạng căn và đồng phần đều là dẫn quả, vì sao chỉ nói lưu xả mạng hành, không nói lưu xả đồng phần”. Đáp: Hai dụng khác nhau. Nên luận chép: “Một đường sanh các loài hữu tình có nhiều thân hình các căn nghiệp dụng và ăn uống tợ nhân lẫn nhau. Luôn cả tướng lần lượt nhân ham muốn vui, gọi là chúng ta đồng phần nên có pháp riêng để chuyển noãn, thức nối tiếp trụ nhân gọi tên là thọ. Lại mạng căn có dụng tăng thượng, nghóa là có thể khiến cho chúng đồng phần nối tiếp trụ. Y theo đây nên biết kéo dài và rút ngắn là mạng căn không phải chúng đồng phần. Luận chủ giải thích: Luận chép: Từ câu “Tôn giả Diệu Âm” cho đến “thọ xả hành”, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu nên nói như thế cho đến “đều là dị thục”. Đây là nói Luận chủ giải thích. “Luận Chánh Lý” bác bỏ rằng: “Mà kinh chủ nói do định lực cao siêu dẫn lấy các đại chúng căn chưa hề trụ phần thời thế”. Như thế mạng căn chẳng phải dị thục câu nói này vô lý. Vì sao? Vì họ chỉ nói các căn đại chúng trụ thời thế phần gọi là mạng căn. Như sau sẽ phá. Nếu chấp nhận như thế tùy chấp đó là nuôi lớn đẳng lưu tánh, đều không phải lý và không nên chấp là tánh nuôi lớn. Nó có thể giữ gìn quả dị thục, dị thục được giữ gìn rồi chuyển hết. Không nên dị thục nối tiếp chặt rồi chỉ có nuôi lớn, mắc lỗi thái quá. Cũng không nên chấp là tánh Đẳng lưu. “Nhãn v.v… không khác với tánh Đẳng lưu. Vô ký chẳng phải quả Thiện đẳng lưu. Còn giới lẽ ra thành lỗi lẫn lộn. Cũng không nên chấp là tánh dị thục. Định chẳng phải nhân của dị thục cõi Dục. Còn kia là tự chấp nhận việc như thế. Nhưng lời đã nói mê lầm khó hiểu. Nhậm vận chỉ ra. Kia gọi pháp nào mà nói mạng này chẳng phải dị thục? Giải thích lý do lưu thọ hành xả thọ hành: Luận chép: Từ câu “từ luận sanh luận” cho đến hai thứ kham năng”. Là giải thích lý do lưu thọ hành. Nên biết. Luận chép: Từ câu “lại vì nhân duyên gì” cho đến “Du như xả bỏ các thứ bệnh”: Là giải thích: Lý do thọ xả hành. Lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu trong đây nên biết cho đến “vô phiền não”: Là giải thích: Lưu thọ xả, xứ, người v.v… “Xứ” chỉ cho ba châu, “đường” là chỉ cho người. “Y” chỉ cho nam, nữ. “Căn” chỉ có bất thời giải thoát. “Tuệ” câu giải thoát, chỉ cho đều giải thoát, được bờ mé định của các A-la-hán. Phân biệt vị, do trong thân kia có định tự tại. Phân biệt với độn căn, không phiền não, phân biệt với hữu học: Luận chép: Từ câu “Kinh nói Thế tôn” cho đến “do đây tạm trụ, gọi là mạng hành”. Đây là giải thích hai tên khác nhau là tuổi thọ hành trong kinh lời văn rất dễ hiểu. Giải thích Đa mạng thọ: Luận chép: Từ câu nhiều lời để hiển bày cho đến không nên nói hành: Là giải thích: “Đa mạng thọ” nhưng có ba giải thích. Giải thích một: Đây là giải thích Mạng thọ lưu xả nhiều niệm chẳng phải một sát-na có nghóa lưu, xả. Nên Bà-sa chép: “Nhiều lời hiển bày: Sở lưu, sở xả, chẳng phải một sát-na, hành nói là hiển bày sở lưu, sở xả là pháp vô thường. Giải thích hai: Hữu bộ giải thích: “Có thuyết nói nhiều lời này là ngăn chấp của Chánh Lượng bộ, kinh Nhất Mạng Thọ thật thể, trụ trong thời gian dài. Lúc mới khởi gọi là Sanh. Cuối cùng gọi là diệt, trung gian gọi là Trụ, Dị. Hành nói là hiển lưu, xả nhiều niệm. Mạng hành, thọ hành, niệm niệm thể khác, chẳng phải kinh Nhất Mạng Thọ Thật Thể”. Trụ trong nhiều thời. Sư thuộc kinh bộ thứ ba nói: Nhiều lời vì nói lên không có nhất thật mạng thọ thể. Nhưng đối với năm uẩn có rất nhiều hành . Giả lập hai tên tuổi thọ như thế, nên nói “nhiều hành”. Nếu cho rằng không đúng thì không nên nói hành, chỉ được nói lưu đa mạng, xả đa thọ. Vì hành đây là tên chung của hữu vi chẳng phải chỉ có mạng thọ. Thế tôn lưu xả: Luận chép: Từ câu “Thế tôn vì sao” cho đến “mà phiền não”. Đây là nói Thế tôn lưu, xả, lời văn rất dễ hiểu. Luận Tỳ-bà-sa quyển 126 chép: “Kinh nói Thế tôn lưu đa mạng hành. Xả đa thọ hành. Nghóa đó là gì? Có người nói rằng: “Chú Phật, Thế tôn xả phần thọ thứ ba. Nếu nói chư Phật xả phần thọ thứ ba là nói thọ lượng của Đức Phật Thế tôn Thích-ca Mâu-ni lẽ ra trụ thọ một trăm hai mươi tuổi, Xả bốn mươi năm sau, Chỉ còn thọ tám mươi tuổi. Hỏi: Khi Phật ra đời, tuổi thọ của con người ở châu này không hơn một trăm tuổi, Vì sao Thế tôn lại thọ một trăm hai mươi tuổi? Đáp: Như sắc thân, dòng họ của Phật giàu sang. Tri kiến hơn các hữu tình, thọ lượng cũng hơn loài người. Nếu nói Chư Phật thọ xả thứ năm là nói Đức Thế tôn Thích-ca Mâu-ni đã cảm được thọ lượng nên trụ một trăm năm, xả hai mươi năm sau, chỉ còn thọ tám mươi năm. Hỏi: Sắc thân và dòng họ của Chư Phật giàu sang, đồ chúng, tri kiến của các Ngài hơn các loài hữu tình, vì sao thọ lượng lại bằng với mọi người. Đáp: Vì các ngài sanh ra thọ lượng lúc đó, do kinh này nói thọ xả hành, nghóa là xả bốn mươi hoặc hai mươi tuổi. “Luận Chánh Lý” quyển ba mươi hai đồng quan điểm với Tỳ-bà-sa. Giải thích ưu căn và tám căn: Luận chép: Từ câu nói phụ đã xong, cho đến “đều có cả hai thứ”: Là giải thích: Ưu căn và tám căn: Tín v.v… là hữu ký nên chỉ là phi dị thục. Bảy sắc căn, ý căn, trừ bốn thọ như ưu… mười hai có cả dị thục, phi dị thục. Luận chép: Từ câu “bảy căn hữu sắc” cho đến “còn lại đều là dị thục”: Là giải thích lại, như văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Nếu nói ưu căn” cho đến “Thuận thọ xả nghiệp”. Là Người ngoài vặn hỏi, có ba, thuận, ái, thọ, nghiệp cũng là thuận dị thục nghiệp. Luận chép: Từ câu “nương thọ tương ưng” cho đến “gọi là thuận thọ lạc xúc, Hữu Bộ hỏi chung”: Đây là tương ưng gọi là thuận, chẳng thuận quả dị thục. Luận chép: Từ câu “nếu thế cho” cho đến “cũng nêu như thế”. Người ngoài dùng thọ hỷ so sánh lẽ ra cũng chỉ y theo tương ưng gọi là thuận. Luận chép: Từ câu “một kinh nói” cho đến “Lý đều không lỗi, là Hữu bộ giải thích rằng: Thuận dị thục đối với ngã không trái. Tương ưng gọi là thuận cũng không trái với [520] tôi. Luận chép: Từ câu không có chỗ tránh nạn, cho đến “ưu chẳng phải dị thục”. Ngoại đạo nêu lại. Luận chép: Từ câu “dùng ưu phân biệt” cho đến dị thục thì không như thế: Là Giải thích của Hữu Bộ. Luận chép: Từ câu “Nếu thế hỷ căn” cho đến “sanh và ngừng dứt: Người ngoài so sánh hỷ căn với nạn. Luận chép: Từ câu Nếu chếp nhận ưu căn cho đến gọi là quả đã huần thục. Hữu Bộ vặn hỏi trở lại ngoại đạo. Ngoại đạo dẫn Hỷ căn so sánh giải thích: Luận chép: Từ câu “lẽ ra cũng như thế” cho đến “gọi là quả đã thuần thục”. Ngoại đạo dẫn hỷ căn so sánh giải thích. Luận chép: Từ câu “Sư Tỳ-bà-sa” cho đến “nên chẳng phải dị thục” là Hữu Bộ dẫn Tỳ-bà-sa giải thích. “Luận Chánh Lý” vì sao chắc chắn gọi ưu, chẳng phải dị thục. Đây là dị thục. Là không đúng lý, vì sao không đúng? Vì lìa dục tham không chuyển theo. dị thục thì không như vậy, dù cho chuyển theo cũng phải như gốc khổ. A-la-hán v.v… cũng rất dễ hiểu có, nhưng thật chẳng phải có vì Kinh đã ngăn dứt. Như Khế kinh nói: Nếu thấy giai vị Đại sư Bát Niết-bàn, cũng không ưu sầu v.v… lại vô dụng. Thiện cũng không hành, không thể làm lợi ích như hỷ căn Chép: Nếu thế cho đến làm sao biết có: Là người ngoài nêu hỷ căn có tướng. Luận chép: Từ câu “Tùy kia có tướng” cho đến “chắc chắn chẳng phải dị thục”. Đây là giải thích của Hữu Bộ có tướng hỷ, không có tướng ưu. Luận chép: Từ câu tám căn như mắt, v.v… cho đến là dị thục ác: Đây là giải thích Các căn dị thục khác với dị thục ở đường thiện, ác. Luận chép: Từ câu ở trong đường lành cho đến “nghiệp thiện dẫn”. Đây là giải thích hàng phục nạn, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu Đã nói như thế cho đến “có mấy vô dị thục”. Một bài tụng thứ ba dưới đây nói: “Có môn dị thục vô dị thục”. Luận chép: “cho đến chắc chắn có dị thục”: Là giải thích câu thứ nhất của bài tụng. Luận chép: Y theo nghóa duy việt, bài tụng nói chắc chắn có thanh: Là giải thích chữ Định trong bài tụng. Luận chép: Nghóa là nói ưu căn cho đến nên vượt thứ lớp mà nói: Là giải thích vượt thứ lớp. Trước nói ưu căn: Giải thích: Trước nói lý do ưu căn định có dị thục. Chỉ có dị thục. Gồm có hai nghóa: do hai nghóa này mà vượt thứ lớp. Trước nói “Ưu căn chắc chắn có dị thục”. Luận chép: Từ câu “có hai nghóa” cho đến “chỉ có tán địa”: Là giải thích hai nghóa, chỉ dị thục mới có hai nghóa này: Phi vô ký. Phi vô lậu. Ưu căn có đủ hai nghóa này cho nên nói trước. Luận chép: Từ câu “Do đây vượt thứ lớp” cho đến “chắc chắn có dị thục”. Đây là kết lý do “trước nói ưu căn chắc chắn có dị thục”. Luận chép: Từ câu tám thứ trước như mắt, v.v… cho đến “ba vô lậu”: Là giải thích: Mười một căn chắc chắn không có dị thục, không có dị thục có hai nghóa: Vô ký. Vô lậu. Tám căn như nhãn căn… chỉ có một nghóa, đó là vô ký. “Vô” là vô lậu. “Ba căn vô lậu” chỉ có một nghóa, đó là vô lậu. “Vô” là vô ký, tuy có nghóa chắc chắn vô dị thục. Không gồm cả hai, không vượt thứ lớp nói, đối với thuyết thứ hai: Chắc chắn không có dị thục. Luận chép: Từ câu “còn lại đều có cả hai cho đến đều có cả hai thứ. Duy hữu ký, hữu lậu, hữu dị thục. Duy vô ký, vô lậu, vô dị thục”: Là giải thích: “Mười căn khác chung hai thứ, trước tóm lược sau nói rộng. Đây là sơ lược. Giải thích bốn căn năm căn: Luận chép: Từ câu “Ý lạc hỷ xả” cho đến “Vô dị thục”. Đây là giải thích bốn căn có cả hữu lậu, vô lậu, chung ba tánh. “Nếu chẳng phải vô lậu chẳng phải vô ký”. Một bề hữu dị thục, “nếu vô ký vô lậu” là không có dị thục. Luận chép: Từ câu “gốc khổ” cho đến “không có dị thục”. Đây là giải thích gốc khổ chỉ có hữu lậu chung ba tánh, chỉ có tánh vô ký thục vô dị”. Luận chép: Từ câu năm căn như tín v.v… cho đến vô dị thục: Đây là giải thích năm căn có cả hữu lậu, vô lậu, chỉ là tánh thiện, nếu là hữu lậu thì có dị thục. Luận chép: Đã nói như thế cho đến có mấy vô ký: Dưới đây một bài tụng thứ tư, là môn chia ra ba tánh . Luận chép cho đến nên nói trước đây là giải thích tám căn như Tín căn v.v… , trước nói lý do, hai mươi hai căn, tín v.v… là nói sau. Kế là trong môn trước lại nói tín căn, v.v… nên gồm cả trước liền nói các căn như tín căn, v.v… Giải thích mười bốn căn khác: Luận chép: Từ câu “Ưu căn chỉ chung” cho đến “tánh Vô ký ”: Là giải thích: Mười bốn căn khác, lời văn rất dễ hiểu. Ưu căn chỉ có tánh thiện và bất thiện, không có vô ký. “Tỳ-bà-sa” quyển 144 giải thích: Ưu chẳng phải vô ký. Ưu căn cũng chẳng phải hữu phú vô ký. Do cùng cõi Dục có chấp chấp thân, biên kiến. Bất tương ưng. Vì sao? Vì hành tướng khác. Hai kiến đó ưa chuyển hành tướng. Ưu căn thích chuyển hành tướng. Chống trái lẫn nhau, pháp Bất tương ưng. Ưu căn cũng chẳng thuộc về vô phú vô ký, chẳng phải oai nghi lộ, công xảo xứ, dị thục sanh. Hỏi đáp về oai nghi lộ: Hỏi: Vì sao ưu căn chẳng thuộc oai nghi lộ? Đáp: Ưu căn phân biệt chuyển. oai nghi lộ không có phân biệt chuyển, nếu oai nghi lộ có ưu căn thì dù có phân biệt nay tôi lẽ ra thực hành oai nghi như thế. Như Phật Thế tôn, hoặc như Mã Thắng. Ngay phân biệt thì liền trụ oai nghi như thế. Nhưng oai nghi lộ thì không có sự phân biệt này. Nên oai nghi lộ không có ưu căn. Hỏi: Vì sao ưu căn chẳng phải công xảo xứ? Đáp: Ưu căn phân biệt chuyển, Công xảo xứ thì vô phân biệt chuyển. Nếu công xảo xứ có ưu căn. Thì dù có phân biệt nay tôi lẽ ra thực hành công xảo như thế, như Phật Thế tôn, hoặc như Thiên tử diệu nghiệp, ngay khi phân biệt đã thành xong công xảo như thế. Nhưng công xảo xứ không có phân biệt đó, nên công xảo xứ không có ưu căn. Hỏi: Vì sao ưu căn chẳng phải dị thục sanh? Đáp: Ưu căn phân biệt chuyển, dị thục sanh vô phân biệt chuyển, nếu dị thục sanh có ưu căn thì dù có phân biệt nay lẽ ra tôi phải thọ dị thục như thế, như Phật Thế tôn, hoặc như vua Thánh Chuyển luân, ngay khi phân biệt liền phải thọ dị thục như thế. Nhưng dị thục sanh không có phân biệt này nên dị thục sanh không có ưu căn, như luận đó có giải thích rộng. Hỏi: Vì sao thọ có cả ba tánh, còn niệm, định, tuệ lại không có ba tánh. Đáp: Thọ được lập trong hai mươi hai căn. Cho nên nói thọ có cả ba tánh. Niệm, định, tuệ chỉ có thiện xếp vào hai mươi hai căn. Luận chép: Từ câu “Đã nói như thế” cho đến “có bao nhiêu Vô Sắc hệ”. Một bài tụng dưới đây là thứ năm nói về môn Giới hệ. Luận chép cho đến mười chín căn. Nói về môn giới hệ: Ở đây nói cõi Dục chỉ có mười chín căn, trừ ba căn vô lậu sau. Luận chép: Từ câu “Cõi sắc như trước” cho đến “cũng chung cõi Sắc hệ”. Nói mười lăm căn có cả cõi Sắc hệ. Nói thông nên muốn hiển rõ cõi Dục cũng có, gồm trừ nam, nữ, ưu, khổ. Giải thích lý do: Luận chép: Từ câu “Trừ nữ nam giả” cho đến “Thân xấu xí”. Đây là giải thích lý do cõi Sắc không có nam căn nữ căn. Vì lìa pháp dâm dục. Nếu vậy vì sao có mũi, lưỡi. Vì giải thích phục nạn nên nói xấu, đẹp khác nhau, mũi lưỡi có công dụng trang nghiêm thân. Luận chép: Nếu vậy vì sao nói kia là nam: Là Vặn hỏi. Hai tên gọi nam, nữ là do hai căn mà có họ không có nam nữ, làm sao gọi là nam. Luận chép: Ở chỗ nào nói: là hỏi ngược lại. Luận chép: Từ câu trong Khế kinh nói cho đến “thân nam là phạm hạnh”: là dẫn kinh nói. Luận chép: Từ câu “có tướng nam riêng” cho đến tất cả thân nam. Đây là giải thích kinh, tuy không có căn nam mà có các tướng của thân Nam, nên gọi là nam. Chẳng phải như cõi Dục không có căn nam thì không có tướng nam. Giải thích lý do không có khổ không có ưu: Luận chép: Từ câu “không có gốc khổ” cho đến “pháp Bất thiện”. Giải thích: Lý do không có khổ, thân tịnh diệu nên không có lưu khổ đẳng, không có pháp bất thiện, nên không có khổ dị thục. Luận chép: Từ câu “không có ưu căn” cho đến việc “Não hại”: Là giải thích lý do không có ưu. Vì nương theo thân định câu nên không có ưu. Vì không có cảnh ưu nên không có ưu. Luận chép: Từ câu “Vô Sắc như trước” cho đến “năm căn như Tín v.v…”. Là nói cõi Vô Sắc chỉ có tám căn. Nói “chung” là nói cõi dưới cũng có. Môn chia ra ba đoạn: Luận chép: Từ câu đã nói như thế cho đến “có mấy phi thì dứt”: Dưới đây là, một bài tụng thứ sáu, là môn chia ra ba đoạn. Luận chép: Từ câu “cho” cho đến “chẳng phải vô lậu”: Là nói bốn căn chung ba đoạn, vì tương ưng với kiến phiền não Tu phiền não nên kiến, đoạn tu dứt, chung với vô lậu, nên cũng không dứt. Ưu căn không có vô lậu, nên chỉ dứt. Nhưng tương ưng với kiến, hoặc tu hoặc, không chung với, chẳng dứt. Luận chép: Từ câu “bảy sắc mạng khổ” cho đến “đều là hữu lậu”. Ở đây là nói chín căn chỉ là sở tu dứt. Không nhiễm ô nên không tương ưng với kiến, tu phiền não và chẳng phải cho ý căn thứ sáu sanh ra, nên chẳng phải thấy dứt, đều là hữu lậu nên là tu thì dứt. Không chung với chẳng dứt. Giải thích năm căn: Luận chép: Từ câu “năm căn như Tín…” cho đến “và vô lậu”: Là giải thích: năm căn như Tín… Chẳng phải nhiễm ô, nên không có thấy dứt, mà có hữu lậu. Nên là tu thì dứt. Có vô lậu nên cũng chẳng phải thì dứt. Luận chép: Từ câu ba căn sau cuối cho đến “thì thì dứt”: Là giải thích: Vì ba căn sau chỉ có không dứt. Sáu bài tụng trên đây là sáu môn phân biệt nghóa loại khác nhau, dưới đây tám bài tụng y theo Đắc khác nhau, mà chia thành sáu môn. Luận chép: Đã nói các môn nghóa loại khác nhau: Là Kết trước; Cõi nào trở xuống là sanh sau. Dưới đây bài tụng thứ nhất nói: Ba cõi, bốn loài mới được căn dị thục nhiều ít. Luận chép: Cho đến chắc chắn nhiễm ô. Đây là nói ba sanh cõi Dục, sanh ban đầu chỉ được hai căn dị thục. Bấy giờ tuy có ý xả hai căn, chỉ nhiễm ô nên chẳng phải căn dị thục. Ý căn dị thục không có pháp đã được trước. Dần dần đủ căn thì không có mắt, tai, mũi, lưỡi và nam, căn nữ. Luận chép: Từ câu “Sơ vị” hóa sanh cho đến “Sơ đắc tám căn”. Nói về hóa sanh, y theo hóa sanh này phải đủ các căn. Giải thích thông ngại: Luận chép: Từ câu chẳng lẽ có hai hình cho đến “hai hình hóa sanh”: Là giải thích thông, ngại. Y theo đường lành này không có hai hình, hóa sanh. Trên đây đã nói chỉ có dị thục căn, nếu gồm cả nhiễm ô đều thêm ý xả. Luận chép: “Nói trong cõi Dục” cho đến “cõi Sắc Vô Sắc”: Là Kết lời dẫn. Luận chép: Từ câu “cõi Dục dục hơn” cho đến “hơn cõi Sắc Vô Sắc”: Là giải thích: Bài tụng chỉ nói dục, sắc không nói cõi. Nhưng nói Thêm lớn phiền não, ở đây giải thích dường như thêm lớn phiền não. Giải thích cõi Sắc: Luận chép: Từ câu “Cõi sắc mới đắc” cho đến người “Vô hình nói”: Là giải thích cõi Sắc. Luận chép: Từ câu “trên duy mạng giả” cho đến chỉ có mạng chẳng phải thứ khác: Là Giải thích: Cõi Vô Sắc. Bài tụng trung, thượng chép: “Vì định thắng sanh thắng, chẳng phải ở cõi Dục, cõi Sắc. Không có chỗ khác. Văn còn lại rất dễ hiểu”. “Luận Chánh Lý” chép: “Do đó chứng biết, mạng căn thật có. Nếu đây chẳng phải hữu vi thì được căn nào gọi là sanh Vô Sắc. Chẳng phải thiện, nhiễm ô gọi là nghiệp quả sanh. Chưa thọ sanh kia thì cho hiện khởi. Lại tâm dị thục không tiếp nối lý sanh, chỉ cho phép tâm nhiễm có thể tiếp tục sanh. Quá khứ, vị lai chẳng có người nói. Bấy giờ ba đời dị thục đều không, dị thục đã không thì sanh dựa vào thuyết nào. Tất nhiên phải chấp nhận có sanh y thật pháp. (Đại thừa có A-lại-da thì không lỗi. Kinh Bộ có lỗi). Tỳ-bà-sa quyển 137 chép: Hỏi: “Vô Sắc căn khác bấy giờ cũng được. Nghóa là năm thọ như ý… năm căn như Tín căn v.v… Trong đây vì sao không nói?” Đáp: Có thuyết nói: Bấy giờ nhất thiết đắc”: Trong đây có nói căn Vô Sắc khác tuy có được nhưng chẳng phải tất cả, cho nên không nói. Nghóa là khi địa trên không sanh địa dưới, tuy được căn đó. Nếu tự địa mất lại sanh tự địa, thì đều không được, cho nên không nói. Thuật rằng: Ở “đây nói trước không thành tựu, nay được gọi là đắc. Nếu ở tự địa chết đi, sanh lại tự địa. Vì trước thành tựu nên không gọi là đắc khi từ địa dưới không sanh địa trên. Bấy giờ thiện, nhiễm cũng thành tựu trước hết. Chỉ có căn cơ dị thục có cách nào không được trước, những chỗ sanh đó ban đầu được gọi là “Đắc”.” Hỏi đáp: Hỏi: Nếu nói tuy đồng với cõi Dục, vì quả báo khác nên vô ký căn này gọi là mới được. Vì sao được thức không được mắt. Nếu mắt từ hai, ba, bốn định không sanh Sơ tónh lự và cõi Dục thì chỉ được thức mà không được nhãn. Nhưng ở thân trước đã được nhãn phải không? Đáp: Văn trước y theo mười tám giới mà soạn luận, luận đó đối với nhãn giới nói chung không phân biệt dị thục địa và nghiệp quả khác. Trong đây phân biệt căn dị thục, y theo nghiệp quả mà nói. Tuy ở đồng địa, mà trước thành mắt, nghiệp quả khác nhau gọi là đắc. Có thuyết nói trong đây chỉ nói: “Mới được nghiệp sanh ra”, giai vị mới thọ sanh, Vô Sắc căn. Tuy có được nhưng không phải nghiệp sanh, nên ở đây không nói. Vị sau sở đắc tuy do nghiệp sanh, nhưng chẳng phải mới được, nên ở đây không nói. Ý luận này đồng với văn sau. Luận chép: Từ câu “nói căn dị thục” cho đến “có bao nhiêu căn diệt” sau: Bài tụng thứ hai dưới đây nói: “Cuối cùng diệt các căn nhiều ít”. Luận chép: Từ câu ở cõi Vô Sắc cho đến “diệt sau cùng”. Đây là giải thích cõi Vô Sắc. Trước cõi Dục sau Cõi Vô Sắc. Văn này trước cõi Vô Sắc, sau cõi Dục. Nương theo nghóa trước tiện hơn. “Luận Chánh Lý” chép: “Lại Vô Sắc nói già, kia có sắc”, có Sư khác nói: “Đó có sắc”. Nếu không nói vật thật có mạng căn thì khác gì với thục dứt, gọi là Vô Sắc tử. Nếu nói bổn uẩn dị thục đoạn nên kia gọi là Tử. Thiện nhiễm ô tâm ra trước vị thì lẽ ra cũng gọi là Tử. Nếu nói dị thục mà địa kia đã thọ còn chưa hết sạch. Làm sao không thọ mà có lúc hết . Thiện nhiễm ô tâm hiện ra trước. Nên nói thọ đó là nghiệp dị thục nào. Chẳng phải không hiện tiền, nên gọi là Thọ. Nếu nói ở dị thục đó tập khí tu tập chuyển theo nên gọi là Thọ. Lý cũng không đúng, tập khí sở chấp chẳng phải cực thành, có Lỗi thái quá, dị thục tuy hết nhưng tập khí vẫn theo. Như nghiệp tập khí nên không có lúc chết. Nếu dị thục hết không còn tập khí. Thì Nghiệp lẽ ra cũng không có tập khí khác. Nếu nói tập khí đối với dị thục hiện tại, Như ngã được: Là nên như ngã được dị thục chẳng khởi tập khí thì không. Lại chẳng phải dị thục tập khí tùy chuyển gọi là thọ. dị thục chẳng phải tánh kia. Lại sở chấp của ông, lý tập khí không có. Sau sẽ nói rộng. Sớ sao giải thích: Tông ta đắc đối với pháp dị thục. Nếu dị thục diệt thì đắc cũng diệt theo, khác nhau với nghiệp đắc. Giải thích cõi Sắc: Luận chép: Từ câu “Nếu ở cõi Sắc” cho đến” sanh tử”: Đây là giải thích cõi Sắc, Lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “nếu ở cõi Dục” cho đến chỉ có tám trước: Ở đây giải thích cõi Dục. Lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Đã nói như thế là dựa theo qua đời nhanh chóng, tổng kết trên diệt dựa theo đốn chung. Luận chép: Từ câu “Nếu qua đời dần” cho đến “diệt nghóa trước sau”: Là giải thích Qua đời dần diệt căn nhiều ít, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu đã nói như thế cho đến “mà qua đời”. Kết luận hai thứ qua đời ngay và dần dần nói trên. Nhưng y theo nhiễm, vô ký tâm, mà qua đời. Nhiễm vô ký tâm diệt căn số đồng, cho nên hợp nói. Giải thích: Luận chép: Từ câu “nếu ở ba cõi cho đến Như lý nên biết: Kế là giải thích: Thiện tâm qua đời, tùy tâm sở ứng trước nói xả căn vị thêm tín, tấn, niệm, định, tuệ. Luận chép: Từ câu “trong căn Phân biệt” cho đến thế nào là “Quả sa-môn”. Một bài tụng dưới là thứ ba nói về đắc quả dụng căn nhiều ít. Trong đây nói đắc có cả đạo Vô gián, đạo giải thoát và đắc quả. Trước làm nhân dẫn, sau chuyển thành y nhân. Do đó hai quả định dụng trước sau. Hai căn vô lậu đắc. Trong đây nói đắc, lúc mới Chứng gọi là Đắc. Không nói vị sau và luyện căn. Hai quả đầu và cuối ứng với tám căn đắc. Lại trong đây nói đắc, là nhân gần cho quả đạo, gọi là đắc. Luận chép: Cho đến “ở trung gian”. Giải thích tên quả biên trung. Giải thích Sơ quả: Luận chép: Từ câu “Sơ quả Dự lưu” cho đến “y theo nhân tánh”: Là giải thích: Sơ quả. “Luận Chánh Lý” chép: “Tuy đạo giải thoát ở quả Sa-môn. Chẳng phải nhân đồng loại . Mà là tương ưng, đều có nhân, gọi là đắc quả, cũng không có lỗi. Vì thể Sa-môn nương lẫn nhau mà đắc sanh, xoay vần đối nhau làm quả só dụngv như vậy. Chấp nhận cũng không lỗi, hoặc đã biết căn, cũng là nhân đồng loại, sẽ được quả Dự lưu, nghóa là lúc chuyển căn như A-la-hán thì gồm có nói cũng không có lỗi. Giải thích quả sau: Luận chép: Từ câu “quả A-la-hán” cho đến “Y nhân tánh”: Là giải thích quả sau. Hai đạo giúp nhau như sơ quả giải thích tuy có ba căn: Lạc, hỷ, xả dung hợp trước. Chính khi đắc quả, chỉ một thọ, không khởi chín căn. Tuy đạo Vô gián giải thoát không cùng lúc nhưng quả Đẳng lưu, só dụng là cùng lúc. Cũng không có lỗi. Luận chép: Từ câu “hai quả trung gian” cho đến “chín căn sở đắc”. Dưới đây là giải thích hai quả trung, trước giải thích chung căn số, Sau giải thích riêng, đây là phần đầu. Luận chép: Vì sao do chín căn mà được: Là giải thích quả thứ hai, trong đó có ba: Y theo đạo thế gian, do bảy căn đắc. Y theo đạo xuất thế , do tám căn đắc. Y theo siêu việt, do chín căn được. Luận chép: Từ câu “nếu quả bất hoàn” cho đến “Đắc quả Nhất lai”. Dưới đây giải thích quả thứ ba, trong đó có bốn: Ba là như, quả nhất lai nói. Giải thích lại quả bất hoàn: Luận chép: nói chung tuy thế mà có khác nhau: Trở xuống giải thích lại quả Bất hoàn, căn số tuy đồng với quả trước, mà thọ căn có khác nhau, nghóa là trước siêu việt chỉ dùng thọ xả, y theo Vị chí. Quả này siêu việt cả lạc, hỷ, xả, cho nương theo sáu địa, chứng ba quả. Nương theo Vị chí, trung gian và Tứ thiền tức là thọ xả. Hai thiền hỷ trước. Tam thiền lạc căn. Nếu thứ lớp thì cũng khác với trước. Thứ chín giải thoát hoặc nhập địa căn bản. Hoặc ở Vị chí, hoặc vào căn bản địa, thêm hỷ căn. Nếu không nhập vào thì vẫn đồng với quả trước. “Tỳ-bà- sa” quyển 148 chép: “Lìa dục nhiễm, đạo giải thoát thứ chín. Ai nhập tịnh lự, ai không nhập ư? Có thuyết nói vì cầu tịnh lự mà lìa nhiễm thì nhập. Vì cầu giải thoát mà lìa nhiễm thì không nhập. Có thuyết nói: Người lợi căn thì nhập, người độn căn không nhập. Như trên là văn luận ba giải thích đều chung. Cho nên không lời bình. Hỏi: Vì sao thứ lớp có nhập địa căn bản. Người siêu việt chứng thì không có lý này. Đáp: Lìa tu đạo hoặc, có nhiều thứ khác nhau, hoặc có người thích trên chán dưới, mà dứt hoặc. Nếu là lợi căn tâm ưa thích nhiều thì được vào căn bản, hoặc vì cầu giải thoát, hoặc vì cầu tónh lự mà dứt mê hoặc. Nếu lợi căn vì cầu tónh lự được nhập căn bản. Đạo loại trí thì. Tuy là tu đạo mà nhiều niệm cũng có lợi căn. Nhưng vì hiện quán lý ban đầu, nếu y theo Vị chí vào ở thấy đạo, không vì ưa thích địa trên, không cầu tónh lự nhập vào thấy đạo nên không vào căn bản. Lại giải thích: Trước đắc tónh lự căn bản. Hoặc ý thích căn bản, thì y căn bản, hoặc ý thích vị chí, thì nương vào Vị chí. Do Vô gián giải thoát này, hẳn đồng một địa. Dứt hoặc Phi Tưởng, không có địa trên để ham cầu. Y theo vị chí đó được quả thứ tư. Trong đạo giải thoát không nhập vào căn bản. Luận chép: Từ câu “chẳng lẽ không phải căn bản” cho đến “Do chín căn được là hỏi”. Luận chép: Từ câu “Thật đắc thứ tư” cho đến “Định do chín căn”. Là Đáp. Luận chép: Đối với quả Bất hoàn sao không nói như thế: Là Vặn hỏi lại. Luận chép: Từ câu “vì không có lạc căn” cho đến rất bền chắc: Là chung lời văn rất dễ hiểu. Theo “Luận Phát Trí” quyển 15 chép: Có mấy căn , diệt hẳn, khởi, quả Dự lưu? Đáp: Không có căn dứt hẳn. Bảy căn khởi, diệt một căn diệt không khởi. Một khởi không diệt đắc quả Dự lưu. Thuật rằng: Câu “dứt hẳn” nghóa là đối với các căn, dứt hẳn ràng buộc, “đắc” nghóa ly hệ. Câu “khởi diệt” là “đạo Vô gián” diệt “đạo giải thoát”. Câu “Diệt bất khởi” là “đạo Vô gián” diệt, “đạo giải thoát” không khởi. Câu “Diệt bất khởi” “đạo Vô gián” diệt đạo giải thoát không khởi. Câu “Khởi bất diệt” “đạo Vô gián” diệt, vô cớ không diệt. Đạo Giải thoát mới khởi nên nói khởi. Khi đắc quả Dự lưu, không có một căn được lìa hẳn, ràng buộc, nên nói “không có căn dứt hẳn”. Nói bảy căn khởi diệt”, nghóa là tín, tấn, niệm, định, tuệ căn và ý, xả. Đạo Vô gián diệt, đạo giải thoát khởi. “Hễ diệt thì không khởi” là Vị tri căn. tâm thứ mười lăm diệt. Sau lại không khởi “Hễ khởi thì bất diệt” là Dó tri căn. tâm thứ mười sáu khởi, tâm thứ mười lăm vô cớ không diệt. Hỏi: Có mấy căn đoạn diệt hẳn, hễ khởi thì được quả Nhất lai. Đáp: Nếu thêm lìa dục nhiễm, nhập chánh tánh ly sanh, như người chứng quả Dự lưu nói. Nếu từ Dự lưu thì lấy đạo thế tục chứng quả Nhất lai, vô căn dứt hẳn. Bảy căn diệt khởi, được quả Nhất lai. Thuật rằng: “Vô căn dứt hẳn,” đồng với thuyết Dự lưu “bảy căn khởi diệt” cũng đồng với Dự lưu. Nếu từ quả quả Dự lưu dùng đạo vô lậu chứng quả Nhất lai. Vô căn dứt hẳn. Tám căn khởi diệt đắc quả Nhất lai. Thuật rằng: “Tám căn khởi diệt” đối với bảy căn thêm Dó tri căn, nghóa là Vô gián diệt, đạo giải thoát khởi, cơ căn vónh đoạn, khởi đắc quả Bất hoàn. Đáp: Đã lìa dục nhiễm nhập chánh tánh ly sanh, vô căn dứt hẳn. Bảy căn diệt khởi, hễ diệt thì không khởi, hễ khởi thì không diệt, đắc quả Bất Hoàn. Thuật rằng: Vô căn dứt hẳn bốn căn trước đã dứt vị này không dứt các thứ khác là thấy đạo thứ mười lăm. Trong sáu tâm không dứt căn . “Bảy căn diệt khởi”. Nếu y theo Vị chí, Trung gian và Tónh lự thú tư. Tức là tín, tấn, niệm, định, tuệ và ý xả căn. Nếu y theo Sơ thiền, Nhị thiền, tức tín, tấn, niệm, định, tuệ và ý căn, hỷ căn. Nếu Tam thiền trừ hỷ thêm lạc. Nếu từ quả Nhất lai, dùng đạo thế tục chứng quả Bất hoàn, không nhập Tónh lự. Bốn căn dứt hẳn. Bảy căn diệt khởi được quả Bất hoàn. Thuật rằng: “Bốn căn dứt hẳn” nghóa là ưu, khổ, nữ, nam, lìa dục. Bảy căn diệt khởi, như thuyết Dự Lưu. Nếu nhập tónh lự, bốn căn dứt hẳn, sáu căn diệt khởi, hễ diệt thì không khởi, hễ khởi thì không diệt, đắc quả Bất hoàn. Thuật rằng: “Sáu căn diệt khởi, tín, tấn, niệm, định, tuệ, căn và hỷ, ý, căn. Hễ diệt thì không khởi, hễ khởi thì không diệt, nghóa là hỷ, ý căn. Nếu từ Nhất lai dùng đạo vô lậu chứng quả Bất Hoàn. Không nhập tónh lự, bốn căn dứt hẳn. Tám căn diệt khởi được quả Bất Hoàn. Thuật “tám căn diệt khởi” nghóa là đối với bảy căn thêm tri căn. Nếu nhập tónh lự thì bốn căn dứt hẳn. “Bảy căn diệt khởi”, hễ diệt thì không khởi, hễ khởi thì không diệt, đắc quả Bất Hoàn. Thuật: “Bảy diệt khởi” nghóa là năm căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ căn) và ý (tri căn). “Hễ diệt thì bất khởi” là xả căn. “Hễ khởi thì bất diệt” là hỷ căn. Có mấy căn dứt hẳn diệt khởi, đắc quả A-la-hán. Đáp: Nếu y theo “định vị chí” chứng quả A-la-hán. Một căn dứt hẳn. Bảy căn dứt hẳn diệt khởi. “Hễ diệt thì bất khởi”, “Hễ khởi thì bất diệt”, đắc quả A-la-hán. Nếu y theo Vị chí, Tónh lự, Trung gian, tónh lự thứ tư, ba định Vô Sắc cũng vậy. Thuật: “Một căn dứt hẳn” là mạng căn, “bảy căn dứt hẳn diệt khởi” là tín, tấn, niệm, định, tuệ và ý, xả. “Hễ diệt thì bất khởi” là tri căn. “Hễ khởi thì bất diệt” là cụ tri căn. Nếu theo sơ tónh lự thì chứng quả A-la-hán. Hai căn dứt hẳn, sáu căn dứt hẳn diệt khởi, hễ căn diệt thì khởi, hễ diệt thì không khởi, hễ khởi thì không diệt, đắc quả A-la-hán. Nếu nương theo tónh lự một, hai, ba, thì cũng như vậy. Thuật: “Hai căn dứt hẳn” nghóa là mạng, xả căn “sáu căn dứt hẳn diệt khởi” nghóa là tín, tấn, niệm, định, tuệ căn và ý căn. “Hễ khởi diệt” là tónh lự thứ nhất, thứ hai là hỷ căn. tónh lự thứ ba là lạc căn. “Hễ diệt thì bất khởi” là tri căn. “Hễ khởi thì bất diệt” là “cụ tri căn”. Luận chép: Từ câu nay nên nghó chọn: Dưới có ba hàng tụng: Là thứ tư nói: Tùy thành tựu, một căn chắc chắn thành căn nhiều ít, trong đó hữu định thành ba, bốn, năm, bảy, tám, mười một, mười ba căn. Không chắc chắn thành một, hai, sáu, chín, mười, mười hai, mười bốn căn. Luận chép: Cho đến đều chắc chắn thành tựu: Là giải thích chắc chắn thành ba, trong đó có hai: Trước nói ba căn chắc chắn thành. Sau nói ba căn khác không chắc chắn. Trong “mạng, ý, xả” cho đến các căn còn lại: Đây là nói ba căn chắc chắn thành. Ba căn ở tất cả thời, xứ, vị đều chắc chắn thành. Tất cả chúng sanh phải có mạng căn và chung đại địa. Định có ở thọ. Trong năm thọ xả khắp tất cả. Giải thích: Luận chép: Từ câu “Trừ bỏ ba căn” này cho đến “hoặc bất thành tựu”. Dưới đây là giải thích: “Căn khác bất định, trước chung sau riêng. Đây là giải thích chung. Giải thích riêng: Luận chép: Từ câu trong đây bốn căn mắt, tai, mũi, lưỡi: Trở xuống là giải thích riêng. Gồm có mười chín căn bất định, loại đồng tức hợp thích. Mắt, tai tỉ thiệt loại đồng tức hợp thích. Có hai nơi không thành, đó là: Sanh cõi Vô Sắc. Chưa được đã mất. Thân căn chỉ một chỗ không thành, đó là sanh cõi Vô Sắc. “Hai nam căn nữ, hai xứ bất thành” nghóa là cõi trên và chưa được đã mất. Lạc, hỷ, căn xứ chắc chắn không thành, nghóa là dị sanh sanh ba định trở lên. Câu “Dị sanh” lựa chọn bậc Thánh. Bậc Thánh sanh thượng thành hạ căn hỷ lạc vô lậu. Chỗ gốc khổ chắc chắn không thành tựu, nghóa là sanh lên hai cõi trên. Loại Ưu căn chắc chắn bất thành, là “Nhất thiết lìa dục tham” hai căn này chỉ hữu lậu nên không phân biệt phàm Thánh. Văn còn lại rất dễ hiểu. Giải thích mười chín căn: Luận chép: Từ câu: “đối với chẳng phải già vị” cho đến “đều chắc chắn thành tựu”: Là giải thích mười chín căn ở phi già vị định thành tựu. “Tất cả xứ chẳng phải già” tức là ba căn: Mạng, ý, xả ở trước. Thành bốn căn: Luận chép: “Nếu thành lạc” cho đến “và thân căn này”: Là giải thích thứ hai: Chắc chắn thành bốn. Nếu thành tựu lạc và thân căn, định thành ý, mạng, xả. bậcThánh sanh cõi Vô Sắc, thành tựu lạc bất thành thân căn. Dị sanh sanh, định thứ tư, thành tựu thân căn, không thành tựu lạc căn. Hai căn: Thân và lạc này không thành định lẫn nhau. Thành năm căn: Luận chép: Từ câu “Nếu thành mắt” cho đến “xả, lạc, hỷ, căn”: Là giải thích: Chắc chắn thành năm căn. Mắt, tai, lưỡi, thiệt, thân. Phải y theo thân, thành hỷ phải thành lạc, cho nên chắc chắn thành năm