<經 id="n1805">TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ (QUYỂN THƯỢNG & TRUNG ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ Đời Đại Tống, Sa-môn Thích Nguyên Chiếu ở Dư Hàng, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang soạn <卷>QUYỂN THƯỢNG (PHẦN 1 - THƯỢNG) Người xuất gia thọ giới làm thể, nhóm họp các pháp ở nơi thân, hành phải y cứ nơi thể mà tu, nên gọi là tùy hạnh nơi thân xứng pháp mà hành động, cho nên thật gọi là pháp thân, thật do phát thú có tông chỉ nương nơi người mà được. Nhất thức nguyên minh rất đỗi cấu sạch, trôi lăn biến đổi theo duyên, chạm vật sinh tình, theo vọng khởi nghiệp, bị ràng buộc vào ngục các cõi, chịu muôn hình muôn trạng, nhiều kiếp nổi chìm đâu có ngừng dứt. Cho nên Như lai của ta nương đạo chân thật mở môn Đại từ, toan cứu tận nguồn khổ, chế giới trước tiên để dứt trừ lậu nghiệp, ví như muốn đốn cây thì trước phải mé nhánh, đâu chỉ trái không chỗ nương mà cội gốc lần hồi mục nát. Tỳ-ni làm giáo nên đặt ở cây để hàng phục uẩn kết của mình, năm tông Trung Thiên tranh nhau diễn bày, dịch truyền Đông Hạ, riêng hoằng Tứ Phần, tuy chín đời nối nhau mà sáu Sư lại khác, Tổ sư của ta chỉ bày giống như bốn y, đau xót ra sức nâng đỡ sự nghiêng đổ, là Như lai khiến rủ lòng từ làm phép tắc, làm Đạo sư cho chúng sinh. Ban đầu làm văn nầy gồm giúp chúng lúc bấy giờ, đâu không phải năm thừa đều tiết chế, bảy chúng đồng thấm nhuần. Nghi thức nhiếp tăng hộ pháp rộng nêu giềng mối quan trọng, hằng ngày cần đó để làm phép tắc, cho nên nhiều đời quý trọng để làm sự dạy dỗ lớn, cho nên lý rất sâu kín, thảo luận mới rõ được môn kia, sự loại dây đặc, bàn nói hoặc dụng lầm sót, do đây nghiên cứu tường tận có thể chẳng sưu tầm xưa nay, đem hết chỗ thấy nghe để đầy đủ mở văn chương, tôn trọng vâng theo ý chỉ hành sự, nên đề là “Tư Trì”. Không trái tông chỉ của ba hạnh, buộc mở cốt lõi, bởi do một bộ gồm quy ba hạnh, ba hạnh không vượt hai trì. Khoa giải thích văn ngôn quý ở chỗ rất rõ pháp tướng, cân lường việc dùng, quở trách khiến vâng lãnh nhận theo, ở đây thì giáo hạnh đều mở mang để mình và người đều được lợi. Đầu đề một phen nêu ý toàn chương, chỉ do Thánh trí rộng thông, phàm tình quê mùa kém cỏi, dùng chiếc thìa nhỏ để lường nước biển cả, ném đất lấp sông thật là hổ thẹn không biết đo lường sức kia, cách thực hiện của Tổ đức có chút phù hợp với túc tâm, ngõ hầu thường lưu thông để mong giúp đỡ trong muôn một. Xem qua các tác phẩm từ xưa có hơn năm mươi nhà đều cho bộ Thỉ Nam là xứng tận cùng lý, nhưng nay chỗ tu tập hơi khác sự truyền xưa, cho nên đầu quyển lược nêu năm điều: 1- Định ra Tông chỉ. 2- Gợi giải thích giáo. 3- Tựa dẫn dụng. 4- Nói về phá lập. 5- Trình bày chỗ thiếu sót, nghi ngờ. Một là: Định ra tông chỉ: Ba tạng chia tông chỗ tuyên bày thành khác, y cứ vào hạnh thì tuy chung cả gồm giúp. Đối với giáo đều có giữ gìn, trí tuệ xưa cũ chưa rõ vốn nhiều xen lạm, rộng bàn luận học làm loạn luật thừa, (tức Tăng Huy v.v… theo văn giải thích, Niết-bàn, Tứ quả, v.v… đều y pháp tướng rộng phân biệt chương môn). Huống chi luận đã dẫn phần nhiều nương Câu-xá, Bà-sa, bởi dùng thật tông giải thích giả bộ ngày nay, có thể cho rằng cốt tủy của tông điên đảo, lý vị thiếu vắng, đến đỗi khiến đời sau xem đọc luống phí thời giờ. Hổ thẹn sự truyền thừa gìn giữ, nghĩa phải sửa chính, cho nên nay nói giáo thì chỉ quy Luật tạng, nói hạnh thì chuyên y cứ khoa giới, giải quyết khinh trọng trì phạm, xây dựng phép tắc trong tăng tông, đây là chính tông, còn bao nhiêu là nhánh nhóc. Còn e chuyên một góc lại cần chứng minh, trong giới Đại vọng của giới sớ bác bỏ xưa rằng: “Có người y giải thích nghĩa chương ngang dọc trải qua ngày khác, ý đã sai biệt”. Nêu tông để rõ trì phạm là chính, còn bao nhiêu tùy luật lược qua, biết danh tướng mà thôi. Các Kinh sư, Luận sư tự chia tông thể, các tông kia còn không hiểu luật hình, đây biết rộng các học phái khác, dù trước có nghe cũng không được nói lại, phí thời giờ càng thêm vô ích. Đối với tự tông còn khốn đốn chưa nghe, huống chi các kinh luận do đâu mà nói hết, có thể gọi là không biết phần lượng, phút chốc chết đi đâu chẳng bày bộn nhiều việc, xin xét văn đây đủ làm gương soi, phải nên xét lại, chớ để sự tình tiêu tan như băng. Thứ hai là: Biện giáo: giáo là dùng tuyên biểu làm công lao, tùy cơ làm dụng, tuy rộng mở cửa lớn nhỏ mà phép tắc không sai, tuy định ra khuôn mẫu mà nhiếp hết chúng sinh, viên âm tùy các cơ mà ứng, tình lự thì khó cầu. Vả lại nương nghiệp sớ ba tông để bày chỗ phán của một nhà, nhưng giáo do thể lập, thể tức là nguồn của giáo, cho nên phải y cứ vào thể dụng để chia giáo tướng. Tông Thật pháp: Tức Tát-Bà-Đa Bộ, tông kia rõ thể thì đồng quy về sắc tụ, tùy hạnh thì chỉ ngăn bảy chi. Hình, thân, khẩu, sắc thành phương tiện xa, đây tức nên xếp vào Tiểu thừa giáo. Tông Giả danh: Tức là Đàm-Vô-Đức Bộ, tông nầy nói về thể thì gượng gọi hai “phi”, theo giới thì mười nghiệp đồng nhau, lại duyên suy nghó hiểu biết liền vào khoa phạm, đó gọi là quá phần Tiểu thừa giáo. Tông Viên giáo: Thầm buông vọng tâm liền thành nghiệp hạnh, đây gọi là Đại thừa giáo cuối cùng. Nay Tứ Phần chính phải Giả tông, sâu có công năng gồm cạn, cho nên lấy bên Hữu bộ dạy nghĩa uẩn chia thông, cuối cùng hội về Viên thừa, đây thì lớn, nhỏ, thông, bít, giả, thật, cạn, sâu, một đời mạnh mẽ tuyên bày rõ ràng dễ thấy. Thứ ba là: Dẫn dụng: từ xưa dẫn văn phần nhiều không có cách thức, hoặc toàn chép kinh luận, hoặc ghi đủ Tổ truyền thừa, hoặc nêu nhiều sách Nho, hoặc phần nhiều giải thích theo chữ, đã trái ý chỉ văn sao, thật làm uế bẩn Chân tông. Nay ý còn chia làm ba thứ khác nhau: 1- Dùng ba tạng, ý thánh giáo quá dồi dào chưa thể đủ mở. Sự sao lập đề nhiếp cốt yếu làm gốc, cho nên dưới bài tựa nói rằng: “Văn từ ngoài không hết, hẳn muốn tìm ngọn kia, thì chẳng phải ý của người sao. Nay hoặc nói rõ chỗ ẩn kín, hoặc đáp hiệu sai xa, đều đủ dẫn chính văn, vẫn tùy chỗ nhớ mà chú thích, còn những chỗ dễ hiểu thì không ghi rộng. Nói về dùng Tổ dạy: nghĩa là sớ sao truyền chép bản đồ nghi tập, văn cáo bộ đã rộng, chẳng học thì không biết được. Kia hoặc do sau bỏ trước, hoặc chỉ rộng như kia, hoặc bác bỏ lầm vọng, hoặc hòa hợp đồng khác, các nghĩa chương khác cũng không nêu. Dùng sách đời: Trau chuốt câu văn, trái khoa luật hình, khen ngợi sạch ngoài như kinh có lời răn dạy tột cùng, Tổ thừa có dùng nghĩa không luống uổng, hoặc nêu việc đời so sánh với đạo, hoặc lại dùng nghĩa giúp văn, đâu được chuyên việc phù hoa lẫn lộn đồng hóa với thế luận. Nay hoặc thế lời nói hợp nhau, hoặc mượn dùng văn kia, nhưng chỉ nhiếp cốt yếu để chỉ bày, khiến biết chỗ xuất xứ và chữ luận thể nó phần nhiều theo nghĩa dạy dỗ, lại thông các kinh điển, không cần chỉ y cứ chữ viết. Thứ tư: Phá lập: Lòng từ dạy dỗ xa lưu truyền các mê mờ, xét giáo nghĩa thì giềng mối đều mất, theo danh tướng thì được mất xen bày, hẳn quanh co mà phản đối thì thành uổng phí, nếu không bỏ mà không nêu thì người lầm nhiều nhánh nhóc, đến đỗi đại nghĩa bị ngăn ngại, hoặc lại chấp khác khó đổi, chỉ tùy văn lược bày, giúp lý có chỗ quay về, theo việc tranh hơn rất trái với ý ở đây. Thứ năm: Thiếu sót nghi ngờ: Đại thể của sao nầy từ ngữ đơn giản, mà sự trùm khắp, người biết cạn nghe ít mà hiểu hết được, e sự truyền thừa, hoặc sao chép trái với chân, hoặc nghiệm xét chưa thông, hoặc tìm hiểu chưa được nghĩa, chẳng phải tuồng bụng, đều là như thiếu, hoặc chỉ nêu là chưa rõ, hoặc đều giữ các thuyết, hoặc dự định tìm văn y cứ, hoặc đợi sau giảng lại, bởi vâng theo lời dạy của Thánh luận, suy tìm cội gốc, hoặc lại nương lời Tổ dạy mà bỏ lệ trước, xem năm điều này, lại nêu năm điều khác, rộng như sau. Tứ phần: Là tên riêng của năm bộ, hiệu chung của một tông, theo mấy đoạn liền dùng làm đề mục. Phiên dịch thì ở Trung Hoa gồm có sáu mươi quyển, người mới học phần nhiều mờ mịt nên phải dẫn bày. Phần thứ nhất có hai mươi quyển. (từ quyển tựa đến quyển thứ hai mươi là giới bổn Tỳ-kheo) Phần thứ hai có mười lăm quyển. (từ quyển hai mươi mốt đến quyển hai mươi tám là tám quyển giới bổn Tỳ-kheo-ni). Một, là Kiền-độ thọ giới. (từ quyển hai mươi chín đến quyển ba mươi ba là năm quyển. Kiền-độ là tiếng Phạm, Hán dịch là Pháp tụ, tức là tên thiên phẩm) Hai, Kiền-độ thuyết giới. (quyển ba mươi bốn, ba mươi lăm hai Kiền-độ này ở cuối phần thứ hai) Phần thứ ba: Có mười bốn quyển, gồm có mười sáu kiền độ: Ba, Kiền-độ An cư (quyển ba mươi sáu) Bốn, Kiền-độ Tự-tứ (quyển ba mươi bảy) Năm, Kiền-độ Bì cách (quyển ba mươi tám) Sáu, Kiền-độ y (quyển ba mươi chín và bốn mươi) Bảy, Kiền-độ thuốc (quyển bốn mươi mốt và nửa trước của quyển bốn mươi hai) Tám, Kiền-độ y Ca-hy-na (nửa quyển sau của quyển bốn mươi hai) Chín, Kiền-độ Câu-Diệm-Di (nửa trước quyển bốn mươi ba, dùng tên nước làm tên) Mười, Kiền-độ Chiêm-ba (nửa sau quyển bốn mươi ba, lấy tên thành làm tên) Mười một, Kiền-độ quở trách (quyển bốn mươi bốn) Mười hai, Kiền-độ người (nửa trước quyển bốn mươi lăm) Mười ba, Kiền-độ Phú tàng (nửa sau quyển bốn mươi sáu) Mười bốn, Kiền-độ ngăn (nửa trước quyển bốn mươi sáu) Mười lăm, Kiền-độ Phá tăng (nửa sau quyển bốn mươi sáu) Mười sáu, Kiền-độ Diệt tránh (quyển bốn mươi bảy) Mười bảy, Kiền-độ Ni (quyển bốn mươi tám) Mười tám, Kiền-độ Pháp (quyển bốn mươi chín) Phầnbốn: Có mười một quyển (trước có hai Kiền-độ, và bốn đoạn kết tập sau như v.v…) Mười chín, Kiền-độ phòng xá (quyển năm mươi) Hai mươi, Kiền-độ tạp (quyển năm mươi mốt, năm mươi mốt, năm mươi ba. Giới Sớ nói “Hai mươi Kiền-độ chia làm ba phần là ở đây”) Năm trăm kết tập (nửa trước quyển năm mươi bốn) Bảy trăm kết tập (nửa quyển sau quyển năm mươi bốn) Điều bộ Tỳ-ni (quyển năm mươi lăm, năm mươi sáu, và năm mươi bảy, ba quyển) Tỳ-ni Tăng Nhất (ba quyển từ quyển năm mươi tám đến sáu mươi) Do pháp của bậc Thánh Tôn ở trong bộ căn bổn, tùy chỗ ưa thích của mình mà góp nhặt thành văn, tùy chỗ nói ngăn liền làm một phần, hễ trải qua bốn lần mới thành một bộ, nên gọi là Tứ Phần, chẳng phải đồng với văn phán của Chương Sớ Ước nghĩa, cho nên Nghiệp Sớ chép: “Tứ Phần tức là nói số đoạn bài này (đoạn trên tự nói rằng “chỉ”). Giới Sớ chép: “Bốn độ truyền văn đều đã nêu tướng”, đây y cứ theo thuyết đó chỗ đến chẳng phải nghĩa phán. Hai mươi Kiền-độ chia làm ba phần, có thể là nghĩa khai chăng? Hỏi: Giáo phải truyền bá ở cõi nầy, bốn luật đã phiên dịch (bốn, năm mươi tờ), Tổ Sư vì sao chỉ tôn sùng Tứ phần? Đáp: Cõi nầy (Trung Hoa) duyên thọ giới mới theo Tứ phần, các bộ tuy dịch chưa nghe y dụng. Nghiệp Sớ chép: Thần Châu Nhất Thống y cứ Thọ đều tụng văn Tứ Phần, nay chỗ giải thích y cứ thọ mà nói tùy, cho nên lập một bộ để làm bổn tông. Sau nói rằng: “Nay phán trì phạm kia lại y cứ thể thọ kia, ý nầy đã rõ”. (Tam Tạng nghĩa Tịnh, trái với tông Hữu Bộ,không thể nhận được ý nầy). Hỏi: Có dẫn nhân pháp, có các văn như tựa, v.v… mà nói rằng “Tứ Phần bộ hơn nghĩa kia là sao? Đáp: Đều là nghĩa này, hẳn y theo luật Thập Tụng mà thọ giới, có thể do bộ kém mà tôn sùng Tứ Phần ư? Phần tựa rõ hơn kém làm chương bộ để tính cạn sâu, đến môn thứ ba mới nói về chỗ y cứ giáo phán. Hỏi: Vả lại y cứ vào nay phiên dịch gồm sáu mươi quyển, bổn tiếng Phạm vẫn nhiều, làm sao bốn độ tụng trọn một tạng. Đáp: Chẳng phải cho là một tòa tên là một độ, bởi lấy một thời kỳ không nhất định làm hạn, tùy tập đến chỗ cuối cùng lại tan, thành một độ, như vậy đến bốn lần một bộ mới xong, luật Ngũ Phần, luật Thập Tụng phần lớn đồng với ở đây. Chỉ xong một hạ của Luật Bát Thập tụng, lấy đó làm đề mục, tùy thời lập riêng chưa thể thống nhất. Luật: Tiếng Phạm là Tỳ-ni, Hán dịch là Xứng Luật. Nay y cứ giới sớ tổng quát các văn không ngoài ba nghĩa: Nói Luật là pháp. Y theo giáo làm tên, chia ra trọng khinh, khai, già, trì, phạm, phi pháp, bất định. Văn sau nói rằng: “Lại như pháp thế gian y cứ vào hình phạt mà đặt ra pháp chế, thì pháp trong đạo cũng như vậy, y theo cội gốc giáo pháp đều có khác nhau, không thể trái vượt nên gọi đó là Pháp. Nói luật là phần. nghĩa là phải bàn bạc y cứ theo lượng, có sai khác như khí phần luật, Lữ (một năm có mười hai tháng, gặp nửa tháng thuộc dương gọi là luật, nửa tháng thuộc âm gọi là Lữ. Một Lữ một Luật chia thành hai khí có hai mươi bốn khí). Lại nói rằng: “Giáo tướng đã nói trọn bốn chữ nầy, đó là phạm, không phạm, khinh và trọng”. Nếu hiểu thông bốn chữ quyết không nghi thì là cùng tột của thượng phẩm trì luật, thế nào gọi là cảnh và duyên phạm đầy đủ? Thế nào gọi là không phạm khởi đối trị? Thế nào gọi là nhân khinh quả nhỏ, thế nào gọi là nhân trọng quả lớn. Nhưng bốn tướng nầy chẳng phải luật không phân, trì phạm không quá lạm, có đồng khí gì. Chữ Luật có đặt duật duật là bút (nước Sở gọi là Duật, đời Tần gọi là bút, xuất xứ từ trong Tự Thơ Chú). Phải xét giáo nghiệm tình ở đầu ngọn bút. Lại nói rằng: Xét xử quyết ở chính, chẳng phải bút không định. Hỏi: Như ba nghĩa trên dùng cái gì để chia? Đáp: Cả ba đều so với pháp thế gian để tìm lấy tên. Giáo tuyên định kiểu mẫu tức là nghĩa pháp, chia ra khinh, trọng, tức nghĩa phân, gặp việc phán quyết tức là nghĩa bút, đủ ba nghĩa nầy gọi là Luật. Còn bao nhiêu đều giải thích, phiên dịch rộng trong quyển trung. San phiền bổ khuyết: San nghĩa là cắt gọt, bỏ bớt chỗ rườm ra. Bổ nghĩa là thêm vào chỗ chưa đủ. Người đời phần nhiều không hiểu cho nên cần giải thích, liền chia làm hai: San phiền: Từ xưa truyền luật, tình kiến khác nhau, hoặc sớ hoặc sao có hơn mười nhà mà truyền trao bằng miệng chẳng phải một hai nhà. Hễ giải thích một việc có rất nhiều đường, quyết thêm cho đủ mà trích dẫn đó thì che lấp hành sự, chỉ thẳng với chính nghĩa còn bao nhiêu đều trừ bỏ, chỉ dùng một lời nêu phá, như nói rằng: “Không đồng giải thích ở trước vì các thuyết không giống, nghĩa khác bỏ đó vì giải xưa nhiều đường”. Nay dùng lời nêu phá gọi là năng san thuộc chữ san, cắt bỏ các thuyết đều gọi chỗ san, thuộc chữ phồn, y cứ nghĩa chứng ở trên lại cần văn chứng minh. Sao Hưng ý chép: “Mỗi chỗ trích dẫn trước lại xem xét, sau một việc ý bỏ lập rất nhiều”, các thầy đã giữ chỗ thấy rộng nhiều, nay đều lược bỏ bớt, chỉ giữ các văn chứng, v.v… Hỏi: Phồn có mấy loại? Đáp: Lược có hai nghĩa: Phiền rộng, tức đã rõ ở trên. Các thầy chỗ thấy biết, đều dứt trừ, như định phương tự nhiên khoảng giữa bảy hàng cây là giới tràng, trước sau trong hạ kiết, giải, thọ nhật hạn định, v.v… và có nhiều thuyết, nay ở trong Sao theo lệ đều không trích dẫn, tức hai sớ nghĩa sao đã dẫn giải xưa. Phiền lạm, như muốn lời duyên thọ Nhật lại thêm loại xin, nay đều bỏ. Tức thiên yết-ma nói: “Nay muốn lược bỏ lời phù phiếm tuyên bày ý chỉ Thánh”. Lại như lời tri chung thuyết giới, tịnh khẩu, an cư thông tụ tự tứ là sai. Trong thiên Tăng Võng rộng nêu phi chế, trong thiên Sư Tư vọng hành loại phạt gậy, tức Tăng Võng nói rằng: “Nay cắt bớt chỗ rườm rà kia, thêm vào chỗ thiếu sót” nếu y văn chữ chính giữ ý trước. Nay lấy lời sau thảy đều gồm thông, dù có nói nhiều cũng không ngoài ý này. Hỏi: Trên nói cắt bỏ là Luật hay Sớ? Đáp: Từ xưa không nói bỏ và lấy hai thứ khác nhau, nay sẽ phân biệt, nghĩa là bổn tông bộ khác kinh luận lớn nhỏ, ở cõi nầy (Trung Hoa) hay Ấn-độ bậc tiên hiền văn ghi, các nhà Sao, Sớ, chỉ khiến người sao dẫn ngày nay lấy văn đều thuộc chữ Sao. Còn sự thấy biết của các thầy, hoặc ở bút văn, hoặc truyền miệng, nay Sao không chép. Trừ bỏ đó đều là San, tức thuộc về chữ “San phồn”, nên biết nghĩa “San bổ”, văn Sao trước sau hoặc có, đâu được hễ thấy dẫn văn xưng là san bổ, truyền cái mê mờ lâu dài về sau, người học cần phải nghiên cứu. Hỏi: Như giới bổn phần duyên khởi giải thích rộng tướng luật tạng văn rộng, sao nầy không dẫn há chẳng phải là san luật ư? Đáp: Luật là Thánh giáo nay nên tôn sùng, chỉ nên lấy văn đâu được cắt bỏ. Một, là văn sau chỉ rộng như luật và Đại sớ, đâu được không thận trọng chê là nhiều. Hai, là trong Sao Hưng ý chỉ nói là “tình kiến rộng nhiều” chứ không nói “san luật”. Một nhà tôn sùng bộ đều không có lời này, làm sao lại không suy nghó vừa thấy liền khinh chê. Hỏi: Như Thiên “Nhó thuyết giới” chép: “Nay lấy hai Sư Phổ Chiếu và Đạo An làm gốc, còn bao nhiêu thì lấy trong “Luật Thành Văn San Bổ” đâu chẳng phải san luật ư? Đáp: Đây là lời mê muội. Kia vì nghi thức của các Sư xưa có thiếu có dư, nên nương bổn luật san bớt chỗ dư và thêm chỗ kia thiếu, đây là dư thiếu ở bổn của hai Sư, san bổ thuộc cái dụng của người sao lại ngày nay, y cứ đây để nói nghĩa trong Di Chương. Hỏi: Nếu không san luật thì nên san Sớ phải chăng? Đáp: Chỉ là đầu mối khác, hoặc văn hoặc nói đâu hạn cuộc ở Sớ, còn lấy cốt yếu kia phải thuộc ở Sao, bao nhiêu không dẫn mới gọi là “san phồn”, cho nên trong sao hưng ý chỉ nói “tình kiến” chứ không nói “Sớ Sao”. Nói về bổ khuyết: Từ xưa trì luật hoặc tùy kiến chấp của mình, hoặc im tiếng với giáo bộ, đến lúc hành sự chưa thích hợp thời nghi như xích lượng do-tuần dài ngắn, Yết-ma lớn nhỏ, đều thưa, đọc, vặn hỏi, không giữ hiểu biết. Ngọa cụ chẳng phải thuộc về ba y, chưa dư không khoa giảm lượng, tịnh địa không lập xướng tướng, thất chứng hoàn toàn không có lời thỉnh, các loại nầy rất nhiều điều thiếu sót. Nay sao y cứ nghĩa, y cứ văn làm cho rõ ràng đầy đủ, cho nên ở sau “Phòng giới Định Xích Lượng” có nói: “Tôi có đến Trung quốc vào đời Tấn, Ngụy và phụ giúp trường luật ở các nơi, thường đến dự tiệc, chí luận về xích đẩu phế hưng, chưa hề nói kể cho nên bổ chỗ thiếu sót để phản quang chín đời (Bản in chép “liền san bổ”, nhưng chưa nói kể há được có san? Nay y theo bổn xưa làm chính). Nay do việc xưa chưa luận tức là chỗ thêm vào, trong Sao chỗ dẫn văn nghĩa lý có thể thêm. Hỏi: Bổ khuyết và nghĩa văn sau quyết thông là đồng hay khác? Đáp: Quyết thông, thông có trước, bổ khuyết cuộc hạn vốn không, còn bao nhiêu như môn thứ năm trong phần tựa nói có. Hỏi: Tùy Cơ yết-ma chép: “Luật tạng nghĩa cạn thiếu có sót thêm đó há chẳng phải “bổ” Luật ư? Đáp: Chính vì luật thiếu, hành sự không khắp, cho nên dẫn văn y cứ theo lệ thêm vào bộ yết-ma kia, còn như văn luật vẫn thiếu lời tựa, đâu hề có thêm. Hỏi: Nghi Khinh Trọng chép: “San bổ, chương xưa soạn thuật sự sao, đây y cứ san bổ không ở nơi luật, vì sao lại không chấp nhận san bổ chương sớ? Đáp: San hay bổ phần nhiều xuất phát từ chương xưa, có thể san, có thể bổ, đều thấy ở sao ngày nay. Nhưng chương sớ lời thuộc tình kiến nói thông, văn truyền miệng lý đều nhiếp, xin rõ ý sao, chớ đối với sự mà khởi nghi. Hành Sự: Hành lấy làm lụng, tạo tác làm nghĩa. Sự tức đối với lý bày tên. Nhưng sự tướng nhiều đường, nghĩa cần dón gọn. Dùng sự chung cho thiện ác, đây chỉ là sự thiện. Ngay trong thiện, dón gọn thiện dư thiếu thuộc về giới thiện. Y cứ hai quyển thượng hạ chúng cộng hai hạnh gọi là tác thiện. Quyển trung, tự hành gọi là Chỉ thiện. d- Y cứ các thiên, chia nhỏ các sự Quyển thượng mười hai thiên nêu tông một thiên khuyên tựhc hành cả sự. Nhóm tăng về sau có năm sự: Thứ nhất: Chúng pháp duyên thành sự (năm thiên nhóm tăng, đủ số, thọ dục, yết-ma, kiết giới) Thứ hai: việc khuông chúng trụ trì (Tăng cương) Thứ ba: Tiếp vật đề thấu (thầy trò thọ giới) Thứ tư: Việc xem xét thanh tâm (thuyết giới, tự tứ) Thứ năm: Việc tịnh duyên sách tấn tu hành (an cư) Quyển trung có bốn thiên, hai việc: Ban đầu: Việc chuyên tinh không phạm (giải thích tướng trì, phạm) Hai: Việc phạm rồi mà biết sám hối, thiên sám hối) Quyển hạ mười bốn thiên chia làm tám việc: Thứ nhất: Việc giúp duyên trong ngoài (hai y, bốn thứ thuốc, bát, đồ dùng) Thứ hai: Việc điều tiết thân, lìa cấu nhiễm (đối thú tịnh thí, đầu- đà) Thứ ba: Việc khiêm cung hạ mình (Tăng tượng) Thứ tư: Việc giáo hóa bên ngoài sinh thiện (mới đi dẫn đạo cho người đời) Thứ năm: Việc đối đãi với các vị đồng pháp (chủ khách, thăm bệnh, nuôi bệnh) Thứ sáu: Việc cần yếu hằng ngày (tạp hạnh) Thứ bảy: Việc dạy dỗ dẫn dắt chúng sinh (Sa-di Sa-di-ni) Thứ tám: Thông cả các tông khác (các bộ khác) Đây là chỗ tuyên hành tướng trước sau của một bộ, đều là phương tiện cổ động ba nghiệp từ duyên cấu tạo mà thành, nên nói là “hành sự”. Đầu đề nêu điểm đặc biệt nầy khác với các tông, vốn lập cội nguồn giáo hóa, chính giáo tuyên tông, cốt phản quang chín đời, lời nói nầy không luống dối cho nên lời tựa chéprằng: “Rõ hành thế sự mới làm khuôn mẫu cho người mới học”. Đây chính là đại yếu một nhà thấy khắp ở các văn. Phàm dự học tông càng phải rõ ràng, nếu mê ý chỉ nầy còn bao nhiêu lại nói làm sao? Hỏi: Y cứ hai phần pháp sự trì phạm ở sau, nay chỉ nêu sự thì chẳng nhiếp pháp? Đáp: Kia rõ chỉ, tác đều thuộc về phần chừng cho nên có cần hai phần. Nay y cứ vào tạo tác bất luận sự pháp thông quy về sự. Hỏi: Đầu đề nói rằng: “Hành sự” nói rằng “Ba hạnh”, ngữ âm vời riêng, đồng khác thế nào? Đáp: Hành y cứ vào tu tạo, hành thủ thành đức, do hạnh thành hạnh, lời khác nghĩa đồng, đâu chẳng lưu nhập hành, tâm duyên cấu thành nghiệp. Sao có hai nghĩa: 1/ Lượm lặt nghĩa hai bao gồm nghĩa. nghĩa là đối với ba tạng chính văn, Thánh Hiền ghi lại, thâu nhặt cốt yếu để làm văn thể. Sau nói rằng: “Nhiếp lược chính văn”, tức nghĩa ban đầu, Văn kia đã rộng chép đủ thì nhiều, cho nên ở trong kia lược nêu đầu sau, lời lược lý đủ, sau nói rằng “Bao gồm các ý” tức là nghĩa kế. Đến môn thứ mười phải tự nói rộng, tựa có ba lời dạy, tùy nghĩa giải thích. Nhó Nhã chép: “Tường Đông tây gọi đó là Tựa” như ở đời chữ Tường ở ngoài nhà, tức dụ văn tựa trùm ngoài một sao, đầu mối đây là nghĩa tựa. Tựa tức dạy, nghĩa là soạn thuật trước sau mười môn bao gồm điều lưu ba hạnh, khiến văn nghĩa một bộ rõ ràng không lẫn lộn, đây tức nghĩa tựa kế. Huấn tự: Như kéo tơ, nếu được đầu mối thì các sợi sẽ xong. Người học xem bài tựa thì các thiên sẽ mong cầu được, đó gọi là do nghĩa tựa. Một lời nêu ba nghĩa tự giải thích đều thông. Hỏi: Xưa nói rằng hai tựa chung, riêng, nghĩa kia thế nào? Đáp: Trước nêu một đề, đâu nói là hai tựa, nay không lấy lược có ba lỗi: Hễ nói chung riêng chung bày một việc, như chung riêng trì phạm, chung riêng hai y, tựa nay không phải vậy. Trước rõ chế chọn thành văn, sau gồm đại nghĩa các thiên, trước sau khác nhau, chung riêng liền thành. Nếu do mười môn khác nhau mà nói rằng “riêng” thì nghĩa “chung” trì phạm đã lệ ở bảy môn lẽ ra cũng là “riêng”. Hai sớ nghiệp, giới đều có nghĩa “chung” và nhiều môn nạn vấn cũng vậy, đây thì hoàn toàn không có nghĩa chung riêng, là lỗi thứ nhất. Lại phỏng theo hai tựa chung riêng của kinh tông, vả lại tựa chung trong kinh chung cho cả các kinh, tựa riêng thì giản lược ở sách khác. Nay tựa của Sao nầy là văn chung, riêng thì phân biệt với sách nào? Lại dùng tựa chung làm phát khởi tựa riêng hay làm chứng tín? Một sao điên đảo? Nếu nói y cứ theo kia được nói hai bài tựa, thì kia chung ở nơi khác, cuộc hạn khác với ở đây là kinh sau, kinh trước khác nhau. Chứng tín khiến trăm đời không nghi, phát khởi hiển giáo chẳng luống lập, khoa chia ra hai tựa, ý kia là đây. Khảo xét văn tựa nầy hoàn toàn chẳng so lường, vọng dẫn kia là lỗi thứ hai. Vả lại, “Sao” dùng mười môn gom hết đại cương kia, lại nói rằng: “Mười điều này đều gồm thâu hết các môn”. Ở đây thì mười môn hoàn toàn không có nghĩa “riêng”, không hiểu ý văn là lỗi thứ ba. Nay bày chính giải, đối với ba mươi thiên “riêng” sau chỉ có thể gọi chung là “tựa chung”. Trong một bài tựa phần lớn có ba đoạn. Đoạn một nói chỉ trình bày văn năng thuyên, đoạn hai nêu mười môn bao gồm nghĩa các thiên, văn nghĩa hai món đều thuộc về giáo, giáo không luống lập nhưng chỉ quy về giúp hạnh, cho nên đoạn sau chia ra ba hạnh gồm nhiếp các căn cơ. Một tựa trước sau giáo hạnh đầy đủ, lược bày đại yếu, còn bao nhiêu xem trong văn. Ở dưới đề là chú giải chữ, rõ tên riêng ở trên bao gồm nhiều ý. 1/ Khác xưa, sau bác bỏ xưa rằng: Rõ làm việc đời mới là phép tắc đến nhờ. Nay nêu hành sự được ý chỉ Luật tông. 2/ nghĩa là chọn lựa soạn thuật của Tổ Sư đều nói rằng: “Tứ phần Luật Sao Sớ” v.v… cho nên thêm mục lục, biết chẳng phải thứ khác. 3/ Giải thích nghi, nghi rằng: Y cứ vào Luật soạn Sao, chỉ dùng chỗ lập đề của tông thì có thể được, cần gì lại thêm các lời san bổ làm gì, nếu không chú thích rõ thì nghi tình không giải quyết được. Hai quyển trung hạ lời khác mà ý giống, chọn hiệu Trung Bổn làm tên để nêu bày chỗ xuất xứ của văn, tên dung hợp nhau, còn khác đó lấy làm tự, tự hoặc đồng tên, chọn đó làm xuất xứ. Kinh Triệu tức là thành Trường An ngày xưa, nay là quận Vónh Hưng, là đất từ xưa các vua lập kinh đô, cho nên đặt hiệu này. Kinh là lời dạy lớn, chỗ đất rộng. Triệu là nhiều lời, chỗ đông người. Tức nơi Luật sư giáo hóa, cũng tức chỗ vốn sinh ra. Có thuyết nói là trường thành, hoặc nói rằng Đơn Đồ (Trường Thành ở Châu Hồ, Đơn Đồ ở châu Nhuận), đây là nơi xuất phát chữ, chẳng phải nơi Tổ tông sinh ra. Bộ Hành Trạng chép: “Đại Sư sinh ra và lớn lên ở Kinh Hoa” đủ để chứng minh. Ngài xuất hiện ra đời, cho đến thị hiện diệt độ, ở chặng giữa ấy việc hoằng hóa có chép đủ trong bộ hành trạng, ở đây không dẫn ra nữa. Soạn thuật : Chung làm một lời, soạn cũng là thuật, nay đã nêu hai bên cho nên cần giải thích riêng. Soạn nghĩa là cầm bút chấm mực viết ra thành bài. Thuật nghĩa là hạ mình suy tôn người vâng theo lối cũ. Nếu y theo sau mà phê rằng soạn vào niên hiệu Võ Đức thứ chín, mà Giới Số thì phê là niên hiệu Trinh Quán năm đầu, do niên hiệu Võ Đức năm thứ chín đã đổi thành Trinh Quán nên cũng chẳng ngại nhau. Sớ kia lại nói rằng: “Niên hiệu Trinh Quán năm thứ tư đi giáo hóa ở xa, Vi Trạch Luật Sư ở núi Bí Bộ, lại Sao ra ba quyển, bèn nương bổn trước của ta lại gọt giũa thêm cho mạch lạc, lời văn thông nhau”. Y cứ theo đây chính là sửa lại bổn trước, xét trong mục lục chính là niên hiệu Trinh Quán năm thứ tám, tức bổn nay đã truyền (xưa nói rằng có sáu quyển, lại nói là sau chia thành mười hai quyển. Y cứ bài tựa ở dưới nói “Ba quyển gồm nhiếp hết văn, văn đều là thật”, cho nên chẳng phải kiến chấp). Đoạn đầu là khen giới. Trong hai câu đầu là nêu khen. Sau giải thích lại chia thành hai, hai câu trên nêu dụ bày đức, nương bốn câu dưới bày rõ sự cao siêu hơn các tạng khác. Giới đức là pháp đã khen. Khó suy nghó chính là lời năng khen. Giới có bốn nghĩa: Pháp, thể, hành, tướng; Nay theo tướng chung, chỉ khen giới pháp, cho nên không nói là “khó bàn”, dùng tâm suy nghó thì rất gần, còn miệng bàn thì rất xa, đã khó quyết chẳng thể bàn. Hoặc có thể câu còn cuộc hạn mà lý đã bao gồm, trùm xuống một câu rõ nghĩa khó nghó bàn ở trên. Đã vượt ngoài tượng, không có vật để so sánh, cho nên tâm lực của phàm phu Tiểu thừa chẳng thể bì kịp. Chữ “quán” gọi là buộc đội. Mũ là đồ trang sức trên đầu, ở đây lấy nghĩa trên cao. Tượng nghĩa là các vật ở thế gian. Hỏi: Khuôn phép dẫn dắt, ghe thuyền há chẳng là tượng ư? Đáp: Kinh luật khen giới nêu tượng tuy nhiều, nhưng lại thiếu ng- hóa, chưa thể hoàn toàn đồng. Trong đây lược nêu hai vật thiếu dụ cho công đức của giới, phép tắc dẫn dắt tức vết xe là rõ hướng đến của kia, ghe thuyền lại lấy nghĩa vận chuyển kia. Lại nêu tông nói “Đại sư của ông”, vì luật có công năng làm phép tắc, hoặc như người đủ sức có chỗ đến, hoặc nói là “đại địa sinh thành giữ gìn”, rường cột đạo phẩm là chỗ nương của đạo Thánh, thành quách thiền định là chỗ dựa của định tuệ, cho đến như ao, như gương, như chuỗi anh lạc, như đầu, như món đồ. Lại trong Luận Trí Độ nói “Như báu nặng, như mạng sống, như cánh chim, như thuyền bè, v.v… tìm đó có thể biết. Lại trong thiên tụ trước nói về hộ giới, có đủ tám dụ: Như con Vua, như ánh sáng mặt trăng, như Châu Như ý, như con một của vua, như người có một mắt, như tiền bạc của người nghèo, như vua yêu nước, như thuốc hay cho người bịnh. Lại bài tựa giới bổn chép: “Giới như biển không bờ, như báu cầu không chán”. Giới bổn Tăng-kỳ chép: “Như dây xích buộc khỉ, như giây cương buộc ngựa, rộng thấy trong kinh luật, ở đây không phiền dẫn ra. Vì giới đức cao rộng, nên chẳng một vật nào dụ được, nêu khắp các tượng đều được một đầu, không thể giống hoàn toàn cho nên nói là “trùm vượt”. Năm thừa gồm người, trời, Thinh Văn, Bích-chi-phật và Phật, là người “năng thừa”, năm giới, mười điều lành, Đế duyên, sáu độ, là pháp “sở thừa”. Nương pháp đây quyết do vâng lãnh giới, cho nên giới pháp chung làm phép tắc dẫn dắt. Con đường thường lệ như đây nay giải thích riêng rằng: “Như trong giới bổn nói “muốn được sinh lên cõi trời, hoặc sinh trong loài người, thường phải giữ đủ giới” đâu chỉ là năm giới, mười điều lành thôi ư? Nhưng giới có bốn hạng: Năm giới, tám giới, mười giới, giới Cụ túc. Nếu y cứ theo người độn căn thì chung là thiện ở đời, nếu luận bậc thượng trí thì giới đủ làm nền tảng cho đạo, cho nên kinh Thiện Sinh chép: “Năm giới rất khó, có thể làm cội gốc cho giới Đại Tỳ-kheo, Bồ-tát”, cho nên biết bốn giới đều dẫn dắt năm thừa, nay ở đây khen nêu là gồm hết bốn hạng, chính là ở giới Cụ túc (Tỳ-kheo). Hỏi: Giới Sớ chép: “Vì đạo chế giới bổn, chẳng phải phước ở đời, chỉ y cứ ba thừa”, nay nói năm thừa là sao? Đáp: Kia thì chuyên dùng ý Thánh để hiển bày nguồn giáo, ở đây rõ thông giúp hai cơ (lợi, độn) để bày lợi cùng khắp. Nhưng ba thừa là lời vẫn còn kèm quyền, nếu nói ở Song Thọ lại dặn phò trì đều quy về thường trụ, cho nên biết bốn giới đều dẫn dắt Phật thừa, vì căn khí khác nhau nên chia ra ba, năm, như thế nên biết rõ. Tam bảo là thuyền bè: Tam Bảo có bốn: Nhất thể: Lý thể y cứ vào lý mà bàn, hóa tướng một loại cuộc hạn y cứ vào Phật ở đời. Trụ trì: Một vị giúp cả ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) công đức do năng lực của giới chuyên chở không dứt, cho nên dụ như ghe đâu, không đúng sao? Hai ngôi báu Phật và pháp đều nhờ tăng mở mang truyền bá, Tăng bảo tồn tại nếu chẳng có giới thì không đứng vững, như trong phần nêu tông nói “Thuận thì Tam Bảo trụ trì, trái thì diệt lấp chính pháp”. Như trong kinh Hoa Nghiêm chép: “Tỳ-kheo nhận giữ oai nghi giáo pháp có thể khiến Tam Bảo không dứt mất”, còn bao nhiêu như sau sẽ dẫn. Hoặc có thể vượt qua phàm phu, nhập vào vị Tam Bảo quyết phải thọ giới để hợp dụ ghe thuyền. Văn thông, ở đây giải thích, trước giải thích là chính, như chữ “Thật” âm là trực, huấn thật là huấn thị. Kế nói lên trong thắng có hai: Ban đầu đối với hai học rõ hạnh cao siêu sở thuyên. Sau đối với hai tạng Hiển giáo năng thuyên cao quý. Định tuệ đâu đồng, phải y cứ hai ý xét rõ hơn kém. Nếu trông vào dứt hoặc chứng chân thi tuệ hơn, vì giới chỉ dừng nghiệp, định chỉ nhiếp tán loạn. Nếu y cứ thứ lớp tu hành thì giới là đầu, vì trí tuệ thiền định do giới mà sinh. Cho nên nay nói “Dựng lập tu trì chính từ nghĩa sau”, cho nên nói là đâu có đồng. Di giáo y nhân thành luận, nắm cột đều đồng với ý ở đây. Kế là hiển bày trong giáo quần tạ tức mục lục hai tạng kinh lu- ận, ở đây chỉ việc trụ trì, kinh luận không bàn nên nói là “dứt xướng”, nghĩa là cắt nhiễm, thọ giới, vào đạo thứ lớp cho đến trong tăng. Thọ sám, an cư, tự tứ, kết giới, thuyết giới, trị phạt, can ngăn, thầy trò, trên dưới, đi đứng, nằm ngồi, uống, ăn, y phục, các pháp riêng làm. Các sự tướng nầy giềng mối Phật pháp gìn giữ muôn đời, công đức nầy chỉ do Luật tạng chỉ bày khuôn mẫu, các tạng khác không bày được cho nên không nói, nên Luật Thiện Kiến chép: “Tạng Tỳ-ni là mạng sống của Phật pháp, tạng Tỳ-ni còn thì Phật pháp mới còn”, luận rất đầy đủ như trong quyển trung. Y cứ vào sự giải thích trên cũng cần hai giải thích: - Nếu giải thích lý, phát trí, phá vọng, hiển chân thì kinh luận là hơn. Nếu sự phép tắc, nhiếp tu, diệt ác, sinh thiện thì Tỳ-ni là độc tôn. Cho nên biết ba tạng đầy đủ công năng cao quý, nay trông vào sự giữ gìn nên có hơn kém. Hỏi: Tiêu Tông dẫn kinh luận Đại tiểu thừa cũng nói giới luật, đâu nói “dứt xướng”? Đáp: Tuy gồm nói hiệu tùy kinh luật, chỉ là lược khen công đức của giới, còn trên xếp giữ gìn các việc, chẳng phải chỗ bàn của kia, cho nên phải nói như vậy. Trong phần Tự Hoằng Truyền văn ban đầu nói: chính pháp, tượng pháp đều một ngàn năm, mạt pháp mười ngàn năm. Như lai định ở chính pháp, bốn ý chung cả chính và tượng. Văn chia làm hai đoạn, trên rõ giáo chủ chính thân truyền, dưới rõ đệ tử truyền hóa. Bản đồ trụ pháp có hai mươi lăm vị Tổ, tức từ Như lai là Đại sư khai pháp, Ca-diếp về sau là Thánh tăng truyền pháp. Nay giới luật đây khi Phật xuất hiện mới chế, Phật là đầu tiên nên nói là “Từ”. Đại Sư nghĩa là thầy của trời và người, tức một trong mười hiệu. Đem đạo dạy người cho nên bày mục này, nhưng do Thầy chung cả phàm, tiểu lại thêm rất đơn giản, đây là độc tôn trong ba cõi, chỗ nương học của chúng sinh trong chín đường, chỉ có Phật đại Thánh mới được hiệu nầy, còn bao nhiêu đều là phàm, đâu thể xưng được. Cho nên Luật Thập Tụng nói: “Nếu Tỳ-kheo nói “Ta là Đại sư nói pháp Đại sư” mắc tội Lan-Di đồng như đại vọng ngữ (nói ta là thì phạm Lan, nói sự pháp thì phạm Di). Nói ở đời: Ta-bà năm trược là cõi “sở thủ”, thế giới đại thiên là cảnh “sở hóa”. Lúc kiếp giảm thứ chín trong kiếp Hiền, khi người thọ còn trăm tuổi thì Phật xuất hiện ở đời, ba mươi tuổi thành đạo, nói pháp Ba thừa độ người vô lượng, tám mươi tuổi diệt độ. Nay nói chỉ trong năm mươi năm là thời gian hành hóa, cho nên nói là “ở đời”. Nói riêng hoằng: nghĩa là tuy bàn các kinh điển, nhưng đối với Tỳ-ni rất lưu ý, cho nên thiên tụ chép: “Thế Tôn ở đời rất hiểu căn cơ chúng sinh, mọi việc tạo tác đều lấy oai nghi làm chính”. Lại kinh chung mọi người đều nói được, riêng luật chỉ có miệng vàng của Phật đích thân tuyên nói, ảnh hưởng Bồ-tát Đại quyền chỉ biết kính thờ vâng hành huống gì các tiểu Thánh đâu dám sai lời. Lại nữa, các kinh nói có thời hạn, Luật thông trước sau. nghĩa Sao chép: “Ban đầu từ vườn Nai sau đến Hạc Lâm (rừng Ta-la song thọ), tùy căn cơ chế giới nên có ngàn muôn sai khác, đủ ba ý nầy, khác hẳn với kinh khác, nên nói riêng hoằng, nghó cũng không tối tăm. Lại tức nơi lời nói đây rõ được sau khi Như lai diệt độ từ ngài Ca-diếp về sau kết tập truyền trì cho nên nói là không phổ, (phổ tức phế) là không bỏ. Nói bốn y, có ba loại: Nhân bốn y: (Nội phàm là sơ y, Sơ quả là hai y, Nhị quả và Tam quả là ba y, Tứ quả là bốn y). kinh Niết-bàn chép: “Có bốn hạng người có khả năng hộ trì chính pháp, làm chỗ nương cho đời”, đây đều là Bồ-tát đại quyền thị hiện Thinh văn, giống như hóa nhân truyền pháp, chúng sinh nhờ bốn hạng này nên đều gọi là y. Thành bốn y: Y phấn tảo, y dư, khất thực ngồi gốc cây và thuốc mục nát, bốn hạnh nầy làm duyên vào đạo, vì là chỗ bậc thượng căn lợi khí y chỉ? Pháp bốn y: Y pháp không Y người. Y nghĩa không y lời. Y trí không y thức. Y kinh liễu nghĩa không y kinh bất liễu nghĩa. Bốn pháp nầy để lựa chọn chính tà, là chỗ nương cho đời sau nên được tên gọi này. Ở đây nêu tức là “Nhân bốn y”, xưa chỉ lệ nêu hai mươi bốn vị Tổ, ý này không đúng. Hai mươi bốn Sư lại y cứ sự truyền thừa chính pháp cho nhau, nếu bàn ngang đồng thì hoằng dương xiển giáo chẳng phải một người, như năm đệ tử của ngài Ưu-Bà-Cúc-Đa thì đã rõ. Nói theo chiều dọc thì từ ngài Sư Tử trở xuống há không truyền giáo hay sao? Huống chi sau lại nói rằng: “Đến cuối thời tượng pháp”, thì biết. Nói bốn y là gồm chính pháp và tượng pháp, Sư hoằng pháp đâu chỉ hai mươi bốn người thôi ư? (Hai mươi bốn Sư tên tuổi và sự giáo hóa có chép rộng trong truyện Phó Pháp Tạng và bản đồ trụ pháp, người cần thì tìm xem). Cuối thời tượng pháp hoằng truyền, khoa ban đầu rõ trong hai cõi, Như lai nửa đêm nhập diệt, gần sáng không bằng. Thời chính pháp tượng pháp càng nhiều tranh cãi huống chi cuối đời Tượng pháp ư? Như Cảm Thông Truyện, do Thiên thần kể lại, Tây phương (Ấn Độ) tranh cãi Đại thừa, Tiểu thừa không hợp nhau, đến nỗi kinh điển lẫn nhau thất lạc, hai tông “Không” và “Hữu” đều chia bè đảng. Nếu nói theo xứ nầy (Trung Hoa) trước đời Tùy, đời Đường năm bộ chưa phân, giả thật chưa phán quyết, đây phải kia quấy, đều coi trọng tông mình cho nên có nhiều sự tranh cãi. Về sau, trong văn riêng chỉ nước Chấn Đán nên phải biết ý nầy. Khoa đây nói chung hai cõi, nhưng Tổ Sư xu- ất hiện ở đời hơn một ngàn năm trăm năm sau khi Phật nhập diệt, tức là cuối thời Tượng pháp, cho nên đồng với đây để rõ sự sai lầm. Kiêu nghĩa là mỏng manh, vị thuần nhất dần dần nhạt. Ngoa nghĩa là sai lầm biến đổi, bản thể hoàn toàn mất, thật ra không phải vậy mà do người thôi. Phong là con dao bén, đánh nhau trong đời gọi là “tranh phong”, môi lưỡi công kích nhau để giành hơn thua, việc có đồng đâu nên gọi là “Kích động”. Luận là lời bàn việc không hình chất, vì rõ là luống tranh cãi nên nói là không trình. Khoa kế là trong lỗi truyền giáo: đầu tiên văn trên đã thông ghi sai lầm hai nước, dưới đây không riêng kể phương Tây (Ấn Độ) bởi chẳng phải ý ngày nay, chỉ rõ ở cõi nầy (Trung Hoa) dẫn sinh sự biên soạn. Nhân trước mà có ra cho nên nêu lý do. Chấn Lónh: Chấn là nói tắt của tiếng Phạm, Lónh là tên chung của nước, như ở đời các châu, quận phần nhiều dùng tên núi sông khe trạch mà gọi, lại như giải thích tướng nói rằng: Chấn Lãnh thọ duyên tức rõ ban đầu ở Đông Hạ đắc giới. Lại trong Tăng truyện, Pháp sư Đàm Diên nói: “Chấn Lónh rộng nêu di giáo của đấng Pháp Vương”, y theo đây mà biết gọi là Chấn Lónh, chỉ là tên xứ nầy, không phiền phải xuyên tạc (Quốc Lónh nêu hai: Chấn là xứ nầy, Lónh là Thông Lónh là sai). Nói đủ là Chấn Đán, cũng nói là Chấn Đán, Hán dịch là Đất Hán. Truyền giáo: Là chỉ cho người hoằng hóa lưu thông. Chín đời: Là từ sau Hán minh Đế Phật pháp mới truyền, đến đời Đại Đường, Tổ Sư xuất hiện ở đời trải qua chín đời (Hậu Hán, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường). Cỏ vượt lùm gọi là bạt tụy, người trội hơn gọi là xuất loại (Lời nầy xuất xứ từ Mạnh Tử, có người khen Khổng Tử là “Vượt hơn loài người, trội hơn đồng loại, từ khi sinh dân đến nay chưa có ai thạnh như Khổng Tử”, nay mượn dùng). Việc có ra từ tim ngực gọi là trí thuật, ở đây rõ các Sư đời trước mặc tình tự chép không nương chính giáo. Câu nên bày sự thông minh nhanh nhẹn của các Sư, câu dưới chê bai tâm Sư. Lệ trong lỗi sự truyền giáo không ngoài ba việc: 1- Mở mang các pháp. 2- Dạy dỗ người sau. 3- Chống đỡ giữ gìn không cho nghiêng đổ. Nay xem đời trước đối với ba việc nầy từ chưa hề luận, cho nên sau kết rằng “Có thể rõ được mà bình”, bời lời không thể phê bình, nên trong văn chia làm ba lỗi: Ban đầu nêu rõ hai câu sau thiếu điều thứ nhất: Hành nghi là làm việc phép tắc nghi thức, do giáo pháp ở cuối đời tượng pháp không rõ hành nghi thì đâu thể lâu dài. Sửa nghĩa là làm đúng lại sự sai lầm kia, nhiếp là giữ cho lâu dài. Kế là hai câu sau thiếu điều thứ hai: Do kẻ hậu học không biết, nếu chẳng phải phép tắc, khuôn mẫu thì làm sao tấn đạo được? Tầm tức là pháp. Buộc hai câu sau thiếu điều thứ ba: Lưới mầu rộng nêu đều dụ cho Luật thừa. Hữu nghĩa là tiếp tục, Ký là rồi. Chữ thọ thượng thinh, điên tức là đảo (ngã). Hai câu nầy nêu dụ tuy riêng, nhưng hiển bày nghĩa lại đồng. Kết bày trong câu trên nhiếp trí thuật ở trước, đã không điển cứ nên nói “Bằng hư” (không có bằng chứng). Câu dưới nhiếp ba sự trên không thể phê bình, cho nên nói khó làm, nên là dụng. Hình nghĩa là cấu tạo tướng trạng kia. Thinh là phát ra lời nói, lộ khiết dụ như nói rõ ra. Mặc tình luống nói, không có giáo pháp đối chiếu cho nên dễ. Phép tắc làm thật sự, trái phải bày ngoài cho nên khó. Trên y cứ vào hư thật đối nhau, kế là giải thích lý và sự. Có người giải thích rằng: Câu trên chỉ luống thông lý tính, tức học kinh luận. Câu dưới rõ sự tướng phép tắc tức giáo Tỳ-ni. Kia dẫn Tăng truyện chép: “Pháp Sư Tăng Hựu nghe Luật Sư Hồng giảng Luật Tứ Phần hơn ba mươi lần, bảo các học trò: “Ta nghe nhiều lần, như kinh, luận, chỉ một lần đã nhập thần, nay nghe bộ luật càng nghe càng tối, đúng là lý có thể luống cầu, còn sự khó mà thông hiểu”. (Lại dẫn Thiến Quốc Sách nói: “Vẽ quỷ thì dễ, vẽ ngựa rất khó, lại nói rằng: “Luật Sư Khác ở Truy Châu hỏi ngài Nam Sơn, Nam Sơn dùng đây đáp”, chưa biết xuất xứ từ đâu). Đây nghĩa là các Sư bàn kinh nói lý đều tinh cùng, khảo luật hành sự thì chưa thể quyết rõ, ở đây giải thích có thể lấy cớ cả hai đều còn. Kế là giải thích, chê học giải trong khoa ban đầu lại chia làm hai: Đầu tiên đến phiền lạm chính là chép chấp vãng, hai câu trên nêu chấp, hai câu dưới bày lỗi. Trước tu, tức chỉ cho các Sư đời trước, lu- ật tạng lại y cứ bổn tông một bộ, thường có hành sự phải y cứ văn thành thật, tuy là chép thật nhưng do niên đại mờ mịt, năm thầy chỗ dấy chỗ bỏ, phiên dịch mất ý, sao chép sai sót, đến đỗi văn có thiếu sót không rõ. Nay nhà thì dùng văn nghĩa quyết thông, như sau chỗ nêu văn luật không rõ, ký duyên dụ như giao việc, bởi tức dạy thật do văn hai việc, cho nên có sự phiền lạm (Như y Luật Yết-ma đều sai người năm đức, có Luật ngăn không khai cho sám hối tội trọng. Hạ an cư xong giải giới, hai mươi tám người không đủ số, bốn người xả đọa…). Về sau, kế rõ gồm sinh vọng chấp. Câu đầu nêu lỗi, người gốc xen lạm là học có hai: 1- Phải nghiên cứu cho tinh tường. 2- Quyết thấy nghe phải sâu rộng. Đã trái hai điều nầy cho nên phần nhiều bị luống lầm. Ức trở xuống ba câu xuất phát từ tướng. Ức ba câu dưới xuất phát từ tướng lỗi kia. Ức là lời tình trọng bụng mặc tình kia ức đoán. Vu là dạy rất lắm. (Như tay cầm y, thuốc, ngọa cụ là loại vượt đệm). Thủ loại, hoặc dẫn loại lệ có sai trái (như tiểu giới lập tướng, dẫn Luật Tăng-kỳ xả y giới một tầm là dụ. Không y bát, đắc giới đến phá giới, Hòa-thượng bốn câu làm dụ, v.v…). Hoặc lấy lưu loại khác nhau (như dùng Tăng-kỳ thêm phép y và dùng Yết-ma giải đại giới, tiểu giới để giải giới tràng). Tùy chỗ nghe liền dùng, không nghiên cứu có thể được chăng? Cho nên nói là ít thảo luận. Ngu chấp trọn đời không thể sửa đổi thành tốt đẹp, cho nên nói là sinh chấp thường. Quả là dạy ít, tập là nhóm, là nói kia nhiều. Khoa kế có hai: Trên nói về tội y cứ riêng hành. Dưới nói là Tăng sự. Gây hấn ngang ngược đều gọi là tội, lần lựa tăng nhiều đều cứ một phen thấy, cho nên nói là bội phần (như trộm vật của tăng mắc tội nặng mà nói phạm Lan-già, vô tri mắc tội Ba-dật-đề lại xếp vào Đột-cát-la, đây thì cho nặng là nhẹ. Trộm chứa vật phạm Đột-cát-la mà cho là phạm Ba-la-di, vật xả đọa đổi ý mới mắc tội Đột-cát-la mà nói phạm Ba-dật-đề, ở đây cho tội nhẹ là tội nặng). Trong việc tăng như Tăng võng trị phạt, nói giới, tự tứ, thọ nhật, sám hối, các việc khác trong chúng, một phương hành hóa, lập pháp cần thông, mặc tình thì sự càng ngàn sai, y giáo thì lý quy về một lẽ, đã mê giáo chỉ, nghĩa không chỗ nương, bạn bè thì cho là giống, người ghét cho là khác, thói đời nhìn thấy xưa nay đều như vậy, cho nên nói là đồng, khác. Khu cũng là phân, trong ba phần nhân trước chấp khác nên tranh chấp rần rần, phải trải khó định, chần chừ không quyết, cho nên phải học rộng hiểu sâu mới phán đoán được. Trong văn hai câu đầu sơ lược khả năng nhận lãnh ảnh kia. Câu trên rõ cùng tột Luật tạng, giáo có hưng thạnh, phế bỏ, người cục bộ một bên luôn cố chấp thành ra tranh luận. Câu dưới rõ bình lượng các Sư, giải thích nói phần nhiều khác với hậu tấn, chưa được lấy bỏ thì chớ theo, quyết đủ hai khả năng mới kham lãnh luật nầy, cho nên nói rằng “Tự chẳng đồng”, ai hiển được sâu điều người khác không thể hiển. Tịch tức là mở ra. Lại nghi: nghĩa là lần lựa sinh nghi, như chấp trong hạ không được giải giới. Người đã sinh nghi, do đó lại nghi rằng: “Nếu giải thì có thành hạ chăng?”. Lại như chấp một hạ chỉ ba lần thọ nhật, nghi rằng: “Quyết muốn thọ lại có mất hạ ư?” Lại như tiểu giới lập tướng, nghi rằng: “Quyết làm thọ giới có đắc giới chăng?”, lược nêu vài điều để bỏ tướng văn. Phàm loại này tùy thời mà dẫn, người nghi Đại Luận, sự đã không rõ, thầm thầm càng rộng, cho nên nói rằng “lại nghi”. Di là trừ, chữ Lụy khứ thinh, nghĩa là trệ ngại. Tâm đã có nghi ngờ sự liền thành ngại, người đều như vậy cho nên nói là “Thông”, hoặc làm lỗi lụy người giải thích, như chấp cuối hạ thọ nhật mười lăm ngày, hạn đủ không trở về vẫn thành hạ. Lại thuốc bảy ngày khai trong đêm không trộm vật thường trụ, khiến đoạt lấy v.v… đủ khiến người nghi, y hạnh có lỗi thì phải quyết nghi, khiến cho lìa lỗi nên nói là “Trừ ”. Hai câu nầy đối với ở trên khảo xét các thuyết hư thật, bao gồm hai câu dưới đối với trên thống nhất ý giáo phế, hưng. Bộ chấp lại chỉ năm bộ, tình chấp năm thầy lập khác nhau, nếu giữ riêng một tông thì sẽ thành tranh luận, cho nên phải khảo xét tổng quát sự đồng khác, suy xét lấy bỏ mới rõ hành sự, cho nên nói là “vậy”. Chữ dữ bình thanh, tức lời nói. (ở đây bốn câu hai việc, xưa giải thích bốn nghĩa là sai). Kế là nói về soạn tập, chế riêng trong khoa đầu tiên, hai chữ trên khen ngợi, trước sau chép cái hư thật kia. Hai câu trên gồm bày chỗ xuất xứ. Di ký là gọi chung sớ sao, như môn thứ mười đủ để dụ đây. Hai câu dưới riêng lệ tướng “phi”. Nói “chỉ luận” là suốt hai câu dưới, nghĩa là chọn sớ chỉ là tướng phế lập, chọn sao chỉ là trình câu hỏi, lại không có ý gì khác, như hai sớ nghĩa sao thì hoặc dẫn đó. Hỏi: Trong ấy đã chê kia thì đâu dẫn dắt đó? Đáp: Ở đây rõ hành sự cho nên cần đoạt phá, kia diễn chương ng- hóa, không ngại dẫn dụng. Lại văn xưa rất nhiều, kia chỉ chọn cốt yếu, lấy chút phần kia để giải thích phải quấy, cho nên nghĩa sao đề rằng: “Bỏ nghĩa Tỳ-ni? Về sau, chê kia sai mất tông, hành sự dạy dỗ tông thể Tỳ-ni ở đây đã mất, nay đầu đề sao liền nêu ý này. Nâng cao xa xưa rất khế hợp tâm Phật, buộc dứt phò nguy thật ở nơi đây. Do đây, các thiên giảng bày chỉ giữ hành sự làm tông, tùy chỗ tháo gỡ, lấy dạy dỗ làm ý, người đến học chớ phụ ân Tổ. Nói việc đời nghĩa là việc làm hợp với thế gian, chẳng phải việc thế tục. Y cứ theo ở soạn thuật mười sáu vị Sư. Nay nói trăm không có một là nêu rộng rất nhiều, để rõ rất ít còn không thể được, là nói đều không chỗ chấp. Kế là nghĩa tập, tức các bổn Yết-ma, do văn Yết-ma rải rác trong quảng luật và dùng nghĩa loại kết tập thành bài. Cho nên nói “Văn ở nghĩa tập, như nay bộ Tùy Cơ Yết-ma cũng gọi là soạn tập. Lại trong nghiệp sớ nêu riêng ra người Yết-ma là pháp tập, đều có thể chứng. Văn khoa đây ý là ngăn nghi sau, e nói rằng “Trên chê sớ sao phí nhiều, trái với tông”. Vả lại, các bổn Yết-ma thẳng hiển hành sự thế nào? Trước nói là “Trăm không có một bổn” chẳng phải vu khống bậc tiên hiền kia ư? Nay tuy chấp nhận có, lại thành vô dụng, nói thời có là rõ kia không nhiều. Diên hoài là tốt đẹp, thông minh, lanh lợi, tức là bốn Sư Khải, Đế, Quang, Nguyện. Trên nêu nhân pháp, dưới chỉ lỗi. Hai câu đầu tức hai bổn Quang, Nguyện. Bổn Quang phần nhiều dùng nghĩa để cầu, bổn Nguyện rộng dẫn duyên cứ, lời nhiều sự ẩn, không giúp thời tụng, cho nên nói rằng “Nhiều dụ”, v.v… Nhàn rỗi chẳng phải muốn gọi đó là lời thay đổi. Ưa rộng là thích theo, còn giản là không đoái hoài, cho nên nói rằng: “Đậu cơ chưa đủ”. Đậu giống như tế (cứu giúp). Kế là đơn đề, sau là hai bổn Khải, Đế. Hai câu trên chê văn lược. Đề là viết chép. Kia chỉ nêu ra pháp không nói về duyên thành, cho nên nói rằng “Chớ tuyên”, còn nói không thuật. Hai câu sau rõ vô dụng. Đã không hiểu thành, bại, thêm bị vô công cho nên nói rằng “Y văn”, v.v… Cho nên trong bài tựa Nghiệp Sớ chê cả bốn bổn rằng: “Tăng, giảm, phiền, lược lẫn nhau thấy được, mất” (Xưa chỗ giải thích đều không hiểu). Gồm chế trong chung thông Sớ Sao cho đến nghĩa tập, cho nên nói là: “Đều”. Toái là tán, nghĩa là văn không có chương, tiết. Loạn là nghĩa chẳng phải luân tự, cho nên hai câu sau đối với văn trên vỡ tan, nên nói là khó tìm cầu. Hai câu kế đối nghĩa trên loạn, cho nên nói khó lãnh hội. Thứ hai là về soạn thuật ngày nay. Văn ban đầu chia làm hai: 1- Rõ xem xưa. Người nghe lượm lặt lúc Thủ Sư giảng là học tập chắc chắn, còn ngoái liếc thì rõ chẳng phải thật học. (ngoái nhìn là cố, nhìn xéo là miện, âm miến). Các thiên chỉ chung chỗ soạn thuật đời trước. Soạn tập tuy nhiều một không thể lấy, cho nên nói rằng “Thông là phi”, v.v… Chúc âm chúc, dạy đúng, chẳng đúng ý là không khế hợp với tâm của Tổ. Câu trên bày không chấp, câu dưới nêu ra lý do. Hỏi: Kém thì có thể như vậy, còn hơn sao không khế hợp? Đáp: Vì trong các thiên hơn kém thấy lẫn nhau. Hơn tuy có lấy, kém chẳng thể còn, muốn được hoàn toàn hơn chưa có, nói rằng chẳng đầy đủ, ý nghĩa kia như thế. Lòng từ dạy dỗ, hưng thạnh do đây, kế là nói về soạn thuật, Phỉ nhiên là mạo văn chương lẫn lộn, văn rút ra từ Luận Ngữ (Khổng Tử ở nước Trần suy nghó về Lỗ bèn nói rằng: “Tiểu tử bọn ta cuồng giản hỗn loạn thành văn chương) làm mạng tức soạn văn. Mạng là tên khác của điển chương, tức tên của sao ngày nay (Luận Ngữ nói “Làm mệnh giúp cỏ xanh đó”, v.v… chính nghĩa nói rằng “Mệnh nghĩa là chính lệnh, lời văn tức là làm). Trực bút tức sau phê rằng “Không việc loạn văn”. Ở đây có ba ý: 1/ Vì hiển hành sự. 2/ Vì giúp người mới học. 3/ Vì bày ý chê. Đáng gọi là giao bày hành tướng, thư thả gọi là trình bày lời văn. Văn của một bộ đều ở câu nầy (Có khoa nầy là sách Tứ Phần, gồm ở sau là dẫn văn khác để bổ túc chỗ sai). Khoa kế trong trích dẫn chia làm hai: Trước lệ văn đã dẫn có bốn câu: Câu đầu gồm thâu các luật, tức năm mươi, v.v… Câu kế gồm thâu kinh Đại thừa, Tiểu thừa, trong kinh bàn luật gọi là luật theo Kinh, nên nói là tùy thuyết. Thứ ba là thâu Luận Đại thừa, Tiểu thừa. Thứ tư gồm sớ sao của các Sư và Nghi Bồ-tát, Cao Tăng Truyện, Sư Tư truyện, Tự Tạo, v.v… Bốn câu nầy gồm hết văn đã trích dẫn của một bộ, ở đây thì suốt Nhị thừa, bao trùm ba tạng, trừ bỏ, liên chép, nhóm họp thành tông, dùng sao nêu nghĩa để thấy ở đây. Tìm tòi ở sau, kế rõ thủ xả, lại chia làm hai. Hai câu đầu lấy xả ba tạng. Sưu nghĩa là chọn lấy, bỏ tức là dứt trừ. Nói đồng khác: Ban đầu y cứ bổn tông và bộ khác, lấy đồng khác đối nhau để rõ tìm tòi, bác bỏ có bốn câu: Đồng với bổn tông cho nên chọn. (Thập Tụng trì y, thêm thuốc, các bộ không đủ số người, Luận Bà-Đa ba y hạn cuộc lượng, Luật Ngũ Phần thông lượng, Tỳ-ni mẫu Luận chuyển dục, v.v…) Đồng cho nên bác. (cá, thịt, bữa ăn, chính Tiểu giáo đều vậy, nay sao dùng, sau xả bỏ). Cùng bổn tôn khác cho nên sưu tầm. (Tăng-kỳ năm người tội xả đọa ở trong chúng tự thuyết dục. Luật Ngũ Phần kết chung tịnh địa, các bộ lượng tự nhiên giới, luận Tỳ-ni mẫu lược nói giới, v.v…) Khác cho nên sưu tầm. (Luật Tăng-kỳ ba lần thuyết dục, điệp duyên nhập dục. Suốt đêm hội y không lập thế phần, các bộ không khai tịnh địa, Tăng già Yết-ma đồng như vậy) . Kế đến bộ khác tự rõ đồng khác cũng bốn câu: Bộ khác đồng cho nên sưu tầm. (Luật Ngũ Phần, Luật Tăng-kỳ trước Thượng tọa mỗi mỗi thuyết dục, luật Thập Tụng, luận Tát-Bà-Đa nói trộm chứa vật mắc tội Đột-cát-la). Đồng cho nên bác bỏ. (luật Thập Tụng, Thiện Kiến nói không có Hòa-thượng được đắc giới. Luật Tăng-kỳ, Thập Tụng bốn tội trọng lại nói không phạm trọng). Bộ khác khác cho nên sưu tầm. (Luật Thiện Kiến nói ba y mặc trong là sai pháp, luận Bà-Sa duyên đoạn, Tạp Bảo Tạng câu-lô-xá là năm dặm, luận Tát-Ba-Đa nói hai dặm đều lấy dùng). Khác cho nên bác bỏ. (Luật Thập Tụng cho thọ ba mươi chín đêm, luật Tăng-kỳ việc xong nên về, uỷ thác như trong Biệt hạnh, hãy tìm xem). Rộng thấy ở sau lấy bỏ văn kỷ các Sư, vì sao như vậy? Vì Thánh ngôn ba tạng đâu luận thiếu dư nghĩa có thể thấy. Hai câu đầu rõ thủ, như sau các thiên đã dẫn, sớ sao giải thích, hỏi đáp, phần nhiều không nêu tên, còn như Tăng truyện, Tự Cáo đều đề bổn hiệu, ở đây rõ thủ văn đều thuộc sao nhiếp (xưa nói bổ khuyết là lầm). Bổ là thêm lạm, thuật sau không bỏ. Sau trong các bài hoặc thẳng dứt, nói trong khoảng bảy hàng cây như nghĩa sao phế lập, hoặc dẫn phá ấy, quên thành đến giới không khai trung. An cư, giải giới, mất hạ, v.v… lại trong nghi Bồ- tát xướng “Người chưa thọ giới cụ túc và người không thanh tịnh ra chưa?” v.v… nêu ra loại luật nghi cốt yếu, lễ kính, cầm góc y, nếu không dứt bỏ nhân tình ngăn trệ, nên nói rằng “Thành thông ý”. Kế trong thể thế ban đầu nêu riêng có bốn câu: Câu đầu rõ nhiều: Hoặc làm nhiều quyển giải thích (trên) thượng các thiên rộng bày hành sự. Quyển trung, giới trộm, lìa y, chứa của báu, ăn riêng chúng v.v… Quyển hạ sai y, bốn món thuốc, đạo tục, Sa-di, v.v… Hoặc làm phiền lụy để giải thích như kiết giới xướng tướng, hai loại đại giới có giới tràng, không giới tràng đều mất chỉ bày, chính xướng lại nêu ra. Thọ giới, già nạn, cũng trước giải thích tướng xuất chúng. Đối chúng lại chia làm hai, thuyết giới, sám tội tăng tàn đều trước rộng dẫn các giáo, nhưng sau lại dẫn văn trước sắp xếp nghi thức. Trên thì ngay thiên đều rõ, nếu y cứ thiên khác xen trông cũng có nghĩa này, như thiên kiết giới lại nói về nhóm tăng, lại trong thiên Yết-ma lại lệ với nhóm tăng, kiết giới, chọn người, thọ dục, v.v… Và thiên thọ giới lại nói về nhóm tăng, v.v… thiên giải thích tướng lại rõ thọ giới, đủ duyên v.v… đối với giải thích tướng bày hai, nêu ra năm pháp quán ăn v.v… như vậy đều là rõ hành sự không thể thiếu lược. Tức ở sau gọi là “Nếu lược giảm, lấy sự đại khái kia thì sự dụng hằng có chỗ không đủ”. Thứ hai là lược chỉ: Ban đầu y cứ các thiên xen chỉ như nhóm Tăng chỉ ở kiết giới, sau kiết giới chỉ nhóm tăng như trước, thuyết giới chỉ bạch chúng ở Tăng võng, an cư chỉ năm điều lợi như tự tứ, trong yết-ma lựa chúng, dữ dục đều chỉ thiên trước, lại đều ở ngay thiên rõ ấy, như trong đủ số. Chỉ bốn nghi biệt tướng rộng như biệt chúng. Sám Tăng tàn chỉ che giấu như sau. Như vậy chỉ nhau khắp gồm một bộ. Vả lại, nêu một hai, loại nghĩa là đồng, chảy theo thì thuận lời dạy. Như an cư xong hợp rõ năm lợi ích của Ca-đề, không muốn phiền nữa nhưng hạ xong thọ lợi cho sau tự tứ. Đồng thuận theo nhau cho nên chỉ như kia, còn bao nhiêu mô phỏng theo đây. Lại giải thích, như đại giới không có giới trường đã nêu ra cách kiết, sau đại giới có giới tràng liền chỉ như trước, cho đến thêm pháp ba y đủ nêu ra một cách, còn bao nhiêu để chỉ riêng. Trong phần thọ nhật nêu ra nửa tháng Yết-ma, rồi một tháng như trước, đây giải thích cũng chung, thảy đều như nghĩa kia. Đoán văn: Như trong thọ dục, nói rõ tướng dục, dẫn luật Ngũ Phần, Tăng-kỳ đoán văn đã tiếp tục rằng: “nghĩa bình đẳng”. Sau trong các bài, nghĩa nói rằng: nghĩa rõ, nghĩa y cứ thảy đều đồng như đây. (xưa giải văn một không thể chấp). Trưng từ tức là lời suy hạch, nghĩa là suy xét sự sâu kín quyết nhờ hỏi đầu mối. Vì phát khởi phiếm luận hỏi đáp để dập chủ khách, khách thì bày nghi suy tìm cứu xét, chủ thì tùy nghĩa quyết thông, muốn khiến nói bàn đợi nhau, giáo lý hiển bày rõ. Một/ bàn thỉnh hỏi (tức trong kiết giới các lời hỏi như nói rằng: “Đại giới có làng xóm được hợp kết chăng?”). Hai/ giả nghi để hỏi (trong phần thọ dục hỏi: “Không xứng duyên pháp dục có thành chăng?”. Trong Yết-ma hỏi “Bạch như vậy có thành chăng?”). Ba/ phá xưa nên hỏi (Trong phần nhóm tăng hỏi “Giới Tự nhiên vuông hay tròn?”, trong phần túc số hỏi “Những người bị biên tội tự nói y cứ thể, v.v…). Bốn/ cùng nhau hỏi (Trong phần thọ giới hỏi “Giới sư bạch hóa, giáo thọ không hóa?”. Lại hỏi “giới sư không sai, riêng giáo thọ sai?”). Năm/ suy cho cùng nên hỏi (Trong phần thọ dục hỏi: “Luật nầy nói dữ dục qua đêm không thành?” Và trong phần thọ giới hỏi: “Luật Thập Tụng nói “Ni không biết cho xuất gia lại, vì sao khai xả giới?”). Sáu/ trái nhau nên hỏi (giải thích tướng hỏi: “Tỳ-ni dứt rồi, khởi giới ngăn hay chưa khởi? Vì sao nói dứt lỗi bỏ tội?” Trong giới trộm hỏi: “Trộm tượng để cúng dường là không phạm tội trộm, sao kinh kết tội nặng?” ) Trong các thiên có lời hỏi đáp không nêu ra đây, một câu trong văn đều thâu hết. Trước nay bốn câu bao gồm đại yếu văn thể của một bộ, ý khiến người dự biết, đến nơi văn không bị lầm. Nay lại dùng bốn câu giúp rõ ý kia. Câu đầu phiền nhiều mà không phí, câu kế lược mà không thiếu, câu ba so le mà không loạn, câu bốn sâu mà không tối, như sau thông kết. Lời chỉ bày như vậy, nghĩa là bốn loại trên khắp cả một bộ, không khiến nghĩa trước sau trái nhau, cho nên nói rằng “Trước sau làm sáng tỏ nhau”. Lại trừ hiển sự dụng không để cho trước sau văn có phiền phức, cho nên nói “Ẩn hiển xen nêu ra”. Giao cũng là xen, ánh tức là chiếu. Trong hội khác trước rõ ý trích dẫn, kế bày thể soạn thuật, đến chỗ dẫn các bộ hoặc sự hoặc pháp chấp trái bổn tông cho sinh nghi tràn đầy, gồm lại chỉ bày nên nói là “đều”. Bốn câu đầu nêu tướng, đều sau đó hiển ý. Ban đầu rõ Yết-ma đối với đời ít dùng nên nói là “thấy hành”, chúng pháp phần nhiều y cứ bổn tông, biệt pháp phần nhiều rút ra từ các bộ, nay văn thông thâu pháp chúng, riêng của các bộ (trong chúng pháp, diệt tẫn kiết chung tịnh địa rút ra từ Luật Ngũ Phần. Pháp chia y cho Sa-di rút ra từ Luật Thập Tụng. Biệt pháp, như giữ y thêm thuốc xuất xứ từ Luật Thập Tụng Tăng-kỳ. Các vụ nói thông, cần thâu sự của các bộ mà các thiên đã dẫn. Hai câu sau tức chỉ cho các việc đạo tục trong thiên Sa-di, do hai thiên nầy phần nhiều nhóm các bộ, ít lấy ra từ bổn tông cho nên hội riêng, tìm trong văn sẽ thấy, đều là bộ khác thâu về bổn tông, cho nên nói rằng “nắm thành một chấp”, v.v… Tông nầy nếu đối với bộ khác tức chỉ cho Tứ Phần, nếu đối với các nhà liền quy về hành sự một nhà sao ngày nay, phí công có hai: 1- Mê mờ giáo pháp, vọng thi hành thì phí công làm. 2- Văn tán khó cầu thì phí công học. Trong Lặc quyển, khoa đầu ngăn dị thuyết, hoặc ngay khi thật có, hoặc giả lập dự phòng, nếu so với Hành Sự nghĩa Tập của các Sư giống như tổn hại phiền tế, nhưng không suốt được ý sâu cho nên cần cần phải rõ (đời sau có người làm sách Hành Sự rất sai ý Tổ). Đồng ta nói khác đều chỉ tình chấp người khác có trái thuận, như ca khúc ở đời, người họa kia phải là kích vật, do thinh tiết kia, tiết nghĩa là đoạn lớn của khúc cho nên nói rằng “Đại tiết”. Kích (chê) dụ như trách, văn nhiều thì ai ở sau bày ý, ưa thích cũng được, lý do nào ở sau chuyển giải thích không xong? Ban đầu trùng khởi, như sau chính thức giải thích. Ban đầu cần nhiều, hẳn sau rõ quấy, nhiều đại khái như thô lược. Bàn ngang, nghĩa là nói nhiều, phi lý. Húy tức là kiêng kî. Sao lấy bao gồm nhiều cốt yếu làm nghĩa. Nói không gấp vì chẳng phải chỗ tuyên bày. Nay trong ý ước độ dùng trí để tính lường. Trong thủ, lìa phiền lược lỗi. Việc tónh lược là chính tông của sao. Cứu gấp giúp kết thúc là ý chính ngày nay. Hành tướng chúng riêng, không thể tạm quên nên nói là “gấp”. Sự khởi không thường, không do tay nắm nên nói là “Xong”. Thiên Thầy Trò chép: “Cho nên gấp cứu treo ngược”. Môn thứ mười chép: “Thường khiến gặp cỏ có dụng”, đây tức là ý gấp xong, chữ “Trung” bình thinh giải thích như trên. Hoặc có thể là khứ thinh, nghĩa là rất đáng. Đây biết một văn, một câu kinh nầy đều muốn làm lời không nhàn. Than ôi! Đời Mạt pháp hôn mê ngu tối, chí tình kém cỏi, chỉ khoe khoang giảng nói, chuyên việc khua môi khua mép. Thiên trọng khinh nhóm thân đều làm, giới, định, tu, trị không hề một niệm, đến nỗi khiến lời dạy của cha lành bỏ phế như lời cũ mục. Lời cứu gấp ở đây tan mất, nhưng e nỗi khổ về sau muốn bãi bỏ cũng không thể, trong Thánh đạo không mong có ngày tiến thân, người có ý thức, kẻ tài giỏi đâu không động lòng, chỉ thiếu trong suy nghó liền toan tính suy tư, thiệm tức như cứu giúp. Cố, là dạy thực hành, thuyên là giải thích các nghĩa. Đây rõ nay sao chuyên nêu thời việc, biện luận nghĩa Chương có hay không sự cứu giúp đều không dẫn ra, chép ở văn khác, cho nên nói rằng “ở sau”. Quyển thượng thường chỉ cho nghĩa sao, quyển trung thường chỉ cho giới sớ. Quyển thượng và hạ thường chỉ cho nghiệp sớ, hễ chỗ chỉ lược đều là ý nầy. Như trong thiên tụ, hai món bất định, bảy pháp diệt tránh đều trước nêu đại ý đã nói rằng: “Văn nghĩa đã rộng, luống nhọc nên giải thích, chưa hề cùng tận nên lược không nói. Trong giải thích tướng, ý giới bốn lần trái can ngăn cũng đồng như đây, cho nên nói rằng: “lược nêu”. Chỉ bày trong sở thuyên, việc chúng nghĩa là bốn người trở lên Yết-ma việc của tăng thành, nghĩa là có thể làm được thì tổ chức làm. Tôn tức tâm vâng làm. Cơ nghĩa là thời giờ cần gấp. Thác sự tức các duyên y, thuốc, và sau kết chỉ bày không thiếu. Vặn âm vấn cũng là rối rắm. Như ba quyển ba vị xưa truyền, gọi chúng tự cộng ba hạnh. Nay lại dùng nghĩa phán lược làm ba: Y cứ chỉ tác, trên dưới đối việc tu tạo gọi là hành tác trì. Quyển trung, giữ giới lìa lỗi gọi là hạnh chỉ trì. Y cứ riêng chúng, quyển thượng, việc tăng gọi là chúng hành. Quyển trung và hạ, tự tu gọi là biệt hành. Y cứ thuần tạp, quyển thượng và trung đều cục cho nên Thuần, quyển hạ tùy cơ cho nên Tạp. Còn luận xen nhau ném gởi đều gồm nhau. Vả lại y cứ phần lớn đã phán ở trên, trong ý chép ở thiên “phần” đầu khó rõ pháp. Người hay làm việc là “sở tạo”, cho nên nói là cảnh sự. Khoa nghĩa là chia tiết. Nghó tức là so lường. Nay sau phần chính nói vật loại ấy, nay trước nêu bày, như an cư, chia phòng xá, giải thích tướng, rõ pháp thể. Trong sám sáu tụ rõ hai cách sám sự lý. Hai y, chia vật của người chết, đạo tục rõ nói nghi pháp. Trong Sa-di, nghiệp xuất gia và trong bảy thiên có chú thích pháp phụ. Nếu y cứ thiên đề, thật, quấy gồm nhiếp, nhưng trong hạ chia phòng đồng loại với an cư, cho nên chỉ nêu an cư, còn bao nhiêu tự nhiếp, các chỗ khác đều y cứ theo đây. Đây thì ba mươi đầu đề, gồm cứ chủ một thiên, nếu vậy sao lại chỗ có chú pháp phụ, hoặc không chú? Đáp: Vì có thân sơ, chẳng hạn như trong tên, y cứ từ ý mà chép, sau liền nêu tên thiên, thì văn lý suốt nhau, nhưng mười môn sinh khởi có rất nhiều điều không tiện. Xưa khoa nêu tên ở đầu mười môn, giải thích rằng: Vì hiển bày các thiên là chỗ tao của mười môn. Ngày nay cho là không đúng, đâu lại có chuyện ghi chép ở trước nêu tên ở sau, huống chi Lặc quyển phần thiên, thứ lớp có tựa. Nay rõ đến như hai mươi hai bài tựa ở sau hợp với nêu tên ở sau, thì khiến tên thiên để trước, chép ý sinh khởi trùm mười môn sau. Văn kế, nghĩa hiển bày hằng không nghi ngờ, văn nầy đảo lộn e là truyền lầm (thỉ cũng heo, hợi cũng heo). Xưa nay đều vốn như vậy, dùng lý làm chính đâu không như vậy ư? (Người giảng do nêu tên đầu đã đọc ngay tên thiên, vào mười môn sau lại đọc sinh khởi). Đoạn lớn thứ hai đại cương các thiên chép trong ý. Giềng mối chung, vì sự tướng các thiên đều nêu lên. Nói điều lưu là vì trong chung riêng tướng nghĩa loại có khác. Hai câu trên đã hiển bày văn trước, chỉ chép biên soạn không rõ nghĩa lệ, cho nên nói “vị ủy”, lại vì hạ sinh ý sau. Quát nghĩa là bao gồm gương sáng. Viễn thuyên nghĩa là đại ý của giáo tướng, sắp giải thích mười môn, lược biết thứ lớp. Đại thánh lập giáo vì hiển bày nhất thừa, muốn khiến chúng sinh mê mờ đều quy về chân đạo, không kham lãnh giáo hóa nên tạm dùng quyền lực, đến vật tùy nghi, tâm phàm khó lường, nhưng vì sắp truyền di giáo phải hiểu nguồn cơn, giúp cho người học có nơi quay về, hạnh chẳng luống tạo ý khởi giáo, cho nên lúc ban đầu, đã rõ suốt môn, ở đây biết sơ về ý chỉ, nhân gì chế khinh trọng không thứ lớp cho nên kế rõ. Trên so sánh hai môn chung làm Luật tạng, tông bộ đã riêng, giáo tướng đâu dung, quyết có việc khác, y theo chỗ nào xử đoán cho nên có ba. Tuy biết dụng giáo y cứ thể mà có tông, xứ nầy (Trung Hoa) thọ duyên đều vâng theo Tứ Phần, hoặc ở bổn bộ tiếp sự không khắp, bộ khác thật văn thế nào thủ dụng cho nên có bổn? Trên y cứ văn, văn cho là trái, thiếu. Trái cần nghĩa định, thiếu quyết văn thông, phế lập đã khó, phải rõ cách thức cho nên có năm. Trước đã nói về giáo và y cứ năng thuyên, giáo không luống làm, quyết nói chính hạnh. Hạnh chẳng phải một cách, chỉ cần đại tông, cho nên có sáu. Trước nay sáu ý giáo hạnh đều bày, giáo hạnh giúp cơ, cơ chia nhiều việc lạ. Cho nên bảy, tám, chín thông hay cục kế sẽ rõ. Chín đoạn trước, cơ, giáo cả hai rõ rất bày ý giáo hóa, nhưng giáo truyền vào xứ nầy chân ngụy xen nhau, nếu không lựa bỏ sẽ bị sinh nghi. Lại làm văn nầy đặc biệt khác trước, sửa đổi nguyên ý, người đến học phải hiểu. Cho nên kế thừa thứ mười mà bày đó. Tướng thứ lớp do đại lược đã rõ, đến sau giải thích riêng để tùy tiện rõ đó. Thứ nhất trong “giáo hưng”, nêu rằng: “Ý là thuộc về ai?”. Đáp: “Quán hai ý trước dường như thuộc về Phật, y cứ theo các môn sau thì có ngại nhau. Nay cần một đại khái đều là ý Tổ. Do giáo chỉ Tỳ Ni đời xưa chưa nghe, dầu có rõ còn chẳng cùng lý, ý thú mười môn nêu ra từ Sư ngày nay, cho nên lấy mỗi tựa thuộc năng tựa, hai chữ giáo hưng tức là sở tựa. Một chữ ý chỉ chung môn nầy. Lại văn nêu mười ý, nghĩa là tâm so xét, trước nói rằng mười môn, nghĩa là do mười môn mà vào mười điều nói ở sau, nghĩa là nghĩa loại khác nhau và đối các thiên sau tùy tên không nhất định. Tuy văn ở khoa đầu mà lời không luống dối, bao gồm chung hai thứ sau, luận sau dẫn văn chính tông, Đức Thích-ca Như lai thành đạo đã nhiều kiếp, đức vượt cả ba Thánh, vì giáo hóa con người nên thị hiện tướng đồng với người, do đây lại đến sự tốt đẹp trong loài người là tôn cực, nên nói rằng “Chí nhân”. Lại thân Phật đầy khắp mọi nơi, tùy cơ mà hiện hình, thị hiện giáng sinh, tuyên bố sẽ diệt độ để tiếp độ chúng sinh, nay lại ở cõi Sa-bà thị hiện đản sinh trong cung vua, nhàm chán thế sự đi xuất gia tu hành, hàng ma, thành Phật, nên nói là “Hưng thế”. Nói có phương, phương là phương pháp. Tức rõ quyền xảo của Như lai cùng tận tâm hạnh khác nhau của tất cả chúng sinh, cho nên lập giáo đều thích ứng cơ nghi, đều làm cho được lợi ích, cho nên nói rằng “Không luống”. Luận tức Thập Trụ Bà-sa, kia nói rằng Tu-đa-la, nói théo Thập lực đẳng lưu: 1- Thị xứ phi xứ lực 2- Nghiệp lực Định lực Căn lực Dục lực tính lực Chí xứ đạo lực 8- Túc mạng lực 9- Thiên nhãn lực 1 0- Lậu tận lực. Đẳng lưu: Đẳng là không nghiêng lệch, lưu là không chọn lựa. Tỳ-ni là nương đại từ đẳng lưu mà nói, A-tỳ-đàm nương vô úy đẳng lưu mà nói (nghĩa là bốn môn vô úy: 1- Nhất thiết trí vô sở úy. 2- Lậu tận vô sở úy. 3- Thuyết chướng đạo vô sở úy. 4- Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.) Y cứ nơi Phật lập giáo thông có ba tâm, y cứ vào nơi pháp đối cơ đều riêng hơn, ở đây cho nên nói pháp khai mở riêng đối với trí lực, phá tà luận dọc phải có vô sở úy, lập cấm chế xét lỗi lầm chỉ là đại từ, vì vậy Như lai khởi lòng từ xuất gia hiện ở đời, muốn nói diệp pháp khiến khắp khai ngộ. Vì chúng sinh căn cơ có lợi độn nên nói Ba thừa, có ai gặp pháp âm liền chứng đạo quả, cho nên dùng lược giáo buộc tội lỗi kia. Căn cơ của người càng kém, phá lược khởi tội, Phật lại mở rộng giáo chỉ lỗi lập chế, còn nếu không thể dẫn cho đến mở ba ngàn tám muôn luật nghi. Thời chính pháp còn nhiều người hủy phạm huống chi cuối thời Tượng pháp thì đâu thể nói pháp cao siêu, như vậy chì uốn lần đến người hạ phàm không bỏ một vật nhỏ, tự chẳng phải lòng đại từ thì đâu được như vậy. Cho nên Giới Sớ nói: “Nương vào môn Đại Bi, chìu uốn trao cho phương tiện bí mật, ban riêng cho nội chúng…” Trong dẫn chứng, tức trong văn Tăng Nhất Bổn Luật, kia nói: “Phật ngự cạnh bên ao nước ở nước Bạt-xà, bảo các Tỳ-kheo: “Các thầy cho rằng ta dùng tâm gì mà nói pháp cho các thầy?”. Sao dẫn lời đáp lược hai chữ “chúng sinh”. Đối với ngoại đạo trong văn đầu nói ngoại đạo là người không chấp nhận sự giáo hóa của Phật, chỉ thực hành tà pháp, bàn nhiều về việc mua bán. Giới chép: “Căn bổn Lục Sư dạy mười lăm đệ tử, mỗi người nhận làm dị kiến”. Lục Sư đều có pháp riêng dạy đệ tử khác nhau, thầy trò gồm có chín mươi sáu, như vậy truyền nhau không dứt (Luật Tăng-kỳ gồm có chím mươi sáu loại, người xuất gia thì Đạo Phật là một, còn chín mươi lăm ngoại đạo chưa rõ số lượng nên nêu ra khác nhau) tuy đều lập pháp mà chẳng phải chính đạo, cho đều là “dị”. Vì pháp Không cho nên trống rỗng riêng ở, nên nói là “Tự”. Nhân tôn: Vị vượt người, trời. Đạo cao: Vì đều có thể xa lìa. Chế giới nầy: Là Thánh pháp chế khiến nhận làm, nhận thì bên trong đầy đủ Thánh tài, làm thì đức tốt đẹp bày ra ngoài, vượt ngoài thế tục cho nên tôn cao, hai chữ “vi đối” chính là tâm Phật. Nói chế giới chỉ là miệng vàng Phật nói (xưa đến khoa là kiết tập giáo hưng, cho nên một câu này rất nhiều tranh cãi). Trong Dẫn Chứng có hai: Ban đầu chỉ chung chứng minh chế giới. Quán luật sau là các kiền-độ, y cứ giới bổn trước là các người thế tục chê bai là “không có chính pháp, giống như ngoại đạo” Phật nhân đó chế giới rất phù hợp với ý nầy. Nhưng đây là vì người khác chê bai chứ ý Phật chưa hiển bày, cho nên chỉ văn sau chế giới pháp, để rõ như trong kiền độ thuyết giới là vì các ngoại đạo ngày mồng tám, mười bốn, mười lăm nhóm họp. Vua Bình-sa thấy vậy bạch Phật, Phật vì đó chế nửa tháng thuyết giới. Kiền-độ an cư là vì nhóm tỳ-kheo sáu vị cả ba mùa xuân, hạ, đông đều dạo đi, cư só chê cười là “các ngoại đạo còn ba tháng an cư, các Thích Tử nầy bất cứ lúc nào đều cũng dạo đi”, vì thế Phật chế an cư. Kiền-độ Tự tứ là vì các Tỳ-kheo kiết an cư rồi lại chế không nói năng thăm hỏi nhau, Phật nói “Các thầy là người ngu si, giống như ngoại đạo cùng nhau thọ pháp câm”. Trong kiền độ y có Tỳ-kheo trì bát gỗ, Phật nói “Không nên trì bát đó, vì đó là pháp ngoại đạo”, cho đến Tỳ-kheo chứa y thêu, mặc y cỏ, y da cây, y lá cây, y anh lạc, y da, y lông chim, y tóc người, y đuôi ngựa, đuôi trâu, lộ bày thân thể, mỗi việc Phật đều nói “Không nên như vậy, đây là pháp ngoại đạo”. Cho đến kết rằng: “Tất cả pháp ngoại đạo như vậy không nên làm”. Lại dẫn một hai điều để dứt nghi cho thế gian, các kiền-độ sau văn chẳng phải một, cho nên nói “Phàm chỗ đến và hoài”. (Xưa ghi văn chế lại chỉ trong kiết tập, thì phần chỗ và hoài, lời nầy làm sao giải thích?). Hoài là ý Phật, dị thuật là ngoại đạo (thuật là đạo). Cho nên văn sau dẫn chứng riêng kiết tập, đây là văn chuyên khởi của bổn luật do năm trăm vị kiết tập. Do sau khi Phật diệt độ, ngoại đạo chê bai rằng: “Pháp luật của Sa-môn Cù-đàm như khói, Thế Tôn còn sống thì cùng học giới, nay Phật diệt độ thì không người nào học giới”. Vì thế ngài Ca-diếp bèn đề khởi việc biết tập, liền bảo đại chúng rằng: “Chúng ta hãy cùng nhau luận bàn pháp Tỳ-ni, chớ để cho ngoại đạo v.v… cho đến nói các lời” (Tổ Sư lấy ý, thêm một câu trên giúp văn dễ hiểu). Hỏi: Nay rõ ý Phật hay sao? Dẫn văn kiết tập ư? Đáp: Ngay đối với khoa đã rõ đều dẫn Phật ở đời, văn đã chẳng phải một, không thể nêu riêng, cho nên chỉ chung, nhưng văn kiết tập, lời ý đều bày rõ cho nên được dẫn, dần dần làm chứng. Hỏi: Khi kiết tập, việc đã ở sau Phật diệt độ, đâu chứng tâm Thánh? Đáp: Kiết tập giữ pháp đã là dứt các lời. Ý Phật vốn khởi lòng tin, chuyên hoại đạo khác, như sau năm dụ khai chế thường trưng bày cũng dẫn văn sau để bày ý, đây là nói lên sự việc gì mà nghi?! (Ở đây y cứ giải thích ý ngài Ca-diếp lúc kiết tập). Lại Phật mới nhập diệt, họ liền chê pháp diệt, lại biết Phật còn sống thì với luật họ nào có nghi. (Ở đây lấy sự giải thích chê bai của ngoại đạo, xưa ghi sai cho nên đặc biệt nêu bày). Đối trong tông khác, câu trên của khoa đầu rõ ý Phật, giáo lý Tỳ- ni do đây mà chế, cho nên nói là: “đến”, tức nghĩa Sao nói rằng: Như lai lúc đầu ở vườn Nai, cuối cùng đến rừng Hạc tùy căn cơ chế giới nên có muôn ngàn sai khác, bởi do căn khí chúng sinh khác nhau, nghe ưa có khác, nên khiến Thánh chế nặng nhẹ khác nhau, gấp hưỡn có khác, các bộ khinh trọng có ra vô lượng, tuy là khác nhau mà đều xứng theo căn tính, đều có ích khi vâng làm, do nghĩa này nên Thánh chế vốn có nằm tên. Lại dẫn truyện Phó Pháp Tạng “Phật hiện ở đời chia làm năm bộ (ý Đại Tập mộng cũng đồng với ý nầy). Như vậy vì sao văn sau của nghĩa Sao lại nói “không có năm ý?”. Đáp: Ở đây rõ ý Phật còn ở đời vốn không chia, nghĩa là chỉ tùy cơ lập giáo đâu có năm ý, nên khiến hiện tại chỉ có năm tên chứ không chia năm phần khác nhau. Không ngại nặng, nhẹ, duyên gấp tức là xa giúp đem đến, cho nên kia nói “Thế giới của bậc Thánh hiện không có năm ý, chỉ có lời huyền ký”, sau khi Phật diệt độ mới có các bộ phân chia. Câu kế bày “khác”. Nói nhiều sai khác: Là chung luận chia bộ, ban đầu thì có hai là sơ sáng, sơ các tập. Kế một trăm năm sau trong Thượng Tọa Bộ chia ra năm bộ. Lại nói rằng: Sau hai trăm năm chia ra thành mười hai bộ, bốn trăm năm sau lại chia ra thành mười tám bộ (cộng hai bộ gốc là hai mươi), cho đến sau lại chia ra thành năm trăm bộ (chép đủ trong nghĩa Sao, ở đây không phiền dẫn nữa). Tương truyền rằng: Vốn làm tông thì có mười tám, sau lại đổi thành nhiều tông khác nữa, cho nên biết lời nầy chung gồm hết chứ chẳng phải chỉ năm bộ. Trong Dẫn Chứng có nói rằng: “Nhiều khác nhau không thể bày đủ”, lược dẫn hai bộ để rõ tướng “khác”, nên nói là “như đồng”, cho nên đặc biệt dẫn hai bộ nầy mới đầy đủ. Rộng giải hai cái thật giả dối địch, ngược nhau rất dễ thấy nội ng- hóa. Hoặc có thể bộ chấp tuy nhiều cũng chẳng ngoài có và không, do đó sau nói giới thể cũng nêu ra hai tông. Hai bộ hơn kém lược nêu bốn món, nay giải thích chung: Ban đầu giới bổn phiền và lược đối sau lập giáo y cứ. Luật Thập Tụng chép: Ba y có sáu giới (một quá cao, hai quá thấp, ba là như mũi voi, bốn lá Đa-la, năm là so le, sáu là nhiếp sô). Nội y đồng như trên cộng có mười hai giới thì là phiền (nhiêu). Đại tiểu tiện lợi chỉ có một giới, kíinh(tháp đều không, đây là lược. Tứ Phần kính tháp thì tiện lợi khạc nhổ đều tùy tướng riêng, nêu đủ nhiều giới cho nên nói là “hiển”. Đắp y lập hai, nghĩa đều thâu đó, nên nói là y cứ. Hoặc có thể hai bộ Quảng Luật và giới Bổn đối biện hơn kém, người học hãy tìm đó. Thứ hai chỉ cho thể chưa viên, đối sau phép dụng nhiều cách. Thập Tụng cho sắc là giới thể, cả hai năng tạo sở tạo đều là sắc, đều không nói về tâm. Chưa cùng nghiệp bổn cho nên chưa viên. Luật Tứ Phần dùng hai phi làm thể, thể từ tâm phát, nhưng hạn cuộc ở tiểu tông. Khúc từ quyền ý riêng lập tên khác, thối chẳng phải tiểu, tiến không thành đại, thầm khiến người tu hành tâm mong thật đạo, nghĩa nhiều cách là ở đây. Nghiệp Sớ nói “Do trong tông nầy chia thông Đại thừa, nghiệp nương tâm khởi cho nên hơn chấp ở trước, v.v… Hỏi: Câu nầy đã rõ giới thể, vì sao chỉ nói rằng “phép dụng nhiều cách”? Đáp: Tông pháp tướng nầy không chỉ nói về thể, như Yết-ma Sớ năm nghĩa chia thông, cho nên một câu nầy thông gồm nhiều ý. Lại bày thể nầy so với trước tuy hơn mà đối với đại hình như nghiêng lệch. Chỉ nói rằng nhiều cách là đủ bày ý của bộ, cho nên Giới Sớ chép: “Người đây xét rộng ba căn cơ, xem xét đầy đủ hai sách, bao gồm quyền thật, gồm thâu danh lý, v.v… Hỏi: Nếu vậy tông trước lấy gì chỉ thẳng? Đáp: Bộ kia lập ra chính hợp với tiểu tông, nhất định là chấp ng- hiêng lệch không còn có ý gì khác, cho nên thẳng hiển bày thể, nghĩa gồm tùy hạnh nên cũng chẳng viên. Cho nên thứ ba là xét khuôn mẫu ở đời, định đối sau nên khuyên sinh thiện. Nhiều tông cho năm giới quyết giữ trọn đời, tám giới chỉ một ngày một đêm đây là nhất định. Hai giới không khai chia nhận dầu có chia nhận được thiện, không có giới, đây là số nhất định. Tứ Phần nói hai giới dài ngắn đều thông toàn phần, đều được xét giáo của thế tục, chỉ giữ sinh thiện cho nên chẳng phải là khuôn phép nhất định. Bốn là ngự pháp không y cứ, đối sau nhân pháp có tựa. Tông kia nhân vị tuy đồng nhưng chẳng chỗ nào không có khác nhau, như không hòa thượng được thành thọ giới và trong giới một người bốn chỗ nói đủ số, trong một giới nhiều chỗ làm pháp xen nhau thọ dục, đây là nhân không y cứ. Ba món Yết-ma thêm thì thêm thiện, bớt thì không thành, tức là pháp không y cứ. (Trong văn giống như riêng rõ pháp, nhưng một chữ “ngự” tức người năng bỉnh, đối sau cần biết cả hai đều không có tựa). Luật Tứ Phần chép: Tăng bốn vị, trừ ba pháp Yết-ma (Tự tứ, thọ giới, sám hối, tăng tàn). Tăng năm vị trừ hai pháp (Thọ giới, hối tội tăng tàn). Tăng mười vị trừ một pháp (hối tội tăng tàn). Hai mươi vị tăng có khả năng làm tất cả phép Yết-ma. Lại phải lựa chọn đủ số riêng chúng, tức người có sự khoan thai. Pháp có tám vị, tâm niệm có ba (đãn tâm niệm, đối thú tâm niệm, và chúng pháp tâm niệm). Đối thú có hai (Đãn đối thú và chúng pháp đối thú). Chúng pháp có ba (Đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ). Chúng riêng Yết-ma đều tiếp phần chừng xen chẳng thông nhau, ít có thêm bớt xếp vào phi pháp, pháp nầy có tựa. Trên rõ tướng hai tông khác nhau, đều là Như lai tùy cơ lập giáo, cạn sâu khác nhau, từ xa trông chưa đến bộ chấp chi phần làm thuyết nặng nhẹ, ý hưng giáo ở đây đã rõ. (Xưa Sư ở khoa nầy là chia bộ giáo khởi là xa). Kế ngay trong tông văn ban đầu, câu trên chỉ trước, câu dưới nêu sau. Nói chung rõ là do ba ý trước gồm tạng Tỳ-ni, nghĩa gồm các bộ không cuộc hạn ở một tông, nhưng ba ý trên năng sở xen bày. Ban đầu đến năng thí quyết gồm sở bị, do lòng từ không luống, phát sự vì hạng căn cơ thấp kém, hai món sau văn y cứ vào sở làm dụng hiển bày năng thí. Kế là bày chỗ cao quý của chính pháp, sau rõ sự khác nhau của giáo môn, chính rõ trong khoa ban đầu, hai câu trên rõ giáo khởi do căn cơ. Bốn câu người đã… trở xuống, rõ căn cơ khác nhau giáo rộng, tiếp dụ nghĩa là phương tiện chiều uốn. Rộng tiếp nghĩa là khiến khắp được lợi ích. Phép dụng tức tất cả sự pháp ở hai hạnh chỉ tác. Câu trên rõ ý năng nói, câu dưới hiển bày giáo bị nói, suốt xuống dưới sáu câu bày tỏ nay theo cốt yếu. Bổn thuyên nghĩa là ý chỉ lớn của giáo, đối đầu mới ở sau tức tướng khác nhau của sự. Cho nên, v.v… là xét hai thí dụ sau để bày tướng thuyên (khai chế là thứ hai, trì phạm tức thứ nhất. Hoặc có thể là hai điều nầy gồm chung năm dụ) do trong mỗi dụ đều đủ gồm đó. Hai chữ “nghiệm lượng” nghĩa là dùng trí để xét cùng tột. Hai chữ “chỉ ý” tức là bổn hoài lập giáo. Lượng là tin, nay ở sau gồm nêu văn của một bộ không quá năm dụ nầy, dùng ít rõ nhiều nên nói là “buộc”. Ban đầu là già tính: Trong Tỳ-ni chế lập không ngoài già và tính, dùng hai môn nầy cầu một Luật tạng gồm quy về hai ý, cho nên nói rằng “thường chia”. Ban đầu trong thông và cuộc, mười món bất thiện là nghiệp trái lý, thể nó vốn là ác, cả ba tạng đều cấm. Nhưng trong Tỳ- ni chỉ chế bảy chi, lại thêm thiên và tụ cho nên chung hai giáo. Chặt cây, đào đất, v.v… vốn chẳng phải pháp bất thiện nhưng vì dứt sự chê bai nghi ngờ mà chế nên nó thành lỗi, vì vậy cuộc hạn chế giáo. Y cứ vào văn hợp nói “giá giới thì hân cuộc ở chế giáo” trong văn vì chỉ bày nghĩa của tính và giá, cho nên nói “nhân lỗi”, v.v… Nhưng tính giới vốn không hay có, luận Đại Thánh chế và không chế đều kết nghiệp cảm báo ở ba đường. Giá giới không phải như vậy, Phật xuất hiện mới chế, cho nên trong kinh luận hoặc gọi là chủ khách, hoặc gọi là cũ mới, hoặc y cứ vào trái lý, trái sự mà chia, còn bao nhiêu như trong Giới Sớ có nói. Khoa kế, trong tính giới, câu đầu chính nêu ý giáo, nghĩa là sau giải thích thành. Hai câu đầu chỉ bày văn hoãn, ở đây gồm thâu tất cả tính giới nên nói là “đều có”. Văn tuy sau giải thích nghĩa gấp, ban đầu rõ giáo gấp hành khó, như sau lược nêu hai giới hiển giáo gấp ở trên, hai câu sau giải thích hành khó ở trên, cho nên biết sau là kết quy. Ba thời: nghĩa là mới vào, vào rồi và ra. Trong ba thời, động nhỏ mà có niệm ưa thích thì liền thành nặng. Chê mắng tức trong giới mắng thứ chín mươi là từ tâm dạy dỗ tuy mắng mà không phạm, việc nhỏ sinh sân giận cũng kết chính khoa, cho nên nói “Khai thật kết phạm, v.v…” (hai giới văn khai đều thấy ở giới bổn). Trong già giới, ban đầu rõ hưỡn gấp, chế tức gấp, khai là hưỡn. Đối tính giới ở trước nghĩa lập bốn câu: 1/ Văn hưỡn nghĩa gấp, trong tính khai. 2/ Văn gấp nghĩa hưỡn, trong giá chế (Do chẳng phải tính nghiệp nên tùy duyên khai). 3/ Đều gấp, trong tính chế. 4/ Đều hưỡn, trong già khai. Há chẳng phải ở sau chính bày ý khởi. Trên rõ đại từ hộ tục, giới rõ chế đạo. Đạo đã không lỗi, tục thì sinh thiện, một phen chế được hai điều, khéo léo ở nơi đây, như kinh Niết-bàn chép: “Dứt sự chê bai của thế gian” tức là nghĩa nầy. Uổng khanh: uổng là cong vẹo, do đối với tăng khởi chê bai chắc chắn đọa vào tà đạo, thường không có đường ra dụ như hầm hố. Hoặc có thể là y cứ vào quả báo tức dụ cho đường khổ. Trong phần Dẫn Chứng, kia nói về thứ bảy rõ phạm tội có ba: 1- Duyên phạm. 2- Do phạm nên chế. 3- Lại chế. Trong “lại chế” có hai thứ nhân duyên: gấp và hưỡn. Gấp nghĩa là cho đến cùng súc sinh và người đồng phạm, hưỡn tức cho bả đạo trở về nhà hành dâm, sau nếu mến đạo lại cho xuất gia thọ cụ túc (ở đây rõ tính giới). Lại nói rằng “Người đời chê rằng: Tỳ-kheo vì sao lại không có lòng từ, dứt mạng sống của cỏ cây?” Phật nhân đó chế giới là gấp. Vì giữ gìn trụ xứ Phật khai cho chặt cây cỏ, đó là hưỡn (đây rõ già giới). Hai nghi: Nghi nghĩa là cách thức, kiến người tìm đó, nêu ra ý nhà soạn Luận. nghĩa là trước lại dẫn hai giới để hiển bày tướng, ý khiến y cứ dụ nầy để tìm các giới, đâu cũng đều như vậy, cho nên nói là “nhìn chung”. Dùng đây chứng minh nghĩa gấp và hưỡn của hai giới già và tính ở trước, bao gồm tất cả. Kế trong khai và chế, chỉ y cứ già giới khác với trước. Nêu rằng: “Nhỏ là dạy cầu dạy chứng nghiệm hai nghĩa đều thông. Trong phần Dẫn bày khoa đầu nói “văn sau” tức văn năm trăm kiết tập, kia rõ ngài Ca-diếp kiết tập rồi, Trưởng lão Phú-na-la lại vặn hỏi thứ lớp kiết tập, ngài Ca-diếp mỗi mỗi đáp rồi, Phú-na-la lại nói “Tôi đều bằng lòng chỉ trừ tám việc, chính tôi nghe từ miệng Phật ghi nhớ giữ gìn không quên, đó là Phật cho cất chứa và nấu ăn ở chỗ ngủ”. Ca-diếp đáp: “Đúng như lời ông nói, “lúc ấy, Thế Tôn vì lúa gạo quý đắt nên cho phép, đến khi lúa gạo trở lại dồi dào Phật bèn cấm lại”. Phú-na-la nói: “Phật là bậc Nhất thiết tri kiến, không thể chế rồi lại khai, khai rồi lại chế” (ý cho rằng khai chế không nhất định thì chẳng phải Nhất thiết tri kiến (thấy biết tất cả)). Sao dẫn lời đáp của Ca-diếp vẫn để thấy biết là người trí. Đây rõ có lúc được mùa có khi mất mùa không thể nhất định, cho nên khởi giáo nầy để giúp đời sau, tức rõ thời chế Tỳ-ni trong luận. Trong Thế giáo, văn Ngũ Phần quyển 22, trên rõ cho trái lời Phật chế (Sớ kia giải thích rằng: “Như tay cầm đồ ăn nầy mới là không tốt”. Lại như Tổ Bác Tiển Túc, tuy chẳng phải sau rõ cho theo lời chế (như dùng muỗng đũa, giày dép, vạt áo và nương các phép chế của vua). Hỏi: Tiêu văn có thể như vậy, khởi ý thì thế nào? Đáp: Thời gian dời đổi, được mùa, mất mùa không nhất định, khí hậu, thổ nhưỡng, thời tiết khác nhau. Lập pháp nghiệm chẳng phải khó làm thành nhất khái, ý khiến tùy thời thích ứng nơi chốn, cho nên lập vị lai dọc thông cuối thời Tượng pháp vẫn làm như hiện tại, giúp đỡ cả chỗ biên giới, ý chỉ vì người, nghĩa thấy ở đây. Hỏi: Thời, phương, danh, tướng chẳng hay xuất xứ ở đâu? Đáp: Rõ luận có thời, xứ Tỳ-ni. Kia nói rằng: “Ở biên địa năm vị tăng được trao giới cụ túc, được thường tắm gội, ở Trung Quốc (giữa nước, chốn thành phố) thì không cho. (Ở đây gọi là danh xứ). Xưa dùng ba lần quay về, nay thì không được. Lúc nóng thường tắm, khi lạnh thì không được (đây tức là thời), cho nên biết thời, phương, không phải chỉ một việc. Hỏi: Đã nói là y cứ vào tông mà giải thích, đâu lại dẫn Ngũ Phần mà rõ ở đời ư? Đáp: Bổn Luật khai năm việc ở vùng biên địa, nhưng văn cuộc hạn sự định chưa rõ thông thâu, cho nên phải nhờ văn kia để nói đương bộ. Đời nay ngu tăng không biết giáo tướng, phá giới, làm thói xấu theo thế tục đã thành thói quen, thấy người trì giới việc họ trái với ta, liền trách là không khéo tùy theo cõi nước, phong tục, quở cho là bày trò khác lạ. Tà nhiều chính ít ai mà nói được, đời suy pháp diệt do đâu mà lần? Lại Đông Nam giảng thiền, nửa đêm ăn cháo, quá ngọ mới là “trai”, bát gỗ, y đẹp chẳng khác ngoại đạo thế tục, theo danh mê thật đều cho là tùy nơi. Ngu si không học, một khi gặp việc nầy liền sân. Xen dung hai giáo, tức hai thế giáo, đây có hai điều giải thích: Giáo trước vốn là vị lai, tức gồm cả thời Phật còn tại thế, giáo sau vốn khởi hiện tại nên thông đến cuối thời Tượng pháp. Hoặc có thể e nghi trích dẫn luật Ngũ Phần cho nên ở đây giải thích. Hai chữ “kia đây” tức chỉ cho hai tông, nghĩa là luật Tứ Phần chế rồi lại khai tức gồm cả đời hiện tại, luật Ngũ Phần tuy chế mà không dùng tức gồm cả vị lai. Đã kia đây gồm nhau, liền biết bổn tông tự đủ hai đời, nhưng văn không rõ cho nên dùng văn kia. Hỏi: Trong giá, tính, cũng rõ khai, chế, có khác với ở đây chăng? Đáp: Trước thông giá, tính ở đây chỉ ở nơi già. Nếu là tính giới thì bất luận thời xứ, cho nên rõ trong luận tất cả thời xứ, Tỳ-ni gọi là dâm, trộm v.v… nầy. Trong dụ thứ ba, thù nhân gọi là báo. Nói mạnh yếu là hoặc y cứ hai vị nam, nữ, đối sau thì chế, lại trong nam nữ đều chia ra ba căn, đối sau y cứ hạnh, cho nên không nói nặng, nhẹ mà nói cho, do nói nặng nhẹ là không gồm y cứ hạnh, cho nên dùng nặng cho thông và gồm thâu hai món, đều chế tức “chỉ trì”, y cứ theo hạnh tức “tác trì”. Trong phần đầu y cứ giới sớ rất ngại hạn phần đều có chung riêng, chế bốn giới trọng, ngăn ba độc, tức ngăn căn bổn (cội gốc) chế chủng loại ngăn, bốn giới trọng gọi là ngăn sâu (đây tức là Thông). Lại nói rằng: Phạm lỗi chưa cùng, dự thêm trọng ước cấm ngăn, cho nên nói rằng “sâu ngăn” như Ni xúc chạm Phạm Ba-la-di v.v… các loại (Đẳng là ba giới khác, y cứ theo giới để luận tức gọi là Biệt. Như uống nước có trùng là ngăn giết súc sinh. Tay cầm nắm là ngăn đánh cũng gọi là “sâu ngăn”, chẳng phải ý trong đây, vì không đối báo). Nói hạn phần là chỉ ở tâm duyên, vì phàm phu thấp kém mà chế phần giới hạn (ở đây tức là thông, vì chung cho các giới). Lại nói rằng: Nếu nói theo tướng thì có thể có tu học, đều là phần hạn, như lậu thất tăng tàn, Ni thì tội đọa (đây là riêng). Lại như trong tăng liền dạy Ni v.v… và trong Ni bốn món riêng ngăn nhóm, tất cả giới khác nhau). Nay đây y cứ báo mạnh yếu phải theo biệt luận (xưa ghi ngược phá giải thích này, xin lấy Giới Sớ để làm y cứ). Y cứ hạnh là núi thì gọi là Lan-nhã tức thượng căn, đời gọi là xóm làng tức hai căn trung hạ, nhưng bậc Thượng só không chỉ ở núi, trung hạ đâu chỉ ở xóm làng, lấy phần lớn y cứ kia để chia ra căn cơ. Ban đầu nói núi là thông hành bốn y của hai chúng tăng và Ni: 1- Y phẩn tảo. 2- Khất thực. 3- Ngồi dưới gốc cây. 4- Thuốc mục nát (đây là thượng căn, ni ngồi gốc cây chẳng phải lan-nhã). Hai nói thế gian là theo quả báo trung căn. Kế là chế ba y, lại kế là chứa trăm lẻ một, kế là chứa dư, kế là các vật mền, nệm v.v…, kế là cho dùng các quả báo trang nghiêm (đây chẳng phải thường giáo, chỉ là vì Thiên nhãn Tu-bồ-đề). Trên y cứ theo Giới Sớ rõ năm khai, kia nói rằng do căn báo chúng sinh khác nhau, mạnh yếu khác nhau, đến đỗi khiến cho Đại Thánh phương tiện khai già (đây là trước mạnh, sau yếu, chặng giữa xen thông). Trong giới ăn, khai cho tăng thỉnh riêng hai lần, Tăng thường là đàn-việt đưa đến, v.v…, xứ khai hai phòng và thuốc khai làm ba (bốn đây khai cơ trung hạ). Hỏi: Hai vị chế, hạnh mạnh yếu làm sao chia? Đáp: Chế thì mạnh thấy nhẹ, yếu thấy nặng (mạnh y theo phần chừng hạn, yếu nhờ sâu ngăn). Hành thì mạnh chế, yếu cho (mạnh kham nhận, yếu quyết khai cho). Trong bốn câu, câu đầu rõ cơ khác nhau, đây gọi là cơ khởi giáo lúc Phật còn ở đời, chẳng phải các Sư năm bộ chế ra. Câu kế bày giáo khác nhau, tức đối với các bộ để rõ nặng nhẹ, nặng nhẹ nói chung không ngoài việc tội, như thiên đầu phạm dâm nặng, chế chừng như đầu sợi lông, tội trộm thì đủ năm tiền, loại yết-ma chỉ định thọ pháp, chọn người tức đây là trọng còn bao nhiêu là khinh. Lại khai kết tịnh địa, xả tài vật, trả lại cho chủ, độ người tục làm việc lành, v.v… Lại cảnh, tưởng các bộ khác nhau, Luật Ngũ Phần không khai tưởng nghi, Luật Tăng-kỳ tính ác không tưởng nghi, Luật Thập Tụng trước có phương tiện trừ tưởng nghi (nay sao sử dụng), Luật Tứ Phần trừ phá tăng, dâm, rượu, không khai tưởng nghi, còn các giới khác thông khai. Ở trên đều đây khinh kia trọng, hai câu dưới chứng thành. Dị chấp tức là đều chấp chứ chẳng phải chê bai. Hỏi: Ở đây y cứ nơi đương tông để biện ý khởi, vì sao dùng năm bộ làm chứng? Đáp: Vì ở đây nêu các tông để hiển rõ luật Tứ Phần, trong năm câu, câu đầu nêu chung. Sự là môn chỉ trì, tất cả các giới như dâm, trộm, v.v… Pháp tức là môn tác trì, tất cả pháp chế, như kiết giới, thuyết giới, an cư, tự tứ, y, thuốc, thọ giới, tịnh địa và tất cả các pháp riêng chúng hay chúng pháp Yết-ma, sau giải thích riêng. Hai câu đầu nói về ý chế pháp, trên lệ các pháp chế chung một đời giáo hóa. Hành quyết có chỗ sai trái thì mắc tội, như các pháp Yết- ma đều gá duyên mà thành, quyết cần so lường bốn tiêu chuẩn, xét lựa bảy phi, cho nên nói rằng “pháp chỉ đồng”. Bốn câu sự v.v… trở xuống là nêu ý chế sự. Tình là hữu tình, tính là ba tính. tính do tình khởi cho nên nói tình tính, nhưng do tình thay đổi không thường theo duyên vô lượng, khiến Thánh chế giáo nhiều như cát bụi. Sự nương cảnh sinh cho nên nói “tùy cảnh”, có phạm, không phạm cho nên nói “được, mất”, hoặc nương sau giải thích tùy chế ở trên. Ba tính phạm giới, rộng như danh báo ở thiên tụ của quyển trung và trong giới sớ, nay y Văn Sớ lược dẫn bày. Kia nói: “Nương duyên lành để khởi giáo”, như ngồi thiền, đọc kinh, giảng đạo, khai ngộ quyết dùng chính mạng, ở trong tâm chế phục phiền não, đây gọi là pháp lành. Trông mong danh lợi, tà mạng tự ở, tướng tuy là thiện trở lại thành tham độc, hoại tâm chướng đạo, lỗi ở nơi đây, cho nên Đại Thánh (Phật) khởi giáo ngăn đó (ở đây chung cho già tính. tính như từ tâm cắt đứt mạng sống, tâm tốt dùng lẫn lộn của Tam bảo. Già như các loại xin y, nhận quá nhiều, khuyên thêm…) (tờ 1 6 8) Nói duyên bất thiện để khởi giáo, như mười điều ác, v.v… thể là bất thiện rộng khắp ba đường, tăng thêm phiền não, chướng đạo, cho nên Phật (Thánh) do lỗi mà chế giáo để ngăn ngừa (đây cuộc hạn tính ác). Nói nương vô ký để khởi giáo như cỏ, đất, v.v… thể tuy vô ký thường làm không thôi, ngoài bày chê xấu, trong thêm loạn tâm, cho nên chế ngăn, làm thì phạm đọa, còn bao nhiêu rộng như sau (ở đây chỉ cho già giới). Nói người đời chê cười tức các giới, duyên phần nhiều do thế tục chê bai mà sinh lỗi, mới chế một thường để chia, thì câu trên chung cả tính và già, câu dưới chỉ cuộc hạn giá giới. Nhưng duyên khởi tính giới cũng gồm người đời chê cười, cho nên hai câu nầy không thể riêng phán, suy nghó có thể biết (xưa phần nhiều giải lầm nên chỉ cho cong). Như năm dụ trên, dụ ba và bốn là y cứ căn cơ để hiển giáo, còn ba khác thì giáo chẳng phải không đối cơ. Lại hai thứ trước cuộc hạn ở chỉ trì, ba thứ sau chung cho chỉ tác. Trong ý chung, văn ban đầu chia làm hai: Hai câu trên kết trước, gồm sau là bày ý. Tạng Đại Tỳ-ni khởi ý rất nhiều năm dụ, gồm thâu đại yếu đều lược hết. Trông kia riêng thật chưa đủ, cho nên nói rằng “lại lược…”, ít biết nói có thể hiểu. Phương, nghệ rõ có chỗ quy về. Phương là chỗ ở, nơi chốn, nghệ là chỗ đến, gồm trước sau của một luật, cho nên nói là gồm nhiếp. Chỉ một ý để gồm nhiếp cho nên nói là “bao, nêu” là cứu vớt. Phàm dung: Nếu y cứ chỗ giáo hóa thật chung cho các đường, nếu lấy chỗ đáng độ thì riêng ở loài người, ba quy y, năm giới các đường đều thấm nhuần. Đầy đủ luật nghi chỉ có người mới lãnh thọ được, quyết ước hai ý chung riêng để giải thích. Nhưng đây chính là đại ý xuất hiện ở đời của Như lai. Lời gồm ba tạng, nghĩa hợp năm thừa. Vả lại đến sở tông cho nên là ý luật, nên nói “hoặc” là Nê-hoàn, Niết-bàn, v.v… là chuyển tiếng Ấn-độ, trong Chuyển Tiểu Viễn Sớ của Tây Âm có dịch là “Diệt”. Trí Luận nói: Niết gọi là Xuất, bàn gọi là Thú, là nói hằng ra khỏi các đường. Sớ là lý sở chứng, luận y cứ trí năng chứng, xưa ghi đến đây rộng nêu chương nghĩa, nay ý không giữ như trước đã bày, nhưng phải lược nêu để khiển tướng văn. Các luận Tiểu thừa thông rõ hai món Niết- bàn, nghĩa là người Nhị thừa kiến hoặc tư hoặc dứt kết, cực chứng chân không mà báo chất chưa quên, nên gọi là “Hữu dư y”, đến khi hóa lửa đốt thân, thân trí đều diệt, đồng với hư không nên gọi là “Vô dư y”. Nếu y cứ đại giáo thì chỉ cho tính thường trụ bất sinh diệt là Đại Niết-bàn. Văn nay phải thông, Nê có hai cách giải thích: Nếu y cứ quyền tông tức chỉ hai thứ trước, nếu lấy khai hiểu phải quy về một thứ sau, phò Luật đàm thường tức là ý kia. Văn dưới điều hòa ba độc, cầu bốn quả, v.v… đều giải thích nầy. Trong Dẫn Chứng, hai đoạn đều là trong bổn luật thêm ba, đoạn văn đầu có ba câu, hai câu trên là lời Bà-la-môn Khổng Tước Quan hỏi ngài A-nan, một câu dưới là lời ngài A-nan đáp (kia nói đủ là điều tham dục, sân nhuế, ngu si khiến cho hết). Thêm giới học là xuất hiện đời chính đạo tăng thêm pháp cap siêu, chẳng phải tạm chế mà nói tăng thêm (định tuệ cũng đồng). Thế nào là hai câu sau liền dẫn đoạn sau? Câu trên là lời Phật hỏi các Tỳ-kheo, chữ “vi” bình thinh. Câu dưới là lời các Tỳ-kheo đáp (kia nói đủ là: Thế nào là tăng giới, tăng tâm, tăng tuệ ba môn học này, chứng quả Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, v.v… trong văn buộc đó). Đã dẫn lời hai văn không khác với lý, nhưng trên y cứ sở đoạn, dưới y cứ sở chứng. Hỏi: Giới là ngăn nghiệp, chẳng phải kia nói rằng điều hòa độc, cầu mong quả ư? Đáp: Như trong giới sớ nói “suy tìm sẽ hiểu”, xưa ghi ở đây bàn rộng về đoạn chứng, rối loạn tông học, giới sớ chiều uốn như trước dẫn đủ. Lại nói rằng: Nay sở học chính là cầu bốn quả nầy, do tông nầy chính thuộc về Thinh Văn thừa, cho nên bàn đến đây liền cho là cùng tột. Xưa thường cho học đến đời nầy, đau họng không kể xiết, có thể thay đổi. Xưa thường cho học đến lời này, đau họng không kể xiết, có thể gọi là đè ép Tổ thừa, điếc đui đến học. Thiên thọ giới rõ thượng phẩm phát tâm, thiên Sa-di nói xuất gia học là gốc. Thiên tụ đã dẫn kinh Thắng-man, Luận Trí Độ đều dùng Tỳ-ni tức Ma-ha-diễn. Trong Yết-ma Sớ viên giáo nêu ra thể, tức đồng ba tụ chung quy xứ là cõi tâm đại thừa, làm sao không suy nghó đến nỗi thiếu chỗ bước chân, các văn như vậy làm sao giải thích rõ, đến nỗi khiến cho cốt tủy giáo môn một nhà đều tan, kẻ hậu hiền có ý thức rất cần phải soi xét. Kết chỉ trung thượng, ba câu chỉ sự riêng ở thiên sau, hai câu sau chỉ bày ý chung trong đây. Các môn sau tức ba mươi thiên, cho nên không nói “thiên”, vì trong mỗi thiên tùy các việc riêng đều có ý chế. Nay đây chỉ khắp khoa khác trong thiên, cho nên nói rằng “các môn”. Dưới gồm kết rằng mười điều nầy đều gồm buộc các môn, há chẳng phải chỉ các thiên sau ư? (Có thuyết nói rằng “sau chín môn” là sai. Tìm điều biết gốc: Điều tức việc trước vì là tướng riêng, gốc nghĩa là văn nay bày nghĩa chung (chín thứ khác đồng với đây, nêu văn lược bỏ)). Môn thứ hai, ban đầu là nêu, giáo khởi đại ý như trên đã nói, nhưng tội kia sự nặng nhẹ khác nhau. Dục vốn là ý so lường của Đại Thánh cho nên kế nói rõ. Trong Thánh minh, khoa ban đầu, hai câu trước nêu khó, câu trên chỉ cho tâm Phật, câu dưới là ý Tổ, lý do gì sau giải thích khó bắt. Ban đầu gạn nguồn, sau giải thích, hai câu trên y cứ theo người, suy tôn giáo thì giáo thầm khó cắt. Lại dưới thì giáo suy cơ mà cơ sai không thể cứu, nguồn cũng suy. Cùng tức cực, tính dục của chúng sinh chỉ có Phật mới cùng tột, đều tùy nghi trao đạo giáo không sai mảy may, đã nêu ra mưu Thánh cho nên phàm phu chẳng thể so lường. Nếu lấy ngẫu đối trên, câu trên đối dưới hợp nói rằng “người biết bịnh”, câu dưới đối trên hợp nói rằng “đồ nhận pháp”, pháp dụ xen nêu, lời dón gọn nghĩa bày rõ, cho nên sau đều kết. Khấu âm khẩu, cũng khứ thinh, nghĩa là đánh. Phương là nơi chốn, Như lai lập pháp lượng đồng cõi hư không. Muôn loài chúng sinh đều thấm nhuần lợi ích, cho nên lợi kia không ở một góc mà nói là “vô phương”, đã không nơi chốn thì lợi ích ấy chẳng phải suy nghó mà đến được, nên nói là “há có chỗ đồng”. Khoa kế, tuy nhiên cùng đoạt là lời chưa quyết. Đối với trước vừa mới xem cho nên nói rằng “xét lại”. Trước y cứ đương cơ cho nên khó cắt đứt, nay lấy giúp sau nên nói “tự hiển”. Xa nêu tức Luật giáo, giáo để chỉ đạo, dụ đó như vật nêu. Vượt các sách vở ở đời nên nói là xa. Duệ nghĩa là gấu áo, lấy sau rốt kia để dụ cho người học sau. Đối với văn tức bảy dụ sau đều thấy trong Luật. Ý nghĩa luận giáo hoặc không rõ văn, cần dẫn chứng cứ. Văn Luật đã rõ nên không nhờ chứng cứ. Thị hiện tướng chung cho nên nói là “đại lược”, dụ đầu trong các dụ riêng y cứ trong Nghiệp Sớ rõ năm cái thọ, xả, tiệm, đốn, trước. Kế mười giới, sau đủ gọi là tiệm, tắt thọ giới cụ túc, ba giới đều được gọi là Đốn. Bỏ giới cụ túc làm Sa di, bỏ Cụ túc, Sa-di làm Ưu-bà-tắc gọi là Tiệm. Mãi làm người tại gia gọi là Đốn. (đây xưa ghi giải, chưa thấy ý chế giáo nặng nhẹ) Nay y cứ vào thiên trì phạm, không học không biết đốn tiệm nên giải thích. Giới Sớ chép: “Hạnh trái vốn nhận xa lìa mà không học nên gọi là “chỉ phạm”, không học đủ đốn tiệm, khởi tâm có thông và cuộc hạn. Không biết chỉ cuộc hạn tiệm, duyên cảnh không rõ phạm không học tội, trong tiệm tùy cảnh kết cho nên là nhẹ. Đốn thì tất cả phạm cho nên là nặng (không học là nêu ra thọ giới nói tướng, chẳng biết nêu ra là không nhiếp giới kia). Khoa kết chính nghiệp: Tức tội của thiên tụ đều từ chủng loại và y cứ nghiệp lý nặng nhẹ bảy chi để chia trên dưới. Như thiên tụ nói rằng: “Khoa chính kết tội, chính là chỉ cây sáu pháp”. Báo quả khác nhau: Ở đây rõ loài người quả báo có khác nhau, nghĩa là các loại nam, nữ, huỳnh môn, hai hình, v.v… Bốn pháp Ba-la- di đều là trọng, thoa chà xúc chạm, nói lời thô và môi giới thì có khinh, như luật giải rộng đủ nêu tướng kia, có thể tìm thấy ở chú giới (xưa y cứ Tăng ni riêng chế để giải thích, hoặc dẫn bốn câu mẫu luận phạm báo v.v…, giải thích ý nghĩa giống như Sớ). Nhiếp đường (thú) hơn kém: Luật nói thú có ba loại: Người, chẳng phải người và súc sinh. Chẳng phải người thông gồm bốn đường trời, tu-la, quỷ và địa ngục. (tờ 1 6 9) Lại trong chẳng phải người và súc đều có nam, nữ, huỳnh môn và như giới bổn đã nêu “người là hơn, súc là kém”. Chẳng phải người có cả hơn lẫn kém. Lại y cứ bốn món trọng để chỉ bày tướng kia: Con người và bốn giới đều là trọng. Phi nhân dâm là nặng, còn lại là Thâu-lan-giá. Súc sinh dâm là nặng, trộm là đột-cát-la. Giết mà có trí là Thâu-lan-giá, vô trí là Ba- dật-đề (các thiên khác tự tìm xem). Khởi tình thật dối: Ở đây có nhiều cách giải thích: Như giới chê bai, nói dối, v.v… tình dối cho nên nặng, tình thật nên đều khai (các giới không phạm, trong văn đều nêu “thật vậy, vô tâm v.v…). Lại các giới cảnh tưởng, câu đầu tình dối cho nên nặng, tưởng nghi tình thật đều là nhẹ (trừ hai giới dâm dục và uống rượu). Lại trong các giới, hoặc nêu “biết, mà cố” tức là nói lên tình dối (như cố ý cắt đứt mạng sống súc sinh, biết nước có côn trùng) chẳng phải cố, không biết, tức là tình thật. Tức như Bổn luật khi phạm quyết hỏi “tâm hay vô tâm không phạm”, chế giới nặng nhẹ tìm đó sẽ thấy. Khai chế xen lập: Tất cả các giới hoặc chỉ hoặc tác có chế mà đầu tiên không khai, có khai mà không hề không chế. Hai giáo đối đãi nhau, nghĩa không lập riêng như giới dâm, cho đến súc sinh, vào chừng đầu sợi lông liền phạm, vẫn khai oán bức đây tức trong chế mà khai. Tuy chấp nhận cảnh hợp ba thời không ưa là trong khai mà chế. Lại như vốn chế ba y, kế khai trăm lẻ một, lại chế gia trì sau khai chứa dư, vẫn chế thuyết tịnh, thời, duyên không nhàn rỗi. Lại khai mười ngày không nói thì phạm, lại như bổn chế duyên an cư khai thọ nhật, lại chế cần trong hạn cuộc thể qua lại, lại khai nạn duyên không trở lại, v. v… nhưng chế tức là nặng khai thành nhẹ, cầu như loại nầy mới thể hội được ý giáo. Trung huyên tức xóm làng, hai căn trung hạ. Tịnh tức lan-nhã, thượng hạnh đầu-đà. Bốn y giáo trọng, bốn khai giáo khinh (ở đây rõ Như lai chế giáo nặng nhẹ. Lại nói rằng: “Ở văn tự rõ, cần thì đến bổn luật rõ mà tìm”. Cho nên nay sự giải thích rất khác xưa). Trong kết chỉ bày, câu trên thuộc Phật, câu dưới thuộc về người sao. Cứ nơi bổn chế lại đến sự xử đoán thì nặng nhẹ hợp giáo, trong muôn không có một lỗi, chọn lựa bảy lớp: Ban đầu thọ tùy chọn một là trái với thọ thể, còn sáu thứ khác chế ở tùy hạnh. Hai là trong hạnh lựa chọn chỉ tác. Ba, bốn, năm là chỉ, sáu chung cho chỉ tác, bảy là tác. Ba là y cứ vào trong chỉ lựa chọn năng sở. Thứ hai là tội sở phạm. Ba, bốn là cảnh sở đối. Năm là tâm năng phạm, như vậy biết đó. Thứ hai, trong nêu nói đối với sự: một, y cứ chế tội. Hai là y cứ vào hành pháp. Ba, gọi là mất vật (thiên Nhị Y chép: tùy bổn thọ thể, luật nào thọ giới, tức dùng luật nầy mà định ra nặng nhẹ). Nên cần hỏi rằng: giáo môn nặng nhẹ, Thánh ý có thể biết, nhưng lật lại bốn luật xen có sai trái, nặng nhẹ không nhất định, người học đời nay y vào đâu làm tiêu chuẩn? Môn nầy đã lập ý kia ở đây. Trong Tự Cổ khoa đầu sau Phật diệt độ ngàn năm, đến sau thời Hán Minh Đế ngài Ma-đằng, Trúc-pháp-lan mới đến, người tuy xuất gia mà chưa có quy giới. Qua đến đời Tào, Ngụy gần hai trăm năm, Đàm-ma-kha-la (hoặc viết Ca-la, Hán dịch là Pháp Thời) y Tứ Phần Yết-ma đầu tiên lập mười giới sư cho thọ giới, đưa ra Tăng-kỳ, Giới bổn dạy chúng tụng tập (thứ nhất là sai). Đến đời Diêu Tần, luật Thập Tụng, quảng luật mới được phiên dịch, người liền nương đó dùng (đây là hai cái sai). Kế ba bộ luật Tứ Phần, Tăng-kỳ, Ngũ Phần văn rộng đều truyền đến đây. Người cho rằng Luật Tăng- kỳ cùng giới bổn trước văn lý hợp nhau, bèn bỏ Luật Thập Tụng phần nhiều giảng Tăng-kỳ (đây là sai thứ ba), chỉ có Tứ Phần, Ngũ Phần chưa hề rộng thông. Đến đầu đời Ngụy, Luật sư Pháp Thông mới ngộ các điều sai ở trước liền bỏ giảng Luật Tăng-kỳ, ban đầu truyền Tứ Phần nhưng do tình người chấp cũ, phần nhiều chưa phục tùng. Đến đời Tùy, Luật Sư Trí Thủ làm sao phân chia năm bộ, thường thường chưa thể tận lý, vẫn còn phân vân, cho nên nay trong sao đặc biệt phải nêu bày. Niên tịch đã lâu, tranh chấp vẫn nhiều không thể bày đủ nên chỉ bày chung rằng “các thầy”. Đông lưu là nêu chỗ đến, hoặc nói “Tây lai” là nói chỗ từ đó đến. Chữ kỷ, bình thinh là gần. Từ đời Hán đến đời Đường là nói thời soạn Sao, có đến năm trăm năm mươi chín năm cho nên nói là gần (nếu lấy Tào Ngụy được giới rồi đến gần bốn trăm năm). Xuyên tạc: Người học không có thầy dạy, buông ý công cầu không theo chính lý, cho nên dùng để thí dụ. (Mạnh Tử nói: “Chỗ ác với người trí là tạc” chú rằng: người ác dùng trí mà vọng xuyên tạc). Suy tìm lý do thì câu trên là mê giáo, câu dưới bày hạnh mê. Tông chỉ nghĩa là giả thật khác nhau. Bổn thú tức sắc và phi sắc khác nhau. Trong khuyến học, câu đầu khuyên nhập học, học thầy là lãnh học nơi thầy. Câu kế là khuyên nương chính giáo. Chữ “hà” trở xuống là nạn lỗi. Hai câu lời khác nghĩa đồng, nhưng trên y cứ vào phá, dưới lấy khinh chê. Luận dụ như đọa, Xuy tức là cười. Trong chính Quán, ban đầu hai câu trên tức tiểu bản kia, chữ “thể” trở xuống là biết tông chỉ kia. Nghiệp Sớ chép: “Như giới một khi thọ nguyện hành thì phải đồng, đâu có thọ nương nhớ nơi tông, tùy hạnh thật giáo”. Ngài Thần Châu một phen gồm y cứ thọ và tụng văn Tứ Phần, đến luận Tùy Hạnh đều nương Hữu Bộ mà hành học, chẳng phải chỉ có thể tướng đều trái mà cũng chính cả hưỡn, gấp tùy tình v.v… (Có thuyết đem thể đã đồng với lời, làm chung lời thấy là sai), càng bay trong y cứ chỗ rõ ở trên đối với lý đã hiển bày, cho nên lại chỉ bày: 1, Sợ nghi nói rằng: Đều là Thánh giáo dầu khiến xen phán nào có lỗi gì? 2, Lại sợ nói rằng: Tứ Phần thì có thể được, còn các tông khác không phải như vậy, cho nên lại giải thích. Văn đầu, hai câu trên nêu, nghĩa là sau giải thích. Như đã học luật Tứ Phần, liền nương Tứ Phần mà phán, người thọ giới của luật Thập Tụng kia và bao nhiêu xen nhau cũng vậy. Đồng thì không nói, trái thì có lỗi, cho nên nói là “thoát duy”, thoát là chợt, duy là mắc. Khiên tức là tội. Câu trên rõ lỗi phán đoán, câu dưới chỉ bày tội trái phạm, ngu si tức là không biết. Khoa kế, hai câu trên chính chỉ bày phân xử của các tông và đồng dụ này, cho nên nói rằng “thông lập, v.v…” là cách thức, giảo âm là giác. Hai câu sau là kết cáo. Điều lãnh tức nay đã lập vừa thấy môn đây nghi trệ liền rơi mất như băng tan, cho nên nói là “thích nhiên” (rõ ràng). Đại quán nghĩa là đã thấy thông xa. Môn thứ tư, trên rõ xem xét chuyên dùng Mật tông, nhưng hoặc bị sự không khắp, cần thông bộ khác cho nên ở đây nói, muốn hiểu đại ý văn tướng môn nầy cần dùng ba câu hỏi trước để kích thích đó. Hỏi: Thọ thể đã theo Tứ Phần, chỉ hợp y bổn tông, do đâu nay sao lại dẫn đủ các bộ, y cứ thể rõ tùy nghĩa an lập kia? Hỏi: Ba tạng đã tuyên sự lý khác nhau, đã tông Luật tạng, vì sao sau lại dẫn các kinh như A-hàm, v.v… và các tiểu luận, há chẳng phải hóa chế không chia ư? Hỏi: Luật là Tiểu thừa, giáo hạn cần riêng đâu được liền dùng Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Địa Trì, Trí Luận, đâu chẳng phải đại tiểu đầy dẫy ư? Nếu không rõ tông học đều nghi, cho nên ở đây quyết, tìm văn có thể thấy? Hỏi: Nay Sao dùng chung ba tạng vì sao chỉ nêu các bộ? Đáp: Các luật thể tướng đã khác, phải rõ dẫn dụng phần chứng, cho nên môn nầy chính nói về các luật. Đến sau sáu thầy mới thông kinh luận (có thuyết nói: Các bộ thông thâu kinh luận là sai). Trong Tự Phần tông, văn đầu nói là bao gồm các bộ. Sau khi Như lai diệt độ ngài Ca-diếp kiết tập luật Bát Thập Tụng. Năm vị Sư nối nhau truyền thừa một trăm năm và không chia nhánh phái, sau do sự tranh chấp nên chia thành năm tông phái, đã nêu ra ở một nguồn nhánh quyết quay về với một gốc, cho nên nói rằng “thật một văn”, nhưng sau chỉ bày lý do phân chia. Câu trên rõ Như lai phó cơ lập giáo khác nhau (có chỗ cho rằng cơ ngộ thuộc về năm Sư là sai). Câu dưới nói các Sư đều chấp khác nhau, Nhạc là dụ chấp kia vững chắc như núi. Tựa Chú giới chép“Mây bây hai bộ năm bộ sai, núi lớn mười tám, năm trăm khác nhau (có người cho là năm ngọn núi đối với năm bộ là sai, huống chi nói các chấp không chỉ có năm bộ, xin dùng Chú giới đối chất). Khoa kế, hai câu trên là tông Tự Phần. nghĩa Sao nói “thọ pháp đã ít không thể đều dung cho nên chia năm bộ”, nhưng đã được Phật huyền ký, bởi thời cơ đúng nghi, tranh chấp tuy khác nhau mà đều chứng đạo. Tức kinh Đại Tập chép: “Năm bộ tuy khác mà không ngại Niết-bàn pháp giới Chư Phật”. Hai câu dưới nói về các tập. Cạnh nghĩa là ganh đua. Nói đại chúng là ngoại bộ đầy tràn. Cao Tăng Truyện nói rằng: “Thượng tọa và Đại Chúng mới chia chỗ kiết tập”, kia nói Đại chúng chính là ngoài hang. Đây nói Đại chúng nhất định là trong hang, tức Ma-ha Tăng-kỳ ngày nay, Hán dịch là Đại Chúng, do năm trăm vị cũng là Đại chúng (Trí Luận thì nói là ngàn vị), đây thì tên Đại chúng chung cho hai bộ. Thượng Tọa chỉ cuộc hạn trong hang, người học phải hiểu rõ. Một nhà lại y cứ nơi năm bộ, đều tự nói, trong ba món, loại ban đầu nặng nhẹ khác nhau. Một, y cứ tội giải thích, thiên đầu của bổn tông là phạm tội (nặng), các bộ khác chỉ là Đột-cát-la. Bổn tông phạm tội, phương tiện diệt theo, các luật khác thì vẫn còn. Luật Tứ Phần nói, nữ xúc chạm Tỳ-kheo thì mắc tội Thâu-lan-giá, Thập Tụng kết tội Tăng tàn. Luật Thập Tụng nói thân căn xúc chạm mắc tội Thâu-lan-giá, luật Tứ Phần thì nắm tóc cũng mắc tội Tăng tàn (lại lược sót văn, còn lại tìm giải thích tướng). Hai, y cứ vật của người chết mà giải thích, sau nói: Nhưng vật người chết nầy các bộ chưa đồng nhau, tích tượng, đồ tắm, lọ kim, chùy, v.v… bốn vật quy về, các luật khác đều nhẹ (như trong ba y). Ba, y cứ luật Tứ Phần, thọ giới duyên đủ mới thành cho nên nặng, các tông khác duyên thiếu đều khai (như không có Hòa-thượng, không có y bát, v.v…). Bổn tông muốn chuyển dục làm nhẹ, các tông khác không khai cho nên là nặng. Bổn tông sám hối tội Tăng tàn hơi trái cách thức, hối tội không nêu ra cho nên trọng. Luật Thập Tụng không thực hành sáu đêm ở riêng, thăng được xuất tội nên thuộc về tội nhẹ. Hai, là trì phạm chia đường, tức như trên dẫn cảnh tưởng khác nhau. Lại luật Tứ Phần, giới dâm y cứ chừng đầu sợi lông, luật Thập Tụng phạm qua da, qua răng. Luật Tứ Phần hễ trộm năm tiền thì thành phạm, Thập Tụng lấy tiền khỏi chỗ cũ mới kết tội. Luật Tăng-kỳ suốt đêm giữ y, luật Tứ phần hạn cuộc ở minh tướng. Ba, có không thay nhau nêu ra. Đệ cũng xen nhau, tức như trên dẫn các học có không và trộm chẳng phải vật chủ. Luật Tứ Phần không có văn, đều y cứ theo luật Thập Tụng. Tứ Phần hai y báu là tơ tằm và gấm đều không có pháp sám hối, Luật Thập Tụng nêu ra, lại Tứ Phần y giới có thế phần chung, các bộ khác đều không có. Bốn, xen hiển phế và hưng. Tứ Phần tiếng ca thuyết giới dùng phế (bỏ), Ngũ Phần nói thẳng lấy hùng (khởi). Luật Tứ Phần khai kết tịnh địa dụng phế, luật Thập Tụng chế đoạn hưng khởi. Lại như luật Tăng- kỳ Diệp Sự nói dục dụng phế, luật Tứ Phần không diệp lấy hưng. Kế rõ lấy dụng, khoa đầu trong nêu bày. Lập luật Tứ Phần làm bổn là thuận gốc nhận thể, lìa trước xen phán lỗi. Cần dùng các bộ là hành sự có y cứ, lìa sau chấp cạnh lỗi. Dẫn trong luận muốn rõ thủ xả là có chỗ y cứ, cho nên ở đây luận năm trăm vị La-hán làm và giải thích Luật Tứ Phần. Ban đầu giải thích duyên khởi giới dâm rồi đem vào Giới Bổn, liền biến thành luận tông, trong kia một vị La-hán nói “Trong giới cú (tức sau tùy bổn), trong giới bổn (tức sau bổn) ở trong lời hỏi (tức lời Pháp sư) nếu người muốn biết, có bốn tỳ-ni”. Các Đại đức… như Sao đã dẫn, nhưng các La-hán đều đủ thần thông không đâu chẳng hơn kém, cho nên soạn, riêng có thể. Sao ra truyền nơi bối diệp. Trên là lời cáo chúng, một bổn sau nêu ra tướng bốn bốn pháp: Một là trong bổn nói “Tất cả luật tạng tức chỉ cho các giới của đương bộ chẳng phải gọi chung các luật. Hai là tùy bổn sau lược giải thích văn kia, Luận chép: “Bốn đại xứ gọi là tùy bổn” (luận văn khó hiểu, các nhà giải thích khác nhau. Lại y chép xưa y cứ hai duyên chung riêng mà chú thích). Phật bảo các Tỳ-kheo: “Ta nói bất tịnh (tính ác, giá ác đều là bất thiện, cho nên không thanh tịnh) mà không chế (tâm loạn cuồng si đều không khai), nhưng đây tùy vào bất tịnh (một tâm niệm nhớ, Tỳ-kheo nầy liền phạm) đối tịnh không vào gọi là bất tịnh (bất thuận khai giáo nên tịnh không vào, đã là phạm tội nên gọi là bất tịnh). Thứ hai, Phật bảo các Tỳ-kheo “Ta nói bất tịnh (như trên) mà không chế (như trên) nhưng đây tùy nhập tịnh gọi là tịnh (tâm không nhớ biết thuận khai vào tịnh, do không thành phạm nên được gọi là Tịnh). Thứ ba, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Ta nói cho tịnh (như dâm bị giặc ép ngặt nghiệm khai tám việc) nhưng ở đây tùy nhập bất tịnh (ba thời có lúc vui đâu không dừng, cả hai đều quy về phạm) ở tịnh không vào đối bọn ông là bất tịnh (nương vào khai giáo nên tịnh không vào, đều kết chính phạm nên nói bất tịnh). Thứ tư, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Ta nói cho tịnh (như trên) nhưng ở đây tùy vào tịnh, đối bọn ông tịnh (thuận với khai giáo và không phạm) tất cả các giới và đủ hai duyên chung riêng. Chung như trì phạm, riêng ở tùy tướng. Nay bốn câu nầy, trước hai duyên chung, sau hai duyên riêng. Lại trong hai câu trước sau và câu đầu là phạm câu sau không phạm, mỗi giới sau đều có hai duyên nên gọi là tùy bổn. Chỗ đại yếu của tất cả giới gọi là chỗ bốn đại. Lời ba Pháp sư, trước nói bổn tức hai bổn trên, phân biệt rộng tức văn trong luận giải thích, mỗi chỗ đều nói rằng “Pháp Sư là đúng” tức một câu Luận chủ, Tổ sư giúp hiển rõ chẳng phải văn bổn luận. Bốn ý dùng luận làm tự ý, kia nói rằng “Thế nào gọi là tự ý?”. Đáp: Đặt bổn, đặt tùy bổn, đặt lời Pháp Sư (như phê bình một giới thì hợp ba pháp lại, ba pháp đặt để đây đợi thêm ý rộng và đối ba tạng mới có thể lấy bỏ) dùng ý so lường (so lường có thể được chăng?) dùng phương tiện so lường (rõ lý thú kia) và ba tạng là trên rõ ý, dưới để giúp giáo. Kia nói rằng: “Dùng Tu-đa-la để nói rộng, dùng A-tỳ-đàm để nói rộng, dùng Tỳ-ni để nói rộng, dùng lời Pháp Sư, văn lược câu sau nên nói là “Đẳng” (nghĩa là lời Pháp Sư trong ba tạng). Trước quán, sau chính bày ý dụng pháp thứ lớp. Căn bổn tức bổn cú, nghĩa tức tùy bổn. Văn y cứ đồng, không đồng, nghĩa là dùng ba pháp trên khảo sát ba tạng. Đẳng tức là đồng Trong chú chỉ rộng, nay chỉ lược dẫn. Kia nói rằng: Luật Sư có ba pháp rồi mới thành tựu. Đối với bổn đọc tụng thông, làu. Câu nghĩa rõ ràng, văn chữ không quên. Đối với luật giữ vững không lẫn lộn. Theo thầy thứ lớp thọ trì không để quên mất (đối với văn khó hiểu cho nên rõ dần, rộng như kia). chính dưới một câu kết bày. Lấy ý trong văn ban đầu, hành tàng là y cứ vào sự phế lập của hành sự. Lấy bỏ nghĩa là khảo xét phải trái văn xưa. Văn thật khó chẳng dễ xen nhau, đại thuyên cũng tức là ý chung (trước nói rằng xa thuyên bổn thuyên đều đồng). Trình là bày, sau lệ khoa lấy bỏ đều có y cứ, cho nên nói rằng: “Không lầm”. Trong phần nêu dụ, ban đầu rõ bổn viên không thủ, chỉ bày có sự tôn sùng. Như thiên nặng nhẹ, nhóm chúng, pháp yết-ma, thọ sám, trị diệt tẫn, kết giới, thuyết giới, an cư, tự tứ, v.v… dùng người, dùng pháp phần nhiều nêu bổn tông. Lại sau nêu rằng: “Bộ riêng khác nhau, không lấy bộ ngoài” đều là ý nầy, còn hai món sau nêu bày ở bốn dụ. Ban đầu không rõ có hai: một, là không rõ ràng. Như mười lăm món lược thuyết giới và giống với phương Đông có núi xứng núi. Hai, là không rõ đủ, như bốn người pháp không trừ sám xả đoạ, v.v… Văn sau mỗi mỗi nêu riêng. Dùng hai ý nầy tìm có thể thấy. Hai là bỏ trước, như tiếng ca nói giới. Sao chép: Đây là Ngũ Phần phế giáo (ngoại đạo như thế, cá thịt là món ăn chính, tuy đồng phế giáo, đến sau sáu thầy mới có thể nói. Trong đây lại y cứ các luật, xưa ghi một hỗn học cần phải biết). Ba: Có nghĩa mà không văn: Như người điên cuồng trước bỏ giới không thành, là có nghĩa không đủ, cho nên dẫn Thập Tụng, v.v… để làm chứng. (như định do-tuần. Y cứ theo luật ngày mười bốn thuyết giới thì ngày mười ba phải đến trước. Y cứ mạnh trăm dặm nên dùng hạ phẩm Trí Luận làm định. Lại mười ba có nạn bất luận hoại Tỳ-kheo. Y cứ Ni hỏi ngược lại dẫn văn Thiện Sinh. Đây đều thuộc sau trong sáu thầy). Bốn: Không văn có sự, như nói rằng “Ba y nên thọ trì và phi thời qua đêm không thọ đều nói ba loại thuốc gia pháp mà không có văn thọ?” Hoặc nói “Kiết giới, nhóm tăng không có các văn tự nhiên sáu tướng”. Như sau kết chỉ bày. Trong quan hệ thủ dụng pháp tướng văn ban đầu chia làm hai: Một là chính rõ lấy bỏ, hưỡn gấp, nặng nhẹ bốn nghi khác nhau. Ban đầu, như văn thọ y, Luật Tăng-kỳ nói suốt đêm, luận Tát-bà-đa nói luận không y bát, đắc giới, v.v… đều là hưỡn riêng. Thứ hai, như luật Tăng-kỳ chuyển dục liền mất, xả tài vật vào tăng bỏ hẳn, v.v… gọi là gấp riêng. Thứ ba, như trước đã dẫn cảnh tưởng không đồng tức trọng riêng. Thứ tư, là thiên ban đầu không phạm trọng, v.v… gọi là khinh riêng. Đây chẳng phải một câu thông thâu bốn câu trên, xen trông vì nói. Lại dẫn sự giải thích là trong đủ số, sư xưa do phá giới, Hòa-thượng ngoài mười vị. Nay bác bỏ rằng: “Không được dùng ngay bộ khác”. Lại trong “thọ nhật” chép: “Không được bỉnh bạch yết-ma như luật Tứ Phần lại dùng sự của Tăng-kỳ mà xong. Còn bao nhiêu tìm ở các bộ thiên, y cứ luận không lấy tức đồng ý dùng. Cho nên hai dẫn chứng sau nói bốn thuyết là trong Bổn luật Tăng Tứ chép “Phật bảo các Tỳ-kheo rằng: “Có bốn món nói rộng là: Nếu Tỳ-kheo nói lời rằng “Trưởng lão! Ta ở thôn ấy, thành ấy đích thân nghe Phật nói thọ trì không quên, đây là pháp, đây là Tỳ-ni, là lời Phật dạy”. Nếu nghe kia nói vậy không nên chê bai nghi ngờ cũng không nên quở trách, nên xét định văn cú rồi ng- hiên cứu rốt ráo pháp luật, nếu trái nhau nên nói với kia rằng “Lời ông nói chẳng phải lời Phật nói, hoặc Trưởng lão không xét lời Phật, không nên lại tụng và cũng chớ dạy người khác, nay nên bỏ”. Nếu tương ưng với pháp nên nói với kia rằng: “Đúng là lời Phật nói, nên khéo tu tập tụng trì và dạy các Tỳ-kheo khác, v.v… (đây là một thuyết rộng). Thứ hai, là từ trong tăng ở trước Thượng tọa mà nghe. Thứ ba, nghe từ rất nhiều tỳ-kheo biết pháp. Thứ tư, là nghe từ một Tỳ-kheo biết pháp (và như trên đã nghiệm chứng so sinh, văn đồng không nên dẫn). Thập Tụng thầm ấn tức là bốn thuyết của Tứ Phần, cho nên nói là đồng nhưng tên khác. Tứ Phần y cứ vào người năng thuyết, luật Thập Tụng y cứ vào giáo năng chứng. Kia nói rằng: “Nếu nói ta nghe từ miệng Phật cho đến nghe từ một Tỳ-kheo” thì chưa nên khen chê, nên hướng về ba tạng Thánh giáo mà ấn định. Dẫn hai văn nầy do đời trước các thầy tùy tình trích dẫn. Nay y cứ bộ loại khám nghiệm có thể được hay chăng liền đồng ý dùng. Nếu giải thích như vầy mới thấy đã dẫn bốn thuyết thầm ấn rất phù hợp ý luận. Khoa kế, câu đầu tiếp trước, hai câu kế rõ hợp giáo. Tâm tức tâm hạnh, cảnh tức việc trước mắt. Tâm không mê giáo, sự chẳng tối tăm, cho nên nói là “chiếu nhau”. Quy du nghĩa là phép tắc, tức bốn pháp, bốn thuyết, bốn ấm. Hai câu sau nói về hợp lý, tương quan mới dẫn đã không phiền phải bàn ngang. Điều riêng không chấp vẫn không lược thiếu sự. Văn trước đã nói là đồ, độ, thủ, trung, đến đây mới bày cho nên chẳng phải tối tăm ẩn mất. Hối là tối, một là ẩn, trong ba câu, thì hai câu đầu nêu chấp riêng, kia liền đồng chấp ban đầu của văn dưới. Ngung tức là góc, hợp sau chỉ bày lỗi kia. Câu trên là hành sự thiếu, câu dưới nghĩa là thiếu xem xét. Bèn sau rõ mặc tình tranh cử, như tay cầm y thuốc, thay sau nêu lý do tranh cãi. Làm theo việc khác là như khoa trên đã dẫn gọi là trái nhau, chính là việc kia đây thông nhau, quyết như phần chừng rõ ràng của bổn luật, chỉ có thể toàn lấy bộ kia, nên nói rằng “Lại dùng”, v.v… như trong tăng có duyên tự nói dục, hành việc Tăng-kỳ (Tứ Phần chỉ có thọ chuyển thuyết văn, tức là có hạn). Kết chung tịnh địa hành sự Ngũ Phần (Tứ Phần chỉ có kết riêng, y không đúng lượng, nói tịnh hạnh, phần nhiều việc của tông (Tứ Phần chỉ rõ ứng lượng). Trong mười ba nạn, huỳnh môn thiến được thọ, Sao nói rằng: Quyết cần đối chiếu lấy y các bộ là thọ (Tứ Phần tự cắt diệt tẫn) ăn riêng chúng, khai duyên sau hai món (Tứ Phần có bảy, thêm nhiều luận tăng, kế thời y của Ngũ Phần, y giới tự nhiên sau bốn món (bổn tông mười một châu và nước, đường đi đều nêu ra ở bộ khác. Lược nêu một hai cái khác tìm trong Sao (xưa ghi là không được hoàn toàn nương theo để giải thích, xin dùng các việc trên mà đối chất). Hai lời tựa trong luật Tứ Phần nói dương chi không thọ, luật Tăng- kỳ nói uống nước thì phải thọ. Lại như thầy giáo thọ ngoài đàn thọ y (Ngũ Phần) hoặc ở trong các giới sư mà thọ (Tăng-kỳ), luận Tát-ba-đa phải thỉnh tịnh chủ, luật Ngũ Phần chỉ bảo nêu tên, luật Tăng-kỳ thì cho tịnh chủ ở trong ba do-tuần, nhiều luận hoặc chết hoặc đến nước khác lại phải tìm riêng (sau đều nói rằng tùy ý dùng) Lại, Luật Thiện Kiến nói ba y đắp phá hư cách, nhiều luận duyên đoạn, còn bao nhiêu tự tìm hiểu. Trong xem xét truyền nghe, hoặc chương sớ nêu, hoặc truyền miệng cho nhau, đều có sai lầm không đáng nương tựa, cho nên đều phải đích thân xem xét khiến người sau không nghi ngờ. Kế là các kiến chấp khác nhau của sáu vị giáo chủ ngoại đạo, ban đầu nêu câu. Hỏi: vì sao sa-môn nầy nói về sáu vị giáo chủ ngoại đạo? Đáp: Ở đây có nhiều ý, một, là dẫn ba tạng và có y cứ. Hai, là hiển bày các chấp thông cuộc chưa dung. Ba, là chỉ bày ý nay gồm thông sáu chấp. Bốn, là rõ Sao đây chỗ tông có quy thú. Hỏi: Lý do gì chỉ nêu sáu? Đáp: Đời trước đến nay xướng rộng tuy nhiều, chỉ dùng kia kiến lập, không ngoài sáu chấp, cho nên nêu sáu món, nhiếp cùng tất cả, thầy trò truyền nhau đến đời Đường không dứt, cho nên nói là “thế trung”. Trong phần chỉ bày riêng, hỏi: Thứ hai và thứ ba khác nhau thế nào? Đáp: Thứ hai, là thầy chỉ chấp thiếu văn, thẳng lấy bộ ngoài, thứ ba thì không như vậy, trước cầu nghĩa bổn bộ, sau dẫn văn khác. Ý hiển bày sự nêu ra tông mình không trái với bổn thú, nay sao lấy ý cũng đồng. Hỏi: Thư tư, ý Sư có gì khác chăng? Đáp: Trước tuy lấy khác không dám bỏ bổn, ở đây thầy không bè đảng lấy lý làm đầu. Năm tạng: A-hàm bốn tạng thêm Tạp Tạng là năm (Trung, Trường, Tăng, Tạp là bốn bộ A-hàm, Tạp Tạng như kinh Phân Biệt Công Đức nói “đệ tử phi nhân và các vị trời nói”, hoặc nói nhân duyên đời trước ba vô số kiếp Bồ-tát đã sinh, văn nghĩa chẳng phải một nên gọi là Tạp Tạng. A-hàm, Hán dịch là Pháp Quy, nghĩa là chỗ quy về của các pháp). Ngũ tân là thức ăn mặn (huân là hơi hôi: một là hành, hai là kiệu, ba là hẹ, bốn là tỏi, năm là hưng cừ). Trừ thầy ban đầu ra, sau năm người chú thích đều thấy ở các thiên. Thứ hai, văn Sư thấy nghe ở hai thiên y và thuốc. Thứ ba, thấy đủ số. Thứ tư, thấy thuyết giới, bốn món thuốc. Thứ năm, thấy Sa-di. Thứ sáu, rượu, thịt, năm thứ rau cay nồng thấy ở bốn món thuốc. Tám món bất tịnh thấy ở giải thích tướng và như ở sau trích dẫn. Trong phần kết chung, câu trên nhắc chung, hai câu kế là buông, hai câu sau là đoạt, nghĩa là đối với giáo đều là chính nhân mỗi người có khác. Nói thông cuộc là ban đầu y cứ lớn nhỏ, năm câu trước cuộc hạn nhỏ, câu thứ sáu chung cả lớn nhỏ. Hai, là y cứ ba tạng, bốn câu trước cuộc hạn vào luật, hai câu sau chung cả kinh luận. Ba, bốn câu trước là phân biệt bổn và dị, câu một cuộc hạn bổn tông, ba câu sau chung cho bộ khác. Bốn, ba câu sau phân biệt lấy bỏ. Câu hai, câu ba lấy bộ khác làm thành bổn bộ cho nên cuộc. Câu thứ tư bỏ bổn bộ theo bộ khác cho nên chung. Năm, câu hai câu ba là phân biệt dung thông hay cách ngại. Câu kế thiếu văn, thẳng lấy thì bộ loại cách nhau cho nên cuộc. Câu thứ ba có nghĩa mới tìm thì kia đây dung nhau cho nên chung. Nếu y cứ tướng gồm rõ thông cuộc thì ban đầu không gồm sau cho nên cuộc, sau được gồm trước cho nên thông, chặng giữa hai đầu trông nhau thì gồm thông cuộc. Rõ ngay trong câu thứ ba ở luật là phải biết tông chỉ. Câu thứ sáu là ở ba tạng phải biết chỗ quy thú. Trên rõ chính tông hai thầy, còn bao nhiêu sau chỉ bày tham cứu bốn cái khác, như kết tịnh địa là lấy theo Sư thứ nhất. Nghiệp Sớ chép: “Như trong lời tựa của sao là tiểu trì Luật?” Trì y, thêm thuốc, thẳng nói thuyết giới, bỏ thử ngoại đạo, đồng thời dùng đó, nhưng ở việc khác có việc chẳng lấy, cho nên nói là “Tham”. Được mất là khảo xét kia có thể được hay không? Tuy cơ là chọn thời thiết yếu, biết thời tức Tổ Sư tự cùng. Mỗi mỗi lấy bỏ đều hợp nghi cho nên hỏi: Thứ sáu đã là sở tông, vì sao Sao nầy không bỏ tịnh địa? Nếu hợp quy tham thủ, há là chính tồn ư? Phải suy nghó đó. Thứ năm, trong nêu văn nghĩa quyết thông là nói chung năng sở. Sở thì có ba: Một, là văn nghĩa đều thiếu. Hai, là văn đủ nghĩa thiếu. Ba, là nghĩa đủ văn thiếu. Năng thì có hai: một văn, hai là nghĩa. nghĩa lại chia làm ba: gồm lý và lệ, khai riêng thành bốn: Bỏ riêng theo chung chỉ nói là văn nghĩa, nhưng một môn nầy từ năng làm tên gọi, do ba cái trước thiếu, người học nghi đầy, cho nên dùng hai sớ nầy giải quyết cho thông. Từ trong lập giáo, câu đầu chỉ bày lý thể. Nói lý có hai: Tiểu thừa có bộ chỉ nói sinh không, Tứ Phần nhờ tông thì gồm pháp không, đều gọi là quyền lý. Đại giáo thì chỉ thường trụ chân tính gọi là thật lý, ngay phần quá hạn hai ý thông đó. Nhưng hai lý nầy thể chỉ là chân tịch, danh tự chớ tuyên, lời nói không thể theo kịp nên nói là bặt danh. Câu kế là rõ lập giáo, tên tức là giáo nêu bày, đẹp nơi lý thể nên nói là tông cực. Tông thì muôn hóa đồng quy về, cực nghĩa là nguồn gốc các pháp. Thông luận tên giáo đều bày chân lý. Tựa yết-ma nói rằng: “Đại giáo lấy kỳ chỉ quy là hiển rõ một lý cho nên cao hơn kinh điển luận Phạm, khác xa sách của nhà Nho, người trời riêng tôn sùng là do lý nầy. Trên rõ ý để lập giáo. Dưới rõ giáo hưng khởi quyết từ sự. Sự là thế đế, tùy đời giả danh lập giáo tuyên lý, nên hay nói “Như lai nói pháp thường nương vào hai đế”. Lời văn nầy bao gồm chung một đời giáo hóa, cho nên văn sau chỉ riêng Luật tạng. Hỏi: Văn luật bày sự lẽ ra chẳng thể hiển lý. Kinh, luận nói lý lẽ ra chẳng thể theo sự? Đáp: Gồm rõ Phật giáo nương duyên mà khởi đều là đối sự đều vì hiển lý, nhưng thuốc bịnh đối nhau không đâu chẳng thân sơ, cho nên chia ra ba món học đối trị có khác nhau. Riêng rõ trong khoa đầu, hai câu đầu nêu giáo bổn đủ cùng khắp. Luật tạng đây lại y cứ chỗ rộng, một bộ Tứ Phần thì ngôn là năng thuyên, sự là sở thuyên, nhưng sau chính rõ sót thiếu có bốn ý: một, là bày chính ý. Hai câu trên rõ thì cách Phật quá xa. Hai câu kế hiển pháp biến đổi tùy thời. Ở đây y cứ khi kết tập Tứ Phần, tức ngay sau khi Phật diệt độ trăm năm, cho nên nói rằng “miểu mạc” tức là quá xa. Thinh là ngôn âm, thái là tướng tốt. Mó chi dụ như nói không kịp. Năm Sư trao nhau, từ sau khi Như lai diệt độ đến trăm năm, sự thân tuyên đâu thể sánh kịp, giáo theo thời thay đổi cho nên có thiếu sót, như Ưu-Bà-Cúc-Đa hỏi việc Ni khi Phật còn tại thế và khiến ma hiện Phật, đây có thể làm bằng chứng. Thêm ba món sau đều là chung ý, cho nên nêu lại lời tăng, lượm lặt lại lượm lặt. Trước nói rằng: “Tùy ưa muốn của kia mà thành lập tông mình, cho nên không ưa thì bỏ mà không giữ cho nên có thiếu. Hai thứ trên đều là sai trái của việc kiết tập ở Tây-độ (Ấn), hai thứ dưới tức rõ lỗi xứ nầy (Trung Hoa) truyền dịch. Nghiệp Sớ chép: Luận chủ Giác Minh tụng bổn Đông truyền đến khi phiên dịch, tùy chỗ xuất ý liền chép, quí ở một bổn không hề có dấu vết, tìm lại ngược Tây (Ấn). Xứ nầy (Trung Hoa) hành dụng cho nên phần nhiều là thiếu. Lại kết tịnh địa, bốn câu thành bạch (thưa). Sớ chép: “Đây là kết tập thiếu văn (đồng hai ý trên) hoặc là Giác minh tụng sót, lại có thể Trúc Niệm chép sót (đồng hai ý sau)”. Trong đây muốn làm sáng tỏ quyết thông trước nói rõ tàn, thiếu. Lý do tàn, thiếu không hẳn là một mối, cho nên bốn món nầy rõ mà tìm. Nhưng cũng không cần nêu sự gượng phối. Rõ trong nay, văn ban đầu lăng xăn cho nên loạn tâm tưởng. Gồm hiểu là do ba món dụ thâu thiếu sót của một bộ để người sau đọc sách không ngại một mối, cho nên nói là “thông thấy rộng”. Trong riêng chỉ bày, ban đầu đến việc trước, tức thứ nhất đều thiếu. Năng quyết có hai: một là dụ, hai là lý. Dụ giữa, như luật không có pháp giải giới tràng. Dụ ba, tiểu giới lại kết thành giải. Các Luật không pháp thọ bảy ngày. Dụ cho nửa tháng văn bạch chúng pháp bạch văn mà lập. Lại không có văn thỉnh hai thầy, dụ cho y cứ pháp thỉnh Hòa-thượng, ở đây y cứ làm pháp giải thích. Lại như phá thưa đọc yết- ma nêu tụng giới làm dụ, quên không trì y đến hội không kịp, dùng y dư khai quên làm dụ. Nhiều duyên thọ nhật để sám hối tăng tàn, nhiều tội đồng pháp làm dụ. Tâm ác giải giới không thành, giới có nghi không được lại kết và dùng tịnh địa làm dụ. Ba món an cư dùng bát ba phẩm làm dụ (trên là bổn tông, dưới dẫn bộ khác). Rõ tướng hộ hạ lấy hộ y của Tăng-kỳ làm dụ. An cư, y dư dùng thọ áo mưa của Luận Tát-Bà-Đa làm dụ, ở đây y cứ hành sự giải thích (còn bao nhiêu lại tìm). Trong lý quyết, nói lý có ấy nghĩa là không lệ đạo lý hợp nhiên, như xứ nầy tăng vì biệt xứ, vì Tam Bảo, vì bịnh duyên và tăng thứ lớp thỉnh đều khai thọ nhật. Lại ngay ngày đó ra ngoài giới gặp nạn nghĩa phán được hạ, lại trong mười sáu già nạn, người mắc nợ y cứ theo lý cho thọ giới, những điều nầy đều không có văn nghĩa và dụ, nên nói là “lý”. Lại trong “thuyết tứ” trước sau tiếng Phạm, kệ lời xướng cáo, Thượng tọa dạy bảo răn nhắc không ngoài văn giáo, trong thọ giới mở bày cảnh tâm, oai nghi an ủi, chính khi Yết-ma thưa hỏi, nhắc nhở… cũng gọi là lý có mà thành việc trước. Thứ hai: là văn đủ nghĩa thiếu, như luật chép: “Trộm vật Tứ- phương-Tăng phạm tội Thâu-lan-giá”, quyết rằng: “Ở đây y cứ tạm dùng phá tăng” cho nên khinh lý phải phạm trọng. Lại nói rằng “Hai ba người cùng tác pháp thành nạn “tặc trụ”, quyết rằng “ở đây y cứ chúng pháp đối như thế mà nói”. Lại được nhận tiền Bố-tát, quyết rằng: “Y cứ cần phải giao cho người khác”. Luật Tứ Phần chép: “Trong hạ cùng tranh cãi khai thẳng bỏ đi không cần thọ nhật”, quyết rằng: “Y cứ duyên mà thọ không thương tổn đại lý”, v.v… như vậy mà tìm. Luận nói ấy, xưa ghi rằng tức là Luật Thiện Kiến, tìm văn chưa được, đây gọi là không do văn mà hại ý. Thứ ba: nghĩa đủ văn thiếu. Như có nạn dời hạ, y cứ theo Ma-di là không phá an cư. Gặp duyên ra ngoài giới quên không thọ nhật, dẫn năm trăm hỏi nhớ liền hối hận là được. Lại luật Tứ Phần không rõ trọng pháp thọ nhật, dẫn năm trăm rõ hai văn quyết đó. Y cứ vào nghĩa tuy phải sợ gọi là tâm thấy cho nên nói là “dứt chê bai”. Hỏi: Như trên đã dẫn không đâu chẳng lạm nhau, lại mời phân chia? Đáp: Không văn dẫn, so sánh sự tướng gọi là dụ quyết, lại không có dụ gọi là lý quyết, do ý định văn gọi là nghĩa quyết thông, dẫn văn thành sự gọi là văn quyết thông. Hỏi: nghĩa đó và lý làm sao phân biệt? Đáp: Thông mà vì nói, lý nghĩa chẳng khác. Sau nghĩa quyết nói rằng: “Dùng lý làm chính, riêng mà vì nói đâu không như trên”. Hỏi: Trên thì phối riêng, có gồm nhau chăng? Đáp: Lý quyết một món, định không gồm nhau, ba thứ khác gồm nhau nêu lược một hai cái. Ban đầu dụ được gồm, lý không gồm văn nghĩa, do không (gồm) văn nghĩa mới thành dụ, cho nên như y dư, an cư, dùng y tắm mưa làm dụ, mà nói rằng “Hạ là chế giáo, lý nên giữ gìn chung”. Hai là nghĩa quyết trong ba câu, tự có nghĩa quyết gồm với dụ, như Luật Tứ Phần hai mươi hai người phạm biên tội v.v…, nay thầy định tự nói không đủ số, nếu không không biết thì thành đủ. Lại dẫn Hòa-thượng… không trì giới, bốn câu làm ví dụ, tự có nghĩa quyết cũng gồm văn, như luật Tứ Phần nói trộm chứa, phạm tội nặng, quyết rằng: “Ở đây trông tâm chuột không nhất định phán tội theo người”, cho đến luật Thập Tụng, luận Tát-bà-đa các văn trộm, chứa vật phạm đột-cát- la. Lại có gồm văn, dụ hai món, như luật dạy xong giải giới, quyết rằng: “Đây vì các giới đồng thọ y công đức”, vẫn nói rằng “văn như luật Thập Tụng”. Lại dẫn an cư chưa xong tự tứ không phá hạ làm dụ, ba văn quyết thông, giữa cũng có ba câu. Tự có văn gồm ví dụ ấy, như dời hạ không phá, dẫn văn Ma-di. Lại dẫn luật Thập Tụng, luật Tăng-kỳ hai chỗ thọ y làm ví dụ. Cũng có văn gồm nghĩa: Tứ Phần chỉ nói rằng: “Ni khai thọ bảy ngày”. Dẫn luật Tăng-kỳ chép “Ni không yết-ma thọ pháp”, vẫn nói rằng “Sở dó như vậy do Ni nhập tục ít sinh thiện nghĩa. Lại dẫn luật Ngũ Phần mỗi trường hợp thuyết dục lại thêm nghĩa bình luận… Tự có gồm nghĩa dụ: Như giới tự nhiên không có giới khác, định viên có thì không định, đây tức nghĩa quyết. Vẫn dẫn rõ luận giới ba do-tuần, hợp góc lượng làm dụ. Lại dẫn văn luật Thập Tụng, luật Thiện Kiến, v.v… Hỏi: Nay nói quyết thông là quyết bổn tông hay quyết bộ khác? Đáp: Người xưa không hiểu đều nói rằng: “Quyết thông luật Tứ Phần”. Ý nầy không đúng, chỉ do thời sự, hoặc chỗ xưa chưa làm, hoặc các nhà dị kiến học nghi ngờ ngăn lấp cho nên có quyết thông. Hỏi: Nếu vậy vì sao mà văn trước nói Luật thiếu ư? Đáp: Chỉ do luật thiếu cho nên nay sự tối lại làm cho sáng. Một tự có bổn văn lại quyết bổn luật, như trong thọ dục giải thích các chỗ làm, tức từ trong tự tứ ra ngoài giới quyết đó. Lại luật nầy dữ dục qua đêm không được việc làm, lại do Tứ Phần để rõ tướng dục, nêu ra khai lược thuyết giới quyết đó. Lại như hợp sông kiết giới, lại dùng luật của ni trong giới qua sông mà giải quyết. Như trước đã dẫn tâm ác giải giới, dẫn tịnh địa, v.v… đều là việc của bổn luật. Hai, là tự có bổn luật một văn tức tự quyết thông, như ba tiểu giới không lập tướng, lại dùng ba tiểu yết-ma giải quyết. Lại như tịnh địa tăng không được ở, văn nói rằng: “Trừ Tỳ-kheo, lại lập tịnh địa xướng tướng”. Luật chép: “Nên xướng tên phòng” lại tức bổn văn để quyết bổn sự (hai câu trên thuộc nghĩa quyết thông). Ba, tự có bộ khác lại quyết luật khác. Như trong nhóm tăng của luận Tát-bà-đa, đạo hành là một Câu-lô-xá, nên dùng sáu trăm bước của luật Thập Tụng giải quyết. Lại như Luật Tăng-kỳ, khoảng giữa bảy hàng cây không rõ hai chúng chia hai, nên dùng Tỳ-kheo đi qua có ngang dọc tự nhiên mà giải quyết. Bốn, là tự có bổn tông lại giải quyết bộ khác. Như Luật Thập Tụng chép có thể phân biệt xóm làng, chỗ đến thọ trai, bèn dùng tướng sân thôn giới của luật Tứ Phần mà giải quyết. Dùng các ý nầy tìm khắp một bộ đều thông đạt. Hỏi: Văn nghĩa đều thiếu là cuộc hạn đương bộ hay chung với bộ khác? Đáp: Thông gồm ba tạng, nào chỉ bổn bộ và bộ khác có văn, tức lạc câu sau do đây không có văn, cho nên tức vô nghĩa. Hỏi: nghĩa quyết chung, giữa đó là thông hay cuộc? Đáp: Cũng chung bộ khác. Thập Tụng, Già Luận nói Ni không xả giới là nghĩa thọ lại, quyết rằng nên làm hai chúng sau. Lại luật Thập Tụng dạy năm chúng thọ nhật, năm chúng biên thọ, quyết rằng “Y cứ theo đây chúng phải cùng nhau làm”, không thì y cứ theo lời cáo ở trước, v.v… Xưa phần nhiều hiểu lầm không biết, quá phiền lược cũng chẳng khó, chỉ sợ không hiểu, bao nhiêu cũng chưa hết, học đó thì rõ. Trong không thể, khoa đầu, hay câu trên bày nạn. Trong bốn quyết trước văn có lấy bỏ, nghĩa là ý cắt, đoạt học biết cạn cho nên chẳng thể sáng bằng, đối kia xưa hiểu nên nói là “phế lập”. Sau nói rằng “quyết phán là sai” ý cũng đồng với ở đây. Từ hai câu sau lựa chọn chẳng hiển bày đúng. Luật tướng nói thông, lời khai giá khác. Hai pháp khai giá ở luật rất khó cho nên nêu riêng, chẳng phải hai câu sau hiển bày lỗi. Không như