<經 id="n1819">VÔ LƯỢNG THỌ KINH ƯU BA ĐỀ XÁ NGUYỆN SINH KỆ (QUYỂN THƯỢNG & HẠ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1819 VÔ LƯỢNG THỌ KINH ƯU-BA-ĐỀ-XÁ NGUYỆN SINH KỆ Bồ-tát Bà-tẩu-bàn-đầu soạn và chú thích Đời Ngụy chùa Vónh Ninh, Sa-môn Bồ-đề-lưu-chi người Bắc Thiên Trúc dịch. Đời ngụy, chùa Huyền Trung trong hang Thạch Bích Tỉnh Tây Hà, Sa-môn Đàm Loan chú giải. <卷>QUYỂN THƯỢNG Xét kỹ luận “Thập Trụ Tỳ-bà-sa” của Bồ-tát Long Thọ có chép: Bồ-tát tìm cầu A-tỳ-bạt-trí có hai thứ đạo: Đạo khó hành. Đạo dễ hành. 1.Đạo khó hành: Trong cõi đời đầy năm thứ vẩn đục, vào thời không có Phật mà tìm cầu chánh định thì rất khó. Cái khó này có nhiều đường, mà dùng dăm ba lời thô thiển để chỉ bày ý nghóa: Tướng thiện của ngoại đạo làm loạn pháp Bồ-tát. Các Thanh Văn vì tự lợi mà ngăn che lòng từ bi lớn. Những bọn xấu ác vô lại phá hoại đức tốt của người. Làm điên đảo quả lành, làm phá hoại phạm hạnh. Chỉ nương vào sức mình mà không nhờ sức người Những việc như thế ở đâu cũng thấy thì như đi đường bộ thì rất vất vả. 2.Đạo dễ hành: Tức là chỉ do nhân duyên tin Phật nguyện sinh về Tịnh độ, nương vào nguyện lực của Phật thì sẽ được vãng sinh về cõi thanh tịnh ấy, nhờ an trú vào Phật lực liền được nhập vào nhóm Đại thừa chánh định của Chánh định tức là A-tỳ-bạt-trí. Ví như đi thuyền dưới nước, thì an vui. Kinh Vô Lượng Thọ Ưu-ba-đề-xá này bao gồm hết mọi nẻo cao thấp rộng hẹp, như người đi thuyền lướt gió mà không bị lui sụt. Vô Lượng Thọ là tên khác của Đức Như Lai ở cõi Tịnh An Lạc. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngụ trong thành Vương xá và nước Xá-vệ, ở trong đại chúng õ nói về công đức trang nghiêm của Đức Phật Vô Lượng Thọ, lấy danh hiệu của Đức Phật ấy làm thể của Kinh. Bậc Thánh sau này là Bồ-tát Bà-tẩu-bàn-đậu hết sức khâm phục lời dạy của Đức Như Lai Đại Bi. Dựa vào kinh để soạn bài kệ nguyện sinh, lại dùng lối văn xuôi nhằm giải thích lần nữa. Tiếng Phạm Ưu-ba-đề-xá ở trung quốc không có tư ngữ tương đương để dịch, nếu chỉ nêu ra một phần của ý nghóa thì dịch là Luận. Sở dó không có từ ngữ tương đương để dịch là vì ở trung quốc vốn không có Phật. Như sách ở trung quốc do Đức Khổng Tử soạn thì gọi là kinh, đệ tử soạn thì đều gọi là Tử. Lịch sử, kỷ cương của đất nước thì mỗi nơi có thể lệ khác nhau. thuyết giảng nói trong mười hai bộ kinh, có kinh mang tính chất nghị luận gọi là Ưu-ba-đề-xá. Nếu các đệ tử Phật hiểu rõ lời dạy trong kinh ấy, tương hợp với nghóa lý của Phật đã dạy thì Đức Phật cũng chấp thuận, gọi là Ưu-ba-đề-xá, xếp vào pháp tướng của ø Phật. Ở đây gọi là Luận, chính là nghị luận mà thôi, đâu thể dịch đúng tên gọi này? Lại như người nữ, đối với con cái thì gọiï là mẹ, đối với anh gọi là em. Cũng thế v.v…những việc khác cũng đều tùy theo nghóa mà có khác nhau. Như chỉ lấy tên người nữ mà luận bàn phiếm về mẹ và em vẫn không làm mất đi đại thể của người nữ, nên có thể bao gồm hết ý nghóa cao thấp chăng? Những điều gọi là luận cũng lại như vậy. Bởi do vẫn còn giữ nguyên âm tiếng Phạm nên gọi là Ưu-ba-đề-xá. Luận này trước sau gồm có hai lớp: Một là phần nói chung. Hai là phần giải nghóa. Phần nói chung: Bao gồm hết bài kệ mỗi câu năm chữ ở phần trước. Phần giải nghóa: Từ luận rằng v.v…trở xuống là văn xuôi cho đến hết. Sở dó gọi là hai lớp, vì có hai nghóa: Kệ dùng để tụng kinh là gom nhiếp chung. Luận để giải thích kệ là giải nghóa Vô Lượng Thọ: Chỉ cho Đức Như Lai Vô Lượng Thọ, tức tuổi thọ lâu dài không thể suy nghó bàn luận luận. Kinh: là thường. Nói cõi nước An Lạc, Phật và Bồ-tát đều có công đức trang nghiêm thanh tịnh. Cõi nước có công đức trang nghiêm thanh tịnh thì có thể làm lợi ích lớn cho chúng sinh thường được lưu hành ở đời, nên gọi là Kinh. Ưu-ba-đề-xá là tên bộ kinh mang tính Nghị luận của Phật. Nguyện là nghóa ưa thích mong muốn. Sinh: Bồ-tát Thiên Thân nguyện sinh về cõi tịnh An Lạc ấy, được sinh trong hoa báu thanh tịnh của Đức Như Lai, nên gọi là nguyện sinh. Kệ: Là nghóa về số câu, dùng câu năm chữ để lược tụng kinh Phật nên gọi là kệ. Bà tẩu dịch là Thiên, Bàn đầu dịch là Thân. Vị nầy tự là Thiên Thân. Việc này trong kinh Phó Pháp Tạng có nói. Bồ-tát: Nếu giữ đủ nguyên âm tiếng Phạm phải nói là Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề là tên của Đạo Phật. Tát đỏa Hán dịch là chúng sinh, hoặc dịch là Dũng Kiện. Các chúng sinh nào cầu Phật đạo, có ý chí mạnh mà vững chắc thì gọi là Bồ Đề Tát Đỏa. Nay chỉ nói Bồ-tát là do người dịch lược bớt. Chữ Tạo cũng gọi là Tác, bởi người soạn pháp nên gọi là người ấy tạo. cho nên nói: “Vô Lượng Thọ kinh Ưu-ba-đề-xá nguyên sinh kệ, Bà-tẩu-bàn-đầu Bồ-tát Tạo”. (Bài kệ nguện sinh của kinh Vô Lượng Thọ Ưu-ba-đề-xá do. Bồ- tát Bà-tẩu-bàn-đầu soạn). Giải thích danh mục của Luận đã xong. Trong bài kệ chia làm năm niệm môn, sau đây dùng văn xuôi để giải thích. Bài thứ nhất là bốn câu kệ, gồm có Ba niệm môn. Ba câu trên thuộc về môn Lễ bái tán thán. Một câu sau là thuộc về môn phát nguyện, Bài thứ hai là Luận chủ tự nói con òn nương vào kinh Phật mà soạn luận, tương ưng với lời Phật dạy, đã có tông chỉ, vì sao Luận này thành tên Ưu-ba-đề-xá. Cũng là thành ba môn trên, khởi hai môn dưới, như thế là theo thứ lớp nói. Từ bài thứ ba cho đến hết bài thứ hai mươi là thuộc về môn quán sát. Một bìa sau cùng thuộc về Môn hồi hướng. Phân chia kệ chương môn đã xong. Thế Tôn! con một lòng Quy mạng khắp mười phương Như Lai Vô Ngại Quang Nguyện sinh cõi An Lạc. Thế Tôn là hiệu chung của Chư Phật. Nói về Trí thì nghóa chẳng có chỗ nào không thông đạt. Nói về sự dứt trừ thì thói quen đều dứt sa- ïch. Trí, đoạn đầy đủ thì làm được lợi ích cho thế gian, là bậc đáng tôn trọng ở đời, nên gọi là Thế tôn.Ở đây ý nói là trở về với Đức Thích-ca Như lai. Vì sao biết được? Vì câu sau nói: “Con nương Tu-đa-la”, Bồ-tát Thiên Thân ra đời vào thời ø tượng pháp của Đức Thích-ca Như lai thuận theo lời dạy trong kinh của Ngài, cho nên nguyện sinh. Nguyện sinh có tông chỉ, cho nên biết câu nói nầy là trở về với Đức Thích-ca. Nếu cho rằng ý này chỉ cho khắp cả Chư Phật thì cũng không ngại gì. Bồ-tát trở về với Phật cũng như người con hiếu thảo trở về với cha mẹ; như tôi trung trở về với Vua chúa. Động tónh chẳng phải mình, nổi chìm phải có lý do. Biết ân báo đức, lý nên nêu bày trước. Lại, Sở nguyện không xem thường, nếu Đức Như lai không gia thêm sức thần uy nghiêm thì lấy gì thông đạt? Cho nên Bồ-tát cầu xin thêm năng lực oai thần, vì vậy mà nói là kính bạch. Con một lòng: Bồ-tát Thiên Thân là lời là tự bạch của ý nóinhớ nghó Đức Như lai Vô Ngại Quang, nguyện sinh về cõi An Lạc, tâm niệm nối nhau không có ý tưởng nào khác xen vào. Hỏi: Trong Pháp Phật nói vô ngã, ø trong luận này vì sao nói Ngã? - Đáp: Nói Ngã, có ba thứ căn bản: Lời tà kiến; Lời tự đại; Lời thông thường. Nay nói Ngã là do Bồ-tát Thiên Thân tự chỉ mình nên dùng lời nói thông thường, chứ chẳng phải lời nói tà kiến, tự đại. Quy mạng tận mười phương Vô Ngại Quang Như Lai: Quy mạng ø thuộc về môn lễ bái. Tận thập phương Vô Ngại Quang Như lai thuộc về môn khen ngợi. Làm sao biết quy mạng là Lễ bái? Bồ-tát Long Thọ soạn trong ä “A di đà Như lai tán”do hoặc nói là khể thủ lễ, hoặc nói là Ngã quy mạng, hoặc nói là quy mạng lễ. Trong luận, văn xuôi của này cũng nói là tu môn năm niệm. Trong môn năm niệm thì lễ bái là thứ nhất. Bồ-tát Thiên Thân đã nguyện vãng sinh, đâu không lễ bái?. Cho nên biết quy mạng tức là lễ bái. Nhưng lễ bái chỉ là cung kính, không cần quy mạng, còn quy mạng thì phải lễ bái. Nếu xét kỹ việc này thì quy mạng là quan trọng. Kệ trình bày về tâm nguyện của mình nên nói là quy mạng. Luận giải về nghóa bài kệ. Bàn rộng thích lễ bái, kia đây thành nhau đối với nghóa càng bày rõ. Vì sao biết khắp mười phương Vô Ngại Quang Như lai thuộc về môn tán thán? Trong văn xuôi ở dưới có nói. Thế nào là môn tán thán? Nghóa là xưng niệm danh hiệu A-di-đà Như lai, Đức Như Lai đó trí tướng sáng chói đúng như danh nghóa. Vì muốn tu hành tương ưng như thật theo kinh Vô Lượng Tho do phật giảng nói ở nước xá vệ thì, phật giải thích danh hiệu A-di-đà Như lai. Vì sao hiệu là A-di-đà? Vì Đức Phật ấy có ánh sáng vô lượng chiếu khắp tất cả các cõi nước ở mười phương, không hề chướng ngại, nên hiệu là A-di-đà. Lại, Đức Phật và dân chúng trong nước ấy có tuổi thọ vô lượng vô biên A- tăng-kỳ kiếp, nên hiệu là A-di-đà. Hỏi: Nếu nói Đức Vô Ngại Quang Như lai có ánh sáng vô lượng chiếu khắp mười phương cõi nước không hề bị chướng ngại, thế thì chúng sinh ở thế gian này vì sao không được ánh sáng đó soi chiếu? Ánh sáng còn có chỗ không chiếu, thì đâu chẳng phải là có chỗ bị ngăn ngại ư? Đáp: Ngại là thuộc về chúng sinh chứ chẳng phải ø ánh sáng bị ngăn ngại. Ví như ánh sáng mặt trời chiếu soi cả bốn châu trong thiên hạ, nhưng người mù thì không thấy được, chứ chẳng phải do ánh sáng mặt trời không chiếu khắp. Cũng như từ đám mây dày đặc kia, tuôn mưa xuống mà hòn đá vô tri không thấm được thì đó là do đá, chứ chẳng phải mưa không thấm ướt. Như nói một Đức Phật là giáo chủ, hóa độ khắp cả Tam thiên Đại thiên thế giới là trong luận Thanh Văn nói, nếu nói Chư Phật ứng hiện giáo hoá vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương là trong luận Đại thừa nói. Bồ-tát Thiên Thân nay nói khắp mười phương vô Ngại Quang Như lai, tức là nương vào danh hiệu của Đức Như lai ấy, khen ngợi trí tưởng ánh sáng của Ngài, cho nên biết câu này thuộc về môn khen ngợi. Nguyện sinh về cõi nước An Lạc: Câu này thuộc về môn khởi nguyện. Ý nói Bồ-tát Thiên Thân quy mạng, là quy mạng về cõi nước An Lạc kia, có nói đủ trong môn quan sát dưới đây. Hỏi: Trong kinh luận Đại thừa đều nói chúng sinh rốt ráo vô sinh như hư không, thế thì sao Bồ-tát Thiên Thân lại nói là nguyện sinh? Đáp: Nói chúng sinh vô sinh như hư không, có hai thứ: Một, như phàm phu cho là chúng sinh thật có tức phàm phu đã thấy cho sinh tử là thật, nhưng sự thấy biết này hoàn toàn rốt ráo không thật có, như lông rùa, như hư không. Hai, cho là các pháp do nhân duyên sinh, tức là bất sinh, không thật có, như hư không. Bồ-tát Thiên Thân nguyện sinh là nghóa nhân duyên.Vì nghóa nhân duyên giả danh sinh, chẳng phải như phàm phu cho là thật có chúng sinh, thật có sinh tử. Hỏi: Nương vào đâu mà nói vãng sinh? Đáp: Ở đây người mượn danh tu môn năm niệm, niệm trước và niệm sau khởi nhân. Người mượn danh cõi uế trược, người mượn danh cõi thanh tịnh, không được quyết định một, không được quyết định khác, tâm trước tâm sau cũng như thế.Vì sao? Vì nếu một thì không có nhân quả, nếu khác thì chẳng phải nối nhau, là nghóa pháp môn quán một quán khác, trong luận. Có nói rõ Hạnh thứ nhất về Ba niệm môn đã xong. Kế là thành tên gọi Ưu-ba-đề-xá! Lại thành phần trên khởi kệ sau. Con nương Tu-đa-la Tướng công đức chân thật Xin nói kệ tổng trì. Hợp với lời Phật dạy. Hạnh này, sao gọi là thành tên gọi Ưu-ba-đề-xá? Sao gọi là thành ba môn trước, khởi hai môn sau? Bài kệ chép: Con nương Tu-đa-la, hợp với lời Phật dạy. Tu-đa-la: là tên kinh Phật. Con nói về nghóa kinh Phật hợp với kinh, được xếp vào pháp tướng của Phật nên thành tên gọi Ưu-ba-đề-xá: Thành tên đã xong. Kế là thành ba môn trước, khởi hai môn sau. Nương vào chỗ nào? Do đâu mà nương? Nương bằng cách nào? Chỗ nương vào ấy tức nương vào Tu-đa-la, vì sao lại nương? Vì Đức Như lai là tướng công đức chân thật. Thế nào là nương? Vì tu môn năm niệm hợp nhau. Thành phần trước, khởi phần sau đã xong. Tu-đa-la: Trong mười hai bộ kinh, đều được gọi là Tu-đa-la, nghóa là bốn bộ A-hàm ba tạng, v.v.. Ngoài ba tạng, các kinh Đại thừa cũng gọi là Tu-đa-la. Trong luận này nói nương vào Tu-đa-la, đó là nói các kinh Đại thừa ngoài ba tạng, chẳng phải kinh A-hàm, v.v.. Chân thật có hai thứ công đức: Một là từ tâm hữu lậu phát sinh, không thuận theo pháp tánh, nghóa là các cõi trời, người phàm phu thuộc về quả báo lành của trời, người, hoặc nhân hoặc quả đều là điên đảo, đều là luống dối, cho nên gọi là công đức không chân thật; Hai là từ Bồ-tát trí huệ thanh tịnh, làm các Phật sự thường trang nghiêm, nương vào pháp tánh hội nhập tướng thanh tịnh, là pháp không điên đảo, không luống dối, nên gọi là công đức chân thật. Thế nào là không điên đảo? Nghóa là nương theo pháp tánh, thuận theo hai đế. Thế nào là không luống dối? Nhiếp hóa chúng sinh hội nhập cõi thanh tịnh rốt ráo, nói nguyện kệ tổng trì, hợp với lời Phật dạy. Trì: Tức là không tan, không mất. Tổng: Là dùng ít thu nhiếp nhiều Kệ: là nói số câu năm chữ.mỗi câu Nguyện: Ưa muốn vãng sinh. Thuyết: Là nói các luận kệ, bao gồm chung mà nói. Nói kệ nguyện sinh, giữ gìn kinh Phật, hợp với lời Phật dạy. Tương ưng: Ví như nắp và hộp vừa khít nhau. Quán tướng thế giới ø vượt khỏi ba cõi. Dưới đây thuộc về môn quán sát thứ tư, trong môn này chia làm hai thứ khác nhau: Quán sát sự thành tựu trang nghiêm khí thế gian. Quán sát sự thành tựu trang nghiêm chúng sinh thế gian. Từ câu này trở xuống cho đến câu nguyện sinh về cõi nước của Đức Phật A-di-đà, là thuộc về quán sự thành tựu tranh nghiêm khí thế gian. Trong phần quán khí thế gian lại chia ra mười bảy thứ khác nhau cho đến văn đương xem. Hai câu này tức là sự thứ nhất gọi là quán sát sự thành tựu công đức trang nghiêm thanh tịnh sự. Thanh tịnh này là tướng chung. Đức Phật sở dó tạo nên công đức thanh tịnh này vì Ngài nhận thấy ba cõi là tướng luống dối, luẩn quẩn như loài côn trùng, như con tằm nhả kén, tự trói buộc mình. Thương thay chúng sinh bị buộc ràng mãi trong ba cõi này, đảo điên không thanh tịnh, Ngài muốn đặt chúng sinh vào chỗ không luống dối, vào nơi không bị trôi lăn, vào nơi không phải vô cùng, vào nơi thanh tịnh lớn lao, có được sự an vui rốt ráo, nên nêu ra công đức trang nghiêm thanh tịnh này. Thành tựu: Ý nói sự thanh tịnh ấy không thể phá hoại, không bị ô nhiễm, chẳng phải như ba cõi là sự ô nhiễm, là tướng bị phá hoại. Quán: Là quán sát Kia : Chỉ cõi nước An Lạc. Tướng thế giới: Tướng thế giới An Lạc thanh tịnh, tướng ấy khác với tướng ở cõi dưới, vượt khỏi ba cõi. Đạo: Là chung vì nhân như thế thì được quả báo như thế. Quả như vậy là õ nhận từ nhân như vậy, chung nhân đến quả, chung quả đáp lại nhân, nên gọi là Đạo. * Ba cõi:. Một là cõi Dục. Cái gọi là sáu tầng trời cõi Dục và cõi người gồm bốn châu thiên hạ, các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Hai là cõi Sắc: Gồm các tầng trời Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.. Ba là cõi Vô Sắc: gồm có tầng trời Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ba cõi này vốn là cái nhà u tối mãi bị trôi lăn trong vòng phàm phu sinh tử, vì có sự khổ vui khác nhau ít nhiều, sự tu tập tạm thời, ngắn ngủi không giống nhau. Tóm lại đều là pháp hữu lậu, nương vào sự tuần hoàn không có bờ bến, xen nhau sinh ra xúc thọ và bốn thứ điên đảo kéo dài, vừa nhân vừa quả, luống dối nối nhau An lạc là do nhận từ bi chánh quán của Bồ tát sinh ra, Như lai lập nên thần lực bổn nguyện. Thai, noãn, thấp, sinh duyên theo đó hứng lấy nghiệp trói buộc lâu dài, từ đây dứt hẳn. Tiếp tục cân nhắc, bó buộc mình, không đợi khuyên bảo mà phải tự mình xem xét, siêng năng, khéo léo nhún nhường và cũng có đức độ như Ngài Phổ Hiền, là nói lời thiết thực để vượt khỏi ba cõi. Rốt ráo như hư không Rộng lớn không bờ mé Hai câu này là nói sự thành tựu về lượng công đức trang nghiêm. Đức Phật sở dó nêu lượng công đức trang nghiêm này, vì Ngài thấy ba cõi nhỏ hẹp, đọa vào những nơi hiểm nan, đồi núi gò nỗng, hoặc nơi cung cấm ép ngặt, hoặc đất ruộng ngăn che hiểm trở, hoặc chí cầu đi trên đường ngắn, hoặc núi sông ngăn cách, hoặc cõi nước chia ra từng bộ phận. như thế có những việc cấp bách cho nên , các Bồ-tát khởi nguyện lập nên số lượng công đức trang nghiêm này. Nguyện cõi nước của ta rộng lớn như hư không, không bờ bến. Như hư không: Ý nói đời vị lai tuy có nhiều nhưng cũng như hư không. Rộng lớn không bờ mé: Thành nghóa như hư không ở trên, vì sao như hư không? Vì rộng lớn không có bờ mé. Thành tựu: Nói chúng sinh mười phương đều được vãng sinh, hoặc đã sinh về, hoặc đang sinh về, hoặc sẽ sinh về, dù rằng vô lượng vô biên nhưng rốt ráo thường như hư không, rộng lớn không bờ mé, không hề có lúc đầy, cho nên nói rốt ráo như hư không, rộng lớn không bờ mé. Hỏi: Như ngôi thất vuông vức một trượng của Ngài Duy-ma chứa đựng mọi thứ, đâu phải nói cõi nước không lường được mới gọi là rộng lớn? Đáp: Nói rộng lớn, chẳng phải ø lấy diện tích đất đai để làm thí dụ, chỉ nói như hư không cũng đâu cần phải hạn lượng đến vuông vức một trượng. Lại chỗ dung chứa của thật vuông vức một trượng thì ở đấy tuy hẹp mà rộng. kỹ quả báo, đâu như ở chỗ rộng mà nói rộng? Nẻo chánh đại từ bi Gốc lành sinh ra đời. Hai câu này là nói sự thành tựu tánh công đức trang nghiêm. Vì sao Đức Phật lập nên tánh trang nghiêm này? Vì Ngài thấy do ái dục nên có cõi Dục, do dụng lực của thiền định duyên hợp nên có cõi Sắc cõi Vô Sắc. Ba cõi này đều bắt nguồn từ nẻo tà hữu lậu phát sinh, như giấc ngủ dài trong cõi mộng lớn, chẳng cầu mong ra khỏi. Cho nên ta khởi tâm đại bi, nguyện khi thành Phật dùng đạo chánh kiến vô thượng lập nên cõi thanh tịnh, vượt ra ba cõi. Tánh là nghóa căn bản, nói cõi Tịnh này thuận theo pháp tánh, không trái với nền tảng chánh pháp. Việc ấy đồng nghóa với việc dấy khởi tánh Như lai Bảo Vương trong kinh Hoa Nghiêm. Lại nói chứa nhóm thành tánh, chỉ cho Bồ-tát Pháp Tạng chứa nhóm các pháp Ba-la- mật mà được thành tựu, cũng nói tánh là chủng tánh của bậc Thánh. Bồ-tát Pháp Tạng ở vào thời Đức Phật Thế Tự Tại Vương, ngộ được pháp nhẫn Vô Sinh. Bấy giờ, ở giai vị Thánh Chủng tánh ở, trong tánh đó, Ngài phát ra bốn mươi tám nguyện lớn, lập nên cõi này gọi là cõi Tịnh An Lạc, do nhân đó mà được, tức trong quả nêu nhân, nên gọi là Tánh. Lại nói Tánh là nghóa tất nhiên, không thay đổi. Như tánh của nước biển chỉ có một vị, các dòng chảy vào cũng hợp thành một vị, mùi vị nước biển không vì sự thêm vào kia mà thay đổi. Lại như thân người, thể tánh vốn bất, các thứ vị thơm ngon tốt đẹp được đưa vào thân đều thành bất tịnh. người được vãng sinh về cõi Tịnh An Lạc đều được sắc thân trong sạch, tâm thanh tịnh, rốt ráo đều được pháp thân thanh tịnh, bình đẳng, vô vị, vì cõi Tịnh An Lạc thành tựu được tánh thanh tịnh. Chánh đạo đại từ bi, gốc lành xuất thế sinh: Là đại đạo bình đẳng. Đạo bình đẳng gọi là chánh đạo, vì bình đẳng là thể tướng các pháp. Do các pháp bình đẳng nên phát tâm bình đẳng. Vì phát tâm bình đẳng, nên đạo bình đẳng. Vì Đạo bình đẳng nên đại từ bi bình đẳng. Đại từ bi là nhân chánh của Phật đạo cho nên nói chánh đạo đại từ bi. * Từ bi có ba duyên: Duyên với chúng sinh: Là từ bi bậc thấp. 2- Duyên với các pháp: Là từ bi bậc trung. 