<經 id="n1801">THỈNH QUAN ÂM KINH SỚ XIỂN NGHÓA SAO (QUYỂN 1 4 ) HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN BÀI TỰA THỈNH QUAN ÂM KINH SỚ XIỂN NGHÓA SAO Sớ nầy do ngài Trí Giả giảng, ngài Chương An ghi chép. Xưa nay, bậc thầy của loài người, không nghe khen ngợi thuật lại, việc truyền trao bị dứt, kẻ hậu học thường chẳng biết tên hoặc biết tên mà chưa cầm được quyển sách. May thay! bản văn này chưa mất, thông suốt một đường. Tôi vốn kém cỏi nhưng cũng rất đau lòng; nếu cứ im lặng thì lấy gì truyền lại cho đời sau; tôi bèn nhân thời gian bị bịnh, y theo văn mà bày nghóa, dùng bút chép ra. Toàn bộ hai quyển, ngõ hầu bày tỏ rõ ràng ở ý chí lớn, khai phát đối với kẻ ngu. Viết xong bèn soạn lời tựa, để nói lý do, lại đặt tên là Xiển nghóa. Bài tựa này viết khi đang bệnh ở trên tháp phía Nam, ngày mồng ba đầu hạ, năm Kỷ Dậu đời Tống. ---------------------------- THỈNH QUÁN ÂM KINH SỚ XIỂN NGHÓA SAO Sa-môn Thích Trí Viên ở Tiền Đường đời Tống soạn <卷>QUYỂN1 Bốn chữ “kinh Thỉnh Quán Âm” là tên riêng của Sớ, Sớ là tên chung, vì giải thích các kinh nên gọi chung là Sớ. Vì để phân biệt nên gọi tắt bốn chữ. Sớ là sơ, là quyết, giải thích lý văn kinh, quyết định nghóa thú. Nhưng người trí giải thích kinh đề gọi là huyền nghóa, giải văn gọi là văn cú. Huyền Văn hợp thành một bộ ấy thời đề là sơ, nay đã hợp lại nên đề là Sớ. Thiên Thai là núi nơi ở, Trí Giả là người giảng kinh. Xưa, khi vua Dương Đế đời Tùy làm Tấn Vương, đã thọ giới Bồ-tát với Đại Sư, bèn y theo kinh Địa Trì đặt hiệu cho Sư, hiệu là Trí Giả. Đại sư là danh từ khen ngợi. Sư là gọi người dạy đạo. Người xưa dạy phép tắc hạnh kiểm cho người, người ấy được gọi là Đại sư. Đến đời Đường, vua Ý Tông bổ vào làm quan, từ đó về sau tuy có sự thật như vậy nhưng chẳng dám vời. Nói: là nói năng bàn luận, chẳng phải cầm bút viết. Văn nầy do đệ tử Chương An ghi chép cho nên chẳng ghi húy, mà ghi danh hiệu. Đệ tử: là người bỏ cha theo thầy, kính thầy như cha, thầy khiêm nhường nên coi như em, do đó mà biết danh từ đệ tử có nghóa ẩn tàng là kính nhường; Thầy vời trò là đệ tử nằm trong chữ Nhượng. Trò cũng tự xưng là đệ tử nằm trong chữ kính. Tuy có các thuyết khác nhau nhưng ở đây y theo Tịnh Danh sớ. Pháp sư Đảnh, húy là Quán Đảnh, tự và Pháp Vân, người ở Chương An thuộc Lâm Hải, gọi là Pháp sư Đảnh, Sớ này vốn không có tên người ghi chép, do người sau hình dung ra cho nên không ghi tên húy người ấy, là lễ. Như Pháp Hoa Hành Nghi Pháp Giới Thứ Đệ, là do Đại sư đích thân soạn ra cho nên đều tự ghi tên húy, cho đến các bộ sớ khác hễ đệ tử ghi chép lời giảng của Đại sư , đều ghi là do Đại sư Trí Giả giảng. Lại nữa, như Niết-bàn Sớ đã được sự hiệu đính của ngài Kinh Khê, cho nên cũng ghi là do Pháp sư Đảnh soạn, đây là nêu bày nghi thức. Lai là phép tắc. Sách Lễ nói rằng hai tên ấy chẳng phải tên húy riêng, nghóa là hai chữ danh từ ấy chẳng phải đều là tên húy. Cho nên ở đây gọi Đảnh mà không gọi quán. Lại nữa như húy của Đại sư là Trí Khải, ở đây gọi Trí là chỉ một chữ húy, riêng húy ấy chẳng phải xưa, là sự tiết lược của người đời sau, nhưng thi thơ chẳng phải húy, lâm văn chẳng phải húy. Người giảng gọi đầy đủ cho nên không có lỗi. Trong Pháp Hoa có năm loại Pháp sư, một là Thọ trì, hai là Đọc, ba là Tụng, bốn là Giải thích, năm là Viết chép. Ở đây Chương An là người giải thích, cho nên người được vời là Pháp Sư. Ký là ghi chép lời giảng của Pháp sư. Kế là đi vào chính văn. Từ đây v.v… trở xuống chia ra khoa tiết, phần nào ấm hành riêng thì không biên vào. Về người, pháp thì, “Thỉnh Bồ-tát Quán Thế Âm” là người. “Đà-la-ni tiêu phục độc hại” là pháp. Nếu nói về tự độ thì nên để pháp trước người sau, vì các Phật là bậc Đạo sư nên nói là pháp, Quán Âm do ngộ pháp mà thành đạo. Nay nói về độ tha cho nên để người trước pháp sau, vì pháp chẳng vượt ngoài sự mở rộng của người, cho nên Quán Âm nói pháp sở chứng, đối trị độc hại của ba chướng khác. Do đó đề kinh là người trước pháp sau. Người phát khởi lòng từ vô duyên, vượt ngoài pháp chúng sanh kia nên gọi là Chí từ, Đạo vượt hơn phàm phu Tiểu thừa nên gọi là Đại só, lìa cái xấu của hai bên nên gọi là Chí Lương, đối trị chướng ngại chẳng luống dối nên gọi là Thần chú. Đại só là người năng thuyết, thần chú là pháp sở thuyết, chí từ là làm rõ đức của Đại só, chí Lương là công năng tốt đẹp của thần chú. Quần cơ là người Nguyệt Cái và Tỳ-xá-ly. Năng thì đối lập với sở. Nếu quần cơ là năng cảm thì Quán Âm là sở cảm. Quán Âm là năng cảm thì quần cơ là sở cảm. Nay bực Thánh mất đi sở cảm gọi là năng ứng, hễ mất đi sở ứng gọi là năng cảm, đều do công lực từ năng mà gọi; cho nên hễ do lý đầy đủ ba ngàn; năng cảm bậc Thánh do ba ngàn phân chia hiển bày nên thuộc về năng ứng. Tiêu phục v.v… tiêu là tiêu trừ, phục là điều phục, ba chướng là gọi chung các thứ độc hại. Kinh nói rằng tiêu trừ ba chướng, không có các năng lực xấu ác, là dụng; lại nữa, vì sanh điều lành nên nói là Lực. Diệt ác nên nói là Dụng. Chú này dụng của nó là tiêu trừ ba chướng, hiển phát năng lực của ba đế. Chính thể là ba đức. Thử gian đẳng: Đà-la-ni là tiếng Phạm, Hán dịch là Già trì. Ba nghóa gồm trì danh, trì hạnh và trì nghóa. Hai bên là sanh tử, Niết- bàn, biết lý của ba đức ngay nơi tịch là chiếu, năng trì ngay nơi chiếu mà tịch, năng già là dụng, tức dưới đây sớ nầy giải thích đề. Gồm có ba thứ, nói cả ba nghóa, một là người năng thuyết, hai là pháp sở thuyết, ba là kinh tổng đề nhân và tổng đề, sẽ nói ở phần dưới. Pháp có ba nghóa, chính ở văn này, cho nên đến phần giải thích riêng sẽ giải thích. Hai là văn chung, riêng xen nhau hiện ra ở nghóa ấy. Đó là sự nói pháp khéo léo của Đại sư, sự tài ba của nét bút Chương An. Song bộ nầy chung cho bốn giáo và ba thứ, ba nghóa đều y theo viên để nói về chỉ của văn luận, cho nên đúng với đường lối tu hành, sâu thâu cạn nhiếp, đúng với bổn ý của Phật. Người nói, người quán phải suy nghó phân biệt cho đúng đắn. Về sự, ba đoạn văn dưới đều trực tiếp nêu bày sự độc hại để nói lên việc tiêu trừ điều phục, là kinh nói rằng khi gặp cọp sói, sư tử và thuốc độc, dao kiếm sắp đến chém giết mà xưng danh niệm chú liền được giải thoát, đều nói về sự tiêu phục. Năm trụ nghóa là ba cõi thấy là một, ba cõi nghó là ba, đầy đủ vô minh cội gốc thành năm, đều là pháp mê mờ phiền não khuấy rối tâm tánh, gọi chung là phiền não, tức gọi phiền não này là cọp sói v.v… kinh nói dứt sạch cội gốc của ba độc, chẳng bị ba độc v.v… là nói về chứng cứ rõ ràng của hành, cho nên dưới đây giải thích cọp sói, dẫn kinh Kim Quang Minh cho rằng bậc Thập Địa còn bị nạn cọp sói chính là ý này. Tu nhất tâm ba quán, phá năm trụ hoặc là y theo hành mà tiêu độc. Pháp giới vô ngại ba đế nhất tâm gọi là pháp giới, chúng sanh và Phật xen nhau dung thông đều chẳng ngăn ngại, nên gọi là vô ngại. Về không nhiễm mà nhiễm, Tịnh Danh Sớ nói rằng: Tâm Trung đạo tự tánh thanh tịnh, không bị phiền não làm ô nhiễm, vốn chẳng có buộc mở, không nhiễm mà nhiễm, khó có thể biết rõ được. Tức là chúng sanh mê mờ chân tánh giải thoát, khởi sáu mươi hai kiến chấp. Xét ý nghóa lời nói nầy và vô minh tạo khắp các pháp, tức không nhiễm mà nhiễm, toàn lý tánh thành độc gọi là lý tánh. Độc do lý độc cho nên liền có hành độc, sự độc. Ở đây, quán các pháp duy tâm, thể nhiễm đều thanh tịnh, tức thần chú đối trị độc của lý tánh thì khác với hành ra sao? Đáp: trước đây nói về hành là nói về trí đoạn, trí tức là năng đoạn, đoạn là sở đoạn, năm trụ đoạn xứ gọi là tiêu hành độc. Ở đây thì không phải như vậy, chuyên nói về đế lý, lý chẳng phải năng sở, chỉ do đầy đủ hoặc tức là không nhiễm mà nhiễm, gọi là độc hại, hoặc tức là pháp tánh, tức là nhiễm mà không nhiễm, gọi là tiêu phục. Cho nên tánh của hoặc đối đãi nhau, chẳng quan hệ trí đoạn. Có chỗ cho rằng tánh ác là lý độc, nghóa độc tuy thành nhưng nghóa tiêu trừ hoàn toàn thiếu sót. Nếu không có nghóa tiêu thì đâu gọi là dụng? Nếu nói rằng có thì nên bỏ tánh ác, pháp môn tánh ác không thể phá được. Năm lớp chú thích ở dưới, thứ lớp nêu rõ chẳng phải giả. Trước là nêu tên v.v… trở xuống là chỉ rõ năm chương. Hễ giải thích tên thì phải nói chung về ba pháp: Thể, tông, dụng, nói riêng ba pháp giáo tướng, phân biệt ba pháp. Người pháp là tên, thỉnh là năng cảm, Quán Âm là năng ứng, tức cảm ứng. Tông tiêu phục độc hại nói về năng lực kia, dụng là công dụng của cứu nguy nhổ gốc khổ. Đà-la-ni nói rõ chính thể tức thể của pháp thân. Giải thích tên gọi nói chung là ở đây. Linh cho đến chí là thể, kinh chung ở cả bốn giáo, lý có thiên, viên. Nếu nói về chính thể thì chỉ lấy viên lý, linh tri vắng lặng đều là pháp thân, tức là nghóa của chiếu, nhưng tịch chiếu chẳng phải hai. Bồ-tát đã từ quán trí mà đặt tên, vì sở từ năng nên dùng nghóa chiếu làm thể. Trường hợp nầy nếu dùng chỉ định làm danh, thì nên dùng nghóa tịch làm thể. Linh tri tức pháp thân linh minh bản giác. Tịch chiếu là linh tri, pháp thân nầy ngay nơi tịch mà chiếu. Nên biết ba thân đều thường, ba đế đều chiếu. Từ Thắng từ Bản để chỉ cho pháp thân. Lại nữa thể tánh vốn một, nhưng có nhiều tên gọi, vì thế khiến cho các văn nói về thể, theo văn ước nghóa, tên gọi khác nhau. Pháp Hoa nói về khai quyền, thật tướng là thể. Niết-bàn nói về sự vắng lặng, tức tánh tịnh Niết-bàn là thể. Phổ Môn nói về hai thân, mới đem linh tri hợp với pháp thân làm thể. Linh tri là báo thân, báo thân hợp với pháp thân. Nghóa mà hai thân làm sáng tỏ chính là chân thân. Cho đến nếu kinh này ba vị Thánh giáng lâm tiêu biểu cho ba đức, thì nên lấy pháp thân làm thể của kinh. Lại nữa, phẩm Phổ Môn nói tùy loại mà hiện thân, kinh này nói nghi thức vị Thánh chúa đến. Nói về nghóa thân thì tiện lợi nên trong phần nói về thể đều đặt tên của thân. Về cảm ứng làm tông, “Nguyệt Cái trí thỉnh” là chiêu cảm ba vị Thánh, “viễn giáng” là ứng. Giáo pháp hưng thạnh do đây, cho nên dùng làm tông, song các kinh hoặc dùng nhân quả làm tông, nhưng với kinh này, nói nghóa chẳng tiện. Vì sao? Vì nói nhân quả đều thông, phàm Thánh đều có. Như người Xá-ly đến xin cầu cứu là nhân, vị lai chứng đạo là quả. Ở đây, nhân quả đều có. Quán Âm, thuở xưa khi còn ở giai vị phàm phu là nhân, nay ở phần chứng là quả. Bậc Thánh này có nhân quả. Nay vì phàm tuy có nhân quả nhưng lấy cảm làm tên, bậc Thánh tuy có nhân quả nhưng dùng ứng làm tên. Cho nên dùng cảm ứng làm tông. Cứu nguy nhổ gốc khổ làm dụng vì xá-ly bịnh khổ, nạn khổ treo ngược, dùng đại bi cứu giúp cho bình phục như xưa, cũng cho vui nhổ gốc khổ làm chính. Về Đại thừa là giáo tướng, bao trùm là đại, vận tải là thừa, giáo thì lời bậc Thánh bao trùm người dưới, tướng thì phân biệt giống nhau, khác nhau, tuy bộ nầy nói về bốn giáo, nhưng ba giáo Đại thừa là ý chính. Ba nghóa vãng giản, vì y theo sự tu hành trước sau, ba nghóa thâu tóm tất cả, y theo giáo pháp tu hành thành khế lý. Vì ba nghóa đều có chung, riêng cho nên có tên chung, riêng. Ba ý này là ý chỉ của hai tên chung, riêng. Nếu dùng vị phần tức y theo giáo, thuộc về danh tự vị nhân. Nương vào giáo mà sanh hiểu. Nói về hành thuộc về quán hạnh tương tự, nương giải thoát tu hành. Nói về lý thì ở Sơ Trụ, phần chứng bổn lý. Nhưng nói về hành lại phải tu từ dụng. Nếu nói về sự tu tạo thì vẫn phải ở danh từ, chính khi hạnh thành mới gọi là quán hạnh, phải phân biệt giai vị mới biết ý chỉ nầy. Giáo ở dưới có giải thích. Ba nghóa này là nói về lý, nói về hạnh, đều đối với lý tánh mà làm thông biệt, hành biệt, đồng quy về một lý. Tên khác nhau nhưng trước y theo giáo thì không đối lý. Nói Thanh Văn, Thanh là tiếng bị nghe, giáo là tám âm bốn biện. Văn là căn cơ năng văn, dùng nhó thức để phân biệt. Đại luận nói: Nhó căn không mất tác dụng, có âm thanh thì nghe được; cơ nghi khác nhau thì lời nói sẽ khác nhau. Lời nói đã khác nhau thì các bộ mới khác nhau. Kinh này kinh kia đều có tên gọi khác nhau, nên nói là tên khác nhau. Các đệ tử khác tức là Hiền Thánh Ba thừa. Hỏi: Trí Luận nói: Kinh Phật do bốn hạng người nói, đó là đệ tử, các tiên, các vị trời, và hóa nhân, sao ở đây nói chẳng phải? Đáp: được Phật ấn khả thì đều gọi là Phật nói. Như kinh nầy, Quán Âm nói chú, Thân Tử nói bốn đại đều nhập vào mé thật, được Phật ấn chứng nên gọi là Phật nói, vào đạo nhiều đường, chí lý thông suốt thấu tỏ là Đạo. Các kinh gọi là bốn tất-đàn. Tùy căn cơ nêu bày con đường để vào lý, chẳng phải chỉ một loại, nên nói là nhiều đường. Về quán môn có khác nhau, như bốn hạnh an vui của Kinh Pháp Hoa là cửa vào lý. Kinh nầy dùng sổ tức v.v… làm cửa vào lý. Lại nữa, bốn giáo, bốn môn khác nhau đều là nghóa khác. Khế đạo: Là khế hội chân đạo, tức vào thời phần chứng ba đức của Sơ Trụ, cho đến địa vị này thời tu tánh hợp nhất, không phân chia lại. Cho nên nói đồng trở về một lý. Lý: là hướng lý đã khế hợp của quán môn. Chân như: Thể chẳng phải luống dối nên nói chân tánh không thay đổi khác được. Xứng với như, chẳng hư danh, thật chí cực gọi là tế, chẳng phải tướng sanh tử, chẳng phải tướng Niết-bàn gọi là thật tướng. A-lê-da cũng gọi là A-lại-da, Hán dịch là Tàng thức, dùng tự thể năng tàng để chứa đựng các pháp trong tự thể. Đây đều là tên khác của nhất tâm tam đế. Hỏi: sao chẳng dùng tịnh thức thứ chín làm tên để giải thích lý ư? Đáp: Đại sư y theo Địa luận nói thức A-lại-da là tịnh thức chân thường, chẳng lập thức thứ chín. Nếu theo Nhiếp Luận thì lại-da là thức vô ký vô minh tùy miên. Thức thứ chín mới gọi là tịnh, do đó biết rằng hai luận tùy theo căn cơ cho nên khác nhau. Nếu y theo nghóa Tức thì chỉ đến thức thứ tám. Như nói rằng ngay nơi vô minh là pháp tánh. Nếu y theo nghóa Ly mới lập thức thứ chín giống, như nói dứt bỏ vô minh tức là pháp tánh. Nếu hiểu tông nầy thì đáng lẽ không có tranh cãi; chẳng tức chẳng ly, một thể không khác, vừa tức vừa ly thì đâu ngại gì lập hai? Ví dụ sóng và nước, ý chỉ có thể biết. Trong người và pháp là nói nguyên nhân. Đà-la-ni là ba đức, là pháp sở chứng. Quán Thế Âm tức là người năng chứng, tự đã chứng ba đức, nay nói chú này giúp người khác cũng chứng ba đức. Cho nên pháp nhờ người truyền, người nhờ pháp mà lập. Thành nhau, tức nhau chẳng thể tạm phân chia. Nay thuận theo đề kinh nói về nghóa giáo hóa người khác, cho nên trước nói người, sau nói pháp. Về tự thỉnh, sao ở đây hỏi, Thân tử căn cảnh tương ưng nhiếp trụ, tự làm cửa vào đạo. Cho nên gọi là tự thỉnh. Nguyệt Cái vì Xá-ly bệnh nặng cho nên Phật nói kệ phó chúc truyền bá cho người, vì giữ gìn chánh pháp. Ba thứ này đều gọi là thỉnh Quán Âm. Nếu nói về văn kinh thì vì người phải ở đầu. Nay y theo nghóa tiện cho nên trước nêu phần tự thỉnh, vì tự thỉnh ý hẹp vị tha, kế là hộ pháp rất rộng, từ hẹp đến rộng, là thứ lớp. Hỏi: Tư-na thỉnh, Thân Tử nói sáu căn, Như-lai phó chúc tám bộ. Sao gọi là thỉnh Quán Âm? Đáp: Quán Âm từ xa giáng, ý ở chỗ nói pháp đối trị các chướng; điều Tư-na thỉnh cũng là pháp này. Như-lai phó chúc tám bộ cũng chỉ làm cho pháp này tồn tại lâu dài ở đời. Nói về người, tuy có khác nhau nhưng pháp môn chẳng khác nhau. Dùng pháp để nói về người đều là thỉnh Quán Âm. Ba lần thỉnh đối với ba nhóm giới, nên lấy thứ nhất đối nhiếp luật nghi, thứ ba đối nhiếp pháp thiện. Kinh Anh Lạc nói: Luật nghi giới là mười ba-la-di. Giới sớ nói rằng, nhiếp luật nghi làm cho tâm an trụ v.v… Điều nầy cùng ý nghóa hợp với kia đây tự thỉnh. Kinh Anh Lạc chép: Giới nhiếp thiện pháp là tám mươi bốn ngàn pháp môn. Giới sớ nói rằng: Nhiếp thiện tự thành Phật pháp. Ở đây tương ưng với Như- lai hộ pháp thỉnh. Kinh Anh Lạc chép: Nhiếp chúng sanh nghóa là từ, bi, hỷ, xả, hóa độ chúng sanh giúp cho được an vui. Giới sớ nói rằng: Nhiếp chúng sanh thành tựu chúng sanh, ở đây tương ưng với Nguyệt Cái vị tha thỉnh. Ấy cho nên ba thỉnh của kinh này tức ba nhóm. Tên ba nhóm này xuất xứ từ Phương đẳng Địa Trì, hơn nữa, văn nói tự thỉnh là nhiếp pháp lành, hộ pháp là thu nhiếp chánh pháp, hoặc là văn lầm lẫn, hoặc có căn cứ riêng. Nếu được dưới đây nêu ba giới vốn dung thông. Văn trước đã đối ba nhóm; trong đây chỉ hội hai tên, cũng sợ văn lầm. Nên nói: tự thân giới trong sạch tức là nhiếp luật nghi, định tuệ sáng sạch là nhiếp pháp lành. Sáng sạch là tương tự phần chân, cũng có nghóa quán hạnh chung. Trích dẫn Hoa Nghiêm: các pháp do tâm, ba thứ giới, định, tuệ ngay nơi tâm sẵn có. Tâm ta đã như vậy, chúng sanh và Phật cũng như vậy. Kia, ta dung nhau cho nên chẳng khác nhau. Vì chẳng khác nhau cho nên Phật nói chỗ đã chứng cho ta nghe, tâm ta thanh tịnh trở lại có khả năng hóa độ người. Nghóa của ba nhóm là ở đây. Mới biết ba thỉnh thể nó vốn dung thông. Hai bên v.v… trở xuống thì tự hành là chính, như kia đây thì vì người là chính, như Nguyệt Cái hộ pháp là chính, như Như-lai chính phụ luận bàn lẫn nhau, đều đủ ba thỉnh. Hành giả đời sau suy nghó đến đây, hết sức rốt ráo. Về yếu tâm, yếu là yêu cầu mong mỏi, dẫn chứng dưới đây. Trước đã nói tự thỉnh hợp dẫn, văn kia đây thỉnh. Nhưng Nguyệt Cái dẫn văn rõ ràng dễ hiểu. Nói theo phụ Chánh thì ba thỉnh đầy đủ lẫn nhau, dẫn chứng lẫn nhau, không giới hạn phạm vị. Mục đích chỉ là thỉnh Quán Âm, chẳng phải các vị Thánh khác. Thực hành thỉnh, tuy không nêu tâm để thực hành tịnh, tự nhiên cảm Thánh tức thực hành tịnh, vì thế thỉnh nầy gọi là hành thỉnh, chứng thỉnh cũng vậy. Tam-muội Niệm Phật cũng giống như Kinh Bát chu Tam-muội, khi thành tựu thì thấy mười phương Phật đứng trong hư không v.v… vì nói tuy chẳng nêu tâm, mà chứng lý thì tự thấy Quán Âm. Hành thỉnh địa vị ở quán hạnh, chứng thỉnh địa vị ở sáu căn và Sơ Trụ. Nêu tâm nhất là địa vị có cả sâu lẫn cạn, thân nghiệp v.v… trở xuống chẳng hạn như nói miệng, ý đều có đủ ba thỉnh. Văn hồi hướng tuy nói là ba nghiệp không có dấu vết mà chính ở thân nghiệp. Hỏi: khẩu nghiệp trái ngược, thân nghiệp có thể như vậy không! Ý nghiệp thì sao? Nói nêu tâm v.v… ư? Đáp: Nếu y theo Quán Tâm tâm mạch của kinh nầy thì thấy Quán Thế Âm, là nêu tâm. Nếu theo kinh Pháp Hoa, Niết-bàn thì chỉ quán tướng thật của tâm tánh, nhập quán hạnh đẳng vị thì tự thấy Quán Âm, ở đây ban đầu không nêu tâm cho nên hành thỉnh, chứng thỉnh. Nhưng, thỉnh ở luận này đều nói về thấy ứng thân kia. Nếu nêu tâm không cảm thì do đời trước và hiện tại duyên mỏng cạn, chẳng phải nghóa thỉnh ở đây, chẳng nêu mà cảm, đây là do duyên quá khứ, hiện tại sâu dày, chính là nghóa thỉnh ở đây. Ý nghóa của nêu tâm phục cảm có thể biết. Vị Thánh này đã như vậy thì các vị Thánh khác cũng vậy. Vả lại, ba nghiệp của chúng sanh mạnh yếu xen nhau, mạnh có thể là căn cơ. Cho nên đối với ba nghiệp mỗi nghiệp đều nói về ba thỉnh, đủ mười hai thứ trước, nghóa là tự tha hộ pháp, mỗi thứ đều có đủ ba duyên cầu nguyện, là mười hai. Hỏi: hộ pháp đã là Như-lai phó chúc vì sao cũng nói về ba nghiệp, luận nêu tâm đẳng thỉnh? Đáp: kinh tuy phó chúc mà hành nhân đâu không vì hộ chánh pháp mà thỉnh Quán Âm ư? Chín cõi luận thỉnh: Cho đến Bồ-tát Tam giáo vì dứt trừ ba chướng ngoại giới phải thỉnh Quán Âm Viên giáo. Cõi Phật phải phân biệt nên hỏi rằng: Chín cõi có thể như vậy, cõi Phật làm sao thỉnh ư? Đáp: Danh Tự, Quán Hạnh Tức Phật vì dứt trừ ba chướng ở phần đoạn nên phải thỉnh Quán Âm của phần chứng, Tương Tự tức Phật vì trừ ba chướng ở biến dịch cũng vậy. Đối với phần chứng mỗi địa vị xen nhau mà làm, cho đến Đẳng giác vì dứt trừ ba chướng thỉnh Quán Âm rốt ráo. Đây là nói về Viên giáo, Năm tức đều gọi là cõi Phật. Nếu chấp lấy giai vị rốt ráo để làm ngược năng thỉnh, vì chúng sanh mà dứt căn cơ ác ở Quán Âm, cho nên phải thỉnh. Cho nên kinh nói: Bấy giờ, Đức Thế tôn thương xót chúng sanh che chở giữ gìn tất cả, lại thỉnh Bồ-tát Quán Thế Âm v.v… Bồ-tát đầy đủ các đức, viên chứng thật lý cho nên đầy đủ các đức. Văn-thù, gọi đủ là Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức, do thấy ba đức, Phật tánh chẳng ngang chẳng dọc nên gọi là Diệu Đức. Đại kinh nói thấy rõ ràng Phật tánh giống như Diệu Đức v.v… Di-lặc, Hán dịch là Từ Thị, một thể ba Từ, chẳng chỗ nào không thâu nhiếp, cho nên lấy đó làm tên. Cho đến nói v.v… trở xuống là nói thể tánh vốn viên dung, giải thích đều đầy đủ nghóa các đức. Cho nên: cả ba thứ đức, từ, trí là một thể nhưng khác tên, xoay vần dung nhiếp lẫn nhau. Vì ba đức, ba từ, ba trí, thể chẳng khác nhau, vô duyên chủng trí đều nói theo “thắng”. Trong thể song chiếu, Từ Trí đều đủ cả ba, nhưng ở dưới nói, tùy cơ lập hiệu. Nên ghe là hễ nghe được gì đều có bốn lợi ích, vì thế mỗi pháp đều lập hiệu. Đồng là nhân địa, là đều là nhân chân thật. Đều nói nhân của thân, kinh Niết-bàn phẩm hai mươi hai chép: Năm trăm Tỳ-kheo hỏi Thân Tử rằng, Phật dạy nhân của thân, điều đó thế nào? Thân tử đáp: các ông cũng đều được chánh giải thoát, lẽ ra nên tự biết, vì phương tiện gì mà hỏi như vậy? Có Tỳ-kheo nói khi chúng tôi chưa được chánh giải thoát, ý nói rằng vô minh tức nhân của thân, khi khởi quán như thế thì đắc quả A-la-hán, có nói ái, có nói hành cho đến uống ăn, năm dục. Như vậy, năm trăm vị Tỳ-kheo cùng ở chỗ Phật đều nói đã giải thoát. Thân tử bạch Phật: ai nói đúng? Phật dạy: Tất cả đều nói đúng. Về ba mươi hai thì trong kinh Tịnh Danh, ở pháp đầu Bồ-tát Tự Tại nói sanh diệt là hai, bất sanh bất diệt là chẳng phải hai. Cho đến Văn-thù nói rằng: không nói, không nêu bày là nhập vào không hai. Cộng chung là ba mươi hai vị, nếu tính luôn cư só im lặng thì là ba mươi ba. Đồng nhập v.v… trở xuống, năm trăm Tỳ-kheo, bốn mươi tám Đại só, năng nhập tuy khác nhưng sở nhập không khác. Y theo khóa tiết nói năm trăm vị hướng về thật. Như Quán kinh sớ nói rằng bốn lần bốn là mười sáu, đồng hướng về thường lạc. Nhất lý, muôn pháp tuy khác nhau nhưng tâm tánh thường đồng nhất, cho nên nói nhất lý. Sở só cũng có khác là vì nghóa thú có khác. Đây là lý thể tuy đồng nhưng nghóa khác, tên gọi khác. Như lý có nghóa là chiếu khắp, cho nên đặp ra danh từ Quán trí. Lý có nghóa nhiếp khắp, cho nên đặt ra tên gọi Từ Thị. Danh nghóa tuy khác nhau nhưng chỉ là một lý, cho nên nói là chẳng lìa lý. Trong giải thích tên khác trước nên chia làm hai đoạn. Ban đầu nói về cảnh trí thích ứng, kế là nói về giới nghiệp thích ứng căn cơ. Giải thích chung riêng: Giải thích chung tức cảnh trí hợp nói. Giải thích riêng tức cảnh trí khai nói. Nói phá lập, vì danh từ Quán Âm vốn là cảnh trí không thể suy nghó, bàn luận của ngoại giới, thuận theo cơ duyên cũng là cảnh trí không thể suy nghó bàn luận, đều dứt bặt bốn chấp, xa lìa trăm lo. Người đối với ở đây khởi bốn tánh chấp, nên trước bác bỏ bốn chấp, đã phá bốn tất bị vật thì tạng cảnh trí thành, cho đến viên cảnh trí thành, cho nên phải lập sau. Về phá thì ở dưới trước nêu đặt tên cảnh trí để làm sở phá, Thế là ba thứ thế gian. Nay hỏi cảnh trí đối diện nhau ở dười đều có bốn câu, trong văn đều có giải thích. Tự cảnh cố cảnh v.v… nghóa là cảnh tự là cảnh, trí tự là trí, chẳng có nhân tương quan nhau. Đây là tự sanh. Nếu nói cảnh tự là cảnh thì cảnh chẳng nhờ trí chiếu mà cảnh nầy tự sanh. Nếu nói trí tự là trí, trí chẳng do cảnh phát, là trí tự sanh thì trong đây chỉ hỏi câu đầu, ba câu còn lại theo đó mà biết, nên nói là đẳng. Nếu muốn hỏi đầy đủ thì câu kế nên nói do cảnh cho nên trí là trí tha sanh, nếu do trí cho nên cảnh là cảnh tha sanh. Vì sao? Vì tự cảnh cho nên cảnh gọi là cảnh, vì tự lấy cảnh đối diện với trí, trí tức là tha, nay, cảnh nầy từ trí sanh, đâu chẳng phải là tha cảnh trí, cũng vậy, nếu hợp cảnh cũ, vì hợp cho nên trí, đây thời cảnh không do trí cho nên thuộc về cảnh, cũng chẳng do cảnh cho nên là cảnh, Trí cảnh nhân duyên hòa hợp cho nên cảnh trí cũng vậy. Đó tức là cộng sanh, cộng sanh có hai lỗi, rơi vào trong tánh tự tha. Nếu chẳng phải trí chẳng phải cảnh, cho nên là cảnh, cho nên là trí, đó là do lìa cảnh lìa trí, không nhân duyên mà biện cảnh trí. Từ nhân duyên còn chẳng thật có, huống chi chẳng có nhân duyên ư? Bốn thứ này đều là vọng tưởng suy lường, cho nên phải phá bỏ. Hỏi: Phật pháp đều nói là nhân duyên hòa hợp thì vì sao bác bỏ cộng sanh. Đáp: Vì chấp cố định cho nên cũng phải phá, bốn chấp bác bỏ rồi thì bốn thuyết không có lỗi. Về cái mà Trung Luận bác bỏ thì luận nói: Các pháp không tự sanh, cũng chẳng từ tha sanh. Chẳng cộng chẳng vô nhân, cho nên nói vô sanh. Long Thọ đã bác bỏ, đâu thể như trước chấp nhất bốn thứ, cho là nói dối ư? Sáu mươi hai kiến chấp, nghóa là ta lớn, sắc nhỏ, sắc lớn, ta nhỏ, ngay nơi sắc là ta, lìa sắc là ta. Bốn ấm cũng vậy. Ba đời, năm ấm cộng chung thành sáu mươi, chẳng lìa có, không. Cho nên sáu mươi hai thứ kiến chấp đều thuộc về biên kiến. Nay đối với cảnh trí khởi bốn kiến chấp ấy, thật ra cùng khởi với tám mươi tám sử. Nói lược biên kiến và ba thọ, nếu nói đầy đủ thì hễ chấp một câu cho là ta hiểu rõ pháp này, đối với pháp mà chấp Ngã thì đó là thân kiến. Chấp hai câu một và ba thì rơi vào hữu biên, chấp hai câu hai và bốn thì rơi vào vô biên, đều thuộc về sáu mươi hai kiến , tức là biên kiến. Vọng chấp như vậy chẳng hợp lý, Tức tà kiến chấp đây là thật, chấp là Niết-bàn, tức kiến thủ. Quả trộm cắp là đây là chỗ nương của Đạo, tiến hành tức giới thủ. Nhân trộm cắp có ba khổ, lạc thọ có khổ hoại, khổ thọ có khổ khổ, bất khổ bất lạc thọ có hành khổ. Lạc thọ thì ái v.v… là chấp một thứ cảnh trí là đúng. Nếu người khác khen ngợi thì tâm mê đắm, sanh hỷ mà tâm lạc chính là tham sử. Về khổ thọ, nếu người khác trái nghịch thì tức giận sanh sân mà tâm khổ là sân sử, bất khổ bất lạc là không vì khen, chê thì si sử đẳng phần, cũng thuộc về ba sử. Ta hiểu cảnh trí này, người khác không hiểu, vì chấp đắm, kiêu ngạo đối với người là mạn sử, đã chấp đây là đúng, nay dù chẳng nghi sau sẽ nghi lớn, tức là nghi sử. Cho nên mười sử rõ ràng, đều từ cảnh trí bị chấp mà sanh khởi, sẽ trải qua ba cõi, bốn đế, nên có tám mươi tám sử. Nay đối với năm lợi sử lược nêu biên kiến. Năm độn sử nói lược bốn phần. Tóm lại, vì cảnh trí bốn câu đều rơi vào một bên. Nương sở chấp này đều sanh ra ba thọ, tướng nó dễ thấy, cho nên lại nói. Như hướng tế luận, đầy đủ chín mươi tám sử trở xuống. Văn nói mỗi câu trong chín mươi tám sử gọi là thức bệnh. Về tám mươi bốn ngàn trần lao, Tam tạng Chân-đế y theo kinh Thập Sử, lấy mười thứ như tham v.v… làm cội gốc, nghóa là tham cho đến giới thủ mỗi thứ có chín, tùy miên một tức thành mười, mười lần mười thành một trăm, trước sau các phần, mỗi phần một trăm thành ba trăm. Từ gốc một trăm, trong hai trăm trước sau. Mỗi phần lại lấy thập sử làm phương tiện, hai trăm thành hai ngàn một trăm. Y theo năm loại chúng sanh, nghóa là nặng về tham, nặng về sân, nặng về si, chấp ngã, tư giác. Năm phẩm đều có hai ngàn một trăm, tức thành một muôn năm trăm, hợp đã khởi chưa khởi thành hai muôn một ngàn; lại hợp các phần tham, sân, si, bốn thứ này mỗi thứ có hai muôn một ngàn, thành tám mươi bốn ngàn. Nay nói bốn phần khai ra: hoặc số tuy nhiều nhưng bốn phần gồm thâu hết. Rốt ráo vắng lặng là không có bốn chấp. Không nương dựa: Là do vắng lặng. Hỏi: Ý ấy lý đã vắng lặng, sao có nhân quả của đạo, diệt ư? Đáp: ý ấy chỉ biết khổ, tập chẳng bị bốn chấp làm ngăn ngại, tức là đạo đế, sở duyên vắng lặng tức là đạo đế. Biết bốn v.v… trở xuống: Là nêu bày tướng Đạo đế. Ô uế năm ấm: Là chỉ quán nói chín thứ năm ấm, một sắc tâm gọi quả báo, bình thường tưởng thọ gọi vô ký, khởi kiến khởi ái gọi là hai món ô uế, nghiệp thân, miệng, ý, thiện ác chia hai, biến hóa hiển bày hiển hiện gọi là công xảo, người có ba gốc lành gọi là Phương tiện, bốn quả gọi là vô lậu. Nay đối với cảnh trí khởi kiến khởi ái nên nói là ô uế, bất thọ tức quán thọ là khổ, hai thứ còn lại lược bỏ không nói. Đạo phẩm v.v… là bình đẳng lấy ba, bốn, hai mươi lăm, bảy giác chi, tám chính đạo. Lại nữa, từ chính v.v… trở xuống là nêu tướng diệt đế, tức lấy năng quán làm Phật, sở quán làm Pháp, cảnh quán không hai làm Tăng, tam nghóa nhất tâm tức tam bảo đồng thể, hiểu rõ tức năng quán, ba quán, bốn chấp tức vọng hoặc bị phá, pháp tánh tức ba đế sở quán, cảnh quán chẳng phải hai gọi là hòa hiệp, mà đối với tâm chánh cần chỉ bày diệt đế. Dùng đạo phẩm nói về vị thì chánh cần là phàm vị trong Tiểu thừa. Vì Tiểu y theo Đại tức tương tự sáu căn của Viên giáo. Chứng tâm diệt vô sở trụ v.v… nghóa là bậc đại Thánh, trong không có bốn chấp, ngoài thuận theo cơ duyên khiến cho được bốn lợi ích. Nói cảnh trí khác nhau, nghóa là nếu người thích nghe tự sanh cảnh trí, tức nói cảnh là tự cảnh, trí là tự trí, vì hợp với tâm ưa muốn, hoặc nên nghe mà sanh điều lành, hoặc nói đều dứt hoặc, hoặc nghe thì ngộ đạo. Tha, cộng vô nhân cũng vậy. Cho nên kinh luận có nói. Hoặc cảnh hoặc trí không xuất xứ từ, v.v… cảnh trí bốn giáo nêu trong danh đều thuận theo bốn tất. Riêng Biệt giáo được tên gọi ấy, vì ra khỏi Giả vị, chính là dùng bốn tất giáo hóa người. Viên giáo gọi là không thể suy nghó, bàn luận là nói ba giáo trước đều có thể suy nghó, bàn luận. Nhưng bốn cảnh, bốn trí đều là giải thích chung hai chữ Quán Thế. Nên biết khác nhau thì văn rất dễ hiểu. Hai thứ trước dùng tâm sanh sáu cõi, ba thứ thế gian làm cảnh, còn trí có sự khác nhau về thể tích. Biệt giáo lấy tâm sanh mười cõi, ba thứ thế gian làm cảnh, dùng Trí thứ lớp. Viên giáo dùng tâm đầy đủ mười cõi, ba thứ thế gian làm cảnh, dùng nhất tâm ba trí. Tất cả pháp từ duyên sanh, nhân duyên chứng cảnh trí đều là thật có, phân tích mới không. Nhưng có danh tự: nghóa là bình đã vỡ, đầu đã đứt chỉ có tên bình, đầu, không có thật thể. Dụ này xuất xứ từ Đại kinh, chữ Chẳng trụ nầy tức là tánh không, cũng chẳng bất trụ tức tướng không. Pháp nhãn ấy tức mười hạnh xuất xứ từ giả thuyết, cảnh trí bốn giáo bốn tất. Tuy không có cảnh trí v.v… nghóa là pháp từ tâm tạo, toàn pháp là tâm, tâm vốn tự không, các pháp đâu thể lập. Chẳng có mà có ba ngàn rõ ràng. Vô thỉ bất giác lý đầy đủ tình mê. Nay đã hiểu rõ, biết tâm tức là bất ly. Năng quán riêng có sở chiếu mà đối với nhất tâm tạm chia ra cảnh trí. Cho nên nói mà luận. Từ Kinh v.v… nói trở xuống, nói cảnh là sở quán, chiếu là năng quán. Năng sở như một nên đều nói không thể suy nghó, bàn luận. Dục nghó: Đại sư còn nhún nhường, tiêu biểu không chuyên chấp, bỏ bốn đã lâu do được vô sở trụ. Từ bi v.v… bao trùm các căn cơ thiên viên, nêu tượng bốn giáo. Cho nên nói về bốn cảnh trí để giải thích tên gọi: Từ Kinh v.v… trở xuống là dẫn chứng. Trong kinh Duy-ma, Thân Tử hỏi thiên nữ rằng, vì sao đối với ba thừa ông lập chí cầu? Thiên nữ đáp: Dùng pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sanh thì ta là Thanh văn, dùng pháp Duyên Giác giáo hóa chúng sanh thì ta là Bích-chi-phật, dùng đại bi giáo hóa chúng sanh thì ta là Đại thừa. Quán Âm thiên nữ đều là phần chân, cho nên được dẫn chứng trong phần giải thích riêng. Nếu y theo danh tự làm tiện ứng, trước nói Quán Âm, kế là nói cảnh giới. Nếu giải nghóa là tiện, trước nói cảnh giới, kế nói Quán Âm. Do trước có cảnh nên có thể nói quán. Nếu chưa có cảnh thì đâu thể quán? Ví như trước có gương, có trống thì sau mới có thể soi, có thể đánh được. Nay theo nghóa tiện nên, trước cảnh sau trí, ba đế, ba cảnh ấy, chỉ quán làm sáng tỏ lý tánh là một. Đối với chỉ gọi là đế, đối với quán gọi là cảnh. Các văn đã nói đế tức là cảnh, chẳng nói hai thứ khác, ở đây cũng đồng. Sỡ dó như vậy, vì các văn chỉ nói ba quán, chẳng nói ba chỉ. Vả lại, hành môn chỉ quán, mới chính thức nêu bày. Một nhân v.v… trở xuống thì gọi đây là ba cảnh, nghóa là ba cảnh này chẳng phải một, chẳng phải ba, chỉ trong một niệm, trùm khắp các pháp, ba thứ không khác nhau, kia đây dung thông lẫn nhau, nhưng do tình mê nên không thể giác ngộ rõ ràng. Do đó,đối với pháp không ràng buộc mà gượng sanh ràng buộc, cho là hữu tình vô tình sự khác lý khác. Đối với pháp chẳng giải thoát, mà vọng cầu giải thoát, bèn chán khổ ưa vui, xả có nhập không, xa lìa hai bên cầu Trung đạo. Cho nên có sự khác nhau giữa sanh tử phàm phu và cảnh trí ba giáo. Cho nên nói sở quán của trí tức là bốn. Về bốn thứ quán, Kinh nói: Hạ trí quán nên được Bồ-đề của trung trí quán cho nên được Bồ-đề của Duyên Giác, Thanh Văn, thượng trí quán cho nên được Bồ-đề của Bồ- tát thượng thượng trí quán cho nên được Bồ-đề của Phật. Ngày nay,các Nhà giải thích nghóa dùng để đối với bốn giáo. Vì Thanh Văn là hạ thừa tạng, là tối hạ giáo. Bồ-đề của Thanh văn tức là Tạng giáo. Duyên giác là trung thừa Thông giáo, lại ở giữa Tạng giáo và Biệt giáo. Bồ-tát là thượng thừa Biệt giáo, vẫn ở trên Thông giáo. Viên giáo lại ở trên Biệt giáo. Nên nói trong thượng thượng, luận có thể biết. Cuối cùng là cảnh ba đế; căn có trùm khắp, mê thành bốn cảnh. Nếu nói về bổn lý thì ba đế thường dung thông, chia thành hai quán: tức Tạng quán và Biệt Quán ở trứơc đều quán tục đế. Đáp: Tục đế tuy đồng nhưng Tạng thấy tướng thô, Biệt thấy tướng tế. Cho nên chia ra hai thứ khác nhau. Chân cũng có sâu cạn, ba quả trước là phần kiến cho nên cạn, bốn quả là rốt ráo cho nên sâu, cũng làm sâu cạn lẫn nhau. Đã chia ra hai tục thô tế nên có hai chân sâu cạn. Lý thì không hai, nhưng cái thấy có cạn sâu. Chân không chỉ một, thiên chân đã như vậy, trung chân so sánh mà biết. Đây nói sâu cạn không thể dùng Thông giáo phức chân tiêu được. Y theo văn nói lý thì không hai. Nếu y theo phức chân thì rõ ràng là hai nên biết. Đáp: ý đều từ đương phần đẳng quán trở xuống v.v… là chung cho với phần trước kết số. Trước y theo tự tha hộ pháp v. v… Năng sở hợp biện có bảy mươi tám. Nay trải qua pháp quán bốn giáo, thì quán ấy có ba trăm mười hai thỉnh. Kế là nói Trí trở xuống: Hai pháp cảnh, trí chẳng phân mà phân. Cho nên trước giải thích cảnh bèn đối với trí mà nói. Nay văn giải thích, trí theo cảnh. Do đó biết rằng, cảnh chẳng có trí không thể hiển lộ, trí chẳng có cảnh thì trí chẳng thành. Nghóa tuy cùng nhưng văn có chính phụ. Quán nhân duyên v.v… trở xuống là nêu tạng trí, quán nhân duyên không là nêu Thông trí. Quán Nhị đế, giả là tục đế luống dối, không là xét thật Chân-đế. Nay muốn bỏ tục về chân cho nên nói quán. Nhân duyên không giả là giải thích nhập không; trước phải quán giả, biết giả luống dối mà được hội chân, cho nên nói quán nhị đế. Xuất giả v.v… trở xuống là nêu biệt trí, từ không mà có ra nên nói xuất giả, vào ở trong giả cũng nói là nhập giả. Cho nên hai từ xuất nhập các văn lập lẫn nhau. Biệt tuy ba quán nhưng lấy giả làm quán bình đẳng, trước nói bình đẳng, trước phá giả dùng không, nay phá không dùng giả, phá dùng đã bằng nhau nên gọi là bình đẳng. Trung đạo v.v… trở xuống là nêu lên viên trí, tuy ba quán nhất tâm từ chỗ cao quý mà nêu tên cho nên biểu thị cho Trung đạo, cả ba đều gọi quán. Lại nữa gọi trí là nói theo Thông, Quán trí nghóa chỉ có một; theo biệt mà xét nhân quả chia hai. Thế trí v.v… trở xuống là bác bỏ phàm phu, do phàm phu ngoại đạo có trí này, chẳng ra khỏi sanh tử, chẳng xao động phiền não, nên nói là trí thế gian, chỉ có danh tự: Nghóa là vì thế trí này luống dối không thật, chỉ có tên mà không có thật thể, nên nói rằng cũng gọi là danh tự trí. Phàm Thánh thông dụng nghóa là phàm phu dùng trí này đạt được bốn thiền, tám định, bậc Thánh có hai loại khác nhau: Người Tuệ giải thoát chỉ dùng vô lậu trí thành tựu vô lậu học. Còn người câu giải thoát dùng cả hai trí. Khi dứt bỏ hoặc thì tùy theo đó dùng một trí. Cho nên nói rằng, dùng cho cả phàm Thánh. Vì trí này phàm Thánh đều có, cho nên nói còn gọi là Đẳng trí. Nhưng các thứ nầy v.v… trở xuống là kết thúc bác bỏ. Bồ-tát v.v… trở xuống là nói về Bồ- tát. “Đối với pháp quán này” là chỉ cho thế trí, đã chẳng dứt hoặc chỉ dùng thế trí mà quán vô thường, tu sáu độ, thành tựu thắng giải, cuối cùng ra khỏi sanh tử. Từ, Bi, Hỷ, Xả là bốn đẳng tâm, Từ thì cho vui, Bi nhổ gốc khổ, thấy kia lìa khổ được vui cho nên Hỉ, chẳng cầu ân báo nên Xả, chẳng lựa chọn oán thân v.v… đều dùng bốn thứ này. Gọi là bốn đẳng đủ tất cả pháp, tức tu hành đầy đủ sáu độ, bốn đẳng. Ba mươi bốn tâm là tám nhẫn, tám trí đoạn kiến, chín vô gián, chín giải thoát dứt tư. Như Chiên-diên tử, tức Thích luận dẫn Ca-chiên-diên Tử làm sáng tỏ nghóa Bồ-tát. Thích-ca lúc đầu làm người thợ gốm, gặp Đức Thích-ca xưa, phát tâm Bồ-tát, tu hạnh sáu độ. Ba tạng cảnh trí Quán Âm: Bồ-tát tự hàng phục sáu tế, tâm từ bi huân tập chúng sanh, chúng sanh xưng danh liền được thoát khổ. Tự hành sáu độ, tâm từ bi huân tập chúng sanh, ứng với người đáng độ: tức là có khả năng thị hiện khiến chúng sanh an vui. Tuy thực hành như hư không bình đẳng, nhưng Bồ-tát từ Bạc địa học du hí thần thông, thường tu quán Bát Địa ra khỏi giả, gọi là bất trụ trong không. Sơ tâm là Kiến địa. Như Phật: người có khả năng che chở, dắt dẫn, phá được vô minh, vô minh phá rồi như thông Phật địa, đồng được tám tướng, nên gọi là Như. Chẳng đồng với người Thông giáo v.v… người Biệt giáo phá không ra khỏi giả, chẳng đồng với người thuộc Thông giáo, từ không tâm ra khỏi giả. Huân tập nhuận sanh, biết không chẳng phải không, ở Lục trụ, Thất trụ,ï phá không, ra khỏi giả, là pháo sở mê như bụi cát của Thập hạnh, không biết y theo tâm năng mê. Tứ Niệm Xứ nói rằng, Thập Trụ dứt kiến tư, lại nữa, dứt phẩm thượng trần sa, phẩm trung, Thập Hạnh, phẩm hạ, Thập Hướng, nay nói về trung phẩm. Về hạnh mãn, vì kinh luận đã nói Biệt giáo vị, kế đến đẳng giác nhất vị hoặc có hoặc không, nay y theo vô thuyết nên nói rằng Thập địa hạnh mãn. Về pháp quán xứng lý, thứ lớp quán trong Biệt giáo còn chẳng phải xứng lý, như vậy có thể biết tích thể trong Tạng Thông là chẳng xứng lý. Ba đế viên dung, bản tánh vốn như vậy, thuận tánh mà quán nên gọi là xứng lý. Lý đã v.v… trở xuống là nêu tướng xứng lý. Từ đầu đến cuối, sơ nghóa là danh tự y, giải tu quán gọi là Quán Âm danh tự. Hậu là diệu giác, rốt ráo hiển lý gọi là Quán Âm cứu cánh. Năm tức vị khác với viên quán. Năm trụ viên trừ: nghóa là ba hoặc đều phá. Hỏi: trong giai vị Thập Tín, hai hoặc đã được dứt bỏ trước,vì sao gọi là năm trụ viên trừ? Đáp: viên quán tâm tánh thô cấu tự bỏ cho nên bốn niệm xứ lấy việc rèn sắt làm ví dụ. Trong viên quán nhất sanh, bậc sơ Trụ có thể đạt được. Nếu thứ lớp thực hành thì hai hoặc trong một đời được dứt bỏ trước, tuy chẳng trải qua cũng thành thứ lớp, hoặc Viên tiếp biệt, hoặc Biệt tiếp thông, hoặc giải viên hành tiệm, đồng thời hai hoặc được dứt bỏ trước, đều chẳng phải ý ở đây. Văn ở đây chính là giữ hành viên đốn nên nói là viên trừ. Diệu giác Quán Âm. Hỏi: Quán Âm là bậc Đẳng Giác, nhân là người vì sao nói về cực quả Diệu giác để giải thích ư? Đáp: kinh Quán Âm Tam-muội nói rằng Bồ-tát này đã thành Chánh giác, hiệu là Phật Chánh Pháp Minh. Kinh Quán Âm Thọ Ký nói rằng: Sắp được bổ xứ xưng là Phổ Quang Công Đức, bổn tích như vậy nên đứng về mặt rốt ráo, giải thích lý là không có lỗi. Hỏi: Tên riêng như thế, còn tên chung thế nào? Đáp: Văn chẳng nên ví dụ để giải thích việc này, là Bồ-tát danh tự cho đến Bồ-tát Cứu cánh. Đại luận nói: chúng sanh vô thượng là Phật, huống chi Bồ-tát chúng sanh là tên khác ghép chung giữa Hán và Phạm, thông cực quả. Văn nghóa ở đây. Ba trí này và thế trí nữa là bốn. Vì thế trí là cảnh nên chỉ nói là ba. Cũng đối với năm căn, nghóa là ba trí đã thuộc về bốn giáo, năm căn cũng vậy. Mắt thường và mắt trời soi chiếu việc thô tế, đều là thế trí, đều là gốc của các quán cảnh, tức đồng với câu kệ đâàu của Trung Luận. Quán Âm Tạng giáo chẳng dứt bỏ phiền não, cho nên chỉ nói về hai mắt thế trí. Nếu nói về Nhị thừa thì, từ đây nhập quán pháp tích, dứt hoặc cũng được mắt tuệ. Lại nữa, Bồ- tát trong ba kỳ trăm kiếp, đắc năm thần thông, được mắt pháp, phân biệt căn tánh, điều phục cho chúng sanh thuần thục. Ở đây nhìn theo Biệt giáo nên chỉ gọi là hai mắt thế trí. Thông giáo chỉ gọi nước tuệ, Biệt giáo chỉ gọi mắt pháp. Ý kia cũng vậy. Chiếu chân là trí Nhất Thế, cho nên đối mắt tuệ là Thông giáo: Chiếu giả là trí Đạo chủng, cho nên đối mắt pháp là Biệt giáo. Thuốc là đạo, diệt, bịnh là khổ, tập. Chiếu tướng thật chân tục tức trí Nhất thế chủng. Mắt này là mắt phật. Ba pháp trong chân tục. Tục gồm ba mắt: Mắt thường, mắt trời và mắt pháp; Phật mắt dùng đến năm mắt cho nên nói một mà tên khác nhau. Tiểu Bát-nhã nói Như-lai có mắt thường hay không? Đáp: có; có mắt Phật hay không? Đáp: có. Nay kinh nói, năm mắt đầy đủ thành Bồ-đề, đều là ý này. Nhưng từ sự cao quý mà có tên nên nói là mắt Phật. Ví như các sông chảy ra biển thì mất đi tên gốc. Đại luận nói, mười trí nhập trí như thật, không trở lại tên gốc, chỉ gọi là trí như thật. Năm nhãn đầy đủ mà chỉ gọi là mắt phật. Ba trí v.v… trở xuống: Là nên giải thích ra khai, hợp, lý do của bốn quán, nghóa là trong Đại kinh bốn thứ mười hai nhân duyên quán. Hạ, trung, thượng, và thượng thượng. Kinh ấy chung cho pháp phân tích. Nói bốn quán, Đại phẩm Anh lạc, y theo Đại thừa, chỉ nói ba quán ba trí. Ở đây nếu khai hai kinh hợp với Niết-bàn thì nên khai tích pháp, từ giả nhập không, quán sanh diệt, nhất thiết trí. Nếu hợp với Niết-bàn theo hai kinh ấy: hạ phẩm, trung phẩm quán đồng là Trí nhất thiết. Nếu đem ba kinh, hoặc khai hoặc hợp đối năm nhãn mắt thường và mắt trời đều là thế trí, là gốc của quán cảnh. Hoặc ba quán ba trí, từ cảnh này liền nhập thể pháp Nhất thế trí. Hoặc bốn quán bốn trí, từ cảnh này liền nhập tích pháp Nhất thế trí. Nay nói về Bồ-tát chẳng dứt hoặc biên, vừa rồi dùng thế trí đối tạng. Lại nữa, Tạng giáo diệt sự mới không, đã còn ở sự cho nên đối thế trí; trong kệ Trung luận, câu đầu Đối tạng, tức là ý này. Các nhãn khác đối trí và quán, đều như văn hồi hướng. Thâu nhiếp trở xuống chú là thích v.v… các kinh luận nói danh tướng rộng hẹp, khai, hiệp thường chia thành ba, ba một, một ba dung nhiếp lẫn nhau, nhập vào tâm mình để thành diệu quán mới biết Phật Pháp mười phương chẳng lìa sát-na. Thế: là chẳng y theo giới nghiệp mà giải thích căn cơ. Nếu nói là cơ chiùnh là ở âm chữ. Nếu chẳng liền đời thì nghóa ấy không hiển bày. Vì mười pháp giới là chỗ sanh cơ, cho nên chánh văn chia làm hai. Ban đầu, Thông giáo nói nghóa thế tục ngăn cách khác nhau, trong mười cõi này, có phàm có Thánh, có Đại có Tiểu, có quyền có thật, hai báo, ba nghiệp, cao thấp khác nhau, tên riêng, tên khác. Thế gian v.v… trở xuống là Biệt giáo nói về căn cơ. Thế là sắc; lại thiếu chữ tâm. Trong mười pháp giới, mỗi pháp giới đều có ba thế gian; giả, thật thuộc về chánh báo, cõi nước thuộc về y báo. Nay nói sắc tâm là chỉ cho năm ấm thật pháp. Giả danh là ấm mà lập ra cõi nước, là chỗ ở của ấm cho nên nêu sắc tâm đủ bao gồm hai thứ còn lại. Sắc tức quán thế thân đẳng: Nghóa là nếu nói về Đại só tự thực hành quán năm ấm không mà thành Thánh đạo thì nên gọi Quán Thế thân và Quán Thế ý. Đã gọi quán tâm tức là quán khẩu nghiệp chúng sanh mười cõi làm căn cơ. Cho nên nói Âm là cơ. Đây là nói về hóa tha đặt tên.Văn này còn vì thân, ý nên khẩu nghiệp thuộc về cơ. Nếu nói đầy đủ thì mỗi thứ có đủ ba nghiệp. Cả ba đều ở tại cơ, như năm vóc sát đất, đốt hương rải hoa, thân nghiệp là cơ. Đại só ứng đến tức thân quán thế. Giữ niệm, đếm hơi thở ý nghiệp làm cơ. Đại só ứng đến tức Quán Thế Âm. Cầu thỉnh khẩu nghiệp là cơ, Đại só ứng đến tức Quán Thế Âm, cả ba đều ở tại ứng, thân ý như trước. Nếu nói về khẩu nghiệp, tức là Đại só tự Quán Âm thanh mà được thành đạo. Do tự hành mà thành cho nên có công năng ứng vật. Đây là giải thiùch cơ ứng mỗi thứ đều có ba, có khác với Phổ môn huyền nghóa, phù hợp sớ văn ngày nay. Nói Bồ-tát v.v… vì Thiên-trúc nói đảo, tiếng Hán thì nói Đại đạo thành chúng sanh, nghóa là tự cầu Đại đạo rộng lớn. Lại nữa, thành thục chúng sanh, thích luận v.v… trở xuống nói lúc mới phát tâm liền tự cầu đại đạo, độ tất cả tức thành thục chúng sanh. Năng nhẫn thành đạo sự: Là chẳng đồng Nhị thừa vội vàng chứng đắc. Bất động trở lên thì ma chẳng khuấy rối được, Tiểu không thể phá. Có các thứ thành tựu, tên chung cả bốn giáo. Đạo nhân duyên là Bồ-tát Tạng giáo, không đạo là Bồ-tát Thông giáo, giả đạo là Bồ-tát Biệt giáo, đạo đệ nhất nghóa là Bồ-tát Viên giáo (văn thiếu hai chữ giả đạo). Lại nữa đối với các đạo: Tức bốn đạo trên, nhưng văn chỉ nêu Tạng giáo, ba thứ còn lại là Thông, Biệt, Viên bỏ không nói. Tu thẳng nhân duyên, như thực hành sáu độ và bốn tâm vô lượng chẳng tu quán vô thường, chẳng phát bốn thề nguyện rộng lớn chỉ là nhân cõi trời, cõi người, cũng gọi là Đạo, cho nên phải phân biệt. Nay nói đạo: Chính là nói riêng Bồ-tát tu đạo xuất thế. Do đó, nói khởi từ bi v.v… Nếu là Bồ-tát Thông giáo thì nên chọn đạo Nhị thừa tự chứng, Biệt giáo, nên chọn đạo từ không xuất, Viên giáo lựa chọn đạo thứ lớp. Nay Bồ-tát tức Quán Âm vốn tu viên hạnh, đối với nhất đạo quán nhất thiết đạo, nhất hạnh tu nhất thiết hạnh, cho đến phần quả tùy cơ lợi kiến, bốn ứng khác nhau. Tự chẳng phải quán tâm ba ngàn ba đế, ai có thể đến đây ư! Đâu có bỏ một lấy một hỏi: Nếu Bồ-tát vốn tu Viên hạnh thì bỏ Thiên, Tiểu. Sao nói không lấy bỏ ư ! Đáp: lấy bỏ tức không lấy bỏ, Viên quán quyền thật vốn chẳng lìa tâm tánh, đâu thể lấy tâm tánh, bỏ tâm tánh, chỉ có thấy tâm tánh. Nhưng Bồ-tát v.v… trở xuống: là tuy biết vốn đầy đủ đương thể trong không mà chẳng sở đắc, không nạn khổ và không phân biệt. Vì căn cơ cũng khác nhau, là nói gương là một, hiện tượng tự có khác nhau. Hiện tượng chẳng đồng do hình đối diện. Cho nên thuận theo bốn cơ, mà có bốn ứng này. Lấy Dụ hợp với Pháp, ý chỉ kia rất dễ thấy. Người khác trở xuống: là đoạn hỏi đáp, hợp với phần giải thích tên khác, về sau hợp với ở đây: đó là do hoặc tùy tiện hoặc văn lầm lẫn. Vấn ý giả: Giả thiết rằng ba nghiệp Bồ-tát đều quán căn cơ, ý lần lượt xem xét cơ, nghóa nầy rất dễ hiểu. Thân, miệng là sắc làm sao soi xét căn cơ, cho nên nói thân, miệng như là quán, Thánh quán, trí quán. Người trước v.v… trên quán khứ thanh, dưới quán bình thanh, tức là ý luân phiên quán căn cơ của thân, miệng trong mười cõi kia thì có thể gọi là Quán Thế Thân, Quán Thế Âm. Chẳng phải bậc Thánh dùng thân, miệng của mình quán người. Vì thân miệng chỉ có thể hiện đời nói pháp. Nhưng thật quán căn cơ của ba nghiệp, chính do thân miệng là nạn, cho nên không nói ý, chỉ nói quán thân miệng của người trước. Chung cũng được: Là trên nói chung thì quán cơ chỉ có ý. Hoặc nói theo nghóa chung thì ba nghiệp vốn dung thông, sáu căn dùng lẫn nhau, thì thân, miệng của bậc Thánh đâu có ngăn ngại việc quán cơ. Từ chỉ trừ trở xuống thì bệnh nghóa là vọng tình, pháp là ba chướng. Nếu dứt bỏ vọng tình, thì thể của chướng trở về chân. Nếu phá ba chướng tức là phá đức, cho nên chỉ trừ bịnh chẳng trừ pháp. Xà hủy, hủy cũng là xà. Nhó Nhã nói rằng rắn hổ mang dài ba tấc, đầu lớn như ngón tay cái của người. Đây là từ một loại rắn gọi là phúc hủy. Thích âm triết, lại âm thích. Rắn hổ mang giống như ba chướng, độc như vọng chấp. Nay bỏ vọng chấp như trừ độc, chẳng quên ba đức giống như chẳng xâm hại người. Ba chướng vốn chân như, chẳng mất mạng. Như pháp chú xà của thế gian chỉ trừ độc ấy. Điều thiện: Là điều phục việc ác khiến thành điều lành. Kham nhậm thừa ngự: Đại kinh nói chú sư, chú rồng độc v.v… có khả năng chế ngự chẳng tổn hại mạng. Tùy ứng được độ: Vì tánh ác chẳng dứt được cho nên về mặt quả thì do căn cơ mà điểm, hiện thân bốn đường ác.  