vậy: là ngược trên chẳng phải rất rõ, v.v… Lụy nghĩa là nghi trệ, hoặc có thể y cứ tội. Hai, là giải thích đều thông. Cảnh khác tức việc trước, do không rõ giáo chỉ, đều là vọng làm, hạnh không thành trì cho nên nói là vô ích. Ở đây y cứ tự hạnh, hoặc có thể cảnh khác tức chỉ người khác, rộng diễn hóa người khác, đều chẳng phải chính giáo cho nên vô ích. Trong phần Dẫn Chứng, dẫn luật cuối quyển 60, Phật ngự tại nước Bạt-xà, bên ao nước, dạy các Tỳ-kheo tu hành thánh đạo chớ cãi vã nhau. Kia nói rằng trong A-tỳ-đàm mỗi việc đều tranh cãi nên nói rằng: “Văn nghĩa các Trưởng lão nói rất tương ưng không nên tranh cãi với nhau” (hai câu). Lại nói: “Lời Trưởng lão nói văn đồng nghĩa khác, chớ tranh cãi nhau” (ba câu). Lại nói rằng: “Lời Trưởng lão nói văn nghĩa đều khác, chớ tranh cãi với nhau” (bốn câu). Hai câu sau chỉ luật văn rộng. Luật kia nói rằng: “Nên quán sát như vậy, nếu tranh cãi nhau sẽ làm lưu nạn với pháp của Sa-môn chăng? Lại hỏi là “đáng quở trách chăng?”, lại hỏi là “Có thể tiến đến gốc lành được quả Sa-môn chăng?” (các Tỳ-kheo đều đáp từng việc, đó gọi là tiến). Lại nói: “Nếu tranh cãi như vậy, người dứt tranh cãi ấy nên nói với Tỳ-kheo kia rằng “Thầy đã dứt sự tranh cãi này cho chúng tôi”. Tỳ-kheo kia đáp “Tôi nghe pháp đó từ nơi Đức Thế tôn, nay nói cho các thầy nghe” nếu Tỳ-kheo ấy nghe rồi liền bỏ sự tranh cãi (đó gọi là chỉ)”. Phật bảo các Tỳ-kheo nên như vậy mà lắng nghe tin ưa thọ trì. Nay dẫn văn nầy để nói lúc Phật ở đời còn sợ văn nghĩa cãi nhau, đây đặc biệt dạy đó để chứng minh trên giải quyết nạn chung là phế lập thì chẳng luống. Trong phần chỉ bảy có thể kham lãnh, câu đầu là năng, hẳn sau chỉ bày kia rộng đầy đủ. Hai câu trên rõ học thông ba tạng. Hai câu dưới rõ hiểu thông lục sư, Tổ luật sư của ta là người ấy, bậc Thánh xuất hiện làm phép tắc cho chúng sinh nên gọi là “giáo tích”. Tuy nói thông ba tạng mà chỉ riêng Luật tông, cho nên nói rằng đây. Dẫn luật Thập Tụng quyển 59, ban đầu riêng bày ba việc: Một là duyên khởi. Hai là giới bổn. Ba tức lại kết. (Như giới đầu cho nên đến cùng súc sinh v.v…) nên sau khuyên suy lường lại chia làm ba: Gồm nêu văn một bộ luật lớn là ba tiết. Hai bộ giới luật tức là giới bổn của tăng và ni, nghĩa giải liền tùy giới, sau rộng giải văn, cho nên nói rằng “đến”. Trong Tỳ-ni, hỏi chung các kiền độ, thêm một tức sau luật là pháp số, trên rõ quán giáo. Khai sau rõ phán đoán. Khai, già, khinh, trọng suốt thông một bộ, lại nêu sắc y lược bày tướng trạng. Xanh, vàng, đỏ, trắng, đen năm mầu chính mà người thế tục còn tham đắm nên thuộc về bất tịnh, Phật đã cấm chế cho nên nói là “già”. Phi sắc là ba món nhuộm sinh, bùn, sạn, ba Thánh đồng tôn trọng, tướng vượt tiêu biểu của thế gian nên nói là tịnh, đây là lời Phật dạy nên nói là không già. Như vậy sau kết cáo. Thông chỉ trước sau một bộ, cho nên nói rằng “gốc ngọn”. Dẫn Luận Minh Liễu kia nói rằng: “Như Chư Phật lập giới, ở trong mỗi giới cho nên phân biệt rõ năm tướng: Một, là chỗ duyên khởi (tức cõi nước). Hai, là người duyên khởi (tức người mới phạm). Ba, là lập giới (tức giới bổn). Bốn, là phân biệt giới sở lập (Nếu phạm tội nầy thì không được ở chung). Năm, là xử đoán phải trái (đối với ba chỗ phạm) không xem mặt người khác, phán đoán thẳn thắng không dựa vào tình cảm. Lược đồng với trên, là hiểu ba việc của Luật Thập Tụng ở trước, hai việc đầu hai tướng đồng bổn khởi ở trên, việc thứ ba đồng trên kiết giới tùy kiết. Hai món bốn, năm gần đồng giải rộng, do không hoàn toàn đồng nên nói là lược. Văn sau chỉ rộng tức như trên đã dẫn. Môn thứ sáu, trong nêu, năm cái trước đều thuộc giáo năng thuyên, giáo quyết tuyên chỉ thú muôn hạnh một tông là trước tiên. Lý cần biết rõ cho nên nói là ý sở thuyên. Thuyên là hiển bày, chính là rõ trong văn ban đầu ở trên nêu văn rộng. Văn một bộ luật gồm sáu mươi quyển, nên nói là rộng rãi dồi dào. Sau chỉ hành yếu nên nói là Đại thú, do giới bổn Tăng ni ở trước và điều bộ ở sau tức hai hạnh chỉ trì, mười kiền-độ về sau, v.v… Văn tức văn hạnh tác trì phần nhiều rõ phạm, ý ở thành trì, ngược với hai trì trên thành hai phạm, cốt yếu của tông bộ đâu vượt quá đây, nên nói là “Chỉ”. Trong sở thuyên, chung, riêng, trì, phạm, trước biết danh tướng rồi sau giải thích văn. nghĩa là học biết giới tương, rõ suốt trì phạm, trong bất cứ lúc nào cũng giữ gốc đã thọ, thông mong thọ thể một mảy may không phạm, không tùy duyên tên riêng là thông trì, không học không biết, chế chung thiên tụ. Tùy chỗ không rõ đều hết tội nên nói là “thông phạm”. Tùy đối một cảnh phương tiện ngăn ngừa, hành thuận bổn thọ gọi là “biệt trì”. Trái thọ khởi lỗi gọi là “biệt phạm”, nói biệt có ba: Một, là vì chế pháp riêng, thiên tụ khinh, trọng chủng loại khác nhau. Hai, đối cảnh riêng, tình và phi tình. Ba, là thú nam, nữ, đạo tục khác nhau. Ba duyên phạm, riêng tùy giới nhiều ít không lạm nhau. Lại hai trì chung riêng đều chung chỉ tác. Phạm chung chỉ có phạm, phạm riêng gồm hai phạm. Trong thông trì trước chép cảnh thông, hai câu trên nêu chung, cảnh tức gồm chỉ loại trần sa tình và phi tình, tâm tùy cảnh khởi, cùng lý hoặc theo chống tạo thành nghiệp thiện ác, cho nên là thông trong. Lại sự do cảnh sinh, động tác của thân miệng trái hay thuận với giáo thành hạnh trì hoặc phạm, cho nên là thông ngoài. Hai câu dưới giải thích riêng, câu trên giải thích thông trong tức chỉ hóa nghiệp, câu dưới giải thích thông ngoài tức rõ chế hạnh. Thân miệng tạo tác cho nên nói rằng “tình sự”, như các việc dâm, trộm, v.v… do giáo chế, cho nên có thuận nghịch. Thuận là hai trì, trái là hai phạm, nhưng sau kế rõ tướng trì, cảnh duyên tuy thông, nay rõ trì phạm không nói về hóa nghiệp. Vả lại, y cứ chế hạnh cho nên nói rằng “chỉ khiến”, v.v…, giáo là luật chế, hạnh là thân miệng, dùng giáo kiểm hạnh, y cứ hạnh theo giáo, cho nên nói rằng “theo nhau”, tuần tức là thuận. Tùy mỗi giới xét tột cùng tướng khinh, trọng, phạm, chẳng phạm, nên nói là “trước sau”. Các Sư ngày xưa chỉ rõ không làm ác tức là trì giới, các Sư ngày nay không phải như vậy, quyết ước hành động và suy nghó, thể trái với giáo tướng, khởi hạnh ngăn chặn mới thành hai trì, chứ đâu có việc nằm đất mà gọi là trì giới, không nhớ nghiệp quấy đâu được gọi là trì. Giáo hạnh theo nhau, ý nghĩa là ở đây. Nay nói thông trì thì chỉ trì có hai: Một, là hạnh trước ba tâm, thọ thể không có nghĩa ô nhiễm gọi là chỉ trì. Hai, là y cứ ước hạnh tâm, thông duyên thọ thể, thiện ác sự pháp rõ ràng không mê muội, đây tức là hai trì. Kế trong thông phạm, hai tội không học, không biết vì thông trì phạm, thông khinh trọng, thông thật giả. Nhưng không học chẳng kết phạm có hai: Một, là phát tâm đoạn học tùy tâm đốn tiệm, mỗi mỗi phạm tội đột-cát-la. Hai, là gặp cảnh không hiểu tùy sự kết riêng. Nếu luận không biết, tùy cảnh không rõ chỉ có kết riêng, nhưng gồm thiên tụ được gọi là Thông. Trong văn hai câu trên nói về phát tâm đoạn học. Hai câu sau nói về tùy cảnh không biết. Thiện gồm hai trì, ác gồm hai phạm, người không học trì cũng thành phạm mong thiện, phước nầy là ngu giáo cho nên phạt. Trong hai phạm kia thì chung ba tính, bất thiện vô ký một bề gọi là phạt. Thiện tính phạm cũng gồm có họa, như biết việc xen dùng từ tâm khen chết, nhổ cỏ trên tháp diệt mầm sống tạo tượng, đồ ăn dơ cúng dường Tăng, đào đất hoại mầm sống, sửa sang tháp miếu v.v…, ngoài tội căn bản lại thêm hai tội. Nay sau rõ kết tội, khoa tức là phán. Tương ưng với giáo: Giáo tức chỉ chung cho chỉ, tác, trì, phạm. Hạnh hợp với giáo đều kết phạm, cho nên dối gọi có thể học, thật tức là không thể học. Cho nên thiên trì phạm y cứ hai giáo bốn hạnh, cái nào nên học cái nào không đáng học, trải ngồi vị nói tội có, không, nhiều, ít. Dưới đây gồm kết. Riêng trong trì phạm, đây y cứ quả tội căn bản của sáu tụ. Đủ ba nghĩa trên nên nói là “riêng”. Bốn câu đầu chỉ bày tướng phạm, chính tội tức gọi là quả đầu. Trị phạt nghĩa gồm sám hối, do có người phạm lỗi lớn quyết thêm trị, thuận liền khai sám và cần xét thật vì không cho lạm. Luật Tứ Phần nói quả thành nhân mất cho nên nói rằng “quyết khiến” làm cho hai cái sau rõ năng đoạn. Câu đầu xét tâm, tâm dung tưởng nghi tội tức hàng phục, lời thật tình có cả phạm và không phạm. Câu kế rõ hợp giáo, đều rộng cho nên nói là lý giáo, thì hai câu sau khen năng đoạn kia, đã chẳng vọng phán, không trái chân giáo, giống như lúa tươi tốt không xen cỏ dại, cho nên chẳng có cỏ rậm. Dưới đây song kết, mà trước không rõ trì, phiên phạm rõ trì, vì dễ cho nên không nêu ra. Nay nói tướng kia như dâm, quán bất tịnh, giết, khởi từ bi, ép ngặt không vui, chê, mắng, từ cứu v.v… như thế nên biết. Môn thứ bảy, là y cứ căn cơ nói về giáo. Trong nêu bày, nếu y cứ người bẩm giáo thì đạo thông, tục bị cuộc hạn. Nếu y cứ giáo giúp người thì hóa thông thành cuộc hạn. Nay theo nghĩa sau cho nên nói lập giáo thông cuộc. Trong giáo thể, khoa đầu hai câu trên chỉ bày phiền nhiều của sớ phán. Hiển lý giáo, gọi chung là Thánh điển, như trên đã rõ. Có nhiều đường là hai thừa đại tiểu đều chia ra ba tạng, ba học, v.v… Cho nên hai câu sau nêu năng phán theo cốt yếu, như trong Giới Sớ hoặc y cứ ba luân, hoặc y cứ hóa hạnh, hoặc y cứ hóa chế, hoặc y cứ chế thính. Kia lấy ba luân, nay dùng hóa hạnh, tùy thời dùng cùng sau cần hòa hợp. Chỉ ở xưa còn cuộc hạn, đối nay thì thông, tên đồng lý khác, đối sớ sẽ thấy. Nói tình cầu vì hiển nghĩa phán, nói chia hai: Giáo điển một đời gồm qui về hóa hạnh, mở tin hiểu kia, dùng bỏ mặc duyên nên gọi là hóa giáo. Chế kia tu hành vâng làm, trái lại thì có lỗi nên gọi là Hành giáo. nghĩa là hóa giáo đây thì chung cho đạo tục, biết rõ nhân quả, hiểu suốt tà chính. Trong khoa nêu bày, văn ban đầu, ở hai câu trên nêu danh thể nhưng dưới bày giáo tướng, mười nghiệp bất thiện, nhân ba đường ác, mười điều lành, năm giới, nhân ba đường lành, đây là nhân quả thế gian. Ba mươi bảy đạo phẩm, sáu độ muôn hạnh là nhân Ba thừa tức nhân quả xuất thế. Đại tiểu tuy khác, hạnh nghiệp chẳng khác, tùy duyên chỉ bày. Giáo chẳng định ước cho nên gọi là biết rộng. Lại trong kinh thường phá chấp ngoại đạo, nói việc ma, chỉ bày chính đạo e đọa đường tà, cho nên nói rằng hiểu suốt. Lại hạnh nghiệp là nhân, gồm chung thiện ác, tâm nhân thầm kín nên nói là khó biết. Báo đời sau là quả cũng chung khổ vui, quả tướng thô trước nên nói là dễ thuật. Kế trong hành giáo, ban đầu nêu danh thể, định sau chỉ bày giáo tướng. Hai câu đầu rõ các hạnh, câu trên là chính tông, nếu lấy năng bỉnh tức chọn người phải trái. Nếu nói về sở bị đều phải hợp giáo, như thọ giới, già nạn, thuyết giới, tự tứ, có phạm bảy, chín, trị phạt sáu tụ, phát lồ sám hối, trong mỗi việc đều có lấy bỏ. Câu kế giải thích ý thành lấy bỏ: nghĩa là rõ Phật pháp tôn quý cao vượt, tiêu biểu của thế gian, chúng tăng trong sạch không có lỗi lầm, trụ trì muôn năm công đức ở nơi đây. Hiển bày hai câu dưới rõ biệt hạnh: Câu trên chính tông, câu dưới giải thích thành cũng đồng với trước. Như trong điều bộ Ưu-ba-ly đối trước Phật thưa hỏi đều trọng, ý có thể thấy. Trên rõ giáo có hạn chừng, trái với trước rõ biết, sau chỉ bày kia hiển rõ trái thầm kín ở trước. Hai câu trên bày văn rõ, hai câu dưới rõ sự đủ. Văn đầu như giới tướng, cõi nước, người phạm, nêu lỗi, quở trách, chế giới, giải thích, phương tiện, cảnh tưởng, chúng đồng, phạm riêng, các tướng không phạm, khinh, trọng, v.v… mỗi mỗi đều như vậy, Thánh trí đều thông rõ cho nên nói không nhọc xem lại. Phàm ngu biết cạn không thể liền nói là đồng. Lại Tổ sư nghe luật hai mươi lần còn nói chưa là tâm thể, Tăng Hựu nghe ba mươi lần còn hận càng nghe thêm càng thấy tối. Phải biết người tối tăm thấp hèn đâu thể tự làm. Về kết tội, v.v…: như dâm hai kết (không bỏ giới cùng với súc sinh), riêng chúng bảy khai (thí y, may y, v.v… bảy duyên khai) mỗi mỗi thông trước, lại vào giới bổn cho nên nói rằng “tái khoa”. Sở phán, khoa ban đầu, hai câu trên bày tướng lạm. Dùng bảy chi mười nghiệp không có thể riêng cho nên như vòng liên tục, vì dụ hợp nhau không dễ chia. Hai câu sau nêu phán, trong văn chính phán ban đầu là y cứ ba nghiệp nối nhau để chia. (tờ 1 7 5) Ba câu trên phán hóa giáo, kinh luận rõ tâm hiển lý, ở đây cho nên tâm nghiệp dùng lý làm tông. Ba câu dưới phán hạnh giáo, thi vi tức là sự, Luật tạng y cứ sự mà nói về hạnh, cho nên nghiệp thân, miệng, dùng sự làm tông. Như trong thiên tụ, khởi nghiệp khinh trọng, thọ báo cạn sâu. Thiên tụ tức y cứ hạnh khởi nghiệp, tức y hóa. Lại trong trì phạm riêng tâm ba thời nói về phạm, tám câu khinh trọng, đây là y hóa. Tám, là sát (giết) đều trọng tức y cứ hạnh. Lại như ba phẩm lý quán của thiên sám tức là hóa giáo sáu vị hối pháp tức y cứ theo hạnh giáo. Lại thiên Sa-di phàm phước Thánh-đạo liền y hóa giáo hóa, cạo bỏ râu tóc, cho thọ giới tức là hành giáo, còn bao nhiêu lại tìm hiểu. Như vậy hóa giáo lẽ ra không cấm thân miệng, hành giáo lẽ ra không chế nội tâm? Đáp: Ở đây y cứ đạo chúng song lãnh hai giáo mà nói, ở đời nhiều người không hiểu cho nên vì đó chỉ bày. Ban đầu y cứ trái rõ có bốn câu: Trái hóa không trái chế. (liếc mắt, tham, sân Luật tông không chế và người tại gia làm mười điều bất thiện). Trái chế không trái hóa. (tức phạm các già giới) 3- Đều trái. (phạm các tính giới) 4- Đều không trái (trong dùng lý quán soi chiếu, ngoài dùng giới luật xem xét) Hai là y cứ thuận, có bốn câu: Thuận hóa không thuận chế. (tính tướng Duy thức, ba quán phá mê) Thuận chế không thuận hóa. (tâm không tuệ quán, chuyên giữ sự giới) Đều thuận. (như điều thứ tư ở trước) Đều không thuận. (tạo nghiệp phàm ngu) Ba, y cứ theo thọ giới, có bốn câu: Bẩm hóa không bẩm chế (kinh Tịnh Danh chép: “ông chỉ phát tâm liền gọi là cụ túc”). Bẩm chế không bẩm hóa (tự trí không rõ chỉ theo phép tắc của luật). Đều bẩm (tâm mong xa lìa, thọ giới cấm của luật, thú hướng Thánh đạo. Phật còn ở đời những người lội căn được ba lần nói “thiện lai” thì liền đắc đạo quả. Lại kinh Niết-bàn chép “Bồ-tát xuất gia”). Đều không bẩm (lãnh thọ). (có thể biết) Bốn, là y cứ sám tội có bốn câu: Hóa tịnh, chế bất tịnh. (như phạm thiên tụ lý quán rõ ràng, suốt tội tính vốn không, mà không y theo Luật sám, dầu được tướng tốt cũng không vào số tăng thanh tịnh) Chế tịnh, hóa bất tịnh. (phạm tội y luật sám hối mà không có quán tuệ, chỉ diệt trái chế, tính nghiệp vẫn y nguyên) Đều tịnh. (thiên tụ y giáo, diệt nghiệp đạo mặc tình vắng lặng) Đều bất tịnh. (người ngu phạm tội không chịu sám hối) Hỏi: Hai giáo hóa hạnh là Đại thừa hay Tiểu thừa? Đáp: Hóa thâu cả Đại Tiểu, chế chỉ cuộc hạn Tiểu thừa. Hỏi: Như Phạm Võng là thiện giới Đại thừa hành giáo, vì sao xếp vào hóa? Đáp: Ba tạng Đại thừa, chế hay không chế đều được gọi riêng là hạnh, trong tông nầy lại cuộc hạn vào hóa, vì giới Bồ-tát chung cả đạo và tục. Hỏi: Năm giới, tám giới đã là giới chế, lẽ ra là hạnh nhiếp, nhưng cuộc hạn ở người đời không chung hai chúng, sao lại xếp vào đó? Đáp: Thuộc về hóa giáo, trong luật rõ ấy, kinh tùy luật, dẫn chứng như khác, như là lựa phán lượt biết hóa hạnh, lại siêng tinh chuyên phân biệt e phiền nhiều lại dừng. Người học ngày nay không biết tên, còn huống chi rõ hành tướng. Nếu không hiểu ba tạng Đại Tiểu nầy thì tất cả đều mê. Trong phần tội khác hai câu trên rõ tại gia làm ác (xuất gia cũng có người phạm, như độc đầu tâm niệm). Hai câu dưới rõ xuất gia phá giới, phạm hóa không hẳn trái hạnh, trái hạnh không hẳn bao gồm phạm hóa, ngoài nghiệp lại thêm chế nên nói là “Trọng”. Hỏi: tính giới thì có thể, giá giới vốn chẳng phải ác, vậy có bao nhiêu tội? Như phá hoại mạng sống, đào đất đều trái với lòng từ. Chứa dư, cầm của báu đâu không tham nhiễm? Người lãnh thọ có trí xin vì thông đó? Lại hỏi: Hóa giáo cũng gồm sự hành đâu không là thân miệng? Hành giáo cấm chung ba nghiệp đâu không rõ tâm? Sao lại dùng văn trước lìa xa ba nghiệp để phối với hai giáo, cũng xin đáp đó. Cho nên sau dẫn chứng tức kinh Thiện Sinh. Kia rõ hai người đồng làm một tội, người có thọ giới thì tội nặng, người không thọ thì tội nhẹ. Luận Trí Độ văn đồng như thiên sám đã dẫn. Trong gạn ý ban đầu tiếp văn kinh trước để làm lời gạn, nghĩa là kinh kia đã rõ, ở đây không cần phân biệt, e sau chỉ bày chỗ làm. Câu trên chỉ mê, nói tông thể tức sở phán ở trước. Câu kế ngăn vọng, nói phải trái là hóa hạnh lạm nhau. Người thế gian nghe kinh Tịnh Danh chép: “phát tâm tức là cụ túc” vọng chế giới có không, hoặc mê ba tính phạm chế bèn cho rằng ng- hiệp đều một phẩm. Hoặc nói “làm phước trái giới là không lỗi”, hoặc chấp tâm quán liền chê bai luật nghi, hoặc cho là giữ vững tuệ quán không nhọc mệt, hoặc y hai sám Phương Đẳng mà nói là “chế tội đều quên”, hoặc y thiên tụ sáu trị bèn cho tính nghiệp đều diệt. Cho nên có người y theo đại giáo sám tội Ba-la-di lấy đủ số tăng Tiểu thừa, như đây mê lầm từ xưa đến nay, đến thiên sám sau lại là nói rộng, cho nên sau rõ nay lập, chung đến đời sau không còn lầm lộn cho nên nói “hằng dùng”, v.v… là chọn. Nêu tông Tăng Võng, sám pháp Sa-di, v.v… đều nói về hai giáo, đến văn sẽ rõ. Môn thứ tám: môn trước người và pháp đều thông, môn nầy đều cuộc hạn. Do người chỉ là hai chúng, giáo cuộc hạnh khoa, nhưng báo và tướng hai thứ khác nhau, cho nên khiến giáo chia ra đồng và khác, nên phải giải thích mới thấy các thiên. Trong thông bít, văn ban đầu đồng giới, tức chỉ trì giới bổn. Thiên đầu bốn trọng hai thiên bảy giới, mười chín giới trong ba mươi giới, sáu mươi chín giới trong chín mươi giới, chúng học có một trăm giới, diệt tránh có bảy. Đồng chế nghĩa là tác trì các pháp đủ các môn, đồng giới ở quyển trung, đồng chế thì hai quyển thượng hạ, toàn đồng thì không nêu riêng. Như Luật tăng dữ dục, yết-ma tăng võng, ít có khác là tùy sự chỉ bày, như trong kiết giới thì giới ni là hai dặm, có nạn thì đồng với tăng. Trong xả giới nói Ni không cho thọ lại, thọ nhật ni chỉ có bảy ngày. Trong hai y ni thêm hai y khác, trên thông rõ hai bên đồng, như dưới riêng hiển đồng giới. Văn trên chỉ dể, giới bổn chia tức luật văn rộng, ẩn dưới hiển khó, tùy tướng tức quyển trung. Như trong lìa y, ba y, năm y đều nêu, trong pháp chúng học chỉ chung cho Ni v.v… đồng phạm. Lại trong thiên tụ chỉ bày Ni có tám giới trọng, lại trì phạm, cảnh tưởng, v.v… trong ni chẳng phải không, cũng là chỉ đồng với tăng. Trong duyên chung gồm nêu năm chúng. Kế rõ trong tắc, trước rõ chỉ hạnh. Câu ban đầu nêu bày, y cứ vị giới tức khác với Tăng là: Tám giới Ba-la- di thì khác bốn giới sau, mười giới trong mười bảy giới Tăng tàn, mười hai giới trong chín mươi giới, trong Đơn đề là một trăm lẻ chín, tâm giới Đề-Xá-Ni tìm giới bổn ni đối chiếu sẽ thấy, nghĩa là sau giải thích khác. Văn nêu ba câu dụ bao gồm các giới khác, lược vì dẫn đó, chuyển trọng khác nhau, trong đó có ba: Tăng tàn sáu giới (lậu thất, hai thê, hai phòng tăng trọng, ni khinh, sờ chạm tăng khinh ni trọng, thiên tăng tàn chỉ có câu nầy). Xả đọa có chín giới (năm làm năm, sáu lấy y áo, bảy là giặt y củ, tám là gánh lông dê, chín là vỗ lông dê và Ni tội đột-cát-la, tăng phạm tội Ba-dật-đề). Pháp Đơn Đề có mười ba giới (Một là ni làm y, hai là cho Ni y. Ba là ngồi chỗ khuất, bốn thời kỳ Ni hành pháp, năm là thời kỳ đồng thuyền, sáu là thời kỳ an hành, bảy là thọ khen ăn, tám là khuyên đủ ăn, chín là ăn ngon, mười là ông kim bằng sừng, ngà voi. Mười một là tọa cụ quá lượng. Mười hai là áo che ghẻ. Mười ba, là đồng lượng y của Phật, tăng phạm tội Ba-dật-đề, Ni phạm tội Đột-cát-la). Có, không, thiếu lẫn nhau, trong đó có hai: Tội xả đọa, ni không có hai giới (xin y mưa quá trước, hai là Lan-nhã lìa y). Đơn đề, ni không có ba giới (Một là liền dạy ni, hai là nói pháp đến chiều tối, ba là quở trách người dạy Ni). Duyên đồng phạm, khác cũng có hai: Một giới xả đọa (Bát chỉ đồng tội Ba-dật-đề, tăng khai mười ngày, Ni chỉ một đêm) Năm giới đơn đề (kết tội đồng Ba-dật-đề, duyên tướng có khác. Một trái thỉnh, hai ăn no, hai giới chế một lần. Ba là cho ngoại đạo ăn, gồm cả cư só nam. Bốn năm chưa đủ cho hai năm học (giới) pháp, năm áo tắm mưa thường khai). Trên y cứ Sớ Sao để rõ lại dùng nghĩa tìm. Tám pháp Ba la di thì có bốn pháp sau cùng hai pháp bất tịnh tức là có và không. Tám pháp Đề-Xá-Ni bốn tám đối nhau cũng tức là có không. Đối món ăn ngon cũng đồng, khinh trọng mà sau chỉ thiên. Ni, như trên nhiều khác không thể nêu hết. Cho nên khi soạn cốt yếu mới đưa vào hạnh riêng, thạnh hành là thường làm, khó biết nghĩa là nó sâu kín ẩn mật, xen chuyên một nghĩa cũng đã không nêu, tức như thiên sau chỉ nêu sáu giới. Trong Ba-la-di nêu ba, là xúc thứ tám và hai món trong che giấu. Nói người bốn xúc chạm, đơn đề nêu ngăn tiếp tục một giới và một câu sau chỉ bày việc làm. (tờ 1 7 6) Nói về các hạnh: Sau nêu bảy môn, trên tức tùy giới một môn, sáu món khác đều thuộc các hạnh. nghĩa là thọ sám, nói tự tứ, an cư, thầy trò, mới ở sau gồm chỉ. Trong ý kết, hai câu trên kết trước. Chia tông loại tức từ trước đã rõ thông, bít, đều khác. Chưa hiển đến tuyên là không rõ ý, đến của lập giáo đồng hay khác, các phần sau chỉ rộng. Không đồng ý, tức ở trên chỉ, làm tướng riêng đều có lý do. Đại Sớ có chỗ bẩm thọ Thủ Sư Luật Sớ quyển hai mươi của Tổ Sư, mà nói đại hoặc nói theo đại bộ, hoặc lựa chọn hai sớ giới nghiệp của các nhà ngày nay, vì chẳng phải gọi là Tôn Sư. Nay thấy nghĩa sao, Giới sớ không thể chép rộng, người học tự tìm. Môn thứ chín, nêu rằng: Đồng khác có hai, ban đầu rõ Sa-di tức đối với Đại tăng, sau rõ Thức-xoa tức đối với ba chúng. Trọng Sa-di, khoa đầu hai câu trên nêu tên. Tiếng Phạm là Sa-di, Hán dịch là Tức Từ (tức là dứt sự nhiễm ở đời, Từ là giúp chúng sinh). Như sau rõ thể đồng. Nghiệm sau bày tướng cuộc hạn, thì sau bày rõ hạnh khắp. Bằng với cát bụi là đúng bản thể, cho nên ở sau nói rằng: “Trừ pháp yết-ma không ở số dụ còn bao nhiêu các hạnh đều chế đồng tu”. Kết sau rõ phạm. Thiên thứ năm, tức Đột-cát-la, bất luận già tính, đại khái kết cát- la chỉ bày giáo khinh cho nên đến sau rõ vị. Các giới cuối tức chỉ cho quảng luật và nêu giới sau phân biệt cao thấp. Cho nên hỏi “thể đã là đồng đâu lại chia lớn nhỏ?” Đáp: Cảnh lượng tuy đồng, nhưng chí nguyện rất khác, có nguyện hay không nguyện đâu không nói ư? Hỏi: Nếu vậy đã khắp trần sa, sao chỉ nêu mười? Đáp: Nếu nói về giới thể, ban đầu ở ba quy y, sau nói mười giới là lược bày tướng kia. Như Đại tăng nêu bốn giới trọng, cho nên sau nói rằng: “Lại bày mười giới ưa phạm nêu trước, còn bao nhiêu chưa biết thì hai thầy dạy riêng”. Trong phần nói khác, nói từ ngoài ấy, như năm đức, mười số, trì y, thuyết tịnh, nhà riêng nói tự tứ, có duyên đào đất, v.v… đều như thiên sau, sự có phải trái cho nên nói là lấy bỏ. Sa-di như bổn thiên, Sa-di-ni là phụ vào pháp ni, nên nói “đều xong”. Kế trong Thức-xoa, văn ban đầu, câu tiên là nêu tên, Hán dịch là Học-pháp-nữ, do Ni tính tình yếu đuối, thuộc trong tiểu học, nêu riêng sáu hạnh làm đủ phương tiện, hai năm thì xem xét coi thai có hay không, sáu pháp thì rõ hạnh trinh vững chắc. Luật Thập Tụng gọi là luyện thân luyện tâm, tức là nghĩa nầy. Sáu pháp sau rõ thể đồng Sa-di, tự sau rõ hạnh đồng ba chúng. Sáu pháp là: 1- Xúc chạm. 2- Trộm bốn tiền. 3- Giết súc sinh. 4- Tiểu vọng ngữ. 5- Ăn phi thời. 6- Uống rượu. Học tông gọi đây là hạnh bổn. Nói học có ba: 1- Học căn bản (Bốn giới trọng). 2- Học pháp (tức sáu pháp). 3- Học hạnh (tất cả hạnh của Tỳ-kheo-ni). Không còn phát là do Thức-xoa-ma-na Ni chuyển căn thành nam, tức vào Sa-di tăng. Nghiệp Sớ chép: “Học pháp nữ nầy không có giới thể, nhưng thọ biệt giáo, vị hơn Sa-di”, do người không hiểu nên ba chúng có ba giới thể. Hỏi: Sa-di-ni giới đã khắp trần sa, vì sao Thức-xoa mới thực hành sáu pháp này? Đáp: Soạn đây ưa phạm tội trọng, lại y cứ gìm lại. Vô thể lại phát tức là nghĩa nầy. Đồng ba chúng là chỉ cho văn sau. Đồng Đại Tăng thì đủ ở các thiên. Đồng Tỳ-kheo-ni. Sa-di thì đều như thiên khác. Sa-di hợp một cho nên nói ba chúng trong biệt hành, như không cho Sa-di-ni được cùng Tỳ-kheo-ni thọ ăn, văn sau nêu đủ. Môn thứ mười nêu trong phần Sao là tự hiệu của Tổ sư, dẫn ba câu sau tức gồm ba khoa. Nhưng khoa nói cân nhắc là đối với sau có hơi khác, nhưng sau nói “Sao hưng” là chỉ rõ ý sao lược. Ở đây nói khoa châm chước là chính rõ mưu lường xứ, trước sau tên khác cộng thành một ý. Nói chính kinh, chính là nhập vào các chính lục, Kinh là dạy pháp dạy thường, tên gồm chung riêng, gồm cà ba tạng, riêng ở Tu-đa- la, nay đây từ thông để thâu các bô. Trong luật, luận Tiểu thừa lại chia làm ba, ban đầu rõ các luật, nói đủ là Ma-ha Tăng-kỳ, Hán dịch là Đại Chúng (từ chúng làm tên tức hang của nội bộ). Đàm-vô-đức cũng gọi là Đàm-ma-cúc-đa, Hán dịch là chính Pháp, cũng nói là Pháp Hộ, Pháp Cảnh, Pháp Mật (từ người mà biết tên). Tát-Bà-Đa, hoặc nói là Tát-Bà- Đế-Bà, Hán dịch là Hữu (cũng gọi là Nhất Thiết Hữu, từ chấp mà đặt tên). Di-sa-tắc, Hán dịch là Bất Trước Hữu Vô Quán. Ca-diếp-di cũng gọi là Ca-diếp-tỳ, Hán dịch là Trùng Không Quán (cũng từ chấp mà đặt tên). Sáu bộ trên, bốn bộ trước, Giới bổn quảng luật Hán đã dịch, tức căn bổn được một, năm bộ kia được ba. Dịch truyền thời đại, đủ như trong Giới Sớ. Hai bộ sau y cứ vào phi, như sao nay đã dẫn, tướng nhân nêu đó biết tên mà thôi. Chú rằng: “Y đại tập, nghĩa sao đã dẫn”. Ba tạng truyền miệng và Di giáo, Pháp, Luật, đều dùng Tăng-kỳ nêu vì năm bộ đã nêu khác nhau, cho nên ở đây chỉ bày. Tỳ-ni kế sau nêu các luận, khoa nầy đã nêu tên là luật, cũng gọi tên Giới Luận. Bà-sa, Thành Thật, v.v… tự trình bày kinh luận, người xưa không hiểu nói rằng “luận Tiểu thừa” truyền lầm rất lâu. Đa Luận, người sau chú và truyền tức thầy trò truyền. Luận chú chép: “giải thích chính Lượng Bộ”, đây cũng trong Thượng Tọa Bộ chia ra, luật nầy không đến Trung Hoa, tức rõ luận là sở tông. Chân Đế ở đời Trần, dịch ba tạng kinh, nêu ra Sớ năm quyển giải thích luận, văn kia chưa lưu hành đến Đông nam. Ngũ Bách Vấn Pháp cũng nói là Ngũ Bách Vấn Sự kinh, nêu cốt yếu luật nghi Lương Võ Đế Tập 20 quyển, tự ba quyển sau chỉ rộng. Như Tam Thiên oai nghi, Luật Tỳ-Bạt quyết chính hai bộ luật luận, v.v… đều là bộ của luật (có thuyết nói hai bộ, mười tám bộ, hai mươi bộ, hoặc nói rằng: Kinh Di giáo, Ái Đạo, v.v… đều sai). Kế là hai Luận trong kinh luận cũng tức đại tiểu, đây gồm hóa giáo. Trong kết lược, Phí trường phòng sau Chu Cao Tăng, Chu Võ diệt pháp là Học Só dịch kinh. Văn Đế đời Tùy vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bảy soạn Lịch Đại Tam Bảo Lục, 15 quyển, nay thấy trong Đại Tạng. Kế rõ dị chấp, trong nêu có người cho là hai Sư Thông, Phú ban đầu truyền Tứ Phần, Tổ Sư không hợp khoa làm dị chấp. Nay cho rằng nói dị chấp là tên các chấp kia, thì có gì mà chê? Dầu cho vọng hiểu, đâu không suy nghó chỗ bẩm thọ trước của Sư cũng nêu ở sau. Lại trước nói rằng: “Năm bộ dị chấp” thì bộ chủ của sở tông cũng ở trong đó, sao lại hùa theo Thông, Phú ư? Chẳng phải bậc Thánh thì không pháp tức người đây. Trong nêu bày đã nêu các Sư và nêu ra Cao Tăng Truyện, xưa ghi rộng dẫn, nay thì khác, nếu y chỗ chép lại nào khó, nhưng e luống công, phí thời giờ lẫn lộn ý chỉ Sao, hẳn muốn biết thì lấy truyện mà tìm hiểu. Nay chỉ nêu tên, lược chú Sư bẩm thọ. Pháp Thông (vốn người đời Ngụy, vốn học Tăng-kỳ, ban đầu truyền luật Tứ Phần, truyền luận rằng: “Từ ban đầu thầy khai luật hiệu là Pháp Thông). Đạo Phú (đệ tử của Pháp Thông, Pháp Thông chỉ truyền miệng, Đạo Phú bèn soạn Sớ sáu quyển, truyền luận rằng: “Chỉ là khoa trưởng đến nghĩa cử thì chưa nghe ở đời”. Tuệ Quang (từ Quang đến Huy đều là người đời Bắc Tề, Quang y theo ban đầu soạn Sớ 10 quyển, sau cắt thành bốn quyển, cho nên nói rằng “lưỡng xuất”. Hồng Lý (Sao hai quyển) Đàm Ẩn (Sao bốn quyển) Đạo Lạc (Sao bốn quyển, ba Sư đều là đệ tử của ngài Tuệ Quang) Hồng Tuân (ban đầu nương học Đạo với Đàm Ẩn, sau nghe Đạo Huy giảng, làm Tăng Thống cả nước cho nên lấy tên nầy.) Hồng Uyên (bẩm thọ Hồng Tuân, sau soạn Sớ, không biết nhiều ít) Đạo Vân (Sớ chín quyển, Sao một quyển) Đạo Huy (Sớ bảy quyển) Pháp Nguyện (ba Sư trước đều là môn nhân của Tuệ Quang, Pháp Nguyện người đời Tùy, Sớ mười quyển, Sao hai quyển) Đạo Hồng, Pháp Thắng, Trí Thủ (đều người đời Tùy, nương Hồng nghe học, ban đầu được truyền thừa của Tổ Sư) Pháp Quang (đệ tử của Hồng Uyên, Tổ Sư cũng thường theo học một tháng, hiện nay sớ vẫn còn) Cơ Sư (Tăng truyện không chép) Trong kết chỉ là Đàm Viện (người đời Tùy) Tăng Hựu (người đời Lương, tức tiền thân Tổ Sư, hai thầy đều trước học Thập Tụng sau truyền luật Tứ Phần, không rõ soạn thuật) Linh Dụ (người đời Tùy, Sớ năm quyển) Hồng Biểu, biểu là ngoài, hoặc nói rằng Hồng Ngoại, Hồng Tả đều chỉ cho Ngô Việt, ở ngoài Giang Hán. Quan nội tức kinh, chẳng phải Giang Nam tức Lạc Dương. (tờ 1 7 7) Thục ô tức hai châu Đông Tây. Chỉ cho nghĩa Sớ, chưa thấy văn kia, trước nay chỗ rõ đều là Sao, bài tựa trước chép rằng “Bao cả dị bộ”…, bốn câu bao gồm có thể thấy, Lạc trong Dị Chấp truyền diễn tuy nhiều mà không ngoài sáu chấp, cũng như trên đã dẫn. Kế nói về ngụy kinh. Một, là đời phần nhiều không biện tùy được lạm dụng. Hai, là sự trái chính điền, trái là chấp cứ, như ba trăm phước phạt, ba mươi sáu thạc, các lương thực. Năm bộ năm mầu y, dùng tiền mua đồ ăn Phật, v.v… đều như sau phá. Nay tông trích dẫn đều y cứ chân văn, khiến người sau học sinh tín, hành sự không nghi, ý chương nầy như vậy. Trong nêu bày, kinh luận tham nêu hai mươi lăm bổn, kinh có mười bốn, luận có mười một, ở trong ấy Chư Phật đều có hai bổn chân ngụy. Tông khác hoặc dẫn đều chính bổn, kết chê bai có thể biết. Tùy Văn Đế ra lịnh trong Trường Phòng Lục chỗ không thâu đều đem đốt, xem xét đó không hết, đương thời vẫn còn dùng cho nên đây chê, nhưng Ni sao, nghĩa Sao hoặc lại trích dẫn, chưa rõ ý gì? Trong Sao Hưng nêu nói là “bổn ý”, sau nói rằng “gặp cơ có dùng đồng với ở đây”. Trong phần chính thức nói khoa ban đầu gom nhiều về ít cho nên nói là “nhiếp lược”, nêu một chung các tên để bao gồm, còn bao nhiêu như trước giải thích. Khoa kế, trí là hiểu biết, lượng là đo lường xem nhẹ. Du ngôn tức tự chỗ sao lại đạo pháp. Hai chấp có, không đều là sai trái, bốn chấp công kích nhau gọi là hí luận, nay lượm lặt các sách, lấy bỏ của các nhà dịch, e nghi đồng kia cho nên phải ngăn đó. Trong chính tông, văn ban đầu, câu trên suy tôn thấy rõ sự sai trái tự dứt, câu kế trình bày nỗi lòng của mình, nói cần bỏ đi. Thường sau chính tự lại lược bỏ bớt. Hai câu đầu nêu xem xét. Phú nghĩa là lật trở. Bốn câu sau nói về chỗ san (lược), một việc nêu ít so sánh với nhiều, một việc còn vậy huống gì hành sự một bộ thì phiền nhiều kia có thể biết. Trong văn, phiền nhiều có hai lớp: 1- Phế lập nhiều: Các nhà hướng về nhau. 2- Tình chấp nhiều thì các nhà tự luận. Nay sau nêu bày hay san cũng có hai: Toàn bỏ san: Như pháp thọ giới và mười ba nạn yết-ma giới bổn, v.v… đều rộng nêu nghĩa môn, nay sao không chép. Đối phá san: Như sau chỉ nói rằng “các thuyết khác nhau, giải xưa nhiều đường, bỏ nghĩa xưa, v.v… mà không ủy dẫn thuyết kia. Như vậy tự nhiên giới thể rộng hẹp, vuông tròn, ba tiểu lập tướng an cư, thọ nhật, v.v… đều phần nhiều xưa giải mỗi mỗi nêu phá. Đây chỉ nêu thẳng nghĩa nay, dẫn bày giáo pháp, chứng minh để được lòng tin, cho nên nói “nay đều đồng”. Lại dẫn một việc, bao nhiêu y theo đó mà rõ, như sau hỏi rằng: giới tự nhiên là vuông hay tròn? Đáp: Xưa nói nhất định là vuông (sau dẫn thuyết kia thì san lược). Sau dẫn Luật Thập Tụng, Bổn Luật, luật Ngũ Phần, Thiện Kiến, Liễu Luận, v.v… vẫn nói là “rộng dẫn thành chứng minh nhất định là vuông phải bỏ đó (đây nghĩa là chỉ giữ văn chứng minh). Đầu đề văn san phiền chỉ y cứ theo đây, như trên đã nêu tưởng không hoặc. Chỉ bao nhiêu trong nghĩa, nhưng nay sao nầy đều tùy san lược mà các Sư giải thích chưa hẳn hoàn toàn sai, hoặc chương nghĩa mở cửa nẻo kia, hoặc hỏi đáp giải thích chỗ sâu xa nhỏ nhiệm, vì sao trong đây một bề trừ bỏ? Văn rõ ý nầy y cứ hợp giữ, chỉ do khó hiểu, không xem thường người mới học. Cho nên riêng vì một bộ gọi là nghĩa Sao, văn có ba quyển, quyển hạ đã mất, cho nên nay chỉ văn kia phần nhiều bị thiếu. nghĩa sao khởi đầu mối rõ văn ở đây, xưa phần nhiều nói sai, hoặc nói “hai Sớ dư”, hoặc nói “hai sớ khỏe bổn”, như riêng đã phá. Nói đủ là “Thiệp Tỳ-ni nghĩa Sao, ở đây chỉ nói lược, dùng chữ “Tập” thay vào. Sau riêng nói nghĩa Sao, Biệt Sao, đều dụ cho ở đây. Trong Văn thông vẫn dung, bao nhiêu luận khác gọi là nghĩa giải, dung thuyết kia là rõ kia có thể giữ. Hai câu trên rõ sâu xa của nghĩa, từ hai câu dưới rõ không ích cho sơ tâm. Nói thông giải là người có mắt biết rộng hiểu sâu, đủ dưới chính chỉ văn kia, rõ trong không đủ ngăn sự nghi ngờ ở đời rằng: “nghĩa chính giáo ba tạng không sửa chữa, vì sao trích dẫn liền có lấy bỏ?”, cho nên ở đây giải thích dẫn chứng cứ. Ban đầu rõ ý lấy, kham vào tông, hợp hành sự nay. Từ sau chỉ các chỗ khác, tóm yếu bao gồm là sở tông của Sao, bàn ngang văn phần nhiều là điều kî ngày nay, nên nói là “chẳng phải ý của Sao”, cho nên ở sau dẫn chứng. Ban đầu dẫn bổn luật đưa ra ba mươi quyển, kế dẫn Mẫu Luận đưa ra thứ sau, đều là Tỳ-kheo nói pháp cho người không thể nói rộng, bạch Phật, nên cho văn luật đủ, dẫn luận lược lời bạch cốt yếu nghĩa là tinh yếu phải gồm nhiếp. Diệu tức là khéo léo thích hợp căn cơ. Bày chỗ làm là ý của sao. Kế vọng tức là phỏng vấn. Trên rõ pháp có thứ lớp không nhờ tìm nơi khác, sau rõ sự chuẩn thừa, không nghi ngờ được mất, đến cơ có dụng, hai câu tức sự tức hạnh đối nhau, lời khác nghĩa đồng, bốn câu nầy là đại tông của một bộ, riêng khác các thầy vượt cao chín đời, suốt cả ý chỉ khéo léo của Như lai mở môn giải thoát chúng sinh. Tam Bảo sở dó trụ trì, năm thừa sở dó phát huy là do công phu nầy, là do đề mục hành sự ở đầu đề, lời dạy bảo khắp ở một bộ, hễ dẫn dắt chúng là do môn nầy. Thiền, giáo tuy khác mà đều nhận ơn, muốn tìm rộng giúp có thể nói kể hay sao? Ngăn vọng thêm tức là Thánh ý, xa xem vị lai đều khởi giải thích, quyết trái bổn thú cho nên ở đây ngăn. Ban đầu chép vọng thêm: Không là việc gấp, tức chương ký các Sư đang hiện hành ở đời, hoặc rộng bày pháp tướng, hoặc nhiều tạp sách thế tục, cuồng che tông Tổ làm mờ mắt trí, xin rõ lời dạy của Thánh, tự có thể xét, khiến sau kế rõ lỗi hoạn. Câu trên rõ hoại giáo, nay Sao trước sau đều khảo cứu Thánh điển, nên nói là “Chân tông”. Câu kế rõ hạnh mê, giáo hạnh cả hai đều quên thì phá giới làm ác, chẳng phải Sa-môn, như loài chim chuột, ở đây xuất xứ từ kinh tạng Phật. Kia rõ Tỳ-kheo không tu giới hạnh, chẳng phải đạo, không phải thế tục, giống như con dơi chẳng phải chim cũng chẳng phải chuột, dẫn đủ như trong thiên tụ, ý cho là Sao, đây đã cùng người biết nâng lên, do kia uế tạp, sau tiến lại mê, nên nói là “Lại giữ ”. Tư Nhật là thông chỉ chung thời này, tức người học ngày nay chuyên nghiên cứu chương ký, tranh nhau giảng nói biện luận để làm kỹ năng cho mình, thân phạm tội nặng Ba-la-di, miệng nói giữ tội nhẹ Đột-cát-la, tự cho là tinh thông, rõ là trộm tướng, lại tổn hại của bốn phương. Khéo hiểu khoa dâm, càng mê mờ ba đường, chiều nhai nuốt mà còn nói giới không ăn quá ngọ, tối uống rượu mà vẫn bàn giới cấm rượu. Trước mặt người thì xem xét tướng mạo, dối hiện oai nghi, ở chỗ vắng thì không hề kiêng sợ, bọn nầy trông thấy chữ đâu là nói dối. Bởi lầm trái chương ký, lại là sự tầm thường của thầy không khiến dạy với không khiến, người mù dẫn bọn đui, Chân tông Tổ Sư gần bặt từ đây, khi gặp ý nầy bất giác thở dài, nhân ghi văn nầy càng thêm đau xót, tự chẳng phải bậc Thánh xem xét thì ai thấy được lòng buồn của tôi. Trong tổng kết, ba câu trên kết trước, tóm lại thì nghiệm mười môn, chẳng phải tựa riêng đã nói. Các môn tức các thiên dưới, thì rõ trong giáo khởi chỉ các môn chẳng phải chín môn đã rõ. Triết biện, như sau chỉ rộng có thể biết. Biệt luận thì ba mươi thiên, vọng tựa là riêng đã rõ. Đoạn lớn thứ ba chỉ bày hành tướng đã nói, ban đầu trong bày chung là nhà ở, cửa Phật rộng lớn dung nạp trong đó dụ như biển. Tăng bẩm thọ sự giáo hóa của Phật liền ở trong đó, như phạm trọng cấm gọi là biện tội, nghĩa là trôi ra ngoài biển Phật pháp. (tờ 1 7 8) Lưu tức là nước pháp có thể nẩy mầm các vật, cho nên so sánh với nước. Xí dự là năm chúng, đây rõ thân Tỳ-kheo đầy đủ Tam Bảo, chỗ tu pháp hạnh tuy vẫn muôn đường, do chúng tự cùng nhiếp không đâu chẳng cùng tận, nhưng y cứ hạnh thể chỉ là hai trì, chỉ đến trong việc làm chọn riêng một mầu. Tăng làm pháp yết-ma cho là chúng hạnh, còn bao nhiêu tạp pháp chung qui về cộng hạnh. Muốn cho hai phần cương mục chúng khác không lạm cho nên nói rằng “chỉ ba vị”. Trong biệt đối, ban đầu rõ tự hạnh, câu trên rõ bền chí nhiếp tu, câu kế chỉ bày học biết giáo tướng, ra khỏi Thánh đạo không giống tà thuật, cho nên nói là “chính giới”, văn chỉ thể tướng quyết đủ pháp hạnh, thể phụ giải thích tướng, tướng gồm bốn thiên, hai chữ “cố thử ” gồm ở quyển trung. Từ sau kế rõ các hạnh. Câu trên tiếp trước, câu kế chính chỉ bày. Hễ làm tăng sự hẳn trước lựa chúng, cho nên cần thể trong sạch mới nên thưa bạch. Nói cương lãnh là đối mao mục ở sau. Giúp nhiếp trụ trì còn ở chúng pháp, tùy sự tu trì ở nơi hạnh riêng, chúng pháp còn thì biệt hạnh tu, cương lảnh nêu thì mao mục chính. Trên, dưới, tác trì, phân chia ở đây, tự tha dưới rõ cộng hành. Câu trên chỉ bày hành tướng, hễ làm đạo chúng, kia và ta đồng cần tức là cộng nghĩa, cho nên nói là “hai đức”, đức cũng là hạnh. Câu sau rõ phiền nhiều, trừ Tăng làm pháp yết- ma, tất cả tác hạnh đều qui về cộng thâu, chỉ cộng hành đây nhiếp nhau rất rộng, cho nên nói rằng “nhiều đường”. Hoặc có thể câu trên tiếp hai hạnh trước, câu kế tránh bày hành tướng, nghĩa là quyết cần cộng hành giúp thành tự chúng, cho nên nói rằng “thành tướng có nhiều đường”. Hỏi: Hai hạnh tự chúng cũng chế đồng dẫn dắt, đâu chẳng phải lạm nhau hay sao? Đáp: Tự hạnh thì hộ thể phòng tâm, nghĩa là chẳng phải cùng cái khác, chỉ làm thể riêng, ở đây không ở lời để bàn các hạnh. Làm lụng sự nghiệp phần nhiều vì người khác, nghĩa chẳng phải hạnh thường, có duyên mới nêu. Cộng hành không phải như vậy, nhật dụng thường cần, là tăng đều bẩm thọ chương mục riêng, như y, thuốc, bát, đồ đựng kim, mời dẫn đạo người đời v.v…, so sánh hai hạnh của tướng riêng có thể biết. Nhưng đề mục ba hạnh, người xưa đã truyền, nếu lấy văn nầy rõ nêu tự hạnh, lại trước nói rằng quyển thượng thì nhiếp việc chúng, tức tự chúng hai hạnh danh nghĩa rõ ràng chỉ là cộng hạnh. Tuy là không văn nói hai đức, nghĩa lấy không sai, xưa phần nhiều vọng giải không khỏi lời nhiều (xưa nói rằng bốn vị yết-ma là chúng hành, một vị tâm niệm là tự hành, hai vị là cộng hành là sai). Hỏi: Văn trước đã chưa, vì sao lại buộc? Đáp: Trước xếp vào năng thuyên thì dùng văn nhiếp hạnh, ở đây nói sở thuyên thì chỉ hạnh ở văn. Tuy văn hạnh đều rõ mà cả hai chính ý đều riêng. Hỏi: Trước quyển thượng ở đầu, đây thì chỉ có quyển trung làm đầu, vì sao lại không đồng? Đáp: Ý như trên đã giải thích. Hỏi: Nếu vậy vì sao không y theo thứ lớp hạnh để tự hành làm quyển thượng? Đáp: Đây có hai ý: 1- Y cứ thứ lớp của hạnh thì trước chỉ sau tác, tự hạnh hợp đầu. 2/ Y cứ sự hơn kém thì trụ trì công lớn chúng cần để ở đầu. Cho nên tựa luật nói rằng: “Do chúng hòa hợp cho nên Phật pháp được lâu dài”, nay lấy ý sau như văn đã nêu. Trong song kết, cả hai giáo hạnh đủ nhiếp hết các căn cơ. Hai câu đầu khoa kế là nêu khó, nghĩa là sự tùy thiên loại, thì khiến ba hạnh xen có gởi vào, như quyển thượng nêu tông cũng rõ pháp thể hành tướng và xả giới, sáu niệm, riêng người, nói tự tứ, biết nghi, phát lồ, v.v… thì chúng hạnh gồm tự và cộng. Lại quyển trung, trong sám sáu tụ, chúng biết hối pháp thì tự hành gồm chúng và cộng. Quyển hạ, nhiếp y, nhiếp thực, vật của người chết v.v… các pháp yết-ma và tạp hạnh v.v… thì cộng hạnh gồm tất cả Chúng và Tự. Ba hạnh xen nhau không thể xếp riêng vào một loại, cho nên nói là khó. Như sau giải thích cái khó ấy, tướng thành lỗi nhiều, thiếu. Hai câu trên bày lỗi thiếu lược. Đường dài tản giải thích, nghĩa là không ước thâu tóm ba hạnh. Ít thảo luận nghĩa là không xứng cơ. Do lời không chỗ qui thú, người khó xem xét, cho nên hai câu sau nói về lỗi phiền tổn. Lời cong chia, nghĩa là theo quyển tùy thiên, rõ ba hành lựa xếp. Lỗi ở phiền toái là loạn giáo chỉ. Trong ba hạnh đầu nêu bày, nay phán. Hai câu trên chính bày hai lỗi đối phiên. Tùy nghi là lìa lỗi ít thảo luận ở trước. Y cứ lược là phiên trước cong chia. Kết chung nghĩa là phần lớn ba hạnh, phiên trên tán giải thích. Chỉ quy là tuy có gần nhau mà nêu hạnh nhiếp thuộc, lìa lỗi phiền toái ở trên. Hai câu dưới rõ ý, khiến cho là linh với người sau, giềng mối tức ba hạnh. Mao mục tức các thiên sử song hành tướng, sau kết khuyến, câu trên khuyên học mở sự hiểu biết, câu dưới khuyên tu để thành hạnh. Tái là lặp lại.  TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN THƯỢNG (PHẦN 1 - HẠ) Đầu đề quyển thượng như trước giải thích, nay gồm chia đối lược có bốn điểm khác nhau. Y cứ năng sở, ba chữ trên đề luật là sở tông, bảy chữ dưới đề Sao là năng tông. Lại trong đề luật, Tứ Phần thuộc về năng tập, Luật là sở tập. Trong đề Sao, ba chữ san, bổ, hành là năng. Ba chữ phồn, khuyết, sự là sở. Lại chữ Sao là năng, hành sự là sở. Y cứ chung riêng, đề luật là chung, suốt các bộ cho nên đề Sao là riêng. Cuộc hạn văn nay cho nên Tứ Phần là riêng, một trong năm cho nên chữ Luật là chung, các tông đồng xưng cho nên sáu chữ San… là riêng. Vì không chỗ lạm cho nên chữ Sao là chung, do dung hợp nhau. Y cứ theo người chia, luật là Phật chế, Tứ Phần là bộ chủ tập, sao do Tổ Sư soạn. Y cứ tiếng Hoa, tiếng Phạm. Ba chữ trên dịch Phạm thành Hoa, dưới đều là tiếng Hoa, Phạm nói là Chiết-lý, Chất-lý, Hán dịch là Tứ Phần, theo phong tục xứ nầy nên xa đổi lời kia. Biện luận tiếng Hoa, tiếng Phạm như trong giải thích tướng, rất biết phiền toái giảng học, phân tích văn chẳng được không, người quên nơm lại phiền hoạn gì, bọn chấp chỉ không nói cũng chấp, đâu thể nào không? Trong thiên nêu tông khuyến học. Văn cuộc hạn quyển thượng, nghĩa gồm một bộ. Mười một thiên sau chính rõ chúng hành, nhưng thành biện Tăng sự phải nhờ bốn duyên: Nhân, pháp, sự và xử, thiếu một không thể được. Nay các thiên nầy y theo đó mà nêu. Thứ hai, ba, bốn là người năng bỉnh, thứ năm là pháp bị bỉnh (thưa), thứ sáu tức pháp sở bỉnh, về sau sáu thiên là pháp được giúp. Sự lại có ba, bảy và tám, chín tức có tình sự, mười và mười hai tức chẳng tình sự. Một thiên an cư tức hai hợp sự (vì người y xứ, nếu y cứ trong thiên, chia phòng, thọ nhật, đều là phi tình như vậy). Văn của một bộ bao gồm văn thể ba tạng, chính ý chỉ về giới luật, cho nên ngay khi nêu ra chính tông rõ bày đức tốt, giúp phàm phu học tập có chỗ để tâm, không luống công sức, cho nên đặt thiên nầy ở đầu quyển. Tiêu là chỉ dạy, tông là giới. Hỏi: Sau nêu bốn món, cái gì là Tông? Đáp: Nếu làm riêng chỉ có phán là tông. Sau nói là tông thể hoặc pháp thể, tông pháp xen nêu chỉ riêng nào có nghi ngờ. Nếu y cứ lu- ận chung thì bốn món đều là tông, vì giới pháp gồm ba món khác. (tờ 1 7 9) Nói hiển đức là rộng dẫn giáo tướng, khen bày công đưv1 của giới, nay biết bổn thọ chuyên khuyên giữ gìn, tức khoa sau nói rằng: “Thuận giới thì Tam Bảo trụ trì, làm việc Tỳ-kheo”, đến văn có thể thấy. Từ xưa chương ký đều dùng khoa nêu tông làm thể, tăng rất mất ý văn, như sau công đó. Nay rõ thiên nầy chỉ bày học tông, khuyến khích gìn giữ vâng làm, thông suốt các thiên gồm phát ba hạnh, là do Ni Sao đề nói rằng “Khuyến học”, y cứ kia nghiệm đây mới thấy tâm Phật. Người học gặp văn càng phải dụng ý, dẫn dắt khai dạy rất tinh tường, muốn cho mắt trí mở sáng, đường học không bít lấp, đây mà không suốt thì các chỗ khác đều mất công khuyến khích. Chú có hai ý: 1- Mở chương, vì trong thiên nầy không nêu riêng. 2- Tức giải thích đề. Do hai môn nầy hợp nhau, đó là đề mục, e người không hiểu cho nên chú thích. Khen giáo trong văn, chữ Luật là pháp, dưới biển đều là dụ, nay trước nêu dụ, sau đó hợp pháp. Ba chữ đầu rõ dọc sau, câu kế rõ ngang rộng, tuy hai câu sau rõ dung mà không tạp, thắng hai câu sau rõ miễn mà không lạm, xung cũng dạy sâu, lần lần sâu vào, đâu có cùng tận. Thông muôn tượng là trời đất muôn vật đều nhờ thấm nhuần. Bao gồm, v.v… là trăm sông qui về, không giữ thây chết là vì tình trong sạch. Đằng nhạc là thế buông lung, nhạc dụ cao kia, mây dụ sự cho động kia là dụ trong dụ. Triều không lỗi là lên xuống có giờ, cho nên pháp hợp giữa và đầu hợp dọc sâu. Chư Phật lâu xa, ba thừa Thánh Hiền do giới giúp thành đến hiện tại vị lai lần lựa không cùng, cho nên giới sớ nói rằng “Trước tròn thánh quả, sau đủ nhơn hiền”. Dần sinh nghiệp đời, sau lần lựa trụ trì, chúng sinh không cùng, giới cũng không cạn, tức giới bổn nói rằng: “Như Chư Phật quá khứ, chư Thế tôn hiện tại và vị lai đều tổn kinh giới”. Hợp ngang rộng ba nghĩa mà giải thích: Rõ khắp cảnh. Pháp giới mười phương, hai báo y chính, tình và phi tình đều là Giới. Y cứ nghiệp cấm: Ba nghiệp, bốn oai nghi, tạo tác hành động ba ngàn tám muôn đều là thánh chế. Y cứ theo giúp hạnh: muôn hạnh do đây mà sinh, các thiện đã trụ ba thánh đạo thành tựu đều do giới xem xét. Cho nên hợp trong thứ ba giới pháp hoằng thông lời thầy dạy trong chín đường. Người gồm thâu cả bảy chúng, thú là gồm phi nhân và súc sinh (bổn tông nhận chung năm tám) nhiếp giúp không sót, cho nên nói rằng “không ngoài”, nhưng thì hoặc trái trọng cấm, giáo đã không dung. Năm chúng thì tro bụi nhiễm ô dòng trong sạch quyết thêm phạt diệt tẫn, còn bao nhiêu thì vào đạo không lợi ích, thường chướng ngại xuất gia. Nếu luận trị diệt tẫn thật thông các thiên, nhưng đối với thay chết cần ước bốn giới trọng, tức lời tựa luật chép: “Thí như có thây chết, biển lớn sẽ không dung nạp, bị gió lớn thổi dạt vào bờ”, các hành giả làm ác dụ như thây chết kia, chúng tăng không dung nạp, do đó phải giữ giới. Hợp bốn thứ, là chỉ, tác, trì, phạm, tùy duyên khởi chế. Tuyên tướng hoạt bát dụ như sóng ngòi, nhưng thiên tụ nặng nhẹ, duyên phạm đủ, thiếu, định là phạm hay không, mảy may chẳng sai sót. Chúng biệt hành tướng tạo tác có oai nghi, như chẳng thành bại, không cho lạm khác, như triều có tín, pháp dụ càng bày. Luật nói “Biển có tám phép đặc biệt: Tất cả các dòng đều đổ về biển. Thường không mất hạn triều cường. Năm sông lớn đều chảy về biển mà mất tên gọi cũ. Năm sông lớn và trời mưa đều qui về biển mà không thêm bớt. Nước biển đồng một vị mặn. 6- Không nhận thây chết. Sinh ra nhiều châu báu. Là chỗ ở của loài hình lớn. Trong đây lược nêu chưa hẳn hoàn toàn đồng. Như bài tựa giới bổn, nhưng rõ hai đức hẳn muốn gượng phối, đến văn tự dứt. Trong khuyến trì, khoa đầu rõ việc của người xuất gia chỉ có hai việc: 1- Phải thọ giới. 2- Phải học đạo. Trong phần đầu, câu trên là nêu người, phàm nghĩa chẳng phải một. Xí dự là đối sau. Mộc tâm là chỉ thân miệng. Phật pháp sâu xa nhiệm mầu, có lòng tin mới vào được, cho nên nói là “huyền môn”. Khắc sâu chỉ bày chỗ học, khắc giống như phải. Thanh cấm tức giới pháp, giới ngăn bảy nghiệp, cho nên không cho trái. Hai là trong học đạo, câu ban đầu nêu người. chính đạo trọng sạch, tẩy rửa bụi trần, cho nên dụ như nước, mến luyến rõ chỗ tu, mộ tức chí niệm, nêu cốt yếu tức chỉ cho định tuệ. Định vắng lặng, tuệ sáng suốt, không theo dục trần cho nên không nhiễm đời. Trên y cứ ba học sự lý, nghiệp hoặc đối nhau để rõ, nên biết người xuất gia nghĩa không học, nghiêng về một bên, chuyên sự mờ đạo thì chẳng khác phàm phu ưa đạo quên sự, do đâu tu chứng. Trên là đối rõ ba môn học, cho nên dưới hợp bày hai lợi. Hai câu đầu chính là bày đức. Ích thời tức vật ngoại dụng đều giữ gìn, sinh thiện thành lợi tha. Vượt lưới trần, ít dục, bặt phiền lụy thành tự lợi. Bởi sau suy lý do kia. Hai câu trên rõ công lợi tha vốn do tịnh giới. Hai câu dưới rõ đức tự lợi thật nhờ định tuệ. Pháp tức là giới, đạo tức định tuệ. Trong không học, khoa đầu, hai câu trên là nêu người. Kiêu mạt là thời, biết cạn là không hiểu biết. Dung kiến là đồng với trần tục. Tuy sau bày tướng thấy cạn, trước lại phân định hai câu đầu rõ ít học, hai câu kế rõ hạnh mỏng, hai câu kế nữa rõ tình sơ, lại hai câu kế nữa rõ chí bít lấp, cuộc hạn sau đến thể rõ là ngôn luận thế tục thấp kém. Danh tham là không thật đức. Truy phục tức mặc áo mầu đen. Không y Luật là trái thánh giáo. Cho nên sơ dã là không câu buộc, nên chân yếu cùng chân thú sau đều chỉ ba học ở trước. Phong dụ như đóng kín. Ôm gốc cây dụ kẻ ngu kia. (Hàn Tử nói: “Nước Tống có người cày ruộng, thấy trong ruộng có con thỏ chạy đâm đầu vào gốc cây gẫy cổ mà chết, do đó giải thích người cày ôm gốc cây mà đợi được thỏ nữa). Chí tức là tâm. Bặt trông thông là không hề thấy gì. Còn đối với ngôn luận, hai câu đầu nghĩa là không thật khảo xét, cuộc hạn bít lấp. Chi dụ như ở, thủ là đầu. Câu nầy tiếp trên sinh dưới. Bốn câu kế rõ hỗn tập đồng thế tục. Sự tức việc đã nói, nghiên cứu sau nên tích học để so sánh. Ám thác nghĩa là không hiểu việc trước, tối tăm là đó. Thể tức là hiểu. Trong bốn cái bày lỗi thì điều ban đầu rõ lạm giáo. Thực hành trái chế vọng cho là y luật, cho nên là lạm. Pháp ty tức Luật tông, luật thật không phải vậy mà người ngu cho là vậy; cho nên là kia loạn, tức người học thế gian nói luật dạy người tự đổi chác áo vải nói là vâng lệnh vua; tối ăn cháo cổ chay cho là tùy phương tiện; ăn nuốt phi thời vọng nói chưa hẳn là ác chữ; tham uống rượu thuốc lại nói bị bệnh phải trị; ngu tăng không học, truyền cho là khẩu thật (nói thật); dối Thánh loạn pháp có gì qua đây, người sau có hiểu biết phải cẩn thận chớ theo tà, buông lung về sau. Kế rõ chuyên nhậm. Tứ là buông lung. Thuận tình mình là chẳng phải chế mà chế là buông lung. Trái ý ta là chế liền dứt gọi là đoạt. Sự đã trái pháp, người có ai chẳng theo, liền lấy oai võ ức chế mà khuất phục họ, cái gọi là Tỳ-kheo trì giới lại bị trị tẫn, cho đến La-hán cũng bị đánh mắng tức là việc kia. Bạo là hung ác, khắc tức là xâm hại, còn chẳng phải ba học so sánh. Tục tiết tức lễ ở đời, lễ để tiết chế con người. Khổng Tử nói: “Chẳng phải lễ chớ nhìn, chẳng phải lễ chớ nghe, chẳng phải lễ chớ nói, chẳng phải lễ chớ siêng”. Khúc lễ nói: “Ngạo mạn không thể thêm lớn, lòng dục không thể buông lung”, đây là sách Nho dạy hành động quyết hợp lễ không cho buông lung cao ngạo, thì đâu có người học đạo xuất thế lại thành buông lung, đến đỗi sau bốn câu bày tổn hai. Câu trên rõ đường học bít lấp, câu kế rõ diệt pháp luật, hai câu dưới là than thở. (tờ 1 8 0) Bàn là tảng đá lớn, quẻ khốn Chu Dịch nói rằng: “Khốn ở đá, chiếm nơi cỏ ấu” (chú rằng: đá là vật cứng mà không nạp) dụ cho phàm phu ngu tối lạm làm thầy, vọng làm phi pháp, thì khiến người sau giải hạnh không tiến như bị khốn trong đá, nếu lại không học thì hổ thẹn rơi vào không biết như chiếm cỏ ấu. Đây là hiện tượng tới lui không thể được, đường đời chạm mắt đâu không rõ ràng, ở nhờ nên là ngựa vấp dây cương, hẳn lại buộc xe, hai điều nầy là vật cốt yếu của càng xe. Luật là quan trọng nhất trong sự giữ gìn, cho nên để so sánh. Trong phần nêu hưng thế, câu đầu lời thông trên dưới. Trước chép biết cạn cho nên thế, sau khuyên sùng sự sâu xa hẳn khởi. Câu kế dặn người học sau. Lại sau hiển bày lợi ích trí Phật sáng rỡ, cho nên dụ như mặt trời, pháp có thể bẻ gãy nghiệp hoặc, cho nên dụ như vòng xe. Nếu được người kia thì Tam Bảo được trùng hưng, trái trước tráo trở suy sụp, cho nên nói là “tái”. Trong phần chính nói, khoa đầu mong sau giải thích tướng, cho nên nói rằng “lược chỉ”. Tông tức là pháp, chứng đều không nghi, khiến sau bày ý. Hưng nghĩa là phát tâm, kiến là lập hạnh, biết thể tấn hạnh thành nhân cảm quả, cho nên nói rằng “có nhờ”, như văn sau kết. Trong lãnh thọ, văn đầu là hai, trước bày pháp thể. Câu trên rõ giới pháp có khả năng giúp người. Câu dưới rõ giới thể là gốc lập hạnh. Khí tức là cơ, lớn nhỏ, phàm thánh, đạo tục, bảy bộ thượng, trung, hạ tâm đều giành được. Thú là qui thú, thể có công năng sinh hạnh, hạnh lại giữ gìn thể, dùng hạnh trông thể, thể là chỗ quy về, cho nên biết Tỳ- kheo dùng thể làm gốc. Lảnh nhận một chút sai sót thì trọn đời luống uổng, tan nát việc lớn một đời không thể cẩn thận hay sao? Kế sau nói về được mất, ban đầu nói được, y theo phần thọ giới phải đủ năm duyên mới phát giới phẩm. 1- Năng nhận có năm: Phải là loài người Các căn đầy đủ Thân thể trong sạch Đủ tướng xuất gia Được chút phần pháp Sở đối có sáu: Giới, Tăng, Đủ số, Nhóm hết, Bạch tứ Yết-ma và đủ giúp duyên. Phát tâm cầu xin giới. 4- Tâm cảnh tương đương. 5- Sự thành rốt ráo. Nay dùng một câu khéo sạch đối thâu một và ba câu xứng duyên liền thâu thứ hai. Một câu “mới liền” tức thâu bốn và năm, khắc dụ như bên được. Như kế nói về mất. Ba câu đầu nói về duyên trái không được, tức ngược năm duyên không đợi hoàn toàn sai, có chút sai trái liền mất cho nên nói “mảy may”. Đồ là hư luống. Toàn sau bày lỗi không giới, câu trên mất tự lợi, hai câu dưới mất lợi tha. Trong phần kết giáo, hai câu đầu chỉ cho người bị nói. Sạch thân nghĩa là chí ưa bền tu. Tròn quả tức tâm mong cực chứng. Không v.v… trở xuống là một câu răn nhắc khinh lờn. Hẳn v.v… trở xuống là dạy dụng ý. Chuyên chí là có chỗ đến. Nhiếp lự là không tưởng khác. Khế là tâm hợp với pháp trước. Nhập tức qui pháp về tâm trệ ngại. Cho nên ở dưới dẫn chứng là kinh Niết-bàn quyển 18, kia v.v… nào nhớ giới Bồ- tát mà suy nghó, có giới không phá, không lậu, không hoại, không tạp (không phá tức bốn trọng, không hoại là các giới khác, không lậu không tạp tức khinh và trọng, phương tiện nầy y theo Bắc Viễn Sớ). Tuy không hình sắc mà giữ gìn được (phi sắc), tuy chẳng xúc chạm đối người khéo tu phương tiện có thể được đầy đủ (phi tâm), được Chư Phật và Bồ-tát khen ngợi, là đại Phương Đẳng, là Đại Niết-bàn, nhờ đây chứng lại tâm, lãnh nhận có giới đâu nghi? Trong gạn giải thích, khoa đầu, hai chữ trên là gạn chỗ thọ, chữ “phát” trở xuống là khai chương. Chữ “đãn” trở xuống là giải thích ý, ban đầu chép rộng. Chữ “thả” trở xuống là bày cốt yếu. Trong phần đầu, hai câu trên y cứ vào pháp nói rộng. Năm giới, tám giới, mười giới đủ bốn vị khác nhau, hoặc y cứ vào nghiệp, chủng loại bảy chi. Hoặc từ chỗ chế thiên tụ nặng nhẹ (đồ kết trái lại âm dật). Xe cộ đụng nhau, lỗi dụ kia nhiều mặt. Hai câu kế y cứ tâm nói rộng, tức bốn vị trên đều có ba phẩm. Như hai câu sau thì cảnh rõ rộng, tình và phi tình không thể đếm, cho nên chỉ bày cốt yếu. Trung xu là cái chốt cửa, cũng lấy nghĩa cốt yếu, muốn hiểu bốn khoa trước thì cần lược bày. Bậc Thánh chế giáo gọi là Pháp, nhận pháp thành nghiệp gọi là thể, y thể khởi được tên là hạnh, vì hạnh có nghi, danh, tướng. Có người nói rằng: “Chưa thọ gọi là pháp, thọ rồi là thể, nay thì không phải như vậy. Pháp là nghĩa suốt cả trước sau, đâu có thọ rồi mà không được gọi là Pháp. Phải biết, ba thứ sau, từ được hiệu đầu ở đây, cho nên mỗi mỗi đều được gọi là giới, hoặc có thể đều dùng chữ “Pháp”để suốt đó, mới hiển thể và hành tướng chẳng phải những cái khác thiếu thiện. Hỏi: Vì sao chỉ bốn chứ không nhiều hơn hay ít hơn? Đáp: Nhiếp tu trước sau không thừa hay thiếu, cho nên tùy hạnh một hạnh, bốn nghĩa đầy đủ, nói có thứ lớp, hạnh không trước sau. Hỏi: Pháp và thể đồng khác thế nào? Đáp: Nghiệp Sớ chép: “Thể là gốc của giới pháp nương”, ở đây thì pháp là năng y, thể là sở y, chẳng thể nói là đồng. Lại nói rằng: Nạp thánh pháp vào trong tâm, tức pháp là giới sở nạp, thể y cứ đây chẳng thể nói là khác. Nên biết nói pháp chưa hẳn là thể, nói thể chưa hẳn đã là pháp, không tức chẳng lìa, chẳng đồng chẳng khác. Hỏi: Hành tướng vì sao lại khác? Đáp: Vì ba nghiệp phân chia. Trong giới pháp, văn đầu có hai: Nêu bày lời dụ. Thẳng xuống là nói pháp tuy có hai thông nhưng không thể giải thích, nhưng từ Thánh luận cho nên nói là “trực”, là quyết định. Phép tắc thành là bày pháp nghĩa. Đạo xuất ly Thánh đã chứng. Giải thích tướng khoa là gốc của thánh đạo, tức đồng với ý ở đây. Cốt yếu sau nêu lý do theo thánh, nhưng đây chỉ bày công sức của pháp, văn không rõ chỉ cái gì là pháp. Ý khiến người học được mà được. Khoa kế, hai câu đầu tiếp trước, nay sau chính chỉ bày. Đã thành Sơ quả trở lên chỗ tu ba học gọi là Thánh đạo, cho nên nay tuy ở phàm cũng gọi là Thánh pháp, trong nhân mà gọi quả. Trong ba, ban đầu rõ lập chí. Hai câu trên rõ một việc gần, trái tục hướng đạo, được việc giải thoát ở nhân phàm, cho nên hai câu sau rõ trong mong quả xa. Dứt hoặc chứng lý tức lý giải thoát là quả Thánh. Lụy là kiết sử ba cõi, ngoài nghĩa là hai thứ Niết-bàn lại chúng. Trên y cứ thân nghi khác với thế gian, dưới y cứ tâm hạnh trong sạch. Hẳn sau khuyên sớm học. Nói hẳn dự là không được phải thời, cho nên tâm nầy tức hai tâm xa gần ở trên. Tùy người là tùy căn cơ hơn kém, cho nên sau chỉ bày tương ưng. Câu đầu nạp pháp làm thể, câu sau y thể khởi hạnh, hạnh phải gồm tướng, bốn món đầy đủ, cho nên sau kết tên, do y thể khởi, trì danh theo hạnh. Trong giới thể, khoa đầu là hai. Ban đầu chỉ có văn khác, Thông luận tức tông luận chẳng giải thích riêng, như Luận Thành Thật, Luận Bà-Sa, luận Tạp Tâm, Luận Câu Xá, v.v… chỗ phát tức vô tác, sau nêu ý nầy. Tướng là tướng trạng của tâm. Trong chính bày có ba câu thì hai câu đầu trình bày giới lượng. Pháp giới là y báo, chính báo của mười cõi. Trần sa dụ cho số nhiều. Hai đế là Phật chỗ lập giáo, đây gọi là y cứ cảnh bày giới cho nên nói “các pháp”, trở về sau chính nói về tâm tướng. Câu đầu lập thệ trọn một đời, câu kế gồm chung lễ kính, lời bày hai nghiệp thân miệng, chữ “thiện” trở xuống rõ bặt vọng niệm. Chữ “trắc” trở xuống nói về tâm pháp tương ưng. Trắc tư là gốc thành ng- hiệp, nhân được giới, trong ba phẩm tâm tùy phát những gì. Tuệ sáng là trở lại soi tâm cảnh như lý, xứng giáo mà chẳng phải cảnh trước, vọng duyên tưởng điên đảo. Hoặc do bốn chữ giải riêng: Trắc là phát tâm, tư là duyên cảnh, minh là có ghi nhớ, tuệ là xem xét. Trên rõ dụng tâm, dưới rõ hợp pháp. Do trên khởi tâm quyết cần khắp duyên trần sa các cảnh, pháp từ cảnh chế, lượng cũng cùng khắp, tâm tùy pháp sinh, pháp rộng tâm khắp, tâm pháp tương ưng, hộp và nắp tương xứng, cho nên nói rằng: “thầm thầm hội hợp”. Pháp dụ ở cảnh dùng tâm đối trông, cho nên nói là “pháp trước”. Sau nói rằng pháp kia nghĩa cũng đồng, từ đây trở xuống là nói về nạp thể. (tờ 1 8 1) Hai câu đầu nối tiếp trên thầm hội, dưới rõ pháp tùy tâm khởi, Pháp là vô tình do tâm duyên, cho nên lại tức tùy tâm, cho nên khi ba lần yết-ma thì ban đầu động cảnh, kế là nhóm nơi không, sau vào nơi tâm, pháp y tâm nên gọi là pháp thể. Chữ “lãnh” trở xuống là bày thể sở tại, nếu y cứ vào đương phần thể đúng sai, tâm không hiển chỗ nương, thể khác với tâm, nay nói ở tâm là lấy tròn ý, tức chỉ Tạng thức là chỗ sở y. Hai câu nầy chính bày vô tác, người xưa lại nói rằng đây là tác thể, đâu có trong tâm chỉ lãnh tác ư? luận? Hỏi: Nếu là vô tác tức là chỗ phát, vì sao văn trước chỉ như thông Đáp: Trong đây chỉ nói lãnh nạp ở tâm, không rõ chỗ nạp là sắc hay chẳng phải sắc, cho nên chỉ như kia, giải thích rõ tướng rộng. Hỏi: Trước nói rằng chính rõ tâm tướng năng lãnh, đâu chẳng phải tác giới? Đáp: Đây gọi là dùng tác hiển bày vô tác. Hỏi: Sao không thẳng bày vô tác mà rõ tâm tướng? Đáp: Tâm năng lãnh phát thể, chính là muốn riêng đây bày còn các chỗ khác đều không có văn. Nếu khảo sát ngược duyên do của pháp thì quyết thành sở thọ, nếu mê ý chỉ nầy các điều khác làm sao nói? Hoặc không nhớ vọng duyên, hoặc thiếu bao nhiêu thiện võng tượng một đời, trọn đời gặp nghi không đủ giới, lời Thánh có ý chỉ, cho nên ở đây nêu bày nghĩa không luống uổng. Trong giới hạnh có ba: đầu tiên là tiếp khoa trước. Chữ “ắt” trở xuống là bày hành tướng, phương tiện có hai tức giáo là hạnh. Giáo nghĩa là luật tạng quyết nương thầy mà học. Hạnh nghĩa là đối trị là ở mình tu, do gốc cùng tâm lảnh thọ giáo mong hành dùng làm thọ thể, nay lại như thể mà học mà tu. Văn rõ xem xét dường như khắp y cứ vào hạnh, nhưng lìa lỗi đối trị thì không lập. Lời rộng tu, lý phải bao gồm, xem xét tức tâm, tâm tức hành thể. Y theo sớ thì đủ ba thứ là năng nhớ, năng giữ, năng ngăn ngừa; Một tâm ba dụng đều thuận thọ mới thành tùy hạnh, đây gọi là năng xét, oai nghi thân miệng tức là bị xét. Hai câu nầy rõ thành tựu hai trì, xa lìa hai phạm, mà nói rằng thân miậng lại y cứ lỗi thô. Y cứ nay bày nghĩa chung ba nghiệp, xem xét chính là bày tu hành. Sau nói rằng mến thánh rõ nêu chí kia. Khắc dụ như định, cùng là tôn trọng. Trước thánh chung gọi ba thừa đã thành đạo. Chữ “trì” trở xuống là kết bày danh nghĩa, giữ tâm là hành, sau khởi thuận trước bày nghĩa tùy hành. Sau dẫn kinh chứng văn như trước đã dẫn, nhưng đổi cụ túc thành thanh tịnh. Cụ túc là không thiếu, tức là thanh tịnh. Trong giới tướng có hai, ban đầu liền nương trước. Chữ tùy trở xuống là chính chỉ bày. Hỏi: Trong thiên giải thích tướng, dùng giới bổn làm tướng có khác với ở đây không? Đáp: Đây y cứ hạnh rõ, kia y cứ pháp mà giải thích. Nhưng hạnh quyết theo pháp, pháp làm phép tắc cho hạnh. Văn chép: Động thì xứng pháp, đâu không rõ ư? Trong phần bảy đức khoa đầu, từ đầu cho đến có thể hết là kết văn trước, thẳng dẫn sinh ra ý sau. Văn đầu, ba câu trên là kết khen, xuất đạo vốn nương đối sau thành quả, tức y cứ tu nhờ dùng luật bổn, y nghĩa là nền tảng. Tông cực là pháp thân do thành cho nên chuyển thành quả đức, các Thánh ái kính ủng hộ, tức như giới bổn nói “Chư Phật ba đời đồng tôn kính, Thánh hiền đều khen ngợi”, cho nên sau chỉ bày tông ý nêu ở đầu. Chữ tri trở xuống là nói khai ngộ vâng làm, chữ hạ sắp là nói tự tha được lợi ích. Từ chữ dư trở xuống là nói ích lợi giữ gìn. Công đức trở xuống là kết bày không cùng. Trong sinh sau thẳng dẫn là không tự nói khiến sinh lòng tin. Chữ linh trở xuống là khen cái đẹp của kẻ hậu học, khiến bền giữ cho nên hoặc đúng. Từ đầu cho đến có v.v… là kết trước. Chữ biết mình trở xuống là sinh sau kết trước, đồng giải thích ở trên. Đến trong phần sinh sau, ban đầu đến hết là bày đức, thẳng xuống là nói dẫn hiển, tức hai chữ hiển đức trong tựa đề. Bậc Thánh nói là sau dẫn kinh, luật, luận của Nhị thừa Đại Tiểu hoặc là Phật nói hoặc người khác nói, đều là Thánh cho nên lại đúng. Tuy chung cho người khác nói lại là thuật ý Phật, đây thì Thánh nói chỉ là Như lai, Tường là xét, Chư là chi. Trong phần dẫn chứng, khoa đầu trước y cứ trái thuận khai chương, việc Tỳ-kheo là chung ở chúng khác. Nói phiên chủng ấy, vì giới là nhân thoát khổ, thọ lại thêm. Chữ chủng mà khứ thinh, nghiệp khổ là nhân ác. Chữ đãn trở xuống là bày rộng nêu lược. Nói kinh luận là gồm luật ở trong ấy. Nhất hóa là khi mới thành đạo cho đến đêm cuối nhập Niết-bàn, chặng giữa giáo pháp đều dẫn đó, cho nên nói nhất hóa cùng gọi là nhất kỳ. Trong kinh Tiểu thừa, khoa đầu kinh Bát Niết-bàn. Đời Đồng Tấn, Pháp bổn đã dịch, ma vương thỉnh Phật nhập Niết-bàn, Phật liền hứa nhận, A-nan sầu khổ ba lần thỉnh Thế tôn trụ ở đời một kiếp, Phật nói kệ rằng: Ta đã nói các pháp Tức là thầy các thầy. Lại nói rằng: “Các thầy siêng năng tinh tấn như lúc ta còn ở đời không khác”, nay lấy ý văn kinh có hơi khác. Văn Di Giáo thấy ở quyển đầu, luận giải thích rằng “Thị hiện Ba-la-đề-mộc-xoa là Đại sư tu hành”, cho nên thị hiện nhân pháp giữ gìn giống nhau. Cố đẳng là như các kinh. Khi Phật sắp nhập diệt, A-nan tưha hỏi bốn điều, mà điều thứ hai là hỏi: “Sau khi Phật nhập diệt lấy ai làm thầy”, Phật nói “Lấy giới làm thầy” (câu một hỏi “y vào đâu mà trụ” Phật đáp “y bốn niệm xứ mà trụ”. Câu ba hỏi “Ở đầu kinh để lời gì? Phật dạy “Để câu tôi nghe như vầy”. Câu bốn hỏi “Trị Tỳ-kheo tính ác bằng cách nào?” Phật dạy “Trị bằng pháp mặc tẫn”). Hai, là trong phát thú, phát nghĩa là khởi hành, thú nghĩa là thời ký. Muôn hạnh là nêu đại số kia. Tông nghĩa là tôn, chủ của nghĩa trong muôn hạnh thì giới là trên hết. Sở dó như vậy là vì có nhiều nghĩa: Một - Do vì giúp từ đầu, Hai là có hẹn thề, Ba là có bổn thể, Bốn là nhiếp cảnh khắp, Năm là gồm chỉ tác, bao nhiêu hạnh không có nghĩa nầy, cho nên là thấp, là khách. Cho nên sau dẫn chứng xưa ghi rằng tức kinh Thiện Sinh, nhưng cùng lời tựa Giới Bổn lời và ý hợp nhau. Câu trên gồm cả hai câu kia cho nên nói là “đồng”. Giới dùng chân để dụ rất phù hợp với nghĩa phát thú, nhưng theo quyền ý lại chỉ cho người, trời, phải biết “thú” thật không có năm thừa như trước đã giải thích. Trong ba điều thì ban đầu là nêu dụ. Đất có hai nghĩa: Một là năng sinh, hai năng giữ. Hai là dẫn Di Giáo chỉ được nghĩa đầu, ở trên nói rằng các điều thiện có cả lậu và vô lậu, động và bất động. Dưới nói định tuệ phải y cứ Thánh đạo chỉ ở vô lậu và bất động. Lại sau dẫn văn luật đều bày hai nghĩa, tức bổn luật trong văn kiền-độ thuyết giới. Mà nói kinh là tên chung của ba tạng vì đều là lời Phật nói (xưa nói rằng kinh Thiện Sinh, nghiệm kia không văn). Trước dẫn văn, tức sau dụ hợp kinh nói là hành căn, tức là năng sinh. Ba tên y cứ dụ thì một là Sư, hai là túc, ba là địa. Hợp pháp thì một là phép tắc, hai là nhiếp hạnh, ba là năng sinh công đức. Trong luận Tiểu thừa Thành Thật ba dụ: trú dụ y trì, quách dụ ngăn chế, ấn dụ vì người đã tin. Ban đầu nói đạo phẩm tức là tuệ học, kế thêm sâu tùy chỗ thấy, cho nên như lên lầu nhìn, tức ba mươi bảy phẩm: Bốn niệm xứ ( 1/ Thân bất tịnh. 2/ Thọ là khổ. 3/ Tâm vô thường. 4/ Pháp vô ngã. Phá bốn điên đảo tức là niệm xứ). Bốn chính cần là: Điều ác đã sinh khiến phải dứt. Điều ác chưa sinh không để cho sinh. 3- Điều thiện chưa sinh làm cho sinh. 4- Điều thiện đã sinh làm cho thêm nhiều. ở trong chính đạo khuyên làm). Bốn như ý túc: 1/ Dục. 2/ Tinh Tấn. 3/ Tâm. 4/ Tư Duy. Chỗ mong cầu đều được nên gọi là như ý. Năm căn: 1/ Tín, 2/ Tinh tấn, 3/ Niệm, 4/ Định. 5/ Tuệ. Đều là năng sinh nên gọi là Căn. Năm lực: Năm căn trên làm hoại hữu lậu bất thiện nên gọi là Lực. Bảy giác phần: 1/ Trạch pháp. 2/ Tinh tấn. 3/ Hỷ. 4/ Trừ. 5/ Xả. Xả. 6/ Định. 7/ Niệm. Vô học thật giác bảy sự sẽ đến, nên gọi là giác phần. Tám chính đạo: 1/ chính kiến. 2/ Tư duy. 3/ Ngữ. 4/ Nghiệp. 5/ Mạng. 6/ Tinh tấn. 7/ Niệm. 8/ Định. Tám món đều lìa tà là chính, thông với Niết-bàn gọi là Đạo. Hai món thiền định; rõ là định học, định để ngăn tâm, ức chế vọng động, cho nên dụ như thành, tức đồng với Di giáo dụ đáy ao. nghĩa là Bốn thiền và Bốn không định cùng các thiền tam-muội vô lậu. Giới là quách, quách nghĩa là ngoài thành (tờ 1 8 2). Ba là nhập chúng, tức thuộc về giới học. nghĩa là yết-ma và nói giới, hai món này ở trong tăng đủ giới thanh tịnh mới được dự. Cho nên hai câu sau kết khuyên, chỉ tìm hiểu trong phẩm Biệt giới, phần thứ hai của Luận Giải Thoát, nay vì lược dẫn. Kia nói rằng: Nếu người có giới, vì có giới thành tựu không sợ (vô úy), vinh hiển bạn bè, các bậc Thánh yêu mến, bạn bè nương theo đây khéo léo trang nghiêm, là đầu các hạnh, là chỗ công đức, là chỗ cúng dường, là chỗ có thể phụ trách đồng học, đối với các pháp lành không sợ, không lui sụt, thành tựu tất cả ý nguyện thanh tịnh, dẫu chết vẫn không mất, thành thục phương tiện vui giải thoát, công đức của giới vô biên như vậy. Trong phần đầu của Luận Tỳ-bà-sa, câu đầu là chỗ thọ, sau nêu bốn nghĩa. Tiếng Phạm là Thi-la, Hán dịch là giới, nay dùng tiếng Phạm vẫn bao gồm nhiều nghĩa, cho nên lại giải thích. Khoa kế, ban đầu nói nghĩa Thi-la gồm chín loại, cho nên phải dùng cả hai chữ Thi-la để suốt đó: Lãnh, trì, anh, kính, đầu, năm món này theo dụ; Mộng, tập, định, thế bốn món này theo pháp. Lại thứ tư nói về sinh định, kính đầu dụ cho phát tuệ, sáu món khác đương thể là giới, lại trong sáu món ban đầu rõ thể, hai là chỗ cảm, ba là dẫn hạnh. Trì nghĩa là diệt hoặc, anh nghĩa là bày đức. Thế nghĩa là công thắng nhiệt phá giới, đây vì trong kết nghiệp ba nghiêp ác, là trên quả chịu khổ. Anh lạc là nói ở đời con nít, người già, thiếu niên, trung niên có tốt, không tốt. Giới anh thì thường tốt, như gương sáng thì tượng hiện, giới tịnh thì lý vô ngã hiển bày. Chữ “vô ngã” là Tổ Sư thêm vào. Trong oai thế, ban đầu nêu thánh để rõ đức Như lai nhiếp ma quân, hàng phục ngoại đạo. Nếu Phật còn ở chúng thì người phá tăng không thành, chúng sinh ngang bướng thấy Phật liền quy y lễ kính. Bao nhiêu ở sau dẫn sự để chứng minh. Luận chép: Ở nước Kế Tân có con rồng tên A-lợi-na, tính tình hung dữ, ở gần Tăng-già-lam, thường làm việc ác hại người. Lúc ấy có năm trăm vị La-hán họp lại dùng thần lực thiền định mà không thể điều khiển nó. Sau, có một người không nhập định chỉ búng ngón tay nói với nó rằng: “Hiền thiện! Hãy đi xa chỗ nầy”, con rồng liền bỏ đi. Các vị La-hán hỏi lý do, người kia đáp: “Tôi không dùng năng lực thiền định, chỉ dùng sự cẩn thận giữ giới, giữ gìn giới khinh cũng như giới trọng thôi”. Trong văn về sau liền dẫn lời người kia đáp, chỉ buộc lời nói kia. Như chữ “đầu” thì đâu là nhận đủ sáu trần, giới thì gồm thâu các điều lành, cho nên dùng dụ đó. Trong luận đủ đối sáu trần, nay nêu đầu và cuối, lược chặng giữa, cho nên nói rằng “cho đến”. Nay dẫn đủ, nghĩa là văn, danh, thân, v.v… nghĩa khứu hoa giác ý (tức bảy giác chi), thường sinh ra vị Tam-bồ-đề vắng lặng vô sự (Tam-bồ-đề dịch là chính giác) giác thiền định, giải thoát, v.v… xúc. Khổ là quả tướng ba cõi, cho nên như sắc. Sắc ấm, v.v… tức là bốn ấm khác, Luận chép: Biết tướng chung tướng riêng (chung là tâm sắc, năm ấm là sắc chung tâm riêng. Mười hai nhập là tâm chung sắc riêng. Mười tám giới thì tâm sắc đều riêng). Hai, là thủ tín: Do trái với bổn thọ thì thuộc về vô tín. Ba là hành, Bốn là khí; hai món này đều y theo dụ. Trong Phúc Thích, Cù Sa Sư Tư Truyện nói rằng: “Năm mươi hai thầy khác thường hay khéo nói pháp”, kia dùng biệt nghĩa giải thích chữ Thi-la ở trên, cho nên luận lấy đó. Chữ “như” trở xuống là nêu dụ, “hành” trở xuống là hợp pháp, tức đồng với giới bổn nói hộ giới đủ. Thông với trước gồm có mười nghĩa. Kinh Đại thừa Hoa Nghiêm có nhiều nhà dịch, nay dẫn bản dịch đời Tấn sáu mươi quyển, tức phẩm nói về pháp thứ tám, văn có bốn đoạn, kia nói: “Bồ-tát ma-ha-tát giáo hóa chúng sinh phát tâm bồ-đề, giúp Phật bảo không dứt mất, khai thị sâu vào các tạng pháp nhiệm mầu giúp Pháp Bảo không dứt mất, thọ trì đầy đủ oai nghi giáo pháp, giúp cho Tăng bảo không dứt mất (đây là đoạn đầu). Lại nữa, đều khen ngợi tất cả đại nguyện nên giúp cho Phật bảo không dứt mất, phân biệt mười hai duyên khởi giải thoát nên giúp cho Pháp Bảo không dứt mất, thực hành sáu pháp hòa kính nên giúp cho Tăng Bảo không dứt mất (là đoạn thứ hai). Lại nữa, gieo hạt giống Phật ở ruộng chúng sinh được sinh mầm chính giác nên giúp cho Phật Bảo không dứt mất; không tiếc thân mạng hộ trì chính pháp cho nên giúp cho Pháp Bảo không dứt mất; khéo điều phục tâm đại chúng không lo buồn hối hận nên giúp cho Tăng Bảo không dứt mất (là đoạn ba). Nay Sao năm câu trên đều trích văn trọng Tăng Bảo, hai câu đầu nói về hạnh riêng, câu kế là chúng hành, hai câu sau nói về nhiếp chúng. Hạnh quyết y pháp cho nên không lo hối. Chữ “khứ lai” trở xuống là đoạn văn thứ tư trong tổng kết. Phật pháp ba đời làm theo không trái vì hộ trì Tam Bảo, kinh Đại Tập dẫn văn phẩm mười Chín Hộ Pháp kia. Ban đầu dẫn lời Bồ-tát thỉnh, năm món cặn bã ngăn trở sử sách là trược. Nói năm trược là: Kiếp trược (kiếp trược không có tự thể riêng, nhưng bốn trược nhóm họp lúc này Kinh Bi Hoa chép: “từ kiếp giảm, lúc con người thọ hai muôn tuổi là thời kiếp trược”). Kiến trược (là năm lợi sử) Phiền não trược (là năm độn sử) Chúng sinh trược (cũng không có tự thể riêng, nắm lấy quả báo của lợi sử độn sử ở trước mà giả đặt tên) Mạng trược (thường giữ sắc tâm, tàn phá năm tháng tuổi thọ ngắn ngủi) Như các cõi là dẫn chỗ khác làm dụ để nêu ý thỉnh. Phật nói thôi đi! Thôi đi! Phật tự biết lúc, nhân duyên chưa đến thì không chế, do không liền chế nên nói là “hứa sau”. Tát-già Ni-kiền là tên ngoại đạo dùng làm đề kinh, rộng như phần hai, nay lược trích dẫn. Kia nói rằng: Lúc Phật ở thành Uất-xà-diên có đại Tát-già Ni-kiền Tử cùng tám mươi tám ngàn muôn Ni-kiền Tử, đi đến các nước giáo hóa chúng sinh (đây đều là đại quyền thị hiện) lần đến thành Uất-Xà, vua nước ấy là Nguyên Xí hỏi Ni-kiền Tử: “Thân trang nghiêm tướng tốt của Như lai dùng gì làm gốc, bắt đầu từ đâu?” Ni-kiền đáp: “Làm tất cả công đức giúp đạo, nếu nêu cốt yếu mà nói thì lấy giới làm gốc, trì giới làm đầu”. Lại nói tiếp: “Nếu không trì giới…” như Sao đã dẫn. Phá giới đọa địa ngục, súc sinh là quả báo riêng, cho nên nói rằng “không được”. Lại súc sinh là đường thấp hèn mà lại ghẻ hủi nên “không được”, muốn nói hủy phạm giới còn không có quả báo nhẹ, dùng khuyên trì hẳn thêm công đức cao quý (Dã can, Ứng Pháp Sư nói: “Hình sắc xanh vàng như con chó, các hạnh ban đêm kêu như sói” (như chó, đi đâu cả bày kêu như sói. Kệ văn trong kinh Nguyệt Đăng có văn kệ, kinh kia không nêu ra, không rõ lý do, nửa bài kệ trên rõ tục sang đạo hèn, sắc nghĩa là dung nghi diện mạo, tộc là họ. Học rộng nghĩa là học đủ, không giới là không trí. Súc sinh không có hai món nầy cho nên nêu ra để so sánh. Nửa bài kệ sau nói tục nhẹ đạo nặng, ngược lại câu trước. Ty là thân thấp hèn, hạ là giòng họ thấp kém. Tôn quí trong loài người nên nói là “Thắng só”, do sắc tộc là vọng pháp của thế tục, giới trí chính là chân đạo xuất thế nên chẳng so sánh được. Kinh Niết-bàn có hai bổn Nam và Bắc, ở đây dẫn văn phẩm Phạm Hạnh thứ mười bảy của bổn Bắc, nay chỉ bao gồm ý, văn Sao không đồng. Hai câu đầu nêu nhân quả lôi kéo căn cơ. Chữ “tất” trở xuống bày pháp tu chứng, chữ “nhược” trở xuống là nêu hạnh trái ngược kia, chữ “ta cũng” trở xuống là ngăn kia thọ kinh, “sở dó vậy” là kinh nói. Chúng sinh và Phật tính như sữa có lộn máu, chưng nấu lắng lại có ra đề hồ. Phật tính cũng vậy, bị phiền não lẫn lộn, dùng ba học (giới, định, tuệ) sửa trị dần đến quả Phật. Muốn dứt phiền não trước phải dùng nghiệp, cốt yếu dừng nghiệp không gì hơn giới luật. Ngày nay lạm nhiễm Đại thừa bèn nói “không câu nệ, không ràng buộc, không trì, không phạm, nào có thiện, nào có tội”, thầy trò vọng truyền, làm điều xấu ác không dừng. Lại nói “Trì giới là có quả báo trời người”, xin nói lời Phật làm dứt tình tà, huống gì kinh Hoa Nghiêm viên đốn thượng thừa, Kinh Niết-bàn trọn cùng cực xướng, lời vàng mạnh mẽ khuyên cố gắng, không đáng tin ư? Kệ Kinh Hoa Nghiêm, câu trên trình bày công đức. Vô thượng Bồ-đề là dùng quả bày nhân. Câu kế khuyên tu. Nửa bài kệ sau là nói lời bậc Thánh khen ngợi, vì thuận giáo cho nên sau Tổ Sư bày ý, trong phần trước đã dẫn cho nên nói “trùng”. Luận Đại Thừa, Trí Luận giải thích kinh Bát-nhã, nói đủ là Luận Đại Trí Độ, nay dẫn văn thứ mười bốn chia làm năm đoạn. (tờ 1 8 3) Hai câu đầu nêu quả, gồm khuyên đại lợi, như hai kinh trước. Chữ “tất cả” trở xuống, hai là bày công khuyên các gốc đức và chỗ pháp lành ở sau, đồng với dụ đại địa ở trước. Cốt yếu của người xuất gia ấy, đồng với văn Hoa Nghiêm ở trước. Chữ “như” trở xuống là nêu hai vật ở đời dụ cho giữ gìn thương tiếc. Chữ “hựu” trở xuống, là ba ước không giới tổn mất lời khuyên. Trên nêu ba dụ, chữ “Nếu” trở xuống là hợp pháp. Quả tốt là nói chung năm thừa, đối đại lợi ở trước cần chỉ quả Phật. “Nếu bỏ” trở xuống, là học không lợi ích, khuyên khổ hạnh. Văn nêu các pháp ngoại đạo, Ca-sa là nói chung, hoặc tức y phục ngoại đạo, hoặc có thể ngoại đạo mượn đắp Ca-sa, như giới mua bán đổi chác, thì ngoại đạo và Bạt- Nan-Đà đổi ca-sa cho nhau là duyên khởi. Hoặc có thể tên chung người không nhận giới của Phật, không chuyên theo ngoại đạo. Chữ “người tuy” trở xuống, năm là y cứ hiện báo để khuyên. Ban đầu rõ quả báo lúc còn sống, hai câu trên nêu người trì. Từ “hương văn” trở xuống ba câu tức là danh, dự, lạc, hương trong giới bổn, dụ cho đức tốt bày bên ngoài được người khác nghe. “Sở Nguyện”, v.v… một câu là ưa thích lợi dưỡng, đây là do giới đức cảm ra, không cầu mà được. “Trì giới” trở xuống là kế nói báo lúc qua đời, theo Câu-Xá thì khi người qua đời ba đại lần rã, hỏa đại rã thì khiến tâm bứt rứt sầu muộn, chảy nước mắt. Khi thủy đại rã thì thân thể sưng phù, gân mạch tan hoại (tướng nầy chắc chắn thọ quả báo ác). Lúc phong đại rã thì chớp mắt liền qua đời, không hay không biết. Địa đại cứng nặng không thể rã (lúc sống nhờ vậy mà ba đại kia và đốt lóng trong thân được giữ gìn, ba đại đã tan tức là chết, nên nói là “xả”). Nay lấy cái rốt sau cho nên nói phong đại hay rã lóng đốt, vì vậy dụ như dao (hoặc nói gió nhẹ bén, hoặc nói đau đớn như dao cắt). Tâm không sợ hãi là do tịnh nghiệp huân tập, chính niệm hiện tiền, còn hủy giới thì lo sợ đường ác tâm thường sợ hãi. Địa trì nói ba mươi hai tướng: Dưới lòng bàn chân bằng phẳng như đáy hộp (trì giới bất động, tâm không dời đổi, an trụ thật ngữ như núi Tu-di) Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe ngàn căm (đối cha mẹ và trên từ Sư trưởng dưới đến súc sinh dùng tài như pháp cúng dường cung cấp). Ngón tay nhọn dài. 4- Gót chân dài. Thân vuông thẳng (không giết, không trộm, với cha mẹ Sư trưởng thường sinh tâm vui mừng). Giữa các ngón tay có màng như ngỗng đầu đàn (tu bốn nhiếp pháp nhiếp thủ chúng sinh). Tay chân mềm mại (khi cha mẹ, sư trưởng bị bịnh khổ, tự tay tắm gội, nâng đỡ thoa chà) Mắt cá chân tròn đầy. Lông trên thân mềm mịn (trì giới, nghe pháp ban cho không nhàm chán) Bắp chân như nai đầu đàn (chuyên tâm nghe pháp, giảng nói chính pháp) Thân đầy đặn như cây Ni-Câu-Đà. 1 2- Đứng tay dài quá gối. Đảnh có nhục kế. Đảnh không thấy (đối với các chúng sinh không sinh tâm giết hại, uống ăn biết đủ, thường ưa bố thí, nuôi bịnh cho thuốc) Tướng âm tàng (thấy người sợ sệt làm kẻ cứu giúp, thấy người trần truồng thì cho áo quần, có thuyết nói là mã âm tàng) Da dẻ mịn màng. Lông trên thân xoay về bên phải (gần gũi người trí, xa lìa kẻ ngu, khéo ưa hỏi đáp, quét dọn đường đi) Thân mầu vàng ròng. Thân thường phát ra ánh sáng (thường cho người y phục, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc men, hoa hương, đèn sáng) Bảy chỗ đầy đủ (khi hành bố thí vật châu báu xả bỏ không lẫn tiếc, không quán ruộng phước hay chẳng phải ruộng phước, hai tay, hai vai, hai chân và đầu là bảy) Tiếng nói êm ái (lúc bố thí tâm không sinh nghi ngờ) 2 2- Đầy đủ chỗ xương khuyết. Thân trên như thân sư tử. Cánh tay nhọn mềm (cầu tài đúng như pháp dùng để bố thí, thân trên là ức ngực, như ức sư tử) Có bốn mươi cái răng, răng trắng, sạch, bằng, khít. (xa lìa nói lời hai chiều, nói lời thô ác, tâm tức giận) Có tướng bốn răng nanh (tu đại từ bi đối với các chúng sinh) 2 7- Hai má như má sư tử (có người đến cầu xin thì tùy ý họ cần gì đều cấp cho) Lưỡi có vị ngọt thượng hạng trong các vị (tùy đồ ăn mà các chúng sinh cần thảy đều ban cho). Lưỡi rộng dài (tự tu mười điều lành và giáo hóa người) Tiếng Phạm âm (không chê điều dở của người, không hủy báng chính pháp) Mắt màu xanh (thấy người mình oán ghét sinh tâm vui vẻ) 3 2- Sợi lông trắng (không che giấu đức người khác, khen điều tốt của họ). Nhưng các kinh luận danh số khác nhau, như trên lại y theo kinh Niết-bàn nêu ra đủ. Trí Giả nói rằng: “Nhân ba mươi hai tướng dầu mỗi mỗi đều nói mà chân nhân kia là tinh tấn trì giới”, tinh tấn mà không có giới còn không được làm trời, người huống chi các tướng khác ư? Cho nên biết “nhân” phải chia chung và riêng. Nếu nói biệt nhân như trên đã phối, nếu nói nhân chung đều do trì giới. Nay từ thông ý để bày giới đức, cho nên nói rằng “không khác nhau”. Ba câu trên suy quả vốn nhân. Chữ “nhược” trở xuống là nêu lược dụ thắng, do không trì giới chắc chắn đọa ba đường, cho nên không được cả quả báo thấp hèn trong loài người. Thập Trụ Bà-sa do văn rộng cho nên chỉ mà không dẫn, nay hướng về thu nhiếp. Phẩm Tán giới kia chép: “Bồ-tát giữ Thi-la trong sạch như vậy nhiếp được các món công đức”. Lại nói: “Đây là chỗ vui mừng thứ nhất của người xuất gia, thành tựu tất cả lợi lớn của người xuất gia…” Phẩm Giới Báo chép: “Bồ-tát thực hành sâu xa Bát-nhã Ba-la-mật (Thi-la thanh tịnh), nếu chưa lìa dục thì làm vua Chuyển Luân trong bốn thiên hạ được bánh xe vàng ngàn căm, các món châu báo trang nghiêm vành xe kia, lưu ly làm trục, chu vi kim luân là mười lăm dặm, có trăm loài thần Dạ-xoa cùng giữ gìn, v.v… Hỏi: Như trên đã dẫn là khen giới Bồ-tát hay giới Thinh Văn? Đáp: Phải chia làm hai ý: Nếu y cứ thông luận thì tiểu không gồm đại, đại chắc chắn nhiếp tiểu, như kinh Niết-bàn, Đại Tập, v.v…, nếu y cứ biệt luận xen thông nhiếp nhau. Nay đã dẫn là nhờ đại khen tiểu, như Hoa Nghiêm, Thập trụ. Trong Chế Giáo chữ “quán” trở xuống các văn khen ngợi trì giới, đại khái có ba: 1/ Trụ pháp. 2/ Tự lợi và lợi người. 3/ Sinh thiện diệt ác. Dùng ba ý nầy tìm hiểu có thể biết. Tăng-kỳ có năm ý: Ý một và hai là trụ pháp, kiến lợi tức hiện tại, cửu trụ chung cả đời sau. Ý ba và năm là tự lợi ích. Ý bốn là người được lợi ích sâu dầy. Trong luật Tứ Phần, ban đầu dẫn năm đức trì giới, ba đức trên thuộc mình, thứ tư là người khác. Lại một và ba là sinh thiện, hai và bốn là diệt ác, thứ năm có thể biết. Thắng các oán tức bốn ma oán là năm ắm, phiền não, chết và thiên ma. Chữ “hựu” trở xuống là dẫn chế giới có mười lợi, Như lai hễ kiết một giới nào đều nói là có mười điều lợi, nay nêu là lợi thứ nhất, thứ hai là khiến tăng vui mừng. Ba là khiến tăng an vui (Giới Sớ nói: Ba điều nầy rõ giới sinh ra các công đức). Bốn, là người chưa tin làm cho họ tin. Năm, là người đã tin làm cho lòng tin thêm vững chắc. Sáu, người khó điều phục khiến điều thuận. Bảy, người có hổ thẹn được an vui. Tám, dứt hữu lậu hiện tại. Chín, dứt hữu lậu vị lai (sáu món này sinh đức riêng người, hai điều trên sinh thiện, bốn điều dưới diệt ác). Mười, là giúp cho chính pháp được tồn tại lâu dài (một điều này khởi kiến lập chính pháp). Luật Thập Tụng nói ngài Ưu-ba-ly riêng chính thân ba lần hỏi, ban đầu hỏi pháp Phật đời quá khứ, kế hỏi đời vị lai, thứ ba hỏi pháp Phật đời hiện tại, đều hỏi thời gian trụ thế bao lâu. Phật đáp riêng từng vấn đề như văn, nhưng nay gồm bày vì thế nói rằng “cho đến v.v…”. Rõ trong luận giải ban đầu định danh, chữ “hữu” trở xuống là rõ lợi ích. Trong thứ hai nói thanh tịnh là lìa nhiễm trược nên nói ngay thẳng là lìa cong vẹo, cho nên trong phần thứ tư bắt đầu từ tại gia thứ lớp dẫn đến năm loại trụ xứ. Cho đến là là lược thiên trụ (sáu tầng trời cõi Dục), Phạm Trụ (là trời cõi Sắc, Vô sắc) Thánh trụ (là ba thừa hữu học) Niết- bàn Vô dư (ba thừa rốt ráo). Trong thứ năm ban đầu y cứ ba thừa, kế nói về sự cao quý kia, chữ “nhược” trở xuống là nói thù thắng trong hàng phàm phu, tự chẳng phải người cậy mình hiểu biết mà cống cao, người hạ lưu không hiểu biết há có thể trì luật ư? Trong văn kia việc này đều chỉ Tỳ-ni, Bà Luận nói ba tạng đối luận để biết bày sự thù thắng của luật. Trong phần thư hai nói “tất cả đệ tử Phật” là gồm chung bảy chúng, tất cả chúng sinh lại chỉ cho ba đường lành. Thứ tư, là anh lạc tức dụ giữ gìn. Luật Thiện Kiến nói năm pháp giao thiệp nhau, ban đầu lãnh nhận giáo pháp, thứ hai là tăng thanh tịnh thành chúng, thứ ba truyền thọ không dứt, thứ tư hành nghiệp thanh tịnh, thứ năm là giữ gìn lâu dài. Cho nên chỉ y cứ năm vị có thể làm phép cho thọ giới và các pháp khác, cho nên y cứ năm ngàn năm để luận. Hỏi: Ngàn năm rồi là Phật pháp đều diệt ư? Đáp: Không phải đều diệt, ngàn năm đầu được ba đạt trí (thông đạt ba đời). Ngàn năm thứ hai đắc quả La-hán hết ái dục, không có ba đạt trí. Ngàn năm thứ ba được A-na-hàm. Ngàn năm thứ tư được Tư-đà- hàm. Ngàn năm thứ năm được học pháp Tu-đà-hoàn. Năm ngàn năm được đạo, sau mười ngàn năm học mà không được đạo, sau muôn năm kinh sách văn chỉ đều mất hết, chỉ còn có người cạo tóc ca-sa mà thôi. (tờ 1 8 4) Hỏi: Năm trăm năm đầu là nói sự lo buồn của A-nan, cho đến là lược A-nan đáp rằng “Thế gian không có thầy”, từ “Phật nói” trở xuống là đáp có ba đoạn, đều chỉ cho giới tức là Phật. “Sở dó như vậy” là vì Phật có sinh thân và pháp thân, pháp thân lại có hai: Một là lý pháp thân, tức lý hiển chỗ chứng. Hai là pháp thân tức năm phần đức tròn, đức tròn đủ sinh thân. Có sinh diệt, hai là pháp thân đây tức là thường trụ, cho nên ngài Mã Minh giải thích “sau khi ta diệt độ nên tôn kính mộc-xoa, v.v…”, thị hiện pháp thân không diệt hết, thường trụ ở đời để độ thoát rốt ráo. Cho nên phải biết Phật vốn không thân toàn là nhiều kiếp tu thành nhóm công đức, lại dùng đức của mình để khai thị chúng sinh, cho nên nói là giới, phải biết giới nầy tức là Như lai, vì thế nói rằng: “Như ta ở đời không khác”. Nếu mê ý chỉ này lời Phật làm sao thông, kẻ hậu học đến đây phải nên chú ý. Ban đầu thị hiện đích thân đến, pháp thật không đến, tòa cao thuyết giảng có người đồng đến, cho nên “lại nói” trở xuống, hai là hiển đồng thể. Ban đầu chính bày trong văn kính niệm giữ gìn đều đồng như Phật. Chữ “như” trở xuống là hiển dụ, uống nước có côn trùng là hợp với ý nhậm vận được cả hai ở trên. Người trí chớ trách dụ. “Lại như” trở xuống ba là nói đối mặt, bởi một khi nghe tịnh giới thể dụng cao sâu thì Như lai không lọt quả đức cho nên nói là “thấy”. Kế là giải thích sự cao siêu bí mật. Trong Đa Luận lại chép: “đối văn trước”, cho nên câu đầu dẫn hỏi rất khác với kia. Kia nói rằng “Khế kinh A-tỳ-đàm không để Phật ở đầu, riêng luật Thập Tụng để Phật ở đầu (nghĩa là Quảng luật giới bổn đều ban đầu nêu Thế tôn ở chỗ ấy, v.v… Trong kinh trước nói rằng “Ta nghe như vầy” cho nên có là nghe). Nay nói rằng ban đầu nhóm chưa rõ Thánh ý. Chữ “dó” trở xuống là đáp, câu đầu lược đáp. Thắng là cao vượt hơn tạng khác, bí nghĩa là không cho người khác nghe. Chữ “như” trở xuống là so sánh giải thích. Ba câu trên rõ các tạng chẳng phải thắng bí, không chọn thời chỗ và người thì kia nói rằng “Trong khế kinh các đệ tử nói pháp, có khi Thích Đề Hoàn Nhân nói “Phật nói như vậy”, có khi hóa Phật nói. Chữ “Lu- ật” trở xuống là bày đức bí thắng, chỉ là Phật nói là ngược với trước lựa người. Kia chép: “Tất cả Phật nói cho nên ở trong tăng” lại là chọn thời, chỗ trái với trước. Luật ấy chép: “Nếu ở trong nhà có việc không được liền biết, mà phải ra ngoài (tức chọn chỗ). Nếu bên ngoài người tại gia có việc quyết ở trong chúng kết (đây rõ không được đối hai chúng, tức trọn thời). Cho nên chữ “thắng” trở xuống là có bao gồm chữ “bí” (xưa ghi vọng giải không khỏi cong vẹo). Chữ “hậu” trở xuống là dẫn hai luận chuyển chứng (trên là kinh luận Tiểu thừa, dưới là luận Đại thừa, do chuyển chứng nhiều luận cho nên ở đây trích dẫn). Luận Công Đức song chứng thắng bí, mật tức là bí. Luật ấy chép: “Tỳ-ni dụ như vua, bí tàng chẳng phải của ngoại quan sở ty, cho nên nói rằng “nội tạng”, tạng giới luật này cũng vậy, Sa-di hay thanh tín nam nữ chẳng thể nghe thấy, cho nên nói rằng “Luật ta- ïng”. Nay chỉ lấy ý dùng ba câu để bao gồm, Luận Trang Nghiêm riêng chứng nghĩa bí, kia là văn kệ, nếu người có trí tuệ có thể bền bỉ giữ giới cấm, kẻ ngu si kém yếu không có khả năng giữ gìn giới như vậy (ở đây nói người tại gia căn độn, không có khả năng kham nổi cho nên không cho nghe). Trong Trái giới, lại y cứ, chỉ trông hai giáo mà nói, nhưng trước chỉ là nói riêng, đây là tạp, rõ thì khác nhau. Trong năm cách diệt trong luật Thập Tụng, kia do Trưởng lão Nan-đề bạch Phật: “Sau khi chính pháp diệt, trong thời Tượng pháp có bao nhiêu sự phi pháp?”, nay chỉ dẫn lời Phật đáp: 1-Vì vọng xứng đức. 2- Vì đạo tục trái nhau. 3- Vì trái với đạo hạnh. 4- Vì ác đảng thạnh. 5- Vì người thực hành kém ít. Năm cách diệt pháp nầy đều do hủy giới. Nói là ít đắc tâm ấy, tâm tức là định. Như năm pháp quán dừng tâm, bốn niệm xứ, đây gọi là chưa chứng cho là chứng, mê hoặc đại chúng, quấy nhiễu thế gian, tức thời nay Phật sự cũng đồng. Thứ hai, Nghiệp Sớ chép: “Người thế tục không có pháp, chỉ chuyên tin thờ cho nên được sinh lên cõi trời. Xuất gia có giới pháp làm ruộng phước cho đời, trở lại hủy phạm vọng nhận của tín thí, mở cửa các đường ác, khiến nhiều chúng sinh bắt chước theo buông lung, cho nên vào địa ngục. Lại trong kinh Bảy Điềm mộng của A-nan nói A-nan nằm mộng thấy người xuất gia bị rơi vào hầm bất tịnh, còn người tại gia lại leo lên đầu đi ra. Phật bảo A-nan “Đó là điểm Tỳ-kheo đời sau ganh ghét giết hại nhau, chết đọa vào địa ngục, người tại gia tinh tấn chết sinh lên cõi trời”. Thứ ba, như vua Ngật-lật-chỉ nằm mộng thấy một con voi lớn bị nhốt trong chuồng, chỉ có một cửa sổ nhỏ. Voi ở trong chuồng tung ra được hết cả thân lớn chỉ còn kẹt chút đuôi. Đây là nói lên việc đệ tử Đức Thích-ca bỏ thế gian xuất gia như tung thân ra, nhưng vì còn tham đắm danh lợi như còn mắc kẹt chút đuôi. Thứ tư, như vua nằm mộng thấy rất nhiều khỉ lấy nước rửa đảnh của một con khỉ bị cùi hủi, tôn nó làm vua. Ở đây nói lên việc đệ tử Phật lập người phá giới làm thủ lãnh. Chữ “cho đến trong năm” là lược phàm phu trì giới, Thánh Hiền học người, v.v… Kinh Pháp Diệt Tận chép: “Phật bảo A-nan: Sau khi ta nhập Niết-bàn ở đời ác năm trược, ma đạo hưng thạnh, ma giả Sa-môn làm hư loạn đạo của ta, cho đến Bồ-tát, Bích-chi, La-hán tinh tấn tu đức, Tỳ-kheo chúng ma đều ganh ghét làm phép tẫn xuất không cho ở chung (trên đều xưa ghi, đã dẫn ở văn, tuy phiền nhiều mà giúp cho tâm hạnh, cho nên ghi chép. Huống gì ngày nay chính mắt thấy việc đó, biết Phật đã thấy từ xa xưa, có thể tự nhắc nhở khuyên răn). Thứ năm, người sợ hãi, là đoạn văn Phật bảo Ưu-ba-ly. Bốn điều trước lỗi vọng nhiếp quyến thuộc, một điều sau là lỗi biếng nhác. Ban đầu nói “không tu thân, giới, tâm, định, tuệ”, một câu nầy đọc suốt xuống đó. Một, là thường cho phần giới thuộc thân miệng, tuệ là tâm quán, hoặc cho tâm tức là định. Nếu đủ ba học, đây rõ tự hạnh đã thiếu hẳn không lợi tha, cho nên nêu ba tướng trong văn nêu, tưới nước cũng là tổn đất, đều phải tịnh ngữ. Đã mê giới tướng thẳng khiến làm đó là diệt pháp. Luật Tứ Phần nói năm món diệt pháp tức thêm một văn, người học phải suy nghó, càng rộng giữ gìn. Một, là nạn học dối người. Hai, là ở trên làm ác. Ba, là hay dạy cách bủn xỉn. Bốn, là dạy điều ngu đần. Năm, là kia đây cãi cọ. Phỏng là bắt chước nhau. Trì pháp tức là kinh, Ma-di tức là luận. Trong Luật Thập Tụng, Phật chế Tỳ-kheo năm hạ trở lên chuyên tinh giới luật, rõ suốt trì phạm, việc làm của Tỳ-kheo rồi mới được học tập kinh, luận. Nay vượt thứ lớp mà học, hạnh đã mất, thứ lớp vào đạo không có lý do, Đại Thánh quở trách chẳng hề luống uổng. Lại luật kia chép: Phật thấy các Tỳ-kheo không học Tỳ-ni bèn khen ngợi Tỳ-ni, trước mặt khen Ba-ly trì luật bậc nhất, sau các Tỳ-kheo Thượng tọa, Trưởng lão theo Ba-ly học luật”. Thời nay vừa lãnh giới phẩm, liền nghe giáo tham thiền, hạnh nghi của tăng không hiểu một điều, huống chi lại khinh lờn giới, hủy phạm Tỳ-ni. Chê bai học luật là tiểu thừa, cho trì giới là chấp tướng, ở đây mê mờ trần tục, buông lung hung dữ ngang bướng. Tham mê chén thịt tự cho là thông phương, hành dâm nộ nói là xứng đạt đạo, chưa hợp ý chỉ Thánh, hiểu lầm chân thừa. Lại nếu giới là đáng khinh sao ông lại đăng đàn mà thọ? Nếu luật đáng hủy sao ông lại cạo tóc nhuộm y, đây hễ khinh giới thì toàn là khinh mình, hủy luật lại thành hủy mình. Vọng tình dễ học theo, chính đạo khó được nghe, vượt tục siêu quần trong muôn điều không gì hơn giới nầy, xin rõ lời Thánh dạy đâu không theo ư? Xuất xứ từ Tạp A-hàm ở quyển ba, bốn câu đầu rõ tự mình không học, văn kia chữ “sơ” trở xuống có chữ “Thỉ”, nghĩa là từ đầu không học. Chữ “kiến” trở xuống hai câu, nói không thích người khác học. Chữ “ngã” trở xuống là hiển bày lỗi. Câu trên nói Phật không khen, nghĩa là dầu có các điều lành khác cũng không thể khen. Chữ “hà” trở xuống là bày ý không khen. Ba đường tăm tối, nhiều kiếp không trở lại, nên gọi là đêm dài, nói suy trong đường ác bao gồm năm suy. Bốn điều trên là hiện tướng, câu dưới là sinh báo. Trong bốn điều, hai điều trên rõ mất lợi vì phước mỏng. Điều ba, không kính vì đức kém, nên gọi bốn ác là do hạnh xấu. Cho nên nghĩa là tổn giảm, xuất xứ từ ở phẩm Như lai tính thứ năm của kinh Niết-bàn. (tờ 1 8 5) Hoặc có người nói “Nói như vậy cho nên bác bỏ”. Tám món bất tịnh, danh tướng như trong chứa của báu. Chữ “làm sao” trở xuống là lời Phật quở trách, do vu báng Phật pháp đều mắc hiện báo, cho nên chữ quyển khứ thinh nghĩa là khúc chuyển. Câu dưới chỉ rộng, kia nói rằng nếu có thuyết nói “Phật đại từ vì thương xót chúng sinh nên đều cho chứa”, như vậy kinh luật đều là ma nói. Kinh Ma-da chép: kia nhân Phu nhân Ma-da hỏi ngài A-nan “Pháp bao lâu mới diệt?” Ngài A-nan theo thứ lớp việc một ngàn năm trăm năm đã từ Phật nghe được nói rõ, kia nói rằng: “Ban đầu từ khi kiết tập đến bảy trăm năm, ngài Long Thọ ra đời bẻ gãy cờ tà kiến, đốt đèn chính pháp (chẳng phải chính ý nay cho nên sao không dẫn). Hai câu đầu, việc tám trăm năm. Chữ “nô” trở xuống hai câu là việc chín trăm năm. Chữ “bất” trở xuống một câu là việc ngàn năm. Chữ “hủy” trở xuống là việc ngàn một trăm năm (lại năm nầy các Tỳ-kheo như người thế tục làm việc môi giới hai bên). Trong ngàn hai trăm năm, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni làm việc phi phạm hạnh, như có con trai cho làm Tỳ- kheo, con gái làm Tỳ-kheo-ni (sao lược năm này). Ca-sa trở xuống là việc một ngàn ba trăm năm (lúc nầy Ca-sa phần nhiều nhuộm đỏ, đâu chỉ nghiệm pháp diệt). Chữ “tham” trở xuống là việc một ngàn bốn trăm năm. Một ngàn năm trăm năm nước Câu-diệm-di ba tạng cùng đệ tử La-hán xen giết hại, ác ma và ngoại đạo tranh nhau phá hoại chùa tháp, giết hại tỳ-kheo, tất cả kinh tạng Long vương A-nậu-đạt đều đem xuống biển cả, vì thế Phật pháp diệt hết (ở đây là nói theo một nước Câu-Diệm-Di, hoặc có chỗ nói năm ngàn năm, hoặc chính tượng đều ngàn năm, mạt pháp muôn năm, v.v…, hoặc sáu muôn năm, bảy muôn năm, v.v… đều vì nghiệp của chúng sinh nên sự thấy biết có khác). Luận Trí Độ, trong văn phá giới là năm, ban đầu dùng năm dụ hiển bày tướng ác kia. La-sát là tiếng Phạm, Hán dịch là quỉ tốc tật. Chữ “tuy” trở xuống là thứ hai nói về hình lạm thể trái. Chữ “nhược” trở xuống là thứ ba trong nhân bày quả. Chữ “hựu” trở xuống là thứ tư, tự sợ ác báo. Hai câu trên sợ hiện báo, câu dưới sợ báo đời sau, ở đây y cứ vào người trí chứ thường thường kẻ ngu mù đến chết vẫn không sợ. Chữ “như thị” trở xuống là thứ năm kết khuyến. Hỏi: Trong Luận kia trước chép:“Nếu đối với tội hay không tội đều không thật có, cho nên lúc này gọi là Thi-la ba-la-mật”, kia liền hỏi rằng “Nếu người bỏ ác làm lành là trì giới, vì sao lại nói tội và không tội đều không thật có, nay ý Sao lộn lạo khiến cho dễ hiểu. Đáp: Trong đó chỉ dẫn tội không thật có. Kia tiếp tục nói “Tội chẳng thật có nên không tội cũng chẳng thật có”. Như mắt thịt, trở xuống hai câu là nghi dẫn văn riêng, tìm hiểu đó chưa được. Kia lại nói rằng “Lại nữa! Chúng sinh không thật có cho nên tội giết hại cũng không thật có. Tội không thật có cho nên giới cũng không thật có, vì sao? Vì có tội giết thì mới có giới, nếu không tội giết thì cũng không có giới (nếu hiểu ý nầy mới gọi là trì giới thanh tịnh, không như vậy thì chỉ là phước thế gian, người học nghe nói há không nghi ư?). Trong bác bỏ lỗi, lỗi đã có cho nên nói là lời tụng, đây gọi là được thật cho nên cần phải bên trong, người học luật ngày nay thường dùng lời này, chỉ bác bỏ tông khác, không biết mình học cũng tụng lời. Vì sao như vậy? Vì ông tuy học luật mà hành luật đâu có, cho nên biết ở đời Mạt pháp, hai tông đại tiểu đều là học lời, thật đáng thương thay! Phàm chữ “Sớ” là bình thanh, văn thấy mười bốn mà chỉ mười lăm, kia đây chia quyển kinh tạng có khác, phải trái ghi lầm. Năm lỗi Tứ Phần cũng nêu ra thêm một, tức ngay hai tổn tự hại là tán mất điều lành thế gian và xuất thế gian, cho nên khi sắp chết hối hận, khổ não ép ngặt, thần thức hôn mê, các nghiệp tranh nhau, hiện tự biết từ trước thường chẳng phải chỗ lành, khi chết sợ sệt, nên suy nghiệm điều đó. Trong không học diệt pháp, Luật Thập Tụng nói mười pháp kia nêu trong năm pháp, vì đồng nghĩa loại cho nên phải nói. Văn lược hai món: “Có Tỳ-kheo trở xuống là rõ năm pháp ban đầu. Bốn câu trên là pháp thứ nhất. Không muốn nghĩa là tâm không hi vọng, nhưng tình tăm tối ngu si không thể chỉ dạy. Chữ “hựu” trở xuống một câu, là pháp thứ hai, luật ấy chép “cũng không thể khiến người khác hiểu rõ”, chữ “không thể” trở xuống một câu tức là pháp thứ ba, “cho đến” là lược pháp thứ tư. Luật ấy chép: “Có người nói pháp, không thể đúng như pháp dạy, cãi cọ lẫn nhau”. Chữ “không thích” trở xuống là pháp thứ năm, bốn pháp trên là dạy trao. “Phi pháp” trở xuống là một phen luyến trước ồn ào hỗn loạn. Trong bốn điều, ban đầu là sở giáo, thứ hai chung năng sở, thứ ba và thứ tư thuộc năng giáo. “Lại không theo” trở xuống tức câu đầu, kế là năm pháp. “Tức thứ nhất” trở xuống là lược cả thứ hai, kia nói rằng “không theo pháp nhẫn mà theo pháp bất nhẫn (tùy tính tức giận). “Không kính” trở xuống là pháp thứ ba, nghĩa là thấy ở trên trái phép tắc liền sinh khinh ngạo. “Khiến sau” trở xuống là pháp thứ tư, kia nói rằng “Vì trên Thượng tọa không dùng pháp dạy dỗ”. “Đến nỗi khiến” trở xuống là thứ năm, kia nói rằng “Vì Thượng tọa qua đời, ba thứ trên cuộc hạn sở giáo, hai thứ dưới chung cho năng sở. “Ưa làm” trở xuống tức văn năm điều sợ sệt, luật ấy chép: “một, không tu thân, giới, tâm, trí, vô dục độn căn. Hai, là gần gũi với ni, bỏ giới huờn tục. Ba, là Như lai đã nói Tu-đa-la, v.v… rất sâu xa, không tâm thương xót ưa mến. Ưa làm, v.v… Như trong Sao; Bốn là vì y phục uống ăn bỏ chốn lan-nhã vào xóm làng. Năm, là vì y phục, uống ăn phần nhiều cầu tìm nhiễu loạn (năm điều nầy đều không nói là sợ sệt, vì chính pháp sắp diệt cho nên sao dẫn điều thứ ba và phân nửa sau). Xét phần đề sau, nhóm tăng tức gọi là năng nhóm, nghĩa là thực hành tướng phép tắc. Thông cuộc tức dẫn đến bị nhóm, nghĩa là y cứ giới dụng người, đây thì nhóm tăng không thâu thông cuộc, thông cuộc được gồm cả nhóm tăng, đây tức trong thiên yết-ma, hai duyên ba và bốn hợp lại thành một thiên. Lại giải thích rằng nhóm nghĩa là năng nhóm tức là phép tắc. Tăng thuộc người bị nhóm tức sau dùng tăng để phần chúng. Thông cuộc gọi là chỗ bị nhóm tức sau là phần chững của giới đều như trong văn. Xưa đều ghi rằng “Nêu Tông là tăng thể, nhóm tăng về sau là rõ “Tăng dụng”, đây do không biết tăng thể cho nên xếp đặt bừa. Vả lại, Nghiệp Sớ rộng khắp Tăng thể, chính lấy bốn người nhờ dùng, nào thường lấy giới làm thể, dụng kia quyết đây không công tự phá, cho nên khoa nầy sắp xếp khác xa với tu trước. Nêu tông chỉ là khuyên học. Nhóm tăng trở xuống mới rõ hành sự. Nếu vậy văn sao không chỗ rõ tăng thể hay sao? Đáp: Khoa sau của thiên nầy dụng tăng phần chừng có văn nói về thể, như sau sẽ giải thích. Trong ý chép, câu đầu nêu nghĩa tăng, tăng là tên chung bảy vị. Một, hai, ba người tuy không bỉnh pháp cũng được gọi là Tăng, do Tăng nhờ riêng thành từ nhân bày hiện, không giống ghi xưa nên gọi là chọn người riêng. Lạc hòa có sáu: ba tên giới, kiến, lợi là thể hòa, ba tên thân, khẩu, ý là tướng hòa. Lại ban đầu quả sắp đi gọi là lý hòa, chỗ chứng đồng nên là nội phàm. Sắp lại gọi là sự hòa, tức là sáu hòa. Chữ “nhược” trở xuống trái nói ý cần nhóm. Hai câu trên rõ nhân phi. Trái lìa là chung ba món riêng. Chữ “ngự” trở xuống là pháp phi. Chữ “bị” trở xuống là sự phi. Pháp sự dầu như do vì nhân phi cho nên cả hai đều không thành. Cho nên văn sau bao gồm ba ý: 1/ Giải thích đề. 2/ Ý hết thiên. 3/ Tức chia chương. Trong nêu bày trước sau văn nêu ra kiền-độ nói giới, quyết trước lập tòa mới đánh chuông. Sớ nói rằng “Do tiếng bảo liền nhóm giường ghế chưa làm”, đứng đợi lâu sợ hãi chẳng thành, trước chế trước định tòa là do đây. Duyên khởi ban đầu trong chế pháp, chữ “Phật nói” trở xuống là lập chế. Ban đầu nêu bày bốn tướng. Chữ “sử” trở xuống là rõ hay đánh người. Chữ “bất” trở xuống là rõ đánh pháp. Ba thông như sau nói, thổi ốc bắt chước trên đánh người, cho nên nói rằng “cũng vậy”, kia nói rằng “Sa-di và người giữ vườn thội. Chữ “trừ” trở xuống là chọn vật. Thêm Độc Thọ Tương Truyện chép: “E bị thương tay cho nên nói lúc Bồ tát, chữ “nhược” trở xuống là rõ thời ăn trưa và sáng. “Trụ xứ nhiều” là phòng riêng xa rải rác. “Nhược” trở xuống là rõ hứa hai. Sớ nói rằng “Pháp triệu tăng nầy chế chẳng phải người có đạo làm, hẳn không phải hai người mới cho gồm giúp. Nói trong tục đánh, ban đầu dẫn trái với văn thỉnh giới. Cư só làm thức ăn đem vào Kỳ-hoàn, đánh kiền-chùy, các Tỳ-kheo hỏi thì đáp: “mới tỳ-kheo ăn”. “Cho đến” trở xuống là nêu ra trong Đề-xá, câu đầu nêu ra giới thứ hai, kia do cư só thỉnh Phật và một bộ Tăng hôm sau đến thọ trai. Sáng ra trải tòa rồi sai người đến bạch Phật (đây là chứng xướng bệnh). Chữ “cập” trở xuống là nêu ra giới thứ tư, luật ấy chép: “Các cô đem đồ ăn vào tăng phường đánh kiền-chùy, chia đồ ăn cho tăng, v.v… Chữ “thực” trở xuống không rõ văn gì. Nói đánh, trong văn đầu nêu thứ 16 kia. Phật ngự tai nước Xá-vệ, trong vườn Lộc Mẫu, ba tháng hạ xong thọ tuổi, sau đó A-nan đánh kiền-chùy. Chữ “thử thị” trở xuống là lời của A-nan. Tín cổ là đối sự thì bảo với chúng, có kỳ hạn ở pháp thì qui tâm không hai. Cổ nghĩa là đánh động phát ra tiếng, tên chung của chuông khánh. Luật Thập Tụng, duyên khởi thiếu việc có tám, bốn đoạn nói rõ. “Không người” trở xuống là thiếu tướng làm. “chính là khiến dùng” trở xuống đều là nhân dẫn. Chữ “Hựu” trở xuống là thiếu việc làm. Chữ “cập” trở xuống là thiếu chỉ trao, kia làm con trùng trong rượu đắng. Nay nói ăn là đổi cuộc thành thông. Chữ “uống” trở xuống là thiếu lý chúng. Chữ “Phật” trở xuống là nói về lập pháp, nói trên làm tướng Tỳ- kheo (lại y cứ theo hành thủy cũng chung Tỳ-kheo) dưới dẫn văn khác để giải thích tên cho hiểu. Trong ý chung, Luật nêu tám món, món thứ ba đánh đất thành tiếng, nay lược làm bảy không rõ ý gì. Lường bày nghĩa là thời khắc khiến nhóm. Trong tám món thì khói và bóng là sắc, còn sáu món kia là thinh. Lại xướng cáo là hữu tình, còn bao nhiêu đều là phi tình. Chữ “diệc” trở xuống là chỉ bày chung, ở đây nói luật không cuộc đối với đạo, ý bày thông tục. Trên dẫn các văn chứng định sẽ đánh, chính là thầm phá vọng chấp lúc bấy giờ. Ni Sao chép: Các chùa ngày nay tăng ni lập chế không cho Sa-di, người tại gia đánh chuông, đây là rất mê giáo. Trong Phạm hiệu như các luật luận, đều làm kiền-chùy hoặc làm kiền-trí. Chữ “như” mà gọi chính là tiếng Phạm chuyển lầm, chỉ riêng thinh luận chính là tiếng kia. Nay nên âm chùy đọc là Địa. Lại trong Yết-ma Sớ nói thẳng rằng kiền-địa, chưa thấy chữ tró gọi là địa, đời sau không biết do đây một phen hiểu lầm. Đến văn sao trước sau cho đến Tổ giáo một tông, hễ chữ kiền-chùy đều sửa là tró, gọi thẳng là địa, xin tìm bổn xưa viết chép và xét Đại tạng kinh luật mới biết sự lầm kia. Nhưng do chữ tró và truy gần giống nhau cho nên vọng sửa. Nay nên y theo luật luận đều viết kiền- chùy, đến khi gọi theo tiếng luận (hoặc viết truy cũng vậy, thế gian có người không biết tiếng Phạm, nói là chày đánh chuông và chày đá, đây lại không đáng bàn). Như y theo Ni Sao chép: Tây Truyện nói “Đến lúc nên dùng ta đánh kiền-chùy, tý-thát Hán dịch là đả (đánh), kiền-chùy dịch là cây bị đánh, hoặc dùng cây đàn, cây trồng, v.v… kia không có chuông khánh, cho nên phần nhiều đánh cây nhóm mọi người. Đây thì nêu nay hoàn toàn trái không thể hòa hợp. Vả lại, nương Sao Sớ nói khánh chuông mà dịch, nghĩa là hai vật vàng và đá (Ứng Pháp Sư Kinh âm nghĩa phần nhiều đồng với Ni Sao, nhưng trong bản đồ Kỳ-hoàn phần nhiều rõ chuông và khánh đá, mà nói là kia không có, hoặc sợ là có ít). Âm nghĩa lại nói rằng: Kinh xưa chép: “Kiền-trì” cũng là tiếng Phạm chuyển sai, nên viết là tró cho đến đổi ngược lại (rõ biết chữ tró không gọi là địa, vì đây mê lầm quá lâu cho nên vì đó giải thích). nghĩa lập là do trước các giáo tuy khiến làm tướng còn không có nói tựa, cho nên cần ước lý đâu sợ cách thức, mà văn trước nghĩa sau là muốn bày hành sự đều nêu ra chính giáo phải trái đều luống. Rõ trong lập bày chỉ pháp nhóm tăng, tức nay hiện hành Quỷ Độ Đồ Kinh, soạn vào niên hiệu Vũ Đức thứ bảy. Trong chép xưa, hai câu đầu bác bỏ thời. Chữ “nhược” trở xuống là dẫn bày, kia quyển thứ hai trước nói về năm việc, sau nói bảy pháp gọi là mười hai thời kiền- chùy. Thời thường họp, nghĩa là nói tự tứ, yết-ma, giảng pháp, v.v… các nhóm (trước bắt đầu từ nhỏ đến lớn. Hai mươi trở xuống là hơi nhỏ, hai mươi mốt trở xuống là nhỏ nhỏ, mười trở xuống lại lớn. Ba trở xuống và năm mươi bốn trở xuống, ở đây giống năm phần ba thông nhưng nhiều ít có khác, y cứ ở sau lại gọi là một thông). Thời ăn sáng (Tám trở xuống là tiểu thực). Thời ăn ban ngày (một thông đồng trước thường họp nghĩa là giữa trưa). Thời dọn mâm tối (một thông đồng trên, như nay tối đánh chuông dọn mâm, nghi là tiếng Phạm, không rõ dịch là gì). Vô thường (nhiều ít tùy thời) (năm món trên đều thường dùng, bảy món sau đều chọn duyên). 1- Huyện quan. 2- Lửa lớn. 3- Nước lớn. 4- Trộm cướp (bốn món nầy đều tùy thời). 5- Nhóm Sa-di (ba sau). 6- Nhóm Ưu-bà-tắc (hai sau). 7- Gọi là riêng. Khoa yếu tức mười hai thời, tiết giải tức đánh đố, giải dụ như đoạn. Chữ “đản” trở xuống là rõ lý do không làm, sự chẳng sâu xa cho nên dễ, không biết pháp chế thì khó. Lượng thời pháp là không định đánh số, pháp này rất quan trọng quyết phải người trí mới có khả năng lãnh nhận mà dùng. Trong ba thông chẳng phải gọi riêng ba món sau. Trước sau gồm có bốn mươi dùi, sinh trở xuống hai câu nói về mười dùi đầu, Đồ Kinh chép “Cầm chày định tâm luống khuôn phép mười dùi”. Ni Sao chép “Không được đánh lớn làm kinh động tâm chúng”. Chữ “tiệm hi” trở xuống là nói chặng giữa hai mươi bảy dùi, là thưa thớt. Chữ “nãi” trở xuống là bày ba dùi sau, tức gọi ba tên nầy là ba thông. Đồ Kinh chép: Nhóm ba thừa (ngày nay các pháp giảng nói tiêu chuẩn cách thức này rất được trong kia. Trong đánh dài, đầu tiên là nói Phật ở đời vốn không có. Chữ “hậu” trở xuống hai câu là bày duyên khởi sau khi diệt độ. Chữ “như” trở xuống là chỗ dẫn. Chữ “kỳ” trở xuống là nói về cách đánh, tiếp bốn mươi ở trước thêm hai lần bốn mươi nữa là gồm một trăm hai mươi, ban đầu nói bốn mươi dùi thứ hai chỉ sinh khởi. Đồng với trước, nghĩa là huống khuôn phép dần dớn lần lớn cộng là mười tám dùi, chặng giữa bốn chùy từ mười chín đến hai mươi hai, đây là cứu khổ bốn đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu-la, thứ lớp phối hợp. Chữ “như thị” trở xuống là từ thứ 23 về sau đến dùi thứ 1 8.Kiểm là thâu tiếng gởi thầm. Chữ “phương” trở xuống là nói bốn mươi dùi thứ ba. Chỉ đồng trước là cũng có hơi khác, từ dùi ba mươi sáu đánh ba dùi gọi là ba thông, hai dùi rốt sau gọi là dứt chùy. Đồ Kinh chép: Niệm Tam Bảo có năm chúng, mỗi chúng có tám bậc, cho nên lấy bốn mươi là sai. Ba đường nương đó thì là một trăm hai mươi tiết (tám bực là bốn quả bốn hướng, ba đường là ba thừa). Chỉ nêu ra trong kinh luật tức như trước dẫn, chẳng phải xuất xứ a từ một chỗ nên nói là “tham hiệu”. Chữ “diệt” trở xuống đây chỉ là đương thời, nay cũng có nhiều. Trong phần lập thệ, đầu tiên nêu khuyên gạn chứng nghiệm. Chữ “ưng” trở xuống là bày oai nghi. Chữ “ngã” trở xuống là nêu lời thệ, trên nói về sinh thiện, lại dưới là diệt ác, còn bao nhiêu tùy thời không cần phải chuyên đây. Trong rõ công, ban đầu dẫn truyền, vua Kế-nị-tra tức Nguyệt Thị (âm chi) đánh nhau với vua nước An-tức, giết chết chín ức người, sau đối với ngài Mã Minh nói mình sinh tâm hối hận, ngài Mã Minh nói pháp cho vua nghe, khiến tội nặng thành nhẹ, còn chịu quả báo nầy. Chữ “tùy sinh” trở xuống, kia nói rằng “trong khoảnh khắc đầu đầy biển cả”. Chữ “nhược văn” trở xuống là kia nhờ La-hán làm Tăng Duy- na, y thời đánh chuông, công giúp cho kia, sau nhận kia thưa tức là đánh dài, quá bảy ngày rồi chịu khổ liền hết. Chữ “tức” trở xuống là dẫn kinh hiểu truyện, ban đầu chính dẫn, từ đây trở xuống là nói rõ về ý. Nhân duyên: Sớ chép: “Tội là gặp lành làm nhân, đánh là phát nguyện làm duyên” cho nên được tiếng truyền đi, khổ diệt, tự nhiên cảm ứng. Nay văn lời giản lược có thể dùng kia giải thích. Triệu nghĩa là kêu gọi như tướng. Vong dụ như mất. Chữ “dư” trở xuống là dẫn hiện việc hợp kinh, Luật Sư Trí Hưng lúc đầu nương thầy giảng hiểu. Tháng giữa Đông niên hiệu Đại Nghiệp năm thứ năm, duy na Kế Chưởng, đến thời sai đánh chuông ở chùa Bội Cần, Tăng có người anh họ là Đế Nam ở Hạnh Giang Độ bị chết giữa đường, lúc đầu không ai báo tin dữ, bỗng ông báo mộng với người vợ rằng “Tôi không may bị chết đọa vào địa ngục chịu khổ không thể nói. Ngày mồng một tháng này nhờ Trí Hưng ở chùa Thiền Định đóng chuông tiếng vang rung chuyển địa ngục, những người đồng chịu khổ với tôi đều nhất thời được giải thoát, nay sinh về chỗ vua. Nghó báo ơn kia nên sắm đủ mười xấp lụa dâng Luật sư Trí Hưng và nói ý của tôi”. Người vợ thức giấc nói với mọi người, lúc đầu không ai tin, anh ta lại báo mộng nữa, sau đó mười ngày hung tin mới đến rất khớp với điềm mộng, bèn sắm lụa dâng lên Luật Sư và cúng dường đại chúng. (tờ 1 8 7) Có người hỏi lý do, Trí Hưng nói: Tôi không có tài năng gì khác, chỉ do thấy trong truyện Phó Pháp Tạng và Kinh A-hàm dạy tôn kính công đức tiếng chuông như thế nên cố gắng thực hành. Thường đến mùa Đông bên lầu chuông gió lạnh cắt da, tăng cấp cho áo da, tôi tự gắng ý đưa tay cầm lấy, máu trong tay ngưng lại không dùng lời mà nói được. Lại ban đầu nguyện các Hiền Thánh đồng vào đạo tràng, kế nguyện các đường ác đồng thời lìa các khổ”. Mọi người rất phục lời ấy (đó gọi là ứng nghiệm người niệm). Việc nầy chính mắt Tổ Sư thấy cho nên chép ra để truyền, lúc này là cuối mùa Xuân niên hiệu Trinh Quán thứ năm sáu. Người mới học ngày nay cho là chuyện nhỏ, phần nhiều không có lòng thành. Xin nói các văn trên nhờ đây một phen ngộ, hoặc Kế Chưởng Duy na y theo oai nghi trên vẫn cần lập thệ nặng. Kia nói: “Tỳ-kheo sai người đánh chuông nên gọi là “Tri chung” đây là lời thanh tịnh”, nếu nói thẳng là “đánh chuông” thì đây là lời bất tịnh. Chữ “như” trở xuống hai câu là y cứ giáo hiển bày lỗi. Văn nêu kinh, luận là lược cả luật. Đánh, như trươc đã dẫn luật Tứ Phần, Ngũ Phần, Thập Tụng. Kích (đánh) như kinh A-hàm, xuất xứ từ Trí Luận. Chữ “tri”trở xuống là dùng lý để nạn phá. Trước rõ đánh chuông thì năng giáo, sở giáo đều chung cho đạo tục, nhưng biết lời tịnh thì năng không, thông tục sở không thông đạo. Sự phi tướng dụ cho nên dùng nạn đó. Biết tịnh không chung với tục, năng giáo cuộc hạn ở đạo, chuông thì không như vậy. Thông người tục kia sai người đánh hay tự mình làm sở giáo cuộc hạn người tục, chuông cũng không như vậy. Chung Tỳ-kheo kia nhận dạy, tự đánh, cho nên “sớm” trở xuống là khuyên cố gắng. Sớ nói rằng: Lời “tri chung” tuy chẳng hại lớn nhưng là điều rất kî của người biết pháp (xưa ghi vọng giải, dùng sớ đối chiếu mà giải thích). Thứ hai, là nói chỗ đến, gồm nêu thông cuộc. Phân khoa nói rằng “phần chừng” là đâu? Đáp: nghĩa chung là thể đồng, cuộc nghĩa là tướng khác. Đồng thì lược, phân biệt cần bày, từ cuộc nêu tên nên nói là phần chừng. Khoa dưới dùng người dụ cũng đồng với ở đây. Hỏi: Tướng thông cuộc thế nào? Đáp: Một xứ, hai người. Nói xứ là giới tác pháp và giới tự nhiên. Ở đây chung cho tác pháp có ba, giới tự nhiên chia làm sáu thì là cuộc. Trong người, riêng người và tăng hai vị là chung. Riêng có ba việc, tăng chia bốn loại cho nên là cuộc. Lời trùm đầu đề, cương yếu một thiên biết lược đề mục, ban đầu có thể tìm trong văn. Trong nêu bày ý chế duyên khai. Thiên sau đã rõ không thể hai phiền nhiều, cho nên chỉ sau, nghĩa loại tướng đều từ đây. Tác pháp có ba: Giới tràng, đại giới và tiểu giới. Giới tràng bốn nhóm, tuy gồm đại giới, chính ý rõ giới tràng. Lại nhóm tăng y cứ sự có chung có riêng. Chung nghĩa là thuyết giới, tự tứ trong ngoài đều nhóm. Riêng tức là pháp khác tùy giới làm riêng. Nay văn hai giới đều từ biệt luận. Hỏi: Như trong nhóm chung, trên giới tràng, không đến có phạm tội biệt chúng chăng? Đáp: Pháp thành mắc tội, chẳng ngại khác giới mà không có lỗi riêng chúng. Hỏi: Tiểu giới nói tự tứ có nhóm tăng chung hay không? Đáp: Vốn do nói tự tứ, khai kết ngăn quở trách. Đây thì ba tiểu giới chỉ có nhóm riêng. Kế là nói giới tự nhiên, khoa đầu chia làm hai: Đầu tiên là bày tướng. Trong phần bốn, xóm làng, lan-nhã đều có hai thì là sáu tướng. Chữ “giai” trở xuống là giải thích tên gọi, đối kia tác pháp duyên tạo thành. “Cho nên phải” trở xuống là nêu ra chỗ. Hỏi: Sở dó phải luật đều không lập ư? Đáp: Chỉ là thiếu, lược nghĩa quyết đủ. Y cứ ba tiểu giới rõ chỉ chỗ nhóm, Sớ chép: “Tuy ngay trong bộ không có giới tự nhiên khác chỗ hay dưới đường, tức là Thanh văn nói là một giới, dưới là lan-nhã”. Nay nói không ấy hoặc chẳng rõ văn, hoặc không có phần chừng. Ban đầu rõ xóm làng có thể chia, y cứ theo Sớ chia làm hai: Tăng thì ở không đổi (người có thể phân biệt) xóm làng cũng khắp, viện có thể đều hết (chỗ có thể phân biệt). Ni Sao chép: “Ngoài thành, bên thôn phường thì ba-la-di, thành ấp nhân dân thưa thớt thì có thể được phân chia, cho nên phải làm bốn câu: 1- Người và xứ đều có thể chia thì y theo tướng nầy. 2- Người và xứ đều không thể chia như lượng ở sau. 3- Người có thể chia, xứ không thể chia. 4- Xứ có thể chia, người không thể chia, đều y nhóm sau. Cho nên biết tướng nầy quyết cần đủ hai, văn dẫn luật Thập Tụng quyển 22, kia nhân Tỳ-kheo hỏi Phật, ban đầu đến kiết giới, tức dẫn lời hỏi. Luật ấy chép: “Bấy giờ, giới nên tính bao nhiêu”. Nói không Tăng phường là người có thể chia, xóm làng là xứ có thể chia. Chữ “tùy” trở xuống là lời Phật đáp, nghĩa là tùy chỗ rộng hẹp tức là giới hạn. Chú hành đến xứ thấy bốn mươi bảy, cho nên nói rằng: “Văn sau”. Chữ “thử” trở xuống là trước dùng nghĩa quyết. Phần chừng tức đồng thế phần, nói chẳng phải giới thể xóm làng. Ý không chấp cho nên Nghiệp Sớ chép: Dù trong văn kia chứng hành đến xứ, ở đây chế nhiếp chung sợ ngại trong giới, quyết khi tác pháp thân ở ngoài cửa, cũng được đồng thành. “Tứ phần” trở xuống là kế dẫn văn quyết tức giới trộm, xóm làng ngăn lấy bốn tướng ( 1/ Tường khắp bốn bên. 2/ Rào tre. 3/ Tường rào không khắp bốn bên. 4/ Chung quanh có nhà) thì kia nói, đây là thôn, tụ lạc tướng đồng, không cần xa lấy. Đây do kia chấp cho nên đặc biệt chú thích rõ (xưa ghi vọng giải, y theo Sớ là đúng). Hỏi: Trong do chỗ lan-nhã xưa là hoang vắng, nay có tăng phường, chẳng phải lan-nhã, chẳng phải xóm làng, nhóm tăng khó định nên đặt ra lời hỏi đó? Trong bệ quyết, ban đầu y cứ văn trước. Nay sau tỷ dụ tức chỉ tăng phường, đồng với xóm làng lại là lan-nhã được đồng có thể chia. Trong phải hiển, văn dưới lại chỉ bốn mươi bảy. Đầu tiên dẫn văn cho nên sau dụ trái lại. Không xóm làng là nói chỗ hoang vắng. Ban đầu xây dựng tăng phường là đây y cứ tướng xây dựng Tăng viện chưa xong. Trước kiết giới: Là nói hội đồng trong nghi, nghĩa là xóm làng chính là nơi dân ở, già-lam tướng khác không được nêu đồng, cho nên ở đây nói lên điều đó. Nói trong luật tức là chỉ giới trộm, nêu đủ bốn tướng như trên đã dẫn và sau giới lìa y giải thích giới già-lam, lại không nêu riêng, lược chỉ như trên, cho nên biết là đồng, hẳn sau lựa lạm chuẩn không khắp tịnh. Ba bên có tướng cần y cứ theo xóm làng nhóm hai mặt, một mặt lại y lan nhã, có người mê đây gọi là trong thành ấp, chỗ tướng viện trùm khắp đều có thể phân chia. Xin đem đồ tướng trong thiên kiết giới. Lam viện có bốn bên, tự nhiên ra bốn phía, tức biết sai lầm không nhọc công phá. Nay cho là tiện rõ già-lam đồng có thể chia, nhóm chỉ cuộc hạn ở lan-nhã, không chung với chỗ khác, người học tìm rõ trong văn để hiểu rõ. Trong không thể phân chia lại chia làm hai. Ban đầu là nói theo người. Chữ “Tăng” trở xuống: hai là xứ biện. Sớ chép: “Hoặc y cứ sự đến đi của tăng nạn có thể biết. Hoặc y cứ nơi chốn tán lạc không biết bờ mé, hễ có một món liền thâu về đây”. Ni Sao chép: “Chỗ của Trung Hoa người dân rất nhiều không thể chia”. “Tố dụng” trở xuống là bày lượng. Kia do có người hỏi Phật cách trồng cây, Phật dạy “bảy cung trồng một cây”. Sau đó, Ưu-Ba-Ly hỏi lượng nhóm tăng, liền dùng để đáp. Khác chúng thấy nhau là y cứ hai bên hướng về nhau tác pháp mà nói. Chữ “y cứ” trở xuống là tính số, Năm khuỷu tay là một cung, một khuỷu là một thước, tám cung dài chín thước, bảy lần chín là sáu trượng ba thước, sáu thước là một bộ, một gian tính mười bộ rưỡi, như vậy mà hợp. “Không đồng” trở xuống là phá xưa. Sớ chép: “Xưa nói bảy mươi hai bộ rưỡi” là tính sai bảy khoảng cây. Hoặc chấp xưa nói rằng “Hạn hai đầu cây đều có thế phần”. Lại nói rằng: “Chu vi trồng cây”, lại sửa Tăng-kỳ là chữ “tám cây”, các chỗ khác rộng như kia. Dưới chỉ nghĩa Sao tức ý theo san phồn, văn kia đã mất, ý như trước bày. Xưa ghi không biết lý do nêu rằng “chỉ lầm”, nhờ khiến là lầm một chỗ, có thể vậy. Huống gì quyển thượng nầy có hơn mười chỗ chỉ rộng như kia, xem xét kia và không há đều là lầm ư? Vu báng bậc Thánh, nhục mạ Tổ tông, không sợ vời ượng lụy, dẫn lẫm người sau đâu có thể cùng. (1 8 8) Kế nói về lan-nhã. Trên lược bỏ chữ A, cũng nói là A-lan- nhã, tức là chỗ vắng vẻ, có sáu loại khác nhau, sợ lạm danh tướng cho nên trước lựa nêu. Trong sáu loại gởi y tức giới thứ ba mươi làm sợ hãi lìa y. Giới của tăng có hai, như đây nói rõ, nạn sự tức Đề-Xá giới cuối, còn bao nhiêu có thể biết. Trong không nạn, đầu tiên nêu không định. Sớ chép: “Các bộ đều nói một Câu-lô-xá”, mà xen nói không định, lớn thì hai ngàn cung, cung dài năm khuỷu (Tăng-kỳ tính mười dặm). Nhỏ thì năm trăm cung, cung dài bốn khuỷu (Luật Thập Tụng tính sáu trăm bộ là hai dặm). Chú dẫn rõ Sớ, dịch đồng bổn luật, nhưng trống có lớn nhỏ, tiếng có xa gần, cũng không thể chuẩn mực. Chữ “ly” trở xuống là nói nay thủ, kinh kia nói rằng: “Một câu-lũ-xa”, chú rằng “Đời Tần nói năm dặm”. Trong có nạn, ban đầu dẫn văn bày, nói ở ngoài nghĩa là người quở pháp không đồng giới. Chữ “kế” trở xuống là nêu số. Một trăm chín mươi sáu khuỷu tay gồm ba mươi lăm trượng hai thước tám tấc. Ba mươi trượng là năm mươi bộ, bốn trượng tám thước là tám bộ, chỗ khác như số. Hỏi: Sao gọi là có nạn? Đáp: Người xưa chỉ nói là “Tỳ-kheo tội ác làm trở ngại”, cho nên phần nhiều hiểu lầm. Nay phải giản định, đây nghĩa là bổn giới người được quở trách tâm không bằng lòng, cho nên đến quở trách khiến việc không thành gọi là nạn. Tức Luật Thiện Kiến chép: “Người không đồng ý” đâu không nói ư? (có người cho gần chùa lìa nhóm họp mà gọi là có nạn là lầm). Hỏi: Có nạn, thì dùng loại pháp gì? Đáp: Đây cuộc hạn ba tiểu giới, không chung cho pháp khác. Cho nên biết, có nạn từ ba tiểu mà có được tên. Sớ giải thích ba tiểu giới nhóm Tăng hỏi rằng: “Đã có nạn duyên không so với bình thường, nên dùng như Luật Thiện Kiến ở bảy Bàn-đà mà nhóm, đâu chẳng rõ y cứ, đây là định nghĩa không nhọc kinh sợ lầm lộn. (hoặc có người không chịu, xin lấy ba tiểu giới trong thiên kiết giới đối chiếu đó thì đúng sai sẽ thấy. Nếu không như vậy, có nạn tự nhiên làm pháp gì phải suy nghó). Trong đạo hành có hai, ban đầu dẫn rằng: “Văn nêu giới ăn riêng chúng, nếu nói riêng chúng đi đường thì không phạm”. Nay nói không được là nói theo sự dừng ở, không riêng lý do đến tùy tướng mà biện. Chữ “diệc” trở xuống là định lượng, câu đầu chỉ nói về thông mạn, chữ “thử” trở xuống là dẫn luật để giải thích. Hỏi: Lan-nhã, đạo hành đều một câu-lô-xá mà lớn nhỏ khác nhau là sao? Đáp: Lan-nhã, các bộ đã riêng nêu lấy trong ấy. Đạo hành chỉ nêu ra nhiều tông, lý đồng luật kia. Sớ chép: “Bộ riêng phải lấy Thập Tụng là đúng”. Trong Thủy giới, ban đầu dẫn luật Ngũ Phần, đi trong nước nghĩa là lội đi. Chỗ vẩy nước đến là nêu giới hạn. Kế dẫn luật Thiện Kiến chia làm ba, ban đầu định phần chừng, y cứ theo thế phần lìa y ở sau, tương truyền mười ba bộ làm nhất định. Chữ “thủ” trở xuống là kế chọn lựa có thể chăng? Lấy chỗ thường chảy là giới tướng định, Thủy triều không được vì Sớ chép rằng: “Do vì chợt tràn”. Chữ “nhược” trở xuống là thứ ba nói về đi ghe, lại chia làm ba: Ban đầu, nói trở xuống là có thể, Sớ chép: “như đồng”. “Sở dó vậy” hoặc sợ giới tự nhiên giới hạn không nhất định, hoặc kết ghe giới tướng có khác nhau. Chữ “bất” trở xuống là nói phiền lạm được chăng có thể tìm. Nếu theo luật Thiện Kiến, trong nước không được kết giới tác pháp. Sớ chép: “đây luận do tướng nước lên xuống, thể tướng khó biết”. Nay thì y cứ trên bờ chia nêu, nghĩa cũng có thể được, như trong kết giới. Hỏi: Vì sao chỉ có sáu tướng? Đáp: Vì nhiếp hết xứ. Hỏi: Dùng bao nhiêu việc? Đáp: Pháp kiết chưa cùng, chỉ trừ nói tự tứ. Thông hành các pháp chế, sau tăng sự cuộc khai kiết, tâm niệm, đối thú và ăn riêng chúng đều cần y cứ giới. Hỏi: Dụng có thông cuộc, có được nghe hay không? Đáp: Lan-nhã có nạn chỉ hạn cuộc ba tiểu giới, từ năm tướng khác đều chung cho đại giới. Thủy giới, đạo hành giới hai chỗ nghĩa không có giới tràng. Trong ăn riêng chúng cũng ngăn năm tướng, trừ lan-nhã có nạn. Hỏi: Tướng hoặc tướng lội, dùng gì để phân? Đáp: Xóm làng, lan-nhã hai tướng riêng dễ biết, đạo hành chẳng phải thuộc hai món, thủy giới chung ba chỗ. Trong luận thể, trước rõ phần chừng, tức giới thể lượng. Các nhà phán rộng, hẹp, vuông, tròn, phải, trái khác luận, cho nên lại biện định, không tùy riêng hiển nên nói là gồm luận. Ba món tác pháp, đại giới, giới tràng đều tuy nêu tướng, một món tiểu giới tùy người nhiều ít. Trong tự nhiên có thể chia xóm làng cũng tùy bốn tướng, đồng tác pháp trên cho nên nói là cũng không, chẳng thể phân chia, trong phần nêu khác nhau có ba, tức ba hỏi đáp đều có nhiều thuyết: Hỏi: Trước rõ sáu mươi ba bước là y cứ bốn mặt đều lấy làm, y cứ một mặt lấy nửa mà hai hướng chung thành? Đáp: Trong phần đầu phán định: Chữ “cố” trở xuống là dẫn chứng điểm bày dưới đây. Hỏi: Trong chính định giới thể, cho nên y cứ hai chỗ bỉnh pháp lập hỏi. Đáp: Trong khoa đầu, câu đầu là san dị thuyết. Chữ “kim” trở xuống là thân chính giải chia làm hai, đầu tiên là định lượng, trong chú giải thích nghi, ở đây y cứ bỉnh pháp rõ tướng, sợ cho là vì không bỉnh không nhọc giới. Chữ “cố” trở xuống là dẫn chứng lại tức văn trước đã y cứ hai chỗ, thì biết đều nữa đã rõ. Khoa kế, ban đầu y cứ không người rõ thể. Chữ “nhược” trở xuống là y cứ có người rõ nhóm, y cứ theo đây sáu mươi bước bộ cần lấy hai tên gọi nêu khác kia đây. Đây tên tùy phần tự nhiên, kia tên dị giới tự nhiên. Chữ “cứ” trở xuống cũng gọi là hạn phân ngăn sâu. Trong ba, đầu tiên là nói về ngăn sâu, bất luận có không, lo có lỗi riêng chúng chia nhóm, cho nên nói rằng: “ngăn sâu”. Chữ “thật” trở xuống là bày phần hạn. Chữ “cố” trở xuống là dẫn chứng, ở đây nói hễ làm Tỳ-kheo chỗ nào có giới thì biết bảy cây, trong Luật Tăng-kỳ không thuộc một người, chứng nửa trên giảm nghĩa không sai. Hỏi: Do xưa chấp khác cho nên hỏi để tránh. Đáp: Văn câu trên của khoa đầu là văn xưa, kia cho là sáu mươi ba bước, nhưng cứ Đông, Tây, Nam, Bắc mà lượng, không y cứ bốn góc cho nên định phương. Chữ “kim” trở xuống là bác bỏ lỗi. Trong phong tục, cách tính phương năm tà bảy. Lại y cứ phần hạn tự nhiên, bốn phương sáu mươi ba bước, bốn góc thì hơn hai mươi bộ. Ngăn sâu y cứ biết phương y cứ luật Tăng-kỳ, góc không chỗ y cứ cho nên ở đây bác bỏ. Trong hiển chính, hai câu đầu lập nghĩa tông. Chữ “nhược” trở xuống là giải thích hai tướng định và bất định có thể biết. Có giới riêng: Hoặc là giới tác pháp, hoặc y cứ giới tự nhiên, nước, bờ xâm nhau thì tùy xa gần. Trong phần ngăn vọng, đầu tiên là dẫn chỗ y cứ kia, nhưng nói phương riêng không nói góc, cho nên gọi là không giải thích chung ý văn. Chỗ thân mặt hướng về thì thông tất cả, không cuộc hạn phương góc. Chữ “phi” trở xuống là ngăn lựa chọn, lược âm trắc. Chữ “văn” trở xuống là nêu việc để dụ nạn. Kia chấp luật Thập Tụng, hai chữ “phương các” không lường bốn góc, cho nên dùng đây mà chất vấn. Kiền-độ thọ giới nói pháp đệ tử rằng: “Nếu Thầy sai đến phải vui vẻ làm tròn, không được từ chối, nương gá nhân duyên mà ở, cho nên nói rằng “Theo thầy”. Trong phần chính giải, dẫn văn có ba. Ban đầu dẫn luật Ngũ Phần chứng minh không cuộc hạn ở phương, nhưng nói rằng “Thân mặt” có thể giải quyết ở luật Thập Tụng. Kế là dẫn luật Thiện Kiến để chứng minh cần phải viên. Nói phương viên thì phương là chỉ bốn hướng, viên là chỉ giới thể. Chữ “nãi” trở xuống là dẫn rõ luận chứng lấy bốn góc, nhưng kia là tác pháp, nay rõ giới tự nhiên, nhưng lượng pháp không khác cho nên được dẫn chứng. Hợp, dụ như hòa. Giác là bốn góc. Trong luận chính ngăn lấy phương bỏ góc, kết khuyến có thể biết. Trong văn chỉ rõ không thể chia xóm làng, còn bao nhiêu y cứ theo bốn dụ. Hai là rõ tụng tăng, rõ nghĩa tăng, câu đầu bày vị. Luật chép“Có bốn hạng tăng: Tăng bốn vị: Trừ thọ giới (bạch gọi, đối hỏi hai đơn bạch, trong lúc thọ một phép bạch tứ) tự tứ (năm đức hòa tăng bạch một lần) xuất tội (Tăng tàn một lần bạch tứ) còn tất cả yết-ma nên làm (Sớ nói: “trừ ba đơn bạch; hai là bạch tứ, bao nhiêu đều bốn vị tăng làm). Tăng năm vị: Trừ ở giữa nước thọ giới và xuất tội Tăng tàn. 3- Tăng mười vị: Trừ xuất tội. 4- Tăng hai mươi vị, tất cả yết-ma được làm. Chữ “phiếm trở xuống là bày danh nghĩa. Chữ “nhược” trở xuống là giản lạm lược nêu tướng phi, ủy như đủ số. Năm câu trong văn, câu đầu và câu thứ tư đầu y cứ năng bỉnh, câu kế là chỗ làm, câu thứ ba chung năng sở, như đối chúng hỏi nạn, xả đọa, thọ sám… vì người năng bỉnh tức chỗ lương. Câu năm trái nhau, như bốn nghĩa xen nhau, v.v… Bốn câu trên bày riêng, câu dưới là bao gồm. Chữ “thông” trở xuống là chỉ rộng. Nói bảy món là gồm thâu chúng khác. Sớ nói rằng: “Đối pháp tâm niêm lập tăng một người, đối với đối thú lập Tăng nhiều người (hay hai ba người), đối với chúng pháp lập Tăng bốn người”. Lại nói rằng: “Đâu không rộng bỉnh gọi chung là Tăng” (xưa nói Tăng lựa riêng là lầm), dưới chỉ nghĩa Sao văn miễn (xưa nghiệm kia không văn là sai). Trong nghĩa chung của Nghiệp Sớ nói rộng về thể tướng, chẳng thể chọn bày cần học mới biết. Chữ “tức” trở xuống là thiên yết-ma cũng rõ bảy vị pháp sự như hay phi, tìm đó có thể lãnh hội. Trong lệ riêng, vị riêng dễ hiểu, lược bỏ không nói. Thiên nầy nhóm tăng lại y cứ vào đại chúng. Đầu tiên bốn người, Sớ chép: “Tăng tuy có bốn, thể tướng chia hai: Một là thể chẳng đủ, bốn không gọi là tăng, sau tùy sự chia cho nên có ba món riêng. Trong văn lại nêu lời kết, thật ra trong một trăm ba mươi bốn pháp trừ năm món trên còn bao nhiêu tăng bốn người đều được làm. Trong năm người, ban đầu bày bổn tông, biên thọ hai pháp giáo thọ thưa gọi. Giới Sư đối hỏi tự tứ thưa hòa, chỉ có ba lần bạch, đây là năm người dùng. Nếu y cứ tăng thể bốn người có thể làm, nhưng do sự duyên nhờ nhau chẳng phải năm người không thành, cho nên ngoài bốn người thêm một làm tăng năm người. Biên thọ bạch tứ lại thuộc bốn người. Chữ “nhược” trở xuống là kế lấy bộ khác, bổn tông thọ sám cũng chỉ bốn vị, nay y theo Luật Tăng-kỳ thêm vào trong năm. Kia nói rằng: “Năm chúng yết-ma là tự tứ, biên thọ (thọ giới cụ túc ở biên giới) tất cả phạm Ni-tát-kỳ. Mười người, Sớ chép: “Ở giữa nước tăng nhiều, trước thọ sinh mạn, cho nên gấp bội số năm ở trước là tăng mười người”. Hai mươi người, hai thiên gần phạm trọng, hối hận tính tình nông nổi cho nên gấp bội thọ giới là Tăng hai mươi người, y cứ theo Sớ. Hỏi: Thọ giới, biên địa khai cho năm người, lệ y cứ xuất tội cũng nên khai mười người? Đáp: Thọ giới là sinh thiện nên khai thì có lợi ích, xuất tội là diệt ác mà khai là thêm lỗi. Còn bao nhiêu rộng như kia. Trong thể dụng, câu đầu gồm chung bốn vị. Chữ “nhược” trở xuống là bày riêng thể Tăng. Ban đầu rõ thể chung, chữ “kim” trở xuống là rõ dụng riêng. Trên tức y luật lược bày tăng thể, luật bổn chỉ có y cứ theo số nói về thể, nghĩa là một người, nhiều người, bốn người, như lấy giả dụng bèn y cứ thành luận, rõ ý văn nay. Tuy chẳng chính biện bốn người, thật biện chẳng phải thể, mà sao thì nói xưa ghi chỉ trước nêu tông là Tăng thể, ấy là lầm. Trong chọn tịnh uế, văn ban đầu tự hành lấy tịnh, chỉ y cứ tự biết, gạn có chỗ phạm, sám hối rồi đồng pháp, không như vậy thì quyết y cứ ba căn xem xét trong đục, trong thì sẽ dự số tăng, đục thì quyết trị tẫn xuất, căn không ngoài chương cũng cho tham dự. Khoa kế, trong chọn sạch, ba câu đầu lựa định văn lược tự tứ. Chữ “dó” trở xuống là giải thích thành. Ban đầu giải thích nói giới. Câu trên chế năng thuyết, câu dưới chế người nghe. Sau giải thích sám tội, câu trên chế năng sám, câu dưới chế người thọ sám. Hỏi: Tất cả các yết-ma đều thuộc trong hai môn sinh thiện và diệt ác, làm sao phân chia? Đáp: Như các hối tội trị tẫn, diệt tẫn, can ngăn, v.v… các pháp, gọi là diệt ác, còn ngoài ra đều gọi là sinh thiện. “Xưa thấy”, trở xuống là nói rằng sinh thiện, liền khoa đây là diệt ác, đến đỗi khiến kẻ hậu học vọng cho là nói tự tứ, đồng là diệt ác. Phải biết, trong văn nói đủ hai món, nói giới là sinh thiện, sám hối thuộc diệt ác, người trí phải xem xét, mong không lẫn lộn. Kế trong thông uế, ban đầu chính rõ. Chữ “cố” trở xuống là dẫn dụ có hai. Ban đầu luật khai bạch dừng tăng tàn, đến trước thọ giới. Hai, là trong luật có người thọ giới rồi nghi Hòa-thượng phạm giới có bốn câu. Ba câu không biết đều được, câu sau biết cho nên không được, như thiên kế dẫn đủ. Chữ “tát” trở xuống là dẫn chứng. Hỏi: Là y cứ việc làm không biết, là năng bỉnh lẫn nhau không biết? Đáp: Lại nói về thọ giới, người bị làm không nghi, gạn phạm mới thành pháp. Nếu nói năng bỉnh chỉ ý cứ bốn tội trọng, đều không biết nhau cũng thành pháp sự. Thiên sau giao phó đầy đủ cho nên ở đây chỉ đó. Đề nói là đủ số, đủ giống như đầy. Tức trong luật nói “được đầy không được đầy”,v.v… như sau dẫn đủ. Số có bảy vị, ban đầu từ một người trọn đến hai mươi người, nhưng nay phần nhiều nói theo chúng pháp. Đối thú, tâm niệm đồng phải ứng pháp. Sớ chép: “một người nói giới biện cùng trăm ngàn mở bày giáo đồng, v.v…”, cho nên có thể biết. Chữ “nhiên” trở xuống là trong văn phần nhiều nói không đủ làm cho thành đủ, vì vậy y cứ vào khả năng, xếp thiên tựa ở đầu. Chúng tướng: Có bổn viết là Tăng tướng, người giải thích rằng “Tăng, Hán dịch là chúng”, nay thì không phải như vậy, bốn dụ lựa chọn tướng kia chẳng phải một nên nói là “Chúng”. Riêng chúng phụ là đủ tướng thiếu vì loại tướng theo. Trong ý đến, hai câu trên rõ tướng sinh. Tăng tuy đã nhóm, chân ngụy tham nhau. Pháp nhờ người mở mang, người trái thì pháp bại hoại, chế khiến lựa chọn y kia có thể biết. Chữ “nhược” trở xuống là bày hai đường, ban đầu đến tăng dụng là nói về thể, chẳng phải tướng đủ, đây là một đường, là dụ thứ ba. Chữ “tất” trở xuống cho đến Tăng nhiếp là rõ tướng trái thể định, đây là một đường, tức là dụ đầu. Nương sự đối duyên đều y cứ ba nghiệp ngoài tướng mà nói. Chữ “dó” trở xuống là tiếp trước phát sau. Chọn lựa là bốn dụ sau, phải trái y cứ chỗ lựa chọn, lấy bỏ y cứ Tăng dụng. Còn trong bốn dụ tức trước hai đường mở ra hai dụ, câu đầu nêu ra thứ lớp. Và thể như cũ, thứ ba nêu ra thứ hai, đều thể phi cho nên nêu cốt yếu mà nói. Ban đầu thể phải tướng quấy cho nên bỏ, thứ ba thể quấy tướng phải cho nên lấy, thứ hai đều quấy cho nên bỏ, thứ tư đều phải vừa lấy vừa bỏ, đối văn có thể biết. Hai, là nói rằng “thể cảnh”, thể là giới thể. Cảnh tức là nhân cảnh, ban đầu dụ y cứ trong văn nêu Tứ Phần là kiền-độ Chiêm-Ba, chia làm bốn câu: 1- Được đủ không nên quở (bốn người yết-ma, thấy ở dụ thứ tư) 2- Không được đủ nên quở trách (muốn thọ đại giới người khai quở trách, tức sau Sa-di chỉ một pháp này) Không được đủ không nên quở trách (Hai mươi tám vị, nay Sao lấy sáu người, thể như ở dụ đầu. Hai mươi hai vị thể phi, ở dụ thứ hai) Được đủ nên quở trách (Tỳ-kheo hiền thiện, trong thiên chỗ chọn chính là lấy người này, nay phải chia làm hai: 1- Thể tướng đều lành. 2- Thể sai tướng lành, là môn thứ ba, đều thành quở đủ) Sáu người, danh tướng sau văn tự giải thích. Trong y cứ nghĩa, khoa đầu xả giới, văn có hai điều nêu ra: 1/ Nêu ra giới dâm. 2/ Nêu ra pháp thọ. Như trong pháp thọ lại có người say, chú yết-ma đủ dẫn. Luật ấy chép: “Thọ giới xả pháp, trong đó nói rằng: Ngủ vùi, say, cuồng đều không tướng lãnh hội, đều không thành, v.v… Nay lại dẫn văn trong giới dâm, hoặc do giải thích lầm nên phải làm lại, hoặc sợ viết sai. Điên cuồng là một người (văn luật kế dụ loạn tâm đau não hại người, nay dùng điên cuồng bao gồm). Câm, điếc, điên cộng là ba người, bên trong xen làm hai người. Văn luật rất rộng, lấy cốt yếu lại nêu chín người. Chữ “vị” trở xuống là bày nghĩa. Văn luật Thập Tụng thấy có bốn mươi chín, kia trước hỏi rằng: “Nếu chúng tăng vì việc ngủ vùi mà tẫn xuất một Tỳ-kheo có được gọi là tẫn chăng? Chữ “nhược văn” trở xuống là dẫn lời đáp kia. Nghe bạch thành là đã biết chỗ làm, tình hòa