<經 id="n1797">ĐẠI TỲ-LÔ-GIÁ-NA KINH CÚNG DƯỜNG THỨ ĐỆ PHÁP SỚ HỘI VĂN HÓA GIÁO DỤC LINH SƠN ĐÀI BẮC XUẤT BẢN SỐ 1797 ĐẠI TỲ-LÔ-GIÁ-NA KINH CÚNG DƯỜNG THỨ ĐỆ PHÁP SỚ Thích Bất Khả Tư Nghị vị tăng Chùa Linh Diệu soạn. <卷>QUYỂN THƯỢNG Đảnh lễ Phật Tỳ-lô-giá-na Pháp Duyên khởi thật tướng pháp trí Bậc Thánh Diệu Âm A-xà-lê Rũ ân giúp chứng biển pháp tánh. <詞>PHẨM THỨ NHẤT Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì Kinh cúng dường thứ đệ Pháp chân ngôn hành học xứ thứ nhất. Cách giải thích Kinh nầy chia làm bốn phần: Nói về đại ý. Nói lý do. Giải thích đề mục. Giải thích theo văn. Nói về đại ý: Xét rằng, chân tánh vốn chí lý, xa lìa ngôn ngữ, bặt dứt hìn tướng, ứng cơ thị hiện, không tướng thì chẳng hiển. Cái gọi là tự môn A v.v… nghóa lý nhiệm mầu sáng tỏ. Nay kinh này lý chứa đựng trong lời, ý hoàn toàn ngoài văn, vì thế nhờ thần lực che chở Như Lai hợp với Bí-Ấn và chân ngôn. Do vậy, nếu không thọ học với thầy thì cấm vào môn kia. Chẳng phải người truyền trao bừa bãi, không những thế mà nếu, chưa qua quán đảnh thì bị cấm không được nghe. Nếu người được thấy nghe, đảnh lễ thì diệt trừ tội lỗi nhiều như cát sông Hằng, nếu người nào tu hành đúng như lời Phật dạy thì biển công đức nhóm họp ở trong thân . Nói lý do: Xưa, ở nước Trung Thiên Trúc, nhà vua có bốn người con, khi vua nước ấy sắp băng thì Hoàng Hậu tâu rằng: Tâu Đại Vương! nếu sau khi Đại Vương băng thì người con nào sẽ lên kế vị? Vua liền đáp: Thái tử út có khả năng kế vị. Sau khi vua cha băng, đại thần trăm liêu thảy đều nhóm họp thưa hỏi di chế, Hoàng hậu liền trả lời như lời nhà Vua lúc sắp qua đời. Bấy giờ Vương Hậu và các người anh cùng các đại thần v.v… thỉnh Thái tử út lên kế vị ngôi vua. Người con út đáp rằng: Con có thệ nguyện xuất gia học đạo mong giúp đỡ muôn loài, không thể lên nối ngôi vua. Mẫu Hậu v.v… hai ba lần nói lại di ngôn của vua cha. Thái tử út từ chối như trước, sau ba lần thỉnh bắt buộc Thái tử phải nối ngôi vua, Thái tử út không dám trái lệch. Sau khi lên ngôi vua lại suy nghó: Ta ở nước này không được xuất gia, dì ta làm Hoàng hậu ở nước lân cận nên đến giao gởi chắc sẽ được xuất gia. Nghó đoạn, Thái tử liền tìm cách trốn đến nước kia, đến biên giới , có lính canh giữ (biên giới) hỏi rằng, ông là ai? Thái Tử trả lời: Ta là vua nước Trung Thiên Trúc. Lính giữ biên giới hỏi: nếu là vua sao lại một mình đến đây? Đáp rằng: Ta vốn muốn được xuất gia học đạo, nếu trụ lâu tại nước mình sẽ không được xuất gia, Ta rất muốn xuất gia học đạo. Lính giữ biên giới liền sai sứ giả đem tin về tâu, Vương hậu nghe xong liền sai người đến đón. Thái Tử thấy Vương hậu liền quỳ xuống trình bày chí nguyện. Vương hậu nghe nói thương khóc rơi lệ, lo buồn thương cảm, một hồi lâu mới nói: Con là giòng dõi vua chúa, cháu của vua Tịnh Phạn, cháu họ của Thích-ca Như Lai. Ta nghe Đức Thích-ca bỏ ngôi vua vượt thành nhập đạo mới thành Chánh Giác, thiên hạ khó bỏ, chỉ bỏ ngôi báu. Con giống Đức Thích-ca Như Lai bỏ ngôi vua, phát thệ nguyện rộng lớn, sẽ được thành Phật, từ nay về sau đối với dân chúng, ôm bát khất thực, đạm bạc giữ gìn trai giới, thật đáng thương xót. Nhưng điều mong ước của bậc Đại trượng phu hết lòng thệ nguyện, không biết làm sao. Liền cho xuất gia, thỉnh được pháp sư cao đức trong nước, làm đệ tử xuất gia học hỏi. Thái Tử bẩm tánh thông minh, hễ nghe qua liền lãnh hội tông mầu; hỏi han so sánh biết được trăm ngàn, tuy học không nhiều năm, nhưng thông đạt tất cả. Vì thế vị Pháp sư từ chối rằng, con đã hiểu biết cả rồi không còn gì để giảng nói. Ta nghe nước kia có bậc Hiền Thánh, Đại đức, nên đến đó mà học!. Thái Tử vâng lời dạy, lạy tạ mà lui, đi đến chỗ Hiền Sư, tu học như trước, trải qua hơn năm mươi nước, đến Bắc Thiên Trúc, có một ngôi thành tên Càn-đàn-la, vua nước ấy nương nhờ Hòa-thượng thọ pháp tụng niệm. Kinh ấy văn rộng nghóa sâu không thể tìm pháp cúng dường theo thứ lớp một cách vừa ý, nên xin Hòa thượng chỉ dạy phương pháp cúng dường. Hòa thượng nhận lời, ở bên cạnh ngôi tháp do vua Kim Túc xây dựng, cầu Thánh che chở. Pháp cúng dường này bỗng hiện ra giữa không trung, chữ vàng sáng rực. Hòa-thượng đọc qua một biến ghi chép rõ ràng, ngửa mặt lên hư không nói rằng, ai đã làm ra như thế? Đáp ta đã làm ra. Hỏi: ta là ai? Đáp ta là Văn-thù-sư-lợi, liền bảo người ghi chép ngay, rồi dâng vua kia một bản, tự chép một bản mang theo trên đường đi truyền bá khắp bốn phương. Cái gọi là Tiểu Tử, hiệu của Ngài là HòaThượng Tam Tạng Thiện Vô Úy, tức là Tiểu tăng Bất Khả Tư Nghì nhiều may mắn, trực tiếp thưa hỏi Hòa- thượng pháp yếu được nghe phần văn thì ghi chép lại phần ấy. Giải thích đề mục: Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì Kinh cúng dường thứ đệ pháp chân ngôn hành học xứ phẩm thứ nhất: Đại: nghóa là không bờ mé. Tỳ-lô-giá-na: Tức là mặt trời; có chỗ nói là mặt trời trí tuệ. Thành Phật: là nghóa chứng Chánh giác Chánh trí. Thần biến gia trì: Tức là thần lực che chở. Kinh: nghóa là sâu suốt, khâu kết có công năng giải thích những điều này. Cúng dường: Tức là lý, sự cúng dường. Lý: là hiểu lý nhập chứng, đó gọi là lý cúng dường, về sự: là hết lòng gắng sức sắm sửa hương hoa cúng dường biển Phật, đó gọi là sự cúng dường. Thứ đệ: Là theo thứ lớp trước sau để lễ bái và lui ra. Pháp nghóa là phép tắc. Chân ngôn: để phân biệt với luống dối. Hành học: Là học hiểu được và hành chân ngôn. Xứ: Tức là bốn thứ: 1.Như pháp giới tư tánh; 2.Giáo bản; 3. Truyền Giáo Sư; 4. Diệu sơn phụ phong v.v… Phẩm: là phẩm loại. Thứ nhất: Pháp nầy có năm phẩm, đây là phẩm đầu nên nói thứ nhất. Vì thế nói là: “Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh cúng dường thứ đệ pháp chân ngôn hành học xứ phẩm thứ nhất”. Giải thích theo văn: Trong đây có ba phần: Phần tựa, phần Chánh tông và Lưu thông. Phẩm thứ nhất là Tựa, ba phẩm kế tiếp là Chánh thuyết, một phẩm sau cùng là Lưu thông. Trong phần Tựa, trước tiên có hai bài tụng, là lời tựa quy kính, khuyên kính “tín”, nhưng, sau phần đầu tiên là tựa tinh tấn tu hành. Trong tựa đầu có bốn môn: Hai câu giữa của bài kệ đầu: là môn kính, chủ khen đức; hai câu tiếp theo là môn nương kinh hiển bày; hai câu tiếp đến là môn thành tựu pháp được lợi ích, hai câu kế tiếp là môn khế hiệp bổn kết thúc giảng nói. Tỳ-lô-giá-na, Hán dịch là Nhật (mặt trời); Khai phu tinh nhãn: là mở ngộ lý mầu; Sở tư: là các bản tôn; Chúng nghi quỹ là các ấn chân ngôn…; Vi thành thứ đệ: là lễ bái, lui ra ; Như bỉ: là kính trọng mặt trời trí tuệ; Nay con một câu: là kết ý từ trước đến đây. Trong bài Tựa tinh cần tu hành chia làm sáu môn: Trọn bài kệ đầu là thành tựu tín giải môn; 2. Nửa bài kệ là khuyên tín Tam bảo môn; 3.Hữu tình tín hiểu về sau hai mươi lăm bài kệ là khuyên thực hành Chế giới môn; 4. Một bài kệ nương chính trụ nầy Y chánh giới trọng cấm môn; 5. Một bài kệ diệu chân ngôn môn là giác tâm được Lợi ích môn; 6. Mười bài kệ, “từ muốn” trở xuống là một đời Thành phật môn. Căn cứ vào đoạn thứ nhất: Nhiên sơ tự tha lợi thành tựu: là nêu lên quả đã thành tựu. Phương tiện Vô thượng trí nguyện: là nói về trí năng thành. Thành bỉ: là chỉ quả đã chứng. Phát khởi v.v… là nêu quả bày nhân. Y theo đoạn thứ hai: Hai câu, đối với mãn tất-địa các thắng nguyện v.v… tiêu biểu chung cho hai bảo Phật bảo, Tăng bảo. Một bài kệ đẳng đẳng kia: là giải thích riêng. Chân ngôn hình: Tức là chữ chân ngôn đã trang nghiêm thân kia. phải. Sở trụ chủng chủng ấn oai nghi: nói về ấn và nằm nghiêng hông Sở hành đạo: Tức là như tự tánh pháp giới. Phương Quảng Thừa: là Kinh Đại Nhật. Trên đã nói rõ tin Tam bảo xong. Hỏi: Quy kính Tam bảo trong đây và quy kỉnh Phật bảo trong phần đầu, nghóa ấy như thế nào? Đáp: Phần đầu là hiển bày Bồ-tát Văn-thù tự tôn kính. Trong đây thì nói phép tắc người đời sau tu hành. Hỏi: Văn-thù có tôn kính Tam Bảo không? Đáp: Quy kính. Cái gọi là, ta nương kinh Đại Nhật tức là kính Pháp, không khinh thân mình là kính tăng. Như vậy có thể biết được đồng thể Tam bảo. Y cứ vào đoạn thứ ba: Hữu tình tin hiểu thượng, trung, hạ: tức là chúng sanh trong sáu đường. Nếu đối với đấng Tối thắng v.v… là chỉ cho kinh Đại Nhật ở trước. Điều phục hành giả: là không phạm Tam-muội-da. Biệt luật nghi: Nghóa là kinh Đại Nhật. Cụ duyên chúng chi phần: nghóa là sửa chữa, xây dựng các đạo tràng. Nhất tâm trú: một lòng hướng về Thầy. Tam-muội-da: là nói bổn thệ bình đẳng v.v… Đạo tràng: tức là đàn tràng nhiệm mầu tròn đầy. Giáo bản: là kinh Tỳ-lô-giá-na. Đích thân đến tôn sở: là vị thầy làm quán đảnh. Được Tam-muội-da tốt đẹp, và người đã được truyền thọ pháp quán đảnh có được. Nhiếp chánh chân ngôn bình đẳng hành: nghóa là đối với lý vốn bất sanh,trong tâm yên ổn bất động. Nhập chân ngôn tối thượng thừa nầy: nghóa là người nhập vào thì hiểu. Tối thượng thừa: là lý tự thể mà Tỳ-lô-giá-na đã chứng. Mật hạnh: là hành giả thực hành chân ngôn. Quỹ phạm: tức là A-xà-lê… Các công đức rộng lớn: Quỹ phạm là biển lớn công đức. Biển lớn công đức trụ ở thân kia. Vì sao? Kinh chép: Nếu muốn thấy Phật lễ bái, hoặc muốn cúng dường Phật, lễ bái cúng dường thì người nầy không khác với Phật. Vì sao không khác? Vì năm thứ chân ngôn tâm và ấn… trang nghiêm thân ấy. Khế kinh: là chỉ cho kinh Tỳ-lô-giá-na. Không gì hơn sân: như Kinh Hoa nghiêm có nói rộng. Tịnh tâm Bồ-đề: tức là chân ngôn. Có tâm nhẫn nhục, không nhìn thấy lỗi: là điều khó nhẫn trong pháp nhẫn của thế gian. Chỉ có quên ân đức: cho nên khuyến khích cố gắng nhẫn. Só: là chờ đợi. Cái gọi là đợi thời: Chính là khi muốn tu chân ngôn tam-muội. Bỗng có đàn việt thỉnh giảng nói: tức nói rằng dạy con tu tam- muội, sau đó giảng thuyết, nói cho ông nghe, lúc bây giờ thì không thể. Pháp Thanh bạch thuần tịnh: ở trong lý thể thường có được hằng sa tánh công đức vô lậu và bố thí v.v… các độ môn. Do các thứ rượu: nghóa là rượu nầy là gốc của sự buông lung, nếu uống vào thì tán loạn chánh định. Tăng ngã mạn: là thêm lớn vọng chấp, vọng chấp sâu dày thì tu tập thiền định càng khó. Nay, con v.v… là than lời sơ lược mà nghóa sâu kín. Khiến rộng biết giải sanh quyết định: nghóa là khen ngợi lợi ích học rộng. Từ trước đến đây nói sơ lược về giới, định, tuệ đã xong. Trong đoạn thứ tư: nương chánh trú bình đẳng giới nầy. Chánh trụ bình đẳng giới: là trụ tâm tánh giới, không khởi tâm giữ giới. Trước đã nói về đức, ở đây là nhân cấm phạm. Trong đoạn thứ năm, diệu chân ngôn môn giác tâm, đẳng tương ưng ấy có hai, trước quán bổn tôn, quán bổn tôn thành thục rồi thì tự thân làm bổn tôn, tâm này không tán loạn nói là tương ưng; người trí ngộ vốn bất sanh. Trong đoạn thứ sáu nói về pháp tức chân ngôn. Hai câu: người trí được thầy… là kết thúc phần trước, sanh khởi phần sau. Ba bài kệ rưỡi từ Diệu sơn phụ phong trở xuống: là chỉ chỗ nương của người tu tập. Trong Diệu sơn Phụ phong có bốn chỗ, mỗi chỗ đều có biểu chế. Diệu Sơn: là tên núi Diệu Cao. Phụ phong: là ngọn núi ở trong lòng ngọn núi lớn có thể ở an ổn. Giữa khe núi: Tức là giữa vách đá có hang ở được. Khám: có ba thứ: 1.Khám nhà; 2.Khám đất; 3.Khám đá. Nghóa là giống như cái hang nhưng có an thờ tượng gọi là khám. Quật: là hang đá. Giữa hai núi: là ở những chỗ suối đá trong sạch tu hành an ổn. Kị: là trái ấu, hà là cây sen. Kinh xuyên: là thường chảy nước không cạn. Châu: là chỗ ở giữa nước, có thể ở được. Ngạn: là một bên, nghóa là bên bờ sông, trong sạch có thể ở để tu đạo. Một câu kế: Bây giờ có thể xa lìa chỗ không thích hợp, trong lòng rối loạn không yên tónh, nghóa là bị người, vật làm cho rối loạn ồn ào. Kế là nói chỗ cỏ cây, rừng cây: Phò sơ: là dáng cây cỏ tốt đẹp, chỗ rừng rậm yên lặng có thể ở để tu hành. Nhũ mộc: là cây dâu, cây lúa. Tường thảo: tức là cỏ tranh mầu vàng ở đất nầy. Hai câu kế : nói rõ kia có thể hay không. Kế là nói nơi chùa, tháp: Luyện nhã: có ba: 1. Đạt-ma; 2. Đàn-đà-già; 3.Ma-đăng-già. Đạt-ma: là đạo tràng Bồ-đề. Đàn-đà-già: là cỏ sạch, không dơ bẩn, hôi hám. Ma-đăng-già: là chỗ không ồn ào náo động. Điều trong đây nói: là y cứ theo Ma-đăng-già. Một câu kế là: phân biệt rõ ràng có thể hay không, chủ yếu là việc. Năm dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Các cái triền: là năm cái: Tham sân, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, và tán loạn. Tất-địa: là thành tựu, cũng gọi là thành Bồ-đề. Nói tịnh mạng: là hạnh ưa muốn biết đủ. Tiếng Hồ là Đầu-đa, gồm có mười sáu thứ: Kinh, Luận có chỗ nói, có chỗ không nói cho nên nói mười hai; mười sáu thứ ấy là: y có bốn thứ, ăn có sáu thứ và ở có sáu chỗ. Y có bốn thứ: là mặc y phẩn tảo, mặc áo lông thú, mặc nạp y và chứa ba y. Y phẩn tảo: tức là vải bị lửa cháy vải, trâu nhai vải, chuột gặm vải liệm, người chết… những thứ vải như thế người nước ngoài ném bỏ chỗ hoang vắng hoặc ngõ hẻm, đồng với rác rưởi nên gọi là phẩn tảo, hành giả lượm lấy giặt nhuộm may sửa để cung cấp cho thân thể. Hỏi: Vì sao chỉ thọ y nầy? Có ba phẩm: Phẩm dưới: để nuôi sống mà mua bán các thứ tà mạng mà được y phục. Phẩm giữa: là xa lìa lỗi thọ tăng y và việt thí ở trước. Phẩm trên: không thọ Tăng, việt, chỉ thọ phẩn tảo của đàn việt. Vì sao không thọ Tăng mà thọ y nầy? Tăng pháp phải cùng Tăng sự quyết đoán lý, trừng phạt làm cho khách tăng dứt việc loạn tâm bỏ đạo. Vì sao không thọ đàn việt? Nếu thọ đàn việt vì y mà tìm cầu nhiều thì rơi vào tà mạng, lại sẽ khiến thân sanh đắm trước khó được giải thoát, lại bị nghiêng về chỗ thân không được bèn sơ, chướng ngại sự cảm hóa, lại được nhiều sanh kiêu mạn, được ít thì trách oán. Người vô tri không hiểu ruộng phước nên cúng dường hay không cúng dường, hoặc tự xem thường hổ thẹn mà sanh lo buồn hối hận; lại thường đi thì bỏ đạo, không đi thì oán giận; lại ghen ghét người tốt, gièm chê người lương thiện, không muốn đến gặp họ; nhiều lỗi như thế, cho nên không thọ việt thí y. Vì sao chỉ thọ phẩn tảo? Bởi vì ít việc, thêm lớn đạo nghiệp, lìa lỗi, không tội, cho nên chỉ thọ y ấy. Nói tàm y: là mùa ẩm thấp săn tìm hết lông nhỏ của chim, nếu người tu hành không có y phẩn tảo thì có thể dùng thứ nầy làm y. Nói nạp y: vải rách xấu cũ mục, chấp vá cung cấp thân thể, không mặc áo tốt. Vì sao? Nếu tìm cầu áo đẹp thì sanh phiền não đến nỗi mắc tội, hao tốn công sức, phế bỏ đạo nghiệp; lại nữa, áo đẹp làm cho người chưa đắc đạo sanh tâm tham đắm; lại ở chỗ hoang vắng có rất nhiều cướp bóc, hoặc đến nổi mất mạng. Nói ba y: là y năm điều, y bảy điều, và y lớn (đại y). Những bậc thượng hạnh chỉ thọ ba y nầy, không chứa cất y dư. Vì sao? Vì cư só chứa để nhiều thứ y phục; ngoại đạo tu khổ hạnh lõa thể không biết hổ thẹn. Phật ở Trung đạo xa lìa hai bên, vì thế chỉ cho cất chứa ba y, lại cất nhiều y phí công phế đạo, cất ít thì không xong việc cho nên cất ba y như thế, ba y cung cấp đầy đủ cho thân làm việc. Nếu làm các việc lặt vặt, qua lại thì đắp y năm điều, làm việc lành nên đắp y bảy điều; giáo hóa nhiếp độ người đời khiến họ kính tin phải đắp đại y. Lại nữa, ở chỗ vắng thì đắp y năm điều, khi vào trong Chúng tăng đắp y bảy điều, nếu đi đến những nơi như cung vua, xóm làng thì phải đắp đại y. Lại khi nóng lạnh điều hòa đắp y năm điều, khi trời đông lạnh nên đắp thêm y bảy điều, quá lạnh khẩn cấp thì đắp thêm đại y. Nguyên nhân là vào một lúc mùa đông, đến nửa đêm trời quá lạnh, nên Như Lai trong đêm chia thời gian đầu đêm đắp y năm điều, đến nửa đêm trời chuyển lạnh đắp thêm y bảy điều, vào lúc gần sáng trời lạnh chuyển lạnh đắp thêm đại y; Đức Phật liền nghó: Trong đời tương lai các người thiện nam không chịu nổi các khổ hạnh của lạnh thì có thể dùng ba y nầy đủ để che thân. Vì có nhiều nghóa như vậy, cho nên được chứa ba y. Trong thực có sáu: Đó là 1.Khất thực, 2.Thứ lớp khất thực; 3.Bất thực hành pháp dư thực mà ăn; 4.Nhất tọa thực; 5.Nhất sủy thực, cũng gọi là Tiết lượng thực; 6. Không uống nước trái cây ép sau giờ ngọ. Khất thực: người tu hành có ba hạng: hạ, trung, thượng. Hạng hạ, tuy là xuất gia nhưng buông lung tự nuôi sống bằng cách tà mạng, biết nhiều phép thuật, làm các việc khéo léo tà mạng tự nuôi sống. Hạng trung: lìa bỏ lỗi trước, nhưng thọ tăng thực và đàn việt thỉnh. Hạng thượng: không thọ tăng thực và việt thỉnh thực mà chỉ đi khất thực. Vì sao không thọ Tăng và việt thỉnh? Vì lỗi đồng như trước. Vì sao mà chuyên đi khất thực? Có chỗ nói có hai: 1.Tự mình xem xét việc tu đạo; 2. Vì người khác làm phước lợi cho đời. Thứ lớp khất thực: Thông thường cũng thực hành khất thực, khi khất thực biểu dương sự xa lìa lỗi nghiêng lệch. Nói riêng thì người phàm ngu tham vị