căn. Luận chép: Từ câu “Tónh lự thứ hai” cho đến “đây thành lạc căn nào”: Là Ngoại đạo vặn hỏi: Chưa được tónh lự thứ ba xả cõi Dục. Sơ định lạc căn, chưa được tónh lự thứ ba, chắc chắn thành… lạc căn nào? Luận chép: Từ câu “nên nói thành tựu” cho đến còn lại chưa đắc. Đáp: Các tịnh vô lậu, lạc khác còn chưa được. Nếu thành lạc căn hỷ thì bất định. Nghóa là Dị sanh sanh, định thứ ba thành tựu lạc căn, không thành hỷ căn. Nếu thành hỷ căn, thì chắc chắn thành lạc. Bậc Thánh sanh lên cõi trên thành vô lậu, hẳn thành vô lậu lạc, dị sanh sanh định thứ hai thì thành vui nhiễm ô . Thành bảy căn: Luận chép: Nếu thành gốc khổ, cho đến bốn thọ trừ ưu: Là giải thích chắc chắn thành bảy, thành gốc khổ chắc chắn thân ở cõi Dục. Thân và bốn thọ chắc chắn thành tựu. Ưu lìa dục xả, cho nên người có khổ sẽ được vô ưu. Thành tám căn: Luận chép: Từ câu “nếu thành căn nữ” cho đến “tín, tấn, niệm, định, tuệ căn”. Đây là giải thích chắc chắn thành tám căn. Nếu thành tựu nữ, nam, ưu căn. Thì thân chắc chắn ở cõi Dục, cho nên bảy như khổ thuyết. Thứ tám tức là nam cùng lúc, nữ cùng lúc, ưu căn. Có nam, nữ, căn gồm cả lìa dục, ưu chẳng chắc chắn thành, có ưu căn thì vô hình, hai căn nam, nữ, chẳng chắc chắn thành tựu. Nếu thành năm căn như Tín căn v.v… thì chắc chắn thành tám căn, ba căn: Ý, mạng, xả, tất cả đều có nên chắc chắn thành ba căn. “Dị sanh sanh” cõi Vô Sắc. Không có bảy sắc căn và bốn thọ cho nên là Dị sanh nên không thành ba căn vô lậu. Do đó chỉ có tám căn định, mười bốn bất định. Luận chép: Từ câu “Nếu thành tựu cụ tri căn” cho đến “và dó tri căn”. Nếu A-na-hàm sanh cõi Vô Sắc đắc quả A-la-hán, thì không thành tựu bảy sắc, ưu khổ. Ba căn vô lậu không thành. Mười một căn như mắt… không chắc chắn thành. Nếu nghóa thành tựu dó tri căn, cũng như trên. Thành mười ba căn: Luận chép: Từ câu “Nếu thành tựu vị tri căn” cho đến “và vị tri căn”: Là giải thích: chắc chắn thành mười ba căn. Vì Thấy đạo định nương theo cõi Dục, như trước có thân, khổ, người đã lìa dục thì nhập thấy đạo, ưu căn chẳng chắc chắn thành, không có bốn căn: Mắt, tai, lưỡi, thiệt được nhập thấy đạo. Mắt, tai, lưỡi, thiệt căn bất định. Căn nam, căn nữ, xả mạng được bất thành tựu, nên chẳng chắc chắn thành. “Luận Chánh Lý” chép: “Nếu thành vị tri căn, thì chắc chắn thành mười ba căn: Nghóa là thân, mạng, ý, khổ, lạc, hỷ, xả, tín, tấn, niệm, định, tuệ và vi tri căn”. “Qua đời dần vị” theo truyền thuyết thâm tâm nhàm chán sanh tử, nên có thể nhập thấy đạo trở lên, nên qua đời dần không có nam, căn nữ, cũng được nhập Thánh vị. Không thể giải thích rằng: Lấy nam, nữ thay nhau thành hay không thành nên không nói. Nam, nữ đắp đổi con số chung là mười bốn. Vì sao luận chỉ nói mười ba. Nếu nam nữ đắp đổi nhau không vì bất định, không nói mười bốn, tức là nghóa của các sư Tây phương. Còn sư Ca-thấp-di-la thì nói: “Trong đây chỉ nói con số mà không nói tên”, nên luận Tỳ-bà-sa quyển 156 chép: “Nếu thành tựu căn nam, căn nữ, thì chắc chắn thành tựu quá khứ, vị lai là chín. Ba đời là hai. Hiện tại là bốn. Quá khứ, vị lai là bốn. Quá khứ chín, đó là bốn thọ; năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ. Ba đời là hai nghóa là ý, một thọ. Hiện tại bốn, nghóa là căn nữ, căn nam, thân, mạng, còn lại bất định như đã nói ở trước. Sư phương Tây lẽ ra nói: “Quá khứ, vị lai, chắc chắn thành mười, nghóa là năm thọ, năm căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ). Ba đời chắc chắn thành một. Nghóa là ý, thọ, danh bất định”. Nên các sư Ca-thấp-di-la nói: “Tên tuy bất định, nhưng con số thì chắc chắn, hẳn có một thọ hiện ra trước. Trong đây nói số không nói tên”. Lại nói: “Nếu thành tựu vị tri đương tri căn, chắc chắn thành tựu ba đời bảy, Quá khứ vị lai ba, vị lai hiện tại một, Hiện tại hai, “ba đời bảy”, là ý, một thọ, năm căn: là Tín, tấn, niệm, định, tuệ”. Nói về ba thọ: “Quá khứ vị lai ba” nghóa là ba thọ, “Vị lai hiện tại một”, nghóa là vị tri đương tri căn. “Hiện tại hai”, nghóa là thân và mạng, hai thuyết này như đã nói ở trên. Theo văn luận trên, cho nên biết căn nam, căn nữ chẳng phải thay nhau mà có bất định nên không nói. Hỏi: Nếu thế vì sao “Luận Chánh Lý”: Quyển chín chép: Nói “Nhất hình” là không có hai hình, và vô hình đắc Thánh pháp. Đáp: Đây là nói bản tánh vô hình và dứt bỏ vô hình không thể đắc quả Thánh, chẳng phải qua đời dần. Y theo văn Tỳ-bà-sa. Không được hiểu khác. Vô hình lìa tánh ác, Bất định không được chứng quả Thánh. “Qua đời dần” vì rất nhàm chán sanh tử, có thể chứng quả Thánh nên nghóa khác nhau. Hỏi: “Qua đời dần”, vô hình có đắc giới hay không? Đáp: Cũng đắc giới. Vô hình không đắc giới Không cứ “Qua đời dần” . vô hình không đắc giới là y theo theo bản tánh tổn hại vì nhiều phiền não v.v… “Qua đời dần” là tánh vẫn chưa chuyển làm sao đắc giới. Còn Qua đời dần, là mạng chúng đồng phần, vốn căn nam, căn nữ nương theo qua đời dần nên không đắc giới. Chẳng phải sở y của vô căn. Chúng đồng phần, vì sao không được đắc giới? “Qua đời dần” nếu nhập vô tâm cũng đắc giới. Thọ duyên đủ nên chẳng phải bất luật nghi có Qua đời dần đắc giới. Khi qua đời dần không thọ việc nên khác với luật nghi. Luận chép: “Các cực thiểu”: Dưới một hàng tụng, thứ năm là nói: “Thành căn rất ít”. Luận chép: Cho đến “và thân, mạng, ý”. Giải thích hai câu đầu của bài tụng: “Cực thiểu thành tám, không thành tám”. Chỉ ở hai vị cực Thiểu thành tám, nghóa là hễ dứt gốc lành thì chắc chắn thành năm thọ và thân, ý, mạng. Chắc chắn không thành tám: Tín, tấn, niệm, định, tuệ và ba căn vô lậu. Sáu căn bất định, nghóa là mắt, tai, mũi, lưỡi căn và căn nam, căn nữ đều có bất thành. Giải thích thọ: Luận chép: Thọ nghóa là cho đến “đặt tên tròn đầy, nương theo đó giải thích thọ. Luận chép: Từ câu “Như dứt gốc lành” cho đến “Ngu sanh cõi Vô Sắc, cho nên giải thích hai câu sau của bài tụng. “Thành tám căn”, nghóa là năm căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ và mạng, ý, xả. “Mười bốn định, bất định”: Là bảy sắc căn, và ưu, khổ, hỷ, lạc và ba căn vô lậu. “Dứt thiện” thì ít nhất thành tám, nhiều nhất là mười bốn căn. “Ngu sanh Vô Sắc” chỉ thành tám căn, càng không có lý tăng thêm. Tỳ-bà-sa quyển 150 chép: Tùy tín hành nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười ba căn. Mười chín căn là trừ một hình và hai căn vô lậu. Tức chưa lìa dục nhiễm mà trụ thấy đạo. Mười ba căn là thân, mạng, ý, bốn thọ và năm căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ căn) và một căn vô lậu. Tức đã lìa dục nhiễm, qua đời dần vị nhập thấy đạo. Hỏi: Vì sao vị này có thể nhập thấy đạo. Đáp: Là thọ hành trong một thời kỳ sống, thường nhàm chán sanh tử. Khi qua đời tâm thọ khổ xúc chạm gây nhàm chán càng tăng thêm có thể nhập thấy đạo như Tùy tín hành. Tùy pháp hành cũng như vậy. Về môn Cực đa: Luận chép: “Các cực đa” là một hàng dưới của bài tụng, thứ sáu là nói: Về môn cực đa, thành tựu nhiều nhất là . Mười chín căn có hai giai vị: Giai vị phàm. Giai vị Thánh. “Phàm” Là hai hình. Chỉ trừ ba căn vô lậu. “Thánh” nghóa là chưa lìa dục tham. Trừ hai vô lậu và trừ bất cứ một hình. “Luận Câu-xá” này giải thích câu bốn của bài tụng. “Trừ hai vô lậu và trừ một hình, cho đến căn nam, căn nữ tùy trừ một thứ. Vì các bậc Thánh không có hai hình. Văn này nói “cực đa”, văn kia nói “một hình” nhưng ngăn có hai chứ không ngăn vô hình, “Nếu hữu vô” chẳng phải “cực đa”. Luận Câu-xá giải thích không trái với chắc chắn thành mười ba căn “Luận Chánh Lý” giải thích câu bốn: “Trừ hai vô lậu và trừ một hình cho đến nói một hình” là không có hai hình và vô hình đắc pháp của bậc Thánh. Thuật rằng: “vô hình” ở đây là bản tánh dứt trừ là sai. Qua đời dần khác với ý trước. <篇> CÂU-XÁ LUẬN SỚ <卷>QUYỂN 4 <詞>Phẩm 2: PHÂN BIỆT CĂN (PHẦN 2) Nói về pháp câu sinh: Luận chép: Nay nên nghó chọn cho đến “chắc chắn câu sinh”. Đây là thứ hai của toàn văn gồm có 27 bài tụng, nói về pháp câu sinh, trong văn có hai: Hỏi và đáp, đây là hỏi. Hỏi: Vì sao soạn luận này? Luận Chánh Lý chép “Nhân duyên nào suy nghó và các pháp câu sinh? Vì phá tà tông để hiển rõ Chánh Lý. Nghóa là có người chấp các hành pháp không có nhân, tự nhiên sinh khởi. Có người chấp từ nhân mà các hành pháp lớn lên. Hoặc có người chấp do các nhân tự tánh không bình đẳng mà các hành sinh khởi. Do đó mà có luận này. Ý nghóa câu hỏi trên là tất cả các pháp sắc tâm và thể tướng của nó khác nhau, khi các pháp này sinh thì đều khởi riêng, vì có các pháp chắc chắn câu sinh. Luận chép: “Vi hữu định câu sinh” là đáp. Trong câu đáp có ba: Lược đáp. Chia ra chương môn. Y chương giải thích riêng. Đây là lược đáp. Luận chép: Là tất cả pháp cho đến trong đây không nói, là thứ hai chia ra chương môn. Tuy nêu năm pháp nhưng chỉ giải thích bốn chương. Vì pháp vô vi không sinh nên ở đây không nói. Luận chép: Trước nói về sắc quyết dịnh câu sinh, trở xuống là thứ ba giải thích riêng. Bài tụng thứ nhất giải thích Sắc chắc chắn câu sinh. Giải thích nhóm: Luận chép: Cho đến xét kỹ đối với đây. Đây là giải thích “Nhóm vi” trong nhóm Cực vi chẳng phải tụ” “Vi” là bảy vi trong nhóm sắc, thì Nhóm vi là nhỏ nhất. Văn này cũng hiển rõ sắc cực vi. Theo loại tụ mà nhóm hợp thành Nhóm vi. Giải thích này cũng như Luận Chánh Lý đã giải thích: “Nhỏ nhất của sắc không có phần, nên gọi là Cực thiểu. Như một sát-na cực ngắn, không thể chia thành nửa sát-na. Các thứ nhỏ nhiệm như thế lần lượt hợp lại chắc chắn không lìa, nên gọi là Nhóm vi.” Theo “Luận Câu-Xá”, “vi” là cực vi, tụ là bát vi. Trong hai giải thích nói trên thì giải thích sau là đúng. Nói về ba cõi và sáu trần: Luận chép: Từ câu “đây ở cõi Dục” cho đến “Sắc, hương, vị, xúc” chín” Đây là giải thích cõi Dục không có thanh, không có căn. Luận chép: Từ câu “không thanh có căn” cho đến “thân là thứ Đây là giải thích không thanh có thân căn. Luận chép: Từ câu “có nhóm tụ” khác cho đến “xứ đều khác nhau”: Là giải thích căn, xứ khác nhau. Luận chép: Từ câu” các nhóm ở trước cho đến “nhân Đại chủng khởi”: Là giải thích có thanh. “Tỳ-bà-sa” quyển 90 chép: “Thân, sắc, thanh, xúc giới, cõi Dục, cõi Sắc chắc chắn thành tựu. Cõi Vô Sắc không thành tựu. Hỏi: Thân sắc xúc giới có thể như thế. Còn thanh giới vì sao thường thành tựu? Có người nói rằng: “Đại chủng ly hợp sẽ sinh ra thanh giới. Nếu Hữu tình ở cõi Dục, cõi Sắc thì đại chủng thường có, nên thường phát sinh âm thanh.” Lời bình: “Họ không nên nói như thế. Nếu bốn đại chủng phải thường phát sinh ra âm thanh thì, âm thanh sinh ra này do đại chủng nào tạo ra. Nếu tạo ra việc này thì phần nhiều đối sắc, một bốn đại chủng sinh ra. Nếu tạo ra việc khác, thì ngoài bốn đại chủng phải sinh ra âm thanh. Như vậy xoay vần có lỗi vô cùng. Nên nói như thế là trong thân hữu tình ở cõi Dục, cõi Sắc. Nhiều bốn đại chủng ở trong một thân xúc chạm nhau liền phát ra âm thanh, nếu không xúc chạm nhau thì không phát ra âm thanh, dù trong một thân cũng phải có thanh giới, chẳng phải khắp thân phần đều phát ra âm thanh. “Luận Câu-xá” chép: “Không có tám thanh. Y theo văn, này chắc chắn thành âm thanh là y theo một hữu tình trong một thân. Chắc chắn thành âm thanh nên chẳng chắc chắn khắp có thanh, có chín thanh y theo gần gủi nhau. Hai ý hai văn thay nhau mà không trái nhau. Xét kỹ ý các luận. Có các căn, như mắt, v.v… thì chắc chắn có thân căn và tám căn khác. Có thân, căn, xứ cũng chắc chắn có tám căn. Tuy căn và bốn cảnh chắc chắn không rời nhau. Chắc chắn là câu sinh. Cũng có bốn cảnh thuộc nội, có định câu sinh, có bất định. Định thì như có chiêu cảm nhãn ắt chiêu cảm thân, v.v… có khi chỉ không lìa căn, chẳng phải câu sanh diệt, như có biểu sắc, thanh và tạo Biểu, Vô biểu đại, thay đổi sắc v.v… Những thứ này tuy hữu vô không chắc chắn. nhưng y theo xứ chung nói rằng chắc chắn không rời nhau, tuy thanh không chắc chắn nhưng khi thanh khởi thì đại chủng kích phát sắc mới sinh. Sắc và Hương, v.v… chắc chắn câu khởi, do đó thanh chắc chắn có tám việc. Chẳng chắc chắn có thanh, có hương, vị cảnh. Chắc chắn có sắc xúc, có dục sắc xúc. chẳng chắc chắn có hương, vị. Có một sư nói: “thân ở cõi Sắc làm cõi Dục hóa, cũng không thay đổi hương, vị. Đây chẳng phải là nghóa đúng. Đây tức là cảnh bên ngoài, chắc chắn có tám căn, tạo thành Đạo định giới và Định cộng giới. Bốn đại chủng, tuy nương theo thân v.v… Bất định câu sinh, nếu chấp lấy thì phải nương nhau mà có, tức không có bốn đại khởi mà Vô Sắc v.v… có cả vô thanh. “Cựu Tỳ-bà-sa” có thuyết của hai Sư, sư thứ nhất nói: “Tất cả bốn đại phải không lìa sắc, thanh. Tất cả cõi Dục không lìa hương, vị. Vị Sư thứ hai nói: Tất cả bốn đại không cần có sắc, thanh. Tất cả cõi Dục, cõi Sắc không cần có hương, vị. Pháp sư Niệm nói: “Thuyết của hai Sư đều không đúng. Mỗi vị chỉ đúng một chút thôi. Nên nói tất cả bốn đại không cần lìa sắc, không cần có thanh. Tất cả cõi Dục, cõi Sắc không cần lìa hương, vị. Nên Tạp tâm nói: “Cực vị ở bốn căn, mười loại. Nên biết thân căn chín, ngoài ra có tám, nghóa là có hương địa. Pháp sư Thái nói: “Ý của Pháp sư Niệm, cho rằng Luận Tạp tâm không nói có thanh. Nói rõ thanh này chẳng thường thành tựu. Pháp sư Thái nói: “Nếu Pháp sư Niệm giải thích như thế thì rất sai lầm”. Luận Phát Trí chép: “cái gì thành tựu và giữ được âm thanh”. Đáp: Cõi Dục, cõi Sắc. Dẫn luận Tạp tâm: Lại Tạp tâm chép: “chúng sinh Vô Tưởng xếp vào mười tánh, âm thanh thường thành. “Nên biết sư thứ nhất của Tỳ-bà-sa nói: “Tất cả bốn đại chắc chắn không lìa sắc, thanh. Tất cả cõi Dục không lìa hương, vị là nghóa đúng của nó. Nhưng Luận Tạp tâm và Câu-xá thì không nói thanh, hương. Vì thanh nhờ đại chủng kích phát nhau mà sinh, chẳng phải như hương thường có. Thanh đó Luận Câu-xá nói thêm. Tạp tâm thì lược không nói. Ý của Pháp sư Thái nói thanh thường thành, biết rõ cả bốn đại không lìa thanh. Nay xét kỹ, Pháp sư Niệm giải thích rất đúng với ý luận. Tất cả bốn đại không cần có thanh, nghóa đồng với nhà phê bình Tỳ-bà-sa. Tất cả sắc cõi Dục chắc chắn thành tựu thanh là nói theo một thân. Tất cả sắc cõi Dục, hẳn không lìa hương vị”. Đồng với nhà phê bình Tỳ-bà-sa quyển 135: “Thân ở cõi Dục làm cõi Dục hóa, cũng thay đổi hương vị mà không thành tựu. Pháp sư Thái giải thích: Nếu nói định thành tựu thanh là đúng. Nếu nói tất cả bốn đại không lìa sắc, thanh thì sai. Chỉ có thể nói không lìa sắc, đâu được nói không lìa thanh. Theo nghóa của nhà phê bình Tỳ-bà-sa thì có bốn đại chủng không lìa thanh. Có bốn đại chủng lìa thanh, đâu được nói rằng tất cả bốn đại hẳn không lìa thanh. Nếu nói bốn đại chủng đều phát ra thanh hết, thì vẫn đồng với nhà phê bình Tỳ-bà-sa đã phá, nên cũng vô lý.” Lại nói: “Tất cả cõi Dục và cõi Sắc không lìa hương vị, vẫn đồng với Pháp sư Niệm. Tất cả bốn đại đều không lìa sắc, không cần có hương. Đây là đồng với nhà phê bình Bà-sa đã nói. Thanh phát ra bốn đại mới gọi là có thanh, ngoài bốn đại ra không gọi là có thanh. Chẳng phải một thân không cần có thanh, nên gọi là bất định. Nếu nói đồng một thân thì phải có thanh. Nên chắc chắn là 9 0. Nay xét rõ Tỳ-bà-sa có hai thuyết. Vị sư trước nói cõi Dục không lìa hương, vị là cõi Sắc cũng thay đổi hương vị, như trang nghiêm đầy đủ mà không thành tựu. Vị sư sau nói: “Tất cả cõi Dục, cõi Sắc không cần có hương, vị là thân ở cõi Sắc, chỉ hóa hai cảnh sắc và xúc cõi Dục. Pháp sư Thái và Pháp sư Quang giải thích sai lầm ý của Pháp sư Niệm, vì Tạp tâm không nói có thanh. Biết rõ thanh này chẳng thường thành tựu, đó tức là giải thích sai ý Pháp sư. Pháp sư Niệm đã giảng Ca-Diên. Không biết Luận Phát Trí chép: “Cái gì thành tựu giữ gìn âm thanh”. Đáp: Cõi Dục, cõi Sắc. Lại chẳng lẽ không biết Vô tưởng mười nhập. Pháp sư Niệm, cho rằng chẳng phải tất cả bốn đại thường có thanh, nên không cần có thanh. Chẳng phải nói một thân hòan toàn không có thanh. Như Luận này v.v… chép: Không thanh có tám, chín, mười. Có thanh thì chín, mười, mười một. Chỗ này đồng với Tạp tâm, ở đây nói vô thanh, chứ không nói bất thành tựu thanh? Pháp sư đã lấy ý của văn này như thế. Pháp sư Thái lại dẫn Luận Phát Trí để phá Pháp sư Niệm là điều rất sai lầm. Lại tự giải thích rằng: “Nên biết vị sư đầu của Tỳ-bà-sa nói tất cả bốn đại không lìa sắc, thanh. Tất cả sắc cõi Dục không lìa hương, vị là nghóa đúng. Chỗ này lại càng sai lầm, tức trái với Tỳ-bà-sa có bốn đại vô thanh. Luận này, luận tạp tâm nói vô thanh có tám, Pháp sư Niệm giải thích nghóa thuận theo văn Luận. Pháp sư Thái và Pháp sư Quang phá sai mà thôi. Nói về thể dụng của bốn đại: Luận chép: Từ câu “nếu bốn đại chủng” cho đến có thể được chẳng phải thứ khác, đây là nói thể, dụng của bốn đại tăng giảm. Đây là hỏi. Luận chép: Từ câu trong nhóm kia, cho đến vị hợp với cốm: Ở đây lấy dụng tăng thêm để đáp. Luận Tỳ Ba Sa quyển 131, có hai thuyết: Thể tăng. Dụng tăng. Luận này là Sư sau, Chánh Lý là Sư trước. Chánh Lý chống chế Sư trước rằng: Chẳng lẽ không có sắc pháp cũng thấy được dụng tăng, như rượu pha với nước, thuốc hay hòa với thuốc độc. Rượu hòa với nước, tuy hai số lượng đồng nhau nhưng công dụng thì khác nhau. Vì sao nói sắc từ thể nói tăng, đây là không trái nhau. Vì rượu và nước xúc vi tuy bằng nhau, nhưng vị khác nhau, vị rượu rất nhiều, vị nước rất ít. Nên vị nào nhiều hơn vẫn có thể tăng. Trong các nhóm có vị bằng với vật thể tăng mạnh, nghóa là dụng tăng. Thuốc hay và thuốc độc, các duyên khởi có lý môn khác nhau, nên thể loại như thế. Do đó dù ít cũng hàng phục được nhiều, chẳng phải các thể loại có công dụng khác sinh ra, cho nên chấp có công dụng tăng là tà chấp. Hoặc như loại biệt, phẩm biệt cũng như vậy. Nên chỉ có tâm y theo dụng nói tăng, y theo thể nói tăng nghóa là các sắc pháp, thí như nương nhiều, nương một mà thành. Giải thích: Sắc, tâm nương một, nhiều khác nhau. Dụng tăng, Thể tăng cũng chẳng phải một ví dụ. Nói hai thuyết đó đều là văn của Tỳ- bà-sa. “Luận Chánh Lý sư” chép: “Trong đây không hợp, bác bỏ Luận chủ. Nhưng rõ ràng là thể tăng, dụng tăng, chưa phải hết lý. Như bao nhiêu nước có đủ sáu vị, nếu có sáu người cùng uống nước này biết trước là khác nhau, thế nào là thể tăng, thế nào là Dụng tăng, nên biết pháp tánh tùy duyên bất định, chẳng phải thể dụng. Luận chép: “Vì sao đối với việc đó biết cũng có cái khác”. Đây là hỏi. Luận chép: “Do có nghiệp nắm giữ gì nuôi lớn”. Đây là đáp, trong đó có hai. Đây là đáp thứ nhất. “Vì nghiệp có, nên biết thể có. Hỏi đáp về bốn đại: Luận chép: Từ câu “có người nói gặp duyên” cho đến “dụng có hơn kém”. Đây là câu đáp thứ hai. Vì ở sau có tương tri, ở trước có hữu thể, gặp các duyên như lửa, v.v… thì dầu, sáp, sắt v.v… sẽ tan chảy. Như mùa đông, do quá lạnh nên nước bốc hơi và do trước xúc chạm với nước cực lạnh, kế đó biết ấm. Tuy thể của bốn đại chủng không rời nhau, nhưng vì công dụng nhiều hơn nên chỉ có một loại tướng. Nếu nhiều cảnh lẫn lộn, cảnh nào trội hơn thì thọ trước, nhiều âm thanh đồng phát thì nghe là vượt hơn. Luận Tỳ-bà-sa 141 chép: Hỏi: Vì sao biết bốn đại chủng này thường không rời nhau. Đáp: Tự tướng, tác nghiệp, trong tất cả nhóm đều có thể được. Nghóa là trong nhóm cứng, địa giới tự tướng hiện có thể được, nên có nghóa cực thành. Ở trong nhóm cứng này, nếu không có thủy giới thì vàng bạc, sắt không thể nấu chảy. Còn nước nếu không có đất thì tan rã. Nếu không có hỏa giới thì chẹt đá không xẹt lửa. Còn nếu không có lửa thì không thể nấu chín được thì thức ăn sẽ bị thiu thối. Nếu không có phong giới thì không có sự lay động. Còn gió nếu không có đất thì không lớn lên được. Ở trong nhóm ướt là tự tướng của thủy giới, hiện có thể được nên có nghóa cực thành. Nếu không có địa giới, lửa đèn đuốc không thể cháy được, đất đều dung chứa sự vật, nếu không có nước thì không có sông. Nước không có nắng thì không thành nhóm. Nếu không có phong giới thì không có lay động, nếu không có gió thì không lớn lên. Ở trong nhóm lay động là tự tướng của phong giới. Hiện tại có thể được nên có nghóa cực thành. Ở trong nhóm này, nếu không có địa giới thì chạm vách lẽ ra không dội lại được. Còn nếu không co đấtù thì không giữ được vật, nếu không có thủy giới thì không có gió mát. Nếu không có nước thì đất rã rời. Không có hỏa giới thì không có gió ấm. Nếu không có lửa thì thức ăn, sẽ thiu thối. Luận chép: Từ câu có sư khác nói cho đến “giới là hạt giống”. Đây là kinh bộ, chỉ có hạt giống không có thể tướng. Đại thừa không nói hạt giống, nhưng chấp nhận có một đại cho đến bốn đại, chấp nhận một tạo sắc cho đến năm cảnh. Nhưng đồng xứ không lìa nhau, chẳng xen lẫn nhau. Đại ý Kinh bộ cũng đồng. Luận chép: “Vì sao Trong gió biết có hiển sắc”: Đây là hỏi. Nói cảnh bên ngoài chắc chắn có tám vi như trong gió bên ngoài không có bụi trần, nuôi lớn hình sắc, cùng chấp nhận chắc chắn là không. Làm sao biết được trong định có hiển sắc, nếu không hiển sắc thì chỉ có xúc, cái nào có tám vi. Luận chép: Từ câu “nghóa này nên tin” cho đến không lìa nhau là đáp. Trong gió hiển sắc chỉ có thể y theo giáo tin là có, Không thể so sánh mà biết, hoặc mùi hương hợp hiện có thể chấp. Tuy mùi có thể hôi, thơm, nhưng chắc chắn có rõ ràng. Giải thích cõi Sắc: Luận chép: Từ câu “Trước nói cõi Sắc” cho đến nên không nói riêng. Đây là giải thích cõi Sắc, rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Sự nói trong đây cho đến là nói theo xứ: dưới đây là hỏi, đáp phân biệt, Đây là hỏi. Luận chép: “Như vậy có lỗi gì?” Đây là hỏi lại. Luận chép: Từ câu lỗi hai đều hữu cho đến có lỗi rất ít: Đây là trách y thể có lỗi rất nhỏ. Luận chép: Nếu nói theo xứ cho đến có lỗi rất nhiều. Ở đây nói y theo xứ có lỗi rất nhiều. Luận chép: Từ câu lỗi hai đều vô cho đến năng y tạo sắc.” Hai là đáp vặn hỏi. Luận chép: Từ câu “Nếu thế đại chủng” cho đến “bốn đại chủng”: Đây là y theo Dị loại đại chủng, làm vặn hỏi. Luận chép: Từ câu nên biết trong đây cho đến Giống chẳng khác nhau: Đây là dùng loại đồng hợp nói đáp. Nhưng Luận Chánh Lý có hai thuyết. Nên Luận đó nói hoặc chỉ y thể cũng không có lỗi. Do đó nói chắc chắn câu sinh, các thể hình sắc chẳng chắc chắn có. Pháp sư Quang nói không có hoặc chỉ y xứ, nhưng vì ngăn thường chê bai, nên nói riêng đại chủng. Đa chê bai nghóa là hoặc nói chê bai. Đại chủng tạo sắc không có tánh riêng (Thí Dụ bộ và Giác Thiên) v.v… hoặc lại nói lời chê bai, không có xúc xứ riêng sắc thể sở tạo (Sư Thất lợi phiến đa chấp nhận có sắc). Hoặc lại chê bai rằng chẳng phải tất cả nhóm đều có tất cả các sư Kinh bộ hoặc có khi cho rằng đều không có bốn đại. Hoặc lại chê bai số không chắc chắn nói riêng đại chủng. Sự chê bai này đều trừ (các sư Kinh bộ Đại thừa đồng nói hoặc chắc chắn có đại chủng phải có đủ bốn thứ.) Luận chủ ngăn dứt tranh luận: Luận chép: Từ câu”cần gì phân biệt” cho đến” nghóa nên suy nghó chọn”: Đây là luận chủ dứt tranh luận. Luận chép: Từ câu” đã nói như thế” cho đến kế đây sẽ nói. Nửa bài tụng này giải thích: Câu sinh khác. Luận chép: Cho đến “những thứ khác bất khởi”. Giải thích: Khi tâm, tâm sở không chắc chắn đi chung. Khi không có tâm vương khởi thì không có tâm sở, khi tâm sở khởi thì không có tâm vương, nên gọi là “tất câu”. Chẳng phải nói tâm vương đều có cùng lúc với tất cả chủng loại tâm sở. Luận chép: Từ câu “các hành tức là” cho đến “bốn tướng đều khởi” hai chữ “tất câu” liên quan câu trên với câu dưới, đây là hành tướng “tất câu”. Luận chép: Từ câu nói hoặc đắc cho đến, cho nên nói hoặc”. Giải thích: Hai chữ “hoặc đắc” Trong các hành khởi chung với đắc gọi là pháp hữu tình, hoặc bất câu với đắc, nghóa là pháp vô tình, nên gọi là “hoặc”. Nói về tâm sở: Luận chép: Vừa rồi nói tâm sở là gì? Dưới đây theo đó để nói đầy đủ về tâm sở. tâm sở là tâm sở hữu. Luận Chánh Lý chép: “Trong bốn pháp hữu vi phân biệt rộng sắc tâm, như phẩm trước đã nói. Các pháp tâm sở thì chưa phân biệt rộng. Dưới đây có mười một bài tụng rưởi nói rộng về tâm sở. Trong văn có bốn: Nói về danh thể. Nói về câu sinh. Nói về phân biệt với xen lạm. Nói về các tên gọi. Trong nói về danh thể lại chia làm hai: Chia ra chương nêu danh. Nhắc lại chương giải thích riêng. Dưới đây nửa bài tụng chi ra chương nêu danh. Luận chép: Cho đến “năm Tiểu phiền não địa pháp”: là nêu tên gọi năm địa, rất dễ hiểu. Theo Tỳ-bà-sa quyển 42, ngoài năm Địa pháp còn có Đại hữu phú vô ký địa, nghóa là tâm Hữu phú vô ký. Pháp tâm sở, Đại vô phú vô ký địa pháp, nghóa là tất cả vô phú vô ký. Hai địa pháp này không có tâm sở khác nên ở đây không nói. Giải thích chung: Luận chép: Từ câu “Địa là hành xứ “ cho đến” Vi bỉ pháp địa”: là giải thích chung tên gọi năm địa. Luận chép: Pháp Đại địa nên gọi là Đại địa. Giải thích riêng: Pháp Đại địa: “Địa” là tâm vương, “Đại pháp” là tâm sở Luận chép: Từ câu nếu pháp trong đây cho đến “gọi là pháp Đại địa” Giải thích: Riêng pháp Đại địa: Tức là tâm sở, đây là hai lớp thuộc về y chủ thích. Luận chép: Nghóa là pháp thường ở tất cả tâm, có người giải thích là Pháp Đại địa thể. Giải thích riêng năm địa: Luận chép: “Pháp đó là gì?” Đây là hỏi gạn lại. Dưới đây là giải thích riêng năm pháp Đại địa, tức năm đoạn. Sau đây là bài tụng thứ nhất giải thích riêng Pháp Đại địa. Sắp giải thích danh thể, trước giải tên chung. Như trên đã trình bày. Luận Chánh Lý chép: “Địa” tức là tâm. “Pháp Đại địa” gọi là Đại địa, trong đây như pháp Đại địa có bao nhiêu tên Pháp Đại địa, nghóa là pháp trùm khắp tất cả mọi phẩm loại, tất cả tâm câu sinh. Theo văn luận ở trên, mười pháp như thọ… cùng với tâm câu sinh gọi là Pháp Đại địa. tâm và tâm vương không câu sinh, nên chẳng phải Pháp Đại địa. Luận Tỳ-bà-sa quyển mười sáu chép: Hỏi: Pháp Đại địa nghóa là gì? Đáp: “Đại” nghóa là tâm, mười pháp như thế là chỗ tâm khởi. Địa của Đại nên gọi là Đại địa, Đại địa là tên pháp là Pháp Đại địa, có thuyết nói tâm gọi là Đại, Thể, Dụng thù thắng. Tức Đại là địa nên gọi là đại địa, là chỗ nương của các tâm sở. Mười pháp như Thọ đối với các đại địa có thể đắc cùng khắp, nên gọi là Pháp Đại địa. Có thuyết cho rằng mười pháp như thọ v.v… trùm khắp các tâm phẩm nên gọi là Đại địa. Thọ v.v… tức là Đại địa, có bao nhiêu tên Pháp Đại địa”. Hai giải thích trên khác với giải thích của hai bộ luận. Còn giải thích sau thì đồng với hai bộ luận, từ xưa, các Sư dùng ba nghóa, hoặc ba nghóa hoặc dùng năm để phân biệt năm địa, vì sợ rườm rà nên không trình bày. Nay Luận chủ chỉ dùng một nghóa, thù thắng hơn ba hoặc năm nghóa đã phân biệt kia, tức dùng khắp các tâm, ngoại trừ tâm sở, vì không thể trùm khắp tất cả tâm. Giải thích chung về biến hữu: Luận chép: Cho đến “Hòa hợp khắp hữu”. Trước giải thích chung “biến hữu”, nghóa là truyền thuyết do sư Tỳ-bà-sa nói, nên gọi là “truyền thuyết”. Luận chép: Từ câu trong đây thọ nghóa là, cho đến có khác. Theo giải thích thọ uẩn, nói “Lãnh tùy xúc” và trong đây Luận Chánh Lý” không bác bỏ, nên biết lời nói này nghóa là “Lãnh”. Các cảm xúc thuận khổ, vui, chẳng phải nói lãnh thuận các cảnh khổ vui v.v… Có người cho là lãnh nạp cảnh trước mặt, chẳng chắc chắn, cho nên Luận Chánh Lý chép: “Thân sở y có thể lợi ích, tổn hại hoặc đều trái nhau, gọi là thọ. Theo luận này thì “Lãnh” đồng thời với xúc. Luận chép: “Tưởng” nghóa là đối với cảnh chấp lấy tướng khác nhau, tức là chấp lấy các tướng khác nhau của nam nữ. Luận Chánh Lý chép: “An lập nắm giữ các cảnh tướng khác nhau. Nhân đó gọi là “Tưởng”. Thuật rằng: Cho năng là nhân, khiến tâm, tâm sở an lập các tướng nam, nữ, v.v… mà chấp lấy. Luận chép: Tư là khiến cho tâm có tạo tác, luận Chánh Lý chép: Khiến tâm tạo tác thiện, bất thiện, vô ký, thành hơn, kém, vừa chừng, gọi là Tư. Do có Tư nên khiến cho tâm đối cảnh có tác dụng xao động. Như đập đá xẹt lửa. Luận chép: “Xúc là căn cảnh” cho đến “năng cò xúc đối” Luận Chánh Lý chép: Do căn cảnh thức hòa hợp mà sinh, làm cho thọ nhờ đó mà có chỗ xúc đối, gọi là Xúc. Luận chép: Dục là mong cầu việc làm. Luận Chánh Lý chép. “Mong cầu chấp lấy cảnh gọi là Dục. Luận chép: Tuệ nghóa là đối với pháp có phân biệt. Luận Chánh Lý chép: Phân biệt các tướng sở duyên tà chánh v.v… gọi là Tuệ, phân biệt chưa chắc chắn cũng được đi chung với nghi. Luận chép: Niệm là đối với duyên ghi nhớ rõ ràng không quên. Luận Chánh Lý chép: “Đối cảnh ghi nhớ rõ ràng không quên, do đó gọi là Niệm. Thuật rằng: Do sức của niệm nên đối cảnh duyên ghi nhớ rõ ràng, là nói có thể sau đó không quên mất nhân, chẳng phải chỉ y theo lỗi bỏ cảnh đã duyên. Luận chép: Tác ý nghóa là khiến cho tâm cảnh giác. Luận Chánh Lý chép: “Dẫn tâm, tâm sở, khiến đối với sở duyên có sự cảnh giác gọi là tác ý, thế gian gọi là để ý. Thuật: Các tâm, tâm sở chìm đắm không hành. Do năng lực tác ý cảnh giác khiến phát giác, sách tấn tâm khiến tạo công năng thuộc ở cảnh, tức thế gian nói là để tâm việc đó. Nói về thắng giải: Luận chép: Thắng giải nghóa là đối với cảnh ấn khả. Luận Chánh Lý chép: “Ở cảnh ấn khả, gọi là thắng giải, có Sư khác nói: “Thắng là tăng thêm. “Giải” là giải thóat, Ở đây có thể khiến cho tâm đối với cảnh vô ngại tự tại mà chuyển. Như thắng giới… Thuật: Đối với cảnh ấn khả rõ ràng, xét định việc này đúng hay sai. Giải thích chính xác gọi là thắng giải. Hỏi: Nếu vậy thì tương ưng với nghi, làm sao có thắng giải? Giải thích rằng: Có hay không, trong hai tâm mỗi tâm đều có thể ấn khả chấp tướng nên có thắng giải. “Sư” khác là các sư luận Tạp tâm v.v… Họ nói khiến cho tâm đối cảnh tự taiï là Thắng. Cảnh không thể ngăn ngại nên đổi khác gọi là Giải. Giải là giải thóat. Nên luận Tạp tâm bản dịch cũ gọi là giải thoát. Nói “Thắng giới đẳng”. Đẳng là giữ thắng định, thắng tuệ. Như nói: Do xúc nên tâm thuộc cảnh, do thắng giải nên tâm lìa cảnh, đó là nghóa này. Nói về Tam-ma-địa: Luận chép: Tam-ma-địa, nghóa là tâm nhất tánh cảnh. Luận Chánh Lý giải thích: Khiến cho tâm không loạn nên chấp lấy cảnh sở duyên không lưu tán, do đó mà gọi là Tam-ma-địa. Thuật: Do định lực nên trong một sát-na khiến tâm, tâm sở đồng thuộc một cảnh cho đến chẳng phải ngoài đây. Tam-ma-địa, Hán dịch là Đẳng trì, tức bình đẳng giữ tâm trụ một cảnh. Trên đây là giải thích các tâm sở. Nói tâm là gồm cả tâm sở, các tướng trái nhau nhưng khởi chung, đúng theo lý mà suy nghó điều đó, sợ rườm rà nên không thuật lại. Lược nêu hai bộ luận để phân biệt thể tướng của nó. Muốn trình bày nhiều văn, nhưng sợ rườm rà nên không nêu. Nói về tâm, tâm sở: Luận chép: Từ câu “các tâm, tâm sở” cho đến “chỉ có giác tuệ thủ”: Than rằng pháp tâm, tâm sở sâu kín khó biết, mười pháp biến hành của Tông Hữu Bộ, trong Đại thừa chỉ có năm Biến hành. Luận Chánh Lý chép: “Thượng tọa kia nói chỉ có ba thứ là: thọ, tưởng, tư. Đây chỉ có ba tên là biến hành, cũng không lập tâm sở. Chỉ có tâm khác nhau gọi là Thọ v.v… Nên ghi chép điều đó. Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến pháp ấy thế nào? Dưới đây là bài tụng thứ hai, giải thích pháp Đại thiện địa. Trước giải thích Pháp Đại thiện, pháp Thiện địa kia hai lớp thuộc chủ, như trước rất dễ hiểu. Luận chép cho đến chỉ có biến thiện tâm, đây là giải thích trong các tâm sở của Pháp Đại thiện có “Duy thị thiện bất biến thiện tâm”, nghóa là ưa thích, nhàm chán. “Hữu biến thiện tâm phi duy thị thiện” Nghóa là Pháp Đại địa có “Duy thị thiện cũng biến tâm thiện, nghóa là mười pháp như tín, v.v… có bất biến thiện tâm và phi duy thị thiện, nghóa là hai pháp Tầm và Tứ. Thùy miên, ác tác là chỉ do tâm nhiễm chẳng phải Thiện tánh, cho nên nói khéo phân biệt. Nói về Tín: Luận chép: Từ câu Tín trong đây cho đến nên gọi là Tín Luận Chánh Lý chép: “tâm trược trái với hiện tiền chấp nhận. Nhân quả không trái ngược đều thuộc về tướng riêng, là muốn có sở y để có năng lực giúp cho giải thóat, gọi là Tín. Nhập A-tỳ-đạt-ma chép: “Pháp có công năng dứt trừ tâm uế trược như cục phèn lóng nước, thả vào nước khiến cho nước đang đục liền lắng trong, cũng như viên ngọc Tín trong ao tâm, các thứ dơ đục đều được tẩy trừ. Luận chép: Từ câu người không buông lung cho đến gọi là không buông lung. Luận Chánh Lý chép: “Chuyên lợi mình, ngăn dứt thân, ngữ ý. Trái với buông lung, gọi là không buông lung. Thuật rằng: Tự lợi tức Niết bàn ba thừa và quả đáng ưa của thế gian là chỗ chuyên của mình, nêu lên sở y, “ngăn dứt thân, miệng, ý” là nêu tác dụng, trái với buông lung là nói về đối trị. Nói về khinh an: Luận chép: “Khinh an” là tâm kham nhậm tánh, luận Chánh Lý chép: “Chánh tác ý chuyển làm cho thân tâm nhẹ nhàng an vui, “tâm kham nhận tánh” gọi là nhẹ an.” Thuật rằng: “Chánh tác ý chuyển” là nói vị sở y, tức là đúng như lý tác ý khi đang hiện khởi là nhân làm cho thân tâm nhẹ nhàng, khoan khoái là nói tác dụng, “tánh kham nhậm của tâm” là chỉ cho thể của nó. Luận chép: “Chẳng lẽ không có kinh cũng nói có thân khinh an hay sao?” là Kinh Bộ hỏi. Đã có kinh nói có thân khinh an, vì sao chỉ là Tánh kham nhậm tâm. Luận chép: Từ câu “Tuy chẳng phải không nói cho đến nên biết cũng thế: Là Hữu Bộ giải thích, ở đây như Thân thọ chẳng phải sắc thân, tức là năm thức tương ưng thọ. Khinh an cũng thế. Nói về năm thức: Luận chép: “Làm sao lập được chi giác này: Là “Kinh bộ vặn hỏi. Nếu năm thức tương ưng có khinh an thì làm sao có thể nói đây là chi Giác. Đây là vặn hỏi kinh. Nay xét rõ lời vặn hỏi này chẳng phải thích đáng. Tức chẳng tâm khinh an mà đều là chi giác. Làm sao năm thức khinh an khiến thành chi giác”. Luận chép: Từ câu nên biết trong đây, cho đến “thân kham nhận tánh”. Văn này, Kinh bộ giải thích. Kinh khác với Hữu bộ, tánh nhẹ an của thân là sắc thân có tánh kham nhậm, trong thân xúc chạm nhẹ. Luận chép: “Vì sao gọi đây là chi giác”? Là Hữu bộ vặn hỏi. Chi Giác là tâm sở, khinh an là sắc pháp. Làm sao đây được gọi là chi giác? Luận chép: Từ câu “thuận theo chi giác” cho đến “tâm khinh an”: Là Kinh bộ giải thích. Vì khi nhập định thân có tánh nhẹ an. Thuận theo tâm khinh an trong định, nên gọi là chi giác. Luận chép: “Ở chỗ khác có thấy thuyết này hay không?” Hữu bộ hỏi: Ở chỗ khác cũng có theo nhau đặt tên như thế hay không? Dẫn kinh so sánh giải thích: Luận chép: Từ câu có khi như kinh nói, cho đến được gọi là không lỗi: Là dẫõn kinh so sánh giải thích. Vả lại thấy chỗ khác sân và nhân duyên sân gọi là sân khuể cái, kiến, tư duy và cần gọi là tuệ uẩn, tuy nhân của sân, tư duy và cần kia chẳng phải sân, chẳng phải tuệ. Nhưng thuận theo đó cũng được gọi như thế. Ở đây lẽ ra cũng như vậy. Kinh bộ cũng chấp nhận có tâm khinh an, nhưng không có tự thể riêng, tức là tư khác nhau. Chỉ định tâm thì có, tán thì không. Năm thức tương ưng lý thì chẳng có. “Thân khinh an” tức là xúc chạm nhẹ. “Nhân của thân nhẹ nhàng” Luận Chánh Lý chép: “Câu nói này có nghóa là trong đây đã nói thân khinh an, chẳng phải chỉ có tâm sở gọi là nhẹ an. Câu nói này rất vô lý. Thọ v.v… lẽ ra cũng đồng với lời nói này. Nhưng năm thức thân tương ưng các thọ gọi là thân thọ, có người nói rằng: Nếu có khinh an, thể chẳng phải tâm sở. Nhưng trong đây nói pháp tâm sở, nên lẽ ra không nói kia. Vì thuận theo thể của chi giác cũng gọi là chi giác. Nghóa là thân khinh an, có công năng dẫn chi giác tên khinh an. Nên cũng thấy chỗ khác. Sân và nhân sân gọi là sân khuể cái, kiến tư duy, cần gọi là tuệ uẩn. Trong nhân sân kia không có sân, không có tuệ. Nhưng thuận theo đó nên cũng được tên gọi đó. Đây lẽ ra cũng như vậy. Nay nói rõ hơn. Đây là Luận Chánh Lý chép: Có người nói rằng nêu thuyết của hai Sư. Có người giải thích dường như không hiểu được ý cũng thấy chỗ khác, ở dưới dường như nói chung chấp đó. Chẳng phải muốn nói năm thức khinh an gọi là chi giác, nếu có thuyết này là dẫn chứng tông của mình, tức là có kinh nói thân khinh an gọi là chi giác. Nói về xả: Luận chép: Từ câu” tâm bình đẳng” cho đến “gọi là xả”. Luận Chánh Lý chép: “tâm bình đẳng gọi là Xả, trái với trạo cử như lý đã dẫn khiến cho tâm không vượt qua, đó là nghóa xả”. Thuật rằng: Tánh bình đẳng của tâm, tức chỉ cho thể của nó. Đối trị trầm trạo tánh bất bình đẳng nên gọi là tánh bình đẳng. “Trái với Trạo cử ” tức là nêu việc đối trị. “Trạo hành thô động”, vì nghóa trái xả mạnh, cho nên nói nghiêng về một bên. Như lý được dẫn là giải thích nghóa xả. Nghóa xả là tánh thiện là như lý tâm dẫn sinh, có công năng điều phục tâm không vượt chỗ tạo tác. Luận này không có tánh cảnh giác tức là không trạo cử. Hỏi đáp về xả: Luận chép: Từ câu làm sao nói được cho đến “hai tướng nên khởi” là vặn hỏi. Tác ý trong giải thích là có cảnh giác, trong thiện, hành xả là không cảnh giác. Làm sao đồng một sát-na mà có hai tướng nên khởi. Luận chép: Từ câu Chẳng lẽ không trước không nói, cho đến khó biết rõ được: Là Luận chủ đáp. Luận chép: Từ câu tuy có điều khó hiểu cho đến không trái ngược. Ngoại đạo lại vặn hỏi. Luận chép: Từ câu “ở đây có cảnh giác” cho đến có gì trái ngược: Là đáp. Tác ý có cảnh giác, xả thì không cảnh giác, hai thể khác nhau thì đâu có gì trái nhau. Luận chép: Từ câu nếu thế thì không nên cho đến đều tương ưng lẫn nhau: Là ngoại đạo hỏi gạn lại. Có cảnh giác. Không cảnh giác. Cả hai khác nhau làm sao cùng duyên một cảnh, còn nếu có cảnh giác và không cảnh giác. Cả hai đều tương ưng, cũng ứng với tất cả tham, vô tham v.v… đều tương ưng lẫn nhau. Nói về thể dụng: Luận chép: Từ câu “chủng loại như thế” cho đến nên biết cũng thế: Là đáp, thể riêng dụng khác như thế chủng loại các pháp khác trong đây lẽ ra đều dẫn ra làm ví dụ, như dụng khác kia đồng một tâm khởi. Nay ở trong đây xả và tác ý, đồng một tâm khởi nên biết cũng thế. Luận chép: Hai thứ tàm quý sẽ giải thích sau đây”. Chỉ cho giải thích dưới đây. Luận chép: Từ câu người hai căn là cho đến “Pháp Đại thiện địa” Luận Chánh Lý chép: “Đã được, chưa được cảnh giới. Mê đắm mong cầu trái nhau không có tâm ái nhiễm gọi là Vô tham. Đối với hữu tình và phi tình không có tâm sân hại, hạt giống thương xót gọi là Vô sân. Luận chép: Bất hại là không tổn não. Luận Chánh Lý chép: Trái với an vui, tỗn não hữu tình tâm tánh hiền lành gọi là bất hại. Luận chép: Cần, tánh của nó là khiến tâm mạnh mẽ. Luận Chánh Lý chép: Các công đức đã sinh. Tội lỗi giữ gìn hay xả bỏ. Đối với công đức chưa sinh tội lỗi làm cho sinh, bất sinh. tâm không có tánh lười biếng gọi là “cần”. Do có những thứ này nên tâm đúng như lý tạo tác sự nghiệp vững vàng tiến bước, không ngừng. Luận Chánh Lý chép: Đối với pháp thiện lại có ưa, chán, nhưng không khắp tất cả tâm thiện, nên Luận ấy chép: “Cả hai thuyết và ngôn ngữ gồm nhiếp ưa và chán, nghóa là tâm thiện đã xem xét vô lượng tội lỗi pháp tánh. Năng lực tăng thượng này đã khởi thuận tâm vô tham nhàm chán trái với tánh, tương ưng với đây gọi là yểm tác ý. “Hân” là tâm thiện mong cầu đối trị xuất ly lỗi lầm. Sức tăng thượng này đã khởi thuận chứng tu tâm tánh hân thượng. Ở đây lìa vui chưa đến các địa, cũng có hiện hành nên chẳng phải thọ hỷ, tương ưng với đây nên gọi là Hân tác ý. Đây có hai hành tướng, lại trái nhau. Nên trong một tâm không cho phép khởi cùng lúc. Thế nên trong đây không có chánh hiển nói. Pháp Đại thiện địa tánh bất thành, cũng có hỷ căn Yểm hành đều chuyển. Xác định là không có hân và yểm chuyển cùng lúc. Là biểu hiện hai định này không đi chung. Hai thuyết và ngôn hành trái nhau. Lại luận A-tỳ-đạt- ma chép: “Hân” là Hân thượng ở phẩm hoàn diệt, thấy công đức rồi, khiến cho tâm ưa thích và kính mến thuận theo tu thiện. tâm có ưa thích vui Niết-bàn này tương ưng với đây, nên gọi là Hân tác ý. Nhàm chán gọi là yểm họan, ở phẩm trôi lăn thấy lỗi quấy rồi khiến tâm nhàm lìa thuận theo lìa nhiễm. Tâm có những thứ này nên nhàm chán ác sinh tử tương ưng với ở đây, gọi là yểm tác ý. Luận Tỳ-bà-sa quyển 28 chép: Lời bình: Lời bình: “Có pháp khác gọi là “yểm”, chẳng phải tuệ, chẳng phải Vô tham là pháp tâm sở tương tưng với tâm thuyết này là hơn, có các pháp tâm sở khác như thế tương ưng với tâm. Nhưng thuyết kiến uẩn: Khổ, tập, nhẫn, trí gọi là năng yểm, do nhẫn trí kia tương ưng với yếm nên gọi là năng yểm, chẳng phải tự tánh. Còn nhà phê bình Tỳ-bà-sa quyển 196 thì nói riêng có thể của yểm, đồng với văn ở trước. Yểm này chỉ có thiện chung với hữu lậu, vô lậu. Còn Tỳ-bà-sa 143 cũng lập riêng Hân, Yểm. Nhưng các Tiểu luận phần nhiều không nói vì chẳng phải hằng khởi thiện tâm bất biến. Không nói là vì Pháp Đại thiện địa. Các tâm, tâm sở có tương ưng khởi, chẳng phải tự lực khởi có hai mươi tám. Trong giải thích trừ tuệ. Thiện đại địa có mười. Phiền não địa trừ. Vô minh một, Bất thiện địa hai, Bất định thủ hai, nghóa là Tầm Tứ có tự lực khởi, chẳng phải tương ưng khởi, có mười sáu pháp nghóa là Tiểu hoặc mười, trong Bất thiện có sáu, nghóa là tham, sân, mạn hối, thùy miên và nghi. Thùy miên sở dó là tự lực khởi. Do đối với miên khởi tham, sân và các tâm thiện. Đây là tham v.v… thiện tùy miên mà khởi, chẳng phải thùy miên khởi lên theo tham. Nên Tỳ-bà-sa quyển 50 chép: “Thùy miên, ác tác tuy độc lập nhưng không rời hai, không lập, trong kết. Hỏi đáp về tham: Hỏi: Như vậy tham v.v… có phải là tự lực khởi cũng tùy từng khởi hay không? Đáp: Đối với thùy miên, hoặc tự lực khởi, hoặc tha lực khởi, hoặc đều tùy miên không khác nhau. Cho nên không nói. Lại dù tùy miên khởi, nhưng không theo đó mà thành bất thiện, nên không nói trước. Cũng tương ưng khởi, cũng tự lực khởi, nghóa là có hai pháp, đó là vô minh trong đại hoăïc và tuệ trong thông, nếu lấy năm kiến thì tự lực khởi, còn lại thì tương ưng với vô minh. Nếu đi chung với chín thứ tùy miên, mười thứ tiểu hoặc và hối thì đó là tương ưng. Không chung vô minh thì là tự lực, chẳng phải tương ưng khởi, chẳng phải tự lực khởi, nghóa là có một pháp gọi là tâm vương Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến pháp ấy thế nào?. Dưới đây, thứ ba là nói pháp Đại phiền não địa, hai lớp đều y theo Luận chủ, lời văn rất dễ hiểu. Đây có bốn trường hợp. Có khi chỉ nhiễm chẳng phải biến khắp: nghóa là phẫn, phú v.v… và tham sân v.v… đều không có tàm. Có “biến nhiễm phi duy” nghóa là mười trong thông có “Biến cũng có duy “đó là Đại hoặc địa”, Phi duy phi biến” nghóa là tầm, tứ, thùy miên, ác tác. Chỉ có tâm sở thiện chẳng có tánh nhiễm, lời nhiễm đã phân biệt. Giải thích tướng vô minh, v.v… Luận chép: Cho đến “Vô trí vô hiển”. Đây là giải thích tướng vô minh. Luận Chánh Lý chép: “Si là ngu si. Đối với cảnh sở tri, chướng như lý giải, tức là vô minh vô trí, vô hiển, nên gọi là Ngu. Luận chép: Từ câu Dật là buông lung cho đến “pháp sở đối trị”. Luận Chánh Lý chép: “Chỉ vì lợi mình mà buông bỏ hữu tình gọi là buông lung. Thuật rằng: “Chỉ vì tự lợi” như đã giải thích trong không buông lung. Luận chép: Từ câu đãi là biếng nhác cho đến “cần sở đối trị”. Luận Chánh Lý chép: “Đối với việc thiện giảm bớt năng lực. Đối với việc ác thuận theo trở thành vô minh đẳng lưu mạnh mẽ gọi là biếng nhác. Do đó nói là tánh xấu kém, siêng học theo thói dơ xấu, nên gọi là biếng nhác. Luận chép: Từ câu “Bất tín” cho đến “tín sở đối trị”. Luận Chánh Lý chép: tâm không trong sạch, tà kiến đẳng lưu. Đối với các đế, bảo tónh lự v.v… cho đến hiện tiền khinh hủy. Đối với các nhân như bố thí và đối với quả kia tâm không hiện chấp nhận gọi là Bất tín. Luận chép: Từ câu “Hôn là hôn trầm” cho đến “gọi là hôn trầm”. Đây là dẫn Đối pháp để giải thích. Luận chép: Đây là tâm sở vì sao gọi là Thân? Đây là hỏi, đã là tâm sở vì sao Đối pháp nói là thận trọng? Luận chép: “Như thân thọ nên nói cũng không có lỗi”, là đáp. Như nói thân thọ chẳng phải tức là thân, mà là tâm sở. Nói “Thân hôn trầm” nghóa cũng như thế. Luận Chánh Lý chép: Không vui nên sinh tâm trọng tánh, gọi là hôn trầm. Do đó mà che lấp tâm khiến cho mờ tối, không kham nhận tánh quý. Do đó nói là nhẹ an đối trị. Trạo là trạo cử, làm cho tâm không yên tónh. Luận Chánh Lý chép: Cái do thân lý như tầm, v.v… sanh ra, khiến tâm không yên tónh, gọi là trạo cử, tâm hợp với đây, vượt đường mà đi. Tổng kết: Luận chép: Từ câu chỉ có như thế, cho đến “pháp Phiền não địa”. Là tổng kết con số. Luận chép: Từ câu “chẳng lẽ không phải căn bản” cho đến “trạo cử buông lung.” Đây là nêu vặn hỏi của luận này. Trong luận này quyển sáu không nói hôn trầm. Trong Pháp Đại địa lấy năm số hợp thành mười số, gọi là Đại địa phiền não pháp. Nay đem luận này vặn hỏi chỉ có sáu số. Luận chép: Từ câu “Thiên ái nay ông” cho đến “bất nhàn ý chỉ”. Là tổng kết chẳng phải vặn hỏi. Ông chỉ biết Luận này nói mười mà không biết sau đó chỉ có năm tức là Pháp Đại địa. “Hôn trầm y theo thắng tuy chướng đẳng trì” nói thể tánh nó, cái nào không có hôn trầm. Đã đồng chỉ thông với tâm nhiễm, vì sao chẳng phải Phiền não địa pháp. Luận chép: “Ý chỉ đó là gì?” Đây là hỏi y. Luận chép: Từ câu “Thất niệm” cho đến “và tà thắng giải”. Đáp rộng về ý chỉ, lời văn rất dễ hiểu. Hỏi: Thất niệm, Bất chánh tri, Tà thắng giải, tâm lọan và Phi lý tác ý. Vì sao luận Câu-xá nói năm pháp này và chấp nhận xếp chung vào Đại phiền não địa, mà không xếp vào năm pháp như thọ, v.v…? Đáp: So sánh ý Luận từ năm pháp này đối với phẩm Thiện khởi nghiệp dụng, thuận theo danh thể của mình đối với phần nhiễm đã khởi nghiệp dụng, trái với danh thể của mình, nhiễm vị gọi là Thất niệm, Bất chánh tri, tà thắng giải, tâm loạn, phi lý tác ý, tên gọi là trái nhau. Thọ, tưởng, tư, xúc, dục. Trong vị nhiễm, tịnh sanh khởi nghiệp dụng, không mất tên cũ, nên không nói lại. Luận chủ cho là có lỗi, không nhọc giải thích nhiều. Chia ra bốn trường hợp: Luận chép: Từ câu nên nói như thế cho đến “là trừ tướng trước”. Rộng chia ra bốn trường hợp. Lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “có người chấp tà đẳng trì” cho đến “khác với ở đây”. Nêu bốn trường hợp thuyết khác. Luận chép: Từ câu “lại chấp nhận hôn trầm” cho đến ai có lỗi: Chung với hôn trầm, xếp vào Đại phiền não địa, vặn hỏi khác với Luận Câu-xá, cùng Chấp nhận hôn trầm và các trạo cử khác. Thông với tất cả tương ưng phiền não, nghóa của nó đồng, nhưng không nói Đại phiền não địa. Ai có lỗi? Đây là lổi không lập, chẳng phải ta có lỗi đồng với pháp khác. Nêu giải thích khác: Luận chép: Từ câu có người nói rằng cho đến “chẳng đến trạo cử hành”. Đây là nêu giải thích khác với hôn trầm không xếp vào Đại phiền não địa. Cho nên đây là giải thích của Tạp tâm v.v… Luận Chánh Lý giải thích ý Luận này rằng: Nhưng ở đây bị hôn trầm vô minh che lấp. Luận Câu-Xá không nói pháp Đại phiền não địa, có nói Luận kia gọi là Vô minh, chỉ có mắt hôn trầm, tướng tương tợ. Tánh Vô minh là Đại biến hành. Địa pháp này không nói mà thành. Theo văn Luận trên. Ở đây nói mười phiền não địa của Luận này, nói vô minh tức hôn trầm. Hôn trầm tương tợ vô minh. Cho nên không nói vô minh: Vô minh tương ưng với tất cả tâm nhiễm không nói mà thành. Luận Chánh Lý chép: “Đây gọi là tổng mục, hai nghóa của văn luận trên dây. Thuyết này trong pháp Đại phiền não địa của Luận Câu-xá. Nói vô minh là tên một sở mục chung hai, nghóa là vô minh, hôn trầm. Luận chép: Từ câu “ai Hôn trầm hành” cho đến “Bất câu hành”. Là luận chủ vặn hỏi các giải thích củaTạp tâm v. v… “Ai có hôn trầm mà không có trạo cử. Ai có trạo cử mà không có hôn trầm.” Hai thứ này không hề chẳng đi chung. Đâu có hôn trầm hành thuận đẳng trì. Luận chép: “Tuy thế nhưng lẽ ra biết tùy theo tăng thêm mà nói hành”: Là ngoại đạo trả lời Luận chủ. Tuy trạo cử, hôn trầm cả hai thường đi chung, nhưng hôn trầm tăng thì gọi là hôn trầm hành. Luận chép: Từ câu “Tuy biết nói hành” cho đến “Lập ra địa pháp”. Đây là đoạt lấy Ngoại đạo. Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến pháp ấy là gì? Giải thích pháp địa bất thiện: Dưới đây nửa bài tụng thứ tư giải thích, bất pháp Thiện địa có hai lớp giải thích như trước nên biết. Tụng rằng: “Duy biến bất thiện tâm”: Ở đây có bốn trường hợp: có “bất thiện phi biến”, bất thiện là bảy món như phẫn, v.v… và sân trong Bất định. “Hữu biến bất thiện, phi duy bất thiện”nghóa là đại địa có mười, đại phiền não có sáu. Tầm, Tứ trong bất định. “Hữu biến bất thiện cũng duy bất thiện” nghóa là bất thiện địa có hai pháp, có phi duy bất thiện phi biến bất thiện, nghóa là tiểu hoặc có ba. Thùy miên trong Bất định, ác tác, tham, mạn, nghi, chỉ có tâm sở thiện không phân biệt, không nhọc duy biến. Luận chép: Cho đến “như sau sẽ nói”: Chỉ cho giải thích ở dưới. Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến “pháp ấy thế nào”. Dưới đây là thứ năm có một bài tụng giải thích pháp Tiểu phiền não địa. Có hai lớp giải thích như trước nên biết. Nghóa là chấp một chút phần tâm nhiễm ô, gọi là Tiểu. Luận chép: Cho đến “Phiền não địa pháp”. Giải thích nghóa Tiểu. Chỉ có do Tu mà dứt. Chỉ có ý thức. Chỉ tương ưng Vô minh. Các thứ hiện hành riêng. Pháp Đại thiện địa không tương ưng với tất cả, gọi là phiền não để phân biệt tất cả pháp này. Tầm Tứ tuy chung nhưng tâm nhiễm thiếu bốn nghóa, không gọi là pháp Tiểu phiền não địa. Đại phiền não địa. Đại bất thiện địa, tuy chỉ tương ưng cùng với vô minh, nhưng đều khởi riêng. Chẳng phải chỉ Tu dứt. Thiếu một nghóa nên không được gọi là Tiểu. Ác tác tuy chỉ có Tu dứt, chỉ khởi ở ý địa, vì chẳng tương ưng với vô minh. Tuy khởi riêng nhưng không gọi là Tiểu. Thùy miên tuy chỉ có ý địa nhưng thiếu ba nghóa nên không gọi là Tiểu. Tham và sân tuy chỉ tương ưng với vô minh, nhưng đều khởi riêng. Thiếu hai nghóa nên không gọi là Tiểu. Bốn địa trước đều gọi là Đại. Một địa này không được gọi là Đại. Chung cho Pháp Đại địa vì trùm khắp tất cả tâm, nên gọi là Đại. Pháp Đại thiện địa vì trùm khắp tất cả tâm thiện, nên gọi là Đại. Đại phiền não địa vì tâm nhiễm trùm khắp tất cả nên gọi là Đại. Đại bất thiện địa vì tâm bất thiện trùm khắp tất cả, nên gọi là Đại. Còn bốn địa pháp nói trên đều khởi nên gọi là Đại. Luận chép: Từ câu “pháp này như sau” cho đến “nên phân biệt rộng” Chỉ cho giải thích sau đây. Nói về bất định: Luận chép:Từ câu “đã nói như thế” cho đến “các pháp như Tầm Tư v.v…” Trở xuống bài tụng thứ sáu là nói về Bất định. Nói bất định nghóa là Bất định xếp vào năm địa khác, nên nói Bất định. Pháp ác tác, Thùy miên, tầm tứ, đây là nêu bốn pháp. Ngoài ra còn có tham, sân, mạn, nghi. Luận Tỳ-bà-sa quyển 45 chép: Thùy miên, Ác tác, sợ hãi, tâm tầm tứ. Còn quyển 75 phê lời bình: “Ưng tác” là nói trong tâm sở này nên nói riêng sợ hãi. Vì sao có tâm sở khác và tâm tương ưng là Sợ hãi tự tánh. Đây là nói có trở lại, ngoài ra các loại pháp như thế tương ưng với pháp tâm, tâm sở, chẳng phải các phiền não. Lại nói sợ hãi chỉ cho cõi Dục. Cõi trên nói sợ hãi đối với nhàm chán nói sợ hãi. Lại chép: Hỏi: Như vậy sợ hãi và nhàm chán có gì khác nhau? Đáp: Tôn giả Thế Hữu nói: “Sợ hãi chỉ có ở cõi Dục” Còn nhàm chán có ở khắp ba cõi.” Lại nói thế này: “Sợ hãi ở phẩm Phiền não, nhàm chán ở phẩm Thiện” Lại nói thế này: “Sợ hãi nhiễm ô, Vô phú vô ký” Chán chỉ là thiện. (Theo trên, sợ hãi không có ở thiện, chán chỉ cho tánh thiện.) Luận Chánh Lý chép: “Loại là nhiếp các nghóa: Bất nhẫn, bất lạc, phẩn phát v.v…” Theo luận này thì các pháp: Bất nhẫn…. là loại Tiểu phiền não, cũng tương ưng với một chút phần tâm nhiễm, đều phân biệt khởi. Chỉ Tu thì dứt, ở ý thức địa, chỉ tương ưng vô minh. Còn Phẫn này thì trong Đại thừa gọi là Sân phẫn v.v… cho nên là pháp giả. Tông này đều là tánh Thật hữu, cho nên Luận Chánh Lý chép: “Nên biết tất cả tâm sở tánh nó đều thật có. Vì sao? Vì chẳng phải trong nghóa sở duyên, các thứ hành tướng đồng thời khởi. Một thể đồng thời, như nghóa sở duyên hành tướng khác nhau, đều không cho phép có. Nhưng do pháp khác đã chế phục, thấy sự nối tiếp và biến khác của nó mà khởi. Hiện thấy thế lực dầu trong, nước dơ, quy định, nắm giữ. Đèn tiếp tục có sáng tối, âm thanh, tiếng động, như Luận văn đã nói trên. Nhưng các tâm sở khác nhau, công năng khó biết rõ. Và như thùy miên, ác tác, chẳng phải chỉ bất thiện, mà chấp lấy một phần, xếp vào mười triền. Tầm tuy cũng có cả vô lậu mà làm chướng đạo. Thắng, giải, định, tuệ tuy có ở cả ba tánh mà lập năm phần pháp thân. Năm căn Nhiếp chung. Thiện địa. Các loại pháp tánh như vậy khó biết, tâm sở trái nghóa nhau, cũng như thế xưa nay tương truyền phế lập. Theo Luận này có bốn mươi sáu thứ, đó là Pháp Đại địa có mười, cho đến Bất định có tám. Trong bốn mươi sáu như Pháp Đại địa mười, Tầm Tứ, thùy miên, ác tác, vì có ở cả ba tánh, hoặc có ở cả hai tánh cho nên mười bốn thứ này không dịch tên riêng. Ngoài ra trong ba mươi hai số gồm có hai thứ. Phẩm Tịnh có mười, là Tín v.v… Phẩm Nhiễm có hai mươi hai, đó là Đại phiền não địa có sáu, pháp đại Bất Thiện địa có hai. Tiểu phiền não địa có mười và Tham, sân, mạn, nghi. Nếu đối với nhiễm có cả năm đoạn, khắp sáu thức tức chánh phiên, nhập tịnh, nếu không chung năm đoạn không khắp sáu thức, chỉ có bàng phiên, gồm có mười pháp, nghóa là pháp Đại phiền não địa có sáu. Pháp Bất Thiện địa có hai và tham sân. Trong pháp Đại phiền não địa có sáu dịch Si là Vô si. Vô si tức là Pháp Đại địa tuệ. Nên ở trong thiện không lập Vô si. Dịch buông lung là không buông lung, dịch biếng nhác là tinh tấn, Dịch Bất tín là Tín, dịch hôn trầm là nhẹ an. Dịch trạo cử là Hành xả. Trong pháp Bất Thiện địa có hai, dịch Vô tàm là Tàm, dịch Vô úy là Úy, Trong Bất định dịch Tham là Vô tham, dịch Sân là Vô sân, trong Tiểu hoặc, hại tuy không có ở cả năm dứt, chẳng khắp sáu thức mà cũng dịch là lỗi nặng. Não loạn Bồ-tát, chướng ngại đến Bồ-đề. Bồ-tát sắp chứng Vô thượng Bồ-đề, vẫn khởi Dục, nhuế, hại giác, cho nên dịch khác. Trừ chín và hai nghóa mạn, nghi không có. Chỉ có thể bàng phiên chứ chẳng chánh phiên. Nghóa là ngoài chín và nghi ra, không có ở cả năm dứt, chẳng khắp sáu thức, mạn tuy có ở cả năm dứt nhưng không khắp sáu thức, cho nên không dịch. Mười một thứ này chỉ có thể bàng phiên, trong đó có hai: Dịch theo môn Đẳng lưu. Dịch theo môn hành tướng tương tợ. Nói về đẳng lưu: Nói “Đẳng lưu” là quả Đẳng lưu của bổn hoặc. Phẩn, hận, tật là đẳng lưu của sân xếp vào Vô sân. Não là Kiến thủ đẳng lưu, dịch Kiến thủ là chánh kiến. Kiến thủ tức là tuệ trong Đại địa, cho nên trong Thiện không thể lập riêng. San, cuống, kiêu, dục là đẳng lưu của tham dịch là Vô tham, Siểm là các kiến đẳng lưu, xếp vào Chánh kiến, còn tuệ số trong Thiện không thể lập riêng. Đứng về môn Đẳng lưu chỉ dịch được chín mạn, nghi, hoặc này chẳng phải đẳng lưu, nên hai thứ không thể dịch. Hại tuy là đẳng lưu của sân, lặp lại biệt phiên, như trước đã giải thích. Y theo hành tướng tương tợ dịch như phẫn, hận, tật, não tương tợ hành tướng sân, xếp vào Vô sân. Phú như đẳng lưu của tham tương tợ với hành tướng nhau, xếp vào Vô tham. Nếu là đẳng lưu của Si, tương tợ với Si hành tướng, xếp vào Vô si tức xếp vào tuệ. San và cuống tương tợ với hành tướng tham, xếp vào Vô tham. Siễm là Siễm khúc, dịch khúc là chánh trực. Chánh trực là xả. Phẩm Loại Túc Luận quyển 12 chép: “Thân chánh trực, tâm chánh trực, kiêu và mạn. Kiêu tự ngạo mạn. Mạn lăng nhục khinh thường người, không cung kính thầy. Nếu không kiêu mạn tâm liền cung kính. Kính tức là tàm, xếp vào Vô tàm. Si nghóa là do dự hành tướng không chắc chắn. Nếu chánh chắc chắn, tức là trí tuệ, xếp vào tuệ. Hại tuy tợ sân, lỗi nặng dịch khác, như đã giải thích trên đây. Nói về tâm, tâm sở: Luận chép: Từ câu trong đây nên nói, cho đến “chắc chắn sinh chung”. Trên đây năm bài tụng phân biệt Pháp Đại địa v.v… Dưới đây có bốn bài tụng. Đoạn văn lớn thứ hai nói về tâm, tâm sở, chắc chắn sinh chung. Trong đó có hai: Ban đầu ba bài tụng Phân biệt cõi Dục sinh chung. Sau là một bài tụng nói về cõi trên sinh chung. Ba bài tụng ở đây là giải thích cõi Dục câu sinh. Luận chép: Cho đến “Vô phú vô ký”. Đây là chia chung cõi Dục tâm tụng thành năm loại, dưới đây giải thích năm phẩm tức là năm đoạn. Luận chép: Từ câu “nhưng tâm cõi Dục” cho đến hai mươi ba: Đây là bậc nhất giải thích. tâm Thiện khởi số, như văn có thể hiểu. Luận chép: “Ác tác là gì v.v…?” Trở xuống là giải thích ác tác; đây là bắt đầu hỏi. Luận chép: Thể của làm điều ác gọi là Ác tác: Lược giải thích danh thể. Luận chép: Từ câu nên biết trong đây, cho đến “tánh tâm truy hối”. Là giải thích rộng về thể, nghóa là không tương xứng với việc làm sự nghiệp gọi là Ác tác, chẳng phải không như lý sự gọi là ác tác. “như bất thiện hối duyên, thiện sở tác”. Có công năng truy hốt tâm duyên ác tác, theo cảnh đó mà đặt tên, tức có ác tác. Nên gọi là ác tác, thuộc về Đa tài thích, y theo ba dụ sau đây có ba nghóa giải thích: Từ sở duyên mà được tên. Từ sở y mà được tên. Từ nhân mà được tên. Luận chép: Từ câu: “Như duyên môn không giải thoát” cho đến “gọi là bất tịnh”. Theo cảnh sở duyên mà đặt tên này. Luận chép: Từ câu “Lại thấy thế gian” cho đến “nói là ác tác. Từ chỗ sở y mà đặt tên này. Luận chép: Từ câu “lại đối với quả thể” cho đến “gọi là túc tác nghiệp”: Đây là từ nhân mà được tên gọi. Hỏi đáp về ác tác: Luận chép: Nếu duyên việc chưa làm, làm sao gọi là ác tác.” Là hỏi. Nghóa là nếu có làm việc gì thì đây có thể nói là từ cảnh v.v… nên gọi là ác tác. Nếu có việc do hối hận mà không làm thì đâu được theo nhau mà gọi là ác tác. Nghóa là Bất tác cũng gọi là Ác tác. Như có người nói: Nay tôi không bố thí vật này là tôi ác tác. Đây tức là tác, tác này là cũng gọi là ác tác. Tỳ-bà-sa quyển 37 chép. Trong đây Ác tác gồm có bốn trường hợp: Có khi ác tác là thiện khởi ở chỗ bất thiện. Có khi ác tác là bất thiện khởi ở chỗ thiện. Có khi ác tác là thiện ở khởi chỗ thiện. Có khi ác tác là bất thiện ở khởi chỗ bất thiện. Luận chép: “Vì sao ác tác gọi là thiện”. Là hỏi. Luận chép: Từ câu “Nghóa là đối với thiện ác” cho đến “hai xứ mà khởi” là đáp. Nghóa là đối với thiện không làm trong ác tác. tâm truy hối tánh gọi là thiện. Đối với điều ác không làm ở trong thiện tác tâm truy hối gọi là Bất thiện. Ác tác đều phải y theo Thiện và Bất thiện mà khởi, hoặc đều y theo tác, bất tác mà khởi. Luận chép: Từ câu “Là tâm phẩm” này cho đến “tham phiền não” v.v… là đáp. Nghóa là tâm Không chung, không tương ưng với các phiền não như tham… như gọi là Không chung. Tỳ-bà-sa 38 có hai thuyết: Vị sư thứ nhất nói: Chỉ có “thấy thì dứt không tương ưng với tham v.v… phẩn tự lực mà khởi, gọi là Không chung. Sư thứ hai nói: “Có cả Thấy dứt và Tu dứt, không tương ưng với bản hoặc như tham v.v… đều gọi là Không chung. Y theo văn luận này, vị Sư thứ hai giải thích, không tương ưng khởi với tùy miên, nên gọi là Không chung. Trong đây tập khởi. Theo vị Sư trước nói, chỉ là thấy đạo. Hỏi: Trong đây nói cộng không chung Vô minh khởi ở vị nào. Đáp: Nếu các Dị sinh do năng lực thắng giải, phát khởi chánh kiến, hoặc khởi tà kiến. Trong khi mệt nhọc tâm thường khởi mê. Bốn đế lý Không chung vô minh, nghóa là duyên bốn đế không dục, không phẫn, không rõ hành tướng. Theo Luận Chánh Lý giải thích chữ tự trong bài tụng. Tức không có ở cả hai mươi mốt. Luận Chánh Lý giải thích: “Trong nhóm thấy câu chỉ có hai mươi rằng: Tụng chỉ nói đó là phân biệt nghóa khác, nghóa chỉ thấy câu chắc chắn có hai mươi. Tiêu biểu trong không chung phẩm có cho ác tác. Nghóa ác tác là Bất thiện, chỉ Vô minh đều chẳng phải các phiền não khác, hai thứ tham, mạn, ưa thích hành chuyển. Ác tác ưa thích hành tướng chuyển. Sân ngọai môn chuyển hành tướng thô. (Bản Giáp, bản Ất từ chữ Ác tác v.v… tác câu (tám chữ) là Hiệp chú.) Ác tác hành nội môn chuyển nhỏ nhiệm chẳng phải ác tác câu. Nghi không chắc chắn, ác tác chắc chắn nên không cùng khởi, rất dữ dội sắc bén. Ác tác không như vậy. Nhưng ác tác này theo thiện ác hành sự xứ chuyển, các kiến không như vậy, cho nên không tương ưng. Tà kiến một phần tuy ưa thích hành chuyển. Nhưng vì có hai nhân nên chẳng đi chung với ác tác. Bản Giáp, bản Ất nói từ hai chuyển v.v… mà chuyến (mười hai chữ) là Hiệp chú “Nói hai nhân” là rất mạnh mẽ sắc bén, là lý xứ chuyển. Cho nên Ác tác là Bất thiện, là chỉ cho Vô minh, văn luận trên rất rõ ràng. “Ác tác” có sáu nghóa. Sầu thích hành, trái ý mới khởi. Nội môn chuyển, xem xét đúng sai. Hành tướng tế, suy nghó kỹ mới khởi. Chắc chắn hiểu biết mới khởi. Không mạnh mẽ sắc bén mới khởi. Chỉ duyên sự, duyên việc thiện ác. Tà kiến tuy có bốn nghóa, không có hai nghóa, nên chẳng phải Ác tác câu. Luận Chánh Lý chỉ nói hoặc Ác tác đều có hai mươi hai, tức là Không chung vô minh có ở cả do tu mà dứt. Nên biết cũng lấy nghóa của Sư sau. Giải thích bất thiện kiến: Luận chép: Từ câu “đối với bất thiện kiến” cho đến nói là kiến: Là giải thích bất thiện kiến đồng với không chung phẩm có mười hai, như văn rắt dễ hiểu. Luận chép: Nói bất thiện kiến cho đến “hoặc Giới cấm thủ”: Là giải thích ba Bất thiện kiến. Luận chép: Từ câu “đối với bốn bất thiện” cho đến “tham v.v… tùy bất cứ một thứ nào” Đây là giải thích thứ hai. Tham v.v… cùng khởi. Luận chép: Từ câu điều ở trước nói cho đến “thêm phẫn v.v… tùy bất cứ một thứ nào”. Thứ ba là giải thích: phẫn v.v… Luận chép: Từ câu “Bất thiện ác tác” cho đến thứ hai mươi mốt. Đây là giải thích thứ tư” Bất thiện ác tác tương ưng phẩm” 3 5/ Tổng kết: Luận chép: Từ câu “Lược nói bất thiện” cho đến có hai mươi mốt, là tổng kết câu trên. Luận chép: Từ câu “nếu đối với vô ký” cho đến “là Tầm và Tứ” là giải thích thứ tư: “Hữu phú vô ký tương ưng phẩm”: Tánh là nhiễm ô có ẩn phú gọi là Hữu phu, thể chẵng xảo thiện, không có quả ký nên gọi là Vô ký. Luận chép: Từ câu “Vô ký cõi Dục” cho đến nên biết như trước nói. Đây xuất xứ từ Hữu phú vô ký thể”. Luận chép: Từ câu “đối với vô ký khác” cho đến “và bất định Tầm Tứ”: Đây là giải thích thứ năm “Vô phú vô ký”. Thể chẳng phải nhiễm ô, không chướng Thánh đạo, không có quả ký gọi là Vô phú vô ký. Thuyết của các Sư khác: Luận chép: Từ câu các sư phương ngoài cho đến “tâm sở cùng khởi”: Là nêu thuyết của các Sư khác. Ý của các Sư khác nói:Ưu như hỷ căn. Chẳng phải chỉ có hữu ký. Do đó ác tác cũng có ở cả ba. Phẩm tương ưng này có mười ba tâm sở cùng khởi. Luận Chánh Lý chép: “Nhưng ác tác này có cả Thiện, Bất thiện, không có Vô ký. Tùy Ưu hành. Lìa dục tham không thành tựu, chẳng phải pháp Vô ký có việc như thế. Nhưng đắp đổi theo nhau. Ta đâu vì người không ra gì mà ăn. Ta đâu vì không vẽ trên vách tường này, các thứ như thế. Tâm kia cho đến chưa xúc chạm với Ưu căn, chỉ là tónh sát chưa khởi ác tác. Nếu xúc chạm với Ưu căn liền khởi Ác tác. Bấy giờ, lý của Ác tác đồng với Ưu căn, nên nói Ác tác có tướng như thế. Nghóa là khiến cho tâm ưa thích, Ác tác tâm phẩm, nếu lìa Ưu căn thì làm sao khiến cho tâm ưa thích(gọi tỉnh sát là tuệ thì sai) Luận chép: Từ câu “nên biết thùy miên” cho đến như so sánh nên biết. Nói về thùy miên: Đây là nêu thùy miên khắp trong tất cả tâm phẩm ở trước, cho nên thảy đều Vô già. Thùy miên không mộng, tánh chỉ vô ký, y theo có mộng nên nói có cả ba tánh. Tức trong Bất định gồm có bốn, trường hợp. Tham, sân, mạn, nghi chỉ tự lực khởi. Ác tác thiện và Không chung câu khởi có cả hai. Bất thiện tự lực, Thiện là cộng khởi. Thùy miên có khi cũng khởi chung với tất cả tâm phẩm. Tầm, Tứ chắc chắn khởi chung với tất cả tâm phẩm của cõi Dục. Luận chép: Từ câu “đã nói cõi Dục” cho đến sẽ nói về cõi trên. Dưới đây là một Bài tụng, thứ ba là nói về cõi trên. Luận chép: Cho đến “Như cõi Dục nói”. Trong văn có ba: Nói về Sơ định. Nói về Trung gian. Nói về Nhị thiền trở lên. Văn này là bậc nhất nói về Sơ định. Bất định, trừ sân, ác tác, thùy miên. Tiểu hoặc trừ bảy. Bất thiện