đã bày. Đủ hai là gồm câm và điếc. Văn kết viết lầm hợp thành mười một, nhưng kia thật có mười hai mà một người tại gia do thể sai, nên chọn về khoa sau còn bao nhiêu nên hiểu như ở sau. Già luận nói ba người là lấy khác kia, đồng thì chỉ trước, nhưng kia có người chuyển căn liền lạc trong ni thứ hai, cho nên không dẫn nữa. Tăng-kỳ nói trước năm như ở sau giải thích. Xen làm là trong bốn tùy nêu một nghi tác pháp, còn ba thứ kia thành riêng, thì một nghi có ba thành mười hai. Sớ chép: “Lại từ bốn nghi liền hợp với chín trước, nghĩa thêm hai người. Ban đầu người say nêu ra trong phần thọ pháp xả giới. Hai, “tự ngữ ” trở xuống bốn câu là một người, tức như trên dẫn văn xả giới. Hai câu trên rõ tự mình không hiểu, hai câu dưới rõ người khác không hiểu. Chữ “thị” trở xuống một câu chính thức bày nghĩa đoạn. Những người khác đều có các bộ văn chứng, hai điều này riêng không có lý, có thể sai trái. Cho nên danh nghĩa thêm phi, nghĩa là Tổ Sư tự ý thêm đó (xưa chép: nghĩa thêm ba người, người không hiểu luật là quấy. Một không biết nghĩa thêm, hai là khen văn cú phá, ba là không hiểu si độn tức không hiểu luật nhân. Như sau giải thích, trong Nghiệp Sớ về trước gồm ba mươi mốt người). Khoa đầu giải thích riêng Tứ Phần. Trong “sở vi” ban đầu nêu, trở xuống là giải thích. Trên rõ lý do không đủ, văn y cứ xin pháp y cứ nhiếp nhiều món. Nay chia ra ba biệt một xin pháp (xứ chia nuôi chúng, cầu sám… là bày lời xin, thọ nhật không có lời xin). Hai là không xin cho thẳng (như các lời sai người và trị tội, can ngăn, v.v…) Ba, tự thân tác pháp tức là việc làm (Giới Sư bạch hòa, thọ sám xả đọa) Vì tăng lượng: Lượng là quán sát người trước có khả năng chăng? Đã là tự xin đâu cho tự lượng, chế không tính đủ số, ý là ở đây. “Nếu thông” trở xuống là kế rõ phi pháp nhập số. Hai câu nầy lời ý hình như nặng, hoặc sợ ý riêng hiểu đó. Trong chung nạn, bổn luật bốn người nhưng trừ ba pháp không được làm (thọ giới, tự tứ, xuất tội, đủ như thiên trước) mà không nêu trừ thọ nhật, thì biết bốn người được làm pháp nầy do đương thời lạm làm, lại muốn trọn bày nghĩa “những việc đã làm” cho nên hỏi để giải quyết. Đáp: Ba câu đầu chính đáp đồng với trên. Văn sau thôi không trừ lý do. Ban đầu rõ phi năm người, cho nên sau rõ nhiếp ở bốn người. Trong luật chỉ có ba pháp đơn bạch là pháp năm người, từ sai người, y công đức, thọ nhật, v.v… đều cần năm người làm, mà pháp năm người sai cho nên nói rằng “sự đồng”. “Sở vi” là gồm các pháp trên, không đồng trở xuống là chọn khác. E nói rằng nếu không cho bốn người thọ nhật thì thuyết giới, giới Sư kiết giới xướng tướng thân ngoài ba người do đâu mà được thành? Cho nên ở đây giải thích. Nói vì tăng là hiển này riêng. Trong thần túc, nghĩa là có thần thông, chân đạp hư không là do giới hạn y cứ vào chỗ trống mà nói về hư không, cho nên nói rằng không “phần chừng”. Ẩn mất trong hầm ở chỗ cấm, ngược với hang đất, vì trong chỗ hang hầm thân không hiện. Trong lìa thấy nghe, đầu tiên nói chỗ kia, chỗ trống nhưng tay không đến nhau, cho nên lựa chỗ che mới có tướng nầy. Như mà ngủ đêm tức trong chín mươi giới có giới. “Ngủ với người nữ”, tướng nhà có bốn (một bốn bên ngăn trên có che. Hai, là trước ngăn không vách. Ba, là tuy che mà không khắp. Bốn, là tuy che khắp mà có chỗ mở, như ở sau có giải thích đủ). Chữ “thử” trở xuống là bày chỗ lìa, sau trong pháp dục thấy nghe đều lìa thành lỗi, nay cũng đồng. Chữ “Như” trở xuống là chỉ lược xưa có thuyết khác, cho nên chỉ như kia, văn ấy đã mất. Nghiệp Sớ chép: “Nay hiểu đều trông lần lửa đồng tòa”. Không y cứ người làm yết-ma, như Chuyển Luân nói giới tám vạn tự tứ, do đâu nghe khắp, chỉ lấy liền nhau, tức chẳng riêng chúng, v.v… Trong biệt trụ, ban đầu nêu ra giải thích xưa, đã đồng một giới đâu gọi là biệt trụ? Cho nên không dùng. Trong giải thích nay, hai câu đầu lập nghĩa. Chữ “phi” trở xuống là ngăn nghi, về sau là giải thích nghi ngờ. Trong giới tràng, trước giải thích biệt trụ, đã y cứ khác giới, tự nhiếp giới tràng, không phải nêu lại cho nên đối khoa trước giả nghi để giải thích. Ban đầu nêu nghi, dưới đây quyết nghi. Hai giới là biệt trụ và giới tràng đồng ở chỗ tự nhiên, giới tràng tuy là pháp địa nhưng ở ngoài tự nhiên, cho nên Nghiệp Sớ chép: Giới tràng tuy là đại giới bao quanh mà hai giới không liền nhau, ở giữa có đất trống (trung gian, cũng gọi là không địa) tức là khác giới. Luật Thập Tụng nói, trong bốn người, ban đầu rõ lý do không đủ. Vốn là vô tâm, Nghiệp Sớ chia hai, ba cái trên vì vô ký không duyên thiện ác, người lành nhập định có sự vắng lặng riêng, cho nên luật Thập Tụng trở xuống là dẫn chứng, tức nhóm tỳ- kheo sáu vị làm duyên. “Phật nói” trở xuống là văn lược, kia do lập chế cho người yết-ma phải nhất tâm chớ dạy bảo khác, suy nghó khác, chuyên tâm kính trọng, tâm tâm đồng nhớ, v.v… Y cứ sau nghĩa quyết có hai. Đầu tiên là quyết ở số chúng, quá nghĩa là ngoài bốn vị. Chữ “túng” trở xuống là kế quyết không nhóm chẳng riêng. Do trái tăng dụng cho nên chữ “dư” trở xuống là chỉ lược, tức mười duyên trong chọn chúng thứ sáu. Kế trong ba người, ban đầu bày lý do. Hai căn tai, lưỡi chứng pháp là cốt yếu. Chữ “cố đại” trở xuống là dẫn pháp giải thích thành. Hai, năng tức ở trên nói. Nghe, mù đều hai năng sở để thành đủ. Tướng trái riêng cho chỗ khác nghiệm. Cho nên y cứ ở dưới dẫn luận để quyết, cũng lấy biện rõ người Yết-ma. Sau, ba người, ban đầu nêu ra lý do, chữ “nhược” trở xuống là dẫn bày khác nhau. Ban đầu bày hai phẩm thượng hạ đều không cần pháp. Thường nhớ tức phẩm hạ, không nhớ tức phẩm thượng. Nói nhớ, không nhớ là y cứ nói pháp tự tứ thường hành. Chữ “nhược hỗ” trở xuống là rõ trung phẩm cần pháp. Bạch nhị xa thêm giải mới vào số, cho nên nói là “dầu khiến”, v.v… Chữ “thống” trở xuống là nêu đồng hai cái khác, đều chia ba phẩm, do ba tướng tuy khác mà đồng loại điên cuồng. Tứ Phần gọi là đau đầu (óc), tức bịnh trước hoại tâm người, trong văn không giải thích tỳ-kheo trên cây. Luật kia nói rằng: “Tỳ-kheo ở trên cao giải tẫn không thành” nhưng nói trên cao là thông Tổ Sư giúp cho dễ hiểu. Vả lại y cứ một tướng nên nói là “cây”, do chỗ cao thấp tướng riêng chẳng đồng ở, cho nên Nghiệp Sớ nói rằng: “Nếu cành cong ra chỗ ngoài giới, thân ở trong giới thành biệt giới ngoài chẳng biệt. Nếu không cong chỗ trong ngoài đều riêng mà là không đủ”, số thâu lựa chung mười người. Ban đầu bốn người tốt tức tòa tâm, trái với dưới sáu bịnh báo. Ba thiếu tai, lưỡi ba lỗi ý căn. Sau một trái nghi, tìm văn sẽ thấy. Già luận nói, ba người, ban đầu bịnh nặng hiển tướng, quyết y cứ thân hôn mê, thân tuy khốn đốn, dốc tâm dụ như không muội, Luật dạy cho đến, hoặc tăng đến kia, hoặc ra ngoài giới, cho nên biết là đủ. Về Biên địa, Già luận chỉ rõ biên, trong không đủ. Bổn luật xả giới xen không thành xả, cho nên sau y cứ giữa nước. Chữ “tất” trở xuống là nghĩa quyết, vốn do nói không tướng vì lãnh mà không đủ. Trong si độn, ban đầu bày ý không đủ, tức người không hiểu luật. Như kinh, luận, Thiền tông và các môn tạp học không thấm nhuần luật bộ đều thâu ở đây. Dầu xưng học luật thời buông lung lỗi học, không rõ duyên khởi cương yếu đều mê thành bại hoại, đua đòi phụ theo lạm dự nhân Sư, tự cho là mình tinh anh, thật đồng với si độn, cho nên Nghiệp Sớ đã giải rộng, nêu năm món mê, nay dẫn cho đó, nên tự tỉnh xét. Kia nói rằng: “Tụng văn mắt hợp e có sự dừng lâu duyên vào sai trái, bên cạnh không có người biết, đây là mê thứ nhất (gồm bày bốn pháp đều không ai xem xét). Hoặc đồng tụng một pháp trước sau văn không trái, tướng năng sở không biết kia hay mình, đây là mê thứ hai (đây là mê pháp). Hoặc y cứ văn nhiếp cẩn thận, sâu luyện tự tha, thêm bớt trái sự pháp, lầm lộn không gọi là khiến ở, đây là mê thứ ba (nghĩa là mê sự). Hoặc văn cú bèn rõ, sự trái lạm, người có duyên khác, phải trái đều im lặng, đây là mê thứ tư (tức mê người). Hoặc người pháp đều đủ, sự cuộc hạn giới cảnh thành không rõ ràng, rốt cuộc đùn đẩy đưa nhận, đây là điều mê thứ năm (đây là mê giới). Xem năm điều mê nầy rất rõ bốn pháp, rộng khen cẩn thận hợp với tăng luân, đồng năm chỗ thâu nghĩa qui về không đủ (bốn pháp tức người, pháp, sự, giới). Quyết nói, v.v…, nói nghĩa là yết-ma nói nghĩa. Chữ “tề” khứ thinh. Như khi nói giới chỉ giải một lần bạch, ngôn tướng trước sau liền đủ một số chỗ nói giới, do người khó đủ sợ pháp sự thiếu bỏ, gạn thông loại nầy. Tăng-kỳ, chín người bốn nghi dễ hiểu, nhưng giải thích năm người, ban đầu trong dữ dục, tâm tuy đồng pháp, thân không hiện tiền. Chúng lấy tướng đồng trái cho nên không đủ. Trong cách chướng có hai: Ban đầu y cứ chỗ che chướng. Chữ “hoặc” trở xuống là y cứ chỗ trống, vì trong văn chỉ nói cách chướng cho nên chung hai loại giải thích. (tờ 1 9 1) Trong che một nửa, phải giải thích hai người, do tướng tuy hai, riêng y cứ giới đồng cho nên ban đầu đều thông điệp. Chữ “vị” trở xuống là phải giải thích, hai câu trên bày chỗ đồng. Chặng giữa trở xuống là rõ tướng khác, chữ “tinh” trở xuống là gồm kết. Trong chỗ trống, câu đầu nhắc lại tên. Chữ “thử” trở xuống là giải thích tướng, ở đây nói, là chỉ chỗ nói ở trên. Tướng rõ là tuyên bày không lạm, quyết biết lựa che. Chữ “phú” trở xuống là đối với che giải thích thành, chữ “thuyết” trở xuống là lựa riêng, sợ cho là người khác cần, việc làm của hai thầy đều không cần, cho nên trong một tầm không quá tám thước thì cho tiếp nhau. Trong dụ thứ hai, hai phi tức thể và cảnh. Hỏi: Cảnh và duyên khác nhau thế nào? Đáp: Cảnh nghĩa là duyên tốt xấu của người, nghĩa là ba nghiệp trái, thuận. Bổn tông, trong nêu bày, Ni là báo riêng. Sa-di chưa đủ, Thức xoa, Sa-di-ni thì gồm hai nghĩa. Mười ba nạn nhân thể chẳng phải ba học, pháp cách ngại hai diệt thể hư hoại. Trong giải thích nghi, ban đầu nhắc lại lời hỏi trước, do nhiều thuyết khác cho nên hỏi giải quyết. Trong Ni bốn người hợp làm, v.v… Đáp: Trong ban đầu nêu xưa, tức ý san phồn có chấp thể. Chữ “như”trở xuống là phá nạn, “kim” trở xuống là chính giải lập nghĩa ở đầu, “nếu biết” tức ngay dụ nầy, không biết tự thuộc môn sau. “Như” trở xuống là chỉ loại, thiên sau chép: “Thọ dục rồi tự nói “tôi là người có mười ba nạn, v. v…” do tự bày cho nên chẳng được tăng dùng (đây chứng biết thì không đủ). Nếu không tự nói, trong tướng đồng thuận (đây chứng không biết thành ra đủ) không đồng ba thứ sau ngăn chọn thì là duyên trái, ở đây lấy duyên thuận”. Cho nên sau bốn dẫn dụ tức trong pháp thọ giới có người thọ giới với Hòa-thượng phá giới, sau sinh nghi, hỏi Phật, Phật giải quyết cho người đó. Sinh nghi có bốn cho nên thành bốn câu: Hỏi: Ông có biết Hòa-thượng phá giới hay chăng? Đáp: Không biết. (Phật nói đắc giới) Hỏi: Ông biết kia phá giới chăng? Đáp: Biết. Hỏi: Ông biết không nên theo người này thọ giới chăng? Đáp: Không biết (Phật nói đắc giới) Hỏi: Ông biết người kia phá giới chăng? Đáp: Biết. Hỏi: Ông biết không nên theo kia thọ giới chăng? Đáp: Biết. Hỏi: Ông biết thọ giới với người nầy là không đắc giới hay chăng? Đáp: Không biết. (Phật nói đắc giới) Hỏi như ba câu trên, đều đáp “Biết” (Phật nói không đắc giới). Cho nên không đủ số, câu nầy lệ thành nghĩa nay. Ba câu đắc giới là lệ đủ, câu sau không đắc lệ không đủ. Chữ “sở” trở xuống là năm thủ chứng, trong văn là kiền-độ Chiêm-ba. Trong không đủ kia, trước sau cả hai nêu ra như trên, v.v… Trong người biết chúng một nêu ra. Đều nói rằng: “Nếu tự nói là phạm biên tội, phạm Ni, v.v… Luật Thập Tụng, văn thấy lệ thư ba. Trong phá xưa, ban đầu nêu ra giải thích kia, do chấp thể cho nên tức là thọ giới bốn câu, chỗ ngăn ngại bèn cong, giải thích rằng “Kia không biết đắc giới gọi là ngoài số”. Ở đây, trở xuống một câu là phá thẳng, Hà trở xuống là song nạn. Trên y cứ không biết nạn trái tông, văn dưới ước biết nạn trái pháp. Trong Ngũ Phần, Thập Tụng, Tăng-kỳ thì Hòa-thượng ở ngoài, Tứ Phần thì hạn định giữa nước là mười vị. Luật Thập Tụng một người mà nói thêm là bổn tông không có nghĩa, thẳng y cứ văn kia tăng thành số nay, cộng thành hai mươi ba vị. Trong phần giải thích, khoa đầu trước chỉ bày chung nghĩa là đều nêu hai mươi ba loại, đều do hình lạm, đồng pháp cần lựa. Xưa cho rằng người tại gia vốn đủ giới duyên, đợi người tục hàng phục, cho nên đặc biệt ở điểm đó. Chữ “thập” trở xuống là giải thích, đầu tiên là chính giải thích. nghĩa Sớ chép: “Ở đây cùng biên, v.v… nào khác tội nặng ở trước”, mười ba nạn có lỗi chướng giới, ở đây người tại gia năm, tám, mười người đều tuy đồng tâm tịnh, không ngại gia pháp, tham sai không thành vẫn là tên cũ. Chữ “cố diệc” trở xuống là trái nghĩa đó. Xưa, ban đầu bày lý do, Sớ chép: “Này không đồng, không dùng oai nghi định thể trạng của tăng, trong đủ giới kiến, tài pháp ứng tăng. Ngoài thiếu đạo tướng làm duyên cũng được. Liền biết, trở xuống là nhân bày hành sự. Trong ba nêu, Tỳ-kheo phạm tội, chống cự rằng “không thấy”, hoặc không chịu sám hối, hoặc nói “dâm dục không chướng đạo”, gọi là ác tà không bỏ, ba loại nầy đều làm pháp bạch tứ nêu bỏ ra ngoài chúng, như vật không dùng nữa, cho nên nói là “ba nêu”. Câu dưới chỉ rộng tìm đó tự thấy. Diệt tẫn: Ba điều trên tạm bỏ, sau hiểu lại đủ, đây tức là thường bỏ không tịnh lại như xưa. Nên tẫn: Nên giống như đáng. Tội đáng diệt tẫn mà chưa tận, cho nên đầu tiên y cứ gia pháp chưa thành giải thích. Ba-la-di: Nói tức là thiên đầu, do chưa thêm diệt tẫn, có thể gọi là “triệu”, vả lại do thiên đầu tiên thuộc về phạm pháp, cho nên nói rằng “vào”. (Tăng tàn, lan-già, v.v… đồng với thuyết này) Nhược, trở xuống là kế y cứ hai ba người biết mà chưa nêu giải thích. Chữ “hoặc” trở xuống là thứ ba y cứ một người riêng biết không nêu giải thích. Chữ “tinh” trở xuống là kết bày. nghĩa Sớ lại nêu là chẳng phải hiển bày chung, không có sức ngăn trị cũng gọi là “nên đuổi”. Chỗ nói “người biết” là ba căn không lạm. Cho nên quyết y cứ người biết, là muốn hiển nghĩa không đủ của môn nầy thì không một người nào biết mới thành đủ. Trường hợp thứ ba, trong phần hiển tướng, câu đầu là bày số, tức hai mươi ba người, y cứ ở sau giải thích lý do. Trên nói không giải thích là đủ. Chữ “nhược” trở xuống là bày, dầu nói cũng thành. Nói vốn lấy biết, chúng đã không biết là đồng không nói, như nói ở chỗ vắng, hoặc nói ở chỗ khác v.v… y cứ trong luật hai điều trên như trước. Văn nói rằng: Tức là trong bảy pháp diệt tránh tự nói trị duyên khởi. Ngài Mục-liên dùng thiên nhãn và lôi người phạm giới ra ngoài chúng, Sao dẫn lời Phật quở. Trong chuyển chứng, ban đầu văn Thập Tụng. Câu đầu tức nên đuổi, câu kế là tặc trụ. Chữ “bổn” trở xuống hai câu là biên tội, đều đến các nạn cho nên nói là “đẳng”. “Nhược tiên” trở xuống là nay chính y cứ. Khoa kế, Bà luận ban đầu rõ lập chế. “Cho đến” trở xuống rõ y chế. Trên rõ không kể thấy nghe, văn chỉ rõ thấy, nghe có thể so sánh đồng. Lớn nhỏ ấy, là lỗi nặng nhẹ. Chữ “nhược” trở xuống rõ không cho nói. Giải thích tự nói là trước tuy nhiều lần nói là “tự nói”, vẫn còn sợ chưa hiểu, cho nên bày tướng nói, một là phải đối trước người nói, hai là phải nói nghĩa rõ ràng khiến người khác biết mới thành không đủ. Lòng từ dạy dỗ rất tha thiết cho nên đây quanh co. Trong phần thứ tư nêu rằng phạm pháp, pháp tức chế tội. Bổn tông bốn người, ban đầu nêu danh tướng như trong “Tăng Cương”. Chữ “ứng” trở xuống là rõ pháp thành, do chỗ phạm tình lỗi chẳng phải cực nặng. Chữ “đãn” trở xuống là bày chút lỗi, do đây phạm lỗi bạch tứ trị phạt, cho nên không được quở là vì trong ba mươi lăm việc đã chế. Trong luật khoa là được đủ hay không được đủ người quở, còn bao nhiêu như khoa sau. Phạm Tăng tàn, bảy người là ban đầu nêu danh số, đủ như thiên sám. Bổn tông, bốn người chỉ y cứ chính hạnh. Thứ tư, là người, thì Nghiệp Sớ chỉ thêm chữ tương, đối với tướng rất rõ (bốn nầy nêu ra nhân pháp, trong không ở bốn cần đủ). Luật Thập Tụng nói, ba người đều y cứ làm xong, e nghĩa là làm xong vọng toan đủ số, cho nên Nghiệp Sớ chép: “Sáu đêm xong cho pháp xuất tội” là khác gì? Đáp: Văn luật hai vị y cứ xa gần. (sáu đêm xong, mong xuất tội, xa sẽ xuất liền gần) Lại hỏi: khác gì với người bạch tứ yết-ma? Đáp: Trước chỉ phạm lỗi nhỏ, tình lỗi có thể quở, cho nên gồm thâu đủ số. Đây phạm lỗi gần tội chết, tội rất khó trừ cho nên không đủ. Không đủ, trở xuống là bày chút phần nghĩa, nghĩa là chỉ trừ hối bốn pháp Tăng tàn, là không đủ, do người đồng phạm không nên đồng trị. Không ngăn trở xuống là nói về ứng pháp. Đây mười một người là y cứ sớ phán riêng, nên biết sao nay hoàn toàn nương luật nêu ra vẫn đồng giải xưa. Luật ấy chép: “Có người nói: Bốn yết-ma ấy chúng pháp đều thông, các pháp Tăng tàn trị cuộc hạn hai thiên sám hối” như làm này hiểu. Có người bị quở trách lại trị người. Phạm hai thiên, khai các sám chủ, xét y cứ sự tình văn luật không rõ, do nghĩa loạn định nên chia hai đường. Nếu đồng phạm đồng trị lý không dự, thiên luật nói đủ số nghĩa là sai kết (đây là một đường). Nếu tự có phạm thì lỗi bất tịnh, do có người tội không nên giải tội, mới được ứng, bao nhiêu chẳng phải tội yết-ma (đây là một đường). Nếu làm nầy chung trước sau không ngại (y theo đây quyết trước mười một người, chỉ nên sinh thiện gọi là đủ, tất cả diệt ác, phạm trị đều không thành đủ. Sao tồn không rõ nghĩa, dùng Sớ bỏ đó). Hỏi: Trước bốn sau bảy, có gì khác nhau hay không? Đáp: Theo luật thì riêng, Sớ thì quyết không khác. Không ngại đồng quy về chút phần, không đủ được làm một dụ. Hỏi: Bốn môn đồng khác, có thể được nghe chăng? Đáp: Hai môn đầu một bề không đủ, môn thứ ba tướng trái danh đủ, môn thứ tư hoặc đủ không đủ. Lại môn đầu và sau đủ giới, hai môn giữa phần nhiều là riêng. Ni bốn vị, v.v… có mà chẳng phải loại. Mười ba, như biên v.v… hoàn toàn không nêu, diệt đều có, toàn hoại để chia. Hỏi: Ba dụ không đủ là gồm bao nhiêu người? Đáp: Ban đầu là ba mươi mốt người, môn kế là hai mươi ba, cộng mười một người của môn thứ tư, nên thứ ba có sáu mươi lăm. Y cứ sau riêng chúng, học hối không đủ. Nghiệp Sớ lại thêm trái tòa thuyết giới, cộng là hai người, không hệ thuộc dụ trước. Pháp biệt chúng phụ nêu trong bộ, chú thích hai câu trước là bày tướng. Câu trên rõ khác giới chẳng riêng, câu dưới nói chung ba nghiệp, bốn nghi. Hai câu sau kết danh để biết. Nhưng riêng, chung, năng, sở thì trong năng biệt xuống đến một người là chúng pháp, tâm niệm cũng chế nhóm hết. Nếu nói sở biệt đều chung nhiều ít. Hỏi: Đây có khác với ăn riêng hay không? Đáp: Trong ăn, năng biệt cuộc hạn bốn hay ba người lỗi, sở biệt đồng với trên. Lại ăn có chín duyên có thể khai pháp, không phương tiện được riêng. Ăn thì phạm Ba-dật-đề, chế trọng, nghiệp khinh, pháp chỉ phạm Đột-cát-la chế khinh, nghiệp trọng. Nếu trong một giới hai chúng bỉnh riêng pháp thì đó là phá tăng, phạm Thâu-lan-giá trung phẩm. Hỏi: Tên riêng chúng là năng hay sở? Đáp: Chế lỗi ở năng, theo năng mà đặt tên. Nghiệp Sớ chép: “Nếu lấy lời liền nên nói là “biệt chúng”, có thể dùng giải quyết. Hỏi: Thế nào gọi là biệt? Đáp: Biệt là nghĩa khác, một và ba là nghiệp khác, hai và bốn là nghĩa khác, ba trước sau khác đều như sau rõ (trong ăn chỉ là ăn không đồng vị, tên đồng sự khác). Trong ba nghiệp, khoa đầu nêu ra kiền-độ Chiêm-Ba. Nên đến, nghĩa là nên yết-ma. Chọn người, trước thể tịnh duyên sai, giữa là câm, điếc, cuồng loạn, bịnh nặng, si độn, v.v… và thể cảnh đều phi, một môn là mọi người đều không nên đến. Vì vậy thứ hai nên cho giữ dục, đó là có duyên đúng như pháp. Lựa chẳng phải duyên ấy là không nên cho, cho nên thứ ba, người được quở trách nghĩa là người đủ đức đúng như pháp. Lựa không nên quở trách, như bốn thứ yết-ma, v.v… Hỏi: Không dữ dục là người và miệng cũng không nhóm, sao không nêu? Đáp: Thân đã không nhóm, lý không quở trách. Hỏi: Như vậy đầu tiên thân người cũng không nhóm phải chăng? Đáp: Kia không có duyên dữ dục, nên phải nhóm họp, cho có miệng quở, cho nên đồng không nhóm. Đây thì không phải như vậy, có duyên như pháp mới cho không nhóm. Cho nên nếu y cứ theo Nghiệp Sớ riêng ghi ba nghiệp chính là trọn ý. Ban đầu thân không nhóm, kế tâm không nhóm, sau miệng không nhóm, lại là ba hòa cũng theo riêng trải. Khoa kế, trên hai người có thế biết, sau người, tâm không nhóm, đây gọi là có việc đáng quở trách. Tâm không bằng lòng thì quyết không có việc quở, đồng với người ban đầu, cho nên sau dẫn chứng. Ban đầu tức văn Chiêm-ba, kia rõ phi pháp hòa hợp yết-ma nói rằng “Có đồng một chỗ ở, đồng một hòa hợp một chỗ yết-ma, người nên dữ dục hiện tiền dữ dục, người nên quở trách không quở trách, tác bạch hai lần mà làm tác bạch bốn lần, bạch việc này làm việc kia”, văn nầy có thể chứng tướng thuận mà tâm trái. Chữ “hựu” trở xuống tức lìa pháp trong văn, đầu tiên dẫn Thân Tử (Xá-lợi-phất) hoài nghi hỏi Phật. Trên chữ “như pháp” là viết lầm, kia chính nên viết là phi pháp. Chữ “ưng” trở xuống là Phật xử đoán, kia nói rằng “Phật dạy cho im lặng” liền nêu đủ mười lăm món im lặng, như thiên yết-ma đã dẫn. Trong bốn nghi, ban đầu dẫn bổn luật, tức trong pháp nói giới, kia nói rằng “Nhóm tỳ-kheo sáu vị nghó rằng” ta đến chỗ nói giới không ngồi sợ các Tỳ-kheo khác làm yết-ma cho ta, nếu ngăn nói giới thì Phật đã dạy không nên, nay dùng phi pháp thế đó, là nói riêng chúng”. Kế dẫn Ngũ Phần, bốn nghi dầu đồng, thân mặt hướng trái để nói chung riêng, sau dẫn Tăng-kỳ văn như trước giải thích, phần lớn y cứ trái mà nghi đồng trên Tứ Phần, nhưng văn kia trọn câu hiển bày tướng vẫn rõ. Trong phần lựa chọn, phần lớn khoa đầu: 1- Thường để phán không ngại thân, không đến tăng mà là không đủ. Ẩn mất, dữ dục, trên cây, v.v… các loại, tự có đến trong tăng được thành riêng chúng, như trên trái nghi mặt lưng, v.v… Trong lựa tịnh uế, tịnh là bốn dụ ban đầu, uế là dụ thứ hai. Nhưng ba nêu, hai diệt có thể nói là uế. Ni bốn người, v.v… chưa hẳn y cứ là phạm. Người mười ba nạn không thể để phá, nhưng nay chỉ lấy cảnh chẳng phải tịnh tăng nên nói chung là uế. Uế vốn không đủ, tịnh tướng khó biết, cho nên trong chú chỉ bày tịnh. Thanh tịnh một sắc lại y cứ không phạm bốn giới trọng, vì nói sắc dụ như loại, sau chỉ cú pháp. Theo Nghiệp Sớ chép: 1/ Biệt chẳng đủ. (nên đến mà không đến và không dữ dục). 2/ Đủ chẳng biệt (tức Tỳ-kheo hiền thiện đích thân tham gia cùng chúng). 3/ Vừa đủ vừa biệt (người được quở liền quở). 4- Chẳng phải đủ chẳng phải biệt (người ngu, nhập định, câm, điếc, v.v…), văn kia rất rộng chẳng học thì không biết, cho nên lược dẫn. Trong chọn học hối, ban đầu không đủ, vì trước đã rõ. Hỏi: Xét luận thì học hối bốn lệ thuộc về lệ nào? Đáp: Đã hư thể căn bổn, chẳng phải tịnh tăng cho nên chẳng phải lệ đầu. Đến chăng tùy ý, lại khai bỉnh pháp cho nên chẳng phải lệ thứ hai. Sinh thiện diệt ác, tất cả đều đủ, lại chẳng phải lệ thứ tư. Trước đã không thâu, trong đây mới bày. Tuy khai bỉnh pháp, phải ở ngoài số tăng, y theo đây mới biết tín nhiệm của bỉnh pháp chẳng dùng. Vả lại, lời yết-ma không qua số câu. Nếu chỉ tụng đọc thì ai mà không làm được, há được trong chúng rồi không hiểu. Văn nêu không hiểu, lời này đáng suy nghó, Luật chế có khả năng nhận lãnh thì phải biết là có lý do, xem nay chớ mạo hiểm, thật là thương xót. Chữ “biệt” trở xuống là chính bày chỗ lựa, khai bỉnh, dự chúng khác thứ uế kia. Đủ, biệt đều chẳng phải thà đồng dùng tịnh, cho nên nói rằng “chặng giữa”. Kế, trong thành hay chăng, đã rõ tướng riêng chúng thành hay không thành. Trong chính lựa, hai câu trên của khoa đầu là rõ thành, phạm riêng trở xuống các thiên vì không hoại bổn nên biệt phạm trở xuống là nói không thành. Căn bổn đã hoại thì các pháp dứt, cho nên văn lại chia làm hai: Ban đầu y cứ không biết rõ thành pháp, dẫn luật không khởi có tưởng để bệ uế mà khởi tưởng tịnh, lý không sai. Yết-ma thành ấy, Phật phán pháp thành, tức bày chẳng riêng, tội tức Đột-cát- la. Tâm không đồng là nêu ra ý kết tội. Thứ hai, là từ chữ “phiên” trở xuống là y cứ chúng biết rõ tùy biệt. Trong tạp loại, ban đầu nêu nhân tướng. Ba cuồng gồm loạn tâm bịnh hoại, phải chọn hạ phẩm và trung phẩm chưa đắc pháp. Chữ “hoặc” trở xuống là rõ lý do chẳng khác, câu trên đối mười ba nạn, câu kế đối ba việc, hình sai là đối Ni, v.v… Pháp Sa-di chưa đủ, văn lược câu nầy, Sớ thì đủ. Bịnh báo là đối ba cuồng, câm, điếc. Chữ Duyên trở xuống một câu là gồm hết bốn câu trên. Khai nghĩa là cho riêng, “phàm” trở xuống là gồm phán. Nói chưa luận ấy, chưa giống như không. Đủ là đủ số, riêng là riêng chúng. Do các người trên trong hai không nhiếp, trong đây vốn nói chẳng riêng, nhưng cùng nhân tướng chẳng đủ không khác, cho nên gồm bày (Nếu nói rằng người đủ riêng ấy, thì đây nói riêng chúng đâu được chuyên rõ đủ số, lại trước dẫn xả giới, thọ dục, tự tứ, v.v… đều y cứ đối thú, đâu phải chưa luận). Trong chỉ lệ dùng tướng riêng, riêng chúng chính y cứ tăng chúng riêng khác tác pháp, sợ cho là đồng ăn người khác chẳng phải riêng, cho nên ở đây nêu bày. Chúng pháp đối thú, tâm niệm có khác nhau để biết. Đối thú, tâm niệm cũng có không nhóm, như đã chọn ở trên, có thành chăng? Đồng tăng lại rõ trong văn nêu bác bỏ thế gian để làm sinh khởi. Trong trái, thuận, nêu chung hai câu phán định nghĩa tông, môn nầy đều như trước dẫn, sợ người chưa hiểu y cứ nghĩa trọng điều. Trong nghi bên ngoài, hai văn trên như ở trước. Trong luật Tứ Phần, ban đầu văn chỉ bày, kia chỉ nói rằng “không nên như vậy”, tức là lời quở trách. Đứng ngồi đã sai, lý chẳng hòa tướng cho nên xếp vào riêng chúng, tức như trước dẫn “nên đến, v.v…” các văn. Kia chẳng hòa tướng cho nên nói riêng chúng, rõ nay tướng không ngồi cũng chẳng hòa, là riêng không nghi. Chữ “như” trở xuống là dẫn lệ. Trong giới ăn no nói y cứ bốn oai nghi mà giải thích. Câu dưới hiểu đồng tức chỉ khoa nầy. Trong tâm trống rỗng, tức là tâm trái, dẫn chứng có thể biết. Trong ngồi dứng khác nhau, khoa đầu do đời phần nhiều vọng làm nên đặc biệt chỉ bày, như nói giới đã bác bỏ, nhưng khi nói giới, vị Duy na đứng dậy đối với Thượng tọa, cho nên ở đây có lạm, còn các pháp khác ngay tòa đối đáp thì chẳng phải đã bàn. Sau chỉ nghó Sao phải có thuyết khác, văn kia cũng mất. Khoa kế, ban đầu rõ hai đứng, trị phạt, chiết phục không cho ở tòa kia. Chữ “dó” trở xuống là giải thích ý cho đứng. “Dư” trở xuống rõ chế ngồi, như lìa y, gậy, túi, loại hối tội, xin phải nhún mình quỳ gối trước tăng. Quỳ đồng tướng ngồi cho nên nói là ngồi xin. Trong luật, hễ theo tăng xin pháp đều lệ năm nghi rằng: Nên đến trong tăng vén y bày vai phải, bỏ dép, lễ tăng, quì gối phải sát đất, chắp tay, nên nói là “nói rõ”. Trong thứ ba, ban đầu nói khai đứng, văn nêu hai người riêng bày ý dạy. Đời nay vị Giáo thọ vào chúng trước ngồi, hỏi hòa sau đứng dậy. Bỉnh pháp gọi là ngồi hòa đứng thưa. Ở đây do trong pháp thọ giới, chỉ y cứ gồm đáp, không nêu ra tướng trước hòa ngồi hay đứng, cho nên đến nỗi tranh cãi đến nay chưa thôi. Nay nên hỏi rằng: - Oai nghi đứng thưa vốn là kính tăng, nay liền trước tòa đâu được trước ngạo nghễ sau cung kính. Văn Sao nói bày không được ngồi ngay, ông nay ở tòa hòa đâu chẳng ngay ư? Nếu theo lý thì không nhọc gì lăng xăng? Hai, là nói giới sư, nếu y cứ Ni Sao cũng không khai. Kia nói rằng “Như luật, chúng lớn khai làm tòa cao như tòa Chuyển Luân mà nói giới, chưa hẳn đứng nói mà được thành. Xưa, khai đứng nói bởi sợ không thành (y cứ kia bắt chước nay dụ như theo xưa nói, ở đây biết chỉ khai cho bạch gọi một pháp). Chữ “tự” trở xuống là kế nói ngồi. Trong chú, duyên khác là khai cho bị bịnh ngồi đứng chẳng khác. Nghiệp Sớ chép: “Nếu bịnh ở chúng như trong giới cỏ phủ đất của pháp Diệt tránh”. Hai chúng cúi xuống đất trước người Yết-ma, nhất tâm nghe thọ y theo đây. Cúi, ngước, đều khai, trái thì biệt tướng, là biệt là đủ, phải kham đồng mặt tăng, cho nên ngước, cúi thì khai thành biệt, v.v… Pháp dục có ba. Ở chỗ vắng đối thú, người năng đối gọi là dữ dục, người sở đối gọi là thọ dục. Đối chúng sinh bày gọi là nói dục. Nay chỉ nói rằng “thọ” thì: 1/ Thủ dục, bổn ý là sai người khác truyền. 2/ Ban đầu truyền sau nói, đều ở người thọ dục, một phen nêu thọ dục, nhiếp chung trước sau. 3/ Quán duyên thọ pháp đem đến trong tăng, phải, trái, thành chăng đều quy về người thọ, trong văn có thể thấy. Hỏi: Trong giới có tự nhiên được thọ dục không? Đáp: Không được. Hỏi: Nếu vậy thì đối thú biệt pháp đâu cuộc hạn pháp địa? Đáp: Ban đầu tuy biệt pháp, sau thành việc tăng, chỉ một pháp đây còn bao nhiêu đều đối thú. Chữ “sở dó” trở xuống nói rằng ngoài giới thọ không thành. Trong thiên phần lớn không nêu ra hai môn, một duyên, hai pháp đều có phải và trái, cho nên đặt tựa đề. Trong bày ý, đầu tiên đến dục. Đến bày ý dục, hai câu trên nói chỗ muốn. Sự nghĩa là yết-ma chỗ giúp, trừ hai món nói tự tứ, còn tất cả pháp khác, mau phát chớ hẹn, cho nên nói rằng “bất ý”. Pháp tức là pháp yết-ma chúng thường làm, nhưng có sự phát sinh phải cần giúp thêm, nên nói là “thường tình”, đây rõ sự là đến thời, pháp chỉ là thường định. Chữ “cố” trở xuống là rõ năng dục. Đối tình tức thường tình ở trước gọi là tâm tăng, thuận với tâm kia, nghĩa là do tâm thuận, tâm thuận không trái thì chẳng phải khác nhau, yết-ma được thành cho nên pháp không lỗi. Chữ “cố” trở xuống là nêu tên kết giải thích. Chữ “nhiên” trở xuống là bày ý lập pháp, sinh khởi văn dưới. Câu đầu nói duyên sai. Tình là tâm dục, sự là duyên dục. Tâm thuận sự trái, nên nói là trái nhau. Chữ “cố lập” trở xuống là nói về pháp chế. Pháp tức không gọi dạy truyền dục. Chữ “tổng” trở xuống là hai môn chẳng có câu lời riêng. Nếu không pháp chế, sự sẽ dung lạm, cho nên nói rằng “kiểm”. “Kiểm tắt” trở xuống là rõ cần dạy quán duyên có thể làm thành? Có sự là gồm đối với các pháp. “Nếu nói” trở xuống là xét cơ phải dạy, phát khởi mở bày, nhược giống như dục. Trong ý chế, ban đầu là nêu. Chữ “phàm” trở xuống, giải thích lại chia làm hai, ban đầu nêu việc tăng, thân tâm, là lại đối không chỉ dục đến mà nói, đối với trước có thể thấy. Có thuyết nói rằng “Lời lược nghĩa quyết bao gồm”, chữ “thiết” trở xuống là rõ pháp dục. Trên rõ không khai thì mất cơ. Chữ “cố” trở xuống là bày lập pháp cho nên thành lợi ích, cở hưỡn giáo gấp nên nói là “đâu đồng”. Kia tức Tăng sự, đây gọi là duyên dục. Tăng riêng theo hai cho nên nói là “đều làm”. Chữ “duyên” trở xuống là kết bày. Trong phần giải thích tên, ban đầu nêu bày, phần nhiều đường dùng, như sau đã dẫn các văn, chữ “dục minh” trở xuống là giải thích thành. Ban đầu bày bổn dục, sau rõ duyên dục. Chữ “linh” trở xuống là nói pháp dục, đạt tức là đến. “Cố” trở xuống là dẫn chứng. Luận chép: “Ưa tùy hỷ”. Luật nói là “phát tâm” đều là ý mong đợi. Lại bộ Câu-xá nói rằng “Dục là mong cầu chỗ làm sự nghiệp”. Duy Thức chép: “Đối cảnh ưa muốn trông mong làm tính”, đều phù hợp với ý ở đây. Trong nói về thể, Nghiệp Sớ chép có ba: 1- Từ pháp tưởng dục làm thể (tưởng ấm tâm nhóm chỗ nhiếp gọi là Pháp). 2- Từ tướng sắc thanh làm thể, hoặc động thân sắc (bịnh nặng hiện tướng) hoặc động thinh tướng (rộng lược bốn món). 3- Từ sự, tức đồng văn nay. Đầu tiên là gồm nêu, dục là hay cần, sự tức chỗ muốn, trừ kiết giới ngoài ra tất cả yết-ma phần lớn chia làm hai việc, nói tự tứ chế đồng tôn trọng, còn bao nhiêu pháp khác đều làm riêng. Chữ “tự” trở xuống là giải thích riêng. Ban đầu rõ động cần, thời hạn tức nửa tháng là xong hạ. Phản là trái. Sớ chép: “Quyết riêng lánh ngược, xa nêu ra cũng phạm”. “Tự hữu” trở xuống là kể rõ riêng cần. Riêng tăng cần ấy, là riêng không cần. Tăng cần ta là e trái riêng, ta không cần vì chẳng phải việc mình. “Phi” nghĩa là vô tâm đồng cần pháp sự. Hỏi: Ba thể khác nhau thế nào? Đáp: Ban đầu là năng dục, sau là sở dục, giữa là lời nói. Sau nêu giải thích, còn bao nhiêu nghĩa tồn lược. Trong khai già, ban đầu rõ già. Già tức chế luật, văn chỉ kết ba món đại giới, trước yết-ma đều nói “không được thọ dục”, cho nên nói “chỉ trừ” (nghĩa y cứ ba tiểu giới, giới tràng cũng ngăn). Chữ “dư” trở xuống là nói về khai, câu đầu phán định, hai câu kế quyết nghĩa. Dục pháp chế duyên nêu ra hai kiền độ nói giới, tự tứ, Giới bổn đơn bạch xả y công đức thì bạch trước nêu hỏi dục, tự các pháp khác đều không cho nên nói là văn chẳng rõ. Trừ kiết giới pháp chế không nhận dục, còn bao nhiêu đều không chế. Ý tức là khai cho nên nói rằng “do chẳng chế”, là lý do chỉ ngăn kiết giới, lời đáp như thiên bổn có nói. Trong duyên chia làm hai. Ban đầu chọn duyên sai, phạm giới, phi pháp, lời lược sự bao gồm, chung tất cả trị sinh tà mạng, buông lung, biếng nhác, không nêu ví dụ, đều vào duyên trái. Cốt yếu phải biết, dục pháp sự không được thôi, cho nên uốn khúc khai cho, gạn hợp, ủy lạm đều trái ngược. Bịnh nặng khiêng đến ý giáo có thể biết. Lời thêu dệt người học càng phải rất dè dặt. Không được là ngăn chưa nói. Không thành là bác lời đã nói. Chữ “nhược” trở xuống là kế rõ như duyên, có sáu. Văn luật trong dục pháp vốn không có việc tháp. Chú thích yết-ma cũng nêu năm món, nay y cứ giới không dữ dục là thêm. Kia nói: “Việc tăng, việc chùa tháp, nuôi người bịnh đều khai cho dữ dục”, trên dẫn chính duyên, chữ “nhi” trở xuống là bày duyên nhánh, nêu dữ dục sau giới hối, chẳng phải chính chế là vì không nêu ra dục pháp, cho nên tăng nhận làm là bày có thể thủ. Cho nên luật Tăng-kỳ lại có lan-nhã, y, bát (sửa sang y bát), Vua, giặc, cấm đóng đều khai. Câu dưới là chỉ lược, có người nói: “nghĩa Sao nay thấy trong Sớ”. Trong phần bác bỏ thế gian, ban đầu chỉ Sao, nhiều mạn tức tâm sai trái, vọng làm là sự trái. Pháp nầy tức là dục (có y cứ Ni Sao, là pháp mạn thuyết giới yết-ma, kia đây riêng đầu mối không thể nêu một dụ) “nghĩa là” trở xuống là giải thích tướng. Nói không bịnh là đây y cứ duyên chung. “Vì nói khiến” trở xuống là hiển bày lỗi, đầu tiên là nói lỗi người dữ dục, khiến truyền đến tăng thành nghiệp người dạy. Y cứ vào lý, ban đầu lúc dữ dục, đối trước không biết cũng mắc ba tội. Chữ “sở” trở xuống là nêu lỗi người thọ dục, do biết không thật, tự tha đồng phạm. Nói ba tội, tức ba vọng trên, nay không có duyên chung thì không vọng đầu, hẳn như thể tịnh cũng không vọng thứ hai, không dục nói dục, định có thể biết. Hai câu sau quở trách răn đe, Ni Sao hỏi rằng: “Không bịnh đã không nên nói được thành pháp sự chăng?” Đáp: Thành, mà người trước tự có tội nói dối. Trong hai pháp dục tự nêu, khoa đầu, do luật chỉ nói rằng “Phật nói không nên xưng sự dữ dục thanh tịnh, cho Tăng sự như pháp dữ dục thanh tịnh, không hai câu trên nên nói rằng “không đủ”. Nghiệp Sớ chép: “Luật nói: “Nói rộng không chính nêu ra văn”, nay so sánh chuyển dục cắt ra cho nên nói là “bày nghĩa”. Trong lời, câu đầu bảo trước nhớ giữ, câu kế tự nói tên, câu thứ ba thông báo việc sở dục, câu thứ tư chính bày bổn tâm. Kế trong định nhiều ít, ban đầu bày bộ khác. Chữ “kim” trở xuống rõ không thủ, tức chỗ tựa gọi là chẳng phải điều riêng. Ban đầu bày bổn tông lập pháp phần chừng. Không kết lược, như xả giới hối, Đột-cát-la, v.v… Không nói rằng “nói ba lần”, đơn bạch, bạch nhị, không nói rằng “thứ hai, thứ ba…” là vậy. Trong văn lại chỉ cho bạch tứ mà nói, như ba lần nói lời xin, đối thú, tâm niệm, thuyết giới, tự tứ đều nói thẳng rằng “nói ba lần”. Chữ “chuẩn” trở xuống là nêu pháp dụ thành, vì trong chuyển dục không kết lược. Chữ “bất” trở xuống là bác bỏ phi. Sớ chép: “Có người nương theo Ngũ Phần, Tăng-kỳ”, nói rằng “chẳng nói ba lần thì không thành dục cho nên ở đây bác bỏ. Sở dó nói một lần thành vì Sớ nói “Chớ chẳng trình tâm đến tăng”, chúng phần nhiều quên mất, nay muốn nói về sự phán khai đó, đâu chỉ hạn cuộc ba lần nói mới thành một pháp? Trong không nhắc lại duyên, bổn yết-ma xưa dục đều xưng duyên, sợ sau nghi chấp nên đây hỏi phá. Lời dục đây chỉ nghĩa trên mà lập. Người nói tức Tăng Khải đời Tào Ngụy, lúc dịch thêm vào. Trong luật chuyển dục thì không, trước đã y cứ luật cho nên nói rằng chính bổn. Trong rõ trái lầm, chữ xưng là khứ thinh, nghĩa là khi đối nói cùng câu lời trước không xứng đáng nhau. Do các yết-ma riêng chúng không cho lạc vào “phi” riêng đây lời dục có thành nghĩa pháp, cho nên đặt câu hỏi nầy (xưa viết là “hô”, hô nghĩa là không xưng duyên dục, vả lại trên đã nói rằng không xưng bổn chính, “hà” chính là hỏi ngược thành chăng? Đối lý thì không). Trong phần đáp, câu đầu đoán thành. Chữ “đó” trở xuống là giải thích lý do, như kiết giới, xướng tướng, thọ sám, bày lời xin, đã đưa vào pháp không thể có sai. Dục chỉ thông tình đã không và pháp có trái cũng chấp nhận được. Trong luật trở xuống là dẫn chứng văn rất rõ như sau dẫn. Dục, tịnh, đồng, khác tức căn thứ tư, y cứ vốn khác nhau dục sinh, nghĩa sau giả lập có ra lời hỏi. Trong phần đáp, phần đầu bày lý do duyên khởi của luật. Dục, tịnh đều truyền theo văn, mà giải thích vẫn đồng nghĩa xưa, cho nên Sớ chép: “Có người nói, v.v…” sau nêu ra giải thích nay rằng: “Dục là nêu tâm không hai để ứng với thể tăng (trong ba nghiệp, tâm miệng nhóm tức là tướng hòa). Thanh tịnh là tiêu biểu hạnh không khuyết điểm, thật thông giả dụng (giới, kiến, lợi đồng tức là thể hòa, Tăng thể giả dụng gọi là khác). Y cứ nghĩa đây chung cho tất cả các yết-ma, không thể phối hợp riêng, chỉ trừ khi tự tứ, mong tăng nêu tội là không dám bày tịnh, chỉ nói rằng “Dữ Dục tự tứ”. Chữ “nhược” trở xuống là rõ nên nói, Bổn luật truyền riêng, do nhóm Tỳ-kheo sáu vị dữ dục không dữ thanh tịnh, trong tăng có việc khởi, người trì dục nói: “Tôi đem dục đến không được thanh tịnh, nên dừng nói giới lại”. Phật nói “Từ nay trở đi, lúc dữ dục nên gởi cả thanh tịnh” từ đây đều truyền, cho nên nói rằng “chính chế. Chữ “bất” trở xuống là chọn lạm, cũng do người xưa chấp hành sự kia, cho nên ở đây chọn đó. Kia nói rằng: “Khi nhóm gởi thanh tịnh, (vì thường định nửa tháng nói giới) phi thời nhóm chỉ gởi dục (vì các yết-ma bất định)”, đây tức là giáo mà luật Tứ Phần đã bỏ. Trong phần giải thích đúng như pháp, đầu tiên lại giải thích, sau chỉ phi duyên. Như chúng võng, kia nêu hơn hai mươi điều, cho đến khoa đòi rượu thịt, môi giới cho tịnh nhân, mua bán tôi tớ, v.v… các việc như vậy đều không cần cho. Chữ “thử” trở xuống là nói chung, trong luật cũng do nhóm Tỳ-kheo sáu vị xưng sự (nghĩa là sự trong tăng, như nói rằng “dữ dục vì việc thọ giới”), trong Tăng có việc khác xảy ra mới dừng pháp sự lại. Phật nói “Không nên xưng sự, cho nói như pháp Tăng sự dữ dục Thanh tịnh”. Các pháp sự là cần lựa kiết giới. Trong chép duyên dục, hai câu đầu trước kết, sau nêu. Chữ “vị” trở xuống là giải thích ý khai. Luật chép: “Tỳ-kheo trì dục, tự có việc khởi, Phật nói cho trao dục cho Tỳ-kheo khác”. Chữ “Tỳ-ni” trở xuống là dẫn chứng. Kia chép “Bảy pháp tương ưng nhận rồi chuyển cho một người, như vậy cho đến bảy lần đều thành văn”, nhưng chỉ được bảy lần thôi. Theo Tăng-kỳ, Thập Tụng nếu chuyển liền mất, bộ chấp khác nhau. Sớ chép: “Hoặc là khác tông đã bỏ, lại theo đường bộ”. Sáu câu trong từ cú, bốn câu đầu và sau đồng như trước. Thọ mỗ giáp trở xuống một câu là lời dục trước, nếu chuyển nhiều người thì mỗi mỗi nêu tên từng người, hoặc quên thì chỉ nói rằng: “Cho nhiều Tỳ- kheo dữ dục và thanh tịnh”, còn các lợi khác thì đồng. Chữ kia xuống một câu tự tha đều nhắc lại để giao sau chuyển. Hỏi thành chăng: trong luật có năm thứ mà thế gian lạm dùng cho nên đây hỏi. Trong lời đáp văn ban đầu có ba, trước rõ duyên luật. Trong luật vốn vì người bịnh khai cho nên đủ tức một, rộng thiếu tức bốn lược. Chữ “lương” trở xuống là bày lý do đủ thiếu. Chữ “văn” trở xuống là thứ hai dẫn bày, trong phần thuyết giới nói rằng “Có Tỳ-kheo bạch Phật: Có Tỳ-kheo bịnh không đến được”. Phật nói “Từ nay trở đi cho gởi dục, như nói “gởi thầy dục” liền thành dữ dục (Sao để lời này ở sau, lại chữ “nhữ” viết là “ngã”, lại chữ “đa thuyết”, Chú yết-ma đồng với Luật, có thể nghiệm trong Sao truyền viết lầm). Nếu nói “tôi thuyết dục” thành dữ dục (tức câu đầu của Sao) còn ba thứ khác đều đồng, sau đây đều nói thành dữ dục. Nghiệp Sớ chia làm hai loại: Bốn lược, một rộng. Lại chia làm hai: Bốn điều thuộc miệng, một điều thuộc thân. Chữ “tiền” trở xuống là phán ba nghĩa, thì trong bốn bịnh nặng lại chia ra nặng nhẹ, ba bịnh trên dụ cho nhẹ, hiện tướng thì rất nặng. Trong rộng, bịnh tức bịnh nhẹ, còn rộng nói nặng thì có thể biết. Khoa kế, Luật Ngũ Phần nói không dữ dục mà đứng dậy đi, kia do không dữ dục mà bỏ đi cho nên chế phải nói dục. Kia nói rằng: “Nay Tăng xử đoán việc, tôi Tỳ-kheo như trong pháp Tăng sự dữ dục”. Đây tức đồng rộng nói ngày nay. Nói không lược là y cứ ở dưới có một món hiện tướng là lược chứ không có ba món lược miệng nói. Trên phán bốn lược là bịnh nặng, ở đây dẫn tông khác chế gấp, tức bày miệng lược không thể dùng ngay, ý ở khoa sau. Trong ba phần, ban đầu bày lạm có hai: Ban đầu duyên đúng như pháp, sự thì phi. Dặn tin nghĩa là sai khiến đến, bảo với Sa-di thì cũng đồng sai khiến, nhưng là truyền lời. Hoặc có sau hai món duyên và pháp đều phi. Trên dẫn hai văn chính là phá đây. Do không bịnh là phi duyên, liền lược là phi pháp, ban đầu xếp vào không thành. Lượng nên viết âm lương là lầm. Chữ “cố” trở xuống là chỉ bày lý do kia. Dẫn bịnh nêu khỏe mạnh ở nghĩa khó thành, cho nên đoán lời còn tới lui ấy là do văn không nói. Vả lại, y cứ nghĩa quyết, huống chi lược là luật khai, dục thủ thông ý, chưa thể một bề cho nên nói là khó định. Nhưng nay hành sự không thể theo hưỡn, bị bịnh mà dữ dục thì cũng cần nói rộng mới khế hợp tâm Phật. Hỏi: Hiện tướng, bổn luật có tên là Vô tướng dục dẫn bộ khác rõ đó cho nên đặt câu hỏi này? Đáp: Trong phần đáp ban đầu nêu bày năm tướng. Tùy bịnh là vì cũng chẳng phải chỉ ở đây. Chữ “Luật” trở xuống là kế răn dè khiến rõ xét. Luật tức Ngũ Phần, do không có danh cú, sắc tướng khó phân biệt, cho nên ở chỗ thủ thầm biết chỗ hướng đến. Trong phần nói dục, ban đầu vì người khác chia làm hai: Trước là nghĩa, sau là pháp. Nếu vì người khác truyền, thì đợi đòi mới nói. Gồm mình và người thì không cần đợi đòi. Do duyên đến không thời gian, không thể ước định, như tiện lợi (đại tiểu tiện), qua đời, có thể đợi hỏi ư? Đủ oai nghi: như sau đã quyết. Trong pháp, câu đầu là bảo chúng đồng nghe, câu kế là nêu tên người kia. “Ngã” trở xuống một câu là truyền lời mới nhận. Chữ “kia” trở xuống hai câu là nêu ứng tăng. Chữ “nhược” trở xuống là gồm nói. Luật Tăng-kỳ là không được bốn người, tông nầy chỉ là thường không có mặt, nhưng ở câu kế gồm nêu các tên, nếu không nhớ thì phải nói “Tôi dữ dục và thanh tịnh của nhiều Tỳ- kheo”. Sớ chép: “Ở đây y cứ mê mất”, quyết suy xét là không được chung chung. Trong nên nói, nêu ra pháp, lời câu phần lớn đồng truyền dục, chỉ có ban đầu thưa với tăng là khác. Mà y xưa nêu duyên ấy, một là tạm mượn duyên riêng để chọn kia đây, hai là sợ kẻ hậu học không hiểu tướng duyên cho nên đặc biệt chỉ bày. Đến việc chính nói quyết cần gọt bỏ, cho nên Ni Sao chép: “Tôi (tên…), kia (tên….)” Trong phần tự nói, ban đầu bày pháp, cho trước văn dữ dục đồng, nhưng câu đầu lại khác, người sinh sau ngày nay không biết Tăng riêng, phần nhiều ở trong chúng mà nói “Đại đức một lòng nhớ nghó…” hoặc nói “Đại đức! Nhớ nghó…”, ngu si mê pháp, pháp e khó thành. Chữ “Tứ Phần” trở xuống là chỉ chỗ nêu ra, đây hành bộ luật khác, sự dẫn duyên có thể biết. Kia chỉ nói rằng: “Tôi là Tỳ-kheo v.v… thanh tịnh Tăng nhớ nghó giữ gìn”. Nay không dùng lời ấy. Khéo làm là khen khả năng kia, đúng như pháp là giải thích nghi kia. Không thọ mắc tội, kia nói là “việt Tỳ-ni”, thông rõ năm pháp: Hai pháp đầu ở chỗ vắng dữ dục, ba pháp sau là đối chúng. Lại ba pháp trước chính thức nêu ra bổn tông, hai pháp sau gồm thực hành bộ khác, cho nên trong Chú yết-ma chỉ nêu hai pháp, rõ biết hai pháp sau y cứ trước nêu ra. Kế trong quyết thông, do ngay lúc các nhà hành sự phần nhiều riêng nghĩa cần chỉ định, cho nên hỏi quyết. Trong phần đáp, ban đầu văn nêu bốn tướng, hai là hợp nói, hai cái nói riêng. Hai tướng trước là đối tăng lễ không lễ khác nhau, hai tướng sau thì vị thấp không thấp là khác. Trong lấy bỏ, khoa đầu chia làm hai: Ban đầu “đến đều thành” cho đến “một bề tạm chấp nhận” y cứ văn có hai: Một, là ý cứ quên tên. Trong luật nếu không nhớ tên, chỉ nói “Rất nhiều Tỳ-kheo dữ dục và thanh tịnh. Hai, là y cứ không nói và như sau dẫn. Chữ “nhược” trở xuống là hai thủ nghĩa đoạt phá. Trong luật, v.v… là giải thích ý văn trên, quên lầm mắc tội đối với hai văn trên, không có duyên thì không được, chẳng phải thường khai. Trên đây là giải thích chung bổn bộ, sau khuyên y cứ tông khác, văn thấy ở khoa kế. Trong văn dẫn, ban đầu Ngũ Phần nói người dữ dục dặn người truyền kia (y theo đây là người khác truyền dục, đến trong Tăng tùy nhiều ít, phải làm thẻ). Kế là dẫn luật Tăng-kỳ hai tiết, ban đầu rõ người gởi chọn cảnh có khả năng nhận lãnh. Chữ “kỳ” trở xuống là kế rõ người nhận, là tự lượng mình có thể được hay chăng. (theo đây thọ dục thì phải chọn người tinh thông rõ ràng, theo Nghiệp Sớ thì người giới đủ mà hiểu biết kém không cho trì dục). Xem hai văn nầy thì cũng không rõ, nói riêng mà dặn dò chọn lựa, ý khiến trong tăng hiểu biết tên họ không lẫn lộn, dùng nghĩa nầy chứng minh chẳng phải nói chung. Trong bình nghĩa, ban đầu vốn là ý dục kia. Chữ “kim” trở xuống là trách kia đồng nói. Chữ “ngũ”, trở xuống là y cứ văn giải quyết. chính Ngũ Phần, Tăng-kỳ tức là chỗ dẫn ở trên, nhưng hai văn trước đều nói là “trong tăng”, tức trước Thượng tọa. (hoặc có thể riêng có văn rõ như Tăng-kỳ ở trước, Tỳ-kheo bịnh tự vào trong tăng trược Thượng tọa nói, Ngũ Phần chưa thấy có văn nầy). Sau dẫn Tứ Phần, năm nhóm tăng quyết rõ trên càng rất rõ. Nhưng trên dẫn văn nghĩa lấy trước nói riêng. Lại y cứ hai luật ở trước Thượng tọa vẫn đồng chấp xưa, lý tuy không hại, chỉ e chưa rốt ráo khéo léo. Trong nêu lỗi pháp, Luật rõ lỗi có ba chỗ: 1/ Trong phòng. 2/ Giữa đường. 3/ Chỗ tăng. Trong văn ban đầu bày tướng lỗi, chữ “bất” trở xuống rõ thông ba chỗ, nay không chia riêng cho nên nói là gồm rõ. Bổn tông nêu sớ, y cứ ở dưới bày tướng gồm Nghiệp Sớ, nói chung là hai mươi tám. Nếu y cứ văn luật thì không có ẩn mất, nay nói ý Tổ y cứ không đủ sớ nên đợi đủ, nhưng là văn lược, hoặc trong đây bổn luật viết sót chứ không có ý khác. Trong thể phi văn ban đầu có hai: Ban đầu y cứ tự nói rõ lỗi, văn nêu mười tám người cho nên không có Ni, v.v… bốn người là y cứ ý Nghiệp Sớ so sánh đủ số ở trước chỉ là lược không. Luật Ngũ Phần nêu như sau đã dẫn. “Nhược” trở xuống là thứ hai y cứ không nói không lỗi, chỉ đồng đủ số, tức cùng nêu hai và ba ở trước. Trong phần dẫn chứng, hai văn đều y cứ tự nói thì bày phán trước có y cứ thật. Ngũ Phần nói tội lời thông quyết y theo bốn trọng, do chứng thể phi cho nên trái với trước, nghĩa là không tự nói. Thập Tụng nói đầu tiên thủ ở chỗ vắng, thủ rồi trong thâu nói “trong tăng”, người tại gia đồng ở trước, vốn thọ không được. Sa-di chẳng phải sớ, chẳng phải Tỳ- kheo tức hai người trên, ở đây bày lúc nói lời không nhất định. Trong gặp lỗi duyên, ban đầu qua đời, thì y cứ Nghiệp Sớ. Nếu trong phòng và giữa đường có thể chẳng muốn đến, nếu ở trong Tăng chưa nói thì không thành. Đã nói ở trong tăng thì thành, còn lại như thuyết kia. Bỏ đạo, y cứ theo Sớ giải thích rằng “thọ rồi tự nói hoàn tục” sám hối cũng mất, vì cách tình đời. Vào ngoại đạo, nghĩa là ngoại đạo đồng ở trong chùa, ở Tây vực có nhiều, xứ nầy (Trung Hoa) thì không có như vậy. Bộ khác, hoặc tà đảng của Điều-đạt, hoặc bộ chấp tông khác. Giới tràng, Sớ nói rằng: “Nghi thì trước ra ngoài giới” vì đây cuộc hạn ở trong đó. Trong giải thích chỗ khác, ban đầu là chính giải. Chữ “tích” trở xuống là bác phi. Chữ “tự” trở xuống là so sánh quyết hai chỗ nói tự tứ, bày tướng và đồng mà hai tên xen nêu ra cho nên không đáng nghi. Trong phần giải thích minh tướng, khoa đầu nói sau đêm ấy là y cứ gần rõ tướng, xa thì có thể biết. Trong luật kiết giới rộng, ngày mười bốn bố-tát, ngày mười ba phải đến không được thọ dục. Trong phần hỏi, do Tăng sự nhiều riêng như thọ sám, v.v… tức pháp liền thành thì không ở chỗ nói. Nếu nói tự tứ, vật người chết, y công đức, v.v… các loại, yết-ma tuy thành sự lại chưa xong, cho nên có lời hỏi nầy. Trong phần đáp câu đầu phán thẳng. Chữ “cố” trở xuống là dẫn quyết. Ý khai của hai luật đều ngăn mất dục, Sớ chép: “Nếu chỉ kinh bạch thời tiết thì có thể biết nào nhọc gì lược” (tự tứ giảm chúng, văn lược ý đồng) cho nên biết sau kết thành. Sở dó như vậy vì một dục là giúp xong duyên. Hai dục là khai giáo, khai hẳn đợi chế, nếu cho ba duyên trước thì có thể lại truyền. Trong phần trái nhau, văn ban đầu, thần túc là ở Luật Thập Tụng chẳng có xen cho đều là phi pháp, người ẩn mất, ba chỗ thông mất, cho nên biết thọ dục người khác rồi không được vào các chỗ giếng, hang, hầm. Lìa thấy nghe: trong Sớ y cứ ba chỗ đều có, ban đầu ở trong phòng nhận rồi khởi ý không đưa, xen lìa chưa mất, đều lìa mới mất. Giữa đường nhưng khởi ý không đưa, lìa chỗ cũng như đều lìa (mất). Ba là ở trong tăng, như phần hỏi đáp ở sau. Hỏi: Trong xưa có nhiều thuyết khác, cho nên cần giải quyết. Trong phần đáp, khoa đầu, Sư đây là chính chỉ người làm Yết- ma, để giải thích và xen lẫn. Nghiệp Sớ chép: Nay giải đều đồng tòa lần lựa, không y cứ người làm yết-ma”. (Sớ nêu nay giải, trước là nghĩa xưa không nghi). Trong văn, hai câu đầu gồm phán. Chữ “cố” trở xuống là giải thích riêng, ban đầu y cứ nói giới xen lìa thì không mất. Chữ “lìa đây” trở xuống là nói đều lìa mất. Nói hai người: người trước phải lìa thấy, người sau phải lìa nghe, thì đó là đều lìa. Chữ “tắt” trở xuống là kế y cứ cách ngăn, rõ xen lìa là mất, thành trước xen không định nghĩa. Trong giải thích ở đây, văn khoa muốn thấy số người của các bộ, cho nên theo luật Tăng-kỳ trở xuống đều là bộ khác, nhưng xét kỹ các văn giống như dẫn nói nghĩa lìa thấy nghe. Nay trước theo nghĩa chia văn làm hai: Từ trước nói về tuy nói không thành là nói đều lìa thì mất, Tăng-kỳ trở xuống đến được thành là nói xen lìa thì mất. Trong phần đầu, ba câu trên định chỗ lìa. Trước nói, vì trước nêu tướng hiển bày giải thích lại, nhưng ở sự còn nghi cho nên không nêu phá, đều nêu ra hai nghĩa đợi văn sớ sau. Chữ “như” trở xuống là dẫn bày. Chữ “tức” trở xuống phòng nhỏ, v.v… văn kia nói nối nhau không nghe được thành nói giới, nay lấy ý kia lại hiển bày tường lìa không thành thuyết dục, nhưng chẳng phái chính văn cho nên nói Ngũ Phần giải. Trong xen lìa lại chia làm hai, đầu tiên dẫn luật Tăng-kỳ, người thứ nhất dữ dục ở phòng, nói “trong tăng tùy gởi” liền mất, bất luận là thấy nghe. Còn bốn người khác thì hai người là bị cách ngăn, tức nghe mà không thấy liền mất, còn hai người là duỗi tay không đụng nhau, tức thấy mà không nghe liền mất (y cứ xa mà nói). Kế dẫn luật Ngũ Phần, ban đầu rõ ngược nêu mất, tức thấy mà không nghe, ban đầu rõ chỗ che, quá tức là vượt qua. Kia y cứ không dữ dục bỏ đi, tùy chỗ bước ra liền phạm cho nên nói là “vượt qua”. Nay y cứ văn kia để bàn về mất dục: 1- Ra liền mất, cho nên trong yết-ma chỉ gọi ngược ra. Chữ “nhược tại” trở xuống là kế rõ chỗ trống, cũng tức ngược ra đã chẳng phải trong nhà cho nên hạn cuộc một tầm. Chữ “nhược phòng” trở xuống là chứng thủ so sánh tòa, có thể biết. Sớ nói rằng: “Tuy không rõ lời, đều là pháp và đều gọi là bố-tát”. Sớ có bốn câu: Nghe mà không thấy, luật Tăng-kỳ nói “cách ngăn”, luật Ngũ Phần nói “mây, mù, đen, tối trước không tướng biết thì không thành thọ giới”. Lại như trái thầy nói giới ngồi, thành riêng chúng, dục đều không thành). Thấy mà không nghe (tức trước luật Ngũ Phần nói che, bày, ngược ra) Đều thấy nghe mất (tức thần túc) Đều lìa mất (Luật Tăng-kỳ nói, chỗ che, lìa thấy nghe không thành thọ giới cụ túc. Lại Ngũ Phần đồng chỗ che chướng lìa nhau không thành) Kế, là trong bộ khác, luật Tăng-kỳ năm người, nêu ra kia đủ số, không có văn thuyết dục, vì không đủ cho nên lý chẳng phải trì dục, y cứ nghĩa thủ còn bao nhiêu người thì như trước. Nói người dữ dục, nghĩa là nhận dục của người khác rồi, tự mình lại dữ dục, dục người kia liền mất, vả lại như luật kia chuyển dục còn mất huống gì gởi thẳng, nghĩa y cứ ba chỗ cho có lỗi nầy, người học phải rõ. (Xưa ghi không phải số người nầy, chính là trong đủ số, cách ngăn tự có năm người, nghĩa thêm một người. Nhưng văn nay và Yết-ma đều nói “Tăng-kỳ nói năm người như không đủ số, cũng không trừ dữ dục và thêm che chướng, khó có thể làm bằng chứng để tin). Trong luật Ngũ Phần, che, bày, ngược ra là chung vì người. “Cộng” trở xuống đến Ni, v.v… là tám. Luật Tăng-kỳ năm phép sau chính nêu ra pháp dục. Nhiều loại nghĩa là kia có mười một, như sau tiếp tục dẫn. Người đầu Sớ nói rằng: “Năng, sở đều sai”, thứ hai tức người thọ phi pháp, thứ ba tức người gởi phi, bốn tức ngu giáo mất (kia vì là người bịnh, sau khi dữ dục rồi nghe trong tăng có vị Đại đức tốt, liền đến vào chúng nghe pháp, ngồi lâu mỏi mệt, làm thinh bỏ đi vì lấy dục trước cho nên không nói lại. Sớ chép: “Do thân đã đến trong tăng, duyên gởi dục trước đã bỏ cho nên phải nói lại”), năm là nạn duyên (kia nói rằng “Nếu gió lớn, mưa, hoặc lửa, hoặc sợ giặc tan chạy). Câu sau chỉ rộng cũng không hoàn toàn đồng, chuyển dục mất (đây là một không đồng), qua đêm mất (đây đồng minh tướng xuất hiện) gởi cho Tỳ-kheo-ni, Sa-di (hai điều này đồng với luật Ngũ Phần) người nhận trả giới (ở đây đồng bỏ đạo) người gởi trả giới (ở đây cũng khác nhau). Luật Thập Tụng nói, ba người, Sớ chép: “Tứ Phần cho rằng phú pháp nói rõ chẳng phải sớ, đâu cho thọ trì (y cứ đồng đủ sớ hợp có bốn chính hạnh), gồm các bộ trước cộng bốn mươi chín vị. Đối với lựa chọn đủ số ở trước có khác nhau, ngu si, biên tội, bịnh nặng, câm, điếc, v.v… nghĩa không gởi người khác, cho nên không nói về mất. Nhận rồi bị câm, điếc và ngủ, nhập định v.v… tuy không đủ số, cũng thành trì dục. Tỳ-kheo trên cây, cành gie ra đất bên ngoài, thì đồng như ra ngoài giới ở trước, ở trong thì trái tướng trong, cả hai loại đều mất. Bốn, là người yết-ma không mất, có thể biết nên làm bốn câu. 1- Đủ số chẳng trì dục (che giấu, v.v… người đủ sinh thiện) 2- Chẳng đủ số là trì dục (tức ngủ, nhập định) 3- Đều phi là có thể biết. Trong kết đoán ba câu đầu là chính phán, đều không thành là chung gồm hai chỗ. Nói không thành là hạn cuộc trong tăng. Chữ “tri” trở xuống là bày phạm tội chung cho tự tha. Khiến tăng thành riêng, tự mình trái giáo pháp, cả hai đều mắc tội Đột-cát-la. Nay trong văn nầy lại tự nói. Sau dẫn văn luật: một là chứng không thành, hai là khiến gởi lại. Kia nêu năm món dục rồi nói rằng “Nếu không hiện tướng, miệng không nói thì đều không thành, v.v…” như văn đã dẫn. Sớ chép: “Trước đã phi pháp, năng sở trái nghi, cho nên lại chọn người, vì bỉnh pháp mới đến. Trong phần gặp duyên, khoa thứ ba, trước rõ cớ lầm, sau rõ gặp nạn, đều y cứ người nhận. Giữa rõ bịnh nặng là y cứ ngoài gởi dục. Trong phần đầu, trước rõ tâm lầm, thành pháp. Chữ “nhược cố” trở xuống là nói cố tâm mắc tội, nhưng văn chỉ chế tội, không gọi là “thành chăng”, cho nên dùng lý giải quyết. Ở khai duyên là nêu nhận định, quên ở sau. Chữ “cố tinh” trở xuống là gồm bày chỗ thành. Thứ hai là giữa thứ lớp ba lần khai, như Nghiệp Sớ giải: 1/ Dìu đến là tiêu biểu hòa đến tăng. 2/ Tăng đến là Tăng đem pháp đến giúp. 3- Ra ngoài giới là người bịnh nhiều, Tăng ít hợp nhau không bằng. Chữ “dó cố” trở xuống hai câu là giải thích thành ba loại, hiển bày đồng nhiếp tăng tột giáo, cho nên nói rằng “lại không” v.v… Trong thứ ba có hai: Ban đầu nói về truyền tục. Trước nói ra ngoài giới liền mất dục, ở đây do nạn duyên cho nên khai tạm ra. Chữ “tắt” trở xuống là thứ hai nói gặp nạn không ở, sợ nghĩa là ra ngoài giới khai thành liền dụ đồng. Chữ “cố” trở xuống là dẫn văn giải quyết, phải biết riêng chúng chế gấp, tuy nạn vẫn không khai. Hỏi: Trong việc xong có chấp thành riêng, cho nên hỏi chung đó phải không? Đáp: câu đầu đoán thẳng. Chữ “dó” trở xuống là bày lý do. Câu trên bày ý dục, hai câu dưới nói chẳng phải chỗ làm, ngược lại nếu lấy duyên dục làm việc yết-ma thì cho có riêng. Sớ nói rằng: Dục vốn không xưng (nghĩa là không nêu ý duyên ở sau lời đáp) Tăng vì lại biệt (chính đồng ý ở đây) nhưng biết ý thông cho nên cả hai không trái, nghĩa phải nên đến cho nên kết phạm tội nhỏ. Văn sau dẫn quyết. Như pháp trị là tên khác của tội Đột-cát-la. Trong chuyển nạn, việc dừng là đồng mà pháp từ chối hay không, có khác nhau, cho nên dẫn tướng đều như văn pháp dễ hiểu. Trong luật, yết-ma đại để có ba ngôi, khai ra thành tám phẩm, tùy sự nhỏ nhặt thì có một trăm tám mươi bốn món. Nay trong thiên nầy gồm rõ duyên pháp đúng hay sai, thành hay bại. Chữ “vọng” trở xuống là các thiên tùy sự mà riêng khác, nên nói là “Thông biện”. Yết-ma là tiếng Phạm, hoặc nói là “Kiếm-mộ”, âm là “hóa- chuyển”. Trong lời chú, ban đầu dẫn văn chỉ bày, nói Sớ hai nhà dịch đại thể chẳng khác. Trước gọi là “tác vi nghiệp” sau chỉ thẳng là “tác” không còn tên gọi khác. Nghiệp nghĩa là hành, tâm kích động thân miệng, nhờ duyên cấu tạo thì có công năng cao siêu được việc trước. Sớ chép: “Nghiệp nghĩa là thành giúp việc trước, quyết có công thành”. Bách Luận nói là “sự” cũng là tên khác của nghiệp, đều là tạo tác, tức nói thể làm tên. Kế trong nghĩa tìm cầu, ở đây theo nghĩa xưa. Trong Sớ không thủ, kia nói rằng: “Từ xưa đến nay dịch là biện sự, đều là nghĩa nầy”, nhưng dùng công năng mà dịch. Chữ “vị” trở xuống là giải thích nghĩa Sớ nêu ra giải kia, nghĩa là việc thành xong sinh thiện diệt ác. Hỏi: Ở đây và Bách luận khác thế nào? Đáp: Luận kia thẳng gây ra năng tạo không theo chỗ giải thích. Hỏi: Vì sao Sớ không lấy? Đáp: Hễ lập tên, định thể, theo dụng thì ít, như đèn có công năng chiếu tối, đèn không gọi là chiếu, nước làm tắt lửa mà nước không gọi là diệt. Nhưng chia thể, dụng, tên gọi cũng không ở đây, cho nên nhà Sớ chung cách giải xưa. Trong chép ý, khoa đầu, câu trước là bày người năng bỉnh, tức ba thiên trước, câu kế rõ pháp bị bỉnh, tức là thiên nầy chung, tức là gồm chỗ lập tăng vị, chỉ còn không có người khác làm, nên nói là “kia chỉ”. Chữ “phương” trở xuống hai câu là nói về công phu, cũng tức là chỗ gi- úp việc, tức các thiên sau. Tăng riêng không thể nhờ pháp bày chỗ cao siêu nên nói là “phương năng”. Quần mê nặng nề, nghĩa là ba nghiệp bất thiện, giới phần rất sâu, tức nghiệp năm trụ phiền não buộc ràng tự tâm, buộc càng chặt nên nói là nặng nề. Hoặc, sinh nghiệp khổ, sinh đó không cùng nên nói là “căn sâu”. Quần mê là chỉ chính báo trong sáu đường. Giới phần tức y báo trong ba cõi, ở đây nói vượt phàm lên Thánh do công phu yết-ma. Lại có giải thích rằng: Câu trên là diệt ác, câu dưới là sinh thiện”, đều là nghĩa nầy. Tức như Sớ chép: “Lớn của sinh thiện không gì hơn thọ thể, lớn của diệt ác không gì hơn sám trọng”. Chữ “đức” trở xuống hai câu là chính khen. Câu trên khen thể rộng giúp thành, câu dưới khen dụng là trên hết trong các pháp. Trong kể cảm hóa, ban đầu bày chính pháp đáng nghe, Như lai diệt độ, ánh sáng liền dứt, cho nên nói là “tê quang”. Chữ “đãn” trở xuống là kế nói nhờ người giáo hóa thay. Sáu câu đầu là bày nhân phi, hai câu trên rõ không ý chí, hai câu kế rõ không lời lẽ, hai câu dưới rõ không hạnh, không có ba điều nầy (chí, ngôn, hạnh) thì chưa đủ xưng là Tăng, huống gì làm thầy đầu tiên bỉnh pháp của bậc Thánh, há không sợ ư? Là đồ gốm biến hóa. Tục phong là việc đời, do tâm nhiễm thói đời cho nên tình xấu kém. Bỉ là thấp hèn, bạc là nhẹ, mỏng. Lịch là gạch đá, dụ như ngói đá không đáng quí. Văn chân tịnh là yết-ma, tham là tạp, hoặc y cứ tham mà cầm giữ, hoặc có thể câu văn thêm bớt. Ở ba, nghĩa là vua, cha, thầy là cội gốc của luân lý con người. Vua thì nghĩa nặng, cha thì ơn nặng, thầy thì ở giữa cha và vua. Hoằng minh Tập chép: “nghĩa ở vua và cha”, dạy dỗ ở ba người (vua, cha, thầy). Chữ “trí” trở xuống một câu là rõ pháp phi. “Sự” trở xuống là rõ sự phi, nạp là vào. Chữ “tịnh” trở xuống là suy lỗi, lại kết ba phi, tuy làm các việc đâu biết được mất, cho nên nói là “hỗn đồng”. Dẫn chứng chia làm ba: Ban đầu rõ trái pháp, như dụ y. Chữ “như thị” trở xuống là hiển bày lỗi, giềng mối của tăng đã loạn, chúng riêng thiếu hạnh, Tam Bảo lại chìm mất, cho nên nói rằng “khiến răn dè”, v.v… Chữ “đương” trở xuống là khuyên thuận giáo, hai câu đầu là chính khuyên, câu kế là chế tội, câu dưới là chế học. Trong phần đối hiển, nhân pháp đồng nhau. Dục rõ người dụ như thông ngụy, pháp không cho trái. Hai câu đầu nói về người. Được thành việc trước ấy, như môn ba và bốn trong đủ số. Hai câu dưới nói về pháp. Câu trên so sánh đồng nên nói là “cũng”. Câu dươi bày khác, lậu là lọt rớt. Trong thiên ý, hai câu trên là nói phán định đúng sai, Khắc là gọt, Phù ngôn là lời phàm. Do từ xưa tập pháp và trong đời bỉnh xướng đều cho thêm bớt nên phải phán định. Sớ chép: “Gọt bỏ cái nhiều kia”, thêm rậm rạp cái lọt rớt kia. Đã lẫn lộn lời phàm, ẩn che Thánh giáo, cho nên nay cắt gọt lại bày rõ. Hai câu kế chính bày ý bài, câu trên thuật văn, câu dưới mở cơ. Đề chép rằng: “Thông biện nghĩa” thấy ở đây có, tiến chăng? nghĩa là như, phi, thành, bại. Phân khoa, nghĩa là duyên pháp trôi chảy. Hai câu sau khuyên gặp việc nương nhờ. Trong đủ duyên có nêu rằng: “Gồm nói là dùng mười duyên nầy gồm riêng chúng, cho nên nói do tạm ấy là nhờ duyên tạo thành, vì chẳng phải liền làm. Ban đầu, trọng xứng lượng, ở đây nói hễ muốn làm pháp không cho liền thêm, trước phải bàn luận duyên sự có thể được chăng? Ban đầu nêu bày. Chữ “tắt” trở xuống là nêu tướng. Ba tên nhân, pháp, sự chung cho năng sở, nếu y cứ Nghiệp Sớ thì cả hai đều xứng lượng, như nêu một việc phải nhờ người thành, dùng yết-ma nào, làm việc nào (sự lại có ba, tức như Sao nêu) lại ở giới nào? Nay đây chỉ rõ việc trong ba, cẩn thận chớ có lạm nhau, chỗ y cứ kiết giới y nghĩa là nhiếp y. Nói cụ, đơn là ở đây y cứ một việc có gồm nhau y cứ theo Sớ thì chia làm bảy; ba đơn, như Sao; ba phức lại có ba: 1- Nhân pháp (sai Tỳ-kheo hỏi pháp, sai người thọ tự tứ, v.v…). 2- Nhân sự (lìa y, gậy, đẫy, sai người phát thẻ… các loại). 3- Pháp sự (diệt tránh, nói giới, tu đạo, tự tứ, v.v…). Cụ túc một câu (diệt tránh, phát thẻ, bạch rằng “nói lời như vậy”, cầm thẻ chỉ ở đây đủ ba). Nói ly hợp, ở đây y cứ một pháp giúp duyên nhiều ít, như sám sáu tụ tội, thiên khác lìa sám, thiên đồng thì có nhiều tội, ly hợp đều được. Lại như thọ nhật, thọ giới đều khai nhiều người có thể dùng để nói. Chữ “tắt” trở xuống là chính thức bày tỏ xứng lượng. Trong hai việc chỉ rõ chúng pháp, hai giới đều nhiếp xen không thông nhau. Nếu nói về biệt pháp thì hai giới nói chung làm, một pháp dục chỉ hạn cuộc pháp địa. Trong ba nêu bày hai việc, sau chế quán lượng ấy tức trải tòa nhiều ít, đánh hồi dài ngắn. Trong bốn, nói khác nhau phải thông người và xứ, văn chỉ rõ người, người chia bốn ngôi, tùy sự dụng hợp cho nên nói là tiến dừng. Chọn lấy, nhận lãnh, cầm giữ, chứng chính, ngoài ra tùy hỉ nhiều ít theo đó, nên nói là hơn kém. Nhưng phải phân biệt sự khác nhau của xứ, tác pháp xứ có ba, tự nhiên có sáu, nhiếp riêng phần chừng đều như thiên trước. Trong năm có hai, ban đầu y cứ Thượng tọa khuyên cố gắng. Chữ “tu” trở xuống y cứ ba nghiệp thuận theo, như trước tức trong riêng chúng. Trong sáu có hai, ban đầu chọn tiểu chúng. Ni ba đồng sót (nay người hành pháp người tục ở chung quanh, nghĩa là chưa thọ cụ túc thì sai Sa-di, cư só không ngại. Luật pháp băng hoại là do đây), còn bao nhiêu trở xuống là chọn Đại tăng, chỉ theo trước có thể biết. Trong bảy, văn nói rằng: Phải cứu xét là lời thuộc năng bỉnh. Trong tám, ban đầu nêu bày, lược nêu thuận tình để giải thích. Chữ “ư” trở xuống là nêu bày. Ban đầu tùy là thuận tình, chưa hẳn đã xong, nên nói là “đợi nhiều”, như thọ nhật, sai người, v.v… đều thêm xin. Hai, là lập trị nghĩa là bảy yết-ma. Vô tâm tham dự, như Sớ nêu mười ba nạn, bảy trị như trên (trên bảy cũng trong nêu vô tâm tham dự, hợp ly). Tám, là tội xứ sở. Chín, là điên cuồng. Mười, là học gia. Mười một, là úp bát. Mười hai, là không lễ. Mười ba, là tẫn Sa-di (lại vô tình có sáu, cũng gọi là vô tâm dự, tức là thuộc khoa sau. nghĩa là đại giới, giới tràng, tiểu giới nhiếp y, tịnh địa, giới đường). Nên tác cử, v.v… chính là bày ý. Tác cử, nghĩa là trong tăng, người có đức nêu tội với tăng. Ức niệm nghĩa là chỉ định thời, xứ khiến cúi đầu tự nói. Chứng chính nghĩa là hay bỉnh, xét thật, biết pháp tức chỗ phạm để phục tội. Pháp tức là tội. Tăng Võng chép: “Chứng chính tội kia được phục mới cho đây”. Ba, là nêu dọc, không nên ở tám. Sớ chép: “Như khi hành sự nêu dọc”. Thứ ba do nêu dọc rồi, sau mới nhóm tăng, nay tướng nầy từ xướng tướng mà nêu, thứ tư có thể hiểu. Trong chín, ban đầu nêu pháp hỏi. Chữ “vị” trở xuống là bày người hỏi. Đáp tuy nhiều, riêng lời hỏi chẳng khác. Trong mười, trước nêu tướng đáp. Mỗ tức riêng việc yết-ma là pháp. Chữ “vị” trở xuống là ngăn lạm, nhưng lại cần biết hai lời đáp chung và riêng. Nói đáp chung là như thọ giới ba phép đơn bạch, một phép bạch tứ. Khi sai giáo thọ gồm nói rằng: Yết-ma thọ giới, còn lại ba pháp đều không cần hỏi. Xả đọa, tự tứ, loại nầy có thể biết. Nói đáp riêng là bốn pháp nêu riêng, như nói rằng “sai thầy giáo thọ là yết-ma đơn bạch”. Trong chỉ kết, ba câu trên là nêu chung, chữ “nhược” trở xuống là chọn riêng kiết giới không có thứ bảy, thọ sai không có thứ tám, đây giữ lại giải xưa. Trong Sớ thì nêu có người nói, lại nói rằng: “Kiết tịnh địa không xướng tướng”, cho nên nói là “đẳng”. Sớ chép: “Nay giải đều phải đủ”, kiết giới không dục, lập duyên để rõ”. Thọ sai không xin đâu không cần thưa. Kiết tịnh địa không xướng, ở đây không tìm văn. Luật chép: “Nên xướng tên phòng, việc kia rất rõ? Lại nói rằng: “Đối thú, tâm niệm cũng phải đủ mười”, như pháp thọ y. 1- Năm đại trên sắc nghĩa thêm không thành. 2- Sự chung cho hai giới. Miệng gọi người đối. Y cứ giới rõ nhóm, có thì đối thú, không thì tâm niệm. 5- Trước đối tướng để được. 6- Si độn chẳng phải số. 7- Thủ tục phi pháp. Cần ý nói bàn. Xét kỹ lời dạy trước. 1 0- Đáp hỏi đúng. Lại như chúng pháp, tâm niệm, vả lại nêu giới: 1- Suy lường thời tiết. 2- Xét các giới tướng. 3- Làm pháp kích động. 4- Y cứ theo chỗ không người. 5- Quán kia cùng hay riêng. 6-Tự lượng đúng sai. 7- Riêng nhóm chẳng có dục. 8- Chuẩn bị thẻ, nước. 9- Kích động duyên nói. 1 0- Như duyên khởi nghiệp. Đây lại lược dẫn, rộng ở văn kia. Sau chỉ biệt pháp nên là yết-ma Tùy Cơ. Kế trong lập pháp nêu rằng: Thông, cuộc: Pháp, sự, người, xứ bốn món là chung, tùy trong mỗi thứ đều có tướng riêng, như ở sau sẽ thấy. Lại khoa đầu nói phần chừng là thường trong mỗi vị đều có điều lệ, không cho lạm nhau. Vả lại, như trong pháp, ba loại, tám loại, xen nhau không thành, còn ba món kia cũng vậy. Trong tâm niệm, ban đầu bày vị. Sự nhỏ nhặt ấy, tức bổn vị. Chúng pháp đối thú gồm khai pháp, hạnh thành không phạm nêu ra ý khai. Chữ “phát” trở xuống là giải thích tên, đầu tiên chính giải thích cảnh tức việc đã làm. Phát tâm là ý, truyền tính là miệng, phải gồm nghi thân, ba món đầy đủ mới thành yết-ma. Chữ “phi” trở xuống là ngăn lạm, e có người mê tên không thêm miệng nói, dẫn chứng minh thành chẳng thể biết. Y cứ luận tác nghiệp chẳng phải ba món không thành, nhưng do riêng bỉnh phần nhiều không chuyên thành, cho nên theo ý riêng để đặt tên. Nhưng tâm niệm nhiều đường, như y, ăn, phòng, nhà, tùy thời khởi niệm. Trong luật đã chế thường một tâm ông, đây đồng quán hạnh, không cần miệng nói. Trong đối thú chẳng tâm niệm ấy là nêu bổn pháp, không tăng đối thú thì rõ khai pháp. Chữ “thử” trở xuống là rõ số người. Ba người, hễ đối thì chỉ sám hối tội trung phẩm thâu-lan-giá, do chế tiểu chúng cho nên chúng pháp đối thú chung, cả ba có thể biết. Bốn người, chỉ có tự tứ và sám tội xả đọa, đến sau trả y lại quy về chúng pháp. Chữ “vị” trở xuống là bày danh nghĩa. Mặt đối là, mặt ban đầu, nên nói là đối thú. Trong chúng pháp, trước rõ pháp vị, sở bỉnh có ba, không tham biệt pháp. Sở dó như vậy là trên được thông dưới, dưới không gồm trên, là do đối thú thông một, chúng pháp gồm hai, còn bao nhiêu như khoa kế. Chữ “thử” trở xuống là bày tên. Kế trong khúc phần, khoa đầu, khúc nghĩa là cong hết. Chi tức là từ gốc mở ra. Sớ chia chín phẩm, sau là lược điểm. Nhưng trong tâm niệm, chỉ như dụ riêng. Nếu y cứ bổn pháp chỉ gọi là tâm niệm, do chung hai món sau, thêm đãn lựa đó. Trong văn ban đầu bày nghĩa đãn, chữ “số” trở xuống là nêu tướng có thể biết. Trong đối thú niệm, ban đầu bày bổn chế khai, gồm giải thích danh nghĩa. Đối thú là bổn chế, tâm niệm là sau khai, gốc ngọn đều bày, pháp không lẫn lộn, sau đều chung ở đây. Vả lại, sau nêu tướng đều cần thời, cốt yếu thuận theo giáo, nhiếp trì có thể vào khai cửa, như văn có thể thấy. Luật Thiện Kiến, khi thọ bát chuẩn nên gồm xả. Trong chúng pháp niệm, khoay cứ đồng ở trước. Bộ ngoài tức Thập Tụng. Trong Đản đối thú ban đầu bày danh nghĩa, chữ “tổng” trở xuống là nêu pháp tướng. Y theo các bộ ấy là nói chung bổn khác, trước thọ xả, v.v… đều nêu ra tông khác, còn những thứ kia phần nhiều là bổn bộ. Trong văn xen bày, nay buộc làm năm, trong ngoài giúp duyên pháp cộng có mười hai (trước tám món thọ xả, ba tịnh và thọ thuốc). Sám hối pháp phạm có sáu (từ Ba-dật-đề, sau bốn sám và hai lộ). Pháp thưa bạch có sáu (từ tăng tàn, sau bốn pháp bạch và Ni hai pháp bạch). Chế pháp có hai (y chỉ và an cư). Ly khai có năm (xả thỉnh, xả giới, bảy ngày, dữ dục, dư thực) trở về trước cộng chung có ba mươi mốt pháp, mà nói rằng hai mươi chín, là hai pháp sau thuộc Ni. Sở dó nêu là vì đối với tăng làm. Ở ngoài sớ là cuộc hạn Ni chúng. Vả lại, luận lược là nêu bày không hết, cho nên ở đây cần chọn lựa trái với Sớ: Một, là nêu sớ khác nhau, kia nói rằng hai mươi tám, tức hợp với pháp bạch tăng tàn, vào trong pháp bạch hành, do vì đồng là bạch hành (y cứ hành che giấu có nhiều loại bạch pháp, đều dùng bạch hành thâu đó, tìm trong thiên sám sẽ thấy). Hai, là chia phẩm khác, kia rõ chín phẩm, tức chọn trung lan-già riêng làm trung thượng, để định cần ba người tiểu chúng hỏi biên tội, cho nên ba món ly hợp là khác. Trong đây ba mươi, chín mươi đồng ở đản đối thú, kia lìa ba mươi là chúng pháp đối thú. Trong chúng pháp đối, chỉ đồng tâm niệm, nhưng nêu ra bốn pháp, Tùy Cơ yết-ma lại thêm xả đọa, thì có năm món. Trong chúng pháp đơn bạch là hai: một, là bày pháp. Hai, là rõ tên, hai phần sau văn đồng dưới đây. Ban đầu nêu ra ba câu để rõ xét cốt yếu, tổng quát ba mươi chín pháp. Sự khinh nhỏ có mười (hai mươi bảy pháp xả đọa, thọ sám, hành bát, cạo tóc, mười giới, giới cụ túc, ba pháp trước thọ y công đức, xả y công đức, phi thời hòa). Thường hành có mười một (nói giới có bốn, thường hòa diệt tránh một thêm hai thêm, tự tứ có năm, thường hòa việc nạn lược ngày dài một thêm hai thêm, tăng sám hối, tăng phát lồ). Nghiêm chế có mười tám (các lời xúc não trong diệt tránh có năm, chọn sót người trí, sót người không tụng giới, không học luật, bỏ chính nghĩa cỏ phủ đất. Trong năm trăm kiết tập có sáu bạch, trong bảy trăm kiết tập có năm bạch, bạch hành thẻ không vào số vì bày không hết). Trong bạch nhị gồm năm mươi bảy loại như sai kiết, v.v… Sự phi một mối cho nên nói là “tham thiệp”, trông tước là trọng, đối sau vẫn là nhẹ. Theo tăng xin được có bảy (hai phòng là hai, lìa y, ngọa cụ sáu năm, nuôi chúng, thọ nhật, gậy túi). Tăng phế pháp có mười một (thử ngoại đạo, cuồng si và giải cuồng si, không đến học gia và giải học gia, chia vật tăng, thưởng người nuôi bịnh, chia vật người chết, giao y công đức, đem phòng cho người đời sửa hai pháp). Sai khiển có mười bốn (chia ngọa cụ, nói tội thô, đến giáo giới Ni, năm đức giao cất, giao giữ y công đức, sám bạch y, phát thẻ, bảo người sửa sang phòng, úp bát, chia cháo ăn, v.v…, trong Ni cần giáo thọ, đến cầu tự tứ, sai tin thọ giới). Kiết giải có mười chín (kiết đại giới và giải, hai đồng giới, một đồng giới, ba tiểu giới và ba giải, giới tràng và giải, nhiếp y và giải, tịnh địa và giải, giới tràng kiết ăn đồng, kiết khố tàng). Sám trị có sáu (hai mươi bảy phép trả y, giữ bát, cho úp bát và giải, trong ni làm pháp không lễ cho tăng và giải). Bạch tứ chung ba mươi tám pháp. Đại tiểu ấy đại như thọ cụ túc, sám tăng tàn, v.v… Tiểu là can ngăn tiếp cận ở chung, v.v… Tình sai trái, nghĩa là trị phạt diệt tránh, v.v… Pháp can ngăn có mười ba (trong tăng tàn bốn phép can ngăn, trong chín mươi ác tà tẫn xuất Sa-di, trong hai pháp Ni tùy cử, ni tập gần ở chung, khuyên tập gần ở chung, sân đòi bỏ Tam Bảo, phát sinh cãi cọ, gần gũi cư só). Thọ pháp có hai (thọ giới cụ túc và Thức- xoa). Trị phạt có mười bốn (bảy pháp trị và bảy pháp giải). Sám pháp có năm (Tăng tàn có bốn và học hối). Diệt tránh có bốn (ức niệm, bất si, tội xứ sở và giải). Trong tổng kết, ban đầu chính kiết các pháp, y cứ pháp chỉ có ba, tùy sự nhiều khác cho nên nói rằng đến duyên. Chữ “nhược” trở xuống là gồm kết pháp riêng, nên biết ba vị tám phẩm theo pháp mà luận, một trăm tám mươi bốn tùy sự mà bày số. Y cứ biệt pháp nầy lẽ ra có năm mươi, nhưng trước chỉ có bốn mươi bảy. Tâm niệm đối thú có ba mươi ba, gồm Ni hai pháp thì có bốn mươi chín, Nghi nầy lại nêu toàn số, người học phải tìm đó. Trong giải thích nghi, tai nghe là đây do thế gian truyền, rất trái số trước cho nên nêu để làm câu hỏi. Trong phần đáp, ban đầu thuận theo lời hỏi để giải thích, một trăm là tổng số, tuy việc đều có một yết-ma giúp đó, chặng hạn như một trăm lẻ một nghĩa cung cấp thân, cho nên nói rằng gồm nêu. Chữ “diệc” trở xuống là trái lời hỏi để giải thích, thấy trong tạng nay có đề Đại Sa-môn Bách Nhất yết-ma, tức rút ra từ Thập Tụng. Sớ chép: “Nếu y cứ Già luận thì vừa vặn một trăm lẻ một dụ, cho nên dụ kia tên đơn bạch có hai mươi bốn, bạch nhị có bốn mươi bảy, bạch tứ có ba mươi, người xưa tụng bộ khác tự lược bổn tông (Già luận tức tông Thập Tụng). Trong chỉ tướng phi, hai câu trên của khoa đầu là bày ý cần, trên rõ phần chừng, y cứ dụng đều như, hẳn có sai, trái, thành chăng chớ giải thích, nghĩa phải ở nêu bày tướng phi nầy. Chữ “đãn” trở xuống là rõ ý lược. “Tiến không” tức là thành hay không. Chữ “tất” trở xuống là chỉ rộng, văn kia cũng mất. Sự, nghĩa hai Sao soạn thuật cho đến trong ý tựa là lược rõ, xin rõ văn đây mới biết không lầm. Hỏi: Đây đã lược, vì sao văn sau lại bày bảy phi? Đáp: Ở đây chỉ cho văn bảy phi trong luật. Yết-ma nêu bày, trong Sớ lược nêu dụ như mở bốn cửa, xưa nay giải thích khoa y cứ rộng đây. Nay phù hợp ý, sao cũng không dẫn, ở đây nêu tên thẳng: 1- Yết-ma phi pháp phi Tỳ-ni. 2- Yết-ma phi pháp biệt chúng. 3- Yết-ma phi pháp hòa hợp. Yết-ma như pháp biệt chúng. Yết-ma pháp tương tự biệt chúng. 6- Pháp tương tợ hòa hợp yết ma. 7- Bị quở mà không dừng Yết-ma. Lược bày trong hai, ban đầu chính bày phải trái. Chữ “vị” trở xuống ba câu là nói về phải, biệt tướng tức pháp nhiếp sự. Chữ “nhược” trở xuống bốn câu nói về (trái), như đãn tâm niệm chỉ giúp ba sự, nếu thêm việc khác thì thành phi nhiếp. Cho đến bạch tứ chỉ giúp ba mươi tám việc nếu thêm nói tự tứ, sai, kiết, v.v… các việc gọi là phi pháp, như là tám ngôi dụ đó có thể biết. Ở đây là y cứ pháp thêm việc xen nhau bày phi, muốn khiến người mới học lược biết tướng kia. “Nếu muốn” trở xuống là chỉ bày nghĩa phi. Nói thông biết là văn trên chỉ rõ pháp phi, chưa rõ ba thứ sau vì đều có phi. Môn nầy là gồm chỉ tướng nhiếp một khoa. Trên dưới tức trước sau bốn vị đều có tướng phi riêng, tùy ngôi gồm thâu cho nên nói rằng “gồm ngang”, tức như khoa sau đơn phức làm câu, tướng kia sẽ thấy. Ngõ hầu trông mong, nhị là khác. Trong giải thích biệt hiệu xưa chấp tên Yết-ma cuộc hạn bởi các pháp, cho nên cần giải quyết. Trong phần đáp, hai văn bổn tông, ban đầu nêu ra pháp thọ, đã khởi bạch tứ tức ba lời xử đoán. Ngài Xá-lợi- phất hỏi rằng: - Ba lời thọ giới là khéo làm yết-ma chăng? Phật đáp: “Là khéo làm yết-ma”. Tự chế về sau không gọi là thọ cụ túc. Chữ “cập” trở xuống tức trong thuyết giới, kia do nhóm tỳ-kheo sáu vị đến ngày thuyết giới nói năng thăm hỏi các cư só làm yết-ma (tức năm giới, tam quy) nói giới (tức năm giới tướng) nói pháp Phật dạy đây là Thượng Tọa nên làm. Dùng ba lời, năm giới cả hai đều đối người lại chứng đối thú. Sau dẫn luật Thập Tụng đều chứng hai pháp, kia nói có nghi nên hỏi, Phật lại giải quyết cho. “Yết-ma” trở xuống là tiếp tục nói rằng: Sau có Tỳ-kheo đến không cho chia. Thứ hai rõ sự có ba: 1/ Tình sự. 2/ Phi tình sự. 3/ Nhị hợp sự. Một trăm tám mươi bốn pháp nhiếp hết ba việc nầy. Trong chỉ bày, do tám pháp trước riêng nêu ra tướng riêng, nên nói là không lặp. Trong phần giải thích, khoa đầu có hai: Đầu tiên là bày thể tướng, văn nêu hai việc, hai hợp ở trong. Chữ “tinh” trở xuống là nói về đúng sai, do nhân pháp và giới đều cuộc hạn tự phần, sự hợp nhiều món thi phi tướng chẳng phải một, cho nên nói rằng “một duyên…”. Vả lại, như thọ giới, già nạn, y vật, phát tâm bày xin. Lại như trị nêu, khám nghiệm ba căn tác cử ức niệm, như vậy mà tìm. Trong phần bày nhỏ nhiệm riêng, là hợp làm ư? Trong tình sự, khoa đầu văn dẫn có hai: đầu tiên dẫn người pháp, kia vì Tỳ-kheo phạm hai tội tăng tàn, đều che giấu cả hai, một tội nhớ, một tội không nhớ, Tăng nêu pháp hai tội che giấu, nhớ thì rất tốt, không nhớ thì sai, bị Tỳ-kheo khách biết pháp quở trách, văn như Sao dẫn. Kia lại nói rằng “Tăng tác pháp sám Đột-cát-la”, chữ “thử” trở xuống là nói về sai. Kế là dẫn văn Chiêm-ba, kia rõ Ba Ly hỏi Phật, nay dẫn lời hỏi. Phật nói “Ở đây không đúng pháp”. Chữ “cố” trở xuống là nói rằng Phật phán. Chữ “thử” trở xuống phán là “sai”. Trong ý kết có hai: Đầu tiên kết trước nêu bày, một việc là trị phạt, còn bao nhiêu thọ sám v.v… các việc đều có thể y cứ. Chữ “như” trở xuống là thứ hai nêu việc chính, trước nêu ra tướng phi. Chữ “nhược” trở xuống là nói đúng pháp, chữ “nhi” trở xuống là ở trong như lại phân biệt. Thần nghĩa là cúi đầu, do tội có chủng tướng khác nhau. Trong chủng tạo tác riêng khác, như xúc chạm phạm tăng tàn, trước nói thật phạm, nhưng việc chẳng phải bổn thời, cùng tranh trái nhau không nên gia pháp (đời truyền, kiết giới cần giải để ngăn nghi. Lập nghĩa nói rằng “dầu chẳng hiểu kiết, lại luống lập một pháp” xin đem văn nầy, Thánh pháp giúp sự có thể luống lầm ư?). Trong phi tình lại nêu xứ phần. Nói tứ, kiết, giải, v.v… các dụ phải nghiệm xét. Lìa y, gậy, v.v… tức hai hợp sự, lìa y vì bị bịnh không thể mang theo, gậy là vì già bịnh dùng để đỡ lúc té ngã, lìa y phải là người bịnh mà y nặng, xin gậy thì già lại binh, có một không thành cho nên nói là đủ hai, kết cáo có thể biết. Thứ ba, rõ người có bảy, một đến hai mươi, bốn loại tăng, ba món sai khác nhau. Trong tăng ban đầu bày ngôi vị, tức chỉ nhóm tăng. Chữ “duy” trở xuống là nói phải cuộc hạn, chữ “đãn” trở xuống là lựa phần phi. Ba trong hai ba người, ban đầu nói về đương pháp, hai câu trên gồm nêu, chữ “nhược” trở xuống là nêu giải thích riêng. Đầu tiên nói về khai pháp. Đủ bốn người không thành là vả lại y cứ phần nhiều, tự tứ thì thành. Chữ “nhược tác” trở xuống là kế bày bổn vị, ban đầu chính bày, quyết sau lựa chọn hỏi biên. Trước rõ sám Ba-dật-đề cần hỏi, chỉ y cứ tất và bất tất để chia ra ba mươi hay chín mươi, ở đây vẫn theo xưa. Nếu theo Sớ, xả đọa lạc vào trong trước chúng đối, chín mươi pháp riêng đối không cần phải hỏi, trung phẩm lan giá nhất định hỏi, hai người không thành. Chữ “nhược trì” trở xuống là lựa pháp khác không cần. Chữ “nhược thị” trở xuống là lựa phần phi. Chữ “tất” trở xuống là khuyên nương. Trong tâm niệm, ban đầu bày chung, chữ “nhược” trở xuống là giải thích riêng, ban đầu rõ khai pháp, chỉ như trước ấy tức là trên lập pháp, trong thông cuộc khai có chừng hạn, không thể xen lạm. Chữ “nhược tác” trở xuống là bày bổn pháp. Thứ ba, là nói rõ giới có tám: Tự nhiên là một, ba tiểu giới, ba đại giới và giới tràng. Trong tự nhiên, đầu tiên nói chúng pháp chỉ cuộc hạn. Chữ “dó” trở xuống là nói biệt pháp đều chung, tạp pháp như đánh kiền-chùy, bạch cáo, không hệ thuộc đối niệm chỗ nhiếp. Nói đều được là phải nhớ trừ dục, là nói nhóm hết, vả lại là nói theo pháp khai. Trong giới tác pháp, hai người gồm bảy vị trước, ba pháp gồm thâu tám phẩm. Trong riêng rõ, trước đối tự nhiên, gồm rõ chúng riêng, người pháp đều thông, đây thì pháp giới chỉ nói tướng thông bít của các pháp. Ba tiểu giới có hai: đầu tiên nêu ba tướng, số người nói giới ấy, là cũng bày việc nạn vì không cho nhiều. Nói nạn sự là người không đồng ý muốn quở pháp. Chữ “thử” trở xuống là rõ thông, bít, đều chuyên một pháp phải chia tên chung. Còn các pháp khác thì “bít”. Thọ giới, tiểu giới trước sau bốn pháp, nói tứ riêng một, cũng có chung ấy, Sớ chép “Chẳng thể không nêu tội mà liền bạch sám”. “Nhược vọng” trở xuống là thứ hai một bề gọi là tắc (bít). Nhân dự nghĩa là khó tịnh không duyên, văn khiến liền hiểu, rõ biết chẳng thông. Giới tràng chuyển Sớ xưa giải trừ mười lăm pháp, xin bát, xả sám gồm bốn, tịnh địa kèm giải, y công đức lược xả, nên nói là “Đẳng”. Lại Sớ, văn trước bày pháp hai loại đều không thông trên giới tràng (lại y công đức có sai người, vật người chết có thưởng người cực nhọc, cộng trừ mười chín). Trừ là bít còn bao nhiêu thì gọi là thông, nói tứ là y người chết, hai thứ nầy có nạn thông trên giới tràng. Sở dó trừ là vì nói giới là khắp nhóm, chế vốn ở đại giới, tự tứ, thọ nhật, y công đức cần ở chỗ an cư. Xin bát, y vật người chết quy về kho của tăng. Giải giới cần vốn là chỗ kiết giới. Y, thực quyết nương vào tăng. Bày pháp khiến giới biết chung. Trong đại giới, giới đường (nhà nói giới), ba tiểu giới, giới tràng, v.v… kiết giải đại giới không làm cho nên là “bít”, còn bao nhiêu thì đều “thông”, cho nên nói là “đều có, v.v…”. Kế nói về thành hoại, trong bày lý do, đối văn bảy phi nên nói là “tùy nghĩa”, do tác nghiệp biện sự thành ở bốn duyên, lại tức đến duyên, qua câu, lựa chọn tùy mỗi việc đơn phức bao gồm. Suy tìm chẳng trái, muốn trốn cũng không có đường trốn. Hỏi: Trước bày bốn duyên, sau nêu câu, giữa sao không nói giới? Đáp: Vì hợp với việc. Sở dó như vậy vì có hai ý phải biết: Một, là muốn hơi giống văn phi đều bảy số, cho nên hoặc có thể biệt pháp không có phi, chung hai giới cho nên chúng pháp thì có. Cuộc pháp ở chỗ cho nên lý do không gồm khắp, vì ít nên theo nhiều. Trong đãn tâm niệm, ba đơn có thể hiểu, ba phức lại y cứ trong đơn. Câu thứ tư như đối người nói, lời câu sai sót mà sám hối tội khinh Đột-cát-la. Năm, như đối người sáu niệm, sáu việc, luống lạm câu lời không sai, v.v… Sáu, là như sám hối tội nặng Đột-cát-la, miệng không nói mà là riêng làm. Bảy, đủ ba, là đối thú không nói, phát lồ tội sai quấy. Bảy món khác đều như vậy, đến văn tự rõ. Thứ hai, trong nhân phi, hai câu trên nói, riêng người, hai câu dưới tức tổn mình, nghĩa là không nương vị Luật sư thứ năm. Trong ba, chẳng phải hạng hạ ấy, là vượt ba món an cư. Cho nên có nạn duyên là không tránh nạn mạng sống, nạn phạm hạnh. Cho nên không nương Phật, là kết hai việc trước. Cho nên bốn món sau là lược ba phức một cụ. Trong đây theo pháp lại nêu tám, bảy. Nếu theo sự thì một trăm tám mươi bốn pháp, mỗi mỗi đủ số bảy câu thì nhiều. Trong người sai thứ ba, cũng y cứ tự tha nói cả hai, do đến khi nói giới phải cần hạnh tịnh. Trong sự phi, một người riêng bỉnh, chúng phải đầy đủ. Thời phi là quá ba ngày. Trong người sai thứ tư, người phạm giới cảnh uế không đủ. Có người quở, hành tịnh riêng chúng. Trong pháp phi, lời chẳng chính là cho lẫn sai. Quở không dừng là dẩu khiến như giáo nhưng làm cho người quở, không dừng cũng là sai. Trong sự phi, trên nhiễm nghĩa là năm gian và gấm lụa thêu. Tài vật bất tịnh là do tà mạng mà có, thể, lượng, cắt rọc trong văn lược. (tờ 2 0 0) Trong người sai thứ năm, trên rõ riêng chúng do giới đủ năm, không khai đối thú. Lại pháp đối thú không khai thọ dục, quyết cần nhóm đến lại nương ngôi cũ mới gọi đúng như pháp, hoặc phi sau kế chọn số phi. Trong sự phi, thời phi, cũng ngoài ba ngày. Nạn không đủ, là phi thời được làm, có nạn mới khai. Bổn luật thêm bớt, năm trăm là hỏi một tháng. Thứ sáu, trong pháp phi, câu trước rõ căn bổn tùng sinh, thiên khác nên sám. Câu kế nói phạm và không phạm chưa cùng tình thật. Vọng bày, là gồm hai lỗi trên. Trong sự phi, ban đầu nói dài là phi, như mủ, vớ bằng lông tơ, bát nhỏ trắng, v.v… Kế, là nói giấu lỗi phạm, tăng không biết. Ba, là nói rõ mềm yếu không thắng yết-ma. Bốn, là nói lạm nương lời, gởi chỗ nào? Trong người sai thứ bảy, hai câu trước nói thân riêng, câu sau miệng riêng, sự giữa là thứ ba. Ban đầu mê ba tướng, thứ hai mở hai giới, thứ ba xa xướng kiết. Trong người sai thứ tám, câu đầu là chỗ làm giới phi. Sau là năng bỉnh phi, câu trên rõ riêng chúng. Chữ “tăng” trở xuống nói rõ số phi. Nói năm trăm, là hướng nêu đến nhiều, rõ chẳng phải dễ được. Năm mươi pháp là y cứ trong đủ số hơn sáu mươi người, nhưng môn thứ tư, mười một người vẫn đủ sinh thiện, cho nên bớt nói. Trong pháp phi, tám món ấy, tức mười món phương tiện trong pháp thọ, trừ tiểu phần pháp và giáo phát giới duyên tùy căn cơ. Yết-ma cũng lập tám thứ ( 1- Thỉnh sư. 2- Sắp đặt. 3- Bạch sai. 4- Ra hỏi. 5- Gọi vào. 6- Xin giới. 7- Giới Sư bạch. 8- Đối tăng hỏi). Trên tức duyên phi, dưới trình bày pháp phi. Trong sự phi, ba ngôi chúng pháp đều ra ngoài giới là phi, vì cuộc hạn chỗ. Kết bày, trong phần đầu chính kết, lìa tám điều vào phi cho nên nói rằng “còn bao nhiêu là chính pháp”. Chữ “đương” trở xuống là nói pháp sư đều “bít”. Chữ “biệt” trở xuống là rõ nhân, biệt phần nhiều là thông, chỉ trừ hai đản, còn bao nhiêu đều có. Chữ “quảng” trở xuống là rõ lược, văn kia cũng mất. Khúc giải Yết-ma trước thông với riêng chúng, biệt pháp có thể hiểu, cho nên chương nầy chỉ rõ chúng pháp. Trong bày ý, ba câu đầu rõ ý. Cương yếu tức ban đầu giải thích văn là đại thể yết-ma (không cần gượng chia duyên cương). Thông bít ấy, tức khoa sau lựa chọn bày văn nghĩa khác nhau (không hẳn cuộc hạn chỉ một khoa). Chữ “nhược” trở xuống là bày vọng gọi. Chữ “nhiên” trở xuống là nói về xứ phi. Hai câu trên là buông xa, hai câu dưới là đoạt lại. Nói biết xứ, là cương định không thành, duyên thông thành chăng, chưa thể nhất khái được, cho nên nói là “không được, v.v…” (lễ nói rằng: “Không sấm đồng”. Chú rằng: “Sấm phát ra tiếng, vật đều đồng thời ứng”). Trong phần bác bỏ chấp văn, đầu tiên hai câu là gồm bày. Chữ “hoặc” trở xuống là hiển riêng, ban đầu bác tụng liên tục kết lược. Các pháp bạch tứ phiên dịch bớt văn, cho nên đặt lời này không phải bài tụng. Chữ “hoặc” trở xuống là thứ hai bác bỏ chuyên chấp lời câu. Câu đầu như pháp che giấu trong Luật chỉ nói rằng “mở giáp phạm tăng tàn, che giấu, nay Tăng cho kia yết-ma tùy có ngày che giấu, nhưng phạm trước có khác nhau” ngày che giấu hoặc nhiều ít, nếu y luật tụng thì không gọi là việc trước (thiên sám nói rằng “Nương Sao tác pháp được thành”, nếu y cứ văn luật nương yết-ma xưa, tức phải sửa đổi không thể kính tụng). Câu kế như pháp thưởng người cực nhọc, đủ nêu sáu vật, vật thiếu cần sửa, nay cũng nương tụng (Sau chú nói rằng “tùy có lời đó”). Nói đều có, là như pháp thọ nhật, nêu Phật, Pháp, Tăng, duyên liền ngày nửa tháng, một tháng. Văn sự tuy đủ không nên đều nêu (Sau nói rằng “Không được đều tụng nửa tháng), đều không đúng pháp Kiết đại giới có giới tràng, Luật không văn sự không còn tăng thêm (sau nói rằng “cần thêm tướng trong ngoài”), cũng có thể đúng như pháp quở trách, văn y cứ đấu tránh, quyết có bao nhiêu phạm không thể tùy sửa (sau nói rằng: và luận đương thời chưa hẳn như văn). Chữ “trí” trở xuống là rõ người biết quở, đâu biết chỗ thi thố. Trong bạch, đọc, như sau hỏi quyết. Ban đầu bày pháp phi, chữ “khởi” trở xuống là bày lỗi. Người kia là người dạy, trách tức là tội. Không học chẳng biết, phi pháp, ngoài tội lại thêm. Trong bác bỏ tâm sư, câu đầu bày người. Chuyên rộng, nghĩa là chẳng phải trí gượng làm trí, tuy chẳng phải ngu, vì bít lại là cuồng chọn. Chữ “quán” trở xuống là bày hành sự kia, câu đầu rõ chợt nhìn dường như phải, mà sau chỉ bày lại xét thấy sai. Ban đầu rõ nhân sự đều sai, nghĩa là người mê việc đủ, riêng, mờ cả hư hay thật, trong mộng nhìn biển mà so sánh hơn, là mê có thể biết. Chữ “lượng” trở xuống là rõ pháp phi, tuy không giữ văn cú mà tự cắt quá nhiều. Chữ “chiếu” trở xuống là tổng kết phi ở trên, trái giáo kết tội. Trong kết cáo, hai câu đầu chính khuyên, thêm việc không thành, mình và người đều tổn, lỗi chẳng phải nhỏ, nhẹ nên nay rất răn dè, quyết phải chính thân học mới tránh khỏi các lỗi. Chữ “nhược” trở xuống là nói chọn người. Thượng tọa, như luật Ngũ Phần chép: tức trên không người, tuy ở đầu trong chúng quyết phải hiểu pháp, lạp cao mà không biết sao tính đủ? Cho nên sau dẫn chứng luật nêu bốn người. Thượng tọa, kế tòa là y cứ ngôi vị mà chọn người. Tụng luật, không tụng là y cứ pháp chọn người. Văn thiếu thứ tư. Nói trì luật tức là thứ ba, Sớ nói rằng: “Phi, nghĩa là tụng văn quyết gồm biết nghĩa”. Bốn, là không tụng, Sớ chép: “Tuy không liền văn nhiều tờ mà hiểu suốt thành chăng”. Lại nói rằng: “Tứ Phần gồm nêu và y cứ có khả năng, nên dự chưa rảnh cũng khai cho học hối”. Chữ “dó” trở xuống là ngăn lạm, có thể biết. Trong phần giải thích, sở dó chỉ y cứ người thọ mà nói, do hai pháp đây trong đời thường dùng, lại người thường tụng cũng dễ hiểu. Trong bạch năm câu, ba câu đầu, sau, chặng giữa truyền nhau làm giềng mối, bao gồm các việc lau chùi, cách thức, phép tắc. Hai câu bốn và hai gọi là duyên gốc, tức pháp đã giúp việc tùy căn cơ khác nhau, như thuyết giới nói rằng “bạch ngoạt ngày mười lăm” tức là duyên, bố-tát nói giới là bổn sự. Lại thọ giới nói rằng: “Kia theo Hòa-thượng, cho đến ba y, bát, tọa cụ, v.v…” đều gọi là duyên, “nay theo tăng xin giới” tức là bổn sự (việc gốc). Thứ hai thì duyên và bổn đều bày. Thứ tư thì nêu riêng căn bổn, dầu có gồm duyên, phiên dịch, truyền mất trị, như chia đối tùy văn có thể hiểu. Câu đầu nói rằng “Động nhó thức”, sợ duyên khác việc vô tâm đồng thưa. Chữ “thinh” đọc khứ kinh. Câu kế, bố-tát, nói giới là Hoa Phạm đều nêu. Nói thành trọng, phức, San Định giới bổn sửa trước rằng: “Chúng Tăng nói giới” thì người và pháp đều nêu. Sau nói rằng: “Hòa hợp nói giới” thì bằng lòng có thể đã nêu bày, nhưng chúng cũng là Tăng, là thành câu cho nên nói “tình, sự” ấy tức tâm năng bỉnh ẩn chứa trong việc đã thưa, không cần hòa hợp tình, phi tình, v.v… Trong thứ ba, câu đầu không giải thích. Nếu ấy là lời chưa định, hai kỳ để hỏi. Chữ “Tăng” trở xuống là chia câu giải thích riêng. Ban đầu giải thích đến thời. Câu trên người như, câu dưới sự pháp đều như, giới ở trong sự. Bốn duyên hiện tiền là lúc tác nghiệp (đây gọi là thời của thời nghi. Nghiệp Sớ đồng với ở đây. Giới Sớ thì chia làm hai: 1/ Người đến, là Đại Sa-môn thanh tịnh vào. 2/ Thời đến là lúc ngày mười lăm bố-tát đến. Kia cuộc hạn một việc, ở đây chung tất cả, nhưng tăng phải hòa, duyên hợp đại ý không trái). Kế, giải thích bằng lòng nghe. Chữ “thinh” bình thanh. Sớ chép: “Nay y cứ tâm hòa khuyên nghe”, trước y cứ thân hòa khuyên cho nghe, hai tiếng riêng gọi là sự nghĩa cũng trái, không hiểu hai duyên gọi là số phi. Trong thứ tư, trước là cáo tình, cho nên phải bày cả hai, ở đây bày tỏ bằng lòng, không nhọc đều nêu. Thứ năm, là nói rằng: “Như thị” là chỉ lời bạch ở trên, cho nên nói là “bạch kết”, nay biết nghiệp cho nên nói rằng “cáo tri” (báo cho biết). Kế, là trong giải thích yết-ma nêu có hai: Ban đầu nêu pháp. Chữ “nội” dường như dư, lại sợ lầm chữ, gượng giải thích cũng thông, nhưng sợ vô lý. Trên dưới bày trọng rõ ý bạch, e nghi phiền phí, cho nên dự ngăn đó. Trước là chính giải thích, rất xứng thành lâu, ở đây giúp người chưa ngộ là lợi kẻ mới học, chí trước sau riêng, nên nói là “các”. Văn bạch đồng với trước đã giải thích. Nói duyên triệu ấy, nghĩa là nêu duyên bảo chúng, tình sự mới bày, tức thành nghĩa triệu, dưới đây chỉ đồng rõ lược. Kế, là trong giải thích yết-ma gồm chia. Ba lần yết-ma là pháp, chính thể xét chúng lượng đáng cho nên nói rằng chính quyết. Tăng pháp chỗ thêm vốn là thọ giới cụ túc, cho nên nói là căn bổn. Sau nói rằng “kết thành” rõ bày ngoài thể. Trong giải thích riêng, nêu y cứ cương duyên lại chia làm năm câu, nay đây theo nghĩa chỉ chia ba đoạn. (tờ 2 0 1) Câu đầu chỉ có giềng mối, hai câu sau cương duyên chung làm. Vả lại đoạn đầu là đối văn bạch ở trước, cho nên nói rằng “lại nghe”. Trong sinh thiện nó là trên hết nên nói “chẳng nhỏ”. Hòa quyết nhân nghe cho nên chỉ là duyên. Đoạn hai chia làm hai: Trước duyên sau cương. Trong duyên văn lược chỉ nêu “cho đến”, nếu nói đủ thì nói rằng: “Mỗ giáp (A) đây theo Hòa-thượng mỗ giáp (B) cầu thọ giới cụ túc, mỗ giáp (A) nay theo tăng xin thọ giới cụ túc, mỗ giáp (B) làm Hòa-thượng, mỗ giáp (A) tự nói thanh tịnh không có các việc nạn, đủ hai mươi tuổi, ba y, bát, tọa cụ (đây đều là duyên). Nay Tăng trao cho mỗ giáp (A) giới cụ túc, mỗ giáp (B) làm Hòa-thượng (là bổn)”. Trong cương, nói Trưởng lão chính là gọi riêng người. Sớ chép: “Sự suốt ở tăng, thành chăng là ở riêng”, lại chép: “Hoặc có văn nói “Đại đức bằng lòng”, là hỏi riêng người, tùy thời xưng gọi. Trên là nêu văn, chính sau lược giải thích. Hai câu trên điểm chuyên bổn riêng, hai câu dưới giải thích chung cương duyên, bày rõ ý văn. Đoạn thứ ba chia làm hai: Ban đầu bày căn bổn thọ, nên nói là “trao”, nhưng trừ chữ “kim”, sau chữ cụ thêm chữ túc, cho đến giữa lược mỗ giáp làm Hòa-thượng. Trong cương lược ba chữ “giả mặc nhiên” ở trên. Chữ “đơn” trở xuống là điểm bày có thể biết. Chữ “đệ” trở xuống là giải thích kết lược. Ban đầu nêu văn, chữ “nhất” trở xuống là chính giải thích. Hai câu trên rõ được giữa, hai câu dưới bày ý chế. Trong văn kết cũng chia ra cương và bổn, “Tăng đã bằng lòng rồi, Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này xin nhận biết như vậy” là cương, hai câu ở trên dưới, chữ “cánh” ở giữa. “Cho mỗ (A) thọ giới, mỗ giáp (B) làm Hòa-thượng” lại kết trước là bổn. Chữ “thử” trở xuống là điểm văn rất dễ hiểu. Trong ba pháp lựa chọn, thêm, bớt y cứ luật đơn bạch và bạch nhị trong bạch, hoặc chỉ có bốn câu, thiếu câu thứ hai thì gọi là bớt, nhưng vốn không thêm. Trông kia năm câu đối đãi nhau mà nói, nếu là Yết- ma và bạch tứ trong bạch thì nhất định không thêm bớt, cho nên chẳng phải chỗ bàn. Trong văn trước nêu lý do không nêu ra ba ý, hoặc là sự trọng như các pháp nói tự tứ, trả y, vật người chết, v.v… hoặc có duyên khởi như các kiết giới, cần phải Tỳ-kheo xướng tướng duyên khởi (ng- hóa là Yết-ma là duyên trước chẳng phải gọi là duyên vốn chế), hoặc có lời xin như các thọ sám (nghĩa là xả đọa đơn bạch chẳng phải thọ giới và các sám khác). Không nêu sự ấy như kiết giới, thọ sám ở trên, đều là đem duyên trước vào yết-ma. Hoặc ba món trên quyết đầy đủ năm câu, hoặc chỉ bốn câu thành, ấy là trái với ba ý nầy, gồm không đưa vào như văn đã nêu, tức nhà nói giới và diệt tránh trong kiết tập, các bạch và các bạch nhị sai người, v.v… là ở đây. Nhưng cần biết chỉ lược thứ hai, đến câu thứ tư duyên và bổn đều nêu hẳn không có thiếu, tìm đó có thể biết. Còn bao nhiêu sau rõ thêm bớt đều năm câu. Nhưng văn luật cũng có dịch truyền sót lọt, như pháp kiết đồng ăn khác giới và kết tịnh địa, đã có duyên khởi mà nêu bốn câu như Sớ đã sắp xếp, tụng sót, viết sai tưởng không nên nghi ngờ. Trong thông bít, đơn bạch chia làm hai: Cương thì đều thông, duyên thì có thông, cuộc. Ban đầu cương có thể hiểu, thứ hai trở xuống nói về duyên. Ban đầu bày văn cuộc, chữ “nghĩa” trở xuống là kế rõ nghĩa thông. Trong yết-ma, ban đầu rõ thông, văn nêu không đủ, đến nói mới thêm. Chữ “trung” trở xuống là bày thông cuộc, chỉ trong loại bạch, trong yết bày công thành do hiểu, không nên câu nệ vào văn, cho nên nói là “không rõ, v.v…”. Trong đúng sai, ban đầu trong cương thêm bớt một bề thuộc về phi. Trong bạch ba câu gồm một trăm mười bốn chữ, chính thể Yết-ma một trăm mười bảy chữ, văn kết một trăm mười bốn chữ, đây đều là thẳng định, dầu không thêm bớt mà âm thinh lẫn lộn, tướng nói không rõ cũng qui về phi nhiếp. Trong duyên đầu nói về lý thuận, do lời tuy thông, chấp nhận lý không thể trái, thường thường người ngu ở đời liền lại thêm bớt, chữ “tăng” trở xuống rõ khai chấp nhận. Câu đầu khai thêm bớt, Sớ nói rằng: “Như kiết đại giới tức hai dụ đồng giới tràng, tiểu giới nhiếp tăng nghĩa một, đâu được hai cái riêng, vì sao không nêu? Theo đây thì thêm cũng được, như Ngũ Phần, kiết giới tràng văn thêm “đồng một bố-tát…” (ở đây nói giới tràng và ba tiểu giới được thêm) bớt đi “hai đồng” cũng được, như các giới, v.v… Câu kế khai đổi lời, Kết Huấn bảo là “lời khác nghĩa đồng”, như nói rằng: “mỗ giáp (B) làm Hòa-thượng, theo tăng cầu giới”, các loại giới tụng, mà hai câu sau kết hai phép khai ở trên. Chữ “loại” trở xuống là dẫn kệ có ba: Ban đầu dẫn bộ riêng chính, Ngũ Phần bạch và Yết-ma đại khái đều bốn câu và không câu thứ tư, luật Thập Tụng nói về pháp thọ giới rằng “Năm hạ đã đủ, y bát đầy đủ”, v.v… Lại bộ ngoài yết-ma trong cương còn có thêm bớt. Luật Ngũ Phần thì “trưởng lão bằng lòng” trở xuống không có chữ “dả”, ở lời kết “Tăng đã” trở xuống không có chữ “nhẫn”, luật Thập Tụng câu thứ tư nêu bổn. Đã nói rằng bằng lòng, là Trưởng lão im lặng, lại chữ thuyết trên có chữ cánh, cộng thêm năm chữ. Chữ “chí” trở xuống là thứ hai, dẫn phiên dịch làm chứng, Sớ chép: “Dịch ba y là ngọa cụ, phu cụ; Hơi được hình tướng, đánh mất, bổn thể, v.v… (như Yết-ma giảm sáu năm). Ba, là kết huấn làm chứng, chữ huấn ng- hóa đồng, cho nên nói được cả hai. Chữ “cố” trở xuống một câu kết ba trường hợp trên. Ban đầu hỏi bạch đọc nghĩa là đối chung công bạch mà đọc, rõ ràng chẳng phải thầm tụng. Như trước đã bát e sinh chấp khác cho nên ở đây quyết phá. Trong phần đáp, câu đầu là phán định. Chữ “tuy” trở xuống là nêu lý. Không rõ quyết chẳng phải là chỗ đoán của chính giáo. Dùng nghĩa cầu ấy, chữ “sinh” trở xuống là sở rõ, trong dụ giới bổn nói tương tự ấy là cáo chúng vì nghĩa đồng. Chữ “cố” trở xuống là dẫn bày. Không được nói nữa, đây là nói nhiều người cùng học tụng chung, cho nên không khiến lặp. “Chuẩn” trở xuống là suy ý chế. Trong ví dụ chú thuật, ban đầu rõ chú ở thế tục, “việt” nghĩa là nói trái. Tán nghĩa là tâm loạn, ngược trên là chuyên chính. Chữ “cố” trở xuống rõ chú trong đạo. “Yết-ma” trở xuống là hợp lệ, huống chi là so sánh. Tựa luật rõ ấy, kia nói rằng: “Thần tiên, người có năm thần thông tạo lập chú thuật”. Như lai lập giới cấm nửa tháng tụng một lần (trên là dụ, dưới là pháp), chữ “tất” trở xuống là nói về chế. Luật chép: “Năm hạ không tụng giới, yết-ma, trọn đời không được lìa y chỉ” cho nên nói là trọn đời. Trong phần đích thân nghe, Tổ Sư thường dự trường dịch thuật là chỗ truyền thật đáng để làm y cứ. Hỏi: Trong phần xen làm, do Tăng Ni ngôi vị có riêng không cho xen lạm vì thế phải chọn bày? Trong phần đáp, ban đầu rõ Ni là tăng làm. Trong văn ba pháp, do Tăng phi pháp, Ni không cung kính, sợ trái với kính giáo, được pháp mới khai. Chữ “nhiên” trở xuống là không khuất trên chỉ được xa thêm, cho nên nói rằng “không cần”, v.v… Kế rõ tăng là ni làm, cả ba đều hiện tiền, Tứ Phần lại có pháp xả giáo thọ, cũng đồng xa giúp. Thứ ba, là hỏi: Y cứ trước chọn chúng, đã rõ không chung vẫn sợ hạnh lạm, cho nên ở đây lại bày. Trong phần đáp, ban đầu rõ chế chung. Câu trên thẳng chế, người tại gia không đáp, ba chúng chưa đủ Ni là loại riêng, đều không chấp nhận nghe. Sớ chép: “Ni đồng Tăng pháp nên dự đồng nghe”, há chẳng phải nữ loại không biết nhiều đời có thói kiêu mạn nên chế khiến tai mắt không nhìn ngắm, thì là trọng pháp tôn người. Chữ “Luật” trở xuống là dẫn bày, nếu Sa di sắp thọ giới cụ túc, Ni đến tự tứ, chỉ khai mắt thấy. Trừ chỗ làm ấy, là Sa-di thọ giới cụ túc và ba pháp trong Ni, ngoài ra không nên. Chữ “ma” trở xuống là rõ khai riêng, Bình-sa gọi đủ là Tần-Ba-Sa-la, Hán dịch là nhan sắc xinh đẹp, nghi thức Tỳ-kheo nửa tháng một lần nhóm là làm việc gì, cho nên khai riêng. Quyết nghi quy tín cho nên nói là tâm tịnh. Thứ tư hỏi tướng có khác nhau, cho nên hỏi chọn. Trong phần đáp, câu đầu gồm đáp, chữ “nhược” trở xuống là bày riêng. Hai câu trên là rõ thông, do khuyến dụ không lo trái biệt. Chữ “chí” trở xuống là rõ cuộc hạn trị cử trái não, hoặc gây ra phá tăng, tăng không được cử tăng, văn luật rõ chế trị cử có thể. Xin và thọ sám đều là thuận tình, vì sao đồng cấm không được đến bốn, người học phải tìm. Trong phần dẫn chứng, luật Tứ Phần chứng xin trên, luật “Ngũ Phần” trở xuống là bày bộ khác. Hòa và can ngăn cũng chế, nên nói là “thông”, Mẫu Luận và Tứ Phần ở sau đều chứng trị cử. Trong văn bốn năm cùng có thể can ngăn, không lo trị tẫn, thì biết không được thêm chúng. Mười lăm thứ im lặng, trong kiền-độ Tạp, Xá-lợi-phất thấy là phi pháp mà Phật im lặng, do đó nói năm pháp không nên im lặng. Hoặc làm yết-ma đúng như pháp (sự tuy như pháp, duyên có khác khác, phải quở trách cho dừng) hoặc được bạn đồng ý (không lo chúng trị, ở đây đồng với Mẫu luận), hoặc thấy tiểu tội (chúng có phạm khinh, tăng thể không mất) vì làm biệt trụ (nghĩa là ở ngoài giới) ở trong giới tràng (trong giới, giới riêng hai chỗ đây là phi) như vậy năm pháp im lặng này là phi pháp (phi pháp có tội, lại không đồng ý có thể quở trách, không lời lại là vọng im lặng). Lại có năm pháp nên im lặng: Thấy người khác phi pháp im lặng (tức Xá-lợi-phất) Không có bạn (cũng đồng Mẫu Luận. Sao nói là rất đồng, chỉ có bạn hai câu) Phạm trọng (Chúng có phạm trọng, Tăng thể đã hoại vì quở trách không lợi ích) Đồng trụ (chẳng phải biệt giới) Ở đồng trụ địa (chẳng phải trong giới tràng, hai chỗ nầy như, không nên quở trách) Năm pháp như vậy nên im lặng (ở đây khác nhau vì khai, cho nên chẳng phải vọng im) Lại có năm việc nên hòa hợp: Hoặc như pháp hòa hợp (người nên đến đã đến, ba nghiệp đều nhóm) Hoặc thầm trụ đó (đáng quở mà không quở) 3- Hoặc dữ dục (người nên dữ dục đã dữ dục) Hoặc theo người đáng tin nghe (tự mình không trái cho nên người khác nói là như pháp, ta cũng đồng hòa) Trước ở trong chúng ngồi im lặng (trước là y cứ hòa khi tác pháp, ở đây rõ trước ở trong chúng bằng lòng có thể tác pháp) Văn sau chỉ rộng, kia cũng lược bày. Thứ năm là hỏi: Dục rõ phần chừng vì biết pháp thành xứ. Trong phần đáp, câu đầu chỉ phiền nhiều, phàm có ba cách giải: 1- Hết văn kết. 2- Đến chữ thuyết. 3- Đến chữ cánh. Nay ở sau phán định tức cách giải thứ ba. Trong phá xưa, đầu tiên là nêu nay khác xưa, cho nên sau dẫn văn chất vấn phi. Chữ “tất” trở xuống là ở bên còn giải xưa, cho nên nói rằng cả hai đều được, nhưng không quở là có thể, quở thì thành phi. Nếu từ chữ “cánh” thì không ngại với đây. Sau chỉ nghĩa Sao, tức trong thời tiết phát giới ở quyển trên, kia cũng lấy chữ Cánh, văn cũng chẳng rộng tìm, có thể thấy.  TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN THƯỢNG (PHẦN 2) THIÊN KIẾT GIỚI GIẢI THÍCH Kiết nghĩa là bạch hai hạn chứng, tức giới pháp năng giúp, nghĩa là chia cách kia đây, tức là chỗ bị thêm. Sớ chép: Giới là làm yết-ma, xướng chế hạn là thị, lại Minh Liễu Luận sớ giải thích bổn Âm Tứ-ma, ở đây dịch là “biệt trụ”, nghĩa là tác ở đây, không chung với các chỗ ở khác nhau, đều không dữ dục cho nên được gọi tên. Phương cũng gọi là Pháp, liên miên là lời, tức bốn môn sau cho người đời sau nương theo mà làm, đều gọi là phương pháp. Nhưng chữ giới trong tựa đề, hoặc trông lúc mới kiết dường như thông tự nhiên nay y cứ kiết thành tức là tác pháp. Tác pháp có ba: Tăng, y và thực (ăn), nay chính là nói tăng còn hai thứ kia như sau. Tăng lại có ba loại: đại, tiểu và giới tràng. Đại và tiểu mỗi thứ đều có ba, thì thành bảy loại, như vậy mà biết. Ý bày khoa đầu, đầu tiên là suy bổn nhân chế pháp. Người bỉnh pháp rõ chỗ làm lập giới, nhưng luật nhờ duyên khởi, tuy nhân bố-tát đến luận ý chế thật chung là việc chúng. Sớ chép: “Kiết giới gốc là chúng đồng, lý phải thông hòa, các pháp khác là ngọn chúng đồng và do ở sau mà khởi”. Ở đây biết trừ kiết giới ra tất cả yết-ma đều y pháp địa. Kế là khoa giải thích, hai câu trên là phát ý chế ở sau. Ban đầu bày yết-ma, Tăng dùng hòa làm nghĩa. Hòa chỉ ở tâm, chẳng có lời thì không hiển bày, cho nên cần tiếng dạy biểu lộ tình tăng. Người và pháp đồng như sữa và nước chẳng khác, cho nên nói là cương yếu. Thọ giới, nói giới, can ngăn, trị phạt Tăng cương đã nêu. Phật pháp sẽ tồn tại lâu dài, công cứu giúp cũng do Yết-ma, nếu y cứ gìn giữ thật thông ba thời. Nay nói rằng: “Tượng vận” là nói chung sau khi diệt độ. Ở đây là chỉ yết-ma, hai câu trên nêu Tam Bảo để bày đức, hai câu dưới y cứ thề để hiển bày công đức. “Lý nghi” trở xuống là kế rõ hòa đồng, do pháp đã cao siêu, người đều quyết vâng theo. Mười phương là lại y cứ Diêm- phù, hứa là khiến. Trong phần duyên phát khởi chia làm hai, hai câu đầu là nói về cảnh động. Diệm-phù, Diêm-phù, Chiêm-bộ đều là âm chuyển. Phương chí giải thích là chỗ ở của Luận Vương (do bốn vị Luân vương đều ở đây cho nên Kim luân thống lãnh cả bốn, Ngân Luân trừ phương Bắc, Đồn Luân trừ Tây và Bắc, Thiếc Luân trừ Đông, Tây, Bắc). Lại Ca-đề, gia phổ Đức Thích-ca chép rằng “Dịch là Châu”, có thể ở trong nước gọi là châu, nay ở trong biển lớn phía Nam núi Tu-di, cho nên càng lớn. Hoàn là rộng. Bộ Câu-xá chép: Ba bên đều rộng hai ngàn Du-thiện-na (một du-thiện-na là mười sáu dặm, ba mặt đều ba muôn hai ngàn dặm). Bên Nam rộng ba du-thiện-na rưỡi (là năm mươi sáu dặm bao quanh cộng thành chín muôn sáu ngàn năm mươi sáu dặm, chín mươi sáu ngàn năm mươi sáu dặm) tượng mặt người (Tăng Huy nói: “Ở đây hằng năm trời bốn chí mà thôi”, theo bản đồ trụ pháp thì ba bên đầu hai mươi tám dặm, đến phía Nam hẹp dần chung quanh có thể có trăm muôn dặm). Chữ “mỗi” trở xuống là bày duyên chế, có hai: Ở trên nói chúng pháp khó thành, dưới rõ tự làm có tổn. Chữ “yếu” bình thinh nên gọi là y cứ. Kiền-độ thuyết giới chép: “Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật cho các Tỳ-kheo đến thành La-duyệt nói giới, người ở các nơi nghe đến nhóm rất mệt, Tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy” từ nay trở đi cho ở chỗ nào kiết giới chỗ ấy. Trong lập giáo, hai câu đầu nói về khai cho. “Đốn cực” là gồm hai duyên trên, tác pháp chia ngăn bày pháp kết. Đồng giới tôn sùng rõ chế ước, đồng vâng theo yết-ma riêng chúng không thành, công thành tức tự nghiệp không phế bỏ, sự xong nghĩa là các pháp dễ thành, đây là hiển bày lợi ích. Câu dưới là tổng kết, lại dịch là giải thích ở trên. Cuộc kết là ngược thông tập ở trước, tác pháp ngược với tự nhiên ở trước, đồng giới là trái với mười phương ở trên. Công thành sự xong là trái với hai tổn ở trên. Nêu lệ bốn chương, hai chương trước rõ khi kết duyên pháp hai chương sau giải thích đúng sai của kết rồi. Trong nêu chọn, nhiếp y, nhiếp thực, sở dó nêu là vì thuộc về đồng giới. Chỉ bổn thiên ấy là đều theo loại kia, chú yết-ma chép: “y giới ấy là nhiếp y để thuộc về người, khiến không có lỗi lìa đêm. Thực giới là nhiếp thực để ngăn tăng khiến không tội ngủ và nếm. Tăng giới là nhiếp người do đồng chỗ, khiến không có tội riêng chúng. Ba phần tướng đây tôn chỉ rất rõ. Trong tự nhiên, ban đầu nói gồm chung tự nhiên tức một tập Diêm-phù ở trên, không tức lan-nhã, có tức xóm làng. Thủy tức thủy giới, lục tức đạo hành đều nhiếp hết bốn món xứ tướng, trước chưa chia nên chung làm một tập. Chữ “hậu” trở xuống là rõ sáu tướng tự nhiên, tức mới khai. Ba câu đầu bày duyên khai, tùy cảnh tức bốn chỗ ở trên, phần hạn tức giới lượng. Chữ “Nhân” trở xuống là giải thích tên, không nhờ tạo tác cho nên nói rằng nhậm vận. Nói giới khởi chỉ là tùy thân đến chỗ nào liền có giới hạn, chẳng phải gọi là có pháp sinh khởi. Chữ “y cứ” trở xuống là chỉ lượng để biết. Trong tác pháp chia làm hai: Ban đầu bày tự nhiên, hai câu trên nêu chung. Chữ “thiết” trở xuống là giải thích riêng, có hai: bốn câu đầu là nói lần thiếu có ngại. Văn giáo định ấy là phần chừng sáu tướng. Dụng không thể là giới hạn không tương xứng với xứ. Cho nên bỏ chẳng chế là không nương sáu tướng. Giáo không khai cho nên, v.v… trở xuống hai câu là nói yết-ma không cao siêu, pháp đã tôn đặt thường địa đâu thực hành, như trì mật chú hẳn kết đàn tràng, Yết-ma chú thuật loại kia rất đồng. Chữ “cố” trở xuống là kế nói về giới tác pháp, đầu tiên hiển bày khai kiết, đây là khai thứ hai, khai rồi lại khai cho nên nói rằng “khúc thuận”. Định khuôn mẫu cách thức là chế trong khai. Chữ “nhậm” trở xuống là nói về lợi ích. Câu trên trái với hoạn đầu ở trước, bốn câu dưới là ngược với hoạn kế ở trên. Hỏi: Đến đây có bao nhiêu lần khai? Đáp: Đầu tiên nói gồm chung tức bổn chế (trong Luật dạy kiết nhà thuyết giới, vẫn là gồm chung một giới tức đồng bổn chế). Kế chia sáu tướng tức lần khai thứ nhất. Lại khiến cuộc hạn kiết tức khai lần thứ hai. Lại trong tác pháp có hai lần khai, thường nhóm thì kiết giới tràng, có việc nạn cho kiết tiểu giới. Như pháp ăn có hai: hai món đồng pháp và đồng ăn có đại giới riêng, cũng là lần khai, nhưng đâu chẳng phải đại giới cho nên không bàn. Về trước, trải qua bốn lần khai, trong văn rõ ràng xưa nhiều giải sai, cho nên phải giải thích. Hỏi: Sáu tướng của giới tự nhiên có khai bỉnh yết-ma chăng? Đáp: Ở đây không nói rõ, dùng nghĩa định đó. Nếu y cứ tám năm rồi cho yết-ma thọ cụ túc, mười hai năm sau khiến đệ tử nói rộng, do đây ban đầu lập kiết giới, thì nghiệm biết chưa kiết đã làm yết-ma, nêu chỉ nhà thuyết giới cũng ở tự nhiên, Địa Bộ chỗ chấp tự nhiên địa có thể được thành thọ giới, cũng là do đây. Hỏi: Như vậy đâu thể nói là địa nhược không thắng? Đáp: Do ở tự nhiên không cao quý cho nên kiết, hoặc có thể y cứ khai rồi mà nói. Sớ chép: một khi khai rồi, về sau hễ có tác nghiệp thì phi giới, không thành cho nên chế, tôn trọng hòa ích ở đây. Trước khai sau chế, nếu không như vậy thì sáu tướng tự nhiên khai, nào dùng há có thể một bề làm đối niệm ư? Lại, luật Tăng-kỳ nói bảy hàng cây, chúng khác ở hai đầu, há chỉ là kiết giới? Hỏi: Thời nay có kiết nhà thuyết giới là sao? Đáp: Đây là mê giáo. Cách kiết nhà thuyết giới là do chưa khai kết riêng, thông một tự nhiên, tăng nhóm khó có tiêu chuẩn, cho nên khiến chỉ chỗ, cuộc hạn vừa làm nhà thuyết giới liền bỏ, huống chi cách của nhà thuyết giới chỉ là nêu chỉ, đến luận tăng nhóm lại nương giới tự nhiên, toàn trái kiết giới đâu được vọng làm. Lại có người lầm dẫn ban đầu chế yết-ma đại giới là nhà thuyết giới, lại càng lầm hơn. Nhưng đời mạt pháp ngày nay người biết pháp rất ít, trong trăm ngàn không được mười người, nếu khiến đều nhóm hết, việc sẽ không thành, nên muốn kiết riêng một chỗ để bàn hành pháp có thể y cứ của vi luân, cần thêm yết-ma đại giới, nếu y cứ cứ nói tự tứ bổn chế nhóm chung, Nhưng Luật nói bố-tát trên giới tràng có tăng, mắc tội, được thành, tuy trái ý chế mà lại thành pháp. Huống chi bọn người ngu không nhóm, việc đồng nạn duyên, phán tội so nghĩa, tình chẳng có lỗi lầm. Trong đại giới chép: “Hai món Pháp, thực đồng nhau” là y cứ chú yết-ma, nên nói rằng: “Nhân, pháp”. Kia chép: “Giới có ba loại: 1- Nhân pháp đồng (đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới). 2- Pháp thực đồng. 3- Pháp đồng, thực riêng (hai loại nầy như sau). Truyền lầm chép, lý do không riêng (xưa chép: “Tăng chỗ thường làm thâu món thứ nhất. Pháp và thực cả hai đồng là gồm hai loại phi sau. Sau hai pháp xuống là văn tự bày). Trong chỉ bày số dặm, đầu tiên dẫn luật Tứ Phần trong văn thuyết giới. Đồng nói giới ấy, nghĩa là pháp đồng giới. Không thọ dục, là ban đêm dục không thành. Gượng trăm dặm là ước định lộ trình một ngày, vì chưa thể chỉ rõ cho nên nói là gượng. Đây thì là, v.v….trở xuống là hội qui về gốc. Kế trong Mẫu Luận, kia gọi là “trụ pháp tương ưng”, cho nên nói rằng “một ngày qua lại”, y cứ đây vẫn hẹp hơn Tứ Phần (Xưa giải đồng luật một ngày đến một ngày về là sai). Chữ “duy” trở xuống là song kết, trên nói rằng trăm dặm chính là nghĩa tiêu chuẩn. Trong rõ do-tuần, ban đầu dẫn bốn bộ lượng đồng. Như luật Ngũ Phần nói “Lúc bấy giờ, có kết mà không biên giới, Phật chế xa nhất chừng ba do-tuần”. Hợp góc ấy là phương góc lượng đồng. Kế dẫn Trí Luận nêu do-tuần khác nhau, ban đầu nêu ba phẩm. Chữ “thử” trở xuống là giải thích lý do tường bằng thì kéo cho dài ra, hiểm trở thì xếp cho gấp lại. Sớ chép: “Do-tuần chính là tên số lượng trong tiếng Phạm”, chính là Du-thiện-na, Hán không có chính dịch, chính là trạm dừng chân của Luân vương lúc đi săn, vẫn như chữ đình xưa, đâu cuộc hạn phần lớn số dặm mà nói là bốn mươi dặm, tương truyền là định (ở đây khác với luận câu-xá). Luật Tứ Phần y pháp, v.v… trở xuống, luật ấy nói các người họ Thích hay đi săn xa trong một do-tuần, hoặc trong bảy mươi dặm, hoặc ba mươi dặm, Do-tuần đã nêu trên bảy mươi dặm, cho nên nói rằng tiêu chuẩn có đồng. Chữ “thử” trở xuống là chuẩn luận, quyết luật. Trong phần phán định, câu đầu gồm hội các bộ, câu kế riêng khảo xét bổn tông và như trên dẫn. Chữ “ưng” trở xuống là định số dặm. Chữ “dó” trở xuống là lấy do tuần, bổn bộ và tông khác đồng quy về một mối. Trong giới Ni, ban đầu rõ lượng đường thường. Một câu-lô ấy y cứ đạo hành ở trước Luận Tát-bà-đa, câu lô định là hai dặm, Ni Sao Chú chép: “nghĩa chuẩn năm dặm”, chữ “ngũ” lẽ ra là lầm, theo Tạp Bảo Tạng thì năm dặm, cho nên Sớ chép: “Do sợ xa nguy hiểm dễ bị lăng nhục”. Chữ “tất” trở xuống là thứ hai, nói về nạn khai lượng, đồng với Đại tăng. Kia do các nạn vua, nạn giặc, v.v… cho nên khai nới rộng kết tùy ý. Chữ “sớ” nhập thinh. Chúng khởi, tức là Tăng sự Yết-ma. Trong bốn ngôi vị tăng lược nêu đầu và sau, hai ngôi vị giữa phần lớn là đồng. Chữ “thiện” trở xuống là bày lượng, do hai mươi vị tăng chung làm tất cả các pháp, lại gồm chỗ làm, cho nên chứa đủ hai mươi mốt người, giản thì không khắp cho nên không chấp nhận. Ở đây y cứ một chúng mà nói, quyết gồm hai chúng, phải chứa đủ bốn mươi mốt người. Hỏi: Đại giới lập lượng đồng khác thế nào? Đáp: Đại giới thì chế rộng, hẹp thì không câu nệ. Giới tràng chế hẹp, rộng thì không có lý. Cho nên là đại giới càng rộng, không khỏi nhọc rong ruỗi, giới tràng càng hẹp hành pháp không càng đủ chỗ, cho nên trong Bảo Đàn Kinh con quạ nương bay rộng hơn hai trăm bộ. Sớ chép: “Trong luật trên đàn tìm nhau không thấy”, cho nên có thể biết. Ba tiểu giới, khoa đầu là trình bày bổn duyên. Viẹc nạn là tâm không đồng. Sợ bỏ là bày quyền ý. Chữ “tịnh” trở xuống là định lượng. Trong nêu bày có ba, ban đầu trong thọ giới ở trước nêu ra giải xưa kiết giới tràng, pháp cũng gọi là Tiểu giới, cho nên được y theo đó. Kia tính vấn nạn, an lập đều cần trong giới, riêng một món nầy phải lập tướng ngoài. Chữ “kim” trở xuống là thẳng bày chính nghĩa, chỉ ra bác bỏ như ở sau, văn nghĩa đều thấy ở khoa kế. Sau bày nói tự tứ ngồi thẳng vòng tròn, đây cũng theo xưa một phen chia đó, nghĩa quyết không khắp. Trong giải thích không ngoài, câu đầu bày trước. Chữ “do” trở xuống là chính giải thích, ban đầu bày nghĩa. Chữ “cố” trở xuống là dẫn văn, tức duyên yết-ma tiểu giới thuyết giới. Chữ “nhược” trở xuống là lại y cứ chế giải để bày không lập. Sớ chép: “Không nên chẳng phải mà đi” rõ không tướng ngoài, khởi quyết mê phương. Chữ “bất” trở xuống là nói lên trước phải lập, nương ngôi vị giải ấy tức là ba pháp giới. Trong đại giới nêu, trước kiết giới tràng, đây nói nên ở trong pháp có giới tràng. Lúc ấy có người chấp kiến chấp xưa, cho nên dự điểm đó. Trong nêu duyên thành, một là khoa lựa chọn, nghĩa là xứng lượng. Thứ hai tức bày bổn ý, nếu y cứ xướng tướng nên cần ở sau, nay trông về nêu dọc cho nên kế phải nêu. Thứ ba là nhiếp năm duyên năng bỉnh, nghĩa gồm nương giới, ở đây thì ba khoa bao gồm tám duyên. Hai phần hỏi đáp thấy trong chính thêm. Ban đầu hỏi thôn, tức chỉ nhà thế tục. Ở Tây trúc, tăng phường phần nhiều có nhà thế tục ở, xứ nầy (Trung Hoa) hoặc cho ở tạm, hoặc lại giới rộng, e nghi ngờ nên hỏi. Trong phần đáp, ban đầu dẫn luật Ngũ Phần, đã thỉnh bố-tát phải kiết giới trước, văn đây chính là toàn nhà ở của thế tục, loại hiển tăng giới có thôn không ngại. Kế dẫn Bà luận để nói về văn, kết chung xóm làng tức thôn, tên chung đại tiểu, nay lấy chỗ ở của nam nữ, sau đến một nhà liền gọi là xóm làng. Sau dẫn luật Tứ Phần liền nhiếp văn y. Sớ chép: “Tứ Phần văn rõ trừ thôn, ngoài thôn, biết rõ nhiếp tăng không lựa thôn (có dẫn văn pháp và thực hành hai món đồng là sai, kia rõ giới tướng). Thôn thủ ấy Thăng Bổn viết là thủ thôn, hoặc cho là viết lầm, nên viết là “Tụ”. Kế, là trong phần hỏi, luật tuy rõ theo lý, chẳng phải hoàn toàn rảnh, cho nên giải quyết. Trong phần đáp, dẫn luật là kia vì Tỳ-kheo bị kiết giới cách con sông ngày rằm muốn đến thuyết giới mà chẳng thể qua sông được, cho nên Phật chế. Trừ có thuyền, cầu là ở đây khai rõ. Cầu, việc một vật mà có lớn nhỏ, nếu ngựa xe qua được, đây nói về chế, Sử là qua mau. Chữ “tất” trở xuống là y cứ lý quyết thông, lời lược chữ ghe. Tuy là chạy mau nhưng khiến có thể qua được, không ngại việc đến nhóm, cho nên xếp vào lý được. Sau dẫn luật Ni chuyển chứng, không cầu được kiết không nghi, tức giới một mình qua sông ở trong tăng tàn. Luật ấy chép: “Chỉ khiến vén y qua nước, cho đến trong giới cũng phạm”, cho nên nói là thông. Thứ ba là hỏi “e hai giới sát nhau”, lại vì muốn trình bày nêu lượng. Trong phần đáp, ban đầu theo xưa định lượng, kế là y luận bày thông. Đầu tiên rõ đại giới, núi tức một nêu, đông tây dùng chung tức là hai tướng. Lại sau nói về tiểu giới, hai giây như hai, như hai tướng gần chùa. Hễ muốn kiết giới mà gần tăng làm nạn, cho nên khai pháp nầy. Trước ở bổn xứ tùy chỗ đặt tướng, dùng giây bao quanh, dẫn giây ra xa, chỉ khiến tăng ở ngoài tự nhiên (không hẳn là lan-nhã, chẳng đồng ba tiểu giới) đến kia trước đặt tướng, rồi lại dùng giây vòng, tăng nhóm ở trong, theo giây xướng tướng, hai chỗ giây bao quanh nên nói là hai giây. Ở giữa một giây, hai bên phải trái tức là hai tướng, y cứ ở sau chính quyết. Tường lớn, dựa núi, có thể chia y cứ theo giây. Trước nói rằng “một khuỷu” tuy không rõ phá, nhưng y cứ theo văn Luận rất bày cuộc hạn kia. Sớ chép: “Cách nhau một khuỷu tay” không có chính văn. Y cứ đồng hai giây được chia, liền bỏ ở đây. Thứ tư trong lời hỏi “vật có nhiều khác nhau”, cần định rõ trong ngoài. Trong phần đáp, ban đầu rõ vật tròn thông trong ngoài. Trước rõ trong, như bên cửa thẳng qua các trụ không nhọc theo bên ngoài. Xưa chép: “Cây sống xuyên chính giữa cho lớn lên”, cho nên thấy xuyên trụ là ngược bèn chê cười. Vả lại trong lời hỏi, hỏi chung đá cây, cây có thể nói rằng “sống”, đá đâu có lớn, quyết có đá tròn xỏ giữa được chăng? Trong văn chỉ nói rằng “Khiến giới tướng ngay thẳng”, xin xét kỹ chớ làm thô lỗ. Chữ “hoặc” trở xuống là nói bên ngoài, chữ “nhược” trở xuống là kế nói nhọn hay tà lấy ngoài. Phương ấy dễ hiểu, trong văn không nói lại. Một phần, hoặc góc hoặc trụ, cần chia trong, ngoài, đông, tây, và chỉ phần chừng. Chữ “dư” trở xuống là chỉ nêu, chữ “ưng” trở xuống là răn nhắc, xét đều chẳng phải chỉ xướng, lý cần nên thông giới biệt. Chữ “bất” trở xuống là ngăn lạm. Ngày nay hành sự ẩn chép giới tướng, khiến người khác nay tụng hiểu không xét hạnh. Tăng đồng trụ đâu biết chỗ kia, luống nhọc, loạn nhau, pháp định không thành. Sau nói rằng kiết giới đúng như pháp là thiếu, lời nầy không dối. Thứ năm, trong lời hỏi nêu, v.v… ba tướng gồm chung kiết giới, một việc mê, các duyên luống lập, cho nên phải bày rõ. Trong lời đáp, trước bày ba món, nêu lên tức vật. Tức khoa kế dẫn luật Tứ Phần, Thiện Kiến, v.v… Tướng tức là nêu. Bờ là hai tướng trong ngoài đều nương bờ kia. Nêu thể nó ấy, là nó vuông tròn, cong, thẳng. Chữ “tức” sắp xuống là hình giới. Sớ chép: “Tiêu tức chỗ nương của xướng, tướng là chỗ bày của yết-ma, thể tức là chỗ nương để tác pháp” văn đây càng rõ. Chữ “hoặc” trở xuống là trình bày ly hợp, hai câu đầu chọn nêu thể, tiêu tức thể là y cứ xướng ngoài, tiêu khác thể là y cứ xướng trong. Kế một câu là chọn thể tướng, một bề không khác. Chữ “lâm” trở xuống là răn nhắc sớm giải thích. Thứ sáu, là hỏi luật không nói đoán, đời có lạm làm cho nên ở đây giải thích. Trong lời đáp, ban đầu lấy nghĩa quyết, văn xuất xứ từ trong thuyết giới, đã chế gần nhau nghiệm không khai trọng. Kia nói rằng: “Lúc ấy, các Tỳ-kheo làm hai giới liền nhau, Phật nối nhau, Phật nói: “không nên như vậy, phải làm cờ nêu”. Hai giới kia cùng tướng lầm hợp, Phật nói “không nên như vậy, phải để khoảng trung gian”, nay Sao hợp đó. Chữ “nhược” trở xuống là dẫn ví dụ giải quyết, tức trong dược pháp khai văn tịnh địa. Luật ấy chép: “Các Tỳ-kheo không biết chỗ nào là tịnh địa, bạch Phật, Phật dạy: “Nếu nghi trước có kết tịnh địa thì nên giải, sau đó mới kiết”, như thiên sau dẫn đủ. Chữ “cố” trở xuống là kết chung hai văn. Người xưa có làm hành sự, có răn nhắc rằng “Hễ muốn kiết giới, sợ đời xưa có kiết, thì phải trước giải”. Đời sau truyền nhau, gọi là giải ngăn nghi. Bất luận hư không, có nước đất, có kiết hay không, đều trước nên giải. Thói xấu lừa đời hơn ba trăm năm, dẫu có bậc anh hùng thông minh giáng sinh cũng không hề có một phen ngộ, huống chi chấp mê luận xưa. Ở nay còn vậy, có văn y cứ đây cho nên phải lược giải thích, thẳng dẫn rõ y cứ, còn bao nhiêu rộng như bộ khác. Nay nói nghi lược có hai món: 1- Nghi trước kiết như phi. 2- Nghi giới hạn của tướng nêu. Trong ban đầu, như thiên thọ giới nói rằng: “Chỗ nương của yết-ma quyết là nương pháp giới, nếu tác pháp không thành, pháp sau không thành tựu, cho nên phải nói rõ giới tướng, khéo hiểu suốt đúng sai. Hỏi thăm trước ai kiết, xét biết không lạm mới có thể nương theo, không như vậy thì giải rồi kiết lại. Giới Đàn Kinh chép: “Đến như kiết giới giữ gìn phải có tướng đúng sai, hoặc nghi hoặc lầm xả rồi lại thêm, đâu chẳng rất kính trọng dè dặt”. Lại sau nói rằng: “Trước kiết đại giới sau kiết giới tràng”, không thành pháp sau cho nên phải giải thích. Lại Ngũ Bách Vấn chép: “ở trong thọ giới sợ không chỗ giữ gìn”. Lại trong thọ giới dẫn Tăng-già-bạt-ma sợ giới không đúng như pháp, ngồi thuyền ra giữa sông. Thứ hai là nghi tướng nêu: Sau nói rằng “kiết rỗi thì phải treo bảng khiến sau chủ khách đều biết, không có lạm, nghi. Lại nói rằng: “Tỳ-kheo làm yết-ma chết, người khác không biết chỗ giới, Phật dạy: “xả rồi kiết lại”. “Lại sau dẫn trị cho nên già-lam không mất tịnh địa, nếu nghi thì nên xả rồi kiết lại. Cho nên biết giới ở, v.v… xin khảo xét các văn đủ làm rõ y cứ, đâu phải là trước không kiết, chỗ gượng tự sinh nghi. Vả lại, yết-ma chỗ thêm duyên như thì pháp thành tựu, sự cần khảo xét thật, đâu được làm bừa, lỗi lạm thật nhiều chưa thể bày hết, quyết vâng thánh giáo, đâu dùng tranh cãi càn rỡ. Kế rõ nêu dọc, trong bổn tông có hai: Ban đầu nêu tướng, lại nêu tám món, nay cần rõ dẫn dắt, muốn biết chỗ xứ. Ban đầu chế đại giới, pháp chép: “Phải xướng tướng phương, nếu không xứ (như văn tức lan nhã) hoặc dưới cây, hoặc núi, hoặc hang, hoặc gộp hang, hoặc đất trống (như văn không có chỗ che) hoặc cỏ rậm (như văn nói rậm rạp) hoặc bờ vườn, hoặc giữa gò mả, hoặc khe nước, hoặc gộp đá, hoặc gốc cây, hoặc bên gai góc, hoặc vũng nước (như văn) hoặc mương lạch, hoặc ao, hoặc đống phân (như văn) hoặc thôn, hoặc giới thôn (cộng có mười chín, văn dẫn năm tướng). Trong pháp chế lại, núi tạm như văn (Luật chép: “Như phương Đông, các phương khác cũng vậy) hoặc thôn, hoặc thành, hoặc bờ ranh (nghĩa là hạn chừng bờ ranh giới) hoặc vườn, hoặc rừng, hoặc ao, hoặc cây, hoặc tường, hoặc miếu thần (gồm mười hai món, văn dẫn hai món trước). Trong giới tràng chép: “Hoặc đặt cọc (như văn) hoặc đá, hoặc bờ ranh (ba tướng dẫn một) ba chỗ đã nêu ra hoặc có đồng khác, đối chiếu sẽ thấy. Từ chữ “Chuẩn” trở xuống là thứ hai bình lượng. Ban đầu hai câu chỉ khắp. Chữ “hà” trở xuống là nêu y. Trong văn lược nêu chỗ trống, hoặc theo Sớ chép: “Như chỗ trống, chỗ vắng, cỏ rậm, đinh cọc, đều chẳng phải lâu bền, không nên nương theo (vũng nước, đống phân, gai góc cũng vậy). Chữ “tất” trở xuống là đến việc dùng nhà, ban đầu nêu chung, chữ “hoặc” trở xuống là bày riêng, ban đầu rõ tạm dùng. Không nghĩa là chỉ cho hư không làm tướng. Ngại nghĩa là dùng vật làm tướng, do vật cách nhau, chỗ trống có thể phân biệt, cho nên nói rằng “hai phần”. Chữ “tất” trở xuống là rõ lâu bền, y theo bộ khác là sinh sau Thiện Kiến, tám loại bộ khác đều có phần lượng, ở văn dễ hiểu. Nạn ấy, là lược giải thích. Man, đá hai thứ, y cứ theo luận, chữ man là từ nước, nghĩa là không có trụ góc. Tám tấc trong bốn ấy là y cứ lượng quá nhỏ, sợ có tổn gẫy, chỉ có thể tạm dùng, quyết làm bền lâu thì phải chọn lớn. (tờ 2 0 5) Thứ ba, bốn, năm, thôn là chỗ có người qua lại, hẳn không ho- ang phế. Luận nói rằng: “Cùng đường là không được” (tột cuối con đường). Thứ sáu, bốn tháng là trong ba thời nêu một, lâu không khô cạn, tướng không mất, cho nên Luận lại chép: “Nước sâu hai thước được làm”. Trong phần thứ bảy, nhóm đất thành gò gọi đó là núi đất. Thứ tám, nước tự nhiên là chẳng phải tạo tác. Luận chép: “Nếu dẫn nước vào ruộng, hoặc đầy không được. Chữ “chuẩn” trở xuống là hội thông, chữ trưng là chứng. Thành hào, v.v… như trên đã nêu. Núi, đá, khe, mương, rừng cây, tường vách là vật bền lâu, Luật chỉ nêu chung không nói phần chừng, phải luận chứng đó. Nhưng trong luận, đường sông, ao nước cũng khó y cứ, cây nhọn, gò đất đâu là vật lâu bền. Nếu nay hành sự chưa thể nương hoàn toàn. Trong treo bảng, nếu y cứ văn nầy nên ở sau kiết, muốn rõ tiêu tướng là chỗ nương của giới, truyền cáo đến sau, phải giữ cho lâu bền, cho nên đối với tướng sau chuẩn bị mà nêu. Không nghi lạm, là quyết không bảng tướng dễ sinh nghi lạm. Chỗ kiết sinh nghi, văn y cứ càng rõ, giới hình văn lược chỉ rộng như bộ khác. Nay phải dẫn luận bày danh tướng kia. Luật Thiện Kiến nói có năm món: 1- vuông. 2- tròn. 3- Hình trống. Hình bán nguyệt. 5- Hình tam giác. Luận Minh Liễu có mười bảy; đều gọi là biệt trụ (tức giới, tên giới): 1- Dài tròn (địa thế hẹp dài, hai đầu đều tròn). 2- Bốn góc (hình vuông). 3- Sóng nước (tướng nêu cong gãy như sóng nước). 4- Một núi. 5- Một vách núi (tùy hình thế núi hay vách lấy đó làm tên bờ ranh giới). 6- Hình bán nguyệt (nửa mặt trăng). 7- Tự tính (tức chỗ lan-nhã, (tùy phần chừng của đất). 8- Vây tròn (giữa riêng kiết nhiều giới, ngoài có đại giới vây quanh như núi Thiết vi vây quanh bốn thiên hạ). 9- Một cửa (sợ nhiều giới đồng một cửa). 1 0- Phương độ (tùy cảnh giới của nước, ấp). 1 1- Tứ sương (bốn bên đều có nhà, ở giữa đất trống). 1 2- Hai sợi dây (như trước). 1 3- Tỳ-kheo-ni. 1 4- Ưu-bà-tắc. 15- Tường vách. 1 6- Tròn (đất ấy tròn đầy). 