mà bỏ nghèo theo giàu. Người Tiểu hạnh lòng từ bi hẹp hòi bỏ giàu theo nghèo. Bậc thượng hạnh thì lìa tham bỏ hẹp hòi, có lòng từ bình đẳng đối với chúng sanh, không phân biệt sang hèn mà theo thứ lớp khất thực bình đẳng. Nói không thực hành pháp thực ăn dư mà ăn: Trong luật nói: Có người tuy theo thứ lớp khất thực, vật xin thường được chánh thực, pháp dư thực thường thường ăn. Người tu hành nghó rằng pháp dư thực nầy, Thế tôn khai ra cho người bệnh, nay ta không bị bệnh không nên thọ, vì thế không làm pháp dư thực. Thông thường thì thuộc về “nhất tọa thực”, do đó trong kinh luận phần nhiều không nói riêng. Trong luật nói riêng: nhất tọa thực kia không phải ở trước ngọ ăn các tiểu thực khác (trước bữa ăn chính còn có bữa ăn điểm tâm). Đây là y cứ xa lìa, thường dùng chánh thực, có sự khác nhau nầy, cho nên nói riêng. Nhất tọa thực: Có người tuy không phải thường thường ăn, nhưng trước giờ ngọ thường ăn các thứ như bánh, trái cây, cháo v.v… người hành đạo nên nghó rằng, người ngu nuôi thân thường thọ (thức ăn) để nuôi thân nên phiền não thêm lớn, nay ta vì đạo không phải vì nuôi thân, là phá phiền não không phải để kết thêm, cho nên chỉ thọ ăn một bữa, lại nghó vì cầu ăn một bữa đã là chướng đạo, huống gì cầu ăn nhiều, vì thế chỉ thọ nhất thực, lại quán xét ăn cơm của thí chủ tín tâm cúng dường, ăn một bữa còn không thể tiêu, huống gì ăn nhiều bữa, do đó chỉ thọ một bữa. Nhất sủy thực: Trong kinh cũng gọi là Tiết lượng thực: Chỉ thọ nhất thực thôi gọi là Nhất sủy thực; tiết kiệm ăn ít gọi là Tiết lượng thực, huống gì người trong sáng. Có người tuy thọ pháp Nhất thực, trong bữa ăn tha hồ ăn no, bụng đầy hơi trướng, ngủ nghó cho nhiều, nửa ngày không tiêu, ngăn tu đạo pháp, cho nên phải tiết lượng (giảm bớt). Ăn nhiều lại thêm nhiều phiền não, khó khuất phục được, vì thế phải tiết lượng. Lại nữa, hành giả vì cầu pháp thân, bỏ dần thân do ăn uống, do đó phải tiết lượng. Tiết lượng đến bao nhiêu? Hễ mình nhận ba phần, thì dành lại một phần bố thí cho chim, thú, còn lại thì mình ăn, để được chút ít lợi ích. Có chỗ nói sau giờ ngọ không uống nước trái cây, có người tuy giảm bớt lượng ăn uống nhưng còn tham vị, sau giờ ngọ uống các thứ nước như: nước trái cây, nước đường, nước đường phèn v.v… Vì cầu nhiều nước đến nỗi tà mạng uổng công phế đạo, do đó không uống, lại quán xét nạn buông lung của tâm nầy, như ngựa không ghìm dây cương, ăn cỏ hai bên không thể chạy nhanh, nếu dùng hàm sắt và dây cương thì mới có thể nhanh chóng theo ý của người mà đi, vì thế không uống. Chỗ ở đúng thì có sáu: Ở chỗ A-lan-nhã. Ở trũng gian (ở chỗ gò mả). Ở dưới gốc cây. Ở chỗ đất trống. Thường ngồi. Ngồi ở bất cứ chỗ nào. A-lan-nhã: Hán dịch là không nhàn xứ. Như Tạp Tâm chép: một cung có bốn khuỷu tay, cách thôn xóm năm trăm cung gọi là một Cu- lô-xá, phần nửa gọi là chỗ A-lan-nhã, tính chừng ba dặm, người tu hạnh đầu-đà ở gần nhất là chừng ấy, nếu được xa càng tốt. Vì sao ở đây? Hành giả khởi niệm: Xưa ta ở nhà trói buộc với cha mẹ, bà con, nay đã xuất gia thì phải dứt bỏ, nếu trở lại thầy, trò, bạn đồng học, người tri thức kết trước, thì không khác thế tục, vì thế nên phải dứt bỏ mà ở chỗ Lan-nhã (vắng lặng), lại làng xóm thì nam nữ lẫn lộn, nhiễm đời càng nhiều, không nên ở trong đó, lại ở gần làng xóm âm thanh ồn ào chướng ngại ý tu định. Nói trũng gian: Trũng gian (gò mả) có nhiều thây chết, thối nát, sình lên, hôi thối, thấy hôi thối dễ nhập vào pháp quán Bất - tịnh, lại gò mả thây chết hư hoại, do thú ăn, lửa đốt, chia lìa tiêu mất, thấy thì dễ nhập vào pháp quán vô thường;, lại nữa, ở gò mả xương người chết tan tác nhiều nơi, thấy rồi dễ nhập vào quán không, vô ngã, vì thế mà ở gò mả. Nói dưới gốc cây: Trước ở gò mả quán sát thây chết đắc đạo rồi, cho nên bỏ gò mả mà đi đến dưới gốc cây; lại trước ở gò mả nhiếp lấy tướng thây chết, nhưng chỗ kia có nhiều người khóc lóc v.v… Các tiếng làm chướng ngại việc tu tập chỉ - quán, vì thế đến dưới gốc cây buộc niệm tư duy quán sát; lại bóng cây che mát đồng với nửa căn nhà, an thân tu đạo, do đó ở dưới gốc cây, các Phật, Thánh, Hiền đắc đạo chứng quả phần nhiều đều nương dưới gốc cây, cho nên ở dưới gốc cây. Ngồi chỗ đất trống: dưới bóng cây ẩm thấp ngồi lâu gây ra bệnh, vì thế đến chỗ đất trống, lại dưới cây có nhiều tiếng chim sẻ, ồn ào làm trở ngại ý tu “định”, do đó ở chỗ đất trống, lại hành giả ở lâu dưới cây sanh tâm đắm trước cây đó, hoặc lại phân biệt đây tốt kia xấu, để trừ tai hại ấy cho nên phải bỏ cây mà đến chỗ đất trống, hiển hiện ra rõ ràng nên gọi là vô ngại; lại ánh trăng ở chỗ đất trống soi chiếu tâm tưởng trong suốt, dễ nhập định, do đó ở chỗ đất trống. Thường ngồi: Trong bốn oai nghi, đi và đứng thì rất khổ, nằm thì quá vui, ngồi, có thể chịu được dài lâu, cho nên phải thường ngồi, lại đi, đứng tâm bị xao động khó có thể nhiếp giữ, nằm thì mê man trong sự ngủ nghỉ, ngồi tránh được mê man xao động, vì thế phải thường ngồi, lại người cầu đạo, việc lớn chưa xong, các giặc phiền não thường rình rập chờ lúc người buông lung, do vậy không nên nằm mà phải thường ngồi, lại nữa, ngồi nhiều thức ăn dễ tiêu hóa, hơi thở điều hòa, do đó phải thường ngồi. Ngồi ở bất cứ chỗ nào: hễ chỗ nào có cỏ được thuận tiện thì ngồi, nên gọi là ngồi bất cứ ở chỗ nào. Theo cách chia chi tiết thì có mười sáu thứ nầy. Kinh, luận căn cứ vào sự ẩn, hiện mà phối hợp, nói có mười hai, nương vào Luật tứ phần: Y thì có hai, Ăn có bốn, Ở có sáu, hiệp lại thành mười hai. Y được có hai: 1.Đắp y vá; 2.Đắp ba y, ngoài ra đều không nói. - Ăn được có bốn: Khất thực. Bất làm pháp dư thực mà ăn. Ngồi ăn trong một oai nghi. Nhất sủy thực. Thứ lớp khất thực đã thuộc về khất thực, cái gọi là sau giờ ngọ không uống nước (trái cây) đã thuộc về Nhất tọa thực, cho nên không nói riêng. Ở có sáu, đồng như trên đã nói. Theo Kinh Thập nhị: y có ba, ăn có ba, ở có sáu, hiệp lại thành mười hai. Y có ba: Đắp y Phấn tảo. Đắp y Bông tơ (lông thú). Đắp ba y; các thứ khác đều không nói. Ăn có ba: đó là Khất thực, Nhất tọa thực, Nhất sủy thực, ngoài ra không nói, thứ lớp khất thực thuộc về khất thực, bất làm pháp dư thực mà ăn và sau giờ ngọ không uống nước trái cây ép thuộc về nhất tọa thực. Ở có sáu chỗ, giống như trên. Trong luận Đại trí độ nói mười hai, lại khác với trước: y có hai là: Đắp nạp y và đắp ba y, giống nhau với Tứ phần luật, ăn có năm: Khất thực. Thứ lớp khất thực. Ngồi ăn trong một oai nghi. Tiết lượng thực. Sau giữa ngày không uống nước trái cây ép. Không làm phép dư thực thuộc về nhất tọa thực, không có lập riêng. Trong chỗ ở có năm, trừ ngồi bất cứ chỗ nào, các thứ khác như trên. Nếu y theo như trên đã nói mà tu hành thì gọi là “Tịnh mạng nhân” (người nuôi mạng sống thanh tịnh). Hoặc, tuy là y theo như trên đã nói như thế, nhưng cầu danh lợi cũng gọi là người bất tịnh hạnh, cũng là người sống bằng tà mạng, cũng là tên giặc nguy hiểm trong Phật pháp, vì thế kinh nói: Các loài quỷ thấy người nầy thì quét sạch dấu chân của người nầy. Chính là nghóa ấy. Nói về hạnh Tịnh mạng đã xong. Dưới đây nói tà mạng bất tịnh hạnh. Tà mạng có bốn thứ: Phương khẩu thực. Ngưỡng khẩu thực. Di khẩu thực. Hạ khẩu thực. Luận Thập trụ thứ hai chép: Tà mạng có năm pháp: Kiểu dị. Tự thân. Kích động. Ngưỡng dương. Nhân lợi cầu lợi. Kiểu dị: là có người tham cầu lợi dưỡng, nên làm ra vẻ A-luyện- nhã, hoặc mặc áo vá, hoặc thường khất thực, hoặc nhất tọa thực, hoặc thường ngồi, hoặc sau giờ ngọ không uống nước trái cây ép, thọ những hạnh đầu-đà như vậy, chỉ cần khởi niệm ấy, người tu hạnh ấy được cung kính cúng dường, ta tu hạnh ấy có lẽ cũng được như vậy. Vì lợi dưỡng cho nên thay đổi oai nghi, gọi là “kiểu dị”. Tự thân: có người tham lợi dưỡng đến nhà đàn việt nói rằng: Tôi cũng như cha mẹ, anh em, chị em, bà con của quý vị không khác, nếu có cần việc gì tôi sẽ giúp cho, nếu có làm gì ta sẽ làm, tôi không kể xa gần sẽ đến thăm hỏi, tôi đây chính là vì giúp cho mà thôi, vì cầu cúng dường tham đắm đàn việt, hay dùng lời nói để lấy lòng người, những việc như thế gọi là “tự thân”. Kích động: Có người không nghó đến sự mắc tội, mưu cầu tham lợi, muốn được tài vật, làm bộ khen nói: bát nầy đẹp, hoặc y đẹp, hoặc móc cửa đẹp, hoặc đồ ngồi đẹp, nếu tôi được thì sẽ thọ dụng. Lại nói, tùy ý cúng dường người nầy khó được, lại đến nhà đàn việt nói rằng: nhà ông cơm canh, bánh trái đầy đủ thơm ngon, y phục lại đẹp, thường cúng dường tôi, tôi là bà con thân cũ, chắc chắn sẽ được cho, hiện bày tướng tham như thế gọi là kích động. Ức dương: Có người tham lợi dưỡng cho nên nói với đàn việt rằng, ông quá keo lẫn, đối với cha, mẹ, anh, em, chị em, vợ, con, giòng họ còn không thể cho, thì cho ai được? Đàn việt hổ thẹn cố gắng gượng thí cho; lại đến nhà khác nói rằng, ông có phước đức được làm thân người không nghèo đói, bậc A-la-hán thường vào ra nhà ông, ông cùng vị ấy chuyện trò tới lui. Đàn việt nghó rằng, đâu còn người nào ra vào nhà ta, sẽ nói rằng “chính ta”, ấy gọi là ngưỡng dương. Nhân lợi cầu lợi: Có người vì tiền của vật chất sinh sống như y, hoặc bát, đại y, hoặc đồ ngồi v.v… bèn đến nói với người rằng, hoặc vua, cùng hàng với vua và các quý nhân cho tôi vật ấy, nghó rằng, đàn việt có thể sinh tâm là các vua, quý nhân kia, còn cúng dường, huống gì ta lại không cúng dường, người kia nhân vì lợi nầy lại xin lợi khác, do đó gọi là nhân lợi cầu lợi. Nếu thuận theo các Đức Phật, Bồ-tát thực hạnh. Người tu hành đem tâm bày tỏ với Phật, đem thân tâm nầy hướng về người, súc sanh, lại xoay về bức vách như mặt người, không tạo điều ác Phật vui mừng, vì thế nói thuận theo hạnh quả Phật, Bồ-tát. Đối vơi lời nói chân chánh thí tin hiểu vững chắc: nghóa là chân ngôn nầy biết từ pháp giới thanh tịnh lưu xuất, dùng năng lực trí tuệ vững chắc như Kim cương không lay động để tin hiểu. Có năng lực trí tuệ thanh tịnh, có khả năng chịu đựng: Biết thân tâm nầy do vọng tưởng khởi, vọng tưởng dừng nghỉ như tám thứ gió giữa bầu trời, thổi qua không lay động cho nên nói năng lực trí tuệ có khả năng chịu đựng. Tinh tấn, không cầu các thế gian: là xả bỏ danh lợi giống như đàm dãi, tâm không nhìn lui như thây thối, thẳng cầu Thập địa như cứu lửa cháy đầu, vì thế nói tinh tấn không tìm cầu thế gian. Thường vui vững chắc không yếu hèn: tinh tấn mạnh mẽ như Kim cương, thuận theo mà không thua như sư tử, đó là vững chắc không yếu hèn. Hiện pháp tự tha được thành tựu: Thấy người được lợi như mình được, nếu thấy thân mình được lợi nhất định cho người, vì thế nói mình và người đều được thành tựu. Không theo các trời khác, nương vô úy: Tâm trú ở “Bổn tôn”, nghe khen ngợi các vị trời mà không lay động, chỉ thẳng tiến tu, do đó nói không theo các trời khác chỉ nương bậc Vô - úy. Đầy đủ những điều nầy gọi là bạn lành giúp đỡ: Tất cả điều lành thế gian xuất thế gian, phàm Thánh trông thấy đều vui mừng, cho nên nói đầy đủ những điều nầy gọi là bạn lành giúp đỡ. ------------------------- <詞>PHẨM THỨ HAI TĂNG ÍCH THỦ HỘ THANH TỊNH HẠNH Muốn giải thích phẩm này chia làm bốn phần: Giải thích tên gọi: tùy: theo tu tánh lý hạnh thanh tịnh, giữ giới giữ thân gọi là thủ hộ, tu ắt đắc quả gọi là tăng ích. Nguyên nhân có phẩm nầy: Phẩm trước đã nói giới thanh tịnh, phẩm nầy nói giúp đỡ người đã nói, cho nên có phẩm thứ hai nầy. Tông thú: Người tu hành nương nhờ pháp lực, lấy dụng phẩm nầy làm Tông, đem thân bất hoại trú ở tâm Phật, tự ngộ, giúp người giác ngộ, là ý thú của phẩm nầy. Nhiếp văn: phẩm nầy đại khái chia làm hai: Một bài kệ rưỡi đầu là tựa chung của phẩm, nửa bài kệ thứ hai trở xuống là giải thích riêng. Hai câu đầu trong tựa chung là kết thúc trước sanh khởi sau. Mỗi ngày trước trụ trong niệm tuệ: Mỗi ngày: thọ pháp ngay ngày đầu tiên tu tập cho đến thành Phật, trong khoảng thời gian đó ba thời không thiếu, gọi là mỗi ngày. Niệm tuệ: là nhớ nghó trí tuệ của thầy. Nương pháp ngủ nghỉ: nằm nghiêng hông bên phải, tay phải làm gối, tay trái duỗi dài đặt sát trên đùi vế, đó là đúng pháp. Lúc Sơ khởi: Đêm thọ pháp tức là pháp lúc gần sáng khi mặt trời xuất hiện. Làm chướng: tức là trôi lăn trong sanh tử, ba độc phiền não là gốc. Ngộ được ba độc phiền não vốn bất sanh, tức là trừ chướng. Đêm ấy: là đêm dài sanh tử trước khi thọ pháp. Tội do buông lung sanh ra: nghóa là căn, trần hòa hiệp sanh ra tội lỗi. Ân cần: y theo pháp niệm tụng gấp như cứu lửa cháy đầu. Tịch căn: là ngộ “Căn” vốn không sinh khởi. Có tâm từ bi lợi ích: Trí tuệ phân biệt với Tiểu thừa yếu kém, nói lên tâm đại bi mạnh mẽ. Thệ độ: Cõi chúng sanh chưa hết, nguyện ta không dừng nghỉ. Đúng như pháp tắm gội: Tắm bên ngoài nhất định dùng nước thơm, nóng. Hoặc không tắm gội: Tắm bên trong (tâm) đạt được pháp không có thân để tắm gội. Giải thích riêng: Trong phần giải thích riêng có mười lăm chân ngôn, tức là mười lăm môn. Mỗi môn đều có kệ tụng chân ngôn. Y cứ theo bài tụng thì: Chỗ trai thất vắng lặng: là ở chỗ diệu cao, phụ phong v.v… mà tạo lập đàn, tụng niệm thành tựu nhà Tất-địa. Rãi hoa đẹp… Hễ vật dâng cúng thì tùy theo tánh loại của chư tôn và vị mạn-đồ-la v.v… mỗi mỗi khéo phân biệt, phải khiến sắc, hương, vị, xúc thích hợp vui vẻ tâm người, đối với ba mầu trắng, vàng, đỏ thì Như Lai và những vị hầu cận (bộ loại) nên dùng mầu trắng, quyến thuộc liên hoa dùng mầu vàng, quyến thuộc Kim cương dùng màu đỏ. Lại nữa, đúng như phương hướng và vị trí của Mạn-đồ-la, đàn tròn thì dùng mầu trắng, đàn vuông dùng mầu vàng, đàn tam giác dùng mầu đỏ, các vị thế thiên dùng mầu đỏ. Bát-đầu-ma: là hoa sen hồng, xanh, vàng, trắng v.v… hoa sen mọc từ nước đều có thể dâng cúng chung các Tôn vị. Hoa Long Thọ: Thế tôn Di-lặc thành Phật dưới gốc cây nầy. Hoa Long thọ nói thẳng là Long hoa: là hoa được ưa chuộng trong loài rồng, ở Tây phương có nhiều loại hoa ấy. Kế-tát-la Hoa, Sa-la Thọ Hoa đều có ở Thiên Trúc, ở Trung Quốc không có, chỉ khiến lòng người ưa thích, thế gian cho là điềm tốt lành, đều được cúng dường, phải mỗi khéo phân biệt, lựa chọn gom lại để xỏ thành tràng lẫn lộn trang nghiêm, hoặc nối hoặc kết, vì tâm hành giả trong sáng thuần hậu nên khiến Chư - Tôn vui mừng, che chở. - Tùy đặt: là trước đã tạo lập nơi làm lễ (đàn tràng). - Điển: là Kinh Đại Nhật. Phải y vào phương hướng của Bản tôn: 1.Nói: trước là phương hướng của Bản tôn trong nhà Niệm tụng; 2. Nói: thế giới mười phương tùy theo căn cơ mà hiển bày phương; hướng như phương Đông Đức Phật Dược sư, phương Tây Đức Phật A-di-đà, núi Thanh Lương Bồ-tát Văn- Thù v.v… cũng được. - Nhất tâm trụ: Buộc tâm thì mắt Bổn - Tôn không tạm bỏ v.v… - Năm luận: tức là năm chi trong thân. - Quy mạng: chúng sanh đã trọng thân mạng như là vật rất quý báu, đem kho báu nầy dâng cúng Tam Bảo, dùng chân ngôn, ấn v.v… - Thân, miệng, ý thanh tịnh nghiệp: xả bỏ thân mạng, trở về Tôn vị, gọi là tịnh nghiệp. - Trong chân ngôn làm lễ phương tiện: Do đây mà làm lễ đấng chân thật ngôn. Chân ngôn: tức là trí thật tướng, chư tôn dùng trí thật tướng làm thân, tâm, dùng trí thật tướng tụng chân ngôn, liền đến khắp trí thật tướng của “Tôn vị”, trí thật tướng của Tôn vị trong một lúc đến thọ lễ chân ngôn, do đó nói liền có thể lễ khắp các Đức Phật trong mười phương. Một, gối phải chấm đất trở xuống: là phương tiện xuất tội chân ngôn môn. Hai, tụng chân ngôn giống như trước, trí thật tướng tự vô tội, nếu chấp có tội, trí nầy có thể giúp hiểu được không tội, vì thế nói là xuất tội. Ba, Nam-mô thập phương tam thế Phật trở xuống, là phương tiện quy y chân ngôn môn, chân ngôn nầy ngoài trí không vọng, chỗ không vọng bên ngoài tức là chân ngôn, tự thân nếu tụng chân ngôn nầy thì ngộ tự chân, cho nên nói quy y, cũng có tụng chân ngôn. Trong tụng thì: Nam-mô: là độ con, cũng dịch là lễ kỉnh. Ba thứ thường thân: Tức là ba thân: như pháp thân v.v… ngộ sanh tử vốn bất sanh, cho nên nói là “Thường thân”. Chánh pháp tạng: Chánh là để phân biệt với tà. Pháp: là phép tắc Tạng: là chứa đựng công đức nhiều như cát sông Hằng. Bốn, ta thanh tịnh thân nầy, lìa các cấu trở xuống là thí thân phương tiện chân ngôn môn, cũng có tụng chân ngôn, vì ngoài chân thân không có thân riêng, các Đức Như Lai trong ba đời cũng đồng thể, chúng sanh vọng chấp có thân riêng. Chân ngôn môn nầy có thể giúp hiểu thân, ta và thân Phật bình đẳng không khác nhau, do đó nói thí thân. Năm, của báu thắng nguyện tâm Bồ-đề thanh tịnh trở xuống là phát tâm Bồ-đề phương tiện chân ngôn môn, có thực hành tụng trì chân ngôn lâu dài, thân ta và thân Phật đã không khác, trí Bồ-đề Phật đồng