THỈNH QUÁN ÂM KINH SỚ XIỂN NGHÓA SAO <卷>QUYỂN2 Kế là y theo hai nghóa để giải thích tiêu phục. Trước y theo một nghóa, chỉ y theo Viên mà luận. Ở đây y theo hai nghóa Thiên Viên hợp lại để luận. Bộ thuộc Phương Đẳng cho nên phải bao gồm cả. Tiêu trừ tức chẳng dứt bỏ nghóa viên nầy. Tiêu diệt tức là dứt bỏ nghóa biệt, diệt là tử diệt, như làm mất mạng rắn hổ mang độc. Sự dứt bỏ hay không dứt bỏ nầy nếu y theo giới nội giới ngoại thì tức là bốn giáo. Giới nội dứt bỏ là Tạng, chẳng dứt bỏ là thông giới ngoại. Biệt viên như trước đã nói. Trừ phục là dứt bỏ, bình phục là chẳng dứt bỏ. Trước lấy trừ đối diệt thì diệt tử trừ sanh. Nay lấy trừ đối bình thì bình không dời đổi. Trừ còn thay đổi biến động. Cho nên phải dùng bình đối không dứt bỏ. Có nặng nhẹ hay không nghóa là có người ba chướng đều nặng, cần ba lần này, có người nghiêng nặng về báo chướng, hai chướng kia nhẹ. Nhưng đối trị sự nặng nhẹ thì tùy theo mà dứt bỏ, các trường hợp còn lại rất dễ hiểu. Vô ngại Đà-la-ni, như Pháp Hoa nói ba Đà-la-ni một toàn tức từ giả nhập không, hai trăm ngàn muôn ức toàn tức từ không nhập giả. Toàn chuyển phân biệt, ba pháp âm phương tiện tức là hai quán phương tiện, được nhập trung đạo, hiểu tất cả âm thanh lời nói, cũng có thể một âm nói pháp tùy loại đều hiểu. Được ba thứ này: Tức là nhập Đà-la-ni Vô ngại. Đầy đủ tất cả Đà-la-ni cho nên nói bậc nhất. Tam-muội hoặc Tam-ma-đề, Hán dịch là chánh định. Vương Tam-muội tức một trăm lẻ tám Tam-muội như Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm v.v… đều là Trung đạo nhất tâm nên gọi là Tam-muội Vương. Nhưng Đà-la-ni là tuệ tánh, Tam-muội là định tánh, chẳng hai mà hai, cho nên chia thành hai thứ khác nhau. Ở trong nhân, tu nhất tâm chỉ quán, về mặt quả chứng hai pháp này. Pháp Hoa Sớ chép: Tam-muội và Đà-la-ni thể là một mà dụng khác. Tịch dụng là Tam-muội, trì dụng gọi là Đà-la-ni. Ở đây dẫn Đại luận chính là nói kinh này. Thần chú là Đà-la-ni trung đạo vô ngại. Lại dẫn Tam-muội vương, ý nói tuệ này tức định, chẳng hai mà hai, hai mà chẳng hai. Ngăn ba chướng v.v… nghóa là do ngăn ác chẳng khởi là nghóa tiêu trừ. Cho nên kinh nói: Tiêu trừ ba chướng, không có các điều ác, giữ gìn điều lành chẳng mất là nghóa điều phục. Cho nên kinh nói: Năm nhãn đầy đủ thành Bồ-đề. Chú tức là nguyện, tức giải thích nghóa đề kinh, chữ chú, là Đại Thánh thuyết Đà-la-ni này, chỉ là chú nguyện chúng sanh như Phật; Thí như lau sậy chú nguyện muỗi mòng. Nhưng Đà-la-ni là tiếng Phạn, chữ chú là tiếng Hán, đề kinh ghép chung Hán Phạm. Cho nên nói chú Đà-la-ni. Nếu vậy sao nói Đà-la-ni Hán dịch là gia trì! Đáp: Người xưa thấy bí mật nên chẳng giải thích. Ví như pháp cấm chú v.v… cõi này với tên chú chỉ có phiên âm mà thôi. Nhưng cũng không mất nghóa giá trì. Vì sao? Vì chú đã huấn nguyện, như bốn nguyện của Bồ-tát, hai nguyện như gốc khổ là ngăn điều ác, hai nguyện cho vui là giữ điều lành. Cho nên biết ý nghóa của chú và gia trì quy về một mối. Kinh là giáo, là lời dạy bảo, chỉ dạy về pháp, chỉ dạy về thường. Có phiên dịch, không phiên dịch đều chỉ cho những lời giải thích xưa, tức lời giải nghóa của các bậc thầy cõi người xưa nay. Nay chỉ có huấn giáo tức bốn giáo, đều là kinh, lời lược ý, tròn, không cần lời khác. Dư sớ tức chỉ Phổ Môn Huyền Nghóa. Nhưng tuy chỉ cho cho Phổ Môn Huyền Nghóa những vẫn có khác chút ít. Nói về thể thì chẳng đồng, như trước đã chép. Lại nữa, kia đây cùng cảm ứng làm tông, kia là Pháp Hoa chính là y, theo cơ cảm Viên giáo mà viên ứng. Tuy nói ba giáo nhưng mục đích là khai quyền. Nay kinh Phương Đẳng nghiêng lệnh rõ ràng. Nói Phổ môn thị hiện, chính lấy từ bi làm dụng, thời cho vui nhổ gốc khổ cả hai đều nói. Đây là nói Xá-li cầu cứu, là lấy cứu nguy làm dụng, nhổ gốc khổ làm chính. Kia nói giáo tướng, ngay nơi thiên mà viên, ở đây nói giáo tướng, thiên viên ngăn cách. Nên ở khác nhau không được xem đồng, bốn nghóa đã trình bày ở các sớ khác. Lại trình bày tông chỉ cảm ứng: do kinh ngày nay lấy cảm ứng làm cốt yếu, cơ có ở khắp mười cõi, ứng thông bốn giáo, mỗi thứ đều có đủ bốn câu, tướng kia khó biết. Cho nên ở đây lược nêu bốn câu: Minh cơ minh ứng. Nếu quá khứ khéo tu ba nghiệp, hiện tại chưa vận dụng thân miệng, chứa nhóm năng lực lành gọi là minh cơ. Tuy chẳng hiện thấy linh ứng mà mật là Pháp thân có ích, chẳng thấy chẳng nghe mà hiểu mà biết, chính là minh ích. Minh cơ hiển ứng: Quá khứ gieo trồng gốc lành, minh cơ đã thành, liền được thấy Phật nghe Pháp, hiện tiền được nhiều lợi lạc, đó là hiển ích. Như Phật ban đầu ra đời người được độ đầu tiên, hiện tiền chưa hề tu hành, các Đức Phật thấy hạt giống xa xưa, tự tìm đến để độ tức là nghóa ấy. Hiển cơ hiển ứng: Hiện tiền thân miệng siêng năng mà được cảm giáng. Cho nên Nguyệt Cái cúi mình, Thánh ở trong cửa. Lại, như người thực hành ở chốn đạo tràng lễ sám khiến được giao cảm linh ứng là hiển cơ hiển ứng. Hiển cơ minh ứng, như người một đời siêng năng khổ nhọc, hiện tại chứa nhóm gốc lành mà chẳng có triệu chứng gì âm thầm cảm mà có lợi ấy, đây là hiển cơ minh ích. Nếu theo Pháp Hoa Huyền Nghiã, lại chia ra bốn câu để thành ba mươi sáu câu Cơ ứng… ở văn ấy có nói rõ. Từ chữ Đề v.v… trở xuống là tên người dịch. Họ Tư Mã ở Kiến Khang, đó là đời Trúc-nan-đề, Đông Tấn, Hán dịch là Hỷ, người xứ Tây Vực, vào đời chúa Cung Đế năm thứ mười một, niên hiệu Nguyên Hy năm đầu, tức năm Kỷ Mùi đến đất này dịch truyện. Hoặc lúc bấy giờ v.v… tức người khác phân chia kinh. Ở đây y theo người trước, vị Sư nầy lấy chú thứ tư làm hộ kinh, thuộc phần lưu thông sanh khởi ba đoạn. Như văn riêng, Quang Minh Sớ chép: tựa bổn là tựa thông với chánh, chánh bổn là chánh thông với tựa. Thông bổn là thông với tựa chánh, tức là sanh khởi. Ở phần đầu tiên nên gọi là sơ: Sáu việc như vầy v.v… là phần đầu của mỗi kinh. Cho nên thần quang nhóm họp như Pháp Hoa phát ra ánh sáng động đất, Tịnh Danh hợp lọng hiện cõi, ý nói giật mình sợ hãi. Tập là gom nhiều thứ lại. Ngôn luận kích phát, như Pháp Hoa, Văn-thù, Di-lặc hỏi đáp giải thích nghi ngờ, Tịnh Danh, Bảo Tích, nói kệ, thuật tán, đều gọi là thuật tự. Dẫn ví dụ v.v… nêu các kinh khác làm ví dụ như văn trên đã dẫn. Nếu theo kinh ngày nay thì lấy Xá-lî bịnh khổ làm lý do, Nguyệt Cái thỉnh Phật làm thuật. Đồng có thứ tự, sáu việc là đồng. Nên nói rằng, do nương vào lời Tựa mà soạn, mỗi thứ đều khác nhau không nói lời, tựa trình bày văn sơ lược. Như kinh khác phần nhiều lấy tướng tốt làm lý do, đằng nghi làm thuật. Kinh nầy lấy bệnh nặng làm lý do, cầu cứu làm thuật, cho nên nói đều khác nhau. Ở đây gom ba tựa trước làm thành hai tựa chung và riêng. Trước hết là giải thích, kế là sớ văn, trong lời tựa còn sơ lược. Chỉ chung cho các giải thích xưa. Ở đây y theo các sớ, giải thích khoa sáu nghóa. Tất cả các kinh đều để ở sáu thứ này đầu. Đại luận chép: Phật sắp Niết- bàn, A-nan hỏi Phật ở đầu tất cả kinh để lời gì? Phật đáp: A-nan: Nên đặt câu tôi nghe như vầy, một thuở no Đức Phật tại chỗ ấy, nước ấy đại chúng gồm những vị ấy, chẳng phải chỉ riêng pháp ta như vậy mà các Đức Phật trong ba đời, ở đầu các kinh cũng đều như vậy. Cho nên biết rằng, sáu nghóa là tựa chung. Một là Như vầy, tức thể của pháp được nghe. Phật nói đúng như tướng pháp, A-nan như tướng nghe mà truyền. Cho nên nói Như. Phật giải thích đúng như pháp tướng, A-nan thọ đúng như hải lượng. Cho nên nói là vầy. Hai là tôi nghe tức người nghe giữ gìn, A-nan và thính chúng thuật lại ý chỉ của Phật, đích thân nhận lãnh chẳng sai lầm. Cho nên nói là tôi nghe. Ba là một thuở nọ: Là chỉ cho nghe và giữ gìn hòa hợp, chúng sanh cảm pháp, Phật từ bi trao cho pháp, thời gian cơ ứng, cho nên nói một thuở nọ. Bốn: Là Phật là Giáo chủ năng thuyết. Phật-đà, Hán dịch giác giả, là tri giả, nghóa là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tự giác khác với phàm phu, giác tha khác Nhị thừa, giác mãn khác với Bồ-tát năm Trụ. Tỳ-xá-ly: Hán dịch là Quảng bác nghiêm tịnh, nước ấy rộng rãi bằng phẳng gọi là quảng bác, thành ấp đẹp đẽ trang nghiêm gọi là Ng- hiêm Tịnh. Quán giải: nhất tâm ba quán năng quán tâm tính, giống như hư không, tức đầy đủ hai thứ phước tuệ, trang nghiêm không nhiễm, không đắm. Vườn cây Am-la: am-la là tên quả, vì cây đầy vườn cho nên nói vườn cây am-la, quả ấy giống như quả đào, có chỗ nói giống quả nại. Cây này nở hoa, hoa sanh ra một cô gái, người trong nước khen lạ, bèn tặng khu vườn cho cô gái. Vườn đã thuộc cô gái, cô gái giữ gìn chăm sóc, nên gọi vườn cây Am-la. Điều thiện đời trước thầm huân xông thấy Phật bèn khen ngợi vui mừng, dâng khu vườn lên Đức Phật. Phật thọ nhận, làm chỗ trú ở. Quán giải: Ba quán quán tâm, tâm tánh chẳng động mà tu đạo phẩm. Nhân khởi bi thệ, gốc lành vững chắc, thành các tổng trì, liền trú trong vườn. Sớ nói: như vầy: Chữ vầy nên nói là đẳng, nghóa là đẳng thủ năm việc còn lại. Các văn sớ như Tinh xá Đại lâm v.v… chỉ còn lý giải, nhưng hướng hạ tiêu kinh, phần nhiều không giải thích các việc. Tùy bịnh tùy cơ gồm có bốn ý: Chấp giáo quên hành. Được sự mất lý. Nghóa dễ quán khó. Tình hạn cuộc, tánh cùng khắp. Nêu hành, nêu lý từ khó đến dễ. Hơn nữa, y theo lý nói về nghóa. Ví dụ nói một người quán tâm, chẳng ngoài ba thứ: theo hành, phó pháp, thác sự. Ước hành thì còn ở chỉ quán, sự pháp thì có khắp ở các văn. Nhưng, nên hiểu sâu xa tâm tánh nói trong chỉ quán, nhiếp khắp cả tam thiên, tất cả Đại Tiểu, lý hoặc, trí hành, vị giáo, hoặc y, hoặc chánh chẳng lìa tâm mình mới rõ. Các văn đều tùy sự, biểu đối ý ấy có chỗ trở về. Cho nên biết rằng, Quán tuy có ba, nhưng ý chỉ ở một mà thôi, vì phụ pháp thác sự, phò thành ước hành. Ở đây giải thích tinh xá Đại lâm tức phụ sự quán tâm. Cho nên nói muôn đức đều y theo tâm mình, chẳng chỉ cho quả nào khác. Nếu chỉ quả khác là quên tự cảnh. Nếu rõ tâm cảnh tự tức tha. Cho nên tha tức tự, chẳng rõ cảnh này thì tự vẫn thành tha, huống chi quán tha ư! Hỏi: Tịnh Danh sớ giải thích Tỳ-xá-ly v.v… đều y theo ba nghóa: Sự thích. Y theo pháp môn. Y theo quán tâm. Nay sớ đã bao gồm hai đế nên gọi là Đại v.v… Chính là y theo pháp môn thích, nên chẳng phải gá sự quán tâm. Đáp: văn nghóa tùy tiện không có tiêu chuẩn nhất định. Vì trong kinh Tịnh Danh có các văn pháp hỷ là vợ v.v… Văn nói rằng, các Đức Phật giải thích nói ra là mhắm vào sự mong cầu trong tâm hành chúng sanh. Đã có hai văn, nên có hai giải thích. Nếu các văn chỉ lấy pháp môn biểu đối, tức quán tâm nầy như chỉ quán, Phổ Hiền, voi trắng, Phương đẳng, phướn lọng, đàn tràng v.v… ở đây đều biểu đối pháp môn mà nghóa chỉ như gá sự quán tâm, cho nên phải tùy văn phong mà y theo duy biến thích hợp, do đó, nay sở biểu tức là quán tâm. Bao gồm hai đế thì ngay nơi bìa là giữa, cho nên nói bao gồm muôn đức. Dưới là quả, trên là muôn đức và lý vốn sẵn đủ, vốn đầy đủ gọi là tòng lâm. Tinh không có tám đảo, trung đạo tinh thuần, chẳng xen tạp hai bên, xa lìa tám thứ điên đảo: thường, vô thường v.v… Như Niết-bàn tức phẩm Trần-như trong Đại Kinh. Quán sắc bất tịnh: nên nói quán sắc tịnh bất tịnh, tịnh tức là có, bất tịnh tức không, đạt được thường sắc tức là Trung đạo. Chân thường phá được hai bên, Chân thường nầy cũng gọi là phi thường, phi vô thường. Ở đây văn từ lược gọn. Nếu nói đầy đủ thì nên nói quán thọ là khổ, là vui. Nhân diệt là thọ, đạt được thường thọ. Cho đến quán thức là thường, vô thường, nhân diệt là thức, đạt được thường thức, nhưng vẫn nói thường đức, ba thứ thường, lạc, ngã cũng vậy. Nay trong năm thứ, nêu sơ lược sắc ấm nên gọi là quán sắc, trong tám đảo lược nêu bất tịnh, trong bốn đức lược nêu đức thường. Đều nói đầy đủ. Năm ấm là cảnh sở chấp, tám đảo là tâm năng chấp, bốn đức là lý sở hiển. Chỗ hiển bày của Lý này chính là năm ấm, gọi là năm Niết-bàn. Một ấm trừ chung tám đảo là nói theo cảnh riêng, quán chung, cho nên quán một ấm thì dứt được tám đảo. Mười tám không: Không chỉ là một, do phá mười tám thứ nên có tên mười tám không, đó là nội không, ngoại không, nội ngoại không, cho đến hữu pháp vô pháp không. Trùng không quán: dùng trung đạo chánh quán thì không có cái Hữu của sanh tử, không có cái Vô của Niết-bàn, đó gọi là Trùng không quán. Kinh và đại Tỳ-kheo trở đi là chúng văn trì thứ sáu. Đây là những bậc chứng A- la-hán và đại chúng cùng nghe, đâu phải truyền lầm. Sở dó, trước Thanh văn, kế là Bồ-tát, sau là trời rồng: Hai thừa dính mắc không, phàm phu dính mắc có, Bồ-tát chẳng dính mắc, thường thực hành không hai cho nên ở giữa. Có năm v.v… trở xuống nên chia kinh làm năm, một là số, hai là vị, ba là khen, bốn là tên, năm là kết. Ban đầu là số, ở giữa là cho là cộng. Một ngàn hai trăm năm mươi: Ba anh em Ngài Ca-diếp có ngàn vị đệ tử, (Ưu-lâu-tần-loa có năm trăm vị, Dà-da có ba trăm vị, Na-đề có hai trăm vị), Thân tử, Mục-liên có hai trăm năm mươi vị đệ tử, Ca-diếp, Xá-lợi-phất… trước đều theo đạo thờ lửa. Bỏ tà theo chánh, đắc được thiện quả, cảm ân Phật sâu dầy nên thường theo hầu Phật. Đó là chúng đồng văn. Tỳ-kheo, Hán dịch là Trừ cẩn, chúng sanh phước mỏng ở nhân địa, không có pháp tự nuôi dưỡng, quả báo thường thiếu thốn đói khát. Xuất gia giới hạnh là ruộng phước tốt, có công năng sanh ra các vật, khéo dứt nhân quả đói khát thiếu thốn, hoặc có chỗ không phiên dịch, bao gồm ba nghóa, một là Phá ác, như mới đắc giới liền gọi là Tỳ-kheo, dùng ba lần yết-ma phát luật nghi thiện, cho nên nói phá ác. Hai là Bố ma, tức phá ma-la ác, các ma sợ Tỳ-kheo ra khỏi cõi của chúng, sợ Tỳ-kheo giáo hóa quyến thuộc của chúng nên sanh lo sợ. Ba là Khất só, người xuất gia, trong tu đạo đức, xa lìa bốn tà hạnh, mong cầu nuôi thân gọi là Khất só. Ba nghóa này chung cho cả sơ tâm, hậu tâm. Các nhà dịch kinh đã nêu đều là hậu tâm. Hai là A-la-hán, Hán dịch là Vô trước, hoặc nói Vô phiên, gồm có ba nghóa: đó là Bất sanh, Sát tặc, Ứng cúng. Vỏ hạt lúa vô minh đã bóc, trong đồng ruộng đời sau chẳng còn chịu quả báo sanh tử. Cho nên nói Bất sanh. Chín mươi tám sử hoặc đã dứt hết nên gọi là Sát tặc. Đầy đủ công đức của trí đoạn, thật xứng đáng là ruộng phước của trời, người, nên gọi là Ứng cúng. Ba là năm câu văn kinh trong phần khen ngợi: Hai câu đầu nói về sở phá thán, hai câu kế nói về năng phá thán, câu cuối nói về quả dụng thán. Pháp bị phá đầu tiên là nhân quả thế gian. Các lậu là nhân, là quả. Các lậu là ba lậu: Dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Thanh luận nói rằng: Đánh mất đạo nên gọi là lậu. Luật nói người si gây ra nghiệp ác, mở các cửa hữu lậu. Tỳ-đàm nói lậu rơi vào sanh tử. Luận và luật lời văn khác nhau mà cùng nói nghóa lậu. Hữu lậu tức hai mươi lăm hữu sanh xứ. Nhân hiện tại đã hết, quả sau chẳng sanh là quả mất. Kế là năng phá, tức định tuệ vô lậu. Như luyện vàng ròng, Châu Tùng nói nấu chảy vàng làm cho trở nên tinh ròng gọi là luyện, nấu Tơ cho chín gọi là luyện, cho nên chữ có bộ kim. Sớ chép: khen chung là khen ngợi chung. Tu định học tuệ giống như luyện vàng, thường luôn nhập định, chuyển thành minh tịnh. Lại nữa, luyện vàng là nói về dụ thán. Trừng tịnh là nói về pháp thán. Dụ chung mà pháp riêng. Hợp lại mà nói, thì Trừng là khen tuệ, tịnh là khen định. Nay nói, Trừng là khen định v.v… là văn nhầm lẫn. Cõi sắc v.v… trở xuống: Là nói về hữu lậu vô lậu để giải thích các định. Bốn thiền bốn không là định hữu lậu, tám bối xả là định vô lậu. Tám bối xả trước: Nội hữu sắc tướng, ngoại quán sắc. Vị ở Sơ thiền có thể xả tự địa và hạ địa, gọi là bối xa. Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc. Tịnh bối xả thân tác chứng hậu năm bối xả. hư không xứ bối xả. Thức xứ bối xả. Vô sở hữu xứ bối xả. Phi hữu tưởng Phi vô tưởng bối xả. Diệt thọ tưởng bối xả. Tám thứ xả nầy gọi chung là bối xả. Trí luận nói bối là tịnh khiết năm dục. Xả tâm mê đắm nên gọi là bối xả. Nếu phát tuệ vô lậu chân thật, dứt bỏ hết kiết nghiệp của ba cõi thì gọi là tám giải thoát. Cho nên nói biết được giải thoát v.v… thân tâm lóng sạch thanh tịnh. vân vân là các thiền vô lậu tám thắng xứ, mười nhất thế xư v.v… đều là thân tâm lóng sạch thanh tịnh. Sáu thông vô ngại là dụng về mặt quả. Sáu thông là thiên nhãn, thiên nhó biết tâm địa của người khác, mạng đời trước, thân như ý, lậu sạch hết. Bốn, gọi là văn kinh nêu sơ lược mười ba tôn giả. Thân tử là tuệ bậc nhất, do đại trí nêu lên. Xá-lợi-phất nói đủ Xá-lợi-phất-la, Hán dịch thân tử, vì mẹ ngài hình sắc tốt đẹp sanh ra Ngài, nên gọi là Thân tử. Lại dịch là Châu tử mẹ Ngài là người thông minh nhất trong các người nữ. Tướng thông minh nằm trong tròng mắt nên gọi là Châu tử. Người đương thời dùng con để nói về mẹ nên đặt hiệu này. Tân dịch là Xá-lợi-phất-đát-la, Xá- lợi Hán dịch là Thu, là con chim trăm lưỡi. Cũng gọi là xuân thu. Phất- đát-la, Hán dịch là tử. Vì mẹ Ngài có tài hùng biện dụ như chim thu. Đây là kia dùng con để hiển bày mẹ, nên nói là Thu tử. Họ Mục-kiền- liên, Hán dịch là Tán tụng. Kinh Văn-thù vấn dịch là giáp phục căn, Chân-đế nói vật-già-la Hán dịch là Hồ đậu, hai vật mà các vị tiên ngày xưa tiên rất ưa thích, do đó nên đặt tên dòng họ. Tân dịch là Ma-ha- một-đặc-già-la, Hán dịch Đại Thái thúc thị. Thời thượng cổ vị tiên ở chỗ vắng lặng trong núi thường hái đậu xanh mà ăn, do đó mà đặt tên. Mẹ của Tôn giả là thuộc dòng họ ấy, do đó lấy họ mẹ làm tên, có thần thông rộng lớn, vì để phân biệt với các tên khác cho nên gọi là Đại Thái thúc thị. Gọi câu-luật-đà, câu-luật là tên cây. Cầu nguyện với thần cây mà được con, do đó lấy làm tên. Tân dịch là Tùng Phụ. Vốn tên là Câu- lợi-ca, cũng gọi là câu-lệ-đa. Ma-ha-ca-diếp, Hán dịch Đại Quy thị, dòng dõi Bà-la-môn, đời trước Ngài học đạo, rùa thần nhờ tiên mưu lược mà ứng, từ đức mạng tộc nên gọi là quy thị. Lại dịch là Ẩm Quang, thời thượng cổ có vị tiên thân phát ra ánh sáng chiếu soi che cả mặt trời, mặt trăng. Ca-diếp là dòng dõi của Ngài, do họ mà được tên, nên gọi là Ẩm Quang. Nói Đại, ngoại trừ Ca-diếp thì Ma-ha-ca-chiên-diên, Hán dịch Văn sức, cũng dịch là Phiến Thằng. Mẹ thương mến đứa con này nên chẳng chịu cải giá, như dây buộc quạt. Tân dịch âm là Ma-ha Ca- đa-diễn-na. Tu-Bồ-đề, Hán dịch là Không Sanh, khi sanh Ngài thì các kho v.v… trong nhà đều trống rỗng, thầy bói nói tốt, do không mà sanh nên đặt tên là Không Sanh. hoặc dịch là Thiện Cát. A-nậu-lâu-đà cũng gọi là A-na-luật, cũng gọi là A-nê-lâu- đậu. Hán dịch là Vô Bần. Xưa, ở thời đói kém Ngài cúng dường vị Bích-chi-phật ngọn cỏ đắng để ăn, được phước báu chín mươi mốt kiếp đầy đủ, nên gọi là Vô Bần. Tân dịch âm là A-nê-luật-đà, Hán dịch Vô Diệt. Kiếp-tân-na, Hán dịch là Phòng Tú, cha mẹ cầu nguyện trước cửa phòng ngủ mà cảm sinh ra Ngài. Cho nên dùng phòng ngủ để gọi sanh thân. Lại dịch là Phòng Túc. Phật vì người ngủ cùng phòng hóa thành vị Tỳ-kheo già, nói pháp cho nghe, nhờ đó mà đắc đạo, nên gọi là Phòng Túc. Ngài Từ Ân cho rằng Phòng Tinh Phòng Tinh hiện thời sanh ra. Kiều-phạm-ba-đề, Hán dịch là Ngưu Ha. Kinh Vô lượng thọ dịch là Ngưu Vương. Tăng nhất nói trâu xưa quá khứ vì hái vài hạt trên thân cây lúa rớt xuống đất mà năm trăm đời làm thân trâu trả nợ cho người. Nay tuy làm người vẫn có tướng móng chân trâu, nhơi như trâu. Tân dịch âm là Cấp-phòng-bát- để, Hán dịch là Ngưu Tướng. Tất-lăng-già-bà-sa, Hán dịch là Dư Tập. Trong năm trăm đời làm Bà-la-môn tánh ác, lời nói thô tục. Nay tuy chứng quả, thói quen xưa vẫn còn. Như mắng thần sông nên gọi là Dư Tập. Tân dịch âm là Tất-lan-đà-phạt-sa. Bạc-câu-la, Hán dịch là Thiện Dung, do sắc mạo khôi ngô. Thọ một trăm sáu mươi tuổi, không bệnh, không chết yểu. Có năm quả báo bất tử, sau mẹ đặt Ngài trong cái chảo bằng đồng, bị cá trong nước ăn thịt, dao chặt đều chẳng chết. Nhờ xưa giữ giới bất sát cho nên chín mươi mốt kiếp mạng chẳng chết yểu. Xưa, làm người nghèo, cho vị Tỳ-kheo bệnh một trái a-lê-lặc, uống vào bệnh liền lành, cho nên nay không bị bệnh, tân dịch là bạc-cự-la. A-nan, Hán dịch là Thiện Hoan hỷ, cũng dịch là Hân lạc, cũng dịch là Hỷ căn bản, là người chăn trâu, do hỏi Phật mười một việc chăn trâu mà biết Phật có trí Nhất Thiết, chứng dược quả A-la-hán. A-nan-đà, Hán dịch là Hoan hỷ, cũng gọi là Khánh hỷ. Đức Thế tôn thành đạo trong nước ngoài nước đều vui mừng, đang khi vui vẻ sanh ra Ngài nên gọi là Khánh hỷ. La-hầu-la, Hán dịch Phú Chướng. Ngài Chân-đế cho La-hầu vốn là tên của Tu-la, dùng tay che mặt trời, mặt trăng. Trong trường hợp nầy nên dịch là Phú Nguyệt. Phật dạy pháp ta như mặt trăng, đứa trẻ này chướng ngại ta, nếu chẳng được xuất gia ngay thì đời đời sẽ chướng ngại ta, ta đời đời có thể xả bỏ nên gọi là Phú Chướng. Tân dịch âm là La-hổ-la, Hán dịch Chấp Nhật. Sở dó xưa nay lời nói khác nhau ấy đều do cảnh của năm Thiên-trúc, bờ cõi khác nhau, Kinh Phạm truyền đến, xứ này có khác nhau. Ví dụ như đất này, Hậu hán đóng đô ở Lạc Dương, Đông Tấn chuyển về Kiến Nghiệp, hoặc sách Hán trước truyền ở Thân-độc, tất cả đều lấy âm bắc làm chính. Người Tấn sau đến Trúc can, đều lấy tiếng nói phương Nam làm chính. Cho nên nói việc nói ra đều mâu thuẫn. Vì ở đây là nói tiếng Phạm xưa nay, chưa hẳn là lầm lẫn hết. Mọi người đều biết, nghe danh kính đức là Tri, thấy hình kính phục là thức. Bồ-tát chúng v.v… trở xuống là chú thích v.v… nên chia kinh làm bốn: một là số, hai là khen, ba là danh, bốn là kết. Y theo nhân: Vả lại như Viên giáo ban đầu duyên vô tác mà phát tâm, cho đến Đẳng giác bờ mé trí tròn đầy, đều gọi là nhân. Quả gần là quả Phật, như trăng ngày rằm, Đẳng Giác như trăng ngày mười bốn, gần nhau. Đại trí v.v… trở xuống là giải thích chung bốn câu. Giải hành nầy đều thuộc về phần chân. Mắt đầy đủ, vì mắt dùng để thấy nên dụ cho giải, chân dùng để đi nên dụ cho hành. Mắt hướng dẫn chân đi cho nên có chỗ đến. Ao mát dụ cho ba đức Niết-bàn. Nếu y theo v.v… trở xuống: Ba giáo đương phần đều có đại nghóa, như đối với ba thứ phi trước của Viên giáo là Đại. Đại luận nói: nay ta sức muốn giảng nói nghóa tướng thật của bờ kia đại trí. Nên biết đại trí tức là pháp quán quán thật tướng các pháp, cũng có nhất thế trí v.v… trở xuống, sợ thiếu ba chữ “Trí Đạo chủng”. Tên khác nhau về chung riêng, quán Trung đạo là chung, chiếu hai bên là riêng, tức riêng mà chung, biên tức trung, hai trí tức trí Nhất thiết chủng, tức chung mà riêng, trung tức biên cho nên trí nhất thiết chủng là hai trí, ba trí viên dung, chung riêng một thể. Ví như dưới đây nêu Tiểu làm ví dụ. Hóa đạo là y theo hóa tha. Cho nên dẫn khuyến học để làm chứng. Từ gốc khởi hạnh là nương trí tu hành. Cho nên trí là hạnh gốc, hạnh của trí gia nên nói là bổn hạnh. Như Bát-nhã v.v… trở xuống: Kinh ấy khuyên học Bát-nhã. Nghiệm biết các hạnh vô trí chẳng thành, cho nên từ đại trí vốn nhất tâm đầy đủ các Ba-la-mật, Kinh Kim Quang Minh nói: Trí Nhất Thiết Chủng là căn bản, được vô lượng công đức trang nghiêm, cũng là ý này. Nên biết vâng theo giáo thì sanh trí, vì trí dẫn dắt hành, hành sẽ nhập lý, cho nên cùng giải thích trước đều là biểu lý. Châu là báu, vốn dùng châu để dụ cho trí vì báu dụ cho hành đều thành, dưới đây giải thích đều thành tựu. Y theo bốn thứ v.v… nghóa là bốn vị Bồ-tát tuy quả chưa viên mãn, nhưng nhân hạnh đã viên mãn, nên nói là thành tựu. Tạng ban đầu duyên với Tứ đế sanh diệt phát thệ gọi là Đại trí, thực hành sáu độ gọi là đại trí. Đàn ba việc là không, cho đến Bát-nhã gọi là bổn hạnh. Thập Địa như Phật gọi là thành tựu. Biệt duyên vô lượng sanh giải gọi là đại trí thực hành vô lượng Ba-la-mật gọi là bổn hạnh. Đẳng giác gọi là tất thành tựu. Viên duyên vô tác phát tâm gọi là đại trí, nhất tâm muôn hạnh gọi là bổn hạnh. Trí Đẳng giác viên mãn gọi là tất thành tựu. Chính là giải hạnh đều thành tựu. Cho nên nói thảy đều. Đại kinh v.v… trở xuống trong sáu Ba-la-mật tuy có trí tuệ, do ở địa trước chẳng phải chân chứng. Cho nên thuộc phước đức trong sáu thứ, trí tuệ thì y theo địa trước, năm độ có cả chân nên đều thuộc về phước. Nên nay phước tuệ đều ở phần chân, cho nên nói rằng thành tựu đều do đầy đủ. Nay y theo dưới đây mà nêu bày. Các độ tức sáu độ, nhờ tu sáu độ nên căn mới được điều phục. Như kim cương v.v… trở xuống là y theo viên chánh nói về kim cương cho đến nghóa đàn. Kia tuy có ở cả ba, nay chỉ y theo viên. Xả sắc gọi là đàn, sở xả là đồng, còn năng xả thì khác. Do năng xả khác cho nên chia giáo khác nhau. Nay năng xả tức nghóa đàn của ba quán Viên giáo. Dưới đây nói đàn nghóa gồm nhiếp. Nói nhiếp cả ba, ba chữ sợ sai lầm, nên nói nhiếp sáu. Kệ của luận Kim Cương nói đàn nghóa nhiếp đối với sáu tư sanh pháp vô úy. Trong đây một, hai, ba gọi là Tu Hành trụ. Vô Trước nói nếu không tinh tấn, biếng nhác thì chẳng