1 7- Điên cuồng. Trong đây: năm thứ một, hai, ba, sáu, mười sáu, là y cứ địa hình. Chín thứ bốn, năm, bảy, tám, chín, mười, mười một, mười hai, mười lăm, là y cứ chỗ kia. Ba thứ mười ba, mười bốn, mười bảy, là y cứ người riêng ở bất luận hình tướng. Hỏi: Hình và tướng của giới đồng khác thế nào? Đáp: Nếu đối văn trước ba món nêu, thể, tướng, môn đây khoa trên liền là nêu kia. Kế rõ hình giới tức đồng tướng trước, tìm đó có thể biết, xướng tường lìa lỗi. Trong bày lý do, ban đầu nêu không có hai chỗ, thời chỗ làm nhiều. Chữ “tiên” trở xuống là răn nhắc cần biết trước không cho làm ẩu, giả mạo. Trong xướng ngoài, ban đầu nêu nguồn lỗi. Chữ “như” trở xuống nêu ra tướng lạm, chia làm ba: Đầu tiên là bày pháp xướng kia. Chữ “hướng nam” trở xuống là thứ hai, tìm lỗi lạm. Đây y cứ của chùa ngay giữa tường vách, cho nên có lỗi hai xướng trong ngoài, như sau trong bản đồ đã nêu, quyết như cửa chùa bằng tường trong ngoài cũng không lỗi nầy, tùy chỗ rõ đó, không hẳn đều như vậy. “Cố tri” trở xuống là ba giáo đúng như pháp, tùy cong xướng kiết, sau khi hành pháp không có lỗi riêng chúng, thì không hối hận. “Diệc” trở xuống là ngăn lạm, nhưng khi hành sự nếu tường rào do cong rất xa, cần lập tướng nêu từ chỗ A đến chỗ B, nếu phần chừng rõ ràng ít có quanh co, e thành phiền lụy. Lược chép: “Tùy chỗ cong gãy cũng không có lỗi, nhưng khiến người xướng và Tăng đồng pháp hay biết chỗ kia”. Gần đây có người chấp thước tấc, đưa vào trong tướng quá thành vụn vặt, không cần phải như vậy. Trong xướng trong, ban đầu nêu ra xướng kia. Chữ “tiện” trở xuống là tìm lỗi. Ban đầu gồm nêu, chữ “như” trở xuống là giải thích riêng làm ba: một, là giải thích riêng chúng, do dữ dục ra ngoài giới mất pháp thành riêng chúng. Chữ “nhược” trở xuống thứ hai giải thích phá hạ. Nương giới ấy, đối không giới nương già-lam thì không có lỗi nầy. Chữ “ngôn” trở xuống là thứ ba giải thích lìa y. Dùng giới tự nhiên hộ y cũng không có lỗi nầy, cho nên y cứ tác pháp y giới mà rõ. Chữ “cố” trở xuống là kết bày. Trong lan-nhã, thời nay lập tướng nêu vật xa nhau, giữa không nương tựa, xa chỉ, thầm xướng, rất phù hợp với trách móc. Tự gánh nghĩa là gánh tội, tức phi pháp, tội đột-cát-la, trái giáo tuy tội khinh mà kết nghiệp càng nặng, tức như sau nói rằng: “Tự lui sụt và khiến người lui sụt”. Trong dẫn giáo bác bỏ, Liễu Luận chép: sóng nước một trượng năm thước, nghĩa là tiêu đá cách nhau, chẳng gọi là cao, thấp, dài, ngắn. Chữ “tịnh” trở xuống là chính bác bỏ. Đầu tiên nêu chung hại tổn. Chữ “thoát” trở xuống là nêu riêng thọ giới, giải thích thành. Trong tổn rất nhiều cho nên hai câu trên là giải thích làm người khác lui sụt. “Tự” trở xuống hai câu là tự mình lui sụt. “Cố” trở xuống là dẫn chứng khiến tin, tội khuyên giữ tâm. Trong người xướng, luật dạy là người cựu trụ, một bề lại y cứ người rành rẽ chọn phương hướng, y theo Nghiệp Sớ chép: “Luật chế người có khả năng xướng tướng đâu cuộc hạn chủ khách” đây là luận chung, vốn có thể nương theo. Chữ “vị” trở xuống là bày người xướng, phương tiện xướng (cách xướng), cốt yếu ở chính thân thấy, không chỉ là văn tụng. Trong định đầu tiên, trước bày pháp. Đông nam là trước tiên. Vả lại y cứ môn phương nầy phần nhiều là hướng Nam, còn các hướng khác tùy chỗ sửa đổi, không nên nhất định. Nếu y cứ luận chung thì bất luận phương góc, nhưng theo cửa chùa phía góc trái phát đầu có thể làm tiêu chuẩn nhất định. Tương đương là đầu đuôi lại hợp. “Luật” trở xuống là ngăn lạm, sợ chấp văn luật mà ngại hành sự, cho nên dùng khởi phương thì bốn góc không phân, khởi góc thì phương góc đều bày. Lại phương mặt thông nạn khởi vì không chỗ theo. Trong xướng chỗ trống, cần phải khởi lập ấy là khiến chúng thấy nghe. Không xưng tên ấy, do yết-ma nên xướng e lạm làm riêng, cho nên y cứ theo Nghiệp Sớ chép: “Cũng có nêu tên, nghĩa cũng thông được, đâu chẳng thành tăng”, cho nên biết không cuộc hạn. Trong tướng bốn cây, nêu pháp, bày tướng, tùy vật, tùy sửa đổi, không cần có cây. Phi mậu, dụ như lầm lẫn. Trong pháp thành ấp, duyên trước nghĩa là lễ tăng, v.v… văn tướng y cứ trong bản đồ sau. Tướng lớn là pháp rất dễ thấy. Thời nay chép tướng lại theo lựa chọn cốt yếu tùy hướng cửa, hướng trước là đi ra, đến sau là vào, trái bỏ gọt là trên, phải bỏ gọi là dưới. Lại chỗ khởi góc thì nói rằng theo đây, còn chỗ khác thì không chấp. Tuy chẳng phải ý của Sao, đối sự dễ hiểu, nghĩa cần y cứ theo mà dùng. Ba lần nói: Luật không có quy chế nhất định, Sớ chuẩn thọ sám lời xin phải ba lần, do đều là duyên trước yết-ma đã nêu. Khoa kế, là năm môn ba môn ấy, nay cũng theo dễ, đến ở mà đông xuyên hạn đầu, vào trong hạn xướng suốt đến chỗ nầy, lại xuyên hạn ra ở sự, xét phiền ở nghĩa không lỗi. Chướng ngại xuyên tường cần xướng tên chùa có chỗ lựa riêng, hoặc tường chùa chẳng phải một lại thêm phương gốc, tên riêng nêu khác. Trong phần nhóm tăng, khoa đầu trước nêu ra chính giải. Lại thứ hai, ban đầu rõ nêu hẹp giới rộng. Chữ “nhược” trở xuống, thứ hai là nói theo nghĩa giới hẹp. Chữ “Tăng” trở xuống là theo dẫn chứng, theo nêu không nghi ngờ. Tránh nạn, thứ tám kia chép: “Các Tỳ-kheo một trụ xứ, ngày tiền an cư, hậu an cư đã qua có nạn sự khởi, hoặc giặc, hoặc nạn vua, hoặc đoạt mạng, hoặc phá giới, hoặc nước nhiều côn trùng lọc không được sạch, muốn đến tinh xá khác lánh các nạn này cho nên thỉnh kiết. Chữ “hữu” sắp xuống là bác bỏ phi, đầu tiên nêu ra chấp kia. Chữ “Tăng” trở xuống là kia do rõ văn là ngại cho nên giải thích rộng. Vì nạn duyên ấy, rõ chẳng phải thường có. Sợ chướng ngại là chỗ nhiếp đã rộng, tình lại không đồng (xưa ghi dối rằng: “Cổ Sư cho là luật Tăng- kỳ nói nạn duyên là Tỳ-kheo” tội ác là sai). Chữ “chuẩn” trở xuống là chính bác bỏ, nhưng bày không y cứ. Nói y cứ theo lý, Sớ chép: “Tuy ở ngoài tự nhiên chẳng phải riêng chỗ thâu, nhưng trong văn tác pháp nêu chung bên trong, nghó thành hai đồng. Lúc xướng lúc kiết riêng chúng ở trong, Luật không chỗ khai, đâu được chẳng riêng. Khoa kế, trong thôn giới, trong thôn không nhóm, là nói theo kiết rồi, đầu tiên kiết cần nhóm Ni giới, hai chúng tăng ni đều không đủ nhau, xen kiết không ngại. Trong tăng giới khiến không ra ngoài giới là tự nhiên không thuộc về pháp địa của người, cho nên xướng trong là giữa lưu lại tự nhiên. Chữ “như” trở xuống là nêu dự như ở trước đã giải thích. Trong phần không thọ dục có ba nghĩa, đầu tiên y cứ kiết pháp đối yết-ma trước nói về chế hưỡn, gấp, có khai, không khai, Nghiệp Sớ tiếp tục rằng “Các pháp khác là cuối của chúng đồng và nương sau khởi”. Hai giới yếu, là dục pháp vốn khai thành đồng giới chúng pháp yết-ma, địa đã không cao siêu, thì dục sẽ dùng vào đâu, nghĩa đây chỉ trừ kiết giới, còn các pháp khác tự rõ. Sớ chép: “Tự nhiên vốn yếu, Tăng sự không làm (đây rõ chế chung các pháp khác, không giải thích chữ khai kiết giới). Không khai: một, là kiết dùng thông tăng giới vì các việc không lập, ở đây bạch nhị chính là khai trứơc ( trên rõ kiết giới chùa có pháp dục để hiển bày không khai. Dưới nói dục vốn ứng tăng cần ở pháp địa không thông tự nhiên). Dục là vị duyên, phải nương tăng khởi, giới là tác pháp mạnh cho nên nhiếp đó (xưa ghi lầm giải không thắng dục yết- ma cho nên nêu bày). Hai, là khiến biết giới, nghĩa nầy hơn hết, văn y cứ lại hiển bày. Người khác không biết, nếu y cứ đồng pháp lý nên đều biết, hoặc cho sau quên, hoặc là sau đến, Tỳ-kheo chưa lập bảng yết thị đến đổi cả duyên đây (chỗ kiết khởi nghi văn đây càng rõ). Trong gia pháp, khoa đầu chỉ đáp kiết đại giới ấy là pháp kiết có một không chọn lựa, cho nên không cần lại thêm lời bạch nhị. Trong bạch yết-ma, trong Luật vốn không có chữ “ tác”. Tùy Cơ yết-ma và bổn cũ chép sao đều không có nhất định là do người sau vọng thêm vào, dầu không hại lớn, nhưng duyên thành thêm lạm. Trong giới có tràng, nói giới tràng là thọ theo các pháp phần nhiều làm ở trong đó. Sớ chép: “Giống các sân bãi ở đời, đâu chẳng là nhóm kiết phẩm, thâu xả thắng lợi. Trong rõ bản đồ, nêu là giới đàn, nghĩa là ở trong giới tràng riêng lại càng theo phong tục cõi nước, nếu y cứ vào khai ban đầu chưa hẳn là có giới đàn, cho nên trong luật y cứ chung theo gốc chỉ nói là “Tràng”. Ba nêu trong ngoài tìm bản đồ có thể thấy. Trong bày ý, ban đầu nêu ý. Chữ “kim” trở xuống là bác bỏ thế gian, hai câu trên bác bỏ chung sự ngu tối, mờ mịt dụ cho không rõ. Chữ “hội” trở xuống là nêu ra tướng không rõ. Chữ “định” trở xuống là quyết phá. Chữ “tất” trở xuống là răn nhắc dè dặt, xét Phu Sở dạy rất rõ, người nào không học đến khi gặp việc lại chìm trong cái mê này, há chẳng phải thói luống dối chứa sâu, dẫu thầy giỏi thuốc hay cũng đâu trị được. Nay lược dẫn bày mong nên sửa đổi, nghĩa là người chủ pháp, một tháng trước tự nêu giới tướng, dạy người khác thầm xướng tụng mà chưa hề mắt thấy, kẻ đồng ở đều không hiểu biết mà bàn đối chứng chấp văn gọi là chứng tướng, khi lên bỉnh bạch số chữ không sai lầm, so tai theo tiếng đâu biết phương đến, huống chi phần chừng tự nhiên không hề thấy lượng, làm tướng nhóm tăng đâu nghó đáng biệt. Thưa bạch thì khéo léo, màu mè không khác đào kép, bỉnh kiết thì dẫn lộng âm thịnh giống như đào hát, chỉ nghó sáng sớm tàn đêm, chỗ ngồi cao thấp càng lo chủ mới thù lao nhiều ít, dối đời như thế, thị phi một sớm, lầm đại duyên kia tự chìm muôn kiếp. Kẻ hậu học có tâm hổ thẹn rất cần răn nhắc. Trong bản đồ, tướng đồ chính ý chia làm ba nêu, giúp xướng pháp dễ thấy. Thứ hai, lại bày trước xướng pháp không có giới tràng. Thứ ba, là nói về tướng xuyên tường. Thứ tư, là nói tự nhiên thể tròn. Thừ năm, là tướng trông của giới tác pháp tự nhiên xa gần. Thứ sáu, rõ theo cửa ra vào lìa lỗi. Thứ bảy, hai tướng lớn nhỏ, giăng dây đóng cọc là nói lên một nêu hai tướng. Thứ tám, lại nêu bày chung lớn nhỏ, không cần một khuỷu tay. Thứ chín, rõ cách ở giữa, tuy vật có thể chia. Thứ mười, rõ tường lớn xướng ngoài, không lầm hợp nhau. Lược bày mười ý, bao nhiêu còn lại tìm đó. Trong chú, ban đầu nói về tự nhiên, là do khi kiết giới tràng lại càng nêu ra Đông nam riêng lấy bộ lượng. Trong bản đồ không thể gồm nêu, nên đặc biệt là điểm đó. Trong xa gần, trước rõ tự nhiên. Chữ “nhược” trở xuống là bày tác pháp. Trong giới khác điểm bày đồng khác, chỉ có thể chia xóm làng một bề là khác. Bốn món khác rộng hẹp tuy khác, chung quanh thì đồng. Hỏi: Trước định tự nhiên riêng giảm nửa, chỉ y cứ không thể chia riêng xóm làng, còn năm thứ khác thì thế nào? Đáp: Sớ chép: “Một đây đã vậy, bao nhiêu giới tự nhiên khác lớn nhỏ bèn khác, lệ có thông cuộc, đều y cứ một nửa (giới khác đã chia, cùng luận là không, đều một nửa là cuộc hạn), nhưng có thể chia xóm làng chỉ là một cuộc hạn không chung, do tăng ở ngoài đã chẳng đồng nhóm tự có giới riêng, còn bao nhiêu đều đồng chỗ, đều một nửa có thể biết. Trong phần giải thích, tướng giới tự nhiên không cần quyết định phải tròn, là bày biết tướng riêng. Trong giới tràng có ba: 1/ Bày thể giới tràng. Chữ “ trung” trở xuống là thứ hoa rõ giữa cánh giới tự nhiên, hai câu đầu nêu chung, chữ “đông” trở xuống là trước bày Đông bác. Nói bên dưới ấy, dưới tức mé tường, biên nghĩa là mặt đất. Kế là rõ Tây nam, đầu tiên bày nêu dọc. Nói rằng thước tám ấy là không hẳn. “Có thể biết sau Tây nam” trở xuống là nói kiết rồi thì tác pháp, nếu luật nói tự tứ tức cần thông nhóm ở giới tràng kia. Sau là thứ ba, bày tướng ngoài giới tràng. Trong tướng đại giới, đầu tiên bày tướng trong, đặc biệt bày Tây nam hợp nhau khiến biết tướng lỗi. Chữ “hựu” trở xuống là sợ tránh xen hợp mà xuyên tướng xướng tâm, cho nên ở đây ngăn ngừa. Trong kết bày, hai câu đầu là kiết trước, một duyên ấy là chỉ chung đồ tướng. Chữ “tác” trở xuống là bày bất định. Chữ “nhược” trở xuống là nói phải lập. Trong pháp kiết, đầu tiên là nói trước sau, do xưa truyền nhau “sai kiết giới tràng”, người vẫn chấp xưa cho nên quyết phải phá. Trong dẫn y cứ, trước dẫn luật Ngũ phần, hai câu trên là bày chính giáo. Chữ “nhược” trở xuống là rõ kiết đảo ngược. Trước kiết đại giới ấy là bày quên lầm. Phải xả là giải hai giới. Lại kiết trước là giới tràng, chữ “canh” đọc khứ thinh, trông lại trước, cũng có thể là bình thinh là sửa đảo lộn ở trứơc. “Sau đó” trở xuống là đại giới. “Tỳ-ni” trở xuống là lược chỉ hai luận, đồng cho nên không dẫn. Quyển thứ nhất, Mẫu luận chép: “Kiết pháp giới, trước kiết tiểu giới, sau kiết đại giới”. Lại nói rằng: “Nếu quên kiết tịnh địa, giải rồi thứ lớp kiết, v.v…” (tông kia đại giới khai chung tịnh địa, cho nên kiết riêng tiểu giới để làm tịnh trù, mà thứ lớp kiết giải rất đồng với ở đây). Luật Thiện kiến tìm văn chưa được, sau trong giải giới trích dẫn trong “Năm trăm” văn cũng đồng ở đây. Trong bác bỏ phi, tức Quang Sư yết-ma, sau chấp duyên khởi lập thứ lớp kiết. Cho nên Sớ chép: “Văn luận tuy có trước sau do duyên khởi, cho nên không liền do đầy rõ cách thức kiết, lý như luật Ngũ Phần không thể nương người”. Lại, Đàn kinh chép: “Nếu trước kiết đại giới, sau kiết giới tràng, y cứ pháp nào chế để chia hai giới, tuy dự khai không gian (chỗ trống) cuối cùng là chỗ không pháp”. Trong Sao phá thẳng rằng “không đọc, v.v…”. Hỏi: Trong quyết, trước tuy hơi bác bỏ, nhưng chưa định thành chăng, vẫn còn sợ vọng chấp, phải càng bày rõ? Đáp:Văn chia làm hai: 1- rõ kiết trứơc được thành. Văn đã dạy xả tức hiển kiết thành. Sở dó vậy là xướng kiết không trái. Chữ “đãn” trở xuống là thứ hai rõ pháp sau không thành. Cho nên vậy là trái pháp chế. Chữ “ngũ” trở xuống là dẫn chứng. Lại thứ hai, ban đầu rõ cố trái không thành. Chữ “hựu” trở xuống là rõ không biết nên chấp nhận thành. Nói không biết, nghĩa là người thưa kiết chưa xem giáo, cho nên ở sau vừa biết liền không thành pháp, nhưng là ngu giáo phải thêm hai tội, hoặc có thể sau người hành thọ không biết vốn kiết mất thứ lớp, y cứ tâm chấp nhận thành. Chữ “lại” trở xuống là bày ý uốn cong khai cho may mắn ấy, Sớ chép: “chẳng chia gặp phước”. Trong chỉ bày phi, ban đầu nêu chung, chữ “hoặc” trở xuống là bày riêng. Kế nêu bốn món, ban đầu: trong giới không nhóm, nghĩa là trong phạm vi của giới tự nhiên có lỗi riêng chúng, tức nhiên là phi. Gồm xướng tức đến trong giới tràng xa kiết đại giới, gọi là sự phi. Thứ hai là: Nội giới tức đại giới, không nên xướng chung. Chữ “cập” trở xụống hai món đều là sự phi. Thứ ba, có thể biết. Trong thứ tư, không xướng nội tướng, tức hai giới lầm hợp. Chữ “thử” trở xuống hai món đều là tổng kết. Hai câu trên bày phi, chữ “cố” trở xuống nói là (đúng). Đương giới ấy, là đại giới, giới tràng riêng tự cuộc hạn. Trông kiết giới tràng, tướng và yết-ma điều nói rằng “Tiểu giới” lá đối ngoài, ở trong đại giới nên gọi là Tiểu. Chữ “dữ” trở xuống là tên ba tiểu giới đồng tướng riêng. Trong kiết rồi chỉ đem bốn năm người qua kiết đại giới ấy, một phen qua, vả lại bày hai chỗ giới riêng biệt không ngại nhau. Nếu y cứ không khai thuyết dục cốt yếu biết giới tướng, lý cần biết đến hết. Kế, trong xướng tướng kiết đại giới, xướng chung riêng ấy, biệt tức trong ngoài xướng riêng, xướng chung nghĩa là theo một lược hợp xướng. Nếu người hành biệt xướng, trước ba lần xướng tướng trong rồi kết rằng “Đây là tướng trong của đại giới ba vòng đã rồi”, lại kế ba lần xướng tướng ngoài rối kết rằng “Đây là tướng ngoài của đại giới ba vòng đã rồi”, rồi sau kiết chung rằng “Đây là tướng trong và ngoài của đại giới ba vòng đã rồi”, không cần đồng, sau nói rằng kia đây v.v… do là biết xướng không lạm nhau, cho nên văn tuy nêu ra pháp chung mà biệt xướng lại dễ, nay nên theo cách xướng riêng. Trong chính rõ, ban đầu gồm nêu. Chữ “tiền” trở xuống là biệt xướng, ban đầu xướng tướng trong. “Kế” trở xuống là thứ hai xướng tướng ngoài, đều có nêu xướng, kiết ba đoạn, lời tiêu kiết thông cần phải nêu xướng. Chữ “bỉ” trở xuống là song nêu tổng kết. Chữ “như” trở xuống là xướng rồi thông cáo. Trong yết-ma, nêu duyên thêm giảm, rõ là thêm hai chữ trong và ngoài, mà nói đủ một chữ ấy là chưa rõ lý do. Có người nói rằng: “chữ ngoài nghĩa không vốn có thì chẳng phải thêm”. “Nếu cứ” trở xuống là chỉ bày không cần thêm, do thể đối với tướng đều là không ngoài. Trong ba tiểu giới, nhóm tăng chia làm ba: 1- Nêu duyên bày khác, chữ “Như” trở xuống là thứ hai, chính bày xa gần. Bảy bàn đà ấy, như trong nhóm tăng, lan-nhã có nạn, chỉ kiết ba tiểu giới xin không nên nghi. Chữ “cố” trở xuống là hiểu đồng luật luận để rõ có thể chấp. Luận nói khác với ý ấy là ở ngoài bảy bàn-đà được làm Pháp sư. Luật chép: “Người không đồng ý chưa ra khởi giới (nghĩa là ở bổn giới) cho ở ngoài giới mau mau nhóm một chỗ kiết tiểu giới thọ giới”, danh tướng phù hợp nhau cho nên nói rằng không khác. Chữ “tịnh” trở xuống là thứ ba, bày chỗ kiết. Trên rõ khai nhân, chữ “do” trở xuống là giải thích lý do. Huỳnh là xa, xa nên khó đến, trống cho nên dễ thấy, xóm làng trái với đây, không khai có thể hiểu. Trong không tướng dọc, chính nghĩa chia làm hai: Trước bày hai giới cần tướng. Chữ “thử” trở xuống chính rõ ba tiểu giới không lập. Ban đầu y cứ duyên rõ không. Có nạn nghĩa là không đồng ý. Ngăn làm tức đến vỡ, dừng. Chữ “tùy” trở xuống hai câu là ấn định thể lượng. Khoa kế, trong nghĩa xưa, đó là thọ giới ra khỏi chúng hỏi nạn, vào chúng chính thọ, quyết ở trong giới cho nên phải lập tướng, còn hai thứ khác không phải như vậy, cho nên chỉ tùy thân. Sớ dẫn xưa nói rằng: “Và làm tướng thọ giới như chuôi bàn ủi”. Trong thị (đúng) hỏi nạn là đúng. Nay trong phá, ban đầu chia làm hai, ban đầu văn bày ngại, rõ không thể lập. Chữ “thử” trở xuống là bày đồng, rõ ràng chẳng phải khác. Khoa kế văn dẫn, tức văn nêu duyên trong ba món pháp kiết. Ban đầu tức văn trong thọ giới. Một chỗ ấy, Sớ chép: “Biết không ngoài giới”. Giữa nói rằng: “Tức văn nói giới”. Ông bằng lòng nhóm ấy, Sớ nói rằng: “Biết số người ngoài không giới”. Sau tức văn tự tứ. Đều ngồi chỗ ấy, Sớ chép: “Biết ngồi ngoài chỗ chẳng phải giới”. Chữ “văn” trở xuống là bày chung. Chỉ cho ở đây, nghĩa là ba văn trên đều y cứ chỗ ngồi. Trong phần ngăn lạm, dùng văn Tăng-kỳ là chỗ y cứ kia, cho nên phải giải thích. Văn nêu ra thứ tám, kia rõ, Tỳ-kheo phạm dư cầu sám hối, do đại giới khó nhóm, hoặc sợ nhẹ tăng, cho nên ra ngoài giới làm. Đến ngoài giới ấy tức chỉ giới tràng do cách giới tự nhiên, nên nói là “ngoài”. Không giới tràng mới ra ngoài giới kiết riêng. Văn nói rằng, tức là pháp kiết kia. Kia nói rằng: “Đại đức tăng xin lắng nghe! Nếu tăng phải thời mà đến, Tăng bằng lòng cho Tăng ở chỗ nầy…” tức xét đồng với Tăng, v.v… ba câu. Chữ “thử” trở xuống là quyết phá, câu trên là buông, hai câu dưới là đoạt. Câu trên chỉ loại giới tràng do tên chung. Câu dưới nói chẳng phải ba tiểu giới, vì chắng phải nạn. Chữ “Tứ Phần” trở xuống là chất kia mê tên. Trong hành sự, đầu tiên nêu ra chính nghĩa. Ngoài giới hỏi nạn thọ pháp rõ văn. Tùng tọa là trước sau hai bên thân liền nhau và chẳng phải gọi là vòng tròn khiến giữa trống. Đủ khai ấy, là đủ có thể dung nhau. Sớ chép: “Mười người dung thông khai nạp ở giữa, hẳn nửa thân ấy, nêu một phần để so sánh toàn bộ. Luật Thập Tụng chép: một Tỳ- kheo một chỗ ngồi, đủ bốn chỗ Tăng tác pháp, chứng nay nửa thân liền thành đồng giới. Luật Thiện Kiến chưa rõ văn gì. Đây định nghĩa ấy, Sớ chép: “Hành sự như thế, trong y cứ Phật dạy, ngoài y cứ phàm quở”, tăng có công trao pháp, trước xin không luống nhận. Chữ “tất” trở xuống là thứ hai bài bác bỏ pháp. Trấn là yểm. Sau chỉ nghĩa Sao văn thất lạc, nay thất nghiệp Sớ phá lập rất rõ. Trong nói tự tứ, ban đầu nói thuyết giới. Ban lành đồng thầy, là chẳng phải không đồng ý. Dưới đường là dưới con đường tắt lan-nhã. Khiến gần nhau là phải có không gian, chẳng phải một giới, tự tứ ngồi vòng tròn bày tướng có thể biết. Chữ “thử” trở xuống là song kiết, thông thể quyết bền chắc, chỉ trong pháp kiết vì việc ít có cho nên lược, ấy chẳng có sao. Nay lược dẫn, văn nói giới văn rằng: “ Đại Đức tăng xin lắng nghe! Nay có chỗ cho Tỳ-kheo nhóm họp, nếu tăng phải thời mà đến, tăng bằng lòng cho kiết tiểu giới, tác bạch như vậy, yết-ma y cứ mà biết (hai thứ khác duyên tướng như đã dẫn ở trước). Trong chỉ bày ba món khác, ban đầu nghĩa là một chỗ có ăn không có pháp, một chỗ có pháp không có ăn, đều giải rồi đồng kiết, tự tha giúp nhau gọi là hai món pháp, thực đồng giới. Thứ hai nghĩa là cả hai đều có ăn, một chỗ có pháp, gọi là giới pháp khác, ăn đồng (hai giới nầy và hai món nhân, pháp đồng ở biên, tức là ba món đại giới). Thứ ba, nghĩa là cả hai đều có pháp, một chỗ không có ăn gọi là giới pháp đồng, ăn khác. Chữ “vị” trở xuống là giải thích riêng thứ ba. Ban đầu bày ý khai. Nói giữ gìn là không để cho Tăng chỗ kia tan rã, chùa hoang phế. Bốn phương xướng hòa, là nói lên chẳng phải kiết giới mà trước nêu rằng ba món giới là do lợi dưỡng thông nhau, nghĩa đồng một giới. Sau chép: “khai ý kiết” cũng đồng đó. Sớ chép: “vốn chẳng phải kiết giới, do trước đồng khác cho nên có việc xảy ra. Chữ “mạt” trở xuống là tổn hại nay không làm, đãi là sắp. Chữ “tất” trở xuống là khuyên khiến tôn thờ. Trong giải, pháp không có giới tràng để giải. Trong kết quy, chữ thính hoặc giữ, hoặc bỏ, tranh luận rần rần, nhưng chẳng phải giềng mối, bỏ đó không khắp, so các yết-ma đều không có lời này, nghi là văn luận truyền chép lầm. Kế trong giới có tràng, ban đầu bày trước sau. Trái pháp kiết trước. Trong giải đại giới, ban đầu rõ hỏi đáp sợ cho là hai giải vọng làm không đáp, cho nên lại y cứ theo chú yết-ma, hai pháp kiết giải không được đáp chung, do giải thì ở pháp địa, kiết thì nương giới tự nhiên, quyết nương thứ lớp mà giải, người nương giới thực, lý được đáp chung. Chữ “nhược” trở xuống tức chỉ cho giải trước vì chung pháp duyên. Trong giải giới tràng, bày chỗ giới ấy là vì dứt hành lạm. Trong phần bỏ xưa, nói luật không có ấy là truyền dịch lầm sót. Chữ “cố cựu” trở xuống là dẫn xưa. Sớ chỉ cho Quang Sư, Đàm Đế vốn cũng vậy. Chữ “kim” trở xuống là nói chẳng phải do đại giới trước, nêu hai món đồng giải lập giới tràng vốn chẳng phải nói tự tứ, lại chẳng phải trụ xứ, cho nên trước kiết không nêu, sau giải nào được xưng đó. Trong Sớ lại nêu cái thấy khác dùng ba tiểu giới giải, phá rằng: “Ba tiểu giới không có tướng, một tòa tác pháp làm sao giống đó”. “Nay y cứ” trở xuống là hiển chính, y cứ việc nạn ấy, tức là tiểu giới, nếu vậy cũng thấy khác nào khác gì, kia dùng văn giải pháp, nay y cứ nghĩa dịch tướng, cho nên khác nhau. Trong tạp tướng, đầu tiên là dẫn Thiện Kiến trước nói chẳng phải trụ xứ tăng, loại bỏ những thứ khác, trải qua giải ngược. Hoại âm quái, là hủy. Chữ “hoại” là nói chỗ lập giới tràng.như tế đàn ấy, cũng như cung quán tiếu đàn (đàn cúng tế). Chữ “ngũ” trở xuống là chứng ở chỗ trống. Trong giải ba món tiều giới, nói đồng trước tức là việc ít có, nay lược nêu ra, Văn chép: “Nay có Tỳ-kheo ở đây nhóm họp giải thích khác, y cứ giáo rõ định cho nên lấy giải trước. Đầu tiên trong cái thấy lập lý, trước rõ lý do pháp khởi, hai pháp tác và vô tác đối đãi nhau, đâu được có tác mà vô tác ư? Thiện hành ấm là năm ấm nhiếp pháp, đây là tạo tác, cho nên thuộc hành ấm. Hành thuộc ba tính, đây thuộc thiện tính, hành tức là tâm, tâm động thành nghiệp, cho nên Sớ chép: “Chỗ kiết ban đầu, chẳng phải tâm không khởi, đại là y báo đâu được không theo, tùy nghiệp lực tâm có pháp nương đất, v.v… chữ “thử” trở xuống rõ khắp chỗ, chữ “phi” trở xuống là bày pháp thể khôn cùng. Đất liền là sắc và phi sắc, ký và vô ký tính không hợp, cho nên đều đến nhau, ấy là giới, là sắc pháp vì nghiệp riêng sắc khởi. Trong dẫn chứng, đâu tiên dẫn hai đọan trước sau. Đoạn trước lại chia làm hai, một giới đầu là chứng trên không nối liền với đất, vì đào bỏ đất cũng không mất. Ở trên đó làm nhà riêng thêm vật ngoài cũng đồng giới. Nói mé nước là dưới thổ luân có kim luân, dưới kim luân có thủy luân, dưới thủy luân có phong luân, ngoài phong luân là hư không, pháp tột kim luân nên nói là mé nước. Do giới nương chỗ cứng chắc, tướng nước nổi bồng bềnh chẳng phải vốn trong mong, cho nên ba lớp nhà vả lại nêu một tướng, nhiều tầng cũng vậy. Văn kia chính là khởi làm lầu ba tầng, thay đổi lời kia. Chữ “nhược” trở xuống là chứng trên thảy đều đến nhau, ban đầu là văn luận trở xuống tức ý dịch của người sao. Câu trên là bày giới thể, nêu tướng hạn cõi là sở đối của mắt, cho nên xen không thông nhau, là chướng ngại, vì vậy giới có hai nghĩa, cho nên nói rằng sắc pháp (có đem chữ Pháp để ở dưới, đọc ngược thành phá câu). Chữ “cố” trở xuống là kế dẫn đoạn sau, cũng rõ xứ hủy mà pháp còn, chứng thành có pháp. Chữ “mé nước” trở xuống là lược biết một câu nơi chốn kia, luận vốn đủ đó, thì rõ chẳng biết không thể tác pháp. Chữ “chuẩn” trở xuống là kết chứng nghĩa trước. Kế, trong phần chê không có pháp chia làm ba, đầu tiên đưa ra chấp kia. Nghiệp Sớ dẫn rằng: “Gọi năng tác là tình, sở vi là phi tình, nào có pháp khởi ai nhận lãnh phiền não, cho nên biết chỉ là y cứ giới chỗ nhóm, vẫn dẫn văn y cứ như Sao đã bày, đây tức năm hiện tiền trong diệt tránh. Thế nào là Pháp hiện tiền? Chỗ giữ pháp hiện tránh là đây. Thế nào là Tỳ-ni hiện tiền? Tức chỗ giữ Tỳ-ni diệt tránh. Thế nào là nhân hiện tiền? Là nói bàn qua lại. Thế nào là tăng hiện tiền? Là người nên đến đã đến, v.v… giới như Sao đã dẫn, chữ “thử” trở xuống là điểm giải thích lầm kia. Chữ “tát” trở xuống là dẫn văn chấp vấn phi. Bà Luận, luật Ngũ Phần đều nói về cộng giới, chẳng có người nào đâu chẳng có pháp. Khoa trước, trong lựa chọn dẫn đủ, cho nên lược chỉ. Sau dẫn kinh làm chứng, văn nghĩa càng rõ, như mê đất nghĩa là không tác nghiệp tướng thiên nhãn thấy được. Đàn kinh chép: “Đất kiết giới, tùy hạn kia cõi đến lớp kim cương luân, tuy trải qua kiếp hoại, nhưng vẫn không bao giờ hư”. Thứ tư, trong nói về phi pháp. Ba câu đầu là bày ý trọng, chỉ thuận trước ấy là văn sau tùy bày. Chữ “ vị” trở xuống là bày phi tướng, ban đầu đến kết có ba phi, như khoa trước chọn hỏi đáp đã rõ. Chữ “cập” trở xuống là ba phi. Không nhóm Yết-ma như trong kiết giơí tràng ở trước, phương tướng như trong pháp xướng ở trước, cho nên nói rằng “trước nói đủ”. Chữ “ tịnh” trở xuống là kết chung, chữ “ngũ” trở xuống là chứng riêng, gồm buộc các phi không đưa ra bốn món, lầm hợp, cách nước, phương tướng cả ba đều là sự phi. Lại kiết là xứ phi, không nhóm là nhân phi, yết-ma là pháp phi. Trong lỗi bỏ xả quyết y cứ tác ý bỏ đi, sau càng không lại, không một người trụ mới gọi là mất giới. Sớ chép: “Dẫu chẳng tác pháp nghĩa Tăng dứt”, cho nên lại dẫn kinh Văn-thù Vấn rằng: “Thậm chí có một ưu-bà-tắc ngủ đêm ở đó, đó gọi là không mất”. Trong văn trước dẫn luật Thập Tụng, nói phải tác niệm, cho nên biết chẳng khởi ý niệm thì không mất. Luận Trí Độ hạn tịnh một đêm cho nên biết chưa ngủ lại về đến cũng không mất. Trong giải thích nạn, ban đầu hỏi, trước dẫn Thiện Kiến, đào đất, mé nước cũng không có tăng ở, đều nói không mất, rõ là trái nhau. Sớ chép: “Thiện Kiến, nước hết sạch, chấp tăng đều tan, há người nước sau đêm lại giữ giới ư? Trong phần đáp, ban đầu y cứ tâm xả có hay không và không hề trái. Trong văn đều nói, tức là luật Thập Tụng và Luận Trí Độ. “Tứ Phần” trở xuống là chứng trước không mất vì không có tâm xả, văn nêu ra ở kiền-độ thuốc. Cho nên già lam ấy, rõ là chỗ hoang phế không mất tịnh địa, là rõ biết đại giới vẫn còn. Chữ “ hựu” trở xuống, kia nói: “Tỳ-kheo không biết chỗ nào là tịnh địa”. Phật đáp như trong Sao. Chữ “ cố” trở xuống một câu là kết rõ hai văn (văn giải nghi, vốn xuất xứ từ pháp thuốc, người có trí xét kỹ mới biết xưa lầm). Trong tác pháp xả, nếu y cứ pháp nghi quyết cần thứ lớp xả, trước ăn, kế y, sau xả nhân giới, nếu nói về mất pháp chỉ xả nhân giới, ba món kia liền mất. Sớ chép: “Tuy vốn mất, chưa mất mà chẳng chính thì loạn luân mắc tội”. Nay nói đều xả, lời chung đốn tiệm. Nếu y cứ hành sự thì phải nương pháp tiệm. Năm món trong không mất: Tâm ác: luật nhân có Tỳ-kheo muốn cho người khác được đồ ăn bất tịnh, cho nên giải tịnh địa, Phật nói: không thành. Đại giới không văn cho nên nói là “lệ chuẩn”. Nói rằng xen kiết, văn xuất xứ từ luật Thiện Kiến. Kia chỉ rõ kiết, nay y cứ kiết loại giải. Kiết đã thành cả hai, giải cũng không mất, cho nên Sớ chép: “Tăng Ni xen giải (xưa chép: kiết quyết trước giải là lầm). Y cứ xả giới cả hai không đầy đủ nhau, cho nên xen kiết chung, giải cũng không thành. Thứ tư có thể biết. Như luật Tứ Phần trị cho nên già-lam nếu y cứ theo nghiệp Sớ thì nêu sáu món: Hai món đầu đồng như Sao, thứ ba dị kiến xen kiết, thứ tư tà chính xen kiết, thú năm là bên giữa, thứ sáu là hợp bốn vá năm hai món ngày nay. Trong phần chứng riêng, có hơi khác với văn Luận, nay dẫn đầy đủ. Kia trước hỏi rằng: “Hai chúng kiết giới được kết lẫn nhau chăng? Đáp: Được (nghĩa là không cùng làm pháp) được cùng kiết (nghĩa là thọ giới, xuất tội, Tăng mi đồng pháp, Sao đổi lời kia cho nên nói rằng “không được kết nhau”). Lại hỏi rằng: Đại tăng được kiết giới với Ni chăng? Đáp: Được Nay Sao chỗ dẫn hai câu trên tức lời hỏi đáp sau. Một câu dưới tức là lới đáp trước. Sớ chép: không kiết nhau, e ra ngoài tăng chẳng thành đồng pháp. Tăng tông sử nhiều như mắt lưới, thiên nầy năm môn như lưới, dùng năm môn nầy như giở lưới kia lên thì các mắt lưới đều theo. Từ dụ làm đề để bày chính yếu, trụ trì nhiếp chúng, bỏ đây làm sao được. Vả lại thánh giáo giải bày tôn thờ đó rất dễ, như do nhân phi, tình chính, nêu đó hoặc nạn có giáo không thì đáng thở dài. Trong bày ý, văn ở đầu có bốn đoạn. Bốn câu trước nói phân làm chủ chúng quyết vâng theo giáo pháp, một phương là nói chung chỗ mở mang truyền bá xa gần. Lập pháp thông là nêu ra sự nương giáo, các phương khác đồng vâng theo vì chiều theo tình riêng không truyền ra ngoài. Hai câu trên nói lập chế phép tắc cho người, hai câu dưới nói gặp việc xử đoán. Chữ “linh” trở xuống bốn câu là thứ hai nói lợi ích gần, nước xa cõi khác lời lặp việc có một, hoặc có thể cõi xa, chỉ gần là quận huyện, cõi khác chỉ xa nước khác, như tiếng tăm Tổ sư bay đến Thiên Trúc. Hai câu trên rõ ngoại khóa ảnh hưởng mạnh, hai câu dưới rõ nội hóa ngày càng lợi ích. Kiều nghĩa là ngẩng lên nhìn, thần tức là tâm, nghiệp tức là hạnh, tâm thần không tướng dạng cho nên an, cảnh cao quý duyên thanh tịnh, hành nghiệp mới tiến bộ. Chữ “nhược” trở xuống là thứ ba nói chúng phải theo hóa. Hai câu trên nói sự đề có thể nêu, hai câu dưới nói người không dám trái. Chữ “khởi” trở xuống là thứ tư bày lợi ích xa. Hai câu trên là tiếp ích gần ở trước, phát khởi văn sau, cho nên nói rằng “đâu dừng”, tức là sạch. Hai câu dưới chính bày lợi ích xa, đạo cùng hệ đều là chính pháp của Phật, đạo làm sinh ra và lớn lên, cho nên dụ như cây, tuệ năng phá tối cho nên dụ như mặt trời. Phù sơ là diện mạo tươi tốt, Phương giống như sắp vậy. Trong bày tổn trái lại bốn nghĩa trước, đầu tiên bốn câu trái với nghĩa đầu ở trước. Nêu ra hằng tình là rõ tự mặc tình. Nói không y cứ là nói chẳng phải giáo. Khoa Phật trở xuống là nói làm việc ác của thế tục. Chữ “Như” trở xuống là chỗ nêu trong môn thứ hai. Chữ “năng” trở xuống hai câu là trái với ba nghĩa khác ở trước. Hay làm sai trái là quyết gồm nhân pháp, nhân là chúng sinh, pháp là phi chế. Lời nói ổn loạn gồm có ba lỗi: 1- Người không theo hóa. 2- Không có lợi ích gần. 3- Không có lợi ích xa. Chữ “cố” trở xuống là dẫn chứng lỗi nặng diệt pháp và công sâu gánh vác pháp, người học biết vậy thì phải làm thế nào đây? Không gặp Phật ra đời là dự báo đời sau, địa ngục tức là sinh báo. Như tên bắn là nói sự mau chóng kia. Dẫn kinh Tam Thiên là nói tăng quyết nương pháp, đã thiếu đường tốt là vì nhóm ngu. Chữ “cố” trở xuống là y theo văn bày ý. Trong thiên ý, đầu tiên là nói bỏ phi, trong đây san bổ khác nhau, chương sớ phiền rộng giải, nhưng vì người đời vọng làm phi chế kia, gọi là sót lọt. Chữ “Sử” trở xuống là nói đúng. Chế tức là năm môn sau, pháp sở lập đều khảo cứu ở giáo, nên nói là tương ưng, nghĩa là dụng của sự, đều thích hợp với thời cho nên nói rằng “đều hợp”. Dụng nầy trong luật Như lai chế giới nói “biết thời hợp nghĩa”, cho nên sau dẫn chứng. Nói tàm tạm ấy là lật quấy làm phải không thể thay đổi ngay. Chữ nhược trở xuống là chỉ lược, bịnh hoạn tức lỗi phi pháp, làm cho pháp diệt nên nói là tổn giảm, tức năm môn dưới đều nêu ra phi tướng nầy. Trong hóa giáo chép: thông đạo tục là lược bày hóa nghi. Chữ “hiển” trở xuống là chế giáo, chỉ cuộc hạn ở đạo. Sau dẫn ba kinh, ban đầu dẫn Đại Tập thông đạo tục trị, Kế trong Thập Luân chỉ nghe đạo tục không chấp nhận tục trị. Sau dẫn kinh Niết-bàn lại rõ đạo tục, sau lại dẫn văn vẫn chung hai chúng, quyết chung đồng khác lại nói ở sau. Trong kinh Đại Tập, ban đầu nói Quốc Vương buông lung làm ác. Chữ “tất” trở xuống là hiển bày lỗi. Đoạn Tam bảo là che chướng chính pháp. Đoạt mắt chúng sinh là tổn chính khiến ngưới khác giới thí diệt mất là tổn công đức của mình. Nói vô lượng đời là nêu xa nhiều để so gần ít, thì diệt mất có thể biết. Tu giơí, thí, tuệ là lược nêu hai món đầu trong sáu độ. Chữ “bảng” trở xuống là chỉ văn thấy hai mươi tám, chia quyển khác nhau. Kinh ấy chép: “Thà ủng hộ một Tỳ-kheo đúng pháp, chứ không hộ vô lượng các Tỳ-kheo tội ác”, cho đến nói: “Nếu người hộ trì pháp, phải biết người này chính là đại đàn việt của Chư Phật, Thế tôn trong mười phương. Chữ “hựu” trở xuống là nói năm pháp trong văn đạo chúng tự trị. Ba món trên có thể biết. Không đồng ở là hoặc không đồng tài pháp. Hoặc không đồng trụ xứ. Tẫn xuất là nói theo nước khác, vì ở Tây vực có nhiều nước nhỏ, trong đây châu, quận có thể đồng. Có pháp xứ, khiến cho đồng loại phải nghe, vì khiến sinh hổ thẹn sửa lỗi theo thiện. Chữ “trị” trở xuống là hiển bày lợi ích. Người làm an vui là hiển bày lợi ích. Phật pháp lâu bền là rõ lợi ích về sau, Nghiệp Sớ chép: cái gọi là lựa bỏ cỏ kê cỏ đề, làm cho mầm mộng thêm lớn không phải vậy ư? Mười vòng bốn đọan, hai đoạn trứơc nêu cái thứ hai, hai đọan sau nêu cái thứ ba. Lại trước sau đều nêu ra phi tướng liên tục. Ba câu đầu ở trong đọan đầu là bày năng giáo không sót một vật (loài). Chữ biếng nhác trở xuống là bày tường độn căn có bốn: Hai câu đầu là loại lỗi, câu kế là lỗi không nhiếp niệm, “tham” trở xuống là ba câu lỗi không biết đủ, trong bốn việc trụ xứ nhiếp ngọa cụ, ăn uống, thuộc thuốc men. “Xa lìa” trở xuống là nói lỗi buông lung. Chữ như thị trở xuống nói về pháp khởi, xuất gia học đạo vốn phải tu trí, kẻ độn liệt không kham nổi, dùng sự lần dạy dỗ, lại khiến kiếm phước. Sau nêu Tam Bảo, hai thầy, là thắng cảnh sinh phước. Ba câu đầu trong đọan hai là bày chỗ trị lỗi. Chữ “vị” trở xuống hai câu là bày rõ tâm năng trị, chữ nhược trở xuống là nêu tướng trị phạt. Ban đầu rõ thầm răn dè cấm lỗi nhỏ, chữ hựu trở xuống là rõ đuổi, trị phạt tội nhẹ. Ban đầu phạt cần nói, khi chính phạt thì không cho nói, vì thế bảo là rằng “trọn”. Chữ “diệc” trở xuống là nói đối chứng trị phạt tội nặng. Pháp trị có năm: Ba câu trên ba pháp, trị tội nặng kế, chữ hoặc trở xuống là hai pháp trị lỗi cực nặng. Bốn thể trải đất khác với lễ bái ở trước, nghĩa là thâm mặt sát đất, chiết phục nhẫn nhục khiến hổ thẹn. Như cỏ trải đấy mà trị là tướng xin lỗi nhau. Chữ ngã trở xuống là Như lai bày ý lập giáo. Bốn câu đầu trong đoạn thứ ba là nói trì giới. Chữ trừ trở xuống là nói về phá giới. Phần lớn chia làm hai: Ban đầu trích phạt là khuyên người đời kính hộ. Bốn phương trở xuống là thứ hai nói tài pháp đều mất. Văn ở đầu lại có hai: Trước y cứ khuyến cáo. Phá giới trở xuống là kế y cứ dụ khuyến. Trong phần đầu, hai câu trên là lựa chọn đúng như pháp. Chữ nhược trở xuống là nói công năng của người phá, đây nói phá giới quyết y cứ phạt tội nặng. Trời rồng trở xuống là kia nêu đủ Dạ-xoa cho đến người và chẳng phải người, v.v… văn nay chế buộc. Chữ ưng trở xuống là khi người đời cung kính. Mười thứ thắng tưởng: 1/ Nên tưởng niệm Phật. 2/ Nên nghó thành giới. 3/ Phải khởi tâm thí. 4/ Mềm mỏng ngay thẳng thường thực hành nhẫn nhục. 5/ Không sinh tâm bạo ác, không cuồng loạn. 6- Ưa thích chính pháp. 7/ Thường ưa chỗ A-lan-nhã vắng vẻ. 8/ Muốn vào thành Niết-bàn vô úy. 9/ Nói lời mềm mại. 1 0/ Lễ dưới chân. ( Sao dẫn một, ba, chín, mười, còn bao nhiêu sáu kinh không nói rõ, cho nên khó hiểu rõ). Hậu trở xuống là bày báo. Thị trở xuống là kiết ý. Kế trong dụ khuyên, ban đầu nêu dụ. Chữ: “ngưu hoàng” trở xuống là kinh nói là trâu nầy tuy chết người vẵn cố lấy, cũng như con xạ hương chết vẫn dùng được. Lại nói rằng: “Thí như người xưa ra biển cắt đứt mạng sống của vô lượng chúng sinh, móc hai mắt hòa thành thuốc. Nếu người mù cho đến mù bẩm sinh, mà bôi thuốc này vào, thì mắt liền sáng” ( người kia tuy chết mà thuốc kia vẫn có công dụng). Lại nói: “ Thí như đốt hương, thể hương tuy hoại mà vẫn xông huân người khác để được thơm. Chữ phá trở xuống là hợp với pháp. Ba câu trên hợp với trâu, con xạ hương, người và thể loại hương. Chữ năng trở xuống là hợp hương thuốc có tác dụng hương thơm huân xông người khác. Chữ “dó thị” trở xuống là ý kết. Trong thứ tư, kinh nói rằng: nầy người thiện nam, khéo học bốn món căn bản, hủy giới hay trì giới, pháp khí hay chẳng phải pháp khí, tự quán sát chắc chắn, không biết dở kia, vì ngài Ưu-ba-ly thưa hỏi, như Sao đã dẫn. Trong Phật đáp, hai câu đầu là ngăn người thế tục, chấp nhận người xuất gia. Chữ “phục” trở xuống là chế đạo lìa lỗi. “Nếu tăng không hòa” câu nầy y cứ kinh mỗi điều thấu suốt trở xuống: trong mười thiếu hai. Quốc Vương trở xuống là có Bà-la-môn ở trước. Chê ghét người trở xuống là có tâm tức giận quở trách. Chặng giữa cư só là thứ năm. Phụ nữ, trẻ nhỏ là thứ sáu, chín món đối người nói về phi. Thứ mười tức tự mình phi. Lại trong chín món, bảy món trứơc là tục chúng, Ni tức đạo chúng. Vốn oán hiền người thì không đạo tục. Chữ như thị trở xuống là rõ năng cử, đã chẳng phạm thì nên chống cự. Chữ hạ trở xuống là nói cử đúng pháp, đồng luật cho nên không nêu ra. Luật ấy chép: “Tỳ-kheo thanh tịnh, oai nghi đầy đủ thành tựu năm pháp (tức năm đức), nên đảnh lễ tăng nói với Tỳ-kheo tội ác rằng: “Tôi đây nêu tội ông”, đây là thật không dối, là thời chẳng phải phi thời. Tâm từ bi, lời mềm mại là khiến Phật pháp lâu bền (câu dưới tức đồng lợi ích không do tẫn diệt) nếu cho tôi nói, tôi sẽ đúng như pháp nêu tội ông, v.v…” Trong kinh Niết-bàn, mỗi món bày tướng ấy, kia thứ ba nói rằng: “Hủy báng chính pháp và Nhất Xiển-đề, hoặc có sát sinh cho đến tà kiến và cố phạm cấm, v.v…”. Chữ hủy trở xuống là nói ý lập trị. Bảy Yết-ma đồng trở xuống là chế giáo. Phải biết trở xuống là bày lợi ích. Nhược thiện trở xuống là ra lịnh nương đó mà làm. Trong bày ý của chế giáo, khoa đầu nói theo can ngăn không trị, sửa tội, tích là tội trạng. Thượng phẩm là nói trí có khả năng đổi thành thiện không nhọc pháp trị. Chữ hạ trở xuống là nói kẻ ngu không nhận giáo, sinh khởi lập trị, cho nên biết pháp nầy chỉ giúp kẻ hạ ngu. Nhưng người chia làm ba phẩm, chỉ bày trên dười ấy là do tính người hạng trung tùy dòng không nhất định, có thể là thượng thì cũng có thể nương đạo. Chữ tùy trở xuống là quyết thêm trị phạt, nhiếp thuộc hai căn cho nên không rõ. Thấy bóng: như ngựa hay thấy bóng roi, tức dụ theo lời can ngăn như dòng nước. Trì lư nghĩa là có khéo cũng không tiến, dụ cho dẫu trị phạt cũng không hối hận. Kinh Tạp A-hàm chép: Phật bảo các Tỳ-kheo, có bốn loại ngựa: Thấy bóng roi liền sợ vội theo ý người cưỡi (ở đây dụ cho bậc thượng căn). Chạm lông liền có thể như trên (trung căn, có thể là hạ căn) Roi chạm vào thịt rồi mới sợ (trung căn, có thể là hạ căn) Đánh thấu xương cốt rồi mới biết (tức dụ cho hạng hạ căn) Bảy món như sau sẽ nêu, và hai món sau công với bảy thành chín. Không nói chuyện chung tức mặc tẫn, giúp tên cho rõ. Trong bài bác bỏ, hai câu đầu là thương tổn thời không làm, chữ nhược trở xuống là thứ hai bác bỏ khinh khi lăng mạ chính giáo. Bạc nghĩa là khinh người, lạm là quên giáo. Hai tâm bạc, lạm kết nghiệp huân nhóm càng thêm mê mờ, cho nên nói là tự làm dơ, v.v… chữ hữu trở xuống là nói vọng làm phi pháp. Thuân là sửa lỗi. Chữ chí trở xuống là bày tổn. Võng là lưới giáo đầy lòng tin. Chữ kim trở xuống là thứ ba, bày ý khuyên làm. Vi ngôn tức pháp trị và Phật răn dạy thành thật. Ẩn mà lại hiển cho nên nói rằng “trùng quang”. Có sức nghĩa là đức có công năng quy phục người, chẳng phải là hùng hào ỷ thế lực mà thôi. Trụ trì nghĩa là chí giữ gánh vác giáo pháp, chẳng phải giả mạo trộm ở mà thôi. Than ôi! Người giảng ngày nay sự học chẳng trải qua đi xa chính là dơ bẩn tầm thường, dối thế đua đòi làm thầy chiếm ngôi, phong hóa bốn việc nhóm đầy luống đến, chạy theo năm tà, thường nhơ bẩn bởi lợi dưỡng, mấy ai nghó việc mở mang Tam Bảo, chỉ biết luống tô vẽ một thân chưa khéo biết luật nghi, đâu thể làm phép tắc cho chúng, lãnh đạo thì ước chừng, vọng lập điều chương, cho nên có phạt gạo, mua hương, đốt áo, đánh gậy, cáng khiến tông tăng lạm trược, Phật hóa trần ai. Đạo do người mở mang, ai gởi gắm ở đây? Than ôi! Trong bày có thể chăng, ban đầu nêu bày học pháp, như sau trong chính gia. Chữ nhược trở xuống là rõ hai trái đều tổn, cho nên biết quyết ở chúng chủ dùng hay bỏ hợp thời mới có thể khỏi lỗi. Trong pháp trị gồm bày chín thứ, cho nên hai thứ sau ở ngoài bảy món. Bảy món thuốc và bịnh xem chẳng thông nhau, hai thuốc sau gồm bảy bịnh trước, tức yết-ma quở trách rằng: “Phải tăng thêm tội trị”. Ban đầu pháp quở trách nói về Luật. Lúc Phật ở nước Xá-vệ nhân hai Tỳ-kheo Trí Tuệ và Lư-hê-na tranh cãi làm duyên, cho nên đặt ra pháp này. Trong gồm nêu, là nói chung các chỗ. Chữ tức trở xuống là bốn bộ trước sau bày tướng, nhiều ít xen hợp đến văn cần chọn. Trong Tứ Phần, nếu y cứ theo duyên khởi, chỉ duyên tranh cãi, văn rõ bốn việc vốn nêu ra pháp ngăn ngừa. Trong chung riêng, hai câu đầu nêu chọn căn đối với đạo chúng, lại chỉ miệng nói, chưa hẳn tâm làm, cho nên thêm phạt nầy. Chữ vị trở xuống là nêu bày chính giới, chính kiến, chính oan nghi, chính mạng là giềng mối lớn của Phật pháp, là bốn việc cốt yếu tu hành, đều gọi là chính, đều lìa nghiêng tà. chính giới là nền tảng vào đạo, chính kiến chính là trí tuệ đức ràng buộc, chính oai nghi thì nhiếp tướng muôn vật, chính mạng là duyên thành đạo. Nay đều là lúc tâm hoặc loạn điên đảo. Y cứ lỗi mà nghiệm tình nghi, thêm khổ phạt, một khiến người phạm sữa lỗi, hai khiến sự giao hảo bên ngoài thanh tịnh, ngay thẳng, ý lập giáo đã rõ ở đây. Hai việc giới và oai nghi nơi bảy tụ phân phối, lại y cứ thô tế theo biệt mà bàn, nếu y cứ vào thông nói bảy thứ đều gọi là giới, cũng gần gọi là nghi. Sáu mươi hai kiến chấp! Y cứ vào năm uẩn, theo uẩn sinh chấp, thì có bốn câu, 1/ Tức sắc là ngã, 2/ Lìa sắc là ngã, 3/ Ngã lớn sắc nhỏ, sắc ở trong ngã. 4/ Sắc lớn ngã nhỏ, ngã ở trong sắc. Bốn uẩn kia giống ở đây. Một uẩn có bốn, mỗi uẩn có bốn thành hai mươi, cộng thêm hai chấp đoạn thường thành sáu mươi hai. Tà ý là chuyên vì cầu lợi, đến nổi khiến thân miệng biến hiện không cùng. Lại y cứ vào hỷ là nào phải bốn, năm món trước. Trong giải thích tà mạng, ban đầu dẫn Luận Trí Độ để giải thích, năm người trước thường làm, thật đức chưa khỏi. Bốn người sau nghề nghiệp sinh sống thấp hèn, biện tướng rõ ràng, không nhọc chiều uốn giải thích, mỗ xẻ văn và nói dài. Chưa là tinh cùng tự xét mình, lìa tà mới gọi là khéo hiểu. Trong thứ năm, đầu tiên là thân xấu, còn bao nhiêu là miệng dơ. Trong bốn món tà, ba món trước là thân, một món sau là miệng và gọi là cầu miệng ăn. Doanh hư nghĩa là mặt trời, mặt trăng khuyết đầy, các ngôi sao vây quanh, Bốn duy là dụ không chính. Kế, dẫn luật để giải thích, tức trong giới trộm, tặc tâm lấy vật, mói pháp lộn lạo, hớn hở cầu tài lợi tức là tà mạng, cho nên ở đây dẫn đó. Trong pháp cử, ban đầu bày phi. Hỏi đáp sai hoặc việc tội khác nhau, hoặc người xấu có khác, thấy nghe tuy thật lại không có y cứ, dẫn chứng có thể biết. Câu sau rõ là mỗi thứ trái với trên. Trong hợp trị, hai câu trên nêu chung. Chữ đãn trở xuống là lược nêu không biết bày tướng. Học thánh chế, không nêu ra giáo hạnh, giáo là luật tạng, hạnh là đối trị, tức cảnh đáng học, ngu tối ràng buộc tức là mê đáng bỏ, văn sau dẫn chứng không biết, nghĩa là trứơc dây chưa tứng nghe. Không thấy nghĩa là không biết, chưa hẳn cẩn phạm, ngưng không thấy biết cần phải xử trị. Trong luật Ngũ Phần, phá giới phải trừ thiên đầu, gồm chung các tụ khác, phá kiến thì giống Tứ Phần, một trong năm món ở luật Tăng- kỳ, hai câu đầu là gồm nêu. Chữ thân trở xuống là giải thích riêng, lại có hai: Trước rõ người nam tức ba món ly hợp tìm văn có thể biết, chữ hựu trở xuống là kế y cứ người nữ, nhưng rõ thói quen nơi thân, lược bày cùng ngồi. Chữ dư trở xuống là chỉ đồng mắt, cùng món đồ ở trên, tính cũng có ba: Dụ trên có thể hiểu, lỏa tức là quả dưa ngược với rau ở trước. Trong thứ hai, năm chúng tức là năm thiên, vả lại nêu toàn số, y cứ trong đoạn hạnh chỉ rõ bốn thứ sau, nếu phạm thiên đầu thì không nằm trong phép trị nầy. Trong thứ ba có ba món khác nhau, đầu tiên gọi là ra vào phi thời, chữ dữ trở xuống là thứ hai gọi là gần gũi bất thiện. Kẻ trộm nghĩa là lén lấy. Xu bồ là cờ bạc. Hành tại trở xuống là thứ ba, tức dạo đi phi xứ. Trong thứ tư, do ưa tranh cãi lại sinh năm lỗi: Hai lỗi trước là lỗi tâm, hai lỗi sau là lỗi miệng, thứ năm là lỗi thân, tính đây chỉ cãi vã kiện tụng. Thứ năm trái lại cung kính gần gũi đời phần nhiều, người có hiểu biết nên răn dè. Như trên dưới kết lỗi nói về phép trị. Trong Liễu Luận vốn không có hai chữ khinh mạn, cho nên biết chỉ là không kính đại chúng, nhưng tính kia giấu lời cho nên giải thích thêm. Trong chọn lạm, chữ giản trở xuống là tẫn xuất (đuổi ra) đối với người tại gia mà nói, trong đủ duyên chính trị văn ban đầu nói có khác. Trong mười món, bảy món trước và món thứ chín đều đồng, chỉ có món thứ tám và mười các pháp khác đều khác, nhưng nêu trị khám nghiệm pháp sự đặt biệt khó nên nói là khác. Chữ như trở xuống là bày tướng, đầu tiên chỉ bảy món trước, hỏi đáp ở sau. Chỉ rõ thứ tám bày y cử, chứng là chứng minh, chính là thật tội. Chữ ưng trở xuống là rõ pháp nêu ba: Ban đầu trong nêu tội thông rằng: “Phạm tội”, lại khiến chúng biết. Hai, là ức niệm, dùng bốn món thời, xứ, người, tội để khám xét cho nhớ, không chống cự mà tự nói. Ba, cho tội là bày khoa phạm tội khiến chịu trách phạt (quở trách đủ rõ sáu món khác lệ theo giải thích). Trên dười nói hòa chúng, ban đầu nói hỏi nghe, vì trước lúc nêu sợ luống lầm lộn. Hòa trên dưới là sợ tình trái. Hỏi việc nêu là sợ chống cự. Luật gọi là cầu thính, tức muốn kia nghe nói, rồi mới nêu tội, đây gọi là năm đức biết thời hợp nghi. Chữ sách trở xuống là giải hòa, ở đây gồm hai duyên hỏi đáp, đủ ở trên là mười. Trong chính trợ, bày biết phải sửa. Vì ngăn kính tụng gồm bốn bộ trước đã nêu tướng lỗi, tùy chỗ phạm đưa vào, nên nói rằng “chuẩn sửa”. Chữ ưng trở xuống là nêu ra Yết-ma, trong bạch thêm hai người là vì lỗi đồng, chưa có mà có nghĩa là mới khởi. Đã có không diệt nghĩa là càng thêm. Trong câu thứ tư, nói quở trách là riêng nêu bổn, lại cãi cọ gây gổ v.v… là dự bày hình phạt sau chứ chẳng phải chính trợ nay, nghĩa quy về nhiếp duyên. Trong không thành, thì ba món đầu trái với chính bày ở trên, pháp không có chỗ giúp. Chữ hoặc trở xuống bốn món dụng pháp sai. Không phạm đến sau, v.v… sám rồi không bịnh mà thêm thuốc. Không nên sám là thuốc và bịnh không hợp, như ở trước người thế tục lại nói bốn việc, tội cần đuổi không nên quở trách, nên nói là không được, còn bao nhiêu đều lệ như trên đây, đều là sự phi. Không hiện tiền; nghĩa là xa giúp, giới Sớ chép: “Người sai pháp đúng”. Chữ cập trở xuống tức người pháp phi, người là riêng chúng, không có pháp tức yết-ma sai sót. Chữ tịnh trở xuống là kết chung chín món trước. Trong đoạt hạnh, trước thêm yết-ma tiêu biểu chúng đồng trị, chiết phục ngang bướng, chính là giữ đoạt hạnh, xem kia trái hay thuận, cương hay nhu, lấy bỏ lượng theo đây làm chính yếu. Ở đầu trong phần bày cáo đã là đồng, là răn nhắc khiến nhận chắc chắn. Nói trọn đời e khiến sợ sệt. Quyết có thể đồng là dẫn dụ cho sửa đổi. Ban đầu, trong năm việc thì bốn và năm việc đồng, nhận qua phần khác đã không cho nhận, nào có khác nhau, nhưng tăng đã thêm phép phạt, lý quyết không sai, vì hiển bày hành pháp ở thân không có khả năng dạy chùng, cho nên chế. Thứ hai, trong năm việc, món thứ tư trong luật là dứt tranh cãi, trước đơn bạch chọn người trí, kẻ ngu không dự số trị là đồng. Thứ ba, trong năm việc, việc thứ ba là chế gần gũi vì trước phải xa lìa, Văn luật trên có chữ ưng. Thứ tư, khiến xa lìa vì ưa thích gần gũi. Thứ năm là không nên nói lời kỳ dị, tức miệng nói thêu dệt trong chín mười giới đơn đọa (Ba-dật-đề). Hỏi: Trước sau năm món chưa trị được làm có thể gọi là đoạt hạnh. Năm lỗi của thứ ba và ba lỗi trước của thứ tư thời khác đều chế, vốn không được làm sao gọi là Đoạt? Đáp: Thật nhu lời đã hỏi. Nay mong ngăn dứt chỗ ưa phạm ở trước cũng gọi là Đoạt, nhưng trái với hành pháp cho nên khác thường phạm. Trong bốn và năm, ban đầu cả hai đều gồm hai tướng, đầu tiên nói rằng: “Tội nầy” tức là lỗi bị trị, trong chú bao nhiêu tội khác lại nói theo tăng tàn. Chữ đề trở xuống là đối với dụ cũng vậy, nhưng đến tội Đột-cát-la thì không còn dư. Thứ hai, trong chú, tương tự nghĩa là đồng tên tội, tùng sinh nghĩa là chủng loại tội. Trong thứ ba, y cứ văn chú giải có thể biết, ở đây trị không đến bốn tội nặng. Thứ tư, y cứ pháp quở trách. Thứ năm, là người quở trách, vốn chẳng là thiên tụ mà trong nêu tương tục phạm không rõ lý do, cũng có thể ba món phạm trên là tội, hai món phạm dưới là sự. Năm mươi sáu, hai mươi lăm tìm văn có thể hiểu. Trong bảy mươi lăm, thứ hai gọi là bình luận pháp lý, chứng minh kia là tội. Trong thứ ba, y cứ luật ngăn pháp, tỳ-kheo biết người khác có phạm, đối tăng nêu bày, không để cho chúng tăng bố-tát chung với người đó, cho nên nói là ngăn, tự tứ cũng vậy, nay đều không được. Năm, là luận lý giáo tướng cũng thật chứng tha (chứng minh cho người kia). Trong thuận tùng, ban đầu nói người phạm để điều thuận. Chữ ư trở xuống là theo tăng xin giải. Chữ thêm trở xuống là thêm lượng để chấp nhận. Trong pháp giải, lời xin trở xuống là chú hai Tỳ-kheo tức hai người là một, đây vì truyền chép lầm, vì trước sau yết-ma đều nêu hai người. Trong tạp tướng, chỗ ngồi thì y cứ theo tăng tàn, tức hành biệt trụ (ở riêng). Hạ hạnh, là không tính vào hạ lạp thứ lớp. Trong nhiều ít là y cứ theo tranh cãi nên là đồng tội, tội riêng cũng chung làm pháp chẳng tiện. Không đến bốn, luật chế tăng không được nêu tăng vì sợ riêng chúng phá tăng. Chỉ như trên ấy, tức trong thiên yết-ma giúp người nhiều ít. Thứ hai là tẫn xuất, Phật ngự tại nước Ky-Ly-Na, cùng hai Tỳ-kheo là A-thấp-tỳ và Phú-na-bà-sa làm nhân duyên ác hạnh dơ nhà người cho nên Phật chế. Yết-ma phạt rồi đuổi ra khỏi giới, cho nên có tên như vậy. Trong xuất tội, đầu tiên là chỉ chỗ xuất, câu trên là lựa lạm. Chỉ cho bốn việc, cũng tức là pháp ngăn như trước chẳng khác. Cần biết, nói trái ngược bốn việc chung cho bảy chín, chỉ y cứ đối đạo hay đối thế tục, người có tin hay không tin để phân phát. Kế là chỉ tùy giới, tức vốn là duyên khởi của văn Luật nêu rộng, đây không phiền dẫn, cho nên chỉ như sau: Chữ đảo trở xuống là nói về lỗi. Chữ cố trở xuống là nói về trị. Chữ sử trở xuống là bày lợi ích. Chữ thử trở xuống là khuyên nương. Trong pháp trị, trước gồm chỉ bốn món. Trong chữ pháp trị nghĩa gồm đoạt hạnh, nhưng đoạt hạnh thuận theo các phép trị đều đồng. Ban đầu trị và giải tùy lỗi mà khác. Chữ nhiên trở xuống là lược bày pháp đầu, sau chỉ bổn luật, nay lược trích dẫn. Luật chép: “Đại đức tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo A-thấp-tỳ và Phú-na-bà-sa đây ở nước Ky-ly-na làm hạnh xấu dơ nhà người, mọi người đều thấy nghe, nếu tăng đến thời, tăng bằng lòng cho làm phép đuổi A-thấp-tỳ và Phú-na-bà-sa rằng “Thầy đã làm hạnh xấu, dơ nhà người ai cũng thấy nghe, thầy nên rời trụ xứ nầy mà đi, không nên ở đây nữa, tác bạch như vậy” (yết-ma y cứ theo đây làm pháp, tùy lỗi mà xưng). Trong phần giải thích cũng ba lần xin, lời xin và pháp giải đồng một văn trước, chỉ sửa các chữ quở trách thành chữ tẩn (đuổi), các phép trị phạt sau cũng vậy. Chỗ đây biết có sau lại không điểm nữa. Trong cầu giải, đầu tiên là nói xin giải, do không vào giới cho nên phải nhờ người đáng tin. Tăng trở xuống là nói về chế ước. Nếu có, v.v… nghĩa là các Tỳ-kheo khác riêng có xin hỏi. Do không đường cùng nói, chỉ khiến thưa thầy (xưa chép: người bị trị chỉ được thưa thầy, sợ dư người thành tùy cử, cho nên y cứ giới sớ. Tùy cử chỉ cuộc hạn ác kiến huống chi tùy cử cũng không khai thầy, lầm kia có thể biết). Thứ ba, là y chỉ; Phật ngự tại nước Xá-vệ, Tỳ-kheo Tăng-sô ngu si phạm tội, gần gũi ở chung với người tại gia, do đó chế ra pháp này. Trong phần nêu ra lỗi, đầu tiên nói về đảo loạn, quyết gồm hai chúng mới trị pháp nầy. Chữ hoặc trở xuống là bổn duyên chính luật, chỉ khiến thường phạm không y cứ đối người. Chữ tu trở xuống chính rõ lập pháp vẫn thấy danh nghĩa. Chữ sử trở xuống là rõ lợi ích. Trong gia trị, ban đầu là pháp trị, trong đoạt hạnh luật tác bạch rằng: “Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo Tăng-sô nầy ngu si không biết phạm nhiều tội lỗi, gần gũi ở chung với người tại gia, không thuận theo Phật pháp. Nếu tăng phải thời mà đến, Tăng bằng lòng làm yết-ma y chỉ cho Tỳ-kheo Tăng-sô, tác bạch như vậy” (yết-ma y cứ theo mà biết). Chữ dư trở xuống là nói về y người, chữ minh trở xuống là lược bày thuận theo và pháp giải. Chữ Niết-bàn trở xuống là bày tên khác. Chữ dư trở xuống là chỉ hành pháp. Luật ấy chép: “Ngu si không biết thì trọn đời y chỉ”. Luật Thập Tụng chép: “Thọ giới nhiều năm mà không biết năm pháp thì trọn đời y chỉ” (năm pháp là không biết phạm, không phạm, tội nặng, tội nhẹ và không tụng được quảng giới). Kinh Tỳ-ni Mẫu chép: “Trăm tuổi mà không biết pháp vẫn theo y chỉ người mười tuổi hạ” thiên kia có nói rõ. Vả lại, lược dẫn bày, trong ngăn không đến, lúc ấy Phật ngự tại nước Xá-vệ, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đều ngự tại nước Ca-thi, đến trụ tại vườn Ma-lê, Cư só Thất-đa sắm sửa đồ ăn ngon đến mời hai Tôn giả thọ trai. Tỳ-kheo ở lâu trong vườn ấy tên là Thiện Pháp đến thấy sinh tâm ganh ghét, liền nói: “Cư só sắm sửa đồ ăn uống rất tốt, chỉ không có cặn dầu”. Chất-đa nói: “Thiện Pháp có nhiều căn lực giác ý thiền định chính thọ quí báu như vậy mà lại nói lời thô bỉ như thế”, liền nói thí dụ: “Như nước không có gà, có người đi buôn đem con gà mái đến, gà mái vì không có gà trồng nên giao hợp với quạ sinh ra con, con vật được sinh ra chẳng phải gà cũng không phải quạ nên gọi là ô kê (vừa gà vừa quạ), Thiện Pháp có nhiều căn lực, v.v… quí báu mà nói lời thô ác như vậy nào khác loài ô kê kia”. Thiện Pháp nói: “Cư só mắng ta, nay ta bỏ đi”, bèn đến chỗ Phật, bị Phật quở trách, cho nên chế ra pháp trị. Trong phần nêu ra lỗi, ở đây cũng đối với người thế tục, chỉ thêm mắng là khác. Trên nói các lỗi, mắng là lỗi chính. Chữ tu trở xuống là nói lập trị, danh tướng đều hiển bày. Nói tác pháp là bạch rằng: “Đại đức tăng xin lắng nghe! Cư só Thất-đa là đàn việt tin ưa thường hay cúng dường chúng tăng mà lại dùng lời thấp hèn xấu ác nhiếc mắng Tỳ-kheo Thiện Pháp nầy, nếu tăng phải thời mà đến tăng bằng lòng nay làm yết-ma ngăn không đến nhà người tại gia cho Tỳ-kheo Thiện Pháp, tác bạch như vậy” (yết-ma y cứ theo mà làm), đoạt hạnh đều đồng. Chữ Tăng trở xuống là nêu lỗi, tuy chẳng mắng mà chê bai tổn não vẫn đồng với ở đây. (tờ 2 1 2) Trong phần sót rơi, ban đầu nói về chọn sai. Trong tám pháp, thứ năm nhận lời người ấy là không vọng chống cự. Bảy, là y cứ hạnh nghiệp khác và năng giải. Trong thứ tám, chữ nghị đó bổn luật không theo, nói đơn tác là chính. Chữ tương trở xuống là nói về sám hối, ban đầu khiến nói. Đàn việt sám hối ấy là gọi đến khiến nhận. Chữ nhược trở xuống là kế dạy quán lượng. Về có đủ, v.v… thì Luật chép: “Nếu không thọ nên đến chỗ mắt thấy tai không nghe, để Tỳ-kheo bị yết-ma cho kia mắt thấy (khiến kia mắt thấy, tâm mềm mỏng nhận sám) tai không nghe (sợ nghe tác pháp) dạy khiến đúng như pháp sám hối. Lại đến nói cư só sám hối, Tỳ-kheo kia trước phạm tội đã sám hối, tội đã trừ, nếu cư só kia nhận thì tốt, không nhận thì phạm tội. Tỳ-kheo nên tự đến sám hối. Chữ nhược tục về sau là bày khai giải, sám rồi kẻ tục vui mừng, đủ rõ là thuận theo. Trong gồm chọn, do trước sau bảy pháp tướng lỗi hợp nhau, nên pháp trị thành khác. Y cứ tín hạnh phần lớn chia làm hai, tùy tướng nhỏ nhặt lựa chọn đều khác như văn. Trong bốn món trước, luật đủ số thì thiên trước đủ rõ. Trong ba món sau đồng phạm nặng. Tài pháp mất cho nên dẫn kinh Niết-bàn, ban đầu trình bày chính ý. Báng pháp, là chung bảy lỗi trước. Hàng phục là đề mục chung của bảy pháp, nêu theo kinh thì nói chung bảy món. Nay đây dẫn đó lại chứng ba việc, chữ hựu trở xuống là nói ý riêng, quả như ở đời sau nhiều ngu si không tin, khinh bỏ thánh giáo, công khai làm ác cho nên lập pháp trị, khiến biết nhân quả quay về chính tín. Trong bác bỏ lạm có ba: Ba câu đầu là nêu người, câu trên bày chỗ học, hai câu dưới nói về tâm hạnh. Chưa hợp đạo vì nhiễm theo trần. Trái lớn nhỏ vì không bẩm thọ giáo pháp. Chữ khẩu trở xuống là thứ hai bày lạm, hai câu trên tức rõ học nói, tội phước tính không, nêu ra hành pháp Phổ Hiền. Dâm dục là đạo nêu ra kinh Vô Hạnh, chính là nói chung Đại thừa chẳng phải chỉ một kinh, vì hiển bày nghiệp tướng đều như huyễn, lại chỉ bày nghiệp tính không thật có, lại chỉ bày nhiễm tịnh đồng một nguồn, lại chỉ bày các pháp chỉ là một tâm, lại khiến chúng sinh đối với các điều ác được giải thoát, chứ chẳng phải khiến ông làm hạnh bất tịnh, nay thân dơ xấu, nương lời này để tô điểm mình, chẳng dùng tính ngu, thật trái thánh ý. Tức kinh Lăng-nghiêm chép: “Trước dứt tâm dâm, đây gọi là Như lai, Tiên Phật Thế tôn dạy rõ quyết định thanh tịnh là bậc nhất, nếu người không dứt dâm mà tu thiền định thì giống như nấu cát đà mà muốn thành cơm, trải qua năm ngàn kiếp chỉ gọi là nấu cát”. Lại kinh Phạm Võng chép: “Bồ-tát nên sinh tâm hiếu thuận, cứu độ tất cả chúng sinh, đem tịnh pháp cho người, mà trở lại làm cho mọi người khởi dâm, nhẫn đến không có tâm từ bi, Bồ-tát nầy phạm tội Ba-la-di”, ông cho rằng kinh Lăng-nghiêm, Phạm Võng là Đại thừa ư? Nếu duyên theo lời kia, đây lại nói thế nào? Buồn lắm thay! Chữ thân trở xuống là rõ tâm hạnh ở trước, câu trên chỉ hạnh, hai câu dưới nói về tâm. Tùy là thuận, nghĩa là rừng rậm ngu sơ theo sự giáo hóa trái đó nghĩa là chẳng phải người trí. Mến xấu rõ ràng cách đạo rất xa. Chữ tinh trở xuống là thứ ba khuyên khích, trị phạt. Trong bất kiến cử, Phật ngự tại nước Câu-diệm-di, Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, các Tỳ-kheo khác nói rằng: “Ông phạm tội có thấy chăng?” Đáp rằng “Không thấy”, Tỳ-kheo bị cử tội, Phật do đó quở trách, chế ra lỗi có hai: Ban đầu tức đảo lộn, chữ hoặc trở xuống là rõ lòng tin bị hoại, nhưng làm ác không sợ quả báo đời sau tức là tà kiến, chẳng đồng với đoạn thiện liền bỏ Tam Bảo mà mất giới. Hoặc do trở xuống hai câu là suy nguồn lỗi trên. Chữ Tăng trở xuống là chỉ bày kia chống nghịch, tà kiến ở trong lòng, chẳng phải nói không rõ, cho nên mượn hỏi đáp để nêu bổn duyên. Tăng tức trở xuống là kế gia pháp trị. Ban đầu nói về gia pháp, bạch rằng: “Đại Đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo Xiển- đà đây phạm tội, các Tỳ-kheo khác nói rằng “ông phạm tội có thấy chăng?”. Kia đáp “không thấy”, nếu tăng phải thời mà đến, Tăng bằng lòng nay làm yết-ma không thấy tội cho Tỳ-kheo Xiển-đà, tác bạch như vậy. (yết-ma y cứ theo đây). Đoạt hạnh v.v… đều đồng. Chữ vi trở xuống là thứ hai nói về y cử. Vả lại, gọi là quyền lực tạm chọn, diệt tẫn bỏ hẳn. Chữ cố làm trở xuống là bày danh nghĩa, như vật bị bỏ không còn dùng nữa. Ba pháp trong hành xử đều như vậy cho nên ở đây gồm bày. Có Tăng xử là khiến hổ thẹn. Sáu không sám cử, cũng do Xiển-đà Tăng hỏi: “Ông có tội nên sám hối”. Đáp rằng: “Không sám”, cho nên chế cử. Trong phần nêu lỗi, đầu tiên nói tnên sám, câu trên là bày tội nên sám. Khinh tức là diệt, nặng chuyển thành nhẹ, cho nên chép: “Không nhất định”. Từ duyên sinh là giải thích thành lý do không nhất định. Chữ nhi trở xuống là nói không sám, bốn câu trên là bày lỗi. Lạm nói, là dựa vào lời Thánh, cuồng hoặc vô trí chống trái mạng lệnh của tăng. Chữ cấu trở xuống hai câu là bày tổn nặng. Chữ cố trở xuống hai câu là nói về pháp trị, lời câu đồng như trước chỉ sửa các chữ kiến thành chữ sám, còn bao nhiêu không khác chút nào. Chữ kinh trở xuống hiểu tên khác tức Niết-bàn. Trong cấu giải, tăng lượng nghi là lý, phải xét kỹ trở lại, chính tín không xét, luống dối dầu giải thích cũng không thành. Thứ bảy, là ác kiến. Bấy giờ, Phật ngự tại nước Xá-Vệ, Tỳ-kheo Lợi-tra sinh ác kiến nói “Tôi biết Phật nói pháp hành dâm dục không phải pháp chướng đạo”, các Tỳ-kheo hét lời can ngăn, Lợi-tra vẫn giữ chặt ác kiến mà nói: “Đây là chân thật, còn bao nhiêu đều là luống dối”, các Tỳ-kheo đến bạch Phật, do đây Phật chế giới. Trong nêu lỗi, ban đầu rõ tội gốc, do đó liền bày tên gọi. Chữ diệc trở xuống là nói về các lỗi khác. Chữ tu trở xuống là thêm pháp trị. Bạch rằng: “Đại Đức tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo Lợi-tra nầy nói rằng: “Hành dâm dục chẳng phải pháp chướng đạo”, nếu tăng phải thời mà đến, Tăng bằng lòng làm pháp quở trách can ngăn cho Tỳ-kheo Lợi-tra để bỏ việc này, rằng Tỳ-kheo A-lợi-tra chớ nói lời như vậy, chớ chê bai Thế tôn, chê bai Thế tôn là không tốt, Thế tôn không bao giờ nói như vậy, Phật dùng vô số phương tiện nói hành dâm dục là pháp chướng đạo, nếu phạm dâm dục thì liền chướng đạo, tác bạch như vậy. (yết-ma câu thứ hai giống như trước, rồi lại đến câu thứ tư, tiếp tục thì duyên vốn đều bày, cùng bạch là khác, các pháp về trước đều như vậy). Trong kết lợi ích, văn ban đầu chia làm ba: Hai câu trên là bày pháp cao quý, hai câu kế là rõ công sâu, câu trên trụ pháp, câu dưới nhiếp Tăng, hai câu sau khen rộng. Trong trích dẫn chế giáo, tức luật thêm một trong văn gồm có mười câu. Văn Sao từ đầu đến tăng, chữ lai là câu đầu, chữ linh trở xuống chín câu đều lược bày, như nói rằng: “Như lai ra đời vì một ng- hóa”, cho nên chế quở trách, v. v… cái gọi là khiến Tăng vui vẻ (cho đến thứ mười đều y cứ theo đây). Thêm thứ hai, chín câu, như nói rằng “Như lai ra đời vì hai nghĩa” cho nên chế quở trách, v.v… nghĩa là nhiếp thủ tăng khiến tăng vui vẻ (câu thứ hai cũng như trên. Đã nêu rằng: “nghĩa là khiến tăng vui vẻ, khiến tăng an lạc”, như vậy lần lựa đến thứ mười đều như vậy). Thêm thứ ba là ba nghĩa, cho nên có tám câu, cho đến thêm chín là chín nghĩa, nên có hai câu, thêm mười luật lược bớt không nêu, cộng chung là mười nghĩa thành một câu (Xưa ghi giải lầm cho nên đều dẫn). Niết-bàn cũng nêu ra thứ ba: đầu tiên chỉ trước nêu sau, chữ hữu trở xuống là chính trợ chia làm hai: Ban đầu khuyên đạo chúng. Trừng là răn đe, chữ hựu trở xuống là khuyên kẻ đạo người tục, chia làm hai, đầu tiên là khuyên học. Bốn chúng tức Tăng, Ni, cư só nam, và cư só nữ. Sau nói bốn bộ cũng đồng. chính pháp, kinh nói là giới, định, tuệ. Chữ nhược trở xuống là thứ hai khuyên khổ trị. Kinh Đại Tập cũng nêu ra phẩm Hộ Pháp, văn có hai: Ban đầu nói lợi ích hộ người đúng như pháp. Về bốn họ: giòng họ ở Ấn-độ chỉ có bốn họ: 1- Sát-đế-lợi (giòng vua). 2- Bà-la-môn (tịnh hạnh). 3- Tỳ-xá (thương buôn). 4- Thủ- đà (nông dân). Chữ nhược trở xuống là thứ hai, nói về sự tổn hại theo người khác. Trong lời hỏi, hai kinh trái nhau cho nên phải hòa hợp. Trong phần đáp, ban đầu cả hai gồm giải thích. Chữ hựu trở xuống là bỏ giải thích trước, cùng tức dạy dỗ. Lụy là chúc lụy. Một đời quy về nên nói là giáo bổn. Quyết trước không rõ cho nên nói là chính nghĩa. Chữ lưỡng trở xuống là song kết. Trong trị ác mắng, đầu tiên là bày duyên. Mạc vấn, là không được tự nói. Chữ ngữ trở xuống là chính trị, chia làm ba: đầu tiên là bày chỗ khác không dung. Chữ như trở xuống là thứ hai, nói ngay chúng đã bỏ, là hợp hòa. Dặc là cái cọc buộc ngựa, trụ trên là nêu dụ. Chữ nhữ trở xuống là hợp pháp. Không thấy tội là ác mắng khó điều phục ở trên. Tất cả đều bỏ là hợp với cọc ở trên đều bỏ. Chữ như thị trở xuống là thứ ba nói trị rồi đuổi ra. Không cầu cho là do kia hung ác quyết không cho, nên ở đây tức cho là im lặng, nhận sự quở trách của tăng vì không từ chối. Trong mặc tẫn, ban đầu dẫn bày. Phạm đàn, có chỗ nói rằng: “Trước cung Phạm Vương lập một đàn”, Thiên chúng không đúng như pháp, khiến đứng trên đàn, không qua lại nói năng” với các vị trời khác. Trong luật Ngũ Phần, do Xiển-đề xúc não tăng cho nên dùng đây trị. Kế trong Luận Trí Độ, cường quảng nghĩa là tính thô ác. Chữ dó trở xuống là nêu lý do. Ngữ là dùng lời làm vui. Chung cho cõi Sắc là hạnh Phạm Thiên, nói cố trái nghĩa là ý đặc biệt. Chữ thử trở xuống là khuyên làm. Cũng có, v.v… tức Tăng-kỳ quyển hai mươi bốn, do Ma- ha-la phạm các tội, tuy sám hối vẫn cứ làm, bèn làm yết-ma không nói chuyện với vị ấy. Nay nói rằng tìm bổn chưa được là bày vì có quên sót. Chữ tạp trở xuống là dẫn chứng. Nhu nhuyến nghĩa là khuyên dụ, ngang bướng tức là trích phạt (thâu chung bảy pháp). Giết là mặc tẫn. Chữ vị trở xuống là nói tướng có ba món. Không nói chuyện với vị ấy tức sự bàn nói hằng ngày. Giáo thọ là y cứ nghiệp học, giáo ước là y cứ lỗi lầm (xưa phối hợp nhu nhuyến với bốn yết-ma, phối ngang bướng với ba cử để làm rõ). Hỏi: Hai pháp sau đã không nêu lỗi thì lúc nào dùng? Đáp: Đây gọi là hung dữ lại phạm tội nặng. Trước yết-ma nói rằng: “Lại thêm trị tội”, và trong tạp A-hàm vẫn là người không điều phục, nghiệm hai pháp nầy quyết không đơn tác, vì trong không đủ số thì không có người nầy. Hỏi: Vậy đồng khác thế nào? Đáp: Trước phải ra khỏi giới không chế nói khác, sau ở chúng bổn trụ không nói chuyện chung. Nếu luận phạm lỗi thì đồng bảy món trước. Hỏi: Vậy nặng nhẹ thế nào? Đáp: Trước nhẹ sau nặng, trước chỉ như bỏ đi, sau dụ như giết luôn. Hỏi: Hai pháp là thứ lớp dùng ư? Đáp: Ác mắng trị là luật thêm mặc tẫn, tông khác nêu ra suy xét tình lỗi tùy dùng một pháp trị. Hỏi: Hai pháp nầy vì sao không phải đoạt hạnh? Đáp: Đã là thêm phạt, vì đoạt hạnh ở trước. Trong diệt tẫn, nếu y cứ nêu trước, chỉ nói rằng “bảy, chín” do đồng trích phạt nương đây rõ đó, nhưng trong bổn luật chỉ khiến diệt tẫn, thêm pháp không có văn kết, dịch sớ lại sót, cho nên dẫn bộ khác dùng thành hành sự. Trong văn gia pháp, nếu y cứ Ngũ Phần thì tác bạch cùng ác ma, lệ đều bốn câu. Nay đều thêm để thành một thể. Văn tựa cái gọi là kiến hành yết-ma, nhận làm tông nầy, hễ thấy thì thấy nghĩa nầy. Trong duyên, không cộng trụ là yết-ma và nói giới hai món trong Tăng không nhiếp. Không cộng sự là bặt phần lợi dưỡng. Trong phần chọn khác, Đa Luận không lấy tự nói vì chúng đều bỏ. Không hiện tiền là cho từ xa giúp. Chữ nhược trở xuống là y cứ theo Luật để quyết luận. Chữ như trở xuống là chỉ sự, đủ số đã dẫn, ở đây cũng đồng, đại chúng đồng biết, Phật cũng quở ngăn khiến phải tự nói, cho nên biết không chấp nhận. Lại không hiện, luật cũng không khai. Năm pháp hiện tiền chung cho các yết-ma, nhưng luận chấp nhận, hoặc là hung ác, chúng không thể chế, Thánh Luận đã nêu ra quyết không nói suông. Trong bác bỏ lạm, tệ kia lúc pháp luật thạnh hành mà còn có nhiều, huống gì ngày nay đời mạt pháp càng không nói hết. Trong phi pháp đại khoa thứ hai gồm nêu chia làm ba: Hai câu đầu gồm nêu, chữ ẩm trở xuống là thứ hai bày tướng, đầu tiên là nêu các phi trị. Chữ hoặc tác trở xuống là thứ hai rõ ba món phi chế. Trong ban đầu, uống rượu, v.v… là bày lỗi đã phạm, phạt tiền trở xuống là nêu pháp năng trị. Phần lớn chia làm năm món, ban đầu phạt tài vật. Nhận hối lộ cũng là tài bảo biếu cho liền hết. Tuy chẳng phải pháp chế, nhưng do trước đồng hòa không đưa thành nặng, bốn món khác có thể biết. Trọn năm khổ nhọc một câu luôn thuộc văn trên làm một món, khai khẩn cày bừa cắt cỏ. Kế bày ba món chế, là đồng loại phép tắc sửa trị chúng viện ngày nay. Ban đầu trong chế phá giới đã nêu nhiều, tướng và luật đều cấm, trái lập là chế. Cắt cỏ tức phạm đào hoại. Phần ăn của tăng tức trộm của thường trụ mua bán, v.v… tức chứa vật bất tịnh, còn bao nhiêu có thể biết. Tức thiền chúng ngày nay không biết giới tướng, khắp nhóm tăng chúng, lặt rau làm đồ ăn, nêu đời thạnh truyền, tự khoe làm chính, thì tệ lậu đây từ lâu, ai là người sửa? Khoa sách nghĩa là tính toàn vơ vét, chứa tức miệng sinh, sản nghĩa là ruộng đất, là ba món trong chế thuận thế tục. Tá là buông tha, vua ở đời khắp tha, Tăng lấy làm chế. Hối lộ được thoát là bắt chước theo thế tục chuộc tội hình, nhân lợi cầu lợi là mất ít đạt nhiều. Trong chế phi pháp cũng có ba, Lộ lập tức khỏa thân, thổi tro là thổi tro bụi. Chữ như thị trở xuống là kết chung thứ ba. Trong suy giải thích, đầu tiên là bày lý do phi pháp. Trên rõ trái giáo, dưới bày mặt làm ác. Cương duy là Thủ chúng. Chữ chúng sinh trở xuống là thứ hai nói thiện không thêm ác, như sau dẫn tức chỉ cho khoa sau. Trong dẫn chứng, Tăng-kỳ kế bày ba pháp, đầu tiên nói thiện mạnh ác yếu, cho có thể quở trách. Chữ nhược trở xuống là bày ác mạnh thiện yếu, sức chế không nghe, cho nên khai nói người khác dùng tự khỏi lỗi. Chỉ ba người vì đến bốn thì thành tăng, nghĩa là phải quở trách can ngăn, sợ biệt chúng phá tăng. Không tướng đến ông, là sợ chẳng đồng ý, tự khổ não. Nếu không trở xuống là lại không cho nói cho nên khai tâm niệm. Mắt đối phi pháp ý đã khác nhau gọi là thấy không muốn. Kế trong Mẫu luận, nói như trên là chỉ cho đồng với luật Tăng-kỳ, như thiên yết-ma dẫn đủ. Trong quyết phạm, sợ nghi phạt tiền, chẳng phải lý thành phạm tội trộm, cho nên trong phần đáp, ban đầu nói chẳng phải phạm. Chữ phi bất trở xuống là nói có phạm. Phi pháp chế là đều mắc tội Đột-cát-la, vì chế khinh mà nghiệp nặng. Trong chính chế, đầu tiên có bốn phần. Chữ yếu bình thanh, ng- hóa là chế ước. Lại sau câu trên là lập chế, câu dưới là khuyên nương. Luật Ngũ Phần nói có hai đoạn, trên khai cho trái Phật, dưới khiến phải thuận thời, như quốc chế hiện nay Ni không nương tăng, vay mượn công bằng. Sau dẫn Luận Bà-Sa chuyển giải thích luật Ngũ Phần. Trong Giới Sớ giải như cầm vật cấm, lệ ra khỏi cảnh, đây phần nhiều lạm dụng, người học phải phân biệt rõ. Trong nêu bày, Liễu Luận ban đầu bày chế như pháp. Chữ vi trở xuống là khuyên thuận theo. Chữ hoặc trở xuống là thông kéo dài. Hoặc khi cần là chỉ bày có duyên. Trong kinh Đại Tập sợ bỏ đạo nghiệp chỉ bày có hạn chừng mười vòng như trên. Luật Tăng-kỳ, kia do Phật chế tọa cụ lượng nhỏ, các Tỳ-kheo tranh cãi ồn ào, Xá-lợi-phất làm Thượng tọa bị Phật quở rằng: “Thầy thấy nói vậy sao lại im lặng, nay ta phạt thầy”. Trong ngày đứng, v.v… các luật sau bảy pháp có thể biết. Đoạn thực, v.v… xuất xứ từ Tăng-kỳ, Tăng-kỳ chép: “Nếu Thầy quở trách không nhận phải nói người biết việc (tri sự) đoạn thực (cắt phần ăn)”. Lại nói: “Cho đệ tử y rồi không thể giáo giới để chiết phục, thì đoạt lại, v.v…” rộng như trong phép thầy trò đã dẫn. Trên rõ pháp trị Đại tăng. Chữ trị trở xuống là pháp phạt tiểu chúng. Xấu sống, chạm đồ ăn, đều phạm phi. Chữ tinh trở xuống là tổng kết. Thứ hai, trong ăn, khoa đầu chia làm hai: đầu tiên bày ý rằng “Đại ngu”, là chúng sinh cõi Dục đều dùng thứ ăn để nuôi thân mạng, vì không thể thiếu. Thăm hỏi: Đức Thế Tôn hể thấy đệ tử thì trước hỏi thăm chứng biết việc trọng. Chữ kim trở xuống là thứ hai bày phi, biệt trụ tức gọi là chùa Tăng. Trong dẫn xưa tức chùa Dụ Sư cáo văn chia làm hai, đầu tiên là nói ý lập chùa. Lại ba món đầu nói về đạo thông. Chữ vi đãi trở xuống là nói về sự thông. Chữ vô trở xuống là giải thích hai thứ thông ở trên. Nhưng trong luật cũng có chủ khách đối đãi nhau. Lai y cứ ở có cũ, có mới nên gượng chia chủ khách. Nếu nói về việc đạo quyết không có kia đây. Tăng lý, nếu y cứ lý hòa tức là chân lý, nếu luận sư hòa là chỉ cho đạo lý, bình đẳng tức hòa. Cho nên sau kế là nói về chế độ ăn uống. Trước bày nghĩa chung. Như pháp, nghĩa là năm chúng xuất gia thể tướng không thiếu. Đến thời tức giữa trước mà đến. Chữ nhiên trở xuống là kế rõ dụng cho. Nhậm đạo: nhậm nghĩa là gánh vác, tức mạng chúng sinh. Trong khuyên mở lòng, hai câu đầu là nêu trước để bảo, chữ chân trở xuống là bày ý để khuyên. Ban đầu rõ bổn chí xuất gia. Bốn oán tức bốn ma, cả bốn đều chướng đạo dụ đó như kẻ thù. Sáu thân là cha, mẹ, anh, em, vợ, con. Tục hư vọng tức là bốn loại ở trên. Đạo chân thật là quả Niết-bàn. Chữ thị trở xuống là chính khuyên. Trong trách kî hẹp, ban đầu bày ý chung. Chữ nhi trở xuống là quở trách. Chữ minh trở xuống là trái việc gốc. Chữ xuất trở xuống là trái đạo gốc. Trong bày tổn có ba: đầu tiên suy cuộc hạn thấy giữ gìn thân ma- ïng, tâm không kính mến xa. Sau thứ hai là bày tổn hại, bốn câu trên là tự mình tổn. Chữ truyền trở xuống tức lầm người khác, xin rõ các lỗi thương tổn rất sâu, nghe mà không làm vì chưa xét ý gì. Hậu sinh nghĩa là học tập theo không cùng, nên nói là xa. Chữ cải trở xuống là thứ ba, răn dè khuyên can. Trong phần giải thích cạn, việc Tăng tức đồ ăn. Trong phần đáp không cùng, bốn câu đầu quở trách, chẳng hỏi việc vụn vặt. Chữ phu trở xuống là bày ruộng phước. Bốn bối nghĩa là trời, người, rồng và quỉ, tức chủ năng thí. Tam Bảo tức cảnh được thí. Chữ du trở xuống là lược nêu bốn vật để dụ cho vô tận. Trời đất sinh trưởng dụ cho nuôi nấng bốn loài liên tục không dứt. Núi sông thọ dụng dụ như ruộng phước Tam Bảo ra vào không cùng. Trong dẫn chứng, ban đầu dẫn văn kinh. Hành đạo, đạo là pháp định, tuệ; hành là giới luật. Sợi lông trắng của Phật có trăm ngàn ức phần phước, giảm một phần cho Xá-lợi và các đệ tử. Chữ do trở xuống là y cứ theo kinh bày khuyên. Trong nêu việc hiện tại, chữ thừa nghĩa là chính thân truyền nghe, việc tương tự ngược nghĩa thật đúng. Nói là khách, nghĩa là vì đãi khách nên đến đỗi nghèo cùng. Trong chẳng phải trí biện, câu đầu là lãnh trên. Chữ nhân trở xuống là bác bỏ đến hỏi. Ban đầu nêu hỏi trách phi, chữ nhược trở xuống là thuận tính rõ cuộc hạn, đã là người ngu thì sức không chung cùng, tâm nầy liền bị cuộc hạn nơi nhỏ nhặt, sự quyết không đủ. Kia nói không trống cho nên nói là đầy. Trong nói về hoặc, đầu tiên là lý do sở hoặc, chữ nhiên trở xuống là rõ ý không thiếu. Trong Chú, dẫn việc đời để khuyên, ban đầu nêu việc, chữ diệc trở xuống một câu là nêu ra Luận Ngữ (kia nói rằng: “nghĩa song sau lấy người không nhàm thủ kia” là rõ đây nghĩa ăn, việc đã đúng nghi, người cũng ưa thí cho nên không hết). Chữ thử trở xuống là chính khuyên, ban đầu chỉ việc trước để dụ. Chữ thả trở xuống là dẫn lễ ở đời để dụ, cũng là văn Luận Ngữ (Sách ấy nói rằng: Quân tử cầu đạo không cầu ăn). Chữ dư trở xuống là than thời lại răn nhắc, tích là chứa nhiều, Sự là ăn uống. Trong rõ dùng cho, khoa đầu tiên nói rằng: “một không cho ấy, nghĩa là không dùng phi, quyết có thể nương pháp như sau thì cho”. Khoa kế, trong phần nói về lợi ích, đầu tiên nói về khéo dùng. Chú rằng: “Chẳng sinh ưa do nhậm tình, chẳng sinh ghét do nương pháp”. Chữ thị trở xuống là kết lợi ích. Trong phần nói về tổn, ban đầu nói chẳng dùng. Chữ linh trở xuống là bày lỗi. Ban đầu nói về mất lợi, sau khiến các trở xuống là nói về đọa khổ. Đạo tục phần: Đạo tu trí phần làm ruộng phước cho tục, tục tu phước phần phải cúng dường đạo chúng. Nay thì trái ngược cho nên nói là không biết. Hủy Ba qui y là mắt tín tâm kia, xâm lấn Tam Bảo, chữ trị trở xuống là kết tổn. Trong chỉ lược, tùy tướng tức giới trộm, giặc và không tin, đều khai cho ăn. Phải nghó, nghĩa là so lường, kế dẫn lời Thánh. Trong tác tướng, văn Đa Luận chia làm hai: Ban đầu nói về chế pháp, ba câu trước chế phải làm, Tăng-kỳ: Hán dịch là “Đại chúng” tức thức ăn của thường trụ, trong chú bốn tướng, đồng với đồ thổi, đánh trống, xướng lịnh. Chữ nhiên trở xuống là chế cần định, do chuông trống nhóm tăng thất thường không chuẩn mực, đến đỗi có được mất, cho nên chẳng phải pháp tăng. Chữ nhược trở xuống nói về lỗi không làm. Trộm Tăng-kỳ là nói hai món thường trụ di-lan khác, như trong giới trộm. Chữ hựu trở xuống là thứ hai, nói về khỏi lỗi. Ban đầu nói đồng giới có đến không? Văn chú y cứ trên chế định để quyết thời vụ. Nếu đại giới, v.v… trở xuống là nói nhiều chỗ xen làm. Luật Thiện Kiến đại lược đồng như trước. Trong tạo nhận, Đa Luận đoạn trước rõ tạo, đầu tiên nói rõ giới hạn thường, mau nêu một học để bày tướng kia, mười đấu là một học, nay gọi là một thạch. Nếu bớt trở xuống là nói thêm bớt. Hai, là kết tội trộm đều y cứ biết việc. Chữ ký trở xuống là nói người nhiều ít, nhiều thì chia đều, ít thì để lại. Chú quyết văn luận, nhiều quyết không. Kế nếu… trở xuống là nói nhận cần đồng đều không được quá phần, sau dẫn luật luận ý cũng đồng. Trong luận ăn riêng là luận kia y cứ chúng tăng cho riêng, cho nên nhẹ. Không bịnh đòi ăn là xếp vào khoa trộm lại gồm cả nói dối, lý mắc hai tội. Chữ dư trở xuống là chỉ cho kinh, kia nói “Thời Phật Ca-diếp, có Tỳ-kheo làm Thượng tọa tăng mà không biết thiền tụng, không hiểu giới luật, ăn no ngủ say, chỉ bàn nói những lời vô ích, ai cúng món ăn ngon thì ăn uống trước chúng tăng, do nhân duyên nầy đọa vào địa ngục làm cục thịt lớn bị lửa đốt, chịu khổ đến nay chưa dứt”, kinh kia việc rộng người cần phải tìm đó. Các chúng ngày nay phần nhiều có lỗi nầy, tuy truyền dạy Kinh luật mà không biết nhân quả, riêng sửa soạn đồ ăn ngon lạ, ăn riêng với chúng, buông lung tâm tham, xâm tổn của thường trụ, đâu nghó rằng trái lời Phật dạy, thương tổn tình cảm chúng tăng, được chút ít ngon béo trong chốc lát lại chịu khổ sở trong đêm dài. Than ôi! Keo kiệt bủn xỉn biết phục tâm nào. Trong nghĩa quyết, phá giới chỉ là y cứ bốn tội nặng, tài pháp không có phần. Tội tăng tàn trở xuống đều không thể khác. Sau trong chín mươi đơn đọa, luận biệt chúng là y cứ thí chủ cho ăn, nên phạm tội Ba-dật-đề, ở đây rõ thường trụ, riêng khác thành tội nặng, thiếu kia tự chia thành trộm tổn. Bố thí ngoại đạo thì không tự tay cho, vì trong Ba- dật-đề cấm. Tứ là hầu hạ. Trong Tăng kế, ban đầu bày phi pháp, giản nghĩa là lựa bỏ, tức sau kết phạm. Ba câu trên kết chúng sinh, hai câu dưới kết hợp chúng. Chữ hựu trở xuống là rõ lỗi. Không gọi chỗ tăng vì đồng nhà thế tục. Trong trụ xứ chia làm hai: Ban đầu đến biển đức là nói Pháp sư đúng pháp. Trước rõ trụ xứ, năm người có thể được ở biên quốc thọ giới gốc của giữ gìn cho nên nêu riêng. Chữ minh trở xuống là rõ đãi khách. Chữ sơ trở xuống là nói tu nghiệp. Chữ nhược trở xuống là kế nói che lấp phá giới. Chữ như trở xuống là chỉ rộng. Nay ở quyển 28 nói trong Chiêm Đãi nêu sáu hạng người: Người chỉ tùy tướng, sau dẫn luật Thập Tụng là cung cấp cho vua quan. Dùng mười chín tiền không cần bạch tăng, lại đòi bạch tăng. Người làm, lượng công mà cho tiền. Người giặc có tùy thời toan tính phác thảo (bốn hạng người trên xuất xứ trong luật Thập Tụng). Người thế tục, Ngũ Phần nói là người lòng dạ bối rối không tin, đồ tốt cho ăn, kẻ tin hiểu biết nói ăn khó tiêu, v.v… Người thanh tịnh, Luật Thiện Kiến chia xét trên dưới, phải xét cho ăn, sai khiến lâu dài phải thường cho cơm áo. Tóm lại lược dẫn đều rộng như sau. Trong y cứ pháp, đầu tiên nói rằng: “Riêng làm Yết-ma, nghĩa làm sám tội, thọ nhật v.v… Trong nêu tội, ban đầu nói đến cử, đã bảo với người thì gọi là phạm. Chữ tiên trở xuống là rõ khám nghiệm không nêu ra ba món: một căn, hai xứ, ba tội. Căn và xứ nêu thấy để hỏi; Nghe, nghi chỗ y cứ đồng. Trong tội văn lược tà mạng. Chữ như trở xuống là nói đền đáp. Trước rõ năng đáp nương làm, người có trí là chúng chủ. Chữ nhược bất trở xuống là nói vọng nêu trị ngược, nêu tội nặng trị tội tăng tàn, nêu tăng tàn trị Ba-dật-đề, nêu Ba-dật-đề trị Đột-cát-la, nên nói là y pháp. Sau trong dẫn chứng các tội khác là bốn tội nặng, đây gọi là thật phạm nhưng không y cứ, cho nên tức phạm bàng tội. Không thành ngăn, nghĩa là hay nêu bổn ý vì ngăn người khác nói tự tứ. Chữ văn diệc trở xuống là dùng nghĩa quyết văn, nghĩa là đối đáp tuy sai, tình cho thật giả, thành ra châm chước, chưa thể một bề thống nhất. Trong đến thời, ban đầu nêu việc răn dè cẩn thận. Chỗ làm nặng ấy như thiên trước gọi là cứu chúng sinh mê nặng nhiều kiếp sâu xa ra khỏi ba cõi. Chữ ám trở xuống là bày thời tiết tác pháp, trước nói giữa đêm là phi pháp. Nói đổi tiết là đứng ngồi sai trái. Kỳ là kính. Chữ sự trở xuống là khuyên sớm làm. Nói không dễ nghĩa là việc quan trọng. Trong đối người, pháp Thượng tọa, chỉ Tăng-kỳ như trong nói giới có dẫn. Trong cuồng si, đầu tiên là nêu chung ba phẩm, thứ nhất là trung phẩm, thứ hai là thượng phẩm, thứ ba là hạ phẩm. Thập Tụng trở xuống ba luật riêng bày trung phẩm. Sau chỉ cho Yết-ma ấy, luật nhân Tỳ- kheo Na-Na-Do tâm loạn cuồng si cho nên chế, bạch rằng: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo Na-na-do nầy tâm loạn cuồng si, hoặc nhớ thuyết giới, hoặc không nhớ thuyết giới, hoặc đến, hoặc không mà đến. Nếu Tăng phải thời mà đến, tăng bằng lòng làm yết-ma tâm loạn cuồng si cho Tỳ-kheo Na-na-do này hoặc nhớ, hoặc không nhớ, hoặc đến hoặc không đến, khi tăng làm Yết-ma nói giới, tác bạch như vậy (yết-ma y cứ theo đây mà làm). Bốn đối xứ rõ chừng. Trong oai nghi, đầu tiên là bày tổn ích, Thập Tụng trở xuống là dẫn văn làm chứng. Trong Già luận đều rõ Thượng tọa là phép tắc của chúng, ban đầu xem oai nghi nầy là chính. Chữ dụng trở xuống là hành thực, v.v… nhân đó mà dẫn. Tăng-bạt là tiếng Phạm, tức trên xướng pháp ăn bình đẳng. Trong thiên mời thỉnh cũng đồng dẫn ở đây, tức là đồng cúng. Thập Tụng trở xuống là chỉ đồng. Trong pháp xử chúng, ban đầu dẫn luận bày pháp Hiền, Thánh tức chúng đệ tử. Chữ chuẩn trở xuống là y cứ luận răn dè lỗi. Bất đắc trở xuống là nói trái với pháp trên. Chữ hựu trở xuống là trái với sự im lặng ở trên. Trong trang sức, khoa đầu chia làm hai: Hai câu trên là nêu chung, chữ Tát trở xuống là giải thích riêng. Trước rõ cắt gọt, đầu tiên Đa Luận nói về chế, trái thì có tội. Kế dẫn luật Tứ Phần, thời hạn không được lại quá. Thứ ba là dẫn kinh Niết-bàn để nói về lỗi. Đầu, tóc, móng, râu, có chỗ nói rằng: Nói trái lại nên nói là đầu tóc, râu, móng, hoặc có thể chọn các thứ lông khác, nên nói là đầu tóc, tức văn nói rằng “lông mặt”. Thiện Tạp nói móng tay dài nhất là bằng hạt lúa thì nên cắt. Kinh chép: “Đây là tướng phá giới”, cho nên nói là “Phật quở”. Chữ sở trở xuống là kế rõ chấp dùng, bày như tướng phi, ở văn sẽ hiểu. Sau chỉ giày, guốc như bình bát, cũng thấy trong thiên Hai y. Khoa kế, ban đầu nói năm pháp nhập chúng: 1- Tu tâm thương xót chúng sinh. 2- Khiêm hạ tự nhún mình. 3- Như Sao đã dẫn. 4- Nói giới pháp ngữ. 5- Thấy lỗi thầm sửa. Thập Tụng trở xuống, đầu tiên nói rời khỏi chỗ ngồi, kế nói vào nhà. Ban đầu thường tưởng pháp, kế đó pháp ra vào. Văn nói đông tây nêu đủ, lại y cứ cửa nhà phía Nam, mà nói lời cốt yếu. Nhưng khiến ra vào trước nêu bên gót ngạch cửa thì chung các chỗ khác, không cần phải Đông Tây. Nếu muốn, v.v… trở xuống là bày cách ngồi. Trong chấp dùng lìa dục, ban đầu nói áo quần kẻ tục, tập là loại quần, bào là loại áo, cừu là áo da, công là giày. Chữ đồng trở xuống là nói đồ thế tục, bát ngói thể xếp vào phi, hoặc vì sắc lượng không đúng như pháp (bổn viết hoặc không có chữ Ngõa). Chữ liển xưa mệt mỏi ngược với chữ du khứ thinh. Chữ tinh trở xuống là nói trái giáo. Chữ thiện trở xuống là dẫn chứng, đương giống như vậy. Vô tội, y cứ hoại vật người khác vốn là lấy trộm, vì tâm hộ pháp khai là không phạm. Đến chỗ rõ dụng, khoa đầu dẫn bài cáo của chùa. Trước bày lỗi để răn nhắc. Kinh là Niết-bàn phẩm ba mươi mốt chép: “Tuy không cùng hợp với người nữ chế diễu cười đùa, ở ngoài vách xa nghe các tiếng vòng xuyến anh lạc của người nữ kêu sinh tâm ái trước, Bồ-tát như vậy hủy phá tịnh giới làm ô nhục phạm hạnh”. Chữ Tăng trở xuống là dẫn chứng. Chữ tỷ trở xuống là lúc bác bỏ, đầu tiên bày tăng ở chùa. Lưu uế nghĩa là chứa người nữ. Bỏ tịnh là trừ tịnh nhân, anh là tận. Chữ kim thời trở xuống là người ngu phần nhiều nhân kim, chỉ, bước đến nhà dâm vời lấy sự chê bai của người đời, hoặc ở tăng phường lôi kéo nhiều ngày, lấy cho không giữ gìn sự xúc chạm, nói cười không dè dặt lời thô, nhiễm ý lén nhìn, niệm niệm kết nặng, ngồi đứng lâu ở lều quán, mỗi việc đều mắc tội Ba-dật-đề, hiện đời bị phép phạt của thế gian, lìa hẳn ca-sa, đời sau chịu khổ trong ngục Nê-lê, bị thiêu nấu rất khó kham nổi, nên vâng theo lời Phật mới bảo đảm được lúc qua đời. Chữ câu đồng với ràng buộc, nghĩa là như cầm tù. Sau rõ chùa Ni đối ngược trong tăng. Trong khoa kế, ban đầu bày lỗi không kết. Khố tàng là kho vựa, trong văn nói hai lần, tịnh tức là tịnh địa. Đạo tục lạm là không có chỗ riêng. Tịnh uế lẫn lộn là không phân biệt được chỗ ngủ và chỗ nấu, phạm hay không phạm. Chữ lập trở xuống là kế trách không biết. Nói chợt nghe là hoặc người biết pháp ra lệnh sai làm. Hoặc tai là nghe không hiểu. Kinh tâm nghĩa là mới lặp. Chữ khởi trở xuống là suy lỗi. Tịnh trụ là tên khác của già lam. Trong thứ ba, ban đầu nói về lỗi. Bật là dụng cụ của xe ngựa (ng- hóa là yên cương, v.v…), cương là dây cương ngựa, bán là cái cùm để buộc ngựa. Quyện là vòng mũi trâu, quyết là cọc buộc trâu ngựa. Chữ tạp trở xuống là dẫn bày. Lưu trú là nghiệp ác cùng khắp. Tương tục là niệm niệm tăng thêm. Sở dó như vậy, là do kia tâm hại chẳng phải chỉ một cảnh. Lại không thời hạn cho nên khéo sinh thành. Bàn mất giới lành là thế ác quá mạnh. Chữ kim trở xuống là y cứ bác bỏ, cư dụ như hợp. Nói đồng súc, là hoặc chúng chủ tự làm, tâm cả chúng không muốn, nghĩa không bao gồm chúng. Nói không giới là nghiệp ác thuận hoặc, thế lực mạnh mẽ tất cả giới lành đều dứt sự nối nhau, cho nên có người nói rằng: “Lại là một loại chuộc, giới thượng thiện không tiếp tục được”, chẳng phải gọi là các giới khác đều không. Lại nói rằng “Đây chính là răn dạy siêng năng rất tha thiết”. Trong thứ tư, ban đầu bày phi pháp. Cứ là cao ngạo. Nói y thời là các thời như pháp thực, v.v… Chữ tự trở xuống là bày chỗ tổn. Chữ tịnh trở xuống là suy nguồn lỗi. Trong phần xem xét nói giới, đầu tiên là nói chỉ trao. Chữ Minh trở xuống là dạy khuyên dẫn dắt. Thứ năm trong tạp giáo thọ hay can ngăn, ban đầu dẫn bàn năm pháp. Tự có lỗi lầm không chịu nghe người can ngăn. Chữ tất trở xuống là kia chấp nhận, thì không trái cãi. Chữ thử trở xuống là chính bày can ngăn. Can ngăn các lỗi, trong đó có hai: Ban đầu can ngăn ở chỗ vắng. Lời can ngăn lại có ba: Ban đầu là phiếm dụ, chữ kim trở xuống là chính bày, chữ dục trở xuống là bày ý. Chữ tất trở xuống là kế nói đối chúng can ngăn mắc tội ấy, trái giáo phạm Đột-cát-la. Trong can ngăn trái chế, ban đầu là khuyên chung. Dẫn là trì, rõ tuy là người chế nhưng Phật dạy giữ gìn cho nên không thể trái. Chữ kim trở xuống là thứ hai chính bày. Nhìn người xét mình cho nên nói là xem xét giới, lược bày phép tắc, còn bao nhiêu mặc tình gặp thời chế cho nên bày, v.v… Trong căn ngăn sáu tụ, ở đây có gì khác với can ngăn ban đầu? Đáp: Trước ở trong chúng phù phiếm, tâm tính thô bạo chưa điều phục, chỉ nói là có lỗi, không nói ở tụ nào. Trong văn đầu dụ chung, chữ kiến trở xuống là thứ hai, xét phạm khuyên sám hối. Trái lời trên ấy, một thấy phạm, hai phạm rồi năng sám. Chú khiến dẫn kinh ấy, kia nói rằng: “Chớ cho là tội nhỏ mà không có tai ương, giọt nước dầu nhỏ lần đây chum lớn”. Các kinh khác chưa rõ văn gì. Trong năm món bất thiện: một, là đoạn rồi sinh thiện. Hai, tức khởi chưa sinh ác. Ba, là trái giáo. Bốn, là chướng đạo. Năm, là quả báo đời sau. Trong can ngăn đem phạt, ban đầu dùng đức tăng để khuyên. Chữ lại nói trở xuống là dùng trị nêu để khuyên. Chữ lại không trở xuống là dùng đoạt hạnh khuyên, các văn khác có thể biết. Trong phần nói về nhiếp chúng, ban đầu nói lợi ích. Chứ khiên giống như dẫn, khóa là tôi. Dẫn mà chỉ huy đó là nói dẫn dắt khuyên dụ không mệt mỏi khiến chúng được lợi ích. Chữ tất trở xuống là bày tổn, ban đầu chính chỉ bày. Tuổi tuy già mà đối với pháp không biết thì giống như người nhỏ tuổi. Chữ cố trở xuống là dẫn chứng. Trong lu- ật, đồ chúng của A-nan làm phi pháp bị Ca-diếp quở. Các dục mất ấy, thầm dụ như hư hoại. Ông là người tuổi nhỏ là mạng A-nan. Chữ Câu trở xuống hai câu là bác bỏ buông lung. Chữ sơ trở xuống hai câu là bác bỏ biếng nhác. Chữ biến trở xuống hai câu là bác bỏ dối ăn của tín thí, cho nên nói phá “cốc”. Lại giải “cốc” tức là huấn thiện, nói hoại tâm tịnh tín của người (Luận ngữ chép: “Ba năm học không đến nơi cốc” chú giải rằng Cốc là thiện, tức là khéo). Chữ dó trở xuống là y cứ văn trước răn dè. Nói biết pháp tướng ấy, là vì học rộng, nếu y cứ Phật đối với A-nan dụ như người học. (tờ 1 2 6). Nay nói vô là nói theo sau. Tự khinh nghĩa là không cho nhiếp chúng là quan trọng. Trong phần chọn người, ban đầu là nêu. Chữ Tu trở xuống sáu câu là nêu năm đức: 1/ Hạnh trong sạch. 2/ Chí bền. 3/ Học rộng (giữa hai câu). 4/ Hiểu cao. 5/ Trí sâu. Chữ khả trở xuống hai câu là bày có công năng kham lãnh. Ngày nay mờ mịt xấu xa không có một đức, liền ở đầu hàng tăng ngu si, cùng nhau làm việc phi pháp, chỉ mưu cầu lợi dưỡng, còn bao nhiêu đều không hiểu biết, đáng thương xót thay. Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký Quyển thượng, phần hai xong. <篇> TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN THƯỢNG (PHẦN 3) THIÊN THỌ GIẢI THÍCH GIỚI Thọ là tâm năng lãnh thọ, giới là pháp được nhân. Thọ có chung năm loại: 1- Thiện lai. 2- Ba lần nói. 3- Phá kiết. 4- Tám kính. 5- Yết- ma. Giới chia ra bốn vị (năm giới, tám giới, mười giới, giới cụ túc). Nay nêu thọ là y cứ yết-ma, giới là giới cụ túc. Tựu trung yết-ma tự chia sáu vị (trong tăng mười vị hay năm vị. Trong Ni có hai mươi vị, nghĩa là lập mười vị, tằng giá nhỏ tuổi, thiếu lòng tin, gồm trước cộng thành mười thọ). Nay y cứ văn nầy, chính là nói trong đại tăng ở giữa nước mười vị, tăng hành sự yết-ma, nghĩa gồm biên địa năm vị. Chúng khác sự đồng cho nên không nêu riêng. Duyên tức năm món trong văn, đến xa lìa là mười bốn, các duyên nhóm họp tác nghiệp mới thành, cho nên nói là nhóm họp. Sớ chép: Phật ở đời hàng lợi cơ siêng khế hợp liền cảm, đời mạt pháp Thánh chế khe khắc theo duyên, duyên nhóm thì tác nghiệp mới thành, duyên tán thì giới đức không lập, ý văn rất giống. Sở dó không nói nhân là vì nếu y cứ vào nhờ nhau thành nghiệp thì nhân duyên ng- hóa thông, nếu luận công có thân sơ thì trong ngoài thể khác. Nay nói rằng duyên nhóm, lại y cứ vào thông luận còn chỗ khác theo hai nên ý khác. Trong phần nêu khen, phàm phu tệ xấu là tên chung của sáu đường; phiền não, nghiệp, khổ là cấu nhiễm bất tịnh cho nên gọi là uế lưu. Thánh chúng là tên chung của Ba thừa, thánh đạo vô lậu được người, trời tôn trọng cho nên nói là “ngôi báu”. Trên nói chỗ bỏ, dưới nói chỗ được. Trong bày duyên, sáu câu ba ý thứ lớp sinh nhau. Ban đầu nói tâm rộng duyên nhiều, câu trên tiếp trước siêu nhập. Dưới nói rằng duyên nhiều tức là các tướng chung riêng của năm vị (Có thuyết nói duyên nhiều tức cảnh pháp giới, rất sai ý văn). Hai câu kế nói về duyên nhiều việc khó, pháp sự là tên chính gia ở sau, tức lời nói, hoặc có thể viết là vưu. Hai câu sau nói sự khó, phải xét lại. Trong phần bác bỏ chung, hai câu đầu là bác bỏ không biết ngăn đón. Mỗi giống như nhiều. Sư và tượng nghĩa là một, nhà văn nêu chồng thêm học giáo, biệt pháp nêu việc thành lợi ích, cho nên nói là thật dễ. Không học thì mờ mịt giáo pháp, mình người đều tổn cho nên nói là thật khó, ý rằng làm thầy vốn dễ mà lại khó. Chữ đãn trở xuống là suy lý do vọng làm. Thông nghĩa là theo xưa, cách là mới, sự tuy xưa truyền vẫn cho là có sửa đổi, kia chỉ chấp xưa nên nói là không suy nghĩa, chân giáo tức là Luật. Trong bày phi, năm câu tức bao gồm bốn duyên. Câu hai, câu năm là sự phi, còn ba câu kia có thể thấy. Chấp văn tức là thưa đọc, chương là già nạn có thông được chăng? Nạn thì đóng hẳn, mỏng nghĩa là bên trong không đầy. Xấu nghĩa là thể tướng trái thường, văn lược nghĩa biệt chúng quyết gồm. Mượn tiếng y bát, lỗi ở năng thọ, nên nói là Tự. Trong kết tổn, hai câu trên chỉ bác bỏ. Chữ hư trở xuống nói về tổn người, đường cũng là hư, là dối. Chữ hậu trở xuống là bày tổn mình. Trong dẫn khuyên, đầu tiên dẫn kinh. Chữ thử trở xuống là y cứ theo kinh khuyên cẩn thận, không thể lầm người. Nếu y cứ bổn luật được liền lại thọ, nay trông sự khó nên nói là không nên. Chữ cố trở xuống là chính bày ý thiên. Trong đủ duyên, ghi chép xưa và khoa nầy là năm duyên xưa, nghĩa là trong chính thêm, mười món phương tiện là nay mười duyên Sư. Hủy giáo của Tổ Sư, làm mù mắt kẻ hậu học, rất là lừa dối, bỗng lỗi ở đây. Vả lại năm duyên hành sự này trước sau bao gồm hết đây, lựa chọn có thể được hay chăng? Xem xét được mất, quy cảnh năng thọ là giềng mối của một thiên đầu, cho nên đặc biệt nêu, tổng ý sở dó trước bày là dụ cho chú văn yết-ma cũng đồng trụ ở đây. Trong Sớ giải thích lại càng rõ. Đều không thảo luận liền xuyên tạc, người đến học chưa suốt thì vọng truyền nào cùng. Trong nhân đạo, ban đầu chọn đường khác. Nếu y cứ nhiều tông, các đường chung thọ ba qui y, không thấm nhuần giới pháp, thành tông cũng chung cho năm giới, tám giới, nhưng chướng xuất gia. Nay nói thọ giới cụ túc các đạo khác đều khó nhiếp. Chữ như trở xuống là nêu đó. Sở dó như vậy, là cõi trời nhiều khổ vui, Tu-la hoài nghi, quỷ thần dối gạt, súc sinh ngu si, địa ngục thường khổ, chỉ cõi người đây khổ nhẹ hơn các đường ở dưới, vui kém hơn cõi trời ở trên, ý thức mạnh niệm lực có thể tôn sùng đạo nghiệp, đều rộng như Sớ, tiếp lược trích dẫn. Chữ Tăng-kỳ trở xuống là lại chọn nhân đạo. Văn có hai tiết, trước lựa tuổi ít mà có khả năng kham lãnh cũng thế, sau chọn năm tuổi dầu lớn cũng ngăn, văn sau chỉ rộng. Kia chép: “Tám mươi, chín mươi, thì quá già. Quá bảy mươi nằm ngồi cần người dìu đỡ thì không cho độ, nếu tu tập được các nghiệp thì cho xuất gia (nghĩa là làm Sa-di). Hai, các căn đủ ấy là do tướng nghi có thiếu, làm ô nhục tăng chúng cho nên phải chọn. Văn có ba đoạn: 1- Giải thích duyên tướng, thân đủ, v.v… là lược bày ba căn. Trăm già là nêu đại số, chữ Luật trở xuống là chỉ rộng, như sau dẫn đủ. Chữ y cứ trở xuống là quyết văn lu- ật. Ban đầu chọn hằng định, Sớ chép: “Ba căn tai, lưỡi, ý giúp đạo thù thắng. Do tai nghe pháp, ý duyên tà chính, có nghi thông quyết, nếu chẳng phải lưỡi thì không thể nói, ba căn nầy có thiếu thì không thành thọ. Chữ dư trở xuống nói về thông định như trên đã nêu, tướng có nặng nhẹ như trong chính hỏi, sau chỉ nghĩa văn sao thấy ở quyển thượng. Trong ba món thân khí nếu hoàn toàn chưa thọ, cho người làm ô nhục Ni, tặc trụ, năm tội nghịch thọ năm giới, tám giới, mười giới thì có biên tội tặc trụ, cho nên nói rằng “Tục đã đến”, v.v… Mười ba nạn, vả lại nêu chung, ở đây chọn thân khí chỉ là nói về tạo nghiệp, nhưng thâu biên ni, tặc phá, ngăn tội nghịch, v.v… chín loại, cho nên nói là tạp lỗi, chẳng phải chứa duyên đầu thâu huỳnh môn, hai hình. Nhiếp bốn tướng đủ, trong luật nói lõa hình, mặc áo thế tục, y ngoại đạo đều không được thọ. Trong năm duyên, ban đầu bày duyên tướng. Có nguyện chưa đủ, cho nên nói chút phần, sau dẫn luật chế. Nói đắc giới là bạch tứ rồi liền phát. Mắc tội là mất thứ lớp chế. Năm điều trên, kế bài lựa từ rộng đến hẹp. Ban đầu y cứ các đường thì chọn người, hai trong người thì chọn quả báo cao quý, ba quả báo cao quý thì chọn nghiệp, bốn nghiệp tịnh thì chọn nghi, năm đầy đủ oai nghi thì chọn pháp. Lại gồm chia làm ba, hai thứ trước và nghiệp trong quả báo đồng với trước, hai thứ sau thì thể tướng, hình pháp cả hai đồng. Lại y cứ giá nạn thâu thì một và ba không có trọng nạn mới thành, còn ba thứ kia khinh giá dầu có cũng thông cho, lại tự giải thích. Thứ hai, trong chỗ đối kiết giới khoa đầu chia làm hai: Ban đầu nói về lý do cần giới, chữ cố trở xuống là răn nhắc khiến xem xét thì có hai món: một là nói giới tướng biết giới hạn nhóm, hai là nói thị phi, rốt ráo bổn hành sự. Không như vậy tức trái với hai điều trên, hoặc nêu tướng không y cứ, hoặc kiết trước không như pháp gạn thiệp nghi lạm đều phải kiết lại. Sớ chép: “xả giới rất dễ, đâu được tự khinh”. Trong phần bác bỏ, hai câu đầu nói trái với bổn chế. Chữ triếp trở xuống là bác bỏ vọng làm, thiên trước đã phá cho nên chỉ như trên. Chữ Tất trở xuống là chỉ giáo. Duyên nầy hoặc tăng khó nhóm, hoặc nghi giới cũ cần ra ngoài giới. Nhưng đại giới bổn chế không vì nạn duyên, gồm phải lập tướng. Tiểu giới ngược với ở đây cho nên xếp vào pháp phi, nếu thêm duyên tướng đại giới đều như, cho nên nói là “không sai trái”. Khoa kế, là dẫn truyền, tức việc ấy. Trên quyết tiểu giới, nhược y trở xuống là kế bày giới tràng, e sau lạm dùng cho nên ở đây dẫn bày. Trong khuyến dẫn, ba câu đầu chỉ bày chung. Nói chư Sư là do trong truyện đã nói, Tăng-già-bạt-ma đã là Tăng Ấn-độ so sánh mà biết, đều vậy cho nên gồm chỉ. Chữ cố trở xuống là chính dẫn, tức Cao Tăng Truyện đời Lương nói đời Tống niên hiệu Nguyên Gia năm thứ mười một, Tuệ Chiếu ở chùa Kỳ-hoàn đối với Bạt-ma thọ giới lại. Lên thuyền giữa sông hỏi người tức là Tuệ Ng- hóa, Pháp Sư nạn rằng: “Tăng sự bố-tát thường ở trong chùa và luận thọ giới sao lại ra ngoài sám?” Chữ đáp trở xuống đều là lời của Bạt-ma, ban đầu bày chỗ nghi. Biệt chúng phi pháp, hoặc vốn khi kiết tăng có trái biệt, hoặc nay khi thọ, giới không phần chừng đến nỗi có lỗi riêng chúng. Chữ dư trở xuống là đáp trong chùa bố tát. Chữ phàm trở xuống là đáp ra ngoài thọ giới. Trước nói rằng tôn trọng bởi chỉ đây vậy, thoát dụ như lược. Thứ hai, năng bỉnh cùng trở xuống là số đủ có gì khác nhau? Đáp: Năng bỉnh là y cứ Tăng thể, số đủ là y cứ sự dụng. Trong đây chia làm hai: Ban đầu giải thích duyên tướng. Làm không phép tắc gọi là phi pháp, sự trái giáo chế gọi là phi Tỳ-ni. Chữ kim trở xuống là ngăn lạm, quyết nên ứng pháp, mê muội giáo ít đức nhiều cũng chẳng đủ. Chữ văn trở xuống là thứ hai, dẫn bổn chế. Ban đầu nói trong hai vị bên phần chừng như trong hai y. Sở dó năm người nói riêng trì luật là tăng ở bên địa ít e không lựa chọn cho nên đặc biệt nêu, chẳng phải gọi là giữa nước lại cho lạm dự, xưa các Sư lầm giải như Sớ đã bác bỏ. Biên thùy xứ nầy vốn là khai, vị tăng đã lần nhiều nên lại vâng theo phép chế ở giữa nước. Đời mạt pháp mỏng manh, đức học hoàn toàn thiếu, quyết y theo bổn chế khai lý cũng không đổi. Phải biết, Luật chế năm người trì giới, kinh khai ngàn dặm không thầy, chẳng phải gọi là không tăng, nhưng người thật hạnh không dễ có được. Chữ nhược trở xuống là quyết biên địa khai ở trên. Đắc giới, nghĩa là tăng pháp không thiếu. Mắc tội tức bổn chế có trái. Nếu vậy giữa nước năm người có thể đồng với đây chăng? Đáp: Giữa nước vốn không khai, chẳng thể so sánh nhau. Chữ thử trở xuống là chỉ chỗ ra, già luận cũng vậy. Thứ tư, là hòa, nhóm, văn y cứ dễ hiểu. Trong thứ năm, chữ tắc trở xuống hai câu lại bao gồm bốn phi, hoặc mê mờ cương duyên, thưa, đọc, tụng, đều không thành pháp, cho nên nói là “đẳng”. Trong thứ sáu, Sớ chép: “Trong mừng thắng pháp, ngoài nhờ nghi thù thắng, thân tâm nương nhau như cá có nước”. Hỏi: Có gì khác với điều thứ tư hay thọ? Đáp: Trước y cứ dung nghi tiểu chúng, ở đây y cứ Đại Tăng đạo đầy đủ, năng, sở, trong, ngoài đâu không rõ ư? Gồm sáu duyên trên quy về bốn món, nhân, pháp, sự, xứ, đơn, phức phối đó. Lại năm món trước không đủ, nhất định không thành thọ. Thứ sáu có thiếu cho nhiều tranh luận, nếu y theo Tổ lệ cũng không thành, như ở sau sẽ nói. Lại y theo yết-ma lại thêm một món, nghĩa là trong thời Phật pháp, Luận Tỳ-đàm chép: “Nếu đến lúc pháp diệt, tất cả kiết giới, thọ giới đều mất”. Thứ ba, duyên ấy, trên là đều giúp bên cạnh, đây là gốc chính nhân, quyết khai ngộ mới được tiến lên thọ giới. Nếu luận phát tâm xin giới hợp làm hai duyên, tâm và miệng tuy khác mà mong cầu một nghĩa cho nên hợp. Chữ văn trở xuống là dẫn bày. Trong Luật Phật nói: “Dạy xin giới mà không xin thì không được thọ giới cụ túc”. Lại nói rằng: “Lúc ấy có người gượng cho trao giới, sau lại trốn về nhà. Phật nói: “Không được trao giới cụ túc đại cho người”, tức là vô tâm”. Thứ tư, tâm cảnh là không riêng tướng duyên tức hợp hai và ba đối nhau để bàn, gồm có bốn câu. Tiêu tức đều, như vậy nay chính thủ đều phi, dễ hiểu chỉ rõ hai thứ xen nhau. Câu đầu, trước dẫn duyên luật, ba món ngủ, say, cuồng đều là nhân thọ rồi sau biết trái đạo. Phật chung chế đoạn tâm đều là vô ký, chính thiếu nhân giới, vô tâm đồng với trên. Nếu y cứ theo Đa Luận bày chung bốn tâm là thiện, ác, vô ký và vô tâm, văn gồm thâu hai món, thiện ác, y cứ theo đó. Chữ phục trở xuống câu kế là trong văn lược dẫn nhân pháp cả hai đều phi, sự và xứ cũng vậy. Chữ tát trở xuống là dẫn chứng, văn chỉ rõ tâm thiện quyết gồm cảnh. Trọng tâm tức tương ưng ở trên, khinh tâm tức ngủ, say, v.v… các giáo. Vô giáo tức là thành tông, làm và không làm giải thích danh nghĩa chung ở cuối quyển trung, trong năm món thông bao trước sau. Đủ duyên chính trệ mỗi mỗi không trái mới thành rốt ráo. Ban đầu y cứ chính nhân giải thích, nói từ đầu là gồm nhiếp tám duyên, đến cuối là chính nạp pháp thể, cộng chung là chín pháp, sau nêu mười duyên trừ duyên đầu và thứ ba chỉ lấy tám duyên như sau rõ đó. Nói qua lại là tướng làm việc ra vào tạo tác. Chữ giới trở xuống là thứ hai ước giải thích đủ duyên, lược nêu tâm cảnh để rõ thành hay không. Trong dẫn chứng, trước nêu các duyên đều y theo bổn luật, ở đây chỉ chứng chung, lập duyên, lựa chọn đều có chỗ y cứ, đến bàn nêu tướng không hẳn hoàn toàn giống. Ban đầu trong Mẫu luận gồm buộc năm duyên không qua nhân và pháp, lược chứng sở đối ba, bốn và năm. Kế dẫn Đa Luận chỉ rõ biên nạn, lược chứng năm thọ là duyên thứ ba, nhưng biên tội kia luật y cứ giới cụ túc, luận chung cho cư só cho nên y cứ ba giới, thứ lớp rõ tướng. Ban đầu nêu ba thọ, chữ tùy trở xuống là rõ nạn, văn nêu ra phá năm tức chướng ba thứ khác chặng giữa xét lược thọ mười không được nên nói là “cho đến”, phá tám chướng hai, phá mười chướng một, thứ luận có thể biết. Nhưng năm giới tám giới tướng không chia nặng nhẹ lại y cứ giới cụ túc. Sát, đạo, dâm, vọng đều có lớn nhỏ riêng. Giới rượu là ngăn ác, phạm thì chẳng chướng. Không làm Hòa-thượng, giả sử có lạm thọ, thể chẳng phải tăng. Trong kiểm khám, ban đầu khiến y theo khám nghiệm. Chữ tất trở xuống là bày chọn bỏ. Thứ hai, trong chính thêm điểm bày lại giải thích sở đối thành pháp các duyên. Ban đầu chỉ văn trước lại nêu hai hai thiên kiết giới, đủ số nghĩa đồng văn lược. Phương pháp gồm hai điều trên. Chữ cố trở xuống là bày ý trọng, lại giải tức là đây, nêu bày lại rõ. Duyên khởi có mười, trước dùng tám pháp, thiên yết-ma chép “Tám món điều lý”. - Trong chú yết-ma cũng nêu tám duyên cho nên nhiều ít khác ra sao? Đáp: hai món một và ba ở thời khác, không định nhận sự nghi thứ lớp ở trước. - Nếu vậy ở đây sao lại nêu? Đáp: Chưa thỉnh sư, trước tăng cần xét hỏi, đã thỉnh Sư rồi nghĩa quyết khai dẫn, ra vào tùy thời không ngại gì, cả hai đều đúng. Hỏi: Trước năm sau mười đều gọi là duyên, làm sao chia khác? Đáp: Trước thì lập định giềng mối tiêu chuẩn, xem xét bao gồm đúng sai, sau gọi là sắp bày hạnh nghi phát khởi chính thể. Cho nên trước nói là “Đủ duyên thành thọ”, sau nói là “duyên khởi phương tiện”. Khoa Nghiệp Sớ chép: “Trước là y cứ pháp biện duyên, sau là đối với việc nói duyên”, văn ý rất rõ, làm sao vọng phán là xưa nay ư? Đây là lỗi lớn, biết sai nên sửa. Trong đắc pháp, ban đầu nói về chế thọ. Bốn luật là Tứ Phần, Ngũ Phần, Thập Tụng, và Tăng-kỳ. Trong văn tức chỉ cho bổn Luật. Chữ đa trở xuống là thứ hai nêu ra ý chế, pháp ngoại đạo chỉ vào đạo kia, liền đồng sự nghiệp không có dần dà. Hỏi: Trong đây không nói trước thọ năm giới, vì sao? Đáp: Mười giới là duyên của giới cụ túc ở ngay tông nầy, năm giới là duyên của mười giới như trong thiên Sa-di. Bộ Sao Ni Chú nói rằng “Không thọ năm giới, thẳng thọ mười giới, đắc giới mắc tội”, tức như Đa Luận nói “Trước dùng năm giới điều phục thân tâm tin ưa dần tăng thêm mới thọ mười giới” (có người thấy ở đây không nói năm giới, muốn bỏ đó, như riêng chỗ phá) Trong thỉnh Hòa-thượng, ban đầu nói căn bản là giới từ kia sinh, nương theo, bắt chước gọi là bẩm học. Chỉ bày dẫn dắt gọi là quỹ hạnh, sinh trưởng gọi là thành, đức không phụ bậc nghiêm Sư, ba món nầy đều mất. Trong dẫn duyên, mắc tội là y theo đắc giới của Già luận. Trong thỉnh nghi, ban đầu định nơi chốn, trước bày văn chung Tứ Phần, xưa có định chấp ở chúng cho nên ở đây quyết phá. Sớ chép: “Quyết y cứ bị đợi thọ trước một tháng, một năm cũng không hại gì”. Chữ kim trở xuống là y cứ bộ khác đối chúng. Kế dẫn Tăng-kỳ để nêu bày lời thỉnh có khác (Ngũ Phần cũng vậy). Sau dẫn Ngũ Phần rõ tột sự chí kính. Trong lời thỉnh, ban đầu rõ đầy đủ oai nghi. Như trên ấy là chỉ bên Thập Tụng ở trước, sau rõ dạy dẫn dắt. Các món ấy là nên lại tiếp trước, nếu không người đây, v.v…, ngữ văn trở xuống là nêu ra câu từ. Y theo Sớ chia làm năm: Đại đức nhớ nghó, là thỉnh chuyên ý. Làm Hòa- thượng là rõ sự mong cầu. Xin vì con làm là mong từ bi giúp đỡ. Con nương theo thọ giới cụ túc là ba học do đây sinh. Thương xót là đã nói sự vui mừng hứa cho. Trong phép đáp, ban đầu bày ý cần đáp. Chữ tứ trở xuống là nêu ra lời đáp. Sớ chép: “Ban đầu là “đúng vậy” là gồm lãnh lời thỉnh hứa làm thầy”. Lại nói rằng: “Khả là đáp, dạ là lời người dưới, nhỉ là trả lời vị trên” y cứ đây chỉ đáp rằng “khả”. “Giáo thọ ông” là chẳng phải chỉ nhiếp sự, có pháp rộng dạy. Thanh tịnh là nên trọng giới bổn nhiếp trì ba nghiệp. Chớ buông lung là nguyên do các lỗi đều từ hạnh buông lung. Phải nhiếp căn tình, xa rời năm dục. Y theo sớ bốn câu cộng thành một lời đáp, ban đầu là lời hứa, ba câu sau thu nhiếp, không đồng giải xưa, tùy thành một lời đáp, ngày nay hành sự phần nhiều không nương dùng, vọng làm lời phù phiếm, sai trái không phép tắc. Văn sau là thêm trong năm pháp, luật ấy chép: “Có năm pháp cho người y chỉ, hoặc nói “năng” hoặc nói “khả”, hoặc nói “thị”, hoặc nói “khéo tự tu hành”, hoặc nói “chớ buông lung”. Lại có năm pháp cho người y chỉ: hoặc nói “thiện tai”, hoặc nói “tốt”, hoặc nói “khởi”, hoặc nói “khứ”, hoặc nói “cho y chỉ”, hai cáo năm cộng thành mười món (Xưa ghi chỉ ở thiên Thầy Trò là sai). Trong nghi giải thích, lời đáp có ba cách giải, ban đầu sửa chuyển là các duyên xa hạnh, trái đạo, chết… Chữ hựu trở xuống là y cứ pháp khác. Chữ hoặc trở xuống là y cứ đức thiếu. Chữ cố là trở xuống là gồm kết ba nghĩa. Mười giới, giới cụ túc đều có thỉnh cho nên nói rằng hai cặp, pháp thỉnh hai thầy, trong nêu bày luận kia chỉ có pháp thỉnh Xà-lê của người thọ giới. Chẳng phải khéo léo hơn ấy, kia nói rằng: “Đại đức nhớ nghó! Con tên là A, theo Đại đức xin xuất gia, mong Đại đức thương xót độ cho con xuất gia”. Lệ thông là một pháp Hòa-thượng gồm thỉnh hai thầy, chỉ đổi danh tự thôi. Trong thỉnh yết-ma, đầu tiên là đầy đủ oai nghi, thứ hai là dạy chỉ bày, thứ ba là chính thức nói. Trong pháp giáo thọ chia ba phần đồng với trên. Sau thỉnh bảy chúng. Trong lập thỉnh, ban đầu nêu định. Chữ dó trở xuống là bày nghĩa. Nói chẳng phải riêng, Sớ chép: “y cứ thành yết-ma hợp chúng đồng công, đâu riêng ba thầy nhận sự ban cho kia. Thập Tụng chính tắc tức ở trên dẫn rằng: “mỗi mỗi lễ tăng rồi mới thỉnh” thì nghiệm biết đó. Chẳng cuộc hạn dụ như chẳng phải văn rõ, cho nên nói là “lý bày”. Chữ tắc trở xuống là suy lợi ích. Trong phần bác bỏ thế gian, đầu tiên chính bác bỏ, chữ nhược trở xuống là rõ công, v.v… Chữ khả trở xuống là khiến y theo thỉnh, cũng nên đầy đủ oai nghi đến trước bảy thầy gồm thỉnh, người kế bên dạy rằng: “Do pháp yết-ma chẳng phải làm riêng, quyết cần người đây chứng không lầm lộn”, nếu luận công phát giới cùng ba thầy là đồng đức cho nên cần thỉnh. Trong pháp chỉ sửa là Tôn chứng, hoặc nói thất chứng là khác. Chữ tất trở xuống là ngăn lạm, ngoài thất chứng không phiền thỉnh hết. Khoa lựa chọn Thập sư, trong biết đệ tử, ban đầu dẫn bày, đây tức là một trong bốn câu, như trong đủ số đã dẫn đủ. Chữ như trở xuống là y cứ phán. Đủ biết tức là ba món trước. Chữ dư trở xuống là ví dụ y cứ. Trong xen biết, ban đầu y cứ hai thầy. Sở điệp ấy, trong duyên yết-ma nêu Hòa-thượng. Chữ cố nhược trở xuống là kế nói về thập sư. Không cùng trụ, là vào trong Tăng số yết-ma, lời đây chọn bặt tất cả người phạm tội nặng, cho nên nói rằng “biết sao không gồm”, gồm là chung. Trong quyết phạm, đầu tiên bày văn thiếu. Chữ y cứ trở xuống là phán nghĩa. Thập sư biết nhau cuộc hạn ước bốn tội trọng, thưa dừng tăng tàn phải dự biết số. Đệ tử biết thầy thì chung các thiên, nên nói rằng “cho đến”, v.v… Chữ tri trở xuống là trách gượng thọ. Chữ ký trở xuống là răn dè lựa chọn. Văn sau luật nói rằng: “Kia không chọn lựa người cho y chỉ, mà thầy phá giới phá kiến…” Phật nói “Từ nay trở đi không được chẳng lựa chọn thầy mà cho y chỉ” (y cứ nói Hòa-thượng). Trong thứ bậc, ban đầu chỉ chung, y cứ theo thêm năm xếp hai mươi sáu cái năm câu, nay lược dẫn đó. Có năm pháp không nên trao cho người đại giới (không giới, không định, không tuệ, không giải tho- át, không tri kiến). Lại nói rằng: “Có năm pháp nên trao đại giới cho người” tức trái với năm câu trên, các năm câu sau đều như vậy). Lại có năm pháp (tự không có năm món trước, lại không thể dạy người khiến trụ năm pháp nầy). Lại có năm pháp (không biết giới oai nghi, không biết tăng tịnh hạnh, không biết giới mộc-xoa, không biết tác bạch và không biết yết-ma). Lại có năm pháp (không biết phạm, không biết phạm sám hối, không biết phạm đã sám hối thanh tịnh, không biết tác bạch, không biết yết-ma). Lại có năm pháp (không biết có nạn, không biết không nạn, không biết tác bạch, không biết yết-ma, không đủ mười năm). Lại có năm pháp (không có khả năng dạy người thâm giới, thêm tâm, thêm tuệ, không thể làm người săn sóc bịnh, không đủ mười năm). Lại có năm pháp (không thể dạy đệ tử oai nghi, tăng tịnh hạnh, tăng mộc-xoa, không thể khiến bỏ ác kiến, không đủ mười năm). Lại có năm pháp: Không biết phạm, không phạm, nặng, nhẹ, không rộng tụng hai bộ tỳ-ni. Lại có năm pháp: Không trì đủ mộc-xoa, không học rộng, không thể dạy đệ tử Tỳ-ni, Tỳ-đàm, không đủ mười năm. Lại có năm pháp: Không trì đủ mộc-xoa, không thể dạy đệ tử tỳ- ni, tỳ-đàm, lại không thể dạy bỏ ác kiến, trụ thiện kiến. Lại có năm pháp: Không thể dạy đệ tử Tỳ-ni, Tỳ-đàm, lại không thể dạy bỏ ác kiến, trụ thiện kiến, không ưa trụ xứ, không thể dời, có nghi không có khả năng khai mở. Lại có năm pháp: Bốn pháp đồng trên, thứ năm là không đủ mười năm. Lại có năm pháp: Không biết mộc-xoa, cũng không thể nói, không biết bố-tát, không biết yết-ma bố-tát, không đủ mười năm. Lại có năm pháp: Không khéo biết phạm, không khéo biết phạm rồi sám hối, không khéo nhập định, không biết xuất định, không đủ mười năm. Lại có năm pháp: Không biết phạm, không biết chẳng phạm, nặng, nhẹ, trọng, không đủ mười năm. Lại có năm pháp: Không trì đủ mộc-xoa, không học rộng, không thể dạy đệ tử thêm giới, không thể săn sóc bệnh, không tụng rộng hai bộ luật. Lại có năm pháp: Không trì đủ mộc-xoa, không học rộng, không thể dạy đệ tử thêm giới học, bỏ ác kiến, không khéo tụng luật. Lại có năm pháp: Ba món đồng trước, thứ tư không ưa trụ xứ, không thể dời, không giữ vững Tỳ-ni. Lại có năm pháp: Không trì đủ hai trăm năm mươi giới, không học rộng, không thể dạy đệ tử thêm giới học, có nghi ngờ không thể khai mở, không thể giải quyết việc tranh cãi. Lại có năm pháp: Thứ ba không thể dạy đệ tử thêm định học, còn bốn món khác đồng như trước. Lại có năm pháp: Thứ hai không thể dạy đệ tử thêm tuệ học, bốn món khác đồng với trước. Lại có năm pháp: Thứ hai là không thể dạy đệ tử thêm oai nghi giới học, bốn món khác đồng như trước. Lại có năm pháp: Thứ hai là không thể dạy thêm tịnh hạnh học. Lại có năm pháp: Thứ hai là không thể dạy tăng thêm mộc-xoa giới học. Ở trước gồm một trăm ba mươi món, mười món sau chế định. Hai trở xuống là rõ hai thầy, phần nhiều đã năm hạ, nên ở địa vị Thầy. Chữ dư trở xuống là thất chứng (bảy vị tôn chứng). Trong phần chọn chung, đầu tiên là khuyên chọn bậc đức dầy, thạc là lớn, lạp cao đức dày, lâu càng bền chắc, cho nên nói rằng sinh thiện cho đời sau. Năm trăm câu hỏi trở xuống là Hòa-thượng không đủ. Trong Liễu Sớ, nói giai cấp oai nghi các thầy đồng như trước, còn bao nhiều đều thêm. Không cùng giường là chung rõ chín thầy, dẫn ý hai văn đây là lấy lạp cao nhưng phải đủ đức mà lại là bậc lão thành, đức ít tuổi nhiều nào đáng để chọn. Hỏi: ít nhiều đã khác, làm sao chọn cho đúng? Đáp: Nếu nương chế hạn phải y theo bổn tông may mắn có bậc tuổi cao đức dày nên dùng Liễu Luận, ý Sao ở đây, cho nên dẫn trong đó. Thứ ba phát duyên giới. Trong bày ý, ban đầu dẫn luận nói cần có thầy dạy. Nói pháp lời lược chung trở xuống là cảnh tâm. Nói khai giải, giải tức là trí, giới pháp sâu rộng chẳng phải trí thì không thể được. Tất cả cảnh ấy, tức là tình và phi tình. Hỏi: Thương xót tất cả hoàn toàn chẳng phải hạnh nhỏ phải không? Đáp: Trong kinh Thiện Giới chép: “Bảy chúng chỗ nhận là phương tiện Bồ-tát”. Nghiệp Sớ chép: “Từ trước không duyên lòng từ làm sao dung việc lớn” ý ở sau. Tăng thượng tức thượng phẩm, chữ tựu trở xuống là y cứ văn mà sinh khởi, dùng lời luận chung chưa đủ để dẫn dắt, biết cảnh, phát tâm, nhận thể chính yếu không thể thô lược, cho nên y cứ nghĩa rộng, nói về thể lượng, người học đến đây phải nghiên cứu cho sâu, phần nhiều thấy tụng nói là do người mù dắt kẻ đui, cả hai đều sụp hầm, đâu không đáng sợ ư? Hỏi: Vì sao phải nêu bày cảnh? (tờ 2 1 9) Đáp: Chúng sinh làm ác là do mê cảnh trước, nghiệp ác đã do cảnh khởi, thiện giới lại từ cảnh sinh, là chỗ nương của pháp chế, là gốc chính của phát giới, nếu không rõ cảnh lấy gì dụng tâm? Đặc biệt ở đây mở rộng sâu là có đầu mối xa. Hỏi: Giới vốn ngừa tâm cần gì chế cảnh? Đáp: Căn cơ chia Đại Tiểu, giáo có đốn tiệm khác nhau. Đại cơ hiểu cảnh duy tâm thẳng theo tâm chế, tức giới Bồ-tát. Tiểu cơ cho rằng cảnh khác tâm, cho nên chế theo cảnh, tức là giới Thanh văn. Giáo tuy chế cảnh lý thật chế tâm, phương tiện khéo léo, bày ở đây. Trong bày cảnh, hai câu đầu của khoa đầu gồm bày giới lượng. Chữ do trở xuống là nói lý do giới khắp. Cảnh vốn không ác, tâm ác gồm khắp, nên gọi là cảnh ác. Nhân phát giới liền chỉ các cảnh, nghĩa là đổi tâm ác, cảnh giới liền khắp. Chữ nhược trở xuống chính bày tướng cảnh. Ba câu đầu chỉ rộng. Sớ chép: “Có thầy riêng đưa ra một quyển Giới Phương Tiện Tướng, thường đến khi sắp thọ giới nương lời dẫn hóa, không nói người nào, văn kia đã mất lạc. Xét cũng chẳng khác, chỉ là lần lửa tình và phi tình. Hẳn muốn giao phó nêu bày, những hơn ba mươi tờ. Buộc rộng theo lược cung không ngoài hai hàng văn dưới. Chữ yếu trở xuống là tiếp chỉ bày có ba. Tình và phi tình, hai loại nầy gồm nhiếp y báo chính báo của mười cõi. Nhị không trở xuống là năm câu nêu riêng hai báu, y cứ tình và phi tình nhiếp hết cảnh nầy , vì ngăn nghi lạm cho nên phải chỉ bày riêng. Câu trên rõ pháp hóa tướng. Phật nói Tứ Đế liền nhiếp nhân quả Thánh phàm của thế gian, xuất thế gian, ba tên là khổ tập, đạo là hữu đế, diệt tức không đế, cũng gọi là hai đế chân tục. Câu kế, lý tức pháp lý thể, khác trước không đế là thuộc về giáo. Chữ Phật trở xuống ba câu tức hai báu. Hỏi: Đây đều là phi tình đâu cần nêu lại? Đáp: E gọi là cảnh Thánh chẳng phải duyên giới. Hỏi: Hai pháp hóa lý thế nào là phát giới? Đáp: Sớ chép: “Đều có nghĩa tổn hoại, hủy báng, giống như Đề- bà phá pháp”. Hỏi: Hóa tướng không nói Phật, trụ trì không nói Tăng là sao? Đáp: Đều là tình thâu cho nên trong lý Phật Tăng đều không có tự thể riêng, cho nên rất dễ biết. Ba, địa thủy trở xuống hai câu là nêu riêng sáu đại. Năm đại trước là phi tình, một đại sau là tình. Cảnh tướng của không, phong và thức rất khó thấy, cho nên lại chỉ bày, như trong giới trộm có nói. Lại nữa, phải biết tùy giới có nhiều khác nhau, như giới dâm, giới giết hại v.v…, riêng tình cảnh như giới đào, làm hư. Chỉ là phi tình như giới trộm, nói dối, v.v… thì gồm hai món, nghĩa là giới trộm ở Tứ Phần, chủ vật gồm sáu đại, vọng đối sở cuồng lại qui về lợi dưỡng. Chữ pháp trở xuống là gồm kết. Nói pháp giới, nếu y cứ giới hạn của giáo thì cuộc hạn Tam Thiên đại thiên, nay theo viên ý phải nói về mười phương pháp giới. Thể vô tác xứng cảnh mà phát, đồng với lượng pháp giới cho nên nói rằng “đều là giới thể” (Xưa chép “Khiến nói là giới cảnh”, lại nói rằng “ở đây” là tâm thể năng lãnh, rất sai lầm). Trong dẫn chứng, đầu tiên chứng hữu tình. Chữ tát trở xuống là thứ hai chứng phi tình. Cảnh phi tình rộng, lại nêu địa trần chỉ bày tướng nhiều kia. Chữ tức trở xuống là lại dẫn bốn vật chuyển chứng. Khéo sinh năm món trước sau lìa rõ, nếu lại nói kỹ ỷ về ăn uống, y phục, phòng nhà, ngọa cụ, bốn vật của tăng thường trụ hiện tiền, các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, cúi, ngước, đại tiện, tiểu tiện, tất cả các việc đều là pháp chế, cái gọi là sâm-la muôn cảnh việc gì chẳng giữ. Nếu không như vậy đâu gọi là cụ túc? Nếu không trước phát hạnh thì từ đầu sinh? Cho nên biết trước khi thọ phải chuẩn bị giao cho học, Sa-di chính khi dựng lập còn phải ở đây, thời nay mê mờ giáo pháp ai lại biết điều đó. Trong hiển đức, khoa đầu trước là dẫn bày, phàm giới là nhân hạnh, Phật giới là quả đức, phàm Thánh hơn kém thật chẳng nghó tướng, một bề lại trong mong thanh tịnh thì nghĩa đồng cho nên nói là “đức đồng”. Chữ dó trở xuống là đến người để nói về thù thắng. Pháp lành nhóm họp là nắm hết vô biên giới pháp quy về thức tạng vô tận để thành hạt giống lành, làm nền tảng thánh đạo, trái với duyên ác từ vô thỉ đều làm giới lành, biến khổ báo hữu lậu liền thành pháp thân, chúng ta tại sao không tự trân trọng tôn kính? Ân Phật sâu nặng dầu xương tan thịt nát cũng khó đáp đền, Phật là bậc dẫn đường trong biển khổ, là cha lành trong nhà ba cõi hư mục, nguyện từ ngày nay đến tận đời sau, ra sức quên thân thường khen ngợi Tam Bảo, rộng độ chúng sinh để đáp đền chút ít lòng từ bao la của Phật. Chữ bất trở xuống là nêu hủy phá suy lường, ban đầu chính nói, chữ y trở xuống là dẫn chứng, kinh y cứ phạm tội nặng nên nói là người chết, như trong Tăng võng có dẫn đủ. Trong bốn dục lược dụ thuốc mắt nên nói là “Đẳng”. Trong bài kệ, nửa trên là nêu dụ, nửa dưới là hợp pháp. Chiêm-Bặc, Hán dịch là Huỳnh Hoa, hoa nầy nhỏ mà thơm, ở Ấn-độ mọi người rất quí nên phần nhiều nêu tên hoa nầy. Có người hủy giới, thấy lời đây dường như thuận theo ngu tình vọng tự khoe khoang cho là phạm vẫn hơn. Đây chính là nghĩa một đường tiếp dẫn tùy thời, Thánh chế khiến nhận ý ở thành trì. Chữ tức trở xuống, văn nói rằng “Thà khởi hạnh dụng không cần cầu xin”. Lại chép: “Nếu hủy giới Phật, chẳng bằng không thọ” ý chỉ giáo pháp rất rõ, cẩn thận chớ hiểu lầm. Trong khuyên thọ, ban đầu tiếp trước bày khuyên, tức so sánh tổn ích giữa phá giới và không có giới. Chữ trì trở xuống là dẫn chứng, trước dẫn giải thích luận và chứng minh tổn lợi ích, tức Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc khuyến hóa phụ nữ, lời xuất gia như trong quyển trung đã dẫn. Sau dẫn Đại-kinh, chỉ chứng tổn hai kia, văn nói có quả báo thù thắng còn như vậy, kẻ phàm phu có thể biết. Vãng nghĩa là lên trời, ngược lại liền vào đường ác. Trong kết khuyến, tùy cơ là phải quán sát căn cơ lợi độn mà có sự rộng lược thích nghi. Đại Luận chỉ bày dẫn dắt, lấy hiểu biết làm kỳ hạn. Phù nghĩa là không mê nặng mà cũng không sáng suốt. Chữ Tát trở xuống là dẫn bày được chăng. Do tâm khinh trọng văn nhất sách tấn quyết khiến khai ngộ hiểu rõ. Trong tâm lượng, như các luật luận phần nhiều nói thượng phẩm. Trước dẫn Đa Luận chỉ nói là tăng thượng, Luận kia lại đối với năm mươi cụ, mỗi cụ đều chia tâm thượng, trung, hạ, thành chín phẩm, nhưng là bàn sự sâu cạn chung của tâm, cũng không rõ bày tướng ba phẩm. Trong đây muốn giúp cho người thọ biết hạn lượng của tâm cho nên y cứ văn nghĩa thứ lớp nói rõ. Riêng đây rõ ràng còn các chỗ khác đều không kể. Trong khuyến phát chỉ nói thượng phẩm, cho nên biết trung và hạ chẳng phải là chính ý, vì rõ thượng phẩm khiến biết hơn kém. Chữ nhược trở xuống là nói về Tỳ-đàm: Có một vị La-hán giới là ở hạ phẩm, mà tỳ-kheo trẻ tuổi lại được thượng phẩm, đều do lúc đầu tiên phát tâm có khác, ban đầu từ phàm phu rốt đến Vô học, trải qua các thứ bậc lại không thêm lớn. Hoặc nói rằng: “Thọ thể là định, tùy hạnh có thêm bớt”, hoặc y cứ tác giới hằng định, vô tác thì đều thêm, đồng thời đầy đủ như sau: Trong hạ phẩm, Tỳ-Bạt Luật tạng lục không nêu ra. Nói cầu đạo là chỗ mong cầu quả. Cứu chúng sinh là việc tu hành. Nhưng hạnh cứu chúng sinh có cạn sâu: 1- Không hại mang kia. 2- Dùng pháp dẫn dắt. 3- Khiến được độ rốt ráo. Trước không được sau, sau quyết gồm trước, y cứ nghĩa suy đó thì ban đầu chỉ hộ mạng mà không giúp được giải thoát, tức là tâm Nhị thừa. Trước nói rằng cầu đạo, chính y cứ Tiểu quả, trung phẩm tu hành là dùng pháp khai ngộ, tự mình và người đều lợi, độ mà chẳng phải rốt ráo, tức là tiểu Bồ-tát. Tuy mong quả Phật, chặng giữa hành xử với trông mong trước tuy hơn, nhưng so với sau vẫn còn kém, thượng phẩm dẫn dắt khiến đến Niết-bàn đồng qui về Phật đạo, tức là hạnh của Đại Bồ-tát. Y theo thiên Sa-di ba ngôi phối đó, rõ ràng phù hợp. Người học đến đây nên hiểu rõ biện ba tâm phần chừng chỗ mong cầu hạnh quả. Xưa ghi: giải thích chỉ thuật danh ngôn cầm quyển sách suy xét tìm kiếm khác nhau không truy tố, cho nên phải mổ xẻ chẳng thể lộng không. Trong trung phẩm, ban đầu nói trông mong quả phải y cứ Phật thừa. Chữ giải trở xuống là mong hạnh, rõ gồm hai lợi. Bến cầu là dụ, chúng sinh đọa trong nghi cho nên chịu sinh tử, có thể khai mở cho họ khiến họ được độ, sinh tử như bến, thân ta như cầu, pháp dụ sẽ thấy. Trong thượng phẩm ban đầu nói hạnh tự lợi. Chữ hựu trở xuống là nói hạnh lợi người. Chữ linh pháp trở xuống là nói hạnh hộ pháp. Trong đầu tiên phát tâm thọ, tức là nay chính thọ giới Tỳ-kheo. Chữ vi thành trở xuống là rõ trông mong xa. Hai câu trên, ba môn học Đại thừa là nhân hạnh, câu dưới cầu đại Niết-bàn tức quả viên mãn. Ba tụ giới, nêu ra ở kinh Anh Lạc, tụ là gồm nhiếp làm nghĩa. Bảy tụ Tiểu thừa theo giáo để làm, ba tụ Bồ-tát nhiếp hết hạnh nầy. Giới Nhiếp Luật Nghi: Luật nghi cấm ác, vì đoạn hết kết ng- hiệp phiền não, tức chỉ hạnh. Giới Nhiếp Thiện Pháp: Tu chứng rốt ráo hạnh Đại thừa, Tiểu thừa, thế gian, xuất thế gian, tức là tác hạnh. Giới Nhiếp Chúng Sinh: Độ rốt ráo tất cả hàm thức, tức là nhiếp hạnh, đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Cũng gọi là giới nhiêu ích hữu tình. Ba món nầy cùng phối với ba môn giải thoát, bốn thệ nguyện rộng lớn, ba thân, ba đức như riêng rõ. Ba giải thoát, tuy là quán tuệ nhưng chẳng có định thì không phát, tức hai môn học định và tuệ, dứt ràng buộc chứng chân như do đây mà được vào, nên gọi là ba môn giải thoát. Nhưng tên chung cho Tiểu giáo, nay đối ba tụ phải cuộc hạn ở Đại thừa. Môn không giải thoát: Tức tính không. Môn vô tướng giải thoát: Tức tướng không. Môn vô tác giải thoát: Tức Duy Thức, cũng gọi là vô nguyện. Thiên sám ba quán, phối riêng ba ngôi, đây nói đại hạnh phải y cứ viên tu. Quả Nê-hoàn tên cũng thông Tiểu, thâu Đại có thể biết. Hỏi: Chỗ thọ nay đây là ba tụ hay không phải ba tụ? Nếu nói tức là ba tụ, thì sau có cần thọ giới Bồ-tát chăng? Lại Đại Tiểu lẫn lộn làm sao phân biệt? Nếu nói rằng chẳng phải ba tụ, thì giới từ tâm phát, đã từ tâm nầy phát thì đâu chẳng phải giới nầy? Phần lớn thấy lầm giải cho nên đặt biệt nêu ra để chỉ bày, khiến tự cầu đó. Kế nói về lợi người, Pháp nầy tức nhân hạnh ở trên, Niết-bàn tức quả đức ở trên. Trong thứ ba hộ pháp, tự lợi lợi người truyền truyền liên tục, hạt giống Phật không dứt cho nên được lâu bền. Rất lo lợi nhiều phiền, lược bày đại khái nên nói là viết không hết lời, nói không hết ý, tự chẳng phải trải qua lo xa mềm mỏng chứa nhóm. Thức cạn, tâm thô làm sao mà hiểu, còn bao nhiêu rộng như trong Sớ. Trong kết khuyến có hai: Ban đầu nêu so sánh để khuyên. Nói tà tưởng là kiết hoặc của phàm phu, toàn ở khi chưa thấy chính lý, tùy chỗ động tác đều là việc cong vẹo loạn tâm, khéo cho có chìm mất. Sở dó như vậy, vì trong Đa Luận chép: “Hoặc phàm phu, thọ giới cụ túc có bốn lỗi: 1- Ưa thấp hèn, có yếu kém. 2- Lui sụt đạo pháp. 3- Biến hai hình. 4- Tà kiến dứt việc lành.”. Nội phàm đã bỏ, phần chứng được chân lý mới khỏi lỗi này. Hoang sơ tâm cạn mỏng, chẳng phải tà thì là gì? Tôn thượng nghĩa là tâm không kính trọng. Luận Trí Độ trở xuống là dẫn chứng Kia rõ thế giới ngôn ngữ có ba: một, là tà. Hai, là mạn. Ba, là danh dự. Trong đây hai món là bất tịnh, một món là tịnh, người phàm đủ ba món (Sao nêu một món trước quyết gồm đủ hai món sau. Sau đây cũng đồng). Người tu học thấy đạo có hai, không có tà ngữ (Sao nêu Ba quả để thâu hai quả trước, vì ái chưa hết cho nên vẫn còn có mạn ngữ). Bậc Thánh chỉ có một, không có tà và mạn (kiến ái dứt hẳn, tùy theo thế tục chỉ giả gọi mà thôi). Chữ như trở xuống là thứ hai, y cứ tự biết để khuyên, bởi vô tác nhờ tác mà sinh, đã chẳng phải tâm sắc, không do chỉ bày, quyết uy cứ năng lãnh để rõ giới hạn hơn kém. Trước rõ thượng phẩm chỗ mong lớn xa, thể sở nạp nhất định biết, thêm trước cho nên nói rằng có phần chừng. Chữ cố trở xuống là dẫn khuyến, tức chữ Luật ở bài kệ. Sớ chép rằng: “gọi nhau là Phật tử” tức là văn nầy. Cần cầu nghĩa là tâm năng thọ. Giới cấm vốn là thể đã nhận, nhưng có hơi khác với văn kia. Kệ chép: “Như người muốn qua sông, Dùng tay và phao nổi Tuy sâu không lo chìm Sẽ đến được bờ kia”. Kệ trên nêu dụ, kệ sau hợp pháp. Như vậy các Phật tử tu thành giới cấm, không hề theo dòng tà chìm trong biển sinh tử. Trong giải thích nghi, trước rõ thượng phẩm vượt giáo nương tông cho nên phải hỏi giải thích. Hai câu đầu trong phần đáp là nêu bày. Nói nghĩa đáng thì rõ giáo tông, vốn chẳng phải đại có nghĩa tương ưng, tức như sau dẫn. Sớ chép: “Chia thông ý cũng đồng ở đây”. Chữ giới trở xuống là giải thích, ban đầu dẫn nghĩa dụ. Chữ Luật trở xuống là chỉ rộng. Trong Sớ gồm bày năm nghĩa nói rằng “gọi nhau là Phật tử” (văn như trên đã dẫn). Bố thí chúng sinh thành Phật đạo (như đây đã dẫn). Đạp-Bà nhàm vô học, bỏ tài dùng chẳng trọng, trần cảnh chẳng nói căn, đây đều dụ thành thật. Quang Sư trở xuống là nương xưa để bày rõ. Kia chỗ phán quá thành thông mạn, văn tuy dẫn y cứ, nhưng không hoàn toàn lấy. Tứ Phần là lớn, toan gì là nhỏ, tức ứng với Phạm Võng thể hạnh toàn đồng, Nhị thừa Bồ-tát, Thinh văn không khác, nhất định biết không phải như vậy, ở đây do Tổ Sư lập lời, ý theo dung. nghĩa đáng chia chung rất phù hợp với ý chỉ giáo, đợi đến quyển trung lại càng rõ ràng. (Nay cũng có người phán thẳng là lớn, không biết hạn chừng của giáo, vọng tự, v.v…) Hỏi: Tâm thượng phẩm hoàn toàn là đại hay phần thông? Đáp: Phó thành bổn tông, nghĩa phần thông. Hỏi: nghĩa phần thông xuất phát tự người nào? Đáp: Như lai lập giáo giúp cơ duyên nầy, Bộ chủ rất hiểu lại phù hợp với ý Phật riêng lập thành tông, là do trước sau bài tựa Luật pháp chính đã đặt phần nhiều bày ý nầy, đây không rõ ư? (Có người vọng bác bỏ Ngài Nam Sơn không lập nghĩa phần thông, thức cạn hẹp làm sao đủ luận bàn) Trong kết cáo, hai khoa trên răn nhắc khiến sớm bày. Chữ sử trở xuống hai câu tức tâm cảnh ở trước. Tâm phải niệm, niệm không ngăn dứt cảnh, quyết pháp pháp không mê muội, mảy may liền mất có thể không cẩn thận ư? Ngày nay mê muội giáo, sự đồng trò chơi trẻ con chợt đăng đàn, tâm chí kinh hoàng, huống chi thầy trao mà mờ mịt, chỉ biết học lời, tự không có hiểu lấy gì bày cho người, đâu chẳng phải nghiệp đời trước theo đuổi? Dù cho đời nay hư tán, cần phải trách mình để mong chờ tương lai. Hai phù là do gặp việc hấp tấp vội vàng phần nhiều bị sai lầm. Thứ tư, là văn duyên trong y cứ ban đầu, ban đầu dẫn văn luật, trước bày như phi. Ngoài giới không gọi là Thọ, Sớ chép: “Đây chung lúc bạch tứ”, nay y cứ thời duyên ngoài giới không mất. Chữ khủng trở xuống là rõ ý. Hai câu trên giải thích chỗ không nghe, chữ du trở xuống là giải thích chỗ thấy. Lại dẫn luật Ngũ Phần chuyển giải thích phi pháp. Nói khởi lỗi ấy, kia do Tỳ-kheo mượn y bát người, thọ rồi trả lại, các Tỳ-kheo bảo cùng đi khất thực, Tỳ-kheo kia nói rằng “Tự không có y bát, Phật không chế, tôi không mượn”. Cho nên, Tỳ-kheo bạch Phật, Phật do đó chế giới. Khoa kế, ban đầu bày chỗ. Chữ kim trở xuống là chỉ thời và sự. Kinh Bảo Đàn chép: “Lối đông trong giới tràng lập tòa hỏi già nạn”. Do thấy trước chép: “Nếu ở ngoài giới không gọi là thọ giới cụ túc”, cho nên nói là “thuận văn trên”. Luật Tăng-kỳ không nói trong, ngoài, cho nên biết cả hai đều thông, không gần không xa, trông thấy chỗ tăng ngồi mà nói. Trong Nghi-thức, đắp y ngược là bày tướng mạn, chữ cập trở xuống là nên có chữ Tróc. Trong năm món, dẫn duyên có thể hiểu. Trong tác pháp, ban đầu văn chia làm hai: 1/ Nêu ra bộ khác, Hòa-thượng cáo bạch, hoặc bày khác, hoặc khiến lấy gần kề. 2/ Sau dẫn bổn bộ, chính rõ dụng ngày nay. Trong hòa tăng, ban đầu chính hỏi pháp. Chữ như trở xuống là rõ chung riêng. Bốn lời đáp là đáp riêng: 1, Pháp như trước. 2- Gọi vào (gọi Sa-di vào trong chúng, đơn bạch yết-ma). 3- Đối hỏi (đối chúng hỏi nạn, đơn bạch yết-ma). 4- chính thọ (trao giới cụ túc, bạch tứ Yết-ma). Trong gồm đáp, trước sau bốn pháp đều là thọ giới, một lời gồm thâu. Sao dùng đáp chung trở xuống là không hỏi riêng. Cho đến, v.v… là tuy thông nhiều người có thể suốt ngày đêm, nhưng ở chỗ làm việc hoặc cho dừng nghỉ, nghĩa chẳng liên tục, hợp với nghi lạm, quyết muốn y theo hạnh lại chung một tòa. Nay các châu quận, mở đàn khác năm nên nhiều người cùng thọ, trái dùng pháp riêng, lý tuy không hại, sự thành nhiều lặp, văn khác có thể hiểu. Thứ sáu, là trong nêu ra lý do hỏi. Sợ ở trong chúng, nghĩa là ngay khi hỏi. Xét đặt ấy, hoặc y cứ người năng hỏi giao xong, hoặc là người được hỏi rõ ràng thong thả, lời thông giải thích cả hai. Trong phần nói rộng, đầu tiên nêu lý do. Có được không được như sau sẽ tự rõ. Chữ linh trở xuống là rõ ý, ba câu trên khiến người hay hỏi biết pháp. Được thì không đâu chẳng mờ cho nên nói là sáng đoạn. Chữ sử trở xuống là khiến năng sở đều hiểu. Chữ nhược trở xuống là bày phi, tức trong nêu không đủ làm ví dụ. (tờ 2 2 1) Trong chuẩn bị giáo, ban đầu dẫn chế. Chữ cố trở xuống là nói phải giải thích. Chữ ưng trở xuống là rõ giáo trước. Chữ thử trở xuống là ngăn nghi, y cứ vào luận tặc trụ đồng pháp mới thành, quyết khi đọc yết-ma lý nên chẳng ngăn. Đây do xưa chấp vấn nạn không chấp tướng hiểu, còn sợ vọng chấp đồng với yết-ma, không thể dự đọc cho nên nói một lần ngăn. Văn sau chính rõ tặc trụ, tức dẫn luật Tứ Phần, một, hai, ba người và chúng tăng cùng làm mới thành, hoặc nhân sau khi đọc nghe dễ hiểu, đến sâu ngăn làm lời. Trong phần sắp bày, Luật nhân thoát y hổ thẹn, Phật nói “Từ nay trở đi cho hỏi mười ba nạn”, tức nêu tướng kia cho nên nói rằng “chỉ hỏi”, v.v… Đến khi giáo thọ ra khỏi chúng, giới sư đối tăng hai lần bày pháp hỏi, chỉ hỏi mười sáu giá nạn cho nên nói rằng “Đến luận đồng”. Nay hợp đó, nạn ngăn trước nên nói là “nghĩa chuẩn đồng”. Trong năng hỏi, thể nghĩa là đại thể, tức là bổn ý. Mỗi mỗi đầy đủ, nghĩa là nêu tên bày tướng, lựa chọn phải trái. Không đồng v.v… Sớ chép: “Có thầy hiểu rằng “Hễ thọ giới pháp, tác pháp khiến tụng, chỉ nên nương văn mười ba điều, khiến đủ đáp rằng “không” tức là đắc giới, đâu cần hiểu nghĩa”. Tổ Sư liền dẫn trong xả giới, bên không hiểu chẳng đủ mắc tội Tăng-tàn, lời thô không hiểu thì không phạm, tướng đều khó phá, đây không rõ nên lược bác bỏ. Ban đầu giải thích biên tội, từ dụ làm tên, trong văn đủ giải thích. Trước nương y bổn luật lại y cứ giới cụ túc. Sau y cứ Đa Luận thông với bốn giới trước, đều gọi là biên tội, nhưng trong tục giới, đại tiểu đều chế chung, y theo tăng thì thiên tụ định ước rất nặng, cho nên giới cụ túc phải nói là “xả”, phạm tội nặng không bỏ tự gọi là hai diệt, muốn rõ thành chướng cho nên y cứ xả, đến sau ba lần phạm liền chướng giới, bất luận xả hay không xả. Hai, là nói làm ô nhục Ni, trong định tịnh hay uế ban đầu bày không lạm. Tức bổn luật chép: “Ông có ô nhục Tỳ-kheo-ni hay không?” Luật Ngũ Phần, Thập Tụng đều vậy, nên nói là “các luật”. Chữ cố trở xuống là thứ hai chọn tịnh. Trước dẫn thời sự, văn sau y cứ dùng. Chữ thử trở xuống là nêu ra chỗ y cứ kia. Sơ quả thì tư hoặc của ba cõi còn đủ, Nhị quả thì chưa hết tư hoặc của cõi dục, cho nên hai bậc Thánh này còn thọ vui đắm nhiễm, phàm phu gồm thâu nội ngoại bạc địa. Hỏi: Quyết không thọ vui, cảnh trước không hoại, có thành chướng giới chăng? Đáp: Ô nhục, hủy hoại thành nạn, theo năng được tên, nhưng chỉ lấy mạn, nhục, bất luận cảnh trước. Trên nói thọ vui là chọn trong ban đầu, sau người thành hay không thành. Quả thứ ba đã hết tư hoặc cõi dục, Tứ quả thì kiết sử đều sạch, hai bậc nầy quyết không đắm dục lạc. Chữ cố tri trở xuống là song quyết. Trong các phạm khác, xúc chạm tám việc, văn như xoa chạm làm một câu, hai câu sau nói tám việc. Câu trên rõ tám người cùng thành, câu dưới y cứ một người làm riêng. Theo Sớ, thì tám ni chung làm tám người, là truyền chép sai lầm. Luật kia hỏi rằng: “Có thể có người ô nhục Ni chưa thọ giới nên thọ, thọ rồi không nên diệt tẫn ư?”. Phật nói: “Có, như dùng thân tướng chạm ô nhục Ni”. Lại hỏi: “Có thể có người ô nhục ni được cho thọ giới ư?”. Đáp: “Có, như tám người dùng tám việc ô nhục ni, ni gọi là dơ mà tám người không gọi là dơ. Lại một người dùng tám việc làm dơ Ni, Ni gọi là dơ mà người không gọi là dơ”. Chữ linh trở xuống hai câu là gồm kết hai giới, tám việc đầy đủ như thiên Ni. Trong luận Tạp tướng văn có ba đoạn: - Ban đầu chọn chúng sau, chữ nhược trở xuống là rõ thông ba đường, y cứ gốc thành dâm, không nhọc ở đây chỉ bày. Vì ngăn ngừa nghi lạm, nghĩa là các phi chướng khác. Chữ nhược trở xuống là biện hình phục. Trong nghĩa quyết, ban đầu là chính quyết. Trước nói tự đắp không chướng, không y cứ, không y cứ biết và không biết cho nên phải phán cả hai. Chữ đãn trở xuống là ngăn lạm, sợ cho là cảnh trước tịnh uế cũng đồng hình phục, y cứ biết và không biết cho nên đặt biệc chọn đó, văn sau chỉ bày rộng. nghĩa Sao thứ nhất, Nghiệp Sớ thứ ba. Sớ nói rằng: “Có Sư nói “Chỉ là giới cụ túc, đâu luận tịnh uế”, lăng nhục, khinh mạn nặng cho nên chướng xuất gia”, nhẫn đến Tổ Sư nói rằng: “Nên dùng Tăng-kỳ để phán rõ định uế”. Văn đáp trong hoại Tỳ-kheo, câu đầu là phán định. Chữ ni trở xuống là nêu quyết. Kia hỏi rằng: “Cô có phạm tịnh hạnh với Tỳ-kheo hay không?”. Nói sự ít là nêu lược ý trong tăng. Chữ cố trở xuống là dẫn văn quyết, muốn đủ hỏi rằng “Người có trộm vật của hiện tiền Tăng hay không? Đối với sáu thân của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có làm hạnh bất tịnh không? Cha mẹ, Sư trưởng bịnh có bỏ đi hay không? Có giết chúng sinh phát tâm bồ-đề hay không?” Trong phần bày chung, người tục cần y cứ chưa thọ năm giới, tám giới. Thứ ba, rõ tặc tâm, Pháp tài chẳng có phần, dối trộm đem về mình cho nên dùng làm tên. Trong dẫn bày, ban đầu dẫn bổn duyên. Luật nhân lúc ấy nước Ba-la-nại lúc gạo đắt đỏ, có người ngoại đạo trẻ tuổi thấy Phật và tăng được nhiều đồ cúng dường, liền tự cạo tóc, đắp y, bưng bát vào trong chúng ăn. Các Tỳ-kheo gạn hỏi, người kia tự nói đầu đuôi, Phật do đây chế giới. Chữ nhược trở xuống là phán thành hay không. Ban đầu nói trộm hình. Người chưa xuất gia nghĩa là chưa thọ mười giới. Chưa thọ, là chưa thọ giới cụ túc. Không nên thọ y cứ trước biết. Đã thọ được là y cứ sau mà biết. Luật nói đủ rằng: “Cho đến một Tỳ-kheo đến chỗ tăng, không cùng yết-ma thuyết giới. Nếu chưa xuất gia, thọ giới cụ túc thì không được cho xuất gia thọ giới cụ túc. Nếu đã cho xuất gia thọ giới cụ túc, cho tức gọi là xuất gia thọ giới cụ túc, văn dư chữ giả bỏ đi liền rõ nghĩa”. Chữ hội trở xuống là nói pháp trộm, chính là vị nạn cho nên diệt tẫn. Trước chỉ đồng với ngăn, dầu tăng dự biết, trái với chế đắc giới. Trong quyết thông, trước dẫn văn luật sau nầy bày quyết nghĩa. Văn trên chỉ nói rằng “một, hai, ba người không gọi là Chúng, chỉ cần dùng nghĩa định”. Còn bao nhiêu hòa hợp ấy, như nói tự tứ thưa chúng, hòa Tăng, lập chế, v.v… Trong bộ khác, Luật Thiện Kiến ba món đều gọi là trộm hình, nếu y cứ món thứ hai chính là trộm pháp, cho nên trong Sớ chỉ nói ba món (hoặc sợ viết lầm, chữ nhất nên để trên chữ trộm hình, thì đồng nghĩa với Sao), hoặc có thể xứng hạ nhận lễ, trộm hình đại Tăng cho nên thông nên. Ban đầu nói trộm hình, nói lợi dưỡng ấy là phải y cứ hai món vật hiện tiền tăng, ăn uống và cúng dường là chỗ trông mong của kia, nghĩa đâu không nhận, cho nên sau nói rằng: “Vì đói khát”. Thứ hai, trộm hòa hợp, Luật chỉ y cứ pháp, luận chung bốn món, thêm hạ lạp, lễ, lợi đều thành chướng giới, cho nên Sớ hỏi: “Trộm hòa hợp, lẽ ra ở yết-ma, sao dùng trong văn đủ bày hạ, v.v…?”