với trí ta, chân ngôn ấy giúp ngộ pháp nầy, có thể giúp hiểu biết nên nói là phát Bồ-đề. Tăng gia: là có thể hiển bày thêm nghóa chân ngôn. Tâm Bồ đề: là tự tánh thanh tịnh tự giác. Tâm: là nghóa trung thực, cho nên nói lìa tất cả v.v… Uẩn: là năm uẩn. Giới: là mười tám giới Xứ: là mười hai xứ. Năng chấp: là tâm luống dối Sở chấp: là cảnh luống dối. Lìa bỏ Pháp vô ngã hữu: là lìa cảnh luống dối. Tự tâm bình đẳng: là không vọng tưởng; lại tự tâm: là tự tâm vọng tưởng; Bình đẳng: là tự tâm vọng tưởng vốn bất sanh, do đó nói năng chấp, sở chấp cho đến xưa nay bất sanh. Như đại không: là trong vầng mặt trời trí tuệ vó đại không phát sinh sanh, tử, ngày đêm khác nhau. Tự tánh: mặt trời trí tuệ tức là thân, ôm vọng không sanh khiến đồng với chân tánh, nên nói là “Như”. Tăng thêm câu nầy là người dịch khen ngợi bản “Phạn”, nếu tụng được bản Phạn là bậc nhất, nương vào văn Hán hiểu được ý đọc tụng cũng được. Đạo tràng: là chỗ vắng lặng. Thứ sáu: trong vô lượng thế giới ở thập phương trở xuống là vui theo phương tiện chân ngôn môn, cũng có tụng chân ngôn, trí như thật tự không có ganh ghét, trí tự không ganh ghét khiến không có tức giận, chí thành niệm tụng chân trí nầy khiến cho trí không khác chân thật, do đó gọi là pháp phương tiện tùy hỷ. Thứ bảy: nay con khuyến thỉnh các Như Lai trở xuống là khuyến thỉnh phương tiện Chân ngôn môn, tụng chân ngôn đồng như trước, chân trí đại bi thường lợi ích chúng sanh, lợi ích chúng sanh cho nên dần dần mưa pháp, chí thành tụng niệm chân ngôn nầy khiến thỉnh pháp tồn tại ở đời lâu dài, do đó gọi là khuyến thỉnh. Thứ tám: nguyện khiến cho nơi phàm phu nương ở trở xuống: là thỉnh pháp thân phương tiện chân ngôn môn, tụng chân ngôn giống như trước, pháp thân thường trụ trong bổn chân, vì thường trụ khiến cho đến pháp thân, tụng chân ngôn nầy là trực tiếp phụng thỉnh, vì thế nói pháp phương tiện phụng thỉnh. Thứ chín: tu hành tất cả các nghiệp lành trở xuống: là hồi hướng phương tiện chân ngôn môn. Tụng chân ngôn giống như trước, ngoài bản giác chân trí không lìa mất, vì không lìa mất do đó cùng hồi hướng, siêng năng, khổ nhọc tụng niệm chân ngôn môn nầy, pháp trở về chân bản gọi là hồi hướng. Thứ mười: lại làm các việc phước khác trở xuống là nhập Phật Tam-muội-da Minh môn, là thân sanh ra pháp, trong đây có tụng ấn, chân ngôn. Pháp khác: Tức là ngoài niệm tụng chân ngôn. Khắp thanh tịnh: Bất tịnh trong ba nghiệp của mình khiến không sanh. Thương xót cứu giúp: Bất tịnh từ trong ba nghiệp khiến bất sanh. Tâm tánh: là như bản tánh của tâm tự thanh tịnh. Thân tùy sở ứng: mặt hướng về bản Tôn; lại ở trong ba bộ, năm bộ lấy “Tôn vị” nào là Bổn tôn của ta. Để ngồi yên: tức là đỉnh đầu, mũi, đùi vế đều ngay thẳng, ngồi kết già và bán già v.v… Tịnh trừ ba nghiệp đạo: ba nghiệp bất sanh bất tịnh tức là Đạo. Ấn: chân ngôn là chỗ nương dựa của thân. Hỏi: Thân, trí vì sao nói khác? Đáp: Thân là chỗ nương của các công đức; Trí là nghóa chiếu sáng; nhưng, nói về Dụng thì khác mà nói về Thể thì một. Kinh nhập Phật Tam-muội-da trì minh chép: lúc bấy giờ, Bạc- già phạm trụ trong pháp giới rộng lớn gia trì, ngay lúc ấy, trú pháp giới thai tạng Tam-muội. Xuất định nầy nói nhập Phật Tam-muội-da trì minh: Tiếng Phạn Tỳ-phú-la, là nghóa rộng lớn, nghóa là sâu rộng không bờ mé, không thể suy lường, tự thể các pháp như thế gọi là Tỳ-phú-la pháp giới, đem pháp giới nầy thay nhau gia trì, nên gọi là pháp giới gia trì. Lại nữa, như nhân duyên nam nữ giao hội, hạt giống gá vào thai tạng mà không hư hoại tức là nghóa gia trì lẫn nhau, các Đức Phật cũng giống như thế, quốc vương Minh Phi làm phu nhân, hòa hiệp cùng sanh chủng tử Tỳ- phú-la, làm chỗ giữ gìn thai tạng đại bi không bị hư hoại, do đó gọi là pháp giới gia trì, Thế Tôn gia trì khắp tất cả chúng sanh, đều làm hạt giống bình đẳng xong, tức thời nhập vào Biến pháp giới thai tạng Tam- muội. Quán mỗi hạt giống nầy, đều là Tỳ-lô-giá-na trên đài hoa sen, quyến thuộc Phổ môn trang nghiêm vô tận cũng cùng đại bi mạn-đồ-la bình đẳng không có khác nhau, nhưng các chúng sanh chưa thể tự chứng biết, cho nên gọi là Thánh thai Câu-xá, nếu khi ra khỏi tạng tức là giải thoát của Như Lai. Như Lai quán sát rõ ràng như thế rồi, liền xuất định nói “Tam-muội da trì minh”. Tam-muội-da: là nghóa bình đẳng, là nghóa bản thệ, là nghóa trừ chướng, là nghóa cảnh giác. Nói bình đẳng: nghóa là khi Như Lai hiện chứng Tam-muội nầy, thấy các thứ thân, ngữ, ý của tất cả chúng sanh, thảy đều cùng giống với Như Lai. Thiền định, trí tuệ và thân thật tướng cũng rốt ráo bình đẳng, khi mới phát tâm và khi Thập địa Ba-la-mật đầy đủ cũng rốt ráo ngang nhau, vì thế phát ra lời thành thật để chỉ dạy chúng sanh, như lời ta đã nói nhất định không luống đối, cũng là khi tất cả chúng sanh phát lời thành thật nầy, cũng trông mong Tam mật gia trì, vô tận trang nghiêm bình đẳng với Như Lai, do nhân duyên ấy cho nên có thể làm sự nghiệp Kim cương (bền chắc), vì thế gọi là Tam-muội-da. Nói Bổn thệ: khi Như Lai hiện chứng Tam-muội-da nầy, thấy tất cả chúng sanh đều có nghóa thành Phật, cho nên liền lập thệ nguyện rộng lớn, nay ta phải y theo Phổ môn, dùng vô lượng phương tiện, giúp tất cả chúng sanh đều đến “Vô thượng Bồ-đề”, khi nào chúng sanh các cõi chưa hết thì sự nghiệp của ta không bao giờ dừng nghỉ, nếu có chúng sanh theo bổn nguyện ta khi phát ra lời thành thật như vậy, cũng giúp sự nghiệp của kia đã làm thảy đều thành Kim cương tánh, cho nên nói là Tam-muội-da. Nói trừ chướng: Như Lai thấy tất cả chúng sanh đều có pháp giới Như Lai, chỉ vì một niệm vô minh, thường ở trước mắt mà không thấy biết, do đó phát lời thành thật, nay ta phải đặt ra các thứ phương tiện, khéo vì tất cả chúng sanh vẹt tan màng mắt. Nếu thệ nguyện của ta chắc chắn thành tựu thì khiến chúng sanh tu theo phương tiện của ta. Lúc nói lời thành thật nầy, chúng sanh chỉ trong một đời được đôi mắt sáng suốt, “chướng”, “cái” đều hết sạch, do đó gọi là Tam-muội-da. Nói nghóa cảnh giác: Như Lai vì tất cả chúng sanh đều ngủ trong vô minh, đối với công đức như thế không tự giác biết, cho nên dùng lời thành thật để cảm động giúp họ tỉnh ngộ, cũng dùng lời thành thật nầy cảnh giác các hàng Bồ-tát v.v… khiến khởi sâu hang thiền định, học Sư tử nhiều lần co duỗi, nếu có hành giã chân ngôn nói Tam-muội-da nầy thì các Đức Phật chúng ta cũng sẽ ghi nhớ bản thệ, không được trái vượt, giống như quốc vương tự chế pháp rồi, trở lại tự mình tôn kính làm theo, do đó gọi là Tam-muội-da. Trì minh: Tiếng Phạn là Đà-la-ni. Minh nghóa là tổng trì tất cả hạnh Minh môn, cho đến hết Tam-muội-da nầy thệ nguyện đến nay không bao giờ rơi mất, vì thế gọi là “Nhập Phật Tam-muội-da trì minh”. Câu đầu là quy mạng tất cả các Đức Phật, như trên đã giải thích. Câu kế tiếp là nói Vô đẳng Câu tiếp theo nói Tam đẳng Câu tiếp theo sau nói: Tức là Vô đẳng, tam bình đẳng, Tam- muội-da. Lại nữa, “A” là nghóa các pháp vốn bất sanh, tức là thể tánh pháp giới. “Bà” là nghóa chắc thật. “Mê” là nghóa Tam-muội. “Ma” là nghóa tự chứng đại không cũng là ngã. Khi Đức Thế tôn chứng Tam- muội nầy, quán sát kỹ mạn-đồ-la Phổ môn trong tâm mỗi chúng sanh, đều bình đẳng như ta, cho nên càng không đối đãi, không thể ví dụ gọi là “Vô đẳng”. Tam đẳng là ba đời bình đẳng, ba nhân bình đẳng, ba nghiệp đạo bình đẳng, ba thừa bình đẳng, tức là chuyển giải thích câu trước, vì thế ý là “vô đẳng”. Đán-lý nghóa là tâm như thật tướng tất cả bụi trần xưa nay bất sanh, các Đức Như Lai trong ba đời dùng các phương tiện thảy đều vì một việc nhân duyên lớn nầy, tức là nghóa trừ chướng. Kết thúc nói Tam-muội-da: tức là Như Lai nhất định giảng nói nghóa các pháp bình đẳng, cho nên lập thệ nguyện rộng lớn, sẽ giúp cho tất cả được như ta (Như Lai), vì thế muốn khắp vì chúng sanh mở bày tri kiến Phật, cho nên dùng Tam-muội nầy để cảnh tỉnh chúng sanh và các Đức Phật, do đó Tam-muội-da nầy gọi là thệ, giới bền chắc của tất cả Như Lai. Nếu trước không niệm trì: thì không được làm tất cả pháp sự chân ngôn. Thế tôn dùng bánh xe thân, ngữ, tâm trùm khắp tất cả cõi Phật để nói Tam-muội-da nầy rồi, tất cả các chúng Phật tử thảy đều nghe, đã nghe như thế rồi, đối với tất cả pháp chân ngôn không dám trái vượt; vì sao? Vì nếu Bồ-tát đối với các pháp chúng sanh có các kiến chấp không bình đẳng thì vượt pháp Tam-muội-da. Nếu đối với thệ bình đẳng nầy mà có các tâm giới hạn, cũng vượt pháp Tam-muội-da, có làm việc gì đều thuận theo danh lợi thế gian, không vì việc nhân duyên lớn, cũng vượt pháp Tam-muội-da, buông lung biếng nhác không cảnh ngộ tâm cũng vượt pháp tam-muội-da. Do vượt pháp Tam-muội-da, nên sanh ra các thứ chướng, mình và người đều tổn hại, không có nghóa lợi, vì thế các hàng Bồ-tát vâng giữ Tam-muội-da nầy, như giữ thân mạng không dám trái vượt. Làm thanh tịnh Như Lai địa: là niệm tụng chân ngôn và bắt ấn liền dứt trừ được phiền não chướng và sở tri chướng. Địa Ba-la-mật mãn: là dứt sạch các chướng, đều vì xuất hiện công đức Phật địa. Thành tam pháp đạo giới: Tức là Ấn, chân ngôn và Ý mật. Giới đạo: Tức là quả. Hiệp lại mà nói thì thành quả của ba pháp. Thứ mười một: kết pháp giới sanh trở xuống: là pháp giới sanh chân ngôn môn: là nuôi dưỡng pháp thân, trong đây có bài, tụng ấn chân ngôn. Kinh chép: Bạc-già-phạm lại nói pháp giới sanh chân ngôn: là trước khi Thế tôn nhập pháp giới thai tạng Tam-muội thì thấy tất cả chúng sanh đều có hạt giống Bồ-đề như các Đức Phật, vì thế nói “Nhập Phật Tam-muội-da trì minh”. Nhờ “trì minh” nầy mà được nhập cảnh giới Phật bình đẳng, tức là gá vào Thánh-thai-tạng. Bấy giờ, Thế tôn lại dùng mắt quán kỹ, thấy tất cả chúng sanh đều đầy đủ Thánh thai sanh trong nhà Phật, lúc ấy vô tận trang nghiêm cũng lại bình đẳng với các Như Lai, xuất định nầy rồi liền nói pháp giới sanh chân ngôn, lại dùng phổ nhãn quán kỹ, thấy mỗi chúng sanh nầy thành tựu đầy đủ sự nghiệp Kim cương, bấy giờ vô tận trang nghiêm cũng lại bình đẳng với Như Lai, xuất định nầy rồi liền nói: “kim cương tát-đỏa chân ngôn”, vì thế ba thứ nầy đều gọi là Tam-muội-da. Lại nữa, do nhập Phật Tam- muội-da ở trong Thai tạng không bị thất bại nửa chừng, do pháp giới sanh nên khi vừa ra khỏi thai tạng thì lìa các chướng ngại, nhờ Kim cương tát-đỏa nên đầy đủ các tài năng, giữ gìn gia nghiệp. Lại lấy nhập Phật Tam-muội-da để gia trì Thai tạng Bí mật, dùng Pháp giới sanh gia trì Bồ-tát, Kim cương; hai lớp quyến thuộc lấy Kim cương tát-đỏa gia trì các thứ hình thể tùy theo loài. Nhập Phật Tam-muội-da như Hoa sen tạng, pháp giới sanh như hoa sen nở, Kim cương tát-đỏa như hoa sen chân thật, thành tựu sau trở lại làm hạt giống; vì thế ba thứ nầy gọi là Tam-muội-da. Đạt-ma-đà-đổ: là nghóa pháp giới. Tát-phạ-bà-phạ: là tự tánh, cũng gọi là tánh căn bản. Cú ngân: là nghóa ngã. Nghóa câu kia nói ngã tức tự tánh pháp giới, vì chắc chắn do Như Lai giảng nói, ta và tất cả chúng sanh đều là tự tánh pháp giới, là nghóa bình đẳng, ta thường thiết lập các thứ phương tiện, khiến cho tất cả chúng sanh thảy đều chứng biết, nghóa bản thệ nầy, do biết ngã tức là tự tánh pháp giới nên có thể dứt trừ tất cả sự phân biệt, khai mở sự hiểu biết đúng đắn. Đó là nghóa trừ chướng. Các Đức Phật chỉ nguyện nhớ giữ bản nguyện, cho nên khiến thân ta đây liền đồng với tự tánh pháp giới Tỳ-lô-giá-na, ấy là nghóa cảnh ngộ. Phải dùng chữ Môn giải thích rộng. Như tự tánh pháp giới: là để hiển bày thể sở - quán, nghóa là trí thể mặt trời to lớn. Mà quán tự thân mình: là hiển bày trí năng quán của hành giả. Hoặc lấy hai câu chân thật trở xuống, chẳng phải chỉ có ý nghiệp mà cũng dùng miệng tụng chân ngôn. Tam chuyển: là ba lần. Bốn câu: Phải thấy trú pháp thể trở xuống là nói sự lợi ích hành giả đã được. Thứ mười hai: Vì khiến cho họ vững bên trở xuống là Kim cương tát-đỏa chân ngôn môn, là thân của pháp vững chắc, lại có ấn chân ngôn và tụng. Khiến cho kia vững chắc: là khiến nương vào pháp giới sanh, người tu hành giữ vững thân tâm mình. Quán tự Kim cương thân: Đồng với thân Kim cương tát-đỏa. Hai hàng kệ kết ấn Kim cương trí trở xuống là nói đã bắt ấn. Hai câu, người nầy sẽ không bao lâu v.v… là hiện ra sự lợi ích của bắt ấn. Hai câu chân ngôn ấn v.v… là hiện bày tướng mà đấng cứu thế đã thấy. Hai câu, thường như bánh xe báu xoay chuyển v.v… đối với sở kiến của đấng cứu đời nêu việc bánh xe báu sự huống gì bánh xe báu pháp. Câu đầu trong Kim cương tát-đỏa chân ngôn môn là nói Kim cương tát-đỏa chân ngôn, cho nên quy mạng tất cả Kim cương đều tức là từ vô lượng môn giữ gìn trí Kim cương Như Lai, đều khiến ghi nhớ hộ trì. Câu tiếp theo nói: “Phạt Chiết La đát ma cú ngân” nghóa là thân ta tức là đồng với Kim cương, chính là tự tánh pháp giới, do thành tựu năng lực bền vững lớn không thể hư hoại, môn khác nói là Kim cang. Như Lai dùng mắt quán thấy trí thể Kim cương của tất cả chúng sanh không khác với Ngài, là nghóa bình đẳng, vì chúng sanh không tự hiểu biết nên từ vô lượng trí môn Kim cương làm thành các thứ sự nghiệp Kim cương, cần phá diệt chướng lớn như thế, khiến đến “mé thật”, đó là nghóa bản thệ. Mé thật như thế gọi là “Vô cấu nhãn Kim cương”, tức là nghóa trừ chướng. Do tiếng Sư tử hống nầy rung chuyển đến cõi Phật mười phương tức là nghóa cảnh giác; vì thế gọi là tam-muội-da. Lại nữa, hành giả Chân ngôn, vừa mới theo tam-muội-da thì được thân giống như thân, miệng, ý Bí mật của Như Lai, thứ hai theo Tam-muội-da thì được thân giống như Như Lai gia trì pháp giới lớn tôn trọng đặc biệt, theo Tam-muội-da thứ ba nên khiến sanh thân nầy đều thành Kim cương, cùng vô lượng chúng trì Kim cương mà tự vây chúng quanh quyến thuộc. Phật nói Tam-muội-da thứ nhất là tự thọ dụng. Thứ hai, Tam muội da là thành tựu các Bồ-tát thân pháp tánh. Thứ ba Tam-muội-da là chiết phục nhiếp thọ chúng sanh tuỳ loài. Đức Phật nói Tam-muội-da ban đầu là kiến lập Thai tạng đại bi mạn-đồ-la. Tam-muội-da thứ hai là làm sự nghiệp A-xà-lê Tỳ-lô-giá-na. Tam-muội-da thứ ba là sự nghiệp đệ tử giữ gìn Kim cương. Tam-muội-da thứ nhất là gia trì quyến thuộc Như Lai, Tam-muội-da thứ hai là gia trì quyến thuộc Liên Hoa, Tam- muội-da thứ ba là gia trì quyến thuộc Kim cương, vì thế Đức Phật dạy ba Tam-muội-da. Tức Chấp Kim cương nầy là Kim cương Tát-đỏa. Chớ sanh tâm nghi hoặc: là hành giả siêng tu khiến tâm tín yên định. Thứ mười ba: “Kế là dùng chân ngôn ấn” trở xuống là Kim cương giáp trụ chân ngôn môn. Cũng có tụng chân ngôn ấn. Hai bài kệ đầu: là hiển bày chung đức của ấn. Nửa bài kệ đầu: tướng mật ấn trong đây trở xuống là chính hiển bày tướng của ấn. Hai câu tiếp theo kết thúc trước sanh khởi sau. Vô cấu: là chữ lãm. Kế là nói chân ngôn Kim cương khải: là trang nghiêm thân Kim cương tát-đỏa. Người tu hành đã phát thệ nguyện Kim cương, vì muốn tất cả chúng sanh trừ diệt các chướng, nên tinh tấn mạnh mẽ, được áo giáp mũ trụ Kim cương. Hơn nữa, sáu Ba-la-mật, mỗi ba-la-mật như thật tướng, đều như Kim cương không thể phá hoại, lại trong mỗi “Độ” đều có năm độ, cho nên cùng thể nhỏ nhặt khít khao không có kẽ hở, như: sáu độ, ba mươi bảy phẩm, mười tám Không, một tăm lẻ tám Tam- muội, năm trăm Đà-la-ni v.v… đều phải nói “Độ”, vì mặc áo giáp Kim cương như thế, xoay vần sáu đường, ra vào sanh tử, tất cả các khổ phiền não không thể làm tổn hoại. Nếu nói theo cạn lược thì do hành giả dùng chân ngôn nầy tự gia trì, nên tất cả các vị trời rồng… đồng thấy thân Kim cương Tát-đỏa khắp thân đều mặc giáp, mũ, trụ Kim cương không giao tiếp ánh sáng như lửa dữ. Cho nên tất cả làm chướng ngại đều không tổn hại. Phạt-chiết-la: là tên áo giáp Kim cương ca-phạ-già. Như Lai dùng mắt Kim cương quán khắp chúng sanh đều mặc giáp trụ Kim cương nầy, cho nên dùng lời thành thật mà giảng nói, trước hết lấy chữ “phạ” làm thể chân ngôn, phạ là nghóa các pháp lìa ngôn thuyết, nếu là nói năng hí luận chỗ hành xứ thì đều có thể phá, có thể chuyển, không có bền vững, cho nên dùng chữ phạ đều chuyển để giải thích. Vì sao các pháp lìa ngôn thuyết? Vì sanh không thật có. Tại sao sanh không thật có? Vì tự tánh thanh tịnh, tự tánh thanh tịnh tức là thân Kim cương Tát-đỏa. Tiếp theo nói về nghóa giáp: Nếu pháp là tạo tác mà thành, phải biết chỉ có giả danh, thay đổi theo duyên, tánh kia còn không tự bền vững, huống gì có thể che giữ tên sắc sáu trần. Nay quán Kim cương thể vô tận trang nghiêm nầy thảy đều lìa các tạo tác, vì thế vững bền không hư hoại, “bách - phi” đã không xâm phạm, cho nên nói là Kim cương giáp trụ (áo giáp, mũ trụ Kim cương). Cuối cùng