thể nói pháp. Nếu không thiền định thì tham kính tin lợi dưỡng, tâm nhiễm nói pháp, nếu không có trí tuệ thì điên đảo nói pháp. Cho nên y theo dưới đây mà thuật ý. Do đàn nhiếp sáu, cho nên chỉ y theo đàn mà giải thích. Lại kinh v.v… trở xuống là nói đàn do tuệ dẫn dắt. Tuệ không dẫn đắt thì chẳng đi đến Bồ-đề. Có tuệ dẫn dắt cho nên thành tựu Chánh giác. Người bác bỏ không phương tiện thì không có tuệ dẫn dắt. Ba việc đều không là chẳng thấy người cho, vật cho, người nhận. Nếu y theo văn của sớ ở dưới thì lấy căn, trần, thức làm ba việc. Nếu ở dưới bỏ tiểu thì chẳng có phương tiện không, chẳng thể ngay nơi không là giả, là trung, gọi là không phương tiện. Bồ-tát v.v… trở xuống là nói về viên. Là không cũng không, do có phương tiện giả, trung cho nên chẳng dính mắc ở không, tức là năng không đối với không, cho nên nói “là không cũng không”. Do có phương tiện cho nên không đắm nhiễm mà năng v.v… trở xuống là do không đắm nhiễm nên ngay nơi không là giả. Tu đầy đủ muôn hạnh, thông đạt Phật giáo, đạt muôn hạnh kia tức là ba đế lý. Chính do trí này dẫn dắt đến Bồ-đề, chỉ nhãn v.v… trở xuống là kết bày ba tánh. Nếu nói về bổn tánh thì tự đầy đủ ba nhân nhãn căn, ngay trung là chính, ngay không là liễu, ngay giả là duyên. Nay thực hành một tánh, hai tu để nêu, tức chỉ cho lý trung sẵn có là chánh nhân. Đây là hợp tánh thành một. Rõ được điều nầy v.v… nghóa là chẳng mê đắm ba việc mới xả bỏ trần lao. Đây là hợp tu thành hai để nói. Nếu đều khai thì rõ nhãn cũng có ba, năng xả cũng có ba. Ngài Kinh khê nói: trí cũng có ba, chiếu cũng có ba, phước cũng có ba, giúp trí nghiêm gốc. Y theo đây v.v… trở xuống là chung cho ba pháp, lược nêu ba thứ, nên biết tất cả ba pháp đều là tên khác của ba nhân. Về bốn vị thì vị nên làm sự lầm lẫn của giáo chữ. Văn dưới đây v.v… trở xuống là phân biệt tất cả sắc: Tức sắc trong mười pháp giới. Sắc chẳng phải sắc, chẳng phải hai, sắc tức là sự, chẳng phải sắc tức là lý, sự lý tức như sóng và nước. Cho nên nói chẳng hai. Sự uế lý tịnh, sự tức là lý. Cho nên nói thường tịnh. Hỏi: Một nhà bàn lý đã đầy đủ tánh ác. Sao gọi là tịnh? Đáp: Ác ở trong tánh thì ác hoàn toàn là thiện, lý thể không sai đâu nên ngăn cách. Như nói trong và đục, tánh đục hoàn toàn trong, châu đầy đủ tánh báu, báu tức là châu. Suy nghó sẽ thấy, từ điều phục v.v… trở xuống là nên so sánh các căn với mặt để giải thích ra. Như Tư Ích v.v… trở xuống là y theo nhãn căn để nói về năm độ còn lại. Nên đều nói về bốn giáo. Trong đó rộng, lược khác nhau, nhẫn tiến đầy đủ bốn thứ. Thiền chia ra Đại Tiểu, hai độ giới tuệ. Tuy làm sáng tỏ nghóa cũng gồm có bốn. Chẳng bị sáu trần lao làm thương tổn, ấy, nay nói về nhãn căn nên nói chẳng bị sắc trần làm thương tổn. Không ngại phi nghóa. Ba tạng rõ sắc vô thường, Thông rõ tức không, Biệt rõ giả danh, Viên rõ trung đạo. Bốn giáo đương phần đều chẳng bị thương tổn. Năng nhẫn cho đến Danh nhẫn. Tiêu biểu nêu bày nghóa nhẫn thuận theo. Đối với nhân v.v… trở xuống y theo bốn giáo nói về nhẫn. Xả sáu thứ v.v… trở xuống là nêu nghóa tinh tấn. Nên nói sắc trần, nhãn căn nói sáu thông nêu. Cũng ở dưới đây nói về bốn giáo làm sáng tỏ nghóa v.v… nghóa là Tạng rõ căn trần sanh diệt, Thông rõ tức không cho nên chẳng tạp nhiễm, Biệt chẳng tạp nhiễm đối với không, Viên chẳng tạp nhiễm hai bên là nghóa tinh. Lìa ưu v.v… trở xuống là nêu nghóa thiền. Sơ thiền v.v… trở xuống là nói bốn giáo làm sáng tỏ thiền. Ban đầu nói về bốn thiền tức Tạng Thông. Sau được sáu căn hỗ dụng tức Biệt Viên. Trụ địa sơ thiền v.v… y theo về chi lâm công đức để nói. Sơ thiền năm chi, một giác, hai quán, ba hỷ, bốn lạc, năm nhất tâm. Hai thiền bốn chi, một bất khổ bất lạc, hai xả, ba niệm thanh tịnh, bốn nhất tâm. Tâm và định pháp gọi là chi nhất tâm. Nay nói trừ hỷ chưa rõ. Sáu căn có thiền v.v… từ bèn nói sáu, ý hiển bày nhãn. Rốt ráo cùng tận, v.v… Tạng Thông rốt ráo dứt hết kiến tư, Biệt hết trần sa, Viên hết vô minh. Đương phần mà nói đều gọi là Rốt ráo. Như thị v.v… trở xuống là nêu chung hướng về văn chính làm sáng tỏ nhãn căn sáu độ. Tám tướng là giáng sanh Đâu-suất, gá thai, giáng sanh, vượt thành, hàng ma, thành đạo, nói pháp, Niết- bàn. Do các Đức Phật dũ lòng ứng đều nêu tám tướng này mà thành Phật đạo. Oai nghi, Tả Truyện chép: có oai đáng sợ gọi là oai. Có nghi đáng noi theo gọi là nghi. Nói về bốn giáo v.v… trở xuống là làm sáng tỏ bốn giáo, đều có oai nghi của Phật. Nghóa là ba tạng hậu tâm, Thông Thập địa, Biệt sơ địa trở lên, viên Sơ trụ trở lên. Bốn thứ trí tuệ này rõ biết đầy đủ thì đều có khả năng thị hiện tám tướng thành đạo, gọi là oai nghi Phật mà chẳng đầy đủ. Vì sao? Vì Biệt giáo Diệu Giác, nhưng Viên hạnh thứ hai, Tạng thông cực quả chỉ bằng sáu căn, cho nên đều chẳng đầy đủ. Nhưng ba giáo trước về mặt quả thì không người. Điều ở đây nói là y theo quyền thuyết, chỉ gọi v.v… trở xuống là đầy đủ oai nghi của Phật, chỉ gọi là đẳng giác của Viên giáo. Hỏi: Đẳng giác chưa cuối cùng, thì đâu được nói là có? Đáp: quả tuy chưa tròn đầy nhưng nhân hạnh đã tròn đầy, nên được gọi là đầy đủ, đều có nghóa Đại, như trước dùng bốn giáo giải thích đại trí. Ba tuy gọi đại vọng viên nhưng vẫn nhỏ, nên nói mà chẳng rốt ráo. Nay trung hạ chính là nêu viên trí, nên gọi là như biển. Về nêu tên tuy khen ngợi đức tốt nhưng chẳng bày danh. Chẳng biết người kia cho nên lược nêu bảy người, đều nói về Trung đạo. Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức. Nếu thấy Phật tánh thì đầy đủ ba đức, chẳng ngang chẳng dọc, nên gọi là diệu đức. Về đồng tử, trong không pháp ái, như trẻ con ở thế gian không có tâm dục nhiễm. Bảo tức v.v… trở xuống là nói về thật trí, thường trú chẳng dời đổi, của báu đáng qúy trọng cho nên tiêu biểu cho thật tướng, thật trí. Quyền là, tạm dùng rồi bỏ, như trăng tròn rồi lại khuyết. Cho nên dùng trăng tiêu biểu cho phương tiện quyền trí. Ánh sáng mặt trăng nói về trí đoạn, từ ngày mồng một đến ngày mười lăm ánh sáng lần lần tăng thêm. Ví như đức trí. Từ ngày mười sáu đến ngày ba mươi ánh sáng lần lần giảm ví như đức đoạn, tức mặt trăng Niết-bàn, dụ cho nghóa Tam-muội. Về Kinh Bảo Tích, quán tâm tuy không, đầy đủ muôn hạnh, các báu muôn hạnh chứa nhóm trong lý nên nói là Bảo tích. Về Kinh Nhật Tạng thì trung đạo chánh quán như mặt trời, đầy đủ các pháp gọi là Tạng. Các hiền địa vị cùng Đẳng giác gọi là Hiền, nhường cực quả là Thánh, Phật là địa vị Thánh cao nhất. Bốn mươi hai vị đầy đủ gọi là Thánh, Diệu giác là giai vị trên hết trong các bậc Thánh. Trải qua mười sáu người tức đồng loại với Hiền Thủ. Kinh Di-lặc gọi là Từ Thị, đại từ vô duyên thu nhiếp các pháp, nhưng các Bồ-tát đều đầy đủ các đức, dẫn vật quy tâm đều rõ bày một hiệu, có thể hiểu như thế. Chính ở tự tâm thấy các Bồ-tát. Kinh Tịnh Danh nói các Đức Phật giải thoát nên đối với trong tâm hành chúng sanh mà cầu, là nghóa ở đây. Nêu chúng phàm phu là thuận xưa mà đặt tên, hoặc y theo ngày nay, nên nói tạp chúng, vì trong đó phàm Thánh cả hai đều gồm, đạo tục xen nhau, tức có tám bộ danh. Bốn loại chúng tức kinh nói bốn chúng, tám bộ trời rồng. Trời: Là các vị trời cõi Dục, cõi Sắc. Rồng là đường súc sanh. Chánh báo như rắn, y báo như trời, cũng có khả năng biến hóa thành người, tám bộ do bốn vị vua trời thống lãnh. Phương Đông thống lãnh quỷ Càn-thát-bà, Phú-đơn-na. Phương Nam thống lãnh hai quỷ Bệ-lệ-đa và Cưu-bàn-trà, phương Tây thống lãnh hai quỷ Độc long, và Tỳ-xá-xà. Phương Bắc thống lãnh hai quỷ Dạ-xoa, và La-sát. Cộng chung thống lãnh tám bộ chẳng để cho khuấy rối người. Bốn chúng, xưa nói tại gia, xuất gia đều có hai, hợp thành bốn chúng. Đây gọi là hạn cuộc ý chẳng khắp, nay đối với một chúng lại chia làm bốn, tức đều có đương cơ. Năm trăm tức đồng loại, năm trăm vị Trưởng giả. Sau đắc đạo tức kia đây v.v… phát khởi, nghóa là quyền mưu trí xét biết cơ, biết thời. Kích dương phát động thành tựu lợi ích như Nguyệt Cái dốc thỉnh và văn dưới đây Thân tử bạch Phật rằng: Phật nói thièn định bậc nhất v.v… ảnh hưởng nghóa là các Đức Phật quá khứ, pháp thân Bồ-tát. Các Ngài đều ẩn viên cực giúp đỡ đấng Pháp Vương, tuy vô vi tác mà rất có lợi ích. Kết duyên nghóa là sức không có khả năng dẫn đạo kích động, đức chẳng có công dụng hàng phục chúng sanh, trấn giữ trang nghiêm. Quá khứ căn cơ cạn cợt, ba tuệ chẳng sanh. Hiện tại nghe pháp không có lợi ích bốn tất, chỉ làm nhân duyên được độ ở vị lai, người, chẳng phải loài người: Người là bốn chúng, chẳng phải loài người tức là trời rồng, v.v… Hoặc nói người, chẳng phải loài người, là nghi thần. Cung kỉnh vi nhiễu, Tu cung kính gọi là cung, sùng ngưỡng gọi là kính. Quanh khắp gọi là vi, ngồi khắp gọi là nhiễu, hoặc thực hành đi nhiễu là biểu thị cho cơ động. Bốn câu: 1.giới thừa đều gấp, giới gấp thọ báo trời, người, thừa gấp thấy Phật đắc đạo, tức kinh này trời người ở trong một hội. 2. Giới hoãn thừa gấp: giới hoãn đường sanh ác, thừa gấp thấy Phật đắc đạo. Nay rồng quỷ ở trong một hội. 3. Giới gấp thừa hoãn, giới gấp được thân trời, người, thừa hoãn chẳng được thấy Phật, dù cho được thấy Phật cũng chẳng nghe pháp đắc đạo. Như sáu ức ngôi nhà trong thành Xá-vệ và các vị trời ưa đắm dục lạc chẳng đến nghe pháp, đều là đó. 4. giới thừa đều hoãn, giới hoãn đọa đường ác, thừa hoãn không có lúc nào giải thoát. Giải thích do trong lời tựa ở đầu nêu năm xuất ý. Y theo sự v.v… trở xuống: Chia làm hai. Ban đầu y theo sự để hiểu kinh. Như trong Tịnh Danh Sớ nghóa là lược như trước đã ghi. Kinh thiệt cấm cừ ẩm thiết, nghóa là không nói được. Nhãn chủ v.v… Bạch Hổ Thông chép: gan lệ thuộc mắt, phổi lệ thuộc mũi, tim lệ thuộc miệng, tỳ lệ thuộc lưỡi, thân lệ thuộc tai. Cho nên biết kinh nói rằng lưỡi cấm không nghe được, tức hai tạng tim, gan bị bệnh, không tiếng là miệng không nói được. Cho nên chủ tâm bệnh. Đây là thịt đầy tim. Trong bụng bị bệnh, bụng thuộc thân, thức ý thức, tức lo lắng biết tâm. Năm căn bất lợi: căn nên nói là tạng, là sự lầm lẫn của chữ. Nghóa là năm tạng bất lợi ngoài ứng năm căn, thành bịnh não. Đây là nói về bệnh từ trong phát ra, cũng có thể v.v… trở xuống là nói về bệnh từ ngoài vào. Như thấy lâu nghe lâu cho đến ăn uống đều thành bệnh. Cho nên có luận giả nói là từ ngoài vào, chính là bệnh duyên, vào làm tổn thương năm tạng, năm tạng đã bệnh, ngoài ứng với năm căn, năm căn cũng bệnh. Dạ-xoa, tân dịch âm là Dược-xoa, Hán dịch là Dõng kiện, có khả năng bay lượn trong hư không. xưa dịch là quỷ Tiệp Tật, làm cho người trong nước bị bệnh não, tức là quỷ làm bệnh duyên. Do khí quỷ từ bên ngoài xâm nhập năm căn, làm tổn thương năm tạng, năm tạng thành bệnh trở lại ứng với năm căn. Từ trong răng xuất ra. Câu hoặc Viết là cẩu, là sự lầm lẫn của chữ. Kinh luật Dị Tướng, kinh Hiền Ngu, kinh Quán Phật Tam-muội Hải, đều viết là câu nha. Chữ câu có bộ kim, bộ tài đều được. Táng Đại Ký chép: vợ đối với chồng phải theo sự dẫn dắt của chồng. Kinh điển giải thích văn cấu tạo âm. Kinh xưa chữ có thể mang bộ tài, cho nên lầm là chữ cẩu, kinh nói người hô hấp tinh khí ấy. Phổ Môn Sớ chép: trong tim người có bảy giọt nước ngọt hòa dưỡng tinh thần, quỷ ăn một giọt khiến đau đầu, ăn ba giọt thì ngất xỉu, bảy giọt liền chết. Hai là y theo lý giải thích lại. Nhất niệm ba ngàn tức không tức trung, kia đây xen nhau cùng khắp nên nói là vô biên, ba chướng là ba đức chướng, tánh là lành cho nên tánh lành. Mười thứ v.v… trở xuống là dùng mười loại người tu hành để giải thích tất cả dân chúng. Mười loại người tu hành chẳng ngoài ba đế pháp giới. Như tất cả dân chúng không ngoài nước Tỳ-xá-ly. Người chịu khổ báo, thì trời người chịu khổ, ví như so với Quảng Nghiêm bệnh nặng thì cũng thuộc về bốn đường ác, pháp lành thế gian, tức trong cõi người thực hành năm giới, mười điều lành. Nhị thừa thì hai giáo hợp nói chung. Bồ-tát thì bốn giáo chia luận. Ái kiến tức tư hoặc của giới nội. Tạng thông nội ngoại phàm. Biệt Viên ngoại phàm, đều chưa dứt bỏ, cho nên bệnh ấy tức y theo ba thứ sắc thanh v.v… cho đến bệnh tham, sân, si. Cõi biến dịch: Tức Phương tiện thật báo. Biệt vị ba mươi tâm: lại nêu chung, từ Thất Trụ trở lên mới sanh cõi Phương tiện, chịu thân biến dịch. Thập Tín của Viên giáo và Tạng Thông dứt hoặc hết người, đồng biệt ba mươi tâm. Biệt giáo đăng địa đồng viên Sơ Trụ. Văn tuy nêu khắp mà nghóa đều nhiếp hết. Địa địa, chỗ nương tựa gọi là địa, chỉ chung các giai vị, đều có ái kiến, tức giới ngoại đồng thể vô minh. Bốn câu là bốn môn như vô thường v.v… đẳng lấy hai cũng cả hai, chẳng phải thường, tức có môn vô thường tức không môn. Cả hai có thể biết sự thật nầy v.v… vì đã giải nhất môn là đúng. Bác bỏ người giải ba môn là chẳng sai. Hỏi: Nguyệt Cái thuộc người nào? Đáp: kinh là phương đẳng chẳng thể nhất định thuộc. Nên biết Nguyệt Cái vốn là thứ mười, hoặc chỉ bày Sơ tâm Viên giáo. Hoặc nêu chung tám thứ trước. Từ lý khởi kiến gọi là Dạ-xoa. Kiến chẳng ngoài năm thứ. Kinh nói có năm căn, năm kiến như đã ghi ở trước. Câu nha, v.v… Nha đã từ dưới hướng lên trên, làm tổn hại người. nghiệp cũng từ kiến mà khởi, tổn hại pháp thân, do kiến mà khởi nghiệp, làm nhân sanh tử. Thể của nghiệp đen tối cho nên nói như mực, năm trăm vị Trưởng giả, Phong Tục Thông chép: người cao tuổi đức lớn báo đáp việc lâu dài đối với người, đó là Trưởng giả. Nước kia có năm trăm gia đình, đều gọi là Ly-xa, truyền thiền làm vua. Ly-xa, Hán dịch là truyền thọ. Nước chính bởi do đây. Năm trăm vị Trưởng giả cùng thực hành đạo pháp. Quân só dân chúng ai ai cũng quay về đức, mà Nguyệt Cái đứng đầu. Lúc bấy giờ làm người đứng đầu một nước. Cho nên phẩm Hương Tích trong kinh Duy-ma nói Trưởng giả chủ là Nguyệt Cái dẫn tám mươi bốn ngàn người đến. Đầu mặt làm lễ, Trí luận nói pháp lễ có ba, một là miệng lễ, hai là cong đầu gối chẳng sát đất, ba là đầu gối sát đất, sát đất là thượng lễ. Kỳ-bà, Hán dịch là Cố hoạt, con vua Ảnh Kiên, Thiện kiến nói do Già Huynh Nại nữ sanh ra, xuất thai liền mang kim trúc túi thuốc, làm thầy thuốc trị bệnh cho đời, nghóa là đây là đúng sự thật, vì chấp mình là đúng, bác bỏ người là sai. Nhân duyên sự tướng liền nhiếp, hữu kiến ngoại đạo. Diệu thuật bên ngoài, ngoại là ngoại đạo, chẳng phải ngoài bốn câu, chẳng thể chữa trị v.v… ban đầu một chỉ y thân bịnh, sau là ba y tâm, lại tăng thêm bệnh kiến ái. Năm căn chẳng rõ, nhãn ứng làm căn, minh là minh lợi. Ngoài bị năm trần xâm hại, cho nên chẳng sáng suốt lanh lợi. Vân vân: Là mười thứ hành nhân bị ái kiến xâm hại Cho nên thỉnh Quán Âm, Quán Âm cũng có mười thứ khác nhau. Thiên tôn nghóa là các vị trời, người đời không thể hơn được. Cho nên nói Thiên tôn, cũng gọi là Thế tôn. Ngày xưa người dịch kinh hai tên dùng lẫn nhau. Đỗ Hành khải đời Đường dịch Kinh Phật Đảnh Tối Thắng đều gọi là Thánh tôn. <篇> THỈNH QUÁN ÂM KINH SỚ XIỂN NGHÓA SAO <卷>QUYỂN3 Lộng dẫn là dẫn của Lộng gia. Chánh thuyết như lộng, ba lời tưạ như dẫn. Giáng lâm, Chu lễ nói lâm là tôn quý đến thấp kém, sinh khởi ý là dụng trong nhân tự. Cho nên dốc thỉnh. Phật dạy năng trừ độc hại, ở phương Tây do nêu nơi chốn cho nên khuyên cầu thỉnh. Do cầu thỉnh nên Thánh giáng, do Thánh giáng nên trao cho cành dương. Do nhận cành dương cho nên vì đó nói chú. Phương Tây cách cõi nầy v.v… là lời xuất xứ từ Đại kinh. Văn kia chính là thế giới Bất Động ở phương Đông. Chỉ Ta-bà này gọi là phương Tây cách cõi nầy, hai mươi hằng hà sa. Nếu nói về An Dưỡng tức như kinh Di-đà tiểu bản nói rằng đi qua mười muôn ức cõi Phật. Nay chỉ mượn thế lực của lời xưa để làm lời nạn: Vì sao ở dưới lại hỏi, nhất giải hạ đáp. Người khác giải ứng mà mất đối với cơ, cho nên chẳng lấy. Nay giải chẳng đúng. Y theo Phật nói với Trưởng giả rằng cách cõi nầy chẳng xa, chính là nói về cơ duyên khác nhau. Người khác y theo nên nói chẳng xa. Tuy gần mà xa, như ba ức người trong thành Xá-vệ chẳng thấy chẳng nghe, kia do tám âm rất gần. Người thấy không nghe, dù xa cũng ứng. Như nay Nguyệt Cái cầu thỉnh ba vị Thánh liền giáng. Như mặt trăng trên trời dù cho nước trong ở xa cũng liền hiện. Thời là thời tiết, phương là phương sở. Số là pháp số. Giáo pháp cho Phật nói lý ấy vắng lặng, không thời, phương, số. Năm ấm, mười tám vốn giữ pháp mười hai nhập, chẳng thể nhiếp. Hoặc trong pháp ngoại đạo, chấp có thời v.v… tức là thuộc về ba khoa. An Thế Cao Đời Hậu Hán dịch kinh, cho là thập bát giới là bổn trì. Nhưng tùy hạ chân lý tuy không thế đế nói có, như trong luật khiến nội đệ tử khi ăn, khi mặc là có thời. Nay nói chính lập phương Tây, là có phương. Năm hành: Là khí của hành thiên. Lão Đam nói trời có năm hành: mộc, hỏa, kim, thổ, thủy. Chia thời hóa dục để thành muôn vật. Tây là kim, đông là mộc, nam là hỏa, tây là kim, bắc là thủy, trung là thổ. Hoặc đối với Bốn đế, nghóa là đông là tập, nam là khổ, tây là đạo, bắc là diệt. Cho nên nói tức Đạo đế. Đạo là năng thông v.v… đạo là giới, định, tuệ có công năng phá hoặc thông đến lý. Ở đây ý nói hạ chánh hiển phương tây Quán Âm để tiêu biểu đạo đế. Quán là chủng trí. Nên gọi là đại trí. Ba đức dung nhiếp lẫn nhau, cho nên nói vô ngại. Tiêu trừ độc này, tức trí năng phá hoặc, chung cho chí lý, là nghóa năng thông. Mặt trời mọc phía Đông tiêu biểu sinh ra điều lành. Lặn phía Tây tiêu biểu cho dứt trừ điều ác. Hai cơ sinh diệt, nghóa là sinh điều lành thì thời cơ ở đông độ. Còn dứt ác thì thời cơ ở phương Tây. Cho nên nói ở hai cõi này. Hai thứ vô lượng: là ba thân, làm sanh thân, pháp thân, cũng gọi là chân thân ứng thân, vô lượng của hữu lượng, luận rằng ứng là nghóa cơ thuần thục thì sanh, cơ hết thì diệt . Cuối cùng thành hữu lượng, chỉ y theo trời, người, không thể đếm biết, nên nói là vô lượng. Nếu tuổi thọ của Phật Thích-ca tám mươi, có thể đếm biết, thì là hữu lượng trong hữu lượng. Quang Minh Sớ chép: hữu lượng có hai nghóa chính là do đây. Pháp thân vô lượng, pháp thân tức chân thân. Nay nói hai thân thì hợp với pháp báo, đồng gọi là pháp thân. Vì báo thân và pháp thân là một thể. Ở nhân thì cảnh quán chẳng hai. Ở quả thì pháp thân báo thân thầm hợp. Cho nên Quang Minh Sớ chép: trí đã ứng, minh cũng chẳng phải thân, chẳng phải chẳng thân. Thỉnh quán cũng đã hai chữ, đủ ng- hiệm thể đồng. Pháp thân báo thân một thể, thường trú chẳng dời đổi, vì thế vô hạn lượng, cho nên nói đây là vô lượng của vô lượng, đều là vô lượng của pháp thân. Hai Phật đều chứng đắc pháp thân thường và báo thân thường. Hai Phật kia đây đều có khả năng ứng dài, ứng ngắn. Nhưng Đức Thích-ca nầy ứng cơ duyên cõi uế nên ngắn. Sanh thân là tám mươi và bảy trăm A-tăng-kỳ. Di-đà kia ứng cơ duyên cõi tịnh nên nên thọ vô lượng. Mà thật có số: Là chẳng phải trời người biết được, gọi là vô lượng, Quán Âm bổ xứ nghiệm hữu số. Cho nên quang minh nói tuổi thọ như số cát bụi của núi và số giọt nước biển, Đức Thích-ca năng hiện vô lượng. Ví dụ Di-đà này cũng hiện hữu lượng. Cho nên Quang Minh Sớ chép: Ứng Phật đều là hai lượng, cho nên tuỳ theo chúng sanh mà có khác nhau về dài ngắn. Hỏi: Kinh Quang Minh nói tuổi thọ như số cát bụi của núi và số giọt nước biển. Cho nên lấy thường quả làm tông. Nếu ví dụ Di-đà rốt cuộc thành hữu lượng, thì đó là vô thường, đâu gọi là thường quả. Đáp: Nước ao sâu thì hoa sen lớn. Pháp thể thường thì ứng dụng xa.Núi biển là dụng của thường thể, cho nên nói đại dụng đủ để hiển bày thể. Thường dùng để dứt chấp nghi tám mươi vô thường của Tín Tướng. Mà số thung dung kia lấy báo thân làm phẩm đề, cho nghóa trên thầm dưới ứng là như vậy. Thật nói ứng thân có thể là thường. Kỳ xà lẫm sư, là Pháp sư Lẫm ở chùa Kỳ-xà. Cho nên có hơn kém. Vì uế này nên hình thành kia là tịnh, cho nên kia hơn đây kém, mà cùng là ứng độ. Nếu thực hành dưới phá gồm hai ý, một có dời động cho nên chẳng phải chân, hai là chưa cực tịnh nên chẳng phải chân, không còn dời động v.v… Đây là ý ban đầu. Chân lý vắng lặng, không đến đi, dời động không tịnh uế hơn kém. Kinh nói Di-đà từ cõi kia cõi nầy. Kia hơn đây kém, đâu phải là chân! Nếu kém hạ ý, hoặc là chân thân ứng ở cõi Tịch quang cực tịnh. Đã là pháp thuyết ba thừa, người chia chín phẩm, tuy không bốn đường mà có trời người. Đối với đồng cư còn chưa cực tịnh. Y theo đây thì không thể gọi là chân thân, vì thế nói: Thế thì không thể. Cho nên Tịnh Danh Sớ nói hai mươi bảy phẩm tịnh độ. Di-đà chỉ là thứ sáu. Mà các kinh khắp khen ngợi người tu tịnh. Thân ở cõi này cho nên do vật cơ. Vì nhiếp sanh, vì khiến chuyên chú, túc duyên sâu dày, là y theo phần nhiều. Lời nói này thì rộng lớn. Vì xưa bổn nay tích đều là ứng thân. Đây một là hứa đi, hai đi không được. Cho nên nói nay cũng chẳng dùng, vì không có văn kinh nói. Gọi là nên biết, phải biết. Hai Phật đều có xưa bổn nay tích, thay làm lẫn nhau, Trách người lấy kia làm gốc, lấy đây làm tích. Nay nói dưới nêu bày nay là chính nghóa ở đây. Kia đây đều là ứng độ nhưng tịnh uế khác nhau. Nay cõi uế này cơ duyên phá ác phải do Phật ở cõi tịnh. Vì tịnh phá uế là đối trị. Cho nên làm hơn kém lẫn nhau. Cõi này là kém, Tịnh Độ là hơn, đồng cư là kém, phương tiện là hơn. Thật báo tịch quang y theo thuyết có thể thấy. Tiêu trừ lẫn nhau: Cõi uế kiến tư độc hại, thỉnh tịnh độ Phật tiêu trừ. Cho nên nói: có lẫn nhau. Đây cũng là một lần, nên biết chúng sanh ở tịnh độ hoặc căn ở Đức Thích-ca, cũng thỉnh Phật này. Như mười v.v… trở xuống lẫn nhau có sự tiêu trừ. Mười thứ thùy ứng thì người chịu quả báo khổ và tu pháp lành thế gian, chỉ cảm sự tướng Quán Âm, cho đến tu viên cảm viên thông Quán Âm tám hạng người này đều là cõi uế đồng cư. Cảm tịnh độ đồng cư tám loại Quán Âm. Hai hạng người biến dịch, Biệt ba mươi tâm cảm thật báo Quán Âm thùy ứng. Mười thứ phương Tây, ban đầu người chỉ thấy sự tướng, mới đến thứ mười thấy như hư không. Ví dụ Ta-bà này cũng ứng với mười thứ. Như kinh Tịnh Danh nói Thân Tử và Phạm Vương đã thấy, Pháp Hoa nói thường tại núi Linh Thứu v. v… chỉ y theo chúng sanh, phần nhiều là giữ lấy cõi ấy, cho nên kia tịnh đây uế. Đối với cơ duyên đều sanh dị kiến. Đạo của các Phật đồng, kính tin điều nầy. Mười thứ tiêu trừ y theo bạt quả báo khổ, mới đến phá vô minh. Cõi này cho đến khiến thỉnh, nhân duyên hòa hợp, phá được ba chướng. Một là pháp nêu danh, tùy cơ đều lập một hiệu. Nay muốn nói lý do cần thỉnh. Do tiêu biểu ba đức nên phải cầu thỉnh. Nay chúng sanh cõi này muốn tiêu trừ ba chướng độc hại, thì bên ngoài phải mượn duyên cảnh đẹp, hiển phát lý pháp thân, của chính mình, cho nên phải thỉnh. Mà pháp thân này bị cảm đã che lấp. Nay muốn hiển phát phải tu quán tuệ chiếu soi lý này, trừ hoặc chướng, Quán Âm tiêu biểu cho tuệ nên phải thỉnh, nhưng tuệ chẳng vận dụng riêng, mượn phước giúp thành. Thế Chí tiêu biểu cho phước cũng phải thỉnh. Thích-ca muốn giúp cho chúng sanh hiển phát bổn lý học tuệ tu phước. Thỉnh ba vị Thánh thầm để tiêu biểu. Đối trị nghóa mạnh là do ngu si, thấy có sự khổ. Nếu có quán trí thời xa chỗ không khổ, nay do bịnh khổ, chính tu trí tuệ để làm đối trị. Cho nên dùng tiêu đề, đắc ý đủ ba thứ, quán là hiển lý, phải nhờ phước giúp. Lược nêu một tên, thì đầy đủ ba nghóa. Đại bi chí cảnh, vô duyên đại bi khắp trùm tất cả, tức là pháp thân. Cơ của ba nghiệp, năm vóc sát đất v.v… thuộc về thân nghiệp. Buộc niệm v.v… là ý nghiệp, nên thỉnh Phật, kia là khẩu nghiệp. Không có ghẻ lở. Sách lễ ghi rằng đầu có ghẻ lỡ thì tắm gội, chữ đều ở đây làm. Đại kinh nói như tay người bị thương cầm thuốc độc, độc thời theo đó mà vào. Bịnh nhọt là nhân duyên Bồ-đề. Độc là thuốc độc bậc nhất. Năm vóc sát đất là hai khủy tay, hai đầu gối và đầu, đều là phần thân thể, thảy đều sát đất. Bản thể chúng sanh là một, tâm tánh chúng sanh và Phật không khác nhau. Cho nên nói một thể. Nghóa đồng cha con, tánh tự nhìn tương quan. Chữ mẹ là lầm. Con lạy cha chính là tiêu biểu cho báo ân. Chúng sanh lạy Phật nghóa cũng như vậy. Tát-bà-nhã, Hán dịch là nhất thiết trí tướng, trong quán tâm tánh hợp với quả trí. Lìa Tát-bà-nhã tức