. Đáp: “Hạ kế, lễ nghi và tín thí, đều là biểu tướng sáu hòa của tăng, do có giới, cho nên liền có hạ kế, v.v… Do trộm giới tướng khiến người khác tin”. Nếu thấu trở xuống là phán đoán được hay không, đồng với luật Tứ Phần ở trước, dẫn Ngũ Bách Vấn hỏi riêng chứng, nhận lễ. Trong sắp xếp, khoa đầu chia làm hai: Trước bày bổn luật nói thông. Chữ y trở xuống là kế dẫn luật Tăng-kỳ để chính quyết. Ban đầu nói trộm pháp, kia nói rằng: “Sa-di núp dưới giường nghe trộm”. Trong phần đầu, sau nói là tiếp ngôn tướng trước sau của yết-ma, đều ghi thành chướng, không đủ thì không thành, văn tuy lược ghi nghĩa phải hiểu rõ (xưa chép: “Tác bạch là đầu năm, thiên là giữa, lược giáo là sau”. Ở đây giải thích rất sai. Nói giới thì có thể, còn như đơn tác yết-ma thì y cứ phần nào?) Nhược phàm trở xuống là nói trộm hình, trái đó là trải qua bố tát. Hỏi: không nghe yết-ma chí nghe giới tướng có thành chướng chăng? Đáp: Đây có hai thứ khác nhau: Nếu thân ở chúng vọng đồng tăng nêu, chỉ nghe liền thành, không cần phải yết-ma. Nếu nói về trộm nghe quyết y cứ yết-ma, nếu chỉ nghe giới nghĩa lẽ ra chẳng chướng. Tức văn trước nói rằng “không bỉnh yết-ma đều không thành nạn”. Lại như Sớ chép: “Trộm hòa hợp, lẽ ra ở yết-ma”. Hỏi: Nếu vậy sao dùng luật Tăng-kỳ chép: “Khi nói giới thì luận việc gì? Đáp: Vì khi nói giới quyết phải làm yết-ma. Hỏi: Nếu vậy sao cho nói giới sót chưa đủ? Đáp: Sợ sinh tâm xem thường, bất luận chướng giới như Giới Sớ nói rằng: “Chúng sau không biết, thường sinh khinh mạn, chế khiến tai mất không thấy nghe thì trọng pháp”. Người tôn trọng sinh khâm phục kính tin, y cứ vậy thì biết là chọn ra ý khiến tôn trọng. Lại như Đại ni cũng sót, há lo chướng giới ư? Hỏi: Riêng tập bỉnh xướng, chưa thọ cụ túc chợt nghe và khi chưa thọ có giở kinh luật, do đó đọc yết-ma biết rõ nghĩa lời, có thành chướng giới hay chăng? Đáp: Y theo văn trước sau đều nói làm đúng trong tăng, nên dối trộm thành chướng, đâu có đọc văn mà thành chướng giới. Như trước trộm hòa hợp tăng ở luật Thiện Kiến, ở chỗ vắng xướng đọc riêng, tăng vẫn ăn ở chung, do châm chước nghĩa, nhất định chẳng phải thành chướng. Ở trước nói: Đây chẳng phải tết-ma, không phạm tặc trụ” ý hiểu như trên không thể chuyên chấp (xưa đều chép “Thành nạn”, xưa nay bậc cao tăng phần nhiều có người đời trước đã mở Đại tạng xem, ngày nay các tín só phần nhiều cũng như vậy, nếu đều chướng giới, đâu không quá gấp, người học nên rõ điều đó). Trong không đủ năm, Già luận nói qua bố-tát nghĩa là biết mà cố làm, nhưng cũng phải y theo khai hiển để phán. Kế trong luật Tứ Phần do tuổi không đủ và pháp không thành, nghi não người khác liền chế tội Ba-dật-đề, nay dẫn không phạm, văn trong mở lời. Hai chữ “người thọ” đọc nối ở trên, văn nêu hai việc không đủ có thể hiểu. Nói tác pháp, nghĩa là tác bạch yết-ma không thành vì phi pháp, riêng chúng. Có biết v.v… ấy, nghĩa là biết thật không đủ và phi pháp, sợ sau nghi hối thọ lợi dưỡng, lễ kính nên nói cho biết, trở lại bổn xứ thọ giới cho nên dẫn ra đây. Lại nói vốn thọ không được liền nhận sư lễ kính và lợi dưỡng thì là tặc trụ, đồng như Già Luận. Ni xả giới đến không trộm hình và trộm pháp thì y cứ chẳng phải tặc trụ, nhưng do Phật chế Ni không được thọ lại cho nên trái bỏ, trông trước ở đạo tức đồng trộm pháp, nên gọi là tặc trụ, tuy khác trước mà y cứ lỗi nói là đồng. Thứ tư, phá nội ngoại: Trong Luật, vì ngoại đạo lõa hình bàn lu- ận nghĩa với Xá-lợi-phất, liền cho là Sa-môn Thích-tử thông minh trí tuệ. Sau gặp Bạt-Nan-Đà liền theo xuất gia, hỏi nghĩa mà Bạt-Nan-Đà không thể trả lời, kia liền bỏ đạo. Tỳ-kheo bạch Phật, Phật nói: “Từ nay trở đi bạch nhị yết-ma cho ngoại đạo bốn tháng ở chung”. Trước cho cạo tóc, thọ mười giới, sau làm yết-ma (ở đây thử thách ngoại đạo mới vào, chẳng phải phá nội ngoại). Sau lại có một ngoại đạo vừa xong bốn tháng thử thách liền được chính tín, Phật dạy cho thọ giới cụ túc. Lõa hình ngoại đạo trước, nghe điều này rồi lại đến xuất gia, Phật nói: “Đây là phá nội ngoại đạo, ở trong pháp ta không có lợi ích”, từ đây ngăn cấm. Nói phá, là hai kiến tà chính đều hoại. Sớ chép: “chính lấy phá nội gồm thật phá ngoại”. Trong bày danh tướng, ban đầu đến nặng cả hai đều phá ngoại, thọ rồi lại hoàn tục tức là phá nội. Lại cần định y cứ giới cụ túc mà nói, nếu thọ mười giới phá thì không thành nạn. Chữ bỉ trở xuống là nêu ra lý do chướng. Trong dẫn chế, vì trước phá nội cho nên chế để thử thách lúc mới vào, nếu phá nội ngoại thì là hằng chướng, đâu phải thử thách. Nhiều người hiểu lầm cho nên chỉ bày. (y cứ thiên Sa-di, đây tức bỏ mất giáo pháp. Trong Sớ cũng khiến nương kia, nhưng cần quán cơ dụng xả, chia thể toàn bỏ, cho nên ở đây nêu) Ý trong lời hỏi cho rằng chỉ khiến ở chúng, có thể nghiệm thuận nghịch, mà trong văn luật chưa cho yết-ma, trước phải thọ mười giới, ý chế rõ nạn, cho nên hỏi bày. Trong phần đáp có hai ý để hiểu. Trong kết lược, Hoàng Cân xứ nầy (Trung quốc) hoặc có tin ưa nên y cứ pháp trước. Luật nói rộng, trước chế khiến cạo tóc, kế cho thọ mười giới, nên đến trong tăng xin rằng: “Đại Đức tăng xin lắng nghe! Con là ngoại đạo mở pháp, theo tăng xin bốn tháng ở chung”, (nói ba lần). Tăng liền để người kia ở chỗ mắt thấy tai không nghe mà lầm pháp Yết-ma rằng: Đại Đức tăng xin lắng nghe! Ngoại đạo mỗ giáp kia nay theo chúng tăng xin bốn tháng ở chung, nếu tăng phải thời mà đến, tăng bẳng lòng cho ngoại đạo mỗ giáp kia bốn tháng ở chung, bạch như vậy (yết-ma y theo đây mà làm). Kia thực hành ở chung xong, làm cho các Tỳ-kheo tâm vui vẻ, rồi mới cho thọ giới cụ túc. Năm là huỳnh môn, Sớ chép: “Huỳnh là sắc phương giữa. Hình phạt thời xưa, người bị hình phạt này sẽ bị thiến. Do vệ trung là cửa cấm nên nói là huỳnh môn. Trong thông lệ, sinh nghĩa là sinh, lai tức là phải, Kiền như sau sẽ giải thích, còn ba món khác có thể hiểu. Trong chia cắt, câu đầu chỉ cho việc. Chữ nhược trở xuống là chính phán, trước rõ đều cắt thành chướng. Chữ kim trở xuống nói lên trái chút phần không thành. Người bị cắt căn, sắc tâm thay đổi cho nên y cứ chưa sửa đổi. Quyết đã sửa đổi, chút phần cũng chướng. Tội nhỏ, tức sau nói rằng “Thiên nương sám”. Hai văn trong đều cắt cùng nói về Tỳ-kheo, bởi y theo đã thọ, lệ quyết chưa thọ. Bổn Luật bốn món thì ba duyên trên hoại trở xuống là một kiền hoại. Không có điểm dưới trở xuống một món là không lựa đều chia. Luật Ngũ Phần ban đầu dẫn duyên khởi, cho đến ấy là lược lời tự cắt. Về cắt, vì dục tình có thể trị, cho nên không nên cắt, vì báo sắc không nhớ. Tức Kinh Tứ Thập Nhị Chương chép: “Nếu đoạn âm kia (nam căn) không bằng đoạn tâm”. Chữ cáo trở xuống là nói Phật phán, các văn đều cắt cùng chế, diệt tẫn chỉ có luật Ngũ Phần nầy. Có chút mở để lại sau khiến y cứ theo đó. Thiên nương sám thì tự hại thân phần phạm tội thâu-lan-giá nặng, là phương tiện giết. Y cứ trở xuống là bệ quyết. Đã cắt nghĩa là đều bỏ chút. Lưu là y cứ theo trước. Khám, tức tâm tính chưa đủ. Các bộ khác, tức lấy luật Ngũ Phần, bổn bộ đều cắt, nhất định là không được, cho nên Sớ chép: “Tứ Phần không có văn để y theo”. Trong ba giết, thứ sáu, thứ bảy là trái ân, thứ tám là trái phước, đến sau thứ chín tức chướng chính đạo người khác, thứ mười gồm trái ân phước. Năm món này đều trong nghịch phản, đều gọi là năm tội nghịch, nếu phạm chắc chắn đọa ngục A-tỳ, cũng gọi là năm nghiệp Vô gián. Trong hai món nghịch phá tăng gọi là lạm, nên chia làm hai, Phá pháp luân, lập năm pháp tà: 1/ Trọn đời khất thực. 2/ Mặc y bá nạp. 3/ Ngồi dưới gốc cây. 4/ Không ăn muối. 5/ Không ăn cá thịt. (Lúc nầy Phật còn chế ăn tịnh nhục). Phá pháp bốn y và tám chính của Như lai phạm thượng phẩm Thâu-lan-giá. Phá yết-ma: Là trong một giới có hai chúng đồng thời tác pháp, phạm trung phẩm Thâu-lan-giá. Mười, là làm chảy máu: Kỳ-bà trị bịnh dùng kim chích Phật chảy máu được sinh lên cõi Phạm thiên một kiếp. Điều-đạt xô đá núi lăn đá làm bị thương chân Phật, đọa ngục A-tỳ một kiếp. Cho nên sau chính hỏi thêm tâm ác để chọn đó. Chữ thử trở xuống là gồm bảy, chỉ khi Phật còn ở đời, Điều-đạt gây ra hai tội nghịch nầy, còn bao nhiêu thì chẳng thể có. Sớ chép: “Tội nghịch phá pháp luân ngày nay ít có (Ấn-độ còn có bè đảng của Điều- đạt, Trung Hoa cũng có bọn tà kiến diệt pháp). Lại dẫn giải thích xưa hủy hình tổn hoại tượng, hoặc có máu, ánh sáng đều xếp vào tội nghịch. Lại nói rằng “Không cần có máu, ánh sáng, chỉ nói tâm ác, tổn hoại là tội nghịch”. Tổ Sư nói rằng: “Cố dẫn bày đó, có thể châm chước”. Trong phi nhân lại nêu bày quỉ thần, cần thông bốn đường (trời, tu-la, quỉ, địa ngục). Chữ Luật trở xuống là dẫn chứng, quyết lấy sự biến hóa mới phải hỏi. Luật Nhiếp, luật Tứ Phần chỉ nêu ba tên mà thôi, luật Ngũ Phần nói vì Tu-la nhàm chán nạn già chết, hóa thành hình người, sau khi thọ giới đến nhà cư só ăn năm trăm phần ăn, bị người chê cười, cho nên chế luật, văn lược nêu hai đường ba bộ, còn bao nhiêu quyết cần đủ. A-tu-la, Hán dịch là Phi thiên (chẳng phải trời), vì có nhiều sự dối trá chẳng phải hạnh các vị trời. Càn-thát-bà, Hán dịch là Khứu Hương, cũng gọi là Thực hương (lấy mùi thơm làm thức ăn). Trong súc sinh đồng lấy sự biến hóa, cho nên cũng là khoa trước. Chữ Luật trở xuống là dẫn chứng, tức Luật Thiện Kiến chép: “Long Vương nhàm chán thân, hóa thành ngoại đạo, xuất gia thọ giới rồi, vì ngủ say nên hiện nguyên hình, Phật liền chế ngăn” như văn đã dẫn. Rồng làm duyên khởi còn các súc sinh khác đều như vậy. Trong phần chuyển hỏi, ban đầu nói ý hỏi, chữ thoát trở xuống là dạy chuyển đổi. Chữ như trở xuống là tự ra, thoắt giống như bỗng. Trong hai hình, đầu tiên là bày tướng. Luật Thiện Kiến nói có ba loại: 1- Có khả năng tự thọ thai, lại làm cho người khác thọ thai. 2- Chỉ có khả năng tự thọ. Chỉ làm cho người khác thọ. Ba loại nầy đều là nạn vì đều là hai hình. Chữ nhược trở xuống là dùng lỗi so sánh thọ, tức một trong bốn món xả, y theo Sớ. (tờ 2 2 3) Ba chướng thâu: huỳnh môn là người nặng nề, ái dục, nhiều chướng phiền não. Lại không thể là nam, cũng xếp vào báo chướng, Ni tặc phá, năm nghịch, chín món đều là nghiệp chướng, chẳng phải như súc sinh, hai căn, ba món là báo chướng. Kế, khoa đầu trong nói về ngăn. Câu đầu chỉ trước mà sau rộng bày. Chỉ người thọ pháp, kia có hơn một trăm bốn mươi món, trước sau xen bày. Nay nương sáu căn chỉ bày tổng quát. Nhãn căn có hai mươi ba: xanh, vàng, đỏ rực, đỏ pha vàng, màu đỏ, hoặc xanh, vàng, trắng, xanh lục, xanh nước trong, rất sâu, ba góc, càng cách xa, dài, lớn, mắt lác, mù, mắt chột. Nhó căn có một (là điếc), nghe không rõ mũi). Thiệt căn có hai (câm và đủ hai). Thân căn có chín mươi bảy, tóc lông có sáu (tóc cằn cỗi, tóc xanh, vàng, tóc bạc, không tóc, không lông). Đầu có mười bảy (đầu voi, đầu ngựa, đầu lạc đà, đầu lừa, đầu trâu, đầu heo, đầu dê, đầu nai, đầu rắn, đầu cá, đầu chim, hai đầu, ba đầu, nhiều đầu, đầu nhọn, đầu trùng). Nhan sắc có bảy (tất cả xanh, vàng, đen, đỏ, trắng, hoặc lẫn lộn, hoặc sặc sỡ). Miệng có sáu (răng răng cưa, không răng, cổ họng cong, sứt môi, không lưỡi, lưỡi bị cắt). Hình tướng có hai mươi sáu (ngực ểnh, lưng gù, trước ểnh sau gù, trong cong, ngoài cong, trong ngoài cong gãy, quá cao, quá lùn, thân như người nữ, phụ nữ ràng buộc thân, ngón chân cong, chân què, một tay một chân, một tay, không tay, không chân, không tai, một trứng, không trứng, ngón tay cong, sáu ngón, ngón có màn). Bịnh hoạn có hai mươi ba (bịnh ghẻ, tướng chết hiện, bịnh ung thư, bịnh khí, bịnh tật dịch, bệnh nhổ nước bọt, chỗ kín bị ghẻ, thường nằm không ngồi dậy được, quá già, bịnh khô năm căn, tay trái hư, tay phải hư, bịnh phong, bịnh nhiệt, bịnh đàm ấm, bịnh ghẻ, bịnh nội thương, bịnh ngoại thương, trong ngoài đều bịnh). Tất hoại có mười hai (cắt tay, cắt chân, cắt cả tay chân, cắt tai, cắt mũi, tai mũi đều cắt, cắt nam căn, cắt trứng, cắt đầu nam căn, cắt cánh tay, cắt khuỷu tay, cắt ngón tay). Ý có ba (không biết tốt xấu, nhiều các khổ não, cuồng si, năm căn kia có một trăm hai mươi sáu và sau tạp già cộng có hơn một trăm bốn mươi loại). Tạp loại hơn hai mươi (không xưng tên mình, không xưng tên Hòa-thượng, không xin giới, mặc áo dài, mặc áo ngoại đạo, đeo đồ trang sức, mắt say, lõa hình, tức giận, không tâm, có tên trong sổ nợ, trốn thuế, nợ nần tôi tớ nhà giam, y bát không đủ, tuổi không đủ, cha mẹ không cho, có năm thứ bịnh…) Chữ giai ngôn trở xuống là gồm bày được không như sau. Trong ba giá nạn, y cứ không có y bát nên hợp lại đồng khoa, nhưng văn chẳng rõ nên có nhiều giải thích khác nhau, nay thầy phán nghĩa cho nên bày ở sau. Hỏi: Y cứ định không phát sao không gọi là nạn? Đáp: Tên có thể đổi xưng, năm cho đợi đủ, chẳng đồng thường chướng, không thuộc về nạn. Tuổi không đủ, phải tính luôn thai nhuần và thêm tháng bố-tát mà vẫn không đủ. Trong luật Ngũ Phần ban đầu nêu là ngăn, chế tăng liền độ. Chữ hoặc trở xuống là kế rõ chẳng ngăn, chế tăng làm nạn. Tăng-kỳ có nhiều món phần lớn đối với luật Tứ Phần. Lược nêu bảy tướng, mắt chim tức thuộc mắt mù. Người điếc trở xuống là y cứ kia hợp có câm. Khoa sau lại giải quyết rõ ra là viết sót. Tích âm tích, là không thể đi. Xương cùng cao hơn mông. Ban âm ban, sẹo roi cũng như sẹo gậy. Đột khởi cũng là luống kết trái. Ao hãm cũng là quạ trị trái. Dấu sẹo, nay gọi là khắc xanh. Hình thú, kia nói rằng: “Làm các món tượng chim thú, chu nho là người lùn. Luật kia các giá nạn đều cho là không nên, các lời mỗi thứ đều kết. Nay đây tổng quát cho nên nói là “tất cả đồng”. Trong rõ được không, ban đầu bày lời tổng kết bốn món. Văn kia già nạn bốn kết đều đồng, chỉ có nên đuổi hay không đuổi là chọn khác. Văn sau đồng ấy, như nói rằng “Nếu không xưng tên Hòa-thượng, không xưng tên người thọ, không xưng tên tăng, không gọi là thọ cụ túc”, sau các giá nạn đều có lời này. Còn ba món khác tức là văn chung của khoa trước. Chữ thị trở xuống là chính chọn, thị trung tức chỉ cho luật kia. Trong nói về già nạn, ban đầu bày hai kết, luật kia hễ người ứng pháp thì gọi là thọ cụ túc, như ngài Ba-ly hỏi Phật: “một Hòa-thượng, một giới sư, một chúng có được cùng thọ chăng?” Phật nói: “Hai, ba người như vậy cũng được cùng thọ”, đây gọi là thọ cụ túc, còn bao nhiều đều lệ như vậy. Nếu là người giá nạn thì nói là “không gọi là thọ cụ túc”, nếu cho xuất gia là vượt tỳ-ni, lời nầy bao gồm chung, cho nên nói là đâu ngại, v.v… Chữ như trở xuống là dẫn bày có hai: Ban đầu nói chung được hay không. Chữ hựu trở xuống là bày một bề không được. Trong ban đầu câm, v.v… là đồng lấy đui điếc, luật kia chép: “Người mắt mù không thấy tất cả (đây tức không được) nếu thấy lằn chỉ trong lòng bàn tay, mắt chim, được cho xuất gia (ở đây đồng như pháp). Điếc là không nghe tất cả tiếng (điếc nặng), nếu nghe tiếng lớn đươc xuất gia (điếc nhẹ). Sẹo roi lồi lõm (là nặng), trị cùng da không khác được xuất gia (là nhẹ). Luật kia trong câm không bày tướng nhẹ, quyết lấy tương tự có thể nói, lệ trên đui, điếc, nặng, nhẹ hai món khác nhau. Thanh tịnh chung ở, tức chỉ lời được cho xuất gia, trước rõ là được, văn nói là sau bày không được. Kế, trong một bề không được, chữ di thơ trở xuống là kia có in sót chữ thử, nay đây hợp đó, nghĩa là gởi viết nhận. Giơ tay ra dấu là không nói cầu xin. Kia không chỉ giơ tay, nay thêm đó để giúp. Không hiện tiền là thân không đến trong tăng. Như vậy, v.v… là kia nói rằng “không hỏi” (không hỏi giá nạn), người trước không muốn (không có tâm thọ giới) phi pháp không hoà hợp, chúng không thành tựu, bạch không thành tựu, Yết-ma không thành tựu, nếu mỗi việc không thành tựu thì không gọi là thọ cụ túc. Chữ tiền trở xuống lại điểm trọng (nặng), mù, điếc v.v… cũng đồn. Thập Tụng, Già Luận, nặng, nhẹ, được, không được đồng với Tăng-kỳ ở trên. Trong y bát, Luật Tứ Phần, do người không y bát thọ giới cụ túc, các Tỳ-kheo bảo vào xóm khất thực, người kia nói “Tôi không có y bát” do đây chế giới. Lại có người mượn y bát của người khác, thọ giới rồi, chủ y bát lấy lại, kia lõa hình hổ thẹn, cho nên Phật chế không được mượn. Nếu muốn cho y phải dạy xin cho, không cho thì phải cho tiền bằng giá y (ở đây y cứ hằng bán mới thành, nay có người tạm thuê rồi trả lại thì đồng với mượn). Sau dẫn luật Ngũ Phần chuyển chứng người mượn, đã khiến chủ bỏ, thành vật của mình, cho nên liền đồng với luật Tứ Phần phải dạy xin cho. Trong Đa Luận, ban đầu nêu định đắc giới. Chữ luận trở xuống là dẫn văn bắt bẻ lại, ý cho là không đắc giới thì đâu cần chế? Trong lời đáp ba nghĩa rõ bổn ý chế riêng chẳng chuyên thọ giới, cho nên đức bên trong không nêu ra từ bi giải thoát và hổ thẹn. Trong quyết phán, bộ khác, là Sớ dẫn nạn rằng: “Nếu không có Hòa-thượng thì không thể theo kia”. Chữ tất trở xuống nghĩa là hưỡn gấp điều riêng, không thể dùng chung. Tông kia không có Hòa-thượng, mặc áo đời v.v… đều khai thành thọ, ở giáo quá hưỡn. Tứ Phần không phải như vậy, lập pháp có nghi, huống chi thọ giới là việc lớn, nghĩa không khinh lược cho nên khiến y theo gấp. Trong lệ bác bỏ, y theo Sớ xưa có hai cách giải: Nói rằng: “Nương Đa luận, Thập Tụng, dầu không có cũng khai đắc giới, mắc tội (khoa trên đã phá nhưng không nêu xưa). Lại có người nói rằng: Nếu không có y bát hoàn toàn là phi pháp, nếu mượn được thì ngay lúc đó là có. nghĩa y cứ Hòa-thượng phá giới bốn câu tức nay chỗ đã bác bỏ, ban đầu dẫn xưa, đây về sau chính là bác bỏ. Sớ chép: “Được hay không, chẳng có văn thì phàm tình khó tin, cầu nương thinh giáo thì không có giới”. Trong thiên Cha Mẹ, luật nói do Ngài Thân Tử độ La-hầu, v.v… vua Tịnh Phạn bạch Phật, Phật do đó chế giới. Trước dẫn luật Thiện Kiến, nói các phương khác đều cho phép, sau y cứ Tăng-kỳ rõ chọn thân sơ, nhưng ở Ấn-độ có nhiều nước nhỏ, đồng với xứ nầy xưa nay tùy nơi chốn y cứ. Ngày nay thống nhất hơn bốn trăm châu, Di, Địch không thông, sự cũng ít có, y cứ văn, y cứ cõi nước, lúc bấy giờ chẳng muốn, dầu có cũng ít. Vả lại, y cứ một cõi nước phải hỏi cho hay không? Nhưng trong đây phong tục rất tôn kính tăng đoàn, phần nhiều do thân mình xả bỏ so sánh mà có già nạn. Tự đến, là đời có người riêng hết sức đến với người khác là cha. Dưỡng nhi là lúc mới sinh em bé theo người cầu nuôi, thiếu nợ được cho là có nợ người. Y cứ sự chẳng nặng, y cứ nói rằng: “Không nên”, lẽ ra Tăng có tội. Nhưng do ở Ấn-độ người thiếu nợ xuất gia vua không chấp nhận, cho nên phải kết phạm. Xứ nầy không phải như vậy, có giới không lỗi. Trong tôi tớ, văn ban đầu, năm món của luật Tăng-kỳ thì ba món trước thuộc nghĩa chủ. Chữ cường trở xuống là thứ hai thì yếu cho nên chia hai phần. Trong đây đến pháp, phần nhiều là bởi người, sự cũng ít. Kế khoa đầu là chỉ thời sự. Chữ nhược trở xuống là y cứ kinh chấp nhận. Chữ Luật trở xuống là bày chỗ thiếu của luật, hai câu sau y cứ kinh quyết luật, Kinh gồm nam nữ, nhân quyết khoa trước, cho nên nói rằng: “Đến con”. Do trước luật Tăng-kỳ, ba con, năm tôi tớ đều không nói buông bỏ, cho nên cuộc hạn kia đây. Nay y cứ văn kinh chỉ là bị buông bỏ bất luận thân sơ. Phương kia, xứ nầy tất cả đều được, cho nên nói rằng “thông sung”, sung dụ như chấp nhận. Sớ nói rằng: “Nếu bị buông bỏ nào nói kia đây”. Trong ba món, thì phật nô, hoặc phí vật làm thuê của tăng, hoặc của người khác hầu Phật.Trộm hai kết của Phật, ở đây y cứ chủ luận, cho nên nói rằng “phạm nặng”, người đại đạo gọi là Tỳ-kheo, tuy đã thọ giới cụ túc quyết trở lại vi tôi tớ, cho nên nói là “sai”. Đây là y cứ hằng làm hoặc ở hạn cuộc làm thuê, không như vậy thì chẳng đã nói. Người làm quan, trong Luật nhân độ dũng tướng của vua Ba-tư-nặc xuất gia, vua chê bai cho nên Phật chế. Sớ chép: “nghĩa là phẩm công huân đã trên địa vị”. Văn võ bá quan, Tăng-kỳ v.v… bốn câu, có thể hiểu. Danh nghĩa là tài nghiệp, là chỗ xứng của thời bấy giờ. Y cứ trở xuống tức là y theo đều không lệ quyết thường tục. Do trong luật hệ thuộc tên nhờ người cũng thuộc về già nạn. Trượng phu, Sớ chép: Người nam gọi chung là Trượng, là hình tột hình. Khổng Tử cao hơn chín thước cũng có một trượng. Khoa đầu có bốn câu, câu đầu là chí lớn, câu kế là tiết cao, câu ba nghĩa là hạnh có trước sau, câu bốn tức tâm không khinh động, quyết trái bốn câu, đây tuy là người nam thì chẳng phải là Trượng phu. Đứng vững gọi là vị cao. Phong sương dụ cho các việc suy, nhục, nguy nan, v.v… Cứng bền cũng là đạt đến. Kế, trong dẫn chứng, văn luật ban đầu dùng năm năng lực, chữ vị trở xuống nêu bày năng sở, tức mười món việc khổ. Chữ hàn trở xuống nói chữ lục là sáu, mủi mòng, trùng độc là bảy, lời ác việc khổ là tám, trì giới là chín, ăn một bữa là mười. Trong Tăng-kỳ, tuổi tuy ứng pháp mà không kham nhẫn cũng chọn, cho nên biết xuất gia chuyên giữ nghiệp tu, đâu không suy nghó điều đó. Trong năm bịnh, văn ban đầu, năm món như sau tự bày. Trong điên cuồng chỉ trừ thượng phẩm. Trong phần nói riêng, Sớ dẫn luật Thiện Kiến, chỗ vắng tăng trưởng thì không được, không tăng trưởng thì được độ, cùng năng khác nhau. Hoặc là Tổ Sư sửa đó theo rộng, hoặc sợ truyền viết lầm. Chữ nhiên trở xuống nghiên cứu chỗ khởi của bịnh, ý bày khai được. Sau dẫn người chứng quả, giải thích thành nghĩa ban đầu. Sớ chép: “Do hoặc chết, ở đây sinh nghiệp hết quả báo” cho nên gồm nhóm thọ. Chữ hoặc trở xuống là nói thọ rồi sinh bịnh, do đó mà dẫn. Hoặc có thể thọ rồi đã cùng việc tăng, cho nên biết chưa thọ quyết không chướng giới. Trong việc khác, nói lý do ấy nghĩa là thọ giới là việc quan trọng, các bộ chế nghiêm đã rõ, việc khác lại bày ý nầy. Khoa đầu, luật Ngũ Phần ngược bày tướng thức vẫn không thầm thọ, tiếp tục dẫn đèn chiếu không cho lạm giao phó. Khoa kế, đầu tiên là dẫn luật Thập Tụng, kế là hỏi thứ ba, kế điểm bốn tông, không văn có nghĩa, sau khuyên y cứ sự nghi trước có tựa. Nay phần nhiều không làm, rất trái ý Tổ. Trong thứ ba, nạn duyên của luật Tứ Phần khai cho nhiều người thọ, Luật Tăng-kỳ, Thiện Kiến, chính là thường khai. Ngày nay hành sự không cần chấp nạn, tám nạn các duyên, thiên sau trình bày, cho nên lược chỉ ra. Trong Luật Tăng-kỳ, do ngài Ba-ly có hai Sa-di, muốn cho cùng thọ, bèn bạch Phật, do đó khai văn dẫn, Phật đáp “một chúng ng- hóa là ngoài hai thầy gồm các giáo chứng khác cộng thành mười người”. Chữ “cùng thọ” trở xuống kia nói rằng: “Không được chúng thọ”, nay đây lược bỏ. Chữ nhược trở xuống là ngăn phi, kia nói rằng: “Hai ba người cùng một thầy yết-ma, riêng Hòa-thượng cùng một chúng thọ không gọi là thọ cụ túc”, so sánh điều đã dẫn, nay có chút không thứ lớp. Trong luật Thiện Kiến, không tướng lễ nghĩa là không xen lễ, nên phải đối lễ. Trong phần chính hỏi, sau rõ hành sự, văn tướng rõ ràng không cần lại giải thích nhỏ nhặt, nhưng ở khoa đoạn hơi có thứ lớp, hẳn đối với giảng sư sửa đổi thêm thắt văn chương, cần khiến người mới học hiểu rõ việc nghi. Bậc thầy ngày nay ngu si, hễ thấy chương nghĩa phần nhiều chỉ ở đầu môi chót lưỡi chứ hành sự thì bỏ phế không làm, lại cho là văn rộng không thể nghiên cứu, đến làm việc phụ một chút cũng không biết, luống gánh vác truyền thông, hoàn toàn trái ý chỉ của Sao, nếu nghe lời trung thực nên cẩn thận. Bảy là khoa hành sự, thứ lớp do nhau, trong phần đầu lại duỗi tay ở trong, cũng y cứ chỗ ngoài trời. Về chỗ cao hơn, Sớ chép: Giới già đã tịnh kham làm đạo phẩm, duyên thành nghiệp đủ, vị lên Tăng bảo, đâu phải thấp hèn” (có chỗ nói đàn thượng là sai). Trong thứ hai, Sớ chép: “y bát danh tự, lời thiếu bày để chung phép nói năng. Đáo là hóa, chữ Tiền trở xuống là chỉ bày y. Chữ nhược trở xuống là định gia trị trước sau, các bộ chỉ chung hai luật và ở thọ trước, chỗ đây tức nương Ngũ Phần. Ở chúng nghĩa là lên đàn, tức nêu ra Tăng-kỳ, chữ hoặc trở xuống là bày chỗ truyền xưa, chính ở thọ sau. Tùy giữ cả hai, đây dụ như chưa quyết, nếu y cứ Nghiệp Sớ nhất định nương Ngũ Phần. Kia chép: “Đâu đồng với người xưa nhanh chóng đồng thọ sau”, ngày nay riêng lập Xà-lê trì y, chỗ khác trước thọ, lý tuy không sai nhưng trái ý Tổ. Chữ tinh trở xuống là bày bát. Trong thứ ba, không thật nghĩa là gồm nạn. Thật tức thanh tịnh trong trẻo. Sau dẫn luật để nêu bày Thánh so sánh với phàm, khuyên khiến nói thật, nhưng già cũng thông được, ở đây là nói theo trọng. Trong thứ tư, thứ năm, huỳnh môn chú rằng “Nương danh chỉ bày” quyết cần như trước thuật kỹ càng tướng ấy, giúp kia hiểu biết. Nay các thầy nương bổn tụng nói rằng: “Huỳnh môn có năm thứ: đó là sinh, kiền, đố, biến, bán”. Nếu chỉ bày đây thì người thọ nghe đó, làm sao hiểu được, như văn trước nói rằng “Trọn vì chẳng hỏi tức là loại nầy”. Trong thứ năm, trước nói rằng: “mười sáu giá nạn” nay hợp với y, bát, cha, mẹ, năm bịnh, cho nên là mười. Hai câu hỏi chữ thùy, theo Sớ đều là đổi tên, do phương nầy kẻ đạo người tục danh tự khác nhau. Trong cha mẹ, chú tùy có ấy, y cứ phải trước hỏi “có, không”, đáp có mới hỏi nghe chăng? Tiêu là bệnh gầy. Trong thứ sáu, ban đầu khen hừa. Chữ Như trở xuống là khuyên nhớ. Trong thứ bảy, tọa cụ ở trên vai là y theo Cảm Thông Truyện, chính là chế trước, nay cầm trên tay. Thỉnh chung, nghĩa là hỏi tăng có thể chăng? Luật Ngũ Phần mỗi thứ tùy duyên, nghĩa là chỉ dụ an ủi v.v…, kia chép “Nên an ủi rằng: “Ông chớ lo sợ, trong chốc lát sẽ đem ông lên chỗ cao ráo tốt đẹp, nếu trước không biết nhau, không nên mờ mịt tối tăm khi thọ (đều như trên đã dẫn). Giáo sư nhân dạy đắp y thì thầm nhìn, v.v… như đây đã dẫn. Lại chép: “Nên hỏi ông ba y, cái nào là Tăng-già-lê, cái nào là Uất-đa-la tăng, cái nào là An-đà-hội”, nếu kia không biết thì nên nói rằng: “Là cái nầy”… Lại nói: “Nên cho thọ ba y, bát”. Chữ hoặc trở xuống là trước tuy cả hai giữ ý ở Ngũ Phần, cho nên lại nêu. Bảy, nói về thưa gọi. Trong ban đầu trước bày oai nghi. Nói như thường, đồng trước ra chúng lễ tăng chí kính… ở đây một đơn bạch chỉ cần đứng thưa. Sớ chép: “Các pháp yết-ma oai nghi phải đồng” đây đã ngồi đứng rất thành trái khác. Do vốn tăng sai ra ngoài làm việc hỏi, cần phải trả lời. Ngồi và tướng lỗi như đứng nói giới, đều là vì tăng, ý có thể thấy. (Nay làm đáp riêng, trước ngồi và sau đứng tác bạch, rất trái nghi tướng như trước đã bác bỏ). Chữ đương trở xuống là kế bỉnh pháp. Văn kế, ban đầu kêu vào trong chúng, phủ kín hay bày cả hai vui đều không lìa tăng. Chữ bỉ trở xuống là dạy chí kính. Thứ tám, chính xin giới. Khoa đầu là đem y, Sớ chép: “Vừa vào trong tăng oai nghi chưa hợp, vả lại là thay thế gánh vác chỉ bày phương tiện kia. Kế văn đầu là khen pháp cao siêu, ý ở chỗ sinh vui mừng. Chữ cố trở xuống là kế nói khó được, khiến tự vui mừng. Hai câu trên là đối đường khác lựa người, hai câu dưới thì trong loài người khác chọn trong sạch. Chữ đương trở xuống là khuyên dụng tâm. Tùy thời làm, là chỉ bày không hết. Luật luận rộng, như trước trong dạy phát giới đã dẫn. Chữ đãn trở xuống là bày ý giáo, dầu có thể tự tụng cũng phải theo giáo vì là Phật chế. Lời xin chia làm bốn, một là chính y thưa tăng. Hai là lập lại trước, ban đầu duyên chép: “Theo Hòa-thượng”. Ba là lặp lại sau, nay ý nói rằng: “Theo tăng thọ”, lặp lại Hòa-thượng ấy là tiêu biểu giới pháp thì theo tăng, hành thì theo thầy. (hai câu nầy ý sớ giải thích). Bốn là cầu thỉnh thương xót cứu vớt. (tờ 2 2 5) Luật vốn nói: “xin tăng thương xót, cứu giúp con”, yết-ma cũng vậy, nghi là viết ngược. Chú khiến lại ngồi ấy là giáo thọ nhân sai đã nhận xong việc. Thứ chín, là trong bạch và đối chọn lựa, ban đầu trong phần hỏi đáp có hai ý. Đầu tiên là y cứ trước sai đáp. Chữ hựu trở xuống là kế y cứ chẳng phải chúng đáp. Kế hỏi có thể hiểu. Tư nghĩa là riêng chuyên một pháp cho nên xen lẫn có không. Sao chỉ nghĩa Sao y cứ kia tiếp tục hỏi vặn rằng: “Nếu vậy kiết tập pháp tạng cũng ở chúng làm, dùng cái gì để bạch sai?” Đáp: Kiết tập là vì tăng chứ không vì một người, nếu không sau thì không biết ai hỏi ai đáp, cho nên phải sai người hỏi đáp, định mới được kiết tập. Thầy yết-ma kia vì riêng người thọ giới gồm thỉnh thầy đã định, nghĩa cần ở chúng nầy cho nên không sai. Thứ mười, là chính hỏi. Trong khoa đầu, trước rõ bày y. Trong lu- ật chỗ vắng hỏi thì có, đáp lời hỏi thì không, nay dùng truyền đời chẳng phải nêu ra luật gốc cho nên chỉ bày cho biết. Chữ ưng trở xuống là chính khuyên, dẫn văn luật Tăng-kỳ để biết luống dối còn không khỏi tội làm sao cảm giới. Ma vương ở cõi dục. Phạm chúng ở cõi sắc, Sa- môn gồm cả thánh phàm, Bà-la-môn tức cư só tịnh hạnh. Trên nói rằng các trời, ma, Phạm, v.v… tức nêu riêng sự cao quý của trời người. Ở dưới nói rằng các vị trời, người đời là chung tất cả. Như lai là người lập giới bổn, là thầy chúng tăng, tức chính duyên phát giới. Sớ chép: “Do giới pháp chỗ thông dưới giúp trên suốt phi duyên, mà thọ thể là trái nghi, rất luống dối nên thông khắp. Trong hỏi già nạn, nương thẳng vào luật, bày một ít có thêm bớt, cho đến gặp việc nên y cứ pháp trước. Sở dó như vậy, là muốn rõ lời hỏi trước, là nhuận sắc ngày nay, hoặc có thể thọ ấy là đã biết, chỉ cần bày thẳng cho nên không thêm. Thứ hai, là chính thọ, trong bày lý do nói chính nên ấy là hiển trước phát giới lại khiến chuẩn bị tu tập, chưa là chính dụng nay toan nạp pháp, dầu khiến đã hiểu lại cần chiều uốn chọn lựa, muốn nói kích động tâm người mới học, giới sư ngay đây không thể khinh xuất dễ dãi, đốc thúc dẫn dắt khai mở là gốc nạp pháp, cho nên nói là chính tông. Chữ bất trở xuống là ngăn lạm, uổng giống như luống dối. Chư kim trở xuống là nêu. Trong bày tâm cảnh, đầu tiên nói chấp nhận. Chữ đãn trở xuống là khuyên phát, hai câu đầu chỉ cho pháp thể, câu trên nêu khen, câu dưới bày lượng. Đầy đủ luật nghi đối với năm giới, tám giới, mười giới cho nên nói là sâu: Nền tảng Thánh đạo đối với mười điều lành ở đời cho nên nói là trên. Chữ đương trở xuống là chính bày phát tâm, đồng với trước lựa chọn mà hiểu. Trong khai hoài, đầu tiên dạy vận tưởng, năm uẩn sắc tâm là chỗ cảm của nhân đời trước. Cho nên nói rằng quả báo được pháp đã cùng khắp, quả báo kém thì không được, quyết phải vận đồng mới có khả năng lãnh nạp, cho nên nói rằng “Nên phát tâm”. Hư không vô biên, thân lượng cũng vậy, tâm và pháp tướng xứng, qui pháp về tâm, trở lại được y báo, nhưng pháp chẳng phải tâm sắc, chẳng phải khác, chẳng phải đồng, dụ như kiết giới không làm y địa, không đều đến với đất liền. Chữ cố trở xuống là dẫn bày không rõ luận nào. Nhữ đương trở xuống là bày biết tác pháp. Khoa đầu trong tác bạch, bố thí giới ấy là dùng pháp để giúp. Đồng lòng thưa là khuyên chính ý, sau khiến trông mong chế xem xét. Hỏi thành chăng trong chính tác, chia làm hai: Ban đầu gồm bày hỏi đáp. Thập Tụng trở xuống là dẫn duyên bổn chế, ban đầu bày duyên khởi là nhóm tỳ-kheo sáu vị. Chữ Phật trở xuống là pháp phi. Chữ đương trở xuống là bày chế có bốn: một, là chế vọng duyên, dư là khác, giác là mới khởi, tư duy tức so lường. Ứng trở xuống thứ hai là chế mạn pháp. Chữ đương trở xuống là thứ ba chế gián đoạn. Ứng phần trở xuống là thứ tư chế tối tăm. Không nói mắc tội, ở đây cuộc hạn không đáp mà nói. Y cứ yết-ma chép: “Có trái là kết tội” thì không bốn món trước hễ trái bất cứ món nào đều tội Đột-cát-la. đâu chỉ có thọ giới, pháp khác đều như vậy, nhưng do sự trọng nơi gởi thọ để rõ, cho nên biết bỉnh kiến quyết vâng theo bổn chế, nếu không như vậy sao gọi là tác nghiệp, đâu thể biện sự, pháp tuy bí mật cao siêu nhưng hoàn toàn nhờ người mở mang, công gia bị thành hoàn toàn do sức niệm, tâm mạnh cảnh cao quý trao nhận không luống, Luật chọn kham năng, tin chẳng luống lập, hễ làm thầy thì đâu thể không cẩn thận? Ban đầu, văn đầu tiên trong yết-ma, động pháp kia là do trước thưa bạch tình khiến chúng biết, ở đây chính lượng xứ nêu phát pháp trước. Ban đầu thì trống khiến động chuyển, kế là nêu nhóm trong hư không, sau thì rót vào thân tâm, lãnh nhận rốt ráo ba pháp, thứ lớp đều có chủ, do năng lực tâm nghiệp không nghó bàn cho nên hễ tạo tác điều gì đều thành tựu. Ba lần Yết-ma đều trước sách tấn người thọ, thưa bạch chúng tăng sau đó nương xướng tìm văn rất dễ thấy. Trầm, cư: Trầm là tối tăm, cử là khinh trạo. Thứ ba, yết-ma lại nêu tâm lượng, lợi ích, khiến dũng tiến, cứu chúng sinh hộ chính pháp bao gồm thượng phẩm. Trọn hai câu nầy, thời ép ngặt, tâm tha thiết, không nên lộn xộn, dặn dò khiến nương thẳng ý ở đây. Khi gia pháp rồi, sát-na suy nghó đầy đủ giới nghiệp thành tựu, chỗ nầy hợp xong thể tướng vô tác, nhưng là các hạnh chính nêu ra nghi thọ. Biết thể nhiếp tu tông quy ở quyển trung, văn rộng như ở sau cho nên ở đây không nói. Thứ hai, khoa đầu trong rõ giáo bày thời tiết, tùy thời ghi nhớ, trong đây không hành ảnh pháp, phần nhiều dùng ngày, giờ, tháng, năm theo thê gian. Trong mỗi giờ chia thượng, trung, hạ để định ra trước sau. Trong luật Tứ Phần, ban đầu dẫn duyên chế. Không kịp hậu an cư nghĩa là thọ từ ngày 17 tháng 5 về sau. Chữ ưng trở xuống là bày lượng pháp. Tính thước tấc: nếu thọ bữa ăn trước thì bóng dài là thượng, bóng ngắn là hạ, còn bữa ăn sau thì ngược lại. Trong luật Thiện Kiến cho là khiến một người đứng lúc giữa ngày, bóng đầu và chân tiếp nhau, hoặc y cứ toàn gót chân, nửa gót chân và ngón, tùy tính nhiều ít để chia thượng hạ. Bữa ăn trước, bữa ăn sau, đồng trước chia đó. Số chúng nhiều ít tức chỉ cho người chúng thọ nhiều mà chung trên dưới. Nếu luôn cả giải thích ở trước tức cho là chỉ bày thời, định chúng không loạn. Nếu giải thích suốt sau thì nghĩa là thọ rồi đồng cho nói tướng. Kế, là trong sắp đặt, đầu tiên bày chỗ ngồi. Ở dưới tăng: giới đàn tràng rộng, y cứ đây có thể biết, ngày nay đàn hẹp cho nên ra ngoài giới. Chữ nãi trở xuống là nói về tướng. Không cần giới sư, đây chỉ bày lỗi xưa. Sớ chép: “Có người hành sự, mười người lên đàn, tùy người nói tướng mỗi mỗi lời răn nhắc”. Nay hiểu gia pháp yết-ma, tùy duyên đến ba, bày tướng dạy dỗ y cứ nhận thời trước sau, không chuyên nơi cuộc hạn. Trong phần giải thích nghi ngờ, trước y cứ đáp chung, lúc người sau thọ thẳng vậy mà tác pháp, cho nên phải hỏi đây, đáp riêng thì không cần. Y cứ theo đây thì đáp chung, chỉ giúp hiện tiền tăng, quyết có người ngoài đến lại phải hỏi riêng. Duyên khởi của khoa đầu trong phần nói về tướng là luật do Tỳ- kheo thọ giới cụ túc rồi cùng vợ cũ làm hạnh bất tịnh, các Tỳ-kheo quở trách, kia nói rằng: “Sao không nói trước với tôi?” Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật do đó chế, vì nói bốn pháp Ba la di. Luật Thập Tụng, Tăng- kỳ lại nói là Tăng-tàn, ở đây là giới phần. Khoa kế chia làm hai: Ban đầu bày khuyên, nhiên hậu trở xuống là nói hai tiết trong ban đầu, trước khuyên giữ gìn bổn thể, đầu tiên nêu thọ, tùy tướng phải khuyên. Chữ đãn trở xuống là kế nêu bổn nạn để khuyên. Chữ cố trở xuống là thứ ba, nêu thượng căn để khuyên. Kinh luận như đây: như nêu tông đã dẫn khuyên trì các văn. Quyết phải trở xuống là khuyên tu ba món học vô lậu. Hội chính tức ba thừa thánh đạo. Còn bao nhiêu là tạp học, nghĩa là sách vở thế tục, nghề thuốc, bói toán, nghề nghiệp, v.v… đều chẳng phải bổn nghiệp. Cho nên biết người xuất gia chỉ tôn kính đạo hạnh, đạo hạnh tuy nhiều không ngoài giới định tuệ, như thiên Sa-di rộng bày gốc học, nên phải ẩn hết chỉ thủ chứng nội tâm. Sau dẫn văn luật làm chứng, phải học đến thành Thánh mới thôi, cho nên nói rằng “Quả Sa-môn lợi ích lâu dài”. Trong chính nói chỉ nói tướng, phải gồm bốn y. Nói nương văn, tức chỉ cho bổn luật, nhưng văn tướng đầy đủ, người thường tụng cho nên lược không nêu ra, nhưng nay chép đủ trong bộ Tùy Cơ yết-ma, người cần thì tìm mà tụng đây không dẫn nữa, chép nó rất dở không muốn phiền cả hai. Đã nói tướng rồi, kế nói bốn y. (tờ 2 2 6) Trong thọ tịnh, ban đầu nói thọ y, ở đây vẫn đồng xưa. Giới Đàn Kinh chép: “Các bộ đều để vấn nạn ở trước, ngày nay để ở sau thọ giới, không có văn nêu ra nên không đáng dùng”. Lại Sớ chép: “Đâu có sau khi thọ mới có việc trì y, tướng vượt phép tắc thường cho nên trái với chính giáo”. Chữ nhược trở xuống là nói dạy tịnh thí, cuối sau hai tướng tìm văn sẽ thấy. Trong pháp phụ, đã thọ giới cụ tức tức cần sáu niệm, nhớ giới duyên thân thầy phải trao trước, nhân phụ ở thiên nầy, trong điệp chương chú thích rõ chỗ nêu. Nếu theo luật Tứ Phần thì y, ăn uống, tác quán, cúi, ngước, oai nghi là thường, một tâm niệm dứt hết các cái, y theo đây thông tướng quán hạnh rất khó. Nay luật Tăng-kỳ chỉ riêng sáu duyên chế khiến buộc ý, gần mà có thế riêng, lựa mà dễ thành, cho nên dẫn văn kia không thành dụng ngày nay. Trong niệm đầu trước bày niệm pháp. Chữ thử trở xuống nói có hai ý: Trước y cứ nhớ giới, sau y cứ khác tục, nghĩa là tháng chia ra hắc ngoạt, bạch ngoạt, chẳng phải pháp thế tục. Trong phần chỉ bày duyên riêng, đầu tiên dẫn bày rõ ràng ý dạy, nếu chỉ đối việc thế gian thì chẳng phải chính yếu, dầu không thể đáp cũng không có tổn hại lớn, cho nên biết nương kia làm duyên hoàn toàn quy về buộc niệm. Chữ y cứ trở xuống là dạy tùy chỗ đối tục, không tướng nghĩa là không nói hắc bạch. Sung giống như chữ thuận. Thứ hai, là niệm, trong không thọ thỉnh. Y cứ theo chú giải yết-ma thì chữ “nay tôi” là lầm, nên viết là “tôi thường”. Thứ ba, đều nói thường mới khác thọ thỉnh. Người đời phần nhiều nghó rằng ăn vật tăng thường ăn, ở đây cuộc hạn không thường thọ thỉnh (nhận lời mời) đâu được lạm dụng. Lại nói có thỉnh không trái, ý cho là không mời thì ăn vật tăng ăn, có mời thì đến chỗ mời kia. Cả hai hẹn nói, nếu đây lạm thông sau gọi là khắc niệm, vọng tình ức đoán hoàn toàn trái với xem xét luật, cho nên phải trong sạch niệm định không cho sau sửa đổi. Cũng có niệm rồi sau lại theo người kia mời, buông lung tính tham, không do y cứ. Trong phần nhận lời mời, khoa đầu y theo Yết-ma nói rằng “Gọi là bất thường định” (có chỗ viết là nếu không thỉnh). Trong có thỉnh không trái có thể hiểu. Khai trái có hai: Ban đầu có duyên, trái pháp chú lệ ba duyên, tức lần lựa ăn giới khai thông văn. Yết-ma niệm rằng: Ta có chỗ thỉnh nay nương trái duyên”. Chữ nhược vô trở xuống là không duyên trái pháp. Trong văn chỉ nêu ra pháp xả, y cứ theo yết- ma nghó rằng: “Ta có chỗ thỉnh nay xả cho người” rồi sau đó xả (trước xả sau nghó lý thông). Chú năm chúng ấy, đây nêu ra Tăng-kỳ, kia nói rằng: “Nay ta được thức ăn, bố thí cho Tỳ-kheo mỗ giáp, cho đến Sa-di ni”, y theo bổn chúng đây mà đối tác còn bao nhiêu thì nói thưa, đều xả chung, do bốn chúng đều là ruộng phước (xưa nói rằng “ý văn ngay chúng tương đối chưa tốt). Trong tâm niệm hồi thí cho mỗ giáp là mạn chỉ một người, chỉ tự lìa lỗi, không cần phải người đến. Trong chú giải, năm món mà luật Thập Tụng khai là kia nhân vua Ba-tư-nặc thỉnh Phật và A-nan thọ trai, ngài A-nan trước đã thọ thỉnh mà không nhớ, sau nhận lời vua mới, ngày mai vào cung vua, lúc thức ăn vào miệng rồi mới nhớ lời người thỉnh trước mà không đến chỗ kia. Phật biết tâm A-nan hối hận nên bảo rằng “Tâm nghó cho người kia thì đã là nhận ăn rồi”, ngài Ưu-ba-ly hỏi Phật: “Người khác có được như vậy không?”. Phật nói: “Không được, trừ năm người: một, là người ngồi thiền (tức chỗ lan-nhã ngày nay, ngồi thiền là nói chung cho nên dụng khen đó). Hai là người ở riêng (chẳng phải chỗ lan-nhã, nay ở dụ đầu, đường học không thứ lớp). Ba món khác như chú giải. Lúc đói nương bà con mà ở, đây tức một món thứ năm (có chỗ chia làm hai là lầm. Ba món nầy cũng y cứ không người). Thứ ba, văn niệm y, chỉ xưng năm, tháng, ngày, giờ, không cần vọng thêm giáp, ất, tỷ, sửu v.v… Thứ tư, chú nói rằng “Tùy có không” nghĩa là y bát, chế vật nhiếp lý phải đầy đủ, gặp duyên tạm thiếu buộc niệm sớm lo lắng, đến ba món khác trong hạn dài chưa rảnh e vọng phải nên nhớ. Người đời nay thường không chế vật, sống không thuyết tịnh theo ngày đối lời thánh xưng thiếu y và chưa thuyết tịnh, mê giáo mạn pháp một bề ở đây, lời pháp ngữ sửa đó là quí. Trong năm niệm, trước rõ không duyên chẳng có pháp riêng. Y cứ theo yết-ma chép: “Nay ta không ăn riêng chúng” nhưng biệt chúng chỉ y cứ thọ thỉnh mà nói, nếu ăn của thường trụ thì không có lỗi riêng chúng, có thể y cứ văn nầy chỉ nói rằng “y chúng”. Chữ tất trở xuống là có duyên khai riêng. Chín duyên trong giới riêng chúng đã nêu ra, cho nên chỉ như ở sau. Trong thứ sáu, chữ khang nghĩa là an khang khỏe mạnh, chữ lụy là bị bịnh. Văn nêu ra hai pháp, tùy thời dụng cả hai, sáu việc về trước gồm buộc làm ba: một và ba là giới. Bốn và năm là hai đường trong và ngoài. Món thứ sáu tức là thân. Thân là pháp khí của đạo, y thực là duyên của đạo, giới là nền tảng của đạo, ba món đều giúp đạo cho nên chế nghĩa thường. Sáng sớm không khởi niệm chỉ phạm sáu Đột-cát-la, đây là yết-ma, phải hợp bốn duyên, pháp phải miệng nói, lời chương không lạm. Sự là sáu duyên, đều đến chỗ thật, người chỉ làm riêng, chỗ thông hai giới, duyên trái pháp bại hoại, tùy có mà kết phạm (xưa ghi rằng “Ngại hai mươi bảy tội”, lại ấn hành sáu niệm nói rằng “Sáng sớm không làm mắc ba mươi hai tội” đây không có chỗ nêu vọng là xuyên tạc). Khoa đầu tạp tướng, lu đựng nước tắm đúng pháp nghĩa là một đấu. Chữ dó trở xuống, nhỏ là chỉ tùy tướng. Túi lượt, như uống nước có côn trùng. Lu nước tắm gội chưa báu. Kia nói rằng: “Bình thiếc, ngói, bình đồng, chậu đồng, các món đồ riêng người được thọ (luật kia áo mưa đưa vào sáu vật, túi lượt là đồ của chúng). Trong thứ hai, nói tâm lui sụt là người độn căn chưa có khả năng nhận lãnh, cho nên khai sau tụng không quá năm hạ, Luật Tứ Phần tụng kinh, nói về bịnh cũng khai. Trong thứ ba, Phật độ tỳ-kheo, tức người “thiên lai thọ” tùy thân chế vật, chỗ cảm tự nhiên, dẫn Thánh để so sánh phàm lý phải hằng đủ. Nay kéo hai vật giúp y cần dùng, y cứ luận là chế ở luật qui về nghe. Trong thứ tư, tức duyên khởi tặc trụ, đây nói về thời duyên, vì chọn riêng là chính nên phải thường nhớ để phác thảo hỏi người kia. Trong thứ năm, một năm có ba mùa, tháng chia ra hắc bạch, Giới Sớ chép: Đạo, tục địa vị khác nhau, thời số cũng đổi”, kẻ tục thì một năm có bốn mùa, trong đạo thì năm chỉ có ba mùa, lược bỏ mùa Thu, cho nên đầu của ba mùa thì mùa đông ở đầu, tiêu biểu cho vô thường. Nay người có trí tuệ quán mùa vào đạo không để buông lung (kia lấy ngày 16 tháng 8 làm đầu mùa Đông, ở đây tùy thế tục nêu mùa xuân ở đầu, y cứ theo Sớ làm chính). Lại trước hắc sau bạch là đầu của ba mùa, quyết lấy ngày 16 làm đầu. Trong xả giới gồm có bốn thứ xả: 1/ Tác pháp xả. 2/ Mạng chung xả. 3/ Sinh hai hình. 4/ Dứt gốc lành. Ở đây nói một món tác pháp. Lại xả chung tiệm đốn, nếu thẳng làm cư só thì ba giới đều mất gọi là đốn xả (năm giới, mười giới, giới cụ túc). Nếu xả giới cụ túc làm Sa-di, hoặc xả mười giới làm Ưu-bà-tắc thì gọi là tiệm xả, lược biết như thế, còn các món khác thì rộng như Sớ. Xả ở trong tăng, đầu tiên là dẫn khai pháp. Luật nhân Tỳ-kheo Bạt-Xà Tử không thích tịnh hạnh nữa, trở về nhà, làm hạnh bất tịnh với vợ cũ, Phật do đó khai xả, văn dẫn lời Phật không nêu ra phép xả. Luật chép: “Tội bỏ Phật, bỏ pháp, bỏ Tỳ-kheo tăng, bỏ Hòa-thượng, bỏ –xà- lê, bỏ các phạm hạnh, bỏ giới, bỏ luật, bỏ học sự, thọ pháp cư só tại gia, tôi làm tịnh nhân, ngoại đạo, v.v…” (tức là đốn xả). “Tôi làm Ưu-bà-tắc, tôi làm Sa-di” (đây là tiệm xả) phải đối với Tỳ-kheo mà xả, hễ nói thì thành ngay. Đa luận gọi thọ giới như lượm của báu, cũng như leo núi, phải nhờ nhiều duyên nhiều sức. Xả như mất của báu, như từ trên cao rơi xuống, không cần nhiều duyên, cho nên chỉ nói một lần. Chữ Tăng nhất trở xuống là nói về phần chừng. Kinh kia do Tỳ- kheo Tăng-già-ma bảy lần hàng ma, sau lại thọ giới cụ túc, được quả A-la-hán, do đó mà khai bảy lần, hơn nữa thì không cho. Trong Ni xả, nói rằng: Không được thọ lại vì nữ lưu quả báo yếu kém, phần nhiều không có chí tháo”. Phật đầu tiên chấp nhận độ còn uốn khai, huống gì thọ lại, lý chẳng dung nạp”. Trong giải thích nghi đáp, đầu tiên nêu hai nghĩa. Chữ tỳ-kheo trở xuống là bày khai chế, Tăng gồm hai thứ, ni chỉ là nghĩa đầu, riêng bày lý do trong văn có thể thấy. Chú giải văn nghĩa quyết chỉ chướng người thọ giới cụ túc. Thầy có nhiều bậc, nay cuộc hạn hai vị: là một Hòa-thượng đắc giới, hai là A-xà-lê y chỉ, còn bao nhiêu đều một tòa tác pháp không nói nhiếp nhau. Tư là thủ, tức gọi là đệ tử thủ học với thầy. Nếu y cứ Sa-di cũng nương hai thầy, hành pháp phần lớn là đồng, nhiếp nhau chẳng khác, nhưng ở đây đã nói chỉ y cứ giới cụ túc, dầu cho hợp nhau chẳng phải là ý chính. Nói nhiếp nhau là bỏ sau một thiên không nêu ba món: một, là y cứ tâm, nghĩa là tưởng cha con. Hai, là pháp. Ba, là tài. Vì xen giúp nhau. Hỏi: Ở đây không yết-ma ư? Thuộc về quyển thượng? Đáp: Tính đây hợp vào trong thiên thọ giới, cho nên văn luật hợp thành một tụ, y cứ chỗ nhiếp trước cho nên đồng chúng làm, nhưng sự nhiều hạnh rộng cho nên chia làm hai. Trong ý đến, hai câu trên của khoa đầu là nói ý lập giáo. Trụ thì Tam Bảo hoàn toàn (nương) nhờ người mở mang, thầy trò nhiếp nhau, Tăng Bảo không dứt thì Phật pháp thêm rộng. Tăng ích là từ nhỏ đến lớn. Rộng lớn là lưu thông cùng khắp. Chữ hổ trở xuống là bày lợi ích nhiếp nhau. Hai câu trên nêu chung ba nhiếp. Đoàn ngộ tức tâm nhiếp nhau nghĩa là quan tâm nhau sâu dày. Chữ nhật trở xuống là chỉ bày hai lợi ích giải và hạnh. Nghiệp nghĩa là sở học, văn chung thầy trò, nghĩa ở đệ tử. Trong phần bày phi, bốn câu trên bày pháp phi, câu đầu nói giáo hoại, câu kế nói người ngu, câu ba là thế tục khinh thường, câu thứ tư nghĩa là đạo vọng. Chữ tịnh trở xuống là suy nguyên nhân. Chữ suất giống như chữ dẫn. Chữ nhị trở xuống là bày chỗ tổn, trên rõ tổn mình và người. Chữ dục trở xuống là tổn Phật pháp. Trong thiên ý, câu trên bày thương xót, cấp tức cứu khổ, cho nên câu kế nói về hạnh từ. An nguy tức cho vui, cho nên ngu giáo mặc tình đồng thành nghiệp ác, đọa vào chỗ khổ, dụ như bị treo ngược (Mạnh Tử nói rằng “Ngay thời này nước muôn xe thực hành chính sách nhân từ, dân ở đó vui mừng như giải tội treo ngược). Hai câu dưới khuyên tu bày lợi ích. Trong tên thầy, hỏi nêu ba tên, Sư là tiếng Hán, nghĩa chung cho hai thầy, văn chỉ Hòa-thượng. Trong phần đáp, câu đầu lược. Đáp phi, ở đây vốn có cho nên không chính nói, chữ hiển trở xuống là các văn đều nói nghĩa. Chữ thiện trở xuống là dẫn bày, đầu tiên dẫn Kiến Luận. Sư là Hòa-thượng, kia nhân Sa-di Cù-đà nói pháp cho vua A-dục, vua dùng tám phần thức ăn cúng dường, Sa di nói rằng “Đem về cho thầy và xà-lê”, vui hỏi hai tên, Sa-di liền đáp”. Văn dẫn lời đáp. Không tội, vì khiến không có phạm. Cùng ở ấy là gồm Hòa-thượng kia. Chữ Luận trở xuống là nói tên thầy trước. Đầu tiên nói về người truyền, các chỗ ghi đều nói rằng: “Kiến Luận và Pháp Hiển Truyện”, nghi là một văn người nước ngoài, trong tiếng Phạm tự chỉ ngoài Ngũ Thiên. Kế dẫn luật Tứ Phần, quở Hòa-thượng tức nói rằng “Tôi phạm giới Hòa Thương không quở, không phạm giới cũng không biết…” như sau dẫn đủ. Thứ ba là dẫn Liễu Luận, chính bổn là lời Trung Thiên-trúc. Theo sớ vốn âm là Ổ-Bà-Đà, kia nói rằng: “Nói Liễu Luận Sớ hơi gần tiếng Phạm, vẫn trái với Thinh Luận, chính tôi tham gia dịch, hỏi bổn âm như trên đã nói”. Chữ tức trở xuống là điểm bày lời bên. Sớ chép: “Như người xưa giải thích, hòa giữa là trên hết, ở đây bèn giải thích, không biết âm gốc”. Thứ tư là dẫn tương truyền, củ giống như cử. Sớ chép: “A-xà-lê cũng là hóa lược, như Phạm Thiên âm là A-giá-lê-da”, đời Đường dịch là Giáo thọ. Thứ năm là dẫn kinh Tạp A-hàm, bày chung tà chính, trở về trước lại dẫn các chỗ nêu ra khác nhau, tiếng Hoa tiếng Phạm y theo Sớ mà định. Trong tên trò, vì thầy xem trò như em như con, vì trò xem thầy như anh như cha, nên Tổ Sư dịch nghĩa riêng nêu ra văn ngày nay. Các tông chế chọn lãnh đạo thường nương dùng, tướng nhiếp chung ấy là luận chung kia đây, tâm hướng mộ nhau. Chữ đối trở xuống là cộng hành và biệt hành sự điều khác nhau, cho nên nói là “Tổng”. Kinh Lễ Lục Phương chép: “Khi Phật còn tại thế, có Trưởng giả tên là Thi-ca la-việt, sáng sớm dạy lễ sáu phương, mỗi phương bốn lạy. Phật hỏi duyên cớ, kia đáp “Nương trên như đây”. Phật nói: “Không do việc lễ đều có tiêu biểu, Phương Đông thờ cha mẹ, phương Nam thờ Sư trưởng, phương Tây là việc vợ chồng, phương Bắc là việc thân thuộc bạn bè, phương dưới là việc tôi tớ, phương trên là việc Sa-môn đạo nhân”. Nay dẫn phương Nam, kia đây năm tâm có thể hiểu. Trong Tăng-kỳ, ban đầu chế phi pháp, cuối đời đều vậy, chỉ cầu sức lực đâu biết cái lầm kia. Trong Tứ Phần, ba phần đầu là dẫn bày, y theo sau là phần nghĩa. Trong bốn tâm ban đầu: một là nhiếp pháp. Hai, ba là nhiếp tâm. Trên cho là sợ kia chưa kham được, dưới cho là thương xót kia có gốc lành. Thứ tư là nhiếp việc. Trong bốn tâm sau, hai tâm trước là nhớ ơn như nương tựa cha, hai tâm sau là chí nghiêm như thờ vua. Chữ kính trở xuống hai câu gồm hiển bày bốn câu. Thờ cha chỉ là hiếu, thờ vua chỉ là trung, thờ thầy gồm cả hai. Nho lễ nói rằng: “Thầy dạy người để xứng với đạo”. Dương Tử nói: “Thầy là phép tắc, là khuôn mẫu của người”. Con người đời nay không đạo lấy gì dạy kẻ khác, lấy gì làm phép tắc khuôn mẫu. Vọng nhiếp đồ chúng chỉ thuộc bầy ở chung chứ không có nghĩa gì. Mở bốn đường, đóng hết ba nẻo, hủy giới làm ác xen nhau khen ngợi ủng hộ. Dương Tử nói là “Không phép tắc, không khuôn mẫu, không là chẳng nhiều, có tin ư?” Chữ cố trở xuống là kết lợi ích. Kế rõ chỉ, trong khai không có chỉ, bổn tông sáu người, đầu tiên khai ra đầu-đà. Kế thứ ba là khai duyên ngại. Hai thứ sau khuyên hạnh thành. Thượng căn năm hạ trở xuống là chung chưa đủ, bộ khác là hai món bảy năm, Luật Thập Tụng văn rõ Hòa-thượng y chỉ nghĩa đồng, tùy ở chỗ có ăn cho nên gần xa không nhất định. Sợ không được là dụ như không có ăn. Hai do-tuần rưỡi gồm có trăm dặm. Tự tứ là xong hạ, một phen lại rất xa nhau. Nhất nhất trở xuống là gồm chỗ xa gần ở trước, đây tuy đến thấy, do không đồng giới, y chỉ không thành cho nên khai duyên. Trong tám phần, năm phần không có người cho y chỉ vì nhiếp người kia tổn, mình tiếc đạo nghiệp. Riêng tầm nương người khác cũng không thành pháp, lại đồng như không y chỉ. Trong nêu y chỉ, bày người đầu thì bốn người trước nói thiếu thầy. Kế, là hai đệ tử có duyên đều phải cầu y chỉ ngay. Một người sau chưa quá hạn giáo pháp. Nói duyên tốt, là riêng chọn người và chỗ. Trong ba người sau, thứ tám dẫn văn có bốn. Văn Tứ Phần sau hợp chép rằng “y cứ theo hạnh” giống như chư đa giáo. Năm pháp của Thập Tụng đều y cứ giới bổn. Trên bốn món không biết tướng, dưới một món không tụng văn. Trong Mẫu luận, luật chế y chỉ vốn vì học pháp, học chọn trí cao siêu, chứ không chọn lạp cao. Người già y chỉ người trẻ tuổi chỉ trừ lễ bái dưới chân. Trong Tăng-kỳ văn sót món thứ nhất “Không khéo biết pháp”, bổn xưa vốn có chẳng phải văn lược, ban đầu cho là tạo tác trái nghi, kế ngu si với giáo tướng, thứ ba là không có chí tháo, thứ tư là không gồm người khác, chín mươi có thể hiểu. Trong chọn lựa chung, đầu tiên là bảy người hạ mãn, không cần là ở đây nói theo hạnh nghiệp thành tựu. Quyết không lặp lại thuộc ba món sau, tức là dừng. Trong nghĩa hứa, năm hạ thành tựu nghiệp cho không cần y chỉ người khác. Đối với giáo không trái mà ở hạnh còn thiếu, quyết mong tiến tới lại phải theo thầy, ở đây thì không phân biệt trí hay ngu, đều phải trọn đời. Chữ Luật trở xuống là dẫn chứng có thể biết. Chung các giáo tức là văn Niết-bàn, lại Luận Thành Thật chép: “Lúc Phật mới thành đạo, quán thấy tất cả mọi người không có ai hơn mình, nghĩa rằng “Ta đã được pháp, nhân đây thành Phật, lại sẽ nương pháp thầy, đưa ra nhiều kinh, luận cho nên khiến nói rộng”. Kế là trong chính hạnh, ban đầu là bảy cộng hạnh, nghĩa là thầy trò cần nhau, cho nên ba hạnh sau là hạnh riêng, vì chỉ ở chỗ đệ tử. Trong bổn tông, ban đầu trị phạt, nghĩa là bảy yết-ma, đệ tử trở xuống chia làm hai: Trước nói không để tăng phạt. Chữ thiết trở xuống là nói hình phạt cho hiểu. (tờ 2 2 8) Trong thứ hai, ban đầu khiến phát lồ. Chữ vi trở xuống là kế vì cầu sám. Trong thứ ba, sai và qua đời, nhìn xem công xong không thể dừng giữa chừng. Trong thứ tư vốn nói đệ tử dời chỗ, sau dẫn luật Tăng-kỳ, thầy đưa đệ tử do là cộng hành không ngại xen hiển bày. Trong Tăng-kỳ, ban đầu chế không được lìa. Nhược dục trở xuống là rõ khai tạm lìa, hai câu trên nói thầy không ngăn. Chữ nhược trở xuống là nói lo nghó. Chữ đương trở xuống là nói thầy an ủi. Thứ năm cho trở xuống là pháp hệ nào khác, đây gọi là việc có lỗi lầm cho nên sinh nghi hối, dùng giáo giải thích, sau khiến tu học cho nên chẳng thiệp nhập nhau. Thứ sáu là ác kiến, nghĩa là chấp tà trái chính. Trong thứ bảy, xuất gia học đạo dùng pháp làm gốc, cho nên trước nói pháp để nuôi tuệ mạng, kế bày y thực dùng nhiếp hình hài, phải biết hai nghĩa hộ có thân sơ. Trong dẫn các bộ, ban đầu nêu bày, chữ Tăng trở xuống là chính dẫn. Ban đầu văn Tăng-kỳ đồng thứ năm, thứ sáu, trước rõ khuyên can có thể được chăng? Nói lời khen ấy là thầy gồm đức của cha không cho sắc phạm. Y chỉ ra ngoài giới là cách minh mất pháp, được y chỉ người riêng. Nếu Hòa-thượng trở xuống là nói có ích không lìa. Đề Hồ là vị trên hết trong các vị, có thể dụ cho bậc minh sư. Sau trong nhiếp nhau dẫn rộng cho nên ở đây chỉ đó. Kế dẫn luật Ngũ Phần đồng món thứ hai ở trước. Kế nói biệt hành trong bạch sự của Tứ Phần, trước nói đệ tử thưa thầy, sự chung tất cả. Chữ nhược trở xuống là nói Thầy phải lượng đáng, vả lại y cứ ngoại hạnh. Tám việc ấy, ba việc xen trải thành tám: một ban phải, xứ và sự trái. 2- Xứ phải, bạn và sự trái. 3- Sự phải, bạn và xứ trái (một cái phải hai cái trái ba câu). 4- Bạn và xứ phải, sự trái. 5- Bạn và sự phải, xứ trái. 6- Sự và xứ phải, bạn trái (hai cái phải một cái trái, ba câu). 7- Ba món đều phải. 8- Ba món đều trái. Ba món giao kết là gồm chỉ tám câu. Chữ duy trở xuống là chọn bảy câu trên, đều không khiến bỏ riêng lấy chung là một câu cho bỏ. Trong luật Ngũ Phần ban đầu bày riêng hạnh phúc khác. Chữ duy trở xuống là nói chung tất cả, văn trừ không bạch còn bao nhiêu phải bạch. Luật Thập Tụng chép: đầu tiên nêu chung các bạch. Đồng với luật Ngũ Phần là đều trừ đại tiểu tiện. Chữ nhược trở xuống là hiển bày riêng về hạnh, trước nói về pháp bạch. Phi thời cũng vậy, ấy là phi thời vào xóm làng đối với người khác làm điệp xứ đồng như trên. Đương lượng trở xuống là nói thầy không thể. Bố-tát là thanh tịnh, nghĩa là đối trị dứt lỗi. Yết-ma gọi là nghiệp, nghĩa là như duyên làm hành. Pháp sự chung tòa là nói pháp tụng giới hai lần nhóm (tòa hợp thành ngồi một chỗ). Không nhận lời, nghĩa là thầy không hứa mà cố trái. Văn luật Tăng-kỳ chia làm bốn tiết: Ban đầu thưa thầy. Cần không trở về trước là nói chút vật không thưa. Chữ nhược trở xuống là nói việc làm phải thưa. Chữ hữu trở xuống là nói thầy ra chuyển thưa. Thầy sau đến, nghĩa là về chỗ cũ. Nói duyên trước là thuật việc thưa ở trước, bao nhiêu y cứ theo đây là lệ chung nhiều việc. Nếu đệ tử trở xuống là thứ hai răn nhắc trò làm việc, cũng do đến thưa cho nên có lời nhắc nầy. Chẳng phải pháp bền chắc là phước hữu lậu thế gian có dứt diệt, cho nên nếu hiển bày pháp không, không chấp tướng tạo tác, thành điều lành vô lậu, thì là pháp bền chắc. Nhược dục trở xuống là nói nêu ra hạnh thưa. Nhược bất trở xuống là nói về bạch chung. Trong việc nhuộm y, chỗ nhiếp nhiều việc không cần phải thưa, lại như lo liệu việc Phật, pháp, Tăng tùy nêu tướng chung một việc mà thưa, cho nên nói là “chung”. Xưa ghi đều lập pháp chung bạch rằng: “Từ sáng ngày nay đến sáng ngày mai tất cả việc làm đều thưa cho A- xà-lê biết”, lại cho là sáng sớm thưa rồi, một ngày đó không cần thưa nữa, đây là không đưa ra chính giáo vọng sinh tạo lập. Vả lại, luật chế thưa thầy vốn có thể thủ chăng? Chỉ nói rằng tất cả là vì việc gì, lượng nghi như thế nào, so sánh dẫn dụ các giáo ở trước, nhiều món pháp thưa lẽ ra đều không dùng, nay vẫn làm là vì không biết. Trong luật Thiện Kiến pháp kia có bảy: 1/ Quá xa sợ không nghe. 2/ Quá gần sợ đạp bóng thầy. 3/ Trên gió sợ hơi hôi bay đến thầy. 4/ Chỗ cạo sợ thành kiêu mạn. 5/ Đứng trước ngại chỗ thấy của Thầy. 6/ Đứng sau, quay lại gọi khó. 7/ Đứng ở bên trái hoặc phải cách chừng bảy thước. Nay dẫn pháp thứ hai và thứ bảy, Tứ Phần có thể biết. Trong thọ pháp, chữ chỉ trở xuống là y chỉ, sau nói rằng: “Ngày riêng ba thời, giáo có ba tạng giáo pháp”. Trong báo ân, Tứ Phần chia làm hai: Trước lược dẫn hành tướng. Hai việc ấy, luật chép: một là sửa sang phòng nhà, hai là giặt nhuộm y phục. Chữ quảng trở xuống là thứ hai, chỉ văn khuyên y chỉ, tức kiền-độ thọ giới ở cuối quyển 31, kia nói rằng: “Từ nay sắp đi chế pháp đệ tử nên làm, nếu không làm thì nên đúng như pháp mà trị”. Rồi sau nêu tướng đây, không phiền lại dẫn. Cần phải tìm đó. Trong Tăng-kỳ, gót phải là bên trái cửa vào để thuận theo. Đồng với luật Tứ Phần, là trừ đồ đại tiểu, luật Thập Tụng, nói đầu tiên là đệ tử nhọc nhằn đi trước, cho nên đến phép tắm cũng nên làm. Bịnh dùng vật, nghĩa là trò uống thuốc, chữ nhật trở xuống là nói thầy nhiếp trai. Ác tri thức, vì thuận dục tình tập nhiễm của mình thì dễ, rất không nên gần, cho nên tha thiết dạy dỗ, vì có các lỗi: 1/ Mất tiếng tăm. 2/ Chướng nghiệp học. 3/ Tán mất đức hạnh. 4/ Mất chính tín. 5/ Dứt mất gốc lành. 6/ Đọa đường ác. Gần gũi thiện tri thức thì ngược bảy đều trên, có thể biết. Trí Luận chép: “Đọa theo người ác, đều do không có trí tuệ”. Cổ Nho nói “Thấy người hiền nghó mình phải làm cho bằng, thấy người không hiền phải tự xét lại mình”. Luận Thành Thật có bốn vòng: 1/ Trụ (ở) chỗ lành, 2/ Nương người lành, 3/ Phát chính nguyện, 4- Trồng gốc lành. Huống gì nay thời mạt pháp, người chẳng phải bậc thượng trí, chí tính không nhất định, tốt xấu tùy duyên. Hễ là người học tập thì nên lựa chọn bạn lành, do đây nói và nghe phải ba lần suy nghó. Phật khen ngợi, chăm sóc bịnh là ruộng phước cao quý, nhử quyển hạ có dẫn. Trong kinh Tạp A-hàm, ban đầu nói đệ tử đúng như pháp. Hai câu trên lìa hai lỗi, xiểm ngụy tà tâm, khi dối là miệng. Chữ tín trở xuống ba câu là tu ba nghiệp, nghĩa chia ra năm hạnh: 1/ Lìa hoặc đảo. 2/ Không buông lung. 3/ Không biếng nhác. 4/ Đức vọng dưỡng. 5/ Xa trần nhiễm, thứ lớp đối trị. Chữ thâm trở xuống là tôn thờ giáo hạnh. Chữ chí trở xuống là mong thánh đạo. Như thị trở xuống là khuyên kính nhớ đến thầy (chữ thọ bổn xưa viết chữ ái). Thứ hai nói về nhiếp thọ. Trong nêu bày, Hòa-thượng nhiếp hạnh đồng, ba trong bảy môn sau và năm, sáu nói chung rõ hai thầy, còn bốn môn kia chỉ cuộc hạn y chỉ. Trong chế ý, đầu tiên bày lý do. Chữ cố trở xuống là dẫn chế. Tư thừa là giúp làm. Tượng thành là đức của thầy, hai câu đây nêu ra ý chế giáo. Trong thứ hai, luật Tứ Phần nhân Tỳ-kheo không rửa chân uống nước liền y chỉ, mê muộn ngã xuống đất, Phật nhân đó khai, luật Thập Tụng khai năm sáu đêm vì để chọn lựa, chữ cố dữ trở xuống là Già luận, dài ngắn khác chút ít. Trong Ngũ Bách Vấn, ban đầu không y chỉ. Thọ dùng phạm tội trộm là phải y cứ vật riêng, thầy lại không cho, đã chẳng nhiếp nhau liền dùng đều là trộm. Quyết là vật mười phương Tăng đồng phần, hoặc thầy cho phép không vì rình trộm, lý như luật Thập Tụng, trái giáo bị tội Đột-cát-la, hoặc có thể nhà soạn luận gấp chế, y cứ duyên nói về phạm, nghĩa chẳng phải tội trọng Ba-la-di. Chữ nhược trở xuống là không tụng giới thì tuổi đồng vị với thầy, giáo hạnh không biết thì không có khả năng nhận lợi dưỡng, cho nên đồng như phạm tội ăn trộm, cũng như trước chung. Thứ ba, là trong nêu tên, đầu tiên xuất gia tức Hòa-thượng, A- xà-lê, thầy mười giới, nghĩa là hạ thứ hai thầy đồng, cũng gọi là đồng Hòa-thượng đồng A-xà-lê, y chỉ quyết đủ mười hạ, không ở trong đó cho nên ngoại trừ. Trong được tên, trước y cứ hạ, lựa chưa đủ chứ không lựa tên. Chữ nhược trở xuống là y cứ ví dụ được tên. Trong nhiếp người, nếu làm thầy, lại thỉnh ấy trên bốn A-xà-lê quyết đủ mười hạ, muốn theo y chỉ pháp trước đã mất cho nên khiến thỉnh lại. Trong phần bày đức, trong luật nhân chế y chỉ. Có người mới thọ giới, nhận người y chỉ, làm nhiều điều phi pháp, cho nên chế phải mười năm. Lại có Tỳ-kheo ngu si, tuổi hạ đã đủ mười năm, nhận người khác y chỉ, làm nhiều điều phi pháp, lại chế mười tuổi hạ mà có trí tuệ. Lại có người tự cho mình có trí tuệ, cho người y chỉ lại chế hành pháp A-xà-lê khiến dạy răn, ba loại nầy quyết đủ, thiếu một thì không thành. Sau chỉ pháp cộng hành, không khác với trước. Già luận trong lựa chọn, đầu tiên nói về tự chọn. Chữ cập trở xuống là nói hỏi người khác. Nói đều không là gồm ba món trên, nghĩa là giới đức không thiếu, dạy răn không mệt mỏi, quyến thuộc không tranh cãi. Tăng-kỳ năm pháp đều chế cho đệ tử, ở đây bày đức thầy để qui nhiếp người, tâm có thể cảm đệ tử, thành tựu năm món, đây mới được y chỉ, tức thuộc lựa chọn đức (Xưa nói rằng năm món nầy y cứ thầy là sai). Luật Tứ Phần có ba đoạn: Ban đầu nói chọn đức, nói liền vật ấy, luật chép: “Kia không chọn người nhận y chỉ” cho nên liền sau bày lỗi. Văn lược nói bốn món trị như quở trách, v.v… nên nói là “đồng”, chữ nhân trở xuống là thứ hai nói về chọn tuổi, Tỳ-kheo tuổi hạ tức Tôn giả Bà-tiên trong duyên khởi của luật. Chưa dứt sửa là dụ như trẻ nít đâu thể sinh con. Chữ nhược trở xuống là nói dụ dỗ đi. Luật nhân hai thầy Pháp kiến v.v… Phật nói “Cho khởi ý dụ dỗ đi như vậy”, muốn cho thêm lớn lợi ích pháp Sa-môn, cho nên dẫn Ngũ Bách Vấn, lại trái bày đúng như pháp không cho. Nói phạm trọng là thành người trộm. Nhân nói là luật áy, kia nói rằng: “Xưa, có Tỳ-kheo dụ dỗ Sa-di bỏ đi, Tỳ-kheo già nầy không người săn sóc, chẳng bao lâu thì qua đời”, cho nên chế trọng luật, nhóm tỳ-kheo sáu vị dụ dỗ đệ tử người khác. Phật nói “không nên như vậy” (chỉ phạm Đột-cát-la. Trong Luận nói phạm tội trọng là y cứ tâm trộm). Trong luật Thiện Kiến nói chọn học nghiệp, kiểm hạnh quyết nghi, phải nương người hiểu luật, cho nên bao nhiêu đều không cho. Sau dẫn luật Tăng-kỳ chuyển giải thích hiểu tướng, ngăn lạm dự. Cho nên biết, hai bộ luật không lệ thuộc trong bốn, không thể như trên quán sát cơ duyên, nhưng biết tướng luật cho có thể hỏi thăm, còn bao nhiêu thì không cho, nên nói là “hạ chí”. Tam Thiên oai nghi, văn kia rất rộng, dẫn toát yếu đó. Đầu quyển thứ hai chép: “Tỳ-kheo Tân Chí muốn đến chỗ Hiền giả thỉnh làm A-xà-lê y chỉ, phải trước tự nói rằng: “Tôi là mỗ (trước nêu tên mình) xa lìa ba thầy đi riêng ngàn dặm, nay đến nơi đây, bổn ý muốn học, gặp phải cõi nước không an ổn, cho nên đến đây, nay tự quy về Hiền giả, Hiền giả vì tôi làm A-xà-lê y chỉ”, Hiền giả do mỗ tự qui về cho nên nhận mỗ giáp làm đệ tử. Hiền giả phải dùng pháp cho nên vì mỗ giáp làm A-xà-lê” nói rồi đầu mặt làm lễ bày tình, v.v… Lại nói rằng: “Đệ tử y chỉ A-xà-lê có năm việc: 1/ Phải thường đến. 2/ Đến nhà phải gõ cửa ba tiếng. 3/ Vào phải đầu mặt làm lễ. 4/ Quì gối hỏi thăm sức khỏe. 5/ Phải theo hướng cửa mà ra. Lại có năm việc: 1- Sáng ra đến thăm hỏi. 2- Thầy gọi liền đắp ca-sa đến, không nên mặc áo ngắn. 3- Phải quét đất, lấy đầy nước tắm rửa, lau chùi giường toa của thầy. 4- Nếu có việc cần ra, vào, đi ở phải thưa. 5- Học kinh hỏi hiểu được hay không, chẳng nên có y e sợ. Thứ tư, trong phần bày duyên, nói nhiều hoại ấy, Luật chép: “Không xét oai nghi, đắp y không ngay ngắn, khất thực không đúng pháp, các nơi nhận đồ ăn bất tịnh, nhận bát ăn bất tịnh, ở bữa ăn chính, bữa ăn phụ lớn tiếng kêu nhau chẳng khác nào như Bà-la-môn nhóm họp”. Chữ thính trở xuống là bày chế, vốn lập y chỉ giúp chỗ Hòa- thượng. Trong pháp thỉnh, y theo luật, đầy đủ oai nghi, quì thẳng chắp tay rồi sau bày ý thỉnh. Tăng-kỳ khác tên như thiên trước đã dẫn. Trong chú giải bày biết sửa đổi, kia chép: “Con là mỗ giáp, cầu Đại đức làm thầy y chỉ, xin Đại đức cho con y chỉ, con y chỉ Đại đức rồi”. Cho nên biết, sửa đổi không chỉ hai chữ Xà-lê. Trong thành không, có năm phần: Ban đầu nói lời đệ tử nhận dạy, bổn luật không có văn, nay phải y cứ dùng. Chữ tiên trở xuống là nói không biết quán lường. Nhược y trở xuống là nói thầy không đáp. Luật Tứ Phần nói sai sót, nghĩa là thân không hiện tiền không thành tác pháp. Sót thọ tức đệ tử khinh mạn dễ duôi. Sót cho nghĩa là sự lảnh đạo của thầy. Trong thứ năm nêu rằng: “Rất giống” tức bảy pháp cùng hành. Trong giáo giới, ban đầu văn Tăng-kỳ rộng lược. Kế tiết thứ tư, ban đầu nói rộng ba tạng; sáng sớm, giữa trưa, chiều tối là ba thời. Chữ bất trở xuống là lược nói ba tạng, Luật tạng giới tướng, ba khoa Kinh, luận đều là cốt yếu (năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới là ba khoa). Nếu thọ trở xuống là lại dùng thiền tụng nên phải dạy trao. Nếu chẳng trở xuống là nói thẳng, y cứ không dẫn kinh luật. Bốn pháp về trước, lời tuy nhiều, lược đều phải ba thời. Trong phần chỉ lỗi, dùng văn khai lược pháp tự có thể nương làm, huống chi pháp ngữ khó vâng theo, tình người dễ nhàm, cho nên chỉ cái phiền nặng kia, ý khiến tùy nghi. Thiền trai, nghĩa là khi ngồi thiền và trong bữa ăn. Trong ý thỉnh, tỉnh bàn ý thỉnh hợp ở khoa trước, nhưng bày tâm giúp là nói lên Sư nhiếp, cho nên ở đây nói. Hai câu đầu tức chỉ cho khoa trước, trước chỉ nêu pháp mà không nói ý, cho nên hoặc có thể chỉ năm pháp của luật Tăng-kỳ trong chọn đức, hoặc chỉ bốn tâm tưởng về cha trong phần gồm nhiếp nhau, do bốn tâm năm pháp tức đồng bốn ý, ở đây chỉ rộng nên nói là “trọng”. Trong bốn món, ban đầu bày nương nhau. Thứ hai nói thuận học. Thứ ba là kính mến. Thứ tư là chấp lao. Hai pháp, Tạp A-hàm nói rằng: Bảo các Tỳ-kheo có hai tịnh pháp hay hộ thế gian, đó là hổ và thẹn. Chữ tất trở xuống là kết bày có thể chăng. Du du nghĩa là nhân ngã. Trong bác bỏ phi, túc nhiên là vắng lặng. Nhiếp cả hai, hoặc y cứ thầy trò chung nhau, hoặc y cứ hai việc tài, pháp. chữ thành trở xuống là dụ thầy trò chẳng lâu. Dã mã, Thiên Thai chép: “Gió động bụi trần cho nên ở ngoài đồng trống thấy như ngựa chạy (Trang Tử nói rằng “trần ai”). Chữ cực trở xuống là dụ pháp thọ không thành. Dương Diệm, Luận Trí Độ chép: “Đói khát, mê muộn tột bực thấy khí nóng cho là nước” đây gọi là dường như có mà thật không. Trong phần dẫn răn nhắc, Đại sư là người đức trọng, sự học vượt bậc, xứng đáng làm phép tắc cho đời, chẳng phải ngày nay người áo đỏ lạm xưng. Chữ bất trở xuống là bày riêng năm duyên. Hai duyên trên có thể thấy, sau ý cúng dường y chỉ là thứ ba. Việc nhỏ của luật Ngũ Phần nghĩa là cung cấp thừa sự. Chữ nhược trở xuống là sợ thế tục khinh hối, chính là chỗ mất kia. Y cứ theo kia bèn là đệ tử biết thầy, nay ở đây ý trái chung kia đây, sau chỉ tướng rộng văn thấy có hai mươi bảy. Luật Thiện Kiến lưu một đó chính là biết Thầy nhiếp ý, vốn lợi người chứ không mưu cầu sức lực. Trong luật Tăng-kỳ, nạn vua nghĩa là bị quan. Phiền rộn, nhàn nhã, v.v… trộm chép phải chuốc ấy thuộc kia mạnh. Nếu đoạt thành trộm quyết tự thoát khỏi thầy nhiếp không lỗi. Chữ bất trở xuống một câu là trái với hai chế ở trên, kết thầy tiểu tội. Trong đệ tử già, chỉ khiến hạ chế ở trên, không hẳn tuổi già, luật Thập Tụng nói rất dễ hiểu. Trong luật Tăng-kỳ, câu đầu là nêu đồng. Chữ trừ trở xuống là chọn khác. Lễ dưới chân hằng cấm xét thời nào mà chấp nhận. Chữ Ưng trở xuống là bày đồng. Trên rõ thầy dùng pháp nhiếp, đồng trên ngày riêng ba thời, giáo có ba tạng giáo pháp, v.v… Trăm tuổi phải nương, là nêu nhiều để dụ ít. Dưới đến biết hai bộ luật, nghĩa là bốn pháp không đủ trên, biết có tội, v.v…. Chữ chân trở xuống là nói đệ tử báo ân. Thứ sáu trong phần nêu hợp quở là lỗi. Quở trách răn nhắc tức là hai pháp khác có thể biết. Trong bày lỗi, đầu tiên văn luật trình bày tám thứ năm việc, gồm có bốn mươi câu, đầu đến tiên không cung kính, tức năm việc đầu, năm thứ kế nói rằng “vô tàm, vô quí” (hai món, tám và năm nầy đều đồng) khó làm bạn với người nói ác (hai câu nầy trở xuống bảy và năm đều đồng). Ưa đến nhà dâm nữ (sau việc năm và sáu, bốn câu trên đều đồng, chỉ câu thứ năm riêng, nhân đến xem rùa ba ba, v.v… một câu, xét chung trước thành tám, năm). Nay buộc kia đồng là chỉ tướng riêng, nhưng mười lăm việc lại Thức-xoa, Sa-di-ni trong lu- ật hợp nêu trong thứ bảy thứ năm, nay lìa thành hai tướng, sáu chú thích trên có thể hiểu. Lệ giống như trái, người bạn ác ấy, là gần gũi học theo điều không lành. (tờ 2 3 0) Dâm nữ trở xuống bảy món là bước đến chỗ sai trái. Xem rùa ba ba là buông lung chơi bời. Chữ luật trở xuống, là bày chung các lỗi khuyên khiến nương phạt. Tội trọng là chế chỉ phạm Đột-cát-la, y cứ nghiệp rất nặng, như sau có dẫn bày. Trong Thiện giới nêu người cực ác để so sánh tội kia, vẫn thêm lỗi. Ưa làm thầy người đâu biết là không dễ? Kinh Thiên-đà-la, trong phần âm nghĩa dịch rằng “Nguyên xí”, cũng nói là chủ sát nhân, là tên của kẻ đứng đầu đao phủ. Trong Ngũ Bách Vấn, kia nói rằng: “Thời Phật Ca-diếp có Tỳ- kheo độ đệ tử mà không dạy, thường làm những việc phi pháp, lúc qua đời đọa vào loài rồng chịu khổ không chịu nổi. Lại quán đời trước vốn làm Sa-di mà không giữ giới cấm, Thầy cũng không dạy nên sinh tâm giận thầy. Gặp lúc thầy cùng năm trăm người đi tàu qua biển, Rồng liền xuất hiện nắm tàu đòi bắt vị thầy Tỳ-kheo kia. Mọi người hỏi lý do, rồng bèn thuật lại duyên xưa, mọi người bất đắc dó phải bắt Tỳ-kheo giao cho rồng. Tỳ-kheo nói: “Tôi tự xuống biển không cần mọi người bắt trói”, liền nhảy xuống biển mà chết”. Trong phần giải thích nghi, trước dẫn các lỗi, tám và năm trình bày, sợ nghi phạm năm giới mới quở, cho nên phải quyết rõ. Trong phần đáp, ban đầu là chính pháp. Chữ hựu trở xuống là dạy xét tình dùng tha, như văn dễ hiểu. Trong dẫn khuyên, kinh ấy chép “Có một Tỳ-kheo nhỏ tuổi xuất gia chưa bao lâu, không nghe luật pháp, trong lúc đi khất thực không biết thứ lớp trước sau, Tỳ-kheo quở trách can ngăn không nghe lời, Phật nhân đó rũ lòng dạy dỗ, văn như trong sao. Không nhàn, v.v… nghĩa là ngu giáo. Chữ phàm sở trở xuống là rõ tạo tội. Chuyển hướng trở xuống là trình bày hiện báo. Xả giới trở xuống là giải thích chuyển hướng chết ở trên. Phạm chính trở xuống là giải thích đồng chết khô ở trước. Chữ thị trở xuống là kết khuyên. Hai lời trong văn nghĩa là đồng chết khổ, y theo kinh, câu trên nói rằng: “Hướng tới chỗ chết”. Kinh chép: “Nói chết nghĩa là xả giới; đồng chết khổ nghĩa là phạm chính”. Trong kinh lại giải thích, nay đổi ở kết sau. Nói không đúng khác dẫn kinh so sánh định là truyền lầm, phải xét bổn văn, không nhọc gượng giải thích. Thứ hai, quở trách răn nhắc bày như trong phi chia làm ba: Ban đầu răn dạy tự lượng. Nhược hoài trở xuống là kế bày chính pháp, thứ lớp có bốn: Câu đầu nói về lợi tha, câu kế nói quán sát. Lại nương trở xuống là nêu tướng lỗi. Nương lời quở trách tức là năm thứ nặng nhẹ ở sau, tùy dụng nên nói là tới lui. Nương lỗi trở xuống là chính quở trách. Nhược quá trở xuống là thứ ba khuyên nương giáo, ban đầu nêu phi. Chữ nghi trở xuống là chính khuyên dừng lại. Bỉ hoài tức các lỗi ỡ trước. Xuất đạo tức bốn pháp ở trước, nhưng nói thì rất dễ mà làm rất khó, nếu không có tâm sân đâu có quở trách. Tuy nói rằng thế gian có gì thường hằng đâu, nếu tự biết tâm không bằng nén nhẫn. Trong bày đúng như pháp, năm thứ của luật Tứ Phần chú thích rất rõ không nhọc giải thích lại, chỉ là trước nặng sau nhẹ. Ba thứ giữa xen nhau đều có cả nhẹ, nặng. Trong chấp Niết-bàn, bày lỗi chia làm hai: Ban đầu bày chính giáo. Ba đời: Đức Thích-ca là hiện tại, trở về trước là quá khứ, Đức Di-lặc về sau là đương lai, nhưng quá khứ đã diệt, đương lai chưa lập, đâu biết được giáo pháp kia, bởi Chư Phật đạo đồng nêu hiện tại có thể chứng nghiệm. Lại giáo pháp hiện tại đều nói cả quá khứ, vị lai, cho nên có thể biết. Nhưng Phật pháp nhân từ quyết không xúc chạm chúng sinh, Hằng sa Chư Phật đều như vậy đâu phải riêng Đức Thích Ca? Chữ tỷ trở xuống là chỉ cho phi pháp. Chữ tiện trở xuống là bác bỏ vọng dẫn, đầu tiên nêu phá. Kinh kia, thứ ba nhân Bồ-tát Ca-diếp hỏi nhân sống lâu, Phật đáp: “Nên giữ gìn ủng hộ chúng sinh tưởng như con”. Ngài Ca-diếp bạch Phật: “Nếu có người phá giới, gây ra tội nghịch, hủy hoại chính pháp, làm sao tưởng như con được?”. Do đây khiến dùng yết-ma trị phạt, cho đến nói rằng: “Nếu thấy Tỳ-kheo, thấy người hoại pháp, không chịu đuổi ra, quở trách, nêu tội xử phạt, phải biết người nầy là kẻ thù trong Phật pháp”. Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói thì không xem tất cả chúng sinh như con một, không tưởng như La-hầu-la?” Cho đến Phật nói: “Thí như vua chúa, quan lớn, Tể tướng nuôi nấng các con hoặc hai, hoặc ba, bốn, đem giao cho vị thầy nghiêm khắc dạy dỗ. Nếu ba đứa phạt gậy mà chết, còn có một đứa, quyết phải khổ trị muốn cho thành tựu. Như lai cũng giống như vậy, xem người hoại pháp đồng như con một, người ngu chấp đây cố làm phạt gậy”. Chữ nhiên trở xuống là lại bác bỏ, ban đầu nêu ra ý kinh. Con một nên thương là nếu y cứ theo kinh thì chính là nói Như lai, sau dẫn Nhiếp Luận thì chung Sơ địa. Chữ tức trở xuống là dẫn kinh chất vấn ngược lại, tức bài kệ quyển 10 chép: “Tất cả sợ dao gậy, đều yêu mạng sống, tha thứ mình có thể làm dụ, chớ giết chớ đánh đập”. Không biết trở xuống là trách kia vọng dẫn. Nghiêm sư là dụ tức như trên đã dẫn. Trong dẫn vị sâu, ban đầu chính dẫn. Tịnh tâm tức Sơ Địa, cũng gọi là Hoan hỉ địa, trí vô phân biệt đối với tất cả chúng sinh đồng xem như con một, không có lấy bỏ. Phương tiện là hiện bày khéo léo độ chúng sinh. Mười việc là mười việc không lành. Chữ kim trở xuống là bác bỏ lạm. Y cứ theo Niết-bàn ấy tức là văn kệ trước, tha thứ giống như chữ độ. Trí Luận chép: “Sức khổ nhiều, sức vui ít”. Nếu người khắp mình thọ vui chỉ một chỗ bị kim châm thì các vui đều mất, chỉ còn biết chỗ kim châm. Như lời tựa Tịnh Độ Ngụy Kinh đã dẫn, xưa chép: “Kia nói, tội nặng đánh ba trăm, tội vừa đánh hai trăm, tội nhẹ đánh một trăm, đều được phước”. Chữ thử trở xuống là bác bỏ phi, ban đầu chỉ ngụy (dối), tùy triều phạm hủy. Người xưa không dùng cho nên nói rằng “Người trí đều phi”. Chữ túng trở xuống là theo pháp có thể hiểu. Trong phần dẫn chính giáo, bổn luật nói tâm sân mà quở trách tức hủy hoại, giới khai từ bi cứu vớt. Đánh gậy nghó là súc sinh phạm đột-cát-la, nêu ra giới đánh Tỳ-kheo. Trong Địa Trì y cứ lỗi nặng nhẹ để chia ba món phạm. Phạm truất bỏ là không cho nương ở. Chiết phục là dùng việc lăng nhục, như Luật nói các loại đoạt y, đoạn thực. Quở trách là như nói lời răn dạy (Xưa y cứ Ba-la-di, Tăng tàn, Ba-dật-đề, Đột-cát-la, chia ba phạm chưa hẳn là vậy). Trong kinh Đại Tập, ban đầu bày cực răn dạy. Tội đồng là nêu tội nặng làm so sánh làm thân một Đức Phật ra máu đọa địa ngục A-tỳ một kiếp, huống chi muôn ức Phật. Chữ nhược trở xuống là dạy phép trị. Tăng sự yết-ma thuyết giới. Chữ nhược trở xuống là nêu ra báo năng phạt. Vì sao trở xuống là nêu ra ý không nghe. Chữ y trở xuống là y theo kinh để quở trách, trước nói Sơ địa có thể làm mười việc, về sau là phàm phu, không nên lạm, kết nghiệp đã nặng, chết đọa đường ác nên nói là “mờ mịt”. Trong luật Tăng-kỳ chia làm ba: đầu tiên là rõ pháp chiết phục, nghĩa là đáng phạt. Nếu hung trở xuống là rõ pháp lìa bỏ, tức không thể trách phạt. Nếu đệ tử trở xuống là đệ tử não chúng, thầy phải làm phép sám hối xin lỗi. Thứ ba, trong pháp phi, Luật Tứ Phần trước bày năm phi. Hai phi trước thời gian lâu mất dạy bảo, người bệnh luật nhân hai thầy không nuôi người bệnh khốn đốn, không kêu hiện tiền, không biết quở, không nêu ra lỗi vì không biết tội gì. Chữ nhược trở xuống là rõ thầy trái pháp. Chữ hoặc trở xuống là đệ tử trái nghịch. Hai chữ mắc tội là chung các tội trên. Văn luật đều nói không nên. Luật Tăng-kỳ đầu tiên là nói tạm đoạt. Cộng hành nghĩa là Hòa-thượng đích thân độ, bảy pháp nhiếp nhau nên gọi là cộng hành. Nếu y cứ y chỉ cũng cộng bảy pháp, từ gốc bày mắt để chọn thân sơ. Nhược dữ trở xuống là rõ thường đoạt do trước là cốt yếu, đây đều là đoạt y trong giới không duyên phạm. Thích là vui vẻ. Luật Thập Tụng nói, đoạt y, chiết nhục khác với hai thứ đoạt ở trước. Đầu tiên là duyên khởi. Chữ Phật trở xuống là lập chế, Sa-di hai y nên phải giữ lại một, y cứ nhỏ bày lớn nên phải để lại một y. Thứ tư, pháp từ tạ, trong ở đi văn luật Thập Tụng chia làm hai: Ban đầu từ tạ thầy tốt, pháp chỉ là không dạy dỗ riêng, cho nên muốn theo người khác. Trước rõ thưa thầy, sau rõ thầy lựa chọn. Nếu Hòa- thượng trở xuống là xa lìa thầy không tốt. Chữ pháp trở xuống là nêu bốn câu. Hai ở hai đi pháp là chính, việc ăn là việc phụ, có ăn không pháp luống nuôi thân dơ, có pháp không ăn trọn thành tuệ mạng, Thánh chế có lý do đâu được không suy nghó. Trong luật Tăng-kỳ, đầu tiên nói về đi đứng, kia cũng có bốn câu, hai đi hai ở. Không hỏi mà đi (đồng không có pháp không cho ăn ở trước). Hỏi mà đi (có cơm mà không có pháp). Khổ cũng ở (có pháp không có cơm, trọn đời không nên đi). Vui ở (có cơm có pháp, dầu đuổi cũng không đi). Chữ nhược trở xuống là thứ hai rõ can ngăn cãi cọ. Kêu người đến ấy, Luật kia chính viết chữ phụ nữ, nay ở đây viết lầm. Trong Ngũ Bách Vấn chép: thời mạt pháp ngày nay phần nhiều có việc nầy, tuy muốn theo người khác, ép bức đánh mắng cho nên kh- iến kêu đến, bạc đầu xoay mặt vào tường, pháp đọa từ lúc nầy mà có ra. Hẳn phụ cao thức, không luống uổng tự tha. Trong từ tạ mà đi chia làm hai: Ban đầu nói quở trách sám tự tạ, lại chia làm hai: Ban đầu nói cầu người phép điều hòa. Nên trị trở xuống là khiến thầy quán sát. Chữ luật trở xuống là thứ hai tự đối cầu phép sám. Trước nói đệ tử ân cần xin thương. Chữ nhược trở xuống là sau thầy quyết nhận. Kế, là nếu biết trở xuống là nói biết sai thì lìa. Đầu tiên nghe người dụ dỗ bỏ đi, Luật khai quyết có thể thêm lớn quả Sa-môn lợi ích, cho nên biết có thể dụ dỗ quyết y cứ là thầy tốt. Nếu đệ tử, v.v… trở xuống là thứ hai, tự thưa rồi bỏ đi. Năm món tức năm câu phép thưa ở sau. Nương thầy ý vốn là xem xét lỗi sách tấn mình. Thứ năm, đều không biết thầy nghĩa là ở yên, đi chẳng thành tự đạo vốn kia nên chăng? Trong giải thích nghi, trong bảy pháp trước, để tự quở trách thầy phạm Tăng tàn đều phải sửa trị. Có nghi ác kiến lại cần can ngăn cho có chính kiến. Đây nói bỏ đi cho nên phải hòa hợp, chính đáp có thể hiểu. Trong dẫn bày, trước nói nhận can ngăn. Nhược sự trở xuống là nói về chống cự sự can ngăn. Nương hai thầy trước là Hòa-thượng đi xa, y chỉ ra ngoài giới. Bảy, là mất pháp của thầy, trong nêu bày, ban đầu rõ Hòa-thượng không lỗi. Không đức nương người, chỉ có thể bỏ đi, nương nhau thì vẫn ở. Chữ dó trở xuống là bày lý do không lỗi. Ban đầu nhận tâm trông mong, trọn đời gần gũi, không đồng y chỉ cho có thỉnh lại. Thứ hai, là rõ y chỉ có lỗi. Nếu luận y chỉ, thì chỉ có phép thỉnh, nghĩa chia ba món cho nên nói là “Rõ chính”, nếu lỗi thỉnh pháp thì phải gia thêm. Nhược thất trở xuống là thứ hai, khởi tâm mà thôi, như ở sau có nói. Trong xen trị, hai thứ trước nói thầy được trị, trong đó lại có hai: Ban đầu định pháp lỗi. Luật chép: “Hòa-thượng, Xà-lê, tăng cho làm quở trách, tẫn xuất, y chỉ. Ngăn không đến nhà cư só, tác cử, Phật nói không mất y chỉ (đệ tử cũng đồng). Nay dùng nghĩa y cứ tức không mất hai món trên (xưa nói rằng ba môn học thì mất hai môn sau là sai). Dó sư trở xuống là giải thích lý do mất. Nói mắc tội ấy như liền dạy răn thì trái hành pháp hai tội Đột-cát-la. Dó đoạt trở xuống là chuyển giải thích mắc tội. Không được y chỉ tức là đoạt quyến thuộc. Chữ nhược trở xuống là kế nói đệ tử bị trị. Cả ba đều không lỗi, khai không thuận theo là hợp chúng đồng trị, còn bao nhiều người thuận theo đều chế Đột-cát-la, thầy riêng khai đó (không đồng tùy cử kia cuộc hạn ác kiến, phạm Ba-dật-đề). Trong xen ra ngoài giới, ban đầu lặp văn. Luật chép: “Hòa-thượng, A-xà-lê quyết ý ra ngoài giới đi không trở lại, mà ngay ngày đó trở lại, Phật nói đây là mất y chỉ (đệ tử cũng đồng). Chữ thất trở xuống là ng- hóa quyết. Không mất thỉnh ấy là không vượt qua đêm. Nói chỉ sinh ấy nghĩa là khởi ý. Thỉnh pháp nghĩa là cầu giáo thọ (dạy bảo), Luật y cứ liền trở lại cho nên nói rằng “quyết ý”. Nếu nói cách đêm thì bất luận quyết cho không mất. Ba pháp đều mất, chỉ Đại Sớ ấy, xưa chép rằng “Thầy trò quyết ý ra ngoài giới tâm cách ngăn”, tuy ngay ngày ấy trở vào cũng mất y chỉ (nghĩa là mất hai món sau), nếu vậy lìa y, phá hạ đợi gì qua đêm? Đáp: Thầy trò riêng có hai tâm cách cho nên mất, người có tâm lìa y và chỗ, y và chỗ không có ý lìa người cho nên phải qua đêm. Lại y và hạ là y cứ minh tướng để nói về mất, y chỉ ước tâm, ước giới để nói mất, cho nên khác nhau. Trong chung riêng văn luật trước sau bao gồm có chín. Thứ tư là phạm trọng, Luật chép: “Hòa-thượng, Xà-lê, Tăng làm phép diệt tẫn, Phật nói là mất y chỉ (đệ tử cũng đồng). Thứ năm như trên đã dẫn chung bảy yết-ma. Vả lại, nêu quở trách, còn bảy món khác tức nêu ra trong câu thứ năm, thứ tám ở kiền độ thọ giới, đối văn có thể thấy. Kia chép: “Có năm pháp mất y chỉ (một, là thầy quở trách, hai là pháp, ba là thôi tu, bốn là không cho y chỉ, năm là lên giới tràng). Lại có năm việc (một chết, hai bỏ đi, ba thôi tu, bốn không cho y chỉ, năm là đúng năm tuổi hạ hoặc hơn năm tuổi hạ). Lại có năm việc: Thứ năm là gặp lại Hòa-thượng cũ, còn bốn câu trước đồng như trên chỉ câu thứ năm riêng tự trở xuống đều như vậy. Lại có năm việc: Thứ năm là Hòa-thượng, Xà-lê thôi tu. Lại có năm việc: Thứ năm, là đệ tử thôi tu. Lại có năm việc: Thứ năm, là Hòa-thượng hay A-xà-lê qau đời. Lại có năm việc: Thứ năm, là đệ tử qua đời. Lại có năm việc: Thứ năm, trở lại ở, hòa trên thuận dưới mà ở. Thứ hai và thứ sáu quyết y cứ qua đêm, nếu ngay ngày đó trở lại như trên đã nói. Thứ tám nghĩa là thầy trước đi xa, đệ tử riêng cầu y chỉ, sau gặp lại thầy cũ, lại về nương học thì pháp kia liền mất. Thứ chín cũng vậy, chỉ y cứ đệ tử lìa thầy sau gặp lại là khác. Y theo luật, sáu món trên chung cho thầy trò, ba món sau chỉ hạn cuộc ở đệ tử. Nói ước giáo mất ấy, là nêu riêng thứ bảy, vả lại y cứ giới hạn của giáo, nói theo hạnh thì thành lập được pháp thân mới lìa y chỉ, như trên đã nói. Hỏi: Quở trách y cứ giáo rõ sao nói không mất? Đáp: Trên y cứ đoạt hạnh cũng tức là giáo. Hỏi: Đi xa, quở trách, tức hai môn trước, đâu cần trình bày lại? Đáp: Đi xa trở về ngay, văn luật phán mất mà nghĩa có điều không mất. Quở trách thứ bảy, Luật phán không mất, mà y cứ nghĩa có mất. Cho nên hai món nầy trước nói sau mới nêu chung. Hỏi: Y cứ ba pháp trước riêng phối chín món đồng khác thế nào? Đáp: Quở trách mất một, như trên có thể biết. Đi xa cả hai riêng, trở về ngay mất hai món, qua đêm mất cả ba. Bảy món khác y cứ giáo mất cả ba, tìm đó có thể thấy. (Xưa chép: Chết và thôi tu, thì ba pháp đều mất. Quở trách mất một, bao nhiêu đều mất hai món sau là sai, đâu có phạm tội nặng, vào giới tràng, thỉnh pháp vẫn còn). Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký quyển thượng phần ba xong. <篇> TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN THƯỢNG (PHẦN 4) THIÊN GIẢI THÍCH THUYẾT GIỚI Giới tức bổn thọ pháp thể, lượng đồng sa giới. Từ duyên khởi nêu ra những điều thiết yếu, gồm hai trăm năm mươi giới, làm con đường trì phạm khiến cho dễ nhiếp tu. Nhưng sợ chúng tăng biếng nhác không tự sách tấn siêng năng, vì thế mỗi nửa tháng (30 và 1 5) tập trung một chỗ để tác pháp tuyên bố (thuyết giới), ngõ hầu nhân lời thuyết giới này mà phản tónh tự mình, sửa đổi việc làm ngày càng mới. Tuy rộng lược có hai mà tăng riêng ba vị. Nói gồm nhiếp thì không đâu chẳng phải là tịnh hạnh, nên gọi là thuyết giới. chính nghi do ngài Phổ Chiếu, ngài Đạo An và luật mở rộng Đương thời, lập pháp tuy rất nhiều nhưng không có điển cứ. Những điều nói trong thiên này đều nương lời dạy của Đức Phật. Xem kỹ kinh luật, sưu tầm điều đúng bỏ bớt điều sai, tựa đề là chính nghi, đối chiếu chọn bỏ những chỗ không đúng. Lại ở trên nói thuyết giới là chỉ cho pháp sở thuyết (pháp đã được nói); dưới nói chính nghi là gồm duyên năng biện. Cả hai năng sở đều nêu, cả hai duyên pháp đều hiểu. Văn chú giải nêu trong phần chính giải thích. Tức Tam Thiên oai nghi, nghĩa đầu nay chính dùng, vì thế được nêu trước tiên. Tịnh trụ có hai nghĩa giải thích: Một là nghĩa bất thất: Nghe trì không phạm, thể thường còn, vì thế phần sau nói thanh tịnh giới trụ. Hai là nghĩa y chỉ: Cấm chế ba nghiệp an trụ trong giới. Tức trong Quảng Hoằng Minh Tập chép: Tịnh thân miệng ý như giới mà trụ là ở đây. Trong phần rộng dẫn nêu ra phần thiết yếu luật nghi những chữ quốc ngữ, kế là dẫn Nê-hoàn. Đầu tiên là dịch tên. Kiều-tát-la, Phương Chí nói thuộc Trung Ấn-độ, chu vi sáu ngàn dặm, các sơn thành khác chu vi hơn bốn ngàn dặm, rất có lòng tin Phật pháp. Nê-hoàn có hai bổn, nay có sáu quyển, chọn hai quyển: Trưởng dưỡng tức dịch chung, hai nghĩa giải thích riêng: (2 3 2) nghĩa dầu đồng như trước, nghĩa kế già luận chứng đắc bạch pháp, v.v… Hoặc trưởng đối với nghĩa kế, dưỡng đối với nghĩa trước. Trong kinh Tạp A-hàm tiếng Phạm tuy đủ, thì biết riêng Bồ-tát mà lại lược. Phần sau dẫn chính âm hai nghĩa phân phối. Đoạn nghĩa là dứt ác, đồng giới trụ ở trước, nghĩa sau tương đối rất dễ biết. Quốc ngữ không đồng hai chữ hóa ở trên vì thế không gọi là sau. Trên là dịch đủ, lại bao gồm các nghĩa khác, có bảy tên gọi: Tập: Trong bài tựa giới nói rằng cùng nhóm họp (tập trung) một chỗ. Biết: Tức là biết phạm, không phạm, v.v… ở dưới nói rằng: Trong khoảng thời gian từ nửa tháng trước đến nửa tháng sau có phạm chăng? Tuyên: Lời sớ trong giới nói là thuyết giới trong hai tháng hắc ngoạt và bạch ngoạt (tức ngày 30 và 1 5). Đồng: Phàm thánh trong mười phương đều tôn trọng. Cộng trụ: Thanh tịnh ở trong hai bộ tăng, người phạm không được nghe. Chuyển: Chuyển các hoặc nghiệp chứng bạch pháp (chứng pháp thanh tịnh). Thường: Chỗ thường thực hành những việc khác của tăng rất ít nên chỉ nêu tên. Nay ý đã rõ, dẫn văn y cứ nghĩa lược như giải thích trên. Trong Tam thiên có ba cách dịch: Hai cách giống như giải thích ở trên, hòa hợp ba thể tướng không nói không hiển. Hai cách sau, nghĩa đã hiển ở phần chính dịch, cho nên phần trước phần nhiều tông quy thành bốn cách. Tịnh trụ đoạn chuyển dứt ác làm tên. Tăng trưởng, nuôi lớn sinh thiện làm tên, tập, cộng trụ, và tôn quý làm tên. Tri tuyên và thường từ chế làm tên. Phần nhiều nêu ra chỉ y theo trước đã nêu. Chỉ dịch là trụ, hội thông trong luận Câu-xá nói tám giới đều thọ Bồ-tát hộ nên nói là tên. Tên là dùng để gọi. Kế dẫn rõ luận giới hộ, hai phần hội thông Câu-xá. Hai luận nói hộ, danh nghĩa có một ít giống. Bố-tát là tiếng Hoa Phạm đều nêu, sự đồng mà tên khác. Sau dẫn luật, trong luật có hai mươi kiền-độ. Kiền-độ thuyết giới: Trong kỳ Ngũ Bách Kiết Tập (năm trăm vị kiết tập), ngài Ca-diếp trình bày, ngài Ưu-ba-ly kiết tập nên gọi là kiền-độ Bố-tát, tức “Tri” đã nêu trong phần thuyết giới ở trước. Sau gọi là Bố-tát, trước xen nhau nêu nên gọi là Tức. Câu này chính là chỉ cho đồng mục lục ở thiên trước. Hỏi: Bố-tát dịch là thuyết giới phải không? Vả lại, Bồ-tát dịch là Tịnh trụ. Giới, tiếng Phạm là Thi-la, đã không phải đối phiên sao luật luận hai tên xen nhau hiển bày. Hỏi: Vì sao không gọi là Bố-tát chính nghi? Suy nghó sẽ hiểu (người học phần nhiều mê mờ nên phải phương tiện giải thích). Ý trình bày, trước tiên hiển bày lợi ích cúa giáo. Hai câu trên là nêu sự khen ngợi, hai câu dưới là giải thích thành. Câu trên y cứ thời gian để hiển bày công phu, chính tượng ngữ lược), lý bao gồm phần sau. Tức ở sau chép: Vì sao biết Phật pháp tồn tại ở đời lâu dài, v.v… câu sau y cứ pháp rõ dụng để cùng vâng theo, thanh tịnh hòa hợp các pháp khác có thể thực hành. Sau nói nhiếp giáo lý căn bản của tăng. Khoa kế, bốn câu đầu, trước chỉ bày tình kiến (mãn du yễm) ít người thực hành như kiết giới, thọ sám, v.v… Thường tức nửa tháng thường làm như quở trách. Hai câu đầu bác bỏ khinh mạn, coi thường, bởi sau suy ra lý do. Nhiễm vì thường bị huân tập. Thường nghe: Vì một tháng nói hai lần, do đây sau kết khen ngợi. Tình tức vọng duyên theo vật mà trôi lăn, ưa đây ghét kia, giàu ít nghèo nhiều, dựa vào một việc này đủ thấy được phàm tình. Vì thế nói rằng có thể biết. Lúc đó còn như vậy huống chi ngày nay. Chùa tăng tuy nhiều nhưng thực hành càng ít, dầu có thực hành nhưng cách xử sự không đạt kết quả. Đâu chẳng phải nhờ túc nghiệp mà sinh vào thời này. Nhớ đến sự truyền bá của đạo mong muốn mọi người phải trân trọng cung kính. Trong phần ba, đầu tiên là trình bày xưa, sau là hiển nay. Trong phần đầu nêu các bổn. Tề tức Nam Tề, Tiêu Tử Lương, sinh vào thời vua Phong Cách Lăng, chết vào thời vua Ích Văn Tuyên. Bồ-tát tại gia: Hoặc năm giới, tám giới hoặc giới Bồ-tát, văn này đã thất lạc không thể tìm được (có chỗ nói tức Tịnh Trụ Tử quyển 2 0). Phổ Chiếu: Bộ Chỉ Quy chép: Tìm khắp trong truyện ký, hỏi thăm tên vị này, chưa biết vào thời đại nào. Đạo An là vị cao tăng đời Tấn, lập ra khuôn phép cho tăng ni, có ba điều lệ: 1- Hành hương định ra pháp giảng trên tòa trên kinh. 2- Pháp thường ngày sáu thời hành đạo, ăn uống. 3- Các pháp bố-tát, sai sử, hối quá, v.v… Các chùa viện trong nước đều y theo đây mà thực hành. Rộng trình bày đức nghiệp đầy đủ như Lương Truyện. Nhưng sau phê bình, suy xét, được mất, hai câu trên nêu xưa khác nhau, hai câu dưới hiển nay túng đoạt, ý hiểu liền đã biết. Tâm tướng tức xử sự. Trong phần hiển nay nói ý kinh: Lời nói chung ba tạng đều được tên kinh. Sau dẫn văn các bộ luật, kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa (ví dụ như ở sau nói rằng: Văn kệ thanh tịnh trong các kinh tụng xuất xứ từ luật Tăng-kỳ tức gọi luật là kinh), v.v… đã nghe được tương truyền ở đời. Lại cho rằng đối với bổn trước chọn thứ lớp, tiết mục nối văn. Trong phần sinh khởi, trước nêu ý, vì thế trở xuống chỉ trước nêu sau. Gặp bổn làm khuyến khích. Trước dẫn khuyên cố gắng tức nói rằng phàm tình để có vô tướng, v.v… đã nêu ở trước. Dẫn trong các văn, Luật Thiện Kiến chép: Hai câu trước Tỳ-kheo hỏi Phật, hai câu sau Phật trả lời. Già luận nói dứt ác. Trước nói các điều ác chỉ chung mười nghiệp, sau nói các phiền não không ngoài hai hoặc. Chữ thọ là viết sai, trong luận viết chữ ái, tức chỉ bày hoặc thể, kế nói về sinh thiện. Bạch pháp (pháp thanh tịnh) chung cho phàm thánh. Phàm thì sư tịnh, Thánh thì lý hiển. Phạm hạnh rốt ráo chỉ hạn cuộc ở bậc Thánh cùng tột. Lại về sau tự mình phản tỉnh, phát lồ sám hối tức là thanh tịnh. Vì thế sau dẫn các luận để hiển bày. Trong phần khai chương nêu phần tăng biệt hai vị khác nhau. Tăng là bốn người trở lên tác pháp tụng giới. Biệt tức là duyên khai, đối thủ tâm niệm chỉ can ngăn ba lần. Lại bốn môn sau, môn một và hai chung cho tăng biệt. Môn thứ tư chỉ hạn cuộc ở tăng. Môn thứ ba thông cuộc như đánh chuông, chúng nhóm họp đầy đủ. Chế chung một người phát thẻ thông báo chỉ hạn cuộc ở tăng mà thôi. Trong thời tiết, khoa đầu, nếu kỳ hạn ba ngày thì các bộ chế chung và trước sau khi ăn cũng nêu trong luật Tăng-kỳ. Nay do ba ngày đều nêu ra trong luật Thập Tụng nên gồm nêu. Sau dẫn giải thích các văn. Sau hai ngày chỉ xuất xứ từ bổn tông, vì thế sau đều nêu trong luật Tứ Phần. Trong phần giải thích riêng, văn dẫn Tứ Phần nêu ra đồng, ngày Bố-tát dùng chung cả ba ngày. Hỏi: Trong ba ngày, tùy ý Bố-tát ngày nào cũng được phải không? Đáp: Ở đời có nhiều tranh chấp chưa thuận với ý Tổ, nếu cho rằng dùng chung được thì trong Nghiệp Sớ chép: Ngày 14 là ngày thuyết pháp truyền ba quy y, năm giới cấm cho người thế tục. Ngày 16 vì có nạn duyên nên khi khai cho kéo dài, vì thế chưa thể có tiêu chuẩn thường hằng. Nếu chỉ lấy ngày 15, thì trong văn Sớ nói ba ngày đều được, tùy dụng được khai, ắt dùng hai ngày. Xét lại trong bảy pháp Phi, thì pháp Phi nào chung hai đều có ngại. Nhưng trong Sớ văn chỉ sợ người đời thường dùng ngày khác, ý muốn lấy ngày 15 làm tiêu chuẩn nên phân riêng. Còn như có duyên dùng chung thì không gọi là phi pháp. Còn tự tứ tuy chung ba ngày mà trong lời sao thì lấy ngày 16 làm tiêu chuẩn. Phi nghĩa là ngày khác thì không được, có thể dùng thí dụ. Luật Ngũ Phần thì nói khác. Luật Tứ Phần dẫn văn này, muốn lấy ngày 15 làm tiêu chuẩn. Vì thế trong lời Sớ chép: Hai ngày trước (14, 1 5) nói pháp, trao ba quy y năm giới cấm cho người tại gia, một ngày sau (1 6) vì chúng tăng tịnh tâm thuyết giới. Trong tiết thứ hai đều để chia trước sau, vì thế trước sau đều chung. Sở dó không chọn ngày đêm vì đã chế sáng, trưa, tối có thể biết. Trong luật sợ minh tướng hiện nên cho lược thuyết giới, thì chung cho tối sáng. Trong thêm bớt, trước dẫn duyên khởi. Nghiệp sớ chép: ngoài giới đấu tranh không tự tiêu trừ, trở vào trong chúng thanh tịnh trần nhiễm nào nghi. Đức Phật khai cho, trước nói giảm bớt, do để tránh người vào giới, không đợi ngày 15 mà trước đó hai ngày nên nói bớt. Nhưng ngày 14 vốn là ngày chính cũng vì tránh duyên nên nhập vào ngày bớt. Như ngày 16 lùi lại ngày 15 thuyết giới, do đây ngày chính không gọi là bớt. Nếu nói thêm sau, vì tránh người vào giới không được thuyết giới nên kéo dài qua nửa tháng thứ hai, cho nên nói là thêm. Lại có bốn tiết. Đầu nói lập tức tạm tránh chưa cần phải thêm, khiến cho người vào tắm, chúng tăng ra khỏi giới khiến không thể biết. Nhược trở xuống là tăng lần thứ nhất. Bạch tăng là tác pháp đơn bạch. Lại trở xuống tức là thêm lần thứ hai. Sớ chép: hung ác chưa nhẫn, bổn giới chưa hòa, nên đến chỗ khác hướng về đồng chúng thanh tịnh, v.v… cũng phải đơn bạch. Nếu khai cho đồng pháp, tâm vốn không hòa sợ phế bỏ việc chúng, vả lại khiến cho cùng làm nên gượng nói. Đây là bớt hai ngày, thêm cũng quá hai ngày của tháng kế, thêm bớt đều hai, trong văn rất dễ biết. Trong Xích Cổ: Y cứ vào luật Thiện Kiến và Thập Tụng có một thời gian văn trụ ở đời, chép: Không có tăng đến ba ngày, do quá ba ngày tháng kế không thuyết giới liền diệt. Ở đầu nêu khai chừng hạn của luật, xét lại không có ý khác, chỉ sợ việc làm của tăng bị đình chỉ hay phế bỏ mà thôi. Cũng ngăn sự nói lạm. Luật dẫn văn phá, trước hai văn bổn luật. Câu-diệm-di, vì Tỳ-kheo đấu tranh nói Phật hiển pháp phi diệt, một nước có thể như vậy nhưng chẳng phải đều diệt. Tỳ-kheo Cao Thắng là môn sư của Trưởng giả, Trưởng giả khi qua đời giao kho báu cho và nói: Đợi hai đứa con ta lớn lên trao cho nó. Một hôm, giao kho báu cho người em, nên người anh oán trách bèn đến báo với A-nan. A- nan nghi ngờ, trải qua sáu kỳ bố-tát không cho đồng pháp. Sau A-nan hỏi Tỳ-kheo Cao Thắng, Cao Thắng trình bày đầy đủ ý của thầy. A-nan nói không phạm Đột-cát-la. Kế dẫn trong luật Tăng-kỳ, tỳ-kheo ở thôn Phất-ca-la ganh tî với tỳ-kheo ở Lan-nhã có danh lợi, nên ngày 14 đến nói rằng ngày 15 thuyết giới, nhưng đợi kia đi rồi mới thuyết giới. Ngày hôm sau đến thì nói rằng đã thuyết giới rồi, ông mắc tội không bố-tát, ta không cho ông ăn, như vậy trải qua hai mươi năm. Vì thế nói chê bai oán trách nhau. Nhưng hai văn kia chẳng phải gọi là không thuyết, dùng đây chất vấn văn trước dường như không cùng loại. Trong phi thời hòa hợp, trước dẫn duyên, tức ở nước Câu-diệm-di đấu tranh phá làm hai bộ, sau phi thời ở Xá-vệ hòa hợp nên Phật khai cho. Lời sớ nói hai chúng tâm thanh tịnh đồng tôn kính giáo pháp thanh tịnh, vì thuyết giới không đợi kỳ hạn. Về sau giải thích lý do. Trước trình bày nghĩa thêm, nay trình bày không hòa. Trở lại hiển cầu phải hòa hiển ý khai thuyết. Không đồng kiến giới: Nhân tránh pháp tướng là kiến không đồng; phế bỏ việc bố-tát là giới không đồng. Như giới hòa: Nói thông thọ tùy. Nay thuyết tùy thực hành thuyết giới để luận trong tạp pháp (Hữu bổn hoặc chữ vô giới), môn nầy dẫn rộng sự tướng các pháp tạp hiển. Muốn hiển trở xuống làm khoa hành sự quy tắc ở khoa sau đều có y cứ. Trở xuống là điểm, trong tác tướng có văn chép: Bất thời nghĩa là không đồng thời. Chỉ thiên trước tức là đánh linh, đánh kiền-chùy, v.v… Phát thẻ: Khoa đầu dẫn văn luật Thập Tụng. Trước nói chung duyên khởi của hai chúng, sau nêu rộng chúng đồng lợi dưỡng. Nói không đến: Khi đang Yết-ma không có mặt trong chúng. Luật Tứ Phần trở xuống kế là dẫn chứng. Trước dẫn bổn luật tức Sa-di pháp đồng, sau dẫn Niết-bàn nói Sa-di hình đồng. Khoa kế, trong luật Ngũ Phần trước là nêu khuôn phép. Ngũ chỉ: Là năm ngón tay của người, đủ năm tấc. Nắm một khuỷu tay: Một thước tám (duỗi tay là hai thước) nhưng không rõ vật thể. Thời nay phần nhiều làm bằng cây tre. Khách đến nói hành pháp hòa hợp, tổng số là bao nhiêu. Tam-trung là: Tiếng Phạm, y cứ vào thinh luận mà dịch. Lời sớ chép: Tên Xá-la thảo, dùng làm thẻ tre để tính. Rải hoa: Trong luật Ngũ Phần trước nói khai cho người thế tục. Tỳ-kheo không được tức nói ngăn người xuất gia (chế đạo). Cầu đầu ngăn tự rải. Trong luật, vì các Tỳ-kheo rải hoa lên các Tỳ-kheo ở trên tòa cao, cư só thấy vậy chê trách rằng Tỳ-kheo giống như vua, quan lớn. Đức Phật do đây mà ngăn cấm. Như cư só ngăn thọ nhận rải hoa, nghĩa là tuy cho thọ nhận nhưng không được để dính áo. Phủi bỏ: Trái tướng đạo. Trải tòa nên thấp cũng không cao quá: Tỳ-kheo ba lần khai tự rải. Trước ngăn cung kính người, ở đây khai cho ở chỗ nghiêm tịnh. Trước là văn dẫn, văn nầy chính dùng. Trong tịnh thủy vật: Trước dẫn trong luật Tăng-kỳ, gồm ba tiết. Một là nói tịnh thủy (tay sạch), văn giống như sư thuyết giới, nay tức là làm thẻ. Hương trấp dục (nước tắm thơm): Trước là tịnh thủy (nước sạch), đây tức là hương thang (nước nóng thơm). Hai gồm tay sạch. Tụng trở xuống nói để thẻ. Đây khai một số giới đồng như trước. Câu văn tạp toái tức giới điều. Nhiều bộ luận chép: Mười hai năm về trước nói chung một bài kệ, nay nói năm thiên, gọi là tạp toái. Năm trăm giới đối một bộ thì số gấp bội. Bảy trăm giới đối với hai bộ vẫn nhiều hơn một trăm. Đây gọi là đếm số thích nghi, không cần phải hạn định. Như trở xuống là nói cần phải đủ chúng. Ai đáp tức dự sai ba người, hoặc cho thí vật cần người chú nguyện. Trong luật Ngũ Phần thì nói Duy-na làm. Xứ này việc ít nên không làm. Trong Tứ Phần chúng đủ đồng như trên. Chỉ nói tuổi nhỏ lớn phân xử lên tòa để trách nhiệm, tôn ti không lẫn lộn. Trong phần người pháp, khoa đầu trong luật Tăng-kỳ có bốn: Đầu nói về pháp sở tụng, luật nêu số mục thực hành tức giới bổn. Tụng hai bộ: Y cứ trong an cư, tức Luật sư thứ tư. Hỏi: Tăng thuyết giới cho ni có lợi ích gì? Đáp: Trong thể bổn thọ gồm phát được. Lại làm chỗ y chỉ cho ni nên phải có giáo thọ. Nói người có thể tụng. Thượng tọa nói: Người có đức đáng được mọi người tôn kính nên ở pháp tòa nói lời thành thật để răn nhắc dạy dỗ, người nghe nương theo đó mà thực hành. Đời nay phần nhiều đổi mới, trái với ý của giáo pháp, cao lạp ỷ thế không chịu tụng, đâu biết rằng đây là trách nhiệm quan trọng cho việc mở mang Phật pháp. Sau là chọn thính chúng. Bộ kia cấm chung năm tên. Luật Tứ Phần nói được nhóm họp, vì trở về sau chúng có phạm kết chung. Đây tụng hai thầy chỉ giáo, không gọi là được nghe giới. Hỏi: Bài kệ tựa giới bổn lệ tên ba thiên, chúng có được nghe không? Đáp: Lược nêu tên chung không nói điều mục, vì thế như nói ngăn cung kính. Hai câu trên răn dạy thính chúng. Không che giấu: Nên khai cho người bệnh. Không che vai: Nghi cung kính ở Tây Vực: xứ nầy không giống như vậy, nên chỉ bày làm thẻ, sau chỉ xướng pháp tức như trên đã nói. Khoa kế, luật Ngũ Phần nói có bảy. Lựa người có đức lạp tụng giới, bỉnh pháp chọn người có khả năng nhận lãnh, vì thế cần có hai người. Lời sớ: Thượng tọa lớn tuổi (già cả) bỉnh ngự là khó. Y cứ văn răn dè đồng với khi Phật còn tại thế. Nay thì tuổi nhỏ tụng giới, Thượng tọa làm Yết-ma đều trái nhau. Nếu bậc cao tọa đó thông suốt phải trái, y luật sư bỉnh bạch ắt có nghi, cần phải lua chọn người có khả năng kham nhận, không hẳn phải là Thượng tọa. Thuyết giới ngăn người đã nghe, tướng ngạo mạn rất nhiều, vả lại lệ bảy lớp đều phạm nghiêm hình thế mà còn có người không sợ. Luật sư Trí Thủ mỗi khi sắp thuyết giới quỳ chắp tay, Pháp sư Ngộ Ấn song tự cảm, đều đến hết. Tăng truyện chép: Kẻ hạ ngu ngồi chung, cùng nghe còn không khỏi tội, do đâu mà được lợi ích. Xin nói rõ lời răn của Phật, còn không tự phản tónh được điều sai, Thượng tọa bỏ quên. Nếu nói đổi ngày, nghĩa là trong ba ngày. Nói làm pháp khác, nói nghi thuyết giới, còn nói ba ngày chỗ làm khác nhau. Dưới dẫn luật Tứ Phần để nêu các bộ khác. Luật chép: Các Tỳ-kheo muốn nói pháp bằng giọng ca vịnh, Đức Phật cho phép, sau có một Tỳ-kheo cao giọng ca để nói pháp, Đức Phật nghe rồi bảo rằng: Ông chớ nói pháp như vậy, cho đến cao giọng ca vịnh nói pháp có năm lỗi: 1/ Tự mình sinh tâm mê đắm âm thanh. 2/ Khiến cho người khác nghe sinh tâm mê đắm âm thanh. 3/ Khiến cho người nghe có thói quen học theo. 4/ Người thế tục sinh tâm kiêu mạn không cung kính. 5/ Chỗ thanh tịnh tư duy nghe giọng ca nầy chỉ duyên âm thanh dễ làm loạn việc ngồi thiền. Vì thế bổn tông cũng không cho phép. Nay không dám phế bỏ ý chỉ của giáo pháp. Tức nghĩa Luật sư thứ tư trong phần dụng tựa. (Thời nay tụng lồng âm thanh, câu văn không rõ, người không thích nghe, lại sinh tâm khinh thường, chứ đâu phải chỉ có năm lỗi. Y theo văn nầy tự nói là thiện thì không có lỗi sai, tùy dùng cả hai đều được). Trong phần ba, trước ngăn người biết pháp cúng dường, nói dạy tụng học trước. Trong đầu ba chính nói nghi nêu bày chung. Trước nói chung, dùng bộ khác, sau dẫn luật Ngũ Phần, luật Tăng-kỳ và kinh A-hàm, Hoa Nghiêm và nói y cứ bổn xưa, theo đây lẽ ra có nhiều bổn. Hai thầy lớn nhất làm giềng mối, tức các kệ không nêu kinh luật nầy, nhưng sự còn phức tạp sai sót, chẳng phải hoàn toàn nên nói: Khác thì đồng. Ba câu trong phần đầu, trước nói nơi chốn, sắp xếp giường tòa. Hai câu đầu là phán định, nói cho phép là y cứ theo Trung quốc, sau nêu bày cõi nước khác nhau. Trung quốc dùng giường: như giới mở trải v.v… Loại tức lệ, tiếp ở dưới mà đọc. Cổ: Ở đây là nói thời Tây Tấn, Ngũ phẩm về trước và quan trọng một châu được ngồi. Đại phu là Thượng đại phu, trung hạ đại phu cũng không được. Đều ngồi dưới đất: Lễ xưa đều như vậy. Đến nay ở Bắc Tấn vẫn còn. Cho đến đời Tấn, Thất-la nổi loạn đến Đông Tấn hạn chế không cho phép nên chung cả thứ dân (dân thường). Nay ba sau bình phẩm không thể được. Hai câu đầu chỉ thời gian dùng, sau cũng cho phép, nhưng rồi hạ đoạt. Nói không tiện; hoặc do ngồi đứng trái nhau khó biết, hoặc quỳ nhận thẻ, sự cần phải lớn nhỏ. Nay phần nhiều quỳ trên giường. Hoàn toàn không phải là nghi cung kính, thường thấy các ngu tăng nghiêng mình đứng dựa, chống cao một đầu gối nhận thẻ, việc nầy trái với quy tắc, hổ thẹn đến như vậy. Vì thế, Trong Tỳ-kheo-ni Sao nói vào giảng đường rồi liền khiển trách lễ Phật trên giường, cũng là ý này. Tùy có dặn dò suy tính, nhưng trong phải giải thích tướng. Chỗ đất thấp, ẩm ướt cho để giường làm lễ nhưng chỉ cao tám tấc, chỗ khác thì không cho. Duyên này không thể nhất định, vì thế cho tùy chỗ. Trong phần chúng đầy đủ y theo trước: Tức trong luật Tăng-kỳ, Tứ Phần. Trong phần cáo bạch cho phép lược pháp khiến cho bạch vào thời tiểu thực. Thượng tọa bạch: Văn luật chính chế, nay đương thời thực hành khiến cho phép dùng. thời nay Duy-na bạch rồi, Thượng tọa y cứ trong phần lược pháp, văn lại thêm phần khuyến khích, cũng có thể cho phép thực hành. Nhưng lời sách tấn chúng phải tùy cơ kích động thời tình, không cần phải cẩn trọng. Giềng mối của tăng: Trước nói mỗi sáng nói, khiến cho biết xem xét tăng chúng. Đích thân vị Thượng tọa xem xét việc làm v.v… Trong phần nhóm tăng, khoa trước nói nhóm hết, không hạn cuộc v.v… tức lớn nhỏ đồng thực hành pháp. Sau y cứ hai chỗ tập trung tức pháp riêng. Cả hai nói tướng kia khiến cho thông hiểu, cũng như nói xem xét. Khoa kế, trước nói chỗ tập trung: Tức ở ngoài giảng đường đi đứng nên nói bài kệ, tức đại chúng đồng tiếng nói đó. Như chép: người đánh chuông nói đều đã trình bày ở trước, đâu đợi tập trung đến trước giảng đường mới cho nói ư? Lại trong Nghiệp Sớ chép: Luật cho tịnh nhân cựu trụ đánh: Đây gọi là tăng pháp chế, chẳng phải là cụ đạo làm, ắt không phải hai người, sai tịnh nhân nói lợi ích. Lại trong văn nói nghe kệ chuông, đâu có thể tính? (có người cầm. Duyên khởi là A-nan khi đánh tiếng chuông. Nói kệ rằng: Đây là người đánh nói, lại đổi chữ Văn thành chữ Manh). Phá hạ, từ trong các kệ nương nhau không phải, người tuy tụng nhưng phần nhiều không rõ lý văn, lược soạn khoa giải thích. Hai kệ nghe chuông, kệ đầu nói sự dùng, kệ sau nói thời gian. Trong kệ đầu, nửa trước nói công, nửa sau hiển bày dụng. Bốn ma quá mạnh có thể chướng thiện đạo, vì thế nói có sức. Dục xâm hại nhau nên nói như oán. Kiết là kiến hoặc tư hoặc trong ba cõi. Tận vô dư là cực quả vô học. Câu trên nói nhân cầu, câu dưới nói quả chứng. Trọng kệ sau, nửa trước nói ý sở lập, nửa sau nói nguyện năng lập. Người nghe pháp gồm cả Thánh phàm. Nhóm họp là dụ như đi đến. Vào trong giảng đường, trước nêu bày nghi thức, có ba: 1- Lễ kính Nói kệ Ngồi. Trong kệ, nửa bài trước nói tự thực hành thành tựu, một câu kế nói chúng thực hành không trái, câu cuối nói đủ hai chúng mới thành pháp sự. Trong tự thực hành, câu trên thọ lễ không thiếu. Câu tùy hành không phạm (chữ đại chúng có bổn ghi thanh tịnh. Như kế răn dạy sám hối, như trên tức trong phần tạp pháp). Cực giáo: Nếu lấy chỗ sâu xa của sự ngăn cấm thì chỉ văn luật, nếu y cứ chỗ chung cực của giáo lý thì chỉ cho Niết-bàn. Luật kia chép: Ta không diệt độ, nửa tháng đến một lần dặn dò. Đây là lời dặn dò dạy bảo của Đức Phật. Nói căn bổn: Các pháp sự khác đều là những điều phụ. Có người đối với đây vọng lập kệ hoan hỷ như nói biểu tịnh ở bài kệ trước đã đầy đủ, nhọc gì phải nói lại. Hoặc trình bày lỗi có phạm, tự phải phát lồ sám hối, đâu chỉ xin tăng vui mừng mà thôi. Tập tục sâu dầy can ngăn không bỏ, không biết cải thiện, thật chưa thấy có người đó. Thứ năm và thứ hai ở trước xen nhau do trước y cứ vào dự biện. Nay, chúng tập trung mới dẫn vào giảng đường, hữu đồng trì hiến), mới hợp với khoa kế, thì không trùng lặp. Trong đây không phải như vậy phần nhiều là dự an, nên khó thông hiểu. Sau lại nói rõ để vật ngồi dưới đất, đây là chiếu để chúng ngồi. Trong tăng thiết lập là nói sau an. Sáu là nói về hành sự: Trong quán lạc, trước nói xuất chúng. Năm người: Nay thì một người Duy-na làm thẻ xướng cáo, bốn người cùng giúp việc nước nóng, v.v… Đủ oai nghi, nghĩa là khoan thai kính cẩn, không cần phải thiết lễ (thời nầy xuất chúng đều lễ ba lạy trở lại tòa ngồi rồi đến lấy vật, đều không phải là nghi chính). Duy-na tay sạch cầm: Thượng tọa rửa tay y theo văn, Duy-na làm đó. Nay phần nhiều tuổi nhõ nghĩa cũng không rõ ràng. Thượng tọa rửa thẻ, đều nói kệ nghĩa là cả chúng đồng âm, nay do Duy-na xướng việc thay đổi. Trong bài kệ, nửa trước Thánh phàm hòa hợp, nói chỗ tập trung, nửa sau pháp sự lợi sinh chỉ bày việc làm. Duy-na tự rửa: Trong Tỳ-kheo Ni-sao nói Thời nay phần nhiều Thượng tọa rửa thẻ, ở đây không phải là nghi cung kính. Y cứ theo lý thì tuổi nhỏ thay thế rửa không tội, nay cho phép dùng. Trong phần hành thủy, khiến nhờ tuổi nhỏ: Nay tìm hai người lo việc nước nóng này, hai người lo việc giặt khăn sạch. Văn kệ, câu trên khen công đức của nước. Thanh tịnh Không hôi dơ 3- Nhẹ Mát Mềm mại Ngon ngọt Uống vào được điều hòa. 8- Uống vào không bị bịnh. Câu kế hiển bày sự dùng. Bên ngoài thì đức của nước dùng để rửa sạch nhơ uế, bên trong thì nước để rửa sạch tầm trần (tâm dơ uế). Câu ba tự mình thực hành, câu cuối giáo hóa người khác đồng như mình. Quán công ngoạn phản, trong phần giặt khăn hai tay là nói thuận tiện và dưới nhân đổ nước nóng vào khăn, đồng với pháp trên. Trong bài kệ nước nóng: Câu đầu nói sự dụng, đã nhờ sự nêu pháp để lập lời thệ. Hai câu kế nói quả đức lâu xa, câu trên nói pháp thân gồm đủ hai điều lý và sự, một câu hai đức có thể hiểu, câu cuối là nhiếp sinh. Đồng thể là hai lợi tự, tha. Hội tức chứng. Pháp giới khác nhau đồng quy về một thể nên gọi là Dung. Lại giải: Nước sạch (tịnh thủy) tiêu biểu cho dứt ác, lại làm nhân hạnh; nước thơm tiêu biểu cho tu thiện, nêu cầu quả đức, nhân trước quả sau đều gồm lợi sinh. Chỉ nói kệ: Đời có người làm bậy nên đặc biệt chọn lựa. Trong phần khiển trách sai: do người xưa khi tụng kinh pháp phải dùng nước nóng thơm súc miệng, đời sau truyền lầm, bèn đến ngày bố- tát, có người thường dùng. Tỳ-kheo-ni Sao nói: Khi lấy nước nóng thơm không được súc miệng nhổ xuống đất, thường thấy nên đánh đấu. Trong phần xướng pháp tạ thanh chỉ thiên tạp hạnh. Kia nói về thủ phóng đều phải ăn khớp nhau không được trùng âm, v.v… Trong phần chính thức nói, đầu tiên là văn hỏi giám hộ: y theo phần bổn tông ở trước, trong văn tuổi nhỏ giải thích đầy đủ, tuy trước đã sai phải bạch chúng, chú thích thiên hộ nói thông trước sau. Thời nay phần nhiều gọi thâu trù là sai, có bộ san bổ ghi rườm rà này. Lời chú rằng: Văn trên đầy đủ: thông câu thâu hộ. Thứ hai gọi tập ghi là y theo văn luật xem xét. Trong phần khiển trách khác, khoa đầu trước nêu xưa, giải thích hạn cuộc, y cứ chỉ bày nầy giải chung, văn nói rằng hiền thánh lại gồm cả phàm phu. Khoa kế trước nêu xưa là sai. Trước thêm: nghĩa là trong phần triệu tập ở trước cũng như trước nói Đại đức tăng xin lắng nghe. Bộ Tứ Phần y theo bổn tông mà bỏ bớt. Thuyết giới tự xướng tức vấn hòa chọn chúng. Y cứ bộ khác có thể còn. Ba luật, Ngũ Phần, Thập Tụng đều đồng, vì thế đã xướng rồi, nên biết trước đã sai khiến. Khoa sau, trước lựa chọn để nêu bày lý, có hai: Một nói không hợp với lời xướng trước, hoặc nói rằng không đúng phép tắc. Trước nói y theo văn luật răn dạy. Lấy trong San bổ là các văn này. Trong phần bạch chúng, trước là hai lần bạch trước, lại xướng chưa đầy đủ: Một là khiến cho biết pháp xưa, hai là gồm giúp tông khác, chính là nêu bày cho đến làm. Không có các nạn là tám nạn duyên khác. Xướng tên rồi: khiến cho chúng biết. Tức trong luật Tăng- kỳ chép: Ai nêu hành trù, tăng phải xin thọ thẻ. Nói đúng pháp: Trước, trong luật Tăng-kỳ khiến cởi giày dép vén y bày vai phải, v.v… Cho nên dặn thọ người tức dữ dục là vì người khác truyền dục, phải nhận thẻ thế, nay người không biết, phần nhiều không làm. Trong phần Đại tăng trù, khoa đầu có ba: 1- Đầy đủ oai nghi. Nói bài kệ. Nói lên sự cung kính. [Hàng 20, ô1 trang 2 3 5) Trong bài kệ, nửa trước là khen kia khó được, nửa sau là mừng kia đã được. Câu đầu tức ba đức. Kim cương dụ cho pháp thân vô ngại, tức Bát-nhã, cũng tức là nương sự để nêu pháp ít có; Câu kế tức hai nạn. Đắc thân ngộ sơ: Ngộ là không hẳn đều được; đắc là phải do ngộ, nên cả hai đều nói. Như quả nay là khắc phục làm dụ. Trong Tịnh Tâm Quán chép rằng: Trong muôn loài, thân người là khó được. Như đề nghĩa là kinh nói nay được thân người là khó, như rùa mà gặp bộng cây nổi. Trong nửa bài kệ kế, câu trên nói đầu đội là thân, vui mừng là ý, miệng nói câu kệ, ba nghiệp đầy đủ, tức tự lợi, câu sau nhiếp sinh. Kệ hoàn thẻ, câu đầu thọ tùy không hủy có thể cầm thẻ, câu kế nạp thẻ vào trở lại chọn thể tịnh. Vững chắc đối thọ tức nêu bày trì giới, hỷ xả đối hoàn tức bố thí. Lời sớ chép: Không trộm cắp tức bố thí tài, không sát sinh tức bố thí vô úy, hoặc có thể bốn tâm vô lượng lược nêu hai tân. Trong từ bi, nghĩa thấy ở câu sau. Trong không phục tòa đều phải quỳ đến kệ truyền hương rồi mới ngồi nghe giới. Biếng nhác giải đãi bị đọa ắt khó nương. Vả lại, y cứ vào lúc nhận thẻ nhất định phải vâng theo pháp để khích lệ mình thực hành. Trong phần nạp thẻ y cứ văn Thượng tọa thường biết, nay phần nhiều thâu với để báo số, lý cũng chung được. Nay Thượng tọa kiểm số, hoàn toàn không thể nương vào lời khác. Trong Sa-di trù chung bốn lời xướng trước và phải nói ba lần. Đời nay, một lần xướng rồi sau ba lần xướng tức ba lần nói. Đây chẳng phải là chính pháp mà xuất xứ từ kẻ ngu tình. Hoặc sợ kéo dài thời gian cho phép các lần xướng sau có thể một lần nói (xướng). Đây là pháp cáo (bạch) chúng không giống như pháp Yết-ma ba lần (bạch tứ Yết-ma) và Yết-ma một lần (bạch nhị Yết-ma) thường định, đơn bạch cũng không hại gì. Vì sợ có đại tăng truyền dục Sa-di nên phải bảo hỏi. Đây nghĩa là giới không đồng loại nên khai đó mà thôi. Trong phần sáu lấy số, văn đầu rất dễ hiểu, khoa kế xướng pháp y theo bộ Ngũ Phần ở trước. Trước bảo nhân số thượng hạ, kế nói việc làm, Quốc vương, cha mẹ, sư tăng, đàn việt là bốn ân. Tâm nương trong sắc gọi là hàm thức, gồm thâu chúng sinh hiện tượng trong sáu đường. Đều tụng kệ nói lên hạnh thanh tịnh. Trong kinh là tên kinh tuy thông, nay nếu xướng thời nghi thì gọi là trong luật. Luật Tăng-kỳ, nói nhân Điều-đạt phá tăng tự thuyết giới, Đức Như lai nghe liền nói kệ này, bảo A-nan rằng chúng phi pháp đã bố-tát, nửa bài kệ trước Đức Phật ngăn chế. Câu trên tu thực hành, câu dưới chúng pháp. Nửa bài kệ sau bày hợp số, ứng dụng đúng, hoặc có thể bỏ đi, tiểu chúng riêng hành pháp Sa-di tập trung tự làm thẻ, đã sắp giao trong tăng, đều hợp xướng. Trong phần bảy thỉnh sư, trước nói Phật dạy, tức văn Ngũ Phần ở trước, khoa kế, phần đầu thứ ba thỉnh Thượng tọa. Trước nói Duy-na thỉnh, sau Thượng tọa đáp, có thể hay không thể hai lần đáp thư trong văn. Xuất xứ từ “Từ lâm cơ tài độ”. Nay phần nhiều tụng là tuổi nhỏ mạnh khỏe cũng xưng già bệnh, thật là không nên. Tức trở xuống lần thứ hai thỉnh thứ tọa, nếu từ chối thì lần thứ ba có thể sai: Trước dự nói lại nghi, đây là thường viết. Trong phần ba, trước nói đến báo, kế chỉ bày hai tòa, khác thì không cần hỏi. Theo trong Tăng-kỳ, trước nói hoặc Thượng tọa hoặc thứ tọa nên tụng, v.v… Trong phần bốn, cúi đầu tức là nói cúi đầu sát đất. Hòa Nam Tây Ngữ nêu ra cốt yếu luật nghi dịch là cung kính. Trong phần cung kính, văn trước không cao tòa, chỗ giới sư ngồi. Thánh tăng là người truyền lời dạy của Đức Phật, để Thánh phàm đồng bẩm thọ theo, cũng dự như người sứ nhân sắc lệnh của vua, dù trăm quan tuy quý nhưng ai dám khinh? Khoa kế, gồm nêu sự nghi. Tiểu là cúng dường, vả lại y cứ vào xuất gia nên đây nêu trước. Nếu nói về hành sự như sau sẽ nói rõ. Nếu giải thích riêng tiếng Phạm, trước dẫn chỗ y cứ, nêu danh nghĩa. Hai chữ như thử là chỉ tiếng Phạm, hoặc dư chữ như không rõ chỗ não. Chữ Bệ cả hai đều dịch tên kia, giải thích riêng nghĩa đoạn, dùng ý để dứt duyên bên ngoài, tức y cứ nội tâm thì có khác nhau. Trong phần ba, trước sái tán thuận sau sái tán nghịch. Khước hình tức quay lại (lùi lại). Sau nêu ra chữ câu hợp ở phần đã nói trước. Đức Phật ở tại điện Phổ Quang Minh giảng kinh đó, kệ khen Bồ-tát, nửa trước chỉ sự dụng, nửa sau nêu bày việc đã làm. Trong phần bốn, trước nêu chính nghi. Ba là niệm hương cúng dường Tam bảo. Hướng về Thượng tọa là tiêu biểu; sau nói kệ. Trước Duy-na xướng, nay chỉ cho điều nêu ra. Chỉ quảng: Văn nầy đã mất không thể tìm được, trở xuống dẫn kệ, nửa trên nói người cúng dường (năng cúng), nửa dưới nói người được cúng dường (sở cung). Trong nửa trên, câu trước nương việc dâng hương đó tức nêu pháp cúng dường. Tuệ hương và tri kiến giải thoát gồm thâu, đây là năm phần đầy đủ (hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến). Thứ bảy nói: Câu không thể vọng thân (do tuệ được giải thoát, do giải thoát có tri kiến, nêu giữa tức gần trước sau). Trong phần được cúng dường (sở cúng), câu trước nói thượng cầu, câu sau nói hạ hóa. Niết-bàn tức vắng lặng, là quả đức. Duy-na nói phục vị có thể thấy. Trong phần hỏi duyên, văn trước nói y cứ trên, tức phần tạp pháp ở trước, hoặc khiến cho cung kính hoặc khiến cho nghe thẳng, hoặc không lầm lộn, v.v… (có bổn y cứ thượng hạ thêm chữ Pháp), hoặc có thể chỉ tựa giới bổn ở trước; văn sau chỉ cho pháp khác nhau. Kia nói các pháp lễ tăng quỳ, Thượng tọa răn dạy: đây là nói chọn chúng. Chẳng những Sa-di, hoặc ni, ba chúng tục só chiêm lễ đều phải khiển xuất. Và mười ba việc, ba cử, hai diệt có phạm, v.v… nói về ba căn. Quý cũng cầu giảng luyện, hoặc khiến người không biết pháp phát lồ sám hối. Chỉ sai Sa-di, cư só tùng thính tạp uế, cùng nghe pháp luật sai trái rất khinh dễ. Trong phần hai, nếu có nói thì đáp rằng thuyết dục và thanh tịnh. Trong phần ba lời triệu hỏi. Nếu y cứ giới bổn xưa nói rằng chúng Tỳ- kheo-ni sai người nào đến? (2 3 6) Nay y cứ giới bổn xưa của Quang sư mà hỏi. Chữ thùy cũng tức gọi ni chúng. Trong phần lược pháp, khoa đầu pháp nghi có thể hiểu, khoa kế ni chúng quỳ, tăng thay nhau quỳ. Như Tam Thiên oai nghi, kinh Viên Giác, v.v… đều nói quỳ thẳng, há chỉ có ni ư? (Xưa nói quỳ thẳng, tiêu biểu cho ni là lầm). Nói biệt đức là dạy ni phải có mười tính chất tốt. 1- Có hạnh trì giới. Học rộng. Tụng hai bộ giới bổn lanh lợi. 4- Quyết đoán vô ngại 5- Khéo léo nói pháp. 6- Dòng họ xuất gia. Dung mạo khôi ngô. Có thể vì ni chúng nói pháp, khiến ni vui mừng. Không được đầu Phật xuất gia, đắp ba y mà phạm tội trọng. 1 0- Hai mươi hạ hoặc hơn. (Thứ 8, 10 tuy hạn cuộc dạy ni gọi là đức riêng, còn lại gọi là đức chung). Trong phần ba, trước lãnh thọ lời dặn dò, lại bạch Thượng tọa chính nêu ra pháp đáp. Lời sớ chép: Do thấy người không học thức tuổi cao tòa thủ, không phép tắc, không sai ni, lại không đối đáp [hàng 11, ô1 236] người học thức đều hổ thẹn nên dẫn đó, trước khen ngợi đại chúng. Hà thí là nói đức có dư, trở xuống khiến truyền lược giáo, trong lời chú giải, đầu là chỉ bày trước, còn lại là chỉ sau. Tức trong thiên của ni lại dẫn văn các bộ Thiện Kiến, Thập Tụng, Tăng-kỳ, v.v… tìm đó sẽ thấy. Trong phần pháp nói rộng thời gian ít có: Trong thiên của ni nói do đức rộng khó đầy đủ. Trong sự tông, khoa trước văn chú giải khiển trách Yết-ma xưa. Nói thông dụng là hai tên không khác nên không rõ. Kia, đây là tiếng Hoa tiếng Phạm đều nêu, cho nên trong thiên Yết-ma nói, không được khiển trách sai, trong văn sẽ thấy. Khoa kế, trước là lời văn dạy, chỉ bày khuyên quy y. Luật nghi tức chỉ cho lời răn dạy ở trên nên sau chỉ chứng. Vân vân: Là quyển 34, do khi bố-tát A-nan không đến, sau đến rồi liền bỏ chúng đi, mọi người đều không biết. Do đó, bạch Đức Phật chế pháp Thượng tọa. Nên biết ngày 14, 15 bố-tát hoặc tối hoặc sáng, hoặc phải biết chỗ, hoặc ở trong thất, giảng đường, rừng. Lại phải biết tụng năm thiên giới cho đến bốn việc và bài kệ, còn những điều khác tăng thường nghe. Nên sai người xướng thời, xứ trước nên sai người quét dọn, ai nêu chú nguyên hành trù (ở đây chế biết thuyết giới). Lại nên biết khi thuyết giới, đàn việt đến thì phải nói pháp cho họ nghe, cùng nhau an ủi thăm hỏi (đây chế biết thuyết giới), cho đến Thượng tọa thứ hai cũng vậy. Rộng ghi trong văn đó. Mười thuyết đã xong, khoa đầu lại đánh chuông vì không có tiểu chúng, cũng không cần tiểu chúng. Hoặc nói tiếng Phạm, tức hai câu kệ sau ở cuối bài tựa giới. Thần tiên có năm thần thông là người làm ra chú thuật (đây là nêu thế gian để dụ). Vì kia hổ thẹn là nhiếp các người không biết hổ thẹn (thiện nhiếp ác). Như lai lập giới cấm nửa tháng tụng một lần (hợp với dụ trên) đã nói lợi ích của giới. Cúi đầu lễ Chư Phật (là hồi hướng quy kính). Tỳ-kheo-ni Sao: Nếu không hiểu, cũng được nói lý do, vì việc dừng nghỉ ở trước. Kia trở xuống nhân chỉ bày lời chúc tụng ở trước, tức hai kệ đầu trong bài tựa. Cúi đầu lễ Chư Phật và pháp, Tỳ-kheo tăng (quy kính Tam bảo). Nay nói pháp Tỳ-ni, khiến chính pháp còn mãi (nói rõ bổn ý của câu quy kính trên). Ưu-ba-ly là Thượng thủ và các thân chứng khác (nêu chúng kiết tập để làm chứng tín). Nay nói yếu nghĩa giới, các hiền cùng chung nghe (nêu việc răn dạy chúng). Phần nhiều thấy văn tụng sai lầm. Lại không hiểu nghĩa lược làm chú giải. Luật chế không được chúc tụng một nửa. Nay hoặc chỉ tụng Ưu-ba-ly trở xuống một câu, đây chính là trái với pháp luật. Tuy không phải là tai hại lớn nhưng đâu khỏi không biết (nhưng cũng cần phải biết). Trong phần hai. Ba câu trên trong phần ba vui thích gặp Tam bảo, câu sau cứu khổ chúng sinh. Phần bốn đều nói khoan khoái tức là vui. Gặp Phật rất khó nên nói bậc nhất. Được nghe chính pháp, gần thì ngăn được ba đường, xa thì rõ được hai món sinh tử, nên nói an ổn, sự hòa vô tranh: Gồm lý bình đẳng nên nói vắng lặng. Ba câu trên là tự mình vui, một câu dưới là người khác vui, tức là hai lợi. Chữ an vui trong Tỳ-kheo-ni Sao là giải thoát, thêm vào khiến cho lễ tán. Tỳ-kheo-ni Sao lại thêm hổ thẹn, nay phải y theo mà dùng. Từ trên đến đây mười hành sự đều y cử theo chính văn. Huống chi kinh Phật nghiên cứu rõ ràng, nay các luật tự sửa đổi, chấp sai cho là đúng, đúng cho là sai. Đây là do không tìm xét kỹ càng, lại từ vô minh thức hoặc phần nhiều khinh thường phế bỏ không thực hành. Dầu có thực hành nhưng việc làm đó như thời khóa nhàm chán. Duyên trần đáng bỏ lại không nản mà còn hăm hở, chính pháp đáng tôn kính thì lại sinh tâm lơ là. Dây nghiệp càng chắc thì biển khổ càng rộng, táng mất tính linh thiêng, thật đáng thương xót. Trong tạp tưởng trước nêu hành sự, lại y cứ một đường, việc khởi nắm chắc thời cơ cần gì thuật hết. Lược thì thiếu, thêm vào thì nhiều. Đây là tổng quát các khoa khác nhau ở sau. Ý thuật tắt trong văn sẽ thấy. Trong phần cáo tịnh chỉ dựa theo ba câu hỏi sau trong tựa văn xuôi để làm phần chừng. Đầu là trước hỏi không đáp, sau là tự hỏi. Trở xuống nói: Hỏi sau phải đáp. Lại trong phần ba, trước ngăn cản thuyết giới, giới sử tự dừng, nghĩa là người biết pháp không cản phải quở trách. nghĩa là người mê giáo đợi nói cáo tịnh, đợi ngồi, tự ngữ chung trước sau. Y cứ theo nghĩa thì nối tiếp phần trên là tốt, y cứ vào câu thì mốt dưới là thuận tiện rõ ràng. Một người bảo: Vì sợ trở ngại tăng. Nếu có trở xuống là nói phát lộ. Theo thứ lớp nói: Tiếp phần chỉ xứ ở trước. Cho phép ở đây không nói hòa lại. Do trình bày tịnh nhân ngồi tòa thân tướng đã bày. Thời nay có thực hành lược hòa, chưa thấy nêu ra. Trong khoa kế phần nhiều giống nhau. Cần nói lại: Chế chủ theo khách, nếu ít thì không cần, hoặc ra ngoài giới nói, hoặc đến chùa khác, Chế khách theo chủ, đây nếu nói rồi thì thôi, chưa thì tùy người đến bảo thanh tịnh rồi cùng nghe, không nhọc gì phải nói giới lại (khoa trước nói khách theo chủ là sai). Như tên khác pháp trị tội Đột-cát-la. Trong phần ba đối phạm không nói, đây là ngăn giới sử. Hoặc khiến cho phát lộ sám hối hoặc gia trị đuổi đi. Việc làm phải nắm chắc thời cơ. Như có Tỳ-kheo phạm tội trộm cắp, Đức Phật không thuyết giới, song Phật ban đầu tự nói chúng thanh tịnh, quyết không có người che giấu. Nếu có thì sẽ bị năm trăm vị thần Kim cương cầm chày đập vào đầu người đó. Giao đệ tử thì không tịnh uế, cho nên biết phải y cứ ba căn không lạm, có thể đáp, tức đồng với luật luận. Trong phần bốn gồm các phần đã nêu như nói là: Chùa nào đó, ni chúng ở chùa đó hòa hợp, tăng sai Tỳ-kheo-ni nào đó, sau tổng kết mỗi nửa tháng. Trong phần năm nói người nầy tức nói người gần tòa cao. bỏ chữ linh, nghĩa là ngôn giáo. Y theo đây, trước phải dặn dò một người, không ngăn lỗi, nay phạm nhiều lỗi nầy, cần phải cẩn thận. Trong phần sáu, văn trước thuyết giới bỏn chế. Cuối cùng không thể được mới tụng kinh pháp. Lời sớ chép: Sở dó thứ lớp là vì giới chế, phụ tướng thiết yếu dễ trì. Kinh thọ tâm thức nương gá hư không khó nhiếp nên tùy thời mà chế. Khinh trọng không thứ lớp đều đến mục đích kia. Trong văn ba vị: Trước là tụng kinh pháp, lời thông suốt không trúc trắc, nhưng phải có hạnh môn nền nếp răn dạy những điều thiết yếu, phù hợp với thực dụng ngày nay nên nói rằng những lời răn dạy khác. Nay trong tạng lược lời răn dạy cũng có thể nương lời tụng (xưa nói ba ngàn oai nghi: Văn rườm sự toái, do đâu có thể tụng. Lại nói quyển sau khiến tụng kinh Thắng=man để rõ thường thời thọ trì, chẳng phải khi thuyết giới mới tụng). Như hoàn toàn thứ lớp khiến nói kệ tức lược lời dạy của ngài Ca-diếp. Lời chú giải chỉ bày giải thích kinh A-hàm, quyển hạ dẫn rằng: câu trên giới đầy đủ hạnh thanh bạch, câu kế tâm ý thanh tịnh, câu ba trừ tà điên đảo, câu cuối diệt tưởng ngu hoặc. Như phần sau không lược lời răn dạy, đây nói ý luật chưa chắc ngu muội mà đến nỗi như vậy. Muốn rõ bổn nhiếp tăng trụ trì, cốt yếu không phế bỏ nên phương tiện chỉ bày. Khoa kế, trước hiển bày lợi ích sâu xa. Phật dặn dò tức chế pháp sau khiển trách người đời không thực hành. Trước chỉ bày không nhiễm, sau nêu lỗi thức ô nhiễm là nguồn gốc của sự khinh khi chính pháp. Do nhiễm đời không nghe chính pháp, đã mờ tối. Huống chi khởi tâm kh- inh khi lại vời lấy tội lỗi, muốn cho trở lại bổn tính có thể được chăng? Đối với chưa từng nếm mùi vị, lại chứa điều ác càng sâu, thì cách đạo càng xa. Đại pháp là nói chung giáo pháp của Phật. Xuất gia không có lợi ích: Vì trái với bổn ý. Miệng trở xuống là quở trách lời nói và việc trái nhau, thầy trò dứt nghĩa, theo ngoại đạo cũng chẳng nên hay sao? Trong Cao tăng Truyện chép: Đời Tùy, ở Đông Châu, Pháp sư Tăng Vân ở chùa Bảo Minh, vào ngày 15 tháng 4 đến lúc thuyết giới bèn bạch chúng rằng: Giới vốn ngăn ngừa điều ác, mọi người đều tụng được, nhọc gì chúng phải thường nghe, hãy nhờ một vị tăng nói nghĩa qua loa, sau sinh khai ngộ. Đang lúc đó chúng không dám chống lại, đến cuối hạ bỏ việc thuyết giới. Đến rằm tháng 7 lên tòa, bỗng không thấy Pháp sư trong đám đông đó, đại chúng vội chạy đi khắp nơi tìm kiếm, liền thấy Pháp sư ở trong gò mả bên cạnh chùa chứng ba dặm, khắp thân máu chảy như bị dao cắt, hỏi lý do vì sao như vậy, Pháp sư nói rằng: Có một đại trượng phu tay cầm dao dài ba thước, vẻ mặt giận dữ, biến thành làm Bồ-tát, cầm dao chặt thân hình đau đớn không chịu nổi. Do đó trở về chùa dốc lòng sám hối. Trải qua mười năm thuyết giới Bồ-tát, đến lúc qua đời có mùi thơm lạ thoảng xông, thần sắc Pháp sư không thay đổi, vui vẻ mà thị tịch. Đây chính là bậc Thượng trí, vì thế động đến chốn u minh quở trách như vậy. Thời nay kẻ hạ ngu không hiểu được sự linh nghiệm này. Dầu khiến thường bỏ bố-tát mà vẫn tự an nhiên. Thật đời pháp diệt đáng than thở. Trong phần bảy, trước giảng nói thiên đầu. Tăng trở xuống là chỉ bày chung các tụ giới, nếu y cứ về nghe giới thông tắc thì sáu tụ đều đồng. Nếu luật biệt chúng thành, không thành thì cội gốc, nhánh nhóc hai loại khác nhau. Như luật hiển bày tức như giới bổn có phạm thì sám hối, không phạm thì yên lặng. Trong phần tám, hai đầu nói đối thú sám hối. Nói đối chúng nghĩa là đối trước chúng làm pháp sám hối. Trong luật nói: Phải đến trước một Tỳ-kheo thanh tịnh đầy đủ oai nghi nói tên tội mình đã phạm, bạch rằng: Bạch Đại đức nhớ nghó! Tôi là Tỳ-kheo… phạm tội… nay hướng về Đại đức phát lộ sám hối. Sau đó đúng như pháp mà sám hối (nói ba lần khi thuyết giới. Nhớ phải dùng pháp gì, lúc khác y như pháp sám hối). Lại trong luật, Tỳ-kheo đối với tội đã phạm có nghi, lại vì thuyết giới gấp, Đức Phật cho nên phát lồ rồi mới được nghe giới, cũng đối trước một vị Tỳ-kheo nói: Đại đức nhớ nghó tôi là Tỳ-kheo…, đối với tội đã phạm sinh nghi, nay đối trước Đại đức phát lộ, sau không còn nghi, đúng như pháp mà sám hối (nói ba lần, y theo lời chú thích trong Yết-ma). Sợ trở xuống hai là nói tâm niệm. Lại trong phần hai, trước nói biết tội pháp. Trong luật là ở trên tòa nhớ nghó bổn tội, nếu hướng về chỗ gần bên sợ làm động chúng, luật cho phép tâm niệm phát lộ nhưng không nêu văn lời sao lập nghĩa. Y theo tựa Yết-ma thuyết giới thêm một câu: Vì sợ làm động chúng, cũng phải nói ba lần. Nhược trở xuống nói pháp nghi tội. Nên nói rằng: Con v.v… đối với tội phạm, v.v…. Sinh nghi, còn những lời khác thì đồng. Trong phần bốn lược pháp, nêu: Tạp là y cứ theo lược thì thu- ần, nhưng duyên và pháp đều có phần nhiều khác, nên nói tạp. Trong duyên bổn tông tám muôn và duyên khác nghĩa là nếu y cứ hai tên duyên và nạn không hạn cuộc, thì nay phải lựa chọn để nêu, nặng thì gọi nạn, nhẹ thì gọi duyên. Nạn vua: Trong lời sớ nói rằng hoặc tướng só, binh lính giữ chùa. Người bệnh trở xuống trong duyên xen nhau, tạng khinh nên chia ra, phi nhân tức quỷ thần làm não, trùng độc gọi chung là súc sinh có thể gây ra chết người, nhân nạn dẫn trong luận giải thích, đây y cứ người thường không đồng như giặc. Các duyên khác gồm thâu không hạn cuộc, nên nói duyên khác vả lại tám tướng, đều dùng chữ nhược, hoặc để lựa đó. Bốn tướng trước chung cho ngày đêm, bốn thứ sau chỉ hạn cuộc đêm. Hạ trở xuống nói chưa xuất là chỉ kết bốn sau. Nên lược nói là kết chung tám thứ trước. Trong bộ khác, khoa đầu có ba. Luật Thập Tụng y cứ duyên đạo hành, sau chế khai một rộng, ba lược. Trong phần lược trên là chúng pháp, khai tâm niệm, trong hành chung lại có duyên, nên chế trước cư só sợ nghe chướng giới, là giúp người khác. Cho đến trở xuống là lợi mình. Nếu nói về tâm niệm, thì nói không rõ ràng không thành tác pháp. Có duyên nên khai không có gì lạ. Bố-tát thuyết giới, là Hoa Phạm đều nêu. Trong luật Ngũ Phần có bảy duyên, trừ cỏ cây, gai góc đất bùn còn khác thì đồng với luật Tứ Phần. Luật Tăng-kỳ có năm duyên; bị ép ngặt, trời tối, khách từ xa đến ba duyên này không đồng với Tứ Phần. Trong phần đối thuyết, bộ Thập Tụng nói nạn vua khai thuyết tức duyên khởi từ vua Bình-sa, như trong thiên Yết-ma dẫn. Trong Luật Ngũ Phần nạn sự giống trong luật Tăng-kỳ. Kia vì đột nhập nghe pháp, không vì đó nói sợ thân khổ não, chế khiến cho đổi cách tụng. Trong nghĩa lập hai duyên lạnh nóng không nêu ra các lời dạy. Lý phải khai, nên trước chỉ duyên y cứ, trở xuống bạch chúng vui mừng hướng dẫn. Nói đông lạnh là văn thoát, bổn xưa nói mùa đông lạnh, mùa hạ nóng, nên cả hai tùy thời gian dùng riêng. Tăng trở xuống là dẫn chỉ bày. Trước chỉ bộ Tăng-kỳ nói chế (ngăn) Thượng tọa, kế dẫn luật Ngũ Phần nói ngăn đồ chúng. Nói Chúc thọ tức dữ dục. Chỗ trống nói tức dữ dục, sợ ở chỗ che kín không có người thấy nghe (có chỗ nói: Ở đây nói thuyết giới khiến Tỳ-kheo khách đến tìm thấy nên văn nói dường như không suốt). Kế trong phần lược pháp, khoa đầu nói hai món: Đây là nêu hai món thủ và khước. Nêu tên là thủ; trừ tướng và khước. Nói lược là đủ hai nghĩa. Một trở xuống là giải thích. Trước giải thích nghĩa lược thủ. Thủ tám thiên đề: Như nói rằng bốn pháp Ba-la-di nầy, v.v… kế là giải thích lược khước: Khước là trừ. Trừ chủng loại tùy thiên: nghĩa là không tụng trong thiên thuyết giới, chỉ nói rằng tăng thường nghe. Trên nói tám thiên, dưới nói tùy thiên đều là nêu chung toàn số giới bổn, còn như chính tụng hoặc nhiều hoặc ít đều không nhất định, (có người nói: chỉ tụng tám đầu đề gọi là lược thủ thuyết giới. Tụng một, hai thiên đầu gọi là lược khước thuyết giới. Khiến đời sau vọng làm, đến nay còn như vậy, như riêng chỗ phá). Hỏi: Có được lược hết tám thiên hay không? Đáp: Y mỗi luận nên rộng tụng pháp diệt tránh. Y theo Tỳ-kheo- ni Sao thì tám thiên đầu đều lược (xưa ghi một ít phần của Đột-cát-la không gọi là lược. Lại có người nói bảy diệt là cốt yếu của dứt tranh cãi nên không thể lược, do Tỳ-kheo-ni Sao đều xuyên tạc mà thôi). Hỏi: Nay còn bao nhiêu được lược? Đáp: Nay chỉ nói chung là lược giới, không nói bao nhiêu loại. Nếu nêu tên lược thì gồm hai nghĩa thủ và khước, nếu không nêu tên, như trở xuống cuối bài tựa duyên tức lược, chỉ có nghĩa khước không có nghĩa thủ. Hỏi: Như tụng một, hai thiên rồi lược các thiên còn lại, giáo lý nầy lược gì? Đáp: Các thiên đã tụng trước gọi là rộng, văn không nói v.v… là rộng tụng ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, chín mươi pháp Ba- dật-đề. Lại nói, bảy pháp diệt tránh trở xuống như pháp nói rộng, còn những thiên khác không tụng mới gọi là lược. Hỏi: Như trong Bổn luật tụng rộng một, hai thiên bỗng có nạn duyên xảy ra thì nói còn bao nhiêu giới tăng thường nghe, đây gọi là lược gì? Đáp: Đã không nêu tên, dừng tụng tức là lược khước. Hỏi: Như nêu thiên mục lược đến hai, ba thiên bỗng có nạn duyên xảy ra thì nói còn bao nhiêu giới, v.v… đây là lược gì? Đáp: Trước nêu danh gồm đủ hai nghĩa. Lại nói còn bao nhiêu giới dừng tụng là khước. Hỏi: Nay có pháp lược là xuất xứ từ đâu? Đáp: Trong văn nói thời gian thong thả thì tụng rộng ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề và chín mươi pháp Ba-dật-đề, đến sau cùng có nạn duyên nói tựa rồi lược đều y bổn tông không nói tựa. Lược y theo chú giải trong Yết-ma, y theo Luật Tăng-kỳ. Chặng giữa mỗi đề kết chung xuất xứ từ một bộ luận, vì thế văn sau nói: Văn bộ Tứ Phần không rõ, v.v… (Xưa ghi ngược lại dẫn trong bổn tông, mười, năm lược phối, càng thêm mê mờ. Chú giải trong Yết-ma cũng ghi: Luật cũng có năm, ba pháp lược, văn không nói rõ, nêu y mỗi luận, nên biết là sai). Do xưa phần nhiều mê mờ, không khỏi phiền phức tỉ mỉ, còn lại thì chưa hết, đầy đủ trong phần giải thích. Trong pháp lược, khoa đầu nói sự tướng hai việc hoãn gấp ở tòa cao. Hoãn thì có thể tiến tới, gấp thì vội vả chăng? Đài y cứ duyên trên nên khiến dạy bảo. (2 3 8) Trong văn trước cả hai đều nêu. Hoãn trở xuống là giải thích lại, duyên gấp thì nói chung nhiều món. Như trở xuống đã nói. Văn đầu trong phần hiển bày riêng, trước chỉ duyên trước tức chín món đầu trong mười duyên. Nói nghi thức cũng đồng phần rộng pháp. Do duyên nhất định, phần nhiều không đến sau nên chỉ trước. Chí trở xuống là chỉ bày pháp lược có ba: Hỏi: Thanh tịnh chăng rồi tức nói rộng lời tựa trước. Nên nói trở xuống lược chặng giữa bảy thiên. Nói mỗi đề là bảy tên nêu riêng. Kết chung: Đều nói tăng thường nghe. Bảy pháp diệt tránh trở xuống nói rộng văn sau. Không lược bảy pháp diệt tránh là giới ít, nói lược lại tiếp văn sau vì đây không thể nói. Nếu y theo Tỳ-kheo-ni Sao thì tám đều lược chung, không nhọc gì nói để lầm người mới đến. Cho nên lời sớ nói: Nay có hành lược, phần nhiều không có pháp thức. Duyên hoãn gấp ứng thì đó là cốt yếu. Thường đồ lạnh nóng đã trình bày, có thể nói rộng trước sau (tựa trước và pháp diệt tránh trở xuống) mà trong phần lược đã nói rộng (tức bảy thiên) y theo đây nói căn cứ há là ngu ư! Luật Tứ Phần trở xuống nêu xuất xứ, trước xét trong bổn luật, không nêu thiên đầu nên nói là không rõ. Nay trở xuống là thủ văn trước tức chỉ cho pháp trên có chỗ y cứ. Kiền độ thuyết giới của luật nầy, đầu tiên là nói trước rộng sau lược, kế nói đoạn thứ tám. Kia nói khởi niệm này, nay do nạn duyên nên lược thuyết giới. nạn đến còn xa chúng ta được nói rộng, Tỳ-kheo- ni nên nói rộng, không nói sẽ đúng như pháp trị. Lại nói, tôi bệnh không nói rộng được, có thể nói đến chín mươi pháp Ba-dật-đề. Lại nói: Tôi không nói được đến chín mươi pháp Ba-dật-đề chỉ có thể nói đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Lại nói: Không nói được đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề chỉ có thể nói hai pháp bất định. Lại nói: Không nói được đến hai pháp bất định, chỉ nói được mười ba pháp Tăng tàn. Lại không thể nói được đến mười ba pháp Tăng tàn chỉ có thể nói bốn pháp Ba-la-di. Lại nói: Không nói được đến bốn pháp Ba-la-di, chỉ nói được bài tựa giới. Lại nói: Không nói được bài tựa giới liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà đi (kế đoạn thứ tám, một trước là nói rộng, bảy sau là lược. Người xưa vọng truyền là bảy lược, một thẳng là sai). Sau nói trước lược sau rộng, ba, năm thuyết giới. Kia nói có năm trường hợp thuyết giới: 1- Nói bài tựa rồi nên nói tăng thường nghe. 2- Nói đến bốn pháp Ba-la-di. 3- Nói đến mười ba pháp Tăng tàn. 4- Nói đến hai pháp bất định. 5- Nói rộng (ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề về sau). Lại có năm trường hợp thuyết giới: 1- Nói bài tựa và bốn pháp Ba-la-di, còn bao nhiêu thì lược. 2- Nói đến mười ba pháp tăng tàn. Nói đến hai pháp Bất định. Nói đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nói rộng (chín mươi pháp Ba-dật-đề trở xuống) Lại có năm trường hợp thuyết giới 1- Nói bài tựa và mười ba pháp tăng tàn. 2- Nói đến hai pháp bất định. 3- Nói đến ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. 