3- Duyên với không: Là từ bi rộng lớn. Đại từ bi là điều lành xuất thế gian.Cõi Tịnh An Lạc từ đại từ bi này mà phát sinh, nên gọi đại bi này là gốc của Tịnh độ. Kệ viết: Gốc lành xuất thế sinh Đầy đủ ánh sáng tịnh Như gương vầng trời trăng Hai câu này nói sự thành tựu về hình tướng công đức trang nghiêm. Phật sở dó lập nên tướng công đức trang nghiêm này, vì Ngài thấy mặt trời vận hành trong bốn cõi, ánh sáng không thể bao trùm hết cả ba phương, chiếu soi đủ khắp mọi nhà, soi thấu xa không đầy mười nhận ( một nhận là tám mươi thước nhà Chu), vì thế Ngài khởi nguyện giúp cho ánh sáng được đầy đủ như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, thể tánh của nó thường đầy đủ. Cõi Tịnh An Lạc kia lại rộng lớn vô biên, ánh sáng thanh tịnh không chỗ nào không chiếu sáng đầy đủ, nên gọi là: Đủ đầy ánh sáng tịnh Như gương trời trăng vầng Tánh châu báu đủ các Diệu trang nghiêm đầy đủ Hai câu này là nói thành tựu về vô số sự việc công đức trang nghiêm. Vì sao bản nguyện của đức Phật lại dốc lòng lập nên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước dùng bùn đất để trang sức cho nhà cửa, dùng cây đá làm đền đài đẹp đẽ, hoặc khắc vàng chạm ngọc, ý nguyện không đầy khắp hoặc mưu cầu trăm ngàn thứ, chịu đủ mùi cay đắng. Thế nên Ngài khởi tâm đại bi, nguyện khi mình thành Phật, sẽ giúp cho cõi nước đủ đầy các thứ châu báu tự nhiên đẹp đẽ, quên cảnh hữu dư, tự được Phật đạo. Sự trang nghiêm này, dẫu cho Tỳ-thủ-yết-ma được xem là một người thợ khéo léo, chứa chất những tư duy hết sức dồi dào, cũng đâu thể giữ được bức tranh đó? Tánh là nghóa căn bản. Chủ thể sinh ra đã thanh tịnh thì chỗ được sinh ra làm sao không thanh tịnh? Cho nên trong kinh chép: “Hễ tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”. Cho nên nói: “Tánh châu báu đủ các, diệu trang nghiêm đầy đủ”. Ánh không nhỏ sáng ngời. Sáng sạch Chiếu thế gian. Hai câu này nói sự thành tựu về sắc mầu công đức trang nghiêm. Vì sao bản nguyện của Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước hơn kém khác nhau, vì khác nhau nên hình tướng có cao thấp, đã có hình tướng cao thấp thì phải quấy liền sanh phải quấy đã sanh thì đắm chìm mãi trong ba cõi. Cho nên Ngài dấy khởi tâm đại bi phát thệ nguyện bình đẳng, nguyện cho cõi nước của mình ánh sáng tỏa chiếu đầy đủ bậc nhất không cõi nào sánh bằng, không mầu vàng các cõi trời, người thể bằng được. Nếu cả hai cõi là hơn ví như gương sáng ở bên cạnh vàng thì gương sẽ không còn hiển hiện. Vàng với thời này so sánh với vàng thời Phật thì vàng thời nay thua xa. Vàng thời Phật so với vàng Diêm-phù-na thì vàng thì phật thua soa vàng Diêm-phù-na so với cát vàng dưới biển lớn của vua Chuyển Luân thì vàng Diêm-phù-na không còn hiển hiện. Đem cát vàng của vua Chuyển Luân mà so với núi vàng thì thứ vàng nêu trước không còn hiển hiện. Sánh núi vàng so với vàng núi Tu-di thì núi vàng kia thua xa . Vàng ở núi Tu-di so với vàng Anh Lạc của tầng trời Ba mươi ba (trời Đao-lợi) thì vàng ở núi Tu-di thua kém. Vàng tầng trời Ba mươi ba so với vàng ở cõi trời Diệm-ma thì váng ờ tầng trờ ba mươi ba thua xa. Vàng ở tầng trời Diệm-ma so với vàng ở tầng trời Đâu-suất-đà thì vàng của Diệm-ma thua xa. Vàng trời Đâu-suất-đà so với vàng của cõi trời Hoá Tự tại thì vàng ở cõi trời đâu suốt đã thua xa . Vàng của trời Tha Hóa Tự Tại so với vàng ở tầng trời Hóa Tự Tại thì vàng của cõi trời Hoá Tự Tại thua xa. Vàng ở tầng trời Tha Hoá Tự Tại so với vàng ở cõi An Lạc thì vàng ở tầng trời Tha Hóa Tự Tại thua xa. Vì sao? Vì vàng ở cõi An Lạc là từ diệu lực của nghiệp lành vô cấu sinh ra, cho nên thanh tịnh, không nơi nào không thành tựu. Cõi Tịnh An Lạc là do nghiệp thanh tịnh của Bồ-tát đạt pháp Vô Sinh Nhẫn dấy khởi. Do Đức A-di-đà Như lai ø Pháp Vương thống lãnh, A-di-đà Như lai là duyên tăng thượng, cho nên nói: “Ánh không nhơ sáng ngời, Sáng sạch chiếu thế gian”. Chiếu sáng thế gian là hai thứ thế gian chiếu sáng. Cỏ công đức tánh báu Mềm mại xoay theo chiều Chạm vào sinh ưa thích Hơn Ca-chiên Lân-đà. Bốn câu này gọi là nói sự thành tựu xúc công đức trang nghiêm. Vì sao bản nguyện của Đức Phật lập nên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước, mặc dù vàng ngọc quý giá đầy dẫy nhưng không được dùng làm y phục. Ngọc báu, gương sáng, không được chọn làm vật trang sức cho các tòa ngồi. Duyên theo đó chỉ tạo sự ưa thích ở mắt mà không tiện lợi đối với thân. Thân và mắt hai (căn), đâu chẳng phải mâu thuẫn? Cho nên Ngài nguyện rằng: Nguyện cho cõi nước của tôi, người và trời sáu căn hòa hợp, như nước hòa với sữa, trút bỏ hết bao nhiêu sự lao nhọc vất vả. Do đó, bảy thứ báu mềm mại không chỉ làm ưa thích mắt mà còn là sự tiện lợi cho thân. Ca-chiên-lân-đà là tên một thứ cỏ mềm mại ở nước Thiên trúc, chạm vào loại cỏ này thì sinh ra sự ưa thích, cho nên dùng để ví dụ. Người chú giải nói: Ở cõi này, đất đá, cỏ cây mỗi vật đều có tự thể nhất định của nó. Người dịch dựa vào đâu mà khen ngợi tánh báu ấy là của cỏ? Vì loài cỏ ấy mầm lá nõn nà xoay theo chiều và nhỏ nhắn cho nên chỉ dùng loại cỏ mắt thấy đó mà thôi. Nếu tôi dịch xen vào thì sự diễn tả sẽ ù khác nhau. Sinh thắng lạc giả: Chạm vào Ca-chiên-lân-đà thì sinh ra sự thích thú mang tánh chất tham đắm, còn chạm vào loại cỏ báu mềm mại thì sinh tâm vui mừng ưa thích. Hai thứ khác nhau, chẳng phải hơn loại cỏ kia hay sao? Cho nên nói: “Cỏ công đức tánh báu, mềm mại xoay theo chiều, chạm vào sinh ưa thích, hơn Ca-chiên-lân-đà”. Muôn ngàn loại hoa báu Giăng phủ khắp suối ao Gió nhẹ động cánh hoa Ánh sáng hòa rung rinh. Bốn câu này là nói sự thành tựu nước công đức trang nghiêm. Vì sao bản nguyện của Đức Phật khởi lên thệ nguyện này? Vì Ngài thấy có cõi nước bị mưa lớn làm chìm đắm, sóng dữ của biển cả dâng tràn cuồn cuộn là cho mọi người kinh sợ, hoặc là ngưng đọng, hoặc đóng thành băng lớn, ép ngặt bất thường, khiến trong lòng không được an vui, lại còn có bao sự lo lắng sợ sệt. Bồ-tát thấy như thế nên khởi tâm đại bi. Nguyện khi thành Phật thì, ở cõi nước mình nơi nào cũng đều có các dòng suối ao hồ, thường hợp với cung điện lầu gác, lại có vô số các thứ hoa báu trải rộng khắp nơi, tô điểm cho dòng nước cùng với gió nhẹ thổi từ từ, ánh sáng phát ra theo thứ lớp cảnh trí ấy, tự bản chất là sự thần diệu tuyệt vời không gì hơn, không thể diển tả hết, cho nên bài kệ chép: Muôn ngàn thứ hoa báu, Giăng phủ khắp suối ao, Gió nhẹ động cánh hoa, Ánh sáng hòa rung rinh. Các lầu gác cung điện Thấy mười phương vô ngại Cây chen sáng màu khác Lan can báuvây quanh Bốn câu này là nói sự thành tựu công đức trang nghiêm về đất. Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước với bao cảnh đồi núi, hang hốc, cây cối sông biển, nơi thì chập chùng gồ ghề, chốn thì mênh mông hoang vắng. Bồ-tát thấy như thế, phát khởi tâm đại bi, nguyện cõi nước mình đất đai bằng như lòng bàn tay, cung điện lầu gác, gương nạp mười phương, không thuộc vào đâu, cũng chẳng phải không thuộc. Cây báu, lan can báu lẫn nhau tô điểm. Cho nên nói: “các lầu gác cung điên, thấy mười phương vô ngại, cây chen sáng khác mầu, lan can báu bao quanh”. Vô lượng báu xen nhau Mành lưới khắp hư không Muôn ngàn linh réo rắt Vang re tiếng hay ho. Bốn câu này là gọi sự thành tựu công đức trang nghiêm về hư không. Vì sao bản nguyện của Phật phát khởi tạo nên sự trang nghiêm ấy? Vì Ngài thấy có cõi nước với vô số khói mây bụi bặm, sương mù che khắp bầu trời. Sét đánh, lửa cháy dữ dội, mưa tuôn xối xả từ trên cao đổ xuống kéo theo bao điều nguy hiểu. Rồi những cầu vòng đủ mầu sắc hiện ra trong hư không, con người lại lo sầu trăm mối, vì thế mà thường sợ hãi kinh hoàng. Bồ-tát thấy thế nên khởi tâm đại bi: “Nguyện cho cõi nước mình có nhiều lưới báu xen nhau, mành lưới trùm khắp hư không, tiếng linh reo, tiếng chuông lắc, với đủ cung bậc trầm bỗng phát ra muôn ngàn âm thanh giảng nói đạo pháp khiến cho mọi người nghe thấy không hề nhàm chán, lại thường nhớ nghó à đạo lý, thấy rõ công đức”. Cho nên nói: “Vô lượng báu xen nhau, mành lưới khắp hư không, muôn ngàn linh réo rắc, ra tiếng hay ho”. Mưa hoa, y trang nghiêm Xông tỏa vô lượng hương Hai câu này nói là sự thành tựu công đức trang nghiêm mưa. Vì sao Phật lại phát khởi tạo lập sự trang nghiêm ấy? Vì Ngài thấy có cõi nước, trãi các thứ y phục trang nghiêm trải trên mặt đất để thỉnh mời những bậc tôn quý, hoặc trãi hương hoa quý giá nổi tiếng, để nói lên sự cung kính trong các trường hợp trên, nhưng do nghiệp cảm còn quá ít ỏi thiếu thốn nên sự việc không đạt kết quả. Vì thế Ngài phát nguyện đại bi: “Nguyện cõi nước của tôi, thường tuôn rãi các vật này nhiều như mưa, giúp cho tâm ý chúng sinh được thỏa mãn”. * Vì sao lấy mưa để nói? Vì e rằng chúng sinh sẽ tham đắm, nếu thường tuôn hoa, áo, luôn như mưa thì sẽ lấp bít hư không, chẳng có gì ngăn ngại được? Cho nên mưa du như. Khi mưa rơi thì không có cái lo lắng về trường hợp nước lớn mênh mông, được phước báùo an vui, đâu có vật để trói buộc các căn? Trong kinh chép: “Ngày đêm sáu thời trong thường tuôn rãi y phục báu, hoa báu nhiều như mưa, chất báu ấy mềm mại, thì lún xuống bốn tấc hễ khi dở chân lên thì bằng phẳng lại như cũ. Dùng xong thí chìm vào đất báu, như nước chảy xuống chỗ trũng cho nên nói: hoa đẹp y phục trang nghiêm tuôn rãi như mưa, xông tỏa vô số hương. Mặt trời Phật tuệ chiếu Xua mê tối cho đời. Hai câu này là nói sự thành tựu công đức trang nghiêm ánh sáng. Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì ngài thấy có cõi nước, tuy đã nhờ có ánh sáng mặt trời soi chiếu khắp chốn, nhưng ánh sáng đó không thể xua tan ngu si tăm tối. Cho nên Ngài nguyện rằng: “Nguyện cho cõi nước của ta thường có ánh sáng chiếu soi có công năng dứt trừ sự ngu si mê tối, nhập vào trí huệ Phật, chẳng có việc gì không ghi nhớ. Cũng có thể nói rằng áng sáng ở cõi An Lạc là từ năng lực phước báo trí tuệ của Như lai khởi lên nên mới có năng lực mầu nhiệm xua tan được sự si tối cho thế gian”. kinh chép: “Có cõi Phật dùng ánh sáng làm Phật sự”, chính là ý này. Vì vậy kệ chép: “Mặt trời Phật tuệ chiếu, Xua si tối cho đời. Ngộ sâu xa Phạm âm Mười phương nghe mầu nhiệm Hai câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm âm thanh mầu nhiệm. Vì sao Phật tạo nên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước tuy có được các pháp lành nhưng tiếng tăm không được truyền khắp, hoặc tiếng tăm tuy truyền nhưng lại không mầu nhiệm, hoặc có được danh tiếng mầu nhiệm vang khắp nhưng không thể giúp cho sự vật giác ngộ. Cho nên Ngài khởi lên sự trang nghiêm này. Ở nước Thiên-trúc gọi các hạnh thanh tịnh là Phạm hạnh, gọi các lời nói mầu nhiệm là phạm lời Đất nước ấy rất quý trọng Phạm Thiên nên phần nhiều thường dùng chữ Phạm để làm việc khen ngợi. Có thể cho rằng phép tắc ở Trung quốc cũng không khác mấy với sự tôn kính Phạm Thiên. Thinh là tiếng. Danh là tên gọi cõi Tịnh An Lạc. Kinh chép: “Nếu người nào chỉ nghe được danh hiệu Tịnh An Lạc, dốc nguyện vãng sinh thì cũng được như nguyện”. Đó gọi là chứng minh giác ngộ chúng sanh. Thích Luận chép: “Như tịnh thế chẳng thuộc ba cõi, vì sao nói như thế? Vì cõi An Lạc là vô dục nên chẳng phải cõi Dục. Vì cõi An Lạc là địa cư nên chẳng phải cõi Sắc, vì là Hữu sắc cho nên chẳng phải cõi Vô Sắc. Nói chung, nghiệp riêng của các Bồ-tát đã hoàn toàn thuần thục, nên ra khỏi ba cõi mà vẫn có cõi tịnh độ gọi là Vi, tên gọi cõi ấy có thể tạo được sự khai ngộ, nên gọi là mầu nhiệm Vì vậy mà cho rằng: Ngộ sâu xa Phạm âm, mười phương nghe mầu nhiệm. Bậc chánh giác A-Di-đà Pháp vương khéo trụ trì Hai câu này nói sự thành tựu công đức trang nghiêm chủ. Vì sao Phật khởi lên sự tang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước nếu loài La-sát làm vua, thì đất nước sẽ thành mục tiêu tàn sát lẫn nhau. Nếu bậc Bảo Luân ngự trị trong cung điện thì bốn cõi không còn lo sợ. Ví như, các vật lướt theo gió, đâu không có cội gốc hay sao? Cho nên Ngài khởi nguyện: “Nguyện cõi nước của ta thường có bậc Pháp Vương, bậc Pháp Vương ấy khéo dùng năng lực tài giỏi để trị an chắc chắn”. Trụ trì: Ví như con chim Hoàng Hộc che chở chim con được an ổn, giúp cho con nó sống ngàn tuổi. Cũng như cá mẹ bảo vệ cá con, vượt qua được chỗ nước â cạn không bị chết. Cõi nước An Lạc được bậc Chánh giác ấy khéo giữ gìn, đâu có việc chẳng phải Chánh giác? Cho nên nói: “Bậc Chánh giác Di-đà, Pháp vương khéo trụ trì. Như lai muôn hoa tịnh Hoa chánh giác hóa sinh Hai câu này là nói sự thành tựu công đức trang nghiêm quyến thuộc. Vì sao Ngài khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước, sự tạo tác thành thân người và sự lớn đều khởi từ ô uế, bất tịnh. Hoặc các quan lại công hầu dọc ngang một cõi, lại sinh ra thứ con cái điên cuồng, còn người trẻ ở tầng lớp thấp kém lại có tài nghệ xuất chúng. Chê cười, trách cứ là do mãi ôm lòng giận dữ. Bị sỉ nhục, hổ thẹn nên mãi giữ gìn thái độ lạnh lùng. Vì thấy những điều đó nên Ngài phát nguyện: “Nguyện cho cõi nước ta tất cả đều từ trong hoa báu của Như lai mà sinh ra, quyến thuộc đều bình đẳng và không hề có con đường nào khác”, cho nên nói: Như lai muôn hoa báu, hoa Chánh giác hóa sinh. Ưa thích vị pháp Phật Thiền định làm thức ăn. Hai câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm thọ dụng. Vì sao Ngài nguyên điều này ø vì Ngài thấy có cõi nước, hoặc chỉ vì miếng ăn ngon mà phải lặn lội tìm cầu, đánh đập giết hại, hoặc để cát vào bọc cho đó là lương thực để làm phương tiện an ủi qua ngày. Than ôi! Các ngươi, thật đáng thương thay! Cho nên Ngài khởi nguyện đại bi: “Nguyện cho cõi nước ta Phật pháp thiền định, tam-muội là thức ăn, hoàn toàn dứt hết các thứ thức ăn mang tính khổ cực của con người”. Người ưa thích hương vị Phật pháp, như Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh giảng nói kinh Pháp Hoa trong sáu mươi tiểu kiếp. Thời gian đó ở trong pháp hội, người nghe pháp cũng ngồi yên một chỗ. Sáu mươi tiểu kiếp trôi qua chỉ như khoảng thời gian bữa ăn, không có một người nào hoặc thân hoặc tâm sinh ra sự biếng lười, mệt mỏi. Thiền định là thức ăn: Nghóa là các vị Đại Bồ-tát thường an trụ trong tam-muội chứ không có thức ăn nào khác. Tam-muội đó là chỉ cho các người, trời kia, nếu đúng giờ ăn thì trăm thứ mùi vị thức ăn thơm ngon đã bày sẳn trước mặt. Mắt thấy sắc, mũi ngửi mùi, thân thọ sự vui thích thì tự nhiên no đủ, ăn rồi thì đi giáo hóa, nếu lúc nào cần thì hiện trở lại, những việc này có nói trong kinh Pháp Hoa, cho nên nói: “Ưa thích vị Pháp Phật, Thiền định la thức ăn”. Lìa hẳn não thân tâm, Thường Hưỡng vui không dứt. Hai câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm, không có các chướng nạn. Do đâu mà Phật khởi lên điều này? Vì Ngài thấy có cõi nước, buổi sáng thì được dự vào hàng ân sủng, mặc áo lễ phục chầu Vua, chiều tối thì kinh hoàng vì bị xử trị gia hình. Hoặc lúc nhỏ thì lẫn lộn trong đám dân dã quê mùa, khi lớn khôn thì trở thành bậc tu hành đức độ. Hoặc lúc lên đường thì tiếng kèn tiếng trống giục giã, trải qua rồi thì hối thúc quay về. Có biết bao nhiêu sự việc trái ngược như vậy. Cho nên Ngài nguyện: “Nguyện cho cõi nước của ta thường được sự an vui liên tục, không bao giờ xen hở”. Thân não, là những sự đói khát, nóng lạnh, giết hại. Tâm não là những việc phải trái, được mất, và ba độc tham sân si, v.v.. Cho nên nói: “Lìa hẳn não thân tâm thường, hưởng vui không dứt”. Cõi gốc lành Đại Thừa Dứt mọi tiếng chê bai Người nữ và căn thiếu Người Hai thừa không sinh Bốn câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm Đại nghóa môn. Môn là chỉ chung cho môn Đại Nghóa. Đại Nghóa là các nghóa tiêu biểu cho Đại thừa. Như người xây dựng thành trì, được cửa thì vào, nếu người được sinh về cõi An Lạc thì thành tựu được môn Đại thừa. Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi nước, tuy có Chư Phật, Như lai và các chúng Hiền Thánh, v.v.. Nhưng vì cõi nước vẫn đục, nên một mà phải nói thành ba. Hoặc nheo mày cười cợt, hoặc dựa theo ngón tay,lời nói mà với lấy sự chê bai. Cho nên Ngài khởi nguyện: “Giúp cho cõi nước của ta đều thu- ần một vị Đại Thừa, một vị bình đẳng. Các hạt giống căn trí xấu kém, thì không bao giờ được sinh, người nữ khuyết tật ngay cả tên gọi cũng không nghe”. Cho nên nói: “Đối gốc lành Đại thừa, dứt các tiếng hiềm nghi, người nữ và căn thiếu, Người Hai thừa không sinh”. - Hỏi: Theo kinh Vô Lượng Thọ giảng ở thành Vương-xá, trong bốn muơi tám lời nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng có nguyện rằng: “Nếu khi ta được thành Phật, mà tính đếm biết được số lượng các Thanh Văn trong nước, thì ta không thành Chánh giác”. Đó là chứng cớ thứ nhất cho thấy có Thanh Văn. Lại trong Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa chép: Bồ-tát Long Thọ soạn “A di đà Tán rằng: “Vượt khỏi ngục ba cõi, mắt như cánh hoa sen, chúng Thanh Văn vô lượng, cho nên cúi đầu lễ”. Đó là chứng cớ thứ hai cho biết là có Thanh Văn. Lại trong Luận “Ma-ha-diễn” chép: “Vô số các cõi Phật không đồng nhau, hoặc có cõi Phật thuần là các Thanh Văn tăng, hoặc có cõi Phật thuần là các Bồ-tát tăng, hoặc có cõi Phật vừa có Bồ-tát tăng Thanh vừa có Văn Tăng, như cõi An Lạc của Đức Phật A-di-đà. Đó là chứng cớ thứ ba xác nhận có Thanh Văn. Trong các kinh có nói về cõi An Lạc, phần nhiều đều nói có Thanh Văn, chẳng nói là không có. Thanh Văn là một trong Hai Thừa. Thế mà luận nói kể cả tên gọi Hai Thừa cũng không có, như thế là sao? - Đáp: Dùng lý mà suy điều này thì ở cõi Tịnh An Lạc không thể có người Hai Thừa. Vì sao nói như vậy? Vì hễ thấy có bệnh thì có thuốc chữa, lý thường là như thế. Kinh Pháp Hoa chép: “Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai vì xuất hiện ở cõi đời có năm thứ vẩn đục, nên chỉ một thừa mà phải tạm chia làm ba. Cõi Tịnh độ chẳng có năm thứ vẩn đục, nên không có ba thừa là điều đã rõ”. Kinh Pháp Hoa chép:các Thanh Văn là những người do đâu mà được giải thoát? Chỉ là do đã lìa bỏ sự luống dối nên gọi là giải thoát. Thật ra những vị này chưa được giải thoát hoàn toàn, vì chưa chứng được đạo quả Vô thượng. Theo lý này mà suy ra một cách nghiêm túc thì A-la- hán chưa được giải thoát rốt ráo, vẫn còn phải sinh, nhưng A-la-hán này không còn sinh trong ba cõi. Ngoài Tịnh độ, ba cõi không còn có cõi nào phải sinh, do đó chỉ còn sinh về Tịnh độ mà thôi. Như nói Thanh Văn chính là do Thanh Văn từ phương khác sinh đến, nhưng tên gốc vẫn còn gọi là Thanh Văn. Như trời Đế-thích sinh vào loài người thì họ Kiều-thi-ca, về sau này tuy đứng đầu cõi Trời, Đức Phật muốn cho tười biết lý do từ đâu đến, nên lúc nói chuyện với Đế-thích vẫn gọi là Kiều-thi-ca, cho nên biết Thanh Văn ấy cũng thuộc loại như thế. Lại, trong luận này chỉ nói hạt giống Hai Thừa không sinh, nghóa là nói cõi An Lạc không phải là nơi sinh hạt giống như Hai Thừa.Vì sao lại ngăn người Hai Thừa sinh về? Ví như giống quýt thì đem trồng không sống được ở vùng Giang Bắc, còn ở vùng sông Hà, sông Lạc thì trái cây phơi bày ra nơi gian hàng, hầu như lúc nào cũng thấy có quýt. Lại nói về chim Anh Vũ không thể bay qua vùng Lũng Tây, nhưng ở nước Triệu, nước Ngụy thì các cái gia cái lồng, cũng có chim Anh Vũ. Hai vật này nhằm nói về giống, loại kia không thích hợp theo từng vùng. Trường hợp người Thanh Văn cũng như thế, giải thích như vậy là hợp với kinh luận. Hỏi: Danh là để gọi sự, có sự mới có danh. Cõi An Lạc đã không có các việc của Hai Thừa, người nữ căn thiếu, thì đâu cần phải nói lại ba tên gọi này? Đáp: Như tâm nhu hòa của Bồ-tát có, không kham việc mạnh mẽ chê trách Thanh Văn. Như kẻ dua nịnh hoặc yếu hèn chê bai người nữ. Lại như hai mắt tuy sáng mà không nhận thức được sự việc, lại trách cứ người mù. Như tai tuy nghe nhưng nghe nghóa mà chẳng hiểu, lại chê trách người điếc. Như lưỡi tuy nói được nhưng lời nói thì chậm chạp, lắp bắp, lại chê cười kẻ câm. Người có các căn như thế tuy gọi là đầy đủ nhưng tên gọi ấy chỉ tạo sự chê trách, nghi ngờ. Cho nên phải nói: Kể cả việc không còn có tên gọi, nhằm nói lên Tịnh độ không có các tên gọi, bị đoạt mất như thế. Hỏi: Suy tìm bổn nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng và những lời khen ngợi của Bồ-tát Long Thọ đều giống như việc chỉ cho chúng Thanh Văn cõi nước kia có nhiều điều kỳ lạ, ý nghóa ấy thế nào? Đáp: Các Thanh Văn dùng thực tế để chứng minh, tính ra không nên phát sinh được mầm mống căn bản của Đạo Phật. Nhưng Đức Phật đã dùng bổn nguyện thần lực không thể suy nghó bàn luận luận để nhiếp hóa giúp họ sinh về cõi kia, thì phải dùng thần lực để làm phát sinh đạo tâm vô thượng. Ví như con chim trấm, lặn xuống nước thì loài Cá loài trai đều phải chết. Còn con tê giác thì đụng vào nó tuy chết nhưng đều lại sống. Như thế thì không phải sinh mà lại là sinh, do đó nên nói có điều kỳ lạ. Nhưng trong năm thứ không thể suy nghóa bàn luận, thì Phật pháp là không thể suy nghó bàn luận luận bậc nhất. Đức Phật có khả năng gi- úp cho Thanh Văn phát đạo tâm vô thượng, sinh về cõi kia, thật là điều không thể suy nghó bàn luận luận tột cùng. Nguyện cho chúng sinh vui Tất cả đều đầy đủ Hai câu này là nói sự thành tựu công đức trang nghiêm tất cả sở cầu luôn đầy đủ. Vì sao Phật lại khởi lên nguyện này? Vì Ngài thấy có cõi nước hoặc tiếng tăm cao, địa vị trọng, thường bị chìm đắm trong đó mà không rõ lý do. Hoặc kẻ phu phàm tánh tình thô bỉ, mong tạo ra được con đường tốt đẹp. Hoặc tu tập yếu kém bị nghiệp chướng trói buộc, chế ngự bản thân thường bị động, cũng giống như Tiên A-tư-đà, có những việc như thế nên bị gió nghiệp xoay chuyển, không được tự tại. Cho nên Ngài nguyện: “Giúp cho cõi nước của ta thường đầy đủ các thứ sở cầu, đều như ý nguyện”. Cho nên nói: nguyện cho chúng sinh vui, tất cả đều đầy đủ”. Cho nên nguyện sinh về, Cõi Phật -di-đà kia Hai câu này kết thúc quán sát thành tựu sự mười bảy thứ trang nghiêm cõi nước, cho nên nguyện sinh. Giải thích về khí thế gian thanh tịnh, ở trên đã xong. Kế là quán sát về chúng sinh thế gian thanh tịnh, trong môn này chia làm hai phần khác nhau. Quán sát công đức trang nghiêm của A-di-đà Như lai. Quán sát công đức trang nghiêm của các Bồ-tát ấy. Trong phần quán sát công đức trang nghiêm của Đức Như lai có tám thứ, đến văn sẹ nêu ra. Hỏi: Có các Luận sư giải thích danh nghóa chúng sinh, do chúng sinh trôi lăn trong ba cõi chịu nhiều sinh tử, nên gọi là chúng sinh. Nay gọi Phật và Bồ-tát là chúng sinh có ý nghóa thế nào? Đáp: Kinh chép: Một pháp có vô lượng tên gọi, một tên gọi có vô lượng nghóa. Do chịu nhiều sinh tử nên gọi là chúng sinh. Đây là nghóa do các Luận gia thuộc phái Tiểu thừa giải thích Còn phái Đại thừa nói Chúng sinh là như trong Tâm kinh gọi là chẳng thêm chẳng bớt. Nói Chúng sinh là nghóa bất sinh, bất diệt. Vì sao? Vì nếu có sinh, sinh rồi lại sinh, thì có lỗi vô cùng. Có lỗi bất sinh mà sinh, nên nói làVô sinh. Nếu có sinh thì có diệt, đã vô sinh thì làm sao có diệt? Cho nên nói vô sinh vô diệt là nghóa Chúng sinh. Như trong kinh nói thông đạt năm thọ, ấm là không, là Vô sở hữu, đó là nghóa khổ, là loại chúng sinh ở đây. Vô lượng Đại Bảo Vương Đài hoa tịnh nhiệm mầu Hai câu này là nói sự thành tựu tòa công đức trang nghiêm. Vì sao Phật khởi lên nguyện này? Vì Ngài thấy có Bồ-tát đối với thân mạng cuối cùng trải cỏ mà ngồi, chứng quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Các trời, người thấy thế thì tâm kính tin thêm lớn, phát huy lòng cung kính, sự ưa thích và việc tu hành cũng thế. Cho nên Ngài nguyện: “Nguyện khi ta thành Phật thì vô lượng Đại Bảo Vương, đài hoa thanh tịnh mầu nhiệm để la tòa ngồi của Phật”. - Vô lượng: Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: Bảy thứ báu trên mặt đất, có tòa báu hoa sen lớn chúa mỗi cánh hoa có trăm sắc báu, có tám muôn bốn ngàn đường gân nổi lên như nét vẽ của các vị trời, mỗi đường gân có tám mươi bốn ngàn tia sáng, cánh hoa nhỏ, tỏa rộng đến hai trăm năm mười do-tuần. Hoa nầy có tám mươi bốn ngàn cánh, giữa hai cánh có trăm ức ngọc chúa Ma-ni để tô điểm đẹp đẽ, mỗi hạt ngọc Ma-ni phát ra ngàn tia sáng, ánh sáng như cái lọng do bảy chất báu hợp thành trải khắp trên mặt đất. Đài bằng chất báu Thích-ca-Tỳ-Lăng-già. Đài hoa sen này được tô điểm bằng tám muôn chất báu Kim Cương Chân-thúc-ca, Báu Phạm Ma-ni, lưới chân châu mầu nhiệm. Ở trên đài, tự nhiên có bốn cột báu, mỗi cột báu, như tám vạn bốn ngàn ức núi Tu-di, trên cột báu cao có màn báu như cung trời ạma, có năm trăm ức ngọc báu mầu nhiệm, để tô điểm. Mỗi viên ngọc báu, có tám mươi bốn ngàn tia sáng, mỗi tia sáng phát ra tám muơi bốn ngàn mầu vàng khác nhau. Mỗi mầu vàng đó, biến khắp cả đất báu cõi An Lạc, biến hóa khắp nơi, mỗi nơi phát ra mỗi tiếng khác nhau. Hoặc là đài kim cương hoặc lưới chân châu, hoặc làm nhiều thứ mây hoa ở khắp mười phương, tùy ý biến hiện, thực hành các Phật sự, những việc như thế vượt hơn số lượng. Cho nên nói vô lượng Đại Bảo Vương, đài hoa tịnh mầu nhiệm. Ánh sáng xa một tầm Sắc tướng hơn chúng sanh. Hai câu này là nói sự thành tựu thân nghiệp công đức trang ng- hiêm.Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm về thân nghiệp như thế? Vì Ngài thấy thân Phật, có ánh sáng chiếu xa một trượng, đối với ánh sáng ở thân người không thể hơn được. Như tướng tốt của vua Chuyển Luân phần lớn cũng đồng. Còn Đề-bà Đạt-đa thì chỉ thua có hai, đã từng xúi giục Vua A-xà-thế, làm cho vua mê loạn theo các ngoại đạo như San- xa-da,v.v… chẳng lượng sức mình, hoặc cùng loại như vậy. Cho nên thân nghiệp trang nghiêm như thế. Xét việc chú giải nghóa văn, ở đây cho rằng sáu thước gọi là tầm. Như kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: Thân Đức A-di-đà Như lai cao sáu muơi muôn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần. Ánh sáng của Phật chiếu xa đến trăm ức Tam thiên Đại thiên thế giới. Dịch người dùng chữ tầm để diễn tả, như vậy nghóa không rõ ràng chăng? Người đời làm nhà không có chiều dọc ngang, dài ngắn. Nếu gọi là bề ngang thì duỗi hai cánh tay ra làm một tầm. Nếu người dịch giữ ý loại này thì dùng theo chuẩn mực của Đức A-di-đà Như lai, duỗi cánh tay ra để nói, nên gọi là một tầm. Ánh sáng tròn đầy đó cũng qua sáu mươi muôn ức na-do-tha Hằng ha-sa do-tuần, nên nói: ánh sáng xa một tầm,, sắc tướng hơn chúng sanh. Hỏi: Kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: Chư Phật Như lai là thân pháp giới, nhập vào trong tất cả tâm tưởng chúng sinh, cho nên lúc tâm họ tưởng Phật thì tâm đó là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thêm thân, tâm đó làm Phật, tâm đó là Phật, biến Chánh Biến Tri của chư Phật là từ tâm tưởng mà sinh, nghóa đó như thế nào? Đáp: Thân là do nhóm hợp lại mà thành cõi gọi là sự khác nhau. Như nhãn giới là do duyên hợp của năm nhân duyên là căn, sắc, hư không, ánh sáng, tác ý mà sinh, nên gọi là nhãn giới. Cho nên hai mắt tự vận hành theo duyên của mình, chứ không làm theo các duyên khác, do đó sự việc có khác nhau, Nhó giới, Tỷ giới, v.v…cũng như thế. Nói chư Phật, Như Lai là thân pháp giới: Pháp giới là tâm pháp của chúng sinh. Do tâm có công năng sinh ra tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, nên gọi tâm là pháp giới. Pháp giới có công năng sinh ra thân tướng tốt của các Đức Như lai, cũng như sắc, v.v… có công năng sinh ra nhãn thức. Cho nên thân Phật gọi là thân pháp giới, thân này không vận hành theo các duyên khác, vì vậy nhập vào tất cả tâm tưởng chúng sinh. Khi tâm nhớ nghó Phật thì tâm đó là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp theo thân. Lúc tâm chúng sinh tưởng Phật thì thân tướng tốt của Phật liền hiển hiện trong tâm chúng sinh. Ví như nước yên lặng thì cảnh vật hiển bày. Nước và cảnh vật đó chẳng phải một, cũng chẳng phải khác, cho nên nói thân tướng tốt của Phật tức là tâm tưởng Phật. “Tâm này làm Phật”: Là nói tâm có khả năng làm Phật. “Tâm này là Phật”: Tức là ngoài tâm không có Phật, ví như lửa từ cây sinh ra, lửa không thể lìa cây được. Vì không lìa cây nên có khả năng đốt cháy cây. Cây bị lửa đốt cháy thì cây chính là lửa. Biển Chánh Biến Tri của Phật từ tâm tưởng sinh ra. - Chánh Biến Tri là chân chánh đúng như pháp giới mà biết. Pháp giới vô tướng nên Chư Phật là vô tri. Do vô tri cho nên không có điều gì không thấu đạt. Vô tri mà thấu đạt tất cả nên gọi là Chánh Biến Tri. Cái biết này sâu rộng không thể lường tính được, nên ví như biển. Tiếng Như lai mầu nhiệm Âm Phạm vang mười phương Hai câu này nói về sự thành tựu khẩu nghiệp công đức trang ng- hiêm. Do đâu mà bản nguyện của đức Phật khởi lên sự trang nghiêm này? vì Ngài thấy có Đức Như lai danh tiếng dường như chưa phải là cao quý tột bậc. Như các ngoại đạo vốn là hạng đẩy xe cho người cũng gọi họ là Cù-đàm, hoặc âm thanh ngày thành đạo chỉ thấu đến cõi Phạm Thiên. Vì thế nên Ngài nguyện rằng: “Nguyện khi ta thành Phật, âm thanh mầu nhiệm ban bố cùng khắp, giúp cho người nghe ngộ được pháp nhẫn”. Cho nên, nói: Tiếng Như lai mầu nhiệm âm phạm nghe mười phương. Đồng đất, nước, gió, lửa Chẳng phân biệt hư không. Hai câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm tâm ng- hiệp. Vì sao bản nguyện của Đức Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có Đức Như Lai nói pháp rằng: Đây đen, đây trắng, đây không đen, không trắng, ù pháp hạ, pháp trung, pháp thượng, pháp thượng thượng. Có vô lượng phẩm khác nhau như thế, dường như có phân biệt. Cho nên Ngài nguyện: “Nguyện khi ta thành Phật, như mặt đất đảm nhận tất cả, không có sự khác nhau về nặng, nhẹ, như nước thấm lâu, không có sự khác nhau giữa loại cỏ độc, và cỏ lành, như lửa đã thuần thục không khác nhau hôi, thơm. Ví như gió thổi không có sự khác nhau giữa ngủ thức. Như hư không bao gồm hết không có ý nghó mở hay đóng. Được cái bên trong những điều đó thì bên ngoài sự vật được an ổn. Hư đi thật về, vì thế cho nên dứt”. Cho nên nói: “Cùng đất, nước, lửa, gió, chẳng phân biệt hư không”. Chúng Trời, người bất động. Biển trí thanh tịnh hiện. Hai câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm đại chúng. Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có Đức Như lai ở chỗ giảng nói chánh pháp, đại chúng hiện đang có mặt căn tánh và sự ước muốn đều không giống nhau, đối với trí tuệ Phật hoặc lui sụt hoặc chìm mất, vì sự lãnh hội không đồng đều, nói chung là đại chúng không có sự thuần tịnh, nên Ngài khởi nguyện rằng Nguyện khi ta thành Phật, tất cả các trời, người đều từ biển trí tuệ thanh tịnh của Như lai ø sinh ra. Biển là nói Trí NhấtThiết Chủng của Đức Phật sâu rộng không bờ mé, không lưu giữ các điều tạp thiện của người Hai Thừa, nên dụ như biển. Cho nên nói: “Chúng Trời, người bất động, biển trí thanh tịnh hiện”. Như núi chúa Tu-di Tốt đẹp không gì hơn Hai câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm thượng thủ. Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có trường hợp trong chúng của Đức Như lai, hoặc có người hung bạo, như bọn ông Đề-bà-đạt-đa. Hoặc có vị vua cùng Phật xử trị việc nước nhưng không biết lại suy tôn Phật. Hoặc có vị thỉnh Phật, do nhân duyên khácnên lại quên. Có những việc như thế, vì năng lực của vị thương thủ không thành tựu. Cho nên Ngài nguyện: “Khi ta thành Phật, nguyện tất cả đại chúng, không hề sinh tâm dám ngang hàng với ta. Chỉ có bậc Pháp Vương, không có hàng Tục vương”, cho nên nói: “Như núi chúa Tu-di, tốt đẹp không gì bằng”. Trời, người chúng trường phu Nhiễu Cung kính chiêm ngưỡng Hai câu này nói về sự thành tựu công đức trang nghiêm chủ. Do đâu Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có Phật Như lai, mặc dù có chúng đông, nhưng trong chúng cũng có người tỏ ra thiếu cung kính. Như có một vị Tỳ-kheo nói với Đức Phật Thích-ca Mâu-ni: “Nếu không giải thích muời bốn câu hỏi cho tôi, thì tôi sẽ đi học đạo khác”. Cũng như ông Cư-ca-ly chê bai Ngài Xá-lợi-phất. Đức Phật khuyên ba lần, mà ông cả ba lần đều không nghe lời. Lại như có các ngoại đạo, giả vào trong đại chúng của Phật, mà thường dò xét, tìm kiếm lỗi của Phật. Lại như Thiên-ma ở tầng trời thứ sáu, thường gây ra mọi sự khó khăn trở ngại đối với Phật. Có vô số các việc như thế, bày tỏ hình sự không cung kính. Cho nên Ngài nguyện: “Khi ta thành Phật, chúng trời, người thường luôn cung kính, không à có sự mệt mỏi. Cho nên chỉ nói Trời, người, Tịnh độ không có người nữ và tám bộ chúng quỷ thần”. Cho nên nói: “Trời, Người chúng trượng phu, cung kính nhiễu chiêm ngưỡng”. Quán sức bổn nguyện Phật Vượt ra lỗi vô không Nên giúp chóng trọn đủ Biển báu công đức lớn. Bốn câu này nói về thành tựu công đức trang nghiêm của sự trụ trì. Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có Đức Như lai chỉ lấy Thanh Văn làm Tăng, không cầu Phật đạo. Hoặc có người được gặp Phật mà không tránh khỏi việc rơi vào ba đường dữ, như các vị Thiện Tịnh, Đề- bà đạt- đa, Cư-ca-ly, v.v… Lại như người nghe danh hiệu Phật, phát tâm cầu đạo Vô Thượng, gặp nhân duyên xấu ác liền lui sụt xuống Thanh Văn và Bích-chi-Phật. Có những người tội lỗi, người lui sụt như thế. Cho nên Ngài nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, những người gặp được ta, đều mau chóng có đầy đủ báu lớn vô thượng”. Cho nên bài Kệ chép: “Quán sức bổn nguyện Phật, vượt ra lỗi vô không, nên giúp chóng tròn đủ, biển báu lớn công đức”. Nghóa trụ trì như trên. Phần trên, quán sát về tám thứ công đức trang nghiêm của Phật đã xong. Kế là quán sát sự thành tựu à bốn thứ công đức trang nghiêm của các vị Đại Bồ-tát ở cõi An Lạc. Hỏi: Quán sát công đức trang nghiêm của Đức Như lai, còn có chỗ thiếu sót hay sao mà phải quán sát công đức của Bồ-tát nữa? Đáp: Ví như có vị Vua sáng suốt thì có bề tôi hiền, lời khen vua nghiêm vua Thuấn, là vô vi ø nhằm để so sánh. Dù cho chỉ có vua pháp là Như lai mà không có bề tôi là Đại Bồ-tát để giúp đạo thì đâu đáng gọi là đầy đủ? Cũng như củi đống nhỏ thì lửa cháy không lớn. Như kinh chép: “Cõi nước của Đức Phật A-di-đà, có vô lượng vô biên các vị Đại Bồ-tát như: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, v.v… đều có một đời sống ở cõi khác, kế mới giúp cõi Phật. Nếu có người xưng niệm danh hiệu các Ngài, quy y, quán sát như phẩm Phổ Môn trong kinh pháp Hoa nói thì không có nguyện nào không đầy đủ. Nhưng, các vị Bồ-tát ưa thích công đức như biển gồm thâu nước mọi dòng sông, không hề biết dừng đủ. Cũng như Đức Thích-ca Mâu-ni Như lai nghe một vị Tỳ-kheo mù than rằng: “Ai ưa thích công đức thì hãy xỏ kim giúp tôi”. Bấy giờ Đức Như lai xuất định đứng dậy, đi đến chỗ vị Tỳ kheo mù bảo rằng: “Ta rất ưa thích phước đức” Ngài liền xỏ kim cho vị Tỳ-kheo mù. Lúc ấy, vị Tỳ-kheo mù không thấy ánh sáng, chỉ nghe tiếng Phật nói, vừa sợ sệt, vừa vui mừng, lần đến gần Phật bạch phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Công đức của Đức Thế tôn chưa đủ hay sao?” Phật bảo: “Công đức của ta đã tròn đầy, không có chổ nào không đủ, như thân của ta đây là từ các công đức sinh, biết ân phần công đức”, nên nói là ưa thích. Như có người hỏi: Quán sát công đức của Phật, thật không có nguyện nào không đầy đủ, cho nên lại quán công đức của Bồ-tát là vì có các nghóa như trên. Cõi An Lạc thanh tịnh Xe vô cấu thường xoay Phật Bồ-tát mặt trời An trụ như Tu-di Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi Phật, chỉ có các vị Bồ-tát nhỏ thì không thể làm Phật sự trong các thế giới rộng lớn ở mười phương, hoặc chỉ là các Trời, Người, Thanh Văn với những lợi ích nhỏ hẹp. Cho nên Ngài khởi nguyện: “Nguyện trong nước của ta, có vô lượng chúng Đại Bồ-tát, không lay động bổn xứ, đến khắp mười phương các thứ ứng hóa, tu hành như thật thường làm Phật sự”. Ví như mặt trời ở trên cao tỏa bóng hiện trên trăm sông, mặt trời đến đó haykhông? Như kinh Đại Tập chép: “Ví như có người khéo sửa sang các đường đê, lượng sức mình mà làm, đến khi nước chảy, sức lực của tâm không hề tăng”. Bồ-tát cũng như thế. Trước nên tạo sự ứng hợp với tất cả Chư Phật và chúng sinh nên cúng dường, nên giáo hóa, làm các thứ đường đê ngăn dứt phiền não cho đến khi nhập Tam-muội, thân tâm không dao động, tu hành như thật, thường làm Phật sự. Như Phật tu hành: Là tuy thường tu hành nhưng thật ra ø không có sự tu hành. Cho nên nói: “Cõi An Lạc thanh tịnh, xe vô cấu thường xoay, mặt trời Hoá Phật Bồ-tát, An trụ như Tu-di”. Ánh chẳng nhỏ trang nghiêm, Một niệm và một lúc Soi khắp hội Phật các Lợi ích các chúng sanh. Do đâu Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có quyến thuộc của Đức Như lai, muốn cúng dường vô lượng Chư Phật ở phương khác. Hoặc muốn giáo hóa vô lượng chúng sinh, mất đây sinh kia, trước phía Nam sau phía Bắc, không thể dùng một niệm và một thời, phát ra ánh sáng chiếu khắp các thế giới trong mười phương để giáo hóa chúng sinh. Vì có tướng sinh ra mất đi, trước và sau. Cho nên Ngài khởi nguyện: “Nguyện cho các vị Đại Bồ-tát ở cõi nước của ta, trong một khoảnh khắc đi khắp mười phương, làm các Phật sự. Cho nên nói: Ánh chẳng nhơ trang nghiêm, một niệm và một lúc, chiếu sáng khắp hội Phật, lợi lạc đến muôn loài”. Hỏi: Chương trên nói thân không dao động mà đi khắp mười phương, không động mà đến, đâu chẳng phải là nghóa một lúc hay sao? hay là khác với ở đâu? Đáp: Ở trên chỉ nói bất động mà đến, hoặc dung hợp mà có trước sau, ở đây nói không có trước, không có sau, đó là khác nhau, cũng là thành ý nghóa bất động ở trên. Nếu chẳng một lúc thì là qua lại. Nếu có qua lại thì chẳng phải bất động, cho nên vì thành nghóa bất động ở trên, nên phải quán một thời. Mưa hoa, áo, nhạc trời Hương diệu cúng dường thủy Khen công đức Chư Phật Không có tâm phân biệt. Vì sao Phật khởi lên sự trang nghiêm này? Vì Ngài thấy có cõi Phật, có các trời, người và Bồ-tát, chí hướng không rộng lớn, chẳng thể bao gồm khắp cả các thế giới ở mười phương không cùng tận, để cúng dường Chư Phật, Như lai và Đại chúng. Hoặc do cõi nước của mình vốn nhơ đục, nên không dám đến cõi tịnh khác. Hoặc do chỗ ở thanh tịnh mà cõi nước thì thô lậu uế tạp. Do các việc như thế mà có vô số sự phân chia, nên đối với các chõ đục của Chư Phật, Như lai thì không thể nào cúng dường khắp hết, cũng như phát khởi gốc lành rộng lớn. Cho nên Ngài nguyện: “Nguyện khi ta thành Phật, tất cả đại chúng Bồ-tát, Thanh Văn và các trời, người ở nước ta, khắp đến tất cả các pháp hội lớn của Chư Phật trong mười phương, thường rải tuôn nhạc trời, hoa trời, áo trời, hương trời như mưa, khéo dùng lời lẽ mầu nhiệm cúng dường, ngợi khen công đức Chư Phật”. Mặc dù than thở về cõi nhơ đục, nhưng lòng đại bi của Đức Như lai chịu đựng hết, không thấy cõi Phật có các tướngnhi7 bẩn lẫn lộn. Dù rằng khen ngợi cõi Tịnh độ, nhưng Đức Như lai vô lượng trang nghiêm không thấy cõi Phật có tướng thanh tịnh, vì sao?Vì các pháp đều bình đẳng, các Đức Như Lai bình đẳng nên chư Phật gọi là Đẳng giác. Nếu đối với cõi Phật khởi tâm hơn kém, thì dù có cúng dường Như Lai, thì đó cũng chẳng phải pháp cúng dường. Thế nên nói: “Mưa hoa, áo nhạc trời, cùng hương diệu cúng dường, khen công đức Chư Phật, lìa các tâm phân biệt” “Những thế giới nào vô Báu Phật pháp công đức Con Nguyện vãng sinh đều Nêu pháp phật như Phật” Vì sao Phật khởi lên nguyện này? Bởi Ngài thấy có Bồ-tát tâm mêm mỏng, chỉ thích tu hành ở cõi nước có Phật, không có tâm từ bi bền chắc. Thế nên Ngài nguyện: “Nguyện khi ta thành Phật, các vị Bồ-tát ở cõi nước của ta, đều có tâm từ bi và chí nguyện mãnh mẽ.bền chắc, có thể rời bỏ cõi thanh tịnh đến những cõi khác không có Phật - pháp Tăng để gìn giữ sự trang nghiêm của ba ngôi báu, chỉ bày như có Phật, giúp cho hạt giống Phật ở khắp mọi nơi đều không dứt mất”. Cho nên nói: Những thế giới nào vô Phật Pháp báu công đức báu, con nguyện đều vãng sinh nêu pháp phật như Phật. Trên đây là quán sát sự thành tựu bốn thứ công đức trang nghiêm của Bồ-tát đã xong. Kế, bốn câu cuối là môn Hồi hướng. Con soạn luận nói kệ Nguyện thấy Phật Di đà Cùng khắp các chúng sanh, Vãng sinh cõi An Lạc Bốn câu này là Luận chủ môn hồi hướng cũa. Hồi hướng là công đức của mình ban bố cho khắp chúng sinh, đều được thấy A- Di- Đà Như Lai, vãng sinh cõi An Lạc. Chương cú Vô Lượng Thọ Tu Đa La. Con dùng kệ tụng nói chung đã xong. - Hỏi: Trong chương hồi hướng của Bồ-tát Thiên Thân chép: “Cùng khắp các chúng sinh vãng sinh à cõi An Lạc”, ở đây chỉ cho cùng với chúng sinh nào? - Đáp: Theo Đức Phật nói ở thành Vương xá kinh Vô Lượng Thọ, thì Phật bảo Tôn giả A-Nan: “Hằng hà sa chư Phật Như Lai trong mười phương, đều khen ngợi các công đức oai thần không thể suy nghó bàn luận luận của Đức Phật Vô Lượng Tho”ï. Nếu có các chúng sinh nghe được danh hiệu của Ngài, sinh lòng tin hoan hỷ, dù chỉ trong một niệm mà dốc lành hồi hướng, nguyện sinh về cõi ấy thì liền được vãng sinh, trụ giai vị không lui sụt, chỉ trừ năm tội nghịch lớn và chê bai chánh pháp. Nói theo đây, thì tất cả những ngoài đạo phàm phu đều được vãng sinh. Lại như kinh Quán Vô Lượng Thọ nói có chín phẩm vãng sinh: Người sinh ở phẩm Hạ hạ: hoặc có chúng sinh gây ra những nghiệp bất thiện, như tội năm nghịch, mười điều ác đủ các thứ bất thiện. Những người ngu như thế do nghiệp ác phải bị đọa vào đường ác, trải qua nhiều kiếp chịu các khổ không cùng. Những người ngu ấy khi chết ,gặp được Thiện tri thức an ủi, nói pháp hợp cơ cho họ nghe, dạy phải niệm Phật. Người này bị các khổ ép ngặt, không kịp niệm Phật. Thiện tri thức bảo: “Ngươi nếu không thể niệm được thì phải xưng danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, dốc lòng như vậy tiếng niệm không thể cho dứt, đầy đủ mười niệm”, xưng: “Nam mô A Di Đà Phật”. Nhờ xưng danh hiệu Phật trong mỗi niệm, nên dứt trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Khi chết thấy được hoa sen vàng như vầng mặt trời xoay ở trước mặt người đó. Như chỉ trong khoảnh khắc một niệm liền được vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Ở trong hoa sen suốt mười hai đại kiếp thì hoa sen mới nở. Các ngài Quán Thế Aâm, Đại Thế Chí, dùng âm thanh đại bi nói rộng về thật tướng các pháp, cùng pháp trừ diệt tội lỗi hco ngưới ấy nghe. Người ấy nghe rồi vui mừng nên ngay đó liền phát tâm bồ đề. Đó gọi là Hạ phẩm hạ sinh. Lấy kinh này để chứng minh thì biết phàm phu chỉ được sinh hạ phẩm, chỉ cần họ không chê bai chánh pháp, có nhân duyên tin Phật thì đều được vãng sinh. Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ chép: Người nguyện vãng sinh đều được vãng sinh, chỉ trừ tội năm đại nghịch và tội chê bai chánh pháp. Kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: “Người gấy ra tội năm đại nghịch, mười điều ác, đủ các tội bất thiện cũng được vãng sinh”. Hai kinh này nên phải hiểu thế nào? Đáp: Một kinh thì nêu hai thứ tội nặng: Một là tội năm đại ng- hịch; hai là tội chê bai chánh pháp, do gây ra hai tội nặng này nên không được vãng sinh. Một kinh nữa thì cho là: Người gây tội năm đại nghịch, mười điều ác, không nói tới tội chê bai chánh pháp, do không chê bai chánh pháp cho nên được vãng sinh. Hỏi: Nếu có người gây ra đủ năm tội đại nghịch nhưng không chê bai chánh pháp, trong kinh nói là được vãng sinh. Lại có một người chỉ chê bai chánh pháp mà không gây ra tội năm nghịch, lại nguyện vãng sinh. Vậy người này có được vãng sinh hay không? Đáp: Chỉ tội chê bai chánh pháp, cho dù không gây ra các tội khác, chắc chắn cũng không được vãng sinh. Vì sao nói điều đó vì? Trong kinh chép: Người phạm tội năm đại nghịch, đọa vào địa ngục lớn A tỳ, chịu đủ một kiếp tội nặng. Còn người chê bai chánh pháp đọa trong địa ngục lớn A Tỳ, nếu hết kiếp này, lại bị chuyểnđến trong địa ngục lớn A Tỳ khác. Lần lượt như thế trải qua trăm ngàn địa ngục lớn A tỳ, cả Đức Phật cũng không nói về thời gian được ra khỏi. Vì tội chê bai chánh pháp là hết sức nặng nề. Lại nữa, chánh pháp tức là Phật pháp. Những người ngu si này đã sinh lòng chê bai thì đâu có lý nào lại nguyện sinh về cõi Phật? Dù cho chỉ vì tham sinh về cõi An Lạc kia mà nguyện sinh thì cũng như tìm băng mà cho rằng không phải nước. Lửa mà không có khói thì đâu có việc ấy. Hỏi: Những hình tướng gọi là chê bai chánh pháp? Đáp: Như cho rằng không có Phật, không có pháp của Phật, không có Bồ-tát, không có pháp của Bồ-tát, những kiến thức như vậy, hoặc tự tâm mình nhận định hoặc lãnh hội từ người thì chắc chắn thứ kiến thức đó đều gọi là chê bai chánh pháp. Hỏi: Kể ra những việc như thế thì chỉ là việc của mình, đối với chúng sinh có gây ra những khổ não gì mà cho là nặng hơn năm tội nặng đại nghịch? Đáp: Nếu không có Chư Phật và Bồ-tát, nêu giảng về con đường lành của thế gian và xuất thế gian để giáo hóa chúng sinh thì làm sao biết được nhân, lễ, nghóa, trí, tín! Như thế thì tất cả pháp lành thế gian đều dứt, tất cả các bậc Hiền Thánh xuất thế gian đều diệt. Ông chỉ biết tội năm đại nghịch là nặng mà không biết tội năm đại nghịch ấy chính là từ chỗ không có chánh pháp mà sinh ra. Cho nên kẻ chê bai chánh pháp thì tội ấy là cực nặng. Hỏi: Kinh Nghiệp Đạo chép: Con đường tạo nghiệp như các cân, hễ nặng thì lôi kéo trước. Như trong kinh Quán Vô Lượng Thọ chép: Có người gây ra năm tội đại nghịch, mười điều ác, đủ các nghiệp bất thiện thì, phải bị đọa vào đường ác, trải qua nhiều kiếp, chịu vô lượng khổ, khi chết gặp được Thiện tri thức dạy bảo, xưng niệm “Nam mô A di đà Phật” dốc lòng giúp cho âm thanh liên tục, như thế đủ mười niệm liền được vãng sinh về cõi Tịnh An Lạc, được vào cõi Chánh Định Đại Thừa, rốt ráo không hề lui sụt đối với ba đường ác và các sự khổ đều dứt hẳn. Vậy thì nghóa kéo lôi nêu trước đó là lý như thế nào? Lại do từ nhiều kiếp đến nay, gây ra đủ các pháp hành hữu lậu, bị trói buộc trong ba cõi, nhưng nhờ vào việc niệm danh hiệu Phật A di đà mười niệm, liền được ra khỏi ba cõi. Thế thì ý nghóa của sự trói buộc bởi nghiệp là sao? Đáp: Các ông cho rằng tội năm đại nghịch, mười ác nghiệp trói buộc của chúng.vv… là nặng, cho người được sinh nơi Hạ hạ phẩm do mười niệm là nhe,ï nên bị chổ lôi kéo trước của tội nặng kia bị đọa vào địa ngục, bị trói buộc trong ba cõi. Nay nghóa so sánh thì nghóa nặng nhẹ là do tâm, do duyên, do sự quyết định chứ không do thời gian lâu hay mau, nhiều hay ít. Thế nào là do tâm? Người gây ra tội kia tự mình nương vào pháp luông dối điên đảo mà dấy khởi nhận thức sai lạc. Còn mười niệm này thì nương vào các vị Thiện tri thức dùng phương tiện an ủi, được nghe pháp thật tướng mà phát sinh. Một thật một dối, đâu được so sánh? Vì như ngàn năm ở trong ngôi nhà tối tăm, như có ánh sáng dần đến thì ngôi nhà này liền được sáng sủa quang đãng. cái tối tăm đâu được nói là mình đã ở trong căn nhà cả ngàn năm rồi nên không chịu đi? Đó gọi là do tâm. Thế nào là do duyên?: Người gây ra kia, tự nương vào tâm vọng tưởng, dựa vào quả báo đầy những phiền não luống dối của chúng sinh mà phát sinh. Còn mười niệm này thì nương vào lòng tín vô thượng, tựa vào danh hiệu công đức vô lượng, thanh tịnh chân thật, phương tiện trang nghiêm của a -di -đà Như Lai. Ví như có người bị trúng mũi tên độc phạm đến cả gân, xương, nghe tiếng trống giục giã về thứ thuốc thần diệt trừ thì mũi tên sâu độc kia liền được nhổ ra. Vậy có thể nói rằng mũi tên sâu độc ấy đã gắng nghe được hay không đó tiếng trống lại không thể nhổ mũi tên ra được? Đây gọi là do duyên. Thế nào là do quyết định?: Người gây ra kia đã nương vào tâm có sự phân biệt sau trước để phát sinh. Còn mười niệm này thì nương vào tâm không còn có sự phân biệt kia mà sinh. Đó gọi là quyết định. So sánh ba nghóa thì mười niệm là nặng. Nặng thì gây ra sự lôi kéo trước, nên sẽ ra khỏi ba cõi. Hai bộ kinh chỉ là diễn đạt một nghóa mà thôi. Hỏi: Thời gian bao lâu gọi là một niệm? Đáp: Một trăm sinh diệt gọi là một sát na, sáu mươi sát na gọi là một niệm. Ở đây cho rằng niệm ấy đã không chọn lấy thời gian theo kiểu nầy. Chỉ nói là nhớ niệm Đức Phật a -di -đà, hoặc về tướng chung , hoặc là tướng riêng, tùy theo sự duyên hợp của đối tượng quán sát, tâm không hề duyên tưởng vào đối tượng khác, mười niệm nối nhau gọi là Mười niệm, việc xưng danh hiệu cũng như thế. Hỏi: Nếu tâm duyên theo các đối tượng khác, phải gom nhiếp nó về thì có thể biết là bao nhiêu niệm. Vả đã biết được nhiều ít thì chẳng phải là không có khoảng giữa. Nếu đừng dứt tâm chuyên chú vào tưởng, thì phải nương vào đâu để biết được là đã ghi nhớ được niệm nhiều hay ít? Đáp: Trong kinh nói mười niệm, là nói về sự thành hình của ng- hiệp, không cần biết về số lượng. Như nói con ve sầu không biết mùa Xuân mùa Thu, thế thì con sâu ấy đâu biết về thời tiết của mặt trời? Biết là nói về điều đó. Mười niệm được tạo thành cũng là sự hợp chung với thần lực mà nói điều đó. Vậy chỉ chứa niệm nối tiếp, không cho duyên theo việc khác, điều ấy có thể làm đựơc, đâu muốn phải biết về số lượng của niệm. Nếu cần biết thì cũng phải có phương tiện, nên dùng miệng để truyền trao, không được dùng bút để diễn đạt. Chú giải bài kệ nguyện sinh của kinh Vô Lượng Thọ Ưu-ba-đề- xá.  