tâm theo cảnh vọng, hợp với thường lý, hợp với lỳ năm thường. Nghịch lý: Là nghịch lý năm thường. Giới là sắc pháp, nên nói sắc là giới pháp, đưa văn là lầm. Vô tác thầm hợp, do tác dùng phát vô tác chẳng tương ưng với sắc tâm mà ở tự nhiếp thứ ba. Cho nên nói thầm hợp. Trái âm, phải dương, luận rằng trái phải âm dương do ở phương sở. Đông nam thuộc dương, Tây bắc thuộc âm. Lễ của Trung quốc vua, cha, thầy ở phía Nam thì trái đông phải tây, thì trái là dương, phải là âm. Kinh Niết-bàn nói rằng: Ví như phương Tây, phương bắc là thượng. Thượng là trái suy lường hiển hiện như nói dương. Suy nghó thường ở trong, như tối của âm. Năm thức ở đầu: mắt, tai, mũi, lưỡi đều ở đầu, cho nên thân tuy khắp thể, đầu cũng thuộc thân. Bình ỷ: ỷ là lập. Gọi là hoặc chẳng thầm hợp với lý trí. Chỉ theo vọng ngã chấp lự tri, thời là toàn pháp, tánh là vô minh. Năm thọ ấm là Năm Dạ-xoa. Nếu nương chí tâm địa thì là nghóa của đầu địa làm lễ. Tên gọi năm phần chung cho Đại thừa Tiểu thừa. Nay ý ở Đại nghóa cũng bao gồm tiểu. Vì chung cho thập chủng hạnh nhân, ngộ hư trí ấy, ngộ trí pháp không, hành ấm vời lấy lụy. Bách Luận Sớ nói: tâm vương rõ tướng chung kia, tâm sở rõ tướng riêng kia, vì thức khai sáng phát khởi chỉ duyên thanh v. v… kế là chấp cảnh duyên tức là tướng tâm, kế đến lãnh nạp cảnh trước tức là thọ tâm, kế là khởi các phiền não như tham v.v… tạo tác tức là hành tâm, ba thứ trước chỉ là vô ký chưa thể thành nghiệp. Hành đã thành nghiệp cho nên nói vời lấy ngụy. Nhân diệt v.v… trở xuống là diệt chín cõi, vô thường, năm ấm. Đoạn kết độc hại, kết là phiền não cho nên dụ cho xú uế, cũng là chỉ thiện. Xét xứ uế như bất sát v.v… Điều lệ, điều là chạm trổ đẹp đẽ, sách lễ nói dân là chạm khắc trên trán. Gia ngữ nói vật dụng chẳng chạm trổ giả hoa mà có thể đẹp, như phước giúp cho tuệ, hành thiện là phóng sanh v.v… trong định hạ định vô tuệ không dùng định tuệ sâu xa kia, không định không dùng tột chiếu kia. Nếu riêng đối v.v… là nêu lỗi riêng đối. Pháp thân đều gọi là tuệ, tuệ có lẽ là lầm của chữ hương. Kinh Hoa Nghiêm dùng năm phần pháp thân đều dụ cho hương, đâu được vô định: Năm phần có định thân cho nên ở đây nêu lỗi lấy hương tiêu biểu riêng đối với tuệ. Bảy tịnh: một là giới tịnh, hai là tâm tịnh, ba là kiến tịnh, bốn là độ nghi tịnh, năm là phân biệt tịnh, sáu là hành tịnh, bảy là Niết-bàn tịnh. Bảy tên gọi này gọi là bảy hoa giác tịnh. Đại Kinh chép: Nước định trong suốt tràn đầy khắp vì bảy hoa tịnh. Giới là giới học, tâm là định học, năm tuệ học còn lại đều thuộc về tuệ, ở đây nêu bày lỗi vì hoa tiêu biểu riêng đối với định, mà quở trách riêng. Phật dạy nêu chung, đâu cần đối riêng, cho nên nói dưới đây dẫn chứng chưa rõ ràng. Hỏa là duyên, vì hỏa dụ cho thọ giới tác pháp, đinh tuệ cũng vậy. Ví dụ giới học đều đủ tác, vô tác. Đối đây v.v… trở xuống là hai thiện đối chỉ hành sự thiện và giới học vô tác tác. Là y theo hai hành nhân ở trước. Luận tiêu biểu cho pháp, đối định tuệ thì y theo tám hạng hành nhân sau. Luận tiêu biểu cho pháp. Cho nên trước nói định tuệ bao gồm các nghóa Đại, Tiểu, Thiên, Viên, Giới nội, Giới ngoại. Luận tiêu biểu cho pháp ý, giúp cho hành nhân thấy đối hương hoa, không quên giới định tuệ của chính mình, không rõ ý chỉ này. Chỉ có vài cảnh bên ngoài, làm sao có lợi ích ư ! Hàm tiêu đẳng: Biểu thị cho sở tiêu độc hại cũng có mười thứ khác nhau. Như ban đầu hành nhân lấy hương tiêu biểu cho bất sát v.v… Chỉ thiện nên lấy mùi hôi thúi tiêu biểu cho nghiệp bốn đường ác, cho đến hành nhân thứ mười lấy Nhị Trụ để phá vô minh, là hơi hôi thúi. Vì thế dưới đây thứ lớp ba nghiệp, nên trước thân, kế đến khẩu, sau là ý, mà văn kinh lấy ý thứ ấy, do trước phải mong mỏi tâm, im lặng thỉnh tức nguyện thỉnh. Bất phong đẳng, có tiếng gọi là phong, thời tán, kết trệ gọi là khí. Thủ thì bị lấp kín. Ra vào chẳng hết gọi là suyển, giữ lại thì gọi là nhọc, chẳng có tiếng, chẳng trở ngại, ra vào đều thông suốt gọi là hơi thở, giữ thì mới định. Thiền môn nói dụng hơi thở khác nhau, có ba. Một, thầy dạy buộc tâm dếm hơi thở ra, một thầy dạy đếm hơi thở vào, một thầy dạy vào ra không tồn tại, chỉ lấy chỗ tiện lợi, nhập định không có lỗi tức dụng đều chẳng cho phép vào ra đều đếm. Người tu hành muốn thực hành pháp này nên dùng phép đếm hơi thở làm ý. Mười hơi thở là một niệm, pháp môn đếm hơi thở có tu có chứng, thong thả đếm từ một đến mười, nhiếp tâm ở số, chẳng để tâm tán loạn thì gọi là tu sổ tức giác tâm, lần lượt từ một đến mười, chẳng cần thêm công sức, gọi là chứng sổ, hay như dưới đây nói chứng sổ. Hai căn Hạ và Trung đã chứng tức định cõi Dục. Thiền môn nói dục định có ba: Một là thô trú, hai là tế trụ, ba là chứng. Định cõi Dục thô trú: Nhân sổ tức trước nói các phương tiện tu tập, tâm dần dần vắng lặng chẳng khởi duyên lự. Gọi là thô trụ. Tế trụ ấy, ở hậu tâm dần dần mất đi chuyển tế tức là tế trụ, nên khi được thô, tế trụ này, hoặc khi sắp được, thì chắc chắn có pháp trì thân khởi, so với khi pháp phát thì thân tâm tự nhiên, ngồi thẳng không mệt mỏi. Như vật được giữ gìn, cho đến trải qua một phen ngồi lâu không tán ý, gọi là định cõi Dục. Như nay người hạ căn tâm định loạn dừng tức thô trú. Chưa đến địa định, thiền môn nói định cõi Dục này hậu thân tâm mất đi. Rỗng rang đối với thân cõi Dục. Trong lúc ngồi không thấy đầu, tay, giường mở ra, giống như hư không. Đây là định ở địa Vị Đáo. Nói địa Vị Đáo: Địa này sanh khởi Sơ thiền. Hỷ phát v.v… hỷ đọc khứ thanh. Vì nay pháp kinh hành thuộc sáu diệu môn, cho nên thiền môn nói tự có chúng sanh tuệ nhiều định ít, là nói sáu diệu môn, trong sáu diệu môn tuệ nhiều. Đối với cõi Dục trong Sơ thiền tức có khả năng phát vô lậu, chưa hẳn đầy đủ đến các thiền địa trên. Nhất thiết thiền tức hữu lậu, vô lậu, vừa hữu lậu vừa vô lậu, phi hữu lậu phi vô lậu thiền, tức ở dưới nêu mười thứ mà văn dưới đây chỉ nói tám. Hai hạng biến dịch không báo đức, nhưng sổ tức là một, do quán pháp riêng, vì thành mười hạng người cho nên bất định, chỉ quán có một chương, tu chung quán riêng, nếu lúc thường thì sổ trên là giác thiết, là thường. Dưới sổ như chữ, văn dưới nói phép đếm hơi thở cũng vậy, chẳng giữ gìn, chẳng thiên ái Bồ-tát hạ tạng. Biết sắc số: Sắc có lẽ là lầm của chữ tức, tại duyên nghóa là nhiếp tâm tại số, chẳng lầm lộn tán loạn, nghóa là từ một đến mười. Các tuệ vô tướng v.v… tuệ vô tướng tức thông độ thứ sáu v.v… tức là đẳng thủ năm độ trước. Song Thông và Tạng thể phân tích có khác. Sáu độ không phân biệt cho nên tiếp tạng. Văn giản lược. Nói trí độ dùng trí dẫn dắt có năm, đều thành tức không đẳng tuệ. Nên nói tuệ đẳng chẳng nhất định không cho nên phá không. Xuất giả bất định tục cho nên phá giả nhập Trung quán. Tức này phi không phi giả, nói tức duy tâm giống như huyễn hóa, cho nên phi giả tức, tánh đầy đủ các pháp cho nên phi không pháp. ánh sáng của thân như như: pháp thân trùm khắp tất cả mọi nơi, chiếu như như bất biến, nên gọi là quang, ánh sáng trí tuệ soi chiếu rõ ràng tức là trí tuệ soi chiếu cảnh, xứng cảnh mà quán, cảnh trí chẳng hai. Vì pháp thân này v.v… nhân Như-lai pháp báo như một, rốt ráo viên mãn cùng cực, năng khởi đại dụng, khiến chúng sanh được thấy ánh sáng của ứng thân. Nhưng, ứng dụng nầy chẳng lìa pháp thân. Phô Hiền Quán chép: Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ- lô-giá-na. Kinh Niết-bàn chép: Nay ta thân này tức là pháp thân. Cho nên nói về ánh sáng của pháp báo giải ứng thân. Giải thích trong thần lực. Ban đầu nói sự giải tức năng lực thần thông của Thích-ca. Song việc làm của đại Thánh thì sự tiêu biểu cho lý. Nghóa phải đầy đủ cả hai sự lý cả hai giải thích đều nói có thể được. Như-lai thật ra là chân như v.v… dùng chân như giải thích Như, dùng thần lực giải thích Lai, nên nói là Như-lai thần lực. Chân như này có thần lực. Thần gọi là chẳng lường được, lực gọi là tài dụng, không lường được thời lý sâu xa của thiên nhiên, tài dụng thì sức lớn của chuyển biến. Nương thần lực này mà đến, nghóa là nương chân như mà có ứng thân, cho nên nói Như-lai, tức nương đạo như thật đến thành Chánh Giác. Bất động dưới đây giải thích đến Tỳ-xá-ly. Chỗ của Tỳ-xá-ly tức là Tịnh quang. Cho nên nói bất động. Cõi Tịnh quang này chỉ Phật rốt ráo. Cho nên nói chí thật tướng đẳng, rộng bao trùm trăm cõi, muôn điều lành. Trang nghiêm cho nên nói là Quảng nghiêm. Trụ ở đây giải thích trụ thành môn. Ban đầu giải thích chữ Trụ. Trụ ở đây nghóa là trụ đất tướng thật, do vô duyên đại bi bao trùm khắp pháp giới, thương xót chúng sanh trừ ba chướng độc hại cho họ, nên nói là Trụ. Thành đức pháp giới nghóa là pháp giới làm thành, đề phòng chẳng phải Niết-bàn, chế ngự sanh tử. Tâm tánh chỉ có một cho nên nói chẳng hai, chứa đựng tất cả không chướng ngại, nên gọi là cửa, trùm khắp mọi nơi không nơi nào là cửa. Phật chứng lý này. Về môn khổn, tam thương chép: khổn môn hạn cuộc, như như tức trí v. v… cho rằng cảnh tức là trí, cho nên nói như như tức trí. Trí này lại chiếu soi cảnh tịnh, nói rằng như như: Như là trí như như đối với cảnh, cảnh như như đối với trí, tức gọi là cảnh trí chẳng hai. Có nhành dương do Quán Âm dùng tay trái cầm nhành dương, tay phải cầm bình cam lộ, cho nên người trong nước nhận được hai vật này, trong tiêu biểu hai nhân. Định là duyên nhân, tuệ là liễu nhân. Tuệ có công năng dứt trừ hoặc, cho nên dùng quét dùng động tiêu biểu. Định có công năng dứt trừ tán loạn cho nên dùng nước lắng trong để tiêu biểu. Thuyết văn nói nước đứng gọi là đình, đối nghóa thượng tiêu. Như văn nói tiêu gọi là tiêu trừ, lại nữa, chỉ trừ bệnh không trừ pháp, cho nên ở đây dùng phất trừ đối, như vật trên bụi chỉ phủi bụi chẳng bỏ vật. Phật đả: đả đinh lãnh thiết, đối nghóa thượng phục, phục là điều phục. Lại nữa, điều lành khiến cho kham nhẫn chế ngự. Ở đây còn đối với một nghóa ở trước, là giải tiêu phục. Lại, phất hạ đối thượng y theo hai nghóa. Tiêu diệt tức dứt bỏ phiền não, nhập vào Niết-bàn, tiêu trừ tức chẳng dứt bỏ phiền não, nhập vào Niết-bàn, ở đây chỉ đối hai tiêu không đối hai phục. Trong bốn nghóa của nước đã nói, hoặc là văn lược. Nên nói một phất trừ tối, tiêu diệt, tiêu trừ phục hai phất đả, tức đối tiêu trừ bình phục. Về tỉnh ngộ, nước có công năng tẩy rửa phiền muộn được tỉnh. Phương pháp sám hối, luận rằng pháp sám có ba: Đó là tác pháp, thủ tướng, vô sanh, hai nghóa trước là sự, nghóa sau là lý. Nay kinh nói đốt hương, rải hoa, năm vóc gieo sát đất tức là tác pháp. Ở thân hiện tại thấy Phật đưa tay và mau chóng được thấy Quán Âm v.v… tức là thủ tướng. Đều nhập vào địa Như thật, Vô sanh. Mười ý này đều là tác pháp, vô sanh lý quán chẳng thể tạm quên. Thủ tướng nhậm vận tự hiện. Hành nhân thời nay đều mê mờ nguồn tâm, chỉ cầu tướng tốt. Y theo đây mong cầu hy vọng, sợ lạc cảnh ma. Cho nên thiền môn nói luận rằng thấy tướng ấy bỗng nhiên nhìn thấy, còn tà chánh khó biết, bèn y theo văn tác tâm mong cầu, thường bị ma dựa. Hỏi: Như vậy chẳng nên quán tướng sám hối ư? Đáp: Quán tướng, chỉ dụng tâm hành đạo, công phu thành thì tướng hiện, lấy đây chia chẽ liền biết tội diệt. Chẳng phải nói khi hành đạo, tâm giữ sự tướng mà sanh chấp chặt. Nếu dụng tâm như thế thì chắc chắn phần nhiều thành việc ma. Tám ý xuất xứ ở văn kinh ấy, ý thứ nhất, thứ tám lập nghóa Nhân sư. Sau khi diệt quy y quyết nhờ hình tượng v.v… cho nên phải trang nghiêm đạo tràng vạch bày tội lỗi. Kinh này không văn, tuy nói phá chướng nhưng tự là nói lên lực dụng của kinh. Cho nên hai ý này thêm nhân sư. Đầy đủ sự lý: Như Sớ trước đã giải thích. Năm vốc v.v… đều là lý giải, cho nên y theo lý tức thuộc về vô sanh. Vân vân: là mười ý này. Vả lại y theo Sư xưa, nếu y theo các nhà dịch Kinh ngày nay mười ý ít phân biệt. Nay Sư y kinh thỉnh sau. Nhành dương người xưa dùng để thỉnh ở sau. Sổ tức tức ngồi thiền, đã thiếu tụng kinh, cho nên nay thêm. Người xưa chỉ thấy kinh nói sổ tức buộc niệm hướng xuống. Lại nói năm môn tu thiền, bèn chia sổ tức, ngồi thiền thành hai khoa. Không biết sổ tức là pháp môn sổ tức trong năm môn. Ngày nay mười ý đủ ở trăm lục. Nhưng kinh này hành môn trong bốn Tam-muội, tức Tam-muội Phi hành phi tọa, cũng gọi là Tam- muội Tùy tự ý. Nhưng nói về các kinh tu hành thì sự nghi tuy khác nhau nhưng lý quán không phân biệt. Sự nghi đều y theo các giáo lý quán, đồng dụng mười thừa. Nếu chẳng phải mười thừa thì không bao giờ có chỗ đến. Cho nên trong chỉ quán tu đại hạnh, sự nghi rộng mà lý quán lược. Trong chính tu lý quán rộng mà sự nghi lược. Lý quán sau, phải dùng sự nghi trước, sự nghi trước phải dùng lý quán sau. Văn tuy xen nhau nhưng xuất dụng chính là đồng thời. Nay sớ văn chỉ vì giải thích kinh. Chí ở tu hành phải y theo chỉ quán. Vì ba v.v… trở xuống, hai chú trước Bồ-tát Quán Âm nói, một chú sau Đức Thích-ca nói. Đều là độc hại, ba chướng tổn hại ba đế, đều là phiền não, báo là quả phiền não, nghiệp là nhân phiền não. Tức ba chướng đều là phiền não, đều là nghiệp ác. Báo là nghiệp quả, phiền não là nghiệp bổn, tức ba chướng đều là nghiệp, đều là báo pháp, phiền não gọi là báo bổn, nghiệp gọi là báo nhân. Tức ba chướng đều là báo pháp. Chẳng không nặng nhẹ v.v… tuy đều gọi phiền não nhưng vì hoặc tâm hôn loạn nghóa nặng, cho nên gọi riêng là phiền não chướng, tuy đều gọi nghiệp ác mà ba chướng ràng buộc nghóa trọng cho nên gọi riêng nghiệp chướng. Tuy đều gọi báo pháp mà ấm thân thuận theo nhân nghóa trọng. Cho nên gọi riêng là báo chướng. Vì thế nói chia làm ba chướng, thảy đầy đủ lời nói ba chướng, đây là nghóa chung, nhưng trong chung có riêng, cho nên chủ trương ba chú đều phá một chướng. Như trong phá phiền não chướng, văn kinh tuy có nói nghiệp báo, cho nên biết nghiệp là nhân phiền não, báo là quả phiền não. Bỏ một bên lấy chính, chỉ là phá hoặc tâm phiền não chướng. Hai ví dụ còn lại, có thể biết. Hai ý, một là đều nặng, hai là xen nhau có nặng nhẹ, đều cần có ba chú, vì ba chướng đều nặng cho nên tử phược, tức phiền não chướng, giống như thường lỗi chó cắn, nghiệp báo đều ở đây. Xưa mất nghiệp nhân bất ngờ nay bị chó cắn. Như Pháp Hiển Truyện chép: Lấy thức ăn, Thánh Sa-di bị chó nhà Ngô ở Bành Thành cắn… Ví dụ như vậy, hoặc nghiệp dứt mà phiền não quả báo còn, hoặc báo dứt mà phiền não còn. Dứt bỏ nặng: Nặng là tham, nhẹ là sân si. Ba thứ này đều thuộc phiền não chướng. Nay dùng văn này để dứt hoặc có sự khác nhau giữa nặng và nhẹ, để ví dụ cho ba chướng. Nay từ nghóa riêng, đôïc hại là gọi chung, phiền não v.v… là gọi riêng. Bỏ ba bày một: Ba tức quyền, một tức thật. Cũng như vậy, ba chữ đều gọi bỏ quyền bày thật cho nên ví dụ. Như kinh nầy ba chú gọi chung là tiêu trừ độc hại. Lại thêm dưới đây tức chú ban đầu gọi là pháp thuyết thứ hai gọi là thí thuyết, chú thứ ba gọi là túc thế nhân duyên thuyết. Ví như kinh nầy ba chú ban đầu gọi phiền não, kế gọi là phá nghiệp, sau gọi phá báo. Từ hữu hạ tức trước nói người xưa chia kinh. Vì chánh thuyết hết chú thứ tư, tức là dưới đây xuất xứ nghóa ấy. Nghóa là trước ba trị riêng ba chướng. Sau một thứ trị chung ba chướng. Nếu chẳng phải dưới đây giải thích gồm được cả chung và riêng. Như chú đầu là phá phiền não nặng tức là riêng. Ngoài ra hai chướng theo đó dứt là chung. Hai thứ còn lại so sánh theo đó mà hiểu. Kinh nói Nam-mô, Hán dịch là quy lễ, hoặc quy mạng. Chung vì chúng sanh v.v… Phật như vua thầy thuốc, pháp như thuốc hay, tăng như người săn sóc bịnh. Cho nên nói chỗ tiêu phục. Duyên riêng, riêng ở năng lực Đại bi nhổ gốc khổ, vì thế cho nên thỉnh riêng. Ba ngôi báu lại có chung riêng, ba ngôi báu là chung, đều ba xưng là riêng, nghóa là dứt ba chướng nói ba chú, tiêu biểu cho ba đức. Gọi chung là ba ngôi báu, lại nói chung riêng về Quán Âm. Duyên riêng cũng laị luận chung riêng. Vì cũng là ba xưng cho nên nghóa hãy so sánh theo mà biết. Ba nghiệp như văn có chép, xưng danh thuộc khẩu nghiệp, đầu cúi sát đất thuộc thân nghiệp, nhất tâm nhất ý thuộc ý nghiệp. Khổ ách trở xuống v.v… trong đó có chia đoạn bảy khổ nguy ách, sau hai có khổ ách biến dịch. Chẳng riêng dưới đây nghóa là nói khổ ách là chung, chẳng riêng tồn tại đối với người chịu khổ báo. Vô minh si ám v.v… ở đây ban đầu lần lượt là phá phiền não chướng. Cho nên văn đây thỉnh chung chỉ nói dứt trừ si ám, dưới đây thỉnh riêng nói về nghiệp báo, là gồm cả bác bỏ. Như trong Hoa Nghiêm phát ra ánh sáng sáu độ, trừ tham tức thí quang, trừ nhuế tức nhẫn quang v.v… tức bằng với thủ chứng các độ khác. Nay dứt trừ si ám là trí quang. Lại như kinh Tư Ích chép: Lại nữa, ánh sáng Như-lai gọi là năng xả. Phật dùng ánh sáng này phá được tâm giới, khiến giữ giới cấm, lại nữa ánh sáng gọi là an hòa, phá tâm sân nhuế, khiến hành nhẫn nhục. Lại nữa ánh sáng gọi là cần tu, phá tâm biếng nhác, khiến thực hành tinh tấn. Lại nữa, ánh sáng gọi là nhất tâm, phá tâm vọng niệm, khiến thực hành thiền định, lại nữa ánh sáng này gọi là năng giải, phá tâm ngu si, khiến thực hành trí tuệ. Nay nói ánh sáng thanh tịnh tức là Tư Ích phát ra ánh sáng năng giải. Bao trùm mặt đất, cây cỏ đều chết. Ví như trong Viên giáo một dứt bỏ, tất cả dứt bỏ. Thư lớp trừ mười nhân hoặc: Khi dứt thọ khổ báo hoặc, các hoặc khác chưa hẳn là dứt, cho nên phải thứ lớp. Như trong Pháp Hoa Huyền Nghóa hành diệu thứ lớp phá có nghóa. Đây là Biệt giáo, Kinh nói khổ giết hại, còn Phụ Hành dẫn kinh nói độc hại là lầm lẫn. Chẳng thể chấp kia sửa đây, huống nay văn sớ giải thích rõ ràng, vẫn dùng độc hại cởi mở giết hại. Ma là thiên tử ma, chữ Ma trong tự điển vốn không có, do người đặt ra theo nghóa. Tiếng Phạm là Ma-la, Hán dịch là Chướng, làm chướng ngại tu đạo, nên cũng nói là sát, thường thực hành buông lung, dứt bỏ tuệ mạng. Hoặc nói điều ác, nhiều ái dục, đem không v. v… để dùng Tiểu phá Đại, Tiểu tuy ra khỏi ba cõi nhưng chẳng thể hóa độ người, Bồ-tát hóa độ người, dẫn dụ quyến thuộc ma làm trống rỗng cung điện ma, cho nên hại đại tâm, đây chứng bốn giáo, Bồ-tát có gặp nghóa giết hại, đem tán dưới đây dùng việc lành để phá Nhị thừa, Nhị thừa ra khỏi ba cõi. Cho nên ở đây chứng Thanh văn, Duyên giác có gặp nghóa giết hại. Nhưng hai hạng người biến dịch cũng bị ma giới ngoại làm hại. Như Kinh Hoa Nghiêm nói có mười thứ ma, hai thứ chướng như văn có chép, phiền não tức phiền não chướng, các bịnh tức báo chướng. Trước là đại bi v.v… chỉ cho trước thỉnh chung đại bi bao gồm tất cả. Đối nay ban vui, tức từ bi hiển hiện lẫn nhau. Trước nêu có khả năng nhổ gốc khổ, nên nói đại bi, nay nêu sở dự cho nên nói an vui. Hoặc thế hạ giải thích đại lạc, mà trước phân biệt với phần lạc. Bình đẳng như thế v.v… là dùng Nhị thừa chứng chân làm vui. Bồ-tát lấy ra khỏi giả làm vui. Phần hữu hạ đều là ít phần lạc, chẳng gọi là đại lạc. Cho đến dưới chính là nêu đại lạc. Chẳng dời, chẳng đổi cho nên thường không khổ hai biên. Vì thế đức thứ hai trong bốn đức của Lạc. Năng thỉnh nói là dài xa, nghóa là Nguyệt Cái chung làm mười thứ hành nhân thỉnh. Chẳng những là người chịu khổ báo mà nhờ nghe tên cứu nguy, ấy tức đồng với Pháp Hoa Quán Âm thanh ấy mà được giải thoát. Mười thứ dưới đây giải thích thế gian, đều gọi là chúng sanh thế gian, ở đây tuy nêu một nghóa quyết đủ cả ba. Do năm ấm hòa hợp mà có chúng sanh, chỗ chúng sanh ở chính là cõi nước. Dưới có giải thích từ bi phụ, nghóa cha con, chính chỉ Quán Âm là cha, chúng sanh coi như con. Chúng sanh do lý sẵn có Phật tánh, có công năng chiêu cảm Quán Âm. Do hiển bày Phật tánh cho nên năng ứng, cảm ứng trùm khắp lẫn nhau chúng sanh và Phật không khác. Kia giống như cha con tánh tự nhiên tương quan, cho nên nói cùng có Phật tánh. Như-lai v.v… trở xuống: là giải thích Phật tánh, vì Phật tánh là tên chung, ba nhân là tên riêng. Tổng vốn giải thích riêng, riêng chẳng lìa chung. Ba nhân trong đây chỉ nói về tánh. Duyên liễu nói về tu, đối với tu thì hai nghóa các văn hơi khác nhau, vì trong các văn nếu nói về chủng loại, tức lấy cúi đầu chắp tay làm duyên, cho đến nghe một câu làm liễu, nay nói về đều chưa nghe chưa ngộ vì thế đều ở duyên, cho nên nói rằng làm các công đức là nói tùy theo hóa đạo. Ấy là tán tâm nghe pháp xếp vào trong ấy. Lấy riêng giai vị người nghe pháp gọi là liễu nhân. Nên nói trói buộc được cởi mở. Nên biết cởi mở trói buộc tức Tương tự và Sơ Trụ. Nếu luận giả gọi là năm phẩm, đều là nghóa danh tự quán hạnh diệt. Cho nên biết viên danh tự tức đến phần chứng đều thuộc liễu nhân. Nhưng ba nhân nầy các bộ đã có nói. Tiến chẳng phải một, như Hiển Tánh Lục. Nói đủ tánh tự nhiên tương quan thì chúng sanh và Phật đều có ba, cao thấp trùm khắp lẫn nhau. Nên thỉnh v.v… trở xuống là kết thúc nêu bày. Đã nói thoát khổ ba độc tức là dứt hoặc nhập vị, phải nói rộng về mười hạng người mới rõ cao thấp, đâu dừng lại ở người chịu khổ báo. Bịnh trừ v.v… trở xuống là nói về ba nghóa giải thích, nay một câu vui thế gian. Nghóa đầu nói về người chịu khổ báo. Nói đắc đạo, tức Niết-bàn Nhị thừa. Thế thì đâu không phải vị lai được đạo viên đốn ư! Nay nói từ cạn đến sâu theo thứ lớp. Cho nên nói rộng nghóa ấy. Đến thông thứ ba y theo mười hạng người, mới là chuẩn đích. Lại nữa, hết bịnh là cái vui thế gian, đâu không tức thời ngộ đạo ư! Nhưng tức thời ngộ, chính do quá khứ gieo trồng đã thành thục. Nay y theo Quán Âm được giải thoát, hơn nữa mục đích chính là vì người gieo giống ở vị lai và người đã gieo trồng mà chưa chín mà thỉnh, cho nên nói cái vui ở đời nầy là cái vui ở vị lai, đối với Tiểu thừa được giải thoát, là cái vui đời sau. Cho đến ba trường hợp: chủng, thục, thoát của Viên giáo ví dụ cũng vậy. Vị lai v.v… trở xuống là nói về hàng Nhị thừa, có chia ra Hữu dư, Vô dư. Nay sau mười thứ v.v… trở xuống là nói về đắc từng phần, rốt ráo để giải thích. Nay mười thứ hành nhân nầy tức thời đều được ngộ đạo ngày nay, vì trong viên thì Diệu giác Niết-bàn ở sau. Nhưng bốn thứ trước trong mười thứ này, như ban đầu, còn hai nghóa đã nói ở sau. Ở đây lại cho chung rằng cứu cánh Niết-bàn trong viên là ở sau, vì hành nhân thứ mười là vị Sơ Trụ, đã là đời nay, thì phải lấy Diệu giác làm đời sau. Nói rằng đại Niết-bàn chẳng phải quả cao tột vì sao? Vì nếu mười hạng người mỗi hạng đều tự luận bàn thì từ nay về sau nhỏ nhiệm có thể biết. Nhưng chẳng phải ý Phật. Ý Phật muốn giúp cho tất cả đồng đến viên dung rốt ráo Niết-bàn. Cho nên Quán Âm địa vị sâu xa có thể rõ ý chỉ này, dạy khiến thỉnh nói cùng với Đại Niết-bàn. Ngoài ra v.v… trở xuống là kết hiển cùng với Đại Niết-bàn. Niết-bàn là pháp an vui. Cho nên nói: Mới là an vui hoàn toàn. Một câu kinh này tức là thỉnh bố thí cái vui đời sau. Sư tử hống, Kinh Niết-bàn chép: sư tử hống quyết định nói, nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì muốn biết trí ở thuyết, tức đức Bát-nhã. Vì ba dức này bình đẳng, vì ấn đối pháp thân, tất định đối với Bát-nhã, cát tường đối giải thoát. Đà-la-ni- là-gìa-trì, ngăn ba chướng ác chẳng sanh, trì ba đức thiện chẳng mất. Cho nên ba đức là thể của già trì. Lại nữa, tất v.v… trở xuống là nói về bạt và giải thích mà chẳng giải thích ấn Đà-la-ni, vì ấn là thể của Trung đạo, chắc chắn cát tường là dụng của Trung đạo và bạt… Nghóa là tiêu diệt và nhổ gốc khổ ấy. Khi sư tử rống lên thì trăm thú đều chết. Như trí tuệ khi chiếu soi thì các khổ đều dứt. Nên đại v.v… trở xuống là nói ng- hóa Đà-la-ni chung cho hiển mật. Trừ chướng chẳng luống dối gọi là thần chú, trí soi xét không mê mờ gọi là minh chú, vượt lên không gì sánh bằng gọi là chú vô đẳng đẳng. Đại Phẩm dùng chú này gọi là chú khen chung hiển mật. Kỳ là nguyện. Ở đây giải thích nghóa chú theo Đại Phẩm. Nguyện chúng sanh như người đứng: Lập nên thành Phật, đó là sự lầm lẫn của chữ. Ví như dưới đây. Kinh Thi nói: con sâu có con bỏ trong kén, nương cây vào ổ tò vò, dạy con ăn lúa giống như mình. Giải thích rằng: thức là dùng, cốc là lành. Nay có người dạy dỗ muôn dân tu theo đạo lành, cũng như tổ tò vò, cho nên tổ tò vò dụ cho