4- Chín mươi pháp Ba-dật-đề. 5- Nói rộng (bốn pháp Ba-la-đề Đề-xá-ni về sau). Luật bổn rất rộng, nay nói rằng không rõ là nói sai chính dụng, sợ người chưa lược dẫn cho biết. Trong phần hai y cứ vào nói bài tựa rồi, nêu trước lệ sau, vì thế trong Yết-ma chép: Nên tùy theo chỗ đã nói đến thưa (biết) rằng đã nói đến chỗ… còn bao nhiêu như tăng thường nghe. Lại sớ giải thích: Tùy theo tụng đến giới nào nạn duyên hết thì sắp xếp lại, không thể chuyển tụng nên biết thông ở sau. Trong phần ba, đây là nêu trong bộ Tăng-kỳ, cho rằng chưa nói bài tựa không thành pháp lược, phải nói lại. Hoặc đợi nạn duyên hết, hoặc ra ngoài giới, hoặc chúng, hoặc riêng chúng, tùy duyên mà tác pháp. Trong phần kết đoạn, trước kết khuyên. Nói duyên là chỉ bày nguyên nhân lược pháp. Và kết là trong phần bảy lược trước, hoặc có thể nói rộng hay không nói rộng, cho đến có thể nói bài tựa hay không nói bài tựa. Đều đúng như pháp trị trở xuống là khiển trách sai. Đầu tiên kh- iển trách lược pháp trái với nghi. Hoặc trở xuống khiển trách nương duyên không nói. Kế nói trong biệt pháp thuyết giới. Văn đầu luật vì Phật ngăn chúng tăng nói giới, có một Tỳ-kheo không biết làm thế nào, bèn bạch lên Đức Phật, Phật liền chế giới. Điều độ: Trong luật nói phải trải tòa đầy đủ, bình nước, nước rửa chân, đốt đèn, thẻ, v.v… Đợi khách đến: Lời sớ nói rằng người xuất gia phiêu bạt không bạn bè thì làm sao có chỗ ở nhất định, gọi là chỗ của ta. Du hóa khắp nơi, thong thả tự tại, tùy chỗ mở mang chính pháp không hạn cuộc phố xá, chùa viện, hướng đến chùa làm chỗ ở, bốn biển là thức ăn. Khoa kế trong phần chúng pháp nói biệt pháp mà nêu bốn người là do ở một mình đợi khách bên ngoài đến không có hẹn cho nên nói, không đồng vị đầu thường đồ tăng pháp, đều hành sự lại đồng như trước. Trong đối thú, văn y cứ ba người, sau chỉ hai người. Trong từ ngữ tác pháp chỉ trừ hai chữ. Lời sớ hỏi: tăng thuyết giới, một người bỉnh pháp còn bao nhiêu thì ngồi yên. Hạ trở xuống đối thủ đều tiêu biểu cho thanh tịnh. Đáp: tăng pháp vị mạnh, thành tựu năng lực lớn nên nêu bạch thuyết giới, dùng bốn phương nên khác với người sức yếu kém, tiêu biểu bên trong thanh tịnh ứng với lời dạy trước. Trong phần tâm niệm thuyết giới, trước nêu pháp. Nhược trở xuống chỉ bày duyên khác. Trên y văn luật, vả lại y cứ Lan-nhã, Sơn hành, xóm làng, không có người nghĩa đồng nên y cứ khai cho. Văn đầu trong phần phát lồ tội, trước nói tội khinh được sám hối, vì bổn vị đây nói tội trọng không được sám hối nên trình bày dị thuyết khoa kế, đầu chỉ bày văn không. Nay trở xuống nêu pháp. Nói thông giải là thủ nghĩa đầu ở trên. Xét trong phần tự tứ tức cho phép trên tòa phát lộ tức đối nghĩa kế làm hạn cuộc nên nói là thông. Hỏi: Phát lộ rồi có cần phải ba lần nói bố-tát không? Văn đáp: Không thuyết giới dường như không trình bày lại. Y theo lời chú trong Yết-ma dẫn năm trăm câu hỏi, cứ như trên nói ba lần. Lại y cứ trong lời sớ dẫn luật Tăng-kỳ chép: nếu không có khách thì tác niệm, nếu Tỳ- kheo thanh tịnh phạm tội thì đúng như pháp mà trừ. Tác niệm rồi phải tâm niệm miệng nói ba lần bố-tát, đây tức hướng đến bốn phương tăng phát lộ sám hối, đại khái như trong tăng, nay nói về Yết-ma và sớ đều tác niệm phát lộ, cầu lời không khác nên y nói ba lần. Đây đã lập pháp tức phải bố tát không nhọc gì trình bày lại. Ngày nay việc đến y lời số thì tốt. Trong phần ba chép: Hướng về tăng sám hối tức tác niệm phát lộ. Hoặc có thể tội khinh trách tâm liền diệt tội. Ba lần nói nghĩa là tác pháp Bố-tát. Người nói rộng giới là người hiểu biết trì phạm. Nhưng không dạy chế vốn không cần tụng, do soạn ra pháp thì thành thuyết giới, không đồng với tăng pháp bỉnh bạch hòa tăng, không nói thanh tịnh vì tâm niệm đã như vậy. Trước trong phần đối thú, tội Tăng tàn, tội trọng, Thâu-lan-giá liệt khai phát lộ, như trong phần tự tứ. [Hàng 13, Ô 3 - 238) Thân tâm đều tịnh gọi là an, thời gian nhất định ở một chỗ gọi là cư (y sớ giải). Tùy thời răn nhắc gọi là sách, ba nghiệp thường thực hành việc lành gọi là tu. Trên chung cho người và chỗ, dưới hạn cuộc hành nghiệp. Một môn này gồm có bốn: Y cứ vào pháp có bốn. Đối thú tâm niệm vọng thành và giới. Lại hai chỗ trong giới, trong vườn, đủ có đôi chiếc thời là bảy. Thời có ba: Đầu, giữa và sau. Xứ chung cả hai giới là giới tự nhiên và giới tác pháp. 4- Người: Gồm năm chúng đều chế chung. pháp. Hỏi: Biệt pháp an cư vì sao là chúng hành? Đáp: Có ba ý: 1- Thọ thuyết nguyên nhân thứ lớp an vui tự tứ. 2- Hạ an cư rồi, tự tứ về sau nhiếp. Bổn thiên tuy là biệt pháp vì phân phòng thọ nhật đều là chúng Trong phần chế ý, khoa đầu tiên có hai. Trước giải thích nghĩa an cư và chỉ bày sách tấn tu hành. Tùy trở xuống là nói nghĩa cư. Số thứ tự nầy thấy trong thiên đề, chữ xứ trở lên huấn chỉ huấn tức. Nhiếp lự chuyên chú là chỗ thanh tịnh. Quán duyên thắng pháp là tư vi (suy nghó tinh tế). Chữ vi gần sự và lý. Sự là ghi nhớ vốn đã thọ, tức giới học; lý thì chung vọng mở, chân tức định tuệ, tức tính không tướng không trong thiên Sa-di; ba quán Duy thức tính tướng hai không, tức không là lý, Nhất quán Duy thức tức thức là lý, ba món này thực hành gọi là Thánh đạo, không tịnh không tư duy, không tư duy không chứng. Ba thừa (2 3 9) tuy khác nhưng nhập đạo đều đồng, vì thế nói là chính quỹ (phép tắc chân chính). Ước hẹn giới hạn trong mùa hạ không bỏ một tấc bóng thời gian nên nói nương (dựa) vào ngày tính công. Gắng sức răn cấm biếng nhác không bỏ sót một chính niệm gọi là sách tấn tâm hạnh. Kế là giải thích nghĩa Cư, câu đầu nói chỗ cần phải làm, tức trở xuống nói trong luận xứ không có năm lỗi. Câu kế nói nêu chí. Tức trở xuống khởi ba tâm an cư, không cho trở xuống nói thủ chế. Tức trở xuống: Ba lỗi, đối chiếu sẽ thấy. Khoa kế, trước trình bày ý chung, trong luật vì các Tỳ-kheo bất cứ lúc nào cũng đi trong nhân gian đạp chết cỏ tươi, cắt đứt mạng sống chúng sinh, bị người đời chê bai rằng: Côn trùng chim quạ còn có hang ổ, huống chi Tỳ-kheo. Đức Phật do đó chế rằng không được bất cứ, lúc nào cũng dạo đi. Văn trở xuống nói nghiêng lệch. Ba lỗi: Tự tổn hại mình, làm tổn hại người và tổn mình lẫn người. Chuốc lấy sự chê bai ở đời: Như duyên khởi ở trên. Hỏi: Ba thời tình lỗi nhiều ít, trong văn có thể thấy rõ, còn chế có nặng nhẹ làm sao phân biệt được? Đáp: Mùa Xuân, mùa Đông có duyên sự thì cho phép còn ba tháng hạ có duyên sự hay không duyên sự đều cấm. Lại mùa hạ có pháp kiết, còn mùa đông mùa Xuân thì không có. Lại mùa xuân, mùa đông không kết chỉ phạm một tội Đột-cát-la, còn trong mùa hạ không biết đến an cư mỗi mỗi phạm một tội Đột-cát-la. Lại mùa hạ không hạ an cư thì mất một tuổi. Lại trong hạ chế nương theo luật sư thứ năm còn mùa Xuân, mùa Đông nương bốn vị Pháp sư. Hoặc trong luận trái lại chế ba thời đều phạm Đột-cát-la. Y cứ các duyên trên hoãn gấp đều có thể thấy. Trong khoa sau, phần ba ở đầu chỉ riêng. Tức trở xuống là dẫn chứng. Cố trở xuống là kết khuyên. Hai câu trên chỉ cho quá khuyên. Ắt trở xuống là y cứ phạm khuyên. Ắt trái v.v… là trái chế trọng. Kết nghiệp triền là trái lý sâu. Trôi lăn trong biển khổ là chịu quả báo lâu dài. Hình phạt thông thường có tên thỉnh trên. Trong luật cho rằng: Điều khoản chỗ đã phạm kia thỉnh riêng bớt tội. Mười điều ác dùng trong luật này là không thỉnh vì nói kia đã nhất định. Nay ngang nhiên trái lời dạy, lỗi đã nêu bày, phải nhập vào khoa phạm nên không đợi thỉnh. Cực trở xuống là chính khuyên. Răn nhắc như đây tức luật chế ở trước, khai chương nêu bảy. Đối trở xuống là pháp phụ nên nói ở phần đầu. Còn như năm môn, môn đầu và ba, bốn là nói bổn pháp, môn thứ hai, thứ năm dùng loại tương tùy. Chia phòng ở trước, Ca-đề hạ rồi, kế nêu có thể hiểu. Trong duyên, khoa đầu chỉ sở y, trước và giữa dẫn luật Tứ Phần. Đầu chọn không phải chỗ. Trong luật chép: vì có Tỳ-kheo đại tiểu tiện dưới gốc cây, thần cây nổi giận, nên Đức Phật chế. Nếu cây trở xuống là nói có thể nương ở dưới gốc cây, là nhà của người tu hạnh đầu-đà, chung cả ồn ào lẫn thanh tịnh, và cử động rất nhỏ, từ ngoài y theo đó mà biết. Trên y cứ vào chỗ tăng ở. Nếu y trở xuống là năm món đều y cứ nhà thế tục. Bốn trên là chỗ ở tạm, một dưới là chỗ ở lâu dài, đều vì có duyên khởi mà Đức Phật cho phép, ở đầu nói có thể nương, sau nói dời đi, nuôi dưỡng. Xóm làng là gọi chung lớn nhỏ. Cho đến một nhà người nam ở đều gọi là xóm làng. Trong phần dời đi tùy chỗ đến, tùy chỗ đã dời đi của năm hạng người trên. Hoặc có thể người kia dời đi vì thiếu tư cụ, tùy ý của Tỳ-kheo đến đều được. Trong văn không y cứ tịnh ý để quyết đoán được mất tức không rõ, cho nên dẫn năm phần để quyết đoán đó. Văn chia làm hai. Trước nói khai đi. Nói trụ nghĩa là xét kỹ năm nhà kia ở đây, xong hạ mới được nương, nhất định không có ý không thể nương ở. Dời đi sẽ mất hạ. Nếu tại trở xuống là nói không nói nơi chốn. Trên là nêu riêng nạn mạng sống, dưới gồm thâu hai nạn. Kế trong năm pháp: Một là chọn chỗ, hai là tịnh vị; ba là hẹn thời gian; bốn là yếu tâm; năm là nương duyên. Trong vị luận kia cũng đồng với luật nầy, chỉ có hai vị trước sau, ngày 17 trở đi đều là sau nhiếp. Trong ước hẹn thời gian nói là phá, v.v… nghĩa là đây nói ý sớ đặc biệt lập giới hạn thời gian. Vì ngày 15 còn thuộc về mùa xuân không phải mùa hạ cho nên ngày nay tăng xa phần nhiều phạm lỗi nầy, lầm lộn lẫn nhau, đại khái là do mê mờ giáo pháp. Huống chi chỉ lo các sự cạnh tranh kinh doanh trai cúng. Còn việc kiết pháp không chịu vâng theo, theo tình bỏ thánh, trọng sự khinh pháp, thật đáng thương xót. Trong phần khởi tâm, sớ nêu ba thứ: 1- Tu trí; 2- Tu phước; 3- gồm cả hai. Trong năm lại có năm. Y cứ nơi xứ thì chung, y cứ theo tướng thì riêng. Trong ba thứ, cắn nhai là hại mình, đạp tổn thương là hại vật. [Hàng 19, Ô 2 - 239) Bốn không thể nương ấy tức Luật sư thứ năm. Vị trở xuống năm câu tức nêu năm đức: Một y cứ về trao pháp; hai là xem xét hạnh, ba đức còn lại có thể hiểu. Năm là không có thí chủ, nghĩa là thiếu tư duyên, tức lỗi thứ năm, luật Tứ Phần trở xuống chỉ lược, văn tướng đã đồng nên không phiền dẫn lại. Trong ba nạn xứ, trước dẫn trong luật Thập Tụng thường đến lựa phi; kế dẫn luật Ngũ Phần quyết thông được chăng? Trong phần bạch pháp, trước chỉ rộng, nay nhiếp dẫn. Luật kia chép: Tỳ-kheo muốn an cư trong mùa hạ ở chỗ nào thì phải đến xem thử có phu cụ chăng? Không có tiếng ồn chăng, không có các nạn như sư tử, cọp sói, trùng độc, v.v… chăng, có thể an cư trọn mùa hạ chăng. Lại thêm, nên nghó an cư chỗ này việc ăn uống được vừa ý chăng, nếu bị bệnh sẽ tùy bệnh uống thuốc được chăng? Lại xem người ở chung có đúng như pháp chăng. Cho đến lúc bệnh có bỏ đi chăng. Lại xem trong đại chúng không có kiện tụng tranh cãi chăng. Không khiến cho ta sinh tâm ác, lời ác chăng. Trong chúng có biết pháp hiểu ba tạng kinh điển chăng. Không khiến cho ta trong mùa hạ có phạm, muốn diệt không được chăng? Lại nghó: Trong chúng đây có vị tăng nào như cha mẹ dạy dỗ con chăng. Lại nghó: Trong chúng không kiện tụng tranh cãi nghĩa là trong mùa hạ không khởi nhân duyên phá tăng chăng. Trước thọ an cư rồi sau nhận phòng xá, phu cụ, mỗi thứ nên sắm sửa lo liệu đầy đủ, v.v… Nếu có duyên sự vì Tam bảo cho phép được bảy ngày. Lại vị Thượng tọa trong chúng phải hỏi trong đại giới đã nêu giới mất y, không mất y, chỗ tịnh địa, chỗ bố tát v.v… lại pháp an cư Thượng tọa như trong lời sao dẫn đầy đủ. Cho đến trở xuống là nêu bày pháp. Nay y cứ nghĩa thêm vào giờ tiểu thực, vị Duy-na đánh kiền chùy bạch rằng: Bạch đại chúng! Đã qua một ngày an cư rồi, còn tám mươi chín ngày phải siêng năng tinh tấn, cẩn thận chớ buông lung (ngày khác y theo đây thêm hoặc bớt). Nhược trở xuống là khuyên nương (y chỉ). Tăng như cha mẹ nghĩa là đạo nhân tăng mà sinh. nói tăng sư là hạnh từ khuôn phép đó. Văn kia còn rộng nên chú giải, v.v… Kia tiếp tục rằng: Tỳ-kheo an cư khi tự tứ được làm một việc ng- hóa là nói thấy, nghe, nghi có tội. Sau đó làm bốn việc: Giải giới. Kiết đại giới, lại có hai nhân duyên phải giải giới: 1/ Nước trôi, hư hoại không thể biết chỗ. 2/ Bị nạn giặc, tăng đều bỏ đi nên phải giải giới (không có duyên sự thì không cầu trở xuống khiển trách xưa cho phép. Trong hạ giải giới là phá hạ. Cũng sợ xưa chấp văn nầy. Thọ y Ca-hy-na (tức y công đức)… cũng tùy theo khi có, khi không. Thọ phu cụ. Thứ hai gồm nói trong ba thời, văn đầu hiển chế tức bổn duyên khởi. Hai câu đầu là nêu lỗi, tức ba nghĩa trên, dưới dẫn văn. Mùa hạ là chế riêng, mùa xuân mùa đông là chế chung. Nếu y cứ hai thời thì ngại đạo. Tuy đồng không tổn hại côn trùng nhiều, chuốc lấy sự chê bai của thế gian cũng ít, vì thế nói là ít lỗi. Hỏi: An cư là chế mà nói cho phép là sao? Đáp: Chế cho phép là đối lập, cho phép tức là khai. Khai cho phép riêng ngang bằng với nghĩa cho phép khai chế chung. Như cho phép xây dựng phòng xá, chứa đồ dư, cho phép kiết giới, cho phép lược thuyết giới, v.v… đây là cho phép tức khai. Như nói là cho phép hỏi mười ba nạn, cho phép y chỉ sư, cho phép bạch thuyết giới, cho phép hành xá-na, cho phép an cư rồi tự tứ, đây là cho phép tức chế. Nay nói là cho phép ba tháng là có đồng chút ít với ý này. Mượn nghĩa để nói cho phép dụ như khiến, nghĩa là khiến cho làm không thể trái. Vì thế, nếu làm thì đây hiểu còn văn khác thì bít lấp. Hỏi: Trong một thời bốn tháng, y cứ lỗi là đồng, mà không chế hết nên phải hỏi giải thích để nêu ý chỉ lời dạy. Đáp: Có hai ý. Đầu tiên y cứ khai sau đáp, trước an cư thân người là khổ khí, đói khát lạnh nóng tùy thời cần dùng, cho nên gọi là đãi hình. Cho phép chung năm lợi, lại nêu tư tài bên ngoài, đây là ý chính khai vì thế chỉ nói là y phục. Kế y cứ vào khai trước đáp là nhiếp hai vị giữa và sau. Quá gấp là bắt lấy thời cơ không kịp. Nói nạn thường là cơ hội hoãn không kịp, vì duyên khác hoặc bị ngăn trở không thể hẹn trước. Kế là nói riêng ba thời. Trong phần nêu, trước kết sau sinh. trước nói một năm ba thời hoãn gấp, sau nói một mùa hạ ba thời trước sau. Văn đầu trong phần chính tây, trước nêu ba vị cho nên trở xuống dẫn chứng là thêm ba. Sớ chép: tăng ba đủ là nói trước, giữa, sau. Y cứ thời gian nhất định chia trước, sau một ngày, trung gian an cư là ngày 2 9.Khoa kế, trước dẫn văn trong bổn tông tức kiền-độ an cư chép: Phật nói có hai trường hợp an cư là tiền an cư và hậu an cư, tiền an cư là kiết hạ ngày 16 tháng 4, hậu an cư là kiết hạ ngày 16 tháng 5. Tuy trở xuống là nghĩa quyết định, câu đầu xét văn thiếu. Nhưng trở xuống là hiểu nghĩa đầy đủ. Văn chỉ hai ngày là trước sau (tiền hậu) thì nghĩa phải bao gồm trung gian. Vì thế nói là đối lý tự rõ. Sớ chép: Trong kiền-độ chỉ nói tiền, hậu an cư đều trong ba tháng thì không có trung gian an cư. Vì thế, Xá-lợi-phất muốn an cư chỗ Phật nhưng ngày 17 mới đến nên Phật chế hậu an cư. Nói theo tướng thì chỉ trước một ngày là tiền an cư, ba mươi ngày còn lại là hậu an cư. Ai cũng hướng về tiền an cư còn lại đều gọi là hậu an cư, nên thiếu trung gian an cư. Trở xuống là chỉ cho văn kết, vì ba pháp khác nhau. Khoa kế chép rằng nói chung chung nghĩa là trong đây chính là nói tiền an cư và hậu an cư, nhưng trở xuống ba môn tên đồng mà sự thì khác, do phụ thuộc nhau nên nói là chung chung. Trong phần đầu tiên trở xuống nói rằng được thọ năm lợi dưỡng gọi là thưởng, kết trở xuống nói là hậu. Trên dưới xen nhau trong văn lược bớt. Trong phần hai, trước nói không kiết có phạm, không phạm. Ngày 16 về sau nói hậu an cư nếu không kiết đều phạm, trừ có nạn sự thì cho khai duyên. Tỳ-kheo-ni đồng khác là chọn chung lạm. Đồng là nghĩa đồng như trước, khác là khác với sau. Do Tỳ-kheo-ni ít du hóa bên ngoài, không dạo đi nên chỉ chú trọng bên Tỳ-kheo tăng. Trong phần ba, trước nói tiền, cho đến hậu không biết: Tuy chưa nhàn rỗi gia pháp mà thân đã ở trong giới, vì thế đều thành tiền an cư. Đây gọi là trở xuống nghĩa là nói ngày thì khác mà ngày thọ tuổi thì đồng. Trong một tháng trước tùy ngày có thể kiết nên nói ba mươi ngày an cư. Hỏi: Nạn sự không dứt đều không kiết, có được hạ không? Đáp: Sớ chép: Hoặc năm ngày, ba ngày, cho đến một tháng tuy không kiết nhưng không mất tiền an cư, vì có nạn sự không kiết được chứ không phải cố tâm. Hoặc trở xuống là nói hậu an cư. Người nhập hậu an cư vốn là phải đến ngày 15 tháng 8 mới mãn hạ, nhưng cho phép theo người tiền an cư tự tứ trước. Nay vì nạn duyên ngăn trở, tùy khi nào nạn hết khai làm cho nên chung một tháng, đây tức là ngày kiết hạ thì đồng mà ngày thọ tuổi thì khác. Hỏi: Tiền và Trung gian hai trường hợp có nạn sự được khai hay không? Đáp: Theo lý thì lẽ ra là được. Hỏi: Nếu như vậy trong luật nói có nạn khai tăng tự tứ là sao? Đáp: Giặc kia là sự đấu tranh ngoài giới, ở đây tức giặc vua, v.v… làm cản trở đều gọi là nạn duyên, tên đồng mà sự khác. Trong ba phần trên, tiền an cư, hậu an cư, thưởng phạt, trở về trước một ngày là tiền, ba mươi ngày sau là hậu. Trong ba việc nạn tức y cứ vào an cư, tự tứ xen nhau tiền, hậu. Trong sớ có sáu trường hợp, ba trường hợp giống như trước. Trường hợp thứ tư y cứ vào tiền hậu, tiền hậu an cư đều là ngày 16, trung gian là ngày 2 9.Trường hợp thứ năm là nói hành trụ (trụ tức Tỳ-kheo cựu trụ, hành là Tỳ-kheo khách bên ngoài) hai pháp đối thú và tâm niệm Tỳ-kheo cựu trụ và Tỳ-kheo khách đều dùng chung, do Tỳ-kheo khách trước có yêu cầu (lại nói Tỳ-kheo cựu trụ có yêu cầu cũng khai cho). Trường hợp thứ sáu là y cứ pháp khác nhau, tác pháp đối thú, tâm niệm cho phép dự phòng, sợ trái với trước sau, ngay như vậy liền được (y theo sớ sau cũng gia thêm pháp). Trong hạ nhuần, nêu rằng kéo dài hoặc rút ngắn lại, y theo nhuận là kéo dài, không y theo nhuận là rút ngắn. Lại trong nhuận có ba trường hợp: Ngày nhiều ít, kéo dài rút ngắn có thể tìm xét. Y theo nhuận có ba trường hợp, đầu chỉ bày văn thiếu, Tỷ trở xuống là hai thủ trường hợp, Tỷ là trường hợp. Trước dẫn văn trong luận chép: Nếu tháng tư nhuận thì lấy tháng tư trước thọ áo mưa vì đủ một trăm hai mươi ngày, bao gồm tháng nhuần trong đó. Kia trở xuống do khai tình huống mà chế, khai hoãn còn y theo, chế gấp nên y theo. Lại trở xuống ba là giải thích văn nghi, nghi rằng: Tháng nhuận là lúc ngồi không mà thôi, vì không phải tháng chính, trong tháng nhuận ra ngoài giới không phá hạ, vì sao phải an cư tháng nhuận, nên kia chung đó. Nay nói y theo tháng nhuận, tuy trải qua bốn tháng, tháng nhuần không ở trong số ngày chỉ sợ khoảng giữa cách khoảng, ba tháng mới thật hạ nên y theo đó mà thôi. Kế trong phần không y theo nhuần, trước nêu bày. Ma trở xuống là dẫn chỗ y cứ. An cư rồi mới nhuận nghĩa là lúc mới kiết hạ chưa biết có tháng nhuận, vì thế đếm chung đủ ngày trở xuống nói thọ y. Nói thành thọ là do không y theo tháng nhuần vì số ngày đã đủ, nói không thành nghĩa là hoặc có y theo tháng nhuận nhưng chưa đủ ngày. nghĩa là trở xuống: Đối phần giải thích có thể hiểu, trong phần cả hai phán, câu đầu chỉ cho văn trước. Đa luận tuy nói y theo tháng nhuận, già luận văn chung cả hai vì gồm đủ. Câu kế nói dùng cả hai. Hạ trở xuống là chính phán, đầu nói phải y nhuần nghĩa là trước biết có nhuần nên theo Đa luận nói, vì không được không y nhuần nên không theo Già luận. Nếu trở xuống nói thông y và không y theo nhuận. Nói ngược với trước nghĩa là đầu hạ không biết có nhuần, kiết rồi mới lập hoặc y hoặc không y theo nhuần, tùy người lấy bỏ nên nói chung hai luận. Ở Tây vực tháng nhuận không nhất định, xứ nầy không phải như vậy. Dự biết nêu trong Tây lịch đều là biết trước, nên phải y theo tháng nhuận (xưa cho rằng trước hết có nhuần, y hay không y theo nhuần tùy ý người muốn là sai). Sớ chép: Tức y theo Già luận, an cư trước đã biết có tháng nhuận, vì vốn biết có nên y theo tháng nhuận, không được thọ y theo tháng nhuần vì vốn không biết có tháng nhuận, đếm ngày thành hạ. Hỏi: Trong phần hỏi đáp, hai lần hỏi này đều cho rằng do khai có việc nạn mà chế, hai lần đáp không đồng trong văn, có thể thấy. Nói hai, sáu nghĩa là một tháng năm tháng trung gian nhuận thì tháng hai, tháng sáu. Trong một tháng thì hạn cuộc tháng 7, trong năm tháng gồm gồm các tháng 7, 8, 9, 10 và 1 1. Khai phạm được lợi nên nói pháp thái quá. Hỏi: Áo mưa cũng khai như thế nào để nhiếp hạ? Đáp: Lúc nóng cần dùng có ích không tổn nên khác nhau. Trong phần khác nhau nêu là tiến được chăng? nghĩa là ngày nhiều, ít. Đầu tiên nói hai tháng 5, 6 do trung gian không liên quan đến kiết hạ và giải hạ nên nhất định một vị. Kế, tháng 4 nhuần, câu đầu là nêu chung. Tùng trở xuống là giải thích riêng ba vị (tự trở xuống đều y cứ kiết giải để chia đồng và khác, ngõ hầu khiến cho dễ hiểu). Trong tháng 4 nhập hạ là ngày 16 tháng 4 kiết hạ ngày 16 tháng 7 giải hạ. Cho đến ngày 30 kiết thì ngày cuối của tháng giải hạ. Tháng nhuần ngày mồng một kiết, ngày 1 tháng 8 giải hạ. Nếu nhuận trở xuống nói vị thứ hai. Số ngày nhập hạ nhiều ít không nhất định. Tháng nhuần ngày mồng 2 kiết thì nhập hạ một trăm mười chín ngày, cho đến tháng nhuần ngày 30 kiết thì nhập hạ chín mươi mốt ngày. Vì thế nói chuyển ít (trước cho ngày 29 kiết cũng đến ngày 1 tháng 8 giải). Vượt quá nhuận là giải thích lý do chuyển ít dần ở trên. Nếu năm trở xuống tức vị thứ ba, đã không liên quan với nhuần trước nên chỉ có ba tháng, ngày mồng 1 tháng 5 kiết, ngày mồng 1 tháng 8 giải hạ, cho đến ngày 16 kiết thì 16 tháng 8 giải (kiết và giải đều ngày 1 6). Y theo số có ba câu: Hoặc có khi an cư cách một tháng (ngày 30 tháng 4 và ngày mồng 2 tháng 5 kiết hạ: đều cách tháng nhuận), tự tứ sụt xuống một ngày ( 3 0-4 kiết, ngày cuối của tháng 7 giải, Mồng 1-5 kiết đến 1-8 giải, tức sụt một ngày). Hoặc có an cư cách một tháng (ngày mồng 1 tháng nhuần và ngày mồng 1-5 kiết cũng gọi là cách một tháng), tự tứ cùng ngày (đều ngày 1-8 tự tứ). Như vậy dần dần bớt (nên nói: an cư cách hai mươi chín ngày v.v…) cho đến an cư cách một ngày (30 tháng nhuận và ngày 1-5 tức là cách một ngày), tự tứ cùng ngày (cũng đồng sáng sớm tháng 8 giải). Ba, trong phần tháng 7 nhuần, trước nêu nhuần, trở xuống là giải thích. Ba tháng đầu trụ, ngày 1 6-4 kiết hạ đến ngày 16-7 giải hạ. Ngày mồng 1 tháng 5 kiết đến cuối tháng 7 trước bước qua ngày 1 tháng 7 nhuần thì giải hạ. Vì thế nói rằng chưa đến nhuần (kiết giải đều ngày 1 6). Tháng 5 trở xuống là nói là trường hợp thứ hai. Ngày mồng 2 tháng 5 kiết đến cuối tháng 7 trước giải hạ thì mới được tám mươi chín ngày, vì thế phải bỏ qua tháng nhuần, lấy ngày 1 tháng 8. Ngày mồng 1 đủ ngày nghĩa là sáng sớm hôm sau mới ra khỏi giới (tức ngày mồng 2 giải hạ). Cho đến ngày 1 6-5 kiết giải có thể biết. Sở lập ba câu: - Hoặc có an cư cách một ngày (mồng 1 và mồng 2 tháng 5 kiết là cách một ngày), tự tứ cách một tháng (mồng 1 tháng 5 kiết hết tháng 7 trước, bước qua sáng sớm đầu tháng 7 nhuần giải; ngày mồng 2 đến cuối ngày đầu tháng 8, bước qua ngày mồng 2 giải hạ, tức cách một tháng). Cho đến an cư cách mười bốn ngày (ngày mồng 2-5 cho đến ngày 16 kiết), tự tự cách một tháng (mồng 2-5 kiết đến mồng 2 tháng 8 giải hạ. Ngày mồng 3 về sau kiết thì trước sụt sau thêm, cho đến ngày 16 kiết, đến 1 6-8 giải, đều cách một tháng). Còn bao nhiêu trở xuống sẽ chỉ rộng, nay thấy trong nghiệp sớ. Như trên lược dẫn nghĩa sao văn ẩn. Trong pháp chia phòng, ba thời chia có thay đổi. Nghi thức thường ở Tây Vực là sợ giữ gìn chấp trước, thường không suy nghó nhàm lìa thế tục, bạt tình khiển trệ không tôn trọng pháp này. Ở Đông Độ thì không phải như vậy nên không nghe. Hoặc ở chung một nhà như sữa hòa với nước, hoặc ở riêng phòng, chẳng khác gì thế tục. Vả lại, người quân tử thì đời đổi còn kẻ tiểu nhân thì khư khư ôm giữ đất. Huống chi người xuất gia ý chí cao thượng mà ngược lại ôm giữ gốc cây. Than ôi! Đến nỗi khiến cho lời dạy của Đức Phật không còn, hạnh kiểm, lễ nghi thì trụy lạc. Trong phần chế duyên, trước nói tâm chủ nhỏ hẹp. Lựa khách và cựu trụ nên xảy ra sự chê bai là lý do đầu tiên. Phật trở xuống là nói chế Tỳ-kheo cựu trụ tự biết, chỉ khiến cho Tỳ-kheo khách nhìn thấy tốt xấu thì dứt sự tranh cãi. Trong phần hành pháp, văn trước đủ năm pháp gọi là năm đức. Bốn đức trước là y cứ theo tâm gọi là đức chung, vì thông tất cả. Đức thứ năm y cứ về sự gọi là y cứ theo đức riêng, vì tùy theo sự đều hạn cuộc. Thuận theo mình không kết bạn nên không ái; trái với ý mà không ghét nên không nhuế; thông suốt giáo lý không nghi ngờ nên không sợ; biết thời cơ thích hợp hoặc thay đổi nên không si. Có thể biết phân chia, v.v…: Nếu y cứ về số lượng người thì Đại tăng có thể được còn Tỳ-kheo tội ác và Sa-di thì không thể được. Nếu y cứ về chỗ tức phòng xá có thể, còn các chỗ khác thì không được. Tóm lại, tâm phải thông hiểu pháp phân chia trước sau mới kham lãnh được việc tăng sai. Yết-ma trở xuống: Dẫn pháp rất dễ hiểu. Khoa kế, trước xướng cáo năm đức, sau chúng tăng tập trung đồ vật: Tùy những đồ vật mình có đều đem nhập chúng, chỉ trừ giường nằm, tọa cụ, v.v… Trong phần ba, trước đếm biết phòng xá. Chủ kinh doanh: Hoặc xây dựng, hoặc sửa chữa lại, tùy ý chọn lựa để thưởng công lao. Trong thiên bình bát, đồ dùng chép: Tỳ-kheo làm việc kinh doanh xây dựng khi phòng xá hoàn thành rồi chỉ ở chín mươi ngày rồi dời đi, những thứ khác cũng như vậy. Sau trở xuống hai là y theo thứ lớp phân định. Nếu có trở xuống nói số người ít, phòng nhiều phải chia hai, ba lần. Vì thế trở xuống nói chia không dùng nên phải để lại. Hỏi: Đã tùy theo chỗ ưa thích có thể nhận, vậy Tỳ-kheo ở trụ xứ đó thì sao? Đáp: Trước phải để cho Tỳ-kheo cựu trụ rồi mới phân chia, về lý thì lẽ ra không có lỗi, ý của bổn giáo sợ mê đắm chỗ ở. Nay thay đổi thời tiết thì xứng pháp ở người làm đó. Nếu ác trở xuống ba là nói chọn người. Thời trở xuống bốn là chỉ bày nghiêm chế. Trong phần hỏi đáp, đầu tiên là nạn: Luật chế việc ăn uống không được phân chia thiên vị dành nhiều cho Thượng tọa, không giống như pháp phân chia phòng xá nên dùng ngang nhau. Trong phần đáp, hai câu trên nói thức ăn đều chung, sau nói phòng xá hạn cuộc nhất định, hai nghĩa trái nhau. Trước nói tốt xấu đã nhất định, ngược với bình đẳng ở trên, tốt xấu rất dễ biết. Tốt xấu không đồng, nghĩa là chọn tốt. Hạn trở xuống hai là nói thời gian dài, ngược với trên nói là ngắn. Kế trong phần hỏi, do vật của hiện tiền tăng tốt xấu cũng nhất định là thuộc riêng, về lý phải lựa chọn mà chế tham thử, vì thế xen vào là nạn. Xưa nói: Trước do thí vật tốt xấu xen lẫn nhau nhưng sau ghi tên người hiện tiền trên thẻ, khiến cho không thấy vật rồi ném thẻ tới. Trong phần đáp: Người hiện tiền phải rõ hai món. Như trong giới trộm cắp nói chia đồng nghĩa là chia bình đẳng, câu nầy trái với chia phòng không bình đẳng. Thông có một phần: Do chưa phân chia chưa thành thuộc của câu nầy ngược với câu phòng xá có chung. Đầu sách là cách nói khác của từ quăng thẻ mà thôi. Trong phần tướng khác, luật Tăng-kỳ nói có ba tiết. Đầu nói có thể được không? Nếu phòng trở xuống là nói phân lại. Nếu mùa Xuân trở xuống là nói ba thời hoãn gấp. Mùa hạ, phòng xá vì sự nên cho, mùa Xuân, mùa Đông lại thọ dụng chung mà cho, vì thế nói là chung đủ thọ cả hai. Trong phần bốn cũng như phần ba, trước nói khách đến không dời, giống như trên rất dễ thấy. Nếu phân chia trở xuống là chọn chẳng phải chỗ. Nếu có trở xuống là dự định. Trong luật vì có Tỳ-kheo thấy A- luyện-nhã hang cốc tốt liền khởi niệm rằng ta sẽ an cư ở đây. Sau đó, các Tỳ-kheo khác thấy vậy cũng khởi niệm rằng đến ngày 16 cùng đến trụ xứ chật hẹp nầy. Đức Phật cho phép trước phải tác tướng mà trụ, tức ghi rằng Tỳ-kheo… muốn an cư ở đây, nói ở đây dường như không chia phòng. Như hang động, am xá trong núi, chỗ lập riêng đó có thể tự nêu giới nhất định, tăng phòng tự thực hành pháp phân chia. Theo lý thì không có dự định chiếm nên gọi là diệt. Bỏ thì ngại người sau nên diệt tức là trừ. Ba nói về tác pháp. Trong phần lập giáo có nêu bốn duyên Đối thú, trong bổn chế thực hành bình thường, ba duyên còn khai tâm niệm khai không người. Vọng thành khai phi tâm, cập giới khai chạy đến. Trong phần đối thú, trước đã nêu trong phần an cư, chung cho các giới nghĩa là tác pháp trong giới tự nhiên hoặc xóm làng, lan-nhã hoặc tăng phòng, Tục xá đều an cư chung, nay trở xuống là nêu pháp nay lập. Trong phần xuất pháp, đầy đủ nghi thức, hai là nêu bày pháp, y theo số chia làm tám. Câu đầu là nói sở y, chứng tỏ không có tưởng khác. Con… là chẳng phải người khác. Y chỗ… là quyết định chỗ đã nêu. Trước đã chọn chẳng phải sau. Trong ba tháng: chung một tháng khác là khai chế. Hạ là trừ mùa Xuân, mùa Đông. An cư là chọn không phải dạo đi. Phòng xá, v.v… là sắp xếp duyên trợ giúp. Nói ba lần là tiêu biểu không lầm lộn. Trên nêu bổn luật, kế dẫn luật Ngũ Phần tiếp tục thành đối đáp. Người kia tức người được được đáp, không buông lung là lời răn nhắc. Đáp: Thọ trì là nói phải suy nghó kỹ, sau dùng nghĩa thân vào. Trở xuống là dẫn luật Ngũ Phần, bổn tông gồm chế nương người. Y theo điệp từ ý khiến phải chuyên vâng hành. Nay phần nhiều chỉ tụng ba lời không theo từ khác. Theo lý thì nên y cứ theo văn là tốt. Trong phần chuyển đổi, văn trước y cứ một tướng để rõ. Chỗ đã nhiều, khác nên phải tùy đó mà thay đổi. Nói sắp xếp là chỉ hạn cuộc về tăng phòng không chung những chỗ khác. Bất trở xuống là khiển trách sai. Kia nói rằng nương chung một nước, một thành thì chỗ rộng dễ bảo vệ. Nhưng hạn chế nhiếp tu thì chật hẹp càng tốt. Như trên đã dẫn luật, há không ngại đầu chỗ ngồi dung được đầu gối, đâu có sợ mất mà chung một nước ư? Vì sợ không biết bắt chước nên phải chỉ phá. Trong phần hỏi đáp, ban đầu có ba, trước chỉ chung chế ý. Trước người trở xuống là nêu riêng ba đời. Nếu trở xuống trở lại nêu bày sai trái. Nếu y cứ theo mùa an cư nhiếp tịnh tu đạo mà lại khiến làm việc kinh doanh là trái với bổn giáo, bậc hậu hiền có trí phải cầu ý chỉ này. Kế, trong phần hỏi đáp về năm thứ trì luật. Vả lại, y cứ về văn tụng nhiều ít thứ lớp. Nhưng bốn món trước phải giải nghĩa để hiểu rõ về trì phạm mới y theo đó thực hành. Trong phần suy cứu câu đầu là răn bảo. Năm phần trở xuống là giải thích. Trước dẫn chế pháp của Ngũ Phần. Có Tỳ-kheo tức là nói duyên khởi. Nãi trở xuống là lập chế, đến chỗ kia là nói gần gũi. Nếu phòng trở xuống là nói ở xa hướng về y chỉ. Nhược dó trở xuống chép: Đi đi lại lại. Gặp duyên sự tùy đó kết thành; thỉnh pháp nhân duyên chớ không phải tâm khinh mạn. Y cứ trở xuống: Vẫn thành tiền an cư. Kế dẫn chế phạm của Tứ Phần. Tướng tội theo thứ lớp giảm xuống, trong văn có thể hiểu. Trung an cư, trước là nêu. Luật trở xuống là giải thích có năm tiết. Câu đầu chỉ cho luật, có danh tức thêm ba: Tiền, trung, hậu. Không pháp tức trong kiền-độ chỉ nêu hai vị tiền và hậu. Thế trở xuống chỉ cho xưa. Song trở xuống là nghĩa lập. Hai câu đầu y cứ tên thêm ba, nghĩa là do có ba thời cho nên nêu ba tên, dùng tên để hiển bày thời nên nói là phân biệt. Ba câu kế quyết đoán nghĩa kiền-độ đầy đủ. Vì thế có thể nêu lập chú thích dẫn lượng của bình bát, văn trong luật chỉ nêu hai phẩm thượng, hạ cùng với nay có giống nhau chút ít. Ưng trở xuống nêu pháp đã y cứ về vách núi (hang núi) nên trừ việc tu sửa. Ắt trở xuống là tuy là xưa, những lời chú thích trong Yết-ma y cứ theo luật chỉ nêu hai pháp tiền và hậu. Trong lời sớ, cái gọi là chẳng ai không hướng về tiền an cư vì đều gọi là hậu. Trong hậu an cư trước nêu sau giải thích. Câu đầu là định ngày. Đồng trở xuống là chỉ pháp giống và khác. Trong tâm niệm là chú thích chỉ bày khai duyên. Đương trở xuống là nói về nghi thức. Trụ trở xuống khiến sửa đổi vọng thành: Trước giải thích danh tướng, thân đã ở trong giới không chỉ có việc kiết thêm. Phật khai thành hạ nên nói vong thành. Luật trở xuống là dẫn bày. Bốn pháp trong luật thứ lớp thuận nhau, cho nên chỉ cho tâm niệm là vọng, phải quên đối thú, lệ cũng đồng khai. Vì thế biết trở xuống y cứ quyết định. Đầu nêu văn hạn cuộc, vì luật duyên khai bên ngoài đến. Ắt trở xuống hiển nghĩa thông, chỉ y cứ về yêu cầu tâm không hạn cuộc trong ngoài. Trước nói Tỳ-kheo cựu trụ có yêu cầu cũng chung, sau nói Tỳ-kheo khách không yêu cầu lại không chung. Nói vì sự là riêng có công vụ chẳng phải vì yêu cầu. Trong cập giới, sớ chép: Giới là nhiếp nhập vào giới của tăng, viên là vườn của tăng-già-lam (lam là tiếng Phạm, viên là tiếng Hoa tức là cái sân), ở đây phải lựa chọn. Nếu tăng-già-lam hẹp, giới rộng và tăng-già-lam bằng giới gồm y cứ về giới mà nói. Nếu tăng-già-lam rộng, giới hẹp hoặc không có giới thì y cứ về vườn mà nói. Luật y cứ tăng phòng, y cứ nhà thông tục, ở đây gồm thâu bốn thứ. Sớ chép: Vườn và giới cả hai có đôi và chiếc (nghĩa là vườn và giới đều có đôi và chiếc (hai và một) viên thành bốn). Hỏi: Chiếc (1) đã đủ thành thì cần gì phải đối mới đủ? Đáp: Trong luật vì duyên khởi tùy thời cơ hoãn gấp trước hai sau một thứ lớp khai đó. Đã y cứ một cũng thành hai thì vô dụng, do đó trong văn chỉ nói một chân. Sau chỉ rộng, sớ chép: Sở dó một chân vào giới minh tướng xuất hiện thì thành: Do cấp thiết không rảnh để khai không kết thành. Lại hỏi: Hai chân vào giới thành bại đối nhau, chưa biết một chân vào giới có được xếp vào tiền an cư hay không? (bại là phá hạ). Đáp: Cốt yếu phải hai chân ra khỏi giới phá do tiện lợi hơn nên nếu một chân ra khỏi thì phá, một chân vào không thành, đều có hại có người tu hành, không gọi là khai chế thì rất có lý. Kế nói phần chứng, tức bốn pháp trước y cứ vào bốn vị thời, xứ, nhân, pháp gồm thâu vì khiến cho chẳng thông lạm. Đầu tiên y cứ về thời, nghĩa là bốn pháp trên thông tiền, trung và hậu an cư, một thời có bốn thành mười hai. Kế y cứ về xứ thì có giới tự nhiên và giới tác pháp đều thông an cư thành hai mươi bốn. Lại y cứ về người thì có năm chúng, mỗi chúng có hai mươi bốn thành một trăm hai mươi bốn thứ an cư (trong sớ lại chia cập giới là bốn thành bảy pháp, trải qua ba vị thành hai trăm mười món, mô phỏng theo trên sẽ biết). Trong phần y cứ pháp, văn trên bốn pháp đã chung ba thời, không lặp lại ở đây. Nhưng đối với pháp khác nói chung, hạn cuộc khác nhau, nên phải chọn lựa. Trước nói đối thú tâm niệm chung có ba, có thể biết sau nói vong thành cập giới dẫn lời giải khác. Trước giải hạn cuộc khai tiền hậu, trong lời chú Yết- ma cũng nêu nghĩa này. Lại trở xuống, kế giải thích hạn cuộc khai hậu an cư. Gồm trở xuống là kết đoạn. Nay y cứ theo ý của Tổ đều chung ba thời. Tùy theo ngày kiết hạ, tùy ngày mãn hạ mà thọ tuổi. nghĩa là không bị bít lấp nên xem hai lời giải thích, theo gấp thì tốt. Nhưng trong bổn luật chỉ nói bốn pháp không chọn lựa tiền hậu, vì thế nói là đều sai. Hỏi: Hai pháp vong thành và cập giới là gia pháp phải chăng? Đáp: Y theo lời sớ cũng phải trình bày, nhưng hạ thành ở trước, gia pháp ở sau, không dùng gia pháp kiết trước. Lời sớ chép: Vọng thành, cập giới chẳng được sau dùng gia pháp làm gì? Đáp: Chế khai nghĩa lập thế nào mà không có được (thẳng được là khai, gia pháp là y chế). Khoa thứ hai trong phần gặp duyên, theo luận thì thọ nhật phải ở trong pháp phụ, nhưng ra khỏi giới gặp nạn, lỗi khác nhau nên ở đây nói mà thôi. Trước dẫn luật khai tức khai hai nạn. Trước gồm nêu nạn phạm hạnh trở xuống là giải thích riêng. Đầu tiên giải thích nạn phạm hạnh: Lược nêu dâm dục và trộm cắp, còn các giới khác y theo đó có thể biết. Đất có phục tùng dung chứa sinh vật trộm lấy thì phạm. Hai trở xuống giải thích nạn mạng sống. Phật trở xuống chỉ bày khai. Kế là trong phần nói về quyết định, cầu đầu khoa đầu lập trước. Tùng trở xuống chính chia làm hai. Trước nói cầu xứ y cứ về tâm để nói thành phá. Nếu được suy xét hai là nói được xứ; y cứ về duyên để phân biệt chung và không chung. Pháp tùy theo thân, nghĩa là xứ có trước sau, pháp vẫn nối tiếp. Ra khỏi giới liền phá nghĩa là y cứ vượt qua đêm. Kết thành sau giải nghĩa là pháp đã tùy thân không cần phải tác pháp, chỉ hướng đến chỗ đó tâm dừng trụ gọi là kiết mà thôi. Duyên và pháp: Duyên tức nạn việc, pháp là thọ nhật. Trái lại, không duyên pháp thì phá hạ. Trong phần lập nghĩa chứng, khoa đầu văn dẫn có năm. Năm chia thức ăn không đủ vì đạo duyên thiếu. Thân ưa thích khổ vui nghĩa là khổ thì sinh buồn phiền, vui thì sinh đắm nhiễm, cả hai đều có ngại cho đạo. Luật Thập Tụng trở xuống chỉ cho ba văn, luật Tứ Phần cũng vậy, nghĩa là tức như trên người, trâu, v.v… năm chỗ theo đó giải thích. Trong phần nói về luận, trước nêu chung tám nạn đồng nói trong giới. Sớ trở xuống giải thích riêng hai nạn. Không trở xuống hai câu là kết chung các văn. Kế, là trong phần nói quyết định, trước dẫn văn quyết định. Ma-di tức Mẫu luận, chính là nói Ma-đát-lý-ca, Hán dịch là Bổn mẫu, vì thế lời chú trong Yết-ma chép: Tỳ-ni Mẫu cho rằng: Dời hạ không phá an cư, các bộ khác không có văn khai như vậy. Tứ Phần trở xuống là y cứ nghĩa quyết định. Ba, trong luật dời hạ, đã được thọ y thì thành hạ. Trong Tạp Biện, khoa đầu vọng thành không thọ nhật nghĩa là vì trong phần năm trăm lời hỏi có khai văn nầy. Hỏi: Dùng lời dẫn đó. Trong lời đáp, trước nói khai nghĩa là đây thật mê tâm, cho nên khai nhớ nghó hối hận, nếu có thủ cầu thì không phải ý của lời dạy. Nhất tọa trở xuống là chỉ bày chế, do dạy quá hoãn nên phải có giới hạn. Quá ba lần sám hối dầu thật cũng phá tướng chỉ bày nhớ nghó hối hận. Tức phản giới nghĩa là mau thở ra vào bổn xứ, thọ nhật. Trong phần gặp nạn, sớ chép: Ngay ngày ra giới gặp nạn trải qua một đêm, ắt có duyên này, không có văn khai. Đây nghĩa là có việc, không có văn nên phải quyết định. Cao Tề tức Cao Dương ở Bắc Tề kia không phải là Tiêu Thị ở Nam Tề. Lúc bấy giờ, Phật giáo rất hưng thịnh, Chiêu Huyền Ty lập luật đức mười vị đề thống lãnh tăng ni trong nước, gọi là Chiêu Huyền Thật Thống. Hỏi: Đã có chính lượng đâu được tính theo người? Đáp: Các sư đã bình chuẩn các văn ở trước: dời hạ và thọ nhật gặp duyên không đến thì không mất, phải chuyên thủ hộ mà chẳng phải lỗi của tâm, xét về tình thì đáng xót thương nên cho phép khai. Sớ chép: Cao Tề Thập Thống, có lòng thương xót từ bi cứu giúp chung, may mắn, do đó ung dung phạm thì mất hạ, đâu có nghi ngờ gì. Trong phần nói lợi trở xuống, là sợ cho rằng an cư thân phải ở trong giới, không khai nói hội nên phải hỏi để giải quyết. Đáp: Dẫn hội y lệ đồng với hội hạ. Luật kia nói y giới không lập thế phần nên thân vào trong giới mới thành. Trong phần già-lam và giới rộng hẹp, trước nói y giới có hai: Một là minh tướng hiện phá hạ là nói riêng y thành mất. Hai là vượt thủ văn nếu căn bổn trở xuống: Nói thông y không mất, do khi kiết không biết giới khác nên chung kia đây. Nếu y trở xuống là hai nói y tăng-già-lam cũng có hai: 1- Nói già-lam rộng, giới hẹp hoặc già lam và giới bằng nhau, nói không mất do đã có giới, trước đây y theo giới, nay y theo già-lam nên phải chú thích để rõ. Nếu y giới nội trở xuống hai là nói già -lam hẹp giới rộng hoặc sân riêng, phòng riêng. Tiểu giới cũng như vậy: Nếu kiết riêng một phòng y, phòng an cư, mà ra ngoài cửa thì liền phá an cư. Đều nghĩa là trở xuống là tổng kết. Nói hai mất là y giới, y già-lam đều có một mất, một không mất, tức y cứ về bổn tâm có trái, không trái nhưng chẳng phải nói văn nên nghĩa rộng, giới phần nhiều rộng nên hoãn, phòng hẹp nên gấp, ắt có người dừng nghỉ trong đại giới. Tự ý y phòng bỏ hoãn, theo gấp càng phù hợp với ý chỉ lời dạy. Trong phần gặp duyên bỏ đi có hai nạn tức nạn mạng sống, nạn phạm hạnh là duyên của mình, phá hòa tăng tức duyên theo người. Trong luật nói bổn xứ vì ta ở cho nên phá, giới khác vì ta đến cho nên hòa, vì có hại đến việc quan trọng nên đều khai đó cho. (tranh kiến tranh hoại) ở Tây Vực thì có nhiều còn xứ nầy ít có, nên nói là ít. Thọ nhật gặp duyên, dẫn trong văn, trước là duyên gần. Nếu trở xuống tức là nạn mạng sống. Văn trong luật Phật chế đều nói được tuổi, đồng như thân lưu ở trên nên nói đồng như trước. Trong phần nghĩa quyết định văn rất hoảng sợ xảy ra vọng thành nên phải y cứ gấp. Đầu là chính quyết định; hai là dẫn chứng có thể biết. Trong phần năm, Ca-đề chia làm ba: trước nói thời gian có hạn, ở đây cho là không có y công đức thường khai cho một tháng. Hai là giải thích danh nghĩa, dẫn luật dịch tên, văn chú thích giải nghĩa. Ba là chỉ rộng. Hỏi: Thiên sau đã nói rộng, vì sao ở đây phải chỉ bày lại? Đáp: Như nói về thọ lợi, tuy sau tự tứ được lợi nhưng hoàn toàn do công phu tu hành trong mùa an cư. Lại nêu hạ bốn tháng chế khai phần chừng. Lại ở đây nói không được y công đức, sau y cứ có y công đức. Nếu như vậy có y thọ pháp, ở đây vì sao không nói? Đáp: Vì hành sự thứ lớp hợp ở sau tự tứ. Trong phần giải giới, chương nầy có y là phá chấp xưa để dứt nghi ngờ sau. Vì không liên quan đến chừng hạn hạ nên nói rằng nhân đó nói. Vì trong kiền-độ y Ca-hy-na nói rằng: An cư rồi có bốn việc phải làm: Nên tự tứ. Nên giải giới. Nên kiết giới. Nên thọ y công đức. Trước dẫn trong Mẫu luận cũng nói như vậy, cổ sư y cứ theo đây nên có vọng giải thích. Trong phần dẫn xưa, trước nêu chấp kia. Sớ chép: Có người nói rằng do nương vào giới nên thành an cư, nếu giải bổn giới liền phá hạ. Do mất chỗ nương ngay trong ngày đó tuy kết cũng không thành tựu, vì thế văn nói an cư xong phải giải giới, chưa xong mà giải nên biết là sai. Đây trở xuống nạn phá có bốn: (1) Khiển trách quên, luật trở xuống (2) Hiển chính, trước lặp lại văn luật, vì trở xuống là nêu bày ý. Nhưng văn không nói rõ đến nỗi khiến cho hiểu lầm. Nên y theo luật Thập Tụng, văn nói về y công đức mới quyết nghi. Rộng trở xuống là chỉ khai. Tam thập ngũ chép: An cư rồi chúng đông, tăng phòng cùng kiết một giới thọ y công đức có được không? Đáp: Tất cả đều được thọ. Lại trở xuống. (3) Dẫn chứng. Cựu ký chép: luật sư Chỉ thủ không phải hạ bèn hiển có chỗ làm riêng, văn không chỉ nghĩa giống ở trên, cổ trở xuống. (4) Dẫn nạn: người xưa nói: Đã bị các bậc cổ đức đời trước nạn phá, nay lại dẫn dùng. Trong sớ chép: có người nói là đây. Trước dẫn luật rằng an cư rồi phải giải giới, phải tự tứ, hai văn chẳng khác nên dẫn chung như vậy. Luật chung ba ngày, tự tứ chưa hết ngày 14, 15 đều thành, và trung gian cùng hậu an cư tùy theo tiền an cư cũng tự tứ nhưng phải ở cho đủ ngày, dùng đây chung nên biết, giải kiết không phá hạ, văn gồm, v.v… là không giải kiết hết. Nếu nói rằng không phá hết, thì tự tứ lẽ ra cũng phá, tự tứ đã không phá thì tại sao giải kiết lại phá? Câu trên chỉ bày văn đồng, câu dưới nói nghĩa hợp phá thì đều phá, thành thì đều thành, không thể chỉ có một phá hoặc thành. Vì thế sớ lại nạn rằng: Như trong giới nhiếp y vì giữ y nên giải lẽ ra cũng mất chỗ nương, liền ngày nói lìa, nhưng chưa trải qua đêm không nói lìa y. Hạ cũng đồng như vậy đâu được phá (trước nói giải giới liền ngày phá hạ không trải qua đêm, nên có câu hỏi nầy. Nay trong giải, hai câu đầu phán định. Nhưng trở xuống nói trước sau rộng hẹp. Trước sinh khởi, nhược trở xuống là nêu tướng, có hai. Đầu tiên là nói y giới trước hẹp sau rộng. Tăng-kỳ nói giới tránh nạn rộng mỗi bề ba do-tuần. Hỏi: Trước rộng sau hẹp là nương chỗ nào? Đáp: Y theo giới tự nhiên cũng nên nương theo từ hẹp dần dần rộng thêm. Nhược trở xuống hai là nói y theo già-lam. Lại có sư nói rằng trong giới tự nhiên an cư rồi kiết giới thọ nhật, mất giới tự nhiên cũng phá hạ. Nạn rằng: Vốn y theo giới tự nhiên kiết hạ còn thành, nay kiết giới tác pháp ở giới cũ, đâu được nói rằng phá hạ. Do không lìa giới nên đây không nêu lời xưa, bày thẳng ý nầy. Trước nói sau hẹp, nếu trở xuống là nói sau rộng, hai duyên thì có nạn không nạïn (xưa nói: Lời chú văn trước thuận với xưa, y theo đây biết sai). Trong phần thọ nhật nêu ý, trước nêu khai ắt trở xuống nói chế, vọng trở xuống hiển bày lợi ích. Ở Tây Vực chia vật nhiều là tùy theo số tuổi hạ, ở đây cũng vậy, nên nhiều hơn đây. Khả trở xuống là sinh khởi. Trong phần nêu phân chia, trước là so sánh ba pháp, sau chia ba khoa, chung với ba ở thiên trên. Khai riêng hợp chung hoặc bảy ngày, nửa tháng, một tháng thì hợp riêng lìa chung. Trong đối người dẫn hai lời hỏi. Trong luật Thập Tụng chép: Chỗ yxứ và chỗ đối người, chế hành thọ nhật không lìa giới, phải theo năm chúng đều hạn cuộc lời nói. Tỳ-kheo thì chung chúng tăng còn các chúng khác thì chỉ hạn cuộc riêng, vì không thực hành, khoa kế dễ thấy. Trong ba xưa chấp ba món thứ lớp thọ không được trước sau, nay thì trái lại. Các sư xưa chấp pháp nên không cho là sai, sư nay nghĩa duyên tùy duyên liền được cho nên khác nhau. Trong giải thích nghi tức xưa đã chấp. Sớ chép người xưa nói trước thọ bảy ngày sau mười lăm ngày, do văn nói rằng pháp thọ quá bảy ngày. Trong phần đáp nói rằng miệng nói lời hợp với thế tục khiến người dễ hiểu. Ba pháp là nửa gấp bội nửa; tháng gấp bội bảy ngày và một tháng gấp bội nửa tháng, cho nên biết văn có lỗi lặp gấp bội. Trong tướng nhiếp do pháp chúng là mạnh, pháp riêng là yếu, mạnh phải nhiếp yếu. Pháp dung ẩn hiện nên có môn nầy. Khoa đầu, trước nêu dụng xong rồi hiển, không phải chỗ luận. Bảy ngày trở xuống chính chỉ bày tướng nhiếp. Đầu lập nghĩa. Do trở xuống giải thích lý do. Luật trở xuống dẫn chỗ y cứ của văn. Khoa kế, trước chính thức nêu bày. Tỷ trở xuống là khiển trách sai. Trên theo xưa, không hiểu ý nay. Trong sớ có nêu người nói nay chính giải thích rằng: Nay giải thích không đâu chẳng phải lý nầy. Chỉ là một duyên không được có hai pháp tốt xấu, có thể như trước chế (trước y cứ duyên khác nay không chấp). Nay trước sau duyên khác nhau đều y theo thọ nhật. Pháp trước giúp sự, sự chưa dứt làm sao mất pháp được? Nếu bị bịnh hoạn thì phải uống sữa, dầu. Đối duyên có tám môn: 1.Nói duyên chung khác, chia làm hai: Trước nói đúng pháp; nếu trở xuống là nêu phi pháp. Nói vọng số nghĩa là chẳng phải duyên thọ nhật trái pháp phá hạ vì không thành tuổi nên dẫn chứng có thể hiểu. Nhưng chỉ mất lợi, nếu bậc thượng trung hạ thì không thể loạn. Pháp truyền rằng: Hễ người phá hạ chỉ không được hưởng lợi dưỡng chứ đâu phải khi xưa thì được cung kính nay lại khinh thường, vì thói quen thành tục vốn không có bằng cớ. Tuy văn không nói mà đối với lý thì đủ. Tự duyên cũng có hai: Ở đầu nói đúng; nếu trở xuống nói sai. Ở đầu nói nhiều thứ ác cầu; Túng trở xuống là nói việc buôn bán tốt. Tuy vì Tam bảo mà tìm lợi, mua bán cũng thành phi pháp, chỉ rộng như ở sau. Tức trở xuống trong phần năm duyên đầu hoặc giới mua bán ở quyển trung. Trong duyên Tam bảo có hai: Trước dẫn văn chỉ bày; y theo đây trở xuống dùng nghĩa quyết định. Trước nói đúng pháp cho nên khai, chùa lớn là chọn lựa chẳng phải tự mình. Các chỗ: Chung cho Tam bảo. Nếu từ trở xuống là ví dụ, nêu ra phi pháp có bốn điều khác nhau. Chịu làm thuê mướn; cập trở xuống là vì mình; hoặc trở xuống là vì thế tục; tướng trở xuống là vì tăng, gồm kết chung bốn món. (2 4 4) Trong duyên thứ hai, trước phán định đúng sai; tổng trở xuống là nhiều tướng không nêu ba thứ nầy: Trong bệnh gồm thâu gặp nạn; thọ giới, bố-tát, làm phước, cúng dường, hỏi nghi thỉnh pháp đều là sinh thiện; sám hối tức diệt ác. Luật Tứ Phần trở xuống dẫn duyên tướng, Tứ Phần lại nêu ba món, như ở sau sẽ dẫn đầy đủ. Trong bộ Thập Tụng có tám món. Làm phước là đào giếng, làm cầu, rộng cứu giúp chúng sinh. Nhược tức có thể thỉnh riêng. Phần bốn người có lòng tin cho phép đến. Sau nói: Trong bộ Thập Tụng nói rộng trong phần bốn tức là văn nầy. Nhược trung trở xuống là nói thời lượng đã thỉnh. Trong phần ba, trước dẫn luật; trở xuống là nghĩa quyết định. Ân trọng của cha mẹ, thế lực của Đại thần, vì thế tuy không có lòng tin cũng cho phép đến. Còn người khác trái với đây cho nên chọn người có lòng tin. Sinh phước là việc, tin ưa tức là tâm. Có năng lực sinh lòng tin nghĩa là người khác có đạo hạnh thì có thể. Trước tuy không có lòng tin, nhưng sẽ cứu giúp nên khai cho đến (xưa giải thích người kia có năng lực là sai). Trong phần bốn, trước như pháp lại có hai: Thọ pháp và đi ngay. Nay trở xuống là khiển trách vọng hành (luống thực hành), trước nêu lỗi, tuy vì y và thuốc mà tìm cầu bên ngoài, nên nói là vọng. Chuẩn trở xuống là nêu đoạn, trước đoạn lỗi xin y, giới biết đủ thứ ba mươi, giới thứ bảy thật vì y bị đoạt mất, hiện thiếu ba y, không cho hoàn toàn thọ nên nói là huống. Nay trở xuống là bày lỗi. Xả chế nghĩa là thiếu pháp phục. Thủ chính là chứa tài vật dư. Ắt trở xuống nói cho phép chung. Xin y tức là giới thứ sáu. Kế đoạn xin thuốc, tự mình thiều hoặc chỗ xa cần hai duyên này mới nhập vào khoản khai cho. Trong phần năm, đầu tiên dẫn văn. Do ta đấu nên sinh ra sự tranh. Phải là ta hòa nghĩa là diệt sự tranh cãi. Nhưng trở xuống so sánh nghĩa riêng hiển sau hòa khiến cho y đó thọ nhật. Câu đầu là phát ra, câu sau là thâu hẹp lại, nghĩa là duyên trước không cho phép để nương theo. Việc đi ngay có kỳ hạn nào ngại gì phải đến. Luật khiến đi không đi thọ nhật không được, vì thế nói rằng chính đoạn. Trong phần kết khiển trách trước là dẫn văn khác chứng chung như pháp. Văn trong luật, câu đầu nói chế, trừ trở xuống chỉ bày khai cho, y bát, v.v… là giải thích các nhân duyên khác ở trước. Nay trở xuống là ngăn vọng, đầu tiên là khiển trách việc cầu xin, trên nói việc làm luống dối trái pháp. Túng trở xuống là chỉ bày sự thật cũng sai. Trong giới xin y, nếu bị cướp đoạt mất thì được xin y. nếu xin ngũ cốc đều kết tội Đột-cát-la, vì thế nói là luật kết chính, như hiện tượng chỗ đã nói. Hoặc trở xuống khiển trách mời thỉnh. Như các việc phúng điếu, chúc mừng, nuôi bệnh, hỏi thăm (thư sớ vãng lai ý linh triệu mạng chủ loại thị giả). Luật trở xuống chứng sai, đồng với Thập Tụng: Như tám duyên trước, từ trước đến nay năm duyên là tổng kết văn trong luật, các duyên đều như vậy, chỉ có trước sau không thứ lớp. Nay tùy theo thứ lớp để dẫn như sau: Trong luật, nhân vua Ba-tư-nặc bị nước lận cận làm phản, vua ra lệnh đem quân đánh dẹp. Những thứ nhà vua đã cúng dường cho Phật và chúng tăng như y phục, thức ăn; các đại thần không tin pháp liền tước đoạt hết. Các Tỳ-kheo muốn đến tâu lên nhà vua nhưng đường sá xa xôi Đức Phật khai cho thọ nhật (việc của Phật, tăng). Có Tỳ-kheo tụng sáu mươi bộ kinh, vì tìm người đồng tụng nên Đức Phật khai cho thọ nhật (việc của pháp). Vua Ba-tư-nặc đến dẹp giặc ở nước lân cận, các Đại thần không tin Phật pháp bèn đào kênh (rạch, sông) cách tinh xá Kỳ-hoàn (nghĩa là từ Tinh xá Kỳ-hoàn đến chỗ vua phải qua kênh (sông) này. Tỳ-kheo muốn đến tâu lên vua, Đức Phật cũng khai cho (việc tăng thuộc duyên Tam bảo ở khoa trước). Có đàn việt muốn thỉnh Tỳ-kheo đến cúng dường, tỳ-kheo tự nghó rằng nhà đàn việt này ở quá xa không thể trong ngày trở về được, Đức Phật chưa cho pháp có nhân duyên như vậy mà được đi, nên các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy cho phép được đi bảy ngày (về sau, các duyên đều đồng như ở đây nên không dẫn lại) nhưng không nên vì việc ăn uống, chỉ trừ các duyên khác. Tỳ-kheo ở nơi khác thỉnh đến sám hối tội Tăng tàn. 6- Tỳ-kheo-ni thỉnh đến sám hối tội Tăng tàn. Thức-xoa thỉnh sám hối, thọ giới (thọ sáu pháp) hoặc thọ Đại giới. Sa-di thỉnh thọ giới, Sa-di-ni thỉnh thọ sáu pháp (trong sáu pháp ni thọ lẽ ra thỉnh tăng chỉ giáo mà thôi, tức duyên thứ hai ở trên). Đại thần không có tín tâm muốn gặp, hoặc có ích, hoặc không có ích, Phật cho phép đi (hai việc). Đại thần có tín tâm muốn gặp, hoặc bị bệnh, hoặc buồn phiền, hoặc vì lợi ích (ba việc). Cha mẹ không tin ưa Phật pháp muốn gặp, hoặc không tin khiến cho tin, hoặc phá giới giúp cho giữ giới, hoặc xan tham khiến cho bố thí, hoặc không hiểu giáo lý khiến cho hiểu (bốn việc). Cha mẹ tin ưa nên thỉnh để gặp, hoặc bị bịnh, hoặc buồn phiền, hoặc có lợi ích (trên là cha mẹ cùng thỉnh, dưới là thỉnh riêng). Có mẹ thỉnh để gặp. Cha thỉnh để gặp, anh em (cùng thỉnh, thỉnh riêng có ba), chị em, hoặc bà con bạn bè cũng như vậy. Lại nói, nếu vì y bát, tọa cụ, ống đựng kim, thuốc men thì đến ngày thứ bảy phải trở về. Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo ở trụ xứ thấy có: Tỳ-kheo muốn phá tăng, nghó rằng vì ta mà phá tăng ư? Bạch Phật cho phép đi. Thấy Tỳ-kheo-ni cũng vậy. 3- Nghe Tỳ-kheo. Nghe Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Có Tỳ-kheo ở trụ xứ an cư, nghe Tỳ-kheo kia muốn phá tăng tự nghó nếu ta đến can ngăn, dùng lời nói khiến cho họ không phá tăng. Lại nghó, nếu tự mình đến hoặc không dùng lời nói của ta nhưng ta có người thân ở đó có thể khiến họ dừng việc đó, ta sẽ nói khiến cho họ dừng lại không phá tăng nữa, Đức Phật cho phép vì việc nầy mà đi. Nghe Tỳ-kheo-ni cũng như vậy (sáu duyên này, trong luật cho phép đi ngay. Lời sao có định kỳ hạn khiến thọ nhật, vì thế xếp vào năm duyên). Lại trong năm việc trên, thứ tư là vì mình, hai và ba là vì người, một và sáu chung cho mình và người. Trong phần ly hợp có ba: Một ngày trở lên là duyên bảy ngày. Tám ngày trở lên là duyên nửa tháng. Mười sáu ngày trở lên là duyên một tháng. Bảy ngày hợp: Sớ chép: nếu đều ba ngày hoặc xen nhau giảm thì có thể đồng bảy ngày kia đây gồm dùng. Như một là tám ngày, một là hai, ba ngày có thể hợp thọ nửa tháng. Sớ chép: hoặc họ Trương, họ Vương mỗi vị đều là bảy ngày không thể hợp dùng Yết-ma nửa tháng, do việc khác với người đã làm chỉ được trước sau thọ bảy ngày. Một là mười sáu ngày, một là hai, năm, cho đến mười ngày được hợp thọ một tháng. Như trở xuống dẫn hai trường hợp bao gồm. Ưng trở xuống ba nêu lời câu, tăng chung tăng riêng hai pháp dùng đó. Huyền thọ nghĩa là việc trước đúng như pháp kỳ hạn đã định, nhưng thời gian chưa đến dự đoán trước được thọ quá ngày mới dùng. Đều chỉ đúng pháp, cái gọi là duyên hiện chẳng phải mượn cớ. Ắt trở xuống ngăn sự lạm quá. Đầu nêu lỗi, do trở xuống nêu ý, việc sai sự thật Thánh giáo cũng giúp đỡ, cho nên nói rằng không truyền nhau. Sớ nêu bốn lỗi: Không thể cậy nhờ. Vốn không có duyên thật. 3- Không thể kỳ hạn. 4- Vọng nhận sự may mắn. Trong phần xen dùng chính minh, khoa đầu tiên y theo sớ. Bậc cổ sư không chia hai duyên vốn khác, được dùng lẫn nhau, ý nầy không phải như vậy. Như trong văn đã nói, trước nói duyên khác không hợp; ắt trở xuống nói bổn duyên khai được. Trong luật nghi chép: Nhân có Tỳ-kheo thọ nhật đến trong xóm làng, chưa hết bảy đêm, việc làm cũng chưa xong mà trở về bạch Phật, nhân đó Phật cho phép thọ hết những đêm còn lại. Bạch rằng: Con thọ bảy đêm đã qua hai đêm, còn lại bao nhiêu đêm đến chỗ kia, được ra khỏi giới. Vốn chỉ có một duyên nên nói rằng chẳng gọi là việc khác. Khoa kế, hướng về Tam bảo thì không, đối với các duyên khác với Tam bảo là bít (khác thông). Như trước làm tượng Thích-ca, sau làm tượng khác, tuy đồng Phật sự nhưng không phải thời gian trước; Pháp, tăng so sánh như đây, trong văn có thể thấy. Sau, trong một nhà, trước nói bít; nhược trở xuống là hiển bày thông. Như chỉ thọ kia thỉnh không nhất định, duyên khác nêu chung các việc, tùy theo đó mà làm, nên nói là y cứ theo tâm, v.v… Trong phần giải thích ngại, sợ nghi ngoài giới không khai nên có lời hỏi đầu. Hoặc cho rằng thỉnh tăng thứ lớp sai nên có lời hỏi kế. Hoặc nghi xả thỉnh chẳng phải duyên của ta nên có lời hỏi sau. Hai trường hợp thỉnh tức theo thứ lớp tăng mà thỉnh. Sau nói tăng thứ lớp được nghĩa là do thí chủ tâm buông lung cho nên nguyên tức là bổn. Trong phần thọ lại, xưa giải theo sớ rằng: Có người nói an cư lập hạnh tu đạo làm tông chỉ, có duyên gấp được khai ba. Do khi có việc cứu giúp nào được thọ lại, không có lý nầy. Vì thế, trong Thập Tụng vì việc phá tăng cho phép thọ một lần bảy đêm, không được hai lần bảy đêm, cho đến ba mươi chín đêm là phá hạ, nói ở văn nầy (trở xuống chỉ cho hòa tăng tức ở đây. Kia chỉ có hai pháp bảy đêm và ba mươi chín đêm không đồng với luật Tứ Phần). Khai ba pháp là: Không cho thọ lại. Sai không thành: Không cho trước sau loạn. Kia cho rằng: Trước cần thọ bảy ngày, kế thọ nửa tháng, dầu duyên bảy ngày cũng xin nửa tháng, một tháng cũng như vậy. Ba pháp dùng đủ. Hoặc có duyên gấp phá an cư mà đi, thì không khai. Đây do không hiểu thọ nhật tùy theo duyên tác pháp ý cứ theo thật, vì thế có chia ra ở đây. Trong phần nay giải thích, câu đầu trong khoa đầu là phán định, hai câu kế là chỉ rộng. Sớ dẫn xưa nạn rằng: Tu đạo là việc gấp đâu được chế trụ, có duyên đến tùy ý được khai. Nay lại nạn rằng: Như trước đàn việt thỉnh thọ bảy ngày, về sau có việc vì Tam bảo cần buôn bán vì sao không khai được? Nói biết cũng được. Đản trở xuống là chính lập. Lại ba, trước nêu lý. Do pháp thọ nhật vốn vì duyên mà khai, duyên đến pháp ứng đâu có chừng hạn là ba, không có trước sau. Vì thế biết người xưa đều không hiểu ý của lời dạy. Cố trở xuống hai là chỉ chứng. Hơn hai mươi: Như đã dẫn ở trước. Vả trở xuống là nêu văn cũng như trước. Trong phần dẫn chứng, trong luật Ngũ Phần nói tất cả đâu hạn cuộc một lần. Trong luật Thập Tụng, đầu là phá chấp không cho thọ hai lần bảy ngày. Đầu dẫn văn. Nhiều duyên: Như tám việc như làm phước,v.v… nêu ở trước. Tự mình như y, thuốc v.v…; vì người khác như thọ sám, v.v… Vị trở xuống là giải thích chung. Các Sư xưa chấp cho đây là y cứ nên phải phá. Hai lần lặp là duyên khác thân hai lần bảy đêm, đây là phi pháp. Sớ chép: Pháp thọ nhật kia chỉ có hai vị, đối thú bảy đêm sao lại gia thêm, vì thế không được hai lần bảy đêm. Không ngại trước sau đi cũng được. Nếu trở xuống phá chấp hòa tăng, như trên đã dẫn. Trước nói chấp kia nên nói dường như mà thôi, do dường như nên đến nỗi khiến cho hiểu lầm. Song trở xuống là đoạt, không thỉnh nghĩa là kia không sai sử, cũng khai được đến đồng như trong luật Ngũ Phần ở trước. Trong luật Tứ Phần mỗi việc sai thỉnh riêng tức là gấp. Trong đây lại y cứ hoãn gấp đều dùng nêu không hạn cuộc. Sớ chép: Hòa tăng dùng hai pháp đã phá an cư, đi là thọ pháp y theo giới hạn. Hai trường hợp trước có kỳ hạn nên khai cho tùy theo đó mà thọ. Đã dùng pháp hòa, diệt nạn về kỳ hạn thì biết dùng pháp gì đến kia hòa, vì lý phải phá hạ đây là chỗ khai cho. Trùng trở xuống là khiển trách chỗ y cứ khiến phải y theo lý. Trong Ngũ Bách Vấn, văn lý rất rõ. Sớ chép: Ty-ma-la-xoa khẩu quyết, người ấy dịch luật Thập Tụng đã có thông đây, nghĩa không nghi ngờ (luật Thập Tụng trước do Cưu- ma-la-thập dịch, sau Tỳ-ma-la-xoa dịch). Luận Minh Liễu được thọ nghĩa là được khai lại. Trong sớ giải, nghiệp sớ chép: Tuy thỉnh bảy ngày việc xong không trở về phá an cư phạm tội nhỏ. Nếu việc chưa xong được sáu đêm, ngày thứ bảy trở về, đến ngày thứ tám lại thỉnh bảy ngày, nếu sau không xong lại thỉnh bảy ngày nữa. Ở đây trở xuống là nêu người làm chứng. Chân Đế người ở Ưu- thiền Tây Ấn-độ, trong hai triều đại nhà Lương và nhà Trần đến đây dịch kinh. Ninh trở xuống là trách kia câu chấp. Một góc nghĩa là không thông biến, là bít lấp. Phật hóa vốn đích thân nghe đời Đường, ngài Huyền Trang từ Tây Vực về, Na-đề cùng đến, sắc chiếu cho Tổ sư đồng đến dự phiên dịch, do đó được nghe đầy đủ pháp của Trung quốc đủ làm chứng cớ, vì thế dẫn văn chỉ bày. Văn sau chỉ rộng, như trước lược dẫn, còn bao nhiêu như kia. Trong dài ngắn ba trường hợp: Cực hạn là dài, một ngày, tám ngày, mười sáu ngày là ngắn, trung gian dài và ngắn có thể biết. Trong văn tuy nói duyên ngắn bảy ngày duyên dài dễ biết, vì thế nửa tháng, một tháng y cứ theo đồng đó. Luật trở xuống là dẫn văn chỉ bày. Lập trở xuống là nêu lý do. Nhược trở xuống là giải thích sự nghi ngờ. Nhưng y cứ vào duyên dài biết tất phải đường xa. Trong tăng ni, văn trước pháp của tăng có thể biết, trong ni cũng đồng, vì thế phải phân biệt. Trong luật Tứ Phần và Tăng-kỳ văn có thể rõ. Không nói nhiều nghĩa là không nói hơn hai. Khoa kế, trước nêu lạm hành. Luật Tứ Phần trở xuống phán là phi pháp. Trong phần ba, văn trình bày hai nghĩa. Biệt duyên nghĩa là khác với duyên nhiều, vì thế phải có duyên sự lâu dài phải đến trước, hoặc cho trở về giới thọ lại bảy ngày khác, hoặc so sánh nạn duyên nghĩa chung đi liền. Trong việc xong, sớ dẫn xưa chấp rằng: Việc không về hạ cũng không mất. Cho pháp nên nay sư không đồng. Như văn chỉ bày, trước chỉ bày lý do. Thí giống như dùng. Hỏi: Việc xong liền trở về giới, vì đường xa phải trải qua đêm, không có pháp tùy thân lẽ ra phải mất hạ? Đáp: Pháp nương duyên mà sinh, duyên pháp mất, đúng kỳ hẹn trở về nhưng chưa về đến bổn xứ, việc còn chưa dứt nên không mất hạ. Hỏi: Việc xong pháp xong hoặc duyên chưa hết, kỳ hẹn đã mãn, vì sao nói mất hạ? Đáp: Luật Tứ Phần, Thập Tụng nói ngày đêm hai trường hợp sai khác nhau như ở sau tự rõ. Luận Minh Liễu trở xuống là dẫn chứng. Luật Thập Tụng không cho phép: Như trước nói: Giữa đường nghe có người chết phản giới tám nạn xảy ra thì không nên đi. Luật Tăng-kỳ đồng nghĩa là trước nói trung tiền hòa liễu, trung hậu trở về, v.v… Trong phần chính gia, văn đầu phần tâm niệm vốn là đối thú, do không có chỗ đối thú nên khai cho tâm niệm. Trước nói khai duyên. Ở một mình, v.v… nghĩa là lan-nhã, viễn hành (tức là ở giữa đường an cư), khi bệnh hoạn, đói khát, nương bà con. Năm duyên đều không có bạn, nếu có thì không khai. Nhược trở xuống là chính chỉ bày cách bạch cáo. Thập trở xuống là ngăn sự quá lạm. Có người chấp văn bầy cho là thông, xen nhau đối đáp, v.v… Nhưng lại ở đây y cứ trường hợp bảy ngày mà nói. Pháp Yết-ma một tháng không thông bốn trường hợp kia. Văn trước chỉ lựa Ni chúng, y theo lý thì Sa-di cũng giống như vậy. Trong phần nêu bày Sa-di trở xuống cũng không nêu ra, mà lại nêu bày đồng với tăng. Trong phần đối thú, thọ pháp chia làm năm: 1- Cầu người khác xem xét. 2- Nói lại tâm tư của mình. 3- Nêu hẹn không lạm quá. 4- Trình bày việc không luống dối. 5- Hẹn trở lại vâng chế. Trong phần chọn lựa phân biệt khoa đầu nói rằng: Y cứ trong Yết- ma bạch: Tức lời văn duyên khởi thuộc câu thứ ba, không đâu không thêm bớt, đối chiếu đó sẽ thấy. Khoa kế, trong phần chính minh, trước lập lý, bất trở xuống là phân biệt khác. Ở đời, hễ khi nói về bệnh thường là bảy ngày chuyển, thuốc không làm cho bệnh tăng thêm, cho nên giới hạn bảy ngày. Kế là khoa nghi, rằng: Bệnh chuyển có thể được, nếu không chuyển quá ngày, pháp lẽ ra phải tùy đó. Trụ còn như vậy. Đáp như trong luận: Tức phần nhiều đã thành, như bốn thứ thuốc đã dẫn. Trong lời hỏi đáp đều do đời xưa luống thực hành, vì thế đặc biệt phân biệt chỉ bày. Trong lời đáp, câu đầu là nghĩa quyết định. Đây chỉ y cứ về đêm thứ bảy mà nói, chẳng phải cho rằng gồm sáu đêm trước. Dó trở xuống là giải thích lý do. Văn nói bảy ngày, hai trường hợp khác y cứ đồng. Hựu trở xuống chỉ cho sai. Lại phần hai, trước chính khiển trách vọng thay đổi. Diệc trở xuống do đó bác bỏ lạm dụng. Đàm-đế Yết-ma sau tùy đó đưa ra pháp sự, việc xong, có người không hiểu lời dạy liền dùng đó. hiện. Hỏi: Hai tôn mất thọ đồng khác nhau như thế nào? Đáp: Mất pháp thì khác, phá hạ thì đồng. Luật Tứ Phần nói thọ nhật, ngày hết thì mất. Luật Thập Tụng nói thọ đêm, đêm hết mới xong. Và luận về phá hạ đều y cứ ngày thứ tám khi minh tướng xuất Sớ chép: Đêm thứ bảy minh tướng chưa hiện thì thuộc về đêm trước, khi minh tướng xuất hiện thì thuộc về ngày thứ tám. Chế bảy ngày đêm phải về trong giới. Lại chép: Luật Thập Tụng cũng nói đêm thứ bảy phải trở về, trở lại đồng như luật Tứ Phần nào có khác gì. Hỏi: Các bộ luật lập pháp khác nhau như thế nào? Đáp: Luật Ngũ Phần có ba phẩm thì đồng với luật Tứ Phần. Luật Thập Tụng có hai: Một là pháp bảy ngày, hai là pháp Yết-ma ba mươi chín đêm. Bộ Tăng-kỳ cũng có hai: Một là bảy ngày, hai là việc Yết-ma xong, đây là pháp khác nhau giảm đồng, các pháp thì khác. Văn chỉ ở thiên sau, tìm xem đó có thể hiểu. Trong phần các pháp nêu bày duyên, trước nêu ra ý nay lại có hai: Trước chỉ bày duyên đồng tức Tam bảo, v.v… năm trường hợp ở trước. Vì thế, trong luật nói về pháp thọ bảy ngày đã nêu đầy đủ. Nửa tháng, một tháng đều chỉ như trên. Đản trở xuống nói về giới hạn sự khác nhau. Đây là nói duyên riêng chúng và đồng ngày giới hạn dài ngắn là khác. Không đồng trở xuống thứ lớp khiển trách lỡi xưa. Kia do duyên ngắn mà gia pháp dài. Sớ chép: người xưa dùng bảy ngày, về sau có duyên ngắn, thọ một tháng là sai, khiến cho phá hạ, cho nên biết có hai cách giải xưa. Thử trở xuống hai câu là chính khiển trách. Câu trên nghĩa là kết nghiệp, câu dưới tức trái với lời dạy. Dư trở xuống là chỉ pháp thọ lại ở trước. Trong phần lập pháp nêu chung bốn nhà. Đây cùng các văn khác nhau vì thế phải khéo léo nêu ra. Lời tựa sớ chép: Hoặc dịch riêng ra (Khải Sư); hoặc y văn luật (tức nay một nhà nương bổn mà tụng); hoặc y cứ theo nghĩa dùng (Quang Sư); hoặc dẫn theo chỗ y cứ duyên khởi (Nguyện Sư). Trong thọ nhật nói rằng trước sư gia đích thân xin (Khải Sư). Cho phép che giấu (Quang Sư). 3- Cho phép sáu đêm (Nguyện Sư). 4- Các sư cận đại không thêm lời xin (tức trong lời tựa thứ hai ở trước). Dùng hai văn nầy đối chiếu lại khác nhau. Như trở xuống là tự thấy. Chỉ hai nhà nghĩa là hai bổn của Khải Sư và Nguyện sư (xưa chỉ Khải, Đế Sư). Ban đầu, bổn của Khải Sư trước tiên nêu lời xin rằng: Đại đức tăng xin lắng nghe! Tôi là Tỳ-kheo… thọ quá pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng để ra ngoài giới vì duyên sự… vì thế nay trở lại trong giới nầy an cư (nói ba lần) bạch và yết-ma đồng lời sao nầy. Sớ chép: Đầu, người gia thêm lời xin Yết-ma không ghi ra sợ thành pháp của tăng. Đây là Yết-ma xưa. Kế là bổn của ngài Nguyện Sư văn nầy đã bị mất. Sớ rằng: Thứ ba, người chỉ cho pháp sáu đêm xin pháp nêu duyên, tụng sự đều xong (trong sáu đêm bạch pháp, trước nêu chỗ phạm, kế xin hành pháp che giấu, sau xin sáu đêm, đã ghi rất rõ). Ý rõ pháp xin đồng trở xuống là bổn của ngài Quang Sư. Bạch và yết-ma chỉ trong câu thứ tư thêm rằng: nay tăng cho Tỳ- kheo… thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng ra ngoài giới vì duyên sự nay trở về trong giới an cư. Vì thế nói rằng tụng sự đều xong (Tổ Sư nói: Bổn của Nguyện Sư không có lời thêm bớt, nghĩa là y công đức lập sáu duyên mà thôi, không phải thiếu pháp Yết-ma). Trong phần Sư thứ ba, ba câu đầu nêu chỗ đã lập kia. Lời sớ: Người thứ hai tuy chép lời xin, cho phép che giấu hai thiên (nghĩa là trong lời bạch thêm lần thứ hai nên nói là hai thiên). Phải thời đến trước tăng thêm lời xin, bằng lòng rồi sau có lược nêu việc, tác pháp Yết-ma cũng vậy. Đây hoàn toàn y theo bổn của ngài Đàm Đế, nay lược dẫn đó. Xin rằng: Đại Đức tăng xin lắng nghe! Tôi là Tỳ-kheo… ở chỗ nầy an cư xin thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày, hoặc một tháng ra ngoài giới vì duyên sự… xong việc sẽ trở lại trong giới nầy an cư. Nay theo tăng xin Yết-ma thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng, xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo… thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng, xin thương xót tác pháp Yết-ma cho tôi (nói ba lần). Trong phần chính gia thêm, bạch rằng: Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe! Tôi là Tỳ-kheo… ở trụ xứ nầy nhập hạ an cư xin thọ pháp bảy ngày, mười bốn ngày, một tháng ra ngoài giới vì duyên sự…, xong việc xin trở về trong giới an cư. Nay theo tăng xin Yết-ma thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng (đây là thêm lời xin). Nếu tăng phải thời đến, tăng bằng lòng, cho tăng nay Yết-ma cho Tỳ-kheo… thọ pháp bảy ngay, mười lăm ngày, hoặc một tháng (không thưa rằng vì duyên sự… cho nên nói lược sự). Trong Yết-ma, câu thứ hai trong duyên ghi lời xin trở xuống thêm rằng: nay tăng Yết-ma cho Tỳ-kheo… thọ pháp bảy ngày, mười lăm ngày hoặc một tháng. Cử trở xuống là chỉ lỗi. Đầu sinh khởi hai trước ít thấy nên không bàn ở đây. Đây đã thạnh hành phải biết là lỗi lầm. Nay trở xuống là chính chỉ bày có bốn: Trước là trình bày ý nay đề nêu lỗi xưa. Nội giống như nhập. Luật rằng trở về sau là y cứ theo văn mà khiển trách. Hữu trở xuống là nêu ra. Khiển trách khiến cho dừng trở xuống là khuyên phải nương pháp ở sau. Câu: Hỏi có được không là phá lời giải xưa. Sớ chép: Có người định phán nương thọ hạ phá hạ. Câu: Đáp rằng không mất, sớ chép: Xin tăng xin giảm đều có bằng cớ. (Ý rõ: Không đâu không phạm tội phi pháp). Sư thứ tư, sớ chép: Các Sư cận đại không thêm lời xin chỉ y theo bổn mà tụng. Xưa chỉ bổn của Nguyện Sư: ngài Nguyện Sư sống vào thời Bắc Tề thì không phải cận đại. Hỏi: Trong bốn phần trước, sao không nêu bổn của ngài Đàm Đế? Đáp: Vì bổn của ngài Đàm Đế đồng với ngài Quang Sư nên không nêu ra. Hỏi: Đã trừ lời xin, thì trong Yết-ma lẽ ra phải không trình bày bổn ý? Đáp: Lời sớ nói người xưa lập duyên thêm bớt, nghĩa là thọ nhật không xin, thiếu duyên thứ tám. Tổ sư nạn rằng: Thọ nhật mà không xin đâu không phải bảo rằng y cứ theo đây. Nay khi hành sự thọ phải đầy đủ nghi thức, đến trong tăng bạch rằng: tôi là Tỳ-kheo… muốn thọ pháp mười lăm ngày (hoặc một tháng) ra ngoài giới vì duyên sự…, xong việc sẽ trở về trong giới an cư. Bạch như vậy rồi mới thêm pháp. Trong pháp một tháng không được hai lần tụng, nghĩa là do trong bổn luật không nêu pháp. Dưới mười lăm ngày viết tiếp một tháng là dịch lược văn, ý khiến cho tùy trường hợp mà đổi. Thường thường người ngu y theo văn mà đọc, cho nên ở đây ngăn. Sớ chép: Mười bốn, mười lăm. Sớ lại hỏi: Sao nói là thọ một tháng mà không nói là quá nửa tháng? Giải thích rằng: Thọ pháp bảy ngày là riêng một người còn các pháp khác đều thuộc chúng pháp nên chỉ nói bảy ngày. Biết rõ hai pháp kia đều bạch nhị Yết-ma. Lại nói: Hoặc thọ nửa tháng số ngày đã đủ do gia pháp rằng mười lăm ngày. Hoặc thọ một tháng thì tùy tháng đủ hoặc tháng thiếu mà tính như thế nào, y theo tháng thiếu nên muốn chín ngày, vì thọ một tháng. Trong ba lựa chọn nói chung nghĩa thọ nhật an cư khác nhau, vì thế nói là Tạp. Khoa đầu nói mùa hạ nóng là duyên khác, ở đây lược nêu trường hợp khác để khai. Phải đồng duyên: Vì việc thuận tiện nên duyên khác không được. Sau chỉ chỗ nêu ra, song cùng với nghi thọ giới trong bộ Tứ Phần có chút ít giống nhau, cũng có thể nêu ra để làm tiêu chuẩn. Trong phần y xứ, y giới có thể hiểu. Trong phần y già-lam, văn đầu tức ở trước nói kiết hạ trước, kiết giới sau, cho nên trước nói không. Hai giới tức Đại giới và Giới tràng. Nói lìa y: Ở đây nói theo tác pháp nhiếp y, giới tự nhiên cũng không mất. Khoa kế nói là giới cũ nghĩa là nói trước đây đã có giới. Nói Phật chế: Tỳ-kheo ở trụ xứ Phật chế trước phải kiết giới, chế phải y theo cương giới đó. Già-lam có duyên chưa kịp kiết giới, hoặc y thôn, nhà, v.v… xứ có thể y theo giới tự nhiên, hoặc tăng phòng có giới thì nhất định phải y theo giới. Nay người hành pháp có giới, xứ khiến y theo già-lam mà kiết, thì giới tràng tiểu giới tới lui không ngại. Ý cho rằng: Y theo già- lam hoặc y theo giới tùy sở thích của mỗi người. Lại cho rằng văn nầy thuận với xưa (từ trước đến nay nêu ra ba xứ, nghĩa nầy đều là chỉ xưa, rất sai lầm). Kẻ hậu học đều theo thầy mù dẫn đường làm sao cứu được. Nói thu hẹp lại nghĩa là xả giới già-lam rộng theo giới hẹp được đúng ý lời dạy. Vì thế, trở xuống chỉ rộng: Lời sớ nói trước vốn không có giới y già-lam mà kiết. Sau nói rằng lập tâm hạnh: Hành hộ theo ý. nếu sau tác pháp cách xa giới tự nhiên thì chỉ y theo chừng hạn của giới tự nhiên. Đã không có nạn duyên thì không thể khai. Nếu kiết hẹp, bổn có nói y theo giới mới do an cư tùy theo giới tự nhiên trước để định, vì có tác pháp giới trước rồi. Ý trong Yết-ma an cư tùy ý, không cần kiết thêm. Trong phần kiểt chỉ, ở trên đã phán, người giảng vì các lời ký vọng cho rằng thuận với xưa, bèn nói đây là khiển trách xưa. Trên vọng lại thêm vọng, vọng nầy làm sao cùng tận. Vả lại văn trong lời sao, trước sau nghĩa bình nghĩa chuẩn, lời nói kia chẳng phải một há không phải văn đều không chấp. Giải thích tên nêu bày ý, văn rất rõ ràng. Hành pháp thông bít phải lược chỉ bày. nghĩa là: Người gồm năm chúng, pháp có ba bậc khác thời thì hạn cuộc xong hạ. Xứ thì chung hai giới, những điều khác thì ở trong văn. Nói tông yếu: Nếu luận chúng đồng trước nhiếp tăng đại giáo, đây là đồng thuyết giới, ngay nơi pháp [Hàng 10, Ô 1 - 247] là tông yếu. Nếu trị ác, khuất phục tâm kiêu mạn, tâm thanh tịnh càng tăng, các hạnh là hơn hết, ngay nơi hạnh là tông yếu. Như luật luận rộng lớn các thuyết phiền lụy, ghi chép những điều toát yếu làm thành một thiên thì ngay nơi văn là tông yếu. Ba ý đã giải thích đều thông. Sau, nghĩa thiện càng thiện. Trong ý tự tứ, hai câu trên ở khoa đầu là nối tiếp phần sinh khởi ở trước. Trong phong tục dùng mười ngày là một tuần. Nhân trở xuống chính nêu bày ý. Hai, là trước nêu ý. Vọng tình rong ruổi bên ngoài, tập quán từ vô thỉ không tự phản chiếu, thế nên phần nhiều mê muội. Kỷ túng trở xuống là nêu danh, hai câu trên nêu. Nội trở xuống là giải thích. Hai câu đầu giải thích sự buông lung trên nên mình phải phạm tội. Tức nói từ nghĩa mà thành tâm phát lộ tội lỗi, cho nên nói rằng bên trong nêu bày; thân ngồi dưới đất phát ra lời nói cầu xin sám hối, cho nên nói bên ngoài hiển bày, tức là ba nghiệp. Hột ngọc có vết gọi là hà, người bệnh nói là tỳ, đều để dụ cho người phạm tội. Thân trở xuống một câu là giải thích sự buông lung ở trước, tăng nêu tội, tức nêu bày nghĩa buông lung biếng nhác. Cho nên trở xuống là kết danh. Nói không cô độc là ba nghiệp nương vào người khác, vì không tự có. Hết lời là lời lẽ đã trình bày, do tự mình thuật lại tội lỗi của mình cho chúng nghe. Trước tức nói chế nương nhau, còn lại là sạch được tội. Hai, là y cứ có phạm, bốn tức không phạm. Ba là chung cho có không. Lại một là trước sau sinh thiện, hai trung là diệt [hàng 25, Ô 1 - 247] ác. Trong phần chế cuối hạ, câu đầu khoa đều là chứng cớ. Nhược trở xuống là giải thích, có hai: Một là trình bày không có ý trước, trên nói tâm đến nhóm họp là chí thành. Cốt yếu là chế, nếu nghịch trở xuống nêu bày lỗi đã nói nêu trước. Nghịch nghĩa là chưa xong nhưng nêu trước, Hai: Cố trở xuống nói phải nêu ý sau. Câu đầu lặp lại chứng cớ trước. Dó trở xuống là giải thích. Đầu nêu bày đem rải. Phương nghệ nghĩa là chỗ đã đến. Ắt trở xuống là nói lập pháp. Không riêng mình giảng nói nghĩa là vì mình quá mê muội, chướng đạo, v.v… nghĩa là phải sám hối. Cố trở xuống là kết ý. Khoa kế, luật luận đều nói rằng xong, chứng trên càng hiển. Trong luận nói trì giới luật, nghĩa là vâng theo giáo luật đã chế. Và các việc lành; Tức y theo hóa giáo. Hóa chế không trái vì thế nói là đều không hủy, v.v… Trong ngăn quá lạm, hai câu đầu tiên là chính danh. Khi trở xuống là bỏ đi sự lầm lộn. Xưa, người dùng thưởng công cao năm lợi, khai phá năm giới. Đây là mặc tình hủy phạm để lập tên kia. Ở đây trở xuống là nêu ý. Trong phần khai chương nêu lệ nói duyên tập nghĩa là định thời gian lựa người đều phải hợp giáo mới thành pháp. Nói tạp minh nghĩa là lựa chọn giải thích nghi ngờ không phải một tướng. Trong phần thời tiết hợp nhuận, trước nói tháng 4, 5, 6, nhuần. Ngày 1 5-7 y cứ vào người tiền an cư, người trung gian và hậu an cư phần nhiều tùy theo người tiền an cư, vì thí không nêu riêng. Không y theo nghĩa là kiết trước nhuần sau, đầy đủ như thiên trước, đây tức tùy theo xong hạ tự tứ không hạn cuộc thời tiết. Nhược trở xuống nói tháng 7 nhuần, không tính trước hạ. Mãn: Đây y cứ theo trung gian và hậu thì nhiều, tiền an cư nhiều, hậu an cư ít cũng tùy theo tiền, tác trụ đợi đủ ngày mà thôi. Trong thêm bớt: Bớt hai ngày trước, tăng hai nửa tháng sau, dụ cho không đi: Gượng khai hòa hợp đồng thuyết giới, vì thế chỉ như trước. Trong phần kéo dài ngày: luật nhân có các tỳ-kheo trong mùa an cư tinh tấn hành đạo được quả tăng thượng, sợ đi đến chỗ khác không được an vui, vì thế bạch Phật, Phật do đó cho phép tác bạch tăng ích tự tứ, bạch rằng: Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe! Nếu tăng phải thời mà đến, tăng bằng lòng cho tăng nay không tự tứ. đủ bốn tháng sẽ tự tứ, tác bạch như vậy. Trong phần nói rõ quyết định: trước định không nạn, nếu trở xuống là nói có nạn. Trong phần đầu có hai: Ở đầu dẫn văn để định. Trước nói trongluật: Tức kiền-độ Tự tứ chép rằng: Các Tỳ-kheo muốn ngày 14, 15 tự tứ, Phật nói: cho phép, kế dẫn thí gấp: Câu đầu chỉ chung một giới, câu kế chỉ riêng trong giới, giải thích y thời (y đúng thời) được chứa. Văn kia chép: Nếu trước tự tứ mười ngày (ngày mồng 6 tháng 7) được y thí gấp. Tự tứ xong rồi được chứa một tháng (không được y công đức) năm tháng (có y công đức, đây tức là trước khai mười ngày sau không thêm). Cho đến ngày mai tự tứ, hôm nay được thọ (15 thọ y, ngày 16 tự tứ, nên nói là ngày mai). Ngoài một tháng, năm tháng, lại thêm chín ngày (nghĩa là đầu tháng 7 được y, trước bớt một ngày, sau thêm một ngày, cho đến ngày 15 trước giảm chín ngày sau thêm chín ngày, vì thế nói rằng thứ lớp tăng). Đây nói ngày 16 tự tứ hợp với kiền-độ ba ngày nói trên. Dẫn trong tăng ba, luật chép: Có ba trường hợp tự tứ: 14, 15 và 16 (ngày 16 là ngày đầu tháng hắc ngoạt). Luật chép trở xuống là chính quyết định, đây cũng là văn trong kiền-độ, tuy chung ba ngày, hai ngày trước không xong, không phù hợp với ý văn, vì thế lấy ngày 1 6.Luật trở xuống hai là giải thích ngại. Đầu dẫn văn, đây xuất xứ từ kiền-độ ni sợ người cố chấp nên phải giải thích cho thông. Văn nầy y theo chỗ xa mà nói, chuẩn theo lý phải biết rằng: tăng ngày 15, ni ngày 16, lại nếu ni ở chỗ gần thì không nhọc gì phải cách ngày. Như trở xuống, trong văn đều nêu hai pháp. Thử trở xuống là chính giải thích. Hai câu đầu giải thích chung. Nói nương nhau, lời nói giải rằng: Tăng cầu phải trước lúc tự tứ, bạch chúng trị và nêu tội đã phạm, thanh tịnh mới được thọ ni. Vì thế trở xuống chỉ bày thông, hạn cuộc, đã thông ba. Nay lấy ngày 16 cũng không phải đặc biệt, nên nói là nhất kỳ. Chữ khắc cũng như chữ ước. Sợ người không biết trước tự tứ đã ra ngoài giới phá hạ, đời nay phần nhiều bị lỗi nầy. Từ lâu ôm trong lòng mùi vị giáo pháp, nghe đó nhưng không thực hành, thật đáng thương xót. Trong phần người đúng sai gồm có ba hạng. Đầu tiên trước kết sau phá. Hai là hướng về không phá. Ba kết có trung gian và hậu an cư. Sợ nghi hai trường hợp trên không đồng pháp nên ở đây phân biệt để chung thành ứng với lời dạy. Trong văn, trước nói hai trường hợp đầu. Luật Tứ phần trở xuống chỉ bày một trường hợp sau. Chỉ nói hậu tức là nghĩa gồm trung gian, cũng y cứ phải hướng đến tiền an cư gọi là hậu mà thôi. Trong phương pháp nêu ba người: Đối pháp tức là chúng pháp, đối thú và tâm niệm. Trong thêm có hai: Hai phần năm và sáu. Trong phần đầu, bốn môn đối trở xuống là năm người. Chỉ có môn thứ hai là sai người năm đức. Pháp đơn kép có sai. Ba môn còn lại đều đồng. Trong duyên khởi, khoa đầu có hai: Trước là chỉ phần chứng của người và pháp; Đương trở xuống là chính nói về duyên tướng, có bốn: Một là tác tướng; Kế từ các trở xuống là nói về trải tòa, còn lại là pháp sự, giường chiếu cả hai chung. Riêng tự tứ, ở đây chỉ nói ngồi dưới đất. Ba từ luật trở xuống là trải cỏ. Hai câu trên là ngăn lỗi, cậu sau là chỉ bày pháp. Không ở tòa nghĩa là đã có chỗ ngồi. Không ở dưới đất ng- hóa là giữ gìn thân và y phải dùng cỏ để nương. Nêu lìa tòa nghĩa là bỏ chiếu đến chỗ cỏ (xưa nói quỳ thẳng là sai). Nhưng không cho ở dưới đất, nghĩa là phải ở trên cỏ mà trong văn không nói, vì thế dẫn luật Ngũ Phần để quyết định. Bốn: từ tinh trở xuống là tu kính. Khoa kế chỉ đồng như trước tức lời các bài kệ và xướng cáo. Kh- iến nói chỗ bố-tát đều phải thay đổi, nhưng khi hành sự phải biết thứ lớp. Đến chỗ nói bài kệ thanh tịnh, rồi thì phải dùng Phạm âm. Rải hoa rải nước cũng phải cúng dường (có chỗ nói: Thuyết giới cần pháp cúng dường còn tự tứ không cần là sai. Đây là cúng dường Tam bảo đâu chỉ dùng trong thuyết giới. Lại, pháp tự tứ [Hàng 27, Ô 3 -247] chẳng lẽ không cầu cúng dường hay sao?). Phạm âm đã xong, nói kệ truyền hương rồi lên tòa, liền trình bày sự việc bạch chúng. Chọn người có đức sau đó bỉnh bạch pháp sai. Phương tiếp trở xuống là khoa hành sự. Trong tiểu chúng hai pháp đồng, khác. Đồng pháp nghĩa là khi đã xướng rồi, tiểu chúng ra ngoài đến khi tăng tự tứ rồi đánh chuông kêu vào, y theo thứ lớp ngồi trên cỏ đối trước vị năm đức mà tự tứ. Biệt pháp nghĩa là đưa thẻ nhập tăng, sai Sa-di làm năm đức, còn các việc khác đồng với tăng. Trong năm đức, chia làm hai: Năm đức kia nhân pháp vượt qua chỉ phần lược pháp là sau và muốn nêu pháp sai là khác. Trong phần chọn người, hai câu trên ở khoa đầu là đều nêu. Vị trở xuống là giải thích riêng. Trong năm đức, bốn đức trước là đức chung, như trong phần chia phòng ở thiên trước đã nói, một đức sau là đức riêng. Trước y cứ theo về người mà giải thích: Phá hạ, là không kiết tiền hạ v.v… người đều phải tự tứ. Ba lần nêu hai lần diệt, giữ lỗi không chịu phát lộ, v.v… không gọi là tự tứ. Kế y cứ vào thời mà giải thích: Ba ngày là đúng thời, còn lại là phi thời, thêm bớt việc nạn đều phải hiểu. Ba là y cứ vào pháp: Một pháp rộng, sáu pháp lược, xem duyên hoãn hoặc gấp, đều thích hợp vì thế sớ chép: Các tạp, thị phi, nhiễm tịnh đồng trụ không thích nghi luống lạm, ô nhiễm thêm huân (nghĩa là biết người), biết thời biết pháp (cộng trên thành ba). Không phải người thì không hiển cho nên cần phải có. Luật trở xuống là nói thứ tự năm đức. Trước nêu năm tướng. Trong mỗi tướng không đối nhau. Nói biết thời: Cùng với trên đâu có khác, trên là thời tiết, dưới là thời nghị. nghĩa là so lường tăng hòa hợp, tranh cãi đáng nêu ra (cử tội) thì nêu ngay. Sớ chép: Cử (nêu) tội dứt sự tranh cãi, không đâu không hòa thu- ận. Ý trở xuống là tùy giải thích. Câu đầu giải thích đức thứ nhất. Câu kế giải thích đức thứ hai. Dục trở xuống ba câu là giải thích đức thứ ba. Cố trở xuống hai câu là giải thích đức thứ tư. Mẫn trở xuống hai câu là giải thích đức thứ năm. Trong năm đức, hai đức đầu là trí vì có thể quán sát, suy lường. Hai đức tiếp theo là bi vì thường hay cứu khổ. Một đức sau cùng là từ vì có công năng ban vui. Lại đức thứ tư thuộc về miệng, bốn đức còn lại thuộc về tâm. Đây là người có hai thứ năm đức (có người hành sự sai một người có năm đức tự tứ, có người làm năm đức nêu tội). Hỏi: Đã đủ hai lần năm đức vì sao không gọi là mười đức? Đáp: Vì tội và việc khác nhau, vì thông và cuộc khác nhau. Nếu như vậy, ngày nay năm đức từ đâu mà có tên? Đáp: Dùng phân chia thông, cuộc. nghĩa gồm chính, y cứ về sự thì cuộc, theo chính là tên. Khoa kế, đầu là bằng chứng, hai là giải thích có ba: Đầu là xét bổn tôn, chỉ khiến sai người và trong Yết-ma chỉ ghi một tên, cho nên nói là không rõ. Kế là chỉ bày ba luật, đều sai hai người. Chú thích nhiều người nghĩa là đối trước hai người, ba người mà làm pháp sai rồi tùy đó mà đối khởi, lại thay thế nhau trước sau hai người không phải cũng làm. Sau dẫn ba ngàn, chính nói lý do. Tăng tự tứ rồi tức đồng luật Thập Tụng không dùng. Trong đây chỉ lấy ý sai hai người. Trong phần ba, trước khiển trách chuyên chấp trước, nghĩa là theo người sai. Vì thấy bổn tông sai pháp đơn bạch gọi tên. chưa thông các bộ: tức như đã dẫn ở trước. Hựu trở xuống là khiển trách sự tùy tiện, nay đều như vậy. Huống chi kẻ ngu si luống không thực hành, vọng xen vào hàng tăng, xưng là người có năm đức, danh thì có mà thật ra không có, thực chất không đáng thương xót! Thập trở xuống là dẫn chứng kẻ hạ tòa hướng về, nghĩa là bậc lạp cao đức trọng không thể làm việc. Trong pháp sai, khoa đầu trước nói lựa chọn đức, khiến bậc Thượng tọa sai khiến lựa chọn hoặc có thể theo đó mà làm pháp Yết-ma cũng được. Bất trở xuống là định chỗ, do thế gian lạm hành nên phải chỉ phá. Trong khoa kế, trước nói các pháp Yết-ma còn lại thông truyền dục tịnh, riêng đây có khác nên phải nêu riêng. Thử trở xuống là nêu bộ khác. Luật Tăng-kỳ, v.v… đều không khai nên trong phần hỏi hòa, y cứ về chung để đáp sau hiển bày riêng để đáp. Chỉ như trên: Tức trong thiên Yết-ma. Trong năm đức hành sự hòa tăng, văn đầu chỉ bày oai nghi. Thời nay, phần nhiều ở trước tăng, lễ rồi hòa bạch không ứng trở xuống là ngăn quấy. Khoa kế, trước chỉ bày đáp riêng. Nhược trở xuống là chỉ đáp chung. Trong phần hành thảo, khoa đầu có bốn: 1- Chỉ bày chỗ nêu ra như trước đã nói. Đương trở xuống là khiến dự vào giải thích. Người riêng một việc nghĩa là ý khiến cho đều trải, sợ vải liên tiếp nên phải dùng một nắm tay. Dài hai thước cho phép cắt rồi xếp lại, khiến trải rộng có thể dung chứa một chỗ ngồi để làm tiêu chuẩn. Chí trở xuống: Nói thứ lớp thực hành. Thượng tọa quỳ trao còn những người khác thì không cần. Các trở xuống: Nói trải vải, trước toà là chỗ ngồi dưới đất. Văn chú thích chép: Lại dặn dò tìm kiếm hoặc nói nhất định dự tìm cần gì phải dặn lại. Nay cho rằng văn nầy chú thích phần trải cỏ ở trên. nghĩa là người năm đức xướng rồi, mới trải sự dung thương tốt, chúng lại đảnh lễ, vì thế khiến cho lãnh thọ trải tòa trước, đợi xướng rồi mới ngồi, có không y theo đây, đặc biệt chú thích chỉ bày. Biện nghĩa là trải cỏ chuẩn bị chỗ ngồi. Trong phần xướng cáo đến tòa cỏ nghĩa là bảo khiến cho rời chỗ ngồi ngay. Thiên đãn, v.v…: là dặn dò sau khi tự tứ đầy đủ oai nghi cung kính. Chú giải khiến cho theo đó, chẳng phải cho rằng hợp chúng đều xen nhau quỳ. Sau nói rằng thấy người năm đức đến mới đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vì thế phải biết trước đó ngồi trên cỏ, phần nhiều hiểu lầm khiến cho chúng mỏi mệt, cũng vì không hiểu được văn. Hỏi: Vì sao phải ngồi trên cỏ? Đáp: Chỉ có pháp tự tứ này là khác với các pháp sự khác. Vì đến cầu người khác chỉ dạy nên phải biểu hiện sự từ tốn khiêm nhường. Phải trải chiếu, tọa cụ không dùng vải lót, hạ mình như tội phạm. Vì sợ tổn thân y nên trải cỏ. Sớ chép: Nói rời tòa là bỏ tính kiêu mạn, trải cỏ là sợ tổn hại, đây là chứng minh, đâu lại nghi ngờ chăng! (Xưa chép: Khi Phật thành đạo, Đồng [Hàng 2, Ô 3 - 248] tử Cát Tường đem cỏ đến cúng dường, nay bắt chước theo Đức Phật, do đó lại vọng hiểu bài kệ nhận cỏ, thật rất xuyên tạc, xin dùng lời sớ để chứng nghiệm, phải sớm bỏ đó). Nhưng ngày nay hành sự phần nhiều quen theo tập quán đó cũng dùng một ít cỏ. Dùng tấm lụa năm màu sặc sỡ giống như trẻ con chơi giỡn, lại nhờ tăng quản lý hoặc tịnh nhân phân chia, cho đến xướng cáo tay cầm đội lên đầu, y theo xưa truyền lầm tụng kệ cát tường. Song sau giơ cao tọa cụ rồi ném xuống, thân không rời tòa lại không trải cỏ, trái với chính pháp, luống nhậm vọng tình, tự khoe khoang mình có thể giảng nói. Còn như hành sự lại theo sự sai lầm, đến chỗ văn nầy thì lòng tin đồng với biển mộng. Huống chi băng tình cố chấp thấy việc tốt không thay đổi, tron đời phải chịu sự vô tri, khi quả báo đến lại thêm sự ngu muội. Biết sai trái sửa lỗi, chỉ có người trí mà thôi. Trong phần đối thuyết, trước dẫn oai nghi của bậc Thánh, răn dạy khiến bắt chước theo. Bậc Thánh còn như vậy, kẻ hạ phàm có thể không bẩm thọ được hay sao? Lời sớ có dẫn rằng: Đức Phật ngồi trên tòa cỏ bảo các Tỳ-kheo rằng: Các thầy đều ngồi trên tòa cỏ. Im lặng giây lâu lại bảo các Tỳ- kheo: Ta muốn thọ tuổi, ta có lỗi với mọi người chăng? Lại không phạm thân miệng ý chăng? Nói như vậy ba lần. Xá-lợi-phất bạch rằng: Ba nghiệp không có lỗi sở dó như vậy là vì không ai có thể vượt hơn Đức Phật làm một vị y vương nhãn mục, cả thế giới Đại thiên đều tôn quý thì làm sao có lỗi được. Kinh Chỉ Tân Tuế chép: Lúc bấy giờ, Tam Thiên đại thiên thế giới rung chuyển sáu cánh. Một vạn Tỳ-kheo được dấu đạo. Tám ngàn Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán. Trên hư không tám muôn bốn ngàn vị trời đều phát tâm Vô Thượng chính chân đạo ý, v.v… Trong phần đầu của khoa thứ tư, hai vị năm đức đến, một vị quỳ một vị đứng: Ý nói không phải hai vị nói cùng một lúc. Nay phần nhiều quỳ, thật trái với luật, dầu nói trước sau, nghi xen lẫn nhau, không thể hiển bày riêng khác cũng là phi pháp. Khoa kế, trong pháp Thượng tọa, trước nói tu kính nghĩa là trong luật do nhóm Tỳ-kheo sáu vị lật ngược y, y quấn cổ, trùm đầu, đắp y trùm kín hai vai, mang giày dép trên đất, ngồi trên giường mà tự tứ, Đức Phật do đó chế phải đầy đủ oai nghi. Luật nêu bốn lễ, văn lược phần cởi giày dép, một pháp thiên đãn ở xứ nầy không thích hợp. Tăng phải tùy theo bậc Thượng tọa: Trong luật vì vị Thượng tọa đầy đủ oai nghi tự tứ, còn những vị khác vẫn ở ngay tòa. Phật lại chế, đây cũng y cứ khi vị năm đức đến, không phải cho rằng đại chúng đều quỳ. Trong luật Thập Tụng nói xoa chân nghĩa là gieo mình sát đất duỗi tay xoa chân biểu hiện sự cung kính cùng tột. Kia lại chép: Nếu hạ tọa thì không được xoa chân, vì trái với nghi thức. Trong lời trình bày y theo sớ chia làm năm: Câu đầu: Chính bạch với người năm đức, cầu được phép nói. Câu kế: Văn khi tăng tự tứ. Ba: Tôi pháp danh… trở xuống là ứng với pháp trên, trình bày lỗi lầm nhờ tăng nêu tội. Bốn: Hoặc thấy, v.v… con có ba căn: Thương xót chỉ bày. Sớ chép: Giải hạnh đầy đủ nên gọi là Đại đức, niên lạp cao nên gọi là Trưởng lão. Lại nói rằng: Trước đơn điệp là chỉ bạch với người năm đức, sau song điệp khuyên nhắc chúng tăng (nghĩa là dặn dò tăng). Luật Tăng- kỳ nói rằng Trưởng lão và tăng nói tự tứ nên thông cáo đó. Năm: Nếu ta trở xuống là sửa đổi tội lỗi để trở thành người thanh tịnh. Nói ba lần: KÍnh mong khuyên răn dặn dò không phải là dối trá. Trở lại bổn tòa nghĩa là trở về chỗ ngồi. Trong luật do vị Thượng tọa quỳ đợi mỏi mệt, bạch Phật, Phật cho phép trở về chỗ ngồi. Trong phần thứ tọa là lời trình bày sự tu kính giống như Thượng tọa, vì thế chỉ đó. Trong phần tổng kết, trước dùng hai tòa làm pháp, còn bao nhiêu giống như vậy, vì thế nói là như vậy. Câu sở dó lần lượt đối từng người nói, nghĩa là do cầu người khác chỉ lỗi, khiến cho đại chúng biết tên tội quán sát quy lường có hay không. Nếu khiến nói chung với nhau thì làm sao phân biệt được, cho nên trong luật nếu nói một lần, nói hai lần, nói lén, nói nhanh đều gọi là phi pháp đều là ý nầy. Trong phần khai nói tùy thân an nghĩa là cũng phải ngồi dưới cỏ, nhưng không đầy đủ oai nghi mà thôi. vì thế, luận chép: Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo bệnh vén y, cởi giày dép, quỳ thẳng chắp tay trong thời gian lâu, bệnh nặng thêm, bạch Phật, Phật do đó khai cho. Trong lời chú nói rằng xin tự tứ nghĩa là trình bày ba lần là xong, không phải cả chúng đều xin. Ở trước nói rằng tùy xin trở lại tòa, đâu không rõ ư? Trong phần chỗ của vị năm đức là y cứ theo văn trong luật Tăng- kỳ. Phải y theo vị nghĩa là không sai thứ lớp. Phá Thập Tụng: Kia thủ tăng, vì đồng ba ngàn oai nghi ở trên. Trong phần xướng cáo, thời nay hành sự vị năm đức về chỗ mình rồi, chú nguyện hồi hướng, nhưng sau dùng tiếng Phạm nói kệ tự vui mừng (phần nhiều không nói kệ là sai). Trong phần cử tội, y theo thiên trị, y cứ về tâm trái thuận, thông thâu, sám phạt. Khoa đầu chia làm hai: Đầu nói vị năm đức do chúng tăng cử, quyết không thiên vị phải y theo pháp mà gia trị. Hai từ nhược trở xuống là nói người khác cử, sợ tổn giảm phải nghiên cứu đâu là hư, đâu là thật. Trước nói sự căn đều thật, y theo pháp ngăn: Tác cử nhớ nghó. Nhược trở xuống là nói sự là thật, mà căn thì sai lầm. Phản trị: Chú giải ở thiên trước, tìm đó sẽ thấy. Trong phần phản trị, trước chọn vị năm đức không trị có hai nghĩa, vì thế một là chúng sai, hai là vị đầy đủ đức. Nói suy thắng nghĩa là nghiệm xét gia hình. Kế từ không đồng trở xuống nói người khác phải trị. Ngược với hai nghĩa trước, trong văn đã hiển bày như vậy. Trong phần tăng đủ thiều, trước là nêu vị tăng lớn nhất giải thích pháp đầy đủ; sau từ nhược trở xuống nói vị tăng, kế đó vì việc không đủ. Chỉ có pháp sau là khiến cho phát lộ. Ni đến thỉnh nói, trước trong phần không có ni là vì khi thuyết giới, ni thỉnh răn dạy nên thân không hiện tiền. Có không đều hỏi, tự tứ không phải như vậy tuy có mà không hỏi. Trong pháp bạch nhật, khoa đầu chia làm ba: Đầu là an cư, ni lập chỗ. Hai: Từ chúng trở xuống là tăng tự tứ. Ba; Từ đương trở xuống là ni trình bày. Pháp chỉ biệt: Sau đều nói: Tỳ-kheo-ni tăng an cư rồi, Tỳ-kheo tăng an cư rồi. Tỳ-kheo-ni tăng nói ba việc tự tứ thấy, nghe và nghi. Đại đức thương xót chỉ dạy cho con, nếu con thấy có tội sẽ đúng như pháp mà sám hối (nói ba lần). Khoa kế, trước là báo cáo, sau là răn bảo. Lời xưa dùng chung, nay chỉ có vua mới xưng. Dư trở xuống là chỉ sau. Kia nói: Khi ni tự tứ, truyền tăng báo cáo, các ni đảnh lễ xin xong, sau đó mới tự tứ. Trong pháp cách ngày: vì trong đêm tác pháp ni đến không kịp nên chế cho nhóm họp lại, chỉ điều nầy là khác, còn bao nhiêu giống như trước. Trong phần hỏi dùng dục để ứng đối Yết-ma, nay đã không làm mà chế truyền dục, vì thế phải hỏi để giải thích. Trong phần đáp, trước nêu bày lý. Trong tám kính pháp của ni có điều nói phải nương theo tăng mà tự tứ. Chúng không hòa tập vì không y theo tăng, vì thế phần sau luật dẫn chứng. Trước dẫn văn khai lược, xứ trở xuống là phản ánh pháp rộng. Tăng-kỳ trở xuống là y cứ nêu ra. Đầu là nêu văn. Kia nói rằng: Ni thỉnh răn dạy rồi trở về chùa báo cáo lại. Cũng chế ni tăng nhóm họp hết không thuyết dục. Do trở xuống là hợp nêu. Trong phần ni đến nói tội trọng: Giới tăng đàn phân vọng trở xuống là nói thân đã có tội không thể tự tứ. Thời nay pháp của ni chế không thực hành, xin cho nghe cũng lại không thấy. Trong phần lược thuyết nêu rằng tạp hạnh là hai món duyên pháp đều có khác nhau. Trong phần chỉ duyên khiến lượng thời là việc của vị năm đức, các pháp chọn nêu, kẻ ngu muội chẳng thể kham được, có thể không cẩn thận ư? Trong phần năm đức đối lược, văn đầu có hai: Trước là nêu khi lược duyên, chỗ có là nêu bốn món. Sau: Từ đương trở xuống chỉ bày lược pháp: Một là trước nói rộng, hai là nói thứ lớp lược. Văn lược nói hai lần. Sớ chép: Đối năm đức có hai lược, hai lần nói, một lần nói (có người nói không nói lại là sai). Thọ hai người: Dầu thọ ba người lý cũng không sai, chỉ không được thọ đến bốn người mà thôi. Trong phần khiển trách sai, trước chỉ ra sai. Hai đầu là hai vị năm đức đều quỳ. Một lúc là hai tòa đều nói. Luật trở xuống là dẫn chứng. Trước dẫn bổn luật do không phải là đặc biệt chế. Kế dẫn luật Thập Tụng. Câu đầu chỉ bày pháp, bất trở xuống là ngăn lỗi có bốn. Nghịch tác, từ hạ đến thượng (từ thấp đến cao). Hành hành, là phân chia đều thú. Siêu vượt, là khoảng cách giữa thứ lớp ngồi. Xướng chung là hợp chúng đồng nghe. Trong phần tăng đối lược, trước nêu nạn duyên, ngũ trở xuống là vị năm đức cáo bạch. Tiện trở xuống là chúng tăng đối thuyết Sớ chép: Không đối vị năm đức có ba cách lược. Như một trăm người là năm mươi đối thuyết, lúc kia đây nói ba lần, nói hai lần, nói một lần. Ba lần nói hướng về pháp, đây là rộng đối với người mà lược. Trở xuống hai thứ nhân pháp đều lược. Trong pháp đơn bạch chỉ đổi hai một là khác. Trong phần nói tác bạch, trước nói phải bạch, bất trở xuống là chọn trước không cần. Trong phần đi thẳng, câu đầu gồm nêu năm món như trên; sau nêu riêng món thứ sáu (quảng lược hợp luận khứ có bảy pháp). Trực (phải đi thẳng) nhó khứ là do nạn đến không cho đối thuyết, đây là căn cứ sau khi vị năm đức hòa bạch rồi. Nếu chưa bạch mà nạn đến thì đợi thanh tịnh tự tứ, tức Ngũ Bách Vấn chung một tháng. Nạn sự ở tiểu giới như trong phần kiết giới đã nói. Nạn nói chung thì cùng khắp, lược để chỉ bày: Thọ thuyết an cư, tự tứ đều dùng nạn vua, nạn nước, nạn lửa, v.v… tám nạn duyên khác đều gọi là nạn. Tăng giảm thuyết tự tứ tức do giới khác có sự đấu tranh, đến đây là nạn. Tiểu khai: Đều dùng ngay trong giới, không hòa là nạn, tướng duyên đều khác không thể xen lẫn (phần nhiều dùng sai lầm nên ở đây chỉ bày). Trong pháp năm người, khoa đầu sợ lạm hành là thường có người, vì đồng như trên đều sai hai vị năm đức. Kế là văn chia làm hai: Trước nói pháp sai: Đầu tiên vấn hòa, kế đó bỉnh pháp, trước sau xen nhau làm năng sở, bất trở xuống là ngăn lạm hành. Sau từ thủ trở xuống là chính đối thú tự tứ. Trong pháp bốn người, văn trước là nêu duyên, tác pháp có thể hiểu. Bốn người, hai người lớn đồng nhỏ khác. Khoa kế, trong phần có thể sám hối tự nói, tức là tự mình cầu người nêu tội của mình. Trong phần không thể sám, khoa đầu là ba phẩm Thâu-lan-giá. Phẩm thượng là ở trong giới đối trước đại chúng sám hối, vì năng sở (người phạm tội và đại chúng) đủ sáu người mới được thực hành. Trong phần bát thuyết là biểu hiện ý người nầy đã nhập vào nhóm tội. Giao tức huấn câu. Tăng số không đủ thì không phù hợp với việc trước. Vì thế nói là đều không. Trong phát lộ, trước y cứ luật Thập Tụng vì đáng hối chưa hối. Vả lại, bạch xong thì đồng như phát lộ. Phạm tức đã phát lộ, các giới khác đã rõ ràng, nghĩa phải tự tứ, vì thế nói là không ngại. Tứ Phần trở xuống là y cứ nêu, vì không có văn. Trước nêu việc tức trên tòa phát lộ khai cho nghe thuyết giới. Ký trở xuống là nêu đồng, thuyết giới tự tứ, chúng pháp nghĩa không khác. Vì thế trong văn có ba: Một là tịnh hạnh đồng, vì đều hộ lễ. Hai là chúng pháp đồng, vì đều nhiếp tăng bổn. Ba là nhiếp trị đồng, vì có phạm đều phải sám hối. Phát lộ. Lý trở xuống là sửa lời nói, lẽ ra phải đầy đủ rằng: Các Đại đức nhất tâm niệm! Ngày nay chúng tăng tự tứ, tôi Tỳ-kheo… phạm hữu lậu, tội Tăng tàn, tức trong văn tiếp theo do chúng nói, biết đây tức là tự tứ. Do thân còn mang theo tội phạm nên không thể nói thanh tịnh, phải điệp nhập pháp. Trước nói: Năm người sắp lên được nêu tội, chỉ bốn người: Cho phép bạch rồi y như thường mà tự tứ, không cần phải sửa văn, vì trong pháp tăng tự tứ không trình bày thanh tịnh. Trong phần vọng trình bày Phạm-ba-đề: vì nói ba lần, đối với mỗi người đều kệt ba tội (xưa nói hướng về ba vị Tỳ-kheo đều được một lần nêu ra là sai, vì trước đối với một hoặc hai vị, không cần phải nhất định). Bất trở xuống là chọn khác, kia không nói phạm vì duyên thiếu. Trong pháp một người, văn trước thứ nhất nói đầy đủ: Do bổn chúng pháp không có người bèn khai, vì thế phân biệt chỗ phải dự định đồng đại chúng; thứ hai từ nhược trở xuống tác pháp có thể hiểu. Khoa kế y cứ vào người giúp việc không thể có hai tướng. Sám hối tội đã phạm, phát lộ lỗi lầm đối với người không thể làm, vì thế cũng cho phép trên tòa phát lộ, ghi vào phạm tự tứ, nên nói rằng y theo trước (lời y theo trước đã làm). Lại trong thiên thuyết giới, y cứ Ngũ Bách Vấn hướng về bốn phương tăng, sám rồi thuyết giới cũng có thể dùng. Trong tạp tướng, trước nói duyên pháp, hiển thẳng hành sự. Tướng sai khác, đúng sai của giáo nghĩa đó được nêu ở phần sau, vì thế nói là đại minh. Trong phần hỏi đáp thứ nhất nói tăng trị đủ nghĩa là trên được thông dưới, vì thế một người đến đối luận. Nếu y cứ hết thì cần phải có hai mươi vị, chẳng phải cho rằng đại chúng được tác pháp đối niệm, chỉ hướng về người phần nhiều có thể thực hành. Người khác chưa hết: Dưới không nhiếp trên, vì thế bảy nhóm phải chia làm ba vị: Chỉ có tăng trị gồm có ba: Ba-la-di, Tăng tàn và Thâu-lan-giá nặng. Chỉ có biệt trị gồm có sáu: Trung Thâu-lan-giá, Hạ Thâu-lan- giá, Đơn-đề, Đề-xá-ni, Đột-cát-la nặng, Đột-cát-la nhẹ. Chung tăng riêng: Sám hối tội xả đọa. Tự tứ nhiếp tăng phải giữ tịnh hạnh, bên trong nêu bày trong ẩn giấu, miệng thuật lại dấu vết, vì thế nói rằng cử tâm ứng với tăng. Nhưng hai pháp đối thú và tâm niệm ngôn tướng tuy khác nhau nhưng đều phải thanh tịnh mới trình bày được. Trong câu hỏi thứ hai, vì chỗ nêu ra không đồng sợ thành nghiêng chấp, vì thế trong phần đáp đều nêu ra pháp chính, tùy người áp dụng. Luật Tứ Phần chép: Các Tỳ-kheo tự tứ rồi thuyết giới, ngồi lâu mỏi mệt, vì thế bạch Phật, Phật do đó khai cho, văn dẫn lời Phật nói. Trong phần hỏi thứ ba, luật do nhóm Tỳ-kheo-ni sáu vị đến ngăn Tỳ-kheo chớ vì sáu vị ấy tác pháp Yết-ma và ngăn tự tứ, cho đến sai Thức-xoa, Sa-di-ni, cư só đến ngăn. Phật đều cấm không được đối trước những người này tự tứ. Lại do vua Ba-tư-nặc sai binh lính ủng hộ tăng. Các Tỳ-kheo muốn tự tứ, Phật khiến tránh đi, các văn như trong lời đáp dẫn. Trước nói sai người tránh đi, nhược trở xuống tức tự mình tránh đi. Thời nay không biết phần nhiều cho cư só nữ đến ủng hộ, ồn ào, thật trái với pháp chế, phải đuổi đi. Trong phần khách đến, trước gồm chỉ bày tăng biệt, theo trong luật tăng tự tứ chưa xong, khách đến hoặc ít, hoặc bằng (khách và chủ số người bằng nhau), hoặc nhiều (khách nhiều hơn chủ) đều tùy theo vị thượng tọa, hạ tọa theo thứ lớp mà tự tứ (văn nầy không dẫn vì dễ biết). Nếu tự tứ rồi và chúng chưa đứng dậy, hoặc đứng dậy rồi có khách đến ít hơn chúng tại bổn xứ nên cho thanh tịnh, nếu không cho thì đúng như pháp mà trị. Nếu khách bằng hoặc nhiều hơn nên tự tứ lại, không tự tứ lại, thì đúng như pháp mà trị. Nhược trở xuống là chỉ bày riêng người khác. Tăng pháp tức năm người đối thú như bốn người, vì thế đều chỉ như trước. Trong phần hỏi đáp thứ năm về phá hạ rất dễ hiểu. Nói lìa y: Do chưa nhập y Ca-đề. Trong pháp thọ nhật ở đây cho là ngày mồng 9 tháng 7 thọ, sau dẫn văn để chứng minh. Sớ chép: Như trong luật đã chế, đến bảy ngày trở lại, nay hạn chế minh tướng xuất hiện, chính ở ngoài giới bặt phần chứng này, vì thế nói là phá hạ. Lại nói: Ngày mồng 10 tháng 7 thọ bảy ngày, đến ngày thứ bảy là mãn hạ, không đến không phạm. Trong phần hỏi đáp thứ sáu, luật Tứ Phần nói thọ nhật đến chỗ khác tự tứ và khách đến nhiều ít có nạn, ra ngoài giới đều không phải đương xứ (chỗ đương ở), mà luật Tăng-kỳ kết tội: Chính là chế không duyên liền đến mà thôi. Trong phần hỏi thứ bảy cho rằng: tăng đúng thời được hiện tiền đúng thời, hai món này thưởng công lao trong mùa hạ, phi thời hai món thí không phải là điều bàn luận. Nếu trong hai y đúng thời hiện tiền thí thì hạn cuộc người tiền an cư, trung gian và hậu an cư thì không có phần, như ở sau sẽ nói. Trong phần đáp, trước dẫn văn nói cho phép, vì tuy là trung gian và hậu an cư nhưng công đức cũng bằng tiền an cư, phá hạ không kiết nhất định không dự phần. Nhược trở xuống dẫn phòng xá làm lệ. Trong luật nói chia phòng rồi mà còn nhiều thì khai cho khách trụ xứ, trung gian và hậu an cư được thọ phòng xá, hạ rồi phân chia vật có thể dùng đó để lệ chứng. Trong phần hỏi thứ tám, có duyên khai lược, không có nạn như thế nào, sợ đến nỗi lạm hành nên phải hỏi để quyết nghi. Trong phần đáp, luật nói nhóm tỳ-kheo sáu vị sợ Tỳ-kheo làm pháp yết-ma, nên ngăn tự tứ mới xảy ra các lỗi. Văn nêu bảy trường hợp, năm trường hợp là phi pháp, hai trường hợp là riêng chúng. Do nói một lần, nói hai lần, Phật liền chế, từ nay trở đi nói ba lần tự tứ. Nói lén là âm thanh nhỏ, Phật dạy tự tứ phải nói rõ ràng để người khác nghe. Nói mau là nói gấp, Phật dạy tự tứ nên nói từ từ. Trong phần dạy bảo, trước dạy người tuổi nhỏ. Thứ nhất là hai thầy dự dạy; thứ hai từ dụ trở xuống là vị năm đức coi xét việc dạy. Mỗi câu nghĩa là tùy theo lời dạy, phải nói theo từng câu, sau dạy tuổi già. Thứ nhất theo phần hỏi đáp ở trước, đầu tiên là đáp đồng; Cố trở xuống là dẫn nêu ra. Trong phần hỏi đáp thứ chín, trong luật vì người tiền an cư và hậu an cư ở chung, không biết phải theo ai mà tự tứ, liền bạch Phật, trước tiên Phật dạy tùy theo vị Thượng tọa, nhưng trong các vị Thượng tọa có hậu an cư và tiền an cư (chủ khách đều có Thượng tọa). Kế dạy tùy theo cựu trụ, lại cựu trụ cũng có tiền an cư và hậu an cư. Dạy tùy theo số người đông, như văn đã dẫn. Trong phần hỏi đáp thứ mười, trước dẫn chế giáo định phạm. Bộ Tứ Phần văn thông, sau dẫn bộ Mẫu luận. Đã nói là ra ngoài giới, tức là tăng trụ, không có duyên kết phạm mắc tội Đột-cát-la nhẹ. Trong văn nói duyên: Hoặc vì Tam bảo, hoặc y cứ vào việc nạn, tùy có trở ngại không thể đi. Luật Ngũ Phần thọ thỉnh chính là y cứ tục xá, vì có phiền não thỉnh chủ nên kết tội Ba-dật-đề nặng. Không phải chỗ thỉnh tức là tăng xá. Trái với trên thì được đến, y theo trước phạm Đột-cát-la. Kế y cứ về hóa giáo hiển lỗi có năm. Một, hai rất dễ thấy; hoặc trở xuống ba câu là ba món. Hai ba xen lẫn nhau. Dùng nghĩa để phân thì trên là keo kiệt dưới là tham cầu. Hoặc có thể, trên thì y cứ vào ruộng nhà vườn rừng, dưới là tiền bạc của báu, ngũ cốc, vải vóc, năm món này không đâu chẳng phải là xan tham. Nhiều sự nghiệp chẳng phải là sự nghiệp của người xuất gia, xa lìa những món này sẽ thành thì có thể biết. Y Ca-hy-na: Trong luật nói lúc bấy giờ, Đức Phật ngự tại nước Xá- vệ, Tỳ-kheo ở nước Câu-tát-la hạ an cư rồi đến ra mắt Đức Phật, đi giữa đường thì trời mưa y bị ướt hết, trong đó y Tăng-già-lê nặng nên mang theo rất cực nhọc. Lại ở nước nọ thời tiết lạnh Tỳ-kheo dùng y phẩn tảo cũng đến ra mắt Đức Phật, gặp trời mưa, mang theo cũng rất cực nhọc, nhân đó Đức Phật cho phép thọ y công đức, khai cho được năm điều lợi, trong chú thích dịch tên, luận Minh Liễu nói bốn tên. Thứ hai từ thí chủ, ba thứ còn lại công năng. Hai tên trở xuống là tự giải thích. Nói không bại hoại nghĩa là bổ khuyết cũ, sửa đổi mới (có chỗ nói chứa y dư quá hạn không phạm tội xả đọa là sai). Vững chắc nghĩa là hai khiến cho năm giới không thiếu sót. Ấn chú nghĩa là khiến cho chúng được năm điều lợi. Kế, xưa đổi hai tên có thể hiểu. Năm điều lợi như ở sau sẽ nói, khai cho đều được ích nên đồng gọi là lợi. Trong phần phân chia chương và tạp xuất: Tức ở sau nói năm lợi, đúng thời, phi thời, v.v… Khoa đầu trong bổn tông, trước là định chừng hạn thời gian. Đầu tiên dẫn văn ban đầu chỉ bày khai thọ, sau dẫn văn phần sau chứng chế xả. Khoảng giữa là y theo biết năm tháng. Ứng thọ tức Phật cho phép. Tiền an cư là từ trung gian và hậu an cư. Mùa Đông bốn tháng: Tiếp mùa Hạ một tháng cộng chung thành năm tháng. (trang 2 5 1). Như trở xuống là nói ngày khác được thọ. Cố trở xuống là dẫn chứng. nghĩa (vị) trở xuống là chuyển giải thích. Chỉ nói rằng liên ngày cho nên biết không hạn cuộc, sở dó không cho để qua đêm là vì có hai ý: 1/ Sợ để kéo dài lâu quá thì mất thọ. 2/ Khai quá đáng, quyết phải chế ước. Luật Thập Tụng chứng ở trước chung một tháng là nói trong văn. Bộ Tứ Phần và Thập Tụng thì nói thọ một tháng, xả chỉ có một ngày. Trở xuống là dẫn trong Mẫu luận cũng như vậy. Trong luật Ngũ Phần thì phạp thọ giống các bộ, chỉ có pháp xả là khác. Kia y cứ rằng ngày được y đủ số bốn tháng. Sự đồng an cư, trước bớt sau thêm đều chung một tháng. Vì sao cho là khác ư? Đáp: Y cứ rõ các bộ đều khai bốn tháng, nhưng tông nầy tính đều thấy khác nhau. Luật Ngũ Phần thì lấy thọ y làm đầu tiên. Luật Tứ Phần dùng Y- ca-đề thường khai không ở trong số nầy. Nếu y cứ ngày rằm tháng 8 thọ không ngại luật Tứ Phần lại thành bốn tháng. Luật Ngũ Phần lại được năm tháng, suy nghó đó sẽ biết. Trong Mẫu luận, trước nói thọ xả, sau nói bảy tháng trở xuống tính số ngày. Có sự duyên không kịp nghĩa là y chưa xong, hoặc là do duyên ngại cũng khai cho cách ngày (trong các văn trên lại y cứ vào tác pháp xả, còn lại xả thì không nhất định). Theo luật Thập Tụng thì không được nhiếp tháng nhuần, vì đây là pháp quá đáng. Trong y thể có bốn: Một là chỉ bày thể, nếu được y mới tức đúng thời phi thời thí, vốn chẳng phải y công đức; Hai là Đàn việt thì chính là làm y công đức, thí chung cho bảy chúng. Y phẩn tảo trở xuống y theo luật mà có, hoặc là y mới, hoặc là y cũ, vì thế hai câu y đều giải thích y phẩn tảo ở trước mà thôi. Vật mới gấp tịnh tức y mới ở trước do gấp cũ. Hoán nạp tịnh: Nói y cũ ở trước, không nhọc gì phải gấp lại. Bất dó trở xuống, kế nói cầu xin lìa lỗi, kế lệ có sáu. Năm trường hợp trên chẳng phải như hai y đã giải thích, trở xuống một là hiển như nghĩa là chúng thí thuyết tịnh tài vật (luật Tăng-kỳ cũng nói tịnh tài được làm. Ba, ở trên nói rằng: Tiền ngày đến và ứng pháp, đây đều nói thọ pháp. Nói ứng pháp: Tức ở sau chọn người bỉnh pháp đều phải hợp giáo. Bốn: Tứ chu trở xuống là nói tác y pháp (cách may y) lại có ba, trước chỉ bày đê điều. Nói nếu quá đây nghĩa là đại y bảy điều. Nên nói rằng bảy điều hai mươi mốt bức cũng thuộc tăng dần lên. Ưng tự trở xuống là nói cắt rọc, vả lại chỉ bày hạ y, còn lại có thể nêu ra làm tiêu chuẩn. Hựu trở xuống là nói sắc tướng. Trong luật do nhóm Tỳ-kheo sáu vị dùng y nhuộm mầu chính, y bằng gấm lụa y mầu trắng, Đức Phật do đó chế giới. Luật chép: Vì sao tăng không thành y công đức, nghĩa là không giặt, không cuốn, không sửa, không may viền, không cắt bức, không làm đường biên, không may, không có dây buộc, không làm lá, không may móc, như vậy là tà mạng, xiểm khúc, kích phát. Lìa y qua đêm, y xả đọa không tác tịnh, không đến ngay ngày đó, không đúng pháp thọ y (trái với đây thì đúng pháp có thể hiểu), không may viền bốn biên, không thọ ở trước tăng, hoặc có nạn, hoặc ở ngoài giới, tất cả những trường hợp như vậy đều không thành y công đức, trái với những điều nêu trên thì thành y công đức. Trong luật Thập Tụng, trước chọn may. Nhược cố trở xuống là chọn lựa thể. Đến gò mả lấy là giải thích y đắp thây chết ở trên. Trong chú thích hòa hợp với văn trước nên biết. Luật Tứ Phần thường dùng y phẩn tảo, cũng không có chỗ lựa chọn. Nhược điệp trở xuống là chỉ bày đúng như pháp. Trong Già luận nói y thí gấy và y bố thí đúng thời vốn chẳng phải là y công đức, trải qua đêm cùng thành thọ. Luật Tăng-kỳ nói chưa dùng tức y mới nói ở trước luật Ngũ Phần nói chẳng phải có bảy. Đều dùng chữ nhược để nêu. Bốn thứ trên là phân biệt y, tức may, thể, mầu sắc lượng đều phi pháp. Thứ năm là lựa thời. Sáu, bảy đều chọn người thọ. Vì thế, xả năm việc: y cứ trên có dùng hai chữ nếu muốn. Năm việc tức năm giới chứa y dư, v.v… Trước nói tham lợi, sau tức khinh thường giới (có chỗ cho rằng năm việc là năm tướng, văn kia không phải như vậy). Ba, là nói chọn người. Trước trong phần chọn thọ luật Tứ Phần có bốn thứ. Nói có nạn nghĩa là các nạn như nạn vua, v.v… đều không được thọ, tức chọn người thọ. Lời sớ trong giới chép: luật nói: Có nạn không mất y, nay đã bị nạn giặc vì thế không được thọ, không có nạn thì nên thọ (thấy trong giới chốn lan-nhã lìa y, nói là mười ba nạn là lầm). Không có Tăng-già-lê: chẳng phải ý vốn khai, như trong phần duyên trước. Câu Nhó Vô trở xuống hai y có thành thọ chăng? Trong văn đáp không lựa chọn, suy nghó rất dễ biết. Ở ngoài giới: Vì thân tuy hiện tiền, nhưng tướng không đủ số. Luật Thiện Kiến, trước lựa chung đúng sai. Trong văn bao gồm an cư và không an cư. Nhược trở xuống là chỉ bày ngoài giới, trước không đủ sau đủ. Năm không giải thích. Trong phần đầu lựa chọn giới khác, không được nói tăng và Sa- di. Tăng là thọ rồi thành giới cụ túc được lợi, và giới hiển đương thành thọ. Luật Thập Tụng, trước nói phương tiện khai. Khác giới đồng kiết: Kia nói rằng an cư rồi có bốn bên phòng tăng hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười người hoặc nhiều hơn cùng kiết một giới thọ y Ca-hy-na. Tất cả Tỳ-kheo đều được gọi là Thọ. Sau kiết riêng: nghĩa là tác pháp thọ rồi liền giải, liền kiết, không phải đủ năm tháng. Kia hỏi rằng như trên nói tăng phòng cùng kiết, thọ rồi xả đại giới nầy, như vậy các Tỳ-kheo có được gọi là thọ y chăng? Đáp: Đều gọi là thọ. Xả là đồng: Như có một chỗ chúng không ưa thích, không có lợi thì không đợi thời gian đủ, hoặc tác pháp xả, hoặc gặp duyên mất, vì không có hại chỗ khác. Kia hỏi rằng chúng nhiều tăng phòng cùng kiết thọ rồi xả giới nầy, y Ca-hy-na đã xả, như vậy tất cả Tỳ-kheo có gọi là xả không? Đáp: Xả thì xả, không xả thì không xả. Nay dẫn lời đáp nhưng đổi lời mà thôi. Hai: Lựa chọn phạm lỗi. Đuổi người tức diệt tẫn, văn kia chỉ nêu bốn hạng người, nay thêm chữ đẳng, lại thâu nêu tẫn và ba lần nêu người để bỏ ra ngoài chúng vì không đồng pháp (các văn không chọn bốn người Yết-ma. nghĩa rõ dường như được). Người trì: luật Thập Tụng nói người có năm đức. Bốn đức trước rất dễ hiểu, vị trở xuống là giải thích đức thứ năm. Được và không được phải y cứ ba trường hợp: Thời, y và người để giải thích. Luật Thiện Kiến, trước nói dùng y nhiều ít. Vật quan trọng: Như tiền, của báu, v.v… Nhược Yết-ma trở xuống, đây là nói đối với năm đức lại chọn thiếu. Do y thuộc kia có thể cứu giúp. Khoa nầy chính là nói chọn vị năm đức trì y. Lại trong luận chép: Ba y tùy thí chủ nói đều cho người thọ y (tức là vị năm đức), chúng tăng không được thọ y Ca-hy-na (xưa cho rằng đủ năm tháng rồi trả lại, do y nầy cùng với y hoại trong chúng giống nhau, là lầm). Sớ chép: Hạ trước tiên bạch: nghĩa là khiến cho tăng quán sát, lâu ngày rất dễ biết, chỗ quán sát có năm: Người không có nhiều công việc vì chuyên giữ y. Không ưa những sự lỗi lầm, vì là chỗ nương của chúng. 3- Người không tham tài, vì chẳng phải vì y nầy. 4- Người có lòng từ bi vì thương xót chúng sinh. 5- Ưa tuệ thí vì giúp cho người khác được lợi ích. Hỏi: Người giữ y tự mình có được lợi không? Đáp: Chỉ giữ không thọ nên không được lợi ích. Hỏi: Ba y đã đầy đủ rồi, lúc thọ phải thế nào? Đáp: luật Thiện Kiến chép: Đêm y Tỳ-kheo xả rồi, y Tăng-già-lê đã thọ, cầm y Ca-hy-na đến bạch vị Thượng tọa rằng: Tôi dùng pháp trì y Tăng-già-lê làm y Ca-hy-na (theo đây, y trước xả rồi thuyết tịnh. y Ca-hy-na làm pháp thọ trì). Bốn: Trong phần tác pháp thọ y, khoa đầu luật dạy sai người cũng không nêu pháp. Luật Tăng-kỳ chép: Đại Đức tăng xin lắng nghe! Nay tăng được y tài này, nếu tăng phải thời mà đến, tăng cùng Tỳ-kheo… và các vị khác lấy y Tăng-già-lê làm y Ca-hy-na, tác bạch như vậy. Đại Đức tăng xin lắng nghe! Các Đại đức bằng lòng cho Tỳ-kheo mỗ giáp… thì yên lặng, nếu vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng Tỳ-kheo mỗ giáp… nên yên lặng, việc này cứ thực hành như vậy. Khoa kế, trước nói khai chế, không được nói đạo đức: ngăn lời kia nói làm lưu nạn. Nếu không cùng may, đề cho cách đêm thì không thành thọ. Sở dó trở xuống là chỉ bày ý. Chư Phật khen ngợi: khiến cho được lợi ích an vui tu đạo. Vì thế luận chép: Xưa có Đức Phật hiệu là Liên Hoa, có một vị đệ tử tên là Tu-xà-đa, may y Ca-hy-na chưa xong, vì thế cùng may với các Tỳ-kheo. Khoa sau chỉ rộng nhưng trình bày ý tóm lược, nay không nêu phần y thể ở trước nhưng văn cũng rõ. Lại dẫn luật Tăng-kỳ để chỉ bày. Luật kia chép: Nếu có người cúng thí y công đức không được làm thinh mà thọ, phải nói rằng: nay ta thọ y Ca-hy-na (y công đức). Thọ rồi đến trong, tăng bạch hai lần, báo chúng tăng rằng: Đại Đức tăng xin lắng nghe! Nay tăng được y công đức đúng thời này (thời y tài), nếu tăng đến đúng thời, tăng nhận y Ca-hy-na nầy, tác bạch như vậy. Kế sai người có khả năng may y, hoặc một người hoặc hai, ba người, bạch nhị Yết-ma mà sai. Sai rồi một người làm chủ thọ y công đức. Đúng thời thì nói như vầy: Thọ y Ca-hy-na này tăng đáng thọ (nói ba lần) nên nói rằng: “Y Ca-hy-na tăng đáng thọ như vậy”. Khi cắt, khi may, khi nhuộm, khi điểm tịnh, hễ chỗ nào làm đều nói ba lần như trên, không nói mà làm cũng thành nhưng mắc tội Việt Tỳ-ni. Trong phần chính thọ, khoa đầu: Điệp rộng: Theo lượng dài, tức là xếp hai đầu, may khíu hai đầu, giữa khíu ba đường, năm đường tức là bốn điệp. Trong phần bỉnh pháp, trước lựa chọn chúng, gồm các bộ trước, cộng chung có mười một hạng người. Người dữ dục (tức không hiện tiền) Người có nạn (ở đây chung một chúng) 3- Người không có đại y. Giới khác. Trung gian và hậu an cư. 6- Phá hạ. Không kiết hạ. Phạm tội Tăng tàn. 9- Ở riêng. Học hối. Người bị diệt tẫn. Khiến ngồi riêng: Do người được thọ phải ngồi liên tiếp nhau, để hành sự cho tiện nên không theo thứ lớp. Tuy trở xuống là ngăn tình. Sợ cho rằng hai phần trái khác nên trong phần hỏi đáp y cứ đáp chung, chung cho ba pháp sau. Nếu hành riêng thì tùy theo đáp. Trong cách bạch hỏi: Ở đây khác với pháp tự tứ, bạch trước sau như thế nào? Đáp: Có người nói y công đức cho phép dạy chung tác bạch, không tác bạch. Trước tòa bạch chúng cho phép tác bạch rồi mới sai. Tự tứ ng- hiêm chế không suy xét, không hành, trước sai sau mới hòa chúng. Hoặc có thể: Y công đức ba pháp đều là vị Thượng tọa làm. Tự tứ bạch, hòa phải do người năm đức bỉnh bạch, vì thế khác nhau. Lại nói, Chế pháp không đồng không cần so sánh. Trong phần sai người, chú thích nêu lên nghi thức. Cùng với một Tỳ-kheo: nghĩa là đối diện nhau hỏi đáp, văn giống như đối với riêng người khác, y cứ theo luật tức vị có năm đức. Trong phần cho y, văn đầu tiên chỉ bày vị năm đức đầy đủ oai nghi. Đương trở xuống trong duyên vị Thượng tọa làm pháp Yết-ma. Có thể chia y tức gọi là vật khinh, đây là điệp duyên. Tăng trở xuống là điệp bổn. Hai câu trên nêu ra tăng chúng giao y. Tỳ-kheo nầy trở xuống là nói người năm đức thọ y. Trong phần thọ y, khoa kế là Thượng tọa quỳ: y cứ trở xuống đều như vậy. Khước hành tức thân lui về. Cho nên tự tứ đối trước hai người, ba người, nay đối trước bốn người, suy nghó sẽ hiểu. Trong lời nêu bày có ba: Vị năm đức tác pháp chưa thọ khiến thọ, gọi là Đương, chính thọ nay kết, gọi là dó. Trong lời tăng thọ nói kia thọ tức chỉ chung chúng tăng, khéo thọ thì không phạm lỗi phi pháp. Nói trong đây là chỉ chỗ thọ y. Y tên là công đức, tên phải có thật, công đã thuộc về ta, sẽ được năm điều lợi, mỗi mỗi nói không phải là hợp tụng. Vị có năm đức đối đáp. Bốn người nói rồi đều dùng một lần đáp (luật Tứ Phần tuy có tăng pháp. Bộ Tăng-kỳ khai đối thú, tâm niệm thọ là đúng, bộ nầy thì khác nên không dẫn). Trong pháp xả: Trong luật do Có nhóm Tỳ-kheo sáu vị không chịu xả y công đức vì muốn kéo dài năm việc lợi. Vì thế Phật do đó mà chế xả. Nếu không xả quá chừng hạn của y công đức phạm tội Đột-cát-la. Trong bổn bộ, hai phần trước của khoa đầu rất dễ hiểu. Hựu trở xuống: Luật nói có tám nhân duyên xả y công đức. Ra đi (may rồi không trở lại, ý muốn ra đi thì liền mất, vì khi thọ có tâm muốn, sau trái đó nên mất). Y may thành (ra ngoài giới may y, may xong rồi dần mất). Y may chưa thành (ra ngoài giới khởi ý niệm không may y cũng không trả y lại, may chưa thành tức xả). Mất y (ra ngoài giới may y rồi mất y, cũng mất y công đức). Mất hy vọng (ra ngoài giới hy vọng may y đến (vọng xứ), không hy vọng liền mất). Nghe xả (ra ngoài giới may y rồi, nghe tăng xả y công đức, liền mất). Ra ngoài giới (ra ngoài giới may y rồi, ở ngoài giới chúng tăng xả y công đức liền mất). Đồng xả (ở ngoài giới may y, hoặc rồi hoặc chưa rồi, trở lại trụ xứ hòa hợp xả y công đức ). Năm trường hợp trước trái với tâm bổn yếu cho nên mất, ba trường hợp sau lại nhân Yết-ma mà xả. Hỏi: Ba trường hợp sau có gì khác với ở trước tăng hòa hợp mà xả? Đáp: Trước là thời gian đủ, ba trường hợp sau không nhất định, nên khác nhau. Trong phần hiển bày riêng, trước nói hỏi hòa: Trong luật chỉ có pháp Yết-ma nầy và tựa giới bổn trước đã nêu đầy đủ, còn bao nhiêu đều nêu dùng vì thế phải chỉ bày rõ cho biết chỗ nêu ra. Trong văn sáu duyên, lại y cứ lời hỏi phải đủ mười, như trong thiên trước. Bộ khác và luật Tăng [hàng 21, Ô 2 - 252] -kỳ có mười trường hợp xả y: Y may xong thành xả (thọ rồi nghó rằng y may thành rồi sẽ xả, khi may xong rồi liền xả). Khi thọ xả (nghó rằng khi thọ y xả, khi thọ liền xả). Thời gian đủ rồi xả (nghó rằng đúng thời gian đó xả, đến kỳ hạn đủ liền xả). Nghe xả (nghó rằng nghe Hòa-thượng xả, lúc đó sẽ xả, khi nghe liền xả). 5.Đưa cho xả (nghó y này cho người khác mình sẽ xả, khi đưa cho người khác liền xả). Hoại xả (thọ rồi, trung gian tự nói nay ta xả, khi nói lời này liền xả). Mất xả (nghó rằng y nầy trung gian (khoảng thời gian sau khi thọ) hư hoại hoặc mất không còn sẽ xả. Khi hư hoại hoặc mất liền xả). Ra đi xả (nghó rằng khi đi sẽ xả, khi đi liền xả). Quá thời xả (như lời sao đã nói, kia nói mắc tội việt Tỳ-ni). Rốt ráo xả (đến ngày rằm tháng chạp ở trong tăng một người xướng rằng: Bạch Đại đức tăng! Ngày nay tăng xả y Ca-hy-na, (nói ba lần như vậy). Chỉ các bộ khác là luật Ngũ Phần có tám trường hợp mất y: 1- Thời xong (tức bộ Tăng-kỳ nói quá thời). Mất y. Nghe mất. Đi xa. Mất hy vọng. Y đem ra ngoài giới (đem y công đức ra ngoài giới qua đêm). 7- Người ra ngoài giới (Đồng với luật Tứ Phần người ra ngoài giới qua đêm). 8- Bạch nhị xả (Tứ Phần thì đơn bạch). Liễu luận có tám: Xong. Thành tựu. Xuất ly (đồng với đi xa ở trước). 4- Mất. Nghe. Quá vị. Mất hy vọng. Cùng dứt trừ (tác pháp trừ). Mười thứ như luật Tăng-kỳ ở trên. Đều tùy trở xuống, chỉ bày ý chung của các văn. Trái bổn tâm: y cứ nhiều phần, trong đó không chỗ nào không làm pháp quá thời. Trong năm điều lợi nêu rằng thông bít: Thông tức năm tháng, được lợi, bít tức ngoài thời không khai (trong đây chỉ nói có y năm tháng, kia một tháng thường khai. Như thiên an cư không đồng xen lạm nhau). Trong thông bít, trước nêu chung năm tướng. Gồm khai tám tội chứa y dư nhiếp ba. Lìa y gồm hai, giải thích tướng nói đủ, đều chỉ như sau. Sở dó khai: Hạ xong rồi, người quản y ra ngoài có nhiều việc. Nếu không khai thông, thì chung thành cứu giúp. Theo luật Thập Tụng được chín việc: 1- Mười đêm. Sáu đêm. Một đêm. Năm duyên giữ y Tăng-già-lê ( 1/ Sợ hãi; 2/ Mưa gió; 3/ Giữ đại y; 4/ Giặt nhuộm; 5/ Đem cất). Năm duyên giữ áo mưa. 6- Thường ăn. 7- Ăn riêng chúng. 8 và 9 hai thời không bạch mà vào xóm làng (luật Tứ Phần không khai phi thời, bộ khác không đồng). Kỳ trở xuống riêng chọn chứa y dư. Trước nói về giới hạn, trong một năm, năm tháng là đúng thời, bảy tháng là phi thời. Dũ trở xuống là giữ tướng nhiếp thời, mười ngày khai thọ cấp thí, tức phi thời nhiếp đúng thời. Câu tự tứ xong rồi không vì an cư mà thí: Thời nhiếp phi thời. Trong phần răn dè tâm bình đẳng, sợ đối với lợi dưỡng được mất mà động lòng. Vì thế dẫn kinh chỉ bày khiến tâm bình đẳng. Trước nêu bốn pháp, tức tám gió thổi, bốn trái bốn thuận. Văn trước nêu trái vì thế nói là bốn, sau mới hợp lại giải thích thì nói rằng tám pháp. Không sợ là tâm bình đẳng. Trước là riêng giải thích thứ nhất đây là y cứ ý. Ba còn lại là nhân dẫn, cho nên không nói. Tám pháp: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ và lạc. Bốn trái đối với trên, bốn thuận trái nhau có thể biết. Trên là tu cho mình, vi trở xuống là chỉ người khác. Được mất, vinh nhục đều là bổn nghiệp duyên, gió trái thuận đến không ưa thích. Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký- Quyển thượng Phần 4 xong <篇> TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ Sa-môn Thích Nguyên Chiếu ở Dư Hàng, đời Đại Tống soạn. <卷>QUYỂN TRUNG (PHẦN 1 - 1) Quyển trung đề hiệu đều đồng phần giải thích trước, văn nêu bốn thiên, gồm nói về tự hạnh, không đâu chẳng phải là lìa ác, hộ bổn đã thọ. Y cứ theo thứ lớp thực hành thì đức thành có dụng, hợp thành quyển thượng. Nay hướng về vị trụ trì công có hơn kém cho nên có thứ lớp. Trong phần nêu thiên; các thiên trên dưới đều y cứ theo Yết-ma. Bốn thiên của quyển nầy đều y theo giới bổn, ba quyển trước là tinh trì, một quyển sau là hối. Lại trong ba quyển trên, hai trước tùy văn, thứ ba gồm nghĩa. Lại trong hai quyển trước, một là giải tên chung, hai là giải tướng khác nhau. Có các trường hợp khác này do đó chia ra. Thiên tụ: Là nhiếp đại khoa của phạm, y cứ vào cương yếu của sự dứt trừ. Phân biệt nghiệp nặng nhẹ để quyết định quả báo sâu cạn. Thiên là tên của chương phẩm, nghĩa là tội chia ra cuộc đoạn. Tụ là hiệu của tụ tập, nghĩa là phạm có điều lưu. Thiên xuất xứ ở bộ Tăng- kỳ, tụ xuất xứ ở Bổn luật, tên khác mà nghĩa thì một, vì thế ở đây nêu cả hai. Lời sớ dẫn lời giải thích xưa, đủ ba điều kiện đồng nhau. Tên Thiên: 1- Tên đồng: Năm thiên đều đồng tên nên tên đều bình đẳng. 2- Thể đồng (phạm sám hối đồng). 3- Rốt ráo đồng (không các thiên phương tiện). Không đáng gọi là tụ như Thâu-lan-giá, Đột-cát-la, chỉ có danh đồng, thể không đồng (tội Thâu-lan-giá chia ra ba cách sám, tội Đột- cát-la hai cách hối). Rốt ráo không đồng (tội Thâu-lan-giá đầu, hai tùng sinh, Đột-cát-la chung cho các thiên phương tiện). Nay Sư không như vậy, Thiên và Tụ là tên chung, không cần đối riêng. Chỉ y cứ theo năm thiên bảy Tụ để chia đồng và xen lẫn. Vì thế, Sớ chép: Dầu khiến tụ từ nghĩa năm vị đủ ba điều kiện đồng nhau, thiên tên tùy bảy tụ, bản nhân tạp nhiếp. Hỏi: Nếu y cứ theo giới bổn thì tự có tám thiên, nay chia ra năm thiên bảy tụ, làm sao đối nhau? Đáp: Nay nói thiên và tụ không hạn cuộc giới bổn, chỉ đặt tên gồm thâu các tội. Nếu dùng năm để đối giới bổn thì ba mươi pháp Ni- tát-kỳ-ba-dật-đề và chín mươi pháp Ba-dật-đề hợp tại thành một. Hai pháp bất định và bảy pháp diệt tránh gồm quy về Đột-cát-la. Song bổn lập tên không theo văn tướng chỉ khiến luật nghi đã chế, cảnh khắp trần sa, nhân quả nặng nhẹ đều quy về năm thiên bảy tụ. Nhưng năm thiên thâu nhiếp căn bản, bảy tụ tạp bổn cho là khác mà thôi. Hỏi: Một tụ Đột-cát-la nghĩa ba đồng (quân) thiếu đó làm sao xếp vào năm thiên? Đáp: Vì thế trở xuống trong văn đồng tạp phân chia y cứ vào bốn quyển trước. Nay y theo lời sớ trong giới, lại nói theo một trăm giới của giới bổn để, trong Đề thiên, tụ nói thông “danh” “báo” ở sau. “Danh” “báo” nói khác tức hai môn sau: Danh nghĩa là giáo chế ra hình phạt. Báo là nhân cảm quả. Tìm danh thì biết giáo; quán quả thì rõ nhân. Chương nầy đối với những việc này mà thấy đó (có bổn ghi rằng lại báo là lầm). Theo ý tôi, hai câu trên của khoa trước, là trưng, thật trở xuống là giải thích lý do. Giới thể là nền tảng của Thánh đạo, chứa nhóm pháp lành, siêu vượt cõi trời, cõi người, có khả năng nhận sự cúng dường của mọi người, sinh phước làm lợi ích chúng sinh, thật do đây mà thôi. Thị trở xuống là dẫn chứng: Thọ nghĩa là thọ thể; Trì nghĩa là tùy hành; tính tức là thể. Khoa kế, trước nói thuận ích, hai câu trên hạnh tự lợi, câu trước dụ cho chỉ trì, câu sau dụ cho tác trì. Hoặc có thể câu trước là ý nghiệp, câu sau là thân miệng thể thanh tịnh. tính của ngọc là trong sáng, lìa sự ô nhiễm thành đức, nên dùng để thí dụ. Nãi trở xuống là hạnh lợi tha, câu trên là hiển công, câu dưới là nói tên. Hạt giống thiện, ruộng phước pháp và dụ, cả hai đều nêu. Nếu nói về thể thọ cũng gọi là hạt giống thiện. Nay đối với sự sống của hạt giống đó nên dụ như ruộng. Bất trở xuống là nói trái, tổn hại. Câu đầu chỉ tâm năng phạm, ngược với hai trì ở trên nên nói không phải như vậy. Túng nghĩa là mặc sức buông lung theo dục tình. Cự nghĩa là trái nghịch với lời dạy của Đức Phật, câu kế chỉ lỗi đã phạm, không ra ngoài hai phạm: Biếu tặng và y. Thích nghĩa là lo buồn, chung cho nhân quả. Tội do tâm tạo không phải do người khác thêm cho mình, đây là tự tặng mà thôi. Tiện trở xuống là giải thích y thích ở trên. Câu trên là thành nhân, câu dưới là cảm quả, mắc tội. Ngục: Tiếng Phạm là Nại-lạc-ca, Hán dịch là Thọ khổ khí. Lạc- ca, Hán dịch là thọ khổ, tức y báo chính báo. Luận Trí Độ nói có mười sáu ngục; tám ngục nóng và tám ngục lạnh. Tám ngục nóng là: 1- Hầm than 2- Nước tiểu sôi 3- Rừng cháy Rừng kiếm Đường đao 6- Rừng gai sắt 7- Sông mặn Cọc đồng Lại tám ngục nầy, mỗi ngục có bốn cửa, mỗi cửa có bốn ngục Du tăng (thêm tội chịu khổ) dữ dội. Đường ổi Phẩn sôi Dao nhọn Sông sôi. - Tám ngục nóng là: 1- Át-phù-đà Ni-la-phù-đà Ha-la-la A-bà-bà Hầu-hầu Âu-ba-la Ba-đầu-ma Ma-ha Ba-đầu-ma. Đều ở dưới Châu Thiệm-bộ bên cạnh đại địa ngục, kinh luận nói danh tướng của địa ngục có nhiều khác nhau, vả lại y cứ một văn mà nói có hai loại tám ngục mà thôi. Cố trở xuống là nêu bày ý của lời dạy, do Thiên và Tụ đều quy về trì và phạm. Nói phạm là trái, trì là thuận. Trong văn năm thiên bảy tụ đều đối trì và phạm, là văn nương nhau, nghĩa không nghiêng lệch. Trong phần ba nói tổn, hai câu đầu nói tính thuần, hai câu kế nói không học. Điều lệ tức phẩm loại của thiên và tụ. Hiến chương nghĩa là tướng phạm, không phạm. Tùy trở xuống nói mê mờ giáo luật. Tùy giới tức giới tướng. Vụ du quán hải (sương mù mà đi xem biển) đều dụ không rõ ràng. Trí trở xuống là bày lỗi. Hai câu trên nói tùy theo trần mà ưa thích, vì thế nói quên trở về. Hai câu dưới mặc tình theo nghiệp mà sinh nên không biết tỉnh lại, đi không trở lại. Kinh Đại Tập có chép: Xưa có một người tránh hai con voi say (sinh tử) buộc một sợ dây (mạng căn) thả xuống giếng (vô thường), có hai con chuột trắng và đen (ngày đêm) cắn đứt sợi dây, bên cạnh có bốn con rắn muốn chích nọc độc (bốn đại), dưới có ba con rồng phun lửa, giương móng chống cự (ba độc). Người đó ngước lên nhìn; thấy hai con voi đã ở bên trên thành giếng, buồn lo không biết chỗ nào nương dựa. Bỗng lúc đó có con ong bay qua nhỏ giọt mật vào miệng (năm dục), người đó nuốt mật này vào, quên hết nguy hiểm sợ sệt. Nay dụ Tỳ-kheo không sợ các điều khổ, tham đắm năm món dục không có tâm nhàm chán, vì thế trở xuống là dẫn chứng. Kia chép: Phá giới mà nhận sự cúng thí sẽ chiêu cảm quả báo hiện tiền, bụng thì bị vỡ ra, y ca-sa lìa thân, hoặc không có tướng nầy thì sẽ bị sinh báo cho nên nói là vân vân. Trong phần lập Thiên thứ tư, trước nêu căn bản của nghiệp báo. Nghiệp là nhân, nghĩa là chỗ thành của hai tội phạm. Báo là quả, nghĩa là đọa địa ngục trong kiếp số. Nhân quả đều do tâm, nói chung lớn nhỏ. Y cứ về giáo thì giới hạn, lựa chia ra cạn sâu. Ắt trở xuống nêu bày ý lựa chọn. Hai câu đầu chỉ bày văn, sau giải thích tướng, vì thế nói rằng trước phô trương. Nhân quả tức khoa sau trong phần quả báo phạm tội, trước sinh khởi nghiệp, tức nói nhân sau dẫn văn nói quả. Tướng hiệu là danh nghĩa của sáu tụ. Đối trở xuống hai môn, văn nêu không thứ lớp, theo lời thuận tiện vốn không có ý khác. Sử trở xuống là hiển ý. Phật tử là nói chung những người vâng hành pháp sau nầy. Y cứ về đại thì khen ngợi tốt đẹp sâu xa phù hợp với tôn ý. Quán quả: Thấy quả báo khổ nhiều kiếp. Biết nhân: là suy. Do giáo mà biết, đã biết thì phải sợ. Vả lại, tâm duyên vào cảnh mà phát, quả từ nhân mà thành. Tạo tội chịu báo bị đắm chìm nhiều kiếp, đến khi nhân duyên hội ngộ thì hình ảnh không sai. Đến chỗ lửa cháy, nước sôi đau khổ không thể chịu nỗi, sương lạnh đóng băng kêu không thể nghe. Muôn điều khổ xung đột vào tâm như sắt nấu nóng chảy chứa nhóm lại. Lại suy nghó đến nghiệp tuy sám hối cũng không kịp, mang lông đội sừng làm loài vật bay lên hư không hoặc lội dưới nước, mạng sống bị phụ thuộc bởi người giết mổ, hoặc kẻ săn bắn máu thịt phó thác cho bồi bếp. Hoặc bị đuốc lửa quơ vào miệng, kim chân cổ họng đói khát đau khổ thân thể, máu huyết dơ uế ăn nuốt để sống. Sau nêu địa ngục Nê-lê, lại nói về quả báo chung. Tùy nghiệp đã gây ra mà đọa vào ba đường ác, tạp loại này sao không chịu tin ư? Họa phước không có cửa, lên xuống do mình, huống gì kinh Phật đã chỉ bày rộng, Tổ dạy rõ ràng, chứa nhóm điều ác sâu dày, lơ là không kính tin Phật pháp. Than ôi! Loài hàm linh cò bay máy cựa sinh tử mờ mịt. Phương tiện nhiều cửa, ai một phen ngộ được? Câu “đâu để ca sa lìa thân” là nói không tiếc thân người, ở trên đám ruộng phước tốt mà tự sinh gai góc. Trong câu “vả lại: Người có thể dùng lời nói trên”. Người trí nói phải có ba điều suy nghó, thấy điều ác như rơi vào nước nóng, gặp việc lành thường nghó không bằng, mới gọi là Phật tử, có chút phần tương ưng với sa-môn, thấy quả biết được nhân kia. Lời tuy rườm rà nhưng y đâu có cùng tận. Trong phần khai chương, khoa đầu trước nói giới hộ: Muốn nói thiên, tụ nghiêm khắc, phạm thì quả báo nặng. Thật là do công sâu đã thọ, đến nỗi khiến người có trái phạm thì sẽ bị hình phạt nặng. Đặc biệt trước chỉ bày, sau mới hiển bày văn. Tông tức là bổn. Trong phần nói hộ giới, khoa đầu trước chứng khởi. Do trở xuống là giải thích chung. Định tuệ nương nhân vì là tông chủ của muôn hạnh nên nói là sinh thiện. Khuôn nhiếp tăng tông, duyên trì Phật pháp nên nói là kiến lập mạnh mẽ. Lược nêu hai mối để bày thể dụng. Nêu tông, cái gọi là thuận thì Tam bảo trụ trì, nói việc Tỳ-kheo, trái thì hủy diệt chính pháp, lại gieo trồng nghiệp khổ, tức đồng với ý này. Trong phần dẫn luận nêu, trước chỉ bày xuất xư. Nói hộ giới: Nêu hạnh là thể, gồm thâu pháp tướng. Vị trở xuống giải thích danh tướng, đầu tiên phân đối hoặc nghiệp. Luận kia nghiêm trị tâm hoặc trong ba cõi gọi là đối trị hộ, vì thế nói rằng ở nơi tâm. Ngăn ngừa thân miệng tà nghiệp thì gọi là giới hộ, vì thế nói rằng từ thân miệng. Có hộ trở xuống là chỉ bày đơn phức. Do hoặc là cội gốc của nghiệp, nếu chỉ giữ tâm hoặc không đến thân miệng nên nói là không cần có giới. Lại nghiệp nương hoặc mà thành, nếu ngăn ngừa tà nghiệp phải gồm ngăn ngừa tâm, vì thế nói rằng kia nhất định là hộ. Song hộ là để trị hoặc nghiệp, chẳng phải cho rằng lý quán tức là giới hạnh. Luận kia cho đó là “hoặc tỳ-ni”. Trong kinh chưa rõ văn nào, hoặc sợ lời sớ đã dẫn (xưa nói: Trong luận tự chỉ bày: Xét trong đó không có văn). Trong phần nêu giải thích tám đoạn, mỗi đoạn đều có pháp dụ. Ba đoạn trước là dụ cho giới thể, năm đoạn sau đều nói giữ gìn tức dụ cho giới hạnh. Bốn cùng với đầu xen lẫn. Trước dùng Vương tự dụ thẳng thọ thể, sau dùng (cha thương con) để dụ tùy hạnh. Mắt dụ cho chính kiến. Lương thực ví như trợ đạo. Quốc (nước) nghĩa là đầy đủ thuốc công đức tức trừ chướng, tìm xem văn có thể biết. Trong phần ba nói như ý châu: Trong luận Trí Độ chép: Trong óc của rồng nhả ra, chúng sinh được châu như ý nầy sẽ dứt được sự nghèo cùng, diệt được các sự độc hại (hoặc nói rằng trong tim chim cánh vàng, hoặc nói là xá-lợi Cổ Phật. Đường lành là trời, người, bồ-đề là quả Phật, giữa lược ba thừa, vì thế nói là cho đến. Trong phần bảy nói ba việc túc tài nghĩa là nước giàu có. Dục trần nghĩa là các cảnh sắc, thinh, v.v… Câu “Quốc Túc Trần là vua” ý nói vừa ý. Cố trở xuống: Do tâm an hợp. chính pháp tức thể lại hiệu, không để mất việc kia. Trong phần hợp pháp, từ vô lượng trở xuống ba câu là phối hợp với ba việc trước. Trong phần kết khuyên nói công nghiệp trọng: Gồm tám dụ trên quy về hai nghĩa trước, còn lại đều trong phần sinh thiện. Trong một, bốn và bảy dụ công lao kiến lập mạnh mẽ. Kế nói về thiên và tụ. Trong phần chính, khoa đầu trước nêu bày danh số xen nhau. Năm thiên thủ đồng đều, bảy tụ y cứ tạp, nhưng chia ra thân miệng nên nói rằng y cứ nghĩa. Tội Đột-cát-la chúng đủ hai phần, tội không khác thể nên chỉ có sáu. Hỏi: Trước dẫn lời giải xưa định năm là thiên, bảy là tụ. Nay trước sau các phần đều có năm thiên bảy tụ, như vậy trở lại đồng với chấp xưa, vậy ý kia thế nào? Đáp: Chỉ phản hạn cuộc kia, tức nêu bày tên chung của thiên, tụ. Đã nói rằng cả hai thông, tùy dùng có ý mà không thể được. Nay trở xuống là y cứ về kết tội để nêu tên. Trong phần Phật xuất, tiếng Phạm đặt ra hình danh nầy, xứ nầy vốn không có làm sao đối chiếu giải thích. Cố trở xuống các tên hoặc là vọng thánh đạo (như Ba-la-di, Thâu- lan-giá), hoặc y cứ vào hạnh nghiệp [Ba-la-di, Tăng tàn, Đột-cát-la), hoặc đối chúng pháp (Ba-la-di, Tăng tàn), hoặc đến lai báo (Ba-la-di, Ba-dật-đề) hoặc từ sám pháp (Tăng tàn, Xả đọa, Đề-xá-ni) đại lược như vậy, còn bao nhiêu như sau giải thích. Đầu, trong tụ Ba-la-di, bộ Tăng-kỳ câu đầu gồm phiên dịch, ba phần sau là giải thích riêng, đầy đủ ba nghĩa nêu bày cực ác. nghĩa lui sụt ở trước như phần hỏi đáp sau. Hai hạng tăng: Giống như bốn phần sau: Đọa A-tỳ: Trong kinh Mục-liên vẫn chỉ nêu bày kiếp số không nêu tên ngục. Trong Tạp Tâm nói đọa vào địa ngục Viễm Nhiệt một ngày một đêm. Văn đây phán quyết, kinh Thập Luân đều nói A-tỳ tức ngục vô gián. Như kinh Niết-bàn chép: Trong đó không có một chút tạm vui (vì thường chịu khổ), không có một chỗ trống (thân và địa ngục đều tám muôn do-tuần) vì thế nói là Vô Gián. Người trí thấy việc nầy không kinh sợ hay sao? Trong luật Thập Tụng, trước dẫn văn luật, luật kia dịch Ba-la-di là Đọa, tức thọ giới rồi là nói bốn đọa nầy. Chữ đọa trong luật Tăng-kỳ chuyển giải thích là cực ác, không giống như luật nầy. Trong văn nhiều chữ, ý là dùng lời sao xưa trong luận, so sánh đó đều không. Nói không như nghĩa là không như ma. Tức nghĩa đọa phụ trở xuống dẫn luận giải thích, rõ biết đây là viết lầm. Ma có bốn loại, thường âm mưu độc hại lẫn nhau phải dùng giới binh phòng ngự chiến đấu. Nhưng, nay người tu hành giới lực yếu kém, ma quân mạnh hơn, vì thế dùng làm dụ. Trong bổn luật có ba nghĩa: Đoạn đầu: Tức một trong bốn dụ trong phần thọ pháp nói tướng. Như chặt cây đa-la. 3- Như kim sứt mũi. 4- Như khối đá vỡ làm hai. Dụ tuy có bốn, đồng dụ thể hoại, đoạn hẳn Thánh đạo nên nói hành pháp phi dụng. Kế nói vô dư, tức ngăn pháp rằng: Như ngăn các việc làm vô căn vô dư, v.v… (Tăng tàn là có dư, tên cũng nêu kia). Hành hoại vô công, không tham gia việc của chúng, vì thế nói là dứt phần. Cố trở xuống là dẫn chứng, tức kệ trong luật, quyển trước đã dẫn. Ba là Bất cộng trụ, danh đã thấy trong giới bổn. Hỏi: Ở đây khác gì với vô dư ở trên? Đáp: Trên thì y cứ về mình mà nói, như thây chết kia, còn ở dưới thì đối với tăng mà nói như bị dạt ra khỏi biển. Đối với nghĩa đầu tiên của luật Tăng-kỳ có một ít giống. Đây kia hai tên đồng với thứ hai kia. Trong phần hỏi đáp, lời hỏi có hai: Trước là lặp lại phần đầu, y cứ trở xuống là chính hỏi có hai: Một là hỏi phạm nặng, hai là hỏi có không. Trong phần đáp ở đầu, hai câu trên chỉ không nhất định, hai câu sau từ có mà lập. Nhập tránh luận: Tức phẩm Tránh luận trong kinh Niết-bàn chép: Này người Thiện nam! Ta đối trong kinh nói rằng: Nếu có Tỳ-kheo phạm bốn tội trọng, không gọi là Tỳ-kheo, không thể sinh hạt giống lành, thí như hạt giống rang không thể sinh quả, v.v… các đệ tử ta nghe lời nói này rồi không hiểu ý ta bèn nói rằng: Đức Như lai nói Tỳ-kheo phạm giới trọng rồi mất giới Tỳ-kheo (đây là chấp không). Này người Thiện nam! Ở trong kinh, ta vì Thuần-đà mà nói bốn hạng Tỳ-kheo: Tất cánh chí đạo (Vô học). Thị đạo (Sơ quả, Nhị quả, Tam quả). Thọ đạo (chung nội phàm ngoại phàm). 