chữ “Hồng” tức là tiếng không lo sợ, cũng là nghóa năng lực tự tại, cũng là nghóa vui mừng. Do định tuệ đầy đủ, khi chứng môn chữ “Hồng” nầy tự biết nhất định phá hoại được các chướng, che chở khắp chúng sanh; do đó rất vui mừng. Thứ mười bốn: “Chữ la mầu trắng tinh” trở xuống là Lãm tự chân ngôn môn. Cũng có tụng chân ngôn, một bài kệ đầu là nói chỗ đặt để. Một câu đầu trong bài kệ nầy là chỉ cho chữ: thể, sắc, tướng, rõ ràng sáng sạch. Một câu kế tiếp: là nói cách dùng chữ “trang”. Như kia: là Kim cương. Một câu tiếp theo, nói lên chỗ chữ Lãm mà người trì tụng đặt bày. Một bài kệ từ “dù trong trăm kiếp” trở xuống là hiện bày sự lợi ích đã được của người trì tụng. La: là vật dơ. Ở trên dấu chấm là nghóa hư không: nghóa là lìa cấu đồng với hư không (bầu trời). Đó là nghóa pháp giới tâm, cũng gọi là chỗ Vô cấu tự, chân ngôn đồng pháp giới, tức là nói ở ngoài chân pháp giới thì chân ngôn kia không từ đâu đến, cho nên dưới đây nói Vô lượng tội tiêu trừ, nghóa là hiển bày đức dụng của chân ngôn. Hai câu “không bao lâu” là nói địa vị trí người trì chân ngôn đã đạt được. Hai câu “tất cả chỗ dơ bẩn v.v…” là nói người trì tụng khi ra vào nơi nhơ bẩn phải dùng pháp để nghiêm thân. Hai câu “mầu đỏ” là tướng ánh sáng vây quanh chữ Lãm. Chữ “lãm” là sử dụng chữ Phạn, theo phẩm Cúng dường Nghi thức chép: lúc bấy giờ quán chữ “Lãm”, đầy đủ các điểm trang sức, nghóa là ánh sáng trong sáng chói lọi như ánh sáng mặt trời buổi sáng. Phẩm Trì tụng pháp tắc chép: Chữ “Lãm” là ánh sáng mặt trời mới mọc, màu đỏ ở ba góc, gia trì “bản tâm vị”, ấy gọi là ánh sáng trí tuệ. Phẩm Nhập mạn-đồ-la Cụ duyên chân ngôn chép: Đều đội chữ Vô Cấu, trang nghiêm dùng chấm đại không xoay quanh bày ra ánh sáng chói lọi, tự môn sanh ánh sáng trắng, lưu xuất ra như mặt trăng tròn. Lời sớ nói: Lại quán trên đảnh kia có một chữ “lãm”, trên chữ có dấu chấm, cho nên nói trang nghiêm dùng chấm đại không, đây là chữ “lãm”. Khắp bốn bên có ánh sáng, giống như tràng hoa liền nhau không đứt quãng, trong chữ lại khắp lưu xuất ra ánh sáng trắng, như ánh mặt trăng tròn sáng, đem tịnh pháp giới tâm nầy để gia trì có công năng trừ được các chướng trong ngoài, nói là nghóa thấm nhuần lợi ích. Phẩm Tất-địa xuất hiện chép: Thứ nhất nhiếp trừ tướng đặt chấm đại không, chữ “La” chân thắng chân thật, Phật dạy trên hết trong lửa; thứ hai nói chữ la trừ chướng mạn-đồ-la, là pháp chân thật bậc nhất trong sự trừ chướng, chữ “la” nầy là thiêu đốt trong lửa cháy, trong lửa cháy đỏ hết sạch không còn; do có thể đốt sạch các thứ phiền não, nghiệp khổ; cho đến hiện nay gây ra năm tội- Vô - gián, nếu tu tựu môn nầy cũng có thể trừ sạch không có dư thừa, đã trừ tội rồi thì sanh các công đức lành. Thứ mười lăm: “Kế là hàng phục ma” trở xuống là vô kham nhẫn đại hộ minh môn. Cũng có tụng chân ngôn, trong đây hàng phục ma có bốn thứ: phiền não ma, ấm ma, thiên ma và tử ma. Không thể chịu đựng nổi: Ma quỷ… thấy người trì tụng chân ngôn nầy, mở mắt muốn thấy thì không thể thấy, cho nên nói “Vô kham nhẫn minh”. Khi pháp sự Mạn-đồ-la đã cần chi phần môn chân ngôn. Lúc bấy giờ, Tỳ-lô-giá-na lại quán tất cả hội chúng bảo với Chấp Kim cương, bí mật chủ v.v… trở xuống là nói khi pháp sự Mạn-đồ-la đã cần chi phần chân ngôn, A-xà-lê phải hiểu rõ cho nên nói sau, đem hiển bày tạng mật ngữ của Như Lai, cho nên quán khắp đại chúng mà gia trì, như sanh thân Đức Phật, khi sắp phát lời thành thật thì hoặc hiện ra tướng lưỡi rộng trùm khắp mặt mà bảo với người đáng độ rằng, trong kinh sách ông có thấy người nào có tướng như thế mà phát ra lời luống dối không? Như trong Đại thừa thị hiện tướng lưỡi trùm khắp Tam thiên thế giới. Nay, Thế Tôn sắp nói lời bình đẳng của Như Lai, đem lời nầy lần lượt rộng ngang cùng khắp tất cả pháp giới. Nói rằng tướng ngữ luân dài rộng, tướng nầy bản chữ Phạn chính là nói Mạn-đồ-la. Trước đã mở bày khắp môn thân Mạn-đồ-la, nay lại hiển bày khắp môn ngữ Mạn-đồ-la. Như hạt châu như ý vắng lặng vô tâm, cũng không có tướng định, mà có thể ứng khắp tất cả đều xứng đẹp tâm người, nên gọi là sắp đẹp Ma-ni, từ sắc đẹp Ma-ni thân phát xuất ra sắc đẹp ma-ni ngữ, bày ra sắc đẹp Ma-ni tâm, mưa khắp pháp tài, chúng sanh khắp pháp giới có nhiều thứ mong muốn, dấu vết ứng vật như thế thường trùm khắp mười phương ba đời, dùng vô lượng môn trồng các gốc “đức” không khi nào cùng tận, trú trong hạnh không thể tổn hại, tức là nghóa đối với tất cả sự nghiệp đều không thể gây cản trở, không thể phá hoại, vì thế nói ba đời không thể sánh với năng lực một câu chân ngôn; đây là nói chung các chỗ đã phát sinh ra chân ngôn. Đến văn dưới sẽ nói đại lực, đại hộ v.v… Tức là dụng xứng cơ từ Như ý châu luân của Như Lai phát ra. Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng tự biết, tâm khí hoàn toàn trong sạch, lại nhờ năng lực gia trì không thể suy nghó bàn luận của Như Lai cho nên lãnh thọ được pháp lớn, bấy giờ, dùng Vô lượng môn mỗi vị đều đồng thanh thỉnh Đức Phật rằng, Thế Tôn! Bây giờ chính là đúng thời, bậc Thiện-Thệ! bây giờ chính đã đúng thời. Theo bản chữ Phạn thì lúc trước gọi là Ca-la, đó là lúc thích hợp nhất, như một năm có ba phần bằng nhau, thời sau gọi là tam-ma-da, đó là thời nhỏ trong các thời. Như trong ngày đêm sáu thời, lại canh có ít phần v.v… Như có người nói: Bây giờ chính là lúc làm việc, gặp được ân mưa móc, đến thời thích hợp để gieo trồng, chớ để mất cơ hội ấy, cho nên nói lại. Bấy giờ, Thế Tôn đã thọ thỉnh rồi, sắp nói đại lực đại hộ minh- phi, trụ trong mãn tất cả nguyện xuất ra tướng lưỡi dài rộng trùm hết tất cả cõi Phật, cờ pháp thanh tịnh, cao phong quán tam - muội. Trong đây nói xuất: Bản Phạn phiên dịch đúng nên nói là phát sanh, bản dịch xưa nói, hoặc mạnh mẽ, phát ra tướng lưỡi dài rộng nầy, tức là Như Lai mạnh mẽ thị hiện năng lực đại thần thông, cho nên hội ý mà nói. Tam muội nầy đối với tướng lưỡi dài rộng trùm khắp tất cả cõi Phật của Như Lai ma-ni phổ môn, là trên hết trong các đại dụng giống như cờ của vị đại tướng, cho nên nói cờ pháp thanh tịnh. Tiếng phạm nói là Đà-phạ-nhạ, Hán dịch là “tràng”. Tiếng Phạn Kế- đô, Hán dịch là “Kỳ”, hơi khác với tướng kia, tràng chỉ dùng các thứ tơ năm mầu xen lẫn để trang nghiêm cột cờ, đại khái giống như kế - đô nhưng lại thêm tua cờ mật hiệu, như nhà binh vẽ làm hình các loài như: rùa, rồng, chim thú v.v… để làm chừng mực trong ba quân, có một nhà cũng dịch là “Tràng”, cho nên hiệp lại để nói. Nếu hiện nay bản Phạn đầy đủ thì nên nói ”Thanh thịnh pháp tràng kỳ: như vị đại tướng trên núi cao xây dựng cột cờ, thấy đủ hình dáng núi, sông nơi nương dựa ẩn núp của kẻ địch, chỉ huy chúng trăm, muôn, động dừng như nhau, lìa hiệp do tâm, dùng chiến ắt thắng, dùng công ắt thủ, nếu tướng vụng về đối với sự thế lại mất cột cờ, thì mỗi người tâm thua trận lạ lùng không trở được gót chân. Tâm Bồ-đề thanh tịnh nầy làm cột cờ muôn hạnh cũng giống như thế, trú ở trên núi trung đạo đệ nhất nghóa đế, yên định vững chắc không lay động, thực hành tam-muội, quán khắp mười phương, đều thấy vô lượng độ môn, chủng tánh hơn kém, chỗ đã ứng dụng và nhân duyên chướng đạo thông suốt, bít lấp ở các “địa”, cho nên có thể nhiếp trì vô lượng công đức, khắp hộ vô lượng chúng sanh. Hễ có làm gì thì không thể làm trở hoại. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghó rằng ta từ khi mới phát ý đến nay thường dùng tâm Bồ-đề mạnh mẽ nầy hộ trì chánh pháp và các chúng sanh, trong các nạn xứ thực hành việc khổ hạnh, giống như Kim cương không có lui sụt, chính vì thành tựu tam-muội như thế nên che chở khắp các cõi Phật ở mười phương. Nay chỗ nguyện của ta đều đã đầy đủ hoàn toàn, làm việc đáng làm, nay chính là đúng lúc. Nói câu trì minh pháp nầy, như ta đã nói thành thất không luống dối, kia có tụng trì tu tập, khiến thế lực của kia không khác với ta, vì thế gọi là đại lực đại hộ. A-xà-lê nói: Minh là nghóa trí tuệ rộng lớn sáng suốt. Phi, tiếng Phạn là “La-thệ”, tức là chữ vương làm giọng nữ mà gọi, vì thế nghóa truyền độ nói là phi. Phi là nghóa Tam-muội, đó là đại bi Thai tạng Tam-muội. Tam-muội nầy là mẹ của tất cả Phật tử; Phật tử nầy chính là “thanh tịnh pháp tràng Bồ-đề tâm”. Như Thai tạng kia, bắt đầu từ khi Ca-la-la chứa đựng giữ gìn, khiến không bị các duyên làm thương tổn, dần dần lớn lên, cho đến sau khi sinh ra còn hết sức giữ gìn nuôi dưỡng hơn nữa, vì thế nói ân mẹ rất sâu khó báo đáp được. Từ tam-muội nầy: khi nhập, trú, xuất đều là pháp giới không thể suy nghó bàn luận, không phải như Thiền định thế gian có động, tịnh ngại nhau, có khi lui sụt xen kẽ. Câu đầu là quy mạng tất cả các Như Lai. Câu thứ hai là có công năng dứt trừ tất cả các chướng sợ hãi v.v… Đó là khen ngợi đức đại lực đại hộ của tất cả Như Lai. Lại câu tiếp theo là khen ngợi vô lượng độ môn. Tỳ-thấp-phược, cũng là nghóa khéo đó là vô lượng xảo độ môn, tức là nghiệp dụng Phổ môn, Tam-muội Pháp tràng cao phong quán, nay muốn nói Minh phi nầy, cho nên trước quy kỉnh công đức tất cả Như Lai như thế. Tiếp theo nói: “Tát - bà - tha”, là chỉ chung công đức của chư Phật như thế, muốn khiến cho đồng nhập một tự môn. Kế tiếp có hai chữ “hàm khiếm”, chính là thể chân ngôn, cũng gọi là hạt giống. Các câu ở dưới đều giải thích hai tự môn. Chữ “ha” là nghóa “nhân”, có chỗ nói nhân Đại thừa: tức là tâm Bồ-đề, vì tất cả “nhân” vốn bất sanh, cho đến xa lìa nhân duyên gọi là Tâm Bồ-đề thanh tịnh. Tâm Bồ-đề thanh tịnh là hạt giống để thành Phật, là nhân chân thật của ngọn cờ chánh pháp, cho nên chuyển thanh là “Hàm”. “Khư” là đại không, ở trên thêm dấu chấm chuyển thanh là “khiếm”, tức là chứng đại không nầy gọi là Bát-nhã Phật mẫu, chính là nghóa “Minh- phi”. Ở trong hư không tạng nầy nuôi dưỡng chính nhân chủng tử, tức là nghóa “Đại hội”). Lại nữa, môn chữ “khư” giống như hư không rốt ráo thanh tịnh không chỗ nào không có, tức là cảnh giới mà cao phong quán biết được. Chữ “Ha” là cờ Bồ đề cũng là năng lực tự tại, vì hai chữ nầy tương ưng, giống như vị đại tướng có khả năng phá tan oán địch. Lại tự môn Ha là tâm Bồ-đề quý báu, cùng tự môn “khư” hư không tạng hòa hiệp nên được thành Ma-ni có sắc đẹp, có thể đầy đủ tất cả ước nguyện. Nay trong chân ngôn nầy thiếu chữ “Khiếm” nầy, văn dưới có đầy đủ. Câu kế là La-khất-sái, tức là nghóa ủng hộ; như người bị ách nạn sợ hãi, nếu cậy nhờ người có sức mạnh, hoặc được thành cao, ao sâu bền chắc thì an vui không lo sợ, các kẻ thù kia dù dùng các thứ phương tiện nào cũng không sánh bằng. Người tu hành cũng giống như vậy, nương nhờ vào tâm Bồ-đề vương, dùng Bát-nhã Thai tạng làm thành quách, giống như hư không không thể phá hoại, tức là chuyển thích nghóa trước. Câu kế là, “Ma-ha-mạt-lệ”, Hán dịch là “đại lực”. Chữ “ha” chỉ cho tâm Bồ-đề đầy đủ tất cả năng lực Như Lai; nay hòa hiệp với chữ “khư”, cho nên xa lìa các sự trói buộc vô quái ngại, như giữa hư không gió xoay chuyển tự tại, vì thế gọi là đại lực, lại nữa, năng lực tự tại của chữ “Ha” hòa hiệp với vô lượng xảo độ môn của chữ “Khư”, do đó giống như lực só đầy đủ ngàn thứ tài năng, cho nên nhiều người không thể thắng được, vì thế gọi là Đại lực. Câu kế là giải thích nguyên nhân của đại lực, do đó nói từ nơi tất cả công đức của Như Lai sanh ra, nói đại lực vững chắc nầy vốn từ chủng tánh Kim cương của các Đức Phật sanh ra, lại từ vô lượng kiếp đến nay thường dùng chánh nhân chữ “Ha” nầy để tu đầy đủ muôn của chữ “Khư”, mỗi chữ đều như Kim cương không thể phá hoại; nay các đức đã tròn đầy, các năng lực đều đủ, lại phải dùng đỉnh cao cờ pháp nầy quán tam-muội, diệt hết pháp giới oán địch, hộ khắp chúng sanh, sau đó phát lời thành thật, đó gọi là chữ Hồng, Hồng là tiếng sợ hãi. Cho nên nói lại: 1.Là diệt hết ngoại chướng; 2.Diệt hết nội chướng; lại nữa ngoài là phiền não, trong là trí chướng, nếu giải thích tự môn, Như Lai dùng pháp nào để trừ các chướng? Đó là dùng tự môn Ha nầy. Dưới có vẽ tam-muội, tức là tu đủ muôn hạnh, trên có dấu chấm “đại không”, tức là đã thành muôn đức, chữ Ha tức là cây cờ pháp tam-muội, dấu chấm không hòa hiệp, do đó chính là ở đỉnh cao quán tam-muội. Đầy đủ tất cả hạt giống Như Lai: Dấu chấm tên là mẹ của “Minh phi”, dưới vẽ là Thai phần mỗi ngày thêm nhiều, đầy đủ nghóa như thế, cho nên ngay khi phát ra lời, ma quân đều tan hoại. Kế là nói Đát-la-tra, là nghóa tra ha nhiếp phục, như khi sư tử nổi giận rống lớn thì các loài thú đều nhiếp phục. Cũng nói lại: là đối trị phiền não căn bản, tùy phiền não, cho đến đối trị phiền não bên trong, phiền não bên ngoài. Câu cuối cùng nói: A-bát-la-để-ha-đế, là nghóa năng lực không đối trị không so sánh, kết thúc lại văn trên. Vì nhân duyên nầy cho nên gọi là “Đại lực đại hộ Minh phi”. Ta ha: là báo cho biết cácĐức Phật đã chứng minh cũng là nghóa ức - niệm trì (nhớ nghó giữ gìn), như trước đã giải thích. Kinh dạy: Khi tất cả các Như Lai và chúng Phật tử nói “Minh” nầy rồi, ngay lúc ấy khắp cả cõi Phật rung chuyển sáu cách, nghóa là khi Đại Nhật Như Lai phát ra lời nầy khắp cả pháp giới, các Đức Phật, Bồ-tát do cảnh giới bất nhị, nên đều đồng thanh cùng nói. Nay pháp gia trì nầy oai thế đầy đủ, lại vì Như Lai nói lời thành thật, cho nên ngay lúc ấy các cõi Phật mười phương rung chuyển sáu cách, để biết đại thệ của Phật là chân thật không luống dối, nghóa rung chuyển sáu cách và tướng của nó các kinh khác có nói đầy đủ. Nay nương vào Tông Bí mật nầy giải thích rung chuyển sáu cách, nghóa là sáu phiền não căn bản là tham, sân, si, kiến, mạn, nghi; tâm địa của tất cả chúng sanh thường bị lớp bụi nầy giữ lại nên không thể tự khởi, nay nhờ cảm động đến lòng thành thật của Thế tôn, khiến lớp võ bọc bị xé tan, mầm giống Phật sanh, cho nên nói rung chuyển sáu cách. Bấy giờ, tất cả Bồ-đề thấy hai thứ nhân duyên động đất sâu kín và cạn cợt, tâm đều tự khai mở được điều chưa từng có, dùng kệ vi diệu khen ngợi trí tuệ của Thế tôn. Song, kinh dạy: ở trước các Đức Phật: nghóa là khi Phật nói Minh nầy, các vị Bồ-tát v.v… trong các thế giới mười phương mỗi vị đều thấy Đức Phật kia, ở trước cũng đều nói, cho nên đồng một âm thanh, cùng một lúc nhận hiểu, tức là nhờ vào văn nầy mà chứng, thành oai lực tự hộ. Trong kệ nhận hiểu, các Đức Phật rất đặc biệt đầy đủ trong bản Phạn, nên nói kỳ lạ thay tất cả các Đức Phật nói năng lực hộ trì lớn lao nầy, ngay lúc ấy các vị Bồ tát trong mỗi thế giới đều cùng lúc nhận hiểu, tất cả các Đức Phật trong mười phương đều nói chân ngôn, vì các Đức Phật trong mười phương cùng hộ trì, giống như thành Kim cương lầu gác cao không thể tiến lên, lại vây quanh dùng hồ nước nóng sâu thì không thể đến, cho nên tất cả các chướng không thể xâm hại. Do bỉ hộ tâm trụ: nghóa là những người tu hành có thể dùng chân ngôn mật ấn nầy giữ gìn thân tâm mà an trụ. Cho nên tất cả là chướng: nghóa là các Tỳ-na-dạ-ca, ác hình la- sát v.v… tự nhiên tan lùi. Chữ trụ nầy nếu nương vào tiếng Phạn cũng còn tên, để giữ gìn tâm kia. Nếu giải thích sâu: là nói tâm Bồ-đề thanh tịnh nầy, người dùng thật nghóa “Minh phi” nầy giữ tâm mà trú nên ba thứ chướng nặng, các ác la-sát v.v… đều bị xua tan, không thể làm tổn hại căn lành của người đó. Dưới cho đến khi sanh tâm nhớ nghó, cũng có thế lực như thế. Cho nên câu cuối lại kết thúc thành tựu. Do vừa nghó nên bắt đầu từ Nam-ma cho đến Sa-ha, trong khoảng giữa đó thì nói là “tài” (vừa mới). -Tất cả kia: là loại Tỳ-na-dạ-ca. Tan ra đi khắp: Tan ra đi khắp trong mười phương, không biết chỗ đi.  