VÔ LƯỢNG THỌ KINH ƯU-BA-ĐỀ-XÁ NGUYỆN SINH KỆ <卷>QUYỂN HẠ Luận chép: Dưới đây là phần giải thích,nghóa trong phần này có mười lớp: Đại ý của nguyện kệ. Khởi quán sinh tín. Quán hạnh thể tướng của. Tịnh nhập nguyện tâm. Khéo léo nhiếp hóa. Lìa chướng Bồ-đề. Thuận Bồ-đề môn. Danh nghóa nhiếp đối. Nguyện sự thành tựu. Lợi hạnh đầy đủ. Luận là bàn luận, y nói nguyên nhân luận bàn của kệ. Rằng là lời cho các câu dưới đây. Là luận bàn giải thích về lời kệ, cho nên luận chép:đại ý của nguyện kệ. Kệ nguyện này nói về nghóa gì? Là nói quán thế giới an vui của kia thấy Như lai A-di-đà nguyện sinh về cõi ấy. 1. Khởi quán sinh tín: Trong đây có hai lớp: Nói về năng lực của năm niệm. Nêu ra năm niệm môn. Nói về năng lực của năm niệm: Làm sao quán, làm sao sinh tín tâm? Nếu người thiện nam hay thiện nữ tu năm niệm môn. Thực hành thành tựu rốt ráo được sinh về cõi An Lạc, thấy Đức Phật A-di-đà kia là nêu ra năm niệm môn. Năm niệm môn là: Môn lễ bái. Môn khen ngợi. Môn Tác nguyện. Môn Quán sát. Môn Hồi hướng. Môn nghóa là ra vào, nếu người có được môn thì ra vào không chướng ngại. Bốn niệm môn trước là môn đến cõi An Lạc thanh tịnh, một niệm môn sau là phát khởi lòng từ bi giáo hóa. Thế nào là lễ bái thân nghiệp, lễ bái Di-đà Như lai Ứng Chánh Biến Tri. Chư Phật Như lai có vô lượng đức. Vì đức vô lượng nên đức hiệu cũng vô lượng. Nếu muốn ghi chép đủ bằng bút mực cũng không sao ghi hết. Đó là điểm mà các kinh đưa ra muời hiệu, hoặc nêu ba hiệu, đó là để thể hiện tấm lòng hết mực tôn kính. Có chuyển tải hết ý nghóa này hay chăng? Nói về ba hiệu này là Như lai, Ứng Cúng và Chánh Biến Tri. Như lai: Hiểu đúng tướng pháp, nói đúng tướng pháp. Như đạo an ổn của Chư phật mà đến Đức phật này cũng đến (lai) như thế không đi vào thân hậu hữa, nên gọi là Như Lai. Ưùng:là Ưùng cúng. Đức Phật tất cả kiết sử đã dứt hết được tất cả trí tuệ. Xứng đáng thọ sự cúng dường của chúng sanh trong trời, đất nên gọi là Ứng. Chánh Biến Tri là biết tất cả Chư Phất thật không có tướng hư hoại không thêu không bớt Thế nào là không hư hoại? chỗ tâm hành dứt, đường nói năng bật các pháp như tướng Niết-bàn bất động, nên gọi là Chánh Biến Tri. Nghóa vô ngại quang như trong kệ trước đã giải thích. Vì ý sinh về nước kia cho nên mới nói điều này. Pháp của Bồ-tát là thường ngày ba thời, đêm ba thời lễ bái tất cả Chư Phật mười phương vào, không cần có ý nguyện sinh. Nay phải thường có ý nguyện sinh cho nên lễ Như lai, A-di-đà. Thế nào là khen ngợi, khẩu nhgiệp khen ngợi? Tán là khen ngợi, thán là tán dương. Khen ngợi là dùng miệng nên thuộc về khẩu nghiệp. Gọi là Như lai phải đúng trí tưởng ánh sáng của Đức Như lai. Muốn đúng theo danh nghóa đó thì tu hành chân thật mới tương ứng. Xưng danh hiệu Như lai kia, là xưng danh hiệu Vô Ngại Quang Như lai. Đúng với trí tướng ánh sáng của Đức Như lai kia: Ánh sáng của Phật là tướng trí tuệ. Ánh sáng này chiếu soi khắp các thế giới ở mười phương không bị cản trở, có công năng xua tan hết những bóng tối mười phương cho chúng sinh, còn ánh sáng mặt trời, mặt trăng. hạt châu chỉ chiếu soi xua tan bóng tối trong hang sâu. Đúng với danh nghóa kia thì phải tu hành chân thật mới được tương ưng: Danh hiệu Vô Ngại Quang Như lai kia có năng dứt bỏ vô minh cho chúng sinh, làm thoai mãn tất cả chỉ nguyện của chúng sinh nhưng co Khi xưng nhớ niệm danh Ngài mà vô minh vẫn còn nên không được mãn nguyện. Vì sao? Vì không tu hành đúng như thật danh nghóa nên không tương ưng. Thế nào không tu hành đúng như thật với danh nghóa không tương ưng? Vì không biết Như lai là thân thật tướng hay thân vật chất. Lại, có ba thứ không tương ưng. Lòng tin không được thuần thục lúc có lúc không. Tín tâm không chuyên nhất chẳng nhất định Lòng tin không nối nhau, vì xen lẫn niệm khác. Ba câu này lần lượt làm thành lẫn nhau, vì lòng tin không thuần thục nên không quyết định Không quyết định nên nên không được nối nhau, cũng có thể niệm không được nối nhau, cho nên không được lòng tin quyết định. Hễ không được lòng tin quyết định, thì tâm không được thuần thục. Vì trái nhau nên gọi là tu hành như thật tương ưng đúng, cho nên luận chủ nói rằng: Con nhất tâm. Hỏi:Tên là pháp chỉ bày, như ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu có người xưng danh hiệu Phật thì được đầu đủ nguyện vọng. Ngón tay Chỉ mặt trăng lẽ ra có công năng phá tôi nếu ngón tay chỉ mặt trăng không thể phá tối mà xưng danh hiệu Phật thì cũng đâu thể mãn nguyện phải không? Đáp :Các pháp có muôn ngàn khác nhau, không thể nói một mà bao gồm tất cả có khi danh tức là pháp, có khi danh khác, pháp danh là pháp. Danh hiệu Chư Phật, Bồ-tát, Bát-nhã Ba-la-mật và, chương cúù Đa-la-ni âm từ cấm chú v.v…. Như từ cấm thủng nói mặt trời mọc ở phương Đông vừa đỏ, vừa vàng, dú cho đến giờ dâu, giờ hơi cấm không cho mặt trời mọc, nên nó to ra khác đi, như lính đánh trận, trong miệng luôn đọc binh đấu thì đều bày la liệt phía trước. Khi binh đến đọc chín chữ này, thì thứ năm binh không bắn trúng. Bao Phát Tử nói là yếu đạo. Lại có người đau khổ thấm dần vào gân xương thì cây dừa đốt trên lửa cũng lành, hoặc có người chỉ kêu đến cây dừa cũng lành bệnh, thân ta được hiệu quả này. qua những việc gần gũi người đời ai cũng biết, huống chi cảnh giới không thể suy nghó bàn luận luận. Thí dụ diệt trừ thuốc bôi lên trống, lại là một việc. Thí dụ này đã nói õ từ trước, cho nên không dẫn lại. Có tên mà pháp khác, như từ ngữ ngón tay chỉ mặt trăng. Thế nào là phát nguyện? Tâm thường phát nguyện nhất tâm chuyên niệm rốt ráo vãng sinh về cõi nước An Lạc muốn thật tu hành đúng như thật. ma-tha -ma-tha, Hán dịch là chỉ. Chỉ là dừng tâm một chỗ không làm điều ác. Dịch danh từ này nếu không nương vào đại ý thì đối với nghóa chưa đầy đủ. Nói như vậy vì sao? Như trụ tâm ở chót mũi, cũng gọi là Chỉ. Quán bất tịnh để dứt tham, quán từ bi để dứt sân, quán nhân duyên để dứt si, như vậy v.v…. cũng gọi là chỉ. Như người sắp đi không đi cũng gọi là chỉ,chonnên từ ngữ chỉ là lâng lâng không chính thức được gọi là Sa-ma-tha. Như cây mận, cây mít, cây du, cây liễu, dù đều gọi là cây, nhưng chỉ nói cây đâu có được cây du, cây liễu ư? Sa-ma-tha gọi là chỉ có ba nghóa. Nhất tâm chuyên niệm A-di-đà Như Lai, nguyện sinh về cõi nước của ngài, đây là danh hiệu Như Lai và danh hiệu cõi nước kia có công năng dứt tất cả điều ác. Cõi nước An lạc vượt ngoài qua ba cõi, nếu sinh về cõi nước kia tự nhiên dứt được ba nghiệp ác của thân, miệng, ý. Đức Như lai A-di-đà có năng lực dừng, cầu tâm Thanh Văn, Bích-chi-Phật. Ba thứ Chánh giao1 trụ trì .tự nhiên dứt mong này đều từ công đức chân thật của Đức Như lai sinh ra, cho nên nói muốn tu hành -ma-tha.đúng như thật Thế nào là quán sát trí tuệ, quán sát chánh niệm, thấy kia muốn tu hành Tỳ-bà-xá-na đúng như thật? Tỳ-bà-xá-na, Hán dịch là “Quán”. Nhưng nói rộng nghóa quán cũng chưa đầy đủ. Phải nói thế nào? Như quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã, chin tưởng v.v… đều gọi là “Quán”. Cũng như tên cây ở trên hư không được gọi là cây Xuân, cây Chá. Tỳ-bà-xá-na dịch là Quán, cũng có hai nghóa: Ở đây quán tưởng kia, có ba công đức trang nghiêm, vì công đức này chân thật, nên người tu hành cũng được công đức chân thật. Nếu người được công đức chân thật thì chắc chắn vãng sinh về cõi kia. Khi được sinh về cõi tịnh kia liề thấy Phật A-di-đà, chưa chứng được tâm thanh tịnh, Bồ-tát rốt ráo chứng được pháp thân bình đẳng Bồ- tát tâm thanh tịnh, Bồ-tát thượng địa rốt ráo đồng được vắng lặng bình đẳng, cho nên nói muốn tu hành đúng như thật Tỳ-bà-xá-na. Quán sát kia có ba thứ, thứ ấy là: Quán sát công đức trang nghiêm ở cõi Phật kia. Quán sát công đức trang nghiêm của Phật A-di-đà. Quán sát công đức trang nghiêm của các Bồ-tát kia. Tâm duyên vào việc này gọi là “Quán”, tâm quán biết rõ ràng gọi là “sát”. Thế nào là hồi hướng không bỏ tất cả những điều khổ não của chúng sinh? là tâm thường nguyện hồi hướng làm đầu, thành tựu được tâm đại bi. Hồi hướng có hai tướng: 1.Vãng tướng. 2.Hoàn tướng. Vãng tướng là ban công đức của mình cho tất cả chúng sinh, và nguyện cùng họ vãng sinh về cõi nước thanh tịnh của Đức Như lai A-di-đà. Hoàn tướng là khi sinh về cõi nước ấy rồi, được thành tựu năng lực phương tiện Xa-ma-tha Tỳ-bà-xá-na, vào rừng rậm sinh tử để giáo hóa tất cả chúng sinh, cùng họ hướng về Phật đạo. Vãng hay Hoàn cũng đều là cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử. Cho nên nói hồi hướng làm đầu vì muốn được ø thành tựu tâm đại bi. Quán sát thể tướng, trong phần này có hai thế: Khí thể. Chúng sinh thế. Trong phần khí có ba lớp: Thể tướng của cõi nước. Thị hiện lợi mình, lợi người, nhập vào bậc nhất nghóa đế, đó là thể tướng của cõi nước. Thế nào là quán sát công đức trang nghiêm cõi Phật kia? Cõi Phật kia công đức trang nghiêm vì năng lực thành tựu không thể suy nghó bàn luận luận như tính chất của báu Ma-ni như ý kia giống như pháp tương đối. Không thể nghó lường là chỉ chung mười bảy năng lực công đức trang nghiêm của cõi Phật kia không thể suy nghó bàn luận luận. Các kinh nói chung, có năm thứ không thể suy nghó bàn luận luận: Chúng sinh nhiều hay ít không thể suy nghó bàn luận. Nghiệp lực không thể suy nghó bàn luận. Công lực không thể suy nghó bàn luận. Năng lực thiền định không thể nghó suy bàn luận. Phật pháp không thể nghó bàn suy luận. Có hai thứ năng lực: Nghiệp lực: Nghóa là Bồ-tát Pháp Tạng ra đời nghiệp lực gốc lành và đại nguyện đã thành tựu. Chánh giác Pháp Vương A-di-đà khéo có năng lực giữ gìn và nhiếp phục tất cả. Những điều này không thể suy nghó bàn luận cũng như mười bảy điều dưới đây, mỗi tướng đều không thể suy nghó bàn luận, văn sao sẽ giải thích như tính chất của báu Ma-ni như ý kia, dường như tương đối, vì muốn mượn tính chất của báu ma-ni như ý kia, để chỉ rõ tính chất cõi Phật kia không thể suy nghó bàn luận. Khi Chư Phật nhập Niết-bàn, dùng năng lực phương tiện để lại toiá thân xá-lợi để chúng sinh làm phước. Chúng sinh hết phước thì xá-lợi này trở thành châu báu ma-ni như ý. Châu này thường ở dưới biển cả. Đại Long Vương dùng để làm đẹp trên đầu. Nếu vua Chuyển Luân xuất hiện ở đời, vì lòng từ bi phương tiện sẽ được hạt châu này, ở trong Diêm-phù- đề làm lợi ích lớn cho chúng sinh. Nếu cần cơm ăn, áo mặc, nước uống, ánh sáng, tất cả dụng cụ v.v… đều tùy theo ý muốn mà có các thứ. Vua liền để hạt châu trong sáng trên đầu cây sào phát nguyện: “Nếu tôi thật là vua Chuyển Luân thì mong hạt châu này mưa rãi xuống các vật dụng như mưa đúng như điều mong cầu hoặc khắp cả một dặm, mười dặm, hoặc trăm dặm đều đúng theo tâm nguyện của tôi”. Khi ấy trong hư không trời mưa rãi xuống tất cả vật dụng xuống như mưa, đều đúng với những điều mìnhmong cầu ø đầy khắp thiên hạ, tất cả đều thỏa đáng với nguyện vọng của người, nhờ năng lực của tánh báu này. cõi Phật An lạc kia cũng như vậy, vì đã thành tựu được các tính chất An lạc. Tương tự tương đối: Năng lực của hạt châu kia, nếu người cầu mong cơm, áo, thì sẽ mưa rãi xuống tất cả cơm ăn, áo mặc như mưa đúng với ý cầu xin của người, nhưng phải mong cầu mới được. Cõi Phật kia thì không phải như vậy, vì bản chất đã đầy đủ và thành tựu, không bị nghèo thiếu. Ở đây lấy chút việc ấy làm ví dụ, nên nói là hơi giống. Hơn nữa, quả báo chỉ đáp ứng như mong cầu cơm, áo cho chúng sinh, không thể đáp ứng sự khao khát đạo Vô thượng cho chúng sinh. Báo kia đáp ứng như cầu vật chất cho chúng sinh chỉ một đời, không phải nhiều đời. Vì có những điều khác nhau như thế nên nói: là “Tương Tự”. Nếu có người quán sát cõi Phật kia Thành tựu công đức trang ng- hiêm có mười bảy thứ nên biết. Mười bảy công đức ấy là: Thành tựu công đức trang nghiêm thanh tịnh. Thành tựu công đức trang nghiêm lượng. Thành tựu công đức tánh trang nghiêm. Thành tựu công đức trang nghiêm hình tướng. Thành tựu công đức trang nghiêm các ù việc. Thành tựu công đức diệu sắc trang nghiêm. Thành tựu công đức trang nghiêm xúc chạm. Thành tựu công đức ba thứ trang nghiêm. Thành tựu công đức mưa trang nghiêm. Thành tựu công đức trang nghiêm ánh sáng. Thành tựu công đức trang nghiêm âm thanh hay. 12 Thành tựu công đức trang nghiêm chủ. Thành tựu công đức trang nghiêm quyến thuộc. Thành tựu công đức trang nghiêm thọ dụng. Thành tựu công đức trang nghiêm không có các nạn. Thành tựu công đức trang nghiêm đại nghóa môn. Thành tựu công đức trang nghiêm tất cả việc mong cầu đều đầy đủ. Trước nêu ra chương môn, sau giải thích đề. Về Thành tựu công đức trang nghiêm thanh tịnh, kệ chép: Quán thế giới ấy trang nghiêm thanh tịnh tướng tốt đẹp hơn ba cõi. Tại sao û điều này gọi là không thể suy nghó bàn luận? Vì Có các phàm phu còn phiền não cũng được sinh về cõi nước thanh tịnh kia. Nghiệp ràng buộc trong ba cõi hoàn toàn không thể lôi kéo, do đó không cần dứt bỏ phiền não, nhưng vẫn được Niết-bàn, đều đó suy nghó bàn luận? Thành tựu công đức trang nghiêm lượng là: Kệ chép rốt ráo như hư không không có bờ mé. Vì sao nói là không thể suy nghó bàn luận. Trời, người ở cõi kia nếu ý muốn cung điện lầu gác rộng hoặc một do-tuần, hoặc trăm do tuần, ngàn do tuần, hay ngàn gian, muôn gian thì, tùy theo tâm liền được thành tựu và mỗi người đều được như vậy. Chúng sinh trong các thế giới ở mười phương nguyện vãng sinh, hoặc đã sinh, đang sinh và sẽ sinh, trong khoảnh khắc một giờ, một ngày, tính số không thể biết, là nhiều hay ít. Nhưng thế giới kia thường như hư không, không có sư chèn ép, chúng sinh cõi đó ở đúng lượng như vậy, chí nguyện của họ cũng rộng lớn như hư không chẳng có hạn lượng, lượng cõi nước kia có thể thành tựu lượng tâm hạnh của chúng sinh, đâu thể suy lường được? Thành tựu công đức trang nghiêm tánh: Kệ chép: chánh đạo đại từ bi xuất hiện ở đời thì gốc lành sinh, thế nào là không thể suy nghó bàn luận? Thí như lòai trùng ca-la-cầu-la, thân nó nhỏ nhắn, nhưng nếu có gió lớn thổi đến thì thân nó cao lớn như núi. Tùy theo gió lớn nhỏ mà thành thân tướng của mình, chúng sinh sinh về cõi An Lạc cũng như thế. Sinh vào thế giới chánh đạo kia thì thành được gốc lành xuất thế, nhập vào chánh định. Cũng như gió kia không phải thân mà thành thân, đâu thể suy nghó bàn luận được. Thành tựu công đức trang nghiêm hình tướng: Kệ chép: sáng ngời vằng vặc đầy đủ như vầng mặt trăng, mặt trời, vì sao gọi là không thể suy nghó bàn luận. Hễ nhẫn nhục được đoan chánh thì tâm ta được ảnh hưởng Hễ được sinh về đó thì không có sân, nhẫn khác nhau, hình tướng dung nhan người trời đều đẹp tướng tốt ngang nhau, vì đều nhờ năng lực ánh sáng thanh tịnh. Aùnh sáng ấy không phải tâm hành mà làm việc của tâm hành đâu thể suy nhó bàn luận được. Thành tựu công đức trang nghiêm các việc : Kệ chép:đầy đủ các tính chất châu báu, đầy đủ sự nhiệm mầu trang nghiêm. Vì sao không thể suy nghó bàn luận? Vì các việc kia hoặc một thứ báu, mười thứ báu, trăm ngàn thứ báu, đều tùy theo tâm đáp ứng đầy đủ, đúng theo ý muốn. Nếu muốn nó