địa hai. Ngoài ra đều đồng với cõi Dục. Vì ở cõi trên không có pháp Bất thiện, Thùy miên, Ác tác. Luận chép: Từ câu “Trung gian tónh lự” cho đến còn lại đều có đủ. Đây là trường hợp thứ hai, nói về thiền trung gian. Địa này trừ Tầm và Sơ thiền khác nhau, các tâm sở còn lại đều đồng với Sơ định. luận chép: Tónh lự thứ hai cho đến như trước có đủ, đây là thứ ba nói về Nhị định trở lên. Trong văn có hai: Chánh giải thích. Dẫn chứng. Đây là văn đầu. Nhị định trở lên như trước đã trừ, gồm: Tứ, Siễm, Cuống. Ngoài ra đồng với định Trung gian. Luận chép: Từ câu “Kinh nói siểm, cuống” cho đến”bảo trở về thưa hỏi Phật”. Là thứ hai dẫn chứng, lời văn rất dễ hiểu. Phạm Vương không biết bốn đại. Như định Vô lậu nương sáu cõi thiền đều cho phép có thể dứt hết. Tónh lự thứ tư tu phiền não. Như định Hữu lậu Chỉ có Không xứ cận phần, chỉ có cận phần này mới chấm dứt hết sắc. Luận chép: Từ câu”đã nói như thế” cho đến”Khác nhau thế nào”: Dưới đây có hai bài tụng, đoạn văn lớn thứ ba phân biệt xen nhau. Giải thích tướng vô tàm: Luận chép: Cho đến “Sở địch Đối pháp”. Đây là giải thích tướng Vô tàm trong cặp. “Đối với các công đức” nghóa là Thi la v.v…” và người hữu đức” nghóa là thân giáo v.v… Hai thứ này là cảnh Vô tàm nên nói là “đối với”. Đối với hai cảnh này không tôn kính nên gọi là Vô kính, không tôn sùng nên gọi là Vô sùng, hoặc như thứ lớp đều thuộc hai thứ đối với đức không kính, đối với người không trọng, đối với các công đức không có sự thưa hỏi, đối với người có đức không có chỗ tùy thuộc. Đây là tướng Vô tàm, tức là cung kính người đối địch; là nói về năng trị. Luận chép: Từ câu”Vì các thiện só” cho ến” năng sinh sợ hãi”. Đây là giải thích thứ hai về sự vô tàm. Là pháp nhàm chán bị các thiện só quở trách gọi là tội. Nêu thể của tội tức pháp Bất thiện cảnh Vô quý. “Đối với tội này không thấy sợ hãi là nói hành tướng Vô quý. Lời sợ hãi trong đây nói lên quả phi ái năng sinh sợ hãi.” Là giải thích từ ngữ sợ hãi. Sợ hãi tức là Vô quý. Không thấy quả sợ hãi gọi là “Không thấy bố”. Quả ác có hai thứ: Hiện quả chê bai trách phạt. Quả dị thục ba đường ác. Luận chép: Từ câu không thấy sợ hãi cho đến gọi là không thấy bố” là ngoại đạo vặn hỏi. Hành tướng Vô quý gọi là Bất kíến bố, nghóa là thấy quả sợ hãi mà không sanh sợ hãi, gọi là Không thấy bố. Luận chép: “Như vậy thì có lỗi gì?” Là hỏi lại… Luận chép: Từ câu lỗi cả hai đều là có cho đến “nên hiển bày vô minh ngoài ra” lỗi. Nếu thấy mà không sợ hãi thì biểu lộ có trí tuệ. Nhưng theo Luận Chánh Lý thì trí tuệ này là tà kiến. Tuệ là thể nên gọi là Trí tuệ. Tà kiến tuy thấy ba đường ác nhưng bác không nhân quả, lý không thuộc tướng nên không sợ hãi. Nếu không thấy người đó sợ hãi là người đó vô minh, vô minh không có trí tuệ, không biết nhân quả, gọi là không thấy. Luận chép: Ý này không hiển rõ “thấy” và “không thấy”: Đây là Luận chủ đáp . Không thấy sợ hãi nên không hiễn rõ kiến và không thấy. Luận chép: “Hiển bày cái gì? Là ngoại đạo hỏi, đã không lìa hai thì nói lên cái gì? Luận chủ đáp: Luận chép: Từ câu” ở đây hiển bày hữu pháp” cho đến” gọi là vô qúy.” Luận chủ đáp, đây là hiển rõ Vô quý có thể tánh riêng. Chẳng phải Vô minh, cũng chẳng phải tà kiến, làm nhân với hai, gọi là Vô quý, tức là Vô quý làm nhân cho Tà kiến vô minh, khiến cho tuy thấy mà không sợ, hoặc không thấy kia mà sợ. Nêu thuyết khác: Luận chép: Từ câu có sư khác nói cho đến “gọi là vô quý”: Là nêu thuyết khác, đây là ý của Sư nói khi gây tội xét mình không hổ thẹn là tướng vô quý, vô sỉ là đồng thì mình và người khác nhau. Luận chép: Từ câu” nếu thế cho đến thế nào khởi cùng lúc: Là ngọai đạo vặn hỏi. Xét là tức duyên tự, tha là duyên tha. Đây là hai cảnh khác nhau, sao gọi là cùng khởi. Luận chép: Từ câu” không nói hai thứ này cho đến gọi là vô tàm”. Sư khác đáp. Từ chỗ hơn mà nói, chẳng phải duyên khác. Luận chép: Từ câu “Tàm quý khác nhau” cho đến gọi là quý”: Là bậc nhất giải thích, nên biết. Luận chép: Thứ hai là giải thích cho đến gọi là Quý, giải thích thứ hai rất dễ hiểu. Luận Chánh Lý chép: “Thú, hướng về như lý, từ hai pháp tăng thượng sinh ra. Trái với Ái đẳng lưu, tâm tự tại tánh gọi là Tàm. Thuật rằng: Tàm lấy không làm ác làm nghóa. Thánh đạo Niết- bàn đều gọi là như lý, “tâm Thiện thú” hướng về kia là nêu sở y. “Tự tăng thượng” tức là sợ tự rơi vào ba đường. Pháp tăng thượng tức là sợ phế bỏ truyền pháp. “Sở duyên của hai năng lực tăng thượng” là nêu nhân. Ái đẳng lưu” tức Vô tàm, trái với Vô tàm là nói đối trị. Do đó không bị pháp ác lôi kéo, gọi là Tự tại. Tánh chỉ cho thể đó. Luận Chánh Lý chép: “Ưa thích tu tập công đức làm đầu, trái với Si đẳng lưu, nhàm chán pháp ác kém cõi gọi là quý. Có thuyết sợ hãi trách phạt đường ác, nhân mình, người chê bai gọi là quý. Thuật: Quý nghóa là dứt các điều ác. “Ưa thích công đức làm đầu” là nêu sở y. “Si đẳng lưu” tức là Vô quý. Trái với Vô quý là nói đối trị. “Liệt pháp” là pháp tội lỗi của các hữu, trong đó sinh ác tức là tác dụng có người nói. Trở xuống có nêu giải thích riêng. Đang gặp khuất phục là “trách phạt” ba ác đương lại là “ đường ác”. Tự gặp điểm trần là “tự chê bai”, khiến bị họ chê bai là “người khác chê bai”, đây là nhân của bốn pháp. Nghóa các phiền não Nhân sinh sợ hãi như thế, cũng nêu tác dụng. Giải thích ái và kính khác nhau: Luận chép: Từ câu ”đã nói vô tàm” cho đến là trừ ba tướng trước: Là giải thích Ái, kính khác nhau, của cặp thứ nhất, cùng với hân, gọi là “ái, tức là ái lạc” có thể ưa thích thượng pháp. Đắm nhiễm cảnh trước mắt, cũng gọi là ái, tức là đắm nhiễm ái. Do đó thương vợ con là đắm nhiễm ái, thương Sư trưởng là tín ái. Duyên Diệt, Đạo đế, thích tương ưng nên vừa tín, vừa ái. Duyên Khổ đế, Tập Đế, nhàm chán tương ưng, nên là Tín, chẳng phải ái. Nhiễm ái tham nên là ái chẳng phải tín. Nói về thuyết khác: Luận chép: Từ câu có người nói tin cho đến nghóa là hữu kính: Là nói về thuyết khác. Đây là ý Sư nói. Tín là chấp nhận có Đức, do đó là trước mới sinh ái lạc, nên là Tín, chẳng phải Ái. Tín là Nhân, Ái là quả. Kính là kính trọng, lấy tàm làmø thể. Luận chép: Từ câu”có tàm chẳng phải kính” cho đến” duyên diệt đạo tàm”. Đây là sư thứ hai nói: “Ưa thích cảnh trên gọi là kính, là tàm. Nhàm chán cảnh kém là tàm chẳng phải kính, nên thành hai trường hợp. Luận chép: Từ câu có người nói kính, cho đến nên kính chẳng phải tàm”. Đây là sự giải thích của sư thứ ba về Tàm, kính. Ý sư này nói: “Kính là có sự tôn trọng, do đó ban đầu mới sinh hổ thẹn, tức kính là của nhân của tàm Luận chép: Từ câu “đối với cảnh sở duyên” cho đến “là ba tướng: Là chia ra bốn trường hợp phân biệt, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu ái kính như thế cho đến cõi Vô Sắc là không. Ở đây nói về sự hạn cuộc của cõi, thân Vô Sắc trong cõi Vô Sắc không thể duyên theo tha mà khởi kính ái, cũng không duyên theo Phật, Thế tôn ở dưới, nên không có kính, luận chép: Chẳng lẽ không có tín, tàm cho đến Vô Sắc cũng có: Là hỏi: Luận chép: Ái kính có hai, cho đến cõi Vô Sắc là không: Là lời đáp, rất dễ hiểu. Trở xuống là bài tụng thứ hai nói về sự khác nhau giữa Tầm, Tứ, Mạn. Kiêu. Luận chép: Cho đến tánh nhỏ nhiệm gọi là Đây là giải thích tướng khác nhau giữa Tầm, Tứ. Luận chép: “Vì sao hai tướng này tương ưng nhất tâm?” Kinh bộ hỏi: Thô tế trái nhau, làm sao chấp nhận có một tâm mà hai tướng khởi cùng lúc? Luận chép: Từ câu có người giải thích như vậy cho đến “đều có tác dụng”: Là Hữu Bộ đáp, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu” Nếu thế Tầm, Tứ cho đến “Thể chẳng phải ngưng thích”. Đây là nhân của Thô, Tế, thể chẳng phải thô tế, là câu vặn hỏi thứ nhất. Luận chép: Từ câu lại tế tánh thô cho đến” lẽ ra tầm tứ: Là câu nạn hỏi thứ hai, đây là lẽ ra phải đến địa trên mới có, vì sao chỉ đến Sơ định là có. Luận chép: Lại tánh thô tế cho đến vì Dó biệt Tầm, Tứ riêng: Là câu hỏi thứ ba. Thô tế vô thể làm sao có thể thật Tầm Tứ ư? Nêu giải thích khác: Luận chép: Từ câu “lại có giải thích rằng, cho đến đâu có trái lý: Là nêu giải thích khác. Luận chép: Từ câu “nếu có tự thể riêng” cho đến “Khởi cùng lúc”: Là câu hỏi. Một pháp thô tế, trên dưới khác nhau, làm sao khởi cùng lúc. Kinh Bộ Tông này không chấp nhận có thể tánh riêng. Luận chép: Từ câu “này nếu nói thể loại” cho đến “tướng riêng thế nào: Theo giải thích mà nêu. Luận chép: Từ câu “hai thể loại” này cho đến “nói lên tướng khác: Là Đáp. Luận chép: Từ câu “chẳng phải do thượng hạ” cho đến “có thượng hạ”. Đây là gạn hỏi lại. Luận chép: Do đó nên biết cho đến tương ưng nhất tâm: Là tổng kết vặn hỏi. Luận chép: Từ câu nếu thế làm sao cho đến “có đủ năm chi”. Hữu bộ vặn hỏi Kinh bộ. Luận chép: Từ câu “đủ năm chi ngôn” cho đến nên không có lỗi: Là Kinh Bộ đáp. Luận Chánh Lý chép: “Nếu vậy tánh thô tế trái nhau, không tương ưng với Tầm, Tứ nhất tâm câu sinh, tuy trong một tâm hai thể, nên biết. Khi dụng tăng khác nhau cho nên không trái nhau. Như nước và rượu hòa hợp. Thể tuy bình đẳng mà dụng có tăng, như trong phẩm Thô tâm thì dụng của Tầm tăng, dụng của Tứ bị tổn mà khó biết. Nếu nói dùng rượu thì bất cứ lúc nào cũng đều tăng, nên chẳng phải Dụ. Lời nói này vô lý. Ta không chắc chắn nói lấy rượu dụ cho Tầm, Tứ ở trong nước. Chỉ có dụng tăng, tức nói như rượu, nên ở trong tâm Phẩm, hai pháp Tầm, Tứ tùy dụng mà có tăng, tức nói như rượu. Để tiện dụ cho nước. Do đó Tầm, Tứ tuy trong một tâm thể đều có dụng khác thời, nhưng một tâm vừa thô vừa tế, như tánh tham si, tuy đều hiện hành mà được nói là tâm có tham hành. Tùy phẩm tâm nào mà có pháp dụng tăng. Do đó là môn nêu chung tâm phẩm Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến nên gọi là mạn. Giải thích kiêu và mạn khác nhau: Mạn: Dưới đây giải thích Mạn, Kiêu khác nhau. Đây là tướng Mạn. Luận Chánh Lý chép: “Mạn là đối với người khác tâm tự cao cử so sánh Đức loại của Tự, Tha. người, kém. Hoặc thật hay không thật, tâm tự ỷ cây khinh miệt người, gọi là Mạn. Kiêu: Luận chép: Từ câu “Kiêu là đắm nhiễm” cho đến tánh không đoái hoài: Là giải thích tướng Kiêu. Luận Chánh Lý chép: “Kiêu là đắm nhiễm từ pháp của mình làm trước, khiến tâm ngạo mạn, không có tánh đoái hoài. Đối với các pháp mạnh mẽ, tiền tài, địa vị. giới tuệ tộc của mình, trước khởi tâm kiêu mạn, buông lung, đối với các gốc lành, không chỗ nào thiếu sót gọi là kiêu, nên đối với các gốc lành không chỗ nào hiển. Nghóa là do tâm kiêu ngạo đối với các pháp thiện không ưa thích tu tập. Đó gọi là tướng kiêu mạn khác nhau. Luận chép: Từ câu có sư khác nói cho đến” tướng khác nhau”. Dưới đây là nêu thuyết khác, Lời văn rất dễ hiểu. Theo văn Luận trên. Mạn là đối với người, kiêu chỉ ngạo với mình, đó là hai tướng khác nhau của Mạn và Kiêu. Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến” “danh nghóa khác nhau”. Dưới đây có một bài tụng. Đoạn văn lớn thứ tư nói các danh nghóa của tâm, tâm sở. Luận chép: Cho đến “nên gọi là thức”. Trong văn xuôi có hai: Ban đầu chỉ giải thích các tên tâm vương, sau giải thích chung các danh nghóa của tâm, tâm sở. Dùng ba nghóa khác nhau để đặt ba thứ tên. Tiếng Phạm là Chất-đa, Hán dịch là tâm, nghóa là Tập khởi. Nghóa là do năng lực của tâm dẫn các tâm sở và tất cả các nghiệp đã gây ra. Như cây tâm tập khởi vỏ, cành lá; Tiếng Phạm là Mạt na, Hán dịch là Ý; tiếng Phạm là nhược nam, Hán dịch là Thức, nghóa là Liễu biệt, nghóa là tâm ở cảnh năng liễu biệt nên gọi là Thức. Luận chép: Từ câu lại có người giải thích rằng, cho đến mà thể là một: Là nói về thuyết khác, Giới nghóa là tánh, Nhân nghóa là phẩm Tịnh và Bất tịnh duyên cảnh khác nhau, làm các nhân khác nhau khác nhau nên gọi là tâm. Như một cây tâm cùng với cành lá lớn nhỏ khác nhau, mà làm giới tánh. Các văn còn lại dễ hiểu. Giải thích tên nói: Luận chép: Từ câu”Như tâm, ý, thức” cho đến “mà thể” là một là loại giải thích tên của tâm, tâm sở. Đây là câu đầu. Luận chép: Từ câu “tâm, tâm sở” cho đến bình đẳng hòa hợp. Thứ hai là giải thích: Các tên gọi, tức năm nghóa của tâm, tâm sở năm nhưng ba nghóa của tâm vương thì khác nên lập ba thứ tên, y theo huấn từ mà giải thích. Năm nghóa của tâm, tâm sở cũng giải thích theo huấn từ. Vì mượn y căn nên gọi là Hữu sở y v.v… Lại ba thứ như sở y, v.v… cũng có thể gọi là Đa tài thích. Tương ưng một loại chỉ có huấn từ thích bằng với Hoà hợp gọi là tương ưng. Có sở y, có sở duyên, lời văn rất dễ hiểu. Có hành tướng là ở phẩm duyên Sở Duyên khởi hành tướng khác nhau. Theo văn Luận, tức là có thể duyên tâm pháp. Đối cảnh sở duyên phẩm loại khác nhau, trên tâm hành giải khởi phẩm loại tướng. Như cảnh chiếu vật, loại ở cảnh mặt trên, có các thứ tiếng hình khác nhau cùng với tâm pháp của nó bất tức bất ly, chẳng phải như tượng sắc khác nhau với cảnh. Hỏi: Tên các tâm, tâm sở có hành tướng, Vì sao trong mười sáu hành tướng chỉ nói có tuệ. Đáp: Theo Luận Chánh Lý có ba giải thích, nghóa là tên các tâm, tâm sở có hành tướng khác nhau, mười sáu hành tướng cũng lấy tuệ làm thể. Nhưng tâm, tâm sở trong tướng phẩm loại sở duyên, được gọi là Hữu hành tướng. Còn giải thích tâm, tâm sở cũng là có hành tướng tuệ gọi là Hữu hành tướng. Như vậy Tuệ không phải tự có, vì sao nói Tuệ có hành tướng. Đáp: Trong đây hành tướng cũng dùng tuệ làm thể, mà nói các tâm, tâm sở cùng hành tướng sở duyên khởi lên phải cùng lúc, theo tên chung là hành tướng. Giống như các pháp hữu lậu đồng thời, thể chẳng phải lậu, vì đồng đối trị, gọi chung là lậu. Đây cũng như thế. Lại giải thích hoặc y theo Vô gián, cũng nói có thanh, như có sở y nên không có lỗi. Nghóa như tâm, tâm sở đều gọi có sở y. Theo thức tương ưng với các pháp tâm, tâm sở cùng thức sở y cũng sinh cùng lúc. Sở y của Thức không ngừng diệt. Có lý hành tướng nên biết cũng như vậy. Pháp sư Tuyền nói: “Theo Tỳ-bà-sa tướng ảnh tượng chẳng thuộc về uẩn, xứ, giới. Cũng chẳng phải duyên Sở duyên, nhưng tâm, tâm sở đều lấy tuệ sở hiện hành tướng, gọi là đồng hành tướng. Sư Du-già lại nói rằng: “Khác nhau hành tướng đều trái với văn các nơi. Xét Pháp sư Thái nói: “Chẳng thuộc về uẩn, giới, xứ, e chẳng phải hết ý, nếu chẳng thuộc ba khoa, tức là Vô pháp, chẳng được nói là đồng khác. Nếu là Hữu pháp thì chẳng được không nhiếp. Đã nói rằng Tuệ này là tướng, lý phải thuộc về hành uẩn, hoặc chung các tâm sở, tức phải thuộc về bốn uẩn, vì sao nói hòan toàn không thuộc ư? Nên pháp tương ưng gọi là đồng hành tướng. “Hành tướng” hoặc gọi là tương ưng, Đẳng hòa hợp. Hỏi đáp về nghóa Đẳng hòa hợp: Luận chép: Theo nghóa nào mà gọi là Đẳng hòa hợp? Là hỏi về nghóa Đẳng hòa hợp. Luận chép: Vì có năm nghóa, cho đến đều bình đẳng: Là giải thích nghóa hoà hợp, rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Sự bình chư giả” cho đến đều cũng như thế là giải thích vặn hỏi. Có người nói: “Sở y bình đẳng”, nghóa là phải đồng với căn sở y, ý thức và pháp tương ưng có một thứ y, nghóa là Vô gián diệt ý căn, Năm thức và pháp tương ưng có hai thứ y. Đồng thời y chỉ căn. Vô gián diệt ý căn, tùy theo sự thích ứng đều là sở y bình đẳng. Văn này muốn thuộc hai thứ sở y. Nên không nói riêng đồng một sở y. Trong các luận nói tâm, tâm sở đồng một sở y mà lại y theo biệt y, nên nói sáu thức và pháp tương ưng đều đồng một sở y. Lại giải thích sở y bình đằng, ở đây nói lên sáu thức và pháp tương ưng đều đồng một sở Nên trong phần giải thích nhân tương ưng chép: Trong đây đồng thì hiển bày chỗ sở y. Tuy là năm thức cũng y theo ý căn. Văn này lại y theo đồng thời y. Sở duyên bình đẳng, nghóa là phải đồng sở duyên. Trong sở duyên, hoặc đồng thời duyên một, hoặc lại duyên nhiều. Tùy ứng dều là sở duyên bình đẳng. Trong các luận chép: Pháp “tâm, tâm sở đồng một duyên, lại y theo theo một pháp của duyên khác mà nói. Nếu không như thế như quán Vô ngã trừ tự tương ưng, đều có duyên chung tất cả ở đây chẳng lẽ đồng một sở duyên, lại giải sở duyên bình đẳng, đây là hiển bày. Sáu thức và pháp tương ưng đều đồng một duyên. Nên trong các luận nói pháp tâm, tâm sở đồng một sở duyên. Tuy cũng có duyên hai cảnh. Văn này nói theo duyên một cảnh: Ba hành tương bình đẳng, pháp tâm, tâm sở thể của nó sáng sạch. Tùy duyên cảnh nào đều khởi hành tướng duyên pháp mỗi một hành tướng, hoặc, duyên nhiều pháp đều nhiều hành tướng. Hoặc một hoặc nhiều hành tướng đều khác nhau. Tùy theo sự thích ứng đều là hành tướng bình đẳng. Vì khi hiện nhiều thì có nhiều tướng nên không nói đồng một hành tướng. Trong các luận chép: “pháp tâm, tâm sở đồng một hành tướng là y theo duyên một cảnh tương tợ nghóa đồng hiện thật đều khác. Lại giải thích hành tướng bình đẳng. Ở đây nói lên pháp tâm, tâm sở đồng duyên một cảnh gọi là một hành tướng nên các luận nói pháp tâm, tâm sở đồng một hành tướng tuy hành tướng đều khác nhau. Y theo tương tợ đồng nên nói đồng một hành tướng, tuy cũng có duyên nhiều cảnh, có nhiều hành tướng hiện, đều đối lẫn nhau mà không tương tợ, trong đây còn y theo duyên một cảnh mà “Nói, xét rõ giải thích này đồng một sở y, đồng một sở duyên, đồng một hành tướng không hiểu được ý Luận. Luận nói đồng một sở y, chẳng nói sở y chỉ có một căn, nên nói là đồng một sở y. Pháp tâm, tâm sở này tuy khác nhau nhưng cùng một sở y, gọi là đồng một sở y. Hoặc một, hoặc hai đều gọi là đồng nhất. Vì sao được gọi là sở y dù có hai y theo một thuyết đồng một sở duyên. Nghóa là tâm, tâm sở tuy khác nhau hoặc tưởng duyên màu xanh, thọ v.v… cũng duyên màu xanh v.v… do đó nên nói đồng một sở duyên. Tức pháp tâm, tâm sở duyên chung. Vô lượng trăm ngàn pháp. Tuy là khác nhau nhưng sở duyên thì chung, đều gọi làđồng một sở duyên, làm sao dùng quán vô ngã vặn hỏi một sở duyên tức tự hiểu rằng: “Y theo một thuyết đồng một hành tướng. Khi tâm vương khởi một hành tướng xanh thì các tâm sở cũng đồng khởi tướng này. Như khi tâm vương khởi nhiều cảnh, nhiều hành tướng, thì tâm sở cũng vậy. Nếu đồng một hành tướng thì tâm sở cũng vậy. Luận chép: Từ câu “đã nói tâm, tâm sở” cho đến pháp nào là đúng? Dưới đây đoạn văn thứ hai có mười bốn bài tụng nói Phi sắc phi tâm bất tương ưng hành. Một bài tụng đầu nêu tên chung riêng bất tương ưng còn mười ba bài tụng sau thì nhắc lại từng ý một. Văn này là bài tụng đầu. Nói về pháp bất tương ưng: Luận chép: Cho đến “bất tương ưng hành”. “Các pháp như thế” là nêu chung pháp bất tương ưng. “Tâm bất tương ưng” là phân biệt tâm, tâm sở. “Phi sắc đẳng tánh thuộc về hành uẩn” là phân biệt sắc và pháp vô vi. Cho nên gọi là tâm bất tương ưng hành là lược kết lên. Nói đủ là Phi sắc phi tâm. Bất tương ưng hành. Nay chỉ nói Bất tương ưng hành cũng phân biệt hết các pháp. Bất tương ưng “tất cả tâm, tâm sở, ngôn hành. Hành là hành uẩn. Phân biệt sắc và vô vị. Do đó các luận phần nhiều còn dùng tên tắt, có người giải thích tụng rằng: “Đẳng” nghóa là cú thân, văn thân. “Loại” nghóa là lưu loại, tức là đắc v.v… Nay xét lu- ận này. Tâm bất tương ưng chỉ có mười bốn. Nếu theo Luận Chánh Lý thì thêm tánh Hòa hợp, nên luận Chánh Lý chép: “Đẳng” là bằng với Cú thân và tánh Hòa hợp. Rõ như Pháp sư Quang dùng hai thuyết khác nhau làm câu hỏi và đáp đầy đủ. Luận Câu-Xáù tuy không nói riêng về Hòa hợp cũng chẳng nói không. Luận Chánh Lý giải thích: “Luận này tụng rằng: Đẳng là Hòa hợp, nên biết hai bộ luận này không trái nhau, nếu nói là không nói tức là vô, “Giả” là theo luận này không nói bố v.v… nên không có. Bố v.v… đã chẳng chắc chắn là không, thì Hòa hợp đâu chẳng phải có. Vậy nói rõ luận này này chỉ là lược mà không nói, chẳng phải đã nói ngoài ra không có tâm sở. tâm sở đã như vậy, nên hòa hợp phải đồng. Không y theo luận văn, tín, tự trong lòng. Hỏi đáp tới lui uổng bút mực. Tự nói Phẩm Loại Túc Luận không nói phi đắc, chỉ nói có mười ba pháp đồng với Luận Câu-xá. Lại nói luận kia lại có trừ loại pháp khác như vậy không tương ưng loại pháp với tâm Bất Tương Ưng, Pháp Uẩn Túc Luậân quyển mười, đồng với Phẩm Loại Túc Luận, luận ấy nói trừ pháp loại như thế đâu biết chỉ có phi đắc. Luận này không nói là vô. Luận Chánh Lý không vặn hỏi câu-xá. Sáu Túc luận nói có chỗ khác. Luận Chánh Lý nói có hòa hợp ngòai ra văn đều có cả hai giải thích: Luận Chánh Lý càng không có việc khác. Giáo đã rõ ràng, thì lý phải y theo giải thích, nên biết ngoài ra còn có Bất tương ưng hành, Tỳ-bà-sa chép: Loại là: Nói về pháp mà các sư khác đã chấp. Luận Chánh Lý chép: “Loại” là nói về pháp mà chỗ khác chấp, tức là chủng loại đã nói trước đây, nghóa là có so lường lìa “Đắc” có uẩn đẳng tánh, đồng với Tỳ-bà-sa. Luận ở trong đó nói tướng Đắc, phi đắc. Dưới đây có mười ba bài tụng, là giải thích riêng Bất tương ưng. Năm bài tụng trước nói “Đắc phi đắc”, trong đó trước là nói tự tánh đắc phi đắc, bốn bài tụng sau nói Đắc phi đắc, đây là văn đầu. Nói về tướng đắc phi đắc: Đắc: Luận chép: Cho đến trái với ở đây: Đây là nói tướng Đắc phi đắc. Nhưng tên gọi Đắc này có chung có riêng. “Gọi chung đắc “là đắc và thành tựu đều gọi là Đắc; phi đắc cũng vậy. Xả và Bất thành đều gọi là Phi đắc. “Gọi riêng đắc” là xưa nay chưa từng được và được rồi mất. Sắp thành tựu pháp đắc “cho đến” tướng sinh. Được gọi là đắc. Được rồi không mất. Đắc cho đến hiện tại gọi là thành tựu, tức là trước không thuộc về mình. Ban đầu được thuộc mình gọi là đắc, đây nghóa là khi sinh chắc chắn thuộc về mình, nên gọi là được. Vì chưa ở thân, nên không gọi là thành tựu. Thành tựu, nghóa là đắc hiện tại ở thân, xả và bất thành cũng y theo Đắc, nếu đối với đồng loại chỉ có sát-na đầu tiên của tướng sinh gọi là “Đắc”. Tướng diệt sau cùng của Sát-na gọi là Xả. Bấy giờ phi đắc cho đến tướng sinh. Trong thời gian đó tuy “niệm sau sau cho đến tướng sinh đó. Nhưng pháp loại này thường gọi là thành tựu, chẳng phải nay mới được. Loại này đắc ở thân hiện tại, Nếu riêng đối với sát-na ba tướng trước sau, thì tướng sinh chắc chắn được thời nay gọi là Đắc. Đến khi tướng trụ, dị, thời gọi chung là Thành tựu. Đến giai vị tướng diệt mới gọi là xả. “Rơi vào quá khứ” gọi là không thành tựu. Trong các luận, nói theo loại chung. Không y theo sát-na nên Tỳ-bà-sa và Luận Chánh Lý nói bốn thông hành, đều y theo tướng sinh của sát-na ban đầu, gọi là đắc phi ở niệm sau. Nếu từ các pháp đầy đủ đắc thành tựu và xả bất thành. Thì bốn thứ khác nhau sẽ có khác nhau. Như Phi tưởng kiến hoặc, chỉ có thành tựu và xả bất thành Vô hữu đắc. Vì từ vô thỉ đến nay thường thành tựu. Sau tuy dứt kiết sẽ không lui sụt. Nếu lợi căn không học các pháp vô lậu, có đức thành tựu và bất thành tựu ở vị phàm phu thì gọi là Bất thành tựu, khi ở Kim Cương tâm thì gọi là “Đắc”. Từ Tận trí trở lên gọi là thành tựu, không có xả. Đến vị Vô học thì không còn lui sụt. Khi Niết-Bàn Xả thì chẳng phải Đắc. Nếu có đắc, xả, thì chắc chắn có thành tựu, không thành tựu cho nên đầu tiên Đắc cho đến khi sinh thì không gọi là Thành tựu. Vì trong thân kia thành tựu phi Đắc, trước nhất khi Phi đắc sinh thì không gọi là bất thành, vì trong thân kia thành pháp ấy. Trong vị sinh là chánh Đắc, Xảû nên gọi là Đắc. Xả. Luận Chánh Lý chép: “Đắc, hoạch thành tựu. Nghóa tuy là một, nhưng pháp môn nương theo thì khác, gọi là khác nhau, có hai thứ Đắc, nghóa là trước chưa được và trước đã được, “trước chưa đắc nay đắc gọi là hoạch, trước đã đắc nay đắc gọi là Thành tựu. Nên biết phi đắc trái với đây, nghóa là trước chưa đắc và đắc rồi mất. Chưa đắc phi đắc gọi bất họach, đã mất mà chẳng đắc gọi là bất thành tựu, nên gọi tánh Dị sinh gọi là Bất hoạch thành pháp. Nay xét luận Chánh Lý Văn tuy khác chút ít nhưng nghóa thì đồng. Trước chưa đắc gọi là “Hoạch”, có hai thứ: Từ vô thỉ đến nay chưa từng được, như đạo Vô lậu. Được rồi mất như sinh địa dưới. “Đẳng” là trước chưa đắc gọi là Hoạch, tức là đối với hai giai vị Sơ đắc cho đến tướng sinh. Trước đã đắc được gọi là thành tựu”, Có hai: Từ vô thỉ đến nay thường thành tựu. Từ khi mới đắc cho đến niệm thứ hai trở lên đều gọi là “trước đã đắc đắc”. Phi đắc: Nên biết phi đắc trái với đây. Phi đắc có hai thứ: Từ vô thì đến nay chưa từng được gọi là bất họach, có cả trước sau gọi là bất họach. Nghóa là đã đắc, sau xả. Tướng sinh ở sơ niệm gọi là Bất họach. Niệm thứ hai trở đi gọi là Bất thành tựu. Nói về đắc sở y: Luận chép: “Đối với pháp nào có đắc phi đắc”? Dưới đây là nói đắc sở y, trong đó có hai: trước hỏi sau đáp, Đây là hỏi. Luận chép: Từ câu “Đối với tự nối tiếp” cho đến “chắc chắn như thế” Đây là đáp. nói chung, đắc đẳng sở y có hai: Pháp hữu vi, nghóa là tự nối tiếp Pháp vô vi nghóa là hai diệt, đây là nghóa ban đầu. Nếu thành thân khác tức là dẫn đến lộn xộn. Nếu phi tình thì tức cộng thành lỗi hữu vi và lỗi vô tình bất định, hoại diệt pháp tánh. Luận chép: Từ câu trong “pháp Vô vi” cho đến “Hữu đắc phi đắc”: Đây là giải thích vô vi đắc sở y. Luận chép: Từ câu “Tất cả hữu tình” cho đến “là tất cả hữu tình”. Ở đây cho rằng tất cả hữu tình từ vô thỉ đến nay phải có vô biên pháp thiếu duyên thì không sinh, nên dẫn trong Đốâi pháp nói: Ai thành pháp vô lậu. Nghóa là tất cả hữu tình tức là phi trạch diệt. Luận chép: Từ câu “Trừ sơ sát-na” cho đến “đều thành trạch diệt. Giải thích chắc chắn thành trạch diệt. “Trừ sát-na” đầu nghóa là Khổ pháp nhẫn, “bậc Thánh còn trói buộc”. Là phân biệt trước là lìa nhiễm và tất cả dị sinh trói buộc khác. Phân biệt dị sanh cụ phước thành trạch diệt, chưa dứt hoặc, “các hữu tình khác” nêu người đã thành trạch diệt đã dứt hoặc. Luận chép: Từ câu “Chắc chắn không có” cho đến thay nhau mà lập. Đây là giải thích hư không vô đắc phi đắc, là trở ngại pháp bất sinh. Chẳng phải đạo lực dẫn. Luận chép: Từ câu “các hữu tình” cho đến “nên không giải thích riêng”: Y theo giải thích phi đắc, nên biết. Luận chép: “Làm sao biết có vật khác gọi là Đắc”. Dưới đây kinh bộ phá Tát-Bà-Đa đắc. Văn này tức là sư Kinh Bộ hỏi. Nói về mười pháp Vô học: Luận chép: “Khế kinh nói” cho đến cho đến nói rộng: Hữu Bộ dẫn kinh đáp. Mười pháp Vô học, nghóa là tám đạo chi và chánh giải thoát chánh trí năm chi, là năm kết thuận phần trên. “Thành tựu mười pháp vô học”, nói là có đắc. “Đã dứt năm chi” nói là xả đắc. Luận chép: Từ câu “Nếu thế phi tình” cho đến, cho đến nói rộng: Là Kinh bộ vặn hỏi” vòng báu v.v… là vật vô tình. Các vật quý như ngựa v.v… trong nối tiếp khác, lẽ racũng có đắc. Kinh nói thành tựu bảy báu. Nên biết thành tựu là giả chẳng phải thật. Luận chép: Từ câu “Trong đây tự tại” cho đến “tùy lạc chuyển”: là Hữu Bộ đáp. Luận chép: Từ câu “Đây đã tự tại” cho đến “biết có vật khác”: Là Kinh bộ nêu. Luận chép: “Chấp nhận có vật khác thì có gì phi lý”: Là hữu Bộ hỏi gạn lại. Luận chép: Từ câu phi lý như thế cho đến “đó là phi lý.” Kinh bộ trách không như sắc, thanh… là mắt tai của họ, hiện lượng nên biết. Như tham, sân v.v… trí tha tâm biết. Như mắt, tai, mũi v.v… nên biết. Vì có dụng của thấy nghe. Nên biết có thể tánh riêng. Đắc đã không có hiện lượng để biết. Lại vô dụng không có tỷ lượng để biết, cho nên vô thể. Đã không có hiện tượng thì nên biết đó là vô lý. Luận chép: Từ câu nếu cho rằng đắc cho đến “lý không thành lập”. Kinh bộ chấp là phá nhân sinh. Nếu được pháp sinh nhân gọi là hữu dụng. Vô vi vô sinh nên không có đắc. Còn pháp sở đắc chưa đắc. Đã xả, giới địa chuyển dịch và lìa nhiễm, kia đều không có pháp đắc ở trước thì pháp sau làm sao sinh. Dù cho chấp rằng: “Nếu lấy câu đắc làm nhân sinh” là đại sinh hay tiểu sinh làm sao được năng sinh. Còn pháp Vô tình không có câu sinh đắc, nên chắc chắn không sinh. Còn “trói buộc” là hoặc phiền não hiện khởi nên không đắc dụng, không khác nhau. Nếu nói do cảnh giới khác, giới khác, nhân đồng loại có khác nhau thì phải do nhân kia khác, mà các pháp đắc sinh, đắc lại dụng nào, nên kia nói đắc tác pháp nhân. Lý không thành lập. Luận chép: “Ai nói đắc này là tác pháp sinh nhân”. Hữu Bộ gạn hỏi: Ai nói đây được tác pháp sinh nhân, mà ông vặn hỏi như thế. Luận chép: Nếu thế thì đắc này có tác dụng gì? Là Kinh bộ nêu lên. Luận chép: Từ câu là đối với các pháp cho đến “Lập ra khác nhau” Hữu bộ hỏi ngược lại để đáp. Luận chép: Từ câu “Chẳng lẽ không phải phiền não” cho đến lẽ ra có khác nhau: Là Kinh bộ giải thích. Luận chép: Từ câu “Nếu chấp vô đắc” cho đến lìa, chưa lìa: Là Hữu bộ hỏi ngược lại. Giải thích chung, riêng: Luận chép: Từ câu “đây là do sở ý” cho đến “chưa dứt nghóa thành”. Đây là Kinh bộ giải thích chung. “Sở y” nghóa là thân, hạt giống trong thân sở y. Dứt chưa dứt phân biệt phàm Thánh không do mà đắc. Luận chép: Từ câu “là các bậc Thánh” cho đến “chỉ là giả chẳng phải thật”: Dưới đây là giải thích riêng. Nghóa là đạo lực thấy đạo, Tu đạo của các bậc Thánh, giúp cho hạt giống sở y thân có nặng lực sinh ra, chuyển biến vô lực khác vốn hiện khởi cho đến hai thứ như thể chỉ là giả chẳng phải thật, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “pháp Thiện có hai” cho đến cũng giả chẳng phải thật. Kinh bộ nêu tông mình. Đây là nói thành tựu, không thành tựu. Ngay đây Đại thừa nếu sinh được hạt giống thiện thành tựu cũng gọi là bất thành tựu. Nếu gia hành khéo tự tại hiện hành gọi là tự tại thành tựu. Đều là giả chẳng phải thật, sinh được hạt giống khéo bị tà kiến tổn hại nên thiện không sinh được, gọi là Bất thành tựu. Không rốt ráo dứt hạt giống thành tựu. Ngay đây hạt giống Đại thừa thành tựu. Nên thành tựu cũng gọi là bất thành tựu. “Phải nhờ công phu năng lực tu đắc”, tức là gia hành thiện, pháp kia đã khởi sinh công năng kia tự tại không tổn gọi là thành tựu. Ngay đây Đại thừa tự tại thành tựu. Văn còn lại rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu cho nên trong sở y cho đến không có vật khác: Là câu kết nên biết. Luận chép: “Trong đây pháp nào gọi là hạt giống”: Là Hữu bộ hỏi. Luận chép: Từ câu “gọi là danh và sắc” cho đến “chuyển biến khác nhau”: Là Kinh bộ đáp, đây là Kinh bộ có hai sư chấp: Sắc trì chủng. Tâm trì chủng. Ở đây hợp lại nói Sắc tâm trì chủng. Luận chép: “Sao gọi là chuyển biến” là Hữu Bộ hỏi Luận chép: “Nghóa là trong sự nối tiếp trước sau khác tánh: Là Kinh bộ đáp, đây tức là khi sắp sinh quả thì lực dụng trong sắc tâm sanh khởi. Luận chép: “Sao gọi là nối tiếp?” Là Hữu bộ nêu ra. Luận chép: “Nghóa là tánh nhân quả các hành ba đời”: Là Kinh Bộ đáp. Luận chép: “Sao gọi là khác nhau”: Là hữu Bộ nêu. Luận chép: “Nghóa là có công năng sinh quả không đứt quãng”: Là Kinh bộ đáp. Kinh bộ giải thích kinh: Luận chép: Từ câu nhưng có chỗ nói cho đến “hẳn không thể tu”. “Đây là kinh bộ giải thích kinh, văn trong kinh bộ chép: “Nếu có hạt giống thì có công năng sinh quả gần gủi.” Lại chép: “Tất cả dị sinh, hai đạo chưa khởi đều thành tựu hoặc. Kinh nói nếu thành tựu tham, thì không thể tu, bốn niệm trụ. Đây là Thánh pháp không nhờ đâu mà khởi được. Nên trong kinh nói: Mê đắm phiền não tham, không thể chán bỏ nên gọi là thành tựu. Do tùy mê đắm tham ái, thời phần ở bốn niệm trụ không thể tu. Đây là nói giai đoạn tăng thạnh tham gọi là thành tựu. Chẳng phải nói chỉ có hạt giống thì không thể tu. Luận chép: Từ câu “Thành tựu” cho đến “cũng giả chẳng thật.” Là Kinh bộ kết tông nghóa, lời văn rất dễ hiểu. Luận Chánh Lý phá hạt giống của Kinh bộ rằng: “Vả lại chấp pháp nào gọi là hạt giống: Là hữu bộ nêu gọi là Danh và Sắc sinh từ quả. Tất cả công năng xoay vần gần gũi. Đây do nối tiếp chuyển biến khác nhau (Kinh bộ đáp). Danh sắc là gì (nêu) nghóa tức là năm uẩn (đáp) Thế nào là chấp loại này làm tánh hạt giống? Là hỏi. Có công năng làm nhân sinh ra các pháp lành: Là đáp. Là chung, là riêng hay tự chủng loại. (Hỏi). Là chung một thân năm uẩn, là dị thục đẳng biệt, là tự loại, là hạt giống). Nếu nói là chung thì thể của hạt giống nên giả, giả là thật nhưng không đúng với Chánh