KINH TỲ-LÔ-GIÁ-NA PHÁP THỨ TỰ CÚNG DƯỜNG THỨ ĐỆ PHÁP SỚ <卷>QUYỂN HẠ <詞>PHẨM THỨ BA: CÚNG DƯỜNG NGHI THỨC Giải thích phẩm này cũng chia làm bốn phần. Giải thích tên gọi: Nguyên nhân phát sanh phẩm. Tông thú. Giải thích văn Giải thích tên: gọi người tu đạo cúng dường hợp với biển Thánh, biển Thánh hoan hỷ thọ nhận. Bắt đầu cúng, một thứ cúng, các thứ cúng dường đầy đủ cả biển Thánh, cho nên nói phẩm cúng dường nghi thức; gọi là cúng dường có ba thứ. Ngoại cúng dường: nghóa là: hương, hoa, thức ăn uống, cho đến thắp đèn trang nghiêm đạo tràng, v.v…. Hạnh cúng dường: nghóa là như lời dạy vâng làm, cho đến lễ bái giữ giới…. Lý cúng dường: nghóa là tâm trú pháp thể không phan duyên bên ngoài. Nguyên nhân phát sanh phẩm nầy: phẩm trước giữ gìn che chở người giữ giới, chính là khi cúng dường, cho nên có phẩm nầy. Tông thú: hết lòng cúng dường Bổn tôn, bổn tôn lãnh thọ, lấy đó làm Tông; đời sau thành Phật là Thú. Giải thích văn: cũng có hai môn, trước là nêu nhiếp tụng, sau là nói riêng (biệt thuyết). Nhiếp tụng có: ba bài rưỡi. Câu một nói: chánh nghiệp như thế thanh tịnh thân mình, là thuộc về biệt thuyết, hiện tiền quán chữ “la”… có ba bài kệ rưỡi. Câu hai nói: trụ định quán bổn chân ngôn chủ: là thuộc về biệt thuyết, đầu tiên ở hạ vị cho đến tuỳ loài mà tương ưng. Thứ ba: hoặc quán các Đức Phật thắng sanh tử v.v… gồm hai câu, thuộc về biệt thuyết, như quán thế tự tại cho đến nương vào pháp trước mà chuyển. Thứ bốn: Dùng chân ngôn ấn mà triệu thỉnh: gồm một câu, thuộc về biệt thuyết sau dùng chân ngôn ấn cho đến chúng sanh tâm không lành. Thứ năm: Trước nêu đương thị hiện Tam-muội-da: gồm một câu, thuộc về biệt thuyết, sau tôn thờ Tam-muội-da cho đến các Minh vui mừng. Thứ sáu: Cúi đầu dâng hiến nước át-già:gồm một câu, thuộc về biệt thuyết, nước Át-già dâng lên cho đến Tam-ma-sa-ha. Thứ bảy: Hành giả lại hiến tòa chân ngôn: gồm một câu, thuộc về biệt thuyết, kế đến là vâng trải tòa cho đến chính là ấn Liên hoa. Thứ tám: chân ngôn tương ưng trừ chướng, lại dùng ấn bất động tuệ lực: gồm hai câu, thuộc về biệt thuyết, kế đến phải xa lánh trừ bỏ cho đến tất cả đều được hô trì khắp. Thứ chín: Kế đến nêu cúng dường hương hoa v.v… gồm bốn câu, thuộc về biệt thuyết và và cúng dường khác cho đến cuối phẩm không nên phỉ báng, sanh nghi ngờ hối tiếc. Y cứ theo biệt thuyết thì: Đoạn một: Lược nói nơi tâm năng quán an trụ và nơi Bản tôn sở quán an trụ. Trong đoạn thứ hai: có năm phần. Ba bài tụng và ba chân ngôn: là thế giới thành tựu môn. Luân nầy như Kim cương cho đến chữ A đặt trong đó: là trang nghiêm đạo tràng môn. Nên chuyển chữ A cho đến tự nhiên phát kế quan: là Thành họa Đại nhật môn. Hoặc Thích-ca Mâu-ni cho đến nơi chân ngôn giả an trụ: là thành họa Thích-ca môn. Hoặc trì Diệu cát tường cho đến chữ mãn là thành họa Văn-thù môn. Sơ môn, đầu tiên ở hạ vi: có thể thành phong luân của thế giới. Phong luân ấy: là chữ “Ha”, chỗ bắt đầu đặt nửa vầng trăng. Hắc quang diệm chiếu khắp: đó là ánh sáng chữ “Ha”. Chữ Ha ở trong Chân ngôn môn, chữ Ha là cờ Bồ-đề, cũng là năng lực tự tại, giống như vị Đại tướng có thể phá tan kẻ thù, lại nữa, chữ “Ha” là tâm Bồ-đề quý báu, giống như Ma-ni vương có công năng đầy đủ tất cả mong cầu. Kế là ở trên: có thể thành thế giới thủy luân. An thủy luân: chữ “phạ” đã đặt vầng trăng tròn. Tuyết nhũ: là mầu trăng tròn. Phả chi nguyệt điện quang: là màu chữ Phược, chữ “phạ”, là nghóa các pháp lìa ngôn - thuyết, vì “sanh” không thật có. Vì sao sanh không thật có? Vì tự tánh thanh tịnh tức là thân Kim cương tát-đỏa, cho nên bền chắc không hư hoại, “bách phi” không thể vượt qua. Ở trên thủy luân: là địa luân. Kim cương luân: Luân ở bốn phía chữ A. Chũa bản sơ: là chữ A. Mầu vàng: màu chữ A. Tỳ-lô-giá-na chân ngôn tâm môn: Tỳ-lô-giá-na nói chân ngôn tâm. Do các chân ngôn v.v… như trên tùy trong mỗi chân ngôn có chân ngôn căn bản, Chân ngôn Tâm, chân ngôn tùy tâm, những thứ như thế vô lượng vô biên không thể đếm hết; nay nói chung chân ngôn tâm, tức chữ A nầy là nghóa các pháp vốn bất sanh. Nếu lìa tiếng A thì không có chữ khác, tức là mẹ của các chữ, tức là chỗ sanh ra tất cả chân ngôn, nghóa là tất cả pháp môn và tâm Bồ-tát v.v… đều từ tự thể Tỳ-lô-giá-na, vì muốn nhiều lợi ích cho chúng sanh, nhờ năng lực gia trì mà hiện ra việc ấy. Nhưng thật ra ngay nơi thể bất - sanh, đồng với pháp thể của chữ “A”. Chữ nầy ở trong chân ngôn rất thượng diệu (nhiệm mầu hơn cả) cho nên hành giả chân ngôn thường phải thọ trì như thế, vì thế tất cả chân ngôn trú trong chữ A vẫn trụ ở đây, cho nên đọc tụng liền sanh đức tất cả chữ khác. Trang nghiêm đạo tràng môn. Như Kim cương: là như lý. Đại Nhân-đà-la: là lý đầy đủ nghóa đức. Đều lưu xuất cùng khắp: là ánh sáng do chữ A đã xuất ra. Ở trong đó: chỗ xuất ra ánh sáng. Đạo sư các Phật tử: Tôn vị do ánh sáng làm ra. Thủy: có khả năng quán định. Bạch: là lý vốn bất sanh. Liên: là lý lìa nhiễm trước. Sắùc mầu: là lý sáng suốt Kim cương hành: đều là lý. Tám tánh: lược hiển bày đức của Phật Tỳ-lô-giá-na. Có tua nhụy: hằng sa tánh Đại bi (tánh đại bi nhiều như cát sông Hằng). Các báu: là lý đức nhiều như cát sông Hằng. Thường xuất vô lượng quang: Phật, Bồ-tát trên Phật phát ra. Trăm ngàn các hoa: là chỗ ngồi của vị hóa chủ. Ba bài tụng bên phải hiện bày đức chữ A. Trên kia dùng bốn bài tụng dưới để hiển bày đạo tràng trang nghiêm. Toà Đại giác sư tử: tức là nghóa Sư tử có khả năng hàng phục phiền não. Bảo vương: là có công năng đầy đủ nguyện của chúng sanh. Cung điện lớn: là cung pháp giới Kim cương. Cột báu: là các Ba-la-mật. Cờ lọng: Cờ có khả năng hàng phục, lọng: có thể làm lợi ích. Tràng-châu: là phương tiện Ba-la-mật… Bảo y: là nghóa lìa lỗi. Vì sao? Vì mình tự lìa lỗi và lìa lỗi cho người. Hương: là giới. Hoa: là tuệ. Vân: là là chầm chậm. Các báu: là bốn pháp nhiếp như: Bố thí, v.v… Các thứ hoa: là bốn tâm vô lượng như: từ bi, v.v… Nghiêm địa: sanh thành Phật trí trụ trì. Lăng xăng: là nghóa nhiều thứ bày ra. Âm thanh được ưa thích: là không những có vật báu mà có thể thường phát ra âm, các âm thanh thường, lạc, ngã, tịnh. Các âm nhạc: người nghe nhó căn được thanh tịnh. Hiền bình: Tất cả đều có trí tuệ. Át-già: có công năng rửa sạch bụi phiền não. Hai bài tụng: “Cây báu nở hoa trởa xuống”… là hiển bày tài năng và công đức của vị Hóa chủ. Câu đầu là hiển bày ngay tài năng của vị Hóa chủ. Đèn Ma-ni: là mầu vàng ở cõi Diêm-phù-đề. Tam muội: là định. Tổng trì: là tuệ. Tam-muội, tổng trì tức là địa. Thể nữ: tức là trí bát-nhã. Trí: nghóa là có công năng nuôi dưỡng. Phật Ba-la-mật: là chân ngôn Phật bộ. Đẳng là nhận lấy bình đẳng các Kim cương. Hoa mầu Bồ-đề trang nghiêm: là chân ngôn Liên hoa bộ, Bồ-đề là Sở giác, hoa Diệu nghiêm là Năng giác. Phương tiện: là thích ứng với căn cơ. Chúng kỹ: là năng thuyết. Pháp âm nhiệm mầu chân ngôn các Đức Chư Phật. Một bài tụng: Dùng năng lực công đức của ta trở xuống là hiển bày công đức pháp lực của tự, tha có thể biết. Trên giải thích sự sâu kín của đạo tràng trang nghiêm, giải thích cạn lược có thể biết. Phát nguyện thì như trên đã nói. Tiếp theo là giải thích hư không tuế chuyển Minh phi chân ngôn môn. Kinh chép: Lúc bấy giờ, Như Lai lại nói: Hư không tạng lực, hư không tàng chuyển, minh phi chân ngôn rằng, giống như hư không không thể phá hoại, tất cả không thể hơn được cho nên gọi là năng lực hư không v.v… Lại, tàng: như người có kho báu lớn, tùy theo ai muốn dùng bao nhiêu thì tự tại lấy, không để bị nghèo thiếu. Kho hư không của Như Lai cũng giống như thế. Tất cả sự lợi ích của chúng sanh đều từ trong đó lưu xuất ra, vô lượng pháp báu lấy xài dùng tự tại mà không cạn hết, vì thế nói là hư không tạng. Chuyển Minh: Chuyển là nghóa năng sanh, năng sanh tạng nầy, năng sanh tất cả Phật sự. Như bi nguyện đã phát trước kia: nghóa là như khi dâng một cành hoa cúng dường, vận tâm khắp tất cả các đức Phật và Thánh, phàm, đều dâng cúng rồi liền hồi hướng trí “nhất thiết trí”. Những người nhận ta bố: Nguyện đem năng lực nầy khiến con được nguyện như trên, nguyện như thế rồi, lại thêm vào chân ngôn nầy thì đều thành tựu. Ban đầu lễ kỉnh tất cả các Đức phật và những môn khéo tát-phạ-tha, khiếm-ổ-đặt-yết-đế, tát-phán-la-ê-môn, già-già-na kiếm, đây chính là nghóa năng lực hư không, đối với tất cả “pháp không” mà sanh ra vật nầy, khắp lợi ích cho tất cả chúng sanh. Người trì tụng môn nầy tùy theo dâng một cành hoa lên cúng khắp cả pháp giới, trên dâng cúng tất cả Thánh, Hiền, dưới bố thí tất cả hữu tình rồi, bên trong phát nguyện lớn như trên, lại thêm chân ngôn nầy thì đều được thành tựu; như từ trong kho tự lấy vật báu đều tùy theo ý mình. Tụng môn nầy ba biến, tùy theo sự nhớ nghó kia cũng đều thành tựu, hễ dâng cúng hoa v.v… thì dùng ba thứ năng lực hồi hướng và lại thêm “Minh” nầy, thì tất cả đều theo ý muốn thành tựu cả, nghóa là dâng hoa cúng dường tất cả các Đức Phật v.v… thì tự tại thành tựu. Do đây trì tất cả: Đây là chân ngôn ấn. Tất cả là chỗ dâng hiến cúng dường. Chân thật: Như trong cung pháp giới Kim cương cúng dường. Hai câu: Tất cả pháp bất sanh v.v… là hiện bày nghóa chữ “A”. Tưởng niệm: là tâm năng quán Đặt ở trong đó: là tám cánh sen trong đài. Thành họa đại Nhật môn. Kế nêu chuyển chữ A: Kế là pháp vốn bất sanh, dứt ngôn, vắng tướng, tâm hành cũng diệt, giả nói là cường đạo, pháp đại bi ứng cơ hiện bày, nghóa là có công năng hiện chữ “A”. Kế nêu lưỡng túc, chúng sanh là lưỡng túc, tức chuyển chữ A thành “Lưỡng túc tôn” cho nên nói kế nêu chuyển chữ A thành “Đại nhật Mâu-ni”. Ánh sáng tròn đầy: Ánh sáng mặt trời tròn đầy giống như chiếu gương sáng, ở trong gương sáng đều hiện ra muôn vật, huống gì ánh sáng tròn đầy của Như Lai bụi trần vốn không sanh khởi. Thiên giới: là Tam thiên đại thiên thế giới. Tăng số: là đại thiên làm một số, cho đến không thể nói không thể nói. Quang diệm: nghóa là pháp gây ra. Lưu xuất: là từ Đại Nhật phát ra. Luân: là nghóa đầy đủ các đức, nghóa là hàng phục phiền não, sanh ra mầm lành nên gọi là “chuyển”. Quang minh: là thân nghiệp. Giúp khai ngộ: vì khẩu nghiệp cho nên nói thân ngữ trùm khắp tất cả. Mầu vàng Diêm-phù: từ ao Diêm-phù xuất ra vàng, ao nầy ở gần bên cây Diêm-phù, do đó mà đặt tên, ở trong các loại vàng nó quý hơn tất cả. Ngồi Kiết-già: phàm phương pháp ngồi trong chùa của bậc Thánh thiện, Tam tạng hòa thượng phía mặt nhận thọ, chân trái trước đặt lên đùi chân phải, sau đó chân phải đặt lên đùi vế chân trái, gọi là Liên - hoa - tọa, một chân đặt lên vế chân trái, gọi là cát tường tọa. Ngồi khác đây không phải bậc Thánh ngồi, nếu muốn tu đạo Bồ-đề học theo cách Đức Phật ngồi mới đúng. Thọ chánh: là nhập định tướng. Các độc: là tướng ba độc. sen. môn. Y tiêu hộc : là lụa có vân mầu vàng. Tự nhiên phát kế quan: không phải do người làm ra. Thành họa Thích-ca môn: Kia ở trong tám cánh sen trong đài Tưởng chữ bà: chữ Phạn đặt trong đài kia. Cần Dũng: là tên khác của Đức phật Ca-sa: là mầu càn-đà (màu vàng sẫm) Tứ bát: là ba mươi hai tướng; Thích-Ca chủng tử tâm chân ngôn Bà: là ba cõi. Bên cạnh có hai chấm nghóa là từ bỏ nghóa Ba cõi. Du già: Hành giả có thể quán tâm sở quán bổn tôn, không lìa nhau, không năng sở riêng biệt, có tướng quán, thân tâm hành giả tức là Phật, cho nên vô tưởng niệm tụng môn. Nhập: là hiểu. Bản thể: chỗ sanh ra hóa - thân, tức là Đại Nhật tôn, thể dụng không khác, do đó Kinh Niết-bàn chép: Hóa thân tức là pháp thân, nghóa kia chính là đây. Lưu xuất: hoặc nhiều hoặc ít cũng đều như thế. Trên đóa sen bên phải Phật: được Bồ-tát làm bổn tôn là tự bổn tôn. Chấp: ở trong tay có Kim cương cho nên nói là chấp Kim cương. Trong đài hoa trước sau: không chỉ trước sau mà theo hai bên phải trái cũng được. Vì sao? Vì Bồ-tát là vị đại quyến thuộc không có phương hướng; Kim cương quyến thuộc không những hai bên trái phải mà theo mười phương cũng được. Vì sao? Vì Kim cương trong quyến thuộc, Như Lai trong đức. Hỏi: Nếu như thế vì sao nói có phương? Đáp: nói về vẽ chỗ, sự thì có giới hạn. Vì thế kinh nói Bồ-tát trong mười phương, từ phương nào đến, ngồi kiết già nghe nói pháp; Kim cương cũng giống như vậy, dụng tâm không thể suy lường. Chân ngôn giả: là người niệm tụng. Chỗ ở góc dưới bên phải đất tượng vẽ. Hỏi: có cần phải vẽ tất cả Phật không? Đáp: Không. Hữu lực: khiến cho hết (tất cả). Người không có năng lực: chỉ vẽ đức Bổn tôn còn khó, huống gì vẽ tất cả Phật. Văn thù chủng tử chân ngôn môn. Chính giữa: là đài hoa tám cánh. Chữ Vô ngã, Tiếng Phạn là chữ “Man”. Hỏi: Vì sao dùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, kế Đức Phật mà nói? Đáp: Tam Tạng Hòa-thượng ở bên cạnh mà thọ nhận trí môn sâu xa của các Đức Phật, thuộc về Phật bộ cũng được, thuộc về Liên hoa Bộ cũng được, vì thế Đức Phật lần lượt bày ra vậy, nhìn bản thể Văn thù chính là “không”. Xét ở trên là “không môn”. Cái gọi là Đại không. Vượt qua mười tám không gọi là Đại không. Trong đoạn ba có ba môn: thứ nhất là nêu bày nhiều thứ, kế đến là khiến tâm vui mừng, cho đến tùy theo loại mà tương ưng, hiển bày ấn chân ngôn kiết giới… Tâm hỷ: người tu hành do cúng dường cho nên được phước, bậc Thánh vui lòng, chẳng phải bậc Thánh được cúng dường mà vui lòng. Ba câu, dâng hiến… là nương vào phép tắc bản khác, nghóa là xuất ra chân ngôn cúng dường v.v… như không phải tự pháp mà nương vào Bất - Động để trừ bỏ trần cấu. Ty ỹ trừ: là nghiền nát “Chướng ngại”. Sử quang hiển: là hương, dùng để gia trì hương chân ngôn, nói là bổn pháp tự giúp thêm. Ba câu, và giữ gìn thân mình v.v… bản khác tự có pháp hộ thân v.v… hộ thân nếu không phải pháp khác thì dùng chung pháp nầy, vì thế nói hoặc dùng để hàng phục ba độc, và nghóa khác của các tướng. Vì sao? Vì hương chân ngôn và hộ thân chân ngôn khác nhau cho nên đề cập. Bốn câu, Triệu thỉnh vv… bản khác tự có nương vào pháp để sử dụng, nếu không có pháp riêng thì dùng chung pháp nầy, do đó nói đến ấn phổ thông nầy v.v… Thánh giả Bất động chân ngôn môn: là khi Đức Phật lại tất cả vì dứt chướng ngại. Hỏa sanh: gọi là chứng Tam-muội. Nói đại tội nầy làm chướng chân ngôn, chân ngôn nầy có thể lực lớn, hành giả tu hành chân ngôn thì trừ được các chướng nạn, cho đến Đức Phật ở dưới cây thành đạo, đều dùng chân ngôn nầy nên tất cả ma quân đều tan hoại, huống gì các chướng ở thế gian. Lại nữa, chướng nầy có hai thứ. Nội chướng: nghóa là từ tâm mình sanh ra, loại ấy rất nhiều không thể nói rõ. Ngoại chướng: nghóa là từ việc ngoài mà sanh, cũng rất nhiều, đều có thể diệt trừ. Chiến-đồ: là rất ác, có chỗ nói hung ác nhất trong các thứ hung ác. Ma-ha-lô-sắt-noa: là rất giận dữ. Bà-phả-tra-dã: là phá hoại. Hạp: là sợ hãi. Đát - la - ca: là Vững chắc, Hàm-mạn: là không ngọt, dùng hai chữ sau này làm hạt giống, các câu dưới nghóa đều thành tựu. Ban đầu chiến-đồ: Chiến là nghóa chết. Nhập tự môn A: là nghóa vốn bất sanh tử. Đồ: là nghóa chiến, do chủ của Vô sanh tử nầy có thế lực rất lớn, đánh nhau với các tứ ma. Tiếp theo, Ma: là nghóa tôi, ta, nhập tự môn A là “Vô ngã”, cũng là “không”. Ha: là nghóa hỷ, cũng là nghóa hành. Lô có chữ La: là bụi chướng. Có tiếng ổ là tam-muội. Sắc: Tức là Xa-ma-tha nghóa là tam-muội. Noa: là chữ thứ năm, tức là tam-muội Đại không. Tát: là nghóa bền chắc. Phả: là nghóa bọt nước, đã biết thế gian như bọt nước nhóm họp, cho nên dễ tan biến. Bên cạnh có dấu chấm chữ A tức là hành. Tra: là nghóa chiến, có thể trận chiến sợ hãi khiến phá hoại, là thừa (cỗ xe). Hâm: là tam-muội Đại không hành, như trên đã nói. Đát: là như như. La: là không bụi bặm Ca: là làm, nghóa là tất cả pháp không tạo tác. Chữ Hàm, ha: nghóa là hành, lại có thanh A, là ma chướng sợ Kim cương tam-muội. Điểm: tức là Đại không, vì hạnh đại không bất định nầy, làm cho tất cả ma chướng rất sợ hãi. Chữ Sưu, ma: là nghóa ngã, nhập vào tự môn A tức là nghóa ngã. Lại vì Đại không vô ngã tam-muội nầy làm các ma sợ, lại chữ nầy có thanh A và dấu chấm. Bốn chữ: Ha, Lô, Hàm, Lũ đều có thanh A, tức là vô hành vô cấu (không tạo tác, không bụi dơ) là nghóa lớp lớp làm cho ma sợ, hai chướng trong ngoài rất sợ. Ở trên, Thánh giả bất động chủ chân ngôn đã xong. Trong đoạn bốn, có tụng chân ngôn ấn, tiếp đến chân ngôn ấn cho đến chúng sanh tâm không lành. Triệu thỉnh phương tiện chân ngôn môn: Nam Ma Tam Mạn Đa Bột Đà Nẫm (quy mạng hết thảy chư Phật). A (hành) Tát Phạ Đát La Bát La Để Ha Đế (tất cả chỗ hại) Đát Tha Yết Đa (Như Lai) Cự Xa (tìm) Bát lý Bố La Ca (đầy đủ). Hành trong đây: nghóa là do thực hành môn nầy mà được nhận lấy công đức lớn của các Đức Phật. Như ở đời tìm xét thì có phân chia nơi, chỗ, không thể khắp mọi nơi mà thực hành thỉnh mời. Nay Như Lai câu thì không như thế. Cùng khắp đến tất cả không chỗ nào không che chở, cho đến có thể vời lấy quả Bồ-đề, tóm lại, thảy đều đầy đủ tất cả công đức Như Lai, mời khắp tất cả chúng sanh, cũng giúp cho đắc đạo. Vì vậy: Câu tiếp theo nói: “Khắp tất cả”. Hại: tức là tìm lấy điều xấu ác, hại khắp tất cả người không điều phục, đều khiến đối với hạnh Bồ-đề thẳng đến, diệu quả được tròn đầy. ngôn. Trong đoạn năm: Tam-muội-da chân ngôn môn, có tụng, ấn, chân Chư Minh: là Bổn Tôn. Trong đoạn thứ sáu: có tụng chân ngôn. Trước dùng dụng cụ trang nghiêm đầy đủ: là đem chuyển hư không tạng thành minh ấn, dùng các hương hoa, ngũ cốc (gồm năm thứ: đạo, lương, thúc, mạch, tắc) và năm thứ thuốc vận dụng trong lòng trang nghiêm đầy đủ, hiện ra việc trang nghiêm đầy đủ có thể biết. Dùng chân ngôn ấn gốc là chân ngôn Bất động tôn ấn. Át-già chân ngôn môn: là nghóa ở trong một câu bên phải. Già-già-na: là nghóa Hư