Phật, sâu hại lúa dụ cho chúng sanh. Minh linh là loài trùng ăn dâu, ổ tò vò mềm mại giống eo con ong. Người đời gọi là ổ tò vò. Các kinh đều là bài chú ấy, chú nghóa là huấn nguyện, cho nên không phải chỉ có mật ngữ gọi là chú, mà các kinh đại thừa nói đều gọi là chú. Vì chẳng có lúc nào Phật không nguyện chúng sanh như Phật. Lại có thể lời nói Thiên, Tiểu cũng gọi là chú, cho nên Pháp Hoa nói: Tuy nói các thứ đạo, thật ra vì Phật thừa, vậy thì Thiên, Viên, hiển mật, đều là chú. Già là điều phục, phá nghóa là tiêu diệt. Cho nên nói diệt không diệt hữu tức là tiêu diệt, văn trên hàng phục không, hàng phục hữu. Dưới nên noí tức là điều phục không là do văn thiếu ý. Trừ phục bình đẳng v.v… là bình đẳng lấy hai thứ tiêu trừ, tiêu diệt. Nên nói diệt cũng có tiêu diệt, trừ diệt, tức dùng dứt bỏ, không dứt bỏ đối nhau. Huyền nghóa đã giải thích rõ. Cho nên chú v.v… cũng là cấm chú. Chú thệ là ba đức. Tù cấm ba chướng như cấm rắn ở thế gian. Thệ là chế. Chế ba chướng chẳng dở sanh khởi nên cũng gọi là chú thuật. Thuật pháp, giải thích chú thuật trên chỉ là phá pháp ba chướng, tận v.v… trở xuống là bốn nghóa: nguyện, cấm, thệ, thuật ở trên, đều cùng với một người dứt bỏ chướng tương ưng. Thầm có công năng tiêu phục: chú là mật ngữ, y theo bốn nghóa ở trước đều đầy đủ tiêu phục. Thật tướng ấn, Tam thương chép: ấn tín, là xem xét. Đại luận chép kinh Đại thừa dùng ấn Nhất Thật Tướng, sanh tử tức Niết- bàn, Niết-bàn tức sanh tử, chẳng hai chẳng khác. Khổ hết v.v… trở xuống là dùng hai nghóa tiêu diệt, điều phục ở trước để giải thích văn kinh. Cho đến có thấy, là nói lược nghiệp ác ba đường, nên nói cho đến. Từ chữ cho đến đến rộng xa, gồm năm mươi tám chữ. Hiện tại đang giải thích bài chú thứ hai lần lượt, chữ chú vân vân v.v… trở xuống. Sơ lược ở đây, thứ ba chính là nói chú. Kinh cứu hộ chúng sanh thần chú, vô biên đại bi khiến khắp lìa khổ. Nên nói là cứu hộ. Nói thần chú: các tân dịch đều là chân ngôn. Đều là lời nói khó suy nghó, bí mật chân thật của Như-lai. Nhưng các kinh đã nói công dụng khác nhau. Hoặc chỉ dùng để trị bịnh, hoặc chỉ dùng để hộ pháp, hoặc chỉ dùng diệt tội. Nay kinh bốn chú dùng chung cho trị bịnh, diệt tội, hộ pháp. Như Bát-nhã nói chú đại minh, chú vô thượng minh, chú vô đẳng đẳng. Thời chẳng phải trị, chẳng phải diệt, chẳng phải hộ. Chung thì gồm đủ các đức, riêng thì đều thuận văn kinh. Xưa nay các sư giải thích nghóa khác nhau. Nay lấy ý mà hiểu. Chẳng ngoài bốn tất: 1.Nói chú ấy là tên của các vua quỷ thần, gọi tên vua, bộ lạc kính chủ không dám làm trái. Thế giới này nói nghóa chú, hoặc nói chú như mật hiệu trong quân đội, xướng hiệu tương ưng không điều nào đáng quở trách. Nếu không tương ưng thì chấp hành trị tội. Đây nghóa là người. Hoặc nói chú ấy, bí mật yên lặng trị ác, ác tự dừng dứt. Ví như phạm tội chạy trốn đến nước khác, dối xưng con vua, do đó lấy Công chúa làm vợ, mà nhiều việc tức giận khó khăn. Có một người nói từ nước kia đến, chủ đi đến nói, người ấy nói với chủ. Nếu đang lúc tức giận nên nói kệ rằng: “không quen biết dạo chơi nước khác, lừa dối tất cả mọi người. Thô thực là thường thực, nhọc gì lại nổi sân, nói là khi kệ, im lặng sân tiêu tan, sau không sân trở lại”. Chủ và người khác nghe bài kệ ấy mà không hiểu ý. Chú cũng vậy, bí mật yên lặng, ngăn ác, ngoài ra không biết, tức là nghóa đối trị. Hoặc nói chú là mật ngữ của các Đức Phật, như vua đòi bằng một từ ngữ Tiên-đà-bà, mà có bốn thứ: muối, nước, đồ đựng, ngựa, thật tất cả các quan không thể hiểu biết. Chú cũng như vậy. Thật là một pháp nhưng có nhiều năng lực, bịnh khỏi tội trừ, điều lành sanh, hợp đạo, tức: đệ trà lệ đậu phú đậu phú bàn trà la bà tư nị thẩn trì điển trì nị điển trì tát bà a bà da yết ra tát bà kha bà sa đà a bà da ty ly đà bế điện sà ha. Mỗi mỗi đều có lo sợ, kinh nói độc hại. Y theo sự sợ hãi có thể biết. Nạn mà Kim Quang nói có đến hai nghóa: nói về sanh thân đắc nhẫn, có người vượt lên Thập địa. Sanh thân đã tồn tại cho nên có nạn này, hai là nói về pháp thân Bồ-tát, trụ ở cõi biến dịch thì lấy vô minh làm cọp sói v.v… mười hạng người trong đây, mười nên chia làm hai. Đây là sự lầm lẫn của chữ. Tám thứ trước có cọp sói trong việc, nhưng không có hai hạng người biến dịch không. Phiền não là pháp cọp sói. Đây cũng nói về hành độc hại. Phạm hạnh, Phạm là tiếng phương Tây. Nói đủ là Phạm-ma, Hán dịch là thanh tịnh. Cát Hồng Tự Uyển chép: Phạm khiết là lấy nghóa ấy. Tánh giới, nghóa là mười thứ bất sát v.v… tánh của trì tự là thiện, tánh của phạm tự là ác, chẳng do Phật chế mới có thiện ác. Cho nên khi Luân vương ra đời thì dùng pháp này giáo hóa người, sau khi theo giới do Phật chế rồi mà Phạm sát v.v… thì lại bị thêm tội trái cấm chế. Cho nên nói thọ và chẳng thọ đều là tội. Giới Cây cỏ, đây một mặt là ngăn ngừa, chỉ do ngoại đạo, người thế tục chấp cây cỏ có mạng sống, thấy Tỳ-kheo phát sạch cỏ nói là không có tâm từ, vì để dứt sự chê bai của người đời nên Phật mới chế giới. Cho nên Tỳ-kheo thọ giới mà phạm thì mắc tội trái với cấm chế. Chúng thế tục không thọ giới phạm tội vô tánh. Cho nên nói không thọ mà phạm thì chẳng mắc tội. Kinh nói phẩn uế tức mười điều ác. Dù ở dưới có giải thích, dù có nghiệp chướng, giả thiết: Nghóa là nghiệp chướng vốn không, do vọng tưởng mà có. Cho nên biết nghiệp chướng là giả thiết. Nhưng nếu nghóa là nghiệp chủng rất nhiều, chỉ có một pháp thuộc về nghiệp chướng, đều là thần chú đã phá, từ tánh tịnh v.v… trở xuống là giải nghóa giả thiết. Tánh thanh tịnh v.v… không nhiễm mà nhiễm cho nên nói vốn không nay khởi, đều là hư giả. Mê lý khởi nghiệp chẳng lìa lý. Nghiệp thể vốn không mà nói nghiệp: Là luống dối lập bày. Thật đến phá hư: Thật là ba đức, mật giáo luống dối là nghiệp ác. Nay bẩm giáo đạt lý rồi thì nghiệp do tâm. Nhiễm là vô nhiễm, tâm thể vốn luống dối, nghiệp tướng không chỗ nương gởi. Nên nói đều khiến cho thanh tịnh. Từ nhưng dù v.v… trở xuống lấy thiết dạy bảo đản, đối trước thành khác. Nếu nói về thể của nghiệp thì ý chẳng khác trước. Đại Phẩm nói, dù có một pháp bình đẳng nhưng ngoài Niết-bàn thật không có một pháp, muốn quét sạch hết tướng chấp đắm, dù cho có lỗi nói lỗi còn như huyễn, huống chi là không lỗi ư ! Sở dó nói không, vì tất cả vắng lặng, như mười chín cõi, v.v… bình đẳng nhiếp lấy mười ba nhập sáu ấm, vì giới chỉ mười tám nhập chỉ có mười hai. Nói chín nói ba dụ cho cái vui rốt ráo không luống dối. Hợp chung nói rằng nghiệp phù hư, chữ lạc vì lầm lẫn. Cùng với Đại Phẩm v.v… kinh nầy dù có nghiệp chướng và Đại Phẩm dù có một pháp cũng đều là thiết của giả thiết, tức lời nói đồng, lại khác tức là ý riêng. Kia nói hết sạch tướng chấp chặt thì tất cả đều không, đây nói từ lý lập sự thì có nghiệp luống dối. Vì đoạn chú thích này chính là bác bỏ nghiệp chướng, cho nên Tam-muội thấy Phật là hạt giống, ngoài thấy hình tượng do trong tu Tam-muội Quán Phật. Địa ngục v.v… trở xuống là nói về mười pháp giới, chỗ thấy khác nhau. Cho đến trong người chỗ thấy v.v… trong lược quỷ, súc, Tu-la, nên nói cho đến. Các Bồ-tát Thông giáo, Biệt giáo v.v… đều nhiếp lấy Tạng Viên. Chỗ thấy đều khác nhau, tức thấy hình tượng Phật khác nhau. Như ba đường ác huân tập thấy Phật, như thân tượng đen chân cao, hai, ba thước, lại như đề cho rằng địa vị trời, người thấy Phật làm thần cây v. v… y theo chúng sanh trong sáu đường này đều thấy Phật khác nhau, đều chẳng phải tướng xuất thế. Nếu trong sáu đường có căn cơ xuất thế, thì thấy Phật có bốn thứ khác nhau, tức là pháp giới của bốn bậc Thánh. Cho nên Đại luận quyển mười một dẫn kinh Mật Tích nói tất cả trời, người thấy sắc lượng Phật, hoặc như vàng ròng, bạc trắng, các tạp báu khác v.v… hoặc thấy cao trượng sáu, hoặc cao một dặm, (Tạng), hoặc thấy mười dặm, cho đến trăm ức, (Thông), hoặc thấy cao vô lượng vô biên, đầy khắp trong hư không, chỗ thấy của trời, người đã khác nhau, bốn đường cũng vậy. Ở đây nói phần nhiều cũng có hữu vi viên cơ mà chiêu cảm liệt thân. Như Pháp Hoa nên dùng thân địa ngục mà nói pháp cho họ nghe. Hễ nói về mười thứ hành nhân: Tức là người chịu khổ báo chẳng phải chỉ có bịnh nặng trong người. Ý cũng thâu nhiếp bốn đường. Cho nên vừa rồi nói người địa ngục, Tam-muội Niệm Phật v.v… Quán pháp cũng khác nhau, tức bốn giáo chẳng đồng. Năm hạng người phương tiện, ngoài phàm hợp nhất, nội phàm chia ra bốn thứ, đó là Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất, tư duy vẫn còn, là có tâm bịnh, hai quả cõi Dục tàn tư, ba quả cõi sắc đều là tâm bịnh, bỏ qua chẳng nói nên nói cho đến. Thân bịnh còn tồn tại: như Thân Tử bị bịnh sốt, Tất-lăng-già bịnh đau mắt, thói quen chẳng mất, như Tất-lang-già có tâm mạn, Thân Tử có tâm sân, Duyên giác ngầm huân tập chưa sâu xa, tâm bịnh vẫn còn. Cho nên nói cũng vậy. Sáu độ đồng phàm phu, Thập địa của Thông giáo y theo bốn quả có thể biết. Cho nên nói cũng vậy. Không nói nội ngoại phàm của Biệt Viên, văn lược. Sanh biến dịch, nói biến dịch bao gồm hai cõi. Ở đây nói y theo Bốn đế vô tác, lại nói về người sanh Thật báo và sanh phương tiện dứt bỏ trần sa. Nếu sanh phương tiện chưa dứt bỏ trần sa thì phải tu Bốn đế vô lượng. Năm phần v.v… trở xuống là nói về thân bịnh, vô minh v.v… trở xuống là nói về tâm bịnh. Nói về bốn mươi hai vị làm sâu cạn, ưư kém, nặng nhẹ lẫn nhau. Vọng v.v… trở xuống làsâu, hơn, nhẹ, vọng v.v… trở lên là cạn, kém, nặng. Cho đến bậc Đẳng Giác một đời đều có hai thứ bịnh. Cho nên trong kinh nói Diệu Giác không bịnh. Đẳng giác một phẩm giống như vô thường, diệu giác rốt ráo, cho nên năm điều thường mới không có hai bịnh. Lửa trong ngoài tức bảy thứ lửa trong Kinh Nhân Vương, một là lửa quỷ, hai là lửa rồng, ba là lửa sấm chớp, bốn là lửa thần nói, năm là người, sáu là lửa cây, bảy là lửa giặc. Lửa người là khi nghiệp ác phát thì thân nghiệp tự xuất hỏa. Lửa cây là như lâu ngày các cây tự phát lửa. Ở đây nói lửa bên trong lửa người, lửa bên ngoài tức sáu thứ lửa còn lại. Lại nữa, lửa bên trong là bịnh, bịnh nhuốm vào thân như lửa thiêu đốt vật. Lại nữa, thân nội hỏa lớn chẳng điều hòa cho nên là bệnh. Vì thế kinh nói từng lóng đốt xương đau nhức, xưng danh tụng chú liền được khỏi. Bệnh hết gọi là khỏi, việc giải thích đúng như văn hoặc nói về sự chứng. Như Đông Tấn tạ phu Nam Tề lục quả được Quán Âm ứng nghiệm, truyện có nói rõ. Cho nên nói thiêu thân, thân dụ cho kiến đế. Vũ trụ, chữ vũ trên khứ thanh, vũ giống chữ giáng, tức là người Tín hành, bẩm giáo tu quán dứt bỏ kiến hoặc. Cho nên suy nghó các hoặc v.v… tư chẳng chướng lý, thật ra phụ giúp lý. Như tu v.v… trở xuống là nêu bày tướng giúp cho lý. Nói lửa bên trong, vì nội hỏa ở thân như tư hoặc giúpï lý. Chỗ chỗ chín phẩm, ba cõi chín địa đều chín phẩm, cộng lại tám mươi mốt phẩm tư hoặc. Trước một v.v… trở xuống là nói về pháp hành. Ví dụ như rồng làm mưa. Kinh nói lửa bên ngoài tức nói Long Vương làm mưa, lửa bên trong chỉ nói trừ khỏi. Nay Đại sư y nghóa đặt tên. Thân bịnh đã được gọi là bịnh lửa lành, tức là nghóa mưa xuống. Chính là dùng lửa bên trong tiêu biểu cho tư hoặc, tức lấy long vương tiêu biểu cho tâm vương, tâm linh tự tại như rồng kia. Tâm vương Vô lậu, là chỉ cho ba hướng ba quả, tâm sở quán vô lậu, phát đắc thiền định, nước pháp phun mưa. Mưa có công năng dập tắt lửa như thiền có công năng dứt bỏ tư hoặc. Hỏi: Trước giải thích lửa bên ngoài tiêu biểu cho thấy đạo, chính là nói về Tín Hạnh. Ở đây nói tu đạo vì sao tác pháp hành giải thích ư? Đáp: Thấy đạo, tu đạo đều có hai căn lợi, độn. Lợi nhập thấy đạo gọi là Pháp hạnh, độn nhập gọi là Tín hạnh, lợi nhập tu đạo gọi là Kiến chí, độn nhập gọi là Tín giải. Cho nên Kiến, Tu đều có hai hạnh Tín, Pháp. Nay lấy sơ nhập kiến đạo bẩm giáo nghóa mạnh. Nói về tín là tiện, tu đạo trọng duyên, nói về pháp là tiện, đắc ý mà nói nghóa, phải gồm có cả phần đoạn .Kiến tư có thể giải, trong tám người trước thì hai người Biệt, Viên giống như ở địa vị phàm phu. Chỗ phá vẫn là kiến hoặc giới nội Cho nên nói có thể giải. Biến dịch v.v… trở xuống: Là hai hạng người sau, chính là ba bậc Hiền của Biệt giáo, hoặc giới nội dứt sạch, đã sanh phương tiện và viên sơ Trụ, đã dứt vô minh sanh cõi Thật báo. Hai hạng người này đều nói về đồng thể kiến tư của giới ngoại. Vì nói rõ nghóa lửa bên trong, lửa bên ngoài. Năm dục hấp dẫn, như trong Hoa Nghiêm chép: Vô lượng hương hoa mây, trăm ngàn thiền định. Hương hoa mây tức là cõi biến dịch trong cõi Dục, Thiền định là cõi Sắc, Vô Sắc. Đây là tư hoặc giới ngoại, văn thiếu, thấy nghóa như trong Địa Trì. Đẳng giác nhập ly thấy thiền. Kinh Niết-bàn chép: Ca-diếp tự nói rằng: về trước gọi người tà kiến, đều là kiến hoặc giới ngoại. Nhưng kiến tư này thật không khác thể. Nhưng chỉ cho vô minh căn bổn, chướng lý gọi là kiến, nhuận sanh gọi là tư, chẳng đồng hai hoặc giới nội. Sai biệt sự giải trở xuống là văn Nhó nhã. Chữ cơ hoặc cơ, đều chung cho năm thứ hạt, lúa, đậu, lúa tẻ, kê, mè. Có chỗ nói phòng tán sừng có gai. Ví như bốn câu trong giải. Hai câu đầu nói không nghe giáo là đói, nghe giáo sanh giải làm no, hai câu kế là có giải mà vô hành là đói, giải và hành đầy đủ là no. Chánh tuệ là chánh hạnh. Tăng ích pháp thân như năm thứ hạt nuôi dưỡng sắc thân. Cho nên vô tuệ là đói, giúp đạo tức mang sự gồm tu giúp thành chánh tuệ. Luận Dương Tuyền Vật Lý chép: rau quả thật giúp thêm lúa gạo. Cho nên lấy vô trợ đạo là đói, cho đến điều lành cõi trời, cõi người, lược người chịu khổ báo, nên nói cho đến. Theo Thập Nhân Truyện Tác thì khổ báo không pháp lành là đói, rốt ráo là no. Giải thích trong nạn vua thì đã nói phần đoạn, biến dịch, tức là y theo mười hạng người để nói về nạn vua. Bốn ma: là ma trời, ma năm ấm, ma phiền não và ma chết. Mười ma, Hoa Nghiêm nói: Một là ma năm ấm sanh các chấp, hai là ma phiền não sanh tạp nhiễm, ba là ma nghiệp làm chướng ngại, bốn là tâm ma khởi kiêu mạn, năm là ma chết xả sanh xứ, sáu là ma trời tự kiêu căng buông lung, bảy là ma gốc lành thường chấp chặt, tám là ma Tam-muội mê đắm mùi vị, chín là ma thiện tri thức, khởi tâm mê đắm, mười là ma Bồ-đề pháp thí, thường chẳng xả. Cho nên nói dưới đây dẫn kinh Anh Lạc chứng minh. Tức Đẳng giác hậu tâm không ngại Trung đạo đã hàng phục phiền não, giải thoát đạo đoạn tức nhập Diệu giác. Cho nên nói chỉ có một phần ma chết. Đạo tặc là sáu căn, sáu trần, như kinh Kim Quang Minh nói xóm làng sáu nhập giặc kiết sử đã dừng nghỉ. Như người được sanh lên cõi trời. Vãng: Là từ cõi người sanh lên cõi trời thì nói về trời, đường là lao ngục, trời sanh xuống cõi người làm người, đường là lao ngục. Qua lại sáu đường nên chú thích vân vân. Đương phần thọ thân là ngục, chẳng cần y theo chỗ đến. Như người ở trong cõi người, trời ở trong cõi trời, tức gọi là lao ngục. Cũng nói về mười thứ hành nhân, hai thứ trước rất dễ biết, tám thứ sau đều đủ hai nghóa ngục. Cho nên biết mười thứ hành nhân đều chưa thoát khỏi lao ngục. Cho nên phải thỉnh Quán Âm. Chỉ có mình Phật đã ra khỏi hai thư ngục của ba cõi. Cho nên ở tay gọi là xiềng. Ở chân gọi là cùm. Hai tay hai chân tiêu biểu cho định tuệ, mê mờ tán loạn là chướng, như xiềng xích gông cùm. Ở cổ gọi là cùm, toàn thân là xiềng, trên hai vai gọi là gông. Âm bên trái tiêu biểu cho thật, dương bên phải tiêu biểu cho quyền. Kiến, tư, trần sa là chướng về quyền. Vô minh là chướng về thật, tức ba hoặc như gông cùm. Cho nên nói già, là chướng quyền, thật. Bị sự trói buộc của nghiệp: Nghóa là bị dây nghiệp trói buộc. Hữu bộ nói nghiệp quá khứ được đến vị lai. Thân chết được lui, vị lai báo khởi. Nếu một nghiệp thành là được một nghiệp lớn, đắc ở nghiệp pháp.Lại nữa do Tiểu đắc, đắc ở Đại, đắc sát-na thứ hai thành ba đại đắc, đắc hai đắc trước là do nghiệp pháp. Đắc sơ niệm đều thành pháp, nên còn gọi là ba Tiểu đắc, đắc ba Đại trước. Trước sát-na ban đầu chín pháp thành tựu. Sát-na thứ ba có hai mươi bảy pháp. Hễ nói Đại Tiểu đắc, đều do đại đắc đắc ở bổn pháp, lại do Tiểu đắc đắc ở Đại đắc, lại Đại đắc đắc ở Tiểu đắc, nên Đại Tiểu đắc thay nhau đắc. Cho nên biết niệm thứ ba trở đi thì xoay vần như thế, đắc khắp hư không. Cho nên trong một đời đối với một nghiệp tư đã khởi đắc thì vẫn còn vô lượng, huống chi vô lượng đời vô lượng nghiệp đắc, cho đến mé vị lai. Hoặc trải qua bộ tông đắc đã là giả. Chỉ nói ý và thân, miệng hòa hợp thành nghiệp. Giả lập có hạt giống cho đến đời vị lai, hoặc trong tạng thức Đại thừa giữ gìn đầy đủ, cho đến vị lai. Đời tuy có sự khác nhau nầy nhưng hễ thọ báo xứ chắc chắn là do tinh huyết bốn đại trói buộc, không được phân biệt chẳng phải đắc về sau thường là bị sự trói buộc. Sự trói buộc chưa cởi mở đã trói buộc trở lại. Cho nên nay tiêu biểu bằng gông cùm của toàn thân Trải qua năm sự ràng buộc ấy: Là năm chỗ: Đầu và hai tay hai chân bị trói buộc, nếu làm chỗ tiêu biểu là năm phần chướng. Hải v.v… trở xuống là giải thích vào biển lớn, một là nói về sanh tử sâu xa rộng lớn như biển. Hai là nói về pháp tánh sâu xa rộng lớn như biển. Vọng tưởng động pháp tánh, vọng tưởng như gió thổi mây đen. Động pháp tánh, tức là toàn pháp tánh là vô minh, không nhiễm mà nhiễm, tạo khắp sanh tử gọi là sóng mòi. Trải qua sóng gió, Tam Thương chép: hồi là nước chảy, chảy qua núi sắc nước kinh sợ sóng như núi. Giữ lý không thật có, lý chẳng phải bốn câu, cho nên chấp chẳng được. Nên pháp tánh v.v… trở xuống là văn đại kinh, đối với bốn khởi định chấp cho nên thành thuốc độc. Đạt được bốn, không bốn cho nên thành cam lộ. Độc cho nên sớm chết yểu, vì ngon ngọt cho nên kéo dài tuổi thọ. Dao kiếm làm tổn thương hư hoại nên tiêu biểu cho vô thường. Chú thích vân vân: Là nói về mười thứ hành nhân tức là hai thứ. Ba cõi đều bị vô thường xoay chuyển, cho đến Đẳng giác một phần cũng là vô thường, trải qua quá khứ đến sợ hãi là nói quả do nhân. Tất cả khổ tức là các quả khổ như lúa thóc mắc mỏ v.v… Hoặc do quá khứ chiêu cảm, tức thành hai quả báo: thuận sanh và thuận hậu. Nếu do nghiệp ác hiện đời chiêu cảm thì thành quả báo thuận hiện. Như lửa đốt củi, kinh Niết-bàn nói chút điều lành có công năng dứt ác lớn, thí như chút lửa có thể đốt cháy tất cả. Những nỗi lo sợ như ba độc v.v… tức phiền não đẳng phần và trên là bốn phần thọ vị v.v… Kinh Hoa Nghiệm nói vua Thánh Chuyển Luân sanh Thái tử. Mẹ là chánh hậu, thân tướng đầy đủ. Vua cho Thái tử ngồi tòa voi trắng, trang sức bằng vàng, võng lọng màn che rộng lớn cho đến tấu trỗi các âm nhạc, cho nước bốn biển lớn vào trong bình vàng, vua rưới mước trong bình này lên đầu Thái tử, lúc ấy gọi là thọ nhận chức vị vua. Thập Địa chép: Là chỉ cho phẩm Thập Địa của Hoa nghiêm nói Địa Pháp Vân thứ mười. Nên kinh nói Bồ-tát nhậm chức cũng giống, các Đức Phật rưới nước trí tuệ lên đảnh, gọi là Bồ-tát thọ chức đại trí. Đây thời chỉ có Địa Pháp Vân được gọi là Bồ-tát Quán đảnh. Phật chỉ có Pháp tánh: Rốt ráo hiển lý cho nên địa dưới không thấy được. Lý cùng cực không thể suy lường, giải thập nhân trí hữu đảnh mới thấy được. Do điều mình đã giải không thể suy lường lý rốt ráo cùng cực. Đây đều lấy một phần trí tuệ làm đảnh. Nếu được dưới đây bẩm thọ giáo tiến hành giống như được rưới thọ chức, năng dùng v.v… tức Quán Âm Diệu giác rưới nước biển pháp tánh khắp trên đảnh trí tuệ của mười thứ hành nhân. Đảnh của Thập địa này, cho rằng kinh nói quán đảnh là nói về Thập địa còn phải rưới Thập địa, vị dưới có thể biết. Phải tụng thuộc lòng: Là tụng thầm nho nhỏ. Chú này đã như vậy, trên dưới so sánh theo mà biết. Nhưng sự nghi của các kinh đối cơ đều khác nhau. Như chú Xí Thạnh Quang thì khiến tiếng mạnh mẽ. Văn nầy thì bảo tụng thuộc lòng. May mắn thuận lới Phật mới khế hợp ý Thánh. Nêu bày trong pháp dụng, thì kinh này là do chúng thế tục phát khởi. Có lời dạy trì trai, dứt dâm v.v… Nghiệp thân miệng, Thái thống chép: Nói trai là trai. Trai chẳng phải trai chính là trai. Cho nên quân tử chẳng có việc lớn, chẳng có cung kỉnh thì chẳng phải trai, chẳng phải trai thì đối với chúng sanh không phòng bị, ham thích dục không dứt và kia sắp trai. Đề phòng tà vật, dứt hẳn ham muốn, tai không nghe nhạc. Nay giải thích chẳng ăn quá ngọ là trai, cũng lấy phòng bị tà, dứt hẳn ham muốn kia, là nghóa trai chẳng phải trai. Kinh Tam-muội Tỳ-la nói buổi sáng các vị trời ăn, giữa ngày các Đức Phật ba đời ăn, mặt trời lặn súc sanh ăn, trời tối quỷ thần ăn. Phật chế dứt nhân sáu đường khiến đồng với các Đức Phật ba đời. Nay giải thích theo lý, cho nên nói trai, chính là Trung đạo, sau ngọ không ăn, tức Phật chế sau giờ ngọ không được ăn. Nay tiêu biểu Sơ trụ, Sơ Địa viên chứng Trung đạo. Ngoài tâm không pháp như sau ngọ không được ăn. Về chính thực: Luật Tứ phần có năm thứ, Bồ-xà-ni, Hán dịch chính thực, là năm thứ cơm, gạo rang, cơm khô, cá, thịt; Khư-xà-ni, Hán dịch bất chính thực, là cành lá hoa quả xay nhỏ mà ăn. Nay nói trước giờ ngọ được ăn là bất chánh thực. Dưới đây trước nêu viên vị. Tiền phương tiện, chỉ cho giai vị Nội Phàm Trụ tiền. Trụ tiền đã có tương tự chứng nghóa. Đây là trước giờ ngọ được ăn. Cũng là dưới đây kế nêu biệt vị, địa tiền lìa biên quán trung, tức là ngoài pháp giới có pháp. Kinh nói chẳng uống rượu, như Luật Ngũ Phần nói ấp Bạt-đà-việt có con rồng dữ phun mưa đá tổn hại mầm lúa, các cư só thỉnh Bà-đà-kiệt-đà hàng phục. Do uống rượu nên Ngài ói mửa nằm ở giữa đường. Phật dạy xưa hàng phục rồng dữ, nay không thể hàng phục tôm ếch. Do đó nói dần dần dứt giới rượu. Vì rượu khiến người hôn mê tán loạn. Cho nên nay trừ chú này, không được uống. Nói về lý thì rượu là vô minh. Kinh Niết-bàn chép: thí như người say thấy mặt trời, mặt trăng xoay chuyển. Không ăn thịt, hoặc giải thích theo sự, như Kinh Lăng-già nói có vô lượng nhân duyên không nên ăn thịt, cho đến nói khiến người tu hành chẳng sanh từ tâm, và khiến chú thuật không thành tựu v.v… là đại từ vô duyên, đây là giải thích theo lý.  