Lý. (Nếu hợp các Sắc, tâm, đều làm hạt giống tức là pháp giả. Pháp giả nếu không thì chẳng phải hạt giống). Nếu nói là riêng, làm sao có thể chấp vô ký sắc chủng làm nhân sinh ra thiện. Bất các pháp thiện. (Nếu trong thân lấy riêng sắc pháp làm hạt giống thì sắc là dị thục vô ký, làm sao làm nhân cho thiện, bất thiện. Nếu từ chủng loại thiện pháp Vô gián bất thiện pháp sinh. Hoặc sau trái lại thì lấy gì làm hạt giống. Ba nghóa trở lên đưa ra để phá giải thích hạt giống của các Sư Kinh bộ. Thiên ái chẳng phải ông giải thích tánh hạt giống. tâm trước câu sinh tử khác nhau. tâm sau công năng khác nhau sanh khởi. Tức là trong tâm sau công năng khác nhau gọi là hạt giống. Do đó nối tiếp chuyển biến khác nhau sinh quả ở đương lai. Trong đây ý nói trong tâm bất thiện có công năng thiện lần lượt dẫn đến gần gủi khác nhau làm hạt giống. Từ đó pháp Vô gián bất thiện sinh. Hoặc trong tâm thiện pháp, Bất thiện công năng lần lượt dẫn đến gần gủi khác nhau làm hạt giống. Từ đây pháp Vô gián bất thiện sinh ra. Trở lên là các sư Kinh bộ khác lập ra hạt giống. Dưới đây, là Luận Chánh Lý bác bỏ, nay ông đã chấp công năng khác nhau hạt giống cùng với tâm Thiện và Bất thiện kia là có tự thể riêng hay không. Đây là không có tự thể riêng. Không chấp nhận hay chấp nhận hạt giống thiện và bất thiện? Ai chấp ấm cùng với lửa không có tự thể riêng, mà chỉ chấp ấm có thể đốt, lửa không thể đốt, vì sao có công năng chiêu cảm các quả dị thục Na-lạc-ca trong tâm bất thiện. Đặt vào có thể chiêu cảm dị thục đáng ưa thiện tâm khác nhau dẫn ra công năng của hạt giống khác nhau, làm sao có thể cảm được các quả dị thục như Mạt-nô-sa (người). Trong tâm tịnh thiện. Đặt vào có thể cảm dị thục phi ái. Ác tư khác nhau đã dẫn hạt giống có công năng khác nhau. Cho đến nói rộng và đủ như kia. Luận chép: Từ câu “sư Tỳ-bà-sa” cho đến “Thật chẳng phải giả”: Là kết thúc Hữu bộ chỉ bày Tông nghóa. Phê bình hai thuyết: Luận chép: Từ câu hai đường như thế cho đến chỗ mà ta y theo: Là Phê bình hai thuyết. Luận chép: “Đã phân biệt tự tánh khác nhau thế nào”. Dưới đây là nói Đắc. Phi đắc khác nhau. Luận chép: Lại nên nói về đắc: Nói trong khác nhau. Trước nói về “đắc”. Sau nói về phi “đắc” nên gọi hãy. Dưới đây có hai bài tụng rưỡi nói về đắc khác nhau. Một bài tụng rưỡi có chia ra năm môn. Luận chép: Cho đến “đều có ba đắc”. Đây là nói môn Ba đời “Nói ba đắc” có hai nghóa: Ba đời được bất cứ ở pháp trước sau, tuy là pháp trước nhưng gọi là vị lai, tuy là pháp sau. nhưng là quá khứ. Pháp trước, pháp sau, pháp câu (ba đắc). Nhưng không y theo khác đời. Tuy là quá khứ nhưng gọi là pháp sau. Tuy là vị lai nhưng gọi là pháp trước. Nay trong đây nói ba đời mỗi đời đều có ba là y theo ở ba đời chia làm ba. Không y theo pháp trước sau. Pháp Quá khứ có Đắc ba đời. Như đời quá khứ có một tâm thiện. Nhìn ngang là ngày nay. Về trước có tất cả dược khởi. Nếu ở pháp trước, pháp câu, pháp sau, đều gọi là quá khứ. Tức như ngày nay hiện khỡi Sát-na gọi là hiện tại đắc. Sát-na hiện tại này bao nhiêu đắc gọi vị lai đắc. Pháp đời Quá khứ đó ở vị lai không có pháp trước được không chắc chắn. Tùy theo khỡi nói trước sau. Nếu hiện đời pháp đắc. Tức là pháp trước gọi là quá khứ. Pháp câu gọi là hiện tại. Pháp sau gọi là vị lai, nếu đời vị lai pháp đắc pháp trước có cả ba đắc. Pháp sau, pháp câu chỉ ở vị lai. Luận Tỳ-bà-sa quyển 158 chép: Pháp trước, pháp câu, pháp sau đắc khác nhau. Văn này nói ba đời đắc. Nhưng từ pháp nói đắc thì có bốn thứ, đó là pháp trước, pháp câu, pháp sau. Chẳng phải pháp trước, pháp câu, pháp sau. Nếu đắc biện pháp thì có sáu loại: Chỉ có pháp câu đắc, như dị thục sinh v.v… do sức yếu. Chỉ có pháp trước đắc, như thấy đạo ba thứ trí biên tu, trí thế tục không bao giờ sinh. Chỉ có pháp câu đắc và pháp đắc sau, như Biệt giải thoát vô sở đắc. Chỉ có câu đắc và pháp đắc trước. Như Đạo loại nhẫn tức ở sát- na này thì xả. Có đầy đủ pháp trước, pháp câu, pháp sau (ba đắc), như các thiện và bất thiện khác, có tiền đắc, nghịch thành, hành ba đời. Có phi pháp trước, pháp sau, pháp câu đắc, nghóa là đắc hai diệt, Pháp Sở đắc không có ba đời, hẳn không có pháp, chỉ có pháp đắc sau, vì pháp sở đắc đến hiện tại thì phải có đắc, như Đạo loại nhẫn, chỉ có pháp trước, pháp câu, vì bất định. Nếu hiện khởi, hoặc vị lai đều cho có hai đắc. Không nên nói đều có một đắc và chắc chắn có hai đắc. Như vậy đồng bốn hành tướng theo nghóa. Nếu lỗi định pháp câu như trình bày ở sau. Chia ra ba tánh Luận chép: Từ câu lại, các pháp như pháp thiện, v.v… cho đến “vô ký ba đắc” đây là chia ra ba tánh. Ba tánh pháp đắc và pháp sở đắc, tuy chắc chắn là đồng tánh. Nhưng khi đắc khởi thì lý do khác. Các pháp hữu vi do đắc pháp. Trạch diệt do đạo. Phi trạch diệt do mạng căn, chúng đồng phần. Luận Tỳ-bà-sa 158 hỏi: Vì sao pháp đắc và pháp sở đắc tánh loại hoặc đồng, hoặc khác. Đáp: Đắc có ba thứ: Đắc hữu vi. Đắc trạch diệt. Đắc Phi trạch diệt. Pháp hữu vi đắc tùy pháp sở đắc, tánh loại khác nhau. Vì pháp hữu vi có thể có tác dụng dẫn tự đắc. Trạch diệt đắc tùy công năng chứng đạo tánh loại khác nhau. Vì các trạch diệt tự không có tác dụng. Chỉ do lúc đạo lực cầu chứng lúc đó dẫn kia đắc, phi trạch diệt đắc tùy tự sở y tánh loại khác nhau. Vì phi trạch diệt tự nó không có tác dụng, chẳng phải đạo sở cầu. Kia được chỉ y theo mạng căn chúng đồng phần, mà khởi hiện tiền. Do đó pháp của ba tánh đều là tự tánh-đắc đắc. Tuy đắc trạch diệt, không do sở đắc. Phi trạch diệt y chúng đồng phần. Vì đạo và trạch diệt đồng tánh. Đồng phần và phi trạch diệt đồng tánh, do hai thứ này tuy không do sở đắc. Mà cùng với sở đắc chắc chắn là đồng tánh. Do ba tánh này gọi là đồng tánh đắc. Nói về môn hệ bất hệ: Luận chép: Từ câu “Lại có hệ pháp” cho đến “đắc có bốn thứ: Môn hệ bất hệ này. Pháp sở đắc có bốn thứ. Nghóa là ba cõi hệ là ba và pháp bất hệ là bốn. Năng đắc đắc cũng có bốn thứ. Cũng như trên nói. Còn pháp sở đắc có hai thứ. Hữu vi: Là pháp ba cõi và Đạo Thánh đế. Vô vi: Là hai thứ Diệt. Đắc của Năng đắc, chỉ là hữu vi. Pháp sở đắc lại có hai thứ: Hữu lậu, là pháp ràng buộc của ba cõi. Vô lậu; là Đạo Thánh đế hai diệt. Năng đắc đắc cũng có hai thứ: Hữu lậu: là ba cõi ràng buộc. Vô lậu: là Đạo Thánh đế. Hệ pháp ba cõi là hữu vi. Đắc của năng đắc. Theo chỗ sở đắc chỉ cho hệ ba cõi. Pháp bất hệ có cả vô vi. Phi trạch diệt đắc y theo thân hệ. Trạch diệt đắc theo đạo năng đoạn. Đạo có cả hữu lậu và vô lậu. Nếu đạo hữu lậu thì sắc Vô Sắc hệ. Nếu đạo vô lậu thì theo đạo bất hệ. Phi trạch diệt đắc vì tùy thân nên chung cho hệ ba cõi. Cho nên có hệ pháp đắc, Chỉ có ba thứ. Vô hệ pháp đắc có cả bốn thứ. Nói về môn Ba học: Luận chép: Từ câu “Lại có học pháp” cho đến “đắc tức Vô học”. Đây là nói môn Tam học. Pháp Học, vô học là hữu vi. Đắc của năng đắc. Từ pháp sở đắc là học, đắc, vô học đắc. Phi học, phi vô học có cả vô vi. Nên ba thứ đắc đắc. Hữu vi hữu lậu. Và phi trạch diệt. Phi học phi vô học đắc đắc. Trạch diệt có ba thứ đắc đắc. Nếu đạo hữu học dẫn đắc là Hữu học, Nếu đạo vô học dẫn đắc là Vô học. Nếu đạo hữu lậu dẫn đắc là Phi học, Phi vô học. Nói về môn ba đoạn: Luận chép: Từ câu “Lại, pháp kiến tu thì dứt” cho đến “đều chẳng phải thì dứt” Đây là nói môn Tam đoạn. Pháp thấy dứt, Tu dứt là hữu Đắc từ pháp sở đắc có cả ba đoạn. Pháp Phi thì dứt thì có cả ba thứ: là hữu vi vô lậu, trạch diệt phi trạch diệt. Hữu vi vô lậu đắc pháp từ sở đắc. Chỉ có phi thì dứt. Trạch diệt đắc từ đạo, nên có cả lậu và vô lậu. Hữu lậu tu đạo đoạn. Vô lậu đắc bất đoạn. Phi trạch diệt đắc từ Chúng đồng phần, mạng căn nên chỉ tu đạo đoạn. Văn khác rất dễ hiểu. Nên không giải thích lại. Luận chép: Từ câu trước tuy giải thích chung, cho đến trong đó tướng khác nhau. Dưới đây có một bài tụng, y theo pháp mà nói được khác nhau. Luận chép: Cho đến “Đắc cũng ở hiện tại”. Đây là nói Vô phú vô ký, thế lực kém nên chỉ dẫn pháp câu đắc. Tức ở ba đời, mỗi đời tự đắc. Luận chép: Từ câu “tất cả vô phú” cho đến không thế thì thế nào? Là hỏi gạn về khác nhau. Luận chép: Từ câu “Trừ nhãn thông nhó thông” cho đến “và câu khởi đắc: Là đáp. - Hai thông, biến hóa hai duyên, nên có cả trước đắc sau đắc. Vì thế lực thù thắng. Vì gia hành dẫn khởi, có ba đời đắc. Luận chép: Từ câu “hoặc công xảo xứ” cho đến “đắc cũng chấp nhận như thế” đây là nói oai nghi công xảo cực thiện thường tập, cũng chấp nhận có trước sau đều đắc. Ở đây nói tâm, không nói Sắc. Hữu phú vô kỹ sắc sẽ không có trước đắc, sau đắc, huống chi Vô phú vô ký sắc. Luận Tỳ-bà-sa quyển 126 chép: “công xảo xử” là năm xứ sắc, thanh, hương, vị, xúc làm thể, khởi công xảo xử, nghóa là có thể khởi ý kia. Pháp hai xứ làm thể, theo luận Tỳ-bà-sa quyển 157 giải thích rằng: Cõi Dục oai nghi công xảo bốn uẩn. Tức là nói “thiện tập giả: Là ba đời đắc giải oai nghi cõi Sắc, thì không phân biệt. Lại chép: “Tất cả hữu phú vô ký. Vô phú vô ký, sắc uẩn và oai nghi lộ dị thục, bốn uẩn kia đắc. Thế bất tạp, sát-na bất tạp, tùy ở đời kia, tức chỉ có đời kia đắc, y theo đây nên biết, cõi Sắc hai tâm vô ký không có trước đắc sau đắc” Thức Thân Túùc Luận chép: “Thành tựu tâm thiện, Bất thiện tâm cõi Dục, đều nói chắc chắn thành tựu, cõi Dục tâm vô phú vô ký y theo đây, chắc chắn có tâm Vô phú vô ký có ba đời đắc. Nói về hữu phúc vô ký sắc: Luận chép: Từ câu “chỉ có vô phú” cho đến “pháp trước đắc, sau đắc” Đây là nói Hữu phú vô ký sắc. Lời văn rất dễ hiểu. Đây là Sơ thiền trung gian tónh lự, thân ngữ do tâm nhiễm khởi, nên các địa khác không còn nghiệp này. Cõi Dục chỉ cho chấp thân và chấp một bên. Hữu phú vô ký không thể phát nghiệp. Địa trên không có tâm phát nghiệp. Nói về thiện bất thiện cõi Dục: Luận chép: Từ câu “như pháp vô ký” cho đến “và hậu khởi đắc” đây là nói Bất thiện, Thiện cõi Dục. Cõi Sắc không có pháp trước đắc, chỉ có pháp câu, pháp sau. Thế lực không thể dẫn tiền đắc. Sắc này nếu ở vị lai thì vị lai đắc. Nếu ở hiện tại, vị lai thì hiện tại đắc. Nếu đến quá khư, thì ba đời đắc tâm sở vô lậu và gia hành thiện khởi trước hết. Nếu ở vị lai chỉ có vị lai đắc. Nếu đến quá khứ thì có ba đời đắc. Các pháp khác khác nhau nên suy nghó sẽ hiểu. Luận chép: Từ câu “Phi đắc như đắc” cho đến không thế thì sao dưới đây là thứ hai có một bài tụng rưỡi nói: phi đắc khác nhau. Luận chép: Cho đến thuộc về tánh vô ký là môn ba tánh thứ nhất. Nên Tỳ-bà-sa quyển 158 chép. Hỏi: Phi đắc tùy tánh loại nào mà khác? Đáp: Kia chắc chắn không tùy pháp bất đắc, vì trái nhau. Lại không tùy đạo, chẳng phải đạo sở cầu, chỉ y theo mạng căn, chúng đồng phần, mà chuyển. Tùy tánh loại sở y khác nhau. Hỏi: Nếu các phi đắc, phi trạch diệt đắc, đều tùy tánh loại sở y khác nhau. Sở y hoặc dị thục, hoặc chỉ có Đẳng lưu, hai thứ tùy theo tánh loại mà khác nhau. Đáp: Tùy tánh đẳng lưu vì nghóa trùm khắp. Dị thục chẳng phải biến nên không lập theo. Hỏi: Nếu phi đắc tùy theo pháp bất đắc tánh loại khác nhau có lỗi gì? Đáp: Dứt gốc lành là phải thành tựu thiện. “Đã lìa dục nhiễm” phải thành tựu bất thiện “Các vị Vô học” phải thành tựu nhiễm. Dị sinh phải thành tựu pháp ba thừa vô lậu. Thối quả lẽ ra thành quả. Xả hướng lẽ ra thành hướng. Hai diệt phi đắc lẽ ra là vô vi. Do các lỗi này, phi đắc không thể tùy sở bất đắc tánh loại có khác. Môn ba đời: Luận chép: Từ câu “Thế khác nhau giả” cho đến “ba đời phi đắc.” Thứ hai là môn ba đời. Quá khứ, vị lai đều có ba đời, được đồng với trước, hiện tại chỉ có hai không có pháp câu phi đắc. Pháp hữu tình trụ hiện tại thì hẳn thành tựu. Nếu các pháp hiện tại, trước là quá khứ. Pháp sau là vị lai. Nếu quá khứ pháp trước chỉ quá khứ. Pháp sau có cả ba đời. Nên luận Tỳ-bà-sa quyển 158 giải thích phi đắc rằng: Tất cả phi đắc gồm có ba thứ: Ở pháp trước kia. Ở pháp sau kia. Chẳng phải pháp trước, pháp sau và pháp câu kia, chỗ không đắc pháp cũng có ba thứ. Chỉ có pháp trước phi đắc, nghóa là vị lai tình số v.v… không bao giờ sinh pháp, và nhập Niết bàn Vô dư Sát-na tâm cuối cùng. Có khi pháp có cả pháp trước, pháp sau phi đắc, nghóa là còn lại tùy chỗ ứng, số hữu tình pháp. Có pháp chẳng phải trước, sau kia, câu phi đắc. Mà có phi đắc, nghóa là trạch diệt, phi trạch diệt. Hẳn không có phi đắc đi chung với pháp câu. Vì khi pháp hiện tại là pháp sở đắc phải có đắc. Chẳng phải pháp sở đắc không có phi đắc. Cũng không phải chỉ có pháp sau kia là phi đắc, chẳng phải từ vô thỉ đến nay thường thành tựu. Kia chưa xả thì phải khởi, loại kia hết nhưng các phi đắc tánh đều kém nên chỉ thành hiện tại. Mỗi sát-na đắc rồi liền xả. Ở chỗ chưa đắc pháp kia và vị đã xả thường có phi đắc, nên biết. Nay xét rõ Hữu bộ không bao giờ có pháp Niết-bàn. Vì thời xa nên gọi là rốt ráo. Nếu không như vậy thì phải có một loại pháp chỉ có đắc không có phi đắc. Nghóa là không có pháp Niết-bàn phi tưởng địa hoặc, có một loại pháp chỉ có phi đắc, mà không có hữu đắc. Nghóa là không có pháp Niết-bàn ở ba Thừa Thánh đạo, cũng không có phi đắc. Trái với hữu đắc nên có phi đắc, ngược nhau mà lập. Như nói không có pháp Niết bàn ở ba thừa Thánh đạo. Tức không có phi đắc, tức ở người này chẳng phải là dị sinh, không có tánh dị sinh. Còn luận Phật Tánh của Bồ-tát Thế Thân giải thích: Hữu Bộ không có pháp Niết-bàn. Từ vị lập ra, phi pháp như vậy chắc chắn: Nhất-xiển-đề phạm nghiệp nặng không có pháp Niết-bàn. Cho nên trong địa Thanh Văn nói pháp như vậy “kỳ khách thuyết bản.” Như Luận Duy Thức, giải thích Nhiếp Luận rằng: “Nghe huân tập làm nhân vô lậu. Kỳ khách thuyết bản, còn Luận Tỳ-bà-sa phân biệt chỉ có pháp trước phi đắc nói. Nghóa là vị lai tình số không bao giờ sinh pháp. Và nhập Niết-bàn Vô Dư, Sát-na tâm cuối cùng. “Vị lai” phân biệt với quá khứ, hiện tại. “Tình số” là phân biệt phi tình. “Không bao giờ sinh” phân biệt pháp tạm bất sinh, như mắt thức thiếu duyên không sinh, đều cũng được gọi “không bao giờ sinh” đắc phi trạch diệt. Luận này chép: Tất cánh ngại, ngay nơi sinh, phân đắc riêng phi trạch diệt. Tức đây không sinh nhãn cũng là vị lai tình số, không bao giờ sinh. Làm sao văn này tức biểu, chắc chắn là thấy đạo biên, Thế tục trí. Như nói “Đây chỉ là trí Thế tục” tức là Tỳ-bà-sa thiếu chữ. Nếu chung lấy các pháp bất sinh khác. Tuy không có chỗ thiếu thì đồng nghóa với phi tưởng quá khứ kiến hoặc. Nay giải thích Tỳ-bà-sa nên sữa chữ “cánh” thành chữ “định”. “Định” tức là Thỉ, Mạt bất sinh, như vậy thì không lỗi. Vì ngoài các pháp năm thức không phải là pháp Thỉ mạt bất sinh. Thấy đạo tục trí Thỉ mạt bất sinh gọi là chỉ pháp trước, nếu đắc phi trạch diệt đã bỏ, thì gọi là rốt ráo. Chữ này lẽ ra là chữ sao do người viết lầm. Lại theo nhân Câu hữu, có đối tạo sắc chẳng phải nhân Câu hữu mà gọi là chắc chắn câu khởi, đắc tức, hoặc trước hoặc sau không nói chắc chắn câu. Nếu nói chung, sao không nói pháp Câu đắc tuy định câu sinh nhưng chẳng phải nhân. Trước, sau, câu đắc như nói chắc chắn, vì sao Luận nói hoặc trước, hoặc sau, cũng không thể nói chung là đồng loại thuyết. Trong loại này có định câu lẽ ra phải phân biệt. Nên biết nói có pháp trước, pháp câu đều là bất định. Y theo theo có nói phi đắc y theo đây, còn Tỳ-bà-sa giải thích “vô” chỉ cho pháp sau phi đắc rằng Phi từ vô thỉ đến nay thường thành tựu chưa xả, phải khởi Loại Tận kia. Y theo ý văn này, pháp không đắc y theo pháp chủng lại nói có phi đắc, kiến hoặc hữu đỉnh chủng loại rất nhiều thứ đã vào quá khứ, tuy là chỉ có pháp sau phi đắc ở vị lai có pháp trước phi đắc. Nhưng văn này là vặn hỏi sau Tỳ-bà-sa sửa lại. Nhưng đây không thuận đắc theo sáu câu trong Đắc. Nên nói: Vì bất định nên có hai thứ phi đắc. Vì Phi tưởng địa quá khứ Kiếân đạo phiền não. Ở đời quá khứ, khi phiền não chưa khởi, đều chấp nhận chứng quả Thánh. Nếu chưa khởi phiền não thì dứt kiến hoặc. Tức phiền não này có pháp trước phi đắc, do đó nói phiền não quá khứ không được gọi là duy pháp sau phi đắc, nếu giải thích như vậy thì thuận sáu câu trong đắc, tức đồng, ngòai ra có cả hai phi đắc. Do không hiểu ý này, bị đem kiến hoặc quá khứ chỉ pháp sau đắc, nạn lẽ ra thành bốn trường hợp, chung với bất đắc. Bèn sửa Tỳ-bà-sa cho là bốn trường hợp. Thấy hai bản lưu hành ở Trường An vẫn còn bốn trường hợp, sau đó vài năm sửa lại luận văn rằng: Tuy có ba câu bên thêm văn, ngăn nạn rằng: Chẳng phải vô thỉ v.v… 16 chữ chung với ngăn nạn này. Do không hiểu ý của Tỳ-bà-sa nên chưa nói hết lý. Môn giới hệ: Luận chép: Từ câu “Giới khác nhau” cho đến “là vô lậu giả”, môn giới hệ thứ ba. Phi đắc tùy thân hệ. Nên pháp ba cõi mỗi cõi đều có ba cõi phi đắc. Thân ở cõi hạ, cõi Dục phi đắc. Phi đắc ba cõi. Cõi Sắc, Vô Sắc nghóa y theo đây. Pháp Cõi Dục hệ có ba cõi phi đắc. Cõi Sắc, Vô Sắc, nghóa cũng y theo đây. Phi đắc tùy thân không tùy pháp. Cho nên phi đắc không có vô lậu. Vô lậu phi đắc cũng có cả ba cõi, ba cõi Dị Sinh đều bất thành. Nói về tánh Dị sanh: Luận chép: Vì sao? Dưới đây là nói về tánh Dị sinh, Tỳ-bà-sa quyển 45 : Độc Tử Bộ chấp tánh dị sinh là cõi Dục thấy khổ, dứt mười tùy miên. Du già quyển 52 chép: Lại nữa thế nào là tánh Dị sinh, nghóa là hạt giống pháp do thấy mà dứt của ba cõi chỉ chưa dứt hẳn gọi là tánh Dị sinh. Nay nói rõ hơn. Chỉ vì chưa dứt hẳn nên gọi là Pháp Thế Thứ nhất trở xuống. “Phi” là đạo Vô gián về sau, tức là dứt hoặc Kiến mà dứt. Nên gọi là chỉ chưa dứt hẳn, tức là không lấy một phần hại, tuy đặt lại tên tánh Dị Sinh nhưng chỉ gọi là “Già”. Nay có người giải thích rằng: Trong hạt giống “Hai chướng lập ra tánh Dị Sinh. Người Thanh Văn dứt chướng phiền não, gọi là Phi Dị Sinh. Có chướng sở tri nên gọi là Dị Sinh. Hai chướng là. Kiến hoặc tu hoặc chỉ có Phật mới dứt hết hạt giống của hai chướng này. Tức chỉ có Đức Phật mới được gọi là bậc Thánh. Ngoài ra cũng là vừa phàm vừa Thánh. Vì hai chướng này có dứt, có không dứt. Thí dụ nói tánh dị Sinh đó không có thật thể. Dẫn vô lậu chứng minh: Luận chép: Từ câu “Do chấp nhận Thánh đạo” cho đến “là vô lậu ứng lý”. Là Dẫn vô lậu chứng minh. Luận chép: Không được pháp của bậc Thánh nào gọi là tánh Dị Sinh là hỏi: Luận chép: Không đạt được tất cả, cho đến lẽ ra gọi là Dị sanh, là đáp. Nghóa là không được tất cả Thánh pháp. Đây không được nói biểu lìa hoạch. Nếu tùy theo được nhiều ít thì phải nói có phân biệt. Đã không có phân biệt chỉ nói “bất hoạch”. Nên biết “Biểu lìa hoạch” này nếu không có thì Chư Phật cũng không thành tựu hai thừa Thánh pháp, nên gọi là Dị sinh. Luận chép: Nếu thế thì lẽ ra luận ấy nên thuần rằng: Là hỏi. Trong luận kia, nên nói thuần không được Thánh pháp, gọi là Dị sinh, hễ được một, hai thì chẳng phải thuần. Luận chép: Từ câu không cần phải nói cho đến uống nước ăn gió, là Đáp: lập một câu nói “bất hoạch Thánh pháp, tức là nghóa thuần. Tùy được nhiều ít là Tạp, chẳng phải thuần không gọi là bất họach. Nói con ve sầu ăn gió, con muỗi uống nước, tức là nói ve chỉ ăn gió, muỗi chỉ uống nước, không cần nói thuần ăn gió, uống nước. Có người nói, như cá ăn nước rùa ăn gió, để giải thích nghóa thuần, là không hiểu ý. Cá không thuần ăn nước, rùa không thuần ăn gió. Nêu thuyết khác: Luận chép: Từ câu “có thuyết nói bất họach” cho đến “kia chẳng đắc”: Là nêu thuyết khác, nghóa là không được ba thừa Khổ pháp trí nhẫn và pháp Câu sinh, gọi là tánh Dị Sinh. Văn hàng phục ngọai đạo vặn hỏi. Nạn rằng: Từ câu Nếu thế cho đến “đạo loại trí”, xả hướng trước. Xả Khổ trí nhẫn. Bấy giờ cũng gọi là bất đắc khổ nhẫn, nên gọi là Dị Sinh. Do ngăn dứt lời hỏi này. Câu “trước đã dứt hẳn kia chẳng đắc”. Nghóa là trước không được tất cả Khổ nhẫn gọi là tánh Dị Sinh. Đây nói “Phi đắc đã bị dứt hẳn” xếp vào quá khứ, “cho đến” Đạo Loại Trí, khi lại khởi thì phi đắc, “Phi” là chưa hề được Khổ pháp nhẫn, nên chẳng phải dị sinh. Luận chép: Từ câu nếu thế thì tánh này cho đến luống uổng công phu: là vặn hỏi. Nếu đã đồng như trước đâu cần nói lại, luống uổng công phu. Luận chép: “như lời Kinh sư nói là Thiện”: Luận chủ ý tin Kinh bộ nên nói “Sở thuyết là thiện”. Luận chép: “Lời Kinh bộ nói, nghóa đó thế nào?”: Là hỏi: Về Tông Kinh bộ. Luận chép: Từ câu “chưa hề sinh” cho đến gọi là tánh dị sinh là đáp: Theo nghóa kinh bộ. Luận chép: Chẳng đắc như thế: Lúc nào mới xả, dưới đây, thứ tư là nói: Xả thời, đây là hỏi. Luận chép: Từ câu “pháp này chẳng phải đắc” cho đến giống như đây nên suy nghó. Đáp: xả thời. Xả có hai thứ: Có khi tuy bất dị địa đắc. Pháp này, thời xả phi đắc này. Có khi tuy ly đắc pháp này. Do dịch địa. Xả địa phi đắc này, được địa phi đắc kia. Giải thích tướng xả phi đắc: Luận chép: Từ câu “nếu chẳng phải đắc dứt” cho đến “xả phi đắc”là giải thích tướng xả phi đắc, tức phi đắc trên được đổi tên là xả phi đắc. Luận chép: Từ câu “đắc và đắc” cho đến “đắc và phi đắc”: Là hỏi. Luận chép: Từ câu lẽ ra nói hai thứ này, cho đến “đắc và phi đắc”: Là đáp. Luận chép: Từ câu nếu thế, cho đến “có lỗi vô cùng” là vặn hỏi Luận chép: Từ câu “không có lỗi vô cùng” cho đến “không có lỗi vô cùng”: Đây là đáp rộng. Tuy hỏi cả hai “đắc” và “phi đắc”, nhưng hai việc khác nhau, có đại đắc, tiểu đắc đồng thời tương đắc, phi đắc thì không như vậy, vì hiện tại không có “phi đắc”. Nên biết phi đắc không bằng “đắc”. Có Tiểu phi đắc thì nghóa nó khác đi. Cũng có đại, phi đắc tiểu “phi đắc” khác nhau. Nghóa là dịch đại “đắc”, gọi là “Đại phi đắc”. Tức phi đắc đại đắc pháp sở đắc. Bổn pháp và tướng Đại tiểu dịch “Ư tiểu đắc” gọi là “tiểu phi đắc”. Đây chỉ phi đắc đại đắc và bốn tướng. Nên Tỳ-bà-sa quyển 158 nói: “Như thị thuyết” là Pháp và Sinh” v.v… đồng một đắc đắc. Tướng và sở tướng rất gần gũi. Do dây thiện có cả uẩn và hành uẩn, một đắc đắc, v.v… Như trên là văn luận, “đắc” và “phi đắc” trái nhau mà lập, không thể khác nhau. Tuy không có đại, tiểu phi đắc phi đắc lẫn nhau. Vì đắc chẳng có lỗi vô cùng. Nên phi đắc cũng chẳng phải vô cùng, nên đáp vô cùng chỉ là giải thích Đắc, tức là nói lên phi đắc không có vô cùng, trái với Đắc mà lập. Giải thích tăng số: Luận chép: Từ câu “Như thế nếu thiện” cho đến “hữu vô biên đắc”. Là giải thích tăng số. Như khi Sát-na thứ nhất là tâm thiện khởi thì chỉ nói tâm Thiện mà” không nói Tương ưng, pháp Sát-na này là một. Đại đắc là hai, Tiểu đắc là ba Sát-na thứ hai có sáu pháp khởi, không nói sát-na thứ hai khởi tâm Thiện mà chỉ nói sát-na trước, pháp sau đắc có sáu pháp khởi. Nghóa là trước nói pháp này Đại đắc Tiểu đắc, tức ba pháp này đắc pháp sau, đại tiểu đều có ba nên có sáu đắc. Sát-na thứ ba tức sáu pháp này, nghóa là ba đại đắc và ba tiểu đắc và Sát-na ban đầu pháp đại tiểu đắc, có chín pháp này pháp sau khởi đắc có chín đại đắc, chín tiểu đắc hợp thành mười tám. Như vậy về sau dần dần có thêm vô biên đắc. Luận chép: Từ câu “chỉ một hữu tình” cho đến “huống là thứ hai” Đây là nói các đắc cực đa không đối ngại, nên được cho phép cùng thọ, lời văn rất dễ hiểu. <篇> CÂU XÁ LUẬN SỚ <卷>QUYỂN 5 <詞>Phẩm 2: PHÂN BIỆT CĂN (PHẦN 3) Nói về đồng phần: Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến “đồng phần là gì?”. Trở xuống một câu thứ ba nói về Đồng phần. “Đồng” là quả, “Phần” là nhân. Phần của đồng nên gọi là “đồng phần”. Nên “Luận Chánh Lý” chép: Trong đây thân hình, nghiệp dụng, dục lạc xoay vần tương tợ, nên gọi là Đồng. “Phần” nghóa là nhân, có vật thật riêng, đó là đồng nhân nên gọi là Đồng phần. Luận đã giải thích điều này, không phiền giải thích khác, cũng gọi là chủng đồng phần. Đồng pháp chẳng phải một, gọi là chủng đồng, làm nhân cho kia gọi là phần. Luận chép: Cho đến “gọi là chúng đồng phần, trong văn xuôi có hai. Nói về Hữu Bộ tông. Dẫn Kinh bộ để vặn hỏi. Trong phần nói về Hữu Bộ Tông trước chung sau riêng. Đây gọi là chung, có thật vật khác, nêu thể của nó gọi là Đồng phần, nói về tên gọi. Lụân này nói đây gọi là chúng đồng phần, là giải thích tên khác. Luận chép: Từ câu ở đây lại có hai thứ cho đến tất cả đều có, trong đó có hai: Hữu tình đồng phần. Pháp đồng phần. - Từ trong Hữu tình đồng phần lại chia làm hai: Không sai khác. Có sai khác. Văn này giải thích không sai khác, nghóa là tất cả hữu tình bình đẳng đều có. Chỉ phân biệt vô tình gọi là vô khác nhau. Luận chép: Từ câu “có khác nhau giả” cho đến tất cả đều có: Đây là giải thích: Về khác nhau. Nên luận Chánh Lý chép: “Một cõi sinh các loại hữu tình. Bao nhiêu thân hình. Các căn, nghiệp dụng và ăn uống v.v… làm nhân tương tợ lẫn nhau, đồng thời xoay vần làm nhân dục lạc lẫn nhau gọi là chúng đồng phần. Như màu sắc tươi sạch. Nghiệp, tâm, đại chủng đều là nhân. Nên thân hình v.v… chẳng phải do nghiệp, nhân hiện thấy thân hình càng tương tợ nghiệp dẫn quả. Nghiệp dụng của các căn và ăn uống v.v… đều có khác nhau. Nếu cho rằng mãn nghiệp có khác nhau. Nên có sai khác này thì về lý không đúng. Hoặc có thân hình chỉ do tương tợ dẫn nghiệp sanh khởi. Vì chúng đồng phần có khác nhau, nên nghiệp dụng khác nhau. Nếu thân hình v.v… chỉ có nghiệp quả. Tùy theo sự ưa thích, nghiệp dụng, v.v… hoặc xả, hoặc hành nên không được có. Trong đây thân hình, nghiệp dụng, dục lạc lần lượt tương tợ, nên gọi là đồng phần nghóa là nhân. Có vật thật khác. Là đồng nhân này nên gọi là đồng phần. Đồng phần như thế. Thế tôn chỉ nói theo các hữu tình, chẳng phải cây cỏ, nên khế Kinh nói. Đây là thiên đồng phần, đây là nhân đồng phần. Cho đến nói rộng: Y theo giới, đường, sinh, xứ, thân v.v… khác nhau, có vô lượng hữu tình đồng phần. Lại có pháp đồng phần, nghóa là tùy uẩn, xứ, giới, y theo văn luận trên nhân khác nhau chẳng phải chỉ có nghiệp lực, mà gồm cả đồng phần. Phẩm loại sai khác các thứ khác nhau, mỗi loại đều có đồng phần, cùng với không sai khác giác là cảnh giới. Uẩn, xứ, giới đồng nghóa ấy cũng vậy. Tức có từng loại uẩn, giới xứ đồng, tương trạng tương tợ cũng có đồng phần. Giải thích pháp đồng phần: Luận chép: “Lại có pháp đồng phần, nghóa là tùy uẩn xứ giới”. Đây là giải thích pháp đồng phần. Pháp đồng phần này không khác với uẩn, giới, xứ lấy đó làm nhân. Cũng làm nhân vô khác nhau cho pháp kia. Luận chép: Từ câu “Nếu không có vật thật” cho đến “như lý nên biết: Là nêu quả đồng phần, chứng có đồng nhân. Luận chép: Từ câu “Nếu có tử sinh” cho đến gọi là dứt bỏ tướng trước: Đây là nói đắc, xả. Lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Nếu có vật thật riêng” cho đến có tánh người riêng: Dưới đây kinh bộ nạn. Trong đó có sáu: Lập riêng tánh dị sinh để bắt bẻ. Vô lượng nạn. Vô dụng nạn. Vô tình đồng phần nạn. Đồng phần vô, đồng phần nạn. Đồng ngoại đạo nạn. Sáu lần bắt bẻ: Đây là bắt bẻ thứ nhất. Đã có Dị sinh đồng phần, đâu cần gì lập riêng tánh dị sanh? Luận Chánh Lý giải thích rằng: Đâu không khác với tánh sanh tức là dị sanh đồng phần. Ở đây không nên như vậy, việc làm khác, nghóa là thân hình, nghiệp dụng, dục lạc kia là nhân tương tợ lẫn nhau gọi là đồng phần, nếu trái với Thánh đạo thành tựu thì nhân của Dị sinh này gọi là tánh Dị Sinh. khi nhập ly sanh, đối với chúng đồng phần vừa xả vừa đắc, đối với tánh Dị sinh xả mà không đắc. Luận chép: Từ câu “Lại chẳng phải thế gian” cho đến “không có dụng riêng”: Là bắt bẻ thứ hai. Luận chép: Từ câu “Thế gian không rõ,” cho đến “thì có công dụng gì?”: Là bắt bẻ thứ ba. Luận Chánh Lý giải thích rằng: “Đồng phần chẳng phải sắc làm sao biết được có công năng sinh ra vô biệt sự loại, do thấy quả kia mà biết có kia. Như thấy quả do nghiệp tại đắc mà, biết nghiệp mà đời trước đã gây ra, còn người quán hạnh thì hiện chứng biết. Luận chép: Từ câu lại vì sao không chấp nhận cho đến “ tương tợ lẫn nhau”: Là nạn thứ tư. Luận Chánh Lý chép: “Sao không chấp nhận có vô tình đồng phần, không nên trách như thế. Có lỗi thái quá, ông cũng chấp nhận có các tầng trời, người, các loại thai, sanh, noãn sinh. Sao cũng không chấp nhận các đường am-la, đậu xanh v.v… mọc Lại Phật, Thế tôn không nói, chỉ nên suy nghó chọn lựa. Vì sao Thế tôn chỉ ở trong loài hữu tình nơi có đồng phần chẳng đối với quả v.v… Lại làm sao biết. Đồng Phần như thế có vật thật riêng và ta đối với đó hiểu như thế nào? Do các loại quả không có nghiệp dụng, lạc dục xoay vần tương tợ lẫn nhau. Đối với kia không nói có đồng phần riêng. Lại hẳn nhân quả hữu tình v.v… mới sinh. Chỉ đối với hữu tình nói có đồng phần, lại vì nghiệp trước, và hiện tại siêng năng mạnh mẽ pháp này được sinh ở các loại quả kia. Hai việc đều không, nên không có đồng phần. Tức do việc này chứng minh có thật vật. Còn các hữu tương như gỗ, điêu khắc, họa v.v… và chân dung đó tuy có hình sắc lần lượt tương tợ, mà nói nhất thật. Do đó chẳng phải chỉ thấy tương tợ, tức nói là thật. Phải đối với loại vật tương tợ khác nhau mới khởi lời nói thật. Nên biết thật có pháp khác nhau này. Đây thật là do pháp này sinh ra. Cây gỗ khác nhau phần, không được nói là thật. Con người có đồng phần nên nói là thật. Luận chép: Từ câu “lại các đồng phần” cho đến biết lập bày chăng? Là bắt bẻ thứ năm. Luận Chánh Lý chép: “Làm sao ở kia lại không có đồng phần, mà khởi vô biệt giác, lập bày ư? Do các đồng phần là nhân tánh của việc đồng loại v.v…, tức là nhân đồng loại xoay vần tương tợ giáo thì thiết. Như mắt, tai v.v… do đại chủng tạo mới thành sắc tánh. Đại chủng tuy không có đại chủng khác tạo mà sắc tánh thành. Luận chép: Từ câu “Lại lẽ ra hiển thành” cho đến “do đó phát sinh”: Bắt bẻ thứ sáu. Không sai khác đồng phần như nghóa đều đồng câu. Sai khác đồng phận như nghóa câu đồng khác. Hoặc chỉ như nghóa câu đồng khác. Luận chủ dẫn Tỳ-bà-sa đáp: Luận chép: Từ câu “Sư Tỳ-bà-sa” cho đến “đối với đa chuyển”. Luận chủ dẫn Tỳ-bà-sa đáp. Luận Chánh Lý chép: “Ở đây lẽ ra nên hiển bày đồng với chấp của Thắng luận câu nghóa đều đồng . Câu nghóa đều khác. Nếu Thằng luậnchấp hai câu nghóa này thể chẳng phải một. Sát-na vô thường không chỗ y chỉ. Lần lượt khác nhau, dù cho khiến đồng kia cũng không nhiều lỗi. Chẳng phải thắng luận chấp các căn như mắt v.v… có công năng thực hành sắc, v.v… Tức khiến cho Thích tử xả thấy như thể, có giải thích khác. Nên chỗ nạn là lời của bè đảng nói. Người Cầu Chánh Lý, không nên gom về. Thuật: Nếu như Thăng luận. Một pháp ở khắp nhiều pháp. Thể của nó là thường để đế hòa hợp, đó là có lỗi. Nếu ngoại đạo đó chấp hai câu nghóa thì thể chẳng phải một. Sát-na vô thường không có chỗ y chỉ, lần lượt khác nhau, dù cho khiến đồng, kia cũng không có nhiều lỗi. Luận chép: Từ câu lại dù đối với kia cho đến nói rộng: Là hữu Bộ thứ hai dẫn kinh chứng minh. Luận chép: Từ câu “Tuy có thuyết này cho đến gọi là đồng phần” Đây là kinh bộ giải thích kinh. Như Kinh bộ giải thích, văn kinh này là giả, chẳng phải thật. Luận chép: “Như vậy nói đồng phần đó là sao?” Là Kinh bộ nêu. Luận chép: Từ câu tức loại như thế cho đến “trái với tông ta”: Là Kinh bộ đáp, văn còn lại rất dễ hiểu. Nói về Vô Tưởng dị thục: Luận chép: “Đã nói về đồng phần Vô Tưởng là gì?” Dưới đây là thứ ba nói về Vô Tưởng dị thục. Luận chép: Cho đến “là quả dị thục” Đây là giải thích Dụng của Vô Tưởng xứ v.v… “Như sinh lên tầng trời của hữu tình Vô Tưởng là” nói y xứ. Có pháp làm cho tâm, tâm sở diệt, nương dụng để hiển bày thể, gọi là Vô tưởng, đặt tên đó, là vật có thật, là nói giả thật. Có thể ngăn pháp tâm, tâm sở vị lai khiến tạm thời không khởi. Nói khi diệt thể, như ngăn dứt sông suối, là nêu dụ để hiển. Pháp này một mặt là quả dị thục, nói về năm thứ. Luận chép: “dị thục” của ai nghóa là định Vô Tưởng, là nói về nhân, Tỳ-bà-sa quyển 118 có nhiều Sư giải thích. Sư đầu tiên giải thích định Vô tưởng chiêu cảm Vô Tưởng và Sắc dị thục. Mạng căn chúng đồng phần có tâm tónh lự dị thục. Ngoài ra các uẩn là câu dị thục, lại có người nói: Định Vô Tưởng chiêu cảm Vô Tưởng và Sắc dị thục, mạng căn. Là kia có tâm tónh lự dị thục. Ngoài ra các uẩn