không. Bà-ma: là nghóa Đẳng. A-bà-ma: là nghóa Vô đẳng, tức là “đẳng hư không vô đẳng”. Pháp thân Như Lai vốn thanh tịnh, không có sự phân biệt cho nên không có bờ mé sánh đồng hư - không, nhưng lại có công đức vô lượng vô biên không thể suy nghó bàn luận, không phải hư không kia đã có thể ví dụ, cho nên nói là “Vô đẳng”, lại nữa “A-bà-ma” là nghóa “bất đẳng”, bất đẳng ấy có chỗ nói là Nhị - thừa, nay đã sánh bằng hư không, lại đẳng nầy là Vô đẳng, vì thế nói “đẳng hư không vô đẳng”. Trước hết chữ Già nầy là thể chân ngôn. Trong thế giới chúng sanh sự đến đi cũng không thật có, trong pháp giới sự đến đi cũng không thật có, do đó gọi là “đại không”. Dùng nước Đại không tánh thanh tịnh nầy, tắm gội thân Vô cấu, đó là “Át-già chân thật ngôn”. Trong đoạn thứ bảy: Có tụng chân ngôn ấn. Chứng Bồ-đề tối thắng: là người tu hành có khả năng đắc quả. Như Lai tòa chân ngôn môn: A: là chướng. Bàng: có hai dấu chấm tức là trừ bỏ; ở đây chính là nghóa dứt “cái”, “chướng”. Vì đây là tòa rốt ráo không khởi tất cả chướng. Vì sao? Vì chữ A là chướng, chữ A có công năng trừ chướng. Trong đoạn thứ tám có bốn: Lại nữa, nêu dứt trừ cho đến khiến cho hết không còn dư: là nói “đức” của “Bất động tôn ấn chân ngôn”. Tự thân sở sanh chướng: là vọng tưởng đã sanh hai chướng trong ngoài. Người trí nên chuyển tác, cho đến làm thân Kim cương tát-đỏa: là thành Kim cương tát-đỏa thân môn. Một bài tụng người trí v.v… là nói chung thành thân Kim cương tát-đỏa. Kim cương chủng tử tâm môn: Chữ Xọa là sở chuyển tự tánh thanh tịnh tâm thành chữ Kim cương chủng tử, cho nên nói các pháp lìa ngôn thuyết. Hỏi: Vì sao trong pháp cúng dường trên có dấu chấm, kinh nầy bên cạnh có hai dấu chấm, vậy cả hai cùng Kim cương chủng tử ư? Đáp: Cúng dường là tự thể của pháp, kinh nầy hiển bày đại dụng của pháp, vì thế nói cả hai cùng chung không ngăn ngại. Ly ngôn thuyết: là nghó chữ Xọa. Cụ ấn: có thể sanh thành ấn Tát-đỏa. Đẳng: chữ Xọa. Hai bài tụng, nên biết trở xuống là có thể đã bắt ấn. Kim cương tát-đỏa chân ngôn môn. Nam ma tam man đa phạt chiết la xá (quy mạng tất cả Kim cương) chiến ma (bao ác) ma ha sái xá (nghóa là rất giận dữ) hâm (sợ hãi) chiến trà (chữ chiến có thanh già là sanh tử, nghóa là lìa sanh tử). Trên có dấu chấm là đại không, nói sanh tử nầy đồng với Đại không. Đồ: Là chiến đấu với quân địch, giống như sanh tử đối với đại không, cho nên không thể đối lại. Nghóa câu Chiến-đồ: là bạo ác. Ma-ha-lộ-sát-noa: rất giận dữ, như trên đã nói, không thể chống chọi cho nên rất giận dữ. Hãm: Đồng như trước đầy đủ ba thứ giải thoát. Lại như trong phẩm trên nói Kim cương tát-đỏa ấn chân ngôn, nghóa ấy như thế nào? Đáp: trong phẩm thứ ba thành tự thể của Kim cương, trong phẩm thứ hai thì hiện bày dụng xoay bánh xe chánh pháp của Kim cương nầy. Hỏi làm sao mà biết? Đáp: Thuyết Kim cương chủng nói rằng: người trí phải chuyển thành thân Kim cương tát-đỏa, sau nói chữ “Khiếm” tức là ngôn, trước nên trú trong tự môn nầy, sau đó làm thân Kim cương tát-đỏa, cho nên biết chưa làm thân Kim cương tát-đỏa thì không làm chuyển pháp luân ấn chân ngôn. Hỏi: Khi nào làm thân Kim cương? Đáp: Trước khi nhập Phật Tam- muội- da khiến làm thân năm chư v.v…. Kim cương tát-đỏa chân ngôn: là bắt ấn và đã tụng chân ngôn. Làm bán Kim cương ấn: tay phải không rãnh thì làm phân nửa cũng được. Khế kinh khác: là bản kinh khác. Kim cương khải tự: Thành áo giáp Kim cương dùng để giữ gìn ấn và hộ thân. Trước đã nói: giữ gìn ấn. Chữ Khư và dấu chấm: là tự môn Khiếm trên đỉnh của Kim cương. Bên phải chẳng phải chỉ có thân Kim cương trang nghiêm, mà hành giả niệm tụng cũng trang nghiêm. Khiếm tự môn chân ngôn. Khiếm: là hạt giống rất siêng năng mạnh mẽ; Đức Phật ngồi đạo tràng hàng phục các ma, tất cả trời, người hiệu là “Đại Cần Dõng” (rất siêng năng dõng mãnh), tức là “Tỳ-lô-giá-na”. Khư là nghóa không, trên có dấu chấm là đại không, vì đại không thanh tịnh nên tất cả đều không. Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm (đồng như trước), ba lần nên nhất tâm làm, cho đến chắc chắn đều lùi, mất. Là hai bài tụng, tổng kết thành tựu Giác Kim cương Hành giả thân hàng phục ma chân ngôn môn, đại ấn của tất cả Phật nầy có khả năng hiện ra đại thế lực oai mãnh của Như Lai, làm cho tất cả sợ hãi, gây chướng nạn, khiến kia hàng phục, cũng có thể ban (cho) tất cả chúng sanh điều nguyện. Hành giả khi kết thúc ấn nầy thì chướng nạn ấy đều chạy tán bốn phương, cho đến năng lực lớn như thiên ma quân chúng cũng lùi mất. Ở Bồ-đề đạo tràng Như Lai dùng ấn nầy để hàng phục các ma. Chân ngôn quy mạng như trước. Ma ha mạt la phạ để (đại lực). Đà xa phạ lộ (mười lực). Ốt bà phệ (đắc). Ma ha muội đát lý dã(hiệp ba, là đại từ). Tỳ dữu ốt nghiệt đế (phát sinh). Ý nầy nói năng lực rộng lớn của các Đức Phật. Năng lực lớn nầy là những năng lực nào ư? Tức là Mười- lực của Như Lai, vì trong tất cả năng lực thì năng lực này hơn hết cho nên gọi là đại (lớn), Như Lai dạy: làm sao được mười lực nầy? Nghóa là nhờ tâm đại từ mà được mười năng lực nầy, vì thế nói năng lực nầy từ Đại từ sanh ra. Thứ dụng trở xuống cho đến tất năng phổ hộ: là kết đại giới chân ngôn môn. Kế là kết đại giới chân ngôn các Đức Phật đã dạy, còn có vô lượng trì minh, e lại có trì minh chân ngôn v.v… vì không kết hộ cho nên có thể phá pháp- sự, tổn hại người trì tụng, do đó thiết lập pháp kết giới nầy, nhờ kết giới nầy nên các trì minh cũng không thể phá hoại. Giống như tỳ-kheo kết giới làm pháp sự, tỳ-kheo ở ngoài giới, tuy tác pháp không thể ngăn phá được. Tát pha đa la nỗ nghiết đế (tất cả nơi chốn, phương hướng, nghóa là mười phương đều phải kết khắp, lại theo phương hướng đều cùng khắp). Mãn đà dã đồ nẫm (theo gốc câu trên, trở lại kết giới câu dưới, ý nầy nói: tất cả phương hướng, nơi chốn đều kết giới). Ma ha tam-muội- da (là Đại tam-muội-da, do Đại tam-muội-da nầy mà kết các giới). Niết xá đế (là tùng sanh. Nghóa là từ Đại tam-muội-da mà sanh ra). Sa ma la nễ (tôi tớ đều nhớ nghó trở lại, nghóa là nhớ nghó đến tất cả giáo pháp của các Đức phật). A bát la để ha đế: không thể hoại, cũng nói là vô quái ngại, cũng là không thể hư hoại. Nhờ kết giới cho nên không thể hư hoại. Đà-ca-đà-ca: ánh sáng tôn nghiêm, do ánh sáng tôn nghiêm cho nên thành kết giới. Đà: là pháp giới (Ca: là nói “tác”; Thể pháp giới lìa các khởi tác, lìa khởi tác là nghóa pháp giới). Chiết-la-chiết-la (Già là nghóa tiêu, nghóa là sanh tử dời đổi. La: là Cấu chướng, tóm cả câu cũng là thực hành xong, đó là kết khắp cả mười phương thế giới, cũng là đến đi, lại nói chính là đến nhanh). Mãn đà mãn đà (giải thích nghóa để kết thúc câu, trên là nghóa phược, dưới thì không, do không trói buộc cho nên sánh bằng hư không, nhờ kết giới nầy cho nên không hư hoại). Nại xa (niệm mười tiếng) Nhó chuyên (là phương, tức là mười phương). Tát bà đát tha nghiệt đa (tất cả các Đức Phật). Nỗ nhưỡng đế (giáo, là tất cả giáo pháp của Đức Phật, trước đã khiến ghi nhớ). Bát la phạ la (sở chứng), Đạt ma (pháp, tức là pháp mà các Đức Phật đã chứng), Lạp đà (là hoạch, là đắc, là chứng). Vó nhược duệ (tức là Vô năng thắng, cao hơn tất cả trong các chướng). Bạt già phạ để (tức là chủ chân ngôn, khen ngợi Đức Thế Tôn). Trưng cự lý (trừ, có khả năng dứt trừ bụi trần, ở trước khuyên trừ, cũng là khuyên chớ làm). Vi cự lệ (trừ, câu trước trừ bụi có hình tướng, câu sau trừ bụi lìa tướng, tức là trừ tất cả chướng, tức là chớ làm chính là trừ). Lệ (hạt giống). Lỗ (dẫn trước), Bổ (nghóa câu đó là nhà lớn, là nơi chốn. Do pháp thân chân thật trừ diệt bụi trần hình tướng). Tức là nhà lớn của các Đức Phật đã ở, khiến đồng pháp giới nầy. Lại thêm chữ Vi cự lệ; chỉ dùng chữ Lệ cuối cùng trong câu này làm hạt giống; La: là tướng, thêm âm “ế” nầy tức là tam-muội, tam-muội lìa tướng, đủ tất cả tướng mà lìa các tướng, đây là thể tướng của giới. Thứ đến là nói lược về chân ngôn môn: Nam ma tam mạn đa bột đà nam (quy mạng như trước). Trong Đại giới nầy, nói từ khi bắt đầu phát tâm Đại Bồ-đề cho đến thành Phật, trong khoảng thời gian đó không để đứt quãng, không trở lại sanh tử, không lui sụt Bồ-đề, tức là nghóa “Đại giới”. Cú nghóa; Lệ (tam-muội lìa tướng). Lỗ (Chó sủa hai tiếng bày ra hai ngã tướng). Bổ (Đệ nhất nghóa là nghóa thứ nhất không thật có). Lý (lìa cấu). Vi (là lìa trói buộc), Cự (cự âm là tác), Lệ (là lìa tướng). Bảy chữ nầy đều là tam-muội, dùng các tam-muội nầy mà làm trang nghiêm, không còn gì hơn được. Đây là Đại giới của các Đức Phật. Trong đoạn thứ chín có hai môn. Từ “Hoặc dùng Bất động tôn” cho đến Hãn. Tổng Biểu thành biện môn. Từ, trước cung kính lễ” cho đến Ma ha mạt lý sa ha: là “Quảng minh doanh biện môn”. Có sáu Đà-la-ni nên biết: Trong Bất động tôn chủng tử tâm chân ngôn môn: Hãn hà: là hành, thanh “A” lại là hành. Dấu chấm: tức là Đại không. Nhờ trụ vị ấy có khả năng hàng phục tất cả, là tâm Bồ-đề làm đại hộ. Trong Quảng minh doanh biện môn: như kinh nói: hương hoa v.v… dùng các thứ hương hoa, năm thứ báu, năm thứ thuốc và năm thứ lúa đậu, gia vào nước Át-già dâng cúng, dùng mật ấn sái tịnh, đúng như pháp gia trì vào nước Át-già, dùng Bất Động Tôn Tuệ lực ấn làm sạch nước trong Át-già, là nước sái tịnh trong tất cả cúng dường. Lại luôn tụng chân ngôn ấy, khi rãi nước tụng chân ngôn bất động. Các thuyết bổn chân ngôn: là các chân ngôn như chân ngôn Hương v.v… Và các minh tự thọ trì. Niệm tụng là chân ngôn bổn tôn. Xưng danh: là hương v.v… Đồ hương chân ngôn môn: kế đến có sáu thứ chân ngôn như: chân ngôn Đồ hương v.v… đều nhập vào Mạn-đồ-la, là những điều cần thiết khi cúng dường, vì thế ở trong phẩm nầy nói, trong nghóa câu trên. Vi thâu đà: là nghóa Tịnh. Kiện đỗ: là hương Nạp-bà-phạ: là nghóa phát sanh, tức là mùi thơm phát sanh. Lấy chữ Vi ở câu đầu làm Thể. Ở trên chữ Phạ viết thêm chữ y, do đó chuyển thanh là Vi. Chữ Phạ: là nghóa Kim cương, là nghóa lìa ngôn thuyết. Tam-muội là nghóa Trụ. Định tuệ ngang nhau như vậy, tức là trú vô hý luận chấp Kim cương tam thế vô chướng ngại trì giới, như thế giới hương kia tánh vốn vắng lặng, không đến không đi, mà thường đầy đủ khắp cả pháp giới, vì thế gọi là “Tịnh đồ hương”, tất cả chúng sanh cùng có như nhau, nhưng vì chưa phát tâm cho nên hương nầy chưa sanh khởi. Nay ta dùng giới hương nầy xoa khắp pháp thân, vì thế có thể dùng hương thơm xông khắp tất cả. Tâm liên hoa chân ngôn môn: trong nghóa câu trên, ma-ha-muội- đán-lý là nghóa Đại từ. Tỳ-dữu-nghiệt-đế: là nghóa sanh, tức là Đại từ sanh. Vì chữ Muội là thể chân ngôn, tức là chữ “Mãng” viết thêm chữ tam-muội, “Mãng” là nghóa tâm, nghóa ngã, cũng gọi là Đại không, nói Hoa sen tâm nầy làm vọng ngã bị trói buộc không lớn lên được. Nay tự chứng biết thật tướng của tâm, vì thế tám cánh, tua, nhụy từ trong tạng từ bi lần lượt mở bày, cho nên nói từ Đại-từ sanh. Lại nữa, hạt giống cây chúa tâm thanh tịnh Bồ-đề từ trong đất từ - bi lớn lên tốt đẹp và nở hoa muôn đức, nhờ phương tiện nên mới thành thật, vì thế nói từ Đại - từ sanh. Nên dùng tự môn giải thích rộng. Thiêu hương chân ngôn môn: trong nghóa câu trên, Đạt-ma-đà là nghóa pháp giới. Nỗ-nghiệt-đế là nghóa tùy sanh, cũng là nghóa đến khắp, cũng là nghóa vượt qua, nghóa tiến lên không dừng. Giải thích rằng, đến khắp pháp giới, lấy chữ “Đạt” ở câu đầu làm thể, vì chúng sanh giới vốn bất sanh, cho đến pháp giới định tướng cũng không thật có, như thế pháp giới sâu rộng không bờ mé không thể đo lường, nhưng người tu hạnh Du-già đặc biệt tiến lên không dừng nghỉ, vì thế nghiệp thân, miệng, tâm đều khắp pháp giới như vậy, dưới đến khi dâng một cành hoa cúng dường Đức Phật cũng khắp pháp giới như vậy, tức là nghóa thiêu hương. Đặng minh chân ngôn môn: trong nghóa câu trên, Đát-tha-yết-đa là Như Lai. Lî-chỉ: là ánh sáng. Tiếp theo nói: Tát-phả-la-xọa: là khắp cả. A-phạ-bà-sa-na là các sự tối tăm. Gia-già-nhu-đà-lý-da: là không hạn lượng, giống như hư không, có ý nói: ánh sáng của Như Lai đến khắp các chỗ tối tăm, giống như hư không chẳng có hạn lượng. Chân ngôn nầy lấy chữ “Đa” ở đầu câu làm thể, như thật tướng ở trong tâm, tức là ánh sáng trí tuệ của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na, chiếu khắp thế gian không chỗ nào không khắp. Nói các ám: là vô minh; vì vô minh vốn bất sanh cho nên thể chính là minh, do đó ánh sáng Như Lai chiếu khắp các chỗ tối tăm. Nói Đẳng hư không: Vì vô minh giống như hư không chẳng đo lường được, vì thế ánh sáng Như Lai cũng giống như hư không chẳng đo lường được, cho đến già chết cũng giống như hư không chẳng đo lường được, do đó ánh sáng trí tuệ Như Lai giống như hư không chẳng đo lường được. Như mười hai nhân duyên tất cả các pháp nói cũng giống như thế, nghóa nhất định như vậy gọi là “Đăng minh chân ngôn; dùng “Minh” nầy gia trì mà cúng dường Phật thì hơn hết trong các thứ cúng dường. Âm thực chân ngôn môn: Trước nói A-la-la nghóa là âm thanh không đáng ưa nghe, âm thanh bất thiện như người lớn tiếng nói to khiến người nghe tâm không vắng lặng. Kế là Ca-la-la: là dừng tiếng lớn bất tịnh ở trước, nghóa là an nhiên vắng lặng. Trong đây chính là dùng pháp hỷ thiền duyệt làm nghóa ăn, vì thế nên nhờ lời nầy. Nếu y cứ vào tướng chữ “luân” thì “A” là nghóa, “Bản sở”: là gốc ban đầu, do có gốc ban đầu nên có hai thứ bụi nhỏ, đó là phiền - não - chướng và trí chướng, do hai thứ bụi nhỏ nầy nên có âm thanh hí luận ồn ào. Nay vì các pháp vốn bất sanh, tức là mở cửa cam lồ thành cơm Niết-bàn, vì thế gọi là A-la-la. Lại nữa, nếu người siêng tu phạm hạnh, hy vọng được pháp vị như thế. Do có tạo tác cho nên hai chướng sanh khởi trở lại, không phải là sắc lực thường hằng vị chân cam lồ, nay vì các pháp không tạo tác, cho nên nội chứng vị không từ người khác được, như ăn cháo, sữa, không còn gì sánh bằng, vì thế nói dừng các âm thanh bất thiện ở trước. Mạt-lân-nại-da-nhị: Phàm, ở Tây phương thức ăn dâng cúng, trên là dâng cúng các Đức Phật, dưới đến loài thần quỷ, gọi chung là “Mạt- lê”, ý nầy là thọ thức ăn do ta cúng. Tiếp đến nói: Mạt-lân-nại-na: Ý nầy nói: Thọ thức ăn do ta cúng, thọ thực rồi phải trở lại cho ta thức ăn nhiệm mầu, như người thế gian đem thức ăn ngon cúng dường gieo ruộng phước là để cho đời nay, đời sau không thiếu cơm ăn. Nay dùng vô tận pháp thực cúng dường để gia trì cho thế gian; dâng cúng chư Tôn, lại sẽ đầy đủ sở nguyện của ta, thường đầy đủ vị bất tử, bất sanh. Kế đến nói Ma-ha-mạt-lý: Tức là đối với các thức ăn càng thêm dồi dào ngon ngọt. Do đây phân biệt với câu trên nói: Nay vật ta dâng cúng và sự mong cầu đều cùng cực không gì sánh bằng, không vị nào hơn được, không tìm thức ăn, có hạn lượng. - Trong đoạn thứ mười, và những người khác: là người có sức, chẳng những chỉ có năm thứ cúng dường, mà còn có cúng dường rộng lớn. Nghóa là nước bốn biển làm ao sen, kiến lập toàn hoa sen xanh, trắng, thức ăn thơm tinh khiết, tâm không thể lường được, núi, nước, cỏ, cây, hoa, quả, trong sạch thơm đẹp gần như cõi Cực lạc, sánh đồng hư không, buông thả mây thơm đầy khắp mặt đất, dựng cờ phướn, lọng báu, cây báu ma-ni khắp mặt đất, dùng các thứ trên cúng dường đầy đủ cho nên nói cúng dường các thứ đầy đủ. Y theo phép tắc nầy: là Bất động tôn. Cho nên cầm các vật: là vận tâm cúng dường. Ưa muốn cúng dường vật: tức là bắt ấn cúng dường khắp cả, điều nguyện đều thành tựu. Bình đẳng như pháp giới: là như lý, cũng nói là thích hợp. Vào khắp trong các đường: Nhập: là hướng vào. Phước đức được sanh khởi: Hỏi: Từ vận tâm sanh ư? Từ Phật, Bồ-tát sanh, cũng từ chân ngôn ấn sanh ư? Đáp: chẳng phải từ một mình sanh ra, mà từ hòa hiệp sanh ra, do đó gọi là “Năng sanh”. Từ cờ phướn, v.v… cho đến cúng dường thành Phật sự. Các mưa: Mỗi vật cúng dường thành mây, mỗi đám mây chuyển mưa xuống các vật cúng, như vậy xoay vần không thể cùng tận. Vì sao? Vì từ lý đã sanh ra, lý không cùng tận. Tư duy: là Bổn tôn sờ cúng Dùng hư không tạng minh v.v… có công năng sanh ra cúng dường pháp. Ba lần chuyển: ba phen. Trì hư không tạng minh cho đến công đức tự viên mãn, hiển bày công đức tạng. Tạng: có công năng sanh ra năng tạng. Câu thêm lên: là hiển bày nghóa “năng”. Hai câu tùy thời v.v… là người có đạo tâm trí tuệ yếu kém. Phật. Đời nầy cầu tất địa: là tuệ lực mạnh mẽ mong chóng thành quả Chỉ khởi tâm: là vận tâm. Việc làm đã rốt ráo: là đến hiển bày tướng. Ngoại nghó quỹ: là sự tướng cúng dường. A-lê-sa: là khen ngợi công đức Phật. Vô đẳng vô sở động, cho đến ba cõi không chỗ nương: là khen ngợi công đức môn của Phật. Một bài kệ dứt khổ. Một