4- Ô-đạo (Bạc địa). Phạm bốn giới trọng là Ô-đạo. Đệ tử ta nghe lời này rồi, không thể hiểu được ý ta, bèn nói rằng: Như lai nói các Tỳ-kheo phạm bốn tội trọng rồi, không mất giới cấm (đây là chấp có). Trong Vấn kinh chỉ nói rằng không hiểu ý ta. Ý của Đức Phật như thế nào? Đáp: Còn không phải cảnh giới của Bồ-tát, Nhị thừa huống chi là phàm phu dốt nát. Nhưng, tuy khó suy lường cũng phải lược chỉ bày. Phải biết Đức Phật nói có thì nhất định có, không thì nhất định không, vì sao như vậy? Vì Đức Như lai nói thật thấy các nghiệp tính thiện ác của chúng sinh, tùy nghi mà nói, như thật không luống dối (xưa vọng ghi ra ý Phật rằng: Thọ thể vẫn ở danh Tỳ-kheo, chỉ vì không có lực dụng như hạt giống rang, đây lại thành chấp có, sao gọi là ý Phật). “Tạp Tâm Giải”, kia chép rằng: Có thuyết nói phạm chúng tội ban đầu (chúng là thiên) gọi là xả luật nghi, ở đây thì không phải như vậy. Nếu xả luật nghi: Phạm tội căn bản, đã hoàn tục lẽ ra được xuất gia lại, vì đã xả luật nghi. Lại nói rằng: Đối với biệt giải thoát luật nghi là Tỳ-kheo, đối với luật nghi vô lậu không phải là Tỳ-kheo. Lại nói: Chỉ là phạm giới, không phải xả giới. Hỏi: Đây lại chấp có lẽ ra thành tranh luận. Đáp: Đối kia thì tranh luận, đối nay thì không tranh luận. Vì thế cho rằng tăng nuôi mèo, chó và trong phần tùy tướng nói nuôi tám thứ bất tịnh đều dứt mất giới. Người không thấy đây cho nên phần nhiều chậm suy nghó. Kế trong phần đáp, trước y cứ vào tông để đáp. Đây tức giới đầu, văn giải rộng. Giới bổn cũng nói rằng sau phạm cũng vậy. Ở đây trở xuống chọn lựa phân biệt danh chủng. Phạm tội trọng có hai: 1- Tội đồng danh, nghĩa là bốn tội trọng xen nhau. 2- Tội đồng chủng, nghĩa là bốn giới đều luận. Trên chung luật Thập Tụng, dưới hạn cuộc bổn tôn. Văn y cứ bốn giới đều nói riêng về tội trọng, tức nói nghĩa đồng chủng của tông nầy. Hợp chứng có giới, phạm tội trọng nghĩa không lìa nhau, vì thế trong phần dẫn văn trước nêu ý của bổn tôn. Luật nghi tùy cảnh nên gọi là biệt thoát; đạo định tùy tâm tức là tổng thoát. Như trở xuống dẫn luận Giải Thoát. Trước nêu văn. Thọ là nghó xa vì thế có thể phát chung; phạm là chạm cảnh nên chỉ là biệt phạm. Đãn trở xuống là giải thích. Trước nói phát chuẩn chung trong phần giải thích tướng. Luận kia chỉ y cứ về ba độc qua bảy chi. Ba là bảy, đây là nghĩa nay, đầy đủ như ở sau giải thích. Trong văn nêu riêng chi dâm để nói, còn lại có thể nêu rõ. Cảnh dâm y cứ đạo nữ ba, nam hai, tâm dâm ba, độc ba, đơn ba phức một, đủ tùy duyên, khởi những câu hỏi. - Do tâm trải qua cảnh cho nên phát ra nhiều giới, như văn đã nêu. Nay trở xuống nói riêng phạm. Hỏi: Dâm không phạm cho nên có trọng: Nếu lại dùng tâm tham đối trước người nữ hành dâm là tội trọng chăng? Hỏi: Luật Thập Tụng không lập phạm trọng, đó là lấy luận kia để chứng tông nay phải không? Hỏi: Không thể một lúc phạm hết các giới: Tội không học được đốn phạm chăng? Như vậy hãy suy nghó những điều đó. Trong phần nêu chứng có hai: Y cứ vào sám hối tội trọng. Hựu trở xuống: Hai giới đánh Tỳ-kheo và vu khống tội Tăng tàn trong chín mươi giới Ba-dật-đề, Đại tăng không lựa tịnh uế, nếu trở xuống phản chất đánh và vu khống ba chúng đều phạm Đột-cát-la. Trong vấn nạn, hỏi có hai câu tức là hai nạn. Trong luật diệt và học hối đều không đủ số. Lại tên “đoạn đầu” hành pháp không dùng giống như thây chết. Nay nói rằng giới thể thanh tịnh sáng suốt không trái há chẳng phải là trái nhau ư? Vì thế phương tiện chỉ bày. Trong phần đáp đủ số, trước y cứ sám hối nói đủ, tức lựa hai diệt không ở trong luận. Như trở xuống là nêu chứng. Luật Thập Tụng khai làm pháp Yết-ma thuyết giới, tự tự (không khai pháp khác) cũng cho phép trong chúng tụng luật đã cho bỉnh pháp, thân đến dự vào trong tăng thanh tịnh, nghĩa đồng như đủ số vì thế nói là đúng lý. Đản trở xuống y cứ về lỗi, nói không đủ. Nói tình quá sâu: nghĩa là phạm tội cực ác. Không nhậm dụng nghĩa là thiếu đức nghiệp. Cố trở xuống là dẫn chỉ bày. Luật chép: Khi tăng thuyết giới và Yết-ma đến hay không tùy ý, vì thế biết tuy sám hối quyết không nhập vào số, chỉ vọng hai tẫn, tài pháp mất hẳn. Không tham gia các việc cho là hơn mà thôi. Trên nói là lý đủ, văn gồm hai ý: 1- Cứu người vô tri (không biết) nghĩa là mất lệ (nêu) phạm. 2- Cứu người phạm: Gồm lỗi không sám hối. Vì thế, văn nầy phương tiện chỉ bày. Hỏi: Có người nói: Tiểu thừa không sám hối tội trọng, đó là sám tịnh phải chăng? Đáp: Tiểu thừa, Đại thừa đều nói sám hối tội trọng Tiểu thừa tuy khai sám chỉ chướng ngục, nghiệp không thể trở lại như cũ, vì thế nói là không mà thôi. Nếu như vậy, theo Đại thừa sám tịnh có thể dự số không? Đáp: Hóa, chế khác nhau. Hóa là y cứ nghiệp đạo; chế thì trái giáo. Dầu y theo kinh Phương Đẳng lý sự sám diệt, đối nay chế giáo không sám phải đuổi, sám thành học hối. Nếu hành chế sám dầu nghiệp không mất lại gọi là thanh tịnh. Phải biết hóa chế sám pháp khác nhau, người phần nhiều vọng thuật, vì thế sai lệch lời sớ. Còn bao nhiêu ở thiên sau. Đáp: nghĩa “đoạn đầu” như phần hỏi đáp ở sau. Kế nạn nêu ra: Như các văn ở trước, đầy đủ y trong luật luận, muốn nêu bày có y cứ khuyên răn sách tấn đời sau, vì thế phát ra lời nói này. Trong phần chính đáp, câu đầu là chỉ cho trước. Cách trở xuống là nêu sau. Dưới dẫn luật Tăng-kỳ nói về học hối, hình tướng tất cả đồng như tăng. Luật Thập Tụng nói: Xin Yết-ma rồi, Đức Phật đã kiết giới tất cả thọ hành. Mẫu luận nói cho rằng hối pháp rồi gọi là thanh tịnh trì giới, vì thế nói thể đồng. Trong phần khiển trách mê muội, văn đầu có ba: Nêu lỗi, có liên quan một chút khiếp phục nên lại sợ. Kinh Bách Dụ chép: “Có một người nuôi hai trăm năm mươi con trâu. Trong bầy trâu này có một con lớn nhất bị cọp vồ ăn thịt. Người chủ kia nghó rằng: Bầy trâu mất một con không đủ số, nay ta dùng những con còn lại làm gì, bèn cùng một lúc giết hết bầy trâu”. Tỳ-kheo ngu si cũng như vậy, đã phạm một giới, các giới còn lại đều phá hết, có một chút phù hợp với ý này. Từ khởi trở xuống là chính khiển trách. 3- Yên trở xuống lại chỉ bày. Hai câu trên nói đồng chủng tịnh. Đương trở xuống là nói đồng danh tịnh, vững chắc không động gọi là nghiễm nhiên. Hạ trở xuống nói dị danh, dị chủng tịnh. Khoa kế, hai câu đầu dặn dò những lời dạy kia. Thọ tùy một v.v… nên gọi là đồng pháp. Nhược trở xuống là chính khuyên. Trước chỉ bày trì hạnh. Nghiêm nghĩa là cẩn thận nhiếp thọ. Tịnh thức tức là tâm, năm trần đều là cảnh, cái gọi là phương tiện chính niệm thường để đối trị. Than ôi! Đời mạt pháp chúng sinh trôi lăn, chìm đắm trong chốn tối tăm, từ lâu chưa thấy có người nhiếp chính niệm, lìa nhiễm ô. Tự mình đời trước không huân tập nghiệp lành, minh sự dạy dỗ, bậc Sư trưởng khuyên cầu Thánh giáo. Sáng suốt lựa chọn bạn tốt, ý chí kính mến những bậc hành bố thanh cao, mỗi thời mỗi thời không biếng nhác, mỗi ngày mỗi ngày càng mới, hoặc thể đạt tiền trần, trở lại cầu dục bổn, hoặc rõ tâm sở thọ chuyên ý thông trì, vì thế đối cảnh vắng vẻ, gặp duyên vững chắc ngao du, sau mới âm thầm hiểu đó, kia dụ như huơ tay trong hư không, rõ không bị trì trệ, mặc áo giáp vào trận nào có sợ gì. Nhưng hoặc nghiệp chưa tiêu thì sinh tử đáng sợ, đâu chỉ ở lời nói tức là thanh thăng. Ở cõi Dục mà lìa cảnh trần, bởi sợ chẳng phải chỗ ông có thể sánh kịp vì ở phàm học thánh, vả lại mà làm đó, chớ đối với việc mờ mịt mà phải nên tha thiết, nhân lời nầy mà suy nghị kỹ. Nhược trở xuống là khuyên phạm thì phải sám hối. Hai câu trên nói thành phạm, ký trở xuống chỉ bày lợi ích của sự sám hối. Nhược trở xuống là nói sự tổn hại của việc không sám hối. Hoài tức che giấu trong tâm dụ cho che giấu tội lỗi. Thể không thanh tịnh thì không xứng đáng thọ nhận lợi dưỡng, vì che giấu tội lỗi huống thọ, vì thế nói là mạo. Tự mình gánh vác có thể biết. Nói tha phụ: làm pháp thì việc trước không thành, thọ thí thì người thí cũng bị đọa, đâu không thương xót, mong muốn người kia sửa đổi, lòng đại từ bác ái đối với muôn vật không thiếu sót. Tuy hạnh ác trở xuống cũng thêm khổ chỉ dẫn, ân của Tổ so lường không thể biết được. Trong phần hỏi thứ ba nầy tức nạn về dụ đoạn đầu ở trước. Văn đáp trong luận, trước là y cứ về dụ để hiển bày. Bốn chỗ là: Óc, cổ họng, tim và bụng. Do trở xuống chỉ bày ý không giai cấp, tức trong luật Tạp Tâm nói rằng không phải nghĩa thứ nhất của Tỳ-kheo. Trong luật Thập Tụng trước nói quả báo của việc phạm giới, chính dùng bốn tội trọng, do đó dẫn sự hủy báng. Nhập A-tỳ nghĩa là sinh báo. Như thị trở xuống là nói chướng đạo. Kiết tức các hoặc kiến hoặc, tư hoặc v.v… Nói đọa ác: Giải thích thành kiết không cùng tận. Thời nay phần nhiều học tà đạo, chê bai Phật, khinh hủy giáo pháp. Vọng nói thô bỉ, tục tằn lại tự khoe khoang. Đâu biết rằng một khi khinh chê tôn dung của Phật thì thường chìm đắm trong con đường tối tăm, một khi xem thường kinh điển của Phật thì đọa mãi trong rừng tà, lý nghiệp rõ ràng sao lại không tin? Nhược trở xuống là hiển bày lợi ích của sự trì giới. Trước là người trì. Đầu, bốn giới trọng phát sinh các giới nên gọi là căn bản. Nhất trở xuống là chỉ bày công hạnh. Tất cả là gồm thâu bốn việc. Nãi trở xuống khuyên phải giữ vững. Nói xả mạng tức đồng với bổn luật răn dạy thà chết. Ba thừa y trụ: Hạnh bổn xuất thế (căn bản của hạnh xuất thế). Đọc văn này phải cung kính lời Phật, lời tha thiết, lý hiển bày rõ đủ làm quy cảnh, nguyện chuyên tụng trì tâm đầu để tự sách tấn mình. Đối Ni, bốn giới sau như khác ấy: Tức thiên biệt hành nghĩa là tám việc như ma xúc, v.v… che giấu tội trọng tùy đó mà nêu tội. Người nữ yếu đuối nhẹ dạ phần nhiều dễ phạm, vì thế tội chi đều cũng lệ đồng với tội trọng mà chế. Ba: Trong bộ khác, đầu nêu bộ để tính. Đồng trở xuống là chỉ bày khác. Đồng chủng phạm rồi mới làm, phạm Đột-cát-la cho nên không phải tội trọng. Thử xuống là chọn lựa xen lạm. Thiên sau chủng loại không đồng, có hai: Thượng hạ ngang nhau có tội trọng để hiểu, như văn đã dẫn học hối phạm Tăng tàn. Tụ sau hạn cuộc cũng có phạm tội trọng, như trong thiên khác nói rằng thiên sau tùy tội khinh, trọng ở đây. Bốn: Nói phẩm số: Dẫn trong luận, câu đầu của khoa trước chép trong bổn luận. Trong luật tức chỉ cho chính lượng bộ. Giải trở xuống là sớ giải thích, trước chỉ bày phương ngôn không đồng tức như luật Tăng-kỳ, năm tụ trong luật Tứ Phần cũng tương cận. Nay trở xuống là giải thích nghĩa của bộ. Trước nêu chung: Có, sau chỉ bày riêng. Phương tiện, căn bản do đầy đủ hai nghĩa thì thành nhóm loại vì thế được tên bộ. Trong phần biệt lệ (nêu riêng), trước nói mỗi giới tức chỉ cho bốn giới trọng, giải thích riêng bốn đoạn. Trước, trong phần phương tiện nêu việc dâm dục để nói thứ lớp. Nói khởi tâm; ở đây tức tâm phạm đồng như bốn phần nầy. Nhưng không có phần chừng nên phải định phàn trọng duyên và suy nghó lựa bỏ những chỗ không cần. Trên nói tâm phạm thì không gồm sắc. Kế từ phương tiện trở xuống đều nói sắc phạm, trở lại căn bản ở tâm, thân động miệng nói đều giải thích tướng. Gọi chung Đột-cát-la: đều xem xét thứ lớp xa, danh đồng mà thể khác. Trong phần phương tiện gần, trước chỉ tướng phạm, kỳ trở xuống giải thích nghi xúc chạm vốn là phạm Tăng tàn, nay kết tội Thâu-lan- giá vì thế phải thông để quyết nghi. Nhưng giới kỳ hẹn dâm dục thuộc về giới trọng nay trái lại là tội khinh. Đùa cợt (hý lạc) thuộc tội khinh sao trái lại là tội trọng. Khinh thì có quả để đến; trọng thì ngay thân này thành nghiệp, do đó mà khác. Đối trước người sám hối: Nói tội Thâu-lan-giá không chia ra ba lần sám hối. Ở lời nói thông lạm như sau nói đầy đủ. Trong phần ba, trước giải thích nghĩa thành tựu, do hậu quả vốn không thể đốn phạm, vì nương (nhờ) tướng kia mà thành. Nhược căn bản trở xuống là giải thích nghĩa thuận theo, vừa đến quả tội cộng thành một thể, không có phương tiện khác, ở đây đồng với luật Tứ Phần, khác luật Thập Tụng và luật Tăng-kỳ. Dư trở xuống là chỉ nêu ra. Trong phần hội thông, trước dẫn ba văn: Luật Tứ Phần không thành không nói nhiều ít. Luận Minh Liễu, phẩm một không trọng và khinh. Chỉ có luật Thập Tụng rất có mạch lạc. Sớ dẫn văn đó, hai thiên một và hai đều có phương tiện gần xa (kia chỉ lập hai phương tiện). Vì chia ra ba giai cấp. Sơ thiên cận: Trọng giới sám trước tăng (thượng phẩm). Sơ thiên viễn. Hai thiên cận: Ngoài giới trước sám hối với bốn vị (đều là trung phẩm) Hai thiên viễn: sám hối với một người (hạ phẩm). Y cứ trong trì, phạm ba tội theo luận Minh Liễu. Viễn: Tội nặng, Đột-cát-la, đây là y cứ theo bổn tôn. Kế là Cận: hai tội Thâu-lan-giá hoàn toàn y theo luật Thập Tụng. Song trở xuống hội đồng thứ lớp tội. Trong luật Thập Tụng thì tội Thâu-lan-giá, Luận Minh Liễu thì tội trọng và Đột-cát-la, nay muốn dùng tội Thâu-lan-giá thế cho tội Đột- cát-la, lược chỉ khiến cho biết, còn bao nhiêu thì như ở sau. Hễ định thể tội thì phải y cứ vào sám hối mà nói, Thâu-lan-giá y cứ theo pháp, tuy đối tiểu chúng chính xả lại đồng tội Đột-cát-la vì đối trước mười người diệt. Thể chung kia đây tức chỉ cho hai văn. Loại giải: Khiến so sánh hai tội. Thứ hai: là tăng tội: Trong luật Thiện Kiến y cứ hành sám giải thích danh nghĩa, Tăng-già là thông suốt trước sau. Trước tội tăng tàn là biệt, tức khi sám hối hai pháp trước sau, do trung gian nhiếp hợp gọi Tăng-già là chúng. Song đây thường gọi người là Tăng, vì thế các văn nầy dùng chữ Phạm hiển chữ Phạm không phải là dịch. Nói tùy theo cảnh: Cảnh tức chỗ đối trước người. Danh nghĩa trong luận Bà-sa cùng luật Tứ Phần, Mẫu Luận phần nhiều giống nhau. Ban đầu, giải thích riêng nghĩa tăng đồng như trước. Chữ Tàn gọi là tội ngôn, phạm tội nầy ít có hạnh khác, cho nên có trở xuống là phải kết tội. Luật Tứ Phần, trước chỉ đồng. Hựu trở xuống là chỉ khác. Có dư cũng tức là nghĩa Tàng. Hành pháp đối trước (không có khác) vô dư được gọi là chúng pháp, nghi đây là viết lộn. Cũng có thể hành chung chúng riêng, đây là y cứ chúng mà thực hành. thích. Trong Mẫu Luận, trước ghi tên. Như trở xuống là dùng thí dụ giải Ba câu trên dụ cho tội tàn. Lý trở xuống một câu là dụ cho Tăng. Đây là hướng về thiên đầu gọi là đoạn đầu vì không thể cứu. Vì thế, sau dẫn luật để giúp hiển bày. Chữ cường dữ tức là sớm cứu, tội khác thì không được như vậy, theo kia tự sám hối. Trong tăng ni, sáu điều khác là: Lộng xúc, hai thô, hai phòng. Bảy đồng là: Môi giới, hai phỉ báng, bốn can ngăn. Đây là y cứ về giới của tăng, đối giới của ni mà nói, nếu so giới của ni với giới của tăng thì có mười điều khác: Nói người. Bốn riêng lẻ . Độ nữ tướng cướp . 4- Giải cử. 5- Thọ thức ăn của người nam có tâm nhiễm ô 6- Khuyên thọ. Che giấu cho nhau, trái lời can ngăn. Khuyên cùng ở với người ác, trái lời can ngăn. Vì một chút tức giận mà đòi bỏ chính pháp, trái lời can ngăn. 1 0- Ưa tranh tụng chê bai tăng, trái lời can ngăn. (Tìm giới bổn của ni để đối chiếu). Sau chỉ rộng, tức thiên biệt hành. Trong số tội, dẫn luận. Năm mươi hai tội: Mười ba căn bản mỗi căn bản đều có ba phương tiện. Đột-cát-la là viễn, hạ Thâu-lan-giá (Thâu-lan-giá phẩm hạ) là thứ. Trung Thâu-lan-giá (Thâu-lan-giá phẩm trung) là cận. Trong phần sớ giải, khoa đầu có ba nghĩa: 1- Tăng tàn. Cứu. Thắng. Luật Bà-sa chỉ có giải thích nghĩa thứ nhất, vì thế nói một nghĩa đồng. Khoa kế giải thích rằng: Sớ dẫn kia để giải thích. Trước giải thích Tăng-già, hai câu trên là nêu bày. Do trở xuống là lựa chọn khác. Giới kiến thì sự hòa, định tuệ thì lý hòa. Nay chỉ lấy sự, không lấy lý. Vì thế trong văn phần nhiều chữ bất ở trên gồm để xem xét lại bổn xưa. Phục đối trở xuống giải thích viết lầm không nghi (lời ký xưa không biết tùy văn giải lầm). Phật trở xuống giải thích riêng rất dễ hiểu. Kế nói Tăng-già Bà-thi-sa chính là y cứ vào chỗ được lợi dưỡng, để giải thích nghĩa Tăng tàn. Ở đây tức cầu sám hành trụ diệt: Nếu phạm không sám hối thì không đồng lợi tăng. Sau giải thích hai tên ấy: Dùng nghĩa Tăng-già gồm chung ba pháp. Ba-lợi-bà-sa, Hán dịch là Biệt trụ. Văn tuy không nêu nghĩa, đã thấy ở văn trên. Vì thế chỉ nêu hai pháp tức sáu đêm xuất tội. Dẫn trong bộ chính Lượng, ý chỉ đồng mà giải thích khác. Tìm xem văn có thể thầy. * Ba: Tụ Thâu-lan-giá trong bộ Thiện Kiến, trước dịch tên. Chướng thiện đạo tức lực dụng của tội. Sau phiên dịch lỗi của tội ác là đương thể của tội. Hậu trở xuống là giải thích nghĩa. Ác có công năng chướng thiện, từ nghiệp mà có tên (xưa chép rằng: Điều đạt phá tăng khiến cho Pháp luân không chuyển gọi là chướng thiện: Một là mê mờ văn tướng, hai là thành ra nhỏ hẹp). trên. Tùng trở xuống là nêu lý do. Hựu trở xuống nêu tên khác. Bộ Thinh luận chỉ nêu tên tiếng Phạm mà không dịch vì giống với Trong kinh Ba-ly Vấn chép: Thổ-la-già là tiếng ở vùng biên giới, xưa ghi luận kia gọi đủ là: Tát-thâu-lan-kỳ tăng, Hán dịch là tội thô, chưa thấy trong luận nầy, không biết xuất xứ từ đâu. Trong luận Minh Liễu, trước gồm dịch tên, kế giải thích riêng. Đầu tiên là giải thích nghĩa. Trọng phương tiện: Giống như luật Thiện Kiến ở trên. Dứt gốc lành nghĩa là thành nghịch. Kế giải thích nghĩa lỗi: Trước y cứ vào pháp để giải thích. Như trở xuống dùng dụ để hiển bày viện, nghĩa là viện hộ, tức rào chung quanh. Nhiên trở xuống là chọn chung riêng. Câu trên chỉ chung, do các tội khác đều không y theo giới của Phật nên nói là chung. Thử trở xuống là nói hạn cuộc. Hỏi: Thiên một và hai tội Đột-cát-la, đầu tiên sao lại suy ra Thâu- lan-giá? Đáp: Nếu ba phương tiện thứ lớp thành nhau thì Đột-cát-la sẽ thành Thâu-lan-giá, Thâu-lan-giá mới thành tội trọng. Vì thế, Thâu- lan-giá là đầu tiên. Lại Đột-cát-la chung cho các tụ, Thâu-lan-giá thì hạn cuộc hai thiên, bỏ thông lấy hạn cuộc, vì thế nói là đầu tiên. Trong phần trước sau, ở đầu nêu là tội thông, v.v… nghĩa là chỉ tạo tướng. Trong luật nêu thượng hạ là nói bất định, vả lại đó là lời giúp thêm. Trong phần giải thích riêng, khoa đầu trong phần chính nói: Thông y cứ vào thiên tụ đại khái chia làm hai. Thiên một, hai tướng lỗi thô trọng nhiều, vì đây là dứt lìa nên gọi là giới phần. Tội Ba-dật-đề về sau phần nhiều chế y và thuốc. Thân khẩu trái nghịch gọi là phần oai nghi. Y cứ vào hai phần nầy để giải thích nêu thứ lớp. Đầu tiên là nói trước nêu. Nói phương tiện xa gần, thuận với luật Thập Tụng mà nói hai tội. Y cứ chỗ lập viễn ở trước nên nói là Thứ. Thiên một có đủ hai, thiên kế chỉ có cận. Viễn ở sau thân. Độc đầu là danh của quả tội lựa từ tùng sinh, hoặc trở xuống nói ở sau. Khỏa thân dùng tóc đều đồng với ngoại đạo, đều chế phạm Thâu- lan-giá. (Trang 2 5 7) Trong phần giải thích giới nghi, hai câu đầu gồm nêu, thông trở xuống là giải thích riêng. Trước giải thích chung tức trọng luật, duyên khởi của mỗi giới Đức Phật đều quở trách rằng: “Việc làm của thầy là sai, không đúng là nghi”. Lại nói: Đây là người ngu si, nhiều thứ hữu lậu, đầu tiên phạm giới. Mỗi giới đều nói như vậy, vì thế phải biết tất cả đều gồm có hai tên. Do điều lành trên, giới trọng cũng là trái oai nghi, vì tụ sau nói oai nghi không đâu chẳng phải là cấm điều ác. Nhược trở xuống là giải thích riêng, như trên đã chia chính từ nơi biệt. Trong phần đồng tạp (quân tạp) chỉ nói ở ý sau. Trước là chia trước sau; nhiên trở xuống chỉ bày thứ lớp. Hỏi: Tuy chung thượng hạ, chỉ nêu ra một tên, tức lẽ ra trước không thâu nhẹ, sau không nhiếp nặng? Đáp: Tùy nêu trước sau đều thâu ba phẩm, nhưng trước sau nặng nhẹ đều quy về. Ở sau kinh thượng hạ đều nhiếp. Hỏi: Dưới nói năm thiên nghĩa đủ ba quân, nay nói nói bốn quân? Đáp: y theo lời sớ trong giới nói, vả lại lấy quả tội Đột-cát-la để ứng với số năm thiên năm phạm. Xét về lý mà nói thì Đột-cát-la phải ở vào phần tạp, vì thế chỉ có bốn mà thôi. Hỏi: Độc đầu Thâu-lan-giá có phương tiện hay không? Đáp: Văn tuy không nói rõ nghĩa nhưng đồng tụ sau lập hai phương tiện. * Bốn: Ba-dật-đề. Trong phần dịch tên: Thiêu chữ là hình phạt dữ dội. Phú chướng là tướng của chỗ ở chính là tên chung của địa ngục. Hoặc có thể thiêu chữ thâu tám ngục nóng, chú chướng gồm tám ngục lạnh. Y theo sau rõ đọa ngục Đại Khiếu Hoán, bộ Tâm luận nói đọa ngục Chúng Hợp. Một ngày một đêm chỗ nêu ra khác nhau mà thôi. Khoa kế, trước chỉ số chung, phân trở xuống nói ly, hợp. Trước y cứ vào sự để nói ly, vì tài nên có tham, trái với lời dạy nên nói khinh mạn. Nhược trở xuống là y cứ tội để nói hợp. Trong phần tăng ni, trước là nêu số. Ba mươi là nói ba mươi pháp xả đọa, tăng ni hoàn toàn giống nhau. Dư trở xuống là chỉ cho pháp Đơn đọa (Ba-dật-đề) có pháp giống, có pháp khác. Ni gồm có một trăm bảy mươi tám pháp Ba-dật-đề; tăng có chín mươi pháp Ba-dật-đề. Trong chín mươi pháp (giới) của tăng so sánh nhau thì tăng, ni cùng có bảy mươi bốn pháp (giới), Ni không có mười sáu giới: Giáo thọ ni sau mặt trời lặn. Giáo thọ ni vì lợi dưỡng. May y cho Tỳ-kheo-ni Cho y Tỳ-kheo-ni. Ngồi với Tỳ-kheo-ni ở chỗ trống. Hẹn đi chung đường với Tỳ-kheo-ni. Hẹn đi chung thuyền với Tỳ-kheo-ni. Đi chung đường với Tỳ-kheo-ni. Ăn thức ăn do Tỳ-kheo-ni khuyến hóa. Xin thức ăn ngon. Làm ống đựng kim bằng nanh sừng Làm hư y Phật, v.v… Một trăm lẻ bốn giới còn lại của ni có nêu đầy đủ trong giới Tỳ- kheo-ni, vì danh số nhiều không thể dẫn đủ, nếu cần thì tìm xem. Nói chỉ như biệt: Giống như phần giải thích tướng, riêng ở trong thiên của ni, lại trong nghĩa sao giới sớ có lựa chọn đủ. Trong phần dịch riêng, trước dẫn chỗ thiết yếu của luật nghi. Riêng dịch Ni-tát-kỳ là đọa ấy là vì cả hai đều ghi. Đọa tên giống như trên, vì tự có thể hiểu (xưa chép: Trên lược bỏ chữ Dật-đề là sai). Bộ Thinh luận nói đều xả, y cứ phần sám pháp ở sau, xả có ba trường hợp: Một: Xả tài. Hai: Xả tâm. Ba: Xả tội. nghĩa tuy chung ba tên nhưng chuyên về việc tài, chứa vật dư lâu ngày có sót không thành sám xả, vì thế nói (xả hết). Sau nói về: Ba-dật-đề, là tiếng Phạm, danh nghĩa giống như trên nên không giải thích lại. Trong phần năm cũng có ba: 1- Chỉ bày số chung. Dịch danh nghĩa. Dẫn chỗ dịch khác nhau của ba bộ luật. Bộ chính lượng có ba nghĩa cùng giải thích một tên. Y cứ phồn tế (phức tạp và vi tế). Số một trăm hai mươi là quá các thiên, cho nên gọi là tội nhiều. Thể đủ oai nghi nên nói là khinh tế. Y cứ vào tham lạm, chế tức là già, khác hai thiên trên chỉ trừ giới môi giới, phòng, còn lại đều là tính tội, trở về sau các thiên đều là ngăn tội. Y cứ về số phạm. Từ hai nghĩa trước để thành nghĩa thứ ba, vì thế kết danh ở sau, tức Phật chế công dụng không ngoài giải hạnh. Hỏi: Ở đây cùng với chúng học đặt tên có gì khác nhau? Đáp: Đây đủ ba nghĩa, trị bịnh rất khó, vì thế cầu công dụng. Đột- cát-la không phải là tính nghiệp, chế hạnh cũng nhẹ, chỉ nói là nên học. Kế dẫn trong luận Bà-sa và chính Lượng bộ ở trước lời có chút khác nhau, nghĩa đồng với một ở sau, hai bộ trước đều có thể trị hạnh làm tên. Sau, Thượng tọa bộ tức từ thể của nghiệp bất thiện làm danh mục, tức đồng với nghĩa đọa. Nghiệp nầy làm ô nhiễm tâm thiện thanh tịnh, vì thế trong nhân như đốt cháy. Lại có thể chuyển biến ngục báo lửa cháy mạnh (ngục Viêm Xí), vì thế quả báo phải chịu sự thiêu đốt nóng bức. Ba: Từ đản trở xuống là nói phương tiện tội. Nói: Chỉ hai tội là chỉ bày tội trọng và tội khinh vì có sai hàng. * Năm: Trong phần dịch tên Đề-xá-ni, trước là nêu tên. Nói hướng về người kia tức người đối thú, vì thế nói là cảnh đối trị. Kế, là dẫn chứng, bộ Tăng-kỳ thì được nghĩa sám ở trên không kèm chỗ đối, trong giới bổn nói đủ, tức nói rằng nên hướng về vị Tỳ-kheo khác sám hối, v.v… là ở đây. Khoa kế, ni có tám: Tức không bịnh xin sữa, xin dầu, xin mật, xin đường phèn, xin sữa tươi, xin sữa lạc, xin cá, xin thịt, đối với tám vật này mà chế tám giới. Trong phần nếu số, bốn giới đều có hai phương tiện, vì thế có mười hai. Đều đối tức đối với người không phải chúng. * Sáu: Đột-cát-la. Khoa đầu, trước dịch tên trong luật nói ác tác là thâu chung thân và miệng. Bốn phần trở xuống là dịch tên trong giới bổn. Đầu là dịch tên có hai: 1- Bộ Thiện Kiến chép: Thức-xoa dịch là học. 2- Bộ Ca-la-ni chép: Ưng đương. Nay trở lại lời nói kia thì thuận với ngôn ngữ ở đây. Hồ tăng tức Tổ sư đích thân thừa đương, không phải chỗ xuất xứ. Lời sớ chép: Nếu tùy theo chỗ ngăn ngừa, lẽ ra gọi là chúng Đột- cát-la, nay có thể trị hạnh nên đặt tên gọi. Thử trở xuống, cả hai đều giải thích. Bộ Đa luận hỏi: Vì sao thiên này gọi riêng là Ưng đương học nên học? Đáp: Các giới khác dễ giữ, như tội trọng đã phạm sám hối là khó, còn giới nầy khó giữ mà dễ phạm, thường phải nhớ học. Vì thế, từ Thập Tụng trở xuống là kết hiển. Văn nêu: mưa mau là dụ cho tội kia phạm rất nhiều, ý nói giữ đó không dễ. Há trở xuống hai câu đều kết hai tên. Chuyên quen ở trong tâm tức là nghĩa học. Trong tăng ni, danh số các bộ không giống nhau. Luật Tăng-kỳ có sáu mươi sáu. Luật Thập Tụng có một trăm lẻ bảy. Luật Ngũ Phần số đồng mà tướng khác, vì thế nêu luật nầy để lựa chọn. Trong giới bổn của ni không nêu chúng học chỉ lược vì giống như luật của tăng. Trong phần ba, luật văn trước sau nêu bảy tụ gọi là thứ sáu hoặc khác, chính là Hoa Phạm đều xen nêu mà thôi. Sau chỉ rộng, lời sớ trong giới chép: Ác tác, ác thuyết nêu đầy đủ số mục, vì thế trong Mẫu luận chép: Thân gọi là ác tác, miệng gọi là ác thuyết. Tác nghĩa là trường, gọi chung thân miệng, vì thế văn sau thầm không nói thân hay miệng đều là Đột-cát-la, như trong luật Thiện Kiến giải thích ác tác nầy (số văn). Cho nên phải biết Đột-cát-la ở sáu tụ gồm thân miệng, trong bảy tụ chỉ hạn cuộc thân. Lại trong bảy tụ, ác tác danh chung mà thể thì hạn cuộc, ác thuyết danh và thể đều hạn cuộc. Đoạn bốn của khoa thứ tư đều nói rõ trong văn sớ, phần đầu lại có hai: Một là nêu số lượng, hai từ thử trở xuống là dịch tên. Trong phần một, trước y cứ về bổn bộ, chỉ chọn phương tiện thiên trước đều tùy theo bổn thiên, còn lại chính là không giới hạn nhiều ít. Gồm thâu thứ năm nên nói rằng không phải bốn bộ, v.v… “Học đối” tức đồng với tông nầy nói là “nên học”. Cập trở xuống là nhiếp chung các bộ. Bà-tẩu nói Đấu, Hán dịch là phẩm loại. Sau nói giới có hai trăm giới, phần nhiều nói giới khinh, “Độc kha Đa” tức “Đột-cát-la”, chỉ do Phạm âm khác mà thôi. Tất cả nghĩa là hiển bày bộ nầy không hạn lượng. Vì thế, kế trong phần dịch tên. chính Lượng Bộ cuối cùng (mạt) tức ý căn bản đồng quy, vì thế nói là không phân biệt thân và miệng. Từ gốc đến ngọn sắc thinh xao động đều do ý khởi, vì thế nghĩa là ác tác. Bộ Tát-bà-đa, tông kia luận rằng nghiệp không nói do tâm tạo, thân miệng tuy khác nhưng đều kích động, vì thế gọi chung là tác. Hai câu dưới lựa chia đồng. Tên ấy, đều gọi là ác tác, vì thế nghĩa hai thứ khác: Vì tâm sắc đều tịnh riêng. Trước phân tên: Thế âm là tục ngữ kia, hiển tức xoa ở trước, đây chính là âm Phạm. Nhược trở xuống là phân thể. Không động thân miệng: Hiển rõ đây là ý phạm. Kia chỉ y cứ ba nghiệp để chia làm hai thể. Thử trở xuống là thăng mậu, ngài Chân Đế vốn là vị tăng ở phương Tây được thinh thật kia, vì thế thăng ở xứ nầy truyền dịch là sai. Nhưng thuận với văn kia, chia làm hai. Nay đặc biệt khác, cũng cần lược biết. 1- Danh thông: bất luận tội khinh hay trọng, hễ từ biên lỗi đều là Đột-cát-la. nếu hướng đến hành biên đều nên học. Thể khác: bất luận ba nghiệp, cố tâm đều phạm tội nặng, lầm đều phạm tội nhẹ. Trước nói Đột-cát-la nhẹ, nghĩa là độc đầu tâm niệm như muốn được bát mới thầm khởi ác lại thất niệm. Như các thiên phương tiện xa thì bất luận có không sau từ nhược trở xuống nói Đột-cát-la nặng. Hai phương tiện tức nghĩa thành tựu, cũng y cứ về khởi tâm động sắc để nói thứ lớp. Vì bổn tội đồng ở dưới không có tụ khác nên nói tùy diệt tức là nghĩa thuận theo. Trước nói sám hối Đột-cát-la nặng, tuy là đối thú nhưng trở lại tự trách mình, vì trách tâm là nói chung các pháp sám hối. Pháp sám như ở phần sau, nên ở đây không nêu ra. Kế trong phần sám tội nhẹ, do dẫn pháp sám về thiên sau không nêu ra nên ở đây chỉ thông. Trong phần kết lược, khoa đầu trước chỉ số chung, thượng trở xuống là kết trước; dư trở xuống là nêu sau. Trong hai pháp bất định, trước nêu bày chỗ nghi. Nói nương cảnh tức là đối trước người nữ. Sáu tụ: Ba tội, hai tội trong giới bổn nghĩa là; dâm, xúc, nói lời khen ngợi, ngồi ở chỗ trống. Lan kết tức phương tiện Đề-xá ở chốn Lan-nhã thọ ăn. Nhược trở xuống nói bổn phạm. Văn sau giải quyết nghi ngờ. Do trong giới bổn không đủ sáu tụ cho nên lược nêu chung. Sau chỉ rộng tức như lời sớ trong giới, lược chỉ bày. Nói chế ý: Như lai lập giáo chuyên để nhiếp tu, không xem xét nhau, không tự gắng sức, tùy lời nói nêu phát để còn tướng lợi, do đó nêu thiên thứ ba: Đã chung sáu tụ. Trên thâu giới phần, dưới nhiếp oai nghi. Văn nghĩa tiện cho nên giải thích danh nghĩa: Hai là hai chỗ: Chỗ có che khuất và chỗ trống, đối với chỗ phạm, sự không quyết định vì thế gọi là bất định. Nói tội thể: Giới nầy tội thể chỉ thủ sinh nghi phạm Đột-cát-la. Văn nói nên mỗi việc trị, tự y theo thiên tụ mà thôi. Tăng có ni không, tức không đồng giới. Trong bảy pháp diệt tránh, trước chỉ chỗ tranh cãi. Tội chung có: Một hiện tiền Tỳ-ni: Do nhóm Tỳ-kheo sáu vị vu khống Ca-lưu phạm giới dâm. Hai: Ức niệm Tỳ-ni: Do Từ Địa vu khống Đạp-bà phạm giới dâm. học. Ba: Bất si tỳ-ni: Do Nan-đề tức giận nhiều phạm giới chúng Bốn: Tự ngôn trị: Do Tỳ-kheo giới trộm, bọ ngài Mục-kiền-liên kéo ra. Năm: Đa nhân ngữ: Do đấu tranh phá tăng. Sáu: Tội xứ sở: Nhân Tượng Lực nói dối. Bảy: Cỏ phủ đất: Vì các Tỳ-kheo cùng đấu tranh qua nhiều năm phạm các tội. Nên biết chỗ đoạn cũng gồm sáu tụ, vì thế nói có chung. Nay trong giới bổn chỉ cho chế năng dứt. Dụng pháp: Đều là tội Đột-cát-la. Hỏi: Đã chung sáu tụ vì sao lại nêu sau cùng? Đáp: Không đồng, không định, việc khởi một người. Đây là phạm Tạp sinh, vì thế nêu ở sau, tổng kết thiên trước. Đản trở xuống là nói chế ý. Bốn tránh là bệnh, bảy diệt là thuốc. Sấn tức là diệt, nay y theo nghĩa sao, lược biết danh số: Nói pháp này bất định, lý tà hay chính, đây kia tranh cãi bèn thành trái khác, vì thế gọi là tranh để dứt trừ hai pháp hiện tiền và đa nhân ngữ. Trong có ba căn, tìm xem tội trước, nêu tội đến Tăng bèn sinh ra sự tranh cãi kia, vì thế gọi là mích, để dứt bốn pháp diệt tránh là hiện tiền, ức niệm, bất si và tội xứ sở. Đủ duyên tạo cảnh làm các việc trái với lời dạy gọi đó là phạm. Do bình luận tội phạm này mà xảy ra chuyện phân vân gọi là phạm tránh, để diệt ba pháp diệt tránh là hiện tiền, tự nói trị và cỏ phú đất. Bình luận kia đã khởi Yết-ma, kia đây không hòa bèn sinh sự tranh cãi đó, nên gọi là sự tránh, để diệt tất cả pháp diệt tránh (trong phần nói Mích phạm đều có sự tranh, trở lại đồng như ba pháp trên. Dùng thuộc trị bệnh nên nói là tất cả). Văn sau chỉ bày lược. nghĩa sao giới sớ, văn kia rất rộng, nhưng sau chỉ bày ni gồm nói về luận tám thiên. 1- Ba-la-di, Tăng tàn, Đơn đọa, Ba-la-đề Đề-xá-ni nhiều ít có khác. Bất định có không khác. Xả đọa, Chúng học, Diệt tránh, kia đây đều đồng nhau. Vì thế nói là giới chung. Trong phần hỏi đáp, trước hỏi có hai: 1- Hỏi năm và bảy lìa hợp. 2- Từ nay trở xuống hỏi sáu và bảy lìa hợp. Trước nói rằng y cứ về nghĩa thì phân chia ra, nên nay hỏi hiển bày. Trong phần đáp, văn đầu, trước nêu năm thiên. Hỏi: Tên thiên rút ra từ luật Tăng-kỳ mà trong phần hiển bày nêu rằng thiên chính là từ tông khác, không quan hệ với bổn là sao? Đáp: Năm: Pháp vốn đồng mà đặt tên có khác. Nay mượn tên kia để nêu bổn bộ, huống chi thiên và tự nghĩa chung, tùy dụng không ngại. Kỳ trở xuống là nói về Tụ. Văn sau tức trong các kiền-độ hoặc sáu hoặc bảy, trong đó nêu không nhất định. Trong phần giải thích riêng, khoa trước rất dễ hiểu. Trong phần nhập năm: luật Tăng-kỳ, luật Tứ Phần thiên và tụ tên khác. Xưa phần nhiều nghiêng chấp, nay chỉ nói năm là không có chỗ hạn cuộc. Sau cũng được nói rằng nhập chung vào bảy nhiếp, mà nói Tụ là thuận với tông này. Khoa kế, sáu y cứ thể đồng nghĩa là trước nói chính kết tội, khoa chỉ có sáu pháp. Câu bảy ước quá nhiều, nghĩa là Đột-cát-la tội chúng lượng bằng Hằng sa, tùy đủ có hai phần vì đơn giản có thể biết. Kế, trong phần hỏi còn sợ người mới học mê mờ danh số kia nên phương tiện nêu bày, thật là lòng từ sâu xa. Sau chỉ giới sớ, văn thấy phần thứ nhất. Kia hỏi rằng: Đột-cát-la đã chung phương tiện, vì sao lại ở trong thiên? Đáp: Chọn rốt ráo: Để nhập vào trong thiên. Phương tiện khác: Nhập tụ sở nhiếp. Hỏi: Thâu-lan-giá đều chọn tùng sinh. Thủ rốt ráo là dùng để nhập thiên phải không? Đáp: Khác nhau. Thâu-lan-giá rốt ráo hoặc đồng, hoặc tạp, hoặc trước, hoặc sau, khó tịnh tội kia. Đại khái chia làm ba, sám đồng tùy theo vị nên nhập tụ, thâu, v.v… Sau, trong phần hỏi nói năm trăm, văn khác nêu ra không đồng với luật, vì thế hỏi để xét. Trong phần đáp, văn đầu có hai: Nêu số không nhất định, ước tức là lược. Nói chung tức là hai số tăng, ni. Từ luận trở xuống hiển bày lý do lược. Trước nói chung thể lượng. Kế từ thả trở xuống là nêu riêng hai số. Nói giới của tăng, hề kính là con đường nhỏ. 2- Từ luật trở xuống là nói giới của ni. Giới là năng phòng; lỗi là sở phòng. Giới thì thông, lỗi thì riêng. Từ riêng mà nói nên gọi là sở phòng. Kế, trong phần giải thích chung, nói rằng: Lược thì tám mươi bốn ngàn, rộng thì vô lượng vô biên. Nay đối với năm trăm ở trước, lại dùng tám muôn là rộng. Vọng trở xuống là nói vô lượng lại thành lược mà thôi. Đã không có số lượng, thì biết năm trăm chẳng phải luống dối. Hai, trong phần phạm báo, trước nói khởi nghiệp: Muốn rõ quả khổ phải xét nghiệp nhân, huống chi tạo nghiệp có muôn ngàn sai khác, làm sao có thể dùng một đề suy lường. Như trở xuống dẫn kinh; đọa địa ngục năm này kiếp nọ, lại y cứ chỗ chế tội, thường phân chia cho. Có trường hợp phạm tội khinh mà quả báo nặng, không ngại phạm tội nặng mà quả báo nhẹ, phải suy đó có thể tạo ra chỗ khởi khác nhau, thiện ác báo ứng mảy may không mê muội. Đó phải biết hai giáo hóa và chế biện nghiệp. Chế thì từ giáo nặng nhẹ; hóa thì nói tâm sâu cạn. Giáo chỉ định duyên đầy đủ thì xếp vào khoa hình (phạt); tâm không thường phát động thì phải chia ra thể tính. Nhân quả đã khác, hóa và chế phân đây ắt mê mờ, tông đồ chưa cùng tột nghiệp bổn, vì thế, khoa trước chọn phương tiện chỉ bày. Văn đầu tiên, trước nêu nghiệp bổn. Nghiệp không có tự tính phải nhờ duyên mới sinh. Duyên tùy nhiều mà không ngoài tâm và cảnh. Do cảnh phát ra độc, cấu tạo thành nghiệp. Cảnh là chủ duyên bên ngoài; còn độc phát ra từ bên trong, vì thế nói khởi nghiệp thì suy ra ba độc. Độc từ ngã sinh, ngã tức vọng chấp, tức vọng chấp nầy tức là cội gốc của nghiệp, vì thế nói là vọng nghiệp. Kinh chép: Tất cả biển nghiệp chướng đều từ vọng tưởng sinh, tìm cầu gốc của vọng rốt ráo không có chỗ nương tựa, chỉ là nhất tâm tùy nghiệp bất giác, vì bất giác cho nên hẹp hòi chấp ngã. Từ ngã khởi độc, nhân độc sinh nghiệp, nghiệp thành thì cảm quả, quả hoàn toàn là khổ, khổ là sinh tử, trôi lăn ra vào tạo nghiệp thọ báo làm tư lương, như vậy ức kiếp đâu biết chỗ dừng. Từ gốc đến ngọn (từ đầu đến cuối) y cứ quả mà suy ra nhân, biết được chút ít nguồn vọng. Biết được gốc khổ, các bậc Hiền xem xét đây, há không tự suy nghó thương xót. Thử trở xuống là chỉ rộng lớn, xin tìm xem, sẽ dẫn ở thiên sau. Nay trở xuống chính nêu bày tội nặng và tội nhẹ lại có hai: Chỉ bày giới hạn của quả báo phạm tội. Hai câu trên nói phạm từ tâm khởi, chỉ nhân khác nhau. Hai câu dưới nói quả báo y cứ vào phần tâm chỉ bày quả khác. Ba tính: tính tức là tâm thể. Tâm tuy có muôn hình dáng nhưng nói về thể chỉ có ba: Một là vô ký, hai là hữu ký, nhưng cứ theo tâm thiện ứng thọ phước báo, do tâm ngu si tổn cảnh nghĩa một. Nghiệp tạo chế giáo cả hai đều có phạm. Hễ nghiệp có ít thì khinh lại y theo giáo. Ý nghiệp là chủ năng tạo, gồm ba tính trên, hễ tính căn cứ theo nghiệp mới bất định khởi lấy nghĩa đã thành. Từ cố trở xuống: Dẫn văn để hiển bày tướng. Hai câu trên là chỉ bày chung. Có trở xuống là giải thích riêng. Trước nói chế nhẹ nghiệp nặng có ba: 1- Nêu. Từ vô trở xuống nêu tướng có bốn: Hai câu đầu không có tâm hổ thẹn, không sợ nạn: Giải thích tướng không hổ thẹn. Hai câu kế là nói tâm tà kiến. Hoặc trở xuống bốn câu là tâm không tin, không tin có hai: Một là không tin Thánh giáo (lời dạy của Phật), hai là không tin quả báo. Hoặc nghi trở xuống năm câu là nói tâm nghi hoặc, đồng hai món trên. Hoặc do trở xuống là kết thúc chỉ bày. Từ kế nhược bất trở xuống là chế nặng nghiệp nhẹ. Trái với bốn tâm trên, rất dễ hiểu. Kế chỉ bày tướng. Trong phần nêu nói ba tướng tức là tướng chung của tâm. Nặng nhẹ, thiên tụ không nêu ba món này. Đốt cảnh tạo tác tùy việc trước khác nhau. Lại tâm bất thiện có thể chung tất cả. Tâm thiện và vô úy hoặc chung cho có, không. Như dâm vọng lậu thất, môi giới thô hủy thuộc hai loại thô, hãy suy nghó đó. Trước nói tâm lành: Tuy không phải thô ác nhưng là vô tri, kết nghiệp chính là khinh, trái chế chẳng khác. Trong phần nói riêng, văn đầu, trước nói tâm phạm tội trộm cắp. Hoặc trở xuống là nói từ tâm phạm tội sát sinh, đều thấy ở giới sau. Bất dó trở xuống là chỉ lý do phạm. Tức trở xuống là dẫn chứng. Tàn trở xuống là nói các tụ đều thêm phần ngu si, vì thế nói rằng cho đến, v.v… Khoa kế, trước nói quả báo phạm tội. Do trở xuống là giải thích quả báo nhẹ. Hai câu trên là nói bổn nghiệp. Hai câu dưới là nói trái chế. Trong nặng nhẹ có hai: Nói tính giới đều phạm. Từ nhược trở xuống nói ngăn giới riêng phạm, có ba: Đầu là chính nói. Dó trở xuống là giải thích lý do. Nhược trở xuống là nêu sám tịnh. Trên là sám ngăn. Bất trở xuống là chọn sám tính thiên tụ tuy sám mà nghiệp đạo không mất. Chỉ luận Trí Độ: Như thiên sám ở sau. Luận ấy chép: Thập thiện tuy sám mà ba đường ác không dứt v.v…. Kế, là tâm bất thiện nghĩa là do ba độc tham sân, si sinh khởi, vì đơn phức đẳng phần kích phát bảy chi. Trong phần chính nói lại có hai: Trước là nêu bày chung. Hai câu trên là nêu riêng người phạm, vì học và bất học. Hai câu sau gồm nói tâm tướng. Như trở xuống là dẫn chỉ bày. Trong phần bốn ở trước là tướng chung vì nhiếp tất cả. Trược nặng có hiển, vả lại y cứ ba thời không hối gọi là tâm thượng phẩm. Ba sau là tướng riêng vì khai tâm si. Hai là tâm tà kiến. Ba là tâm buông lung. Bốn là tâm kiêu mạn. Cố trở xuống hai câu là gồm nêu bày ng- hiệp báo. Dó trở xuống là lời sao kết chỉ bày, không hổ không thẹn tức là hai tâm bất thiện trước sau. Gồm bốn món trước, mỗi mỗi tướng kèm nhau. Sơ vô: Lời ký xưa chép: Sơ giống như đều, tuy không nêu chữ, sách mượn lời dạy để hiển nghĩa theo xưa không ngại. Trong phần dẫn tông, trước dẫn thành luận chứng minh rằng ng- hiệp tùy theo tâm nặng, y theo chế thì con kiến là nhẹ, cõi người là nặng vì thiên tụ đã định, nếu y cứ về nghiệp thì con kiến nặng, cõi người nhẹ, vì tâm riêng. Do trở xuống là suy lý do của luận. Dư trở xuống là dẫn luật Thập Tụng, chuyển chứng sám nghiệp không mất. Đề-đạt nói đủ là Đề-bà-đạt-đa, Hán dịch là Thiên Nhiệt, là em của Đức Phật, là anh của A-nan. Phá tăng phạm Thâu-lan-giá, chế giáo tội, vì tội nghiệp quá nặng nên đọa vào địa ngục A-tỳ một kiếp. Ba: Cố trở xuống là dẫn kinh chuyển chứng sám hối rồi đọa địa ngục, cũng gọi là kinh Địa Ngục Báo Ứng. Nghiệp định, bất định chỉ y cứ ba thời, đủ thiếu chia khác. Ba thời đủ thì là định nghiệp. Định có hai nghĩa, như văn đã nêu. Bất định cũng có hai, trái với nghĩa nhất định, rất dễ hiểu. Chư Phật không thể chuyển vì nghiệp lực của chúng sinh hơn năng lực của Phật. Sau chỉ quyển cuối: Tức trong Thiên sám. Ba loại vô ký có nhiều thứ khác nhau: Vô tình hạn cuộc vô ký, hữu tình chung cho ba tính. Y cứ vào tình thì báo sắc là vô ký, tâm thì chung cho ba tính. 3- Tâm hạn cuộc vô ký, hành tâm chung cho ba tính. Sau nói hai món: Buông lung nghĩa là mênh mông vô ký. 2- Thùy cuồng, tức tối tăm vô ký. Trong phần nêu bày tâm, văn trước lại có hai: 1- Nêu bày tâm tướng. Như trở xuống nêu việc phạm. Nêu riêng các giới, đến văn tự đối chiếu. Câu: cao đàm phí thời: Luật chế đi lại, cúi ngước, thường nhất tâm, trái thì đều phạm Đột-cát-la, vì thế nói là phương tại. Trên nói không học chế phạm. Duy trở xuống là lựa khuyên học khai mê. Khoa kế, câu đầu chỉ phần nêu tướng ở trước chưa hết, tức giống như dừng. Phương tiện trước: Hoặc tự tác phạm, như khi mới ngủ tác ý thất lậu, hoặc dạy người khác như sát sinh, trộm cắp, v.v… Hoặc từ nghiệp tướng thành phạm như tự an sát đầy đủ, v.v… Hoặc y cứ vào quả thành tùy thuộc vô ký, do nương phương tiện, vì thế nói rằng thông trước, v.v… Như luận tức luận Thành Thật ở sau. Trong phần hỏi đầu: Chứng minh luận chỉ trên. Trong phần đáp, câu đầu chỉ chung, sơ trở xuống là giải thích riêng: Trước y cứ về phương tiện dễ giải thích, tức thùy miên, cùng loạn vô ký đã nói ở trên. Đầu nói nhân trước nên chiêu cảm quả, sau nói chính thành thì chẳng phải quả báo. Y cứ về hai báo chung riêng để giải thích. nghĩa này chung cho hai món vô ký ở trước. Báo chung nghĩa là gồm thọ quả báo địa ngục; Báo riêng nghĩa là thọ riêng các đường khác. Như trở xuống là dẫn chứng, có ba: Hai chứng trước là buông lung nói trên, một chứng sau là thùy miên cuồng loạn ở trên. Như kinh: Chưa rõ kinh gì (có chỗ nói là kinh Thập Nhị Đầu-đà hạnh, văn đó không nêu ra). Bất giác là tâm vô ký. Trong Ngũ Bách Vấn chép: Xưa có một vị Tỳ-kheo làm việc, tay bẩn cầm thức ăn bị đọa vào loại ngạ quỉ. Có một vị La-hán nghe tiếng rên rỉ ở dưới hầm xí bèn hỏi thì quỷ kia đáp rằng: Tôi từng làm tri sự trong chùa, tay dơ cầm làm cho thức ăn bất tịnh, cho tăng ăn nên đọa vào loài ngạ quỉ làm thân con giòi, không được ăn phân, vì thế mới rên rỉ. Vị La-hán nghe vậy liền sám hối cho nó, nó mới ăn phân được. Lầm xúc tức là tâm vô ký. Bộ Thành luận chép: Nghiệp thùy miên: Như trong mộng lậu thất phạm năm tội Đột-cát-la, dạy người tự nghiệp, như trên đã nói. Trong phần hỏi kế, nêu khai vọng trước. Trong phần đáp, hai câu đầu là chỉ trước nêu sau. Vị trở xuống là chính đáp. Trước nêu người học. Ngụ trở xuống là nói mê vọng. Như trở xuống là lược nêu giới tướng. Ngược với trên nghĩa là chẳng phải người học, đối chiếu sẽ hiểu. Trong phần kết khen: Hai câu đầu chỉ bày sinh tử lâu dài. Nghiệp khổ nêu chung nhân quả. Miên nghĩa là ra vào lâu xa. Tích nghĩa là tạo nghiệp thô nhận rất nhiều. Sinh báo: Chỉ riêng quả khổ cùng tận. Hư trở xuống: Than thở hủy phạm bị đọa lạc. Tùy vọng khởi ng- hiệp nên nói là hư túng. Không có ba thiện: Nhiều nhân ác. Thêm ba ác: Không có quả lành. Phụ tức bằng nghĩa là tăng thêm. Dó trở xuống là chính thân. Kinh sinh dụ như độ đời. Tức nghĩa là hơi thở. Thứ hai là dẫn chứng. Trong phần chính chép: Trước nói kinh Mục-liên Vấn (cũng gọi là kinh Phạm Giới Báo Ứng Khinh Trọng). Trước nêu người phạm, cứ trở xuống là nói ba chúng đều phạm Đột-cát-la, tội báo đồng như tăng. Nay y cứ gồm chung sáu tụ vì thế chỉ nêu hai chúng mà thôi. Không hổ thẹn trở xuống là nêu tâm phạm, nhưng quả báo tùy tâm dài ngắn không nhất định. Hoặc trược nặng tà kiến, dầu phạm tội khinh đâu dừng ở số nầy. Hoặc từ tâm hổ thẹn, tuy phạm tội trọng nhưng chưa hẳn đúng số, y theo đó sẽ biết. Trong kinh, lại y cứ một tướng, nên y cứ vô tàm, khinh mạn để định quả báo vị lai không sai. Nếu đầy đủ tâm nầy thì nhất định như số năm. Bốn câu trên y cứ theo kinh, sau là sáu tụ, phạm trở xuống là nêu tướng. Trong kinh nói chung là địa ngục. Y cứ theo Tạp Tâm riêng đối với sáu ngục. Nê-lê tức là tên ngục, Hán dịch là Vô khứ xứ. Trong tội Đột-cát-la: bốn vị thiên vương và mặt trời, mặt trăng ngang nhau, ở giữa eo núi Tu-di. Đọa Nê-lê tức địa ngục Đẳng Hoạt. Ở cõi trời năm trăm năm là một ngày một đêm ở địa ngục. Nói: Ở nhân gian chín trăm ngàn nghĩa là do ở nhân gian năm mươi năm là một ngày ở cõi trời. Một ngàn năm trăm năm là một tháng, một muôn tám ngàn năm là một năm; mười tám muôn năm là mười năm; một trăm tám mươi muôn năm là một trăm năm, chín trăm muôn năm là năm trăm năm (trên là y cứ số ít, nếu dùng số nhiều mười muôn là năm, thì hợp lại nói là chín mươi ngàn, nghi là kinh nói lộn). Trong Ba-la-đề Đề-xá-ni: Cõi trời Tam thập tam ở đỉnh núi Tu-di, đây là đọa vào địa ngục Hắc Thằng. Ở cõi trời đó một ngàn năm bằng ở địa ngục một ngày một đêm. Tính theo nhân gian: Ở nhân gian một trăm năm là một ngày ở cõi trời, ba ngàn năm là một tháng, ba vạn sáu ngàn năm là một năm, ba mươi sáu muôn năm là mười năm, ba trăm sáu mươi muôn năm là một trăm năm, ba ngàn sáu trăm muôn năm là một ngàn năm (cũng y theo sớ nhiều ngàn muôn là ức, vì thế dùng ba ngàn muôn làm ba ức. Mười muôn làm thiên, vì thế sáu trăm ức làm sáu mươi ngàn (thiên). Ba-dật-đề: Dạ-ma và ba tầng trời sau đều nương hư không mà trụ, chung với trước là sáu tầng trời cõi Dục, đây là đọa địa ngục Chúng Hợp. Ở nhân gian hai trăm năm là một ngày ở cõi trời, sáu ngàn năm là một tháng, bảy mươi hai ngàn năm là một năm, bảy mươi hai muôn năm là mười năm, bảy trăm hai mươi muôn năm là một trăm năm, bảy ngàn hai trăm muôn năm là một ngàn năm, mười bốn ngàn bốn trăm muôn năm là hai ngàn năm (ngàn muôn là ức, thành mười bốn ức, mười muôn là ngàn thành bốn ngàn. Xét trong kinh nầy hai mươi bốn ức. Chữ nhị làm thành nhất. Lời sao rằng hai mươi mốt là y cứ sự tính toán là sai). Thâu-lan-giá: Đọa địa ngục Hào khiếu, ở nhân gian bốn trăm năm là một ngày ở cõi trời, một muôn hai ngàn năm là một tháng, mười bốn muôn bốn ngàn năm là một năm, một trăm bốn mươi bốn muôn năm là mười năm, một ngàn bốn trăm bốn mươi muôn năm là một trăm năm, mười bốn ngàn bốn trăm muôn năm là một ngàn năm, hai mươi tám ngàn tám trăm muôn năm là hai ngàn năm, năm mươi bảy ngàn sáu trăm muôn năm là bốn ngàn năm (ngàn muôn là ức, thành năm mươi bảy ức. Mười muôn là ngàn thành sáu mươi ngàn, lời sao và kinh đều ghi rằng năm mươi ức, bỏ chữ bảy mà thôi). Tăng tàn đọa địa ngục Đại khiếu: Ở nhân gian tám trăm năm là một ngày ở cõi trời, hai muôn bốn ngàn năm là một tháng, hai mươi tám muôn tám ngàn năm là một năm, hai trăm tám mươi tám muôn năm là mười năm, hai ngàn tám trăm tám mươi muôn năm là một trăm năm, hai mươi tám ngàn tám trăm muôn năm là một ngàn năm. Tám lần hai mươi ngàn muôn tức hai trăm hai mươi bốn ngàn muôn. Tám lần tám trăm vạn là sáu ngàn bốn trăm muôn. Tính chung là hai trăm ba mươi ngàn bốn trăm muôn là tám ngàn tuổi. (Dùng số lớn để luận tức hai trăm ba mươi ức bốn mươi tuổi, kinh nầy ghi lầm là ba mươi ngàn. Ba-la-di đọa địa ngục Viêm nhiệt. Ở nhân gian một ngàn sáu trăm năm là một ngày ở cõi trời, bốn muôn tám ngàn năm là một tháng, năm mươi bảy muôn sáu ngàn năm là một năm, năm trăm bảy mươi sáu muôn năm là mười năm, năm ngàn bảy trăm sáu mươi muôn năm là một trăm năm, năm mươi bảy ngàn sáu trăm muôn năm là một ngàn năm, năm trăm bảy mươi sáu ngàn muôn năm là một ngàn năm ba trăm bốn mươi lăm ngàn sáu trăm muôn năm là sáu ngàn năm. Tính chung là chín trăm hai mươi mốt ngàn sáu trăm muôn năm ở nhân gian là mười sáu ngàn năm ở cõi trời (tính theo số lớn mà nói, như lời sao đã hợp). Kế, là trong kinh Niết-bàn, trước dẫn kinh: Trời Đao-lợi tức trời Tam Thận Tam. Số tuổi của mặt trời, mặt trăng cũng tính theo nhân gian. Dữ trở xuống là tính chung theo thế tục: Mười lần mười là một trăm, mười lần một trăm là ngàn, mười lần ngàn là muôn, mười lần muôn là ức. Mười ức là triệu (đây là số ít). Hoặc dùng một trăm lần một trăm là ngàn, ngàn lần ngàn là muôn, muôn lần muôn là ức, v.v… (đây là tính theo số nhiều). Ở trước là kinh y cứ theo số nhiều, kinh Niết-bàn là theo số ít. Nhưng hai kinh đối với cõi trời không đồng, chín trăm, tám trăm khác chưa thể hòa hợp. Trong phần khuyến tin, trước chỉ kinh, đây là lời Phật nói, người phải kính tin. Kinh Mục-liên Vấn do ngài An Thế Cao đời Hán dịch kinh Niết- bàn, do ngài Đàm Vô Sấm ở Bắc kinh dịch. Trong tạng có kinh dịch sai, nghĩa là không dịch chữ chủ danh. Lại có kinh nghi rằng chân ngụy khó rõ. Lại có ngụy kinh thấp kém có thể khác nhau, sợ người ngu xem văn kinh ý cho rằng bấy giờ ở nước xa truyền đến đây, đâu biết rằng do Đức Phật nói, vì thế lúc bấy giờ mới ngăn đó. Thời nay phần nhiều đồng xem như vậy, đều lạc vào rừng tà, thật đáng thương xót. Chớ trở xuống là chính khuyên. Bất phản tri nghĩa là không phản tónh lỗi mình. Hình khai nghĩa là chịu khổ trong sáu ngục. Trường kiếp: Trong luận Trí Độ giải thích rằng như số hột cải đầy trong ngôi thành lớn rộng bốn ngàn dặm, có vị tiên sống lâu cứ một trăm năm lấy ra một hột. Như thế số hột cải đầy trong thành đó thì kiếp không cũng chưa hết. Lại có hộc đá rộng bốn ngàn dặm, cứ một trăm năm mới lau một lần, như vậy đá lau đến hết mà kiếp vẫn chưa hết. Đây là thời kiếp không thể cùng tận. Trong phần bác bỏ ngu (khiển trách), khoa đầu, câu trên chỉ bày sự ngu muội. Tự hủy ý nói chính thân là Phật tử mà tranh luận hủy báng Đức Phật. lại tự thân bẩm thọ giới mà tranh luận hủy báng giới luật, vì thế như dụ lá vàng, v.v… là nói ở đây. Tức trong kinh Phật có nói lời này. Vì thế, kinh Niết-bàn nói ng- hóa: Khi đứa trẻ khóc (dụ cho hàng Tiểu cơ (căn cơ thấp kém). Cha mẹ liền lấy chiếc lá dương vàng mà nói với trẻ rằng: Đứng khóc nữa cha mẹ cho con vàng nè! (Dụ như Đức Như lai thí cơ). Đứa trẻ thấy lá vàng nầy rồi tưởng là vàng thật, liền nín không khóc nữa (nghĩa là chứng Niết-bàn). Nhưng là vàng này thật không phải là vàng (không phải là Đại Niết-bàn). Trâu gỗ, ngựa gỗ, nam gỗ, nữ gỗ, đứa trẻ thấy đó cũng đều tưởng là trâu, ngựa, nam, nữ thật (dụ cũng đồng như trên). Đây là Đức Như lai nói lại ý trước đây đã nói pháp cho hàng Tiểu thừa, đến thời Niết-bàn quyết rõ pháp cho hàng Tiểu thừa, đến thời Niết-bàn quyết rõ quyền nghi đồng quy về thường trụ, đâu còn có Tiểu thừa ư, đó gọi là không biết giáo. Trong phần chính phá, văn đầu, hai câu trên nêu giáo vốn dung thông. Nếu y cứ nới lý đại tiểu thì lý giáo thật có khác. Nay y cứ từ gốc ra, hoặc y cứ về khai hội có quy, vì thế nói là không phân cách. Đối trở xuống là nói do căn cơ nên có khác. Cố trở xuống là dẫn chứng. Trước chứng nói Tiểu thừa ngộ Đại thừa, tức kinh Vô Lượng nghĩa. Kinh nói: Này nguời Thiện nam, lúc đầu nói (ở vườn Nai); chặng giữa nói (thời Phương Đẳng, Bát-nhã), nay nói (tức kinh này) văn từ là một nhưng nghĩa khác nhau, nên chúng sinh hiểu khác, vì hiểu khác nên đắc đạo cũng khác. Này người Thiện nam, ban đầu nói pháp Tứ đế vì người cầu quả Thanh văn, có tám ức người, các vị trời đến nghe pháp đều phát tâm Bồ- đề (đây chứng nghĩa sao ở trước nói tám muôn), kế nói Phương Đẳng, Bát-nhã, Bồ-tát tu hành, có trăm ngàn Tỳ-kheo, vô lượng trời người chứng quả Tu-đà-hoàn (đây đồng với văn sau). Hai thời sau (Phương Đẳng và Bát-nhã) là chứng tỏ nói Đại thừa ngộ Tiểu thừa. Tức kinh Niết-bàn chép: Tu-bạt-đà-la nghe Đức Phật nói kinh đại Niết-bàn pháp mầu sâu xa chứng được chính pháp nhãn tạng, cho đến lậu tận, chứng quả A-la-hán, v.v… trở xuống y cứ kinh hiển ý. Đây nghĩa là Một âm dẫn pháp của Đức Như lai, chúng sinh tùy loại được hiểu. Song đây phải nghó ngôn giáo là một, còn như ý của Đức Phật không có mất phó vì thế khiến cho tùy loại được lợi ích. Đây ý nói không dùng sở học để chia Đại Tiểu, hễ thông suốt về Đại thừa thì tất cả quy về đại có ngại gì học luật. Người có ý chí Tiểu thừa thì việc làm đều là Tiểu thừa. Người tự nghiên cứu kỹ càng về kinh điển thì nói rằng tâm không chỉ có một. Khoa kế có hai: Suy công của giới, trước nêu Phật. Thí vi: Là từ ngữ chung về phép tắc một thời kỳ hóa độ chúng sinh. Oai nghi là giới học, chủ giống như Tôn. Đãn trở xuống là nêu lý do. Trước nói đối bệnh. Thân miệng tức là nghiệp. Tâm sử là hoặc bỗng phát. Nay trở xuống là nói thứ lớp trị. Nay có trở xuống khiến trách cuồng vọng. Trước nêu bày chỗ chấp. Vị địa nghĩa là bạc-địa phàm phu. Án thác nghĩa là vô nghi úy. Khinh chân kinh nghĩa là hủy báng luật giáo. Trọng ngã giáo nghĩa là nói những người đã học tập. Tức trở xuống là y cứ vào lời dạy. Phản chất hai đầu đều y cứ nghĩa khai hội, do bổn Tiểu giáo quy về nhất Phật thừa nên hai đều nói là tức. Mười tám là chỉ số mục. Bộ là chỉ một bộ căn bản. Thanh văn chỉ nói là Thi-la, Bồ-tát thì thêm Ba-la-mật tức một trong sáu độ. Như trở xuống là thương xót kẻ ngu ám kia. Lời dạy tuy hiển rõ, nghe mà không tin nên nói là không nhập mà thôi. Trong phần ba ở trước dẫn kinh Ma-da. Tỳ-ni trụ trì, Thiên Thắng phá hủy nên pháp sẽ diệt. Kế dẫn kinh Niết-bàn: trước nêu tà thuyết, đã dẫn ở trước. Phương tiện sợ người nói không thật, v.v… Như trở xuống là quyết phá, trước dẫn văn kinh. Dó trở xuống là y cứ kinh trách sâu. Bốn: Trong phần nêu tông, dẫn kinh Bát Nê-hoàn và luật Thiện Kiến, đều đồng kinh Di Giáo, vì thế nói là các kinh. Song đã dụ Sư, vẫn phải vâng theo thực hành vì trái nghịch với sư thì bị tội nghịch, hủy giới thì đọa vào đường khổ. Năm: Dẫn kinh, Sư dụ cho Đức Như lai; đệ tử dụ cho người học; lại dụ Nhị thừa; án ma dụ tìm tòi nghiên cứu. Kia trở xuống là dụ học Đại thừa, chê bai Tiểu thừa. Bỏ trở xuống là dụ học Tiểu thừa chê bai Đại thừa. Thí trở xuống là hợp pháp rất dễ hiểu. Phương Đẳng là tên chung của Đại thừa. Dó trở xuống là hiển nghiệm. Trong phần sáu, trước nêu vị sâu, hai câu trên chỉ bày nghĩa hòa giáo. Giáo của Thanh văn chỉ chung đạo mà thôi. Nói hữu duyên tác là lợi ích chúng sinh, vì hiện hành mười điều ác. Nói không nhiễm phong nghĩa là tự mình không bị nhiễm các lỗi lầm dơ bẩn, phải đầy đủ hai lợi mới cho thực hành. Y cứ theo văn sau phải đến Bát Địa hoặc nói là Sơ Địa trở lên. Kế nói sơ tâm có ba: Chỉ bày chỗ tu, từ Địa Tiền, Tam Tiền, v.v… chưa phá vô minh, còn sinh nhiễm trược chưa được như trên. Nhưng đồng Thanh văn là do Bồ-tát xuất gia quyết phải gồm giới Tiểu thừa. Lại vì trong tụ thứ ba luật nghi dưới ác Đại Tiểu chẳng khác. Từ tức trở xuống là dẫn chứng, kinh Niết-bàn nói La-sát là dụ cho ba độc. Phao nổi là dụ cho giới thể. Một: Toàn khất dụ cho phạm giới trọng. Hai: Khất bán dụ cho phạm giới Tăng tàn. Ba: Khất một trong ba phần dụ cho phạm giới Thâu-lan-giá. Bốn: Khất thủ kế dụ cho phạm tội xả đọa, đơn đọa. Năm: Khất vi trần kế dụ cho phạm tội Đột-cát-la (trong sáu tụ thiếu Ba-la-đề Đề-xá-ni, vì nghĩa đồng Đột-cát-la) Văn nêu Đột-cát-la so sánh nhẹ với nặng. Hựu trở xuống là dẫn luậnTrí Độ. Không chứa tài vật cũng là vị hộ giá. Nhưng nói v.v…, luận kia chép: Không trộm cắp: Đã bố thí tài vật cho pháp giới hữu tình, tức dùng giới pháp tự mình thực hành và giáo hóa người khác, cũng gọi là dùng giới pháp hành kỷ để giáo hóa chúng sinh. Từ dó trở xuống: y cứ khiển trách. Trước nêu quá lạm, hành chẳng phải là lựa chọn chỗ làm thường. “Nói quá thật nghĩa là cao đàm hư luận. Sỉ kỷ phạm, nghĩa là lo người khác thấy khinh thường. Mậu tự bao nghĩa là nói ta là Đại thừa, người không có khuôn phép Tiểu thừa. Dư trở xuống là nói mặt gẫy. Phiền não hợp nghĩa là buông lung làm ác, thuận theo dục tình. Trong bảy là nói chúng giảng thiền, ngày nay tụng chỗ học tuy khác, nhưng chưa có ai không thọ giới; nếu vốn vì trì giới thì phát giới phẩm, ngược lại thì luống thọ nhất định không có giới, lấy gì làm Tăng bảo, làm sao tiêu của tín thí, luống tự mình cạo tóc nhuộm y cuối cùng cũng bị đọa. Lại Đại thừa Phương Đẳng chỉ khai tâm không câu nệ hình tướng y phục. Cư só Tịnh Danh, trong kinh Hoa Nghiêm Tri Thức tùy duyên giáo hóa chúng sinh, không mượn hình nghi. Nay đã thông phương, nhọc gì cạo tóc nhuộm y, nếu tự mình phản tỉnh sẽ tự mình rờ đầu. Khoa tám chia làm hai: Khuyên kia bộ pháp. Trước nêu thể tướng để khuyên: Giới thọ là thể, hình nghi là tướng. Sau từ nay trở xuống nêu tướng, trụ trì tức người cạo tóc nhuộm (đắp) y, pháp Yết-ma, chốn già-lam, việc huấn đạo (giảng đạo), bốn vị tăng hoặc y cứ về bốn vị, hoặc chỉ là sơ vị. Từ nhược trở xuống: Trách kia cuồng vọng. Trước nêu tham lợi nương Tiểu thừa. Sau từ nhược ô hãn trở xuống là nói chống phạm nương Đại thừa. Cố trở xuống là dẫn trách. Phật tạng đệ nhất, Phật bảo Xá-lợi-phất rằng: Thí như con dơi khi muốn bắt con chim thì phải vào trong hang làm con chuột; Khi muốn bắt con chuột thì phải bay lên trên trời làm con chim, mà thật ra không có công dụng của con chim con chuột, thân kia dơ uế chỉ vì ưa mê muội. Này Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo phá giới cũng giống như vậy, không bố-tát, tự tứ, cũng không phục dịch cho vua cho nước thì không gọi là tại gia, không gọi là xuất gia, v.v… Lại trong kinh Thập Luân quyển bảy chép: Tự mình đối với pháp Đại thừa các hạnh cảnh giới chưa từng tu học, chưa thể giải ngộ, đối trong chúng tự xưng mình là Đại thừa, đây là vì danh lợi nên lừa dối dụ dẫn người ngu si khiến họ gần gũi và làm bạn với mình. Thí như con lừa mang da con sư tử mà tự cho mình là sư tử, có người ở xa nhìn thấy cho là sư tử thật, đến khi kêu lên thì mới biết là lừa. Quảng trở xuống là chỉ hai kinh trước, lược như trên đã dẫn. Hầu đãi, nói kinh kia rõ ràng không đợi trình bày mà sau cũng hiểu. Trong phần nêu ý, trước nêu ý rộng khiển trách, tức kia quá đổi chẳng ra gì. Trần mông nghĩa là tà ngôn ác kiến, làm hoại lòng tin mất đạo, dụ như bụi dơ làm bẩn vật trong sạch. Du trở xuống là dặn dò, cái gọi là tơ mầu trắng dễ nhuộm, màu đỏ mầu tìm khó phân. Mặc dù phương tiện uyển chuyển chỉ bày còn chưa thể phản tỉnh, há không có giới cấm thì tình trạng ham muốn ở đời thật khó nói, buông lung làm sai đây là chỗ ham muốn của con người. Vả lại, thế hệ của các vị Tổ sư phong cách kia còn có trường hợp như vậy, huống chi thời nay không đáng lấy làm lạ. <篇> <詞>TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN TRUNG (PHẦN 1 - 2) THIÊN GIẢI THÍCH TƯỚNG Hai chữ giới tướng trong đề gọi chung là giới bổn, tức chỗ giải thích hai chữ “Tùy thích” hạn cuộc trong lời sao nầy, tức có thể giải thích. Nhưng trong giới bổn chỉ nêu tên giải thích, nói về trì, phạm, đủ trong quảng luật. Nay sư tầm (lượm lặt) văn luật phổ biến rộng ở các bộ tùy ở phần giới sau. Điều lệ riêng chỉ bày nên nói rằng tùy giới giải thích tướng. Hỏi: Đây là Tông sao, vì sao nói là giải thích ư? Đáp: Giải thích nghĩa là hễ nêu một giới, thì hiển thẳng tướng trì phạm, nặng nhẹ, không phải như lời sớ trong giới tùy văn giải thích. Hỏi: Thế nào gọi là Tướng? Đáp: Như trước phần giải thích giới ở sau. Ba khoa tóm lại đó: Cảnh sở phạm. Thành phạm tướng. 3- Khai không phạm. Đều gọi là Tướng. Lại dùng nghĩa cầu cũng có ba nghĩa khác nhau: 1- Phạm và không phạm. 2- Trong phạm tội có nhẹ và nặng khác nhau. 3- Có phương tiện và căn bổn khác nhau. Nói chung về tướng kia không ngoài tâm cảnh, như phần sau sẽ giải thích lại. Trong phần chú hiển, hai câu trên chỉ bày chỗ y cứ ra. Điều bộ nghĩa là hai mươi kiền độ của giới bổn tăng ni trong luật sau lần kiết tập ngũ bách, Thất bách làm riêng một thiên, có liên quan quyển ba gọi là Điều bộ Tỳ-ni, chính là điều lệ ở giới bổn trước quyết định giải thích sự nghi trệ. Như trước giới dâm chưa rõ giới hạn ba đường, hai cảnh đạo tục thành tướng phạm. Ngài Ba-ly hỏi riêng từng việc. Đức Như lai tùy câu hỏi mà đáp, giải thích khiến cho trì, phạm trong giới bổn trước được đầy đủ. Nhưng nay giới bổn trong tạng phần nhiều là chữ Điều, nghi âm nầy là sai, không có lý do nào khác. Có người giải thích rằng: Khi Phật còn tại thế, Tinh-la chế riêng bộ loại: Ba-ly điều hòa bộ loại, vì thế gọi là Điều Bộ, do nghĩa chữ Điều nói lên Đại sư cho là dễ, đây là lời nói không có y cứ cứ chứa đủ để tin. Đản trở xuống ba câu là trước tiên nêu bày chỗ lập Điều bộ. chính bổn tức giới bổn ở trước. Sau nêu đó tức dùng Điều bộ ở phần thứ tư. Nay trở xuống là chính nói chỗ y cứ của thiên nầy. Các thiên tức chỉ văn trước sau của lời sao nầy. Chưa đủ có hai: 1- Tuy có danh phạm hai trăm năm mươi, nhưng chưa chắc là đủ. 2- Dầu có danh chủng chưa biết thành khuôn phép (cách thức), duyên tướng phạm. Nhưng Điều bộ (tức hai mươi kiền độ) ở cuối luật, tùy tướng ớ giữa phần sao, nay chỉ y cứ kia, chưa đủ nghĩa điều trọng, không phải cho rằng y cứ trước sau. Bổn văn, khoa đầu có ba đoạn: Nói thuận lời dạy thành lợi ích. Từ nhược trở xuống là nói mê lời dạy đến nỗi bị tổn hại. 3- Sở trở xuống chỉ bày sự biên soạn ngày nay. Văn đầu, câu đầu nêu giáo bổn. Chú dẫn văn trong Thi-la Ba-la- mật của luận Trí Độ. Nói danh tự nghĩa là đây hạn cuộc trong giới bổn làm số mục. Trong Tỳ-ni là chỉ cho quảng luật. Tám mươi bốn ngàn là đối môn trần lao. Hướng về trước là rộng, hướng về sau là lược, vì thế nói là lược thuyết Vô lượng vô biên, đây là tùy theo cảnh. Vì thế sau so sánh đạo và tục, ý khiến cho người học biết mình là người tôn thắng chớ tự khinh thường. Thi-la Ba-la-mật và giới độ ở sau, Phạm Hoa đều nêu khiến cho dễ hiểu. Y trở xuống hai câu là nói thuận với lời dạy. Câu trên là hạnh, câu dưới là giải. Hạnh giải cả hai đều đủ công thành học giới. Tiện trở xuống là hiển bày sự lợi ích. Có thể được vậy “khắc năng”, hoặc viết “khắc tiếu”. Đoạn kế trái với ba ý trên. Câu đầu nói mê giáo tức không hiểu. Sở duyên là cảnh, do mê mờ giáo pháp nên không rõ cảnh. Hoặc có thể sở duyên tức chỉ cho giáo tướng. Câu kế nói tùy theo nhiễm ô tức thiếu hạnh. Nhiễm tức mê đắm hoặc là mê loạn. Há trở xuống hai câu nêu bày sự tổn hại. Có thể thấy hai câu trên trong phần ba nêu bày sự biên soạn, nương giáo là nói riêng ở trong tông nầy, gồm chung ba tạng. Ắt trở xuống là khuyên tu. Ngõ hầu là hy vọng. Họa hại tức nói về đường khổ ở trước, nghĩa là ba đường: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nay nêu sự tổn hại để khuyên. Phải biết vâng giữ giới không chỉ khởi được sự khổ hại mà trí tuệ phát sinh cũng từ chỗ trì giới này. Trong phần chỉ chung riêng, thiên này theo điều (lệ) hiển tướng gọi là biệt sự trì phạm, chương sau gồm thâu thiên tụ gọi là nghĩa chung của trì phạm. Do riêng hiển chung, dùng chung thâu riêng, trước sau chiếu nhau trì phạm mới rõ, muốn khiến dự hiểu ý của hai thiên, vì thế ở đây nêu bày, chỉ tức là nêu bày. Thẳng nêu bày nghĩa là lựa bỏ chương nghĩa vì có ở thiên sau. Tiến nghĩa là không lỗi có thể thực hành không nghĩa là có giáo chế dừng (không làm). Khuôn phép trì phạm y cứ trái ngược đề văn. Hai câu đầu trong khoa thứ ba khen ngợi công phu giữ giới. Nương theo giới luật thanh tịnh sẽ vượt ra biển khổ, cho nên nói giới như thuyền bè. Hễ người nào nhập vào cửa đạo đều phải bẩm thọ giới, đây là tông yếu. Thọ trở xuống nói lý do phạm. Khi thọ khắp cảnh đều phát nên thông pháp giới, tùy trong đó một hạnh khó trì, vì thế như sừng con kỳ lân (kỳ lân là loài thú thường hiện điềm lành. Nước nào có đạo Phật thì kỳ lân hiện, nó chỉ có một sừng, nêu dụ này ý nói kia là ít mà thôi), bẩm thọ thì nhiều mà trì thì ít, tai họa là ở chỗ mê mờ giáo pháp nên nói là bởi do, v.v… Bổn thuyên tức số mục luật giáo. Trần nhiễm tức hủy phạm. Thử trở xuống là chỉ bày ý nêu chương. Y cứ đầu đề nầy chỉ nêu giới tướng. Nay chỉ muốn thuật pháp thể và hạnh nên trước chỉ bày ý cần nói. Câu trên dẫn thánh để so sánh, trên nêu chữ thử tức chỉ cho giới trước. Thánh hiền khâm tựa tức nêu tông, các kinh, luật, luận được dẫn để thay cho văn giới. Hà trở xuống là nói lên nay cần phải thuật. Cố trở xuống là nêu bày chương môn. Thông xuất ly nghĩa là quán suốt nhân quả. Chúng sinh hành nghĩa là nền tảng. Thuận bổn thọ là tùy hạnh. Thông thiên, tụ là thuộc về giáo thuyên, tức là biến. Hỏi: Vì sao không chỉ giải thích tướng mà luận cả về bốn giới? Đáp: Giới là một, quỹ phàm từ thánh gọi là Pháp, gồm nhiếp quy về tâm gọi là Thể. Ba nghiệp tạo tác gọi là hành. Xem rộng có thể phân biệt danh tướng, do pháp thành thể, nhân thể khởi hạnh, hạnh quyết phải y cứ theo tướng. Phải biết tướng đó tức là pháp tướng lại là thể tướng, lại là hành tướng không có tướng khác. Nếu mê mờ ba tướng đây mà giải thích tướng, lại đã không do tựa chẳng biết chỗ có (lý do), luống tự tìm điều thì khó nghiên cứu được gốc, vì thế trong phần giới thể chép: Mọi người thọ giới ít có người hiểu rõ nên đối với phần tùy tướng các môn đều chỉ bày. Y cứ đó biết mình giới thành hay không, song sau trì phạm mới có thể tu lìa. Ý của Đức Phật hiển bày rõ ràng, người học phải biết. Khoa đầu nói Thánh đạo tức chung ba thừa. Bổn nghĩa là căn bổn. Cơ tức nền tảng. Bổn dụ giới pháp phát sinh ở Thánh đạo. Cơ dụ cho Thánh đạo nương vào giới pháp. Kế, trong phần thuận nói, trước là chính nói. Giặc tức ba độc, nó có khả năng cướp đoạt thiện tài và xâm hại tuệ mạng nên dùng để thí dụ. Tùy cảnh cấm chế cho nên như cầm nắm. Nhiếp chỉ một chỗ cho nên như ràng buộc, dùng trí chiếu phá nêu như giết. Cầm nắm, ràng buộc chung cho phàm phu, sát chỉ thuộc bậc thánh. Sơ quả (Tu-đà-hoàn) phá kiến hoặc cũng được gọi là sát tặc, cuối cùng đến Vô học sát mới rốt ráo, đây là đến quả A-la-hán rõ tên Sát Tặc. Nhưng, tuy Thánh đạo gần với ràng buộc sát tặc mà suy đầu mối kia do công đã cầm nắm trước tiên, nghĩa căn bản và nền tảng (bổn và cơ) hiển bày rõ ở đây. Hiền là hiện tu thánh đã thành, Đại tiểu tuy khác mà hạnh môn giống nhau. Đây là trong năm phần công đức, giới là đầu tiên, quả Vô thượng Bồ-đề lấy giới làm nền tảng, đâu thể bỏ giới mà cầu Thánh đạo riêng. Trong luận Trí Độ nói: Không có cánh mà muốn bay, không có thuyền mà muốn qua sông, lời Thánh khuyên răn hết lòng như vậy mà không tin ư? Tức trở xuống là dẫn chứng, văn có ba đoạn. Di giáo nương nhân đồng nền tảng và cơ bản trước (cơ, bổn). Các thiền định là Bốn thiền, Bốn không, tướng định khác nhau. Chim kêu (điểu minh) giải thích rằng có sắc, không sắc giải thoát công đức ở đây. Diệt khổ trí: Khổ tức kiến hoặc và tư hoặc vì đây là gốc khổ. Trí tức ba mươi bốn tâm vì có công năng diệt khổ. Kế dẫn luật Tứ Phần chỉ bày ý Phật chế vốn là Thánh đạo. Điều khiến cho hết độc sau khi quả thành. Văn tức thuyết giới trong bổn luật. Kiền-độ giải thích văn Ba-la-đề-mộc-xoa (trong phần nêu tông cũng có, có chỗ nói Thiện sinh là xả rồi) câu trên là dụ hiển. Căn là dụ sinh trưởng. Diệu thủ là dụ cho sự cao thắng. Hai câu sau là pháp dụ. Nhóm họp các điều lành nghĩa là bao gồm muôn hạnh. Tam-muội thành: Bốn thiền quán. Đầy đủ hai nghĩa này nên nói đồng căn thủ. Trong phần phản hiển, trước dẫn luận để chỉ bày, sau dẫn kinh để chứng minh, cũng trong văn Di giáo nêu tông để giải thích, ở đây nói không có giới thì đầy đủ các lỗi lầm. nghĩa cơ bản ở đây càng rõ hơn. Trong phần chỉ lược, thứ nhất nói rằng: Vì đạo chế giới vốn chẳng phải phước ở đời. Lại nói: Như vốn ý chế làm phương tiện cho đạo. Người học ba thừa quyết phải do dấu vết, văn rộng như kia, còn lại tìm xem đó. Khoa kế nêu công năng, nhưng đầu tiên nêu dụng vì có dụng mới thấy được công năng, công năng do dụng hiển, cho nên nêu dụng đầu tiên. Trong phần lược nêu có hai: Trước là nêu chung giáo chỉ, sau bày riêng công năng của giới. Hai câu đầu trong phần trước gồm chỉ chung ba tạng, phải y cứ hay ý chung riêng để giải thích. Nếu y cứ về riêng thì từ hai tạng kinh và luận có công năng đoạn trừ cao. Tỳ-ni một pháp trụ trì cao quý, y cứ về thông gồm đủ kinh, luận là nêu lưu thông trụ trì. Tỳ-ni đặc biệt nêu bặt sự ràng buộc đầu tiên. nghĩa tuy chung cả hai mà văn thì từ ý riêng, vì thế nói rằng đều có, v.v… Nói nghĩa riêng, là chỉ chung ba tạng khác nhau. Nói phải lược nêu là nêu riêng luật tạng. Nói lược có hai: 1- Đối tạng khác vì ở đây không nói. 2- Y cứ luật tạng vì chỉ nêu cốt yếu. Trong phần bày riêng, bốn câu trước là nêu riêng. Ắt trở xuống là kết chung các câu trên. Câu đầu nghĩa trụ trì, câu kế nghĩa quỹ vật. Chín tướng là trừ Phật đạo, ba thánh, sáu phàm đều nhờ giới huấn, vì thế nếu chuẩn theo kinh Niết-bàn nói “Ta cũng có thầy”, đó chính là pháp. Trong giới kinh chép: Chư Phật ba đời đều tôn kính giới. Đây phải biết là giới pháp, Đức Phật là bậc thầy còn phải tôn kính, nay không ai chẳng nên dùng giới để trị, nên nói chín đường. Câu ba: nghĩa phát thú. Câu bốn: nghĩa căn bản, nền tảng. Bốn câu này nhiếp hết công năng của giới. so sánh với tạng khác, hơn kém rất dễ thấy. Kế trong phần dẫn chứng: Trước dẫn bổn luật, chứng chung ba nghĩa khác. Sau dẫn luật Thiện Kiến chứng riêng nghĩa thứ nhất. Lại bài kệ tựa luật nói vượt qua sinh tử. Kệ giới bổn nói có công năng đến được Phật đạo. Y cứ theo bài kệ tựa luật trước nêu thí dụ rằng: Như có người muốn qua sông dùng tay và phao nổi tuy nước sâu cũng không sợ bị chìm, khiến đến được bờ bên kia. (Trang 2 6 3) Lời sao dẫn hợp pháp đối dụ, có thể biết. Trong kệ giới bổn, câu đầu triệu vời hành nhân, câu kế nói về bản chí, câu ba chỉ bày hành pháp; chính pháp tức chỉ cho giới. Câu thứ tư trừ hoặc điên đảo. Trong phần nêu kiết tập hai câu trên trong phần văn đầu nêu sự cao quý. Thiện trở xuống dẫn chỉ bày. Loài hữu tình sắc tâm còn mất nương vào thọ mạng. Phật pháp hưng thịnh hay dứt mất đều do Tỳ-ni, đây là ý của luận gia hiển bày đương lúc kiết tập. Trong phần suy giải thích, câu đầu là tổng vi, sau từ dư trở xuống là giải thích riêng. Trước kinh, sau luật. * Trong kinh lại có hai: 1/ Bốn câu đầu chỉ cho toàn thể tướng hư thông. Hóa tích nghĩa là nhân duyên khi xưa. Nhân quả tức báo ứng trong ba đời. Nói tùy sự lý nghĩa là sự riêng, lý thông, vì lý của kinh nêu bày có sự tướng dung quy về lý, nên có một nhiều xen nhau. Đại tiểu dung nhau, huống chi ở nơi vong ý, vừa tập liền trừ nên nói rằng lời nói không có chỗ tựa. 2/ Sáu câu sau từ ý trở xuống hiển sâu xa khó học. Còn sợ kẻ ngu không hiểu được ý này, vọng sinh khinh trọng cho nên ở đây ngăn ngừa. Thuyên là vật để bắt cá, dụ cho ngôn giáo. * Kế là nói về luật tạng: Bốn câu đầu so sánh hiển bày sự nêu cao ở trước. Cho nên biết hóa giáo trụ trì công liệt thuyên tướng vi ẩn. Dó trở xuống là nêu sự giải thích hoàn thành. Đầu tiên y cứ giải thích tướng khác. Hựu trở xuống y cứ vào chúng pháp mà giải thích. Trong văn đầu tiên là thông năm chúng, pháp bao gồm, tăng riêng. Trụ tức là xứ, sau dẫn tự cáo, Già-lam chế trí đều còn biểu đối. Lại đại giới, Tịnh địa nhiếp người, nhiếp thức ăn, đều có giới hạn, khác với tướng thế tục. Tạp hạnh nói thông chúng tự cộng hành. Hành tức là sự, vì thế bốn câu này tức người, pháp, xứ và sự nhiếp hết tướng này. Song bốn tướng này cương lãnh đạo tông khác với thế tục. Dẫn dắt chúng sinh trụ trì muôn đời thật nhờ tướng này. Bốn câu sau từ do trở xuống, là nêu nghĩa trụ trì: + Câu đầu nói thế đế y theo tướng mà thành lập. Do các chúng sinh không biết vắng lặng, chỉ tùy theo tướng hữu vi luống dối, bèn có thế gian nên nói vâng. + Câu kế nói Đức Như lai thuận theo thế tục lập pháp. Đức Như lai nói pháp thường y theo hai đế: Một là y chân đế, dứt hết các pháp. Hai là y theo tục đế, kiến lập các pháp. Nay luật tạng nầy kiến lập trì và phạm, diệt ác sinh thiện, tùy tình phụ tướng dẫn dắt người sơ tâm. Đây là chỗ chế giới đều nương duyên sinh, tùy theo đó có khai, già đều để ngăn ngừa sự chê bai, vì thế nói: Pháp tùy tướng. Kế, trong phần chúng pháp. Đức Phật lập giới khiến cho người bẩm thọ thực hành tức dùng pháp giúp người. Trên nói tự mình thực hành pháp đã lập mới kham lãnh tất cả để chúng thực hành, tức là mở mang Phật pháp nên nói rằng chính thân thành, v.v… Do đây phải biết pháp có công dụng giúp người, người có khả năng hoằng pháp, không có pháp thì người mất, không có người thì pháp diệt, người và pháp giúp nhau mới tồn tại lâu dài, vì thế ở sau dẫn chứng. Cũng trong nửa bài kệ trước ở bài kệ tựa luật nói rằng: nếu Thánh chúng hòa hợp (Thánh chúng hai hòa sự và lý, phàm chỉ có sự hòa) Đức Thế tôn sẽ khen ngợi. Nửa bài kệ dưới như trong lời sao dẫn, giải thích lý do Đức Thế tôn khen ngợi. Ba là giải thích danh nghĩa. Trong phần nêu ba tên, trước là Tỳ-ni, có bốn: Hai câu đầu dịch tên, chú giải hiển, rõ tên khác, đều là truyền lầm. Tức trở xuống là dẫn xuất xứ. Mười tám pháp: Tức Điều đạt chấp chín pháp tà, phá chín pháp chính của Đức Phật, cộng thành mười tám. Pháp phi pháp (tám pháp chính vật giải là pháp mà Điều-đạt nói là phi pháp. Năm quỹ sinh tà không thể sinh giải là phi pháp Điều-đạt nói là chính pháp. Luật, phi luật: (Tám chính điều thân miệng lìa bảy phi gọi là luật, Điều-đạt cho là phi luật. Năm điều tà ngược với trước thì Điều-đạt nói là luật. Phạm, bất phạm: (Không cạo tóc, không cắt móng tay, Đức Phật chế có tội gọi là phạm. Điều-đạt cho rằng bị bịnh không cạo tóc, không cắt móng tay không phạm. Đức Phật nói: Tâm niệm làm ác không chế, có tội danh không phạm. Điều-đạt nói tâm khởi ba độc trái với trên là phạm. Hoặc nhẹ hoặc nặng: (Ngăn ác là khinh, Điều-đạt thấy hoại diệp (hư lá) đọa loài rồng liền cho là nặng. Thiên đầu thường chướng là nặng, Điều-đạt cho rằng trước làm không phạm liền cho là nhẹ, Hữu tàn vô tàn: (Phạm bốn thiên sau không phải chướng một đời gọi là hữu tàn, Điều-đạt nói vô tàn. Phạm thiên đầu thường chướng gọi là vô tàn, Điều-đạt nói hữu tàn. Thô ác, không thô ác (hai thiên đầu trở xuống là phương tiện Thâu-lan-giá nặng gọi là thô ác không, Ba-dật-đề trở xuống và các Thâu-lan-giá khác gọi là thô ác, vì thế nói ngược lại. Thường sở hành, phi thường sở hành chính đạo là thường sở dụng, Điều-đạt nói là phi thường. Còn năm pháp là phi thường dùng, Điều-đạt nói là thường dùng. Chế, phi chế: (Năm thiên là Phật chế mà Điều-đạt nói là phi chế (không phải Phật chế). Năm pháp không phải Phật chế gọi là phi chế mà Điều-đạt nói là chế. Thuyết, phi thuyết: (Bốn điều là trọng cấm còn lại là nhẹ, y cứ vào danh chính thuYết-mà Điều-đạt nói là phi thuyết. Bốn điều khinh còn điều trọng là phi thuYết-mà Điều-đạt nói là thuyết. Phần nhiều thấy vọng giải vì thế dẫn lời chú trong sớ ra. Đây là y cứ trong giới phá tăng đã nêu ra. Kiền-độ Câu-diêm-di, nêu phần thứ hai là: Tỳ-ni phi Tỳ-ni, trước sau hai tiếng Hoa Phạm đều nêu, vì thế nói không gồm. Ở đây phải biết, tên gọi này là Luật tự dịch mà thôi. Ở dưới lại dẫn kinh nói bảy pháp Diệt tránh cho là bảy luật, y cứ lợi ích mà hiển. Hoặc trở xuống chỉ không phải văn, thấy trong Mẫu luận, sớ rằng: Xưa giải thích Tỳ-ni đều gọi là diệt, do bảy pháp Tỳ-ni này mà dứt trừ bốn sự tranh cãi. Vì thế như nước diệt lửa mà nước không có tên diệt, tên không kèm thể nên không lấy. Cho nên sau hiển bày chính danh nương vào thể mà lập. Kinh luật nói y cứ nên nói là chính. Kế, trong phần giới danh, trước dịch tên. Tức trở xuống là hiển bày chỗ y cứ. Sáu độ gồm: 1- Đàn (Hán dịch gọi là Thí). 2- Thi-la (giới) 3- Sàn-đề (nhẫn nhục) 4- Tỳ-lệ-gia (tinh tấn) 5- Thiền (định) 6- Bát-nhã (trí tuệ). Sáu món này đều gọi là Ba-la-mật, Hán dịch là Độ. Nay dùng thứ hai để chứng danh, có thể biết đây tức là kinh luận thường bàn cho nên chỉ chung mà thôi. Sau, trong Mộc-xoa không dịch khác cho nên chỉ thẳng tên mà thôi. Xứ xứ cũng gọi là biệt biệt. Trong phần hiển rõ thứ lớp, trước nêu. Giáo, hành và quả, ba món này không chỉ là giới luật, tất cả giáo môn thứ lớp đều như vậy nên nói là nhất hóa. Luật trở xuống là chính hiển. Câu đầu nói luật trước tiên. Từ giáo bất trở xuống là nói thứ lớp giới, từ giới bất trở xuống là nói Mộc-xoa ở sau. Trong phần giải thích nghĩa luật, khoa đầu, câu trên huần chữ. Pháp dùng khuôn phép nhất định làm nghĩa, như trong phần giải thích đề. Vị trở xuống là giải thích nghĩa. Tất cả giới bổn chia làm hai: Trước nói phạm tướng, sau nói không phạm. Trong phạm lại có hai, tức bốn nghĩa nhẹ và nặng, nhiếp hết Đại tạng Tỳ-ni. Cứ trong nặng nhẹ lại có nhân quả, khuyết duyên, khai chế khác nhau. Vì thế nói là đẳng (v.v…) Hiển bày tên luật từ giáo mà lập, nên nói rằng luật, v.v… Trong phần hỏi cho rằng giáo (lời dạy) của bậc Thánh đều là pháp tu hành mà Tu-đa-la lấy sự nhiếp suốt làm số mục, A-tỳ-đàm lấy sự chia chẻ lý để nêu tên, vì thế có câu hỏi này, ý hiển tông này riêng chuyên hiệu nầy. Trong phần đáp dẫn luận nêu ý, lại y cứ ba môn học vô lậu, dẫn sinh thứ lớp. Khuôn mẫu của giới ở trước nên gọi riêng là pháp. Nếu như vậy thì kinh cũng huấn pháp; Luân phiên đối pháp, pháp không so sánh, v.v… đây thì tạng khác cũng được gọi là pháp, đâu riêng gì luật? Đáp: Tu-đa-la dịch là tuyến, vốn là tiếng ở Tây trúc, cõi nầy chữ, sách, huấn kinh là pháp. Lại luận gọi là pháp: Hoặc từ pháp tướng như năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập, v.v… hoặc là pháp môn Tứ đế, Nhân duyên, sáu độ, v.v… hoặc y cứ theo lý pháp thể Niết-bàn, v.v… Tỳ- ni không phải như vậy, vì tên bổn tiếng Phạm, lại là giáo thuyên danh tướng khuôn phép nhất định, đây chẳng thể không từ văn mà đoán, vì thế nghĩa pháp trong tạng khác không giống như trong luật. Hỏi: nghĩa pháp môn kia cũng là từ giáo phải không? Đáp: Nếu nói chung về giáo thuyên của ba tạng đều gọi là Pháp, nhưng giới dẫn nghĩa quỹ sinh vật. nghĩa cao siêu hơn nên y cứ theo đây mà gọi là Pháp, còn pháp khác tuy gọi là Pháp nhưng kém hơn nên không nêu. Nếu nói riêng thì ba tên đều khác nhau, như trước đã nêu. Trong phần trước sau, trước là chứng minh. Nếu theo truyền thuyết thế gian nói rằng kinh, luật, luận nầy là từ lời nói thuận tiện, nếu đối với ba học vô lậu thì luật quyển là trước tiên, nên nêu bày ý kia. Do trở xuống là giải thích. Do định và tuệ u hiển, tà chính khó phân, lựa riêng phần tạm, lạm quyển phải dùng luật pháp, đã dùng đầu tiên thì nghĩa quyết phải được nêu trước tiên. Nội pháp là tám chính đạo, ngoại tục cùng xen lẫn gọi là Hình, dùng pháp trừ ấy như trong luật. Lúc bấy giờ, ở đời bị đói khát có một ngoại đạo lõa hình theo sau chúng tăng, khi tăng thọ giới, phần Hòa-thượng, A-xà-lê, v.v… hỏi thì đều nói là không biết. Nhân đó trình bày đầu tiên, chỗ nhiệm mầu cốt yếu. Cố trở xuống là kết thúc chỉ bày. Dư trở xuống là chỉ lược. Hoặc y cứ thứ lớp ba môn học vô lậu (giới, định, tuệ); hoặc thọ mạng Phật pháp nên hợp để ở đầu. Đây tức thường nghe tên không giải thích (hoặc chỉ cho giới và Mộc-xoa, hoặc chỉ sớ trong giới đều sai). Kế trong phần giải thích nghĩa giới, khoa đầu dẫn trong Tạp Tâm hiển bày nghĩa giới chung khắp, không có cảnh nào không phát khởi, không có điều ác nào không cấm. Lựa điều lành ở đời thì hạn cuộc phạm vi nhỏ hẹp không cùng khắp. Thiên vô lậu, giới tuy tình cảnh phát đều không phải loại chung, chỉ rộng như sau tức trong phần giới thể. Trong phần nêu rộng, khoa đầu: luận Trí Độ nói tính thiện, luận kia nói là: Ưa thực hành thiện đạo không tự buông lung, gọi tính là thiện, không khiến theo điều ác nên gọi là thiện. Sinh năm giải thích nghĩa học, trích ở khoa kế. Hai, là trong phần từ (tùy) tâm, đây là y cứ sở trị mà đặt tên. Năm căn của thân miệng… phải điều phục không chỉ riêng tâm nên nói là đẳng (v.v…) Ba, trước nêu tên của thể. Như trở xuống là dẫn luận nêu thể, câu đầu nêu tên, ở đây lời xen lạm với từ tâm. Dó trở xuống là chỉ bày thể tức u cứ vào ba tính, lựa thể là thiện vô tác. Hỏi: Ở đây cùng với tính thiện nêu trên có gì khác? Đáp: Theo sự giải thích của luận trước là hướng đến về ngăn ác mà nói, vì thế xếp thuộc về công năng. Bốn: Trước dẫn các giáo, hạn cuộc pháp lành để giải thích, đối với nghĩa chưa hết, vì thế lời sao dùng nghĩa để đoán, vì thế gọi là Nhân minh. Danh, nghĩa cả hai đều chung nên gọi là chính nghĩa (nghĩa chính). Câu đầu nêu tên không hạn cuộc. Giới nói tính là mượn huấn (lời dạy) để hiển nghĩa, chớ dính mắc chữ và sách. Ác luật nghi cũng gọi là giới ác. Bọn hàng thịt, thợ săn, Chiên-đà- la thường làm việc giết hại, gọi là thọ giới ác trì luật nghi ác. Hỏi: Thế nào là Thọ? Đáp: Dùng việc giết hại làm sự nghiệp, phát khởi ý thọ hành tức là thọ. Như trong Tạp Tâm nói: Thuận theo việc ác dễ thành không nhờ duyên khởi. Hễ hướng về tất cả các loài chúng sinh khởi tâm giết hại gọi là luật nghi, hễ giết chết sinh mạng tức là trì giới. Không luật nghi nghĩa là chẳng có thiện nên nói không, thông với các loài nên nói luật nghi, tức ác luật nghi chỗ nêu khác mà thôi. Nhược thử trở xuống là giải thích nghĩa. Hai câu đầu là chỉ bày chung. Giới dùng tên tính, tính chung ba tính. Vả lại, nói về thiện ác không dung nhau đều được nghĩa cấm. Ác trở xuống là giải thích riêng. Trước nói giới ác, cấm chung chế ngăn gọi là luật. Tạo tác có tướng gọi là Nghi. Nhược trở xuống nói giới thiện. Khiến cho hiểu ngược lại nghĩa, là đảo ngược hai chữ thiện ác. Sửa đổi việc ưa giết hại là từ hộ, tức sẽ thấy. Trong phần năm, là dẫn luật, đây là trong phần thuyết giải nghĩa chữ giới. Văn giới là nhân, Mộc-xoa là quả. Nay gọi giới là Mộc-xoa tức là nhân từ quả. Trong phần giải thoát y cứ vào hai nghĩa gần và xa để giải thích. Trong phần gần lại có hai: Nêu nói về tùy phần: Nói lên chẳng phải đốn thoát, tức là nghĩa xứ xứ. Từ vị trở xuống là giải thích. Hai câu đầu chỉ bày cảnh duyên khác nhau. Một câu kế nói trị hành không đốn. Một câu tiếp theo chỉ bày phần quả. Đây là hướng về chỗ tùy cảnh khởi, hộ thoát khỏi tội lỗi, vì thế nói là tùy tướng. Kế là nói nghĩa xa: Đây là do phàm phu chỗ đã thọ trông mong quả Thánh ở sau, nên nói là viễn thủ, tức là nghĩa căn bản, nền tảng Thánh đạo đã nói ở trước, cho nên nói là nhân nơi giới, v.v… Khắc giống như hộ. Thánh gồm ba thừa, bao gồm năm trụ. Cố trở xuống là dẫn chứng. Cũng trong bài tựa kệ luật chép: Các kinh ức trăm ngàn, giới là bậc nhất. Muốn cầu giới bậc nhất này thì nầy, đời sau phải giữ gìn giới cấm nầy, trọn đời chớ hủy phạm. Câu thứ hai như lời sao. Hỏi: Cận và viễn (gần và xa) cả hai giải thích thế nào mà phân? Đáp: Do ở đây có nhiều điểm khác nhau: 1- Gần y cứ về dừng nghiệp, viễn là y cứ về dứt hoặc. 2- Gần là phàm phu, xa là Thánh đạo. Gần là nhân, xa là quả. Gần là tiếp phòng (ngăn ngừa dần dần), xa là đốn phá. Tức trong lời sớ giới chép: Giới chướng có hai: Một là nghiệp quấy, hai là phiền hoặc. Giới tịnh chướng ngại nghiệp, hoặc đợi trí mất. Từng phần từ gọi là biệt thoát (đây là nghĩa cận), hậu trí dứt hoặc mới gọi là rốt ráo giải thoát (đây là y cứ về nghĩa xa). Văn dưới chỉ cho phần sau. Tức trong phần giới thể phát môn số lượng của giới, kia nói cảnh và lượng, v.v… tức nghĩa biệt giải thoát có thể thấy. Bốn, là trong phần đủ duyên nêu bày ý, trước chỉ bày pháp thọ. Nói đời nay chỉ có Yết-ma: Do trong phần năm thọ ba lần nói “Thiện lai”, tám pháp cung kính chỉ hạn cuộc khi Phật còn tại thế. Phá kết vi tế ít có mà lại ẩn. Nương nhân duyên: Hoặc phát tâm là nhân, các việc khác gọi là duyên, hoặc năng thọ là nhân, sở đối là duyên, hoặc đều là nhân duyên như trước đã nói. Kỳ trở xuống nói giới trọng, thuật ý. Môn tức thọ giới thiên (thiên giới). Đại cương Tỳ-kheo là nhiếp tăng yếu. Căn bổn Phật pháp là trụ trì cao quý. Trong phần nêu duyên chỉ tóm tắt pháp thọ ở trước. Chỉ bày đúng sai, phần đối giải thích đầy đủ ở trước. Người nghe lâu đã biết không cần giải thích lại, người mới học chưa hiểu thì tự tìm xem, vì thế chỉ lược nêu mà thôi. Trước nêu năm duyên và Mẫu luận. Trong phần ba, trước nói thọ là biết sư trở xuống đến tội nhỏ, nhìn chung về sau nói Thập sư xen nhau biết, chỉ y cứ giới trọng Ba-la-di. Tâm không có pháp nghĩa là người không có giới như mười ba nạn, mười tụng cư só. Trong phần tạp tướng, trước lại nói rằng lấy ý của luận hoặc có thể dẫn phần thọ duyên ở trước. Năm giới, tám giới trở xuống đều nói lược phá giới trọng, vì thế nói rằng cho đến mười giới, v.v… Hai, là dẫn luận chỉ bày, luận kia nói sáu món giới hễ phạm bất cứ một giới trọng nào còn lại đều tuyệt phần. Trong văn nêu năm giới, còn lại đều lược, nên nói rằng cho đến, v.v… Chữ tám là viết sai, y theo luận hợp thành mười giới, tức vượt hơn tám giới. Nói không được như trước: Đồng với năm giới ở trên. Trong phần ba kiết giới, trước khiển trách kiết giới tràng riêng. Cánh trở xuống, chữ bất nghi là chữ đa, bỏ đi thì nghĩa tiện. Kiết thẳng tiểu giới thì gọi là giới tràng, đối đãi mà nói tiểu như pháp kiết trước, rất dễ biết. Kế từ kim trở xuống khiển trách không có duyên mà kiết tiểu giới nầy tức ba tiểu giới có nạn ứng pháp, vô cớ là phi. Trong phần bốn, trước dẫn luận để nêu bày tâm. Nặng và nhẹ hai tâm khó hiển bày tướng kia, chẳng phải gọi là uổng phí mà thôi, cốt yếu là thấy cảnh rõ ràng. Thượng phẩm yếu thệ mới gọi là tâm Tăng thượng nặng. Cũng như trước đã nói sợ quên nên nêu lại mà thôi. Hựu trở xuống là y cứ vào hành để hiển bày tướng. Trước chỉ bày được mất. Nói y theo luận tức các luận trước. Do vâng giữ hết lòng tôn trọng, vì thế sau dẫn văn chứng. Luật tự giải thích rằng: Cộng Tỳ-kheo nghĩa là cùng các Tỳ-kheo khác thọ Đại giới, đây là nghĩa cộng Tỳ- kheo (san định giới đổi thành cộng giới). Đồng giới: Giải thích rằng: Kết giới đây rồi thà chết chớ không phạm, đồng với Tỳ-kheo khác nghĩa là đồng giới (tùy hạnh đồng), đây tức là văn giới dâm trong bổn luật. Tuy văn hạn cuộc giới đầu tiên mà nghĩa chung hai trăm năm mươi giới, do đó đem giới đầu tiên nêu đây, ý là nói quyết thọ tùy hai giới mới có trì phạm, không thọ thì không tùy, không tùy thì không thọ, đây là chứng nguyện hạnh phù hợp nhau mới thành đắc giới. Nguyện hạnh tức là thọ tùy. Trong năm thời tiết, khoa đầu tiên là hỏi. Trong phần nêu bốn tâm lược vô ký nên nói rằng cho đến. Vô tâm: Luận chép là nhập định diệt tận. Y cứ theo nghiệp sớ hỏi: Ba tính chung đắc thì hợp với vô tâm, nhập vô ký phải không? Đáp: Nói thông, kia giải thích: Đầu tiên khởi tâm lành chắp tay lễ tăng, bạch tứ Yết-ma khởi nghiệp nối nhau thành tựu, đây là tâm lành phát tâm lành mà đắc. Nếu trước dùng tâm lành cho đến khởi nghiệp, Yết-ma chưa thành khởi niệm bất thiện, nương vào năng lực tâm lành trước nên phát nghiệp nhậm vận mà khởi, cùng với bất thiện đều gọi là tâm lành phát, tâm ác đắc. Tâm vô ký, ngủ nghỉ nhập định diệt tận cũng giống như vậy. Kế trong phần lập nạn tức trong kiền-độ thọ giới ở trước. Văn nói sân là bất thiện; Ngủ nghỉ, cuồng loạn là vô ký. Trong phần đáp, trước nêu được và không được. Sau khi Yết-ma rồi nghĩa là mới bạch xong. Yết-ma lần thứ nhất về sau gọi là sau. Nghiệp sớ dẫn luật Thập Tụng chép: Khi biết phạm, khi không biết thanh tịnh, như phạm Tăng tàn sám hối. Nghe xuất tội bạch rồi, sau ngủ không biết, là Yết-ma rồi. Y theo đây để nghe chung bạch trước, sau ngũ đắc giới (đây là chỗ y cứ của Tổ sư). Do trước trình bày việc xin Thập sư, đã nghe tác bạch rồi đủ nêu bày tình huống. Tuy nhập tâm khác mà không ngại cảm giới, rộng như nghiệp sớ. Tiến trở là riêng xét riêng về tâm lành, sợ nghi tâm lành vốn có giới hạn. Kia nói khi bạch đủ bốn tâm trên không đắc giới, vì thế ở đây giải thích. Hựu trở xuống lại sợ chấp rằng vô tâm duyên giới, liền cho là quá lạm vô tâm nên dặn dò lại mà thôi. Trong phần năm ưu việt: Ưu là hơn, trước sau sáu môn đều nói riêng về biệt giải thoát. Đây gồm đạo định lại muốn đối hiển bày công phu cao siêu của biệt giải thoát. Lại biệt giải thoát một giới bao gồm chung năm thọ. Nếu đối với bảy khoa thì bốn thông, ba hạn cuộc tìm văn sẽ thấy. Muốn giải thích môn này trước phải biết sơ lược về danh tướng của đạo định. Đầu tiên biệt giải thoát đối cảnh nêu danh, đạo định từ tâm làm tên gọi, cùng với hai môn định và tuệ đồng thời, vì thế đều nói là cộng, cũng gọi là Câu (cộng cũng gọi là Cùng). Giới định kia: Thành luận nói Ly thiền định là hai giới, Sắc và Vô sắc khác nhau, nên nhiều tông hợp thành một. Đều không động nghiệp nên đạo giới hoặc gọi là đạo câu, đạo cộng vô lậu, v.v… đây là nói về tên. Hai: Biệt định đều hữu lậu, đạo cộng chỉ cho vô lậu, biệt giải thoát là nghiệp cõi Dục, Định cộng và nghiệp hai cõi trên, Đạo cộng không phải nghiệp ba cõi, đây là nói về thể. Ba: Biệt định chung phàm thánh; Đạo cộng chỉ hạn cuộc ở Thánh vị, đây là phân địa vị. Bốn: Biệt giải thoát nhờ duyên thọ, định đạo tùy tâm phát, đây là nói về nhân. Năm: Biệt giải thoát chỉ bày thân vì phải là trọn đời; Định đạo gọi là tùy tâm vì sinh tử không dứt. Đây là nói về công phu, lược biết như vậy, còn lại như ở sau sẽ giải thích. Trong phần nêu ý nói mất tướng nghĩa là trái với lời dạy. Khoa kế, trong Đa luận có năm món: 1/ Thời; 2/ Cảnh; 3/ Tâm; 4/ Cộng; 5/ Người. Như phần kế đây sẽ giải thích. Thời ít thường: Do Mộc-xoa (giới) phải có Phật ra đời chế ra mới có, còn hai (Biệt định và Đạo định) dầu không có Phật ra đời cũng có người đắc định chứng đạo vì thế nói là thường có. Nói hy hiện thắng là dụ như ở đời những vật gì ít có thì quý, thường có thì không quý. 2- Cảnh: Mộc-xoa (giới) thì ngăn tính chung chế, còn hai thứ Biệt định và Đạo định chỉ ngăn tính ác, nên cảnh vừa chung vừa hạn cuộc. 3- Tâm: Từ tức là đại tâm, vì thế Đức Phật nhân đó nói rằng: giới Thiền vô lậu không do từ tâm mà được, nghĩa là từ trí tuệ được, đây là chuyên vì tự lợi, tức tâm thấp kém của hàng Nhị thừa, rất dễ hiểu. Công: Có hai: 1/ Nhiếp chúng sinh, rộng vì giúp bảy chúng. 2/ Trụ trì thù thắng, vì giữ gìn tương tục v.v… Trong trụ trì ba món đều dùng chữ thiệu tục (giữ gìn tương tục) mà thấu suốt. Ba món: Một là chỗ pháp nương; hai là chỗ cảnh trụ; ba là chỗ quả thành tựu (xưa ghi: dẫn kinh Tỳ-la Tam-muội chép: Người, trời, Niết-bàn là ba món là sai). Trong luận chỉ nói rằng: Đạo quả ba thừa nối nhau không dứt, vì thế biết văn khác đều là lời sao thêm vào. Người: Ngoại đạo không có giới vô lậu nên chỉ nêu thiền giới mà thôi. Do ngoại đạo kia cũng đắc định ở cõi Sắc và Vô Sắc. Trong luật Thiện Kiến, trước nêu bày: Từ các trở xuống hiện lượng, đầu tiên gồm nêu pháp dụ. Quang sơn là dụ, học tức là pháp; ba môn giới, định, tuệ nên nói là các. Nhật trở xuống riêng đối hiển thắng. Nhược trở xuống là nêu lý do kia, ở đây cùng với nghĩa đầu trong Đa luận có hơi giống nhau. Trong phần trọng thọ, chương nầy đã nói ý khiến hành giả phải xem xét những gì mình đã thọ, cùng cầu tăng thắng. Trong Đa tông, khoa đầu văn nêu ba món, đều khác luật Tứ Phần. Nói không trọng phát là ba giới thường định. Như trở xuống, trong phần tâm thọ năm, tâm thọ mười, bổn tục vẫn trở xuống. Năm phần còn lại mới cao siêu. Trong phần tâm thọ mười. Thượng tâm thọ đại cũng giống như vậy. Kia chép: Giới Mộc- xoa không có trọng đắc. Như tâm vi phẩm thọ được năm giới, sau dùng tâm trung thượng phẩm thọ mười giới. Trước được năm giới, không tăng thắng, đối năm giới sau mới được tăng thắng. Không thọ lại: kia tính một lần thọ liền định. Đã không phát lại lại thọ không tâm vì thế không lập. Y cứ sau chỉ nói giới cụ túc, ý rõ năm giới, tám giới, mười giới cũng giống như vậy. Có năm giới chế trọn đời, tám giới giới hạn trong một ngày một đêm. Dầu tính theo ngày thọ, khi khác hướng đúng ngày đò không thể thọ lại. Bất trọng phạm: Ở đây y cứ theo đồng chủng ở thiên đầu mà nói. Y bổn định: Bổ nghĩa là đàn tràng thọ lần đầu tiên. Cố trở xuống là dẫn chứng. Trong bộ Bà-sa nói Bí-sô tuổi nhỏ được giới thượng phẩm vì có thể khởi tâm thượng phẩm thọ. Bí-sô La-hán được giới hạ phẩm vì trước phát tâm hạ phẩm thọ, sau không tăng thắng. Hỏi: La-hán đã phát định cộng, Đạo câu (Đạo cộng) há không được tăng thắng, giới đã không tăng làm sao được Thánh đạo. Như đây suy nghó đó. Trong phần giải thích nạn. Đầu tiên vặn hỏi rằng: Như trong giới bổn nói rằng giới thiếu kém không ăn năn nghĩa là muốn vượt qua phạm giới yếu kém, nên nói là thiếu kém. Kiên cố giữ gìn sự trong sạch của thể kia nên như thừa khác. Thể đã có dư thừa và thiếu kém thì lý có thêm và bớt, thế là cùng nghĩa thường định ở trên thật trái nhau, vì thế mới vấn nạn. Trong phần đáp, hai câu đầu y cứ về thọ trì chế khai, ở đây đối với tùy hành: Hành có trì và phạm nên nói thừa khác và thiếu kém. Nói không luận thọ thể, thọ nương bổn định vì thế không dư thừa và thiếu kém. Kế từ diệc trở xuống là y cứ theo thọ thể chia ra tác và vô tác, hai câu trên nói tác giới. Một niệm là nói thời gian rút ngắn lại. Tùy tâm là theo cảnh dời đổi, không thể truy tìm. Tâm thượng trung hạ hễ phát một phẩm thì thường định. Nếu như vậy, tông kia tác giới là sắc pháp, làm sao tùy tâm? Đáp: Đây là y cứ khi tâm niệm khắc định giới, vì thế trong phần Tạp Tâm, Đa luận đều lấy niệm thứ nhất, niệm thứ hai dùng để chia ra trước sau, như sau sẽ tự rõ. Hai câu dưới nói về vô tác. Phi tâm là ngược với tùy tâm ở trên. Trọn đời là ngược với một niệm ở trước. Kia chấp vô tác là sắc nên chỉ nói rằng phi tâm mà thôi. Tùy hành tăng ni nghĩa là tâm hành trì có siêng năng, biếng nhác nên thể có dư thừa và thiếu kém, tức kia chấp bảy nghiệp của thân và miệng đều là nghĩa sắc tổn ích, nếu như vậy thì có gì khác với tùy hành ở trên? Đáp: Trên là chuyên nói về tùy hành, ở đây cho là dùng tùy để giúp thọ (xưa ghi: sau giải thích cho rằng đồng giới cho phép thọ lại là sai. Kia tự y cứ về việc thực hành nói thể dư thừa yếu kém, há khiến cho thọ lại ư?). * Trong phần thành tông, trước dẫn luận. Nói nhưng nêu cố ấy là nhân khởi trước, sau không đại chúng. Đối phá, kia chấp giả lập nghi vấn. Trong phần đáp, đầu tiên là lại phát. Nêu phẩm thứ chín nói bảy luật nghi vấn: Luật nghi thứ nhất: Có người thọ giới một ngày. Luật nghi thứ hai: Ngày thọ giới Ưu-bà-tắc. Luật nghi thứ ba: Ngày xuất gia thọ giới Sa-di. Luật nghi thứ tư: Ngày thọ giới Cụ túc (Tỳ-kheo). Luật nghi thứ năm: Ngày đắc thiền định. Luật nghi thứ sáu : Ngày chứng định Vô Sắc. Luật nghi thứ bảy: Ngày chứng Vô lậu. Trên nói vô lậu là y cứ vào sơ quả, dưới gồm thâu quả hai, ba, bốn, vì thế nói là tùy chứng được Đạo xứ (Bổn luận nói là Đạo quả). Nhi trở xuống là nêu nghĩa lại phát. Nói vốn được không mất là nhờ thể trước tăng thêm giúp thể sau. Thắng là thọ tên từ tên nêu bày sau vì tên trước mất. Kỳ trở xuống nêu giải thích có thể biết. Hỏi: Làm thế nào phân biệt giữa lại phát, thọ lại? Đáp: Lại phát y cứ nhiều giới, thọ lại y cứ một giới. Nếu như vậy luận nói lại phát sao thấy thọ lại? Đáp: Do thể lại phát liền được thọ lại, vì kia thọ lại một giới nên thể phát. Trong phần dẫn chứng thầy riêng truyền, nay trong tạng không có bổn (các lời ký ghi rằng: Đời Lương, ngài Tăng Hựu soạn có năm quyển), đây tức là Đa tông nghĩa của các Sư khác. Tuy trái với tông nầy nhưng thuận với bộ nầy, nên đặc biệt trích dẫn. Tăng Truyện tức Cao Tăng Truyện đời Lương, do ngài Tuệ Hiệu chùa Gia Tường soạn. Ở đây dẫn Bạt-ma truyện, Đàn kinh viết mười một năm. Kỳ Hoàn là tên chùa Dương Đô ở nước này. Năm mươi ba vị, như Tuệ Chiếu, v.v… , ba trăm hai mươi ba vị như Ni Tuệ Quả v.v…, ở chùa Ảnh Phước đồng thọ lại. Tăng-già-bạt-ma, Hán dịch là Chúng Khải, hoặc có người hỏi: Truyện chép: có Pháp sư Tuệ nghĩa đến ấp Bộ kinh thấy Bạt-ma thực hành thọ lại cho là kỳ lạ, sinh dị chấp khác nhau, đích thân ngài Tuệ nghĩa tranh luận với Bạt-ma. Đáp trở xuống là lời của Bạt-ma. Ngài Tuệ nghĩa hỏi rằng: Giới không giống như sắc có thể thấy được. Trong khoảnh khắc thấy thọ giới lại, hoặc y theo thứ lớp hạ lạp xưa, hoặc tính sau khi thọ làm đầu, giữa tới lui này đủ để sinh ra sự nghi ngờ. Bạt-ma đáp rằng: Người có hai hạng không phải một hạng, nếu năm tuổi chưa đủ, hai tháng chưa tròn thì y theo nay thọ làm đầu tiên, nếu năm đã đủ liền vào vị được giới, chỉ nghi thọ trước có tâm trung và hạ, lý phải cầu cảnh cao quý mà thọ giới lại, tức y theo tuổi xưa mà thường định. Còn lại như trong Đàn kinh có nói rộng. Trong phần bảy, ý nói cõi này đắc giới nguyên duyên, khiến kh- iến tu theo không vâng giữ suông. Chấn lónh tức gọi xứ nầy. Sau nói là Hán cảnh, đủ có thể chiếu nhau. Trong phần khiển trách chung, trước nêu vọng có hai: Một là không có đầu mối, hai là duyên trái cũng được. Hốt trở xuống là chính khiển trách. Trước trách nói dối, do không trọng lời dạy của Phật, khinh phát ra lời nói này, nên thật đáng trách. Thời này phần nhiều không biết như vậy, thật đáng thương. Vì là tiếng than thở. Đình là tiếng sấm nhanh. Bảy ánh sáng là mặt trời, mặt trăng và năm ngôi sao (phương Nam có sao Huỳnh hoặc, phương Bắc có sao Chấn, phương Đông có sao Tuế, phương Tây có sao Thái Bạch, Trung cung có sao Thổ Tú). Lệ là khuyên dạy, cùng khắp thiên hạ. Ở đây nói Tổ sư nghĩa là Thánh giáo mọi người đồng nghe mà người vô ý ngu si đều không hiểu được, do kia nói dối bất giác kinh sợ, cho nên nói rằng đâu cho là đồng. Cũng dụ như người có hai mắt nghe tiếng sấm vang lên thấy ánh sáng lóe ra thật rõ mà người đui điếc không thể nghe và thấy. Quản thức nghĩa là trong cái ông dòm thấy, dụ cho kiến thức hẹp hòi. Thố nghĩa là đặt. Cố trở xuống là chỉ bày xuất xứ. Trước hiển bày duyên thành. Dẫn dùng Thánh giáo là chỉ môn thứ tư ở trước. Thử trở xuống chỉ bày từ đầu tiên. Túng trở xuống là ngăn phòng (ngăn ngừa). Sợ chấp trước các luật luận, cho phép có duyên thiếu mà cảm quả. Tiện nghĩa là không cần phải nhờ duyên vì thế túng mà đoạt, như bổn luật không thọ mười giới. Đa tông không đủ bát. Trong Già luận thì Sư tăng không đúng pháp, v.v… tức duyên cảnh xen lạm, nhưng tướng có thành chăng đều thấy trong thiên thọ giới, nên chỉ như trước. Trong phần hiển bày riêng, Tăng duyên có hai: Câu đầu lặp lại phần nêu ở trước. Tự trở xuống là dẫn chỉ bày. Lại có ba: Trước (một) là nêu giáo đầu tiên, hai từ hậu trở xuống là chính chỉ bày thọ duyên; ba từ tức trở xuống là kết thúc chỉ bày. Trong phần đầu, Hán là triều đại, Minh là đế hiệu, vua Minh đế đời Hậu Hán, vào niên hiệu Vónh Bình năm thứ ba, một đêm nọ nằm mộng thấy có một người sắc vàng trên hư không bay xuống. Sáng ra, nhà vua nhóm họp các quan xem đoán giấc mộng này. Truyền Nghị tâu vua rằng: Thần xem trong sách châu Thư dị ghi rằng: Ở Tây Vực có vị thần, là Phật, sinh vào thời vua Chiêu Vương, mất vào thời vua Mục Vương. Khi nhập diệt, ở xứ nầy, giờ ngọ mà trời râm, mặt đất rung chuyển, có một cầu vồng mầu trắng, có hai mươi mốt đường suốt cả hư không từ tối đến sáng. Vua Mục Vương nghe vậy bèn hỏi các quan đây là điềm gì. Lúc đó, vị thần tên là Hổ Đa tâu vua rằng: Đây là điềm bậc Thánh ở Tây Vực nhập diệt. Sau một ngàn năm giáo pháp sẽ truyền đến xứ này. Vua ra lệnh khắc trong đá chôn trước miếu thờ trời ở Nam Giao, thần tính đến nay đúng một ngàn năm, điềm mộng của bệ hạ chắc chắn là đây rồi. Vua nghe vậy cho là đúng, bèn sai mười tám người như Thái Ân, v.v…. đến Tây Vực cầu Phật pháp. Ca-trúc là tên của các vị tăng truyền pháp, tức Ca-diếp, Ma-đằng, Trúc-pháp-lan đều là người Trung Thiên-trúc. Lúc bấy giờ, Thái Âm, v.v… đến nước Nguyệt-thị gặp Ma-đằng và Trúc-pháp-lan cùng đi du hóa, bèn rước về Lạc Dương dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương, lại vẽ tượng Đức Phật Thích-ca, đây tức là Tam bảo bắt đầu có ở xứ này. Chữ bất nghĩa cũng như chữ chí: là đến. Tào là họ của vua, ngụy là hiệu nước, vì có Hậu Ngụy xen lẫn nên thân họ để phân biệt: Từ đời Hán Minh đến nay hơn một trăm chín mươi năm. Nói chưa bẩm v.v…. nghĩa là thể tục hình khác. Nói thiết phục v.v… nghĩa là pháp thiếu sai. Từ là miếu thần, tự là cúng tế. Sở dó ngài Ma-đằng và Trúc-pháp-lan không trao ba quy y, năm giới cấm ngay là vì đây chính là bậc Thánh biết căn cơ mà giáo hóa, còn phải dần dần. Trong phần thọ duyên có hai: - Một là nói Ca-la hành thọ, cũng gọi là Kha-la. Gia Bình là niên hiệu thời vua Tề, làm vua được năm năm. Lạc Dương là chỗ đóng đô của nước Ngụy. Lập Yết-ma thọ là nạp pháp làm thể, khác với hình đồng ở trước. Nghiệp sớ chép: Y pháp chính bộ thực hành mười vị tăng thọ giới. Lại nói: Thần Châu nhất thống ước thọ, đều tụng văn luật Tứ Phần, đây là đầu tiên. (Nước này tăng ni đắc giới công lao đầu tiên là của Ca-la. Luật tông không dùng Tổ kế tục ví quên gốc. Trong văn chỉ nói Yết-ma thì nghĩa ba quy y, năm giới cấm, mười giới sa-di sẽ đầy đủ. Trung hạ: Đại quốc nói là hạ, vả lại hạn cuộc ở xứ nầy, nói trung thật ra là Tây phạm Ấn-độ ắt đầy đủ. Trung Hạ: Đại quốc nói là Hạ, vả lại hạn cuộc ở xứ nầy, nói trung thật ra là Tây phạm, Ấn-độ chính là trung tâm cõi Diêm-phù-đề mà thôi. Cải vọng tập là lập nghi thức của tăng, thay cho cúng tế ở trước. Xuất giới tâm là khiến nương đó mà giữ gìn. Xuất là văn dịch, tâm dùng tổng yếu làm nghĩa. Văn luật tuy rộng, nhưng cốt yếu quy về giới bổn, vì thế nói là tâm. Loạn của giáo tông từ đây bắt đầu. Thông sư về trước mở rộng thạnh hành luật Tăng-kỳ cũng do đây. Hai: Từ hựu trở xuống nói ngài Đàm-đế dịch Yết-ma. Đàm-đế là tiếng Phạm, chưa rõ tiếng Hoa. Nếu theo trong Tạng, Tăng khải Yết- ma cũng nêu Tào Ngụy, nhưng Ca-la không dùng, vì riêng thỉnh ngài Đàm-đế. Nay chỉ suy tôn ngài Đàm-đế, Tăng Truyện chép: Thỉnh Hồ Tăng nêu ra Yết-ma nầy. (Ca-la hành thọ, ngài Đàm-đế chỉ dịch văn, sau ngược lại, do ngài Đàm-đế là Tổ riêng dặn lại Ca-la, chưa suy nghó mà thôi). Kế, trong duyên ní, trước nêu: Nếu theo Yết-ma của ngài Đàm-đế thì pháp đầy đủ, biết Tào Ngụy đến nay tức theo một chúng thọ, đây là y theo luật Ngũ Phần, chúng tăng gồm mười một người, ngoài mười vị tăng cần có một vị ni làm Hòa-thượng mới thực hành được. Theo lý, trước có một vị ni ở Tây Vực đến đây, nay gọi là duyên đầu tiên, chính là ba chúng thọ giới đầu tiên. Chí trở xuống là dẫn nêu bày. Trước nêu bày ngài Cầu-na hứa thỉnh, văn có ba: Nêu ngài Cầu-na ở Tây Vực đến. Nguyên Gia tức thời Tống Văn Đế đổi hiệu, được ba mươi năm. Cầu-na Bạt-đà-la, Hán dịch là Đức Khải. Dương Châu tức chỗ đóng đô của nhà Tống. Sau ở trong vườn trước chùa Nam Lâm lập giới đàn truyền giới, tức giới đàn được dựng lập đầu tiên ở xứ Trung Quốc. Từ hựu trở xuống là nêu lý do đầu tiên phát khởi. Trước nói vị ni ở Tây Vực lấy làm lạ hỏi, theo truyện nầy chính là Tuệ Quả ở chùa Ảnh Phước, v.v… Vị ni đó hỏi ngài Cầu-na-bạt-ma. Ma trở xuống là đáp, giải thích rất dễ hiểu. Từ chư trở xuống nêu hoài nghi cầu thọ. Trước nói vị ni đời Tống cầu thỉnh, sau nói ngài Cầu-na-bạt-ma hứa khả. Kế, từ đến năm thứ mười trở xuống là nói đời Chúng Khải thành. Trước nêu Chúng Khải từ Tây Vức đến tức người nước Thiên-trúc. Sơ trở xuống nói hành pháp. Trước nói duyên trước, Đức Khải vào tháng chín năm thứ mười chết. Nga trở xuống là nói ni số đủ. Nga nghĩa là không lâu, tức mười một năm. Thông trước mười một người, đây là y cứ chính dùng mà nói, nên nói số mười. Trong phần nêu xuất xứ, Tăng Truyện nói: ngài Tuệ Giao đời Lương soạn. Danh Tăng Truyện chép: Đời Lương ngài Bảo Xướng soạn. Bài tựa Tăng Truyện chép: do Vương Cân ở Lang Da soạn. Tăng Sử do Văn Tuyên Vương Tề Cánh Lăng soạn, Tam Bảo Ký Truyện, hoặc gọi là Phật sử, hoặc gọi là Tăng lục, v.v… đời Tấn, đời Tống ghi chép là Tục điển, rõ trong văn sao thời nay. Phần nhiều dẫn trong Tăng truyện, nhưng sự tích kia đều có trong các văn, vì thế chỉ chung đó khiến sinh tâm kính tin. Cố trở xuống là hiển ý. Quy là phân biệt lành dữ, cảnh là phân ra tốt xấu, ngàn năm sau không cho nói quá. <詞>TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SƯ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN TRUNG (PHẦN 1 - 3) Bốn môn của giới thể, môn một và hai nói về thể, trong môn thứ hai gồm hạnh; môn thứ ba, bốn thuộc về pháp, trong môn thứ tư có tướng, thường là phần thô. Ủy như trở xuống là nói. Khoa đầu có năm chương đầu, lập ra hai giới, cho đến thứ tứ đều nói hai món, thứ năm bàn riêng về vô tác. Lại bốn thứ trước hạn cuộc giới, nghĩa chung cả thiện ác, khoa sau thông tạp, chính là hiển giới. Trong phần nói nhiều ít, văn đầu có ba: 1- Thọ nhiều mà biết ít. Đời Thái Đường, Thích môn hưng thạnh, người tài giỏi nhiều như rừng, còn nói là được năm, ba người, huống chi đời suy mạt này, có thể biết. Từ giai cấp trở xuống là hiển rõ lý do không biết. Hai câu trên là nói người chuyên ngu si không biết, trí trở xuống là nói người không biết vọng thọ. Mù là dụ cho vô tri; mộng là dụ cho không thật. Cập trở xuống nói thành hay không chưa quyết định, hà hán là dụ người kia lờ mờ không biết bờ mé gì cả. 3- Từ cố trở xuống là gồm nêu bày ý. Y cứ vào thiên này chỉ giải thích giới tướng. Nay y cứ kia trước rộng hành pháp thể, ý thấy ở đây. Các môn là chỉ chung ba thứ chung, riêng, khoa mục ở trước. Trong phần hai, trước hỏi bao nhiêu món: luận chung các giáo, đều được nói không nhất định. Y cứ về cảnh từ chế theo vị (năm, tám, mười đầy đủ), khắc thể (tác và vô tác), hoặc đối bảy chi, hoặc gồm ba nghiệp, hoặc chia ra già tính, hoặc y cứ thọ tùy, có nhiều điểm khác đây, hỏi chung việc đó. Trong phần đáp: Trước y cứ về cảnh chỉ lượng. Nay trở xuống nêu cốt yếu gồm thâu. Nay chính nói về thể, hai điểm này là cốt yếu nên nêu riêng. Thâu chung hết là do hai giới này gồm nhiếp trong phần phát thể, vì thế ở đây gồm thâu pháp thể. Mà nói cảnh ấy là muốn nói riêng cảnh, pháp đều quy về hai giới. Trong khoa thứ hai, trước chỉ lập chung, kế nêu lý do, lý thú đã rõ. Dẫn y cứ lại nói: Chỗ lập đã định, tức phải hiển bày hai món danh nghĩa, cho nên giải thích danh, nương vào phần sau. Khoa đầu, trong phần hỏi nói không phải một là muốn hiển bày tướng cần, vì thế y cứ vào phế bỏ lẫn nhau để hỏi. Và dùng ba là nghiệp sớ “tác”, vì sao không ba hợp, nghĩa là hai pháp hữu tác và vô tác đồng thời, thích ứng liền lập nhất hợp kế với trước là ba. Trước đáp có hai: 1- Nói tác phải vô tác, tác thôi không ngăn ngừa vì dùng tác đoản (tác trong thời gian ngắn). Không thể thường tác là tâm, hoặc tác dụng khác. bày. Từ nhược đôn trở xuống là nói vô tác cầu tác, sau là kết chỉ Kế, trong phần đáp: Tác và vô tác khác nhau vì động tịnh khác nhau. Tâm, phi tâm khác nhau vì thể trái nhau. Trong nghiệp sớ có ba câu: Tác là sắc tâm; vô tác là phi sắc tâm. Tác là duyên đầu; vô tác là nghiệp sau. Tác là vận động; vô tác là không vận động. Nhược trở xuống là giải thích nghi. Do không cho lập ba, sợ cho rằng giới pháp chỉ hạn cuộc có hai, vì thế đặc biệt giải thích, hiểu rõ ở trên, lại y cứ nơi có thể ngăn ngừa nên chỉ nêu có hai. Trong phần dẫn chứng, trong Đa luận, hai câu đầu nói từ nhân cảm phát. Sơ trở xuống là nói phần chứng thành tựu. Trong phần chú giải nêu tên, câu đầu là đồng, câu sau giải thích nghĩa. Nghiệp sớ chép: Đây là nghiệp thể. Phát tiếp tục hiện không nhờ duyên giải thích, không do giáo chỉ bày mới có giới dụng, tức thể nhậm vận có thể báo đáp đời sau nên gọi là Vô giáo. nay thì kinh luận phần nhiều nói là vô tác, nghĩa đồng. Theo lời chú này, chữ tha chính là chỉ nghiệp thể không thuộc về người. Luận Câu-xá gọi là Vô biểu, cũng giống như ở đây giải thích. Trước chỉ bày hai giới. Thị trở xuống là nói duyên đủ nhân thiếu. Hạ trở xuống chỉ luận để hiển bày ý kinh. Kia nói hóa giáo, mười bất thiện đạo. nghĩa hai sắc đồng nên có thể làm chứng. Nghiệp sớ nói tác là mười món pháp chung cả thiện ác, có chút thích ứng với dụ sau. Do tâm trọng khinh, có phát không phát nên nói hoặc có, không, v.v… Như trở xuống là dụ, hiển cực là dụ tâm trọng. Thơm hôi là dụ thiện ác, ngói cây dụ khinh kia là vô ký. Tay cầm dụ cho làm trử bỏ vật. Khí khác có không để phối với ba tâm, có thể thấy. (Xưa nói: Kinh này đồng tông với luận Câu-xá là sai, đâu có kinh Phật và luận đồng tông ư? Nên nói: Câu-xá, các tông, kinh nầy thì có thể được). Trong phần kết hỏi rằng: Tông nầy hai giới danh thể đều khác, vì sao dẫn Thiện sinh trong Đa luận mà làm chứng? Đáp: Nay, đây không nói về danh thể, chỉ chứng hai số là đồng, xin xem ơ văn kết. May mắn không đợi suy xét. Kế giải thích danh nghĩa. Trong phần hỏi kết trước sinh sau, gồm hỏi ba tên. Đáp: Tác là phương tiện, cấu tạo làm nghĩa. Đào gia tức dùng đất làm nhà. Luân là Phạm thổ là xe phôi khí. Vận đó thì chuyển, nên dùng làm thí dụ. Chất thể của bốn đại gọi là báo sắc, theo duyên động tác gọi là phương tiện, phương tiện nương báo, hai pháp nương nhau chẳng phải một chẳng phải khác. Chỉ nói quả báo chưa hẳn là phương tiện, nói phương tiện kia quyết có quả báo (chưa hẳn), v.v… Nay dùng luân thủy dụ cho báo chất, luận động dụ cho phương tiện, tức gọi động kia là tác mà thôi. Cố trở xuống là dẫn chứng thân và động thân, đối dụ có thể hiểu (tâm luận tức Hữu bộ chấp tác giới, phương tiện đây là sắc nên chỉ nói thân). Trong phần vô tác nói một phát: Một dụ đầu tiên, câu này nói nghiệp thể ban đầu thành, tức Yết-ma lần thứ ba xong. Sát-na thứ nhất cùng tác đều đủ, đây là thể phát. Tác giới đã hết, riêng vô tác còn, nối tiếp không dứt, nên nói là tục hiện (xưa nói: Một phát là tác giới rơi rớt, vô tác tiếp tục khởi, đây là giải thích sai). Thỉ tức câu trên nói khi mới bắt đầu. Mạt tức sau cùng, nghĩa là qua đời liền xả. Tạp chung cho bốn xả, lại y cứ về thường đồ nên ba thứ kia không nêu ra. Câu này nói ng- hiệp thể lâu dài. Bốn tâm nêu chung bốn ấm. Ba tính là chỉ riêng hành ấm. Ba ấm chỉ cho vô ký, hành ấm chung cho ba tính (thiện, ác, vô ký), vì thế câu nầy hiển bày phi tâm. Câu dưới chính chỉ bày nghĩa vô tác. Nếu đối nghịch với tác giải thích: Câu đầu thì trái với trước, tức dứt hết, câu kế trái với một niệm, câu thứ ba trái với tâm hạnh lành, câu thứ tư trái với duyên cấu tạo. Vì thế sau dẫn chứng có hai: Dẫn trong Tạp Tâm: câu đầu tiếp trước dứt bỏ sinh khởi vô tác (Bổn luận và trên giải thích tác giới là văn liên tiếp). Thức khác là bốn tâm, hậu tâm hướng về tác tâm ở trước, vì thế nói là khác. Câu là đồng thời, pháp nầy là vô tác. Tùy sinh nghĩa là nhậm vận khởi. Trong Thành luận nói chung nghiệp lý không hạn cuộc giới. Nhân tâm là thị hiện từ phát tác. Nhân là nghĩa nương nhau, tâm tức chọn riêng có tông. Sinh tội phước: Sinh là phát tội; phước là thiện ác vô tác. Văn nêu vô ký làlấy tâm khác. Trong phần gọi chung, hai câu đầu là chỉ thẳng chính nghĩa, vì hai giới này đều dứt ác. Từ cố trở xuống dẫn trong kinh Niết-bàn, già chế nghĩa là cấm đoạn. Trực là một phen nói cùng tận lý, không còn luận bàn khác, vì thế như trước nói, Thiện sinh là môn giới pháp thứ ba. Năm chữ như chế v.v… là bao gồm năm nghĩa, đối với trước rất dễ biết. Trong phần ba nêu ra thể: Pháp thể sâu kín có chút liên quan đến lời nói. Nhưng trong lời sao vì kẻ mới học nêu thẳng chính lý, văn nghĩa giản lược đến nỗi có nhiều sự sai lầm. Đây là nguồn gốc của luật giáo lại là căn bản của người tu hành thì sự cần phải giải thích rộng để giúp cho tâm dụng. Nêu thể trạng nghĩa là tướng trạng của thể không có khác. Trong phần nêu tông, câu đầu chỉ chung dị chấp, nay trở xuống nêu riêng bổn tông. Hai luận chỉ cho Thành luận và Đa luận. Nói không đồng nghĩa là bao gồm các bộ kế, không nêu ra bốn môn, cái gọi là: Không, có, song phi và lưỡng diệc. Song phi nhập không; lưỡng diệc quy về có, vì thế bốn môn này tính lại tức hai môn, xứ này truyền bá tuy có bốn bộ luật, luật Thập Tụng và luật Tứ Phần lúc bấy giờ thạnh hành, vì thế nay chỉ đối với Đa tông mà nói khác. Luật Tứ Phần: Bộ Đàm Vô Đức gọi là Không Tông, cũng gọi là Tông Giả Danh, tức Thành Thật y cứ. Luật Thập Tụng: bộ Tát-bà-đa gọi là Hữu tông, cũng gọi là tông Thật Pháp. Nay các bộ: Bà-sa, Câu-xá, Đa luận, Tạp Tâm đều có tính kia, lược biết như đây. Ủy biện dị tướng: Đủ như trong sớ, phần nhiều thấy giảng giải không biện về giáo tông, danh tướng,… do đâu mà biết thể, người học nhờ lời nói, cần phải lưu tâm. Nhưng nay trong lời sao y theo tông, nói thể chỉ lược Đa tông. Nhưng sợ kẻ học sau chấp trước vào văn, vọng nói ra sự xuyên tạc, vì thế phải lược chỉ bày. Nghiệp sớ rộng nêu sáu vị để phân biệt, nay chỉ tóm tắt, chỗ cốt yếu dẫn ra để nêu bày. Hai giới đều là hữu vi, không phải ba món vô vi, vì nương duyên cấu tạo bốn tướng sở vi (đây là hữu vi vô vi phân biệt. Ba món vô vi là hư không vô vi, trạch diệt vô vi và phi trạch diệt vô vi. Bốn tướng là sinh, trụ, dị, diệt). Các pháp hữu vi gồm có ba tụ: 1- Sắc tụ; 2- Tâm tụ; 3- Phi sắc tâm tụ. Hai giới đều là sắc, chẳng phải hai tụ khác (Đây là trong hữu vi ba tụ phân biệt). Sắc có mười một, ba thứ: Hữu đối sắc có thể thấy (tức sắc trần). Hữu đối sắc không thể thấy (năm căn sáu trần). Vô đối sắc không thể thấy (tức có chút phần pháp trần, pháp trần có hai: Một là tâm pháp, nghĩa là các pháp tâm sở; hai là phi tâm pháp, sắc pháp quá khứ vô tác, tức thuộc về sắc nầy). Nay tác giới là thân tác, tức sắc thứ nhất. Khẩu tác tức thinh trần trong sắc thứ hai. Thân miệng vô tác gồm sắc thứ ba (trong tụ sắc nầy, ba sắc phân biệt). Trong sắc loại có hai: Bổn báo sắc, nghĩa là bốn đại. Phương tiện sắc, nghĩa là sự vận động tạo tác. Tác giới không phải bổn báo mà là phương tiện. Vô tác không phải hai sắc (đây là trong sắc thân miệng, hai sắc phân biệt). Tác giới là thiện sắc thinh, không phải ác vô ký. Giới thể vô tác là thiện, có thể biết (trong phương tiện nầy, ba tính phân biệt). Tác nghiệp trước sau đều là giới, không đồng với thiện khác, vô tác đường thể là giới, không phải chỗ luận ở đây (đây là y cứ trong thiện chỉ y cứ về tác giới sau phân biệt). Sáu vị trên đây là hiển bày tông kia. Hai giới đều là sắc, tác sắc tức là hai trần: Sắc và thinh vô tác sắc là thuộc về pháp nhập gọi là giả sắc. Hỏi: Vô tác đã không thấy đối, sao gọi là sắc? Đáp: Ở đây có nhiều nghĩa. Từ năng tạo gọi là sắc. Sớ chép: Giới thể đã khởi, nương thân miệng mà thành, tùy đủ biện nghiệp phán chung là sắc nầy. Tổn ích gọi là Sắc. Lại nói: Tông kia nói bảy nghiệp đều là trong sắc, vì có tổn ích. Ngại nên gọi là sắc. Lại nói: Vô tác tuy không thấy đối nhưng do bốn đại tạo, lại chướng ngại nhau. Y cứ chỗ có thể phân chia nên gọi là sắc. Hỏi: Đã chướng ngại nhau thì lẽ ra đồng với căn trần. Đã là pháp nhập thì là chỗ đối của ý, tức không phải đối? Đáp: Năm căn, năm trần, năng sở đều ngại đều là sắc, vì thế năng sở đều xen nhau đối không chung. Vì thế giả sắc không phải như vậy, tuy cùng ý đối, ý căn duyên chung tất cả trần nên chẳng phải là nghĩa đối. Lại giả sắc là sắc, ý căn chẳng phải sắc nên không phải nghĩa ngại. Còn lại nói rộng như trong sớ. Trong phần tác giới, khoa đầu nói tác nghĩa là ban đầu ở trong đàn tràng bạch tứ Yết-ma xong, sát-na thứ nhất về trước ba nghiệp, v.v… Phương tiện cấu tạo là: Trước dẫn luận, lại hai câu trên nêu thể chính. Thân, miệng, nghiệp suy nghó, nghĩa là đi đến quỳ lễ là thân tác. Trình bày lời xin giới tức khẩu tác. Lập chí trông mong cảnh pháp, duyên tâm thấu suốt trước sau gồm ở thân miệng nên gọi là thân khẩu nghiệp suy nghó, tức nghiệp suy nghó đây là thể của tác. Luận kia trở xuống gồm chỉ nghĩa duyên. Nói tạo đủ nghĩa là chỉ rõ thân miệng tự vô công dụng chỉ suy về tâm (ý), vì thế như ở đời tạo vật mất một trăm công, tự không thể thành, phải do người dùng, so sánh rất dễ biết. Hỏi: Trong nghiệp sớ, ban đầu giải thích sắc tâm là thể, ở đây vì sao nói là khác? Đáp: Thân miệng tức sắc nghiệp, tư tức là tâm cho nên không khác. Lời sao hiển bày cốt yếu khiến cho dễ hiểu mà thôi. Trong phần nêu ra, nói do phạm liệt thọ, nghĩa là thiện ác tuy khác nhau mà phát nghiệp nghĩa có một, vì thế như trong luật nói tâm nghó tưởng khác nhau không đến được quả. Lại trong phần không phạm nói làm rơi dao gậy, ngói gạch, cây gỗ trúng lầm người bị chết; dìu dắt, bồng bế người bệnh tới lui bị chết, tất cả việc làm này không có tâm hại nên không phạm. Đây tuy động sắc nhưng vô tâm nên không thành nghiệp. Dẫn chứng tức Thành luận: Hai câu đầu suy ngọn về gốc, hai câu sau nói bỏ gốc thì không có ngọn. Hỏi: Nay nói tác thể là tâm vương là ý tư phải không? Đáp: Trước nói rằng nghiệp tư, vì sao phải nghi mà hỏi, như xem trong luận, ba nghiệp đều là tâm, lìa tâm không có suy nghó, lời nói này dường như chỉ là tâm vương. Nhưng thể dụng của tâm vương dùng để phân, từ thể khởi dụng, dụng tức là thể. Nay nói về tác nghiệp, cứ nói dùng mà nói, vì thế Nghiệp sớ chép: Nói tâm chưa chắc là tư, nhưng nói tư thì ắt là tâm, phải cho kỹ càng. Khiển trách khác là đối phá Hữu tông. Năm căn, năm trần, bốn đại là mười bốn sắc, do tông này nói căn trần thúc đẩy thức, rõ thiện ác vốn do tâm tạo, đây là căn trần đều thuộc vô ký. Kia không nói về tâm, căn, trần, bốn đại đều chung cho ba tính. Kế trong phần sắc thinh, việc nầy đã lập sắc thinh có hai: Năm trần bên ngoài và báo sắc chẳng phải là tính tội phước; phương tiện sắc bên trong là tính tội phước. Một niệm sắc, thinh, mắt tai đã không phải tính tội phước; tương tục sắc thinh, pháp nhập đã nghiệp là tính tội phước. Nay lấy phương tiện và nối tiếp sắc thinh dùng làm tác thể. trong văn chia làm hai: Lập thể: Nối tiếp tục là phân biệt khác với một niệm. Đi đến quỳ xuống cho đến khi tác pháp xong tức là tương tục sắc. Trình bày lời nói đầy đủ để cầu xin giới là tương tục thinh. Thiện là phân biệt khác với năm căn năm, trần sắc. Dó trở xuống là ngăn ngừa, do mười bốn món sắc trong tông này đều là vô ký, nay lập sắc thinh sợ cho rằng trái với tông, nên giải thích đó mà thôi. Pháp nhập thuộc về sắc quá khứ. Ý thức được nghĩa là người có thể thọ. Quỳ xuống, là trình bày lời nói, là sở duyên của tâm (xưa ghi: ba thầy bảy vị tăng, ý thức được ấy là sai). Hỏi: Trước đã lập nghiệp tư đối với nghĩa đã rõ, vì sao sau thầy lại lập sắc thinh? Đáp: Hợp giáo thuận tông rất có mạch lạc. Người đọc chưa rõ vọng sinh xem thường, kẻ học sau cẩn thận chớ theo. Hỏi: Cả hai đều đưa ra hai cách giải thích, vậy phải y theo cách giải thích nào để làm nhất định? Đáp: Văn không bỏ cũng không lấy, chọn hết cả hai cũng không sao, nhưng trong các văn phần nhiều dùng nghĩa trước, cả hai đều còn nhưng tùy người dùng riêng, nên tự suy nghó kỹ. Hỏi: Ở đây khác với tác giới của Đa tông như thế nào? Đáp: Tông khác lập riêng thì phải có khác. Dẫn phần đối chiếu ở trước y cứ vào căn trần để phân tách, như bàn tay có các ngón, còn lại như trong phần nói riêng. Giải thích vô tác: trong phần chỉ bày thể, nói phi sắc phi tâm: Đây là tên của tụ thứ ba trong Thành luận, cũng gọi là Tụ bất tương ưng. Tụ nầy có mười bảy pháp, vô tác tức là một pháp trong mười bảy pháp đó. Bởi thể của vô tác không hai, cho nên mới nhập vào đây, tức lấy tên của tụ dùng làm thể kia. Nhưng từ xưa đến nay bàn về thể phần nhiều căn cứ riêng vào Nghiệp sớ, nêu cả hai chấp: Pháp chấp, có giảng luật Tứ Phần, chính là y theo Tạp Tâm nêu tâm thể phi sắc. Có người học luật Thập Tụng lại y cứ Thành Luận lập sắc là thể, nêu thể thì thuận, y cứ theo giáo thì trái tông, nên gọi là pháp chấp. Mê chấp có tông Hoằng Giả lập sắc là thể, hoặc truyền Hữu bộ chấp tâm phi sắc, Quang Sư dùng lý làm thể, Nguyện Sư dùng năm duyên thọ giới làm thể, ở đây là nói các vị Tổ sư trước đây còn có những sự khác nhau như vậy. Soạn trong Nghiệp sớ nêu rộng nghĩa chương. Phân tông định thể, văn lý sâu rộng, chỉ do người học không khéo thảo luận nên mới khởi ra đầu mối khác nhau kia. Nay xin lược dẫn. Bộ Tăng Huy Ký chủ định phi sắc phi tâm là nghĩa hạt giống, tức lập hạt giống làm thể. Có người cho rằng: Phi sắc phi tâm là tên của tụ thứ ba. Do loại vô tác này không tương ưng với sắc tâm, xếp vào tụ thứ ba nên gọi là phi sắc tâm mà thôi. Có người cho rằng: Phi sắc phi tâm tức là sắc vi tế, đồng như Hữu tông kia. Ngài Nam Sơn giải thích rằng: Phi sắc nghĩa là không do năm trần bốn đại tạo thành, v.v… há chẳng phải là lựa sắc thô, tâm thô, chỉ lấy sắc nhỏ nhiệm ư? Có người giải thích chẳng phải sắc là tâm. Dẫn Nghiệp sớ chép: Xét nghiệp thể kia vốn do tâm sinh, đây là ngài Nam Sơn xét nhập vào Đại thừa. Có người cho rằng: Phi sắc phi tâm là tư chủng làm thể, như vậy v.v… không một thứ nào thật có, như riêng bị phá. Tổ sư gọi là nguồn gốc điên đảo, lý vị sơ sài, đánh giá quá lạm sao có thể hơn được. Ở đời có người nói rằng: Phi sắc phi tâm rốt ráo thể kia là pháp gì? Nay vì họ mà giải thích rằng: Thể kia rốt ráo là phi sắc phi tâm, làm sao dùng danh để định thể được? Vì thế lại nói rằng hai phi chính là loại trừ đó mà nói, danh trở xuống là không thể. Lại hỏi rằng: Trong luật nói phi pháp phi nhân là loại đối nhau có thể, không thể. Đây đều không hiểu giáo có quyền có thật, danh không phóng khoáng (lãng phí), nên phần nhiều là vọng thuật. Trong phần giải thích phi sắc có hai: Ước về năng tạo dùng tác để nói lên vô tác, nghĩa là năng tạo là tâm nên cái phát ra là phi sắc. Sớ rằng: Đã là tâm khởi thì đâu phải do năm trần, bốn đại thành. Trần là năm trần, đại là bốn đại. Hỏi: Vì sao y cứ về năng tạo dùng tác hiển bày vô tác? Đáp: Vì đối phá Hữu tông, kia chấp sắc tạo năm trần bốn đại mà thành. Dó trở xuống là nghĩa chứng, chỉ y cứ về sở phát (cái phát ra) để hiển bày phi sắc. Trước nêu sắc là gồm nói về nghĩa sắc, không ngoài năm nghĩa: 1- Tướng; 2- Dị; 3- Tổn; 4- Ngại; 5- Đối. Phối hợp văn rất dễ hiểu. Hình đoạn: Có dáng mạo. Phương sở: Có nơi chốn. Mười bốn sắc: Như nói ở trước. Hai mươi gồm hiển sắc có mười hai (xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng, bóng tối, khói mây, bụi sương, đây là hạn cuộc tính vô ký. Hình sắc có tám (dài, ngắn, cao, thấp, vuông, tròn, nghiêng, thẳng, đây là chung ba tính). Não hoại: Loài hữu tình có đủ hai món này, loài vô tình chỉ có hoại. Luận rằng: Sắc là tướng não hại, trong tướng vô tác não hại không thật có. Hỏi: Vô não thì có thể thật có. Nếu nói rằng vô hoại vì sao giới có hơn kém và bốn xả ư? Đáp: Đây tức là Thành tông, thông nghĩa sâu xa. Vô trở xuống là nói lên phi sắc rất dễ hiểu. Trong phần phi tâm, trước đối năng tạo, tác giới dùng tâm làm thể. Tâm là duyên lự, vô tác ngoan thiện thể không giác biết, vì thế không duyên lự (hoặc nói rằng vô tác không thể dùng tâm duyên lự: Đây là không hiểu lời nói). Diệc trở xuống là nghĩa chứng. Dùng tâm hiển phi tâm, năm nghĩa nói về tâm, thâu suốt bốn ấm. Lự tri tức hành tâm. Mờ tối: Hoặc nói về ngu trí, hoặc nói về nhớ quên, hoặc minh là nói hành tâm, ám là ba tâm. Ba tính là ba tâm hạn cuộc vô ký, chỉ có hành chung cho ba tính. Rộng lược: Hoặc y cứ về duyên, cảnh tiệm đốn tức là hành tâm, hoặc y cứ về tâm pháp, một tâm chia ra bốn uẩn, sáu nhập, sáu thức, v.v… lần lượt nói về rộng hẹp có thể tìm thấy. Báo pháp: Đáp lại nhân gọi là báo, chúng sinh chiêu cảm quả báo tâm tính khác nhau. Vô trở xuống là nói về phi tâm, không có năm nghĩa trên nên nói là không đủ. Trong phần kết, Thành luận có bốn tụ: 1- Sắc; 2- Tâm; 3- Phi sắc tâm; 4- Vô vi. Vô tác là pháp thứ mười bảy trong tụ thứ ba (mười bảy pháp: đắc, phi đắc, đồng phận, mạng căn, quả vô tưởng, định vô tưởng, định diệt tận, sinh, trụ, dị, diệt, danh thân, cú thân, tự thân (văn thân), già chết là pháp vô tác của phàm phu. (Vô tác đây là pháp thứ mười bảy)). Trong phần dẫn chứng, bổn luận có hai đoạn: Kia trước hỏi rằng: Có người nói: Tác nghiệp hiện có thể thấy như bố thí, lễ bái, giết hại, v.v… đây là có thấy thì lẽ ra có, còn nghiệp vô tác không thể thấy nên lẽ ra không (đây là y cứ vào tác để nạn không có vô tác). Đáp: Nếu không có vô tác thì không lìa các pháp giết, v.v… (đã lìa được giết v.v… thì nghiệm ra có vô tác). Hỏi: Lìa tên vô tác, không tác thì không có pháp, như khi người không nói thì pháp ngữ cũng sinh, khi không thấy sắc thì không đâu không thấy sắc? (Đây là khi đối cảnh để hạn khi khác không đối cảnh, dẫn dụ có thể hiểu). Đáp: Vì lìa sát sinh được sinh lên cõi trời, nếu không có pháp thì lấy gì làm nhân (đây là y cứ về cảm báo lúc khác thì có). Hỏi: Không vì lìa sát mà sinh lên cõi trời vì thiện tâm (đây là suy thiện tâm làm nhân, bắt bẻ công chẳng phải vô tác). Đáp: không phải như vậy. Xét trong lời sao, như các lời nói trong kinh. Trong kinh tức luận gia tự dẫn. Tinh tấn tức tác nghiệp, sống lâu là hiện báo. Tùy sống lâu phước nhiều nghĩa là vô tác thêm lớn phước tức lành vô tác. Nói phước nhiều thọ vui cõi trời: Đây là chứng minh rằng sinh lên cõi trời vốn do vô tác chẳng thiện tâm. Vì thế từ nhược trở xuống phản chất nên có vặn hỏi. Nói chẳng phải tâm lành không do tâm lành, tức biết vô tác nhậm vận tự như vậy, thì phi tâm đã rõ. Không thể thường có nghĩa là tâm con người chưa chắc thường hướng đến việc lành, vì thế trong các đoạn sau, câu đầu lập nghĩa. Luật nghi tức thọ thể. Nhược trở xuống là giải thích thành. Bất thiện tức trái nhau, vô ký tức thành nghiệp. Y theo luận dưới tâm vô ký có chữ vô tâm, đây là nói thọ thể. Nếu là tâm: Chỉ là thiện tâm thành trì, không lẽ tâm khác cũng gọi là trì, tức nghĩa ba tính nhậm vận. Cố trở xuống y cứ quyết định. Lúc bấy giờ là chỉ khi tâm bất thiện và vô ký ở trên. Không có tác là do tác quyết là tâm lành. Nay do tâm khác sao cho khởi tác. Đã không có tác mà được gọi là trì giới, chính là bổn thọ vô tác không nhờ duyên tạo thành, nhậm vận thường có, rõ biết vô tác phi tâm. Trong kinh Niết-bàn đủ như phần nêu tông đã dẫn. Sắc vô hình là nói phi sắc. Phi xúc đối tức là phi tâm. Trong Thập Trụ, sắc phi sắc, kia là tông, Đại thừa là sắc, tức sắc của tâm nên không nói tâm. Vô tác phi sắc: Thể tức là tâm nên không nói phi tâm. Nay chỉ lấy tên phi sắc kia để làm chứng mà thôi. Hướng dẫn các văn trong phần kết chỉ bày, tuy là xả hai chứng, chính là muốn đối phá chấp sắc của Hữu bộ. Do đó, trong văn chỉ kết phi sắc, nghĩa phi tâm đã không có chỗ đối thì mượn gì để chứng thành nên không nói. Trên y luận chỉ bày, nói về thể tướng chưa rõ ràng lắm, còn Nghiệp sớ mới trình bày y cứ nghĩa có ba tông, nay lược nêu bày. Hễ muốn xét về thể phải biết tạo nghĩa của ba tông có cạn sâu. Giáo tướng của Nhị thừa khác nhau, mảy may không xen lạm mới nói về thể được. Trước nói Hữu tông phân ra Tiểu giáo. Tông kia cho rằng: Tiểu cơ sức thấp kém không y cứ về tâm luận. Hai nghiệp thiện ác đều do sắc tạo. Năng tạo là sắc, sở phát cũng là sắc, vì thế tác và vô tác đều lấy sắc làm thể. Thầy của bộ tông kia tuy giải thích nhiều nhưng ý chưa khéo léo, vì thế đến nghiệp sớ mới chỉ ra thể tướng, mới là lý cùng tận. Sớ văn chép: Như luật nói nghiệp, sắc thiện, sắc ác, đường lành, đường ác mà thiên nhãn thấy, tùy hạnh đã tạo như thật biết rõ, dùng văn nầy làm chứng, chính nói nghiệp thể (thể của nghiệp) là sắc pháp. Lại chép: Song thể của sắc này giống với Trung ấm, vi tế khó biết chỉ có thiên nhãn mới thấy, thấy có tướng mạo thiện ác rõ ràng, há y cứ về trần đối dụng chung sắc tính. Các Sư phân biệt lý do, xét nghiệp lượng kia ý nói như thế (nên biết, luận kia chỉ chấp vô đối sắc nhập vào giả sắc, chỉ là sắc sâu kín, nêu riêng lời sớ nầy). Nói bổn tính, Thành luận quá phần Tiểu thừa, giáo tuy nghĩa tiểu trái đạo tiểu. Tuy thông Đại thừa mà chẳng phải hoàn toàn Đại giáo. So sánh trước thì hơn, hướng về sau thì kém, đây cho nên lập thể giữa hai điều kiện này. Trước nói tác giới sắc tâm năng tạo. Sắc là bổn giáo, tâm là quá phần, đồng thời nói về sở phát phi sắc phi tâm. Phi sắc tức quá phần, phi tâm tức bổn giáo. Kinh Đại Tập, cái gọi là thầy của bộ Đàm-vô-đức che ẩn pháp tạng. Giới sớ cũng nói là bao gồm quyền thật, nghĩa kia ở đây. Nếu nói về tác giới còn có thể theo văn, riêng vô tác này trải qua, cho nên phải hiển bày. Phi sắc phi tâm được tên có nhiều khác nhau: Giải thích đối tác, như Thành tông giải thích ở trước. Giải thích tác, Sớ chép: Do tác ban đầu khởi quyết phải nương sắc tâm, vô tác sau phát khác với duyên trước nên gượng gọi đó là phi sắc tâm mà thôi. Giải thích lựa chọn giáo, Phi sắc lựa tiểu, phi tâm nhường đại. 4- Giải thích lỗi phế: Tác giới nói rằng thân miệng, đây là đủ vô tác gọi là phi sắc, tức đối phá hai giới của Hữu tông. Lại nói phi tâm: tự bỏ tác giới của bổn tông. 5- Giải thích nghi. Đầu tiên nghi tác đã mượn đủ lẽ ra là sắc, nên nói phi sắc. Và giải vô tác bèn nói tâm khởi. Lại nghi là tâm nên nói là phi tâm. Nếu nói về thể kia đã do tâm mà thành thì thể há do vật khác. Chỉ do giáo pháp có hạn không thể lạm không. Giáo đã quyền đâu có theo thật được. Vả lại, như Thành luận nói sắc thì vô ký ngoàn sắc bàn tâm, sáu thức vọng tâm là do phi sắc, thì nói rằng không do năm căn bốn đại tạo thành. Phi tâm bèn cho là thể không duyên lự. Bởi thiện tính ghi nghiệp. So sánh sắc hoàn toàn trái nghiệp, thể vô tri thật khác với tâm. Xét trong luận thì thể mạo thật chỉ cho tâm nghiệp, nhưng không bàn về hạt giống nên gọi phi sắc, không nói Lệ-da nên gọi là phi tâm. Vì thế Nghiệp sớ chép: Xét thể của nghiệp kia vốn do tâm sinh (vì từ tác khởi), lại huân vào bổn tâm (bổn tâm tức sáu thức vọng tác nên nói trở lại). Có năng có dụng (năng tức dụng sau, tức đối ngăn ngừa), tâm đạo mờ mịt chỉ có thể gọi là thông, vì thế y cứ vào sắc tâm cùng tột nêu ra thể tính (gồm nghĩa duyên), đều lấy năm nghĩa tìm đó thì không thật có (không tương ưng), không biết gọi là gì nên gượng gọi chẳng hai. (Cả hai tìm không được, không thể gọi tên mà gọi, nên nói là gượng gọi). Viên giáo tức là nghĩa Đại thừa. Hai phần trước giải thích đều không rõ giáo, vì thế trong kinh Niết-bàn hoặc sắc, phi sắc đều bị tranh luận. Đức Như lai nói không hiểu ý ta. Đây do Tổ sư lấy Đại thừa viên thật liễu nghĩa, quyết khai quyền giáo hiển bày các Đàn tràng thọ thể của ta, ý khiến người tu hành có thể gá tâm, nay chia làm hai: Nêu bày viên thể, tức nói A-lại-da tùy duyên biến tạo chứa đựng hạt giống. 