khác là câu dị thục. Lại có người nói Định Vô Tưởng chiêu cảm dị thục Vô Tưởng, các uẩn còn lại là câu dị thục. Lại có người nói: Nếu khi có tâm cũng chiêu cảm các uẩn dị thục vô tâm. Nếu khi vô tâm cũng chiêu cảm các uẩn dị thục hữu tâm. Lời bình: Nên “Nói như vầy dị thục Vô Tưởng chỉ có định Vô Tưởng chiêu cảm. Tất cả mạng, mạng căn và chúng đồng phần, v.v.. các sắc căn, như mắt, v.v… đều là nghiệp cảm. Các uẩn khác đều chiêu cảm. Luận Chánh Lý chép: “Pháp này một bề là dị thục do định Vô Tưởng chiêu cảm. Hữu tình Vô Tưởng thì Vô Tưởng và sắc. Chỉ là dị thục định Vô Tưởng chiêu cảm. Định này không có năng lực dắt dẫn chúng đồng phần và mạng căn, vì chúng đồng phần và mạng căn chỉ là quả do định Hữu tâm thứ tư chiêu cảm. Các uẩn còn lại là câu dị thục. Theo văn luận Chánh Lý đồng nghóa với vị Sư ban đầu, chẳng phải nghóa của nhà phê bình. Luận này chép: dị thục của ai: Nghóa là định Vô Tưởng. Theo văn luận này, chỉ khác với thứ tư nói. Thuyết của ba vị Sư trước và nhà phê bình đều nói Vô Tưởng là quả định Vô Tưởng. Chỉ có thứ tư nói chung với quả hữu tâm. Tầng trời của Hữu tình vô tưởng: Luận chép: Từ câu “Hữu tình Vô Tưởng” cho đến gọi là trời Vô Tưởng. Đây là giải thích tầng trời của hữu tình Vô Tưởng. Luận chép: Kia là hằng Vô Tưởng hay cũng có khi có tưởng ư. Dưới đây là nói trời Vô Tưởng cũng có tưởng. Trước hỏi, sau đáp, đây là hỏi. Luận chép: Từ câu “Trong vị sinh tử” cho đến “lại khởi tưởng: Là đáp. Nghóa là mới sinh, tầng trời kia đa thời hữu tưởng, khi Sắp qua đời cũng đa thời hữu tưởng. Khoảng giữa trong thời gian dài Vô Tưởng, vì nghóa này nên gọi là Vô tưởng. Chẳng phải tầng trời kia hòan tòan Vô Tưởng luận Tỳ-bà-sa quyển 154, nhà phê bình nói: Nói như thế việc này bất định, hoặc trước nhiều sau ít, hoặc trước sau nhiều, tùy theo ý thích có khác nhau. Còn nhà phê bình Tỳ-bà-sa nói: Nêu tâm Vô tưởng vì thông sinh đắc thiện, hữu phú vô ký vô phú vô ký. Chung với chỗ dứt của năm bộ. “Có mấy tùy miên tùy tăng cõi Sắc hữu lậu duyên”, nghóa là định thứ tư Hữu lậu duyên tùy miên. Hỏi: Vì sao vô lậu duyên tùy miên, đối với Vô Tưởng kia không tăng theo ư? Đáp: Họ chấp Vô Tưởng là Niết-bàn. Định Vô Tưởng là chân đạo. Cho đến sinh chỗ đó và mất từ chỗ đó, chỉ chấp như thế trở lại tùy chuyễn. Đối với chân diệt đạo chẳng bác bỏ là không, nên duyên vô lậu bấy giờ không khởi. Hỏi: Vị Vô tưởng kia, ba thứ ăn cũng diệt, vì sao nói có ăn. Đáp: Ăn có hai cách: Trước thì năng dẫn Hiện tại nhậm trì. Vị kia tuy không hiện tại nhậm trì thực, nhưng có trước kia năng dẫn thực, nên gọi là Hữu thực. Hỏi: Nhập vào tâm Vô Tưởng là có cả mấy tánh, mấy bộ sở dứt. Có người giải thích rằng: Tuy chưa thấy văn y theo kia nêu ra tâm, nhập tâm cũng như vậy. Nay nói nhập tâm phần nhiều chỉ là dị thục sinh tâm. Vì thuận theo diệt. Thú hướng dị thục, tâm trước tuy chẳng phải duyên đẳng Vô gián. Nhưng Luận Chánh Lý chép: Kia lấy duyên Đẳng vô giản của nghiệp trước làm nhậm trì thực, nghóa là do túc nghiệp dẫn chúng đồng phần và Mạng căn v.v… Do tục sinh tâm và Vô gián nhập vào quả Vô Tưởng. tâm dắt dẫn giúp đỡ, kia cũng có xúc quả khứ, làm nhậm trì thực. Trong giai đoạn ô tâm chỉ có xúc quá khứ làm thực. Hiện tại đều không. Hai thứ tâm hữu trong vị hữu tâm đều có. Văn Luận trở lên đồng nghóa với Tỳ-bà-sa. Nói về chỗ hậu báo: Luận chép: Từ câu mất ở đây rồi, cho đến “sức hết liền rơi”: Đây là nói chỗ hậu báo. Đó là các ngoại đạo khi mới tu định. Phải có tâm Thiên cõi Sắc. Chán khổ sinh tử. Cầu xứ giải thoát, Cầu thầy và giáo không gặp chánh giáo, mà gặp tà sư. Trước nghe tà giáo nói xứ Vô tưởng cho là Niết-bàn. Khởi thượng duyên kiến thủ, chấp làm xuất ly, lại khởi giới thủ, chẳng phải nhân chấp nhân chấp định Vô Tưởng có thể đắc Niết-bàn. Tức ở cõi Dục tạo nghiệp Hậu báo. Tùy theo sự hơn kém mà, sinh năm đường khác nhau, vì cầu Vô Tưởng khởi các định cõi dưới cho là gia hành. Ngoài ra định quả chẳng phải bổn sở cầu, không chiêu cảm quả. Lại chẵng phải nghiệp do năng lực định Vô Tưởng. Sinh lên trời Vô Tưởng. Xuất Vô Tưởng không còn nhập định nữa. Định Vô Tưởng thế lực đã hết liền rơi vào cõi Dục, không có sức định. Luận chép: Từ câu “Các hữu tình” cho đến “Nghiệp sinh tầng trời”: Là thứ hai giải thích. Đây là nói chỗ sinh pháp nhó tương hệ. Luận Tỳ-bà-sa 154 nói: “Có thuyết nếu tạo Vô Tưởng thuận thứ sinh thọ nghiệp. Pháp nhó cũng tạo cõi Dục thuận hậu thọ nghiệp. Lại nói: “Hỏi: Định sinh ở chỗ nào? Đáp: Có thuyết nói đọa địa ngục. Có thuyết nói đọa đường ác, nói như thể chắc chắn sinh cõi Dục, nơi chốn bất định. Hoặc đọa đường ác, hoặc tầng trời, hoặc cõi người. Luận chép: Từ câu “Đã nói về Vô tưởng” cho đến “tướng ấy thế nào” trở xuống là giải thích hai định. Trước giải thích định Vô Tưởng. Luận chép: Cho đến “gọi là định Vô Tưởng”. Giống như Vô Tưởng dị thục. Giải thích định Vô Tưởng. Có riêng hai mươi mốt hoặc hai mươi hai. Phi sắc phi tâm Bất tương ưng hành, có thể khiến hai mươi hai tâm, tâm sở diệt, gọi là định Vô Tưởng. Giải thích tên gọi: Luận chép: Từ câu “Định Vô Tưởng”cho đến “gọi là định Vô Tưởng”. Đây là giải thích tên. Trước thuộc về chủ, sau là trì nghiệp. “Người Vô Tưởng” có định này nên gọi là định Vô Tưởng, thuộc về y chủ thích, tức định Vô Tưởng gọi là định Vô Tưởng, thuộc về trì nghiệp thích. Luận chép: Từ câu “Nói thanh như thế” cho đến “đồng với Vô Tưởng”: Là giải thích bài tụng như thị thanh. Tụng nói “Như thị” là nói về định Vô Tưởng diệt tâm, tâm sở đồng với Vô Tưởng. Khác nhau tánh Vô Tưởng loại thể số. Hỏi: “Vì sao gọi là Định?” Luận Chánh Lý chép: “Do chánh thành biện, hoặc cực thành biện, nên gọi là Định. “Có Sư khác nói các hành như lý v.v… nên gọi là định. Khiển tâm Đại chủng bình đẳng hành. Thuật rằng: “Định là trong đây nói lẽ ra gọi là Đẳng chỉ. Tùy lời nói tiện lợi nên gọi đó là Định. “Đẳng” có ba nghóa: Nghóa chánh. Nghóa cực. Nghóa hai hạnh như lý bình đẳng, trước giải thích hai nghóa trước, các Sư khác lấy nghóa sau, tức giải thích danh từ Đẳng chí nghóa Thành biện nghóa là chí, là Đẳng chí trong ba tên của định. Chỉ có định phi tán có cả vô tâm. Tán tâm không có chánh thành biện và cực thành biện. Nói về các thứ khác: Luận chép: Từ câu đây ở địa nào, cho đến tónh lự chẳng phải thứ khác: Là thứ Thứ hai nói về y địa. Luận chép: Từ câu “Tu định Vô Tưởng” cho đến “Tu định Vô Tưởng”: Là Thứ ba nói “Tác ý”. Luận chép: Từ câu “Trước nói Vô Tưởng” cho đến “hoàn toàn là thiện”. Là thứ tư nói thuộc về Tánh. Luận chép: Từ câu “Đây là thiện” cho đến “Năm uẩn dị thục”: Là thứ năm nói quả thông cục. Luận chép: Từ câu “Đã là tánh Thiện” cho đến “chánh Tánh ly sinh”: Thứ sáu là nói về thuận thọ. Nay xét kỹ, định này đã chấp nhận có lui sụt nay thân lại đắc. Lại nói: Chỉ là chắc chắn sinh thọ phi hậu, bất định. Y theo đây nên biết. Nếu trước nhập định rồi có thể chiêu với hoàn toàn quả năm trăm kiếp. Tức không có lui sụt, lui nhập Vô Tưởng. Kiếp số định, hoặc có thể được chiêu cảm dị thục của uẩn khác. Hoặc ở đây lại nhập định Vô Tưởng. Khi cảm báo kia thì hoặc nhập báo xuất quả, hoặc nhập quả xuất báo. Luận chép: Từ câu lại chấp nhận định này cho đến “Chẳng lẽ không tu hành”: Thứ bảy là nói người tu khác. Trước khởi chấp Vô Tưởng xứ cho là Niết-bàn. Sau khởi giới thủ chấp chắc chắn Vô Tưởng cho là chân đạo. Mới có thể nhập, bậc Thánh đã dứt hai chấp, cho nên không nhập. Luận chép: Từ câu “Nếu các bậc Thánh” cho đến “định Vô tưởng chăng?” Thứ tám là nói thành tựu. Hỏi đáp các việc khác: Trong văn có hai: Hỏi. Đáp. Đây là hỏi. Luận chép: Ngoài ra cũng không được, đây là lược đáp chẳng phải chỉ có bậc Thánh không thành vị lai, các phàm phu khác cũng không đắc. Luận chép: “Vì sao: Là nói bất đắc sở dó. Luận chép: Từ câu “Kia tuy hội tập” cho đến “phương tiện tu đắc” Đây là đáp rộng. Luận chép: Từ câu “Cho nên lúc mới đắc” cho đến “vô vị lai tu”: Là giải thích thành tựu thế thông cục. Luận Tỳ-bà-sa quyển 151 chép: “Nhập, xuất định Vô Tưởng, tâm đều thị, tónh lự thứ tư hữu lậu thiện tâm. Rộng như kia trình bày. Luận chép: Kế là định Diệt Tận tướng đó thế nào. Thứ tư là nói về định Diệt Tận. Luận chép: Cho đến “Diệt định cũng thế”: Như định Vô tưởng, là thí dụ giải thích diệt định. Luận chép: Ở đây cũng vậy, Thanh là thí dụ nghóa nào, là hỏi: Luận chép: So sánh với định Vô Tưởng cho đến gọi là định Diệt tận: Là đáp. Ở đây cũng thế, chỉ nêu diệt tâm, tâm sở. Chẳng Đồng so sánh với thứ khác. Luận Tỳ-bà-sa 152 chép. Hỏi: Định Diệt tận này có mấy vật làm thể. Có thuyết nói: Định này có một vật làm thể, nếu diệt hiện tiền thì gọi là vô tâm. Hỏi: Vì sao diệt một sát-na hiện tiền thì gọi là vô tâm. Đáp: Như một Thọ sát-na hiện tiền thì gọi là hữu Thọ. Một tưởng sát-na hiện tiền thì gọi là hữu tưởng. Một thức sát-na hiện tiền thì gọi là hữu thức. Như vậy một Diệt sát-na hiện tiền thì gọi Vô tâm. Đây có lỗi gì? Có thuyết nói định này có mười một vật làm thể. Lấy mười Pháp Đại địa và tâm diệt. Có thuyết nói định này có hai vật làm thể, lấy mười pháp Đại địa, mười Pháp Đại thiện địa và tâm diệt. “Như thị thuyết”: Là tùy diệt nhó sở pháp tâm, tâm sở. Tức có từng ấy sở vật hiện tiền làm thể của định này. Đây khác với Sư thứ ba. Nhà phê bình lấy cả hân, yếm: Thứ ba chỉ có hai mươi mốt, nên khác nhau. Theo nghóa này có hai mươi hai, nghóa là thêm hân. Diệt Định có hai mươi hai, nghóa là thêm yếm. Hai định chỉ có diệt tâm, tâm sở là sở. Nên biết Vô tưởng cũng chỉ diệt tâm, tâm sở là sở. Nên biết Vô Tưởng cũng chỉ diệt tâm, tâm sở, bổn tướng y theo đồng. Còn Tỳ-bà-sa quyển một trăm năm mươi ba chép: Hỏi: Khi nhập diệt định thì cái nào là pháp tâm, tâm sở. Là quá khứ, vị lai, hay hiện tại? “Nếu là quá khứ” thì quá khứ đã diệt, làm sao trở lại diệt. “Nếu vị lai”, Vị lai chưa sinh làm sao diệt được. “Nếu hiện tại”. Hiện tại không trụ phục, làm sao diệt? Nếu chẳng phải định lực, thì cũng tự diệt. Đáp: Nên nói như vậy, diệt ở vị lai. Hỏi: Vị lai chưa đến làm sao diệt được? Đáp: Trụ ở hiện tại, pháp tâm, tâm sở ngăn ở vị lai, khiến không nối tiếp nên nói là diệt, như cắt đứt con đường đi vào thành, đống cửa dựng cờ, không để cho người ra vào nên gọi là trừ cướp, đây cũng như thế, có thuyết diệt cả vị lai, hiện tại. Hỏi: Hiện tại không trụ thì làm sao diệt, dù cho không có định lực cũng sẽ tự diệt. Đáp: Trước hiện ở đời pháp tâm, tâm sở. Khiến cho pháp hữu duyên tiếp tục khởi mà diệt. Nay hiện ở đời, phát tâm, tâm sở không làm cho pháp hữu duyên nối tiếp khởi rồi diệt. Đây là do năng lực nào mà gọi là định lực? Trong hai thuyết trên nên lấy giải thích trước. Thuận theo văn khác. Có người nói rằng: “Vì đó có thuyết không phải là đúng” tức là trái với nhiều ví dụ. Lại quyển một trăm năm mươi ba chép: “Lời bình: Nên nói như vậy: “Đây là nhập định tâm duyên định vị lai, không thể nói duyên sát-na nào được không? Duyên sát-na nào, vì định vị lại có nhiều sát-na. Chưa có trước sau lẫn lộn mà trụ. Lại chép: “Lời bình: Nên nói: Đây là xuất dịnh tâm duyên định quá khứ. Mà không được nói duyên sát-na nào, không duyên sát-na nào. Vì định quá khứ có nhiều sát-na xen nhau trụ. Y theo văn luận trên, đã xen nhau trụ thì không được nói riêng, tức là duyên chung định quá khứ, vị lai. Nhưng vị định tức duyên kế trước tịnh định. Vì vị định là tâm tương ưng tham. Tướng riêng cảm, cho nên duyên riêng, kế tâm định trước, mà khởi ra hai định, tâm là tâm thiện, duyên chung định trước, không thể chấp riêng. Nói về đồng khác: Luận chép: Từ câu “Hai định như thế” cho đến “tác ý làm đầu”: Là tác ý khác nhau thứ nhất. Luận chép: Từ câu “Định Vô Tưởng ở trước”: Là cho đến “Phi phi tưởng xứ”: Y địa khác nhau thứ hai. Luận Tỳ-bà-sa quyển 1 5 2.Hỏi: Vì sao địa dưới không có Định Vô Tưởng. Một thuyết nói rằng: Các địa dưới có hoan thích thọ. Hành tướng thô động khó dứt trừ. Tónh lự thứ tư chỉ có thọ trong xứ, hành tướng nhỏ nhiệm dễ dứt bỏ. Hỏi: Vì sao cõi Vô Sắc không có định này ư? Đáp: Chỉ có dị sinh. Chấp tập khí của định này, cho là năng chứng Niết-bàn Vô Tưởng. Trong cõi Vô Sắc không có Vô Tưởng dị thục để chấp. Nên định Vô Tưởng ở cõi ấy cũng không. Luận Chánh Lý chép: Trước định Vô tưởng ở lại bên cõi Sắc. Nay định Diệt Tận ở biên địa cõi Vô Sắc. Vì ở tại Phi tưởng Phi tưởng xứ. Chỗ thọ sinh thân là nghiệp trên hết dẫn dắt. Nên gọi là Hữu Đảnh, hoặc có bờ mé nên gọi là Hữu Đảnh. Như bờ mé cây gọi là Đảnh cây. Chỉ ở địa này là có định Diệt Tận. Vì sao địa dưới không có định này ư? Chán (yếm) trái với tất cả tâm và bờ mé tâm dứt mới có thể đắc, đây là thắng giải thoát nên gọi là do hai duyên lập giải thóat này. Yếm, trái với tất cả tâm. Tâm bờ mé tạm dứt. Nếu ở địa dưới có định này thì chẵng phải yếm, trái với Nhất Thiết chứng tâm. Vì chưa thể nhàm chán tâm ở địa trên cũng không gọi là dứt tâm bờ mé. Vì tâm địa trên vẫn chưa dứt, nên gọi là yếm, trái với phần ít các tâm, cũng nên gọi là dứt tâm mé giữa. Luận chép: Từ câu “Đây đồng với định trước” cho đến “Thiện v.v… khởi”. Thứ ba là nói Tánh đồng. Luận chép: Từ câu “Trước định Vô Tưởng” cho đến “Bốn uẩn dị thục”: Thứ tư là nói về chiêu cảm quả khác. Trong văn có hai. Trước nói Thọ khác. Sau y địa khác. Luận chép: Từ câu “Trước định Vô Tưởng” cho đến “Thắng giải nhập” Thứ năm nói: Tu thì khác. Có ba nhân, chẳng phải Dị Sinh đắc. Sợ đoạn diệt. Chỉ có năng lực Thánh đạo có công năng dẫn dắt. Hiện pháp Niết-bàn thắng giải nhập. Viễn xả là gia hành mà nghó là Niết-bàn, gần gia hành làm chấm dứt tưởng. Luận chép: Từ câu “đây cũng như trước” cho đến “mới chứng đắc”. khứ” Thứ sáu ban đầu được đồng. Luận chép: Từ câu lại lúc mới đắc cho đến “Nhiệt thành quá Thứ bảy nói: Thành thế đồng. Luận chép: Từ câu “Thế tôn cũng dùng” cho đến “đều lìa nhiễm đắc”: Thứ tám là nói Thế tôn chỉ lìa nhiễm đắc. Luận chép: Từ câu “Thế tôn chưa hề” cho đến “Câu phần giải thoát”. Trở xuống cặp thứ chín bộ khác, nói về đồng, dị. Trong văn có hai: Hỏi. Đáp. Đây là hỏi. Luận chép: Từ câu “đối với định khởi diệt” cho đến “Thành câu giải thoát”: Là đáp. Luận Tỳ-bà-sa quyển 153 chép: “Vì sao Thế tôn Tận tri khởi rồi, gọi là câu giải thoát”. Đáp: Đã rồi được định kia, tâm nhập xuất nên gọi là câu giải thoát, “Chẳng đắc định thể, lý này gọi lìa nhiễm đắc, sau đó không do gia hành khởi. Luận chép: Từ câu “Sư phương Tây nói” cho đến “hậu đắc Bồ- đề” Là nói bộ khác. Đây là ý của Sư nói, học vị Bồ-tát đã khởi Diệt định, hậu đắc Bồ-đề. Luận chép: “Vì sao trong đây không chấp nhận lời đó”: Đây là trách lý do hữu Bộ không chấp nhận. Luận chép: Từ câu nếu cho phép kia nói, cho đến “Sau sinh tận trí”. Sư phương Tây chứng minh nghóa của mình thuận theo luận. Sư phương Tây là Sư nước Kiện-đà-la. Ổ-Ba-Cúc-Đa, Hán dịch là Cận Tạng, ra đời sau Phật nhập Niết-bàn một trăm năm, là thầy vua A dục. Luận chép: Nước Ca-thấp-di-la cho đến sau mới sinh tận trí. Đây là nêu Tông Bà-Sa. Luận chép: Vì sao? Là Sư phương Tây nêu. Luận chép: Theo Truyền thuyết, Bồ-tát cho đến Thành ba mươi bốn: Là giải thích ba mươi bốn tâm thành Bồ-đề, không nhập định Diệt Tận. Giải thích lý do: Luận chép: Từ câu “Tất cả Bồ-tát” cho đến “Khởi định diệt tận” Giải thích: Lý do ba mươi bốn tâm thành Bồ-đề. Luận chép: Từ câu “Các Sư nước ngoài” cho đến ở đây có lỗi gì: Là người nước ngoài hỏi ngược lại. Luận chép: Từ câu “Nếu thế” cho đến “Không vượt tâm ấy: Không vượt tâm ấy là lỗi. Luận chép: Từ câu “Thật ra Bồ-tát” cho đến “Thánh đạo vô lậu”: Sư phương Tây giải thích. “Không vượt tâm mong đợi” cùng khác với “Tỳ-bà-sa”. Luận chép: Nếu vậy tâm mong đợi làm sao không vượt, Sư Tỳ- bà-sa phá, Sư phương Tây giải thích, làm sao tâm mong đợi đó không vượt. Luận chép: Từ câu “Ta chưa đắc” cho đến “các sự rốt ráo”: Là các sư phương Tây Giải thích lại. Không vượt tâm ấy. Luận Chánh Lý chép: “Chẳng lẽ không do đó đã thành trái vượt, muốn khởi tâm mong đợi của Thánh đạo vô lậu. Làm sao Bồ-tát sạch hết các lậu, tu thấy đạo và tu đạo chưa từng được. Muốn nhổ gốc kiến hoặc Hữu Đảnh và trừ tu hoặc oán địch Hữu Đảnh. Lập thệ hẹn ngày: Ngồi kiết già. Việc chưa rốt ráo mà ở trong đó. Xả chỗ hẹn ngày vô lậu trị đạo, quý trọng vô thỉ có thể làm cuồng hoặc. Thế gian định loại, là được cộng hữu, dễ được diệt định, mà đặt khể lưu. Như vậy khéo thành ba mươi bốn niệm được Bồ-đề. Quy kết về bản tông: Luận chép: Trước nói là Thiện là điều mà ta y cứ: là kết quy bản tông. Luận chép: Tuy đã nói hai định” cho đến” trong Diệt định sơ nhân. Kế là có nửa bài tụng, thứ năm nói lại hai định đồng, khác. Luận chép: Cho đến “mà được hiện khởi”. Nói chỗ khởi hai định là đồng, nên luận Tỳ-bà-sa quyển 153 chép: Hỏi: Vì sao sinh vào cõi Dục và cõi Sắc khởi được diệt định, chứ cõi Vô Sắc không khởi được? Đáp: Mạng căn nương hai pháp mà chuyển, đó là Sắc và tâm, định này vô tâm, dứt tâm mà khởi, khi sanh cõi Dục, cõi Sắc thì khởi lên định này, tâm ấy tuy dứt mà mạng nương chuyển. Sinh cõi Vô Sắc, Sắc tuy dứt mà mạng nương tâm chuyển. Nếu sinh khởi kia thì định nay là Sắc tâm đều không, mạng căn không nương lẽ ra cũng dứt, nên gọi là chết, chứ không gọi là nhập định, cho nên sinh cõi kia không khởi. Tướng đồng: Luận chép: Nếu có người không chấp nhận cho đến nên gọi là tướng đồng”: Là dẫn chứng minh khởi xứ đồng. Từ “Nếu có người không chấp nhận cho đến chẳng phải năm hành. Nếu không chấp nhận cõi Sắc khởi hai định” thì trái với luận này. “Hoặc hữu thị Sắc hữu” nghóa là cõi Sắc hữu. “Hữu này chẳng phải năm hành” Năm hành là năm uẩn. Thời Phật Ca-diếp thì Hành đồng với uẩn, luận Tỳ- bà-sa quyển 192 chép: Trong đây các uẩn dùng Thanh hành mà nói: Như Lai Quá khứ ứng chánh Đẳng chánh giác nói Uẩn gọi là Hành. Nay Như Lai Thích-ca nói Hành là Uẩn. Trong A-Tỳ-Đạt-ma này nói “Năm hành” là muốn nói nay Phật nói năm uẩn tức là trước Phật đã nói năm hành. Như trên là văn Luận bốn chữ làm Hiệp chú. “Phi ngũ hành” nghóa là có thân cõi Sắc không có năm uẩn. Câu “là sắc trói buộc hữu tình” cho đến “ở đây có phi năm hành, dẫn luận này để giải thích. “Hoặc sinh lên tầng trời Hữu tưởng trụ tâm khác nhau loại”, là khởi tâm Dị giới và tâm vô lậu. Tâm này chẳng phải cõi Sắc. Hoặc nhập định Vô Tưởng hoặc nhập định Diệt Tận, là ở trên tầng trời Vô Tưởng nhập hai định. Hoặc sinh lên tầng trời Vô Tưởng rồi được vào Vô tưởng. Sinh tầng trời Vô Tưởng rồi vào vô Tưởng dị thục. Đó gọi là Sắc hữu thử hữu phi ngũ hành. Kết thành phi ngũ hành. Trên đây đã nói chỉ có sắc uẩn, Hành uẩn, không có uẩn khác. “Do đó chứng biết”, cho đến “đó gọi là tướng đồng” là Kết: chứng tướng đồng. Tướng khác: Luận chép: Từ câu “Dị tướng” cho đến “sau lại tu khởi”. Thứ hai là nói về tướng dị. Tỳ-bà-sa quyển 152 chép: Hỏi: Vì sao sinh lên cõi Sắc, có thể sở khởi Tónh lự, Vô Sắc mà chẳng phải diệt định. Đáp: Tónh lự do ba duyên, nên sơ khởi; ba duyên là: Nhân lực. Nghiệp lực. Pháp nhó lực. Vô Sắc do hai duyên, nên sơ khởi. Nhân lực. Nghiệp lực. Diệt định do: Một duyên nên sơ khởi, nghóa là do nói lực, Chỉ cõi Dục có Phật nói, nên có thể khởi hiện tiền. Không do nhân lực đời trước sinh chưa từng khởi Diệt định. Không do nghiệp lực vì định này chẳng phải nghiệp tánh lực. Không do pháp nhó lực vì cõi Vô Sắc không có thế giới hoại. Luận Chánh Lý chép: “Nghóa là định Diệt Tận mới khởi chỉ ở trong cõi người. Có thuyết giải thích: và có năng lực gia hạnh mạnh mẽ. Nói diệt định có lui sụt: Luận chép: Từ câu “Định diệt tận” này cho đến ở đây có việc ấy: Nói Diệt định có lui sụt. Nếu không lui sụt thì không được khởi ở cõi Sắc. Ổ-đà-di là đệ tử ở chung với A-nan. Luận chép: Từ câu nên biết như thế cho đến cũng có việc ấy: Luận Chánh Lý dẫn kinh chứng minh lui sụt. Luận chép: Từ câu nên biết như thế cho đến “trụ cõi Sắc thọ sinh” Kết chứng minh lý do. Nếu không lui sụt khởi cõi Sắc phiền não, thì không được sinh lên tầng trời ý thành. Đã lìa hoặc vô sở hữu mà được định này, Kinh nói sinh cõi kia nên biết có lui sụt. Luận chép: Từ câu “Có bộ khác chấp” cho đến “nghóa này cũng thành”. Thuật: Dị thích. Nghóa vô thối được thành. Lìa nhiễm của định thứ ba, được Định xứ thứ tư, cũng gọi là trời. Ý thành. Diệt định bất thối cũng được sinh về tầng trời ấy. Luận chép: Tứ câu “Tónh lự thứ tư” cho đến “Khế kinh nói”: Là bác bỏ thuyết khác. Luận chép: Từ câu ở đây nếu như thế, cho đến “Siêu việt định nghóa” Bộ khác vặn hỏi. Luận chép: Từ câu “Định này thử lớp” cho đến “tùy lạc mà siêu nhập”: Là giải thích: câu hỏi của ngoại đạo. Nói “Thứ lớp” là nói theo mới tu. Nói về nhiều thứ khác nhau: Luận chép: Từ câu “Hai định như thế” cho đến “Hữu Đảnh địa” Dưới đây là nói về nhiều thứ khác nhau. Thứ nhất: Y địa khác. Luận chép: Từ câu “gia hành có khác” cho đến “Tác ý là trước”: là thứ hai khác. Luận chép: Từ câu nối tiếp có khác cho đến “nối tiếp khởi”: Là thứ ba nói về khác. Luận chép: Từ câu “dị thục có khác” cho đến “thục quả Dị là dị thứ tư. Luận chép: Từ câu “Thuận thọ có khác” cho đến “Sinh hai thọ” là dị thứ năm. Luận chép: “Sơ khởi có khác” cho đến “đầu tiên khởi”: Là dị thứ sáu. Luận chép: Từ câu “Hai định đều dùng” cho đến “diệt thọ tưởng phải không?” Là hỏi tên định. Luận chép: Từ câu “Hai định gia hạnh”cho đến “gọi là tha tâm trí” Nêu dụ để giải thích. Luận Chánh Lý chép: “Vì sao chỉ nói định Diệt Thọ Tưởng”. “Yểm” nghịch hai thứ kia, sinh ra định này, nghóa là Tưởng và Thọ có thể bị Kiến ái tạp nhiễm nương tựa. Nên trước hết yểm nghịch hai pháp như thế nhiều thứ tội lỗi. Như lập trong uẩn đã phân biệt rộng, nên nhàm chán khắp nhập định Diệt Tân. Luận chép: Từ câu nay trong hai định cho đến “tâm lại được sinh”: Là hỏi tâm nặng về sinh nhân. Dẫn Tỳ-bà-sa để giải thích: Luận chép: Từ câu Sư Tỳ-bà-sa” cho đến “duyên đẳng Vô gián: Là dẫn Tỳ-bà-sa, để giải thích, do sức duyên Đẳng Vô gián ở đời quá khứ, có thể sinh vậy. Luận Chánh Lý nói rộng: “Ở giai đoạn Diệt định, đều không có tâm, nên Luận ấy nói” hữu tình Vô tâm lẽ ra phải có “hữu” là mạng. Nên khác ở qua đời, hữu tình sắc, tâm chẳng chắc chắn có. Tâm nếu định hữu sắc cũng phải như vậy. Sắc có khi vô tâm cũng nên như vậy, nên có mạng thì gọi là hữu tình. Nhưng mạng phải nương sắc, tâm tùy một, dẫn khế Kinh nói thức không lìa thân. Ở định vô tâm cũng không có trái hại. Vì tức ở trong thân sở y này. Thức phải sinh lại nên nói “bất ly” nghóa là trong một chúng đồng phần nối tiếp thì thức nối tiếp trôi chảy chẳng rốt ráo đoạn. Thí như bệnh quỷ tạm thời không phát. Do chưa dứt hẳn, vẫn gọi là không lìa cho đến “Nhưng sau khi định thì tâm lại được sinh” Định của tâm trước do duyên Đẳng Vô gián dẫn phát. Luận chép: Từ câu “Có sư khác nói” cho đến “chẳng phải do tâm khởi”. Thuật rằng: Kinh Bộ tông, tông Sắc kia, tâm làm nhân lẫn nhau mà khởi. Luận chép: Từ câu cho nên đời trước của kia cho đến “tâm có căn thân”. Dẫn sư xưa của Kinh bộ Tông làm chứng. Luận chép: Từ câu “Tôn giả Thế Hữu” cho đến nên không có lỗi: Nêu chấp khác, giải thích chung. Luận chép: “Tôn giả Diệu Âm” cho đến lẽ ra cũng không diệt. Là nói Sư Diệu Âm bác bỏ. Luận chép: Từ câu “Nếu nói như kinh” cho đến “Nên có khác nhau”. Lại ngăn hỏi vặn chung. Kết quy về tông Bà-sa: Luận chép: Từ câu “Do đạo lý này” cho đến “các tâm đều diệt”. Kết quy về tông Tỳ-bà-sa. Luận chép: Nếu đều vô tâm làm sao gọi là Định, là ngoại đạo vặn hỏi. Định là tâm sở nếu đều vô tâm làm sao gọi là Định. Luận chép: Từ câu “Đây khiến cho đại chủng” cho đến “nên gọi là định”. Thuật: “Hữu Bộ có hai giải thích, Định là tên khác của Đẳng chỉ. tâm tán loạn không có công năng này. Nên Đẳng chí chỉ gọi đối với ở định, hai định vô tâm cũng có công năng này, nên hai định này cũng gọi là Đẳng chí. Luận chép: Từ câu “Hai định như thế”đến “khiến bất sinh”. Thuật: Hữu Bộ Tông thật có, nếu giả thì không có tự thể, làm sao có thể ngăn dứt tâm ngại, khiến cho không sinh. Luận chép: Từ câu “Có chỗ nói chứng này” cho đến “Không có thật thể riêng”: Là giải thích kinh bô giả thể. Luận chép: Từ câu “Ở đây không chuyển” “Là thuộc về hữu vi”. Tuy vô thể mà gọi là hữu vị. Luận chép: Từ câu “Hoặc tức sở y” cho đến “giả lập làm định”: là giải thích thứ hai. Tức vị vô tâm sở y sắc thân giả gọi là Định. Luận chép: Từ câu “Nên biết Vô Tưởng” “Còn lại nói như trước”: Giống như định Diệt Tận giải thích: Là Định Vô Tưởng. Luận chép: Đây chẳng phải khéo nói, trái với tông ta, rất dễ hiểu. “Luận Chánh Lý” chép: “Lại chấp Diệt định làm thể chỉ là giả, chẳng hay pháp nào là giả sở y, chẳng phải lìa giả y mà có pháp giả . Thuật rằng: như Bình v.v… là giả, sở y tức là bốn cảnh như Sắc…. Nếu bốn cảnh không có, bình v.v… cũng không có thì chỉ có bất chuyển. Thể của nó là không, làm sao có thể nói là thuộc về hữu vi. Đây là vị trước sau và hiện tại đều không có tánh. Hằng thời không thật có, nhưng câu “Là thuộc về hữu vi” chỉ có nói suông đều không có nghóa thật. Nếu nói giả định cũng có sở y, nghóa thân sở y, do tâm định dẫn, khiến khởi như thế, giả lập làm định, cho nên định này lẽ ra thuộc vô Ký. Chẳng phải pháp vô Ký có thể gọi là Thiện. Thuật rằng: Nếu thân là sở y, tức là vô ký, trở xuống là tự lập tông. Cho nên chỉ nên y theo tâm, tâm sở mà khởi, năng lực của tâm định ở trước chẳng thể ngăn ngại tâm khác. Do đó nên biết, lìa tâm trước.Ngoài định có pháp khác, có thể ngăn ngại tâm, do pháp này, nên ở vị Vô tâm. Tuy có nhân của tâm mà tâm không khởi, tức Biệt pháp này gọi là định Tận Diệt. Thể là hữu vi, thật chẳng phải giả. Người Tu “quán hạnh” Do tâm định ở trước phải do nguyện lực ấy dẫn phát. Khiến cho thể lực của định Tận Diệt dần dần nhỏ, cho đến giai vị đều cùng tận, không có dụng ngăn ngại, ý pháp làm duyên. Vẫn sinh ý thức. Do đó y theo giải thích định Vô Tưởng trước và Vô tưởng. Thuật rằng: cũng đồng thật có. Nói về mạng căn: Luận chép: Đã nói về hai định mạng căn là gì? Dưới đây nửa bài tụng thứ năm nói về, mạng căn. Luận chép: Đến nghóa là tuổi thọ ở ba cõi, ở đây dẫn Đối pháp giải thích hai tên gọi. Luận chép: Ở đây còn chưa hiểu pháp nào gọi là Thọ: Là hỏi về Thể tánh. Luận chép: Từ câu “Nghóa là có pháp riêng” cho đến “gọi là thọ. Đáp: Thọ là thể. Dẫn kinh để chứng minh: Luận chép: Từ câu “Cho nên Thế tôn nói” cho đến “Như Lai không có tư giác”. Dẫn kinh để chứng minh. Luận chép: Từ câu “Nên có pháp riêng” cho đến “Gọi là thọ”: là kết luận về thể dụng. Luận chép: “Như vậy thọ này pháp nào giữ gìn được”: Là hỏi. Luận chép: Từ câu “Noãn và thức vẫn có công năng giữ gìn thọ”, là đáp… Luận chép: Từ câu nếu thế, cho đến “lẽ ra thường không tạ”, là vặn hỏi. Đã nói ba pháp giữ gìn lẫn nhau, hẳn không diệt trước, nên thường không từ tạ. Luận chép: Từ câu “Đã thế thì thọ này” cho đến “nối tiếp chuyển”: Hữu Bộ bị vặn hỏi chuyển chấp. Luận chép: Từ câu nếu thế vì sao, cho đến mà cần có thọ? Kinh bộ vặn hỏi. Kinh bộ Tông nói khi sáu xứ trụ thì thế phần gọi là Thọ. Giả lập trên thức này của Đại thừa. Hữu Bộ có vật thật riêng, nên Kinh Bộ nói. Vì sao không chấp nhận chỉ có nghiệp có thể giữ gìn noãn, thức mà cần phải có thọ? Hữu bộ nêu lỗi: Luận chép: Từ câu lẽ ra không nên như thế cho đến “hằng dị thục”: Hữu Bộ nêu ra lỗi. Nếu tất cả thức chỉ là dị thục có thể nói chỉ có nghiệp giữ gìn được, hữu tình hoặc khởi tâm thiện, nhiễm, và địa khác các thức Vô lậu hằng khởi, làm sao được nói chỉ có nghiệp giữ thức. Luận chép: Từ câu đã thế cho đến “đâu cần thọ này”: Là Kinh Bộ chuyển chấp. Luận chép: Từ câu như thế thức ở cho đến kia không có noãn: Là Hữu Bộ nêu ra lỗi, kia đã không có noãn, ai giữ gìn thức. Luận chép: Nên nói thức nghiệp kia là năng trì, Kinh bộ lại chuyển chấp. Luận chép: Từ câu “Đâu được tùy tình” cho đến “Chỉ có nghiệp giữ gìn thức” Hữu Bộ trách Kinh Bộ thường chuyển chấp. Luận chép: Lại trước đã nói, là Hữu Bộ thuật lại phải ở trước. Luận chép: Trước nói là gì: Là Kinh Bộ hỏi: Luận chép: Từ câu là trước nói rằng cho đến “đều là dị thục”: Hữu Bộ nêu thuyết trước. Luận chép: Từ câu cho nên chắc chắn phải cho đến “gọi là thọ”: Là Hữu Bộ kết luận tông mình. Luận chép: Từ câu “Nay cũng không nói” cho đến “chẳng có vật thật riêng”: Là Kinh Bộ nêu tông mình. Luận chép: Từ câu nếu thế cho đến “gọi là thọ”: Hữu Bộ hỏi về thể của thọ. Luận chép: Từ câu “Là nghiệp ba cõi” cho đến gọi là thọ: Là Kinh Bộ đáp. Luận chép: Từ câu “Như hạt giống lúa, v.v…” cho đến “Trụ thời thế phần:” Là Nêu dụ hiển rõ. Nêu ý kinh chủ: Luận Chánh Lý chép: “Ở đây chỉ nêu ý kinh chủ. Nếu ở trong năm sắc xứ thuộc dị thục do vô nghiệp dẫn thì. Đối với kia có khi không có nghiệp dẫn ý xứ thứ sáu. Nghóa là ở thời gian dài khởi thức nhiễm ô. Hoặc Thiện hữu lậu và thức Vô lậu trong vị nối tiếp. Không có nghiệp dẫn dị thục thế phần. Nói cái gì là Thọ, nếu ở chỗ này có nghiệp dị thục. Từ sát-na sinh ra đến lúc qua đời, thường Vô gián chuyển, nên nói là xứ có nghiệp dẫn trụ thời thế phần. Nối tiếp chắc chắn nói là mạng căn. Đây đã không có nghiệp dẫn dị thục trụ thời thế phần hằng Vô gián chuyển, làm sao có thể nói ở đây có mạng căn, lý nó đã như vậy là nói pháp nào gọi là nghiệp đã dẫn trụ thời thế phần. Thì nối tiếp chắc chắn gọi là “Mạng căn”, đây đã không có nghiệp dẫn dị thục trụ thời thế phần, đã không dẫn dị thục thời thế phần. Nối tiếp chắc chắn lại thuộc về ai. Đã không chắc chắn nối tiếp như thế. Do nghóa nào mà nói tùy lúc nên trụ, như vậy khi trụ gọi là thọ thể, cho nên Kinh chủ đối với nghóa này. Chuyên có nhiều lời đều không có sự tiêu biểu. Còn dẫn dụ làm chứng vô năng. Như chỗ dẫn nối tiếp không dứt cho đến khi nào thường chuyển theo. Mũi tên được bắn ra nối tiếp không dứt. Cho đến khi trụ thường chuyển theo. Hai thứ này có thể có cho đến khi nào dừng thì hằng tùy chuyển. Hai thứ này có thể có cho đến khi thục, khi trụ thế phần chẳng phải nghiệp dị thục ở bất cứ lúc nào cũng nối tiếp không dứt nên nói nghiệp dứt còn có chỗ dẫn trụ thời thế phần nối tiếp chắc chắn, tùy theo lúc nên trụ y theo văn luận trên. Luận Chánh Lý phá nghóa Kinh bộ, luận chủ đã buông bỏ không giữ nghóa của Kinh bộ. không nhọc giải thích nữa. Nên văn sau nói: “Có vật thật riêng, đây nói là thiện, có người tuy giải thích theo sư câu-xá, nhưng chưa làm đúng lý. Luận chủ bác bỏ: Luận chép: Từ câu “Hữu là hữu hành” cho đến “thường hành không dứt” là Luận chủ nhân nghóa liền bác bỏ cả Thắng luận. Đây là nói về chấp. Luận đó Đức nghóa cũ có hai mươi bốn thứ, hành ở thứ hai mươi mốt nên nói là Đức khác nhau. Kia chấp các pháp từ đây đến kia. Nhanh chóng hồi chuyển v.v… đều do hành lực. Tên bắn cho đến khi chưa rơi xuống, hành giống như con chim ngậm quả, giữ mũi tên đó. Luận chép: Từ câu “Thể kia là một, cho đến không có lúc đọa lạc: Là Luận chủ bác bỏ, trên mũi tên đó hành đức nắm giữ mũi tên, khi mới phát và khi sắp rơi thể của nó là một. Sau không có chướng khác đến cõi khác trước gấp sau huỡn, cho đến giai vị thời phần khác nhau, lẽ ra không được có, lại phải không bao giờ có lúc đọa lạc, mới phát sắp rơi một hạnh đó. Bác bỏ chuyển chấp: Luận chép: Từ câu “Nếu cho rằng do gió” cho đến “không khác nhau”: Là bác bỏ chuyển chấp. Nếu gió có thể chướng ban đầu thì sẽ đọa. Nếu ban đầu không thể chướng thì sau cũng phải như vậy. Tức phải không bao giờ có lúc đọa lạc, Chướng phong một. Luận chép: Từ câu có vật thật riêng cho đến “thuyết này là hay” Luận chủ kết quy về Hữu Bộ Tông. Luận chép: Vì thọ hết, nên chết lại cố nhân khác, dưới đây, là nói phụ thêm. Trước hỏi sau đáp, đây là hỏi. Dẫn bốn trường hợp của luận: Luận chép: Từ câu luận “Thi thiết chép” cho đến “thọ xả hành: Là dẫn bốn trường hợp của luận là đáp. Câu một: “Cảm chịu dị thục nghiệp hết” ở đây có cả hai nghóa: Nhậm nghiệp tự lực hết nên không thể chiêu cảm quả. Do bờ mé định tổn nghiệp lực của nó nên không thể chiêu cảm quả. Thọ xả hành lại