bài kệ cho vui. Một bài kệ dứt khổ cho vui không có giới hạn bến bờ. Một bài kệ không có giới hạn thời gian. Một bài kệ không thể che lấp. Một bài kệ cứu giúp đều cùng khắp. Một bài kệ không người nào không cho. Một bài kệ khiến cho sinh quả. Một bài kệ nguyện không cừng nghỉ. Một bài kệ nhất định đều ban cho. Nên tụng bản Phạn: là chữ Phạn. Không được chữ Phạn dựa vào chữ đời Đường, được ý cũng giống nhau. Từ “Tụng trì kệ như thế khen ngợi rồi” trở xuống là sáu bài tụng rưỡi: là kết lời khen ngợi và kết nguyện trước, xin đặt lại giới cấm. Hai câu đầu: là kết trước, khởi sau. Hai câu kế: là nguyện xin Bốn câu tiếp theo: là khen ngợi đức. Sáu câu tiếp đến: là xin tôn kính. Tám câu kế tiếp: là tôn kính khợi khen Bốn câu cuối cùng: là khuyên đặt ra giới cấm. Hỏi: thứ nhất, thứ hai cầu nguyện, thứ nhất thứ hai khen ngợi có nghóa như thế nào? Đáp: trước là cầu xin quả, sau cầu xin quả dụng, trước là khen ngợi Đức Phật ta, sau là khen ngợi Hư không - tạng - minh đầy đủ các đức. ----------------------- <詞>PHẨM THỨ TƯ: TRÌ TỤNG PHÁP TẮC Có bốn phần giống như trước: Giải thích tên phẩm: trong tâm năng tu thì pháp sở tu được ghi nhớ rõ ràng, cho nên nói là trì. Về phép tắc sở tu thì miệng thường đọc tụng, do đó nói là “tụng”. Pháp tắc: có khả năng giữ được Tâm Nhân, và quả báo đạt được rốt ráo không sai, cho nên nói là pháp tắc. Nói pháp trì tụng tức là pháp, thuộc về trì nghiệp thích. Nguyên nhân phát ra phẩm nầy: trong phẩm trước, người trì tụng cúng dường cho nên dẫn đến phẩm nầy. Tông thú: chỗ nói không sai lầm là Tông, được lợi ích cho người là thú. Giải thích văn, có hai: trước nêu lên sau giải thích. (Trong phần nêu lên) Hai câu đầu: kết trước khởi sau. Thánh thiên v.v… Thánh: là Bồ-tát. Thiên: là Tịnh, do Đức Đại nhật hóa ra, ứng với cơ Thiên. Trụ tướng nên ngồi: Vào đạo tràng, đối diện với Bổn tôn lập tức ngồixuống. Nhập tam-muội: Chuyên chú vào một cảnh, trú tâm vào Bổn tôn, tâm không tạm bỏ. Tứ chủng: Văn dưới quán Bổn tôn. Trong tâm Bổn tôn tròn sáng soi thấy chữ chân ngôn, lần lượt thọ trì. Tịnh lự: nói khác là “Định”, trú tâm ở bốn chỗ, bên ngoài không tán động. Quỹ nghi: quán bốn thứ kia tức là khuôn mẫu phép tắc, năng sở hợp nhau. Có khả năng khiến cho nội tâm: tức là tự tâm; mong hợp với lý nay xứng với bổn tâm sanh vui mừng, vì thế nói là sanh hỷ lạc. Dùng nghóa chân thật: tức là quán sát chân ngôn một cách sâu xa,ngộ lýbất sanh. Gia trì: trong chân ngôn, có quán tâm. Sẽ được: Lúc mới quán tâm. Thành đẳng dẫn: hợp với vốn bất sanh. (Y cứ vào hậu thích, có mười môn) Nhược khi niệm tụng chân ngôn cho đến đó gọi là thế gian cụ tướng hạnh, đó là “hữu tướng niệm tụng môn” thứ nhất. Tứ chi thiền môn lại khác, cho đến trong phẩm du-già thắng nghóa có nói, đó là Vô tướng niệm tụng môn thứ hai. Nên chuyển biến minh tự môn cho đến trong phẩm trước có nói là “biến tự thành thân môn”. Bổn tôn Tam-muội tương ưng cho đến theo hơi thở ra vào: là Bổn tôn Tam muội tùy tức môn. Hoặc tu ý chi pháp cho đến lạu vì nhất phương tiện: là “ý chí niệm thanh chân ngôn môn”. Một bài kệ, từ có những người tu phước tuệ, v.v…là tu vô định môn. Nếu ưa cầu hiện pháp cho đến cụ chi cúng dường nên biết như thế, là nhạo cầu hiện pháp thành tựu môn. Lại vì ưa tu tập cho đến mau được thành tựu Tất-địa: là Đại Nhật tam mật tốc đắc môn. Lại nữa, nếu quán niệm cho đến mau được thành tựu: là Thích ca chân ngôn thành tựu môn. Từ, lại nữa chỗ ở của bổn tôn cho đến người trí phải hiểu biết: là Bí mật sự nghiệp khả giải môn. Sơ trung niệm tụng thời: ngay khi ban đầu mới cầm tràng hạt khởi niệm đọc tụng. Nay: thời gian trước hết nói là “nay”. Phương tiện kia: khi bắt đầu niệm tụng nói là kia. Điều mở bày: trong phẩm cúng dường nghi thức, mở bày bổn tôn. vv…. sáng. Khiến tâm sạch không nhơ: là không khởi niệm tham, sân, si Số: số được nói đầy đủ. Thời phần: là giới hạn ngày tháng. Tướng hiện v.v… là tượng vẽ trong tháp phát ra lời tụng và ánh Hữu tướng: ngoài tự thân, đới tướng quán sát. Tứ chi: trên có bốn thứ. Lại khác: Bên ngoài tự thân mình không quán bổn tôn. Hễ khi nào chánh quán thì thực hành từ Đại nhật. Thiểu: khi tu không nhiều. Phước: ngoài hương hoa, không có năng lực khó phân biệt. Thành tựu: là ngộ và khế hợp một cách mầu nhiệm về trí bản địa của đại nhật. Một câu dưới: đưa chứng cứ để nói, là cờ nêu của ba thân Bí mật, vốn tự thấy hình tướng của tự thân Bổn tôn. Thừa vị kia: là tự vị của Bổn tôn. Bốn là dùng tâm: là chữ hạt giống. Trí tâm: là tâm hoàn toàn. Là hạt giống: Hành giả nhờ tâm niệm tụng chân ngôn nên từ nhân được quả, vì vậy gọi là hạt giống. Tâm Bồ-đề: là chân ngôn. Mầu uất kim sắc: là mầu vàng ròng. Đồng chân: là tên khác của đồng tử Văn-thù-sư-lợi Bồ tát chân ngôn môn. Kế là Văn-thù nhập Phật gia trì thần lực tam-muội, gia trì tam- muội nầy như trên Kinh Tỳ-lô-giá-na ban đầu đã nói. Hê hê (là nghóa kêu gọi). Câu-ma-la-ca (là nghóa đồng tử, tức là kêu gọi mỗi vị nhớ nghó bổn nguyện. Lại đều là nghóa trừ phá. Ma-la: là quyến thuộc của Ma, có chỗ nói là bốn ma. chân ngôn nầy lấy chữ “Ma” làm thể, tức là nghóa “Đại không”, chứng “Đại không” nầy thì trừ phá, hủy hoại tất cả ma). Tỳ-mục-để-bát-tha-tất-thể-đa (trú đạo giải thoát ấy, nghóa là kêu gọi đồng tử nầy an trụ trong đạo giải thoát, tức là các Đức Phật giải thoát, có chỗ nói Niết-bàn). Bà-ma-la-bà-ma-la (là nhớ nghó, nhớ nghó), Bát- la-để-nhiên (trước đã lập nguyện). Ý chân ngôn nầy nói: kêu gọi đồng tử trú trong đại giải thoát nhớ nghó bản nguyện đã lập. Tất cả các Đức Phật pháp thân thành Phật, nhập thân, miệng ý, Bí mật thể; tất cả người hữu tâm không thể đạt đến, nhưng nhớ bản nguyện xưa, dùng năng lực tự tại gia trì trở lại trong sanh tử cứu độ chúng sanh, ý chân ngôn nầy cũng như thế. Đồng tử nầy thành Phật pháp thân đã lâu cho nên thỉnh Ngài, lại nhớ bản nguyện cứu độ chúng sanh. Do thỉnh bản nguyện Bồ- tát, nếu có người nào thấy, nghe, hay, biết nhớ nghó đến Ngài thì đều đối với ba thừa mà đắc định hoàn toàn, cho đến đầy đủ tất cả nguyện. Bồ-tát nầy thành Phật đã lâu, cái gọi là thấy khắp Như Lai, hoặc nói hiện khắp Như Lai, vì năng lực đại bi gia trì thị hiện thân đồng tử. Phổ Thông chủng tử tâm chân ngôn môn: Chữ Ca, tất cả các pháp lìa tác nghiệp: Tiếng Phạn Ca-lý-da là nghóa tác nghiệp, như các ngoại đạo chấp có người làm, người khiến làm v.v… Luận Sư các bộ cũng nói ba việc hòa hiệp có tác, có tác giả và có tác pháp sở dụng, nếu nhờ theo phương tiện Bát-nhã, nói có quyết định thì rơi vào vô nhân, nếu rơi vào vô nhân thì tất cả pháp không nhân, quả. Pháp năng sanh gọi là “nhân”, pháp sở sanh gọi là “quả”, đó là hai pháp vô, Tạo tác và người tạo tác chỗ sử dụng pháp tạo tác: tội, phước, nhân, quả báo và đường Niết-bàn tất cả đều không. Lại nữa, tác và người tạo tác nhân cùng đợi sanh, nếu trong định có pháp tạo tác thì ngay trong định có người tạo tác, đó là không khác với luận nghi của ngoại đạo. Như trong phẩm Tác Giả của Trung luận chép: “Nay chính quán sát Tác, người tạo tác v.v… thảy đều từ các duyên sanh, tức là nhập “mé vốn bất sanh”. Mé vốn bất sanh: là có Phật, không Phật, pháp nhó như thị, ai tạo tác ư? Ấy, cho nên nếu thấy chữ Ca thì biết tất cả các pháp đều là tạo tác mà thành, gọi là tướng của chữ. Nếu có người tác pháp: phải biết rốt ráo không tạo tác gọi là nghóa chân thật. Nhất thiết Bồ-tát chân ngôn môn: Nam ma tam mạn đa bột đà (quy mạng như trước). Tát bà ta (tất cả). Vi mạt để (vô tuệ, vì không có trí tuệ nên gọi là nghi; chữ nầy chính là giải thích danh là nghi). Vi chỉ la ninh (trừ , đây là nghóa trừ bỏ, như người trừ bỏ phân dơ gọi là trừ phẩn). Đạt ma đà thử (pháp giới, để trừ tất cả vô tuệ, đều khiến trú trong pháp giới). Niết xà đa (sanh, chữ Niết tức là nhập Đại không, tam-muội từ đây mà sanh tức là sanh pháp giới). Sâm sâm ha (ba chữ nầy đều là hạt giống) Tát: là nghóa vững chắc giống như bỏ sự vững chắc này cho nên trên hết. Điểm: là tam-muội, biết Nhị thừa nhập vào Niết-bàn, đây tức là nghóa vững chắc. Cho đến nếu có sự vững chắc: Tức là tướng sanh trụ. Tất cả pháp động bất động, đều là không yên, giống như trừ bỏ ở đây, do đó có nghóa là tam-muội trùng không. Ha: tức là hạnh, có chỗ nói hạnh của Như Lai. Sẽ được bình đẳng với hư không: là lý hư không. Nói các pháp cũng thế: là không những chữ “Già” mà tất cả các chữ cũng đều như thế. Trong đầu: Là bộ não trong xương đầu. Chữ Sơ: là chữ A mầu vàng. Thuần bạch: là chữ A có chấm. Là đứng đầu trên hết trong trăm “Minh”. Tâm: là vua trong các điều tốt đẹp. Nhãn giới: tức nhãn xứ. Chữ Vô cấu là: chữ lãm; có chỗ nói: chỗ đặt mắt. Hiện tiền: là chỗ mắt và tâm đều thấy. Chỗ tâm kia: Là tâm hoàn toàn của hành giả. Tùng tâm nầy khởi: Nhân chữ A tâm khởi chữ thanh. là. Chữ Ca làm đầu: là sơ. Sơ: là nhân, nhân của hạt giống. Tự môn: khác là tự môn riêng, bổn tôn riêng, cho nên nói hoặc Đều nên tu pháp nầy: Chữ Ca dùng làm hạt giống. Niệm dùng âm thanh chân thật: là lý không tạo tác. Hoặc chân ngôn sở trì: Từ chân ngôn của bổn tôn. Hoàn liệt: chân ngôn rộng lớn. Tròn sáng: là tâm tròn sáng. Đơn tự: là hạt giống. Nhân của câu: ba chữ trở lên là câu. Nhân: là chữ nương nhau, theo nhau. Song, trong pháp chân ngôn mỗi chữ đầy đủ pháp năng thuyên cho nên khiến hiểu biết vật. Theo hơi thở ra vào: Từ hơi thở. Trong môn thứ năm, hoặc chi pháp tu ý. Ý chi: là phân biệt với việc ngoài tâm. Ứng lý: là tâm chí lý. Phương nãi: là nơi chốn thời gian trì tụng. Giải: là mệt mỏi Lại là một phương tiện: là từ nhân đến thành Phật nương một pháp nầy. Trong môn thứ sáu, có những người tu phước tuệ: là người mới tụng niệm, tuệ yếu phước ít. Trong môn thứ bảy, nếu ưa cầu hiện pháp: là người mạnh mẽ trí tuệ sâu sắc. Thượng: là Phật Trung: là Bồ-tát. Hạ: là Thanh văn dứt bỏ phiền não. Tâm thọ trì: là xét rõ ràng phân biệt để lựa chọn công việc. Tùy lực: Nghóa là cũng đắc. Nhất lạc-xoa: là mười vạn, cũng nói là kiến. Nếu trong mỗi số không lìa bổn tôn, không tán loạn nói là đầy đủ mười vạn (một lạc-xoa). Nếu người tán loạn thì vạn vạn lạc-xoa cũng không thành tựu, cầu được định tâm được thấy Bổn tôn, cho nên nói. Kiến: Trải qua tháng thứ hai đầy đủ các chi phương tiện mới tu: một ngày đầu tiên của tháng thứ ba làm pháp thành tựu, nghóa là mong đợi Đức Phật chỉ ma mới làm. Dùng tâm ý trì tụng: là được thấy ánh sáng v.v… Trong đoạn thứ tám: Trải qua một tháng: đầy đủ một lạc-xoa (mười muôn) cũng nói một phen thấy. Kế là nói phương tiện kia: khi tụng niệm muốn đầy đủ, muốn thấy. Nên nương tựa: là pháp ở dưới. Đại nhật Như Lai chủng tử tâm chân ngôn môn: Chữ A: là tất cả các pháp vốn bất sanh. Chữ A là nguồn gốc của tất cả giáo pháp, hễ âm đầu tiên mở miệng đều có thanh “A”, nếu lìa thanh A thì không có tất cả ngôn ngữ, vì thế là mẹ của tất cả các thanh. Hễ là ngôn ngữ trong ba cõi thì đều nương vào danh, mà danh nương vào chữ, do đó đều nói chữ A cũng là mẹ của các chữ. Nên biết nghóa chân thật của tự môn A cũng lại như thế. Nghóa cùng khắp ở trong tất cả pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều từ duyên sanh. Từ duyên sanh: là đều bắt đầu có nguồn gốc. Nay quán duyên năng sanh nầy, cũng lại từ các nhân duyên sanh, xoay vần theo duyên cái gì là gốc? Khi quán sát như thế, thì biết mé vốn bất sanh, đó là nguồn gốc của muôn pháp, giống như khi nghe tất cả tiếng nói (ngữ ngôn) tức là nghe thanh “A”, như vậy thấy tất cả pháp sanh tức là thấy mé bản bất sanh,nếu thấy mé bản bất sanh tức đó là biết tự tâm như thật, biết tự tâm như thật tức là biết “nhất thiết trí”. Vì thế Tỳ-lô-giá-na chỉ lấy một chữ nầy làm chân ngôn. Những phàm phu ở thế gian không quán nguồn gốc của các pháp nên vọng nói có sanh, trôi theo dòng sanh tử không thể tự ra khỏi. Như người thợ vẽ vô trí kia tự vận dụng các màu sắc vẽ thành hình dáng dạ xoa đáng sợ, thành rồi lại từ mình xem, tâm sanh sợ hãi bỗng nhiên té ngã xuống đất. Chúng sanh cũng như thế, tự vận dụng nguồn gốc các pháp vẽ thành ba cõi, nhưng trở lại tự chìm đắm trong đó, thân tâm hừng cháy chịu đủ các khổ. Như Lai là người thợ vẽ có trí đã hiểu biết rồi, nên có thể tự tại thành lập Đại bi mạn-đồ-la, do đó mà nói, cái gọi là tạng Bí mật sâu xa ấy chỉ vì chúng sanh tự Bí mật mà thôi, chứ không phải Đức Phật có che dấu. Hỏi: Chữ A nầy là hại giống; trong phẩm thứ ba trước thì hạt giống hết sức mạnh mẽ, ngay trong Sớ nói là hạt giống “Đại nhật”. Nghóa ấy như thế nào? Đáp: Chữ A là sanh quả Bồ-đề. Chữ khiếm là hiện quả Niết-bàn, vì thế nên hai thứ hạt giống cũng không ngăn ngại. Như Lai hào tướng chân ngôn môn: Quy mạng như trước. A hành, ngân nhân, nhược sanh: là dùng hạnh sanh nầy để thanh tịnh tất cả nhân. Xà: là sanh không thật có. Một bài tụng, như trước chuyển chữ A v.v… là khen chung chữ năng thành. Trụ bổn tôn Du-già trở xuống là nương vào công năng thành chữ để trang nghiêm thân hành giả. Trước: như trong phần trước chuyển chữ A, đem sử dụng năm chữ A v.v… gia trì trên thân hành giả, đã có thể chuyển năm chữ gia trì, cho nên nói là thành Đại nhật tôn. Trong phần rộng giải thích; một bài tụng, từ trụ bổn tôn Du-già v.v… là nói chỗ để an trí chữ. Một bài tụng, đối với tam-ma v.v… là nói chỗ tác dụng của tâm năng quán. Năm thứ chân ngôn tâm môn, năm chữ làm thân. Ấn hào tướng đặt giữa hai đầu chân mày, chữ A là trăm tia sáng thành quả, mở mắt vô cấu thấy lý tánh thanh tịnh, ngồi nhà lớn vô sanh. Một bài tụng, chữ A khắp mầu vàng ròng v.v… nói về màu sắc và chỗ an trí chữ. Trong đây dùng làm Kim cương luân: là an trí chữ ở bốn góc vòng Kim cương, và mầu sắc nhạt nhẽo của chữ. Gia trì vào hạ thể, chân ngôn là giữa eo. Du-già: là thân Phật không khác với ta, cho nên nói Du-già. Tòa: là nương pháp Phật mà ngồi. Thủy v.v… Du già có thể biết. Một bài tụng chữ xọa v.v… nói bi thủy du-già. Sương nhóm: là hành giả tự dốc lòng chuyên chú. Cũng sương nhóm: vầng trăng tròn để đặt chữ. Một bài tụng chữ lãm v.v… nói hiểu rõ hỏa du-già. Trong tam giác: là nói chỗ đặt chữ và màu sắc chữ nhạt nhẽo. Một bài tụng chữ hàm v.v… nói du-già tự tại. Phong luân: là nửa vầng trăng để đặt chữ. Một bài tụng chữ khự v.v… là nói Đại không du-già. Tưởng thành tất cả mầu: là chẳng những chữ thành tất cả mầu sắc, mà chữ đã đặt nơi bốn góc cũng thành tất cả mầu sắc, chữ ở khắp nơi thì ít, cạn. Trăm tia sáng chiếu khắp: là chữ A có chấm. Vô cấu: là chữ Lãm. Chỗ tròn sáng của vầng trăng tâm: người có nhớ nghó tụng niệm đã thấy chỗ tâm của bổn tôn. Nếu không cùng sở quán với người tụng niệm tức là tự hoàn toàn chỗ tâm. Thanh man: chữ hạt giống đặt ở giữa. Các chữ khác bao bọc chung quanh. Tùy chỗ mà thọ trì: là tự Bổn tôn chân ngôn. Trong đoạn thứ chín, Thích-ca Như Lai chân ngôn môn: Kế đến, Thích-ca Như Lai nhập vào Bảo xứ tam-muội. Bảo từ kia phát sanh ra cho nên gọi là Xứ, giống như trong biển lớn sanh ra các thứ quý, nếu đến khu vực kia, thì tùy ý cần dùng không gì không đầy đủ. Đức Phật nhập tam-muội nầy rồi, từ khuôn mặt Ngài phát ra các thứ ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra chân ngôn nầy, cho đến khắp tất cả cõi Phật, các chân ngôn khác nên biết, như ở đây nói. Tát-phạ-cật-lệ-xa (tất cả phiền não). Nê tô đà na (phá diệt, chung với câu trên nói là phá diệt tất cả phiền não). Tát phạ đạt ma (tất cả pháp). Phạ thế đa bổ la bát đa (được tự tại, chung với câu trên nói là đối với các pháp được tự tại, vì trừ các chướng). Già-già-na (hư không). Bà- na (trong thanh bằng có thanh A). Bà-na (Bà-na là nghóa bình đẳng, tức là sánh đồng hư không, thực hành “không” vô biên thanh tịnh, đối với tất cả tự tại không chướng ngại, giống như ở giữa hư không, đồng với hư không). Câu dưới và chữ A liền với nhau là Vô đẳng. Bất đẳng: Tức là Nhị thừa, vì có chỗ thiếu sót cho nên nói là “Vô đẳng”, tức là thực hiện quyền ý). Nhưng chân ngôn nầy bắt đầu lấy chữ Tát làm thể. Bà là nghóa lậu. Lập là nghóa bền chắc. Nhập vào tự môn A là vô lậu vô kiên không rỉ chảy, không vững chắc). Nếu có vững bền tức là pháp sanh diệt bị phá hoại. Nếu khiến đồng với chữ A thì bền chắc nầy xưa nay bất sanh, tức là đối với các pháp được tự tại. Giống như giữa hư không có thể làm tất cả châu báu. Riêng nói Đức Thích-ca dùng năng lực Đại bi ở khắp thân thể nhỏ nhiệm giống như Kim cương, hàng nhất xiển-đề v.v… cũng khiến thấy đây phá hoại cái thấy nầy mà vào phật pháp. Ngài thực hiện nguyện rất quý báu há không phải ở đối với các pháp mà được tự tại, có thể phá tất cả sự vững chắc ư? Như thế: hướng về Tỳ-lô-giá-na, người trong pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu-ni tụng niệm như đã trang nghiêm thân. Kinh nầy: là phân biệt với kinh khác. Cũng nêu như phương tiện: trước là kinh nầy. Tự môn quán: là hạt giống. Nếu nương vào hạnh nầy Như Lai: là lựa chọn Bồ-đề Kim cương, v.v… Đại bi Thai tạng: là sự nghiệp Đại bi của Như Lai. Vương: là Đức Phật Tỳ-lô-giá-na. Được A-xà-lê quán đảnh: là được A-xà-lê truyền pháp quán đảnh. Như trong luật thọ giới Cụ túc. Trì minh quán đảnh: như trong luật, người chưa thọ giới cụ Túc, nhưng tự làm Bổn tôn chân ngôn ấn tụng niệm, không được, học rộng. Nếu người muốn được học khắp đến nhờ Đức Phật che chở, chí thành tụng niệm, đã được che chở rồi thì thỉnh A-xà-lê truyền pháp, mong được học hết pháp quán đảnh của A-xà-lê, mới có thể rộng thực hành. Tứ chi Thiền: là Bổn tôn v.v… chẳng những diệt trừ phiền não mà đối với người tu hành cũng đầy đủ phép tắc. Bổn pháp: tức là nhập Phật Tam-muội-da v.v… Trong đoạn thứ mười có năm môn. Hai câu đầu là chung. Sở trụ của Bổn tôn: trong ba bộ v.v… được tôn vị nào?. Mạn-đồ-la vị: tùy theo bổn tôn được lập đàn tràng. Hai câu tiếp theo giải thích. Hình sắc kia là mầu: là mầu sắc Bổn tôn. Nương thử du-già nầy: là Bổn tôn mầu vàng, đàn tràng mầu vàng. Bổn tôn màu vàng sẩm thì đàn tràng mầu vàng sẫm. Hai câu đầu là nêu chung. Hai câu tiếp theo là giải thích sơ lược. Có ba chủng: là từ nhân đến quả có ba nghóa. Ở trong khoảng giữa tịch tai: cũng tâm tụng niệm, ngộ ba độc phiền não bất sanh nói là vắng lặng tai họa. Tăng ích: Ngộ phiền não bất sanh trí tức là Phật quả, đắc Phật quả cho nên nói tăng ích. Hàng phục tâm: có hai nghóa. Sau khi thành Phật phiền não không khởi, nói là hàng phục. Vì không khởi cho nên có công năng thu nhiếp muôn đức, cũng có nghóa nhiếp triệu (thu nhiếp tất cả). Hai câu ba thuần tố v.v… là giải thích mầu sắc hình dáng kia. Gồm bốn phần: Tố: là đàn tròn. Giác: là đàn hình vuông Xích: là đàn tam giác. Thân huyền: đàn tràng có tám cạnh, tức là đàn tràng hoa sen. Thuần sắc hai thứ chữ chung cả bốn đàn tràng. địa”. Tám câu phía bắc v.v… là giải thích rộng tác dụng của Tất- Trụ trong toà hoa sen: là ngồi kiết già. Có chỗ nói trước hết chân trái đặt lên trên đùi vế chân phải, sau chân phải đặt trên đùi vế chân trái. Cát tường tọa: là chân phải đặt lên vế chân trái, cũng gọi là ngồi bán già. Hiền tọa: là ngồi chồm hổm (ngồi xổm), hai gót chân đặt ở phần sau thân, chân sát đất. Tổn tọa: là phần sau không sát đất, dùng gót chân phải chống chõi chân phải không sát đất, đầu gối hơi hướng về trước một tí là đúng. gì. được. Cờ nêu: tức là Ấn v.v… Tánh: là tự thể mà Bổn tôn an trụ. Tự thể: là tự vị. Hình sắc: là tướng mạo bên ngoài của Bổn tôn. Oai nghi: là vật báu giữ gìn . Tùy sở ứng: Tuỳ theo Bổn tôn mà cúng dường loại hương hoa Bỏ chỗ đi xa: bỏ đi. Tồi hại: Đàn tràng tam giác đã làm phép; Đàn Hoa sen làm cũng Tám câu, ở đầu chân ngôn v.v… là chuyển biến chân ngôn môn. Trong đây, hai câu đầu: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm hồng phát sa ha: nghóa là người tụng niệm không dính mắc ba độc, nay đồng với bất sanh cho nên nói tai họa vắng lặng. Hai câu kế: Nam mô tam mạn đa bột đà nẩm hồng phát: nghóa là trong pháp thật tướng có chân thật, hành giả dùng pháp ăn uống cho nên nói thu nhiếp tất cả dụng. Một câu tiếp theo: Nam mô tam mạn đa bột đà nẩm, nạp ma hồng phát: Nạp-ma nghóa là hành giả sau khi nhận pháp ăn uống, đắc pháp lực cho nên nói tăng ích dụng. Một câu kế tiếp: Nam mô tam mạn đa bột đà nẩm hồng phát: nghóa là hành giả sau khi đắc pháp lực thì phiền não trần sa cùng một lúc liền diệt, cho nên nói hàng phục dụng. Câu kế là chung cho ba chỗ: là chỗ vắng lặng tai họa, thêm lớn lợi ích và hàng phục phiền não. ---------------------- <詞>PHẨM NĂM: CHÂN NGÔN SỰ NGHIỆP Có bốn phần môn như trước Giải thích tên phẩm: Chân ngôn: như trước đã giải thích. Sự: là khác nhau Nghiệp: là tạo tác Nguyên nhân có phẩm nầy trong phẩm trước, nương vào phép tắc để trì tụng, mà tụng nhất định có sự nghiệp chân ngôn, cho nên phát sanh phẩm này. Tông thú: Bổn tôn trở về Bổn xứ là “Tông”, chân ngôn ẩm thực không làm chết yểu thiên mạng, cuối cùng đưa về Bồ-đề vô tướng đó gọi là “Thú”. Giải thích văn: có mười môn. Thượng hoằng hạ hóa tu cung môn. Từ “Kế là giữ gìn sở tạo cho đến tôi cũng phát nguyện như thế “ là “Như Phật ngã tu hồi hướng Môn”. Từ “Kế là nên kính dâng cho đến thảy đều Viên mãn“ là ”Hiến át-già hậu tống Tôn môn”. Từ, “Lại nêu như trước cho đến không có khác là “bị giáp hiện tu như Phật môn”. Từ, “Kế là sanh khởi thêm cho đến không nên uống ăn, là “tự trú Phật thân độc kinh môn”. Từ, kế là dâng đoàn thực cho đến chân ngôn sở thuyết là “đoàn thực phụng hiến Bổn tôn môn”. Từ, Lại mười năng lực tụng thí cho đến ngừng nghỉ trong chốc lát là “tụng thập lực minh bổn tôn du già ẩm thực môn”. Từ, Lại nên lễ bái cho đến tùy loại tất-địa, là “Tu nghiệp vô gián đắc ích môn”. Từ, thường nương vào nội pháp mà tắm gội cho đến đó là tất- địa thế gian, là “tịnh thủy tháo dục tồi chướng môn”. Từ, kế là nói vô tướng thù thắng nhất cho đến sẽ được thành tựu xuất thế gian, là “Vô tướng tối thắng chứng thỉnh môn”. Trong đoạn thứ nhất. Như sự nghiệp trước: là Bất động tôn chân ngôn Ấn. Làm thân Kim cương tát đỏa: Dùng chữ Sưu để thành tựu thân. Trong đoạn thứ hai: Chứng biết hiểu rõ: cảnh giới nội chứng. Như Lai đại trú: là chỗ Vốn bất sanh. Cho nguyện đại bi: muốn cho tất cả chúng sanh đạt được Lý mà mình đã đạt được. Trong đoạn thứ ba: Mỗi vị nên tùy chỗ mà an tọa: Từ vốn bất sanh mà đến, nay trở lại vốn bất sanh. Sau lại rủ lòng thương xót mà đến: Đến là vì chúng sanh mà đến, sau thỉnh lại độ ta không bỏ đi. Nếu là thâm mật thích: đã tự làm Bổn tôn thì chẳng bao giờ xa lìa biển Phật. Pháp giới bản tánh: là chữ “Lãm”. Minh: là chân ngôn Ấn: là thủ ấn. Tam ấn: là nhập pháp giới Tát-đỏa của Phật, thảy đều tròn đầy, vào lúc buổi sáng khi vào đạo tràng ngồi, việc xong rồi, giữa ngọ và đầu hôm cũng lại như thế. Trong đoạn thứ tư: Từ, lại nên trở xuống: là khen ngợi đức của người y pháp tụng niệm. Trong đoạn thứ năm. Từ, kế lại khởi tâm tăng thượng trở xuống ra khỏi đạo tràng về sau là ngoài sự nghiệp chỗ đọc tụng kinh. Quán thế: tên của vị Bồ-tát. Liên hoa: Liên Hoa bộ chủ. Nhãn: nhãn môn của các Đức Phật. Bổn Thánh gia trì: là chủng tử ấn v.v… của Bổn tôn. Quán tự tại chủng tử tâm chân ngôn môn: Bà là các lậu; bên cạnh có hai dấu chấm tức là A. Dứt bỏ các lậu, quán vô lậu cho nên tự tại. Quán âm Bồ-tát chân ngôn môn. Tiếp theo Bồ-tát Quán Âm nhập vào tam-muội Phổ-quán, trú ở đó bình đẳng không chỗ nào không khắp gọi là vào khắp; dùng phổ nhãn nầy mà quán sát chúng sanh vì thế gọi là “Quán tự tại”, nhập tam- muội nầy rồi, từ tâm ấy phát ra các thứ ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra các pháp môn chân ngôn: Tát phạ-đát tha kiệt đa (tức là tất cả Như Lai, nghóa là các Đức Phật ba đời trong mười phương). Phạ lộ cát đa (là quán, đồng với sở quán của Đức Phật kia cho nên gọi là quán của các Đức Như Lai, tức là quán bình đẳng, chính là quán khắp). Yết-lỗ-noa: nghóa là bi. Ma-dã: là thể, có chỗ nói đại bi là thể, giống như tượng người bằng vàng, vì tự thể của kia hoàn toàn là vàng cho nên gọi là người vàng, Bồ-tát nầy cũng giống như vậy, hoàn toàn lấy đại bi làm Thể). La, la, la: La là nghóa trần, nhập tự -môn A tức là Vô trần, vì thế ba lớp ấy nghóa là trừ trần chướng của hàng Nhị thừa, phàm phu. Là nghóa sợ hãi, dùng năng lực tự tại rất mạnh mẽ khiến ba lớp trần chướng kia sợ hãi được diệt trừ hết và đồng với Phật nhãn. Xà: Chữ cuối cùng nầy là hạt giống. Các chữ đều là giải thích nghóa chữ nầy, tức là sanh, bất sanh là nghóa chữ Xà, có chỗ lấy chữ Tát ban đầu làm Thể, cũng đồng được dụng, là nghóa giật tỉnh. Chữ Hồng trong có chữ ha: là nghóa vui mừng, trên có dấu chấm đại-không, là tam-muội; dưới có chữ cũng là tam-muội. Thượng: các Đức Phật ba đời đều đồng trong hạnh quán tam-muội nầy, vì thế gọi là “Đẳng quán”. Trong đoạn thứ sáu: Đoàn thực: đoàn là tiết lượng mà ăn. Tùy ý thực pháp: cơm gồm có bốn phần: Cúng dường Bổn tôn. Phần của bản thân hành giả. Người đồng học đến có thể ăn. Giúp cho người nghèo đói; nếu đợi người cùng học không đến thì hành giả tự ăn cũng được. Thêm bớt: là động. Duyệt trạch: sắc mặt tuyệt diệu hoàn toàn. Trong đoạn thứ bảy: Như thị: là thập lực minh. Chân ngôn tâm: là hạt giống bất động. Nghỉ ngơi: là ngủ. Trong đoạn thứ tám: Sám: ở đây nói là mời thọ nhận. Hối: là hiểu biết. Lại nên lễ bái: là khi đúng ngọ vào trong Đạo tràng. Cho đến: là đúng ngọ tụng niệm trở về sau cho đến khi ra khỏi đạo tràng. Thường y theo đây mà trụ: Một ngày ba thời niệm tụng không thiếu. Phần sau ngày: là khi mới vào đạo tràng. Sự nghiệp Kim cương: là chữ Vạn trang nghiêm thân. Kế là nên vận tâm: là đầu hôm vào đạo tràng, đến nửa đêm niệm tụng xong. Buộc tâm ở câu chú: khi muốn ngủ nghỉ, vào ra trong hơi thở lại dùng chữ hạt giống ở trong đó. Vì sao? Vì ngủ nghỉ tự làm ra Bổn tôn tam-muội thùy. Hơi thở bổn tôn tức là chân ngôn. Nếu ngủ như thế: là Trần sa tam muội từ ngủ nghỉ mà được, trần sa công đức từ ngủ nghỉ mà ngộ, ngủ nghỉ không lìa biển Phật, người nầy tức là người trong cung pháp giới Kim cương. Trên giường: là nếu khí hậu địa phương tốt thì hành giả nằm dưới đất cũng được, nếu khí hậu xấu, làm tổn hại thì hành giả nằm trên giường. Nhưng: là không được quá cao. Vì sao? Vì đạo tràng đức Bổn tôn sát đất, không cho người ngồi quá cao. Nếu giường thấp bị tổn hại eo lưng, được phép lìa sự tổn hại, nếu tự làm Bổn tôn tam-muội thì không kể cao thấp, phàm, Thánh đều không khác nhau. Cố luận cao thấp: là phàm phu chấp tướng. Đắc danh hiệu: là chẳng phải nhân gian, ở bên Phật trong các cõi Phật ở mười phương. Mở là thúc giục. Trong đoạn thứ chín. Thường nương nội pháp: là phàm phu chấp tướng, chẳng biết ngoại pháp là không, huống gì biết không cũng không, nếu biết được ỏkhông” ở ngoài tướng, thì dần dần nhập vào pháp thật tướng bình đẳng không lấy bỏ. Như kinh đã nói tự môn A v.v… Mà tắm gội: là nếu có thể hiểu trần lao vắng lặng ấy là tắm gội rất sạch. Xúc thực: nếu ngộ được nhân, pháp đều không thì thức ăn làm thành v.v… đâu có gì tiếp xúc, nếu có hành giả khởi niệm động tâm liền xấu hổ, nếu biết xấu hổ thì lìa sự ăn uống sanh tử cho nên được chữ A v.v… Nếu khởi niệm ăn uống thì tịnh niệm vẫn ăn uống, nếu không tiếp xúc thức ăn v.v… phải biết thức ăn là “không”, thức ăn v.v… như trên là khất thực. Niệm tụng: là nói. Trú trì: là thân, có hai: Che chở cho người. trừ tự chấp. Pháp giới tâm: vẽ chữ An trong nước chảy, sau đó dừng lại, hoặc ngồi hoặc đứng, lấy nước ở chỗ chữ An mà tắm. Bất động đẳng: là Bất động hàng tam thế, mỗi vị dùng cũng được, hai vị sử dụng cũng được. Hộ phương đẳng: là trừ bỏ kiết giới. Tự tánh quán: tự làm Bổn tôn. Chuyển: khắp cả. Trì: là tụng Im lặng: Ở ba chỗ: 1.Khi ăn. 2.Khi đại tiểu tiện. 3.Khi tắm gội. Giáng tam thế chủng tử chân ngôn môn. Ha tự: là hạnh, thêm tiếng thanh A là hạnh cùng cực, lại trừ bỏ các hạnh nầy, thí là không hành (làm) tất cả hạnh, do đó có thể trừ bỏ các hạnh đó chính là hành nhất thiết hạnhvậy. * Hàng tam thế Minh vương chân ngôn môn: Kế là hàng Tam thế minh vương chân ngôn môn đều là Như Lai Tỳ-lô-giá-na trụ ở đỉnh cao cờ pháp gia trì tam-muội, như ở trong phần đầu phẩm tựa nói. Như Lai nói hai chân ngôn nầy đều là pháp Phật Tam-muội kia, vì giúp người tu hành mới phát tâm Bồ-đề giữ gìn và lớn lên, và giúp cho đạt đến quả Phật trọn vẹn, không bị lui sụt mất đi hoặc rơi vào tà đạo, tức là Bất động minh vương. Vì hàng phục thế gian và chúng sanh khó điều phục, tức là Hàng tam thế Minh vương, vì thế nói sau. Cái gọi là tam thế: Thế: là tham sân si, hàng phục ba độc gọi là hàng tam thế. Lại như do quá khứ tham cho nên nay chịu thân do tham báo nầy, lại sanh nghiệp tham chịu báo đời vị lai, ba độc đều như vậy, gọi là Hàng tam thế. Lại nữa, tam thế gọi là ba cõi: Nghóa là Như Lai Tỳ-lô-giá-na bắt đầu từ “hữu - đảnh”, cho đến dưới đất, từ trên hướng xuống dưới, vị chủ ở mỗi cõi trời đều hóa thành Vô lượng quyến thuộc Đại thiên chủ, khiến cho hơn cõi trời kia trăm ngàn muôn lần, kia sợ hãi chưa từng có, lại có chúng sanh nào hơn ta ư? Cho đến dùng pháp mà hàng phục, lần lượt hàng phục, lại có thể hàng phục Tam thế giới chủ, nên gọi là Minh vương hàng phục Tam thế. Ha ha ha: Ha: là nghóa hạnh nghóa hỷ. Ba hạnh nầy là hạnh của Hàng Tam thừa. Chữ nầy nhập với tự môn A tức là ba hạnh nầy xưa nay bất sanh, do xưa bất sanh liền vượt ba hạnh nầy, ấy là hạnh Phật). Tỳ-tát-ma-duệ (đây là nghóa lạ thay, lạ thay! Như Đức Phật thường dạy: dùng từ đối trị sân, dùng vô tham đối trị tham, dùng chánh kiến trừ tà kiến, nay lấy rốt giận dữ để dứt giận dữ, dùng đại tham trừ tất cả tham: Việc nầy thì rất khó tin khó hiểu, vì thế nói là lạ thay, lạ thay). Đát-tha-yết-đa (là tất cả các Đức Phật). Tỳ-xá-dã (cảnh giới). Tam-bà-phạ (sanh, nghóa là từ cảnh giới các Đức Phật mà sanh). Cảnh giới Phật: có chỗ nói là thật tướng các pháp, từ thật tướng nầy mà sanh, cho nên gọi là Hàng tam thế). Đế lệ lộ ca dã (nhị hợp, tức là ba cõi). Vi xà dã (đây là nghóa hàng thắng). Hồng (nghóa giống như trên đã nói). Nhạ (là nghóa kêu gọi giật tỉnh, nếu tụng chân ngôn nầy thì có khả năng vào khắp tất cả tâm chúng sanh, để giật tỉnh khiến dứt bỏ cấu chứơng)v.v… vào Phật pháp thân. Nhưng chân ngôn nầy dùng chữ Đế lệ làm thể, trên có nhiều thanh, tức là thể như như, tức là xưa nay bất sanh, vì bất sanh ấy là các cấu chướng xưa nay cũng bất sanh, xứng với lý nầy mà tu định tuệ đầy đủ, vì thế có thể hàng phục được tam thế. Sái tịnh: tụng ba biến ở trong nước rồi rảy nước trên đầu. Cụ: là Tam-muội-da v.v… Thánh Thiên: là Bổn Tôn v.v… vì làm thanh tịnh thân tâm, lợi ích cho người nên dưới đây khi vào trong đạo tràng tụng niệm đối với Bổn Tôn. Tam đẳng: là tam mật. Hạn lượng: đồng với Bổn Tôn. Cú: là pháp. * Trong đoạn thứ mười. Chân thật duyên sanh: Chân thật là pháp vốn bất sanh, vọng nói tướng vắng lặng, không có phàm phu để độ, pháp tuệ thường chiếu soi Vô biên không dứt, cho nên biết ở thế gian trong ánh sáng mặt trời không có tướng ban đêm. Duyên sanh: Thể của Chân trí gượng nói là Đại bi, chúng sanh không biết thể vốn tự giác, khiến cho ngộ được giác thể, nên nói là duyên sanh. Lìa phan duyên: đã biết giác thể nhưng ngoài duyên Phật. Một bài kệ cuối cùng: là rất lưu thông trong các lưu thông. Trong đây câu đầu là nêu bày pháp thể vô tướng. Một câu kế: là đối với pháp sâu kín thì người trí tuệ thấp kém không thể kham được. Một câu tiếp đến, vì người trí tuệ thấp kém cho nên hiện bày pháp tướng . Một câu kế đến: là chẳng những có tướng mà còn có trước sau khác nhau. Từ, hữu A-xà-lê trở xuống là lời người phiên dịch nói. Trong đây, A-xà-lê: là bậc Thánh Văn-thù-sư-lợi. Lại nói kèn đối với chân thật duyên sanh cú: Kia: là chữ A. Chân thật: là lý xưa nay bất sanh. Duyên sanh: là vì theo các thứ mà sanh Cú: là pháp. Lại có thể nói: nương vào chân thật duyên sanh cú: tức là nương vào pháp chân thật, nương vào lý bất sanh. Duyên sanh: là chữ A, căn cơ đã đến thì hiện chữ thanh. Chi phần nội tâm lìa phan duyên: Chi phần nội tâm: là trí năng chứng. Lìa phan duyên: là lý tâm sâu lắng vốn bất sanh. Pháp vô tướng sâu xa: là lý vốn bất sanh. Trí tuệ cạn cợt chấp tướng không ngộ nhập được lý. Hỏi: người có tâm sâu lắng lại có diệu dụng vậy sao? Đáp: Nếu người nào được lý sâu kín tức là đầy đủ. Vì sao ? Vì có thể thực hành dung hợp Hỏi: Lý cần thân tâm hay không? Đáp: Nếu sử dụng được ấn , đó là lý cần thân tâm. Hỏi: Ai hướng về Bổn pháp kêu gọi tạo ra vốn bất sanh? Đáp: Có ba thứ: 1. Bí mật thích. 2. Bí mật trung bí thích. 3. Bí bí trung bí thích. Bí mật thích: Đức Phật Tỳ-lô-giá-na nói vốn bất sanh. Bí mật trung bí thích: Chữ A nói vốn bất sanh. Bí bí trung bí thích: là lý vốn bất sanh tự có lý trí tự giác vốn bất sanh. Quyển pháp cúng dường nầy từ đầu đến cuối chỉ có một mục đích, đó là: kia đối với câu “chân thật duyên sanh”, chi phần nội tâm lìa phan duyên. Lại có thể nói, pháp sâu kín “vô tướng” trí tuệ thấp kém không hiểu được, vì ứng với kia v.v… cho nên nói gồm cả “hữu tướng”. Người soạn văn nầy là vị tăng Thích Bất Khả Tư Nghị, trụ chùa Linh Diệu, nước Tân-la. Tùy phần mà gọt đẽo, mong người đọc văn nầy, thấy biết chứng trong lý vốn bất sanh. Đại Tỳ-lô-giá-na Kinh cúng dường Thứ đệ Pháp nghóa sớ, quyển hạ. Mùa hạ năm Canh Thìn Niên hiệu Nguyên Lộc năm thứ mười ba, - đã kiểm soát sửa chữa.