THỈNH QUÁN ÂM KINH SỚ XIỂN NGHÓA SAO <卷>QUYỂN4 Kinh Niết-bàn chép: Chẳng trụ tướng pháp và tướng chúng sanh gọi là từ vô duyên, chảng trụ hai bên là nghóa chẳng ăn. Chúng sanh duyên, pháp duyên: Kinh Niết-bàn nói: Sở duyên từ của tất cả chúng sanh như duyên, cha mẹ, vợ con, thân thuộc gọi là sanh duyên. Chẳng thấy cha mẹ v.v… thấy tất cả pháp đều từ duyên sanh gọi là pháp duyên. Cho nên sanh duyên tuy chẳng đạm không mà đạm có, pháp duyên tuy chẳng đạm có mà đạm không. Cho nên nói đều có giới hạn. Vô duyên không giới hạn, chẳng mê đắm hai bên. Tro có công năng gọt bỏ chất nhơ, tro như năm quán, đồ nhơ như tham v.v… Khi tham v.v… được dứt bỏ thì gọi là tắm gội sạch sẽ. Thuyết Văn nói tháo là rửa tay, dục là tắm thân. Năm thứ củ cay, Tam tạng từ Mẫn nói là hành: Tỏi, rau, hẹ, hưng cừ. Về Hưng cừ, Pháp sư Ưng nói tiếng Phạm là sai, đáng lẽ phải gọi là hưng nghi. Từ Mẫn nói gốc hình như củ cải phát ra từ đất mùi cay. Từ mẫn mùa đông đến đất kia chẳng thấy mầm ấy, năm vật nầy vừa cay lại vừa hôi. Kinh nói năm thứ rau cay có công năng huân xông, có cay mà chẳng huân xông, như gừng, cho nên chẳng được ăn. Thiên Thương Hiệt chép: Huân là rau cay. Phàm vật cay có mùi đều gọi là huân. Kinh Quyết Định chép: người uống rượu ăn thịt, ăn năm vị cay vào già-lam, theo vào trong thai lợn, sau được làm người bị bịnh ở nách. Cho nên nay người tụng chú này không được ăn. Nay nói về lý giải chính do vị cay ép ngặt ở lưỡi, giống như khổ năm ấm. Hơi cay qua đêm vẫn còn. Như trong năm ấm sanh khởi hoặc nghiệp, có thể đến vị lai. Cho nên nói có tập đế. Ô uế v.v… chỉ cho cái đã tiêu biểu ở trên, chính là nói về kiến ái ô uế ấm. Chín thứ năm ấm như trước đã nói. Người nữ ô uế, Đại Luận nói dâm dục tuy chẳng khuấy rối chúng sanh nhưng do tâm tâm trói buộc, vì cầu giải thoát cho nên phải cấm. Kinh trường dự khổ biệt, giống như vị biệt khổ phần đoạn và chân vị biệt, khổ biến dịch. Đây là Biệt viên. Cũng nên y theo mười thứ hành nhân chứng chung đối với ở trước. Quán Âm nói hai chú đã xong, cho nên ấn chứng chung. Đức Thích-ca do đó tự nói chú thứ ba, để khuấy rối các người nữ, tức quỷ làm động dâm. Kinh A-hàm nói dâm cũng có quỷ, khi quỷ nhập tâm khiến dâm dật vô độ, hoặc quỷ khiến sân, khiến tà, làm nhiễu loạn. Thuyết Văn chép: Là nhiễu hí, Quách Phát nói là nhiễu lộng. Vào cảnh giới tốt đẹp là y theo mười hạng người, thì chín thứ còn lại đều gọi là cảnh giới tốt đẹp. Cho đến chỉ có Phật được gọi là Thiện. Kinh nói: Ác quỷ tiêu phục, Quán Âm có uy có ân, nếu chẳng ôm lòng nhớ ân thì là sợ uy, cho nên tiêu diệt điều phục. Ba chướng hết hẳn: là hai thứ, ba chướng. Một là phần đoạn ba chướng, kiến tư là phiền não chướng, hoặc nghiệp là nghiệp chướng, sanh trong giới nội là báo chướng. Hai là biến dịch ba chướng. Lại có hai: Phương tiện ba chướng trần sa là phiền não chướng. Vô lậu nghiệp là nghiệp chướng. Biến dịch sanh tử là báo chướng. Thật báo ba chướng, vô minh hoặc là phiền não chướng, nghiệp phi lậu, phi vô lậu là nghiệp chướng, cõi kia biến dịch là báo chướng. Chú này có công năng giúp cho đến chỗ rốt ráo tịch quang. Cho nên nói ba chướng dứt hẳn. Lửa ngục ba cõi, ba cõi trói buộc người hành đạo giống như lao ngục, vô thường như lửa. Các khổ, phần đoạn ba cõi có khổ trần sa, vô minh. Ngoài giới nên dùng chướng bốn đức làm bịnh. Vào trận chiến đấu, nếu theo lý thì chiến đấu với ma năm ấm, ma phiền não, ma chết. Như chim ưng tập bay, kinh Dịch nói vua dùng cung tên bắn chim trên thành cao. Khổng Dónh Dạt nói: Tập là loài chim tham lam tàn ác. Chiên thuộc loài chim cắt tàn ác. Nay nói Quán Âm thùy ứng như chim kia bay, ý nói mau chóng. Kinh linh ngữ, là âm linh ngữ, Quảng Nhã nói, Hạ nói đài, Bàn nói dủ phôi lý, là vua Trụ bắt Văn Vương. Chu nói linh ngữ, đều là tên khác của ngục. Chu lễ chép: Tam vương mới bắt đầu có ngục. Thích Danh chép là linh lãnh, ngữ ngự, nghóa là bắt buộc tù nhân không được chống cự. Kinh và các hình phạt, tức năm hình năm phạt. Hình là hình, hình thành, hễ thành thì không thể sửa đổi. Thuyết Văn nói: Người mắc tội lớn gọi là hình, người mắc tội nhỏ gọi là phạt. Quảng Nhã chép: phạt là chiết phục. Còn sách bộ hình nói năm hình không khác, chính là năm phạt. Khổng An Quốc Chú nói chẳng khác là chẳng nên năm hình, nên sửa đổi năm phạt, năm hình là khắc trên trán và nhuộm đen gọi là hắc hình, xẻo mũi gọi là tî hình, chặt chân gọi là phí hình, người đàn ông đi thế vợ đến chỗ u tối gọi là quan hình, tử hình gọi là đại tích. Ngày nay thì năm hình là si, trượng, đồ, lưu, tử. Năm phạt là dùng vàng chuộc tội. Sách chép: hắc tích sợ bị phạt một trăm hoàn v.v… ngày nay thì si, trượng, đồ, đều có năm đẳng, lưu có ba đẳng, tử hình có hai đẳng, chuộc đồng đều có số cân. Trải qua một ngày v.v… là nói thời gian chịu khổ não. Bài chú thứ ba rằng: Đa điệt tha an đà lị bàn trà lị chỉ do lị đàn đà lị thiên đà lị để tà bà đà da xa bà đà phả la nị chỉ tì chất thư nan đà lị bà dà lị a lư bạt cưu lị mâu cưu lệ nâu tỳ lệ sa ha. Văn khen ngợi công dụng chia làm ba, trước một là ứng năng nhổ gốc khổ, hai thứ sau là cơ năng tu hành. Lại, trước một là ứng năng bạt khổ, hai thứ sau là trong nhân tự hành. Lại nữa, sáu đường là cảnh sở quán, sáu diệu là quán năng quán. Sáu căn là hoặc bị phá. Cho nên ba đoạn văn kinh này không ra khỏi ứng cơ, tự tha và ứng cơ đều thuộc ba thứ: cảnh, quán, hoặc. Xưng niệm Tam bảo gọi là chương cú sáu chữ, ấy nghóa là Phật-đà, Đạt-ma, Tăng-già, mỗi ngôi báu hai chữ. Tam bảo là ba chữ, tức gọi tắt là Phật, Pháp, Tăng. Nếu dùng sáu chữ này thì chỉ cho trước hai nhà khắp nơi đều có, trước hai lần lượt chú đều xưng niệm Tam bảo. Nên đều gọi là Chương cú Sáu Chữ. Văn khởi tận, khởi là tiêu chương, tận là câu kết. Về sáu diệu, sáu thứ này tương thông lẫn nhau có thể đến chân diệu Niết-bàn, nên nói là sáu diệu môn. Đối với nghóa là tiện: Hai mươi lăm Hữu và do sáu đường chỉ khác nhau về chung, riêng. Đại kinh dùng hai mươi lăm Tam-muội phá hai mươi lăm Hữu, ý nghóa hợp với Chương cú sáu chữ của kinh nầy phá bỏ sáu đường. nên nói là Tiện. Sở dó nói ba thứ chương cú nghóa là ba thứ tuy khác nhau nhưng chẳng lìa bác bỏ hữu. Trước một là hóa tha phá hữu, hai thứ sau là tự hành phá hữu. Đối với tự hành, trước một là phá quán hữu, sau một là hữu trung, tức trong sáu đường đều đủ sáu căn, sáu trần đều khởi ba độc. Cho nên, biết ba thứ sáu chữ không ngoài nghóa đại kinh phá Hữu. Sáu xuất, ba chỗ mỗi chỗ đều nêu chương kết cú. Nói kệ xong, kệ nên có chú, đó là sự lầm lẫn của chữ. Kết cú sau nói v.v… tức là kinh nói: bảo A-nan rằng chính chương cú sáu chữ cho đến nếu có người nghe thì được lợi ích lớn lao. Sáu đường là sáu tự môn, văn thừa chữ môn. Vô lượng thứ, như người nói sang hèn, ngu trí, đẹp xấu mỗi thứ đều khác nhau. Người nói như vậy, ngoài ra đều mô phỏng theo đây. Tức là nghóa chương, đoạn, cú, đậu. Lại xét thật tướng của sáu đường, nghóa là soi chiếu sáu đường, ba chướng là ba đức. Đây là y theo tự hành, giải thích nghóa già trì. Phá ba chướng tức già, đạt ba đức tức trì. Cho nên nói đắc Đà-la-ni v.v… có ngã hay không. Kinh ấy Ca-diếp hỏi, đáp rằng tức Phật đáp. Ngã là Phật tánh, tức là chính ngã. Cùng lý tánh này, nghiên cùng ba đế chúng sanh và Phật không khác nhau. Bồ-tát hiển bày từng phần, các Đức Phật rốt ráo, lý sự dung nhiếp lẫn nhau Phổ Môn thị hiện, vì thế nói được tự tại, cho nên có thể v.v… trở xuống là nói về hóa tha, giải thích già trì. Do tự chứng nên mới hóa tha được, cũng do tự thể tha thể tánh xen nhau trùm khắp. Cõi trời khổ ít, nghóa là chẳng phải hoàn toàn không khổ, nhưng ít hơn so với các đường. Như các tầng trời cõi Dục có khổ năm suy, Tứ thiền có khổ chẳng được mau nhập thiền, Tứ không có khổ bốn tâm. Tám nạn là ba đường ác là ba, bốn là Bắc châu, năm là tầng trời Trường Thọ, sáu là sanh trước Phật sau Phật, bảy là Thế trí biện thông, tám là đui, điếc, câm, ngọng. Nói tất cả lời lẽ v.v… chính là nói tất cả đâu có chỗ nào chẳng nhiếp. Còn lìa hai thứ khổ sanh tử, huống chi là cõi trời ư! Quả Lõa Thuyết Văn chép: trên cây là quả, trên đất là lõa. Ưng thiệu nói hạt của cây gọi là quả, hạt của cỏ gọi là lõa. Trương Yến nói có hạt gọi là quả, không hạt gọi là lõa. Từ vong thất v.v… trở xuống là nêu họa đối tướng. Dẫn về bổn độ, mất vợ con, tiêu tan tài sản, mất nước. Nay được tiếp nhận trở lại thì việc khác tự được. Cưu-Bàn-trà, Hán dịch là Úng, hoặc dịch là Đông qua. Ấm ấy tựa như cái hũ, là quỷ yểm mị. Vòi voi, nghóa là cao lớn. Luận Ngữ nói: lồng lộng có Thuấn Vũ trong thiên hạ. Kinh nói A-tu-la: A là không, Tu-la là trời, kia chẳng phải trời. Lại, Tu là xinh đẹp, kia chẳng xinh đẹp. Từ đời nay v.v… y theo giới hạn của kinh, từ A-nan nên biết về sau. Nay chỉ cho văn được mất. Cho nên nói từ đời nay v.v… Thất là mất, điều ác, nghóa là già. Đắc là được, thiện là trì. Như Vô sanh nhẫn, Đại Phẩm nói pháp vô sanh tức là Phật. Đây đồng với nghóa Đà-la-ni. Nhưng cũng là nhân chung, dường như sơ cảnh giới, giống như sáu căn tịnh vị, bỏ giả theo không. Chưa dám phán định cho nên nói tợ. Kinh nói: Cát tường cú tức Đà-la-ni. Kinh Cận Thế vốn ở tay phát ra hương sắc, khổng v.v… trở xuống là bị đói khát ép ngặt: Một câu xưa nay đều không. Trí Giả đối với các văn dẫn dụng, cũng không có câu này. Khéo léo tập tuệ tức trí Nhất Thế Chủng. Như cứu lửa cháy đầu, Kinh Kim Quang Minh chép: thí như nam nữ bị lửa cháy đầu, như lửa cháy áo, phải dập cho lửa tắt ngay, nếu lửa chưa tắt thì chẳng được tạm an, sám hối cũng vậy. Ở đây chữ nhiên là đốt cháy. Lại nữa, Đại luận nói thí dụ dã can cứu đầu, gọi là cứu đầu. Nhiên thì chữ nhiên là từ ngữ. Rừng lạnh: Là rừng thi-đà. Luật Tăng-kỳ nói, rừng này có nhiều thây chết, người vào đó lạnh như băng rất đáng sợ. Người tu hạnh đầu-đà, thường ở trong rừng này, vì dễ quán vô thường. Tư-na tức là người ấy. Vô ương số, tiếng Phạm là A- tăng-kỳ, Hán dịch là vô ương số. Sở từ nói thời giống như chưa quá nửa. Vương Dật nói ương tận. Quán tâm v.v… trở xuống giải thích tâm mạch đối với ở giữa trước nói về trái tim bằng thịt là cảnh nhân duyên, kế là quán tâm lự tri để thành ba quán. Trái tim bằng thịt tức nhục đoàn tâm. Trong kinh Chánh Pháp Niệm như hoa sen sáng mở tối khép, tức là trái tim này. Sách thế tục nói là gang tấc vì trái tim này chỉ vuông một tấc, nhưng là chỗ nương của lự tri. Do nhục đoàn tâm bi bệnh nên lự tri điên đảo. Chủ của một thân, đề nghóa là kinh nói: tâm là nhà vua, nghóa trên v.v… trở xuống là nhân cho nên ở trong bách trọng, vì thế một thân sáu phần thảy đều do tâm. Quán thông suốt: Nghóa là mới tu tập quán suốt dứt sắc tâm nên gọi là thông minh. Lại nữa khéo tu thiền này phát được sáu thông, ba minh trong nhân nói quả, nên nói là thông minh. Thiền này không có giai vị riêng, kế lại y theo Tứ thiền, Tứ không căn bổn mà tu. Nay kinh quán tâm, tâm mạch tức là thiền này, nói tu chứng như Thiền Môn quyển tám. Hoặc không v.v… trở xuống: Đây là nói về tâm lự tri để thành quán không. Đối với trung quán trước lập cảnh, kế là vô tâm v.v… trở xuống là nói quán tất cả thế gian, tức mười cõi mỗi cõi đều có ba thứ thế gian. Đều từ tâm tạo: mười cõi là sở tạo, tâm là năng tạo, toàn sở là năng cho nên năng tạo là đầy đủ các pháp. Các thứ năm ấm, cũng nói về mười cõi. Đây đều là văn Kinh Hoa Nghiêm. Tâm không v.v… trở xuống: Là nói quán mười cõi là không. Y chánh đều do tâm cho nên quán tâm không thì các pháp không, như chặt cây được gốc, thì cành lá tự chết. Nói tâm vô tâm, chẳng có tâm không đều là một nghóa, cho đến vô lượng các mạch, tức mười cõi mỗi cõi tâm mạch khác nhau. Tâm mạch v. v… trở xuống xem xét không giả trước, đều quy về tâm tánh, ba một viên dung, nên đều bất định. Chẳng phải không chẳng phải giả, nhất niệm chẳng được, cho nên chẳng phải giả, trăm cõi rõ ràng cho nên chẳng phải không. Thế nên không giả chẳng lìa tâm tánh các mạch, cũng chẳng phải không chẳng phải giả. Các mạch đều do tâm tạo, cho nên các mạch đều là tâm. Vì thế tâm tức trung cho nên các mạch cũng trung, tức là viên quán tâm mạch. Tổng kết văn trước, đều thành Viên quán. Hành nhân v.v… trở xuống là dùng sự giải thích rõ chịu khổ báo, và tu pháp lành trời người, dùng quán không trải qua nhị thừa, dùng quán giả trải qua Bồ-tát ba giáo. Ba quán dung tức vốn ở viên nhân. Sâu chẳng dời cạn, nghóa có thể nhiếp chung. Nếu có năng quán v.v… tức là giải thích câu quán tâm tâm mạch. Năng quán tức quán chữ, sở quán tức tâm, tâm mạch. Đã nói một chỗ, một tức không, thế tức ba thứ, âm là cơ duyên cho nên thuộc về giả, chẳng bị hai bên ràng buộc. Cho nên nói giải thoát là nghóa Trung quán. Và lại nói v.v… trở xuống đây là giải thích phục nan, nên nạn rằng nếu văn kinh này đối ba quán vì sao kết nói thành A-la-hán ư ! Cho nên nay giải thích rằng đây nói về mười hạng người. Hai thứ trước đắc đạo thành La-hán Tiểu thừa, cho đến thành Đại thừa La-hán viên đốn. Như Kinh Pháp Hoa nói: Nay chúng ta thật là A-la-hán, khắp đối với trong ấy nên thọ cúng dường, thì viên nhân cũng gọi là La-hán. Cho nên chẳng có lỗi. Nói rộng văn kinh nên chia làm hai. Ban đầu từ vì sao v.v… trở xuống là nói phương tiện, hai từ an tường v.v… trở đi là nói tu chứng. Thiền pháp tức thứ lớp thiền môn. Vân vân: là đầy đủ năm duyên, trách năm dục, bỏ năm cái, điều năm việc, hành năm pháp, vì thế có hai mươi lăm thứ, cho nên thiền môn nói: phương tiện là tên khác của tu học khéo léo. Hành giả đối với sơ duyên khéo léo tu tập nên gọi là Phương tiện. Sự lý đều giải cả hai, như Chỉ Quán nói về quán tâm, giải thích phương tiện tức lý giải. Trong thiền môn chỉ có sự giải. Điều năm việc: Là điều độ việc ăn uống, chẳng để quá đói, quá no, điều độ ngủ nghỉ chẳng để ít quá, nhiều quá, điều thân khiến chẳng để chậm, chẳng để mau, điều hơi thở khiến chẳng khò khè chẳng gấp gáp, điều tâm khiến chẳng nặng nề chẳng rong ruổi. Nhưng năm việc này thì ăn ngủ điều phục ngoài định, ba thứ sau thì đều phục trong định. Nay kinh đối với năm việc chỉ nêu bày hợp điều. Ba phương tiện: Nói theo cốt yếu thì hành giả phải có hai mươi lăm pháp, đủ như thiền môn. Bắt đầu ở ba việc v.v… chính là nói kinh nầy từ ý cốt yếu. Kinh Đại Tập chép: Ca-la-la thời có ba việc, một là mạng, hai là noãn, ba là thức. Hơi thở ra vào gọi là thọ mạng, không hôi thối, không vữa nát gọi là Noãn, tức là nghiệp giữ gìn hỏa đại. Các sắc như địa, thủy, v.v… chẳng hôi thúi, chẳng vữa nát. Trong đây tâm ý gọi là thức, tức là sát-na giác biết tâm, ba pháp hòa hợp từ khi sanh đến khi lớn lên không thêm không bớt. Người ngu không rõ, đối với trung vọng chấp ngã, nhân, chúng sanh, gây ra các hành nghiệp, tâm sanh đắm nhiễm, điên đảo nhân duyên, qua lại ba cõi gọi là mê. Nếu tìm nguồn gốc nó, chẳng ngoài ba pháp này gọi là giải. Tu sáu chữ này, tức là muốn tu sáu diệu môn, cho nên phải dùng đây làm phương tiện trước. Đoan thân: Là ngồi thẳng, chính là nói về giới, giới để ngăn ngừa thân, miệng, cho nên nói về đoan thân. Chế định tâm loạn cho nên nói về chính tâm. Tuệ có công năng niệm niệm phân biệt cho nên nói về nối nhau. Dương trên âm dưới, như trời đất. Đây là thế tục đã dùng. Bên phải v.v… dương trở xuống là nói Phật pháp tiêu biểu cho ý đối, phải dương trái âm, như trước đã chép. Muốn tương đẳng, âm tiêu biểu cho định, dương tiêu biểu cho tán, tán là định chướng. Cho nên âm trên dương dưới. Thế tục đã có oai nghi, tức tay trái áp lên tay phải là oai nghi thế tục. Đây là ở dưới nêu tiêu biểu cho thô ác, tức bảy chi tội lỗi, từ quyền bày thật là tự theo. Trước để tay phải ở dưới, như trước thi quyền, sau để tay phải ở trên, như sau bày thật. Giới này v.v… trong mười hạng người, chỉ y theo người mà nói tuệ, lại phải phân biệt trong phân đoạn thì bảy người là quyền, một người là thật. Trong biến dịch thì một quyền một thật. Tuệ đã chẳng bình đẳng thì giới định tự khác nhau. Từ một v.v… trở xuống là giải thích tu chứng, chia làm ba. Ban đầu là nêu văn kinh. Đoạn này trải qua sáu môn nghóa đầy đủ. Theo luận hành tướng đầy đủ ở bất định, chỉ quán và thứ lớp thiền môn. Là số môn, nghóa là nhiếp tâm ở số, không để rong ruổi, gọi là tu số môn, thành tựu tức niệm, nghóa là cảnh tỉnh tâm xoay chuyển từ một đến mười, chẳng thêm công lực. Bấy giờ nên xả số trước, pháp tu ở tùy môn. Nhất tâm nương theo hơi thở ra vào, suy nghó tâm duyên theo hơi thở ra vào, tâm trú trong duyên hơi thở. Cho nên kinh nói vô phân tán ý bình đẳng. Chẳng khò khè chẳng gấp rút v.v… nghóa là tu chỉ thì chẳng niệm theo số, ngưng tịnh ở tâm. Cho nên nói chẳng khò khè chẳng gấp rút v.v… Như đứa bé v.v… là dụ cho tu chỉ tướng chẳng thô sáp, trơn láng. Đức bé, thiên Thương Hiệt cho rằng nam gọi là nhi, nữ gọi là anh. Ở đây gọi anh là chung cho nam nữ. Giải thích tên, người mới sanh gọi là anh nhi. Trước ngực gọi là anh, đối với anh nuôi dưỡng bằng sữa. Hạ khứ là ba môn: Văn kinh từ ở tâm đoan đến khứ ở chót mũi, là Quán môn, trở lại vào tâm căn tức hoàn môn, khiến tâm rõ tịnh gọi là Tịnh môn. Xích nhục v.v… trở xuống là giải thích riêng quán môn. Nhưng trong kinh nói nghóa quán môn tức Thông minh thiền. Y theo thiền môn đã nói. Có tu có chứng. Thiền này đã không phân biệt thứ lớp địa vị. Lại y theo Tứ thiền mà nói về tu chứng, nay văn kinh này tức là tướng chứng của Sơ thiền giác chi. Thiền môn nói tướng chứng có ba, đó là sơ chứng, trung chứng, và hậu chứng. Nay kinh nói, như lưu ly chẳng xanh, vàng v.v… thì dường như trung chứng và hậu chứng. Muốn xét biết: Xin tìm văn kia. Hành nhân sơ tâm muốn tu tập thì nên y theo sáu môn thứ lớp trước tu số môn, tức như kinh nói: khoan thai đến từ từ, từ một đến mười. Sổ tức thành thì tu tùy tức, tùy tức thành thì tu chỉ, chỉ thành mới tu quán. Nếu theo sở nghi, có thể tu bất cứ một môn nào, không cần trước sau. Tứ đại mạch: Đối với Tiểu mà được tên, mười mạch trăm mạch gọi là tiểu mạch. Đường thứ tư v.v… trở xuống đại sư khẩu quyết rằng: Tâm như hoa câu vật đầu có bốn mươi mạch. Khẩu quyết chính là nêu sơ tâm. Chỉ nói bốn mươi chẳng nói bốn trăm bốn mươi. Kinh nói: lấy một trong các mạch, khẩu quyết nói thẳng đến chỗ rốn gọi là gió Ưu-đà-na, Ưu-đà-na là trung, nên gọi mạch này là trung mạch. Lại lấy v.v… tức là trung mạch thẳng xuống rốn, lại từ rốn rút đến đầu mười mạch, cho nên kinh nói từ đại mạch ra đến dưới lưỡi. Khẩu quyết nói hơi thở ấy ra từ rốn, ra vào đến rốn diệt mất. Ở đây nói hơi thở ra đến đầu lưỡi cho nên hợp bốn mươi mạch trên với bốn đại mạch là bốn mươi bốn. Nên từ lưỡi đến mũi là phải thuận theo, đây là sự lầm lẫn về chữ. Tức giải thích văn kinh từ lưỡi mạch phát ra cho đến cuối mũi lại vào tâm căn, thẳng đến ở rốn. Giống như sông biển tuôn chảy. Khẩu quyết nói trong thân mạch như trăm sông chảy về biển. Gan thuộc mộc, cho nên khí mầu xanh, phổi thuộc kim nên mầu trắng, tỳ thuộc thổ nên mầu vàng, thận thuộc thủy nên mầu đen, tâm thuộc hỏa nên mầu đỏ là sơ lược. Vì kinh chẳng nói không đỏ, nên các khí tụ về mũi, các khí tức mạch khí của năm tạng, đến mũi thì mất bản sắc mầu xanh ấy. Chỉ như lưu ly trong suốt chẳng phải năm mầu. Hơi thở tế tám tấc, ở đây giải thích văn kinh chính là dài tám tấc, tám tấc là hơi thở ra nhỏ nhiệm chẳng thô. Chánh là ngay thẳng, chẳng cong queo. Định sắp tán; Quảng Nhã nói tương phù. Thích Danh nói tương tưởng. Nay dùng hơi thở tám tấc phò trì cho sự tán loạn của tướng hộ. Tiêu biểu cho tám chính: Là tám sở v.v… cho đến chót mũi, hơi thở này từ miệng mà ra, từ mũi mà vào. Lại nhập tâm căn, từ đây thở ra lại vào mũi, đến tim. Đây là hoàn môn bất định. Chỉ quán nói tu hoàn đã biết quán từ tâm sanh, nếu chạy theo cảnh thì đó là chẳng hội bổn nguyên nên phải quán trở lại. Quán tâm ở đây nói hoàn nhập tâm căn tức phải quán trở lại. Nghóa quán tâm, nay tâm minh tịnh, đây là tịnh môn bất định. Chỉ quán nói: tu tịnh, biết sắc tịnh cho nên chẳng khởi vọng tưởng phân biệt, thọ tưởng hành thức cũng vậy. Hơi thở vọng tưởng cấu, hơi thở phân biệt cấu, hơi thở thủ ngã cấu. Chính gọi là tu tịnh. Tóm lại nếu tâm như bổn tịnh, đó gọi là tu tịnh, nghóa là kinh nầy làm cho tâm minh tịnh. Nhưng sáu môn đều có tu chứng hợp thành mười hai cho nên Thụy Ứng nói du chỉ ba, bốn xuất sanh ra mười hai. Ý mười khoa: Tức Đại trụ ở chùa Ngõa Quan ở Kiến Nghiệp, làm thượng thơ khiến không vui, lược rút ra pháp này thành mười khoa. Gọi là bất định chỉ quán, nay đề là sáu diệu môn. Mười khoa gồm: Phân biệt rõ ràng đối với các thiền. Thứ lớp sanh nhau. Tùy tiện nghi. Đối trị. Tương nhiếp. Chung riêng. xoay vầng. Quán tâm. Viên quán. Chứng tướng. Nay văn kinh này nói chỉ là thứ hai một khoa ý. Nếu đây v.v… trở xuống là nói quán môn của kinh này. Cho nên nói chung: vì chung mà nói, không phân biệt ba thừa. Nay ba v.v… trở xuống đã chưa khai hiển, phải nêu sự khác nhau giữa ba thừa. Cho nên phải sau riêng mới hiển bày chung ở trước. Cờ báu mạnh mẽ, phá phiền não chướng nên nói là mạnh mẽ, qúy cực gọi là bảo, vượt lên gọi là cờ. Ngựa chạy mau chóng, hoặc vô thường v.v… nghóa là các kinh khác hoặc trước quán vô thường. Cho nên có ba thứ, tướng của năm môn trong kinh không nói rõ. Ý Phật khó lường cho nên soạn ba thích. Năm chỗ dừng v.v… bất định Chỉ Quán nói: chỉ là diệu môn, hành giả nhờ đó mà dừng tâm, tức liền thứ lớp phát Năm luân thiền: Địa luân: tức địa Vị Đáo. Thủy luân: tức các thứ thiền định, thiền căn phát. Hư không luân: tức năm phương tiện người giác ngộ nhân duyên chẳng có tánh như hư không. Kim sa luân: Tức kiến tư giải thoát vô trước chánh tuệ như vàng cát. Kim cương luân: tức đạo vô ngại thứ chín có công năng dứt sạch kiết sử trong ba cõi, chứng tận trí, vô sanh trí, nhập Niết-bàn. Gọi chung là luân, mượn ví dụ mà được tên. Thiền môn nói: luân là chuyển. Như thế luân, nếu chuyển thì lìa đây đến kia. Văn kinh đã nói thường buộc niệm, giữ niệm tức là chỉ môn. Chỉ môn thì sanh ra năm luân. Cho nên nói tức là nghóa ấy. Nay nói pháp môn Niệm Phật, nhưng năm môn thiền thì thiền kinh thường nói, hai xuất xứ khác nhau. Nay Sư dùng Thiền kinh, thực hành pháp môn Niệm Phật mà không nói giới phương tiện. Vì kinh nầy tự nói đắc định niệm Phật. Còn bao nhiêu trở xuống bốn môn kinh luận đều đồng. Từ tâm v.v…tức đẳng thủ sở trị. Nghóa là niệm Phật trị ngủ nghỉ chướng đạo, sổ tức trị tán loạn v.v… còn Tỳ-đàm v.v… là nói kia nói năm môn, khác với kinh nầy. Năm môn của kinh nầy có thể đồng với Thiền kinh, vì đều có niệm Phật. Giới phương tiên phá ngã kiến, luận ấy nói hành giả kiến chấp dùng giới phương tiện, người ngu chẳng rõ. Túc nghiệp phiền não chứa nhóm năm ấm, đối với duyên chấp ngã, nên đối với tự thân dùng giới phương tiện quán sát, các thứ tánh nghiệp tướng cho rằng sáu giới như Địa v.v… Địa giới được thủy giới thấm nhuần cho nên không lìa, thủy giới không lìa địa giới giữ gìn cho nên chẳng chảy, hỏa giới thành thục cho nên chẳng ư hoại, phong giới động cho nên thêm lớn, không giới không cho nên ăn được ra vào, có thức giới cho nên có sự tạo tác, đều do các duyên. Cho nên biết vô ngã đếm hơi thở v.v… là năm môn, đẳng thủ bất tịnh, nhân duyên từ tâm thì không niệm Phật. Đó là nhân duyên bình đẳng: nghóa là trong Tỳ-đàm giới phương tiện phá ngã, là nghóa quán nhân duyên của Thiền kinh. Vì nhân duyên có ba thứ nên mỗi thứ phá khác nhau, một là nhân duyên ba đời phá đoạn thường, ba đời nối nhau cho nên chẳng đoạn, ba đời thay đổi cho nên chẳng thường, hai là nhân duyên hai đời phá ngã, nghóa là hai đời hiện tại, vị lai có đủ mười hai nhân duyên. Đối với cha sanh yêu thương, đối với mẹ sanh tức giận, gọi là vô minh, đối với di thể của cha cho là của mình, gọi đó là Hành. Từ thức chi cho đến chi già chết: Là đồng với ba đời. Ba thứ, nhất niệm phá tánh như văn ở dưới chép, cho nên biết ba thứ này đều mê đắm các tà kiến, chẳng ra khỏi sanh tử, vì thế gọi chung là ngu si, cho nên nhân duyên phá si đã có đủ nghóa phá ngã. Năm môn của Tỳ-đàm nói giới phương tịên phá ngã trở thành phiền trưởng, đối với phá chướng đạo vẫn thiếu niệm Phật. Cho nên nay y theo Thiền kinh mới là đầy đủ, là ý nghóa phù hợp với kinh nầy. Cho nên nói là thực hành niệm Phật v.v… Vô thường v.v… Ba thứ trước như vừa rồi sớ giải thích. Vô ngã tức chẳng chấp trước năng quán vắng lặng, tức tìm cầu năng quán cho đến chẳng thật có. Nếu năm kinh ở dưới nói từ đầu đến chân mỗi phần đều tiết giản, đều phải giữ niệm. Đầu v.v… là sắc, giữ niệm là định. Lại nữa, năm luân nhờ chỉ mà phát cho nên thuộc về định, dùng cả định tuệ, năm chỗ dừng tâm là định, năm chỗ quán sát là tuệ, lại nữa, sổ tức là định, bốn thứ kia là tuệ. Lại nữa v.v… trở xuống là nói khai hợp. Năm môn, sáu diệu là sự khác nhau về khai hợp. Cho nên biết rằng tu năm môn thiền tức là nghóa sáu chữ. Lại nữa, năm, sáu đây chỉ là năng trị, năng chẳng cô lập, đối với sở được tên. Sở trị là gì? có chỗ nói là ba chướng, hạn chế năm, sáu để thành ba chướng. Nêu ra tùy môn và chỉ môn, sổ tức đã đương sổ môn, tức ba diệu môn. Tức có ba thứ, hoặc y theo thiền môn nói ba thứ: sổ tức, tùy tức, quán tức. Nay nói về quán môn riêng có sở đối. Cho nên chỉ dùng chỉ môn trong phương tiện sổ tức, đều tùy nghóa tiện chỉ, tức chẳng niệm sổ, tùy ngưng tịch ở tâm ấy. Vì nói về sổ tùy mà tu chỉ. cho nên nay lấy chỉ môn trong sổ tức. Bất tịnh phân biệt sáu tham, mỗi mỗi tu quán từ tâm phân biệt chín phẩm, mỗi mỗi đều cho vui. Hai thứ này y theo quán chiếu nghóa tiện, đối quán diệu môn. Nhân duyên phương tiện là hoàn môn, nhân duyên phá các kiến chấp đoạn, thường v.v… Hoàn môn tức trở lại quán nguồn tâm. Bốn câu xét tâm cho đến không thật có, tức phá các kiến chấp đoạn thường v.v… cho nên biết nhân duyên tức là hoàn môn. Niệm Phật đã chung cho ba thân, nay lấy niệm Pháp thân đương tịnh môn, vì tịnh môn chẳng khởi vọng tưởng, các tâm cấu không có chỗ nương gá, tức là thấy lý pháp thân. Lại nữa, hiệp trở xuống là năng đối với sở kết nên thành ba chướng, thán tức là gió quả báo v.v… thiền môn nói trong đẳng phần giác quán loạn pháp tức là bốn ấm thô nên gọi là báo