không còn thì thoắt chốc biến mất, tâm được tự tại, có thần thông bay xa, đâu thể suy nghó bàn luận? Thành tựu công đức trang nghiêm sắc nhiệm mầu: Kệ chép ánh sáng thanh tịnh rực rỡ trong sáng chói khắp người đời. Tại sao không thể suy nghó bàn luận? Ánh sáng này khi gặp việc thì ánh lên thấu suốt trong ngoài. Tâm ánh sáng này thì thấu cả vô minh, sáng soi làm Phật sự, đâu thể suy nghó bàn luận? Thành tựu công đức trang nghiêm xúc chạm: Kệ chép công đức bản chất của báu mềm mại như cỏ, tất cả mọi người chạm vào đều sinh ra ý nghó cao quý hơn cả Ca-chiên-lân-đà. Vì sao không thể suy nghó bàn luận? Vì thông thường báu là cứng chắc nhưng ở đây thì mềm mại, chạm vào dễ chịu nên ưa thích, nhưng lại thêm lớn tâm đạo, sự việc như ái tác. Đâu thể suy nghó bàn luận được. Có vị Bồ-tát tên là Ái tác, hình dung xinh đẹp làm cho người sinh tâm kính mến. Người kính thương ngài hoặc được sinh lên cõi trời, hoặc phát tâm bồ-đề. Thành tựu công đức trang nghiêm ba thứ: Có ba việc nên biết, ấy là ba việc : Điều thứ nhất là nước, thứ hai là đất, thứ ba là hư không. Ba thứ này sở dó nói chung, vì chúng đồng loại. Thế nào là nói chung: Sáu đại: Đó là hư không, thức, đất, nước, lửa, gió. Loại vô phân biệt: Đất, nước, lửa, gió, hư không. Chỉ nói ba loại: Thức là một đại thuộc chúng sinh thế gian, hỏa là một đại trong không kia, dù có gió nhưng gió không thấy, được vì không có chỗ trụ. Do đó trong sáu đại, năm thứ chấp nhận có nhưng trang ng- hiêm được, nên ba thứ này nói chung. Thành tựu công đức trang nghiêm nước: Kệ chép muôn ngàn hoa báu rủ đầy hồ, suối chảy, gió nhẹ động hoa lá, ánh sáng xen lẫn nhau, lung linh tung tăng. Vì sao không thể suy nghó bàn luận? Vì cõi thanh tịnh kia trời người không phải nuôi sống thân bằng nước, thì đâu cần dùng nước? Vì được sự thành tựu thanh tịnh nên không cần dùng nước để rửa, giặt, thì đâu cần dùng nước, ở cõi đó không bị bốn mùa chi phối, lúc nào khí hậu cũng điều hòa không nóng bức, thì đâu cần dùng nước? Không cần nhưng vẫn có, nên có những điều này. kinh chép: Các Bồ-tát kia và các Thanh Văn nếu vào đất báu, ý muốn nước tới chân thì ngập tới chân, muốn tới đầu gói thì nước đến đầu gối, muốn tới eo thì tới eo, muốn đến cổ thì đến cổ, muốn nước rót vào thân thì tắm một cách tự nhiên, muốn nước trở lại chỗ cũ thì nước trở lại chỗ cũ. Điều hòa không khí nóng, lạnh tự nhiên theo ý. Mở thần diệt thể sạch trừ tâm nhơ sáng vắng lặng trong, rỗng không như hư không chẳng hình tướng, diệu báu sáng chiếu, thấu suốt những nơi sâu xa. Sáng lớn, nhỏ chảy dần dần rót vào nhau, nhẹ nhàng, thong thả không chậm, không nhanh vô lượng. Sống lăn tăn, các âm thanh tự nhiên nhiệm màu tùy theo ứng sự thích đều nghe được: Hoặc nghe tiếng Phật hoặc nghe tiếng Pháp, hoặc nghe tiếng Tăng, hoặc nghe tiếng vắng lặng, tiếng không, vô ngã, tiếng đại tự bi, tiếng Ba-la-mật. Hoặc nghe tiếng mười sáu pháp vô úy bất cộng, các tiếng thông tuệ, tiếng vô sở tác, tiếng chẳng sanh diệt, tiếng vô Sinh Nhẫn, cho đến tiếng cam lộ rót lên đảnh, các thứ âm thanh nhiệm mầu. Các thứ tiếng như thế ứng với những điều nghe này vui mừng vô lường. Thuận theo nghóa thanh tịnh, dục vắng lặng chân thật. Thuận theo năng lực Tam bảo, vô sở úy, pháp bất cộng. Thuận theo thông tuệ Bồ-tát, Thanh Văn sở hành của. Không có tên ba đường khổ nạn, chỉ có tiếng an vui tự nhiên, cho nên tên cõi nước này là “An lạc”, nước này làm Phật sự, đâu thể suy nghó bàn luận luận? Thành tựu công đức trang nghiêm đất đai: Kệ chép: cung điện các lầu gác thấu mười phương vô ngại trở, cây chen nhau, sáng lạ, lan can báu bao quanh khắp nơi, vì sao những điều này không thể suy nghó bàn luận? Các việc kia, hoặc một thứ báu, mười thứ báu, trăm thứ báu và vô lượng thứ báu, tùy tâm thích ý trang nghiêm ø đầy đủ những việc trang nghiêm này. Như gương trong sáng, mười phương cõi nước tịnh uế, các tướng nghiệp duyên thiện, ác tất cả đều hiện trong đó, trời người trong cõi nước đó đều thấy việc này. Trước cảnh tượng thành tựu tự nhiên không khen ngợi hết, cũng như các đại Bồ-tát các bàu như tánh pháp chiếu v.v… làm mũ trong mũ báu này đều thấy Chư Phật, lại thông suốt tánh của tất cả các pháp.Lai Như khi Phật nói kinh Pháp Hoa, Ngài phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày chiếu về phương Đông một muôn tám ngàn cõi nước, đều như mầu vàng ròng, từ địa ngục A-tỳ trên đến Hữu Đảnh, chúng sinh sinh tử trong sáu đường ở các thế giới thú hướng nghiệp duyên thiện ác và thọ báo tốt xấu đều hiện trong đó, đều bao trùm những loài này, ảnh này là Phật sự, đâu thể suy nghó bàn luận. Thành tựu công đức trang nghiêm hư không: Kệ chép vô lượng báu đan xe nhau, lưới trùm khắp hư không, các thứ linh réo rắc phát ra tiêng êm tai. Vì sao không thể suy nghó bàn lu- ận? Vì kinh nói: “Vô lượng lưới báu giãng khắp cõi Phật, đều dùng chỉ vàng, chân châu ngọc trăm ngàn thứ báu xen lẫn, quý lạ đẹp đẽ tô điểm trang ng- hiêm, chung quanh bốn bên có linh báu rủ xuống, ánh sáng rực rỡ vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ. Tự nhiên gió công đức từ từ nổi thổi nhẹ, gió này điều hòa không lạnh không nóng, ôn hòa mát mẽ, mềm mại không mau không chậm. Gió thổi làm các màn lưới và cây báu, vang ra pháp âm nhiệm mầu, tỏa ra muôn thứ hương đức ôn hòa thanh nhả, có người nghe được đều này, các tập khí trần lao tự nhiện không còn, gió chạm vào thân thì được an vui tiếng này làm Phật sự”. Thành tựu công đức trang nghiêm mưa, Kệ chép: Mưa hoa trang nghiêm áo vô lượng hương thơm xông khắp. Ở đây vì sao là không thể suy nghó bàn luận? Vì kinh nói: Gió thổi hoa rơi đầy khắp cõi Phật, mầu sắc tùy theo thứ bậc nên không lẫn lộn, hoa rực rỡ, mềm mại tỏa ngát hương thơm. Chân bước lên thì hoa lún xuống bốn tấc, nhấc chân lên thì hoa bằng đầy trở lại như cũ, hoa xài rồi đất nứt ra, hoa vùi xuống theo thứ lớp, sạch sẽ không sót .Tùy theo thời tiết cõi đó gió thổi hoa rơi, như thế nhiều lần. Còn có các thứ hoa sen báu đầy khắp thế giới, mỗi hoa báu có trăm ngàn ức cánh, ánh sáng hoa này có vô lượng mầu sắc, hoa màu xanh có ánh sáng xanh, hoa màu trắng có sánh sáng trắng, hoa mầu đen, vàng, đỏ, tía thì ánh sáng cũng có mầu như vậy, rực rỡ sáng chói như mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi hoa tỏa ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng, trong mỗi tia sáng có mươi sáu trăm ngàn ức Phật, thân màu vàng ròng, tướng tốt xinh đẹp. Mỗi Đức phát ra trăm ngàn tia sáng, nói pháp mầu nhiệm cho khắp mười phương. Như thế mỗi Đức Phật đặt vô lương chúng sinh vào chánh đạo của Phật. Hoa là Phật sự, đâu thể suy nghó bàn luận. Thành tựu công đức trang nghiêm ánh sáng, Kệ chép: Mặt trời Phật tuệ sáng, xua tối si mê, điều này vì sao là không thể suy nghó bàn luận? Vì cõi kia sáng ngời từ phước báu trí tuệ Như lai tỏa ra, ai tiếp nhận được thì vô minh đen tối hoàn toàn dứt hết. Ánh sáng này chẳng phải trí tuệ thì có thể là dụng của tuệ, đâu thể suy nghó bàn luận được. Thành tựu công đức trang nghiêm âm thinh, mầu nhiệm, Kệ chép: Tiếng phạm ngộ sâu xa nhiệm mầu, khắp mười phương Vì sao không thể suy nghó bàn luận? Kinh chép: Nếu người chỉ nghe nói cõi nước kia thanh tịnh an vui hết lòng nguyện vãng sinh, thì cũng được vãng sinh, nhập vào nhóm chánh định. Cõi nước này dùng danh tự làm Phật sự, đâu thể suy nghó bàn luận? Thành tựu công đức trang nghiêm chủ, Kệ chép: Chánh giác A-di-đà, Pháp Vương khéo trụ trì. Điều này vì sao không thể suy nghó bàn luận? Vì Chánh giác A-di-đà không thể suy nghó bàn luận là cõi nước thanh tịnh an vui do Chánh giác A-di-đà kia khéo dùng năng lực trụ trì, làm sao nghó bàn được? Trụ là bất dị, bất diệt. Trì là không tan không mất. Như dùng thuốc không mục nát để ướp hạt giống, bỏ vào nước không thối rữa, vào lửa không cháy, gặp nhân duyên thì sinh. Vì sao? Vì năng lực thuốc không hư hoại. Nếu người vừa sinh về cõi thanh tịnh an vui, về sau phát nguyện sinh trở lại ba cõi để giáo hóa chúng sinh. Bỏ mạng sống cõi tịnh, theo nguyện thọ sinh, dù sinh trong ba cõi, sống len lõi trong nước lửa nhưng hạt giống vô thượng Bồ-đề hoàn toàn không mất. Vì sao? Vì đi thẳng đến chánh giác A-di- đà khéo trụ trì. Thành tựu công đức trang nghiêm quyến thuộc, Kệ chép: Như lai chúng tịnh hoa Chánh giác, hóa hóa sinh. Điều này tại sao không thể suy nghó bàn luận? Hễ sinh trong thế giới lẫn lộn, hoặc sinh bằng thai, bằng trứng, bằng ẩm ướt, bằng hiếu hóa, bao nhiêu quyến thuộc, chịu ngàn muôn khổ vui, vì nghiệp lẫn lộn. Cõi nước An Lạc kia đều hóa sinh trong tịnh hoa Chánh giác của Như lai A-di-đà đồng một niệm Phật không cócon đường nào khác. Xa chung cả trong bốn biển đều là anh em, quyến thuộc, đâu thể suy nghó bàn luận. Thành tựu công đức trang nghiêm thọ dụng, Kệ chép: Ưa thích pháp Phật, thiền tam-muội thức ăn. Điều này vì sao gọi là không thể suy nghó bàn luận? Không ăn nhưng nuôi được mạng sống, vì đã có trí tuệ thì đâu chẳng phải Như lai đã đầy đủ bản nguyện hay sao? Nương theo mạng sống Phật để duy trì mạng sống của ta, đâu thể suy nghó bàn luận? Thành tựu công đức trang nghiêm không có các điều khó khăn, kệ chép: Thân tâm lìa hẳn não hưởng vui, thường không dứt. Điều này vì sao không thể suy nghó bàn luận? Vì kinh chép: Thân là đồ chứa khổ, tâm là mối lo buồn, nhưng kia có thân tâm mà hưởng vui không dứt đâu thể suy nghó bàn luận luận. Thành tựu công đức trang nghiêm đại nghóa mon, kệ chép: Cõi Gốc lành Đại thừa đều không có chê bai, người nữ và căn thiếu, giống hai thừa chúng sinh. Của báu cõi tịnh xa lìa hai lỗi che bai nên biết: Một là thể, hai là danh. Thể có ba thứ: Người Hai Thừa. Người nữ. Người các căn không đủ. Vì Không ba lỗi này nên danh lìa thể chê bai, danh cũng có ba thứ, chẳng những khôngcó ba thể, mà cho đến không nghe các tên: Hai Thừa, người nữ, các căn không đủ, ba thú danh nên gọi là lìa danh từ chê bai. Tất cả mọi người đều bình đẳng một tướng. Vì sao không thể suy nghó bàn luận? Vì các vị trời đều đựng chung cơm một bát nhưng có mầu sắc khác nhau là tùy theo phước của nói vị, hể họ ấn chân xuống đất thì biết là vàng hay gạch. Nếu có người nguyện vnãg sinh, vốn là phẩm ba ba, nay không có một hai khác nhau, cũng như nước biển. Tuy chỉ một vị, đâu thể suy nghó bàn luận. Thành tựu công đức trang nghiêm sở cầu đầy đủ, Kệ chép: Chúng sinh nguyện ưa thích, tất cả đều đầy đủ. Ở đây vì sao không thể suy nghó bàn luận? Vì trời, người ở nước kia nếu muốn vãng sinh về vô lượng cõi Phật ở thế giới phương khác thì phải cúng dường chư Phật và Bồ-tát, phải cúng dường đầy đủ đều đúng với bản nguyện. Lại nữa, muốn xả tuổi thọ ở đó sinh về cõi khác tự tại dài ngắn, tùy nguyện đều được. Chưa đến địa vị tự tại, nhưng đồng với dụng tự tại, đâu thể suy nghó bàn luận được. Nói về tự lợi, lợi tha. Lược nói về sự thành tựu mười bày thứ trang nghiêm công đức. Như lai thị hiện thành tựu tự thân làm lợi ích lớn và năng lực công đức, thành tựu công đức lợi ích cho người. Lược nói là trình bày công đức cõi tịnh kia nhiều vô lượng, không phải chỉ mười bảy thứ. Như núi Tu- di nhét vào hạt cải, biển cả chứa trong lỗ chân lông. Há là sự nhiệm màu của núi biển chẳng? Sức mảy lông của hạt cải chăng? Đâu phải sự nhiệm mầu, cho nên mười bảy thứ dầu nói lợi tha, nghóa tự lợi cũng như vậy, rất dễ hiểu. Nhập vào nhất nghóa đế. bậc Cõi Phật Vô Lượng Thọ kia trang nghiêm cảnh giới tướng nhiệm màu bằng bậc nhất nghóa đế và nói mười sáu câu và một câu thứ lớp. Nên biết bậc nhất nghóa đế là pháp duyên khởi của Phật. Đế này là cảnh nghóa, cho nên trang nghiêm bằng mười sáu câu gọi là tướng cảnh giới nhiệm mầu trang nghiêm được nghóa này là quán khí tịnh, chung và riêng mười bảy quán hạnh thứ lớp. Thế nào là khởi thứ lớp, dựng chương ngôn Quy Mạng Vô Ngại Quang Như lai, nguyện sinh về cõi An Lạc, trong đây có nghi rằng sanh laà gốc của hu74,là đầu của các ương luy, bỏ danh nguyện sanh sanh đâu thể cùng tận:là giải thích nghóa nầy, cho nên phải quán Thành tựu công đức trang nghiêm cõi tịnh. Nói cõi tịnh kia là sinh trong bản nguyện vô sinh thanh tịnh của Như lai A-di-đà không phải như sinh vào ba cõi luống dối. Vì sao nói những điều này? vì pháp tánh thanh tịnh hoàn toàn Vô sinh, nói sinh là thức của phàm phu thì trên mất thân vô vi, năng vi, dưới chắc chắn suy mê trong ba không bất không. Căn bại hoại mắt hẳn gào thét rung chuyển cõi Tam Thiện, không trở lại không hồi phục được sự hổ thẹn nầy. Thể sinh lý gọi là cõi tịnh, nhà tịnh độ là mười bảy câu. Trong mười bảy câu chung riêng chia hai: câu đầu là tướng chung, là cõi Phật thanh tịnh vượt ngoài ba cõi. Vượt ngoài ba cõi có tướng gô, Thành tựu mười sáu thứ công đức trang nghiêm dưới là tướng. Lượng rốt ráo bằng hư không, rộng lớn không bờ mé. Đã biết được lương, lương này lấy gì làm gốc? Cho nên phải quán tánh, tánh nghóa là gốc. Cõi tịnh kia sinh ra từ chánh đạo, đại từ bi gốc lành xuất thế, đã nói gốc lành xuất thế, gốc lành này sinh ra các tướng gì? Cho nên phải quán hình tướng trang nghiêm. Đã biết hình tướng thì phải biết thể của hình tướng là gì? Cho nên phải quán các việc, đã biết các việc thì, phải biết những việc hình sắc nhiệm mầu. Thì sắc này có xúc gì? Cho nên phải quán xúc, đã biết thân xúc, thì phải biết nhẫn xác xúc, thì cho nên phải quán đất, hư không để trang nghiêm ba việc. Đã biết nhãn xúc thì phải biết tỷ xúc, cho nên phải quán áo đẹp hương xông. Đã biết nhãn, tỷ, xúc phải biết lìa nhiễm, cho nên phải quán Phật tuệ sáng ngời, đã biết năng lực trí tuệ thanh tịnh vang xa. Đã biết danh tiếng phải biết ai là tăng thượng, cho nên phải quán chủ. Đã biết có chủ thì ai là quyến thuộc, cho nên phải quán quyến thuộc, phải quán thọ dụng. Đã biết thọ dụng, thì phải biết thọ dụng này là hữu nạn hay vô nạn, cho nên phải quán không có các nạn, vì sao Vì không có các nạn nên phải quán đại Nghóa Môn thì. Đã biết Đại Nghóa Môn, phải biết Đại nghóa Môn có tròn này hay không, cho nên phải quán sở cầu sung túc. Hơn nữa, mười một câu chẳng những chỉ giải thích nghi, mà phải quán thành tựu mười bảy thứ trang nghiêm này, mới sinh được lòng tin chân thật, chắc chắn được sinh về cõi Phật An Lạc kia. Như nói biết sinh là Vô sinh, đúng là sinh phẩm thượng nếu hạ hạ phẩm nương mười niệm vãng sinh, đâu chẳng chấp nhận thật sinh hay chăng? Nhưng chấp nhận thật sinh thì rơi vào hai chấp: Một là sợ không được vãng sinh, hai là sợ lại sinh mê hoặc, thí như phén lóng nước vào nước đục, thì nước liền trong. Nếu người dù có tội sinh tử không lường, nghe được danh hiệu A-di-đà Như lai chí cực vô sinh hạt ngọc thanh tịnh, buông bỏ tâm nhơ , trong niệm niệm tội diệt, tâm thanh tịnh, liền được vãng sinh. Lại như hạt ngọc ma-ni thanh tịnh gói trong giẻ rách vàng đen bỏ vào nước thì nước liền vàng đen như mầu sắc của vật, cõi Phật thanh tịnh kia có bảo châu vô thượng A-di-đà Như lai, dùng lụa bọc thành tựu công đức trang nghiêm vô lượng, để thấy sinh thành trí Vô sinh chăng? Lại, như lửa trên băng, lửa hừng hực thì băng tiêu, băng chảy thì lửa tiêu, bậc hạ phẩm kia dù không biết pháp tánh Vô sinh nhưng xưng danh hiệu Phật thì được vãng sinh, ý nguyện sinh sinh về cõi kia. Cõi kia là thế giới vô sinh, thấy lửa tự nhiên diệt, hai là quán Bồ-tát. Quán phật Thế nào là quán Phật Thành tựu công đức trang nghiêm? Quán Phật Thành tựu công đức trang nghiêm là có tám tướng. Nên biết nghóa quán này đã nói ở bài kệ trước, tám tướng ấy là: Thành tựu công đức trang nghiêm tòa ngồi. Thành tựu công đức trang nghiêm thân nghiệp. Thành tựu công đức trang nghiêm khẩu nghiệp. Thành tựu công đức trang nghiêm ý nghiệp. Thành tựu công đức trang nghiêm đại chúng. Thành tựu công đức trang nghiêm thượng thủ. Thành tựu công đức trang nghiêm chủ . Thành tựu công đức trang nghiêm không hư hoại tạo nên sự giữ gìn. Thế nào là thành tựu công đức trang nghiêm tòa ngồi? Kệ chép: Vô lượng đài hoa tịnh Mầu nhiệm Đại Bảo Vương. Nếu muốn quán tòa phải nương theo kinh Quán Vô Lượng Thọ. Thế nào là thành tựu công đức trang nghiêm thân nghiệp? Kệ chép: Tướng tốt sáng một tầm Sắc tượng hơn chúng sinh. Nếu muốn quán thân Phật Phải nương kinh Quán Vô Lượng Thọ. Thế nào là thành tựu công đức trang nghiêm khẩu nghiệp? Kệ chép: Tiếng nhiệm mầu Như lai Âm phụm khắp mười phương. Thế nào là thành tựu công đức trang nghiêm tâm nghiệp? Kệ chép: Đồng đất, nước, gió, lửa, Hư không, vô phân biệt. vô phân biệt là không có tâm phân biệt. Phàm phu chúng sinh gây ra do ba nghiệp thân, miệng, ý trôi lăn trong ba cõi không cùng tận. Cho nên Chư