1- (1) Nói năng tạo: Lại tức sáu thức y theo thức thứ tám khởi, khác với Tiểu thừa. Dầu có gồm sắc, nhưng sắc nầy cũng là tâm, không giống tâm sắc thể khác ở tiểu tông. 1- (2) Nói sở phát tức tâm đã tạo các hạt giống gốc lành tạng thức giữ gìn, tùy tâm không dứt. Như trong kinh Lăng-già nói biển thức, sóng thức. Sóng từ biển khởi, rồi trở lại biển. Sóng không có sóng riêng, mà tức là nước biển, năng tạo sở phát, toàn thể là thức lại không có pháp khác. Phải biết loại sắc nầy tướng đầy đủ nên nói là sắc, không giống như năm căn bốn đại, lại không có giác biết nên chẳng hai. Tùy nghi phương tiện ngộ nhập là trước tiên; Đại, Tiểu, Quyền, thật cần phải xem xét kỹ càng, vì thế trong Nghiệp sớ chép: Trí biết cảnh duyên, vốn do tâm tạo. Không có duyên cảnh vọng (không thật) nhưng chỉ một thức tùy duyên chuyển biến nên có kia có đây. Muốn rõ vọng tình phải biết vọng nghiệp vì thế tác pháp trở lại huân vào vọng tâm, ở bổn tạng thức thành hạt giống thiện, đây là giới thể. Nói về viên tu, đã biết thọ thể. Ngay khi phát tâm là thành ba tụ, vì thế hễ hành trì một giới cấm nào thì điều ác không khởi, tức nhiếp luật nghi; dùng trí quán sát tức giới nhiếp thiện pháp; không đâu chúng cứu hộ tức giới nhiếp chúng sinh. Nhân thành ba hạnh, quả được ba Phật, do thọ khởi từ nhân đến quả, thật ra hạnh nầy là căn bổn của người xuất gia, mới khế hợp với bổn hoài lập giáo của Đức Như lai. Vì thế trong Nghiệp sớ chép: cho nên người tu hành phải thường suy nghó về hạnh này, tức là ba tụ, v.v… Lại nói: cuối cùng quy về Đại thừa, cần phải có nơi để tâm. Lại nói: Đã biết ý nầy phải giữ gìn như tính mạng, như phao nổi. Lược nêu đại cương, còn lại rộng như kia đã bàn, người học sau phải nghiên cứu rõ ràng tỉ mỉ. Vả lại năm trược ràng buộc, bốn con rắn (bốn đại) chưa thoát được, chung chỗ với quỷ súc, khổ sở đau đờn, đâu được không suy nghó, thanh thăng ngồi giữ bồn tro. Dầu có tu tôn kính mà không được môn kia chỉ luống siêng năng khổ nhọc mà không hề có chỗ đến. Nếu cùng tận được sinh tử, chở nghiệp quấy vô biên, phá được hôn mê từ vô thỉ, chứng được pháp thân Vô thượng chỉ một môn giới này, rất là yếu thuật. Chư Phật khen ngợi trong các kinh, các Tổ mở mang thạnh hành vào những đời trước, cần phải tin sâu chớ tự nghi ngờ. Phải cho rằng thọ thể là hai mắt, tùy hành là hai chân, thọ thể và tùy hành giúp nhau, tuy muôn hạnh cũng có thể thành tựu. Mắt và chân giúp nhau tuy ngàn dặm nhưng chắc chắn sẽ tới được, tự mình không đồng đạo thì làm sao nói từ bi? Trong phần trước sau, nếu nói về tác giới thì không có trước sau. Riêng vô thường này có nhiều cách giải thích nên phải giải thích rõ ràng. Trước giải hai câu trên là nêu thí dụ, cố trở xuống là dẫn chứng. Niệm đầu đều có, có thể nghiệp hết đều sinh. Sau giải câu đầu trong khoa đầu là nêu nghĩa. Cố trở xuống dẫn chứng. Pháp thế gian là do duyên cấu tạo thành. nhân tức là tác giới, quả là vô tác. Như trở xuống dụ cho hiển. Cố trở xuống là chuẩn định. Khoa kế do lập trước sau trái với luận văn trên nói niệm ban đầu đều có, vì thế phải giải thích. Trước ngăn ngừa. Thử trở xuống là giải thích chung, đầu nói tác đều cùng khởi. Bất trở xuống là nêu bày hình đều sau hình. Trên nói sau nhưng lời nói chưa rõ còn sợ xen lạm đồng niệm đầu tiên, vì thế lại dặn dò rằng cũng là, v.v… Về trước hai lời giải đều là nghĩa xưa, nếu y theo Nghiệp sớ thì dùng lời giải thứ nhất, nhưng không rõ nghĩa ba thời chưa cùng tận. Sớ nêu nghĩa nay rằng: Nay giải một thời không phải trước sau khởi, há có tác dứt rồi vô tác mới sinh. do bổn đàn tràng nguyện tâm giới hạn tức nhân thành (hai giới nhân sinh). Đến sát-na sau hai giới đều đủ (hai giới quả mãn) vì thế nói rằng khi tác có vô tác (kết nêu bày văn trong luận, cho nên biết văn nầy không nói tác có vô tác). Lại y cứ một thọ nói ba thời vô tác: Nhân thời vô tác (từ khi mới đăng đàn tác có tùy tác. Sinh hình có nhân thành chưa hiện). Quả thời vô tác có hai: (Khi ba pháp xong, một tức đồng trên tác đủ. hai là hình đủ quả mãn). Quả hậu vô tác (sát-na thứ hai, chung khi qua đời). Trong phần nhiều ít, khoa này không hạn cuộc giới thể, gồm nêu tám thứ: Thiện, ác, định, tán, thế, xuất thế, nghiệp thế gian, nghiệp xuất thế gian. Tất cả gồm thâu nên nói là phiếm. Trong phần nêu rằng y theo Đa luận: Nếu thuận theo Đa Tông thì nên nói rằng vô giáo, nhưng đều chung kia đầy. Trong phần nêu giải thích, hỏi: Tác câu đã sinh chung với nhau phương tiện, sao gọi là vô tác? Đáp: Tuy chung với tác mà không ngại thể kia, không nhờ duyên cấu tạo, do hai pháp trái nhau tính không thể hợp, nêu sớ nói không do tâm khởi nhậm vận cảm nhau, vì thế gọi là Tác câu, cùng với vô tác nầy. Hai hình câu: tuổi thọ hết, thân diệt mất: theo luận thì thọ thể thật chung cho bốn xả. Vả lại, nói theo bổn kỳ một tướng thì hai món trên giới thiện cả hai thông. Nay nói thọ thể chỉ ở hai môn nầy, còn lại không liên hệ nhau. nghĩa năm, sáu gồm tùy hành. Yếu kỳ có thể đồng như tự thệ. Trong phần ba, trước nói việc lành. Câu sau lại nêu việc ác. Như giới sát đủ loại như trên đã nói. Bốn tùy dụng: Trên chỉ vật tại, đây y cứ về sự trì dụng, thiện ác loại giải. Trong phần năm, trước y theo Đa tông, thân miệng không xen nhau thì có duyên khác, nói dối là khẩu nghiệp hiện tướng nêu tướng, vì nương thân thành. Trộm cắp là thân nghiệp, chú vật quá khuyết (chú nguyện cho chúng sinh), vì nương miệng mà thành. Nhược trở xuống xét khác thành tông. Không như vậy thì hễ tạo thành nghiệp, không nói duyên khác. Như miệng tạo thân tức phát khẩu nghiệp, thân tạo cũng vậy. Sáu trợ duyên: Năng giáo phát nghiệp, nương sở giáo kia. Trước trong văn tạo tác giúp thành nêu giới sát sinh và trộm cắp, dạy thiện y theo đó mà biết. Yếu kỳ: Nói có khác gì với hình? Đáp: Hình đều tùy theo báo, yếu kỳ không nhất định. Sớ chép: Như mười đại thọ và tám phần chừng, cốt yếu tâm theo thời kỳ phát thệ mà khởi (mười thọ rút ra từ kinh Thắng-man, tám phần chừng khai tự thệ). Văn nêu việc lành, việc ác cùng đồng như vậy. Tùy tâm: Đây là nói hai giới định và đạo, văn chia làm hai: Y theo Đa tông, Đa tông có thể nhập định, nhập đạo, có thiền vô lậu luật nghi, xuất định thì không có. Dẫn trong Thành Luận: Hai câu đầu là đối phá tông kia. Trong luận dưới chữ có (hữu) lại có một câu thường không làm ác. Tâm lành là nêu bày tùy tâm. Nếu như vậy định đạo vô tác lẽ ra không phải ? Đáp: Chỉ có thể tùy tâm mà thật ra là phi tâm, do nghiệp tính kia có thể khởi thói quen sau, nên nói tâm lành càng thù thắng mà thôi. Thử trở xuống nêu tên, biệt trở xuống là chọn khác. Chỉ tùy tâm ấy vì là suốt đời. Hỏi: Thành tông nói biệt giải thoát cũng do tâm tạo, sao chỉ tùy thân? dứt? Đáp: Vì nghĩa giáo giới hạn. Nếu như vậy thì tại sao lời sớ nói công do tâm sinh tùy tâm mà Đáp: Vì nghĩa quá phần. Tức trở xuống là dẫn chứng. Đạo lực tức đạo và giới. Lại trong Trí luận chép: Sơ quả sinh vào nhà giết dê, thà chết chớ không giết. Đây chứng tỏ tùy tâm sinh tử. Nghiệp sớ, hỏi rằng: Tùy dùng và tác câu khác nhau thế nào? Đáp: Nghiệp tướng và hư thông chẳng chướng ngại nhau, lẫn lộn đồng thời tùy nghĩa mà khác. Vả lại như cầm roi thường biết là sẽ bị khổ. Đã không thời hạn tức không luật nghi là hình câu nghiệp. Yếu thệ thường hành tức là nguyện nghiệp, khẩu giáo đánh đập tức là duyên khác. Văn thọ hành ở trước là giúp nghiệp động theo. Nghiệp khởi thì là tác câu; roi đầy đủ không mất thì gọi là sự còn. Tùy tác cảm nghiệp há chẳng phải từ dụng, niệm ác chưa dứt lại là tâm câu nên nêu một duyên liền chung tám nghiệp, còn lại thì xếp vào biết có không. Y theo đây để rõ, hoặc đơn hoặc phức, xen lẫn không nhất định, cùng tột lý nghiệp, ở văn nầy. Trong phần phân biệt chung, bảy trước hạn cuộc cõi Dục, vì thể là sự loạn; một cái sau hoặc thế thiền, riêng chọn định cộng, hạn cuộc hai giới vì nghiệp hữu lậu. Nếu xuất đạo thì gồm thâu đạo định. Nói không phải ba giới vì đều vô lậu. Trên y cứ về giới chọn dùng nghĩa cầu; kế y cứ vào thiện ác mà chọn. Bảy trước chung cho thiện ác, một sau hạn cuộc điều thiện; ba, lựa thế gian, xuất thế gian, bảy trước hạn cuộc pháp thế gian, bảy ác hạn cuộc thế gian, bảy thiện chung cho xuất thế vì là phương tiện của đạo; một sau là định cộng chung thế gian và xuất thế gian, đạo cộng hạn cuộc xuất thế gian. Bốn, là y cứ theo bảy thiện trước thì thứ nhất, thứ hai và bảy chung cho giới thiện, bốn thứ còn lại hạn cuộc thiện rộng. Năm: Định cộng có tà và chính. Sáu: Đạo cộng chung cho đại, tiểu, rộng lớn như vậy. Đại môn thứ hai, thọ tùy đồng khác, vô tác trong năm thứ đồng. Bốn đối địch đồng nói thể còn nghĩa là bổn thọ không mất. Đối sự là sự tức cảnh, do có bổn thọ mới khởi phòng hộ, tức gọi là bổn thể có công năng ngăn. Trong phần tùy cùng một, đồng sớ nói đối không hưng trị cùng tác đồng. Vô tác đây nghĩa là chẳng phải tác câu, nghĩa là khởi đối phòng tức có hạnh lành, tùy thể đều sinh, tác dụng đã dứt mà thiện nầy thường còn, vì thế gọi nghiệp nầy là tùy vô tác, đối địch với phi nên đồng với thọ (theo đây, ngoài Tùy vô tác có tác câu riêng, tùy tác liền dứt). Trong năm, giới trọng phát: nghĩa là nói thọ thể có ba phẩm. Dư, thiếu không nhất định, nghĩa là tùy thể cũng có ba. Do nghiệp tùy tâm phát, thọ tuy hai giới đều đủ ba tâm vì thế khiến vô tác cũng có ba phẩm. Nêu Thành luận: Đối chọn hữu tông thì thọ chỉ có một phẩm, tùy có ba phẩm, thì một nhiều khác nhau, trong bốn khác: Thọ chỉ khởi tâm, vì thế có thể phát chung. Tùy là tu tạo chỉ được phát riêng. Nói tùy vô tác sự chỉ nghĩa không, là không đâu chẳng có vô tác, chỉ do tùy giới tùy tác phòng phi, tác dứt thiện còn. Không ngăn ngừa thì không thể gọi là tùy, nên nói là không. Trước dẫn sớ rằng thiện nầy thường còn, văn chứng minh đó. Nói hai không tức ác, vô úy. 4- Kế là tác giới. Trong năm đồng, danh thể trái với trước, nghĩa đồng như trên. Đoản đồng nghĩa là hai giới đều y cứ về mặt sắc tâm, động diệt thì dứt. Hiệp đồng nghĩa là không chung với ác, vô ký. Nếu như vậy thì như trong Đa luận bốn tâm được thành. Hựu trở xuống trong phần trì phạm nói tự làm, dạy người làm, từ nghiệp mà thành, đều y cứ và làm phương tiện trước, tâm khác thành nghiệp há chẳng phải hai tác chung cho ba tính ư? Suy nghó đó có thể hiểu. Thứ tư trong bốn thứ khác đều nêu khác, cố trở xuống là dẫn văn chứng minh thọ. Trước nói thọ một phẩm. Hỏi rằng: Đa tông có thể được. Thành luận giới được thọ lại, kia nói một phẩm ư? Đáp: Tuy khai thọ lại vì ba phẩm không chung, nếu như vậy vô tác vì sao dùng thọ chia ba phẩm? Đáp: Vì vô tác chẳng phải sắc tâm. Tuy có ba phẩm tăng làm một thể. Tác là sắc tâm tăng thêm ba phẩm trước sau đều khác, nên không có nhiều phẩm. Trong tùy xuống nêu nghĩa nhiều phẩm. Cảnh hơn kém tức y cứ chỗ ngăn ngừa, hiển bày cảnh nặng nhẹ, nghĩa là thiên đầu hơn hẳn, chúng pháp kém nhất, chặng giữa ngang nhau hơn kém sẽ biết. Hoặc y cứ vào có thể ngăn ngừa khó dễ, chia ra: Đột-cát-la chí khó là hơn, Ba-la-di nặng dễ khiển lại kém, chặng giữa có thể hiểu. Trong văn thứ ba, vốn nói sở duyên mà chia bốn khoa là tâm tùy theo cảnh mà khởi nên trước tiên nói tâm. Tâm cảnh tương ưng tức thọ thể nên ba là nói giới. Giới phải có dụng nên sau nói ngăn ngừa, bốn nghĩa khớp nhau không thể cô lập, vì thế khoa đầu, đầu tiên nói phần sơ lược trước. Đãn trở xuống là bày nay rộng. Hai câu trên là nêu ý, hai câu dưới là nói lợi ích, câu trên khai giải, câu dưới giúp hạnh. Đầu, trong tâm năng duyên hiện tại lựa chọn khác với quá khứ vị lai, tương tục chọn khác một niệm. Sớ chép: Niệm niệm tuy dứt mà thường tương tục khởi, tức dùng tâm nầy làm căn bổn giới nhân. Trước nêu cảnh, như trở xuống là nêu sự hiển tướng. Như cho mình là oán, oán kia đã chết thì là quá khứ. Hoặc oán có con tức hiện tại, cháu tuy chưa sinh, sinh sẽ là thù, tức là vị lai. Nghiệp sớ chép: đang sinh không phải là vị lai (xưa cho rằng con trong bụng là vị lai là sai, tức thuộc hiện tại). Đối ba cảnh này đều có thể khởi tâm hại, muốn thành tịnh giới thì phải dứt tâm ác, vì thế cảnh sở duyên bao gồm ba đời. Kinh Niết-bàn chép: Nếu người chém chặt thi chết do nghiệp duyên này đáng đọa địa ngục. Trong phần dẫn chứng văn luận nêu câu hỏi để phá Đa tông. Trong phần đáp, câu đầu chính đáp. Sở chỉ cho cảnh. Như trở xuống là nêu thứ lớp, y cứ về quá khứ, vị lai cũng giống như vậy. Phát giới. Hỏi: Đây khác với năng duyên ở trên thế nào? Đáp: Trước là tâm năng duyên, đây là giới sở phát. Do thọ thể kia không thể nêu bày, lại y cứ năng duyên để nêu bày sở phát. Lại hai thứ trước là tác giới, hai thứ sau là vô tác. Lại ba hạn cuộc thọ thể, bốn là tùy hành. Phòng phi. Văn trước nói hiện tại vô phi: Đây là y cứ đối trị tâm hành để nói về ba đời. Phòng là dự phòng trước không để khởi phi. Đối trị hiện tiền là ngăn ngừa sai trái chưa xảy ra, vừa mất chính niệm liền rơi vào lỗi lầm sai trái. Vì thế phải biết hiện tại không có nghĩa phòng ngừa. Trong phần giải thích ngại, trước hỏi: Nghiệp sớ nêu như xưa đã truyền thì biết xưa nay vâng theo lời này. Tỳ-ni tức bảy pháp diệt tránh, trước vì tranh cãi khởi ra mới dùng pháp, diệt tức diệt những gì đã xảy ra, đã xảy ra tức là thuộc về quá khứ, y cứ vào đây chỉ nói giới, ngăn ngừa vị lai ở đây gồm quá khứ, há chẳng phải trái nhau sao? Nên phải giải quyết nghi ngờ. Trong phần đáp, văn ở đầu nói: Cảnh tuy lỗi là kẻ thù chết. Phi phi quá (chẳng gì không phải lỗi lầm): Việc chém giết còn, lỗi tuy không mất, hướng về giới thanh tịnh thì cấm không sinh, lại thành chưa khởi nên nói giống như đây. Giống như là nói lại đồng. Đây là giải thích thuận thành nghĩa là lời giải thích xưa giới phòng chưa khởi. Kế giải thích tức y cứ vào việc phạm tội và sám hối. Nói giới cũng chung cho hai phòng ngừa, lại phá hạn cuộc của lời truyền xưa. Nghiệp sớ nói rằng: Xưa giải thích Tỳ-ni trừ việc đã khởi, căn cứ theo bảy Tỳ-ni, giới ngăn ngừa việc chưa khởi, nghĩa là đàn tràng thọ thể, ở đây hạn cuộc luận mà thôi. Nay giải thích Tỳ-ni cũng trừ việc đã xảy ra và chưa xảy ra, như bốn pháp diệt tránh đối trừ, đây là diệt việc đã xảy ra. Nói quán là chính dứt việc nên xảy ra mà chưa xảy ra, tức dứt lỗi chưa xảy ra, giới cũng hai ngăn ngừa, nghĩa giống như lời sao giải, còn lại trở xuống chỉ cho giới sớ văn thấy trong Nghiệp sớ. Kia lại nêu ra bốn địa vị trong Đa tông: 1- Năng duyên hạn cuộc một niệm. 2- Sở duyên chỉ thuộc hiện tại. 3- Giới phát cũng chỉ một niệm. 4- Ngăn quấy chung cho quá khứ, vị lai. Trong phần riêng lựa chọn, khoa đầu, trước chọn sở duyên. Mắc tội hiện tại: Trong phần tùy: Trì phạm phải đối cảnh thật. Quá khứ, vị lai chỉ khởi tâm: Cảnh không đối hiện tại vì chỉ có thể tâm duyên. Thuyết ngôn: Hiển không phải đều thật. Khoa kế từ nhược trở xuống là chọn sở phát. Một niệm: Hạn cuộc ba pháp trong một sát-na, do trước nói duyên cảnh chung ba đời, phát giới chung nối tiếp, ở đây phải chú trọng chọn hạn cuộc nêu giới hạn. Trong phần dẫn chứng, văn trong luận nói giới mà nêu lòng từ bố thí vì bố thí đứng đầu tiên trong sáu độ là hạnh dụng của Đại só, so sánh đủ thấy là cao thắng. Văn chia ra hai tiết: 1/ Nói bố thí và giới bằng nhau. 2/ Hựu trở xuống là nói bố thí không bằng giới. Lại có hai: Nói bố thí lòng từ hạn cuộc hẹp, nói giúp vật nghĩa là tài của, thức ăn v.v… các vật có thể cứu giúp hiện tại vì không thể cứu giúp quá khứ, vị lai. Giới trở xuống là nói lên giới thông cùng khắp, sau dẫn luận chứng. Chỉ lỗi hạn cuộc tức đồng bộ Câu-xá nói năng phi năng cảnh nghĩa xen nhau chuyển sinh. Văn sau tự thấy. Trong phần hỏi duyên tướng ngăn ngừa. Muốn hiển nghĩa phòng phi (ngăn lỗi) không chung cho hiện tại. Trong phần đáp, trước ước tùy hành. Nói không ngăn hiện tại, trước định thẳng không lỗi. Câu nếu không, v.v… là giải thích không đây chẳng có lý do. Hai câu trên là hiển thành lỗi phi, hai câu dưới nói tức thuộc về chưa lỗi. Song trở xuống là y cứ về thọ thể nói ngăn lỗi quấy. Trước nói phòng lỗi chưa xảy ra, sau từ ký trở xuống nói phòng lỗi quá khứ. Trong phần chuyển nạn, trước nói thọ thể có thể ngăn lỗi chưa xảy ra, muốn suy công có thể phòng ngừa quy về tùy hành, nên ở đây mới gạn hỏi. Trong phần đáp, trước là chỉ bày. Như trở xuống là dụ hiển. Thành, ao, cung, dao là dụ cho thọ thể. Ngăn ngừa đánh giặc dụ cho tùy hành. Sau chỉ cho giới sớ, văn cũng xuất xứ từ Nghiệp sớ. Sớ chép: Giới thật có thể ngăn ngừa và cắt đứt không cho khởi, thường phải thực hành sách tấn giữ gìn, mới có thể dạo chơi nơi trần cảnh mà không bị xâm nhập. Như ở đời, cung tên gươm giáo mới chống cự được quân địch, phải cầm dao tiến đến trước quân trận. Trong phần bốn phát giới nêu. Câu “chỉ như trên” nghĩa là cũng khéo thọ giới. Thế tục tức bọn tùy lưu không phải cư só. Tướng là cảnh tướng, Pháp tức giới pháp. Hạ trở xuống là hiển ích, tức hai lợi. Trong huyền cử, hai câu đầu nói rộng cùng khắp. Yếu trở xuống là nêu phần yếu lược để chỉ bày. Ở đầu gồm nêu. Nhậm trở xuống là chỉ bày riêng. 1- Nói sáu đại chung cho tình, phi tình (hữu tình và vô tình). 2- Sáu trần tức phi tình. 3- Sáu đường, v.v… tức hữu tình. Nói Trung ấm, trong Nghiệp sớ chép: Ngoài chúng sinh trong sáu đường còn có hữu phát sao? vậy. Đáp: Như lai không thu nhiếp các đường, trung ấm cũng như Tâm luận chép: Bốn loài sinh bao gồm các đường, trung ấm không thuộc vào các đường, do đường nghĩa là thú, mà trung ấm chỉ duyên thức. Trong phần dẫn văn, khoa đầu trong bộ Câu-xá nói người học phần nhiều mê mờ nên trước phải lược chỉ bày. Phần tức là chi, nghĩa là bảy chi nghiệp. Nhân là giới, nhân nghĩa là tâm năng thọ. Văn nầy muốn nói bốn vị giới: Năm giới, tám giới, mười giới và giới cụ túc đều sinh cảnh cùng khắp nên nêu hai tướng của tâm để so sánh, nghĩa là giới thọ tâm có tận, không tận để đắc giới. sinh cảnh không cùng khắp, định không phát giới, nghĩa là ba giới chỉ phát bốn chi, giới cụ túc hoàn toàn phát sinh bảy chi. Ở đây nói bảy chi nhiều ít đều đắc giới, tức là phân bất định. Lại nếu y cứ ba thiện thì ba tâm đồng thời, nếu y cứ ba phẩm thì được một phẩm. Đây là nói ba tâm đủ thiếu đều có thể phát giới, tức nhân bất định. Riêng cảnh chúng sinh không thể không cùng tận nên nói là Định. Hà trở xuống là giải thích nghĩa định. Nói không được từ một món là nói quyết phải cùng khắp. Trong phần phân chia bất định nói tất cả, nghĩa là bảy phần Câu- xá tức Hữu bộ chấp rằng giới Tỳ-kheo mới được bảy chi vì là giới cụ túc, còn các giới kia là ba, bốn chi vì không phải giới cụ túc. Cho nên, nếu y theo thành tông thì bốn giới đều phát bảy chi, tức đều từ tất cả mà đắc định. Nay y theo kia dẫn tông chấp cần phải biết. Trong phần nhân bất định, trước nói ba điều thiện. Tất cả: Ba tâm đồng thời. Nếu khởi ba độc thì có đơn có cụ, nếu y cứ vào ba thiện thì chắc chắn không lìa nhau, cho nên kế nói về ba phẩm. Nói không từ tất cả nghĩa là ba tâm không cùng. Trong phần giải thích định, so sánh với phần nhân ở trước không từ tất cả đều phát, đắc giới, duyên cảnh trái lại, nên nói rằng nếu không từ, v.v… Hà trở xuống là giải thích lý do không có giới. Vân trở xuống là chuyển giải thích ý không được, tử là chết. Trong phần chỉ bày rộng * (1) Đầu năm phần khác nhau, nghĩa là lúc mới thọ phát tâm dứt ác, đối năm việc này có thể trì, không có thể trì, vì thế sinh lấy bỏ. 1/ Lựa sinh loại có thể trì không thể trì. 2/ Lựa giới chi (chi của giới). Tông kia năm giới, tám giới hạn cuộc số nhất định, vì thế nếu thọ một giới, hai giới đều được hạnh lành. Giới nói không phải như vậy, phân đầy đủ đều được mười giới và giới cụ túc. Thể là xuất gia, tính ngăn cũng dứt thì có lỗi nầy. 3/ Cõi nước, quận, huyện. 4/ Năm, tháng, ngày, giờ. Năm giới thì nói trọn đời, tám giới thì nói trong một ngày một đêm. bộ kia thì thời gian nhất định. Trong Thành luận nói hai giới (năm giới, tám giới) trọn đời hay nửa ngày tùy cơ dài ngắn. 5/ Tự giải thích. Trừ đấu tranh: Gặp duyên nầy không thể trì được. Như trở xuống là kết chung. Theo đó có thể biết, giới thiện khắp hay không khắp là khác nhau mà thôi. * (2) Kế là nói có thể trì, không thể trì. Như đối với loại chúng sinh này không thể trì thì gọi là không phải cảnh làm được, đối với loại có thể trì thì giáo lý là cảnh làm được. Sớ chép: Người giết mổ giữ giới không giết hại thú rừng (tức cảnh làm được, người giết mổ đối với súc vật nuôi trong nhà là không phải cảnh làm được). Thợ săn giữ giới không giết súc vật nuôi trong nhà cũng là cảnh làm được. Thợ săn đối với loài thú rừng thì không phải là cảnh làm được. Trong văn, khoa đầu hai câu trên hỏi, nghĩa là đối loại chúng sinh nầy đã phi năng sở, nay cũng duyên chung, hướng đến kia pháp giới có ý nghĩa gì? Ý hỏi như vậy. Do trở xuống giải thông, cho rằng tâm không chỗ chọn lựa mới tương ưng. Khoa kế, trong lỗi đầu, trước lặp lại chấp. Thử trở xuống là khiển trách đoạt. Câu trên chỉ lỗi. Chữ tổn là vết lầm. Y cứ theo số hợp tác tăng thêm. Hai câu sau nêu lý, nghĩa là sở năng sinh phi năng thì giới có bớt, phi năng sinh sở năng thì giới thêm, vì thế nói là xen nhau chuyển sinh. Sớ chép: Như thợ săn giữ heo, dê thì khi chết đọa vào loài hươu nai thì giới bớt. Hoặc nai sinh trong loài dê thì giới thêm. Người đồ tể cũng vậy. Trong lỗi thứ hai, nói như vậy nghĩa là lặp lại nghĩa thêm bớt ở trên. Tắc trở xuống là chỉ lỗi, do giới thọ xả đều nhờ nhân duyên, nay từ thêm bớt là trái với nghĩa giới. Trong lỗi thứ ba, trước y theo nghĩa trên, nghĩa là giới tự thêm bớt không (nhờ) nhân duyên, nghĩa cũng có lỗi gì. Ác trở xuống là chỉ cho lỗi, do tâm hại không cùng, tâm năng sở cũng không nhất định. Sớ chép: Như thợ săn giữ giới không giết gia súc nuôi trong nhà, đi săn không được, trên đường gặp heo, dê tâm lại khởi sát, y theo đây có thể biết. Tâm đắc giới không cho một mảy may ác, muôn điều lành cao siêu, năm thừa khuôn phép, Thánh chúng khen ngợi cũng do đây. * (3) Giải thích thêm bớt: Bộ Bà-sa hỏi tức bộ Câu-xá tự dẫn. Nếu như vậy: Lặp trước làm nạn. Trước nói xen nhau chuyển có lỗi thêm bớt. Nay nạn dầu khiến cho cùng khắp cũng không khỏi lỗi nầy, nên phải giải thích. Trong văn, trước y cứ phi tình (vô tình), có lỗi thêm bớt. Chưa có nghĩa là như mùa đông thọ, mùa xuân sinh, giới có thêm. Có thời nghĩa là như mùa xuân thọ, mùa thu diệt, giới có bớt. Kế y cứ vào hữu tình chỉ có lỗi bớt. Nhập bát tức chứng quả A-la-hán, nhập Bát Niết-bàn đây là y cứ về nguội thân nhập vô dư, không ở trong ba cõi thọ sinh, tức chúng sinh bớt. Trong lời đáp, câu đầu là sự nghi ngờ của thế gian. Giới vốn ngăn ngừa lỗi quấy, quả nhân phiền hoặc của ba thừa, đã nghiêng về nghiệp quấy thì tán mất hẳn đâu dùng giới làm gì. Lại trong kinh luật nói Đức Như lai khi mới thành đạo cảm giới A-la-hán phá kiết sử, pháp trên đắc giới y cứ theo đây. Câu đầu vừa có quyết nghi lại có riêng, chung, văn trong nghĩa sao. Cảnh không cùng tận: Kinh nói chúng sinh không cùng tận thì giới cũng không cùng tận. Đây là nêu chính báo quyết gồm y báo, vì thế cảnh phi tình cũng vô tận. Câu thứ hai là chung với nạn trước, còn lại nhân ba tướng mà có. Tâm có lỗi là do hoặc tâm chưa dứt, vọng nghiệp theo đó mà khởi tâm độc, vì tâm chặt cỏ chưa dứt. Câu ba, hai chung, phàm phu hiện cảnh cả hai đều còn. Trong phần bốn khác nhau: Như bốn giới trọng đầu tên thì Tăng, ni giống nhau. Bốn giới trọng sau thì ni có, tăng không. Lậu xúc, khen nói lời thô tăng có ni không, tên giới khác nhau. Như tăng chuyển thành ni, lậu xúc, v.v… cảnh chẳng phải chỗ ngăn ngừa của ta lại không thể phòng ngừa, vì thế nói là đều dứt. Câu nầy nói dứt tức không giống như dứt trong dứt diệt ở trước, so sánh đó có thể biết. Kế nói phi tình (vô tình), đầu là văn luận, y cứ Đại Thiên: Căn cứ theo giới hạn của tông. Văn sau phần nhiều nói về pháp giới, lời nói kia dụ như chung. Nên lựa Đại Tiểu phân biệt rộng hẹp, ý nầy cần thiết, phải biết cho rõ. Tội phước tức thiện ác. Trong thiện sinh, vả lại nêu vô tình. Bốn nghĩa như ở sau phối trong giới trở xuống là kết khuyên, rất dễ biết. Trong ba cảnh là A-tỳ, cõi Phi tưởng, nêu trên dưới gồm nhiếp khoảng giữa. Có thể, không thể, hoặc y cứ theo về ba đời có thể, tức hiện tại không thể, tức quá khứ, vị lai không thể. Lại trong hiện tại năm đường cách nhau. Lại trong loài người xa gần không đến. Lại trong gần phàm thánh có thể chăng, v.v… Cho đến ý lược nêu giới dâm và giới trộm cắp. Như lai là chỉ riêng Đức Thích-ca, cũng phải phân nghĩa, rất lớn như cát sông Hằng. Ba nhân duyên tức ba điều lành. Hựu trở xuống là kết thúc khen ngợi. Chung cho năm chúng: Vì cảnh lượng đồng. Giới đức bình tức dụ cho thọ thể. Trí luận chép: Người giữ giới không việc gì không được, người phá giới tất cả đều mất. Thí như có người thường cúng dường các vị trời để cầu giầu sang, các trời thương người này bèn cho một vật gọi là bình đức. Những vật cần thiết đều từ trong bình này hiện ra. Người đó được rồi, vừa ý mong muốn, cho đến mừng quá, bèn đứng trên bình nhảy múa, bình liền bể, các vật đều mất hết. người giữ giới cũng giống như vậy, các món diệu lạc không có nguyện nào không được. Nếu mừng tự buông lung thì cũng giống như người kia làm bể bình mất vật. Đoan cũng có nghĩa là buông lung không giữ giới. Phước đức tức là vô tác. Trong luận Minh Liễu, khoa đầu chia làm hai: Dẫn luận. Từ cứ trở xuống là kết thúc khen ngợi. Trong phần một, trước dẫn văn luận, kế dẫn lời giải thích trong luận. Ở đây lại chia làm hai. * 1.Phối số bày đức: Trước giải thích danh nghĩa. Phước là nghiệp lành, biển tức thí dụ. Phá giới phiền não tức là nghiệp hoặc. Sau từ đạo ngôn trở xuống là hợp số ba đoạn trước nêu giới số, chỗ dẫn luật giới đều do luận kia tự chỉ, xứ nầy đều không. Lại chỉ giới riêng của ni cũng y cứ theo luật kia, không thể dùng tông nầy suy xét. Hỏi: Liễu luận là tông chính lượng, sao dùng giới số không y theo bộ kia? Đáp: Hoặc sợ chính lượng giới bổn, Tông kia hai luật, lại sợ muốn hiển nhiều tướng nên dùng bộ khác. * 2. Từ mỗi giới trở xuống là dùng một lợi phối giới. Một giới có mười lợi, tổng số thành bốn ngàn hai trăm lợi. Mỗi công đức trở xuống dùng mười hạnh phối lợi, một lợi có mười hạnh: 1/ giới thành một trăm hạnh, tổng cộng thành bốn mươi hai ngàn hạnh. Tín v.v…; là tín; 2/ tinh tấn; 3/ niệm; 4/ định; 5/ tuệ. Thân miệng hai hộ chung cho tất cả giới, không thể phối với bảy chi. Hựu trở xuống là nêu danh hiển đầy đủ nghĩa là danh (tên) vô nguyện hiển nghĩa đầy đủ. Nói học xứ là chỗ y cứ của người tu hành (chỗ nương ở của người tu hành). Trong phần hỏi: Luận dùng hai giới tăng và ni hợp thành bốn trăm hai mươi, nay y cứ theo một chúng thì không đủ phát ra bốn mươi hai ngàn hạnh, vì thế dùng đó để hỏi. Trong phần giải đáp đầu cho rằng: Riêng một chúng thì thật không đủ, theo trước hai luật: tăng có ba trăm hai mươi mốt giới thì có ba mươi hai ngàn một trăm hạnh. Giới ni chỉ nêu số giới khác với tăng, không rõ bộ kia giới của ni nhiều ít bao nhiêu nên không phối sai (xưa ghi: dùng giới trong luật Tứ Phần để phối là sai). Trong phần giải thích kế tiếp. Do tăng ni chuyển căn tức lẫn nhau nhập chúng lại không thọ lại, vì thế phải biết Tỳ-kheo một thể đủ giới hai chúng, ni cũng giống như vậy. Bảy chúng nhiều ít, năm giới dẫn trong luận. Trước nói hữu tình, tịnh trở xuống là nêu vô tình. Trước sau: Tông kia năm giới hạn cuộc suốt đời, vì thế từ thiết trở xuống là chỉ chung cho năm pháp. Không tùy duyên cảnh có bớt đi, vì thế trong đây hữu tình và vô tình cùng luận. Ba thiện phối hợp riêng gồm mười giới, năm giới. Trong phần y cứ nghĩa. Trước nói cảnh của hữu tình, đầu tiên là lìa cảnh dâm thì đối nữ sáu giới, đối nam năm giới. Từ phát trở xuống là phối tâm độc. Sau nói về vô tình. Nếu hữu tình và vô tình hợp số thì nữ có hai mươi mốt, nam có tám, đây là y cứ về đơn phối. Y cứ khai bảy độc thì nữ bốn mươi chín, nam bốn mươi hai. Trong tám giới chỉ hữu tình giống như trên. Cũng phối y theo nghĩa luận y cứ hai số khác nhau. Vô tình có năm: 1- Uống rượu. Đeo tràng hoa. Ngồi giường cao tốt rộng lớn. 4- Ca múa hát xướng. 5- Không ăn quá ngọ. Giới thứ nhất, thứ ba nếu hữu tình vô tình hợp số, theo luận thì được hai mươi bảy giới. nghĩa y theo trước, đối nữ có ba mươi ba, năm mươi ba. Riêng y cứ bảy độc, đối nữ bảy mươi bảy, nam bảy mươi, rất dễ biết. Trong mười giới: Trên chỉ cảnh đồng với tăng, dưới y cứ theo văn để chứng. Văn luật tức là kiền-độ, đại tiểu đều trì. Giới giới trở xuống tức hai bộ giới bổn. Nêu Tứ Phần là chọn lựa tông khác không phải như vậy. Bốn chi của Đa tông đồng với năm giới, tám giới ở trước. Trong phần giải thích ngại, nói tướng nêu có mười, mà nói đồng như tăng là trái nhau. Thử trở xuống là giải thích chung. Trước nêu ý, bày tướng. Sau từ cố trở xuống là dùng giới Cụ túc, bạch tứ Yết-ma để so sánh. Nêu mười bốn: Mười tức mười giới, đối ba quy y ở trước. Bốn tức bốn tội nặng đối một lần Yết-ma. Trong giới Cụ túc, văn luận y cứ đơn phạm, cảnh sở đối của mỗi chúng sinh. Bảy chi của thân và miệng là chỗ tạo nghiệp, trong giới đã cấm. Ba độc tức tâm năng tạo là căn bản của nghiệp. Luận nêu hữu tình, vô tình ba giới, mỗi mỗi cũng như vậy. Trong nghĩa tiêu chuẩn, trước lìa tâm độc, ba đơn như luận nói. Trong phần xen khởi nói hai, ba, nghĩa là phức có ba: 1/ Tham, sân; 2/ Tham và si; 3/ Sân và si. Đẳng phần tức đầy đủ một, chung ba đờn trên cộng thành bảy độc. Người nữ trở xuống là lìa cảnh lỗi. Đối bảy nghiệp chỉ có dâm để lìa. Sở dó như vậy là vì như dâm một đường (một chỗ), các đường khác không nhiễm ô. Sát có bốn chỗ, giết bất cứ một chỗ nào cũng chết ngay, vì thế không cần phân chia. Bảy trở xuống dùng độc trải qua chi, dùng chi đối cảnh. Trong mỗi chi đều có bảy độc. Đối cảnh của nam nữ hợp số sẽ thấy, hai câu sau trải qua cảnh vô tình thì không thể đếm. Trong phần kết chỉ bày nói thiện sinh năm món gồm nhiếp giới cảnh. Chỉ nêu cảnh để so sánh pháp, nên nói rằng thí. Phi là thí dụ, tuyết dụ cho lý. Hỏi: Trong phần nhiếp giới nói do Chư Phật chế giới, tướng kia chẳng phải một mà ở trước đối cảnh hữu tình chỉ nói bảy chi, nghi rằng kia chưa hết, nên mới nêu lời hỏi này. Trong phần đầu đáp hết, phối chúng loại của giới văn nêu ra Đa tông, trong lời sớ của giới và nghĩa sao đều có dẫn ở. Đây dùng bốn giới trọng nhiếp tất cả giới, chủng và danh chung. Điều tướng của các thiên đều tự làm chủng, danh thì hạn cuộc. Chỉ y cứ tăng tàn trở xuống các thiên là thuộc chủng. Nay của chủng loại lại y cứ riêng đối. Chủng tức bốn giới trọng căn bổn vì khác. Loại tức chi điều của các thiên khác vì sinh. Dầu có vô lượng cũng không ngoài bốn giới nầy. Phần kế đáp không hết, câu đầu lập nghĩa; dó trở xuống là giải thích lý do. Sát (giết) đánh khác: Chỗ ngăn ngừa lỗi khác (sớ ghi: nặng nhẹ khác nhau). Có thể ngăn ngừa khác: Đối trị hành khác. Cố trở xuống là dẫn chứng. Kia nói đầy đủ rằng: Trừ mười nghiệp lành và mười nghiệp ác (hóa giáo nghiệp đạo), thiện giới (chế giáo bảy chi) ác giới (tức không luật nghi) lại có chỗ không thuộc nghiệp giới: nghĩa là pháp thiện ác (đây là y theo lời ký xưa đã dẫn). Nay trong lời sao lược nêu giới thiện ác mà thôi. Y theo văn của kinh nầy thì dùng căn bổn ngăn cách phát ra nghiệp giới, có thể chứng minh (xét biết) rằng bảy chi không thuộc về giới khác, vì thế nói rằng: Cho nên biết v.v… Hai câu nầy nếu lấy sự ngẫu nhiên đối hợp thì nói là bảy chi thuộc về căn bổn, hoặc không sửa câu trên thì câu dưới phải là thuộc về chủng loại nghiệp giới, văn này rất thuận tiện. Nay trong giới bổn, bốn giới trọng ở thiên đầu và giới nói hai lưỡi, nói lời mắng nhiếc trong chín mươi pháp Ba-dật-đề thì bảy chi giới, ngoài ra đều thuộc về nghiệp giới (xưa ghi là sát, vọng Đại thừa, Tiểu gọi là bảy chi, nhiếp chín giới là sai. Nay nặng nhẹ cũng khác nhau, làm sao nhiếp nhau được. Hỏi: Y cứ theo chỗ giải thích này thì lẽ ra không lập chủng loại hay sao? Đáp: Hai lời giải thích trước sau đại khái chẳng khác, lập riêng nghiệp giới gồm thâu chủng loại, phần nhiều thấy vọng giải nên ở đây giải thích tỉ mỉ. Trong phần tác câu, trước về căn bổn chủng loại, gồm thâu các giới nhưng cùng nghiệp đạo có xen lạm nhau, vì thế phải phân biệt. Câu “câu đầu sau ba” tức là nói tham, sân, tà kiến hóa giáo ngăn cấm nên gọi là thiện, luật không chế nên chẳng phải giới. Bốn phần trọng duyên đồng nhau mười nghiệp có thể xếp vào giới. Nếu theo giới Bồ-tát thì mười nghiệp thiện đều là giới, như ở đây cần phải biết. Trong câu thứ ba, trước nêu tướng. Dó trở xuống là giải thích cả hai. Không hẹn kỳ: Hiển bày việc lành ở đời không nguyện thể, trái lại gọi là yếu kỳ thọ thể. Nhưng sau như thể mà tu. Hỏi: Trong giới nghi, trên nói giới thể cùng khắp, có một ít xen lạm luật nghi nên phải phương tiện. Đáp: Trước cùng nghĩa lược chia ra. Diễn dụ như cùng khắp. Dùng luật để huấn pháp, pháp tức là khắc chế, thường khiến không khởi không đợi đối việc. Giới là dạy cấm. Cấm tức đối lỗi. Phòng cấm là công, quyết phải đối cảnh, cả hai đều có tướng nên cùng gọi là nghi (luật nghi). Như trở xuống là nêu thiện ác. Phần nêu bày lại có hai: Thiện và ác, tìm văn xem sẽ hiểu. Trong phần giới hành, khoa đầu nói hai giới nghĩa là thị hiện ng- hóa tùy giới, phương tiện nói thông, vả lại y cứ về trí xa lìa đối trị. Trong phần chính giải thích, văn đầu trước y cứ về pháp mà nói. Yếu kỳ tức tận mạng, dứt ác là nghĩa thể dứt ác. Từ là duyên cảnh cùng khắp, tâm thương xót, hợp hai tâm nầy thành một nguyện tức thọ thể. Xưng nguyện là hợp với yếu và tư ở trước, tức nghĩa thuận theo. Thí trở xuống y cứ về dụ hiển: Trước nói lo liệu cung điện nhà cửa, dụ cho cầu Thánh đạo. Sau dụ thọ tùy, rất dễ biết. Doanh cấu là tạo lập nhà cửa. Trong phần cần thiết lẫn nhau Nêu bày xen nhau thiếu: Trước nói thiếu tùy. Hán lộ là dụ không điều lành nào mà che giấu. Tệ nghĩa là chết khốn đốn, dụ cho trôi lăn trong đường ác. Sau nói thiếu thọ. Tùy sinh tử nghĩa là chỉ là thiện thế gian, không phải nền tảng của đạo. Lại hạn cuộc hẹp nghĩa là duyên cảnh không cùng khắp, vì tâm ác còn. Xuyên du nghĩa là đào tường, khoét vách. Do không có sâu bên ngoài nên trong nhà đó bị đào khoét. Đây ý nói không chịu ngăn ngừa tuy có tu hạnh lành mà trở lại bị trần nhiễu loạn làm mất gốc lành, như bị kẻ trộm đào tường khoét vách trộm lấy hết tài sản quý báu. Từ ắt trở xuống là nêu sự cần thiết lẫn nhau. Trong lời hỏi: * 1.Nói cần thiết lẫn nhau, công kia một đồng, chiêu sinh cảm quả phải có thân sơ, nên phải hiển bày. Trong lời đáp, trước đối hiển thân sơ. Hai câu trên nói thọ sơ. Ắt trở xuống nói tùy thân. Do đàn tràng ban đầu thọ đốn khởi nguyện suông. Đối cảnh ngăn ngừa, y cứ vào tiệm tu thật hạnh. Hành là thành nhân, nhân có công năng cảm quả, vì thế Nghiệp sớ chép: Căn cứ theo thực hành, có thể khởi tu sau, không y cứ nguyện suông đến chiêu cảm quả vui. Song hai pháp thọ và tùy quyết phải cần nhau. Nhưng sự dẫn sinh công lực có mạnh yếu, cảm quả hoàn toàn từ thọ sinh. Thọ tuy nguyện suông nhưng hoàn toàn làm cơ bản cho tùy. Đây là ngăn ngừa phát hạnh, thì thọ mạnh tùy yếu. Khởi tu chiêu cảm sinh thì tùy mạnh thọ yếu. Văn dạy dùng cho người học, cần phải biết. * 2. Từ cố trở xuống nêu bày hình tướng, có ba: - 1. Tướng thành tùy. Một thọ đồng là nêu trước sau. Phương tiện là trí đối trị. Nhập hạnh tâm là chỉ bày hai trì thành nghiệp xứ. Ba thiện thể là nói nghiệp tính. Thời nói, v.v… là nêu bày quyết phải tu. Do đó, biết cảm quả công ở tùy, luống thọ không trì thì không có lợi ích. - 2.Từ nhược trở xuống nói lỗi không tùy răn dè khen ngợi: Công, nghiệp thâm sâu, phạm tội nặng sẽ dẫn đến tội lớn. Chẳng bằng không thọ là ý khuyến khích rất tha thiết, không được lui sụt. - 3. Từ thị trở xuống là kết dạy bảo. Nói người tu hành là dặn dò chung cho đời mạt pháp sau nầy. Khiến khéo biết là lời răn dạy phải học rõ ràng tỉ mỉ. Phải biết từng giáo (từng lời dạy) đều có khai, chế. Phải biết từng hạnh (mỗi hạnh) có thuận, nghịch. Phải biết từng nghiệp (mỗi nghiệp) có thiện, ác. Phải biết từng quả (mỗi quả) có khổ, vui. Phải rõ bốn điều này mới nhiếp tu được. Nghiệp tính, v.v…: Như đã nói ở trước. Thuận trì, trái phạm, thiện ác, nhân quả đều như lý nghiệp, không luống, dìm che hay tâng bốc, khiến sinh lòng tin, vì thế nói rõ ràng. <詞>TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN TRUNG (PHẦN 1 - 4) Phần bốn của phần một quyển trung. Giới tướng chính là bổn thiên. Tướng có hình dáng, nhìn có thể phân biệt được. Trước nói giới hành chỉ thuật công năng. Kế nói giới thể chỉ luận về nghiệp tính. Sau nói giới hạnh lược nêu nhiếp tu. Nếu không phân biệt được tướng thì ba món pháp, thể, hạnh, một món không hiểu làm sao rõ được ba ư? Pháp không có pháp riêng khác, ngay nơi tướng là pháp. Thể không có thể riêng khác, tướng chung là thể, hành không có hành riêng khác, tướng thành là hành. Vì thế người học đối với một môn nầy phải nghiên cứu kỹ càng. Song tướng sở tại chỉ nêu giáo thuyên, nói đại lược tức hai trăm năm mươi thiên tụ khác nhau. Trong mỗi thiên danh chủng khác nhau. Trong mỗi danh chủng có phạm, không phạm. Trong mỗi phạm có nhân quả, nặng nhẹ, phạm duyên, chung riêng, nêu cốt yếu chỉ bày tướng không ngoài nêu duyên, duyên tuy có nhiều ít mà không ngoài tâm cảnh. Tội không có tự thể, phải nương duyên mới thành, không cảnh thì không khởi, không có tâm thì không thành. Nếu hiểu được ý này thì thông hiểu tất cả, rõ ràng như chỉ trong lòng bàn tay. Còn lại như trong văn. Trong phần nêu bày ý, đầu tiên nêu tướng rộng khó trì. Có cảnh nầy tức nêu bày kia cùng khắp. Duyên: Hoặc chỉ cho cảnh trên, hoặc y cứ tâm duyên. Miên dụ như xa, vì chung cho quá khứ, vị lai. Hằng tức cùng khắp, vì cùng khắp pháp giới. Nhiếp tâm man: Phàm tâm yếu kém thì vâng giữ khó. Nay trở xuống là nói bổn văn hiển bày cốt yếu, có ba điều khác nhau: 1- Người tụng thường nghe. 2- Văn tướng có y cứ. 3- Điều khác nhau không xen lẫn. Tự trở xuống là ngăn nghi ngờ. Sợ cho rằng giới tướng đã rộng, chỉ giải thích giới bổn thôi thì trì phạm do đâu mà thông hiểu, vì thế ở đây giải thích. Chuẩn liệt là y cứ ở đây, nêu tất cả loại kia thông hiểu, tương thừa là kia nối tiếp đây, khuôn mẫu chẳng khác. Nếu rõ suốt giới bổn thì muôn cảnh đều như vậy. Hiểu một ngàn nên nói rằng sự hiểu biết cạn mỏng, v.v… Thiên mục: Thiên tụ, đều tên ở thiên trước đã giải thích. Trì phạm gồm nghĩa rộng, ở sau nói rằng: Đây là chép riêng những điều khác nhau, hiển thẳng hành tướng. Xưa nay giảng giải, lệ dùng san định giới bổn. Thường thêm chú thích, bèn dùng văn sao chép giải thích giới tướng, điên loạn Tổ thừa, làm mờ tối người học, sau đây là tệ lâu nay, khó mà hiểu dụ. Nay lược chỉ bày, người có sự hiểu biết thì không vội phế bỏ. Sao là tông sao, kia giải thích văn. Tựa chép: Nếu văn dài mà giải thích rời rạc thì ít thảo luận, quyết tùy tướng phân chia những chỗ khúc mắc thì quá phiền toái. Nay lại dùng tông sao giải thích văn giới, rất trái với ý chỉ của sao, đây là điều sai lầm thứ nhất. Hàm chú giới bổn tự có giải thích hoàn toàn y theo bổn văn. Thường không đổi khác. Tức tựa giới chép: Nay y theo luật bổn chép đủ chính kinh, vẫn theo lời Phật giải tức lời chú thuật ở đây. Nhưng do dịch truyền lời còn thuần chất nên vẫn san định, chuyên giúp cho việc tụng trì. Đối với luật giải thì nghĩa giống mà văn khác, vì thế phải biết chú thích, phải y theo văn xưa, nếu chỉ tụng trí thì hãy y theo san định. Nay thì hai bổn đều chú thích, rất trái ý Tổ. Huống chi dùng lời bóng bẩy cạn thấp mà vô ngại tham khảo lời Thánh, làm hỗn loạn khoa điều, lộn xộn chân kinh, mù nói ú ớ, đâu biết tự lầm, đây là điều sai thứ hai. Lại chương ghi đến đây, nhập vào tựa giới văn khoa giải thích. Đến sau giới điều lệ chia làm hai: Một là giới bổn, hai là văn sao. Vả lại, khoa này văn thuộc giới bổn, thuộc văn lời sao. Đây thì khoa đoạn xen nhau tham khảo, cả hai không có chỗ nhiếp, rất trái với thể thường đồ biên soạn, đây là điều sai thứ ba. Lại dùng lời sao giải thích giới đâu phù hợp, vả lại như ở giới đầu nói rằng cộng giới, đồng giới không xả giới, v.v… Nay lời sao nêu thẳng cảnh duyên, không hề có một từ tương đối, tuy gượng phối khoa mà hoàn toàn trái nhau, đây là điều sai thứ tư. Lại hàm chú giới bổn y theo lời Phật, chú thích rõ ràng, lại có ng- hóa sớ, văn giải đầy đủ, phải học rộng mới hiểu hết được trước sau. Nay dùng lời sao giải thích giới, kia thành vô dụng. Tức nay luật ít thấy truyền thông là do đây. Huống chi ăn cắp văn sớ làm lời chú giải của mình, văn không bày hết nghĩa, chẳng hoàn toàn, tuy muốn tìm tòi nghiên cứu cũng thành luống uổng. Phải như văn sao giải thích giới, sau lại soạn lời sớ để làm gì, đây là lỗi thứ năm. Nay lược trách năm lỗi trên, rất nhiều không tiện nêu ra. Nay bỏ hết chẳng xét văn sao, chỉ trích toát yếu bổn duyên khiến biết đầu mối. Hoặc văn lược nghĩa dính mắc thì dẫn sớ để thông. Hoặc các bộ xen nhau trái nghó thì trích dẫn so sánh, đối chiếu, để biết yếu chỉ diệu thức phạm duyên, đây chính là cương tông của giải thích tướng, là then chốt của trì phạm. Giới dâm (Đức Phật ngự tại thành Tỳ-xá-ly. Lúc bấy giờ, Tu-đề- na xuất gia, về lại thôn xưa, đã cùng vợ cũ hai lần làm việc bất tịnh, nhân đây Đức Phật chế giới. Luật Tăng-kỳ nói giới dâm mùa đông năm thứ năm mới chế, ba giới còn lại mùa đông năm thứ sáu mới chế. Trong phần nêu, chia làm ba: nghĩa chung văn riêng. Nói nghĩa chung là tất cả các pháp chúng học, mỗi giối đều như vậy, văn có lẽ thiếu nhưng nghĩa đầy đủ. Nói văn riêng: Là tùy mỗi giới cảnh duyên khác nhau. Một chỗ phạm là chọn cảnh riêng. Hai thành phạm là tâm cảnh hợp. Ba không phạm là tâm cảnh xen nhau nên thiếu. Lược trở xuống là chỉ rộng. Muốn nêu bày chỗ này không liên quan đến nghĩa chương. Thiên sau lược, vì thế nêu lời sớ. Thích danh chế ý, nghĩa môn khai chế, xưa nay giải thích nghi riêng, đều khác văn kia. Nay phần nhiều không dẫn, hoặc khi cần soi chiếu nhau, có sao giải thông tướng văn, không có ý khác. Về phạm cảnh, khoa đầu trong luật Tăng-kỳ hai câu đầu chỉ quả vị lai, hai câu kế nêu hiện tổn. Nói có thể sợ là quở trách sự tham muốn, kinh chép: Nhan sắc của người nữ là gồng cùm, xiềng xích của thế gian, phàm phu luyến ái không thể dứt bỏ. Nhan sắc người nữ là hoạn lớn của thế gian, phàm phu vì đó đến chết không khỏi. Nhan sắc người nữ là suy hại tai họa, phàm phu gặp nó không tai ách nào mà không đến. Người tu hành đã lìa được nó, nếu cố nhớ lại thì đây là từ địa ngục ra, lại nghó muốn vào lại. Lại nói rằng: Tướng của người nữ như con ong, tâm người nữ như nọc độc. Thí như vực sâu nước trong mà con thuồng luồng ở dưới đó, hang báu ở núi vàng mà sư tử ở trong đó, phải biết đây là thứ độc không thể gần gũi. Bại chính là lập việc công chính. Nếu mê muội nhan sắc người nữ thì không thể thành tựu được, tức kinh chép: Trong nhà không hòa thuận là do phụ nữ, hủy tông bại tộc là tội của người nữ. Hủy đức là tu thân lập hạnh, hoặc mê đắm nhan sắc người nữ thì đều táng mất, tức kinh chép: Phàm phu coi trọng sắc đẹp sẽ làm tôi tớ cho nó, suốt đời rong ruổi theo nó thì sẽ bị nó làm cho đau khổ. Bộ Tịnh Tâm Quán chép: Tham sắc là kiêu căng, tham tài là bỏn sẻn. Đã kiêu căng lại bỏn sẻn thì dù có đức bao nhiêu cũng không đủ để quán sát. Nhiễm trở xuống là chế gấp. Song tâm hành vi thô tế tình không biết. Dầu biết chế giới chế ngự còn khó, huống chi mờ mịt thăm thẳm, không bao giờ được thanh tịnh giải thoát, nên quán sát cảnh hiện tại để xem xét tâm cuồng vọng, hoặc xoay vần hồi đầu, hoặc tha thiết chú ý, hoặc nghe tiếng đối lời, hoặc hít thở duyên căn, tuy chưa giao thân đã thành nghiệp dơ uế. Bậc Đại thánh đã hết lòng chế ra, tin đó không luống uổng. Tha thứ là cội gốc của các điều khổ, là căn bản chướng đạo. Đây là dùng những thứ tính hôi tanh làm thân thể, hoàn toàn dục nhiễm để làm tâm trôi lăn trong biển sinh tử, đâu có biết phản tỉnh. Giao kết trong lưới căn trần, thật khó trốn khỏi. Phải tự xót thương, phải nên gắng gỗ, hoặc quán thân bất tịnh như túi phân, hoặc xét cội gốc dâm dục thật chỉ là tiện đạo, hoặc duyên hình tượng Phật, hoặc niệm danh hiệu Phật, hoặc tụng chân kinh, hoặc trì thần chú, hoặc chuyên nhớ nghó thọ thể, hoặc nhiếp niệm ở tâm, hoặc thấy sinh diệt vô thường, hoặc biết do thức chuyển biến, tùy tâm chỗ đến dùng sức mà trị, mặc tình theo tính trôi lăn thì khó có thể cứu được. Trí luận chép: Giới sát sinh trái não tội nặng vì sao trong luật lại xếp giới dâm đầu tiên, nên ở đây thông suốt, văn có hai nghĩa: Y cứ nghĩa đắm nhiễm. Nếu nói về trái não (sai trái xúc não) thì sát sinh nặng dâm dục nhẹ, nếu nói về đắm nhiễm thì sát sinh nhẹ, dâm dục nặng. Y cứ nghĩa chướng đạo, do chướng đạo tham dục là nặng. Pháp Tỳ-kheo: Phân biệt với Bồ-tát nhiều kiếp độ sinh không chuyên tự lợi, vì thế giới Đại thừa thì sát sinh trước, dâm dục sau, giới tà kiến không giống như vậy, do đó trái lại dâm trước, sát sau. Nhưng nay chỗ dẫn chỉ nêu tội nặng mà thôi. Khoa kế có bốn: Nêu cảnh tướng có ba: * 1.Dùng thú nhiếp. Lời chú thích chép, v.v… tức là Tu-la, địa ngục bốn hợp làm một. * 2. Y cứ theo quả báo có ba, gồm sáu đường trên. * 3. Y cứ về xứ cũng có ba, chung cho ba báo. Từ thử trở xuống: Định phần chừng của phạm, văn nêu bốn tướng hai sinh hai tử khác nhau, có thể biết. Như mao đầu: Chỗ đoạn phạm. Từ luật trở xuống: Không khai nghi tưởng. Luật chép: nếu đường mà tưởng là đường, hoặc nghi, hoặc không tưởng là đường đều phạm Ba-la-di, văn nêu súc sinh, còn các đường khác (địa ngục, ngạ quỉ) cũng giống như vậy. Từ dư trở xuống: Chỉ bày khác, kia y cứ về căn tiết luận về giới hạn của phạm tội: Miệng phải qua răng, hai đường qua da. Luật nầy nói chừng đầu sợi lông vừa vào liền phạm tính trọng, gấp không cần đợi qua. đây. Giới sớ chép: Cực vi còn phạm huống chi cái khác, chính là ở Trong phần ba, trước nêu tình chấp. Hai câu trên nói đầu kia đã biết. Cập trở xuống là nêu kia chế trọng. Hỏi phạm nghĩa là hỏi giáo pháp. Y cứ trở xuống thuật lại sự ngu muội kia, ở đây có bốn lỗi: Sinh nhàm chán không muốn hỏi. Không tôn trọng sinh tâm khinh khi, chê cười. 3- Không tin, nghi ngờ không phải lời Phật nói. 4- Không có chính kiến cho lời nói này là quái lạ. Cố trở xuống là dẫn khuyên răn. Pháp sư tức luận chủ, ghi chép giới này. Trước y cứ về lặc, trong văn có ba: Ngăn các tình. Từ sinh trở xuống là dạy quán sát. Sinh hổ thẹn, khắc mình tự trách. Người ngu ở thế gian ai có thể phản tỉnh, thân làm việc dơ uế nào có biết phản tỉnh việc sai trái này, và nghe giáo pháp lại sinh kinh ngạc. Nếu ông không ưa nghe thế sao lại không làm? Nếu ông đã làm, sao lại không thích nghe, đây là do không biết môn Đại Bi, tạng Tỳ-ni. Hoàn toàn nêu ra nghiệp ác của chúng sinh, nếu biết được nghiệp thì đâu cần dạy. Than ôi! Phàm phu ngu muội mê lầm điên đảo đến như. Từ chí trở xuống: Khiến quán thắng cảnh, trước quán lòng từ của Phật. Hựu trở xuống là quán đức của Phật. Nhược trở xuống là quán giáo pháp của Phật. Có chê cười trở xuống là nói lập chế. Trong tướng phạm, khoa đầu là do tự mình tạo, người khác ép ngặt tướng phạm có khác nên nêu hai duyên. Y cứ hướng về cảnh nói duyên, do vốn có tâm nên cứ hỏi thân nói phạm. Y cứ vào cảnh hợp để nói về duyên, đã khai cho thân giao nên y cứ tâm nói phạm. Duyên thứ nhất, trước nêu tướng phạm, kế chính nêu duyên. Bên trong cách nghĩa là dùng vật trong căn để ngăn cách. Văn luật nói bốn câu đều phạm: Có cách, có cách (kia đây đều có). Có cách, không cách (đây có kia không). 3- Không cách, có cách (đây không kia có). 4- Không cách, không cách (kia đây đều không). Luật Thiện Kiến chép: Đối với ba đường của người nữ hoặc dùng lá cây, hoặc áo, hoặc da thuộc v.v… tùy theo vật dùng để ngăn cách. Duyên thứ hai. Lời chú thích nói vân vân tức trong phần không phạm tất cả không có ý dâm, tâm si, cuồng loạn, v.v… Trong phần kẻ thù ép ngặt, trước nêu tướng có hai: Một là mình dâm người khác, hai là người khác dâm mình. Khai tâm khỏi nạn, chế tâm hộ thân, gặp dâm còn dễ giữ, thường là rất khó. Tự chẳng phải huân tập tịnh tâm đã lậu, rất sợ không tránh khỏi hình phạt. Thiện trở xuống là chỉ bày cách giữ tâm. Xưa nói rằng nữ căn nên sinh tâm đắm nhiễm, nay cho là rắn lửa phải sinh tâm nhàm chán sợ sệt, do tâm tùy theo cảnh chuyển nên phải như vậy. Trong phần phân biệt: + Khoa đầu, trong lời hỏi, trên nêu bày nghi hỏi, dưới từ như trở xuống là chỉ bày tướng đùa giỡn. Song hai đường đại tiểu khó nói đùa giỡn, nên chỉ y cứ đường miệng để nói. Trong phần đáp, trước nêu tâm dâm, tức giới xúc chạm giải thích ý dâm. Sau từ tinh trở xuống nói đoạn phạm như trong Điều bộ nói. Có một vị Tỳ-kheo tu hạnh khất thực thấy đứa bé nam căn dựng lên bèn để vào miệng mình, Tỳ-kheo nầy sinh nghi bèn bạch Phật, Phật nói phạm tội Ba-la-di. Luật Ngũ Phần trở xuống là dẫn chứng, thì chung hai phán. Nhân có Tỳ-kheo để nam căn vào miệng rắn, sinh nghi bạch Phật, Phật xử đoán như văn. Để vào như đầu sợi lông giống như tông nầy. Không đùa giỡn tức có tâm dục, giống như chỗ phán ở trước. Thọ thích cũng vậy, là nói theo Tỳ-kheo. + Kế trong luật Thập Tụng, trước nói về đùa giỡn, đều y cứ vào đường miệng, xem phần dẫn ý kia giống như phạm ở trước, lại giống như hiển bày khác nhau, người học phải rõ. Đường miệng đồng như Già luận, hai đường (đại, tiểu tiện) đồng như hai luật Tứ Phần, Ngũ Phần. Trong phần kẻ thù ép ngặt có ba: Nêu tướng phạm có hai: Trước nói bức mình tạo cho người khác. Trong luật chỉ y cứ lúc mới vào có cảm giác ưa thích. Nay y cứ ba thời chung trước sau. Nhược trở xuống là y cứ bị người khác gây ra cho mình. Văn y theo luật dẫn. Không nói rằng ba thời là y theo lời giải thích ở trước. Nãi trở xuống là nói trong có vật cách, bốn câu giống như trước, vì gây ra cho người khác hay gây ra cho mình đều đồng phạm. Dạy phương pháp đối trị. Trong hoại cảnh, trước nêu phạm, sau từ thử trở xuống là phân biệt xen lẫn, do cảnh chung hai giới, phạm tùy tâm riêng, nên phải phân biệt. Văn lại chia làm ba: + Ở đầu chỉ cho phạm vi của giới. + Hai từ nhược trở xuống là y cứ theo tâm phân biệt xen lẫn ở trước, sau từ do trở xuống là hiển bày giới nay. Chỉ cho giới sớ: Luật kia hỏi: Thây chết bị hư hoại một nửa thực hành việc nhiễm phạm tội gì? Đáp: có hai duyên: Nếu chú trọng về việc dâm, ý nhập liền phạm Thâu-lan-giá, dầu xuất bất tịnh hay không đều phạm tội Tăng tàn. Nếu ý muốn ưa thích như trong luật Thập Tụng, Ngũ Phần, cho đến trong xuất bất tịnh, thì phạm Tăng tàn, không xuất chỉ phạm Thâu-lan-giá. + Ba: Từ cố trở xuống là dẫn chứng. Chặt đầu tức loại một ít. Chết là chưa hoại, đồng kết tội trọng ở trước, nhưng dẫn nặng chứng minh nhẹ, văn dường như không hợp. Chỉ do luận kia đã y cứ tâm dâm, có thể chứng ý không phải Tăng tàn. Ở đây y cứ giới dâm kết tội Thâu- lan-giá. Trong phần giáo tha (dạy người khác), trước nói tăng ni, hai tội Thâu-lan-giá, Đột-cát-la, đều kết năng giáo, sở giáo có thể biết. Nói chung bốn giới trọng, năng giáo khác nhau. Dâm thì ở trước người, vọng thì danh lợi ngăn che, hai phạm đều nhẹ, sát và trộm hai giới tổn hại cho mình và người, năng sở đều nặng. Kế chỉ bày ba chúng, tội chỉ một phẩm. Trước nói năng giáo. Sau từ tác giả trở xuống phân biệt sở giáo. Trong phần chú thích, chỉ bày chung trở xuống nói các tướng pha- ïm bất luận tương giáo (dạy nhau). Trong phần không phạm có ba: 1- Khai cho vô ký. Khai cho đối trị. Hiểu biết, gặp ép ngặt cũng thuộc ở đây. Khai cho không cố ý. Như trên đùa giỡn không phải tội nặng. Lại nói, tất cả đều thuộc về các duyên. * Giới trộm: Lúc bấy giờ, Đức Phật ngự tại thành La-duyệt, Tỳ- kheo Đàn-ni-ca ở chỗ vắng làm nhà bằng ngói để ở, Đức Phật bảo phải phá bỏ. Đàn-ni-ca bèn lấy cây gỗ của nhà vua, vua và các quan quở trách, do đây mà Phật chế giới. Sớ chép: phi lý mà tổn là trộm, công khai lấy là cướp. Sợ chủ biết là trộm, đều thuộc về trộm, nên đặc biệt nêu ra. Trong phần nêu ý: Nêu tướng có giữ gìn: Câu một gồm nêu tính giới Câu hai hạn cuộc y cứ theo bộn tội Ba-la-di. Câu ba riêng hiển bày trộm ngày nay. Gồm khinh trọng là tội chung Ba-la-di, Tăng tàn, Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề. Từ cố trở xuống: Y cứ các văn nói lên sự khó. Trước chỉ bày luật, luận. Luật Tăng-kỳ giải thích giới trộm có liên quan đến quyển thứ năm, luật Thập Tụng thì quyển thứ tư, luật Thiện Kiến quyển thứ ba. Sau từ hữu trở xuống chỉ lời sao khác, không rõ người nào. Từ chung trở xuống, sinh trở xuống là những điều trình bày. Câu trên xét các văn trước, câu dưới nêu khoa sau. Trong phần giải thích cảnh phạm: Nêu cảnh: Sáu trần, sáu đại thu nhiếp tất cả. Như trở xuống là tự giải thích. Từ Nhược trở xuống là nói thiếu duyên, có hai: -1: Nêu riêng tướng thiếu. Hai câu trên và dưới cảnh đoạt đều gọi là cảnh thiếu, không phải súc vật thay thế nên gọi đoạt. Nói duyên khác nhau, là xen thiếu không nhất định, hoặc dứt tâm, vật dời chỗ khác, việc trước bị cách ngại, v.v… Nói tưởng nghi là thiếu tâm. Đối với người và vật, tưởng có ba: Tưởng vật của phi nhân, súc sinh, không có chủ. Nghi cũng giống như vậy. -2: Tuy trở xuống kết chung không có tội. Thường xem văn dường như kết cảnh thiếu, nhưng y cứ thêm tâm thiếu. Cảnh tuy nhất định, nếu đang lúc làm không tưởng hoặc nghi chứa vật, tâm không tương đương cũng không phải cảnh trộm. Cố trở xuống gồm chép: Tuy có bổn tâm phương tiện, nghiệm không phải chế riêng. Phương tiện tức Thâu-lan-giá, rộng như thiên sau có nói. Trong phần hỏi đáp riêng, nêu tướng có bốn: Luật Thiện Kiến nói theo người và nhà, Tây Vực cũng vậy. Nước nầy vật thuộc về quan thì không phải vô chủ. Luận Bà-sa có hai. Có thể dùng. Nên y cứ theo nước loạn, vật không có chủ, cũng không có quan giữ, lấy không có tội. Đối tướng tức đối xứ nầy làm cương giới. Tức trở xuống. Theo thế tục khiến: Sợ là luống khiến, đã không khiến chiếm tức không sở thuộc, nên không có chủ. Nhược trở xuống là nay xếp vào gia công. Chiếm cứ thành có chủ. Trong tướng phạm, văn trước y theo sớ chỉ có năm duyên, nay không phải duyên thứ năm. Kia hỏi rằng: Nay giới trộm nầy duyên không phương tiện là sao? Đáp: Hao tổn tài của gọi là trộm, liền thành tội nặng không cần phương tiện, vì sợ xen lẫn. Dầu có phương tiện cũng không nói, phải biết, chưa lìa về trước đều thuộc về phương tiện. Nay lời sao không giải thích, ý cũng có thể biết. Bao gồm duyên phạm không ngoài tâm và cảnh. Một, bốn tức cảnh; hai, ba, năm là tâm; Trong sáu gồm hai vì tâm và cảnh hợp. Trong duyên vật của Tam bảo, trước chọn tri sự. Câu trên khoa đầu, nghiệm xét vì sao nói trước. Nhược trở xuống là nêu ý. Như sau tức trong phần xen dùng và chiêm đãi. Khoa kế: Hai kinh hợp dẫn văn vì lý đồng. Trước nêu khó giữ gìn. Vật của tăng có chủ dùng hoặc cho đều tội, vì thế nói là khó giữ. Phật pháp không có chủ, dùng hoặc cho người, lại cũng khó. Ngã trở xuống là phân biệt người: Trước lựa bậc Thánh, văn nêu trước sau. Quả thứ hai, quả thứ ba vì sao không nói, hoặc có thể biết. Vì thế, hoặc y cứ hai quả, hoặc cùng tận. Kế từ cho nên liền trở xuống là phân biệt phàm phu. Trước là người biết nhân, sau là người sợ quả. Hoặc có thể trước phân biệt tinh tấn thọ trì, sau cho sám hối tội phạm. Không bị vết thương dơ bẩn là dụ có thể lìa lỗi. Trong phần răn dạy, đầu là chỉ kinh trước; nhân trở xuống là chế tội. Thời nay, người học luật xâm tổn vật của chúng tăng đã nói ở trước, không biết nghiệp nhân, không sợ quả báo khổ, xem lời dạy bảo từ bi nầy không biết cẩn thận giữ gìn, thì đọa vào địa ngục không thể cứu được. Trong phần trộm dùng chia làm bốn môn: Ba môn trước không nói về vật của Tam bảo, một môn sau chỉ nói về vật của chúng tăng. Môn đầu là vật của Phật. Khoa đầu chính nói đồng với phi nhân: Nếu y cứ phi nhân ném quăng mà lấy, không đâu chẳng phải là của ta, chỉ vọng làm người. Nay điện tháp linh nghi đồng như tượng thần, nên được nêu là đồng. Trong phần dẫn chứng, trước nêu lệ chứng, văn như ở sau dẫn. Khoa kế là dẫn văn chứng minh. Nói: “Không hỏi mà lấy tức là tướng trộm”. Biết là biết pháp mà cố trái phạm. Không biết nghĩa là ngu muội (mê mờ) giáo pháp mà phạm. (Xưa nói: Đại thừa y cứ theo cảnh để phân biệt là sai, Ở đây là hạng ngu si phạm Ba-la-di). Nói phạm tội Thâu-lan-giá: chính Đức Phật kết. Dầu có chủ cầm, kinh nầy không bàn. Nhưng tội danh tuy nhẹ nhưng theo nghiệp thì nặng. Trong phần hướng về chủ, văn đầu cả hai đều xếp vào có thể hiểu. Thí chủ tức là bổn chủ. Kết tội: Y cứ sau phạm Ba-la-di. Trong Ni sao cũng chép: Kết tội nặng (có chỗ nói phạm Đột-cát-la là sai). Trong phần dẫn chứng, văn đầu kia nhân ngài Ưu-ba-ly hỏi Phật, sao dẫn lời Phật đáp. Sao chép: Đàn Việt cúng thí chùa tháp, đoạn phước của thí chủ kia thành khí tổn bất thọ (Ba-la-di dịch là khí tổn, tổn cũng là khí, bất thọ là bất cộng trụ = không ở chung). Dẫn Ngũ Bách Vấn hỏi rằng: quét đất trên tháp Phật, đem đất này bỏ có tội không? Đáp: Được bỏ, không được dùng làm việc khác. Dẫn lời nầy dường như cho là tổn phước. Kế trong phần chứng, trước nêu chứng, biết phi nhân tội chung cả hai kết. Phật cũng đồng. Kế luật Thập Tụng và Thiện Sinh ở dưới đều là hiển văn. Phật-đồ là tiếng Phạm, hoặc gọi là tháp cũng dùng để cất chứa di thể Phật (xá-lợi-phật), tùy theo người gọi mà có tên. Trong phần sở dó từ chỉ như sau trở xuống là nói không giữ gìn thì có nghĩa là thường. Trong phần trộm cúng dường: * Phần đầu hai văn không khác nên hợp dẫn. Nói tịnh tâm là không phải nghiệp trộm, tự trở xuống là nêu tướng tịnh tâm. Văn kế, trước là Già luận kết tội trái với trên. Sau dẫn luận Bà-sa quyết định, đã là chuyển bán, nói không có tịnh tâm cúng dường nên phạm. Nhược trở xuống là nói vật khác có thể chuyển bán, lại quay về Phật dùng. Trong phần chính trộm thứ hai: Phần đầu nói Đức Phật là hữu tình có thể đồng phi nhân, pháp thì không phải như vậy, chỉ hướng đến cầm giữ là phạm. Trong phần dẫn chứng, hai luật Tứ Phần và Ngũ Phần y cứ tính giấy mực, nói chung hai chủ, luật Thập Tụng và Già luận nói hộ chủ. Trong phần tổn hoại y cứ theo luận, ở đây có hai đoạn: Đoạn một, hỏi rằng: Trên kinh có bụi đất dơ uế có được thổi không? Đáp: Không được thổi, nếu thổi phạm tội xả đọa. Đồng với trên tượng: Lời sao nghĩa chuẩn, rõ trong luận, ý sợ xúc chạm dơ uế, khinh mạn kinh pháp, phải dùng vật sạch phủi đi, không được dùng miệng thổi nên chế tội mà thôi. Nhược trở xuống là dẫn đoạn sau, kia hỏi: giới luật không dùng bị rơi rớt, có thể đốt được không? Đáp: Không được, nếu không biết đốt có tội mà đốt thì phạm tội xả đọa (nay nói phạm tội nhẹ là đây). Nếu biết đối có tội mà cố ý đốt thì phạm quyết đoán (tức Thâu-lan-giá, nay nói nặng là đối với tội đọa trên), cùng với phương tiện phá tăng đồng (vì hoại pháp), cũng như đốt cha mẹ. Theo đây, thì lại hướng về vô chủ mà nói, quyết là có chủ, lý từ trên phán (phần nhiều lầm giải cho nên dẫn đủ để giải thích). Xưa chép: Nếu đốt kinh cũ thì phải để chỗ sạch, trước nói hệ pháp do nhân duyên sinh. Nói đã đốt là truyền lập, biết xuất xứ từ văn nào, dẫn lầm đời sau bị tội nghịch nặng. Sớ chép: Có người không biết đốt, hủy phá khinh, nay ta hỏa tịnh nghĩa là nói được phước, đây là vọng suy lường. Nửa bài kệ xả thân chép trong kinh. Hai chữ dứt hoặc cũng nêu trong chính kinh, đâu được thiêu đốt, sẽ mất phước kia. Theo đây nói răn dạy đủ để nghiệm việc trước là sai. Nếu có tượng hư, kinh bị mọt ăn thì có thể chôn chỗ sạch. Trong phần ba, chống cự phạm Thâu-lan-giá, đây là kết phương tiện. Nếu tâm quyết dứt thì sẽ đến quả tốt. Trong phần bốn, trộm chép thần chú, đây không phải thuộc loại kinh giáo và pháp. Đây là y cứ người khác tham giữ tính nhất định phạm. Trong phần hỏi, như trong Đa luận trước cùng nêu lời hỏi. Trong phần đáp có hai: Y cứ vào thể tụng để phán. Từ nhược trở xuống y cứ lẫn nhau nêu quyết thông. Trong phần đầu nói tâm xa kính là sắc tướng quá khứ, vì ý có thể duyên. Chấp văn đọc là sắc trần hiện tiền vì ý có thể đối. Dầu có thể mờ tụng cũng dung vong. Cố trở xuống là chứng thành. Kia chép: Có ba thứ cúng dường: 1- Hiện tiền cúng dường được công đức lớn. Không hiện tiền cúng dường được công đức đại đại. Cùng hiện tiền không hiện tiền cúng dường (hoặc mắt quán hoặc tâm duyên) được công đức tối đại đại, đây gọi là Bồ-tát tự cúng dường. Nay lấy nghĩa thứ hai để chứng nghĩa trên. Trong hai tức nghĩa chủ trong lời sao quyết ở trong văn, đã hạn cuộc chỗ y cứ, nghĩa thì thông. Vì thế, phải biết Phật pháp đều có thông và bít. Trong tăng vật, khoa đầu kết cả hai. Vọng thủ hộ là người khác trộm. Chủ tự trộm thì có thể biết. Sự tiếp dùng, dùng lẫn nhau v.v…, hoặc không chủ cầm, người khác cũng đồng. Trên chung bốn món, dưới hạn cuộc thứ nhất. Trong phần giải thích nêu vật của tăng tuy nhiều nhưng nhiếp hết trong bốn món: Thuộc chỗ thường định, không thể phân phán nên lặp lại hai lần. Tuy hạn cuộc xứ, tùy người chia thức ăn, nên nói mười phương. Người hạn cuộc số người hiện tiền, vật theo đó mà chia, nên nói cả hai. Vật tuy chia, nhưng người không nhất định, Yết-ma ngăn y cứ nên gọi là mười phương. Ước danh định thể, vật chia làm bốn thứ khác nhau. Như trở xuống là tự nói, trong phần giải thích riêng về thường trụ: Phân biệt vật thể, lời sớ thêm gạo lúa, ngũ cốc, tương, rau, thức ăn v.v… các vật đều thuộc ở đây. Dó trở xuống là đoạn phạm. Như luận tức bộ Thiện Kiến dẫn luật Tăng-kỳ. Lời chứng nói dầu tất cả nhóm họp, sợ cho rằng giới hiện tại không thể chia cùng khắp mười phương, nhóm họp thì có thể chia. Trong phần hai nói mười phương, ở đầu là phân biệt thể. Sớ chép: Như cơm, bánh v.v… vật hiện chín, vốn giống như mười phương tác tướng đồng với thức ăn ở đây. Có nghi thuốc, đậu là vật chín, xếp vào mười phương: Nay dùng ý chia hai, bất luận sống chín. Nhưng giả sử chưa nhập hiện ngày cúng tăng: Đều quy nhiếp về trước, như chứa để muối, tương,… đây là thường trụ thường trụ, nhập vào dùng hằng ngày, tức mười phương thường trụ. Thể trở xuống là đoạn phạm. Đồng cọng là chủ và khách đồng tâm không cầm lấy. Mắc tội nhẹ nghĩa là tội Thâu-lan-giá. Sớ chép: Do phần nghiệp của tăng không đủ năm tiền. Hỏi: Thường trụ thường trụ cũng không đủ năm tiền sao lại phạm tội nặng? Đáp: Chia không chia khác nhau, nặng nhẹ khác nhau. Trong phần dẫn tông, khoa đầu chép: Luật Tăng-kỳ: Chứa thức ăn không phải của mình phân chia, luật Thiện Kiến cho là năm thứ giặc, đều gọi là trộm pháp cầu lợi. Vì thế nói rằng: Người không có phạm hạnh tự xưng là phạm hạnh thọ của tín thí gọi là tên giặc nguy hiểm nhất. Tỳ-kheo tội ác trộm pháp của Tỳ-kheo hiền thiện, cầu tiếng tăm lợi dưỡng, đây là tên giặc nguy hiểm thứ hai. Chê bai bậc Hiền thánh, trộm pháp của bậc Thánh, đây là tên giặc thứ ba. Lấy vật nặng của tăng đến cho người tại gia được vừa ý họ, đây là tên giặc thứ tư. Tên giặc thứ năm như trong lời sao dẫn. Đoạn trước phạm Thâu-lan-giá: Lời chú nói cùng trộm, trong văn chỉ nói lấy dùng giống như của mình. Đoạn sau phạm tội nặng, lời chú nói có chủ: Văn nêu tâm trộm. Mẫu luận đồng, cho nên không dẫn. Trong phần không làm tướng, hai đoạn trước sau không nói tên tội. Chú văn đều cho là Thâu-lan-giá vì không đánh chuông hoặc kết chủ cầm, hoặc chung cho chủ, khách. Kế nói trong chùa, ý nói không có chủ, cũng do không tác tướng, phạm y theo tác tướng, lý được bàn nói. Trong phần ba không nêu tướng vật. Sớ chép: Như ngày nay các người thế tục cúng dường tăng, bất luận là y phục, thuốc thang, phòng xá, tọa cụ đều đồng với hiện tiền tăng. Văn chung cho hai chủ. Bổn chủ tức là thí chủ. Trong phần bốn, trước nêu vật thể, văn nêu một tướng, hoặc đàn việt cúng đúng thời, phi thời đều thuộc ở đây. Thiện Sinh trở xuống là xử phạm, có ba đoạn: Chưa Yết-ma: Y theo sau chia y, tọa cụ nêu ra hai pháp. Y cứ sau giao phó phân chia do định giới hạn. Lời chú nói phạm Thâu-lan-giá là đồng với mười phương thường trụ ở trước. (Xưa chép: Kết tội vô biên Thâu-lan-giá, y theo giới sờ Ni Sao chỉ nói phạm Thâu-lan-giá. Nếu phạm vô biên thì không kết nhiều ít, trở thành nói suông, ở đây không có chỗ nêu ra, chỉ giảng giống như truyện mà thôi). Lời chú nói phạm Ba-la-di, có người nói rằng: Gồm hướng đến hiện tiền tăng trộm năm tiền phạm tội nặng, trái với thường trụ thường trụ ở trước. Lại nói: Hiện tiền có một trăm vị tăng thì trộm đến năm trăm tiền mới thành tội nặng, ít hơn thì phạm tội nhẹ. Hỏi: Bỉnh pháp Yết-ma rồi liền giao cho vị có năm đức, đây đồng chủ cầm, vì sao không kết tội? Đáp: Đây là y cứ vào việc đưa vật chính là lúc tác pháp. Như vậy phải có tri sự coi giữ, lẽ ra từ người giữ kết tội trọng. Sau giao cho vị năm đức khiến vì tăng mà chia, hiện vật thuộc về tăng thì không phải cầm giữ. Từ nhược trở xuống nói dặn dò. Đã dặn dò người khác, không hướng về tăng mà kết. Trong phần y cứ mất vật, dặn dò không nhất định, lại đồng như vật của tăng, như trên đã phán. Trong phần nêu bày riêng, khiển trách vọng; Văn nêu kiền-độ phòng xá. Kia nhân Đức Thế tôn từ nước Ca-thi cùng với năm trăm người đến nước Kỳ-liên, ở đó có bốn vị Tỳ-kheo, trước phân vật của tăng thành bốn phần (một là già-lam phòng xá, hai là bình, nồi nấu, ba là giường nệm ngọa cụ, bốn là vườn cây, hoa quả). Ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đến trụ xứ bạch Phật, nhân đó Phật chế, như trong lời sao đã dẫn. Kia chấp văn, trong luật nói trộm vật của tăng không phạm tội nặng, hoặc có người trộm liền đoạt lấy. Yù cho rằng: Trong luật không cho đoạt vật của giặc vì đoạt (lấy) sẽ thành tội nặng. Đã không thành tội nặng thì đoạt không có tội. Thử trở xuống là khiển trách kia kém cỏi, văn của các bộ thấy ở khoa sau. Ở đầu, ý chung của luật trước kết tội thâu-lan-giá. Kế từ nhược trở xuống y cứ văn khác quyết thông vọng chấp. Luật Thiện Kiến như trước dẫn, luật Tăng-kỳ cũng vậy, luật Ngũ Phần càng rõ hơn, kinh Đại Tập hóa giáo nên đồng như nghiệp nghịch, tội nặng có thể biết. Trong phần nêu lỗi. Văn đầu, là hai câu trên suy tội nặng; tùy trở xuống nêu tướng khinh. Phàm thánh trong mười phương đều gồm thâu năm chúng, ba thừa, nhân quả. Mỗi mỗi kết, nghĩa là không cho là nhiều tội, chỉ một tội Ba-la-di, ở đây hướng về nhiều cảnh, vì thế nói là mỗi mỗi mà thôi. Cố trở xuống là dẫn văn trình bày. Tứ Phần nói vua Bình Sa cúng vườn cho Đức Phật, phu nhân Mạt- lợi cúng y cho Đức Phật. Đức Phật đáp đồng như vậy. Tăng có hai hạng: Một là Yết-ma tăng, hai là Ứng cúng tăng. Đức Phật không nhập tăng bỉnh pháp mà đồng tăng, thọ thí cho nên nói rằng “ta ở trong số tăng”. Khoa kế, đầu dẫn văn kinh, đặc biệt nêu trọng nghịch để bày cực ác. Ta không cứu được nghĩa là do oai thần Phật không thể gia thêm, nên không phải xả khí. Dư trở xuống chỉ cho sơ lược. Nhật tạng phân cụ chép: kinh đại Phương Đẳng Nhật Tạng, phần thứ hai chép: Phật bảo vua Tần-bà-sa- la: Tướng phá giới, cái gọi là không thích cúng dường Tam bảo, Hòa- thượng, A-xà-lê, cũng không tin trọng, cho đến thường tham lợi dưỡng, danh lợi, tiếng tăm, v.v… cũng trộm các thứ vườn, rừng, ruộng, nhà, tôi tớ, voi ngựa, lạc đà, trâu, lừa, v.v… đây là tướng phá giới không biết hổ thẹn, dùng tâm trộm cướp lấy vật của tăng cho là của mình, những người này sẽ bị những vị Tỳ-kheo đúng pháp đuổi ra khỏi chúng, nếu không chịu ra khỏi chúng thì nên báo với Quốc vương có thế lực đuổi ra khỏi chúng, nếu vua không đuổi thì các vị Tỳ-kheo đúng pháp im lặng bỏ đi. Truyện Tăng Hộ vốn gọi là kinh, tức nói Tỳ-kheo Tăng Hộ dạo chơi ở bờ biển thấy các việc ở địa ngục. Truyện ấy chép: Tỳ-kheo Tăng Hộ đến một ngôi chùa nghe tiếng kiền chùy, vào phòng tăng thấy tăng hòa tập, bính bát, tọa cụ, người, phòng xá đều lửa cháy. Lại vào phòng tăng thấy các Tỳ-kheo ngồi trên giường lửa, dùng móng tay rạch thịt đến gân, cốt tủy ngũ tạng phát ra như lửa cháy. Sau đó, Tỳ-kheo Tăng Hộ trở lại Kỳ-hoàn bạch Phật. Phật dạy: Lúc đầu thầy thấy chùa chính là địa ngục, vì vào thời Đức Phật Ca-diếp, người xuất gia đối với vật của bốn phương tăng không đánh kiền-chùy mà im lặng cùng nhau dùng, do nhân duyên nầy phải chịu khổ trên giường lửa. Việc ông thấy lần thứ hai, chùa cũng là địa ngục, vì vào thời Phật Ca-diếp, người xuất gia được đàn việt xây dựng chùa, bốn thứ cần dùng đầy đủ, đàn việt muốn đánh kiền-chùy, các Tỳ-kheo không đánh, vì thế các Tỳ-kheo đến sau không được ăn uống, nay phải chóu quả khổ trên giường lửa. Từ khi Đức Phật Ca-diếp nhập Niết-bàn đến nay phải chịu quả khổ như vậy, đến nay vẫn chưa hết, hai kinh nói rất rộng sợ phiền không chép ra, xin xem trong bộ “Nghiệp quả hạnh nghi cải Tích” sẽ rõ. Trong phần ba, nói rằng: Thiếu nợ vật của Phật, trả thế nào? Đáp: Trả lại vật củ (y theo vật củ mà trả lại, sau nêu lý do rằng), do vật của Phật không xuất nhập nên không trả, tuy như vậy nhưng vẫn đọa địa ngục. Tiếp dẫn nhân duyên rằng: Sau khi Đức Phật nhập Niết- bàn, có một Tỳ-kheo tinh tấn, thông minh, có khả năng nói pháp, khiến người nghe chứng được bốn đạo quả (do đây nên gọi là Tam Tạng Pháp sư), vì vị tỳ-kheo này làm hạnh bất tịnh với một người nữ Bà-la-môn. Lấy vật của Phật, Pháp, Tăng dùng thỏa thích, tính đến một ngàn muôn tiền (nay là một muôn tiền), sau đó đến nước Sa-khư xin được vật muốn trở về trả lại. Đường đi về nước cũ khoảng chừng bảy bộ (bộ bằng năm thước, chỉ đơn vị chiều dài thời xưa), biết nọc độc của rắn đến bộ thứ bảy sẽ bị chết, trong phạm vi sáu bộ liền hướng về đệ tử phân xử bồi thường vật, rồi bảo đem về bổn quốc để bồi thường nợ cũ, đi tiếp đến bộ thứ bảy liền bị chết đọa địa ngục A-tỳ. Lúc mới vào ngục gọi là Ôn thất chưa bao lâu liền phát tiếng lớn tụng kinh chú nguyện, địa ngục nghe tiếng chú nguyện đó mấy ngàn người được độ. Ngục tốt dùng xoa sắt đánh đập, chết đi được sinh lên cõi trời Tam thập tam. Nay văn lược nêu toát yếu nên nói: Dầu bồi thường, v.v… Hà trở xuống là tác giả lời sao răn dạy kỹ càng nên trích dẫn đây để chứng minh rằng dầu có bồi thường (trả lại) vẫn đọa vào địa ngục để nói lên quả báo nhất định phải có, người nghe phải rất răn dè. Thế nhưng cũng có kẻ ngu tự khoe khoang diễn giảng rằng: Ta đọa địa ngục cũng sớm được ra, nhưng vị Pháp sư tinh tấn thông minh kia khiến người được đạo, lại tự bồi thường, thời nay ai được như vậy, nêu ra các ví dụ, ở đây thật không rõ ý của Tổ Sư dẫn, người học sau nghe nói phải mau ngăn ngừa. Đối với vật của Tam bảo phải kính cẩn giữ gìn, xa lìa. Nếu vọng kiêu căng đem ý mình giảng nói sẽ chuốc lấy ương họa, Đức Phật không thể cứu, huống chi người khác. Hai, là xen nhau dùng bốn môn từ rộng đến hẹp, đầu tiên xen nhau có thể biết, hai là đương phân: Riêng y cứ một ngôi báu, vì luận đây kia. Ba là tượng bảo: Riêng y cứ kia đây vì phân ra sự lý. Bốn là mỗi mỗi: Riêng y cứ trong sự vì vật loại khác khác, tùy giải thích tự thấy. Đầu, trong phần nói chung, trước nói Phật chế. Ma-ma-đế là tiếng Phạm, tức người Tri sự. nghĩa là không phạm: Do kia có tâm tốt không nhập vào của mình. Vị trở xuống là chỉ tướng xen dùng. Kia do tháp Phật không có vật, chúng tăng có vật bèn lấy vật của tăng sửa chữa tháp Phật, vì thế ở sau chỉ văn rộng, đại lược như trên. Kế là trong phần nói thông bít thọ dụng vật, văn đầu có ba tiết: Trước nói Phật pháp không xen nhau, văn nêu hai nghĩa: 1/ Không chủ; 2/ Không thể bạch. Từ không đồng trở xuống là phân biệt vật của tăng khai thông câu đầu hiển khác, trái với hai nghĩa trên, nên nói là không đồng. Sở dó trở xuống là nói xen nhau, có hai: - 1. Tăng riêng xen thường trụ, chiêu-đề. - 2.Chung cho Phật dùng, vật của tăng sửa chữa tháp, đây phải dùng pháp bạch hòa, đều xen nhau sai. Từ nếu Phật trở xuống là chỉ bày ý không khai. Văn nêu vật của Phật, còn vật của Phật, còn vật của Pháp y cứ đồng. Khoa kế, câu đầu y theo kinh. Phật trở xuống là nói không hợp. Nhược trở xuống là nêu bày tạm khai sau dẫn giới, văn rõ biết. Phật ở trong phòng tăng có thể chứng tạm an không ngại. Trong phần ba, trước nói chiêu-đề sợ không rõ tướng kia nên đặc biệt hỏi. Trong phần đáp, đầu tiên dẫn kinh hai tiết: Dẫn ngài A-nan chuyển thí, danh tướng rất rõ. Sớ chép: Hàm thí chiêu-đề tăng phòng, cái gọi là cúng thí riêng phòng đây, nghĩa là thí chủ bố trí phòng cúng cho mười phương tăng riêng tự cung cấp không liên quan gì đến chúng tăng thường trụ, vì thế có hòa mà không có riêng phòng nên gọi là chiêu đề thường trụ. Dẫn người nữ Am-bà cúng thí, tức con gái của vua Tần-bà-sa-la dùng bình bằng vàng dâng Đức Phật. Trong thành Tỳ-xá-ly có vườn hoa rất đẹp, đều dâng cúng Phật, đây là khu vườn đầu tiên cúng dường Đức Phật nên gọi là đầu tiên. Văn sau quyết phán nói không rõ: nghĩa là chỉ nói cúng dường khu vườn mà tướng không hiểu rõ. Y cứ theo đây, v.v… nghĩa là vì trong vườn ắt có phòng nhà hoa quả, v.v… các vật nên chia hai. Tăng man: Lời sao nay lấy nghĩa hoa quả kết thành tràng, lời sớ chép: Trong kinh nói vật Tăng man (tên này xuất xứ từ kinh Niết-bàn) đây là âm Phạm. Theo đời Đường nói là vật đối diện, tức là cúng vật hiện tiền đối diện. Sao dẫn lời giải thích xưa, nghĩa là hoa quả tùy chữ hiển tướng, trái với sự nghĩa (văn sớ). Theo kinh nầy vườn được cúng dường nói chiêu-đề chỉ là riêng phòng chỉ nhà mà thôi. Trong phần bốn, đây dường như nêu nghĩa tạm an, nhưng văn không liên tiếp nhau. Luận ấy hỏi: không phải phòng nhà của Phật, tượng Phật có thể ở trước đó ngồi ăn, nằm được không? Đáp: Được ăn, như Phật còn tại thế vẫn được ăn trước. Phật, huống chi tượng mà không được. Được nằm nhưng phải ngăn che. Nay chỉ dẫn văn nằm, kia không nói tướng tội. Nay nói không phạm vì Phật đồng chỗ, phạm tội nhỏ. Trong phần người chứa để chỉ nói hai ngôi báu là Phật và Tăng, còn Pháp thì đồng. Trong phần ruộng vườn, khoa đầu trong Đa luận có bốn đoạn: Đất của tăng không hòa Phật không được dùng, có hòa thì được. Từ nếu tăng trở xuống là nói vườn hoa quả của tăng được cúng dường cho Phật dùng. Nói “phân hành được” nghĩa là riêng người đã chia, vì thế nói không chừng hạn nghĩa là có dư thừa. Từ cố trở xuống nói ruộng vườn lẫn lộn, khai cho không thành. Từ riêng thuộc trở xuống là nói dùng nước có được không? Thuộc tháp nước: Hoặc là ở đất của tháp hoặc chỉ thuộc tháp dùng. Tháp công lực tức sửa chữa tháp, người coi sóc thì được. Luật kia nói rằng: Nếu sửa chữa tháp thuộc về người coi sóc thì nêu bán nước này, tiền bán nước thuộc về tháp, không được dùng làm việc khác, nếu dùng thì phải tính tiền. Nay chỉ lược nói rằng tăng dùng thì phạm tội nặng. “Nếu đạo do Tăng trở xuống”, kia chép rằng nếu tháp không có người sửa chữa thì tiền đó do tăng dùng (nghĩa là không có người coi sóc, tức rõ ràng công do tăng được, vì thế tùy tăng dùng). “Quán hạn trọng”, ở đầu nói hoa không cúng dường Phật như trên. Hoặc đã nhập vào mình, hoặc có dư thừa. Cố nhược trở xuống là nói trái cây cúng tăng. Vỏ cây trở xuống nói tạp vật khai riêng. Vỏ cây, lá cây, v.v… lý được thường dùng. Nói không cần bạch: Trước đã được pháp tức đồng bạch. Cố trở xuống là nói sửa chữa tháp, tức thông Phật dùng vì tác pháp khai cho. Luật Tăng-kỳ có ba: Nói lấy củi chung cho hạn cuộc. Ôn thất tức nay là nhà sưởi. Lấy khô ráo là giữ gìn hư hoại. Từ nhược tăng trở xuống là nêu phương tiện lấy cây, hoặc tăng cần dùng, hoặc ở chỗ có hại vì có hai duyên nầy nên khai lấy dùng. Cá, thịt, tro bụi, nước đặc sinh trong cây là chỗ rất kî, khiến tịnh nhân phải biết, làm cho sạch sẽ. Nhược ruộng tăng trở xuống là khai cho chuyển dời. Trong luật Tứ Phần, đầu dẫn nêu bày. Cố trở xuống là y cứ quyết định. Đầu nói Tam bảo thông và bít. Kế từ nhược trở xuống nói chung tùy dùng. Luật Thiện Kiến nói cất giấu trong lòng đất, của Tam bảo lại trở về Tam bảo dùng, vì thế không có tội. Ngược lại tự vào lấy thành tội trộm. Nếu không phải đất của Tam bảo như người vật không có tâm ngã sở, không giữ gìn hướng về chủ thành phạm. Trong phần văn dạy, đầu là lập van trước, tức luật Thập Tụng nói cho Tỳ-kheo dùng, luật Tăng-kỳ nói cúng phòng riêng. Thử trở xuống là nói có thể được chăng, ở đầu chọn cho dùng. Nói giới cụ túc là thành tựu tự hạnh. Ứng pháp tăng là thâm nhập các pháp. Kế từ nhược trở xuống là nói không được, trái với hai hạnh trên, chỉ cho kinh trước. Chứng là các kinh Phương Đẳng, Đại Tập, v.v… lại dẫn truyện, tức Cao Tăng Truyện. Truyện này chép: Chùa Linh Nham ở Tề châu có một vị tăng qua đời, thấy Bồ-tát Quán Thế Âm cầm cái hộp bằng đá ghi các tội của vị tăng nầy. Gồm những tội lấy cây, lá, củi, v.v… của tăng. Khi vị tăng nầy sống lại liền trình bày đầy đủ trước chúng. Tư trở xuống là nêu lý do. Hữu trở xuống là trình bày răn dạy tin pháp hướng về đạo gọi là có tâm. Gắng sức nhiếp tu gọi là Hạnh. Tự ẩn là khiến tự xem xét mình. Tham thủ là khiến biết rõ giáo pháp. Trước dẫn kinh luật hoãn gấp xen nhau xem, lượng đức đủ thiếu tùy nương theo mà dụng. Trong phần phân chia giải thích, trước nêu Tam bảo. Đại Phẩm tức kinh Bát-nhã. Giai trở xuống là quyết đoán phạm tội, lý có thể chung là Đức Thích-ca, Đức Di-đà đều là quả nhân. Kinh Bát-nhã, Niết-bàn đều nêu chính duyên. Phòng nhà, xe cộ đều là thường trụ vì của thường trụ. Trái tâm cúng thí là trái với bổn nguyện. Trong văn không nêu tên tội. Chuẩn trở xuống là nêu luật Thiện Kiến, lại cúng tượng kia. Luật Thập Tụng nói trộm đem cho chùa khác đều phạm tội Đột-cát-la. Luật trở xuống là dẫn chứng: Dẫn giới vật của tăng, y cứ theo luật thì phạm tội Đột-cát-la. Luật trở xuống là dẫn luật ni. Tỳ-kheo-ni ở chỗ trống nói pháp cho cư só nghe, họ cúng tiền xây nhà, luật kia nói: Nói pháp tùy chỗ đều được. Nay lại đem số tiền đó may năm y, thí chủ biết được chê trách, do đó Đức Phật chế giới, ni phạm Ba-dật-đề, tăng phạm Đột-cát-la. Hai văn đều chứng là trái với tâm của thí chủ nên phạm. Trong phần vật của Phật pháp: Khoa đầu, trước nói kinh tượng xưa nay dùng lẫn lộn, nói đều trái là trái tình, tức trái với tâm thí ở trước. Trái lý tức trước sau đều khác, nói lên tội nặng kia. Cần phải đồng trở xuống là phán, kế là từ bổn tạo trở xuống nói kinh lẫn nhau chân ngụy. Trong văn hai lần chép là chỉ chung Tạng lục (chép trong tạng), nghĩa là nhập vào lục này, kinh là chân kinh. Nhân trở xuống là phán phạm, phước trở xuống là chỉ bày lý do phạm. Khoa kế là nói khám tức là tháp. Có chủ nghĩa là có người giữ gìn, (bảo vệ) không chủ nghĩa là không có chủ quản riêng. Trong phần ba nói vấn thông, như người cúng dường tiền tài dự định xây dựng điện, không nhất định ở chỗ Phật, Sư tức là Phật; đồ là đệ tử Bồ-tát. Ngựa trâu, v.v… các vật đều không phải chỗ thích nghi của Phật nên không chung. Người phi nghĩa là trừ bộ hạ của Thần vương. Còn lại không hợp: Đều gọi là phi nghĩa. Ngũ trở xuống là dẫn chứng, đầu tiên tội nghĩa là dùng riêng. Trừ cúng dường: Khai ban đầu thông, dẫn đây quyết đoán trên chỗ dùng thích nghi; cũng được làm đó. Kia lại hỏi: Vật của Phật được làm, còn tượng trời, người, người đời, súc sinh có được làm không? Đáp: Ở bên cạnh tượng Phật được làm. Trong phần vật của tăng, khoa đầu có hai đoạn: 1- Nói lẫn lộn vật của tăng. 2- Từ muốn cúng trở xuống là nói lẫn lộn vật của Phật. Trong phần một lại có hai: Đầu nói lần lượt xen nhau. Dự định cúng vườn, hoa quả, v.v… nghĩa là thí chủ cúng vườn, hoa quả, nêu lên tài lợi cúng tự sự cho tăng, chủ là phân chia thức ăn. Ở đây nói thường trụ thường trụ tức hiện tiền hiện tiền, mà có tâm trộm nên phạm tội nặng. Kế dự định làm các vật nặng, phòng tăng, tiền bạc, vật báu v.v… trở lại (sắm) thức ăn cho tăng: Thường trụ thường trụ nầy là mười phương thường trụ, nhưng không nói rằng tâm trộm, hoặc thức ăn của tăng có thiếu, chỉ do không hòa tăng mà dùng nên phạm tội Thâu-lan- giá. Nhược trụ trở xuống là nói khai lẫn nhau giữ gìn trụ xứ. Hòa tăng cho nên ban vườn, hoa quả, ban đầu trở lại (sắm) thức ăn. Nãi trở xuống nói khai cho đổi hiện phòng sắm thức ăn. Nhược trở xuống là nói đổi phòng sửa chữa phòng. Giặc trở xuống là nói tạm dời lương thực. Trong phần lẫn lộn vật của Phật kết tội Đột-cát-la. Vì lẫn lộn sắm kia đây trái với tâm của thí chủ. Đệ trở xuống là chỉ rộng. Sách nêu rất nhiều không thể chép ra hết được, cần thì tìm xem. Khoa kế, đâu tiên dẫn luật Thập Tụng, Già luận kết tội Đột-cát- la. Kế là luật ộ Tăng-kỳ kết chung vì khỏi ra khỏi giới. Trong phần Tạp dụng, khoa đầu dẫn luận có ba môn. Nói cung cấp chưa độ, luật ấy chép: Bạch tăng thì được, không bạch tăng phạm tội đọa. Từ nhược trở xuống nói giữ đạo. Nói tranh luận phải bồi thường là y cứ khi đem đi trước phải khởi tâm trả lại, nếu không như vậy thì lìa chỗ liền phạm. Vì tăng xin còn như vậy, nay phần nhiều là vì mình, lấy vật của tăng chế tội tuy đồng, quả báo khác nhau. Từ nhược trở xuống là nói ăn dùng Cúng gạo cho tăng thì thuộc của thường trụ thường trụ, trước sau được ăn, tác tướng thì khỏi tội. Y cứ theo trước không tác tướng kết tội thâu-lan-giá, nay nói phạm tội nặng, đây là trộm lúa gạo của tăng, không phải trộm thức ăn (xưa nói thức ăn chính phạm Thâu-lan-giá, luận nói phạm Ba-la-di, vì thế biết là sai). Nói ăn một lần: Luận kia kết phạm do lấy một lần ăn làm giới hạn, nhưng ăn không giới hạn thì cho phép tính. Trong phần nghĩa quyết định: Khoa đầu có hai: Nói không bạch quyết định phạm: Đầu tiên lặp văn trong luận trước; từ suy trở xuống quyết định phạm. Tuy có đánh chuông nghĩa là sợ cho rằng trong đạo tác tướng không có tội. Dó trở xuống nêu lý do phạm, luật trở xuống là lệ chứng. Trong bốn món giới, thức ăn thì đồng, pháp khác, như trong phần kiết giới đã nói. Từ nếu là trở xuống nói bạch rồi khỏi tội. Sau chỉ chỗ y cứ, văn như đã dẫn ở trước. Kia nói hòa thêm bớt nghĩa dùng, xem xét đối chiếu có thể biết. Khoa kế nói chùa trong: Xứ riêng, vật chung, không nhọc gì phải hòa pháp. Chữ “cai” trong phần năm là phản ma, nghĩa là xay giã gạo. Trong phần ba, tức như người thế gian mang theo tôi tớ và súc vật đến chùa khác, dùng vật thường trụ. Văn có hai: Nói riêng có phạm tội nặng, Dó trở xuống là chỉ bày ý phạm. Từ tăng gia trở xuống là chọn tăng: Kết tội nhẹ, kia đây kết chung. Nhưng không bạch nên lại phải kinh doanh đồng như việc Tăng. Tuy nói rằng tăng bộc tư, can cũng nặng, thời nay thiền giảng đâu không tránh điều này, thật đáng thương xót. Trong phần ba tượng báu nêu lẫn nhau, Tam bảo có bốn: Một là thể (chúng sinh tâm tính có đủ tính giác, nghĩa quỹ trì hòa hợp, nên ở đây hạn cuộc Đại thừa). Hóa tướng (pháp Tứ đế của Đức Thích-ca). Lý thể (năm phần pháp thân: Diệt đế, Niết-bàn, học, vô học, công đức). Trụ trì (hình, tượng, kinh điển). Hai vị trên thì bất luận, vị thứ ba, bốn đều chung đời sau (đời Mạt pháp). Tâm thí không đồng nên quyết phải phân biệt xen lạm, nhưng tên gọi Tam bảo liền thông, nay lại y cứ hạn cuộc, tượng tức trụ trì Tam bảo thuộc về lý tính. Khoa kế trong phần hỏi chung, y cứ về hóa tướng Phật dùng vặn hỏi lý Phật. Một người chia: Vì ứng cúng đồng tăng. Một đại phân: Vì Tam bảo khác, văn đáp, đầu tiên y cứ còn mất, sinh pháp khác nhau. Kể từ hựu trở xuống là y cứ về hiện tại. Lời thí có khác, nhưng trong văn chỉ y cứ về hóa lý tương đối. Không nói tượng: Dùng hóa nêu tượng có thể y cứ đồng nhau. Trong pháp cũng y cứ theo ý người thí. Đầu tiên nói chung, vì thế cả hai nhân pháp đều dùng. Sau nói vì chỉ riêng, y theo đó mà biết. Tây Trúc Tam Bảo đều bố trí như tháp. “Trong tăng có hai phán”, trong văn rất dễ hiểu. Sơ quả về trước gọi là Đệ nhất nghĩa tăng, nội phàm về sau gọi là Thế tục tăng. “Vô đương” nghĩa là không. Trong phần răn dạy: Thượng tọa, Tri sự xem xét thí chủ, nước này đạo tục không biết tướng lý, thọ dụng khác nhau, chỗ cúng thí nói rộng không ý chỉ, chỉ là trụ trì, dứt nghe lý bảo. “Bốn, mỗi mỗi lẫn nhau”, ở đây khác với đương phân. Như Phật đương phân chính là đối với Phật khác mà nói. Môn nầy tức y cứ một Đức Phật tự giải thích. Trong phần vật của Phật: Vật của hai ngôi Phật và pháp đã có không ngoài bốn món: Hai món trước là vật nặng, chỉ thọ dụng, có thể được, không thể khác nhau. Hai món sau là vật nhẹ, thường và tạm khác nhau, y cứ vào vật thể. Bốn món riêng khác, (đến) văn sẽ phân biệt. Trong phần thọ dụng, đầu tiên nêu vật thể, như trở xuống chỉ dẫn chứng ở trước. Năm trở xuống dẫn nêu có hai đoạn: Nói rằng tăng là cột lụa, y cứ theo luận thì không có chữ thân, chỉ nói là che trên Đức Phật. Từ hựu trở xuống, theo luận chỉ nói Phật đường hư hoại. Sau nói cây cũ cho tăng, nay cả hai thêm chữ quế, nghi là truyền lầm. Luật trở xuống tức nói vua Bình-sa cúng dường khu vườn, lời Đức Phật khuyên cúng dường cho tăng. Văn sau y chỉ rộng. “Hai thí thuộc” tức tiền, của báu. Các thứ: Ruộng, vườn, người, súc vật, v.v… không kham thọ dụng, đều lệ thuộc mà thôi. Dẫn văn có ba phần: Dẫn trong luận nói đổi chác. Dẫn trong luật nói có lời. Từ năm trở xuống lại dẫn trong luận có hai tiết: Đầu nói đổi chỗ thông, bít. Sau, từ Tỳ-kheo trở xuống nói người khác thọ dụng. Trong luận chia làm ba tiết: Khách được vật, không được vì thuộc của Phật, lời sao thêm chữ kinh sách, luận kia thì không có. Từ nhược trở xuống, kia nói: Tỳ-kheo làm Phật sự được các thứ của Phật như thị giả, trâu lừa, v.v… có được mượn để sai sử hay không? Đáp: Nếu biết vốn là vật của Phật thì không được. Văn chỉ nói là không được mà không nói tướng tội. Nay nói đại tội phải y cứ theo giới trộm, được Phật xử đoán. Sau lại nói: Người giúp việc, trẻ em của Phật không được sai sử, chính là vật của Phật, nay lời sao không dẫn. Trong phần ba cúng dường tức cúng các vật hương, đèn, hoa, cờ phướn, v.v… Đầu tiên dẫn trong luật nói chuyển đổi, có thể hiểu. Kế là dẫn trong luận nói chuyển biến. Đầu tiên dẫn văn, sau từ y cứ trở xuống nghĩa xử đoán. Trên nói được dùng làm các Phật sự khác: nghĩa là đổi làm các thứ cờ phướn, lọng báu, v.v…, nhưng đã cúng Phật thì thể không được chuyển biến, sợ dùng riêng nên đặc biệt nêu ra, không đồng như hoa trước để chuyển đổi. Như trở xuống là dẫn nêu. “Hảo tâm hoại” ý nói là thay đổi lại khiến cho đẹp. Trong phần bốn, hiến dâng Đức Phật tức các vật ăn uống. Trước là dẫn nêu. Trong luật lấy nghĩa người coi sóc sửa chữa giống như đạo nhân. Luận y cứ cung cấp thị giả nói chung đạo tục. Kế từ y cứ trở xuống khiển trách sự lẫn lộn, có cầm kinh ngụy (không phải chính pháp), dùng tiền mua thức ăn, y theo luận nói cư só, thị giả Phật được ăn, vì bởi quyết chính. Trong phần vật của pháp, trước nói thọ dụng, nêu tướng khác nhau. Lược nêu ba phần, còn lại giống như vật của Phật ở phần trước. Danh thể khác nhau nên không nêu ra. Trong phần vật của tăng, y cứ theo lý, lẽ ra cũng đồng đủ như bốn phần trên. Nhưng bốn vật này không nêu thường trụ và hiện tiền tăng, bốn vị gồm thâu nên không bàn mà thôi. * Trong hai món thường trụ: Khoa đầu nói như trên là chỉ cho luật Thiện Kiến, ở thế gian có người giảng, hoặc dời trụ xứ tùy ý đem đi. Không cung kính lời Phật, không biết nhân quả, không sợ quả khổ đời sau, người tội ở địa ngục, làm sao nói được. Khoa kế, trước nói dùng riêng, trong văn rất dễ thấy. Giới ác, có đức nếu y cứ vào bốn giới nặng đem phá để phân biệt. Thời và phi thời là nói về sự trước sau trong ngày. Dùng phi pháp là nói chủ cầm mắc tội. Sau từ hai món trở xuống chỉ dùng lẫn lộn, theo trên tức trong phần phân chia lẫn nhau. Nhưng văn trước chỉ khai ra bốn phương, lẫn nhau làm mười phương, như trường hợp bớt vườn cây ăn quả, bán phòng sắm thức ăn. Nếu nói về vật của mười phương thì không để lâu, tức nghĩa không lẫn lộn làm vật của bốn phương tăng. Nếu y cứ theo hai vị bàn riêng về lẫn lộn: Như bán phòng, sửa phòng, đem vật nặng cho chùa khác, đây là vật của bốn phương tăng tự dùng lẫn lộn. Lại như trong luật Tứ Phần thì pháp riêng, thức ăn đồng tức mười phương tăng tự dùng lẫn lộn. Song ba vật trên xen nhau đều phải hòa tăng thì được khai, không hòa tăng thì không được khai, vì thế nói được và không được. Trong phần ba chỉ nói bốn phương thường trụ, hai câu đầu y cứ vào nghĩa mà phán định, sau y cứ theo văn quyết thông. Câu đầu chỉ cho kinh. Nói tội nặng tức trong kinh Niết-bàn ở trước, v.v… chư trở xuống là dẫn luật. Trước nêu không có văn, sau lấy nghĩa, nghĩa là nếu cho phép bán thì phải khai cho thọ, đã không được thọ thì nghiệm biết không thể bán, vì thế nói là ý biết. Nếu theo Ngũ Bách Vấn nói cúng dường trâu, tôi tớ cho Đức Phật được nhận để sử dụng, không được bán, tức là chứng cứ, như ở sau sẽ dẫn. * Trong hai món hiện tiền, tội như trước đã nói, nêu đồng như hai món thường trụ. Hiện tiền hiện tiền đồng như thường trụ ở phần đầu; mười phương hiện tiền đồng như thường trụ ở phần kế, hoặc hai món xen lẫn nhau, hoặc tự nói riêng, cũng y cứ tăng hòa thì khai, không hòa thì mắc tội, đại khái đồng như trên, vì thế lược chỉ đó. Tựu trở xuống nêu riêng vật bị mất, tức mười phương hiện tiền tự xen nhau luận. Quyết đoạn tội nặng quy về tội nhẹ, Ba-la-di quyết đoán tội nhẹ, quy về Thâu-lan-giá nặng, mỗi mỗi đều gồm phi pháp phạm Đột-cá-la, vì thế nói rằng cả hai đều kết (có chỗ nói rằng không học không biết là sai). Ba nêu vay, nghĩa là tạm mượn. Trong phần giải thích, văn đầu y cứ về vật của tháp, tăng; Vật của pháp cũng như vậy. Khoán là khế thư, đọc sớ bạch tăng, trái thì kết tội. Trái với giáo lý nầy phạm tội Đột-cát-la. Không trả lại cho Tam bảo thì tùy theo vật mà kết phạm. Khoa kế dùng tiền nêu lợi, như mẹ sinh con, nên gọi là tức. Tam bảo ở Tây Trúc có tài lợi vô tận, nghĩa là thường còn được cúng dường đầy đủ, vì phát sinh không dứt. Can tạp nghĩa là loạn nhau, câu nầy kết chung văn trên. Trong phần nói người khác vay mượn: 1/ Khoa đầu; 2/ Văn đều cho phép. Đầu tiên dẫn kinh, Dư trở xuống là y cứ phán định. Người kia bệnh còn phải bồi thường, huống gì người không bệnh: Ở đây không khai rõ. Dữ trở xuống là kinh và luật hòa hợp khai chế, rất trái nhau, đối với nghĩa có thể nghi, trong văn có ngại. Kinh ấy chép: Nếu Bồ-tát xuất gia nuôi đệ tử xuất gia trước phải dạy bảo khiến cho không được buông lung. Nếu thiếu những thứ cần dùng, khi bệnh phải tìm, tự mình không được mượn vật của Tam bảo, nếu sai thì phải bồi thường gấp mười lần. Do đệ tử xuất gia còn thông đạo tục, vì thế nói là văn giống như vậy. Trong phần dẫn luận có hai tiết: Đầu nói tự dụng, trong luận chép: Cho vật của Phật đồng phạm tội nặng. Nói hoại pháp thân là vì đồng năm tội nghịch. Kế, từ nếu có trở xuống, luận nói được thọ khiến cho dùng; nói là Phật thọ dụng. Nay đổi lời nói kia rằng không được ngăn người khác. Sau chỉ giới sau, nói rằng: Thí quân khí nên làm hư, nhạc khí được bán, v.v… rộng. Nói săn sóc, văn đầu có ba: Dẫn chế; diệc trở xuống là định vật, trước xem xét văn thông Chuẩn trở xuống là nêu trong luật: Đạp-bà làm Tri sự trong tăng, được tăng thưởng y đã được của mười phương hiện tiền. Thập Tụng trở xuống là hiển ý, người nầy biết pháp bậc thượng v.v… Trong phần hai, đầu tiên dẫn văn, thử trở xuống là nghĩa quyết định. Trước là dẫn văn ở trên, lại y cứ vào không tin, “Du du” nghĩa là xa lìa Tam bảo, không có chỗ trở về. Kế từ nhược trở xuống là nói có lòng tin. “Phước thực” nghĩa là Đàn Việt vì cầu phước mà cúng dường cho chúng tăng. Trong phần ba, đầu dẫn bộ Thập Tụng: Nói dùng phần chứng. Trước hết cấp cho Vương, Thần. Mười chín tiền: Ở nước đó tiền bằng đồng lớn. Một tương đương mười sáu, tương đương với ba trăm ngày nay. Sau nói nạn giặc, kế trong luật Tăng-kỳ nêu chung năm vị, trong phần ba ở trước có thể hiểu. Sau nêu Vương, Thần, cần nói về người có thế lực, không có thế lực thì không khai. Đa trở xuống là dẫn quyết định. Do luật ở trước nói rằng tổn ích đều cho, đã là tổn ích thì lý không được cho, trong văn không nói rõ nên tiếp tục quyết định đó. Nhược trở xuống là ý chung của luật trước, người thế tục biết vật của chúng tăng khó tiêu quyết không luống thọ, tăng biết Ô-gia là phi pháp quyết không vọng cho, nếu có duyên sự cần phải cung cấp chút ít thì cũng cho phép. Bộ Thập Tụng khai chung cho điều này. Chỉ hai thiện tức hai giới Tăng tàn, Ô-tha-gia ở trong luật. Luật chép: Cho cha mẹ bịnh, người bị nhốt trong tù, v.v… thì không phạm. Trong phần bốn nói người bịnh: Hai tiền rưỡi tức bốn mươi, y theo trước lẽ ra bằng ở đây, không cần bạch tăng. Trong phần năm nói tịnh nhân có hai: Hẹp (ngắn) thì phân xét; rộng (dài) thì cấp chung. Trong phần sáu, đầu tiên dẫn văn. Khế tức là ước. Y cứ trở xuống là nghĩa quyết định, lại có hai: Đầu tiên y cứ trước sau trong pháp của thế tục. Hựu trở xuống y cứ văn luật trước tùy theo công năng. Trong phần ba kết chỉ tức chỉ cho cương thiên của tăng ở trước. (Phần thứ tư của phần một trong quyển trung xong).  <詞>TỨ PHẦN LUẬT HÀNH SỰ SAO TƯ TRÌ KÝ <卷>QUYỂN TRUNG (PHẦN 1 - 5) Trong phần hai người trộm chung cả đạo tục. Trong phần chung nói chính chủ tức chủ vật, vì tổn vật kia; hộ chủ tức người giữ gìn, tuy không phải vật của người nầy nhưng mất phải bồi thường, vì thành tổn hộ. Ba câu đầu trong phần cú pháp, câu thứ hai nói rằng không giữ gìn nghĩa là chẳng phải không có người giữ, nghĩa là vật này không được cất giữ. Câu thứ ba nói vô ngã vô thủ: Đây là nói tâm không biết, không ràng buộc. Y cứ theo đây hợp tâm có ngã sở, tâm không ngã sở giữ gìn, câu này sẽ thấy ở văn sau. Nhược trở xuống gồm phân ra tướng phạm. Trong hai câu sau, câu trên nói vật của tăng đều có phần của mình nên nói có ngã sở; câu dưới nói vật của quan không thuộc của mình, nên không có năng sở. Quan là cửa. Trộm trở xuống là gồm phân, rất dễ hiểu. Kế nói về tướng trộm. Nêu rằng: gồm hai chủ: Trong bảy thứ sau, hai thứ trước y cứ theo hộ chủ (người giữ gìn) kiêm bổn chủ (chủ vật), năm món sau gồm bổn chủ cũng chung hộ chủ. Trong phần đầu, luật Thiện Kiến văn có hai phần: Trước nói hộ chủ cẩn thận thì tổn bổn chủ, theo lý không bồi thường. Sau từ nếu chủ trở xuống nói hộ chủ biếng nhác lơ là thì tổn hộ chủ, vì phải bồi thường. Trong phần hai là chính nói, luật Thập Tụng có hai đoạn: Trước nói gởi nhờ. Sau, từ nếu mượn trở xuống là nói vay mượn. Trong phần trước nói Tỳ-kheo nhận vật của người khác gởi, thì xem tâm mình tốt xấu để nói bồi thường hay không bồi thường. Chữ xúc trong bổn luật viết chữ đầu, đây là truyền lầm. Sau nói Tỳ-kheo đem vật gởi người thế tục, thì xem tâm họ kính cẩn hay khinh mạn để luận đòi lại hay không đòi lại. Nếu gởi trở xuống chỉ nêu bày. Câu đầu tức cư só nhận vật của Tỳ- kheo gởi, nêu đồng như đoạn trước bồi thường hoặc không bồi thường. Câu kế tức cư só đem vật gởi Tỳ-kheo, nêu đồng như đoạn sau đòi hoặc không đòi. Hai câu đồng như như trước nên nói chỉ như trên. Trong phần vay mượn, đã mượn vật của người khác, hễ có bị hư tổn phải bồi thường, sợ lộn phần gởi nhờ nên đặc biệt nêu ra để phân biệt. Khoa kế nói lầm phá, mất nghĩa là tâm tốt, ép buộc đòi vật lại thành tội trộm, nay có nhiều trường hợp nầy vì không hiểu giáo pháp. Trong phần ba nói chủ bị trộm vật, đây là chính nói bổn chủ. Trong phần so sánh nói sở dó không được là vì sợ đoạt (lấy) vật của giặc lại thành tội trộm. Chữ “đầu thoán”, xưa chép: chỗ trống có một căn nhà tối để mọi người đi qua quăng vật vào đó. Thoán tức là phóng. Tụng chú: Ở đời có chú thuật để thể được lợi ích: bói toán, quăng ném đều nghĩa là không được. Trong tướng trộm nêu rằng nghĩa rộng là các luật không chỗ nào chẳng có văn trộm đoạt, nhưng không có tướng hiện, không hiện tiền trước kết phạm, vì thế dùng nghĩa phân chia ý cho dễ hiểu. Trong phần không hiện, văn đầu chỉ y cứ về trộm, quyết định, không quyết định, phạm không phạm. Trong phần dẫn chứng, trước dẫn bổn luật. phần chính văn nói rằng: Lúc bấy giờ, có một Tỳ-kheo trộm vật của người, mà vật trộm đó là vật nghi, Phật nói phạm Ba-la-di. Chữ kiếp phải nói là chữ trộm, e rằng truyền lầm. Kế, trong luật Tăng-kỳ có ba đoạn đoạt đều thành tội nặng: Y cứ kia đây hai tâm được, xả. Đoạt cũng phải nói là trộm. Từ túng trở xuống là y cứ riêng trộm mà được tâm, không chấp tâm người chủ. Từ nhược trở xuống y cứ riêng bổn chủ xả tâm, không nói về tâm trộm, nghĩa là đối với vật của mình phải khởi tâm xả bỏ, dầu nay không xả nhưng trước xả cho nên cũng không thể đoạt. Thuộc sau lấy: Tức có thể trộm. Kế nói hiện tiền có thể đoạt, văn đầu trước nói ý có thể đoạt bỏ chữ Du. Bổn trở xuống là giải thích, sợ cho rằng người giữ hộ yếu không thể đoạt, vì thế y theo đây không nói mạnh yếu, hễ tâm không xả đều có thể đoạt. Khoa kế, luật Tăng-kỳ, đầu tiên dẫn câu có ba: Câu đầu đoạt thẳng, câu hai tức tự lấy, câu ba tức ngôn giáo. Có việc chết nghĩa là trộm vật đến chỗ bị chết, sợ bị người bắt được. Như trở xuống là gồm nêu. Trong phần không thể đoạt. Khoa đầu trước nói tâm chủ quyết xả không y cứ về tâm giặc. Khoa kế, từ dầu trở xuống nói quyết lấy tâm giặc không luận tâm chủ, ở đây đồng với đoạn trước, chỉ y cứ về đối diện là khác. Dẫn chứng có hai: Bộ Tỳ-nại-da, quan đoạt được lấy. Trái lại nói Tỳ-kheo không được đoạt. Y cứ trở xuống quyết chung với vị trước. Do trong văn trên quan mới lấy chẳng trả không được, có thể so sánh biết chỗ cũng không được lấy. Luật Thập Tụng nói tự trộm thân không phạm: Sớ chép: Thân đệ tử là chính báo nên mạnh, giặc lực dụng yếu. Câu: Sư đoạt trọng: Đệ tử thuộc giặc là mạnh, sư là yếu. Nay dẫn văn nầy, chỉ lấy trở xuống nói phạm để chứng không thể đoạt mà thôi. Thứ tư, trong luật Thập Tụng, trước nói thí cho. Chế không xin, khai lấy tự cho. Tây Trúc cũng vậy. Nước đây, cấm quyết có lấy nghĩa là Phật giáo không trái mà hình phạt thế gian, đáng lo. Kế, từ nhược trở xuống là nói mua được. Khoa kế, văn đầu khai lấy không chọn chỗ trộm. Nhưng đã biết là vật của Tam bảo, văn nói tuy được nhận mà lý không thể dùng. Không biết lẽ ra được. Y bổn xứ: Hoặc chỗ trộm cũ, hoặc chỗ thuộc Tam bảo, đều có thể dùng vật của người khác, dù chỗ của Như lai, giặc tự làm chủ, không ngại thọ dụng. Trong phần năm nói phạm vương pháp của vua, là cấm lao ngục: trước nói chưa thấy mặt, nói chưa thâu lục nghĩa là quan chưa bắt được. Kế từ dó trở xuống nói đã được miệng dặn dò. Lộ hiện xuất là nêu bày công hiển. Nói vật của ta nghĩa là kia đã cúng cho tăng thì ta cũng có dự phần. Môn này nói theo Phật giáo thì có thể không được. Trong đây, vua cấm không được làm. Trong phần sáu, Già luận nói đủ hai mới được lấy: Một là phải tự cho, hai là phài không biết. Nhược trở xuống trái với hai duyên trên, cho nên nói không được lấy. Nếu trái với duyên thứ nhất thì theo lý cũng được, nghĩa là tuy biết bà con mà tự tay cho, hoặc tuy không tự cho nhưng biết bà con. Trong phần bảy nêu người trông coi, nghĩa là giữ vật cho người khác. Khoa đầu nêu ba hạng người. Đem đi không tội nghĩa là không trông coi. Ba hạng người là: Một là lạc độ. Hai là cha mẹ chết, nghĩa là không có người sai khiến. Ba là thiếu nợ. Bất luận cha mẹ chỉ hướng chủ nợ vì không trông coi. Trong phần chú thích y cứ người thiếu nợ người đời nghi rằng người trốn thuế vua xuất gia thành tội trộm, như trong thiên Thọ giới có nói. Trộm tôi tớ phạm tội nặng: nghĩa là chủ là người trông coi. Khoa kế, trước dẫn hai luật, khai ý giống nhau. Thủ-la: xưa nói là: đem binh chống giặc. Sở dó trở xuống là nêu ý của luật Thập Tụng ở trước. Trong phần vật bị trộm, văn trong luận đầu nêu nêu tướng rộng, sau từ thả trở xuống là y cứ vào trần giới gồm thâu. Trước nói sáu trần, ba nghiệp thành trộm, tên không giống pháp hành. Thực độc, v.v… các tướng như sớ giải ở sau. Thích âm thích là loại trùng làm độc. Nếu người trở xuống là nói sáu giới. Sớ giải, đầu tiên trong phần sáu trần, trước nêu chỗ trộm. Hung hành nghĩa là loài rắn bò bằng bụng. Thuốc độc nghĩa là tất cả các loại chất hại mạng người. Các vị tiên có thể trị được hai thứ độc trên giáo lý sự. Tác trở xuống nêu tướng trộm. Ban đầu đến cũng vậy, là mắt trộm sắc, chữ thư giống như sổ sách ngày nay. Nếu tụng trở xuống là tai trộm tiếng (âm thanh). Trộm trở xuống là lược chỉ ba trần, giống như ở trên nói. Nhược bí trở xuống là ý trộm pháp. Sáu giới: Ba giới trước dễ hiểu, nên không nêu ra. Hữu trở xuống là trộm gió, nhược trở xuống là trộm hư không, luận trở xuống là trộm thức. Chú giải nói trí dụng nghĩa là nghệ thuật, kỹ năng đều nương thức khởi thì chọn thức thể vì không thể trộm. Trong phần ba kết chỉ, đầu tiên chỉ rộng. Đãn trở xuống là nêu cốt yếu gồm thâu. Quảng trở xuống lược văn ở phần thứ hai. Kia tùy văn giải thích hiển rõ tướng rất nhiều, nếu cần thì tìm xem, ở đây không dẫn lại. Trong phần vật của phi nhân, văn đầu tiên định ra việc phạm, luật Ngũ Phần trở xuống dẫn hai luật để làm chứng cứ, đều hiển bày hộ chủ. Luật Tăng-kỳ văn rộng chỉ y cứ kết trọng, có thể nghiệm có chủ. Trong phần không hộ, khoa đầu hai câu trên định ra phạm tội. Nói tùy cảnh là hướng về phi nhân phạm. Vì thế sau dẫn nêu bày có ba: Luật Thập Tụng và Đa luận nêu bày tướng rất dễ hiểu. Luật Thiện Kiến nói không tội nên thêm phần chú thích. Khoa kế, đương thời có thực hành y phẩn tảo, vì thế có lấy. Được hay không được như trên tức đã nói ở trước có chủ hay không chủ. Lại trong phần không chủ thần hộ không hộ. Ắt trở xuống là nêu thủ pháp. Trích bốc tức liệng ném. Bốc là hỏi thần, xả lận là phi nhân hộ không hộ. Trong phần vật của súc sinh, văn đầu trong luật nói rằng: Tỳ-kheo lấy vật trong tổ chim và vật trong hang chuột, Tỳ-kheo nghi ngờ chẳng biết mình có phạm tội hay không, bèn bạch lên Đức Phật, Phật dạy rằng vật đó súc sinh không dùng thì không phạm, nhưng không nên thọ nhận vật như vậy (nhận phạm Đột-cát-la, văn không nêu rõ). Trong phần dẫn xưa, đầu tiên giải thích câu trên xếp vào phạm. Cố trở xuống là dẫn y cứ. Luật chép: Lúc bấy giờ, cách Phật không xa có một ngôi làng, các con chuột trong làng đó tha quả Hồ đào (quả hạch đào) vào chùa nhóm thành một đống lớn. Lục nhóm Tỳ-kheo sáu vị có tâm trộm lấy ăn, sáu vị nghi ngờ bạch Phật, Đức Phật nói là phạm Ba-la-di. Trong phần chính giải, đầu tiên thông ý bổn luật phạm tội nặng, vì nói nhóm Tỳ-kheo sáu vị có tâm trộm lấy, rõ ràng đây là vật của người ở làng kia cho nên xếp vào tội nặng. Chuột nghi ngờ, tâm súc sinh khó biện, chỉ y cứ khi chưa cất, hoặc chưa ăn mới có thể biết mà thôi. Dư trở xuống là dẫn bộ khác định phạm. Trong luật Thập Tụng nói lấy thức ăn còn thừa của con sư tử không phạm: Xưa nói loài thú này không ăn thịt lạnh, nên phần còn sót lại không quan trọng. Trong duyên thứ hai, luật có bốn câu: Có chủ tưởng không chủ phạm tội nặng. Có chủ nghi không có chủ phạm Thâu-lan-giá. 3-4 Vật không chủ tưởng và nghi có chủ phạm Thâu-lan-giá. Lược không có câu ba không chủ tưởng có chủ. Y cứ ở sau nghĩa trì phạm nầy phải đầy đủ. Trong văn, trước nêu thành duyên phạm, là câu thứ nhất. Nhược trở xuống phân biệt với thiếu duyên, là câu thứ ba. Đầu tiên y cứ vốn mê không phạm, tiền trở xuống là y cứ chuyển tưởng. Trước khởi tưởng có chu, sau chuyển tưởng không chủ phạm Thâu-lan-giá. Trước nghó là không chủ, sau lại nghó có chủ phạm tội Ba-la-di, vì thế nói rằng lẫn nhau phạm tội nhẹ và nặng. Nghi và cảnh hai câu khác nhau đều thấy ở thiên sau. Trong phần duyên thứ ba nêu ý, trước nói khó giữ hộ, vì tâm tham nhiễm cất chứa sâu dầy, chạm vật sẽ khởi niệm tham. Tâm thô bất giác đâu biết là duyên tà, bất thể vọng tình sa vào lưới tội. Bậc thật đức còn chưa khởi được, phàm phu trôi lăn trong đó. Hễ là đồng tâm thì càng phải gấng chí. Đãn trở xuống nêu kết nghiệp. Không hướng về cảnh thị phi (đúng sai): Cảnh tức vật trước. Tam bảo lẫn dùng vật không riêng từ là đúng, nhập vào của mình dùng là sai. Hai trường hợp đều kết tội nặng vì thế biết không phân biệt. Cố trở xuống là dẫn chứng. Vì Tam bảo cho nên nói tâm tốt. Nếu nói về ngu giáo lại là tâm giặc. Lý trở xuống ở sau sẽ dẫn. Trong phần chính nói, luật Thập Tụng nói khổ thiết nghĩa là thúc dục, ép ngặt người. Đồng như luật Tứ Phần ở sau nói là ép ngặt la hét, khinh mạn nghĩa là hiện tướng xúc phạm vật. Cập trở xuống thình lình là đồng với thứ tám (y cứ theo sớ hợp), danh tự đồng với thứ mười. Nhận gởi đồng với thứ bảy. Chỉ ở sau nói lời lại là không đồng với tông nầy. Tuy là tâm trộm nhưng kia đây thỏa thuận nhau nên đặc biệt nêu ra. Để âm là để. Trong Già luận nói cưỡng đoạt đồng như phần thứ tư ở sau (y theo sớ). Nhuyễn ngữ (lời nói mềm mỏng) đồng như biện ngữ (lời nói biện tài). Thí rồi lấy lại, khác với ở sau: nghĩa là quyết định thí cho người sau lấy lại. Bộ Thiện Sinh cũng nói, chú thích chỉ bày. Tội ăn cắp phạm tội trộm. Trong luật Ngũ Phần nói tâm xiểm đồng như phần hai ở sau (y theo lời sớ). Tâm khúc đồng với thứ chín. Tâm sân đồng với thứ tư. Luật Tứ Phần nói mười thứ, sớ chép: Trong luật nêu đủ hai thứ năm tâm trộm: Trước là năm tâm, sau là năm thủ. Thủ là nghiệp kia đối cảnh hành sự. Trong phần một nói có thể học mê nghĩa là giáo pháp nầy đáng thể học mà không học nên mê. Trong phần hai là khuyến khích cầu. Ưng giống như chữ tích. Trong phần ba cả hai đều giải thích: Hư và thật chia ra đó. Trong phần bốn y theo lời sớ. Lại nói, hoặc nói thế lực của vua quan, ở đây cùng với phần thứ tám tên đồng mà tướng khác, chỉ y cứ theo cả hai tâm và thủ để phân chia. Nói tâm chưa hẳn là thủ (lấy), nói thủ (lấy) thì phải gồm tâm. Thứ chín, chú thích giới trong luật bổn và lời sớ đều thấy hai chữ “tiện thủ”, văn nầy phân nhiều chỉ có một chữ tiện, quyết là truyền lầm, không nhọc phải giải thích khác. Trong phần mười, giải thích năm tướng: Ba tướng trước là thân ng- hiệp, hai tướng sau thuộc khẩu nghiệp. Lại trong ba tướng trước: Tướng thứ nhất là nương tự mình, tướng thứ hai là nương tên người, tướng thứ ba là nương năng lực người. Hai tướng sau: Tướng thứ nhất là lời nói khéo, tướng thứ hai là lời nói dối. Đời nay Độc só phần nhiều còn cầu xin, cười nịnh xu thời, nói khéo để nịnh hót người đời, hoặc coi trọng việc tiếp khách, đâu tránh được Ô gia, hoặc siêng năng đối với việc thỉnh mời, ra mắt, đâu biết rằng đó là trái đạo. Không biết nghĩa là giả vờ biết. Không thân thiết nghĩa là gượng thân. Miệng nói nhiều phương, tâm mưu cầu trăm kế, trọn ngày lo lắng, suốt đời nhọc thân. Một lời nói tầm thường, không đâu chẳng đắm vật. Tuy nói rằng chúng thật mà trị đời chưa biết. Cạo tóc nhuộm y, ý toan tính việc gì. Bàn kinh, giảng luật chú ý phải nói lời gì để người tin. Nghiệp mê hoặc ngày càng thêm cho nên khiến rong ruổi mỏi mệt, có thể cho rằng luống sinh luống tử thật là bất giác, không biết xét kỹ kinh này trở lại cầu tự mình, (lời ngay trái tai) phải suy nghó cho kỹ. Trong phần kết cáo nói vọng tình theo cảnh, suy tính muôn mối, đâu chỉ nêu ở trên mà bao gồm hết được. Song nêu một lớp hết các xúc loại thì dài, nên trước tuy lược nêu cùng đủ ngăn ngừa tâm. Nhưng đã biết giáo tướng, ít biết vọng tâm có thể ngăn không khởi, vì thế như bức tường. Tâm tùy theo cảnh mà sinh, tâm vọng thì cảnh vọng, cho nên nói là vọng cảnh. Trong phần bốn nói vật thể, văn đầu nói năm tiền là thuộc về tiền thể, nói vật năm tiền là y cứ theo tiền pháp (số tiền mà pháp vua kết tội). Sở dó lấy giới hạn năm tiền là do pháp vua lúc đó nếu trộm năm tiền thì sẽ bị giết, Đức Phật theo pháp vua trộm đủ năm tiền chế tội nặng. Trong phần định thể của tiền, trước có dẫn luật. Trong phần đáp, phần một và hai đều giải thích chừng hạn năm tiền, sau giải tùy tội chết không hạn cuộc số vật. Một là đồng luật Thập Tụng. Hai là phù hợp bổn tông. Ba là nghĩa luận gia lấy. Trong giới sớ chép: như trong Đa luận tướng trộm thông lạm. Đầu giải thích bổn tiền (tiền xưa) do đâu mà hiểu được (đây là phá giải thích đầu), sau giải thích tùy cõi nước hiện tại mà xử vào tội chết, nói cũng chung chung, khó có thể dựa theo (đây là phá lời giải thứ ba). Trong phần định đoạt, khoa đầu nói luật và luận khác nhau, nghĩa là luật như ở sau dẫn, luận tức văn trước. Phán tội nghĩa là phạm rồi xử đoán. Nhiếp hộ nghĩa là chuyên tinh vâng giữ. Nay từ nhiếp hộ để định thể tiền, cổ trở xuống là dẫn chứng tức văn trong phần thọ pháp nói tướng. Trong phần nêu xen lẫn là bỏ gấp theo hoãn, chưa hiểu được ý của lời dạy. Tiền lúc xưa, một tiền tương đương mười sáu, năm tiền thì thành tám mươi. Trong phần chính phán, hai câu đầu y theo luận, kế là giải thích để định nghĩa nay. Tăng trở xuống là dẫn chỗ y cứ. Vua không có pháp nhất định là chỉ chung các nước. Pháp khi xưa của vua Bình-sa nghĩa là Phật y theo đó kết giới, có thể dùng làm tiêu chuẩn, đây là lấy pháp trộm năm tiền, không định tiền xưa. Bốn tiền ba giác (ba góc) tức tính vào giới hạn năm tiền. Hai góc rưỡi tiền cũng thuộc vào tội trộm bốn tiền. Tiền nói về góc, sợ khuôn đúc tiền kia hình vuông, đây là phân biệt từ xưa cũng đúc tiền vuông. Thời nay thì đúc tiền tròn: chỉ nói theo bốn chữ. Bốn trở xuống là y theo bổn tông để quyết bỏ. Luật luận: Luật là luật Thập Tụng. Luận tức bộ Đa luận có hai cách giải thích trước sau. Do sau thắng: Tức giải thích làm thứ hai, hướng về lần đầu nên có lần sau. Sớ chép: Có thể như trong bộ Đa luận giải lần thứ nhất, tùy theo cõi nước dùng tiền y cứ năm tiền làm giới hạn, thì tranh luận tự dứt. Túng trở xuống là hội đồng. Luật Thiện Kiến chép: Hai mươi Ma-bà-ca (xưa là Đồng tiền lớn, tức tiền lớn bằng đồng) thành một phần Ca-lợi-sa-bàn, bốn phần lấy một cho nên giới hạn năm tiền. Luật Tăng-kỳ lấy mười chín Ma-sa-ca thành mười kiết-lợi-sa, bốn lần lấy một thì thành bốn tiền ba góc. Sợ cho rằng bộ Tăng-kỳ khác với luật Tứ Phần nên dùng luật Thiện Kiến để giải thích. Nhưng luật Thiện Kiến và luật Tăng-kỳ đều tính theo Đồng tiền lớn xưa, chính là dùng pháp xưa ở Vương-xá để giải thích nghĩa năm tiền. Còn việc xử đoán tội trộm là tùy theo cõi nước dùng, tức luận kia nói: Người xuất gia cho đến lá cỏ cũng không được lấy, vì thế biết gấp giữ gìn có hợp với tông nầy đôi chút. Trong phần dẫn chứng, từ đầu đến tùng cấp là dẫn văn đoạn trước. Kia nói người trộm kho báu, vì thế y cứ vào vật trong tủ để hiển bày tướng phạm kia. Kia nói đủ rằng: Nếu vật báu đầy trong tủ đưa tay cầm lấy, tay chưa lìa chỗ nhưng cũng lìa đi một phần, ra khỏi rồi rớt lại trong tủ phạm Thâu-lan-giá, nếu ra khỏi cửa tủ phạm tội Ba-la-di (tức lời sao ban đầu dẫn). Có Pháp sư giải thích rằng: Dước đáy tủ lấy vật báu rời khỏi đáy tủ, chưa ra khỏi cửa tủ phạm Ba-la-di. Pháp sư trở xuống thêm lời sao dẫn, đây tức là luận chủ lấy lời của vị Pháp sư sau. Lại quán trở xuống là dẫn đoạn sau. Nói năm việc, kia nói rằng: Luật sư trí tuệ nếu muốn khởi sự tranh luận, thì trước phải xem năm chỗ xong rồi mới phán đoán. Chỗ: Như ta muốn lấy vật này, nói câu này rồi liền phạm tội. Nên xem vật nầy có chủ và không có chủ. Nếu có chủ xả tâm, không xả tâm. Nếu chưa xả tâm mà lấy thì tính theo tội trong luật, nếu đã xả tâm thì phạm Ba-la-di (đây là quán một việc). Thời: Về thời, y theo đây có thời nhẹ, có thời nặng. Có thời nhẹ tức lấy thời nhẹ mà tính để kết tội, nếu thời nặng thì cũng tính để kết tội, v.v… (đây là việc thứ hai). Lại nói: Có vật còn mới thì quý, sau đó không quý, như bình bát bằng sắt khi mới hoàn toàn sạch sẽ không bị hư chảy, ban đầu quý, sau bị hư chảy thành không quý. Đây cho nên tùy thời mà tính (mới cũ là hai việc). Lại nói: Tùy thân dùng việc (tùy dùng là một việc, trong đây lại có năm) như dao, búa, ban đầu quý sau không quý, nếu lấy trộm búa người, phải hỏi chủ búa mua giá bao nhiêu. Nói nếu dùng một phần mua (năm tiền). Lại hỏi: Mua mà đã dùng chưa? Nếu đã dùng rồi thì thành đồ cũ (là một). Như chày nhãn dược và chìa khóa cửa, hoặc đốt, hoặc mài cũng thành cũ (là hai). Lại như áo tắm hoặc bỏ vào nước, hoặc dùng rồi cũng thành áo cũ (là ba) Bơ, dầu hoặc đổi đồ đựng, hoặc bị trùng kiến rớt vào cũng gọi là cũ (là bốn). Lại đường phèn ban đầu cứng sau mềm, cho đến dùng móng tay bấm vào cũng thành cũ (là năm). Nếu Tỳ-kheo lấy trộm vật của người, nên hỏi chủ vật, nếu chưa dùng thì quý, dùng rồi thì không quý, các vị nên biết. Đó là năm việc, Luật sư phải xem xét kỹ rồi mới phán sự. Dẫn hai đoạn nầy, trước y cứ theo gấp, sau y cứ theo chỗ. Nói trước phế lập y cứ hai ý nầy để định năm tiền. Duẫn giống như đương. Trong phần nghĩa, câu đầu nói tiền sang hèn, nghĩa là vật có nhẹ có nặng. Thời có hưng thịnh y theo xưa. Quý: Một đáng dùng nhiều; tiện (không quý): Nhiều đáng dùng ít, như trong văn rất dễ hiểu. Câu kế, ba văn đều như vậy, vì thế đều nêu hết. Ở đây nghĩa là y cứ chỗ trộm tổn hại chủ, do luận không y cứ, về sau bán không đủ. Trong phần ba ý cũng giống như trên, giống như mùa Xuân giá trị mười, mùa hạ giá trị một. Trên dưới gồm xem xét ba câu. Câu đầu trong văn đã đầy đủ, câu kế nên nói rằng: Trộm vật chỗ hèn (không quý) bán chỗ sang. Câu ba: Khi thấp hèn trộm vật lúc sang, bán đều y theo gốc mà xử đoán. Câu bốn tức trộm nhiều phạm tội nhẹ vì không đến kết quả, không được vật phạm tội nặng vì chỉ làm tổn hại người khác. Câu năm “chưa tới năm tiền phạm tội nặng”, quá năm tiền phạm tội nhẹ. Trước dẫn luật Tứ Phần, cả hai giải thích, đều y cứ người nhiều vật ít cho nên không đủ năm tiền, hướng chung đến vật kia đều nhập vào tội nặng. Sau dẫn luật Thập Tụng hướng chung đến nghĩa không đủ năm tiền. Chỉ trở xuống là mất vật, nghĩa là khi chưa tác pháp, mười phương thường trụ cũng nói như vậy. Trong phần sáu nói trộm ít thành tội nặng. Trước tiên dẫn luật Tăng-kỳ thì dễ hiểu, kế dẫn luật Thiện Kiến xen nhau dạy, như có một vị thầy dạy ba người đệ tử rằng: Kia có sáu tiền, người lớn lấy ba tiền, người nhỏ mỗi người lấy một tiền (số người đủ năm tiền), ta tự lấy một tiền (tự nghiệp không đủ). Người đệ tử nhỏ thưa rằng: Hòa-thượng lấy ba tiền, các bạn đồng học mỗi người lấy một tiền, con tự lấy một tiền (tội cũng như trên). Một tội Ba-la-di: Dạy người phạm. Một Thâu-lan-giá: Tự mình phạm. Tự trở xuống là giải thích nghĩa, kết tội Thâu-lan-giá, sợ nghi đồng trộm nên phạm Ba-la-di. Trong phần năm giải thích lìa chỗ: Câu đầu, luật Tứ Phần chép: chưa lìa chỗ không thành phạm, sau dẫn luật Ngũ Phần nói đã lìa chỗ mới thành phạm. Văn nêu năm tội: Đào đất phạm một tội Ba-dật-đề, có không chẳng nhất định (luật Thiện Kiến phạm Đột-cát-la vì đây là phương tiện để trộm). Cầm vật kết: Là phương tiện kế đó (y theo nay phạm Thâu-lan-giá). Dời vật là phương tiện gần rất dễ hiểu. Khoa kế, trong phần nêu riêng, câu đầu y cứ phán đoán nói phạm. Dùng nặng nhập nhẹ: Hễ xử vật của người mất, phải thỉnh Luật sư phán đoán nặng nhẹ, y theo sớ mà báo chúng. Phán nặng là nhẹ phạm Ba-la- di, phán nhẹ là nặng phạm Thâu-lan-giá, đều hướng về văn thành thời để định ra tướng phạm. Phi pháp phán dụng: Đây là y cứ về loại thường đồ vọng thư bộ lịch. Luật Thiện Kiến trở xuống như làm khế thư phân phán địa giới. Một đầu nhẹ: Như sách nói chỗ theo xứ thời thuộc phương tiện Thâu-lan-giá. Hai đầu nặng: Lại trong sách nói chỗ đến xứ thời rốt ráo phạm Ba-la-di. Chữ họa là viết lầm, trong luận viết chữ thư. Giới sớ cũng y theo trong luận dẫn. Câu kế chỉ y cứ vào miệng quyết đoán liền phạm. Luật Thiện Kiến có hai tiết, đầu tiên y cứ về trộm đất. Nói “tăng đều nặng” ý nói là đồng tình. Nhược trở xuống là y cứ xử đoán sự tranh luận. Trái lý phán cho là năng phán, phạm. Trái lý phán được thành sở phán, phạm. Sau dẫn luật Tứ Phần tức y cứ về biện thuyết, văn như ở trước đã dẫn. Câu thứ ba nói nêu tức chú giải, sau hiển tướng, như là trượng, thước ngày nay. Trong văn lại dẫn trộm hai, nêu là phạm tội. Y theo luận nếu trộm có ba: 1/ Đột-cát-la; 2/ Thâu-lan-giá; 3/ Tội trọng. Cho đến trộm mười thì tám thứ trước đều phạm Đột-cát-la, thứ chín là Thâu-lan-giá, thứ mười là tội trọng (xưa nói: Chín trước là Thâu- lan-giá, không thấy trong văn luận). Câu bốn: đọa trì nghĩa là trù tính nhiều nhưng vật ít, hoặc không trù tính mà lấy vật nhều. Không phải ý văn nói ở thế gian có việc đó. Trong năm, câu đầu dẫn luật Thập Tụng đã nói. Y cứ dị sắc phạm như lông, tơ, dệt vải làm thành những thứ bông hoa, chim thú vì lôi kéo dời đổi khiến cho tổn hại vật kia. Hoặc như trở xuống là y cứ theo bổn luật. Y cứ về tổn sắc phạm, văn nghĩa rất dễ thấy. Câu sáu: Nói chuyển xỉ như ở đời con cờ đánh bạc phần nhiều dùng răng, xương làm con cờ để đánh, có tâm trộm dời vật đến chỗ khác thành tội. “Sư bồ”, “Bồ bác” đều là tên khác của vật để đánh cờ, cũng gọi là bác dịch. Trong văn, trước dẫn luật Thập Tụng nêu bày tướng trộm, kế là dẫn luật Ngũ Phần nói đánh bạc (đánh cờ). Câu bảy: Kia nói trộm. Nói đủ bốn chân nghĩa là thúc ngựa hướng đến chỗ hẹn, đủ phạm tội nặng, không theo chỗ hướng đến phạm tội nhẹ (tuy lìa nhưng phạm Thâu-lan-giá) chỗ hẹn không nhất định, liền phạm tội nặng, chủ đến, tâm chưa được phạm tội nhẹ (tức trong văn nói chưa khởi tưởng được vật). Câu tám, luật Thiện Kiến nói được tâm (khởi tâm tưởng được vật) đã quyết không đúng, đụng đến vật liền phạm, không đợi lìa chỗ. Như ở sau nêu thí dụ rất dễ hiểu. Câu chín nói nhà, ruộng, v.v… không thể lìa, không giống có thể lìa, không thể ở câu trên. Câu mười, là nêu ra ba tướng: Hư không, cọc, nước. Trong luật nói xứ, có mười ba, trong lời sớ kế sẽ giải thích, nay chỉ nêu sơ lược. Địa trung (trong đất, dưới đất): Tức vật chôn dưới đất có chủ, hướng về chủ kết. Ở trong đất của Phật, tăng thì thuộc Phật và Tăng. Địa thượng (trên mặt đất): Như nay được vật trên đường đi). Thừa (xe cộ): (nghĩa là các loại xe như xe voi, xe ngựa, nếu trộm vật trên xe, mà lìa khỏi xe mới phạm tội. Nếu gồm xe, trộm xe, lìa thì phạm). Đảm: (đồng với ngồi hai phần). Hư không: (nghĩa là các thứ: y, vật, chim do gió bay đến, mà muốn trộm lấy thì y cứ theo không xứ (tức hư không) để nói về lìa xứ. Luật Thiện Kiến nói chim trên hư không, quá cánh bên trái, cánh bên phải, đuôi, từ đầu trở xuống cũng như vậy, đều phạm tội nặng). Giá (cái giá treo áo): Tức cây cong để treo áo. Nếu trộm vật trên giá nầy thì vật lìa khỏi giá mới phạm. Nếu giá liền nhau, giá lìa liền phạm). Thông (hoặc trộm vật của làng, hoặc trộm thể của làng, đánh, phá hoại làng v.v…). A-lan-nhã: (Không địa ngoài thôn đồng thôn rất dễ biết). Điền (ruộng): (Luật Thập Tụng nói nếu là ruộng phải nói tướng, được hơn thì tội nặng, không bằng thì phạm tội nhẹ. Nếu khởi tướng khác quá phần, hơn thì phạm tội nặng). Xứ sở: (Như cửa hàng làm xứ, trộm vật của cửa hàng, trộm thể giống như phần xóm làng ở trên). Thuyền xứ: (Trộm vật tức dùng thuyền làm xứ, trộm thể thuyền tức đứt dây lìa chỗ mới phạm). Trộm nước: (Tức đoạn nước chảy. Luật Tăng-kỳ nói tưới nước, rót nước. Hoặc một nhất túc thẳng nhất văn, hoặc đến bốn, năm. Nếu làm hư hoại rạch nước kia để nước chảy vào riêng thì phạm Thâu-lan- giá, đủ giá trị năm tiền thì phạm Ba-la-di). Tư độ quan: (Như trong luật, Tỳ-kheo không đóng thuế. Nếu cư só đóng thuế, Tỳ-kheo mang hộ qua khỏi chỗ đóng thuế, phạm tội nặng. Luật Thập Tụng nói Tỳ-kheo phải đóng thuế, không đóng thuế cũng phạm tội nặng, còn lại giải rộng như trong sớ). Trong phần kết chỉ bày có ba đoạn: Nêu ý sơ lược ở trước. Từ ưu trở xuống nói người có thuận và nghịch. Trước nói người biết đủ sợ phạm thối lui. Nhược trở xuống nói nhiều việc cầu tiến, ăn trộm sẽ bị vùi lấp. Nói tâm lo sầu nghĩa là tâm có thể sợ gặp nạn, có thể cấm chế. Dầu thành nghiệp, tai ương đến nhiều đời, đây là điều đáng lo. Câu “Cho nên phải nhớ nghó đến đạo” ý nói kính mến xuất ly. Câu “Duyên cảnh hạn cuộc”: Là điều mà giáo pháp đã cấm. Câu “Có nhiều việc”: hoặc ưa làm thầy người, hoặc ưa làm phước ở đời. Câu “Muốn bay cao”: Danh vị hơn người. La Đạo Võng: Kết nghiệp thành. Không có ra khỏi: Là khổ báo không cùng. Hà trở xuống là nêu bày ý kia, Như Bảo Vương ở trước chỗ chọn người. - Từ hữu trở xuống là khuyên tu. Câu đầu kêu gọi người đời sau. Đọc kỹ càng là khuyên tìm xem nghiên cứu giáo pháp. Phụng sự là dùng giáo chiếu cảnh. Thâm tư là dùng cảnh quán tâm, bèn biết là tự mình phản tỉnh tâm hạnh. Cố trở xuống là dẫn luận để khuyên. Trong luận câu đầu là nêu bày chung ý của giáo pháp. Thử trở xuống là chỉ riêng giới ngày nay, lời văn cần phải dồi dào. Giải thích rõ ràng: Luận có liên quan đến quyển ba, nói quyển kia lý đồng nghĩa là khuyên phải xem xét rõ ràng. Luận trở xuống là y theo luận để hiển rõ ý hai câu đầu là chỉ phần giải thích nêu trên, vì y theo văn trong luận. Du trở xuống ngăn kia vọng cho rằng nêu bày ý lược. Trong phần không phạm, trước dẫn năm tưởng, đều cho là không có tâm trộm: Tưởng cho đến: Ý cho rằng vật này của người khác cho. Tưởng của mình có: nghĩa là không phải vật của người khác. Tưởng vật phấn tảo: nghĩa là tưởng không có chủ. Tạm lấy: Tức cầm trả lại. Thân hậu: Tức không có kia đây. Sau, từ luật trở xuống là giải thích phần thứ năm. Trong bảy pháp gồm: Kiệt sức đại lao vì đó không nhàm chán. Vật trọng của mình đem cho mà không tiếc. Trái nghịch xúc não không có sự hối hận. Bày tỏ tâm tư của mình không che giấu. Dấu ác khoe thiện sợ tổn thương bên ngoài. Tù tội hoạn nạn nhiều cách cứu giúp. Sang hèn giàu nghèo, trước sau như một. Như thị trở xuống là kết thúc hiển bày, vì thế biết rằng thành thật mới nhập khai vị, tự xen lạm nương nhờ khác đều bị chôn vùi tên họ, bóng dáng. * Giới sát: (Đức Phật ngự tại thành Tỳ-xá-ly, lúc bấy giờ các Tỳ- kheo tu quán Bất tịnh, nhàm chán thân, ưa thích chết. Có Tỳ-kheo ngoại đạo tên là Nan-đề chịu thực hành việc giết hại đó. Cư só thấy vậy kinh sợ, do đây Đức Phật chế giới). Trong phần nêu tên phân biệt chẳng phải súc sinh vì giết súc sinh không phạm tội nặng, hoặc gọi là đại sát sinh phân biệt với tiểu sát ở sau. Trong phần tùy giải thích, văn đầu dẫn luật rất chuẩn, trước sau gồm nhiếp tướng sát. Trong phần chú giải từ đầu sở y giải thích thức đầu ở trên. Kinh Đại Tập chép: lúc là Ca-la-la (đây gọi là tạp uế, nhập thai bảy ngày, hình trạng như sữa đặc, tức ngưng hoạt, có ba: Mạng, noãn và thức. Hơi thở ra vào là Mạng, không hôi không nát là Noãn (nghiệp trì hỏa đại, sắc không hôi thối). Trong đây tâm, ý, thức là thức. Nếu hoại ngưng hoạt thì hoại chỗ nương của thức. Mạng noãn tùy theo đó diệt, gọi là phạm giới sát. Cho đến trở xuống là giải thích thức sau, nghĩa là bốn đại sắp hoại thần thức chưa đi, nếu hoại cũng thành tội riêng. Sớ chép: Tùy chỗ nào có noãn thì thức ở trong đó, tức ở của thức được mạng căn thu nhiếp. Kỳ trở xuống là hiển bày sơ lược. Trong phần biện tướng: * Khoa đầu, trước nói tự sát. Câu một là nêu, vị trở xuống là nêu tướng, y theo lời chú giải thành tám, nay thiếu hai thứ, ở sau sẽ dẫn: Thân có hiện tướng (Hoặc khiến cho sợ sệt, hoặc hiện tướng chết, v.v…). Miệng khen tướng chết (hiện tướng ở miệng, nghĩa là dùng ngôn thuyết khuyên dạy, hoặc dùng tiếng lớn la hét khiến cho sợ. Nay lời sao hạn cuộc ở lời giải thích đầu. Khanh hãm (biết người đi trên đường này, nên đào hầm hố cho họ rớt xuống chết). Ỷ bát: (Biết người kia sẽ đứng dựa chỗ đó, liền đem dao, gậy, v.v… để chỗ đó, khiến người dựa vào đó sẽ bị chết. An sát cụ: Sắp đặt dây, dao, gậy khiến cho người kia lấy bị chết. Dữ dược: (Cho thuốc) rất dễ hiểu. Văn nói, v.v… nghĩa là tự sát (nghĩa là tự giết mình, hoặc thân, hoặc gậy tùy theo đó bị chết). Thân miệng đều hiện tướng (thân và miệng khen việc giết hại). Trong phần dạy người, trước nêu bày. Nếu dạy trở xuống là nêu tướng. Chú thích trong giới nêu đủ mười một thứ, nay lời sao cũng thiếu hai thứ. - Dạy khen (dạy người khen ngợi việc giết hại) lời chú giải trong giới nói sai khiến người khen ngợi, nghĩa là sai người nói với người kia. hại. Giáo khiển sử: Chỉ bày những điều đã dạy khiến người đến giết Vãng lai sử: Nhận lời đến hại trở về, rồi lại đến nữa. Trùng sử: Tiếp tục sai khiến người, cho đến một trăm, mười ngàn lần khiến cho hại. Triển chuyển sử người bị kia sai khiến không đi, chuyển sai nhờ người khác nữa, cho đến một trăm, mười ngàn người, người sau cùng làm việc giết hại đó, tùy theo sự sai khiến trước đều đồng một tội nặng. Cầu người nam: Lựa chọn người mạnh khiến đến giết hại. Dạy cầu người nam: Khiến người khác tìm người nam. Gửi thư: Trình bày trên giấy mực khiến người bị chết. Dạy gửi thư: nhờ người khác làm thay. Đồng lấy hai món còn lại, nghĩa là tìm người đem dao (nghĩa là có thể giết) và dạy tìm người đem dao. Tinh trở xuống là gồm nêu bày. Muốn bày rõ văn trên tướng chưa hết, lại ngăn người ác tránh đây tạo kia, vì thế dùng lời này để nhiếp chung. Năng giáo phạm: Y cứ người phạm. Nếu luận sở giáo phạm thì chung cho đạo và tục. Nếu là đạo nhân thì năng sở đều phạm. Thiên sau tức là trì phạm, trong phần tự mình làm và dạy người làm. Khoa kế: Quyết đoán chỉ tội phạm: Tương truyền rằng phạm tội Đột-cát-la. có chỗ nói rằng nếu như vậy thì chỉ phạm tội Ba-dật-đề, không thấy chỗ nêu ra. Trong phần ba nói: Không khéo léo trong việc nuôi người bệnh dẫn dến chết, nhưng không có ý hại nên đều kết tội Thâu-lan-giá. Ban đầu cho ăn mụt nhọt vỡ ra, cả hai đều phạm, nghĩa là món đó không thích hợp, không được cho ăn mà cho ăn. Thứ bất trở xuống nghĩa là cho ăn được mà không cho. Trong phần bốn chép: “Do Tỳ-kheo nói”: Tức là dạy người khác làm. Gồm tội trộm: Do công kích cướp đoạt làm tổn hại đến vật kia. “Ưu-bà-tắc đồng” nghĩa là năm giới, năm giới đều cấm. Trong phần năm nói hầm hố, ban đầu y cứ vào khắc tâm. Đào hầm hố để hại người. Nếu súc vật bị sụp chết thì phạm Thâu-lan-giá; đào hầm hố để hại súc vật, nếu người bị sụp chết thì phạm Đột-cát-la. Gồm y cứ khắc tâm xen nhau có cảnh khác nhau, vì thế như trong luật tức phạm tội Ba-dật-đề. Nếu trở xuống là nói tâm buông tuồng: nghĩa là bất luận người hay súc vật đều muốn hại. Trong phần sáu, văn đầu chép: Khắc tâm chuyên duyên một cảnh không có ý đối với chỗ khác. Nếu tâm buông tuồng thì tùy theo người hoặc vật bị chết đều phạm. Trong phần khiển trách người đời, đầu khiển trách thay thế giúp đỡ, Như trong luật nói phạm tội nặng là đồng khen ngợi sự chết, vì thế trong “Ký Quy Truyện” của ngài nghĩa Tịnh khiển trách người đời thiêu thân đốt ngón tay, ý cho rằng hạnh của Đại só Bồ-tát không thích nghi với Tỳ-kheo xuất gia. Từ xưa đến nay chương ký tương truyền dẫn lời răn dạy, người đọc ít nghe cho là sự thật. Đây là do không biết căn cơ có cạn có sâu, giáo chia ra hóa chế. Luật nói tự sát là phương tiện Thâu-lan-giá. Thiêu chỉ là đốt ngón tay, trái chế phạm tội Đột-cát-la như trong kinh Phạm Võng đã nói: Nếu không đốt ngón tay, cánh tay cho đến thân mạng thì không phải là Bồ-tát xuất gia, phạm tội khinh cấu. Đây là vì hạnh tiểu cơ gấp nơi tự hành, báo hết sẽ được siêu sinh, còn Đại só Bồ-tát thì chuyên lợi tha, trải qua trần kiếp rộng cứu giúp chúng sinh. Đây là dùng luật Tiểu thừa (luật Tỳ-kheo) để kết tội lớn kia. Đại giáo thì khen ngợi công sâu rộng kia, huống gì hai giáo Đại và Tiểu đều là lời của bậc Thánh, một bên thì đè ép, một bên thì riêng cao, đâu cho trái khác. Vả lại, kinh nói Bồ-tát xuất gia. Kia nói: không chấp nhận Tỳ- kheo, kia nói rằng: Xả thân không phải là việc làm của Sa-môn). Truyền nêu khổ hạnh khiển thân, đâu phải là chuyên vì thông tục (kia nói: Trong kinh nói sự (còn) thông tục). Ngài Kinh Khê cho rằng y theo Tiểu thừa không đốt thân thì dễ, y theo Đại thừa thiêu thân thì khó. Bảo vệ sinh mạng, tham sống, người và vật đều như vậy. Nay dùng nghĩa để phán, có ba trường hợp: Nếu vốn là người tại gia không ở trong lời nói chừng hạn, hoặc hoàn toàn không thọ giới. Đây là y trong kinh đủ chỉ rằng cúng dường hơn bố thí Quốc thành v.v… Nếu theo kinh Phạm Võng, đã thọ Đại giới thì thuận thể vâng giữ như vậy càng tốt. Nếu chỉ thọ giới Tiểu thừa thì hạn cuộc Tỳ-kheo, không thiêu thì thuận sẽ thành trì giới, thiêu thì y theo thiên tội mà kết phạm. Nếu gồm thọ đại giới gọi là Bồ-tát xuất gia, thiêu thì thành trì, không thiêu thì thành phạm. Hoặc trước thọ giới Tiểu thừa, sau thọ giới Đại thừa, hoặc trước thọ giới Đại thừa, sau thọ giới Tiểu thừa đều phán theo giới Đại thừa không phạm luật nghi. Như đây để nói thì phần thô có tiến chăng? Đâu được giống nhau một loại mà vội khiển trách là sai. Nhưng có người mạnh bạo cống cao, dối trá dụ dỗ người để được lợi dưỡng, quy thế thanh danh cố hoại pháp môn, chính là tên cướp nguy hiểm trong Phật pháp, tự tàn hại thân thể mình, thật là kẻ nghịch của Đạo Nho, thật là nhân ác, không hề có quả báo tốt. Thời nay có được một chút hưng thạnh nhưng tai điếc nào có biết, thì lời răn dạy của ngài nghĩa Tịnh cũng có giá trị. Kế, từ hựu trở xuống là khiển trách cho vật. Câu “Mạng chung trọng” đồng như “An sát cụ” ở trước. “Khoái tử”: Tức gọi là giết, do có thể cắt chặt người. Khiển trách thứ ba: Từ luật Tăng-kỳ trở xuống là khiển trách dạy sai. Câu “Dụng ngự trọng”: Tức đồng như sai sử vậy. Điển hình: Hoặc là quan lại, hoặc tức khoải tử. (bẻ giết mổ) Trong phần bảy nói tự sát, hai luật chế giống nhau. Vị trở xuống là giải thích kết tội Thâu-lan-giá ở trên, vì mạng hết giới mất không thể phạm. Trong phần không phạm, trước hết dẫn luật có hai: 1- Khai lầm mất. 2- Từ cập trở xuống khai cho nuôi bệnh. Do thuốc, thức ăn: Vì cho ăn mà chết. Qua lai ra vào: Lời chú giải trong giới chép: Dìu đỡ người bệnh vào phòng rồi trở ra lại; đây là giải thích dìu đỡ bồng ẳm ở trước. Nhưng trước y cứ vào năm ngồi, sau y cứ vào đi lại mà thôi. Hoặc có thể y cứ người nuôi bệnh ra vào, trong phần khuyết (thiếu) có giải thích. Trước dẫn Già luận: đều kết tội Thâu-lan-giá: Nếu không có tâm hại thì không xếp vào có phạm, nếu có tâm hại thì kết phạm tội nhẹ, tấn thối khó định, nay dùng nghĩa để cầu. Câu “Hễ người săn sóc bệnh” là có tâm mạnh yếu. Nếu người chăm sóc bệnh có tâm từ bi cứu giúp, nhưng vì lúc săn sóc người bệnh đã gây ra cái chết cho họ thì như luật đã khai là không phạm. Nói “Thất trị tử” nghĩa là vốn vô tâm nên không kết tội nặng. Gần nghiệp sát duyên thiếu nên phạm Thâu-lan-giá. Câu “tất cả không hại”: Câu trên là lược nêu, câu nầy gồm thâu. Nhưng y cứ theo vô tâm thì không chỉ có hai câu nầy. Cố trở xuống là dẫn thế tục để nêu. Không có ý mà chết nghĩa là lỗi lầm. Dùng vật để chuộc tội gọi là chuộc hình. Trong phần chú giải, hai câu trên nêu tướng lỗi lầm, hai câu dưới nói việc mà chết. “Nêu trọng” có chỗ nghiêng đổ đè ép, lên cao vượt ách sai khiến người. Thừa đăng. * Giới đại vọng ngữ. (Nói dối nghiêm trọng) Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại thành Tỳ-xá-ly. Bấy giờ gặp lúc lúa gạo mắc mỏ, bên sông Bà-cừu (Bà-cầu) có Tỳ-kheo an cư, khen ngợi nhau là đã chứng được pháp hơn người, nhờ đó mà được lợi dưỡng, do đó Đức Phật quở trách mà chế giới. Nói dối là tên chung, thêm Đại loại bỏ Tiểu, chỉ hạn cuộc xứng Thánh, nêu duyên có thể khác. Trong duyên trước sau thuộc sở đối, chặng giữa bảy thuộc năng phạm. Trong bảy thứ này, bốn thứ trước là tâm, ba thứ sau thuộc miệng. Nói cảnh hư nghĩa là thật không hề biết. Pháp hơn người là Thánh đạo vô lậu vì vượt hơn pháp phàm phu. Trong phần giải thích tướng, khoa đầu có hai: Dẫn tướng phạm: luật luận đã nói Thánh pháp có nhiều tứh, trong văn nêu chỗ cốt yếu để gồm thâu. Từ ngoại phàm trở lên cho đến cực quả, quán hạnh sở tu đều gọi là Thánh pháp, tức tu năm pháp quán dừng tâm, tướng chung, tướng riêng, niệm, Bốn thiền, Bốn không, v.v… Đây là pháp của phàm phu, chung cả pháp Thánh; cho nên đồng một phạm. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Bốn hướng, Tứ quả tức là pháp Thánh. Nếu hiện trở xuống là gây tạo lẫn nhau. Trên là chính nghiệp phát ra từ miệng thành phạm, không y cứ nghi khác. Đây là do thân tạo, nghiệp tướng không hiển, vì thế y cứ hai phán người nghi và tin. Từ luật Thập Tụng trở xuống là dẫn giải thích nghi ngờ. Nói cận Tiểu là sơ vị ngoại phàm chỗ có thể tu được. Trong vị cam lộ, tối thắng có thể dụ cho Thánh đạo. Khoa kế, giới sớ hỏi: Trời rồng đến cúng, phàm còn cảm phát, có tội gì mà nhập vào Thánh. Đáp: Tướng chung Thánh cho nên đồng. Nhất trọng lại quá cái mà người thường có. Trong phần ba xen lẫn lộn, giới nầy không khai. Sớ chép: Do mới vừa hiện đạo đức lại mưu đồ dối trá người, hiện tướng Thánh để được lợi, cảnh tổn nghĩa mười, chỉ khiến nói xong lầm lộn đều phạm. Nếu y cứ theo pháp đã xưng khen, lầm lộn thì khai. Như trở xuống là muốn nói đây mà nói lầm kia. Trong phần bốn như trong luận đã giải thích, xưng là Phật thì phạm Thâu-lan-giá, có hai nghĩa: Một là thế gian, một là Phật, không có cái thứ hai, vì thế hai đầy đủ tướng tốt, khác với người đời không có người tin nhận, vì thế thời nay tức Phật mà cho là mình, không còn tiến cầu, y cứ đồng ở đây mà phạm. Kinh nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đây là chỉ lý đồng, phải biết về sự thì khác. Như nước tức nước, nước đâu thành dòng. Giống như quặng tức quặng vàng, không có dụng của vàng, đâu được dối xưng đồng bậc thượng Thánh để mê hoặc kẻ hạ ngu kia. Buông lung, biếng nhác, kiêu mạn cho là không tu, làm dơ uế mà nói diệu dụng. Như đây tức Phật, đâu chỉ các thầy. Kinh nói: Ngăn kia khắp tất cả chỗ thì núi sông, đất đai hoàn toàn là thân Pháp Vương, loài bò bay máy cựa đều là Như lai tạng. Đây đều là mê mờ thứ lớp Thánh phàm lẫn lộn, diệt pháp hoại người không có gì hơn đây. Tự mình không thông suốt ai lại noi theo. Sau chỉ như văn sớ, có hai: Không phạm năm tướng, đầu tiên khai thật chứng cầu người khác làm chứng. Văn khác ý đồng, lại cần Đại tăng. Cười giỡn nghĩa là thật không có ý dối người. Mau mau là nói không rõ ràng. Nói chỗ vắng là không cho người khác nghe Nói lầm là nói không như ý. Trên đây là nêu tướng, giai trở xuống là xử đoán phạm tội. Câu đầu kết chung năm phần trước; nhưng trở xuống là chọn riêng ba phần giữa, vì hai món trước sau không có chỗ phạm.