có hai nghóa: Cũng được đồng với duyên ngoài tổn thọ. Cũng được đồng thọ đó hết nên chết, cùng với duyên ngoài tổn, nghiã không hoàn toàn đồng, duyên bên ngoài tổn thọ, chẳng phải làm cho nghiệp lực không chiêu cảm dị thục. Nhưng duyên mạnh ở nghiệp thọ tùy duyên tổn, thọ xả hành nghóa chuyển nghiệp lực, khiến cho chiêu cảm quả giàu có. Cùng với thọ nghiệp hết cũng không hoàn toàn đồng, thọ nghiệp lực hết chẳng phải tha duyên. Thọ xả hành lực là duyên khác khiến hết, đều có chút đồng nhau. Luận Chánh Lý sắp đồng nghiệp hết. Luận này nói đồng với hoành duyên. Hai Sư đều y theo một đường. Lẫn nhau không hoàn toàn “thị” cũng không hoàn toàn “sai”. Luận Chánh Lý trước bắt bẻ tự chiêu cảm lỗi. Đây là câu thứ nhất tuổi thọ hết nên chết. Câu thứ hai phước hết nên chết. Câu thứ ba đều hết nên chết. Câu bốn đều không hết nên chết. Nhưng do duyên ngang trái nên chết. Lại cũng nên nói do “xả thọ hành cố” nên đồng chút ít. Câu bốn nên dẫn vào trong đây. Nên Luận Chánh Lý chép: Không nên lại nói thọ xả hành. Nghóa đã nhiếp trong câu đầu. Lấy chút đồng nghóa câu đầu, như trước có giải thích rộng. Giải thích câu hỏi: Luận chép: Từ câu “Trong lúc thọ hết” cho đến đều hết cho nên chết: là Giải thích câu hỏi. Có công năng chiêu cảm hai nghiệp lúc đều hết thì chết, đâu do phước hết khiên mạng chết ư? Giải thích rằng Phước hết chết tuy không có công lực vì khi chết hai câu thời hết. Do đó chỉ nói đều hết nên chết. Đều hết này nói không muốn nói do sức phước hết. Luận chép: Từ câu “Luận Phát Trí chép” cho đến “nhất khởi liền trụ” lại dẫn Luận Phát Trí giải thích phụ thêm. Luận chép: Từ câu “Kia nói nghóa gì” cho đến “hễ khởi liền trụ”ï Luận chủ giải thích luận Phát Trí, hoặc luận Phát Trí tự giải thích. Luận Chánh Lý chép: Nêu chỗ nương thân có thể tổn hại, nên thọ tùy tổn hại, gọi là tùy tướng xoay vần thứ nhất. Nếu chỗ nương thân không thể tổn hại như khởi mà trụ, thì gọi đó là hễ khởi liền trụ thứ hai. Luận Tỳ-bà-sa chép: “Có nói Sắc thân gọi là nối tiếp. Nếu thân bình hòa thọ thì vô yểu, nếu thân tổn họai tuổi thọ thì trung yểu. Luận chép: Từ Ca-thấp-di-la” cho đến” hữu chết phi thời”. Dẫn Tỳ-bà-sa giải thích. Tùy nối tiếp chuyển là có chướng chết phi thời. Không tùy nối tiếp chuyển, hễ khởi liền trụ là không có chướng này. Phi là chết phi thời. Không tùy nối tiếp chuyển. Hễ khởi liền trụ không chướng phi là chết phi thời. Dẫn bốn đắc tự thể: Luận chép: Từ câu “Nêu khế kinh nói” cho đến khi “Luân vương ở trong thai” Trở xuống dẫn bốn đắc tự thể, chứng nghóa trước. Ba câu trước chứng tùy nối tiếp chuyển. Câu bốn chứng hễ khởi liền trụ. Hy vọng niệm Thiên do hỷ tăng. Nên vọng niệm liền chết. Ý trời phẫn nhuế do nộ tăng, cho nên chết. Luận Tỳ-bà-sa quyển 190 chép: Hỏi: Hai trời này nói: Chư thiên như vậy trụ ở chỗ nào? Có thuyết nói trụ tầng cấp Diệu cao. Có thuyết nói đó là tầng trời ba mươi ba. Nay xét ra, trời này tuy hai thuyết khác nhau, nhưng đều có thể được cùng Tu-la hại nhau. Y theo đây liền hợp hai hại đều có, vì sao chỉ nói, chỉ có thể tự hại. Lại lẽ ra nói Chư Phật tự Bát Niết-bàn. Đây cũng đều thuộc về câu tự hại. Luận Tỳ-bà-sa 151 ở trong câu này nói: “Lại có một loại hoặc rồng, hoặc chim cánh vàng, hoặc quỷ và người hoặc thứ khác có thể tự hại chẳng phải người hại. Chỉ có thể người hại và đều hại. Như vặn rất dễ hiểu. “Câu phi hại”: Trong đó có hai cõi trên hoàn toàn, vì nghiệp cảm thù thắng, Na-lạc-ca, do nghiệp ác phẩm Thượng. Chiêu cảm châu câu lô ở phía Bắc, Thọ phần định, thấy đạo, định Từ, định Diệt và định Vô Tưởng, định lực cao siêu. “Vương tiên” là Luân vương hoặc bỏ nước tu tiên, hoặc lúc mới thọ vị trước học tập đạo Tiên, gọi là Vương tiên. Đây cũng do nghiệp lực tốt đẹp, đều chẳng phải hại vậy. “Phật sử” nghóa là người bị sai. Đây là do Phật lực, như thời-phược-ca, Hán dịch là Hoạt mạng, xưa dịch: Là Kỳ-bà, hoặc dịch Kỳ-vực là sai. Phật khiến nhảy vào lửa ôm lấy. Thù Để Tường Ca, Hán dịch là Hữu mạng, cựu dịch là Thọ-đề-già, là sai. Đây là kinh Niết-bàn nói ngoại đạo thọ ký là nữ, Phật thọ ký là nam. Người mẹ chết do bị lửa đốt cháy, Phật sai hoạt mạng ôm lấy Hữu Minh, lửa không thiêu Hoạt mạng, Phật sai Hữu Minh, Phật thọ ký đều không chết. Đạt-Nhó, Hán dịch là Hữu pháp, La, Hán dịch là Thủ, đối với hữu pháp xin từ thần mà được tên, nên gọi là Hữu pháp Thủ. Ôn-đát-la, Hán dịch là Thượng Thắng, cũng là Trưởng giả tử. Khắc Kỳ là tên Thần sông, La là Nhiếp Thọ. Cha mẹ thương con nên đặt tên con là Khắc-kỳ để nhiếp thọ. Nữ thanh gọi là Kỳ, Nam thanh gọi là già. Xưa dịch Hằng Hà, là sai. Trưởng giả tử Da-xá. Da-xá Hán dịch là Danh Xưng, xuất gia với Phật. Ban đêm qua biển an nhiên không tổn hại. Cưu-ma-la-thời-bà. Cưu-ma- la Hán dịch là Đồng tử, Thời-bà, Hán dịch là Hoạt mạng, gọi là Đồng tử Hoạt Mạng, là thân cuối cùng của Bồ-tát, là thân sinh ra ở cung vua, những thứ này đều là cùng lúc không hại. Hỏi: “Như vậy vì sao cùng với trên không tùy nối tiếp chuyển khác nhau. Đáp: Do rộng lược khác nhau mà thôi, Như bốn trường hợp của luận Tỳ-bà-sa khác với ở đây. Như trên là dẫn ý của Luận Sư. Người ngoài vặn hỏi: Luận chép: Nếu thế cho đến thọ sinh hữu tình, là người ngoài vặn hỏi, như trên đã nói là đều chẳng phải hại. Vì sao khế kinh chỉ nói phi tưởng xứ thọ sinh hữu tình. Luận chép: Từ câu “Truyền thuyết” cho đến “Đều chẳng thể hại” Là luận chủ đáp. Không bị tự địa Thánh đạo và Tha cận phần đạo hại nên gọi là câu phi hại. Ở địa khác bị Tha Cận phần địa đạo và Tự địa Thánh đạo, làm hại nên không gọi là phi tự tha hại. Luận chép: Từ câu “Chẳng lẽ không phải hữu Đảnh” cho đến “nên gọi là tha hại ”. Là người ngoài hỏi lần nữa, đã bị Thánh đạo địa dưới hại, vì sao được gọi là phi tự tha hại. Không tin giải thích trước, nên nói là truyền thuyết, đây là vặn hỏi không chống chế. Luận chép: Từ câu “Nên nói như thế” cho đến nêu sau bày trước. Luận chủ lại dẫn chánh giải. Lý thật sắc, cõi Vô Sắc, tất cả hữu tình đều chẳng có hai hại. Kinh nói: Phi tưởng Phi phi tưởng. Là nêu sau bày trước, dẫn ra thí dụ. Luận chép: Từ câu “Thế nào là hữu xứ” cho đến “thứ nhất là tầng trời lạc sinh ”. “Lạc sinh thứ nhất lên có ba: Phạm chúng là đầu tiên nêu Phạm chúng gồm hiển bày hai cõi trên. Luận chép: Thế nào là hữu xứ cho đến trời sinh lạc sinh thứ hai trời. Lạc sanh thứ hai có ba tầng trời: Trời Cực Quang Tịnh là tầng trời trên hết. Nêu Cực quang tịnh để nói hai tầng trời dưới. Luận chép: Từ câu “Kinh kia như thanh” cho đến “Không thể sánh với tầng trời kia”: Là người ngoài vặn hỏi. Văn trước nói, nghóa là ở Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Không nói như Phi phi tưởng. Văn sau nói như trời Phạm chúng “Như thanh là hiển nghóa thí dụ. Văn sau nói “Như trời Phạm chúng” các tầng trời khác cũng như vậy. Nên nói “nêu trước hiễn sau”. Kia không “như thanh”, làm sao được nói: “Nêu sau hiển trước” Luận chủ bác bỏ vặn hỏi: Luận chép: Từ câu “Nếu hiển bày nghóa của dụ” cho đến “cũng có như thanh”. Luận chủ bác bỏ vặn hỏi ở trước. Nếu nói phải có thí dụ mới được có như thanh, như người một phần trời là thức thứ nhất trụ. “Như thanh” ở đây là muốn dụ cho pháp nào. Nên biết không Dụ cũng có “như thanh” Như Phạm chúng nói cũng chẳng có thí dụ, chỉ nêu Phạm chúng gồm nói cả tầng trời trên. Luận chép: Đã nói các tướng mạng căn đó là gì: Trở xuống có một bài tụng rưỡi thứ sáu nói về bốn tướng hữu vi. Trong đó có ba. Nửa bài tụng đầu nói thể của tướng. Nửa bài tụng kế nói về tiểu tướng. Nửa bài tụng sau nói bốn nhân duyên đối đãi nhau. Luận chép: Cho đến “là pháp vô vi” là giải thích chung, tên gọi bốn tướng. Luận Chánh Lý chép: “Bốn tướng như vậy là tướng hữu vi, hiển rõ tánh đó nên được tướng đó. Thuật: Bốn tướng này hiển rõ các tánh hữu vi là vô thường, từ chỗ hiễn đó gọi là tướng hữu vi. Không có tướng đó tiêu biểu là vô vi. Luận Tỳ-bà-sa quyển 38 chép: vì sao soạn luận này. Có người chấp các tướng hữu vi đều là vô vi, như Phân Biệt Luận Giả. Hoặc lại có người chấp ba tướng là hữu vi, diệt tướng là vô vi, như pháp Mật Bộ, hoặc lại có người chấp tướng và sở tướng. Tất cả tương tợ, như tương tợ nối tiếp Sa-môn, họ nói rằng Sắc pháp sinh, già, trụ, vô thường, thể vẫn là sắc. Cho đến thức cũng như vậy. Nói lên y hữu vi là tướng, chỉ thuộc về bất tương ưng hành uẩn. Hoặc lại có người chấp năm uẩn như sắc v.v… Khi xuất thai gọi là Sinh, khi nối tiếp gọi là Trụ. Khi suy biến gọi là Dị. Khi qua đời gọi là Diệt. Như Sư Kinh Bộ, vì ngăn dứt chấp đó, nên nói đó chỉ là tướng chúng đồng phần, chẳng phải tướng hữu vi. Tướng hữu vi là các pháp hữu vi mỗi Sát-na đều có bốn tướng. Luận Tỳ-bà-sa quyển 39 chép: Nghóa là có người chấp ba tướng hữu vi, chẳng phải một sát- na. Như Thí Dụ giả, nói rằng: “Nếu một sát-na có ba tướng” thì lẽ ra một pháp cùng lúc vừa sinh, vừa diệt. Nhưng không có việc này, vì trái nhau. Nên nói các pháp mới khởi gọi là sinh, sau cùng diệt hết là gọi Diệt giữa chừng dị thục gọi là già, là ngăn dứt chấp kia, nói một sát-na có đủ ba tướng. Hỏi: Nếu thế thì lẽ ra một pháp trong một lúc vừa sanh, vừa già, vừa diệt. Đáp: Khi tác dụng khác nên không trái nhau. Nghóa là khi pháp sinh thì sinh có tác dụng khi Diệt thì già mới có tác dụng. Tuy thể đồng thời, nhưng dụng có trước sau. Một pháp sinh diệt tác dụng rốt ráo, gọi là một sát-na. Nên không có lỗi, hoặc vị sinh diệt chẳng phải một sát- na. Nhưng một sát-na có đủ ba thể nên nói: “Ba tướng đồng một sát- na”. Do nhân duyên đó nên soạn luận này. Y theo hai giải thích trên. tướng dụng đều là khác thời. Trước giải thích ba tướng đồng một sát-na, sau giải thích sanh, diệt khác sát-na. nhưng tướng dụng của dị diệt, thời đồng khác, văn không chắc chắn. hỏi: Bốn tướng là cộng tướng hay tự tướng? Có thuyết nói tự tướng, có thuyết nói cộng tướng. Lời bình: Nên nói như vậy: Đây là cộng tướng, nhưng cộng tướng có hai thứ: Một là tự thể cộng tướng, nghóa là mỗi pháp hữu vi tự thể đều có bốn nghóa như sanh, v.v… hai là Hòa hợp cộng tướng, nghóa là mỗi pháp hữu vi đều hòa hợp với bốn tướng như sanh, v.v… Bốn tướng này chỉ là hòa hợp cộng tướng. Lại giải thích rằng: Tướng sát-na trụ nhỏ nhiệm khó biết, khó có thể lập bày, cho nên nói không trụ, nghóa là lượng của sát-na chỉ Phật mới biết, chẳng phải cảnh giới của các Thanh văn, Độc giác; Như nương thần thông co duỗi cánh tay, mất ở chỗ này sanh lên cõi Sắc: Cứu cánh, trong thời gian đó chẳng phải không nối tiếp, có công năng từ đây đi đến chỗ kia, cũng chẳng phải một pháp dời chuyển đến chỗ kia. Lại không phải từ đây vượt đến chỗ kia, cho nên chắc chắn từng sát-na sanh diệt nối tiếp từ đây đến kia, trong thời gian đó lượng của các sát-na rất nhỏ nhiệm, chỉ có Phật mới biết, do đó nên nói các hành có trụ, có thuyết nói vô trụ. Lời bình: Đã không thể giải thích thì nên tin có trụ, nhờ có năng lực của tướng trụ nên các hành sanh rồi có công năng chấp lấy tự quả, chấp lấy sở duyên; Do năng lực của dị, diệt mà sau một sát-na không còn tác dụng. Nếu không có tướng trụ thì các hành lẽ ra không có nhân quả nối tiếp, pháp tâm và tâm sở lẽ ra không có sở duyên, cho nên phải có trụ. Giải thích tên khác: Luận chép: Trong đây đối với pháp cho đến năng hoại gọi là Diệt: Là giải thích tên khác. Luận Chánh Lý chép: Trong đây, sanh nghóa là có pháp riêng, là hành sanh vị không chướng ngại duyên tốt. Do có công năng dẫn nhiếp khiến cho sanh. Năng dẫn nhiếp nghóa là khi kia sanh thì pháp này có công năng làm tánh duyên tốt cho pháp kia. Tuy các hành khởi nhưng đều được gọi là Đắc sanh. Nhưng từ ngữ sanh này chỉ y theo vị sanh của các hành, không chướng ngại duyên tốt mà lập. Trụ nghóa là pháp riêng đã sanh chưa hoại. Các hành dẫn tự quả, không chướng ngại duyên tốt; Dị nghóa là pháp trước là hành nối tiếp, sau đổi khác nhân trước; Diệt là pháp riêng là câu sanh hành, làm diệt hoại nhân tốt. Luận chép: Tánh nghóa là thể, ở đây giải thích chữ thứ mười trong bài tụng. Luận chép: Chẳng lẽ không nghe kinh nói cho đến tướng hữu vi, là hỏi. Kinh nói có ba, vì sao nói bốn? Đáp: Trong đó có hai: Một là không nói tướng trụ, hai là trụ và dị hợp nói chung. Luận chép: Trong kinh này cho đến cái gọi là tướng Trụ, đây là sơ đáp, lẽ ra hợp nói có bốn, vì không nói trụ nên chỉ nói có ba. Giải thích câu hỏi: Luận chép: Nhưng Kinh nói trụ, dị cho đến dị gọi là trụ dị: Là giải thích câu hỏi, hỏi rằng: Nếu Kinh không nói tướng trụ, vì sao kinh ấy nói tướng Trụ dị? Giải thích rằng: Kinh nói Trụ dị là tên khác của Dị ở trong đó, là dẫn ví dụ rất dễ hiểu. Luận chép: Nếu pháp khiến hành, cho đến trong tướng hữu vi: Là giải thích lý do Kinh không nói tướng Trụ, trong đó có hai: Một là tướng trụ, không làm cho hữu tình sợ hãi nên không nói; Hai là vì tướng trụ xâm lạm vô vi nên không nói, đây là phần đầu, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: lại pháp vô vi cho đến nên Kinh không nói: Là đáp thứ hai, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Hữu nghóa là Kinh này cho đến gọi là tướng Trụ dị. Dưới đây là đáp thứ hai của toàn văn, Kinh không nói, tức là nêu thuyết khác. Luận chép: Đâu cần hợp chung nói như thế làm gì, là hỏi lý do hợp nói chung. Luận chép: Trụ là hữu tình cho đến đi chung với cát tường, là đáp lý do hợp nói chung, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Cho nên chắc chắn có bốn tướng hữu vi, là kết luận. Nói về tùy tướng: Luận chép: Tướng sanh, v.v… này, trở xuống nửa bài tụng, thứ hai là nói về tùy tướng. Bốn tướng này được đặt tên khác nhau, hoặc gọi là tùy tướng, tùy bổn tướng, hoặc gọi là tiểu tướng, là đối với đại tướng, hoặc gọi là sanh sanh đẳng, sanh bổn sanh đẳng. Luận chép cho đến bốn thứ bản tướng: Đây là giải thích chữ Thử trong bài tụng, tức là bốn bản tướng này. Luận Chánh Lý giải thích rằng: Trong đây có nói hiển bày cả nghóa Định, ý nói rằng ở đây chỉ có bốn, chẳng có thứ khác, đây là nói bốn thứ bản tướng đã nói ở trước. Thuật rằng: Giải thích ở đây đồng với luận này, giải thích thì có, luận này thì không. Luận chép: Sanh sanh đẳng cho đến diệt diệt: Ở đây giải thích tất cả tùy tướng của bản tướng. Luận Chánh Lý chép: Tức là sanh sanh của sanh cho đến diệt diệt của diệt. Giải thích các hành hữu vi: Luận chép: Các hành hữu vi cho đến do bốn tùy tướng: Đây là giải thích các hành hữu vi, có hai nghóa: Pháp thể sanh diệt do bốn bản tướng. Được gọi là hữu vi do bốn bản tướng, bản tướng hữu vi cũng giải thích theo đây. Luận Chánh Lý chép: Đức Thế tôn ở chỗ nào nói tùy tướng? Chẳng lẽ không nghe Kinh này cũng nói tùy tướng, nghóa là các tướng như sanh, v.v… cũng là hữu vi. Các tướng như sanh sanh, v.v… cũng khởi đẳng tánh-khế Kinh đã nói có ba tướng hữu vi của hữu vi. Sự sanh khởi của hữu vi cũng có thể hiểu rõ, tận và trụ dị cũng có thể hữu rõ, vì sao trong đây không nhiếp tùy tướng. Lại đối với các tướng đều có cũng nói, cho nên trong Kinh này cũng nói tùy tướng, ý nói sự sanh khởi của hữu vi cũng rất dễ hiểu rõ. Khởi thì bản tướng sanh, cũng biểu thị cho nghóa sanh sanh, tận và trụ dị cũng rất dễ hiểu rằng loại khởi cũng nói, nên giải thích đúng như lý. Nếu không như thế thì đâu cần cũng nói, cho nên trong khế Kinh đối với pháp vô vi nói còn không có khởi, v.v… rất dễ hiểu, ý thuyết này nói các pháp vô vi còn vô sanh, v.v… bản tướng rất dễ hiểu,huống chi các tùy tướng như sanh sanh, v.v… mà có thể được. Nếu không như thế thì lẽ ra chỉ nói vô khởi, v.v… rất dễ hiểu, không nên nói còn. Lại trong khế kinh, bạc-già-phạm nói các tướng hữu vi lại có tướng, cho nên khế Kinh nói sắc có khởi tận, ở đây lại nên biết cũng có khởi tận; cho đến nói rộng. Lại khế Kinh nói già chết sanh, v.v… do đó nên biết tướng lại có tướng. Giải thích có lỗi vô cùng: Luận chép: Chẳng lẽ không có bản tướng cho đến xoay vần vô cùng: Đây là giải thích có lỗi vô cùng, trước hỏi sau đáp, đây là hỏi. Luận chép: Không có lỗi này cho đến công năng khác: Là đáp. Luận chép: Sao gọi là công năng cho đến có người cho là só dụng: Là giải thích công năng, tác dụng là tên của nghiệp dụng, sử dụng y theo dụ để hiển bày. Luận Chánh Lý chép: Là dụng của duyên gần, gọi là công năng. Luận chép: Bốn thứ bản tướng cho đến một pháp hữu dụng: Đây là giải thích công năng khác nhau. Luận chép: Nghóa ấy thế nào? Là hỏi. Luận chép: Nghóa là khi pháp sanh cho đến chỉ sanh bản sanh: Đây là đáp rộng. Nêu thí dụ: Luận chép: Như con gà nói cho đến sức mạnh cũng thế: Đây là nêu thí dụ. Luận Chánh Lý chép: Tánh sanh đã không khác thì công năng đâu có khác, như tánh lãnh nạp tuy không khác mà có công năng tổn ích khác nhau. Lại cảnh bản tướng, tùy tướng có nhiều ít, như cảnh của năm thức, ý thức có nhiều ít. Luận chép: Trụ trong bản tướng cho đến tùy theo sự thích ứng cũng thế. Ba tướng sau đây giải thích y theo trước. Tổng kết: Luận chép: Từ câu “cho nên sinh v.v…” cho đến “không có lỗi vô cùng”. Đây là Tổng kết. Luận chép: Từ câu “Sư nói Kinh bộ” cho đến “như đã phân biệt. Sư Kinh bộ y theo bốn tướng vô thể đồng với Đại thừa, nên làm thương lược. Luận chép: “vì sao”: Là hữu Bộ nêu. Kinh bộ nêu lý do: Luận chép: Từ câu “Vì Vô định lượng” cho đến “chứng thể thật có”: Kinh bộ nêu ra lý do, đã không có ba lượng thì đâu được nói có. Luận Chánh Lý chép: Từ câu “lại, các tướng này chẳng lẽ như chiếc bình v.v… Có chắc chắn hiện, tỷ, hoặc” chí “giáo lượng”. Chứng minh thể giả có. Đã ngăn thật có. Nên định kia phải chấp nhận sinh v.v… tướng thể là giả có, thứ ba chấp có, lý hẳn không như vậy. Luận chép: Từ câu “Nếu thế vì sao” cho đến “Cũng rất dễ hiểu rõ”: Là Hữu bộ chống chế. Kinh chép: Có ba tướng hữu vi của hữu vi, tức là tên thuộc chủ. Trước là bổn pháp, sau là kỳ tướng. Nên biết ngoài pháp có bốn tướng riêng. Luận chép: Từ câu “Thiên ái” cho đến “nghóa là sở y”: Là Kinh Bộ đáp: Luận chép: “Sao gọi kinh này là nói thật nghóa; Hữu bộ hỏi. Kinh bộ giải thích: Luận chép: Từ câu “loại Ngu phu” cho đến “tướng hữu vi”. Dưới đây Kinh bộ giải thích, trong đó có năm: Nói ý kinh nói. Nói kinh không nói bốn tướng Sát-na. Giải thích kinh nói lại tướng hữu vi rằng. Nêu lên điều mà kinh bộ lập. Dẫn giáo thể. Đây là văn ban đầu. Luận chép: Từ câu “Chẳng hiển bày các hành” cho đến “Cũng rất dễ hiểu rõ”. Thứ hai nói: Phi sát-na mà Kinh nói, hễ nói tướng là tiêu biểu cho thể tánh, khiến người biết rõ. Kinh nói cũng rất dễ hiểu rõ. Nói phi không thể biết, trong một sát-na sinh bốn tướng, đã không thể biết, chắc chắn chẳng phải kinh nói. Luận chép: Từ câu “Nhưng Kinh nói lại” cho đến “tiêu biểu cho thiện, phi thiện”. Thứ ba nói “kinh nói lại” ý nghóa hữu vi. Kinh nói tướng hữu vi của hữu vi. Câu trước chỉ bày ba thể tướng. Câu sau biểu thị ba tướng trước là hữu vi. “phi” là như chỗ nào có vịt trời trắng, thì biết chỗ đó có nước. Cũng chẳng phải muốn tiêu biểu hữu vi, thiện, ác như đồng nữ có tóc tế buông xuống hao cánh tay quá gối, là tướng thiện. Tóc thô ngắn là tướng ác. Nói về kinh bộ tông: Luận chép: Từ câu “Các hành nối tiếp,” cho đến “gọi là trụ dị” Đây là thứ tư nói về kinh bộ Tông. Ở đây nói một lúc ba tướng là giả chẳng phải thật. Chẳng phải một sát-na là thật chẳng phải giả. Luận chép: Từ câu “Thế tôn y theo đây” cho đến “suy dị hoại diệt”: Trở xuống thứ năm là dẫn giáo thể. Trong đó có năm: Dẫn Phật nói kinh cho Nan-đà nghe. Dẫn ba bài Tụng. Dẫn luận này. Giải thích luận này. Tức lập riêng bốn tướng sát-na là giả chẳng phải thật. Đây là câu đầu. Nan-đà là em của Phật, tánh nặng về dục nhiễm. Gốc dục nhiễm là tham thọ. Phật dạy Nan-đà quán thọ sinh, trụ, dị, diệt. Nan-đà đắc đạo Phật ở trong chúng bảo Nan-đà rằng: “Người Thiện nam này khéo biệt thọ sinh, khéo biết thọ trụ, khéo biết thọ suy, dị, hoại diệt. Theo văn kinh này. Một loại thọ lạc bắt đầu khởi gọi là Sinh, cuối cùng gọi là Diệt, chẳng phải một sát-na quán thọ thông suốt thân mình, người. Cũng không được nói tâm hiện tại không được quán hiện tại thọ. Luận chép: Từ câu “Nên nói tụng rằng”đến “Nối tiếp nói trụ”. Thứ hai dẫn ba bài tụng chứng nghóa Kinh bộ. Hai bài tụng trước chứng minh một lúc bốn tướng chẳng phải một sát-na. Bài tụng sau bác bỏ có tướng trụ. Luận chép: Từ câu “Do Đối pháp” này cho đến “Gọi là sát-na pháp tánh. Đây là thứ ba dẫn luận này làm chứng. Luận chép: Từ câu “Tuy luận phát trí” cho đến “Chẳng phải một sát-na: Đây là thứ tư giải thích văn của luận này. Câu “Nhất tâm” chẳng phải một sát-na gọi là nhất tâm. Y theo một tâm nối tiếp của chúng đồng phần mà nói nhất tâm. Lập riêng bốn tướng sát-na: Luận chép: Từ câu “Lại mỗi sát-na” cho đến “Bốn tướng cũng thành”. Thứ năm lập riêng bốn tướng sát-na là giả chẳng phải thật, trong đó có hai: Nêu tông. Hỏi đáp, đây là nêu tông. Luận chép: “Làm sao được thành”. Là hỏi Luận chép: Từ câu “Mỗi niệm” cho đến “đều khác nhau” Là đáp. Nghóa là mỗi niệm xưa không nay có sinh . Theo đây sinh ở hiện đời. Đồng với Đại thừa. Tức là pháp có tên, sinh chỉ có hiện. Có rồi lại không gọi là Diệt, đây cũng đồng với Đại thừa. Pháp không gọi là Diệt. Đến khi tướng Diệt, pháp đã quá khứ. Sát-na sau sau, nổi tiếp trước khởi, đó gọi là trụ. Đây khác nhau với Đại thừa. Luận Thành Duy Thức chép: Trụ tiêu biểu pháp này tạm có dụng. Nối tiếp trước trước khởi vì nghóa nối tiếp không dứt, gọi là trụ, tức trước sau kia có khác nhau, nên gọi là Trụ dị. Ở niệm trước sau khi tương tợ sinh, trước sau tương tợ vọng chẳng phải không khác nhau. Đây cũng khác nhau với Đại thừa. “Luận Thành Duy thức” chép: Dị tiêu biểu cho pháp này chẳng phải bất động. Luận chép: Tướng Sai khác vì sao nên biết, là hữu Bộ hỏi Như Kim Cương… tướng khác trước sau vì sao biết được. Luận chép: Từ câu “Kim Cương v.v…” cho đến “Mà thấy tương tợ: Là Kinh bộ đáp”. Như Kim Cương là vật rất cứng. Trước sau đồng nhau mà có ném, chưa ném khác nhau. Và dùng sức mạnh ném di xa, rơi xuống chậm. Sức yếu ném đi gần rớt xa, thì khác nhau. Tuy có khác nhau. Kim Cương bổn tướng trước sau tương tợ. Đại chủng tuy là trước sau tương tợ. Chuyển biến khác nhau nghóa nó cũng thành. Cũng là các hành khác, so sánh cũng vậy. Đại chủng tuy là trước sau tương tợ. Chuyển biến khác nhau nghóa của nó cũng thành. Cũng các hành khác so sánh cũng như thế. Tướng tuy tương tợ chuyển biến nghóa thành. Hữu bộ vặn hỏi: Luận chép: Từ câu “Nếu thế” cho đến “Nên không khắp hữu: Là hữu Bộ vặn hỏi. Sau cùng thanh là trước và Niết-bàn thời sau rốt sáu xứ. Đã không có sau để khác, nên không trụ dị. Sư bắt bẻ hữu Bộ tướng trụ, dị. Đã không trụ dị, hai tướng trụ, dị do ông đã lập. Không khắp hữu vi. đáp: Luận chép: “Đây không nói trụ là tướng Hữu vi”: Là Kinh bộ Ngã thứ ba nói “Trụ dị tướng” Không muốn nói trụ là tướng Hữu vi, nhưng muốn nói Dị là tướng hữu vi luận chép: Nghóa ấy thế nào”: Là hữu Bộ nêu. Luận chép: Từ câu “Nghóa là dị của trụ” cho đến “Chẳng có lỗi không khắp”: Là Kinh bộ đáp. Nghóa là Dị của trụ. Nếu có trụ phải có Dị. Nghóa là thanh cuối cùng trước nối tiếp khởi nên gọi là Trụ. Đây gọi là trụ thanh cuối cùng niệm trước gọi là trụ dị, tức trụ gọi là Dị, nên gọi là Trụ dị. Chẳng phải đợi sát-na sau, trước mới gọi là Dị, cũng chẳng phải đợi Sát-na sau, trước mới gọi là Trụ, lý tất nhiên như vậy. Chỉ nên sau khác với trước nên gọi là Dị. Không thể trước dị ở sau gọi đó là Dị. Nếu Dị ở trước thì Dị là do ở mình. Nếu Dị ở sau, thì Dị là do người khác. Kinh bộ nêu ý kinh: Luận chép: Từ câu “Nhưng trong kinh này” cho đến “Vật khác như sinh v.v…” là Kinh Bộ nêu ý kinh. Tức pháp hữu vi xưa không nay có gọi là sinh. Đã có nay trở lại không gọi là Diệt. Nối tiếp gọi là Trụ. Tức ở niệm trước niệm sau này khác nhau gọi là Dị. Đã hiển tướng vô thường của hữu vi, đâu cần lìa tướng đó mà có sinh riêng … Luận chép: “Thế nào là pháp sở tướng tức lập làm năng tướng”: Là Hữu bộ vặn hỏi. Nếu nói sắc, v.v… xưa không nay có, v.v… là tướng hữu vi, tức là sở tướng lập làm năng tướng. Thế nào là pháp sở tướng được lập làm năng tướng? Luận chép: Từ câu “Thế nào là tướng đại só” cho đến “lý cũng như thế”:Kinh bộ dẫn thí dụ đáp. Đã là tướng Đại só không khác đại só v.v… Nên biết tướng hữu vi không khác hữu vi. Kinh bộ nói bốn tướng: Luận chép: Từ câu “Tuy hiểu rõ hữu vi” cho đến “có các vật”thật như sinh v.v… Kinh bộ nói bốn tướng như sanh v.v… trong Kinh. Tuy không lìa hữu vi, nhưng không tức hữu vi. Tuy rõ tự tánh của sắc hữu vi v.v… nhưng không thể rõ xưa không nay có là sinh. Nay có sau không là Diệt. Trụ tướng nối tiếp Trụ, Dị không khác nhau vẫn chưa biết thể kia là hữu vi, cho nên chẳng phải sắc là tướng hữu vi, nhưng chẳng lìa sanh của sắc kia mà có các vật thật như sanh v.v… Luận chép: Từ câu “Nếu lìa hữu vi” cho đến “Có gì là phi lý”: Là Hữu Bộ lại hỏi. Ta lập sinh khác có thể tánh, dị khác tướng đó có gì phi lý. Kinh bộ nói về phi lý: Luận chép: Từ câu “Một pháp cùng lúc” cho đến “chấp nhận câu hữu” Kinh Bộ nói về phi lý. Đối với mỗi pháp đồng thời có bốn tướng như sinh v.v… Tức khi pháp sinh lẽ ra diệt ngay v.v… vì Đồng là hữu thể. Luận chép: Từ câu “bắt bẻ này không đúng” cho đến “Mà không trái nhau”: Là Hữu Bộ giải thích. Tuy thể đều có, nhưng dụng có trước sau. Nghóa là sinh tác dụng khiến pháp chưa sinh sinh đến hiện tại, Hiện tại đã sinh thì đâu cần tướng sinh. Do đó khi sinh chẳng phải tức trụ, suy dị, hoại, diệt. Luận chép: Từ câu “Hãy nên nghó chọn” cho đến “Hữu dụng vô dụng”: Là Kinh Bộ bắt bẻ. Pháp thể Vị lai chưa đắc là có. Tức thể tướng của sanh v.v… cũng phi có, làm sao được nói tướng sinh có dụng, ba tướng vô dụng. Luận chép: Từ câu “Dù chấp nhận” cho đến “tướng hiện tại”: Là Kinh bộ nói dù có vị lai, để bắt bẻ. Khi tướng sinh hữu dụng không được là vị lai. Khi tướng sinh đã dụng không được gọi là hiện tại. Tông ước của Hữu Bộ, tác dụng nói về ba đời. Luận Chánh Lý chép: “Nghóa là pháp hữu vi nếu có thể làm nhân dẫn nhiếp từ quả gọi là Tác dụng. Nếu có thể làm duyên nhiếp giúp Dị loại là nói công năng, như trước đã nói. Tất cả hiện tại đều có công năng làm nhân dẫn nhiếp tự quả. Chẳng phải các hiện tại đều có thể làm duyên nhiếp. Nói dị loại, nghóa là trong bóng tối mắt có thể có công năng bị tổn hại, liền đối với nhẫn thức không thể làm duyên nhiếp giúp khiến cho khởi lên. Nhưng tác dụng đó chẳng phải bóng tối làm tổn. Chắc chắn có thể làm nhân dẫn “đương nhãn”. Do tác dụng này mà công năng có khác. Nhưng đối với Đồng loại nối tiếp quả sinh có định bất định. Nhiếp dẫn thế lực, gọi là tác dụng, cũng gọi là công năng. Nếu đối với Dị loại nối tiếp quả sinh. Nhưng có thể làm duyên nhiếp giúp khiến cho khởi, đây chẳng phải tác dụng, chỉ là công năng. Thuật rằng: “Theo Tỳ-bà-sa hỏi bốn đại sinh năm nhân, là nhân hay Duyên? Có thuyết nói là nhân, có thuyết nói là duyên. Theo ý của luận này, nhân là nhân duyên, duyên là tăng thượng. Nhân duyên chắc chắn có thủ quả. Tác dụng thủ quả chắc chắn ở hiện tại, xếp vào duyên Tăng thượng giúp cho dị loại. Trong đó có thủ quả, có phi thủ quả; Thủ quả tức là các pháp hữu vi trụ ở đời hiện tại, đối với quả tăng thượng đều có dụng thủ quả; Pháp vị lai và pháp sinh tướng công năng tuy là nhiếp giúp, nhưng chẳng phải thủ và y theo văn trên, dưới của Luận Chánh Lý. Tất cả thủ quả đều là hiện tại. Trong đây nói thủ đồng loại quả là y theo hiển thuyết. Tất cả pháp thể khi trụ ở hiện tại, chắc chắn có thể thủ quả nên không thể ngăn dứt. Nếu nhân, quả và duyên tăng thượng nhiếp, giúp các pháp, thì có ngăn dứt. Như do bóng tối ngăn che nhãn thức không nương căn. Lại tất cả hữu vi khác khi trụ ở hiện tại, đều có thể chấp lấy nhân quả gọi là tác dụng. Vô lực có thể ngăn không lấy quả. Tất cả pháp hữu vi khi trụ ở hiện tại đều Nhiếp giúp Dị loại, thì không chắc chắn. Có pháp lực có thể ngăn dứt công năng kia không được khởi. Như mắt thức v.v… Đây là giải thích quả tự loại, tức nhân duyên sở thủ đều là tự loại. Kinh bộ tông hỏi về ba tướng: Luận chép: Từ câu “lại ba pháp như Trụ, v.v…” cho đến “Gọi là hoại diệtt”: Là Kinh Bộ Tông vặn hỏi ba tướng có dụng cùng lúc. Luận chép: Từ câu “Các thuyết trụ v.v…” cho đến “nghóa Sát-na diệt”. Là Kinh bộ vặn hỏi. Nếu dụng trước sau, các pháp sinh rồi trải qua. Trụ thời, Dị thời, Diệt thời, ba thời đã khác, Nên ba Sát-na cực nhỏ gọi là Sát-na. Tức trái với giáo thuyết, nghóa Sát-na diệt. Luận chép: Từ câu “Nếu nói” cho đến “chẳng dị chẳng diệt”: Là Kinh bộ vặn hỏi, trụ lỗi tiên dụng. Trụ tượng Dị, diệt, đồng thời mà sinh. Vì sao trụ tướng của hai dụng còn lại. Luận chép: Từ câu “Nếu ở sức mạnh” cho đến “bị suy hoại chăng? Là lại vặn hỏi”. Nếu sức trụ mạnh vì sao bị dị diệt, luôn cả pháp này đều bị suy hoại. Ngăn dứt bắt bẻ: Luận chép: Từ câu “Nếu nói tướng trụ” cho đến “làm cho không còn tác dụng nữa”. Lại ngăn dứt bắt bẻ. Nếu nói tướng trụ đồng tướng sinh không còn tác dụng thì lý cũng khác nhau pháp sinh không thể sinh lại. Tướng Sinh không tái sinh. Pháp trụ có thể khiến lại trụ, vì sao tướng trụ không khiến tái trụ? Luận chép: Từ câu “Lại ai chướng trụ dụng” cho đến “Sao không trước dụng”. Lại ngăn dứt trụ này dụng tạm, có rồi lại không. Nếu Dị, diệt làm ngăn che thì lực hợp mạnh trụ nên trước trụ dụng. Nếu năng lực yếu trụ ở hậu dụng thì không hợp khã năng che trụ. Luận chép: Từ câu “Lại trụ dụng tức” cho đến “Lại không làm việc gì” là lại ngăn dứt bắt bẻ. Nếu trụ không do có tướng tạm dùng tự dứt thì lẽ ra pháp tự nhiên hoại diệt, đâu dùng hai tưởng Dị diệt. Luận chép: Từ câu “Lại lẽ ra một pháp” cho đến “lẽ ra không nên có” Lại dù chấp nhận có Diệt mà phá dị. Luận chép: Vì sao: Là Hữu bộ nêu, cho nên một pháp không chấp nhận có khác. Luận chép: Từ câu “Dị là trước sau” cho đến “lập dị cuối cùng bất thành”. Kinh bộ nêu ra lý do, nếu trước một pháp nói dị bất thành vì vô sở dị. Nếu sau khác trước thì chẳng phải một pháp, cho nên một pháp lập dị bất thành. Luận Chánh Lý chép: “Các Đối pháp là đối với dụng khác nhau của tự thể các pháp, có đặc tên khác, chẳng phải chỉ tự thể, nghóa là pháp hữu vi đối với tự thể, có thể dẫn tự quả. Tác dụng gọi là trụ, tức tác dụng này suy tổn gọi là Dị. Trụ này và suy không cho tự có. Lẽ ra có pháp khác, khiến trụ, khiến suy. Vì hai thứ này tức tướng trụ tướng Dị. Đối với Chánh Lý này sao không nhẫn ư? Lại chép: Chẳng phải vị chánh sinh vì có đặt tên dị. Tác dụng bây giờ chưa suy tổn, tức do lý này mà đặt tên Trụ, Dị. Đây có thể suy tổn dẫn dụng quả. Do pháp tác dụng bị suy tổn, thời mới dẫn tự quả. Vì sau khi nhân bị tổn thì quả sinh vị yếu kém, nhân trước. Nên quả kém yếu vì nhân có dị. Quả này sát-na lại do câu khởi dị tướng làm duyên khiến suy tổn. Lại có thể làm cho quả sau duyên kém yếu. Như thế tất cả hữu vi nối tiếp. Sát-na Sát-na khiến sau sau khác. Nên niệm trước trước có nghóa dị thành. Nghóa này đã thành nên làm tỷ lượng này. Nghóa là Kiến sau cùng có khác nhau. Các Sát-na trước chắc chắn có khác nhau. Như vậy nối tiếp dần dần thêm lớn, lẽ ra không có tướng khác. Không thấy quả nên không có lỗi này. Tướng trụ bấy giờ do duyên ngoài trợ giúp, thế lực tăng mạnh bẽ dẹp bỏ dị. Bác bỏ chánh lượng bộ: Luận chép: Tuy bộ khác nói v.v… Trở xuống là bác bỏ chánh Lượng Bộ, Kia chấp Sắc pháp có hai duyên diệt. Trong diệt tướng. Ngoại diệt duyên. Tâm pháp chỉ có trong diệt tướng, không đợi duyên bên ngoài. Sát-na liền diệt. Trước phá sắc, phá tâm pháp. Luận chép: Từ câu “Tuy bộ khác nói” cho đến “Có diệt làm gì” Ban đầu phá sắc pháp đợi hai duyên diệt. Đã hiện thấy nghóa do duyên lửa diệt, vì sao lại nói có nội diệt riêng. Uống thuốc, kiết lî chẳng lẽ là do trời. Luận chép: Từ câu “Lại tâm, tâm sở” cho đến “Không đúng Chánh Lý”: Kế là phá tâm, Sát-na diệt không đợi duyên bên ngoài. Trong một pháp đồng thời đã có hai tướng Trụ, diệt. Nên cùng lúc vừa