Phật, Bồ-tát trang nghiêm ba nghiệp thân, miệng, ý, để đối trị ba nghiệp luống dối của chúng sinh. Thế nào là dùng nó để giáo hóa chúng sinh. Vì còn chấp thân nên thọ thân ba đường, thân thấp hèn, thân xấu xí, thân tám nạn, thân trôi lăn. Những chúng sinh như thế thấy thân tưởng tốt sáng ngời của đức Như lai thì các hân bị nghiệp trói buộc đều được giải thoát, vào nhà Như lai hoàn toàn được thân nghiệp bình đẳng. Chúng sinh vì kiêu mạn nên chê bai chánh pháp, hủy nhục Hiền Thánh, làm tổn thương bậc tôn trưởng, những hạng người như thế phải chịu khổ rút lưỡi, khổ câm ngọng, khổ nói giáo pháp không được, khổ không được danh thơm tiếng tốt, chúng sinh chịu những điều khổ như vậy nghe danh hiệu chí đức A-di-đà Như lai, nói pháp thanh thì những khẩu nghiệp ràng buộc trên đều được giải thoát. Vào nhà Như lai hoàn toàn được khẩu nghiệp bình đẳng. Chúng sinh vì tà kiến nên tâm sinh phân biệt. Hoặc có, hoặc không, hoặc phải hoặc trái, hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc thiện, hoặc ác, hoặc đây, hoặc kia, có các thứ phân biệt như thế. Vì phân biệt nên đắm chìm mãi trong ba cõi, phải chịu những thứ khổ phân biệt, khổ lấy bỏ, ngủ mãi trong đêm dài không có ngày ra. Các chúng sinh này nếu gặp A-di-đà Như lai thì những chúng sinh bình đẳng, hoặc nghe A-di-đà Như lai y nghiệp bình đẳng như, thì các chúng sinh bị nghiệp trói buộc nầy đều được giải thoát, vào nhà Như lai rốt ráo được ý nghiệp bình đẳng. Hỏi: Tâm là tướng hiểu biết, vì sao được xem là đồng với đất, nước, lửa gió vô phân biệt? Đáp: Tâm dù biết tướng nhưng nhập vào thật tướng thì không biết. Ví như bản chất của rắn là hình cong nhưng khi vào ống tre chui thì thẳng. Như kim đậm hoặc bị ong, bò cạp chích thì có giác biết. Hoặc đóa hút máu, hoặc dao bén cắt thì không có giác biết. Như thế,v.v… biết hay không biết đều thuộc về nhân duyên. Nếu thuộc về nhân duyên thì chẳng biết đều là biết. Tâm nhập vào thật tướng có thể giúp cho không biết, làm sao có được trí Nhất thiết chủng? Tâm phàm phu hể có chỗ biết thì có chỗ không biết, tâm bậc thánh không biết nên biết tất cả, không biết mà biết, biết tức không biết. Hỏi: Đã nói không biết nên biết tất cả, nếu người biết tất cả, đâu không phải biết các pháp hay sao? Đã biết các pháp, thì sao còn. Nói không có phân biệt? Đáp: Tướng các pháp đều nhu huyễn hóa. Nhưng huyễn hóa mà voi, ngựa đều có cổ dài, mũi, tay, chân khác nhau. Nhưng người trí nhìn nó, đâu thể nói nhất định có voi, ngựa để phân biệt ? Thành tựu công đức trang nghiêm đại chúng là thế nào? Kệ chép: Trời người chung một bất động thanh tịnh, biển trí sinh. Thế nào là thành tựu công đức trang nghiêm thượng thủ? Kệ chép: Như núi Tu-di chúa đẹp chẳng núi nào hơn Thế nào là thành tựu công đức trang nghiêm Chủ? Kệ chép: Người trời chúng trượng phu, Kính vây quanh chiêm ngưỡng. Thề nào là thành tựu công đức trang nghiêm không hư hoại giữ gìn tồn tại? Kệ chép: Quán sức bản nguyện Phật, Gặp mà không luống qua Làm cho mau đầy đủ Biển báu lớn công dức. Thành tựu công đức không sống không giữ gìn tồn tại là do năng lực bản nguyện của đức Như lai A-di-đà. nay sẽ trình lược bày tướng luống làm, không giữ tồn tại. Dùng nghóa này để nói sơ chẳng luống giữ gìn tồn tại. Có người nhường thức ăn nuôi học trò, hoặc chất đầy trong thuyền, chứa ngập kho vàng, nhưng vẫn bị chết đói, việc như vậy ở đâu cũng có. Được nhưng không tạo, có được nhưng không phải giữ để tồn tại, đều do nghiệp luống dối, tạo nên không thể giữ gìn. Nên nói bất hư thì giử gìn được. Theo bản Pháp Tạng: Bồ-tát có bốn mươi tám nguyện, ngày nay đức Như lai A-di-đà thần lực tự tại, chuyên dùng năng lực để thành, năng lực dùng nguyện để đạt. Nguyện thành tựu, thì năng lực cũng không xây dựng trên rỗng không. Năng lực và thệ nguyện phối hợp nhau, hoàn toàn không sai lấm cho nên nói là thành tựu. Thấy đức Phật kia chưa chứng, Bồ-tát tâm thanh tịnh rốt ráo chứng được pháp thân bình đẳng cùng với Bồ-tát tâm thanh tịnh các Bồ-tát thượng địa rôr1 ráo đồng được vắng lặng bình đẳng. Pháp thân bình đẳng là Bát địa trở lên đến pháp tánh sinh thân Bồ-tát vắng lặng bình đẳng tức là pháp thân Bồ-tát đã chứng được pháp vắng lặng bình đẳng. Vì đắc được pháp bình đẳng vắng lặng nầy nên gọi là pháp thân bình đẳng. Vị Bồ-tát này được tam-muội báo sinh, dùng thần lực tam-muội, trong niệm cùng cùng lúc một nơi biến khắp thế giới mười phương, dùng các thứ cúng dường tất cả Chư Phật, Chư Phật trong đại hội đông như số giọt nước biển, có thể ở trong vô lương thế giới chỗ không có Phật, Pháp Tăng, mà thị biện các thứ và giáo hóa các thứ, độ tất cả chúng sinh thường làm Phật sư. Đầu tiênkhông có tưởng qua lại tưởng cúng dường, tưởng độ thoát, cho nên thân này gọi là pháp thân bình đẳng, pháp này gọi là pháp vắng lặng bình đẳng. Chưa chứng được Bồ-tát tâm thanh tịnh là Sơ địa trở lên, Thất địa trở xuống. Bồ-tát này có khả năng thị hiện thân hoặc trăm, ngàn, muôn ức, hoặc trăm ngàn muôn ức không có cõi Phật mà làm Phật sự, điều quan trọng là làm cho tâm nhập tam-muội, mới có thể chẳng phải không có phi tâm. Vì tâm tạo nên gọi là chưa đắc tâm tịnh. Bồ-tát này nguyện sinh về cõi tịnh An Lạc, thấy Phật A-di-đà khi thấy Phật A-di-đà, thì với Bồ-tát thượng Địa thân bình đẳng và pháp bình đẳng rốt ráo. Bồ-tát Long Thọ, Bồ-tát Bà tẩu Ban đầu nguyện sinh về đó là như vậy. Hỏi :Theo kinh Thập Địa: Bồ-tát tiến lên tầng bậc, dần có công huân vô lượng, qua nhiều kiếp về sau mới được. Vì sao khi thấy Phật A-di-đà thì rốt ráo với các Bồ-tát thượng địa thân binh đẳng, pháp bình đẳng? Đáp: Nói rốt ráo là chưa nói bình đẳng. Rốt ráo không mất bình đẳng này, nên gọi là bình đẳng. Hỏi: Nếu không bình đẳng, vì sao lại nói Bồ-tát? Chỉ cần lên Sơ địa thì dần dần tăng tiến tự nhiên bình đẳng vỉ sao nói bình đẳng? Với Bồ tát thượng địa? Đáp: Bồ-tát ù Thất Địa được,vắng lặng hoàn toàn trên chẳng thấy có Chư Phật để cầu, dưới chẳng thấy có chúng sinh để độ. Muốn bỏ Phật đạo, chứng được mé thật, lúc đó nếu không được thần lực của Chư Phật mười phương ủng hộ thì liền diệt độ, như người Hai Thừa không khác. Nếu Bồ-tát vãng sinh về cõi An Lạc thấy Phật A-di-đà thì không gặp những điều khó khăn này, cho nên mới nói bình đẳng rốt ráo. Hơn nữa, trong kinh Vô Lượng Thọ: Bản nguyện của Phật A-di-đà rằng: nếu khi ta thành Phật, các chúng Bồ-tát ở cõi Phật phương khác sinh về nước ta, rốt ráo được Nhất Sinh Bổ Sứ, trừ người có bản nguyện tự tại, vì giáo hóa chúng sinh, cho nên chúng sinh được nguyện vọng lớn, chứa nhiều gốc đức, độ thoát tất cả sanh đến khác cõi Phật, tu hạnh Bồ-tát, cúng dường Chư Phật Như lai, giáo hóa vô lượng chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng, để lập đạo Vô thượng chánh chân, vượt ra hạnh các địa tầm thường, hiện tại, tu tập công đức Phổ Hiền, nếu không được như vậy thì không thành Chánh giác. Theo kinh này suy ra Bồ-tát cõi kia, hoặc có thể không từ một Địa đến một Địa. Nói Thập Địa thứ bậc là đức Thích-ca Như lai ở trong cõi Diêm-phù-đề để hóa đạo, cõi tịnh phương khác đâu cần phải như vậy. Trong năm thứ không thể suy nghó bàn lu- ận, Phật pháp là không thể suy nghó bàn luận thứ nhất. Nếu nói Bồ-tát phải từ một Địa đến một Địa không vượt qua lý, chưa dám nói rõ, thí như có loại cây tên Hảo Kiên, cây này sống trên mặt đất một trăm năm, mỗi ngày cao một trăm trượng, tính đến sức cao một trăm năm chẳng lẽ thuộc loại thông cao chăng? Thấy cây thông lớn một ngày chưa được một tấc, nghe loại cây Hảo Kiên kia, sao không nghi cho được? Thì nói có người nghe đức Thích-ca Như lai chứng A-la-hán vừa nghe phán xét Vô sinh, suốt đời nói là lời dẫn dắt, chẳng phải là lời xưng thật. Nghe nói về việc này sẽ không tin, hễ những lời phi thường thì không thuận với người bình thường, nói không đúng cũng thích hợp với điều này. Lược nói tám câu trình bày thành tựu thứ lớp thành tựu công đức trang nghiêm tư lợi lợi tha của đức Như lai. Thứ lớp là gì? Mười bảy câu trước là thành tựu trang nghiêm cõi nước. Đã biết sự thành tựu cõi nước, thì cũng nên biết thành tựu chủ của cõi nước, cho nên phải quán thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật. Cõi Phật kia nếu đã trang nghiêm thì ngồi chỗ nào? Cho nên phải quán tòa ngồi trước. Đã biết tòa rồi thì phải biết chủ tòa. Cho nên phải quán thân nghiệp trang nghiêm. Đã biết thân nghiệp, nên biết tiếng tăm nào, cho nên phải quán khẩu nghiệp trang nghiêm. Đã biết tiếng tăm thì phải biết được danh. Cho nên phải quán trang nghiêm tâm nghiệp. Đã biết ba nghiệp đầy đủ, thì phải thầy trò người còn ai có khả năng chịu sự giáo hóa ấy. Cho nên phải quán công đức của mọi người. Đã biết mọi người có vô lượng công đức, thì phải biết được ai là Thượng thủ, cho nên phải quán bậc thượng thủ Bậc thượng thủ là Phật, đã biết thượng thủ, sợ e đồng với trưởng ấu, cho nên phải quán chủ. Đã biết chủ, chủ có tăng thượng gì? Cho nên kế là quán trang nghiêm trụ trì không luống dối. Tám câu thứ lớp thành rồi đó là quán Bồ-tát. Thế nào là Bồ-tát quán sát Thành tựu công đức trang nghiêm? Bồ-tát quán sát Thành tựu công đức trang nghiêm: Quán Bồ-tát ấy có bốn thứ tu hành đúng Thành tựu công đức. Nên biết Chân như là Chánh thể của các pháp, thế như mà hành thì là không hành, đúng không hành mà hành thì gọi là như thật tu hành. Thể như một nhưng nghóa chia làm bốn, cho nên bốn hạnh dùng một để thu nhiếp chung. Bốn hạnh là: Trong một cõi Phật thân không dao động nhưng trùm khắp mười phương; ưng hóa tất cả tu hành đúng như thật, thường làm Phật sự. Kệ chép: Cõi An Lạc thanh tịnh thường xoay bánh xe không nhơ, mặt trời hóa Phật, Bồ-tát vững như núi Tu-di, cho nên giáo hóa chúng sinh như hoa sen trong bùn. Bồ-tát địa thứ tám trở lên ở trong tam-muội, nhở năng lực tam-muội thân bất động ở tại chỗ mà trùm khắp mười phương, cúng dường Chư Phật, giáo hóa chúng sinh. Bánh xe không nhơ: Là công đức Phật địa. Công đức Phật địa không có thói quen phiền não. Phật vì các Bồ-tát thường xoay bánh xe pháp. Các đại Bồ-tát cũng có thể dùng bánh xe pháp này giáo hóa tất cả không tạm thời dửng nghó cho nên nói là thường xoay. Pháp thân như mặt trời nhưng hóa thân sáng rực khắp các thế giới. Nói mặt trời chưa đủ, còn dùng ánh sáng bất động và nói vững chắcnhư núi Tu-di. Hoa mọc trong bùn: Kinh chép: Ở cao nguyên đất bằng hoa sen không moc, chỗ bùn nước thì hoa sen mới mọc. Dụ này như phàm phu sống trong bùn lầy phiền não, được Bồ-tát giáo hóa nở hoa chánh giác Phật. Tin họ làm hưng thịnh Tam bảo mãi không bị mai một. Thân ứng hóa kia lúc nào cũng không trước, không sau, trong một tâm, một niệm phát ra ánh sáng chiếu khắp các thế giới ở mười phương, giáo hóa chúng sinh, đưa ra các phương tiện tu hành, để dứt trừ tất cả khổ cho chúng sinh. Cho nên Kệ chép ánh sáng trang nghiêm trong một niệm và cùng lúc chiếu sáng khắp tháp hội Chư Phật, làm lợi ích cho các chúng sinh. Ơû Trên nói bất động nhưng đạt đến có lẽ đạt đến có trước sau, cho nên lại nói một niệm cùng lúc không có trước sau. Tất cả thế giới không sót chiếu khắp pháp hội Chư Phật, rộng lớn vô lượng, cúng dường cung kính khen ngợi công đức chư Phật. Kệ chép: Trời mưa hoa, trôi nhạc, áo hương thơm, cũng dường thảy khen công đức Chư Phật, không có tâm phân biệt. Không sót: Chiếu khắp các đại hội Chư Phật trong tất cả thế giới, không có một thế giới, một hội Phật nào mà không đến. Tăng Triệu nói: Pháp thân không hình tượng nhưng hình tượng đặc biệt đều ứng vận, không lời nhưng huyền tịch đầy khắp. Quyền thật nhiệm mầu không mưu mô nhưng linh động biết việc là do ý này. Tất cả thế giới ở mười phương kia không có chỗ Tam Bảo trụ trì trang nghiêm, công báu đức Phật, Pháp Tăng sâu rộng như biển, dạy cho chúng sinh hiểu và tu hành đúng. Như thật Kệ chép: Những thế giới nào không có công đức Phật pháp, tôi nguyện đến đó chỉ dạy Phật pháp như Phật. Ba câu trên nói đến khắp là đều có cõi Phật, nếu không có câu này, thì pháp thân có chỗ không đến. Điều lành trên có chỗ chưa tốt, nói của quán hạnh thể tướng đã xong dưới đây là giải thích nghóa trọng thứ tư gọi là tịnh nhập nguyện. Tâm. Lại vừa rồi Nói quán sát thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật. thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật và thành tựu công đức trang nghiêm Bồ-tá, Hành tựu được ba thứ này thì trang nghiêm được tâm nguyện nên biết.. Ứng tri: Nên biết nên biết thành tựu trang nghiêm ba thứ này là do bốn mươi tám nguyện xưa nên trang nghiêm thanh tịnh được tâm nguyện. Vì nhân thanh tịnh nên quả thanh tịnh, đều do người khác mà có. Lược nói nhập một câu pháp: Trong cõi nước trang nghiêm có mười bảy câu, Như lai trang nghiêm có tám câu trang nghiêm Bồ-tát có bốn câu là rộng, Nhập một câu pháp là nói sơ lược. Vì sao nói rộng lược nhập vào nhau? Chư Phật Bồ-tát có hai loại pháp thân: một là pháp thân pháp tánh,hai là Pháp thân phượng trên Từ pháp thân pháp tánh sinh ra pháp thân phương tiện. Từ phương tiện pháp thân có pháp thân pháp tánh. Hai pháp thân này khác nhau nhưng không thể phân chia, một nhân khác nhau, cho nên rộng lược nhập vào nhau đều dùng pháp đặt tên, nếu Bồ-tát không biết rộng lược nhập vào nahu thì không thể lợi mình, lợi người. Một câu pháp? là câu thanh tịnh, câu thanh tịnh là trí tuệ chân thật pháp thân vô vi. Ba câu, này xoay vần vào nhau nhập nương vào nghóa nào gọi là Pháp? Vì thanh tịnh, nương vào đâu mà gọi là thanh tịnh? Vì dùng trí tuệ chân thật pháp thân vô vi. Trí tuệ chân thật? Là thật tướng trí tuệ. Vì thật tướng vô tướng nên được chân trí vô tri. Pháp thân vô vi là thân pháp tánh. Vi pháp tánh lặng lẽ nên pháp thân vô tướng, vô tướng tu nên tất cả đều có tướng, cho nên tướng tốt tức là pháp thân. Vì vô tri nên biết tất cả. Nên trí Nhất Thiết Chủng là trí tuệ chân thật. Vì chân thật nên thấy được trí tu. Biết trí tuệ chẳng phải tạo tác, chẳng phải không tạo tác. Dùng vô vi mà nêu lên pháp thân, biết pháp thân chẳng phải sắc, chẳng phải phi sắc, chẳng phải dối với phi đâu chẳng phải năng thị của phi hay sao? Vì không thể gọi là phi, thị của. Vốn thị này không phải đợi phục hồi phi thị. Phi là phi, chẳng phải trăm phi thì không dụ được, cho nên nói câu thanh tịnh. Câu thanh tịnh là trí tuệ chân thật, pháp thân vô vi. Nên thanh tịnh này có hai: thứ nêu biết Trong tám câu chuyển ở đâu chung một pháp nhập vào thanh tịnh, chung được thanh tịnh vào pháp thân. Nay chia thanh tịnh thành hai thứ, nên nói phải biết. Hai thứ là: Khí thế gian thanh tịnh. Chúng sinh thế gian thanh tịnh. Khí thế gian thanh tịnh là gì? Như vừa rồi nói mười bảy thứ thành tựu công đức trang nghiêm cõi Phật như trước, gọi là khí thế gian thanh tịnh. Chúng sinh thế gian thanh tịnh là gì? Như nói thành tựu tám thứ trang nghiêm cõi Phật như trước, bốn thứ thành tựu công đức trang nghiêm Bồ-tát, gọi là chúng sinh thế gian thanh tịnh. Như thế một câu pháp thâu nhiếp hai nghóa thanh tịnh. Nên biết Vì thế chúng sinh là htể của báo riêng, cõi nước là dụng của báo chung chúng, nên thể dụng và chẳng phải một cho nên nói nên biết. Như các tâm pháp tạo thành, chẳng phải cảnh giới khác, chúng sinh và khí lại chẳng phải một cũng chẳng phải khác. Chẳng phải một thì nghóa phân chia, chẳng phải khác đồng thanh tịnh, khí là dụng. Nghóa là cõi tịnh kia là chỗ thọ dụng dụng của chúng sinh thanh tịnh kia, nên gọi là khí. Như thức ăn thanh tịnh dùng đồ bất để đựng tịnh, vì đồ đựng bất tịnh, nên thức ăn cũng bất tịnh. Thức ăn bất tịnh dùng đồ tịnh, thức ăn cũng bất tịnh. Thức ăn bất tịnh nên đồ đựng cũng bất tịnh. Hai thứ này phải sạch mới gọi là tịnh, cho nên chỉ có một tên thanh tịnh nhiếp cả hai thứ. Chúng sinh thanh tịnh chính là Phật và Bồ-tát các trời, người kia có được xếp vào số thanh tịnh này hay không? Được gọi là thanh tịnh nhưng chẳng phải thanh tịnh thật. Ví như bậc thánh xuất gia giết giặc phiền não, nên gọi là Tỳ-kheo. Hễ người xuất gia thì giữ giới hay phá giới đều gọi là Tỳ-kheo. Như lúc Vương Tứ mới sinh làm lễ Quán đảnh, đủ ba mươi hai tướng thì thuộc bảy báu. Dù chưa thể làm được vua Chuyển Luân cũng gọi là vua Chuyển Luân, vì những điều kiện kia cũng như vậy, đều vào nhóm đại thừa chánh định, cuối cùng được pháp thân thanh tịnh, vì sẽ được nên gọi là thanh tịnh, khéo léo nhiếp hóa. Xa-ma-tha Tỳ-bà-xá-na của Bồ-tát rộng lược tu hành thành tựu tâm nền mỏng? Tâm nền mỏng là gì? Nghóa là rộng lược chỉ quán thuận nhau tu hành thành tựu được tâm không hai. Ví như nước nhận lấy bóng thanh tịnh vá vắng lặng giúp nhau thành tựu. Biết như thật