chướng. Từ tâm bất tịnh nhân duyên: Là từ tâm trị sân, bất tịnh trị tham, nhân duyên trị si. Ba độc này tức là tập nhân phiền não chướng. Niệm Phật trị chướng đạo, tức là nghiệp chướng. Sớ đều thiếu văn. Giác quán ba thứ: Một là giác quán trong tâm minh lợi, nghóa là đối với khi tu định thì trong ba độc cũng không có duyên, hoặc duyên tham, hoặc duyên sân, hoặc duyên si, mà việc sở duyên phân minh rõ ràng, hai là nửa sáng suốt, nửa mê muội. Trong tâm giác quán sáng suốt thì giác quán duyên tư tưởng, chẳng trụ mê muội thì vô ký. Nhìn kỹ không hiểu rõ gì. Ba là hoàn toàn hôn trầm trong tâm giác quán, nghóa là tâm tối tăm như trong lúc ngủ nghỉ mà khắc khắc phan duyên, giác quán chẳng trụ thì có ba trị: Minh lợi: dạy đếm hơi thở, pháp đếm hơi thở là ghi số trong tâm hôn trầm, trị khiến minh lợi. Nửa mê mờ nửa sáng suốt nên dạy theo hơi thở ra vào, tâm thường nương vào hơi thở. Nếu chỉ quán hơi thở thì có lỗi, tối tăm, chẳng rõ khéo đối trị. Hôn trầm, nên dạy quán hơi thở tìm cầu cội nguồn, ra không phân tán, vào không chứa nhóm, chẳng thấy tướng định, mắt tâm liền mở. Phá đối với hôn trầm. Nhuế có ba v.v… thứ trở xuống: Văn thiếu, chú thích vân vân. Ba thứ gồm: Sân phi lý: nghóa là khi tu định sân giác chợt khởi thì bất luận là lý, phi lý kia phạm chẳng phạm. Sân thuận lý nghóa là người ngoài thật đến khuấy rối. Tranh luận sân: nghóa là cho sự hiểu biết của mình là đúng, cho chỗ hiẻu biết của người khác là sai, lời người nói chẳng thuận lòng mình, tức tâm tánh não giác. Dục có trong ngoài, tức trong ngoài để thành ba thứ: 1.Ngoại tham dục: nghóa là khi tu định tâm tham dục sanh, nam liền duyên nữ, nữ liền duyên nam, chấp lấy sắc mạo kia v.v… 2. Nội ngoại tham dục, nghóa là chẳng phải tham nam nữ bên ngoài, lại tự duyên hình mạo của mình, xoa đầu, vuốt cổ, niệm niêm đắm nhiễm 3. Biến nhất thế xứ tham dục, nghóa là chẳng phải chỉ yêu đắm nội ngoại chánh báo, mà đối với tất cả năm trần y báo đều khởi tham. Si có tánh đoạn thường, đây cũng có ba thứ: Chấp đoạn thường. Chấp hữu vô. Chấp thế tánh. Ba thứ này đều là mê đắm các tà kiến, chẳng ra khỏi sanh tử, nên gọi chung là ngu si đoạn thường, suy tìm ba đời, nếu diệt thì đọa vào chấp đoạn, nếu nói chẳng diệt thì đọa vào chấp thường. Hữu vô nghóa là các pháp như Ngã và ấm, v.v… là quyết định có ư! thế tánh là do có vi trần cho nên có thật pháp. Có thật pháp cho nên có bốn đại, có bốn đại cho nên có giả danh và các thế giới. Nghiệp có ác cảnh trầm phù, là ác, nghiệp chướng đạo, cũng có ba thứ: Chướng trầm hôn ám tế: nghóa là khi tu định bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, trừng tao, không thể phân biệt biết rõ. Chướng các thiền định. Chướng ác niệm tư duy: nghóa là tuy chẳng hôn trầm mà tâm ác niệm sanh. Hoặc nghó đến các dục pháp như mười điều ác, bốn tội trọng, năm tội nghịch, phá giới, hoàn tục v.v… Chướng cảnh giới bức bách: Nghóa là thân hoặc chợt đau đớn biết có việc ép ngặt, thấy các cảnh bên ngoài, hoặc thấy không đầu, tay, chân v.v… hoặc trong mộng lại thấy các ác tướng trị pháp, cũng đều có ba thứ. Sân si đã có ba thứ, đối trị cũng có ba: Trị sân phi lý, nên khiến tu chúng sanh duyên từ, nghóa là nói về trong thân thuộc, oán đều khai ba, cộng thành chín phẩm, Quán tướng đều khiến được an vui, dùng tướng vui của người khác sanh ra ái niệm, để phá tâm sân não tán hại trong chúng sanh. Sân trị thuận lý: nên dạy tu pháp duyên từ, nghóa là quán năm ấm hư giả chẳng thấy chúng sanh, đâu có việc đúng sai, chỉ duyên pháp lạc trong các thọ. Vì cho người nên từ tâm ái niệm chẳng nên thêm não, thi phi đã hết thì tâm sân tự dứt. Trị sự tranh cãi đối với tất cả pháp cho nên sân, nên dạy tu vô duyên từ. Thực hành từ này thì đường nói nặng dứt, chỗ tâm hành bặt. Đối với tất cả pháp chẳng nhớ, chẳng nghó. Nếu chẳng nhớ nghó thì do đâu tranh tụng mà sanh tâm sân. Đại từ bình đẳng cùng cho vui vốn thanh tịnh. Trị ba thứ tham: Chín tưởng trị trong, bối xả trị trong ngoài, đại bất tịnh trị tất cả nơi. Trị ba thứ si, nhân duyên ba đời trị đoạn thường, hai đời trị chấp hữu vô, nhất niệm trị thế tánh. Trị ba thứ nghiệp chướng, niệm ứng Phật nghóa là tâm duyên ba mươi hai tướng v.v… Trị chướng tối tăm bít lấp. Niệm báo Phật nghóa là tâm duyên lực vô úy v.v… trị chướng ác niệm tư duy chướng. Niệm pháp Phật nói về tâm duyên pháp tánh vắng lặng, trị chướng cảnh giới ép ngặt. Thuốc và tướng bịnh đối thành ba mươi thứ, đầy đủ ở thiền môn quyển bốn. Nói về ủy thuyết trong nội phương tiện. Cho nên nói đầy đủ như thiền môn, đều chú thích v.v… chỉ cho ở văn kia. Chẳng dùng những cách trị này là: Chẳng dùng mười lăm thứ sự trị vừa nói. Như huyễn như hóa, tức văn dưới đây mười dụ nhập vào mé thật, tức văn dưới đây tìm bốn đại, mỗi mỗi vào trong mé như thật. Đây tức kinh nầy chỉ dùng Đệ nhất nghóa, Bát-nhã chánh quán có công năng trị cả mười lăm thứ bịnh. Đại thừa nói có Tam-muội trị được ba độc, tức là kinh nầy nói nhất không vô tướng, chánh quán Đệ nhất nghóa tất-đàn. Chánh quán trị được ba thứ tham, trong tâm chánh quán nói đường nói năng dứt, chỗ tâm hành bặt. Tịnh Danh nói: Sao gọi là hơi thở phan duyên? nghóa là tâm vô sở đắc. Chánh quán trị ba nghiệp chướng, Phổ hiền Quán nói: Ngồi thẳng niệm thật tướng là sám bậc nhất, cho nên chánh quán làm sao cạn kiệt, thuốc có công năng chữa trị các bịnh. Cho nên nói vào mé thật để trị khắp. Tư-na nghe v.v… trở xuống, đây thuộc về phần thứ ba nói sáu căn sáu chữ, văn nghóa mắt xích nối nhau. Cho nên xét theo hai hướng. Kinh nói: Lúc bấy giờ, Ưu-Ba-tư-na nghe lời nói rồi thân như lửa đốt v.v… liền phân biệt với Thanh Văn quán vô minh, hành v.v… liền phân biệt với Duyên giác hoặc nhập định vắng lặng, liền phân biệt Bồ -tát. Cho nên nói phân biệt sáu môn của người Ba thừa. Vàng là tuệ: Là giải thích thân mầu vàng ròng. Vàng quyết đoán được tuệ, có công năng dứt hoặc, vì năm phần có tuệ thân, nên nói là thân. Ba thừa v.v… trở xuống là nói chung ba thừa, đều có tuệ tức không. Cho nên đồng nhập chân lý. Lợi căn được độ thì thấy Trung đạo. Cho nên nghóa bậc nhất chẳng có sâu cạn. Thứ ba là chia kinh làm năm: Tư-na hỏi. Thân tử đáp: Nghe pháp ngộ đạo. Thân tử bạch Phật. Thuật thành công dụng. Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Sách lễ nói thỉnh ích khởi thỉnh ng- hiệp khởi, Tư-na đầy đủ oai nghi nên đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Nghi lễ này ở hai cõi đồng nhau, tức có ba thứ, nghóa là thuận sắc, nghịch sắc, bình bình sắc. Ban đầu lúc nhất niệm v.v… tức là tâm vương rõ được tướng chung, nghóa là thức vừa khởi, chỉ duyên tướng chung như xanh, v.v… Cho nên nói vào một niệm đầu tiên, vì chưa tương ưng với tham v.v… nên gọi là độc đầu. Phụ Hành chép: Thẳng vậy chướng lý gọi là Độc đầu vô minh. Một niệm chuyển v.v… tức là tâm sở rõ ràng tướng riêng, nghóa là kế đó chấp lấy cảnh tượng, tức tâm tưởng, kế là lãnh nạp cảnh trước, tức là thọ tâm, tức là khởi các phiền não như tham v.v… tạo tác, tức là hành tâm. Cho nên nói nhất niệm chuyển v.v… Phụ Hành nói: hợp với các sử gọi là tương ưng vô minh. Nếu thuận v.v… trở xuống là nêu tương ưng tướng vô ký, tức là si. Chẳng khiến ba thứ tâm khởi, chỉ đối với ba sắc mà sổ tức, nên tâm tham, sân, si chẳng khởi. Luận Tỳ- đàm nói ba tạng hữu môn, trong bốn môn lược nêu hai môn. Đây nói về thừa Thanh Văn hoặc quán v.v… trở xuống là nói nhất niệm mười hai nhân duyên. Kinh Đại Tập chép: do mắt thấy sắc nên sanh tâm ái, tức là vô minh làm ái, tạo nghiệp gọi là hành, dốc lòng chuyên niệm gội là thức, thức và sắc hành là danh sắc. Sáu chỗ sanh tham là sáu nhập, do nhập cầu ái gọi là xúc. Tâm tham đắm gọi là thọ, ràng rịt chẳng xả gọi là ái, cầu các pháp gọi là thủ, pháp ấy sanh gọi là Hữu, thứ lớp chẳng dứt gọi là Sanh, thứ lớp dứt nên gọi là tử. Nhân duyên sanh tử các khổ ép ngặt gọi là não. Cho đến ý duyên pháp trần cũng vậy. Y cứ pháp tương ưng trước thân sau ý. Văn kinh nầy trước nói ý sau nói thân. Cho nên nói chẳng thứ lớp. Các tưởng điên đảo v.v… cũng nói về ý căn. Tưởng: Là tưởng sổ. Năm căn như tai v.v… đều có ba thứ tương ưng nhiếp trụ, dụ như nhãn, rất dễ biết. Cho nên sớ chẳng nói. Nay nói dưới đây giải thích thân căn, năm căn nhỏ nhiệm, đối thân tức thân căn thô lớn, nếu ý căn lónh nạp thì giải thích năm căn đều nương vào thân căn pháp trần. Ý căn suy nghó năm trần, tức là lónh nạp pháp trần. Đã trống rỗng có các xúc ấy chẳng phải thật đối với các cảnh như sắc v.v… Nhưng khi tâm suy nghó sắc v.v… thì nhãn v.v… là luống dối. Có các xúc như sắc v.v… Văn thừa đến hai chữ. Nếu không như thế thì trống rỗng, trở xuống thiếu hai chữ lãnh thọ. Cho nên nói dưới nhắc lại kinh. Vì vậy mà biết kinh nêu năm trần đều là tâm ý nghó ngợi, là thuộc về pháp trần, tương ưng với sự trơn láng, tức là khi tâm suy nghó thì luống thọ các xúc. Cho nên kinh nói: thức này là giặc cho đến duyên khắp các pháp. Tổn hại chân tánh gọi là giặc, phan duyên chẳng dừng nghó nên gọi là như con khỉ chuyền cành. Duyên khắp các pháp tức là nghó về năm trần. Thân đã luống thọ các xúc. Cho nên đoạn văn kinh này, chỉ là nói thân căn nhó thông biệt viên ý, thông rõ căn trần tức là không. Biệt nói giả danh, Viên nói Trung đạo, đều là nhiếp, trụ. Thế thì mười thứ hành nhân đều nói về nhiếp trụ. Trước nói về sự giải tức thuộc về khổ báo. Người gấp tu pháp lành thế gian. Người như thật nên nói không vững chắc, thể đất vốn luống dối vào mé như thật, tức không vững chắc. Thông giáo v.v… trở xuống là nêu pháp quán, có ở cả Thông, Biệt, Viên cho nên nêu nghóa Thông, các pháp khác cũng có thể rõ. Hữu kiên nên nói vô kiên, đó là sự lầm lẫn về chữ. Lại bốn v.v… trở xuống là phá bốn kiến nêu nghóa vô kiên, nghóa là nếu y theo ba tạng bốn môn sở kiến thì đều thành chấp chặt, đâu được vô kiên. Lân hư là hạt bụi rất nhỏ, gần như hư không, gọi là lân hư trần. Tỳ-đàm chia chẻ sắc, lân hư chẳng diệt, tức là hữu môn. Thấy không tức là không thấy. Thành luận chia chẻ sắc gần với hư không cũng diệt, tức là không môn. Cho đến bốn câu, cả hai trường hợp cũng như luận Côn-lặc, nhưng chẳng phải như kinh Ca-chiên-diên. Chấp chặt sâu v.v… nghóa là chia chẻ hạt bụi đến gần với hư không tức địa là hữu, hữu tức thật, thật là nghóa kiên. Nếu nói địa là vô, cả hai trường hợp cũng đều chẳng phải sự thật, ngoài ra đều nói dối. Tà chấp này đều là nghóa Kiên. Cho nên nói mê đắm sâu xa chẳng thể xả bỏ v.v… đã lìa bốn lỗi cho nên tìm cầu chẳng thật có, tức không có tánh kiên. Cho nên bốn câu nương Kiên phá chấp. Nước chẳng trụ bốn câu, nghóa là nước là hữu, hữu tức là trụ, cho đến nói rằng nước chẳng phải hữu, chẳng phải vô, cũng tức là trụ. Nay chẳng trụ hữu bốn câu, cùng chẳng trụ vô trong bốn câu, cũng chẳng trụ trong chẳng thể nói. Nói tánh nước không trụ, gió không trở ngại v.v… quán gió là hữu, hữu là ngăn ngại, cho đến nói gió cả hai chẳng phải, đều là trở ngại, cho nên nói đâu không có bốn câu chất ngại. Nay quán không bốn câu, cho nên nói tánh gió chẳng trở ngại, không nói lửa lớn, là văn lược bỏ. Nên nói lửa chẳng từ tự sanh, cho đến chẳng từ vô nhân sanh, vốn không tự tánh, nhờ duyên mà có. Cho nên nói tánh lửa chẳng thật. Ở đây nói bốn đại vốn luống dối: Tức sắc ấm nhập vào mé như thật. Bốn ấm còn lại văn kinh cũng lược. Chỉ ví dụ sắc ấm mà thôi. Cho nên nói thọ, tưởng, hành thức v.v… Nếu muốn tìm cầu thì nên nói thọ chẳng lãnh nạp, tánh chẳng thật có. Hoặc nói thọ là hữu, hữu là lãnh nạp. Cho đến nói thọ là phi hữu, phi vô cũng là lãnh nạp. Cho đến thức là liễu biệt cũng vậy. Kinh nói tất cả tánh tướng, tức tánh tướng đều không, câu suy tìm không thật có, là tánh không, cũng chẳng trụ không bốn câu, là tướng không. Cho nên văn kinh nói về năm ấm nêu bày, vì tất cả chúng sanh đều là sự hiện tiền của năm ấm, cho nên dùng ấm làm cảnh quán. Kinh nói đều vào mé như thật. Năm ấm đều không cho nên nói thảy đều v.v… Nghóa như thật nên có ở cả bốn giáo. Đồng gọi là mé thật mà có sự khác nhau về không. Các hết tặc v.v… phiền não kiến, tư trói buộc giặc hại đối với hành nhân. Hoặc nói về ba kiết giải thích nghóa, tức nghi, thân kiến, giới thủ gọi là ba kiết. Thân nầy phát ra lửa, tức kinh nói trong thân phát ra lửa. Chỉ có lửa vô lậu, người trí tuệ chỉ tu quán vô lậu để dứt hoặc, chẳng tu các thiền như quán luyện v. v… cho nên không có thần thông thì chẳng thể hóa lửa đốt thân. Người có lửa sự lý thì dùng quán vô lậu để dứt hoặc là lý hỏa, tu sự thiền phát thần thông có thể hóa lửa đốt thân là sự hỏa. Phược là phiền não, nhân quả phược tức nương vào thân để có thể hóa lửa cho nên đốt cháy quả phược. Thâu nhặt xá- lợi, Tân dịch âm là Thiết-lợi-la, Hán dịch là Thân cốt, có nguyên, có nát. Nát thì như rau cỏ hạt dẻ. Nay ở đây là toái thân. Trên đó xây tháp, tiếng Phạm là Tháp-bà, Tân dịch âm là Tốt-đổ-ba, Hán dịch là Miếu. Hoặc nói phương phần, đây là dịch nghóa. Thấy Phật mười phương là Thanh Văn, tức kinh nói trong lỗ chân lông thấy Phật. Hỏi Tiểu thừa không nói có Phật mười phương. Vì sao nói thấy Phật mười phương là Thanh văn ư! Đáp: trong Tiểu thừa có các bộ khác nhau cũng có bộ tin Phật mười phương, tức là người tiểu thừa tu thiền thứ tư. Bờ mé định lực thấy Phật mười phương v.v… phá ác. Thành Bích-chi-Phật, tức kinh nói: mười hai nhân duyên quán vô minh v.v… thảy đều không thật, gọi là phá ác. Kinh nêu mười ví dụ đều dụ nhân duyên tức không. Lửa bốc lên khi trời nóng là dương diệm. Đi trong chỗ trống vắng, gió thổi cát bụi cho nên đối với chỗ đồng trống giống như ngựa chạy. Thành Càn-thát- bà, trong Hoa Nghiêm Âm Nghóa của Pháp sư Tịnh Uyển nói thành Càn-thát-bà, Hán dịch là Tầm hương thành, là giữa núi Thập bảo có thần âm nhạc, gọi là Càn-thát-bà. Các vị trời Đao-lợi ý thích âm nhạc. Vị Thần này có thân tướng khác lạ, tức biết ý trời đến đó vui chơi. Nhân việc này, Tây Vực gọi người đánh nhạc là Càn-thát-bà, người đánh nhạc kia thường huyễn hóa ra thành quách, trong chốc lát trở lại như cũ. Do đó cho là rồng đã hiện ra thành quách, thành của Càn-thát-bà do người đánh nhạc kia làm ra. Như huyễn: là như nhà ảo thuật huyễn hoá ra voi ngựa, như biến hóa là như người được thần thông hóa hiện các thứ. Trụ bất thối: là Bồ-tát, tức như văn kinh nói hoặc nhập tịch định trở đi. Ở đây chỉ nói về Thông mà chung cho cả Biệt Viên. Vì có tiếp. Đồng chân tức Viên. Sơ Trụ niệm bất thối cũng gọi là Phục. Kết thành ý, tức vừa rồi kinh nói nếu người có áo mặc thân như lưu ly v.v… Nay nêu văn này là kết thành ý sáu môn của ba thừa. Sớ văn từ trước nêu văn ba thừa trong kinh. Sau mới chỉ ra một đoạn văn kinh. Cuối cùng là ý kết thành, kinh đầy đủ giới định v.v… tức thành năm phần pháp thân. Ngừa quấy ngăn lỗi gọi là giới, dứt duyên lự tịnh gọi là định, quán hữu vô gọi là tuệ. Rốt ráo thanh tịnh chẳng dính mắc hữu vô gọi là giải thoát. Đối với tất cả cảnh trí thấy hiện rõ gọi là giải thoát tri kiến. Năm thứ này làm thành nhân của thân gọi là phần. Đáng làm phép tắc gọi là pháp. Có ba nghóa thể, y, tụ gọi là thân, dùng năm thứ này nên gọi là pháp thân. Chính là nghóa Ba tạng chung cho cả bốn giáo. Thân xuất ra nước lửa, tức hiện mười tám biến, trên thân phát ra nước, dưới thân phát ra lửa. Phát ba thứ tâm thanh tịnh tam-Bồ-đề, đạo tâm ba thừa. Trong mộng v.v… mộng tức Tam-muội Như mộng. Tam-muội thành thì sẽ thấy Quán Thế Âm tức tương tợ phần chân vị nhân. Như gió mạnh v.v… Tam-muội như gió dữ, hành vi ác như mây đen. Sanh trước Phật tức Sơ Trụ ra khỏi Thánh thai. Đây là nói về lý giải thích. Hoặc giải thích theo sự tức vãng sanh về cõi tịnh ở trước Phật, hoa sen hóa sanh. Cho nên kinh nói hoa sen hóa sanh là cha mẹ. phần lưu thông: Sớ văn không giải thích. Nay chia riêng làm năm: Là khen ngợi, phó chúc, chia làm hai: a. Văn xuôi. Kệ tụng. Chia làm hai: Thất ngôn kệ, phó chúc, chia làm ba. Mười hai hạnh phó chúc, là trong văn giữ gìn chánh pháp. Ý phó chúc là ở bốn vương, Đông nam thì phó chúc chánh chủ kia, Tây bắc thì phó chúc thần thuộc, người đứng đầu phó chúc thì các quan có thể biết. Các quan được phó chúc thì chủ có thể biết. Đề-đầu-lại-tra, Hán dịch là Trì quốc: là giữ gìn cõi nước, an ổn chúng sanh, tức đông phương Thiên vương. Đẳng thủ v.v… là thống lãnh hai bộ quỷ thần, tức Càn-thát-bà và Tỳ-lâu-xà. Đây là nêu chủ thâu thần. Thiên tử, Kinh Kim Quang minh nói tuy ở trong loài người mà sanh làm vua loài người, do trời che chở cho nên gọi là Thiên tử. Vương Túc nói: Vua tuy hiệu là Đế mà chẳng được xưng Thiên-đế. Gọi Thiên tử: Là con trời, con và cha tôn ty có khoảng cách xa. Pháp thần là quan có pháp độ, nên nói là Pháp thần. Phật dạy khiến che chở kinh. Như pháp thần che chở thiên tử. Ta sắc cho rồng dưới biển tứ hành, là thần thuộc giao phó hai phương Tây và Bắc. Phương Tây là Tỳ-lưu-bác-xoa, Hán dịch là Tạp Ngữ. Hoặc dịch là Xú Nhãn, chủ lãnh hai bộ: Rồng và Phú-đơn-na. Rồng là loài cao hơn hết trong các thần. Cho nên phó chúc riêng. Y-la-bát, cũng gọi là Y-la-bạt-la, Y-la là tên cây. Hán dịch là xú khí. Bạt-la, Hán dịch là cực. Nghóa là Rồng này xưa kia do làm tổn hại cây rất hôi thối này bỏ đi, đến nỗi trên đầu sanh ra cây hôi thối này. Do đó mà đặt tên. Diêm-bà, Hán âm là Song-la-lợi, Hán dịch là Khả Úy, tức vị thần thuộc thiên vương ở phương Bắc. Tỳ- sa-môn Bắc phương, Hán dịch là Phổ Văn, hoặc dịch là Đa văn, chủ lãnh hai bộ: Dạ-xoa và la-sát. Lại nói rồng dữ v.v… lại phó chúc thần thuộc phương Tây, rồng có bốn độc nên gọi là rồng dữ, đó là nghe, thấy, khí, xúc. Có phát ra tiếng mới hại người, cho đến tiếp xúc người mới hại. Tỳ-lâu-lặc-ca, hoặc gọi là Tỳ-lưu-lặc-xoa, Hán dịch là Tăng trưởng, nghóa là có khả năng làm cho gốc lành của mình, của người thêm lớn, tức thiên vương nam phương chủ lãnh hai bộ: Cung-bàn-trà và bế-lê-đa. Đây cũng là nêu chủ thâu thần. Nan-đà-bạt-nan-đà, Nan-đà, Hán dịch là Hoan Hỷ, Bạt dịch là thiện, hai anh em này thường che chở Ma-kiệt- đà làm mưa thấm ướt, trong nước không có năm nào đói. Vua Bình-sa là nhất hội. Trăm họ nghe đều vui mừng, do đó mà được tên. Từ Ân nói thứ nhất tên Hỷ, kế tên Hiền hỷ, hai anh em này khéo hợp lòng người, gió chẳng gẫy cành, mưa chẳng lở đất. Ban đầu làm cho người vui vẻ, sau tánh lại hiền hòa vui vẻ, nên lấy đó làm tên. Sa-già-la từ biển mà được tên. Từ Ân nói là rồng của biển mặn. Ưu-ba-đà, cũng gọi là Ưu- bát-la, Âu-bát-la, Hán dịch là Đại sắc hoa sen, rồng nương theo hồ mà được tên. Từ Ân nói hoa sen hồng mọc ở hồ là tên. Đế-thích: tiếng Phạm là Thích-ca-đề-bà nhân-đạt-la. Thích -ca là họ, Hán dịch là Năng. Đề-bà là thiên, nhân-đạt là đế. Chính là nói Năng Thiên-đế. Thích-đề- hoàn-nhân là trời Đế-thích, đều là lầm. Vị nầy trụ tên đỉnh núi Diệu Cao, là vị vua đứng đầu ba mươi ba tầng trời. Các trời là ba mươi ba. Hiếu tử, hiếu là thuận. Đạo thờ cha mẹ thường ở trong tâm. Vì ở tâm cho nên thuận theo nhan sắc. Chính người dẫn dắt nếu mắt tự mở sáng thì không cần dẫn dắt. Gọi là cần mắt. Lại nữa, y theo mắt chưa mở thì phải nhờ người dẫn dắt mới khỏi rơi vào chỗ hiễm. Đoạn văn kinh nầy gồm có năm thí dụ, đều thí dụ người trì kinh. Đó là: Đế-thích. Cha mẹ. Tài bảo. Nhãn. Chính đạo. Chỉ lấy che chở tâm chuyên làm nghóa. Hai ngã sắc v.v… trở xuống là nói trái thuận tổn ích, chia làm hai. Một là nói trái giáo làm tổn quỉ thần, Thi Tử nói: Thiên thần gọi là Linh, địa thần gọi là kì. Nhân thần gọi là quỉ. Người ác, miệng ác là ba nghiệp không lành gọi là người ác mà nêu riêng khẩu nghiệp, vì miệng hay chê bai cho nên khởi, bất thiện là tu nhân, bạch lại là hoa báo, địa ngục là quả báo. Do hai thứ nầy v.v… trở xuống là nói thuận giáo đạt được lợi ích, chia làm hai, một là phá ác ích, địa ngục, ngạ quỉ, khổ ấy rất nặng. Cho nên nêu riêng. Kinh nói không có tám nạn là gồm các đường khác, đây là phá ác ba chướng của sáu đường, hai là hậu sanh v.v… trở xuống là sanh thiện ích, chia làm hai: Một là nói sanh thiện, chia làm hai. Tự hành thiện. Là thí khắp v.v… trở xuống thuộc hóa tha thiện. Tất cả là mười cõi, an vui hoàn toàn là ba đức Niết-bàn. Y theo năm tức nói về nghóa thí khắp tu Thập địa, tức Thập Trụ của Viên giáo đất từ sở y mà được tên, lại biệt địa tức Viên trụ. Là ngã từ v.v… trở xuống, là dẫn rồi làm chứng, có hai: Một là chứng tự hành, hai là mãi cùng v.v… trở xuống là chứng hóa tha. Ba cõi là hai thứ ba cõi. 1. Nếu có v.v… trở xuống là nói chung công năng của người và pháp. Hai câu đầu là người tụng trì chú này, tức pháp lìa các điều ác trở đi năm câu ba chữ là nói phá ác có công năng sanh thiện. Ban đầu lìa các điều ác, v.v..là phá ác. Liên hoa hóa sanh, v.v… là sanh thiện. Thai kinh nói hoa sen hóa sanh, chẳng phải hóa sanh của thai, noãn, thấp, hóa. Chẳng phải hóa mà nói hóa, thật chẳng biết hóa sanh trong bốn loài sanh. Tâm tịnh tức ba đức phân hiển không bụi nhơ, tức ba hoặc phân trừ. Là bài kệ ngũ môn khen ngợi, chia hai: Một là khen chung, nói đạo ngang bằng như mặt trời, mặt trăng, phá phiền não mê mờ của chúng sanh như mặt trời, mặt trăng, soi chiếu đêm ngày. Lại nữa, mặt trời dụ cho thật trí, mặt trăng dụ cho quyền trí. Chảy ra v.v… là tướng chung mà tốt riêng, nếu tướng không tốt thì không viên mãn. Luận Vương, Thích phạm cũng có tướng, vì không tốt cho nên tướng không nhiệm mầu. Từ chung có ra riêng vì thế nói chảy ra. Cho nên nương tựa, thân có tướng, nương tướng có tốt, tướng để tiêu biểu đức khiến người kính đức. Do niệm Phật tốt để nghiêm thân, khiến người ưa thích và muốn gần gũi. Núi Tu-di, là nói núi Tô-mê-lô, Hán dịch là Diệu Cao, cũng dịch là An Minh. Xuất ra nước tám mươi bốn ngàn du–thiện-na do bốn báu hợp thành, lìa hai thứ ba đường ác. Ngoại giới tức kiến, tu Vô học. Là tất cả trở xuống là khen riêng. Nay kinh chia làm hai. Là khen ngợi Giáo chủ năng thuyết. Tất cả Phật tức mười phương ba đời. Vì các Đức Phật đều khen ngợi Quán Âm đại bi, hai khen ngợi v.v… trở xuống là khen ngợi người và pháp được nói, nói lên các Đức Phật đều nói kinh này. Bấy giờ v.v… trở xuống là nói chú hộ trì. Chia làm ba: Là ý bài tựa. Là chính thức nói chú. Chú này truy tìm xưa nay phần nhiều là câu từ đều đồng. Cho nên chẳng chép vào. Do hành nhân chẳng tụng để khỏi sửa đổi. Là nói công dụng. Ba, Xá-lợi-phất v.v… trở xuống: Là truyền trao sở nhân, chia làm hai: 1. Thân Tử hỏi, chia làm ba: ban đầu khen ngợi công năng của bốn chú. Như thần chú này chỉ chung cho bốn bài chú. 2.Thế tôn v.v… trở xuống là chánh thỉnh sở nhân. 3.Sử vị v.v… trở xuống là vị lai có ích, Thích-ca v.v… trở xuống là đáp, chia hai: Một, nêu chung sở nhân, nghóa là chung đối với vô lượng Phật sở, nghe nói chú này. Hai, lại niệm v.v… trở xuống là nêu riêng sở nhân, riêng đối với những điều đã nghe từ một Đức Phật. Văn chia làm bốn, ban đầu chỉ cho danh hiệu tốt đẹp, hai, bỉ Phật v.v… trở xuống là nghe Phật nói giáo pháp. Ba, ngã tức v.v… trở xuống là y giáo tu hành, bốn hoặc nhiên v.v… trở xuống là hạnh thành chứng lý. Hoắc nhiên: Pháp sư Ứng nói: là dáng vẻ lẹ làng nhanh chóng. Vô Sanh nhẫn tức Sơ Trụ của Viên giáo. Thủ-lăng-nghiêm. Đại luận quyển mười tám dịch là Kiện Tướng. Đại kinh nói Thủ-lăng-nghiêm là tất cả việc rốt ráo. Nghiêm là bền chắc, tất cả rốt ráo được vững chắc, gọi là Thủ-lăng-nghiêm. Nếu điều lành v.v… trở xuống là khuyên thọ trì được lợi ích. Thọ trì đọc tụng viết chép giải thích, vì tín lực cho nên thọ, niệm lực cho nên trì. Xem văn là đọc, chẳng quên là tụng. Kinh sách của bậc Thánh khó hiểu, phải giải thích giảng nói là nói. Thọ trì thuộc về ý nghiệp, đọc tụng, giải thích thuộc về khẩu nghiệp, viết chép thuộc về thân nghiệp, hai, Phật nói v.v… trở xuống là chúng nghe ngộ đạo. Năm trăm tức Nguyệt Cái v.v… Xá-lợi v.v… trở xuống là vị lai được lợi ích, chia làm hai: Ban đầu Thân tử bạch Phật, hai là Phật bảo v.v… trở xuống là Như-lai ấn khả. Lại nói như vầy là lời nói sâu xa. Nói lời nầy v.v… trở xuống là chúng vui vẻ ra về. <篇> LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH TẬP 142