Trụ vừa diệt, đồng thời trái nhau không đúng với Chánh Lý. Luận chép: Từ câu “Cho nên nương vào nối tiếp” cho đến “Khéo thuận khế kinh: Là Sư Kinh bộ phá tông khác, đã kết tông mình thuận kinh hợp lý. Luận chép: Từ câu “Nếu sinh ở vị lai” cho đến “sao không câu sinh”: Trở xuống nửa bài tụng thứ ba nói: Tướng sinh đợi nhân duyên hợp mới sinh ra pháp. Luận chép: Cho đến “Chẳng phải đều đốn khởi”: Y theo văn xuôi có hai: Giải thích văn tụng, nói về Nghóa của Hữu Bộ Hỏi, đáp phân biệt: Đây là câu đầu. Hỏi đáp phân biệt: Luận chép: Từ câu “Nếu thế” cho đến “Nhân duyên lực khởi”: Dưới đây là hỏi, đáp phân biệt. Đây là Sư Kinh Bộ hỏi. Luận chép: Từ câu “Chẳng lẽ các hữu pháp” cho đến “Mà không thể biết”: Là Hữu Bộ đáp. Trong đáp có ba: Vì nhỏ nhiệm nên tuy có thật thể mà ông không biết. Hỏi ngược lại: Nếu không sinh thể, làm sao có sinh giác. Hỏi ngược lại. Nếu pháp ngoài vô sinh, làm sao có sáu chuyển thanh. Đây là ban đầu. Đâu được vì ông chỉ thấy nhân duyên không thấy tướng sinh. Tức nghóa chỉ có nhân duyên không có tướng sinh, chẳng lẽ các hữu pháp đều là chỗ biết của ông. Tướng sinh này tuy hiện có tự thể mà không thể biết, vì pháp tánh sâu kín khó biết. Luận chép: Nếu Tướng Sinh không tương ứng với vô sinh giác: Là hỏi ngược lại. Tâm pháp gá vào cảnh không tự khởi được. Tướng sinh nếu không ứng với vô sinh giác. Luận chép: Từ câu “Lại thức thứ sáu chuyển” cho đến “Sắc của sắc rằng”: Là hỏi ngược lại thức thứ sáu chuyển. Nếu sinh Dị sắc, thì có thể nói sanh của sắc v.v… thứ sáu chuyển thanh đã gọi là thuộc chủ, chẳng tức một pháp. Nếu đối với một pháp, có thì thuộc chủ, nên có thuyết nói Sắc của Sắc v.v… Luận chép: Từ câu “Nếu trách vô sinh” cho đến “tùy theo sự thích ứng: Là giải thích theo ba tướng có tự thể riêng. Luận chép: Từ câu “Nếu thế” cho đến “Có tánh riêng v.v…”. Dưới đây Kinh bộ hỏi ngược lại, giải thích trong đó có hai: Phá sinh giác. Phá thuộc chủ. Đây là phần đầu, phần đầu có hai: Y theo nội pháp không bác bỏ. Đồng với ngoại đạo có bác bỏ. Là thành không, vô ngã giác. Pháp ngoài lẽ ra có không. Vô ngã tánh. Đây là y theo nội pháp vô ngã, nghóa là khi quán vô ngã thì quán, tất cả pháp đều không có ngã. Nên ở ngoại pháp, lập riêng không, vô ngã tánh. Nếu ở ngoài pháp, chẳng có không, vô ngã tánh làm sao có được không, vô ngã giác, đã có không, vô ngã giác. Ngoài pháp chẳng có không, vô ngã tính. Chỉ có sinh giác, ngoài pháp không có tính sinh. Nói “Vì thành một, hai, cho đến có tánh đẳng biệt”. Đồng với ngoại đạo có bác bỏ. Đã có sinh giác, tức lìa ngoài pháp có tướng sinh riêng. Tức lẽ ra phải một, hai giác, Đại tiểu giác. Các biệt, hợp, ly. Kia đây có tánh Đẳng giác, lẽ ra như ngoại đạo chấp pháp bên ngoài có số lượng, khác nhau riêng, hợp, ly, kia đây, có tánh các biệt. Ngoại đạo chấp như trước đã nói. Phá thức thứ sáu chuyển: Luận chép: Từ câu “Lại vì thành lập” cho đến “Nói vì sao được thành: Là hỏi ngược lại thứ hai. Phá thức thứ sáu chuyển, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Cho nên sinh v.v…” cho đến “không có vật thật riêng”: Là kết thành Kinh bộ tông. Luận chép: Từ câu “Là biết rõ các hành” cho đến “Tùy ứng nên biết”: Kinh bộ giải thích kinh, ngoài lìa pháp không sinh riêng. Kinh nói “Thứ sáu chuyển thanh” Nghóa sinh của Sắc. Trước là nói pháp, sau thí dụ để nói rõ, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Nếu thực hành tướng ly sinh”cho đến vì sao bất sinh: là Hữu bộ bắt bẻ” Kinh Bộ. Hữu vi, vô vi đều là tướng vô sinh, Hữu vi đã sinh, Vô vi làm sao bất sinh cho được. Kinh bộ giải thích: Luận chép: Từ câu “Các hành gọi là sinh” cho đến “đâu được nói là sinh”. Trở xuống là Kinh Bộ giải thích, trong đó có ba: Vô vi không được gọi là sinh. Dùng Hữu Bộ bác bỏ tất cả pháp đều có tướng sinh để làm ví dụ. Dùng Hữu Bộ tất cả hữu vi đồng có tướng sinh. Nhân duyên hoặc có thể không có thể để so sánh. Đây là nghóa câu đầu. Xưa không nay có nên được gọi là Sinh. Vô vi thể là thường, làm sao gọi là Sinh. Luận chép: Từ câu “Lại như pháp nhó” cho đến đều có thể sinh: Đây là thứ hai. Như Hữu Bộ của ông chỉ có sinh tướng hữu vi. Pháp vô vi không có tướng sinh. Kinh Bộ Tông cũng vậy, Hữu vi có thể sinh, vô vi không thể sinh. Luận chép: Từ câu lại như “Hữu vi” cho đến “Một dụng vô sinh”: Là giải thích thứ ba. Như tất cả Hữu vi của Hữu Bộ đều có tướng sinh. Mà chấp nhận nhân duyên vọng pháp hữu vi, ở một có dụng, một không có dụng, tức như mắt căn đối với sinh nhãn thức có dụng, đối với Sinh nhó thức không có dụng. Kinh bộ Hữu vi, vô vi đồng với tướng vô sinh. Nhưng nhân duyên kia đối với hữu vi có dụng, vô vi không có công dụng, văn còn lại rất dễ hiểu. Nói về danh cú văn thân: Luận chép: Từ câu “đã nói như thế” cho đến “nghóa ấy thế nào v.v…” trở xuống thứ bảy có nửa bài tụng nói về danh, cú, văn, thân. Luận chép: Cho đến “cú thân, văn thân”: Là giải thích: bài tụng v.v… Luận chép: Từ câu “Nên biết trong đây” cho đến “Một là chữ y, … Là giải thích dị danh” “Danh” là khởi tưởng, do đối với sắc v.v… đặt tên là sắc v.v… Khiến đối với sắc v.v… khởi tưởngsắc v.v… Gọi là Nhân tưởng, gọi là Tác tưởng. Đây là nhân lấy quả gọi là thuyết danh, gọi là tưởng. Luận không nói tưởng nghóa là đặt tên. Không thể giải thích câu “Từ nhân thọ xưng”, “Nhân thủ quả danh” tức là tên khác của danh, cũng không thể giải thích riêng, hoặc gọi là Dị mục, cũng có thể gọi là như tưởng. Giải thích rõ tướng trạng của pháp. Nghóa đồng với tưởng nên gọi là Tưởng. Tiếng Phạm là: Na (đọc khứ thanh) Ma, Hán dịch Danh, nghóa là quy, nghóa là phó, nghóa là tùy, nghóa là thú. Nghóa là Tùy, âm thanh, quy, phó ở pháp thú, tự tướng đó. Trong có Dị tướng nêu lên gọi là chuyên nhất, tức nghóa của quy. Do đó kêu gọi có thể dẫn tự thể. Tiếng Phạm là Tăng-nhã Hán dịch là Tưởng, là có công năng chấp lấy hình ảnh, hoặc nghóa là lập chung khế ước tiếng Phạm là Bát-đà, Hán dịch là Tích. Như thân con voi có bốn chân, lại như một bài tụng có bốn câu. Nay theo nghóa dich tên thành câu. Tiếng Phạm là Phược-ca, Hán dịch là Chương, là giải thích nghóa cuối cùng, như nói chương các hành vô thường, v.v… nói thẳng các hành là danh, chẳng phải cú, nói thẳng nghóa các hành chưa rốt ráo, lại nói vô thường mới thành rốt ráo. Cho nên nghóa danh thuyên rốt ráo gọi là Chương. Như lập chương uẩn để giải thích uẩn rốt ráo, nếu thế thì vì sao chương, cú của ngoại điển có nghóa khác? Đáp: Giải thích nghóa rốt ráo gọi là chương. Trong giải thích nghóa có rộng có hẹp. Rất hẹp gọi là câu. Rộng gọi là chương, tức ở trong chương, có chia thành hai nghóa: Cú nghóa. Chương nghóa. Tức cầu đồng với chương, nên gọi là chương. Hoặc khi công năng phân biệt đức của nghiệp dụng, tương ưng khác nhau. Như nói Thiện có công năng chiêu cảm quả ái, dao có công năng cắt vật. Đây là nghiệp dụng “Vắng lặng là vui” là đức. “Ba vô số kiếp” là thời. Tương ưng nghóa là giải thích, các pháp thuận theo nhau. Khác nhau gọi là thuyên, nghóa các pháp khác nhau. Hoặc khác nhau là nghóa đức. Tức là đối với Tự tánh gọi là khác nhau. Như nói các hành là tự tánh, Vô thường là khác nhau. Luận đổi pháp chép: Danh giải thích, tự tánh, Cú giải thích khác nhau. Nghóa của nó đồng. Giải thích danh từ: Phiên âm “Tiện-Thiện-na”, Hán dịch là Văn, có công năng nói lên nghóa, phương Tây gọi tương, tạc, muối gọi là Tiện-thiện-na, muối là Tiện-thiện-na, xưa dịch vị là sai. Vì văn hiển rõ nên làm chỗ nương cho danh cú. Nên Đối pháp chép: Hai chỗ sở y là văn. Như lụa, gấm, văn do khởi ở tơ, hiển dị ở chỗ khác. Tức y theo đây hiển rõ. Đây hiển rõ, đặt trên vải làm rồng, phụng,để làm hang gấm. Căn bản đều y theo văn, tơ hiển thành. Tơ như âm thanh, văn như chữ của nó. Rồng, phụng như tên, “Câu” như hang, các chữ nhất, y hiển rõ trên thanh, tức dùng đây hiển rõ công năng tự tánh của mắt. Lại sinh danh mục riêng ý nghóa khác nhau, riêng lại sinh “cú”. Danh, cú đây đều y theo văn. Luận chép: Từ câu chẳng lẽ không có chữ này cho đến cũng ghi phần danh: Đây là hỏi, đáp phân biệt. Chẳng lẽ không có chữ này tức là sắc cong queo trên giấy gọi là Tự? Là hỏi. Đáp rằng: Chẳng phải hiển là viết chữ phần Sắc, chế tạo các chữ không tương ưng. Chỉ là hiển rõ chữ không tương ưng, chế tạo sắc viết chữ. Y theo chữ sắc này ghi nhớ chữ bất tương ưng. Và đem sắc chữ truyền lưu ở phương khác và ở đời sau, cho nên không tương ưng các chữ chẳng phải mục viết chữ. Thế nào là đẳng thân: Luận chép: Từ câu “Thế nào gọi là đẳng thân” cho đến “ca-khư- già”: Là giải thích gọi là Đẳng thân, vì sao là Đẳng thân? Là hỏi. Tiếng Phạm là Ca-na, Hán dịch là Thân. Nghóa là tưởng, v.v… là nói chung trở xuống là đáp. Tiếng Phạm Tam-mộc-ngột-để, Hán dịch nói chung, nói chung giải thích nghóa thân, tức là hai, ba tên gọi chung là Thân. Tiếng Phạm là Tam-ma-bà-duệ, Hán dịch tập hợp. “Nói chung” tức là nhóm hợp. Hai, ba tên gọi là nghóa nhóm tập, đối với nghóa tập hợp, nói Ốt-già giới. Do đặt trong nghóa tập hợp Ốt-già tự giới. Chữ sau duyên giúp thành nghóa nói chung, tức dùng chữ nói chung giải thích thân. Hai danh là thân. Ba danh trở lên là nhiều thân. Trong đây danh thân cho đến văn thân nghóa là Ca-khư-già đều đến ba số: Là giải thích. Không gọi là thân. Chỉ gọi là thân. Danh trở lên đều là Đa danh thân. Cho đến nhiều thân không dưới ba; Bốn, năm trở lên đều là nhiều. Không cần cho đến bốn, năm: Trong văn giải thích ở trước, tức lấy trong mười hai âm: ai, a, nhất, y để giải thích. Nay giải thích trong thân tức dùng thể chữ Ca-khư-già giải thích. Muốn hiểu rõ hai thứ này đều được là văn, cho nên nương dựa lẫn nhau mà nói. Luận chép: Từ câu “Chẳng lẽ không phải ba thứ này” cho đến “tâm bất tương ưng hành” v.v… Trở xuống là hỏi, đáp phân biệt đây là Kinh bộ hỏi. Hỏi đáp phân biệt: Luận chép: Từ câu “Ba thứ này chẳng dùng” cho đến “là hợp với liễu nghóa: Là Hữu Bộ đáp. Luận chép: Làm sao khiến cho hiểu rõ: Là Kinh bộ chép. Luận cho rằng ngữ phát ra danh cho đến có công năng khiến cho hiểu rõ: Là Hữu bộ đáp. Luận Chánh Lý” nói: Trong đây Kinh nó chủ nói như thế, chẳng lẽ không phải ba ngữ này là tánh nên xếp thanh vào thể sắc tự tánh. Thế nào mới nói là tâm Bất Tương ưng hành. Đây là trách phi lý, vì sao? Do giáo và lý mà biết “có riêng” giáo nghóa là kinh nói rằng: Lưc, văn lực. Nếu văn tức là từ ngữ thì nói riêng làm gì. Lại nói nên giữ gìn văn cú chánh pháp. Lại nói y nghóa không y văn, Lại nói kệ nhân đó bảo với xiển-đà văn tự, “Xiển đà” cho rằng tạo tụng phần lượng ngữ làm thể. Lại Khế kinh nói: Biết pháp, biết nghóa, Pháp gọi là danh v.v… Nghóa là sở thuyên. Lại Khế kinh nói: Văn nghóa khéo léo. Lại nói nên dùng văn cú khéo léo, đọc tụng chánh pháp. Ác thuyết văn cú đọc, tụng chánh pháp, thì nghóa bị khó hiểu. Lại nói Như Lai, giữ được danh cú, văn thân ít có. Lại nói: Văn cú thắng giải kia rất là ít có. Do các giáo này, chứng biết có các nghóa năng thuyên riêng: Danh, cú, văn thân. Vẫn thêm ngữ thanh, thật chẳng phải giả. Lý nghóa là hiện thấy có khi được thanh mà không đuợc chữ, có khi được chữ mà không được Thánh, nên biết thể khác nhau. Có khi được thanh không được chữ, nghóa tuy nghe tiếng mà không rõ nghóa. Hiện thấy có người nghe lời nói của người khác mà trở lại xét hỏi ông nói gì. Đây là nghe ngữ thanh không rõ nghóa, đều do chưa hiểu được văn phát ra, sao lại chấp văn không khác thanh. “Có khi được chữ không được thanh”. Nghóa là không nghe tiếng mà được hiểu nghóa. Bây giờ nhìn thấy có môi động, biết người đó nói. Đây không phải nghe thanh được biểu nghóa. Đều do hiểu được văn đã phát ra. Do lý này chứng được văn phải là thanh khác. Lại thấy thế gian ẩn thanh tụng chú. Nên biết chữ chú khác âm thanh của chú. Lại thấy thế gian có hai Luận giả, nói âm tương tợ: Một là thua, hai là thắng. Do thắng thua này phải có thanh khác. Lại pháp và từ hai cảnh giới vô ngại từ và pháp riêng có chữ tri lìa thanh. Cho nên Thanh là nói tướng âm không khác nhau. Trong đó, khuất khúc phải y theo ca, già, hết, đa, ba v.v… Phải do ngữ thanh phát khởi các chữ, các chữ trước sau hòa hợp sinh ra Danh, danh này đã sinh thì có thể hiển nghóa. Do đó xoay vần mà làm. Đây là ngôn ngữ có thể phát danh, danh có thể hiển nghóa nên danh, thanh khác với lý cực thành. Nên biết trong đây thanh là năng thuyết. Văn là sở thuyết, nghóa nói chẳng phải hai. Như thế thì không kiến lập rối loạn. Kinh bộ nêu nghóa của tông mình: Luận chép: Từ câu “Chẳng phải chỉ có âm thanh” cho đến “Mới gọi là ngữ ”. Đây là Kinh bộ nêu nghóa của tông mình. Luận chép: Âm thanh nào khiến nghóa có thể rõ. Là Hữu Bộ hỏi Kinh bộ. Như điều mà tôi giải thích, âm thanh có danh mới có công năng hiểu rõ nghóa, ông nói tức âm thanh hiểu rõ nghóa, vậy âm thanh nào khiến cho hiểu rõ nghóa? Luận chép: Từ câu “Nghóa là năng thuyết” cho đến “Người trí lập cù thanh.” Là Kinh bộ giải thích. Trong một cù thanh giải thích chín việc. Do cộng định lượng, nên có thể rõ các nghóa. Luận chép: Các hữu chấp danh cho đến năng thuyên định lượng: Y theo âm thanh lập chung định lượng, tên gọi cũng như thế. Luận chép: Từ câu “Nếu nghóa câu này” cho đến “Có tên thật riêng”. Dưới đây Sư Kinh Bộ bắt bẻ có tên riêng. Nhưng do mượn âm thanh hiển dụng đã nói, vì sao chấp có lìa thanh thật danh? Luận chép: Từ câu “Lại chưa rõ danh này” cho đến “Vì do ngữ sinh”: Là Kinh Bộ định Hữu Bộ Tông, hai môn câu hỏi tiến lui. Luận chép: Từ câu “Nếu do ngữ sinh” cho đến “đâu đợi tên khác”: Là bắt bẻ ngữ sinh danh. Luận chép: Từ câu “Nếu do ngữ hiển” cho đến “đâu đợi tên khác”: Là bắt bẻ hỏi thanh hiển bày danh. Bắt bẻ lý vô sinh: Luận chép: Từ câu “Các niệm thanh” cho đến “có thể do ngữ phát” là bắt bẻ lý vô sinh, một niệm thanh chưa thể giải thích. Thanh của nhiều niệm mới có thể kêu gọi, cho nên biết thanh của nhiều niệm mới có danh. Niệm thanh sát-na trước sau đã diệt không thể nhóm họp. Lại không thể nói. Danh một chữ từng phần tạm sinh tiến lùi nói về nạn không có lý sinh, làm sao có thể nói do ngữ phát ư? Luận chép: Từ câu “Vì sao đợi,” cho đến “năng sinh vô biểu”. Là Hữu Bộ hỏi ngược lại Kinh bộ thành nghóa của mình. Do nhiều niệm biểu sắc, từng niệm tạm sinh vào quá khứ. Cuối cùng Biểu sát-na vô biểu mới sinh. Thanh sinh ở danh nghóa cũng y theo đây. Luận chép: “Nếu thế” cho đến “lẽ ra có thể rõ nghóa”: Là Kinh bộ hỏi. Chỉ thanh cuối cùng có thể sinh danh là: Chỉ nghe thanh cuối cùng, cũng hiểu được nghóa, đâu cần đợi thanh của niệm trước. Hỏi về dị thục: Luận chép: Từ câu “Nếu chấp như thế”cho đến “không thể nhóm họp”. Là vặn hỏi về dị thục. Nếu nói sinh văn, văn lại sinh danh, cũng đồng với nạn trước. Văn niệm trước sau không thể tập hợp. Luận chép: Ngữ nói lỗi của danh lẽ ra so sánh với sinh, trước bắt bẻ ngữ sinh danh, lại y theo bắt bẻ ngữ hiển danh. Sinh nghóa là danh do thanh sinh. Hiển nghóa là danh trước có tự thể chỉ do ngữ hiển. Trên đây là phá Hữu Bộ lìa ngữ có danh, dưới đây là phá lìa ngữ có văn. Luận chép: Từ câu “Lại dị ngữ văn” cho đến “Khéo nói tướng ấy” “Các minh tuệ” là hiện lượng biết vô. Luận chép: Từ câu “Lại văn do ngữ” cho đến “Đều không đúng lý”. Hoặc sinh hoặc hiển, cả hai đều bác bỏ. Y theo lỗi ngữ đối với danh sinh hiển lổi. Luận Chánh Lý chép: Nạn này trái hại tự chỗ lãnh thọ Tông. Tông đó nói đến đi đều không có tự thể, thanh trước sau niệm không thể đón sinh làm sao thành văn, thành danh, thành cú. Nếu niệm trước ở trước chuyển chuyển giúp cho sát-na cuối cùng thành văn, danh, cú, chỉ nghe cuối cùng lẽ ra rõ nghóa thành. Lại không giúp nhau đến đi vô cớ, đã hăng một niệm, làm sao giúp nhau, trước sau tương tợ. sau như niệm ban đầu nên không năng thuyên. Nghe sau như ban đầu, lẽ ra là bất liễu nghóa. Nên sở chấp kia trước sau giúp nhau thành thì lý năng thuyên không thành lập. Tông ta ba đời đều có chẳng phải vô. Nên sau đợi trước có thể sinh danh v.v… Tuy niệm cuối cùng danh v.v… mới sinh. Nhưng chỉ nghe kia không thể rõ nghóa. Do không nghe đầy đủ, như trước cùng lập khế ước như danh… Có thể phát ra thanh. Nhưng nghe một thanh cũng có hiểu rõ, do thói quen, theo sự so sánh khác. Nên Kinh chủ nói bắt bẻ kia chẳng phải đây. Phá chấp khác: Luận chép: Từ câu “Lại nếu có chấp” cho đến mà lẽ ra không chấp nhận: Là phá chấp khác. Nếu danh và nghóa sở thuyên cùng lúc sinh khởi. Do như tướng sinh cùng nghóa câu sinh, thì có ba lỗi: Danh ở hiện tại, nghóa ở quá khứ vị lai. Tử danh và tử câu sinh, cha mẹ không hợp tùy ý đặt tên. Vô vi vô sinh lẽ ra không có danh. Luận chép: Từ câu “Nhưng Thế tôn nói” cho đến “Sắp bày khác nhau” Giải thích Hữu Bộ bắt bẻ . Bắt bẻ rằng: “Nếu cho là lìa thanh không có tên riêng” Vì sao kinh nói tụng nương vào danh? Đáp rằng: Tức thanh an bày giả gọi là danh. Luận chép: Từ câu “Chấp có vật thật” cho đến “và tâm thứ lớp”: Đều chẳng phải Hữu Bộ lập riêng thật danh. Như Thọ đẳng hành, lìa thọ vô hành. tâm định thứ lớp, lìa tâm vô thể. Danh cũng như thế, lìa thanh vô thể. Luận chép: Từ câu “Hoặc chỉ nên chấp” cho đến “liền thành vô dụng”: Kinh Bộ dùng văn bắt bẻ Hữu danh. Luận chép: Từ câu “Sư Tỳ-bà-sa” cho đến “Sở năng biểu”. Nói về danh, danh thân và đa danh thân: Đây là mê Hữu Bộ Tông. Luận Chánh Lý chép: Tỳ-bà-sa nói ba danh, cú, văn, mỗi thứ đều có ba thứ, gọi là ba chủng, nghóa là Danh, danh thân và Đa danh thân; Cú, văn cũng như vậy. Danh có nhiều vị nghóa là một chữ Sinh, hoặc hai chữ Sinh, hoặc nhiều chữ Sinh. Một chữ sinh là nói một chữ, thời chỉ có thể có danh. Nói hai chữ thì gọi là Danh thân, hoặc nói rằng; nói ba chữ là nói Đa danh thân. Hoặc nói thế này, nói bốn chữ. Thời mới nói Đa danh thân. Hai chữ sinh là nói hai chữ, thì chỉ có thể nói có danh. Nói bốn chữ thì là danh thân, hoặc nói như thế này: Nói sáu chữ tức là nói: Đa danh thân, hoặc nói thế này, nói tám chữ. Thì mới nói Đa danh thân. Chữ Đa sinh trong ba chữ sinh là. Nói ba chữ thì chỉ có thể có danh, nói sáu chữ tức nghóa là danh thân. Hoặc nói thế này, nói chín chữ là nói Đa danh thân, hoặc nói thế này. Nói mười hai chữ mới nói là đa danh thân, đây là cửa nên nhiều chữ sinh khác gọi là Thân, Đa danh thân đúng như lý nên nói. Câu cũng nhiều vị. Nghóa là ở xử trung, câu đầu, câu sau. Câu ngắn, câu dài. Hoặc tám chữ sinh gọi là “cú xử trung”, không dài không ngắn, nói xử trung có ba mươi hai chữ sinh, ở bốn trường hợp. Như vậy bốn câu thành thất-lộ-ca. Kinh Luận, văn chương phần nhiều y theo số này. Nếu sáu trở lên gọi là câu đầu. Hai mươi sáu chữ trở lên sinh gọi là câu sau. Nếu sáu chữ Sinh gọi là câu ngắn. Quá hai mươi sáu chữ sinh gọi là câu dài. Vả lại y theo câu xử trung nói có ba thứ. Nói tám chữ thì chỉ có cú. Nói mười sáu chữ thì tức là cú thân. Hoặc nói như vậy khi nói hai mươi bốn chữ thì gọi là Đa cú thân. Hoặc nói như thế này. Khi nói ba mươi hai chữ mới gọi là Đa cú thân. Văn tức chữ nên chỉ có một vị, khi nói một chữ thì chỉ có thể có văn khi nói hai chữ thì gọi là văn thân, hoặc nói thế này, khi nói ba chữ thì gọi là Đa văn thân, hoặc nói thế này, nói bốn chữ, thì nói là Đa văn thân. Vì do lý này nên kinh nói như thế, khi nói một chữ thì có danh, không danh thân, không có Đa danh thân vô cú. Vô cú thân. Vô đa thân, có văn. Vô văn thân, vô đa văn thân khi nói hai chữ thì có danh, có danh thân. Không có Đa danh thân. Không có ba thứ như cú… có văn, có văn thân, không đa văn thân, khi nói bốn chữ thì có ba thứ như danh… không có ba thứ như cú v.v… Có ba thứ như văn v.v… khi nói tám chữ thì có ba thứ như danh v.v… có cú, vô cú thân. Không Đa cú thân có ba thứ như văn v.v… khi nói mười sáu chữ thì. Có ba thứ như danh… có cú, có cú thân, không có Đa cú thân, có ba thứ như văn, v.v… khi nói ba mươi hai chữ thì có Danh, cú văn đều có ba thứ. Do đó là môn khác như lý nói, y theo văn luận trên, nhiều niệm thanh sinh, một văn, niệm thanh trước không có văn, một văn sinh, một danh và một tự cú: Tức một niệm thanh ba pháp đồng khởi, nghóa là văn, danh, cú. Hoặc hai chữ danh đã bỏ ở văn niệm trước chưa có danh, cú v.v… cho đến chữ sau thành danh, cú. Vị mới có danh, cú. Nhiều văn sinh, một danh, nhiều danh thành một câu: Chẳng phải mỗi niệm thanh đều có văn, mỗi văn đều có danh, mỗi danh đều có cú. Nhưng có một chữ sinh danh, dung có một tự một danh, một câu đều không có một tự câu. Câu phải có hai chữ, hai chữ đó trở lên sinh danh là đều ở chữ thứ hai. Mới có hai chữ danh sinh, như hai chữ cho đến nhiều chữ sinh danh là ở chữ trước, tức đắc sinh giải. Do nghe đây là thói quen ở giải nghóa trước. Chẳng phải nói trong vị trước, có hai chữ danh v.v… ở trước đã sinh, như nói các Hành, hai chữ danh, trong đó có hai: Tên hai, một chữ. Tên một, hai chữ. Nói về danh cú: Ngoài ra thí dụ y theo đây. Cho nên như thế như nói tên hai chữ, một người nghe “các”, một người nghe “hành”, đều sinh một cách kiểu khác nhau. Nếu nghe một gồm hai thì đó là thói quen. Nếu giải thích như vậy. Khéo thuận theo gọi đó là ít nhất, nghóa là một chữ. Còn nếu nói câu “các hành vô thường, “các hành” là tự tánh. “Vô thường”là khác nhau. “Danh” giải thích tự tánh. “Cú” giải thích khác nhau. Hai chữ “Vô thường” lý hợp với “hữu danh? Nếu là khác nhau thì “vô danh” khởi. “Như thật nói” Nếu là Tự tánh, hoặc là khác nhau. Thảy đều là Hữu danh. Như người nói câu các hành vô thường. Có người chỉ nghe chữ “Vô”, hoặc chỉ nghe chữ “Thường”. Hoặc nghe hai chữ “Vô thường”. Hoặc nghe đủ bốn chữ. Nếu chỉ nghe chữ Vô, nghóa là chỉ nghe nói “Vô”. Nếu chỉ nghe chữ “thường” nghóa là chỉ nói “thường”, nếu nghe cả hai chữ thì nói là “vô thường”. Nhưng vô thường này chưa thuộc pháp nào, cho nên biết trên đây nghe đều không giải thích câu, Nếu có nghe nói “các hành vô thường” Đây mới rõ câu. Biết vô thường này các hành khác nhau, lấy đây y theo mà biết, bên bốn chữ các hành vô thường, mỗi chữ đều có một chữ danh. Trong đó nếu đến hai chữ, cũng có hai chữ danh. Đến chữ thứ ba, có một chữ danh và ba chữ cú. Như có khi chỉ nghe ba chữ: Các hành vô, đây là nói: “Các hành vô”. Các hành là tự tánh, vô vi khác nhau “đến “chữ thứ tư. Có một chữ danh và hai chữ danh, ba danh và bốn chữ cú. Trong đó thêm bớt như lý nên suy nghó mà biết. Lại giải thích chỗ dùng bốn chữ danh v.v… có một chữ danh, phát ngữ xa gia hành tâm nhiều duyên này. Như nói hai chữ các hành. Thì phải trước duyên giải thích các, giải thích “hành, mỗi chữ đều có tên riêng. Mới có thể hợp thành hai chữ danh. Danh cú văn đều có ba thứ: Luận Chánh Lý, Tỳ Ba Sa nói Danh, cú, văn đều có ba thứ: Danh. Danh thân. Đa danh thân. Cú, văn cũng như vậy, Danh có nhiều vị, có một chữ sinh, có hai chữ sinh, có nhiều chữ sinh. Tỳ-bà-sa nói danh có sáu vị, có một chữ, hai chữ, bốn chữ, tám chữ, mười sáu chữ, ba mươi hai chữ. Theo luận này, y theo một bài tụng vị tương bội và cực, nói như thế. Nhưng thật ra là ba chữ “luận phi vô”, năm chữ, bảy chữ, chín chữ sinh danh. Trên dẫn Luận rằng: “Một chữ Sinh danh, hai chữ sinh danh; Nhiều chữ sinh danh, nhiều chữ sinh danh. Hoặc ba chữ trở lên sinh danh đều tên nhiều chữ, dùng ngữ pháp phương Tây nói hai danh thân có nghóa nhóm nhóm. Nói ba trở lên đều gọi là nhiều, hoặc nói bốn chữ trở lên là “đa tự sinh” gấp đôi hai chữ. Một chữ sinh danh, khi nói một chữ, thì chỉ gọi là danh, khi nói hai chữ thì có danh thân. Đa danh thân có hai giải thích: Hoăc nói thế này: Khi nói ba chữ, tức là nói Đa danh thân. Hoặc nói thế này, khi nói bốn chữ thì tức là Đa danh thân. Có người hỏi: trong Đa danh thân có hai trường hợp nói ba chữ thì gọi là Đa danh thân, nói bốn chữ thì gọi là Đa danh thân. Nghóa ấy thế nào? Giải ba chữ sinh gọi là Danh, đa danh thân, chữ thứ nhất, thứ hai là một thân, chữ thứ nhất thứ ba lại là một thân. Theo thanh nói pháp. Nói ba trở đi mới nói là nhiều. Nếu bốn chữ sinh gọi là Thân, lại giải thích chỉ đứng về “Đa thân” nên gọi “Đa danh thân”, không y theo theo đa thân. Lại giải thích trên thân thêm thân gọi là đa danh thân. Y theo ba giải thích trên tự tướng trái nhau, nhưng nói chung mà thôi, không thể đúng sai, vì sao y theo luận đã nói, chỉ nói ba nghóa: Danh, cú, văn, nghóa là một, hai, nhiều. Vì danh một, nên không thành thân. Vì danh hai, nên thành thân. Cũng phải lấy danh nhiều, nên gọi là Đa danh thân, vì sao nói vị một, hai tức gọi đó là một, hai. Thứ ba, Đa vị vì sao số đó tức nói là Thân, nếu ở trong đây vì thân nhiều nên gọi là Đa danh thân. Tức là thứ ba đối với thân số đó, trong đó cũng hợp thành thân và thân thân. Y theo giải thích thứ hai, bốn chữ sinh nhiều gần gủi, đối nhau, lẽ ra gọi là thân thân. Còn tự dẫn thanh minh nói ba trở lên mới được gọi nhiều, vì sao lại nói trên thân thêm thân gọi là Đa thân. Như vậy ba chữ sinh là thứ lớp hợp nhau cũng có hai thân, là trên thân thêm thân. Nên cũng được gọi là Đa danh thân. Tuy một giải chỉ đứng về danh nhiều nên gọi là Đa danh thân, đã không được lý do. Tức là như trùng ăn gỗ. Trong đây đã nói một, hai nhiều cả ba đều y theo danh . Không y theo thân mà nói. Tỳ-bà-sa lại có văn nói. Nên xem xét lại. Lại văn nhắc lại rằng: Ba chữ sinh danh gọi là Đa thân là sai, ba chữ sinh danh là chỉ có tên một, ba chữ. Trong đây có hai thuyết khác nhau. Y theo thành nhiều tức gọi là Đa thân, nghóa là ba trở lên. Y theo vị gấp bội, nghóa là bốn danh trở lên gấp đôi ở trước. gồm y theo hai giải thích. Nghóa đều không trái. Nên luận nêu cả hai. Nhưng chỉ có Tự, danh, cú, thể, mà không có dụng thể. Tự, Danh, Cú, năm đường, các phương, ngu tri khác nhau. Chỉ có thể nói đều phát ra văn. Y văn có danh, y danh có cú, đều có thể nói tự tánh khác nhau. Đều khiến hiển bày tự tánh khác nhau. Nên tụng đó chỉ là văn thì có thể làm. Chỉ là an bày văn đó cho đến danh, Cú. Không vật khác. Hỏi: Như nói một danh, một chữ. Đối với các phương danh đều sinh hiểu khác nhau, là có đa danh, là có một danh, là có một chữ, là có nhiều chữ. Đáp: Chữ chỉ là một, các nơi dùng chung lại không khác nhau. Danh thì khác nhau. Nếu là phương ngữ này chỉ có phương danh này. Không các phương danh chỗ dùng biết. Nhưng nếu không như vậy, thì nên chỉ nói một chữ sinh, tên lẽ ra có nhiều tên. Luận chép: Đã không nói nhiều danh, nên biết chỉ có một danh, lại phải phát ngữ phương tiện xa tâm chỉ duyên một phương danh. Hỏi: Nếu vậy vì sao sinh ra nhiều giải thích. Đáp: Như tiếng tơ trúc cũng sinh danh giải tương tợ mà chẳng phải thật. Nghóa môn phân biệt: Luận chép: Từ câu “Đây gọi là thân v.v…” cho đến “Đây đều nên nói”. Trở xuống nửa bài tụng là nghóa môn phân biệt thứ hai. Luận chép: Cho đến “Nhưng không thể nói”: là môn giới địa thứ nhất. Trong đó có hai: Chỉ có cõi Dục, cõi Sắc. Có cả cõi Vô Sắc. Nhưng không thể nói, trong hai thuyết, thuyết trước là đúng, y theo thuyết trước có hai thuyết. Một là nói chỉ tùy ngữ hệ, nghóa là chỉ có hai địa, là cõi Dục và Sơ định. hai là nói tùy thân hệ, nghóa là có cả năm địa, đó là cõi Dục và Tứ thiền, Tỳ-bà-sa bản dịch cũ có bốn thuyết hai lớp bình văn. Ban đầu có hai thuyết: Tùy ngữ. Tùy thân. - Bình lấy tùy ngữ, hai thuyết sau: Nói cõi Dục, cõi Sắc. Nói có cõi Vô Sắc. Bình lấy tùy ngữ, Pháp sư Thâm nói: một luận không thể có hai phê bình. Tùy ngữ hệ đó là hậu bình. Chỉ nói không phê bình cõi Vô Sắc có danh, chẳng phải cõi Dục bình tùy thân hệ. Pháp sư đối với giải thích này rất có lý thú. Y theo các giải thích của Luận Chánh Lý chép: Danh, cú, văn, thân, đều y theo thanh có văn. Y theo văn có danh. Lại luận này nói thanh hữu tình danh nghóa là ngữ biểu nghiệp, cho nên biết các thanh khác không có danh. Chỗ y theo ngữ nghiệp đã chỉ có hai địa, làm sao có thể y theo danh có cả năm địa. Nếu nói các luận như Chánh Lý v.v… nêu cả hai nên có cả hai, cũng không đúng lý. Luận này cũng nêu tên cõi Vô Sắc, mà không nói đúng sai, đâu cũng gồm lấy, nên biết danh tùy ngữ hệ nghóa chắc chắn. Hỏi: Nếu vậy vì sao chỉ có pháp vô ngại giải có cả năm địa đó, mà không có văn luận nói chỉ có hai chữ. Đáp: Y theo luận nói trong danh hệ địa đã nêu hai thuyết. Trong pháp vô ngại giải hệ địa thì chỉ nói có cả năm địa. Nên biết pháp vô ngại y theo thuyết năng duyên. Nếu tùy ngữ, tùy thân, đều có cảg năm địa tâm năng duyên. Do đó không có văn trình bày hai thuyết. Pháp vô ngại giải là hiểu rõ pháp tuệ. Vì sao khiến cho cùng chỗ giải danh. Chắc chắn là đồng địa. Từ vô ngại giải là nó có thể thực hành các phương ngữ. Tuệ. Do đó chỉ có ở phát ngữ địa, không có ở địa khác, nghóa là tự làm Hỏi, đáp rằng: Hỏi: Phát ngữ có cả quả tâm, không duyên ba cõi, làm sao danh.. có thể giải rõ ba cõi. Giải thích rằng: Tuy phát ngữ có cả quả tâm, không duyên ba cõi. Nhưng thông quả gia hạnh xa, có thể phát tâm năng duyên ba cõi. Chỗ phát gọi là Năng giải thích ba cõi rõ ràng Hỏi đáp này chưa đạt được tất cả phát ngữ tâm. Tất cả tâm là nhân gần đẳng khởi phát nghiệp, đều duyên sắc thanh làm cảnh, vì sao chỉ hỏi tâm Thông quả. Trong gia hạnh có duyên theo danh đó, không chắc chắn duyên theo nghóa sở thuyên. Như nhiều người không không biết ngọc báu Ma-ni, chẳng lẽ không được có tên ngọc báu này hay sao? Phân biệt tình và phi tình: Luận chép: Từ câu “Lại danh thân v.v…” cho đến “chẳng phải nghóa sở hiển”. Thứ hai phân biệt Tình và phi tình. Luận Tỳ-bà-sa quyển 15 chép: Hỏi: Ai thành tựu danh v.v… là năng thuyết hay sở thuyết? Nếu vậy thì có lỗi gì. Nếu năng thuyết thì La-hán lẽ ra thành pháp nhiễm ô. Vì La-hán cũng nói pháp nhiễm ô, nếu đã nói thì việc ngoài. Vô vi lẽ ra cũng thành tựu danh, vì kia cũng là pháp sở thuyết . Đáp: chỉ có người năng thuyết là thành tựu danh, v.v… Hỏi: Nếu vậy, câu hỏi sau khéo hiểu. Câu hỏi trước làm sao hiểu. Đáp: A-la-hán v.v… tuy thành tựu các tên nhiễm ô v.v… nhưng không thành tựu các pháp nhiễm ô. Vì các tên nhiễm ô đều là pháp vô phú vô ký quyển mười lăm lại chép. Hỏi: Danh, v.v… là thiện, bất thiện hay vô ký? Đáp: Vô ký chẳng tạo nghiệp nên suy nghó khởi. Như bốn đại chủng, như trên là văn luận. Nhưng khi phát nghiệp các nhân gần khởi chỉ duyên ở thanh. Nhân xa khởi cũng duyên chung ở danh. Không từ nhân xa phê phán tánh. Chỗ khác nói tên hai duyên: nghiệp, tâm là nói theo xa . Phân biệt theo loại: Luận chép: “Lại gọi thân v.v… chỉ là Đẳng Lưu.” Thứ ba, năm là phân biệt theo loại. Vì chẳng phải Sắc pháp, nên chẳng phải nuôi lớn. Tùy muốn sinh nên chẳng phải dị thục, là Hữu vi nên chẳng phải thật. Từ nhân đồng loại sinh nên chẳng phải dị thục, là hữu vi nên chẳng phải thật. Từ nhân đồng loại sinh nên chẳng phải Sát- na, là tánh Đẳng lưu. Luận chép: “Lại chỉ thuộc về tánh vô phú vô ký”, Thứ tư là môn chia ra Ba tánh. Luận chép: như trên đã nói, trở xuống gồm một bài tụng là Đại môn thứ hai, là giải thích chung nghóa khác. Luận chép: Cho đến “Vô phú vô ký là giải thích”. Câu thứ nhất của bài tụng, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Và Vô Sắc” cho đến loại thông hai nghóa, là giải thích câu thứ hai của bài tụng. Câu trên nói: một phần đồng, câu dưới nói: Một phần Dị,Danh thân v.v… Giới chỉ có ở cõi Dục, cõi Sắc. Loại chỉ có Đẳng lưu. Đồng phần giới thì có ở cả ba cõi. Loại thông ở hai, cũng là nghóa Dị. Luận Chánh Lý chép: “Thế nào gọi là các đường dị thục, nghóa là địa ngục và noãn sinh v.v … Sinh đồng phần. Thế nào là Đẳng lưu? nghóa là giới. Địa, xứ, chủng tánh, tộc loại, Sa-môn, Phạm chí, Hữu học, vô học v.v… tất cả đồng phần. Có sư khác nói trong các đồng phần có nghiệp trước đã dẫn sinh là dị thục đồng phần. Hiện tại gia hành khởi là Đẳng lưu đồng phần. Luận chép: Từ câu “Đắc và các tướng” cho đến “chẳng phải dị thục, v.v… Là giải thích: Hai câu dưới, lời văn rất dễ hiểu. Luận chép: Từ câu “Đã nói như thế” cho đến “Tùy theo sự thích ứng, y theo mà biết” trở xuống chỉ đáng, lời văn rất dễ hiểu.