sự rộng lược của các pháp, biết như thật là gì? Là biết tướng đúng như thật, trong rộng có hai mươi chín câu, trong lược có một câu đều là thật tướng. Như thế thành tựu hồi hướng phương tiện khéo léo. Như thị là gì? Như trước sau rộng, lược đều là thật tướng. Vì biết thật tướng cho nên mới biết được chúng sinh ba cõi là tưởng luống dối. Biết chúng sinh luống dối thì sinh lòng từ bi chân thật. Biết được pháp thân chân thật thì khởi quy y chân thật. Từ bi và quy y là phương tiện khéo léo ở dưới. Thế nào là Bồ-tát hồi hướng phương tiện khéo Bồ-tát hồi hướng phương tiện khéo léo. Là nói về lễ bái, năm thứ tu hành đã chứa nhóm các gốc lành công đức, bản thân mình không mong cầu lạc dục tự thân trụ trong đó, nhưng muốn cứu giúp tất cả chúng sinh khổ nên, phát nguyện nhiếp lấy tất cả chúng sinh cùng họ sinh về cõi Phật An Lạc kia, đó gọi là Bồ-tát thành tựu hồi hướng phương tiện khéo léo. Theo kinh Vô Lượng Thọ Phật nói ở thành Vương xá, thì trong ba hạng chúng sinh tuy thực hành có hơn kém, họ đều phát tâm vô thượng Bồ-đề, tâm vô thượng Bồ-đề này là nguyện làm tâm chúng sinh, tức đưa hết chúng sinh sinh tâm vào cõi có Phật, cho nên nguyện sinh về cõi tịnh An Lạc thì phải phát tâm vô thượng Bồ-đề. Nếu người không phát tâm vô thượng Bồ-đề, chỉ nghe cõi kia mà hưởng được sự vui vô cùng. Vì an vui nên nguyện sinh, thì cũng không được vãng sinh. Cho nên nói không cầu bản thân trụ trong an vui, vì muốn cứu khổ chúng sinh. Trụ an vui là gì? Nghóa là cõi thanh tịnh an vui kia là chỗ an trụ hưởng sự an vui không cùng tân nguyện lực xưa của Như lai A-di-đà. Là giải thích danh nghóa hồi hướng: nghóa là tất cả công đức mình đã chứa nhóm ban cho tất cả chúng sinh đều đến Phật đạo. Phương tiện khéo léo là gì? Bồ-tát nguyện dùng hết lửa trí tuệ của mình đốt tất cả cỏ cây phiền não của chúng sinh. Nếu có một chúng sinh nào chưa thành Phật thì ta không thành Phật, nhưng chúng sinh chưa thành Phật hết, Bồ-tát đã tự thành Phật. Ví như dùng lửa, muốn cỏ cây đốt cháy hết, cây chưa cháy hết thì lửa đã tắt. Về sau thân này thành thân trước nên gọi là phương tiện khéo léo. Ở đây, nói phương tiện là gí? Nguyện thu nhiếp tất cả chúng sinh cùng sinh về cõi Phật An Lạc. Cõi Phật kia là phương tiện vô thượng, là con đường thành Phật đạo rốt ráo. Chướng Bồ-đề là gì? Bồ-tát thành tựu hồi hướng khéo biết như vậy, thì xa lìa ba pháp trái nhau của môn Bồ-đề. Ba pháp ấy là: Nương vào môn trí tuệ không mong cầu mình được an vui, vì xa lìa ngã, tâm tham đắm của bản thân. Biết tiến, lùi gọi là Trí. Biết không, vô ngã gọi là Tuệ. Vì nương trí không mong cầu sự an vui cho mình, vì nương tuệ xa lìa ngã tâm tham đắm bản thân. Nương môn từ bi, cứu khổ tất cả chúng sinh, xa lìa tâm bất an cho chúng sinh. Cứu khổ gọi là Từ, ban vui gọi là Tuệ. Vì nương từ nên cứu khổ tất cả chúng sinh, vì nương bi giúp cho chúng sinh xa lìa tâm bất an. Nương môn phương tiện thương xót tất cả tâm chúng sinh, tâm xa lìa những sự cung kính, cúng dường cho bản thân. Ngay thẳng gọi là Phương, ngoài mình gọi là Tiện. Vì nương ngay thẳng, tâm sinh thương xót tất cả chúng sinh. Vì nương ngoài mình nên tâm xa lìa cung kính, cúng dường cho bản thân. Đó gọi là xa lìa ba pháp trái nhau của môn Bồ-đề. Thuận môn Bồ-đề là gì? Bồ-tát xa lìa ba pháp trái nhau của môn Bồ-đề như vậy, vì được đầy đủ ba pháp thuận theo môn Bồ-đề. Ba pháp ấy là? Tâm thanh tịnh vô nhiễm, vì không mong cầu điều vui cho bản thân. Bồ-đề là thanh tịnh vô nhiễm, nếu cầu sự an vui cho bản thân thì trái với Bồ-đề. Cho nên tâm thanh tịnh vô nhiễm là thuận theo môn Bồ-đề. Tâm an vui thanh tịnh nhổ tất cả gốc khổ cho tất cả chúng sinh. Bồ-dề là chốn an ổn, thanh tịnh cho tất cả chúng sinh. Nếu không có tâm cứu chúng sinh xa khỏi sinh tử, thì trái với Bồ-đề, cho nên cứu khổ cho tất cả chúng sinh là thuận theo môn Bồ-đề. Tâm thanh thanh tịnh an vui, vì giúp cho chúng sinh được đại Bồ-đề, vì thâu nhận chúng sinh sinh về nước đó. Bồ-đề là chốn thường vui rốt ráo, nếu không làm cho chúng sinh được thường vui rốt ráo, thì trái với Bồ-đề. Rốt ráo thượng vui này, là nương vào đâu mà được là? Nương vào môn Đại thừa. Mà được. Môn Đại thừa là gì? Là cõi nước An Lạc kia, cho nên lại nói vì muốn gồm nhiếp chúng sinh sinh về cõi nước kia. Danh nghóa Nhiếp đối là gì? Trước nói ba môn Phương tiện, Trí tuệ, từ bi, gồm nhiếp Bát-nhã. Bát nhã gồm nhiếp phương tiện nên biết. Bát-nhã là gì? Thông đạt như gọi là Tuệ. Phương tiện là gì? Thông hiểu huyền gọi là Trí. Đạt như thì tâm hành vắng lặng. Thông hiểu huyền thì hoàn toàn tỉnh ngộ các căn cơ. Các cơ tỉnh ngộ thì trí hoàn toàn ứng theo nhưng không biết. Tuệ lặng lẽ cũng vô tri nhưng hoàn toàn tỉnh. Trí tuệ và phương tiện làm duyên cho nhau nhưng đông, duyên nhau mà tónh, đông mà không mất tónh, đây là công dụng của Trí tuệ. Tỉnh mà không bỏ động, đây là năng lực của Phương tiện. Cho nên trí tuệ, từ bi, phương tiện nhiếp lấy Bát-nhã, Bát-nhã thâu nhiếp phương tiện. Nên biết là gì? Nên biết trí tuệ phương tiện là cha mẹ của Bồ-tát, nếu không nương trí tuệ phương tiện là pháp của Bồ-tát thì không thành tựu. Vì sao? Vì Nếu không có trí tuệ thì chúng sinh bị rơi vào điên đảo. Nếu không có phương tiên quán xét pháp tánh thì không chứng được mé thật, vì vậy nói là nên biết. Trước nói lìa bỏ ngã tâm chấp, không tham đắm bản thân, xa lìa tâm chúng sinh bất an, xa lìa tâm cung kính, cúng dường cho bản thân, nên biết pháp xa lìa này làm chướng Bồ-đề. Các pháp, mỗi pháp đều có sự chướng ngại. Như gió làm chướng tónh, đất là chướng nước, nước làm chướng lửa. Năm điều ác, mười điều ác làm chướng trời, người. Bốn đến đảo làm chướng ngại bốn quả Thanh Văn. Không xa lìa ba thứ này thì làm chướng ngại tâm Bồ-đề. Nên biết là gì? Nếu muốn không bị chướng ngại thì phải xa lìa ba thứ chướng ngại này. Trước nói tâm thanh tịnh vô nhiễm, tâm an thanh tịnh và, tâm lạc thanh tịnh. Ba thứ tâm này gom lại một chỗ, thành tựu được tâm an vui chân chánh. Lạc có ba thứ: Ngoại lạc: là năm thức đã sinh hỷ lạc. Nội lạc là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền ý thức thiền sinh hỷ lạc. Pháp lạc: Là trí tuệ sinh ra hỷ lạc, trí tuệ này đã sinh hỷ lạc thì ưa làm công đức Phật. Xa lìa ngã tâm chấp, xa lìa tâm bất an của chúng sinh, xa lìa tâm mong cúng dường cho mình thì ba tâm thanh tịnh này thêm lớn mạnh, gom thành tâm an vui chân.chánh Lời nhiệm mầu tốt đẹp này, dùng duyên lạc này sinh về cõi Phật. Lời tốt đẹp vượt ra ba cõi, lời chân thật không luống dối, không điên đảo, việc nguyện được thành tựu. Tâm trí tuệ tâm phương tiện, tâm vô chướng, tâm thắng chân của Bồ-tát như vậy có công năng làm thanh tịnh cõi Phật nên biết. Nên biết nghóa là phải biết bốn thứ công đức thanh tịnh này được sinh về cõi Phật thanh tịnh, chẳng nhờ duyên khác mà được sinh.Đó gọi là Đại Bồ-tát thuận theo năm pháp môn đã làm mà tùy ý tự tại, thành tựu, như trước đã nói thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, trí nghiệp, phương tiện, trí nghiệp thuận theo pháp môn, tùy ý tự tại. Nói năm năng lực công đức này được sinh về cõi Phật thanh tịnh, ra vào tự tại. Thân nghiệp: là lễ bái khẩu nghiệp là khen ngợi ,ý nghiệp là phát nguyện. Trí nghiệp :là Quán sát phương tiện trí nghiệp là hồi hướng. Năm ng- hiệp này hòa hợp là pháp môn thuận theo vãng sinh cõi tịnh, thành tựu nghiệp tự tại, lợi hạnh đầy đủ. Lại có năm môn thành tựu theo thứ lớp, năm công đức nên biết. Năm môn gồm: Cận môn. Đại hội chúng môn. Trạch môn. Ốc môn. viên lâm du hý địa môn. Năm môn này nói tướng ra vào có thứ lớp: Trong tướng vào mới đến cõi tịnh là gần Chánh đẳng Chánh giác. Vào chánh định rồi liền vào số chúng đại hội thanh tịnh của Như lai. Nhập số chúng đạt đến chỗ tu hành; tu hành thành tựu đến được giáo hóa địa, tức là chỗ an vui tự tại của Bồ-tát. Cho nên xuất môn gọi là môn Viên Lâm Du hý địa. Năm môn này, môn đầu và môn thứ tư thành tựu thì nhập được vào công đức, thành tựu được thứ năm môn thì sinh ra công đức. Môn nhập xuất công đức này như thế nào? Nhập môn thứ nhất: Lễ bái Phật A-di-đà thì được vãng sinh về cõi nước của Ngài, được sinh về cõi nước của Ngài gọi là “Nhập thứ nhất môn”. Lễ Phật nguyện sinh về cõi Phật là tướng công đức đầu tiên. Nhập môn thứ hai: Khen ngợi Phật A-di-đà, thuận theo danh nghóa xưng hiệu Như lai. Nương ánh sáng Như lai trí tướng tu hành, cho nên được nhập vào hội chúng lớn, nên gọi là môn nhập thứ hai. Nương vào danh của Như lai nghóa khen ngợi là tướng công đức thứ hai. Nhập môn thứ ba: Nhất tâm chuyên niệm, nguyện sinh về cõi kia, tu hạnh Sa-ma-tha vắng lặng tam-muội, nên được nhập vào thế giới Liên Hoa Tạng tam- muội, nên gọi là nhập vào được môn thứ hai. Vì tu vắng lặng chỉ, nhất tâm nguyên sinh về cõi kia, là tướng công đức thứ ba. Nhập môn thứ tư: Chuyên nhớ quán sát cõi kia trang nghiêm nhiệm mầu, tu Tỳ-bà- xá-na nên đến được cõi kia, hưởng thọ các pháp vị an vui,, đó gọi là nhập vào môn thứ tư. Các thứ pháp vị an vui: Trong Tỳ-bà-sá-na có cõi quán Phật vi thanh tịnh nhiếp thọ chúng sinh. Vị đại thừa rốt ráo tu trì, vị không luống dối các việc khởi hạnh nguyện nhiếp lấy vị cõi Phật. Có vô lượng vị đạo phật trang nghiêm như thế,v.v… nên nói là các thứ là tưởng công đức thứ tư. Xuất môn thứ năm: Tâm đại từ bi quán sát tất cả khổ não của chúng sinh hiện thân vào trong vườn sinh tử phiền não, bằng đến tận nơi giáo hóa thần thông, dùng năng lực bản nguyện hồi hướng, nên gọi là xuất môn thứ năm. Nói về thân ứng hóa: Như “Phẩm Phổ Môn” trong kinh Pháp Hoa thị hiện loại thân. Du Hý có hai:nghóa: Nghóa tự tại, Bồ-tát độ chúng sinh, như sư tử bắt nai không có gì khó khăn, giống như dạo chơi. Nghóa độ mà không có gì để độ, Bồ-tát quán chúng sinh rốt ráo không thật có, dù độ vô lượng chúng sinh nhưng không có một chúng sinh nào để được diệt độ. Thị hiện độ chúng sinh giống như dạo chơi. Nói bản nguyện lực: Thị hiện đại Bồ-tát đối với pháp thân thường ở trong tam muội mà hiện các thứ thân, hiện các thứ thần thông, nói tất cả pháp đều từ năng lực bản nguyện mà khởi. Thí như đàn cầm của A-tu-la tuy không gảy tiếng nhưng âm điệu du dương tự nhiên, đó gọi là giáo hóa địa tướng công đức thứ năm của. Bồ tát nhập môn thứ tư thành tựu hạnh tự lợi nên biết. Thành tựu là: Tự lợi mỹ mãn. Nên biết: Nên biết do lợi mình thì lợi người. Không thể chưa tự lợi mà lợi tha được. Bồ tát xuất môn thứ năm thành tựu hồi hướng lợi ích hạnh lợi tha, nên biết thành tựu là dùng nhãn hồi hướng để chứng minh quả địa giáo hóa hoặc nhân, hoặc quả không có một điều nào không có lợi tha được. Nên biết: Nên biết từ lợi tha nên có tự lợi, không lội tha thì không tự lợi. Bồ-tát tu năm “Niệm môn hành tự lợi, lợi tha như vậy thì mau thành tựu được Vô thượng Chánh đẳng, Chánh giác. Pháp Chư Phật được gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác,. Vì được Bồ-đề nên gọi là Phật. Nay nói liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là được sớm thành Phật. A là vô, Nâu-đa-la:là thượng Tam miệu: là Chánh tam là biến, là Bồ-đề: Đạo, dịch chung là Vô thượng Chánh Biến đạo. Vô thượng: Đạo này lý tột cùng lý tân tánh, không còn có lỗi gì. Vì sao nói như vậy? Vì đạo này chân chánh. Chánh là thánh trí như đúng pháp tướng mà biết. Nên gọi là Chánh trí.. Pháp tánh vô tướng nên Thánh trí. Vô tri Biến có hai:thứ Tâm thánh biết hết tát cả pháp. Pháp thân trùm khắp pháp giới, hoặc tâm hoặc thân đều cùng khắp. Đạo là Đạo vô ngại. Kinh cháp: Mười phương vô ngại, ra khỏi san h tử. Nhất đạo: Một đường vô ngại. Vô ngại: Biết được sinh tử tức là niết-bàn nhập vào pháp môn không hai được vô ngại. Nhờ đâu mà được Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác. Luận chép: Tu năm hạnh môn, vì tự lợi lợi tha được thành tựu, nhưng phải tìmxét gốc của nó. A-di-đà Như lai là duyên tăng thượng. Tha lợi và lợi tha nói phải có chính phụ. Nếu chỉ cho Đức Phật thì nên nói là lợi tha chỉ cho chúng sinh phải nói “Tha lợi”. Nay nói về Phật lực, cho nên phải nói về lợi tha, phải biết là ý này. Hễ sinh về cõi tịnh kia và Bồ-tát thiện nhân đã khởi lên các hành đều nương vào năng lực bản nguyện của A-di-đà Như lai. Vì sao nói như thế? Vì nếu không nương vào năng lực phật thì dù thành lập bốn mươi tám nguyện, nay mục đích thủ chứng ba nguyện, để chứng nghóa ý, nguyện rằng: Nếu tôi được thành Phật, chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin ưa muốn sinh về cõi nước tôi thì dù chỉ mười niệm. Nếu không được sinh thì tôi không thành Chánh giác, chỉ trừ năm tội nghịch, chê bai chánh pháp. Nương vào năng lực của nguyện phật nên dù mười niệm cũng được vãng sinh. Vì được vãng sinh nên không còn bị luân hồi trong ba cõi vì không còn luân hồi nên mau đắc đạo, đây là quả chứng thứ nhất. Nguyện rằng: Nếu khi tôi được thành Phật, mà người trời trong cõi nước tôi không trụ trong nhóm chánh định ï, cho đến diệt độ, thì tôi không thành Chánh giác, nương vào nguyện lực của Phật nên trụ vào nhóm chánh định. Vì trụ nhóm chánh định ï, nên được diệt độ, các điều hồi phục không khó khăn, cho nên được mau chứng đắc, đây là quả chứng thứ hai. Nguyện rằng: Nếu khi tôi được thành Phật, các Bồ-tát ở cõi Phật phương khác sinh về nước tôi ráo ráo dược Nhất Sinh Bổ Xứ, trữ những vị có bản nguyện tự tại giáo hóa, vì làm cho chúng sinh thệ nguyện được vững vàng, chứa nhiều gốc đưcù, độ thoát tất cả chúng sinh, đến khắp các cõi Phật, tu hạnh Bồ-tát, cúng dường Chư Phật, Như lai mười phương, hóa độ Hằng-sa vô lượng chúng sinh, để họ xây dựng đạo vô thượng chân chánh. Vượt ra khỏi thường tình và các địa hạnh hiên tiện, tu tập theo Đức Phổ Hiền, nếu không như vậy thì không “Thành Chánh giác”. Nhờ nguyên lực Phật nên vượt khỏi thường luân, hạnh các địa hiện tiền. Tu tập công đức Phổ Hiền để vượt khỏi, hạnh các địa thường tình tu tập theo Đức Phổ Hiền để vượt khỏi các hạnh địa bình thường, cho nên mau được, đây là quả chứng thứ ba từ đây suy ra tha lực là duyên tăng thượng được không đúng ư? Phải nói về tự lực, như người sợ ba đường cho nên mới thọ trì giới cấm, tu thiền định, nhờ thiền định nên tu tập thần thông, vì có thần thông nên đi khắp chốn Ta-bà, như thế gọi là tự lực. Còn kẻ yếu cưỡi lừa không được phải như vua Chuyển Lân đi trên hư không, đến khắp bốn thiên hạ tự do, đó gọi là tha lực. Dốt thay người học đời sau nghe nương vào năng lực người khác sinh tín tâm, thấy mình không có phần. Kệ Ưu-bà-đề xá nguyện sinh trong kinh Vô Lượng Thọ chú thích quyển hạ (xong). ------------------------------------- Ở đầu kinh nói như thị là để nêu tín làm năng nhập. Cuối kinh nói vâng hành là trình bày việc đã tin phục. Nói về khuôn phép ban đầu và trở về, nói lên nguyên nhân có tông chỉ. Cuối cùng giảng nói về nghóa và trình bày lý sở thuyên xong. Nhưng khác nhau người soạn được nêu như sau. (chu) Pháp Sư Thích Đàm Loan người huyện Phần Thủy, ở Tịnh Châu, cuối đời Ngụy đầu đời Cao Tề. Thần trí vang khắp ba nước. Ngài thông suốt các kinh, tài vượt hơn người. Thiên tử Túc vương nước Lương thường hướng về phương Bắc kính lễ Bồ-tát. Ngài chú giải luân Vãng Sinh gồm hai quyển, việc xuất hiện của Phật được phép thành luận Tịnh Độ ba quyển. Ngày 25 tháng 7 năm Mậu Thìn, niên hiệu Kiến Trường năm thứ tám tháng tư mùa hạ năm Mậu Thìn, niên hiệu Khoan Vónh năm thứ năm y theo cac bậc tiền bối soạn luận Cao Mạng Tân bản, chú thành hai quyển, đem những điều thiếu sót của Tân bản dung hợp với ngự điểm, viết để lại cho người sau. Vua viết vào mùa hạ giữa năm Mậu Thìn . Dã Tử Hựu Tuấn. (Chu) Vào ngày hai mươi bảy mùa đông, giữa năm Giáp Thìn niên hiệu Hương Bảo năm thứ chín dùng bản Tuệ Hiểu được giữ ở chùa Tây Liên kinh thành kính ghi. Thích Tuệ Châu. (chu) Bản này dùng bản Ngự hiển được Tôn sư Tuệ Hiểu viết lưu lại ở Tây Liên Lạc Dương, cho Tuệ Châu viết ở chùa Thanh Tuyền bắc Ngự Hướng Anh Tôi, vào khoản này tra xét, đính chính và dung hợp với bản ấn. Sự truyền thừa có thật, con cháu đời sau kính cẩn bái kiến. Vào ngày mùng 10 tháng chạp năm Tân Hợi niên hiệu Hanh Bảo năm thứ mười sáu Thích Lợi Tếnăm thứ ba mươi hai. (Thanh) Bản vào niên hiệu Kiến Bảo này chùa Tây Liên Tuệ Hiểu soạn và sắp xếp năm Giáp Thìn ghi lại những lời giảng tản mác ở Thủ Khẩu Ngự Đường, Lư giao cho anh tôi bảo viết và lưu lại. Lúc này tôi tra xét đính chính dung hợp bàn này, truyền lại đời sau, người đương thời rất quý trọng. Vào ngày 20 tháng chạp, năm Tân Hợi, niên hiệu Hưởng Bảo năm thứ mười sáu. Thích Lợi Tế. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 146